XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Năm, 29 tháng 4, 2021

TẾ BÀO UNG THƯ SỢ NHẤT CHỮ YÊU

 
         Có thể bạn chưa tin nhưng nghiên cứu mới tại Mỹ cho thấy điều mà tế bào ung thư sợ nhất không phải là hóa trị hay bất kỳ loại thuốc trị ung thư nào.

      Sau khoảng thời gian tiếp xúc với nhiều bệnh nhân từ nhiều quốc gia trên thế giới, Tiến sĩ David Hawkins - một bác sĩ rất nổi tiếng tại Mỹ cho biết, chỉ cần nhìn thấy bệnh nhân là ông biết người đó vì sao bị bệnh. Bởi trên cơ thể người bệnh không xuất hiện chữ “yêu”, thay vào đó là “khổ, hận, phiền muộn”.

    Điều này có thể khiến nhiều người trong chúng ta không tin nhưng đây là kết luận hoàn toàn dựa trên cơ sở khoa học. Sau 20 năm nghiên cứu về cơ và vận động học, tiến sĩ Hawkins đã phát hiện ra “ý nghĩa của thang bậc chỉ số rung động trong cơ thể con người từ 1 đến 1000”. Tần số rung động chính là từ trường mà mọi người thường hay nói.

        Theo đó, những người có suy nghĩ tiêu cực thường rất hay bị bệnh. Đó là những người có chỉ số rung động dưới 200.

  Rất nhiều người bị bệnh vì không được yêu, ở họ chỉ thấy nỗi khổ và phiền muộn.

   Phát hiện mới tại Mỹ cho thấy điều mà tế bào ung thư sợ nhất chính là "tình yêu".

     Từ góc độ y học ông cho rằng, ý niệm có ảnh hưởng vô cùng lớn đến sức khỏe con người. TS Hawkins đã từng làm bệnh án cho hàng triệu người, các chủng loại người khác nhau trên toàn thế giới, tất cả đều cho một đáp án giống nhau.

     Chỉ cần tần số rung động thấp hơn 200 là người đó sẽ bị bệnh. Trên 200 sẽ không bị bệnh, những suy nghĩ có tần số rung động trên 200 gồm có:

- Quan tâm đến người khác,

- Giàu lòng từ bi, nhân ái, hướng thiện,

- Bao dung, độ lượng, v.v.

   Đây đều là những đức tính có tần số rung động rất cao, đạt đến mức 400 – 500.

- Mặt khác, người có tính căm ghét, phẫn nộ, hay chỉ trích, trách móc, đố kị, đòi hỏi người khác, luôn tư lợi cá nhân, ích kỷ, không màng đến cảm nhận của người khác sẽ có tần số rung động rất thấp. Tần số rung động thấp là nguyên nhân dẫn đến các bệnh như ung thư, tim v.v.

Lý luận cho điều này, tiến sĩ Hawkin cho biết những người hay oán giận, chỉ trích, hận thù người khác, tần số của họ chỉ là 30, 40. Trong quá trình trách móc người khác sẽ làm tiêu hao rất nhiều năng lượng của họ vì thế tần số rung động sẽ giảm thấp hơn 200, những người này có nguy cơ bị mắc rất nhiều loại bệnh.

      Chỉ số rung động cao nhất là 1000, thấp nhất là 1. Tiến sĩ Hawkins cho biết trong cuộc đời của mình, ông chưa gặp ai có tần số rung động đạt ở mức cao nhất, 1000. Những người mà ông ấn tượng nhất cũng chỉ đạt mức 700. Năng lượng trong cơ thể họ rất dồi dào. Khi những người này xuất hiện, họ sẽ làm ảnh hưởng đến từ trường của cả khu vực xung quanh.

Nghiên cứu về chỉ số rung động của tiến sĩ David R.Hawkins.

     Lấy ví dụ, như khi bà tu sĩ Teresa lên nhận giải thưởng Nobel Hòa bình, không khí cả hội trường rất tốt, tần số rung động rất cao, từ trường của bà làm cho cả hội trường đều cảm nhận được năng lượng tràn ngập sự tốt đẹp và cảm động từ bà.

        Khi người có năng lượng cao xuất hiện, từ trường của họ sẽ làm cho vạn vật trở lên tốt đẹp hơn. Còn với người có suy nghĩ tiêu cực, không chỉ làm tổn hại chính họ mà còn làm cho từ trường xung quanh cũng bị xấu đi.

    Một trường hợp cụ thể nhất về tác động của tình yêu với các tế bào ung thư chính là nghệ sỹ chơi đàn Violoncelle Sean của Nhật Bản. Khi bị bệnh ung thư, ông đã không ngừng chiến đấu với bệnh tật nhưng xem ra tình trạng ngày một nặng hơn.

        Cuối cùng, ông quyết định thay đổi tâm trạng và chuyển sang yêu từng tế bào ung thư trong cơ thể mình. Ông lạc quan với cuộc sống, mọi việc ông đều luôn thấy vui vẻ và biết ơn các tế bào ung thư. Ông thấy cảm giác này rất tuyệt. Sau đó, ông đã quyết định yêu mọi thứ trong cuộc sống, bao gồm cả mỗi con người và mỗi sự việc.

        Kết quả hết sức bất ngờ và nằm ngoài sức tưởng tượng của tất cả mọi người, toàn bộ các tế bào ung thư đã không còn nữa. Sau này, ông trở thành bác sĩ trị liệu nổi tiếng tại Nhật Bản. Đây chính là bản chất của cuộc sống: Tình Yêu.

        Các nhà khoa học cho biết, căn nguyên của bệnh tật là do trong cơ thể người bệnh thiếu tình yêu thương. Bệnh tật bị đẩy lùi một cách vô điều kiện là nhờ ‘yêu và được yêu’.

Fb Hoang Giang

NHỮNG TÁC HẠI KHI THỨC KHUYA

 

NHỮNG TÁC HẠI KHI THỨC KHUYA

Từ 21-23h là quãng thời gian hệ miễn dịch (bạch cầu lymph) bài độc (đào thải chất độc), lúc này nên giữ trạng thái yên tĩnh hoặc nghe âm nhạc thư giãn.

Từ 23h - 1h sáng là quãng thời gian bài độc của gan, cần tiến hành trong khi ngủ say.

Từ 1h - 3h sáng là thời gian bài độc của mật, cũng cần thực hiện trong giấc ngủ say

Từ 3h - 5h sáng là thời gian bài độc của phổi. Cũng chính là lý do tại sao mà người đang mắc bệnh ho lại hay ho dữ dội vào lúc này, bởi hoạt động bài độc đã chạy đến phổi. Vì thế, không nên dùng thuốc chống ho để tránh gây cản trở việc đào thải các chất cặn bã trong người vào lúc này.

Từ 5h - 7h là khoảng thời gian ruột già bài độc, cho nên cần đi toalet vào lúc này.

Từ 7h - 9h là lúc ruột non hấp thụ chất dinh dưỡng nhiều nhất, cho nên cần phải ăn sáng. Những người đang phải trị bệnh tốt nhất ăn sớm hơn, từ trước 6h sáng, còn với người ăn dưỡng sinh thì ăn trước 7h sáng. Những người không ăn sáng cần thay đổi thói quen xấu này, dù có đợi đến 9, 10h mới ăn cũng tốt hơn là không ăn.

Từ nửa đêm cho đến 4h sáng là thời gian tủy sống tạo máu, cần phải ngủ say, không nên thức khuya.

TÁC HẠI CỦA VIỆC THỨC KHUYA, NGỦ MUỘN

- Giảm trí nhớ.

- Uể oải, khó tập trung chú ý vào công việc.

- Ù tai, chóng mặt, mắt mờ.

- Nóng nảy, cáu bẳn (dù có chú ý để tránh nổi nóng thì cũng vô ích, tới lúc nóng là không kiềm chế nổi).

- Đau mỏi cơ, có thể thỉnh thoảng bị chuột rút. Đối với những người tập thể hình thì việc thức khuya sẽ giảm khả năng phục hồi và phát triển của cơ bắp.

- Trung khu thần kinh uể oải thì thần kinh vị giác cũng trì trệ, dẫn tới ăn uống không ngon miệng.

- Da mặt nhợt nhạt, thiếu sinh khí, nhiều dầu, đôi khi sần sùi và nổi mụn, dưới mắt có quầng thâm. Thức khuya ảnh hưởng đến làn da, nhất là da mặt. Thông thường là khoảng từ 10h - 11h tối, da ở trong trạng thái dưỡng và hồi phục. Nếu như thường xuyên thức khuya sẽ làm rối loạn hệ tuần hoàn bình thường của việc trao đổi chất và hệ thống thần kinh, sẽ khiến cho da bị khô, giảm sức đàn hồi, bị sạm và không mịn màng…

- Khô mắt, mỏi mắt, và nếu mắt phải làm việc khuya trong điều kiện thiếu ánh sáng thì dễ bị giảm thị lực.

- Thức khuya hay ngủ ít có thể dẫn tới nguy cơ tăng cân theo chiều hướng tiêu cực, có thể gây thêm các tác dụng khác là nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tăng huyết áp…

- Bên cạnh đó thức khuya trong thời gian dài dẫn đến nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn so với những người không thức khuya.

THEO ĐỒNG HỒ SINH HỌC THÌ:

Trạng thái ngủ từ 0 đến 1 giờ sáng khiến cơ thể được nghỉ ngơi thực sự, giúp tinh thần sảng khoái, dung nhan tươi tắn khi tỉnh dậy. Nên ngủ trước đó tầm 1 hoặc 2 tiếng, để vào tầm thời gian nói trên thì đã chìm vào giấc ngủ sâu.

Từ 1h tới 5h sáng là lúc cơ thể tiết ra các chất tái sinh và nâng cao hệ miễn dịch. Thức khuya thì rút ngắn hoặc thậm chí làm cơ thể bỏ qua giai đoạn này, lâu dần sẽ suy sụp thấy rõ.

Trong các giai đoạn ngủ sâu thì cơ thể tiết nhiều hooc-môn

PHÒNG DỊCH HIỆU QUẢ NHẤT HIỆN NAY CHÍNH LÀ KHẢ NĂNG MIỄN DỊCH

 

         PHÒNG DỊCH HIỆU QUẢ NHẤT HIỆN NAY CHÍNH LÀ KHẢ NĂNG MIỄN DỊCH CỦA BẢN THÂN

          Nên nhớ: Không phải ai cũng sẽ sống sót.

Tiến sĩ Chong từ Trung Quốc dự đoán rằng sớm hay muộn, cộng đồng rộng lớn sẽ không thể tránh khỏi COVID-19 vì hiện nay số ca nhiễm trùng không có triệu chứng ngày càng gia tăng. Nhưng có những giai đoạn ủ bệnh khác nhau mà không bị phát hiện, vì Senerio ở trên hầu như không thể kiểm soát được và không thể tránh khỏi, nên bây giờ chúng ta bắt buộc phải xây dựng hệ thống miễn dịch của riêng mình trước.

         Nên hiểu: “Khả năng miễn dịch của bạn là cách phòng thủ tốt nhất. (Đối với nhiễm trùng Covid-19) "

Đừng chỉ dựa vào mặt nạ hoặc rửa tay. Đây là những biện pháp phòng ngừa tuyệt vời. Nhưng trên hết, mọi người đều phải xây dựng khả năng miễn dịch của mình một cách nhanh chóng.

          I/ Trước hết: Chúng ta cần ngủ đủ giấc “ngủ ít nhất 7 tiếng” Những người ngủ ít hơn 7 tiếng mỗi ngày khả năng miễn dịch bị giảm sút.

          II/ Thứ hai: Chúng ta phải ăn uống đầy đủ. Cái gọi là "ăn tốt" không phải là ăn uống đầy đủ, mà là “ăn chất đạm chất lượng cao, lành mạnh” có thể được sử dụng để sản xuất kháng thể. Đừng quên kiểm soát chặt chẽ lượng đường của chúng ta. Ăn quá nhiều đường tinh luyện có thể khiến các tế bào miễn dịch bạch cầu của chúng ta không hoạt động trong 5 giờ! Vì vậy, chúng ta phải lựa chọn và kiểm soát chế độ ăn uống của mình.

          III/ Thứ ba, virus corona có chế độ sinh sản trước và nhân lên nhanh hơn vào mùa đông. Vì vậy, một số chuyên gia khuyên chúng ta nên ra ngoài nắng, điều này sẽ hữu ích. Tăng cường vitamin D để xây dựng khả năng miễn dịch của chúng ta. Các chuyên gia khác đã tiến hành nghiên cứu và công bố phát hiện rằng việc bổ sung vitamin D trong mùa đông có thể làm giảm 2/3 trường hợp nhiễm trùng đường hô hấp. Nếu bạn thực sự không thể hoặc không tắm nắng, bạn có thể chọn uống vitamin D để thay thế.

          IV/ Thứ tư: Một nghiên cứu của Nga cho thấy: Để tránh bị nhiễm trùng đường hô hấp trên, “Tại sao bạn lại súc miệng và súc miệng khi về nhà sau khi đi chơi về? Bởi vì tất cả các loại vi rút đều có chìa khóa vào tế bào của chúng ta khi vi rút Xâm nhập tế bào đích, đầu tiên phải đục lỗ và gõ cửa,… nên phải mất một thời gian mới có thể tiếp cận và xuyên thủng thành tế bào đích để mở cửa xâm nhập vào tế bào đích và lây nhiễm. Vì vậy, nếu bạn bị nhiễm bệnh bên ngoài nhà của bạn Khi về đến nhà, bạn chỉ cần súc miệng và rửa sạch. “Cho dù bạn súc miệng bằng dung dịch nước muối, betadine pha loãng trong nước, nước súc miệng hoặc trà, năm phương pháp này đều có hiệu quả.

          V/ Cuối cùng, Tiến sĩ Chong chỉ ra rằng các nghiên cứu ở Nhật Bản, Israel và Phần Lan đều cho thấy Tắm nước nóng mỗi ngày để tăng thân nhiệt vừa đủ. Nó tạo ra một môi trường cơ thể không thuận lợi cho việc nhiễm coronavirus. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nếu bạn tắm nước nóng từ 4 lần trở lên mỗi tuần, tỷ lệ nhiễm virus của bạn có thể giảm 60%. Lời khuyên của bác sĩ Zhong là hãy tắm nước nóng mỗi ngày, 41 độ C và 5 phút là đủ!

Hãy chia sẻ với gia đình và bạn bè của bạn ..

Thứ Tư, 21 tháng 4, 2021

Luật hấp dẫn từ nụ cười


LUẬT HẤP DẪN TỪ NỤ CƯỜI

1. Mỗi lần bạn mỉm cười với một người, thì đó là một hành động của tình yêu, một món quà cho người đó và là một điều tốt đẹp - Mother Teresa

2. Tôi đã mỉm cười ngày hôm qua. Tôi đang mỉm cười ngày hôm nay và khi ngày mai đến, tôi sẽ mỉm cười. Vì đơn giản, cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ - Santosh Kalwar

3. Bạn sẽ tìm thấy giá trị đích thực của cuộc sống, nếu như bạn nở một nụ cười - Charles Chaplin

4. Cuộc sống như một tấm gương, bạn cau mày thì nó cũng cau mày lại với bạn, hãy mỉm cười... nó cũng sẽ mỉm cười với bạn - Herbert Samuels

5. Nụ cười luôn thường trực trên môi tôi, nó sẽ không bao giờ chết. Tôi đang đứng đây với nó để chờ đợi bạn, cho đến khi bạn ở bên tôi - Freida Martinez

6. Bạn sẽ không bao giờ thấy nuối tiếc với những điều ý nghĩa đã làm bạn mỉm cười - Bei Maejor

7. Hãy lấy nụ cười của chúng ta để thay đổi thế giới, nhưng đừng để thế giới thay đổi nụ cười của chúng ta.

8. Một nụ cười có thể làm bừng sáng một ngày đen tối nhất.

9. Mỗi người trong chúng ta đều có một vết thương lòng, một số người giấu trong đôi mắt, một số khác lại giấu nó trong nụ cười - Nylle

10. Một nụ cười là khoảng cách ngắn nhất giữa hai tâm hồn.

11. Cô ấy cười không có nghĩa là cô ấy hạnh phúc. Cô ấy cười vì cô ấy đang tràn ngập hy vọng, niềm tin và sự mạnh mẽ.

12. Nụ cười là chiếc chìa khóa duy nhất mở được trái tim của người khác.

13. Phương thuốc tốt nhất trên thế giới này mà không có các tác dụng phụ khác đó là nụ cười. Tôi mong rằng thứ thuốc hữu hiệu ấy luôn luôn có trong bạn.

14. Đôi khi bạn phải luôn phải mỉm cười, hãy nghĩ rằng: mọi thứ rồi sẽ ổn, gạt đi nước mắt và hãy tiếp tục bước đi.

15. Mỉm cười và hãy cho mọi người thấy rằng bạn đã trở thành một người mạnh mẽ hơn bạn của ngày hôm qua.

16. Hãy luôn hạnh phúc bởi bạn sẽ không bao giờ biết rằng có những người đã yêu nụ cười của bạn mất rồi!

17. Đôi khi nụ cười được bắt nguồn từ những niềm vui, nhưng có lúc niềm vui có được là nhờ nụ cười - Thích Nhất Hạnh

18. Hãy đếm tuổi của bạn bằng số bạn bè chứ không phải số năm. Hãy đếm cuộc đời bạn bằng nụ cười chứ không phải bằng nước mắt - John Lennon

19. Hãy cười, thậm chí dù đó là nụ cười buồn bã, bởi còn đáng buồn hơn nụ cười buồn bã là sự bi thảm vì không biết phải cười thế nào.

20. Để thật sự cười, anh phải có thể lấy nỗi đau của mình ra và "chơi" với nó! - Charlie Chaplin.

Sưu tầm

Thứ Hai, 12 tháng 4, 2021

Sơ lược lịch sử Xứ Thanh

 

THANH HÓA LÀ ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT

          Chỉ tính từ thời nước Nam có tự chủ, bắt đầu từ Ngô Quyền:  Triều đại Nhà Ngô (939–965) với 3 đời vua, nhà Đinh (968–980) với 2 đời vua, nhà Tiền Lê (980–1009) có 3 đời vua, nhà Lý (1009–1225) có 9 đời vua, nhà Trần (1226–1400) có 12 đời vua, nhà Hồ (1400–1407) có 2 đời vua, nhà Lê sơ (1428–1527) có 10 đời vua, Nhà Mạc (1527 –1592) có 5 đời vua, nhà Lê trung hưng (1533–1789) có 16 đời vua, chúa Trịnh (1545–1787) có 12 đời chúa, chúa Nguyễn (1558–1777) có 10 đời chúa; nhà Tây Sơn (1778–1802) có 3 đời vua, nhà Nguyễn (1802 – 1945) có 13 đời vua.

Tổng cộng có 11 triều đại thì có tới 4 triều đại gốc là Thanh Hoá gồm Tiền Lê, Lê sơ, Lê trung hưng, Nguyễn,  đó là chưa tính Ngô Quyền hiện vẫn chưa thống nhất quê ở Sơn Tây hay Thanh Hoá và Nhà Hồ phát tích ở Thanh Hoá. Có 2 nhà Chúa thì cả 2 đều là người Thanh Hoá.

Và khuyến mại cho bà Triệu Trinh Nương, và Tiết độ  sứ Dương Đình Nghệ người có công đặt dấu chấm hết cho 1000 năm đô hộ của phương Bắc, mở ra nền tự chủ cho nước Nam.

Tổng cộng các triều đại phong kiến Việt Nam có 78 đời vua thì Thanh Hoá có 42 vua = 53,8%. Có 22 đời chúa thì cả 22 chúa đều là người Thanh Hoá = 100%

LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC.

1. Cuộc khởi nghĩa của Chu Ðạt (156 - 160)

Năm 156, Chu Ðạt, người huyện Cự Phong (nay là thôn Phú Hào, xã Thọ Phú, huyện Triệu Sơn) chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cự Phong (vùng đất các huyện Nông Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia và Như Xuân, Như Thanh ngày nay) giết chết huyện lệnh rồi tiến công Tư Phố, giết chết thái thú nhà Ðông Hán, lực lượng có đến 5.000 người, quản trị Cửu Chân được 4 năm từ năm 156 đến năm 160.

2. Cuộc khởi nghĩa bà Triệu (Triệu Thị Trinh) năm 248

Từ năm 220, Cửu Chân thuộc quyền cai trị của Ðông Ngô (một trong 3 nước thời Tam Quốc), trong xứ không kể Nghệ An, Hà Tĩnh, có chừng 3 vạn hộ. Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh, người Quân Yên (huyện Yên Ðịnh), 20 tuổi; lập căn cứ ở Núi Nưa (Triệu Sơn), hội quân với 3 anh em họ Lý ở Bồ Ðiền (tức Phú Ðiền, huyện Hậu Lộc) cùng tiến đánh quận sở Tư Phố đại thắng. Hầu hết các huyện lỵ, thành ấp ở Cửu Chân, Cửu Ðức, Nhật Nam (2 quận nay là vùng Nghệ Tĩnh - Quảng Bình) bị nghĩa quân đánh hạ, các thái thú, huyện lệnh và huyện trưởng bị giết... nền đô hộ của nhà Hán ở Giao Châu hơn 330 năm bị lật đổ.

3. Thời nước Vạn Xuân, Lý Nam Ðế (542 - 556)

Mùa xuân 542, Lý Bí - mẹ đẻ là người Cửu Chân, khởi nghĩa thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân xưng là Lý Nam Ðế. Nhà Lương đàn áp, Lý Thiên Bảo là anh ruột Lý Bí rút về Dã Năng (huyện Bá Thước ngày nay) xưng là Ðào Lang Vương tiếp tục kháng chiến. Sau đó Thiên Bảo mất, Lý Phật Tử lên thay tức là Hậu Lý Nam Ðế. Năm 556, Lý Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương - Triệu Quang Phục - người tiếm ngôi của Lý Bí và là người đánh bại quân đội nhà Lương ở đầm Dạ Trạch (tỉnh Hưng Yên ngày nay).

4. Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc (đầu thế kỷ VII)

Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng với 4 người con lật đổ quan cai trị của nhà Tuỳ (Trung Quốc) đóng ở Ðông Phố (tức Ðồng Pho, xã Ðông Hoà, huyện Ðông Sơn ngày nay), gọi là kinh đô Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống lại nhà Ðường cho đến đầu thế kỷ VI. Ðến thế kỷ VII, Cửu Chân gồm 6 huyện có 16.100 hộ (quận Giao Chỉ có 30.000 hộ) khoảng 84.000 nhân khẩu, thuộc xứ An Nam (tên An Nam thay cho Giao Châu bắt đầu từ đây). Quận sở là Ðông Phố (tức là Ðồng Pho). Năm 759, quân Mã Lai cướp phá Châu Ái (tên gọi Cửu Chân từ năm 523) bị quan cai trị là Trương Bá Nghi tiêu diệt. Năm 797, quân Mã Lai lại cướp phá Châu Ái nữa, xây cả thành, lập nước, nhưng bị quan cai trị là Trương Châu đánh đuổi, san phẳng thành trì thu hồi mọi của cải. Thế kỷ IX, Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo đã rất phát đạt ở Châu Ái. Ðạo Nho có anh em Khương Công Phụ, đỗ Tiến sỹ làm quan đến Tể tướng triều đình nhà Ðường, đạo Lão biến các hang động đẹp nhất ở khắp Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn làm nơi tu tiên và đạo Phật có các Ðại hoà thượng như Trí Hành và Ðại Thăng Ðăng sang tận Trung Quốc để hành đạo.

5. Thời Dương Ðình Nghệ (? - 937)

Dương Ðình Nghệ, chính khách quan trọng nhất thế kỷ X của lịch sử Việt Nam, thu hút hơn 3.000 người làm vây cánh ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, thành phố Thanh Hóa), trong đó có Ngô Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng... Tháng 3 năm 931, Dương Ðình Nghệ đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của nhà Nam Hán (Trung Quốc), tiêu diệt viện binh Nam Hán, tự lập làm tiết độ sứ, chấm dứt vĩnh viễn nền đô hộ hơn 1.000 năm của người Trung Quốc ở Việt Nam. Ông điều hành đất nước trong 6 năm, (từ 932 - 938). Từ Dương Ðình Nghệ, Việt Nam xác định lại được quốc thống của một đất nước độc lập hoàn toàn.

6. Thời Ngô Quyền (938 - 968)

Mùa đông năm 938, Ngô Quyền đem quân đội Cửu Chân tiến ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn - kẻ phản bội họ Dương ở Ðại La (Hà Nội ngày nay), rồi cản phá quân Nam Hán là Lưu Hoàng Thao trên sông Bạch Ðằng, lên ngôi vua tức Ngô Vương Quyền. Thời 12 sứ quân, Cửu Chân nằm trong vòng kiểm soát của Ðinh Bộ Lĩnh ở miền Ðông và của Ngô Xương Xí - cháu nội Ngô Quyền, ở Bình Kiều (đất vùng Triệu Sơn ngày nay) tức miền Tây lãnh thổ.

7. Thời Ðại Cồ Việt - Tiền Lê (968 - 1009)

Năm 979 - 980, Lê Hoàn trấn áp xong quân chống đối của Nguyễn Bặc và Ðinh Ðiền ở vùng sông Tống (vùng đất huyện Hà Trung ngày nay) lên ngôi vua. Năm 981, ông đánh tan quân xâm lược nhà Tống, và năm 982 đánh thắng quân Chiêm Thành. Năm 982, nhà vua cho nạo vét các sông ngòi, đào kênh nối liền hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên, sông Bạng cho đến vùng đất tỉnh Nghệ An ngày nay, thành một đường giao thông thuận tiện đầu tiên ở Cửu Chân và ở cả đất nước Ðại Cồ Việt. Người chỉ huy đào các kênh này là Ðào Lang, làng Bùi Ðỉnh (xã Yên Trung huyện Yên Ðịnh ngày nay). Từ năm 999 đến năm 1005, các vua thời Tiền Lê phải trực tiếp điều quân bình định miền viễn Tây Thanh Hoá nhưng chưa ổn.

8. Thời Nhà Lý (1010 - 1225)

Sau khi dẹp tan quân Tống, biết Ái Châu là vùng đất quan trọng, hiểm yếu. Nhà Lý cử Thái úy Lý Thường Kiệt (chức ngang với Thủ tướng bây giờ) vào trấn thủ châu Ái (Thanh Hóa), ông trấn thủ ở Thanh Hóa 19 năm, từ 1082 - 1101. Từ năm 1009 đến 1029, Lý Thái Tổ gọi Thanh Hóa là Châu Ái. Năm 1029, dưới triều vua Lý Thái Tông, năm Thiên Thành thứ hai đặt tên Phủ Thanh Hóa. Từ đó các triều đại tiếp theo lúc gọi phủ, lúc gọi lộ, lúc gọi trấn và gọi là tỉnh Thanh Hóa vào thời nhà Nguyễn.

Tên Hóa có lúc lại đổi thành Hoa, rồi lại trở lại Hóa; đến đời vua Thiệu Trị, triều đại nhà Nguyễn (1841), nhà vua có một chỉ dụ đại ý nói: Thanh Hóa là một tên cổ, do các triều đại trước đã định danh, vì vậy không có lý do gì đổi tên này, mà phải giữ nguyên tên gọi tỉnh Thanh Hóa.

Ngày 12/7/2017, tại kỳ họp thứ ba, HĐND tỉnh khóa XVII đã quyết nghị lấy năm 1029 là năm ra đời Danh xưng Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Sự kiện lịch sử này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo sự phấn khởi, lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh.

9. Thời nhà Trần (1226 - 1400)

Tháng giêng năm Thiệu Long thứ 15 nhà Trần (năm 1272), Lê Văn Hưu, người làng Bồi Lý (xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá ngày nay) dòng dõi Lê Lương, soạn xong Ðại Việt sử ký toàn thư - bộ sử hoàn chỉnh đầu tiên của nước ta.

Lê Văn Hưu được tôn là ông tổ ngành sử học của Việt Nam. Ðầu năm 1285, kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2, ở Thanh Hoá, quân đội nhà Trần do Trần Kiên, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ huy chống giữ cầm chân giặc, ở các điểm Yên Duyên (xã Quảng Hùng), núi Ðá Chẹt (Quảng Lĩnh), Văn Trinh (Quảng Hợp), Bố Vệ (thành phố Thanh Hoá), Phú Tân (Hà Toại), Nga Lĩnh, Quang Lộc, Liên Lộc, chiến sự rất dữ dội. Sau khi tướng Nguyên: Toa Ðô tiến được ra sông Hồng thì Hưng Ðạo Vương lại đem 2 vua Trần rút vào Thanh Hoá (ở các vùng Nga Sơn, Hà Trung, Thạch Thành ngày nay) để bảo toàn đầu não. Ðến tháng 5 năm 1285, từ Thanh Hoá, Hưng Ðạo Vương tiến quân ra Bắc quét sạch quân Nguyên Mông khỏi bờ cõi Ðại Việt. Năm 1370, dòng họ Lê ở Ðại Lại (Ðò Lèn, Hà Ngọc huyện Hà Trung) do Lê Liêm dẫn đầu hội quân Thanh Hoá tiến ra Thăng Long phế bỏ người tiếm ngôi Dương Nhật Lễ, lập lại nhà Trần bằng vua Trần Phủ - tức Trần Nghệ Tôn - nhà Trần từ đây thiên vào Thanh Hoá. Năm 1378, quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hoá bị quan quân nhà Trần trấn giữ đánh bại. Năm 1380, quân Chiêm Thành do đích thân vua Chế Bồng Nga chỉ huy lại vào cướp Thanh Hoá bị Hồ Quý Ly đánh bại ở cửa sông Ngu (tức Lạch Trường, Hoằng Trường ngày nay). Năm 1382, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, bị Nguyễn Ða Phương đánh bại ở cửa Thần Ðầu (tức Thần Phù, huyện Nga Sơn ngày nay). Năm 1389, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, Hồ Quý Ly chống không nổi phải bỏ chạy. Quân Chiêm Thành tiến ra Bắc. Năm 1390, tướng chỉ huy nhà Trần ở Thanh Hoá là Trần Khát Chân cản phá được quân Chiêm Thành, giết chết Chế Bồng Nga, chấm dứt vĩnh viễn sự quấy rối của các vua Chiêm Thành.

10. Thời nhà Hồ (1400 - 1407)

Mùa xuân năm 1397, xây dựng xong thành đá Tây Giai ở động Thiên Tôn (nay là đất xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc). Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua ở thành này, thay nhà Trần, đổi tên nước là Ðại Ngu (nghĩa là rất an vui và cùng lo việc nước), bỏ kinh đô Thăng Long, lấy thành đá mới làm quốc đô gọi là Tây Ðô. Nhà Hồ phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng đúc từ năm 1396, đến năm 1400 định lại giá kim ngạch cho thêm chặt chẽ. Năm 1402, nhà Hồ hoàn thành việc xây dựng con đường Thiên Lý từ Tây Ðô ra Ðông Quan (tức Thăng Long cũ) và từ Tây Ðô vào Hoá Châu (vùng Quảng Bình ngày nay) dọc đường đặt nhà trạm, phố xá và bưu dịch có hệ thống. Sau một năm chiến đấu ngoan cường nhưng thất bại, năm 1407, nhà Hồ và nước Ðại Ngu mất vào tay quân xâm lược nhà Minh.

11. Cuộc kháng chiến 10 năm chống nhà Minh(1418 - 1428)

Mùa xuân, tháng Giêng ngày mồng 2 năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng với những người tài giỏi trong cả nước khởi nghĩa ở Mường Chính (nay là huyện lỵ Lang Chánh) tiến về Khả Lam (tức Lam Sơn) bắt đầu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh (Trung Quốc) giải phóng đất nước. Lê Lợi xưng là Bình Ðịnh Vương, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân). Bình Ðịnh Vương chiến đấu ở Thanh Hoá 6 năm, các trận đánh lớn diễn ra ở Lam Sơn, Mường Một (vùng Bát Mọt, huyện Thường Xuân ngày nay), Mường Chính, Bến Bổng (vùng thượng du sông Âm), Ba Lẫm (vùng Chiềng Lẫm, huyện Bá Thước ngày nay), Kình Lộng (vùng Cổ Lũng, huyện Bá Thước), Úng Ải (vùng đèo Thiết Ống, huyện Bá Thước), Sách Khôi (ở khoảng giữa huyện Bá Thước và huyện Hoàng Long - Ninh Bình và huyện Thạch Thành - Thanh Hoá), Ða Căng (vùng Thọ Nguyên, Thọ Xuân), có trận phía địch có tới 10 vạn quân như ở Kình Lộng. Mùa đông năm 1424, Bình Ðịnh Vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách của Nguyễn Chích. Mùa thu năm 1426, quân khởi nghĩa tiến ra Bắc bao vây Ðông Quan. Ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ (1426), Bình Ðịnh Vương đến Lỗi Giang (vùng đất các huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc ngày nay) chỉ huy bao vây Tây Ðô. Cuối năm 1426, Bình Ðịnh Vương ra Bắc chỉ huy giải phóng các miền đất Giao Chỉ (Bắc Bộ ngày nay), và vây hãm thành Ðông Quan. Ngày 22 tháng 01 năm Ðinh Mùi (1427), giặc Minh đầu hàng. Mùa xuân năm sau - giặc rút về, đất nước sạch bóng quân thù, thành Tây Ðô lại về Ðại Việt. Ngày 15 tháng giêng năm Mậu Thân (1428), Bình Ðịnh Vương lên ngôi hoàng đế nước Ðại Việt, thủ đô là Ðông Kinh (tức Ðông Quan, thủ đô Hà Nội ngày nay). Cả nước chia làm 3 đạo hành chính lớn, Thanh Hoá thuộc đạo Hải Tây trong số các trấn ven biển Tây Ðô.

12. Thời Lê sơ (1428 - 1516)

Tháng 11 - Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ về bái yết Sơn Lăng, Lam Sơn, sau 10 năm chiến đấu giành độc lập cho đất nước thắng lợi. Mùa Hè năm Canh Tuất (1430) đổi Tây Ðô làm Tây Kinh và Ðông Ðô (Hà Nội) làm Ðông Kinh. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ mất, một tháng sau đem về an táng ở Lam Sơn, gọi nơi an táng là Vĩnh Lăng. Tháng 12 năm Quí Sửu (1433) xây dựng điện Lam Sơn (gọi là Lam Kinh). Ngày 7 tháng 01 Giáp Dần (1434), điện Lam Kinh bị cháy (cháy lần thứ nhất). Tháng 9 Mậu Thìn (1448): xây dựng lại Lam Kinh do Thái uý Trịnh Khả chỉ huy. Từ Mậu Ngọ (1438) đến Mậu Tý (1468), 3 lần khơi đào các kênh trong xứ Thanh Hoá. Năm Bính Tý, tháng 4 (1516), Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực, lập vua Lê Chiêu Tông rước về Tây Kinh.

13. Thời Lê Mạc (1516 - 1788)

Họ Mạc cướp ngôi vua Lê ở Thăng Long. Nhà Lê phải ly tán nhiều nơi. Có người phải đưa gia đình vợ con đi trốn tận Ai Lao (Lào). Quan Ðiện tiền tướng quân Nguyễn Kim - người Hà Trung lập căn cứ ở Thanh Hoá chống lại họ Mạc. Năm 1533 (Quí Tỵ), ông  sang Lào đưa Lê Ninh (con vua Chiêu Tông) lên ngôi tức Lê Trang Tông, trở về Thanh Hóa đánh chiếm Tây Kinh (1545) thắng lợi. Ðến năm 1545 (Ất Tỵ), Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm lên thay, đánh nhau nhiều trận lớn với họ Mạc ở Thanh Hoá, 16 lần quân Mạc đều thua.

Từ năm 1533 đến 1592, triều đình nhà Lê ở Thanh Hoá, quản lý đất nước từ Thanh Hoá trở vào, đóng đô ở Yên Trường (nay thuộc Yên Ðịnh) mở nhiều khoa thi, chọn người hiền tài tham gia chính quyền. Năm 1593, Trịnh Tùng - con trai Trịnh Kiểm, kế tục cha tiêu diệt họ Mạc, đưa vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long, lập phủ chúa, Ðàng Ngoài do vua Lê - Chúa Trịnh trị vì từ năm 1599. Trong thời đó, năm 1588, Nguyễn Hoàng (con trai của Nguyễn Kim) vào trấn thủ xứ Thuận Hoá, mở đầu sự nghiệp các Chúa Nguyễn ở Ðàng trong. Năm 1738, Lê Duy Mật (con vua Lê Dụ Tông Duy Ðường) khởi nghĩa chống Chúa Trịnh, địa bàn hoạt động rộng khắp Tây Nam, Tây, Tây Bắc Thanh Hoá và vùng Tây Bắc lẫn Tây Bắc Bộ. Năm 1770, Duy Mật bị con rể phản bội phải thua và tự sát với vợ con, chấm dứt 32 năm chiến đấu. Từ năm 1557 đến 1786, Thanh Hoá bị 10 trận bão lụt lớn xen đại hạn, 15 lần đói to chết nhiều người và 16 cuộc chiến giữa quân Trịnh - Mạc, những tai hoạ ấy không hề có ở thời Lê sơ.

14. Thời Tây Sơn

Những năm quân Tây Sơn tiến công ra Bắc, quân dân Thanh Hoá do Lê Trung Nghĩa (tức Quận Mãn) chỉ huy chống lại rất dữ dội, Lê Trung Nghĩa tử trận ở Tĩnh Gia.

Quân đội Tây Sơn phá huỷ hoàn toàn Lam Kinh và kinh đô An Trường biểu tượng của các vua Lê và còn phá huỷ nhiều chùa chiền miếu mạo khác. Năm 1790, con vua Quang Trung là Quang Bàn được cử ra trấn thủ Thanh Hoá. Năm 1792, ông tách ra 2 phủ Trường An và Thiên Quan của Thanh Hoa ngoại thành trấn Thanh Bình (tức Ninh Bình ngày nay).

15. Thời nhà Nguyễn (1802 - 1945)

Thanh Hoá là đất tổ của nhà Nguyễn, cho nên sau kinh thành Huế, Thanh Hoá đặc biệt được chú trọng. Nhà Nguyễn coi viên quan tổng đốc quản trị Thanh Hoá ngang với chức thượng thư trong triều đình và phải là một vị hoàng thân mới được làm tổng đốc tỉnh Thanh Hoá.

Ðặc biệt, triều đình ra lệnh không được đào bới khai mỏ gì ở Thanh Hoá sợ rằng xúc phạm đến oai linh của xứ sở. Nhà Nguyễn xây lăng tổ khai sáng ở Triệu Tường (Hà Trung), thành Triệu Tường lớn thứ 2 sau thành Thanh Hoá, chu vi 182 trượng (1 trượng = 4m), xây dựng lại Lam Kinh để tỏ lòng kính ngưỡng nhà Lê, dựng đền thờ các vua Lê ở Kiều Ðại (TP Thanh Hoá), hằng năm cắt cử các quan lại thay mặt nhà vua cúng tế và tổ chức phòng thủ ở Thanh Hoá rất hùng mạnh gồm một hệ thống 11 đồn binh có quân chính qui trấn giữ 7 bảo súng (pháo đài), 1 đồn thuỷ với 44 khẩu đại bác (súng thần công) mỗi đợt tuyển quân lấy của Thanh Hoá hơn 7.000 người. Ngày 25/11/1885, quân xâm lược Pháp lần đầu tiên tiến công Thanh Hoá. Trước đó, ngày 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi tuyên bố chọn Thanh Hoá làm thủ phủ kháng chiến, nên tinh thần Cần Vương của quân dân Thanh Hoá rất sôi sục. Vùng rừng núi Thanh Hoá được xây dựng những sơn phòng tích trữ tiền của, lương thảo để chuẩn bị đánh giặc. Ba tháng sau (12/3/1886), nghĩa quân Cần Vương đã tiến đánh quân Pháp đóng ở thành Thanh Hoá. Mùa hè năm 1886, nghĩa quân lập bộ chỉ huy kháng chiến toàn Thanh Hoá do Tống Duy Tân đứng đầu và lập chiến khu ở Ba Ðình (Nga Sơn). Từ 18/12/1887, chiến sự dữ dội nhất giữa quân Việt Nam và Pháp đã nổ ra ở Ba Ðình. Quân Pháp phải tập trung trên địa bàn một số xã ở đây lượng binh lính lớn nhất so với toàn quốc (6.000 người trong một trận) để chiến đấu và bị thiệt hại nặng nề. Cuối cùng vì không được tiếp ứng như kế hoạch dự kiến, nghĩa quân do Ðinh Công Tráng chỉ huy đã rút lui an toàn khỏi các chiến luỹ. Ngày nay quảng trường trọng đại nhất của đất nước mang tên chiến khu này, đó là quảng trường Ba Ðình lịch sử ở thủ đô Hà Nội. Các cuộc chiến đấu chống quân đội Pháp ở Thanh Hoá đến giữa năm 1895 mới chấm dứt cùng với hàng ước của nhà Nguyễn. Thanh Hoá và các tỉnh miền Trung Việt Nam vẫn nằm trong nền độc lập hạn chế của nhà Nguyễn không bị Pháp cai trị trực tiếp. Thực tế chính quyền thuộc địa Pháp chỉ cai quản địa phận thị xã Thanh Hoá được thành lập ngày 12/7/1899 ở khu đất phía Ðông thành Thanh Hoá mà thôi. Năm 1918, chế độ thi cử tuyển hiền tài, kiểu Nho giáo ở Thanh Hoá mới bãi bỏ. Thanh Hoá bắt đầu hình thành xã hội phong kiến nửa thuộc địa hiện đại hoá.

16. Thời hiện đại

Các năm 1926 - 1927, các tổ chức cách mạng đầu tiên ở Thanh Hoá ra đời. Ngày 25/6/1930, chi bộ Ðảng Cộng sản đầu tiên thành lập ở làng Hàm Hạ (thuộc xã Ðông Tiến, huyện Ðông Sơn), và ngày 29/7/1930, đã thành lập Ðảng bộ tỉnh, Bí thư Tỉnh uỷ đầu tiên là đồng chí Lê Thế Long.

Tháng 9/1942, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hoá thành lập. Ngày 24/7/1945, nhân dân huyện Hoằng Hoá giành chính quyền huyện thắng lợi. Ngày 19/8/1945, nhân dân thành phố Thanh Hoá và một số huyện tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi. 4 ngày sau, cách mạng thành công trên toàn tỉnh. Ngày 23/8/1945, chính quyền cách mạng tỉnh Thanh Hoá ra mắt đồng bào ở thị xã Thanh Hoá. Ngày 2/9/1945, Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Cùng với cả nước, lịch sử Thanh Hoá bước vào thời kỳ phát triển mới.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Thanh Hoá là vùng tự do, quân và dân Thanh Hoá vừa chiến đấu, vừa phục vụ chiến đấu, chi viện sức người, sức của cho các mặt trận, các chiến trường, đóng góp to lớn vào thắng lợi chung, lập lại hoà bình ở Việt Nam, đặc biệt là trong chiến dịch Điện Biên phủ. Như Bác Hồ đã nói trong lần về thăm Thanh Hoá lần thứ 2, ngày 13 - 6- 1957: "Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó".

Trong kháng chiến chống Mỹ, Thanh Hoá là trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ, đặc biệt là cây cầu Hàm Rồng huyền thoại, Đế quốc Mỹ muốn cắt đứt tuyến đường huyết mạch từ Hậu phương Miền Bắc vào chiến trường Miền Nam: Chỉ trong 2 ngày 3 - 4/4/1965, đế quốc Mỹ tổ chức một trận đánh với quy mô lớn nhất ra miền Bắc, sử dụng 174 lần tốp máy bay, 454 lần chiếc máy bay, ném xuống địa bàn tỉnh Thanh Hóa 627 quả bom phá, 58 quả bom nổ chậm (gồm các loại từ 500 đến 1.000 kg) cùng hàng trăm tên lửa, rốc-két vào các khu vực trọng điểm của Thanh Hóa. Riêng khu vực Hàm Rồng - Nam Ngạn - Yên Vực, đế quốc Mỹ đã bổ nhào 85 lần, cắt bom bắn phá 80 lần, ném 350 quả bom, bắn 149 quả đạn rốc-két.

Sau 2 ngày chiến đấu kiên cường, Thanh Hóa đã bắn rơi 47 máy bay giặc Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái, bảo vệ an toàn cầu Hàm Rồng, khiến cho dư luận nước Mỹ xôn xao, bạn bè yêu chuộng công lý và hòa bình trên toàn thế giới khâm phục. Mỹ cay đắng thú nhận: “Đó là 2 ngày đen tối của không lực Hoa Kỳ”.

Hàm Rồng đã trở thành biểu tượng của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ kéo dài 4 năm. Trên mảnh đất Thanh Hóa lịch sử, mỗi ngọn núi, dòng sông, cánh đồng, nhà máy, mỗi xóm làng thân yêu đều là mục tiêu đánh phá của kẻ thù. Tiếp đó, trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của Mỹ (từ ngày 26/12/1971 đến ngày 15/1/1973), đế quốc Mỹ đã sử dụng những phương tiện chiến tranh hiện đại từ máy bay chiến lược B52, đến tên lửa Tà-lốc, bom xuyên, bom la-de... tập trung rải xuống Hàm Rồng.

Qua 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quân và dân Thanh Hoá đã bắn rơi 405 máy bay Mỹ bằng 1/10 tổng số máy bay quân và dân miền Bắc bắn rơi trrong 2 cuộc không kích. Riêng quân và dân Hàm Rồng, đã bắn rơi 117 máy bay, tiêu diệt, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ, bảo vệ cầu bảo đảm giao thông thông suốt, đẩy mạnh sản xuất góp phần xứng đáng cùng quân dân cả nước, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Như vậy: Trong quá trình lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam, người dân Thanh Hoá đã ghi lại những mốc son chói lọi. Thanh Hoá là nơi phát tích của các vương triều: Tiền Lê, Hậu Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, triều Nguyễn. Ngày nay, người dân xứ Thanh đã và đang góp phần xứng đáng cùng với nhân dân cả nước để bảo vệ Tổ quốc, kiến thiết đất nước và xây dựng quê hương mình nhanh chóng trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh./.

Sưu tầm trên internet và trang Facebook Thanh Hóa

Thứ Bảy, 10 tháng 4, 2021

BÀI THƠ TÂM NHÀN SỐNG ĐẠO

 

1.- Đọc Xuôi :

Vàng son lụy sóng ngợp chìm thân,

Thức tỉnh mà lo tạo đức ân.

Vương vấn hận tình tuôn lệ máu,

Khóc cười ôi bể khổ trầm luân !

 

Tàn mơ mộng nát hồn chua xót,

Bước lạc hờn đau chuốc lỡ lầm.

Ngang trái nhận trôi đời ngược gió,

Lợi danh buồn khép cửa tình thâm !

 

Tang thương phận tủi sầu khô héo,

Đứt đoạn lòng tơ hỡi thế nhân ?

Sương khói mịt mờ trăng rũ bóng,

Thẩn thờ mong nhớ nỗi xa gần.

 

Hương nhòa sắc úa nhầu mưa gió,

Khổ lụy còn mê đắm tục trần ?

Chan chứa hận thù… mau bỏ dứt,

An bình được đạo sống nhàn tâm.

2.- Đọc Ngược :

Tâm nhàn sống đạo được bình an,

Dứt bỏ mau… thù hận chứa chan.

Trần tục đắm mê còn lụy khổ,

Gió mưa nhầu úa sắc nhòa hương !

 

Gần xa nỗi nhớ mong thờ thẩn,

Bóng rũ trăng mờ mịt khói sương.

Nhân thế hỡi tơ lòng đứt đoạn,

Héo khô sầu tủi phận thương tang !

 

Thâm tình cửa khép buồn danh lợi,

Gió ngược đời trôi nhận trái ngang.

Lầm lỡ chuốc đau hờn lạc bước,

Xót chua hồn nát mộng mơ tàn !

 

Luân trầm bể khổ ôi cười khóc,

Máu lệ tuôn tình hận chứa chan.

Ân đức tạo lo mà tỉnh thức,

Thân chìm ngợp sóng lụy son vàng !

 

Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân

BÀI THƠ TIẾNG HÁT CHIỀU XUÂN

 

1.- Đọc Xuôi :

Chương đài tiếng hát điệu lâng lâng,

Nhạc đắm say tình khúc trọn dâng.

Thương mến nghe lòng lưu luyến mãi,

Phím rung đàn trổi nhịp dài ngân.

 

Hương trầm khói quyện mùi ngây ngất,

Tóc mượt êm mềm vóc liễu thân.

Gương tỏa bóng lồng mây dịu nắng,

Dáng hình tươi đẹp nét hồng xuân.

 

Nương hồn lắng đọng tình nhung nhớ,

Thắm nở hoa vàng tay nhẹ nâng.

Vương vấn nước trong hồ gợn sóng,

Trúc tơ đùa mộng gợi duyên trần.

 

Đàn say dạo khúc nghe trầm bổng,

Tưởng mộng lòng thơ ý ngại ngần.

Vàng đá gởi ai hồn thắm đượm,

Nước non lời cảm nhạc tình ân.

 

An bình thế sự vui trời đất,

Nhụy nở hoa mừng đẹp thế nhân.

Chan chứa sắc tươi đời rực sáng,

Ngàn mây tỏa ngát gió chiều xuân.

2.- Đọc Ngược :

Xuân chiều gió ngát tỏa mây ngàn,

Sáng rực đời tươi sắc chứa chan.

Nhân thế đẹp mừng hoa nở nhụy,

Đất trời vui sự thế bình an.

 

Ân tình nhạc cảm lời non nước,

Đượm thắm hồn ai gởi đá vàng.

Ngần ngại ý thơ lòng mộng tưởng,

Bổng trầm nghe khúc dạo say đàn.

 

Trần duyên gợi mộng đùa tơ trúc,

Sóng gợn hồ trong nước vấn vương.

Nâng nhẹ tay vàng hoa nở thắm,

Nhớ nhung tình đọng lắng hồn nương.

 

Xuân hồng nét đẹp tươi hình dáng,

Nắng dịu mây lồng bóng tỏa gương.

Thân liễu vóc mềm êm mượt tóc,

Ngất ngây mùi quyện khói trầm hương.

 

Ngân dài nhịp trổi đàn ngân phím,

Mãi luyến lưu lòng nghe mến thương

Dâng trọn khúc tình say đắm nhạc,

Lâng lâng điệu hát tiếng đài chương.

 

Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân

BÀI THƠ LỆ CÁT ĐẰNG


(Bài thơ có 10 cách đọc)

1.- Đọc Xuôi :

Trăng buồn khóc liễu rũ tàn thu,

Giá lạnh trời sương gió mịt mù.

Cằn cỗi sắc hương mùi nhạt tẻ,

Võ vàng son phấn nét mờ lu.

Băng thanh lỡ phận vùi hoa gấm,

Ngọc khiết thương đời thẹn tóc tơ.

Đằng cát lệ rơi tình rẽ lối,

Giăng sầu chuốc hận tủi hờn thơ.

2.- Đọc Ngược :    

Thơ hờn tủi hận chuốc sầu giăng,

Lối rẽ tình rơi lệ cát đằng.

Tơ tóc thẹn đời thương khiết ngọc,

Gấm hoa vùi phận lỡ thanh băng.

Lu mờ nét phấn son vàng võ,

Tẻ nhạt mùi hương sắc cỗi cằn.

Mù mịt gió sương trời lạnh giá,

Thu tàn rũ liễu khóc buồn trăng.

3.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu Bài Xuôi :

Khóc liễu rũ tàn thu…

Trời sương gió mịt mù…

Sắc hương mùi nhạt tẻ…

Son phấn nét mờ lu…

Lỡ phận vùi hoa gấm…

Thương đời thẹn tóc tơ…

Lệ rơi tình rẽ lối…

Chuốc hận tủi hờn thơ…

4.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu Bài Ngược :

Tủi hận chuốc sầu giăng,

Tình rơi lệ cát đằng.

Thẹn đời thương khiết ngọc,

Vùi phận lỡ thanh băng.

Nét phấn son vàng võ,

Mùi hương sắc cỗi cằn.

Gió sương trời lạnh giá,

Rũ liễu khóc buồn trăng.

5.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu Bài Xuôi :

Liễu rũ tàn thu…

Sương gió mịt mù…

Hương mùi nhạt tẻ…

Phấn nét mờ lu…

Phận vùi hoa gấm…

Đời thẹn tóc tơ…

Rơi tình rẽ lối…

Hận tủi hờn thơ…

6.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu Bài Ngược :

Hận chuốc sầu giăng,

Rơi lệ cát đằng.

Đời thương khiết ngọc,

Phận lỡ thanh băng.

Phấn son vàng võ,

Hương sắc cỗi cằn.

Sương trời lạnh giá,

Liễu khóc buồn trăng.

7.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu Bài Xuôi :

Trăng buồn khóc liễu…

Giá lạnh trời sương…

Cằn cỗi sắc hương…

Võ vàng son phấn…

Băng thanh lỡ phận…

Ngọc khiết thương đời…

Đằng cát lệ rơi…

Giăng sầu chuốc hận…

8.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu Bài Ngược :

Thơ hờn tủi hận…

Lối rẽ tình rơi…

Tơ tóc thẹn đời…

Gấm hoa vùi phận…

Lu mờ nét phấn…

Tẻ nhạt mùi hương…

Mù mịt gió sương…

Thu tàn rũ liễu…

9.- Đọc Bài Xuôi Như Thơ Tự Do Mỗi Câu 2 Hoặc 3 Chữ :

Trăng buồn…

Khóc liễu…

Rũ tàn thu…

Giá lạnh…

Trời sương…

Gió mịt mù…

Cằn cỗi…

Sắc hương…

Mùi nhạt tẻ…

Võ vàng…

Son phấn…

Nét mờ lu…

Băng thanh…

Lỡ phận…

Vùi hoa gấm…

Ngọc khiết…

Thương đời…

Thẹn tóc tơ…

Đằng cát…

Lệ rơi…

Tình rẽ lối…

Giăng sầu…

Chuốc hận…

Tủi hờn thơ…

10.- Đọc Bài Ngược Như Thơ Tự Do Mỗi Câu 2 Hoặc 3 Chữ :

Thơ hờn…

Tủi hận…

Chuốc sầu giăng…

Lối rẽ…

Tình rơi…

Lệ cát đằng…

Tơ tóc…

Thẹn đời…

Thương khiết ngọc…

Gấm hoa…

Vùi phận…

Lỡ thanh băng…

Lu mờ…

Nét phấn…

Son vàng võ…

Tẻ nhạt…

Mùi hương…

Sắc cỗi cằn…

Mù mịt…

Gió sương…

Trời lạnh giá…

Thu tàn…

Rũ liễu…

Khóc buồn trăng…

Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân

BÀI THƠ MỘNG GỞI TÌNH VƯƠNG

 

BÀI THƠ MỘNG GỞI TÌNH VƯƠNG CÓ 32 CÁCH ĐỌC

        Bài Thơ với 20 cách đọc và có nhiều biến đổi thi vị này, đã từng gởi đến nhiều quý vị yêu thơ thưởng thức trước đây. Nhưng tác giả cảm thấy còn có đôi chỗ chưa thật vừa ý, nên cố gắng hoàn chỉnh thêm để bài thơ có được 32 cách đọc, nhất là khi cắt bỏ bài thơ còn lại 5 chữ, 4 chữ, và 3 chữ trong mỗi câu chưa thật là trọn ý; cũng như dùng 56 chữ của bài Thất Ngôn Bát Cú “Mộng Gởi Tình Vương” này để sắp xếp lại từng chữ, từng câu biến đổi thành những bài thơ Thất Ngôn Bát Cú khác, và các bài Tứ Tuyệt, Lục Bát và Song Thất Lục Bát cho được có hồn hơn.

       Mục đích là muốn trình bày sự phong phú và độc đáo của tiếng Việt, mà ít có thứ tiếng nào trên thế giới sánh được. Mong tình lượng thứ, và cám ơn sự vui đọc trọn vẹn bài thơ này của quý vị yêu thơ, cũng như phê bình và góp ý vậy.

A.- CÁC CÁCH ĐỌC :

Cách 1.- Đọc Xuôi:

Lâng lâng thoảng gió chuyển mùa sang,

Chuốc ngọc mơ lòng mộng chứa chan.

Nhân thế đẹp hồng hoa nở nhụy,

Đất trời vui mát liễu đưa hương.

Ngân đàn gởi nhạc hồn lưu luyến,

Hát điệu hoà ca tiếng mến thương.

Dâng phím tơ ngà mây sắc dịu…

Xuân chào đón nắng quyện tình vương !

Cách 2.- Đọc Ngược :                                            

Vương tình quyện nắng đón chào Xuân,

Dịu sắc mây ngà tơ phím dâng.

Thương mến tiếng ca hòa điệu hát.

Luyến lưu hồn nhạc gởi đàn ngân.

Hương đưa liễu mát vui trời đất.

Nhụy nở hoa hồng đẹp thế nhân.

Chan chứa mộng lòng mơ ngọc chuốc…

Sang mùa chuyển gió thoảng lâng lâng !

Cách 3.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu Bài Xuôi, thành Thơ Tự Do mỗi câu 4 chữ :   

Lâng lâng thoảng gió…

Chuốc ngọc mơ lòng…

Nhân thế đẹp hồng…

Đất trời vui mát…

Ngân đàn gởi nhạc…

Hát điệu hòa ca…

Dâng phím tơ ngà…

Xuân chào đón nắng…!

Cách 4.- Cũng bỏ 3 chữ cuối như cách 3, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Xuân chào đón nắng…

Dâng phím tơ ngà…

Hát điệu hoà ca…

Ngân đàn gởi nhạc…

Đất trời vui mát…

Nhân thế đẹp hồng…

Chuốc ngọc mơ lòng…

Lâng lâng thoảng gió…

Cách 5.- Bỏ 3 chữ cuối như cách 3, nhưng đọc thành Thơ 2 chữ :

Lâng lâng…

Thoảng gió…

Chuốc ngọc…

Mơ lòng…

Nhân thế…

Đẹp hồng…

Đất trời…

Vui mát…

Ngân đàn…

Gởi nhạc…

Hát điệu…

Hoà ca…

Dâng phim…

Tơ ngà…

Xuân chào…

Đón nắng…

Cách 6.- Bỏ 3 chữ cuối như cách 5, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Xuân chào…

Đón nắng…

Dâng phím…

Tơ ngà…

Hát điệu…

Hoà ca…

Ngân đàn…

Gởi nhạc…

Đất trời…

Vui mát…

Nhân thế…

Đẹp hồng…

Chuốc ngọc…

Mơ lòng…

Lâng lâng…

Gió thoảng…

Cách 7.- Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu Bài Ngược thành Thơ Tự Do 4 chữ :

Vương tình quyện nắng…

Dịu sắc mây ngà…

Thương mến tiếng ca…

Luyến lưu hồn nhạc…

Hương đưa liễu mát…

Nhuỵ nở hoa hồng…

Chan chứa mộng lòng…

Sang mùa chuyển gió…

Cách 8.- Cũng bỏ 3 chữ cuối như cách 7, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Sang mùa chuyển gió…

Chan chứa mộng lòng…

Nhuỵ nở hoa hồng…

Hương đưa liễu mát…

Luyến lưu hồn nhạc…

Thương mến tiếng ca…

Diu sắc mây ngà…

Vương tình quyện nắng…

Cách 9.- Bỏ 3 chữ cuối như cách 7, nhưng đọc thành Thơ 2 chữ :

Vương tình…

Quyện nắng…

Dịu sắc…

Mây ngà…

Thương mến…

Tiếng ca…

Luyến lưu…

Hồn nhạc…

Hương đưa…

Liễu mát…

Nhuỵ nở…

Hoa hồng…

Chan chứa…

Mộng lòng…

Sang mùa…

Chuyển gió…

Cách 10.- Bỏ 3 chữ cuối như cách 9, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Sang mùa…

Chuyển gió…

Chan chứa…

Mộng lòng…

Nhuỵ nở…

Hoa hồng…

Hương đưa…

Liễu mát…

Luyến lưu…

Hồn nhạc…

Thương mến…

Tiếng ca…

Dịu sắc…

Mây ngà…

Vương tình…

Quyện nắng…

Cách 11.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu của Bài Xuôi, thành Bài thơ 5 chữ :      

Thoảng gió chuyển mùa sang…

Mơ lòng mộng chứa chan…

Đẹp hồng hoa nở nhụy…

Vui mát liễu đưa hương…

Gởi nhạc hồn lưu luyến…

Hòa ca tiếng mến thương…

Tơ ngà mây sắc diệu…

Đón nắng quyện tình vương…!

Cách 12.- Cũng bỏ 2 chữ đầu như cách 11, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Đón nắng quyện tình vương…

Tơ ngà mây sắc dịu…

Hoà ca tiếng mến thương…

Gởi nhạc hồn lưu luyến…

Vui mát liễu đưa hương…

Đẹp hồng hoa nở nhuỵ…

Mơ lòng mộng chứa chan…

Thoảng gió chuyển mùa sang…

Cách 13.- Cũng bỏ 2 chữ đầu như cách 11, nhưng đọc thành Thơ 2, 3 chữ :

Thoảng gió…

Chuyển mùa sang…

Mơ lòng…

Mộng chứa chan…

Đẹp hồng…

Hoa nở nhuỵ…

Vui mát…

Liễu đưa hương…

Gởi nhạc…

Hồn lưu luyến…

Hoà ca…

Tiếng mến thương…

Tơ ngà…

Mây sắc dịu…

Đón nắng…

Quyện tình vương…

Cách 14.- Bỏ 2 chữ đầu như cách 11, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Đón nắng…

Quyện tình vương…

Tơ ngà…

Mây sắc dịu…

Hoà ca…

Tiếng mến thương…

Gởi nhạc…

Hồn lưu luyến…

Vui mát…

Liễu đưa hương…

Đẹp hồng…

Hoa nở nhuy…

Mơ lòng…

Mộng chứa chan…

Thoảng gió…

Chuyển mùa sang…

Cách 15.- Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu của Bài Ngược, thành Bài thơ 5 chữ :

Quyện nắng đón chào Xuân…

Mây ngà tơ phím dâng…

Tiếng ca hòa điệu hát…

Hồn nhạc gởi đàn ngân…

Liễu mát vui trời đất…

Hoa hồng đẹp thế nhân…

Mộng lòng mơ ngọc chuốc…

Chuyển gió thoảng lâng lâng…!

Cách 16.- Cũng bỏ 2 chữ đầu như cách 15, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Chuyển gió thoảng lâng lâng…

Mộng lòng mơ ngọc chuốc…

Hoa hồng đẹp thế nhân…

Liễu mát vui trời đất…

Hồn nhạc gởi đàn ngân…

Tiếng ca hoà điệu hát…

Mây ngà tơ phím dâng…

Quyện nắng đón chào xuân…

Cách 17.- Cũng bỏ 2 chữ đầu như cách 15, nhưng đọc thành Thơ 2, 3 chữ :

Quyện nắng…

Đón chào xuân…

Mây ngà…

Tơ phím dâng…

Tiếng ca…

Hoà điệu hát…

Hồn nhạc…

Gởi đàn ngân…

Liễu mát…

Vui trời đất…

Hoa hồng…

Đẹp thế nhân…

Mộng lòng…

Mơ ngọc chuốc…

Chuyển gió…

Thoảng lâng lâng…

Cách 18.- Cũng bỏ 2 chữ đầu như cách 17, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Chuyển gió…

Thoảng lâng lâng…

Mộng lòng…

Mơ ngọc chuốc…

Hoa hồng…

Đẹp thế nhân…

Liễu mát…

Vui trời đất…

Hồn nhạc…

Gởi đàn ngân…

Tiếng ca…

Hoà điệu hát…

Mây ngà…

Tơ phím dâng…

Quyện nắng…

Đón chào xuân…

Cách 19.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu Bài Xuôi, thành Thơ Tự Do mỗi câu 4 chữ :        

Gió chuyển mùa sang…

Lòng mộng chứa chan…

Hồng hoa nở nhụy…

Mát liễu đưa hương…

Nhạc hồn lưu luyến…

Ca tiếng mến thương…

Ngà mây sắc dịu…

Nắng quyện tình vương…!

Cách 20.- Cũng bỏ 3 chữ đầu như cách 19 nhưng đọc từ câu dưới lên :

Nắng quyện tình vương…

Ngà mây sắc dịu…

Ca tiếng mến thương…

Nhạc hồn lưu luyến…

Mát liễu đưa hương…

Hồng hoa nở nhuỵ…

Lòng mộng chứa chan…

Gió chuyển mùa sang…

Cách 21.- Cũng bỏ 3 chữ đầu như cách 19, nhưng đọc thành Thơ 2 chữ :

Gió chuyển…

Mùa sang…

Lòng mộng…

Chứa chan…

Hồng hoa…

Nở nhuỵ…

Mát liễu…

Đưa hương…

Nhạc hồn…

Lưu luyến…

Ca tiếng…

Mến thương…

Ngà mây…

Sắc dịu…

Nắng quyện…

Tình vương…

Cách 22.- Cũng bỏ 3 chữ đầu như cách 21, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Nắng quyện…

Tình vương…

Ngà mây…

Sắc dịu…

Ca tiếng…

Mến thương…

Nhạc hồn…

Lưu luyến…

Mát liễu…

Đưa hương…

Hồng hoa…

Nở nhuỵ…

Lòng mộng…

Chứa chan…

Gió chuyển…

Mùa sang…

Cách 23.- Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu Bài Ngược, thành Thơ Tự Do 4 chữ :

Nắng đón chào Xuân…

Ngà tơ phím dâng…

Ca hòa điệu hát…

Nhạc gởi đàn ngân…

Mát vui trời đất…

Hồng đẹp thế nhân…

Lòng mơ ngọc chuốc…

Gió thoảng lâng lâng…!

Cách 24.- Cũng bỏ 3 chữ đầu như cách 23, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Gió thoảng lâng lâng…

Lòng mơ ngọc chuốc…

Hồng đẹp thế nhân…

Mát vui trời đất…

Nhạc gởi đàn ngân…

Ca hoà điệu hát…

Ngà tơ phím dâng…

Nắng đón chào xuân…

Cách 25.- Cũng bỏ 3 chữ đầu như cách 23, nhưng đọc thành Thơ 2 chữ :

Nắng đón…

Chào xuân…

Ngà tơ…

Phím dâng…

Ca hoà…

Điệu hát…

Nhạc gởi…

Đàn ngân…

Mát vui…

Trời đất…

Hồng đẹp…

Thế nhân…

Lòng mơ…

Ngọc chuốc…

Gió thoảng…

Lâng lâng…

Cách 26.- Bỏ 3 chữ đầu như cách 25, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Gió thoảng…

Lâng lâng…

Lòng mơ…

Ngọc chuốc…

Hồng đẹp…

Thế nhân…

Mát vui…

Trời đất…

Nhạc gởi…

Đàn ngân…

Ca hoà…

Điệu hát…

Ngà tơ…

Phím dâng…

Nắng đón…

Chào xuân…

Cách 27.- Bỏ 4 chữ đầu mỗi câu Bài Xuôi, thành Thơ Tự Do 3 chữ :

Chuyển mùa sang…

Mộng chứa chan…

Hoa nở nhụy…

Liễu đưa hương…

Hồn lưu luyến…

Tiếng mến thương…

Mây sắc dịu…

Quyện tình vương…!

Cách 28.- Cũng bỏ 4 chữ đầu như cách 27, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Quyện tình vương…

Mây sắc dịu…

Tiếng mến thương…

Hồn lưu luyến…

Liễu đưa hương…

Hoa nở nhuỵ…

Mộng chứa chan…

Chuyển mùa sang…

Cách 29.- Bỏ 4 chữ đầu mỗi câu Bài Ngược, thành Thơ Tự Do 3 chữ :

Đón chào Xuân…

Tơ phím dâng…

Hòa điệu hát…

Gởi đàn ngân…

Vui trời đất…

Đẹp thế nhân…

Mơ ngọc chuốc…

Thoảng lâng lâng…!

Cách 30.- Cũng bỏ 4 chữ đầu như cách 29, nhưng đọc từ câu dưới lên :

Thoảng lâng lâng…

Mơ ngọc chuốc…

Đẹp thế nhân…

Vui trời đất…

Gởi đàn ngân…

Hoà điệu hát…

Tơ phím dâng…

Đón chào xuân…

Câu 31.- Đọc Bài Xuôi như thơ Tự Do, mỗi câu 2 hoặc 3 chữ :                     

Lâng lâng…

Thoảng gió…

Chuyển mùa sang…

Chuốc ngọc…

Mơ lòng…

Mộng chứa chan…

Nhân thế…

Đẹp hồng…

Hoa nở nhụy…

Đất trời…

Vui mát…

Liễu đưa hương…

Ngân đàn…

Gởi nhạc…

Hồn lưu luyến…

Hát điệu…

Hoà ca…

Tiếng mến thương…

Dâng phím…

Tơ ngà…

Mây sắc dịu…

Xuân chào…

Đón nắng…

Quyện tình vương…!

Câu 32.- Đọc Bài Ngược như thơ Tự Do, mỗi câu 2 hoặc 3 chữ :

Vương tình…

Quyện nắng…

Đón chào Xuân…

Dịu sắc…

Mây ngà…

Tơ phím dâng…

Thương mến…

Tiếng ca…

Hoà điệu hát…

Luyến lưu…

Hồn nhạc…

Gởi đàn ngân…

Hương đưa…

Liễu mát…

Vui trời đất…

Nhụy nở…

Hoa hồng…

Đẹp thế nhân…

Chan chứa…

Mộng lòng…

Mơ ngọc chuốc…

Sang mùa…

Chuyển gió…

Thoảng lâng lâng…

B.-DÙNG 56 CHỮ BÀI “MỘNG GỞI TÌNH VƯƠNG” SẮP XẾP LẠI THÀNH CÁC BÀI THƠ KHÁC CÓ TỰA NHƯ :

Bài  “Tứ Tuyệt 1” : Liễu Thắm Chào Xuân.

Xuân mơ liễu mát, nhụy đưa hương,

Lưu luyến đàn ngân, điệu mến thương.

Hoa nở đẹp hồng, mây nắng dịu,

Đất trời quyện đón, gió mùa sang.

000

Lòng thoảng mộng hồn, lâng lâng hát,

Vui chuyển nhạc chào, sắc chứa chan.

Dâng phím hòa tơ, ngà ngọc chuốc,

Tiếng ca nhân thế, gởi tình vương !

Bài  “Tứ Tuyệt 2” : Lòng Vui Đón Mộng.

Hồng đưa liễu mát, nhuỵ chào xuân.

Chuốc ngọc ngà tơ, gởi phím dâng.

Đất dịu mùa sang vui chuyển sắc,

Trời mây thoảng gió, nắng lâng lâng.

000

Mến thương hoa nở, tình hương quyện,

Chan chứa hồn vương, đẹp thế nhân.

Lưu luyến ca mơ, lòng đón mộng,

Hát hòa nhạc điệu, tiếng đàn ngân !

Bài  “Tứ Tuyệt 3” : Chuyển Điệu Đàn Ngân.

Liễu tơ hòa quyện, chuyển đàn ngân,

Nắng dịu chào mây, nở nhạc xuân.

Gió thoảng đưa hồn, vui điệu hát,

Tiếng ca thương mến đẹp lâng lâng.

000

Đất trời nhân thế, đón mùa sang,

Lưu luyến lòng hoa, sắc chứa chan.

Dâng phím ngọc ngà, mơ chuốc mộng,

Hồng hương mát nhụy, gởi tình vương !

Bài  “Tứ Tuyệt 4” :  Tình Gởi Thế Nhân.

Liễu hồng tơ chuyển, đón chào hương,

Gió thoảng đưa mây, sắc chứa chan.

Chuốc mộng quyện ngà, hoa nở nhụy,

Hát hòa ca dịu nắng mùa sang.

000

Đẹp mơ hồn nhạc tiếng lâng lâng,

Lưu luyến tình vương, gởi thế nhân.

Thương mến lòng xuân, dâng phím ngọc,

Đất trời vui mát, điệu đàn ngân !

Bài “Bát Cú 1” : Nhạc Lòng Lưu Luyến.

Chào xuân đẹp mát, chuyển mùa sang,

Mây thoảng lâng lâng, sắc chứa chan.

Trời đất dịu hòa, tơ gởi liễu,

Thế nhân vui đón, nhạc dâng hương,

Phím ngân điệu hát đàn lưu luyến.

Nắng quyện tình ca, tiếng mến thương,

Mơ chuốc lòng hoa hồng nở nhụy,

Gió đưa ngà ngọc mộng hồn vương !

Bài “Bát Cú 2” : Mộng Tình Xuân Quyện.                                                                   

Sang mùa nắng dịu, thoảng lâng lâng,

Mơ hát lòng vương, tiếng nhạc ngân.

Thương mến tơ ngà, hương sắc gởi.

Chứa chan hồn ngọc, điệu đàn dâng.

Mát hoa nhuỵ nở, vui trời đất.

Chuốc phím tình ca, đẹp thế nhân.

Gió chuyển chào mây, đưa đón liễu,

Luyến lưu hồng mộng quyện hòa xuân !

Bài  “Bát Cú 3” : Mơ Nắng Chứa Chan.                                                                 

Mây ngà mát dịu, chuyển mùa sang,

Xuân nắng hồng mơ, sắc chứa chan.

Nhân thế vui tình, hoa nở nhụy,

Đất trời đẹp tiếng nhạc đưa hương.

Đàn ngân phím ngọc, dâng lưu luyến,

Gió thoảng lòng tơ, quyện mến thương.

Mộng chuốc lâng lâng, chào đón liễu,

Hòa ca điệu hát, gởi hồn vương !

Bài  “Bát Cú 4” : Gió Quyện Mùa Sang.

Sang mùa gió thoảng, quyện lâng lâng,

Thương mến ngọc ngà phím mộng xuân.

Hồn chuốc tình ca, hương sắc nở,

Tơ chào điệu nhạc, nhụy hoa dâng.

Chứa chan nắng gởi vui trời đất.

Lưu luyến lòng mơ đẹp thế nhân.

Mát dịu mây hồng vương đón liễu,

Chuyển đàn, đưa tiếng hát hòa ngân !

Bài  “Song Thất Lục Bát 1” : Ngân Ca Tiếng Hát.

Gió lâng lâng, đón mây đẹp mát,

Sắc chứa chan, tiếng hát ca ngân.

Đất trời hương nở thoảng dâng,

Lòng xuân nắng dịu, thế nhân vui hòa.

000

Hồn ngọc chuốc, nhụy hoa hồng quyện,

Chuyển tình vương, lưu luyến ngà tơ,

Liễu mơ chào nhạc điệu đưa,

Phím đàn gởi mộng, sang mùa mến thương !

Bài  “Song Thất Lục Bát 2” : Luyến Lưu Điệu Nhạc.

Gió chào xuân, nắng ngà mây quyện,

Đàn mơ ngân, lưu luyến tình ca.

Đón mùa liễu chuốc sắc hoa,

Đất trời vui chuyển, dịu hòa thế nhân.

000

Tiếng mến thương, lâng lâng điệu hát,

Ngọc phím dâng, gởi nhạc đưa sang.

Nhụy hồng thoảng nở mát hương,

Chứa chan mộng đẹp, hồn vương tơ lòng !

Bài “Lục Bát 1” : Xuân Đẹp Chứa Chan.

Liễu chào xuân đẹp nắng hồng,

Thế nhân vui đón, vương lòng hát đưa,

Luyến lưu sắc dịu mùa tơ,

Chứa chan chuốc gởi, hồn mơ điệu đàn.

Đất trời mát nhụy dâng hương,

Mây ngà phím ngọc, mến thương nhạc hòa.

Lâng lâng thoảng tiếng ngân ca,

Chuyển sang quyện gió, nở hoa mộng tình !

Bài  “Lục Bát 2” : Đất Trời Thương Mến.

Đất trời nở nhụy mến thương,

Sắc mây dịu nắng, gởi hương quyện đàn.

Phím chào nhạc điệu chứa chan,

Lâng lâng thoảng gió, thế nhân vui hòa.

Đón đưa lưu luyến mùa hoa,

Lòng mơ chuốc ngọc, xuân ngà chuyển dâng.

Liễu tơ hồng mộng đẹp sang

Ngân ca tiếng hát, hồn vương mát tình !

Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân

        (Cám ơn đã đọc hết bài)