Ngay từ
đầu thế kỉ 20, truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa đã xuất hiện ở Việt Nam, mang đến cho
người Việt những bài học về đạo lí vua tôi, trung với nước, hiếu với dân…Nhận
ra giá trị của bộ truyện tranh, Công ty văn hóa Đinh Tị đã mua bản quyền bộ
truyện tranh Tam Quốc Diễn Nghĩa được chuyển thể từ bộ phim hoạt hình cùng tên,
nhằm phục vụ cho đông đảo nhu cầu của bạn đọc thưởng thức tác phẩm bằng nét vẽ
đặc sắc và độc đáo của các họa sỹ tài ba.
Truyện
kiếm hiệp, lịch sử Tam quốc Diễn Nghĩa lấy bối cảnh vào những năm cuối triều
đại nhà Hán, sự suy yếu của của triều đình làm cho xã hội Trung Hoa rơi vào
cảnh náo loạn. Vua tin dung hoạn quan khinh rẻ hiền tài, đam mê tửu sắc bỏ quên
chính sự nên triều đình ngày càng đổ nát, cuộc sống người dân ngày càng lần
than, cực khổ, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Và nổi lên trong đó là loạn đảng
khăn Vàng của anh em nhà Trương Giác với mấy vạn đồ đệ theo hầu. Loạn thế xuất
anh hùng, nhiều hào kiệt bắt đầu lộ diện giúp nước nhà như ba anh em Lưu Bị,
Quan Vũ, Trường Phi, quan Thừa ở Hạ Phi tên Tôn Kiên, Quan Kỵ đô uý Tào Tháo…
Được sự giúp sức, cuối cùng triều đình cũng đánh tan được loạn đảng. Tuy nhiên,
nhà vua vẫn ngựa quen đường cũ, bọn hoạn quan vẫn lộng hành. Thứ sử Tây Lương
là Đổng Trác nhân cơ hội này đã phế truất vua cũ, lập vua mới rồi tự phong cho
mình làm tướng quốc nắm hết quyền hành. Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng
Trác khiến các quan vô cùng phẫn nổ. Thứ sử các châu, quận dẫn đầu là Kỳ Hương
Hầu Viên Thiệu hội quân tiến đánh nhưng do nội bộ bất hoà nên quân đội cũng tan
rã.
Kể từ
thời điểm này các cuộc chiến tranh giành đất đai, quyền lực xảy ra liên miên
không dứt giữa các lãnh chúa ở các châu quận, sau này dần dần hình thành nên
thế Tam Quốc với Lưu Bị ở đất Thục, Tào Tháo nhà Ngụy và Tôn Quyền nhà Ngô.
Cuộc chiến giữa 3 thế lực kéo dài gần một thế kỉ gây nên bao nhiêu tổn thất cho
bá tánh đương thời nhưng đó cũng là những bản anh hùng ca về sự dũng cảm, mưu
lược, tấm lòng nhân ái trung nghĩa của anh hùng Tam Quốc. Đó là những con người
mà hậu thế chúng ta khi nhìn lại vẫn phải thấy cảm kích. Một truyện quân sự đầy
sức hút, đọc và thu nhận những bài học quý giá cho chính mình
CHƯƠNG
1: HỘI ÐÀO VIÊN ANH HÙNG KẾT NGHĨA ÐÁNH HUỲNH CÂN HÀO KIỆT LẬP CÔNG
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
Phàm thế
cuộc trong thiên hạ (1), chia rồi lại hợp, hợp rồi lại chia. Tỷ như nhà Châu
mất vận, bảy nước phân tranh, sau đó nhà Tần lại gồm thâu về một mối. Rồi khi
nhà Tần bị diệt vong, để cho Hán, Sở tranh hùng, và cuối cùng Hán đã diệt Sở để
thu về một mối.
Nhà Hán
kể từ vua Cao Tổ là Lưu Bang trảm xà khởi nghĩa thống nhất được thiên hạ, giữ
lấy ngai vàng cho Ðến khi vua Quang Vũ là Lưu Tú quật khởi, giết loạn thần là
Vương Mãng, phục hưng cho nhà Hậu Hán (2), rồi truyền Ðến đời vua Hiến Ðế thì
bị chia làm ba nước. Cái nguyên do rối loạn sau này là do tới hai ông vua Hoàn
Ðế và Linh Ðế.
Vua Hoàn
Ðế giam cầm các bề tôi trung trực, lại tin dùng bọn hoạn quan, làm cho thế nước
bị suy vi. Khi vua Hoàn Ðế băng hà, vua Linh Ðế lên nối ngôi, có quan Ðại Tướng
Quân Ðậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp việc trị nước. Hai vị tôi thần
nầy vốn một lòng trung nghĩa, nhưng bên cạnh lại có bè lũ hoạn quan Tào Tiết
chuyên quyền làm bậy. Ðậu Vũ và Trần Phồn lập mưu tru diệt bọn này để trừ tai
họa cho nước, chẳng may cơ mưu bị bại lộ, hai vị tôi thần nầy đều bị chúng hãm
hại.
Từ đó,
bọn hoạn quan càng lộng quyền, chúng liên kết với loạn thần tác yêu, tác quái.
Năm Kiến
Ninh thứ hai (niên hiệu của vua Linh Ðế), tháng tư ngày rằm, nhà vua ngự ra điện
Ôn Ðức, vừa ngồi xuống ngự ỷ, bỗng có một trận cuồng phong rất lớn nổi lên, rồi
một con rắn xanh to tướng từ trên sà ngang cung điện rơi xuống nằm ngang trên
ngự ỷ. Vua thất kinh ngã lăn ra bất tỉnh, các quan hầu cận phải đưa vua vào nội
cung cứu cấp.
Nhưng
chỉ trong giây lát, con rắn biến đi đâu mất, trời lại nổi lên một trận cuồng
phong dữ dội, mưa tuôn như trút nước. Kế đó, mưa đá lại rơi theo tới hơn nửa
ngày, nhà cửa bị hư sập vô số.
Vào
tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư, kinh đô Lộc Dương lại bị động đất, rồi nước
biển dâng lên tràn ngập cả một miền duyên hải. Dân cư, làng mạc, của cải bị
sóng cuốn ra khơi mất tích.
Cũng vào
đời vua Linh Ðế, vào năm Quang Hòa thứ nhất, tại một vùng thôn dã, có một con
gà mái hóa gà trống, rồi đến ngày mồng một tháng sáu, một luồng hắc khí dài hơn
mười trượng bay thẳng vào điện Ôn Ðức.
Cũng vào
mùa thu năm đó, trước nhà Ngọc Ðường bỗng hiện lên một cầu vồng sáng chói. Sườn
núi Ngữ Nguyên bị sụp lở, đất đá đè chết người.
Chỉ
trong thời gian mấy năm mà không biết bao nhiêu sự việc ly kỳ xảy ra. Vua buồn
bã hạ chiếu hỏi các quan triều thần tới sao có những hiện tượng quái gở như
vậy?
Quan
Nghị Lang Thái Ung dâng sớ tâu, đại ý nói: "Rắn sa, gà mái hóa gà trống là
điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước..."
Lời tâu
rất thống thiết, khiến nhà vua xem xong cũng phải não lòng. Vua chỉ thở dài rồi
quay vào thay áo.
Bấy giờ
Tào Tiết đứng núp đằng sau vua, xem trộm được tờ biểu, thấy thế tức giận vô
cùng, liền bàn mưu với bè đảng của hắn, lập kế gieo tội cho Thái Ung, và cách
chức đuổi Thái Ung về làm thứ dân nơi điền lý.
Sau đó
bọn Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình
Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng, tất cả mười người họp nhau xưng là "Thập
Thường Thị" chuyên làm điều gian ác.
Vua Linh
Ðế lại nhu nhược, tin dùng Trương Nhượng như một kẻ tôi trung, việc triều chính
đều giao cho Trương Nhượng quyết đoán, Ðến nỗi kêu Trương Nhượng bằng "Á
phụ".
Triều
đình càng bê tha thối nát, lòng người muốn nổi loạn, giặc giã khắp nơi dấy loạn
lên như ong vỡ tổ.
Bấy giờ,
tại quận Cự Lộc có ba anh em họ Trương là Trương Giác, Trương Bảo, và Trương
Lương. Trương Giác thi hỏng Tú Tài, không quản đèn sách nữa, ngày ngày vào núi
hái thuốc. Bỗng một hôm, Trương Giác gặp một ông lão mặt đỏ như hài đồng, mắt
xanh như nước biếc, tay chống gậy lê, kêu Trương Giác vào một hang núi, rồi
trao cho ba quyển "thiên thư" và dặn:
- Ðây là
bộ "Thái bình yêu thuật" ta ban cho con để học. Học được sách này,
con phải thay trời mà tuyên hóa, cứu dân độ thế. Còn nếu manh tâm đổi dạ thì sẽ
gặt lấy quả báo không nhỏ.
Trương
Giác tiếp lấy Thiên thư, bái tạ rồi yêu cầu xin được biết tên ông lão. Ông lão
nói:
- Ta
chính là Nam Hoa Lão Tiên đây.
Dứt lời
hóa thành luồng gió mát bay đi mất.
Trương
Giác được bộ sách ấy, ngày đêm tập luyện, chẳng bao lâu đã biết cách kêu mưa
gọi gió, và tự xưng hiệu là "Thái Bình đạo nhân".
Vào
tháng giêng năm Trung Bình thứ nhất (cũng đời vua Linh Ðế), có bệnh thời khí
nổi lên, lan rộng khắp vùng. Trương Giác đem bùa phép đi trị bệnh cho dâng
gian, lấy hiệu là "Ðại Hiền lương sư". Lúc đó Trương Giác lại có dạy
thêm được hơn năm trăm đồ đệ, cũng học rành phép bùa chú, nên cả thầy trò chia
nhau vân du khắp nơi.
Thấy
việc chữa bệnh của Trương Giác có hiệu quả, thiên hạ đồn ầm lên, và rủ nhau
theo làm đồ đệ của Trương Giác mỗi ngày một đông thêm.
Trương
Giác đem tất cả tín đồ trong thiên hạ chia ra làm ba mươi sáu phường, mỗi
phường có hơn một vạn người, và có cử một viên Cừ Soái để cai quản. Rồi Trương
Giác lại tự xưng mình là Tướng Quân, coi cả ba mươi sáu phường đó.
Chưa
hết, Giác còn phao ngôn để mê hoặc dân chúng rằng: "Trời xanh đã chết,
trời vàng nên lên thay. Ðến năm Giáp Tý, thiên hạ đại cát".
Giác lại
truyền cho các tín đồ dùng đất sét trắng viết lên nơi cửa lớn hai chữ
"Giáp Tý", và dân cư khắp tám châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương,
Duyện, Dự, ai muốn được hưởng phước phải viết danh vị "Ðại Hiền lương sư
Trương Giác" mà thờ.
Trương
Giác đã có ý làm phản, nên mật sai đồ đệ là Mã Nguyên Nghĩa đem vàng bạc gấm
vóc vào triều lo lót với tên hoạn quan Phong Tư, để nhờ tên này làm nội ứng.
Trương
Giác lại bàn với hai người em rằng:
- Cái
khó đạt nhất là lòng dân. Nay dân đã thuận theo mình rồi, nếu không thừa cơ
đoạt thiên hạ thì đáng tiếc lắm.
Rồi
Trương Giác vội vã sắm cờ vàng, khăn vàng để hẹn ngày khởi sự. Giác sai một tên
đệ tử là ựường Châu mang mật thư đưa cho Phong Tư, nhưng chẳng may Ðường Châu
không thích hành động của Giác cho nên chạy thẳng vào tòa Thượng Thư cáo biến.
Thế là
việc làm của Trương Giác bị bại lộ. Vua hay tin phản loạn liền triệu Ðại Tướng
Quân Hà Tiến vào triều, truyền bắt Mã Nguyên Nghĩa đem chém, và hạ ngục cả gia
quyến Phong Tư hơn ngàn người.
Trương
Giác thấy vậy liền gấp rút khởi binh, tự xưng là Thiên Công Tướng Quân, phong
cho Trương Bảo làm Ðịa Công Tướng Quân, Trương Lương làm Nhân Công Tướng Quân.
Giác lại
rêu rao với bá tánh rằng: "Nay vận Hán đã hết, có đại thánh nhân xuất thế,
ai nấy thuận trời theo chính, để hưởng thái bình an lộc."
Thế là
khắp bốn phương có hơn bốn, năm mươi vạn người đội khăn Vàng hưởng ứng theo
Trương Giác làm phản. Thế giặc rất mạnh, quan quân nghe gió đã chạy dài.
Hà Tiến
liền tâu với vua cấp tốc sai sứ đến các Châu, Quận truyền lệnh phòng ngự, ngăn
địch lập công. Ðồng thời sai Trung Lang Tướng Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, và Châu
Tuấn dẫn ba đội tinh binh chia ra làm ba đường dẹp giặc.
Bấy giờ,
giặc Khăn Vàng một đạo do Trương Giác cầm đầu, kéo thẳng đến U Châu xâm lấn.
Quan Thái Thú châu này là Lưu Yên vốn dòng tôn thất ở đất Cảnh Lăng, vùng Giang
Hạ, là con cháu Lỗ Cung Vương nhà Hán.
Lưu Yên
thấy tình thế khẩn trương vội triệu quan Hiệu Úy Châu Tĩnh vào bàn kế.
Châu
Tĩnh nói:
- Quân
giặc đông như nước lũ, quân ta ít không thể nào ngăn nổi. Minh công nên gấp rút
chiêu mộ nghĩa binh mới giữ nổi Châu này.
Lưu Yên
nghe lời liền treo bảng khắp nơi chiêu mộ nghĩa binh.
Ngày
kia, bản văn đưa đến Trác Huyện, dân chúng ra xem đông nghịt. Trong số dân
chúng ấy có một vị anh hùng tánh tình khoan hòa, ít nói, mừng giận không lộ ra
sắc mặt, nhưng lại có chí lớn, thường kết giao với các anh hùng, hào kiệt trong
thiên hạ. Người này mình cao tám thước, hai tai lớn như chày, môi đỏ như thoa
son, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Ðức, vốn cháu chắt Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu
Thắng, tức dòng dõi vua Hiếu Cảnh Hoàng Ðế nhà Hán.
Nguyên
trước kia, thời Hán Vũ Ðế, con trai Lưu Thắng là Lưu Trinh được phong tước Trác
Lộc Ðình Hầu. Về sau, nhân một buổi tế tông miếu, Lưu Trinh vào dâng vàng hành
lễ, chẳng may vàng sắc xấu, bị mất tước Hầu (3), và từ đấy con cháu mới có một
chi dời về Trác Quận lập nghiệp.
Lưu
Huyền Ðức tức là cháu Lưu Hùng, con Lưu Hoằng. Lưu Hoằng có thi đậu Hiếu Liêm,
rồi làm chức Lại, nhưng mất sớm.
Huyền
Ðức mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Tánh ham đọc sách, nhưng nhà nghèo, Huyền
Ðức phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu để sinh sống. Nhà ông ở tới thôn Lâu
Tang, phía Ðông Nam có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, đứng xa trông
như một chiếc lọng vậy.
Ðã có
nhiều người đi qua trông thấy câu dâu kỳ dị ấy, từng nói:
- Nhà
này ắt sanh quý tử.
Lúc còn
nhỏ, Huyền Ðức thường chơi đùa với trẻ con trong làng, và thường đứng dưới gốc
cây dâu mà nói:
- Tao
làm Thiên tử, nên ngự cỗ xe có lọng nầy!
Người
chú là Lưu Nguyên Khởi nghe nói thường mắng:
- Cháu
chỉ nói bậy.
Tuy vậy,
Nguyên Khởi cũng nói rằng:
- Thằng
bé này phải là một người phi thường mai sau.
Nhân
thấy nhà Huyền Ðức nghèo, Lưu Nguyên Khởi tìm cách giúp đỡ để Huyền Ðức ăn học.
Năm Huyền Ðức mười lăm tuổi, được mẹ cho đi du học, thụ giáo Trịnh Huyền và Lư
Thực, lại kết bạn với Công Tôn Toản.
Ðến nay,
Huyền Ðức đã được hai mươi tám tuổi, và ngày hôm ấy, khi đọc bản chiêu quân của
Lưu Yên, Huyền Ðức cảm khái thở dài một tiếng.
Bỗng
nghe đằng sau có tiếng người nói lớn:
- Ðại
trượng phu phải vì quốc gia mà ra sức, chứ than thở có ích gì?
Huyền
Ðức quay đầu lại, thấy người vừa nói mình cao tám thước, mặt dữ như cọp, mắt ốc
tròn xoe, hàm én râu hùm, tiếng nói rền như sấm. Biết không phải là người
thường, Huyền Ðức liền hỏi thăm tên họ.
Người ấy
đáp:
- Tôi họ
Trương tên Phi, tự là Dực Ðức, ông cha mấy đời ở nơi Trác Quận nầy làm nghề bán
rượu, mổ thịt, vì vậy tôi cũng có chú ít ruộng vườn, thích kết giao những anh
hùng hào kiệt trong thiên hạ, nay thấy ông xem bảng chiêu quân mà than thở nên
hỏi thử một lời.
Huyền
Ðức nói:
- Tôi
vốn là người trong thân tộc nhà Hán, họ Lưu tên Bị, đáng lẽ trong lúc giặc
"Khăn Vàng" dấy loạn cũng phải góp một phần cứu nước an dân, nhưng vì
sức chưa làm được nên đau lòng than thở.
Trương
Phi nói:
- Nhà
tôi cũng có chút ít của cải, tôi muốn bỏ ra để tuyển mộ một đoàn hương dũng,
rồi cùng ông cử đại sự, ông thấy có nên chăng?
Huyền
Ðức rất mừng, nắm tay Trương Phi dắt vào trong quán rượu đàm đạo. Trong lúc hai
người đang đối ẩm bàn thế sự thì bỗng thấy một đại hảo hán đẩy một chiếc xe để
ngoài cửa rồi bước vào thét tửu bảo, nói:
- Ðem
rượu thịt ra đây! Hôm nay ta uống say sưa cho một bữa để ngày mai đầu quân giết
giặc.
Huyền
Ðức liếc nhìn ra cửa thấy người này mình cao lớn chín thước, mặt đỏ như thoa
son, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt.
Biết
người ấy cũng là một cái thế kỳ nhân, nên Huyền Ðức vội đứng dậy tiếp mời vào
ngồi chung bàn và hỏi thăm danh tánh.
Người ấy
đáp:
- Tôi họ
Quan tên Vũ, tự là Thọ Trường, sau đổi là Vân Trường, người đất Giải Lương,
tỉnh Hà Ðông. Nhân vì vùng tôi ở có một tên thổ hào ỷ thế hiếp đáp dân lành,
tôi nổi giận giết chết nó rồi bỏ đi lánh nạn. Tôi phiêu bạt trong giang hồ đã
hơn năm năm, nay nghe có giặc "Khăn Vàng" nổi lên khấy nhiễu, nên
muốn đầu quân trừ giặc, cứu an bá tánh.
Huyền
Ðức cũng đem chí nguyện của mình tỏ bày. Vân Trường mừng rỡ uống ba chung rượu
rồi theo Huyền Ðức và Trương Phi dắt nhau về trang trại để bàn bạc.
Trương
Phi nói:
- Muốn
làm nên việc lớn, cốt nhất phải hiệp sức đồng tâm mới được. Sau nhà tôi có một vườn
đào đang tiết hoa nở rất nhiều, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo trời đất, kết
làm anh em.
Huyền
Ðức và Vân Trường đồng thanh khen phải.
Ngày hôm
sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng bày đủ lễ trong vườn đào.
Ba người đứng trước hương án, vái mỗi người hai cái rồi cùng thề rằng:
"Ba
chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em,
quyết đồng tâm hiệp lực, cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp
yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ
nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám
lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt."
Thề
xong, ba người đem so tuổi nhau thì Huyền Ðức được làm anh cả, Vân Trường làm
thứ, Trương Phi làm em út.
Trương
Phi lại sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng đem mổ làm tiệc tới vườn đào, tập
trung tất cả dũng sĩ trong vùng đến ăn uống. Dũng sĩ tề tựu có tới hơn ba trăm
người, vui say một bữa thật no nê.
Hôm sau,
mọi người chia nhau đi thu thập khí giới, mọi việc tạm yên, chỉ hiềm một nỗi
còn thiếu ngựa để cỡi.
Trong
lúc đang lo tính, bỗng có một người chạy vào báo:
- Có hai
người khách thương, cùng đoàn tùy tùng dẫn bầy ngựa khá đông, đang đi về hướng
trang trại này.
Huyền
Ðức nói:
- Ðây là
trời giúp ta!
Ba anh
em vội ra khỏi trại đón tiếp hai người khách thương mời vào trang trại.
Hai
người này chính là hai thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người là Trương Thế
Bình, một người là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống ngựa khỏe đem
về Tràng An bán. Nay vì miền này có giặc nên không thể đem ngựa đi qua được.
Sau khi
đã mời được hai vị khách thương vào trại, Huyền Ðức hối dọn tiệc đãi đằng, rồi
đem ý muốn cứu dân độ thế của mình ra bày tỏ. Hai người khách thương vui lòng
hiến cho năm mươi con ngựa khỏe, lại tặng thêm năm trăm lượng vàng bạc, một
ngàn cân thép tốt để rèn binh khí và giáp trụ.
Khách
cáo từ, Huyền Ðức tạ ơn tiễn chân vài dặm rồi trở về cậy thợ giỏi chế một đôi
song cổ kiếm. Vân Trường cũng đánh một cây đại đao "Thanh long yểm
nguyệt", gọi là "Lãnh diễm cứ" nặng tám mươi hai cân. Trương Phi
rèn một cây trượng "Bát điểm cương mâu".
Ai nấy
đều trang bị cương giáp, rồi kéo năm trăm quân hương dũng đến ra mắt quan Thái
Thú Lưu Yên.
Lưu Yên
hỏi đến danh tánh, ba anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Huyền Ðức còn nói cho
Lưu Yên biết mình là tông phái Hoàng Gia. Lưu Yên mừng rỡ nhận Huyền Ðức làm
cháu (So theo vai vế thì Lưu Yên thuộc vai chú bác).
Vào
thành chưa được vài hôm thì đã có tin quân thám thính về báo:
- Tướng
giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí thống lãnh năm vớn quân kéo đến quấy nhiễu
Trác Quận.
Lưu Yên
liền sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Ðức cùng năm trăm quân hương dũng đi
trước phá giặc. Anh em Huyền Ðức không hề ngần ngại, lãnh quân tiền đạo trực chỉ
đến chân núi Ðại Hưng, và trông thấy quân giặc cũng vừa kéo đến đó.
Huyền
Ðức thúc ngựa ra trước trận, bên tả có Vân Trường, bên hữu có Trương Phi yểm
hộ.
Huyền
Ðức giơ roi thét mắng quân giặc:
- Phản
loạn, đừng hòng múa rối, hãy xuống ngựa đầu hàng cho sớm.
Trình
Viễn Chí nổi giận sai Phó Tướng Ðặng Mậu ra đánh. Ðặng Mậu vừa nhảy ra đã bị
Trương Phi xông đến đâm một xà mâu trúng ngay giữa ngực, ngã lăn xuống ngựa.
Thấy Phó
Tướng mình chưa ra tay đã bị hại rồi, Trình Viễn Chí liền múa đao đến đánh
Trương Phi, nhưng Vân Trường đã vung Thanh Long Ðao cản lại. Uy lực của Vân
Trường rất mạnh, Trình Viễn Chí kinh hãi run sợ, trở tay không kịp bị Vân
Trường chém một đao đứt làm hai đoạn.
Người
sau có thơ khen Vân Trường và Trương Phi như sau:
Anh hùng
xuất trận buổi đầu tay,
Một thử
xà mâu, một thử đao.
Khí tiết
rạng ngời oai lực khét,
Chia ba
thiên hạ rạng anh hào.
Quân
giặc bị mất chủ tướng hoảng hốt chạy dài. Huyền Ðức xua quân đuổi đánh, chúng
đầu hàng vô số.
Ðoàn
quân đắc thắng kéo về thành được Lưu Yên thân hành ra tận bên ngoài tiếp đón và
ủy lạo quân sĩ.
Sáng hôm
sau, lại có tin giặc "Khăn Vàng" Ðến vây phá Thanh Châu, và quan Thái
Thú Thanh châu là Cung Cảnh cho người sang cầu cứu. Lưu Yên liền cho mời Huyền
Ðức đến thương lượng.
Huyền
Ðức nói:
- Giặc
cậy thế đông chia quân khuấy rối, nay U châu đã tạm yên, Bị này xin tình nguyện
đem quân để cứu Thanh Châu.
Lưu Yên
liền sai Châu Tĩnh đem năm ngàn quân cùng ba anh em Huyền Ðức kéo đi.
Giặc
thấy cứu binh tới liền chia làm ba đạo, bao vây rất ngặt. Huyền Ðức thấy mình
ít quân quá, không thể nào cự nổi liền cho lệnh rút quân ngoài ba mươi dặm hạ
trại. Ðoạn nói với Quan, Trương:
- Muốn
phá giặc phải thi hành kỳ binh mới được.
Rồi chia
cho Vân Trường một ngàn quân dọn ra phục bên tả nơi chân núi, Trương Phi cũng
lãnh một ngàn quân phục bên hữu nơi chân núi.
Sáng hôm
sau, Huyền Ðức cùng Châu Tĩnh dẫn quân gióng trống tiến đến trới địch. Quân
giặc ra nghênh chiến, Huyền Ðức giả thua kéo quân chạy về.
Tưởng
mình đắc thế, quân giặc ồ ạt đuổi theo. Khi đuổi đến chân núi, bỗng nghe mấy
tiếng chiêng báo hiệu, hai toán quân phục của Vân Trường và Trương Phi đồng kéo
ra một lượt đánh bộc hậu. Ðạo quân của Huyền Ðức quay lại tác chiến. Ba mặt
đánh dồn, quân giặc đại bại, chết không biết bao nhiêu mà kể. Chúng bỏ kết cờ
xí, mạnh ai nấy chạy. Huyền Ðức xua quân truy kích, đuổi đến thành Thanh Châu
thì quan Thái Thú Cung Cảnh hay được tin thắng trận vội mở cửa thành thúc quân
tràn ra tiếp ứng.
Nhờ đó
mà Thanh Châu được giải vây, quân giặc tản mác hết. Người sau có thơ khen Huyền
Ðức:
Mưu hay
tỏ rõ sức thần công,
Hai cọp
suy ra kém một rồng.
Gặp lúc
cô cùng, người mới rõ,
Tam phân
thiên hạ, xứng anh hùng
Cung
Cảnh đón tiếp ba anh em Huyền Ðức và Châu Tĩnh vào thành bày tiệc khao thưởng
ba quân. Tiệc xong, Châu Tĩnh muốn trở về U Châu, Huyền Ðức nói:
- Gần
đây, nghe quan Trung Lang Tướng Lư Thực đánh nhau với Trương Giác, chúa giặc
Khăn Vàng tới Quảng Tôn. Bị tôi xưa đã từng theo học Lư tiên sinh, nay muốn đến
đó giúp ân sư một phen.
Châu
Tĩnh bằng lòng, dẫn quân trở về một mình. Ba anh em Huyền Ðức đem năm trăm quân
bản bộ thẳng đến Quảng Tôn, vào dinh ra mắt Lư Thực, và nói rõ ý kiến mình tình
nguyện phá giặc. Lư Thực mừng lắm, lưu ba anh em Huyền Ðức dưới trướng để đợi
lệnh.
Bấy giờ,
Trương Giác có hơn mười lăm vạn quân, chia ra quấy nhiễu nhiều chỗ. Phần Trương
Giác thì giữ năm vạn, đang cầm cự tới Quảng Tôn, chưa phân thắng bại.
Lư Thực
bảo Huyền Ðức:
- Nay
Trương Giác bị ta vây ở đây chưa thể làm gì được, nhưng hai người em của nó là
Trương Lương, Trương Bảo đang quấy rối ở Dĩnh Xuyên, đối trận với Hoàng Phủ
Tung và Châu Tuấn. Nếu quân giặc ở Dĩnh Xuyên mà thắng thế được thì nơi đây ắt
bị nguy hiểm. Vậy ngươi hãy dẫn binh mã bản bộ, và thêm một ngàn quân ta cấp, đến
Dĩnh Xuyên dò thám tình hình, sau sẽ hẹn ngày cùng đánh.
Huyền
Ðức lĩnh mệnh, kéo quân đi suốt ngày đêm mới đến Dĩnh Xuyên.
Bấy giờ
Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn đang đánh nhau với quân giặc. Giặc núng thế phải
rút lui vào Trường Xã, dựa thế một rừng lau rậm rạp để lập doanh trại.
Hoàng
phủ Tung bàn với Châu Tuấn:
- Giặc
tuy đông, nhưng khờ khạo. Chúng lập doanh trại trong rừng lau, vậy ta nên dùng
hỏa công mà đốt.
Liền đó
Hoàng Phủ Tung ra lệnh cho quân sĩ mỗi người đem theo một bó cỏ khô kéo đi mai
phục. Ðêm ấy gặp gió lớn, quân Hán nhất tề phóng hỏa đốt trại. Giữa lúc đó
Hoàng phủ Tung và Châu Tuấn dẫn hai ngàn kỵ binh xông vào chém giết. Trại giặc
lửa cháy ngợp trời, quân giặc hoảng hốt không kịp mặt giáp lên yên, bỏ chạy tứ
tán.
Quân Hán
chém giết cho đến lúc trời mờ sáng thì mới thấy Trương Lương, Trương Bảo thu
thập tàn quân cướp đường chạy thoát chết.
Quân
giặc chạy chưa đầy ba mươi dặm thì lại gặp một tướng mắt nhỏ, râu dài, mình cao
bảy thước, đang cầm đầu một đạo quân cắm toàn cờ đỏ, đổ ra chận đánh. Bị trận
phục kích thứ hai này, quân giặc bạt vía kinh hồn, lớp thì chết, lớp ôm đầu
chạy trốn không còn một manh giáp.
Vị tướng
nhỏ vừa xuất hiện chính là quan Kỵ Ðô Úy, người Tiêu Quận, nước Bái, họ Tào tên
Tháo, tự là Mạnh Ðức.
Trước
kia, cha Tào Tháo vốn họ Hạ Hầu tên là Hạ Hầu Tung, nhưng sau làm con nuôi quan
Trung Thường Thị Tào Ðằng nên Hạ Hầu Tung mới đổi ra là Tào Tung. Tào Tung sanh
ra Tào Tháo có đặt cho Tháo tiểu tự là A Man, lại có thêm một tên nữa là Cát
Lợi.
Lúc
thiếu thời, Tào Tháo thích chơi bời, săn bắn, hát xướng, nhưng bản lãnh lại rất
mưu mô xảo quyệt. Người chú của Tào Tháo thấy cháu mình du đãng, ham chơi bỏ
học nên có nhiều lần phiền trách nói cho Tào Tung biết.
Mỗi lần
như vậy, Tào Tung kêu con vào quở mắng, Tào Tháo đem lòng giận chú, mới nghĩ ra
một kế.
Một hôm,
thấy chú đến chơi, Tào Tháo giã vờ ngã lăn xuống đất, ngất lịm như trúng gió.
Người chú thấy vậy thất kinh vội chạy đi tìm Tào Tung báo lại. Lúc Tào Tung
chạy ra xem, thì thấy Tháo vẫn đứng chơi không có việc chi cả. Tào Tung ngạc
nhiên hỏi:
- Kìa,
sao chú con bảo là con trúng gió?
Tào Tháo
thản nhiên thưa:
- Từ
trước đến nay con có bệnh tật gì đâu? Có lẽ con đã làm điều gì mất lòng chú,
nên chú giận rủa con như vậy.
Tào Tung
nghe lời con, nên về sau Tào Tháo có lỗi gì người chú phiền trách, Tào Tung đều
bỏ qua, không trách mắng Tháo nữa.
Tháo
được thế càng chơi bời phóng đãng hơn. Thời ấy, có người tên là Kiêu Huyền bảo
Tháo rằng:
- Thiên
hạ loạn to đến nơi rồi, nếu không phải là người có tài tái thế, không ai xoay
loạn ra an được. Người tài ấy có lẽ là ông đấy.
Lại có
một người nữa ở Nam Dương, tên Hà Ngung, có dịp gặp Tào Tháo về nhà, tỏ ý nói:
- Nhà
Hán sắp mất, Tào Tháo sẽ là người an định thiên hạ vậy.
Tào Tháo
thấy có nhiều người nói đến mình, nhưng chưa vừa ý. Tháo lại nghe ở vùng miền
Nam có Hứa Thiệu nổi danh là xem tướng biết người, liền tìm đến yết kiến và
hỏi:
- Ông
thấy tôi là người như thế nào?
Hứa
Thiệu nhìn Tháo một lúc rồi lặng thinh không đáp. Tào Tháo gặn hỏi đôi ba lần,
Hứa Thiệu mới nói:
- Ðời
trị, ông là bầy tôi giỏi. Thời loạn, ông là kẻ gian hùng.
Nghe nói
thế, Tào Tháo mừng vô cùng. Năm hai mươi tuổi, Tào Tháo đã đỗ Hiếu Liêm, làm
quan Lang rồi được thăng Ðô úy Lộc Dương. Lúc vừa Ðến nhậm chức, Tháo đã sai
treo mười cây roi ngũ sắc ở bốn cửa thành. Ai phạm đến luật cấm tức thì sai
quân nọc cổ ra đánh liền, bất kể kẻ có thế lực, hay quyền quí.
Có một
lần người chú ruột của quan Trung Thường Thị Kiển Thạc cầm dao đi đêm, Tháo đi
tuần bắt gặp, lập tức truyền lệnh bắt đem đến trước nha môn mà đánh, chẳng
kiêng nể gì hết. Bởi vậy, trong ngoài đều sợ Tháo, không ai dám phạm luật nữa.
Uy danh
của Tháo nhờ đó lừng lẫy, nên được thăng làm Quan Lệnh ở Ðốn Khâu. Nay giặc
Khăn Vàng nổi lên, Tháo lại được thăng chức Trị Ðô Úy, dẫn năm ngàn quân mã kéo
đến Dĩnh Xuyên trợ chiến.
Vừa đến
nơi, gặp lúc Trương Lương, Trương Bảo bị trận hỏa công, thua chạy xiểng liểng,
Tháo nhân cơ hội chặn đường giết giặc, chém hơn một vạớn đầu giặc, đoạt được
người ngựa, khí giới vô số. Trương Lương và Trương Bảo gặp thế cùng, mở đường
máu chạy thoát. Tháo liền kéo quân vào thành ra mắt Hoàng Phủ Tung và Châu
Tuấn, rồi lại dẫn binh truy kích Trương Lương và Trương Bảo.
Bấy giờ,
Huyền Ðức cùng Quan, Trương cũng vừa tới Dĩnh Xuyên, nghe xa xa có tiếng hò reo
đánh giặc, lại thấy lửa cháy rực trời vội dẫn binh tới thì giặc đã tan rồi.
Huyền Ðức vào yết kiến Hoàng Phủ Tung, Châu Tuấn, và nói rõ ý kiến của Lư Thực.
Hoàng
Phủ Tung nói:
- Hai
thằng giặc Trương Lương, Trương Bảo bị một trận hỏa công, thế cùng lực tận,
chắc là chúng chạy sang Quảng Tôn hợp lực với Trương Giác. Các ngươi hãy tức
tốc trở về đó mà giúp Lư tướng quân dẹp giặc.
Huyền
Ðức lĩnh mệnh, lại dẫn quân trở về. Khi đến nửa đường, bỗng thấy một toán quân
mã áp giải một chiếc tù xa, người ngồi bên trong lại là Lư Thực.
Thất
kinh, Huyền Ðức vội tụt khỏi yên ngựa, chạy đến hỏi duyên cớ.
Lư Thực
nói:
- Tôi
vây Trương Giác sắp phá được binh giặc, thì bỗng triều đình có sai một viên
Huỳnh Môn quan là Tả Phong ra mặt trận thám thính tình hình. Tả Phong đòi ăn
hối lộ, tôi nói với hắn: "Ðến như quân lương hiện còn chưa đủ, lấy đâu ra
tiền dư mà đãi sứ nhà vua?". Tả Phong tức giận về triều vu tấu rằng tôi
không chịu tiến quân, cứ đắp lũy đào hào cố thủ, khiến lòng quân trễ nãi. Triều
đình nổi giận, sai quan Trung Lang Tướng Ðổng Trác đến thay tôi cầm quân, và
bắt tôi giải về kinh trị tội.
Trương
Phi nghe dứt lời, máu giận sục sôi, toan rút gươm chém mấy tên quân hộ tống tù
xa để cứu Lư Thực, nhưng Huyền Ðức đã kịp ngăn lại và nói:
- Việc
của Lư tướng quân ngay gian sẽ có công luận xét đoán, chúng ta không nên bạo
sát người của triều đình mà mang tội.
Trương
Phi trợn mắt, nhìn chiếc tù xa cho đến khi mất hút. Vân Trường nói:
- Lư
Trung Lang bị bắt, người khác cầm quân, chúng ta trông cậy vào ai mà trở lại
Quảng Tôn? Chi bằng trở về Trác Quận là hơn.
Huyền
Ðức nghe lời, cùng với hai em dẫn quân về phía Bắc. Ði chưa được hai ngày, bỗng
nghe sau núi có tiếng quân reo tở mở, ba anh em Huyền Ðức liền trèo lên một
đỉnh núi cao, xem thấy quân Hán bị thua cuốn cờ chạy trốn, còn đằng sau giặc
Khăn Vàng đông đặc, đang đuổi theo rất hăng. Trên cây đại kỳ của giặc có đề bốn
chữ: "Thiên Công Tướng Quân".
Huyền
Ðức đưa tay chỉ bọn giặc, nói với Quan, Trương:
- Chính
thằng này là Trương Giác, kẻ cầm đầu giặc Khăn Vàng gây rối. Chúng ta tham
chiến ngay.
Ba anh
em Huyền Ðức đồng phi ngựa dẫn quân lướt tới. Bấy giờ Trương Giác đã đánh bại
Ðổng Trác, nên kéo binh truy kích rất ngặt. Ðang lúc hăng thế, bỗng gặp toán
quân của ba anh em Huyền Ðức chặn lại, chúng rối loạn người ngựa đạp nhào lên
nhau, mất cả hàng ngũ, bị quân Huyền Ðức chém giết một trận, làm cho chúng quay
đầu bỏ chạy hơn năm mươi dặm.
Ba người
cứu được Ðổng Trác về trại. Sau khi hỏi thăm, biết được ba anh em Huyền Ðức chưa
có chức vụ gì, hiện còn là chân trắng, Ðổng Trác làm mặt khinh khỉnh, không
thèm thi lễ và tiếp đãi.
Huyền
Ðức bước ra ngoài, không nói gì, nhưng Trương Phi thì hầm hầm nét mặt, tỏ ý bất
mãn:
- Hừ!
Chúng ta lăn mình vào địch quân để cứu hắn, mà hắn lại dám vô lễ như thế! Phải
giết hắn đi mới đã giận.
Mắng
rồi, Trương Phi cầm xà mâu quay vào trướng định giết Ðổng Trác.
Ðó chính
là:
Nhân
tình thế thái đáng buồn than,
Ai biết
anh hùng lúc trắng chân!
Nếu được
muôn người như Dực Ðức,
Trên đời
đã hết giống vong ân
Chú thích:
(1) Thiên hạ tức là Ðế quốc Trung Hoa cổ gồm
chín châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, và Ích. Dưới mỗi Châu có
Quận và Huyện
(2) Vua Hán Cao Tổ đóng đô ở Tràng An (phía
Tây) cho nên gọi là nhà Tây Hán. Nhà Tây Hán truyền đến đời vua Bình Ðế thì bị
Vương Mãng giết và cướp ngôi. Lưu Tú giết được Vương Mãng, khôi phục lại cơ đồ
nhà Hán, nhưng lại dời đô về Lộc Dương (phía Ðông) cho nên từ vua Quang Vũ về
sau gọi là nhà Ðông Hán.
(3) Ðời vua Hán Vũ Ðế mỗi khi có cuộc tế Tông
Miếu, các vị có tước Hầu trong họ Lưu đều phải vào dâng vàng làm lễ. Nếu vàng
của ai có sắc xấu, không được sáng đẹp thì người đó bị mất tước Hầu
CHƯƠNG
2: NỔI GIẬN TRƯƠNG PHI ÐÁNH KHÂM SAI LẬP MƯU HÀ TIẾN TRỪ PHẢN LOẠN
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
03/03/2014
Ðổng
Trác có hiệu là Trọng Dĩnh, người xứ Lũ Tây, vùng Lâm Thao, làm quan Thái Thú
quận Hà Ðông, vốn là một kẻ có tính kiêu ngạo.
Bởi thế,
Trương Phi vừa thấy mặt đã ghét, muốn giết đi. Huyền Ðức và Vân Trường đồng can:
-Dù sao
hắn cũng là người của triều đình sai đến, chúng ta không nên giết.
Trương
Phi hầm hừ:
-Nếu
không giết thằng ấy mà ở lại đây chịu mệnh lệnh của nó thì em không thể chịu
được. Hai anh ở lại, em đi nơi khác
Huyền
Ðức nói:
-Anh em
ta đã thề đồng sanh tử thì việc đi ở có nhau. Nếu em muốn đi thì chúng ta cùng
đi vậy.
Trương
Phi mừng rỡ:
-Nếu thế
thì em mới nguôi giận.
Ba anh
em Huyền Ðức lại từ bỏ Trác Quận, ngày đêm kéo quân qua Dĩnh Xuyên theo Chu
Tuấn. Chu Tuấn tiếp đãi anh em Huyền Ðức rất hậu, hợp binh làm một, tiến đánh
Trương Bảo.
Bấy giờ,
Tào Tháo và Hoàng Phủ Tung cũng đang hợp quân đánh nhau với Trương Lương ở Khúc
Dương, riêng Trương Bảo thì lại địch với Chu Tuấn.
Trương
Bảo đem tám, chín vạn quân đóng đồn sau chân núi khí thế rất vững. Chu Tuấn sai
Huyền Ðức là tiên phong, kéo quân đến giao binh. Trương Bảo hay tin sai Phó
Tướng Cao Thăng dẫn ba ngàn quân ra đối địch. Huyền Ðức khiến Trương Phi ra cự
chiến. đánh chưa đầy ba hiệp, Trương Phi đã vung xà mâu đâm Cao Thăng đổ ruột
nhào xuống ngựa chết ngay.
Trương
Bảo thấy thế tức giận, lướt tới vung gươm niệm chú, đầu bỏ tóc xõa làm phép
thuật, tức thì sấm chớp nổi lên, trên không bao phủ một vùng hắc khí. Trong
vùng hắc khí ấy lại có vô số binh mã lần lượt rơi xuống.
Trông
thấy pháp thuật, binh của Huyền Ðức rối loạn, nên Huyền Ðức vội vã thu quân.
Về đến
dinh, Huyền Ðức vào ra mắt Chu Tuấn và bàn:
-Trương
Bảo dùng tà thuật thắng chúng ta, ngày mai chúng ta phải dùng uế vật phá phép
của nó mới được.
Chu Tuấn
khen phải, khiến quân sĩ sắm ống thụt cho nhiều, và truyền lệnh giết dê chó đẻ
lấy máu.
Kế đó,
Huyền Ðức khiến Quan Công dẫn một ngàn quân mai phục nơi phía chân núi, đem
theo ống thụt, máu dê, máu chó cho nhiều. Tất cả đều dự bị sẵn sàng.
Trời mờ
sáng, Huyền Ðức dẫn một đạo binh ra trước trới địch khiêu chiến. Trương Bảo
cười lớn nói:
-Hôm qua
chúng đã bại binh, nay lại còn dám đến đây nạp mạng sao?
Liền
truyền lệnh ba quân nai nịt chỉnh tề rồi xách giáp ra trước trại.
Trương
Bảo vừa dẫn binh ra đã thấy Huyền Ðức múa kiếm mắng nhiếc. Trương Bảo nổi giận
niệm chú, tức thì cát bay đá chạy âm khí mịt mù, trên không trung ngàn vạn binh
mã ào ạt rơi xuống. Huyền Ðức quay ngựa bỏ chạy, Trương Bảo cười lớn giục ngựa
đuổi theo.
Vừa qua
khỏi núi, hai đạo binh phục của Quan, Trương nổi lên một tiếng pháo hiệu, ba
quân hăm hở xông ra một lượt, dùng ống thụt nhúng vào máu thụt lên không, tức
thì binh tướng yêu ma của Trương Bảo biến mất hết.
Trương
Bảo thấy phép mình bị phá thất kinh, vừa muốn lui binh, thì hai đạo binh của
Quan, Trương đã xông ra chận lại. Phía sau Huyền Ðức xua quân đuổi tới. Ba ngã
đánh dồn lại làm cho đại binh của Trương Bảo tan vỡ, bị chết rất nhiều.
Trương
Bảo mở huyết lộ, quất ngựa chạy dài, Huyền Ðức đuổi theo được vài dặm, lẹ tay
rút ra một mũi tên ngắm Trương Bảo bắn theo.
Trương
Bảo la lên một tiếng mũi tên cắm vào cánh tay phía tả, không còn cầm thương
được nữa, phải ôm cổ ngựa chạy thẳng vào Dương Thành đóng của cố thủ.
Chu Tuấn
thừa thắng, một mặt đốc quân vây chặt bốn cửa thành, một mặt cho người đi dò la
tin tức của Hoàng Phủ Tung.
Nhắc lại
từ khi Ðổng Trác thay thế Lư Thực để đấu chiến với Trương Giác, Ðổng Trác đã
thua hơn bảy trận. Tin ấy đến tai triều đình. Vua liền triệu Ðổng Trác về trách
mắng, và sai Hoàng phủ Tung ra thay thế.
Hoàng
Phủ Tung đến nơi thì Trương Giác đã chết vì bệnh. Trương Lương thống lĩnh binh
mã thay thế. Trương Lương cự với Hoàng Phủ Tung. Nhưng chẳng bao lâu, lực lượng
của Trương Lương mòn mỏi, bị Hoàng Phủ Tung lập kế chém chết Trương Lương tại
Khúc Dương, rồi đào mả Trương Giác lên, chặt đầu đem về triều dâng nạp. Triều
đình phong cho Hoàng Phủ Tung là Xa Kỵ Tướng quân, trấn nhậm tới Ký Châu.
Hoàng
Phủ Tung lại làm sớ dâng về triều xin cho Lư Thực khỏi tội, và phục hồi nguyên
chức. Tào Tháo cũng có công dẹp giặc Trương Giác nên được phong làm Tể Tướng
Nam.
Chu Tuấn
hay được tin ấy, lòng nao nao, vội thối thúc binh sĩ ngày đêm phá thành Trương
Bảo rất gấp. Trong thành quân sĩ đều hết lương thực, thế giặc nguy cấp, nên
tướng giặc là Nghiêm Chách đâm chết Trương Bảo, rồi chặt đầu đem ra ngoài thành
dâng cho Chu Tuấn.
Thế là
Chu Tuấn đã dẹp yên được mấy Quận, vội viết thiệp gởi về dâng tấu.
Bấy giờ
còn dư đảng của giặc Khăn Vàng lẫn trốn trong núi non, rừng rậm, thỉnh thoảng
kéo ra quấy nhiễu dân lành. Triều đình lại sai Chu Tuấn đem đoàn quân chiến
thắng đi dẹp giặc các nơi hiểm yếu. Chu Tuấn tuân lệnh kéo quân ra đi.
Nhưng đi
được vài ngày thì bỗng thấy trước mặt có một đạo binh kéo tới. Ngỡ là quân
giặc, Chu Tuấn toan cho lệnh đánh, nhưng xem lại tướng đi đầu không phải là
giặc, mà là một trang thanh niên trán rộng, mắt sáng, lưng gấu, vai hùm, oai
phong lẫm liệt.
Người
này họ Tôn tên Kiên, quê ở Ngô quận, đất Phú Xuân tự là Vân Ðài, dòng dõi Tôn
Vũ Tử, một nhà quân sự lừng danh.
Năm Tôn
Kiên lên mười bảy tuổi, theo cha tới sông Tiền Ðường, thấy hơn mười tên hải tặc
vừa cướp thuyền của một khách buôn, đang chia tiền nhau trên bờ. Tôn Kiên nói
với cha:
- Con
xin phép bắt lũ giặc này.
Rồi nhảy
lên bờ múa đao hò hét, tay chỉ trỏ Ðông Tây nhưng gọi quân bốn mặt đến. Giặc
tưởng là quan quân đi tuần, vội bỏ hết của cải chạy trốn. Tôn Kiên đuổi theo
chém được một đứa. Do đó, các quận huyện đều biết danh, được tiến cử làm Hiệu
Úy.
Sau đó,
lại có tên yêu tặc làm phản ở Cói Kê, xưng là Dương Minh Hoàng Ðế, tụ tập thảo
khấu có hơn vài vạn. Tôn Kiên cùng quan quân Châu Quận phá được giặc chém đầu
Hứa Xương, và đứa con của hắn là Hứa Thiều.
Quan Thứ
Sử Tang Mân thấy Tôn Kiên lập được công lớn, liền dâng biểu về triều bảo tấu.
Triều đình phong cho Tôn Kiên làm quan Thừa ở Diêm Tộc, sau đổi sang Hu Di
Thừa, rồi lại làm Hạ Bì Thừa.
Nay thấy
giặc Khăn Vàng nổi lên quấy nhiễu, Tôn Kiên lại một lần nữa tụ tập thiếu niên
trong thôn ấp, và thu nạp một số võ sĩ ở miền sông Hoài, lập thành một đạo quân
hơn một ngàn năm trăm người, kéo đi tiếp ứng cho quân triều.
Chu Tuấn
mừng rỡ liền thu dụng Tôn Kiên, cùng nhau hiệp binh để truy nã giặc cướp.
Chẳng
bao lâu, các nơi hẻo lánh đã dẹp xong, duy có ba tên giặc lớn, dư đảng của
Truơng Giác, là Triệu Hoằng, Hàn Trung, Tôn Trọng, tụ tập hơn vài vạn quân,
chiếm cứ nơi Uyển Thành, bên trong cướp của giết người, bên ngoài thinh thế là
để trả thù cho ba anh em Trương Giác.
Chu Tuấn
liền léo quân đến nơi vây đánh, sai ba anh em Huyền Ðức ngày đêm công thành.
Trong
thành hết lương, Hàn Trung liệu thế không chống nổi, sai người ra xin hàng. Chu
Tuấn không cho.
Huyền
Ðức nói:
- Xưa,
Hán Cao Tổ sở dĩ được thiên hạ nhờ ở chỗ chiêu dụ kẻ hàng, thu nạp kẻ thuận.
Sao nay ông lại không cho Hàn Trung hàng?
Chu Tuấn
đáp:
- Thời
ấy khác, thời nay khác. Xưa nhà Tần bạo ngược, Hạng Vũ hung tàn, thiên hạ đại
loạn, người dân không biết ai là thánh chúa, nên Hán Cao Tổ phải tỏ lượng khoan
dung để thu phục thiên hạ. Nay bốn bể, dân gian ai cũng biết nhà Hán là chủ
thiên hạ, chỉ có giặc Khăn Vàng làm phản. Nếu để chúng đắc thế thì làm loạn,
yếu thế thì đầu hàng, là sao giữ được luật pháp? Tha cho chúng đầu hàng tức là
khuyến khích sự phản nghịch đó.
Huyền
Ðức đáp:
- Không
cho giặc hàng cũng phải. Nhưng hiện nay ta vây kín bốn mặt thành, giặc bí thế
tất phải liều tử chiến. Muôn người một lòng thì khó chống. Hơn nữa trong thành
có hơn ba vạn sanh linh, chẳng lẽ vì chiến sự mà phải chết cả sao? Chi bằng
chúng ta triệt quân ở hai mặt Ðông, Nam chỉ đánh hai mặt Tây, Bắc, để cho giặc
bỏ thành chạy, rồi ta bắt sống là hơn.
Chu Tuấn
nghe lời, triệt hết quân hai mặt Ðông, Nam, dồn về đánh hai mặt Tây, Bắc. Quả
nhiên, Hà Trung dẫn quân bỏ chạy. Chu Tuấn liền cùng với anh em Huyền Ðức thúc
quân đuổi theo chém giết, và bắt Hàn Trung. Quân giặc sống sót chạy tán loạn.
Ðang lúc
quân Hàn truy kích, bỗng có Triệu Hoằng, Tôn Trọng dẫn quân đến vây đánh Chu
Tuấn, Chu Tuấn thấy quân giặc đông nên phải tạm lui. Do đó, Triệu Hoằng thừa
thế chiếm lại được Uyển Thành.
Chu Tuấn
lui mười dặm hạ trại, rồi ngày hôm sau lại đều binh khiển tướng vây thành.
Chu Tuấn
sai Tôn Kiên đánh phía Nam Uyển Thành, Huyền Ðức đánh cửa Bắc, Chu Tuấn đánh
cửa Tây, chừa cửa Ðông nhử cho giặc chạy.
Tôn Kiên
tự mình nhảy lên mặt thành trước tiên, vung đao chém luôn một lúc hai mươi tên
giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy xuống hết. Triệu Hoằng thấy thế liền cầm giáo dài
phi ngựa tới đâm. Tôn Kiên từ mặt thành phi thân xuống, cướp luôn cây giáo của
Triệu Hoằng, rồi xông vào giết giặc.
Bị binh
Tôn Kiên hãm thành quá mạnh, Tôn Trọng kéo tàn quân chạy vụt ra cửa Bắc, bỗng
gặp Huyền Ðức kéo quân chận lại. Tôn Trọng không còn lòng dạ nào giao đấu nữa,
vội lách mình qua đám loạn quân chạy trốn. Huyền Ðức giương cung bắn theo một
phát trúng Tôn Trọng nhào xuống ngựa chết tức thì.
Bấy giờ,
đại quân của Chu Tuấn thừa thế đánh ập vào chiếm thành, chém hơn một vạn thủ
cấp của giặc. Quân giặc lớp chết lớp đầu hàng. Thế là một giải Nam Dương hơn
mười quận được bình định.
Chu Tuấn
truyền lệnh ban sư hồi trào, vào thẳng Ngân Loan Ðiện ra mắt.
Hán
Vương truyền dọn tiệc khao thưởng quân sĩ và phong cho Chu Tuấn làm chức Xa Kỵ
Tướng Quân, kiêm lãnh Hà Nam.
Chu Tuấn
dâng biểu xin phong chức cho Tôn Kiên và ba anh em Huyền Ðức. Tôn Kiên vì có
thân thế nên được phong chức Tư Mã, lãnh quân đi trấn nhậm liền. Còn ba anh em
Huyền Ðức chờ đợi rất lâu, mà không thấy phong thưởng gì hết, lòng lấy làm hổ
thẹn, chẳng biết vì sao triều đình lại có chuyện bất công như vậy.
Một hôm,
ba anh em Huyền Ðức ra đường dạo mát giải khuây, bỗng gặp xe của Quan Lang là
Trương Quân đi ngang qua đó. Huyền Ðức tỏ hết tâm sự mình cho Trương Quân nghe.
Trương
Quân nghe nói cả kinh, lập tức vào triều tâu:
- Xưa
những cuộc nổi loạn gây nên thường bởi những kẻ nịnh thần. Sở dĩ giặc Khăn Vàng
tạo phản là vì lũ Thập Thường Thị khi quân, mua quan bán tước, kẻ có công không
được thưởng, kẻ có tội không bị trừng phạt xứng đáng, làm mất lẽ công bằng. Vậy
nay bệ hạ phải chém đầu hết chúng nó và ban bố cho dân chúng biết, thì lòng dân
mới yên ổn.
Bọn Thập
Thường Thị liền tâu với vua là Trương Quân khi chúa. Vua khiến kẻ tả hữu đuổi
Trương Quân ra.
Ðược vua
tín dùng, bọn Thập Thường Thị lại càng đắc ý bàn với nhau:
- Ðây
chắc có kẻ nào có công dẹp giặc Khăn Vàng mà không được trọng thượng nên oán
hận sanh ra chuyện ấy. Bây giờ chúng ta phải tìm chức nào nho nhỏ phong cho nó,
để chúng nó an lòng, rồi sẽ tìm cách sa thải chúng cũng không muộn.
Bởi lẽ
đó nên Huyền Ðức được phong làm Huyện Úy tới huyện An Hỉ, thuộc phủ Trnng San,
và phải phó nhiệm liền nội ngày hôm ấy.
Huyền
Ðức được lịnh cho tất cả các nghĩa binh của mình được trở về làng, chỉ còn để
lại vài mươi người tâm phúc, rồi cùng Quan, Trương thẳng đến huyện An Hỉ nhận
việc.
Trấn
nhậm được bốn tháng, nhân dân nơi đây rất mến phục ba anh em Huyền Ðức là người
có nhiều lương tâm và đạo đức.
Ngày
kia, Huyền Ðức bắt được chiếu chỉ của Triều đình phán rằng: "Tất cả những
kẻ có công dẹp giặc Khăn Vàng được phong làm chức Huyện Úy đều phải bị cách
chức."
Huyền
Ðức đoán biết mình thế nào cũng bị sa thải, nên đêm ngày thường bàn bạc với hai
em chưa biết vì duyên cớ gì.
Bỗng có
Ðốc Bưu di hành đến huyện. Huyền Ðức ra thành nghinh tiếp, vừa thấy Ðốc Bưu vào
đến quán dịch, Ðốc Bưu gọi Huyền Ðức nói:
- Huyện
Úy làm người thế nào mà xuất thân đó?
Huyền
Ðức nói:
- Tôi
vốn là dòng dõi của Trung Sơn Tĩnh Vương vì lúc nọ nghe giặc Khăn Vàng tạo phản
nên ra tụ tập nghĩa quân giúp nước. Từ ở Trác quận tôi đã dẹp lớn nhỏ hơn ba
mươi trận, vì vậy mà được chút ít công lao nên được phong làm chức Huyện Úy
nầy.
Huyền
Ðức nói chưa dứt lời thì Ðốc Bưu đã hét lớn:
- Sao
ngươi dám xưng là Hoàng Thân, lại còn hư báo công lao của ngươi nữa? Nay ta
vâng lệnh triều đình đến đây để sa thải các tham quan, ô lại, ngươi có biết
không?
Huyền
Ðức nghe Ðốc Bưu nói thế, vội vàng lui ra không dám cãi, trở về huyện bàn vớì
các quan lại. Các quan lại bàn tính một hồi rồi mới nói với Huyền Ðức.
- Ðốc
Bưu là một đứa bất liêm. Nay nó làm oai như vậy là ý nó muốn nài hối lộ đó.
Huyền
Ðức lắc đầu, nghĩ ngợi giây lát rồi nói:
- Ta lâu
nay chẳng hề lấy của ai một đồng, một chữ nào, vậy tiền đâu mà đưa cho nó. Vả
chăng, nếu có tiền ta cũng không thể làm được cái chuyện hèn hạ như vậy.
Ðốc Bưu
thấy Huyền Ðức tỏ vẻ không phục tùng ý muốn của mình, bèn bắt tất cả các quan
lại buộc vu cho Huyện Úy là người hà lạm của dân. Các quan đều khóc lóc xin cho
Huyền Ðức.
Lúc ấy,
Trương Phi cũng vừa đi đến, thấy có năm sáu ông già ngồi buồn trước quán dịnh
khóc lóc. Phi liền kêu lại hỏi thăm duyên cớ, thì các ông già kia nói:
- Ðốc
Bưu bắt ép bọn tôi khai cho Lưu Công là kẻ hà lạm, chúng tôi vì cảm mến Lưu
công nên đã xin ba bốn phen mà chưa được.
Nhân lúc
Trương Phi vừa uống xong mấy chén rượu để giải buồn, nghe nói như vậy, lòng nổi
nóng, liền nhảy vội xuống ngựa xông vào quán dịch, chạy thẳng đến công đường,
thấy Ðốc Bưu đang ngồi vểnh chân trên cao thét mắng các Huyện lại bị trói để
nằm dưới đất.
Trương
Phi bước đến thét lớn:
- Thằng
khốn nạn kia! Ngươi biết ta là ai mà ngươi dám đến đây làm phách như vậy?
Ðốc Bưu
chưa kịp nói nửa lời thì liền bị Trương Phi nhảy tới đá một đá vào quai hàm.
Ðốc Bưu đau quá, la lên một tiếng, nhào xuống đất.
Chưa
chịu thôi, Trương Phi nắm râu Ðốc Bưu kéo đi xềnh xệch, dẫn thẳng đến huyện
nha, trói vào cột cờ, rồi bẻ roi đánh Ðốc Bưu một hồi nữa, đến gãy hết mấy chục
cành roi liễu. Ðốc Bưu chẳng biết làm sao, đau quá buộc lòng phải năn nỉ, nhưng
Trương Phi không tha.
Lúc ấy
Huyền Ðức đang ngồi một mình buồn bực, bỗng nghe có tiếng huyên náo liền hỏi kẻ
tả hữu. Và bọn này thưa:
- Trương
tướng quân đang trói một người trước huyện nha mà đánh dữ lắm!
Huyền
Ðức vội vã bước ra xem thì thấy người bị đánh là Ðốc Bưu, ông ta thất kinh,
chạy lại nắm tay Trương Phi kéo lại. Trương Phi nói với Huyền Ðức:
- Anh
đừng cản ngăn. Thằng này là một đứa ăn cướp, không đánh cho chết để làm gì?
Thấy
Huyền Ðức tới, Ðốc Bưu năn nỉ:
- Lưu
công ơi! Xin cứu dùm tánh mớng tôi với.
Huyền
Ðức vốn lòng nhân từ thấy vậy không cho Trương Phi đánh nữa. Quan Công đang
đứng một bên, bước đến nói:
- Ðại ca
đã lập được công lao rất lớn. Với công án ấy lẽ ra đại ca phải được trọng
thưởng, thế mà đại ca chỉ được chức Huyện Úy nhỏ mọn nầy. đã vậy, Ðốc Bưu lại
còn đến đây đòi của hối lộ, làm nhục chúng ta nữa. Em nghĩ, không phải là chỗ
để cho chim phụng hoàng nghỉ cánh, chỉ bằng giết quách Ðốc Bưu cho đã giận rồi
trả ấn, trở về làng tìm cơ lập nghiệp là hơn.
Huyền
Ðức liền lấy ấn treo nơi cổ Ðốc Bưu, và nói:
- Cứ như
cái tội nhũng lạm của dân cũng đủ cho chúng ta giết ngươi cho an lòng dân
chúng, nhưng vì từ tâm, ta dung thứ cho ngươi đó. Ngươi hãy đem ấn này về giao
nạp cho triều đình, và ăn năn hối cãi để khỏi ân hận sau nầy. Chúng ta đi đây.
Khi Ðốc
Bưu được thả thì ba anh em Huyền Ðức đi hết. Ðốc Bưu quá tức giận, lén đi cáo
với quan Thái Thú quận Dĩnh Châu, vu cáo cho anh em Huyền Ðức mưu phản. Quan
Thái thú Dĩnh Châu ra lệnh khắp các huyện tầm nã ba anh em Huyền Ðức.
Bấy giờ,
ba anh em Huyền Ðức dắt nhau qua Ðới Châu ở với Lưu Khôi. Lưu Khôi thấy Huyền
Ðức là dòng dõi nhà Hán nên có cảm tình giấu nuôi trong nhà.
Tới triều,
bọn Thập Thường Thị lúc nầy lại lộng quuyền thái quá. Chúng dùng đủ cách tham
ô. Những người nào phục tùng theo chúng thì được chức quyền, bằng trái lại thì
đều bị chúng làm hại. Chúng lại sai người đi khắp quận huyện bắt những người
nào có công dẹp giặc Khăn Vàng, được phong chức tước đều phải nạp lễ vật cho
chúng, nếu không chúng tâu với vua sa thải ngay.
Bởi lẽ
đó, nên nhiều người liêm chính đã bỏ chức về làng làm dân, không chịu mang
tiếng nhục. Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn là người có công lớn trong việc dẹp giặc
Khăn Vàng, cũng bị bọn Thập Thường thị tâu với vua bãi chức.
Vua lại
phong cho nhóm nịnh thần như Triệu Trung làm chức Xa Kỵ Tướng quân, và hết thảy
mười ba người trong bọn Trương Nhượng đều lãnh chức Liệt Hầu. Từ đó, việc triều
chính càng ngày càng hư nát, triều thần lộn xộn, dân tình ly tán.
Tới quận
Trường Xa có tên Khu Tỉnh nổi loạn. - Ngư Dương có bè lũ Trương Cử, Trương
Thuần làm phản. Trương Cử xưng Thiên tử, Trương Thuần xưng Ðại Tướng Quân. Biểu
văn hàng ngày cấp báo về triều như cánh bướm, nhưng bọn Thập Thường Thị nhẹm
hết, không cho vua hay.
Một hôm
vua ngự ở hậu viên, đang yến ẩm với bọn Thập Thường Thị bỗng có quan Giám Nghị
Ðại Phu Lưu Ðào đi thẳng vào, quỳ trước mặt vua mà khóc. Vua hỏi duyên cớ, Lưu
Ðào tâu:
- Vận mạng
thiên hạ có thể nguy biến trong một sớm một chiều, thế mà bệ hạ cứ ngồi yến ẩm
với bọn yểm hoạn này ư?
Vua nói:
- Nước
nhà đang lúc thái bình thanh trị, sao khanh lại nói là nguy biến?
Lưu ựào
tâu:
- Bốn
phương giặc giã nổi lên như ong, hiện đang xâm chiếm từ Châu nọ đến Quận kia!
Cái tai vạ này cũng chỉ vì mười tên Thường Thị buôn quan bán chức, hại dân mà
ra! Chúng dối vua loạn phép, cho nên những người ngay thẳng đều xa lánh triều
đình. Cái nguy biến trước mắt, mong bệ hạ suy xét.
Mười tên
Thường Thị nghe vậy liền quỳ xuống trước mặt vua, trật mũ ra, tâu:
- Quan
đại thần đã không dung thì lũ hạ thần này phải chết. Xin bệ hạ mở lòng hiếu
sinh cho chúng tôi được trở về làng cày ruộng, làm vườn, nguyện đem hết tài trí
giúp nước nhà nuôi quân phá giặc.
Tâu
xong, tât cả mười tên Thường thị đều khóc rống lên rất thảm thiết, như sắp bị
đem đi hành hình vậy.
Vua giận
mắng Lưu Ðào:
- Nhà
ngươi cũng có đầy tớ, sao lại không dung kẻ hầu, người hạ của trẫm.
Nói xong
vua lại truyền võ sĩ bắt Lưu Ðào đem chém.
Lưu Ðào
kêu lớn:
- Ðầu
thần rơi không đáng tiết, chỉ tiếc cho cơ nghiệp nhà Hán gây dựng trên bốn trăm
năm, nay phút chốc phải tan tành.
Võ sĩ
trói Lưu Ðào đem ra ngoài, sắp sửa hành hình, thì bỗng có một vị đại thần chạy
đến quát lớn:
- Không
được hạ thủ. để ta vào can vua đã!
Võ sĩ
thấy đó là quan Tư Ðồ Trần Ðam, nên chưa dám khai đao, còn chờ lệnh.
Trần Ðam
đi thẳng vào hỏi vua:
- Lưu
Giám nghị có tội gì mà bệ hạ truyền đem chém?
Vua Linh
Ðế nói:
- Tội
sàm báng cận thần và khi quân.
Trần Ðam
nói:
- Hầu
hết dân chúng trong thiên hạ ai cũng muốn ăn sống mười đứa Thường Thị, sao bệ
hạ lại kính nể chúng như cha mẹ? Không một tấc công lao mà sao đứa nào cũng
được phong tước Hầu. Ðã vậy, bọn Phong Tư là kẻ tư thông với giặc Khăn Vàng,
toan làm nội phản, thế mà nay bệ hạ còn chưa tỉnh ngộ, mến chuộng bọn hoạn quan
như thế sao?
Linh Ðế
nói:
- Phong
Tư làm phản, việc ấy còn mù mờ chưa rõ hư thật. Còn như trong mười người Thường
Thị há lại không có kẻ nào là trung thần sao?
Trần Ðam
dập đầu dưới đất, nhất định can vua cho kỳ được. Vua nổi giận truyền võ sĩ trói
lại đem ra hạ ngục cùng với Lưu Ðào, chờ xét xử sau.
Ngay đêm
đó, bọn Thường Thị kéo nhau vào ngục giết chết hai vị trung thần này, rồi chúng
lại giả chiếu vua phong Tôn Kiên làm Thái Thú Trường Sa, sai đi đánh Khu Tỉnh,
bình định phiến loạn.
Chưa đầy
ba mươi ngày, Tôn Kiên đã dẹp yên, viết thiệp về triều cáo báo. Thế là vùng
Giang Hạ được yên, Tôn Kiên được phong làm Ý Trình Hầu, Lưu Ngu thì được phong
làm U Châu Mục, lãnh quân đến Ngư Dương đánh Trương Thuần, Trương Cử.
Bấy giờ
Lưu Khôi ở Ðới Châu viết thơ tiến cử và bảo ba anh em Huyền Ðức đến ra mắt Lưu
Ngu. Lưu Ngu rất mừng, cử anh em Huyền Ðức làm Ðô Úy, dẫn binh vào thẳng sào
huyệt của giặc đánh phá kịch liệt hai ba ngày liền.
Trương
Thuần vốn là kẻ hung bạo hay chém giết, nên lòng quân sinh biến. Một tên đầu
mục núp trong trướng lừa giết chết Trương Thuần rồi đem đầu ra ngoài nạp cho
Huyền Ðức. Trương Cử thấy tình thế nguy nan, nên tự tử chết luôn. Quân sĩ kéo
ra đầu hàng hết.
Ngư
Dương bình đinh, Lưu Ngu dâng biểu tâu rõ công lớn của Lưu Bị. Triều đình xá
cho Huyền Ðức cái tội đánh Ðốc Bưu và phong chức Hạ Mật Thừa, rồi thăng Cao
Ðường Úy.
Sau đó,
Công Tôn Toản lại dâng biểu trần thuật công lao của Huyền Ðức khi dẹp giặc Khăn
Vàng trước kia mà tiến cử làm Liệt Bộ Tư Mã, lãnh chức Bình Nguyên Huyện Lệnh.
Triều đình y tấu, Huyền Ðức tới chấn nhậm Bình Nguyên, có đủ lương tiền, quân
mã, ba anh em mới được thanh nhàn. Còn Lưu Ngu có công dẹp giặc được phong làm
Thái Úy.
Năm
Trung Bình thứ sáu, mùa hạ, tháng tư, vua Linh Ðế đau nặng, bèn triều Ðại Tướng
Hà Tiến vào cung để thương nghị.
Hà Tiến
vốn con nhà hàng heo, nhân cơ hội em gái vào cung làm quý nhân, nhờ sanh được
hoàng tử Biện, nên mới được phong làm Hoàng Hậu. Hà Tiến cũng nhờ đó mà nhậm
được trọng chức.
Vua lại
lấy Vương Mỹ Nhân sanh đặng Hoàng tử Hiệp, vì thế Hà thái hậu ghen ghét dùng
thuốc độc giết Vương Mỹ Nhân đi.
Ðổng
Thái Hậu liền đem Hoàng tử Hiệp về cung riêng của mình để nuôi dưỡng.
Ðổng
Thái Hậu là mẹ của vua Linh Ðế, thường ngày khuyên vua lập Hoàng tử Hiệp làm
thái tử. Vua cũng bằng lòng, ngặt vì đau nặng nên chưa tính đến việc ấy được.
Trung Thường Nghị là Kiển Thạc biết việc ấy bèn vào tâu với vua:
- Nếu bệ
hạ muốn lập Hoàng tử Hiệp lên ngôi thì bệ hạ phải giết Hà Tiến thì sau này mới
khỏi sanh hậu hoạn.
Vua suy
nghĩ rồi cho đòi Hà Tiến vào cung. Khi Hà Tiến vừa vào tới cửa cung thì gặp
quan Tư Mã là Phan Ân đón lại nói:
- Ông
chớ vào cung, Kiển Thạc âm mưu muốn giết ông đấy.
Hà Tiến
nghe nói thất kinh vội vã bước ra về thẳng tư dinh, lập tức mời các quan đại
thần đến bàn bạc công việc.
Ông nói:
- Nay
bọn hoạn quan ỷ thế, làm nhiều đều sàm nịnh, nếu chúng ta không tìm cách trừ
hết bọn nó, thì chúng ta ắt không khỏi mang hậu họa.
Hà Tiến
vừa nói dứt lời, thì bỗng có một người bước đến, thưa:
- Quyền
thế của hoạn quan rất mạnh, khởi từ lúc vua còn nhỏ, chi nhánh trong triều rất
nhiều, giết làm sao hết được, phỏng như chúng ta không làm nổi để lộ cơ mưu ắt
không khỏi bị diệt tộc.
Hà Tiến
quay mặt sang nhìn, thì thấy người ấy là Tào Tháo, ông nổi giận nạt lớn:
- Ngươi
là người tiểu bối, biết gì mà dám bàn đến.
Trong
lúc mọi người còn đang bàn bạc thì Phan An chạy đến nói:
- Vua đã
băng hà rồi, nhưng Kiển Thạc lại thương nghị với bọn Thập Thường Thị không cho
phát lộ ra ngoài. Chúng nó muốn triệu Hà Quốc Cựu vào cung để diệt trừ hậu họa,
hầu lập Hoàng tử Hiệp lên làm vua.
Phan An
nói vừa dứt lời thì quả có chiếu triệu đòi Hà Tiến vào cung.
Tào Tháo
thấy vậy bước ra nói:
- Hôm
nay hãy lo tôn tân quân trước đã, rồi sẽ tính kế trừ lũ nịnh thần sau.
Hà Tiến
nói:
- Như
vậy ai vì ta, vì xã tắc mà lo việc chánh quân và việc trừ lũ nịnh hay không?
Bỗng có
người từ góc trái bước ra, thưa:
- Xin
cho tôi lãnh năm ngàn quân đến tới cung phá cửa lập tân quân và bắt tất cả bọn
Thập Thường Thị mà giết cho rồi.
Hà Tiến
xem lại người nói đó là Tư Ðồ Viên Thiệu, tự là Bôn Sồ, hiện đang giữ chức Tư
Ðồ Huyện Úy.
Hà Tiến
mừng rỡ, vội vã điểm năm ngàn quân giao cho Viên Thiệu.
Viên
Thiệu nai nịt hẳn hòi dẫn năm ngàn quân Ngự Lâm kéo thẳng vào cung. Còn Hà Tiến
thì cùng với các quan đại thần như: Hà Ngung, Tuân Nhu, Trịnh Thái v.v.. cộng
cả thảy hơn ba mươi người, đồng kéo thẳng vào trào, lập Thái tử Biện lên ngôi
Hoàng đế.
Viên
Thiệu dẫn quân đi thẳng vào cung tìm bắt Kiển Thạc, và nã tróc bọn Thập Thường
Thị.
Kiển
Thạc hay tin khiếp vía, vội vã nhảy ra ngự huê viên mà trốn, nhưng bất thời lại
gặp Trung Thường Thị là Quách Thắng thấy được đâm một kiếm chết tốt.
Bọn
Trương Nhượng biết nguy đã đến nơi liền chạy vào cung van cầu Hà Thái Hậu:
- Kẻ lập
mưu hãm lại tướng công là Kiển Thạc, nay Kiển Thạc đã chết rồi, còn chúng tôi
là kẻ vô can, mong Thái hậu mở lòng nhân che chở cho.
Hà Thái
hậu nói:
- Các
người đừng sợ nữa, để ta bảo hộ cho.
Dứt lời,
Hà Thái hậu liền triều Hà Tiến đến nói:
- Anh em
ta lúc trước hàn vi, nếu không nhờ bọn Trương Nhượng giúp đỡ một tay thì đâu có
quyền cao lộc cả như ngày hôm nay. Vậy anh nên nghĩ lại vị tình mà dung tha bọn
Trương Nhượng là phải hơn.
Hà Tiến
ngẫm nghĩ giây lâu rồi trở ra nói với các quan:
- Kiển
Thạc là một tên bạo phản, nay hắn đã đền tội rồi, còn các người khác ta có thể
dung tha được, chớ nên sát hại chúng làm chi.
Viên
Thiệu nói:
- Ðốn
cây mà không nhổ tận rễ thì làm sao khỏi bị nứt chồi.
Hà Tiên
nói:
- Ý ta
đã cương quyết như vậy, ngươi chớ có nhiều lời vô ích.
Các quan
nghe Hà Tiến nói thế, ai nấy đều hậm hực lui về dinh.
Sáng hôm
sau Hà Thái hậu giáng chỉ phong Hà Tiến làm Tham Lục Thượng Thơ, còn các quần
thần cứ đẳng gia phong một trật.
Công
việc làm của Hà Tiến khiến cho Ðổng Thái Hậu căm tức, bèn kêu bọn Trương Nhượng
vào cung nói:
- Em gái
hắn trước kia chính nhờ ta tiến cử nó mới được vua yêu dùng đến ngày hôm nay.
Hôm nay con trai của nó được nối ngôi Hoàng đế, thế lực trong ngoài của nó quá
mạnh, như vậy bọn chúng ta có ngày e phải lâm hại.
Trương
Nhượng nghe Ðổng Thái Hậu than thở, liền bày mưu:
- Bây
giờ Nương Nương làm sao chưởng chấp uy quyền, Cựu Ðổng Trọng và phong thêm chức
cho chúng tôi thì một ngày kia chúng tôi có cơ hội cứu nguy tình thế.
Ðổng
Thái Hậu rất mừng khen Trương Nhượng có mưu cao.
Ngày thứ
Ðổng Thái Hậu thiết trào rồi giáng chỉ phong cho Hoàng tử Hiệp làm Trần Lưu
vương, Ðổng Trọng làm Biên Kỵ tướng quân, bọn Trương Nhượng đều được gia thêm
chức và cùng dự việc trào chính.
Hà Thái
Hậu thấy Ðổng Thái Hậu lộng quyền trong lòng sanh nghi, bèn thiết yến diện
trong cung rồi thỉnh Ðổng Thái Hậu phó yến.
Khi dự
tiệc nửa chừng, Hà Thái Hậu đứng dậy tay bưng chén rượu nói với Ðổng Thái Hậu:
- Chúng
ta là phận đàn bà mà dự đến việc trào chính chẳng khác nào chúng ta đã đi ngoài
phận sự. Những gương xưa còn rành, Lữ Hậu cũng vì nắm trọn quyền mà cả dòng họ
bị tru lục, và còn biết bao nhiêu việc tai hại khác. Chúng ta hãy noi gương đó
mà tránh đi những cái dữ để khỏi ân hận ngày sau
Ðổng
Thái Hậu giận dữ mắng lớn:
- Mi ỷ
thế lực của con mi làm vua mi dám loạn ngôn như vậy. Tội ngươi tra thuốc giết
Vương mỹ nhân là một cựu thù ta chưa nói đến đó thôi.
Hà Thái
Hậu thấy Ðổng Thái Hậu nói quá lời, lòng nổi giận cũng mắng lại:
- Ta lấy
lời hơn lẽ thiệt để bàn bạc, sao mi lại dám xúc phạm đến danh dự của ta?
Hai bên
không ai chịu nhịn ai, cứ mắng đùa với nhau không kể gì đến danh dự. Bọn Trương
Nhượng hay tin, vội chạy đến can ngăn hết lời Ðổng Thái Hậu mới chịu về cung.
Hà Thái
Hậu đêm ấy không ngủ được, bèn gọi Hà Tiến đến tỏ bày việc ấy.
Rớng
sáng Hà Tiến một mặt nhóm họp đình thần buộc Ðổng Thái Hậu phải rời khỏi cung
ra ở phủ Hà Giang, mặt khác vây nhà Biên Kỵ tướng quân Ðổng Trọng. Ðổng Trọng
liệu thế khó thoát được liền cầm đao tự vận nơi hậu dinh.
Bọn
Trương Nhượng thất vía không biết chổ nào nương tựa vì thế lực của Ðổng Thái
Hậu đã tiêu tan trong phút chốc, bèn đem tiền bạc vàng lụa đến lo lót cho người
em Hà Tiến là Hà Miêu nói với Hà Thái Hậu để được toàn mạng. Nhờ đó mà bọn Thập
Thường Thị lại vẫn được dung dưỡng và giữ chức quyền như cũ.
Việc
triều chính đã tạm yên, Hà Tiến còn sợ những hậu họa nên sai người đến Hà Giang
tìm cách đánh thuốc độc Ðổng Thái Hậu. Cách mấy ngày sau có tin Ðổng Thái Hậu
bị ngộ độc mà chết, Hà Tiến bèn dạy đem xác Ðổng Thái Hậu về chôn nơi Vương
Lăng.
Công
việc ấy thấu tai đến lũ nịnh thần nên nhiều tiếng đồn làm cho Viên Thiệu hay
được. Viên Thiệu liền vào nói lại với Hà Tiến:
- Tôi có
nghe tiếng đồn do bọn Thập Thường Thị rao ra rằng tướng công đã giết Ðổng Thái
Hậu. Nếu để chúng gièm pha như vậy e không lợi, chi bằng nhân cơ hội nầy mà
giết chết bọn chúng đi thì mới khởi sợ sanh ra hậu hoạn.
Hà Tiến
nghe được việc ấy, ngày đêm còn đang suy đi tính lại để tìm cách diệt trừ bọn
Thập Thường Thị, thì việc này bọn Trương Nhượng hay được. Nhưng thế yếu không
biết làm sao, bọn Trương Nhượng lại đem vàng bạc thiệt nhiều đến lo lót cho Hà
Miêu một lần nữa để vào nói Hà Thái Hậu.
Hà Miêu
vào cung tâu với Hà Thái Hậu:
- Bọn
Thập Thường Thị lâu nay rất có công với triều chính, nay vì vô cớ tướng công Hà
Tiến muốn diệt trừ họ e sanh ra rối loạn triều thần.
Hà Thái
Hậu nghe nói khiến quân triệu Hà Tiến vào cung bảo:
- Tiên
Ðế mới băng hà; việc triều chính còn nhiều rối lắm, không nên có ý làm hới các
cựu thần mà sanh ra rối loạn.
Hà Tiến
là kẻ không cương quyết nên nghe Hà Thái Hậu nói như vậy cũng phải vâng lệnh
lui ra thuật lại ý kiến của Hà Thái Hậu cho Viên Thiệu nghe. Viên Thiệu nói:
-Lực
lượng chúng ta bây giờ đâu có sợ bọn chúng. Nếu tướng công có nghi ngờ triệu
tập các anh hùng hào kiệt trấn giữ khắp châu, quận rồi trở về cung mà giết sạch
bọn chúng nó đi thì có lo gì bọn chúng phản ứng.
Hà Tiến
nói:
- Kế ấy
rất hay.
Rồi, ông
tính phát các hịch văn triệu hồi các trấn về hợp sức.
Xảy có
người bước tới cản ngăn:
- Theo ý
ngu hạ thì việc ấy tướng công không nên làm, và người xưa có câu: "Che mắt
mà bắt chim én". Việc nhỏ mọn như thế mà còn phải dùng đến mưu chước huống
chi việc quốc gia đại sự. Nay Tướng công chấp chưởng binh quyền, muốn làm gì
chẳng được mà Tướng Công phải tính như vậy. Hơn nữa anh hùng khắp nơi, mỗi
người có đều có chí hướng riêng, phỏng như Tướng Công triệu họ về mà có một số
người không tuân lệnh có phải Tướng Công cầm giáo mà lại trở cán cho thiên hạ
không?
Hà Tiến
nghe nói cười lớn và nói:
- Ngươi
là kẻ hủ nho, kiến thức bao nhiêu mà dám cùng bàn đến đại sự.
Hà Tiến
nói vừa dứt lời lại có một kẻ vỗ tay cười to, nói:
- Việc
nhỏ như vậy mà cần chi phải bàn đi bàn lại cho thêm mệt.
Mọi
người nghe nói quay lại thì thấy người ấy là Tào Tháo.
CHƯƠNG
3: BÀN PHẾ LẬP, ÐỔNG TRÁC MẮNG ÐINH NGUYÊN TẶNG XÍCH THỐ, LÝ TÚC DỤ LỮ BỐ
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
03/03/2014
Nhắc lới
Tào Tháo thấy Hà Tiến muốn gọi binh mã các nơi về triều, thì nói rằng:
- Xưa
nay những bọn gian nịnh thì đời vua nào chẳng có, ấy là việc thường sự trong
đời. Nhưng vì Vua gần đây quá sủng ái, cho chúng nó giữ quyền bính mà không nỡ
tước bỏ, nên mới đến nỗi này. Còn muốn trừ chúng nó thì chỉ cần trị tội đứa cầm
đầu là đủ, và chỉ cần một tên quản ngục bắt giam cũng xong. Việc gì phải triệu
quân ngoài ùn ùn kéo về? Nếu cố giết hết bọn chúng, việc ắt tiết lộ. Tôi e rằng
thất bại đấy.
Hà Tiến
bực tức gắt:
- Mạnh
Ðức cũng có một ý khác trong bụng nữa sao?
Tào Tháo
bỏ ra ngoài, nói một mình:
- Kẻ làm
cho thiên hạ loạn, chính là thằng Tiến.
Hà Tiến
bèn ngầm sai sứ đem mật chiếu, ngày đêm đi tới các Trấn...
Ðây nhắc
lới Tiền Tướng Quân Ngao Lương Hầu, Tây Lương Thứ Sử là Ðổng Trác vì trước kia
đánh giặc Khăn Vàng không có công lao gì, bị thua luôn Trương Giác mấy trận nên
triều đình triệu về buộc tội. Nhưng Trác đã đem của đút lót cho bọn Thập Thường
Thị nên khỏi tội.
Sau lại
khéo luồn cúi bọn quyền quý trong triều nên Trác lới được thăng quan vùn vụt:
từ Trung Lang Tướng, nhảy lên Tiền Tướng Quân, Ngao Hương Hầu, Tây Lương Thứ
Sử!
Từ lúc
trấn thủ ở ngoài, trong tay thống lãnh hơn hai mươi vạn quân tới Tây Lương,
Ðổng Trác đã có lòng phản nghịch, nhưng chưa dám.
Lúc ấy,
lại được chiếu triệu về, thật là dịp may hiếm có, Ðổng Trác mừng như cọp gặp
mồi, liền điểm binh mã, lục tục kéo về triều. Trác cử con rể là Ngưu Phụ làm
Trung Lang Tướng ở lại trấn đóng Thiểm Tây, còn mình tự dẫn Lý Thôi, Quách Dĩ,
Phàn Trù, Trương Tế đều nhắm Lộc Dương tấn phát.
Mưu sĩ
Lý Nhu, cũng là con rể của Ðổng Trác, bàn rằng:
- Nay
mặc dầu tuy có chiếu triệu , song việc nầy xem ra có hơi ám muội, nếu muốn nên
việc lớn thì phải sai người dâng biểu làm cho danh chánh ngôn thuận thì mới
xong.
Ðổng
Trác nghe Lý Nhu nói thế, cười vang:
- Mưu sĩ
thật đáng là kẻ tài ba xuất chúng.
Nói rồi,
Ðổng Trác lập tức làm sớ như sau:
"Nay
trộm nghe triều đình lộn xộn, dân chúng oán than bởi lũ Thập Thường Thị ỷ quyền
thế, hiếp chế vua nên mới sanh ra như vậy. Giết rắn không nên chừa độc, đốn cây
phải bại cho tận gốc. Mổ nhọt tuy đau nhưng một lần lành bệnh còn hơn nuôi
dưỡng bệnh hoạn trong mình. Nay Hạ thần xin khua chiêng gióng trống, đem binh
về Lộc Dương quyết diệt trừ bọn Trương Nhượng để cứu nguy cho xã tắc, cho thiên
hạ được an, ấy là vạn hạnh."
Hà Tiến
tiếp được biểu ấy, vội vã triệu tập các quan văn võ đến thương nghị. Quan Thị
Ngự Sử là Trịnh Thái can rằng:
- Ðổng
Trác là giống sài lang, nếu để hắn về triều, ắt nó sẽ ăn thịt người.
Hà Tiến
nhìn Trịnh Thái cười:
- Ngươi
lấy chi làm bằng cớ. Công việc lớn mà đa nghi như thế thì bao giờ mới thành sự
được.
Lư Thực
thấy vậy, bước ra can:
- Tôi
vốn biết Ðổng Trác là hạng mặt người mà lòng thú dữ, một khi vào cấm đình sẽ
gây họa hoạn. Phải mau mau chận hắn lại, đừng cho vào, thì mới được yên.
Các quan
văn võ đều cố can ngăn Hà Tiến, nhưng Tiến vẫn khăng khăng một mực không nghe.
Trịnh
Thái, Lư Thực đều bỏ quan mà về. Các quan đại thần thấy vậy, cũng lần lượt bỏ
đi quá nửa.
Hà Tiến
lại cho người đi đón Ðổng Trác tới Dẵn Trì. Trác đóng quân lại, không tiến nữa.
Bọn
Trương Nhượng hay được việc ấy, liền bàn với nhau:
- Ấy là
mưu của Hà Tiến. Chúng ta hiện bây giờ như cá nằm trong chậu, nếu chẳng lo ra
tay trước, đợi nước đến trôn mới nhảy thì sẽ bị chết ba họ.
Liền cho
năm mươi tên đao phủ mai phục ở cung Trường Lộc, phía trong điện Gia Ðức, rồi
kéo cả bọn vào quỳ trước mặt Hà Thái Hậu, khóc lóc thưa:
- Nay
Ðại Tướng quân phát chiếu triệu quân ngoài về kinh để giết lũ thần. Vậy mong
Thái Hậu mở lòng từ bi, cứu mạng cho.
Hà Thái
Hậu nói:
- Việc
ấy bọn ngươi hãy đến phủ Ðại Tướng quân mà tạ tội để cho người cứu vớt cho.
Bọn
Trương Nhượng vừa khóc vừa nói:
- Nếu lũ
Hạ thần đem thân tới Tướng phủ, ắt sẽ nát thịt tan xương ngay. Xin Thái Hậu
thương chúng tôi mà tuyên triệu Ðại Tướng quân vào cung mà phủ dụ. Nếu bấy giờ,
Ðại Tướng quân không nghe nữa, thì lũ thần xin chịu chết trước mặt Thái hậu.
Thái hậu
liền giáng chiếu đòi Hà Tiến vào. Tiến được chiếu, vừa muốn ra đi thì Trần Lâm
can:
- Chiếu
của Thái hậu đây ắt là mưu của lũ Thập Thường Thị, thiết nghĩ không nên vào.
Vào ắt mang họa.
Tiến
nói:
- Rõ
ràng là chiếu của Thái hậu đây, sợ tai vạ gì nữa?
Viên
Thiệu cũng xen vào:
- Nay cơ
mưu đã bại lộ, Ðại Tướng quân còn vào cung làm gì?
Tào Tháo
nói:
- Hãy
đòi hết lũ Thập Thường Thị ra đây rồi Ðại Tướng quân sẽ vào thì chẳng can chi.
Nhưng Hà
Tiến gạt đi:
- Ðó là
ý kiến trẻ con. Ta nắm việc thiên hạ trong tay, lũ Thập Thường Thị dám động đến
mình ta sao? Các người đừng nghi ngờ như thế!
Viên
Thiệu nói:
- Nếu
Ðại Tướng Quân muốn vào thì chúng tôi xin dẫn giáp sĩ theo hộ tống, để phòng
bất trắc.
Nói rồi,
Viên Thiệu, Tào Tháo mỗi người nai nịt hẳn hòi, đem binh khí theo mình, lới tuyển
năm trăm tinh binh, giao cho em Thiệu là Viên Thuật chỉ huy. Viên Thuật nai nịt
gọn ghẽ, đem binh mai phục nơi Thanh Tỏa. Còn Tháo và Thiệu cầm gươm hộ tống
Tiến vào trước cung Trường Lộc.
Vừa đến
cửa cung thì có Hoàng Môn Quan truyền chỉ rằng:
- Thái
Hậu chỉ vời một mình Ðại Tướng quân. Ngoài ra, không ai được vào.
Thế là
Thiệu và Tháo bị cản lới ngoài cửa. Còn Hà Tiến cứ ngang nhiên vào không có
chút e ngại...
Khi đến
trước điện Gia Ðức thì bỗng bọn Trương Nhượng, Ðoàn Khuê xong ra đón chặn, miệng
hô tả hữu vây chặt. Trương Nhượng lớn tiếng mắng:
- Bớ Hà
Tiến! Ðổng Thái Hậu có tội gì mà mày nỡ phục độc giết hại? Ngày lễ táng vị Quốc
Mẫu, sao mày giả đau không thèm ra dự? Mày chỉ là đồ con nhà hàng thịt hèn hạ,
nhờ có bọn tao tiến cử lên Thiên Tử, mày mới được tôn quý đến mực này chứ! Thế
mà mày đã không nghĩ đến báo đáp thì thôi, sao lới còn mưu hại bọn ta? Mày chửi
bọn ta là đồ ô trọc, vậy thì ai là mặt thanh cao?
Bây giờ
Hà Tiến mới biết nguy, vội tìm lối thoát nhưng các cửa cung đều đóng chặt. Hà
Tiến chưa biết xử trí cách nào, đã bị phục quân đổ ra chém Tiến một đao đứt làm
hai đoạn.
Người
sau có thơ rằng:
Vận Hán
lâm nguy, khiến giữa trào,
Ngu như
Hà Tiến nắm quyền cao.
Khù khờ
chẳng chịu nghe can gián,
Mắc nạn
trong đền, chết dưới đao.
Bên
ngoài Viên Thiệu, Tào Tháo đứng đợi mãi không thấy Hà Tiến trở ra, trong lòng
sanh nghi.
Viên
Thiệu bèn hô lớn:
- Mời
Ðại Tướng quân lên xe trở về!
Bỗng bọn
Trương Nhượng xách thủ cấp của Hà Tiến ném qua mặt tường ra ngoài, rồi lên tiếng
tuyên dụ:
- Ðứa
ngịch thần Hà Tiến mưu phản, đã bị giết rồi, còn tất cả bọn a tòng đều được tha
thứ.
Nghe
nói, Viên Thiệu đùng đùng nổi giận, thét lớn:
- Bọn
yêm hoạn dám mưu sát đại thần! Ai muốn tru diệt ác đảng, phò xã tắc, hãy tới
đây trợ chiến.
Bộ tướng
của Tiến là Ngô Khuông liền nổi lửa đốt cửa Thanh Tỏa. Viên Thuật liền dẫn binh
sấn vào trong cung, hễ gặp tên yêm hoạn nào là giết liền, chẳng kể lớn nhỏ già
trẻ.
Viên
Thiệu, Tào Tháo cũng vung gươm, chém khóa phá cửa, xông vào trong cung, lại gặp
bọn Triệu Trung, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng toan chạy, liền đuổi đến
Thúy Hoa Lâu, rồi bằm thây bọn nầy nát như tương.
Lúc ấy,
trong cung đình lửa cháy ngất trời. Bọn Trương Nhượng, Ðoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu
Lãm bốn tên lập tức băng mình theo khói lửa, ép Thái hậu, Thiếu Ðế, và Trần Lưu
Vương ra phía nội tỉnh, theo lối sau, chạy về Bắc Cung.
Nói về
Lư Thực tuy đã bỏ quan tước, nhưng cũng còn ở tại triều, lúc bấy giờ nghe trong
cung có biến, liền mặc giáp cầm thương, chạy tới chờ ở dưới lầu. Vừa gặp Ðoàn
Khuê đem Hà Thái Hậu chạy tới, Lư Thực thét lớn:
- Nghịch
tặc! Mày bức bách Thái Hậu đi đâu?
Khuê
quay đầu chạy trốn. Hà Thái Hậu liều nhào qua cửa sổ nhảy ra, được Lư Thực cứu
thoát.
Ngô
Khuông chém giết tới nội đình thì gặp Hà Miêu cầm gươm chạy ra. Khuông hô lớn:
- Thằng
Miêu đồng mưu hại anh, hãy giết nó đi!
Quân sĩ
đồng thanh hô theo:
- Mau
chém thằng giặc phản anh!
Miêu
toan chạy, nhưng bốn mặt quân vây kín, băm xác ra như bùn.
Viên
Thiệu lới sai quân sĩ chia nhau lùng bắt các gia thuộc của mười tên Thường Thị,
bất luận lớn nhỏ đều giết hết.
Lúc ấy,
tất cả những người không có râu, đều bị nghi là gia quyến của Thập Thường Thị,
nên bị giết lầm vô số.
Còn, Tào
Tháo thì lo chữa lửa trong cung, cho mời Thái Hậu về triều để nhiếp chánh việc
nước. Mặt khác, Tháo sai quân đuổi theo bọn Trương Nhượng để tìm vua Thiếu Ðế.
Nói về
Trương Nhượng, Ðoàn Khuê cướp Vua và Trần Lưu Vương, băng qua khói lửa, suốt
đêm chạy không nghỉ ra núi Bắc Mang.
Vào
khoảng canh ba, bỗng nghe mặt sau có tiếng quân reo ó vang trời, một đoàn binh
mã đuổi tới. Thì ra là quan Trung Bộ Duyện Lại ở Hà Nam là Mẫn Cống. Cống phóng
ngựa lên chẹn đường, thét lớn:
- Phản
thần chớ chạy ! Có ta đến để bắt chúng bây đây !
Trương
Nhượng hoảng vía, biết đã đến nước cuối cùng không thể nào trốn thoát được nữa,
liền liều mạng nhảy xuống sông tự tử.
Còn Vua
và Trần Lưu Vương bơ vơ một mình, chẳng biết việc hung kiết thế nào, nên không
dám lên tiếng. Cả hai dắt nhau nép mình nơi bờ sông, trong đám cỏ gai gần đấy.
Mẫn Cống
không thấy Vua đâu, bèn phân quân đi tứ tán kiếm tìm, nhưng rốt cuộc không
thấy, đành phải kéo nhau trở về.
Còn Vua
và Trần Lưu Vương núp đó chờ cho đến đầu canh tư, thấy bốn bề vắng vẻ mới dám
bò ra. Ðêm ấy, sương xuống như mưa, hai người lạnh lẽo đói khát, buồn khổ ôm
nhau mà khóc. Nhưng lại sợ có người hay được nên không dám khóc to.
Trần Lưu
Vương nói vại Vua:
- Chốn
nầy không thể ở lâu được, phải đi nơi khác gấp, mới sống được.
Thế là
Vua và Trần Lưu Vương lấy chéo áo buộc lới vại nhau cho khỏi lạc, rồi mò mẫm
lên mặt đê, gai góc đây đất, cố mà len chân, nhưng bóng tối dầy đặc không nhìn
thấy đường lối gì cả. Trong lúc đang lo sợ, bỗng có hàng ngàn đom đóm tụ tập
lới, chiếu tỏa sáng như sao sa trước mặt Vua.
Thấy
vậy, Trần Lưu Vương nói:
- Hoàng
huynh ơi, đây là trời giúp anh em ta!
Liền
theo ánh sáng đom đóm mà đi, dần dần tìm thấy con đường. Tới canh năm thì chân
đau quá, không thể đi được nữa, thấy bên chân núi có một gò cỏ cao, Thiếu Ðế và
Trần Lưu Vương đành tạm ẩn vào trong gò ấy.
Gò này
nằm ngay phía sau một trang viện. Trang chủ đêm ấy nằm mộng thấy có hai bóng
mặt trời sa xuống đồng cỏ sau nhà, liền giật mình thức giấc, vội mặc áo ra
ngoài, nhìn ngó bốn phía, thấy trên gò phía sau trang có hồng quan rực trời.
Trang chủ lòng hoang mang kinh lạ, vội tới xem thì thấy có hai thiếu niên nằm
trong đám cỏ, bèn hỏi:
- Hai
cậu là con nhà ai?
Thiếu Ðế
lo sợ, không dám nói gì. Trần Lưu Vương trỏ vào anh mà đáp:
- Ðây
chính là đương kim Hoàng đế, vì bị bọn Thập Thường Thị làm loạn nên phải lánh
mình nơi đây. Còn ta là Hoàng đệ Trần Lưu Vương.
Trang
chủ nghe nói thất kinh, vội sụp xuống đất lạy hai lạy, rồi thưa:
- Hạ
thần tên là Thôi Nghị, em của quan Tư Ðồ Thôi Liệt, nhân vì bọn Thập Thường Thị
buôn quan bán tước, ghét người hiền, nên Hạ thần mới buồn lòng về ẩn dật nơi
đây.
Nói xong
phò Vua về nhà dâng rượu thịt cho vua dùng đỡ đói.
Nói về
Mẫn Cống đuổi theo Ðoàn Khuê, khi trời hừng sáng thì bắt được được Ðoàn Khuê,
liền cật vấn:
- Thiên
tử ở đâu?
Khuê
khai rằng khi chạy tới nửa đường thì lạc mất, không biết Vua đi về phía nào
nữa. Mẫn Cống liền giết Ðoàn Khuê, cắt lấy đầu, treo dưới cổ ngựa, rồi chia
quân đi bốn mặt tìm kiếm. Còn Mẫn Cống thì một mình một ngựa, lần đi hỏi dò.
Bỗng
Cống đi tới nhà Thôi Nghị. Nghị ra đón, thấy một chiếc thủ cấp treo lủng lẳng
trên cổ ngựa, liền hỏi duyên cớ. Cống thuật lại rõ ràng. Thôi Nghị mới dẫn Cống
vào ra mắt Vua. Chúa tôi cùng khóc.
Mẫn Cống
tâu:
- Một
ngày không thể thiếu Vua. Xin Bệ Hạ hãy hồi triều.
Bấy giờ
nhà Thôi Nghị chỉ có một con ngựa gầy, để riêng Vua ngự. Trần Lưu Vương phải
cưỡi chung ngựa với Mẫn Cống.
Ði được
vài dặm gặp được Tư Ðồ Vương Doãn, Thái Úy Dương Bưu, Tả Quân Hiệu Úy Thuần Vu
Quỳnh, Hữu Quân Hiệu Úy Triệu Manh, Hậu Quân Hiệu Úy Bảo Tín, Trung Quân Hiệu
Úy Viên Thiệu cùng một đoàn khoảng trăm người ngựa đến nghinh tiếp thánh giá.
Mừng
mừng tủi tủi, Vua tôi đều khóc. Trước hết, các quan sai đem thủ cấp Ðoàn Khuê
về bêu ngoài cửa thành làm lệnh. Rồi chọn ngựa tốt để Thiếu Ðế và Trần Lưu
Vương ngự, cùng rước về kinh.
Trước đó
ít lâu, trẻ con ở Lộc dương thường hát mấy câu đồng dao rằng:
Ðế không
ra đế,
Vương
chẳng phải Vương.
Ngàn xe
vạn ngựa,
Chạy đến
Bắc mang.
Tức là
điềm sau này đế bị truất làm Vương, Vương được lên ngôi đế. đến bấy giờ biết
ứng nghiệm vào việc đó.
Xa giá
đi chưa được vài dặm, bỗng đàng xa có tiếng trống vang lừng, tinh kỳ rợp đất,
bụi bay mù trời, rồi một đoàn binh mã ào ào kéo đến.
Bá quan
đều thất sắc. Vua cũng sợ hãi. Viên Thiệu vội thúc ngựa ra trước thét hỏi:
- Binh
mã của ai đấy?
Từ dưới
bóng ngọn cờ thêu rực rỡ, một tướng bên kia thúc ngựa ra, lớn tiếng hỏi lại:
- Thiên
tử đâu?
Vua càng
sợ, không dám lên tiếng. Trần Lưu Vương quất ngựa sấn ra, nớt rằng:
- Nhà
ngươi là ai?
Tướng ấy
đáp:
- Thứ Sử
Tây Lương là Ðổng Trác đây.
Trần Lưu
Vương gằn giọng hỏi:
- Ngươi
đến đây bảo giá hay cướp giá?
Thấy vẻ
mặt oai nghiêm của Trần Lưu Vương, Ðổng Trác khiếp sợ, thưa:
- Hạ
thần đến đây để bảo giá.
Trần Lưu
Vương hạch rằng:
- Ðã tới
hộ giá, vậy Thiên Tử ngồi kia, sao ngươi không xuống ngựa mà thi lễ?
Ðổng
Trác sợ hãi, lật đật xuống ngựa, khấu đầu bên đường, miệng tung hô "vạn
tuế". Trần Lưu Vương lại lấy lời ngọt ngào mà phủ úy Ðổng Trác. Từ đầu chí
cuối, lời lẽ đường hoàng, không ngập ngừng lầm lỡ một tiếng nào.
Ðổng
Trác thầm lấy làm lạ, sinh lòng khâm phục vô cùng. Và từ đó, Trác đã có ý định
phế Thiếu Ðế mà lập Trần Lưu Vương lên làm vua.
Hôm ấy,
các quan phò Thiếu Ðế về cung ra mắt Hà Thái Hậu. Mẹ con khóc lóc với nhau, mọi
người đều ứa lệ. Khi kiểm điểm lới trong cung, không thấy cái ấn ngọc
"truyền quốc" ở đâu nữa!
Bấy giờ
Ðổng Trác đem binh đóng ngoài thành. Ngày ngày dẫn giáp sĩ cưỡi ngựa vào thành,
hoành hành khắp phố xá, chợ búa. Nhân dân trăm họ lo sợ, hoang mang. Trác lại
ra vào tự do nơi chốn cung đình, không kiêng kỵ gì hết. Quan Hậu Quân Hiệu Úy
là Bảo Tín tới bảo Viên Thiệu:
- Ðổng
Trác ắt manh tâm làm loạn, nên kíp trừ đi.
Viên
Thiệu nói:
- Triều
đình đã bị hoang mang, nay vừa mới được yên, chớ nên khinh động.
Bảo Tín
lới tới gặp Vương Doãn để bàn về việc ấy. Doãn cũng nói:
- Hãy
thong thả, để tính kỹ xem đã.
Bảo Tín
thấy tình thế như vậy, liền bỏ triều đình, kéo hết quân bản bộ vào núi Thái
Sơn.
Nói về
Ðổng Trác lại đi chiêu dụ bọn bộ Hạ anh em Hà Tiến. Bao nhiêu binh mã của họ Hà
đều về tay Trác hết.
Ngày
kia, Ðổng Trác bàn riêng vội hỏi Lý Nhu:
- Ta
muốn phế bỏ Vua xuống mà lập Trần Lưu Vương lên ngôi có được chăng?
Lý Nhu
nói:
- Nay
đang lúc triều đình vô chủ, nên thừa thời cơ mà làm gấp đi, nếu để chậm e sinh
biến. Ngày mai hãy triệu tập bá quan tới điện Ôn Minh trong vườn, nói rõ việc
phế lập. Kẻ nào không nghe theo, cứ chém đầu. Lấy quyền uy mà làm, kế sách hiện
tới phải thế mới xong.
Ðổng
Trác nghe nói, lòng mừng khấp khởi. Qua hôm sau, khiến quân bày yến tiệc nơi
vườn Ôn Minh và mời tất cả các quan đại thần đến đó để phó hội. Các quan lúc
nầy đều sợ Ðổng Trác, nên không có ai dám từ chối. Trác để cho các quan tới
đông đủ rồi mới cỡi ngựa thẳng đến trước cửa viên mới chịu xuống ngựa, lại mang
gươm vào tiệc.
Uống vừa
đặng vài tuần rượu, Trác ra lệnh ngừng rót, im tiếng nhạc, rồi lớn tiếng nói:
- Hôm
nay ta mời các quan đến đây với mục đích là bày tỏ một ý kiến.
Bá quan
ai nấy cũng đều lắng tai nghe, Trác nói tiếp:
- Thiên
tử là chúa tể muôn dân, nếu không có uy nghi xứng đáng, không thể phụng sự tông
miếu, xã tắc được. Nay đức Kim Thượng là kẻ nhu nhược không đáng mặt cầm quyền
chấp chánh. Còn Trần Lưu Vương vốn là bậc thông minh, hiếu học, có đủ tài đức
để trị dân, đáng mặt kế vị ngôi cả. Vậy ý ta muốn phế Vua, mà lập Trần Lưu
Vương lên ngôi báu, chẳng hay ý các quan đới thần nghĩ như thế nào?
Các quan
đại thần nghe nói đều im lặng, chưa ai dám nói gì, bỗng có một người đứng dậy,
xô ghế bước ra nói lớn:
- Không
được! Không được! Ngươi là hạng người gì mà dám làm đại ngôn như thế? Vả chăng
đức Kim Thượng là con trưởng của Tiên Ðế, sửa trị ngôi trời là lẽ phải, vả lại
Người cũng chưa có việc gì lỗi lầm thì sao ngươi dám nghĩ đến chuyện phế lập?
Ngươi muốn mưu đồ soán nghịch chăng?
Các quan
chăm chú nhìn ra người ấy là quan Thứ Sử Kinh Châu Ðinh Nguyên, Trác nổi giận
nạt lớn:
- Nơi
đây nếu có kẻ nào nghịch ý ta thì chắc không còn tánh mạng.
Cả tiệc
rượu ai nấy nhao nhao, còn Ðổng Trác cầm gươm toan bước tới chém Ðinh Nguyên.
Lúc ấy,
Lý Nhu đứng thấy sau lưng Ðinh Nguyên có một người khí vũ hiên ngang, oai phong
lẫm liệt, tay cầm một cây "Phương thiên họa kích", trừng trừng con
mắt mà nhìn Ðổng Trác. Nho biết việc chẳng xong, liền bước đến giả vờ can Ðổng
Trác:
- Hôm
nay trong yến ẩm không nên đem việc nước ra bàn, vậy xin để ngày mai cũng chẳng
muộn.
Các quan
cùng khuyên giải Ðinh Nguyên, nên Ðinh Nguyên xô ghế bỏ ra về.
Ðổng
Trác tay vẫn cầm kiếm, quay lại hỏi các quan:
- Lời ta
nói có hợp công đạo hay không?
Lư Thực
bước ra, nghiêm nghị nói:
- Ông
nói sai rồi. Việc phế lập vua phải có duyên cớ. Xưa vua Thái Giáp vì bất minh
nên ông Y Doãn mới đuổi ra Ðồng cung. Xương Ấp Vương lên ngôi mới có hai mươi
bảy ngày mà làm hơn ba mươi điều ác, nên ông Hoắt Quang mới phải tế cáo nhà
Thái Miếu mà phế đi. Nay Thánh Thượng tuy còn thơ ấu nhưng thông minh nhân trí,
chưa lầm lỗi mảy may. Ông chỉ là một vị quan ở ngoài, chưa từng tham dự triều
chính, lới không có tài như Y Doãn, Hoắt Quang, mà dám bàn đến chuyện phế lập
sao được? Thánh nhân có dạy rằng: "Có chí như Y Doãn thì được. Không có
chí như Y Doãn mà bắt chước làm Y Doãn, ấy là kẻ soán nghịch."
Ðổng
Trác nổi giận rút gươm toan chém Lư Thực, thì quan Nghị lang là Bành Bá vội
can:
- Lư
Thượng thư là bậc có danh vọng, hải nội chư nhân đều mong mỏi. Nếu giết đi, e
làm náo động thiên hạ.
Bấy giờ
Trác mới ngừng tay. Quan Tư Ðồ Vương Doãn nói:
- Việc
phế lập rất quan trọng, không nên đem bàn lúc trà dư tửu hậu. Ðể một ngày khác.
Khi tiệc
tan, bá quan ra về, Trác mặt còn hầm hầm, tay cầm gươm đứng ở viên môn. Bỗng
Trác thấy có một người lực lưỡng, cầm kích rong ngựa đi đi lới lới phía ngoài,
bèn hỏi Lý Nhu:
- Người
nào đấy?
Lý Nhu
đáp:
- Ðó là
con nuôi của Ðinh Nguyên, họ Lữ tên Bố, tự là Phụng Tiên, người ấy là một anh
hùng trên đời có một không hai. Tướng quân nên tránh nó kẻo mang họa.
Ðổng
Trác nghe nói liền lánh mặt vào trong vườn.
Rạng
ngày có quân vào báo vại Ðổng Trác:
- Quân
của Ðinh Nguyên đến bên thành khiêu chiến đòi Tướng Quân phải ra binh.
Ðổng
Trác tức giận, hiệp với Lý Nhu dẫn quân ra thành nghênh chiến.
Hai bên
giàn trận, rồi thấy Lữ Bố hiện ra, đầu búi tóc, đội kim quan, mình mặc bào gấm
trăm hoa lồng giáp đường nghê, lưng thắt bảo đới Ti loan, tay cầm tay cầm
Phương Thiên Họa Kích, giục ngựa phò Ðinh Nguyên ra trước trận.
Ðinh
Nguyên chỉ vào mặt Ðổng Trác mắng:
- Quốc
gia gặp lúc không may, lũ yêm hoạn lộng quyền đến nỗi muôn dân đồ thán, mi
không hề có thước tấc công lao nào, sao dám nói càn chuyện phế lập, làm loạn
triều đình?
Ðổng
Trác chưa kịp trả lời thì sau lưng Ðinh Nguyên, Lữ Bố đã phi ngựa vung kích
đánh tràn sang. Binh tướng của Ðổng Trác không một người nào dám ra nghinh
địch. Cây kích của Lữ Bố đến đâu là quân Trác chết đến đó, làm cho quân của
Ðổng Trác cả loạn. Trác hoảng sợ quay đầu chạy. Ðinh Nguyên thúc quân đánh
giết. Quân Trác đại bại một trận, phải lui hơn ba mươi dặm mới dám hạ trại,
kiểm điểm binh mã thấy hao hơn phân nửa.
Trác họp
các tướng, bàn rằng:
- Ta
thấy Lữ Bố quả là tay phi thường. Nếu được người ấy, ta còn lo gì việc thiên
hạ?
Trong
lúc ấy có một người bước đến thưa:
- Chúa
công đừng lo. Tôi với Lữ Bố vốn cùng quê quán, biết rõ hắn tuy có tài xuất
chúng, song là kẻ hữu dũng vô mưu, thấy lợi mà quên nghĩa. Vậy tôi xin đem ba
tất lưỡi đi thuyết, khiến hắn phải chắp tay về hàng Chúa công.
Trác
nghe nói mừng rỡ, xem lới thì thấy người ấy là Hổ Bôn Trung Lang Tướng Lý Túc.
Trác hỏi:
- Cần
đem theo vật gì để dụ hắn?
Túc nói:
- Tôi
nghe Chúa công có con ngựa Xích Thố, ngày đi ngàn dặm. Nếu được ngựa ấy với ít
vàng ngọc để lấy lòng hắn, rồi tôi lựa lời thuyết dụ, ắt Lữ Bố phản Ðinh
Nguyên, hàng Chúa công.
Trác hỏi
Lý Nhu:
- Ý ấy
thế nào?
Nhu đáp:
- Chúa
công muốn gồm thâu thiên hạ lại tiếc chi một con ngựa.
Trác
nghe nói, truyền quân dắt con ngựa Xích Thố đến, lới cho lấy ra một ngàn lạng
vàng, mươi hạt minh châu, và một cái đai ngọc giao cho Túc.
Túc tức
thì mang tất cả lễ vật thẳng đến trới Lữ Bố. Dọc đường bị quân phục bao vây,
Túc nói:
- Các
ngươi kíp vào báo với Lữ Tướng quân rằng: "Có cố nhân muốn đến thăm."
Quân vào
báo, Bố ra lệnh cho Túc vào. Chào hỏi xong, Túc nói:
- Bấy
lâu nay xa cách hiền đệ, tôi rất thương nhớ, khi biết được hiền đệ ở đây nên
tôi đến thăm viếng. Nay thấy hiền đệ vẫn khang kiện, tôi rất mừng.
Lữ Bố
nắm tay Lý Túc thân mật nói:
- Ðã
hằng lâu xa cách nhau, nay hiền huynh ở nơi nào?
Lý Túc
đáp:
- Hiện
nay tiện huynh đang làm chức Hổ Bôn Trung Lang Tướng, nghe hiền đệ có lòng
khuôn phò xã tắc nên tiện huynh vui mừng khôn xiết. Nay có một con ngựa quý,
ngày đi ngàn dặm có dư, lới có tài vượt nước trèo non như đi trên đất bằng, tên
là Xích Thố, nên đem tới biếu cho hiền đệ, để thêm oai cho hùm đây.
Lữ Bố
bèn khiến quân dắt ngựa đến, quả nhiên con ngựa ấy cả mình đều đỏ như lửa,
không bợn một sợi lông tạp màu. Từ đầu tới đuôi dài một trượng, từ móng lên đầu
cao tám thước. Rồi bỗng nó gầm hí vang rền, giậm vó rung mặt đất, như sắp bay
bổng lên không, băng mình qua bể vậỵ
Người
sau có thơ vịnh ngựa Xích thố rằng:
Ngàn dặm
phi đằng, cát bụi tung,
Băng
sông vượt núi, xé sương hồng.
Khác chi
rồng lửa trên trời xuống,
Muốn rứt
cương tơ, vỡ nhạc đồng.
Lữ Bố
thấy ngựa tốt, lòng mừng khấp khởi, bèn tạ ơn Lý Túc:
- Hiền
huynh có lòng tốt, cho con ngựa quý này, tôi chẳng biết lấy gì báo đáp?
Lý Túc
nói:
- Tôi vì
nghĩa khí mà đến đây há cần đâu ân huệ?
Bố sai
dọn rượu thết đãi. Rượu ngà ngà, Túc nói:
- Tuy ít
gặp hiền đệ, nhưng lệnh tôn thì Túc được gặp luôn.
Bố đáp:
- Hiền
huynh say rồi! Cha tôi đã mất từ lâu, còn gặp làm sao được?
Túc cười
lớn:
- Không
phải thế. Tôi nói "lệnh tôn" tức là Ðinh Thứ Sử đấy chứ.
Bố buồn
bã nói:
- Tôi
theo Ðinh Kiến Dương cũng là bất đắc dĩ, bỏ đi chưa nỡ đấy thôi!
Túc nói:
- Hiền
đệ là người tài ba lỗi lạc, sức mạnh hơn người, anh hùng xuất chúng, bốn bể biết
tên. Lẽ ra phải được hưởng chức trọng quyền cao, có lý đâu lới phải cam chịu ở
dưới trướng người ta vậy?
Lữ Bố
nói:
- Tôi
cũng muốn thế, ngặt vì chưa gặp được một đấng minh quân.
Lý Túc
cười bảo:
- Chim
khôn lựa cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nếu không sớm tìm thời cơ, e
khi hối ra thì đã muộn đấy.
Bố hỏi:
- Hiền
huynh đã ở trong triều, vậy có thấy ai xứng đáng là anh hùng đời nay?
Túc đáp:
- Hiện
tới triều đình, các đới thần ai nấy tranh giành ngôi thứ, Vua thì còn nhỏ bị kẻ
sàm nịnh chiếm đoạt quyền hành. Tôi thấy khắp mặt bá quan, không ai bằng Ðổng
công. Ðổng công là người biết kính hiền ái sĩ, thưởng phạt công minh, lới có
lòng diệt nịnh phò Vua. Thế nào về sau cũng nên nghiệp lớn, vậy hiền đệ còn đợi
gì mà không theo phò để lập thân.
Lữ Bố
nói:
- Tôi
cũng muốn theo về Ðổng công ngặt vì không ai tiến cử.
Bấy giờ,
Túc biết công việc đã có kết quả, lập tức đem cái đai ngọc và vàng bạc bày ra
trước mặt Lữ Bố.
Bố giật
mình hỏi:
- Hiền
huynh đem những thứ này tới làm gì?
Túc bảo
cho tả hữu lui hết ra ngoài, rồi mới nói:
- Ðây là
của Ðổng công. Ðổng công mộ tiếng lớn của hiền đệ từ lâu. Nay sai Túc này đem
lễ vật tới kính biếu. Con Xích Thố kia cũng là của Ðổng công sai đem tặng hiền
đệ vậy.
Bố nói:
- Ðổng
công có lòng yêu thế này, tôi biết lấy gì đền đáp?
Túc nói:
- Tài
thường sức mọn như Túc này, mà còn được phong chức Hổ Bôn Trung Lang Tướng, thì
tài như hiền đệ, nếu theo về, ắt được quyền cao chức trọng, phú quý chưa biết
đến bậc nào?
Bố ngần
ngừ nói:
- Tôi
chưa có chút công trạng nào mà làm lễ ra mắt Ðổng công. Khó nghĩ quá.
Túc lửng
lơ nói:
- Công
trạng ấy đối với người khác thì khó thật, chứ như đối với hiền đệ thì dễ như
trở bàn tay, có gì mà phải lo. Chỉ sợ hiền đệ không chịu làm đấy thôi.
Bố trầm
ngâm một lúc rồi nói:
- Tôi
muốn giết Ðinh Nguyên rồi dẫn quân ra hàng Ðổng công, chẳng biết có nên không?
Hiền huynh xét thử?
Túc vội
xuýt xoa nói:
- Hiền
đệ làm được việc ấy thì còn công nào lớn bằng. Nhưng việc đó cốt phải khẩn mật
mới được.
Bố hẹn
với Túc nội trong đêm ấy thế nào cũng xong việc. Túc rất hoan hỉ, từ giã ra về.
Ðêm ấy,
vào lúc canh hai, Lữ Bố cầm gươm bước vào trong trướng Ðinh Nguyên. Lúc ấy,
Nguyên đang thức chong đèn xem sách, thấy Bố vào, bèn hỏi:
- Ðêm
khuya, con vào đây có việc gì?
Bố trở
mặt mắng rằng:
- Ta
đường đường một kẻ trượng phu, há lại đi làm con của ngươi sao?
Nguyên
kinh ngớc, trố mắt nhìn Bố hỏi:
- Phụng
Tiên, cớ sao con lại đổi lòng như vậy?
Bố chẳng
đáp chẳng rằng, bước tới vung gươm chém Ðinh Nguyên một nhát, đầu rơi xuống
đất.
Người
sau có thơ than Ðinh Nguyên rằng:
Thuơng
thay! Hán mạt có Ðinh công,
Nuôi
được con tài, tưởng cậy trông...
Ai biết
nòi nào ra giống ấy,
Nuôi
hùm, hùm cắn, xót xa lòng.
Lại có
thơ than Lữ Bố rằng:
Tiếc thay!
Mặt đẹp, lực vô song,
Cử đỉnh
bớt sơn nức tiếng hùng.
Quen
thói bạo tàn, không chút nghĩa,
Trách gì
thiên hạ chẳng ai dung.
Chém
xong, Lữ Bố xách đầu Ðinh Nguyên ra ngoài, hô lớn:
- Ðinh
Nguyên là kẻ bất nhân vô đạo, ta đã giết chết rồi. Vậy thì ai muốn theo ta thì
theo, ai không theo thì cứ tự tìm chỗ khác mà đi.
Quân sĩ
thấy vậy bỏ đi hơn phân nửa. Hôm sau, Lữ Bố xách đầu Ðinh Nguyên đến gặp Lý
Túc. Túc vội dẫn Bố vào dinh ra mắt Ðổng Trác.
Ðổng
Trác lòng mừng khôn xiết, hối quân bày rượu thịt thết đãi Lữ Bố, và bước đến
trước mặt Bố, cúi đầu nói:
- Trác
này được Tướng quân hôm nay chẳng khác đại hạn gặp mưa rào vậy.
Lữ Bố
vội vàng đứng dậy thi lễ, mời Trác ngồi lên, rồi sụp lạy mà tạ rằng:
- Minh
công đãi Bố này rất hậu, ơn ấy không biết lấy gì đền đáp. Nếu Minh công cho
phép, Bố này xin bái Minh công làm nghĩa phụ.
Trác
mừng lắm, sai lấy giáp vàng, bào gấm ban thưởng cho Bố, rồi cùng Bố yến ẩm say
sưa tối ngày.
Từ đó,
Ðổng Trác oai quyền lừng lẫy, không biết nể nang ai nữa. Trác tự lĩnh công việc
của Tiền Tướng Quân, phong cho em ruột là Ðổng Mân làm Tả Tướng Quân tước Hổ
Hầu, phong cho Lữ Bố làm Kỵ Ðô Úy Trung Lang Tướng tước Ðô Ðình Hầu.
Lý Nhu
khuyên Trác sớm định ngay mưu kế phế lập. Trác liền lập tiệc tới đình trung,
rồi viết thiệp mời các quan đến phó yến. Lại sai Lữ Bố dẫn hơn ngàn quân giáp
sĩ, nai nịt đầy đủ, mai phục xung quanh.
Hôm ấy,
quan Thái Phó Viên Ngỗi cùng bá quan đều đến. Rượu được vài tuần, Ðổng Trác
đứng dậy chống gươm nói:
- Nay
Vua nhu nhược, hôn ám, không thể phụng sự tôn miếu được. Ta noi gương Y Doãn,
Hoắt Quang, phế Vua xuống làm Hoằng Nông Vương, lập Trần Lưu Vương lên làm
Hoàng đế. Ai không thuận, ta chém đầu?
Quần
thần sợ hãi ngồi lặng thinh. Trung Quân Hiệu Úy Viên Thiệu đứng dậy, bước ra khỏi
ghế nói:
- Ðức
Kim Thượng tức vị chưa bao lâu, chưa làm gì lỗi đạo, ngài muốn bỏ trưởng lập
thứ, chính là muốn tạo phản rồi.
Trác nổi
giận mắng lớn:
- Việc
nước hiện ở trong tay ta. Ta muốn làm gì thì làm, ai dám không thuận? Ngươi
tưởng lưỡi gươm của ta không bén chăng?
Thiệu
cũng rút gươm ra khỏi vỏ, nói lớn:
- Gươm
ngươi bén thật, nhưng gươm của ta đây cũng không phải là loại sắt cùn.
Hai
người toan đối địch trước tiệc.
Ðó chính
là:
Ðinh
Nguyên trượng nghĩa, thân vừa thác, Viên Thiệu tranh phong, thế cũng nguy.
CHƯƠNG
4: PHẾ HÁN ÐẾ, TRẦN LƯU LÊN NGÔI LỪA ÐỔNG TẶC, MẠNH ÐỨC DÂNG KIẾM
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
03/03/2014
Ðổng
Trác muốn giết Viên Thiệu, Lý Nho can rằng:
- Việc
chưa định xong không nên giết càn.
Viên
Thiệu tay cầm thanh bảo kiếm, cáo từ các quan trở ra, treo trả cờ tiết ở cửa
đông rồi bỏ về Ký Châu.
Trác bảo
với quan thái phó Viên Ngỗi rằng:
- Cháu
ngươi vô lễ, ta tha cho hắn cũng là nể ngươi. Việc phế vua lập Trần Lưu, ngươi
nghĩ thế nào?
Ngỗi
thưa rằng:
- Thái
úy nghĩ thế phải đấy!
Trác lới
nói:
- Ai dám
ngăn trở việc lớn này, thì ta sẽ lấy phép quân trị tội.
Các quan
sợ hãi, đều nói:
- Ngày
dạy thế xin vâng!
Cuộc yến
tan, Trác hỏi quan Thị Trung là Chu Bật và quan Hiệu Úy là Ngũ Quỳnh rằng:
- Viên
Thiệu phen này đi, rồi sẽ ra sao?
Chu Bật
đáp:
- Viên
Thiệu câm giận mà đi, hễ truy nã riết quá tất sinh biến. Vả lại họ Viên, đã bốn
đời làm quan đến bậc tam công, thiên hạ được nhờ nhiều lắm; học trò, đầy tớ đâu
đâu củng có. Nếu hắn thu dùng hào kiệt, tập họp đồ đảng, rồi những anh hùng
trong thiên hạ nhân đó khởi lên, đất Sơn Ðông sẽ không ở trong tay ông nữa.
Không bằng ông tha tội hắn, cho hắn một chức quận thú gì đấy, thì hắn mừng được
khỏi tội, sẽ không gây ra hậu hoạn nữa.
Ngũ
Quỳnh nói:
- Viên
Thiệu là người thích mưu kế, nhưng không quyết đoán, không đánh lo cho lắm. Bất
nhược cứ cho hắn một chức quận thú để thu phục lòng dân!
Trác
nghe lấy làm phải, ngay hôm ấy sai người đến phong cho Thiệu làm thái thú quận
Bột Hải.
Ðến mồng
một tháng chín, Trác rước vua ra ngự đền Ôn Ðức, họp hết cả văn võ lại.
Trác tay
cầm kiếm nói rằng:
- Thiên
tử ngu yếu, không trị vì được, nay có một bài sách văn đọc cho các quan nghe.
Rồi sai
Lý Nho tuyên đọc:
"Vua
Hiếu Linh mất sớm, vua sau nối ngôi, bốn bề ai ai cũng trông mong.
Nay xét
ra vua ta, thiên tử mỏng mảnh, kém vẻ uy nghi nghiêm chỉnh, cư tang biếng nhác,
đức xấu đã rõ, không xứng ngôi lớn.
Hoàng
thái hậu không có uy nghi của người mẹ, nhiếp chính rối tung. Việc bà Vĩnh Lạc
thái hậu mất, dân chúng có nhiều dị nghị. Ðối với đạo tam cương và đường Trời
đất, phải chăng có thiếu sót nhiều?
Trần Lưu
Vương tên Hiệp, đức hạnh nghiêm trang, khuôn phép kính cẩn, cư tang thương xót,
nói năng chính đính, lời hay tiếng tốt, thiên hạ ai ai cũng biết. Nên nối ngôi
vua, làm phép cho vạn thế!
Nay phế
vua ra làm Hoằng Nông Vương, thái hậu thì phải trả quyền chính.
Xin tôn
Trần Lương Vương lên làm hoàng đế,
Ứng
thiên, thuận nhân, để yên bụng thiên hạ!"
LÝ Nho
đọc xong bài chiếu, Trác thét tả hữu vực vua xuống điện, lột tỉ thụ, bắt quỳ,
ngoảnh mặt về phương Bắc, xưng thần nghe chiếu, lại bắt Hà thái hậu, cởi đồ
phẩm phục ra mà đợi chiếu.
Vua và
Thái hậu kêu khóc, quần thần trông thấy ai cũng xót xa bi thảm.
Lúc ấy ở
dưới thềm có một viên quan to, tức tối thét to lên rằng:
- Thằng
giặc Ðổng Trác kia, ngươi dám lập mưu lừu trời dối đất, ta lấy máu cổ họng bôi
vào mặt ngươi bây giờ!
Nói rồi
cầm cái hốt ngà xông thẳng vào đánh Ðổng Trác.
Trác
giận lắm, sai võ sĩ bắt lại xem ai, thì là quan thượng thư Ðinh Quản. Trác sai
đem ra chém. Quản cứ luôn mồm chửi mắng Ðổng Trác cho đến lúc chết; chết rồi,
thần sắc vẫn như lúc sống.
Người
sau có thơ than rằng:
Giặc
Ðổng lòng mang dạ khuyển lang
Cơ đồ
nhà Hán đổ tan hoang,
Trong triều
văn võ mồm câm cả
Chỉ có
Ðinh công thực giỏi giang!
Trác mời
Trần Lưu Vương lên điện, Quần thần làm lễ mừng xong rồi. Trác sai bắt Hà thái
hậu, vua và vợ vua là Ðường thị giam ở cung Vĩnh An, khóa cửa cung, cấm quần
thần, không ai được vào thăm.
Thương
thay! Thiếu đế mới lên ngôi tháng tư, đến tháng chín đã phải phế.
Trầu Lưu
Vương, nhờ Trác được lên ngôi trời, vốn tên là Hiệp, tên chữ là Bá Hòa, là con
thứ vua Linh đế, tức là Hiến đế về sau. Lúc lập lên, Hiến đế mới lên chín tuổi,
đổi niên hiệu năm đầu là Sơ Bình.
Ðổng
Trác làm tướng quốc, lạy vua không phải xưng tên, vào chầu không phải bước rảo,
lên điện được đeo kiếm, tác uy tác phúc, không ai bì được.
Lý Nho
khuyên Trác nên dùng những người có danh vọng để thu phục lòng người; nhân thể Lý
Nho tiến cử tài năng Sái Ung. Trác cho mời Sái Ung, Ung không chịu đến. Trác
giận sai người bảo Ung hễ không đến thì giết cả họ. Ung sợ, phải đến. Trác thấy
Ung đến, mừng lắm, một tháng thăng chức ba lần, làm đến chức Thị Trung. Trác
rất hậu đãi Ung.
Thiếu
đế, Hà thái hậu và Ðường phi bị giam ở cung Vĩnh An, đồ ăn, thức mặc, mỗi ngày
một kém. Thiếu đế không lúc nào ráo nước mắt.
Một hôm
Thiếu đế trông thấy hai con chim én bay ở trong sân, ngâm một bài thơ rằng:
Xanh
xanh khóm cỏ dày
Cặp én
phất phơ bay.
Trong
veo dòng lạc thủy,
Người
đồng nội khen hay.
Xa trông
mây thăm thẳm,
Cung
điện cũ ta đây.
Biết ai
kẻ trung nghĩa,
Gỡ cho
oán hận này!
Ðổng
Trác thường sai người đến dò ý tứ; hôm ấy có kẻ bắt được bài thơ đem trình Ðổng
Trác, Trác nói rằng:
- Làm
bài thơ oán vọng này, đem giết đi là có cớ rồi!
Bèn sai
Lý Nho và mười võ sĩ vào cung giết vua!
Vua,
thái hậu và Ðường phi đương ở trên lầu, thấy người cung nữ báo rằng có Lý Nho
đến, vua sợ giật mình.
Nho đem
rượu thuốc độc dâng vua.
Vua hỏi
việc gì. Nho thưa:
- Ngày
xuân mát mẻ, Ðổng tướng quốc sai tôi đem dâng chén rượu thọ.
Thái hậu
bảo Lý Nho:
- Có
phải rượu thọ thì ngươi thử uống trước đi!
Nho giận
lắm, hỏi vua:
- Ngươi
không uống phải không?
Rồi gọi
tả hữu cầm con dao với tấm lụa trắng, để trước mặt vua, mà nói rằng:
- Rượu
thọ chẳng uống, thì phải chọn hai thứ này.
Ðường
phi quỳ xuống nói rằng:
- Thiếp
xin thay vua uống chén rượu này, xin ngài để toàn mệnh cho hai mẹ con vua.
Lý Nho
quát mắng:
- Ngươi là
đứa nào, mà dám đòi chết cho vua?
Nho cầm
chén rượu đưa cho Hà thái hậu và bảo rằng:
- Bà
phải uống trước đi!
Hà thái
hậu nhiếc mắng Hà Tiến là đồ vô mưu, đem giặc vào kinh đô, để có cái vạ ngày
nay.
Nho bức
vua phải uống rượu.
Vua nói:
- Hãy
khoan! Ðể ta cùng thái hậu từ biệt đã.
Vua đau
xót lắm, làm bài ca như sau:
Trời đất
chao, trăng sao cũng đổ
Bỏ ngôi
cao, ra chỗ phiên phong
Bởi ai
nên sự lạ lùng?
Việc đời
ngán ngẩm, ròngròng châu tuôn.
Ðường
phi cũng làm bài ca rằng:
Trời
nghiêng đất lại lở tan,
Phận
mình thê thiếp, trái oan lạ thường!
Tử sinh
nay đã khác đường,
Một
người một bóng xót thương tấm lòng!
Vua và
Ðường phi ca rồi, ôm nhau mà khóc. Lý Nho lại quát mắng:
- Tướng
quốc đứng chờ tin! Các người dùng dằng để mong ai cứu đấy?
Thái hậu
thét mắng:
- Thằng
giặc Ðổng kia! Ngươi hại mẹ con ta, rồi trời lại hại ngươi! Chúng bay tùng đảng
với nhau làm điều ác, rồi chúng bay sẽ bị giết cả họ cho mà xem!
Nho tức
lắm, hai tay ôm lấy thái hậu ném xuống dưới lầu, giết chết; lại sai võ sĩ thắt
cổ Ðường phi, rót rượu độc bắt Thiếu đế uống chết, rồi về báo Ðổng Trác.
Trác sai
đem táng ba mẹ con ở ngoài thành.
Tự bấy
giờ, Trác đêm nào cũng vào cung thông dâm với các cung nữ, rồi thì lên ngủ trên
sập rồng.
Thường
thường Trác hay đem quân ra ngoài thành. Một bữa Trác đến Dương Thành. Bấy giờ
đang tháng hai, dân mở hội hát, con trai con gái tụ họp nhau xem hội rất đông.
Trác sai quân vây cả lại, rồi giết sạch, cướp đàn bà con gái và của cải chất
đầy xe, treo hơn một ngàn đầu lâu ở dưới xe, nối đuôi nhau kéo về kinh đô, nói
phao lên rằng đi đánh giặc thắng trận.
Trác lại
sai đốt đầu lâu người ở dưới cửa thành, còn đàn bà con gái và của cải thì đem
chia cho quân sĩ.
Quan
việt kỵ hiệu úy tên là Ngũ Phu, tên chữ là Ðức Du, thấy Ðổng Trác tàn bạo quá,
tức lắm, thường mặc áo giáp nhỏ vào trong áo đại trào, giắt một con dao ngắn,
rình tiện dịp để giết Trác.
Một hôm
Trác vào chầu, Phu ra đón. Lúc Trác đến dưới gác. Phu rút dao ra đâm, không ngờ
sức Trác khỏe hơn, hai tay ôm chặt được Phu, Lữ Bố trông thấy, chạy lại ôm Phu
ra vật ngã xuống. Trác hỏi Phu rằng:
- Ai xui
ngươi làm phản?
Phu trợn
mắt thét mắng rằng:
- Ngươi
không phải là vua ta, ta không phải là tôi ngươi, sao lại gọi là phản được? Tội
ngươi đầy trời, ai ai là chẳng muốn giết ngươi? Ta tiếc rằng không xé nhỏ được
xác ngươi ra để tạ thiên hạ!
Trác tức
lắm, sai Phu đem ra mổ. Phu cứ mắng chửi Ðổng Trác không buông miệng cho đến
lúc chết.
Ðời sau
có thơ khen Ngũ Phu rằng:
Ngũ Phu
này cũng bậc anh hùng,
Tiết
liệt xem ai được thế không?
Ðánh
giặc, hãy còn danh tiếng để,
Ngàn thu
vằng vặc mảnh gương chung!
Ðổng
Trác từ khi ấy ra vào trường có quân sĩ mặc áo giáp đi theo hộ vệ.
Viên
Thiệu bấy giờ ở Bột Hải, nghe thấy Trác lộng quyền, sai người đưa mật thư cho
tư đồ Vương Doãn, thư rằng:
Giặc
Trác dối trời bỏ chúa. Người ta đau xót đến nỗi không nỡ nói, thế mà ông cứ mặc
kệ, để nó lăng ngược như con cá nhảy vượt qua đăng, làm thin như không nghe
không thấy, sao gọi là người trung thần ái quốc! Thiệu nay chiêu tập binh mã
cũng muốn vì nhà vua, quét sạch quân giặc, nhưng chưa dám khinh động. Ông nếu
cùng lòng với tôi, xin tìm cơ hội lo tính ngay đi. Có việc gì sai khiến, tôi
xin vâng mệnh.
Vương
Doãn được thư, nghĩ mãi không tìm được kế gì. Một hôm đang lúc chầu ở nội các,
Doãn thấy ở đó có đủ mặt các cựu thần, bèn nói với các quan rằng:
- Hôm
nay là sinh nhật lão phu. đến chiều xin mời các quan quá bước đến nhà lão phu
xơi rượu.
Các quan
đều nhận lời, hẹn đến chiều sẽ đến chúc thọ.
Chiều
hôm ấy Doãn mở tiệc ở hậu đường. Các quan đến cả. Rượu được vài tuần, tự nhiên
Doãn che mặt hu hu khóc.
Các quan
giật mình hỏi rằng:
- Hôm
nay là sinh nhật của quan tư đồ, sao ngài lại khóc như vậy?
Doãn
thưa rằng:
- Hôm
nay có phải là sinh nhật của tôi đâu! Tôi vì có một việc muốn nói với các vị,
nhưng sợ Ðổng Trác sinh nghi, cho nên mượn cớ nói thác ra thế. Thằng Trác dối
vua lộng quyền, xã tắc nay mai đổ mất. Ðức Cao Hoàng ngày xưa đánh nhà Tần,
diệt nước Sở, bao nhiêu công phu mới nên được cơ đồ này, ngờ đâu nay mất vào
tay thằng Ðổng Trác. Tôi khóc là vì thế!
Các quan
nghe nói cũng đều khóc cả.
Trong
đám ngồi có một người, vỗ tay cười ầm lên mà nói rằng:
- Các
quan thử khóc từ tối đến sáng, lại khóc từ sáng đến tối, xem khóc có chết được
thằng Ðổng Trác không?
Doãn
ngoảnh lại xem ai, thì là kiêu kỵ hiệu úy Tào Tháo. Doãn giận nói rằng:
- Tổ tôn
nhà ngươi cũng ăn lộc nhà Hán, sao nhà ngươi không biết nghĩ cách báo quốc, lại
còn cười à?
Tháo
nói:
- Tôi
cười, có phải cười gì đâu! Cười là cười các quan không biết nghĩ kế gì trừ được
thằng Ðổng Trác. Tháo nay tuy không có tài cán gì, nhưng xin lập tức chặt được
đầu thằng Ðổng Trác, treo ở cửa phủ để tạ thiên hạ.
Doãn
liền đứng dậy hỏi rằng:
- Mạnh
Ðức có kế gì tài thế?
Tháo
nói:
- Tôi lâu
nay sở dĩ nép mình thờ Ðổng Trác cũng là vì muốn thừa cơ giết nó. Nay nó rất
tin tôi, tôi được gần nó luôn. Nghe quan tư đồ có con dao thất bảo, xin cho tôi
mượn. Tôi nguyện phen nầy vào tận tướng phủ đâm chết thằng giặc Ðổng Trác, dẫu
chết cũng không oán hận gì.
Vương
Doãn mừng lắm nói rằng:
- Nếu
Mạnh Ðức có bụng như thế, thực là may cho thiên hạ lắm!
Doãn
thân hành rót chén rượu mời Tào Tháo. Tháo đổ rượu , cất lời thề. Doãn bèn đem
dao thất bảo đưa cho. Tháo uống rượu xong, giắt dao đứng dậy đi ra. Các quan
ngồi một lát rồi cũng về cả.
Hôm sau
Tháo giắt dao đến tướng phủ, hỏi:
- Thừa
tướng ở đâu?
Ðầy tớ
nói:
- -
trong gác.
Tháo
vào, thấy Trác ngồi trên giường; Lữ Bố đứng hầu bên cạnh.
Trác
thấy Tào Tháo vào, hỏi rằng:
- Sao
hôm nay Mạnh Ðức đến chậm thế?
Tháo
nói:
- Thưa,
ngựa tôi gầy hóa đi chậm.
Trác
ngoảnh lại bảo Lữ Bố rằng:
- Ta có
ngựa tốt ở Tây Lương mới tiến. Phụng Tiên đi chọn một con đem lại đây cho Mạnh
Ðức.
Bố vâng
lời đi lấy ngựa. Tháo thấy còn một mình Trác, bụng đã bảo dạ rằng:
- Thằng
này số nó đến lúc chết đây!
Lập tức
muốn rút dao đâm ngay, nhưng lại sợ Trác khoẻ chưa dám đâm vội.
Trác
mình mẩy to béo, xưa nay không ngồi được lâu, bèn ngả mình nằm xuống; ngoảnh
mặt vào trong. Tháo lại nghĩ rằng:
- Thằng
nầy thực số chết!
Liền rút
dao ra, chực đâm. Không ngờ Trác trông vào trong cái gương, thấy bóng Tào Tháo
rút dao ra ở sau lưng, vội vàng quay đầu lại hỏi:
- Mạnh
Ðức làm gì thế?
Bấy giờ
Lữ Bố vừa giắt ngựa đến ngoài gác. Tháo tay đương cầm con dao, vội quỳ xuống
thưa:
- Tháo
tôi có con dao quý xin dâng thừa tướng.
Trác cầm
lấy dao xem, thấy dao dài hơn một thước, cán bằng ngọc thất bảo, lưỡi thực sắc,
quả là dao quý, bèn đưa cho Lữ Bố cất đi. Tháo còn đeo vỏ dao ở lưng, liền cởi
ra, đưa nốt cho Lữ Bố.
Trác đem
Tháo ra xem ngựa. Tháo tạ rồi xin phép đem ngựa ra cưỡi thử. Trác sai đem yên
cương đóng ngựa cho Tháo. Tháo dắt ngựa ra ngoài cửa tướng phủ, lên yên, rồi ra
roi đi nước đại thẳng hướng đông nam mà chạy.
Tào Tháo
đi khỏi. Lữ Bố nói với Trác rằng:
- Vừa
rồi tôi trông Tào Tháo hình như có ý muốn đâm trộm thái sư! Vì thái sư trông
thấy, hắn mới nói lảng ra là đến dâng dao.
Trác
nói:
- Ta
cũng hơi nghi.
Ðang nói
chuyện thì Lý Nho ở đâu đến. Trác hỏi Lý Nho. Nho nói:
- Tháo
không có vợ con gì ở kinh, chỉ trọi một mình ở quán trọ, nay nên sai người đến
gọi. Hắn đến ngay thì quả là hắn dâng dao thật, nếu thoái thác không đến, thì
đích là thích khách. Lúc bấy giờ ta sẽ bắt mà hỏi.
Trác
liền sai bốn người coi ngục đi gọi Tào Tháo. Lính đi một hồi lầu rồi trở về
trình rằng:
- Tháo
không về nhà trọ. Có người gặp hắn cưỡi ngựa ra cửa đông. Lính canh hỏi đi đâu
thì hắn nói rằng thừa tướng sai đi có việc kíp, rồi tế ngựa đi thẳng.
Nho nói:
- Thôi,
không còn nghi ngờ gì nữa, hắn chột dạ chạy trốn, tất là có bụng hành thích.
Trác
nói:
- Ta tin
dùng hắn thế, sao hắn lại muốn hại ta?
Nho
thưa:
- Tất
nhiên có người đồng mưu. Bắt được Tào Tháo thì ra cả.
Trác
liền tư đi các nơi, chỗ nào cũng vẽ hình ảnh Tào Tháo ai bắt được sẽ thưởng
ngàn vàng, lại phong cho làm vạn hộ hầu; ai chứa chấp sẽ bị trị tội.
Trong
khi ấy, Tháo cắm đầu cắm cổ chạy. Chạy đến Tiêu Quận, đi qua huyện Trung Mâu,
bị quân canh cửa thành bắt được, đem nộp quan huyện. Tháo khai là khách buôn,
họ tên là Hoàng Phủ.
Quan
huyện nhìn kỹ Tháo, nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Trước
ta cầu quản ở Lạc Dương đã được gặp ngươi, chính ngươi là Tào Tháo, ngươi nói
dối sao được? Lính đâu, hãy đem giam nó xuống trại, đến mai ta sẽ giải về kinh
lãnh thưởng.
Quan
huyện nói thế rồi cho quân canh cửa thành cơm no rượu say rồi về.
Ðến nửa
đêm, quan huyện sai người thân tín xuống gọi Tào Tháo lên, bảo dẫn vào nhà sau
để hỏi. Tháo vào, quan huyện hỏi rằng:
- Ta
nghe thừa tướng hậu đãi ngươi, sao ngươi lại tự chuốc lấy vạ vào thân?
Tháo
nói:
- Ngươi
như chim sẻ biết đâu được chí chim hồng! ựã bắt được ta thì cứ đem nộp mà lấy
công, hà tất phải hỏi nhiều!
Quan
huyện bèn đuổi cả tả hữu đi rồi bảo Tháo rằng:
- Anh
đừng coi thường tôi. Tôi đây không phải là bọn tục lại đâu... Cũng vì chưa gặp
được chủ đấy thôi!
Tháo
nói:
- Ông
cha ta, đời đời ăn lộc nhà Hán. Nếu ta không biết nghĩ cách báo quốc, có khác
gì giống muông thú! Ta phải hạ mình thờ thằng Ðổng Trác là muốn tìm cơ hội
thuận tiện giết nó. Nay việc không xong, cũng là lòng trời!
Quan
huyện nói:
- Mạnh
Ðức bây giờ định đi đâu?
Tháo
nói:
- Ta
muốn về làng, phát lời kêu gọi, vời cả chư hầu trong thiên hạ khởi binh giết
Ðổng Trác. Ðó là sở nguyện của ta!
Quan
huyện nghe nói, bèn cởi trói cho Tháo, mời ngồi lên trên rồi thụp xuống lạy hai
lạy mà nói rằng:
- Ông
thực là người trung nghĩa ở đời này!
Tháo
cũng lạy đáp lại, rồi hỏi tên họ, quan huyện nói:
- Tôi họ
Trần, tên Cung, tên chữ là Công Ðài; tôi có mẹ già và vợ con ở Ðông Quận. Nay
cảm bụng trung nghĩa của ông, xin bỏ chức quan này, theo ông đi trốn.
Tháo
mừng lắm. Ngay đêm hôm ấy, Trần Cung thu xếp hành trang và lộ phí, cả hai người
thay quần áo, mỗi người đeo một thanh kiếm; cưỡi một con ngựa, đi về quê Tào
Tháo.
Ði được
ba hôm đến Thành Cao, trời đã xâm xẩm tối. Tháo cầm roi ngựa, trỏ vào một đám
cây cối um tùm bảo Cung rằng:
- -
trong này có Lã Bá Sa là bạn kết nghĩa với cha tôi. Tôi muốn vào hỏi thăm tin
nhà, rồi ngủ đấy một đêm; nên không?
Cung
nói:
- Thế
thì hay lắm!
Hai
người, đến cửa trại xuống ngựa vào chào Lã Bá Sa, Sa hỏi Tháo rằng:
- Ta
nghe triều đình tầm nã anh gấp lắm. Cha anh phải lánh sang ở Trần Lưu rồi. Sao
anh đến được đây?
Tháo bèn
đem chuyện đầu đuôi kể với Lã Bá Sa, rồi lại trỏ vào Trần Cung nói:
- Nếu
không gặp được quan huyện đây, thì bây giờ đã thịt nát xương tan rồi.
Lã Bá Sa
vái Trần Cung rồi nói:
- Cháu
nó không gặp được ngài, thì họ Tào còn gì! đêm nay xin ngài hãy thong thả nghỉ
lới đây.
Nói
xong, đứng dậy vào trong nhà, một chốc trở ra, bảo Trần Cung:
- Nhà
tôi không có rượu ngon. để tôi sang xóm tây, mua một bình rượu ngon về uống.
Nói rồi
lật đật cưỡi lừa ra đi.
Tháo với
Cung ngồi ở nhà, chợt nghe thấy sau nhà có tiếng mài dao. Tháo bảo Trần Cung
rằng:
- Lã Bá
Sa đối với tôi không thân thiết gì lắm. Chuyện nầy đáng nghi đấy!
Hai
người sẽ rón rén bước vào sau nhà tranh, chỉ nghe thấy có tiếng người nói:
- Trói
lại mà giết!
Tháo bảo
Trần Cung:
- Ðúng
rồi! Nếu ta không hạ thủ trước, thì sẽ bị bắt mất!
Tháo và
Cung hai người cùng rút kiếm đi thẳng vào, gặp người nào trong nhà giết người
ấy; giết một lúc tám người. Khi vào đến bếp, chỉ thấy một con lợn trói bốn vó,
sắp đem chọc tiết.
Cung
giật mình nói:
- Mạnh
Ðức ơi! Ta đa nghi quá, giết nhầm phải người tử tế rồi.
Hai
người vội vàng trở ra lên ngựa đi. đi được độ hai mươi dặm gặp Lã Bá Sa cưỡi
lừa về, trước yên treo hai bình rượu, tay xách một nắm rau quả. Lã Bá Sa hỏi
hai người rằng:
- Hiền
đệ với sứ quân sao lại đi?
Tháo
nói:
- Tôi là
người có tội, không dám ở lâu.
Lã Bá Sa
nói:
- Ta đã
dặn người nhà làm thịt con lợn rồi. Sứ quân với hiền đệ ngại gì một đêm, xin
quay ngựa lại cho!
Tháo cứ
tế ngựa đi. đi được vài bước, rút kiếm ra, quay ngựa trở lại, gọi Lã Bá Sa hỏi:
- Ai đi
đằng sau ông đấy?
Sa quay đầu
lại xem. Tháo chém ngay, Sa ngã xuống chết.
Cung cả
sợ hỏi Tháo:
- Lúc
nãy lầm đã đành, bây giờ sao lại còn đang tay như thế?
Tháo
nói:
- Bá Sa
về nhà, thấy nhiều người chết, tất nhiên không để im, nếu đem người đi đuổi thì
ta bị vạ ngay.
Cung
nói:
- Biết
rằng mình lầm rồi, lại còn cố Ý giết người nữa thực là đại bất nghĩa!
Tháo
nói:
- Thà ta
phụ người, không để người phụ ta!
Cung im
lặng, không nói gì nữa.
Ðêm
trăng sáng ròi rọi, hai người cứ phóng ngựa đi. đi được vài dặm, hai người vào
nhà hàng ngủ. Sau khi cho ngựa ăn no, Tháo đi ngủ trước.
Cung suy
nghĩ:
- Ta
những tưởng Tào Tháo là người tốt, cho nên bỏ quan đi theo hắn. Ai ngờ hắn là
hạng người tàn nhẫn. Nếu để hắn sống ở đời, tất có ngày hắn gây ra vạ lớn.
Nghĩ vậy
bèn rút kiếm toan giết Tào Tháo...
Ấy thực
rõ là:
Mang tâm
hiểm độc người đâu thế,
Trác,
Tháo hai tên cũng một phường!
Chưa
biết Tào Tháo sống chết thế nào, xem đến hồi sau sẽ tỏ.
CHƯƠNG
5: TIẾP HỊCH VĂN, CÁC TRẤN ỨNG TÀO CÔNG PHÁ QUAN ẢI, TAM ANH CHIẾN LỮ BỐ
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
03/03/2014
Nhắc lại
Trần Cung rút gươm, đang sắp hạ thủ Tào Tháo, bỗng lại nghĩ:
- Mình
vì việc nước theo hắn đến đây, nếu mình lại giết hắn thì mình cũng bất nghĩa
chẳng khác gì hắn. Thôi thì bỏ quách hắn mà đi nơi khác cho xong.
Nghĩ như
thế, Trần Cung tra kiếm vào vỏ, lên ngựa đi thẳng về hướng Ðông quận.
Tào Tháo
ngủ cho đến lúc mờ sáng mới thức giấc, không thấy Trần Cung đâu, Tháo nhủ thầm:
- Hừ!
Trần Cung có lẽ đã nghi ta là đứa bất nghĩa nên bỏ đi rồi. Thế thì ta cũng phải
đi gấp, không nên trì hoãn nơi đây nữa.
Nội ngày
hôm ấy, Tháo bôn ba thẳng đến Trần lưu tìm gia quyến. Khi gặp được thân phụ,
Tháo liền đem tất cả mọi việc đã xảy ra tại triều kể lại cho Tào Tung nghe, và
tỏ ý muốn đem hết gia sản dùng vào việc chiêu mộ nghĩa binh để mưu đồ đại sự.
Tào Tung
nói:
- Của
nhà không được bao nhiêu, sợ không đủ dùng vào việc lớn. Gần nhà ta có người họ
Vệ tên Hoằng, thi đỗ Hiếu liêm, gia cư thuộc vào hàng cự phú, tánh tình lại
trọng nghĩa khinh tài. Nếu được người ấy giúp cho thì mới mong được việc.
Tào Tháo
mừng rỡ bày tiệc sai người mời Vệ Hoằng đến nhà yến ẩm và nói:
- Nay
nhà Hán suy vi, Ðổng Trác chuyên quyền làm bậy, dối vua hại dân, trăm họ đều
thán oán. Tôi muốn nhân cơ hội này ra sức khuông phò xã tắc, khôi phục lại nhà
Hán, nếu được ngài giúp cho một tay thì may mắn lắm.
Vệ Hoằng
khẳng khái nói:
- Lòng
tôi lâu nay đã ước vọng như thế, song chưa gặp được kẻ anh hùng. Nay Mạnh Ðức
đã có chí lớn thì tôi còn tiếc gì mà không đem hết tài sản ra cống hiến.
Tào Tháo
mừng rỡ, liền thảo tờ hịch vặn phát khắp các đạo chiêu tập nghĩa binh, kéo cờ
trắng đề hai chữ "Trung Nghĩa" rất lớn.
Chưa
được mấy ngày, các dũng sĩ khắp nơi đến ứng mộ đông như kiến. Trong số này đáng
kể là một người ở đất Bình Dương nước Vệ, họ Nhạc tên Tiến, tự là Văn Khiêm,
một người học Lý tên Ðiển, tự là Man Thành ở vùng Sơn dương, huyện Cư lộc. Tào
Tháo lưu dùng làm thủ túc dưới trướng.
Kế đó,
có một người ở nước Bái, thuộc Tiêu quận, họ Hạ Hầu tên Ðôn, vốn là dòng dõi Hạ
Hầu Anh thời xưa. Từ nhỏ, Hạ Hầu Ðôn đã tập cưỡi ngựa bắn cung, múa thương rất
tài. Năm mười bốn tuổi, theo thầy học võ, gặp kẻ chửi mắng thầy, Ðôn nổi giận
giết kẻ ấy, rồi trốn ra xứ ngoài. Nay nghe Tào Tháo khởi binh, Ðôn cùng người
em họ là Hạ Hầu Uyên mỗi người dẫn một ngàn tráng sĩ đến giúp Tháo. Hai người
này vốn là anh em họ của Tháo, vì cha Tháo là Tung vốn họ Hạ Hầu, sau làm con
nuôi họ Tào, mới đổi ra họ này.
Ít ngày
sau lại có hai anh em Tào Nhân, Tào Hồng mỗi người dẫn hơn một ngàn quân đến
giúp Tháo. Tào Nhân tự là Tử Hiếu, Tào Hồng tự là Tử Liêm, cả hai đều giỏi về
nghề bắn cung cởi ngựa.
Thu dụng
được một số hào kiệt, Tào Tháo rất mừng, ngày ngày điều luyện quân mã ở trong
thôn. Vệ Hoằng thì bỏ của cải ra sắm áo giáp, khí giới cho quân sĩ, may cờ
quạt, tàng lọng. Thiên hạ nghe tin tải lương thực đến giúp vô số.
Bấy giờ
Viên Thiệu đang ở Bột Hải, cũng chiêu binh mãi mã, luyện tập suốt ngày. Khi
nghe tin Tào Tháo cử sự, liền dẫn ba vạn quân rời Bột Hải kéo đến hội thề với
quân Tào.
Thấy đã
đến lúc khởi sự, Tào Tháo bèn thảo một tờ hịch văn gởi đến các trấn chư hầu.
Hịch
rằng:
Tôi Hiệu
Úy tên là Tào Tháo,
Tánh
thẳng ngay bố cáo viên quan.
Kể từ
khi Ðổng Trác lăng loàn,
Việc nhà
nước chứa chan nhiều nỗi.
Vua
Thiếu đế vốn không lầm lỗi,
Bỏ giết
đều quyền nội trong tay.
Ngoài
nhân dân ngặm đắng nuốt cay,
Trong
triều sĩ đêm ngày ta thán.
Ngũ Phu,
Ðinh Nguyên, Ðinh Quảng,
Ba gã
đều bị nạn vong thân.
Chốn
cung đình uế trược phân vân,
Trác tàn
bạo xa gần thiết xĩ.
Vâng
ngày nọ thiên nhan mật chỉ,
Ta hội
binh nghĩa vị cần vương.
Quận
Trần lưu tề tận diện thương,
Quét trừ
đứa nhiễu nhương quân trắc.
Ðồng
hiệp sức ra tài phụ bọc,
Như
thuốc hay gặp tật mới lành.
Tờ hịch
văn đưa đến trấn thành,
Xin liệt
vị phụng hành cấp tốc
CHƯƠNG
6: ÐỐT KIM QUYẾT, ÐỔNG TRÁC LÀM CÀN. GIẤU NGỌC TỶ, TÔN KIÊN TRÁI ƯỚC
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
03/03/2014
Trương
Phi tế ngựa xấn vào cửa quan, nhưng tên và đá bắn xuống như mưa, không thể nào
tiến vào được, phải quay ngựa trở về.
Chư hầu
tám xứ cùng mời Lưu, Quan, Trương đến mừng công rồi lại sai người về trại Viên
Thiệu báo tin mừng. Thiệu bèn đưa tờ hịch đến Tôn Kiên bảo Kiên tiến binh.
Tôn Kiên
liền đem Hoàng Cái, Trình Phổ, đến trại Viên Thuật, rồi cầm gậy vạch xuống đất
nói rằng:
- Ðổng
Trác với tôi thật không có hằn thù gì, nay tôi không nghĩ gì đến thân, xông pha
mũi tên hòn đạn để trừ hắn, trước vì nước nhà, sau để báo thù riêng cho nhà
tướng quân (trỏ Viên Ngỗi), thế mà tướng quân nghe lời gièm pha, không phát
lương cho tôi, để đến nỗi tôi bị thua, sao tướng quân đành lòng thế được?
Thuật
thấy vậy, sợ hãi không biết nói sao, bèn sai đem chém người gièm, để tạ lỗi Tôn
Kiên. Khi ấy bỗng có người đến báo với Kiên rằng:
- Trên
cửa ải có một tướng cưỡi ngựa đến trại, muốn vào hầu tướng quân.
Kiên từ
giã Thuật về trại, gọi hỏi ai, hóa ra viên tướng yêu của Ðổng Trác, tên là Lý
Thôi.
Kiên
hỏi:
- Ngươi
lại đây làm gì?
Lý Thôi
nói:
- Thừa
tướng chỉ kính trọng tướng quân thôi! Nay thừa tướng muốn kết thân với tướng
quân; thừa tướng có một cô con gái muốn gả cho con trai tướng quân.
Tôn Kiên
nổi giận mắng rằng:
- Ðổng
Trác là thằng nghịch thiên vô đạo, làm xã tắc nghiêng đổ, ta muốn giết cả chín
họ nhà hắn đi để tạ thiên hạ, sao lại thèm kết thân với hắn! Ta tha chém cho
ngươi, ngươi về mau đem dâng cửa ải cho ta. Mau mau lên! Chậm thì ta băm xương
ra bây giờ!
Lý Thôi
lủi thủi ra về, kể với Ðổng Trác. Trác giận lắm, bèn hỏi Lý Nho.
Nho nói:
- Lữ Ôn
Hầu thua trận mới về, quân sĩ ngã lòng cả, không có bụng đánh nhau nữa. Nay nên
kéo quân về Lạc Dương, đem vua sang Trường An, để ứng vào lời đồng giao mấy hôm
nay có nói rằng:
Mé Tây
một nhà Hán.
Mé Ðông
một nhà Hán.
Hươu
chạy về Trường An,
Mới khỏi
phải gặp nạn.
Mé Tây
một nhà Hán nghĩa là: đức Cao Tổ ngày xưa đóng đô ở Trường An, truyền ngôi được
mười hai vua. Mé Ðông một nhà Hán nghĩa là: vua Quang Vũ đóng đô ở Lạc Dương,
cũng truyền ngôi được mười hai vua. Thế là vận trời xoay vần. Nay thừa tướng
lại lên thiên đô về Trường An, mới khỏi lo được.
Trác
mừng nói rằng:
- Ngươi
không nói thì ta không biết!
Trác bèn
đem Lữ Bố về Lạc Dương, rồi hội ngay các quan văn võ để bàn việc thiên đô.
Khi các
quan đã đến đông. Trác nói rằng:
- Nhà
Hán ta ở Lạc Dương, hơn hai trăm năm nay, khí số đã hết. Ta xem bây giờ vương
khí tụ ở Trường An. Vậy ta muốn rước vua về đó, các quan nên gấp rút sắm sửa
hành trang.
Tư Ðồ là
Dương Bưu nói rằng:
- Trường
An bị tàn phá đã lâu rồi. Nay bỗng dưng ta bỏ cả tôn miếu, hoàng lăng mà đi
sang đó, tôi sề rằng thiên hạ kinh động, mà thiên hạ kinh động lên thì dễ, yên
lại thì khó. Xin Thừa Tướng hãy xét cho kỹ.
Trác
giận mắng Dương Bưu:
- Ngươi
lại dám ngăn trở việc lớn nước nhà à?
Thái Úy
là Hoàng Uyển cũng nói rằng:
- Dương
Tư Ðồ nói thế phải đấy: trước kia trong lúc Vương Mãng thoán nghịch, kế đến
Canh Thủy, Xích Mi nổi loạn, Trường An bị đốt cháy thành ra tro sỏi. Vả lại
nhân dân xiêu tán, trăm phần không còn một hai phần. Tôi nghĩ không nên bỏ cả
cung điện ở đây mà đi chỗ đất hoang ấy.
Trác
nói:
- Tại
Lạc Dương đây trộm giặc nhiều lắm, nhân dân loạn lạc, đi mất cả. Trường An có
núi Hào, núi Hàm hiểm trở; lại gần Lũng Hữu, đá gỗ và gạch ngói dễ kiếm, sửa
sang cung thất độ hơn một tháng thì xong, không ai được nói lôi thôi nữa!
Tư Ðồ là
Tuân Sảng lại can rằng:
- Thừa
Tướng thiên đô đi thì thiên hạ tất sẽ nhiễu động ngay.
Trác tức
mình gắt rằng:
- Ta vì
thiên hạ mà lo việc thiên đô, có xá gì những đứa tiểu nhân!
Ngay hôm
ấy Trác cách chức Dương Bưu, Hoàng Uyển, Tuân Sảng, giáng xuống làm thứ dân.
Trác trở
ra lên xe, thấy có hai người đứng trước vái, trông ra thì là Thượng Thư Chu Bật
và Hiệu Úy Ngũ Quỳnh, Trác hỏi có việc gì. Bật nói:
- Chúng
tôi nghe thừa tướng muốn thiên đô, nên lại can ngăn.
Trác
giận nói:
- Trước
ta nghe hai ngươi, dùng Viên Thiệu cho hắn làm quan, bây giờ hắn làm phản. Thế
ra hắn với các ngươi cùng một đảng!
Nói rồi,
Trác sai võ sĩ đem Chu Bật, Ngũ Quỳnh ra cửa phủ chém, rồi hạ lệnh thiên đô,
hạn đến ngày hôm sau phải đi.
Lý Nho
xui Ðổng Trác:
- Nay
tiền lương thiếu thốn nhiều, ở Lạc Dương nhiều nhà giàu, ta nên tịch thu của
cải, lấy phát lương cho quân. Phàm bao nhiêu môn hạ Viên Thiệu ngày trước, nên
đem giết cả đi để lấy của, sẽ thu được vô số.
Trác lập
tức sai năm ngàn quân thiết kỵ đi bắt cả những người giàu ở Lạc Dương, cả thẩy
mấy ngàn hộ, mỗi người cắm một lá cờ lên đầu, để bốn chữ "Phản Thần Nghịch
Đảng" rồi đem ra ngoài chém tuốt, bao nhiêu của cải lấy sạch.
Lý Thôi,
Quách Dĩ, bắt hết cả dân Lạc Dương, ước mấy trăm vạn, đưa sang Trường An, cứ
mỗi một toán dân lại cho một đội quân đi đàn áp, người chết ở dọc đường không
biết bao nhiêu mà kể. Lại cho quân sĩ đi hãm hiếp đàn bà con gái, cướp hết
lương thực của dân, tiếng kêu khóc động trời chuyển đất. Người nào đi chậm,
đằng sau có quân lính đốc thúc: quân lính cầm đao, giết người ngay ở giữa
đường.
Lúc Trác
ra đi, sai phóng hỏa đốt cả cửa nhà dân chúng, và tôn miếu, cung phủ; Nam, Bắc
hai cung, lửa khói mù mịt; bao nhiêu cung cấm hóa ra tro cả.
Trác lại
sai Lữ Bố khai quật hết cả những lăng tiên hoàng, hậu phi để lấy vàng bạc châu
báu. Quân sĩ thấy vậy cũng thừa thế đào mả các nhà quan, nhà dân.
Ðổng
Trác sai xếp những đồ vàng bạc vóc nhiễu được vài ngàn xe, rồi bức thiên tử và
hậu phi phải sang Trường An.
Tướng
Ðổng Trác tên là Triệu Xầm, thấy Trác đã bỏ Lạc Dương, bèn dâng ngay cửa Dĩ
Thủy cho Tôn Kiên. Kiên kéo binh vào trước. Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi vào cửa
Hổ Lao; chư hầu cũng dẫn quân vào cả.
Tôn Kiên
đi đến Lạc Dương thấy trong thành lửa cháy ngùn ngụt, ngọn lửa bốc lên tận
trời; dưới đất khói đen mù mịt; trong một quãng hai ba trăm dặm, tịnh không có
tiếng gà kêu chó cắn.
Ðầu tiên
Kiên sai quân vào dập lửa, đoạn ra lệnh cho chư hầu đến đóng quân mã ở trên bãi
đất hoang. Tào Tháo đến, thấy Viên Thiệu cũng ở đấy, bèn hỏi rằng:
- Nay
Ðổng tặc đã kéo về Trường An rồi, ta nên thừa thế mà đuổi theo bắt hắn mới
phải, Bản Sơ lại đóng quân ở đây, là ý làm sao?
Thiệu
nói:
- Chư
hầu đều mỏi mệt cả, đuổi theo, tôi sợ không được việc gì.
Tháo
nói:
- Ðổng
tặc đốt cung thất, bức vua thiên đô; trong nước rối động, dân không biết theo
ai. Ðó là lúc trời hại hắn đấy, nhân lúc nầy chỉ đánh một trận là yên thiên hạ,
sao các ông không đánh?
Chư hầu
đều nói:
- Ta
không nên khinh động!
Tháo
giận nói rằng:
- Ðồ trẻ
con cả, không đáng cùng mưu đồ việc lớn!
Nói rồi
tự dẫn hơn một vạn quân, sai Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng, Lý
Ðiển, Nhạc Tiếu, luôn ngày đêm đuổi theo Ðổng Trác.
Khi Ðổng
Trác đi đến Vinh Dương, Thái Thú là Từ Vinh ra tiếp.
Lý Nho
nói:
- Thừa
Tướng mới đi khỏi Lạc Dương, tôi sợ có quân đuổi theo nên sai Từ Vinh phục quân
ở bên cạnh núi ngoài thành; hễ có quân đuổi theo đi qua thì cứ để cho đi, đợi
khi nào đi khỏi chỗ quân phục, trong này ta đánh trở ra, hắn tất thua chạy, bấy
giờ ông sẽ đánh chẹn đường, còn quân đi sau tất không dám đánh đuổi nữa.
Trác
nghe kế ấy, sai Lữ Bố đem tinh binh đi chặn hậu.
Bố đang
đi bỗng có một toán quân Tào xấn đến. Bố cười nói rằng:
- Lý Nho
đoán không nhầm!
Bố đem
quân mã bày dàn, Tào Tháo tế ngựa lên gọi to:
- Nghịch
tặc! Bây bức thiên tử và đem trăm họ đi đâu?
Lữ Bố
mắng rằng:
- Tên
phản chủ kia, sao dám nói càn?
Hạ Hầu
Ðôn vác giáo nhảy ngựa, xông thẳng vào để đâm Lữ Bố. Ðôn với Bố đánh nhau được
vài hiệp. Lý Thôi dẫn một đội quân từ bên tả kéo ra. Tháo lại sai Hạ Hầu Uyên
ra địch. Lúc bấy giờ lại thấy ở bên hữu có tiếng reo. Quách Dĩ kéo quân ra.
Tháo sai Tào Nhân ra địch, nhưng đằng kia ba mặt quân mã đánh dồn lại, thế khó
đương nổi.
Hạ Hầu
Ðôn chống với Lữ Bố không lại, phi ngựa chạy về. Bố thúc quân vào đánh gấp.
Quân Tháo thua chạy kéo về Vinh Dương.
Khi chạy
đến dưới sườn núi, bấy giờ đã canh hai, trăng sáng như ban ngày, Tháo sắp sửa
hội quân lại làm bếp thổi cơm ăn, bỗng nghe thấy bốn mặt tiếng reo ầm ầm; quân
phục của Từ Vinh xông ra. Tào Tháo vội vàng tế ngựa cướp đường chạy trốn; không
ngờ gặp ngay Từ Vinh, Tháo lại quay đầy chạy, Vinh giương cung bắn một phát tên
trúng ngay vào vai Tháo.
Tháo vừa
đeo tên vừa chạy; chạy qua một rặng núi, có hai tên lính phục trong đám cỏ,
trông thấy ngựa Tháo đi đến, hai ngọn giáo cùng phóng ra. May đâu một tướng vừa
tế ngựa đến, múa đao chém chết hai tên lính, cứu được Tào Tháo.
Tháo
trông xem ai thì là Tào Hồng. Tháo bảo Hồng rằng:
- Thôi!
Ta đành chết ở đây, hiền đệ nên trốn đi mau.
Hồng nói
rằng:
- Xin
ngài lên ngựa ngay. Tôi tình nguyện đi bộ.
Tháo
hỏi:
- Giặc
đuổi đến nơi, ngươi làm thế nào?
Hồng
nói:
- Thiên
hạ có thể không có tôi, nhưng thiên hạ không thể không có ngài!
Tháo
nói:
- Ta nếu
lại được sống, thực là nhờ ngươi đó!
Tháo lên
ngựa. Hồng cởi áo giáp, cắp đao chạy theo sau.
Chạy đến
độ canh tư, chẹn mất đường đi. Ðằng sau nghe thấy tiếng reo hò đã đến nơi. Tháo
nói:
- Thôi!
Mệnh ta đến thế này, sống sao được nữa!
Hồng kíp
vực Tháo xuống ngựa, cởi áo bào ra, cùng Tháo lội qua sông. Vừa qua đến bờ sông
bên kia, quân đuổi cũng vừa đến, tên bắn qua sông như mưa. Tháo cứ mặc cả quần
áo ướt, lướt thướt mà chạy, chạy mãi đến mờ mờ sáng, được hơn ba mươi dặm, đến
một gò đất mới tạm nghỉ hơi một chốc.
Bỗng
nghe có tiếng reo, một toán quân mã kéo lại, thì ra Từ Vinh cứ bên kia sông
chạy theo lên mạn trên, sang đò đuổi kịp.
Trong
khi Tháo đương hoảng hốt. Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên vừa đem vài mươi quân kỵ đến,
quát to lên rằng:
- Từ
Vinh, chớ được hại chủ ta!
Vinh
xông đến đánh Hạ Hầu Ðôn. Ðôn vác giáo đâm Vinh ngã xuống ngựa, rồi đánh tan
quân Vinh. Ðằng sau, Tào Nhân, Lý Ðiển, Nhạc Tiến cũng dần dần tìm đến, ra mắt
Tào Tháo, nửa lo nửa mừng. Tháo thu thập tàn quân, còn độ năm trăm, kéo về Hà
Nội. Tàn quân của Trác chạy về Trường An.
Ðây nói
ở Lạc Dương, chư hầu chia quân đóng trại. Tôn Kiên dập tắt lửa trong cung, đóng
quân trong thành, đặt trướng ngay trên đền Kiến Chương rồi sai quân quét dọn
những gạch ngói ở các cung điện. Phàm những lăng tẩm mà Ðổng Trác đã khai quật
lên, Kiên sai chôn cất lại cả. Lại cất ba gian điện, lợp cỏ ở trên nền nhà Thái
Miếu, đặt linh vị các vua, giết trâu mổ bò, mời chư hầu đến tế. Tế xong rồi,
các tướng ai về trại ấy.
Kiên về
trại, đêm hôm ấy trăng sao vàng vặc. Kiên cầm thanh kiếm ra sân, ngẩng mặt lên
xem thiên văn thấy trong tồ tử vi có khí trắng mờ mờ. Kiên than rằng:
- Ðế
tinh không được tỏ, cho nên tặc thần loạn nước, muôn dân phải lầm than, kinh
thành không còn gì nữa.
Vừa nói
vừa rỏ nước mắt khóc. Bên cạnh có tên lính trỏ tay bảo Kiên rằng:
- Kìa, ở
phía Nam điện này có hào quang năm sắc, từ dưới đáy giếng bốc lên.
Kiên
liền sai quân sĩ đốt đuốc xuống giếng tìm xem. Một lát quân mò đem lên được một
cái thây người đàn bà chết đã lâu ngày nhưng chưa nát; người này mặc theo lối
của cung đình, dưới cổ đeo một cái túi gấm, mở túi ra xem thấy một cái ấn bằng
ngọc, vuông bốn tấc, trên núm dấu chạm năm con rồng; bên cạnh có sứt một miếng
phải lấy vàng bịt lại; mặt dấu khắc tám chử triện: "Phụ Mệnh Vu Thiên, Ký
Thọ Vĩnh Xương"
Kiên
được ấn ngọc ấy, hỏi Trình Phổ, Phổ nói:
- Ðấy là
ngọc tỷ truyền quốc. Ngày xưa, Biện Hồ ở dưới núi Kinh Sơn trông thấy chim
phượng hoàng đậu ở trên hòn đá, đem đá ấy về tiến vua Văn Vương nước Sở. Lúc
phá đá ra trong có hòn ngọc. Ðến đời nhà Tần, năm thứ 26 (221 trước công
nguyên) vua Tần sai thề ngọc dũa ra làm ấn quốc bảo. Tám chữ triện viết ở trên
mặt ấn là chử Lý Tư. Năm thứ 28 Tần Thủy Hoàng đi tuần đến hồ Ðộng Ðình, gặp
sóng to gió lớn, thuyền sắp đắm, vua vội vàng ném ngọc tỷ ấy xuống hồ mới không
việc gì. Ðến năm thứ 38, Thủy Hoàng đi tuần đến núi Hoa Âm, đương đi gặp một
người tay cầm ngọc tỷ đứng đón đường, đưa cho quân hầu nói rằng: "Ðem cái
nầy về trả Tổ Long"
Nói xong
rồi biến mất. Ấn ngọc ấy lại về nhà Tần. Ðến năm sau, Thủy Hoàng mất. Tử Anh
đem ngọc dâng cho Cao Tổ nhà Hán. Ðến lúc Vương Mãng khởi loạn, hoàng hậu vua
Hiếu Nguyên cầm ngọc ấy đánh Vương Tầm, Tô Hiến sứt mất một góc, phải lấy vàng
bịt vào. Vua Quang Vũ được ấn ngọc ấy ở Nghi Dương, truyền đến bây giờ. Khi
mười tên hoạn quan làm loạn, bức đem Thiếu đế ra Bắc Mang, lúc về thấy mất ngọc
tỷ. Nay tướng quân lại tìm được, tất là trời cho tướng quân đó. Ðiềm này là
điềm báo tướng quân sẽ làm vua. Vậy tướng quân không nên ở lâu chốn nầy, mà nên
về ngay Giang Ðông để mưu toan việc lớn!
- Ngươi
nói chính hợp ý ta. Ngày mai ta sẽ cáo bệnh về.
Bàn định
xong, Kiên truyền quân sĩ không được nói hở cho ai biết. Không ngờ trong đám
quân sĩ có một người cùng làng với Viên Thiệu, biết việc đó, muốn nhân dịp tiến
thân, ngay đêm hôm ấy lẻn sang báo với Viên Thiệu.
Thiệu
thưởng cho người ấy rồi giữ lại ở trong quân.
Hôm sau
Tôn Kiên sang trại Viên Thiệu để cáo từ, nói rằng:
- Tôi
hơi khó ở, xin phép về Trường Sa.
Thiệu
cười nói rằng:
- Tôi đã
biết bệnh của ông rồi. Bệnh ấy là bệnh ngọc tỷ!
Kiên
thất sắc, hỏi rằng:
- Ai nói
với ông thế?
Thiệu
nói:
- Nay
chúng ta vì nước đánh giặc. Ngọc tỷ là của báu triều đình, ông bắt được, nên ở
chỗ minh chủ, đợi khi nào giết được Ðổng Trác, thì đem trả lại cho nhà vua. Nay
ông giấu ấn ấy mà bỏ đi, định làm gì?
Kiên cứ
chối:
- Ngọc
tỷ làm gì có ở tôi?
Thiệu
nói:
- Cái gì
bắt được ở đáy giếng đền Kiến Chương, bây giờ ở đâu?
Kiên
nói:
- Tôi
không có của ấy cưỡng bức nhau làm gì thế?
Thiệu
nói:
- Mau
mau bỏ ra đây, kẻo vạ vào thân bây giờ!
Kiên trỏ
tay lên trời thề rằng:
- Tôi
được của ấy mà giấu đi, thì sẽ chết dưới mũi tên hòn đạn.
Các
tướng đều nói rằng:
- Văn
Ðài đã thề như thế, chắc là không bắt được ngọc tỷ.
Thiệu
gọi người làm chứng ra, hỏi Tôn Kiên rằng:
- Lúc mò
được ngọc, có người này ở đấy không?
Kiên
giận lắm, rút ngay kiếm ra, định chém người ấy. Thiệu cũng rút kiếm ra bảo
rằng:
- Hễ
ngươi chém hắn thì ngươi dối ta.
Nhan
Lương, Văn Sú đứng sau lưng Viên Thiệu cũng rút kiếm ra. Sau lưng Tôn Kiên,
Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương, cũng cầm đao lăm lăm ở trong tay. Các tướng
đều xúm lại can đôi bên. Kiên lập tức trở ra, lên ngựa về nhổ trại, bỏ Lạc
Dương đi.
Thiệu
giận lắm, liền viết một lá thư, sai người tâm phúc ngay đêm hôm ấy đem sang
Kinh Châu, đưa cho quan Thứ Sử là Lưu Biểu, sai Biểu chẹn đường Kiên, lấy lại
ngọc tỷ.
Hôm sau
có người báo rằng:
- Tào
Tháo đuổi Ðổng Trác, đánh nhau ở Vinh Dương thua to trở về.
Thiệu
bèn sai người đón Tháo vào trại, ở tiệc rượu cùng với Tháo giải phiền.
Trong
khi uống rượu, Tào Tháo than rằng:
- Ta
trước kia khởi nghĩa lớn, cốt là muốn vì nước trừ hại. Các ông đã có bụng
trượng nghĩa mà đến với tôi, ỵ tôi muốn phiền Bản Sơn đem quân Hà Nội sang đóng
ở Mạch Tân; còn các quân Toan, Táo cứ giữ vững Thành Cao, giữ cửa ải Ngao
Thương, ngăn Hoàn Viên, Ðại Cốc, khống chế những nơi hiểm yếu. Còn Công Lộ đem
quân Nam Dương sang đóng ở Ðan Triết, tiến vào cửa Vũ Quan, để cho cái uy thế ở
Tam Phụ to lên. Nơi nào cũng thành cao, hào sâu, không đánh nhau, chỉ giữ làm
nghi binh, để thiên hạ trông rõ hình thế, cho ta là kẻ thuận đi trừ gian, thì
việc lớn có thể định ngay được. Thế mà các ông dùng dằng mãi chẳng tiến quân,
làm mất cả lòng mong đợi của thiên hạ, tôi lấy làm xấu hổ quá!
Lũ Thiệu
không ai nói câu gì. Một chốc tiệc tan.
Tháo
thấy lũ Thiệu mỗi người một bụng, nghĩ cũng không làm được việc lớn, bèn tự kéo
quân về Dương Châu.
Công Tôn
Toản thấy tình cảnh thế, cũng chán. Một bữa Toản bảo với Lưu, Quan, Trương:
- Tôi
xem Viên Thiệu không làm nên được trò trống gì đâu; ở lâu tất sinh biến , chi
bằng chúng ta hãy về.
Bèn nhổ
trại về phía Bắc. Ði đến huyện Bình Nguyên, Toản sai Lưu Bị làm tướng ở đó, giữ
lấy đất, nuôi lấy quân.
Thái Thú
Duyện Châu Lưu Ðại, thiếu lương hỏi vay Thái Thú Ðông Quận là Kiều Mạo, Mạo
không cho vay, Ðại đem quân xông vào dinh Mạo, giết Mạo rồi thu phục quân sĩ và
thu hết của quân lương.
Viên
Thiệu thấy chư hầu mỗi người đi một ngả, cũng rời Lạc Dương kéo quân về Quan
Ðông.
Thứ Sử
Kinh Châu là Lưu Biểu, bắt được thư của Viên Thiệu xin đem quân chẹn đường Tôn
Kiên, liền sai ngay Khoái Việt và Sái Mạo dẫn một vạn quân ra đón đường đánh
Kiên.
Lưu
Biểu, tên chữ là Cảnh Thăng, quê ở Cao Bình, đất Sơn Dương, cũng là tôn thân
nhà Hán. Lúc còn nhỏ, Biểu kết bạn với bảy danh sĩ, bấy giờ người ta gọi là
"Giang Hạ bát tuấn". Trong tám người ấy thì một người là Lưu Biểu,
còn tám người nữa là: 1- Trần Tường; 2- Phạm Phang; 3- Khổng Giực; 4- Phạm
Khang; 5- Ðàn Phu; 6- Trương Kiệm; 7- Sầm Hĩnh.
Biểu
cùng bảy người ấy kết làm bạn, nhưng ngoài ra còn có mấy người phù tá. Một là
Khoái Lương, người ở Diên Bình, hai là Khoái Việt cũng người ở Diên Bình, ba là
Sái Mạo người ở Tương Dương.
Khoái
Việt, Sái Mạo dẫn một vạn quân ra chặn đường Tôn Kiên vừa đến đó, Khoái Việt
bày trận rồi nhảy ngựa ra.
Kiên
thấy Việt, hỏi rằng:
- Khoái
Việt cớ sao chẹn đường ta?
Việt
nói:
- Ngươi
đã làm tôi nhà Hán, sao được giấu ngọc tỷ truyền quốc? Ðưa ra ngay ra đây, ta
sẽ cho đi.
Kiên tức
lắm, sai ngay Hoàng Cái ra đánh. Sái Mạo múa đao lại địch. Ðược vài hiệp, Cái
hoa ngọn roi, đánh trúng ngay miếng kính che ngực Mạo. Mạo quay đầu ngựa chạy.
Kiên thừa thế đuổi đánh khỏi cửa ô. Lúc bấy giờ, ở trong núi bỗng thấy chiêng
trống khua rầm lên. Thì ra Lưu Biểu vừa dẫn quân đến. Kiên ngồi trên ngựa chào
hỏi tử tế, rồi nói với Lưu Biểu rằng:
- Ta với
Cảnh Thăng là láng giềng với nhau. Sao Cảnh Thăng lại nở tin lời Viên Thiệu và
xử tệ với ta làm vậy?
Biểu
nói:
- Nhà
ngươi dấu quốc bảo, muốn làm phản à?
Kiên lại
thề:
- Ta mà
có của ấy ở trong mình, xin chết ở dưới mũi tên viên đạn.
Biểu
nói:
- Muốn
cho ta tin, nhà ngươi phải để cho ta khám cả đồ hành Lý.
Kiên nổi
khùng, mắng Lưu Biểu rằng:
- Tài
sức ngươi thấm vào đâu, mà dám khinh ta!
Hai bên
sắp sửa giao binh đánh nhau. Lưu Biểu lui ngay. Kiên thấy vậy thả ngựa sấn lại.
Bấy giờ quân phục ở sau hai rặng núi kéo ồ ra; sau lưng Khoái Việt, Sái Mạo ập
lại, vây bọc lấy Tôn Kiên ở giữa trận.
Thế rõ
thực là:
Ngọc tỷ
đem về không dùng được,
Lại vì
của ấy động binh đao.
Chưa
biết Tôn Kiên làm thế nào mà thoát được thân, xem hồi sau sẽ rõ.
CHƯƠNG
7: VIÊN THIỆU QUA CẦU ÐUỔI CÔNG TÔN TOẢN TÔN KIÊN SANG SÔNG ÐÁNH LƯU CẢNH THĂNG
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
03/03/2014
Nhắc lại
Tôn Kiên đang bị quân Lưu Biểu vây ngặt, may nhờ có ba tướng Trình Phổ, Hoàng
Cái, Hàn Ðương đánh phá vòng vây cứu thoát. Tôn Kiên thu góp tàn quân thấy hao
hơn phân nữa, liền kéo về Giang Ðông. Và, từ đấy Tôn Kiên ôm mối hận với Lưu
Biểu.
Bấy giờ,
Viên Thiệu đóng quân ở Hà nội, lương thảo thiếu hụt, không tìm đâu ra để chu
cấp cho binh lính.
Quan Thứ
sử Ký Châu là Hàn Phúc thỉnh thoảng cho người chở lương thực đến giúp.
Mưu sĩ
Phùng Kỷ thấy vậy, bảo nhỏ với Viên Thiệu:
- Ðại
trượng phu phải tự mình tung hoành thiên hạ cho phỉ chí, cần gì nhờ vả kẻ cho lương?
Ký Châu đất rộng dân giàu, sao Tướng quân không đem quân chiếm quách cho rồi?
Viên
Thiệu nói:
- Ta
cũng nghĩ thế, nhưng chưa có kế hay.
Phùng Kỷ
nói:
- Nay
ngầm sai người mang mật thư gởi cho Công Tôn Toản, bảo Công Tôn Toản kéo quân
đánh Ký Châu, và hẹn sẽ giúp sức rồi chia đôi mảnh đất ấy. Tôi chắc thế nào
Công Tôn Toản cũng hưng binh. Còn Hàn Phúc là đứa vô mưu, nếu bị Công Tôn Toản
đem quân đánh, thế nào cũng mời Tướng quân đem binh vào Ký Châu giúp sức. Chừng
ấy Tướng quân sẽ tự lĩnh mọi việc, rồi chỉ trở bàn tay là lấy được, có khó gì?
Viên
Thiệu cả mừng, liền thảo một bức mật thư sai người đem đến cho Công Tôn Toản.
Công Tôn
Toản xem thư thấy Viên Thiệu hẹn cùng đánh Hàn Phúc, và chia đất Ký Châu, lòng
mừng lắm, lập tức khởi binh.
Trong
lúc đó, Viên Thiệu lại ngầm sai người đến báo cho Hàn Phúc biết. Phúc hoảng sợ,
triệu hai mưu sĩ là Tuân Thầm và Tân Bình vào thương nghị.
Tuân
Thầm bàn:
- Công
Tôn Toản thống lãnh quân hai nước Yên, Ðại, đông lắm, nếu kéo binh đến đấy, Ký
Châu chúng ta ắt mất. Vả lại, Công Tôn Toản lại có ba anh em Huyền Ðức giúp sức
thì chúng ta chống sao nổi? Nay có Viên Bản Sơ trí dũng hơn người, dưới trướng
có nhiều danh tướng. Vậy bây giờ Tướng quân nên mời Viên Bản Sơ đến đây để cùng
coi việc cai trị châu quận với ta. Ông ấy sẽ hậu đãi Tướng quân, và như thế
không sợ gì Công Tôn Toản nữa.
Hàn Phúc
nghe theo, liền sai viên biệt giá là Quan Thuần đi mời Viên Thiệu. Quan Trưởng
sử Cảnh Vũ vội can:
- Không
nên. Hiện nay Viên Thiệu là kẻ cô thế, quân lương cùng quẩn, phải nhờ đến chúng
ta mà sống, chẳng khác nào đứa hài nhi trong tay, không cho bú nữa là chết. Sao
chúng ta lại đem việc châu quận mà giao cho hắn? Làm như thế chẳng khác nào dẫn
cọp vào chuồng dê.
Hàn Phúc
nói:
- Ta vốn
là môn hạ cũ của họ Viên, tài ba kém cõi, may được trấn giữ châu quận nầy.
Người xưa có nói: "Lựa người tài đức mà nhường ngôi". Huống hồ, ta
với Viên Bản Sơ nghĩa trọng, dẫu hai người có cai trị một châu cũng chẳng sao.
Cảnh Vũ
than:
- Tướng
quân đã có Ý như vậy thì Ký Châu coi như đã mất rồi.
Hay được
việc ấy, trong số bộ hạ của Hàn Phúc có hơn ba mươi người bỏ đi nơi khác. Chỉ
còn Cảnh Vũ với Quan Thuần ở lại, phục sẵn ngoài thành để đợi Viên Thiệu.
Vài ngày
sau, Viên Thiệu dẫn quân tới. Cảnh Vũ và Quan Thuần bất thần nhảy ra, vung đao
chém Viên Thiệu. Nhưng nhanh như cắt, Nhan Lương đã chém chết Cảnh Vũ, và Văn
Xủ giết ngay Quan Thuần,
Viên
Thiệu vào thành Ký Châu, cho Hàn Phúc làm Phấn Uy tướng quân, rồi cắt đặt cho
bọn Ðiền Phong, Thư Thụ, Hứu Du, Phùng Kỷ chia nhau nắm giữ việc châu. Thế là
Viên Thiệu đoạt hết quyền hành của Hàn Phúc.
Hàn Phúc
hối hận thì đã muộn, bực mình, bỏ cả nhà cửa, vợ con lên ngựa sang Trần Lưu,
nương nhờ Thái Thú Trương Mạc.
Công Tôn
Toản hay tin Viên Thiệu đã chiếm Ký Châu, liền sai em là Công Tôn Việt sang gặp
Viên Thiệu, yêu cầu chia đất cho mình như lời hứa.
Viên
Thiệu bảo Công Tôn Việt:
- Hãy về
mời lệnh huynh sang đây mới tính chuyện ấy được.
Công Tôn
Việt ra về. Nhưng đi chưa đầy năm mươi dặm, có một toán quân phục xông ra chận
đường, và hô lớn:
- Ta là
gia tướng của Ðổng Thái Sư đây.
Dứt lời,
quân sĩ dùng cung tên bắt như mưa. Công Tôn Việt không thoát khỏi, phải tử nạn.
Những quân tùy tùng chạy thoát về báo rõ sự thể với Công Tôn Toản. Toản đùng
đùng nổi giận mắng lớn:
- Thằng
Viên Thiệu lừa dối, gạt ta đem binh đánh Hàn Phúc, để chiếm trọn Ký Châu. Nay
lại cho người giả làm quân Ðổng Trác, hại mạng em ta nữa. Thù nầy không lẽ
không báo?
Mắng
rồi, liền khởi binh bản bộ đi đánh Ký Châu. Viên Thiệu được tin Công Tôn Toản
kéo quân tới liền khai thành dẫn quân ra ứng chiến. Hai bên gặp nhau trên sông
Bàn Hà. Viên Thiệu thì bố trận nơi đầu cầu phía Ịông, còn Công Tôn Toản thì dàn
quân ở đầu phía Tây. Công Tôn Toản cỡi ngựa đứng trên cầu mắng lớn:
- Thằng
bội nghĩa! Ngươi dám dối gạt ta sao?
Viên
Thiệu cũng giục ngựa đến đầu cầu chỉ mặt Công Tôn Toản nói:
- Hàn
Phúc là đứa bất tài, tình nguyện đem Ký Châu giao cho ta, việc ấy can hệ gì đến
ngươi.
Công Tôn
Toản thét lên:
- Ngày
trước, ta tưởng ngươi là kẻ trung nghĩa, lại con nhà dòng dõi Tam Công nên mới
bầu ngươi làm Minh chủ. Ngờ đâu bây giờ ta mới biết ngươi là đồ sài lang! Ngươi
còn mặt mũi nào mà đứng trên cõi đời này nữa.
Viên
Thiệu nổi giận quay lại hỏi các tướng:
- Ai dám
ra bắt tên nghịch tặc ấy?
Viên
Thiệu vừa dứt lời, Văn Xú đã thúc ngựa vung thương xông thẳng lên cầu. Công Tôn
Toản giục ngựa tới đầu cầu giao phong chưa đầy mười hiệp đã đuối sức bỏ chạy.
Văn Xú thừa thế đuổi theo. Toản chạy vào giữa trận, Xú đuổi vào tận trung quân,
xung đột Ịông Tây như vào chỗ không người, khiến cho đại binh của Công Tôn Toản
sợ hãi kéo nhau chạy trốn. Bốn viên tướng thủ hạ của Công Tôn Toản đổ xô ra cự
chiến. Văn Xú đâm một thương khiến một tướng bị té xuống ngựa, còn ba tướng kia
bỏ chạy. Xú lại đuổi theo Toản ra mãi sau trận. Toản nhìn về phía hẻm núi mà
chạy, Xú thúc ngựa đuổi sát tới, nạt lớn:
- Mau
xuống ngựa đầu hàng đi!
Công Tôn
Toản sợ quá, chạy đến nỗi rơi hết cung tên mà không hay, cái mũ trên đầu cũng
rơi xuống đất, đầu tóc tối bù, cứ phi ngựa theo chân núi mà chạy quanh. Rủi
thay, con ngựa lại vấp chân ngã phục xuống, làm cho Toản lăn xuống chân núi.
Văn Xú
hăm hở cầm thương tới đâm. Trong lúc tính mạng Công Tôn Toản sắp nguy, bỗng từ
sau hòn đá cao có một thiếu niên dũng tướng phi ngựa ra, cầm giáo đâm Văn Xú
một nhát. Văn Xú vội né mình lùi lại. Công Tôn Toản thừa dịp ấy bò lên sườn núi
lánh nạn, và xem thử ai đã cứu mình.
Thì ra
thiếu niên mình cao tám thước, mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt. Thiếu niên
đánh với Văn Xú năm, sáu mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Lúc đó có quân bộ
hạ của Toản kéo tới tiếp cứu. Văn Xú vội quay ngựa bỏ chạy. Thiếu niên đuổi
theo truy kích, nhưng Công Tôn Toản đã gọi lại để tạ ơn, và hỏi tên họ.
Người ấy
thi lễ rồi đáp:
- Tôi
vốn người Chân Ịịnh, huyện Thường Sơn, họ Triệu tên Vân, tự là Tử Long, cũng là
người ở địa hạt thuộc quyền Viên Thiệu, nhưng thấy Viên Thiệu không có phò vua
cứu nước, nên tôi mới bỏ Thiệu đến đây tìm hầu quan Thái Thú, không ngờ lại
được gặp nơi đây.
Công Tôn
Toản mừng rỡ dắt Triện Vân về trại, chỉnh đốn quân ngũ, sửa sang khôi giáp. Hôm
sau, Công Tôn Toản lại chia quân làm hai đội tả hữu, khí thế rất hùng mạnh như
đôi cánh đại bàng. Có năm ngàn con ngựa thì quá nửa là ngựa trắng.
Nguyên
trước kia, khi đánh nhau với rợ Khương, Toản lựa một đoàn kỵ binh cưỡi rặt ngựa
trắng đi tiên phong, nổi tiếng là "Bạch Mã tướng quân". Sau nhiều
trận bị Toản đánh bại, quân Khương cứ trông thấy ngựa trắng là bỏ chạy. Do đó,
Toản có rất nhiều ngựa trắng.
Viên
Thiệu hay tin, sai Nhan Lương, Văn Xú đi tiên phong, mỗi tướng dẫn một ngàn
quân cung nỏ, cũng chia làm hai đội tả hữu, lại truyền lệnh rằng:
- Ðội
bên tả cứ bắn cánh quân bên hữu của Toản, đội bên hữu thì bắn cánh quân bên tả
của Toản.
Lại sai
Cúc Nghĩa dẫn tám trăm quân cung thủ, hợp với một vạn năm ngàn bộ binh dàn ngay
giữa trận. Còn Viên Thiệu thì tự dẫn vài vạn bộ binh theo sau tiếp ứng.
Công Tôn
Toản mới thu nạp được Triệu Vân, chưa rõ tài sức ra sao, nên sai Triệu Vân dẫn
một toán quân đi ứng hậu, rồi sai đại tướng Nghiêm Cương dẫn quân đi tiền đạo.
Toản thì thống lãnh trung quân, dừng ngựa trên cầu, bên mình có trương một lá
cờ đỏ rất lớn, thêu chữ "Soái" bằng chỉ vàng lóng lánh, bay trước
mặt.
Công Tôn
Toản truyền lệnh giục trống khiêu khích từ giờ Thìn qua đến giờ Tỵ, mà quân
Viên Thiệu vẫn không tiến lại.
Tướng
của Viên Thiệu là Cúc Nghĩa truyền quân cung nỏ phục xuống sau những tấm mộc
che tên, dặn khi nào nghe tiếng pháo lệnh mới được bắn.
Bên kia,
Nghiêm Cương sai đánh trống hò reo vang trời, rồi xông ra đánh Cúc Nghĩa. Quân
của Nghiêm Cương đã kéo đến gần, mà quân của Cúc Nghĩa vẫn còn nằm yên không
động.
Chở cho
địch quân đến vừa tầm, Cúc Nghĩa mới đốt lên một tiếng pháo lệnh, tức thì tám
trăm tên cung nỏ bắn ra một loạt.
Nghiêm
Cương thất kinh quay về, nhưng Cúc Nghĩa đã tế ngựa theo, chém Cương một đao
lăn xuống ngựa.
Quân
Toản thua to, hai cánh kỵ binh tả hữu ra cứu ứng đều bị quân cung nỏ của Nhan
Lương, Văn Xú chia nhau bắn như mưa. Quân Thiệu nhất tề đồng tiếng lên cầu.
Cúc
Nghĩa phóng thẳng tới chém chết viên tướng vác cờ.
Lá cờ
"Soái" của Toản đổ xuống. Toản thấy thế quay ngựa bỏ cầu mà chạy.
Cúc
Nghĩa dẫn quân xông vào hậu quân của Toản thì gặp ngay Triệu Vân thúc ngựa xông
ra cản lại.
Ðánh
được vài hiệp, Triện Vân đã đâm Cúc Nghĩa một giáo chết lăn, rồi một mình một
ngựa xông thẳng vào trung quân của Viên Thiệu, tả xung, hữu đột, chém giết như
đi vào chỗ không người.
Công Tôn
Toản thấy vậy cũng dẫn quân đánh quật trở lại, làm cho quân Viên Thiệu rối
loạn, chạy tơi bời.
Bấy giờ,
Viên Thiệu đang ở phía sau, sai quân đi dò trận thế, được thám mã về báo rằng
Cúc Nghĩa đã chém tướng đoạt cờ, đang đuổi giết quân Toản.
Thiệu cả
mừng, không phòng bị gì nữa, liền cùng Ðiền Phong dẫn vài trăm quân vác kích,
vài chục tay mã cung, cỡi ngựa ra trước quan sát. Thiệu cười ha hả bảo Công Tôn
Toản là kẻ vô dụng.
Nhưng
trong lúc đang cười nói, bỗng đâu Triện Vân đã phi ngựa đến trước mặt. Quân
cung thủ thất kinh vội lắp tên bắn, nhưng tên chưa kịp rời nỏ thì Triện Vân đã
xông vào giết một loạt bảy, tám đứa, những tên khác khiếp vía bỏ chạy. Tiếp đó,
quân Công Tôn Toản lại ùn ùn kéo đến, bao vây Viên Thiệu.
Ðiền
Phong thấy thế nguy, liền bảo Viên Thiệu:
- Có bức
tường đằng kia, mời Chúa công mau tạm lánh vào đó chốc lác.
Viên
Thiệu đưa tay trật cái mũ đâu mâu ném xuông đất, nói lớn:
- Ðại
trượng phu đã lâm trận, mong được chết giữa chiến trường, há lại chạy trốn sao?
Quân
binh của Viên Thiệu thấy thế nức lòng, vác kích xông đến tử chiến. Do đó, Triệu
Vân không sao xông vào được. Kế đó lại có đại quân của Thiệu vừa đến kịp, lại
thêm Nhan Lương cùng kéo quân tới, hai mặt cùng đánh.
Triệu
Vân phải bảo hộ Công Tôn Toản phá vòng vây, rút về bên kia đầu cầu.
Quân
Viên Thiệu lại thừa thế đuổi theo làm cho quân Công Tôn Toản chen nhau qua cầu
mà té xuống nước chết vô số. Viên Thiệu xông lên trước, xua quân đuổi Công Tôn
Toản.
Ðuổi
chưa được năm dặm đường, bỗng nghe sau lưng núi có tiếng reo hò vang dậy, rồi
một đạo binh hùng hổ kéo ra, đi đầu là ba viên tướng dung mạo phi thường. Thì
ra đó là ba anh em Lưu Huyền Ðức.
Số là
Huyền Ðức ở tại huyện Bình nguyên, nghe tin Công Tôn Toản giao binh với Viên
Thiệu, nên đến trợ chiến. Bấy giờ vừa gặp lúc, ba con ngựa phi tới, ba thứ binh
khí bay lại phía quân Ký Châu, nhắm thẳng Viên Thiệu mà đánh.
Thấy ba
anh em Huyền Ðức xuất hiện, Viên Thiệu sợ hãi rụng rời, hồn vía tức thì bay lên
mây xanh. Cây bửu đao đang cầm trong tay rơi xuống đất lúc nào không hay. Thiệu
vội quay ngựa chạy một mạch...
Ba quân
liều chết hộ vệ Viên Thiệu qua cầu.
Công Tôn
Toản thu binh về trại. Ba anh em Huyền Ðức vào hỏi thăm, Toản nói:
- Nếu
không có Huyền Ðức từ xa tới cứu, thì tôi khốn đốn rồi.
Kế đó,
Công Tôn Toản đem Triệu Vân đến giới thiệu với Huyền Ðức.
Vừa
trông thấy viên tướng trẻ này, Huyền Ðức đã đem lòng yêu mến, và sau khi trao
đổi tâm tình, hai người không muốn rời nhau nữa
Còn Viên
Thiệu, sau khi thua trận ấy, đành cố thủ không dám ra binh. Công Tôn Toản cứ ít
ngày lại đem binh khiêu chiến, nhưng thấy Viên Thiệu không đánh lại rút quân
về.
Bây giờ,
tại triều Ðồng Trác đã xếp đặt công việc tạm ổn, cho người ra ngoài thám thính,
mới hay tin Viên Thiệu và Công Tôn Toản đánh nhau đã hơn một tháng trời.
LÝ Nhu
nói với Ðổng Trác:
- Viên
Thiệu và Công Tôn Toản đều là hào kiệt trên đời, nay ta mượn chiếu Thiên tử sai
người đến giải hòa, như thế tất cả hai người mang ơn và phục tùng Thái Sư.
Ðổng
Trác khen phải, liền sai quan Thái phó Mã Nhật Ðàn, và quan Thái bộc Triệu Kỳ
đem chiếu mệnh ra đi.
Hai
người nầy cùng qua Hà Bắc một lúc.
Viên
Thiệu hay tin ra ngoài trăm dặm đón tiếp, lạy hai lạy mà vâng chiếu.
Ngày hôm
sau, hai người lại đến dinh Công Tôn Toản để hiểu dụ.
Công Tôn
Toản cũng bằng lòng, viết thư đưa sang Viên Thiệu giải hòa, rồi dâng biếu về
triều tiến cử Lưu Huyền Ðức làm Bình Nguyên tướng.
Huyền
Ðức phải sang Bình Nguyên trấn nhậm nên từ biệt Triệu Vân. Hai người cầm tay
nhau nhỏ lệ, không nỡ rời.
Triệu
Vân than rằng:
- Trước
đây tôi tưởng Công Tôn Toản là anh hùng, nay xem lại thì Công Tôn Toản cũng chỉ
thường tình như Viên Thiệu mà thôi.
Huyền Ðức
nói:
- Thôi,
Tử Long hãy chịu khó khuất thân nơi đây, chúng ta sẽ có ngày tái ngộ.
Hai
người bùi ngùi giã biệt, lòng lữu luyến không nguôi.
Bấy giờ,
Viên Thuật ở Nam Dương, nghe tin Viên Thiệu lấy được Ký Châu, vội sai sứ sang
xin một ngàn con ngựa. Viên Thiệu không cho nên Viên Thuật oán hận, và từ đó
anh em bất hòa nhau.
Viên
Thuật sai sứ sang Kinh Châu vay của Lưu Biểu hai chục vạn hộc lương. Lưu Biểu
cũng không cho, nên Viên Thuật căm giận ngầm sai người mang thư cho Tôn Kiên,
xúi Tôn Kiên đánh Lưu Biểu.
Ðại lược
lá thư ấy như sau:
Trước
đây, Lưu Biểu chận đường đánh ngày, chính là do kế của anh Bản Sơ tôi. Này tôi
lại nghe tin anh Bản Sơ tôi ngầm mưu với Lưu Biểu muốn cùng đánh chiếm Giang
Ðông của ông đấy. Vậy ông kíp khởi binh đánh Lưu Biểu. Tôi sẽ giúp ông mà đánh
chẹn Bản Sơ. Như thế sẽ báo được hai mối thù. Và, ông chiếm lấy Kinh Châu, tôi
chiếm lấy Ký Châu. Xin chờ ông chại ngại...
Tôn Kiên
được thư liền nói:
- Căm
hận thay! Thằng Lưu Biểu trước đây dám chẹn đường về của ta. Nay không nhân cơ
hội này mà rửa hận thì còn đợi đến bao giờ nữa.
Liền tập
họn Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàng Dương dưới trướng để bàn luận. Trình Phổ nói:
- Viên
Thuật là đứa dối trá, không nên tin vội.
Tôn Kiên
nói:
- Không
cần! Ta muốn đánh Lưu Biểu một trận báo thù, dẫu Viên Thuật không giúp sức cũng
được.
Bàn định
xong, Tôn Kiên sai Hoàng Cái ra bến sông, sắp đặt chiến thuyền, trang bị khí
giới, tích lũy lương thảo, lựa những thuyền thật lớn để chở ngựa, sắp sẵn để
bất thần khởi quân.
Quân tế
tác Kinh Châu hay được vội về báo với Lưu Biểu. Lưu Biểu sợ hãi triệu tập chư
tướng bàn kế. Khoái Lương nói:
- Việc
này không đáng lo, chỉ cần sai Hoàng Tổ đem quân phục ở Giang Hạ làm tiền khu,
rồi Chúa công thân hành dẫn đại binh Kinh tương đi làm hậu viện. Chờ cho quân
Tôn Kiên mới qua sông mỏi mệt, đánh cho một trận tất quân giặc phải bị thua.
Lưu Biểu
nghe theo và ra lệnh cho Hoàng Tổ phòng bị ở Giang Hạ, rồi kéo đại binh sắp đặt
ứng chiến...
Lại nói
về Tôn Kiên vốn có bốn người con trai do Ngô phu nhân sinh ra. Con trưởng tên
Sách, tự Bá Phù. Người thứ hai tên Quyền tự là Trọng Mưu. Người thứ ba tên Dực,
tự là Thúc Bật. Người thứ tư tên Khuông, tự là QuÝ Tá. Còn người em gái của Ngô
phu nhân lại cũng lấy anh rể, tức là vợ thứ của Tôn Kiên. Bà này sinh được một
trai một gái. Trai tên là Lãng tự Tảo An, gái là Nhân. Tôn Kiên lại còn nuôi
một người con trai họ Du, tên Thiều tự Công Lễ, tức là nghĩa tử Tôn Thiền vậy.
Bấy
giời, người em ruột của Tôn Kiên là Tôn Tĩnh, tự Ẩu Ðài, thấy anh mình sắp xuất
quân, mới dắt cả các con mình ra vái lạy trước ngựa nà can ngăn khuyên giải:
- Nay
Ðổng Trác chuyên quyền, Thiên tử nhu nhược, nhân dân loạn lạc, các trấn chư hầu
mỗi người làm bá một phương. Giang Ðông ta mới yên được ít lâu, theo lẽ phải
củng cố binh lực, sao anh lại vì một chút giận nhỏ mà động binh? Xin anh xét
lại.
Tôn Kiên
bảo Tôn Tĩnh
- Thôi,
em đừng ngăn cản. Anh đang muốn tung hoành khắp thiên hạ, lẽ nào một mối thù
nhỏ mà không báo?
Con
trưởng Tôn Kiên là Tôn Sách nói:
- Phụ
thân đã quyết đi, con xin cùng đi với.
Tôn Kiên
nhận lời, dẫn Tôn Sách lên thuyền kép quân đến đánh Phàn thành. Bấy giờ, Hoàng
Tổ đã phục sẵn cung nỏ ở bờ sông, thấy chiến thuyền của Tôn Kiên kéo đến, liền
ra lệnh bắn như mưa.
Tôn Kiên
truyền cho quân sĩ không được vội động, cứ phục sát xuống thuyền, rồi cho
thuyền chèo lui để dụ địch, đồng thời đánh trống thị uy ba ngày liền.
Cứ mỗi
ngày thuyền Tôn Kiên lại lượn sát vào bờ, rồi lùi ra xa.
Quân của
Hoàng Tổ cứ nhắm mắt bắn càn, bắn đến nỗi hết sạch cả tên.
Bấy giờ
Tôn Kiên mới ra lệnh thu nhặt số tên của địch bắn dính hai bên ven thuyền, ước
độ vài chục vạn mũi. Ngày hôm sau, gặp chiều gió thuận, Tôn Kiên sai bắn lên bờ
như mưa.
Quân
trên bờ đã hết tên, lại bị phản công bất ngờ nên ùn ùn bỏ chạy.
Tôn Kiên
kéo quân lên bờ. Trình Phổ, Hoàng Cái chi ra hai đường đánh thốc vào trại Hoàng
Thổ, mặt sau, Hàn Ðương cũng kéo tới nơi. Thế là ba mặt đánh dồn lại.
Hoàng Tổ
thua to, đành bỏ Phàn thành chạy về Ðặng thành.
Tôn Kiên
sai Hoàng Cái ở lại giữ các chiến thuyền, còn mình thì thân hành kéo quân truy
kích địch.
Hoàng Tổ
bị Tôn Kiên đuổi theo quá gấp, phải dùng lại bày trận giữa cách đồng, để nghênh
địch.
Tôn Kiên
cũng dàn quân thành trận thế, thúc ngựa ra đứng dước cờ.
Tôn
Sách, toàn thân khôi giáp gọn ghẽ, cầm giáo đứng sát bên cha.
Bên kia,
Hoàng Tổ dẫn hai tướng ra trận. Một tướng là Trương Hổ, người Giang Hạ; một
tướng là Trần Sinh, người Tương Dương. Hoàng Tổ đứng ở giữa, tay cầm roi trỏ
Tôn Kiên mắng lớn:
- Lũ
chuột Giang Ðông ! Sao dám xâm phạm đất đai của bậc tôn thân nhà Hán?
Mắng rồi
sai Trương Hổ ra đánh. Bên kia Hàn Ðương từ trong trận phi ngựa ra đón lại. Hai
tướng đánh nhau đến ba mươi hiệp.
Trần
Sinh thấy Trương Hổ có vẻ đuối sức, liền phi ngựa ra trợ chiến.
Tôn Sách
thấy thế, vội cặp ngọn giáo và nách, giương cung bắn ra một mũi tên, trúng ngay
giữa mặt Trần Sinh.
Trần
Sinh té nhào xuống ngựa.
Trương
Hổ thấy Trần Sinh bị chết một cách độc ngột như vậy, tay chân bủn rủn, bị Hàn
Ðương chém một đao bay nửa cái sọ, óc văng ra ngoài.
Thắng
thế, Trình Phổ vội tế ngựa sang trận địch, định bắt sống Hoàng Tổ.
Hoàng Tổ
không còn tâm trí nào đề nghĩ cánh chống đỡ, vội bở bỏ mũ, bỏ luôn cả ngựa, lẫn
trốn vào đám tàn quân tẩu thoát.
Tôn Kiên
xua quân chém giết, đuổi đến tận bò sông Hán thủy rồi truyền lệnh gọi Hoàng Cái
đem chiến thuyền lên đống ở bến Hán giang, còn Tôn Kiên thì tiếp tục đánh Kinh
Tương
Hoàng Tổ
thâu thập tàn quân, đến ra mắ Lưu Biểu, nói rõ thế quân của Tôn Kiên mạnh lắm,
không sao cự nổi. Lưu Biểu lo sợ, cho triệu Khoái Lương vào bàn. Khoái Lương
nói:
- Ta vừa
bị thua một trận, quân sĩ đã nản lòng. Vậy chỉ nên đào hào sâu đáp lũy cao cố
thủ để tránh mũi giặc, rồi ngầm sai người qua Ký Châu để cầu cứu Viên Bản Sơ
giải vây mới được.
Thái Mạo
nói:
- Khoái
Tử Nhu bàn kế như vậy không xong! Quân giặc nay đã đên sát chân thành mà còn
đợi quân cầu cứu, chẳng lẽ chúng ta chờ chết hay sao? Tôi tuy bất tài cũng xinh
lãnh binh khai thành quyết một trận tử chiến.
Lưu Biểu
thuận lời, Thái Mạo dẫn hơn một vạn quân ra khỏi thành Tương dương, kéo tới
chân núi Hiệp sơn bày trận.
Tôn Kiên
kéo quân đắc thắng ồ ạt tiến đến. Thấy Thái Mạo cầm quân, Tôn Kiên chỉ vào mặt
Thái Mạo nói với các tướng:
- Thằng
kia là anh ruột người vợ kế của Lưu Biểu đấy! Ai ra bắt nó cho ta?
Trình
Phổ liền vung cây thiết quyền xà mâu đến đánh Thái Mạo.
Thái Mạo
mới chỉ đánh đỡ vài hiệp đã đuối sức, quay ngựa chạy dài.
Tôn Kiên
xua quân đuổi theo giết quân Kinh tương tơi bời, thây chết nằm ngổn ngang đầy
đồng.
Thái Mạo
chạy thoát vào thành Tương Dương đóng cửa, không dám nói đến chuyện giao binh.
Khái
Lương nói với Lưu Biểu:
- Thái
Mạo không nghe lời phải, khiến cho quân đại bại, nay phải chiếu quân luật mà
chém đầu làm lệnh.
Lưu Biểu
vì mới cưới em gái Thái Mạo, không nỡ gia hình nên bỏ qua việc ấy.
Tôn Kiên
kéo quân đến Tương dươntg liền chia quân vây chặct bốn cửa thành, đánh phá dữ
dội.
Trong
thành cố thủ không ai dám ra đánh.
Bỗng một
hôm có trận gió lốc thổi đến làm gãy ngọn cờ "Súy" ở trung quân.
Hàn
Ðương thất kinh nói với Tôn Kiên:
-Gãy cờ
là điềm chẳng làm, xin Chúa công hãy tạm ban sư.
Tôn Kiên
nói:
- Ta
đánh trận nào thắng trận ấy, thành Tương dương chỉ sớm tối về tay ta, há vì
chuyện gãy cờ mà thu quân sao?
Rồi
chẳng nghe lời Hàn Ðương, và thúc quân phá thành càng gấp.
Lúc ấy,
ở trong thành, Khoái Lương cũng đang bàn với Lưu Biểu:
- Ðêm
qua tôi xem thiên văn thấy một vì tướng tinh sắp sa xuống. Cứ theo phận dã mà
đoán thì vì sao ấy ứng vào Tôn Kiên. Vậy Chúa công nên gấp rút viết thư sang
cầu cứu Viên Bản Sơ đi.
Lưu Biểu
theo lời viết thư sang cầu cứu Viên Thiệu. Nhưng việc phá vòng vây đem thư ra
ngoài là việc khó.
Lưu Biểu
hỏi các tướng:
- Ai dám
xông ra vòng vây địch đem thư nầy đến Ký Châu?
Có một
viên kiện tướng là Lữ Công xin lãnh việc ấy. Khoái Lương bảo Lữ Công:
- Ngươi
đã có gan đi thì hãy nghe kế của tay đây: Ngươi hãy lựa năm trăm quân thiện xạ,
khi ra lọt vòng vây rồi phải chạy ngay đến núi Hiện sơn mà mai phục. Quân giặc
thế nào cũng đuổi theo. Ngươi chia một trăm người lên núi tìm những hòn đá dự
bị trên cao, một trăm người khác cầm cung tên vào phục trong rừng. Quân giặc
đuổi đến nơi, ngươi chớ chạy thẳng mà phải kéo ba trăm quân chạy quanh co,
loanh quanh chân núi, để dẫn giặc vào chỗ có mai phục, cho cung tên bắn ra, đá
núi tống xuống. Thắng giặc thì đốt pháo liên châu làm hiệu để trong thành đánh
ra tiếp ứng. Nếu giặc không đuổi thì đừng đốt pháo, cứ việc lên đường qua Ký
Châu. Ðêm nay chắc trăng không sáng lắm đâu. Ðợi lúc nhá nhem tối ngươi dẫn
quân ra khỏi thành là vừa.
Lữ Công
lãnh kế, sắp sẵn binh mã, chờ lúc trời sẫm tối bí mật mở cửa Ðông kéo ra. Bấy
giờ Tôn Kiên đang ngồi trong trướng, bỗng nghe có tiếng quân mã di động, vội
lên ngựa dẫn ba mươi tên quân kỵ ra khỏi trại để xem xét. Quân thám mã lại đến
báo:
- Có một
toán quân từ trong thành vừa thoát ra đang chạy thẳng về phía chân núi.
Tôn Kiên
sợ bỏ lỡ cơ hội, vội vã tức tốc đuổi theo, không kịp gọi thêm tướng sĩ, chỉ đem
có ba mươi tên quân kỵ có sẵn tới đấy.
Lữ Công
bấy giờ đã chia quân lên núi và vào rừng mai phục... Tôn Kiên phóng ngựa chạy
quá nhanh, nên chỉ chốc lát đã bỏ xa hẳn ba mươi tên quân kỵ lại phía sau. Thấy
đằng trước quân giặc không còn cách bao xa, Tôn Kiên hét lớn:
- Muốn
sống thì dừng lại!
Lữ Công
quay ngựa lại đánh. Nhưng chỉ đánh được một hiệp, Công lại bỏ chạy, lẻn vào
trong đường núi quanh co mà trốn.
Tôn Kiên
cứ đuổi theo mãi, nhưng khi đến sau núi thì còn thấy Lữ Công đâu nữa. Kiên toan
trèo lên núi nhìn xem thì bỗng đâu một hồi cồng nổi lên vang dậy.
Tức thì
đá trên núi ném xuống như mưa và tên trong rừng bắn ra như châu chấu.
Than ôi
Tôn Kiên! Thân thể bị tên, đá bắn loạn, đầu vỡ phọc óc, một người một ngựa chết
ở chân núi. Năm ấy Tôn Kiên mới ba mươi bảy tuổi.
Lữ Công
xuống chặn được cả ba mươi lính kỵ mã của Tôn Kiên, liền đánh giết hết, rồi nổi
pháo hiệu.
Trong
thành nghe tiếng pháo, Khoái Việt, Hoàng Tổ, Thái Mạo mở cửa thành, chia làm ba
đạo quân đánh ra.
Quân sĩ
Giang Ðông náo loạn, không biết đường nào mà chạy.
Hoàng
Cái đang giữ thuyền nới mé sông, nghe tiếng quân reo vang trời dậy đất, vội dẫn
quân kéo lên bờ gặp ngay Hoàng Tổ.
Mới đánh
được vài hiệp, Hoàng Cái đã bắt sống được Hoàng Tổ.
Còn
Trình Phổ thấy loạn liền hộ vệ tiểu chủ Tôn Sách tìm đường chạy.
Vừa ra
khỏi trại gặp ngay Lữ Công, Trình Phổ tế ngựa lại đánh nhau với Công.
Cũng chỉ
vài hiệp, Phổ đã đâm Công một xà mâu chết lăn xuống ngựa.
Hai bên
đánh nhau đến trời sáng mới thu quân về. Quân Lưu Biểu kéo vào thành.
Còn quân
Giang Ðông kéo về Hán thủy.
Bấy giờ,
Tôn Sách mới biết tin cha đã chết vì loạn tên, mà thi thể bị quân Kinh châu
khiêng vào thành mất. Sách bèn khóc rống lên rất thảm thiết.
Các
tướng sĩ cũng đều rơi lệ. Trình Phổ đến khuyên giải, Tôn Sách gạt lệ hỏi chư
tướng:
- Bây
giờ biết làm cách nào để lấy được thi thể của phụ thân ta đem về cố quận?
Hoàng
Cái nói:
- Tôi có
bắt dược Hoàng Tổ đây, nên cho một người vào thành giảng hòa với Lưu Biểu, và
hẹn đem Hoàng Tổ đổi lấy thi thể Chúa công.
Cái vừa
dứt lời, thì viên Quân lại là Hoàn Khải bước ra thưa:
- Trước
đây tôi có quen biết với Lưu Biểu, nay xin lãnh việc nầy đi sứ vào thành.
Tôn Sách
bằng lòng. Hoàn Khải vào thành ra mắt Lưu Biểu nói rõ việc giảng hòa và trao
đổi.
Lưu Biểu
nói:
- Thi
hài Văn Ðài ta đã cho tẩm liệm tử tế, bỏ vào áo quan rồi. Ngươi về bảo đem
Hoàng Tổ đến đây, rồi hai nhà cùng bãi binh, từ nay không xâm phạm bờ cõi nhau
nữa.
Hoàng
Khải bái tớ ra về, nhưng vừa bước xuống thềm, bỗng có Khoái Lương chạy đến can
Lưu Biểu rối rít:
- Không
nên! Không nên hòa! Tôi đã có kế lấy Giang Ðông rồi. Xin hãy chém đầu Hoàn Khải
trước, rồi sau hãy dụng kế của tôi.
Ðó chính
là
Ðuổi
địch Tôn Kiên vừa uổng mạng,
Cầu hòa
Hoàn Khải lại lâm nguy.
CHƯƠNG
8: VƯƠNG TƯ ÐỒ KHÉO DỤNG LIÊN HOÀN KẾ. ÐỔNG THỪA TƯỚNG NÁO LỘNG PHƯỢNG NGHI
ÐÌNH.
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
03/03/2014
Khoái
Lương nói với Lưu Biểu rằng:
- Ngày
nay Tôn Kiên đã chết, các con còn bé, nên thừa thế tiến quân nhanh lên, chỉ
đánh một trận là lấy được Giang Ðông. Nếu chúa công trả thây Tôn Kiên và bãi
binh về, để cho kẻ thù nuôi dưỡng sức khỏe, đó là cái vạ của Kinh Châu về sau
vậy!
Biểu
nói:
- Ta còn
có Hoàng Tổ ở bên ấy, sao nỡ bỏ được?
Lương
nói:
- Bỏ một
anh Hoàng Tổ vô mưu, mà lấy được cả Giang Ðông, việc gì mà còn phải cân nhắc?
Biểu lại
nói:
- Ta với
Hoàng Tổ là bạn tâm phúc với nhau, bỏ y là trái nghĩa.
Biểu cho
Hoàn Khải về, hẹn rằng hễ bên ấy tha Hoàng Tổ, thì bên nầy cho đem xác Tôn Kiên
về.
Tôn Sách
tha Hoàng Tổ, rồi sang rước linh cữu cha về, rút quân về Giang Ðông, táng cha ở
gò Khúc A.
Việc
tang xong, Tôn Sách dẫn quân về Giang Ðông với người hiền, dùng kẻ sĩ; khéo
nhún mình trọng người; hào kiệt bốn phương dần dần kéo đến theo Tôn Sách cả.
Trong khi ấy, Ðổng Trác ở Trường An được tin Tôn Kiên đã chết, mừng mà nói
rằng:
- Ta trừ
được một mối lo lớn trong lòng!
Trác hỏi
con Kiên bao nhiêu tuổi, có người thưa mười bảy tuổi. Trác không cho vào đâu;
từ bấy giờ lại càng kiêu căng tự xưng là thượng phụ, khi ra khi vào dùng toàn
nghi vệ thiên tử. Trác lại phong em là Ðổng Mẫn làm Tả tướng quân, tước vu hầu;
cháu là Ðổng Hoành làm Thị Trung, coi cả quân cấm binh. Tôn tộc họ Ðổng chẳng
cử già trẻ, ai cũng được phong tước hầu cả.
Cách
Trường An 250 dặm, Trác sai đắp một cái thành gọi là My , bắt hai mươi lăm vạn
dân phu đắp cao, dày, theo y như kiểu thành Trường An. Trong thành lại làm
những cung thất kho tàng, chứa được đủ lương ăn trong hai mươi năm; lại kéo gái
thanh tân tám trăm người chứa trong ấy; vàng, ngọc, gấm, vóc, trân châu chất
vào không biết bao nhiêu mà kể. Họ hàng Trác đều được đem vào cả trong thành.
Trác thì
đi đi về về Trường An, khi nửa tháng một lần, khi một tháng một lần. Công khanh
đưa đón thường phải đứng trực ở ngoài cửa Hoành Môn.
Trác
nhiều khi đặt trướng ở dọc đường, cùng với công khanh ăn tiệc.
Một hôm
Trác ra ngoài cửa Hoành Môn, các quan đi tiễn. Trác mời các quan ở lại uống
rượu, đoạn cho gọi mấy trăm hàng binh vừa dụ được ở đất Bắc đến. Trác sai đem
ra trước chỗ ăn tiệc, đứa thì đem chặt chân chặt tay, đứa thì đem khoét mắt xẻo
mũi, đứa thì đem cắt lưỡi, đứa thì đem bỏ vạc dầu đun. Tiếng kêu khóc vang lừng
trời đất.
Các quan
đang ăn tiệc, thấy thế người nào người nấy đều run cầm cập, đánh rơi cả đũa.
Trác vừa uống rượu vừa cười nói như không.
Lại một
hôm khác, Trác ở sảnh đài, hội cả bá quan, ngồi sắp ra hai hàng. Rượu uống được
độ vài tuần, thì Lữ Bố đi tắt vào, ghé vào tai Ðổng Trác nói thầm mấy câu, rồi
thấy Trác cười mà nói rằng:
- Ạ ra
thế!
Nói rồi
sai Lữ Bố lôi quan Tư Không, tên là Trương Ôn, đang ngồi dự tiệc, đem xuống nhà
dưới. Các quan không biết đầu đuôi thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu
bưng lên một cái mâm đỏ, giữa để đầu lâu Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía.
Ðổng Trác cười nói:
- Các
quan đừng sợ. Trương Ôn kết liên với Viên Thuật, toan hại ta. Nhân hai đứa gửi
thư cho nhau, đưa nhầm cho con ta là Lã Ôn Hầu, nên ta mới đem chém. Các quan
không có việc gì, đừng sợ.
Các quan
dạ dạ rồi lui về.
Quan Tư
Ðồ Vương Doãn, hôm ấy về đến phủ, nghĩ đến những việc trông thấy ở trong bữa
tiệc, ngồi đứng không yên. Ðến đêm khuya, trăng sáng vằng vặc, Doãn chống gậy
đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi, ngẩng mặt lên trời, mà khóc.
Chợt
nghe có tiếng người thở dài ở bên cạnh đình Mẫu Ðơn. Doãn rón rén lại nhìn xem
ai thì là một con hát trong phủ, tên là Ðiêu Thuyền.
Ðiêu
Thuyền từ thuở nhỏ được kéo vào phủ, học múa học hát, bấy giờ mới mười sáu
tuổi, đủ cả tài sắc. Doãn thương yêu như con đẻ. Doãn đứng nghe một hồi lâu,
mắng rằng:
- Con
này đã có tư tình gì đây?
Thuyền
quỳ xuống thưa rằng:
- Lạy
cha, con đâu có dám tư tình.
Doãn
hỏi:
- Không
có tư tình thì việc gì canh khuya lại ra đứng đây mà thở vắn than dài?
Thuyền
nói:
- Lạy
cha! Xin cho con bày tỏ nỗi lòng
Doãn
nói:
- Con
không được giấu giếm, phải nói cho thực.
Thuyền
nói:
- Con
nhờ ơn cha nuôi nấng, dạy bảo múa hát, lại được hậu đãi, dù thịt nát xương tan,
cũng không báo được muôn một. Gần đây con thấy cha mặt thảm mày chau, tất cha
có lo việc lớn gì trong nước, con vẫn không dám hỏi. Nhân chiều hôm nay con
thấy cha đứng ngồi không yên, cho nên con cũng buồn rầu mà thở dài, không ngờ
cha nghe thấy. Nếu cha có việc gì cần sai bảo đến con, dù chết con cũng không
ngại.
Doãn đập
gậy xuống đất nói rằng:
- Ai ngờ
cơ đồ nhà Hán lại ở trong tay con! Hãy theo cha đến nhà gác cha bảo!
Doãn đến
đó, đuổi hết tỳ thiếp ra, dắt Ðiêu Thuyền ngồi lên trên sập, rồi thụp xuống
lạy.
Ðiêu
Thuyền sợ hãi, cuối rạp xuống đất, thưa rằng:
- Sao
cha lại làm thế?
Doãn
nói:
- Con
hãy thương lấy sinh linh nhà Hán!
Nói rồi
khóc như nước suối chảy. Thuyền thưa:
- Vừa
rồi con đã thưa, cha có việc gì sai khiến, dẫu chết con cũng không từ.
Doãn lại
quỳ xuống nói:
- Hiện
nay trăm họ như bị treo ngược, vua tôi ngất ngưởng như trứng chồng, thật nguy
cấp, phi con không ai cứu được. Tặc thần Ðổng Trác sắp cướp ngôi vua. Văn võ
trong triều không ai nghĩ được kế gì. Ðổng Trác có một đứa con nuôi là Lữ Bố,
sức khỏe lạ thường. Ta xem hai tên ấy cùng là tuồng hiếu sắc. Nay ta muốn dùng
một kế liên hoàn: trước đem con gả cho Lữ Bố, sau lại đem con dâng cho Ðổng
Trác. Con ở trong, tùy cơ lập kế, ly gián hai bố con hắn, xui khiến thế nào cho
Lữ Bố giết Ðổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Ðó
là nhờ ở sức con, con nghĩ thế nào?
Ðiêu
Thuyền thưa:
- Con
xin thưa, dẫu chết con cũng không từ. Xin đem ngay con dâng cho chúng, con sẽ
lập mưu ở trong.
Doãn
nói:
- Việc
nầy nếu tiết lộ họ nhà ta sẽ chết hết!
Thuyền
thưa rằng:
- Xin
cha chớ lo. Nếu con không báo đền được nghĩa lớn, con sẽ chết dưới muôn vàn
ngọn giáo.
Doãn lạy
tạ.
Hôm sau
Doãn sai người đem ngọc minh châu, xưa nay vẫn cất kỹ một nơi, gọi thợ khéo,
làm một cỗ mũ vàng, mật sai người đem biếu Lữ Bố.
Bố mừng
rỡ, thân đến nhà Doãn tạ ơn.
Doãn làm
sẵn của ngon vật lạ đợi Bố đến. Doãn ra cửa đón rước vào hậu đường, mời ngồi
lên trên.
Bố nói:
- Tôi là
một tiểu tướng ở trong phủ, Tư Ðồ là là một vị đại thần trong triều, sao lại
quá tôn kính như vậy?
Doãn
nói:
- Nay
thiên hạ không có ai là anh hùng, tôi chỉ thấy duy có tướng quân mà thôi. Tôi
tỏ lòng tôn kính, không phải là tôn kính cái chức tước của tướng quân mà là tôn
kính cái tài của tướng quân đó.
Bố mừng
lắm, Doãn khẩn khoản mời rượu, khen lấy khen để mãi cái đức Ðổng Thái Sư và cái
tài Lữ Bố.
Bố cười
vang và uống rượu thỏa thích. Bấy giờ Doãn mới đuổi đầy tạ lui ra, chỉ để vài
người tỳ thiếp đứng hầu rượu. Khi Bố ngà ngà say, Doãn mới truyền rằng:
- Gọi
con em nó ra đây!
Một lát
hai thị tỳ đỡ Ðiêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy bước ra. Lữ Bố trông thấy
giật mình, hỏi:
- Người
nào vậy?
Doãn
nói:
- Ðó là
con gái nhỏ của lão, tên là Ðiêu Thuyền. Lão nay được ơn tướng quân có lòng hạ
cố mà coi như chỗ chí thân, nên lão sai nó ra để chào tướng quân.
Liền sai
Ðiêu Thuyền bưng chén rượu mời.
Thuyền
nâng chén rượu mời Bố. Hai bên nhìn nhau, đầu mày cuối mắt.
Vương
Doãn giả tảng say, nói:
- Con cố
mời tướng quân uống vài chén con nhé! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân
đấy.
Bố mời
Thuyền ngồi, Thuyền giả cách thẹn thùng, muốn lui vào, Doãn nói:
- Tướng
quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại.
Thuyền
khép nép, ngồi bên cạnh Doãn.
Lữ Bố
nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài chén.
Doãn mới
trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lữ Bố rằng:
- Lão
vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tỳ thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ
cố thương đến không?
Bố nghe
nói vội vàng đứng dậy, ra ngoài chiếu, tạ mà nói rằng:
- Nếu
được như thế, tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu.
Doãn
nói:
- Nay
mai xin chọn ngày lành tháng tốt, đưa nó đến phủ tướng quân.
Lữ Bố
mừng hớn hở, đưa mắt nhìn Ðiêu Thuyền.
Ðiêu
Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp lại.
Một chốc
tiệc tan, Doãn nói:
- Lão
phu muốn mời tướng quân nghỉ lại đây chơi, nhưng sợ Thái Sư sinh nghi.
Bố hai
ba lần tạ đi tạ lại, rồi lui về.
Ðược vài
hôm, Vương Doãn ở trong triều gặp Ðổng Trác, nhân thể không có Lữ Bố ở đấy bèn
thụp xuống đất lạy, nói rằng:
- Tôi
muốn rước Thái Sư quá bước lại nhà tôi xơi chén rượu, nhưng không biết Thái Sư
có lòng hạ cố chăng?
Trác
nói:
- Ðược
quan Tư Ðồ mời, tôi xin đến ngay.
Doãn lạy
tạ, về nhà trang hoàng nhà cửa lịch sự, bày đủ các món sơn hào hải vị; giữa
gian sảnh, kê một cái sạp : gấm vóc rải cả xuống đất, trong ngoài trướng rủ màn
che.
Buổi
trưa hôm sau, Ðổng Trác đến, Doãn mặc áo đại trào ra đón, lạy hai lạy rồi mời
vào.
Trác
xuống xe, tả hữu hơn một trăm người vác kích đi thẳng vào nhà, đứng xếp thành
hai hàng. Doãn xuống dưới thềm lạy hai lạy. Trác sai người dắt Doãn lên ngồi
bên cạnh.
Doãn
nói:
- Công
đức Thái Sư to lắm! Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng!
Trác
mừng lắm. Doãn sai tấu nhạc và dâng rượu, rất là cung kính. Ðến chiều Trác uống
rượu đã say, Doãn mời Trác vào nhà trong. Trác quát giáp sĩ lui ra. Doãn bưng
một chén rượu, mừng Trác rằng:
- Chúng
tôi thuở nhỏ có học thiên văn, đêm xem tượng trời, thấy khí số nhà Hán đã hết.
Thái Sư công đức đã vang lừng cả thiên hạ. Ngày xưa, vua Thuấn nối ngôi vua
Nghiêu, vua Vũ nối ngôi cho Thuấn. Thế là hợp lòng trời và lòng người lắm.
Trác
nói:
- Ta có
đâu dám mong như thế!
Doãn
nói:
- Xưa
nay người có đạo thay người vô đạo, người không có đức nhường người có đức, có
gì là không đúng.
Trác
cười và nói rằng:
- Nếu
mệnh trời về ta, Tư Ðồ phải làm nguyên huân.
Doãn lại
tạ.
Bấy giờ
đèn nến đốt sáng choang, chỉ có mấy đứa hầu gái đứng hầu rượu và dâng đồ ăn.
Doãn
nói:
- Phường
nhạc không đáng đem ra cung phụng Thái Sư. Nay có một con hát của nhà, xin Thái
Sư cho phép được gọi ra hầu.
Trác
nói:
- Hay
lắm!
Doãn mới
sai kéo bức màn ra, đàn sáo vang lừng, Ðiêu Thuyền đứng ở ngoài mành lượn múa
dịu dàng, ở ngoài trông vào thực là ngoạn mục.
Có bài
ca khen Ðiêu Thuyền như sau:
Người ở
cung Chiêu Dương đó nhỉ
Cánh
hồng bay phớn phở trên tay
Ðộng
Ðình chừng đã qua bay.
Lương
Châu vỗ nhịp nhẹ giầy gót sen
Một cành
gió tả hoa mềm
Mùi
hương ngào ngạt dày thềm vẻ xuân
Lại có một
bài thơ nữa khen rằng:
Én liệng
la đà nhịp phách ngà,
Mây bay
một áng diễu thềm hoa.
Mày ngài
gợi khách sầu man mác.
Vẻ ngọc
xui người dạ thiết tha,
Hồ dễ
ngàn vàng mua được miệng,
Lọ cùng
trăm báu xức vào da?
Rèm cao
múa đoạn ai nhìn trộm
Nào biết
Tương vương mấy kẻ là!
Ðiêu
Thuyền múa xong. Trác gọi lại gần.
Ðiêu
Thuyền ở ngoài thềm đi vào, lạy hai lạy.
Trác
thấy Ðiêu Thuyền dung nhan xinh đẹp bèn hỏi Doãn:
- Con bé
nầy là thế nào?
Vương
Doãn thưa:
- Bẩm,
nó là con hát ở phủ, tên là Ðiêu Thuyền.
Trác
hỏi:
- Biết
hát không?
Doãn sai
Ðiêu Thuyền gõ nhịp hát một bài.
Thật là:
Môi son
hé nở cánh đào tân
Ngọc
trắng hai hàng nhả ánh xuân
Ðầu lưỡi
đinh hương đường kiếm sắc
Rắp toan
chém cổ kẻ gian thần!
Ðổng
Trác khen nức nở.
Doãn sai
Thuyền dâng rượu.
Trác cầm
lấy chén rượu hỏi rằng:
- Xuân
xanh năm nay bao nhiêu?
Thuyền
thưa:
- Tuổi
tiện thiếp vừa đôi tám.
Trác
cười nói rằng:
- Thật
là người chốn thần tiên!
Doãn
đứng dậy thưa rằng:
- Chúng
tôi có ý định muốn dâng lên Thái Sư, không biết Thái Sư có nhận cho không.
Ðổng
Trác nói:
- Ơn ấy
ta biết lấy gì báo lại.
Doãn
nói:
- Nếu nó
được hầu hạ Thái Sư thì thực phúc cho tôi lắm.
Trác cảm
tạ hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Ðiêu Thuyền đến tướng phủ. Trác đứng dậy
cáo từ. Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về.
Doãn
cưỡi ngựa về đến xấp nữa đường, trông thấy hai bên đường có đèn đỏ, ở giữa là
Lữ Bố, cưỡi ngựa cầm kích đi lại. Lúc Vương Doãn đến, Bố dừng ngựa, một tay nắm
lấy áo Vương Doãn rồi hỏi to rằng:
- Tư Ðồ
đã gả Ðiêu Thuyền cho ta, nay lại đem Ðiêu Thuyền dâng cho Thái Sư, sao lại đùa
như thế?
Doãn vội
vàng ngăn Lữ Bố, nói rằng:
- Nói
chuyện ở đây không tiện, xin ngài hãy quá bước lại nhà lão phu.
Bố theo
Doãn về. Hai người dắt nhau vào nhà trong. Chào hỏi xong, Doãn nói:
- Sao
tướng quân lại trách lão?
Bố nói:
- Có
người nói vại ta rằng Tư Ðồ dùng xe đưa Ðiêu Thuyền vào tận tướng phủ, là cớ
làm sao?
Doãn
thưa:
- Rõ
khổ, tướng quân không biết! Hôm qua ở triều, Thái Sư bảo tôi rằng:
-Ta có
một việc phải đến nhà ngươi.
Vậy tôi
mới sửa soạn tiệc nhỏ đón tiếp.
Trong
khi uống rượu, Thái Sư hỏi:
-Ta nghe
ngươi có con gái tên là Ðiêu Thuyền, đã gả cho con ta là Lã Phụng Tiên. Có thực
không? Ðem con lão ra đây cho ta coi!
Tôi
không dám không vâng lệnh, phải gọi Ðiêu Thuyền ra lạy bố chồng.
Thái Sư
lại truyền rằng:
-Hôm nay
tốt ngày, để ta đem Ðiêu Thuyền về cho Phụng Tiên!
Tướng
quân thử nghĩ xem: Thái Sư thân hành đến nơi truyền bảo, lão phu sao dám gàn
trở!
Lữ Bố
nói:
- Quan
Tư Ðồ không có lỗi gì, tôi trót nghĩ lầm, ngày mai tôi xin mang roi đến chịu
tội.
Doãn lại
nói:
- Con
tôi có ít nhiều đồ nữ trang. Khi nào nó về phủ tướng quân, tôi sẽ mang đến.
Lữ Bố
tạ, rồi về.
Sáng hôm
sau, Bố ở nhà nghe ngóng, chẳng thấy tin tức gì, bèn sang tướng phủ, vào thẳng
nhà trong hỏi tin những người hầu.
Một
người thưa:
- Ðêm
qua Thái Sư cùng nghỉ với người hầu mới, bây giờ chưa dậy.
Bố giận
lắm, lẻn vào sau buồng nằm của Ðổng Trác để dò xem.
Bấy giờ
Ðiêu Thuyền đã dậy rồi, đang ngồi trong cửa sổ chải đầu, chợt trông xuống ao
trước cửa sổ, thấy bóng người cao lớn, đầu đội mũ bịt tóc, biết ngay là Lữ Bố,
Ðiêu Thuyền cố ý chau ngay đôi mày, làm ra dáng buồn bã, tay cầm khăn thỉnh
thoảng nâng lên lau nước mắt.
Lữ Bố
đứng nhìn hồi lâu rồi trở ra, một lát lại vào.
Ðổng
Trác ngồi ở trung đường, thấy Bố đến, hỏi rằng:
- Ở
ngoài không có việc gì chứ?
Bố thưa:
- Không.
Rồi đứng
hầu một bên. Trác ăn cơm, Bố liếc mắt dòm trộm, thấy trong rèm có người con gái
đi đi lại lại, hơi thò nửa mặt ngoảnh ra ngoài, liếc mắt đưa tình. Bố biết là
Ðiêu Thuyền, tâm thần mê mẩn.
Trác
nhìn thấy dáng điệu của Bố như vậy, trong lòng nghi hoặc liền bảo rằng:
- Phụng
Tiên không có việc gì, hãy lui ra!
Lữ Bố
bực tức trở ra.
Trác từ
khi được Ðiêu Thuyền, hơn một tháng trời không coi đến việc quan. Một bữa Trác
hơi khó ở, Ðiêu Thuyền hết lòng hầu hạ, mặc áo không lúc nào cởi đai, cố ý
chiều chuộng. Trác lại càng yêu quý hơn nữa.
Một hôm
Lữ Bố vào hỏi thăm, gặp lúc Ðổng Trác đang ngủ, Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường
thò nửa người ra, trông thấy Bố, lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Ðổng
Trác, và luôn luôn gạt nước mắt.
Bố cảm
thấy ruột như nát ra.
Trác
nằm, hai mắt lim dim, thấy Bố nhìn chòng chọc về phía sau chỗ mình nằm, quay
lại thì thấy Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường. Trác nổi giận mắng Bố rằng:
- Mày
ghẹo vợ yêu của tao à?
Bèn sai
tả hữu đuổi Lữ Bố ra và từ nay cấm vào nhà trong.
Lữ Bố
tức giận trở về, đi đường gặp Lý Nho, kể lại đầu đuôi.
Nho lập
tức vào ra mắt Ðổng Trác, nói rằng:
- Thái
Sư muốn lấy thiên hạ, sao lại vì một việc nhỏ mọn mà trách mắng Lã Ôn Hầu. Nếu
y thay lòng đổi dạ, việc lớn hỏng mất.
Trác
hỏi:
- Bây
giờ nên làm thế nào?
Nho nói:
- Sớm
mai gọi y vào, cho vàng lụa, dùng lời ngọt ngào an ủi y, thì sẽ không có việc
gì xảy ra nữa.
Trác
nghe lời, hôm sau cho gọi Lữ Bố vào nhà trong bảo rằng:
- Hôm
qua trong cơn đau yếu, tinh thần hoảng hốt ta có nói mấy câu, nhà ngươi đừng để
bụng.
Nói rồi,
sai đưa cho Lữ Bố mười cân vàng và hai mươi tấm gấm.
Bố lạy
tạ rồi về, nhưng từ lúc ấy tuy đứng hầu ở bên Ðổng Trác, mà ruột gan lúc nào
cũng vơ vẩn chung quanh Ðiêu Thuyền.
Khi Trác
đã khỏi bệnh, vào triều bàn việc, Bố vẫn cầm kích đi theo.
Một bửa,
Trác đang ngồi bàn việc với vua Hiến Ðế, Bố vác kích lẻn ra cửa sau, lên ngựa
chạy đến tướng phủ, buộc ngựa ở cửa phủ, cầm kích vào thẳng hậu đường, để tìm
Ðiêu Thuyền.
Thuyền
bảo:
- Hãy ra
vườn sau bên đình Phượng Nghi đợi thiếp!
Bố vác
kích đi trước, đứng bên bao lơn ở dưới đình chờ một hồi lâu, thấy Ðiêu Thuyền
rẽ hoa gạt liễu đi đến, chẳng khác gì tiên trên cung trăng.
Thuyền
sụt sùi khóc bảo Bố rằng:
- Tiện
thiếp tuy không phải Vương Tư Ðồ sinh ra, nhưng Tư Ðồ coi thiếp như con đẻ. Từ
khi gặp tướng quân được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn
nguyện lắm. Ngờ đâu Thái Sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận
không chết ngay được, chỉ vì chưa gặp được tướng quân để từ giả lần cuối cùng,
cho nên còn nhịn nhục sống đến bây giờ. Nay may được gặp nhau, thế là hả rồi.
Tấm thân đã nhơ nhuốc này không xứng đáng thờ người anh hùng, thiếp xin chết ở
trước mặt chàng để tỏ rõ tấm lòng thiếp!
Ðiêu
Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống.
Lữ Bố
vội vàng ôm ngay lấy Ðiêu Thuyền, khóc nói rằng:
- Lòng
nàng tôi biết đã lâu, chỉ hiềm chưa được nói với nhau đấy thôi!
Ðiêu
Thuyền gạt tay Lữ Bố ra, nói rằng:
- Kiếp
này thiếp không được làm vợ chàng, xin hẹn để kiếp sau!
Lữ Bố
nói:
- Nếu
kiếp nầy không lấy được nàng, tôi không phải là người anh hùng nữa.
Ðiêu
Thuyền nói:
- Thiếp
coi một ngày dài bằng một năm, xin chàng thương mà cứu vớt.
Bố nói:
- Tôi
lên đến đây, sợ thằng giặc già nó nghi, tôi phải đi ngay.
Thuyền
lôi vớt áo Lữ Bố lại nói rằng:
- Chàng
còn sợ thằng giặc già như thế, thiếp này không còn mong có ngày nào được trông
thấy trời và đất nữa!
Bố dừng
lại nói rằng:
- Ðừng
vội vàng, để tôi nghĩ cách đã.
Nói rồi
vác kích định đi ra.
Ðiêu
Thuyền níu lại nói rằng:
- Khi
tôi ở chốn buồng đã được nghe tiếng tướng quân, lừng lẫy như sấm rót vào tai,
tưởng rằng ở đời này chỉ có một người như thế chớ không có hai. Ai ngờ tướng
quân lới chịu dưới quyền áp chế của người khác!
Nói rồi,
nước mắt chảy xuống như mưa.
Lữ Bố
thẹn đỏ cả mặt, dựa kích một chỗ, quay lại ôm lấy Ðiêu Thuyền, dỗ dành an ủi.
Hai người quấn quấn quýt quýt không nỡ buông nhau ra.
Ðổng
Trác ở trên điện, bỗng ngoảnh lại không thấy Lữ Bố trong bụng nghi ngay, vội
vàng xin cáo từ lên xe về phủ. Thấy ngựa của Bố buộc trước cửa phủ. Trác bèn hỏi
lính canh cửa. Lính canh nói:
- Ôn Hầu
vào nhà sau.
Trác
mắng quân canh cửa, đi thẳng ngay vào hậu đường, không thấy Lữ Bố, Trác gọi
Ðiêu Thuyền cũng không thấy thưa. Trác hỏi người hầu gái. Người hầu gái thưa:
- Ðiêu
Thuyền ở trong vườn sau ngắm hoa.
Trác vào
vườn sau tìm, thấy Lữ Bố và Ðiêu Thuyền đang nói chuyện với nhau ở bên Ðình
Phượng Nghi, họa kích dựng một bên.
Trác
giận quát to một tiếng.
Bố thấy
Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy.
Trác vớ
ngay lấy ngọn họa kích đuổi theo. Bố chạy nhanh, Trác béo phục phịch, đuổi
không kịp, bèn cầm kích ném theo Lữ Bố. Bố gạt rơi xuống đất. Trác nhặt kích
lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa. Trác đuổi ra tận cửa vườn, thì một người xăm xăm
chạy đến, đâm sầm ngay vào Ðổng Trác. Trác ngã quay xuống đất.
Thế rõ
thực là:
Khi căm
xông thẳng trên mây tía.
Mình béo
lăn kền đến đất đen.
Chưa
biết người ấy là ai, xem hồi sau mới rõ
CHƯƠNG
9: TRỪ HUNG BẠO, LỮ BỐ GIÚP TƯ ÐỒ CHIẾM TRƯỜNG AN, LÝ THÔI NGHE GIẢ HỦ.
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
03/03/2014
Người đi
va vào Ðổng Trác, tức là Lý Nho.
Nho thấy
Trác ngã, vội vàng đỡ Trác đứng dậy, dìu vào ngồi trong thư viện.
Trác hỏi
Lý Nho:
- Ngươi
đến đây làm gì?
Lý Nho
thưa:
- Tôi
chợt qua cửa phủ, thấy nói Thái Sư giận đi vào vườn sau tìm Lữ Bố, tôi vội vàng
chạy vào, thì gặp Lữ Bố chạy ra, kêu lên rằng: Thái Sư giết ta. Bởi thế tôi hấp
tấp vào đây để can ngăn Thái Sư, chẳng may chạm phải Thái Sư, thật đáng tội
chết!
Trác
nói:
- Không
]�� 0� ng nghịch tặc ấy! Hắn dám đùa bỡn ái cơ của ta. Thế nào ta
cũng giết chết hắn mới nghe.
Lý Nho
can rằng:
- Thái
Sư không nghĩ cho chín; ngày xưa vua Trang Vương nước Sở, trong bữa tiệc
"Dứt dải mũ" đã tha tội cho Tưởng Hùng đã đùa bỡn với người vợ yêu
đến sau bị binh nhà Tần làm khốn, được Tưởng Hùng cố sức liều chết cứu thoát
được. Nay Ðiêu Thuyền chẳng qua là một đứa con gái mà Lữ Bố là một mãnh tướng
tâm phúc của Thái Sư, nếu Thái Sư nhân dịp này đem Ðiêu Thuyền cho Bố, chắc Bố
cảm ơn lắm, lấy chết báo lại Thái Sư, xin Thái Sư nghĩ đi nghĩ lại.
Trác
nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói rằng:
- Ngươi
nói cũng phải, để ta nghĩ kỹ xem.
Lý Nho
từ tạ rồi ra.
Trác vào
ngay hậu đường gọi Ðiêu Thuyền ra hỏi rằng:
- Sao
ngươi có tư tình với Lữ Bố?
Ðiêu
Thuyền khóc thưa rằng:
- Thiếp
đang đứng xem hoa, bỗng Lữ Bố đột ngột ở đâu đến. Thiếp vội vàng toan tránh. Bố
nói: Tôi là con Thái Sư, việc gì phải tránh? Rồi y cầm kích ép thiếp đến Ðình
Phượng Nghi. Thiếp thấy y có lòng bất lương, sợ xâm phạm tại mình thiếp, định
đâm đầu xuống ao sen tự vận, nhưng lại bị y ôm chặt lấy. Ðang lúc giằng co
không biết sống chết thế nào, may có Thái Sư chạy lại cứu được tính mệnh.
Trác lại
hỏi:
- Nay ta
đem ngươi gả cho hắn, ngươi có thuận không?
Ðiêu
Thuyền giật mình, khóc rằng:
- Thiếp
đã được vào hầu quý nhân, nay lại đem gả cho thằng ở, thiếp thà chết chứ không
chịu được nhục này!
Bèn rút
ngay thanh bảo kiếm treo ở vách, toan tự vẫn.
Trác vội
vàng giằng lấy thanh kiếm, ôm chặt lấy Ðiêu Thuyền và nói rằng:
- Ta nói
bỡn đấy mà!
Thuyền
nằm vào lòng Trác, bưng mặt khóc rằng:
- Ðây
hẳn là mẹo của Lý Nho, Nho với Bố hai đứa là bạn thân với nhau, nên Nho mới bày
ra mẹo này, không kể gì đến thể diện của Thái Sư và tính mệnh của tiện thiếp,
thiếp phải xẻ thịt chúng nó ra.
Trác
nói:
- Ta sao
nỡ bỏ nàng.
Ðiêu Thuyền
lại nói:
- Thái
Sư dẫu có lòng thương yêu, cũng không nên ở đây lâu, sợ bị Lữ Bố làm hại.
Trác dỗ
dành Ðiêu Thuyền rồi nói rằng:
- Ngày
mai chúng ta về My , cùng hưởng sung sướng, đừng lo gì nữa.
Thuyền
mới lau nước mắt lạy tạ.
Hôm sau
Lý Nho vào ra mắt, nói rằng:
- Hôm
nay tốt ngày Thái Sư nên đem Ðiêu Thuyền gả cho Lữ Bố.
Trác
nói:
- Chuyện
ấy ta đã nghĩ rồi. Lữ Bố với ta là quan hệ cha con, làm thế không tiện. Ta tha
tội cho Bố, ngươi nên truyền đạt cho Bố biết ý ta và tìm lời an ủi Bố, thế là
được rồi!
Nho nói:
- Thái
Sư đừng dễ mê hoặc vì một người đàn bà.
Trác
giận đổi sắc mặt mắng rằng:
- Thế
thì vợ con ngươi, ngươi có đem cho hắn không? Việc Ðiêu Thuyền cấm được nói
động đến nữa, còn nói ta sẽ chém đầu.
Lý Nho
trở ra, ngẩng mặt lên trời than rằng:
- Lũ
chúng ta chết cả về tay người đàn bà!
Ðời sau
có thơ rằng:
Tư Ðồ
khéo mượn khách má đào,
Chẳng
dùng gươm giáo, chẳng dùng dao
Hổ Lao
ba trận hoài bao sức,
Phượng
Nghi chiến thắng ấy lạ sao!
Ngày hôm
ấy Ðổng Trác hạ lệnh về My , trăm quan đều đi tống tiễn. Ðiêu Thuyền ngồi trên
xe, xa trông thấy Lữ Bố đứng ở trong đám đông người, mắt nhìn vào trong xe.
Thuyền
giả cách che mặt làm ra dáng đau khổ bi thảm.
Xe đã đi
xa. Lữ Bố còn cầm cương ngựa đứng trên gò đất, nhìn đám bụi mù mịt than tiếc
bực dọc. Chợt nghe sau lưng có người hỏi rằng:
- Ôn Hầu
sao không theo Thái Sư đi, lại đứng đấy nhìn xe mà than thở?
Bố quay
đầu lại xem ai, thì ra là Tư Ðồ Vương Doãn.
Chào hỏi
xong, Doãn nói:
- Tôi
mấy bữa nay, hơi khó ở, không đi đâu, cho nên chưa có dịp gặp tướng quân. Bữa
nay Thái Sư về My , nên tôi phải gượng ra tiễn, may sao lại gặp tướng quân. Xin
hỏi tướng quân làm sao lại đứng đây thở than?
Bố nói:
- Chỉ vì
con gái ông đấy!
Doãn giả
cách thất kinh hỏi rằng:
- Từ hôm
ấy đến nay con tôi vẫn chưa về với tướng quân à?
Bố nói:
- Thằng
giặc già ấy lấy làm thiếp của hắn đã lâu rồi!
Doãn lại
giả cách thất kinh:
- Không
ngờ lại như thế!
Bố bèn
đem chuyện kể lại đầu đuôi cho Vương Doãn nghe. Vương Doãn mặt ngửa lên trời,
chân dẫm xuống đất, thừ người ra không nói gì. Mãi hồi lâu, Doãn mới nói rằng:
- Không
ngờ Thái Sư lại làm việc cầm thú ấy...
Rồi kéo
tay Lữ Bố, nói rằng:
- Xin
tướng quân hãy đến nhà tôi nói chuyện.
Bố theo
Doãn về, Doãn mời Bố vào nhà trong kín đáo, sai làm rượu khoản đãi.
Bố lại
đem việc gặp Ðiêu Thuyền ở Ðình Phượng Nghi kể hết đầu đuôi cho Doãn nghe.
Doãn
nói:
- Thái
Sư làm nhục con gái tôi, cướp vợ tướng quân. Thiên hạ người ta sẽ chê cười cho,
nhưng người ta không chê cười Thái Sư đâu mà người ta chỉ chê cười tướng quân
và tôi thôi. Tôi già yếu chẳng kể làm gì, chỉ tiếc thay tướng quân là bậc anh
hùng tiếng tăm lừng lẫy một đời, mà phải chịu cái nhục này.
Bố nghe
nói, cơn giận bốc lên bừng bừng, nắm tay đấm xuống bàn, kêu một tiếng thật to.
Doãn vội
vàng nói rằng:
- Lão
trót lỡ lời... xin tướng quân nguôi giận!
Bố nói:
- Ta thề
sẽ giết chết thằng giặc già ấy để rửa nhục.
Doãn vội
vàng lấy tay bưng miệng Bố can rằng:
- Tướng
quân chớ nói, nhỡ ra có liên lụy đến lão.
Bố nói:
- Ðại
trượng phu sinh ra trong trời đất, lẽ đâu lại cứ ngậm ngùi chịu làm tôi tớ
người khác mãi ru!
Doãn nói
thêm một câu rằng:
- Tài
như tướng quân thì sao Thái Sư có thể kìm hãm được.
Bố lại
nói:
- Tôi
muốn giết thằng giặc già ấy, nhưng ngại rằng còn vương tình cha con, sợ người
sau chê cười chăng?
Doãn tủm
tỉm cười nói rằng:
- Tướng
quân họ Lữ, mà Thái Sư họ Ðổng, thử hỏi lúc Thái Sư cầm kích lao tướng quân ở
Ðình Phượng Nghi, liệu còn có tình cha con không?
Bố hăng
hái đứng lên nói rằng:
- Nếu Tư
Ðồ không dạy tôi câu ấy, suýt nữa tôi lầm.
Doãn
thấy Lữ Bố đã quyết tâm giết Trác bèn bảo Lữ Bố rằng:
- Giúp
nhà Hán, tướng quân mới thực là trung thần để tiếng trong sử xanh mãi mãi. Nếu
tướng quân giúp Ðổng Trác thì là phản thần, sẽ để tiếng xấu muôn đời.
Bố đứng
dậy lạy Vương Doãn nói rằng:
- Ý tôi
đã quyết rồi. Tư Ðồ không nên nghĩ nữa.
Doãn
nói:
- Tôi sợ
việc không xong thì vạ to.
Bố liền
rút con dao đeo ở mình, đâm một nhát vào cánh tay, chảy máu ra để thề.
Doãn quỳ
xuống lạy tạ, nói rằng:
- Hương
hỏa nhà Hán, nay không đến nỗi mất, đều là ơn tướng quân giữ kín, đừng để tiết
lộ ra. Khi nào việc đến nơi tôi sẽ có mưu kế. Lúc đó tôi sẽ xin báo cho tướng
quân biết.
Bố khẳng
khái nhận lời rồi trở ra.
Doãn lập
tức mời quan Bộc Sa là Sĩ Tôn Thụy, quan Tư Lệ Hiệu Úy là Hoàng Uyển đến để bàn
việc ấy.
Thụy
nói:
- Nay
vua mệt mới khỏi, nên sai một người nói khéo đến Mỵ mời Trác vào đây để bàn
việc nước. Một mặt lấy mật chiếu của thiên tử trao cho Lữ Bố, sai phục quân
trong cửa triều, đợi Trác vào đến nơi sẽ giết đi. Chước ấy là hơn cả.
Uyển
nói:
- Nhưng
có ai dám đi mời không?
Thụy
nói:
- Có
quan Kỵ Ðô Úy Lý Túc là người cùng quận với Lữ Bố. Vì Trác không thăng chức
cho, vẫn mang bụng oán tức, ta sai người ấy đi chắc Trác không nghi ngờ
Doãn cho
là phải, bèn mời Lữ Bố đến nhà bàn bạc.
Bố nói:
- Ngày
xưa xui ta giết Ðinh Nguyên cũng là người ấy. Nay hễ sai mà không đi, ta sẽ
chém ngay trước.
Các quan
mật sai mời Lý Túc đến. Bố bảo Túc:
- Xưa
ông xui tôi giết Ðinh Kiến Dương để về với Ðổng Trác. Nay Ðổng Trác trên dối
thiên tử, dưới hại sinh linh, tội ác đã nhiều, cả người và thần đều giận. Vậy
ông hãy mang chiếu thiên tử, triệu Trác vào chầu, rồi ta phục binh giết nó đi,
cố giúp nhà Hán, cùng làm trung thần nghĩa sĩ, ông tính thế nào?
Túc nói:
- Tôi
cũng muốn trừ thằng giặc ấy đã lâu, hiềm vì chưa gặp ai cùng lòng. Nay tướng
quân có bụng ấy, là trời giúp tôi đó. Tôi sao dám hai lòng?
Nói đoạn
Túc bẻ một cái tên ra thề.
Doãn
nói:
- Ông
làm nổi việc này, lo gì chẳng được quyền cao chức trọng.
Hôm sau
Túc dẫn vài mươi tên kỵ mã đến My , sai người báo tin cho Trác rằng có chiếu
thiên tử đến. Trác cho mời vào, Lý Túc vào lạy, Trác nói:
- Thiên
tử có chiếu gì?
Túc
thưa:
- Thiên
tử vừa mệt khỏi, muốn hội văn võ ở cung Vị Ương để bàn nhường ngôi cho Thái Sư,
nên sai tôi cầm chiếu này đến đây.
Trác
hỏi:
- Ý
Vương Doãn thế nào?
Túc
thưa:
- Vương
Tư Ðồ đã sai người đắp đền thụ thiện, chỉ mong đợi Thái Sư về.
Trác
mừng rỡ nói rằng:
- Thảo
nào đêm ta nằm mộng thấy một con rồng quấn vào mình. Hôm nay quả nhiên có tin
mừng. Dịp này không nên để lỡ.
Bèn sai
bốn tướng tâm phúc là Lý Thôi, Quách Di, Trương Tế, Phàn Trù lĩnh ba ngàn quân
phi hùng giữ My rồi ngay hôm ấy sắp xe kiệu vào kinh.
Trác
ngoảnh lại bảo Lý Túc:
- Hễ ta
làm vua thì cho ngươi làm chức Chấp Kim Ngô.
Túc lạy
tạ, xưng thần.
Trác vào
từ giả mẹ. Mẹ Trác bấy giờ đã hơn chín mươi tuổi, hỏi Trác:
- Con đi
đâu?
Trác
nói:
- Con
sắp đi nối ngôi vua nhà Hán. Nay mai mẹ sẽ lên làm Hoàng thái hậu đấy.
Mẹ Trác
nói:
- Ta mấy
hôm nay cứ nóng ruột giật mình, sợ không phải điềm hay!
Trác
nói:
- Mẹ sắp
làm quốc mẫu, chẳng trách giật mình!
Nói rồi
từ giã mẹ. Ðến lúc đi, bảo Ðiêu Thuyền rằng:
- Ta làm
thiên tử, sẽ lập nàng làm quý phi.
Ðiêu
Thuyền đã biết rõ mọi chuyện, giả cách hớn hở mừng rỡ, lạy tạ.
Trác lên
xe về Trường An, quân sĩ đi tiễn tiền hô hậu ủng. Ði chưa được ba mươi dặm, tự
nhiên xe gẫy một bánh. Trác xuống xe cưỡi ngựa, đi chưa được mười dặm, ngựa tự
dưng lồng lên gầm thét dữ tợn, lôi đứt dây cương.
Trác hỏi
Lý Túc:
- Xe gẫy
bánh, ngựa đứt dây cương, là điềm thế nào?
Túc nói:
- Thế là
cái điềm Thái Sư nối ngôi nhà Hán, thay cũ đổi mới. Từ nay Thái Sư sẽ ngồi kiệu
ngọc yên vàng.
Trác
nghe lấy làm lọt tai.
Hôm sau
đương đi bỗng có cơn gió dữ nổi lên ầm ầm, mây kéo nghịt trời, Trác lại hỏi
Túc:
- Thế là
điềm gì?
Túc nói:
- Chúa
công sắp lên ngôi rồng, cho nên mới có những ráng hồng mây tía, để thêm oai
trời.
Trác lại
mừng không lo gì nữa.
Khi Ðổng
Trác đến Trường An, trăm quan đều ra đón rướt, duy có Lý Nho cáo bệnh ở nhà
không ra đón.
Trác đến
tướng phủ, Lữ Bố vào mừng.
Trác
nói:
- Hễ ta
làm vua, Phụng Tiên sẽ thống lĩnh cả binh mã trong thiên hạ.
Bố lạy
tạ rồi nghỉ ngay ở dưới trướng.
Ðêm hôm
ấy, có một lũ trẻ đi ngoài đường hát rong, gió đưa tiếng hát vào tận màn.
Hát
rằng:
Thiên lý
thảo
Hà thanh
thanh
Thập
nhật bốc
Bất đắc
sinh!
(Cỏ ngàn
dặm
Sao xanh
xanh?
Trên
mười ngày
Chẳng
được sống)
Tiếng
hát nghe thực ai oán.
Trác
nghe thấy mới hỏi Lý Túc:
- Trẻ
hát như thế, hay dở thế nào?
Túc
thưa:
- Thế
nghĩa là họ Lưu sắp mất, họ Ðổng sắp lên.
Mờ mờ
sáng hôm sau Trác sai bày ghi vệ, rồi bắt kẻ hầu người hạ, đi theo vào trong
triều. Bỗng thấy một đạo quân áo xanh, khăn trắng, tay cầm một cái sào dài trên
buộc mảnh vải dài một trượng, hai đầu viết hai chữ khẩu .
Trác lại
hỏi Lý Túc:
- Người
ấy là người thế nào?
Túc nói:
- Hắn là
một thằng rồ.
Rồi bảo
tướng sĩ cứ việc đẩy xe đi.
Trác vào
đến triều, các quan đều mặc áo trào, đứng đón cả hai bên đường. Lý Túc tay cầm
thanh bảo kiếm, vịn xe Ðổng Trác đẩy đi. Ðến cửa Bắc Dịch, quân sĩ đều bị ngăn
cả lại ở ngoài cửa, chỉ có hai mươi người được đẩy xe đi vào.
Trác vào
khỏi cửa, thấy bọn Vương Doãn, ai nấy đều cầm kiếm đứng ở điện, sợ hỏi Lý Túc:
- Họ cầm
kiếm là ý gì?
LÝ Túc
không trả lời, cứ việc đẩy xe thẳng vào.
Vương
Doãn bấy giờ mới thét to lên rằng:
- Phản
tặc đã đến đây, võ sĩ đâu?
Hai bên
hơn một trăm võ sĩ kéo ra, người cầm gươm, kẻ vác dao, cùng đổ xô lại đâm Ðổng
Trác. Trác mặc áo giáp ở trong, giáo đâm không thủng, chỉ bị thương ở tay, ngã
xuống xe, Trác gọi to lên rằng:
- Con ta
Phụng Tiên đâu?
Lữ Bố
đứng ở đằng sau, nghe thấy gọi đến tên, bèn thét to lên một tiếng rồi chạy ra
nói rằng:
- Nay ta
vâng chiếu vua giết thằng giặc này!
Một ngọn
kích đâm trúng ngay cổ họng Ðổng Trác, Lý Túc liền cắt đầu Trác, lấy tay xách
lên.
Lữ Bố
tay trái cầm kích, tay phải thò vào bọc, lấy tờ chiếu ra, nói to lên rằng:
- Phụng
chiếu vua, giết được tặc thần là Ðổng Trác rồi, còn các người khác tha cho cả!
Các
tướng sĩ đều reo:
- Vạn
tuế!
Ðời sau
có thơ rằng:
Bá
nghiệp thành công hóa đế vương
Không
thành cũng vẫn được giàu sang
Ai biết
lòng trời không thiên vị
My thành
ra đất nát hoang.
Lữ Bố
lại hô lên rằng:
- Giúp
Ðổng Trác làm điều tàn ngược, đều tự Lý Nho cả, ai đi bắt nó cho ta?
Lý Túc
xin đi.
Chợt có
tiếng reo ngoài cửa triều rồi có người vào báo rằng:
- Người
nhà Lý Nho đã trói Lý Nho đem lại nộp.
Vương
Doãn sai điệu Lý Nho ra chợ chém; rồi lại sai đem đầu và thây Ðổng Trác đi
diễu, loan báo khắp các ngả đường cho mọi người cùng biết.
Thây
Trác to béo, quân sĩ lấy mồi cắm vào rốn đốt lửa làm đèn, mỡ chảy đầy cả ra
đường cái; nhân dân ai đi qua cũng lấy gạch đá ném vào đầu, lấy chân đạp vào
thây.
Vương
Doãn lại sai Lữ Bố cùng với Hoàng Phủ Tung, Lý Túc lĩnh năm vạn quân đến My bắt
người nhà Ðổng Trác và tịch biên gia sản.
Lý Thôi,
Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù, nghe tin Trác đã chết, mà Lữ Bố thì đến My ,
liền dẫn quân phi hùng, ngay đêm hôm ấy chạy ra Lương Châu.
Lữ Bố
đến My , trước hết tìm Ðiêu Thuyền.
Hoàn Phủ
Tung sai đem những con gái nhà lương thiện bị Ðổng Trác bắt hiếp vào làm tỳ
thiếp, tha cho về nhà cả. Còn bao nhiêu họ hàng thân thuộc nhà Ðổng Trác, không
cứ lớn bé già trẻ đều đem ra giết sạch. Mẹ Trác cũng bị giết, em Trác là Ðổng
Mẩn, cháu Trác là Ðổng Huynh cũng bị chém, đầu bêu đi các ngã ba. Lại tịch thu
những của cải chứa ở trong nhà, vàng vài mươi vạn lạng, bạc vài trăm vạn lạng,
vốc, nhiễu, châu báu, đồ đạc không biết bao nhiêu mà kể. Xong rồi Tung về báo
với Vương Doãn biết.
Doãn
khao thưởng quân sĩ thực to, mở tiệc yến ở lễ đường tướng phủ, họp cả các quan
lại uống rượu ăn mừng.
Ðang ăn
bỗng có người vào báo rằng:
- Thây
Ðổng Trác đang phơi ở chợ, bỗng có một người đến cúi xuống thây khóc vang lên.
Doãn
giận lắm, quát rằng:
- Giết
được Ðổng Trác, quan dân ai ai cũng mừng cả, đứa nào lại dám khóc? Võ sĩ đâu,
ra trói cổ hắn điệu vào đây ta hỏi?
Một lát
quân dẫn người khóc vào, tưởng là ai, hóa ra quan Thị Trung Sái Ung. Doãn tức
giận nói:
- Nay
trừ được thằng giặc Ðổng Trác đi, là may cho xã tắc lắm. Ngươi là bề tôi nhà
Hán, đã không mừng cho xã tắc, lại khóc thằng giặc là cớ làm sao?
Ung xin
nhận tội nói rằng:
- Tôi
tuy chẳng ra gì, cũng có biết đôi điều nghĩa lớn lẽ đâu lại theo Ðổng Trác.
Nhưng vì tôi với Trác có chút ơn tri ngộ, nên tôi tự cảm xúc thương khóc. Tôi
cũng biết như thế là có tội nặng. Nhưng xin ngài hãy rộng thứ cho: nếu bị thích
chữ vào mặt, chặt chân nhưng vẫn được sống chép nốt pho Hán sử để chuộc tội,
thì may cho tôi quá!
Các quan
tiếc Ung là người tài, ai cũng cố sức nói hộ. Quan Thái Phó là Mã Nhật Ðề cũng
ghé vào tai Doãn nói thầm rằng:
- Sái
Ung là người tài, không mấy đời có được. Ðể cho hắn sống làm nốt pho Hán sử
cũng là một điều hay! Vả lại Ung là một người hiếu hạnh, nay đem giết đi, e mất
lòng thiên hạ.
Doãn
nói:
- Ngày
xưa, vua Hiếu Vũ không giết Tư Mã Thiên. Sau để cho Tư Mã Thiên chép nốt sách
sử, vì thế cho nên mới có sách sử gièm pha truyền đến bây giờ. Nay đang lúc vận
nước suy yếu, chính sự nhầm lẫn, không nên để kẻ nịnh thần cầm bút ở bên mình
ấu chúa, chúng ta sẽ bị hắn chê cười.
Mã Nhật
Ðê không nói gì nữa, đi trở ra, nói riêng với các quan rằng:
- Vương
Doãn cũng không toàn mệnh được đâu! Người hiền là rường mối nhà nước, sách sử
là điển cố nhà nước. Bỏ cả rường mối, đứt cả điển cố, bền lâu làm sao được?
Doãn
không nghe lời Mã Nhật Ðê, sai bỏ Sái Ung vào ngục, bắt phải thắt cổ chết.
Các sĩ
phu bấy giờ nghe thấy chuyện, ai cũng thương khóc.
Người
đời sau bàn rằng Ung khóc Ðổng Trác đã là không phải, nhưng Doãn giết Ung thì
cũng là quá lắm.
Có thơ
than Ung rằng:
Ðổng
Trác chuyên quyền thật bất nhân
Ung sao
rước lấy vạ vào thân?
Bấy giờ
Gia Cát nằm trong núi
Ðâu chịu
ra thờ kẻ loạn thần?
Lý Thôi,
Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù trốn sang Thiểm Tây, sai người đến Trường An,
dâng biểu xin tha tội.
Vương
Doãn nói:
- Ðổng
Trác làm loạn, là bởi bốn đứa giúp cả. Nay tuy đại xá thiên hạ, duy bốn đứa ấy
không thể tha được.
Sứ giả
về báo Lý Thôi, Thôi nói:
- Xin
tha không được, thì cùng đi trốn cả là xong!
Mưu sĩ
là Giả Hủ bàn rằng:
- Các
ông bỏ quân mà đi trốn một mình thì chỉ một người đình trưởng, cũng bắt trói
lại được. Chi bằng ta dụ tập người Thiểm Tây, và quân mã của mình, kéo thẳng
vào Trường An đánh báo thù cho Ðổng Công. Ðược ra thì lấy danh nghĩa triều đình
mà hiệu lệnh thiên hạ. Ngộ thua, bấy giờ sẽ chạy cũng chưa muộn.
Bọn Lý
Thôi lấy làm phải, liền nói phao lên ở Tây Lương rằng:
- Vương
Doãn muốn giết sạch cả người ở Tây Lương.
Dân
chúng đều sợ hãi.
Lũ Lý
Thôi lại nói khích rằng:
- Chịu
chết uổng cũng vô ích, có ai theo ta làm phản không?
Dân
chúng xin theo cả. Bởi thế lũ Lý Thôi mộ được hơn mười vạn quân, chia làm bốn đường,
kéo vào Trường An. Ði đường lại gặp con rể Ðổng Trác là Trung Lang tướng Ngưu
Phụ, đem năm ngàn quân đi báo thù cho cha vợ.
Lý Thôi
hợp hai toán làm một, sai Phụ làm tiền khu đi trước, bốn tướng dần dần kéo đi
sau.
Vương
Doãn nghe thấy binh Tây Lương kéo đến bèn bàn với Lữ Bố. Bố nói:
- Tư Ðồ
đừng lo. Tôi coi chúng nó như đàn chuột!
Rồi cùng
với Lý Túc đem quân ra. Túc đi trước nghênh địch, cùng Ngưu Phụ đánh nhau một
trận.
Phụ
chống không nổi, thua chạy.
Chẳng
ngờ canh hai đêm hôm ấy, nhân lúc Túc không phòng bị, Ngưu Phụ kéo quân đến
cướp trại Lý Túc. Quân Túc rối rít bỏ trại chạy ra hơn ba mươi dặm, chết mất
quá nửa. Túc vào ra mắt Lữ Bố. Bố nổi giận mắng rằng:
- Sao
ngươi dám làm mất nhuệ khí của ta?
Nói rồi
liền chém đầu Lý Túc, treo đầu ở cửa quân.
Hôm sau
Lữ Bố tiến binh, cùng Ngưu Phụ đối địch. Phụ địch sao nổi được Bố, cho nên lại
thua chạy. Ðêm hôm ấy Ngưu Phụ gọi tướng tâm phúc tên là Hồ Xích Nhi bảo rằng:
- Lữ Bố
kiêu dũng lắm, thế khó địch nổi. Sao bằng ta không cho bọn Lý Thôi biết, ngầm
giấu vàng bạc, châu báu, đem vài ba người thân tín, bỏ trốn đi.
Hồ Xích
Nhi ưng thuận. Ngay đêm hôm ấy Ngưu Phụ nhặt nhạnh vàng bạc, châu báu bỏ trại
đi, chỉ đem ba bốn người đi theo. Ði đến một con sông, lúc sắp qua đó, Hồ Xích
Nhi trông thấy của cải ngốt mắt, muốn chiếm lấy một mình, liền giết Ngưu Phụ
đem đầu Phụ đến dâng Lữ Bố.
Bố hỏi
đầu đuôi, người đi theo khai rằng:
- Xích
Nhi giết Phụ để lấy của.
Bố giận,
lập tức giết ngay Xích Nhi.
Lữ Bố
dẫn quân tiến lên, gặp ngay quân mã Lý Thôi kéo đến. Bố không đợi cho bày trận,
vác kích tế ngựa thúc quân xông vào, quân Lý Thôi không chống được, lui hơn năm
mươi dặm, dựa vào sườn núi cắm trại.
Lý Thôi
cho mời Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù lại bàn rằng:
- Lữ Bố
tuy khỏe nhưng vô mưu, không lo sợ mấy. Nay ta đóng quân ở cửa hang, mỗi ngày
ra khiêu chiến một lần. Quách tướng quân thì lĩnh quân đánh ở mặt sau, bắt
chước lối Bành Việt quấy rối Sở ngày xưa. Nghe khua chiêng thì tiến binh, nghe
đánh trống thì rút quân. Trong khi ấy thì hai ông chia quân ra hai đường đi tắt
vào lấy Trường An. Bên nó đầu đuôi không tiếp ứng được nhau, tất nhiên sẽ thua.
Mọi
người dùng kế ấy.
Lữ Bố
dẫn quân đến dưới núi, Lý Thôi đem binh ra đánh, Bố hầm hầm xông vào trận. Thôi
lui chạy lên núi. Trên núi tên đá bắn xuống như mưa, Bố không lên được. Chợt có
người báo rằng:
- Quách
Dĩ ở đằng sau đánh lại.
Bố vội
vàng quay lại đánh, nhưng nghe thấy tiếng trống vang lên, quân Dĩ đã lui rồi.
Bố vừa toan thu quân, thì một chiên khua, quân Thôi trên núi lại đánh xuống. Bố
chưa kịp đối địch, đằng sau Quách Dĩ lại tiến lên đánh. Khi Lữ Bố trở lại thì
Dĩ lại đánh trống rút quân về. Lữ Bố tức đầy ruột, ròng rã bốn hôm, Bố muốn
đánh khống đánh được, muốn thôi cũng không thôi được. Ðang lúc tức mình có thám
mã lại báo rằng:
- Trương
Tế, Phàn Trù, hai cánh quân mã kéo vào Trường An, kinh thành nguy cấp lắm!
Bố vội
vàng thu quân về, Lý Thôi, Quách Dĩ nhân thế đánh dấn lại. Bố vội quá không
tham đánh nữa, chỉ tháo đường chạy về kinh cho nhanh, người ngựa xốn xáo tổn
thất khá nhiều. Khi Bố về đến Trường An, thấy quân giặc đông nghịt, chẳng khác
mây che mưa phủ, vây kín thành trì, Bố đánh không được. Quân sĩ thấy Bố hung
bạo, bỏ đi theo giặc khá nhiều. Bố lo lắm.
Vài hôm
sau, dư đảng của Ðổng Trác là Lý Mông, Vương Phương ở trong thành làm nội công
cho giặc, mở trộm cửa thành, bốn mặt giặc kéo ùa cả vào. Lữ Bố hết sức chống cự
không nổi, dẫn vài trăm quân kỵ mã đến trước của Thanh Tòa, gọi Vương Doãn bảo
rằng:
- Thế
nguy cấp lắm rồi, xin Tư Ðồ lên ngựa, cùng ra cửa quan với tôi, ta sẽ tìm kế
khác.
Doãn cứ
vững vàng nghiêm chỉnh như không, nói rằng:
- May ra
nhờ thần linh xã tắc nhà nước được yên là sở nguyện của tôi; nếu không tôi xin
đem thân cùng chết với nước. Gặp hoạn nạn mà bỏ trốn tránh để thoát thân, thì tôi
không làm. Xin Ôn Hầu vì tôi mà nói với các bạn ở Quan Ðông hết sức lo tính
việc nước.
Lữ Bố
hai ba lần giục. Doãn nhất định không đi.
Ðược một
lúc, các cửa thành lửa cháy ngùn ngụt, Lữ Bố phải bỏ cả vợ con, dẫn hơn một
trăm quân kỵ mã chạy ra ngoài cửa ải, đi theo Viên Thuật.
Lý Thôi,
Quách Dĩ thả cho quân tha hồ cướp bóc, Quan thái thường khanh Chủng Phất, quan
thái bộc Lỗ Quỳ, quan đại hồng lô Chu Hoàn, thành môn hiệu úy Thôi Liệt, việt
kỵ hiệu úy Vương Kỳ đều chết vì nạn nước.
Quân
giặc vây kín nội đình. Các thị thần tâu xin vua lên cửa Tuyên Bình để dẹp loạn.
Lúc vua lên cửa lũ Lý Thôi trông thấy lọng vàng, liền dừng ngựa lại, miệng hô
vạn tuế.
Vua Hiến
Ðế đứng trên lầu hỏi rằng:
- Các
ngươi chưa tâu xin, dám tự tiện vào Trường An, ý các ngươi muốn làm gì?
Thôi, Dĩ
ngẫng lên tâu rằng:
- Muôn
tâu bệ hạ, Ðổng Thái Sư là bầy tôi nhà vua tự dưng bị Vương Doãn mưu giết. Nay
chúng tôi đến tìm Vương Doãn để báo thù cho Ðổng công, chứ không dám làm phản.
Chúng tôi được trong thấy Vương Doãn xin rút quân ngay.
Vương
Doãn bấy giờ đứng ở cạnh vua, nghe thấy nói thế, tâu rằng:
- Tôi
nguyện vì nước giết Trác. Nay chẳng may sự đến thế này, xin bệ hạ đừng tiếc tôi
mà lỡ việc nước ra. Tôi xin xuống gặp hai tên giặc.
Vua dùng
dằng không nỡ. Doãn từ trên lầu Tuyên Bình nhảy xuống đất, quát to lên rằng:
- Vương
Doãn đây!
Lý Thôi,
Quách Dĩ rút gươm ra mắng rằng:
- Ðổng
Thái Sư có tội tình gì mà ngươi giết?
Doãn
nói:
- Tội
Ðổng Trác đầy trời suốt đất, nói sao cho xiết. Hôm hắn chết ở Trường An, từ
quan chí dân, ai là không mừng, các ngươi lại không biết à?
Thôi, Dĩ
lại hỏi rằng:
- Ừ,
Ðổng Thái Sư có tội đã đành, chúng ta thì có tội gì, sao xin tha cũng không
được?
Vương
Doãn chửi rầm lên mà mắng rằng:
- Nghịch
tặc nói làm chi cho lắm! Vương Doãn ta chỉ chờ chết mà thôi.
Thôi, Dĩ
giết Doãn ngay dưới lầu.
Sử quan
có thơ khen Vương Doãn rằng:
Vương
Doãn bày mưu hay,
Gian
thần bị giết ngay.
Thương
dân nên tức ruột,
Xót nước
lại chau mày.
Sao tỏ,
lòng trung giãi.
Mây cao,
khí nghĩa đầy.
Ðến nay
hồn vía ấy,
Quanh
quất Phượng Lâu này.
Lũ Lý
Thôi giết Vương Doãn xong rồi, một mặt sai người bắt cả họ hàng nhà Doãn giết
sạch.
Sĩ dân
ai nấy đều thương khóc.
Lý,
Quách lại bàn nhau rằng:
- Ðã đến
thế nầy, còn vua không giết nốt để mưu việc lớn, còn đợi đến bao giờ?
Hai đứa
cầm gươm reo to, kéo vào trong cung.
Thế rõ
thực:
Ðầu sỏ
tạ tội, tai nạn hết
Gặp quân
tặc đảng lại sinh nguy.
Chưa
biết tính mệnh vua Hiến Ðế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
CHƯƠNG
10: GIÚP NHÀ VUA, MÃ ÐẰNG KHỞI NGHĨA. BÁO THÙ CHA, TÀO THÁO CẤT QUÂN.
Truyện:
Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán
Trung
03/03/2014
Lý Thôi,
Quách Dĩ hai đứa muốn giết vua Hiến Ðế. Trương Tế, Phàn Trù can rằng:
- Không
nên! Nay ta vội giết vua như thế, tôi e rằng thiên hạ không phục. Không bằng cứ
để đấy, rồi dụ chư hầu vào trong cửa quan; trước hết trừ hết vây cánh, rồi sau
ta sẽ liệu, như thế mới tính xong được việc thiên hạ.
Lý Thôi,
Quách Dĩ nghe lời bèn đóng quân lại.
Vua ở
trên lầu phán hỏi rằng:
- Vương
Doãn đã bị giết rồi, sao quân mã chưa rút?
Lý Thôi,
Quách Dĩ thưa rằng:
- Muôn
tâu bệ hạ, chúng tôi có công với nhà vua, chưa được phong tước, cho nên chia
dám lui quân.
Vua phán
hỏi:
- Các
ngươi muốn được phong tước gì?
Lý,
Quách, Trương, Phàn bốn đứa cầu phong chức hàm gì, đều tự tay viết ra dâng lên,
đòi vua phải phong như thế. Vua bắt buộc phải nghe theo:
Lý Thôi
là Sa Kỵ tướng quân, Trì dương hầu, lĩnh Chức Tư Lệ Hiệu Úy, được dùng cờ tiết,
lưỡi phủ việt.
Quách Dĩ,
làm hậu tướng quân, Mỹ Dương Hầu cũng được dùng cờ tiết, lưỡi phủ việt.
Hai
người cùng giữ quyền chính trong triều.
Phàn
Trù, làm hữu tướng quân, Vạn Niên Hầu.
Trương
Tế, làm phiêu kỵ tướng quân, Bình Dương Hầu
Trương,
Phàm hai người lĩnh binh ra đóng đồn ở Hoàng Nông.
Còn lũ
Lý Mông, Vương Phương đều được phong làm Hiệu Úy.
Vua
phong xong, cả bọn tạ ơn, rồi lĩnh binh ra ngoài thành.
Bọn ấy
lại sai người đi tìm đầu và thây Ðổng Trác. Tìm được ít nhiều da xương vụn nát,
chúng lấy gỗ thơm, khắc thành hình thể, chắp ghép đâu vào đấy, cúng tế thực to,
áo mũ quan quách, dùng theo đám ma nhà vua, chọn ngày tốt làm lễ cất đám rước
sang táng ở My .
Táng
xong, bỗng nhiên trời nổi sấm sét, mưa to gió lớn, mặt đất ngập sâu vài thước.
Một tiếng sét đánh vào áo quan Ðổng Trác, đầu và thây bật cả ra ngoài.
Lý Thôi
đợi tạnh mưa, lại đem táng lại. Ðêm hôm ấy trời lại mưa to, sấm sét lại đánh
vào áo quan Trác như trước; ba lần cải táng không xong, da xương thịt vụn Ðổng
Trác bị mấy lần sét đánh tan tành.
Lý Thôi,
Quách Dĩ, cầm được quyền chính, tàn đãi dân chúng, trăm họ khổ sở điêu đứng.
Chúng lại mật sai những người tâm phúc hầu bên cạnh vua để dò la ý tứ.
Vua Hiếu
Ðế bấy giờ như ngồi trên chông gai.
Các quan
trong triều thăng giáng đều do hai đứa Thôi, Dĩ cả. Muốn thu phục lòng người,
chúng mời Chu Tuấn vào triều, phong làm chức Thái Bộc, cho dữ triều chính.
Một hôm
có người báo rằng:
- Thái
Thú Tây Lương là Mã Ðằng, Thái Sử Tịnh Châu là Hàn Toại, hai người dẫn hơn mười
vạn quân, kéo đến Trường An, nói rằng vào để đánh giặc.
Hai
người ấy vốn đã có sai người vào Trường An, mật kết với Thị Trung là Mã Vũ,
gián nghị đại phu là Chủng Thiệu, Tá Trung Lang Tướng là Lưu Phạm, để ba người
ấy làm nội ứng. Ba người mật tâu với vua phong cho Mã Ðằng làm chinh tây tướng
quân, Hàn Toại làm chấn tây tướng quân, trao cho mỗi người một tờ mật chiếu,
sai hợp sức nhau lại để đánh giặc.
Lý,
Quách, Trung, Phàn nghe tin hai cánh quân ấy sắp đến, họp nhau để bàn. Mưu sĩ
là Giả Hủ nói rằng:
- Hai
đám quân ấy từ xa đến, chỉ nên đắp thành cao, hào sâu cố thủ để chống lại, bất
quá chỉ độ trăm ngày, chúng cạn lương là phải rút. Bấy giờ ta sẽ kéo quân đuổi
theo, chắc chắn bắt được.
Lý Mông,
Vương Phương nói rằng:
- Kế ấy
không hay. Chúng tôi xin lĩnh một vạn tinh binh ra đánh; lập tức chém đầu Mã
Ðằng, Hàn Toại dâng dưới cờ.
Giả Hủ
nói:
- Hể mà
đánh nhau, tất ta thua!
Hai
người bảo Hủ rằng:
- Nếu
hai chúng tôi thua, xin chịu chém đầu. Nhưng nếu chúng tôi được, ông cũng phải
nộp đầu cho chúng tôi.
Hủ mới
bảo Lý Thôi, Quách Dĩ rằng:
- Phía
Tây Trường An, ngoài hai trăm dặm, có núi Trập Chất, đường ấy hiểm trở, nên sai
Trương Tế, Phàn Trù hai tướng ấy ra đóng đồn ở đấy giữ cho vững, rồi hãy để mặc
Lý Mông, Vương Phương lĩnh quân ra đánh.
Lý,
Quách nghe lời, điểm một vạn rưỡi quân mã giao cho Lý Mông, Vương Phương. Hai
người mừng rỡ, đem quân đi, ra khỏi Trường An hai trăm tám mươi dặm hạ trại
đóng quân ở đó.
Quân Tây
Lương đến, hai người dẫn quân ra đánh. Lúc hai bên dàn trận rồi Mã Ðằng, Hàn
Toại sóng ngựa cùng ra trước trận, trỏ Lý Mông, Vương Phương mắng rằng:
- Giặc
phản nước kia, ai ra bắt lấy nó!
Nói chưa
dứt lời, có tướng trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay
vượn, bụng beo lưng sói, tay cầm một ngọn giáo dài, mình cưỡi con ngựa cực đẹp,
từ trong trận tế ra.
Tướng ấy
vốn là con Mã Ðằng, tên là Mã Siêu, tự là Mạnh Khởi, mới có mười bảy tuổi, khỏe
mạnh không ai bằng.
Vương
Phương thấy Siêu còn bé khinh thường, nhảy ngựa lại đánh. Chưa được mười hiệp,
Mã Siêu đâm Phương chết ngã xuống đất, rồi quay ngựa trở về.
Lý Mông
thấy Phương chết, tế ngựa theo sau Mã Siêu để đánh trả thù. Siêu cứ lững thững
đi trở về làm ra vẻ không biết. Mã Ðằng ở cửa trận gọi to:
- Ðằng
sau có người đuổi theo.
Ðằng nói
chưa dứt lời, đã thấy Mã Siêu bắt sống Lý Mông ngay ở trên mình ngựa. Té ra
Siêu vẫn biết có Mông đuổi, lờ như không trông thấy, đợi cho Mông đến, phóng
đao ra đâm. Siêu mới tránh sang một bên. Mông đâm hụt, hai con ngựa giáp nhau.
Siêu bấy giờ mời quờ tay vượn ra bắt sống được Mông.
Quân Lý
Mông không có chủ, chạy trốn tán lạc cả.
Mã Ðằng,
Hàn Toại thừa thế đuổi đánh, thắng to, xông thẳng đến cửa thành hạ trại rồi đem
Lý Mông ra chém bêu đầu.
Lý Thôi,
Quách Dĩ thấy Mông, Phương cùng bị giết cả, mới tin là Giả Hủ có tài biết
trước, bấy giờ mới nhất định dùng kế của Hủ, chỉ giữ vững các cửa thành, mặc
bên kia khiêu chiến thế nào cũng không ra. Quả nhiên chưa được hai tháng, quân
Mã Ðằng, Hàn Toại cạn lương, hai tướng phải bàn nhau rút quân về.
Giữa lúc
ấy thì ở trong thành, đầy tớ Mã Vũ ra thú với lũ Lý, Quách, kháo rằng chủ nó
cùng với Lưu Phạm, Chủng Thiệu liên kết với Mã Ðằng, Hàn Toại để làm nội ứng.
Lý, Quách giận lắm bắt hết cả già trẻ, bé lớn ba nhà đem ra chợ chém, rồi mang
ba đầu lâu ra bêu trước cửa thành.
Mã Ðằng,
Hàn Toại thấy quân lương đã hết, nội ứng lại bị tiết lộ, phải nhổ trại đem quân
về.
Lý,
Quách sai Trương Tế đem quân đuổi Mã Ðằng, sai Phàn Trù đem quân đuổi Hàn Toại.
Quân Tây
Lương thua to, may được Mã Siêu đi hậu quân đánh lùi được quân Trương Tế.
Phàn Trù
đuổi Hàn Toại dần dần kịp, gần đến Trần Thương, Hàn Toại quan ngựa lại bảo Trù
rằng:
- Tôi
với ông người cùng làng với nhau, nay sao vô tình quá thế!
Trù thấy
nói, dừng ngựa lại nhìn rồi nói rằng:
- Có
lệnh trên sai, ta phải tuân theo!
Toại lại
nói:
- Tôi
lại đây cũng vì việc nước, sao lại quá bức bách nhau như thế?
Trù nghe
xong, quay ngựa lại, thu quân trở về, để cho Toại đi. Không ngờ có cháu Lý Thôi
là Lý Biệt đi theo sau, thấy Phàn Trù tra Hàn Toại, về mách với chú. Thôi giận
lắm, muốn đem binh ra đón đánh Phàn Trù.
Giả Hủ
lại can rằng:
- Nay
nhân tâm chưa được yên, mà cứ dấy binh mãi mãi không nên, sao bằng mở một tiệc
rượu, mời Trương, Phàn đến để mừng công, rồi đang cuộc rượu bắt Trù đem chém
chẳng phải khó nhọc gì.
Lý Thôi
ưng theo kế ấy, bèn mở tiệc mời hai người đến. Trương, Phàn hớn hở đến ăn yến.
Ðang
giữa tiệc Lý Thôi sầm mặt lại rồi nói rằng:
- Phàn
Trù sao dám tư thông với Hàn Toại, định làm phản hay sao?
Trù giật
nẩy mình, chưa kịp trả lời thì mấy tay đao phủ đã vào kéo Trù ra, chém ngay
trước tiệc.
Trương
Tế trong thấy khiếp đảm, cúi rạp xuống tận đất.
Lý Thôi
nâng Tế dậy mà nói rằng:
- Trù
mưu phản, nên ta phải giết. Ngươi là tâm phúc với ta, việc gì mà sợ.
Nói rồi
Thôi đem quân của Trù, giao cho Tế quản lĩnh. Tế dẫn quân về Hoằng Nông.
Từ khi
Quách Dĩ đánh được quân Tây Lương, chư hầu không ai dám chống lại, Giả Hủ lại
khuyên rằng:
- Phải
cốt giữ cho dân được yên; phải tin dùng những người hiền tài.
Từ bấy
giờ trở đi, triều đình mới hơi thấy có vẻ dễ chịu.
Nhưng
không ngờ lại có đám giặc Khăn Vàng ở Thanh Châu nổi dậy, tụ quân vài mươi vạn
khởi loạn, cướp bóc của dân. Thái Bộc là Chu Tuấn xin tiến cử một người để đi
dẹp giặc.
Thôi, Dĩ
hỏi ai, Tuấn nói:
- Muốn
phá giặc Sơn Ðông, phi Tào Tháo không xong.
Lý Thôi
nói:
- Bây
giờ Tào Tháo ở đâu?
Chu Tuấn
thưa:
- Hiện
Tháo đang làm Thái Thú Ðông Quận, trong tay có nhiều quân sĩ, giá sai người này
đi đánh giặc, thì không mấy bữa giặc sẽ tan.
Lý Thôi
mừng lắm, ngay đêm hôm ấy thảo tờ chiếu cho người mang ra Ðông Quận, sai Tào
Tháo cùng với tướng Tế Bắc là Pháo Tín đi đánh giặc.
Tháo
vâng chiếu họp với Pháo Tín, cùng tiến quân đánh giặc ở Thọ Dương.
Pháo Tín
vào đất giặc, bị giặc giết chết. Còn Tào Tháo đuổi giặc đến tận Tế Bắc, giặc
hàng vài vạn người. Tháo lại dùng ngay giặc làm tiền khu, quân đi đến đâu, giặc
hàng đến đấy.
Mới được
hơn một trăm ngày chiêu an được hơn bốn mươi vạn quân hàng. Vừa đàn ông, đàn bà
kéo lại theo Tháo hơn một triệu người. Tháo tuyển lấy những quân tinh nhuệ, đặt
riêng một cánh quân gọi là quân Thạch Châu, còn bao nhiêu đuổi về cho làm
ruộng.
Từ đó uy
danh Tào Tháo mỗi ngày một lừng lẫy, tiếng đồn về đến tận kinh, triều đình
phong cho Tháo làm Chấn Ðông tướng quân.
Tào Tháo
ở Duyện Châu chiêu mộ thu dùng những người hiền sĩ.
- Làng
Dĩnh Âm châu Dĩnh Xuyên, có một nhà hai chú cháu cùng đi theo Tào Tháo. Người
chu, họ Tuân tên Túc, tự là Văn Nhược, nguyên là con Tuân Côn. Úc trước đã thờ
Viên Thiệu, bây giờ bỏ Thiệu về với Tháo.
Tháo
cùng Úc nói chuyện xong rồi mừng lắm nói rằng: Người này là Tử Phòng của ta
đây!, rồi cho làm hành quân tư mã.
Người
cháu tên là Tuân Du, tên chữ là Công Ðạt, vốn có tiếng là một danh sĩ, trước đã
làm hoàng môn thị lang, sau bỏ quan về làng, nay theo chú sang với Tào Tháo,
Tháo cho làm hành quân giáo thụ.
Tuân Du
lại nói với Tháo rằng:
- Tôi
nghe ở Duyện Châu có một người hiền sĩ, vốn ở Ðông An, họ Trình tên Dục, tự là
Trọng Ðức, nhưng không biết bây giờ ở đâu? Người ấy chúa công nên dùng.
Tháo
nói:
- Ta đã
biết tiếng Trình Dục từ lâu.
Nói rồi
sai ngay người về tận Ðông An để hỏi cho được, thấy họ bảo rằng: Trình Dục đang
ở trong núi đọc sách. Tháo cho mời ra, Trình Dục đến bái kiến, Tháo mừng lắm.
Dục lại
bảo với Tuân Úc rằng:
- Tôi là
người quê kệch, học hành chưa được mấy, không xứng đáng với sự tiến cử của ông.
Nay tôi biết có một người cùng làng với ông, tên là Quách Gia, tự là Phụng
Hiếu, người ấy thực là hiền sĩ thời nay. Sao ông không triệu ra?
Úc sực
nhớ đến nói rằng:
- Suýt
nữa tôi quên mất người ấy!
Úc nói
chuyện ngay với Tào Tháo. Tháo cho đi mời Quách Gia. Gia đến Duyện Châu bàn
việc thiên hạ với Tào Tháo, rồi lại tiến Tháo một người nữa, dòng dõi vua Quan
Vũ, người ở Thanh Ðức, họ Lưu tên Hoa, tự là Tử Dương.
Tháo cho
mời Hoa đến. Hoa lại tiến hai người nữa, một người ở Sương Ấp, họ Mãn tên Sủng,
tự là Bá Ninh; người nữa ở Vũ Thành họ Lã tên Kiều, tự là Tử Khác.
Tháo
cũng đã biết tiếng hai người ấy, cho nên đặt ngay làm trung quân tùng sự.
Hai
người lại tiến Tháo một người nữa, họ Mao tên Giới ở Bình Kỳ, tự là Hiếu Tiên.
Tháo
cũng cho làm tùng sự.
Ðược ít
bữa lại có một tướng nữa, đem vài trăm quân mã lại xin theo Tháo, người ở Cự
Binh, tên là Vu Cấm, tự là Văn Tắc.
Tháo
thấy người ấy bắn cung cưỡi ngựa giỏi, võ nghệ hơn người, liền cho làm Tiền
Quân Tư Mã.
Một hôm
Hạ Hầu Ðôn lại dắt một người cực to lớn lại ra mắt Tào Tháo.
Tháo hỏi
ai, Ðôn thưa rằng:
- Người
ấy ở Trần Lưu, họ Ðiển tên Vi, sức khỏe không ai địch nổi. Trước Vi đã theo
Trương Mạc, liền giết vài mươi người rồi trốn vào núi ở. Tôi đi săn gặp Ðiển Vi
đang đuổi hổ nhảy qua suối, nay tôi đem về dâng chúa công.
Tháo
nói:
- Ta xem
người này, tướng mạo khôi ngô, tất là người có sức khỏe.
Ðôn lại
nói:
- Ðiển
Vi từng báo thù cho bạn, giết người xách đầu ra ngoài chợ, hàng mấy trăm người
không dám đến gần. Y sử dụng được hai ngọn kích sắt, nặng tám mươi cân, cắp
ngồi trên ngựa, vung múa nhẹ như bay.
Tào Tháo
lập tức sai Vi ra thử kích.
Vi cắp
đôi kích lên ngựa nhẹ nhàng đi lại như bay. Bỗng bấy giờ có một cơn gió to, lá
cờ lớn trồng dưới trướng lung lay sắp đổ. Quân sĩ lại xúm xít ôm giữ không nổi.
Ðiển Vi
thấy vậy, từ trên ngựa nhảy xuống, quát to một tiếng, đuổi quân sĩ lui ra, rồi
một tay nắm chắc lấy, cột cờ đứng im phăng phắc giữa luồng gió.
Tháo
thấy thế mừng nói rằng:
- Người
nầy thực là Ác Lai ngày xưa đây!
Liền cho
làm trướng tiền đô úy, cởi ngay áo gấm đang mặc cho Ðiển Vi, lại cho thêm một
con ngựa thực tốt và một bộ yên chạm.
Từ bấy
giờ bộ hạ Tào Tháo, văn có người tài, vũ có tướng giỏi, uy danh Tháo lẫy cả Sơn
Ðông, Tháo bèn sai Thái Thú Thái Sơn là Ung Thiệu, về quận Lương Gia đón cha là
Tào Tung.
Tung
trước ở Trần Lưu, từ khi loạn lánh sang ở Lương Gia. Bấy giờ tiếp được thư bèn
cùng em là Tào Ðức và người nhà hơn bốn mươi người, lại đem hơn một trăm đầy
tớ, ngồi mấy trăm xe, kéo nhau về Duyện Châu.
Lúc đi
qua Từ Châu, quan thái thú ở đấy là Ðào Khiêm, tên chữ là Cung Tổ, người ôn hậu
hòa nhã, vốn xưa nay vẫn muốn làm quen với Tào Tháo, nay thấy cha Tào Tháo đi
qua địa hạt mình bèn thân hành ra đón chào lạy cung kính, mở tiệc khoản đãi mấy
ngày liền. Lúc Tung đi, Khiêm thân đưa ra khỏi thành, rồi lại sai Ðô Úy là
Trương Khải đem năm trăm bộ binh đi hộ tống.
Khi Tung
và người nhà đi đến địa giới đất Hoa và Phí, bây giờ vào cuối hạ sang thu, bỗng
gặp cơn mưa to, phải vào nghỉ nhờ một ngôi chùa. Sư tăng trong chùa ra tiếp.
Tung thu xếp cho người nhà nơi ăn chỗ nghỉ rồi sai Trương Khải đem quân mã đóng
hai bên hành lang chùa.
Bị mưa
ướt cả quần áo và hành trang, quân sĩ đều kêu ca oán thán. Trương Khải mới gọi
những đầu mục thủ hạ đến một chỗ vắng bảo rằng:
- Chúng
ta vốn là dư đảng Khăn Vàng, bất đắc dĩ phải đầu hàng Ðào Khiêm. Từ ấy đến giờ
chưa thấy được lợi lộc gì. Nay của cải nhà họ Tào chất đầy bao nhiêu xe cộ, các
anh em muốn phú quý, cũng chẳng khó gì. Canh ba đêm hôm nay, chúng ta bổ cửa
chùa vào và giết hết cả nhà Tào Tung, lấy sạch của cải, rồi ta lại cùng nhau về
rừng làm nghề lạc thảo, kế ấy anh em nghĩ thế nào?
Quân sĩ
đều cùng thuận cả.
Ðêm hôm
ấy mưa gió chưa dứt. Tung đương ngồi bỗng nghe bên ngoài bốn mặt có tiếng hò
reo rầm rĩ, Tào Ðức cầm gươm ra xem việc gì, bị đâm chết ngay.
Tung vội
vàng dắt một người thiếp chạy vào buồng phương trượng, định nhảy qua tường đi
trốn, chẳng may phải người thiếp to béo không ra lọt. Tung vội vàng cùng người
thiếp ẩn vào trong chuồng tiêu, rồi cả hai đều bị loạn quân giết mất.
Ung
Thiệu là người Tào Tháo sai đi đón Tào Tung, chạy thoát, sang ở với Viên Thiệu.
Khải
giết hết cả nhà Tào Tung, lấy sạch của cải, đốt chùa, đem năm trăm quân trốn về
Hoài Nam.
Ðời sau
có thơ rằng:
A Man
vốn có tiếng gian hùng;
Hại cả
nhà Sa thật nhẫn lòng.
Bỗng
chốc gặp ngay người khác hại,
Lòng
trời báo ứng khiếp hay không?
Bấy giờ
bộ hạ Ung Thiệu có một người trốn được về báo với Tào Tháo.
háo nghe
tin khóc lăn xuống đất, mọi người vực dậy, Tháo nghiến răng lại nói rằng:
- Ðào
Khiêm hỡi! Dám thả cho quân giết cha ta. Thù này ngươi với ta không đội trời
chung được! Nay ta khởi hết đại quân, sang giết sạch cả Từ Châu mới hả được
giận này!
Liền sai
Tuân Úc, Trình Dục lĩnh ba vạn quân ở lại giữ Nhân Thành, Phạm Huyện, Ðông An,
còn bao nhiêu quân kéo cả đến Từ Châu, sai Hạ Hầu Ðôn, Vu Cấm, Ðiển Vi làm tiên
phong. Tháo hạ lệnh rằng:
- Hễ
đánh được thành trì nào, bao nhiêu dân trong thành đều phải đem giết nhẵn để
báo thù cho cha ta.
Bấy giờ
có thái thú ở Cựu Giang tên là Biên Nhượng, vốn là bạn thân với Ðào Khiêm, nghe
thấy Từ Châu có nạn, đem năm ngàn quân lại cứu.
Tháo
nghe thấy giận lắm, sai Hạ Hầu Ðôn đón đường giết chết Biên Nhượng.
Trần
Cung khi ấy làm tùng sự ở Ðông Quận, chơi rất thân với Ðào Khiêm, nghe thấy tin
Tào Tháo khởi binh báo thù cho cha, định giết cả dân Từ Châu, sáng tinh sương
hôm ấy đến xin vào ra mắt Tào Tháo.
Tháo
biết rằng Cung vào để nói cho Ðào Khiêm, đã toan không tiếp sau lại nghĩ đến ân
cũ khi xưa, nên phải mời vào. Cung vào nói rằng:
- Nay
tôi nghe thấy ông đem đại binh đến Từ Châu, báo thù cho tôn phụ, ông định đi
đến đâu giết sạch muôn dân, cho nên tôi đến đây xin trình bày một lời: Ðào
Khiêm vốn là hiền nhân quân tử, chứ không phải là đồ ham lợi quên nghĩa. Tôn
phụ chẳng may bị hại là tội của Trương Khải, chứ không phải tội của Khiêm. Vả
lại, dân chúng các châu huyện không có thù gì với tướng quân, xin tướng quân
nghĩ lại cho kỹ rồi sẽ làm.
Tháo nổi
giận nói rằng:
- Trước
kia ông đã bỏ ta mà đi, nay còn mặt nào lại trông thấy nhau? Ðào Khiêm hắn giết
cả nhà ta, ta thề moi ruột móc gan hắn ra, mới hả được giận. Ông làm thuyết khách
cho Ðào Khiêm, nhưng ta chẳng nghe, thì làm thế nào?
Trần
Cung từ biệt Tào Tháo trở ra, than rằng:
- Chuyến
này ta cũng không mặt nào trông thấy Ðào Khiêm nữa!
Nói rồi
giục ngựa sang với thái thú Trần Lưu là Trương Mạc.
Tào Tháo
đi đến đâu cũng cho quân tàn hại dân chúng đến đấy, đào mồ cuốc mả người ta, ai
ai cũng sợ.
Ðào
Khiêm ở Từ Châu nghe thấy Tháo giết dân hại lắm, bèn ngửa mặt lên trời mà khóc
rằng:
- Ta để
cho dân Từ Châu mắc phải nạn này, phải mang tội với trời đất!
Rồi lập
tức họp các quan lại để bàn. Tào Báo nói:
- Quân
Tào đã đến nơi, lẽ đâu ta lại ngồi khoanh tay mà chịu chết. Tôi xin giúp sứ
quân phá giặc.
Ðào
Khiêm bất đắc dĩ phải đem quân ra đón, xa trông thấy quân Tháo trắng xóa, tựa
hồ như sương sa tuyết tỏa, ở trung quân dựng hai lá cờ trắng, trên đề bốn chữ
to: Báo thù rửa hận.
Quân mã
dàn thành thế trận, Tào Tháo cưỡi ngựa ra, mình mặc đồ tang, trỏ roi thét mắng.
Ðào
Khiêm cũng cưỡi ngựa ra dưới cửa cờ, nghiêng mình, vái mà nói rằng:
- Ta vốn
muốn kết hiếu với minh công, nên mới sai Trương Khải đi hộ tống. Không ngờ
tướng giặc Trương Khải, ngựa quen đường cũ; đến nỗi xảy ra việc như thế. Quả
tình tội oan, xin minh công xét kỹ cho.
Tháo
quát mắng rằng:
- Thằng
già kia! Ngươi đã giết cha tao, còn dám nỏ mồm? Ai ra bắt sống thằng giặc già
kia vào đây!
Hạ Hầu
Ðôn nhảy ra.
Ðào
Khiêm vội vàng chạy về trận.
Ðôn xong
lại.
Tào Tháo
thúc ngựa ra đánh.
Hai ngựa
đang giao nhau, bỗng đâu nổi trận gió to, sỏi cát bay mù mịt; Hai bên đều thu
quân về.
Ðào
Khiêm vào thành bàn với quân sĩ:
- Quân
Tháo thế to, khó địch lắm. Ta nên tự trói mình, thân đến dinh quân Tào, tùy nó
hành tội, để cứu lấy dân trong quận Từ Châu!
Khiêm
nói chưa dứt lời, có một người tiến lên thưa rằng:
- Sứ
quân trấn thủ Từ Châu đã lâu, dân chúng ai cũng cảm phục. Nay quân Tào tuy
nhiều, nhưng vị tất đã phá được thành ngay. Sứ quân hãy cứ cùng với trăm họ giữ
thành cho vững. Tôi tuy rằng bất tài, nhưng dám hiến một kế nhỏ, làm cho Tào
Tháo chết không có chỗ chôn.
Ai nấy
giật mình hỏi kế làm sao?
Thế thực
là:
Bởi muốn
cầu thân nên kết oán
Ai hay
đất tuyệt có đường sinh!
Chưa
biết người hiến kế là ai, xem đến hồi sau sẽ rõ.
CHƯƠNG 11: LƯU HOÀNG THÚC CỨU KHỔNG
DUNG Ở BẮC HẢI LÃ ÔN HẦU PHÁ TÀO THÁO TẠI BỘC DƯƠNG.
Truyện: Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán Trung
03/03/2014
Người hiến kế cho Ðào Khiêm vốn là
người ở Ðông Hải, tên là My Chúc, tự là Tử Trọng.
Chúc nguyên là con nhà hào phú, một
bữa ra thành Lạc Dương mua bán, đi xe về đến nửa đường gặp một người con gái
xinh đẹp xin cho đi xe nhờ. Chúc xuống đi bộ, nhường xe cho người con gái ấy
ngồi.
Người ấy cứ nhất định mời My Chúc
lên ngồi. Chúc lên xe, ngồi thực nghiêm trang, mắt không trông ngang.
Ði được vài dậm, người con gái xin
xuống xe, từ giã My Chúc nói rằng:
- Ta là Hỏa Ðức tính quân ở phương
Nam, phụng mệnh Thượng Ðế xuống để đốt cháy nhà ngươi. Nay thấy ngươi đãi ta có
lễ phép, nên ta bảo cho ngươi biết trước. Ngươi nên về nhà mau, dọn dẹp hết đồ
đạc đi. Ðêm nay ta sẽ đến.
Nói rồi biến mất.
Chúc thất kinh, vội vàng chạy về,
trong nhà có gì dọn đi hết. Tối hôm ấy quả nhiên trong bếp phát hỏa, nhà cửa
cháy hết.
Chúc cũng vì thế mà đem gia tài phân
tán, cứu giúp người nghèo khó. Về sau Ðào Khiêm đón về cử làm biệt giá tùng sự.
Bấy giờ My Chúc hiến kế rằng:
- Tôi xin sang quận Bắc Hải cầu
Khổng Dung đến cứu. Lại xin sai một người nữa sang Thanh Châu cầu cứu Ðiền
Khải. Hai nơi ấy cho quân mã đến thì Tào Tháo tất phải lui.
Khiêm nghe lời, viết hai bức thư,
rồi hỏi:
- Dưới trướng có ai dám sang Thanh
Châu không?
Một người xin đi, là Trần Ðằng, tự
là Nguyên Long, người Quảng Lăng.
Nguyên Long đi rồi, My Chúc cũng đi
sang Bắc Hải, Ðào Khiêm tự mang quân giữ thành.
Khổng Dung, tự là Văn Cử, người làng
Khúc Phụ, nước Lỗ, là cháu đời thứ 20 đức Khổng Tử; con quan đỗ úy thái sơn là
Khổng Trụ. Dung vốn thông minh từ thuở nhỏ. Năm lên mười tuổi, Dung có vào yết
kiến quan doãn ở Hà Nam tên là Lý Ung. Lúc đến cửa, quan canh hỏi đi đâu, Dung
nói:
- Ta là thông gia với Lý tướng.
Khi vào đến nơi, Lý Ung mới hỏi:
- Tổ ngươi có họ hàng gì với tổ nhà ta?
Dung nói:
- Ngày xưa Khổng Tử từng hỏi Lão Tử về việc lễ, nhà Dung
với nhà ông chẳng phải đời đời thông gia với nhau là gì?
Ung lấy làm kỳ.
Ðược một hồi, có thái trung đại phu là Trần Vĩ đến chơi. Ung
trỏ vào Khổng Dung mà nói rằng:
- Ðứa bé này là kỳ đồng!
Trần Vĩ bĩu môi nói rằng:
- Những đứa thuở nhỏ thông minh như thế, ngày sau lớn vị
tất đã ra gì!
Dung liền ứng đối ngay rằng:
- Thưa ông, hẳn thuở nhỏ ông thông minh lắm!
Cả bọn đi với Trần Vĩ cùng cười ồ lên, mà nói rằng:
- Người này lớn lên tất là người giỏi trong đời.
Từ đấy Dung nổi tiếng, sau làm Trung Lang tướng, dần dần
được làm Thái Thú Bắc Hải.
Khổng Dung tính ưa thết khách, thường nói rằng:
- Trên chỗ ngồi lúc nào cũng đông khách, trong hồ lúc nào
cũng có rượu, thế là sướng nhất trần gian.
Dung ở Bắc Hải được sáu năm, dân chúng rất là yêu mến.
Hôm ấy Dung ngồi chơi với khách, có người vào báo rằng có
My Chúc ở Từ Châu muốn vào hầu.
Dung cho mời vào, hỏi có việc gì, Chúc đưa thư của Ðào
Khiêm ra, rồi nói rằng:
- Tào Tháo vây gấp lắm, xin minh công sang cứu cho.
Dung nói:
- Ta với Ðào Cung Tổ là chỗ chí thân, vả Tử Trọng lại
thân hành đến tận đây, lẽ đâu ta lại không cứu; nhưng ta với Tào Mạnh Ðức không
có thù oán gì. Vậy trước hết ta tưởng hãy nên sai người đưa thư giải hòa đã,
nếu Tháo không nghe, bấy giờ ta sẽ khởi binh.
Chúc nói:
- Tào Tháo cậy có nhiều quân, quyết không chịu hòa.
Dung liền sai một mặt thì điểm binh sẵn, một mặt cho
người đưa thư cho Tào Tháo.
Lúc đang bàn bạc, chợt có người vào báo rằng:
- Có dư đảng của đám Khăn Vàng ngày xưa, tên là Quản Hợi,
đem mấy vạn quân đến định phá thành.
Dung thất kinh, vội vàng điểm quân ra thành để nghênh
chiến.
Quản Hợi tế ngựa ra nói rằng:
- Bắc Hải nhiều lương, cho ta vay một vạn hộc, ta sẽ lui
quân ngay. Hễ không ta đánh phá thành trì, già trẻ sẽ không một người nào sống
sót.
Dung mắng mà nói rằng:
- Ta là bầy tôi nhà đại Hán, giữ đất của nhà đại Hán, có
đâu lại đem lương cho giặc.
Quản Hợi giận lắm, múa đao tế ngựa chạy thẳng vào đánh
Khổng Dung. Tướng Dung là Tôn Bảo, vác giáo nhảy ra địch, được vài hiệp bị Hợi
chém chết, quân Dung rối loạn, chạy cả vào thành, Hợi chia quân ra bốn mặt vây
thành.
Dung trong lòng bực tức, My Chúc cũng
buồn chán lắm.
Hôm sau, Khổng Dung lên thành trông
thấy thế giặc lạn mạnh, càng thêm lo phiền. Chợt thấy một người cưỡi ngựa vác
giáo xông vào đám giặc, tả xung, hữu đột như vào chỗ không người, rồi chạy
thẳng đến dưới thành, gọi to mở cửa.
Dung không biết là ai, chưa dám mở
cửa. Quân giặc xấn đế bờ hào, định vào giết người ấy, nhưng người ấy quay mình
lại đâm một lúc chết luôn vài chục đứa ngã ngựa. Chúng phải lui chạy cả.
Dung bấy giờ mới sai mở cửa mời vào.
Người ấy xuống ngựa, bỏ giáo, lên thẳng trên mặt thành, chào Khổng Dung, Dung
hỏi tên họ, người ấy thưa rằng:
- Tôi là người ở Hoàng Huyện, đất
Ðông Lai, họ là Thái Sử tên là Từ, tự là Tử Nghĩa. Mẹ tôi được đội ơn ngày
nhiều lắm. Hôm nọ tôi ở Liêu Ðông về nhà thăm mẹ.
Nghe tin giặc vây thành, mẹ tôi mới
bảo rằng: Ta đã nhiều lần đội ơn ngài, nay con phải đi cứu. Bởi vậy một mình
tôi cưỡi ngựa đến đây.
Khổng Dung mừng lắm.
Nguyên khi trước, Dung tuy không
biết mặt Thái Sử Từ, nhưng vẫn biết tiếng là anh hùng. Nhân thấy Từ đi vắng xa,
có mẹ già ở nhà, nhà cách thành hai mươi dặm, Dung thường sai người đem biếu
gấm lụa. Bà mẹ cảm cái đức ấy nên sai con lại cứu.
Dung kính trọng Thái Sử Từ hết lòng,
tặng một bộ áo giáp, ngựa và yên. Từ nói:
- Tôi xin mượn ngài một ngàn tinh
binh nữa để ra ngoài thành phá giặc.
Dung nói rằng:
- Ông tuy khỏe thực, nhưng thế giặc
to lắm, không nên coi thường.
Từ nói:
- Mẹ tôi cảm hậu đức của ngài, nên
sai tôi đến, nếu không phá được giặc, tôi cũng không còn mặt nào dám về trông
thấy mẹ. Vậy xin cứ để tôi ra, quyết một trận tử chiến.
Dung nói:
- Ta nghe có Lưu Huyền Ðức là anh
hùng đời bấy giờ. Giá mời được Huyền Ðức lại cứu, thì mới giải được vây. Chỉ
hiềm chưa biết nhờ ai đi cho được.
Từ nói:
- Xin ngài viết thư, tôi xin mang
đi!
Dung mừng, viết thư giao cho Từ.
Từ mặc áo giáp lên ngựa, lưng đeo
cung tên, tay cầm giáo, ăn no, sắm sửa đủ, mở cửa thành, phi ngựa ra đi.
Lúc gần đến bờ hào, quân giặc xúm
vào đánh. Từ đâm luôn chết mấy đứa, vượt qua vòng vây chạy ra.
Quản Hợi thấy có người ở trong thành
ra, tất là đi cầu cứu, liền đem vài trăm quân kỵ đuổi theo, tam mặt vây lại.
Từ dừng ngọn giáo, giương cung đặt
tên, bắn cả tám mặt, không phát nào là không có người ngã ngựa, giặc sợ không
dám đuổi nữa.
Từ thoát được, ngay suốt ngày đêm
đến Bình Nguyên, vào ra mắt Lưu Bị.
Thư lễ xong, Từ nói hết sự tình
Khổng Dung bị vây, rồi đưa thư ra. Lưu Bị xem thư xong, hỏi:
- Ông là ai?
Từ nói:
- Tôi là Thái Sử Từ, người nhà quê ở
Ðông Hải. Tôi với Khổng Dung không phải anh em họ hàng, cũng không phải láng
giềng làng mạc; chỉ vì nghĩa khí đối với nhau nên có ý chia xẻ ưu hoạn với
nhau.
Nay Quản Hợi bạo loạn, Bắc Hải bị
vây, không biết cậy vào đâu, nguy ở sớm tối. Khổng Dung nghe ngài là người nhân
nghĩa, hay cứu người khốn, giúp kẻ nguy, nên sai tôi xông pha giữa vòng giáo
mác, phá vòng vây đến đây cầu cứu ngài.
Lưu Bị tỏ vẻ tôn kính nói rằng:
- Khổng Bắc Hải cũng biết rằng trong
đời có Lưu Bị à?
Lập tức cùng Quan Vũ, Trương Phi
điểm ba ngàn tinh binh kéo sang Bắc Hải.
Quản Hợi thấy quân đến cứu, dẫn quân
ra đối địch. Lại thấy quân Lưu Bị ít nên khinh thường không sợ.
Lưu Bị cùng với Quan, Trương và Thái
Sử Từ cưỡi ngựa đứng ra trước trận. Quân Hợi hăm hở ra đánh.
Từ đang định xông ra. Quan Vũ đã
nhảy ra trước.
Hợi địch nổi sao được Quan Vũ; mới
được vài mươi hiệp, một nhát thanh long đao đã chém chết ngay Quản Hợi ở dưới
chân ngựa.
Từ, Trương hai ngựa cùng ra, hai
giáo đều múa, xông vào đám quân giặc, Lưu Bị thúc quân đánh riết.
Khổng Dung ở trên thành trông thấy
Từ, Quan, Trương ba người vào trong đám giặc, không ai đương nổi, xông xáo tựa
hồ như hổ giữa đàn dê, liền kéo binh ra thành, hai đầu đánh dồn lại, quân giặc
thua chạy, đầu hàng vô số, còn bao nhiêu tan vỡ cả.
Khổng Dung đón Lưu Bị vào thành,
chào lễ xong rồi, mở một tiệc yến thực to ăn mừng, lại dẫn My Chúc ra chào
Huyền Ðức.
My Chúc nhân thể nói việc Trương Khải
giết Tào Tung, nay Tào Tháo thả binh đến cướp phá Từ Châu, bởi vậy Ðào Khiêm
sai y đến cầu cứu Khổng Dung.
Lưu Bị nói:
- Ðào Cung Tổ là người quân tử,
không ngờ mắc phải oan nầy!
Dung nói:
- Ông là tôn thân nhà Hán, nay Tào
Tháo tàn hại trăm họ, cậy khỏe, khinh yếu. Sao ông không cùng với tôi đi cứu
Ðào Cung Tổ một thể?
Lưu Bị nói:
- Tôi đâu dám từ việc ấy, nhưng
tướng ít, binh yếu, lo rằng không làm nổi việc.
Dung lại nói:
- Tôi nay đi cứu Cung Tổ tuy là tình
bạn, nhưng cũng vì nghĩa lớn, ông há không có bụng trượng nghĩa hay sao?
Lưu Bị đáp:
- Có phải thế xin Văn Cử hãy đi
trước, khoan cho tôi còn sang Công Tôn Toản mượn thêm năm ba ngàn quân mã, rồi
sẽ đến sau.
Dung lại dặn:
- Xin ông chớ sai hẹn.
Huyền Ðức nói:
- Ông cho tôi là người thế nào!
Thánh nhân đã dạy rằng: Xưa nay ai cũng chết, nhưng không có tín thì không ra
người. Nay dù mượn được quân hay không, thế nào tôi cũng phải đến cứu Từ Châu.
Dung bằng lòng, sai My Chúc về báo
trước cho Ðào Khiêm, rồi thu xếp khởi hành.
Thái Sử Từ lạy tạ Khổng Dung, nói
rằng:
- Tôi vâng lời mẹ, sang đây giúp
ngài. Nay công việc xong xuôi cả rồi, thứ sử Dương Châu là Lưu Do, là người
cùng quận với tôi, có thư lại gọi, không đi không được. Xin để khi khác lại có
dịp gặp nhau.
Dung đem vàng lụa tạ ơn. Từ không
chịu lấy gì cả, ra về.
Mẹ Từ thấy Từ về, mừng nói rằng:
- Mẹ mừng cho con báo được ơn Bắc
Hải.
Nói xong lại sai Từ sang Dương Châu.
Nay không nói chuyện Khổng Dung khởi
binh sang cứu Từ Châu vội. Hãy nói chuyện Lưu Bị đến gặp Công Tôn Toản và nói
chuyện cả sự tình mình muốn sang cứu Từ Châu.
Toản hỏi rằng:
- Tào Tháo không có thù gì với ông,
tội gì ông lại đi giúp bên nọ đánh bên kia?
Lưu Bị nói:
- Tôi đã hứa với người ta rồi, thế
nào cũng phải đi.
Toản cho mượn hai ngàn quân mã. Lưu
Bị xin cho Triệu Tử Long đi theo. Toản bằng lòng.
Lưu, Quan, Trương dẫn ba ngàn quân
bản bộ của mình đi trước, Triệu Vân dẫn hai ngàn quân kéo đi sau, cùng đến Từ
Châu.
Trong khi ấy thì My Chúc về báo với
Ðào Khiêm rằng:
- Khổng Dung đến giúp, lại mời thêm
được cả Lưu Bị.
Trần Nguyên Long cũng về báo rằng:
- Ðiền Khải vui lòng đem quân sang
cứu.
Bấy giờ Ðào Khiêm mới hơi vững dạ.
Hai cánh quân Khổng Dung, Ðiền Khải
mới đến, sợ quân Tào mạnh thế nên ở đằng xa, dựa vào sườn núi đóng trại chưa
dám khinh tiến.
Tào Tháo thấy hai đám quân cứu viện
đã đến, cũng chia quân ra giữ, chưa dám kéo cả vào phá thành.
Lưu Bị đến sau, vào ra mắt Khổng
Dung, Dung nói:
- Quân Tháo thế lớn lắm, mà Tháo lại
khéo dùng mưu mẹo, ta không nên tiến vội, đợi xem tình hình thế nào đã.
Lưu Bị nói:
- Tôi chỉ lo trong thành không có
lương, khó giữ được lâu. Nay hãy xin sai Quan Vân Trường và Triệu Tử Long lĩnh
bốn ngàn quân ở đây với ông. Tôi thì cùng với Trương Phi kéo qua trại Tào Tháo,
đi tắt đến Từ Châu, để vào bàn với Ðào sứ quân.
Dung mừng lắm, hẹn nhau với Ðiền
Khải hai người lập thế ỷ giác, còn Vân Trường với Tử Long thì lĩnh binh để tiếp
ứng hai bên.
Lưu Bị, Trương Phi hai người dẫn một
ngàn quân mã, kéo qua bên cạnh trại Tào Tháo. Quân đang đi thấy trong trại nổi
một tiếng trống, quân mã, bộ kéo ra như nước vỡ, Vu Cấm đứng đầu, dừng cương
ngựa lại gọi to lên rằng:
- Bọn cuồng đồ xứ nào kéo đi đâu
đấy?
Trương Phi chẳng nói chẳng rằng,
xông thẳng vào đánh Vu Cấm. Hai bên đánh nhau được vài hiệp, Lưu Bị múa đôi
kiếm, kéo quân tràn lên, Vu Cấm thua chạy, Trương Phi đi đầu chém giết, rồi vào
thẳng đến dưới thành Từ Châu.
Trên thành trông xuống thấy lá cờ
đỏ, viết năm chữ trắng thực to: Bình Nguyên Lưu Huyền Ðức. Ðào Khiêm kíp sai
người mở cửa. Huyền Ðức vào thành, Khiêm tiếp đón, mời về phủ nha, thi lễ xong,
mở tiệc yến khoản đãi.
Ðào Khiêm thấy Lưu Bị diện mạo hiên
ngang, nói năng khoán đạt, trong bụng lấy làm mừng rỡ, sai ngay My Chúc đem cả
bài, ấn Từ Châu ra, xin nhường chức cho Lưu Bị. Lưu Bị ngạc nhiên hỏi:
- Thế này là ý ngài ra làm sao?
Khiêm nói:
- Nay thiên hạ rối loạn, rường cột
nhà vua không cất lên được. Ngài là Tôn thân nhà Hán, nên ra sức giúp nước. Tôi
nay già rồi, không làm gì được nữa, ngài chớ có chối. Tôi xin tự viết một bài
biểu dân lên triều đình.
Lưu Bị đứng ra ngoài chiếu lạy hai
lạy nói rằng:
- Bị tuy là dòng dõi nhà Hán, nhưng
công nhỏ, đức mỏng, làm một chức tướng ở Bình Nguyên còn sợ không nổi, nay vì
đại nghĩa đến giúp ông, sao ông lại dạy thế? Hay là ông ngờ tôi có bụng tham
lam gì chăng? Nếu tôi có bụng thế trời sẽ không thương tôi.
Khiêm nói rằng:
- Xin ngài chớ nghĩ thế, ấy là thực
tình của tôi.
Khiêm ba lần nhường, Lưu Bị nhất
định không chịu.
My Chúc thấy hai người, kẻ nhường
người chối, dùng dằng mãi, bèn tiến lên thưa rằng:
- Nay quân giặc ở dưới thành, xin
hai ngài hãy bàn kế phá giặc đã. Khi nào đánh tan được giặc rồi, bấy giờ xin
các ngài hãy nhường thành cho nhau.
Lưu Bị nói:
- Tôi hãy đưa thư cho Tào Tháo,
khuyên y giải hòa. Nếu y không nghe lời, bấy giờ ta sẽ đánh cũng không muộn.
Bèn truyền hịch cho ba trại hãy đóng
binh không được động vội. Rồi sai người đưa thư cho Tào Tháo.
Tháo đương ở trung quân, cùng các
tướng bàn việc, bỗng có người vào báo Từ Châu có chiến thư mang đến. Tháo mở ra
xem. Thư rằng:
Từ khi Bị được tiếp tôn nhau ở ngoài
cửa quan đến giờ, mỗi người một phương, không được gần gũi bên ngoài.
Vừa rồi tôn phụ Tào hầu bị hại, là
vì tên Trương Khải bất nhân, chớ không phải là tội Ðào Cung Tổ.
Hiện giờ, ngoài thì dư đảng giặc
Khăn Vàng quấy nhiễu; trong thì bè cánh Ðổng Trác làm loạn.
Xin minh công hãy lo việc triều đình
trước, rồi sau hãy nghĩ đến thù riêng, rút quân vây Từ Châu về, để cứu nạn
nước, thì Từ Châu may lắm, thiên hạ may lắm!
Tào Tháo xem thư xong, nổi giận mắng
rằng:
- Lưu Bị là ai, dám đưa thư lại ngăn
ta, trong thư lại có ý mỉa mai?
Nói rồi truyền đem chém sứ đưa thư,
rồi ra sức đánh thành.
Quách Gia can rằng:
- Lưu Bị từ xa lại cứu, trước dùng
lễ sau dùng binh, chúa công nên lấy lời tử tế đáp lại, làm cho Lưu Bị khinh
thường, phòng bị trễ nải, rồi ta sẽ tiến binh đánh thành, mới dễ phá được.
Tháo nghe lời, truyền thết đãi sứ
giã, rồi viết thư trả lời.
Ðang khi bàn bạc, chợt có ngựa lưu
tinh lại báo rằng:
- Lữ Bố đã đánh phá Duyện Châu, hiện
đang tiến binh chiếm cứ Bộc Dương.
Nguyên Lữ Bố từ khi gặp loạn Lý
Thôi, Quách Dĩ, trốn ra cửa Vũ Quan, định đi theo Viên Thuật. Thuật ghét Bố là
người phản phúc không dùng. Bố lại đến với Viên Thiệu, được Thiệu dung nạp.
Thiệu cùng Bố đánh tan Thường Sơn.
Từ ấy Bố lấy làm đắc chí, khinh nhờn những tướng sĩ của Thiệu. Thiệu giận muốn
giết. Bố lại bỏ sang với Trương Dương.
Dương dùng Bố. Bấy giờ Bàng Thư ở
Trường An, cứu được vợ con Lữ Bố, sai đưa lại trả. Lý, Quách biết, bèn chém
Bàng Thư, rồi đưa thư cho Trương Dương sai giết Lữ Bố. Bố lại bỏ Dương, sang
với Trương Mạc.
Giữa lúc ấy thì em Trương Mạc là
Trương Siêu đưa Trần Cung lại ra mắt Mặc.
Cung bảo Mạc rằng:
- Nay thiên hạ bị chia xẻ, anh hùng
đều nổi dậy, ông có đất ngàn dậm, sao lại chịu ở dưới quyền người khác, há
chẳng hèn lắm sao! Nay Tào Tháo đánh mặt đông, Duyện Châu bỏ trống, Lữ Bố là
dũng sĩ đời nay, giá ông cùng với Lữ Bố đánh lấy Duyện Châu, thì có thể làm nên
nghiệp lớn.
Trương Mạc cả mừng, liền sai Lữ Bố
ra phá Duyện Châu, rồi chiếm cả Bộc Dương, chỉ có ba xứ Nhân Thành, Ðông An,
Phạm Huyện là nhờ có Tuân Úc, Trình Dục lập kế cố giữ được, còn các xứ khác đều
bị phá vỡ cả. Tào Nhân đánh nhau mãi, nhưng đánh không nổi, vì thế phải cho đi
cấp báo với Tào Tháo.
Tháo nghe tin báo giật mình, nói
rằng:
- Nếu Duyện Châu mất, ta sẽ không
còn chỗ về nữa. Phải kíp lo toan ngay.
Quách Gia nói:
- Lúc này chúa công nên tỏ chút ân
tình với Lưu Bị, rút quân về lấy lới Duyện Châu.
Tào Tháo lấy làm phải, lập tức viết
thư đáp lại Lưu Bị, rồi nhổ trại lui binh.
Sứ giả về Từ Châu, vào thành gặp Ðào
Khiêm, đưa trình thư của Tào Tháo, rồi nói quân Tào đã lui. Khiêm mừng lắm, sai
người mời Khổng Dung, Ðiền Khải, Quan Vũ, Triệu Vân vào thành hội họp.
Yến tiệc xong, Khiêm mời Lưu Bị lên
ghế trên, chắp tay thưa rằng:
- Lão phu này tuổi già, hai con lại
không có tài, không kham nổi được việc lớn nước nhà. Lưu công là dòng dõi nhà
vua, đức rộng tài cao, nên nhận lấy Từ Châu. Lão phu tinh nguyện cáo về dưỡng
bệnh.
Lưu Bị nói:
- Khổng Văn Cử sai tôi đến cứu Từ
Châu là việc nghĩa. Nay bỗng dưng tôi giữ lấy Từ Châu, thiên hạ tất bảo tôi là
người bất nghĩa.
My Chúc nói:
- Nay vận Hán đã suy, đất nước rối
loạn, dựng công lập nghiệp chính ở lúc này. Từ Châu của giàu người nhiều, dân
đinh kể có trăm vạn. Lưu sứ quân không nên từ chối.
Lưu Bị nói:
- Việc ấy tôi quyết không thể vâng
mệnh.
Trần Ðăng nói:
- Ðào phủ quân nhiều bệnh lắm, không
sao coi nổi được công việc, xing minh công đừng từ chối.
Lưu Bị nói:
- Viên Công Lộ bốn đời làm tam công,
trong nước ai cũng trong mong. Nay Công Lộ ở Thọ Xuân, sao không tìm mà nhường?
Khổng Dung nói:
- Viên Thiệu là hạng người vô dụng,
chẳng khác một bộ xương khô trong mả, còn đáng để làm chi. Nay trời cho sứ quân
chẳng lấy, sau có hối lại cũng muộn.
Lưu Bị nhất định không chịu. Ðào
Khiêm khóc nói rằng:
- Nếu ông bỏ tôi mà đi, tôi chết
cũng không nhắm mắt được!
Vân Trường nói:
- Ðào Công đã nói hết điều, thực
lòng nhường cho, xin anh hãy nhận lấy việc châu.
Trương Phi cũng nói:
- Không phải là mình cố đòi lấy châu
quận của người ta. Người ta có bụng tốt nhường cho mình, việc gì cứ phải khăng
từ chối?
Lưu Bị nói rằng:
- Các em muốn hãm ta vào việc bất
nghĩa hay sao?
Ðào Khiêm hai ba lần nhường, Lưu Bị
cứ một mực không nghe.
Khiêm mới nói:
- Nếu ông nhất định không nghe thì
gần đây có một ấp gọi là Tiể Bái, có thể đóng đồn. Xin ông tạm đóng quân mà ở
đó bảo vệ Từ Châu. Ông nghĩ thế nào?
Mọi người đều khuyên Lưu Bị nên ở
lại ấp Tiểu Bái, Lưu Bị nhận lời.
Khiêm khao quân xong, Triệu Tử Long
cáo từ ra về. Lưu Bị cầm tay Triệu Tử Long rỏ nước mắt từ biệt.
Khổng Dung, Ðiền Khải cũng cáo biệt,
dẫn quân về.
Lưu, Quan, Trương cùng dẫn quân bản
bộ đến Tiểu Bái, sửa sang thành quách, phủ dụ dân cư ở đấy.
Tào Tháo kéo quân về, Tào Nhân ra
đón, nói rằng:
- Lữ Bố thế to, lại có Trần Cung
giúp. Duyện Châu, Bộc Dương mất cả, duy còn có Nhân Thành, Ðông An, Phạm Huyện,
ba xứ ấy nhờ có Tuân Úc, Trình Dục bày mưu đặt mẹo nên còn giữ được vững.
Tháo nói:
- Ta chắc Lữ Bố có sức khỏe nhưng
không có mưu mẹo, chẳng đáng lo lắm. Nay hãy lập trại đâu đấy, rồi sau sẽ bàn.
Lữ Bố biết Tào Tháo đem quân về, đã
đến Ðằng Huyện bèn cho gọi phó tướng là Tiết Lan và Lý Phong bảo rằng:
- Ta muốn dùng hai người đã lâu, nay
mới có dịp. Hai người dẫn một vạn quân, giữ lấy Duyện Châu cho vững, để ta đem
quân đi đánh Tào Tháo.
Hai người vâng lệnh. Trần Cung vội
vàng hỏi rằng:
- Tướng quân bỏ Duyện Châu, định đi
đâu?
Bố nói:
- Ta muốn đóng quân ở Bộc Dương, để
thành thế chân đinh.
Cung nói:
- Hỏng mất! Tiết Lan không giữ được
Duyện Châu. - phía nam đường này, cách đây một trăm tám mươi dặm, có núi Thái
Sơn. Chỗ ấy hiểm lắm, nên đem một vạn tinh binh phục ở đó. Quân Tào Tháo nghe
Duyện Châu mất, tất nhiên gấp đường tiến lên, thế nào cũng phải đi qua đó. Ta
đợi cho hắn kéo quân qua một nửa, đổ ra đánh một trận có thể bắt sống được Tào
Tháo.
Lữ Bố bảo rằng:
- Ta đóng ở Bộc Dương, còn một mẹo
hay hơn, ngươi biết đâu!
Bèn không nghe lời Trần Cung, sai
Tiết Lan giữ Duyện Châu, còn mình thì đem quân đi.
Khi Tào Tháo đem quân đến quãng
đường hẻm ở Thái Sơn, Quách Gia bảo rằng:
- Không nên đi vội. Chỗ này tất có
phục binh!
Tháo cười nói rằng:
- Lữ Bố là đồ vô mưu cho nên mới
giao Duyện Châu cho Tiết Lan giữ, còn hắn thì kéo quân sang Bộc Dương. Chỗ này
chắc không có binh phục. Tào Nhân đâu, hãy lĩnh một cánh quân vây lấy Duyện
Châu, để ta kéo quân lên đánh Lữ Bố ở Bộc Dương.
Trần Cung ở Bộc Dương với Lữ Bố nghe
thấy quân Tào đã đến gần, bèn thưa với Lữ Bố rằng:
- Quân Tào nay từ xa lại, tất mỏi
mệt cả, nên đánh ngay, đừng cho hắn nghỉ ngơi để dưỡng sức.
Bố nói:
- Ta một mình một ngựa tung hoành
khắp thiên hạ, có sợ gì Tào Tháo. Cứ để cho hắn đóng trại, ta sẽ bắn hắn cho mà
xem.
Quân Tào Tháo gần đến Bộc Dương, lập
vững doanh trại. Hôm sau Tháo đem chư tướng ra dàn trận ở ngoài đồng. Tháo cưỡi
ngựa đứng dưới cửa sổ, xa trông thấy binh Lữ Bố kéo đến.
Hai bên bày trận xong, Lữ Bố cưỡi
ngựa ra trước, hai bên có tám kiện tướng đứng kèm.
1. Trương Liêu, tên chữ Văn Viễn,
người ở Mã Ấp, quận Nhạn Môn.
2. Tang Bá, tên chữ Tuyên Cao, người
ở Hoa Âm, quận Thái Sơn.
Hai tướng ấy lại dẫn sáu tướng là
Hách Manh, Tào Tinh, Thanh Liêm, Ngụy Tục, Tống Hiến, Hầu Thành và năm vạn
quân. Trống đánh vang lừng.
Tháo trỏ Bố nói rằng:
- Ta với ngươi không thù hằn gì, sao
ngươi lại cướp châu quận của ta?
Bố nói:
- Thàng trì nhà Hán, người nào cũng
có phần, có phải của riêng của nhà ngươi đâu?
Liền sai Tan Bá tế ngựa ra đánh.
Bên Tào, Nhạc Tiến ra nghênh địch.
Hai ngựa giao nhau, đôi đao đều múa, đánh nhau được hơn ba mươi hiệp, chưa phân
được thua. Hạ Hầu Ðôn tế ngựa xông vào đánh giúp. Trương Liêu cũng vội ra đánh
chẹn lại. Lữ Bố nóng mắt vác kích phi ngựa xông vào trận. Ðôn, Tiến đều thua
chạy cả, quân Tào thua to, phải lui ba bốn mươi dặm.
Lữ Bố thu quân về.
Tào Tháo thua một trận, về trại,
cùng chư tướng luận bàn. Vu Cấm nói:
- Sáng nay lên núi trông thấy phía
tây thành Bộc Dương, Bố có một trại, ước chừng chỉ có một ít quân đóng. Ðêm nay
tất hắn tưởng ta vừa thua, không phòng bị gì. Ta nên dẫn quân ra đánh. Nếu lấy
được trại ấy, quân Lữ Bố tất sợ.
Tào Tháo nghe lời, sai sáu tướng là
Tào Hồng, Lý Ðiển, Mao Giại, Lã Kiền, Vu Cấm, Ðiển Vi, dẫn hai vạn quân mã bộ
liền đêm hôm ấy theo đường nhỏ kéo vào phía tây Bộc Dương.
Hôm ấy Lữ Bố về trại khao quân.
Trần Cung nói rằng:
- Trại mé tây là nơi khẩn yếu, nếu
Tào Tháo đến đánh úp thì làm thế nào?
Bố nói:
- Hôm nay hắn mới thua một trận, làm
sao còn dám đến!
Cung nói:
- Tào Tháo là một tay dùng binh thực
giỏi. Nên đề phòng hắn đánh bất ngờ.
Bố bèn sai Cao Thuận, Ngụy Tục và
Hầu Thành dẫn binh đến giữ trại phía tây.
Chập tối hôm ấy, Tào Tháo kéo quân
đến trại phía tây, bốn mặt ùa vào, quân giữ trại không chống nổi chạy toán loạn
cả.
Tháo cướp được trại, gần đến canh
tư, thì bọn Cao Thuận mới kéo quân đến. Tháo dẫn quân ra đánh. Hai bên đánh
nhau đến gần sáng. Chợt nghe tiếng trống rầm rĩ, Lữ Bố đem quân đến cứu.
Tháo bỏ trại chạy.
Ðằng sau Cao Thuận, Ngụy Tục, Hầu
Thành đánh thốc lên, mặt trước thì Lữ Bố kéo quân lại, Vu Cấm, Nhạc Tiến, hai
người địch Bố không nổi, Tháo cứ trông về phía Bắc mà chạy.
Sau núi có một toán quân kéo ra, tả
thì Trương Liêu, hữu thì Tang Bá. Tháo sai Lã Kiền, Tào Hồng ra đánh cũng không
lại. Tháo lại quay chạy về phía tây. Ðang chạy, chợt lại nghe thấy tiếng reo ầm
ầm, rồi thấy một toán quân đến. Ði đầu có bốn tướng là Hách Manh, Tào Tinh,
Thành Liêm, Tống Hiến kéo ra chẹn đường Tào Tháo. Các tướng Tào liều chết mà
đánh, Tào mới xông lên được trước. Bỗng nghe thấy tiếng mõ đánh, tên bắn ra như
mưa.
Tào Tháo không thể nào tiến lên được
nữa, không biết có cách gì thoát, vội kêu lớn rằng:
- Ai đến cứu ta?
Giữa lúc ấy, trong đội kỵ mã, có một
tướng nhảy ra là Ðiển Vi, hai tay cầm hai ngọn kích, kêu to lên rằng:
- Chúa công đừng lo!
Nói rồi nhảy tót xuống ngựa, cắp đôi
kích dài, lấy vài mươi ngọn đoản kích, nắm trong tay, ngoành mặt lại bảo người
đi theo rằng:
- Lúc nào giặc đến cách độ mười
bước, hãy gọi ta!
Rồi dang chân, bước nhanh, xông vào
mũi tên mà đi. Quân kỵ bên Lữ Bố vài mươi người xông đến, lính hô lên:
- Giặc còn cách mười bước rồi!
Vi nói:
- Cách năm bước hãy gọi!
Quân lại gọi rằng:
- Cách năm bước rồi!
Bây giờ Vi cầm kích ném ra, cứ mỗi
ngọn kích là quân Bố chết một người, không sai một ngọn nào, một lúc giết chết
vài mươi người. Quân Lữ Bố tan chạy, Vi lại cầm hai thanh kích lớn, nhảy lên
ngựa, xông vào đánh. Bốn tướng của Lữ Bố là Hách, Tào, Hẫu, Tống không địch nổi
đều chạy trốn cả.
Ðiển Vi đánh tan quân Lữ Bố, cứu
được Tào Tháo.
Các tướng theo sau cũng dần dần kéo
đến cùng nhau tìm đường về trại.
Trông trời đã tà tà về chiều, đằng
sau lại thấy tiếng reo, Lữ Bố phi ngựa cầm kích, đuổi theo xông đến gọi to lên
rằng:
- Thằng giặc Tào Tháo kia, đừng chạy
nữa!
Bấy giờ bên Tào người ngựa mỏi mệt,
mọi người nhạn nhác trông nhau, ai cũng muốn chạy thoát thân cả.
Thế là:
Ðã hay thoát khỏi vòng vây trước,
Còn sợ khôn đường giặc đuổi sau.
Chưa biết phen này Tháo sống chết
thế nào, xem hồi sau sẽ rõ
CHƯƠNG 12: CUNG TỔ BA LẦN NHƯỢNG TỪ
CHÂU MẠNH ÐỨC MỘT PHEN ÐÁNH LỮ BỐ.
Truyện: Tam Quốc Diễn Nghĩa
La Quán Trung
03/03/2014
Tào Tháo đang chạy luống cuống, may
đâu phía Nam có một toán quân kéo đến. Nguyên là Hạ Hầu Ðôn dẫn quân lại cứu,
chẹn ngang đường đánh nhau với Lữ Bố.
Ðánh nhau đến xâm xẩm tối, một cơn
mưa to như trút nước xuống, hai bên đều dẫn quân về.
Tháo về đến trại, trọng thưởng Ðiển
Vi, giao cho làm chức Lĩnh Quân Ðô Úy.
Lữ Bố về trại, cùng Trần Cung bàn
bạc, Cung nói:
- Trong thành Bộc Dương, có một nhà
giàu, họ Ðiền, đầy tớ hàng trăm, ngàn người, có tiếng ở trong quận này. Ta nên
khiến nhà ấy mật sai người đưa thư cho Tào Tháo rằng: "Lã Ôn Hầu tàn bạo
bất nhân, lòng người rất oán ghét; nay muốn đem quân sang Lê Dương; chỉ còn có
Cao Thuận ở trong thành, nên lập tức tiến ngay, ta xin làm nội ứng..." Nếu
Tháo đến, dụ cho vào trong thành, rồi bốn mặt phóng hỏa, ngoài đặt quân phục.
Tháo tuy có tài ngang trời dọc đất cũng không thoát được.
Lữ Bố nghe theo, mật dụ họ Ðiền đưa
thư cho Tào Tháo.
Tháo nhân lúc mới thua, còn đương lo
lắng, chợt có người vào báo họ Ðiền ở Bộc Dương sai người đưa mật thư đến.
Thư rằng:
"Lữ Bố đi sang Lê Dương, trong
thành bỏ không. Xin ngài đến ngay, tôi nguyện làm nội ứng. Trên thành cắm lá cờ
trắng, viết to một chữ "nghĩa" làm mật hiệu."
Tào Tháo cả mừng nói rằng:
- Trời cho ta Bộc Dương rồi!
Bèn trọng thưởng cho người đưa thư,
rồi lập tức thu xếp khởi binh.
Lưu Hoa nói rằng:
- Lữ Bố tuy vô mưu, nhưng có Trần
Cung nhiều mẹo lắm. Tôi chỉ sợ trong việc này có phần lừa dối; ta phải phòng
trước. Minh Công muốn đi thì nên chia quân ra làm ba đội. Hai đội phục ở ngoài
thành để tiếp ứng, một đội vào thành, như thế mới được.
Tháo nghe lời chia quân ra làm ba
đội, đến thành Bộc Dương. Tháo đi trước nghe ngóng, trông thấy trên mặt thành
cờ cắm đặc cả, trên góc cửa tây có một lá cờ trắng có chữ Nghĩa, trong bụng đã
mừng thầm.
Giờ ngọ hôm ấy, hai tướng trong
thành kéo quân ra đánh, tiền quân là Hầu Thành, hậu quân là Cao Thuận.
Tào Tháo sai Ðiển Vi cưỡi ngựa ra,
xông thẳng vào đánh Hầu Thành. Thành địch không nổi, quay ngựa chạy vào. Vi
đuổi xấn đến tận bên cầu hào. Cao Thuận chống không được cũng lui binh vào
trong thành.
Trong khi ấy có người trong thành,
thừa cơ chạy ra ngoài, đến ra mắt Tào Tháo nói là người họ Ðiền, đưa trình mật
thư, trong thư hẹn rằng:
"Ðêm nay, hồi canh một, trên
thành khua chiêng làm hiệu thì tướng quân tiến binh vào. Tôi làm nội ứng, dâng
thành."
Lý Ðiển can rằng:
- Chúa công nên đứng ở ngoài thành,
để chúng tôi vào.
Tháo nói to rằng:
- Ta không đi thì ai chịu xông lên
trước?
Nói rồi tự lĩnh binh xông thẳng vào.
Bấy giờ mới đầu canh một, trăng chưa lên, chỉ nghe thấy trên cửa tây có tiếng
tù và, rồi lại có tiếng reo. Trên cửa lửa đốt sáng rực; cửa thành mở to; cầu
treo bỏ xuống.
Tào Tháo tế ngựa lên trước, đi thẳng
đến tận nha thự, trên đường chẳng thấy một người nào cả. Tháo biết là mắc mưu,
vội vàng quay ngựa trở lại hô quân lui ra.
Lúc ấy trong châu nha có một tiếng
pháo nổ, bốn cửa thành lửa cháy rực trời; trống đánh vanh lừng, người reo rầm
rĩ, như sóng cồn bể réo. Mé Ðông, Trương Liêu trổ ra, mé Tây Tang Bá chạy lại,
hai bên đánh dồn vào. Tháo chạy ra cửa Bắc, lại bị Hách Manh, Tào Tinh đánh cho
một trận. Tháo chạy ra cửa Nam, lại bị Cao Thuận, Hầu Thành chẹn đánh, may có
Ðiển Vi trợn mắt nghiến răng, xông vào đánh cứu. Cao Thuận, Hầu Thành phải chạy
ra ngoài thành. Ðiển Vi đuổi ra đến cầu treo, ngoảnh lại không thấy Tào Tháo.
Vi lại đánh vào trong thành, đến cửa
gặp Lý Ðiển, Vi hỏi:
- Chúa công đâu?
Ðiển nói:
- Ta cũng tìm không thấy.
Vi bảo Ðiển:
- Ngươi ra ngoài thúc quân ứng cứu,
ta vào tìm chúa công.
Lý Ðiển đi ra, Ðiển Vi vào thành,
tìm mãi không thấy, lại đánh trở ra, ra khỏi bờ hào gặp Nhạc Tiến. Tiến hỏi:
- Chúa công đâu?
Vi nói:
- Tôi vào ra hai lần rồi, tìm chúa
công mãi không thấy.
Tiến nói:
- Hai chúng ta phải cùng đánh vào để
cứu chúa công.
Hai người cùng trở vào, đến bên
thành, thì hỏa pháo trên thành rơi xuống ngựa, Nhạc Tiến không sao vào được.
Ðiển Vi xông pha khói lửa, lại vào thành đi tìm Tào Tháo.
Tào Tháo nhìn thấy Ðiển Vi đánh đến
tìm mình nhưng Tháo bị bốn mặt quân mã chẹn chung quanh nên không tìm được
đường cửa Nam, đành phải chạy về cửa Bắc, thế nào gặp ngay Lữ Bố, nhưng trong
bóng lửa nhấp nhoáng, Bố không biết là ai.
Lữ Bố cầm kích tế ngựa lại. Tháo lấy
tay che mặt ra roi tế ngựa đi thẳng. Lữ Bố ở đằng sau xấn ngựa lên, cầm ngọn
kích gõ vào mũ Tào Tháo hỏi rằng:
- Tào Tháo ở đâu?
Tháo trỏ tay nói rằng:
- Người cưỡi ngựa vàng ở đằng trước
kia.
Bố tế ngựa đuổi theo người đằng
trước. Tào Tháo quay ngựa lại chạy ra cửa Ðông, may gặp ngay Ðiển Vi.
Vi hộ vệ Tháo, mở một đường máu ra
được đến cửa thành.
Chung quanh thành lửa cháy ngùn
ngụt, cỏ rác chồng chất khắp cả, chỗ nào cũng có lửa.
Ðiển Vi cầm kích gạt lửa ra hai bên,
tế ngựa xông vào khói lửa ra trước. Tháo cũng theo sau ra được. Vừa đến cửa
thành, có một cái xà cháy trên nhà rơi vào chân ngựa của Tào Tháo, ngựa ngã gục
xuống. Tháo lấy tay đẩy cái xà ra, lửa bén vào cả cánh tay và đầu tóc. Ðiển Vi
quay ngựa lại cứu. Vừa may Hạ Hầu Uyên cũng ở đâu đến.
Hai người cứu được Tháo dậy, xông
qua lửa chạy ra. Tháo cưỡi ngựa của Uyên, Vi đánh mở đường để chạy.
Ðánh nhau mãi đến sáng, Tháo mới về
được trại.
Các tướng vào lạy hỏi thăm, Tháo
ngoảnh mặt lên cười nói rằng:
- Ta lầm mắc phải kế thất phu, thề
rằng thù này thế nào cũng báo được.
Quách Gia nói:
- Có kế gì nên làm ngay!
Tháo nói:
- Nay nên nhân kế của hắn mà làm kế
của mình: ta nói phao lên rằng ta bị lửa cháy chết bỏng, Bố tất dẫn quân lại
đánh. Ta phục binh ở trong núi Mã Lăng, đợi hắn đến nửa chừng, đổ ra mà đánh
thì quyết bắt được Lữ Bố.
Quách Gia nói:
- Thực là một kế hay!
Liền sai quân sĩ phát tang, để trở
phao tin đi rằng Tào Tháo đã chết.
Có người đến Bộc Dương báo với Lữ Bố
rằng:
- Tháo bị lửa cháy bỏng cả chân tay,
về đến trại thì chết.
Lữ Bố lập tức điểm quân mã, kéo đến
núi La Lăng. Quân đi gần đến trại Tào, một tiếng trống nổi lên, phục binh bốn
mặt ồ ra. Lữ Bố cố đánh, một sống một chết, mới thoát được, tổn hại mất người
quân mã, chạy về Bộc Dương giữ vững không dám ra nữa.
Năm nay có một thứ sâu, gọi là sâu
hoàng ăn hại lúa má. - vùng Quan Ðông (Trường An) mỗi hộc thóc giá năm mươi
quan. Dân chúng đói quá phải ăn thịt lẫn nhau.
Tào Tháo nhân hết lương, dẫn quân về
đóng ở Nhân Thành. Lữ Bố cùng đem quân về đóng ở Sơn Dương. Vì vậy hai bên cùng
tạm bãi binh.
Bấy giờ Ðào Khiêm ở Từ Châu đã sáu
mươi ba tuổi, chợt bị bệnh, bệnh mỗi ngày một nặng, bèn mời My Chúc, Trần Ðăng
đến bàn việc. Chúc nói:
- Quân Tào Tháo bỏ Từ Châu đi, cũng
chỉ vì Lữ Bố cướp Duyện Châu mà thôi. Năm nay hắn bãi binh cũng là vì mất mùa.
Chắc rằng sang xuân thế nào hắn cũng đến. Phủ quân đã hai lần nhường chức cho
Lưu Huyền Ðức, bấy giờ phủ quân còn khỏe cho nên Huyền Ðức nhất định không chịu
nhận. Nay bệnh phủ quân đã nặng, nên lại cho mời Huyền Ðức sang mà nhường chức
một lần nữa, lần này Huyền Ðức chắc không từ chối.
Khiêm mừng lắm, sai người đi mời Lưu
Bị lại bàn việc quân.
Lưu Bị đem Quan Vũ, Trương Phi và
vài mươi tên kỵ mã đến Từ Châu. Ðào Khiêm cho mời vào chỗ nằm, Lưu Bị hỏi thăm
xong. Khiêm nói:
- Tôi mời ông đến đây không phải có
việc gì đâu, chỉ có một việc: tôi bây giờ bệnh đã nguy rồi, không biết sớm tối
chết lúc nào. Vậy xin minh công thương lấy thành trì nhà Hán, nhận lấy bài ấn
Từ Châu này, thì tôi chết mới nhắm được mắt.
Lưu Bị hỏi:
- Ông có hai con, sao không truyền
cho, lại gọi tôi?
Khiêm nói:
- Tôi có hai thằng con, thằng lớn
tên Thương, thằng bé tên Ung, hai đứa cùng hèn kém lắm, không sao kham nổi được
việc nước. Tôi một mai nhắm mắt lại, cũng trăm nhờ minh công dạy bảo chúng nó,
không nên cho chúng nó coi đến việc châu.
Lưu Bị nói:
- Một mình tôi đảm đương sao nổi
việc to lớn ấy!
Khiêm thưa:
- Tôi xin cử một người để giúp ông,
người ở Bắc Hải, họ Tôn, tên Càn, tự là Công Hựu. Ông nên dùng người ấy làm
tùng sự.
Khiêm lại gọi My Chúc bảo rằng:
- Lưu Công là hào kiệt đời nay,
ngươi nên thờ cho khéo nhé!
Huyền Ðức vẫn còn từ chối...
Lúc ấy Ðào Khiêm lấy tay trỏ vào
bụng rồi tắt thở.
Các quan làm lễ điếu viếng xong rồi,
liền đem bài ấn giao cho Lưu Bị, Lưu Bị nhất định không nhận.
Hôm sau cả dân châu kéo vào đầy phủ,
van khóc nói rằng:
- Lưu sứ quân bằng không chịu nhận
việc quận này thì dân chúng tôi không sao sống yên được.
Quan, Trương hai người cùng khuyên
hai ba lần, Lưu Bị mới chịu quyền lĩnh công việc Từ Châu; dùng Tôn Càn, My Chúc
làm phụ tá; Trần Ðang làm mạc quan; đem hết quân mã ở Tiểu Bái vào thành, treo
bảng khuyên dân yên nghiệp, rồi sắm sửa việc tang, Lưu Bị và quan quân lớn nhỏ,
đều để trở. Tế lễ linh đình xong, an táng Ðào Khiêm trên bãi cao ở bên Hoàng
Hà, rồi đem tờ di biểu của Ðào Khiêm dâng lên triều đình.
Tào Tháo ở Nhân Thành, được tin Ðào
Khiêm đã chết và Lưu Bị lĩnh chức mục Từ Châu, giận lắm nói rằng:
- Thù ta chưa báo xong! Lưu Bị nửa mũi tên không tốn,
ngồi yên mà được Từ Châu. Phen này ta quyết trước giết Lưu Bị, sau vằm thây Ðào
Khiêm để rữa oán cho thân phụ ta!
Lập tức truyền lệnh cất quân sang đánh Từ Châu. Tuân Úc lên can rằng:
- Xưa nay Cao Tổ giữ ở Quan Trung,
vua Quang Vũ giữ ở Hà Nội, đều là được sâu rễ bền gốc; tiến lên thì đánh được
giặc, lui về thì giữ được thành, cho nên tuy có lúc nguy khốn, nhưng về sau
cũng vẫn làm nổi được nghiệp lớn. Minh Công lúc đầu vốn khởi sự ở Duyện Châu, mà
đất Hà, đất Tế lại là đất hiểm trong thiên hạ và cũng là Quan Trung, Hà Nội
ngày xưa, nay nhược bằng Minh Công sang lấy Từ Châu, để binh ở đây thì Lữ Bố
lại thừa cơ đến cướp, thế là bỏ mất Duyện Châu. Nếu Từ Châu lại không lấy được,
Minh Công sẽ đi đâu? Nay Ðào Khiêm tuy chết, nhưng đã có Lưu Bị giữ. Dân Từ
Châu đã quy phục Lưu Bị lắm, tất nhiên cố sức giúp Lưu Bị. Minh Công bỏ Duyện
Châu để sang lấy Từ Châu, thì khác nào bỏ cái lớn đi tìm cái nhỏ, bỏ chỗ gốc đi
tìm chỗ ngọn, đem sự yên mà đổi lấy sự nguy. Xin Minh Công phải nghĩ cho chín
đã!
Tháo nói:
- Năm nay mất mùa, thiếu lương ăn,
quân sĩ cứ đóng ở đây cũng không xong.
Tuân Úc nói:
- Không bằng ta kéo sang mặt đông,
lấy đất Trần cho quân sang ăn ở đó. Vả lại dư đảng Khăn Vàng là Hà Nghi, Hoàng Thiệu
ở Nhữ Nam và Dĩnh Xuyên, cướp bóc châu quận, vàng lụa, lương thực có nhiều.
Những giặc cỏ ấy phá dễ như chơi. Phá chúng nó, lấy lương thực để nuôi quân sĩ,
như thế triều đình cũng mừng, dân gian cũng hả. Chính là một việc làm thuận
lòng trời đó!
Tháo mừng lắm, liền cho Hạ Hầu Ðôn,
Tào Nhân ở lại giữ Nhân Thành, mình thì đem quân sang lấy đất Trần, Nhữ Nam, và
Dĩnh Xuyên.
Ðám dư đảng Khăn Vàng là Hà Nghi và
Hoàng Thiệu thấy quân Tào kéo đến, đem binh ra đánh. Hai bên giáp trận nhau ở
núi Dương Sơn.
Quân giặc tuy nhiều nhưng toàn là
những đồ lăng nhăng, hỗn độn không thành đội ngũ.
Tháo sai lấy cung mạnh, nỏ cứng bắn
sang. Ðiển Vi cưỡi ngựa ra. Hà Nghi sai phó nguyên soái ra đánh, đánh nhau chưa
được ba hiệp, bị Vi đâm chết lăn xuống ngựa. Tào Tháo thừa thế dẫn quân xấn qua
núi Dương Sơn đóng trại.
Hôm sau Hoàng Thiệu tự dẫn quân lại.
Bày trận xong sai một tướng đi bộ ra, đầu đội khăn vàng, mình mặc áo xanh, tay
cầm côn sắt, thét to lên rằng:
- Ta là Tiệt Thiên Dạ Sao Hà Man, ai
dám ra đây đấu với ta nào?
Tào Hồng quát to một tiếng, phi mình
từ trên ngựa nhảy xuống đất, vác đao đi bộ ra.
Hai người ở trước trận đánh nhau ba
bốn mươi hiệp, chưa phân thắng bại. Hồng giả cách thua chạy, Hà Man xấn vào.
Hồng dùng kế đà đao, quay mình lại chém trúng Hà Man; Hồng lại bồi thêm một
nhát nữa, Hà Man chết.
Lý Ðiển thấy thế phi ngựa thẳng vào
trận giặc. Tướng giặc Hoàng Thiệu chưa kịp đề phòng, bị Ðiển bắt sống.
Quân Tào đánh giết quân giặc, cướp
được vô số tiền bạc, lương thực.
Còn Hà Nghi thế cô, dẫn vài trăm
quân kỵ chạy về thung lũng Cát Pha.
Lúc đang đi đường, chợt gặp một toán
quân ở trong núi kéo ra, một tráng sĩ đứng đầu, mình cao tám thước, lưng to
mười chét tay, cầm thanh đao lớn ra chẹn đường. Nghi vác đao đánh, chỉ mới được
một hiệp, đã bị tráng sĩ ấy bắt sống. Quân sĩ luống cuống đều xuống ngựa chịu
trói. Tráng sĩ xua cả vào thung lũng Cát Pha.
Ðiển Vi truy kích Hà Nghi tới Cát
Pha, thì có một tráng sĩ dẫn quân ra chặn lại. Vi hỏi:
- Ngươi cũng là giặc Khăn Vàng à?
Tráng sĩ đáp:
- Lũ Khăn Vàng có vài trăm kỵ mã, ta
đã bắt nhốt cả trong thung lũng này.
Vi hỏi:
- Sao không đem ra nộp?
Tráng sĩ nói:
- Hễ ngươi địch được vớ thanh đao
trong tay này thì ta đem chúng nó ra nộp.
Vi giận lắm, vác đôi kích lại đánh.
Hai người đánh nhau từ giờ thìn đến giờ ngọ, không ai thua ai được, hai bên
cùng tạm nghỉ. Ðược một lát, tráng sĩ lại ra thách đánh. Ðiển Vi cũng ra, đánh
nhau đến mãi chiều tối. Hai người cùng mỏi, hai người lại phải tạm nghỉ lần
nữa. Quân thủ hạ Ðiển Vi chạy về báo với Tào Tháo.
Tháo thất kinh, vội vàng dẫn các
tướng lới xem.
Hôm sau tráng sĩ lại ra thách đánh
nhau.
Tháo trông thấy người ấy oai phong
lẫm liệt, trong bụng mừng thầm, dặn Ðiển Vi rằng:
- Nay ngươi hãy giả cách thua đi!
Vi vâng lời ra đánh, được ba mươi
hiệp, Vi giả cách thua chạy về trận, tráng sĩ xấn đến, trong cửa trận cung nỏ
bắn ra tua tủa. Tráng sĩ phải quay trở về.
Tháo kíp dẫn quân lùi lại năm dặm,
mật sai người đào sẵn một hầm hố, phục sẵn câu thủ.
Hôm sau lại sai Ðiển Vi dẫn hơn trăm
quân kỵ ra.
Tráng sĩ cười mà nói rằng:
- Tướng đã thua, sao lại còn dám đến
đánh?
Nói rồi liền phóng ngựa ra đánh.
Ðiển Vi đánh được vài hiệp lại quay
ngựa chạy. Tráng sĩ cố sức đuổi theo, không ngờ cả người lẫn ngựa cùng sa xuống
hố cả, bị quân phục ra trói lại đem về nộp Tào Tháo.
Tháo vội vàng xuống trướng, mắng
đuổi quân sĩ, tự cởi trói cho tráng sĩ, sai người lấy áo mặc cho, mời ngồi tử
tế, rồi hỏi tên họ làng mạc ở đâu, tráng sĩ nói:
- Tôi là người ở Tiêu Huyện, nước
Tiêu, họ Hứa tên Chử, tự là Trọng Khang. Nguyên trước gặp buổi loạn lạc, tụ cả
tôn tộc vài trăm người, đắp một cái lũy ở trong thung lũng này để chống cự. Một
bữa có giặc đến, tôi sai người nhà lấy đá vụn để sẵn, rồi tôi cầm đá ném ra,
chẳng sai hòn nào. Giặc thấy vậy phải chịu lui. Lại một hôm nữa giặc đến, trong
thung lũng tôi không có lương, phải hòa với giặc xin đem trâu cày đổi cho
chúng, để lấy gạo. Lúc gạo giặc đã đưa đến rồi, giặc dắt trâu ra ngoài cửa
thung lũng thì trâu đều chạy ngược trở lại, tôi lấy tay nắm lấy hai đuôi trâu
kéo lại đi giật lùi được hơn một trăm bước. Giặc thấy thế đều thất kinh, không
dám lấy trâu nữa. Bởi thế tôi mới giữ được ở đây yên ổn, không việc gì.
Tháo nói:
- Ta biết ngươi đã lâu. Nay ngươi có
chịu hàng không?
Chử nói:
- Bụng tôi muốn thế đã lâu rồi.
Chử về dẫn cả họ hàng vài trăm người
ra hàng Tào Tháo. Tháo cho làm Ịô Úy, thưởng rất hậu rồi đem Hà Nghi, Hoàng
Thiệu ra chém.
Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên, từ ấy đều bình
định cả.
Tháo rút quân về.
Tào Nhân, Hạ Hầu Ðôn ra tiếp kiến,
nói rằng:
- Mấy hôm nay quân đi dò thám về báo
rằng ở Duyện Châu, quân sĩ Tiết Lan, Lý Phong ra ngoài đi ăn cướp, thành bỏ
trống không, chúa công đem quân vừa thắng trận về mà đánh, chỉ một trận là hạ
được thành.
Tháo liền đem quân đi đường tắt đến
Duyện Châu.
Tiết Lan, Lý Phong không ngờ có quân
đến, chưa kịp phòng bị, nhưng cũng phải đem quân ra ngoài thành để đánh.
Hứa Chử nói:
- Tôi xin bắt hai đứa này để làm lễ
ra mắt.
Tháo mừng sai Chử ra trận. Lý Phong
vác họa kích lại đánh. Hai ngựa giao nhau mới được hai hiệp, Chử chém Phong
chết lăn xuống dưới ngựa.
Tiết Lan vội vàng chạy về. Lý Ðiển
chẹn ngang bên cầu. Lan không dám vào thành, dẫn quân kéo về Cự Giã, đang đi
gặp ngay Lã Kiền tế ngựa lại đuổi bắn một phát tên, Lan chết ngã quay xuống
đất. Quân Tiết Lan, Lý Phong vỡ tan cả. Tháo lấy được Duyện Châu.
Trình Dục xin tiến binh lấy lại nốt
Bộc Dương.
Tháo sai Hứa Chử, Ðiển Vi làm tiên
phong; Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên làm tả quân; Lý Ðiển, Nhạc Tiến làm hữu quân;
Tào Tháo tự lĩnh trung quân; Vu Cấm, Lã Kiền làm hậu quân.
Quân Tào đến Bộc Dương, Lữ Bố muốn
ra đánh, Trần Cung can rằng:
- Không nên đánh vội. Ðợi các tướng
đến đây đầy đủ đã, rồi hãy hay.
Bố nói:
- Ta có sợ ai!
Không nghe lời Trần Cung, Bố cứ đem quân ra trận, cầm
ngang ngọn kích thét mắng.
Hứa Chử ra địch, hai bên đánh nhau hai mươi hiệp chưa bên
nào được thua. Tháo nói:
- Một người không thắng nổi Lữ Bố được.
Nói rồi sai Ðiển Vi ra giúp Hứa Chử đánh Lữ Bố.
Hai tướng giáp lại đánh, bên tả thì Ðôn, Uyên, bên hữu
thì Ðiển, Tiến, cùng kéo ra, sáu tướng quây quần lại đánh một mình Lữ Bố. Bố
chống đỡ không xuể, phải quay ngựa chạy về thành.
Họ Ðiền ở trên thành thấy Bố thua chạy về, kíp sai người
ra kéo cầu lên.
Bố gọi to:
- Mở cửa!
Ðiền nói:
- Ta đã hàng Tào tướng quân rồi!
Bố chửi to một hồi rồi đem quân sang
Ðịnh Ðào. Trần Cung vội vàng bảo vệ vợ con Lữ Bố mở cửa đông chạy ra ngoài
thành.
Tháo lấy được Bộc Dương, tha cho họ
Ðiền các lỗi khi trước.
Lưu Hoa bàn với Tào Tháo rằng:
- Lữ Bố là một con hổ dữ. Nay hắn đang cùng khốn không
nên khoan dung cho hắn một chút nào.
Tháo bèn sai Hoa giữ Bộc Dương, tự mình dẫn quân đến Ðịnh
Ðào. Bấy giờ Lữ Bố cùng Trương Mạc, Trương Siêu ở trong thành, còn Cao Thuận,
Trương Liêu, Tang Bá, Hầu Thành, đi tuần để kiếm lương chưa về.
Quân Tào Táo đến Ðịnh Ðào, đợi mấy ngày Lữ Bố không chịu
ra đánh, bèn rút quân lui bốn mươi dặm hạ trại. Nhân bấy giờ lúa mạch ở Tế Quận
đã chín. Tháo sai quân ra gặt về để ăn.
Quân đi thám về báo với Lữ Bố. Bố đem quân lại, đi đến
gần trại Tào Tháo, trông về phía tả thấy rừng rậm um tùm, sợ có quân phục lại
phải trở về.
Tháo biết quân Bố quay trở về, bảo với chư tướng rằng:
- Lữ Bố nghi trong rừng có quân phục. Ta nên cắm rõ nhiều
tinh kỳ để đánh lừa hắn. Mé tây trại có một dải đường đê không có nước, ta nên
đem tinh binh ra phục ở đó. Ngày mai Lữ Bố tất đến đốt rừng, quân phục trở ra
đánh tập hậu chắc bắt được Lữ Bố.
Tháo nói xong làm ngay. Trong trại Tháo chỉ để độ năm
mươi người đánh trống và bắt bọn trai gái bắt được ở dân thôn hò reo, còn bao nhiêu
tinh binh phục cả ở sau đê.
Quả nhiên Lữ Bố nghi trong rừng có quân phục, hấp tấp về
kể chuyện với Trần Cung. Cung nói:
- Tào Tháo có nhiều quỉ kế, không nên khinh chiến đâu.
Bố nói:
- Ta dùng mẹo hỏa công, chắc phá được quân phục.
Liền sai Trần Cung, Cao Thuận, giữ thành rồi hôm sau kéo
đại quân vào rừng đánh giặc. Ði xa xa đã trông thấy trong rừng có cờ, kéo quân
đi xấn lên, bốn mặt sai phóng hỏa. Rừng cháy ngùn ngụt nhưng chẳng thấy người
nào; muốn kéo quân về trại Tào Tháo, thì nghe thấy tiếng trống đánh rầm rỉ cả
lên. Trong bụng Lữ Bố còn đương nghi nghi hoặc hoặc, thì chợt ở sau trại có
toán quân kéo ra. Bố tế ngựa xấn lại. Bỗng nghe thấy một tiếng pháo nổ, rồi
quân phục ở sau đê trổ ra.
Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên, Hứa Chử, Ðiển Vi, Lý Ðiển, Nhạc
Tiến, tế ngựa kéo ồ cả ra.
Lữ Bố liệu không địch nổi, vội vàng chạy trốn. Tướng Bố
là Thành Liêm bị Nhạc Tiến bắn một mũi tên chết. Quân Bố ba phần chết mất hai.
Quân thua có đứa chạy được về báo với Trần Cung. Cung
nói:
- Thành trống không, khó giữ, chi bằng hãy bỏ chạy.
Liền cùng với Cao Thuận đưa vợ con Lữ Bố bỏ Ðịnh Ðào mà
đi.
Quân Tào Tháo thừa thắng đánh bừa vào thành, đánh đến đâu
được đến đó, dễ như chẻ tre.
Trương Siêu tự vẫn chết, Trương Mạc chạy sang với Viên
Thuật.
Một sứ Sơn Ðông về tay Tào Tháo cả.
Tháo phủ dụ dân chúng sửa sang thành quách lại.
Lữ Bố đang khi chạy trốn, gặp ngay các tướng đi kiếm
lương đã về. Trần Cung cũng vừa tìm đến nơi.
Bố nói:
- Quân ta dù ít, còn đủ phá được Tào Tháo.
Liền lại kéo quân trở lại.
Thế thực là:
Ðược thua, thua được là thường
Quay binh đánh lại ai lường được đâu!
Chưa biết Lữ Bố phen này được thua
thế nào, xem hồi sau mới tỏ.
THƯ
MỤC:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét