XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020

HÃY HỌC HỎI DÂN TỘC NHẬT

11 bài học một nhà báo Mỹ đúc kết ra sau khi sống 1 năm ở Nhật Khi  đặt chân đến Nhật Bản lần đầu tiên, thật khó để không bị ấn tượng bởi trật tự xã hội và hiệu suất làm việc ở đất nước này. Các đường phố rất sạch sẽ, xe lửa chạy đúng giờ, người dân yên tĩnh và lịch sự. Ngay cả những chuyến đi ngắn đến Nhật Bản cũng có thể trở thành một trải nghiệm thay đổi cuộc sống, khi quay trở về, các du khách đã thay đổi rất nhiều.Sau 1 năm sống ở đảo Shiraishi, trò chuyện với khách du lịch và những người sống ở Nhật Bản, Amy Chavez – một nhà báo người Mỹ đã quan sát kỹ lưỡng và rút ra những kết luận dưới đây về đất nước mặt trời mọc này:

1) Luôn hồi đáp lại ân huệ, dù đó là chuyện gì

 đi nữa Tại Nhật Bản, bạn sẽ nhanh chóng không chỉ học được cách nhận sự giúp đỡ từ người khác mà còn cách hồi đáp lại. Có lẽ bạn chưa từng viết lời cảm ơn hay mua thiệp sinh nhật mà không gửi? Người Nhật sẽ không làm vậy!  Hồi đáp lại ân huệ là điều rất quan trọng để tạo một mối quan hệ tốt đẹp.Mặt khác, hồi đáp ân huệ không cần phải có giá trị như nhau. Ví dụ, nếu ai đó giúp bạn chuyển chiếc ghế sofa mới vào nhà, bạn có thể chỉ cần mua cho họ một lon nước giải khát để thể hiện lòng biết ơn của mình.

2) Cảm ơn người giúp đỡ khi gặp họ lần tới.

Người Nhật luôn nhớ nói lời cảm ơn khi họ gặp người giúp đỡ mình vào lần tới. Có vẻ hơi khách sáo, nhưng quả là dễ chịu khi được nghe ai đó nói rằng “Này, cảm ơn vì hôm trước bạn đã giúp mình chuyển ghế sofa nhé!”. Điều này thật tốt đẹp!

3) Thái độ lịch sự vượt xa lời nói “cảm ơn” và “tạm biệt” Lịch sự và hành xử tinh tế rất quan trọng trong văn

 hóa Nhật Bản. Nếu bạn dừng lại trên đường  phố để hỏi đường, bạn sẽ nhận được một bản đồ chi tiết được vẽ bởi một người qua đường, hay một người bán hàng có thể tạm để cửa hàng của họ đó để dẫn bạn đi tới con đường đúng. Lịch sự nghĩa là thấm nhuần lòng vị tha của bạn – khi bạn giúp đỡ người khác, đừng nghĩ rằng: “Mình được lợi gì nhỉ?”

4) Nghĩ đến người khác trước

Cách tốt nhất để thể hiện cho người khác thấy rằng họ quan trọng đối với bạn như thế nào là nghĩ đến họ trước tiên. Lấy cho bạn bè miếng bánh lớn nhất, nhường cho họ hàng chỗ ngồi tốt nhất trong nhà hàng, nhường cho khách đứng ở vị trí trung tâm của bức ảnh khi chụp hình, hay nướng bánh và chia sẻ nó với những người hàng xóm là một phần trong cuộc sống hằng ngày ở Nhật Bản.Thậm chí có những chỗ ngồi đặc biệt dành cho khách trong một ngôi nhà truyền thống Nhật Bản.

Những chiếc ghế được đặt phía trước hốc tường tokonoma, nơi đặt các tác phẩm nghệ thuật Nhật Bản đẹp nhất như: tranh treo tường, gốm sứ, bình hoa, v.v…

5) Vì  sao người Nhật chỉ đứng ở một bên thang cuốn. Quan tâm đến tất cả mọi người trong nhóm. Không ai bị loại ra! Ở Nhật không có chuyện ra ngoài uống nước hay tiệc tùng chỉ với vài đồng nghiệp. Tất cả mọi người tại sở làm sẽ được mời. Sẽ không có những khoảnh khắc khó xử khi một số người nhận ra rằng họ không được mời tới dự tiệc. Tất cả những người có mặt đều

được chụp ảnh mà không cần quan tâm liệu đó có phải là thành viên trong gia đình, bạn bè hay không. Nghĩ đến tất cả mọi người sẽ giúp bạn đối xử khoan dung với những người khác.

6) Tôn trọng tài sản của người khác

Có một câu thành ngữ tiếng Anh: “Ai tìm ra thì  được, ai để mất thì khóc” (“Finders keepers, losers weepers”). Nhưng ở Nhật bản thì không! Nếu ai đó làm rơi một cái ô hay đồ vật hữu ích trên vỉa hè họ chắc chắn sẽ tìm thấy nó, họ sẽ tìm thấy nó ở vị trí đánh rơi hay trên băng ghế gần nhất khi họ quay lại tìm. Lấy những thứ của người khác là điều sai trái.

7) Đã hứa thì phải thực hiện

Ở Nhật Bản, khi một người hứa sẽ làm gì đó, họ sẽ thực hiện. Họ sẽ không quên điều đó cho dù bất kể chuyện gì xảy ra! Họ sẽ tham dự sự kiện của bạn ngay cả khi trời đổ mưa. Không đến một sự kiện mà không thông báo là hành vi không được tha thứ – bạn nên gọi trước để báo rằng bạn không thể tham dự được và xin lỗi vì điều này, hoặc bạn có thể ủy quyền cho người khác đến.

8) Người Nhật rất biết lắng nghe

Người Nhật sẽ luôn cho bạn cơ hội để bạn thể hiện quan điểm của mình trước, họ là những người rất biết lắng nghe. Việc lắng nghe người khác và không tranh giành quyền kiểm soát cuộc hội thoại là điều rất quan trọng.

Bằng cách này, bạn sẽ trở nên khoan dung hơn và ít phán xét người khác hơn khi bạn cố gắng để hiểu được quan điểm của họ. Cho dù là bất cứ chủ đề nào, người Nhật có xu hướng để thảo luận về nó chứ không phải là tranh luận và áp đặt quan điểm của mình vào người khác.

9) Người Nhật rất thanh lịch

Nếu chỉ dùng một từ để miêu tả người Nhật thì đó là “thanh lịch”. Tất cả các tầng lớp xã hội, không phân biệt nguồn gốc và thu nhập, họ đều hành xử rất thanh lịch. Ví dụ, họ không dùng ngón tay trỏ để chỉ vào một

 người hay một vật. Thay vào đó, họ sẽ làm một động tác tay rất tinh tế. Họ ăn mặc lịch sự, chào đón tất cả mọi người với một nụ cười và đưa đồ cho người khác bằng cả 2 tay. Xã hội Nhật Bản đánh giá cao sự khiêm nhường và giản dị. Mọi người có thể đứng đợi trong

 một hàng dài mà không hề tức giận hay than vãn.  Không có ẩu đả trên đường, không nói lớn tiếng. Không có vẻ mặt như muốn đe dọa “tránh ra hoặc ăn đòn”. Du khách cảm thấy khá thoải mái khi ở Nhật Bản và sẵn sàng để hít thở không khí yên bình.

10) Người Nhật là những công dân có trách nhiệm

Trong trận bóng đá World Cup ở Brazil năm 2014, các fan Nhật Bản khiến tất cả mọi người phải ngạc nhiên khi dọn sạch khu vực của họ tại sân vận động. Nếu bạn đã từng đến Nhật Bản, điều này không có gì ngạc nhiên cho lắm vì người Nhật luôn dọn sạch sẽ chỗ của họ sau

khi đứng dậy. Ngay cả trong mùa hoa anh đào khi họ đi dã ngoại trong công viên, bạn sẽ không tìm thấy một ly nước vứt trên cỏ xanh.

11) Người Nhật luôn đúng giờ.

Một trong những bài học sâu sắc mà người nước ngoài học được tại Nhật Bản là tầm quan trọng của việc đúng giờ. Điều này thể hiện sự tôn trọng người khác và là lý do tại sao tất cả mọi việc đều trở nên đáng tin cậy và hiệu quả hơn ở đất nước này.

Theo Bright Side

Hoàng Vân dịch thuật

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020

Trái tim chó

Trái tim chó - Mikhail Bulgacov

Trái tim chó

Chương 1

Ư-ư-ư-ư-hư-hư-hư-ư!

Ôi khốn nạn thân tôi, tôi chết mất đây! Dưới vòm cổng, bão tuyết đang gào rít bản nhạc tống biệt tôi, và tôi cũng tru lên cùng với gió tuyết.

Đời tôi thế là hết, thế là hết thật rồi. Một thằng súc sinh đội mũ không vành cáu bẩn, cái lão đầu bếp ở nhà ăn bình dân của các nhân viên thuộc Hội đồng Kinh tế Quốc dân Trung ương ấy, đã hất nước sôi làm bỏng cả một bên sườn trái của tôi. Cái đồ đểu giả đến vậy, mà lại còn là vô sản nữa chứ ! Trời đất ơi, đức Chúa của tôi ơi, đau quá ! Nước sôi bỏng thấu tận xương.

Bây giờ tôi chỉ biết tru lên, nhưng tiếng tru nào phỏng giúp được gì.

Tôi đã làm gì động đến hắn? Chẳng lẽ nếu để tôi đào bới trong đống thức ăn thải thì cái Hội đồng Kinh tế Quốc dân kia sẽ khánh kiệt đi sao? Đồ súc sinh bần tiện! Có khi nào đó các người thử nhìn cái mặt của hắn xem: Chiều ngang rộng hơn chiều dọc!

Một thằng ăn cắp mặt dầy. Ôi, bàn dân thiên hạ ôi! Giữa trưa, hắn dội cho tôi một gầu nước sôi, còn bây giờ trời đã nhập nhoạng tối, cứ ước theo mùi hành phi bay ra từ khu nhà ở của đội cứu hoả phố Pretnstenka thì chắc đã khoảng bốn giờ chiều rồi. Như các người biết đấy, bữa tối lính cứu hoả thường ăn cháo. Đấy là một món mạt hạng. cũng giống như nấm ấy. Thế nhưng mấy thằng chó đực quen trên phố Pretristenka lại kể rằng, dường như ở nhà hàng “Bar” trên đại lộ Neglinnưi người ta thường chén món nấm dầm nước sốt cay giá ba rúp bảy mươi lăm kôpếch một suất. Tuy nhiên đó là chuyện khẩu vị từng người, nó cũng chẳng khác gì việc liếm giày cao su vậy...

Ư- ư- ư- ư- ư...

Hông đau không chịu nổi, và tôi đã thấy rõ mồn một cái viễn cảnh của tôi: ngày mai sẽ bắt đầu những vết loét, và thử hỏi lúc đó tôi lấy gì để chữa chạy? Mùa hè thì còn có thể dông tuốt lên công viên Sokoniki, ở đấy có một loại cỏ đặc biệt làm thuốc hết sẩy; ngoài ra đến đó còn được chén đẫy không mất tiền các mẩu lạp xường thừa, tha hồ liếm láp những tờ giấy gói đẫm mỡ mà quý vị công dân vứt tứ tung khắp nơi. Và nếu như không gặp phải một mụ già cáu bẳn nào đó hát trong dàn đồng ca dưới trăng - “ôi Aiđa yêu dấu” - đến rụng tim, thì cuộc đời thật sự hết ý. Còn bây giờ tôi biết đi đâu? Người ta có thường phết giày vào đít các người không? Có chứ. Các người đã được nếm món gạch chọi vào sườn chưa? Từng xơi đủ. Tôi đã trải qua tất cả, tôi nhẫn nhục cam chịu cái số kiếp của mình.

Nếu bây giờ tôi khóc rên thì cũng chỉ là bởi thân xác của tôi lạnh cóng và đau đớn, vì linh hồn tôi hãy còn chưa tắt... Linh hồn loài chó vốn sống dai.

Nhưng thân thể tôi thì đã bị tàn giập, xơ xác, cái giống người hành hạ giày vò nó kể cũng gớm ghê. Nhưng khủng khiếp nhất là từ khi cái lão kia hắt nước sôi làm tôi bỏng chín đến tận chân lông, bên sườn trái của tôi thế là không còn gì bảo vệ nữa. Tôi có thể rất dễ dàng bị viêm phổi; mà một khi đã viêm phổi thì, kính thưa các quý công dân, tôi sẽ chết đói nhăn răng. Bởi vì bị viêm phổi rồi thì phải nằm dưới cầu thang ở lối cổng chính, nhưng nếu thế hỏi ai sẽ thay tôi, một con chó đực độc thân nằm bẹp một chỗ, chạy đi bới các thùng rác để kiếm miếng ăn? Sưng phổi rồi, tôi sẽ phải bò lê bò lết, sẽ kiệt sức, và bất kỳ một tay chuyên viên thu dung nào cũng có thể dùng gậy đập tôi đến chết. Còn bọn quét sân mang những tấm biển trên áo đồng phục sẽ túm lấy chân tôi mà quẳng lên xe ngựa chở rác. Trong toàn bộ thế giới vô sản thì bọn người quét sân là loại khốn nạn nhất. Các phế vật của con người ấy là thuộc giống hạ đẳng tột cùng. Dân đầu bếp thì còn có ba bảy loại. Chẳng hạn, như ông Vlas vừa quá cố ở phố Pretristenka. Ông ta đã cứu bao nhiêu là mạng chó. Bởi vì, cái quan trọng hàng đầu khi ốm đau là kiếm được miếng ăn khơ khớ. Vậy mà, như các lão chó già kể lại, nhiều khi ông Vlas ném cho chúng những miếng xương, mà dính trên miếng xương đó có đến hàng nửa lạng thịt. Cầu mong cho linh hồn ông cụ được yên nghỉ. Ông cụ mới thật là một nhân cách chân chính, một đầu bếp quý tộc của các bá tước Tolstoi, chứ đâu phải của Hội đồng ăn uống bình dân. Mà không biết người ta làm cái gì ở trong ngành ăn uống bình dân ấy, cái đầu óc chó này thật chẳng làm sao hiểu nổi? Bởi vì họ, cái bọn người đểu cáng đó, chuyên nấu xúp bằng thịt ngựa muối thối, còn những kẻ được phục vụ tội nghiệp kia thì không hề biết gì cả. Cứ kéo đàn, kéo lũ đến húp sạch, ngốn láo!

Có cô nhân viên đánh máy nọ nhận lương bậc chín, bốn mươi lăm rúp một tháng, tuy thực ra cô ta còn được người tình bao cho đôi tất dài dệt kim. Nhưng vì cái món dệt kim này mà cô ta phải chịu đựng bao nhiêu là sự khinh nhục. Cái gã người tình cứ bắt cô ta phải làm tình theo kiểu Pháp chứ không phải bằng một cách bình thường nào khác. Tôi xin nói riêng giữa chúng ta với nhau, bọn Pháp là một lũ chó chết. Mặc dù họ ngốn toàn những thứ sang, bữa nào cũng nốc rượu vang đỏ.  Thế đấy... cô đánh máy nọ hàng ngày chạy đến nhà ăn này, bởi vì với bốn mươi lăm rúp thì không thể vào nhà hàng “Bar” được.  Thậm chí đi xem xinê cô ta cũng không đủ tiền, mà đối với đàn bà thì xinê là thứ giải trí duy nhất trong cuộc đời. Run rẩy, nhăn nhó, nhưng vẫn phải nuốt...

Thử nghĩ mà xem: bốn chục xu hai món, mà thực ra cả hai món này chưa đáng giá mười lăm xu, vì hai mươi lăm xu còn lại đã bị lão trưởng phòng quản trị ăn bớt mất rồi. Mà chẳng lẽ cô ta lại cần một bữa ăn như vậy? Hai lá phổi của cô ta đã có vấn đề rồi còn căn bệnh phụ khoa kiểu Pháp, mà ở cơ quan thì bị trừ lương, vào nhà ăn thì bị người ta thí cho thịt thối.

Cô ta kia, đấy cô ta kia kìa... Đang chạy ra cổng, đi đôi bít tất dài của người tình cho. Chân lạnh cóng; gió thổi lọt vào bụng, vì áo len trên người cô ta cũng chẳng khác gì lông trên người tôi, còn quần thì mỏng tanh; chỉ là một vòng đăng ten? Phải xé tươm ra cho người tình. Nếu cô ta mặc vải phlanen, cứ thử xem, gã sẽ gào toáng lên: Sao cô thô thiển thế! Mỗ đã chán ngấy cái cô ả Matrena của mỗ rồi, mỗ đã chịu bao nhiêu khốn khổ với cái quần vải phlanen, bây giờ đến thời đại của mỗ. Bây giờ mỗ là chủ tịch, cóp được bao nhiêu mỗ xài hết cho món đàn bà, thịt tôm càng và rượu Abrau Durso. Bởi vì thời trẻ mỗ đã phải nếm quá nhiều những đói khát, với mỗ thế là đủ, mà cuộc sống ở thế giới bên kia thì không tồn tại.

Tôi thật cám cảnh cô ta, ôi thật cám cảnh! Nhưng tôi còn cám cảnh bản thân mình hơn.

Không phải vì ích kỷ mà tôi nói như vậy, ồ không đâu, mà vì hoàn cảnh giữa tôi và cô ta thật sự không như nhau. Cô ta ít ra còn được ấm áp khi về nhà, còn tôi, còn tôi... Tôi biết đi đâu?

Bị đánh đập, bị dội bỏng, bị hắt hủi, tôi còn biết đi đâu? ư-ư-ư-ư-ư?

- Chúc, chúc, chúc! Sarik, à Sarik! Gì mà mày rên rỉ thế, hở con chó tội nghiệp? Ai đánh mày hả? Ôi...

Con mụ phù thủy bão tuyết khô, xô quật cánh cổng ầm ầm, cưỡi chổi tông thẳng vào tai cô gái, hất ngược váy cô ta lên quá đầu gối, để lộ ra đôi bít tất mầu kem sữa và một dải hẹp của chiếc quần lót bằng đăng ten giặt không sạch, bóp nghẹn lời nói cửa cô ta, phủ tuyết lên người chó.

- Trời đất ôi... Thật là thời với tiết thế này... Ôi Bụng đau quá! Đây là do thịt ngựa thối, cái món xúp ngựa thối? Biết đến bao giờ thì hết những cảnh này hở trời?!

Chúi đầu xuống, cô gái xông vào chịu trận cùng bão tuyết, tiến ra phía cổng; ở ngoài phố gió bắt đầu quay tròn, xô nghiêng ngả, rồi vây cô ta trong một cột tuyết mù mịt; và cô gái biến mất.

Còn con chó thì nằm dài dưới vòm cổng, đau đớn rên rỉ với bên sườn bị bỏng, nép mình vào sát bức tường lạnh giá, thở dốc lên và thầm chắc rằng sẽ không rời nơi này đi đâu nữa, sẽ chết bỏ xác tại đây, dưới cái vòm cổng này. Sự tuyệt vọng làm nó gục hẳn. Trong lòng nó đau đớn và cay đắng cùng cực, cô đơn và kinh hoàng đến nỗi những giọt nước mắt chó nhỏ tí như những chiếc mụn cơm ứa ra trên tròng mắt rồi lập tức khô ngay. Lông bên sườn trái bết lại thành từng búi đông cứng, và ở giữa chúng là những mảng da bỏng đỏ bầm đáng sợ. Cái bọn đầu bếp mới vô nghĩa, mới ngu độn và tàn ác làm sao? Còn cô ta gọi nó là “Sarik”... Tại sao lại “Sarik” được? Sarik thì phải tròn trĩnh, béo tốt, đần độn, ăn cháo kiều mạch, dòng giống quý tộc; còn nó chỉ là một con chó vô chủ, xơ xác, gầy còm, bẩn thỉu.

Nhưng mà thôi, dẫu sao cũng cảm ơn cô nương vì những lời tốt đẹp!

Cánh cửa của một cửa hàng mua bán ánh điện sáng rực rỡ ở phía bên kia đường bật mở, và từ trong đó bước ra một quý ông. Chính là quý ông chứ không phải đồng chí, và nếu nói một cách chính xác nhất - là quý ngài. Càng đến gần càng thấy rõ đúng là quý ngài. Các người nghĩ rằng đó là tôi đoán qua áo bành tô chứ gì? Vớ vẩn. Bành tô thì bây giờ rất nhiều người vô sản cũng mặc. Thật ra, cổ áo có khác nhau, điều đó chẳng cần phải nói, nhưng dù sao đứng xa vẫn có thể nhầm. Còn qua cặp mắt thì dù gần, dù xa cũng không thể nào nhầm lẫn được: ôi, con mắt là vật rất có giá trị. Nó giống như một chiếc gương, một máy đo độ, qua đó có thể thấy ai là người tâm hồn cao cả, ai là người vô căn vô cớ có thể thọc mũi giày vào mạng sườn, còn ai là kẻ thấy người nào cũng sợ. Chính cái loài đầy tớ hèn nhát đó tôi thường thích đớp cho một phát vào bắp chân. Đã sợ thì cho chết. Một khi đã sợ thì đáng lắm...

gâ - gâ - gâ... gâ u - gâ u...

Quý ngài nọ tự tin đi qua mặt đường ngập trong bão tuyết và tiến vào cổng. Đúng, đúng, trông dáng quý ngài này có thể thấy được tất cả. Quý ngài đây thì sẽ không bao giờ chén thịt ngựa thối; còn nếu ở đâu đó người ta mang thịt thối đến cho quý ngài, thì quý ngài sẽ quát tháo ầm ĩ, sẽ viết lên báo: người ta dám cho tôi, Philip Philippôvich, ăn thịt thối!

Quý ngài mỗi lúc một đến gần, đến gần hơn. Ông này luôn luôn được ăn uống đầy đủ và chẳng bao giờ ăn cắp. Ông này không thượng cẳng chân hạ cẳng tay với ai, nhưng tự mình cũng đếch sợ ai cả, và đếch sợ là vì bao giờ cũng no đủ. Ông này là một quý ngài lao động trí óc, với bộ râu nhọn kiểu Pháp, hàng ria bạc trắng, mềm mại và ngang tàng như ria của những hiệp sĩ Pháp, nhưng từ người quý ngài toả ra trong gió tuyết một thứ mùi kinh tởm - mùi bệnh viện. Và mùi thuốc lá nữa.

Thử hỏi ma quỷ nào lôi quý ngài vào cái hợp tác xã mua bán ấy của Hội đồng Kinh tế Trung ương? Nó ở kia... Quý ngài tìm cái gì ở đó?

Ư- ư- ư- ư... Quý ngài có thể mua gì trong cái cửa hàng tẹp nhẹp kia, chẳng lẽ phố Okhotnưi Riad đối với quý ngài còn chưa đủ sao? Cái gì kia nhỉ? Giò- ò- ò? Thưa quý ngài, nếu như quý ngài được thấy giò này người ta làm bằng gì, thì chắc quý ngài đã không đến gần cái cửa hàng kia. Hãy để nó lại cho tôi đi?

Con chó dồn hết chút sức lực còn lại, và trong cơn mất trí nó bò từ vòm cổng ra mặt hè. Bão tuyết gào như súng quét trên đầu, giật ngược những hàng chữ cái đồ sộ của tấm biểu ngữ bằng vải “Có thể làm con người trẻ lại được không?”. Hiển nhiên là có thể. Mùi thơm của thức ăn đã làm cho tôi trẻ lại, nâng tôi đứng lên, những luồng sóng nóng bỏng chảy đầy cái dạ dày của tôi đã hai ngày đêm trống rỗng, nó đánh bạt cả mùi bệnh viện!

- Ôi cái mùi thiên đường của giò băm với tỏi và ớt! Tôi cảm thấy, tôi biết rõ - quý ngài mang giò trong túi bên phải của chiếc áo choàng lông. Quý ngài ở ngay phía trên tôi. Ôi, ông chủ của con. Hãy nhìn con một tí. Con đang chết mất đây. Ôi, cái linh hồn nô lệ của chúng tôi, ôi cái số phận đểu giả của chúng tôi!

Con chó trườn lê bụng như rắn, nước mắt đầm đìa. Hãy nhìn xem công tích của lão đầu bếp đây? Tuy nhiên quý ngài chẳng bao giờ chịu cho đâu. Ôi, tôi đã quá biết những người giàu có rồi! Nhưng thực ra mà nói - quý ngài cần nó để làm gì? Cái thứ thịt ngựa thối ấy thì quý ngài dùng làm gì? Không ở đâu ngoài cửa hàng nông nghệ phẩm Moskva quý ngài có thể kiếm được cái bả độc ấy đâu. Mà quý ngài thì hôm nay đã ăn sáng rồi, quý ngài là một nhân vật có tên tuổi thế giới nhờ những tuyến sinh dục đực.

Ư-ư-ư-ư... Cái gì đang diễn ra trên đời thế này? Chết bây giờ thì hẳn còn sớm quá, tuyệt vọng là một tội lỗi thật sự. Phải liếm tay quý ngài thôi, ngoài ra không còn cách nào khác.

Quý ngài bí ẩn cúi xuống bên con chó, cặp kính gọng vàng lấp lánh, rồi rút từ túi phải ra một gói giấy trắng dài. Không bỏ bít tất tay, quý ngài cởi tờ giấy gói ra - nó lập tức bị gió cuốn lấy - bẻ một mẩu giò có cái tên là “Giò Cracov đặc biệt”. Và ném mẩu giò đó cho con chó.

Ô, một tấm lòng hào hiệp?

Ư-ư-ư!

- Chi - iu - chi - iu, - quý ngài huýt gió và nói thêm bằng giọng nghiêm khắc:

- Ăn đi! Sarik, Sarik!

Lại Sarik. Người ta đã đặt tên cho rồi đấy. Mà quý ngài muốn gọi thế nào cũng được, vì cái cử chỉ đặc biệt khác thường của quý ngài.

Con chó lập tức xé lớp giấy bóng bọc ngoài, vừa nấc vừa ngoạm vào khúc giò Cracov và ngốn chửng nó trong chớp nhoáng.

Miếng giò lẫn tuyết mắc nghẹn lại nơi cổ họng làm chảy nước mắt, vì quá tham ăn nên nó suýt nuốt luôn cả sợi dây buộc.

Nữa.

Con xin hôn gấu quần của ngài nữa, con còn xin liếm tay ngài nữa, hỡi ân nhân của con!

- Bây giờ chừng ấy hẵng... - quý ngài nói ngắt quãng từng tiếng một như thể hô khẩu hiệu, cúi xuống bên Sarik, tò mò nhìn vào mắt nó, rồi đột ngột đưa bàn tay đi găng âu yếm và thân mật vuốt dọc bụng chó.

- A ha,- quý ngài thốt lên đầy ngụ ý,- không có vòng cổ, như vậy là rất tốt, ta đang cần đúng nhà ngươi đây. Đi theo ta.

Quý ngài bật ngón tay.

- Chiu-chiu!

Đi theo quý ngài ư? Dù cho đến tận cùng trời cuối đất! Hãy cứ đá con bằng đôi ủng phớt của quý ngài đi, con sẽ chẳng hé răng kêu ca lấy một lời nào đâu.

Đèn sáng rực rỡ khắp phố Prétristenka. Bên sườn đau khủng khiếp, nhưng Sarik thỉnh thoảng lại quên nó đi, bị cuốn hút bởi một ý nghĩ làm sao để giữa phố đông người không lạc mất cái hình bóng thần thánh trong chiếc áo choàng lông và bằng cách nào có thể bày tỏ lòng yêu kính và trung thành với quý ngài. Và nó đã bày tỏ được điều đó bảy lần trên suốt quãng đường từ Pretristenka đến ngõ Obukhov. Hôn vào ủng; ở Ngõ Chết, trong khi rẽ đường, bằng tiếng sủa điên dại đã làm cho một bà hoảng sợ đến ngã ngồi xuống ghế đá; hai lần tru lên để duy trì lòng thương hại đối với mình.

Một con mèo hoang chết tiệt nào đó, làm bộ như thuộc giống Siberi, từ phía sau ống dẫn nước chui ra, và bất chấp bão tuyết vẫn đánh hơi được mùi giò Cracov. Sarik thấy trời đất như tối sầm lại khi thoáng nghĩ, biết đâu quý ngài kỳ quặc giàu có đi lượm những con chó bị thương dưới các vòm cổng này lại nhặt luôn cả cái đồ chuyên ăn cắp kia đi theo mình, và như vậy có nghĩa là phải chia bớt cho con mèo chết tiệt món hời của cửa hàng nông nghệ Moskva. Nghĩ vậy chó ta mới đánh dập hai hàm răng vào nhau dữ tợn đến nỗi con mèo rít lên như tiếng phì của ống dẫn khí bị thủng và theo cột máng lao vọt lên tận tầng hai.

Gừ-ư-ừ-gâu? Cút! Cả cửa hàng nông nghệ Moskva cũng không đủ cho những loại bẩn thỉu lang thang trên phố Pretristenka như mày đâu!

Quý ngài đã đánh giá sự trung thành đó và khi đến cạnh khu nhà của đội cứu hỏa, ngay dưới cửa sổ nơi từ phía trong phát ra tiếng kèn co êm tai, lại thưởng thêm cho chó mẩu giò thứ hai, lần này nhỏ hơn, chừng một phần tư lạng.

Ấy sự việc hoá ra thật ngược đời. Quý ngài lại đi lấy lòng mình! Xin quý ngài đừng lo! Con sẽ chẳng chạy đi đâu. Con sẽ theo quý ngài, dù cho quý ngài có ra lệnh đi tới chốn nào.

- Chiu-chiu? Đi đường này.

Đến Obukhov ạ? Xin vâng! Cái ngõ này thì chúng con biết rất rõ.

- Chiu-chiu!

Đi đường này ạ? Sẵn sà... Ô, không đâu, xin phép ngài! Không thể ạ. Ở đây có lão gác cửa.

Mà trên đời này không có gì tồi tệ hơn bọn người gác cửa.

Nguy hiểm hơn lũ quét sân gấp nhiều lần.

Một giống đáng ghét tuyệt đối. Tồi tệ hơn cả giống mèo. Quân đồ tể mặc chế phục thêu kim tuyến.

- Kìa, ngươi đừng sợ, đi nào.

- Xin chào ông Philip Philippovich.

- Chào ông Pheđor.

Đây mới là một con người chứ! Lạy chúa! Người đã xui khiến cho ta được gặp ai thế này, hỡi số phận loài chó của ta! Phải là một nhân vật tầm cỡ nào mới có thể mang chó hoang ngoài phố vào nhà của Công ty nhà ở ngay trước mũi người gác cửa chứ? Các người hãy trông kìa - cái lão đểu cáng kia cứ im thin thít, không dám ho he gì! Thực ra, trong mắt lão ta có vẻ ảm đạm, nhưng nói chung mặt lão khá thản nhiên dưới vành mũ thêu kim tuyến.

Dường như chuyện đưa chó hoang vào nhà là được phép ấy. Lão ta tỏ vẻ tôn kính làm sao, các ngài ơi, mới tôn kính làm sao! Thế đấy, còn tôi, tôi đi cùng với quý ngài, tôi đi theo quý ngài. Sao, dám chạm đến ta à? Bây giờ thì đừng có hòng. Giá như đớp được một miếng vào cái ống chân vô sản chai sần kia. Để trả thù tất cả những nhục mạ của bè lũ các người dành cho ta. Đã bao nhiêu lần quật chổi vào mõm ta, hả?

- Đi nào, đi nào!

Con hiểu, con hiểu rồi, xin quý ngài đừng lo lắng gì cả. Quý ngài đi đâu, chúng con đi đấy.

Chỉ cần quý ngài chỉ đường, con sẽ không tụt lại đâu, mặc dù bên sườn của con còn đau không thể nào chịu nổi.

Từ trên cầu thang vọng xuống:

- Tôi không có thư à, Phêđor?

Từ phía dưới hướng lên cầu thang đầy kính cẩn:

- Không ạ, thưa ông Philip Philippovich (thì thầm tin cẩn nói đuổi theo): Còn căn hộ số ba, người ta đã phân người đến ở tập thể.

Vị ân nhân quan trọng của chó quay phắt lại trên bậc cầu thang và cúi gập người qua hàng lan can, kinh hoàng hỏi:

- Sao, sao?

Mắt quý ngài mở tròn xoe và ria dựng ngược lên.

Lão gác cửa ở phía dưới ngửa mặt, lấy bàn tay hứng vào dưới môi và khẳng định:

- Đúng thế đấy ạ, những bốn nhân mạng đến.

- Trời đất. Tôi không hình dung nổi bây giờ khu nhà sẽ như thế nào. Thế họ thì sao?

- Thưa, không sao cả ạ.

- Còn Phedor Pavlovich?

- Đang đi lấy gỗ và gạch. Sẽ xây vách ngăn.

- Có quỷ biết thế này là thế nào nữa!

- Trừ căn hộ của ông, tất cả các căn hộ sẽ có người đến ở, thưa ông Philip Philippovich. Vừa rồi có cuộc họp, bầu ra hội đồng nhà cửa mới, còn hội đồng cũ thì bị đá đít rồi.

- Lắm chuyện thế đấy. Ai-ai-ai... Chiu chiu.

Con đi đây, con chạy đây. Sườn trái của con, quý ngài có thấy không, nó làm con đau lắm, xin phép được liếm ủng quí ngài.

Chiếc mũ thêu kim tuyến của lão gác cửa đã khuất ở phía dưới. Trên chiếu nghỉ đầu cầu thang lát đá hoa, hơi ấm toả ra từ những ống lò sưởi. Một lần quặt nữa - và gác hai đây rồi.

 

Chương 2

 

Việc học đọc là tuyệt đối chẳng để làm gì, một khi mùi thịt  đã bốc xa đến hàng dặm như thế này. Thêm vào đó, nếu như các  người sống ở Moskva và trong sọ dừa các người có ít nhiều nếp não, thì muốn hay không muốn trước sau các người cũng biết chữ, mà lại chẳng cần trường với lớp nào hết. Trong số bốn chục nghìn  con chó ở Moskva này hoạ chăng chỉ có một đứa nào thậm ngu chí dốt thì mới không biết xếp các chữ cái lại thành từ “Hàng giò chả”  mà thôi.

Sarik bắt đầu việc học chữ của mình là theo các  mầu. Khi nó  vừa đầy bốn tháng tuổi, khắp Moskva treo đầy những tấm biển  mầu xanh lơ với hàng chữ: LCTM - Liên hiệp các công ty buôn bán thịt Moskva. Xin nhắc lại rằng tất cả những cái đó chẳng để làm gì, vì không có nó thì ngửi mùi cũng biết là thịt rồi. Nhưng một lần  đã xảy ra sự nhầm lẫn: định hướng theo cái mầu xanh lơ khốn khổ đó, nhưng vì khứu giác của nó bị chiếc máy nổ phụt khói xăng làm tịt đặc, nên thay vì hàng thịt Sarik lại chạy vào cửa hàng đồ điện của anh em Golubizner trên phố Hàng Thịt. Ở đó chó được nếm một chập dây điện, mà cái này phải nói là còn đằm hơn roi ngựa xà ích nhiều. Có thể coi thời điểm đáng nhớ ấy là cái mốc khởi đầu  quá trình tự đào tạo của Sarik. Ngay lúc đó, khi đã đứng ở ngoài hè phố, Sarik liền hiểu ra rằng “mầu xanh lơ” không phải bao giờ cũng có nghĩa là “Hàng thịt”; rồi vừa ép chặt cái đuôi rát bỏng vì  vết roi vào giữa hai cẳng sau và tru lên ư ử, nó vừa nhớ lại rằng trên tất cả các tấm biển ở cửa hàng thịt, ở phía đầu bên trái bao giờ cũng là một hình hai chân mầu vàng hoặc mầu hung đỏ trông  giống như cỗ xe trượt tuyết.

Tiếp đó việc học diễn ra càng kết quả hơn. Chữ A nó học được ở “Tổng công ty cá”  trên góc phố Mokhova, rồi liền đó là “C”, - nó học ngược từ cuối chữ “Cá” trở lên tiện hơn, vì đứng lù lù ngay đầu hàng chữ là một ông công an dang hai cánh tay thẳng đuột.

Những khối vuông gạch tráng men ốp ở các chỗ góc phố Moskva bao giờ cũng có nghĩa là “Phómát”. Cái hình đứng ưỡn  ngực ở đầu từ có nghĩa là ông chủ quán cũ Chiskin, là những đống  rượu vang đỏ Hà Lan, là những tay quản lý thú dữ rất căm ghét chó, là mạt cưa trên sàn và mùi phó mát Bakstein khăm khẳm tởm lợm.

Nếu như ở đâu chơi đàn gió, - cái đó còn ít nhiều khá hơn “ôi Ai đa yêu dấu” - và bốc mùi xúc xích, thì những chữ cái đầu tiên  trên tấm biểu ngữ trắng sẽ đặc biệt dễ dàng xếp thành những từ “Không nó...”, có nghĩa là “Không nói tục chửi bậy và không cho  tiền boa”. Ở đây thường nổ ra những trận ẩu đả, có người bị đánh vào mõm, tuy thực ra mà nói cũng không phải là nhiều lắm, chỉ có chó là bị quật thường xuyên thôi - bằng khăn trải bàn hoặc bằng  ủng.

Còn nếu như trên cửa sổ treo những súc giăm bông ôi và bày  la liệt những quả quít, thì đó... gâu- gâu-... thì đó là “Cửa hàng thực phẩm”. Còn nếu như trên quầy bày những chai thẫm mầu với chất lỏng tồi tệ , là... là... “Rờ-ư-rư-ơ-ơu rượu...”.  Trước kia là cửa hàng của anh em nhà Eliseev.

Quý ngài lạ mặt dẫn chó đến bên cửa căn hộ sang trọng của  mình trên tầng hai, bấm chuông; chó lập tức ngước mắt lên nhìn tấm biển lớn mầu đen với những chữ cái vàng choé treo bên cạnh cánh cửa rộng bản lắp kính hồng gợn sóng. Ba chữ cái đầu nó đọc được ngay: “Pê-rờ-o – Pro”. Nhưng tiếp đó là một hình của nợ có hai thanh ngang, chẳng hiểu có nghĩa gì. Chẳng lẽ là “vô sản?”.

Sarik ngạc nhiên nghĩ. – “Điều đó là không thể được”. Nó hếch mũi  lên, ngửi chiết áo lông khoác ngoài một lần nữa, rồi nhủ thầm chắc chắn: “Không, ở đây không có mùi vô sản. Hẳn đây là một từ bác  học nào đấy có trời mới biết nó nghĩa là gì”.

Ánh điện rực rỡ bỗng bừng lên phía trong cánh cửa lắp kính hồng, càng làm nổi bật hơn tấm biển đen. Cánh cửa mở ra tuyệt  đối không tiếng động, và một phụ nữ trẻ xinh đẹp, mặc tạp dề trắng, đội mũ vải viền đăng  ten xuất hiện trước mặt con chó và  quý ngài của nó. Một luồng hơi ấm thần tiên bao trùm lên người  chó, và chiếc váy của người phụ nữ như toả ra mùi hoa linh lan.

“Có thế chứ, cái này thì ta hiểu”,- chó nghĩ.

- Xin mời vào, thưa ngài Sarik,- quý ngài hài hước mời, và Sarik ve vẩy đuôi sùng kính bước vào phòng.

Một số lượng khổng lồ các vật dụng bày biện đầy căn phòng ngoài sang trọng. Đập ngay vào mắt là tấm gương lớn kê sát sàn nhà, trong đó lập tức hiện ra một Sarik bơ phờ xơ xác thứ hai; phía trên cao là những chiếc sừng hươu khủng khiếp; quanh tường là vô số áo choàng lông và ủng cao su đi ngoài; một bông hoa tuy líp bằng đá pan lắp bóng điện gắn trên trần.

- Bác lấy nó ở đâu ra thế, bác Philíp Philippovich?- người  phụ nữ mỉm cười hỏi và giúp quý ngài cởi chiếc áo khoác ngoài  nặng trịch bằng lông cáo bạc phát ra vô vàn ánh lửa xanh biếc.

Sau khi cởi áo lông khoác ngoài, trên người quý ngài là bộ com lê đen bằng nỉ Anh, sợi dây chuyền vàng trên bụng quý ngài lấp lánh những tia sáng đùng đục vui mắt.

- Gượm đã nào, đừng có quay như thế, chiu... ta bảo đứng có quay, đồ ngốc. Hừm?... Đây không phải là ghẻ... Hừm! A- a. Đây là  vết bỏng. Thằng đểu nào làm nhà ngươi bỏng thế này? Hả? Đứng  yên xem nào!... - quý ngài hỏi nghiêm khắc và nóng  nảy.

“Lão đầu bếp khổ sai, lão đầu bếp!”- con chó như muốn thốt lên bằngđôi mắt sầu não và khẽ rên ư ử.

- Dina, - quý ngài ra lệnh,- đưa nó vào phòng khám ngay và…

- Cha ơi! Nó lắm ghẻ quá!

- Nói vớ vẩn. Ghẻ ở đâu? lấy áo choàng cho tôi.

Người phụ nữ huýt gió, bật ngón tay; con chó, sau một thoáng chần chừ, bèn đi theo. Cả hai bước ra dãy hành lang hẹp  tối mờ, bỏ qua một cánh cửa sơn vécni, đi đến cuối hành lang rồi rẽ trái và bước vào một căn buồng nhỏ và tối; ngay tức khắc con chó  cảm thấy không thích căn phòng này vì cái mùi đáng sợ của nó. Bóng tối bật tách một tiếng và biến thành ánh ngày chói chang, từ  tất cả bốn phía mọi vật đều như phát sáng, lấp loáng, trắng toát.

“Ê, không được rồi... - chó thầm tru lên. - Xin lỗi con không  chịu đâu! Tôi hiểu rồi, ôi quỷ tha ma bắt họ với mẩu giò của họ đi.  Té ra họ đã nhử ta đến nhà thương chó. Bây giờ bọn họ sẽ bắt ta nuốt thuốc tẩy rồi dùng kéo cắt nát cả sườn ra, mà ta thì chỉ chạm đến cũng đã không chịu được rồi?”

- Ê, kìa, đi đâu?! - người phụ nữ có tên là Dina kêu to.

Chó quay ngoắt lại, nhún người và bất ngờ văng mình đập phía sườn lành vào cánh cửa, mạnh đến nỗi rung động cả căn hộ. Rồi nó bắn lùi lại, quay tròn tại chỗ như con quay, làm đổ ra sàn một chiếc xô trắng, từ trong xô những nắm bông bắn ra tung tóe. Trong khi quay, xung quanh nó những bức tường, những chiếc tủ bày các dụng cụ bóng loáng chao đảo, tấm tạp dề trắng và bộ mặt méo xệch của người phụ nữ nhảy chập chờn.

- Đi đâu cái con quỷ bờm xờm kia?...- Dina hét lên tuyệt vọng.- Đúng là đồ chết tiệt!

“Cửa sau của họ ở đâu nhỉ?” - chó nghĩ. Nó thu người lại rồi  văng mình hú hoạ vào một tấm kính với hy vọng rằng đó là cánh  cửa thứ hai của căn phòng. Những mảnh kính vỡ vụn bắn tung loảng xoảng, một chiếc lọ hình tròn ở phía dưới rơi xuống sàn, dòng chất lỏng mầu hung thẫm đựng trong lọ lập tức đổ loang ra và bốc mùi thối. Vừa lúc đó cánh cửa thật bật mở.

- Đứng lại, ớ… đồ súc sinh, - quý ngài, chiếc áo choàng mới xỏ được một tay, hét lên và nhảy vào chộp lấy chân chó.

- Dina, túm lấy cổ cái đồ khốn nạn này.

- Cha... cha ơi, đúng là chó!

Cánh cửa lại mở ra rộng hơn, thêm một nhân vật giống đực mặc áo choàng chạy xô vào. Dẫm chân lên những mảnh kính vỡ, nhân vật đó không chạy đến chỗ con chó, mà đến bên tủ, mở ra; lập tức một mùi ngòn ngọt, lờm lợm toả ra khắp căn buồng. Rồi nhân vật đó đè lên người chó, còn nó thì khoái chí đớp ngay cho anh ta một miếng ở phía trên chỗ có sợi dây buộc giày. Nhân vật  đó hét lên, nhưng không mất bình tĩnh. Cái chất lỏng tởm lợm đã làm ngạt mũi chó, đầu óc nó quay tròn, chao đảo ,bốn chân duỗi  dần ra, và nó như trôi dạt bồng bềnh đi đâu đó. “Cám ơn, thế là hết, - nó mơ màng nghĩ, nằm vật ra ngay trên đống kính vỡ nhọn sắc. - Vĩnh biệt nhé, Moskva? Ta sẽ chẳng còn bao giờ được trông thấy ông Chiskin, cả những người vô sản và cả những khúc giò Cracov nữa. Ta sẽ lên thiên đường vì sự nhẫn nhục của loài chó. Hỡi các anh em đồ tể, vì cớ gì mà các người lại  đối xử như vậy với ta?”. Đến đây nó nằm thượt ra không động đậy và bất tỉnh.

*  *  *

Khi được hồi sinh, nó nghe trong đầu hơi choáng váng, trong bụng hơi nôn nao, còn bên sườn thì dường như không nghe thấy gì, bên sườn lặng yên đầy ngọt ngào, dễ chịu.

Chó cố hé mở con mắt phải lừ đừ và trông thấy mình bị băng quấn kín ngang sườn và bụng. “Cuối cùng thế là họ cũng đã làm  được, lũ chó đẻ,- nó đờ đẫn nghĩ, - nhưng thật khéo léo, điều đó thì phải công nhận”.

- “Từ Sevilia đến Grenađa... trong bóng đêm thanh bình”...  - ngay bên cạnh vang lên một giọng hát lơ đễnh, lạc điệu.

Chó ngạc nhiên, mở hẳn cả hai mắt ra và trông thấy cách đó hai bước một bàn chân đàn ông đặt trên chiếc ghế đẩu trắng, ống quần dài và quần mặc trong được xắn lên cao, bắp chân mầu vàng để trần loang lổ máu khô và iốt.

- Đây chắc là mình  đã đớp  hắn. Quân bợ đỡ! Công trình của mình đây. Họ sẽ đánh! - chó nghĩ bụng.

- “Êm đềm tiếng ca đêm, rền vang khua kiếm trận!” Sao nhà ngươi, đồ dù thủ du thực, lại cắn bác sĩ? Hả? Tại sao làm vỡ kính? Hả?

- Hư-ư-ư-ư, - chó rên lên ai oán.

- Thôi, được rồi, đã tỉnh thì nằm yên đấy, đồ  thộn.

- Bác Philip Philippovich, làm sao mà bác nhử được con chó bất trị này thế hả bác?- một giọng đàn ông dễ nghe hỏi, và ống  quần bằng vải trikô được thả xuống dưới.

Có mùi thuốc lá, rồi  trong tủ tiếng thuỷ tinh va vào nhau lanh canh.

- Bằng sự vỗ về âu yếm. Đó là phương pháp duy nhất để tiếp cận mọi sinh vật sống. Bằng khủng bố thì không thể làm gì được với bất cứ một loại động vật nào, dù nó ở trình độ phát triển cao hay thấp. Điều đó tôi đã đang và sẽ khẳng định. Họ cứ hoài công nghĩ rằng khủng bố có thể giúp được họ. Dạ thưa không ạ, không  thể giúp được gì đâu, dù cho đó là khủng bố trắng, khủng bố đỏ hay thậm chí là khủng bố nâu. Khủng bố sẽ làm tê liệt hoàn toàn  hệ thống thần kinh. Dina? Tôi đã mua cho cậu cả này một rúp bốn mươi kôpếch giò Cracov. Nhờ cô cho nó ăn khi nào nó hết nôn.

Tiếng kính vỡ bị quét đi  kêu loảng xoảng, và một giọng đàn bà nũng nịu:

- Giò Cracov! Lạy Chúa, cho nó thì chỉ cần mua loại thịt vụn  bốn chục kôpếch một cân ở cửa hàng thịt là được lắm rồi. Còn giò Cracov thì tốt nhất là để cháu ăn.

- Cô cứ thử xem? Tôi sẽ cho cô ăn! Đó là thuốc độc đối với dạ  dày con người. Một cô gái đã lớn mà cứ hệt như con nít, bất kỳ thứ bẩn thỉu vứt đi nào cũng nhét vào miệng. Tuyệt đối cấm. Tôi báo trước cho biết, cả tôi, cả bác sĩ Bormental sẽ không thèm chữa cho cô khi cô ôm bụng kêu đau đâu...

- “Ai dám nói rằng kẻ khác đẹp hơn em...”.

Có tiếng chuông rung ngắt quãng êm tai vang khắp cả căn  hộ; còn từ xa, ở tận phòng ngoài, thỉnh thoảng vẳng đến giọng người nói: Chuông điện thoại réo. Dina chạy biến đi. Philip Philippovich ném đầu điếu thuốc lá vào chiếc xô, cài cúc áo choàng, đứng trước tấm gương trên tường vuốt sửa lại bộ ria mềm  và gọi chó:

- Chiu-chiu. Chà, không sao, không sao. Ta đi tiếp khách  nào.

Chó đứng lên bằng bốn chân chưa vững, lảo đảo và run rẩy, nhưng hồi sức rất nhanh, rồi bước đi theo vạt áo choàng bay phất  phơ của Philip Philippovich. Chó đi qua dãy hành lang hẹp, nhưng lần này thấy nó được chiếu rất sáng bằng một tán đèn tròn treo trên trần. Khi cánh cửa sơn vécni mở ra, chó cùng Philip Philippovich bước vào phòng làm việc. Sự bài trí của gian phòng làm cho chó choáng ngợp. Trước hết, nó chói loà ánh sáng: đèn trên trần nhà có vẽ trang trí, đèn trên bàn, đèn trên tường, đèn  trong tủ kính. ánh điện chiếu sáng vô vàn đồ vật, và cái làm cho Sarik chú ý nhất là một con cú lớn tướng ngồi trên cành cây gắn  vào tường.

- Nằm xuống,- Philip Philippovich ra lệnh.

Cánh cửa chạm trổ đối diện mở ra, và cái người vừa nãy bị nó đớp bước vào; bây giờ dưới ánh sáng rực rỡ, trông anh ta rất trẻ, điển trai, với bộ râu nhọn dưới cằm; anh ta trao cho Philip Philippovich một tờ giấy, nói:

- Ông khách cũ...

Và liền đó  biến đi không tiếng động; còn Philip Philippovich, khoát rộng tà áo choàng, ngồi vào sau chiếc bàn viết khổng lồ, lập  tức trở nên đường bệ và quan trọng khác thường.

“Không, đây không phải nhà thương, mình đã rơi vào một cái gì đó khác, - chó bối rối nghĩ và nằm xuống tấm thảm thêu cạnh  chiếc ghế bành da đồ sộ, - còn con cú này thì ta sẽ xem xét sau…”

Cánh cửa nhẹ nhàng mở ra; bước vào là một người khiến chó ngạc nhiên đến nỗi nó buột sủa lên một tiếng, tuy tiếng sủa hãy còn rất yếu ớt.

- Im! Chà - chà, mà không thể nhận ra anh được nữa, anh bạn thân mến ạ.

Người vừa bước vào cúi chào Philip Philippovich hết sức cung kính và ngượng nghịu.

- Hi hi? Ngài quả là tiên ông và đại pháp sư, thưa giáo sư. - ông ta bối rối đáp.

- Cởi quần ra, anh bạn,- Philip Philippovich ra lệnh và rời  bàn đứng dậy.

“Lạy đức Chúa Giesus, - chó nghĩ, - cái thằng cha này!”

Tóc trên đầu “thằng cha” hoàn toàn xanh lè, còn sau gáy lại chuyển sang mầu thuốc lá loang lổ, trán thằng cha đầy những nếp  nhăn, nhưng da mặt hồng hào như mặt trẻ sơ sinh. Chân trái  không co duỗi được nên phải kéo lê trên thảm, ngược lại chân phải cứ nhảy như choi choi. Một viên ngọc quý ánh lên như con mắt nhỏ trên ve chiếc áo vét tông cực sang.

Vì quá tập trung nên chó mất cả cơn buồn nôn.

- Chắp, chắp! - nó khẽ  chép miệng.

- Im! Anh bạn ngủ thế nào?

- Hê-hê. Chỉ một mình chúng ta ở đây chứ, thưa giáo sư? Điều đó thật không thể nào tả nổi,- người khách ngượng nghịu  nói, - parole d’honneur, hai mươi lăm năm chưa bao giờ như vậy cả,- “thằng cha” túm lấy cúc quần, - ngài có tin không, thưa giáo  sư, đêm nào cũng hàng đàn con gái khỏa thân... Tôi như được bỏ  bùa. Ngài đúng là pháp sư.

- Hừm, - Philip Philippọvich vừa nhìn kỹ vào tròng mắt của ông khách, vừa lo lắng hắng giọng.

Cuối cùng thì người khách cũng mở được hàng cúc và cởi  xong chiếc quần dài vải sọc. Bên trong hiện ra một chiếc quần lót chưa từng thấy bao giờ. Nó mầu kem sữa, có đính những con mèo bằng lụa đen và nồng nặc mùi nước hoa.

Chó không chịu nổi lũ mèo, sủa váng lên một tiếng khiến “thằng cha” nhảy dựng lên.

- Ái...

- Ta quật cho bây giờ? Anh đừng sợ, nó không cắn đâu.

“Mình mà không cắn ấy à?” - chó ngạc nhiên nghĩ.

Từ trong túi quần của người khách vừa đến rơi xuống thảm một chiếc ảnh nhỏ in hình cô gái với mái tóc bỏ xõa. “Thằng cha” nhảy vội đến, cúi xuống nhặt, đỏ lựng mặt lên.

- Nhưng mà anh coi chừng đấy,- Philip Philippovich giơ ngón tay ra doạ, cau có cảnh cáo.- Dù sao cũng nên coi chừng, chớ có lạm dụng!

- Tôi không lạm... – “thằng cha” vẫn tiếp tục cởi quần, bối rối lẩm bẩm,- tôi ấy mà, thưa bác sĩ, chỉ là để thử nghiệm thôi.

- Thế kết quả thế nào? - Philip Philippovich nghiêm khắc hỏi.

“Thằng cha” khoát tay trong cơn khoái lạc tột độ:

- Hai mươi lăm năm, thưa giáo sư quý mến, không có gì như thế cả. Lần cuối cùng vào năm 1899 ở Paris, trên Ruede la Puer.

- Thế tại sao tóc anh lại xanh lè thế kia?

Mặt người khách tối sầm lại.

- Cái hãng Girkost đáng nguyền rủa? Ngài không thể tưởng tượng nổi là bọn vô lại kia thay cho thuốc nhuộm đã nhét cho tôi cái gì đâu? Ngài thử nhìn xem, - “thằng cha” vừa lẩm bẩm vừa đưa mắt tìm gương. - Phải nện vỡ mõm chúng ra mới được!- ông ta giận dữ nói thêm.

- Bây giờ tôi phải làm gì đây, thưa giáo sư? - ông ta hỏi như sắp khóc...

- Hừm, anh cạo trọc đầu đi.

- Thưa giáo sư, - ông ta thốt lên não nuột, - nhưng tóc bạc sẽ  lại mọc lên. Hơn nữa, tôi sẽ không thể thò mặt đến nơi làm việc, tôi đã ba ngày nay không đi làm rồi. Ôi, giáo sư, giá như ngài phát minh ra cả cách làm cho tóc trẻ lại nữa!

- Không thể ngay được, không thể ngay được, anh bạn thân mến của tôi ạ,- Philip Philippovich lẩm bẩm.

Cúi người xuống, giáo sư đưa ánh mắt sáng lấp lánh xem xét kỹ chiếc bụng trần của người khách.

- Thôi được rồi, rất tốt, tất cả đều ổn định. Thật  lòng mà nói,  thậm chí tôi không đợi một kết quả như vậy. “Đã nhiều máu đỏ, đã nhiều lời ca...”. Mặc quần vào đi, anh bạn!

- “Còn tôi với cô nàng đẹp nhất...” - Người khách  hoạ theo bằng giọng rè như chảo gang mẻ, và rạng rỡ mặt mày, bắt đầu mặc quần vào. Sau khi sửa soạn lại áo quần chỉnh tề, ông ta vừa nhún nhảy và tỏa ra quanh mình mùi nước hoa, vừa trao cho Philip Philippovich một xấp tiền trắng rồi dịu dàng nắm chặt cả hai tay giáo sư.

- Hai tuần tới anh có thể không đến?- Philip Philippovich nói.- Nhưng dù sao tôi cũng xin anh hãy cẩn thận.

- Thưa giáo sư! - từ phía ngoài cửa vọng lại giọng nói đầy  khoái cảm, - xin ngài hãy tuyệt đối yên tâm, - giọng nói khúc  khích ngon lành rồi biến mất.

Tiếng chuông ngắt quãng lại vang lên khắp căn hộ, cánh cửa sơn vecni lại mở ra, người bị đớp lại bước vào, trao cho Philip Philippovich tờ giấy và nói:

- Tuổi khai không đúng. Chắc khoảng 54 - 55. Tiếng tim trầm.

Anh ta lại biến mất và thay vào đó là một bà áo váy sột soạt mũ đội lệch vẻ ngang tàng, vòng hạt chuyền ánh lên lấp lánh trên chiếc cổ nhão nhăn nheo. Những quầng đen khủng khiếp treo dưới  con mắt, còn hai má thì đỏ hồng lên như má búp bê.

Bà ta có vẻ rất hồi hộp.

- Thưa bà, bà bao nhiêu tuổi?- Philip Philippovich hỏi hết sức nghiêm khắc.

Người đàn bà hốt hoảng và thậm chí tái nhợt đi dưới lớp vỏ đỏ hồng trên má.

- Thưa giáo sư, tôi xin thề, nếu như ngài biết được tôi đã gặp một tấn bi kịch như thế nào!...

- Bà bao nhiêu tuổi?- Philip Philippovich nhắc lại còn nghiêm khắc hơn trước.

- Tôi xin thề... Hừm, bốn lăm ạ...

- Thưa bà, - Philip Philippovich cao giọng. - Tôi đang vội, xin bà đừng làm mất thời giờ, tôi đâu phải chỉ tiếp một mình bà!

Bộ ngực người đàn bà phập phồng dữ dội.

- Tôi xin nói với riêng ngài như với một ngôi sao khoa học...  Nhưng tôi xin thề, điều đó thật khủng khiếp...

- Bà bao nhiêu tuổi? - Philip Philippovich giận dữ quát to, cặp mắt kính ánh lên lấp loáng.

- Năm mươi mốt? - Co rúm người lại vì kinh hoàng, người  đàn bà đáp.

- Cởi quần dài ra, thưa bà,- Philip Philippovich thốt lên nhẹ nhàng và chỉ vào chiếc bục trắng cao đặt trong góc phòng.

- Thưa giáo sư, tôi xin thề,- người đàn bà lẩm bẩm, mấy  ngón tay run rẩy lần mở những khuy nút nào đó trên thắt lưng,-  cái tay Morits này... Tôi xin thú thật với ngài...

- “Từ Sevilia đến Grenađa...” - Philip Philippovich lơ đễnh hát và giậm chân lên bàn đạp của chiếc bồn sứ. Nước lập tức róc  rách chảy ra.

- Xin thề có Chúa chứng giám!- Người đàn bà nói, những vết đỏ tự nhiên nổi rõ qua mầu hồng nhân tạo trên hai gò má của bà  ta.

- Tôi biết rằng đây là khát vọng cuối cùng của tôi. Nhưng hắn  ta thật đểu. Ô, thưa giáo sư! Hắn là một tay cờ bạc đại bịp bợm, điều đó khắp Moskva ai cũng biết. Hắn không thể nào bỏ qua một ả thợ may đáng tởm nào. Mà hắn ta lại trẻ đến thế.

Người đàn bà lẩm bẩm và ném từ dưới chiếc váy sột soạt ra một nắm đăng ten vò nhàu.

Chó cảm thấy mụ mẫm hẳn đi, mọi thứ trong đầu quay cuồng đảo lộn.

“Hừ, mặc mẹ các người, - chó đờ đẫn nghĩ, kê đầu lên hai chân trước và thiếp đi vì xấu hổ, - ta sẽ không chủ bụng hiểu đây là cái gì - dù sao thì ta cũng không hiểu nổi”.

Tỉnh dậy vì tiếng loảng xoảng, nó trông thấy Philip Philippovich đang ném vào chậu những đoạn ống gì đó sáng loáng.

Người đàn bà má lốm đốm ép hai tay vào ngực, nhìn Philip Philippovich với ánh mắt đầy hy vọng. Giáo sư cau mày vẻ quan dạng và ngồi vào bàn hí húi viết một cái gì đó.

- Thưa bà, tôi sẽ cấy cho bà buồng trứng của khỉ cái, - ông tuyên bố và ngó bà ta thật nghiêm khắc.

- Ôi, giáo sư, chẳng lẽ là của khỉ ư?

- Đúng thế,- Philip Philippovich đáp thẳng thừng.

- Khi nào sẽ phẫu thuật ạ? - Tái mặt, người đàn bà hỏi bằng giọng yếu ớt.

- “Từ Sevilia đến Grenađa...”. Ư ư... thứ hai. Bà hãy vào nằm viện từ sáng. Trợ lý của tôi sẽ chuẩn bị cho bà.

- Ôi, tôi không muốn vào viện đâu. Có thể ở chỗ ngài được không, thưa giáo sư?

- Bà thấy đấy, tôi chỉ làm phẫu thuật ở đây trong những trường hợp thật cần thiết. Như vậy sẽ rất đắt, năm chục tờ mười rúp đấy.

- Tôi đồng ý, thưa giáo sư!

Nước lại róc rách chảy, chiếc mũ cắm lông chim chập chờn,  rồi một cái đầu hói như đít đĩa hiện ra và ôm lấy Philip Philippovich. Chó mơ màng; cơn buồn nôn đã qua, nó khoan khoái  với bên sườn đã hết đau, với hơi ấm trong phòng, thậm chí nó còn cất tiếng ngáy và kịp trông thấy một mẩu chiêm bao dễ chịu, dường như nó ngoạm được ở đuôi con cú cả một túm lông...

Rồi một  giọng nói lo lắng chợt sủa ngay trên đầu nó.

- Tôi quá nổi tiếng ở Moskva, thưa giáo sư. Tôi phải làm gì  bây giờ?

- Ôi thưa các ngài,- Philip Philippovich kêu lên phẫn nộ,- không thể như thế được? Cần phải kìm mình chứ? Cô ta bao nhiêu tuổi?

- Mười bốn, thưa giáo sư... Ngài hiểu không, nếu việc lộ ra,  tôi chết mất. Ít ngày nữa tôi sẽ nhận được quyết định đi công tác nước ngoài.

- Nhưng tôi đâu phải là trạng sư, anh bạn... Thì anh đợi  thêm hai năm nữa và cưới cô ta.

- Tôi đã có vợ, thưa giáo sư.

- Ôi, thưa các ngài, thưa các ngài!

Cánh cửa liên tục mở ra, những bộ mặt thay nhau, tiếng dụng cụ khua lách cách trong tủ, Philip Philippovich làm việc không ngơi tay.

“Một căn hộ đáng ngờ,- chó nghĩ,- nhưng thật là tuyệt vời! Mà ông ta cần mình để làm quỷ quái gì nhỉ? Chẳng lẽ ông ta sẽ để cho mình sống ở đây? Đúng là kỳ quặc! Bởi vì ông ta  chỉ cần nháy mắt một cái là có ngay bất kỳ một con chó nào! Hay có thể vì mình đẹp? Hẳn đây là số phận may mắn của mình. Còn con cú kia thật đáng ghét. Đồ trơ tráo”.

Chó tỉnh hẳn dậy lúc trời đã về khuya, khi những hồi chuông ngớt kêu, đúng vào cái khoảnh khắc cánh cửa mở ra để cho những người khách đặc biệt bước vào. Họ đến bốn người cùng một lúc. Tất  cả đều còn trẻ và tất cả đều ăn mặc rất khiêm tốn.

“Những người này cần gì?”- chó ngạc nhiên nghĩ. Philip Philippovich đón khách với vẻ còn khó chịu hơn nhiều. Ông đứng  cạnh bàn viết, nhìn những người vừa bước vào như một viên tướng nhìn kẻ thù. Hai lỗ mũi của chiếc mũi diều hâu phập phồng.

Những người khách dẫm chân tại chỗ trên mặt thảm.

- Thưa giáo sư, chúng tôi đến gặp ông... - người có mớ tóc xoăn tít cực rậm, dày đến một phần tư arsin trên đầu, cất tiếng nói, - về việc...

- Các ngài, thời tiết thế này mà các ngài không đi ủng cao su, thật không nên,- Philip Philippovich cắt ngang vẻ bề trên,- thứ nhất, các ngài sẽ bị cảm lạnh; và thứ hai nữa, các ngài làm vấy bẩn hết lên thảm, mà tất cả thảm của tôi đều là thảm Ba Tư.

Anh thanh niên có mái tóc dày ngừng bặt, cả bốn người ngơ  ngác nhìn Philip Philippovich chằm chằm. Sự im lặng kéo dài mấy giây, nó chỉ bị ngắt quãng bởi tiếng ngón tay của Philip Philippovich gõ lên mặt chiếc đĩa gỗ đặt trên bàn.

- Thứ nhất, chúng tôi không phải là “các ngài”, - cuối cùng, người trẻ nhất trong số bốn người, có vẻ mũm mĩm như một trái  đào chín, cất tiếng.

- Thứ nhất, - Philip Philippovich cắt lời anh ta,- ngài là đàn ông hay đàn bà?

Cả bốn người lại im bặt, mồm há hốc. Lần này thì người thứ nhất, anh thanh niên có mớ tóc dày, trấn tĩnh trước:

- Thì có khác gì nhau, thưa đồng chí?- anh ta ngạo nghễ hỏi.

- Tôi là đàn bà.- Người thanh niên mũm mĩm như quả đào, mặc áo da chợt thú nhận và đỏ bừng mặt. Tiếp theo, một trong số những người khách bước vào phòng, có mớ tóc vàng hoe đội mũ  lông cao, không hiểu sao cũng đỏ chín cả mặt lên.

- Nếu thế thì chị có thể cứ đội mũ. Còn ngài, thưa quý ngài,  xin cởi hộ chiếc mũ của ngài ra ạ,- Philip Philippovich nói bằng  giọng đường bệ.

- Tôi không phải là “quý ngài” của ông.- anh thanh niên tóc vàng vừa cởi mũ vừa tuyên bố gay gắt.

- Chúng tôi đến gặp ông,- người tóc đen dày lại lên tiếng.

- Trước hết, “chúng tôi” là ai?

- Chúng tôi là Hội đồng quản trị mới của khu nhà,- anh tóc đen nói trong cơn giận dữ cố kìm lại.- Tôi là Svonđer, chị này là Viazemskaia, đây là các đồng chí Petrukhin và Jarovkin. Chúng tôi đến...

- Có phải các anh được phân vào căn hộ của Phedor Pavlovich Xablin không?

- Vâng, chúng tôi. - Svonđer đáp.

- Lạy Chúa, nhà Kalabukhov thế là hết!  - Philip Philippovich với vẻ căm ghét, tuyệt vọng kêu lên và vung hai tay lên trời.

- Ông cười đấy à, thưa giáo sư? - Svonđer phẫn nộ.

- Tôi đâu có cười? Tôi trong cơn vô cùng tuyệt vọng,- Philip Philippovich thốt lên,- bây giờ hệ thống lò sưởi bằng hơi nước sẽ  ra sao?

- Ông nhạo báng đấy à, giáo sư Preobrajenski?

- Các anh đến gặp tôi có việc gì? Các anh nói nhanh lên, bây  giờ tôi phải đi dùng bữa đây.

- Chúng tôi là Hội đồng quản trị khu nhà,- Svonđer lên tiếng.- đến gặp ông sau cuộc họp toàn thể của những  người cư trú trong khu nhà của chúng ta. Ở đó  vấn đề về việc đưa người đến ở thêm các căn hộ được đặt ra...

- Ai đặt ra cái gì? - Philip Philippovich thốt lên? - xin ngài  diễn đạt ý nghĩ của mình rõ ràng hơn.

- Vấn đề về việc đưa người đến ở thêm các căn hộ.

- Đủ rồi! Tôi đã hiểu! Các ngài có biết rằng theo quyết định ngày mười hai tháng Tám năm nay, căn hộ của tôi được miễn mọi thứ đến ở thêm ở thắt hay không?

- Chúng tôi có biết. - Svonđer đáp. - Nhưng hội nghị toàn thể, sau khi xem xét vấn đề của ông đã đi đến kết luận, rằng tóm lại và nói chung là ông chiếm một diện tích rộng quá mức. Hoàn toàn là  quá mức. Một mình ông sống trong bảy phòng.

- Một mình tôi sống và làm việc trong bảy phòng, - Philip Philippovich đáp. - Và tôi muốn có được phòng thứ tám. Tôi cần có  nó để làm thư viện.

Cả bốn người sững sờ.

- Phòng thứ tám? ê-hê-hê! - Anh thanh niên tóc vàng bị bắt bỏ mất mũ lên tiếng.- Cái đó quả thật là thú vị!

- Là không thể tưởng được!- anh thanh niên hóa ra là đàn bà cũng thốt lên.

- Phòng tiếp khách của tôi, các anh lưu ý cho, đồng thời lại là thư viện, rồi phòng ăn, phòng làm việc, là ba. Phòng khám là bốn. Phòng mổ là năm. Phòng ngủ của tôi là sáu và phòng cho người  phục vụ là bảy. Nhìn chung còn thiếu... Mà thật ra, điều đó không quan trọng. Căn hộ của tôi được miễn, và câu chuyện chấm hết. Tôi có thể đi dùng bữa được chứ ạ?

- Xin lỗi, - người thứ tư giống như một con bọ hung chắc  khoẻ, nói.

- Tôi xin lỗi,- Svonđer ngắt lời anh ta,- chúng tôi đến đây chính là để trao đổi về cái phòng ăn và phòng khám ấy. Hội nghị toàn thể đề nghị ông, chiều theo điều khoản về kỷ luật lao động, tự nguyện nhường lại phòng ăn. Hiện nay không ai ở Moskva có phòng ăn hết...

- Thậm chí cả Aisedora Đunkan,- Cô gái hét lên lanh  lảnh.

Có một cái gì đó xảy ra với Philip Philippovich khiến cho khuôn mặt ông đỏ hồng lên; ông không nói một lời nào, đợi xem cái  gì sẽ xảy ra tiếp theo.

- Và cả phòng khám cũng vậy,- Svonđer nói tiếp,- phòng khám có thể kết hợp rất tốt với phòng làm việc.

- Thế đấy,- Philip Philippovich thốt lên bằng một giọng rất  lạ lùng. - Thế tôi cần phải ăn ở đâu?

- Trong buồng ngủ, - cả bốn người đồng thanh trả lời.

Mầu hồng trên mặt Philip Philippovich bắt đầu có sắc xanh  xám.

- Ăn trong phòng ngủ.- ông cất tiếng, nói bằng giọng hơi nghèn nghẹn,- đọc sách trong phòng khám, thay quần áo trong  phòng khách, tiến hành phẫu thuật trong phòng ở của người phục vụ? còn khám bệnh trong phòng khách. Rất có thể là Aisedora Đunkan làm như thế thật. Có thể bà ta ăn uống trong phòng làm  việc, còn mổ thỏ thì ở trong phòng tắm. Có thể như thế lắm. Nhưng tôi không phải là Aisedora Đunkan. - ông bỗng gầm lên, và  mầu hồng trên mặt ông biến thành màu vàng.- Tôi sẽ ăn ở trong phòng ăn, phẫu thuật ở trong phòng mổ! Các anh hãy thông báo điều đó cho cái hội nghị toàn thể, và tha thiết xin các anh hãy trở về làm công việc của các anh, hãy để cho tôi được ăn tại cái nơi mà tất cả những con người bình thường vẫn ăn, tức là trong phòng ăn, chứ không phải ở phòng ngoài, cũng như không phải ở phòng ngủ  của trẻ con.

- Vậy thì, giáo sư, do hành động một mực chống đối của ông,- Svonder đã mất bình tĩnh, nói, - chúng tôi sẽ gửi đơn lên cấp trên.

- Ái chà,- Philip Philippovich thốt lên,- vậy sao?- Giọng của  ông chợt có vẻ lịch sự một cách đáng ngờ. - Xin chờ tôi một phút.

“Thế mới là anh hào chứ,- chó thán phục nghĩ thầm,- giống  hệt mình. Ồ, ông ấy sẽ đớp họ ngay bây giờ, ôi, ông ấy sẽ đớp. Mình chưa biết là bằng cách nào, nhưng ông ấy sẽ đớp phải biết... Phải cho họ một trận! Giá như mình đớp cho cái tay cò hương này một  miếng vào đám gân bắp chân phía trên ống ủng kia... gừ... ừ... ừ...”

Philip Philippovich ấn lên cần điện thoại, gỡ ống nghe và nói  vào đó như sau:

- Cho tôi xin... vâng ạ... cám ơn... cho tôi gặp Piotr Aleksandrovich. Giáo sư Preobrajenski đây. Anh Piotr Aleksandrovich đấy à? Rất mừng là gặp được anh. Cám ơn, tôi khỏe. Anh Piotr Aleksandrovich này, ca mổ của  anh phải hoãn lại.

- Cái gì ạ?

- Hủy hoàn toàn. Cũng như tất cả các ca mổ khác. Lý do là  tôi thôi làm việc ở Moskva và nói chung ở nước Nga... Vừa rồi có bốn người vào phòng tôi, trong đó có một phụ nữ ăn mặc thành đàn ông, hai người mang súng lục, họ khủng bố tôi ngay tại căn hộ  của tôi với mục đích tước đi một phần diện tích.

- Nhưng. thưa giáo sư. - biến sắc mặt, Svonđer lên tiếng.

- Xin lỗi... Tôi không có điều kiện để nhắc lại tất cả những gì họ đã nói ở đây. Tôi không phải là người ưa các chuyện vô nghĩa. Chỉ cần nói rằng họ đòi tôi phải bỏ phòng khám, nói một cách khác, họ buộc tôi phải mổ anh ở nơi trước đây tôi vẫn mổ thỏ.  Trong những điều kiện như vậy tôi không chỉ không thể, mà không có cả quyền làm việc. Vì vậy, tôi ngừng hoạt động, đóng cửa căn hộ và đi Sotri. Chìa khóa tôi có thể gửi lại Svonđer. Cứ để cho anh ta mổ.

Cả bốn người đứng chết lặng. Tuyết trên ủng của họ tan thành nước.

- Biết làm thế nào được... Chính bản thân tôi cũng rất khó chịu... Sao? Ồ không, anh Piotr Aleksandrovich ạ? Ồ không. Tôi không đồng ý như thế đâu. Tôi không thể chịu nổi nữa. Sao? Hừm... Tùy anh. Ít ra là như thế. Nhưng với một điều kiện: ai cũng được, bao giờ cũng được, cách nào cũng được nhưng phải có một tờ  giấy để với nó thì không một Svonđer hay bất kỳ ai khác có thể  đến gần cửa căn hộ của tôi. Một tờ giấy tối cao, có hiệu lực thật sự!  Một chứng chỉ bảo đảm. Để cho không ai nhắc đến tên tôi nữa. Chấm hết. Đối với họ, tôi đã chết rồi. Vâng, vâng. Được thôi. Ai? À - à... ấy, đó lại là việc khác. À - à... Rất tốt. Bây giờ tôi sẽ trao ống nghe. Xin mời ngài, - Philip Philippovich nói với Svonđer bằng giọng châm chọc. - Bây giờ người ta sẽ nói chuyện với ngài.

- Xin lỗi ông, giáo sư, - Svonđer nói, mặt khi thì đỏ bừng, khi thì tái mét. - Ông đã xuyên tạc những lời của chúng tôi.

- Đề nghị anh không sử dụng những lời như vậy.

Svonđer bối rối cầm ống nghe, nói:

- Tôi nghe đây ạ. Vâng... Chủ tịch hội đồng nhà cửa... Nhưng chúng tôi hành động đúng theo nguyên tắc... Như thế này giáo sư cũng được ưu đãi lắm rồi... Chúng tôi có biết về các công trình của  ông ta... Chúng tôi đã dự định để lại cho ông ta những năm căn phòng... Vâng, được ạ... Nếu đã vậy. Được ạ.

Mặt chín dừ, anh ta treo ống nghe, quay lại bàn.

“Ông ta đã hạ nhục họ ra trò! Thế mới là anh hào! - chó  khoái chí nghĩ. - ông ta biết một câu thần chú nào đó bí mật hay sao ấy? Chà, bây giờ thì các người có thể tha hồ đánh tôi, tôi nhất định sẽ không đi khỏi nơi đây”.

Ba người khách khác há hốc mồm nhìn Svonđer bị hạ nhục.

- Thật là nhục  nhã. - anh ta ngượng ngập nói.

- Nếu như bây giờ có cuộc tranh luận,- cô gái kích động đỏ bừng mặt, nói, - thì tôi sẽ chứng minh cho Piotr Aleksandrovich...

- Xin lỗi, có phải chị muốn mở cuộc tranh luận ngay bây giờ  không ạ? - Philip Philippovich lịch thiệp hỏi.

Mắt cô gái cháy rực lên.

- Tôi hiểu ý mỉa mai của ông, thưa giáo sư, chúng tôi sẽ đi ngay bây giờ... Chỉ có điều, với tư cách là trưởng ban văn hóa của khu nhà...

- Nữ trưởng ban, - Philip Philippovich sửa lại.

- Tôi muốn mời ông, - nói đến đó cô ta rút từ trong ngực áo ra mấy tờ tạp chí sặc sỡ và ướt nhèm vì tuyết, - mời ông lấy cho mấy tờ tạp chí ủng hộ trẻ con nước Đức. Năm mươi kôpếch một tờ.

- Không, tôi không lấy,- Philip Philippovich liếc nhìn những tờ tạp chí, đáp gọn lỏn.

Trên các bộ mặt những người khách hiện ra vẻ ngơ ngác cực độ, còn mặt cô gái thì đỏ tía như gấc.

- Tại sao ông không lấy?

- Không muốn.

- Ông không thương trẻ em Đức à?

- Tôi có thương.

- Ông tiếc năm mươi kôpếch à?

- Không.

- Thế thì tại sao?

- Tôi không muốn.

Tất cả im lặng.

- Giáo sư, ông biết không, - thở hắt ra nặng nề, cô gái  cất  tiếng,- nếu như ông không phải là người nổi tiếng khắp châu Âu và nếu như ông không được che chở một cách hết sức đáng phê phán (người tóc vàng kéo vạt áo khoác của cô gái, nhưng cô ta gạt đi) bởi những nhân vật mà tôi tin chắc rằng chúng tôi sẽ còn làm cho ra nhẽ, thì ông đáng bị bắt giam.

- Vì sao? - Philip Philippovich tò mò hỏi.

- Ông là người căm thù vô sản, - cô gái kiêu hãnh nói.

- Vâng, tôi không thích vô sản,- Philip Philippovich buồn bã đồng ý và ấn nút. Ở đâu đó có tiếng chuông vang lên. Cánh cửa dẫn  ra hành lang mở không tiếng động.

- Dina, - Philip Philippovich nói to. - Dọn bàn ra. Các ngài  cho phép chứ, thưa các ngài?

Bốn người im lặng bước ra khỏi phòng làm việc, im lặng đi ngang qua phòng tiếp khách, rồi qua phòng ngoài, và nghe tiếng cánh cửa chính nặng nề âm vang đóng lại sau lưng họ.

 

Con chó đứng dậy trên hai chân sau và làm một cử chỉ gì đó giống như sự bái lạy trước mặt Philip Philippovich.

 

Chương 3

 

Cá hồi thái thành từng miếng mỏng, cá chình ướp gia vị đựng trong những chiếc đĩa rộng vành mầu đen in hoa rất đẹp. Một mẩu pho mát ứa nhựa đặt trên tấm thớt nặng, còn trong chiếc thùng bạc lót tuyết là trứng cá. Một bộ ly mỏng tang và ba bình pha lê đựng vốtka nhiều mầu đứng giữa mấy chiếc đĩa. Tất cả những đồ vật đó bày trên một mặt bàn sứ nhỏ nằm ấm cúng cạnh chiếc tủ buýp phê khổng lồ bằng gỗ sồi chạm trổ hắt ra từng chùm ánh sáng bạc và trong suốt. Giữa phòng là chiếc bàn lớn phủ vải trắng tinh, trên bàn bày hai bộ đồ ăn, khăn ăn gấp hình mũ giáo hoàng, và ba chai mầu đen thẫm.

Dina mang vào một xoong bạc nắp đậy kín, bên trong có cái gì đó sôi lèo xèo. Mùi từ trong xoong tỏa ra khiến miệng chó ngay lập tức ứa đầy nước miếng đặc sệt. “Vườn treo Semiramiđa?” nó nghĩ và đập đuôi xuống sàn như đập chiếc gậy.

- Đưa lại đây, - Philip Philippovieh háo hức ra lệnh. - Bác sĩ Bormental, tôi van anh hãy để yên món trứng cá đấy đã. Và nếu như anh muốn nghe theo một lời khuyên tốt đẹp, thì đừng rót rượu Anh, mà hãy rót rượu Vodka Nga bình thường ra.

Viên bác sĩ điển trai bị chó đớp, bây giờ anh ta đã bỏ áo choàng, mặc bộ com lê đen lịch sự, khẽ nhún cặp vai rộng, mỉm cười nhã nhặn và rót thứ nước trong suốt ra.

- Loại đời mới Xô Viết đây à? - anh ta hỏi.

- Chúa bỏ qua cho anh, anh bạn ạ, - vị chủ nhân đáp. - Đây là cồn. Đaria Petrovna tự tay cất vodka tuyệt vời.

- Không phải đâu, bác Philip Philippovich, mọi người đều nói rằng nó rất vừa phải, ba mươi độ.

- Nhưng vodka thì phải bốn mươi độ, chứ không phải ba mươi, đó là một, - Philip Philippovich cắt ngang bằng một giọng giảng giải, - còn thứ hai là, có trời mới biết họ đổ gì vào đó. Anh có thể nói là họ nghĩ ra những trò gì không?

- Đủ mọi thứ trên đời? - anh chàng bị đớp quả quyết đáp.

- Và tôi cũng có ý kiến như vậy, - Philip Philippovich nói thêm, rồi bằng một cử động của tay hất toàn bộ số chất lỏng đựng trong ly vào cổ họng mình, - khà - à... Bác sĩ Bormental, xin mời anh, ngay tức khắc cái món này, và nếu như anh nói rằng đây là... tôi sẽ là kẻ thù không đội trời chung của anh suốt đời. “Từ Seviha đếnGrenanđa...”.

Vừa nói những lời đó, ông vừa dùng chiếc dĩa bạc răng nhọn chọc lên một miếng gì đấy giống như lát bánh mì mỏng đen thẫm. Người bị chó cắn cũng noi theo gương ông. Đôi mắt của Philip Philippovich ánh lên lấp lánh.

- Cái này tồi lắm hả? - Vừa nhai, Philip Philippovich vừa hỏi. - Tồi hả? Anh trả lời đi, hỡi bác sĩ thân mến.

- Cái này vô cùng tuyệt vời, - người bị đớp chân thành đáp.

- Còn phải nói... Ivan Arnolđovich, anh nên biết là chỉ có đám địa chủ chưa bị những người Bolsevich cứa cổ mới nhắm rượu bằng các món nguội và xúp. Một kẻ ít nhiều biết kính trọng mình nhất thiết sử dụng các món nhắm nóng. Mà trong số các món nhắm nóng của Moskva thì đây là số một. Trước kia chúng được chế biến rất tuyệt vời ở chợ Slave. Này, phần nhà ngươi.

- Bác cho chó ăn trong phòng ăn, - một giọng phụ nữ vang lên, - rồi sau đừng có hòng mà đuổi được nó ra.

- Không sao. Con vật tội nghiệp đã đói quá rồi.

Philip Philippovich chìa cho con chó một mẩu thức ăn cắm vào đầu dĩa, nó đớp gọn khéo léo như làm xiếc, và chiếc dĩa được ném vào chậu sắt tây dùng để rửa bát đĩa.

Tiếp đó, từ các đĩa bốc lên một luồng hơi nước thoảng mùi tôm biển; chó ngồi dưới bóng chiếc khăn trải bàn với dáng vẻ của một người lính gác cạnh kho thuốc súng. Còn Philip Philippovich, nhét góc tấm khăn vào trong cổ áo, tiếp tục giảng giải:

- Việc ăn uống, Ivan Arnolđovich ạ, là hết sức phức tạp. Ăn phải biết cách, thế mà anh có hình dung nổi không, phần lớn nhân loại lại không biết cách ăn. Không phải chỉ biết ăn cái gì, mà còn phải biết ăn vào lúc nào và ăn như thế nào. (Philip Philippovich giơ chiếc thìa lên lắc lắc đầu ý nghĩa). Và nói cái gì khi ăn. Đúng thế. Nếu như anh quan tâm đến sự tiêu hoá của mình, thì đây là lời khuyên tốt lành của tôi: trong bữa ăn đừng nói về chủ nghĩa Bôlsêvích và về y học. Và - cầu Chúa phù hộ cho anh - trước bữa ăn không đọc các báo chí Xô Viết.

- Chà... nhưng các loại báo khác không có.

- Thế thì đừng đọc báo nào hết. Anh biết không, tôi đã quan sát ba mươi trường hợp trong bệnh viện của tôi, và anh nghĩ sao? Những bệnh nhân không đọc báo thì cảm thấy thể trạng tuyệt vời. Còn những ai bị tôi bắt buộc đọc báo chí thì sút cân.

- Chà... - mặt hồng lên vì rượu và đĩa súp, người bị đớp thốt lên thú vị.

- Chưa hết. Phản xạ đầu gối bị giảm, ăn kém, tâm trạng nặng nề.

- Quái thật...

- Đúng thế. Mà tôi nói gì thế này? Tự mình lại khơi chuyện về y học. Tốt nhất là ăn đi.

Philip Philippovich ngả người, ấn chuông, và Dina hiện ra giữa tấm màn cửa mầu anh đào. Chó được một miếng cá chiên lớn, nhưng nó không thích, và tiếp đó là một miếng thịt bò rán tái. Nuốt miếng thịt bò xong, chó bỗng cảm thấy buồn ngủ và không thể nhìn thấy thêm một thứ thức ăn gì nữa.

“Một cảm giác kỳ lạ, - chó nghĩ, sập đôi mí mắt trĩu nặng xuống.- mắt mình không muốn trông thấy bất kỳ thứ thức ăn nào nữa. Còn hút thuốc sau bữa ăn là một việc ngu ngốc”.

Căn phòng ăn dần dần dày đặc một thứ khói màu xanh khó chịu. Chó đặt đầu lên hai chân trước rồi thiếp đi.

- Saint - Julien là một thứ rượu vang rất khá, - chó nghe qua cơn mơ màng, - nhưng bây giờ thì không kiếm đâu ra nữa.

Có tiếng hát đồng ca, bị trần nhà và các tấm thảm làm giảm âm đi, từ đâu đó phía trên và phía bên vẳng lại.

Philip Philippovich bấm chuông, và Dina bước vào.

- Dinuska, cái gì thế?

- Người ta lại triệu tập cuộc họp toàn thể, bác Philip Philippovich ạ, - Dina đáp.

- Lại họp toàn thể! - Philip philipovich khổ sở kêu thốt lên. - Thế nghĩa là bây giờ đã bắt đầu, nhà Kalabukhov thế là đi đứt. Buộc phải rời khỏi đây, nhưng thử hỏi đi đâu? Tất cả rồi sẽ cứ thế tiếp diễn. Lúc đầu là tối nào cũng hát, rồi sau đó là ống dẫn nước trong các phòng vệ sinh đóng băng lại, tiếp sau nữa là nồi hơi trong lò sưởi hơi sẽ nổ tung, và vân vân. Nhà Khalabukhov hết đời nhà ma.

- Bác Philip Philippovich, bác quá phiền muộn đấy.- Dina mỉm cười nhận xét và mang một chồng đĩa đi ra.

- Nhưng làm sao lại không phiền muộn được! -Philip Philippovich hét to. - Các người có hiểu đó là một ngôi nhà như thế nào không?

- Bác nhìn sự vật quá đen tối. Bác Philip Philippovich ạ, - anh chàng điển trai bị chó đớp lên tiếng phản đối, - bây giờ tất cả đều thay đổi rất nhiều.

- Anh bạn ạ, anh biết tôi đấy chứ? Có đúng thế không? Tôi là một con người sự kiện, con người quan sát. Tôi là kẻ thù của các giả thuyết thiếu cơ sở. Và điều đó không chỉ ở nước Nga, mà cả khắp châu Âu đều biết. Nếu như tôi nói một điều gì, thì nghĩa là đã có một sự kiện nào đấy làm cơ sở, từ đó mà tôi rút ra kết luận. Và đây là sự kiện: cái mắc áo và cái giá để ủng cao su trong nhà chúng ta.

- Chuyện này thật thú vị...

“Ủng cao su là chuyện vớ vẩn. Hạnh phúc đâu phải ở chỗ ủng cao su, - chó nghĩ. - nhưng ông ta là một nhân vật xuất chúng”.

- Cứ lấy cái giá để ủng cao su làm thí dụ. Tôi sống ở nhà này từ năm 1903. Và đấy, trong suốt thời gian đó cho đến tháng Tư năm 1917, không có lấy một trường hợp nào - tôi gạch đít bằng bút chì đỏ để nhấn mạnh không có lấy một trường hợp nào - ở cổng chính phía dưới, mặc dù cửa không đóng, lại mất đi dù chỉ là một đôi ủng cao su. Anh nên nhớ là ở đây có mười hai căn hộ, tôi lại thường xuyên tiếp khách. Tháng Tư năm 1917, vào một ngày đẹp trời, đã biến mất tất cả các đôi ủng cao su, trong đó có hai đôi của tôi, cùng ba cây can, một áo bành tô và một ấm samôva của ông gác cửa. Và từ đó cái giá để ủng cao su đã chấm dứt sự tồn tại của mình. Anh bạn thân mến ạ. Đấy là tôi chưa nói về lò sưởi bằng hơi nước. Tôi chưa nói. Cứ để đấy đã. Làm như một khi đã có cách mạng xã hội thì không cần đốt lò sưởi nữa! Mặc dù đến một lúc nào đó, khi nào rảnh rỗi, tôi sẽ tiến hành nghiên cứu não và sẽ chứng minh rằng toàn bộ các náo loạn xã hội này đơn giản chỉ là một cơn hoang tưởng bệnh hoạn... Vậy tôi hỏi: tại sao từ khi diễn ra những chuyện này thì tất cả mọi người đều bắt đầu dẫm những đôi giày, đôi ủng bẩn thỉu luôn lên các bậc cầu thang bằng đá hoa? Tại sao cho đến tận bây giờ vẫn phải đặt các đôi ủng cao su trong tủ có khoá? lại còn phải đặt thêm lính gác để không bị một kẻ nào đó cuỗm đi? Tại sao lại lột các tấm thảm ở cầu thang cổng chính? Chẳng lẽ Karl Marx lại cấm trải thảm ở cầu thang? Chẳng lẽ Karl Marx lại có nói ở đâu đó rằng cần phải lấy gỗ bịt kín cổng thứ hai của ngôi nhà Kalabukhov ở Pretristenka để đi vòng qua sân sau? Điều đó cần thiết cho ai? Cho những người da đen bị áp bức? Hay là cho giai cấp công nhân Bồ Đào Nha? Tại sao người vô sản lại không thể để ủng cao su lại phía dưới, mà cứ làm bẩn sàn đá hoa cương?

- Nhưng bởi vì, bác Philip Philippovich ạ, nói chung họ không có ủng cao su. - anh chàng bị đớp rụt rè cất tiếng.

- Đâu có vậy? - Philip Philippovich đáp lại bằng giọng vang rền như sấm và rót đầy cốc rượu vang. - Hừm... tôi không chấp nhận các loại rượu mùi sau bữa ăn: chúng quá nặng và ảnh hưởng không tốt đến gan... Đâu có vậy? Bây giờ họ đã có ủng cao su, và đó là ủng... của tôi! Đấy chính là những đôi ủng cao su đã biến mất vào tháng Tư năm 1917. Thử hỏi ai đã lấy cắp nó? Tôi à? Không thể có chuyện đó? Tay tư sản Sablin à? (Philip Philippovich chọc ngón tay lên trần nhà). Nói đến chuyện đó đã buồn cười. Chủ nhà máy đường Polozop à? (Philip Philippovich trỏ ngón tay sang phía tường bên). Tuyệt đối không? Chính những tay ca sĩ đang hò hét kia làm điều đó? Đúng thế! Nhưng ít ra họ cũng nên cởi ủng ra khi đi lên cầu thang chứ! (Philip Philippovich bắt đầu đỏ bừng mặt). Họ dỡ bỏ hết hoa ở các bồn đầu cầu thang để làm quái quỷ gì hả? Tại sao điện, lạy Chúa cho tôi không nhầm, trong suốt hai mươi năm chỉ tắt hai lần, bây giờ cứ đều đặn mỗi tháng mất một lần? Bác sĩ Bormental ạ, thống kê là một sự vật thật khủng khiếp. Là người đã đọc công trình cuối cùng của tôi, anh phải biết điều đó hơn ai hết chứ!

- Kinh tế đổ nát: bác Philip Philippovich ạ.

- Không phải, - Philip Philippovich bác bỏ một cách dứt khoát, - không phải thế. Van Arnoldovich thân mến ạ, anh là người đầu tiên nên tránh dùng chính cái từ này. Đó là ảo ảnh, là hỏa mù, là sự hư tạo.- Philip Philippovich xoè những ngón tay ngắn ngủn, làm cho trên tấm khăn trải bàn hiện ra hai bóng đen giống như hai con rùa ngọ nguậy.- Sự đồ nát kinh tế của anh là cái gì? Một bà già chống gậy? Một mụ phù thủy đi đập phá tất cả các cửa kính, tắt hết đèn? Nói chung nó đâu có tồn tại! Anh muốn nói cái gì dưới cái từ đó? - Philip Philippovich giận dữ hỏi con vịt khốn khổ bằng bìa các tông treo lộn đầu xuống dưới cạnh tủ thức ăn, và tự mình trả lời thay: - Sự thể nó là thế này: nếu như tôi, thay vào việc tiến hành phẫu thuật hàng ngày lại bắt đầu hát tập thể ở trong căn hộ, thì tôi sẽ có ngay sự đổ nát kinh tế. Nếu như tôi đi vào phòng vệ sinh, xin lỗi về cách diễn đạt, đái bừa ra ngoài bồn, và Dina cùng Daria Petrovna cũng làm như vậy, thì trong phòng vệ sinh cũng sẽ có ngay sự đổ nát. Như vậy nghĩa là sự đổ nát không phải ở trong bồn vệ sinh mà ở trong đầu người. Nghĩa là khi những ca sĩ baritôn kia kêu gào “Hãy tiêu diệt sự đổ nát!” - thì tôi chỉ cười. (Mặt Philip Philippovich méo xệch đi khiến viên bác sĩ bị đớp há hốc miệng ra). Xin thề với anh là tôi cảm thấy thật buồn cười! Điều đó có nghĩa là mỗi người trong bọn họ cần phải tự nện vào gáy mình! Và đấy, đến khi nào họ nên bật khỏi đầu tất cả mọi thứ ảo tưởng và bắt tay vào dọn nhà kho - là cái công việc trực tiếp của họ - thì sự đổ nát kinh tế sẽ tự nhiên biến mất. Không thể bắt cá hai tay, thờ phụng hai chúa được! Không thể trong cùng một lúc vừa quét dọn đường xe điện, vừa lo sắp xếp số phận của những người Tây Ban Nha đói rách nào đấy! Sẽ không ai làm được điều đó hết, bác sĩ ạ, nhất lại là những người nói chung đã tụt hậu so với châu Âu khoảng hai trăm năm và cho đến nay cài cúc quần của chính mình cũng còn chưa thật hoàn toàn tự tin?

Philip Philippovich đã nổi cơn hăng. Hai lỗ mũi diều hâu của ông thở phập phồng. Tích tụ được sức lực sau bữa ăn no, ông hét vang rền hệt như một nhà tiên tri thời cổ đại, mái đầu của ông lấp lánh ánh bạc.

Những lời của ông vẳng đến tai chó nửa thức nửa ngủ như một chuỗi tiếng động ì ầm từ sâu dưới lòng đất. Khi thì con cú với đôi mắt vàng khè đần độn nhảy chập chờn trong cơn mơ màng, khi thì bộ mặt tởm lợm của lão đầu bếp đội mũ vải không vành cáu bẩn, khi thì hàng ria ngang tàng của Philip Philippovich được bóng điện dưới chiếc chao đèn chiếu sáng, khi thì những cỗ xe trượt tuyết ngái ngủ nghiến ken két rồi biến mất; còn trong bao tử chó, miếng thịt bò tái bị nhai nát đang trôi nổi trong đám dịch vị và tiêu hoá dần.

“Ông ấy có thể kiếm tiền được trên các buổi mít tinh, - chó chập chờn nghĩ, - một tay hùng biện hạng nhất. Mà thực ra, có vẻ như tiền ông ta thế này cũng đã không để đâu cho hết”.

- Cảnh sát! - Philip Philippovich hét, - Cảnh sát!! - Có những quả bong bóng nào đó nổ bục trong não chó “U-hu- hu”... - Cảnh sát! Cần có cái đó và chỉ có cái đó mà thôi. Và hoàn toàn không quan trọng là anh ta mang biển hiệu hay đội mũ băng đỏ. Đặt cảnh sát bên cạnh mỗi con người và bắt anh ta phải trấn an những cơn hứng ca hát của các công dân của chúng ta. Anh nói là kinh tế đổ nát? Tôi nói với anh, bác sĩ ạ, là sẽ không có gì thay đổi theo chiều hướng tốt hơn trong ngôi nhà của chúng ta - mà trong bất cứ ngôi nhà nào cũng vậy thôi - nếu như chưa dẹp được những tay ca sĩ này! Chỉ có khi nào họ chấm dứt những buổi liên hoan ca nhạc kia thì mọi sự sẽ tự khắc trở nên tốt đẹp hơn.

- Bác nói toàn những chuyện phản cách mạng đấy, bác Philip Philippovich ạ, - anh chàng bị chó đớp đùa, - Lạy trời đừng để ai nghe thấy bác?

- Không có gì nguy hiểm cả. - Philip Philippovich nóng nảy phản đối. - Không có phản cách mạng nào ở đây hết. Mà nhân thể, đấy lại là một từ mà tôi hoàn toàn không thể chịu nổi. Tuyệt đối không tài nào hiểu được là cái gì ẩn giấu đằng sau nó! Họa ma quỷ mới biết! Và tôi nói thế đấy: trong những lời của tôi không hề có phản cách mạng với phản cách miếc nào hết. Trong những lời đó chỉ có lẽ phải và kinh nghiệm sống mà thôi.

Nói xong, Philip Philippovich rút góc tấm khăn ăn đã nhầu nát từ trong cổ áo ra vò thành cục, đặt xuống cạnh cốc rượu vang uống dở. Anh chàng bị đớp cũng lập tức đứng dậy và cám ơn: “Merci”.

- Đợi cho một phút, bác sĩ. - Philip Philippovich dừng anh lại, rút từ trong túi quần ra một chiếc ví. Ông nheo mắt, đếm mấy tờ giấy bạc trắng và chìa cho người bị chó cắn, nói:

- Hôm nay của anh, Ivan Arnolđovich, bốn mươi rúp. Xin gửi anh.

Người bị đớp lịch sự cám ơn, đỏ mặt, nhét tiền vào túi áo vét.

- Tối nay cháu có cần làm gì không ạ, bác Philip Philippovich?- anh hỏi.

- Không, cảm ơn anh bạn. Tối nay chúng ta sẽ không làm gì cả. Thứ nhất, con thỏ thí nghiệm đã chết mất, còn thứ hai, hôm nay ở Nhà Hát Lớn diễn vở “Aiđa”. Tôi đã lâu không xem. Tôi thích... Anh còn nhớ không? Khúc song tấu... Tari... ra-rim.

- Làm sao bác có thể kịp làm được mọi chuyện như vậy, bác Phiìip Philippovich? - viên bác sĩ hỏi với vẻ thán phục.

- Người nào không vội vàng đi đâu cả thì làm gì cũng kịp, - chủ nhà lên giọng răn dạy. - Tất nhiên, nếu như tôi bắt đầu la cà hết cuộc họp này đến cuộc họp khác và hát hỏng suốt ngày như họa mi thay vào chỗ phải làm công việc trực tiếp của mình, thì chắc tôi cũng chẳng kịp đi tới đâu cả.

Dưới ngón tay của Philip Philippovieh, répéter trong túi áo điểm giờ ngân nga.

- Đã hơn tám giờ... Tôi sẽ đến xem màn hai. Tôi là người ủng hộ việc phân công lao động. Ở Nhà Hát Lớn họ cứ việc hát, còn tôi sẽ làm phẫu thuật của tôi. Như thế mới là tốt. Và không có đổ nát nào hết... Còn việc này nữa, Ivan Arnodovich ạ, anh hãy theo dõi thật sát sao nhé: hễ có trường hợp tử vong nào thích hợp là lập tức từ bàn mổ đưa vào dịch nuôi và đến tôi ngay!

- Bác đừng lo, bác Philip Philippovich ạ, các bác sĩ giải phẫu bệnh lý đã hứa với cháu rồi.

- Rất tốt. Còn bây giờ chúng ta sẽ theo dõi cái tay lang thang suy nhược thần kinh này. Cứ để cho cậu ta lành sườn đi đã.

“Ông ấy quan tâm đến mình, - chó nghĩ, - một con người tốt bụng. Mình biết ông ấy là ai rồi. Là một phù thuỷ, là pháp sư, là tiên ông trong các câu chuyện cổ tích của loài chó... Bởi vì không thể tất cả những chuyện này do mình ngủ mơ thấy. Hay biết đâu lại là mơ thật? (chó rùng mình trong mơ). Bây giờ mình sẽ tỉnh dậy... Và sẽ không có gì cả. Không cả ngọn đèn bọc tán lụa, không cả hơi ấm, không cả cái cảm giác no nê. Lại bắt đầu vòm cổng nọ, lại cái rét đến phát điên phát rồ, mặt đường băng giá, đói khát: những con người độc ác... Nhà ăn, tuyết... Lạy Chúa, tất cả những cái đó mới khủng khiếp làm sao...”

Nhưng những cái đó đã không xảy ra. Mà ngược lại, vòm cổng nọ đã tan biến đi như một giấc mơ tồi tệ và không bao giờ trở lại nữa.

Có vẻ như sự đổ nát kinh tế không đến nỗi đáng sợ cho lắm. Bất kể nó, mỗi ngày hai lần những ống dẫn mầu xám của lò sưởi dưới bệ cửa sổ lại được thay nước nóng, và hơi ấm vẫn toả lan thành từng đợt sóng ra khắp cả căn hộ.

Một điều hết sức rõ ràng là: Sarik đã rút trúng được số độc đắc của loài chó. Bây giờ không ít hơn hai lần một ngày đôi mắt của nó trào đầy thứ nước mắt biết ơn đối với con người thông thái phố Pretnstenka. Ngoài ra, tất cả những tấm gương đứng giữa những chiếc tủ trong phòng khách và phòng tiếp bệnh nhân đều in bóng một chàng chó đực đẹp mã may mắn.

“Ta là một trang tuấn nhã. Có thể là một hoàng tử chó ẩn danh”, - chó ngẫm nghĩ, không rời mắt khỏi hình con chó đực lông xù mầu cà phê với bộ mõm mãn nguyện lượn lờ trong cái khoảng không vô đáy sau những tấm gương.

“Rất có thể là bà nội ta đã dan díu với một chàng thợ lặn nào đó. Vì vậy nên trên mõm ta mới có một vệt trắng như thế này. Nếu không thì thử hỏi nó từ đâu ra? Philip Philippovich là người rất tinh đời, ông ấy không nhặt bậy một con chó hoang vớ vẩn nào đâu”.

Trong vòng một tuần lễ, chó ta đã đánh chén một khối lượng thức ăn bằng cả tháng rưỡi chịu đói trước đó ở ngoài phố. Nhưng tất nhiên đấy chỉ là khối lượng. Về chất lượng bữa ăn ở nhà Philip Philippovich thì khỏi phải nói. Thậm chí không tính tới chuyện hàng ngày Daria Petrovna mua hàng đống thịt vụn ở chợ Smolen với giá mười tám kôpếch, chỉ cần nhắc đến bữa chiều vào bảy giờ tối ở phòng ăn mà chó được tham dự - mặc cho Dina kiều diễm hết sức phản đối - cũng đã quá đủ. Trong những bữa ăn đó Philip Philippovich đã vĩnh viễn được tôn xưng là một vị thánh. Chó đứng lên bằng hai chân sau và day day liếm vạt áo vét của ông, chó nghiên cứu tiếng chuông gọi cửa của Philip Philippovich - hai nhịp chuông mạnh mẽ ngắt quãng đầy quyền uy, - để vừa sủa vừa phóng như tên bắn ra đón ông ở phòng ngoài. Ông chủ bước vào trong chiếc áo lông cáo bạc với hàng triệu hạt tuyết óng ánh, người toả ra mùi xì gà, cam, chanh, dầu xăng, nước hoa, vải dạ, và giọng ông như ống lệnh vang rền khắp căn hộ.

- Con lợn kia, tại sao nhà ngươi lại cắn xé con cú của ta? Nó quấy rầy nhà ngươi à? Ta hỏi, nó quấy rầy nhà ngươi à? Tại sao lại làm vỡ chân dung giáo sư Mechnikov?

- Bác Philip Philippovich ạ, cần phải cho nó ăn roi ít ra là mộttrận, - Dina phẫn nộ nói. - không thì loạn lên cả mất thôi. Bác xem kìa, nó đã làm gì với những đôi giày cao su của bác.

- Không được đánh roi ai cả, - Philip Philippovich nghiêm khắc nói. - Hãy vĩnh viễn ghi nhớ lấy điều đó. Với con người cũng như với động vật chỉ có thể tác động bằng lời khuyên bảo mà thôi. Đã cho nó ăn thịt hôm nay chưa?

- Lạy Chúa, nó vét sạch cả nhà rồi ấy chứ, bác lại còn hỏi, bác Philip Philippovich. Cháu không hiểu là làm sao nó không vỡ bụng ra đấy.

- Cứ để cho nó ăn... Con cú quậy phiền gì nhà ngươi, hở đồ du côn?

- Ư ư? - Con chó xu nịnh tru lên và quỳ bốn chân, bò lết bụng trên sàn.

Mọi người hò hét túm lấy cổ nó lôi qua phòng tiếp khách vào phòng làm việc. Chó rên rỉ, tru tréo, bám lấy thảm, trượt mông như trong rạp xiếc. Giữa phòng làm việc, con cú mắt thuỷ tinh nằm trên thảm, bụng bị xé rách toang để lộ ra những miếng giẻ đỏ nồng nặc mùi băng phiến. Bức chân dung lồng kính vỡ vụn nằm trên bàn.

- Cháu cố ý không dọn để bác thấy, - Dina ấm ức báo cáo.- Nó dám nhảy lên bàn, cái đồ mất dậy này! Và đớp lấy đuôi con cú! Cháu chưa kịp làm gì thì nó đã cắn nát ra rồi. bác Philip Philippovich ạ, Hãy dúi mõm nó vào con cú để cho nó biết đi phá hại đồ vật là như thế nào.

Và bắt đầu cuộc vật lộn. Chó bị lôi đến dúi mõm vào bụng cú, và nó vừa trụ chân xuống thảm, vừa nhỏ những giọt nước mắt cay đắng và nghĩ: “Các người cứ đánh đi, nhưng xin đừng đuổi ta ra khỏi nhà”.

- Gửi con cú đến thợ nhồi thú ngay ngày hôm nay. Ngoài ra, đến gặp ông Miur mua cho nó một vòng cổ chắc chắn và dây xích.

Ngày hôm sau người ta đeo lên cổ chó một vòng cổ rộng sáng loáng. Trong giây phút đầu tiên, nhìn hình mình trong gương, nó rất buồn, cụp đuôi lại và lủi vào buồng tắm, nghĩ cách ghè vòng cổ vào rương hay một chiếc hòm nào đó. Nhưng rất nhanh chóng chó hiểu ra rằng nó là một đứa ngu. Dina cầm dây xích dẫn Sarik đi dạo trên đại lộ Obukhov. Chó bước đi như một kẻ bị bắt, người nóng ran lên vì xấu hổ; nhưng khi đi hết phố Pretristenka đến nhà thờ Đấng Cứu Thế, nó đã hiểu ra một cánh tuyệt vời rằng thế nào là cái vòng cổ ở trên cõi đời này. Trong mắt của tất cả những con chó nó gặp trên đường đều hiện lên sự ghen ghét điên cuồng; còn ở Ngõ Chết, một con chó cụt đuôi người dài ngoằng gâu gâu lên rủa nó là “đồ theo đuôi quý tộc”, “đồ đầy tớ mạt kiếp”. Khi Dina dẫn nó bước qua đường ray tàu điện, một viên cảnh sát nhìn chiếc vòng cổ với vẻ hài lòng và kính trọng; còn khi về đến nhà thì đã xảy ra điều kỳ lạ chưa từng thấy trong đời: lão gác cửa Pheđor đích thân ra mở cánh cửa thánh cho Sarik vào, và cũng trong lúc đó lão nói với Dina:

- Chà, ông Philip Philippovich nhà ta kiếm được cậu xù đẹp thật. Mà béo quá nữa.

- Còn phải nói. Nó ăn bằng cả sáu con cộng lại. - Dina hồng hào và xinh đẹp vì mới ở ngoài trời lạnh vào, giải thích.

“Cái vòng cổ cũng chẳng khác gì cặp giấy trí thức”, - chó thầm nghĩ, rồi vừa ngúng nguẩy mông vừa bước theo cầu thang lên tầng hai hệt như một ông chủ.

Sau khi nhận thức được đúng giá trị của vòng cổ chó liền làm chuyến viếng thăm đầu tiên vào cái khu vực chính yếu nhất của thiên đường, nơi từ trước đến nay nó bị cấm ngặt - tức là vào vương quốc của chị nấu bếp Daria Petrovna. Toàn bộ căn hộ cộng lại không đáng giá một góc của vương quốc Daria. Ngày nào cũng vậy: ngọn lửa réo gào, nổ lách tách trong bếp lò lát gạch men đen bóng ở trên mặt. Lò sấy cũng nổ lách tách. Khuôn mặt của Daria Petrovna cháy bừng nỗi đau khổ nóng bỏng không dứt và lòng say mê dục tình chưa thoả, nhờn mỡ bóng lên. Trên mái đầu chải ra hai bên với lọn tóc mầu bạch kim sau gáy lấp lánh hai mươi hai viên kim cương giả. Những chiếc chảo vàng treo trên móc khắp các mặt tường; gian bếp toả mùi thơm ngào ngạt, sôi sùng sục, réo ầm ầm như cháy nhà, còn trên chảo rán thì sủi bong bóng, kêu xèo xèo, trong các xoong nồi, bình lọ đậy kín...

- Cút! - Daria Petrovna la lên. - Cút khỏi đây ngay, đồ móc túi vô chủ. ở đây chỉ còn thiếu mày nữa thôi? Tao cho que cời lò bây giờ!

“Sao lại thế? Gì mà bà chị sủa lên như vậy? - Chó quị lụy hấp háy cặp mắt. - Tôi mà là đồ móc túi sao? Chẳng lẽ bà chị không trông thấy vòng cổ đây à?”, - và chó nghiêng người bò vào cửa, chõ mõm qua khe mở. Tấm cửa lò bắn tung ra, để lộ một địa ngục khủng khiếp, nơi ngọn lửa cháy rừng rực sáng chói.

Sarik quả là có bí quyết chinh phục trái tim người. Hai ngày sau nó đã nằm ngay cạnh giỏ cá kình nhìn Daria Petrovna làm việc. Bằng con dao sắc hẹp bản, chị ta chặt đầu và chân những con gà thông yếu đuối, rồi như một tay đao phủ nổi cơn điên, lôi hết lòng ruột ra, róc thịt nạc khỏi xương, bỏ vào máy xay thịt. Trong lúc đó Sarik nằm nhá đầu gà thông. Daria Petrovna lấy những ổ bánh mì trắng ngâm nhão trong bát sữa ra nhào trên thớt với chỗ thịt vừa được xay nhỏ, đổ kem, rắc muối vào trộn và bắt đầu nặn những viên chả.

Buổi tối, vòm miệng lò đã tắt lặng, phía trên tấm màn trắng che một nửa cửa sổ phòng bếp là màn đêm dày đặc và trang trọng của phố Pretristenka với một ngôi sao cô đơn. Trong bếp, mặt sàn bốc hơi ẩm, xoong chảo phát ra những tia sáng đục bí ẩn, một chiếc mũ cứu hoả đặt trên bàn. Sarik nằm cạnh lò bếp ấm như sư tử nằm cạnh cổng, vểnh một tai lên tò mò nhìn người đàn ông ria đen mang thắt lưng da rộng bản vẻ kích động đang ôm ghì lấy Daria Petrovna sau cánh cửa khép hờ trong phòng của Dina và Daria Petrovna. Toàn bộ khuôn mặt chị ta, ngoài chiếc mũi trát phấn trắng bạch, cháy bừng nỗi đau khổ và niềm khao khát dục tình. Dải ánh sáng lọt qua khe cửa nằm vắt trên mặt người đàn ông ria đen, một bông hoa hồng của ngày lễ giáng sinh dắt trên ngực áo của anh ta.

- Cứ quấn lấy như con quỷ ấy, - Daria Petrovna lầu bầu trong phòng tối mờ. - Thôi đi nào! Dina sắp về bây giờ đấy. Anh sao thế, cũng được người ta làm cho trẻ hóa lại rồi à?

- Cái đó thì chúng ta chẳng cần để làm gì, - người ria đen kìm mình một cách vất vả và trả lời khàn khàn.- Em đúng là như lửa ấy!

Vào các buổi tối, ngôi sao phố Pretnstenka bị che khuất sau tấm màn cửa dày nặng, và nếu như ở Nhà Hát Lớn không trình diễn “Aiđa” và không có các cuộc họp của “Hội Phẫu thuật toàn Nga” thì vị thánh của chó an tọa trong chiếc ghế bành sâu ở phòng làm việc của mình. Đèn trần không bật lên, chỉ có một ngọn điện mầu xanh lục cháy sáng trên bàn. Sarik nằm trên thảm trong bóng tối và nhìn không rời mắt những việc làm kinh dị. Những bộ óc người nằm ngập trong dung dịch đục nhờ, hăng hắc buồn nôn đựng trong các bình thuỷ tinh. Hai tay của vị thánh xắn cao đến tận khuỷu, đi găng cao su nâu và những ngón tay ngắn trơn bóng hí hoáy lách trong các nếp của bộ não. Chốc chốc vị thánh lại sử dụng cây kéo nhỏ sáng loáng lặng lẽ cắt những lớp vỏ não vàng mềm mại.

- “Đến đôi bờ sông Nin thần thánh”, - vị thánh khe khẽ hát và cắn môi nhớ lại cảnh bài trí bên trong vàng choé của Nhà Hát lớn.

Các ống dẫn lò sưởi trong giờ này được đốt nóng đến cực độ. Hơi ấm bốc lên trần nhà, từ đó lan toả ra khắp căn hộ; và con rận cuối cùng, còn chưa bị chính bàn tay của Philip Philippovich thải bắt, sống lại trong bộ lông chó, nhưng dù sao số phận của nó cũng đã được định đoạt. Rồi từ xa vẳng đến tiếng cánh cửa chính mở ra đóng vào. Những tấm thảm làm giảm đi mọi âm thanh.

“Dina đi xem xinê, - chó nghĩ thầm trong bụng, khi cô ta về chắc là sẽ bắt đầu ăn tối. Hôm nay hình như là có thịt bê dần”.

*  *  *

Vào cái ngày khủng khiếp đó ngay từ sớm Sarik đã nhói lên một linh cảm. Vì thế nó bỗng cảm thấy buồn và ăn bữa sáng, - nửa bát cháo kiều mạch và khúc xương cừu từ hôm qua để lại - không thấy ngon miệng tí nào. Nó ủ rũ lang thang vào phòng tiếp bệnh nhân và ở đó khẽ tru lên với bóng hình mình trong gương. Nhưng đến trưa, sau khi Dina dắt nó ra dạo chơi ngoài đại lộ có hàng cây ở giữa, thì ngày lại trôi đi bình thường. Hôm nay không có khánh vì như thường lệ thứ hai không phải là ngày khám, và vị thánh ngồi trong phòng làm việc, mở rộng trên mặt bàn những cuốn sách với tranh vẽ nhiều mầu. Mọi người chờ đến bữa trưa. Chó hơi tươi tỉnh lại bởi ý nghĩ rằng món chính hôm nay sẽ có gà tây như nó đã biết được chính xác dưới bếp. Khi đi qua hành lang, chó bỗng nghe thấy trong phòng làm việc của Philip Philippovich tiếng chuông điện thoại vang lên đột ngột và gay gắt. Philip Philippovich cầm lấyống nói, lắng nghe một lát rồi bỗng trở nên xúc động.

- Tốt lắm, - giọng nói ông vang lên, - hãy đưa đến đây ngay, ngay bây giờ!

Ông hối hả gọi chuông và ra lệnh cho Dina vừa bước vào cấp tốc bày bàn.

- Ăn trưa ngay! Ăn trưa! Ăn trưa ngay!

Trong phòng ăn lập tức nghe tiếng đĩa va vào nhau lách cách, Dina rối rít chạy đi chạy lại, từ trong bếp Daria Petrovna làu bàu là món gà tây còn chưa xong. Chó lại cảm thấy bồn chồn.

“Mình không thích sự hỗn loạn trong căn hộ”, - nó ngẫm nghĩ... và nó vừa mới nghĩ được như vậy thì cảnh hỗn loạn lại càng khó chịu hơn. Trước hết là do sự xuất hiện của viên bác sĩ Bormental trước đây từng bị chó đớp. Anh mang đến một va li bốc mùi tồi tệ và cứ để nguyên cả áo ngoài xách nó đi qua hành lang vào thẳng phòng khám. Philip Philippovich quẳng chén cà phê uống dở xuống bàn, điều trước đó chưa bao giờ xảy ra với ông, và chạy bổ ra đón Bormental - đây cũng là điều chưa xảy ra với ông bao giờ trước đó.

- Chết khi nào?- ông hét lên hỏi.

- Ba giờ trước đây, - Bormental. không cởi bỏ phiếu mũ lông bám đầy tuyết, đáp và mở va li ra.

“Ai chết? - chó cáu kỉnh, không hài lòng nghĩ thầm và rúc vào dưới chân chủ, - mình không chịu nổi khi mọi người cứ cuống quít cả lên”.

- Đừng có quẩn dưới chân! Nhanh lên, nhanh lên, nhanh lên! - Philip Philippovich quát toáng lên về mọi hướng và bắt đầu, như chó nghĩ, ấn vào tất cả các nút chuông.

Dina chạy đến.

- Dina! Bảo Daria Petrovna đến trực điện thoại, ghi lại: không tiếp ai hết! Cô cần ở đây. Bác sĩ Bormental, tôi van anh, nhanh lên, nhanh lên, nhanh lên!

“Mình không thích, ôi mình không thích”. - Chó giận dỗi tự ái và lang thang đi lại trong căn hộ, còn toàn bộ sự tất bật thì tập trung vào ở phòng khám.

Dina bất ngờ hiện ra trong tấm áo choàng trắng giống như vải liệm và chạy từ phòng khám vào bếp và ngược lại.

- Hay là ta đi ăn cái gì? Thôi cứ mặc kệ họ,- chó nghĩ và bỗng nhận được quyết định bất ngờ.

- Không cho Sarik ăn gì hết, - mệnh lệnh từ trong phòng khám ném ra.

- Có mà giữ được nó.

- Nhốt lại.

Và Sarik bị lùa vào phòng tắm nhốt lại.

“Thật đểu cáng, - ngồi trong phòng tắm tối mờ mờ, Sarik nghĩ, - đúng là một trò ngốc...”

Gần mười lăm phút chó ngồi trong buồng tắm với tâm trạng kỳ lạ - khi thì giận dữ, khi thì chán nản cực độ. Mọi chuyện đều ngán ngẩm, không rõ ràng.

“Được rồi, ngày mai ngài sẽ có giày cao su mới, thưa ngài Philip Philippovich vô cùng kính mến, - chó nghĩ bụng, - ngài đã mua hai đôi rồi và sẽ phải mua thêm một đôi nữa. Để chừa thói nhốt chó lại”.

Nhưng cái ý nghĩ cuồng nộ đó của nó bỗng bị cắt ngang. Không hiểu vì sao chó bất ngờ và rõ ràng nhớ lại một mẩu thời niên thiếu của mình - khoảng sân mênh mông tràn trề ánh nắng ở cửa ô Preobrajenskaia, những mảnh mặt trời trong các vỏ chai rỗng, một hòn gạch vỡ, những con chó hoang.

“Không, giờ còn đi đâu được nữa, ta sẽ chẳng rời khỏi đây để đến với bất cứ thứ tự do nào đâu, nói dối mà làm gì, - chó khụt khịt mũi và buồn bã nghĩ, - ta quen mất rồi. Ta là một con chó quý tộc, một sinh vật trí thức, đã được nếm mùi cuộc sống tốt đẹp nhất. Mà tự do là cái gì kia chứ? Chỉ là hoả mù, ảo tưởng, là sự hư tạo... Sự mê sảng của mấy lão dân chủ hẩm hiu...i”.

Rồi bóng tối trong phòng tắm trở nên đáng sợ, chó tru dài, nhảy chồm lên cửa, cào xé.

- Ư-ư-ư! - tiếng tru như hướng vào thùng rỗng vang khắp căn hộ.

“Ta lại sẽ xé xác con cú ra”, - chó nghĩ trong cơn điên khùng nhưng bất lực. Rồi nó kiệt sức, nằm xẹp xuống một lúc, còn khi đứng dậy, lông trên người bỗng dựng đứng cả lên, vì nó cảm thấy như trong phòng tắm chập chờn những con mắt sói khủng khiếp.

Đúng vào lúc cơn kinh hoàng lên đến cao độ, cánh cửa chợt mở ra. Chó rũ mình, bước ra và cau có định đi về phía bếp, nhưng Dina lại túm lấy vòng cổ kiên quyết kéo nó vào phòng khám. Chó cảm thấy lạnh buốt trong ngực chỗ dưới tim.

- Mình cần đến đấy để làm gì? - chó hoang mang nghĩ, - bên sườn đã lành rồi, mình chẳng hiểu gì cả.

Và nó trượt bốn chân trên mặt sàn gỗ trơn bóng, cứ thế bị lôi đi vào phòng khám. Chó lập tức sững sờ trước độ sáng chưa từng thấy trong phòng. Quả cầu trắng trên trần phát sáng đến nhức mắt. Một vị thánh đứng trong vầng hào quang rực rỡ và khe khẽ hát về đôi bờ thần thánh của con sông Nin. Chỉ qua cái mùi mơ hồ thoang thoảng mới có thể đoán ra đó là Philip Philippovich. Mái tóc bạc cắt ngắn của ông khuất gọn dưới chiếc mũ vải không vành giống như mũ trùm của đại giáo chủ, toàn bộ thân hình vị thánh đều bận đồ trắng, và phía ngoài bộ đồ trắng đó còn khoác thêm tấm tạp dề hẹp bằng cao su, hệt như giải khăn choàng của thầy tế. Hai bàn tay của ông đeo găng đen.

Cả viên bác sĩ bị đớp trước kia cũng đội mũ trùm. Mặt bàn xếp được kéo dài ra, và áp sát vào bên cạnh là chiếc bàn nhỏ đứng trên một chân sáng loáng. Ở đây chó căm ghét nhất là cái người đã từng bị nó đớp, và trước hết là vì cặp mắt ngày hôm nay của anh ta. Vốn thường ngày nhìn thẳng và táo bạo, lần này cặp mắt đó lảng cặp mắt chó nhìn đi chỗ khác. Cái nhìn của anh ta căng thẳng, giả dối, và trong đáy sâu ẩn giấu một cái gì đó tồi tệ, xấu xa, nếu không phải là cả một tội ác. Chó ném cho anh ta một cái nhìn ảm đạm và nặng nề rồi đi vào trong góc xa.

- Cởi vòng cổ, Dina, - Philip Philippovich nói khẽ, - nhưng đừng làm nó sợ.

Cặp mắt Dina cũng lập tức trở nên đểu giả hệt như cặp mắt của tay bị đớp. Cô ta bước đến bên chó và vuốt ve nó một cách hết sức giả dối. Chó nhìn cô ta với vẻ ngao ngán, khinh bỉ.

“Biết làm sao được, các người có những ba. Xin cứ việc, nếu như các người muốn. Chỉ có điều thật đáng xấu hổ... giá như ta được biết các người sẽ làm gì với ta...”

Dina mở khóa vòng cổ; chó lúc lắc đầu, thở phì phì. Tay bác sĩ bị đớp vụt đến đứng chắn trước mặt chó, và một mùi nôn nao khó chịu toả ra từ người anh ta.

“Hừ, tởm quá... Tại sao mình lại choáng váng và hốt hoảng thế này...” - chó nghĩ và bước lùi xa tay bị đớp.

- Nhanh lên, bác sĩ, - Philip Philippovich nóng nảy giục.

Trong không khí chợt có mùi gì đó ngòn ngọt và gay gắt. Tay bị đớp, không rời cặp mắt đểu giả cảnh giác khỏi người chó, vụt đưa cánh tay phải từ sau lưng ra chụp nắm bông ướt vào mõm chó.

Sarik đờ người ra, trong đầu mụ đi, nhưng nó còn kịp lùi lại. Tay bị đớp nhảy vụt theo và đột ngột chụp nắm bông vào bịt kín mõm chó. Ngay lập tức hơi thở bị tắc nghẹn lại, nhưng chó vẫn còn kịp giằng thoát ra một lần nữa. “Quân độc ác...”- một ý nghĩ thoáng qua trong đầu chó. – “Vì tội gì?”. Rồi nó lại bị bịt mũi. Và bất ngờ ngay giữa phòng khám chợt hiện lên một mặt hồ, còn trên các con thuyền giữa hồ là những con chó vui vẻ, lông mầu hồng chưa bao giờ thấy của thế giới âm phủ. Chân nó như bị rút xương và nó khuỵu gục xuống.

- Đưa lên bàn mổ! - những lời của Philip Philippovich nổ ra đâu đó bằng giọng vui vẻ và tan đi trong những tia sáng mầu da cam.

Nỗi kinh hoàng đã biến mất, thay vào đó là niềm vui sướng. Chừng khoảng hai giây, con chó đang lịm đi cảm thấy yêu mến viên bác sĩ bị đớp. Tiếp đó toàn bộ thế giới đảo lộn trên xuống dưới, và chó còn kịp cảm thấy trên bụng mình một bàn tay lạnh giá nhưng dễ chịu. Rồi không còn gì nữa hết.

 

Chương 4

 

Con chó Sarik nằm duỗi thẳng chân trên chiếc bàn mổ hẹp, đầu bất lực dập dềnh trên chiếc gối trắng bọc vải sơn. Bụng của nó đã được cạo hết lông, còn bây giờ bác sĩ Bormental vừa thở nặng nề, vừa vội vã xộc tông đơ vào đám lông trên đầu Sarik để hớt trụi. Philip Philippovich chống hai bàn tay vào mép bàn, đưa cặp mắt lấp lánh như bộ gọng kính vàng của ông quan sát từng bước của cái thủtục này và nói bằng giọng hồi hộp:

- Ivan Arnoldovich, cái thời điểm quan trọng nhất là khi tôi đi vào hố yên. Tôi xin anh, phải trao thật nhanh phần mấu phụ, và ngay tức khắc khâu lại. Nếu như ở đó để xảy ra hiện tượng chảy máu, chúng ta sẽ mất thời gian và mất cả chó nữa. Mà thực ra thì nó cũng chẳng có tí hy vọng nào, - ông ngừng lời, nheo nheo mắt, nhìn kỹ vào đôi mi khép hờ có vẻ như đang giễu cợt của chó, nói tiếp: - Mà anh biết không, tôi thấy thương nó. Anh thấy đấy, tôi đã quen với nó rồi.

Vừa nói, ông vừa đưa tay lên như làm dấu ban phước cho con chó Sarik bất hạnh để nó lập nên chiến công gian khó. Ông cố giữ sao cho không một hạt bụi nào bám vào đôi găng cao su đen.

Từ phía dưới lớp lông bị cắt trụi hiện ra mảng da chó trắng bệch. Bormental vứt tông đơ xuống, chộp lấy dao cạo. Anh bôi xà phòng lên chiếc sọ nhỏ bé không sinh khí rồi bắt đầu cạo. Dưới lưỡi dao, tiếng lông đứt sần sật, một vài nơi máu ứa ra. Cạo xong đầu, anh chàng bị đớp dùng một nắm bông ướt tẩm cồn lau sạch đầu, rồi kéo vạch bụng chó đã được cạo nhẵn ra, thở mạnh, nói: “Sẵn sàng!”.

Dina mở vòi nước trên bồn, Bormental chạy vội đến rửa tay. Dina róc cồn từ trong lọ lên tay anh.

- Bác Philip Philippovich, cháu có thể đi được chứ ạ? - Cô đưa mắt sợ sệt liếc nhìn về phía đầu chó cạo trọc, hỏi.

- Cháu có thể đi.

Dina biến mất. Bormental lại tiếp tục vội vã. Anh quấn đầu Sarik bằng những tấm gạc mỏng, trên mặt gối hiện ra một chiếc sọ trọc lốc của chó chưa ai từng, thấy và một cái mõm lông lá kỳ dị.

Đến đây thì nhà bác học mới bắt đầu cử động. Ông đứng thẳng người lên nhìn chiếc đầu chó và nói:

- Nào, mong Chúa phù hộ cho. Dao.

Bormental rút từ đống dụng cụ sáng loáng nằm trên bàn một con dao nhỏ phình ra ở khoảng giữa và trao cho giáo sư. Rồi anh cũng bắt đầu xỏ một đôi găng đen hệt như của giáo sư vào hai bàn tay.

- Nó ngủ à? - Philip Philippovich hỏi.

- Vâng.

Hai hàm răng của Philip Philippovich nghiến chặt, đôi mắt phát ra những tia sáng nhọn sắc, và vung lưỡi dao con. Ông rạch một đường dài chính xác trên bụng Sarik. Lớp da lập tức nứt đôi, từ vết thương máu phun ra tứ phía. Bormental nhảy bổ tới, dùng những miếng gạc ép chặt vết thương, lấy mấy chiếc nhíp nhỏ như cặp đường kẹp các mép của nó lại, và máu ngừng chảy. Trên trán của Bormental mồ hôi rịn thành giọt. Philip Philippovich rạch thêm một nhát nữa, và hai người bắt đầu dùng móc, kéo, nhíp cắt xé cơ thể của Sarik. Các mô mầu hồng và vàng phớt máu nổi lên, Philip Philippovich ngoáy dao trong thân chó, rồi hô: “Kéo!”.

Chiếc kéo loáng lên trong tay viên bác sĩ bị đớp như trong tay một nhà ảo thuật. Philip Philippovich chọc sâu hơn vào vết mổ, và sau mấy động tác phẫu thuật đã bóc từ cơ thể Sarik ra tuyến tinh hoàn của nó cùng những mẩu nhỏ gắn vào đó.

Bormental, người đẫm mồ hôi vì căng thẳng và hồi hộp, nhảy bổ đến bên chiếc lọ thuỷ tinh, lấy từ trong đó ra một tuyến tinh hoàn khác ướt sũng, rủ lòng thòng. Những thớ dây ngắn và ẩm nước run rẩy, xoắn xuýt trong tay giáo sư và trợ lý của ông. Những mũi kim cong qua lại thoăn thoắt trong bàn kẹp, và bộ tinh hoàn lấy từ lọ thuỷ tinh đã được khâu vào cơ thể của Sarik. Giáo sư đứng thẳng người lên, chấm nắm gạc vào vết mổ và ra lệnh:

- Bác sĩ, khâu nhanh da lại. - rồi ông liếc nhìn lên chiếc đồng hồ tròn mầu trắng treo trên tường.

- Đã làm được mười bốn phút. - Bormental nói rít qua hàm răng mím chặt, chọc mũi kim cong vào lớp da mềm nhão. Rồi cả hai người bỗng cuống quít lên như những kẻ giết người trong lúc cấp bách.

- Dao. - Philip Philippovich hét.

Con dao như từ đâu đó tự nó nhảy vào tay ông, lập tức bộ mặt Philip Philippovich trở nên thật đáng sợ. Ông nhe tất cả những đầu răng bịt vàng và sứ ra, bằng một động tác vạch lên trán Sarik một vòng tròn đỏ lòm. Lớp da đã cạo trụi lông được bóc đi như mảng da đầu chiến lợi phẩm của người da đỏ, để lộ chiếc khung sọ bằng xương. Philip Philippovich quát:

- Khoan!

Bormental trao cho ông chiếc khoan quay tay sáng loáng. Cắn chặt môi, Philip Philippovich bắt đầu ấn mũi khoan, đục trên sọ Sarik những lỗ nhỏ cách nhau khoảng một centimet tạo thành vòng tròn quanh toàn bộ đầu. Mỗi lỗ như vậy ông chỉ mất không quá năm giây. Rồi nhét một đầu lưỡi của chiếc cưa có hình dáng chưa từng thấy vào lỗ khoan thứ nhất, ông bắt đầu cưa sọ như người ta vẫn cưa các hộp đựng đồ thêu thùa của phụ nữ. Chiếc sọ khẽ kêu lên rin rít và rung nhè nhẹ. Sau ba phút, nắp sọ Sarik đã được gỡ bỏ.

Liền đó hiện ra vòm đỉnh bộ não của Sarik mầu xám, với những đường vân xanh và những vệt đỏ nhạt. Philip Philippovich đưa kéo vào các lớp màng bọc và tách chúng ra, một tia máu nhỏ bắn vọt lên suýt trúng vào mắt giáo sư và làm vấy đỏ chiếc mũ vải không vành của ông. Như một con hổ vồ mồi, Bormental nhảy bổ đến dùng nhíp xoắn kẹp chặt và kịp bịt tia máu lại. Mồ hôi chảy thành dòng trên người Bormental, mặt anh như bỗng mập hơn và loang lổ nhiều mầu. Mắt anh lia từ đôi tay của giáo sư sang chiếc đĩa trên bàn để dụng cụ. Còn Philip Philippovieh trở nên thật sự đáng sợ. Mũi ông phát ra những tiếng phì phì, răng nhe đến tận lợi, ông lột bỏ lớp màng bọc não và đi sâu vào trong, gỡ hai bán cầu não từ hõm mổ ra. Đúng lúc đó Bormental tái nhợt người, một tay túm lấy ngực Sarik, nói khàn khàn:

- Mạch tụt đột ngột.

Philip Philippovich ném sang anh cái nhìn dữ tợn, gầm gừ một câu gì đó nơi cổ họng và thọc vào trong não sâu hơn. Bormental bẻ đánh tách đầu ống thuốc bằng thuỷ tinh, dùng xơ ranh hút thuốc ra và cắm phập kim tiêm vào tim Sarik.

- Tôi vào hố yên đây, - Philip Philippovich gầm gừ và bằng đôi găng trơn vấy máu đỏ lòm kéo bộ não mầu xám ngả vàng của Sarik ra khỏi đầu. Ông liếc nhanh xuống mõm Sarik, Bormental ngay tức khắc bẻ đầu ống thuốc thứ hai đựng thứ chất lỏng mầu vàng và hút vào ống xơranh dài.

- Vào tim ạ? - anh rụt rè hỏi.

- Anh còn hỏi gì nữa, - giáo sư giận dữ quát, - ít ra nó cũng đã chết năm lần với anh rồi. Tiêm đi! Chẳng lẽ như thế được ư?

Khuôn mặt ông lúc này trông giống như của một tên cướp đang cơn say máu.

Viên bác sĩ vung tay, nhẹ nhàng cắm mũi kim vào tim chó.

- Còn sống, nhưng rất yếu,- anh rụt rè thì thào.

- Không có gì phải bàn ở đây cả, sống với chả sống, - Philip Philippovich dữ tợn rít lên,- tôi đã vào hố yên. Dù sao nó cũng sẽ chết... à, may sao... “Đến đôi bờ sông Nin thần thánh...”. Đưa tuyến yên đây.

Bormental trao cho ông chiếc lọ thuỷ tinh; giữa lọ, một hạt kết trắng buộc đầu sợi chỉ treo lơ lửng trong dung dịch lỏng.

Bằng một tay, - Bormental thoáng nghĩ: “có một không hai ở châu Âu này, lạy Chúa!” - ông vớt hạt kết ra khỏi lọ, còn tay kia dùng kéo cắt cũng một mẩu đúng y như thể đâu đó ở giữa hai bán cầu não được căng ra của Sarik. Hạt kết của chó ông ném vào đĩa, còn hạt kết cùng với sợi chỉ mới lấy trong lọ ra thì ông đặt vào não, rồi bằng những ngón tay ngắn và tù như có phép lạ bỗng trở nên mềm dẻo và chính xác, Philip Philippovich khéo léo quấn chặt nó ở đó bằng chỉ hổ phách. Xong, ông rút từ trong đầu chó ra những nhíp, những kẹp, những panh, đặt bộ não vào hố xương như cũ và đứng thẳng người lên hỏi bằng giọng giờ đã bình tĩnh hơn:

- Nó đã chết rồi chứ?

- Mạch dạng chỉ, - Bormental đáp.

- Thêm ađrenalin.

Giáo sư trải lớp màng lên bộ não, đặt kín phần nắp sọ bị cưa ra vào chỗ cũ, kéo mảng da đầu phủ kín và quát to:

- Khâu lại!

Sau chừng năm phút, Bormental khâu xong đầu làm gẫy ba mũi kim.

Và như thế là trên nền gối nhuộm máu đỏ xuất hiện cái mõm xám ngoét không sinh khí của Sarik với một vết thương khoanh tròn khắp đầu. Đến đây thì Philip Philippovich ưỡn thẳng người lên hoàn toàn, như con quỷ hút máu đã no nê, lôi mạnh một chiếc găng rời khỏi tay làm bắn ra những hạt mồ hôi, xé rách toạc chiếc thứ hai, ném xuống sàn nhà rồi ấn nút trên tường gọi chuông, Dina xuất hiện ở ngưỡng cửa, ngoảnh mặt đi để không trông thấy Sarik bê bết máu.

Đưa cả hai bàn tay trắng như phấn gỡ bỏ chiếc mũ vải trên đầu, giáo sư quát:

- Dina, mang thuốc hút đến đây. Chuẩn bị quần áo mới và bồn tắm.

Ông kê cằm lên mép bàn mổ, dùng hai ngón tay vạch mí mắt phải của chó ra, nhìn kĩ vào con mắt rõ ràng là đang chết lịm dần, rồi thốt lên:

- Ấy quỷ quái thật. Chưa chết. Nhưng dù sao rồi cũng chết. Này, bác sĩ Bormental, tiếc con chó quá, nó thật tình cảm, mặc dù rất láu cá.

 

Chương 5

 

Trích Nhật ký của bác sĩ Ivan Arnoldovich Bormental.

Tập vở mỏng bằng giấy khổ vừa. Nét chữ của Bormental viết kín. Hai trang đầu chữ nhỏ li ti, ngay ngắn, rõ ràng, còn càng về sau càng tháu, không đều; nhiều chỗ nhoè.

 

Ngày 22 tháng 12 năm 1924, thứ hai

 

Bệnh sử

Chó thí nghiệm khoảng hai năm tuổi. Giống đực. Nòi thường. Tên thường gọi - Sarik. Lông thưa mọc thành từng búi, mầu nâu nhạt, nhiều chỗ bị cháy sém. Đuôi mầu sữa đặc. Bên sườn phải có đám sẹo của vết bỏng đã khỏi hoàn toàn. Trước khi đến chỗ giáo sư ăn uống rất kém, sau một tuần đã được vỗ béo cao độ. Nặng 8 kg (dấu chấm than).

Tim, phổi, dạ dày, thân nhiệt…

 

23 tháng 12.

 

Vào 8 giờ 30 phút tối đã thực hiện ca phẫu thuật đầu tiên ở châu Âu theo phương pháp của giáo sư Preobrajenski: dưới sự gây mê bằng chlorophorm các tinh hoàn của Sarik đã được bóc đi và cấy thay vào đó tinh hoàn nam giới và phần phụ với thừng tinh lấy của một người đàn ông hai mươi tám tuổi chết trước ca mổ bốn giờ bốn phút và được giữ trong dịch sinh học vô trùng theo phương pháp của giáo sư Preobrajenski.

Tiếp đó, tuyến yên của chó cũng đã được cắt bỏ sau khi vỏ não được khoan tách ra và thay bằng tuyến yên của người đàn ông nói trên.

Đã tiêm tám phân khối chlorophorm, một ống camphora, hai ống ađrenalin vào tim.

Mục đích cuộc giải phẫu: tiến hành thí nghiệm của Preobrajenski về khả năng ghép phối hợp tuyến yên não và tinh hoàn để làm sáng tỏ vấn đề về tỷ lệ sống của tuyến yên, và sau đó là về ảnh hưởng của nó đối với quá trình làm trẻ hoá cơ thể con người.

Người giải phẫu: giáo sư Ph. Ph. Preobrajenski.

Phụ mổ: bác sĩ I. A. Bormental.

Tình hình đêm sau khi mổ: mạch giảm thấp lặp đi lặp lại nhiều lần. Chờ kết cục tử vong. Liều camphora lớn theo chỉ định của giáo sư Preobrajenski.

 

24 tháng 12.

 

Buổi sáng khá hơn. Hơi thở nhanh gấp hai lần, thân nhiệt 42.

Camphora, caphein tiêm dưới da.

 

25 tháng 12.

 

Tình hình lại xấu đi. Mạch không rõ, các chi lạnh toát, đồng tử mắt không phản ứng.

Ađrenalin vào tim, camphora theo chỉ định của Preobrajenski, dịch sinh lý vào ven.

 

26 tháng 12.

 

ít nhiều khá hơn.

Mạch 180, nhịp thở 92, thân nhiệt 41.

Camphora, bơm cho ăn.

 

27 tháng 12.

 

Mạch l5~ nhịp thở 50.

Thân nhiệt 39,8, đồng tử mắt có phản ứng.

Camphora tiêm dưới đa.

 

28 tháng 12.

 

Khá hơn nhiều. Buổi trưa đột ngột toát ra nhiều mồ hôi, thân nhiệt 37,0.

Vết mổ bình thường.

Thay băng...

Bắt đầu ăn được. Thức ăn lỏng.

 

29 tháng 12.

 

Bất ngờ phát hiện ra những mảng lông rụng ở trán và hai bên thân. Mời đến hội chẩn: giáo sư chuyên ngành bệnh da Vasili Vasihevich Bunđarev và giám đốc bệnh viện thú y thực nghiệm Moskva. Trường hợp này được họ công nhận là chưa từng có trong các sách báo khoa học.

Chẩn đoán chưa được đưa ra.

Thân nhiệt bình thường.

 

(Ghi bằng bút chì):

 

Buổi chiều xuất hiện tiếng sủa đầu tiên (8 giờ 15 phút). Đáng chú ý là âm sắc thay đổi hẳn, giọng trầm xuống. Thay vào tiếng sủa “gâu gâu” là các âm tiết “a - o”, sắc thái hơi giống tiếng rên...

 

30 tháng 12.

 

Hiện tượng rụng lông đã mang tính chất hói toàn thể.

Kết quả cân thật bất ngờ: 30 kg, do xương phát triển (dài ra).

Chó vẫn nằm như trước.

 

31 tháng 12.

 

Ăn rất nhiều.

(Một vệt mực nhoè trong vở. Sau vệt mực là hàng chữ vội vã).

12 giờ 12 phút trưa con chó phát âm rất rõ: “Ac-it”

 

(Trong vở cách một quãng, và tiếp đó có lẽ là do vội vàng nên viết nhầm):

 

1 tháng 12 (gạch xóa, chữa lại) 1 tháng giêng năm 1925.

 

Buổi sáng chụp ảnh.

Sủa thành âm tiết rất rõ “ác-ít”, nhắc đi nhắc lại rất to và có vẻ vui mừng.

Vào ba giờ chiều (viết bằng chữ to) bỗng cất tiếng cười (?) khiến cô phục vụ Dina ngất đi.

Buổi tối nhắc đi nhắc lại tám lần liên tục các từ “ác-it-gnôc”, “ác-it”.

(Hàng chữ nghiêng bằng bút chì): Giáo sư đã giải mã tử “ác- it-gnôc”, có nghĩa là “Công ty cá”. Thật kỳ quái.

 

2 tháng giêng.

 

Chụp ảnh trong khi cười bằng chớp manhe.

Rời giường dậy và đứng vững trên hai chân sau chừng ba giờ. Cao gần bằng tôi.

 

(Trong vở có một tờ kẹp thêm vào).

 

Nền khoa học Nga suýt nữa thì chịu một tổn thất nặng nề.

Bệnh án

Của giáo sư Ph. Ph. Preobrajenski

 

Vào 1 giờ 13 phút giáo sư Preobrajenski bị ngất lịm. Trong khi ngã, ông đập đầu vào chân ghế. Cho dung dịch thuốc valeriana.

Trước mắt tôi và Dina, con chó (tất nhiên, nếu như có thể gọi nó là chó) đã chửi mẹ giáo sư Preobrajenski.

 

(Một khoảng cách trong vở ghi).

 

6 tháng giêng (khi thì bằng bút chì, khi thì bằng bút mực).

 

Hôm nay, sau khi rụng đuôi, nó nói hoàn toàn rõ ràng từ “quán - bia”. Máy ghi âm chạy liên tục. Có quỷ mới biết thế này là thế nào!!

Tôi hoàn toàn rối trí.

Giáo sư ngừng tiếp bệnh nhân. Bắt đầu từ năm giờ sáng trong phòng khám, nơi sinh vật đó đi đi lại lại, vẳng ra những tiếng chửi thô tục và mấy từ “Thêm một cặp nữa”.

 

7 tháng giêng.

 

Nó phát âm rất nhiều từ: “Xà ích”, “Hết chỗ rồi”, “Báo buổi chiều”, “Món quà tốt nhất cho trẻ em” và tất cả những từ chửi rủa tồn tại trong vốn từ vựng tiếng Nga.

Bề ngoài của nó trông thật quái dị. Lông chỉ còn lại trên đầu, dưới cằm và trên ngực. Toàn thân còn lại của nó trụi lông, da nhão nhợt. ở khu vực các cơ quan sinh dục - là một người đàn ông bắt đầu trưởng thành. Sọ lớn lên rất nhiều. Trán dốc và thấp.

 

Trời ơi, tôi điên lên mất!

 

Bác Philip Philippovich vẫn chưa bình phục. Phần lớn các quan sát do tôi tiến hành. (Ghi âm, chụp ảnh).

 

Tiếng đồn đã loang ra trong thành phố.

Hậu quả không thể tính hết được. Ngày hôm nay cả ngõ phố chật cứng những kẻ vô công rồi nghề và các bà già. Cho đến tận giờ bọn rỗi hơi đó vẫn còn đứng dưới cửa sổ.

Trên các báo buổi sáng xuất hiện một thông báo kỳ quặc:

“Những tin đồn về người sao Hỏa ở ngõ Obukhov là hoàn toàn không có căn cứ, chúng do mấy kẻ buôn bán trên phố Sukharevca tung ra và sẽ bị nghiêm trị”.

Quỷ quái thật, người sao Hỏa nào? Tất cả những cái này đúng như trong một cơn ác mộng.

Ở tờ “Báo buổi chiều” còn thú vị hơn - người ta viết rằng có một đứa bé vừa sinh ra đã biết chơi viôlông. Liền đó là tranh minh họa - chiếc viôlông và ảnh của tôi, phía dưới là hàng chữ “Giáo sư Preobrajenski, người đã làm thủ thuật Sezar cho người mẹ”. Đúng là hết chỗ nói...

Cái sinh vật nọ phát âm thêm một từ mới: “Công an”.

Hóa ra Daria Petrovna yêu thầm tôi và lấy trộm tấm ảnh của tôi trong tập an bom của bác Philip Philippovich.

Sau khi tôi đuổi đám phóng viên đi, một người trong bọn họ chui vào bếp, và vân vân...

Trong giờ tiếp bệnh nhân thật là hỗn loạn! Hôm nay đến 82 lần chuông gọi. Điện thoại phải ngắt. Các bà không con như phát rồ, xô nhau đến.

Đủ mặt hội đồng nhà cửa do Svonđer dẫn đầu. Đến để làm gì - bản thân họ cũng không biết.

 

8 tháng giêng.

 

Tối hôm nay đã tiến hành hội chẩn. Giáo sư Philip Philippovich, như một nhà bác học chân chính, đã thừa nhận sai lầm của mình - việc thay thế tuyến yên đã dẫn đến không phải sự trẻ hoá, mà là sự nhân hóa triệt để (gạch dưới ba lần). Điều này không hề làm giảm giá trị chút nào cái phát minh tuyệt vời chấn động này của giáo sư.

Sinh vật nọ hôm nay lần đầu tiên đi dạo trong căn hộ. Nhìn bóng điện ở ngoài hành lang và cười to. Rồi đi cùng với bác Philip Philippovich và tôi vào phòng làm việc. Nó đứng vững vàng trên hai chi sau (gạch xoá)... hai chân, gây ấn tượng là một người đàn ông nhỏ con và thể trạng kém.

Lại cười ở trong phòng làm việc. Nụ cười của nó gây cảm giác khó chịu và không tự nhiên. Rồi nó gãi gáy nhìn quanh, và tôi ghi được một từ mới phát âm rất rõ ràng: “Tư sản”. Rồi nó chửi rủa.

Tràng chửi rủa này rất có hệ thống, liên tục, không ngắt quãng, và có lẽ là hoàn toàn vô nghĩa. Nó có vẻ như ở một máy ghi âm thuần tuý: hình như trước đây sinh vật này nghe những lời chửi rủa kia ở đâu đó, ghi nhớ chúng một cách máy móc, không có ý thức, vào bộ não của mình, và bây giờ ném chúng ra từng băng. Nhưng mà tôi không phải là bác sĩ tâm thần học, quỷ tha ma bắt tôi đi!

Không hiểu sao những lời chửi rủa này lại gây nên ở bác Philip Philippovich một ấn tượng rất nặng nề. Có những thời điểm ông như mất bình tĩnh, không giữ được thái độ quan sát các hiện tượng một cách lạnh lùng và chuẩn mực. Chẳng hạn, trong lúc sinh vật nọ đang tuôn ra hàng tràng chửi rủa thì ông bỗng cáu kỉnh quát:

- Thôi ngay!

Nhưng điều đó chẳng mang lại hiệu quả gì.

Sau cuộc dạo chơi qua phòng làm việc, bằng nỗ lực chung Sarik đã được đưa trở lại phòng khám. Tiếp đó diễn ra cuộc hội ý giữa tôi với bác Philip Philippovich. Cần phải thú nhận rằng đây là lần đầu tiên tôi trông thấy con người thông minh lỗi lạc và tự tin này tỏ ra bối rối. Vừa lẩm bẩm hát theo thói quen hàng ngày, ông vừa hỏi: “Chúng ta sẽ làm gì bây giờ?”. Rồi tự mình trả lời nguyên văn như sau: “May đo Moskva, đúng thế... “Từ Sevilia đến Grenađa ”. May đo Moskva, bác sĩ thân mến ạ...”

Tôi không hiểu gì cả.

Ông giải thích:

 “Ivan Arnolđovich, tôi nhờ anh mua cho nó đồ lót, quần dài, áo vét”.

 

9 tháng giêng.

 

Vốn từ cứ trung bình năm phút tăng một từ mới, còn kể từ sáng nay thêm các câu trọn vẹn. Giống như chúng trước đây bị đông cứng lại trong ý thức, giờ đang tan dần và thoát ra ngoài.

Những từ đã thoát ra liền được giữ lại trong vốn sử dụng. Từ chiều qua máy ghi âm đã ghi lại: “Không được chen lấn”, “đồ đểu”, “xuống khỏi bậc ngay”, “tao sẽ cho mày biết tay”, “sự thú nhận của Hoa Kỳ” và “bếp dầu”.

 

10 tháng giêng.

 

Bắt đầu việc mặc quần áo. Đồng ý mặc áo lót một cách dễ dàng, thậm chí còn tươi cười vui vẻ. Không chịu mặc quần lót, tỏ ý phản đối bằng những tiếng hét khàn khàn: “Đứng vào hàng đi, quân chó đẻ, đứng vào hàng”. Cuối cùng đã mặc xong. Tất chân hơi rộng.

(Tiếp đó trong vở là những hình vẽ, có thể đoán được đó là sơ đồ mô tả quá trình biến chân chó thành chân người).

Nửa sau của bộ xương chân (planta) kéo dài ra. Các ngón duỗi dài. Móng. Lặp đi lặp lại có hệ thống việc huấn luyện sử dụng buồng vệ sinh.

Tâm trạng những người phục vụ rất nặng nề.

Nhưng cần phải ghi nhận rằng sinh vật này hiểu biết khá nhanh. Mọi việc có thể sẽ ổn.

 

11 tháng giêng.

 

Đã hoàn toàn quen với quần. Nói một câu đùa vui khá dài: “Nào, cho tôi xin một điếu thuốc, ơi anh quần sọc dài lướt thướt”.

Lông ở trên đầu mềm và mượt như tơ. Dễ nhầm với tóc. Nhưng trên đỉnh đầu vẫn còn mấy vết sém. Hôm nay những lông tơ cuối cùng ở tai đã rụng hết. Ăn khủng khiếp. Rất thích cá mòi.

Vào năm giờ chiều xảy ra một sự kiện: lần đầu tiên những lời của sinh vật này phát ra không tách rời hiện tượng xung quanh, mà là phản ứng đối với chúng. Cụ thể là, khi giáo sư ra lệnh: “Không được ném thức ăn thừa xuống sàn”, nó bất ngờ đáp: “Xéo đi đồ mạt kiếp!”.

Philip Philippovich sửng sốt, nhưng sau đó bình tĩnh lại và nói:

- Nếu như nhà ngươi còn dám chửi ta hoặc bác sĩ, nhà ngươi sẽ ăn đòn nên thân đấy.

Tôi đã chụp được ảnh Sarik vào đúng khoảnh khắc đó. Tôi dám chắc là nó hiểu được lời của giáo sư. Một thoáng cáu kỉnh lướt qua mặt nó. Nó nhìn gườm gườm khá giận dữ nhưng im lặng.

Hoan hô, nó hiểu được!

 

12 tháng giêng.

 

Cho hai tay vào túi quần.

Dần dần bớt chửi rủa.

Huýt gió bài “Ôi này quả táo xinh”.

Có thể nói chuyện được với người khác.

Tôi không thể không đưa ra vài giả thuyết: giờ thì hẵng tạm vứt cái chuyện trẻ hóa kia đi cho quỷ sứ đã. Có một vấn đề khác quan trọng hơn rất nhiều: thí nghiệm tuyệt vời của giáo sư Preobrajenski đã khám phá ra một trong những bí mật của bộ não người. Từ nay các chức năng bí ẩn của tuyến yên - phần phụ của não - đã được giải thích. Nó xác định diện mạo của con người, các hoocmon của nó có thể coi là các hoocmon quan trọng nhất trong cơ thể - các hoocmon diện mạo. Bắt đầu mở ra một lĩnh vực mới trong khoa học: không cần bình cổ cong của Phaust vẫn tạo ra được homunculus. Con dao mổ của nhà phẫu thuật đã cho ra đời một đơn vị người mới. Giáo sư Preobrajenski đích thực là một đấng tạo hóa. (Vệt nhòa).

Nhưng tôi đã đi lạc đề... Vậy là, nó có thể nói chuyện với người khác. Theo giả thuyết của tôi, căn nguyên là như sau: tuyến yên người được ghép vào đã mở ra trung tâm ngôn ngữ trong não chó, và các từ cứ thế mà tuôn ra. Theo tôi, trước mặt chúng ta là bộ não đã phát triển được làm sống lại chứ không phải não được tạo ra mới. Ôi, một sự khẳng định tuyệt vời của học thuyết tiến hoá! Ôi, một chuỗi mắt xích vĩ đại từ chó đến nhà hoá học Menđeleev!

Và thêm một giả thuyết của tôi: bộ não của Sarik trong giai đoạn làm chó của đời nó đã tích góp được vô số khái niệm. Tất cả những từ nó bắt đầu sử dụng trước hết là những từ đầu đường xó chợ mà nó nghe được và lưu giữ lại trong não. Bây giờ mỗi lúc đi ngoài phố, tôi nhìn những con chó gặp trên đường với một nỗi kinh hoàng ngấm ngầm. Có trời mới biết được những gì ẩn giấu trong các bộ não của chúng.

Sarik biết đọc. Biết đọc!!! (ba dấu chấm than). Tôi đã đoán ra điều đó? Qua từ “Công ty cá”! Đúng là nó đọc ngược từ cuối từ lên. Thậm chí tôi còn biết lời giải của câu đố này nằm ở đâu: trong quãng trống giữa các thần kinh thị giác của chó.

Chuyện gì đang xảy ra ở Moskva - trí tuệ con người không thể nào hiểu nổi. Bảy tay lái buôn ở phố Sukharevka đã phải ngồi tù vì tội tung tin đồn đại về ngày tận thế mà những người Bolsevich sẽ gây ra. Daria Petrovna kể như vậy và thậm chí còn nói ra cụ thể ngày tháng: ngày 28 tháng 11 năm 1925, vào ngày lễ đức thánh tuẫn vì đạo Stephan, trái đất sẽ văng lên trời... Một vài kẻ bịp bợm đã bắt đầu đi rao giảng.

Với cái tuyến yên kia chúng ta đã biến căn hộ thành một thứ quán trọ đến mức chỉ muốn bỏ chạy không ngoái cổ lại. Tôi đã chuyển đến nhà giáo sư Preobrajenski theo yêu cầu của ông và ngủ ở phòng tiếp khách cùng Sarik. Phòng khám biến thành phòng tiếp khách. Svonđer hoá ra đã nói đúng. Hội đồng nhà cửa hí hửng. Trong các tủ không còn lấy một tấm kính nào, vì Sarik cứ nhảy loạn cả lên. Phải khó khăn lắm mới bắt nó chừa được.

Có một cái gì đó kỳ lạ xảy ra với giáo sư Philip Philippovich. Khi tôi kể với ông về những giả thuyết của mình và về hy vọng giáo dục Sarik thành một nhân cách có tâm lý phát triển cao, ông cười khẩy và đáp: “Anh nghĩ thế à?”. Giọng của ông có vẻ không lành. Chẳng lẽ tôi sai lầm? Ông già đã nghĩ ra một điều gì đó. Trong khi tôi loay hoay với tập bệnh sử này thì ông ngồi đọc hồ sơ của người đàn ông đã cho chúng tôi tuyến yên.

 

(Trong vở có một tờ ghép thêm vào):

 

Lim Grigorievich Trugunkin, 25 tuổi, độc thân. Ngoài đảng, quần chúng cảm tình. Ra tòa ba lần và được trắng án: lần thứ nhất do không đủ tang chứng, lần thứ hai nhờ thành phần xuất thân cứu thoát, lần thứ ba - 15 năm khổ sai án treo. Ăn cắp.

Nghề nghiệp: chơi đàn balalaika ở các tiệm ăn.

Người thấp nhỏ, thể trạng yếu. Gan giãn rộng (vì rượu).

Nguyên nhân tử vong: bị dao đâm vào tim ở quán bia (quán “Tín hiệu dừng” ở cửa ô Preobrajenskaia).

 

Ông già vẫn ngồi mãi với bản hồ sơ bệnh của Trugunkin. Tôi không hiểu có vấn đề gì đây. Ông lẩm bẩm về việc không nghĩ trước đến chuyện xem xét toàn bộ thi hài của Trugunkin ở phòng giải phẫu bệnh lý. Có vấn đề gì, tôi không hiểu! Tuyến yên của ai thì có gì khác nhau đâu?

 

17 tháng giêng.

 

Đã mấy ngày qua không ghi: bị cúm.

Trong thời gian đó diện mạo cuối cùng của Sarik đã được xác định:

 

a) Một con người có cấu tạo cơ thể hoàn chỉnh;

b) Cân nặng gần ba put;

c) Cỡ người thấp nhỏ;

d) Đầu nhỏ;

e) Bắt đầu hút thuốc;

g) Ăn thức ăn của người;

h) Tự mặc quần áo;

i) Nói chuyện trôi chảy.

Tuyến yên là thế đấy (vệt nhòa).

 

Đến đây tôi kết thúc bản bệnh sử này. Trước mắt chúng ta là một cơ thể mới, việc theo dõi nó phải thực hiện từ đầu.

Kèm theo hồ sơ này có: các bản ghi tốc ký, băng ghi âm, ảnh chụp.

Ký tên: Trợ lý giáo sư Ph. Ph. Preobrajenski, Bác sĩ Bormental.

 

Chương 6

 

Một buổi chiều mùa đông, cuối tháng giêng. Vào trước giờ ăn cơm và tiếp bệnh nhân. Trên thanh đà thượng của cánh cửa dẫn vào phòng tiếp khách treo một tờ giấy trắng với dòng chữ do chính tay Preobrajenski viết:

 

“Cấm ăn hạt hướng dương trong nhà! Ph. Preobrajenski”.

 

Và hàng chữ cái to tướng viết bằng bút chì xanh của Bormental:

 

“Cấm chơi các loại nhạc cụ từ năm giờ chiều cho đến bảy giờ sáng”.

 

Tiếp đó là chữ của Dina:

 

“Khi nào trở về, nhớ nói với bác Philip Philippovich rằng không biết anh ta đi đâu cả. Bác Phedor bảo anh ta đi với Svonđer”.

 

Chữ của Preobrajenski:

 

“Tôi phải chờ người thợ kính hàng trăm năm nữa hay sao?”

 

Chữ của Daria Petrovna (viết kiểu chữ in):

 

“Dina đi ra cửa hàng, nói rằng sẽ dẫn về”.

 

Trong phòng ăn, dưới ánh sáng tỏa ra từ chiếc tán đèn bằng vải lụa, trời hệt như đã về đêm. ánh đèn từ tủ buýp phê hắt ra như bị cắt làm đôi - tấm kính cửa dán một đường chữ thập chéo suốt từ mép bên này đến mép bên kia. Philip Philippovich cúi xuống mặt bàn trên tờ báo lớn trải rộng. Khuôn mặt của ông loáng lên những tia chớp và qua kẽ răng của ông rơi xuống những lời nói nhát gừng, cụt lủn, như tiếng chim gù. Ông đang đọc một mẩu tin:

 

“Hoàn toàn không còn nghi ngờ rằng đó là đứa con ngoài giá thú (như thường vẫn nói trong cái xã hội tư sản thối nát) của ông ta. Các phần tử tư sản giả hiệu bác học của chúng ta tiêu khiển như thế đấy! Chiếm một mình bảy căn phòng thì ai cũng biết cách, cho đến khi lưỡi gươm công lý chưa vung lên đỏ rực trên đầu chúng”.

 

- Sv...r

Tiếng đàn balalaika vang lên dai dẳng với một sự nhanh nhẹn ngang tàng phía sau hai bức tường, và những âm thanh của khúc biến tấu rối rắm “Dưới ánh trăng soi” trộn lẫn trong đầu Philip Philippovich với những lời lẽ của mẩu tin thành một mớ hổ lốn đáng ghét. Đọc xong, ông nhổ khan qua vai và bất giác cất tiếng hát qua kẽ răng:

- “Dưới á-á-ánh trăng so-o-oi... dưới á-á-ánh trăng so-o-oi... dưới á-á-ánh trăng so-o-oi...”. Hừ, cái bài hát quỷ quái này, đã bám chặtvào rồi!

Ông bấm chuông. Khuôn mặt của Dina thò vào giữa hai tấm màn cửa.

- Nói với anh ta là đã năm giờ rồi, để anh ta thôi đi, và gọi anh ta đến đây.

*  *  *

Philip Philippovich ngồi trong ghế bành cạnh bàn. Giữa những ngón tay của bàn tay trái thò ra mẩu xì gà hút dở mầu nâu. Đứng cạnh màn cửa, tựa lưng vào mép cửa, hai chân bắt chéo lên nhau, là một con người thấp nhỏ, có vẻ ngoài khó gây thiện cảm. Tóc trên đầu gã thô cứng, mọc thành từng túm như những bụi cây trên một bãi đất bị đào xới, còn khuôn mặt phủ đầy lớp lông không cạo. Mảng trán thấp tịt đến mức đáng ngạc nhiên.

Mớ tóc bàn chải gần như bò xuống sát liền ngay với hàng lông mày đen mọc một cách hết sức vô tổ chức.

Chiếc áo vét bị rách toạc ở dưới nách trái dính đầy rơm, quần dài bằng vải sọc thủng gối phải, còn đầu gối trái bết một mảng sơn mầu tím nhạt. Trên cổ của gã người đó đeo một tấm cravát mầu xanh chói lòe loẹt với chiếc kim găm giả hồng ngọc. Mầu của chiếc cravát này sặc sỡ đến mức thỉnh thoảng nhắm cặp mắt mệt mỏi của mình lại, Philip Philippovich thấy trong bóng tối đen ngòm, khi thì trên trần nhà, khi thì trên tường, một ngọn đuốc sáng rực toả tán xanh lục. Vừa mở mắt ra, ông lại bị lóa mù một lần nữa, vì từ dưới sàn nhà, đôi giầy bốt tin ghệt trắng sơn véc ni hắt thẳngvào mắt ông một luồng ánh sáng hình rẻ quạt.

“Cứ hệt như đi ủng cao su”, - Philip Philippovich nghĩ với một cảm giác khó chịu, thở dài nặng nề, rồi quay ra loay hoay với điếu xì gà tắt lửa. Gã người đứng cạnh cửa nhìn giáo sư bằng ánh mắt mờ đục và rít thuốc lá, tàn thuốc rơi cả lên ngực áo sơ mi.

Chiếc đồng hồ treo trên tường cạnh con gà thông bằng gỗ đánh năm tiếng chuông. Khi Philip Philippovich bắt đầu cuộc nói chuyện, phía trong hộp đồng hồ có một cái gì đó vẫn còn rên rỉ.

- Tôi hình như đã hai lần bảo anh không ngủ trên gác lò sưởi ở trong bếp, nhất lại là ban ngày?

Gã người ho khàn khàn hệt như bị hóc xương, rồi đáp:

- Ở trong bếp không khí dễ chịu hơn.

Giọng của gã rất khác thường, vừa khàn khàn, lại vừa ồm ồm, hệt như chõ miệng vào một cái thùng nhỏ mà nói.

Philip Philippovich lắc đầu, hỏi:

- Cái của nợ kinh tởm này ở đâu ra? Tôi nói cái cravát ấy.

Gã người đưa mắt theo ngón tay, nhìn xuống chiếc cravát qua đôi môi dẩu ra:

- Tại sao lại “kinh tởm”? - gã cất tiếng.- Một chiếc cravát rất kẻng. Daria Petrovna tặng đấy.

- Daria Petrovna tặng anh một vật gớm guốc, cũng như đôi giày kia. Cái thứ ngớ ngẩn loè loẹt này là cái gì? ở đâu ra? Tôi đã bảo như thế nào? Mua một đôi giày cho lị-ịch sự-ự! Thế mà cái gì thế này? Chẳng lẽ bác sĩ Bormental chọn những thứ này à?

- Tôi bảo anh ấy mua loại giày sơn véc ni. Chẳng lẽ tôi thua kém người khác à? Ông cứ ra phố Kuznetski mà xem, ai cũng đi giày véc ni cả.

Philip Philippovich lại lắc đầu và nói dứt khoát:

- Từ nay không ngủ trên gác lò sưởi nữa, hiểu chưa? Tại sao lại cứ làm cái điều xấc láo như vậy! Anh quấy rầy người khác, ở đó toàn phụ nữ cả.

Mặt gã người tối sầm lại và cặp môi dẩu dài ra:

- Hừ, phụ nữ thì đã sao. Ghê gớm chưa. Cứ làm như các bà lớn không bằng. Một lũ đày tớ bình thường mà vênh váo cứ như nữ chính ủy ấy. Đây chắc là ả Dinka hớt lẻo.

Philip Philippovich lừ mắt nghiêm khắc:

- Không được gọi Dina là ả Dinka! Rõ chưa?

Im lặng.

- Rõ chưa, tôi hỏi anh.

- Rõ.

- Vứt cái miếng giẻ bẩn thỉu trên cổ ấy đi. Anh... mày... anh thử nhìn trong gương xem mình giống ai. Một thằng hề. Không vứt tàn thuốc xuống sàn nhà, tôi đã bảo hàng trăm lần rồi. Và làm sao để tôi không nghe thấy một lời chửi tục nào ở trong căn hộ này nữa! Không nhổ bậy! ống nhổ kia. Các bồn vệ sinh phải sử dụng cẩn thận. Chấm dứt nói chuyện với Dina. Cô ấy kêu rằng anh rình mò cô ấy trong bóng tối. Coi chừng đấy! Ai trả lời bệnh nhân: “Có chó nào biết được!”? Thế nào, anh đang ở trong một quán rượu hay sao, hả?

- Mà sao thế bố, bố gò ép con quá đấy, - gã người bỗng nói mếu máo.

Philip Philippovich đỏ mặt, cặp kính loáng lên.

- Ai ở đây là bố của anh? ở đâu ra cái thói suồng sã quá trớn như thế. Liệu đấy, để từ nay tôi không nghe thấy cái từ đó nữa. Hãy gọi tôi theo tên và phụ danh?

Một nét táo tợn lóe lên trên mặt gã người.

- Nhưng sao mà ông... Nào là không nhổ. Nào là không hút. Nào là không được đi... Thế này có nghĩa là thế nào? Cứ hệt như trên tàu điện ấy? Ông không để cho tôi sống nữa sao? Còn về chuyện “bố” ấy mà, ông nói vậy chỉ bằng thừa. Chẳng lẽ tôi đã đề nghị ông mổ cho tôi ư?- gã người sủa lên phẫn nộ.- Một việc làm thật tốt đẹp. Đè ngửa con người ta ra, lấy dao khoét đầu khoét bụng, còn bây giờ thì khinh miệt. Tôi có lẽ là đã không đồng ý mổ. Mà cả... (gã người ngước mắt lên trần nhà, như thể đang cố nhớ một công thức nào đó) cả những thân nhân của tôi cũng vậy. Có lẽ tôi có quyền đưa đơn kiện đấy.

Cặp mắt của Philip Philippovich trở nên tròn xoe tuyệt đối, điếu xì gà rơi tuột khỏi tay.

“Hừ, đúng là thằng láo!” - một ý nghĩ thoáng qua trong đầu ông.

- Thì ra anh không hài lòng là ta đã làm cho anh thành người? - ông nheo nheo mắt hỏi.- Thế nghĩa là anh lại muốn lang thang ở các bãi rác? Nằm co quắp cạnh các bức tường ngoài cổng? Hừ, nếu tôi biết vậy...

- Cái gì mà ông cứ đay nghiến mãi thế, bãi rác với bãi rưởi. Miếng ăn của tôi, tôi tự kiếm lấy. Còn nếu như tôi lần ấy chết ngỏm dưới lưỡi dao của ông thì sao? ông sẽ nói gì về điều đó, hử đồng chí?

- Gọi tôi là Philip Philippovich? - Philip Philippovich giận dữ quát.- Tôi không phải là đồng chí của anh! Thật là quái đản!

“Ác mộng, đúng là ác mộng!” - ông nghĩ trong đầu.

- Chứ sao nữa, tất nhiên là thế rồi...- gã người mỉa mai cất tiếng và đổi chân với một vẻ đắc thắng,- chúng tôi hiểu lắm chứ. Chúng tôi thì làm sao có thể đồng chí với ông? Đâu có được! Trường đại học chúng tôi chưa qua, căn hộ mười lăm phòng có bồn tắm, chúng tôi chưa được ở. Chỉ có điều bây giờ đã đến lúc từ bỏ những cái đó đi thôi. Ngày nay người nào cũng có quyền của mình...

Philip Philippovich tái mặt, nghe những lời lẽ của gã người. Hắn ngừng nói, vẻ dương dương bước đến bên chiếc gạt tàn, với điếu thuốc nhầu nát cầm trong tay. Dáng đi của hắn lắc lư vẻ ngang tàng. Hắn dụi đầu thuốc trong lòng chiếc gạt tàn bằng sứ rất lâu với bộ mặt như muốn nói lên thành lời:

“Cho ông đây này! Đây này!”. Dụi tắt điếu thuốc, trong khi bước về chỗ cũ, hắn bỗng đánh vập hai hàm răng vào nhau và dúi mũi vào dưới nách.

- Bắt rận bằng tay! Bằng tay!- Philip Philippovich quát lên dữ tợn.- Và tôi thật không hiểu, anh lấy rận từ đâu ra?

- Mà sao, chẳng lẽ tôi đẻ ra chúng à?- gã người tự ái.- Có lẽ là lũ rận yêu tôi,- vừa nói hắn vừa lấy ngón tay ngoáy dưới lần vải lót ống tay áo và ném vào không khí một nhúm lông nhẹ mầu hung.

Philip Philippovich ngước ánh mắt nhìn những hình hoa lá trang trí trên trần nhà và gõ ngón tay lên bàn. Gã người, sau khi trừng phạt xong con rận, bước lùi ra xa và ngồi xuống một chiếc ghế. Hai tay của hắn co lên đặt trước ngực, bàn tay gập lại buông thõng dọc theo tấm ve áo vét. Mắt nhìn xuống sàn. Hắn ngắm nghía đôi giày của mình, và điều đó mang lại cho hắn một khoái cảm lớn. Philip Philippovich nhìn đôi giày mũi tù hắt ánh sáng gay gắt, nheo mắt lại và nói:

- Anh có vấn đề gì muốn thông báo với tôi?

- Vấn đề vấn điếm gì đâu! Một việc đơn giản thôi mà. Giấy tờ tuỳ thân, ông Philip Philippovich ạ, tôi cần giấy tờ.

Philip Philippovich hơi sửng sốt.

- Hừm... quỷ quái thật! Giấy tờ! Quả nhiên... Hư-ừm... mà, có thể, cái này có thể bằng cách nào đó không cần... - giọng của ông nghe thiếu tự tin và rầu rĩ.

- Ông bỏ quá cho,- gã người nói đầy tự tin, - làm sao lại không có giấy tờ được? Điều đó thì xin lỗi. Ông cũng biết đấy, người không có giấy tờ thì bị nghiêm cấm tồn tại. Thứ nhất, hội đồng nhà cửa...

- Hội đồng nhà cửa liên quan gì ở đây?

- Sao lại không liên quan? Gặp bao giờ cũng hỏi: thưa anh kính mến, bao giờ thì anh đăng kí đấy?

- Ôi lạy Chúa,- Philip Philippovich thốt lên, ngán ngẩm,- gặp, hỏi... Tôi hình dung ra anh nói gì với họ. Nhưng tôi đã cấm anh lê la ngoài cầu thang kia mà.

- Sao, chẳng lẽ tôi là tù khổ sai à?- gã người tỏ ra ngạc nhiên, và cái ý thức về lẽ phải của mình cháy lên thậm chí ở cả trên chiếc kim găm bằng hồng ngọc giả của hắn. - Sao lại là “lê la”?! Những từ nhục mạ. Tôi cũng đi lại như mọi người khác.

Vừa nói, hắn vừa kéo miết đôi chân đi giày vécni trên sàn nhà.

Philip Philippovich im lặng, mắt nhìn đi hướng khác.

“Dù sao cũng phải kìm mình lại”, - ông nghĩ.

Bước đến bên tủ buýp phê, ông uống một hơi cạn cốc nước.

- Được rồi,- ông cất tiếng bình tĩnh hơn,- sự việc không phải ở lời nói. Vậy thì cái hội đồng nhà cửa dễ thương của anh nói gì?

- Họ thì còn nói gì nữa... Mà ông rủa họ “dễ thương” là vô ích. Họ bảo vệ quyền lợi.

- Quyền lợi của ai, cho phép tôi được hỏi?

- Rõ là của ai rồi - của người lao động.

- Tại sao anh lại là người lao động?

- Thì hiển nhiên tôi không phải là dân Nep.(*)

- Hừ, thôi được. Thế họ cần gì trong việc bảo vệ quyền lợi cách mạng của anh?

- Cái đó thì rõ rồi - đăng ký cư trú cho tôi. Họ nói: đời thuở nào lại có người sống ở Moskva mà không đăng ký hộ tịch. Đó là một. Nhưng cái quan trọng nhất là phiếu kiểm kê nhân khẩu. Tôi không muốn mang tiếng là người đào ngũ. Rồi lại còn công đoàn, sở lao động...

- Cho phép tôi được biết, tôi phải dựa vào đâu để đăng kí cho anh? Dựa theo cái khăn trải bàn ăn này hay theo số hộ khẩu của tôi? Dù sao thì cũng phải tính đến hoàn cảnh chứ ! Đừng quên rằng anh... è... Hừm... anh là, có thể nói, một sinh vật được sinh ra bất ngờ, một tạo vật thí nghiệm.- Philip Philippovich nói mỗi lúc một thiếu tự tin hơn.

Gã người im lặng một cách đắc thắng.

- Được rồi. Thế nhưng rốt cuộc thì phải làm gì để đăng ký cho anh và nói chung sắp xếp mọi chuyện theo kế hoạch của cái hội đồng nhà cửa kia của anh? Bởi vì cả họ lẫn tên anh đều không có.

- Ông nói như vậy là không công bằng. Tên thì tôi có thể chọn cho mình một cách hết sức dễ dàng. In một mẩu tin lên báo, thế là xong.

- Thế anh lấy tên gì?

Gã người sửa lại cravát và đáp gọn:

- Poligraph Poligraphovich.

- Đừng nói ngớ ngẩn nữa,- Philip Philippovich cau mày nói.- Tôi nói nghiêm chỉnh với anh đấy.

Một nụ cười nhạt độc địa làm méo mó hàng ria của gã người.

- Tôi thật không hiểu nổi,- hắn nói bằng giọng vui vẻ và đầy hiểu biết.- Tôi thì chửi mẹ không được phép, nhổ bậy không được phép. Còn ở miệng ông thì tôi chỉ nghe “ngớ ngẩn, ngớ ngẩn”. Hình như ở Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết này chỉ có các giáo sư là được phép chửi hay sao ấy.

Philip Philippovich bốc máu lên mặt; và trong khi rót nước trong bình ra, ông đánh vỡ một chiếc cốc. Uống cạn nước trong một chiếc cốc khác, ông nghĩ: “Chỉ thêm ít nữa là hắn ta sẽ bắt đầu dạy mình và hắn sẽ hoàn toàn có lý. Mình không thể kìm mình được nữa”.

Ông quay người trên ghế ngồi, với vẻ lịch thiệp thái quá đặt cốc nước xuống và nói bằng giọng rắn rỏi sắt đá:

- Xin lỗi. Thần kinh tôi quá căng thẳng. Tôi cảm thấy cái tên của anh có vẻ kỳ quặc. Tôi muốn biết anh đào ở đâu ra một cái tên như vậy?

- Đó là theo lời khuyên của hội đồng nhà cửa. Họ xem lịch, hỏi tôi thích tên nào. Tôi chọn một tên.

- Không một tờ lịch nào có cái gì như vậy cả.

- Thật đáng ngạc nhiên, - gã người cười khẩy, - nó treo ở phòng khám của ông ấy.

Không đứng lên, Philip Philippovich vươn tay ấn nút điện trên tường, và Dina xuất hiện sau tiếng chuông gọi.

- Lấy tờ lịch ở phòng khám vào đây.

Một thoáng im lặng. Khi Dina mang tờ lịch đến, Philip Philippovich hỏi:

- Ở đâu?

- Lễ tổ chức vào mồng bốn tháng Ba.

- Chỉ xem... Hừm... Quỷ quái thật... Cho vào lò sưởi Dina, ngay bây giờ.

Dina sợ hãi tròn mắt mang tờ lịch đi ra, còn gã người lắc đầu đầy trách móc.

- Thế còn họ?

- Họ thì tôi đồng ý kế thừa.

- Sao? Kế thừa? Cụ thể?

- Sarikov.

* * *

Đứng trước bàn trong phòng làm việc là chủ tịch hội đồng nhà cửa mặc chiếc áo khoác ngắn bằng da. Bác sĩ Bormental ngồi trong ghế bành. Trên khuôn mặt hồng hào vì lạnh của bác sĩ (anh vừa mới về đến nơi) cũng lộ một vẻ bối rối hệt như ở Philip Phiìippovich ngồi bên cạnh.

- Viết như thế nào?- ông nóng nảy hỏi.

- Có gì đâu, - Svonđer đáp.- Sự việc rất đơn giản. Viết giấy chứng thực, thưa giáo sư. Rằng người mang giấy này đích thực là Sarikov Poligraph Poligraphovich, hèm... được sinh ra... hèm... trong căn hộ của ông.

Bormental cáu kỉnh cựa quậy trong ghế. Philip Philippovich giật giật ria mép.

- Hừm... đúng là quỷ quái? Không thể nào hình dung ra một chuyện nào ngớ ngẩn hơn. Anh ta không sinh ra ở đâu cả, mà đơn giản chỉ là... nói ngắn gọn...

- Đó là việc của ông,- Svonđer nói với vẻ độc địa thản nhiên,- là anh ta sinh ra hay không...

- Tóm lại và nói chung là ông làm thí nghiệm, giáo sư ạ? Chính ông đã làm ra công dân Sarikov. Và bằng một cánh hết sức đơn giản, - Sarikov đứng cạnh tủ sách sủa ra. Hắn đang ngắm nghía bóng chiếc cravát in trong khoảng không không đáy của mặt gương.

- Tôi vô cùng yêu cầu anh,- Philip Philippovich vặc lại, - không được nói chen vào. Anh vô cớ nói rằng “hết sức đơn giản”, việc đó không đơn giản đâu.

- Làm sao tôi lại không chen vào được,- Sarikov tự ái làu bàu.

Svonđer ngay tức thì ủng hộ hắn ta:

- Xin lỗi giáo sư, nhưng công dân Sarikov hoàn toàn có lí. Đây là quyền của anh ấy, được tham dự vào việc thảo luận về số phận của chính mình, đặc biệt là khi sự việc liên quan đến các giấy tờ. Giấy tờ là cái quan trọng nhất trên đời.

Vừa đúng lúc ấy một tiếng chuông chói tai réo lên đột ngột.

Philip Philippovich nói vào ống nghe “vâng”, rồi đỏ mặt quát lên:

- Đề nghị không quấy rầy tôi bằng những chuyện nhảm nhí. Việc gì đến ông?- và ông đặt mạnh ống nghe lên giá đỡ.

Một nét vui mừng thoáng lướt trên mặt Svonđer.

Philip Philippovich tím mặt, hét:

- Tóm lại, chấm dứt việc này.

Ông xé một tờ giấy từ trong cuốn sổ tay, viết nhanh mấy chữ, rồi cáu kỉnh đọc thành tiếng:

- Tôi xin chứng thực rằng... có ma nào biết được cái gì thế này... Hừm... mang giấy này là người được tạo ra trong phòng thí nghiệm sau ca mổ não, cần được cấp giấy tờ tùy thân... Thật là quỷ quái! Mà nói chung tôi phản đối việc nhận những giấy tờ ngu xuẩn này. Ký tên: Giáo sư Preobrajenski.

- Thật là lạ lùng đấy, thưa giáo sư, - Svonđer chạm nọc. - sao ông lại dám gọi giấy tờ là ngu xuẩn? Tôi không thể cho phép ngụ trong nhà một người không có giấy tờ, mà lại còn chưa được công an đăng ký quân dịch. Ngộ nhỡ xảy ra chiến tranh với bọn đế quốc lang sói thì sao?

- Tôi sẽ không đi chiến đấu đâu! - Sarikov bỗng gầm gừ vào cánh tủ.

Svonđer sửng sốt, nhưng trấn tĩnh ngay lại và lịch thiệp cảnh cáo Sarikov:

- Công dân Sarikov, anh phát biểu vô cùng thiếu ý thức. Cần phải đăng ký quân dịch.

- Tôi sẽ đăng ký, nhưng chiến đấu thì… xin kiếu. - Sarikov đưa tay sửa lại dải cravát, đáp lời với vẻ thù địch.

Bây giờ đến lượt Svonder bối rối. Preobrajenski giận dữ và chán nản trao đổi ánh mắt với Bormental: “Anh thấy chưa - đạo đức đấy”. Bormental gật đầu nhiều ngụ ý.

- Tôi đã bị thương nặng trong ca mổ. Anh thấy chưa, người ta đã làm tôi ra như thế này đây,- và hắn chỉ lên đầu. Một vết sẹo còn rất mới chạy suốt ngang trán.- Sarikov tru lên não nề.

- Anh là người cá nhân vô chính phủ có phải không? Thôi được rồi, hiện thời chưa quan trọng, việc bây giờ là chúng ta gửi tờ chứng nhận này của giáo sư cho công an và người ta sẽ cấp giấy tờ cho anh.

- Có một việc, là... - Philip Philippovich bỗng cắt ngang lời anh ta, rõ ràng ông đang bị một ý nghĩ nào đó giày vò,- trong khu nhà này của các anh có sẵn phòng nào để trống không? Tôi sẵn sàng mua.

Trong cặp mắt nâu của Svonđer xuất hiện những tia lửa vàng.

- Không, thưa giáo sư, rất tiếc. Và sẽ không có đâu.

Philip Philippovich cắn chặt môi không đáp. Tiếng chuông lại réo lên chói tai. Philip Philippovich, chẳng nói lấy một lời nào, hất ống nghe từ trên giá đỡ xuống khiến nó quay đảo một lúc rồi treo lủng lẳng trên sợi dây mầu xanh da trời. Tất cả đều giật mình.

“Ông già cáu kỉnh quá rồi”,- Bormental nghĩ thầm, còn Svonđer, mắt ánh lên lấp lánh, cúi chào và bước ra khỏi phòng. Sarikov, nghiến đế giày trên sàn, cũng bước ra theo.

Giáo sự còn lại trong phòng với Bormental.

Im lặng một lát, Philip Philippovich khẽ lắc đầu nói:

- Đúng là ác mộng. Anh có thấy không? Xin thề với anh, bác sĩ thân mến ạ, là trong hai tuần lễ vừa rồi tôi phải căng thẳng mệt mỏi hơn cả mười bốn năm gần đây cộng lại! Tôi xin nói với anh, đúng là thằng láo....

Từ xa có tiếng kính vỡ, một tiếng rú của phụ nữ bay vọt lên rồi ngay lập tức tắt lịm. Có cái gì như ma quỷ sột soạt theo giấy bồi tường trong hành lang chạy về phòng khám, đến đó một vật gì đấy khua đánh ầm rồi tức khắc bay ngược trở lại. Tiếng cánh cửa đập mạnh, và từ trong bếp vọng ra tiếng kêu giọng trầm của Daria Petrovna. Rồi Sarikov rống lên.

- Trời đất ơi, lại còn cái gì nữa đây! - Philip Philippovich hét to, nhảy bổ ra cửa.

- Mèo, - Bormental đoán và chạy vội theo ông. Họ phóng dọc hành lang, xông vào phòng ngoài, rồi từ đó rẽ sang hành lang dẫn đến buồng tắm và buồng vệ sinh. Dina từ trong bếp vọt ra đâm sầm vào người Philip Philippovich.

- Đã bao nhiêu lần tôi ra lệnh là không được để mèo vào đây, - Philip Philippovich hét lên trong cơn điên khùng. - Hắn ở đâu rồi? Ivan Arnolđovich, vì Chúa, nhờ anh nói hộ với khách trong phòng khám để họ yên tâm.

- Trong buồng tắm; con quỷ đáng nguyền rủa ngồi trong buồng tắm ấy, - Dina thở hổn hển hét...

Philip Philìppovich đẩy mạnh cánh cửa buồng tắm, nhưng nó đóng chặt.

- Mở ra ngay tức khắc!

Đáp lại có cái gì đó nhảy loạn trên các bức tường của buồng tắm đóng chặt, xô chậu rơi loảng xoảng, giọng điên loạn của Sarikov gầm lên sau lần cửa:

- Tao giết chết tươi...

Tiếng nước réo trong ống, rồi nước chảy ồ ồ. Philip Philippovich đè cả người lên cánh cửa, cố hết sức mở ra. Daria Petrovna xuất hiện nơi cửa bếp, mặt méo xệch, người nóng bừng. Rồi tấm kính ở trên cao, sát trần buồng tắm giáp với bếp, bỗng nứt tung, hai mảnh vỡ rơi xuống, và từ đó vọt ra một con mèo cực lớn lông vằn như lông hổ với một dải nơ xanh thắt ngang cổ hệt như một viên thị trưởng: Con mèo rơi thẳng xuống một chiếc đĩa dài đặt trên bàn, làm nó vỡ đôi; từ trên bàn, nó nhảy xuống sàn nhà, rồi quay tròn trên ba chân, còn chân phía trước vung vẩy như đang khiêu vũ, và liền đó chui tọt qua khe cửa hẹp dẫn ra cầu thang hậu. Khe cửa mở rộng dần ra, và thay vào chỗ con mèo là một bà già đầu trùm khăn. Chiếc váy vải hoa đốm trắng của bà già tiến vào trong bếp. Bà già đưa hai ngón tay cái và trỏ vuốt quanh lỗ miệng móm mém, cặp mắt xoi mói mí sưng phù nhìn quanh bếp, thốt lên vẻ tò mò:

- Ôi lạy chúa Giêsu!

Philip Philippovich, người tái nhợt, đi vội qua căn buồng bếp và hỏi bằng giọng dữ tợn:

- Bà cần gì?

- Tôi muốn xem con chó biết nói, - bà già lắp bắp đáp và làm dấu thánh.

Mặt Philip Philippovich càng tái nhợt thêm, ông bước đến sát bà già rít lên bằng giọng tắc nghẹn:

- Ngay tức khắc bước ra khỏi bếp!

Bà già lui ra phía cửa và giận dỗi cất tiếng:

- Gì mà quá quắt thế, thưa ngài giáo sư.

- Bước ra ngay, tôi bảo! - Philip Philippovich nhắc lại, và mắt ông tròn xoe như mắt cú. Ông tự tay dập mạnh cánh cửa dẫn ra cầu thang hậu sau lưng bà già.

- Daria Petrovna, tôi đã bảo chị rồi kia mà?!

- Thưa bác. Philip Philippovich, - Daria Petrovna tuyệt vọng đáp, hai cánh tay trần xoắn lại với nhau, - cháu biết làm gì được ạ? Suốt ngày người cứ xô nhau đến, có bỏ hết mọi việc đi cũng chẳng cản được.

Nước trong buồng tắm chảy òng ọc và dữ tợn, nhưng không còn nghe thấy tiếng kêu nữa.

Bác sĩ Bormental bước vào.

- Ivan Arnolđovich, tôi khẩn thiết nhờ anh... hừm... ngoài đó có bao nhiêu người khách?

- Mười một,- Bormental đáp.

- Mời họ về, hôm nay tôi không tiếp đâu.

Philip Philippovich co ngón tay lại gõ mạnh vào cánh cửa và gọi to:

- Ra ngay lập tức. Tại sao anh khoá cửa lại?

- Hu hu! - giọng của Sarikov đáp trầm đục và mếu máo.

- Quỷ sứ gì thế này?... Tôi không nghe rõ, vặn nước lại!

- Hau! Hau!...

- Khoá ngay vòi nước lại. Hắn ta làm cái gì thế, tôi không biết nữa!... - Philip Philippovich nổi khùng, quát lớn.

Dina và Daria Pet'rovna há hốc miệng tuyệt vọng đứng nhìn cánh cửa. Hòa thêm vào tiếng nước chảy là tiếng động đáng ngờ. Philip Philippovich lại đấm vào cánh cửa.

- Hắn kia kìa! - Daria Petrovna từ trong bếp kêu lên.

Philip Philippovich nhảy bổ đến nơi đó. Trong ô cửa sổ vỡ sát trần nhà, bộ mặt méo xệch của Poligraph Poligraphovich thò vào bếp. Nước mắt chảy ròng ròng, còn cạnh mũi một vết cào kéo dài ứa máu tươi.

- Anh điên đấy à? - Phiìip Philippovich hỏi. - Tại sao anh không ra?

Sarikov nhìn xuống với vẻ kinh hoàng, đáp:

- Tôi bị khóa lại rồi.

- Mở khoá ra. Chẳng lẽ anh chưa bao giờ trông thấy khóa?

- Nhưng nó không chịu mở, cái đồ khốn nạn ấy!

Poligraph sợ hãi đáp.

- Cha mẹ ơi! Anh ta sập chốt an toàn lại rồi? - Dina hét to và vung hai tay lên trời.

- Ở đó cần một nút bấm? - Philip Philippovich gào lên, cố át tiếng nướcchảy. - ấn nó xuống... ấn xuống dưới, ấn xuống..

Sarikov biến mất, và một phút sau lại hiện ra ở cửa sổ.

- Chẳng thấy chó gì cả, - hắn kinh hoàng sủa qua lỗ kính vỡ.

- Thì bật đèn lên. Hắn điên mất rồi!

- Con mèo khốn kiếp đã làm vỡ mất bóng đèn, - Sarikov đáp, - còn tôi thì túm lấy chân con vật đểu cáng đó, làm văng cả vòi nước, bây giờ đếch tìm thấy.

Cả ba vung tay lên trần nhà và đứng sững như trời trồng trong tư thế ấy.

Năm phút sau, Bormental. Dina và Daria Petrovna ngồi xổm cạnh nhau trên tấm thảm ướt cuốn tròn lại cạnh buồng tắm và cố nhét nó vào khe phía dưới cánh cửa. Còn ông gác cửa Pheđor tay cầm ngọn nến cưới của Daria Petrovna thắp sáng bò theo chiếc thang gỗ chui vào cửa tò vò trên mái.

Mảng đít quần bằng vải xám kẻ ô lớn tướng của ông ta thấp thoáng trên không rồi biến mất sau ô cửa.

- Đu... hu-hu! - Sarikov gào một cái gì đó trong tiếng nước

Qua ô cửa sổ nước trong vòi bị nén lại bắn toé lên trần nhà réo mấy lần rồi ngừng chảy.

Từ phía trong vẳng ra giọng của Pheđor:

- Bác Philip Philippovich, dù sao thì cũng phải mở cửa, cứ để nó tràn ra, ta sẽ cho thoát qua lối bếp.

- Mở đi! - Philip Philippovich giận dữ quát.

Ba người rời thảm đứng dậy, cánh cửa từ buồng tắm bật ra, và nước lập tức ùa vào hành lang. Ở đây nó chia thành ba dòng, đi thẳng vào buồng vệ sinh đối diện, sang phải vào bếp và sang trái ra phòng ngoài. Nhảy bì bõm trong nước, Dina chạy đến đóng cửa dẫn ra phòng ngoài. Pheđor bước ra, nước ngập đến mắt cá chân, và không hiểu sao lại mỉm cười. Trông ông ta hệt như đang mặc áo mưa, cả người ướt sũng.

- Gay go lắm mới bịt vòi lại được, chảy mạnh quá.- ông ta giải thích.

- Anh ta đâu? - Philip Philippovich hỏi và vừa chửi rủa vừa nhấc một chân lên.

- Sợ không dám ra, - cười khẩy một cách ngây ngô, Pheđor giải thích.

- Bố có đánh không đấy ạ, thưa bố? - Từ buồng tắm vẳng ra giọng lè nhè của Sarikov.

- Đồ ngu! - Philip Philippovich đáp cụt lủn.

Dina và Daria Petrovna kéo váy lên tận đầu gối, chân để trần, cùng Sarikov và người gác cửa quần xắn cao, đi chân không, lăn giẻ ướt trên sàn nhà cho thấm nước rồi vắt vào bồn sứ và mấy chiếc xô bẩn. Cái bếp lò không ai ngó đến reo ù ù. Nước chảy qua khe cửa ra cầu thang âm u rồi rơi thẳng xuống hầm nhà.

Bormental đứng nhón chân trong vũng nước sâu đọng trên sàn nhà ở phòng ngoài và thương lượng với các khách hàng qua cánh cửa có móc xích hé mở.

- Hôm nay giáo sư bị mệt không khám được. Các ông bà làm ơn lui ra khỏi cửa, ống dẫn nước của chúng tôi bị vỡ...

- Thế khi nào thì khám? - một giọng nói phía bên kia cánh cửa, - tôi chỉ cần một phút...

- Tôi không thể, - Bormental hết nhón chân lại đứng xuống gót, - giáo sư phải nằm nghỉ, còn ống nước thì bị vỡ. Xin ngày mai đến. Dina! Nào, hãy lau từ đây đi, không thì nước chảy ra cả cầu thang cửa chính.

- Giẻ không hút nước nữa rồi.

- Bây giờ ta sẽ lấy ca múc,- Pheđor lên tiếng, - đợi cho một tí!

Tiếng chuông vang lên liên tục, và Bormental đã đứng ngập cả đế giày trong nước.

- Khi nào sẽ mổ?- Giọng nói bám dai dẳng và cố tìm cách chúi đầu qua khe cửa.

- Ống nước bị vỡ...

- Tôi sẽ đi bằng ủng cao su... - Những bóng lờ mờ hiện lên phía bên kia cánh cửa.

- Không vào được, mời ngày mai đến.

- Còn tôi đã đăng ký rồi.

- Ngày mai. Đang gặp tai họa với ống dẫn nước.

Pheđor quỳ cạnh chân bác sĩ dùng ca múc nước, còn Sarikov rách mặt thì nghĩ ra một phương pháp mới. Hắn ta cuộn tấm giẻ lớn tướng thành con lăn rồi nằm sấp xuống sàn nhà dồn nước từ phòng ngoài trở lại buồng vệ sinh.

- Cái đồ trời đánh kia, làm gì mà cứ dồn loang ra khắp nhà thế? - Daria Petrovna nổi cáu.- Đổ vào trong bồn ấy.

- Vào bồn thế nào được,- lấy bàn tay vục nước đục ngầu, Sarikov đáp, - nó chảy ra cửa chính mất.

Từ hành lang, một chiếc ghế băng kêu cót két trượt vào, Philip Philippovich, chân đi tất sọc xanh, đứng thẳng người vung tay lấy thăng bằng trên ghế.

- Ivan Arnoldovich, thôi đừng trả lời nữa. Đi vào phòng ngủ đi, tôi đưa giày cho.

- Không sao đâu, bác Philip Philippovich ạ, chuyện vặt thôi mà.

- Đi ủng vào.

- Không cần ạ. Trước sau gì chân cũng đã ướt rồi.

- Ôi, trời đất.- Philip Philippovich thốt lên ngán ngẩm.

- Cái đồ súc vật này thật tệ hại! - Sarikov bỗng thốt lên và trượt ngồi từ trong bếp ra với chiếc bát đựng súp cầm trong tay.

Bormental đóng sập cửa lại, không nín được, phá ra cười. Hai lỗ mũi của Philip Philippovich phập phồng, cặp mặt kính loáng lên.

- Anh nói về ai thế? - Từ trên ghế cao, ông hỏi Sarikov.- Xin phép được biết.

- Tôi nói về con mèo. Đồ đốn mạt, - Sarikov đảo mắt nhìn quanh, đáp.

- Sarikov, anh biết không, - Philip Philippovich thở lấy hơi, nói, - tôi đúng là không biết một kẻ nào trơ tráo hơn anh.

Bormental cười hì hì.

- Anh, - Philip Philippovich vẫn tiếp tục,- đúng là vô liêm sỉ. Làm sao anh lại dám nói như vậy? Chính anh đã gây ra tất cả mọi chuyện, rồi lại còn... Mà không? Chỉ có quỷ sứ mới biết…

- Sarikov, nói tôi nghe xem, - Bormental lên tiếng, - anh sẽ còn đuổi theo mèo đến bao giờ nữa? Thật xấu hổ! Một chuyện ngu xuẩn!

- Đúng là man rợ!

- Tại sao lại man rợ, - Sarikov cau có đáp, - tôi chẳng man rợ tí nào hết. Tôi không thể nào chịu nổi mèo ở trong nhà. Chỉ chực tìm cách cuỗm một cái gì đó. Nó đã xực bao nhiêu thịt băm của chị Daria Petrovna. Tôi muốn dạy cho nó một bài học.

- Phải dạy cho chính anh thì có!- Philip Philippovich nói. - Hãy ngó thử vào mặt mình trong gương xem.

- Thiếu tẹo nữa thì tiêu con mắt, - Sarikov đưa bàn tay ướt bẩn thỉu sờ lên mắt, hậm hực đáp. Khi sàn nhà đen thẫm lại vì ẩm đã bắt đầu khô đi, tất cả các mặt gương đều phủ một lớp hơi nước mờ đục, và tiếng chuông cũng ngừng réo, thì Philip Philippovich, chân đi đôi giày da cừu đỏ chói, đứng ở phòng ngoài.

- Xin gửi ông, Pheđor!

- Xin đa tạ ông ạ.

- Đi thay ngay áo quần đi. Và nữa: đến chỗ Daria Petrovna uống một chút vốtka.

- Xin đa tạ ông ạ, - Pheđor ấp úng một lát, rồi nói:

- Còn một việc nữa, thưa ông Philip Philippovich. Xin ông lượng thứ cho, quả là phiền lòng quá. Số là cửa kính căn hộ số bảy... Công dân Sarikov ném đá...

- Ném mèo hả?- Philip Philippovich sầm mặt lại như mây giông, hỏi.

- Khốn khổ là lại ném ông chủ căn hộ ấy. Ông ta đã doạ kiện ra toà…

- Đồ quỷ kia!

- Sarikov đi ôm chị nấu bếp bên ấy, ông ta đến đuổi, thế là cãi nhau.

- Vì Chúa, xin ông bao giờ cũng báo ngay cho tôi những chuyện như thế. Cần bao nhiêu?

- Mười lăm ạ.

Philip Philippovich rút ra ba tờ năm rúp mới tinh và trao cho Pheđor.

- Lại còn trả cho thằng đểu ấy mười lăm rúp, - một giọng nói khàn đục vang lên cạnh cửa ra vào, - mà chính hắn ta đã...

Philip Philippovich quay phắt lại, cắn môi và không nói một lời bước đến sát bên Sarikov, dồn hắn vào phòng tiếp khách và khóa trái cửa lại. Từ phía trong Sarikov lập tức đấm ầm ầm vào cánh cửa.

- Không được phép! - Philip Philippovich quát lên bằng một giọng rõ ràng là của người ốm.

- Mà quả là đúng như vậy,- Pheđor nói đầy hàm ý,- một kẻ trơ tráo đến thế trong đời tôi chưa hề thấy.

Bormental như từ dưới đất mọc lên.

- Bác Philip Philippovich, xin bác đừng quá lo phiền.

Chàng bác sĩ hăng hái đến mở cửa bước vào phòng tiếp khách, và từ đó vang lên giọng của anh:

- Anh làm gì thế hả? Ở trong quán rượu chắc?

- Đúng thế... - ông già Pheđor cứng rắn cũng phụ họa vào. - Phải như thế mới được... Giá cho thêm mấy bạt tai...

- Sao lại thế được, ông Pheđor.- Philip Philip povich buồn bã lẩm bẩm.

- Ấy xin ông, chúng tôi thương ông thôi, ông Philip Philippovich ạ.

 

Chương 7

 

- Không, không, không được? - Bormental kiên quyết nói. - Xin anh mang vào.

- Chà, quả thật, mà... - Sarikov làu bàu khó chịu.

- Cám ơn bác sĩ, - Philip Philippovich dịu dàng nói. - Tôi nhắc nhở mãi đến phát ngấy lên rồi.

- Dù sao thì tôi cũng không cho phép anh ăn nếu như chưa mang khăn ăn vào. Dina, cất đĩa cá sốt dầu của Sarikov đi.

- Sao lại “cất” là thế nào? - Sarikov sửng sốt. - Tôi sẽ mang ngay bây giờ.

Hắn đưa bàn tay trái che đĩa cá xốt dầu không cho Dina lấy, còn tay phải nhét tấm khăn ăn vào sau cổ áo, khiến hắn trông giống như một người khách trong hiệu cắt tóc.

- Và nhớ là phải ăn bằng dĩa đấy? - Bormental nói thêm.

Sarikov thở vào thật dài và bắt đầu dùng dĩa vớt những miếng cá tẩm dầu trong đĩa xốt đặc.

- Tôi còn có thể uống thêm chút vốtka? - hắn nửa hỏi nửa tuyên bố.

- Có lẽ với anh thế là đủ? - Bormental hỏi lại,- thời gian gần đây anh uống quá nhiều vốtka đấy.

- Anh tiếc à? - Sarikov hỏi và nhìn gằm gằm.

- Đừng nói vớ vẩn. - Philip Philippovich nghiêm khắc nói, nhưng Bormental cắt lời ông:

- Bác Philip Philippovich, bác để mặc cháu. Sarikov, anh toàn nói những chuyện vớ vẩn, và tệ hại nhất là anh nói một cách quyết đoán, tự tin. Tất nhiên là tôi không tiếc vốtka, nhất là nó không phải của tôi, mà của bác Philip Philippovich. Chỉ đơn giản là nó có hại. Đó là một; còn thứ hai là kể cả khi không uống vốtka, anh cũng cư xử thiếu lịch sự rồi..

Bormental chỉ lên tấm kính tủ buyp phê vỡ đã được dán lại..

- Dina, lấy cho tôi thêm ít cá, - giáo sư cất tiếng gọi.

Trong lúc đó Sarikov vươn tay về phía bình rượu và vừa liếc nhìn Bormental vừa rót vào ly của mình.

- Anh cần phải rót mời cả người khác nữa, - Bormental nói, - và theo thứ tự sau: đầu tiên là bác Philip Philippovich, rồi đến tôi, cuối cùng mới rót cho mình..

Một nụ cười mỉa thoáng lướt qua miệng Sarikov và gã rót rượu ra các li.

- Mọi thứ ở chỗ các người cứ như trên đại tiệc ngoại giao ấy, - gã nói. - Khăn ăn này, cravát này, rồi nào “xin lỗi”, nào “không dám”, “merci”, còn để một cách thật sự thì không. Các người tự hành hạ chính mình, như dưới chế độ Nga hoàng ấy.

- Cho phép tôi được hỏi, “một cách thật sự” nghĩa là thế nào?

Sarikov không nói gì để trả lời câu hỏi của Philip Philippovich, nhấc li lên và nói:

- Nào, tôi xin chúc mọi chuyện...

- Và chúc anh cũng vậy, - Bormental đáp lại với vẻ ít nhiều giễu cợt.

Sarikov hất chỗ rượu trong li vào miệng mình, nhăn mặt, đưa mẩu bánh mì lên mũi ngửi, rồi nuốt chửng, khiến nước mắt ứa ra.

- Di truyền, - Philip Philippovich bỗng nói nhát gừng, như trong cơn mê sảng.

Bormental ngó sang ngơ ngác.

- Xin lỗi..

- Di truyền! - Philip Philippovich lặp lại, và lắc đầu với vẻ cay đắng. - ở đây chẳng thể làm gì được đâu! Klim!

Bormental nhìn xoáy vào mắt Philip Philippovich với vẻ tò mò cực độ.

- Bác cho là thế sao, bác Philip Philippovich?

- Không phải cho, mà chắc chắn là như vậy.

- Chẳng lẽ... - Bormental lên tiếng, nhưng dừng lại và liếc nhìn sang Sarikov.

Gã nghi hoặc cười khẩy.

- Spater (*)... - Philip Philippovich nói khẽ.

- Gut (*)... - viện bác sĩ trợ lý đáp.

Dina mang món gà tây vào. Bormental rót rượu vang đỏ cho Philip Philippovich và ngỏ ý mời Sarikov.

- Tôi không thích. Tốt hơn là tôi uống vốtka. - Mặt gã vấy dầu, mồ hôi rịn ra trên trán; gã tỏ ra thật vui vẻ. Và cả Philip Philippovich sau chén rượu vang cũng trở nên dễ dãi. Mắt ông long lanh, ông nhìn Sarikov ít nhiều độ lượng hơn. Chiếc đầu đen của gã nổi lên giữa tấm khăn ăn trông như một con ruồi đậu trên bãi váng sữa.

Còn Bormental, sau khi đã chắc bụng, lại tỏ ra ham hoạt động.

- Thế nào đây, tối nay chúng ta sẽ làm gì nhỉ?

Anh hỏi Sarikov.

Gã hấp háy mắt, đáp:

- Ta đi xem xiếc là thú nhất.

- Ngày nào cũng xem xiếc, - Philip Philippovich hiền lành nhận xét, - như vậy theo tôi quá tẻ nhạt. Giá như tôi vào địa vị anh, thì tôi sẽ đi nhà hát dù chỉ một lần.

- Tôi không đến nhà hát đâu, - Sarikov đáp với vẻ đầy ác cảm và đưa tay quẹt ngang rồi lại quẹt dọc miệng.

- Nấc ở trong bừa ăn làm người khác mất ngon,- Bormental thông báo một cách máy móc.- xin lỗi anh... Thực ra, tại sao anh không thích nhà hát?

Sarikov đưa chiếc li rỗng lên nhìn như nhìn qua ống nhòm, nghĩ một lát, rồi trề môi:

- Chỉ toàn những chuyện ngu xuẩn... Nói lảm nhảm, lảm nhảm... Độc trò phản cách mạng.

Philip Philippovich ngả người ra lưng chiếc ghế tựa kiểu gotic và bật cười ha hả để lộ hàm răng vàng lấp lánh. Bormental chỉ nhè nhẹ lắc đầu.

- Anh cũng nên đọc một cái gì đấy.- viên bác sĩ nói.- Còn không thì, anh biết đấy...

- Thì tôi cũng có đọc, tôi cũng đọc đấy chứ... - Sarikov đáp và bỗng, đột ngột và hung hãn, rót nhanh cho mình nửa li vốtka.

- Dina, - Philip Philippovich lo lắng kêu to. - Cháu cất chai vốtka đi. Không cần nó nữa đâu. Thế anh đọc gì?

Trong đầu ông chợt hiện lên một cảnh tượng: hòn đảo hoang, một cây cọ, một người khoác lông thú và đội mũ không vành. “Cần phải kiếm Robinson...”.

- Cái quyển... Gọi là gì nhỉ... Thư từ giữa Engels với... tên lão quỷ ấy như thế nào nhỉ... với Kautski.

Bàn tay cầm chiếc dĩa với miếng thịt trắng bệch của Bormental đột ngột dừng lại trong không khí, còn Philip Philippovich làm cốc rượu vang sánh đổ ra ngoài. Sarikov chọn đúng thời điểm đó nuốt chửng hớp vốtka.

Philip Philippovich đặt đôi cùi tay lên bàn, chăm chú nhìn Sarikov và hỏi:

- Xin phép được hỏi, anh có thể nói gì về cuốn sách anh đọc?

Sarikov nhún vai.

- Tôi thì tôi không đồng ý.

- Với ai? Với Engels hay với Kautski?

- Với cả hai, - Sarikov đáp.

- Điều này thật thú vị, lạy Chúa. “Ai dám nói rằng kẻ khác...”. Thế còn phần mình, anh có thể đề nghị cái gì?

- Ở đây thì có gì mà đề với nghị?.... Họ cứ viết loạn xị ngậu cả lên... nghị viện, những người Đức nào đó... Đầu như muốn vỡ bung ra. Chỉ việc chiếm lấy tất cả và đem chia là xong...

- Ta đã nghĩ đúng như thế? - Philip Philippovich thốt lên và đập bàn tay lên mặt vải trải bàn.- Ta đã nghĩ đúng như thế mà!

- Thế anh biết cả phương thức chứ? - Bormental tò mò hỏi.

- Đây có gì mà phải phương thức với phương thiếc,- trở nên lắm lời hơn sau cốc vốtka, Sarikov giải thích, - việc dễ ợt thôi mà. Không thì thật vô lý: một người chiếm bảy căn phòng, có bốn mươi chiếc quần, còn kẻ khác thì lang thang bới tìm miếng ăn trong các thùng rác.

- Về chuyện bảy căn phòng thì chắc là anh nói tôi phải không?- Philip Philippovich ngạo nghễ nheo mắt, hỏi.

Sarikov co rúm người lại và không đáp.

- Không sao, tốt thôi, tôi không phản đối gì việc chia. Bác sĩ, hôm qua anh đã từ chối không tiếp bao nhiêu người?

- Ba mươi chín người.- Bormental trả lời ngay.

- Hừm... ba trăm chín mươi rúp. Đấy, tội ba người đàn ông chịu. Phụ nữ, Dina và Daria Petrovna, chúng ta sẽ không tính. Phần anh, Sarikov, một trăm ba mươi rúp. Phiền anh góp vào.

- Chuyện ngộ nghĩnh quá, - hốt hoảng, Sarikov đáp.- Tại sao lại như vậy?

- Tại vì vòi nước và tại con mèo! - Philip Philippovich mất đi vẻ thản nhiên giễu cợt, bỗng gầm lên.

- Bác Philip Philippovich! - Bormental lo lắng thốt lên.

- Khoan nào! Tại cái hành động ngu xuẩn tệ hại mà anh đã gây ra và vì nó mà phải bỏ mất buổi khám. Điều đó không thể nào dung thứ được! Như một thằng người nguyên thủy, nhảy khắp nhà, bẻ gãy vòi nước. Ai giết chết con mèo nhà bà Pollasukher? Ai...

- Sarikov, ngày hôm kia anh cắn một phụ nữ ngoài cầu thang! - Bormental đệm thêm.

- Anh đứng... - Philip Philippovich gầm gừ.

- Nhưng cô ả vỗ vào mõm tôi! - Sarikov tru lên. - Mõm tôi có phải của công đâu!

- Là vì anh thộp vào ngực người ta! - Bormental hét to, gạt đổ chiếc cốc. - Anh đứng...

- Anh đứng ở bậc thang thấp nhất của sự phát triển - Philip Philippovich hét to hơn át đi. - Anh là một sinh vật chỉ mới được hình thành, về phương diện trí tuệ còn thấp kém, toàn bộ những hành vi của anh mang tính chất thuần túy thú vật, thế mà trước mặt hai người có học vấn đại học anh dám cho phép mình, với một sự càn rỡ tuyệt đối không thể nào chấp nhận được, đưa ra những lời khuyên tầm cỡ vũ trụ nhưng cũng ngu xuẩn tầm cỡ vũ trụ về chuyện phải chia mọi thứ như thế nào... mà trong lúc đó thì anh lại đi ngốn bột đánh răng!...

- Ngày hôm kia, - Bormental xác nhận.

- Thế đấy, - Philip Philippovich quát vang rền.- Anh hãy nhớ kỹ lấy, rằng anh cần phải im lặng và lắng nghe những gì người ta nói với anh. Phải học hỏi và cố gắng trở nên một thành viên ít nhiều chấp nhận được của cộng đồng xã hội! Mà quân mất dậy nào đã đưa cho anh cuốn sách đó?

- Với các ông thì ai cũng đều mất dạy cả, - bị choáng váng bởi những đòn tấn công từ hai phía, Sarikov sợ hãi đáp.

- Ta đoán được mà, - đỏ mặt giận dữ, Philip Philippovich thốt lên.

- Thì đã sao. Thì Svonđer đưa cho. Anh ấy không phải là quân mất dậy... Để tôi được phát triển...

- Tôi thấy là anh được phát triển như thế nào sau khi đọc Kautski! - tái mặt, Philip Philippovich rít lên. Rồi ông ấn nút trên tường.- Cái trường hợp hôm nay đã chứng tỏ điều đó không thể nào tốt hơn.

- Dina! - Bormental gọi to.

- Dina! - Sarikov hoảng sợ cũng gào lên.

Dina chạy đến, mặt tái mét.

- Dina, ở trong phòng khám... Nó ở trong phòng khám à?

- Trong phòng khám, - Sarikov nhẫn nhục đáp, - màu xanh...

- Quyển sách mầu xanh...

- Trời, bây giờ đốt... - Sarikov chợt tuyệt vọng kêu to. - Nó là của công, mượn thư viện.

- Đầu đề là thư từ, của... gì nhỉ... Engels với lão quỷ kia... Cho vào bếp lò!

Dina quay người chạy vụt đi.

- Cái gã Svonđer này đáng đem treo cổ lên cành cây nào gặp đầu tiên, - Philip Philippovich giận dữ cắm hàm răng vào cánh gà tây, gầm gừ.- Cái đồ tệ hại hết chỗ nói, ngồi trong nhà như một khối ung nhọt. Hắn viết đủ các loại bài vu khống vô nghĩa trên báo còn là ít...

Sarikov liếc sang phía giáo sư với vẻ hằn học và mỉa mai. Về phần mình, Philip Philippovich cũng ném sang hắn một cái nhìn xéo rồi im lặng.

“Ôi trong căn hộ này sẽ không có gì tốt lành!” - một ý nghĩ tiên tri vụt thoáng qua đầu Bormental.

Dina mang ra ấm pha cà phê và một ổ bánh ngọt mặt phải mầu hung, còn mặt trái mầu hồng, đặt trên chiếc đĩa tròn.

- Tôi sẽ không ăn bánh đâu, - Sarikov lập tức lên tiếng tuyên bố một cách khó chịu, như thể đe doạ ai đó.

- Không ai mời anh cả. Hãy cư xử cho lịch sự! Bác sĩ, mời anh.

Bữa ăn kết thúc trong im lặng. Sarikov rút từ trong túi ra một điếu thuốc lá cuốn nhàu nát và thở khói mù mịt. Uống cà phê xong, Philip Philippovich nhìn đồng hồ, ấn nút repeter, và nó êm ái điểm tám giờ mười lăm phút. Theo thói quen, Philip Philippovich ngả người ra lưng chiếc ghế kiểu gotic và vươn tay cầm tờ báo đặt trên bàn.

- Bác sĩ, phiền anh đi với Sarikov đến rạp xiếc. Chỉ có điều, vì Chúa, hãy xem trong chương trình có mèo không?

- Người ta lại cho cái giống bẩn thỉu đó vào rạp xiếc à? - Sarikov lắc đầu, cau có nhận xét.

- Ấy, có giống gì mà người ta không cho vào, - Philip Philippovich đáp đầy ngụ ý. - Chương trình có gì thế?

- Nhà Solomonski, - Bormental cất tiếng đọc. - Bốn tiết mục gì đấy... Jucxemx và người điểm chết.

- Jucxemx là cái gì? - Philip Philippovich ngờ vực hỏi.

- Có trời biết. Lần đầu tiên tôi gặp từ này.

- Hừm, nếu thế thì xem nhà Nikitin. Nhất thiết sao cho tất cả phải rõ ràng.

- Nhà Nikitin... Nhà Nikitin... Chà... Voi và giới hạn sự khéo léo của con người.

- Thế... Sarikov thân mến, anh sẽ nói gì về những con voi hả?- Philip Philippovich hỏi Sarikov với vẻ hoài nghi.

Gã tỏ vẻ tự ái.

- Sao, chẳng lẽ tôi không hiểu gì à? Mèo là chuyện khác. Còn voi là loài vật có ích,- Sarikov đáp.

- Thế thì tuyệt vời. Nếu chúng là loài có ích, thì anh đi mà xem. Phải nghe lời Ivan Arnolđovich. Và không được dính vào bất kỳ chuyện gì ở quầy giải khát! Ivan Arnolđovich, tôi xin anh không mời Sarikov uống bia!

Mười phút sau, Ivan Arnonđovieh và Sarikov, đầu đội mũ lưỡi trai mỏ vịt, người mặc áo bành tô dạ cổ dựng đứng, đi đến rạp xiếc. Trong căn hộ trở nên im ắng. Philip Philippovich vào phòng làm việc của mình. Ông bật ngọn đèn dưới chiếc chao nặng mầu xanh làm cho cả căn phòng lớn có vẻ yên bình, rồi bắt đầu đi đi lại lại.

Đốm lửa đầu điếu xì gà cháy rực rất lâu, hắt ra ánh sáng mầu xanh nhạt. Giáo sư đút tay vào túi quần, và những ý nghĩ nặng nề hành hạ vầng trán bác học với khoảng hói cao của ông.

Ông chắc lưỡi, hát qua kẽ răng “Đến đôi bờ sông Nin thần thánh...” và lẩm bẩm một điều gì đó.

Cuối cùng, ông đặt điếu xì gà xuống cái gạt tàn thuốc, bước đến bên chiếc tủ gần như chỉ toàn bằng kính, và cả căn phòng được chiếu sáng bởi ba luồng ánh sáng cực mạnh phát ra từ trần nhà. Philip Philippovich lấy ở trên giá tủ thứ ba bằng kính xuống một chiếc lọ hẹp, rồi nhíu mày đưa nó lên nhìn dưới ánh điện.

Trong làn chất lỏng nặng và trong suốt, lơ lửng không chạm đáy, một hạt kết nhỏ mầu trắng, nó được lấy ra từ đáy sâu của bộ óc Sarikov.

So vai, cắn môi, thở phì phì, Philip Philippovich nhìn nó chằm chằm, dường như muốn tìm thấy trong khối nhỏ mầu trắng không chìm này cái nguyên nhân của sự kiện kì lạ đã đảo lộn toàn bộ cuộc sống trong căn hộ ở phố Pretristenka này. Rất có thể là con người có học vấn cao siêu này đã tìm thấy. Ít ra là, sau khi đã nhìn chán cái phần phụ của bộ não đó, ông lại để chiếc lọ lên giá, khoá cửa tủ lại, bỏ chìa khoá vào túi áo gilê; còn tự mình, rụt cổ vào giữa hai vai, thọc cả hai tay sâu vào túi áo ngoài, ném mình xuống chiếc đi văng bọc da. Ông ngồi rít điếu xì gà thứ hai rất lâu, nhai nát cả đầu điếu thuốc, và cuối cùng, trong sự đơn côi tuyệt đối, cả người nhuộm trong làn ánh sáng xanh, như Phaust đầu bạc trắng, thốt lên:

- Thế đấy, có lẽ ta sẽ làm như vậy?

Không ai đáp lại lời ông. Tất cả tiếng động trong căn hộ đã ngừng lặng. ở ngõ Obukhov vào mười một giờ, như ta biết, mọi xe cộ đều chấm dứt hoạt động. Chỉ thỉnh thoảng lắm mới vang lên những bước chân xa xăm của một người bộ hành muộn màng gõ đều đều ở đâu đó phía ngoài những bức màn cửa, rồi tắt hẳn.

Trong phòng làm việc, tiếng repeter ngân lên êm ái trong túi áo dưới bàn tay của Philip Philippovich. Vị giáo sư đang sốt ruột chờ bác sĩ Bormental và Sarikov từ rạp xiếc trở về.

 

Chương 8

 

Không rõ giáo sư Philip Philippovich đã quyết định điều gì.

Trong suốt cả tuần lễ sau đó ông không tiến hành một việc gì đặc biệt cả, và cũng có thể là do ông không hành động nên cuộc sống trong căn hộ của ông mới đầy ứ các sự kiện đến như vậy..

Sáu ngày sau vụ nước trào và con mèo, một thanh niên trẻ mà thực chất là đàn bà, từ Hội đồng nhà cửa đến gặp Sarikov và trao cho gã các thứ giấy tờ; Sarikov lập tức nhét chúng vào túi áo và liền đó cất tiếng gọi bác sĩ Bormental:

- Bormental!

- Không được, xin anh hãy gọi tôi theo tên và phụ danh, - Bormental tái mặt đáp.

Cần phải nói rằng, trong thời gian sáu ngày qua viên bác sĩ phẫu thuật đã kịp tám lần cãi cọ với gã học trò của mình. Không khí trong các phòng của ngôi nhà Obukhov thật ngột ngạt.

- Thế thì các người cũng hãy gọi tôi theo tên và phụ danh! - Sarikov đáp một cách hoàn toàn có cơ sở.

- Không đâu, - Philip Philippovich gầm lên vang rền ở cửa. - Tôi không cho phép gọi anh theo cái tên và phụ danh như vậy ở trong căn hộ của tôi đâu. Nếu như anh muốn để người khác thôi gọi anh một cách đơn giản là “Sarikov”, thì tôi và bác sĩ Bormental sẽ gọi anh là “ngài Sarikov” vậy.

- Tôi không phải là “ngài”, tất cả các “ngài” đều ở Paris hết, - Sarikov sủa vặc lại.

- Đây chính là công trình của Svonđer - Philip Philippovich hét vang. - Thôi, được rồi, tôi sẽ tính sổ với cái tay đều giả kia. Ở trong căn hộ này, ngoài các “ngài” ra, sẽ không còn có ai hết, một khi tôi còn đang ở đây! Trong trường hợp ngược lại thì hoặc là tôi, hoặc là anh phải đi khỏi nơi này, và chắc chắn nhất người phải đi là anh. Hôm nay tôi sẽ cho đăng báo, anh hãy tin tôi sẽ tìm được cho anh một căn phòng!

- Hừ, tôi đâu phải thằng ngu đến mức bỏ đi khỏi đây, - Sarikov đáp lại rất rành rọt.

- Sao? - Philip Philippovich hỏi, mặt ông biến sắc đến mức Bormental chạy bổ đến và vừa dịu dàng vừa lo lắng túm lấy ống tay áo ông.

- Anh biết không, ngài Sarikov, đừng có láo xược! - Bormental lên giọng rất cao. Sarikov bước giật lùi, rút từ trong túi ra ba tờ giấy, mầu xanh, vàng và trắng, rồi vừa chọc chọc mấy ngón tay vào đó vừa nói:

- Đây này. Tôi là thành viên của tập thể nhà này, và tôi được quyền hưởng diện tích trong căn hộ số năm của chủ thuê nhà Preobrajenski, mười sáu ác sin vuông,- Sarikov suy nghĩ một lát rồi nói thêm, và Bormental máy móc ghi nhận trong đầu một từ mới xuất hiện: - Xin tỏ thiện ý.

Philip Philippovich cắn chặt môi và thốt lên một cách thiếu thận trọng:

- Ta thề là trước sau gì cũng sẽ bắn chết cái gã Svonđer này.

Sarikov tiếp thu từ này một cách cực kỳ chăm chú và nhạy bén, đến mức điều đó hiện rõ qua cặp mắt của gã.

- Bác Philip Philippovieh, vorsichtig (*)... - Bormental cất tiếng ngăn.

- Hừ, anh biết đấy... Nếu như đã đểu cáng đến mức này!... - Philip Philippovich hét to bằng tiếng Nga. - Sarikov... Ngài... hãy nhớ là tôi, nếu như ngài còn cho phép mình bày ra một trò láo xược nữa, thì tôi sẽ không cho ngài ăn trưa và nói chung chấm dứt toàn bộ sự ăn uống của ngài trong ngôi nhà của tôi. Mười sáu ác sin cũng tuyệt thật đấy, nhưng tôi đâu có trách nhiệm cho ngài ăn theo cái tờ giấy cóc nhái kia!

Nghe thấy thế Sarikov phát hoảng và há miệng:

- Tôi không thể không ăn được, - gã lúng búng, - tôi biết ăn ở đâu bây giờ?

- Nếu vậy thì hãy xử sự cho biết điều! - Cả hai vị thần y cùng đồng thanh tuyên bố.

Sarikov trầm bặt hẳn đi, và vào ngày hôm đó không gây ra cho bất cứ ai một tác hại nào, ngoại trừ chính bản thân mình, nhân khi Bormental rời ra một lúc, gã lấy trộm con dao cạo của anh và rạch đứt má mình. Philip Philippovich và bác sĩ Bormental phải khâu vết thương lại, khiến Sarikov tru lên một hồi lâu, nước mắt chảy ròng ròng.

Vào đêm hôm sau, trong bóng tối mờ mầu xanh nhạt tại phòng làm việc của giáo sư có hai người ngồi nói chuyện, Philip Philippovich và bác sĩ Bormental, người học trò gắn bó trung thành với ông. Trong nhà tất cả đều đã ngủ. Philip Philippovieh khoác áo choàng xanh da trời, đi giày đỏ; còn Bormental mặc sơmi và quần thể thao mầu xanh. Trên mặt bàn tròn giữa hai người cạnh cuốn an bom dày cộm là một chai cô nhắc, một đĩa chanh và hộp thuốc lá.

Hai nhà bác học nhả khói mù mịt căn phòng, sôi nổi thảo luận cái sự kiện nóng hổi vừa mới xảy ra: chiều nay Sarikov lấy trộm ở phòng làm việc của Philip Philippovich hai tờ mười rúp nằm dưới cái chặn giấy rồi biến khỏi căn hộ, trở về rất muộn và say khướt. Như vậy chưa hết. Đi cùng với gã có hai nhân vật lạ mặt, họ làm ồn ào ở cửa chính và tỏ ý muốn ngủ nhờ nhà Sarikov.

Hai nhân vật đó chỉ chịu rút lui sau khi Pheđor, hiện diện tại cảnh đó trong chiếc áo bành tô thu khoác ngay ngoài áo lót, gọi điện đến đồn công an số bốn mươi lăm. Khi Pheđor vừa treo ống nghe lên giá thì hai nhân vật nọ liền cuốn xéo tức thì. Và cùng với họ không hiểu biến đi đâu mất cả bộ gạt tàn bằng đá khổng tước đặt trên bệ gương đứng ở trong phòng ngoài, chiếc mũ bằng lông hải li của Philip Philippovich và cây can cũng của ông với hàng chữ mạ vàng: “Các bác sĩ điều trị vô cùng biết ơn kính tặng thầy Philip Philippovich quý mến nhân ngày...”, tiếp đó là chữ số La Mã “XXV”.

- Họ là ai? - Philip Philippovich nắm chặt hai tay thành nắm đấm, bước đến trước mặt Sarikov hỏi.

Gã vừa lảo đảo bám vào mấy chiếc áo lông treo trên giá, vừa lẩm bẩm rằng gã không biết mấy nhân vật kia là ai, rằng họ đâu phải loại chó má nào, mà toàn là những con người tử tế.

- Điều đáng ngạc nhiên nhất là cả hai đều say... Làm sao mà họ xiếc thánh thế? - Philip Philippovich kinh ngạc đứng nhìn mãi vào chỗ trước đây từng là nơi để cái kỷ vật của mình.

- Dân chuyên nghiệp mà, - Pheđor giải thích, rồi ông ta đi nằm ngủ với đồng một rúp trong túi.

Về chuyện hai tờ mười rúp, Sarikov khăng khăng chối, đồng thời lúng búng một điều gì đó không rõ ràng, rằng đâu phải chỉ có một mình gã ở trong căn hộ này.

- À ra thế, hay là bác sĩ Bormental đã lấy hai chục rúp kia? - Philip Philippovich hỏi bằng một giọng khe khẽ nhưng có âm sắc thật đáng sợ.

Sarikov chao người lùi lại, mở đôi mắt đã hoàn toàn đờ đẫn; đưa ra một dự đoán:

- Có thể là Dina lấy...

- Cái gì hả?! - Dina xuất hiện ở cửa phòng như một bóng ma, gào lên, lấy bàn tay che chiếc áo cánh để mở cúc trên ngực, - làm sao mà hắn...

Cổ Philip Philippovich bắt đầu chuyển sang mầu đỏ.

- Bình tĩnh nào, Dina, - ông giơ tay về phía cô nói. - Cháu đừng lo, chúng ta sẽ làm sáng tỏ tất cả chuyện này.

Dina lập tức cất tiếng rền rĩ, cặp môi trề ra, bàn tay nhảy tung tẩy trên chỗ xương quai xanh của cô.

- Dina, cô không xấu hổ sao? Ai có thể nghĩ như thế được? Phù, đúng là nhục nhã!- Bormental bối rối nói.

- Nào, Dina, cháu đúng là con bé ngốc nghếch, xin Chúa tha lỗi, - Philip Philippovich lại lên tiếng.

Nhưng vừa lúc đấy tiếng khóc của Dina tự nhiên dừng lại đột ngột, và tất cả im bặt. Sarikov bỗng tái nhợt người, đập đầu vào tường, miệng phát ra một âm thanh, không ra “I”, cũng không ra “u”, gần giống như “ư-ư-ư?” hàm dưới ngoác ra co giật liên tục.

- Lấy xô trong phòng khám ra cho hắn, cái thằng hạ đẳng này!.

Thế là tất cả nhốn nháo lên để lo chạy chữa cho Sarikov bị cảm. Khi người ta đưa gã đi nằm, gã vừa bước ngất ngưởng trong tay Bormental, vừa tuôn ra hàng tràng những lời chửi rủa tục tĩu một cách âu yếm và có hệ thống, mặc dù phải vất vả lắm mới phát âm nổi.

Toàn bộ sự kiện này xảy ra lúc gần một giờ đêm, mà bây giờ đã ba giờ sáng, nhưng hai người ngồi trong phòng làm việc vẫn tỉnh táo, bị kích thích bởi những cốc rượu cô nhắc pha chanh. Họ hút thuốc đến nỗi khói thuốc chậm chạp di động thành từng lớp phẳng dày đặc, thậm chí không chập chờn nữa.

Bác sĩ Bormental, mặt tái nhợt nhưng cặp mắt hết sức quả quyết, tay giơ cao chiếc ly mảnh khảnh:

- Bác Philip Philippovich, - anh thốt lên một cách tha thiết, - cháu sẽ không bao giờ quên khi cháu lúc đó là một thằng sinh viên đói khát đến gặp bác, và bác đã dung nạp cháu vào phân khoa của bác. Bác Philip Philippovich, bác hãy tin rằng đối với cháu, bác còn lớn hơn là một giáo sư, một thầy giáo nhiều... Lòng kính trọng vô hạn của cháu đối với bác... Bác Philip Philippovich quý mến, cho phép cháu được ôm hôn bác.

- Chà, anh bạn thân mến của tôi... - Philip Philippovich bối rối gầm gừ và đứng dậy đón.

Bormental ôm lấy ông, hôn vào bộ ria mềm và nồng nặc khói thuốc.

- Ôi, bác Philip Philippovich...

- Anh làm tôi cảm động quá, làm tôi cảm động quá. Cám ơn anh, - Philip Philippovich nói, - anh bạn ạ, có những khi trong ca mổ, tôi quát mắng anh. Anh hãy bỏ qua cho tính cáu bẳn của tôi. Của người già nhé. Vì thực ra tôi quá cô đơn... “Từ Sevilia đến Grenađa...”

- Bác Philip Philippovich, bác không ngượng à?- Anh chàng Bormental đầy nhiệt huyết thốt lên chân thành. - Nếu như bác không muốn làm cháu giận, thì bác đừng nói như thế nữa...

- Chà, cám ơn anh... “Đến hai bờ sông Nin thần thánh...”. Cám ơn... Và tôi đã đem lòng quý mến anh như một bác sĩ tài năng.

- Bác Philip Philippovich, cháu nói với bác rồi! - Bormental hăng hái thốt lên, nhảy vụt dậy khỏi chỗ, đóng chặt thêm cánh cửa dẫn ra hành lang, rồi quay vào, tiếp tục thì thầm. - Đấy là kết cục duy nhất. Tất nhiên cháu không dám khuyên bảo bác, nhưng bác Philip Philippovich, bác thử nhìn lại mình xem, bác đã kiệt sức hoàn toàn rồi, không thể làm việc như thế này lâu hơn được nữa!

- Tuyệt đối không thể, - thở dài, Philip Philippovich xác nhận.

- Vâng, đúng thế đấy, điều đó là vô nghĩa, - Bormental thì thầm. - Hôm trước bác bảo rằng bác sợ cho cháu, và giá như bác biết, thưa giáo sư quý mến, điều đó đã làm cháu cảm động như thế nào. Nhưng bởi vì cháu đâu còn là đứa trẻ con nữa, tự cháu cũng hiểu là việc này sẽ phải trả giá kinh khủng ra sao. Nhưng cháu tin rằng không còn lối thoát nào khác.

Philip Philippovich đứng dậy, vung tay về phía anh và thốt lên:

- Anh đừng quyến rũ tôi, thậm chí đừng nói nữa, - giáo sư đi đi lại lại trong phòng, làm những tầng khói thuốc chao đảo như sóng: - Tôi sẽ chẳng nghe đâu. Anh có hiểu cái gì sẽ xảy ra nếu như chúng ta bị phát giác không? Bởi vì tôi với anh sẽ chẳng được hưởng khoản “chiếu cố thành phần xuất thân”, dù cho là chúng ta mới bị xử lần đầu. Chắc anh cũng không có thành phần xuất thân thích hợp chứ, hả bạn thân mến?

- Kiếm đâu ra! Bố cháu là dự thẩm viên của tòa án ở Vilno, - Bormental buồn bã đáp và uống nốt chỗ cô nhắc còn lại trong cốc.

- Thế đấy, anh thấy chưa. Mà đấy lại là một sự di truyền tồi tệ. Không thể tưởng tượng ra một cái gì tồi tệ bằng. Nhưng thực ra, hoàn cảnh của tôi lại còn tệ hại hơn. Bố tôi là giám mục của nhà thờ chính. Merci. “Từ Xevilia đến Grênađa... trong bóng đêm thanh bình...”! Chà, quỷ tha ma bắt nó đi.

- Bác Philip Philippovieh, bác là nhân vật tầm cỡ thế giới, và vì một thằng, xin lỗi bác, một thằng chó đẻ nào đấy mà... Chẳng lẽ họ có thể động đến bác sao?

- Chính vì thế tôi lại càng không chấp nhận điều đó, - Philip Philippovich thôi không đi lại nữa, đứng im nhìn lên chiếc tủ kính, trầm ngâm phản đối.

- Nhưng tại sao ạ?

- Tại vì anh không phải là nhân vật tầm cỡ thế giới.

- Tất nhiên rồi...

- Chính vì thế đấy. Mà bỏ đồng nghiệp trong cơn hoạn nạn, còn tự mình nhảy lên cái tầm cỡ thế giới mà chuồn, thì xin lỗi... Tôi là một trí thức Moskva chứ không phải Sarikov.

Philip Philippovich kiêu hãnh ưỡn hai vai ra khiến ông trông giống như một hoàng đế nước Pháp cổ đại.

- Bác Philip Philippovich, ôi!... - Bormental đau khổ thốt lên, - thế nghĩa là phải làm gì đây? cứ chịu đựng? Bác sẽ chờ cho đến khi biến được kẻ du côn này thành người sao?

Philip Philippovich đưa tay làm một cử chỉ ngăn anh lại, rót cô nhắc ra cốc, uống một hớp, nhấm nháp miếng chanh, rồi cất tiếng:

- Ivan Arnolđovich, theo anh, tôi có thể hiểu được tí gì trong giải phẫu học và sinh lý học, chẳng hạn, của cơ chế não người không? ý kiến anh thế nào?

- Bác Philip Philippovich, sao bác lại hỏi thế? - Bormental đáp lại với một vẻ rất kính trọng và giang hai tay ra.

- Thôi, được rồi. Bỏ qua sự khiêm tốn hão, cũng tự cho rằng trong vấn đề này tôi không phải là người kém cỏi nhất ở Moskva.

- Còn cháu cho rằng bác là người số một không chỉ ở Moskva, mà cả ở Lon đon và Oxford nữa! - Bormental sôi nổi chêm vào.

- Thôi được, cứ cho là thế đi. Vậy thì, thưa giáo sư tương lai Bormental: điều đó sẽ không ai làm được cả. Chấm hết. Anh có thể không cần phải hỏi. Có gì thì anh cứ nói rằng tôi, Preobrajenski đã nói như vậy. Finita! Klim? - Philip Philippovich bỗng thốt lên trang trọng, và chiếc tủ kính ngân lên đáp lời ông. - Klim, - ông nhắc lại. - Vậy là, Bormental, anh là người học trò đầu tiên của trường phái của tôi, và ngoài ra, còn là người bạn của tôi nữa, như hôm nay tôi đã được thấy rõ. Cho nên tôi thông báo với anh, như với một người bạn; điều bí mật sau đây, tất nhiên tôi biết anh sẽ không làm nhụt tôi: con lừa già Preobrajenski trong ca phẫu thuật này đã nông nổi như một cậu sinh viên năm thứ ba. Thực ra, đã có được một phát minh, tự anh cũng biết đấy, có ý nghĩa như thế nào, - nói đến đây Philip Philippovich với vẻ khổ não đưa cả hai tay chỉ ra tấm màn cửa sổ, có lẽ là ngụ ý ám chỉ Moskva, - nhưng chỉ có điều, Ivan Arnoldovich ạ, anh phải hiểu rằng hậu quả duy nhất của cái phát minh này là bây giờ tất cả chúng ta sẽ có cái gã Sarikov kia ở đây này, - Preobrajenski vỗ vỗ bàn tay lên chiếc cổ dốc có nhiều hướng bị liệt. - Anh hãy yên tâm là như vậy! Giá như có ai đó, - Philip Philippovich nói tiếp một cách đầy khoái cảm, - đem nọc tôi ra đây mà đánh roi, thì tôi, xin thề với Chúa, là sẽ trả ngay cho năm chục rúp!... “Từ Sevilia đến Grenađa...”. Quỷ tha ma bắt tôi đi... Mà tôi đã năm năm ngồi đào bới các tuyến yên của não... Anh có biết là tôi đã làm một khối lượng công việc như thế nào không, khó có thể hình dung nổi! Và bây giờ thử hỏi là để làm gì? Để vào một ngày đẹp trời nào đó biến con chó cực kỳ đáng yêu thành một kẻ mạt hạng khiến phải dựng cả tóc gáy lên thế này!

- Một cái gì đây đặc biệt!

- Hoàn toàn nhất trí với anh. Thế đấy, bác sĩ ạ, đây là kết quả khi nhà nghiên cứu thay vào chỗ đi song hành và mò mẫm cùng với tự nhiên lại hối thúc vấn đề và kéo màn lên! Thì đây, hãy nhận lấy Sarikov và hãy nhấm nháp nó cùng với món cháo.

- Bác Philip Philippovich; thế nếu như đây là não của Spinoza?

- Đúng! - Philip Philippovich hét toáng lên. - Đúng! Chỉ cần con chó bất hạnh kia không chết dưới lưỡi dao của tôi, mà anh đã thấy ca phẫu thuật ấy ở trình độ nào rồi đấy. Tóm lại, tôi, Philip Philippovich, chưa làm một cái gì khó hơn trong đời. Có thể ghép tuyến yên của Spinoza hay của bất kỳ một thứ quái quỷ nào như vậy và biến con chó thành một người có giá cực kỳ cao. Nhưng thử hỏi để được lợi ích gì? Anh làm ơn giải thích cho tôi nghe đi, sản xuất bằng con đường nhân tạo các Spinoza để làm gì khi bất kỳ một mụ đàn bà nào, bất kỳ lúc nào muốn cũng có thể sinh ra ông ta được? Bởi vì ở Khonmogorư, bà mẹ Lômônôsov đã sinh ra cái con người vĩ đại ấy kia mà. Bác sĩ ạ, nhân loại biết tự mình quan tâm đến điều đó và trong quá trình tiến hoá hàng năm vẫn kiên trì từ trong đám quần chúng đủ thứ tạp nham tạo ra hàng chục thiên tài xuất chúng để tô điểm cho trái đất. Bây giờ anh hiểu tại sao tôi lại phê phán cái kết luận của anh trong bản bệnh sử của Sarikov rồi chứ? Phát minh của tôi, mong cho lũ yêu tinh nuốt chúng nó đi, cái phát minh mà anh quan tâm ấp ủ ấy mà, chỉ đáng giá một đồng xu mẻ... Đúng thế, Ivan Arnolđovich, anh đừng có cãi, vì tôi đã hiểu ra rồi. Tôi chưa bao giờ nói vô trách nhiệm, anh phải biết rất rõ như vậy. Về mặt lý thuyết, điều đó rất thú vị, thôi thì cũng được. Các nhà sinh lí học sẽ tha hồ thán phục. Moskva sẽ phát cuồng lên... Thế nhưng còn về mặt thực hành thì sao? Ai hiện nay đang ở trước mặt chúng ta? - Preobrajenski chỉ ngón tay về phía phòng khám, nơi Sarikov đang nằm ngủ.

- Một thằng đểu giả đặc biệt.

- Nhưng hắn là ai? Klim! Klim? - giáo sư hét lên. - Klim Trugunkin (Bormental há hốc mồm). Và đây: hai tiền án, rượu chè, thuyết “đem chia tất cả”, chiếc mũ lông và hai tờ mười rúp biến mất (nói đến đây Philip Philippovich nhớ đến cây can kỷ vật của mình và đỏ bừng mặt), thô bỉ và đểu cáng... Hừ, cây can kia rồi tôi sẽ tìm thấy. Tóm lại, tuyến yên là một buồng kín xác định bộ mặt một con người cụ thể. Một con người cụ thể! “Từ Sevilia đến Grenađa...” - mắt đảo quanh dữ tợn, Philip Philippovich hét lớn, - chứ không phải loài người nói chung. Đó chính là bộ não trong mô hình thu nhỏ. Và tôi tuyệt đối không cần đến nó, đem vứt mẹ nó cho lũ lợn xực. Tôi quan tâm về một điều hoàn khác kia, về ưu sinh học, về việc làm cho giống người trở nên tốt hơn. Và thế là tôi đã thất bại trong thí nghiệm làm trẻ hóa các sinh vật. Chẳng lẽ anh nghĩ tôi làm việc đó vì tiền? Tôi dù sao cũng là một nhà bác học chứ.

- Bác là một nhà bác học vĩ đại, đúng thế đấy!

Bormental đáp, nhấp một hớp cô nhắc. Đôi mắt của anh vằn máu.

- Hai năm trước đây khi tìm được trong tuyến yên dịch chiết của hoocmon sinh dục, tôi muốn làm một thí nghiệm nhỏ. Nhưng thay vào đó thì nhận được cái gì? Ôi đức Chúa của tôi? Những hoocmon này trong tuyến yên, ôi lạy Chúa... Bác sĩ ạ, trước mắt tôi là một sự tuyệt vọng không lối thoát, tôi hoàn toàn chẳng biết phải làm gì nữa.

Bormental bỗng xắn ống tay áo lên và nói, mắt sụp nhìn xuống mũi.

- Đã vậy thì, thưa giáo sư quý mến, nếu như bác không muốn, thì tự cháu sẽ đánh liều cho hắn nếm thạch tín. Thôi thì mặc cho bố là dự thẩm viên của toà án. Bởi vì nói cho cùng thì đây chỉ là một sinh vật thí nghiệm của riêng bác mà thôi.

Philip Philippovich như xẹp xuống, ánh mắt tối sầm lại, ông ném mình lên thiếc ghế bành và nói:

- Không, tôi không cho phép anh làm điều đó đâu, cậu bé đáng yêu của tôi ạ. Tôi đã sáu mươi tuổi, tôi có thể cho anh những lời khuyên. Không bao giờ được phạm tội cả, bất kể là chống lại ai đi chăng nữa. Hãy sống đến già với hai bàn tay trong sạch.

- Nhưng thưa bác Philip Philippovich, nếu như hắn còn được cái tay Svonđer kia khai hoá cho nữa, thì sẽ ra sao? Lạy Chúa, chỉ bây giờ cháu mới bắt đầu hiểu cái gã Sarikov này sẽ thành một người như thế nào!

- Thế đấy! Bây giờ anh hiểu rồi chứ? Còn tôi, mười ngày sau ca mổ tôi đã hiểu. Thật ra, Svonđer mới là thằng ngốc nhất. Hắn không hiểu rằng đối với hắn, Sarikov còn nguy hiểm hơn là đối với tôi. Hừ, bây giờ thì hắn cố tìm mọi cách xúi Sarikov chống tôi, mà không hiểu rằng nếu như có ai đó lại xúi Sarikov chống hắn thì hắn hết đời.

- Còn phải nói! Chỉ mấy con mèo cũng đã đủ rồi! Một con người với trái tim chó!

- Ô không, không đâu, - Philip Philippovich kéo dài giọng đáp, - bác sĩ ạ, anh phạm phải một sai lầm hết sức lớn, vì Chúa, anh chớ có vu khống con chó ấy. Mèo chỉ là tạm thời... Đây là vấn đề về nguyên tắc chỉ vài ba tuần thôi. Xin đoan chắc với anh như vậy. Chỉ chừng một tháng nữa là hắn sẽ thôi đuổi theo chúng ngay.

- Thế tại sao không phải bây giờ?

- Ivan Arnolđovich, đây là một điều hết sức sơ đẳng... Thực ra, anh hỏi cái gì vậy? Bởi vì tuyến yên kia đâu có treo trong khoảng trống, nó được ghép vào não chó, hãy đợi để cho nó đủ thời gian bám mọc vào đó. Bây giờ Sarikov chỉ còn biểu hiện một ít dấu tích của tính chó, và anh nên hiểu rằng mấy con mèo là cái tốt nhất trong tất cả những gì mà hắn làm. Anh phải hiểu rằng toàn bộ sự khủng khiếp là ở chỗ trái tim của hắn ta bây giờ không còn là trái tim chó nữa, mà chính là trái tim người. Và là trái tim đốn mạt nhất trong số tất cả những trái tim tồn tại trong tự nhiên!

Bị kích động đến tột độ, Bormental xiết chặt hai nắm tay gầy khoẻ mạnh, nhún vai và nói cương quyết:

- Tất nhiên. Cháu sẽ giết chết nó!

- Tôi cấm! - Philip Philippovich nghiêm khắc nói.

- Nhưng xin bác...

Philip Philippovich bỗng tỏ ra đề phòng, giơ một ngón tay lên:

- Khoan đã... Tôi nghe có tiếng bước chân.

Họ lắng nghe, nhưng trong căn hộ hoàn toàn im ắng.

- Tôi tưởng ra vậy thôi, - Philip Philippovich nói và sôi nổi tiếp tục bằng tiếng Đức. Trong những lời của ông mấy lần vang lên từ tiếng Nga “hình sự”.

- Khoan đã bác, - Bormental bỗng cảnh giác nói và nhảy vội ra cửa. Tiếng chân nghe rất rõ, tiến đến gần phòng làm việc. Lại còn có cả tiếng người làu bàu. Bormental mở toang cửa và kinh ngạc lùi lại. Philip Philippovich sửng sốt ngồi lặng trong ghế bành.

Trong khoảng hành lang được chiếu sáng hình chữ nhật hiện ra Dria Petrovna. trên người chỉ mặc mỗi đồ lót, mặt đỏ bừng hừng hực khí thế. Cả bác sĩ lẫn giáo sư như bị choáng ngợp trước tấm thân ngồn ngộn, và trong giây phút hoảng hốt, họ tưởng như nó hoàn toàn khoả thân. Daria Petrovna lôi trong hai cánh tay lực lưỡng của mình một vật gì đó, và “vật gì đó” cố sức cưỡng lại, ngồi phệt xuống nhà, đôi chân bé tí, đầy lông đen kéo lê trên mặt sàn gỗ.

“Vật gì đó”, tất nhiên, là Sarikov, đờ đẫn, hãy còn say, tóc tai rối bù và chỉ mặt độc áo quần lót.

Daria Petrovna, đồ sộ và lõa lồ, lắc Sarikov như lắc một bị khoai tây, rồi nói những lời sau:

- Thưa giáo sư, giáo sư hãy ngắm ông khách Telegraph Telegraphovich của chúng ta xem. Tôi là đàn bà đã có chồng, còn Dina là gái trinh. May mà tôi thức dậy đấy.

Nói xong, Daria Petrovna chợt giật mình xấu hổ, kêu thốt lên một tiếng, đưa hai tay che ngực rồi chạy vù đi mất.

- Daria Petrovna, vì Chúa, xin chị thứ lỗi,- bình tĩnh lại, Philip Philippovich đỏ mặt nói theo.

Bormental xắn tay áo lên cao hơn và lừ lừ tiến về phía Sarikov. Philip Philippovich liếc nhìn vào mắt anh và cảm thấy kinh hoàng.

- Làm gì thế, bác sĩ? Tôi cấm...

Bormental đưa tay phải túm lấy cổ áo Sarikov lắc mạnh, đến nỗi vải trước ngực hắn bục ra.

Philip Philippovich nhảy vào giữa hai người và cố gỡ Sarikov ẻo lả ra khỏi hai bàn tay xiết chặt cứng của nhà phẫu thuật trẻ.

- Anh không có quyền đánh! - Bị xiết đến nghẹt thở, Sarikov hét, rồi ngồi bệt xuống sàn và dần dần tỉnh rượu.

- Bác sĩ! - Philip Philippovich quát. Bormental đã bình tĩnh lại chút ít và buông Sarikov ra; gã lập tức cất tiếng khóc thút thít.

- Thôi được rồi, - Bormental rít lên, - đợi đến sáng mai. Khi nào hắn tỉnh, tôi sẽ cho hắn biết tay.

Rồi anh xốc nách Sarikov, lôi tuồn tuột hắn vào phòng khám để ngủ. Trong lúc đó Sarikov cố tìm cách đập chân xuống sàn, nhưng hai chân hắn không chịu tuân theo.

Philip Philippovich đứng doãng chân khiến những vạt áo mầu thanh thiên tách ra hai phía, vươn hai cánh tay lên cao và ngước mắt nhìn lên chiếc bóng đèn treo trên trần hành lang và lẩm bẩm:

- Chà chà...

 

Chương 9

 

Lời hứa cho Sarikov biết tay của bác sĩ Bormental sáng hôm sau đã không thực hiện được vì một nguyên nhân là Poligraph Poligraphovich đã biến khỏi căn hộ. Bormental rơi vào tình thế tuyệt vọng điên cuồng, tự rủa mình là đồ con lừa vì đã không cất chìa khóa cửa chính, hò hét rằng điều đó là không thể tha thứ được, và cuối cùng kết thúc bằng lời ước cho Sarikov rơi vào dưới bánh ô tô buýt, Philip Philippovieh ngồi trong phòng làm việc, thọc cả bàn tay vào mái tóc và nói:

- Không thể tưởng tượng nổi cái gì sẽ diễn ra ngoài phố... Không thể tưởng tượng nổi. “Từ Sevilia đến Grenađa”, lạy Chúa tôi.

- Có thể hắn còn đang ở chỗ hội đồng nhà cửa, - Bormental hét lên sôi sục và chạy đi đâu đó.

Ở hội đồng nhà cửa, anh chửi nhau với chủ tịch Svonđer đến mức Svonđer ngồi ngay vào bàn viết đơn gửi tòa án nhân dân quận Khamovniki, vừa viết vừa la lối rằng anh ta đâu phải là người canh giữ cái gã môn đồ của giáo sư Preobrajenski, hơn nữa cái gã môn đồ Poligraph kia vừa mới đây thôi, mới ngay ngày hôm qua, đã tỏ rõ mình là một thằng lừa lọc, lấy của hội đồng nhà cửa bảy rúp nói là để mua sách giáo khoa ở cửa hàng hợp tác xã mua bán.

Được trả công ba rúp, Pheđor đi tìm kiếm khắp ngôi nhà từ dưới lên trên. Không hề thấy dấu vết của Sarikov đâu cả.

Chỉ biết được một điều là Poligraph rời nhà lúc trời gần sáng, đội mũ, quàng khăn, mặc áo bành tô và mang theo một chai rượu thanh lương trà lấy ở tủ buýp phê, đôi găng tay của bác sĩ Bormental và toàn bộ giấy tờ của mình. Daria Petrovna và Dina công khai bày tỏ sự vui mừng cao độ và hy vọng rằng Sarikov sẽ không trở về nữa. Trước đấy một ngày gã đã vay của Daria Petrovna ba rúp năm mươi côpếch.

- Thế mới đáng đời chị, - vung vẩy nắm đấm, Philip Philippovich gầm gào.

Chuông điện thoại réo suốt ngày, không ngớt cả ngày hôm sau nữa. Hai bác sĩ đã tiếp một số lượng khách hàng nhiều khác thường, và đến ngày thứ ba thì họ thấy rằng đã đến lúc phải đặt ra vấn đề báo cho công an để người ta đi tìm Sarikov trong cái vực thẳm Moskva này.

Nhưng cái từ “công an” vừa được nói ra thành tiếng thì sự yên lặng sùng kính của ngõ Obukhov lập tức bị phá vỡ bởi tiếng rú của một cỗ xe ô tô tải, những ô cửa sổ trong ngôi nhà rung bần bật.

Rồi tiếng chuông gọi cửa vang lên đầy tự tin, và Poligraph Poligraphovich hiện ra ở phòng ngoài.

Cả giáo sư, cả bác sĩ đều bước ra đón hắn.

Poligraph bước vào với một vẻ tự trọng khác thường, giữa sự im lặng tuyệt đối bỏ mũ xuống, treo áo bành tô lên giá, và xuất hiện trong bộ dạng mới.

Trên người gã là chiếc áo khoác da cũ rộng thùng thình, quần dài đã sờn cũng bằng da, đôi ủng Anh cao cổ có dây buộc đến tận đầu gối. Mùi mèo nồng nặc quá mức tưởng tượng lập tức tràn ngập căn phòng ngoài. Preobrajenski và Bormental, như theo một mệnh lệnh nào đó, cùng bắt chéo tay trước ngực, đứng ở hai bên cửa và đợi nghe những thông báo đầu tiên của Poligraph Poligraphovich. Gã vuốt mớ tóc cứng, hắng giọng ho và nhìn quanh với một vẻ rõ ràng là muốn giấu sự bối rối của mình bằng thái độ lỗ mãng, suồng sã.

- Bác Philip Philippovich ạ, - cuối cùng gã cũng lên tiếng, - tôi đã nhận chức rồi.

Cả hai bác sĩ phát ra một tiếng kêu khàn khàn trong cổ họng và cựa quậy tại chỗ.

Preobrajenski trấn tĩnh lại trước, chìa tay ra nói:

- Anh cho xem giấy tờ.

Trên tờ giấy là những hàng chữ đánh máy:

- Người mang giấy này, đồng chí Poligraph Pohgraphovich Sarikov, là trưởng tiểu ban làm sạch thành phố Moskva khỏi các giống động vật hoang (mèo và vân vân) trực thuộc Sở công chính.

- Thế đấy, - Philip Philippovich thốt lên nặng nề, - ai đã sắp xếp cho anh? Mà thật ra tự tôi cũng đoán được.

- Vâng, đúng, Svonđer. - Sarikov đáp.

- Xin phép được hỏi, tại sao người anh có mùi kinh tởm vậy?

Sarikov lo lắng chun mũi ngửi chiếc áo khoác ngoài:

- Thì sao, có mùi... hiển nhiên rồi: mùi nghề nghiệp. Suốt ngày hôm qua bóp cổ lũ mèo...

Philip Philippovich rùng mình và nhìn sang Bormental. Cặp mắt của anh giống hệt như hai nòng súng đen ngòm chĩa thẳng vào mặt Sarikov.

Chẳng nói chẳng rằng, anh tiến đến sát Sarikov rồi nhẹ nhàng và chắc chắn túm lấy yết hầu gã.

- Cứu tôi với - Sarikov tái nhợt người, hét lên the thé.

- Bác sĩ!

- Cháu sẽ không cho phép mình làm điều gì xấu đâu, thưa bác Philip Philippovich, xin bác cứ yên tâm, - Bormental nói bằng một giọng sắc như thép, và quát to: - Dina và Daria Petrovna đâu?

Hai người lập tức xuất hiện ở phòng ngoài.

- Bây giờ hãy nhắc theo tôi, - Bormental nói và hơi ghì yết hầu của Sarikov xuống chiếc áo lông. - Tôi xin lỗi...

- Được, được tôi sẽ nhắc lại. - Thật sự kinh hoàng, Sarikov đáp bằng giọng khản đặc, nhưng bỗng bất ngờ lấy hơi, giằng ra, cố cất tiếng kêu “Cứu tôi với”, khốn nỗi tiếng kêu không thành, và đầu của gã chìm lấp hẳn trong chiếc áo lông.

- Bác sĩ, tôi van anh...

Sarikov gật gật đầu, tỏ ý đã chịu khuất phục là sẽ nhắc lại.

- Tôi xin lỗi, thưa chị Daria Petlrovna kính mến và Dianaiđa?

- Procophiévna, - Dina hốt hoảng thì thào.

- úi Prôcôphiévna... - Sarikov vừa nói bằng giọng khò khè vừa hớp không khí.

- là tôi đã dám...

- ...đã dám...

- làm một trò đốn mạt đêm hôm trước trong khi say...

- ... trong khi say...

- Tôi sẽ không bao giờ...

- ... Không bao...

- Thả hắn ra, anh thả hắn ra đi, anh Ivan Arnoldovich, - cả hai người phụ nữ cùng khẩn khoản, - anh bóp hắn chết nghẹt mất thôi.

Bormental buông gã ra và hỏi:

- Xe đang chờ anh phải không?

- Không ạ, - Poligraph kính cẩn đáp.- Xe chỉ chở em về thôi.

- Dina, bảo lái xe đi đi. Bây giờ anh hãy nghe kĩ đây: anh lại trở về căn hộ của bác Philip Philippovich à?

- Em còn biết đi đâu nữa? - Mắt đảo quanh, Sarikov sợ sệt trả lời.

- Tốt lắm. Từ nay phải im như thóc, lặng như tờ. Nếu không, hễ làm một trò đốn mạt nào là sẽ có chuyện với tôi đấy. Hiểu chưa?

- Em hiểu rồi ạ, - Sarikov đáp.

Philip Philippovich giữ nguyên sự im lặng trong suốt thời gian xảy ra việc đàn áp Sarikov bằng bạo lực, ông như thu nhỏ mình lại, đứng cạnh cửa và gặm móng tay, mắt ngó xuống sàn. Rồi ông bỗng ngước lên nhìn Sarikov, hỏi:

- Thế anh làm gì với... những con mèo bị giết?

- Để làm áo lông, - Sarikov đáp. - Người ta sẽ dùng chúng để làm áo lông chồn đem bán trả góp cho công nhân.

Tiếp đó, sự yên tĩnh trong căn hộ kéo dài được hai ngày đêm.

Buổi sáng Poligraph Poligraphovich ra đi bằng xe tải, chiều trở về, lặng lẽ ăn tối cùng Philip Philippovich và Bormental.

Mặc dù Bormental và Sarikov cùng ngủ trong một căn buồng - phòng khám, - nhưng họ không nói chuyện với nhau và Bormental là người đầu tiên cảm thấy buồn.

Hai ngày sau trong căn hộ xuất hiện một cô gái gầy gò với cặp mắt vẽ thêm và đi tất dài mầu kem, cô ta tỏ ra hết sức bối rối trước cảnh bày biện sang trọng trong nhà. Mặc chiếc áo bành tô đã cũ sờn, cô gái bước theo sau Sarikov và đụng phải giáo sư ở phòng ngoài.

Ông sửng sốt dừng lại, nheo mắt nhìn và hỏi:

- Xin phép cho biết?

- Tôi sắp đăng ký kết hôn với cô này, đây là nhân viên đánh máy chữ của chúng tôi. Cô này sẽ về sống với tôi. Phải chuyển Bormental đi khỏi phòng khám. Anh ta cũng có nhà của mình kia mà. - Sarikov giải thích với vẻ cau có và cực kỳ khó chịu.

Philip Philippovich hấp háy mắt, nhìn cô gái với bộ mặt đỏ như gấc, suy nghĩ một lát rồi hết sức lịch thiệp mời:.

- Tôi xin mời chị vào phòng làm việc của tôi một phút..

- Tôi cũng đi với cô ấy, - Sarikov nói nhanh với vẻ ngờ vực..

Đúng lúc đó Bormental như từ dưới đất hiện lên:

- Xin lỗi, - anh nói, - giáo sư sẽ nói chuyện với tiểu thư, còn tôi và anh ở lại đây.

- Tôi không muốn, - Sarikov giận dữ đáp và toan bước theo Philip Philìppovich và cô gái đỏ lựng mặt vì xấu hổ.

- Không, xin lỗi anh, - Bormental túm lấy cổ tay Sarikov, và cả hai đi vào phòng khám.

Chừng năm phút trong phòng làm việc không nghe thấy gì, rồi đột ngột từ đó vẳng ra tiếng nức nở của cô gái.

Philip Philippovich đứng cạnh bàn, còn cô gái che mặt bằng chiếc khăn thêu ren cáu bẩn và khóc.

- Cái đồ đểu ấy, anh ta nói rằng bị thương trong chiến đấu. - cô gái nức nở.

- Hắn nói láo! - Philip Philippovich không nao núng đáp. Ông lắc đầu và nói tiếp: - Bác thành thật thương cháu, nhưng không thể như vậy được, với một kẻ gặp đầu tiên chỉ vì địa vị công tác... Như vậy thật xấu, con gái ạ... Này đây... - ông mở ngăn kéo bàn viết lấy ra ba tờ giấy bạc ba chục rúp.

- Cháu sẽ tự tử, - cô gái khóc. - Ở nhà ăn thì ngày nào cũng thịt ngựa muối... và anh ta dọa... nói rằng anh ta là chỉ huy Hồng quân... là sẽ sống với cháu trong một căn hộ sang trọng... ngày nào cũng có dứa ăn... anh ta nói tâm lý của anh ta rất hiền lành, chỉ ghét mèo thôi. Anh ta đã lấy của cháu chiếc nhẫn, bảo để kỷ niệm...

- Nào, nào, nào, tâm lý hiền lành... “Từ Seviha đến Grenađa”, - Philip Philippovich lẩm bẩm. - Cần phải kiên nhẫn chịu đựng chứ, cháu còn trẻ thế mà...

- Chẳng lẽ ở ngay trong vòm cổng này ạ?

- Nào, cháu cầm lấy tiền đi, khi người ta cho vay…- Philip Philippovich quát lên.

Rồi tiếp đó cánh cửa trang trọng mở ra, và theo mệnh lệnh của Philip Philippovich, Bormental dẫn Sarikov vào. Mắt gã đảo quanh nhớn nhác, lông trên đầu dựng đứng lên như bàn chải.

- Đồ đểu, - cô gái cất tiếng mắng, chiếc mũi thoa phấn và cặp mắt vẽ son chảy nhòa ra thành vệt lấp loáng.

- Do đâu anh lại có vết sẹo trên trán kia? Anh hãy chịu khó giải thích cho tiểu thư đây được rõ, - Philip Philippovich hỏi ngọt xớt.

Sarikov đánh bài liều:

- Tôi bị thương trong chiến đấu với bọn Koltrac. - gã sủa lên.

Cô gái đứng vụt lên và vừa khóc thành tiếng vừa chạy ra khỏi phòng.

- Thôi đi! - Philip Philippovich quát đuổi theo.- Đợi một tí! Anh cho tôi xin chiếc nhẫn, - ông quay sang nói với Sarikov.

Gã ngoan ngoãn rút từ ngón tay ra chiếc nhẫn rỗng với mặt đá ngọc bích.

- Này, được rồi, - gã bỗng hằn học nói, - mày hãy nhớ lấy. Ngày mai tao sẽ cho mày giảm biên chế.

- Đừng sợ, - Bormental hét với theo, - tôi sẽ không cho phép anh ta làm gì đâu. - Anh quay người lại và nhìn Sarikov trừng trừng khiến gã phải bước giật lùi và đập gáy vào tủ.

- Họ tên cô ta là gì? - Bormental hỏi gã. - Họ tên! - anh gầm lên và bỗng trở nên man rợ và hung dữ.

- Vasnesova, - Sarikov đáp, đưa mắt nhìn quanh tìm cách lủi.

- Hằng ngày, - Bormental túm lấy ve áo ngoài của Sarikov, cảnh cáo, - đích thân tôi sẽ kiểm tra ở sở xem nữ công dân Vasnesova có bị giảm biên chế không. Và nếu như anh... hễ tôi biết là cô ta bị đuổi việc, thì tôi... sẽ tự tay mình bắn chết anh ngay tại chỗ này. Hãy coi chừng đấy, Sarikov, tôi nói trước cho mà biết!

Sarikov nhìn không chớp mắt lên chóp mũi của Bormental.

- Tự tay tôi cũng kiếm được súng... - Poligraph làu bàu, nhưng hết sức yếu ớt, rồi đột ngột nhảy vụt.

- Hãy coi chừng đấy? - tiếng quát của Bormental đuổi theo gã.

Đêm hôm đó và cả nửa ngày hôm sau sự im lặng treo lơ lửng trong căn hộ như một đám mây đen trước cơn giông. Không ai nói một lời nào. Nhưng trưa ngày hôm đó, sau khi Poligraph Poligraphovich, với một linh cảm tồi tệ từ sáng sớm chợt nhói lên trong lòng, đã cau có leo lên xe tải đi đến chỗ làm việc, thì giáo sư Preobrajenski phải tiếp một trong những khách hàng của mình vào một giờ hoàn toàn khác thường. Đó là một người cao lớn, to béo, mặc quân phục. Ông ta khăng khăng đòi gặp giáo sư cho bằng được. Bước vào phòng, ông khách lịch thiệp dập gót giày chào giáo sư.

- Thế nào anh bạn, lại đau nữa sao? - Vẻ mặt hốc hác, Philip Philippovich hỏi. - Anh ngồi xuống đi.

- Merci. Không, thưa giáo sư, - ông khách đáp, đặt chiếc mũ nhà binh lên góc bàn, - tôi rất biết ơn ông... Hừm... Tôi đến gặp ông là vì một việc khác, ông Philip Philippovich ạ... Với lòng kính trọng ông... hừm... muốn báo trước với ông... Một việc vớ vẩn. Chẳng qua hắn là thằng đểu... - ông khách cho tay vào cặp và rút ra một tờ giấy. - May mà người ta trực tiếp báo cáo với tôi...

Philip Philippovich đeo kính lên mũi và bắt đầu đọc, ông lẩm bẩm một mình rất lâu, mặt mỗi lúc một biến sắc.


“...và lại còn đe doạ giết chết chủ tịch hội đồng nhà cửa Svonđer, từ đó có thể suy ra rằng ông ta có giữ hỏa khí trong nhà. Và phát ngôn những lời nói phản cách mạng, thậm chí còn ra lệnh cho nữ đầy tớ của mình là Dinaiđa Procophiévna Bunina đốt sách Engels trong bếp lò, như một phần tử mensevich chính hiệu cùng với trợ lý của mình là Bormental Ivan Arnoldovich, một người không đăng ký hộ khẩu? bí mật sống trong căn hộ của ông ta. Chứng thực chữ ký của trưởng tiểu ban làm sạch thành phố P. P. Sarikov. Chủ tịch hội đồng nhà cửa Svonđer. Thư ký Pestrukhin”.

- Anh cho phép tôi giữ lại cái này chứ? - Mặt nổi lên từng vệt đỏ bầm, Philip Philippovich hỏi. - Hay là, xin lỗi, anh cần nó để thi hành pháp luật?

- Xin lỗi, thưa giáo sư, - người khách tỏ ra hết sức tự ái, hai cánh mũi phập phồng. - Quả là ông hết sức coi thường chúng tôi đấy. Tôi... - nói đến đây ông ta tỏ vẻ hờn dỗi như một con gà trống tây.

- Thôi. xin lỗi, xin lỗi. anh bạn thân mến, - Philip Philippovich lẩm bẩm. - Xin anh bỏ quá cho, quả thật tôi không muốn làm anh phật ý.

- Chúng tôi cũng biết cách đọc chứ. Ông Philip Philippovich!

- Xin anh đừng giận, hắn đã làm tôi phát điên lên...

- Tôi nghĩ, - ông khách đã hoàn toàn nguôi giận, - dù sao hắn phải là đồ đốn mạt đến mức nào... Quả là tò mò muốn được nhìn qua mặt hắn một tý. ở Moskva người ta kể về ông đủ thứ chuyện, hoang đường...

Philip Philippovich chỉ tuyệt vọng khoát tay. Đến lúc này người khách mới thấy lưng giáo sư đã còng xuống và thậm chí tóc ông đã bạc hẳn đi sau thời gian ngắn ngủi vừa qua.

* * *

Tội ác đã chín muồi và rơi ụp xuống như một hòn đá tảng, như thường vẫn vậy trong đời. Với một cảm giác chẳng lành nhức nhối, Poligraph Pohgraphovich trở về nhà trên chiếc xe tải. Giọng nói của Philip. Philippovich mời gã vào phòng khám. Ngạc nhiên, Sarikov bước qua cửa và với một nỗi sợ hãi mơ hồ nhìn vào hai họng súng trên mặt Bormental, rồi sau đó liếc sang phía Philip Philippovich. Quanh người viên bác sĩ trợ lý như có mây giông bao bọc, bàn tay trái của anh cầm điếu thuốc đang hút khẽ giần giật trên tay vịn cửa chiếc bàn đỡ đẻ.

Philip Philippovich nói với một vẻ bình thản hết sức chẳng lành:

- Ngay bây giờ hãy thu xếp đồ đạc - áo quần, bành tô, tất cả những gì anh cần - và xéo khỏi căn hộ!

- Sao lại thế? - Sarikov ngạc nhiên một cách chân thành.

- Xéo khỏi căn hộ, ngay ngày hôm nay. - Philip Philippovich nhắc lại bằng giọng đều đều, mắt nheo nheo nhìn xuống móng tay của mình.

Có một con quỷ nào đấy nhập vào người Poligraph Poligraphovich; có lẽ là cái chết đã đón chờ gã, thần số mệnh đã đứng sau lưng gã. Sarikov tự mình lao vào vòng tay của điều không tránh khỏi. Gã gào lên dữ tợn và đứt quãng:

- Nhưng như thế này là thế nào, hả? Các người tưởng tôi không trị được các người thăng? Tôi có mười sáu ác sin ở đây và tôi sẽ sống ở đây.

- Hãy đi khỏi căn hộ mau. - Philip Philippovich thành khẩn thều thào.

Sarikov tự mình mời thần chết đến. Gã giơ bàn tay trái bị cắn nát bốc mùi mèo không thể chịu nổi lên, làm một cử chỉ tục tĩu nhạo báng với Philip Philippovich. Rồi tiếp đó gã dùng tay phải rút khẩu súng ngắn từ trong túi ra nhằm về hướng viên bác sĩ Bormental nguy hiểm. Điếu thuốc hút dở của Bormental rơi xuống sàn như một ánh sao băng, và mấy giây sau Philip Philippovich kinh hoàng dẫm trên những mảnh kính vỡ, nhảy từ tủ đến bên chiếc đi văng có gối đầu. Trên đó, trưởng tiểu ban làm sạch thành phố nằm sõng sượt thở khò khè, đè trên ngực gã là nhà giải phẫu Bormental; anh dùng chiếc gối trắng nhỏ bịt chặt lấy miệng Sarikov.

Mấy phút sau, bác sĩ Bormental với bộ mặt biến dạng đi ra cửa trước và dán một mảnh giấy lên cạnh nút bấm chuông:

 

“Hôm nay giáo sư ốm, không tiếp khách. Xin không gọi chuông”.

 

Anh dùng con dao nhíp nhỏ sáng loáng cắt đứt sợi dây chuông, nhìn một lát trong gương khuôn mặt bị cào chảy máu và đôi tay rách nát, vẫn còn run rẩy của mình. Rồi anh đi đến cửa bếp và nói với Dina và Daria Pet'rovna đang hoảng hốt:

- Giáo sư bảo các chị không được đi khỏi căn hộ.

- Vâng ạ, - Dina và Daria Petrovna sợ sệt đáp.

- Cho phép tôi đóng cửa sau lại và cầm theo chìa khoá, - đứng ẩn sau cánh cửa trong bóng tối và lấy bàn tay che mặt, Bormental nói. - Đây chỉ là tạm thời, không phải vì không tin các chị đâu. Nhưng lỡ có ai đến, các chị không đừng được, lại mở cửa ra, mà chúng tôi đang bận, không thể để ai đến quấy rầy.

- Vâng ạ, - hai người đàn bà đáp và mặt lập tức trở nên tái nhợt.

Bormental khóa trái cửa sau, khóa cả cửa chính, cả cánh cửa từ hành lang dẫn ra phòng ngoài, rồi tiếng bước chân của anh biến mất trong phòng khám.

Im lặng bao trùm khắp căn hộ, chui vào tất cả các ngóc ngách. Rồi hoàng hôn buông xuống, tồi tệ, đầy lo âu; tóm lại, là bóng tối bao trùm. Tuy nhiên, sau này những người láng giềng ở bên kia sân nói rằng trong các ô cửa sổ phòng khám của Preobrajenski hướng ra sân vào buổi tối hôm đó tất cả các ngọn đèn đều được bật sáng, và thậm chí họ còn trông thấy chiếc mũ trùm bằng vải trắng không vành của chính giáo sư.

Khó có thể kiểm tra được điều đó. Tuy nhiên, về sau lúc mọi chuyện đã kết thúc, cả Dina cũng ba hoa rằng, khi Bormental và giáo sư đã rời phòng khám, ở cạnh lò sưởi trong phòng làm việc anh chàng Ivan Arnoldovich đã làm cho cô sợ đến chết khiếp. Dường như anh ngồi xổm trong phòng làm việc và tự tay mình đốt trong lò sưởi một cuốn vở bìa xanh lấy từ tập bệnh án các khách hàng của giáo sư.

Dường như khuôn mặt của anh chàng bác sĩ lúc đó hoàn toàn xanh mét và bị... và bị... cào nát cả ra. Philip Philippovich vào tối hôm đó cũng khác mọi ngày.

Và lại còn chuyện... Nhưng có thể là cô gái ngây thơ sống trong căn hộ phố Pretristenka kia nói sai thì sao... Chỉ có thể chắc chắn một điều sau đây: ngự trị trong căn hộ vào cái buổi tối hôm đó là một sự yên lặng hoàn toàn tuyệt đối và khủng khiếp.

 

Phần kết

 Vào nửa đêm của mười ngày sau trận chiến đấu diễn ra ở phòng khám, trong căn hộ của giáo sư Preobrajenski tại ngõ Obukhov chợt đột ngột vang lên tiếng chuông gọi cửa gay gắt.

- Công an hình sự và dự thẩm viên đây. Hãy mở cửa ra.

Tiếng bước chân, tiếng gõ, tiếng va chạm. Mọi người bước vào, và trong phòng khám sáng rực với những chiếc tủ đã lắp kính mới bỗng chật ních người. Hai công an mặc đồng phục, một người mặc áo bành tô đen tay xách cặp, chủ tịch hội đồng nhà cửa Svonđer hí hửng và xanh mét, người thanh niên đàn bà, ông gác cửa Pheđor, Dina, Daria Petrovna, và Bormental mặc áo trong nhà, ngượng nghịu che chỗ yết hầu không đeo cà vạt.

Cánh cửa phòng làm việc mở rộng, Philip Philippovich bước ra. Ông mặc chiếc áo khoác mầu xanh da trời mà ai cũng đã biết, và tất cả mọi người đều lập tức có thể thấy rõ rằng chỉ mới qua một tuần mà Philip Philippovich đã lại sức rất nhiều.

Một Philip Philippovich quyền uy, năng nổ, kiêu hãnh xuất hiện trước mặt những người khách đêm và xin lỗi họ việc ông mặc áo choàng dùng trong nhà để tiếp khách.

- Đừng bận tâm, thưa giáo sư. - người mặc thường phục bối rối đáp, rồi ngập ngừng nói tiếp: - Một việc quả thật rất khó chịu. Chúng tôi có lệnh khám căn hộ của ông và, - ông ta liếc nhìn bộ nĩa của Philip Philippovich, - và bắt giữ, tuỳ thuộc vào kết quả của việc khám.

Philip Philippovich nheo mắt hỏi:

- Tôi xin được hỏi, vì chuyện gì, và bắt ai?

Người mặc áo đen lau má, cất tiếng đọc tờ giấy lấy từ trong cặp ra.

- Theo lời buộc tội Preobrajenski, Bormental, Dinaiđa Bunina và Daria Petrovna đã giết trưởng tiểu ban làm sạch thành phố thuộc Sở Công chính Moskva Poligraph Poligraphovich Sarikov.

Tiếng khóc nức nở của Dina át đi những lời cuối cùng của ông ta. Mọi người nhốn nháo.

- Tôi không hiểu gì hết, - ưỡn ngực ra như một ông vua, Philip Philippovich nói, - Sarikov nào? À, xin lỗi, đó là con chó của tôi... mà tôi đã làm phẫu thuật ấy à?

- Xin lỗi giáo sư, không phải chó, mà khi anh ta đã thành người rồi. Sự thể là như thế.

- Tức là khi nó biết nói?- Philip Philippovich hỏi. - Điều ấy còn chưa có nghĩa là nó đã thành người! Thực ra, cái đó không quan trọng. Sarik bây giờ vẫn còn đang tồn tại, và tuyệt đối không có ai giết nó cả.

- Thưa giáo sư, - người mặc áo đen hết sức ngạc nhiên nói và nhướn cặp lông mày lên, - nếu thế thì phải đưa anh ta ra trình diện. Đã mười ngày nay anh ta mất tích, và những chứng cớ, xin lỗi. lại rất không hay.

- Bác sĩ Bormental, anh làm ơn dẫn Sarik ra trình diện ngài dự thẩm, - Philip Philippovich cầm giấy tờ lệnh, nói to.

Bác sĩ Bormental cười khẩy, bước ra khỏi phòng. Khi anh quay lại và huýt gió, từ ngoài cánh cửa phòng làm việc nhảy chồm vào theo anh một con chó đực có bộ dạng quái dị. Trên mình nó nhiều chỗ còn hói bóng, nhưng nhiều chỗ đã mọc lại lông. Nó bước đi, như một nghệ sĩ xiếc, bằng hai chi sau, rồi đứng xuống trên cả bốn chân và nhìn quanh. Một sự im lặng tuyệt đối đông quánh lại trong phòng khám như keo dính. Con chó đực gớm ghiếc với vòng sẹo đỏ bầm trên trán lại đứng lên bằng hai chi sau, mỉm cười và ngồi vào ghế bành.

Người công an thứ hai bỗng vung rộng tay làm dấu thánh, bước giật lùi, dẫm lên cả hai chân Dina.

Người mặc áo đen, không khép miệng lại được, phát ra những lời sau:

- Sao lại thế này, thưa giáo sư?... Anh ta đã làm việc ở sở Công chính kia mà...

- Tôi không cử nó đến đấy, - Philip Philippovich đáp, - mà ngài Svonđer đã giới thiệu nó, nếu như tôi không nhầm.

- Tôi không hiểu gì cả, - người mặc áo bành tô đen hoang mang nói và quay sang hỏi viên công an thứ nhất: - Có đúng anh ta đây không?

- Đúng, - người công an đáp thì thầm.- Đích thị anh ta.

- Đúng hắn đấy,- Pheđor cũng lên tiếng xác nhận,- chỉ có điều cái đồ đểu này đã lại mọc đầy lông.

- Nhưng anh ta đã biết nói kia mà... Chà chà...

- Và bây giờ nó vẫn còn nói, chỉ có điều càng ngày càng ít hơn, cho nên các ông nên tận dụng dịp này, không thì ít nữa nó sẽ im hẳn đi đấy.

- Nhưng tại sao? - người mặc áo đen hỏi.

Philip Philippovich nhún vai.

- Khoa học còn chưa biết những phương pháp biến các con thú thành người. Tôi đã thử, nhưng chỉ có điều không thành công, như các ông thấy đấy. Biết nói một ít rồi quay trở về trạng thái ban đầu. Một hiện tượng lại tổ!

- Không nói bậy! - Con chó ngồi trong ghế bành đột ngột quát to và đứng lên.

Người mặc áo bành tô đen bỗng trắng bệch mặt ra, buông rơi chiếc cặp và từ từ ngã nghiêng xuống.

Một người công an vội ôm lấy sườn ông ta, còn Pheđor đỡ phía sau. Tất cả nhốn nháo lên và trong cảnh đó, chỉ nghe rõ ràng nhất ba câu nói.

Philip Philippovich:

- Lấy thuốc valeriana ra đây. Bị sốc đấy mà.

Bác sĩ Bormental:

- Tôi sẽ tự tay mình ném Svonđer xuống cầu thang, nếu hắn còn vác mặt đến căn hộ giáo sư Preobrajenski một lần nữa.

Và Svonđer:

- Tôi đề nghị ghi những lời này vào biên bản.

Những ống lò sưởi xám tỏa hơi nóng. Tấm màn treo cửa sổ che khuất bầu trời đêm đặc quánh trên phố Pretristenka với một ngôi sao đơn độc. Cái sinh vật thượng đẳng, đấng ân nhân quan trọng của chó, đang ngồi trong ghế bành, còn con chó Sarik nằm dài trên thảm cạnh chiếc đi văng bọc da. Sương mù tháng Ba làm chó về buổi sáng thường bị những cơn đau nhức hành hạ dọc theo vết sẹo chạy quanh đầu. Nhưng đến chiều trời ấm lại thì cơn đau bớt dần.

Còn bây giờ thì thật nhẹ nhõm, thật thoải mái, và những ý nghĩ trong đầu chó chảy thành dòng mạch lạc, ấm áp.

“Mình thật gặp may, quả là may, - chó mơ màng nghĩ, - may đến không thể tả nổi. Mình đã được ở hẳn trong căn hộ này. Mình tin tưởng chắc chắn rằng thành phần xuất thân của mình là không thuần chủng. ở đây không thể thiếu được chàng thợ lặn. Bà nội mình là một phụ nữ nhẹ dạ, cầu cho vong linh bà được lên thiên đường. Thật ra, không hiểu người ta rạch nát đầu mình ra để làm gì? Nhưng không sao, rồi cũng sẽ chóng lành thôi. Đối với chúng mình thì chuyện đó chẳng là cái gì cả”.

Từ xa vẳng lại tiếng chai lọ va chạm nhau. Anh chàng bị đớp đang thu dọn các tủ kính trong phòng khám.

Còn ông tiên tóc bạc thì ngồi trong ghế bành hát:

“Đến hai bờ sông Nin thần thánh...”.

Chó trông thấy những việc làm khủng khiếp.

Nhân vật quan trọng kia cho bàn tay đi găng trơn bóng vào lọ, lấy ra những bộ não, ông ta quả là một con người kiên trì, bướng bỉnh, cứ cố đạt được một cái gì đó, hết cắt lại xem xét, mắt nheo nheo và hát:

“Đến hai bờ sông Nin thần thánh...”

 

Hết

Tháng Giêng - tháng Ba năm 1925 - Moskva



“TRÁI TIM CHÓ” – CÂU CHUYỆN NGỤ NGÔN THỜI HIỆN ĐẠI

JUNE 18, 2013 BY CONLOANKHUNG

Mở đầu

            Bước sang thế kỷ XX, văn học Nga đánh mất vị trí của mình trên văn đàn văn học thế giới sau một thế kỷ XIX rực rỡ, huy hoàng với những Gogol, Dostoevsky, Chekhov. Sự phát triển của thực tế chính trị xã hội, kéo theo sự thắng thế của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa như là khuynh hướng chủ đạo khiến văn học Nga chững lại trong một thời gian dài. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là phủ nhận toàn bộ những thành tựu của văn học Nga thế kỷ XX, mà ngược lại, có thể nói, văn học Nga giai đoạn này đã tìm thấy một hướng đi mới cho mình và dẫn đầu phong trào văn học ở các nước xã hội chủ nghĩa.

            Là “đứa con lạc loài” của đất nước Nga trong giai đoạn này, M.Bulgacov nổi lên nhờ cá tính độc lập, tài năng nghệ thuật độc đáo và thái độ thẳng thắn trước hiện thực. Chỉ đến khi nước Nga bước vào giai đoạn đổi mới sau sự kiện Liên Xô sụp đổ, những sáng tác của Bulgacov mới được đánh giá lại và ông trở thành một trong những nhà văn lớn nhất của văn học Nga hiện đại. Hiện tượng Bulgacov cho thấy sức sống mãnh liệt của văn học, với tư cách là một bộ môn nghệ thuật riêng biệt và độc lập với hoàn cảnh chính trị. Tìm hiểu Bulgacov dĩ nhiên vấp phải nhiều khó khăn do những cấu trúc ý nghĩa tiềm ẩn và phức tạp, do thái độ chính trị của ông, do phong cách sáng tác dung chứa nhiều yếu tố huyền thoại và liên văn bản, và nhất là do lối viết văn giàu kỹ thuật, nhiều đổi mới. Về một mặt nào đó, Bulgacov đại diện cho những đổi mới văn xuôi Nga toàn diện, cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật.

            Chọn phân tích Trái tim chó – một trong ba cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Bulgacov – người viết không có tham vọng giải quyết tất cả những vấn đề mà cuốn tiểu thuyết đặt ra. Thông qua Trái tim chó, và xem xét tác phẩm này như một hiện tượng đổi mới triệt để theo tinh thần hậu hiện đại, người viết chỉ muốn gợi mở và chỉ ra những sáng tạo đặc biệt của Bulgacov; từ đó khẳng định sự trưởng thành của ông trong tư duy nghệ thuật.

1. M.Bulgacov và tác phẩm “Trái tim chó“

1.1. M.Bulgacov – “nhà văn lớn nhất và ly kỳ nhất nước Nga”

Mikhail Afanasyevich Bulgacov sinh ngày 02/05/1891 và mất ngày 10/03/1940. Ông là một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn học Nga thế kỷ XX. Ông cũng thuộc vào số ít những nhà văn Nga được làm bách khoa toàn thư. Và ông cũng là nhà văn mà Đoàn Tử Huyến – dịch giả giới thiệu đến Việt Nam ba bộ tiểu thuyết lớn của ông – gọi là “nhà văn lớn nhất và ly kỳ nhất nước Nga”. Từ những dữ kiện về cuộc đời của Bulgacov[1], chúng ta có thể rút một số điểm quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình sáng tác và tư tưởng của Bulgacov như sau:

            Đầu tiên, Bulgacov lớn lên trong một gia đình có cha là tiến sĩ thần học làm việc trong một trường dòng, mẹ là giáo viên và vốn là con gái của một mục sư. Hoàn cảnh gia đình nêu trên khiến Bulgacov được tắm mình trong không khí thiêng liêng của tôn giáo ngay từ nhỏ. Điều này có thể giải thích cho những yếu tố tôn giáo xuất hiện khá nhiều và mang một ý nghĩa nhất định trong các tác phẩm của Bulgacov.

            Thứ hai, những kiến thức từ Khoa Y Trường Đại học Tổng hợp Kiev, thời gian làm việc tại các viện quân y trong chiến tranh, cùng với những ngày ông làm công việc nhân đạo của một thầy thuốc sau Cách mạng tháng Mười cho thấy Bulgacov hiểu biết rất rõ về cơ thể người, về sinh học, đặc biệt là y học. Và tất cả những kiến thức lẫn kinh nghiệm làm việc như trên đã thể hiện phần nào trong các sáng tác của ông, cụ thể là Trái tim chó và Những quả trứng định mệnh.

            Thứ ba, có thể thấy Bulgacov sinh ra, lớn lên và làm việc trong một giai đoạn khốc liệt của đất nước Nga với hàng loạt những diễn biến dồn dập và phức tạp của lịch sử, từ Cách mạng tháng Mười, đến chiến tranh thế giới thứ nhất và sự nổi dậy của chính quyền Xô Viết. Những biến cố mạnh mẽ của lịch sử chính trị xã hội khiến Bulgacov từ bỏ con đường hành nghề y và chuyển hẳn sang viết văn vào năm 1920. Bên cạnh đó, có một thời gian nhà văn này còn sống phụ thuộc vào morphine (dù ông chưa bị nghiện). Có thể thấy, tất cả đều chứng tỏ tâm trạng rối rắm, hoang mang của Bulgacov trước những thay đổi chóng mặt của thời cuộc và hiện thực xã hội. Và điều đó khiến ông muốn cầm bút để thể hiện tất cả. Hình ảnh đất nước và con người Nga trong các tác phẩm của ông, cái nhìn thẳng thắn và thái độ không e dè trước thực tế chính trị là minh chứng rõ ràng nhất cho lập trường và tư thế sáng tác của Bulgacov.

            Cuối cùng, chính sự thẳng thắn trong suy nghĩ và lối châm biếm sâu cay những vấn đề xã hội của Bulgacov là nguyên nhân khiến những tác phẩm của ông bị cấm phát hành, bị kiểm duyệt gắt gao trong suốt thời gian ông còn sống. Tâm trạng của một người bị đè nén, bị ràng buộc, bị nghi ngờ cũng như thái độ bất mãn, bất hợp tác của Bulgacov cũng đi vào trong sáng tác của ông một cách rõ ràng. Và đây cũng là điều chứng minh tài năng và bản lĩnh của Bulgacov khi ông không bao giờ bẻ cong ngòi bút của mình, khi ông không bao giờ đầu hàng và chịu khuất phục trước các quyền lực chính trị.

Có thể thấy những đặc điểm quan trọng trong cuộc sống cá nhân ảnh hưởng như thế nào đến quá trình sáng tác của Bulgacov. Từ đây, nước Nga đã có thêm một nhà văn xuất sắc, một tiếng nói đại diện cho sức mạnh chân chính và độc lập của văn học, một minh chứng điển hình cho sức sống của những tác phẩm văn học thực thụ. Với tư thế và tâm trạng nêu trên, Bulgacov đã để lại một di sản văn học khá đồ sộ và phong phú, từ các tiểu thuyết như Cổ họng bằng thép, Bạch vệ, Ghi chép trên ống tay áo, Ổ quỷ, Bút ký của một bác sĩ trẻ, Những quả trứng định mệnh, Trái tim chó, Morfi, Nghệ nhân và Margarita, Tiểu thuyết sân khấu, … đến các vở kịch như Căn hộ của Zoia, Địa vị tôi đòi của lũ đạo đức giả, Chạy trốn, Những ngày tháng của anh em Turbin, Đảo thắm, Niềm khoái lạc, Ivan Vasilievitr, Những ngày cuối cùng… Trong đó, Trái tim chó là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, nơi tập trung nhiều nét đặc sắc về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện của Bulgacov, đồng thời là bước chuẩn bị cho tiểu thuyết vĩ đại nhất của ông – Nghệ nhân và Margarita.

1.2. “Trái tim chó” – câu chuyện giả tưởng về khoa học và đời sống

            Trái tim chó xoay quanh câu chuyện về một thí nghiệm khoa học sai lầm của giáo sư Philip Philippovitr: cấy tuyến yên lấy từ não người vào não chó. Kết quả của thí nghiệm trên là từ một con chó hoang, Sarik biến thành Saricov, một con người với tất cả những biểu hiện tệ hại nhất của con người về đạo đức. Nguyên nhân khoa học của những hành động lừa lọc, lưu manh và độc ác của Saricov là do tuyến yên mà giáo sư dùng được lấy từ Clim Grigorievitr Trugunkin, một kẻ đang hưởng án treo vì tội trộm cắp, một kẻ đã ba lần ra tòa, một kẻ bị dao đâm chết trong một quán rượu. Khi giáo sư bắt đầu hoang mang trước những sai lầm của mình thì cũng là lúc ông dính vào một mớ rắc rối do Saricov gây ra: đuổi theo mèo, gây gổ với hàng xóm, chọc ghẹo phụ nữ, uống rượu, ăn trộm, lừa đảo, vu khống, v.v… Đỉnh điểm căng thẳng là khi giáo sư nhận được thư tố cáo ông từ Saricov, khi Saricov nổ súng tìm cách giết người. Kết quả, giáo sư đã chọn cách phẫu thuật lần nữa để đảo ngược thí nghiệm của mình và đưa Saricov trở về lại hình dạng của con chó hoang Sarik. Thế nhưng, tất cả vẫn chưa kết thúc, khi ông miệt mài trở lại với những thí nghiệm tìm hiểu về não người…

            Có thể thấy Trái tim chó có một cốt truyện đơn giản nhưng lại tập trung khai thác nhiều yếu tố, từ những chi tiết khoa học đến các hình thức châm biếm, đả kích và hài hước. Bên cạnh đó, Trái tim chó còn khai thác một số yếu tố từ huyền thoại Thiên Chúa giáo. Và đặc biệt nhất là vấn đề mà người viết muốn tìm hiểu thông qua bài viết này: hình thức hiện đại hóa truyện ngụ ngôn của Bulgacov. Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất biến Trái tim chó thành một tác phẩm đặc biệt, vượt qua những sáng tác giả ngụ ngôn khác.

2. Đôi nét về thể loại ngụ ngôn

            Truyện ngụ ngôn thường được xếp vào trong loại hình tự sự dân gian. Đi sâu hơn vào nghĩa từ nguyên, trong luận án Phó tiến sĩ của mình, Phạm Minh Hạnh phân tích như sau: “Bha từ nguồn gốc Ấn Độ có nghĩa là nói, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là lời kể ngắn; fable tiếg Pháp là truyện kể có bài học luân lý; ngụ ngôn theo tiếng Trung Quốc và Việt Nam là lời kể có ngụ ý bên trong, v.v…”[2]. Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Đinh Gia Khánh định nghĩa truyện ngụ ngôn là “một loại truyện chứa đựng trong một sự tích hoàn toàn tưởng tượng một quan niệm triết lý hay đạo đức”[3]. Trong khi đó, Từ điển văn học (bộ mới) lại cho rằng truyện ngụ ngôn là “một thể loại văn học giáo huấn, thường sử dụng phúng dụ như một nguyên tắc tổ chức tác phẩm”[4]. Có thể thấy mỗi cách định nghĩa tập trung vào một khía cạnh của truyện ngụ ngôn, nhưng nhìn chung, cả hai định nghĩa đều nhấn mạnh chức năng giáo dục và hình thức tưởng tượng, phúng dụ của loại truyện này. Như vậy, từ những dữ liệu nêu trên, ta có thể thấy truyện ngụ ngôn là một hình thức tự sự dân gian dùng tích truyện mang tính ẩn dụ để hàm chứa một ý nghĩa triết lý, luân lý, đạo đức tiềm ẩn.

            Tuy nhiên, có thể thấy cách hiểu nêu trên vẫn chưa xác định rõ sự khác biệt của ngụ ngôn so với các loại hình tự sự dân gian khác như truyện cổ tích, truyện cười,… Và điều này đã được Phạm Minh Hạnh làm rõ trong luận án của mình khi lần lượt so sánh ngụ ngôn với truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thế sự và truyện cười. Khác với truyện cổ tích về loài vật, truyện ngụ ngôn chỉ mượn hình ảnh động vật để nói về đời sống con người chứ không phải để đi vào truy nguyên, tìm hiểu thế giới loài vật. Khác với truyện cổ tích thế sự thường phản ánh những giấc mơ, những lý tưởng của con người, truyện ngụ ngôn lại đi vào khái quát những quy luật, những triết lý sâu xa, những kinh nghiệm sống trong xã hội được con người đúc kết lại để răn dạy nhau và để tự hoàn thiện mình. Truyện ngụ ngôn vì thế là kho tàng quý giá kết tinh những cách ứng xử, những nhân sinh quan của con người về đời sống, về xã hội, và về chính mình. Và chính vì vậy mà so với truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn hoàn toàn không sử dụng yếu tố thần kỳ như một công cụ giải quyết mẫu thuẫn, nâng đỡ giấc mơ của con người. Nếu có thần linh xuất hiện trong truyện ngụ ngôn, thì thần linh cũng mang vai trò của một nhân vật trong câu chuyện chứ không hề giữ chức năng giúp đỡ như trong truyện cổ tích. Cũng như vậy, khác với truyện cười thường khai thác những tình huống lố bịch, những thói xấu, những khờ khạo của con người, truyện ngụ ngôn là các bài học, là lời khuyên răn, dạy bảo và cảnh tỉnh con người. Truyện ngụ ngôn vì thế không hề sử dụng các hình ảnh hài hước, tục tĩu,… Từ những khác biệt trên, có thể thấy thể loại ngụ ngôn giữ một vị trí riêng biệt trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc. Truyện ngụ ngôn tập trung vào thế giới con người, giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội loài người và nhằm giáo dục con người. Truyện ngụ ngôn không mang trong mình yếu tố giải trí, mua vui, cũng không phải là sự giải tỏa những ước mơ, những khao khát bị kiềm nén. Truyện ngụ ngôn là những bài học đạo đức nghiêm túc ẩn mình dưới cái vỏ bọc ẩn dụ. Từ cách hiểu như trên, ta có thể đi vào xác định những đặc điểm của ngụ ngôn như sau:

            Đầu tiên là về nhân vật, nhân vật trong truyện ngụ ngôn thường đại diện cho một tính cách, một tầng lớp, một thân phận nhất định trong xã hội. Tuy nhiên, điều đặc biệt trong truyện ngụ ngôn là nhân vật thường được xây dựng trên cơ sở đối lập, mâu thuẫn nhau. Ví dụ như sự đối lập giữa biết và không biết, nhanh và chậm, hay và dở, tốt và xấu, v.v… Nhân vật trong ngụ ngôn gắn với cốt truyện, thống nhất với cốt truyện. Nhân vật  xuất hiện theo chức năng, vai trò vạch sẵn, để thực hiện một nhiệm vụ mà cấu trúc quy định. Nhân vật có tính cách, đặc điểm ổn định, cố định suốt truyện và tính cách ấy quyết định kết cục truyện. Nhân vật chỉ có một hành động, hoặc một vài hành động cùng loại hay cùng đích, theo đúng tính cách đã định. Nhân vật hoạt động trong môi trường riêng biệt. Đây là những đặc điểm quan trọng trong cách xây dựng nhân vật của truyện ngụ ngôn.

            Tiếp theo, về kết cấu, truyện ngụ ngôn thường ngắn gọn, hàm súc với ngôn ngữ cô đọng và sự chắt lọc các chi tiết. Tích truyện trong ngụ ngôn thường chỉ đi vào khai thác một tình huống trong cuộc sống. Truyện ngụ ngôn cũng không chấp nhận cách giải thích dài dòng, vòng vo, tỉ mỉ. Và điều quan trọng nhất, là truyện ngụ ngôn sử dụng ám chỉ, so sánh, ẩn dụ để giúp con người tìm ra những vấn đề triết lý sâu xa mà truyện muốn gởi gắm. Vì vậy, truyện ngụ ngôn thường có hai phần, phần nổi là cốt truyện với các hành động của nhân vật; còn phần chìm là ý nghĩa ẩn giấu mà người đọc, người nghe phải dựa vào kiến thức và kinh nghiệm của mình để khám phá. Cái đặc sắc của ngụ ngôn chính là ở chỗ thông qua phần nổi để thể hiện phần chìm, để lôi cuốn người đọc, người nghe vào quá trình tìm hiểu phần chìm.

            Một đặc điểm quan trọng thứ ba của truyện ngụ ngôn là truyện được xây dựng như một vở kịch ngắn với những tình huống gay cấn, với nhiều xung đột căng thẳng dẫn đến mâu thuẫn gay gắt và cuối cùng dẫn đến những kết thúc thật bất ngờ. Chính trong những tình huống mang tính giả định và với nhiều xung đột như vậy, truyện ngụ ngôn mới có thể chuyển tải hết phần chìm ý nghĩa sâu xa mà tác giả muốn gởi gắm.

            Tóm lại, truyện ngụ ngôn là một loại hình tự sự dân gian sử dụng những nhân vật và hình ảnh mang tính ẩn dụ để thể hiện một triết lý, một bài học kinh nghiệm trong đời sống. So với các thể loại văn học dân gian khác, truyện ngụ ngôn thể hiện một trình độ cao hơn về tư duy đời sống và tư duy văn học. Đồng thời, truyện ngụ ngôn cũng bộc lộ những đặc điểm riêng biệt với các thể loại khác như ta đã phân tích. Và với những hiểu biết về ngụ ngôn như trên, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu những đổi mới đặc biệt của Bulgacov trong Trái tim chó – câu chuyện ngụ ngôn thời hiện đại.

3. “Trái tim chó” – những cách tân thể loại theo hướng hiện đại chủ nghĩa

3.1. Hình tượng nhân vật đối lập

            Như trên đã nói, xây dựng nhân vật trên một nét tính cách thống nhất, với những hành động nhất quán và đặc biệt là cách xây dựng nhân vật đối lập là một trong những đặc trưng cơ bản của truyện ngụ ngôn. Và trong Trái tim chó, Bulgacov đã kế thừa và phát triển hình thức cấu trúc nhân vật trên. Cụ thể, trong tiểu thuyết giả tưởng này, Bulgacov đã xây dựng hai cặp hình tượng nhân vật đối lập là Sarik – Saricov và Saricov – Philip Philippovitr.

            Trước hết, cặp nhân vật Sarik – Saricov được xây dựng dựa trên những nét tương phản sau: Đầu tiên, Sarik là một con chó hoang, một con vật lang thang đầu đường xó chợ để tìm kiếm miếng ăn, đối tượng của những đánh đập và chửi bới từ thế giới con người. Trong khi đó, Saricov lại đại diện cho bản chất xấu xa của con người, từ lưu manh, rượu chè, trộm cắp đến vu khống, lừa đảo, hống hách, lạm quyền. Sarik tuy có phần ranh mãnh, tham lam nhưng cũng là một con chó đáng thương khi nó là nạn nhân của những lời chửi rủa, của đánh đập và hành hạ, của bão tuyết và đói khát. Qua những trang đầu tiên của tác phẩm, ta có thể thấy thông qua cái nhìn của Sarik, là cái nhìn tỉnh táo và phán xét đối với thế giới con người. Sarik hiểu rõ bản chất của Cửa hàng thực phẩm hay Khu ăn uống bình dân. Sarik cảm thông cho tình thế thương tâm và tủi nhục của cô nhân viên đánh máy. Và Sarik còn mang nhiều thói quen bản năng của loài chó như thích cắn xé thú nhồi bông, tham ăn, v.v… Lúc đầu, trong mắt những người ở trong căn hộ của Philip Philippovitr, Sarik là một con chó vô lễ. Nhưng chỉ đến khi Saricov xuất hiện, hình ảnh Sarik lại trở nên dễ thương và đáng nhớ trong lòng họ.

            Saricov là con người được tạo thành sau thí nghiệm làm “nhân hóa triệt để” Sarik. Bằng cách cấy ghép tuyến yên và tuyến tinh hoàn của Clim Grigorievitr Trugunkin, giáo sư Preobrajenski đã biến Sarik thành một con người. Ở đây, chúng ta có thể thấy motif biến đổi (vật hóa người) trong câu chuyện này nhưng nó hoàn toàn mang đến kết quả khác hẳn. Bản chất dễ mến của Sarik thay đổi để lộ ra một Saricov là một tên lưu manh, hèn hạ điển hình trong xã hội với tất cả những hành động quá khích, phi chính phủ và trơ trẽn của hắn. Sự thay đổi và đối lập về bản chất giữa Sarik và Saricov rõ ràng mang một ý nghĩa hàm ẩn khá rõ ràng. Thông qua cặp hình tượng nhân vật này, Bulgacov đã khẳng định một triết lý sâu xa về bản chất xấu xa tiềm ẩn nơi con người: “Anh phải hiểu rằng toàn bộ sự khủng khiếp là ở chỗ trái tim của hắn ta bây giờ không còn là trái tim chó nữa, mà chính là trái tim người! Và là trái tim đốn mạt nhất trong số tất cả những trái tim tồn tại trong tự nhiên!”[5]. Rõ ràng, phẫu thuật mang tính thực nghiệm khoa học của giáo sư Preobrajenski đã vượt xa dự đoán kết quả ban đầu và mang lại những hậu quả không mong muốn. Và Saricov là minh chứng cụ thể cho những sai lầm tai hại đó, cũng như là hình ảnh điển hình cho những tâm tính xấu xa, tồi bại của con người. Xây dựng Sarik – Saricov trên hai thế đối lập giữa chó và người, tốt và xấu, Bulgacov đã khẳng định mặt đen tối trong bản chất con người. Ở đây, người viết chưa đề cập đến những ý đồ chính trị (nếu có) trong cách Bulgacov xây dựng Saricov từ nguồn gốc giai cấp vô sản của Clim. Người viết chỉ muốn đề cập đến mặt trái của cái gọi là “con người” trong mối tương quan với một sinh vật được gọi là “con chó”. Chính vì vậy, cuộc phẫu thuật lần thứ hai để hoán đổi Saricov trở về hình dạng ban đầu là Sarik không chỉ đơn giản là một hình thức giảm thiểu và khắc phục hậu quả của Preobrajenski, mà nó còn là sự giải trừ và triệt tiêu những con người xấu xa trong xã hội.

            Cặp nhân vật đối lập thứ hai trong Trái tim chó là Saricov – Preobrajenski. Nếu chú ý những ghi chú về ngày tháng trong tác phẩm, ta sẽ thấy thời gian diễn ra sự biến đổi, tức thời gian Sarik trở thành Saricov rồi lại quay về lốt chó, diễn ra trong vòng 14 ngày (từ 21 tháng 12 đến 6 tháng Giêng). Và thời điểm này trùng khớp với kỳ nghỉ lễ Giáng sinh ở Nga, đặc biệt, đêm Preobrajenski phẫu thuật cấy tuyến yên vào não Sarik diễn ra vào đúng đêm 24 tháng 12, tức là ngày Chúa Jesus xuống thế làm người trong giáo lý Thiên Chúa giáo. Bên cạnh đó, khi còn là một con chó, Sarik liên tục thể hiện thái độ kính trọng đến tôn thờ và thường gọi Preobrajenski là “vị thánh”. Lúc trở thành người, Saricov cũng từng gọi Preobrajenski là “bố”. Từ đây, ta có thể liên hệ hình ảnh Sarik biến thành người dưới bàn tay của Preobrajenski thành hình ảnh Chúa Jesus hạ sinh xuống trần gian theo lệnh của Thiên Chúa cha. Nếu hiểu tác phẩm và hình tượng hai nhân vật theo hướng này, ta sẽ thấy ý nghĩa ẩn dụ độc đáo và sâu sắc của Trái tim chó. Trong khi Chúa Jesus xuống thế làm người để rao giảng Tin Mừng và cứu chuộc loài người, thì Sarik biến thành Saricov để đi đuổi mèo, để chọc ghẹo phụ nữ, để gây rối loạn trật tự xã hội. Trong khi Chúa Jesus được sinh hạ trong một khung cảnh thiêng liêng thần thánh thì sự ra đời của Saricov lại được giải thích trần trụi bằng nguyên nhân khoa học và hình ảnh hắn xuất hiện vừa rách rưới xấu xí lại vừa lố bịch, kệch cỡm. Ngoài ra, Preobrajenski không bao giờ (muốn) thừa nhận Saricov như là thành quả khoa học của mình, thành quả từ sự lao động và sáng tạo miệt mài của ông. Ngược lại, Preobrajenski lại không ngừng chối bỏ và phủ định Saricov. Và với những hình ảnh, chi tiết gợi liên tưởng đến giáo lý Thiên Chúa giáo nêu trên, ta có thể thấy, thông qua hình tượng Saricov và Preobrajenski, Bulgacov đã gợi mở những quan điểm của ông về tôn giáo, về thần thánh, về đức tin và trật tự xã hội. Đặt cái nhìn khoa học bên cạnh niềm tin tôn giáo, phải chăng Bulgacov đang khẳng định sự mù quáng của khoa học khi cố gắng đi ngược lại quy luật phát triển tự nhiên của vạn vật? Và phải chăng, trong cái nhìn của ông, mọi cố gắng điên rồ của khoa học nhằm chứng minh sức mạnh của mình chẳng mang lại thứ gì khác ngoài đổ vỡ và hỗn loạn?

            Bên cạnh những chi tiết gợi nhớ huyền thoại Thiên Chúa giáo, hình tượng Saricov và Preobrajenski còn được triển khai trên những nét đối lập khác như quan điểm về ăn mặc (Saricov thích màu sắc lòe loẹt còn Preobrajenski ưa sự trang nhã), về ăn uống (Saricov là kẻ rượu chè bê tha, tham ăn tục uống còn Preobrajenski lại là người nhã nhặn, coi trọng những quy tắc lịch sự trong khi ăn uống), về sách vở (Saricov nghe lời Shvonder nên đọc sách của Engels trong khi Preobrajenski chỉ nghĩ về Robinson Crusoe), về giải trí (Saricov mê xem xiếc nhưng Preobrajenski lại đề cao nhà hát và opera), v.v… Sự đối lập giữa hai nhân vật không chỉ xuất phát từ xuất thân, từ trình độ văn hóa, từ tầng lớp giai cấp mà còn có nguyên nhân từ quan điểm và thái độ sống. Preobrajenski luôn coi trọng những nguyên tắc truyền thống đến mức có thể thành con người bảo thủ. Preobrajenski từ chối hòa nhập vào thực tế xã hội Xô viết thời bấy giờ. Preobrajenski khăng khăng ở lại trong căn hộ bảy phòng và kiên quyết gìn giữ nếp sống của mình. Preobrajenski tin vào sức mạnh của khoa học. Trong khi đó, Saricov lại là kẻ vô tổ chức, vô giáo dục, thiếu văn hóa. Saricov có thể lợi dụng Shvonder, lợi dụng tầng lớp của mình để luồn lách trở thành “Trưởng ban làm sạch thành phố”. Saricov là con vẹt lặp đi lặp lại những quan điểm chính trị của giai cấp vô sản nhưng hành xử như một kẻ lưu manh. Saricov và Preobrajenski đại diện cho hai giai tầng khác nhau, hai cách sống khác nhau trong xã hội. Đặc biệt, mối quan hệ giữa Saricov và Preobrajenski còn là mối quan hệ giữa vật tạo tác và chủ thể sáng tạo, giữa kẻ bị trị và người thống trị. Uy quyền của một nhà khoa học có tài năng biến chó thành người và ngược lại của Preobrajenski vừa khẳng định sức mạnh khoa học vừa chứng minh sự mù quáng đến phi lý và vô nhân tính của nó. Hành động đem Sarik ra làm thí nghiệm với những chi tiết tỉ mỉ trong quá trình phẫu thuật cho thấy tình cảm mà Preobrajenski dành cho Sarik không hơn gì tình cảm của một người làm khoa học dành cho vật thí nghiệm của mình. Vì vậy, mối quan hệ này còn phản ánh tính chất phi nhân và lạm dụng quyền lực của các nhà khoa học mà Preobrajenski là một ví dụ. Kết thúc tác phẩm, sau những sai lầm của mình, Preobrajenski vẫn chưa ngừng lại mà vẫn tiếp tục “hý hoáy” với những bộ não trong phòng thí nghiệm của mình. Liệu câu chuyện đã thật sự kết thúc hay chưa…      

            Như vậy, thông qua hai cặp nhân vật đối lập nêu trên, ta có thể thấy Bulgacov đã vượt ra khỏi biên độ truyền thống của ngụ ngôn để tìm cho mình một hướng đi riêng. Nếu trong truyện ngụ ngôn, các nhân vật chỉ được miêu tả vắn tắt qua một vài chi tiết, một vài hành động gợi lên tính cách nhân vật; thì trong Trái tim chó, những ẩn dụ xoay quanh ba nhân vật trên gợi lên một chiều sâu văn hóa (Thiên Chúa giáo) và mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ở đây không chỉ có quan niệm về khoa học, về tôn giáo mà còn có triết lý nhân sinh về xã hội, về con người trong mối quan hệ với chính con người và với động vật. Bên cạnh đó, cách xây dựng nhân vật của Bulgacov còn thống nhất với những đổi mới khác của ông mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong các phần sau.

3.2. Tình huống truyện nhiều xung đột

            Trong phần khái quát về truyện ngụ ngôn và những đặc trưng của nó, chúng ta đã phân tích tình huống truyện giàu kịch tính như là một trong những điểm riêng biệt của thể loại này. Xét về phương diện tình huống, Trái tim chó của Bulgacov rõ ràng có nhiều điểm tương đồng với ngụ ngôn. Trong tác phẩm, các biến cố được xây dựng nối tiếp nhau, trong đó biến cố này dữ dội và sâu sắc hơn biến cố kia, biến cố trước là dự báo, là nguyên nhân cho biến cố sau. Đi sâu vào Trái tim chó, ta sẽ thấy toàn bộ tính căng thẳng của tình huống tập trung chủ yếu vào những diễn biến sau khi Sarik biến thành người.

            Đầu tiên, qua những trang bệnh án của Bormental trong quá trình theo dõi kết quả cuộc phẫu thuật, chúng ta vẫn chưa thấy bóng dáng một Sarik – sau – khi – phẫu – thuật xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm, mà chỉ hiện lên mơ hồ qua những ghi chép vắn tắt của viên phụ tá. Chỉ đến chương Sáu, Saricov mới thật sự xuất hiện và được miêu tả tỉ mỉ, giúp người đọc hình dung cụ thể toàn bộ “công trình khoa học vĩ đại” của giáo sư Preobrajenski. Tiếp theo chỉ là những cãi vã giữa Saricov và người tạo ra mình xung quanh chuyện ăn mặc, ngôn ngữ, v.v… Sau đó Bulgacov đã dẫn người đọc qua nhiều sự kiện khác nhau nhằm làm nổi bật và tăng cường bản chất lưu manh của Saricov, từ chuyện đuổi theo mèo, rượu chè, trộm cắp đến việc trở thành tay sai cho Hội đồng nhà cửa. Đỉnh điểm căng thẳng là khi Saricov trở thành Trưởng ban làm sạch thành phố, khi hắn dùng quyền lực để ép cô nhân viên đánh máy kết hôn với hắn, khi hắn gởi thư tố cáo giáo sư Preobrajenski và nhất là khi hắn dùng súng tấn công hai nhà khoa học. Những hành động của Saricov càng lúc càng xa rời những thói quen của động vật, và càng lúc càng trở nên trắn trợn, đốn mạt. Bằng cách sắp xếp các sự kiện theo hướng ngày càng nghiêm trọng, Bulgacov đã khẳng định sự sai lầm của thí nghiệm khoa học đó, cũng như bản chất xấu xa trong con người Saricov. Bên cạnh đó, những hành động tăng cấp của Saricov ngày càng đẩy giáo sư Preobrajenski vào tình thế buộc phải ra tay để xử lý hậu quả từ sai lầm của mình. Theo mô hình cấu trúc của truyện ngụ ngôn mà Triều Nguyên[6] tìm thấy, những tình huống và hành động của nhân vật trong Trái tim chó khá thống nhất với cấu trúc bốn phần của thể loại ngụ ngôn:

– Nhân vật kèm tính cách: sự xuất hiện của Sarik, giáo sư Preobrajenski và Saricov với những nét tính cách được miêu tả rõ nét và sinh động.

– Nhân vật kèm tính cách đứng trước bối cảnh, điều kiện cần ứng phó: sự lộng hành và những hành động ngày càng quá quắt của Saricov.

– Nhân vật kèm tính cách đứng trước bối cảnh, điều kiện cần ứng phó, đã có hành động đáp trả phù hợp với tính cách của mình: giáo sư Preobrajenski phẫu thuật lần nữa để biến Saricov trở lại làm Sarik.

– Nhân vật kèm tính cách đứng trước bối cảnh, điều kiện cần ứng phó, đã có hành động đáp trả phù hợp với tính cách của mình, để giành được thắng lợi hay phải chịu thua thiệt: cuộc sống trong căn hộ của giáo sư Preobrajenski trở lại trật tự ban đầu, Sarik trở về với cuộc sống của một con chó.

            Có thể thấy, Bulgacov đã kế thừa khá nhiều những đặc điểm cấu trúc cốt truyện của ngụ ngôn truyền thống. Nhưng những đổi mới của Bulgacov chính là ở chỗ tính phức hợp nhiều tầng lớp ý nghĩa trong cách cấu trúc tình huống và cốt truyện. Nếu truyện ngụ ngôn thường tập trung vào tình huống mang tính giả định, với một sự kiện, biến cố tập trung một mâu thuẫn nổi bật để đưa ra cách giải quyết; thì Trái tim chó của Bulgacov lại đưa ra nhiều tình huống khác nhau, với những diễn biến dồn dập đưa mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm. Ở đây, sự lần lữa của giáo sư Preobrajenski trong cách giải quyết Saricov, trạng thái lúng túng, hoang mang và có lúc phủ nhận Saricov như là kết quả từ sai lầm của chính ông phải trải qua nhiều đợt biến cố khác nhau, cho đến lúc Preobrajenski thừa nhận sai lầm của mình và buộc phải ra tay giải quyết nó. Đứng trên phương diện này, có thể thấy sự cố chấp của Preobrajenski trước sai lầm của mình, sự chần chừ do dự trước yêu cầu khắc phục hậu quả, và trên hết là những nỗ lực “giáo dục” Saricov của ông. Chỉ đến đỉnh điểm căng thẳng, Preobrajenski mới chịu khuất phục và đầu hàng trước một Saricov tồi bại và quyết định phẫu thuật để tráo đổi kết quả trước đó. Như vậy, tình huống truyện giàu kịch tính với tất cả những diễn biến tăng cấp của nó vừa tập trung soi sáng bản chất xấu xa của Saricov, vừa cho thấy sự mù quáng của khoa học mà đại diện là Preobrajenski. Và thông qua cách làm mới này, Bulgacov đã chuyển tải đến người đọc nhiều hơn một thông điệp, một bài học, một kinh nghiệm sâu xa trong đời sống.

3.3. Người kể chuyện và sự thay đổi điểm nhìn trần thuật

            Những kế thừa và đổi mới thể loại ngụ ngôn mà người viết vừa chỉ ra ở trên trong Trái tim chó dù sao vẫn chưa thể hiện được hết tinh thần của chủ nghĩa hiện đại trong văn học. Phải đi sâu phân tích nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm này, chúng ta mới thấy hết được bản lĩnh sáng tạo của Bulgacov.

            Trước tiên, dễ nhận thấy trong Trái tim chó xuất hiện cả hai loại người kể chuyện: người kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện ngôi thứ ba. Hai loại người kể chuyện này xuất hiện đan xen và thay nhau kể lại câu chuyện chính.

            Trong Trái tim chó, người kể chuyện xưng “tôi” xuất hiện đầu tiên và kể từ điểm nhìn của Sarik. Với loại người kể chuyện này, Bulgacov đã hòa vào cái nhìn, cuộc sống và thân phận của một con chó hoang để diễn tả tất cả những nỗi thống khổ, sự đau đớn và bất hạnh của Sarik. Có thể nói, Bulgacov đã nhập thân triệt để vào nhân vật và sống đúng với cuộc sống của một con chó: từ tiếng rên hừ hừ, ngôn ngữ đầu đường xó chợ, đến mối quan tâm đặc biệt với thức ăn và sự thù hằn những con người như đầu bếp, gác cổng, quét đường, v.v… Thông qua cái nhìn của một con chó hoang không giai cấp, không tầng lớp, không có địa vị chính trị và sống đơn thuần bằng bản năng, Bulgacov còn lật tẩy nhiều hình ảnh xấu xa trong thực trạng xã hội đồng thời tỏ thái độ thương cảm trước những thân phận bé nhỏ (cô nhân viên đánh máy). Sarik trong những trang đầu tiên đóng vai trò là người kể chuyện lại câu chuyện không ngừng đối thoại: với xã hội, với người đọc, với giáo sư Preobrajenski, với những con vật khác, v.v… Sarik trong những trang này không ngừng đưa ra những nhận xét, đánh giá, không ngừng đặt ra những vấn đề và thể hiện tâm trạng của mình. Bằng hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất này, Bulgacov đã biến con chó Sarik thành một sinh vật có suy nghĩ, có đời sống nội tâm và có cảm xúc.

            Trong Trái tim chó còn xuất hiện những trang nhật ký bệnh án của Bormental khi anh ta theo dõi quá trình thay đổi từ Sarik thành Saricov sau cuộc phẫu thuật. Những trang nhật ký này làm gián đoạn mạch truyện, thay người kể chuyện ngôi thứ ba kể lại một đoạn thời gian trong quá trình diễn ra câu chuyện và nhất là có tác dụng gợi trí tò mò nơi người đọc. Nhưng ghi chép vắn tắt cùng những thông báo, lý giải mang tính khoa học của Bormental trong khi quan sát Sarik vừa đem đến cho câu chuyện tính khách quan và chân thật theo đúng yêu cầu của khoa học, vừa không ngừng kích thích người đọc tìm hiểu rõ hơn kết quả của thí nghiệm này. Thay vì dùng hình thức kể chuyện từ ngôi thứ ba để miêu tả, những trang nhật ký này tạm giấu Saricov đi một thời gian để khi thật sự biến thành một con người hoàn chỉnh, anh ta mới đem lại ấn tượng sâu đậm và sự bất ngờ nơi người đọc.

            Cùng với người kể chuyện từ ngôi thứ nhất, người kể chuyện từ ngôi thứ ba xuất hiện khá nhiều lần trong tác phẩm và đóng vai trò chủ chốt trong việc tường thuật chi tiết câu chuyện. Tuy nhiên, khi sử dụng hình thức này, Bulgacov cũng không chỉ dùng một loại điểm nhìn duy nhất, ngược lại, ông còn phối hợp và thay đổi nhiều điểm nhìn khác nhau. Trước tiên, Bulgacov sử dụng điểm nhìn trần thuật từ con chó Sarik. Lúc này, Sarik không còn đảm nhận vai trò kể chuyện từ ngôi thứ nhất, mà người kể chuyện từ ngôi thứ ba tựa vào điểm nhìn của nó để kể lại câu chuyện. Đó là khi Sarik quan sát căn hộ của Preobrajenski, là khi nó theo dõi Preobrajenski làm việc, theo dõi “trận chiến” giữa Preobrajenski với Hội đồng nhà cửa, theo dõi bữa ăn trong căn hộ của Preobrajenski… Lúc này, cái nhìn của Sarik, và qua đó là câu chuyện, trở nên khách quan hơn. Thay vì đưa ra những nhận xét, đánh giá như lúc đầu, điểm nhìn của Sarik đơn giản là kể lại sự sang trọng của căn hộ, những bệnh nhân lắm tiền nhiều tật và đầy dục vọng của Preobrajenski, bữa ăn sang trọng, vương giả và thái độ từ chối hòa nhập của Preobrajenski với thực tế xã hội, v.v… Nếu cái “tôi” của Sarik được bộc lộ qua người kể chuyện từ ngôi thứ nhất khiến người đọc mủi lòng và nắm bắt được đời sống tâm lý của con chó; thì qua điểm nhìn từ Sarik của người kể chuyện từ ngôi thứ ba, người đọc phải tự đánh giá, tự suy nghĩ về những gì mà nó thấy. Bên cạnh đó, lựa chọn điểm nhìn từ Sarik, Bulgacov còn cho thấy tính khách quan nhất định của cách kể chuyện này: trước một thực tế mới lạ mà nó chưa từng biết đến, Sarik chưa thể đưa ra nhận xét nào ngoài việc trung thành kể và miêu tả.

            Ngoài điểm nhìn từ Sarik, người kể chuyện từ ngôi thứ ba trong Trái tim chó còn xuất hiện dưới hình thức người kể chuyện toàn tri. Đấy là lúc người kể chuyện lùi ra xa để quan sát, theo dõi và kể lại câu chuyện khi anh ta thấu suốt toàn bộ những diễn biến trong tinh thần của các nhân vật. Điểm nhìn này chủ yếu được sử dụng khi Saricov đã xuất hiện và liên tục gây ra những rắc rối, làm hỗn loạn trật tự mà Preobrajenski cố gắng duy trì trong căn hộ của mình. Người kể chuyện toàn tri xuất hiện trong những chương này là hoàn toàn phù hợp, khi Bulgacov vừa muốn nắm bắt những biến cố chính, vừa muốn theo dõi thái độ và phản ứng tâm lý của các nhân vật khi tương tác với nhau. Qua cái nhìn toàn tri này, một Saricov ngạo mạn, hống hách, một Preobrajenski đang lúng túng đều có thể hiện lên trong mối quan hệ với nhau. Đặc biệt, thay vì chọn điểm nhìn từ Saricov, điểm nhìn toàn tri của người kể chuyện không đặt vào nhân vật này cho thấy về một mặt nào đó, Saricov đã bị từ chối đặc quyền thể hiện suy nghĩ và tình cảm của mình. Hay nói đúng hơn, khi trở thành Saricov, hắn không còn là một con chó Sarik dễ mến, đáng thương; mà ngược lại, hắn là một kẻ chuyên đem đến phá hoại và hỗn loạn. Không đi sâu vào điểm nhìn của Saricov với tất cả những hành động xấu xa của hắn mà chỉ tập trung vào kể lại những diễn biến bên trong căn hộ của Preobrajenski, người kể chuyện toàn tri dường như chỉ muốn nhấn mạnh kết quả sai lầm của cuộc phẫu thuật với tất cả những hệ lụy của nó chứ không muốn đi vào tìm hiểu từng hành động cụ thể của Saricov. Do đó, đa phần những hành động phá phách, trộm cắp, rượu chè, áp bức của Saricov đều diễn ra bên ngoài bức tường của căn hộ và hắn chỉ mang rắc rối về cho Preobrajenski xử lý như để hành hạ ông, buộc ông nhìn nhận sai lầm của mình.

            Những phân tích trên cho thấy Bulgacov đã có ý thức cao trong việc tổ chức nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm, và nhất là những đổi mới này có tác dụng nhất định trong việc khắc họa nhân vật, làm nổi bật tình huống và gợi mở ý nghĩa của tác phẩm. Tại sao tâm trạng của Sarik được bộc lộ và khắc họa rõ ràng còn Saricov thì không? Tại sao Sarik (qua lời kể và điểm nhìn của nó) rõ ra là một con chó tội nghiệp còn Saricov chỉ là một tên vô lại? Có thể thấy, nghệ thuật kể chuyện và sự thay đổi điểm nhìn trần thuật trong Trái tim chó đã hoàn thành xuất sắc vai trò của nó với tư cách là một bộ phận thuộc về chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm.

3.4. Sự đan xen giữa các loại giọng điệu

            Định nghĩa về “giọng điệu”, Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…”[7]. Có thể thấy, giọng điệu đóng một vai trò quan trọng việc tạo nên màu sắc cảm xúc và cá tính cho tác phẩm, nó tạo cho tác phẩm một dấu ấn riêng, tạo cho nhà văn một phong cách riêng. Đi sâu hơn vào tìm hiểu giọng điệu như là một phương tiện chuyền tải và bộc lộ đời sống cũng như tiếng nói cá nhân, độc lập của mỗi nhân vật đối với tác giả, chúng ta sẽ phát hiện những yếu tố của “tiểu thuyết đa thanh” mà Bakhtin đã chỉ ra trong các sáng tác của Dostoevsky. Ở đây, với đối tượng cụ thể là tiểu thuyết Trái tim chó và giới hạn của đề tài, người viết chưa đề cập đến những sáng tạo của Bulgacov trong cách sử dụng lời văn trần thuật. Với Trái tim chó trong mối tương quan với ngụ ngôn, người viết chỉ muốn tìm hiểu sự đan xen giữa các loại giọng điệu trong cùng một tác phẩm. Và với mục tiêu này, người viết cũng chỉ xem giọng điệu như là biểu hiện của thái độ, tình cảm, tư tưởng mà nhà văn thể hiện phù hợp và đúng với từng nhân vật trong tác phẩm.

            Theo cách hiểu nêu trên, ta sẽ thấy trong Trái tim chó có sự đan xen giữa các loại giọng điệu khác nhau, xuất phát từ những nhân vật khác nhau. Đầu tiên, đó là giọng điệu có lúc nguyền rủa, chửi bới, có lúc rên rỉ, than vãn, lại có lúc thành kính (đối với Preobrajenski) hay có lúc hoài nghi, thắc mắc của Sarik. Tiếp theo, đó là giọng điệu uy quyền, giọng điệu châm biếm, thái độ mỉa mai và coi thường cũng như giọng điệu khách quan khoa học của Preobrajenski. Đến Saricov và những đại diện khác của chính quyền vô sản như Shvonder, đó lại là những câu nói đầy các từ ngữ chính trị như “sức mạnh tập thể”, “phản cách mạng”, “bất công xã hội”, “đồng chí”, v.v… Riêng Saricov lại còn có hàng loạt những câu chửi rủa và từ ngữ thô tục. Bên cạnh đó, người kể chuyện từ ngôi thứ nhất – Sarik – có một giọng điệu riêng, với các sắc thái riêng; còn những trang nhật ký của Bormental lại thuần túy là những ghi chép vắn tắt mang tính khoa học. Còn người kể chuyện từ ngôi thứ ba tựa vào điểm nhìn của Sarik lại có giọng điệu và cách sử dụng ngôn từ hoàn toàn khác với người kể chuyện toàn tri. Nếu từ điểm nhìn của Sarik, giáo sư Preobrajenski được gọi là “vị thánh”, là “Quý Ngài”, còn Bormental được gọi là “anh chàng bị đớp”; thì ngược lại, người kể chuyện toàn tri đơn giản gọi tên các nhân vật khi kể chuyện.

            Ngôn ngữ trong Trái tim chó cũng là sự đan xen pha tạp nhiều loại ngôn ngữ, từ hệ thống ngôn ngữ đầu đường xó chợ của Sarik và Saricov đến hệ thống các thuật ngữ và văn phong khoa học, chính trị trong các cuộc nói chuyện của Preobrajenski hay Bormental. Cách sử dụng phức hợp nhiều loại ngôn ngữ của Bulgacov vừa phù hợp và thống nhất với nhân vật phát ngôn, đôi khi lại tạo ra hiệu ứng giễu nhại và châm biếm mỉa mai. Ví dụ như cách mà Saricov không ngừng lặp lại những khẩu hiệu và câu từ chính trị mà hắn học được từ Shvonder hay cuốn sách của Engels không phải do Saricov thật sự thấm nhuần quan điểm chính trị của học thuyết này, ngược lại, nó chỉ là sự sao chép máy móc mà hắn dùng để khoe mẽ và tạo màng bảo vệ cho vị trí của mình, cũng như chống đối giáo sư Preobrajenski. Bản chất lưu manh của Saricov không phù hợp với những ngôn từ chính trị mà hắn sử dụng. Ngay cả cái tên mà Saricov chọn khi đi đăng ký giấy tờ cũng đã cho thấy hắn là kết quả từ những sao chép máy móc, là kết quả từ những gì người ta nhồi vào đầu hắn và hắn biết cách sử dụng nó để có lợi cho mình[8]. Và thông qua cách Saricov đọc vanh vách quan niệm về việc phân chia tài sản và sự công bằng trong xã hội, Bulgacov đã phần nào thể hiện quan điểm của mình về những hiện tượng này. Có thể thấy, Saricov đã lợi dụng chính trị để mưu cầu quyền lợi và thỏa mãn mục đích cá nhân của hắn (việc hắn trở thành Trưởng ban thành phố với nhiệm vụ chính là giết mèo là một minh chứng cụ thể).

            Rõ ràng, sự đan xen giữa các loại giọng điệu và sự sử dụng phức hợp nhiều hệ thống ngôn từ khiến Trái tim chó trở thành một tác phẩm văn học “pha tạp”. Trong Trái tim chó rõ ràng có những yếu tố của một câu chuyện ngụ ngôn qua những gì chúng ta đã phân tích. Trái tim chó có dáng dấp của một câu chuyện khoa học giả tưởng (từ việc dùng phẫu thuật để biến chó thành người và ngược lại). Và Trái tim chó cũng là một bức tranh hiện thực về xã hội, về nhân sinh (khi Bulgacov sử dụng các yếu tố Thiên Chúa giáo). Bằng cách sử dụng nhiều hình thức truyện kể khác nhau trong cùng một tác phẩm, Trái tim chó của Bulgacov đã rời khỏi quỹ đạo của văn học truyền thống để tiến tới sự phát triển của văn học hiện đại chủ nghĩa. Và với những đổi mới này, Bulgacov đã đem đến một sắc màu mới cho câu chuyện ngụ ngôn xã hội thời hiện đại này.

4. “Trái tim chó” và triết lý nhân sinh thời hiện đại

                Những phân tích các đặc trưng đổi mới theo hướng hiện đại chủ nghĩa trong Trái tim chó mà người viết vừa cố gắng chỉ ra cho thấy nỗ lực của Bulgacov thông qua việc tích hợp nhiều thể loại văn học, sử dụng các yếu tố liên văn bản và thay đổi điểm nhìn trần thuật. Sự gia tăng các biện pháp nghệ thuật này vừa góp phần thể hiện nội dung triết lý mà Bulgacov muốn gởi gắm, vừa thống nhất và phù hợp với nhau do yêu cầu mà nội dung đó đặt ra. Tất cả đều nhằm biến Trái tim chó thành một tác phẩm dung chứa nhiều tầng nghĩa và thể hiện kịp thời cái nhìn cũng như quan niệm của nhà văn về đời sống.

Trước hết, Trái tim chó là bức chân dung đời sống xã hội Nga thời bấy giờ. Tác phẩm ra đời vào năm 1925, ba năm sau khi Stalin lên nắm quyền và bảy năm sau khi Lenin đã bắt đầu tổ chức lại không gian sống của Nga theo Chính sách quốc gia kinh tế mới (NEP). Bối cảnh xã hội song song với việc Bulgacov miêu tả không gian trong tác phẩm đã phản ánh phần nào quan niệm của ông cũng như thống nhất với cá tính nhân vật. Chúng ta sẽ thấy trong Trái tim chó chỉ tồn tại hai loại không gian: không gian đường phố trong chương đầu khi Sarik gặp Preobrajenski và không gian căn hộ của Preobrajenski. Giữa hai loại không gian này có sự khác biệt rõ nét. Đó là sự đối lập giữa lạnh giá và đói rét với ấm áp và no đủ, giữa thô tục, xấu xí với trang nhã, sang trọng, giữa không gian vô sản và không gian trí thức tiểu tư sản. Bên cạnh đó, những diễn biến chủ yếu của câu chuyện diễn ra hoàn toàn trong căn hộ của Preobrajenski. Mọi hành động phá phách của Saricov đều diễn ra bên ngoài và người kể chuyện chỉ kể tóm tắt và thuật lại kết quả của những hành động đó. Bulgacov chỉ tập trung vào không gian học thuật, vào không gian riêng tư và là không gian mà Preobrajenski là người thống trị. Cách Bulgacov (thông qua cái nhìn của Sarik) miêu tả một cách tỉ mỉ sự sang trọng trong căn hộ của Preobrajenski với tất cả những chi tiết trang trí và đồ dùng khoa học, với không khí trang nghiêm và thiêng liêng đặc biệt, vừa nhấn mạnh sự khước từ hòa nhập của Preobrajenski, vừa cho thấy Preobrajenski đang ẩn mình trong cái “tháp ngà khoa học” của chính ông và hoàn toàn xa rời thực tế cuộc sống. Hai mô hình không gian trong Trái tim chó là hai mô hình cuộc sống, hai mô hình nhân sinh quan và thế giới quan. Và Preobrajenski, trong căn hộ bảy phòng của mình, khăng khăng gìn giữ cuộc sống cũ và phủ định mọi chuẩn mực đương thời. Thông qua việc miêu tả không gian, cùng với những phát ngôn của Preobrajenski, Bulgacov nhấn mạnh tính chất chống cộng của vị giáo sư này và thể hiện sự khác biệt về không gian sống giữa hai chế độ chính trị.

Sự khác biệt về không gian nêu trên là cái nền để Bulgacov xây dựng bức tranh đời sống của mình. Qua những khác biệt đó, chúng ta mới có thể thấy rõ mặt trái của nền cách mạng vô sản với “thịt ngựa thối”, với những bữa ăn kém chất lượng, với tình trạng sống của những con người như cô nhân viên đánh máy. Đặc biệt, bằng cái nhìn của Sarik – một con chó hoang không giai cấp và tầng lớp chính trị – mọi thứ càng khách quan và sinh động hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó, trong không gian căn hộ mà Preobrajenski là người thống trị, nơi ông dùng y học để khám chữa bệnh và chống lại quy luật tự nhiên của thời gian, bản chất con người cũng được bộc lộ. Không phải ngẫu nhiên mà Bulgacov dành thời gian miêu tả buổi khám bệnh của Preobrajenski. Buổi khám bệnh này một mặt hé lộ tài năng khoa học và uy quyền mà Preobrajenski có nhờ khoa học (tiền bạc, địa vị, quyền lựa); mặt khác lại hé lộ những thói hư tật xấu của con người, đặc biệt đó lại là những con người lắm tiền nhiều của. Preobrajenski đã dùng tài năng của mình để thỏa mãn dục vọng của những kẻ thừa tiền: “… hai mươi lăm năm chưa bao giờ như vậy cả, “thằng cha” túm lấy cúc quần, – ngài có tin không, thưa Giáo sư, đêm nào cũng hàng đàn con gái khỏa thân… Tôi như được bỏ bùa”[9]. Những bệnh nhân của Preobrajenski tìm đến ông để thỏa mãn “khát vọng cuối cùng”, để che giấu những tội lỗi của mình, để bảo vệ danh dự và địa vị của mình. Trước Preobrajenski, họ không chỉ cởi hết trang phục mà còn cởi bỏ luôn bộ mặt giả dối của mình. Và thông qua điểm nhìn của Sarik, thế giới con người hiện lên mới thật khó hiểu, giả tạo và đáng khinh đến dường nào! Saricov vì thế không phải là một trường hợp cá biệt. Hắn là trường hợp điển hình nhất, tập trung nhiều tật xấu nhất và trơ trẽn nhất trong xã hội đó.

Bên cạnh vạch trần bộ mặt đạo đức giả của xã hội, Trái tim chó còn là triết lý về sức mạnh của khoa học và sự đáng sợ của nó. Như trên đã nói, bằng khoa học, Preobrajenski gần như trở thành một vị thánh, một đấng sáng tạo có quyền năng biến đổi các sinh vật. Nhưng thông qua hình tượng Sarik và Saricov, chúng ta có thể thấy mọi thực nghiệm khoa học diễn ra trên nền tảng thiếu đạo đức và nóng vội, chủ quan đều mang lại những hậu quả đáng tiếc. Preobrajenski đã mù quáng tin tưởng vào sức mạnh của khoa học và cuối cùng phải thừa nhận “nhân loại biết tự mình quan tâm đến điều đó và trong quá trình tiến hóa hàng năm vẫn kiên trì từ trong đám quần chúng đủ thứ tạp nham tạo ra hàng chục thiên tài xuất chúng để tô điểm cho trái đất”[10]. Có thể thấy, đặc điểm rõ rệt nhất của tư duy hiện đại nơi Trái tim chó chính là ở tinh thần đả phá khoa học và tư duy duy lý trong những nỗ lực đi ngược lại quy luật tồn tại và phát triển của tự nhiên. Sự phủ nhận và châm biếm khoa học càng thấm thía hơn khi đến trang cuối cùng của tác phẩm, sau những sai lầm và hậu quả nghiêm trọng của nó, Preobrajenski vẫn “kiên trì, bướng bỉnh, cứ cố đạt được một cái gì đó” trong các nghiên cứu của mình. Và đến cuối cùng, vị giáo sư tài năng này vẫn mộng tưởng vượt ra khỏi giới hạn của con người để “đến hai bờ sông Nin thần thánh…”

Tóm lại, bằng những đổi mới nghệ thuật, Trái tim chó đã vượt ra khỏi giới hạn của một ẩn dụ về triết lý đạo đức hay kinh nghiệm sống thông thường trong các truyện ngụ ngôn. Tác phẩm này vừa thể hiện cái nhìn của Bulgacov đối với khoa học và tôn giáo, vừa bộc lộ quan điểm về hiện thực và chính trị của ông. Bằng cách đặt những phát ngôn chống đối chính quyền vào lời của các nhân vật, vô hình chung, Bulgacov đã tách mình khỏi nhân vật. Bằng cách cho Saricov máy móc lặp đi lặp lại những khẩu hiệu của chính quyền, Bulgacov đã giễu nhại chính những đường lối đó. Hơn thế nữa, qua Saricov, Bulgacov còn chỉ ra được sự đáng sợ khi chính trị bị dùng vào mục đích cá nhân. Và chính vì vậy, Trái tim chó lần nữa lại thể hiện sự đổi mới đặc biệt trong tư duy nghệ thuật và cái nhìn cuộc sống. Trái tim chó xứng đáng là một câu chuyện ngụ ngôn thời hiện đại.

Kết luận

                Từ những gì vừa phân tích ở trên, người viết xin tạm đưa ra những kết luận như sau:

–  Thứ nhất, những đổi mới đặc biệt trong Trái tim chó chứng tỏ sự phát triển theo hướng hiện đại hóa trong trường hợp Bulgacov nói riêng và văn học Nga nói chung.

–  Thứ hai, những đổi mới này cùng với tất cả những biểu hiện của nó là dự báo và chuẩn bị cho một phong cách sáng tác trưởng thành của Bulgacov trong tác phẩm lớn nhất của ông sau này là Nghệ nhân và Margarita.

–  Thứ ba, những khám phá của người viết dù sao cũng chỉ vẫn dừng lại ở mức khám phá Trái tim chó như một biểu hiện của sự đổi mới hình thức thể loại ngụ ngôn. Người viết vẫn chưa đi vào bề sâu tư tưởng và sự kết nối giữa Bulgacov với truyền thống văn học Nga thế kỷ XIX. Tuy nhiên, qua những gì thu được, chúng ta vẫn có thể mạnh dạn khẳng định đóng góp và vị trí của Bulgacov, nhất là xét trong bối cảnh thời đại ông sống và sáng tác.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

M.Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và dịch, NXB Hội nhà văn.

M.Bulgacov (2011), Trái tim chó, Đoàn Tử Huyến dịch, NXB Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.

M.Bulgacov (2011), Những quả trứng định mệnh, Đoàn Tử Huyến dịch, NXB Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

Phạm Minh Hạnh (1991), Tìm hiểu thể loại ngụ ngôn ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sỹ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học tổng hợp.

Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới.

I.P Ilin và E.A. Tzurganova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân (dịch), NXB Đại học Quốc gia.

Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2008), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục.

Marina Flider (2011), Exhumed from Asterisks: From Commomplace Russian Tyrannies to the Dark Spaces of Bulgacov’s Heart of Dog, Report Presented to the Requirements for the Degree of Master of Art, The University of Texas ay Austin.

10. Triều Nguyên (2010), Góc nhìn cấu trúc về ca dao và truyện ngụ ngôn, NXB Khoa học xã hội.

11. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Đại học Sư phạm.

[1] Nguồn tham khảo từ Từ điển văn học (bộ mới), Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), NXB Thế giới, 2004.

[2] Tìm hiểu thể loại ngụ ngôn ở Việt Nam, Phạm Minh Hạnh, Luận án Phó tiến sỹ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học tổng hợp, 1991.

[3] Văn học dân gian Việt Nam, Đinh Gia Khánh (chủ biên), NXB Giáo dục, 2008, tr.349.

[4] Sđd, tr.1091.

[5] Trái tim chó, M.Bulgacov, Đoàn Tử Huyến dịch, NXB Lao động – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2011, tr.153.

[6] Góc nhìn cấu trúc về ca dao và truyện ngụ ngôn, Triều Nguyên, NXB Khoa học xã hội, 2010.

[7] Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), NXB Giáo dục, 2010, tr.348.

[8] Cái tên “Poligraph Poligraphovitr” chỉ là một cái tên hết sức vô nghĩa. Đây cũng là một cách Bulgacov giễu cợt mốt đặt tên theo các ngày kỷ niệm thời bấy giờ. (Theo chú thích của Đoàn Tử Huyến trong bản dịch).

[9] Sđd, tr. 36.

[10] Sđd, tr.150.