XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lão tử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lão tử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 26 tháng 8, 2023

ÐÔNG VÀ TÂY.


Lão Tử và Socrates

Tác giả: Đào Hiếu.

ÐÔNG và TÂY là hai ý niệm, hai phạm trù cực kỳ phức tạp, đa dạng và tương đối. Ý niệm Ðông và Tây cũng như ý niệm về Thời Gian, nó là một quy ước do con người đặt ra và được cụ thể hóa bằng hình ảnh mặt trời mọc và lặn, bằng tên gọi các nền triết học, bằng sự gán ép các đặc tính nhân chủng.
NHỮNG Ý NIỆM TƯƠNG ÐỐI VỀ PHƯƠNG HƯỚNG.
Người châu Âu gọi các nước châu Á như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Ðộ… là phương Ðông nhưng ngày xưa thầy trò Ðường Tăng từ Trung Quốc sang Ấn Ðộ thỉnh kinh thì gọi chuyến đi ấy là TÂY DU và gọi Ấn Ðộ là TÂY TRÚC.
Gặp một người Pháp, người Anh, Thụy Sĩ hay Ba Lan, Tiệp Khắc… chúng ta đều gọi một cách thân mật là “thằng Tây” nhưng đối với người Anh, người Pháp… thì Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungary là ở phương Ðông.
Trong tiểu thuyết của Kim Dung có hai nhân vật lớn của võ lâm đó là Ðông Tà (Hoàng Dược sư), Tây Ðộc (Âu Dương Phong) tượng trưng cho quyền lực của Ðông và Tây nhưng nếu các nhân vật này có dịp sang Pháp, Italia hoặc Tây Ban Nha hành hiệp thì chắc cả Ðông Tà lẫn Tây Ðộc cũng đều được các cao thủ võ lâm ở đó như Don Diègue, Spartacus hay hiệp sĩ Roland gọi là Ðông phương đại hiệp.
Bây giờ ta đang đứng trên trái đất, ta quy ước với nhau rằng nơi mặt trời mọc là phương Ðông, nơi nó lặn là phương Tây. Nhưng đừng quên khi mặt trời đang mọc trên đất nước tôi thì nó cũng đang lặn trên đất nước của người ở bên kia bán cầu. Và nếu ta ở trong một phi thuyền không gian bay vào vũ trụ thì mặt trời, mặt trăng, trái đất và những vì sao… cũng chỉ là những vật sáng nổi trôi trên một bầu trời đen kịt, không hề có ý niệm gì về chuyện nó lặn hay nó mọc, nó đang ở đàng đông hay ở đàng tây.
Những từ như VIỄN TÂY, VIỄN ÐÔNG, TRUNG ÐÔNG… cũng vậy. Chúng chỉ có tính cách quy ước, lâu dần thành thói quen và mỗi khi nghe nói đến từ VIỄN TÂY lập tức trong đầu người ta hiện lên chữ far-west cùng một lúc với tên tiểu bang Texas và chú cao bồi nổi tiếng Lucky Luke.
Cũng vậy, từ VIỄN ÐÔNG được người châu Âu dùng để chỉ khu vực Ðông dương vì thế mới có người gọi Sài Gòn là HÒN NGỌC VIỄN ÐÔNG. Nhưng đối với người Nga thì viễn đông có nghĩa là vùng cảng Vladivostock, là những hòn đảo của họ nằm sát nước Nhật.
NHỮNG KHÁC BIỆT VỀ NHÂN CHỦNG
Ðây là một lãnh vực mà nhiều người vẫn cho là có sự khác biệt rõ nét nhất giữa Ðông và Tây: người phương Tây da trắng, người phương Ðông da vàng, người phương Tây thiên về khoa học kỹ thuật, người phương Ðông thiên về nội tâm, người phương Tây thực dụng người phương Ðông thiên về lý tưởng, người phương Tây thích những cái cụ thể còn người phương Ðông ưa những gì trừu tượng.
Về tính cách, người ta thường cho rằng người phương Ðông trầm lặng, kín đáo, lễ giáo còn người phương Tây thì sôi nổi, thẳng thắn, bộc trực hơn.
Thực ra đó cũng chỉ là những nhận định tương đối. Tôi cho rằng sự phát triển của nền khoa học kỹ thuật và công nghiệp sẽ quyết định tính cách của một dân tộc chứ không phải yếu tố nhân chủng quyết định, càng không phải yếu tố PHƯƠNG ÐÔNG, PHƯƠNG TÂY quyết định.
Ví dụ như người Nhật. Ðó là một dân tộc da vàng, châu Á và Phương Ðông nhưng lối sống của thanh niên Nhật ngày nay (cũng như Ðài Loan và Hongkong) giống hệt lối sống của thanh niên châu Âu châu Mỹ. Họ cũng sôi nổi, cũng thực dụng, cũng làm ra làm chơi ra chơi, họ cũng ăn Tết dương lịch, cũng đi như chạy trên đường phố, cũng chấp hành trật tự công cộng tự giác và nghiêm chỉnh. Tất cả những tính cách đó người ta thường gọi là tác phong công nghiệp.
NHỮNG KHÁC BIỆT TRIẾT HỌC
Ðây là sự khác biệt mà người ta nói nhiều nhất và quan trọng nhất. Phương Ðông có Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tư, Thích Ca. Phương Tây có Platon, Socrate, Aristote…Vào thời đại ấy người ta đã thấy hai nền triết học có những điểm khác biệt rõ nét. Câu nói nổi tiếng của Socrate “connais-toi, toi-même” (hãy tự biết ngươi) cho thấy quan điểm lấy con người làm đối tượng nghiên cứu triết học. Trong khi đó Lão Tử ở phương Ðông thì thuyết giảng về cái Ðạo của trời đất, cái lẽ của tự nhiên: Ðạo thường vô vi, nhi vô bất vi…. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái….
Nhưng đến Trang Tử, Khổng Tử, Phật Thích Ca thì triết học đã dần dần pha mùi trần tục. Thập nhị nhân duyên của Thích Ca, Nam Hoa Kinh của Trang Tử, Tứ thư, Ngũ Kinh của Khổng tử…đã bắt đầu kéo triết học từ trên trời xuống đất, đã phân tích mổ xẻ về kiếp người, về lẽ tử sinh, về thiện ác…
Ði xa hơn một chút, Khổng Tử còn muốn dấn thân vào đời để bình thiên hạ.
Vì thế triết học Ðông phương và triết học Tây phương tuy có khác nhau về phương pháp, về cách thức biểu hiện… nhưng tựu trung cũng là nghiên cứu về thân phận con người. Dù nhập thế (engager) hay yếm thế (dégager) thì cũng chỉ muốn nói về kiếp người. Dù coi đời là bể khổ (Thích Ca) hay cho rằng cuộc sống là phi lý (Sartre), dù quan niệm ”sống là gởi, thác là về“ hoặc ”sống là lưu đày và chết là trở về quê nhà” (L’exil et le royaume /Camus) thì đó cũng đều là tiếng thở dài trong cõi nhân gian.
Vì thế, xét về bản chất thì triết học Ðông phương và triết học Tây phương đều hội tụ về một mối, đó là sợi chỉ mỏng manh giăng qua vực thẳm mà con người hoặc khóc hoặc cười hoặc nhún nhảy bước qua.
Cho nên dù ÐÔNG hay TÂY thì vẫn là con người. Những sự khác biệt trong nhiều lãnh vực thực ra chỉ là cái bề ngoài, cái lối biểu hiện, cái cách bày tỏ.
Hướng mặt trời mọc hay hướng mặt trời lặn cũng chỉ là khoảng không đen của vũ trụ vô cùng.
Ngoài ra không là gì cả.
Tác giả: Đào Hiếu.

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020

LÃO TỬ VÀ KHỔNG TỬ-KHỔNG TỬ VÀ PLATO

Hơn hai ngàn năm trước có cuộc gặp kỳ lạ giữa Khổng và Lão.

Khổng ngồi kiệu đi trên đại lộ. Ngài vừa phe phẩy chiếc quạt, vừa lim dim đôi mắt. Bọn người khênh kiệu còng lưng đi thật đều để giữ thăng bằng cho thầy an tọa. Bỗng phía trước có kẻ cỡi trâu cắt ngang qua. Khổng mở mắt nhìn và quát:

– Tên trẻ trâu kia vô lễ, đường lớn không đi lại cắt ngang mặt người ta?

Con trâu dừng lại ngoái cổ nhìn. Tên trẻ trâu cười nói:

– Ngươi biết ta đã bao nhiêu tuổi rồi không mà cao giọng bảo ta trẻ trâu vô lễ? Chẳng qua ngươi đi trên con đường người ta đã dọn sẵn. Sự thực không có đường nào là lớn cả. Nơi không có đường mới thực sự là lớn!

Khổng mở to mắt nhìn. Bây giờ mới thấy người kia dù mặt mũi trẻ con nhưng râu tóc bạc phơ, chừng như đã sống mấy trăm năm, bèn ra lệnh cho phu hạ kiệu và bước xuống vòng tay thi lễ:

– Tại hạ có mắt như mù. Chẳng hay lão trượng chính là Lão Tử, người nước Sở?

Lão vẫn ngồi vắt vẻo trên lưng trâu nheo mắt cười:

– Đích thị là mỗ, bốn phương là nhà, không cần biết sinh ra ở đâu! Thái độ trịch thượng như ngươi ta đoán không nhầm là người họ Khổng nước Lỗ? Chào Khổng Phu Tử!

Khổng lại vái chào lần nữa:

– Tại hạ là Khổng Khâu đây, Đạo của tại hạ vốn khiêm cung, lão trượng đã quá lời…

Lão nhìn bọn phu kiệu lưng ướt đẫm mồ hôi rồi nhìn Khổng khăn áo lượt là mà cười, con trâu cũng cười theo. Lão nói:

– Đạo của ngươi là gì?

Khổng trịnh trọng:

– Tóm gọn trong mấy chữ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Lão cười vang:

– Có đến năm thứ, thứ nào cũng khó, cũng cao, sao gọi là khiêm cung? Những người dân chân lấm tay bùn làm sao học được cái Đạo ấy?

Khổng thanh minh:

– Đạo của tại hạ chỉ dành cho người quân tử, không dành cho kẻ tiểu nhân. Với người dân chân lấm tay bùn chỉ cần Lễ là đủ. Nhất nhật khắc kỉ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên!

Lão hỏi:

– Tự nhiên sinh ra vốn bình đẳng, làm gì có phân biệt quân tử hay tiểu nhân? Lễ là phép tắc, trật tự, ngày nào cũng bắt dân phục lễ khác nào ngươi bắt dân phải đeo gông đi trên con đường hẹp. Còn Nhân, Nghĩa, Trí, Tín ngươi dành cho quan quyền khác nào mở đường cho chúng tự do nói dối, giả nhân giả nghĩa, lưu manh, lừa lọc? Vậy còn phụ nữ thì sao?

Khổng lúng túng không trả lời hết các câu hỏi, chỉ trả lời câu cuối cùng như cái máy:

– Phận nữ nhi thường tình!

Lão lại cười ha ha:

– Vậy mẹ của ngươi cũng là tiểu nhân? Vậy thì Lễ của ngươi nói kính cha thờ mẹ để làm gì? Bây giờ thì ngươi đi đâu?

Khổng tự hào thưa:

– Đi chu du thiên hạ để truyền Đạo. Nhà Chu suy, chư hầu nổi loạn, rất cần đạo trị – bình để thu thiên hạ về một mối, yên ổn vì đại cục…

Lão cắt lời:

– Nguy tai! Nguy tai! Nhà Chu suy đồi mà ngươi lại dùng phép tắc nhà Chu làm mẫu mực để gọi là Lễ? Nói thật, Đạo của ngươi cũng chỉ là con đường cụt. Lễ mà ngươi dạy đời ấy chỉ tạo thêm ra loại người đối với bề trên thì nịnh nọt uốn gối khom lưng, đối với kẻ dưới thì trịch thượng khinh người. Đạo trị – bình của ngươi chỉ có thể giữ thế ổn định tạm thời để bọn quan quyền tham nhũng. Dân vì hèn, vì sợ mà tạm bình, chứ quan đang nắm quyền thống trị thì sẽ tranh chấp hỗn loạn, cắn nhau như chó tranh cứt. Sao không để chư hầu nổi loạn mà làm lại từ đầu? Cái cây già mục ruỗng đã sắp chết thì dọn đi để trống đất cho cây con mọc lên, khư khư giữ lấy làm gì?

Nghe đến đấy, Khổng không khỏi nổi giận, mặt đỏ phừng phừng:

– Lão trượng không nên xúc phạm Thiên tử và kích động làm loạn. Tội phản nghịch đáng bị tru di ba họ. Nhưng thôi, coi như tại hạ chưa nghe gì. Vậy mạo muội hỏi, Đạo của lão trượng là gì?

Lão Tử vẫn khoan thai, tay đưa lên vuốt chòm râu trắng:

– Ta chỉ có một cái đầu trong muôn vạn cái đầu của thiên hạ. Ba họ nhà ta là ai ta còn chưa biết thì sợ gì họa tru di. Ngươi hỏi Đạo của ta ư? Đạo của ta là vô đạo, đường của ta đi là không có con đường. Đó mới là Đại Đạo.

Khổng ngơ ngác không hiểu gì. Nhìn vẻ mặt ngơ ngác ấy, Lão lại ngửa mặt cười vang, đưa ngón tay vẽ một vòng thái cực vào không khí và nói:

– Ngươi cứ nhìn vào trời đất mà hiểu Đạo của ta. Kìa, có trời thì có đất, có núi thì có sông, có cao thì có thấp, có dài thì có ngắn, có cương thì có nhu, có rỗng thì có đặc, có sáng thì có tối, có thẳng thì có cong… Mọi thứ đang dịch chuyển trong sự biến hóa vô cùng. Tự nhiên tự do nhưng có trật tự và cái lí của nó. Cao thì xa, thấp thì gần, dài thì yếu, ngắn thì mạnh, cương thì gãy, nhu thì dẻo, rỗng thì âm to, đặc thì câm… Mọi thứ trong trời đất gắn kết được nhờ khác biệt, không có chuyện giống nhau mà hợp lại được với nhau. Đạo của ngươi áp đặt mọi thứ theo trật tự như ngươi muốn và bắt buộc mọi thứ giống như nhau mà được à?

Bây giờ thì Khổng nghe như nuốt từng lời. Khổng hỏi:

– Đạo của lão trượng từ đâu ra vậy?

Lão nói:

– Từ trời đất, từ nhân gian mà ra. Ta học được từ đám dân đen mà Đạo của ngươi gọi là bọn tiểu nhân đáng khinh bỉ đấy!

Lão lại nhìn Khổng đang trố mắt mà tiếp:

– Ta nghe ngươi đi đến đâu, các vua chư hầu đuổi đến đó như đuổi tà. Có người bảo ngươi chỉ là kẻ cơ hội. Nhưng ngươi yên tâm, vài trăm năm sau Đạo của ngươi sẽ được trọng dụng vì nó sẽ là vũ khí bịp bợm tốt nhất. Người ta sẽ leo lẻo nói điều Nhân, điều Nghĩa, người ta luận về điều Trí, điều Tín, nhưng nói một đằng làm một nẻo. Và hiển nhiên, người ta sẽ tôn ngươi là Thánh để mê hoặc lòng người!

Đến đây, Khổng cúi sát người xuống chân Lão mà lạy ba lạy:

– Tại hạ lĩnh giáo và xin bổ sung vào Đạo của mình. Đời vẫn có quân tử và tiểu nhân, nhưng Đạo lớn nhất vẫn là lấy dân làm gốc ạ!

Lão lại bật cười đến văng nước bọt:

– Câu đó sẽ là câu mị dân lớn nhất! Dân nghe vậy sẽ vui vẻ làm trâu cày cho sự nghiệp của các quan chứ gì?

Nói đoạn, Lão vỗ mông trâu bỏ đi, không một lời chào. Con trâu họ lên một tiếng và ỉa một bãi to tướng trước mặt Khổng rồi đưa Lão băng qua cánh đồng. Khổng nhìn theo không chớp mắt. Kì lạ là con trâu đi đến đâu cỏ cây dạt ra đến đấy. Lão Tử nhẹ nhàng như bay giữa không gian vô tận rồi mất hút ở chân trời. Khổng lầm bầm, rằng Lão thật sự tự do, con đường của Lão thật sự là con đường lớn, không như ta cả đời tự đeo gông vào cổ và đi vào ngõ cụt mà không biết…

Tối hôm đó về nhà trọ, Khổng trằn trọc suốt ba canh rồi thiếp đi. Trong giấc mơ, Khổng thấy mình sống lừng lững đến 2000 năm, bao nhiêu người đến sụp lạy tôn Khổng thành Thánh. Khổng cứ ngồi bất động mà làm Thánh. Không biết là mộng ác hay mộng lành. Chỉ biết rằng khi tỉnh dậy, Khổng thấy cứt đầy quần. Bèn thay quần áo và gói ghém mọi thứ ô uế vào chiếc tay nải bằng nhung rồi một mình lặng lẽ bước đi trong đêm tối. Khổng ném tất cả xuống cầu và đứng nhìn dòng sông đen ngòm đang chảy xiết…

Sử sách chỉ viết có cuộc gặp gỡ Khổng – Lão mà tuyệt nhiên không kể lại đầu đuôi chuyện này.

KHỔNG TỬ VÀ PLATO

Phương Tây có Plato và Phương Đông có Khổng tử

Hai ông xuất hiên cách nhau không xa, Plato 428 TCN, Khổng tử 551 TCN và là 2 người soi đường chỉ lối cho hai nền văn minh Tây-Đông.

Plato đề ra con người cần có 4 đức tính: công bình- chính trực, thận trọng, kiên quyết, điều độ trong đó công bình chính trực là đức tính quan trọng nhất;

Khổng tử coi người quân tử cần có 5 đức: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trong đó nhân là quan trọng nhất là biểu hiệu của đức.

Khổng tử đã chia người thành 2 hạng quân tử, tiểu nhân còn Plato chú ý tới đức tính công chính của con người. 1 bên chú ý tới cá nhân, 1 bên là đẳng cấp nên người ta mới cho rằng phương Tây là chủ nghĩa cá nhân còn phương Đông là chủ nghĩa tập thể đây.

Khổng tử xây dựng duy nhất 1 mô hình xã hội “Tam Cương” Quân thần-Phụ tử - Phu Thê đến đời nhà Hán biến tướng thành quân -sư -phụ với vua đứng đầu là thiên tử có tôn ti trật tự chặt chẽ còn Plato đưa ra tới 4 mô hình thành quốc là chế độ quân sự, quả đầu, dân chủ và độc tài. Qua đối thoại Plato đưa ra được tư duy biện chứng còn Khổng tử ở mức tư duy trực quan.

Với 1 mô hình khép kín kiểu kinh Dịch chứng tỏ sự hoàn thiện của nó và đưa Trung Hoa phát triển hơn phương Tây cả ngàn năm trong xã hội nông nghiệp. Plato đưa ra 4 mô hình chứng tỏ sự bất toàn trong xã hội phương Tây nhưng cũng chính sự khiếm khuyết này cho phép con phượng hoàng tái sinh từ tro tàn của chính nó như Phục hưng là 1 minh chứng.

Như vậy, 1 mô hình đóng hướng tới mẫu chuẩn là tổ tiên còn 1 mô hình mở hướng tới thần linh. Khi gặp biến cố thiên nga đen thì mô hình khép kín Khổng tử không giải quyết được và mô hình mở Plato lại phát triển.

Nho giáo đề ra nam nữ thụ thụ bất thân quần áo che kín cơ thể còn Plato khuyến khích thi đấu thể thao cho con người cường tráng mà dân Hi lạp khi thi đấu là khỏa thân.

Với 2 định hướng này thì người nào khỏe, thuận tự nhiên thì đã biết. Tất nhiên Khổng tử quá tài nhưng so với Plato thì còn kém một bậc vì thuyết của ông bị người đời sau biến tướng phục vụ ngu dân và bóc lootyj mấy ngàn năm trong lịch sử phương Đông quá thương tâm.

Còn về Plato nếu đọc 3 tập Cộng hòa của ông chúng ta sẽ rõ: Ralph Waldo Emerson đã viết về Plato như thế này: “Plato chính là triết học, triết học chính là Plato. Ông không vợ, không con nhưng tất cả các nhà tư tưởng của tất cả các dân tộc văn minh đều là hậu duệ của ông. Biết bao nhiêu con người vĩ đại Tự nhiên đang không ngừng sản sinh ra đều là môn đệ của ông – những người theo chủ nghĩa Plato.”

"Cộng Hòa" là tác phẩm nổi tiếng nhất của Plato và là một trong những tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất lên sự phát triển tư duy của triết học và học thuyết chính trị. Tác phẩm bàn về nhiều lĩnh vực: thần học, đạo đức học, siêu hình học, tâm lý học, giáo dục học, chính trị học, và lý thuyết về nghệ thuật. Những vấn đề của triết học hiện đại đều được đặt ra tại đây. Nhân vật chính trong tác phẩm là Socrates cùng với nhiều học giả Athen và các nơi thảo luận về ý nghĩa của công lý. Đây cũng là một tác phẩm mà Plato viết để tôn vinh người thầy đã quá cố của mình - Socrates.

“Cộng Hòa” của Plato được xem là cột mốc lớn của triết học phương Tây. Mặc dù chủ đề chính là về một nhà nước lý tưởng nhưng nó xoay quanh giáo dục, tâm lý, đạo đức và chính trị. Trong những mục chính của “Cộng hòa”, Plato sử dụng những huyền thoại để khám phá bản chất tự nhiên của thực tế, truyền đạt cái nhìn về sự tiên đoán của con người và vai trò của triết học trong việc thiết lập tự do. Ông tưởng tượng ra một cái hang mà những con người bị xiềng xích từ khi mới sinh ra, chỉ làm bạn với cái bóng của chính mình. Vai trò của triết học là đưa con người thoát ra khỏi cái bóng, và hướng bản thân họ đến với thực tế. Đây chính là bản chất của việc theo đuổi sự khôn ngoan mà không một nhà nước lý tưởng nào không làm.

“Cộng Hòa” là tác phẩm có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tư duy triết học và học thuyết chính trị suốt hơn hai ngàn năm qua. Có người đã cho rằng, nếu đem tất cả sách vở trên thế giới ra đốt hết thì cũng không hề hấn gì, ngoại trừ cuốn “Cộng hòa” của Plato.

Thông tin tác giả: Plato sống vào khoảng thời gian từ 427-347 TCN, là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều lĩnh vực. Sinh ra ở Athen, ông được hấp thụ một nền giáo dục tuyệt vời từ gia đình, ông tỏ ra nổi bật trên mọi lĩnh vực nghệ thuật và đặc biệt là triết học, ngành học mà ông chuyên tâm theo đuổi từ khi gặp Socrates. Có nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates.

Sưu tầm


Muốn tìm hiểu về Plato hãy đọc thêm Cộng Hòa cảu Ông....