XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

Chiều 23.11, Bộ chính trị ĐCS TQ học tập thể môn chính trị kinh tế học Macxit.

23 Tháng Mười Một buổi chiều Bộ Chính trị của 28 học tập về các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác về kinh tế chính trị và phương pháp luận. CPC Ủy ban Trung ương Tổng Bí thư Tập Cận Bình chủ trì nghiên cứu nhấn mạnh rằng sự phát triển của Trung Quốc cần phải dựa trên các điều kiện và thực tiễn của nước ta quốc gia, tiết lộ tính năng mới của pháp luật mới, tinh chế và tóm tắt các kết quả của thực hành thường xuyên của sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, sự nổi lên của một thực hành hệ thống kinh tế, liên tục khám phá hiện đại chủ nghĩa Mác Trung Quốc một lĩnh vực mới của nền kinh tế chính trị.
Bộ Giáo dục và Khoa học Xã hội Giáo sư Gu Ủy ban Hailiang về vấn đề này để giải thích và nói về các ý kiến ​​và đề nghị đồng chí Bộ Chính trị cẩn thận lắng nghe lời giải thích của mình.
 

Khi Tập Cận Bình phát biểu tổ chức học tập. Ông chỉ ra rằng khuôn mặt của tình hình kinh tế vô cùng phức tạp trong nước và quốc tế, bộ mặt của rất nhiều và đa dạng các hiện tượng kinh tế, tìm hiểu các nguyên tắc cơ bản của kinh tế chính trị Mác-xít và phương pháp luận, phân tích kinh tế sẽ giúp chúng ta nắm bắt các phương pháp khoa học, sự hiểu biết phong trào kinh tế, để nắm bắt được xã hội và kinh tế các quy luật phát triển, nâng cao khả năng của chúng ta để nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, và tốt hơn trả lời những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo và mức độ phát triển kinh tế.
Xi Jinping nhấn mạnh rằng nền kinh tế chính trị Mác-xít là một phần quan trọng của chủ nghĩa Mác, nhưng chúng tôi cũng duy trì và phát triển chủ nghĩa Mác bắt buộc. Đảng của chúng tôi đã luôn luôn coi trọng đến nền kinh tế chính trị Mác-xít của học tập, nghiên cứu, sử dụng của thời đại dân chủ mới trong sáng tạo đưa ra các chương trình kinh tế mới-dân chủ, khám phá con đường của quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển của nền kinh tế của Trung Quốc trình bày quan điểm ban đầu , như đưa ra các mâu thuẫn cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, đưa ra cân bằng, lưu ý sự cân bằng tổng thể, dựa vào nông nghiệp, ngành công nghiệp dẫn đầu, điều quan trọng là phối hợp phát triển nông nghiệp, xem nhẹ. Đây là những phát triển sáng tạo của chúng tôi bên của các nền kinh tế chính trị Mác-xít.
Xi chỉ ra rằng kể từ khi Thứ ba Phiên họp toàn thể của Đảng, kinh tế chính trị đảng Marxist của chúng tôi với các nguyên tắc cơ bản của cải cách và mở một thực tế mới với nhau, không ngừng làm phong phú và phát triển nền kinh tế chính trị Mác-xít, sự hình thành của nền kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác Trung Quốc đương đại Nhiều kết quả lý thuyết quan trọng để tìm hiểu, ví dụ, liên quan đến bản chất của lý thuyết chủ nghĩa xã hội, lý thuyết về các giai đoạn chính của hệ thống kinh tế cơ bản chủ nghĩa xã hội của, liên quan đến việc thành lập và triển khai thực hiện đổi mới, phối hợp, màu xanh lá cây, cởi mở, chia sẻ lý thuyết khái niệm phát triển với với, về sự phát triển của chủ nghĩa xã hội nền kinh tế thị trường, để thị trường đóng một vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực và chơi tốt hơn vai trò của lý thuyết của chính phủ, các lý thuyết về phát triển kinh tế của Trung Quốc đã bước vào một mới bình thường, và đẩy mạnh công nghiệp hóa mới, tin học hóa, đô thị hóa, lý thuyết hiện đại hóa nông nghiệp phối hợp trên với hai thị trường trong nước và quốc tế tốt và nguồn lực của các học thuyết, về thúc đẩy công bằng xã hội, và dần dần đạt được sự thịnh vượng chung của tất cả những người của lý thuyết này, và như vậy. Những kết quả lý thuyết, là để thích nghi điều kiện quốc gia và đặc điểm của thời đại của nền kinh tế chính trị đương đại của Trung Quốc, đã không chỉ hướng dẫn việc thực hành phát triển kinh tế của Trung Quốc, mà còn mở ra một lĩnh vực mới của nền kinh tế chính trị Mác-xít.
Xi chỉ ra rằng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-xít, để hướng dẫn tốt hơn sự phát triển của thực tiễn của nền kinh tế của Trung Quốc, nó là cần thiết để tuân thủ các nguyên tắc và phương pháp cơ bản, nhưng để thực sự được kết hợp với phát triển kinh tế của Trung Quốc, tiếp tục hình thành kết quả lý thuyết mới. Để tuân thủ các tư duy phát triển con người làm trung tâm, đó là vị trí cơ bản của chủ nghĩa Mác Chính trị Kinh tế. Để tuân thủ các khuyến mãi của các phúc lợi của người dân và thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người, tiến dần về phía hướng của sự thịnh vượng chung như sự phát triển kinh tế của các điểm khởi đầu và điểm kết thúc, việc triển khai các công tác kinh tế, việc xây dựng các chính sách kinh tế để thúc đẩy phát triển kinh tế vững phải tuân thủ các vị trí cơ bản này. Để tuân theo sự phát triển của những ý tưởng mới, sáng tạo, phối hợp, màu xanh lá cây, mở, triết lý phát triển chia sẻ là chúng tôi có được nhận thức trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế trong sự thăng hoa, nó là thúc đẩy sự phát triển kinh tế của bản tóm tắt lý thuyết của chúng ta về thực hành, gắn bó với các mới Khái niệm phát triển để hướng dẫn và thúc đẩy phát triển kinh tế của Trung Quốc, và liên tục phá vỡ các vấn đề phát triển kinh tế, và tạo ra một tình hình mới của sự phát triển kinh tế.
Xi Jinping nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì và cải thiện hệ thống kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, kiên định củng cố và phát triển nền kinh tế công cộng, và kiên định khuyến khích, hỗ trợ và hướng dẫn phát triển kinh tế ngoài công lập, và thúc đẩy các hình thức bổ sung quyền sở hữu, xúc tiến lẫn nhau và phát triển chung, và sở hữu công cộng tình trạng không thể bị lay động, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không thể bị lay chuyển, mà là để bảo đảm sự phát triển của dân tộc chúng ta chia sẻ các kết quả của việc bảo đảm chế để củng cố địa vị cầm quyền của đảng, quan trọng để đảm bảo rằng tuân thủ các hệ thống xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc. Để duy trì và cải thiện hệ thống phân phối của chủ nghĩa xã hội cơ bản, những nỗ lực để thúc đẩy tăng trưởng thu nhập và tăng trưởng kinh tế đồng thời, tăng bồi thường lao động và cải thiện năng suất lao động, và liên tục cải thiện các cơ chế thể chế và chính sách cụ thể để điều chỉnh mô hình phân phối thu nhập quốc dân, thu nhập của cư dân đô thị và nông thôn tiếp tục tăng, liên tục thu hẹp khoảng cách thu nhập.
Xi Jinping nhấn mạnh sự cần thiết phải tuân thủ các hướng cải cách nền kinh tế thị trường xã hội, tuân thủ các biện chứng, hai điểm, kết hợp với nỗ lực liên tục trong hệ thống cơ bản của chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế thị trường, hai ưu điểm phải chơi tốt. Để tuân thủ các chính sách nhà nước cơ bản của mở cửa, tốt phối trong nước và các tình huống quốc tế, tận dụng tốt cả hai thị trường và nguồn lực quốc tế và trong nước, sự phát triển của một cấp độ cao hơn của nền kinh tế mở và tích cực tham gia quản trị kinh tế toàn cầu, trong khi kiên quyết bảo vệ lợi ích của sự phát triển của chúng tôi, và tích cực phòng ngừa rủi ro và đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia.
Xi chỉ ra rằng việc thực hành là một nguồn gốc của lý thuyết. Quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc tuyệt đẹp, những thành tựu đáng ghi nhận, tạo lý thuyết động lực to lớn, sức sống, nhu cầu tiềm năng để nghiên cứu kỹ tình huống mới và các vấn đề phải đối mặt với nền kinh tế thế giới và nền kinh tế của Trung Quốc, sự đóng góp của trí tuệ Trung Quốc kinh tế chính trị Mác-xít của sự đổi mới và phát triển.

Theo: http://www.guancha.cn/politics/2015_11_24_342452.shtml

Bài thu hoạch đạo đức HCM chủ đề năm 2015: “Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”

      ĐẢNG BỘ CÔNG TY                             ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TNHH MTV KTCT THỦY LỢI

BÀI THU HOẠCH
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chuyên đề năm 2015-2016

Họ và tên                           :   
Chức vụ - đơn vị công tác :   
Sinh hoạt tại chi bộ            : Văn phòng
     Sau khi học tập chuyên đề tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chủ đề năm 2015: “Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi xin trình bày những vấn đề thu hoạch được về nhận thức, tự liên hệ bản thân và phương hướng phấn đấu rèn luyện của bản thân như sau :
I.VỀ NHẬN THỨC :
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung thực, “nói thì phải làm”
- Trung thực là thành thực với chính mình, với mọi người, với công việc; luôn tuân thủ từng lời nói và hành động. Đó là một trong những phẩm chất quan trọng nhất, tạo nên định hướng giá trị nhân cách chân chính. Tính trung thực giúp con người được tin cậy. Người trung thực không chấp nhận gian dối trong bất kì việc gì. Trung thực làm nên tính tự trọng, thẳng thắn của cá nhân; tạo nên uy tín, sức mạnh cho tập thể. Sống trung thực đòi hỏi phải dũng cảm và nghiêm khắc với chính bản thân. Do đó, trung thực luôn gắn liền với trách nhiệm.
- Trung thực, trước hết là sự trung thực với chính mình, nghiêm túc với chính mình, trung thực với người khác, không được “nói mà không làm”, “hứa mà không làm”. Lời nói, lời hứa chỉ có giá trị khi đi liền với việc làm cụ thể. “Làm” ở đây là hành động từ việc nhỏ đến việc lớn, là hoạt động thực tiễn tổ chức thực hiện, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, Đảng viên” Nói ít, bắt đầu bằng hành động”; “tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”. Cán bộ, Đảng viên “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh (…), phải thật thà nhúng tay vào việc”. Đối với Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Đảng phải luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành như thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đàng”. Đảng phải luôn tự đối mới, tự chỉnh đốn để hoàn thành trách nhiệm trước nhân dân. Khi mắc sai lầm, khuyết điểm thì dũng cảm nhận lỗi trước dân và kiên quyết dựa vào dân để sửa chữa khuyết điểm.
- Trung thực trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mang nội dung đạo đức cao quý của người Cộng Sản, những người đã công khai nói về sự tự nguyện hi sinh, cống hiến cả cuộc sống của mình cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong công việc, trung thực phải luôn gắn bó với trách nhiệm.
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm
- Trách nhiệm là điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trách nhiệm là việc phải làm, không thể thoái thác. Trách nhiệm là bổn phận của mỗi người, dù ở cương vị nào. Ý thực trách nhiệm của mỗi cá nhân là sự tự ý thức về các công việc phải làm, “Nhận rõ trái, phải, đúng sai”, tự mình xác định việc cần làm. Trên cơ sở có ý thức đúng đắn, tự giác, tích cực thực hiện trách nhiệm của mình là “ Có tinh thần trách nhiệm cao”.
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, biểu hiện cụ thể của trung thực và trách nhiệm là lời nói đi đôi với làm. Đó là nguyên tắc thực hành đạo đức, là phương châm hoạt động, là biểu hiện sinh động, cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động trong một con người. Trung thực, trách nhiệm là phải nói và làm đúng chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống chủ nghĩa cá nhân, không được vì lợi ích cá nhân mà nói sai, làm sai. Nắm vững mục tiêu lý tưởng của Đảng trong toàn bộ tiến trình cách mạng và được cụ thể hóa thanh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng giai đoạn để thực hiện cho đúng; để tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân làm theo cho đúng. Trung thực, trách nhiệm cũng có nghĩa là kiên quyết bảo vệ chân lý, bảo vệ cái đúng, cái tích cực; dũng cảm đấu tranh với những cái sai, khuyết điểm, cái tiêu cực; nghiêm khắc tự phê bình, phê bình, thẳng thắn nhìn nhận khuyết điểm của cá nhân và tổ chức mình, cầu thị, tích cực sửa chữa hạn chế, khuyết điểm.
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn bó với nhân dân
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn bó với nhân dân bắt nguồn từ quan niệm của Người coi nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh. Người viết: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". " Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người".
- Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn bó với nhân dân có nguồn gốc từ truyền thống dân tộc, từ những tình cảm tự nhiên, triết lý nhân sinh, phép ứng xử và tư duy chính trị của dân tộc Việt Nam, từ những quan niệm: "Trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức", "tướng sĩ một lòng phụ tử", "khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc", "chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân". Phát huy truyền thống dân tộc, năm 1955, Người viết: "...với sự đoàn kết nhất trí của tất cả những người xứng đáng là con Lạc cháu Hồng - Mặt trận nhất định sẽ thành công trong việc đánh tan âm mưu Mỹ và bè lũ tay sai của chúng và thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước Việt Nam yêu quý của chúng ta".
- Tư tưởng gắn bó với nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ tổng kết kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới. Người chỉ ra nguyên nhân không thành công của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX là do chưa tập hợp đông đủ quần chúng nhân dân tham gia. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ cách Mỹ và cách mạng Pháp là cuộc cách mạng "không đến nơi", bởi kết quả cuối cùng là chính quyền rơi vào tay một thiểu số người và bảo vệ lợi ích của một nhóm ít người đó. Hồ Chí Minh nghiên cứu về cách mạng Nga và rút ra nhiều bài học về huy động, tập hợp lực lượng từ nhân dân, gắn bó với nhân dân và luôn bảo vệ lợi ích của đa số quần chúng nhân dân.
- Với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định phải bắt đầu từ giác ngộ, tổ chức tập hợp quần chúng. Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, khơi dậy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, tập hợp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là những nhân tố vô cùng quan trọng, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Khi nói về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhất là vì lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để tranh giành lại quyền độc lập cho Tổ quốc.
- Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó". Khi nói về công việc "Kháng chiến kiến quốc", Người hỏi: "Ai thực hiện kháng chiến kiến quốc?" Và trả lời: "Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân".
- Sự gắn bó với nhân dân trong những năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài và sau khi về nước không chỉ thể hiện quan điểm xuyên suốt gần dân, gắn bó với dân của Hồ Chí Minh, mà còn là một trong những nguyên nhân thành công trong cuộc đời cách mạng rất phong phú và nhiều gian nan của Người. Hai lần bị địch bắt và bị giam trong tù, Người chia sẻ những nỗi đau của bạn tù, của người nhà họ, của người dân những nơi Người bị áp giải đi qua. Tập thơ Nhật ký trong tù đã thể hiện rất sâu sắc điều đó. Trong những năm đầu đấu tranh giành chính quyền, bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy hi sinh, gian khổ, Người sống cùng dân, được nhân dân hết lòng hết sức giúp đỡ, chở che, nhân dân luôn ở bên Người, là nguồn lực, niềm tin vào lý tưởng vào cách mạng.
- Khi trở thành lãnh tụ của Đảng và Nhà nước, Người vẫn sống cuộc sống bình thường, ở trong ngôi nhà dành cho những người lao động. Dù bận giải quyết nhiều công việc hệ trọng, Người vẫn quan tâm sâu sắc trong cuộc sống hằng ngày của các tầng lớp nhân dân, phát hiện và thưởng hơn 5.000 huy hiệu Hồ Chí Minh cho những người tốt, việc tốt. Trong 10 năm (1959 - 1969), ở độ tuổi 70, Người đã có trên 700 lần đi xuống cơ sở thăm và tìm hiểu cuộc sống của nhân dân.
- Sự quan tâm đến con người, đến mọi tầng lớp nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong bản Di chúc, lời căn dặn và tâm nguyện cuối cùng của Người. Trong những lời căn dặn, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước quan tâm thường xuyên đến mọi tần lớp nhân dân, không quên một ai, kể cả những người "lầm đường, lạc lối" hay những người là "hậu quả của chế độ cũ để lại". Người dặn Đảng, Nhà nước phải dựa vào dân để xây dựng đất nước, xây dựng xã hội mới, bởi đây là "cuộc chiến khổng lồ", chỉ có thể thực hiện được khi dựa vào dân.
- Tấm gương suốt đời gắn bó với nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện một tư tưởng lớn, một nhân cách lớn của một anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách mạng thế giới, một nhà văn hóa kiệt xuất.
3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
- Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh có tới 400 bài nói và viết về đoàn kết. Tư tưởng đoàn kết nổi bật của Người là: "Đoàn kết làm ra sức mạnh"; "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta"; "Đoàn kết là thắng lợi"; "Đoàn kết là then chốt của thành công". Đoàn kết là điểm mẹ. "Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt". "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công".
- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng; phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mọi giai đoạn cách mạng.
- Đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Người nhấn mạnh, phải "thật thà đoàn kết". Với phương châm "cầu đồng tồn dị", Người nêu rõ: "Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ, tầng lớp nhân dân" (...).
- Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ.
- Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc (...).
- Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hào thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc.
- "Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau, phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân".
- Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, có trách nhiệm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.
Nội dung đoàn kết xây dựng Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung ở các điểm sau:
+ Vấn đề đoàn kết có tầm quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước hết là do sự đoàn kết trong Đảng đem lại, bởi nhờ đoàn kết trong Đảng mà dẫn tới đoàn kết toàn dân. Người viết: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ" mà "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
+ Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Khi đã trở thành truyền thống thì mọi thế hệ cách mạng đều phải có trách nhiệm duy trì và bảo vệ. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
+ Để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là dân chủ và phê bình, tự phê bình. Người căn dặn: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình". Theo Người, đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.
+ Để có sự đoàn kết thực sự, không chỉ cần thực hiện nguyên tắc, bản lĩnh, lý trí mà cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ sung vào bản Di chúc cụm từ: "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau".
+ Trong điều kiện đảng cầm quyền Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh yếu tố đạo đức trong Đảng, chống lại can bệnh "quan liêu", tham nhũng, lãng phí", "xa dân". Theo Người, đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới, tiến hành một "cuộc chiến đấu khổng lồ", xóa đi những gì đã cũ kỹ hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn với bốn chữ "thật": "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm kiêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
II.VỀ LIÊN HỆ BẢN THÂN :
Là một đảng viên bản thân tôi phải thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như sau :
1 Ưu điểm
* Về ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên
Trong công tác, trong cuộc sống hàng ngày cũng như tại nơi cư trú tôi luôn luôn có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng trong sáng, chân chính; luôn làm gương cho gia đình , quần chúng nhân dân noi theo.
* Về ý thức trách nhiệm, tâm huyết với công việc
Luôn tận tâm và trách nhiệm nhằm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, chấp hành tuyệt đối sự phân công của tổ chức; luôn tự giác học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lí luận chính trị để đáp ứng tốt  nhất yêu cầu nhiệm vụ được giao nhất là trong thời hội nhập, WTO...
* Về chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, thực hiện theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh
Về chủ nghĩa cá nhân và nâng cao đạo đức cách mạng, tôi đã và đang tránh được các bệnh nguy hiểm như: lười biếng, ngại gian khổ, khó khăn, tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tích kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại lợi ích của cách mạng, của nhân dân, chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích của tập thể, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, lãng phí, tham ô, trục lợi, thích địa vị, quyền hành...
Về tính trách nhiệm tôi luôn làm việc siêng năng, sáng tạo, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm, tiết kiệm thì giờ và tiền của dân, , luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công, không tham địa vị, tiền tài, sung sướng, không ham người tâng bốc mình, thích quang minh chính đại, thẳng thắn, không tự cao tự đại, luôn học tập cầu tiến bộ, không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới; khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá lừa lọc...
* Giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống người đảng viên, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với  tập thể, với đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân nơi cư trú
Về bệnh quan liêu, tôi đã tránh được các bệnh như: nói nhiều hơn làm, kém kiến thức và năng lực đối với công việc được giao, chỉ quan tâm đến lợi ích riêng, tạo ra và tìm ra cách hưởng quyền lợi...
Về tham nhũng, tôi không ăn cắp của công làm của tư, không đục khoét của dân, chi tiêu ít mà khai nhiều, tham ô, lãng phí tài sản của Nhà nước, của tập thể.
* Ý thức tổ chức, kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm gương Hồ Chí Minh
Bản thân đã thực hiện tốt tự phê bình và phê bình ở chi bộ một cách thẳng thắn, trung thực với tư cách là đảng viên có tinh thần tự phê bình và phê bình cao, luôn ý thức xây dựng được một tập thể vững mạnh có sự thẳng thắn trong phê bình - tự phê bình, từng cá nhân đều sống và làm việc theo pháp luật.
* Gương mẫu và giáo dục các thành viên trong gia đình giữ gìn đạo đức, lối sống, xây dựng gia đình văn hoá
Đối với gia đình, tôi luôn tâm niệm là một người luôn có đạo đức chân chính, luôn phấn đấu là một tấm gương tốt để hoàn thiện mình theo lý tưởng Chân, Thiện, Mỹ cho con cái học tập, luôn nêu gương từ việc lớn đến việc nhỏ, từ  đạo đức trong công việc tới đạo đức hàng ngày...
2. Nhược điểm
Đấu tranh phê bình chưa khôn khéo nên hiệu quả không cao; chưa mạnh dạn và kiên quyết trong công tác đấu tranh chống tham nhũng lãng phí, quan hệ quần chúng chưa thường xuyên, ……
3. Phương hướng phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống của bản thân theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh
+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức -  Phải luôn phấn đấu cho lời nói phải đi đôi với việc làm, tránh nói nhiều làm ít, nói mà không làm, nói một đằng, làm một nẻo, phải phấn đấu góp phần nhỏ của mình để làm sao cho xã hội ta không còn những kẻ đạo đức giả, và càng không cho phép những kẻ đạo đức giả đi dạy dỗ người khác về đạo đức. Về việc nêu gương, phải tự đặt ra cho mình một nguyên tắc rất cơ bản là phải nêu gương về đạo đức như tôi đã  thấy ở Chủ tịch Hồ Chí Minh - một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời.        
+ Xây đi đôi với chống. Muốn xây dựng đạo đức cùng với việc rèn luyện, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện sai trái xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới. Do đó  bản thân tôi phải kiên quyết tránh xa các tệ nạn, những tiêu cực, những sự thái hóa biến chất, v.v...đang diễn ra hàng ngày trong một bộ phận cán bộ đảng viên công chức hiện nay.
            Là một cán bộ, Đảng viên, tôi nghĩ rằng rèn luyện theo tấm gương đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cô đọng bằng các tiêu chí sau đây:
- Yêu nước, đoàn kết
- Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư
-Tích cực hội nhập và hội nhập với kết quả thiết thực.
- Đấu tranh với chính mình.
- Học phải đi đôi với hành.
- Cần học tập thường xuyên, lâu dài.
- Dũng cảm tự phê bình và biết phê bình.
- Luôn phải tự soi lại chính mình.
- Dân chủ và kỷ luật, phục vụ hiệu quả hơn cho sự nghiệp xây dựng giáo dục mà trước tiên là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Công ty TNHH MTV Khai thác công trình rthuyr lợi Gia Lai đã đề ra .
Học tập gương đạo đức của Người trước hết cần đấu tranh với chính mình trước những cám dỗ của cuộc sống thường nhật, của những ham muốn bẩm sinh của con người. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chiến thắng chủ nghĩa cá nhân là rất khó khăn, nhưng nếu thấm nhuần đạo đức của Bác Hồ thì chúng ta sẽ dần dần khắc phục và chiến thắng. Cùng với tập thể, với đồng chí, đồng nghiệp, với quần chúng, thông qua sinh hoạt, học tập, phê bình và tự phê bình, chúng ta phải thẳng thắn chân tình, trên tinh thần xây dựng tập thể, không vì lợi ích riêng của bản thân mình mà ảnh hưởng tới toàn bộ tập thể. Thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" mỗi chúng ta phải có một chương trình hành động cụ thể, gắn học những lời Bác dạy, với sửa chữa, tu dưỡng phẩm chất, hành động hằng ngày. Mỗi cán bộ, đảng viên, người giữ những chức vụ quan trọng càng cần phải thực hiện nghiêm túc hơn, chuyển biến rõ rệt hơn và thực sự là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo./.
                                                                        Gia Lai, ngày 7 tháng 12 năm 2015
                                                                                    Người viết thu hoạch

Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Bí ẩn mồ chôn tập thể lớn nhất Sài Gòn

Khu vực vòng xoay Dân Chủ (quận 10 và 3) từng là nơi chôn 1.831 người già, trẻ bị vua Minh Mạng ra lệnh xử tử trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi 180 năm trước.
Ngã sáu Công trường Dân Chủ, đường 3/2, Cách Mạng Tháng 8 là khu vực sầm uất tại TP HCM với nhà cao tầng san sát, xe cộ tấp nập. Nhưng ít người biết trước đây nó từng là nghĩa địa lớn nhất Sài Gòn với tên gọi "đồng mồ mả". Đây cũng là vị trí được cho là có ngôi mộ tập thể (Mả Ngụy) gần 2.000 người già, trẻ, trai, gái bị xử tử vì tội phản nghịch trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi vào năm 1833-1835 dưới thời vua Minh Mạng.
Mả Ngụy hay Mả Biền Tru vốn nằm trong vùng đất khá rộng gọi là Đồng Tập Trận - nơi tập trận và diễu binh của nhà Nguyễn (về sau người Pháp đặt tên là Đồng Mồ Mả) ở Gia Định thành ngày xưa. Nhiều câu chuyện ly kỳ, rùng rợn được người xưa đồn đại qua nhiều thế hệ cũng xuất phát từ Mả Ngụy.
Về sự biến Lê Văn Khôi, sử gia Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam sử lược ghi, khi Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt vừa mất (năm 1832), quan Bố chính có tiếng tham ác là Bạch Xuân Nguyên xưng phụng mật chỉ truy xét và soi mói đời riêng của ông Duyệt (1833), rồi ra lệnh bắt giam con nuôi của ông là Lê Văn Khôi.
bi-n-mo-chon-tap-the-lon-nhat-sai-gon
Bản đồ người Pháp vẽ năm 1878, Sài Gòn tập trung chủ yếu hai bên đường Impériale (nay là Hai Bà Trưng) về phía rạch Thị Nghè và từ đường Chasseloup Laubat (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) về hướng sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé. Phía còn lại của hai con đường này là ranh giới của một khu vực rộng lớn gần như không có người ở, được họ đặt tên là Đồng Mả Mồ (Đồng Tập Trận).
Ông Khôi sau đó vượt ngục, tập hợp lực lượng trả thù. Ngày 18/5/1833, ông cùng thuộc hạ vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên. Gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu, nhóm này cũng giết nốt.
Sẵn đà, Lê Văn Khôi chiếm luôn thành Phiên An (Thành Bát Quái), tự xưng là Đại Nguyên Soái rồi phong quan tước cho các thuộc hạ như một triều đình riêng. Khôi cũng đánh chiếm các tỉnh lân cận. Bị bất ngờ, nên các tỉnh khác nhanh chóng thua trận. Chỉ trong một tháng quân của Khôi đã chiếm được cả 6 tỉnh Nam kỳ lúc đó.
Để bắt Khôi và đám người dưới trướng, triều đình Huế cho hàng chục nghìn quân thủy, bộ vào Nam, bao vây chặt thành Phiên An (do Tả quân Lê Văn Duyệt xây xong năm 1830). Thành xây bằng đá ong, cao và rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả lương thực khí giới nên quan quân đánh thành lần nào cũng bị chết nhiều người, mà không lấy được.
Tháng Chạp năm ấy, Khôi chết vì bệnh phù thủng, con trai là Lê Văn Câu mới 8 tuổi lên thay cha cầm cự. Tuy nhiên, phải vất vả mãi đến 2 năm sau, khi người của Khôi đều đã mệt mỏi, quân triều đình mới hạ được thành và vào bắt giết tất cả 1.831 người, đem chôn vào một chỗ. Sau gọi là Mả Ngụy (giặc, phản loạn) hay Mã Biền Tru. Sáu người cầm đầu thì bị đóng cũi đem về Kinh thành Huế trị tội (án tùng xẻo), trong đó có con trai Lê Văn Khôi.
Sự biến Lê Văn Khôi với kết cục gần 2.000 người bị xử tử (trong khi dân số Sài Gòn lúc bấy giờ còn ít ỏi), chôn cùng một chỗ đã gây kinh hãi cho người dân thành Gia Định suốt một thời gian dài. Khu vực Đồng Tập Trận thường được nhắc lại như một vùng đất của oan hồn, không ai dám bén mảng, dần trở thành một vùng rừng cây rậm rạp rộng lớn giữa trung tâm Gia Định.
bi-n-mo-chon-tap-the-lon-nhat-sai-gon-1
Một phần nhỏ của Đồng Mồ Mả được người Pháp chụp lại.
Dân Sài Gòn thời bấy giờ mỗi khi cúng cô hồn thường làm bánh màu xanh, đỏ dành cho "đầu lĩnh" Lê Văn Câu mới tròn 8 tuổi và trẻ con bị chết oan bởi binh biến Phiên An. Đến tận ngày nay nhiều người già vẫn còn truyền miệng mấy câu thơ về sự biến này. "Chiều giông Mả Ngụy cũng giông/ Hồn lên lớp lớp bềnh bồng như mây/ Sống thời gươm bén cầm tay/ Chết thời một sợi lông mày cũng buông/ Thương thay Mả Ngụy mưa tuôn...".
Nguyên nhân là mỗi khi trời chạng vạng, lập lờ giữa ánh sáng và bóng tối, do có nhiều cây cối rậm rạp, hoang vu nên cả khu vực Mả Ngụy mờ đục như bị phủ một lớp sương. Người xưa đồn đại đó là vong hồn của gần 2.000 người bị chôn tập thể, bắt đầu trồi lên để sống phần của người cõi âm.
Trong cuốn Địa lý lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh in trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập 1, phần lịch sử), Mả Ngụy được nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu xác định khoảng gần Mô Súng, tức Ngã sáu Công trường Dân Chủ ngày nay.
Ngoài ra, còn một số ý kiến khác về vị trí Mả Ngụy được học giả Vương Hồng Sển dẫn lại trong cuốn Sài Gòn năm xưa. Như ý kiến của ông Lê Văn Phát trong quyển Khảo về Tả quân Lê Văn Duyệt (xuất bản năm 1924 tại Sài Gòn) cho biết Mả Ngụy ở gần trường đua ngựa cũ, thuộc làng Chí Hòa, tại góc đường Thuận Kiều (nay là Cách Mạng Tháng Tám) và Général Lizé (nay là đường Điện Biên Phủ).
Ngoài ra, theo nhận định của ông Đặng Văn Ký cũng được học giả Vương Hồng Sển dẫn lại, Mả Ngụy ở khoảng bệnh viện Bình Dân (thuộc quận 3), từ đường Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám) vào Chợ Lớn (thuộc quận 5) nằm phía tay phải đường Điện Biên Phủ ngày nay, tức phía đối diện với bệnh viện.
Dù còn nhiều ý kiến khác nhau về vị trí, song nhìn chung Mả Ngụy cũng chỉ quanh quẩn ở khu vực Ngã Sáu Công trường Dân Chủ - giới hạn bởi 3 con đường Cách Mạng Tháng 8, 3 tháng 2 và Điện Biên Phủ.
bi-n-mo-chon-tap-the-lon-nhat-sai-gon-2
Vòng xoay Dân Chủ ngày nay là giao lộ của các tuyến đường Võ Thị Sáu - Lý Chính Thắng - 3/2 - Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Phúc Nguyên - Nguyễn Thượng Hiền. Ảnh: VOV giao thông
Trong khi đó, theo nhà văn Sơn Nam - Ông già Nam Bộ - tên gọi Mả Nguỵ có thể do buổi đầu dân còn sợ vua Minh Mạng. Nhưng lịch sử đã qua hơn 150 năm, người chết rồi thì ai cũng như ai, xoá bỏ đi những bất đồng, tranh chấp. Về sau, không ai còn gọi "Mả Nguỵ" nữa mà gọi là Đồng Mả Lạng, theo nghĩa mất dấu vết vì thời gian. Xưa kia, người Pháp gọi "cánh đồng mồ mả" vì có quá nhiều mồ mả (Plaine des Tombeaux).
Cũng theo cố nhà văn, trên đường Cao Thắng (quận 10), dân địa phương tự phát đề cao một ngôi đình làng (không được sắc phong) nhằm mục đích hương khói, thờ cúng những người chết đã dám đứng vào hàng ngũ của Lê Văn Khôi. Ngày xưa, các vị đó rơi vào hoàn cảnh khó xử đã chết, không bia mộ, mồ mả tập thể bị san bằng, vị trí không rõ ràng, thân nhân thời ấy cũng chẳng biết nơi đâu mà tìm.
Vì vậy, ngôi đình này có thể được xây để thờ những người chết vì tham gia dưới trướng Lê Văn Khôi, nên việc cúng tế cũng khá long trọng, trống chiêng vang rền. Tuy đất đai chật hẹp, những đồng bào lân cận vẫn chừa ra một khoảng đất khá rộng, giữ thể diện xứng đáng với ngôi đình. Bản chất tốt đẹp của người Việt Nam khi đã yêu kính lẫn nhau thì không bao giờ thắc mắc những điều vụn vặt.
Cho tới hôm nay, vẫn chưa có bằng chứng nào chắc chắn để có thể xác định vị trí chính xác của Mã Ngụy. Nhưng qua nhiều tư liệu lịch sử, nhận định của các nhà nghiên cứu có thể khẳng định dưới nền những khu phố đông đúc tại khu vực vòng xoay Dân Chủ ngày nay. Và Mả Ngụy vẫn còn là một huyền thoại không mấy thơ mộng, trường tồn với dòng lịch sử của vùng đất Sài Gòn.
Trung Sơn

Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015

TÀI NGUYÊN DU LỊCH CỦA VĨNH LỘC THANH HÓA

Phát triển du lịch ở Vĩnh Lộc – cần bước đột phá
Là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, kỳ vĩ và nên thơ với rất nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng, mỗi tên đất tên làng, ngọn núi, dòng sông đều thấm đậm truyền thống lịch sử văn hóa và huyền thoại - huyện Vĩnh Lộc có nhiều lợi thế để xây dựng một điểm đến du lịch hấp dẫn. Thế nhưng, tiềm năng này hiện vẫn chưa được phát huy đúng mức...
Thiên nhiên ưu đãi...
Là vùng đất đế đô, nơi dựng nghiệp của Hồ Quý Ly, cũng là đất quý hương của 12 đời Chúa Trịnh. Cùng với Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ - một trong những công trình thành cổ tiêu biểu với lối kiến trúc hết sức độc đáo, cổng thành và những bức tường thành vẫn còn đó nét uy nghi và vững trãi. Những khối đá xanh vuông, có trọng lượng từ 10 - 20 tấn được ghép với nhau một cách tự nhiên, hoàn toàn không có bất cứ một chất kết dính nào, tạo nên sự vững chắc đã trường tồn hơn 600 năm. Cùng với đó là các di tích vệ tinh liên quan đến việc xây thành, việc tổ chức tế trời, đến cuộc chiến chống quân Chiêm Thành... như: đền thờ nàng Bình Khương - thờ người con gái đã đập đầu vào đá lấy cái chết để minh oan cho chồng là Cống Sinh Trần Công Sỹ được đảm trách xây thành cửa Đông; là di tích đình Đông Môn – một di tích có kiến trúc độc đáo với những mảng chạm khắc tứ linh, tứ quý rất tinh xảo. Xung quanh thành đá có núi Dục Tượng, Eo Vần, Tứ Linh. Ngoài ra, trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc còn rất nhiều di tích và danh lam, thắng cảnh nổi tiếng có giá trị, như: Khu Di tích Phủ Trịnh, Nghè Vẹt, đền thờ Quốc công Hoàng Đình Ái, Quận công Hoàng Đình Phùng, Đường công Lê Quang Lộc, lăng mộ Triết Vương Trịnh Tùng, chùa - Phủ Báo Ân; đền Tam Tổng, đền Trần Khát Chân; di tích khảo cổ quốc gia đặc biệt - Đàn tế Nam Giao - nơi diễn ra lễ tế trời đất của Nhà Hồ vào tháng 8 năm Nhâm Ngọ (1442); công trường khai thác đá cổ An Tôn, Chùa Giáng, động Hồ Công, Kim Sơn, Tiên Sơn... tạo nên một quần thể di tích, danh thắng phong phú và độc đáo, là tiềm năng để phát triển một ngành nghề mới: Ngành dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, tiềm năng này hiện vẫn chưa được phát huy đúng mức. Khai thác lợi thế này đến đâu đang là vấn đề cần quan tâm của các cấp, ban, ngành và người dân huyện Vĩnh Lộc.
Tiềm năng còn bỏ ngỏ...
Mang trong mình những tiềm năng, thế mạnh về phát triển du lịch, nhưng hiện nay vẫn chưa được khai thác triệt để, chưa thực sự thu hút khách du lịch và tạo ra nguồn thu lớn cho huyện. Do xuất phát điểm kinh tế - xã hội của huyện thấp, nguồn thu chủ yếu từ nông nghiệp; các điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ phát triển du lịch hạn chế, do đó việc kết nối bằng đường bộ giữa các di tích, danh thắng trên địa bàn huyện với Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ nhằm bổ trợ, tạo thành những sản phẩm tour khép kín còn khó khăn; các dịch vụ du lịch khá đơn điệu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu tối thiểu cho khách du lịch đến tham quan, đặc biệt là lưu trú, ăn uống và vui chơi giải trí; bản thân Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ trải qua các biến cố lịch sử và sự tàn phá của thiên nhiên nên nhiều hạng mục như lâu đài, cung điện... hiện nay chỉ còn là phế tích; việc đầu tư tôn tạo, phục dựng để hình thành sản phẩm du lịch cần rất nhiều kinh phí và thời gian; trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và lao động trực tiếp phục vụ du lịch còn thấp, là trở ngại lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng phục vụ du lịch... Du khách từ trong Nam ra, ngoài Bắc vào, hay từ Sầm Sơn và thành phố lên cũng chỉ là để tham quan nhanh một thời gian ngắn ở Thành Nhà Hồ với việc nhìn ngắm “thành đá”, hoặc đền thờ nàng Bình Khương và Đàn tế Nam Giao mới khai quật rồi lại vội vàng hành trình đến suối cá thần Cẩm Lương hoặc Khu Di tích lịch sử Lam Kinh. Còn các di tích thắng cảnh vệ tinh khác chỉ là sự thăm thú lẻ tẻ không đáng kể. Chính vì vậy mà đã có nhiều nhà nghiên cứu am tường về lĩnh vực du lịch nhận xét: Du lịch ở Thành Nhà Hồ - Vĩnh Lộc là du lịch “nhìn, ngắm nhanh để rồi đi tiếp” bởi vì từ sự thuyết minh đến dẫn dắt du khách, hay dịch vụ du lịch vẫn chưa có sức cuốn hút du khách dừng lâu ở một di tích thành đã “trơ gan cùng tuế nguyệt” này. Sau gần 2 năm trở thành di sản văn hóa thế giới, việc phát triển du lịch ở Vĩnh Lộc, ở Thành Nhà Hồ vẫn đang là bài toán khó đối với lãnh đạo các cấp chính quyền nơi đây. Đó là việc cơ sở hạ tầng du lịch còn manh mún, nhỏ lẻ; chưa xây dựng được quy hoạch tổng thể phát triển du lịch; hình ảnh về du lịch Thành Nhà Hồ, du lịch Vĩnh Lộc còn mờ nhạt, chưa gây được ấn tượng riêng. Ngoài ra, còn không ít những khó khăn khác như hạ tầng giao thông yếu, dịch vụ nghèo nàn, nguồn nhân lực lao động du lịch chưa có, sự quản lý Nhà nước về du lịch còn hạn chế, người dân đã quen với sản xuất nông nghiệp, hầu như chưa có khái niệm về kinh doanh dịch vụ du lịch... Đó cũng là lý do số lượng du khách đến với Thành Nhà Hồ chưa tương xứng với giá trị của di sản. Theo thống kê, năm 2011, Thành Nhà Hồ mới chỉ đón 16.000 lượt khách (trung bình mỗi ngày 10-15 lượt khách), chiếm phần lớn trong số đó là học sinh, sinh viên, các nhà nghiên cứu về lịch sử, văn hóa. Năm 2012, lượng khách đến huyện Vĩnh Lộc đã tăng lên 62.730 lượt. Và 6 tháng đầu năm 2013 có khoảng 30.000 lượt khách đến tham quan các điểm du lịch trên địa bàn huyện...
Cần bước đột phá
Việc khai thác những lợi thế sẵn có là điều kiện cần thiết, bởi không chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn để Vĩnh Lộc trở thành điểm đến hấp dẫn của bạn bè trong và ngoài nước. Hiện huyện Vĩnh Lộc đã có nghị quyết chuyên đề về phát triển sự nghiệp văn hóa - thể dục - thể thao, trong đó đề cập đến việc quản lý, khai thác có hiệu quả các di tích trọng điểm như Thành Nhà Hồ, Đàn tế Nam Giao, động Hồ Công, quần thể di tích chùa Hoa Long, đền Trần Khát Chân, thắng tích Tiên Sơn... theo định hướng kinh tế du lịch; duy trì đầu tư, nâng cấp lễ hội rước nước, lễ hội Trần Khát Chân, lễ hội Kỳ Phúc ở làng Cẩm Hoàng trở về nguyên gốc truyền thống xa xưa. Trong thời gian tới sẽ lập quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch như: Tiếp tục đầu tư tôn tạo Khu Di tích Thành Nhà Hồ, Đàn tế Nam Giao và các di tích vệ tinh; đầu tư xây dựng các nhà nghỉ, nhà hàng, khách sạn; làm hàng lưu niệm; sản xuất hàng hóa đặc sản của địa phương như chè lam, cà Giáng, sâm Báo; đầu tư xây dựng các địa điểm tham quan: Khu Di tích Phủ Trịnh-Nghè Vẹt ở xã Vĩnh Hùng; Khu thắng tích động Kim Sơn, xã Vĩnh An, động Hồ Công, xã Vĩnh Ninh...; xây dựng các tuyến tham quan trong huyện: Thành Nhà Hồ - Làng chài cổ sông Mã và các điểm phụ cận; Thành Nhà Hồ - Chùa Giáng - Đàn tế Nam Giao- động Hồ Công; Thành Nhà Hồ – Phủ Trịnh - Động Kim Sơn...
Để khai thác, biến những tiềm năng này thành ngành kinh tế mũi nhọn, Vĩnh Lộc còn nhiều việc phải làm, đó là đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá về tiềm năng du lịch một cách bài bản, đầu tư nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng, kèm theo chiến lược phát triển dịch vụ thương mại, công nghiệp, dịch vụ - du lịch; quan tâm, mời gọi các nhà đầu tư, các công ty, doanh nghiệp có khả năng, kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển du lịch vào đầu tư và đặc biệt quan trọng là sự nhận thức rõ ràng về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát triển ngành “công nghiệp không khói” này đối với tương lai phát triển của địa phương.
ĐỀN THỜ, BIA KÝ TRỊNH KHẢ - XÃ VĨNH HÒA
Trịnh Khả người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh là bậc khai quốc công thần, làm quan dưới 3 triều vua Lê: Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông được ban quốc tính họ vua gọi là Lê Khả. Trịnh Quyện là cha của Trịnh Khả. Ông sinh được 4 người con trai, Trịnh Khả là con út.
Trịnh Khả rất ham mê đọc sách, thường nằm nghỉ ngơi ở chùa Kiều Sơn. Sách Thanh Hóa tỉnh, Vĩnh Lộc huyện chí của tác giả Lưu Công Đạo viết: Năm 1407, sau khi bắt sống được cha con Hồ Quý Ly, nhà Minh đặt ách cai trị, đã sai Trương Phụ đi khắp các quận huyện nước ta xem phong thủy. Một hôm đến xã Kim Bôi ngắm kỹ non nước địa hình thì thấy: “Hướng Càn có đồn binh, hướng Cấn có chỗ lên ngựa..., trong đất ấy ắt sẽ sinh ra tướng giỏi”.
Năm 16 tuổi, một hôm Trịnh Khả dắt trâu đi cày về ngồi nghỉ tại cổng chùa Kiều Sơn. Trương Phụ thấy ông kỳ lạ cho rằng đây là người mình đang cần tìm. Nhìn dung mạo khôi ngô, mày rồng, trán hổ, tai dày dính thịt, mắt nhỏ ẩn thần ông lập tức hỏi: “Con là ai ngồi đây có công cán ” ; Trịnh Khả trả lời “Tôi là người nông canh nhàn hạ câu cá, ngồi đợi quạt gió cỏ nam thơm, đa tạ quan nhân đã để mắt tới kẻ hèn mọn. Có quan hệ gì đâu?”.Trương Phụ vừa nghe nói thất sắc đáp lại rằng “Ngươi có tướng mạo phi thường, nhưng lời nói lại càng phi thường hơn” Rồi lại nói “Câu cá phải có bạn cùng câu, ấy cỏ Nam thơm phải có người thưởng ngoạn cùng, ngươi cũng không phải là ngoại lệ, kẻ tiền bối của ta sau này ta sẽ bắt được ngươi” tức thì ôngđứng dậy cười và nói “có việc nhà bức bách, vả lại phải xin cha mẹ mới đi được” rồi về nói với mẹ “Con là người nước Nam, sao lại yên việc với bọn giặc Ngô” bèn chốn đến gia đình người cô ở Duyên Phúc. Thời gian không lâu giặc Minh kéo đến nhà bắt ông không được chúng đã quay sang giết cha rồi ném xác xuống sông Mã lúc ấy là ngày 14 tháng 9. Hai ngày sau Trịnh Khả mới biết chuyện men theo bờ sông tìm cha đến Hà Uyên (vực Tôm) bỗng thấy có 2 người đương vớt xác của thân phụ ông lên đem chôn, khi lại gần ông bàng hoàng sợ hãi ôm xác cha lên bờ tìm nơi cao an táng. Lại thấy một ông lão tóc bạc chắp tay hướng về phía ông mà nói rằng “Cát địa ở trước mặt ông đó sao không mang đến táng ở đó, đất bằng huyệt khởi, chỉ có lòng đất mới giữ được lâu…sau 3 năm sẽ phát phúc”.Ôm xác cha táng ở đó rồi về xã Diên Phúc chịu tang cha vừa căm thù giặc quyết chí báo thù. Nghe tin Lê Lợi đang náu mình ở Lam Sơn ngầm nuôi binh mã, ông liền vác gươm tới xin theo.
Đến với Lê Lợi, Trịnh Khả được trọng dụng tin dùng, ông được phong làm Phó chỉ huy lực lượng quân Thiết Đột. Ngày 07 tháng 2 năm 1418 Lê Lợi long trọng tổ chức lễ tế cờ, bố cáo với thiên hạ bắt đầu cuộc khởi nghĩa chống quân Minh đô hộ. Nhiều trận đánh lớn của nghĩa quân Lam Sơn với quân Minh điển hình là trận ở Lạc Thủy với lòng chiến đấu dũng cảm nghĩa quân đã đánh cho giặc Minh tơi bời chém được ba nghìn thủ cấp bắt sống được gần một nghìn tên.
Bấy giờ, để trả thù và uy hiếp lòng tin của nhân dân đối với Lê Lợi và toàn bộ nghĩa quân, giặc Minh đã kéo đến Phật Hoàng quật mộ lấy thi hài của thân phụ Lê lợi, chúng loan báo khắp nơi rằng ngôi huyệt đại phát của dòng họ Lê không còn, theo Lê Lợi chỉ có đổ máu vô ích mà thôi. Lúc bấy giờ Trịnh Khả đến trước mặt Lê Lợi xin được làm việc lớn mang thi hài của thân phụ trở về. Ông liền đội cỏ mà bơi đến bến Dao Xá Thượng thẳng đến trước mủi thuyền, lúc bấy giờ quân Minh đang ngủ say Trịnh Khả bèn lấy cái tiểu đựng xương cốt thân phụ Lê Lợi đem về. Tỉnh giấc, quân Minh kiểm tra không thấy hài cốt tổ tiên của Lê Lợi đâu vô cùng sợ hãi cho rằng việc ấy là do trời giúp Lê Lợi.
Mưu trả thù không thành, giặc Minh tức tốc kéo quân đánh vào Lam Sơn lần thứ 2 trận đánh quá bất ngờ khiến nghĩa quân bị tổn thất nặng phải rút lên núi Chí Linh. Trong bối cảnh đó, Lê Lợi muốn có sự giúp đỡ của Ai Lao ông đã cử Trịnh Khả là người vừa thông thạo tiếng nói, ứng xử nhanh nhẹn thông minh, nắm vững đường đi lối lại sang làm sứ giả. Triều đình Ai Lao đồng ý giúp Lam Sơn một số quân và voi chiến, binh khí cùng với lương thực. Với thành công lớn trong chuyến đi sứ Trịnh Khả đã góp phần quan trọng vào việc hồi phục lực lượng của nghĩa quân Lam Sơn.
Tháng 10 năm 1424 nghĩa quân Lam Sơn ồ ạt tiến công vào Nghệ An, Trịnh Khả là một trong những tướng lĩnh cầm quân tham gia cuộc tấn công quan trọng này, ông trực tiếp chỉ huy quân đánh nhau với giặc đến mấy mươi trận lớn nhỏ trận nào ông cũng là người xung phong lên đầu hãm giặc, lập công. Lê Lợi và bộ chỉ huy đánh giá rất cao tài năng và cống hiến đa dạng của Trịnh Khả.
Tháng 9 năm 1426 nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra Bắc, lúc này Trịnh Khả cùng với các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện và Đỗ Bí chỉ huy ba đạo quân có nhiệm vụ uy hiếp mặt Nam của Thành Đông Quan, đồng thời sẵn sàng chặn đứng đường viện binh của giặc từ Vân Nam tràn qua, lập được nhiều chiến công xuất sắc đánh thắng 3 trận lớn đó là trận Ninh Kiều, trận Nhâm Mục, trận Xa Lộc. Đáng chú ý ở trận Ninh Kiều, Trịnh Khả đã có công chỉ huy phục binh bất ngờ đánh cho Trần Trí một trận tơi bời tháo chạy về Đông Quan, ngay sau đó Ninh Kiều được xây dựng thành căn cứ rất lợi hại của nghĩa quân Lam Sơn.
Ngày 10 tháng giêng năm Đinh Mùi, Trịnh Khả tiến binh về phía Bắc bờ sông Lô bao vây thành Đông Quan, Vương Thông sợ hãi cấp báo với nhà Minh. Nhà Minh sai Liễu Thăng, Mộc Thạch chia đường sang cứu viện, khi nghe tin quân Liễu Thăng thất bại Mộc Thạch gom quân chạy về. Trịnh Khả tổ chức tung quân đuổi đánh ở Đan Xá và Lãnh Châu, quân Mộc Thạch đại loạn, quân ta chém được hơn một vạn thủ cấp bắt được hơn nghìn người ngựa cùng nhiều khí giới, lương thảo không kể xiết. Lãnh Câu và Đan Xá là hai đòn cực mạnh cuối cùng, góp phần đánh gục hoàn toàn cuồng vọng của Vương Thông nói riêng và triều đình nhà Minh nói chung. Tháng 12 năm 1426, Vương Thông xin hòa, rút quân về nước.
Niên hiệu Thuận Thiên nguyên niên 1428 Lê Lợi dẹp yên giặc Minh, phong tước công hầu, ban quốc tính. Trịnh Khả được ban hàm Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Tả lân Hộ vệ tướng quân, được ban túi Kim Ngưu và Ngân Phù. Năm 1429 nhà Lê cho khắc biển ghi tên tuổi của các vị khai quốc công thần trong đó có Trịnh Khả.
Năm 1434, thừa lệnh vua Lê Thái Tổ, Trịnh Khả đem quân sang giúp Ai Lao, cùng năm ông được cử làm tướng tiên phong cầm quân đi đánh giặc Chiêm Thành giành thắng lợi được phong làm Thái úy ban cho sáu chữ “Công thần thủ tướng Phụ chính’.
Trịnh Khả là lão thần dưới triều Hậu Lê, trải qua 3 đời vua, công lao rực rỡ. sau này được truy tặng là liệt Quốc Công, ban cho một trăm mẫu ruộng tế điền. Khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi, truy nhớ tới ơn cứu mẹ đã gia phong cho Trịnh Khả là Hiển Ứng Vương Thượng đẳng phúc thần và lệnh cho làng Kim Bôi (ngày nay là làng Giang Đông xã Vĩnh Hòa) lập đền thờ ông.
Đền thờ và Bia ký được xây dựng trên triền đồi, hướng Nam nhìn ra dòng sông Mã. Cấu trúc của đền gồm:
Nghinh Môn (cổng) xây gạch có 2 lớp mái lợp ngói vảy, hai bên có hai tượng hộ pháp cầm trường đao đứng dưới mái che, qua nghinh môn là dãy bậc thang dẫn lên đền chính 21 bậc, phía bên phải dãy bậc thang là nhà thủ từ.
Đền chính có cấu trúc hình chữ nhị (=), tiền đường có 3 gian 2 dĩ; hiên trước được ghép với 2 trái hai bên tạo thành hình thức 4 mái có góc đao; bốn trụ hiên xây gạch, cấu trúc vì kèo đơn giản. Mái tiền đường lợp ngói vảy cá, chính giữa bờ nóc trang trí lưỡng long trầu nguyệt.
Hậu cung tiếp nối với tiền đường qua một khoảng sân nhỏ. Hậu cung rộng 18m2 tường xây gạch mái cuốn vòm; có một cửa đi mở ra phía trước; Hai bên hậu cung có 2 nếp nhà 2 gian quay nghiêng góc 300 vào tiền đường. Nhà phía bên trái là thờ các vị con trai, bên phải thờ các vị con gái.
Nhà Bia đi về phía sau qua lối nhỏ có bậc lên, nhà bia có hình thức 4 trụ, mới được xây dựng gần đây bằng bê tông cốt thép, phía sau là khu lăng mộ của song thân cùng các con trai, con gái của Trịnh Khả.
Tấm bia đá ghi nhận thân thế và sự nghiệp của Trịnh Khả, Bia được làm bằng đá xanh nguyên khối đặt trên lưng rùa có kích thước cao 1,30m, rộng 70cm, dày 0,02m. Đỉnh bia hình vòng cung khắc hai bông cúc hóa long chầu vào nhau. Bia được soạn niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1447) đời vua Lê Nhân Tông, người soạn là Thái học sinh khoa Canh Thìn (1400) triều Hồ tên là Nguyễn Mộng Tuân, người khắc là Nguyễn Thiên Lộ, ngự tiền tả ban. Toàn văn chữ Hán khắc kiểu chữ Khải, khoảng 22 dòng, mỗi dòng từ 2 đến 70 chữ.
PHỦ TRỊNH, NGHÈ VẸT – XÃ VĨNH HÙNG
1. Phủ Trịnh:
Phủ Trịnh thuộc địa phận xóm Thẳng, làng Bồng Thượng, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, là hành dinh của nhà Trịnh. Phủ Trịnh xưa được xây dựng trên một vùng non nước hữu tình, tươi đẹp có cảnh quan sông, núi bao quanh và những địa điểm, di chỉ khảo cổ học nổi tiếng như Đa Bút (Vĩnh Tân), núi Nổ (Vĩnh An)... với quần thể rồng đá, tượng đá, khánh đá, phù điêu đá... là những bằng chứng của nền nghệ thuật tạo hình nước Đại Việt thời Lê- Trịnh. Vì thế, đã từng có câu ca rằng: “Dòng Mã giang mênh mông sóng bạc
Dải Hùng Vương man mác điệp trùng
Núi sông hun đúc khí hùng
Sáo Sơn, Biện Thượng một vùng Thanh Hoa”
Qua nghinh môn của Phủ, ta bước vào sân rộng, trên sân có dựng một tấm bia đá lớn và 2 con rùa đá đặt hai bên gian giữa Phủ dùng để cắm cờ hội mỗi khi tế lễ.
Theo lời các cụ kể lại, xưa kia, Phủ Trịnh được xây dựng trên một khoảng đất rộng có diện tích trên 10 ha, gồm các hạng mục công trình như: Từ Phủ là nơi chúa làm việc, tiếp khách; Nội Phủ là nơi ở của Chúa; khu làm việc của các quan, khu thờ cúng, khu vườn, hồ thưởng ngoạn.... , qua thăng trầm của lịch sử, các hạng mục công trình đã bị hủy hoại. Phủ Trịnh hiện còn lại một dãy nhà gỗ bảy gian lợp ngói chính là dãy nhà ăn xưa (gọi là Trù túc), hiện nay dùng làm nơi thờ các Chúa Trịnh, ông nội của Trịnh Kiểm và Tống Khang Ninh. Gian chính giữa, treo bức đại tự lớn đề 4 chữ Hán “Tiên tổ thị vương, các trụ biểu, trụ hiên chạm khắc nhiều cặp câu đối. trong đó có câu:
Tam bách đỉnh trung thiên vĩnh mệnh
Vạn thiên chi diệp địa trường sinh”
Dịch: Chung gốc ba trăm năm, mệnh trời còn mãi
Lá cành ngàn vạn nhánh, mạch đất dài lâu.
Tượng Thái Vương Trịnh Kiểm đặt trên ngai được chạm rồng, sơn son thếp vàng, cao 1,2m không kể bệ, đầu đội mũ Thái sư, mặc áo triều phục, tay cầm hốt, vẻ mặt thể hiện sự quyết đoán, cương nghị. Hai bên tả, hữu có các ban thờ và tượng của 11 chúa Trịnh, ngoài ra còn có các ban thờ các nhân vật đã có công lao với nhà Trịnh và các đồ thờ cúng khác như kiệu Bát cống, ngựa gỗ, tàn lọng...
Năm 1802, khi vua Gia Long (Nguyễn Ánh) lên ngôi, nghĩ về nguồn gốc gia đình, thân tộc ông đã cho tiến hành trùng tu di tích Phủ Trịnh. Năm 1995, di tích phủ Trịnh được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận di tích lịch sử Quốc gia và nhân dịp này, con cháu dòng họ Trịnh đã cung tiến vào Phủ bức tượng Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm và 11 tượng chúa Trịnh bằng gỗ. Di tích phủ Trịnh đã được trùng tu rất nhiều lần, và lần trùng tu gần đây nhất là năm 2003.
Di tích phủ Trịnh gắn liền với lễ kỷ niệm ngày mất của Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm. Ông sinh năm 1503, mất ngày 18/2 năm Canh Ngọ (1570), hưởng thọ 68 tuổi. Là người có công lớn trong sự nghiệp Trung hưng nhà Lê, Trịnh Kiểm đã đặt nền tảng cho một thể chế nhà nước phong kiến mới (Vua Lê- Chúa Trịnh) đồng thời sáng lập ra vương nghiệp nhà Trịnh, 11 đời con cháu nối nhau làm Chúa điều hành đất nước từng được lịch sử nhắc đến với cụm từ “Quyền khuynh thiên hạ”. Theo gia phả dòng họ Trịnh thì các Chúa Trịnh được tính theo thứ tự như sau:
Thái vương Trịnh Kiểm (1545-1570): Trịnh Kiểm mở đầu sự nghiệp nhà Trịnh, nắm quyền trong 26 năm, trải 3 đời vua, thọ 68 tuổi.
Bình an vương Trịnh Tùng (1570-1623): Là con thứ hai của Trịnh Kiểm làm Chúa 53 năm có công lớn trong việc đánh bại nhà Mạc, khôi phục cơ nghiệp nhà Lê. Ông là nhà chỉ huy chiến lược xuất sắc, một vị tướng cầm quân tài giỏi”.
Thành Đô vương Trịnh Tráng (1623-1652): Là con thứ hai của Trịnh Tùng nối nghiệp cha làm Chúa 29 năm là người có công đầu trong việc mở cửa giao thương với các nước trong khu vực và trên thế giới sang buôn bán làm ăn.
Tây Đô Vương Trịnh Tạc (1653-1682): Là con thứ hai của Trịnh Tráng, Ông là người có cải cách lớn đối với bộ máy điều hành đất nước theo lối “Chính quy” đó là: Văn thần phải thay phiên nhau vào ứng trực tại phủ chúa để giải quyết công việc gọi là “nhập các” cũng như đề ra nhiều chính sách mới về thuế khoá, ruộng đất để giải quyết hậu quả chiến tranh.
Định Vương Trịnh Căn ( 1682-1709):
An Đô Vương Trịnh Cương (1709-1729)
Uy Nam Vương Trịnh Giang ( 1729- 1740)
Minh Đô Vương Trịnh Doanh ( 1740-1767)
Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm ( 1767-1782)
Diên Đô Vương Trịnh Cán 1782 ( 2 tháng)
Doãn Nam Vương Trịnh Khải (1782- 1786)
Án Đô Vương Trịnh Bồng ( 1787- 1788).
2. Nghè Vẹt:
Nghè Vẹt cách phủ Trịnh khoảng 500m, đây là công trình kiến trúc gỗ. Trước đây Nghè thờ Thành hoàng làng, sau này, bài vị của các chúa Trịnh cũng được đưa về thờ ở đây.
Nghè Vẹt được xây dựng trên khu đất rộng khoảng 2000m2, trước sân hiện còn một chiếc khánh đá treo trên giá đỡ, trên khánh đá có chạm hoa văn tinh xảo, gõ vào thấy tiếng kêu trầm bổng ngân nga như chuông. Giữa sân là tấm bình phong và 2 con rùa đá quỳ chầu hai bên để ngăn chặn các khí độc và ám khí bên ngoài len lỏi vào Nghè tạo nên nét linh thiêng của Nghè Vẹt. Vật liệu chính làm Nghè là gỗ, mái lợp ngói. Hướng xây dựng của Nghè là hướng Nam, lưng tựa vào núi, mặt hướng ra sông, tiền đường có 11 gian kiến trúc các vì theo kiểu đăng đối. Tại đây có bàn thờ và bài vị của 11 vị chúa Trịnh, ngoài ra còn lưu giữ một số con giống (vẹt gỗ, ngựa gỗ) dùng trong thờ tự và các tượng phỗng quỳ vòng tay hầu hạ Chúa. Chính giữa hậu cung đặt bài vị Quản gia Đô bac Đại vương Trịnh Phủ Quân (Trịnh Ra) và một số minh khí đặt trong thờ tự. Bệ thờ Thái Vương Trịnh Kiểm được đặt ở bên phải.
Tên Nghè Vẹt được gắn với sự tích mà nhân dân kể lại rằng: “Khi mẹ của Trịnh Kiểm chết, xác bà trôi trên sông Mã, có một đàn chim vẹt bay phía trên giống như một đám mây lớn che xác của bà. Khi xác bà dạt vào bờ sông nơi này, có một người họ Mai làng Đông Biện vớt xác lên bờ về nhà lấy dụng cụ ra để chôn cất. Nhưng khi ra đến nơi thì mối đã đùn lên thành mộ. Mọi người cho đó là Thiên táng. Chỗ mộ ấy sa bồi ra đến giữa sông, bất ngờ có đàn vẹt bay xung quanh mộ rất lâu rồi bay đi mất nên nhân dân trong vùng phát hiện ra mộ của bà”. Vì vậy, Trịnh Kiểm mới đặt tên Nghè là Nghè Vẹt.
NHÀ THỜ VÀ LĂNG MỘ LÊ VĂN ĐIẾM – XÃ VĨNH TÂN
Trong phong trào chống Pháp ở cuối thế kỷ XIX, quê hương Bồng Trung tự hào có hai người con ưu tú đó là Lê Văn Điếm và Tống Duy Tân.
Lê Văn Điếm sinh năm 1850 tại làng Phú Thịnh xã Vĩnh Thịnh huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Sau gia đình chuyển về làng Đông Biện nay là làng Bồng Trung xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc. Thuở thiếu thời có tên là “ Đốm”, khi lớn lên đổi tên là Điếm. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, phải đi ở cho một gia đình phú hộ trong làng; bù lại ông có sức khỏe phi thường, hàng ngày ông thường ra sông Mã gánh nước. Từ nhà ra sông gần một cây số ông gánh nước bằng hai cái chum, chân đi thoăn thoắt, trong khi những người khác chỉ gánh bằng hai cái nồi đình. Ông là dân ngụ cư nghèo nên thường bị bọn hào lý ức hiếp, bản thân sinh ra và lớn lên trong bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ loạn lạc, thực dân Pháp mở rộng xâm lược nước ta. Nạn cờ Đen, cờ Vàng quấy rối, cướp bóc dọc biên giới phía Bắc. Để đối phó với tình hình giặc dã buộc triều đình nhà Nguyễn phải tăng cường bắt phu, bắt lính. Lê Văn Điếm cũng phải sung vào lính thay cho con phú hộ. Vào lính ông được phân vào đội “Hỏa đầu quân” chuyên trông coi việc ăn uống. Vốn là người có sức khỏe, lại nhiệt tình, siêng năng không ngại khó nên được cấp chỉ huy và binh lính yêu mến. Một lần trên đường đi tiếp tế lương thực cho quân sỹ đang dẹp giặc “Cờ Đen” ông thấy quân triều đình đang bị đuổi đánh. Trong tay không có vũ khí ông liền nhổ tre bên đường xông vào, tả xung hữu đột, giáng xuống đầu giặc làm cho nhiều tên ngã ngựa chết tươi, những tên sống sót bạt vía kinh hồn tháo chạy. Kết quả thu được 50 ngựa chiến của giặc. Khi trở về ông được cấp chỉ huy khen thưởng và trọng dụng. Sau đó, ông được tuyển vào trường võ để đào tạo kỹ thuật chiến đấu. Sau khóa huấn luyện, ông đã trở thành một võ sinh xuất sắc và được dự tuyển kỳ thi võ do triều đình tổ chức. Trong kỳ thi này ông đã đậu cử nhân võ và đến kỳ thi hội (võ) khoa Đinh Mão năm Tự Đức thứ XX (1867) ông tham dự và đậu phó bảng võ. Sau khi đậu phó bảng võ, ông phục vụ dưới quyền chỉ huy của Ông Ích Khiêm (một vị quan lớn của triều Nguyễn).
Trong thời kỳ giặc Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai ông được Ích Khiêm trọng dụng đề bạt giữ chức Đề đốc hộ thành Nam Định (trấn giữ thành Nam Định). Một lần ông được tỉnh cử đi Huế chúc thọ vua Tự Đức. Trong buổi tiếp nghe giọng nói, cử chỉ, nhân cách của ông được vua lưu ý và mến ông. Sau đó Tự Đức đã phán truyền cho ông bốn chữ “Điếm bất ly Nam” có ý dặn ông giữ vững thành Nam Định.
Tháng 3 năm 1883, sau khi chiếm được Hà Nội quân Pháp mở rộng địa bàn ra Bắc Bộ, giặc đem quân đánh thành Nam Định, thế giặc rất mạnh so với quân triều đình. Hoảng sợ trước tình hình chiến sự tổng đốc thành Nam Định Vũ Trọng Bình bỏ chạy, quan án sát Hồ Bá Ôn bị thương nặng, giặc Pháp tấn công ồ ạt, cuộc chiến diễn ra ác liệt. Quân triều đình bị tổn thất nặng nề, Đề Đốc Lê Văn Điếm vẫn kiên cường bám trụ đốc quân chống trả quyết liệt, nhưng trước hỏa lực vũ khí tối tân của giặc mỗi lúc càng mạnh, Lê Văn Điếm bị thương rất nặng ở bụng. Biết không thể giữ nổi thành và không thể chiến đấu được nữa, ông cưỡi ngựa chạy đến Bình Lục (Hà Nam ngày nay). Theo truyền ngôn, ông đánh trống mời dân ra nói chuyện, ông xin dân làng nấu cho một nồi cháo hoa. Ăn xong ông nhờ dân đào huyệt cho mình, lót ván nằm xuống nhờ dân lấp đất và cấy lúa lên mộ (hiện nay tại xã Cộng Hòa, huyện Vũ Bản tỉnh Nam Định còn bia mộ ông). Được tin ông từ trần dân làng thương tiếc, đình ngay lễ hội mùa xuân.
Với tinh thần chiến đấu anh dũng không chịu khuất phục trước quân thù của ông, sau khi mất ông đã được vua Tự Đức truy tặng và phong tước hàm cho ông cùng gia đình. Hiện nay tại nhà thờ ông còn lưu giữ được 8 Bằng cấp và 4 Chế biểu của vua.Cảm phục trước tinh thần chiến đấu hy sinh anh dũng của Lê Văn Điếm, cụ nghè Tống Duy Tân đã có câu đối viếng:
Dữ tặc bất câu sinh, Thái Nguyễn Cao Hoàng sở chí
Kỳ danh nhi bất tử Hùng sơn, Mã thủy ná gian
Dịch:
Cùng giặc không sống chung, Thái Nguyễn Cao Hoàng nối chí
Tên ông sao mất được, núi Hùng, sông Mã vẫn lưu danh
Đề Đốc Lê Văn Điếm đã hy sinh trong khi trấn giữ thành Nam Định nhưng tinh thần chiến đấu bất khuất, anh dũng không chịu khuất phục trước kẻ thù của ông vẫn còn ảnh hưởng rất lớn đến quê hương Bồng Trung nói riêng và đất nước nói chung. Khi ông hy sinh, nơi ở đã trở thành nhà thờ (hiện nay ở trung tâm làng Bồng Trung) do ông Lê Văn Lý là cháu của cụ Lê Văn Điếm thờ tự và trông nom.
Nhà thờ đã trải qua nhiều lần sửa chữa, lần sửa chữa gần đây nhất là 1995. Nhà thờ được làm theo kiểu biến thể vì kèo truyền thống gồm có 2 gian 3 vì kèo suốt gác chếnh, cửa kiểu ba nô, tường hồi bít đốc. Trong nhà thờ hiện nay còn một hương án bằng gỗ, trên hương án bày bài vị, bát hương, kiếm thờ, mâm bồng, hộp đựng sắc phong và một số đồ thờ mới.
Khu lăng mộ Đề đốc Lê Văn Điếm nằm cạnh quốc lộ 217 thuộc địa phận thôn Bồng Trung. Năm 2010, được sự đồng ý của các cấp chính quyền địa phương cùng với lòng hảo tâm của con em địa phương đã góp tiền của, tôn tạo lại lăng mộ bằng vật liệu đá xanh khai thác tại địa phương. Kiến trúc lăng mộ theo kiểu kiến trúc lăng mộ của các quận công trước đây, có tổng diện tích 300m2, riêng phần khuôn viên lăng mộ là 150m2.
Tuy là công trình mới nhưng khu lăng mộ này rất có giá trị về nghệ thuật điêu khắc và mỹ thuật đương đại được thể hiện ở các mảng đề tài trang trí, khá phong phú và đa dạng như: chạm hình chim phượng, hoa lá cách điệu, hoa văn sóng nước,tùng, trúc, cúc mai,... Nhà thờ và Lăng mộ Đề Đốc Lê Văn Điếm đã được xếp hạng cấp tỉnh (Quyết định số: 4093/QĐ-UBND ngày 09/12/2011).
NGỌC THANH ĐỘNG (HANG NÀNG) – XÃ VĨNH YÊN
Ngọc Thanh Động hay còn gọi là Hang Nàng hiện nằm trong dãy núi đá thuộc làng Yên Tôn Thượng xã Vĩnh Yên. Hang Nàng là di tích liên quan đến việc thay đổi triều đại trong lịch sử đất nước ta thời Trần – Hồ năm 1400, do đó Hang Nàng là một trong những di tích phụ cận liên quan đến Di sản văn hoá thế giới Thành Nhà Hồ.
Theo sử sách để lại, vào cuối thế kỷ XIV, lợi dụng đất nước trong tình trạng rối ren, triều Trần suy yếu, lung lay tận gốc, Hồ Quý Ly một quý tộc có vây cánh và thân thế trong triều đã lấn át dần quyền lực và cuối cùng phế truất nhà Trần lập nên nhà Hồ. Ngày 28/2/1400, Hồ Quý Ly đã đưa vua Trần Thiếu Đế đến xem việc khai thác đá làm vật liệu xây thành tại núi Yên Tôn Thượng và cho người giam lỏng vua Trần Thiếu Đế vào một cái hang trong số rất nhiều hang thuộc dãy núi đá của làng Yên Tôn Thượng, lúc này vua Trần Thiếu Đế mới 5 tuổi.
Theo dân gian kể lại, xung quanh dãy núi này có rất nhiều hang, các hang này có đường lên trời, đường xuống âm phủ và có đường thông ra sông Mã. Nếu ta đem thả một quả bưởi ở đường xuống âm phủ thì quả bưởi sẽ trôi ra sông Mã. Khi giam lỏng vua Trần vào hang, Hồ Quý Ly đã cho hai nàng hầu (hai người con gái) cùng ở trong hang để chăm sóc, hầu hạ vua Trần. Không biết cuộc sống của vua Trần trong hang như thế nào nhưng chỉ thấy hai nàng hầu ra vào trong hang nên người dân ở đây gọi là hang Nàng và sự tích tên gọi Hang Nàng bắt đầu từ đó. Xung quanh Hang Nàng chỉ toàn là núi đá, cây cối um tùm rậm rạp, bên ngoài cửa hang. Theo các cụ cao tuổi kể lại, người ta thấy trong hang có những phiến đá bằng phẳng rộng, trên mặt vẽ hình bàn cờ và rất nhiều hình thù khác và nhân dân cho rằng có lẽ là những trò chơi mà hai nàng hầu tự bày ra để vua Trần giải khuây quên đi những ngày tháng bị giam lỏng, tù đày trong hang.
Cửa hang rộng gần 2m, từ cửa hang đi vào chừng 5m chúng ta sẽ bắt gặp một phiến đá hình dạng giống như một nấm mồ. Tương truyền, khi hai nàng hầu chết, do không được chôn cất nên mối đã đùn lên lấp thành hai nấm mồ. Cái chết của hai người con gái (hai nàng hầu) đã được trời phật phù hộ nên rất linh thiêng, nhân dân trong vùng thường lui tới hương khói để tỏ lòng tiếc thương và cầu mong điều lành. Thương xót cho số phận hai nàng hầu nhân dân đã tạc vào đá hình 2 chiếc nón, nhưng tiếc rằng, hiện nay do tác động của thiên nhiên, thời gian mưa nắng nên đã mờ nhạt, các phiến đá rộng lớn ở cửa hang cũng không còn.
Tương truyền, vua Trần Thiếu Đế cũng đã chết ở trong hang này, sau khi lên ngôi Hồ Quý Ly cho lập một đền thờ ngay trước cửa hang. Đền thờ nhỏ, lòng đền được cuốn vòm, đồ thờ đơn sơ và chỉ đủ rộng để đặt bát hương và khay đồ lễ. Trước năm 1945 ngôi đền vẫn còn nhưng nay không còn.
NHÀ THỜ VÀ LĂNG MỘ TỐNG DUY TÂN – XÃ VĨNH TÂN
Nhà thờ và lăng mộ Tống Duy Tân là di tích lịch sử có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với nhân dân làng Bồng Trung, Đảng bộ, nhân dân xã Vĩnh Tân mà nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với người dân cả nước. Nhắc tới Tống Duy Tân, Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta khi đang hoạt động tại Pháp đã nói “Tống Duy Tân là nhà đại trí thức, đấu tranh dũng cảm chống xâm lược Pháp, tôi kính trọng tất cả những Tống Duy Tân, cái chết của họ đã làm cho tổ quốc họ sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt…” trích tuyển tập Hồ Chí Minh.
Tống Duy Tân tự là Cơ Mệnh, hiệu là Báo Tiều ông sinh năm 1838 ở làng Đông Biện tổng Bồng Thượng phủ Quảng Hóa nay là làng Bồng Trung xã Vĩnh Tân huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Sinh trưởng trong một vùng quê nổi tiếng về khoa bảng, với bản tính thông minh hiếu học, lớn lên lại được học với Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị một người tài cao, đức trọng và yêu nước nên ông trở thành người có tinh thần yêu nước nồng nàn. Tống Duy Tân thi đỗ Cử nhân năm Canh Ngọ (1870) và đỗ Tiến sĩ khoa Ất Hợi (1875) được phong Hàn lâm viện biên tu, giữ chức Thừa biện tại bộ hình dưới triều vua Tự Đức. Năm 1876 Tống Duy Tân được cử làm phúc khảo tại trường thi Nam Định, sau đó giữ chức Tri phủ Vĩnh Tường thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Trong thời gian làm quan cụ nghè Tống được nhân dân ca ngợi là một vị quan thanh liêm, có lòng thương dân, ghét bọn cường hào chức sắc đục khoét của người dân lương thiện. Biết rõ đức độ và năng lực của ông, Tổng đốc Vũ Trọng Bình đã tâu lên vua đề nghị ông giữ chức Án sát ở một tỉnh lớn. Mặc dù được triều đình phê chuẩn nhưng ông đã từ chối về quê mở trường dạy học vào năm 1878 để nuôi chí lớn.
Trong một chuyến về thăm Thanh Hóa, Tôn thất Thuyết một chí sĩ yêu nước đã gặp và làm việc với Tống Duy Tân, biết ông là người có lòng yêu nước nồng nàn đã cất nhắc ông làm Đốc học, rồi Thương biện Tỉnh vụ, Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa chuẩn bị lực lượng chống xâm lược Pháp.
Năm 1885 khi vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân đứng dậy chống Pháp, Tống Duy Tân đã nhanh chóng hưởng ứng, xây dựng lực lượng. Ngày 8/11/1885 giặc Pháp từ Thanh Hóa ngược dòng sông Mã đổ bộ vào Bồng Trung nhưng đã bị nghĩa quân đánh bật khỏi căn cứ phải rút về tỉnh lỵ Thanh Hóa. Ngay đêm hôm đó trong buổi mừng chiến thắng được tổ chức tại đình làng Bồng Trung cụ Nghè Tống Duy Tân đã nói với nghĩa quân và dân làng Bồng Trung “Tôi xin hiến dâng đứa con trai này cho tổ quốc” đó là con trưởng Tống Nhữ Mai người được giao nhiệm vụ liên kết với các nghĩa quân khác mua sắm vũ khí.
Tống Duy Tân đã trở thành thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh, với một bộ chỉ huy gồm Cao Bá Điển, Đề Dơi, Nguyễn Sự Chí, Phạm Lê Khải, Trịnh Văn Khôi, Lãnh Tráng…. Ngày mùng 4 tháng 5 năm Bính Tuất (1886 ), Tôn Thất Thuyết đã triệu tập cuộc họp quan trọng tại đình Bồng Trung với các lãnh tụ và yếu nhân của Phong trào Cần Vương trong tỉnh như Trần Xuân Soạn, Phạm Bành, Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước… để quyết định xây dựng căn cứ Ba Đình, Mã Cao và đề ra biện pháp thúc đẩy phong trào kháng Pháp trong toàn tỉnh.
Tống Duy Tân là linh hồn và là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh, các làng của tổng Bồng Thượng, tổng Thanh Xá là căn cứ địa và là hậu phương ban đầu của cuộc khởi nghĩa, là nơi tập hợp nhân dân đứng dậy đánh đuổi giặc Pháp làm cho bọn chúng hao tổn binh lực, lồng lộn tìm mọi biện pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đầu năm 1886 nghĩa quân có sự phối hợp của Cao Bá Điển đã tấn công vào tỉnh lỵ Thanh Hóa, chặn đánh một toán lính Pháp đang càn quét ở Yên Định. Giữa năm 1886 Tống Duy Tân đã đưa nghĩa quân Hùng Lĩnh xuống đóng tại Phi Lai (Hà Thái- Hà Trung) để chiến đấu hỗ trợ cho căn cứ Ba Đình.
Tháng 1 năm 1887 căn cứ Ba Đình và Mã Cao thất thủ, Tống Duy Tân đã tìm đường ra Bắc liên hệ và phối hợp với nghĩa quân sông Đà của Đề Kiều, Đốc Ngữ và nghĩa quân của Đề Thám (ở Yên Thế), Phan Đình Phùng (ở Nghệ Tĩnh). Các lãnh tụ phong trào Cần Vương cả nước đã thống nhất phong Tống Duy Tân làm Thống lĩnh quân vụ Bắc kỳ. Năm 1889- 1890 dù căn cứ Ba Đình và Mã Cao thất thủ, nhưng cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh vẫn tồn tại phát triển mạnh mẽ, nghĩa quân cơ động linh hoạt nhử địch vào nơi hiểm yếu mai phục. Những năm 1889- 1992, nghĩa quân Hùng Lĩnh chiến đấu trên địa bàn rộng lớn từ Thọ Xuân sang Nông Cống, Thiệu Hóa Yên Định, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Bá Thước nối liền một dải từ miền xuôi lên miền núi.
Trước thế giặc mạnh, lại được trang bị vũ khí hiện đại, nghĩa quân Hùng Lĩnh gặp khó khăn. Ngày 5 tháng 10 năm 1892, Tống Duy Tân bị giặc Pháp bắt tại hang Dong huyện Bá Thước, kẻ thù mua chuộc ông không được đã đưa ông về tỉnh lỵ xử chém. Chúng nhốt ông vào cũi và khiêng đi trên đường, Tống Duy Tân đã cắn ngón tay lấy máu viết những vần thơ đầy khí phách:
Nguyện kế tiên vương khu cảnh ngoại
Thùy tri kim ngã tại lung trung”
Dịch: Nguyện kế vua xưa trừ giặc nước
Ai hay nay lại ở trong lồng.
Thất bại trước ý chí bất khuất và lòng yêu nước của ông, ngày 15- 10- 1892 giặc Pháp đã đưa ông ra pháp trường xử chém tại thị xã Thanh Hóa. Khi sắp bị hành hình cụ hướng về nhân dân lưu luyến vĩnh biệt và đọc câu đối tỏ rõ khí tiết của mình cho con cháu ghi lại.
Nhi kim thủy liễu tiền sinh trái
Tự cổ do truyền bất tử danh”
Dịch : Cái nợ tiền sinh nay đã trả
Cái danh bất tử trước còn truyền.
Năm 1892 Tống Duy tân mất tại thị xã Thanh Hóa, sau này được nhân dân và dòng họ mang về quê Bồng Trung an táng lập đền thờ. Nhân dân địa phương vẫn quen gọi với cái tên thân thương, kính trọng là đền thờ “Cụ Nghè Tống” và “Mộ cụ Nghè Tống”.
Về cấu trúc của nhà thờ gồm 3 gian chất liệu làm bằng gỗ, có chiều dài 9,2m, rộng 4,6m. Ở gian chính giữa có một bệ để thờ thủy tổ dòng họTống. Cạnh bệ thờ hàng quan võ là thờ cụ Tống Duy Tân. Trong nhà thờ còn lưu giữ được 2 tấm bia đá có chiều cao 0,8m, rộng 0,4m, nội dung văn bia nói về lai lịch dòng họ Tống và công đức đóng tiền xây nhà thờ họ. Trong nhà thờ hiện còn lưu giữ được 4 bức đại tự cổ và 1 cửa vòng trạm khắc tinh sảo
Lăng Mộ Tống Duy Tân: Sau khi Tống Duy Tân bị Pháp chém đầu, thi hài của ông được con cháu trong dòng họ, học trò, sĩ phu yêu nước cất dấu ở phủ Cốc rồi đưa về chôn ở làng Phong Mục sau đó được đưa về quê. Hiện nay phần mộ của ông được đặt trong khuôn viên trường PTTH Tống Duy Tân.
Mộ được xây bằng chất liệu gạch hình vuông mỗi chiều là 5m, xây theo kiểu giật cấp, có 5 cấp. Từ nền tới đỉnh cao 2,5m, trước mộ có một tấm bia đá ghi tên, tuổi, năm mất của ông.
Di tích đền thờ và lăng mộ Tống Duy Tân có ý nghĩa như một bảo tàng sống ghi nhận thân thế cuộc đời và sự nghiệp của nhà chí sĩ yêu nước anh hùng, một danh nhân của xứ thanh và của cả dân tộc đồng thời cũng là nơi để giáo dục truyền thống cho các thế hệ sau này.
NGHÈ CẨM HOÀNG – XÃ VĨNH QUANG
Trước đây, xã Vĩnh Quang thuộc huyện Cẩm Thủy. Năm 1964, vùng đất này được cắt về huyện Vĩnh Lộc. Vĩnh Quang là một vùng đất có cư dân sinh sống lâu đời gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc như: Vua Lê Hoàn lên dẹp giặc Cự lữ ở đây vào năm 1001, xây thành Tây Đô, cuộc chiến tranh Trịnh - Mạc, khởi nghĩa Lam Sơn...
Nghè Cẩm Hoàng thuộc làng Cẩm Hoàng, nơi thờ Thành hoàng làng là Quản gia Đô bác Đại vương Trịnh Phủ Quân (Trịnh Ra) và thờ thần Long Uyên tôn thần (Long Tinh Chàng). Hiện nay, nghè Cẩm Hoàng còn lưu giữ được hai bản thần tích về các vị Thần đang được thờ ở nghè và 10 Sắc phong của các đời vua triều Nguyễn phong cho các Thần.
Căn cứ theo bản thần phả ở Nghè, vào đời vua Trần Thái Tông thiên hạ thái bình thịnh trị. Trước thời đó, ở Bắc Quốc truyền lại câu truyện Long Tinh Chàng sống ở tổng Quan Hoàng. Đó là vị hoàng tử thứ 3 sinh năm Nhâm Thìn ngày 8 tháng 2, có diện mạo uy nghiêm, mạnh mẽ, chân tay thẳng, trên đầu có sừng rồng nhân đó đặt là Long Tinh Chàng. Tương truyền, hàng năm nhân dân nhìn thấy chàng Rồng mình mặc áo long y, tay cầm 1 gậy đồng cưỡi một con rồng màu đen độ 70 phân lượn trên mặt nước, mỗi lúc như thế thì trời đất tối mù, gió mưa nổi lên cuồn cuộn, mọi người đều cho là kỳ lạ.
Năm ấy, ngày 18 tháng 8, ở Quan Hoàng, bản Sách, phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hóa mở ra 4 thôn đất riêng có địa thế được xem là vùng đất Địa linh - Nhân kiệt. Nhân dân trong bản thường nhìn thấy thần hiển linh, tay cầm một gậy đồng đứng ở bên sông. Nhân dân trong bản ra tế lễ, cúng bái từ đó mà yên vui, phú quý, giàu sang vì vậy đã góp tiền cất dựng một ngôi đền quanh năm hương khói cầu đảo cúng tế thần.
Vào một năm, lúc ấy là mùa hạ tháng 6, trời giáng họa xuống một trận đại hồng thủy sóng gió dữ dội đê điều bị phá (tức đê sông Mã hiện nay) mùa màng thất bát, dân tình đói khổ, vua Trần Thái Tông lo lắng ra sắc lệnh cho dân đắp đê ngăn lũ nhưng không được, đê đắp lên lại vỡ. Vua đích thân đi tuần du đốc thúc đắp đê ngăn lũ, khi đi đến bản Sách thuộc động Diệu Sơn đóng binh ở đấy tự nhiên trời đất tối mịt, sóng gió nổi lên; Vua nhìn thấy bên bờ sông có một ngôi đền và một vị thần tay cầm gậy đồng rất khác thường, bèn gọi nhân dân trong bản ra hỏi và cho sắm lễ cầu đảo 3 ngày đêm, sau đó ra lệnh đắp đê, công việc nhanh chóng được hoàn thành, vua cho đó là điềm linh ứng, truyền ban thêm cho 10 đỉnh bạc, 100 quan tiền, bãi miễn không thu thuế 3 năm, ban mỹ tự cho thần là Thượng đẳng tối linh phúc thần đại vương tên húy là Long Tinh Chàng.
Quản gia Đô bác Đại vương Trịnh Phủ Quân (Trịnh Ra). Ông làm quan lang tù ở đất Thiên Vực lộ Vĩnh Ninh, là người thông minh mẫn tiệp gia đình có 3 anh em, 2 trai 1 gái. Bấy giờ bên Bắc quốc (Tàu) có sai Cao Biền sang nước ta giữ chức Đô hộ sứ, ông đi khắp nước Nam xem đất chọn người tài, nhìn thấy Trịnh Ra là người có tướng mạo thông minh, Cao Biền giao cho ông chức quan Quản gia thương khố, kiêm việc quản nội ngoại các quận. Về già ông cáo quan hồi hương, Cao Biền tặng cho ông 500 quan tiền, ông đem cứu tế cho dân nghèo trong huyện.
Trịnh Ra có em gái út tên là thị Ba được gả cho một người có tên là Hà Lang. Hà Lang có mối hiềm khích, âm mưu hại Trịnh Ra từ lâu. Vào một buổi tối, hắn đuổi thị Ba về. Khi đến bờ sông, trời tối không có thuyền qua bến, thị Ba bèn lội sông để về cùng anh. Trịnh Ra nghe tiếng kêu cứu của em gái, bèn đem thuyền nhỏ ra vớt vào đến bờ. Ba anh em đang ngồi nghỉ thì đột nhiên Hà Lang xuất hiện, cả ba người đều bị giết. Lúc đó là ngày 14 tháng 11 tiết trời giá lạnh, xác Trịnh Ra trôi đi trôi lại trên sông 3 ngày sau đó dạt vào bến Chiêu Đức. Người nhà biết được báo cho Cao Biền, Cao Biền thương tiếc, cho mai táng ông ở núi Chiêu Đức (xã Vĩnh Hòa hiện nay), lập đền thờ và phong cho ông là Quản gia Thần vương, sắc cho các thôn, làng ven bờ sông Mã thờ ông là Thành hoàng.
Tấm bia đá còn lại ở nghè Cẩm Hoàng ghi rõ: Đời vua Tự Đức năm thứ 10, tức là vào năm 1857, tháng 10, ngày mồng 1, làng chạ Tây Vệ tức làng Tây Giai ngày nay, cung tiến cho làng Cẩm Hoàng làm ngôi nghè 3 gian lợp tranh rồi đi rước chân nhang từ đền Nhật Chiêu (Nhật Quang xã Vĩnh Hòa), nơi chôn cất Trịnh Ra về thờ và lập làm Thành hoàng.
Đến đời vua Khải Định năm thứ 4, làng làm nghè mới bằng gỗ và lợp ngói như hiện nay. Trên thượng lương của nghè ghi lại “Hoàng triều Khải Định tứ niên tuế kỷ mùi thập nguyệt nhị bát nhật giờ dần thụ trụ thượng lương đại cát lợi” tức vào năm Kỷ Mùi vua Khải Định năm thứ 4 (1919) bỏ thượng lương vào giờ Dần vào ngày 28 tháng 10.
Như vậy, Nghè được dựng cách đây 93 năm, trên khu đất cao ráo, bằng phẳng theo hướng Nam, với 5 gian 2 dĩ; chiều dài 40m, chiều rộng 27m. Nghè Cẩm Hoàng là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, các bức phù điêu chạm trổ tinh xảo (Tùng, Cúc, Trúc, Mai; Long, Ly, Qui , Phượng), điển hình là hai vì 4 và 5 có hình đầu rồng chạm bong, đường nét tỷ mỉ.
ĐỀN THỜ QUỐC CÔNG HOÀNG ĐÌNH ÁI – XÃ VĨNH HÙNG
Thái Tể Vinh Quốc Công Hoàng Đình Ái sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Bồng Thượng huyện Vĩnh Phúc- Trấn Thanh Hóa, nay là làng Bồng Thượng xã Vĩnh Hùng huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa.
Hoàng Đình Ái sinh ngày 23 tháng chạp năm Bính Tuất (1526) ông là con nhà cậu của Lương Quốc Công Trịnh Kiểm. Hoàng Đình Ái ra đời trong bối cảnh chiến tranh Lê- Mạc, nước Đại Việt bị chia cắt. Từ nhỏ Hoàng Đình Ái đã theo nghiệp võ, lớn lên ông đầu quân giúp nhà Lê Trung Hưng và trở thành danh tướng tài ba lỗi lạc. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1 trang 342 có đoạn viết “Hoàng Đình Ái có học thức, thông binh pháp, cầm quân nghiêm chỉnh, trong thì giúp mưu mô, ngoài thì đánh dẹp, tự mình trải vài trăm trận đánh, đến đâu được đấy, làm cả tướng võ, tướng văn không phân biệt thứ bậc, uy quyền , ưu đãi sĩ phu, giữ gìn pháp độ đi đánh dẹp, mọi người đều khen là giỏi”.
Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, hai anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng bất hòa, nhân dân hoang mang, tướng sĩ mất lòng, nhân cơ hội này Mạc Kinh Điển đã đem 10 vạn quân chia làm 5 đạo với 700 thuyền chiến đánh vào Thanh Hóa quyết một lần diệt sạch quân Lê Trịnh, Trịnh Cối đầu hàng nhà Mạc. Hoàng Đình Ái đã triệu tập các tướng Lê Khắc Thuận, Nguyễn Hữu Liêu, Phạm Văn Khoái vào yết kiến vua Anh Tông và tôn Trịnh Tùng làm đô tướng chống quân Mạc. Năm 1581, Hoàng Đình Ái thống lĩnh quân tướng chia làm 3 đạo, Nguyễn Hữu Liêu làm tiên phong tự mình đốc đại binh làm chính đội, Trịnh Thái làm hữu đốc chặn đánh quân Mạc suốt dọc sông Mã tiêu diệt 600 quân, bắt sống 1 tướng Mạc, quân Mạc phải tháo chạy ra Bắc.
Ngày 6 tháng giêng, niên hiệu Quang Hưng thứ 15 (1592) quân Lê – Trịnh đánh chiếm được Đông Quan, bắt sống tướng Mạc là Thường Quốc ở Mặc Kiều, đánh bại binh Mạc ở Lô Thủy, thu nhận hàng tướng Bùi Văn Khuê, bắc cầu nổi cho quân vượt sông, phủ dụ dân chúng quan lại, thu nạp hàng binh. Hoàng Đình Ái theo Trịnh Tùng đánh bại quân Mạc nhiều trận chiếm được kinh thành Thăng Long, vua Mạc lúc bấy giờ là Mạc Mậu Hợp bỏ trốn không lâu sau bị bắt và giết. Danh tướng Hoàng Đình Ái trở thành một trong các công thần có công lớn nhất trong việc giúp nhà Lê Trung Hưng, khi đó ông đã 66 tuổi.
Tháng 3 năm 1597 nhà Minh sai Uy quan là Vương Kiến Lập đến trấn Nam Giao đòi lễ cống và diễu binh. Ngày 28 tháng 3 vua Lê Thế Tông thân đốc hữu tướng Hoàng Đình Ái (lúc này đã 70 tuổi) cùng các tướng Nguyễn Hữu Liêu, Thái Úy Nguyễn Hoàng… đem 5 vạn quân đến trấn Nam Giao đề phòng khi mở cửa quan, quân Minh tràn sang giúp phía Mạc lưu vong bắt vua, hiếp tướng, Hoàng Đình Ái tâu với chúa Trịnh “nhà Minh chuẩn bị chinh phục nước ta, có thể đó chỉ là diễu võ dương oai, khiến nước ta phải sợ, nhưng cũng có thế thực hiện mưu đồ mà xưa kia tổ tiên họ bị thất bại, xin Tiết chế cho lệnh tùy nghi đối phó”. Trịnh Tùng liền trao cho Hoàng Đình Ái thanh gươm “An Quốc” tại cửa ải Nam Quan, Uy quan Vương Kiến Lập cùng tàn quân Mạc trông thấy quân nhà Lê đông mạnh, binh tướng oai hùng khí thế ngút trời chúng phải lẳng lặng từ bỏ những ý đồ đánh chiếm. Cuộc hội khám cử hành đúng nghi lễ, nhà Minh phải công nhận nhà Lê và bỏ nhà Mạc.
Vì vậy ông được nhân dân ca ngợi bằng 2 câu thơ
“Đặc địa anh hùng cao nhất thế
Kình thiên sự nghiệp vĩnh thiên thu”.
Ngày 15 tháng 12 niên hiệu Hoằng Định thứ 8 (1608) lão Tướng Hoàng Đình Ái mất ở kinh sư, ông thọ 81 tuổi, khi ông sắp ra đi chúa Trịnh Tùng tới thăm hỏi đã nói “ Hữu tướng quốc một đời công lao dồn lại, to hơn núi Thái…”. Sau khi ông mất, vua sai Hữu thị lang Bộ lễ là Nguyễn Lễ soạn văn bia “Thần đạo” để ghi công, trong bia có đoạn viết “Tướng Công Hoàng Đình Ái là người có phong cách sống trong sáng, hòa nhã, bền bỉ, đúng chức phận, trong công việc giữ điều tín nghĩa, đem hết năng lực ra làm việc nước, đức độ của tướng công thu phục lòng người, khoan hậu của Tướng công góp phần làm cho mạch nước mạnh thêm trường thọ, phong thái và thể chất của tướng công ngưng tụ thành biểu tượng cao lớn. Trong triều đình Thái sư uy nghi như Thái Sơn- Kiều Mộc”.Vua ra chiếu chỉ cả nước để tang ông 5 ngày, triều đình bãi triều 5 ngày, gia quyến được cấp tiền nghìn quan và lấy dân trong 10 xã làm lính hầu giữ mộ, vua ban 4 chữ Đại tự để thờ “Kiều Mộc Thế Thần” tức là (cây lớn trên núi Thái, trụ cột vững chắc của triều đình).
Sau khi ông mất, đền thờ được xây dựng tại xóm Đông, làng Bồng Thượng xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Hiện nay, đền thờ Hoàng Đình Ái cũng là nhà thờ họ Hoàng Đình.
Đây là ngôi đền, cổ kính, nghinh môn (cổng) được xây dựng với kiến trúc một gian, hai bên tường phía ngoài đắp 2 ông ngựa, phía trong đắp 2 ông hộ pháp tay cầm binh khí vẻ mặt uy nghiêm, phần mái được lợp bằng ngói liệt, phía trên đắp một cuốn thư cao 0,8m khắc dòng chữ Hán “Cao môn tướng”. Trong sân đền có bức bình phong, cây thị và cây đại cổ thụ quanh năm rợp bóng mát. Nhà tiền đường được xây dựng kiến trúc theo kiểu tường hồi bít đốc 3 gian 2 dĩ chất liệu bằng gỗ, phần mái được lợp bằng ngói liệt, phía trên đắp lưỡng long chầu nguyệt, với đôi rồng uốn lượn uyển chuyển thành 4 khúc. Bên trong nhà tiền đường gian giữa đặt bàn thờ các vị liệt tổ liệt tông của dòng họ Hoàng Đình, gian bên phải đặt ban thờ của ông Trưởng chi một là ông Hoàng Đình Chính Hiền, bên trái đặt ban thờ của ông Hoàng Đình Phúc Thịnh. Qua tiền đường cách một khoảng rộng là hậu cung của đền thờ, nới đây đặt bài vị và tượng Quốc công Hoàng Đình Ái ngồi trong long khám cao khoảng 1,2m, vẻ mặt trong sáng khoan hòa, mình khoác áo choàng mầu đỏ, 2 tay đặt lên đùi.
Hiện nay trong đền còn lưu giữ được nhiều sắc phong của các triều vua ban tặng và các đồ thờ cổ như: Hương án thờ, bát hương, bộ bát biểu, mâm bồng, cây nến … Hàng năm nhớ tới ngày mất của ông con cháu khắp nơi đều tìm về “vấn tổ tìm tông”.
ĐỀN THỜ TRẦN KHÁT CHÂN – XÃ VĨNH THÀNH
Trong giai đoạn cuối của triều Trần, Hào khí Đông A, ba lần đánh bại quân Nguyên Mông đã suy yếu, đất nước rối loạn, nhân dân cực khổ muôn phần. Phía Bắc, giặc Minh nhòm ngó; phía Nam, giặc Chiêm Thành quấy nhiểu đem quân nhiều lần tiến đánh Đại Việt. Lúc Bấy giờ, Trần Khát Chân nổi lên là một vị tướng tài ba đánh đuổi giặc ngoại xâm cứu dân tộc khỏi họa xâm lăng, bảo vệ bình yên cho đất nước.
Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, Việt Nam sử lược, đều ghi: “Trần Khát Chân người làng Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh, ba đời làm thượng tướng quân”. Ông là dòng dõi của danh tướng Trần Bình Trọng với câu nói bất hủ “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Theo Cổ Mai Bi Ký, Trần Khát Chân sinh năm 1370, cha là ông Trần Hữu Nhân, mẹ là bà Đặng Thị Ngọc Thục người làng Nột Dương xã Kim Động, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam đã dời nhà đến Hà Lãng.
Theo sách Danh nhân Thanh Hóa của Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa – NXB Thanh Hóa năm 2005, Trần Khát Trân sinh năm Bính Tuất (1366), mẹ là Nguyễn Thị Điểm quê ở huyện Đông Sơn Thanh Hóa.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước có loạn lạc, Trần Khát Chân chăm lo rèn văn luyện võ, hăng hái ra nhập quân đội và sớm nổi tiếng là người giỏi võ, lắm cơ mưu. Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga đem quân đánh Đại Việt, Hồ Quí Ly được Vua Trần Nghệ Tông cử đi dẹp giặc nhưng bị đại bại.
Trước thất bại của quân nhà Trần dưới sự chỉ huy của Hồ Quý Ly, Tháng 12 năm 1389, Trần Khát Chân đã tâu với Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông xin được lĩnh mệnh dẹp giặc cứu nước. Ngày 23 tháng giêng năm 1390, Đô tướng Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm Thành ở Hải Triều, giết được vua Chế Bồng Nga. Khi nghe báo tin thắng trận Trần Nghệ Tông mừng lắm phong cho ông là Thượng tướng quân.
Năm 1397, Hồ Quý Ly sai Thượng tướng quân Trần Khát Chân dẫn quân bảo vệ, hỗ trợ việc xây thành An Tôn. Ông cho đóng quân ở chân Đốn Sơn (núi Đún). Lúc này, trong Triều, quyền hành của Hồ Quý Ly quá lớn, lấn át vua và thượng hoàng khiến các tướng bất mãn nên đã bày mưu ám sát Hồ Quý Ly. Đại Việt sử ký toàn thư chép “ Bọn Khát Chân có ý giết Quí Ly, Quí Ly ngồi trên lầu nhà của Khát Chân để dự lễ Minh Thệ, y như lệ thiên tử ngự đến miếu đền, chùa. Cháu Phạm Khả Vĩnh là phạm Tổ Thu và thích khách là Phạm Ngưu Tất cầm gươm định lên, Khát Chân chừng mắt ngăn lại….”. Sự việc không thành, Trần Khát Chân cùng các tướng tâm phúc bị bắt và bị hành quyết với tổng số là 370 người tại núi Đún vào ngày 24 tháng 4 âm lịch năm 1399. Tương truyền rằng Khát Chân khi sắp bị hành hình lên núi Đún gào thét 3 tiếng, chết qua 3 ngày sắc mặt vẫn tươi như khi sống, ruồi nhặng không dám bâu. Ngưỡng mộ tài đức của ông nhân dân đã an táng và lập đền thờ tại chân Đốn Sơn.
Đền thờ Trần Khát Chân cách thành nhà Hồ khoảng 3km về phía Nam. Theo các cụ truyền lại đền được xây dựng từ cuối thế kỷ XV bao gồm Nghinh môn, Tiền đường, Trung đường và Hậu cung, ngoài ra còn các công trình phụ khác như lầu Ngư dội, nhà sắm lễ…
Nghinh môn được xây dựng với hệ thống 4 cột lồng đèn, 2 cột chính và 2 cột phụ ngăn cách bởi bức tường đắp hình 2 ông hổ, chất liệu bằng bê tông. Qua cổng là sân đền lát gạch bát tràng rộng khảng 150m2 khuôn viên cây xanh rợp bóng mát; ở đây có cây quéo ước khoảng 400 năm tuổi. Bước lên 7 bậc đá phía trên có bức Đại tự bằng chữ Hán ghi “Thiên cổ như sơn” đó là nhà tiền đường gồm 3 gian 2 dĩ tường hồi bít đốc, kiến trúc gỗ kiểu chồng giường kẻ chuyền, đáng chú ý nhất là 2 kẻ trước trạm nổi đầu rồng có bờm miệng mím; hai vì kèo được nối với nhau bằng hệ thống xà dọc, xà đại, xà hạ, xà thượng tạo thành bộ khung vững chắc chống đỡ toàn bộ lực đè nặng của phần mái, bờ nóc có đắp lưỡng long chầu nguyệt. Phía trong gian giữa nhà tiền đường là ban thờ Hội đồng các quan triều Trần.
Trung đường tiếp nối với tiền đường bời hai dải vũ được kiến trúc 3 gian 2 dĩ, xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XV. Phần mái được lợp bằng ngói, trên bờ nóc đắp 2 chim phượng ở giữa là một nậm rượu. Với kỷ thuật tinh xảo kiến trúc điêu luyện “chồng rường, kẻ truyền” những người thợ làm nên ngôi trung đường đã sử lý các mộng chốt rất chính xác, chuẩn mực từ hệ thống cột, xà ngang, câu đầu, bát đấu…tới các mảng trang trí trên vì kèo cũng được chạm khắc hình rồng, hổ phù, cá chép và các loại hoa lá của thiên nhiên. Phía ngoài của gian giữa có bức cửa võng chạm lưỡng long chầu nguyệt và cành tùng cách điệu.
Hậu cung là nơi thờ Thượng tướng quân Trần Khát Chân có chiều rộng khoảng 12m2 xây dựng theo kiểu cuốn vòm bằng bê tông cốt thép; trước cửa hậu cung là hệ thống 4 cột bằng đá xanh, xà ngang đá làm nhiệm vụ chống đỡ hậu cung tạo thành cửa đi vào bên trong hậu cung là mộ của ngài, tượng Trần Khát Chân được đặt ngồi trong long khám mặc áo, đội mũ cánh chuồn, nhân dân thường gọi nơi đây là: “Thượng sàng hạ mộ”.
Trong đền còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như kiệu long đình, kiệu bát cống, ngựa bạch, kiếm, bộ bát biểu, hệ thống các bức đại tự, câu đối, hoành phi, đồ thờ…đặc biệt còn lại rất nhiều sắc phong của các đời vua triều Nguyễn ca ngợi công đức của ông đóng góp cho lịch sử dân tộc. Xin giới thiệu đôi câu đối hay ca ngợi Trần Khát Chân được treo tại đền thờ:
Gian hùng phách hổ hoa lâu kiếm.
Chính khí linh truyền thạch lộ cung.
Tạm dịch: Lầu hoa gươm biếc, gian hùng bay phách lạc.
Đường đá cung reo, chính khí còn truyền mãi tiếng thơm.
ĐỀN TAM TỔNG – XÃ VĨNH TIẾN
Đền Tam Tổng cách Thành Nhà Hồ khoảng gần 1 km về phía Nam, thuộc địa phận thôn Phố Mới, xã Vĩnh Tiến, nằm ngay bên trục đường Hoa Nhai (đường Hoàng gia) từ cửa Nam Thành Nhà Hồ đến Đàn tế Nam Giao. Khi mới được xây dựng, đền có tên gọi là đền Phương Nhai, tức là đền nằm trên đất Phương Nhai (nay là làng Phương Giai xã Vĩnh Tiến); đền thờ Thượng tướng quân Trần Khát Chân.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư; Đại Nam nhất thống chí; Việt Nam sử lược, đều ghi “Trần Khát Chân người Hà Lãng (Hà Lương), huyện Vĩnh Lộc, làm tướng dưới triều Trần được phong đến chức Thượng tướng quân”.
Nhà Trần sau ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông, vua quan bắt đầu sống sa đọa. Trong nước giặc loạn nổi khắp nơi, phía Bắc giặc Minh dòm ngó, phía Nam quân Chiêm Thành nhiều lần xâm chiếm Đại Việt.
Năm Quang Thái Thứ hai (1389), vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga lại đem quân xâm lược Đại Việt. Hồ Quý Ly đem quân đi cự chiến xong thua trận phải rút về Đông Đô. Vốn là một dũng tướng trung quân ái quốc, Trần Khát Chân cúi đầu xin Thượng Hoàng Nghệ Tông đem quân ra chặn giặc. Người nói rằng “Nếu không đuổi được giặc xâm lăng thì không có ngày về”. Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), Đô tướng Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm Thành ở Hải Triều, giết được vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga. Sau chiến thắng này, Trần Khát Chân được vua phong thưởng chức Thượng tướng quân, khi ấy ông mới 20 tuổi.
Trần triều tiếp tục suy thoái, quyền lực tập trung vào tay Hồ Quý Ly. Năm Quang Thái thứ 10 (1397), Hồ Quý Ly cho xây dựng Thành, dời đô về Vĩnh Ninh Thanh Hóa, thực hiện hàng loạt cải cách xã hội, ép vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần An sau đó ép vua phải chết. Trần Thiếu Đế lên làm vua mới 3 tuổi, mọi quyền lực cai trị đất nước rơi vào tay Hồ Quý Ly. Trước tình hình đó các vương tôn, quý tộc nhà Trần rất bức bách muốn trả thù lật đổ Hồ Quý Ly.
Mùa hạ năm 1399, nhân lễ Minh Thệ ở Đốn Sơn (núi Đún), các quan tướng trung thành với triều Trần do Thượng tướng Trần Khát Chân cầm đầu âm mưu giết Hồ Quý Ly, song sự việc bại lộ không thành. Hồ Quý Ly ra lệnh bắt và hành quyết các tướng: Trần Khát Chân, Trần Hãng, Phạm Ngưu Tất, Trần Nhật Đôn, Phạm Ông Thiện, Phạm Khả Vĩnh cùng gần 370 người tại chân núi Đún. Đó cũng là hội thề đẫm máu nhất trong lịch sử phong kiến lúc bấy giờ.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư chép “Trần Khát Chân khi sắp bị hành hình lên núi Đún gào thét ba tiếng, chết ba ngày sắc mặt vẫn tươi như sống, ruồi nhặng không dám bâu…”.
Có nhiều truyền thuyết về Trần Khát Chân được lưu truyền trong nhân gian được nhiều người nhắc tới: Tương truyền lúc Trần Khát Chân bị hành quyết, trời bỗng nhiên tối mịt. Trần Khát Chân bị chém đầu, đầu rơi xuống đất, Trần Khát Chân nhặt lắp đầu vào và lên ngựa phóng như bay theo đường (Hoa Nhai) lên cổng Nam thành An Tôn. Khi Trần Khát Chân đến khu vực Cồn Xấm thì gặp một bà lão ngồi bán nước chè xanh ở bên đường, Khát Chân nói: “ Bà có thấy ai chặt đầu rồi lắp đầu vào lên ngựa chạy được không?”. Bà lão trả lời: “Tôi nay đã 84 tuổi rồi chỉ thấy có ông là thánh mới lắp đầu mà còn chạy được”. Bà lão vừa dứt lời thì cả thân và đầu Trần Khát Chân rơi xuống đất (thuộc khu vực cồn Xấm). Con ngựa của Trần Khát Chân cưỡi và có một con ngựa chạy theo, cả hai con ngựa lồng lên rẽ sang trái, qua cánh đồng làng Thổ Sơn (Thổ Phụ) xuống Bến Quân (bến dành cho quân lính) cả hai con ngựa lao ra giữa dòng sông Mã, nơi hai con ngựa chết nổi lên một bãi rộng dân làng gọi là Gò Ngựa. Sau này các kỳ hội đảo có tổ chức thi bơi thuyền đều phải bơi quanh Gò Ngựa ba vòng. Nơi Trần Khát Chân bị chém đầu, dân lập đền thờ gọi là đền Đún (Nghè Đún); chỗ thân mình và đầu Trần Khát Chân rơi, dân cũng lập đền thờ gọi là đền Phương Nhai (sau này gọi là đền Tam Tổng). Cả hai đền này đều thờ Thượng tướng Trần Khát Chân.
Theo truyền lại, thì lúc đầu đền chỉ có làng Phương Nhai thờ, đến giữa thế kỷ XIX, lúc bấy giờ, tổ chức hành chính dưới huyện là tổng, nên ngày kỵ của Ngài (24 tháng 4 âm lịch), các làng thuộc tổng Cao Mật đều đến đền Phương Nhai cúng bái, tế lễ, xin được thờ Ngài.
Các cụ cao niên kể rằng: Có một năm cả tỉnh Thanh Hóa hạn nặng, trời nắng gay gắt kéo dài, Tổng đốc Thanh Hóa làm lễ cho rước các thành hoàng về hội đảo ở Thanh Hóa. Đến giờ vào tế, kiệu của Đức Thánh Lưỡng (Trần Khát Chân) mới xuống. Tổng đốc Thanh Hóa nói: “Chú Lưỡng tại sao bây giờ chú mới xuống. Nếu tôi bước ba bước mà không mưa thì tôi gông cổ chú lại”. Tổng đốc bước ba bước trời đổ mưa liền. Kiệu Đức Thánh Lưỡng quay luôn trở về và mưa từ Thanh Hóa mưa theo kiệu Ngài về đến Phương Nhai, mưa ra khắp tổng Cao Mật. Thấy đền linh, thần thiêng tổng Bỉnh Bút, rồi tổng Nam Cai (Hồ Nam) cũng xin được thờ. Sau đó từ một ngôi đền nhỏ của làng, cả ba tổng Cao Mật, Bỉnh Bút, Nam Cai đã đóng góp nguyên vật liệu xây dựng ngôi đền khang trang và cũng từ đó nhân dân gọi là đền Tam Tổng (Tam tổng = 3 tổng). Những viên gạch vồ xây dựng đền đều có hàng chữ ghi rõ của các tổng đóng góp.
Theo các cụ cao tuổi kể lại, xưa kia, đền Tam Tổng có kiến trúc kiểu chữ công gồm: nhà tiền đường 3 gian 2 dĩ rộng rãi, 2 giải vũ và hậu cung 3 gian. Hậu cung là nơi đặt long ngai bài vị của Ngài, có hai hàng chấp kích với những đại đao, long đao, bố chùy, bát xà mâu. Kiệu và đôi ngựa gỗ để ngoài tiền đường. Đền còn có chiếc trống cù mặt to bằng cái nong được để cố định ở tiền đường. Cổng đền được thiết kế gồm một gian có hai vì kèo, mái lợp ngói, hai bên có cửa tò vò. Sân đền rộng rãi được lát bằng đá, trong khuôn viên của đền có nhiều cây cối. Đền hướng ra đường cái quan, trước cổng có bia đá khắc hai chữ Hạ Mã (xuống ngựa), Quan sang chức trọng phải hạ võng, xuống ngựa mới được đi qua cửa đền. Trải qua thời gian cùng với những biến cố lịch sử, đền Tam Tổng xưa chỉ còn lại gian nhà hậu cung như ngày nay, cây cối cổ thụ trong khuôn viên cũng không còn nữa.
Năm 2003, nhân dân làng Phương Giai xã Vĩnh Tiến đã chuyển ngôi đình làng Phương Giai lên làm nhà tiền đường của đền Tam Tổng và xây dựng một số hạng mục như nhà giải vũ, nhà khách, làm cổng, lát sân. Hiện nay, đền gồm có các hạng mục: 3 gian hậu cung, hai giải vũ, 3 gian tiền đường và nhà khách.
CHÙA, ĐỀN CÒNG – XÃ VĨNH HƯNG
Quần thể di tích chùa, đền Còng nằm trên địa phận làng Còng xã Vĩnh Hưng. Làng Còng theo thần phả là Cương Trang Phúc Lâm, chữ Cương có nghĩa là Công song dân thường gọi chệch là Còng.
1. Chùa Còng (Linh Quang Tự): Chùa Còng được xây dựng từ thời Tiền Lê. Theo các cụ cao niên kể lại, chùa được xây dựng ở chân núi làng Còng trên một khu đất có diện tích rộng gần 1000m2. Trải qua thời gian, mưa nắng và thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa bị xuống cấp nặng. Năm 2000, chùa được trùng tu lại trên nền dấu tích cũ - được đánh giá là vùng đất linh thiêng.
Chùa được thiết kế theo mẫu chùa Việt Nam, kiến trúc gỗ, mái chùa lợp ngói âm dương, chùa rộng 3 gian. Hiện nay, tại chùa Còng còn lưu giữ 9 pho tượng cổ thời Lê bao gồm: Tượng Tam Thế (quá khứ, hiện tại và vị lai), vua cha Ngọc Hoàng, Nam Tào, Đức thế tôn, Thích ca, Đức ông, Thổ địa. Các pho tượng này đều làm bằng gỗ, có kích thước gần như bằng nhau (rộng 47 cm, cao 70 cm).
2. Đền Còng: Đền Còng gắn với điển tích về Thần Cao Sơn và Hoàng Hậu nhà Lý. Hiển Công (thần Cao Sơn) là một vị tướng văn võ song toàn, đậu tiến sĩ năm 22 tuổi, nhà vua yêu mến tài năng giao phó trọng chức làm trấn thủ chiêu phủ các xứ Thanh Hóa, Nghệ An,…Trước đó ông đã đi tuần ở Thanh Hóa, qua huyện Vĩnh Phúc phủ Thiệu Thiên, thấy ở Trang Phúc Lâm (làng Còng ngày nay) là vùng nước biếc, non cao thật đẹp, linh thiêng. Ông đã tự xuất tiền công, sai dựng một cung ở dưới chân núi khu Cương Trang Phúc Lâm làm chốn tuần du. Mỗi lần đi tuần du tới đây ông đều cấp phát tiền của cho nhân nhân vì vậy ông được nhân dân rất yêu mến. Vào khoảng năm Khánh Lịch (1041-1048) ông làm quan tới chức Thừa Tướng kiêm trấn thủ các xứ Nghệ An, Thanh Hóa,…Bỗng năm đó có giặc Đông Dy (Cao Ly Triều Tiên ngày nay) nổi lên xâm chiếm đất đó, quấy nhiễu cướp đoạt dân cư. Nhà vua bèn sai ông ra quân dẹp giặc. Ông vâng mệnh vua đem quân đánh giặc và đã giành được thắng lợi. Sau khi dẹp xong giặc, ông đưa quân về Trang Phúc Lâm mở yến tiệc lớn, mừng thưởng khao quân, dân và cấp tiền cho dân nơi đây. Nhớ ơn ban thưởng đó, nhân dân đã xin húy hiệu của ông để lưu lại về sau phúc uy lớn phụng thờ. Ông liền viết bốn chữ “ Cao Hiển Văn Trường”. Ông Thọ 103 tuổi, sau khi nghe tin ông mất nhân dân làm biểu xin vua lập miếu thờ ngay trên ngôi cung mà ông đã xây để thờ ông bốn mùa hương khói.
Thời vua Lý Thánh Tông (1054-1072), Vua đã cùng Hoàng Hậu tới địa giới núi Khu Cương Trang Phúc Lâm huyện Vĩnh Phúc phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa. Thấy vùng đất này là một thắng cảnh đẹp huyền linh, có một ngôi đền thiêng viết dòng chữ “Tối Linh Từ” nghĩa là đền thiêng Vua Lý Thánh Tông và Hoàng Hậu đã làm lễ cầu tự về sau sinh được hoàng tử Lý Nhân Tông (1072-1128). Từ đó Hoàng Hậu thường trở về du ngoạn và tu sửa đền thiêng tại bản Khu Cương Trang Phúc Lâm. Một sớm tuần du ở Trang Phúc Lâm, thì tự nhiên thấy trời đất tối tăm mù mịt, sóng gió nổi lên mạnh, Hoàng Hậu đã mất ngay lúc đó; Vua nhà Lý cho là trời sai khiến, đã hạ lệnh cho nhân dân bản Khu Cương Trang Phúc Lâm dựng một Miếu thờ ở nơi đất thiêng tại bên tả đền thiêng Cao Sơn để song hành làm lễ phụng hương hỏa, hiệu gọi là “Cao Sơn - Hoàng Bà Linh vị”.
Thời Trần, vua Trần đi dẹp giặc Chiêm Thành đã đến Trang Phúc Lâm làm lễ bái yết hai đền rồi tiến binh đi dẹp giặc. Kết quả đi đến đâu quân vua Trần đều giành được thắng lợi. Sau khi dẹp giặc xong vua Trần tiến binh khải hoàn trở về Bản Khu Cương Trang Phúc Lâm cùng nhân dân tiến hành tạ lễ ban cấp cho nhân dân một trăm quan tiền, năm chục lạng bạc để làm tiền ơn lệ hương hỏa, cho phép miễn binh, lương các việc ba năm.
Đền “Cao Sơn- Hoàng Bà linh vị” được vua Trần Phong là: Quốc Khánh và Quốc Mẫu; phong Đương Cảnh Thành Hoàng Cao Sơn Quốc Thánh hiển ứng Thượng Đẳng Phúc Thần Đại Vương; Phong Đương Cảnh Thành Hoàng Cao Sơn Quốc Mẫu Hoàng Bà anh hùng linh thiêng, tối linh công chúa.
Đến đời vua Thiệu Trị (1841-1847), đền Cao Sơn lại được vua tiếp tục phong sắc và cho phép nhân dân thôn Khu Cương xã Phú Lâm, huyện Vĩnh Phúc (nay là Thôn Còng xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lộc) phụng thờ thần như cũ.
Trải qua thời gian cùng với biến cố lịch sử quần thể di tích đã trở thành phế tích chỉ còn lại nền móng cũ. Được sự hỗ trợ của UBND Tỉnh, đòng góp của nhân dân địa phương, năm 2012, UBND xã đang làm hồ sơ thủ tục để trùng tu lại ngôi Đền.
ĐỀN NÀNG BÌNH KHƯƠNG – XÃ VĨNH LONG
Đền nàng Bình Khương nằm trên địa phận thôn Đông Môn xã Vĩnh Long có sự tích liên quan trực tiếp đến lịch sử xây dựng Thành Nhà Hồ.
Trở lại với lịch sử đất nước Đại Việt vào năm 1397, khi ấy Hồ Quý Ly là Thái sư đương triều đã sai Thượng thư lại bộ kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tĩnh về vùng đất An Tôn đo đạc, đắp thành, đào hào, lập nhà tông miếu (theo Đại Việt sử ký toàn thư...). Để xây dựng thành, Hồ Quý Ly đã phải cho người đào đắp tới 80.000m3 đất, khai thác vận chuyển, lắp đặt 20.000 – 25.000 m3 đá phiến, có những khối đá nặng tới 25 tấn (ở mặt tường cổng Tây) - Một công trình kiến trúc to lớn và đồ sộ nhưng lại phải hoàn thành trong một khoảng thời gian ngắn và khá gấp (3 tháng), vì lúc này quân Minh đã lăm le xâm lược nước ta. Một công trình lớn như vậy tiến độ thi công gấp rút nghiêm ngặt là thế nhưng đoạn tường thành phía Đông do Trần Công Sỹ phụ trách cứ xây gần xong lại bị sụt đổ, không ai rõ nguyên nhân từ đâu. Sau vài lần như vậy Hồ Quý Ly nghi ngờ Trần Công Sỹ có mưu làm phản, cố ý chậm trễ công việc xây thành. Chính lẽ đó, Hồ Quý Ly đã ghép cho Cống Sinh tội làm phản và sai người vùi thân chàng vào tường thành cửa Đông cho đến chết.
Tương truyền, nàng Bình Khương khi nghe tin chồng đã bị chôn sống liền tìm tới động An Tôn. Khi biết chồng đã chết, nàng Bình Khương đau khổ và uất hận vô cùng đã đập đầu vào đá để kêu oan cho chồng. Trước cái chết tiết liệt của nàng Bình Khương, triều đình xem xét tìm nguyên nhân tại sao bức tường thành phía Đông cứ xây lên cao lại bị đổ và nguyên nhân chính là do dưới chân đoạn tường thành phía Đông có địa chất không ổn định, có mạch nước ngầm lớn thường có cát đùn nên đoạn tường cứ xây xong lại bị sụt lở. Để khắc phục sự cố đó, Hồ Nguyên Trừng con trai của Hồ Quý Ly, tổng chỉ huy xây thành đã cho lát một phiến đá to, rộng dưới chân móng và xây lên.
Theo sử sách, đến đời vua Đồng Khánh (nhà Nguyễn), người ta nghe tin đồn về dấu tay và đầu nàng Bình Khương qua 500 năm vẫn còn in rõ trên phiến đá tường thành, khách xa gần hiếu kì tìm về đây rất đông. Có viên hào lý trong làng Đông Môn lo ngại tiếng đồn ngày càng vang xa sẽ gây nhiều phiền nhiễu, nên thuê ngay thợ về đục cả phiến đá đem chôn, công việc này làm trộm trong đêm không để một ai biết. Nhưng sau khi đục xong phiến đá ấy, người thợ bỗng nhiên mắc bệnh lạ và chết, rồi viên hào lý kia cũng lăn đùng ra chết không rõ nguyên nhân. Bấy giờ, Tri phủ Đoàn Thước nghe tin, lo sợ mới sai lính tìm bằng được và đào phiến đá đó lên, lắp đúng vào chỗ cũ và khắc dòng chữ "Trần triều Cống Sinh - Bình Khương nương, phu nhân chi thạch" (nghĩa là: Tảng đá này ghi dấu vết của nàng Bình Khương, là nương tử của ông Cống Sinh, triều nhà Trần). Xung quanh đền thờ quanh năm rợp bóng cây tươi mát. Để tô điểm thêm cho cảnh miếu đền, Tri phủ Đoàn Thước đã bỏ tiền của xây dựng một "bia đình" (bia và nhà bia). Trên tấm bia đá lưu bài thơ được nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ dịch:
“Thành mở đường hoa đà tuyệt tích
Bia chuyện Bình Khương còn cảm kích
Thư sinh mang sức cả muôn nhà
Đá cứng, liễu mềm mà vô địch
Vết bàn tay mất mặt gian hùng
Oai thượng tướng vang trời hiển hách
Nửa trời nhật nguyệt tỏ đến nay
Triều Trần trung liệt ghi sử sách”.
Năm 1903, tổng đốc Thanh Hóa là Vương Duy Trinh một đêm nằm mộng gặp một người con gái khóc lóc kêu oan cho chồng mình. Tỉnh giấc, ông bèn hỏi thăm trong vùng và được biết người con gái đó là nàng Bình Khương vì vậy ông đã cho quyên tiền xây dựng ngôi đền khang trang, đồng thời cho dựng bia tại đền ghi lại sự tích Cống Sinh-Bình Khương cùng với vần thơ ca ngợi:
Tấm lòng trinh tiết in vào đá
Lưu mãi muôn đời vạn tiếng thơm
Đền thờ - Bia ký nàng Bình Khương đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Trong quá trình hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Thành Nhà Hồ là di sản văn hóa Thế giới Trung tâm bảo tồn Di sản thành nhà Hồ đã xin phép UBND Tỉnh Thanh Hóa trùng tu tôn tạo lại đền nàng Bình Khương với cơ ngơi khang trang đẹp đẽ như ngày hôm nay mục đích lưu lại đời đời tiết hạnh, phẩm giá của nàng Bình Khương nói riêng và vẻ đẹp đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam.
CHÙA XUÂN ÁNG – XÃ VĨNH LONG
Chùa Xuân Áng được xây dựng trên địa thế đẹp, ba mặt được bao bọc bởi quần thể núi non, mặt phía Nam thoáng đạt có minh đường rộng lớn, thuộc làng Xuân Áng, xã Vĩnh Long huyện Vĩnh Lộc. Chùa cách thành nhà Hồ 3km về phía Bắc. Xung quanh chùa trồng nhiều cây lâu năm, khuôn viên chùa rộng và được xây dựng tường bao bọc phía bên ngoài.
Bước vào cổng chùa có một tấm bia lớn ghi lại những dấu mốc lịch sử quan trọng trong quá trình hoạt động đấu tranh của Đảng bộ huyện Vĩnh Lộc trong những năm 30 của thế kỷ trước. Bia được đặt trang trọng ở sân trước của chùa. Đứng từ vị trí bia quan sát ta nhìn thấy tổng thể ngôi chùa xây dựng có kiến trúc tam cấp gồm 2 sân dưới và ngôi chùa phía trên, từ sân dưới lên sân trên qua 5 bậc và từ sân trên lên chùa gồm 7 bậc. Do xây dựng từ lâu và chiến tranh tàn phá nên ngôi chùa đã hư hỏng rất nhiều. Năm 2004, chùa đã được chính quyền địa phương trùng tu lại trên nền móng cũ. Ngôi chùa có diện tích khoảng gần 35 m2, gồm 3 gian và hậu cung xây dựng theo lối kiến trúc cổ. Công trình hai mái, hai hồi bít đốc, kiến trúc cửa gỗ “thượng song hạ bản” tức là phía trên là chân song, phía dưới là gỗ kín, ngưỡng cửa khá cao vì thế khi ra vào phải khom người và cao chân bước qua.
Hai bên đốc ngôi chùa là hai cây cột lớn, phía trên có tượng hai con nghê chầu vào chính điện. Đỉnh của ngôi chùa có đắp hình Lưỡng long chầu nguyệt và hai chim phượng bay phía sau. Chùa được lợp ngói vẩy rồng, bên dưới là lớp ngói liệt có tác dụng chống dột và chống nóng.
Chùa Xuân Áng hiện còn lưu giữ được một số hiện vật cổ như: Ba pho tượng gỗ (điêu khắc Phật và các vị thánh). Ngoài ra còn có các hiện vật thờ cúng mới được công đức trong quá trình trùng tu xây dựng chùa năm 2004.
Ban thờ tam cấp được bố trí ở chính điện nằm trọn vẹn bên trong hậu cung, phía trước là bàn thờ ngoài và hai bên tả hữu thờ hai vị quan hộ pháp theo phong cách kiến trúc cổ tuy nhiên không có các đường nét chạm khắc.
Chùa Xuân Áng là nơi tổ chức hội nghị thành lập chi bộ Đảng đầu tiên tại Vĩnh Lộc vào tháng 4 năm 1934 dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Chủ - Bí thư tỉnh ủy. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, phong trào đấu tranh của nhân dân trong huyện liên tiếp thu được những thắng lợi mới. Vào tháng 10 năm 1941 chùa cũng là nơi trú quân của đoàn du kích Ngọc Trạo. Hiện nay, chùa là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương.
CHÙA TƯỜNG VÂN (CHÙA GIÁNG) – THỊ TRẤN VĨNH LỘC
Chùa Tường Vân là một ngôi chùa cổ tọa lạc dưới chân núi Đún (Đốn Sơn) thuộc địa phận thôn Cao Mật, Tổng Cao Mật xưa (nay chùa thuộc khu phố III Thị trấn Vĩnh Lộc, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa) cách Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ khoảng 2,5km về phía Nam.
Tường Vân là tên chữ, Tường Vân theo nghĩa Hán tự là mây có ý nghĩa tốt lành. Nhân dân vẫn thường gọi tên chùa gắn với tên làng Giáng là chùa Giáng.
Theo cuốn sách chùa Việt Nam tiêu biểu do Nhà xuất bản Tôn giáo ấn hành tại trang 117 có viết: “Vào thời nhà Trần cách đây hơn 700 năm, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sau khi đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược, giúp vua trị quốc, xây dựng nước Đại Việt hưng thịnh thì xảy ra một sự việc đáng tiếc về nội bộ hoàng tộc giữa hai anh em là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông và Trần Liễu thân phụ của Trần Quốc Tuấn đã khiến cho tình cảm giữa Trần Quốc Tuấn và Trần Quốc Tảng không mấy mặn mà, Trần Quốc Tảng bỏ về ẩn cư ở Tịnh Bang, Vĩnh Lải, Hải Dương. Trước sự việc trên, một người cháu của Trần Quốc Tuấn đã xin xuất gia vào Đốn Sơn, lập am cỏ đi tu theo thiền phái Trúc Lâm và đặt tên am cỏ là Tường Vân”.
Hơn 600 năm tồn tại, gắn bó với vùng đất từng là kinh đô nước Đại Ngu, vương triều nhà Hồ (1400- 1407), chùa Tường Vân là một trong những công trình kiến trúc quan trọng có giá trị nổi bật về ý nghĩa văn hóa cũng như lịch sử. Khi xây thành Tây Đô, Hồ Quí Ly đã cho làm một con đường từ cửa Nam tới chùa Tường Vân, Đàn Nam giao (Đường Hoa Nhai hay đường Hoàng Gia) để các thân vương, quí tộc đến chùa lễ phật cầu phúc cho chúng sinh vì vậy chùa Tường Vân được coi là ngôi quốc tự của vương triều Hồ.
Chùa Tường Vân được xây dựng trên một vị trí khá đặc biệt, tựa lưng vào núi, hướng mặt ra sông Mã, bố cục hài hòa với cảnh quan môi trường thiên nhiên xung quanh.
Cổng tam quan hiện nay được tôn tạo lại trên nền móng cũ theo hướng Tây Nam, có qui mô: Chiều dài 22,9m, rộng 3,8m, cổng chính rộng 4,5m bên trên đắp rồng đăng đối chầu vào. Phía trên có gác chuông và mặt trước đắp nổi 3 chữ Hán “Tường Vân Tự”.
Tiếp theo Tam quan là sân chùa được lát gạch bát đỏ và đá lan giai. Hai bên có 2 đường Pháp vân, Pháp vũ tạo thành hai lối lên xuống. Trước sân là tượng của phật bà Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nhà Tổ: Được trùng tu lại vào năm 1987; đến năm 2006, tiếp tục được trùng tu tôn tạo chất liệu hoàn toàn bằng gỗ, bao gồm 3 gian có chiều dài 12m, rộng 9,4m nhà tổ được làm theo kiến trúc tường hồi bít đốc. Kết cấu vì kèo được làm theo kiểu chồng rường kẻ bẩy, hiên nhà rộng 2,25m, toàn bộ hàng cột hiên làm bằng đá, chạm khắc hình hoa sen, hoa cúc và các loài chim. Gian giữa nhà tổ đặt tượng Tây Thiên và 2 vị Thị giả. Bên tả là ba tượng tổ kế đăng là sư Thích Đàm Uyên, Thích Đàm Uông, Thích Đàm Khoát.
Rời nhà tổ, đến với khu vực chính của chùa gồm 3 dãy nhà là: Phật điện, nhà Mẫu và nhà Tứ ân. Cả ba dãy nhà này liên kết với nhau cùng chiều, quay về hướng Nam chung một sân chùa.
Phật điện:Là ngôi tiền đường 5 gian thiết kế theo kiểu tường hồi bít đốc có hậu cung xây cuốn theo kiểu tò vò kiến trúc cuối thời Nguyễn. Tiền đường có chiều dài 9,6m, rộng 4,7m, hậu cung sâu 5,8m toàn bộ kết cấu bằng khung gỗ có 3 cửa ra vào. Gian giữa đắp 3 chữ hán “Tường Vân Tự” bên trái đắp 4 chữ Hán “Hiền thông diệu dụng” bên phải đắp hàng chữ “Trí tuệ viện minh” trên đỉnh nóc đắp “Lưỡng long chầu nguyệt”.
Bệ thứ nhất: Là bộ tượng tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai). Tượng phật hiện tại được tạc tay đang kết ấn tam muội, để lòng bàn tay ngửa lên. Phật quá khứ bên phải, tay trái đặt lên đùi, tay phải trong tư thế giơ lên đang thuyết pháp. Phật vị lai tay ngược với pho quá khứ tạo thế cân bằng.
Bệ thứ 2: Là tượng Di Đà Tam Tôn gồm 3 pho: phật A Di Đà ngồi giữa, Đại Thế Chí bên phải, Quán Thế Âm bên trái.
Bệ thứ 3: Là tượng quan Thiên thủ Thiên nhãn, với người giúp việc là Kim Đồng, Ngọc Nữ và 2 thị tỳ đứng 2 bên.
Bệ thứ 4; Là tượng Ngọc Hoàng ngồi giữa, Đức ông và Thánh hiền ngồi 2 bên.
Bệ thứ 5: Là tượng Thích Ca sơ sinh ở giữa, Thánh Tăng và Thổ Địa ở 2 bên.
Bệ thứ 6: Là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
Nhà mẫu: Nhà mẫu có niên đại thế kỷ XVI- XVII được trùng tu tôn tạo năm 1960, chất liệu hoàn toàn bằng gỗ gồm 4 gian và hậu cung. Nét đặc biệt của khu nhà Mẫu là bức cửa võng được chạm nổi hình rồng với thân hình uốn lượn miệng há to….Nhìn chung phần chạm khắc nhà mẫu đặc sắc có giá trị nghệ thuật. Tín ngưỡng thờ Mẫu là một sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa phản ánh tâm tư tình cảm của người Việt. Nhà Mẫu gồm có:
Cung đệ nhất là nơi đặt tượng Tam Tòa Thánh Mẫu: Đệ nhất Mẫu Thiên ở giữa, đệ nhị Thượng Ngàn ở bên phải, đệ tam Mẫu Thoải ở bên trái.
Bệ thứ hai trong cung đặt tượng vua bà ngồi giữa hai bên có Châu Quỳnh, Châu Quế, hai nhân vật này được dân gian gọi là Quỳnh Hoa công chúa và Quế Hoa công chúa.
Cung đệ nhị hàng thứ nhất đặt 5 vị tôn quan, hội đồng thánh cô, thánh cậu. Bên tả tiền đường nhà Mẫu có tượng Đức thánh Trần.
Tháp bảo Phật:Vào năm 2009, Tháp được trùng tu, xây dựng trên nền móng cũ của thời Lê cao 9 tầng hình lục giác bên trong thờ quá khứ thất phật, là một trong những bảo tháp được xây dựng với qui mô lớn.
Nhà Từ Ân:Nằm ở bên phải phật điện được tôn tạo lại năm 2003 là nơi thờ Địa tạng vương Bồ tát và các chân linh qui tại chùa.
CHÙA HOA LONG, ĐỀN TRẦN KHÁT CHÂN – XÃ VĨNH THỊNH
Chùa Hoa Long và đền Trần Khát Chân thuộc địa phận thôn Trung, xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng với địa thế được 5 dãy núi là: Mông Cù, Hùng Lĩnh, Cô Sơn, Kim Sơn và Kim Âu bao quanh tạo thế tựa vững chắc. Đây là quần thể lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật độc đáo được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp quốc gia.
1. Chùa Hoa Long: Tên chữ là Hoa Long Tự hay còn được gọi là chùa Bản Thuỷ. Chùa được xây dựng từ thời Trần. Khi khởi dựng, chùa quay mặt hướng Bắc, nằm bên cạnh hồ sen, bố cục theo hình chữ nhị (=) gồm hai toà nhà Tiền đường và Hậu cung liên kết với nhau tạo thành một khối thống nhất. Bên trái phía trước chùa là một dãy nhà ngang dùng làm nơi cho sư trụ trì và khách thập phương nghỉ chân. Hiện nay, chùa Hoa Long còn lưu giữ được đôi câu đối ghi lại sự kiện khởi dựng chùa thuở trước:
“Bắc khởi Hoa Long tam Phật tự
Hương lưu Bản Thủy tứ thôn dân”
Nghĩa là:
Phía Bắc khởi tạo chùa Hoa Long thờ Tam Bảo Phật Hương thơm lưu ở đất Bản Thủy bốn thôn đều thờ”.
Chùa Hoa Long đã được trùng tu nhiều lần. Dòng chữ chạm nổi ở trụ gian giữa nhà tiền đường cho biết thời gian tôn tạo chùa vào năm Nhâm Tuất đời vua Lê Hy Tông: “Hoàng Thượng Chính Hoà tam niên, Nhâm tuất tạo Thử thiên cổ tích danh lam Hoa Long tự”. Nghĩa là: “Năm Chính Hoà thứ 3 (1683) đời vua Lê Hy Tông, tức năm Nhâm Tuất tạo lập kiến trúc chùa Hoa Long thuở xưa”.
Dòng chữ trên thượng lương nhà tiền đường cũng cho biết thời gian di chuyển chùa đến địa điểm trên khu đất ngày nay là năm Thành Thái thứ 4 (1892).
Hiện nay nhà Tiền đường gồm 3 gian 4 mái uốn cong, lợp ngói mũi hài, có kích thước: dài 9,3m; rộng 6,3m; kiến trúc gỗ gồm 4 cột cái, 2 cột quân ở hai vì kèo giữa. Ở hai trụ chính gian giữa chạm hình 2 tiên nữ có cánh như đang bay lên. Giữa hai trụ là bức chạm vân hóa long chầu mặt nguyệt; hình ảnh long, ly, quy, phượng và còn rất nhiều mảng hoa văn đẹp khác trong chùa, đáng chú ý là bức cửa võng được chạm khắc chủ đạo trong nhà Tiền đường làm nền cho phật điện với lối chạm bong đôi rồng được uốn thành 3 khúc đầu ngẩng lên chầu đỡ viên ngọc quí, những tia sáng tỏa ra xung quanh. Hai bên tả và hữu của nhà tiền đường còn có các bức chạm khắc độc đáo khắc nổi 5 chữ Hán “Xuân thời lạc Cảnh Thịnh” nghĩa là “Mùa xuân cảnh vui đẹp” cũng có thể người xưa muốn ghi khắc niên hiệu tạo nên tác phẩm nghệ thuật “Vui mùa xuân năm Cảnh Thịnh” từ năm (1793- 1802).
Phần hậu cung gồm 3 gian nhà xây cuốn vòm với chiều dài 6m, rộng 4,3m. Hậu cung thông với tiền đường bằng 3 cửa, phía trong xây bệ thờ Tam Bảo Phật bằng đá gọi là “Bệ tam thế” đặt 3 pho tượng quá khứ, hiện tại, vị lai được chạm bằng gỗ giống nhau, tóc xoắn ốc, mặt trái xoan, tai phật chảy, mũi dọc dừa, mắt hơi nhìn xuống, miệng hé nở nụ cười.
Chân bệ Tam thế được trang trí hoa văn hình sóng nước, phía trên là 2 hàng cúc dây mềm mại uốn lượn nhịp nhàng.
Thân bệ được trang trí theo kiểu bổ ô dọc, kích thước không đều nhau mặt trước là 7 ô, ô chính giữ chạm một bình hoa đang tỏa ngát hương thơm, 6 ô còn lại chạm hình 6 cô tiên nữ trong điệu múa dâng hoa. Phần trên của thân bệ chạm những cánh sen nổi gồm 4 lớp tạo thành một bông sen lớn rất độc đáo. Có thể nói những bức chạm khắc trên đá và trên gỗ ở chùa Hoa Long khẳng định tính độc đáo của di tích được kết tinh từ một bộ óc sáng tạo, khiếu thẩm mỹ tinh tế và những đôi bàn tay tài hoa của cha ông chúng ta thuở trước. Nhân dân trong vùng lưu truyền sự linh ứng của ngôi chùa khi đến đây cầu tự.
2. Đền Trần Khát Chân: Được xây dựng ở phía Đông Bắc của chùa Hoa Long là nơi thờ nhân vật lịch sử Trần Khát Chân một vị tướng văn võ toàn tài ở cuối thế kỷ XIV có công giết vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga trừ hậu họa cho Đại Việt, bảo vệ vương triều nhà Trần. Cái chết của ông được nhân dân thương cảm thờ phụng. Ông được tôn là Thánh Lưỡng được thờ ở nhiều nơi. Đây là ngôi đền có giá trị rất đặc biệt về kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc trang trí, một di sản hiếm gặp trong kho tàng kiến trúc dân gian truyền thống của người Việt.
Theo sử liệu cho biết, Trần Khát Chân là người Hà Lãng huyện Vĩnh Ninh (làng Hà Lương xã Vĩnh Thành ngày nay). Năm 1390, do lập công vang dội được Triều đình ban thưởng chức Thượng tướng quân, quản lĩnh vệ quân long tiệp, ban tước vũ tiết quan nội hầu. Năm 1397, Trần Khát Chân được giao việc dẫn quân vừa hỗ trợ, bảo vệ và đốc thúc xây thành Tây Đô với chức Lưỡng vệ kim ngô, Long hổ điện tiền Thượng tướng quân, hành doanh ở Đốn Sơn. Lúc này trong vương triều Trần quyền hành của Hồ Quý Ly quá lớn, khiến cho các đại thần nhà Trần bất mãn. Ngày 4/4/1399, vua Trần ban chiếu làm lễ Minh Thệ ở Đốn Sơn, các tướng lĩnh nhà Trần chủ mưu bàn kế giết Hồ Quý Ly nhưng không thành, Trần Khát Chân và hơn 370 người đã bị giết trong lễ Minh Thệ cuối cùng của lịch sử phong kiến Việt Nam.
Đền thờ Trần Khát Chân được xây dựng từ khá sớm với cấu trúc gồm: Tiền đường, trung đường và hậu cung; diện tích xây dựng gồm 240m2 nhà, 260m2 sân, 500m2 vườn cây cảnh và sân ngoài. Đền thờ Trần Khát Chân là công trình kiến trúc nghệ thuật gỗ thời Lê (thế kỷ XVII-XVIII), tại tiền đường còn ghi niên đại tu sửa đền vào năm 1820 niên hiệu Minh Mạng.
Nhà Tiền đường gồm 5 gian 2 chái có chiều dài 15,5m, chiều rộng 8,32m, diện tích xây dựng 129m2, nhìn theo hàng dọc có 6 hàng cột gồm 4 cột cái, 2 cột quân, có 4 vì nóc chạm mặt hổ phù; ở hai vì kèo 3 và 4 thể hiện rõ nét nhất về nghệ thuật điêu khắc gỗ đó là: Kết cấu trước sau chồng rường trên, các vì kèo ở đây không có trụ mà bằng ván lá dày (một khối ván tam giác), chạm mặt hổ phù, bên dưới khối tam giác chạm hổ phù là bức xuân hoa có khung bảng, đố, ván ở trước, còn phía sau là bức xuân hoa hoành phi viết chữ đại tự:
Bên hữu: Quan tại phụ
Bên tả: Miếu hữu nguyên
Thượng lương có ghi dòng chữ: “Hoàng triều Minh Mệnh nguyên niên Canh Thìn khởi tạo, Thành Thái nhị niên Canh Dần trùng tu, Bảo Đại ngũ niên Canh Ngọ tuế, thập nhị nguyệt, sơ cửu nhật Nhâm Ngọ đại tu thụ trụ thượng lương đại cát”.
Công trình nhà tiền đường đã được trùng tu nhiều lần: Lần khởi tạo Minh Mạng nguyên niên Canh Thìn tức năm 1820, đến trùng tu Thành Thái nhị niên Canh Dần tức năm 1890 và đến năm 2011, sở VHTT&DL Thanh Hóa làm chủ đầu tư tiến hành trùng tu. Chạm trổ trong đền chủ yếu là tứ linh chen tứ quý, đường nét chạm trổ tinh xảo, kỹ thuật chạm thủng, chạm bong.
Trung đường, cùng hướng với tiền đường, giữa tiền đường và trung đường có một sân hẹp (rộng 0,64m) như rãnh nước, ngôi nhà trung đường có diện tích 70m2 có kết cấu mái tương tự như tiền đường. Đặc biệt ở gian 3 (gian giữa) phía sau là nơi tiếp giáp với nhà chính tẩm.
Nhà chính tẩm được xây dựng theo kiểu chữ đinh với chiều dài 6,05m; rộng gần 5m, diện tích 30m2, nhà gắn liền với trung đường gồm 3 gian 4 vì, cấu trúc 4 vì khác nhau. Trong chính tẩm có 1 thánh vị thời Lê về Trần Khát Chân trên thánh vị có mũ, hài, đai, đôi kiếm thờ, áo, trông thật uy nghi. Có 2 thánh vị được phối thờ là Thành hoàng bản thổ và trung đẳng thần đặt trên long ngai cổ. Hiện vật cổ trong đền bao gồm các lư hương bằng đồng, bằng đá, bằng gốm thời Lê với đường nét chạm trổ chi tiết, nét chạm trên đồng mà tinh như chạm bạc. Hệ thống các con vật thờ: Ngựa bạch, ngựa hồng, hạc, vẹt gỗ chạm trỗ, tượng gỗ, 2 tượng phỗng phục chầu bằng đá.
Ngôi trung đường và chính tẩm không ghi niên đại xây dựng, căn cứ nét đao mác trên các bức chạm thì đây là một công trình kiến trúc thời Lê Trung Hưng (cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII), các bức chạm đường nét chau chuốt, một số hoạ tiết chim, sóc và những con vật dân gian của văn hoá thời Lê Trung Hưng thế kỷ 18. Trong di tích hiện còn lưu 20 đạo sắc gốc các triều Lê, Nguyễn (Triều Lê có 8 đạo, triều Nguyễn có 12 đạo) và các tập bản sao sắc phong bằng chữ Hán qua các triều đại.

CHÙA DU ANH, ĐỘNG HỒ CÔNG - XÃ VĨNH NINH - HUYỆN VĨNH LỘC

Từ thành phố Thanh Hóa, theo Quốc lộ 45 về phía Tây khoảng 40km chúng ta sẽ đến với quần thể Di tích - Danh thắng cấp Quốc gia: Động Hồ Công, chùa Du Anh cổ kính uy nghiêm và thơ mộng thuộc địa phận xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
1. Chùa Du Anh (chùa Thông):
Nằm dưới chân dãy núi Xuân Đài là ngôi chùa Du Anh tên nôm gọi là chùa Thông. Tương truyền, chùa được xây dựng vào thời nhà Lý. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, đến triều đại nhà Trần, ngôi chùa lại gắn với tích vua Trần Nghệ Tông đưa công chúa Du Anh về lễ chùa, thưởng ngoạn. Khi đến đây thấy cảnh trí sơn thủy hữu tình, Nhà vua đã phát tâm công đức cho sửa chùa, đắp tượng hương khói quanh năm, từ đó chùa được mang tên gọi là chùa Du Anh (theo cuốn chùa xứ Thanh tập 1 trang 59).
Đầu niên hiệu Hoằng Định, thời Lê Trung Hưng (1601- 1619), có ngài Trịnh Vĩnh Lộc người xã Sáo Sơn, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên (nay thuộc xã Vĩnh Hùng huyện Vĩnh Lộc) đã được phong Tuyên lực Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Đô đốc phủ, Đô đốc đồng tri, tước Quảng quận công đã xuất tiền tôn tạo lại ngôi chùa, từ 1601 đến năm 1605 thì làm xong.
Ngôi chùa được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng, cảnh trí hữu tình, lấy núi Xuân Đài làm hậu chẩm, núi Trác Phong làm tiền án. Xưa kia, bên tả chùa có gác Ngọc Hoàng, bên hữu chùa có am Công chúa. Hai bên nách chùa lại có hai hồ nước Nhật, Nguyệt do thiên nhiên tạo thành, bốn mùa nước trong vắt nhìn xuống tận đáy.
Hiện nay, qua cổng tam quan, chúng ta bắt gặp 2 linh vật thời nhà Trần đó là tượng voi quỳ và sư tử được tạo tác bằng đá trắng nguyên khối, trên bệ đá có khắc hình hộp, hoa văn sóng nước. Trong quần thể di tích hiện còn lưu giữ bia ký và bài minh do Thượng thư Phùng Khắc Khoan soạn năm Hoằng Định thứ 6 (1605) ca ngợi công đức của Quảng quận công Trịnh Vĩnh Lộc đối với ngôi chùa. Bia đá thuộc nhóm bia hộp được tạc từ mỏm đá nguyên khối cao 2,5m, cả 4 mặt đều khắc chữ Hán. Mặt trước có tên “Trùng tu Xuân Đài sơn, Hồ Công động, Du Anh tự bi”, mặt sau khắc niên đại “Ngày lành tháng 10 niên hiệu Hoằng Định thứ 6 (1605). Nội dung bia đá khắc tên các bậc vua, chúa, hoàng thân quốc thích, quan lại trong triều đã đóng góp tiền của trùng tu lại chùa.
Bên trong chùa Du Anh, các tượng phật được bài trí hợp lý toát lên vẻ uy nghiêm mà gần gũi của đạo phật.
Hàng năm, vào ngày mùng 9 tháng giêng âm lịch, du khách thập phương và nhân dân trong huyện lại nô nức trẩy hội truyền thống đầu xuân được tổ chức tại chùa Du Anh nhằm thỏa nguyện tâm linh, cầu cho một năm mưa thuận gió hòa và chiêm ngưỡng cảnh đẹp của động Hồ Công. Theo truyền thuyết, ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch là ngày Ngọc Hoàng giáng thế và nhằm ngày Mậu Ngọ mùng 9 tháng giêng năm Hồng Đức thứ 7 (1476) vua Lê Thánh Tông về thăm động Hồ Công có làm bài thơ khắc trên vách động Hồ Công vì vậy nhân dân đã lấy ngày này để tổ chức lễ hội truyền thống.
2. Động Hồ Công:
Từ chùa Du Anh, theo lối mòn chân núi chếch về hướng Đông Nam là thắng tích động Hồ Công. Các bậc đá xếp tự nhiên từ thấp lên cao thành lối mòn đưa chúng ta lên tới động. Trên đường đi lên động du khách bắt gặp một phiến đá lớn khắc 4 chữ Hán “Thanh Kỳ Khả Ái” nghĩa là “ Màu xanh kỳ lạ đáng yêu”, một chứng tích về lòng ngưỡng mộ của các bậc tao nhân mặc khách xưa trước phong cảnh thiên nhiên mỹ lệ của động Hồ Công.
Đứng trước cửa động, phóng tầm mắt ra xa, cả một vùng non nước xứ Thanh hiện rõ trong đó có núi Tiến Sĩ, hình một nhà nho áo mũ chỉnh tề đang ngồi suy tư đọc sách. Ngước nhìn lên phía trên vòm cửa động, ta thấy ba chữ Hán ghi “Hồ Ngọc Động”, vách đá bên phải cửa động đề 4 chữ Hán lớn “Sơn Bất Tại Cao” do Hồng Anh cư sĩ Nguyễn Nghiễm, thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du đề. Dựa vào câu: “Sơn bất tại cao, hữu tiên tất linh; Giang bất tại thâm, hữu long tất ứng” nghĩa là núi không cao mà có tiên sẽ linh thiêng; sông không sâu mà có rồng sẽ linh nghiệm, ý nói núi ở đây không cao nhưng rất linh thiêng vì là nơi có thần tiên ở đó là nhân vật Hồ Công Long và Phí Trường Phòng.
Động Hồ Công được người xưa liệt vào “Tam thập lục động, Hồ Công vị đệ nhất” nghĩa là động Hồ Công được liệt vào 36 động đẹp của nước Nam. Theo sách Đại Nam nhất thống chí mô tả: “Có khối đá trông như hình con cóc cúi đầu ngồi trong động, thạch nhũ trong động sắc đỏ lại có hang đá quanh co dài mười trượng, chỗ tận cùng có giếng đá sâu khôn cùng…”. Chính sự kỳ công của tạo hóa mà Hoàng đế Lê Thánh Tông phải thốt lên “Thần chùy quỷ tạc vạn trùng san” nghĩa là: Động Hồ Công, vẻ đẹp như có quỷ thần soi tạc nên.
Động Hồ Công có chiều dài 45m rộng 23m, cửa mở rộng luôn sẵn sàng đón khách trần lên chơi cõi tiên. Tương truyền xưa kia có một ông già vai đeo quả bầu nhỏ thường ra chợ bán thuốc chữa bệnh, tối đến ông lại thu mình chui vào quả bầu để ngủ. Người ta thấy lạ hỏi: Quả bầu nhỏ thế mà sao ông vào ngủ được? ông già nói: Nhà ngươi có muốn chui vào thử xem thế nào không? Người ấy bằng lòng ông liền hóa phép cho anh ta chui vào trong quả bầu thì thấy trong đó có đủ trời, đất, trăng sao nhà cửa…Người ấy chính là Phí Trường Phòng, biết ông già là bậc đại tiên nên đã theo học đạo và sau này cũng đắc đạo thành tiên. Hai thầy trò ở trong động đá trên dãy núi Xuân Đài rồi đi vào bất tử để lại hình hài hóa thành hai pho tượng đá trong động ngày nay.
Trên vách đá của động có nhiều bài thơ đề vịnh của các thi sĩ, danh nhân. Năm 1463 vua Lê Thánh Tông một vị vua có tài trị nước, giỏi văn chương nhân chuyến du ngoạn lên núi Xuân Đài thăm động Hồ Công thấy mình như được tới cõi tiên cảm hứng làm bài thơ khắc vào đá:
Thần chùy qủy tạc vạn trùng san
Dư thất cao song vũ trụ khoan
Thế thượng công danh đô thị mộng
Hồ trung nhật nguyệt bất thắng nhàn
Hoa Dương long hóa huyền châu trụy
Bích lạc truyền lưu bạch ngọc hàn
Ngã dục thừa phong lăng tuyệt lĩnh
Vọng cùng vân hải hữu vô gian
Dịch thơ:
Quỷ thần xây dựng núi muôn trùng
Nhà rỗng song cao giữa khoảng không
Cõi tục công danh đều huyền ảo
Bầu tiên ngày tháng xiết thong dong
Hoa Dương rồng hóa châu rơi rớt
Bích lạc dòng xuôi ngọc lạnh lùng
Cưỡi gió ta mong lên chót núi
Xem mây cao tít nước mêng mông
(trích trong cuốn Thanh Hóa Vĩnh Lộc huyện chí, tác giả Lưu Công Đạo)
Sau vua Lê Thánh Tông, vị vua Lê Hiến Tông nhân bái yết Lam Kinh cũng dừng thuyền lên núi Xuân Đài vin mây nhẹ bước theo dấu chân phụ Hoàng cũng ngự chế đề thơ.
Vào những năm 1750- 1754 Nguyễn Nghiễm thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du khi đi thảo phạt quân giặc Ai Lao trở về cũng lên thăm động đề thơ ca ngợi. Gần hai mươi năm sau chúa Trịnh Sâm đến thăm động Hồ Công với cảm xúc kỳ lạ về một chốn tiên trong trẻo cao hứng viết thơ :
“Tằng tằng nham kính chuyển bàn vu;
Cao xứ hàm nha Ngọc nhất Hồ…”
Dịch thơ:
“Trập trùng nẻo đá lượn quanh co
Đỉnh núi cao nhô một Ngọc Hồ...”
Chùa Báo ân, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc
Chùa Báo Ân, lúc đầu có tên chữ là “Lộc Sơn tự”, sau đổi thành “Báo Ân tự”, nhân dân thường gọi là chùa Báo. Các tên gọi khác nhau của chùa đều gắn với những truyền thuyết, dã sử mang tính thiêng, tính thiện và lòng biết ơn báo đền “Ân”, “Đức”.
Chùa nằm dưới chân núi Báo, trước chùa có dòng sông Mã uốn lượn rất nên thơ, bên kia bờ là xã Định Tân, huyện Yên Định. Khúc sông trước chùa còn gắn với biết bao sự tích, huyền sử và các sinh hoạt văn hóa, lễ hội mang đậm truyền thống của cư dân trồng lúa nước như: Vụng Quần Tiên, hòn đá Ngốc, đá Bàn, ghềnh Trùng Trục (hay ghềnh Trai),…đặc sắc nhất là lễ hội Rước bóng diễn ra vào ngày 28/2 âm lịch hàng năm.
Theo các cụ trong làng kể lại, trước kia chùa được xây dựng ở phía chân núi Báo, ngay thửa đất ngày nay, trong khuôn viên chùa gồm các công trình: Nhà gỗ, nhà đá với diện tích khá rộng và sân rước bóng. Chùa hiện nay gồm các hạng mục: Cung Tam Bảo (xây dựng lại năm 2004), Phủ, tượng phật Quán Thế Âm Bồ Tát, Bia và tháp Viên Quang. Trong chùa hiện còn lưu giữ được một số hiện vật cổ có giá trị như: Bia đá tháp viên Quang, Tháp cổ; pho tượng Di Đà cỡ lớn, pho tượng Tam Thế cỡ lớn, một chuông đồng; đặc biệt là tại chùa Báo Ân ngày nay vẫn duy trì và phát huy lễ hội Rước bóng (trong đó có nghi lễ rước nước) vào ngày 28 tháng 2 âm lịch hàng năm.
Căn cứ vào bia đá “Viên Quang tháp nội bi ký” do tiến sĩ Đinh Công Vĩ dịch. Bia không nói rõ chùa được lập năm nào, do ai lập nên nhưng nội dung bia ghi tóm tắt lai lịch của người được thờ trong tháp, tên của chùa. Nội dung bia cho biết tháp Viên Quang do bậc tôn Thiền Sư là Thích Thủ, tên hiệu là Diệu Trì cho xây dựng. Người được thờ trong tháp có họ Bùi, tên húy là Tại Tâm, tên hiệu là Diệu Chấn, sinh ra ở xã Phí Trạch, huyện Thanh Miện. Qua 15 năm được nuôi dưỡng ở nhà Vương Trung có tư chất tốt, cho rằng Biện Thượng là ấp cũ, ngày khác trở lại chùa theo Đạo Phật, được bản sư truyền giáo, Giáo lý được khắc sâu vào lòng, vững vàng trước thời loạn. Từng ở Yên Sơn thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc, là quê hương của Khổng Tử, nghiêm trang, xúc tích, hơn 20 năm giữ một niềm trinh tiết. Sau loạn trở lại ấp cũ vào chùa Lộc Sơn, nhân đó đổi tên chùa là chùa Báo Ân… với ngụ ý “ Báo đáp phải báo đáp ” đó là “Ân ”vậy.
Ở chùa tuy khó nhọc nhưng Tại Tâm vẫn hết lòng đèn hương, danh thơm tỏa mọi nơi. Thiền sư hy vọng sau này Tại Tâm nếu mai táng sẽ được những viên xá lỵ. Đến năm Bính Dần Tại Tâm chống cây Tích Trượng đến Tấn Quang tự ở Hà Nội hỏi thăm về tiền đồ, quá vãng đã được lời tiên tri “Người sẽ như đôi chim bay về Tây Phương”. Vì thế vào cuối năm Bính Dần, Tại Tâm qua 80 canh giờ luyện thiền để hỏa thiêu đã được những viên xá lỵ, những viên xá lỵ đó được đặt trong tháp Viên Quang được ghi lại trên bia hiện nay.
Văn bia cũng cho biết năm dựng tháp Viên Quang là năm Tự Đức thứ 5 (1852). Người soạn bia là nguyên Tri huyện Minh Chính Cao Lạc Hiển Lỗ Vương. Như vậy, căn cứ vào năm dựng bia tháp Viên Quang chúng ta có thể khẳng định rằng chùa Báo phải có trước năm 1852.
Thời kỳ phong trào cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX, chùa Báo Ân còn là nơi thường trú và thường xuyên lui tới của các lãnh tụ và nghĩa quân Hùng Lĩnh dưới sự lãnh đạo của Tống Duy Tân. Thời kỳ trước cách mạng tháng tám năm 1945, chùa Báo Ân là nơi liên lạc và ẩn náu của các chiến sĩ cộng sản. Trong kháng chiến chống Pháp chùa là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc và cứu chữa thương bệnh binh.
ĐÌNH LÀNG BỒNG TRUNG – XÃ VĨNH TÂN
Làng Bồng Trung xưa có tên là làng Đông Biện, dưới triều vua Đồng Khánh (1866-1888) đổi tên Đông Biện thành Bồng Trung. Theo gia phả của các dòng họ Đỗ, Hoàng, Mai, Phạm, Nguyễn… thì làng Bồng Trung được thành lập cách đây hơn 600 năm. Sau khi thành lập làng Đông Biện, các dòng họ sinh sống tại đây muốn có một ngôi đình làm trung tâm sinh hoạt cộng đồng vì vậy đình làng được xây dựng. Khi mới xây dựng, đình được lợp tranh, sau này dân cư đông đúc kinh tế phát triển, ngôi đình được xây dựng to đẹp khang trang như ngày nay. Căn cứ vào thượng lương và bia đá thì ngôi đình được trùng tu lớn vào năm giáp ngọ (1834) dưới triều vua Minh Mạng.
Ngôi đình được xây dựng theo hướng Nam, phía trước là dòng sông Mã, đây là một ngôi đình cổ có kiến trúc thời Nguyễn, nằm cách di tích Quốc gia Phủ Trịnh 2km về phía Đông. Cấu trúc đình gồm 5 gian, có chiều dài là 16,15m rộng 6,5m, hiên rộng 1m, vì kèo được trang trí hổ phù và lá cúc cách điệu, ở kẻ bảy tất cả đều được trang trí hình rồng..., kiến trúc đình làng Bồng Trung là kiến trúc tiêu biểu dưới triều Nguyễn.
Tại ngôi đình này đã diễn ra những sự kiện trọng đại như: Nơi tế cờ khởi nghĩa và diễn ra hội nghị văn thân toàn tỉnh gắn với cuộc đời và sự nghiệp của nhà chí sỹ yêu nước Tống Duy Tân; nơi ghi dấu những cuộc chiến đấu oanh liệt của nghĩa quân Hùng Lĩnh.
Đình làng Bồng Trung thờ Thành hoàng là quản gia Đô Bác Đại Vương Trịnh Phủ Quân (Trịnh Ra). Hiện nay, đình làng Bồng Trung còn đưa vào thờ hai nhân vật có công với dân tộc trong công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược ở cuối thế kỷ XIX là Đề đốc Lê Văn Điếm và Tiến sĩ Tống Duy Tân.
ĐÌNH LÀNG CẨM BÀO – XÃ VĨNH LONG
Đình Cẩm Bào nằm trên địa phận thôn Cẩm Bào, xã Vĩnh Long, về phía Bắc Thành Nhà Hồ. Theo lịch sử của làng và một số tư liệu ghi chép thì Cẩm Bào được thành lập cách đây hơn 400 năm. Sau khi thành lập làng, nhân dân đã cùng nhau đóng góp công sức, tiền của xây dựng ngôi đình làm nơi thờ Thành hoàng và họp bàn việc làng. Đình Cẩm Bào là di tích được xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh (Quyết định số 51/QĐ-VHTT ngày 01/02/1992).
Thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, đình Cẩm Bào đã là nơi hội họp bàn bạc những công việc lớn của cách mạng như lập Hội tương tế - ái hữu. Lúc bí mật, lúc công khai, ngôi đình là nơi hội họp, bàn bạc, nơi đọc báo, tuyên truyền cách mạng cho nhân dân. Đến phong trào phản đế cứu quốc đình Cẩm Bào lại tiếp tục là nơi hội họp bàn bạc các công việc của cách mạng. Đặc biệt, thời kỳ thành lập chiến khu và đội du kích Ngọc Trạo ở huyện Thạch Thành (1941), đình Cẩm Bào là nơi tổ chức các cuộc họp bí mật của Ban Lãnh đạo Chiến khu. Đình là địa điểm tập kết các chiến sĩ du kích trước khi lên chiến khu Ngọc Trạo; lương thực, thực phẩm từ các nơi gửi lên Chiến khu cũng được tập kết tại đây để rồi vận chuyển lên cho đội du kích.
Những ngày tiền khởi nghĩa năm 1945, đình Cẩm Bào là trụ sở của đội tự vệ Việt Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng, là nơi tổ chức các lớp học buổi tối cho nhân dân qua đó các chiến sỹ tuyên truyền cách mạng tránh sự theo dõi của kẻ thù.
Đình gồm 5 gian bề thế và hậu cung. Khi mới xây dựng thì hậu cung là nơi thờ Thành hoàng làng. Theo Thanh Hóa Chư Thần Lục thì Thành hoàng hiện được thờ ở đình làng có bài vị là Cao Lãnh Côn Ông Thượng Đẳng Thần. 5 gian đình sử dụng làm nơi hội họp việc làng. Ngày nay nhân dân vẫn sử dụng đình làng làm nơi hội họp, bàn bạc việc làng, giáo dục đạo lý truyền thống, tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng cho con em trong làng.
Trong đình hiện còn lưu giữ một số đồ tế lễ như: lư hương, đèn dầu ..., bức đại tự, có đôi câu đối:
Lễ nhạc, y quan, văn hiến địa.
Phong thuần, tục mĩ, thái bình dân.
Đại ý: Đất này là đất văn hiến, có lễ nhạc, có phong tục cổ truyền; con người ở đây thái bình.
Trong dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập chiến khu Ngọc Trạo (19/9/1941 – 19/9/1981), đồng chí Đặng Văn Hỷ nguyên lãnh đạo đội du kích Ngọc Trạo đã tặng nhân dân làng Cẩm Bào đôi câu đối:
Nhớ thuở nọ, bát cơm phiếu mẫu.
Mừng hôm nay, tươi sắc Cẩm Bào.
Làng Cẩm Bào đã trân trọng khắc đôi câu đối lên gỗ và treo ở đình làng.
ĐÌNH ĐÔNG MÔN – XÃ VĨNH LONG
Đình Đông Môn tọa lạc trên một khuôn viên bằng phẳng có diện tích 942m2 thuộc địa phận làng Đông Môn xã Vĩnh Long. Đình Đông Môn thuộc loại hình di tích lịch sử văn hoá kiến trúc nghệ thuật điêu khắc gỗ độc đáo còn lại khá nguyên vẹn của thế kỷ XVIII, là một trong những di tích vệ tinh phụ cận quan trọng của Di sản văn hoá thế giới Thành Nhà Hồ.
Đình Đông Môn nằm gần bên cửa Đông Thành Nhà Hồ. Theo tư liệu lịch sử ghi lại làng Đông Môn được hình thành cùng quá trình xây dựng Thành Nhà Hồ, là nơi cư trú của thợ xây thành. Đến năm 1407 sau khi giặc Minh chiếm thành thì phía ngoài khu vực cửa Đông là khu trại lính. Đến 1545 là trang ấp của họ Trịnh. Đình làng Đông Môn được xây dựng từ thời Chúa Trịnh Tùng (1570 – 1623) lúc đầu chỉ làm bằng tranh tre, là nơi sinh hoạt của nhân dân trong làng; Đến năm Cảnh Hưng thứ 15 triều vua Lê Hiển Tông (tức năm 1740) đình được xây cất lại bằng gỗ.
Đình làng Đông Môn thờ ông Vũ Khắc Minh- Ông là người Hà Nam vào Thanh Hoá, do có nhiều công trạng với nhà Lê và Chúa Trịnh nên được phong trang ấp và trông coi đình Đông Môn. Ông có nhiều công lao trong việc chiêu nạp dân chúng khai ấp lập làng, khi ông mất nhân dân tôn kính ông là Thành hoàng, các triều đại phong kiến nước ta đã phong ông là Phúc Thần của làng. Sau này bài vị Quản Gia Đô Bác đại vương Trịnh Phủ Quân cũng được đưa vào thờ tại đình (do nghè đã bị phá).
Đình Đông Môn là 1 trong 3 ngôi đình có kiến trúc nghệ thuật gỗ cổ còn lưu giữ lại khá nguyên vẹn trên đất Vĩnh Lộc và xứ Thanh (đó là đình Hồ Nam Xã Vĩnh Khang, Nghè Cẩm Hoàng xã Vĩnh Quang). Đình Đông Môn quay mặt về hướng tây, phía trước là hào nước Thành Nhà Hồ, có xây tường rào bao quanh có cổng ra vào. Cổng đình được làm bằng hai cột đá to cao 7 m. Quan sát kỹ hai cột cổng chúng ta sẽ thấy thân cột được chia làm 3 phần: Đế cột, thân cột và chóp cột. Hai cột cổng được trang trí bởi các góc chỉ và các cặp câu đối đối nhau. Tiếc rằng theo thời gian các vế câu đối đã mờ. Phần chóp của 2 cột trước kia còn có đôi nghê chầu nhưng nay cũng không còn. Sân đình rộng và được lát gạch bát loại 30 x 30cm. Qua tam cấp của sân đình chúng ta sẽ bước lên nền đình. Ngôi tiền đình 5 gian, 2 chái, có cấu trúc 4 mái. Nền đình dài 23m, rộng 12m. Đình trong trước kia giáp với đình ngoài tạo thành chữ Đinh (J). Ngay tại gian giữa của đình ngoài hiện nay còn treo 1 bức đại tự cổ: “Thánh cung vạn tuế”.
Gian giữa rộng 4,55m, bốn gian bên, mỗi gian rộng 3,8m. Hai trái, mỗi trái rộng 1,50m. Chiều ngang của đình có 6 hàng cột và khoảng cách giữ các cột con đến cột cái là 4,70m. phía sau và phía trước có cấu trúc giống nhau.
Các cột hiên làm bằng đá tảng rộng 45cm x45cm, phần thân cột đá vuông 23x23cm, toàn bộ cột đá cao2,2m, phía trên cột có đấu bát đỡ.
Cột con được làm bằng gỗ cao 3,35m. Đế tảng vuông rộng 50cm x 50cm, đường kính của cột là 43cm.
Cột cái cao 5,40 m, đường kính rộng 45cm, đế tảng vuông 64cm x 64cm.
Kết cấu của các vì kèo trong đình hết sức đặc biệt. Đó là 3 cặp đối xứng dọc, được chạm trổ khá cầu kỳ, tỷ mỷ và tinh xảo, tất cả đều được kết cấu theo kiểu giá chiêng, chồng rường.
Trong 3 cặp vì kèo đối xứng nhau có vì thứ 3 và vì thứ 4 được chạm trổ hết sức cầu kỳ, tinh xảo với các gờ chỉ và tứ linh (long, ly, quy, phượng) đan xen với tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai) và nhiều con vật khác. Tất cả những nét tài hoa thể hiện trên toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thể hiện tính kiên trì và con mắt nghệ thuật tài tình, bàn tay điêu khắc khéo léo của cha ông ta trước kia. Các khóa giang cũng được chạm trổ khá cầu kỳ với nhiều hình hài như hổ phù, mặt trời, chim muông…Các xà, hoành ở đình xưa kia được làm là hình vuông nay trùng tu lại thay bằng hình tròn.
Giữa các cột cái, các vì kèo, các khóa giang có một kết cấu liên hoàn chặt chẽ với các mái cong. Như bao ngôi đình cổ xưa trên mái đình Đông Môn có hình lưỡng long chầu nguyệt, 4 mái chóp có đầu rồng. Toàn bộ gỗ làm đình đều là nhóm gỗ quý loại 1 (lim, sến…), từ cột đình, dui, mè… đều được làm bằng gỗ lim. Giá trị kiến trúc của đình trên các vì kèo được chạm trỗ tinh xảo với các bức phù điêu như (hổ phù, chim thú, cá chép…(tứ linh, tứ quí).
ĐÌNH HỒ NAM – XÃ VĨNH KHANG
Đình Hồ Nam nằm ở trung tâm làng Hồ Nam xã Vĩnh Khang. Đình cách thành Nhà Hồ khoảng 7 km về phía Nam.
Theo thượng lương của nhà giải vũ ghi lại thì ngôi đình được xây dựng vào năm 1832 gồm 5 gian thuộc loại đình lớn với chiều dài 18,6m, rộng 11,4m và được xây dựng theo lối kiến trúc đình làng cổ truyền thống. Từ bên ngoài vào ta sẽ cảm nhận được sự uy nghiêm và linh thiêng của ngôi đình. Khi nhìn thấy ở chính diện là một lư hương bằng đá có chân quỳ cao được chạm trổ hình rồng nổi chầu mặt nguyệt. Hai bên bậc tam cấp gian giữa là hai hình rồng bằng đá nguyên khối được chạm nổi cả 2 mặt, rồng dài 2m, cao 0,9m.
Bàn tay vàng của người thợ còn được thể hiện qua tám bức phù điêu gỗ nằm ở hai bên của hai vì kèo gian giữa. Trong đó bảy bức được chạm khắc theo đề tài tự nhiên phổ biến trong điêu khắc đình làng với mô típ: tùng – cúc – trúc – mai, long – ly – quy – phượng và các hoa lá đệm cho những mô típ chủ đạo này. Riêng bức phù điêu thứ tám (nằm ở dưới kèo gian giữa, phía bên trái từ ngoài vào) thể hiện đề tài vua đang đi cày ruộng. Vật kéo không phải là trâu bò mà là voi. Theo quan niệm của phương đông thì voi thể hiện cho thần linh có sức mạnh lớn lao và khát khao chinh phục thiên nhiên của con người. Việc vua cày tịch điền là biểu tượng sinh động và cụ thể về sự quan tâm, khuyến khích của triều đình phong kiến tới sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, đình là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong xã, nơi thờ Thành hoàng làng là Quản Gia Đô Bác đại vương Trịnh Phủ Quân (Trịnh Ra) sự tích như sau:
Quản gia Đô Bác đại vương Trịnh Phủ Quân (Trịnh Ra), ông làm quan lang tù ở đất Thiên Vực lộ Vĩnh Ninh, là người thông minh mẫn tiệp gia đình có 3 anh em, 2 trai 1 gái. Bấy giờ bên Bắc quốc (Tàu) có sai Cao Biền sang nước ta giữ chức đô hộ sứ, ông đi khắp nước Nam xem đất chọn người tài, nhìn thấy Trịnh Ra là người có tướng mạo thông minh, Cao Biền giao cho ông chức quan Quản gia thương khố, kiêm việc quản nội ngoại các quận. Về già ông cáo quan hồi hương, Cao Biền tặng cho ông 500 quan tiền, ông đem cứu tế cho dân nghèo trong huyện.
Trịnh Ra có em gái út tên là thị Ba gả cho một người có tên là Hà Lang. Hà Lang có mối hiềm khích, âm mưu hại Trịnh Ra từ lâu, vào một buổi tối hắn đuổi thị Ba về khi đến bờ sông trời tối không có thuyền qua bến, thị Ba bèn lội sông để về cùng anh. Trịnh Ra nghe tiếng kêu cứu của em gái bèn đem thuyền nhỏ ra vớt vào đến bờ, ba anh em đang ngồi nghỉ thì đột nhiên Hà Lang xuất hiện cả ba người đều bị giết, lúc đó là ngày 14 tháng 11 tiết trời giá lạnh, xác Trịnh Ra trôi đi trôi lại trên sông 3 ngày từ bến Tam Kỳ đến bến Chiêu Đức sau này người nhà mới biết báo cho Cao Biền, Cao Biền thương tiếc cho mai táng ông ở núi Chiêu Đức (xã Vĩnh Hòa hiện nay) lập đền thờ và phong cho ông là Quản gia thần vương, sắc cho các thôn, làng ven bờ sông Mã thờ ông là Thành hoàng.
LĂNG MỘ TRIẾT VƯƠNG TRỊNH TÙNG – XÃ VĨNH HÙNG
Lăng mộ Thành Tổ Triết Vương Trịnh Tùng táng tại làng Sóc Sơn, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Thành Tổ Triết Vương Trịnh Tùng sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tuất (1548) niên hiệu Thuận Bình, ông là con thứ hai của Trịnh Kiểm, mẹ là bà Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Đại Việt Sử ký toàn thư, trang 139 tập III- NXB KHXH 1993 chép “…Ngọc Bảo Sinh con là Trịnh Tùng, tài đức hơn người, anh hùng nhất đời có thể nối được chí cha giúp nên nghiệp đế. Công trung hưng Nhà Lê thực dựng nền từ đấy”.
Sau khi Trịnh Kiểm qua đời (1570), binh quyền đều nằm trong tay người anh trai là Trịnh Cối nhưng Trịnh Cối nhu nhược, ham mê tửu sắc đầu hàng nhà Mạc. Bấy giờ, vua Lê Anh Tông tiến phong cho Trịnh Tùng làm “Trưởng quận công, tiết chế các sứ thủy bộ chư dinh cầm quân đánh giặc”. Ngay lập tức, ông đã chứng tỏ bản lĩnh kiên cường của mình bằng việc nhận chiến thư của Mạc Kính Điển chấp nhận đối đầu trên chiến trường ác liệt với quân Mạc.
Tháng 8 năm 1570, Trưởng Quận Công Trịnh Tùng đem binh sang sông đánh quân Mạc, quân Lê- Trịnh đi đến đâu quân Mạc chạy tán loạn, nhân dân trở về yên nghiệp. Tháng 2 năm 1571, khi xét công trạng, vua Lê đã phong cho Trịnh Tùng làm Thái úy Trưởng Quốc Công.
Tháng 7 năm 1573, Mạc Kinh Điển dẫn quân vào xâm lấn xứ Thanh Hoa. Tiết chế Trịnh Tùng đốc xuất thủy quân chặn đánh các ngã phá tan quân Mạc. Ông hạ lệnh cho dân các huyện dọc sông xứ Thanh Hoa thu nhặt tiền của, thóc lúa cùng vợ con vào nơi hiểm yếu để phòng tránh quân Mạc đến cướp phá, đồng thời hạ lệnh nếu có trộm, cướp phải đem nhau đến cứu.
Tháng 8, Mạc Kinh Điển xâm lấn sông Đồng Cổ (sông Mã thuộc đoạn Yên Thọ, huyện Yên Định ngày nay), Trịnh Tùng thân đem đại binh ra cửa Lũy Khoái Lạc để chống lại, sai Hoàng Đình Ái đem kì binh ra khiêu chiến, Nguyễn Hữu Liêu đem quân đánh phá tan; lại cùng với quân Mạc đánh nhau ở Hà Đô, sai Nam đạo tướng quân Nguyễn Quyện đem quân phục ở ngoài ông sai Hoằng quận công Lại Thế Mĩ đem quân khiêu chiến đánh cho quân Mạc tan vỡ. Bằng chiến thuật “Kỳ binh” xuất quỷ nhập thần, ngày cố thủ kiên cường đêm quấy phá tiêu hao địch, mưu lược đắp thành giả trong một đêm…Trịnh Tùng đã làm xoay chuyển tình thế từ thế bị động sang thế chủ động dẫn dắt chiến cuộc theo ý đồ chiến lược của mình, ý chí của quân mạc bị sói mòn tan rã mất hết thời cơ đành phải rút về Thăng Long.
Sau giai đoạn phòng ngự, từ năm 1583- 1593, Trịnh Tùng chuyển sang thế tiến công giải phóng Thăng Long. Tháng 11 năm 1583, Trịnh Tùng đem đại binh theo đường Phố Cát ra đánh quân Mạc ở các huyện thuộc các phủ Yên Trường, Thiên Quan, Yên Mô và Yên Khang thu được nhiều của cải. Hơn một tuần, Tiết chế Trịnh Tùng giả cách rút quân về để lại kỳ binh và voi ngựa phục sẳn ở phía sau, quân Mạc quả nhiên bỏ không trại, tranh nhau đi trước đuổi đánh, bị trúng mai phục tướng giặc là Tân Quận Công, Huỳnh Quận Công may mắn mới chạy thoát thân.
Tháng 12 năm 1591, Tiết chế Trịnh Tùng thân đốc đại binh 2 vạn người, quân đi đến đâu giặc đều như cỏ bị gió lướt, không đến 10 ngày dẹp yên các huyện Yên Sơn, Thạch Thất, Phúc Lộc, Tân Phong rồi đóng dinh ở Tốt Lâm.
Mạc Mậu Hợp thân đốc binh mã trong đó có các tôn thất họ Mạc và các tướng túc vệ ở Đông Đạo đi sau tiếp đánh. Trịnh Tùng nghe tin bèn chọn 400 quân tinh nhuệ, cử tướng Sĩ Dinh tiến lên phía trước khiêu chiến ông đích thân đốc quân giết giặc chém được hơn 1 vạn thủ cấp máu chảy khắp đồng, xác chết thành núi, cướp được khí giới và ngựa nhiều không kể xiết. Đại Việt sử ký toàn thư chép “ Trịnh Tùng bàn rằng nên nhân cái uy thế như sấm sét không kịp che tai mà đánh lấy thì dễ như nhặt hạt cải”, bèn sai Nguyễn Hữu Liêu đem 500 binh tinh nhuệ, voi chiến cùng ngựa thẳng tiến đến đóng ở cầu Cau tại phía Bắc thành Thăng Long, tung lửa hiệu, khói lửa ngập trời Mạc Mậu Hợp sợ hãi cuống quít, bỏ thành chạy trốn.
Ngày 3 tháng giêng năm Nhâm Thìn (1592), tiết chế Trịnh Tùng sai quân lập đàn sắm lễ, trai giới tế trời đất, Thái Tổ Cao Hoàng đế và các vị Hoàng đế của bản triều, cùng các linh thần sông núi, các danh thần xưa nay trong nước sau đó họp bàn tiến quân và cáo dụ rằng “Cái thế chẻ tre không nên bỏ lỡ” bèn tập trung quân mở cuộc tổng công kích cuối cùng giải phóng kinh thành Thăng Long.
Ngày 16 tháng 4 năm 1593, Tiết chế Trịnh Tùng thân đem các quan đến huyện Thanh Oai đón rước Thánh giá cử nhã nhạc cùng về kinh thành Thăng Long, trong lời chiếu từ chính điện vua Lê Kính Tông nói “Việc dực phù nhật nguyệt, chỉnh đốn càn khôn thì nhờ ở công đức của Minh Khang Thái Vương cùng Tổng quốc chính thượng phụ Trịnh Tùng”.
Trong suốt 23 năm nắm giữ binh quyền (1570-1592), Bình An Vương Trịnh Tùng xông pha chinh chiến 33 trận toàn thắng. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, sử thần Ngô Sĩ Liên miêu tả hàng trăm trận đánh lớn nhỏ ông đã phải dùng đến 21 lần cụm từ “Quân Mạc sợ vỡ mật” để nói lên tài thao lược đánh dẹp nội loạn của vị Tổng chỉ huy quân đội.
Ngày 7 tháng 4 năm 1599 vua Lê tấn phong Trịnh Tùng là Đô Tướng tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại Bình chương quân quốc trọng sự Tả tướng Thái úy Trưởng quốc công, Đô nguyên súy tổng quốc chính Thượng phụ Bình An Vương.
Ngày 20 tháng 8 năm Quí Hợi 1623 niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5, Trịnh Tùng mất hưởng thọ 75 tuổi. Ông làm Chúa được 53 năm khi mất được tôn phong Triết Vương miếu hiệu là Thành Tổ. Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của tác giả Phan Huy Chú đã viết về Bình An Vương Trịnh Tùng “…Ông tính khoan hậu, thương người, khéo vỗ về tướng sĩ, đoán tình thế không sai, dùng binh như thần. trong 20 năm kinh dinh đất nước, cuối cùng diệt được kẻ tiếm nghịch khôi phục nhân tâm, công trùm thiên hạ, oai lừng khắp nơi, công lao sự nghiệp danh vọng lừng lẫy…”
Sau khi mất, mộ của ông được an táng tại quê nhà ở xứ đồng thuộc làng Sóc Sơn nay thuộc xã Vĩnh Hùng, Ngôi mộ có kích thước dài 2m, rộng 1,2m cuốn vòm, theo các cụ cao niên trong dòng tộc cho biết ngôi mộ được xây dựng theo kiểu “Trong quan ngoài quách” trong đó phần quan được làm bằng gỗ quí.
Bình An Vương Trịnh Tùng là một dũng tướng tài ba, nhà chính trị xuất sắc đã có công lớn trong việc giữ gìn kỷ cương của xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc, là người xác lập vị trí của các Chúa Trịnh nối nhau điều hành đất nước suốt 243 năm, tạo nên một thể chế chính trị độc đáo ở Việt Nam (vua Lê- chúa Trịnh).
NGHÈ YÊN LẠC – XÃ VĨNH NINH
Nghè Yên Lạc nằm trong quần thể những nơi thờ phụng thần Quản gia đô bác đại vương Trịnh Phủ Quân. Nghè được xây dựng theo hướng Tây, cách trung tâm làng Yên Lạc khoảng 100m, ở khu bãi mầu giữa không gian yên tĩnh, non nước hữu tình, cách thành nhà Hồ 7 km về phía Tây Nam.
Nghè gồm 3 gian 4 vì, hai dĩ, tường hồi bít đốc. Kết cấu kiến trúc gỗ ở hậu cung có niên đại khoảng cuối thế kỷ XIX, với những đường nét chạm khắc tinh xảo mang đậm sắc thái của kiến trúc thời Nguyễn.
Các vì đăng đối nhau: vì 1 và vì 4 có kích thước cột hiên và cột cái là 2.1m, cột cái đến cột cái là 2.1m, cột cái đến cột quân sau là 1.7m, cột quân đến tường hậu là 0.76m. Bên ngoài hiên nghè có một con chim phượng bằng đá dài 0.92m, đầu cao 60cm, đuôi dài 20cm. Trong nghè hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ như: Bát hương đá có hai tai, phía trước chạm hình lưỡng long chầu nguyệt, trên thân bát hương đề niên đại năm Tân Mão đời vua Thành Thái (1891), chân nến gỗ, đế cắm lọng bằng đá ...
Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng thì nghè được xây dựng với quy mô gồm có: Cổng nghinh môn 3 gian, 3 gian tả vu và 3 gian hữu vu, ở giữa có một cái sân. Tiền đường 5 gian, giếng trời, hậu cung. Nhưng do năm tháng thời gian và chiến tranh đã bị phá hủy một phần, đến nay chỉ còn lại phần hậu cung được nhân dân làng Yên Lạc tôn tạo tại vị trí cũ.
NHÀ CỔ TÂY GIAI – XÃ VĨNH TIẾN
Nhà cổ Tây Giai ở làng Tây Giai xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa, cách cổng phía Tây của Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ trên 200m do ông Phạm Ngọc Tùng hiện đang sở hữu và quản lý. Ngôi nhà được xây dựng từ năm 1810, là một trong những kiến trúc nhà ở cổ dân gian truyền thống đẹp nhất ở xứ Thanh. Ngôi nhà này do một vị quan bát phẩm dưới triều Nguyễn xây dựng. Ông là trưởng tộc dòng họ Phạm ở làng Tây Giai, tính đến đời ông Phạm Ngọc Tùng là đời thứ 7.
Năm 1999 ngôi nhà cổ được đoàn chuyên gia Nhật Bản và cán bộ cục Bảo tồn di sản văn hoá chọn để trùng tu. Thời gian bắt đầu trùng tu năm 2002 và hoàn thành vào năm 2003. Hiện nay chủ nhân của ngôi nhà là ông Phạm Ngọc Tùng vẫn sống và sinh hoạt trong ngôi nhà.
Ngôi nhà cổ có 7 gian gồm 3 gian nhà ngoài, hai bên là buồng, mỗi buồng 2 gian chiều dài của ngôi nhà là 20m, chiều rộng là 8,2m, nhà làm theo kiểu chồng rường, kẻ chuyền. Kiến trúc ngôi nhà có nhiều hình chạm khắc cầu kỳ (long, ly, quy, phượng; tùng, trúc, cúc, mai và các bức hoành phi, câu đối). Những tác phẩm chạm khắc này đến nay vẫn còn như nguyên trạng. Vật liệu chủ yếu làm nhà là bằng gỗ; mát mẻ về mùa hè, ấm áp vào mùa đông. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian từ thế kỷ 17 đã tìm thấy dấu tích nhà từ đường trong các kiến trúc của người Việt ở nông thôn. Gỗ là vật liệu chính trong các nhà từ đường; những cây cột gỗ chống đỡ bộ mái ngói đất nung, chân cột đặt trên đế tảng bằng đá; toàn bộ khung nhà được liên kết với nhau bằng mộng, xà, kèo... khi cần có thể tháo dỡ phần khung ra sau đó phục dựng như cũ.
THẮNG TÍCH KIM SƠN – XÃ VĨNH AN
Thắng tích Kim Sơn thuộc địa phận làng Hang, xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá. Cách Thành Nhà Hồ 25 km, cách thành phố Thanh Hoá 40 km. Nơi đây là hệ thống núi đá vôi có nhiều hang động.
Tên gọi Kim Sơn xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1511. Sau đó được nhắc lại lần thứ 2 vào năm 1555 khi Mạc Kinh Điển chỉ huy đưa quân vào Thanh Hoá đánh nhau với quân Lê- Trịnh.
Cuối thế kỷ XIX Tống Duy Tân một sĩ phu yêu nước trong phong trào Cần Vương đã dựa vào núi Hùng Lĩnh mạch núi liền với Kim Sơn để làm căn cứ chống thực dân Pháp xâm lược.
Núi Kim Sơn là dãy núi có cảnh quan đẹp, nhiều hang động kỳ thú, hiện nay còn lưu giữ được nhiều bài thơ của các bậc tao nhân mặc khách chép đề trên vách đá tại các hang động. Sách Đại Nam nhất thống chí- một bộ quốc sử của Quốc sử quán triều Nguyễn có ghi “Núi Kim Sơn, có một tên nữa là núi Biện, cũng gọi là núi Bông…mạch núi từ phía đông núi Hùng Lĩnh men theo sông Mã mà đổ xuống nổi vọt lên 29 ngọn ...có bia khắc 3 chữ lớn "Trú Quân sơn" nay vẫn còn...”. Hệ thống hang động ở đây rất nhiều, xin được giới thiệu khái quát một số động nổi bất nhất đó là: Động Ngọc Kiều, động Kim Sơn, động Tiên Sơn (mới được phát hiện gần đây) là một quần thể động đẹp liền kề nhau.
Động Ngọc Kiều là một trong 7 động rộng và đẹp ở Kim Sơn, trong động đặc biệt còn lưu giữ nhiều tấm bia có bút tích Hán Nôm ca ngợi cảnh đẹp của động Ngọc Kiều và động Kim Sơn. Mặt bằng của nền động ở phía ngoài có chiều dài 54m, rộng 17m, động hình vòm như một chiếc ô khổng lồ mở ánh sáng từ phía trên dọi xuống. Nơi đây từng là nơi trú quân lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và cũng là nơi đặt xưởng quân giới Nguyễn Văn Tố để sản xuất vũ khí cung cấp cho mặt trận. Từ những năm 1889-1907 (dưới thời vua Thành Thái) nhân dân đã lập đền thờ ngay trên triền núi có tên là Ngọc Sơn để thờ Ngọc Hoàng vì ngài đã ban phước lành cho nhân dân.
Tham quan động Kim Sơn, du khách đi bằng thuyền, từ đầu làng Sen trên con thuyền nhỏ đi khoảng 300m là tới động Kim Sơn (động Ngọc Hồ), ngay từ cửa động, trên vách núi du khách nhìn thấy hàng chữ Hán đề ‘Thanh Hoa thắng tích”, bia này được khắc năm Nhâm Thìn, niên hiệu Thành Thái (1892) do tổng đốc Thanh Hoá là Hà Đình Nguyễn Thuật cho khắc, bia chữ có chiều dài 1,5m, cao 0,5m. Động chạy xuyên ngang núi, cửa động rộng chừng 30m, vòm cung có nhiều cây mọc bám rễ trên đá với những nhũ đá muôn hình rủ xuống. Đi sâu vào trong động thấy nhiều phiến đá lớn bằng phẳng trông rất đẹp, đi sâu thêm vào động chừng 1,5m sẽ thấy hai chữ Hán được khắc trên vách đá đề Phong Môn (cửa gió). Thuyền càng trôi sâu vào trong lòng động chúng ta có cảm giác như đi trong giới hạn giữa bóng tối và ánh sáng đan xen, ngước nhìn lên phía trên vòm động chúng ta thấy cột đá trụ trời, với nhiều khối thạch nhũ hình dáng khác nhau như hình con cá voi, con cá sấu..., giữa động một vòm ánh sáng chiếu rọi thẳng xuống dòng nước như cổng thông thiên lên trời. Trên cửa hang ở phía Bắc có khắc một bài thơ thất ngôn bát cú đề “Quý Dậu Xuân, Huyện Doãn Nguyễn đề Kim Sơn động”.
Truyền thuyết kể rằng: “Thuở xưa các nàng tiên thường bay xuống dạo chơi ở vùng này vì thấy thắng cảnh Kim Sơn đẹp quá nên đã vào thăm, các nàng tiên thường soi gương, tắm mình trong dòng nước trong veo giữa lòng động, cứ mỗi lần tắm về các nàng tiên lại thấy tóc mình càng dài mãi ra óng mượt và toả hương thơm của các loài hoa. Ngọc Hoàng thấy lạ bèn cho thần núi đẽo gọt và lắp những tảng đá to cho các nàng tiên tắm”.
Rời động Kim Sơn, nếu đi bằng đường thuỷ theo hướng Bắc qua hồ cây Ấu, chúng ta có thể nhìn được một cách tổng quan về quần thể thắng cảnh Kim Sơn, một vùng du lịch sinh thái hiếm có ở Việt Nam; còn nếu đi theo đường bộ cách động Kim Sơn chừng 1 km về phía Bắc ta sẽ hòa mình vào không gian tự nhiên sống động với muôn vàn cỏ cây hoa lá; muông thú ở đây có khỉ, sóc, chim..., đó chính là động Tiên Sơn thuộc núi Thung Vịnh. Đứng trên động phóng tầm mắt ra xung quanh ngắm nhìn phong cảnh sẽ cảm thấy rất gần gũi với thiên nhiên. Bước vào động như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh, những khối đá thạch nhũ màu sắc lung linh, hình ảnh kỳ thú tuỳ vào sức tưởng tượng phong phú của du khách như: Ngay cửa động là hình ảnh Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát tọa thiền trên đài sen khiến ta liên tưởng đến Đấng cứu khổ, cứu nạn giúp con người rũ sạch bụi trần khi bước vào thế giới thần tiên; những giọt nước trong vắt đọng lại ở giếng tiên như những giọt sữa từ núm vú của các nàng tiên chảy mãi không ngừng. Đến với cung vua Thuỷ Tề nguy nga tráng lệ với ánh điện màu tạo nên vẻ đẹp khó tả như: cây đàn đá, dòng nước chảy mát rượi, bể tắm của vua và những âm thanh leng keng theo điệu nhạc từ đàn đá phát ra do du khách chạm vào... Càng vào sâu trong động, du khách mặc sức tưởng tượng các hình ảnh do thạnh nhũ tạo thành như hình ảnh Tiên ông ở cung Tiên ông, các hình chim, thú kỳ lạ khác.
KHU TƯỢNG ĐÁ ĐA BÚT – XÃ VĨNH TÂN
Quần thể di tích khu tượng đá Đa Bút gồm cả lăng mộ Thái phi Nguyễn Thị Ngọc Diệm vợ của chúa Trịnh Doanh – nhân dân thường gọi là lăng bà Quốc Mẫu và khu rồng đá. Quần thể di tích này nằm dưới chân núi Mông Cù, thuộc làng Đa Bút, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Xưa kia, nơi đây thuộc vùng đất Biện Thượng, quê hương của nhà Trịnh.
Sau khi vương nghiệp nhà Trịnh được thiết lập, các chúa Trịnh sống và làm việc ở Thăng Long, còn Biện Thượng trở thành đất “Quý hương” của nhà Trịnh, được hưởng nhiều bổng lộc và quyền lợi riêng biệt. Đồng thời cũng trên mảnh đất này các chúa Trịnh nối nghiệp nhau huy động nhân tài vật lực và kỹ thuật tiên tiến đương thời để xây dựng nên nhiều công trình to lớn, uy nghi, đẹp đẽ vào loại nổi tiếng lúc bấy giờ như: Phủ Trịnh, Nghè Vẹt,vv…, chính vì vậy mà lúc bấy giờ giữa Biện Thượng và Thăng Long có sự giao lưu thường xuyên. Đời chúa nào cũng phải có một vài lần về quê “Bái yết tôn lăng”. Chính sự đi lại tấp nập đó mà người xưa có câu “Ngựa xe về Bồng Báo”. Bồng Báo trở thành “Phồn hoa đô hội” thu hút sự chú ý của nhiều người không chỉ là quê hương của các chúa Trịnh mà còn hấp dẫn bởi các công trình kiến trúc nghệ thuật được các chúa Trịnh cho xây dựng ở đây.
Ngày nay, tại vùng đất Biện Thượng xưa (gồm các xã Vĩnh Hùng, Vĩnh Tân, Vĩnh Minh), những di tích liên quan đến nhà Trịnh như: Phủ Trịnh, Nghè Vẹt,…đã được nghiên cứu và công bố. Riêng quần thể di tích điêu khắc đá Đa Bút chưa tìm được một tài liệu chính sử nào đề cập đến một cách đầy đủ về mặt lịch sử. Căn cứ vào những vết tích của nền móng, những di vật còn lại, về cấu trúc di tích và kết hợp với truyền thuyết cùng với lời kể của nhân dân địa phương thì quần thể di tích bao gồm: Lăng mộ bà Quốc Mẫu và khu rồng đá là hai công trình có kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá thế kỷ XVII với quy mô khá lớn.
Nhóm tượng điêu khắc đá Đa Bút được phân bố trên hai khu vực: khu vực Lăng mộ và khu vực Rồng đá. Hai khu vực này cách nhau khoảng 200m, đều được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng nằm ngay dưới chân núi Mông Cù, làng Đa Bút.
Tại khu lăng thờ bà Nguyễn Thị Ngọc Diệm là mẹ chúa Trịnh Sâm, trước sân có 12 pho tượng đá xếp thành hai hàng, mỗi bên 6 pho đối diện nhau trong tư thế đứng canh gác. Mỗi pho cao 1,80m (không kể đế vuông), đều mặc võ phục, đầu đội mũ tròn có chóp. Các pho tượng này được tạo tác theo phong cách tả thực, mỗi pho tượng đá là một tác phẩm tạo hình hoàn chỉnh, được các nghệ nhân điêu khắc tạo tác một cách công phu từ đá nguyên khối, xanh sẫm. Trông từ bốn phía đều có bố cục thay đổi, đẹp bốn mặt khác nhau. Theo lời tả của giáo sĩ Alexandre de Rhodes thì nhóm tượng đá này được tạo tác trang phục võ quan giáp trụ, theo đúng thời chúa Trịnh Tráng (Lịch sử vương quốc đàng ngoài, chương 5 tr 36, bản dịch).
Phía đầu 2 hàng tượng, kề bên có hai phỗng đá hình dáng được tạo tác trong tư thế chầu đợi lệnh, hai chân quặp ra phía sau, hai tay khoanh trước ngực. Tượng cao 1,20m, đầu phỗng to có ngấn, tóc búi quả đào, mũi dô, mắt lồi, miệng rộng….tất cả đều được trau chuốt từng chi tiết ở tư thế trang nghiêm.
CHÙA LINH GIANG, BẾN NGỰ - XÃ VĨNH TIẾN
1. Chùa Linh Giang:
Chùa Linh Giang thuộc làng Phú Lĩnh xã Vĩnh Tiến huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, cách thành nhà Hồ khoảng 1,5km về phía Tây. Chùa được xây dựng bên bờ sông Mã lưng tựa vào núi Lệ Sơn. Theo cuốn chùa xứ Thanh tập 2 trang 123 viết: “Nơi đây phong cảnh hữu tình, sản vật phong phú, đất đai màu mỡ. Có lẽ xưa kia cho rằng đây là nơi hội tụ, hun đúc khí thiêng. Dòng Lỗi Giang (tức sông Mã) gắn với nhiều huyền tích, huyền thoại trong lịch sử, nên chùa mới đặt tên là Linh Giang (chùa của dòng sông Mã linh thiêng).... Ngôi chùa được trùng tu lại vào thời Nguyễn.
Theo lời kể của các bậc cao niên trong làng thì: Chùa Linh Giang được xây dựng trên diện tích đất rộng gồm một góc sườn đồi và cánh bãi phù sa phía trước chùa. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, chùa Linh Giang vẫn còn cổng Tam quan, kiến trúc khá đồ sộ gồm 4 dãy nhà. Dãy thứ nhất thờ tam Bảo Phật, dãy thứ hai là nhà thờ Tổ, dãy thứ ba là phủ Mẫu, tòa tháp cổ nằm phía trước sân chùa. Hiện nay, còn giữ được khá nguyên vẹn 3 gian nhà thờ Tổ được làm bằng chất liệu đá xanh vững chắc với diện tích 33,75 m2, chiều dài 7,5 m chiều rộng 4,5 m, gian bên trái từ cột đến cột 2,20 m, gian giữa 2,30 m, gian bên phải 2,13 m. Hệ thống cột đều có chân tảng hình vuông vừa khít với chu vi cột, hệ thống cột đá chính (cột cái) cao 2,15m rộng 23x23 cm, phía trên cột có bát đấu bằng đá đỡ kẻ bẩy và rui. Cột hiên hình vuông có chiều cao 1,50m, chiều rộng 20cm hệ thống cột hiên đều được chân tảng phía dưới đỡ. Toàn bộ hệ thống khung nhà đều bằng đá, ngưỡng và bạo cửa được các nghệ nhân tạo tác khá công phu, tỷ mỉ từ đá liền khối có đường sâu vừa đủ để lắp cửa vào. Phần mái, hoành, tải, rui, mè đều được làm bằng gỗ lim chạy suốt 3 gian, hệ thống xà dọc trên các quá giang, các vì kèo được trang trí hoa văn cách điệu tứ quí (tùng, cúc, trúc, mai). Hiện nay, trong chùa còn giữ được nhiều hiện vật cổ có giá trị như: Một chuông bằng đá và 4 pho tượng phật bằng gỗ.
Trong những năm 2005- 2006, được sự quan tâm của chính quyền địa phương và du khách gần xa, chùa Linh Giang được tôn tạo lại các hạng mục: Nhà thờ Phật 3 gian với chất liệu bằng xi măng cốt thép, hậu cung cuốn vòm và ba gian nhà ngoài gọi là nhà giảng đường.
Với kiến trúc độc đáo bằng đá của ngôi chùa cổ, phong cảnh thơ mộng, hữu tình bên bờ Lỗi Giang xưa; chùa Linh Giang là điểm đến hấp dẫn trong quần thể di tích vệ tinh của Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ.
2. Bến Ngự:
Tương truyền, khi xây thành Tây Đô, nhà Hồ đã cho làm một con đường gọi là đường Hồng Ngự lát bằng đá xanh và gạch đỏ vỉa từ cổng thành phía Tây tới Bến Ngự để thuận lợi cho Vua và các quan lại khi đi tuần du, duyệt binh trên sông. Năm 1401, sau khi lên ngôi, Hồ Hán Thương rất chú trọng đến lực lượng thủy quân. Ông cho đóng thuyền chiến và thuyền chuyên chở quân lương. Theo Đại Việt sử ký toàn thư chép “Hán Thương đóng thuyền đinh nhỏ để đánh Chiêm Thành…Hán Thương làm thuyền đinh sắt đề phòng giặc phương Bắc, có hiệu là Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương, chỉ mượn tiếng là chở lương mà thôi, nhưng trên có đường sàn đi thông được để tiện việc chiến đấu, dưới thì 2 người chèo một mái chèo”.
Năm 2009, khi tiến hành kè đê sông Mã, người dân làng Phú Lĩnh vẫn còn thấy dấu vết của đường lát đá, gạch đất nung thời Hồ khá nguyên vẹn. Hiện nay, một số viên gạch đã được Trung tâm bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ lưu giữ và trưng bày tại nhà trưng bày hiện vật Thành Nhà Hồ.
Vĩnh Lộc có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời. Nơi đây là vùng đất đế đô, dựng nghiệp của Hồ Quý Ly, cũng là đất quý hương của 12 đời Chúa Trịnh. Cùng với Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ, trên địa bàn Vĩnh Lộc còn có nhiều di tích và danh lam, thắng cảnh nổi tiếng như: Công trường khai thác đá cổ An Tôn, đền thờ nàng Bình Khương, đền thờ Thượng tướng quân Trần Khát Chân, Khu di tích Phủ Trịnh – Nghè Vẹt, Chùa Giáng, động Hồ Công, Kim Sơn, Tiên Sơn... tạo nên một quần thể di tích, danh thắng phong phú và độc đáo, hội đủ các yếu tố để xây dựng một điểm đến du lịch hấp dẫn.
Tuy nhiên, thực tế phát triển du lịch của Vĩnh Lộc chưa tương xứng với tiềm năng di sản thiên nhiên và văn hóa lịch sử trên địa bàn: Cơ sở hạ tầng du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách, huyện chưa quy hoạch được tổng thể phát triển du lịch, việc quản lý và khai thác tài nguyên du lịch chưa thực sự hiệu quả, các sản phẩm du lịch còn nghèo nàn... nên hình ảnh về du lịch của Vĩnh Lộc còn mờ nhạt và thiếu sức hút.
Tại hội thảo, các đại biểu đã bàn và đề xuất những giải pháp nhằm phát triển kinh tế du lịch trên địa bàn huyện. Các ý kiến tập trung phân tích thực trạng hoạt động du lịch Vĩnh Lộc hiện nay; đề nghị nâng cao vai trò của chính quyền địa phương trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng; tăng cường phát triển loại hình du lịch tâm linh dựa vào di tích văn hóa, lấy trung tâm là Di sản Văn hóa Thành Nhà Hồ; công tác trùng tu, tôn tạo Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ; liên kết thực hiện chiến lược xúc tiến quảng bá du lịch; liên kết xây dựng sản phẩm du lịch...
Phát biểu ý kiến tại hội thảo, đồng chí Vương Văn Việt đề nghị huyện Vĩnh Lộc cần lập quy hoạch tổng thể phát triển du lịch để phát huy hơn nữa giá trị của vốn quý di sản trên địa bàn; ngoài việc khai thác tốt giá trị di sản vật thể, cũng cần quan tâm tới việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản phi vật thể, đó chính là phần hồn giúp cho giá trị di sản được thăng hoa và sống mãi với thời gian. Bên cạnh đó, trong quy hoạch cần quan tâm phát triển không gian du lịch cộng đồng, để người dân được trực tiếp tham gia quản lý và khai thác giá trị di sản để phát triển đời sống kinh tế; xây dựng ý thức trách nhiệm, văn hóa ứng xử trong khai thác, quản lý bảo vệ, bảo tồn di sản; kêu gọi các dự án đầu tư vào địa bàn. Trên cơ sở chỉ đạo của tỉnh và tham khảo những ý kiến khách quan, khoa học, trong điều kiện thực tế của địa phương, huyện Vĩnh Lộc cần có giải pháp thiết thực, hiệu quả để phát triển du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn và xây dựng thương hiệu du lịch Vĩnh Lộc trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách.
Nhân dịp này, Đệ nhất Hoa hậu quý bà thế giới, Tiến sĩ Đoàn Thị Kim Hồng cùng một số người đẹp đã tham quan và chụp ảnh quảng bá cho hình ảnh Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ.
Huyện Vĩnh Lộc có di tích lịch sử Thành nhà Hồ được xây bằng đá dưới thời Hồ Quý Ly. Vĩnh Lộc thời nhà Trần là thái ấp của Lê Tần, một danh tướng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất; quê hương của Trần Khát Chân, danh tướng cuối đời nhà Trần; quê hương của các chúa Trịnh và của Tống Duy Tân, danh sỹ chống thực dân Pháp.
CHÙA LINH ỨNG VĨNH AN-VĨNH LỘC THANH HÓA
Vĩnh An là một vùng đất cổ lịch sử phát triển từ rất lâu đời, nền Đạo Phật được sớm truyền bá vào.Theo lịch sử các làng thì xưa kia làng nào cũng có Chùa thờ Phật, Chùa Linh Ứng cùng với tên chữ là: NGỌC SƠN LINH ỨNG THIỀN TỰ, được xây dựng từ thời Lý, đến thời Vua Bảo Đại (1925 – 1945) thì mới được trùng tu lại.
Linh Ứng trước đây thuộc địa phận làng Nham Thôn, hiện nay thuộc địa phận làng Núi Sen. Chùa Linh Ứng ở vị trí Sơn Thủy hữu tình hội đủ các yếu tố quan trọng trong Phong Thủy. Lưng Chùa tựa vào Núi Hang (Huyền Vũ), trước Chùa là một đầm Sen rộng (Minh Đường), bên trong là Đông nước Kim Sơn dẫn nước từ Đầm xuyên qua núi ra sông Mã (Thanh Long), bên phải là núi Trồng (Bạch Hổ). Do kiến trúc biết kết hợp với thiên nhiên hài hòa nên du khách đến đây vãn cảnh thắp hương đều cảm thấy như Phật giáo dẫn dắt thế nhân thoát dần nơi trần tục đến gần cõi Niết Bàn.
Năm 1856 Hứu Quán Khanh Lê Lương Bạt Trọng Vựng đến tham du danh thắng Kim Sơn phải thốt lên bài xướng trước cảnh đẹp nơi đây:
” Mây dừng, mưa dứt cuối mùa Thu
Đầm cạn, thuyền bơi lướt nhẹ ru
Cảnh ấy trời dành: Nhân trí hướng
Lều non mong khóm mái hiển du
Miêng non trong chưa bầu trời rộng
Mỏm đá nhô xua đuổi nước tù
Say đắm thù du, ngày thủa trước
Cùng leo đỉnh biếc hương ngàn du”.
Theo các cụ truyền lại, hàng năm tại Chùa vào ngày 16 tháng 2 (AL) có lễ hội Chùa Linh Ứng. Vì thế trong dân gian còn lưu truyền câu thơ:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày mười sáu tháng hai về Chùa”