"Người Kinh- Người trại". Người Kinh
từ đâu ra?
---------------
K. W. Taylor ghi lại nhận xét lạnh lùng trong
tác phẩm “A History of the Vietnamese”, Một quyển sử về người Việt Nam, như
sau:
Cư dân
đồng bằng sông Hồng có xu hướng ủng hộ chính quyền nhà Minh. Người vùng thấp ở
các phủ Thanh Hóa, Nghệ An phía nam nói chung cũng hưởng ứng chính quyền này.
Tuy nhiên, đặc tính dân cư vùng chân núi và cao nguyên các phủ miền nam là đề
kháng sự cai trị bởi Minh triều. Nói cách khác, theo sự phân biệt đầu tiên được
tường trình dưới thời Trần, nhiều người Kinh cảm thấy có giá trị khi họ là một
phần của vương quốc phương bắc, riêng người Trại thì không. Vì thế, vào thập
niên 1420, sau khi Chu Đệ băng hà, hoạt động kháng Minh tích cực trong nhóm
người Trại tại các phủ phía nam phát triển nhanh chóng nhất, đặc biệt nơi các
thung lũng thấp thuộc vùng ven núi nam sông Hồng và vùng phía tây bình nguyên
duyên hải. Thời Trần, thuật ngữ Kinh – Trại biểu trưng hai xu hướng khác nhau
trong lĩnh vực thực hành văn hóa và ngôn ngữ, điểm khác nhau mà thời hiện đại
cảm nhận như sự khác biệt giữa người Việt và các nhóm người mệnh danh Mường.
(7)
Theo
Toàn Thư, sự phân biệt khu vực “trại” với các xứ khác đầu tiên xuất hiện vào
năm 1010, ngay sau khi Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long. Nguyên văn Toàn Thư : “改十道為二十四路愛州驩州為寨 cải thập đạo vi nhị thập tứ lộ ái châu hoan châu vi trại”,
Đổi 10 đạo thành 24 lộ, hai châu Hoan Ái thành trại. Như vậy, Hoan-Ái được xem
như khu vực quân sự ngoài biên. Dân Hoan Ái không phải Man Lão, cũng không phải
người sống ở “kinh” hay ở các “lộ” đồng bằng. Các thủ lĩnh theo truyền thống
Lạc như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn chưa bao giờ có quan điểm tương tự.
Qua “Chiếu dời đô”, người “kinh” đầu tiên Lý Công Uẩn, vốn quê Phúc Kiến, xác
định giá trị của Ngài cũng là của triều đại mới, ở việc thừa kế truyền thống
cai trị Hoa Hạ. Ngài mạnh dạn biến triều đình Mân-Việt của mình thành trung tâm
đồng thời ngoại vi hóa thế lực giàu tính bản địa. (8)
Việc hủy
bỏ tên gọi “đạo” thực tế xuất hiện từ triều đại trước. Năm 1002, Lê Hoàn đã có
lệnh đổi mười đạo làm lộ, phủ, châu. Vua Lê dù dùng nhiều người Hán hay gốc Hán
trong bộ máy đồng thời chú tâm khai thác trung châu nhưng không có khái niệm
kinh-trại. Dường như công việc cải tổ hệ thống hành chánh bị dang dở nên Lý
Thái tổ phải tái thực hiện, tiện thể hạ thấp vai trò tiền triều bằng cách xếp
loại quê quán và cộng đồng người của vua cũ vào diện “trại”.
Như vậy,
những người sinh sống ở kinh thành mới và khu vực quanh đó có căn cước như thế
nào?
Năm 866,
sau khi đánh bại Nam Chiếu và chiếm lại Đại La, Cao Biền xây thành mới đồng
thời làm 40 vạn căn nhà. (9) Dễ suy đoán số nhà cửa lớn lao được xây dựng dành
cho người Hán hay trung thành với Hán đã bị xiêu tán trong 10 năm chiến tranh
với Nam Chiếu. Cao Biền chủ ý lập khu dân cư quanh phủ thành như một hàng rào
bảo vệ từ xa. Vành đai dân cư ủng hộ chính quyền phương Bắc phát huy tác dụng
khi Dương Đình Nghệ, thủ lĩnh quê Ái châu, chủ quan đóng quân trong thành sau
khi đuổi Thứ sử Lý Tiến về xứ. Ông dễ dàng bị Kiều Công Tiễn, người ngưỡng mộ
Nam Hán, tiếp cận và sát hại trước sự bất lực của bộ thuộc (937). Đó là chưa kể
đến Khúc Thừa Mỹ, bị Nam Hán đánh bắt năm 930 mà sử ký không ghi nhận dân sở
tại có phản ứng gì.
Ai đã
đến cư trú trong các căn nhà do Cao Biền dựng lên? Trong trận quyết chiến giữa
Đường và Nam Chiếu tại phủ Đô hộ vào năm 863, các tướng Đường như Sái Tập,
Nguyên Duy Đức chống trả kịch liệt đến mức toàn thể gia đình, bộ thuộc đều
chết. Nam Chiếu lần thứ hai chiếm phủ thành. Qua hai lần thành công, họ vừa bắt
vừa giết gần 150.000 người. Với số lượng nạn nhân như vậy, dễ hiểu là không còn
đủ nông dân để canh tác. Năm 865, Cao Biền tiến quân sang An Nam bắt gặp 50.000
người Man đang thu hoạch lúa trên vùng nay thuộc Bắc Ninh. Rõ ràng, Nam Chiếu
có kế hoạch định cư lâu dài tại An Nam nên tiến hành tàn sát quy mô lớn để thay
đổi thành phần dân cư. (10) Ruộng đất cung cấp lương thực cho phủ Đô hộ đã có
chủ mới. Họ Cao đánh giết những người gặt lúa, phá tan viện binh rồi tiến chiếm
châu trị. Riêng trận phá thành, Biền tiêu diệt 30.000 quân Man, sau đó bắt
17.000 thổ dân ủng hộ Nam Chiếu. Qua mười năm chiến loạn, tổn thất sinh mạng
quân dân cả hai bên đều lớn. Như thế, có thể đoán rằng Cao Biền phải mời gọi
không chỉ dân phủ Đô hộ cũ vốn đã bị tiêu hao nặng nề, mà còn gồm cả người
Đường mới đến cư trú quanh châu thành. Quan hệ giữa nhóm “tân dân” với các
triều đình phương Bắc đương nhiên bền chặt hơn quan hệ của nhóm “cựu dân” đã An
Nam hóa ít nhiều.
Năm 939,
Ngô Quyền rút kinh nghiệm Đình Nghệ, lập triều đình bên ngoài vùng đất thù địch
Đại La. Việc định đô tại Cổ Loa cho thấy quê Đường Lâm của họ Ngô không thuộc
Giao châu. Ông là vị đầu lĩnh gốc Phúc Lộc châu thống trị một vùng đang nghiêng
ngửa giữa thế lực bản địa Hoan Ái và thế lực mang bóng dáng chủ cũ từ Hưng
Vương Phủ. Vương quốc mới ra đời có vẻ là tập hợp nhiều lãnh thổ tự trị nhỏ hơn
là một thể chế có hệ thống hành chánh đến từng địa phương. Sử cũ không thể hiện
hành động phân bổ quan lại nào của Ngài. Có thể Ngô vương dựa vào đạo quân mạnh
của mình để áp đặt phú thuế, sưu dịch lên các lãnh chúa tự quản sau này trở
thành các sứ quân. Khi Dương Tam Kha vận hành chính quyền trung ương, ông muốn
bắt Xương Ngập tại lãnh địa Trà Hương (nay thuộc Hải Dương) của Phạm Lệnh công
nhưng ba lần đều thất bại. Sự việc cho thấy quyền lực Cổ Loa vô cùng giới hạn,
đặc biệt đối với vùng duyên hải là vùng mà Xương Ngập cảm thấy an toàn khi ẩn
nấp.
Theo
thần phả thần tích còn lưu hành đến nay, hơn phân nửa số thổ hào khu vực trung
du và đồng bằng sông Hồng là người gốc Hán vào thời 12 sứ quân. Các vị hào
trưởng đó gồm: Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu, Đỗ Cảnh Thạc và Trần
Lãm. (11) (không kể thủ lĩnh chiếm cứ miền núi Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí,
Kiều Thuận). Họ chính là nhóm người kiểm soát nguồn hàng hóa từ đầu nguồn theo
sông Hồng, sông Thái Bình xuống cửa biển phục vụ hệ thống hải thương nhộn nhịp
đương thời. Dưới quyền sứ quân đa số là thổ dân ở nhiều mức độ phát triển khác
nhau, vẫn còn các cộng đồng hoang dã khiến Toàn thư nhắc đến họ bằng danh xưng
“bộ lạc” khi Đinh Bộ Lĩnh bình định Đỗ Động giang (năm 967). Thời điểm đó, dân
cư phía đông nam và nam sông Hồng hẳn rất thưa thớt vì người Lạc cổ chủ yếu
sống dựa theo đồi gò ven chân núi và việc canh tác đất thấp trũng chưa thuận
lợi do hệ thống đê chưa hình thành.
Đinh Bộ
Lĩnh dẹp 12 sứ quân, vẫn tránh định đô tại Đại La hay tại một địa điểm thuộc
đồng bằng sông Hồng. Có thể nơi này dân cư vẫn chưa hồi phục đông đúc như
trước, cũng có thể vua Đinh cảm thấy đó chẳng phải là không gian thân thiện.
Uy vũ
của Tiên Hoàng tuy áp đảo các lãnh chúa nhưng khi Ngài băng, chưa chắc người
con nào đó đương nhiên kế vị. Xét kỹ lá thư do Lê Hoàn giả danh Đinh Toàn gửi
hoàng đế Tống, chúng ta thấy rõ điều kiện cần và đủ để được làm vua Đại Cồ
Việt.
“Nhà
thần sắp sụp đổ, chưa bỏ áo tang thì quân dân tuớng lại trong hạt, nguời già
lão ở núi rừng cùng đến chỗ nằm rơm gối đất của thần, bảo thần tạm giữ việc
quân lữ. Thần cố từ ba bốn lần, nhưng bọn họ thỉnh cầu nài ép càng khẩn thiết.
Thần muốn đợi tâu bày, nhưng lại lo chậm trễ; nguời núi rừng hung ác, dân khe
động tráo trở, nếu không chiều ý họ, sợ có khi tai biến xảy ra.” (Toàn Thư I,
223-224)[4]
Có hai
nhân tố chính tác động đến việc lên ngôi của vua mới, một là “quản nội quân dân
tướng lại 管内軍民將吏”, quân dân tướng
lại trong hạt, hai là “phiên duệ kỳ điệt 番裔耆耊”, người già lão nơi biên viễn. Đứng đầu Hoa Lư thì chỉ cần sự ủng hộ của
quân dân tướng lại, tức những người trực thuộc hệ thống hành chánh của tiểu
vương quốc trung tâm, nhưng muốn làm vua Đại Cồ Việt thì phải thêm điều kiện đủ
là sự đồng thuận của các thủ lĩnh bên ngoài khu vực đô thành. Tiếng nói của
những tù trưởng nơi núi non 山,
đồng ruộng 野, hang động 洞 và ao ngòi 壑
đủ mạnh để chủ động Hoa Lư phải cân nhắc hết sức nếu muốn làm điều gì trái ý
họ. Đặc tính “hung ác”, “tráo trở”, sẵn sàng ép uổng cả nhà vua cho thấy họ là
những chúa đất có tiềm lực quân sự. Điểm này khiến ta liên tưởng đến nhận xét
của Tomé Pires vào đầu thế kỷ 16 về hòn đảo nay thuộc Philippines, Pires thấy
Lữ Tống được quản lý bởi một nhóm trưởng lão chứ không có quốc vương. Tổ chức
chính trị Đại Cồ Việt, dưới ảnh hưởng trung nguyên, chỉ vừa vượt qua giai đoạn
thô sơ này và còn quãng đường rất xa mới đạt đến kiểu cấu trúc phong kiến tập
quyền. Cách trình bày với vua Tống của Lê Hoàn cũng thật khéo, bằng cách nhấn
mạnh ảnh hưởng của cừ súy địa phương trong việc suy tôn vua mới, Ngài đã hạn
chế tác động từ hoàng đế Trung Hoa lên qui trình truyền ngôi tại nước Nam. Thời
Đinh, có vẻ cộng đồng người tại trung lưu sông Hồng chưa đóng vai trò chính trị
đáng kể nên không được đề cập riêng.
Người
Quảng hay Mân đến Giao châu sinh sống là điều rất bình thường vào thế kỷ X. Vị
vua thừa kế nhà Đinh là Lê Hoàn từng nói với sứ Tống Lý Nhược Chuyết rằng
(996): “Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biển ở ngoài, Hoàng đế có biết
đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu
tiên đánh vào Phiên Ngung, thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ dừng ở trấn Như Hồng
mà thôi? ” (Toàn Thư II, 234).[5] Câu nói ít nhiều phản ánh sự luân chuyển con
người, ý tưởng và hàng hóa giữa ba xứ tham gia buôn bán trên biển Đông, đồng
thời cho thấy vua Lê có kiến thức nhất định về hoạt động phồn thịnh này.
Từ năm
991 đến năm 995, Toàn Thư ghi nhận Lê Đại Hành phân phong 8 trong số 9 hoàng tử
về địa bàn châu thổ sông Hồng, đặc biệt ở vùng nay là Hưng yên, Hải phòng. Hành
động đó cho thấy khu vực đồng bằng có sự phục hồi về dân số và kinh tế nên vấn
đề an ninh hay thu thuế trở nên quan trọng hơn trước. Quan tâm tột độ của Lê
Hoàn đối với trung nguyên hé lộ sự tái hình thành có thể vượt tầm kiểm soát của
một cực chính trị khác đủ khả năng đương đầu với Hoa Lư.
Lý Thái
tổ dời đô về Đại La, trong bản chất, là sự quay về không gian văn hóa của chính
mình, (12) tránh xa phản ứng bất trắc của tập hợp bản xứ rất mạnh từ Hoan Ái.
Cộng đồng “kinh” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt chính là gia tộc Lý và
nhóm công khanh người Mân, có thể cả Quảng, cùng gia đình họ. Vây quanh là lớp
thổ hào quen thuộc với lối sống và cách cai trị kiểu Trung Hoa, họ có mối quan
hệ thương mại cả bằng đường bộ lẫn đường biển với phía Bắc từ trước. Thổ hào
không chỉ là người địa phương mà còn có thể là người Hoa bản địa hóa hay người
lai. Nền tảng của cộng đồng “kinh” là thần dân cũ của đế quốc Đường tập trung ở
trung lưu sông Hồng, họ từng sống bên trong hệ thống hành chánh phủ Đô hộ hàng
trăm năm.
Số lượng
ít ỏi của tầng lớp ưu tú thuần gốc Bắc có thể được phát hiện qua ghi nhận thú
vị sau đây trong Toàn Thư vào năm 1042:
Tháng 9,
nhuận, xuống chiếu kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ lẽ người ta, người
chủ đánh chết, ngay lúc bấy giờ thì không bị tội (Toàn Thư I, 277)[6]
Thông
tin này tiết lộ nhiều điểm lạ so với quan niệm ngày nay:
– Đương
thời, việc đàn ông con trai ban đêm lẻn vào nhà người khác để quan hệ tình dục
với vợ gia chủ rất phổ biến, đến nỗi nhà vua phải ban chiếu chấn chỉnh.
– Hai kẻ
vụng trộm dan díu nhau ngay trong nhà chủ nhân. Nghĩa là người phụ nữ tán đồng
việc này đồng thời không cho đó là tội lỗi.
– Sự
việc rất bình thường với đa số dân chúng vì hai kẻ có thể mệnh danh “gian phu
dâm phụ” dưới mắt Nho giáo không bị kết án bởi dư luận. Triều đình cũng thoái
thác phân xử, nhường quyền quyết định cho ông chồng bất hạnh.
– Gia
chủ có quyền đánh chết kẻ trộm tình nhưng chỉ ngay tại chỗ. Nếu đương sự thoát
ra khỏi nhà, phép vua khắc nghiệt sẽ mất hiệu lực.
Chiếu
chỉ rõ ràng bênh vực nhà quyền quý hay giàu có người gốc Hán. Họ đủ điều kiện
lấy nhiều vợ nhưng do khó mang theo phụ nữ trên hải trình nguy hiểm nên phải
kết hôn với người địa phương. Các bà vợ vẫn duy trì hành vi nay chúng ta còn
thấy ở vài dân tộc ít người vùng cao, ví dụ như tập quán “coong trình” của tộc
Dao đỏ (13). Với dân lưu vong mới đến Giao Chỉ một hai đời, hoạt động kiểu
“coong trình” thật khó chấp nhận.
Mặt
khác, chiếu chỉ khéo léo tránh va chạm phong tục địa phương vì triều đình chẳng
tỏ ý bắt tội ai, cũng chẳng phán xét gì, chỉ cho ông chồng khoảng thời gian và
không gian rất hẹp để tự xử lý. Đối tượng xử lý lại không phải là người đàn bà.
Dường như thời điểm đó, phụ nữ có quyền làm như thế vì theo quan niệm bản thổ,
người chồng chưa có vai trò độc tôn. Cũng có thể những phu nhân “phóng đãng”
xuất thân từ các gia tộc hào sĩ địa phương mà sự thuận thảo của họ rất quan
trọng đối với chính quyền Thăng Long.
Luật
pháp mềm dẻo không triệt tiêu tập tục bản địa vốn được tôn trọng bởi khối người
áp đảo, ngược lại, sau nhiều thế hệ định cư, người gốc Bắc lại có hành vi như
thổ dân. Nạn nhân nổi tiếng của chiếu chỉ là Thái Úy Quan nội hầu Tô Trung Từ
đời Lý Huệ tông. Tô Trung Từ thuộc nhóm liên minh với họ Trần ở Hải ấp, ông là
cậu của Trần Tự Khánh, chú vua Trần Thái tông. Năm 1211, do vào nhà công chúa
Thiên Cực lúc đêm tối để tư thông, họ Tô bị chồng công chúa đánh chết. (14)
Nhóm dân
“sống ở kinh đô” đầu thời Lý là một sắc tộc mới đang tượng hình, khác biệt với
các cộng đồng chung quanh, chiếm thiểu số so với tổng dân số trên vùng lãnh thổ
nay là bắc bộ và bắc trung bộ. Họ bắt đầu sử dụng ngôn ngữ khác, dần hoàn chỉnh
trong triều đình Lý vốn chủ đạo bởi vua quan nói tiếng Mân hoặc một thứ tiếng
Hoa miền biển. Tiếng nói mới hẳn chịu tác động mạnh mẽ bởi tiếng nói của lớp
lãnh đạo tại chỗ vốn bắt đầu ngừng sử dụng tiếng Hoa sau khi Ngô Quyền từ chối
các Tiết độ sứ phương Bắc. Sự lan tỏa của ngôn ngữ này kèm theo văn hóa hỗn tạp
nhưng tiên tiến đã chuyển hóa nhóm người bản địa hợp tác với ngoại tộc thành
người “kinh”, đồng thời biến dân số bất khuất còn lại thành “dị tính”, “trại”
hay tệ hơn, thành “mường mán”.
Sự khác
biệt giữa dân ở “kinh” với dân “trại” có thể được phát hiện qua lịch sử chinh
chiến của hai đời vua đầu triều Lý.
– Năm
1011: đem sáu quân đánh man Cử Long ở Ái châu (thuộc Thanh Hóa nay).
– Năm
1012: vua thân đi đánh Diễn châu (thuộc Nghệ An nay) vì người ở đấy không theo
giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân…Cuối năm này, bắt người Man và
hơn 10.000 con ngựa tại châu Vị Long (thuộc Tuyên Quang nay)
– Năm
1013: vua thân đi đánh châu Vị Long do dân châu hùa theo người Man làm phản.
Thủ lĩnh Hà Án Tuấn cùng bộ thuộc trốn vào rừng núi.
– Năm
1014: Dực Thánh vương chống người Man xâm nhập ở châu Bình Lâm (thuộc Tuyên
Quang nay), chém hàng vạn người.
– Năm
1015: Vũ Đức vương và Dực Thánh vương đánh người Man ở Vị Long, Đô Kim, Thường
Tân, Bình Nguyên (thuộc Tuyên Quang nay); bắt được Hà Án Tuấn, chém bêu đầu ở
chợ.
– Năm
1020: Khai Thiên vương và Đào Thạc Phụ đánh Chiêm ở trại Bố Chính, chém tướng
giặc Bố Linh tại núi Long Tỵ (nay thuộc Quảng Bình).
– Năm
1022: Dực Thánh vương đánh Đại Nguyên Lịch, thâm nhập trấn Như Hồng thuộc Tống.
– Năm
1024: Khai Thiên vương đánh Phong Châu, Khai Quốc vương đánh châu Đô Kim.
– Năm
1025: lập trại Định Phiên ở phía nam Hoan Châu (khoảng Hà Tĩnh nay)
– Năm
1026: Khai Thiên vương đánh giặc ở Diễn Châu.
– Năm
1027: Khai Thiên vương đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh vương đánh châu Văn
(nay thuộc Lạng Sơn).
– Năm
1028: vua mới Thái tông đánh phủ Trường Yên (Ninh Bình nay) do Khai Quốc Vương
trấn trị làm phản.
– Năm
1029: đánh giáp Đãn Nãi ở châu Ái.
– Năm
1031: vua thân đi đánh châu Hoan.
– Năm
1033: vua thân đi đánh châu Định Nguyên, sau đó là châu Trệ Nguyên.
– Năm
1035: vua thân đi đánh châu Ái.
– Năm
1036: đặt hành dinh ở châu Hoan, đổi tên thành châu Nghệ An.
– Năm
1037: vua đánh đạo Lâm Tây, Khai Hoàng vương đánh Đô Kim, Thường Tân, Bình
Nguyên. Dựng hơn 50 kho tàng thuộc Nghệ An.
– Năm
1039: vua đi đánh Nùng Tồn Phúc.
– Năm
1041: cho Uy Minh hầu Nhật Quang làm Tri châu Nghệ An. Đánh bắt được Nùng Trí
Cao.
– Năm
1042: Khai Hoàng vương đánh châu Văn.
– Năm
1043: Khai Hoàng vương đánh châu Ái, Phụng Càn vương đánh châu Văn. Đào Xử
Trung dẹp giặc biển Chiêm Thành.
– Năm
1044: vua thân chinh Chiêm Thành, chém vua Chiêm Sạ Đẩu tại trận. Trên đường
về, Vua ban tiết việt và gia tước vương cho Trấn thủ Nghệ An Nhật Quang.
– Năm
1048: Phùng Trí Năng đánh Ai Lao, Quách Thịnh Dật đánh động Vật Ác của Nùng Trí
Cao.
– Năm
1050: dẹp loạn ở Vật Dương.
– Năm
1051: Thánh tông lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Việt.
Ngoài ba
lần đối phó Chiêm Thành, đối tượng của các cuộc chinh phạt từ năm 1010 đến 1052
là các bộ tộc nói tiếng Tai-Kadai phía Bắc và người trại phía Nam. Riêng vùng
đồng bằng rất yên ả. Bản chất chiến tranh phía Bắc và phía Nam khác nhau. Nhà
Lý buộc phải ngăn chặn sự xâm nhập của “người lạ” từ phương Bắc. Đối với phương
Nam, nhiều khả năng chiến tranh mang tính chất trừng phạt việc từ chối nộp cống
thuế. Dưới triều trước, thủ lĩnh Hoan Ái còn định thần phục vua Chiêm thay vì
vua tiền Lê. Đến triều Trần, khi Thăng Long suy yếu, Toàn Thư ghi chép rõ dân
Tân Bình Thuận Hóa ủng hộ quân Chiêm, dân Nghệ An thì ăn ở hai lòng. Dường như
dân trại chọn ngả theo vị vua thu thuế nhẹ hơn và gần gũi hơn về mặt văn hóa.
Triều
đình Lý cũng không hoàn toàn yên tâm với các xứ đang an bình. Năm 1043, khi Lý
Thái Tông hỏi ý các quan về cách đối xử với Chiêm Thành vì xứ này đã 16 năm
không tiến cống thì được tâu trình như sau: “Bọn thần cho rằng đó là vì đức của
bệ hạ tuy có đến nhưng uy thì chưa rộng. Sao thế? Vì từ khi bệ hạ lên ngôi đến
giờ, họ trái mệnh không đến chầu, bệ hạ chỉ ban ơn đức để vỗ về, chưa từng ra
oai dùng võ để đánh phạt. Bọn thần e rằng các chư hầu khác họ trong nước đều như
Chiêm Thành cả, há chỉ riêng người Chiêm mà thôi đâu”. (Toàn Thư I, 279)[7]
Nghĩa là
hệ thống cai trị trên toàn vương quốc của nhà Lý vẫn chưa mang tính tập quyền.
Bên ngoài bộ máy trực trị vẫn tồn tại các chư hầu cùng họ và khác họ. Việc nộp
phú thuế như thế nào từ các khu tự trị hoàn toàn tùy thuộc vào sức mạnh của tập
đoàn trung ương. Cuộc xâm lược thành công Chiêm Thành năm 1044 dĩ nhiên đã ngăn
ngừa hiệu quả manh động có thể có từ các chư hầu. Nhưng vì sao quan tướng nhà
Lý đặt “hải nội dị tính chư hầu 海内異姓諸侯”, chư hầu khác họ trong nước, ngang với Chiêm Thành? Phải
chăng văn hóa Đại Việt thời điểm đó do mới hình thành chỉ lan tỏa quanh Thăng
Long và phủ Thiên Đức? Còn nhiều vùng ngay trong châu thổ vẫn theo truyền thống
Đông Nam Á, được điều hành bởi các hào trưởng tự lập? Thời trung đại, “dị tính”
có nghĩa gần như tương đương với “tộc người khác.”
Dân
“kinh” thời Lý không thể đông hơn các cộng đồng mệnh danh “trại” hay “mường
mán”. Họ chỉ là nhóm dân có văn hóa đặc thù, không là Hán nhưng đủ khác với cư
dân xung quanh để chiến tranh bùng phát dai dẳng. Sự áp đảo về quân sự của
triều đình trên các nhóm người ngoài vùng hạt nhân là sự áp đảo của một xã hội
có tính tổ chức lên các cộng đồng riêng lẻ chưa có cơ cấu liên kết nhau sâu
sắc. Tuy nhiên, có thể thấy chỉ đến đời thứ hai nhà Lý, triều đình đã cử Nhật
Quang cai trị Nghệ An bên cạnh các thổ hào. Riêng châu Ái, nhà vua còn cử Khai
Hoàng vương đánh dẹp vào năm 1043, nhưng đến năm 1105 khi Lý Thường Kiệt qua
đời, đã thấy sử ghi việc Kiệt được Thánh tông phong chức Thái Bảo kèm tiết việt
để thăm hỏi “lại dân” ở Thanh Hóa, Nghệ An. Như vậy, tầng lớp ưu tú nhà Lý bản
địa hóa rất nhanh và các địa phương miền nam cũng mau chóng hòa hợp với trung
châu. Trong vòng 100 năm, phân chia kinh-trại đã nhòa nhạt. Các trại, hay châu,
Hoan và Ái đã trở các phủ Nghệ An và Thanh Hóa.
Tuy vậy,
khi văn hóa miền biển lấn ngược chiều sông Cái, các nhà lãnh đạo duyên hải dù
cảm thấy gần gũi với quý tộc trung lưu sông Hồng, lại thấy mình khác với người
Thanh Nghệ. Điều này dễ hiểu, vì vùng duyên hải dưới quan sát của các tác giả
Trung Hoa, thổ dân chỉ chiếm một nửa nhân khẩu. Năm 1256, nhân kỳ thi nho học,
vua Trần chia làm Kinh Trạng nguyên và Trại Trạng nguyên, Kinh Thái học sinh và
Trại Thái học sinh. Tống nho đã thâm nhập đồng bằng sớm sủa hơn khu vực phía
nam nhiều. Chính nhà Trần dung nạp di thần Tống để kháng cự Mông Cổ xa lạ đến
từ thảo nguyên. Liên kết chặt chẽ với Hoa tộc cả về quân sự lẫn văn hóa khoét
sâu sự ngăn cách giữa tầng lớp thượng lưu Mân-Hán và đa số bình dân địa phương,
khoảng cách tưởng đã phai nhạt vào cuối đời Lý. Thời bình, vấn đề giữa các tộc
người có thể là thứ yếu nhưng trước đe dọa đòi hỏi huy động tổng lực của vương
quốc, ủng hộ từ đa số bị trị trở thành yếu tố quyết định sự tồn vong của triều
đại. Tính chất mong manh của một vương triều ngoại tộc được vua Trần hóa giải
bằng hai hành động vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Đại Việt: đuổi cá sấu trên
sông Lô và họp hội nghị tại thềm điện Diên Hồng.
Về việc
nhà vua sai Nguyễn Thuyên đuổi cá sấu, chúng ta dễ hào hứng với thông tin gợi
mở rằng Thuyên viết bài văn bằng quốc ngữ, tức chữ Nôm, nên thường hiểu sai về
mục đích của thao tác này. Nhằm tìm hiểu động cơ của triều đình, phải đặt sự
kiện vào trong dòng chảy căng thẳng của thế cuộc đương thời:
– Mùa
đông năm 1278, Trần Thái tông băng. Nguyên đế sai Sài Xuân sang sứ dụ vua vào
chầu. Vua cự tuyệt. Sứ giả Đại Việt sang Nguyên bị bắt giữ.
– Năm
1279, người Nguyên đánh trận quyết định với nhà Tống ở Nhai Sơn, quan quân Tống
gồm cả hoàng gia chết đuối hơn 100.000 người.
– Năm
1280, xét duyệt sổ đinh và các sắc dịch. Trịnh Giác Mật ở Đà Giang làm phản,
Trần Nhật Duật thu phục được.
– Năm
1281, nhà Nguyên phong chức tước cho vài người thuộc sứ đoàn nhà Trần, cử Sài
Xuân sang Đại Việt hành xử khiêu khích.
– Năm
1282, Lạng Châu báo tin Toa Đô chuẩn bị 50 vạn quân mượn đường nước ta đi đánh
Chiêm Thành. Lúc ấy, có cá sấu đến sông Lô, vua sai Hình bộ Thượng thư Nguyễn
Thuyên làm bài văn ném xuống sông để xua đuổi. Mùa đông, vua họp vương hầu và
trăm quan tại Bình Than, cử Trần Khánh Dư làm Phó Đô tướng quân. Lấy Thái úy
Trần Quang Khải làm Thượng tướng thái sư.
– Năm
1283, mùa thu, sứ giả Đại Việt thu được thông tin về đạo quân 50 vạn sắp vào
cướp. Mùa đông, vua thân chỉ huy tập trận thủy bộ, cử Trần Hưng Đạo làm Quốc công
Tiết Chế, bổ nhiệm nhiều tướng hiệu có năng lực.
– Năm
1284, mùa thu, Hưng Đạo vương duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, bố trí phòng thủ
các điểm xung yếu. Mùa đông, vua sai Trần Phủ sang Nguyên xin hoãn binh. Trần
Phủ báo tin Thoát Hoan sẽ tấn công với lý do mượn đường đánh Chiêm Thành.
Thượng hoàng triệu tập bô lão ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi ý kiến. Tất
cả đều quyết chiến. Chỉ vài ngày trước Tết Nguyên đán, Mông Cổ vi phạm biên
cảnh.
Trước
Nguyễn Thuyên (1229 – ?), Hàn Dũ (768 – 824) từng làm việc tương tự khi bị biếm
truất làm thứ sử Triều Châu, miền đất đương thời hãy còn là biên địa của đế
quốc Đường. Họ Hàn vốn mộ Nho bài Phật, khổ nỗi, dân địa phương chắc chẳng “mộ”
cũng chẳng “bài” cả hai. Để thu phục tập đoàn mông muội đa thần giáo, Hàn Dũ đã
tạo nên sự kiện đuổi cá sấu bằng “Ngạc ngư văn”, qua đó, ông hành xử như một
thầy mo bản thổ. Liam C. Kelley nhận xét rằng hành động của Hàn Dũ là thủ thuật
cai trị phổ biến trong nhiều nền văn hóa khác nhau.
Toàn Thư
không nói rõ Nguyễn Thuyên làm bài văn bằng thứ chữ gì, nhưng ngay sau lời kể
vua ban họ Hàn cho ông, tác giả sử ký xác nhận Thuyên giỏi làm thơ phú quốc
ngữ. Như vậy, có thể đoán rằng ông làm bài văn bằng chữ Nôm, đọc cho cá sấu
nghe bằng loại tiếng Việt mà dân quanh vùng sông Lô nghe, hiểu được. Ở đây, vị
vua gốc Phúc Kiến đã đóng vai “thầy mo” của các bộ tộc Lạc để dễ dàng huy động
họ trong cuộc đại chiến sắp xảy ra. Vị phù thủy này vô cùng tế nhị vì đã không
buộc cá sấu hay dân địa phương phải nghe tiếng nước ngoài. (15)
Hội nghị
Diên Hồng mang dấu ấn cơ cấu Kuriltai của người Mông Cổ, chủ nhân trung nguyên
lúc bấy giờ. Hội nghị trưởng lão tương tự vẫn thấy ở Afghanistan ngày nay dưới
danh xưng Loya Jirga. Riêng Đại Việt, nơi hệ thống hành chánh phát triển hơn
trên địa bàn chật hẹp, vua có thể trao đổi với lãnh đạo các phủ lộ để nắm tình
hình địa phương nhưng vẫn triệu họp phụ lão, điều đó chứng tỏ hệ thống chính
quyền không chặt chịa bao trùm toàn vương quốc. Nhiều khu vực vẫn tự chủ ở các
mức độ khác nhau nên vua chỉ có thể trao đổi với thủ lĩnh địa phương thông qua
cuộc họp này.
Hội nghị
Bình Than dành cho tập đoàn cầm quyền bao gồm vương hầu người gốc Mân và trăm
quan Hán hóa cao độ gắn kết với hoàng gia. Hành động đuổi cá sấu hay họp phụ
lão là những nỗ lực tác động đến mọi ngóc ngách của khối dân bản địa. Hai thao
tác chuẩn bị chiến tranh này cho thấy người Việt gốc vẫn chiếm đa số áp đảo mặc
dù nhân số đồng bằng đã được bổ sung đáng kể bởi người Mân Quảng kinh dinh ven
biển hoặc bởi di dân Tống.
Không
còn báo cáo dân số thuở ban đầu, lúc nhà Lý phân chia kinh-trại. Li Tana tích
hợp nhiều nguồn chứng minh một cách thuyết phục rằng dân cư thời Lý rất thưa
thớt và chưa bao gồm dân số khu vực phía đông đồng bằng. Bà cũng đồng ý dân số
tăng đột biến vào quãng thời gian 1200 – 1340. (16) Để suy đoán tương quan giữa
dân số kinh và dân số các cộng đồng khác vào thời Lý, chúng ta thử xem xét
tường trình Trương Phụ gửi về Kim Lăng năm 1408:
Chiêu an
hơn 3.120.000 người, bắt được dân Man hơn 2.087.500 người (Minh Thực Lục I,
298)[8]
Sau khi
Lý thái tổ chia Hoan Ái thành trại gần 400 năm (1010 – 1408), dân số nằm trong
hệ thống hành chính trung ương, tức người chấp nhận văn hóa và sự cai trị từ Ty
Bố Chính Giao Chỉ, chỉ chiếm 60% tổng dân số trên vùng đất nay là bắc bộ và bắc
trung bộ (tỉ lệ khoảng 6/4). Con số “3.120.000 người” năm 1408 chắc chắn chủ
yếu là dân “kinh lộ” và một ít dân “trại” vùng duyên hải Hải Tây mà người Minh
trực tiếp thu thuế được. Dân số lên đến mức đó chỉ sau kỳ bùng nổ nhân khẩu tại
đồng bằng xảy ra dưới thời Trần khi hệ thống đê điều toàn khu vực được xác lập
và giống lúa Chiêm được phổ biến rộng rãi. Như vậy, có thể suy đoán tỉ lệ giữa
dân số vùng trung lưu sông Cái với dân số các vùng Hoan Ái, vùng duyên hải,
vùng đồi núi đầu thời Lý là con số rất khác tỉ lệ 6/4. Không đủ cơ sở để xác
định tỉ lệ đó chừng 5/5, 4/6 hay 3/7…,(17) nhưng có thể xác định một điều :
người nói các thứ tiếng Mường hay Tai-Kadai chưa trở thành dân tộc ít người vào
thời điểm đó. Họ chỉ trở thành thiểu số khi nhiều thành viên trong số họ rời bỏ
cộng đồng để hòa nhập vào người “kinh” hay “lộ”. Chính chiếu chỉ năm 1042 cho
thấy các phụ nữ làm vợ hay thiếp của nhà quyền thế còn mang đậm tập quán của
các bộ tộc sống cách biệt, bị ám ảnh bởi hôn nhân cận huyết. Dòng chảy nhân lực
từ miền cao xuống còn thấy rõ vào cuối đời Trần qua bài thơ “Đề Tư Đồ Trần
Nguyên Đán từ đường 題司徒陳元旦祠堂”, Đề thơ tại
nhà thờ quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán, của Trần Nghệ tông. Thượng hoàng cho biết
đội khiêng kiệu cho Ngài là “山僮
sơn đồng”, nô lệ người miền núi. Đối sánh số “nhân dân” 3.120.000 với số
2.087.500 “man nhân”, có thể nói rằng người man là các cộng đồng văn hóa khác
biệt trên lãnh thổ An Nam, do điều kiện địa lý và trình độ phát triển, họ còn
thuộc về nhiều bộ tộc khác nhau, nói ngôn ngữ không hoàn toàn giống nhau, nhưng
chưa thật sự trở thành thiểu số trên chính quê hương mình.
Cần chú
ý khái niệm kinh-trại chỉ được nhắc đến trong chính sử khi quyền lực thuộc về
các gia tộc gốc Mân. Đến thời Hồ – Lê, không thấy Toàn Thư nhắc lại khái niệm
này. Các vua Hồ lập đô ở Thanh Hóa, biến khu vực nay là Thanh Hóa và bắc Nghệ
An thành “tứ phụ”, tức vùng lõi. Bộ phận điều hành lộ Đông Đô được đặt tên Phủ
Đô hộ, một hàm ý ngoại vi hóa vùng kinh thành xưa. Từ đó, người trung châu được
gọi là dân “kinh lộ”, ý chỉ người thuộc các lộ đồng bằng bao gồm cả lộ Đông Đô.
Taylor
có lý của ông khi cho rằng khái niệm kinh-trại sẽ phát triển thành Việt-Mường
sau này. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu theo cách khác: Kinh gồm người Hán vùng
duyên hải bản địa hóa và người địa phương Hán hóa chấp nhận sự lãnh đạo của
nhóm gốc Bắc; Trại là người địa phương Hán hóa mức độ thấp, còn gần gũi với các
tộc bản xứ. Thổ dân đóng vai trò tương đối thụ động trong tiến trình Hán hóa
của nhóm kinh, ngược lại, người bản địa vùng trại chủ động tiến trình này. Dưới
mắt kinh, dân trại phong hóa tầm thường. Dưới mắt trại, dân kinh quá ngả về Bắc
không đủ tư cách làm chủ nước.
Xét
riêng cộng đồng “kinh” hay “kinh lộ” thời Lý Trần, chúng ta thấy tầng lớp ưu tú
chủ yếu là người Hán vùng ven biển đông nam hoặc người lai miêu duệ của họ;
tầng lớp dưới là dân bản địa gốc Mường được bổ sung bởi tù binh nói tiếng Nam
đảo hoặc tiếng Tai-Kadai. Dĩ nhiên có tầng lớp trung gian đến từ nhiều nguồn,
họ có thể là thầy thợ người Bắc, hoặc thành viên các gia tộc lớn, hoặc người
bình dân tiến thân bằng chiến công hay học vấn. Cơ cấu dân số như vậy đóng vai
trò quyết định thái độ chính trị của khu vực. Nó giải thích vì sao những “người
có chút ít tiếng tăm” nhanh chóng hợp tác với quân Minh, trái lại, “quân nhân
đinh nam” lúc cùng đường lại sẵn lòng phục vụ vua Giản Định. Xu hướng chính trị
này ảnh hưởng sâu đậm, bền bỉ và góp phần quan trọng định hình lịch sử Đại Việt
– Đại Nam – Việt Nam.
Chất Hán
vùng kinh lộ thẩm thấu trong giới tinh hoa đến mức độ nào? Đến các đời vua đầu
Trần, ảnh hưởng Hán thấy rõ là bộ máy vương quyền được tổ chức kiểu Trung Hoa.
Triết học Nho, Lão và Thiền tông ảnh hưởng mạnh chủ yếu trong tầng lớp biết
chữ. Tuy vậy, những gì có nguồn gốc ngoại lai sau một thời gian hoạt động ở An
Nam đã trở nên rất khác.
Năm
1293, sứ thần Nguyên Mông Trần Phu nhận xét hoàng tộc Trần như sau:
Hạ tục
kiêu phù thậm,
Trung
Hoa lễ nhạc vô.
Húy hiềm
ngoa thị Nguyễn,
Thác chế
tiếm xưng cô.
Tế tự
tông phường tuyệt,
Hôn nhân
tộc thuộc ô.
(Phong
tục của tầng lớp dưới[9] hết sức bạc nẽo nông nổi,
Ở đây
không có lễ nhạc của nước [Trung-quốc] văn minh.
Kiêng
tên, nên đã mạo nhận là họ “Nguyễn”,
Mượn cớ
có tang để tiếm xưng là “cô”.
Trong
nơi tông miếu, việc tế tự mất hẳn,
Người
cùng họ hàng lấy nhau thật xấu xa.)(18)
Vị sứ
giả người Hán đại diện vua Mông Cổ không tìm thấy văn minh Trung Hoa tại triều
đình Đại Việt. Ông phân biệt Hoa – Di không dựa vào đặc điểm sinh học của cộng
đồng người, mà dựa vào thực hành văn hóa của giới thống trị. Dưới mắt Trần Phu,
sự “khác” với thượng quốc thể hiện tính thấp kém.
Hơn 80
năm sau, Trần Nguyên Đán lại thấy sự “khác” giữa hai vương quốc ở góc cạnh “văn
vận”, ông cho rằng đó là do tầm vóc văn hóa Đại Việt đã vượt qua Trung nguyên.
(19) Dù tự hào đến vậy, Nguyên Đán vô tình vẫn dùng tiêu chuẩn cân đo phương
bắc. Hẳn vì ngoài hệ giá trị đã am tường, ông không còn biết hệ nào khác.
Cả Trần
Phu lẫn Trần Nguyên Đán đều là văn nhân đại thần. Phát biểu của họ hình thành
từ cơ sở tri thức và học vấn đỉnh cao của mỗi xứ nên có thể xem như ý kiến điển
hình. Chính sự “khác” cảm thấy bởi cả hai bên là nền tảng để người phương Nam
tạo nên, và người phương Bắc nhìn nhận, thực thể Đại Việt. Thực thể này theo
cách hiểu của Trần Hưng Đạo trong “Dụ chư tỳ tướng hịch văn” là tài sản thuộc
họ Trần; công chúa Thiên Ninh cũng hiểu thiên hạ là “của tổ tông mình” nên
không nhường họ khác. Tuy nhiên, sau mười năm giao chiến với quân Minh, Lê Lợi
qua “Bình Ngô đại cáo” lại cho rằng thực thể đó thuộc về người Đại Việt dù nó
bị cai trị bởi bất kỳ dòng tộc nào. Do vậy, Bình Định vương không chấp nhận
quyền chọn chủ phương Bắc của nhóm ưu tú sinh sống bên trong cương vực nước
Nam. Sau khi điểm lại tình hình lòng dân oán phản bởi chính sách triều Hồ, Ngài
định danh nhóm hợp tác đồng thời định nghĩa việc họ làm nhân buổi rối ren một
cách minh bạch:
“Ác đảng
hoài gian cánh dĩ mại ngã quốc 惡黨懷奸竟以賣我國”, Bọn bất lương mưu cấu kết với giặc để bán nước ta.
Trong
bối cảnh cái gọi là “dân tộc” theo định nghĩa phương Tây chưa hình thành, nhận
xét của Lê Thái tổ cho thấy Ngài vươn trước thời đại mình rất xa.
--------------------------
Lê Tư
Trích
bài "Hợp tác với quân minh: người Kinh Lộ"
https://nghiencuulichsu.com/.../nguoi-viet-hop-tac-voi.../