XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trường ca. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trường ca. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 11 tháng 6, 2023

TRƯỜNG CA HỒ CHÍ MINH

 

Để rộng đường Thánh nhơn lập quốc đến hậu duệ, NKL (Nguyễn Kiểm Lâm nik name facebook) quyết định viết Trường ca HCM (3420 câu) bằng mỡ trên lá khoai cho kiến cắn thành chữ đến cư dân mạng. Trân trọng bạn đọc.

Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng

(Xin phép tác giả đăng Trường ca lên trang để mọi người cùng đọc và góp ý bổ sung đồng thời làm căn cứ sửa đổi-Nếu tất cả thông tin ở đây đều đúng sự thật thì cũng là một tư liệu quý về lịch sử văn hoá cho thế hệ sau khảo cứu và học tập)

Mở đầu: QUÊ HƯƠNG, GIA TỘC

1. Bỉnh Khiêm [1] từ nhiệm về thiền,

2. Đêm đêm thắp lửa nỗi niềm non sông.

3. Gió thổi từ phía Bể Đông,

4. Mang theo tiếng sấm bão giông mỗi mùa.

5. Nước Nam loạn lạc thắng thua,

6. Mục đồng có cửa làm vua ngai vàng.

7. Cơm sống thì phải đem rang,

8. Lê triều[2] nhịn Mạc, Nguyễn Hoàng[3] xuôi Nam...

9. Bạch Vân thấp thỏm nén nhang,

10. Gieo đồng xu kẽm hương tàn không ra?

11. Một người khách ở nơi xa,

12. Tặng con xúc xắc lưỡng hoa văn hồng.

13. Chữ Vạn[4], dấu Thập bên hông,

14. Bốn mặt trắng muốt như bông rộ mùa.

15. Khách rằng: Trạng thắp hương hoa,

16. Mặt trắng nổi chữ là ra sấm truyền.

17. Khách đi để lại nỗi niềm,

18. Mây bông bảng lảng tiếng chim gọi bầy.

19. Tiểu đồng theo Trạng nhiều ngày,

20. Tự dưng ca hát chân tay nhịp nhàng.

21. Trăng thanh gió thổi dịu dàng,

22. Trạng gieo xúc xắc chữ vàng nổi nhanh:

23. "Nam Đàn bò đái thất thanh,

24. Núi bằng nứt kẽ thánh Thành đầu thai"[5]

25. Tiểu đồng đái trái am khai,

26. Trạng biên thành sấm truyền dài bách niên.

27. Phượng hoàng [6]tìm đất thánh hiền,

28. Trung Đô là đất Cao Biền[7] không ưng?

29. Gió Lào thổi rát cặp mông,

30. Nữ nhi vất vả chiều chồng nuôi con.

31. Gió Lào thổi bong tróc sơn,

32. Thếp vàng rơi rụng chỉ còn cốt xương!

33. Người dân xứ ấy yêu thương,

34. Xa quê gắn kết thành phường Nghệ An.

35. Xứ nhiều ngày nắng chang chang,

36. Mặt trời mài miết màu vàng Phật sa !

37. Người dân sống khá thật thà,

38. Nồi khoai luộc với hông trà xanh thơm.

39. Rất nhiều món ăn thay cơm,

40. Cá kho trừ bữa qua cơn đói mềm.

41. Xứ này mặn ngọt hay thêm,

42. Xương cứng, não trạng gần thềm thánh nhân.

43. Người xưa cho đến người gần,

44. Theo đường khoa bảng là phần ưu tiên.

45. Nhiều người ba họ tá điền,

46. Chăm đường đèn sách đỗ liền mấy khoa.

47. Trần thị một người đàn bà,

48. Thiên ý cho biết ai là liền ông.

49. Kẻ sĩ lúc vắng khi đông,

50. Phàm phu tục tử bà không lạ gì.

51. Núi cao nước chảy rầm rì,

52. Tiếng bò đái xối sau thì thất thanh.

53. Nghe như gió thổi đồi tranh,

54. Đụn sơn phân thuỷ cỏ xanh me[8] vàng.

55. Ngũ hổ[9] chữ nghĩa Nam Đàn  ,

56. Một người hiểu được sấm tràn đến đây.

57. Trần thị giang đôi bàn tay,

58. Sinh ra bố thánh trong ngày bão giông.

59. Gian truân ghép gả thuận tòng,

60. Bao nhiêu trang sử thuộc lòng đúng sai?

61. Từ xưa các bậc thiên tài,

62. Dấu huyền phủ xuống là bài học hay.

63. Trắng đen bởi ánh dương này,

64. Tạo hoá như thể con quay, con cù.

65. Trần thị đi vào mịt mù,

66. Người con sinh thánh gặp dù lão gia.

67. Họ Hoàng gốc ở nơi xa,

68. Nghe sấm "Phủ Khoái" đi ra khỏi làng.

69. Được thầy dậy chữ nên ngoan,

70. Con thầy xinh đẹp, phượng loan hạp tình.

71. Quyết đường khoa bảng thân vinh,

72. Nam Đàn đồn đoán Sấm Trình Sào Nam ?

73. Súng dài chiến trận Vũ Quang  ,

74. Cần Vương[10] chiếu mỏng, cờ tàn bi ai.

75. Khoá Sắc đêm ngày luyện tài,

76. Vợ sinh ra Thánh năm khoai được mùa.

77. Thầy Đường tuổi đã già nua,

78. Lấy ngay lá số tử vi cháu mình.

79. Các thầy giải chữ "Đại tinh":

80. Ngôi sao to lớn hiện hình phương Nam.

81. Cung thê không có chữ "phàm",

82. Gia đình lưu lạc khi làm đế vương.

83. Cung sinh khúc khuỷu con đường,

84. Phục binh thấp thoáng chúng thường tháo lui.

85. Sĩ phu xứ Nghệ ngậm ngùi,

86. Đất vương tái xuất chiến vùi lấp nhau.

87. Tiếng trống Xô viết[14]  về sau,

88. Người ta hơn kiểu người Tàu nội tranh!

89. Mái nhà quê ngoại lợp gianh,

90. Vườn chè xen bụi tre xanh bốn mùa.

91. Vườn khoai lang giống tiến vua,

92. Đôi khi làm lễ cúng chùa mời sư.

93. Tuổi thơ câu cá đánh cù,

94. Leo rú[11] hóng gió, hái cờ cỏ lau.

95. Bữa cơm chủ yếu là rau,

96. Cần lao thuở đó nhuốm mầu tịnh chay.

97. Một hôm Sào Nam xem tay,

98. Bấm thêm quẻ dịch Đông Tây phán rằng:

99. Cháu nên xuất ngoại theo đằng,

100. Đông du đất nước Thiên hoàng[15] đảo xa.

101. Đế xưa cá tính khoe ra,

102. Đế nay kín tiếng sau là phát tâm.

103. Thượng thư họ Cao[16] có tầm ,

104. Giúp thầy giáo xóm ngấm ngầm nhưng hay.

105. Sách hiếm bổn cũ trao tay,

106. Khoá Sắc[12] chăm chỉ bừa cày kinh thư.

107. Bố vợ[13] rút ruột nhả tơ,

108. Những mong con rể trúng mùa khoa thi.

109. Năm đầu khoá Sắc ra đi,

110. Trình non đành phải trở về trắng tay.

111. Kỳ sau học vị đổi thay,

112. Thêm chức Phó bảng[17] đỗ ngay một chầu.

113. Kim Liên sen rộ sắc mầu,

114. Vinh quy nhận mảnh đất đầu làng ban ,

115. Mái nhà [18] trên ruộng khoai lang,

116. Lộc dân tặng các ông quan về triều.

117. Mẹ từng thúng mủng nồi niêu,

118. Dắt con vượt núi qua đèo về Kinh[19].

119. Huế nhiều mơ mộng linh tinh,

120. Ngọ môn vàng vọt bóng hình sông Hương.

121. Kiếp nghèo ai cũng đáng thương,

122. Đời sau xúc động ấu vương đói nghèo.

123. Đom đóm thả vỏ trứng treo,

124. Lá đa đun bếp xèo xèo lửa quăn.

125. I tờ học lấy chữ nhân,

126. Sôi kinh học phép minh quân nước nhà.

127. Quan Sắc hiện tánh hào hoa,

128. Rượu trưa trà với quan nha trong Triều.

129. Lương quan như gió đuổi diều,

130. Vợ tần tảo chợ sớm chiều Đông Ba.

131. Lên được chức tước đại nha,

132. Chắc chắn sung sướng hơn là mụn quan?

133. Học phí không miễn hoàn toàn

134. Thầy Tây lương bổng hơn đoàn thầy Ta.

135. Con quan khác con dân xa,

136. Phu đò xe chỉ kiếp nhà cần lao!

137. Cậu Thành sung sướng biết bao,

138. Ăn mặc no đủ bước vào trường Tây [20].

139. Học ba thứ tiếng mỗi ngày,

140. Pháp-Trung-Việt từ các thầy giỏi giang.

141. Ngoại khoá sinh hoạt dịu dàng,

142. Ngược xuôi sông nước đến làng nhiều cau .

143. Đẹp giai học giỏi gái yêu,

144. Tình đầu chớm nở búp đầu bông sen!

145. Vận đời lúc đỏ khi đen,

146. Kim Kiều[22] bén gót ngõ quen lối về.

147. Tang gia ập đến các thê,

148. Mẹ nàng Út sớm cận kề cõi tiên .

149. Mẹ chàng chưa đến tứ niên,

150. Ốm đau cô quạnh hết tiền là đi.

151. Cảnh nhà đôi lứa biệt ly,

152. Xuôi Nam Út [23]chả nói gì với Ba.

153. Quan Sắc trở lại ngôi nhà,

154. Vợ không còn nữa khóc oà thảm thương.

155. Vua bổ tri huyện thôn hương[21],

156. Dân nghèo sinh tặc toàn phường trộm kê!

157. Tri huyện hay đuổi trộm về,

158. Thăng đường xử án chán chê trộm gà[24].

159. Trình thấp khoác áo quan nha,

160. Trình cao tiền ít hai là phận chung!

161. Thượng thư họ Cao chỉ dùng,

162. Quan nha tài đức đã từng có công.

163. Phó bảng không biết lấy lòng,

164. Dưới trên nên đã vào vòng khi quân.

165. Đường nha đứt áo mũ quần,

166. Trăm hèo bổ hạ xuống phần cần lao.

167. Bài học cay đắng thuở nào,

168. Theo Ba hun hút đi vào đường đua.

169. Nhẫn lòng không phải chịu thua,

170. Một lùi hai tiến ngai vua vững vàng.

171. Đạo dân hay phép làm quan,

172. Nhẫn là tàn bạo được quàn cất đi.

173. Bung ra đúng lúc, đúng thì,

174. Nhẫn thành sấm sét chẳng gì bình yên.

175. Nén tình kiểu tu dòng Tên[25] ,

176. Mục sư Man tuýt[26] trình lên mọi người.

177. Tiết dục là cách xả hơi,

178. Đa dâm nhục dục là toi tức thì.

179. Ba học nhiều bài khắc ghi,

180. Chân dài, đao búa chi chi mềm lòng!

181. Trí sĩ tánh đó nhiều ông,

182. Thượng thư Diệm[27] đã toàn tòng nguyên trinh.

183. Gối chăn đơn chiếc một mình,

184. Quả nhân cô quạnh toan rình binh đao.

185. Chia xa thành Huế hôm nao,

186. Hoàng thành trầm mặc rêu bao xanh mờ.

187. Nhẩm ngày nào đó trở về,

188. Thắp nhang mộ mẹ xén vê cỏ già.

189. Chuông Chùa gióng tiếng ngân xa,

190. Mái chèo khua nước vân hoa đôi bờ.

191. Nguyễn Hoàng mở cõi năm xưa,

192. Phương Nam hành tiến đến bờ Hà Tiên.

193. Bao đời chúa Sãi, chúa Hiền,...

194. Trăm năm gươm phạt lấy miền đất xa.

195. Trời Nam dày đức ông cha,

196. Máu xương tranh bá, thắng là chính danh.

197. Theo hãng kinh doanh Liên Thành[28] ,

198. Chàng làm giáo học Dục Thanh[29] một thời.

199. Giáo hoá vào ngả phân đôi,

200. Tây Tầu, mới cũ chơi vơi học đường.

201. Số thầy Thành được trò thương,

202. Đẹp giai tài đức tấm gương soi trò.

203. Biển xanh nước mặn thấm bờ,

204. Trò yêu lắm chuyện bất ngờ ngộ ghê!

205. Sóng xô bờ cát sóng vê,

206. Nã phá luân[30] muốn Ăng lê cúi đầu!

207. Nhìn xa, con mắt thẳm sâu,

208. Thoảng như mắt sói ngửa đầu hóng trăng!

209. Trò yêu tay nắm tay giăng,

210. Tình thương trong sáng thấu chăng lòng thầy?

211. Lên thuyền nước mắm chia tay,

212. Bờ xa cát trắng hẹn ngày đón nhau!

213. Thánh nhân đã bước lên tàu,

214. Cát vùi vướng bận, sóng nhàu ưu tư.

215. Là người ai cũng bước đi,

216. Đích xa gần đã chắc gì giống nhau?

217. Giữa trời cao vút hàng cau,

218. Ngọn cao, ngọn thấp trước sau nên tình.

219. Đời thường vun vén cho mình,

220. Đế vương toan tính dân tình đi theo!

221. Bến Rồng[31], xóm chợ dân nghèo,

222. Đón Ba tá túc cho theo phu tàu.

223. Sài Côn miền đất đẹp giàu,

224. Cá tôm quẫy đạp đục ngầu kinh mương.

225. Sài Gòn hội tụ bốn phương,

226. Ba Tầu[32] chủ vựa, Pháp thường đặt mua.

227. Dân mình chăm chỉ vẫn thua,

228. Nước trong gạo trắng bán như giá bèo.

229. Pháp cho thuộc địa đi theo,

230. Dân chủ tư sản báo [33]treo sạp sàn .

231. Tự do mua bán thả dàn,

232. Nhất là bán dạo tiếng khàn thâu đêm.

233. Ba tìm thấy Út vui thêm,

234. Tình này xứ Huế êm đềm không phai.

235. Xưa nay gái sắc giai tài,

236. Như kèo bám cột, như bài thơ hay.

237. Cha Út [34]phẫn chí tửu cay,

238. Cai đoàn phu cảng tiền dày làm chi?

239. Tiếng đờn réo rắt mỗi khi,

240. Tàu chưa về bến phu thì đói cơm!

241. Gặp con Phó bảng vui hơn,

242. Rượu đưa tay đẩy nỗi buồn biệt ly.

243. Quan trường trong sạch được gì?

244. Vào luồn, ra cúi bước đi lưng còng.

245. Từ quan, lấy tên Tư Đờn ,

246. Biệt ly xứ Huế đưa con xuôi tàu.

247. Chủ cửu hào phóng vẫn giầu,

248. Chủ hàng, nhà bến chia mầu rất ngon.

249. Thói thường gả chồng cho con,

250. Sống đời no đủ, sống mòn kiếp nô.

251. Cậu Thành yêu Út vô bờ,

252. Sấm truyền vận Đế, đành chờ kiếp sau.

253. Chàng xin một suất đi tàu,

254. Văn Ba tên gọi buổi đầu xuất dương.

255. Còi tàu giục giã lên đường,

256. Từ đây phác hoạ đế vương hiện hình.

          Phần I : BẾN NHÀ RỒNG

------

    [1]Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ. Ông đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) làm quan triều Mạc, ông được phong tước “Trình Tuyền hầu” rồi thăng tới “Trình Quốc công” mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.

    [2]Nhà Hậu Lê do Lê Lợi lập ra. Nó được phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009) do Lê Hoàn lập ra cuối thế kỷ X. Nhà Hậu Lê gồm 2 giai đoạn:  Nhà Lê sơ (1428 - 1527), do Lê Lợi lập ra, chấm dứt thời Bắc thuộc lần 4. Nhà Lê trung hưng (1533-1789), tức nhà Hậu Lê được lập lại năm 1533, tạo ra cục diện Nam Bắc triều với nhà Mạc (1533–1593).Nhà Hậu Lê không có thực quyền bởi Chúa Trịnh (1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài.

    [3]Nguyễn Hoàng (1525 - 1613) hay Nguyễn Thái Tổ, Chúa Tiên, là vị chúa Nguyễn đầu tiên ở lãnh thổ Đàng Trong, người đặt nền móng cho vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

    [4]Chữ Vạn là một hình dạng hình học có nhiều kiểu dáng trên nền chữ thập + và là một biểu tượng tôn giáo cổ xưa trong các nền văn hóa của Á-Âu. Nó được sử dụng như một biểu tượng của thần linh và tâm linh trong các tôn giáo Ấn Độ. Trong thế giới phương Tây, nó là biểu tượng của điềm lành và may mắn cho đến những năm 1930, khi nó trở thành một đặc trưng của biểu tượng Đức quốc xã  như là một biểu tượng của bản sắc chủng tộc Aryan (Chủng tộc thượng đẳng).

     [5]Lời “Sấm ký” của Trạng Trình “Đụn Sơn phân giải/Bò Đái thất thanh/Thủy đáo Lam thành/Nam Đàn sinh thánh”. Dịch nghĩa: “Khi núi Đụn phân đôi, khe Bò Đái tiếng khác, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh bậc thánh nhân”. Học giả Đào Duy Anh (1904 -1988) hỏi ông Phan Bội Châu câu ấy vận vào cụ Phan, Cụ Phan trả lời không phải tôi mà là Nguyễn Tất Thành,…

     [6]Phượng Hoàng Trung Đô là kinh thành do vua Quang Trung (1752-1792) xây dựng bên dòng sông Lam và núi Dũng Quyết; nay thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Tại đây vua Quang Trung đã tập trung 10 vạn quân trước khi tiến ra Bắc để giành lại thành Thăng Long lúc bấy giờ đang bị quân Thanh xâm chiếm. Ngôi thành này dự định được xây dựng để thay thế kinh đô Phú Xuân.

     [7]Cao Biền (821- 887) là một tướng lĩnh triều Đường, Trung Quốc, một nhân vật chính trị, người đầu tiên trở thành Tiết độ sứ của trong lịch sử Việt Nam thời nhà Đường đô hộ. Truyền thuyết dân gian ở Việt Nam kể rằng khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch ở đây rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế và phá những nơi có hình thế sông núi đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch…

    [8]Me, tiếng Nghệ An là con bê.

    [9]Nam Đàn tứ hổ: Trong một lần hát ví, một cô gái ghẹo một câu: “Nam Đàn tứ hổ là ai?/ Nói cho em biết để mai em chào”. Chàng trai Phan Văn San (tên gọi lúc trẻ của cụ Phan Bội Châu) ứng tác đáp ngay: “Nam Đàn tứ hổ là đây/ San, Long, Lương, Quý, một bầy bốn anh”. Bốn anh này là: Phan Văn San (làng Đan Nhiệm, có tài mẫn tiệp); Nguyễn Đình Song (Xuân Hồ, học hành thâm thúy); Trần Văn Lương (Kim Liên, trí nhớ tuyệt vời); Vương Thúc Quý (Kim Liên, sắc sảo thông minh). Tất cả đều hoạt động trong phong trào Duy Tân, nổi bật là Phan Bội Châu. Dân gian kể “Ngũ hổ” chỉ thêm ông Hồ Sĩ Tạo (quê huyện Thanh Chương đẹp trai giỏi phú), dạy học ở Nam Đàn, nhiều nghiên cứu chỉ ra ông là ông nội anh Ba.

    [11]Ngọn núi nơi nghĩa quân khởi nghĩa Hương Khê (1885 -1896) do Phan Đình Phùng (1847-1895), lãnh đạo, nay thuộc huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.

    [10]Phong trào Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ 19 do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi đề xướng chống cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Phong trào Cần Vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ 1885 cho đến 1896.

    [12]Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) là cha đẻ anh Ba- Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân từng làm quan hành tẩu bộ Hộ, sau thi đậu Phó bảng năm Tân Sửu (1901), năm đó ngày 22 tháng 12 năm Canh Tý (10 tháng 2 năm 1901) bà Hoàng Thị Loan mẹ ruột Hồ Chí Minh, ốm mất ở Huế khi ông Sắc đang đi coi ở Thanh Hóa.

    [13]Cụ Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (cha đẻ bà Hoàng Thị Loan) là đời thứ 19 của họ Hoàng. Gia phả ông tổ là Hoàng Nghĩa Kiều (1540-1587) là đời thứ 6 của dòng họ Hoàng làng Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Ông là quan võ của nhà Lê. Năm Đinh Tỵ (1557), quan Thái phó Hồng Quốc Công Hoàng Thế Kiều vâng lệnh vua đem quân vào Nghệ An dẹp quân nhà Mạc.

    [14]Xô Viết Nghệ-Tĩnh là tên gọi chỉ phong trào đấu tranh của lực lượng công nhân và nông dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong năm 1930-1931 chống lại đế quốc Pháp tại Việt Nam. Tên gọi Xô viết Nghệ Tĩnh xuất phát từ sự hình thành các "xã bộ nông" mà những người cộng sản gọi là "Xô viết".

    [15]Thiên hoàng còn gọi là Ngự môn hay Đế là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Phan Bội Châu- Sào Nam muốn anh Ba qua đó du học.

    [16]Cao Xuân Dục (1843-1923) là một quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam, từng làm tổng đốc, thượng thư và Đông các đại học sĩ, tổng tài Quốc sử quán. Ông có cảm tình với Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.

    [17]Học vị này có từ năm 1829- 1919. Vua Minh Mạng quy định đỗ đại khoa chia thành hạng Chính bảng (hạng trên: gồm Cập đệ, Hoàng giáp, Tiến sĩ) và Phó bảng (hạng dưới).

    [18]Là ngôi nhà lá 5 gian được dân làng Sen quê nội Hồ Chí Minh dựng lên từ quỹ công của dân làng để mừng ông Nguyễn Sinh Sắc khi ông đỗ phó bảng khoa thi Hội năm 1901. Cụ Nguyễn Sinh Sắc dành hai gian để đặt bàn thờ bà Hoàng Thị Loan và để tiếp khách. Khi về thăm quê, Bác cười nói “Đây là nhà của Cụ Phó bảng chứ có phải nhà Bác Hồ đâu”.

    [19]Vào năm 1898, nhờ sự vận động của ông Hồ Sĩ Tạo với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được nhận vào học Quốc Tử Giám. Nguyễn Sinh Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám.

     [20]Hồ Chí Minh có tên là Nguyễn Sinh Côn và được nhận vào Quốc Học Huế vào ngày 7 - 8 -1908. Trường Quốc Học (tên chính thức hiện nay: Trường Trung học Phổ thông Chuyên Quốc Học) là một ngôi trường nổi tiếng ở cố đô Huế, thành lập vào ngày 23 tháng 10 năm 1896.

     [21]Thôn Vỹ Dạ nay là một phường thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nguyên thủy địa danh này là Vi Dã có nghĩa là "cánh đồng lau sậy" nhưng vì biến âm đọc trại lâu ngày mà thành Vĩ Dạ. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, thì vào thế kỷ 18 thời các chúa Nguyễn là đất thuộc các làng xã Vỹ Dã Thượng, Vỹ Dã Hạ,... tổng Vỹ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa.

    [22]Nhân vật trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du  kể lại cuộc đời, những thử thách và đau khổ của Thúy Kiều, một phụ nữ trẻ xinh đẹp và tài năng, phải hy sinh thân mình, lỡ mối duyên với Kim Trọng để cứu gia đình.

    [23]Bà Lê Thị Huệ (189? - 1981), gọi thân mật là Út Vân, Út Huệ: (Trong thời gian đó, trò chuyện với Huệ, chị em hiểu nhau, và O mới biết Huệ là người thương của cậu Thành. Hai người đã có một tuổi thơ gắn bó từ hồi ở Huế. Cha Huệ (Lê Quang Hưng) làm bên bộ Công. Huệ mất mẹ. Thành cũng mồ côi mẹ. Cha O thì không tục huyền. Cha Huệ sau tục huyền với một người phụ nữ Huế, bà ta đanh đá, cảnh nhà không vui. (lời bà Nguyễn Thị Thanh chị ruột Nguyễn Tất Thành)

     [24]Ngày 19 tháng 5 năm 1910, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc làm tri huyện Bình Khê (nay là xã Tây Giang, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). bị đưa về kinh xét xử vì các tội: Để tù chính trị phạm vượt ngục; Hà khắc với hào lý; Bênh vực dân đen; Không thu đủ thuế,…bị Triều đình phạt đánh 100 trượng. May nhờ có các ông Thượng thư Hồ Đắc Trung, ông Cao Xuân Dục (1842-1923) và Đào Tấn cùng dập đầu xin vua tha chết nhưng bị hạ bốn cấp quan và sa thải.

    [25]Dòng Tên (còn gọi là Dòng Chúa Giêsu) của Giáo hội Công giáo do ông  Inhaxiô người xứ Basque Tây Ban Nha, cùng một số bạn hữu sáng lập và được Giáo hoàng Phaolô III phê chuẩn năm 1540.

    [26]Thomas Robert Malthus (1766 - 1834) là một nhà nhân khẩu học, nhà kinh tế học người Anh. Thuyết dân số của ông với quy luật tăng dân số 1% thì sau mỗi 70 năm, dân số sẽ tăng gấp đôi. Nếu với tỉ lệ 2% thì dân số tăng gấp đôi sau mỗi 35 năm và các biện pháp ổn định dân số.

     [27]Ngô Đình Diệm (1901- 1963) làm quan thượng thư nhà Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, ông không lấy vợ.

     [28]Một tổ chức kinh doanh do các sĩ phu yêu nước ở Bình Thuận sáng lập vào năm 1906 để hưởng ứng phong trào Duy Tân. Tên Liên Thành được lựa chọn với ngụ ý bảo tồn truyền thống, có ý nghĩa là thành hoa sen, nguyên là tên cũ của tỉnh Bình Thuận.

    [29]Dục Thanh Học hiệu (Giáo Dục Thanh Thiếu Niên) là một ngôi trường do các sĩ phu yêu nước ở Phan Thiết, Bình Thuận sáng lập vào năm 1907. Đây cũng là ngôi trường mà Nguyễn Tất Thành  đã dừng chân dạy học một thời gian trước khi vào Sài Gòn trong chuyến xuất ngoại.

    [30]Napoleon Bonaparte (1769 – 1821) nhà lãnh đạo quân sự,  Hoàng đế Pháp với đế hiệu là Napoleon I từ năm 1804 đến năm 1814 và trở lại ngôi vua vào năm 1815 trong 100 ngày trị vị.

     [31] Bến Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn, trụ sở của hãng vận tải Messageries Maritimes từ năm 1864 -1955; ngày 5- 6 - 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã xuống con tàu Amiral Latouche Tréville làm phụ bếp để có điều kiện sang châu Âu, mở đầu hành trình cách mạng của mình.

      [32]Chỉ người Hoa sang Việt Nam định cư. Có nhiều cách lý giải cách gọi nhưng không thuyết phục.

      [33]Khai sinh sớm nhất trong làng báo Quốc ngữ Việt Nam được cho là Gia Định báo. Tờ báo tổng hợp này có khuôn khổ 25 x 32 cm, ra hàng tuần tại Sài Gòn và tồn tại suốt 44 năm sau khi phát hành số đầu vào ngày 15 tháng 4 năm 1865.

      [34]Cha Út Huệ, gọi theo cách Nam Bộ.

 

Phần I : BẾN NHÀ RỒNG

257. Mình thương bố của bạn mình,

Con nhà dòng dõi nhưng thành con hoang.

Nhà nho xứ nóng đàng hoàng

260 Gán gả, biếu lễ tính đàng thiệt hơn…

Mình yêu thầy dậy có con,

Gả cho một chú trò ngoan nên người.

Khoa bảng vất vả gặp thời,

Bằng Phó tiến sĩ sang đời danh gia.

Mình thương mẹ bạn rất là,

Tảo tần thoi cửi cơm và vú dâng.

Miềng thương bạn tính bâng khuâng,

Để mẹ đau ốm muôn phần đớn đau.

Mình bảo bạn đi hái rau,

270. Mua chịu con qué ở đầu Vỹ thôn.

Không như Trịnh Kiểm[1] rất khôn,

Trộm gà cho mẹ sau phồn thịnh xa.

Bạn mình chữ nghĩa thật thà,

Để mẹ, em đói … khóc òa Ba Mươi.

Tết năm xa lắc nay rồi,

Cha về than khóc hận đời lãng quên.

Cần lao bên cầu Tràng Tiền,[2]

Tốt lời đẹp miệng nhưng tiền không chi.

Cha con bạn phải ra đi,

280 Mang theo mối hận an nguy nước nhà.

Cha bạn uống rượu thật thà,

Sầu lên, con cái phải ra ngoài đường.

Nỗi buồn quan nhỏ thôn hương,

Cha mắc nghi án chết luôn một thằng.

Nhà vua thấy chuyện bất bằng,

Vung hèo giáng chức cho thăng miệt vườn.

Bạn buồn không lại cố hương,

Bà con lối xóm thêm buồn bã thay.

Thần Kinh [3] có bọn a cay,

290.Bảo rằng đã hết- dời ngay kinh kỳ.

Bạn vội xuống tàu ra đi,

Thiếu thốn lộ phí phải tùy bước chân.

May quá có trường Dục Thanh,

Các thầy yêu mến Ba nhanh được mời.

Thầy Thành đứng lớp tươi cười,[4]

Giảng sử đất Việt, dạy đời trẻ con.

Giáo Thành tài trí rất khôn,

Nửa năm rồi xuống tàu buôn Liên Thành.

Tuyền phồm nước mắm thơm… tanh,

300. Sài Gòn nhộn nhịp đất lành gặp hên.

Dù cho trong túi hết tiền,

Quan Hưng bạn bố đỡ liền liền tay.

Biết rằng chí nhớn có ngày,

Bất Vi[5] xưa đã chịu đày nhiều năm.

Bạn bố có con gái tầm,

Gần bằng tuổi bạn nét cằm búp sen…

Thử cho sức khỏe vững bền,

Bạn đi phu cảng vác tuyền gạo thôi.

Quên ăn bữa sáng là rơi,

310.Ngã vật ra đất tỉnh thời thấy em.

Út nâng đỡ, nước giót thêm,

Bạn tình tỉnh dậy thấy êm êm rồi.

Chí trai quyết định xa khơi,

Những người yêu nước chạy nơi kiếm tìm.

Một việc phải làm ngày đêm,

Trên tàu Đô đốc[6],… phí mềm mềm thoai.

Chia tay bạn gái ở ngoài,

Bến tàu còi hú “Đợi hoài anh Ba”.

Cô út rất là thật thà,

320. Không như đài các toàn là gái khôn!

Ba rằng : “Anh sẽ không quên,

Thề hẹn gặp lại ở trên bến này”.

Út buồn mắt đỏ cay cay:

“Anh đi anh nhớ những ngày vừa qua!

Tình em trong trắng ngọc ngà

326. Kiếp này, kiếp nữa mãi là của anh!”

 

            Phần II:  BÔN BA

[1] Trịnh Kiểm (1503 - 1570), là nhà chính trị, quân sự có ảnh hưởng của Đại Việt thời Nam-Bắc triều. Dù tước hiệu cao nhất của ông khi còn sống là Thái quốc công, ông được đời sau truy tôn làm Thế Tổ Minh Khang Thái Vương và được xem là vị chúa đầu tiên của họ Trịnh – gia tộc nắm thực quyền cai trị Đại Việt hơn 200 năm từ giữa thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 18. Thuở nhỏ nghèo khó, ông hay trộm gà chăm mẹ.

[2] Cầu Trường Tiền còn được gọi là Cầu Tràng Tiền, là chiếc cầu dài 402,60 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m, được thiết kế theo kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương, thành phố Huế, kinh đô Nhà Nguyễn; cầu hoàn thành năm Thành Thái thứ 11 (1899).

[3] Huế còn được gọi là Đất Thần Kinh hay Xứ thơ, là một trong những thành phố được nhắc tới nhiều trong thơ văn và âm nhạc Việt Nam vì nét lãng mạn và thơ mộng.

[4] Mùa Thu năm 1910, Nguyễn Tất Thành đến trú tại chùa Phước An, được Hòa thượng Bửu Hiền trụ trì chùa chăm sóc. Nguyễn Tất Thành được cụ Nghè Mô -Trương Gia Mô (1866 - 1929) giới thiệu với cụ Hồ Tá Bang để vào dạy học tại Trường Dục Thanh ở Phan Thiết  (từ tháng 8-1910 đến tháng 2-1911).

[5]Lã Bất Vi (292 TCN - 235 TCN) là một thương nhân người nước Vệ, sau trở thành Tướng quốc của nước Tần thời Chiến Quốc bên Trung Quốc. Ông nổi tiếng trong lịch sử về buôn quan bán tước, xoay trở từ người buôn bán bình thường trở thành một chính trị gia có ảnh hưởng.

[6] Chiếc tàu được đặt theo tên của Đô đốc hải quân Pháp Louis René Latouche-Tréville (1745-1804), mang số hiệu 5601960, tải trọng 7.500 tấn, sức chứa 1.100 người, từng chuyển quân trong thế chiến I. Ngày 5 - 6 -1911, tàu nhổ neo rời Sài Gòn để thực hiện cuộc hành trình đến Singapore. Nhiều tài liệu lịch sử ghi nhận rằng một thanh niên người Việt tên Văn Ba đã từng phục vụ trên tàu từ năm 1911 đến 1913 với vai trò phụ bếp.

 

Phần II:  BÔN BA

327. Lên tàu việc của bạn Thành,

Nấu nướng chảo súp to đoành mỗi hôm.

Gió gào, sóng nhảy chồm chồm,

330. Chân buộc sợi xích, phao ôm lấy người.

Hành khách thủ thủy bật cười,

Thuyền trưởng chỉ bảo: “Cuộc đời anh Ba,

Không như bọn ăn thịt gà,

Quẩn quanh triều chính kiếp nha tối xầm”

Thảnh thơi bạn cũng đi tầm,

Nhưng không cờ bạc chỉ cầm sách thôi.

Dạy bao thủy thủ nói cười,

Tiếng Tây- tiếng Mẹ dưới trời bể xanh.

Trên tàu có một đàn anh,

340.Kĩ sư nông nghiệp nổi danh quê nhà,

Bảo bạn Tây học sẽ là:

Danh cao vợ đẹp tà tà lọng che.

Ba rằng: “Bố tôi ông nghè,

Muốn phục lại chức phải về Phá lang,[1]

Tôi cũng rất muốn cao sang,

Nhưng mà học bổng ở đàng nào đây?”

Quang Chiêu[2]: “Ta giúp một tay,

Nhưng mà phải hứa theo Tây trọn đời.”

Ba nhìn sóng vỗ tả tơi,

350.Ngoảnh về cố quốc, thưa: Thôi học đường…

Qua nhiều bến cảng phấn hương,

Thủy thủ quá cảnh lên thường ăn chơi.

Có thằng dạy bạn mùi đời,

Ba rằng tớ đã có người ở quê.

Sau này nhiều lần “trách chê”

Nhưng vẫn đắm đuối thân sơ vài người.

Tàu về bến cảng nghỉ ngơi,

Nước Pháp - mẫu quốc sáng ngời đèn dây.

Thanh Giản[3] chánh sứ đến đây,

360.Cùng quan Trường Tộ[4] ngất ngây ánh đèn.

Lận lựng vốn có ít tiền,

Ba từng phải biếu nhiều tên trên tàu,

Lính tráng trở thói rất ngầu,

Trấn lột của khách từng xâu bạc vàng.

Ngơ ngẩn trước cảnh cao sang,

Thấy cần lao khổ, Ba bàng hoàng kinh,

Thì ra không ở xứ mình,

Xứ này cũng có cực hình,… lưu manh.

Thủ đô Ánh sáng đón anh,

370.Trường,Truyền, Trinh[5] gọi: “Em Thành, Thành ơi!

Cậu đến rất là kịp thời,

Ta cần tuổi trẻ đổi đời nước Nam.

Ngày mai em sẽ đi làm,

Đưa bài báo đến bậc tam cấp tòa.

Chúng mình rất cần cái loa,

Đứng tên tuổi trẻ bên nhà vừa sang….”

Ba rằng : “Các huynh định phang,

Em chết tức khắc bởi mang tên vào?”

Trường nghe thấy vậy thở phào:

380.“Bên này ngôn luận được vào tự do,

Chú em chăm chỉ không lo,

Mai sau chí lớn làm cho nước mình,

Chú trẻ cần có chuyện tình,

Bọn anh giới thiệu gái xinh tóc vàng…”

Đôi bàn tay trắng lang thang,

Báo người Lao khổ[6] ra ràng ế trơ.

Phan Chu câu khách bằng thơ,

Trường Truyền viết luận, Ninh[7]cờ quạt bay.

Chào mời quảng cáo ăn may

390.Doanh gia nước Pháp tẩy chay báo rồi.

Những ngày cơ cực, Mẹ ơi!

Xảy nhà thất nghiệp cuộc đời bất an!

Một hôm nghe gọi Thành, Thành…

Từ người thủy thủ học anh tiếng bồi.

Bây giờ lính xế mê tơi,

Đệ nhất thế chiến dụng người An Nam.

“Ba ơi, phải có việc làm,

Gửi bạn ít tiền tiêu tạm tàm thôi”.

Đồng hương xứ sở của tôi,

400.Yêu thương đùm bọc tình người bao la…

Chung cư có họ Phăng - xoa,[8]

Chủ hộ khấm khá cần gia sư thầy.

Anh Ba được tuyển dụng ngay,

Dạy con gái chủ chữ bay bướm vào.

Cầm tay đưa bút xôn xao,

Như là thư tháp thuở nào anh theo.

Năm sau con chủ rất yêu,

Như là cô Út những chiều gió reo.

Chia tay gia chủ cận nghèo,

410.Lận lưng Ba có tiền tiêu pha rồi.

Bồi bàn, xúc tuyết tạm thôi,

Anh qua xứ sở sương rơi mịt mù.

Lạnh lùng đêm cuối mùa thu,

Gạch nướng lót ổ hận thù bão giông:

(Thương em Út ở bên sông

Giờ nay cha uống riệu nồng nơi đâu?

Thương mẹ lạnh lẽo đất sâu,

Chị Thanh, anh Đạt[9] buồn sầu làm chi?…)

Chia tay xứ sở Ăng Ly,[10]

420.Xắc Xông[11] phớt lạnh…Pa ri-anh về.

Viết ngay vở kịch Rồng Tre,[12]

Chửi vua Định Khải như hề xuất dương.

An Nam đậm tính đồng hương,

Ký giả họ Phạm dặm trường bôn ba.

Bữa cơm thân mật xôi gà,

Phạm Quỳnh[13] tiên lượng: Ba là vĩ nhân.

Ba rằng: Quỳnh sống vì dân,

Nhưng nặng gánh của vợ gần con xa.

Quỳnh thưa, tôi tính hài hòa,

430.Dựng xây cuộc sống phải là trí nhân,

Đánh nhau chỉ chết người dân,

Tôi cứu đất nước bằng chân thiện hòa…

Từ đó đôi bạn chia xa,

Sau tuần Độc lập Quỳnh là oan khiên,

Những thằng đâu đó cuồng điên,

Thượng Chi khuất bóng ở triền sông Hương,…

Đi về ngõ nhỏ thân thương,

Công poanh[14] nghèo đói dân thường khổ đau.

Một hôm xem tờ báo nhầu,

440."Luận cương thuộc địa"[15] Lin râu thét gào:

Vô sản thế giới cần lao,

Phải liên hiệp lại cuốc đào lỗ chôn,

Lập nên nhà nước công nông,

Tước đoạt giới chủ không còn một xu.

Thực dân, phong kiến là thù,

Phan Chu nghị viện hỏa mù khó coi.

Giáo hoá cải tạo giống nòi,

Tự do báo chí phải đòi trước tiên,...

Thế Truyền mê mải kiếm tiền,

450.Anh em thuỷ thủ về miền Boóc đô[16],

Bán hàng ăn uống, đủ no,

Mời anh Ba đến giúp cho việc làm.

Một dạo anh Ba quá giang,

Qua Thành Tua[17] thấy loa oang oang mời :

Vô sản Liên Xô tuyệt vời,

Pháp sắp đại hội những người công nông,

Lập Đảng Cộng sản phổ thông,

Nhằm giải phóng kiếp làm công đói nghèo.

Anh Ba quyết định đi theo,

460.Viết bài tham luận được treo lên tường.

Các đồng chí rất yêu thương,

Một đảng viên nữ vẫn thường đến thăm.

Lo cho chỗ anh Ba nằm,

Ấm êm tạm ổn rồi tâm tình đời,...

Biết là nước Nga xa xôi,

Ba quyết đến đó xem thời thế sao.

Giấy mời hội họp cần lao,

Hoả xa liên vận anh vào Bạch dương.[18]

Lê nin[19] tái lại vết thương,

470.Ngoài năm mươi tuổi đứt đường đấu tranh.

Mùa Đông gió tuyết khô hanh,

Cần lao Xô viết lòng thành viếng Lin.

Tưởng là xứ sở thần tiên,

Cần lao sung sướng tiêu tiền xả ga.

Anh đi thăm Mát cơ va,[20]

Vào nông trang thấy bò gà gầy trơ,

Nước Nga nội chiến xác xơ,

Cách mạng xô viết bên bờ vực sâu,

Công nông binh được đứng đầu,

480.Ku lắc[21], tư sản bị thâu hết quyền.

[1] Phú Lang Sa (France) là tên gọi nước Cộng hòa Pháp. Đến Pháp. Ngày 15- 9 -1911, Nguyễn Tất Thành viết thư gửi Tổng thống và Bộ trưởng thuộc địa Pháp xin được vào học Trường thuộc địa ở Pháp nhưng không được chấp nhận; Ngày 31-10-1911, anh gửi thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ chuyển giúp số tiền 15 đồng cho cha mà anh không có điều kiện gửi trực tiếp. Số tiền anh Ba dành dụm được khi làm phụ bếp - một cử chỉ rất đáng quan tâm về trách nhiệm và tình cảm thương mến với gia đình.

[2] Bùi Quang Chiêu (1873-1945) là một nhà chính trị tranh đấu đòi tự trị cho Việt Nam vào đầu thế kỷ 20, ông là người Việt đầu tiên đỗ bằng kỹ sư canh nông của Pháp, cùng các ông Nguyễn Phan Long, Trương Văn Bền, thành lập Đảng Lập hiến vào năm 1923 ở Sài Gòn. Hiện nay, tên ông được đặt cho một con đường tại Thị trấn Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.

[3] Phan Thanh Giản (1796 -1867) là quan đại thần Triều Nguyễn. Ông đàm pháp ký các hiệp ước Triều Nguyễn với nước Pháp đến nay còn nhiều ý kiến trái ngược.

[4] Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871), còn được gọi là Thầy Lân (gia đình theo Công giáo Roma) là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19. Ông đã viết bài tấu lên vua "Người da trắng nếu ta đối xử tốt với họ, họ cũng sẽ đối xử tốt với mình. Còn nếu không, họ sẽ chiếm nước ta thành thuộc địa, giống như người da đen".

[5] Phan Văn Trường (1876 - 1933) là một luật sư, một nhà báo yêu nước. Quê ông ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, (nay là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm), thành phố Hà Nội.

Nguyễn Thế Truyền (1898 -19 tháng 9 năm 1969) là một nhà chính trị người Việt từng hoạt động trong phong trào vận động đòi người Pháp rút khỏi Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, Ông quê làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định, con một gia đình quyền thế.

Phan Châu Trinh (1872 - 1926), hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt Nam theo hướng duy tân, bất bạo động.

[6] Người cùng khổ (Le Paria) là tờ báo được xuất bản tại Paris, cơ quan chủ quản là "Hội Hợp tác Người cùng khổ", trực thuộc Hội Liên hiệp Thuộc địa, người sáng lập tờ báo là Nguyễn Ái Quốc (chủ nhiệm kiêm chủ bút). Báo được in ba thứ tiếng: Pháp, Ả Rập và Trung Quốc. Số đầu tiên ra ngày 1- 4 -1922, tồn tại cho tới năm 1926, tổng cộng xuất bản được 38 số với nội dung chống chủ nghĩa thực dân, kêu gọi đoàn kết các dân tộc thuộc địa.

[7] Nguyễn An Ninh (1900 - 1943) là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo và là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam.

[8] François, chỉ tên riêng người Pháp.

[9] Chị gái, anh trai của anh Ba

[10] Nước Anh.

[11]Anglo-Saxon là một dân tộc sống tại Anh từ thế kỷ 5 CN. Họ bao gồm những người có gốc từ các bộ lạc German tới từ lục địa châu Âu, và những cư dân bản địa tiếp nhận một số khía cạnh của văn hóa và ngôn ngữ Anglo-Saxon. Về mặt lịch sử, giai đoạn Anglo-Saxon ở Đảo Anh trải dài từ năm 450 tới năm 1066,

[12] Vở kịch của anh Ba viết năm 1922 bằng Pháp ngữ và được Léo Poldes (1891-1970), một nhà báo người Pháp, chủ nhiệm câu lạc bộ Faubourg, cho công diễn tại ngoại ô thành phố Paris. Nội dung phê phán vua nhà Nguyễn, Khải Định. Đến nay chưa tìm thấy văn bản vở kịch này?.

[13] Phạm Quỳnh  (1892 - 6 tháng 9 năm 1945), sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh Hoa Đường, Hồng Nhân. Ông là người có tinh thần dân tộc, ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước.

[14] Nhà số 9 ngõ Côngpoanh, quận 17, Paris (Pháp), nơi anh Ba đã ở từ năm 1921 - 1923.

[15] Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’ Humanité) - cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số ra ngày 16 và 17 - 7 - 1920. Tư tưởng chính là vô sản các nước giúp nhau giành độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa là nhiệm vụ của cách mạng XHCN.  “Lin râu” là cách viết tắt, khẩu ngữ chỉ ô V.I.Lênin với đặc điểm có chòm râu cằm.

[16] Bordeaux là một thành phố cảng quan trọng của Pháp, toạ lạc ở hạ nguồn sông Garonne. Nó là thủ phủ của vùng Nouvelle-Aquitaine thuộc miền tây nam nước Pháp.

[17] Tours là thành phố của tỉnh Indre-et-Loire, thuộc vùng hành chính Centre-Val de Loire của nước Pháp. Anh Ba tham đến dự hội nghị thành lập đảng Xã hội Pháp.

[18] Tên gọi nước Nga, xứ sở Bạch Dương.

[19] Vladimir Ilyich Lenin còn thường được gọi với tên V. I. Lenin hay N. Lenin (1870 -1924) là một nhà cách mạng, chính khách, nhà lý luận chính trị người Nga. Ông đứng đầu chính phủ của nước Nga Xô viết từ năm 1917 - 1924 và của Liên Xô từ năm 1922 - 1924. Dưới sự lãnh đạo của ông, Nga, và sau đó là Liên Xô, trở thành một nhà nước một đảng theo chủ nghĩa Marx-Lenin do Đảng Cộng sản Liên Xô điều hành. Ông đã phát triển chủ nghĩa Marx vào thực tế gọi là chủ nghĩa Lenin. Ngày 30 - 8 - 1918, Lê nin bị ám sát gây thương tích, nay chưa rõ âm mưu từ phía nào?

[20] Thủ đô nước Nga.

[21] Kulak (tiếng Nga: кулак) là từ ngữ từ thế kỷ 19 được dùng để chỉ nông dân giàu có, sang thế kỷ 20 là tiếng xấu. Đến năm 1917, các kulaks sở hữu hơn 90% diện tích đất canh tác ở châu Âu thuộc Nga.

Phần II. Bôn Ba (481-580)

481.Quốc tế nông dân có tên,

Văn Ba nhậm chức Uỷ viên hội đồng.

Phụ trách Chi cục Phương Đông[1]

Trụ sở đặt ở Hồng Công gần Tầu.

Đang tuổi giai đẹp đi đâu,

Gái xinh đeo bám thả câu móc mồi.

Việt kiều ở đó ăn chơi,

Toàn con trí phú sang nơi đất Tào.

Một giai tên Thụ[2] mời chào,

490.Anh Ba nhập hội Bội Châu[3] cầm cờ.

Quang phục, Tâm xã[4] rất ngờ,

Tuyên truyền vận động xẩm sờ trối tai.

Lâm Thụ không muốn lai rai,

Bỏ Phan chí sĩ tiền xài xông xênh.

Em gái vợ Thụ rất xinh,

Con gái tư sản gốc mình máu Hoa.

Gái xinh giai đẹp bao la,

Mật thám Pháp nhợn[5] xét tra phải dừng.

Cuộc đời cách mạng tửng tưng,

500. Chiến tranh chuyện nhỏ có chừng mực thôi.

Năm tháng lãng mạn tuyệt vời,

Quê nhà bên Nghệ có người cực xinh.

Con gái ký lục tên Minh,[6]

Gót hồng cằm búp sen tình rất tươi.

Kém gì Nàng Út Vân ơi,

Bôn ba cách mạng cần người gối khăn.

Nàng làm thư ký rất chăm,

Thanh niên cách mạng họp ăn uống đều.

Lớp học có nhiều tình yêu,

510. Gái Tào thời đó rất chiều giai Ta,...

Phái bộ cố vấn người Nga,

Quyết định trưng tập anh Ba vào đoàn.

Làm chủ ngôn ngữ hoàn toàn,

Pháp, Nga, Anh, Việt chuyển sang tiếng Tàu.

Thời kỳ Dân quốc đứng đầu,

Học viện Hoàng Phố[7] nạp thâu học trò.

Giai ta háo hức tò mò,

Anh Ba giới thiệu Tưởng cho nhập trường.

Bề ngoài Quốc Cộng[8] bình thường,

520. Bên trong toan tính con đường xâm lăng.

Dùng mỹ nhân kế bẫy giăng,

Tuyển mộ tình báo tuyền bằng tiền tươi.

Anh Ba vào tầm ngắm rồi,

Lâm Lan[9] cấp tá tuổi đời trẻ trung.

Mến mộ anh Ba đến cùng,

Làm việc có lợi cho Trung cộng Tầu.

Danh Tống[10] thiếu tá rất ngầu,

Y Lan yêu mến gục đầu vai anh.

Cách mạng Việt Nam thành canh,

530. Phải nhờ Trung cộng đấu tranh điên cuồng.

Tư tưởng tình thương mến thương,

Lấy đồng chí hướng kỷ cương làm đầu.

Trong khi giai gái nước Tầu,

Yêu kiểu cổ điển sắc mầu hủ nho.

Chúng thích kể chuyện đọc thơ,

Kiểu Tây Anh Pháp Nga xô tuyệt vời.

Y Lan chiến không nghỉ ngơi,

Nàng đã thể hiện suốt đời yêu Ba.

Giang sơn người đẹp luôn là,

540. Con đường hảo hán từ xa xưa rồi.

Trớ trêu luôn nở nụ cười,

Chàng tin vào Chúa cưới người mới yêu.

Trương Béo một tay rất điêu,

Giới thiệu Tăng Tuyết[11] tín điều Gia tô.

Trung Cộng sướng gần phát rồ,

Chu phu nhân giúp quạt cờ thành hôn.

Trung- Việt, tính kế trường tồn,

Mượn đường diệt quắc phải luồn sợi dây.

Nhưng mà từ đó đến nay,

550. Vẫn là nghi hoặc đổi thay huyền tình?

Chia tay Cha sớm bình minh,

Quy Nhơn sóng cát trắng tinh bến bờ.

Vuốt chòm râu bạc lơ thơ:

Cha tên Thông[12] con phải thờ chữ “Minh".

Dặm trường đụng với yêu tinh,

Vén mây khéo lựa gái xinh đức tài.

Dường như suốt một đời trai,

Anh qua cửa ải chân dài, búa đao:

Thầy số Ta sang bên Tào,

560.Bói chàng Ái Quấc[13] vận vào đế vương.

Tử vi thuở ở quê hương,

Tên[14] có dấu thập nên thường đơn côi.

Ba lê[15] anh sắm đĩa xôi,

Thầy tướng Tào phán vận đời quả nhân...

Mao làm cách mạng nhân dân,

Quảng Châu công xã thua quân Tưởng[16] rồi.

Pháp quốc nhạy thính đánh hơi,

Truy lùng thủ lĩnh quyết đòi bắt Ba.

Mao quân ve vãn tính xa,

570. Lập chi nhánh cộng đô la giót vào.

Hồng Công[17] là xứ anh hào,

Luật lệ dân chủ kẻ nào cũng mê.

Đã từng sống ở Ăng lê,

Quá giang Nữu ước[18] trở về Phá lang,

Ba vào rất nhiều nhà hàng,

Hội thảo trà rượu với làng luật sư.

Soạn bài báo chí rất phê,

Thông tín viên Tống giỏi nghề gom tin.

Tầm chương tuyển Mác- Lê nin,

580.Tư Cưu Mạnh Đức[19], Oa sinh tơn làu[20].

[1] Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 - 15 tháng 10 năm 1923), anh Ba được bầu vào Ban Chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Đệ Tam Quốc tế (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8- 7 -1924), anh được cử làm Ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.

[2] Lâm Đức Thụ (1890 - 1947) biệt danh là Trương Béo hoặc Hoàng Chấn Đông, quê ở Thái Bình, thi đỗ đầu xứ gọi là Đầu xứ Viễn,  ông hoạt động cách mạng chống Pháp rồi trở thành chỉ điểm cho mật thám Pháp, người được cho là đã bán đứng Phan Bội Châu cho thực dân Pháp và cũng là người được phía Trung Quốc cho rằng đã mai mối Tăng Tuyết Minh cho anh Ba.

[3] Phan Bội Châu (1867 - 1940), khai sinh là Phan Văn San, các hiệu Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam,  bút hiệu Thị Hán, Phan Giải San, Sào Nam Tử, Hạo Sinh, Hiếu Hán,…quê Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông là là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc, lập Hội Duy tân, phát động Đông du, lập Quang phục hội.

[4] Tâm tâm xã là tổ chức của nhóm thanh niên trí thức Việt Nam ở Trung Quốc (Tầu, Tào) gồm Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lâm Đức Thụ…bất đồng với nhóm lớn tuổi.

[5] Cách gọi không thân thiện. Nhợn là cảm giác khó chịu ở cổ khi ăn, muốn nhằn ra.

[6] Nguyễn Thị Minh Khai tên khai sinh là Nguyễn Thị Vịnh sinh ngày 1-11-1910 tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, mất ngày 28-8-1941 là nhà cách mạng Việt Nam, một trong những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1930-1940. Bà là vợ của nhà cách mạng, Tổng bí thư đảng cộng sản Đông Dương Lê Hồng Phong, ông bà có một người con gái. Em gái Bà là Nguyễn thị Minh Thái (mất trong tù đế quốc) là vợ đầu của đại tướng Võ Nguyên Giáp.

[7] Trường Quân sự Hoàng Phố, chỉ học viện quân sự đào tạo sĩ quan lục quân của Trung Hoa Dân Quốc hoạt động từ năm 1924-1927, đặt tại đảo Trường Châu, khu Hoàng Phố, thành phố Quảng Châu. với 5 khóa đào tạo, nhưng đã đào tạo ra nhiều danh nhân quân sự cho cả Quân đội Trung Hoa Dân Quốc lẫn Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, nhiều nhà cách mạng, tướng lĩnh của Việt Nam cũng từng học hoặc giảng dạy tại Trường quân sự Hoàng Phố.

[8] Chỉ sự liên minh giữa Trung Hoa Quốc Dân Đảng và Trung Quốc Cộng sản Đảng trong các thời kỳ 1924-1927 dẹp các quân phiệt chống lại chính quyền non trẻ của Tôn Trung Sơn, và 1937-1945 chống phát xít Nhật.

[9] Lâm Y Lan (189? - 1968), Lâm Lan. Bà là nhà cách mạng của Đảng cộng sản Trung Quốc, quân hàm cấp tá trong quân đội, có học vấn cao từng giảng ở Học viện quân sự Hoàng Phố, có mối quan hệ với anh Ba từ năm 1930 do Đảng cộng sản Trung quốc phân công.

[10] Tống Văn Sơ là tên anh Ba từ sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2-1930 đến 1-1933 kết thúc vụ án Hồng Công. Cơ quan tình báo áp quân hàm nhưng không trao quân hàm?

[11] Tăng Tuyết Minh (1905-1991) là một phụ nữ Trung Quốc. Theo nghiên cứu của một số học giả  thì bà đã kết hôn với anh Ba khi đó có bí danh là Lý Thụy vào năm 1926 và đã sống chung với anh được nửa năm cho đến khi anh phải rời Trung Quốc sau vụ chính biến năm 1927. Hôn lễ có chứng kiến  của bà Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) và một số học viên khoá huấn luyện phụ vận. Câu chuyện này đến nay vẫn như là “tiểu thuyết giả tưởng”

[12]  Khi anh Ba làm Chủ tịch nước, ô đi Pháp, hải quan hỏi tên cha? Ông trả lời “Bác tên Minh, tên cha là Thông”

[13]  Nguyễn Ái Quốc (Quấc) tên gọi anh Ba và nhóm yêu nước ở Paris chọn làm bút danh.

[14] Tên khai sinh chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Cung, tiếng địa phương gọi là Coong, hoặc Côn. Tương truyền, lá số tử vi được các bậc túc nho quê Nam Đàn xem.

[15] Paris, cách phiên âm Hán Việt.

[16] Quân đội Trung Hoa Dân quốc, còn gọi là Hoa quân, quân Tàu Tưởng, quân Tầu trắng, Tào ô do Tưởng Giới Thạch làm thống chế. Khởi nghĩa Quảng Châu năm 1927 là một cuộc khởi nghĩa thất bại của những người cộng sản tại thành phố Quảng Châu, miền nam Trung Quốc.

[17] Lãnh thổ Trung quốc là thuộc địa của đế quốc Anh  từ năm (1842-1997), tên gọi Hương Cảng, Cảng Thơm.

[18] New York, thành phố lớn ở miền Đông Hoa Kỳ.

[19] Montesquieu (1689 - 1755) phiên âm là Mạnh Đức Tư Cưu là một nhà bình luận xã hội và tư tưởng chính trị Pháp sống trong thời đại Khai sáng, ông thường được biết đến dưới tên Montesquieu. Ông nổi tiếng với lý thuyết tam quyền phân lập.

[20] George Washington ( 1732 - 1799) là nhà chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 -1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775 -1783, ông cũng chủ trì việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội Hoa Kỳ nhất trí chọn ông làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789 -1797).

 

Phần II. Bôn Ba  (581 - 748 )

581. Đã từng bốn bể năm châu,

Hai mươi ngoại ngữ chuyện hầu yếu nhân.

Rượu cùng hoạ sĩ lừng danh,

Pi cát xô[1] vẽ tặng anh chim trời.

Không thẹn thân phận người bồi,

Đầu quân thế mạng con người chủ Tây.[2]

Luân đôn, Pa ri, Mác xây,

Nuôi quân thế chiến đủ ngày chiến binh.

Cảnh sát châu Âu rập rình,

590. Nhiều lần trò chuyện chân tình chúng yêu.

Xưa nay trí giả luyện chiêu,

Anh dùng chân thật gặp nhiều quý nhơn.

Thập phương hội tụ Hồng Công,

Ba truyền ngọn lửa mầu hồng tin yêu.

Trước sau chỉ có một điều,

Giải phóng dân tộc theo chiều đấu tranh.

Thực dân đang đẫy miếng ăn,

Chúng sợ bác ái mất phần lợi to.

Pháp quốc rắp tâm rình mò,

600.Thưởng hậu cho kẻ tìm dò anh Ba.

Tình báo Bát lộ[3] xét tra,

Giao Lâm Lan nữ vào ra tìm đường.

Đưa Quốc về một thôn hương,

Dự phong chính uỷ cự Trương Quốc Đào.[4]

Rừng cây gió biển lao xao,

Y Lan mắt sáng tựa vào vai anh:

“Giá như không có chiến tranh,

Đôi ta nghề giáo song hành bên nhau,

Về dạy đại học Quảng Châu,[5]

610.Thỉnh giảng Ha vớt[6]  gội đầu cho dân...”

Minh Khai ngày càng lại gần,

Văn phòng Hải ngoại cộng quân hình thành.

Tuyển người du học Mác - Lanh,[7]

Đưa người về nước vin cành buộc loa.

Đấu tranh theo hướng hài hoà,

Khẩu hiệu dân chủ trên toa, cầu đường.

Pháp nhợn thấy bất bình thường,

So với Công xã chẳng tương xứng gì,...

Quốc tế cử Lý Thuỵ[8] đi,

620.Sang Xiêm vận động lập chi bộ đầu.

Cưới nàng Tăng Tuyết bên Tàu,

Bình phong nâng đỡ Chín Thầu[9] bên Xiêm.

Anh cầm cán búa chuôi liềm,

Làm nhà, gặt lúa gây niềm tin yêu.

Miến, Xiêm, Lào,Cam[10] dập dìu,

Lập chi bộ Đảng búa rìu chống Tây,

Mùa mưa đứng dưới rừng cây.

Mùa hè đóng khố đi cầy học nhau,

Sư Xiêm nhiều vị người Tào.

630.Dõi theo thầy Chín ra vào U đon.

Người quê qua Thái kiếm cơm,

Nhiều người ướm hỏi nhác nom "Tất Thành",

Con quan Phó bảng thầy lang,

Cháu Cụ giáo[11] sống gần làng Kim Liên.

Chín Thầu lảng chuyện họ tên,

Nhận mình người Việt sống bên đất Tầu.

Tuyết Minh son trẻ buồn sầu,

Thư từ thất lạc đi đâu ko về?

Cưới nhau Chúa chứng câu thề,

640.Một ngày nên nghĩa đam mê đượm nồng.

Chuyện tình đôi lứa có không?

Xưa nay lắm chuyện kết hôn thật đùa,…

Một hôm Chín đến vãn chùa,

Gặp sư tiếng Phạn[12] đón đưa chân tình.

Sư rằng Thầu bậc "Khai minh",

Tu đường "Thông tuệ" tự mình đấu tranh.

Tu thân gắng làm điều lành,

Từ từ về nước để giành ngôi cao.

Đường đi nước bước thế nào?

650.Sư Phạn đắc đạo đã trao Chín Thầu.

Chàng về thánh địa Quảng Châu,[13]

Phong trào cách mạng đang ngầu bọt bông.

Nhật bản xâm lấn miền Đông,

Mao, Tưởng ngúng nguẩy dở ông dở thằng.

Quê nhà đảng phái nhiều đằng,

Tân Việt[14] cộng sản rất hăng chiến thù.

Pháp quốc khôn ngoan dự trù,

Dùng đảng cộm cán hoả mù đảng kia.

Nguy cơ phân liệt chia lìa,

660.Đũa rời khỏi bó, chả chìa cho Tây.

Anh về chụm lại hàng cây,

Hợp nhất các đảng dựng xây phong trào.

Rất nhiều trí sĩ trình cao,

Lương Bằng,Tùng Mậu[15] bên Tào đã lâu.

Quốc đi Thượng Hải chụm đầu,

Nhắc Lương Sao Đỏ nhờ Tầu giúp Ta.

Bạc tiền Vương Minh[16] tung ra,

Đòi dăm Trung uỷ phải là người Hoa.

Bọn Hẹ[17] toan tính gần xa,

670.Tìm người đóng thế khi Ba bị tèo.

Bùa Sư nước Phạn anh treo,

Vào cổ chân lúc hiểm nghèo gian nguy.

Sư trụ chùa Tào uy nghi

Đôi lúc Ba đến thầm thì là êm

Lâm Thụ cờ bạc thâu đêm

Nợ sắp bị vỡ nghe bên nước nhà

Toà Vinh xử vắng anh Ba[18]

Án tử, treo thưởng kẻ ra nước ngoài

Bắt Quốc về nước đầu đài

680.Cờ bạc trộm cắp tính bài tố anh

Cộm cán nhiều tên ma lanh

Nhìn thấy bùa ngải chúng thành thật lui

Pháp nhợn toan tính rất cùi

Chi trả cảnh sát bắt người Hồng Công

Dẫn độ về nước là xong

Nhưng Ăng lê phớt đừng hòng chúng nghe

Mao Tưởng toan tính chở che

Con bài Nam tiến là nghề xâm lăng

Ăng lê theo dõi rất căng

690.Bắt Tống Sơ ở một căn gác thường

Nổ ra vụ án bất thường

Tống Sơ xộ khám công đường Ăng lê[19]

Vụ này kinh điển nhà nghề

Bài học xét xử trở về mai sau

Luật sư dốc máu lên đầu

Chẳng mong kết cỏ ơn sâu bạc tiền

Pháp đòi dẫn về Kim Liên

Để cho dân chúng búa liềm nhận ra

Toà Vinh "Giết hổ dọa gà"

700.Ăng lê chê Pháp đúng là trẻ con

Pháp mua cai ngục ra đòn

Để cho Tống tử trong khuôn lao tù

Phu nhân họTống[20]gật gù

Xuất chiêu quyền thế bảo kê giang hồ.

Sau này anh Ba ướm ngờ

Khánh Linh vui sướng tôn thờ ông anh

Phi trường Gia Lâm nắng hanh

Chủ tịch ngả mũ chân thành chuyển sang

Áp vai nguyên thủ sóng hàng

710.Gọi em Tống Khánh khiến nàng vui tươi.

Đề hình Ăng lê trát mời

Các bên lợi hại vào nơi công quyền

Chánh toà xét hỏi luyên thuyên

Không có chứng cớ các bên bắn đòm

Luật sư để râu hơi xồm

Nhắc bài Anh quốc thượng tôn pháp đình:

"Thuở xưa Âu lục linh tinh

Đòi tù Mác[21] tội chỉ dình đánh nhau

Quá bộ Măng xơ[22] chuyến tầu

720.Nước Anh phớt các quả đầu mưu toan

Bất bạo động là dân ngoan

Phím bài sách báo hoàn toàn tự do

Cuối đời Mác hơi nghi ngờ

Con đường bạo động bao giờ mới yên ?

Mác biết Ăng lê rất khôn

Chia dân chủ vời miếng cơm giảm thù

Bị lừa dân chúng vẫn ngu

Mác quyết khởi nghĩa tịch thu chánh quyền"

Tình báo Mao Tưởng bắn tin:

730.Tống Văn ký giả mưu sinh chân thành

Toà tuyên Tống phải xuất hành

Khỏi đất Hương Cảng càng nhanh càng bình

Luật sư Ăng lê rất tinh

Lừa cảnh sát Pháp, phao tin Tống tèo

Com lê ca táp tay hèo

Căn cước tên khác chân leo lên tàu

Ra biển tàu xả sóng ngầu

"Lốt" Sinh nhưng lại quay đầu Shanghai

Vợ chồng luật sư Giơ bai[23]

740.Về nhà thở nhẹ hơi dài lo toan

Qua bến Thượng Hải an toàn

Có Lương Nguyễn dụ nhà đoan Tưởng Tầu

Tháng năm sống ở châu Âu

Chàng đọc Kinh thánh chuyện hầu đạo Công

Em gái xóm đạo phố Đông[24]

Cảm tình giúp đỡ giàu lòng đức tin

Các bên đế quốc kiếm tìm

748.Thấy bùa nước Phạn chúng im lặng dừng !

[1] Pablo Ruiz Picasso (1881-1973), thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay Picasso là một họa sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha yêu hòa bình, chống chiến tranh, cảm tình giúp đỡ Việt Nam... Ô bạn với anh Ba từ năm 1911, mến anh Ba vẽ bức họa trên báo Le Paria (Người cùng khổ). Năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Pháp thăm họa sĩ, họa sĩ vẽ tặng bức chân dung, sau thất lạc.

[2] Khai lý lịch nhập trường Quốc tế Phương Đông vào năm 1934, anh Ba ghi “Làm lính Pháp vào thời gian 1914-1918”. Anh Ba phụ bếp với tên Paul Thành đã nhận đi lính thay cho con trai Vua bếp Escoffier khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. A.Escoffier là người Pháp đến hành nghề ở Luân đôn và có một con trai tên là Paul Escoffier.Câu chuyện này được bàn đến nhưng chưa có xác nhận.

[3] Bát lộ quân là lực lượng quân sự do Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền lãnh đạo.Trong thời kỳ Quốc-Cộng hợp tác (1924-1927 và 1937-1945 ) đội quân này được tổ chức lại thành Quốc dân Cách mạng Quân Đệ thập bát Tập đoàn quân, nằm trong biên chế của quân đội Trung Hoa Dân quốc, thực tế vẫn do đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền lãnh đạo, hoạt động từ năm 1936 đến 1947. Cùng với Tân Tứ quân, Bát lộ quân được xem là thành phần nòng cốt, tiền thân hình thành nên Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.

[4]Trương Quốc Đào (1897 - 1979) một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921. Năm 1938, ông bỏ trốn khỏi Diên An về Vũ Hán đầu hàng Tưởng Giới Thạch.

[5] Tỉnh biên giới Trung Quốc, giáp Việt Nam.

[6] Đại học Harvard, là một viện đại học nghiên cứu tư thục, thành viên của Liên đoàn Ivy nằm ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ. Với lịch sử thành lập từ năm 1636, tầm ảnh hưởng và tài sản của mình, Harvard là một trong những đại học danh tiếng nhất thế giới.

[7] Mác- Lê nin, hai lãnh tụ của  giai cấp vô sản, cha đẻ học thuyết cộng sản.

[8] Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu với bí danh Lý Thụy, làm phiên dịch trong văn phòng của Đoàn cố vấn Xô Viết từ năm 1924 do Mikhail Markovich Borodin, tiếng Trung là Quý Sơn Gia (1884-1951) ông người gốc Do Thái, một nhà cách mạng Nga, nhà hoạt động chính trị, xã hội Liên Xô, đại diện của Quốc tế Cộng sản tại Trung Quốc, thời kỳ 1923-1928

[9] Thầu Chín là tên của anh Ba thời kỳ 1928-1929 hoạt động ở tỉnh Un đon, Thái Lan.

[10] Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Phu chia

[11] Cụ Hoàng Xuân Đường (1835 - 1893) ông ngoại anh Ba.

[12] Tiếng Phạn là cổ ngữ của Ấn Độ còn gọi là bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali là nam Phạn, là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo Bắc Tông.

[13] Tỉnh, thành phố của Trung Quốc giáp với Việt Nam. Năm 1927 có một cuộc khởi nghĩa thất bại của những người cộng sản tại. Xô viết Quảng Châu được gọi là "công xã Quảng Châu" hoặc "công xã Paris phương Đông"

[14] Tân Việt Cách mệnh Đảng (hay gọi tắt là Đảng Tân Việt) là một chính đảng tồn tại ở Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20 với chủ trương "Đánh đổ đế quốc, xây dựng một xã hội bình đẳng, bác ái". Đảng Tân Việt chấm dứt hoạt động vào năm 1929 khi phân chia làm hai phái. Một phái với xu hướng thành lập Liên đoàn Quốc gia và một phái với ảnh hưởng của tư tưởng cộng sản tách ra thành lập Đông Dương Cộng sản.

[15] Hai nhà cách mạng Việt Nam: Nguyễn Lương Bằng (1904 -1979) có bí danh Anh Cả, Sao đỏ;Hồ Tùng Mậu (1896 –1951), Ông từng là đảng viên của cả Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam.

[16] Vương Minh (1904 - 1974) tên thật: Trần Thiệu Vũ là một nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng Bí thư thứ IV của Đảng Cộng sản Trung Quốc

[17] Tên gọi khác của người Khách Gia, là một tộc người Hán nay phân bố ở Nam Trung Quốc, Đài Loan.

[18] Ngày 10-10-1929, Tòa án Vinh (Nghệ An) của thực dân Pháp xử vắng mặt, anh Ba- Nguyễn Ái Quốc bị khép vào án tử hình.

[19] Vụ án Hồng Công năm 1931-1933, anh Ba tức Tống Văn Sơ bị bắt trên lãnh thổ Hồng Công thuộc tô giới của Vương quốc Anh, được xử theo Luật Anh.

[20] Tống Khánh Linh (1893- 1981) là phu nhân của Tôn Trung Sơn tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc, sau Bà làm Phó chủ tịch nước CHND Trung Hoa. Bà là người say mê ủng hộ các tổ chức quốc tế nhân đạo, chống chiến tranh. Anh Ba tham gia tổ chức “Quốc tế Cứu trợ các chiến sĩ cách mạng”. Có tư liệu Bà và gia đình bà (Phủ Tống) thuê Luật sư Francis Henry Loseby bảo vệ Tống Văn Sơ trước Tòa.

[21] Karl Marx (1818 - 1883) là một nhà triết học, nhà kinh tế học, nhà sử học, nhà xã hội học, nhà lý luận chính trị, nhà báo và nhà cách mạng người Đức gốc Do Thái.. Marx chuyển tới London tháng 5 năm 1849 và ở lại đó trong phần còn lại của cuộc đời.

[22] Eo biển Manche là một đoạn eo biển dài thuộc Đại Tây Dương xen giữa đảo Anh và bờ biển phía bắc của Pháp, liền với biển Bắc Hải. Eo biển này dài 562 km, chỗ rộng nhất 240 km, chỗ hẹp nhất là 34 km (eo biển Dover).

[23] Luật sư Anh, Francis Loseby (1883-1967), người giúp Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi Hồng Công thuộc địa Anh khi đó. Năm 1960, gia đình Luật sư đến Việt Nam. Tượng Luật sư Loseby  đặt ở Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ba Đình, Hà Nội.

[24] Nữ bác sĩ Phương Thảo là nhân vật trong phim “Vượt qua Bến Thượng Hải- Hãng phim Hội Nhà văn Việt Nam”

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II. Bôn Ba  (749 - 1000 )

749. Qua Mãn Châu Lý[1] Lyn mừng

750. Về I - a - cút[2] nhiều từng cần lao

Giang hồ ở xứ Á Châu

Tìm về Xô viết xin đầu quân Lanh[3]

Trê - Ca[4] đang độ tranh giành

Tiêu diệt Bạch vệ[5] càng nhanh càng mừng

Lương thực bị Chính quyền trưng

Ngủ đệm cỏ ấm ăn chừng mực thôi

Đại học Phương Đông[6] nhiều người

Tuổi trẻ theo "Thép đã tôi"[7] đông đàn

Lyn[8] về ngồi ngay vào bàn

760.Thẩm vấn liên tiếp uống ăn tại phòng

Côn sắc[9], Ku lắc[10] rất đông

Chúng quyết giáng trả diệt Hồng quân Nga

Phản động sinh sôi hơn gà

Hợp tung nhị thập quốc gia chiến đòm

Trê - ca giỏi món ra đòn

Thủ tiêu bí mật thằng con nghi ngờ

Lyn bị thẩm vấn nhiều giờ

Kiểm điểm báo cáo nhiều tờ giấy than

Người Tầu có bạn họ Khang[11]

770.Chỉ muốn quốc tế giết chàng trai Lyn

Đến thời của Hồng vệ binh

Tấu trình trảm chém Khang Sinh ký ròng

Phong trào cộng sản Á Đông

Phập phù co cụm hiểu không đúng bài

Lyn chỉ ra nhiều cái sai

Lý luận cùn mẻ thích xài búa đao ?

Quốc tế đọc thấy nôn nao

Tạm thời giảm lỏng Lyn vào Phương Đông

Nhiều ý muốn Lyn bằng không

780.Xử bắn, phát vãng đầu sông rừng già

Cơ may lại đến với Ba

Một nữ đồng chí vào ra học đường

Thấy chàng quá đỗi mến thương

Kiểm điểm báo cáo mục trương rõ ràng

Chút tình gái goá rộn ràng

Cứu người trong sáng mơ màng thịt da

Lyn vốn lịch lãm thật thà

Xen chút hóm hỉnh bôn ba giang hồ

Nữ đồng chí thấy nên thơ

790.Bút phê bác bỏ nghi ngờ anh Lyn

Bổ chức trợ giáo làm tin

Bài giảng cách mạng nhiều nghìn trò nghe

Khang Sinh dự giờ rất mê

Xem lý lịch thấy Lyn nghề đấu tranh

Khang ủng hộ Lyn rất nhanh

Tính Khang cơ hội đã thành siêu sao

Thời Mao đấu tố máu trào

Khang con địa chủ vẫn vào hàng trên

Vật liệu mau hỏng, lâu bền

800. Sơn ăn từng mặt, ma nghiền từng nơi

Dân gian thường gọi số trời

Tuổi thơ ngoan ngoan sau thời ác ôn

Khéo lừa thoi suốt tuột trơn

Tơ mềm, tay búng lụa luôn chùng diềm

Xa xưa đã có búa liềm

Mặc nhiên cố kết thành miền cần lao

Nhiều người từ đó đi vào

Giai tầng bóc lột hỗn hào với dân.

Ra đi Ba cứng bước chân

810. Mẹ quy tiên sớm phúc phần cho con

Khác Cha, Ba né được đòn

Xì gà anh dụng rượu không mặn mà

Những ngày nghiên mực trường Nga

Học bổng rất hẻo dưng Ba vẫn còn

Tài khoản nhà băng Hồng Công

Kịp rút hạn mức lãi ròng mang theo

Học viên Phương Đông rất nghèo

Anh bao bọc mãi tiền teo tóp rồi,…

Mùa thu nước Nga tuyệt vời

820. Bạch dương đẹp bởi dáng người gái Nga

Thảo nguyên bát ngát bao la

Hương trời gió biển tâm tà bay đi

Tóc vàng vai nõn ôm ghì

Tinh thần Xô viết khắc ghi những ngày

Ba cùng tay nắm bàn tay

Sau này Cừ Nguyễn[12] đi đày Vàng Danh

Muốn thắng trong cuộc đấu tranh

Gần dân thân thiết là thành công ngay

Phương Đông có một ông thầy

830. Đọc bài, ngó vở, xem tay rất mừng

Cách mạng không có điểm dừng

Bằng Kan di dat[13] Lyn trưng quê nhà

Đề tài công thổ quốc gia

Nông dân có ruộng sau là nông trang

Lê nin triết lý rõ ràng:

Để dân suy tưởng trên hàng lúa khoai

Quan điểm cách mạng không sai

Ngang trình Ha-vớt kinh tài tự do

Anh Ba không phải lần mò

840. Dân tộc theo hướng thước đo thị trường

Thầy rằng phải có một chương:

Phản phong đuổi đế ở quê hương nhà

Đề tài đã bị Trê - ca

Nhòm thấy tư tưởng anh Ba lạc đề

Bọn Trốt-kít[14] cười hề hề

Quan điểm Ba hướng đi về tự do

Bao lực đúng, tự kháng to

Cần lao dễ hiểu hét hò đấu tranh

Sau Ba gặp  Xít -Ta-lanh

850. Bị phê phán cách tranh giành nhẹ tay:

"Hữu khuynh sẽ có một ngày

Thực dân đế quốc xóa bay ngọn cờ"

Ba rằng tôi có giấc mơ:

"Cần lao áo ấm cơm no kết đoàn"

Những ngày nghỉ dưỡng lo toan

Cờ - rim[15] sóng vỗ nhặt khoan bến bờ

Biển Đen[16] xa thẳm mịt mờ

Trứng cá muối, thèm cá cờ quê hương

Chuyên chánh vô sản rất cương

860. Xử ngay những kẻ bất thường hồ sơ

Ăng lê có thể đáng ngờ?

Biết đâu họ chuyển những tờ cung khai

Lyn ngẫm mình không oan sai

Án Hồng Công có nhiều bài báo hay,…

Xòe ra bấm đốt ngón tay

Năm Châu chỉ nước Anh này công minh

Nữ hoàng sống rất có tình

Ngân sách Cung điện không phình lên to

Tư sản dân chủ vẫn thờ

870. Hoàng gia một hộ căn cơ đồng tiền

Nghĩ về xứ Huế thần tiên

Những ngày đi học dân hiền như mơ

Vua quan dân sống tỉnh bơ

Việc Triều chính được phân chia rõ ràng

Pháp quốc chúng từng oang oang

Xứ thuộc địa nhất ông hoàng An Nam

Các vua phát vãng đi làm

Đảo xa cày cuốc bán hàng mộc may

Hàm Nghi, Duy Tân[17],… bị đày

880. Nhận ra Pháp quốc khéo tay trị người

Sau Chu[18] Bộ trưởng chê cười

Đi đày sơn cước sống đời thổ dân

Mạnh Hà[19] Bộ trưởng nhanh chân

Về làng Tây sống nhưng gần gũi ta

Ủng hộ kháng chiến hài hòa

Là cách yêu nước được tha truy lùng

Đối kháng hung hãn điên khùng

Xit-ta-lanh quyết phải dùng bạo tra

Đấu tranh giai cấp buông tha

890. Hữu khuynh hòa hoãn tự ta ra đồng

Đoàn ăn dưỡng có nhiều ông

Trê - ca thăm hỏi sau không thấy gì?

Bất ngờ bị dẫn giải đi

Về trại Gu - lắc[20] chết thì đem chôn

Nhân gian rất nhiều cô hồn

Nguyễn Du viết chữ cháo hòn chúng sinh

Tự lượng thấy sức của mình

Lyn nguyện vọng học tránh hình phạt căng

Tù Tây Hương Cảng công bằng

900.  Hai năm ở trại kiểu Ăng lê rồi

Tù Ta sớm muộn là toi

Quần đảo Gu-lắc hết đời thánh nhân

Lá bùa hộ mệnh ở chân

Tiếng sư nước Phạn anh lần ra ngay

Quốc tế thuận ý ký tay

Bắt Lyn đi học bậc thầy Lin râu

Học phiệt ở đó khá ngầu

Tưởng Giới Thạch[21] đã cãi nhau bỏ về

Thạch tự dân chủ dám chê

910. Cách mạng bạo lực hả hê làm gì?

Nghèo đông giàu ít siết ghì

Hóa ra đi cướp, Thạch ghi vào lề

Hữu tả hay buôn dưa lê

Lyn nghe phát ngấy mỗi khi họp bàn

Quan điểm của Lyn rõ ràng

Tìm mắt xích yếu hô làng búa đao

Cách mạng thắng được đoạn nào

Ăn chắc đoạn đó phong trào nổi lên

Giáo sư học viện Ông Lin

920. Khen trò thuộc địa biết tìm lối đi

Võ biền thuần túy biết gì

So găng thất bại là tùy táng nhau.

Về Trường Lyn học rất sâu

Nghiên cứu sách vở báo nhàu cũng xem

Thư từ với các anh em

Chi bộ bên Pháp xưng tên vang lừng

Tình hình thuộc địa bên Trung

Đế quốc xâu xé, trong lùng xét tra

Đặc biệt cộng sản nước Nga

930. Đang thời chỉnh huấn soái Sa hoàng[22] tèo

Đảng quyền có thứ đáng yêu

Đảng quyền cực tả rất nhiều tang thương

Liên Xô cất bước lên đường

Đẩy tăng năng suất nông trường rất to

Gang thép ào ào ra lò

Trang bị vũ khí đợi chờ đánh nhau

Cần lao nguôi nhạt cơn đau

Cơm áo hơn đứt ngày đầu Liên bang

Nhà ăn tập thể xếp hàng

940. Bánh mì bơ đặc hoàn toàn tự do

Kinh tế tư nhân co ro

Bị quốc hữu hóa sạch trơ răng hàm

Quân đỏ trấn áp xóm làng

Bạch vệ lẩn trốn chạy sang nước người

Từng qua Mỹ quốc “rong chơi”

Anh Ba vẫn nhớ những người anh em

Nhớ nàng văn sĩ Ka men[23]

Tinh thần phóng khoáng bậc trên địa cầu

Liên Xô có lẽ còn lâu

950. Mới đạt được những cây cầu bên kia

Bánh mỳ Mỹ bán giá vừa

Đồ dùng, thức uống đầy thừa quán ăn

Áo quần Mỹ vải ít nhăn

Công nghệ may dệt khác quần bố Nga

Thiệp hồng Lyn gửi đi xa

Thăm nàng văn sĩ tuổi ta ngũ tuần

Thiệp hình nước Nga mùa Xuân

Hoa cỏ trắng muốt ngút ngần thảo nguyên

Đi nhiều Lyn ngộ ra quyền

960. Con người mỗi nước, các miền khác nhau

Nhiều nơi dân không biết đau

Cam phận nô lệ chẳng sầu muộn chi

Nhiều vùng dân rất hay đi

Xuống đường phản đối sau thì di cư

Cầm quyền đa số rất hư

Chúng thường thay đổi cách lừa nhân dân

Khẩu hiệu nước Nga có phần[24]

Giống quân phát xít ở gần Ba Lan

Lyn đề xuất đi thực hành

970. Nông trường, trại lính, lều tranh, phố phường

Một học viên nữ bạn đường

Trê - ca cài cắm? Lyn thường đa nghi

Lộ trình dài dặm họ đi

Tây Âu cho đến Bắc Phi trở về

Qua vùng Trung Á gớm ghê

Giáo dân dao quắm súng kề trên vai

Bạn đường khen Lyn đẹp trai

Hào hoa phong nhã tiền xài xông xênh

Mỗi lần tá túc cửa thiền

980. Dục vọng co thắt nhưng tiền phồng ra

Bạn đường nhận mình Trê- ca

Giám sát đồng chí nghi là điệp viên

Những ngày điền dã thảo hiền

Thấy Lyn chân thật với miền quê Nga

Một đêm trăng sáng trại gà

Rơm thơm cỏ ngái như là dụ dâm

Nữ đồng đưa tay Lyn cầm

Dưới trăng thơ mộng sương dầm đôi vai

Người đâu tài đức đẹp giai?

990. Tình đi những bước rộng dài nhân gian

Lyn ôm đồng chí dịu dàng

Dùng phép sư Phạn cho nàng dịu nguôi

Một hôm họ tách đi chơi

Lyn lên xe ngựa theo người lạ xa

Đến một Hội quán nước Nga

Có người Do Thái xưng là Hội Tam[25]

Nghi lễ đón tiếp nhẹ nhàng

Lyn chìa bùa chú thuở sang Xiêm thiền

Bánh chay nước lọc giót thêm

1000. Nhiệm vụ làm đế một niềm tin trao

[1] Mãn Châu Lý là một thành phố thuộc khu tự trị Nội Mông Cổ, Trung Quốc. và có gianh giới với Nga ở phía bắc.

[2] Yakutsk là một thành phố ở vùng Viễn Đông Nga, nằm cách khoảng 450 km (280 dặm) về phía nam Vòng Bắc cực. Đây là thủ phủ của Cộng hòa Sakha, Nga và là một cảng lớn trên sông Lena.

[3] Iosif Vissarionovich Stalin (1878 -1953) là lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời năm 1953. Trong trường ca  gọi là " Ta- lanh"

[4] Ủy ban Đặc biệt toàn Nga (là cơ quan mật vụ của Nhà nước Xô Viết, được thành lập ngay sau cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga năm 1917. Đây là tiền thân của cơ quan an ninh Liên Xô (KGB).

[5] Bạch vệ  là lực lượng chính trị và quân sự Nga chống lại những người Bolshevik sau Cách mạng tháng Mười và chiến đấu chống lại Hồng quân trong Nội chiến Nga từ năm 1917 đến năm 1923.

[6] Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông được Quốc tế Cộng sản thành lập tại Moskva ngày 21 tháng 4 năm 1921 làm một cơ sở đào tạo các cán bộ cộng sản cho các nước thuộc địa và một số nước phương Đông.

[7] Thép đã tôi thế đấy! là một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nikolai A.Ostrovsky viết vào năm 1930-1934.

[8] Lyn (Lin) là bút hiệu anh Ba từ tháng 1 -1935 đến tháng 9 -1939.

[9] Aleksandr Vasiliyevich Kolchak (1874 - 1920) là một chỉ huy hải quân Nga, người thám hiểm Bắc cực và đầu sau đó là chỉ huy tất cả các lực lượng Bạch vệ tham gia các trận đánh chống lại chính quyền Bolshevik ở Xibia

[10] Kulak  (кулак) từ thế kỷ 19 được dùng để chỉ nông dân giàu có ở Nga. Sang thế kỷ 20 nó trở thành một nghĩa xấu.

[11] Khang Sinh (1898 - 1975)  từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Đảng, Phó Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc Trung Quốc. Khang Sinh được coi là "Beria Trung Quốc" là người đứng đầu cơ quan an ninh và gián điệp của Trung Hoa đã thực hiện những ngược đãi các đồng chí của mình trong thời kỳ Cách mạng văn hóa. Năm 1980, ông bị trục xuất khỏi Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

[12] Nguyễn Văn Cừ (1912 - 1941) là Tổng Bí thư thứ tư của Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1938 đến năm 1940, ông chưa từng ra nước ngoài, chưa gặp anh Ba.

[13] Phó tiến sĩ theo tiêu chuẩn Nga từ 13 tháng 1 năm 1934

[14] Lev Davidovich Trotsky (1879 -1940). Ông là một trong những lãnh đạo của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chỉ sau Lenin. Trong những ngày đầu lịch sử Liên Xô, ông làm dân uỷ ngoại giao, là người thành lập và chỉ huy Hồng quân và dân uỷ chiến tranh. Ông cũng là một trong những thành viên đầu tiên của Bộ chính trị. Giữa Trotsky và Stalin có sự mâu thuẫn, điều này dẫn đến việc Trotsky bị trục xuất và cuối cùng là bị ám sát ở Mexico sau khi Stalin lên cầm quyền.

[15] Bán đảo Krym hay Crưm là một bán đảo lớn ở châu Âu được nước biển Azov và biển Đen bao bọc gần như hoàn toàn, nằm ngay về phía nam của đất liền của Ukraina và về phía tây của miền Kuban thuộc Nga. Về hành chính, bán đảo này là một chủ thể liên bang Nga trong cuộc Khủng hoảng Krym 2014 khi Nga sáp nhập lãnh thổ này sau cuộc trưng cầu dân ý của cư dân trên bán đảo từ Ukraina.

[16] Biển Đen hay Hắc Hải là một biển nội địa nằm giữa Đông Nam châu Âu và vùng Tiểu Á. Biển Đen được nối với Địa Trung Hải qua eo biển Bosporus và biển Marmara.Biển Đen có diện tích vào khoảng 422.000 km², nơi sâu nhất đến 2210 mét. Sông Danube là dòng sông quan trọng nhất đổ vào Biển Đen. Được mệnh danh là biển ấm nhất Trái Đất.

[17] Hàm Nghi (1871 -1944), thụy hiệu Xuất Đế, tên thật Nguyễn Phúc Ưng Lịch là vị hoàng đế thứ tám của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.Ông  đã phát động phong trào Cần Vương, kêu gọi văn thân, nghĩa sĩ giúp vua, giúp nước. Phong trào này kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie) và qua đời tại đây năm 1943 vì bệnh ung thư dạ dày. Do áp lực của Pháp nên nhà Nguyễn không lập miếu hiệu cho ông.

      Duy Tân (1900 - 1945), tên khai sinh là Nguyễn Phúc Vĩnh San là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn. Khi vua cha Thành Thái bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp, ông bị đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) ông gia nhập quân  Đồng Minh chống phát xít Đức, ông mất vì tai nạn máy bay ở Cộng hòa Trung Phi.

[18] Chu Bá Phượng (1906 - 1964) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông là một trong những thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng, từng giữ các chức vụ Bộ trưởng Bộ Kinh tế (nay là Bộ Công thương) và Bộ trưởng Bộ Cứu tế (nay là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Sau khi Quốc dân Đảng thất thế tại Việt Nam, ông bị Việt Minh giam tại Hà Giang đến khi qua đời.

[19] Nguyễn Mạnh Hà (1913 - 1992) là nhà trí thức Công giáo, nhà chính trị Việt Nam, từng giữ chức Thanh tra Lao động Bắc kỳ, Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945. Ông về Pháp cùng các trí thức vận động chống chiến tranh Đông dương.Hồ Chí Minh khẳng định “ông là người yêu nước”.

[20] Quần đảo GULAG hay Quần đảo ngục tù là tác phẩm văn học của nhà văn người Nga Aleksandr Solzhenitsyn, người từng đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Cuốn sách gồm 3 tập, được viết từ năm 1958 tới 1968, được xuất bản ở phương Tây năm 1973. Cuốn sách là một tập hợp các lời kể về hệ thống trại giam Gulag của Liên Xô.

[21]  Tưởng Giới Thạch (1887 - 1975), là nhà chính trị và nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại. Ông sinh tại Ninh Ba, Chiết Giang, mất tại Đài Bắc, Đài Loan .Ông từng làm việc với cố vấn Nga, đến Nga vào năm 1923 để mua vũ khí, sau đó quyết định đưa con trai Tưởng Kinh Quốc tới đây học tập.

[22] Trước chiến tranh Thế giới II, Liên Xô thanh trừng nhiều nguyên soái, tướng lĩnh, đa phần họ là những người từng phục vụ quân đội Sa hoàng.

[23] Tên gọi thân mật của nhà văn, nhà báo Anh - Mỹ nào đó ở Boston (Hoa Kỳ) gặp anh Ba năm 1912 .

[24] Trước chiến tranh Thế giới II, tranh cổ động và khẩu hiệu của Liên Xô có nét vẽ giống tranh cổ động, khẩu hiệu của Đức cùng thời.

[25] Ngày 4- 6- 1922, Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào Hội Tam điểm và đã dự nghi lễ chấp nhận tại Trụ sở của Liên hội Quốc tế, số 94 đại lộ Đơ Xuypphơren (De Suffren), Pari. Anh vào Hội với ý thức muốn tìm hiểu mặt tiến bộ của tổ chức này. Cuối tháng 12-1922, Nguyễn Ái Quốc đã rút khỏi Hội.

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba ( 1001- 1200)

1001. Hội Tam hứa cho người vào

Miền Nam Trung quốc để trao uy quyền

Chủ yếu võ khí và tiền

Xem thời tạo thế chiếm miền Đông Dương

Môi-sơ[1] xưa đã chỉ đường

Các Mác khi mất nhắm phương Nam rồi

Do Thái là một giống người

Cơ mưu dài rộng được Trời ban ra

Ngày Cách mạng tháng Mười Nga

1010. Lái buôn Do Thái tung ra Rúp vàng

Cung Điện mùa Đông pàng pàng

Sau phát pháo hạm quân tràn lên nhanh

Khởi sự Lê nin đã thành

Vạn sự nhiều cuộc tranh giành, nay yên?

Nước Pháp cũng có vài tên

Đứng trong Hội kín ở bên nước Tàu

Thời gian hành khách lỡ tầu

Bao nhiêu huyền bí phía sau mờ dần!

Trở về học tập hàng tuần

1020.Đề cương luận án nhiều phần rất xương

Tiếng Nga không đủ tầm chương

Tiếng Tàu trích cú bình thường như ai

Tiếng Anh Pháp Đức Lyn xài

Tóm lược viết báo đăng bài rất hay

Sa lon báo chí từ đây

Mỗi khi làm việc chốt ngay cửa phòng

Rượu thuốc cà phê ròng ròng

Sau hao sức khoẻ thuở trong Nà Lừa[2]

Lúc buồn anh cũng cò cưa

1030.Nhị và sáo trúc thuở quê hương mình

Nhớ lời Cha dạy chữ "Minh"

Tử vi lý số anh trình bày hay

Mát cơ va có nhiều thầy

Chiêm tinh sao số họ bầy cho anh

Chào nhau chai rượu sâm banh

Vốt ka hậu tạ kết thành tri âm

Thấy Lyn là người có tâm

Ngả xới bốc phệ phí tầm tầm thôi

Về nước ông Ké một thời[3]

1040.Thầy mo cúng bái nhiều người rất mê

Gió trăng một túi đề huề

Qua hang thổ phỉ, đồng quê giặc càn

Yêu nước không chỉ cả gan

Phải nâng nhận thức trên ngang cõi đời

Trê- ca giam lỏng lâu rồi

Luận văn bảo vệ sau thời giảng văn

Mệnh trời giao đế nhân dân

Phúc vào tà áo phải phân chia đều

Gái xinh dụ dẫn quá nhiều

1050.Đắm vào sắc dục là tiêu danh trường

Đệ đơn về với quê hương

Học viện ngâm bản thói thường quan liêu

Thư về Hồng quân ông Mao

Khang Sinh thích lắm mời vào Tây An[4]

Kế hoạch chia tay rõ ràng

Nước Nga còn tính Sa hoàng lôi thôi

Rừng tai ga[5] một hồi còi

Tu hành xuống núi cập thời đế vương

Trê -ca cho người dẫn đường

1060.Âm thầm đưa tiễn, má hường chia ly

Sau này nguyên thủ khắc ghi

Hỏi thăm, nàng đã mất vì chiến tranh

Mát cơ va lùi xa nhanh

Tuyết rơi lấp ngọn cây xanh trắng mờ

Bánh mỳ khô cứng ngoáy bơ

Phương Đông xích lại vẫn mờ mịt đen

Trên tàu có chú thổi kèn

Bài ca quốc tế giọng rền rĩ buông

Lanh -téc –na- xi- ô -loong[6]

1070.Cách mạng thắng, dân phải tòng Đảng ta

Chờ cho tuổi Đảng chín già

Đại đồng thế giới khó mà thành công

Hội Tam gửi nhắn đôi dòng:

"Quê nhà có kẻ tố ông lỗi thời

Hữu khuynh xa cách giống nòi

Không dám về nước, rong chơi Nga Tầu"

Hà Tổng[7] tuy trẻ nhưng ngầu

Tố sai, “ném đá” vào đầu anh Ba

Quốc tế cộng sản lo xa

1080.Đình chức, bắt Quốc phải ra học đường[8]

Hà Huy số phận đau thương

Hội Tam ở xứ Đông dương xuống hèo

Thúc đẩy Xứ uỷ chạy theo

Phong trào manh động cờ treo hịch truyền

Mật thám mua chuộc bằng tiền

Nhiều kẻ phản bội dấu tên muôn đời

Một cuộc đàn áp tả tơi

Đảng sớm thay máu từ thời thiếu nhi

Quẻ "Tẩu" anh Ba khắc ghi

1090.Từ ngày anh thích ôm ghì Út Vân

Viễn Đông nâng đỡ bước chân

Theo con đường mật hồng quân dẫn về

Quân tư trang tá vừa ghê

Vai hàm thiếu tá dấu ve đặc tình

Diệp[9] chính uỷ tướng nhà binh

Trao hàm nói chuyện tình hình Nhật Trung

Chuyển lời lãnh tụ tin dùng

Giúp cho bát lộ quân hùng tráng lên

Bật ra đi ô ngày đêm

1100.Thông dịch nhiều tiếng sang bên chữ Tầu

Có dàn thư ký ngồi chầu

Hồ Quang  thiếu tá hất đầu sang trang

Mao quân ở khắp thôn làng

Nghe bài huấn luyện cách phang quân thù

Lợi khẩu lại giỏi văn thư

Hồ Quang tố Nhật ác như ma tà

Viết báo bút danh Pau la

Chu Ân thích quá tưởng là gái xinh

Một lần Chu quyết tỏ tình

1110.Pau-la tắm táp thân hình nai tơ

Cuộc đời tự lên cơn mơ

Chu Lai thân thiết hóng chờ chàng Pôn

Nhân gian tẻ nhạt vô hồn

Chẳng còn rung động sống mòn, sống trơ

Sau này tình ấy nên thơ

Vịt quay thùng xốp gửi cho bạn già[10]

Báo cáo Quang gửi về Nga

Tình hình Trung Quốc phân ra nhiều tầng

Tưởng quyết chiến thắng Ja pan

1120.Mao trường chinh kiểu tuyển quân trung thành

Toạ sơn hổ đấu rõ rành

Nhật thua Tưởng yếu Mao giành đế vương

Liên Xô chi viện chiến trường

Tò vò nuôi nhện lớn thường bỏ đi

Sau này Nga Trung xiết ghì

Đánh nhau mấy trận chán thì buông ra

Báo cáo có chương đắt là:

Chiến tranh du kích quân ta chiến gần

Hồ Quang hiểu sử quốc dân

1130.Từ quê hương Việt đánh quân nước ngoài

Chéo chân, đóng cửa soạn bài

Lối đánh du kích Mao xài khá hay

Đối phương thua thiệt a cay

Chúng dùng phản gián nuôi bầy Hán gian

Xét về mưu lược vũ trang

Chiến tranh hiệu quả Hồ Quang bậc thầy

Anh em tướng tá sau này

Gọi cha già chiến, bố hay vi hành

Suốt đời lãnh đạo chiến tranh

1140.Suốt đời theo vận phải giành đế vương

Phá Luân hoàng đế phi thường

Thua trận đứt gánh giữa đường tháo lui

Quốc tế cộng sản ngậm ngùi

Chỉ thuần bạo lực ai vùi lấp ai?

Một số bảo cách đó sai

Số khác khẳng định là bài học hay

Sinh tồn từ xưa đến nay

Mỗi loài một kiểu đổi thay miếng mồi

Phong trào trong nước sụt trồi

1150.Nửa vào bí mật nửa chơi nghị trường

Võ trang dao gậy phạt ngang

Đông Triều thổ phỉ hàng đàn Tàu Ta

Quốc dân Đảng[11] mất đại ca

Đệ tử vẫn chiến Lang sa cắc tùng,...

Thổ phỉ biên giới Việt - Trung

Săn gấu lấy mật buôn rừng phiện nha

Bán sang Tầu lấy đô la

Mua súng nòng xoắn bắn xa phừng phừng

Mao Tưởng dạt vòm tứ tung

1160.Vân Nam, lưỡng Quảng toàn vùng phía Nam

Ta gọi chúng là Hán gian

Cùng Việt bất hảo sẵn sàng đón phong,...

Trò phỉ anh Ba thuộc lòng

Thuở phu khuân vác Nhà Rồng anh hay

Chủ cửu rất là cao tay

Nắn bóp công xá, thuổng ngay bao hàng

Út không biết, rất dịu dàng

Yêu Ba như thuở chàng nàng xa xưa

Còi tầu khăn áo đón đưa

1170.Yêu Ba phu cảng được cha vun vào

Chín phương còn một ánh hào

Khơi trong gạn đục lấy vào tinh hoa

Tiền dư đã gửi cho Ba

Những mong nghiệp đế cứu nhà cứu dân

Nhà băng Đông Dương có phần

Lận lưng lộ phí Ba lần lần tiêu

Bất Vi xưa đánh võ liều

Buôn vua dốc bạc cực nhiều công lênh

Đời thường nhiều kẻ xông xênh

1180.Niềm tin nghĩa lớn biết bênh vực người

Ba đi không nở nụ cười

Ôm em Út nhỏ trọn đời yêu thương

Ba mươi năm cận đế vương

Về hang Pắc Bó má hường bủa vây

Nghĩa tình Sài Gòn chia tay

Còi tầu thề nhớ một ngày hợp duyên

Rõ ràng sức mạnh đồng tiền

Cộng tình chân thật là thiên sử vàng

Xưa nay nhiều chuyện trái ngang

1190.Ăn táo ngọt, tay lại quàng cây phong

Bất nghì bất nghĩa lộn tròng

Uống ăn nước khoáng quên nguồn cao xa

Tuyển quân vào đất Chi na

Giang hồ, cộm cán vài ba hạng người:

Sinh viên bị đuổi học rồi

Giáo chức bãi khóa ở nơi thị thành

Cách mạng cần lứa tuổi xanh

Người dân mạn ngược rất rành lối đi

Bình minh nhân loại từ khi

1200.Tìm ra ngọn lửa phún phì tự nhiên

[1] Moses là lãnh tụ tôn giáo, người công bố luật pháp, nhà tiên tri, nhà chỉ huy quân sự và sử gia. Ông cũng được xem là người chép kinh Torah (năm sách đầu tiên của Kinh Thánh, còn gọi là Ngũ kinh Moses). Trong tiếng Hebrew, ông được gọi là  "Moses Thầy chúng ta". Moses cũng là một nhà tiên tri quan trọng trong Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo,Đạo Bahá'í, Mormon, và Phong trào Rastafari.

[2] Lán Nà Nưa, đây là một căn lán nhỏ, nằm ở sườn núi Nà Nưa, cách làng Tân Lập (nay là Tân Trào) gần 1 km về hướng đông thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Hồ Chí Minh ở đó từ cuối tháng 5 đến ngày 22-8-1945 để chuẩn bị và lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa toàn quốc. Ở đây ông ốm nặng và nói với ông Võ Nguyễn Giáp “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”

[3] Tên gọi anh Ba từ ngày 28-1-1941 về Pắc Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) đến khi chuyển xuống Tuyên Quang tháng 5/1945. Ông từng cải trang làm thầy cúng.

[4] Tây An là một trong 4 kinh đô trong lịch sử Trung Hoa, là kinh đô của 13 triều đại, bao gồm: nhà Chu,  nhà Tần, nhà Hán và nhà Đường. Tây An cũng là điểm kết thúc phía đông của Con đường tơ lụa huyền thoại. Thành phố có lịch sử hơn 3100 năm với tên gọi trong thời đấy Tràng An hay Trường An. Năm 1936,  sự kiện Tây An đã diễn ra trong thành của thành phố trong nội chiến Trung Quốc. Sự kiện này đã khiến Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc thoả thuận đình chiến để tập trung đánh quân Nhật Bản.

[5] Rừng taiga là một khu sinh thái với đặc trưng nổi bật là các rừng cây lá kim. Taiga bao phủ hầu hết phần trên đại lục của Alaska, Canada, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Nga (đặc biệt là Siberi), cũng như phần xa nhất về phía bắc của Hoa Kỳ (không kể Alaska), bắc Kazakhstan và khu vực Hokkaido của Nhật Bản.

[6] Điệp khúc bài Quốc tế ca, nguyên tiếng Pháp “L'Internationale nghĩa là quốc tế”, lời tiếng Việt “Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ”

[7] Hà Huy Tập (1906-1941) là một nhà cách mạng Việt Nam, Tổng Bí thư thứ ba của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông sinh ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Ông hiểu lầm về quan điểm dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc.

[8] Ở Liên Xô năm 1934-1938, anh Ba ở Ban thuộc địa của Quốc tế cộng sản, không được giao nhiệm vụ cụ thể. Anh được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn đề thuộc địa.

[9] Diệp Kiếm Anh (1897 - 1986) Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Nhân đại (Quốc hội Trung Quốc)  từ năm 1978 -1983. Ông là một trong 10 nguyên soái của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đầu năm 1939, Diệp Kiếm Anh đến Hồ Nam (quê hương Mao Trạch Đông) để huấn luyện chiến tranh du kích - lúc ấy Hồ Chí Minh (người của Quốc tế Cộng sản) đóng vai một sĩ quan cấp bậc thiếu tá tham gia đoàn của Diệp Kiếm Anh (với bí danh Hồ Quang) để giảng dạy hai khóa liền từ tháng 2 đến cuối tháng 9 năm đó.

[10] Thủ tướng Chu Ân Lai biếu tặng Chù tịch Hồ Chí Minh năm 1969 thể hiện tình đống chí thân thiết nhiều chục năm.

[11] Việt Nam Quốc dân Đảng là chính đảng được thành lập năm 1927 tại Hà Nội, lãnh tụ là ô Nguyễn Thái Học làm khởi nghĩa Yên Bái tháng 2-1930. Sau năm 1975, tại Việt Nam, tổ chức này bị cấm hoạt động, hầu như chỉ hoạt động bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba (1201- 1500)

1201.Tinh thần độc lập đặt trên

Lịch sử đất Việt triền miên chống thù

Mượn Tầu tạm lập chiến khu

Hải ngoại cách mạng từ xưa nay rồi

Chiến tranh khói lửa ngút trời

Tây phát xít Đức, Đông thời Ja pan

Bĩ cực chồng chéo thế nan

Rất cần sấm Trạng nổ vang lúc này

Hồ Quang tranh thủ từng ngày

1210. Đọc kinh Lão tử[1] xem tay Trạng Trình

Xem lời cha tặng chữ "Minh"

Lần bùa sư Phạn đoán tình thế Ta

Hải Thần[2] thích xem chân gà

Học Lãm[3] dân quốc đoán già đoán non

Thái lai thử thách cô đơn

Hồ Quang thấy quẻ Càn Khôn[4] vào mình

Hội Tam phán đoán đồng minh

Thắng quân phát xít bằng hình phạt cao

Tiền bạc lặng lẽ chuyển vào

1220. Cho các dự án máu trào Á Đông

Chiến tranh dịch chuyển xoay vòng

Về nơi lạc hậu thử lòng các bên

Lái súng kiếm chác nhiều tiền

Thế giới phân cực thánh hiền về đâu?

Hồ thiếu tá hiểu rất sâu:

Gia Long[5] lập chiến khu đầu phía Nam

Đảo xa đất Phật Xiêm, Cam

Hai mươi năm chiến đánh tan Quang Bình[6]

Nguyễn Vương từ thuở bình sinh

1230. Mang vào nghiệp đế nâng trình đánh nhau

Nã phá luân lên ngôi đầu

Ngạo mạn chinh chiến thua đau vận tàn

Hồ Quang toan tính rõ ràng

Theo Đồng minh đánh Nhật hoàng là hay

Tưởng Mao biết rõ tay này

Ân tình thả xuống những ngày tù lao

Thiếu tá hai gạch một sao

Hồ Quang số má đỉnh cao ngút trời

Lâm Lan từng rủ đi chơi

1240. Vào rừng thi bắn Ba thời điểm cao

Võ biền thử thách anh hào

Bù nhìn rơm cháy chúng chào sư huynh

Giáo Văn[7] yếu ớt đòm uỳnh

Già Thu[8] thấy Giáp nhẫn hình vòng khuyên

Chiến tranh lúc tỉnh khi điên

Nướng quân như chả sau thiền tỉnh bơ

Dụng nhân nào đứng dưới cờ

Bản bộ ngõ ngách giang hồ đi theo :

Tử Phòng[9] thấy huyện Bái reo[10]

1250. Nguyên Hãn[11] Bạch Hạc thuyền chèo Lam Sơn

Lệ thường lấy chức trả ơn

Công lao chia thổ lớn hơn "đao điền"[12]

Muốn tu thành bậc thánh hiền

Cõi người phải hóng khắp miền chúng dân

Sau này như thế Việt gian

Khi ấy là những sĩ quan quân Tầu

Tình yêu tim đặt lên đầu

Gặp Lâm Lan ở Quảng Châu xong rồi

Danh sách đồng hương của tôi

1260. Cấp hàm chinh chiến nhiều nơi bắn đòm

Gặp nhau xiết vòng tay ôm

Tính về Tổ quốc một hôm đẹp trời

Chí Kiên[13] cứng rắn tuyệt vời

Thiết Hùng[14] đã một góc đời chiến tranh

Nguyên Bác[15] vạn lý trưởng thành

Văn chương võ giúp đàn anh chưa về

Văn Thụ[16] thao lược rất ghê

Mật thám Pháp đã về quê rình mò

Văn Cáp[17] trong sáng ngây thơ

1270. Chất người mỏ sắt biết thờ chính nhân

Tư tưởng cách mạng phải gần

Cần lao công xưởng Nam phần nhiều hơn

Xứ uỷ Nam kỳ rất khôn

Gieo mầm khởi nghĩa Ba Son, Phú Riềng

Sỹ phu Bắc Hà niềm riêng

Xuân Khu[18], Hạ Bá[19] rất siêng né thù

Đời sau không rõ thực hư

Đấu tranh dũng cảm lao tù tất nhiên

Trách ham sống thích nhiều tiền

1280. Như Ngô[20] thường vụ uỷ viên đầu hàng

Trách gì đối lập trái ngang

Xưng hùng tranh bá phải phang đến cùng

Bắc Sơn rừng núi điệp trùng

Chu[21] hùm sám nổi Tây từng phát kinh

Thái Nguyên Đội Cấn[22] tự mình

Làm cuộc binh biến tình hình đổi thay

Đô Lương[23] cảm hứng mê say

Ba Tơ[24] nổi dậy rừng dầy chở che

Tranh hùng khí thế rất ghê

1290. Chặt cây vướng mấu, chẻ tre gặp gờ

Anh em hải ngoại không chờ

Trâu chậm cỏ bụi nước bờ đục hoen

Hải Thần xem chân gà đen

Phán rằng Nhật Bản sớm chèn Phá Lang

Để cho hổ đấu tan hoang

Theo Đồng minh chống xâm lăng hợp thời

Tống Khánh kêu gọi mọi người

Chống quân phát xít khắp nơi địa cầu

Tống Mỹ[25] phu nhân sang chầu

1300. Quốc hội Mỹ quyết lập cầu hàng không

Giúp Tưởng Thống chế lập công

Mao quân nghênh chiến nhưng không hao mòn

Hồ Quang đi lại mỏi mòn

Hai bên Mao Tưởng thông ngôn rõ ràng

Tưởng nhìn thấy chỗ quá giang

Dạt vòm Bắc Việt mở mang đất Tầu

Mao tin chất cộng trong đầu

Hồ Quang bạn hữu dài lâu sâu bền

Nhờ Lâm Y Lan nhận tiền

1310.Lương hàm thiếu tá uỷ quyền ký danh

Đến năm Kỷ Dậu, Hoàng Tranh[26]

Giáo sư cho biết vẫn thanh toán đều

Có thời Ba thiếu tiền tiêu

Viết thư kể khổ như liều thuốc tiên

Nhà băng Đông Dương cảm phiền

Vẫn lưu tài khoản đến nghìn năm sau

Trước ngày anh Ba xuống tàu

Ngoại tệ cục lớn đã chầu nhà băng

Tư Đờn Cha của Út Vân

1320.Chăm nuôi phu cảng tối gần một chai

Cổ xưa cái chuyện tiền tài

Không tiêu tán hết đất xài biến đi

Ông Trần[27] bốc đúng quẻ "tuỳ"

Năm thìn rồng khát gặp thì hanh thông

Ba ba cắt tiết vài con

Gà giò một túm tụ đồng chí ta

Con đường xuống núi thông qua

Đông Nam hành tiến sớm ra thái bình

Hội Tam bắt mạch rất kinh

1330.Vào năm Ất Dậu tình hình đổi thay

Hoa Kỳ, Tàu Tưởng chung tay

Đánh Nhật mở cứ địa đầy Côn Minh

Căn cứ này khá yên bình

Đội đặc nhiệm Mỹ đóng dinh nơi này

Ông Trần tạo thế cờ hay

Về hang Cốc thử ớt cay cỡ nào?

Không qua được mắt Tưởng Mao

Mà trúng kế đánh người vào nước Nam

Thổ dân, thổ phỉ rất ham

1340.Con đường buôn bán rộng hàm lại qua

Chàng trai sơn cước Quảng Ba[28]

Gốc Kinh bạt xứ thật thà giao liên

Ông Trần sẵn sàng chi tiền

Đô, Bảng, Quan tệ sang Yên Nhật hoàng

Tiền tạo sức mạnh phi thường

Ngàn xưa mãi lộ con đường lụa tơ

Văn Thụ tạm quyền chức to

Hội nghị lần Tám trưởng trò về hang

Xuân Khu cùng với Bá Cang

1350.Sỹ phu đất Bắc lên hàng Trụ to

Già Thu[29] râu phún lơ phơ

Được gọi là "Bác"[30] từ bờ suối Lin

Nghị quyết lập Tổng Việt minh:

Địa hào trí phú chúng mình đánh Tây

Đuổi Nhật bảo vệ dân cày

Doanh gia yêu nước chung tay góp tiền

Học sinh cùng thanh thiếu niên

Phụ nữ, lão ấu, đạo Thiên, Phật, Hoà…

Công nhân truyền hịch to loa

1360.Việt minh vận động muôn nhà đánh Tây !

Cài người ở khắp đó đây

Truyền đơn như sấm báo ngày bão giông

Cháu Trưng, cô Ngát[31] giàu lòng

Mến yêu cụ Ké[32] như ông thánh hiền

Rau măng cháo bẹ ngô nghiền

Ba ba, cá suối rau giền nấu canh

Vòm hang nước thấm rất nhanh

Đô la ẩm ướt Cụ đành đem phơi

Chông chênh tảng đá ngoài trời

1370.Gác tiền, canh bạc Cụ ngồi thả câu

Dịch luôn sử Đảng Nga, Tầu

Dự các đồng chí đứng đầu quân Ta

Bên Tầu có trát mời qua

Mua rẻ vũ khí nhận quà Hội Tam

Sóng Hồng bận, không đi sang

Bá Cang trở lại địa đàng Từ Sơn

Rùa suối hôm đó đói cơm

Cắn câu, cháu Ngát vội đơm về lò

Cụ bật dậy như lò so

1380.Xem mai rùa[33] thấy phải vò vè bay

Hành trang sửa soạn đi ngay

Phục trang ông lái buôn Tày quá giang

Quảng Ba khăn gói vác mang

Giữa đường trượt ngã vội vàng thoái lui

Khoai chấm mật, số ngọt bùi

Quân Tưởng bắt được chúng vui vô cùng

Lì xì Tôn tệ chúng mừng

Tướng lĩnh quân Tưởng đã từng nghe danh

Thống chế nhận ra rất nhanh

1390.Sau là Nhật ký ngục xanh tháng ngày

Quê nhà đợi cánh hạc bay

Phong trào trong nước nhẹ chày giữ sân

Tin vào thánh, dựa vào thần

Manh động cách mạng là dân ốm đòn

Sóng Đỏ không kém trí khôn

Sĩ phu thế thủ giải buồn làm thơ

Hồ ca bị Tưởng nghi ngờ

Gián điệp Nhật Bản đang chờ lấy tin

Thẻ báo chí cộng tác viên

1400.Có bài chống Nhật đăng liền mấy trang

Hồ sơ yếu nhân rõ ràng

Tưởng sợ ám sát vội vàng chuyển đi

Qua nhiều lao khám ly kỳ

Cả trại tị nạn dân quy hàng Tầu

Trí thức rủ rê nhà giàu

Bỏ Mao theo Tưởng từ đâu kéo về

Thường phạm cộm cán rất ghê

Vào tù cờ bạc luyện nghề phạt nhau

Biệt danh tù nhân Min râu

1410.Tiếng Nga, Pháp, Mỹ, Việt, Tàu nói nghe

Thư pháp múa như rồng tre

Tiếu lâm kim cổ tù mê Min rồi

Đại bàng, đầu gấu có nhời

Dạ thưa, nhường nhịn, kính mời cao lương

Chúng tù bắt rận chiếu giường

Tầm quất, điếu đóm ngày thường tù lao

Một hôm Min nhận quà trao

Cai tù kính cẩn xin chào đại ca

Bọc quà từ từ mở ra

1420.Sách Thống chế tặng, bút và giấy biên

Bì thư bự một xấp tiền

Đồ dùng thức nhắm rượu truyền tay nhau

Wis ky, Cô nhắc, Đài Tầu

Tù nhân được bữa cực ngầu nhà pha

Thuốc lá cà phê đạo trà

Đi cung mỗi sáng Min ra ngoài trời

Làm thơ chữ Hán tuyệt vời

Tù mà như thế suốt đời tù lao

Nhưng Min thân thể thanh tao

1430.Đường thi bát cú vận vào thánh nhân

Bọn tù thấy thế theo chân

Đi xia chúng cũng cằn nhằn ra thơ

Tránh tù cộm cán điên rồ

Giải Min đi sớm bất ngờ ai hay

Hội Tam điểm đã ra tay

Nhờ tướng quân Tưởng : Min này phải giam

Thả ra hỏng việc Nước Nam

Để ma tù, những việc làm toi ngay

Sư Phạn cử đến một thày

1440.Nói rằng bùa ngải Min này đã theo

Quê nhà ảnh Cụ đã treo

Lễ Truy điệu Đế cảnh nghèo buồn thương

Thầy mo mang đến bó hương

Bùa phướn một mớ lợn mường một con

Tin từ một tay lái buôn

Chuyển tờ nhật báo chữ tuôn bên lề

Anh em vui sướng tê mê

Quay lợn chén, đợi Cha về cầm binh

Tưởng giao cho Hầu Chí Minh[34]

1450.Chủ nhiệm chính trị quyền hình xét tra

Hầu mới chớm tuổi người già

Thích nghe Hồ kể nước Nga bắn đòm

Chuyện tộc Cờ-rô-ma-nhom

Quan hệ tình ái kiểu tòm tem nhau

Hầu xướng kinh kịch nhạc Tầu

Van-xơ Hồ lướt mấy chầu rượu ngon

Liễu Châu thiên cảnh mê hồn

Chú Hầu dâng rượu lên hòn đá chông

Hầu rằng: Học Lãm có công

1460.Với Tưởng Thống chế đồng môn năm nào

Tình báo Tưởng bên quân Mao

Khen Hồ thiếu tá trình cao đức dầy

Nhật thua tính tháng, đếm ngày

Quốc Cộng hợp nhất bắt tay ôn hòa

Hầu mong Hồ sớm đại ca

Nước Nam, nước Bắc chúng ta yên bình

Phát Khuê[35] tướng Tưởng có tình

Dự phóng thích bạn Chí Minh trở về

Lập căn cứ địa ở quê

1470.Giúp Đồng minh Mỹ đánh về phía Nam

Chuyện Hầu toan vít cành cam

Gắp lửa chinh chiến chuyển sang nước nhà

Người Tầu chờm hớp rất xa

Lưỡng nghi, tứ tượng chúng là bậc trên

Chén anh, chén chú dâng lên

Hồ rằng: Độc lập vững bền như xưa

Anh về đất nước làm vua

Đón em sang Việt nhặt thưa trống chèo

Á Đông mình rất là nghèo

1480.Nhưng mà chớ vội đi theo nước người

Anh qua Âu Mỹ rong chơi

Kiểu chúng ăn ở đứng ngồi khác ta

Hàu chủ nhiệm: kính đại ca

Trăng tàn rặng liễu mờ xa cuối rừng

Đồng minh khí thế tưng bừng

Đánh Nhật đuổi Pháp trùng trùng quân đi

Tiêu Văn[36], Phát Khuê thầm thì

Nháy Hầu Chủ nhiệm mạnh chi bạc tiền

Hồ đi rất nhiều biên duyên

1490.Gặp các tướng lĩnh ở bên Tưởng Tầu

Mùa hè ở trấn Liễu châu

Chiến khu Dân quốc xanh mầu cỏ non

Nguyễn Du xưa tựa lầu son

“Bắc hành Tạp lục”[37] gợi hồn Kiều ca

Anh em trong nước lại qua

Vào trường quân chính Tưởng- Ta kết đoàn

Vẫn bài lý luận không mòn

Vẫn bài du kích chui luồn đánh nhau

Lớp học có vài tướng Tàu

1500.Dự giờ thích quá cái đầu anh Ba

[1] Lão Tử (571 TCN - 471 TCN) là một nhân vật chính yếu trong Triết học Trung Quốc, sự tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Lão Tử được coi là người viết Đạo đức kinh

[2] Nguyễn Hải Thần (1869 -1959) là một nhà cách mạng chống Pháp, người sáng lập và lãnh đạo Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách). Nguyễn Hải Thần giữ chức Phó Chủ tịch trong Chính phủ Liên hiệp.Tháng 7 năm 1946, khi tranh chấp giữa Việt Minh và các phe phái đối lập xảy ra, Việt Minh tấn công lực lượng của Việt Cách, Nguyễn Hải Thần phải sang Trung Quốc rồi đến Hồng Công lưu vong.

[3] Hồ Học Lãm (1884 - 1943) là một chí sĩ Việt Nam thời cận đại.Ông là bạn học với Tưởng Giới Thạch ở trường Võ bị Bắc Kinh, làm sĩ quan cao cấp trong quân đội Quốc dân Đảng.

[4] Quẻ Càn là trời (dương), ký hiệu ba vạch (≡) , quẻ  Khôn là đất (âm) ký hiệu vạch ba vạch đứt (≡ ≡). Quẻ Càn Khôn,  xếp trên Càn  dưới Khôn, có nhiều cách chú dịch quẻ này : "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" (một âm một dương gọi là Đạo).

[5] Gia Long (1762 -1820), tên húy là Nguyễn Phúc Ánh, gọi tắt là  Nguyễn Ánh (Nguyễn Vương) là nhà chính trị, nhà quân sự, vị hoàng đế sáng lập nhà Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.

[6] Quang Trung Hoàng đế (1753 - 1792), danh xưng khác là Bắc Bình Vương, tên khai sinh là Hồ Thơm, sau đổi tên thành Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Bình, là nhà chính trị, nhà quân sự và là vị hoàng đế thứ hai của Nhà Tây Sơn.

[7] Võ Nguyên Giáp (25 - 8 năm 1911- 4 tháng 10 - 2013), tên khai sinh là Võ Giáp, còn được gọi là tướng Giáp hoặc anh Văn, là một nhà chỉ huy quân sự và chính trị gia Việt Nam. Ông được bình chọn là một trong 100 vị tướng xuất sắc nhất mọi thời đại, và cũng là một trong những nhà quân sự vĩ đại nhất lịch sử hiện đại. Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng Tư lệnh của Quân đội nhân dân Việt Nam… Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội.

[8] Tên gọi anh Ba ở Pắc Bó năm 1941.

[9] Trương Lương (250 TCN - 186 TCN), biểu tự Tử Phòng là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán. Ông cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được người đời xưng tụng là Hán sơ Tam kiệt, đóng vai trò quan trọng giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán Sở, sáng lập ra nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được xếp vào hàng ngũ 10 đại quân sư kiệt xuất nhất lịch sử phong kiến Trung Quốc, đứng thứ 3 sau Tôn Vũ, Tôn Tẫn và đứng trên các bậc quân sư kiệt xuất khác như Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn. Vì thế, hậu nhân hay gọi ông là Mưu Thánh.

[10] Huyện Bái (nay là huyện Phong thuộc tỉnh Giang Tô), tên gọi Lưu Bang tức Hán Cao Tổ (256 TCN -195 TCN), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi Hoàng đế được 8 năm (202 TCN -195 TCN).

[11] Trần Nguyên Hãn (1390 - 1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Trần là con cô con cậu với Nguyễn Trãi, cùng Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông từng giữ chức Tư đồ,Thái úy, chỉ huy các trận đánh giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (1425-1426), bao vây Đông Quan, công phá thành Xương Giang và chặn đường tiếp tế của quân Minh trong chiến dịch Chi Lăng-Xương Giang (1427). Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế (1428). Trần Nguyên Hãn được phong làm Tả tướng quốc. Nhưng về sau vì tính đa nghi, Thái Tổ bắt tội ông, khiến ông tự sát ở Bạch Hạc. Đến đời Hoàng đế Lê Nhân Tông, ông mới được ân xá và khôi phục chức vị.

[12] Vua Lý Thái Tông định công ban thưởng cho Lê Phụng Hiểu, Lê Phụng hiểu thưa rằng: “Thần không muốn thưởng tước, chỉ xin cho về ở núi Băng Sơn (huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa nay), ném dao lớn đi xa, dao rơi đến chỗ nào trong đất công thì xin ban cho làm sản nghiệp”. Vua nghe theo Phụng Hiểu lên núi, ném dao xa đến hơn mười dặm. Vua lấy số ruộng ấy ban cho, tha thóc thuế cho ruộng ném dao ấy. Vì vậy, người Châu Ái gọi ruộng thưởng công là ruộng ném dao”.

[13] Phùng Chí Kiên (1901-1941) là nhà hoạt động cách mạng và quân sự Việt Nam. Năm 1994, liệt sĩ Phùng Chí Kiên được truy tặng Huân chương Chiến công hạng ba. Hơn 62 năm sau ngày mất, tháng 11 năm 2003, ông được Chính phủ Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam ra quyết định phong là cán bộ quân đội cấp tướng.

[14] Thiếu tướng Lê Thiết Hùng (1908 -1986) nhà hoạt động cách mạng, là vị tướng được phong quân hàm đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

[15] Nguyễn Sơn (1908-1956) là một trong những người Việt Nam được phong quân hàm cấp thiếu tướng đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955 nên ông được gọi là Lưỡng quốc tướng quân. Là vị tướng văn võ song toàn.

[16] Hoàng Văn Thụ (1909 - 1944) là nhà lãnh đạo cao cấp của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, người có đóng góp lớn vào phong trào cộng sản Việt Nam và là nhà thơ cách mạng Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

[17] Đặng Văn Cáp (1894-1984) một chiến sĩ cách mạng kiên trung, người cận vệ đầu tiên của Bác Hồ, người thầy thuốc tận tâm, tận tụy.

[18] Trường Chinh (1907 - 1988), tên khai sinh là Đặng Xuân Khu, là một chính khách Việt Nam. Ông giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam từ năm 1981 đến năm 1987. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (lần thứ nhất: 1941 - 1956, lần thứ hai: 1986), Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1960 - 1975) và Chủ tịch Quốc hội (khóa V, VI), là một nhà thơ cách mạng với bút danh Sóng Hồng.

[19] Hoàng Quốc Việt (1905-1992), ông tên thật là Hạ Bá Cang giữ chức Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ.

[20] Ngô Đức Trì (1901-1941), Ủy viên, Ủy viên Thường vụ  Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được bầu tại Hội nghị tháng 10-1930. Ông là con trai của nhà cách mạng Ngô Đức Kế.

[21] Chu Văn Tấn (1909 - 1984), Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là người tham gia lãnh đạo khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 khi quân Nhật tấn công Pháp ở tỉnh Lạng Sơn.

[22] Đội Cấn, hay Ông Đội Cấn (1881 - 1918) là biệt danh của Trịnh Văn Cấn, một thủ lĩnh trong cuộc binh biến chống chính quyền thực dân Pháp tại Thái Nguyên năm 1917.

[23] Ngày 13 -1 - 1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung), binh lính đồn Chợ Rạng (Thanh Chương, Nghệ An) đã nổi dậy chống lại thực dân Pháp. đánh chiếm đồn Đô Lương.

[24] Khởi nghĩa Ba Tơ là cuộc nổi dậy giành chính quyền của quân dân châu Ba Tơ thuộc tỉnh Quảng Ngãi, nổ ra ngày 11 -3 -1945, sau 2 ngày Nhật đảo chính Pháp ở Việt Nam.

[25] Tống Mỹ Linh, cũng được gọi là Bà Tưởng Giới Thạch (1897 - 2003)  là một trong 3 chị em họ Tống và được mô tả là người yêu quyền lực.

[26] Hoàng Tranh (nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Trung Quốc) tác giả bài  “Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” tạp chí Đông Nam Á Tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), số tháng 12 năm 2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc mang tính giả thuyết tính tiểu thuyết. Cuốn “Hồ Chí Minh dữ (thân) Trung Quốc” Giải Phóng Quân xuất bản xã, 1987 cho biết Hồ Chí Minh có tổng thời gian 17 năm ở Trung Quốc...

[27] Cuối tháng 2 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc với bí danh Ông Trần đến hiệu dầu cù là Vĩnh An Đường ở Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản Việt Nam ở Vân Nam để từ đó tìm cách trở về nước.

[28] Lê Quảng Ba (1914-1988) là một tướng lĩnh người Tày đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Tư lệnh đầu tiên Quân khu Việt Bắc. Ông là một trong những người đã đưa Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về nước đầu năm 1941, chịu trách nhiệm nơi ăn, chốn ở, nơi họp và bảo vệ Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8.

[29] Tên gọi Nguyễn Ái Quốc năm 1941 tại hang Pắc Bó.

[30] Tên gọi “Bác” xuất hiện từ dịp họp hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 5 năm 1941 ở Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng.

[31] Nông Thị Trưng, có tài liệu ghi Nông Thị Ngát (1920 -2003), trong vòng 8 tháng vào năm 1941-1942, bà đã làm giao liên cho "Già Thu", bí danh của Hồ Chí Minh lúc đó. Bà từng giữ chức Chánh án Toà án nhân dân Tỉnh Cao Bằng.

[32] Tên gọi Hồ Chí Minh cuối tháng 4 năm 1945 ở Cao Bằng

[33] Từ hàng ngàn năm trước người Trung Quốc xem “Bói mai rùa” đoán cát hung trong những sự kiện quan trọng.

[34] Hầu Chí Minh (1896-1980), Thiếu tướng, Trung tướng, Chủ nhiệm Cục Chính trị Chiến khu 4 của Trung hoa Dân quốc, người đã trực tiếp thả Hồ Chí Minh  theo lệnh của Tưởng Giới Thạch.

[35] Trương Phát Khuê (1896-1980), Thượng tướng quân đội Trung Hoa Dân Quốc, tham gia Bắc phạt, nổi tiếng trong binh biến Nam Xương. Trong chiến tranh kháng Nhật, là tư lệnh mặt trận Thượng Hải lần thứ nhất, sau đó là tư lệnh của Đệ Tứ quân khu. Sau năm 1949, ông sống tại Hồng Công.

[36] Tướng Trung Hoa Dân Quốc, Phó tư lệnh Hoa quân nhập Việt vào cuối tháng 8 năm 1945, chỉ huy Quân đoàn 62 và 53 tiến từ Quảng Tây chiếm Cao Bằng, Lạng Sơn, và những vị trí quan trọng dọc theo bờ biển tới Hải Phòng, từng làm trợ lý Tư lệnh Chiến khu 4 đóng tại Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc.

[37] Bắc hành tạp lục (Ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương Bắc) là tập thơ bao gồm 131 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du sáng tác trong khoảng thời gian ông dẫn đầu đoàn sứ bộ nhà Nguyễn sang Trung Quốc từ đầu năm Quý Dậu 1813 đến đầu năm Giáp Tuất 1814.

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba (1501 -1800)

1501.Học viên nước Phạn cũng qua

Học cách bảo vệ nhà chùa bằng dân

Hội Tam điểm, tay lần lần

Bí mật chi viện cho quân Việt Tầu

Sự đời nào biết gì đâu

Âm mưu học thuyết đứng đầu thế gian

Hít le cùng với Nhật hoàng

Từng lên Tây Tạng vào hang thỉnh thầy

Nhưng vì cái cách xuống tay

1510.Bạo tàn quá mức ai bày cho khôn

Hầu chủ nhiệm muốn rõ hơn

Mời Hải Thần đến chơi đờn so dây

Tiệc tùng xôm tụ đã bầy

Quan quân nho sĩ vui vầy một chương

Gái xinh y vũ phấn hương

Mao đài chén chú kính nhường đại ca

Vỗ tay, Hầu gọi chân gà

Sở trường lý số xem đà Đồng minh

Hải Thần tung vế đối kinh

1520."Hầu, Hồ" xoắn chữ rất tinh tế đời[1]

Hồ ca nhấp ngụm nước sôi

Thả ra vế đáp "nhĩ thời, ngã công"

Tình Hồ với Tưởng mặn nồng

Tuyết rơi Cụ vẫn ra sông tắm trần

Tiêu Văn cảm kích muôn phần

Ngỡ ngàng người Việt nếp dân nước Tàu?

Không biết tiền bạc ở đâu?

Hồ ca quà cáp nhiều đầu thiếu nhi

Phong bao hơn cả lì xì

1530.Cho trẻ mua áo quần đi đến trường

Xưa nay tình thương mến thương

Hoa quân nhập Việt chúng thường nhẹ tay

Giải giáp, quân Nhật về ngay

Đổi chác với Pháp,Tưởng quay về nhà

Vài người biết rõ Hồ ca

Những năm Lưỡng Quảng đã là vĩ nhân?

Trả lời báo chí liên quân:

Tôi là cộng sản vì dân nước mình

Xin thề một nhát đóng đinh:

1540.Năm mươi năm nữa tình hình vẫn yên

Cộng sản chưa thể dựng lên

Kiểu Nga xô viết ở trên quê nhà

Khán phòng họp báo cười khà,...

Nữu ước Thời báo: Đây là Đồng minh!

Hồ ca cảm nhận rất tinh

Chơi với Mỹ quốc nước mình khá hay

Phi trường dã chiến có ngay

Sĩ quan nước Mỹ vội bay đến Tầu

Mật đàm sau đó không lâu

1550.Không vận cấp tập đầu cầu Vân Nam

Dàn xếp các đội võ trang

Xem ngày cát lợi rẽ sang đất nhà

Vượt Tây Côn Lĩnh nhìn xa

Gió trời êm ả Quảng Ba dẫn đầu

Văn Cáp lặng lẽ bước sau

Giấy thông hành của Trưởng châu ký rồi

Trước sau vẫn có bóng người

Hoa quân bí mật cắm nơi Cụ dừng

Mùa này còn hoa chuối rừng

1560.Săn con lợn lửng vui mừng chia tay

Tiệc tùng vừa độ mê say

Trời Nam xanh thắm hẹn ngày gặp nhau

Đường xưa mây trắng phau phau

Chiến khu đất bạn hai đầu đế vương

Gia Long xưa rất can trường

Dạt qua Băng Cốc[2] tìm đường về Nam

Hà Tiên rừng mặn đước tràm

Chim trời cá sấu mỏ hàm cắn nhau

Gai dẻ Trùng Khánh[3] nhọn đầu

1570.Cụ Vương[4] rẽ đất chẳng sầu muộn chi

Miền Tây ở xứ Trung Kỳ

Trường Sơn chỉ để quân đi bắn đòm

Quà Mỹ tặng một ống nhòm

Cụ Vương giương hướng vào chòm bản xa

Một dàn du kích reo ca

Súng dài, cung nỏ đón Cha già về

Mặt mừng tay bắt thoả thuê

Bác mong các chú giỏi nghề chiến binh

Trước hết phải khỏe thân hình

1580.Thú rừng còn đó phải rình bắt săn

Rượu ngô, cơm lam phải ăn

Lấy sức chiến đấu với thằng giặc to

Căm bây xen tiếng rô rô

Du kích quân khoái già Hồ từ đây

Bộ tướng hội họp vài ngày

Biên cương phía Bắc dựng ngay hàng rào

Trấn áp bọn phỉ bên Tào

Chúng giả thương lái tiến vào nước ta

Đúng là trình độ đại ca

1590.Chống phỉ Nam tiến toàn ma nước Tầu

Rừng xanh núi thẳm xiên xâu

Phỉ và buôn lậu đánh nhau hàng ngày

Tưởng Mao thoáng chút a cay

Xâm nhập hàng xóm kiểu này từ xưa

Nguyễn Bình[5] đệ tứ chiến khu

Dùng toàn thổ phỉ cò cưa biên thuỳ

Cụ Vương cử ngay người đi

Hứa phong độc nhãn ngang thừa tướng quân

Tư tưởng chiến tranh nhân dân

1600.Vũ trang hậu thuận cho cần lao lên

Cách này mới thật vững bền

Kiểu dàn trận lớn hai bên mình tèo

Tựa như thân phận nhà nghèo

Khéo ăn qua bữa khéo chèo qua sông

Ngày mẹ vận áo nâu sồng

Canh cửi chợ tạm kiếm đồng bạc tiêu

Cha làm quan rượu quá nhiều

Bạn hữu qua lại, tiêu điều bỏ đi

Ba mươi năm lẻ ngựa phi

1610.Năm châu tứ bể Cụ ghi khắc lòng

Nghiệp lớn rất dễ đi tong

Chỉ vì quá chén bốc đồng lạc trôi

Tỷ phú Nhật Vượng[6] cập thời

Là nhờ năm tháng bên trời Nga Xô

Năm Thân tháng tận xô bồ

Khỉ rừng chí choé bên bờ suối reo

Báo năm Ất Dậu[7] hiểm nghèo

Cùng đường bất biến tự tèo quốc gia

Tắc thông đang hé lộ ra

1620.Quân Nhật bị đói dân ta khốn cùng

Nguyên Bình[8] heo hút cánh rừng

Vén rèm hang Cốc Cụ trưng đồ nghề

Chú Văn vội vã quay về

Nhận ngay Thánh chỉ hội thề nghĩa quân

Cụ giao cờ mũ áo quần

Vỏ bao súng ngắn vặn căn đôi lời:

Tuyên truyền giải phóng cuộc đời

Dụ dân gậy gộc gặp thời vùng lên

Nghĩa quân sẽ có bạc tiền

1630.Mua vũ khí ở đường biên đem về

Mỗi người phải thấm lời thề

Tận trung với nước nhận bề tôi dân

Đánh giặc phải nắm chắc phần

Thua dừng, thắng xốc thảo quần tới lui

Bài đánh du kích luyện trui

Sách chiến rất mỏng, chết vùi nghiêm trang

Trai tráng ở các bản làng

Đầu quân nườm nượp dài hàng nghĩa quân

Có chú chân đất ở trần

1640.Chung nhau tấm áo chăn phần cỏ thơm

Sắn bùi thịt nướng thay cơm

Chuẩn bị đánh chiếm Động Ngườm Ngao[9] kia

Thổ phỉ giấu của để chia

Toàn hàng Tàu Pháp súng chìa nòng đen

Nà Ngần, Phay Khắt[10] sáng đèn

Lính Ta lính Pháp gầy đen nhúm thằng

Giáp chĩa Pạc hoọc[11] pằng pằng

Nghĩa quân ném đá dao quăng chém vào

Tây Ta tháo chạy ào ào

1650.Chúng chỉ mong đợi cớ vào Phủ quan

Vạn sự thắng lợi hoàn toàn

Chia nhau chiến lợi liên hoan tưng bừng

Nhật lùn chiếm cứ đồng bằng

Nam Triều phong kiến thấy căng lắm rồi

Chẻ tre lật mấu như chơi

Bỏ hang về chiếm đất trời Tuyên Quang

Quân Tưởng quyết định đi sang

Giúp Ta kháng Nhật, vũ trang tăng dần

Tân Trào[12] rừng thẳm thưa dân

1660.Hơn đứt Bắc Cạn Chu quân dọn đường

Đã từng đọc vận đế vương

Cụ vào lán nứa xa nương tài mà

Chiến tranh Nhật- Mỹ ở Ta

Sỹ quan binh lính trình gà mờ thôi

Trung úy Sao bị bắn rơi

Trong trận không chiến trên trời biên cương

Chiến công tự đến bất thường

Bất chiến mà thắng đế vương đã từng

Ông Cụ rất đỗi vui mừng

1670.Đón phi công Mỹ trong rừng nguyên sinh[13]

Kế hoạch giao cho Đồng minh

Hổ Bay[14] sướng đến giật mình ký ngay

Giấy tờ đi lại hàng ngày

Côn Minh, Trùng Khánh vung tay chuyện trò

Pát ty[15] bên Mỹ hỏi dò

Quân của cụ Ké bây giờ ở đâu?

Cụ rằng: ở chỗ nông sâu

Toàn dân tự vệ  hóng chầu Đồng minh

Hành lang vận động lý tình

1680.Pháp, Tưởng, Mỹ quốc, Cụ khinh Mao rồi

Cà phê tiệc nhẹ cùng mời

Các hàng tướng tá bên trời Vân Nam

Chặn ý đồ Tưởng tràn sang

Nhận đồ tiếp vận nhiều hàng hóa hay

Phía Mỹ thực dụng đưa ngay

Mỹ kim một xấp bạc dầy xanh lơ

Ông Cụ cảm ơn xin chờ !

Đội đặc nhiệm đến đúng giờ hay hơn

Cơ hội hợp tác vuông tròn

1690.Tiếc thay bên Mỹ chờn vờn ngó nghiêng

Trở về Khu chiến Cụ nghiền

Dụng binh Tôn Tử sách biên rõ ràng

Hỏa công lừa địch dọc ngang

Nghi binh bằng trống rộn ràng khắp nơi

Soạn ra rất nhiều tờ rơi

Đưa về xuôi dọa dụ người địch ta

Nhóm biệt kích Mỹ đã qua

Lũng Cò dù trắng ngỡ ma nhà Trời

Anh Văn thấp bé nhẹ còi

1700.Tô Mát[16] đội trưởng cứ đòi Cụ Vương

Hai bên tổ chức thao trường

Thực binh kiểu Mỹ nhiều chương luyện rèn

Lũng Cò lấp lánh ánh đèn

Cụ Vương Tô Mát ngồi bên rượu trà

Chuyện nhiều sơ ý lộ ra

Đội Con Nai biết ông già này hay

Từng đến Mỹ quốc nhiều ngày

Xem thần tượng nữ phơi bày Tự Do

Tô Mát vẫn thấy lo lo

1710.Chất cộng sản dễ bóp cò vào nhau.

Nà Lừa lán ở rừng sâu

Lội qua con suối ngập đầu gối sang

Nguyên tắc bí mật an toàn

Đưa cơm như thể cho chàng chăn trâu

Trung đội gác ở hai đầu

Mò cua bắt cá nước ngầu đục trong

Nửa đêm cụ Ké nóng lòng

Lên cơn sốt rét đôi tròng mắt to

Tình hình đất nước cam go

1720.Nhật tàn Tưởng sẽ hét hò kéo sang

Nam Triều theo cách bảo hoàng

Để dân chết đói bỏ làng ra đi

Non sông lại kiếp nô tỳ

Bánh bao Tầu Tưởng chấm xì dầu cay

Còn đâu mái tóc óng dầy

Còn đâu những bát phở đầy sớm hôm

Gối mây chăn mỏng Cụ ôm

Cột tre liếp nứa gió nồm rét run

Anh Văn kịp đến giúp giùm

1730.Cụ rằng thời vận phá cùm xích gông

Hai ngàn cây số Trường Sơn

Dẫu phải phóng hỏa làm luôn lúc này[17]

Phải giành độc lập từ đây

Chính danh dân chủ mới thay đổi đời

Văn tướng kêu ối giời ơi !

Loan cho các đệ gần nơi lán Lừa

Thuốc của thầy cúng, thầy mo

Mũi tiêm của Mỹ Cụ bò dậy nhanh

Một khi nghiệp đế chưa thành

1740.Ma nào dám bắt hãm phanh lúc này

Tân Trào quan tướng đủ đầy

Trèo lên tảng đá một ngày họp xong

Tất cả đồng hướng đồng lòng

Nghĩa quân đã xuống tận Phong Châu rồi

Thái Nguyên, Bờ Đậu có người

Giao liên bị bắn bụng lòi ra thư

Chả biết câu chuyện thực hư

Út Vân gửi đến tâm tư mong chờ[18]

Giữa lúc cả nước đỏ cờ

1750.Tình riêng có thể bất ngờ tàn canh

Thư này bị hủy quá nhanh

Út Vân buồn tủi trở thành ni cô

Kỷ Dậu Bà vẫn nghi ngờ

Anh Ba còn sống Út chờ trăm năm

Anh Văn kê thực đơn ăn

Ba ba đầu suối cá tầm cửa hang

Thảo dược toa thuốc thầy lang

Đầu bếp ngoại hạng tiến dâng Cha già

Từ đó Cụ ít dùng gà

1760.Toàn chén đặc sản vườn nhà thả hoang

Rau rừng ở xứ Tuyên Quang

Mọc trên núi đá rau hoàng đế xưa

Anh em gần lán Nà Lừa

Săn thú hái nấm măng chua ở rừng

Gốc đa bày cỗ tưng bừng

Mái đình Hồng Thái khói lừng lên cao

Tô Mát da dẻ hồng hào

Wis ky đã hết rượu nào cũng ham

Báo cáo gửi về Vân Nam

1770.Khen Việt Minh biết việc làm độc chiêu

Trung đội Con Nai sớm chiều

Tắm tiên bên suối rất yêu đất này

Đồng minh gửi hàng sang ngay

Lựu đạn súng cối mũ giày thuốc men

Tưởng cung cấp lựu đạn đen

Cán dài chém gió bay lên nổ đùng

Nghĩa quân hừng hực oai hùng

Ở trần ôm cọc vượt bùng nhùng gai

Thời loạn thử thách chí trai

1780.Lập công báo quốc chọn bài báo ân

Tầng tầng, lớp lớp nhân dân

Cọc tre vót nhọn dao gằn đá hoa

Trống chiêng tín hiệu loan xa

Vùng lên đánh phá cửa nhà quan Tây

Phìa tạo[19] bị xích hàng dây

Van xin từ bỏ ruộng cầy cho dân

Tự do độc lập đến gần

Khắc làm khắc chén ba quân sướng nhoè

Cần lao từ đó hay khoe

1790.Việt Minh giải phóng chẳng đe nạt gì

Tiến quân về phía hạ du

Nhật hàng, Pháp chạy chiến thù nhẹ tâng

Thành lập đội Giải phóng quân

Đánh đồn phá bốt tiến gần Thủ đô

Hà Nội thời khắc xô bồ

Pháp Nhật, đảng phái phát rồ phát điên

Nhà giầu đúc túi giấu tiền

Cần lao chết đói hốt lên xe bò[20]

Bánh sắt khô khốc bờ Hồ

1800.Chợ thành âm phủ nấm mồ cần lao

[1] Nguyễn Hải Thần ra vế “Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh”. Hồ Chí Minh đối “ Nhĩ cách mệnh, Ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách”. (Dịch: Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, hai vị đồng chí, chí đều sáng/ Anh cách mạng, tôi cách mạng, mọi người cách mạng, mạng phải cách).

 [2] Thủ đô Vương quốc Thái Lan, còn gọi là Vọng Các

[3] Huyện thuộc tỉnh Cao Bằng

[4] Bút danh của Hồ Chí Minh từ năm 1925

[5] Nguyễn Bình (1908 - 1951) là Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, lãnh đạo quân dân miền Nam Việt Nam kháng chiến chống Pháp.Ông là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, ly khai năm 1936, tháng 6-1945 ông lập chiến khu Đông Triều. Ông cũng là người đầu tiên trong quân đội được nhận ông Huân chương Quân công hạng nhất.

[6] Phạm Nhật Vượng (sinh ngày 5 tháng 8 năm 1968 tại Hà Nội) là một doanh nhân và tỷ phú người Việt Nam. Năm 2020, ông là người giàu nhất Việt Nam và giàu thứ 286 trên thế giới với 5.6 tỷ USD.

[7] Năm 1945. Hồ Chí Minh từng tiên đoán năm Cách mạng Việt Nam thành công. Thơ chúc Tết ông viết ở Côn Minh, Trung Quốc” Vũ trang đón lấy thời cơ/ Đứng lên giết giặc trao cờ tự do/ Rồi trăm họ ấm no sung sướng/ Trên thế giới được hưởng bình quyền/ Nghìn thu danh vọng Rồng Tiên”

[8], Huyện Nguyên Bình, phía Nam tỉnh Cao Bằng, có Khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo: thuộc xã Tam Kim, nơi thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là tên của đội quân chủ lực của Mặt trận Việt Minh từ tháng 12 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945. Đây là tổ chức quân sự được xem là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

[9] Động Ngao hay Ngườm Ngao, đôi khi gọi là Động Ngườm Ngao, là một hang động nằm ở bản Gun, xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Động này toạ lạc trong lòng một quả núi, cách thác Bản Giốc 5 km.

[10] Trận Phai Khắt và Nà Ngần ngày 25 và 26 tháng 12 năm 1944 là 2 trận đánh đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiêu diệt 2 đồn nhỏ do đích thân Võ Nguyên Giáp chỉ huy.

[11] Loại súng ngắn (pháo hộp, hay thủ thương)

[12] Tân Trào là một xã thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, nơi Đại hội Quốc dân họp tại Đình Tân Trào ngày 16/8/1945 chuẩn bịTổng khởi nghĩa và bầu Ủy ban dân tộc giải phóng.

[13] Tháng 10/1944, có một Trung uý phi công Mỹ tên là William Shaw trong khi làm nhiệm vụ lái máy bay trên vùng trời biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã bị quân Nhật bắn rơi xuống xã Đề Thám (huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng), được Việt Minh cứu, Hồ Chí Minh dẫn viên phi công trao cho quân Mỹ ở Côn Minh.

[14] Claire Lee Chennault (1893-1958), ông là trung tướng không lực Hoa Kỳ, Chỉ huy Không đoàn 14 - còn được biết đến với cái tên nổi tiếng "Mãnh Hổ Bay", là cố vấn cấp cao cho lực lượng không quân Quốc Dân Đảng thời Đệ nhị thế chiến

[15] Archimedes L.A. Patti (1914-1998) là cựu sĩ quan tình báo, người đứng đầu phái bộ tiền trạm OSS đến Hà Nội tháng 8 năm 1945 để thực hiện nhiệm vụ giải cứu tù binh và chuẩn bị cho việc giải giới quân Nhật tại Bắc Đông Dương. Thời gian này, ông có những tiếp xúc với Hồ Chí Minh và chứng kiến ngày lễ Độc lập của Việt Nam. Năm 1980, ông cho xuất bản quyển hồi ký "Tại sao Việt Nam?", ghi chép lại những sự kiện chính trị quan trọng và về vai trò của người Mỹ tại Việt Nam trong giai đoạn này.

[16] Ngày 16 tháng 7 năm 1945, nhóm Con Nai thuộc cơ quan tình báo Mỹ OSS do Thiếu tá Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung cách Tuyên Quang 20 dặm về phía đông. Nhóm tình báo Con Nai được lực lượng Việt Minh tại Tuyên Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong vòng một tháng, nhóm Con Nai đã huấn luyện cho lực lượng Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du kích. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhóm Con Nai cùng Việt Minh về Hà Nội và tham dự lễ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

[17] Tại lán Nà Lừa ông Cụ ốm nặng và nói với ông Võ Nguyễn Giáp “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập

[18] Út Vân ở Sài Gòn gửi thư cho Anh Ba nhưng không tới.(Chi tiết này được nhà văn Sơn Tùng nói chuyện)

[19] Giai cấp thống trị trong xã hội dân tộc Thái thời trước.

[20] Nạn đói năm Ất Dậu là một thảm họa nhân đạo xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba (1801 -2000)

1801.Đảng phái sa lông dâng trào

Chính phủ thân Nhật mũ cao áo dài

Hóng chờ nho chín để xài

Thực là một lũ bất tài sợ Tây

Hà Nội không vội là đây

Lòng dân ấp ủ một ngày sao rơi

Mạch nguồn phải biết cách khơi

Vàng trong dân phải có người làm tin

Biết bao cô gái ngoan xinh

1810. Lỡ thời thất tiết phí nghìn vàng danh

Cần lao đồn thổi rất nhanh

Đế vương xa giá rừng xanh sắp về

Tiếng súng ở mấy miền quê

Sao vàng cờ đỏ lời thề quyết tâm

Đêm đêm bước chân rầm rầm

Hát diệt phát xít cứu dân cứu nhà

Giang hồ trộm cướp nghe ra

Chúng thôi cướp bóc chuyển qua quân mình

Chùa chiền am miếu ngôi đình

1820.Cứu quốc quân[1] ở dân tình dâng xôi

Việt minh cài cắm tuyệt vời

Thợ hoạn, kẻ sĩ là người của ta

Lái buôn địa chủ xông ra

Chống Tây cứu đói các nhà con dân

Cộng sản khi đó ẩn danh

Các cấp uỷ đảng rất rành thời cơ

Nguyễn Khang[2] vào thành may cờ

Họp chi bộ Đảng bên bờ ao thôn

Chùa Hà nơi cầu vọng con

1830.Cầu tình tình được, cô hồn rất thiêng

Cốm Làng Dịch Vọng[3] giã nghiêng

Hạt dẹt tròn dẻo đem chiên thơm lừng

Không chờ quân lệnh từ rừng

Thời cơ đã đến ngập ngừng là thua

Tướng ở tiền duyên từ xưa

Tự quyết không phải hỏi vua làm gì

Sáng ngày Mười chín tháng Thu

Cần lao vác trống rúc tù và công

Sao vàng cờ đỏ công nông

1840.Thay cờ ba sọc ở trong các Toà

Sắt tây cuộn thành chiếc loa

Bảo an đoàn trại bị ba phát đòm

Một số nông dân bán rơm

Tiện thể phóng hoả khói thơm ngút trời

Quân Nhật thua trận xả hơi

Kệ dân đất Việt tranh đòi tự do

Làng quê tỉnh lỵ reo hò

Trống rền, gậy đập, đốt lò khói xanh

Việt Minh thực chất tranh giành

1850.Chính quyền bị cướp cũng đành chịu thôi

Cách mạng đâu phải long trời

Kiểu bắn pháo hạm của người Nga Xô

Trọng Kim[4], Bảo Đại[5] trơ trơ

Mắt nhìn có vẻ nghi ngờ Việt Minh

Tưởng Tây Sơn, Nguyễn Quang Bình

Đánh ra miền Bắc thình lình về Nam

Việt Minh sơ lược võ trang

Dùng súng bằng gỗ, đập càng kéo xe

Lòng người có rãnh có khe

1860.Giải tỏa áp bức nhất tề đứng lên

Sĩ phu đầu cầu Tràng Tiền

Mũ ni quắp má ưu phiền Nam ai

Điệu hò xứ Huế ngắn dài

Sông Hương nước chảy tượng đài trơ vơ

Chuông chùa Thiên Mụ ngẩn ngơ

Đò về Vĩ Dạ thuyền chờ Văn Lâu

Thái Hoà hương đỉnh u sầu

Hoàng thành rêu phủ hào sâu đặc bèo

Gió thu thổi hàng thông reo

1870.Quan Nguyễn Công Trứ[6] không theo kiếp người

Dự rằng chuyên chế muôn đời

Súng ầm Cửa Thuận cát bồi Lăng Cô

Tình yêu đất nước vô tư

Quan quân nhà Nguyễn không từ gian nan

Thế giới đang thời lật trang

Cộng hoà tư sản đi sang đất người

Khoẻ cưỡi đầu yếu muôn đời

Dân ngu dễ bảo dân chơi dễ lừa

Chế độ thuộc địa nhiều mùa

1880.Bên nền quân chủ dân thua xích xiềng

Núi cao bởi ánh chiều nghiêng

Leo lên lại thấy núi miền kia hơn

Lưỡi trai lệch, miệng thờn bơn

Chó mèo ngắm ngía chê lông mày dầy

Bằng nhau là món chả cầy

Kiếp người đã bị trời đầy từ lâu

Khố rợ phải nấm nát nhầu

Đổi thay cách mạng nhiều mầu mây trôi

Ỳ trệ chắc chắn bị toi

1890.Hùm thiêng sa hố theo voi sập hầm

Thượng Chi treo ấn âm thầm

Uống trà rũ áo không cầm cờ ai

Hoa Đường[7] biệt thự quả sai

Bầu đoàn no đủ tiêu xài hàng rong

Quan trường đến lúc nản lòng

Buông trôi thời thế bằng không bất kỳ

Người nhà Hữu Bài[8] giải đi

Bắn luôn hai vị quan vì hiềm xưa

Sinh ra ân oán thâm thù

1900.Nhà Ngô chấp chính bắt tù Việt Minh

Cần lao tính cách thất tình

Kiểu đa nhân cách từ bình minh lên

Giữa hai làn đạn đảo điên

Tư thù xen kẽ lê xiên xích cùm

Võ quan họ Phan tên Hàm

Biết người họ Nguyễn Hữu làm quân ta

Con cháu lặn lội khóc òa

Cụ rằng : “Lịch sử xét tra sau này

Các cháu hăng hái mê say

1910.Đi theo cách mạng có ngày thành danh”

Phó Tướng Trần Huy[9] vào Thành

Tiếp nhận Bảo Đại đầu xanh cựu hoàng

Mỗi bên nổ ba tiến đoàng

Cờ vua lên xuống, bẽ bàng ấn gươm

Cờ Ta sao béo gườm gườm

Kinh Thành Huế vẫn gió buồn nhớ nhung

Chu Xương[10] vệ sĩ yêng hùng

Cụ mời ngồi xuống cho dùng thuốc thơm

Cụ rằng : Ngựa đã tung bờm

1920.Đạn ra nòng súng đỏ ngòm nước Nam !

Ý Cụ bắt Triều đình giam

Kiểu Ăng lê phớt đã làm từ lâu

Cựu hoàng bữa cuối u sầu

Sau làm cố vấn ghế đầu Ủy ban

Hoàng cung dịch chuyển vào Nam

Chức danh Quốc trưởng quai hàm rất oai

Dẫu lìa ngó ý còn dai

Tơ hồng vương vấn tuyền đài vấn vương

“Một cơn gió bụi”[11] đau thương

1930.Trọng Kim- cựu thủ cùng đường Cao nguyên

Sài Gòn xứ sở kim tiền

Chúng dân no đủ mặt hiền như mơ

Đảng phái nhận thấy thời cơ

Rắp tâm dựng một ngọn cờ ly khai

Nam Kỳ quốc[12] lắm anh tài

Dân chủ tư sản chơi bài ngửa ra

Anh chị lọc lõi ranh ma

Bảo kê chính khách quen sa lông ngồi

Xứ uỷ Nam kỳ phục hồi

1940.Khởi binh lớp lá từ nơi bưng biền

Từ xã huyện tỉnh tiến lên

Tầm vông nhọn hoắt trống rền phủ Tây

Vũng Liêm nổi tiếng một tay

Non hai mươi tuổi bắp cày võ trang

Biệt danh chú Sáu[13] nhân dân

Bí thư huyện uỷ sau lần lần thăng

Văn Giàu[14] cao học Phờ răng

Phương Đông tu luyện ngang bằng Dân Tiên[15]

Ông về Nam bộ cướp quyền

1950.Xuống tay quá mức chẳng phiền toái ai

Tuyên ngôn công trạng một bài

Gốc địa chủ muốn ly khai song kỳ

Trát đòi Giàu phải ra đi

Sống đời học thuật số như Liệu Trần[16]

Giao thời nhiều kẻ tranh giành

Hỗn mang bát nhào trở thành phân ly

Loài người gốc ở Đông Phi

Hành hương các hướng mầu bì trắng đen

Bọn người da trắng lớn lên

1960.Bọn da màu nhám vững bền số đông,...

Út về thăm bến nhà Rồng

Nghe còi tàu hú nóng lòng nhớ Ba

Biết rằng người ấy ở xa

Đế vương còn nhớ ngày ta hẹn hò?

Thông đường nhưng vẫn phải dò

Vào tù ra khám hỏa lò nhiều nơi

Đường về có lúc Cụ ngồi

Xe con dặt dẹo như trời hành nhau

Nằm cáng quân đi trước sau

1970.Đến làng Gạ,[17] Cụ nhức đầu dừng chân

Sư bên nước Phạn lại gần

Đổi trao bùa ngải mệnh quân vương rồi

Đào Nhật Tân chúm chím cười

Năm dân chết đói lạnh trời muộn hoa

Phố phường Hà Nội nhạt nhòa

Mùa Thu se lạnh mưa sa ngập đường

Các đệ dọn dẹp tiền phương

Chọn số 48 phố phường đông dân[18]

Nhà ông tư sản Nam phần

1980.Bán buôn tơ lụa toàn tằm ăn dâu

Tầng hai gió thoảng rộng sâu

Phòng làm việc có hai đầu cửa thông

Bảo vệ mật canh rất đông

Giả làm bán báo, hàn đồng thiếc nhôm

Sáng ra tay xách nách ôm

Bó hoa tươi đẹp rượu thơm trà hồng

Cô chủ mắt hạt nhãn lồng

Được trên căn dặn chăm ông Thượng nầy

Một hôm vua nắm bàn tay

1990.Khen cô phúc lớn hậu dầy trăm năm

Giai cấp tư sản rất thâm

Ngôi nhà cho mượn chỉ tầm ngàn cây

Cháu con đòi suốt đêm ngày

Đòi đường tên bố rộng dầy dài xa

Những ngày Cụ duyệt quốc ca

Thảo Tuyên độc lập khách ra khách vào

Tuyên ngôn Mỹ Pháp dạt dào

Dân sinh, dân chủ, dân trao lợi quyền

Pát ty, Mạnh Tường[19] được quyền

2000.Đọc dịch hiệu đính ra tuyền chữ Tây

[1] Cứu quốc quân là tên gọi chung chỉ các đội du kích chống Pháp của Việt Nam ở chiến khu Bắc Sơn trong thời kỳ 1941-1945; tháng 5 năm 1945, Cứu quốc quân đã hợp nhất với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân, trở thành Việt Nam Giải phóng quân.

[2] Nguyễn Khang (1919-1976) là một cựu chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ  năm 1945, người đầu tiên quyết định và trực tiếp lãnh đạo thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Hà Nội trong Cách mạng tháng Tám, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt.

[3] Tên nôm là làng Vòng có chùa Hà, nay phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội

[4] Trần Trọng Kim (1883 - 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần từng làm thủ tướng của chính phủ Đế quốc Việt Nam vào năm 1945 (chính phủ này được Đế quốc Nhật Bản thành lập trong thời kỳ chiếm đóng Việt Nam).

[5] Bảo Đại (1913 - 1997), tên khai sinh: Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy  là hoàng đế thứ 13 và là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn, cũng là vị hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam.

[6] Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ thời nhà Nguyễn. Ông làm quan qua các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Ông nổi bật về việc khai hoang, mộ dân ở và lập nhiều chiến công trong việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình và trong Chiến tranh Việt–Xiêm (1841–1845). Ông viết: Kiếp sau xin chớ làm người/Làm cây thông đứng giữa trời mà reo/Giữa trời vách đá cheo leo/Ai mà chịu rét thì trèo với thông.

[7] Biệt thự bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, Phạm Quỳnh (Thượng Chi) lui về sống ẩn dật ở biệt thự.

[8] Nguyễn Hữu Bài (1863 -1935) là Thượng thư Bộ Lại trong triều đình Huế. Tướng Phan Hàm cho biết, người nhà Nguyễn Hữu Bài tham gia xử bắn ông Phạm Quỳnh. Khi làm quan hai ông Thượng thư có hiềm khích.

[9] Trần Huy Liệu (1901 -1969) là một nhà văn, nhà hoạt động cách mạng, nhà sử học, nhà báo Việt Nam. Tháng 8 năm 1945, ông dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào và được bầu làm Phó chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền  trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam..

[10] Chu Đình Xương (1913 - 1985) là cán bộ cao cấp của ngành công an, từng giữ chức Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ năm 1945, Phó Giám đốc Sở Công an Trung Bộ, Giám đốc Sở Công an Nam Trung Bộ, sau chuyển ngành làm Chánh Văn phòng Bộ Văn hóa. Ông kể với con ông là GS.Chu Hảo “…đoàn công tác vào Huế để tước ấn kiếm và buộc Bảo Đại thoái vị thì Bác Hồ tỏ ra không bằng lòng: “Sao các chú dại thế? Thế giới người ta đang nhìn mình “đỏ loè”, còn một chút “vàng vàng” thì các chú lại bôi cho “đỏ” nốt!”

[11] Cuốn Hồi ký do Trần Trọng Kim (1883-1953) viết năm 1949, xuất bản lần đầu tiên năm 1969 mang nội dung tóm lược quãng đời làm chính trị của ông từ năm 1942 đến năm 1949.

[12] Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ là chính thể bán độc lập tồn tại giai đoạn 1946 - 1948 tại địa phận Nam Kỳ thuộc Liên hiệp Pháp nhưng không được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận.

[13] Võ Văn Kiệt (1922 - 2008)  là nhà chính trị Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ, quê ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, Trong thời gian Khởi nghĩa Nam Kỳ ông là Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ tại huyện Vũng Liêm.

[14] Trần Văn Giàu (1911 - 2010) là nhà hoạt động cách mạng, nhà nghiên cứu lịch sử, triết học và nhà giáo Việt Nam. Năm 1928, sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông được gia đình cho sang Pháp du học tại Đại học Toulouse với lời hứa "mang về hai bằng tiến sĩ"; giữa năm 1931, ông được tổ chức đưa sang Liên Xô học tại Trường Đại học Đông Phương. Ông làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ.

[15] Trần Dân Tiên là tác giả của cuốn tiểu sử nổi tiếng “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”. Đây cũng là tác phẩm duy nhất của tác giả Trần Dân Tiên. Có ý kiến cho rằng Trần Dân Tiên là bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

[16] Trần Huy Liệu, đã chú dẫn.

[17] Nay là làng Phú Gia (tên nôm là làng Gạ),phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội. Ngày 23 đến 25- 1945 Cụ Hồ ở đây trên đường về Thủ đô.

[18] Nhà số 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô nằm giữa khu phố cổ, trung tâm thương mại sầm uất của Hà Nội xưa, nay thuộc phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, Trung ương Đảng chọn làm nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày đầu Người từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội tháng 8/1945.

[19] Nguyễn Mạnh Tường (1909 -1997) là một luật sư, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Năm 23 tuổi (1932) ông đỗ liên tiếp hai bằng Tiến sĩ tại Pháp, được khen ngợi là một tài năng hiếm có.

Xem tiếp 1420 câu...

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (2201-2300)

2201.Đế Vương thao thức trong lòng,

Tuổi dậy thì đã phập phồng tim yêu.

Bóng cau ngả sớm nghiêng chiều,

Út Vân xinh đẹp dúi liều tay Ba.

Khi chiếc bánh, lúc đồng quà,

Là người ai cũng nhớ ra nghĩ về.

Trường Sơn xẻ  dọc lời thề,

Quê nhà trở lại rồi về Đá Chông.

Chưa nên tình nghĩa vợ chồng,

2210. Duyên tình trai gái Nhà Rồng duyên Vua!

Pháp là đế quốc cò cưa,

Ký xong “Sơ bộ”[1] lại lùa quân ra.

Bắn phá gây hấn quân Ta,

Phông - ten[2] cơ hội đã qua mất rồi.

Xanh- tơ -ni[3] muốn nuốt tươi,

Đội quân ông Cụ trẻ người dạ non.

Hoà đàm mở rộng lối mòn,

Quốc mẫu phải để cho con lấy chồng.

Tham lam già néo sang đòn,

2220.Xắn tay thượng võ sống còn cũng hay.

 Pháp tuyển lê dương cả bầy,

Tù binh phát xít tràn đầy nước ta.

Chết thay cho giống Gô - loa[4],

Kinh đô Ánh sáng[5] bịp loà Đồng minh,

Châu Âu chuyển lửa chiến chinh,

Quân Pháp không biết phận mình là ai?

Nổi lên đàn lũ tay sai,

Tương tàn huynh đệ hơn bài sử xưa.

Hà Nội chưa vội sang thu,

2230.Phượng hồng rực lửa tiếng ve bào trời.

Quốc dân bầu bán xong rồi,

Biếu không vài chục ghế ngồi chỉ danh.

Rất nhiều đảng phái tranh giành,

Lộ ra tên tuổi, phát đoàng về sau.

Ngu nào cũng dễ ngu lâu,

Tham sân si chẳng biết đâu điểm dừng.

Bạo tàn không có giờ ngưng,

Chi bằng chân thật lấy mừng quên lo,...

Mùa đông Đinh Hợi Bờ Hồ,

2240.Ba càng bốc nổ cụ Rùa nhức tai.

Hà Thành chiến Pháp lần hai,

Cảm tử quân viết nên bài sử xanh.

Leo dây bám mái đu cành,

Tự vệ Hoàng Diệu[6] tranh giành với Tây.

Mùa đông giá buốt bàn tay,

Siết cò súng nổ đạn cày tứ tung.

Tây Ta đuổi bắt, truy lùng,

Phố phường Hà Nội cảnh rừng thợ săn.

Rét về môi bụm vào răng,

2250.Nhĩ Hà nước cạn quân băng qua dòng[7].

Toàn quốc kháng chiến loan xong,

Pháo Đài khai hoả lửa hồng Thủ đô.

Ngoại xâm một lũ điên rồ,

Bắn dân chạy loạn cướp vồ của rơi.

Đế vương bí mật di rời,

Chau mày nhìn lửa ngút trời Thành đô.

Nước Nam từ thuở xa xưa,

Vua đi kháng chiến thắng thua đã từng.

Nước Nam quá nửa núi rừng,

2260.Nứa tre dây rợ lập vùng chiến khu.

Tuyên Quang trở thành Thủ đô,

Gió ngàn đưa xác quân thù về xuôi.

Khỉ rừng chí choé cắn đuôi,

Măng le chấm muối chăm nuôi quốc đoàn.

Đánh nhau kiểu quỷ nhập tràng,

Chiến dịch Việt Bắc phá toang thế cờ.

Thông đường biên giới quân cơ,

Mao quân chiến Tưởng bất ngờ gặp ta.

Cụ cho quân tiến quá đà,

2270.Thuật xưa chọn cách giết gà dọa trâu!

Thập Vạn Đại Sơn [8]chiến ngầu,

Mao quân sái cổ gật đầu khen hay.

Mỹ -Trung -Việt từng bắt tay,

Mắt sau mày trước vung chày đâm dao.

Sử xanh chớp loé ánh hào,

Đêm ngày súng nổ, cuốc đào hố chôn.

Núi sông ấp ủ cô hồn,

Mầu da sắc tộc đổ dồn về đây.

Mùa mưa sông nước dâng đầy,

2280.Bom rơi đạn nổ hố lầy thân đê.

Bốt đồn ung nhọt làng quê,

Bắn dân thay lối đường về thôn hương.

Mái tranh, bàn nứa, ống bương,

Cụ ngồi vê bút chì thường nát tan.

Quân lệnh thúc giục tướng Văn,

Quân cơ Sóng Đỏ ở gần tấu lên.

Trường kỳ kháng chiến vững bền,

Phá Luân từng phải bỏ miền Ban Nha.

Rút lui khỏi Mát cơ va,

2290.Thua đau trận cuối ở Oa téc lồ.

Vườn không nhà trống thế cờ,

Ém quân, thần tốc bất ngờ đó đơm.

Mưu lược chiến của Hồ Thơm,

Mưu toan của đế Nguyễn Vương kết vào.

Dựng nên sách lược bậc cao,

Dụng binh Tôn tử[9], mưu Tào Tháo chơi.

Ba quân răm rắp vâng lời,

Đoàn kết dân tộc thọ thời chiến tranh.

Hoà bình truy xét công danh,

2300.Còn nhiều nhầm lẫn sinh ganh ghét đời.

[1] Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt là một hiệp định được ký tại Hà Nội ngày 6 - 3 -1946 giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiệp định này được xem là một nước cờ chính trị của cả hai bên nhằm mưu đồ lợi ích riêng.Các nhà sử học phương Tây và Việt Nam đều cho rằng Hồ Chí Minh đã đặt cược uy tín của mình để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh giữa hai dân tộc Pháp -Việt.

[2] Hội nghị Fontainebleau chính diễn ra từ ngày 6-7 đến ngày 10-9 năm 1946 tại lâu đài Fontainebleau (Cộng hòa Pháp) theo phía Việt Nam đã thất bại, do phái đoàn Pháp vẫn cố giữ lập trường thực dân và ngay trong thời gian đang đàm phán họ đã ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng chiếm đóng tại Việt Nam, liên tiếp vi phạm các điều khoản của Hiệp định sơ bộ 6-3. Tuy cuộc đàm phán bị bỏ dở, nửa đêm hôm sau, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nhà riêng Bộ trưởng Bộ Hải ngoại là Marius Moutet ký kết Tạm ước Việt - Pháp mục đích ngưng bắn ở Nam kỳ. Sau khi ký Tạm ước Việt - Pháp, Hồ Chí Minh nói với nhân viên mật thám Pháp được phân công bảo vệ ông: "Tôi vừa mới ký một bản án tử hình của tôi!".

[3] Jean Sainteny (1907-1978) là một chính khách và cựu sĩ quan tình báo người Pháp, đại diện cho chính phủ Pháp tại Đông Dương những năm 1945-1946, về nước có tư tưởng giải quyết chiến tranh bằng thương lượng. Từ 1962 -1966 ông là Bộ trưởng Bộ Cựu chiến binh và Nạn nhân Chiến tranh, năm 1969 ông đại diện cho Chính phủ Pháp dự Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh.

[4] Tổ tiên của người Pháp là người Gô-loa (Gauiois), tiếng Latinh viết là Gallus còn có nghĩa là "gà trống". Gà trống là một biểu tượng quốc gia của nước Pháp.

[5] Paris là thủ đô của nước Pháp, cũng là một trong ba thành phố phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới cùng Luân Đôn và New York.

[6] Đoàn Thanh niên Tuyên truyền Xung phong thành Hoàng Diệu là một lực lượng võ trang tuyên truyền tồn tại từ 1945 đến 1947 ở nội thành Hà Nội, sau thuộc quyền chỉ thị trực tiếp của Việt Minh.

[7] Ngày 17-2 -1947, sau 2 tháng chiến đấu cầm chân quân Pháp tại Hà Nội bảo vệ 38 nghìn người tản cư an toàn, Trung đoàn Thủ đô đã thực hiện thành công cuộc rút lui chiến lược ra khỏi vòng vây của quân Pháp cùng với một bộ phận nhân dân Liên khu 1. Bắt đầu 17 giờ ngày 17, từ đình Phất Lộc, ra bãi cát ven sông Hồng, trung đoàn đi dưới gầm cầu Long Biên (có lính Pháp gác trên cầu), lội sang bãi giữa sông rồi vượt sông bằng thuyền, về vùng tự do thuộc huyện Đông Anh. Đến 8 giờ ngày 18 tháng 2, toàn trung đoàn đã vượt sông xong. Khi gần sáng, quân Pháp phát hiện và truy kích nhưng bị chặn đánh và phải bỏ cuộc trước đội du kích Hồng Hà, do ông Nguyễn Ngọc Nại chỉ huy.

[8] Đầu tháng 6-1949, lực lượng Việt Minh tham gia chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn chống quân Tưởng Giới Thạch, chia làm hai bộ phận, một bộ phận từ Cao Bằng, Lạng Sơn, vượt biên giới sang hoạt động ở Biên khu Điền Quế, vùng Long Châu (Mặt trận phía Tây Thập Vạn Đại Sơn) và một bộ phận từ Lạng Sơn, Hải Ninh hành quân sang hoạt động ở Biên khu Việt Quế vùng Khâm Châu và Phòng Thành (Mặt trận phía Đông Thập Vạn Đại Sơn).

[9] Tôn Vũ (545 TCN - 470 TCN) là một danh tướng kiệt xuất của nước Ngô ở cuối thời Xuân Thu, nhờ cuốn binh thư của mình mà được tôn là Tôn Tử, lại bởi hoạt động chủ yếu ở nước Ngô, nên được gọi là Ngô Tôn Tử để phân biệt với Tôn Tẫn  ( 382 TCN - 316 TCN),Tề Tôn Tử là người nước Tề ở thời Chiến Quốc.

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (2301- 2500)

2301.Chiến dịch quân sự khắp nơi,

Hùm gầm, voi xéo tàn rơi lửa bùng.

Pháp chiếm biên giới Việt-Trung,

Binh đoàn mãnh hổ Sác tông[1] đóng đồn.

Mao quân run rẩy bồn chồn,

Tiện tay Pháp dắt bò non của Tầu.

Đường Bốn, Văn Việt[2] cực ngầu.

Trung đoàn Hổ xám đánh nhau đêm ngày.

Công kiên đồn bốt của Tây,

2310. Thuốc nổ nhồi ống thành cây sào dài.

Đế Vương sức vóc dẻo dai,

Vuốt râu ra trận lên đài chỉ huy.

Việt minh thắng trận Đông Khê,

La Văn[3] chặt đứt tay thề xung phong.

Dường như Cụ đã thuộc lòng,

Thế trận kinh điển Tây Đông đã từng.

Giáp tướng định chiếm một vùng,

Vĩnh Yên[4] cửa ngõ Pháp dùng pháo binh.

Na pan dội xuống rất kinh,

2320. Trận này địch giết Việt minh khá nhiều.

Lệ thường thua trận tướng tiêu,

Ta rút kinh nghiệm chỉ điều chỉnh quân.

Nam Bộ và xứ Trung phần,

Địch ta giao chiến lúc gần khi xa.

Ý đồ của tướng Na va[5],

Dựng xây cứ điểm mái nhà Đông Dương.

Đoàn quân Tây Tiến[6] can trường,

Bắc Lào chinh phạt xẻ đường núi cao.

Rừng cây gió thổi lao xao,

2330. Gặp địch thì ít hổ nhào thì đông.

Nấm mồ viễn xứ nhớ không?

Dọc ngang Tây Bắc sang Phông -xa- lỳ…

Thư giãn Cụ cưỡi ngựa đi,

Vào rừng săn thú súng tỳ chạc cây.

Tiếng đòm khói tỏa lên mây,

Chưa bao giờ trúng cáo cầy, chồn hoang.

Đệ tử bồi thêm tiếng đoàng,

Thịt quay bữa tối đón vầng trăng lên.

Cõi trần lắm lúc như tiên,

2340. Đế vương mang tính Thánh hiền nhiều đâu?

Giáp tướng mơ mộng tình đầu,

Tâm tư với Bác tình sâu thuở nào.

Chiến tranh mất liễu, hết đào,

Giống nòi ta biết thả vào đúng nơi ?

Tuổi Bác chớm ngoại sáu mươi,

Đêm ngày ắt phải có người gối chăn.

Bác cười trán giãn vết nhăn,

Cuộc đời tranh đấu phúc phần đem chia.

Buông câu trên bến ngòi Thia[7],

2350. Bơi thuyền sông Đáy nhớ về cố nhân.

Binh đao khói lửa mau tàn,

Bến Rồng ước hẹn với nàng Út xinh.

Ra đi mang một dấu tình,

Ngựa xe lối cũ chỉ mình với ta.

Trời tuy có mắt nhưng xa,

Trái tim thầm vọng "Anh Ba hẹn về"

Diễm tình nâng đỡ lời thề,

Chân tình hun đúc đam mê việc lành.

Đồn rằng bà chị tên Thanh,

2360. Đi xem bói số cậu Thành quả nhân.

Chỉ vì đế quốc xâm lăng,

Chối từ thỉnh nguyện tấm bằng Soóc- bon[8].

Không phục chức nha cỏn con,

Để cha phiêu bạt sườn non xình lầy.

Yêu sách Thuộc địa tập dầy,

Các bên hội họp Véc-xây[9] chối từ.

Con giun cái kiến nát nhừ,

Quằn lên chinh chiến không trừ gian nan.

Bờ đê nước lũ ngập tràn,

2370. So găng bạo lực phá tan xích xiềng.

Nước Pháp mê mẩn kim tiền,

Pa ri kiêu hãnh nỗi niềm sông Xen.

Quốc kỳ Pháp ngả màu đen,

Mỗi lần thua trận chao đèn để tang.

A dua theo kiểu dưa gang,

Thấy cà đỏ đít vội vàng đỏ trôn.

Pa ri hoa lệ hút hồn,

Tinh hoa nhân loại đổ dồn về đây.

Viễn chinh làm mẹ làm thầy,

2380. Sớm quên hận Đức xéo dày Kinh đô.

Các bên thắng Nooc-man-di[10],

Quay sang xâu xé ăn chia nước mình.

Sa lầy thế trận Việt minh,

Quyết giành độc lập chiến chinh trường kỳ.

Tam anh được Cụ phân chia:

Giáp Văn quân sự, Chinh thì đề cương,

Chú Đồng kiến thiết dân thường,

Lập pháp, hành pháp hai chương một người.

Sắc lệnh ban ra ít lời,

2390. Còn nguyên giá trị mấy đời thần dân.

Đế Vương bật mực cầm cân,

Dẫu vào tình thế, đúng phần nhiều hơn.

Chính phủ Kháng chiến rất khôn,

Chiêu dụ địa chủ nuôi cơm quân mình.

Xây dựng biệt động nội thành,

Vận đồ về tận rừng xanh núi ngàn.

Trấn áp cộm cán Việt gian,

Bất ngờ nổ súng dụ hàng tính sau.

Đế vương giải toả u sầu,

2400. Xách bương, dắt trẻ tưới rau vườn rừng[11].

Than hồng lửa cháy tửng tưng,

Nướng ngô tiếp khách tối thường thịt quay.

Gió ngàn vui sướng mê say,

Quân đi quân đến suốt ngày chiến khu.

Tướng Pháp đánh quả tù mù,

Non cao cứ điểm nhảy dù Mường Thanh[12].

Tưởng rằng núi đỏ, rừng xanh,

Việt minh chân đất khó giành thế công,...

Vào hầm Tổng thống thực lòng:

2410. Chửi thề thế trận của ông cha mình,

Ngu thì thua đứt Việt minh,

Mít-tơ-răng[13] đã thình lình nói ra,...

Xung trận hát Tiến quân ca,

Vinh quang xây xác quân ta, quân thù.

Cụ buồn chê báo chí ngu:

Chết nhiều đừng nói, bắt tù phải tăng,

Tấm gương đuổi bắt xe tăng,

Đuốc sống,chèn pháo nên đăng vừa vừa,

Muốn đánh giặc Pháp chịu thua,

2420. Cô chú báo chí đừng lừa nhân dân.

Ngoại giao rộng cửa hội đàm,

Sẵn sàng ngưng chiến để làm bạn nhau.

Giới sử nước Pháp về sau,

Tiếc cho thế lực đứng đầu Pa-ri,

Hòa bình, nước Việt sẽ đi,

Theo đường Ánh sáng xiết ghì bàn tay,

Cùng khối Pháp ngữ dựng xây,

Lợi quyền hai nước ngày ngày tăng lên,

Cả hai cùng đong đẫy tiền,

2430. Sông Hồng nước đỏ Sông Xen xanh mầu.

Liên quân do Mỹ đứng đầu,

Triều Tiên bốc hoả gọi Tầu tràn sang.

Các bên dừng ở ngôi làng,

Bàn Môn ký kết cấm sang cấm về.[14]

Dẫu chưa cắt máu ăn thề,

Ta chống lại phía bên kia Nam Hàn.

Miền Trung đất Việt gian nan,

Lê dương Hàn quốc moi gan dân lành.

Miền Bắc quân Kim Nhật Thành[15],

2440. Lái tàu bay Mig đoành đoành tầng không.

Giang hồ ân oán trong lòng,

Máu dân các phía ròng ròng đất Ta.

Sợi chỉ đế vương vạch ra,

Độc lập thống nhất nước nhà nổi lên.

Đánh đuổi Pháp phải ưu tiên,

Lửa tàn chinh chiến tính liền bước sau.

Chiến dịch Điện Biên bắt đầu:

Him Lam, Độc Lập[16] đánh nhau đúng bài.

Trần Canh[17] tướng Tào đẹp giai,

2450. Khuyên Giáp dàn trận ngang dài xông lên.

Việt Minh tính kiểu chắc bền,

Đánh lấn phải thắng,võ biền là thua.

Mường Thanh chính ngọ ban trưa,

Quả đồi sụt lún tiếng hò xung phong.

Hai tháng máu chảy thành sông,

Xác ngẽn Nậm Cúm chiến công lẫy lừng.

Pa-ri hoa lệ rưng rưng,

Một chiều ảm đạm xem chừng bỏ cơm.

Sợ nhất Việt minh sẽ đòm,

2460. Bêu đầu Đờ Cát[18] mắt nhòm về Tây.

Bắc Phi cũng có một ngày,

Nín thở chờ đợi bàn tay khoan hồng.

Các bên hội họp tranh công,

Sói hùm nước lớn mề lòng tối tăm.

Tham lam gieo rắc hờn căm,

Phân chia nước Việt toan cầm tù nhau.

Thế giới tăm tối cái đầu,

Đông Tây nước Đức thêm chầu Á Đông.

Đài Loan một cõi xa trông,

2470. Triều Tiên cắt giữa, Ta sông chia bờ.

Lái súng chúng chỉ mong chờ,

Bán nhiều hàng nóng lãi lờ tăng cao.

Đòi như Bá Lanh[19] năm nào,

Vải nhung kéo đổ tường cao kẽm dầy ?

Dân chủ không thích giả cầy,

Củ mài thách đố đất dầy thuổng mai.

Đấm bàn có một anh trai,

Triệu Phong[20] là đất hun tài đúc tâm.

Rằng: tay chắc chắn phải cầm,

2480. Súng gươm chiến nhị thập năm mới dừng.

Đế vương nghe thấy rất mừng,

Mời anh ra Bắc lên từng đỉnh cao.

Quyền hành Đại hội đã trao,

Nhà sàn Cụ hóng, bờ ao buông cần.

Chiến khu vào độ thu phân,

Trám bùi mật ngọt cam phần vàng tươi.

Đai hội thành công tuyệt vời,

Chức Chủ tịch Đảng[21] đời đời không thay.

Đuốc hoa lửa trại mê say,

2490. Van-xơ chàng lướt nhớ ngày sông Xen.

Nước Pháp cử một phóng viên,

Chuyện về cuộc chiến sang phiên lụi tàn.

Tiếng Tây Cụ nói ngang hàng,

Nhớ đồng quê Pháp nắng tràn màu nho.

Thích chuyến xe ngựa hẹn hò,

Rung reng lục lạc như đò sông Lam.

Phóng viên hỏi ý Việt Nam,

Thể chế đất nước, cách làm ra sao?

Châm thuốc nâng ly lên cao,

2500. Cụ rằng hai nước đổi trao chân tình,

[1] Trung tá Pierre Charton, chỉ huy Binh đoàn Pháp tại Chiến dịch Biên giới thu đông 1950.

[2] Đặng Văn Việt (1920 - 25 tháng 9 năm 2021) là một cựu trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn 174- một trong 3 trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng được người Pháp mệnh danh là "Hùm xám đường 4" do thành tích chỉ huy đơn vị mình trong Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, bắt sống cả hai chỉ huy binh đoàn Pháp là các Trung tá Marcel Lepage và Pierre Charton.

[3] La Văn Cầu (sinh 1932) là một sĩ quan cấp Đại tá. Ông là một trong bảy người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tại Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc lần I. Trong chiến tranh Đông Dương, từ năm 1948 đến năm 1952, La Văn Cầu đã tham gia chiến đấu 29 trận. Trong Trận Đông Khê năm 1950, La Văn Cầu nhờ đồng đội dùng lưỡi lê chặt đứt cánh tay phải bị thương và tiếp tục chiến đấu. Ông dùng tay trái ôm bọc phá đánh mở đường.

[4] Trận Vĩnh Yên là một trận đánh quan trọng của Chiến dịch Trần Hưng Đạo diễn ra từ ngày 13 đến 17 -1- 1951. Đây là trận đánh có quy mô cấp trung đoàn trong Chiến tranh Đông Dương giữa lực lượng của Liên hiệp Pháp và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Lực lượng quân đội khối Liên hiệp Pháp, do Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny làm Tổng chỉ huy, đã thành công trong việc ngăn chặn ý đồ chiếm giữ thị xã Vĩnh Yên của lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tổng chỉ huy.

[5] Henri Eugène Navarre (1898 -1983) là tướng của quân đội Pháp. Ông đã tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai và là chỉ huy thứ 7 của Quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông trong Chiến tranh Đông Dương. Navarre là tổng chỉ huy quân Pháp trong thời gian diễn ra trận Điện Biên Phủ.

[6] Trung đoàn 52 Tây Tiến, thường gọi là Trung đoàn Tây Tiến, là một trung đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam trong Kháng chiến chống Pháp. Binh sĩ gồm nhiều thành phần, ở nhiều vùng quê. Mặt trận của Trung đoàn trải từ Bắc Lào đến Tây Bắc, đồng bằng Bắc bộ Việt Nam,... Năm 1948, nhà thơ Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Tiến nổi tiếng về đoàn quân Tây Tiến. Trên tấm bia ghi chiến tích trung đoàn Tây Tiến đặt tại tỉnh Hòa Bình có tạc 10 câu thơ trong bài.

[7] Địa danh ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang là lưu vực sông Phó Đáy. Sông có chiều khoảng 170km, chảy qua địa phận các tỉnh Bắc Kạn, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc rồi đổ vào sông Lô ở TP. Việt Trì (Phú Thọ) với lưu vực khoảng 1.610km2.

[8] Danh từ Sorbonne (La Sorbonne) thông thường được dùng để chỉ Đại học Paris hay một trong các đại học kế nhiệm. Từ "Sorbonne" thực ra đã được dùng với nhiều nghĩa khác nhau trải qua nhiều thế kỷ. Ngày 6 -7 -1911, sau hơn 1 tháng đi biển, tàu cập cảng Marseille, Pháp.Tại Marseilles, anh Ba đã viết thư đến Tổng thống Pháp, xin được nhập học vào Trường Thuộc địa, trường chuyên đào tạo các nhân viên hành chính cho chính quyền thực dân, với hy vọng "giúp ích cho Pháp". Thư yêu cầu của anh bị từ chối và được chuyển đến Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế.

[9]  Lâu đài Versailles ở Paris. Yêu sách của nhân dân An Nam còn gọi là Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam là bản yêu sách được gửi ngày 18 - 6 -1919, của Hội những người An Nam yêu nước, gồm tám điểm được viết bằng tiếng Pháp, được ký bằng cái tên chung là "Nguyễn Ái Quốc" và gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles.

[10] Cuộc đổ bộ của quân đội khối Đồng minh vào các bãi biển vùng Normandie ngày 6 - 6 -1944, còn gọi là Trận chiến vì nước Pháp.Đây là cuộc tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử, với hơn 150.000 quân lính của Hoa Kỳ, Anh Quốc, Canada cùng với quân kháng chiến Pháp, Tiệp Khắc, Ba Lan, Bỉ, Hà Lan, Na Uy, theo các chiến hạm lớn nhỏ từ miền nam Anh Quốc kéo vào đất Pháp lúc bấy giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của quân Đức Quốc Xã.

[11] Ý Bài thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1949 ở Chiến khu Việt Bắc dịch: Đường non khách tới hoa đầy/Rừng sâu quân đến tung bay chim ngàn/Việc quân việc nước đã bàn/Xách bương dắt trẻ ra vườn hái rau.

[12] Cánh đồng thuộc tỉnh Điện Biên nay. Ngày 2 -11- 1953, Navarre đã chỉ thị cho Cogny từ ngày 15 -20- 11, chậm nhất là ngày 1-12-1953, phải đánh chiếm Điện Biên Phủ để thiết lập một điểm ngăn chặn bảo vệ cho Thượng Lào. Cuộc hành binh đánh chiếm Điện Biên Phủ có bí danh là "Hải Ly" (Cuộc hành quân Castor), chỉ huy là tướng Jean Gilles. Ngày 20-11-1953, lúc 11 giờ sáng, 63 chuyến máy bay C-47 Dakota thả 3.000 lính dù và chiến cụ các loại xuống Điện Biên Phủ.

[12] François Maurice Adrien Marie Mitterrand (1916- 1996) là Tổng thống Pháp từ năm 1981 đến năm 1995 với tư cách là đại diện của Đảng Xã hội. Từ ngày 9 -11 tháng 2 năm 1993 ông đến Việt Nam, thăm chiến trường Điện Biên Phủ, Tổng thống lặng lẽ ngắm hồi lâu khắp những vật dụng chiến tranh đã nhuốm màu thời gian.

[14] Bàn Môn Điếm là một ngôi làng nằm giữa tỉnh Gyeonggi thuộc Hàn Quốc và tỉnh Hwanghae Bắc thuộc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, là giới tuyến phân cách Triều Tiên và Hàn Quốc. Tại đây, vào năm 1953, Hiệp định Ngừng bắn của Chiến tranh Triều Tiên được ký kết. Tòa nhà nơi Hiệp định được ký kết vẫn còn tồn tại đến ngày nay, mặc dù nó nằm ở phía bắc giới tuyến, nằm giữa Khu phi quân sự Triều Tiên

[15] Kim Il-sung (1912 -1994), Kim Nhật Thành. là nhà lãnh đạo đầu tiên (1948) của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên) từ khi thành lập nước này đến khi ông qua đời vào năm 1994, là Lãnh tụ của Đảng Lao động Triều Tiên. Từ năm 1966-1968,khoảng 200-400 lính Bắc Triều Tiên, bao gồm khoảng 90 phi công, được cử chiến đấu gần Hà Nội chiến đấu, hiện còn 14 mộ quân nhân ở Bắc Giang.

[16] Đúng 8 giờ sáng ngày 13/3/1954, những viên đạn sơn pháo của quân Việt Nam bắn vào sân bay Mường Thanh làm hai chiếc máy bay Đacôta của quân Pháp vừa hạ cánh xuống đây bị bốc cháy. Đó chính là những viên đạn đầu tiên mở màn của Chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài suốt 55 ngày đêm.

Đến 17 giờ 05 phút chiều ngày 13/3/1954, 40 khẩu pháo 75 -120 ly đồng loạt nhả đạn vào các vị trí của quân Pháp trong cứ điểm Him Lam, quân Việt Nam xuất kích bắt đầu trận đánh mở màn của Chiến dịch Điện Biên Phủ.

16 giờ 45 phút ngày 14/3/1954, quân Việt Nam nổ súng đánh đồi Độc Lập. Trận đánh kéo dài đến 6 giờ 30 phút sáng ngày 15/5/1954 thì kết thúc.

Jean Charles Clement Piroth (1906- 15 tháng 3 năm 1954), Trung tá quân Pháp, chỉ huy trưởng pháo binh của Binh đoàn tác chiến Tây Bắc, từng tuyên bố hùng hồn "Tôi có nhiều đại bác hơn số tôi cần",nhưng đã xấu hổ tự sát sau khi nhận ra tình cảnh bế tắc không thể chống lại được lực lượng pháo binh đối phương tại trận.

Sáng ngày 17/3/1954, thấy quân Việt Nam chuẩn bị tấn công, quân Pháp ở Bản Kéo sợ hãi bỏ chạy. Trung đoàn 36 của ta không cần phải nổ súng đã chiếm được Bản Kéo và thừa thắng tiến vào chiếm các ngọn đồi ở phía Bắc sân bay Mường Thanh.

[17] Trần Canh (1903 -1961), là một Đại tướng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc  Ngày 7 tháng 7 năm 1950, Trần Canh dẫn đầu đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc gồm 14 người sang giúp Quân đội nhân dân Việt Nam đánh Pháp.

[18] Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries (1902 -1991) là một sĩ quan chỉ huy cấp tướng người Pháp tại trận Điện Biên Phủ năm 1954.

[19]  Bức tường Berlin chia cắt phần Tây Berlin của Tây Đức với phần phía Đông của thành phố và với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ ngày 13 -8 -1961 đến ngày 9 -11 -1989. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức

[20] Huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị quê hương ông Lê Duẩn (1907–1986) còn gọi là Ba Duẩn, ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1960-1986, từ năm 1960- 1976 gọi là Bí thư thứ nhất

[21] Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam (chức vụ này duy nhất do Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm giữ từ Đại hội Đảng lần 2 năm 1951 đến khi qua đời năm 1969)

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (2501 - 2700 )

2501. Quan điểm của bên Việt Minh,

Độc lập dân tộc mưu sinh ôn hoà,

Ý thức hệ mãi mãi là:

Cơm no áo ấm nước nhà bình an,

Cực chẳng đã phải chiến tranh,

Quyết định ấy thuộc muôn ngàn người dân.

Ước mơ của tôi rất gần,

Xách bương tưới cỏ mộ phần Mẹ Cha.

Ngẹn ngào ánh mắt lệ nhoà,

2510. Anh em cấp dưới muốn òa khóc than.

Phóng viên Pa ri nhẹ nhàng,

Kể về nước Pháp phố làng bình yên,

Dân Gô-loa thích kiếm tiền,

Không ham chinh chiến ưu phiền tang gia.

Trăng non thấp thoáng rừng già,

Kiếp người chỉ muốn hài hoà yên vui!

Báo đăng, dân Pháp ngậm ngùi,

Chiến tranh thuộc địa chôn vùi ước mơ.

Mặc kệ nước thần Tự do[1],

2520.Khoe niềm kiêu hãnh chơi trò đánh nhau.

Nước Pháp không chịu ngu lâu,

Đờ-gôn[2] bỏ đất tránh ngầu Pa-ri.

Vùng Vịnh[3] khói lửa phún phì,

Liên quân Pháp chiến chỉ nhì nhằng thôi.

Mỹ quốc kêu ối giời ơi!

Nước Pháp truyền thống nướng người lê dương[4]

Ngoại kiều[5] đến Pháp đầy đường,

Tuyên ngôn độc lập một chương dân quyền.

Đánh thuê cho Pháp được tiền,

2530.Tù binh phát xít chúng liền đi theo.

Điện Biên toàn chết dân nghèo,

Giéc-manh[6] cầm súng leo trèo Mường Thanh.

Nước Mỹ khôn lâu ngu nhanh,

Can thiệp vào nước chiến tranh quen rồi[7].

Cầm quyền là lũ cực tồi,

Có nhiều quyết sách như thời man di.

Mọi rợ bạo lực làm gì?

Người hại người để bắt quỳ van xin?

Sử Việt đã bốn nghìn niên,

2540.Bạo tàn chinh chiến triền miên nước mình.

Sang thời đại Hồ Chí Minh,

Ngoại xâm rất thích chiến chinh đất này?

Cà cuống xả chất thơm cay,

Đạn bom đế quốc bừa cầy nước Ta.

Chư hầu đủ loại gần xa,

Bầy đàn linh cẩu hôi quà dã man.

Dĩ vãng đã lật nhiều trang,

Sử xanh sử đỏ sử vàng công khai.

Đời sau còn rất là dài,

2550.Quên xưa dù có đa tài vẫn hư.

Tạm thời giới tuyến phân chia,

Ai ngờ lát cắt mút mùa Ngưu Lang.

Chức Nữ đợi người tình sang,

Mưa ngâu bom đạn chàng nàng gặp nhau.

Dừa nghiêng, cao ngỏng hàng cau,

Biệt ly đôi lứa thương nhau mịt mờ,...

Trở về tiếp quản Thủ đô,

Cốm Vòng chính vụ chuối vừa chấm đen.

Đoàn quân bước theo điệu kèn,

2560.Khải hoàn chiến thắng qua Đền Hùng Vương.

Cha già chinh chiến dặm trường,

Thề non hẹn nước dâng hương Vua Hùng.

Đền Hạ quân tướng điệp trùng,

Giữ nước nhiệm vụ của chung dân mình[8].

Hà Thành trai đẹp gái xinh,

Tâm tư chiêm ngưỡng Việt minh trở về.

Toàn giai ở các miền quê,

Tác phong nếp sống ngô nghê tức cười.

Cà phê, cháo, phở, chè xôi,

2570.Vào ra ngơ ngác chào mời lơ ngơ.

Áo quần bạc phếch, bạc phơ,

Đường trần trấn thủ sờn mờ rách bông.

Trở về quê cũ ruộng đồng,

Ngàn xưa chinh chiến cha ông đã từng.

Giáp Ngọ lửa cháy bừng bừng,

Ất Mùi bách thảo trùng phùng đoàn viên.

Bính Thân Cải cách địa điền,[9]

Long trời lở đất nhiều niên rã rời.

Lộ ra tính cách giống nòi,

2580.Lông chìm đá nổi thói đời ghét nhau.

Xẻ nhà chia ruộng chung trâu,

Cối chày xoong chảo gáo gầu đem chia.

Bần nông xả tức thoả thuê,

Hăng lên đấu đá xa lìa anh em.

Dâu tố bố chồng tòm tem,

Đàn bà tố bị hiếp dâm nhiều lần.

Bị bắn có tên tụt quần,

Rằng tao không có cái chân giữa này.

Nga Tàu cộng sản thẳng tay,

2590.Rau nào sâu ấy Việt này khác xa !

Bá Cang, Sóng Đỏ tưởng là:

Đấu tranh giai cấp moi ra kẻ thù?

Lý luận cách mạng tù mù,

Đế Vương khóc nấc vội thu quân về.

Ân oán giai cấp gớm ghê,

Vượt sông Bến Hải dinh tê phục thù.

Chín năm đằng đẵng chiến khu,

Bao nhiêu người đã bỏ về làng Tây?

Nam triều có một ông thầy,

2600.Thông nho, hóng Chúa, qua tay Mỹ về.

Sống đời không kiếp phu thê,

Tròn ba mươi tuổi đã nghề đại quan.

Thượng thư biết Triều Huế tàn,

Từ nhiệm du hý địa đàng tầm sư.

Việt minh bắt tống vào tù,

Bào huynh bị bắn oán thù gỡ ra.

Đòi làm Thủ tướng nước ta[10],

Một cuộc hội kiến chia xa hai người.

Bắc Nam phân định phương trời,

2610.Bên làm Tổng thống, Bên thời Minh quân.

Sông Gianh xưa máu ngập tràn,

Nay dòng Bến Hải tương tàn đệ huynh,

Buồn cho đất nước phân tranh,

Con Rồng cháu Lạc muốn giành điều chi?

Xuống tay bất thuận, bất nghì,

Bát nước lỡ hắt đổ đi mất rồi.

Lòng dân gặp sóng lạc trôi,

Dòng ý thức hệ tiết nhồi lòng non.

Súng gươm tỷ thí sống còn,

2620.Cuộc nội ngoại chiến vùi chôn bao người.

Hai phe trợ giúp cuộc chơi,

Đạn bom ngoại quốc có nơi thử dùng.

Đế Minh tìm hướng bao dung,

Gởi cành đào thắm vượt trùng ngàn xa[11].

Nhuốm màu huyền tích Trung Hoa,

Tay chàm đã nhúng bỏ qua nhiễu điều.

Mỗi lần thay đổi vương triều,

Nghinh tân tống cựu yêu kiều tàn phai.

Dường như bế tắc đời trai?

2630.Chuyển thành tính cách hai Ngài đa nhân.

Tấm lòng yêu nước thương dân,

Quên riêng tư để đi gần, du xa.

Thích tặng nghèo khó đồng quà,

Muốn cho đất nước hài hoà nhân gian.

Nhưng trong sâu thẳm tâm can,

Mày sai tao đúng, tranh giành bá vương.

Loài người chưa bỏ thói thường,

Cả tin mình đúng chẳng nhường nhịn ai!

Đua nhau tỷ thí đức tài,

2640.Tranh điền lấn thổ bám vai siêu cường.

Đã mang vào nghiệp đế vương,

Tham lam mở rộng biên cương biển trời.

Mỹ, Xô khao khát lên đời,

Chạy đua vũ khí giết người cực nhanh.

Chủ nghĩa thực dân bất thành,

Chim câu tưởng bở ngậm cành ô liu.

Những vùng đất nước đìu hiu,

Cú nhìn sói trực thêm diều hâu bay.

Đế Minh biết trạng thái này,

2650.Bữa cơm Pắc Bó vận may đến gần.

Nhìn cách ăn uống của dân,

Xì xoạp gắp húp canh chan cơm và.

Khoảng cách văn minh rất xa,

Chăn dân hơn hẳn mái gà mớm con,...

Phương Đông hội thảo bàn tròn,

Chuyên chính vô sản sống còn ưu tiên.

Dễ như cướp được chính quyền,

Khó như gặp bão chèo thuyền ra khơi.

Vũ trang dự định khắp nơi,

2660.Kẻ nào chống đối cho toi tức thì.

Cu Ba sóng biển rầm rì,

Phi-đen cầm lái cho xì gà thơm.

Đế Minh am hiểu bát cơm,

Cho dân tư hữu ruộng vườn phần trăm[12]

Ngọn cờ hợp tác phăm phăm,

Công thương gia hiến hết tầm của riêng.

Cần lao chung một nỗi niềm,

Theo Vua dẫn bước tới miền bồng lai.

Tiên cảnh là chặng đường dài,

2670. Hôm nay định hướng độ vài trăm năm.

Con cá may mắn vượt khăm,

Cần lao ngí ngóp cá tầm rất to.

Con tôm cao hứng nhảy bờ,

Tin là tôm tướng như thơ tỏ tình…

Hòn Ngọc Viễn Đông lung linh,

Sài Gòn trù mật dân tình nhào vô.

Trăm năm kinh tế tự do,

Làm thuê vẫn bát cơm no tối ngày.

Ruộng đồng mỏi cánh cò bay,

2680.Nước trong gạo trắng của bày bán ra.

Quốc trưởng Bảo Đại bê tha,

Rượu chè gái mú kệ cha chúng mày.

Đảng phái các loại vung chầy,

Cần lao nhân vị có tay dựng cờ.

Bào đệ Tổng thống là Nhu[13],

Đã từng giữ chức thủ thư một thời.

Học thuyết Nhân vị[14] khơi khơi,

Đằng sau đao búa bắt người tống giam.

Gia đình ngự trị miền Nam,

2690.Lối mòn cổ hủ ngang tầm hôn quân.

Giang hồ làm loạn bất thần,

Tướng tá đảo chính kéo quân vào thành[15].

Tướng Giáp tuổi trẻ đầu xanh,

Chăm học kế sách khi chinh chiến tàn.

Cho quân cầy cấy thôn trang,

Động viên khi có xâm lăng tràn vào.

Đệ nhất cộng hoà hô hào,

Chúng dọa Bắc tiến nhảy vào Thăng Long[16].

Nhân văn giai phẩm đi tong[17],

2700.Tư sản tiểu chủ toàn tòng theo Ta.

[1] Tượng Nữ thần Tự do (tên đầy đủ là Nữ thần Tự do soi sáng thế giới; tiếng Anh: Liberty Enlightening the World; tiếng Pháp: La Liberté éclairant le monde) là một tác phẩm điêu khắc bằng đồng theo phong cách tân cổ điển với kích thước lớn, đặt trên Đảo Liberty tại cảng New York. Tác phẩm này do kiến trúc sư người Pháp Frédéric Bartholdi  (1834-1904) thiết kế và được khánh thành vào ngày 28 -10 -1886. Đây là tặng vật của nhân dân Pháp gửi nước Mỹ.

[2] Charles de Gaulle (1890 - 1970) là chính khách nổi tiếng của Pháp. Ông xuất thân là một quân nhân trong Quân đội Pháp. Năm 1940, khi chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức, ông đã vượt biển sang London, lãnh đạo tổ chức "Pháp quốc Tự do", thành lập chính phủ Pháp lưu vong, ra lời kêu gọi người Pháp tiếp tục kháng chiến chống sự chiếm đóng của Quân đội phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1958, ông thành lập nền Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp và giữ chức Quyền Tổng thống từ năm 1959 đến năm 1969

[3] Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 (cũng gọi là Chiến tranh vịnh Ba Tư hay Chiến dịch Bão táp Sa mạc) là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh 38 quốc gia do Hoa Kỳ lãnh đạo và được Liên Hiệp Quốc phê chuẩn để giải phóng Kuwait, Pháp có 2 quân nhân tử trận.

[4] Binh đoàn Lê dương Pháp (French Foreign Legion- FFL) là một đội quân được tổ chức chặt chẽ, có chuyên môn cao, trực thuộc Lục quân Pháp. FFL hiện là lực lượng tổ chức tuyển mộ mạnh nhất thế giới thông qua Internet. Binh đoàn lê dương thành lập năm 1831, đến nay vẫn duy trì 8000 người thuộc 36 quốc tịch, trong binh đoàn không phân biệt chủng tộc.Ngoài tiền lương, thân nhân lính Lê Dương có thể được nhận tới 300.000 Euro khi tử nạn.

[5] Năm 2008, ước tính gần 20% dân số Pháp là người nhập cư thế hệ thứ nhất hoặc thứ hai, trong đó có trên 5 triệu người gốc Âu và 4 triệu người gốc Bắc Phi, Châu Á,...

[6]  Khoảng 1.200 đến 1.300 người Đức chủ yếu là tù binh phát xít đã tham chiến tại Điện Biên Phủ, trong tổng số hơn 15.000 binh sĩ quân đội Pháp.

[7] Tới năm 1954, 73% chiến phí của Pháp ở Đông Dương là do Hoa Kỳ chi trả, 37 phi công Mỹ mất ở trận Điện Biên Phủ.

[8] Tại Đền Giếng trong khu di tích Đền Hùng (thuộc núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên Phong (Sư đoàn 308, Quân đoàn 1) chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô Hà Nội: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”

[9] Năm 1956. Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm phân chia lại ruộng đất nông thôn, xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần phản quốc (theo Pháp, chống đất nước), phản động (chống chính quyền) như địa chủ phản cách mạng, Việt gian, cường hào cộng tác với Pháp... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 1953-1956.

[10] Ngô Đình Diệm bị giam tại tỉnh miền núi Tuyên Quang ít lâu rồi được trả tự do theo lệnh ân xá vào đầu năm 1946. Hồ Chí Minh mời Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng vì cho rằng ông có tài lãnh đạo. Ngô Đình Diệm trả lời rằng ông chỉ đồng ý lời mời đó với điều kiện ông được Việt Minh thông báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này do đó Ngô Đình Diệm từ chối hợp tác với Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh vẫn giao cho ông làm phụ tá của Bảo Đại, là cố vấn tối cao của Chính phủ

[11] Tết Quý Mão năm 1963, thông qua Ủy hội Quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mang vào tặng Tổng thống Ngô Đình Diệm một cành đào.

 [12]  Các hộ dân miền Bắc Việt Nam sau khi giao đất vào hợp tác xã thì được HTX trích lại 5% quỹ đất giao cho các hộ nông dân được tự chủ phát triển kinh tế, trồng rau, hoa màu, lương thực.

[13] Ngô Đình Nhu (1910-1963) là một nhà lưu trữ và một chính trị gia Việt Nam Cộng hoà. Ông nổi tiếng với danh nghĩa là cố vấn chính trị cho anh mình là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm; tuy nhiên, hầu hết các tài liệu lịch sử đều nhận định ông mới thực sự là người đề ra mọi chủ trương, chính sách của nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam.

[14] Đảng Cần lao nhân vị Việt Nam, chính đảng hoạt động tại Việt Nam Cộng hòa từ 8/8/1954 đến 1/11/1963 do Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu thành lập vào cuối năm 1954 tại Sài Gòn mà dựa trên sự kết hợp chủ thuyết chính trị  Nhân vị (Personalism) của triết gia người Pháp Emmanuel Mounier và Nho giáo của Khổng Tử. Đảng Cần lao Nhân vị theo dẫn giải của Ngô Đình Nhu đã được đề ra để làm ý thức hệ trung dung giữa tập thể chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản với cá nhân chủ nghĩa của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản.

[15] Chế độ Ngô Đình Diệm (Đệ nhất cộng hòa) gặp nhiều đối lập không phải là cộng sản, từ năm 1957 đến năm 1962, Ngô Đình Diệm nhiều lần bị ám sát nhưng đều may mắn thoát chết. Hai vụ đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1960 và đến 1-11-1963 thì nhóm tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa lật đổ chế độ, sát hại anh em Tổng thống.

[16] Chế độ Mỹ- Diệm từng hô hào "Bắc tiến, lấp sông Bến Hải, nhẩy dù Thăng Long”.

[17] Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khởi xướng đầu năm 1955 và chính thức bị kết thúc vào tháng 6 - 1958. Phong trào ra ấn phẩm Nhân Văn ra được 5 số báo và Giai Phẩm ra được 4 số báo (Tháng Ba, Tháng Tư, Tháng Mười và Tháng Chạp 1956) trước khi phải đình bản.

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (2701-3000 )

2701.Hưu chiến sức dân nở hoa,

Kết quả khác loại bất hoà tăng lên.

Toan tính của mỗi một Bên,

Như Đông Tây Đức giống Triều Tiên kia.

Đế Minh rất sớm ngộ ra,

Giang sơn một cõi phải là đấu tranh.

Miền Nam đậu phộng đậu nành,

Năng suất cao ngật giật giành thế công.

Lê nin thiết chế công nông,

2710. Kêu gọi tư sản giúp đồng bào Nga.

Quản lý kinh tế hài hoà,

Năng suất tư bản phải là ưu tiên.

Đổi mới cách chia đồng tiền,

Chúng dân no đủ cầm quyền đủ no.

Giàu có chỉ được tự do,

Trong tầm cương toả, tránh trò cướp cơm.

Học phượt, hành sượng bờm xơm,

Sinh ra một lũ lôm côm bất tài.

Một buổi Cụ thuyết trình dài,

2720. Quan chức gật gật nghe bài sấm thôi.

Sáu Búa[1] nhận mình thiên lôi,

Thực ra là bậc bề tôi thượng quyền.

Sóng Đỏ lúc trẻ tiêu tiền,

Xông xênh một chút mơ miền đế vương.

Chú Đồng chịu khó chịu thương,

Giai quê lấy gái phố phường, hiền khô.

Ngủ trên nguyệt quế thơm tho,

Giáp Văn ngự phủ cực to Ba Đình.

Khôn đâu đến trẻ em xinh,

2730. Dại đâu đến bậc đế minh giang hồ.

Lại thêm ông Tố[2] làm thơ,

Xuân Thu Tết đến tôn thờ Đế vương.

Chín năm công trạng chiến trường,

Nghĩ mình tài giỏi chẳng nhường nhịn ai !

Lòng tay Phá luân thiên tài,

Mu tay lố bịch diễn hài líu lo.

Nã thua trận Oa téc lô,

Chỉ vì cố đấm xua lùa Liên quân.

Thống chế Ăng lê xuất thần,

2740. Nã phá luân bại, mộ phần đảo xa.

Ếch chết tại miệng ba hoa,

Mái mơ cục tác trứng và miệng trăn.

Ếch tìm cua để nuốt ăn,

Ngoé kêu thảm thiết thợ săn kịp thời,

Bắt trăn rắn bỏ vào nồi,

Sinh tồn có cánh được trời ban cho.

Quê hương văng vẳng điệu hò

Sông Lam nước biếc núi cờ cỏ may

Cu đơ[3] bùi ngọt mê say

2750. Chè vườn thơm mát khoai đầy nồi hông

Tuổi thơ tắm ở bến sông

Chơi trò đuổi bắt tồng ngồng rất vui

Nhớ mẹ yếm thắm tươi cười

Thoi đưa khung cửi cơm mời sớm trưa,...

Cha mang phận thân cư thê

Ngoại gốc đất Bắc triền đê Sông Hồng[4].

Tuổi thơ tên gọi Cung, Coong,

Chào đời khi núi toác lòng phân đôi.

Nước chảy như bò đái thôi,

2760. Nam Đàm sinh thánh cho trời Việt Nam[5].

Đồ Nghệ giải nghĩa, tọa đàm,

Tính bước ấu Chúa, Sào Nam đỡ đầu[6].

Khác cha không phải chăn trâu,

Chỉ đi kiếm củi, thả câu đầm hồ.

Lin - côn[7] đi hết tuổi thơ,

Đọc sách, bổ củi đợi chờ phao trôi,

Lên làm Tổng thống tuyệt vời,

Giải phóng nô lệ cứu người da đen,...

Hầu như các bậc quan trên,

2770. Tính cách khác lạ ở miền tuổi thơ:

Đinh tiên lúc trẻ thích cờ[8],

Cỏ lau trận giả, giết bò thật ăn.

Lưu Bị hai mắt rất căng,

Nhìn tai thấy nốt ruồi bằng hạt ngô.

Hít le ngồi đến nhiều giờ,

Giết sạch đàn kiến bằng trò búa đao.

Hồ Thơm mắt sáng như sao,

Tắt đèn uống rượu khách nào cũng kinh.

Gia Long từ thuở bình sinh,

2780. Thích xem cày cuốc, hay rình bẫy chim.

Tào Tháo đưa não về tim,

Ngửa mặt cười nấc, phải tìm đường lui.

Nếu không quá nặng bệnh cùi.

Vần thơ Hàn Mạc[9] chẳng mùi mẫn chi...

Đường vào xứ Huế chân đi,

Qua đèo vượt suối tuổi thì thiếu niên.

Bố làm quan nhỏ vừa tiền,

Dân nghèo tạp dịch phu phen đói mờ.

Kinh Thành một thoáng mộng mơ,

2790. Còn lại nhiều góc xẩm sờ mưu sinh.

Đồn rằng những lúc một mình,

Chàng hay tĩnh toạ khai minh tâm hồn.

Tường kinh thành Huế rêu buồn,

Điệu hò xưa cũ mỏi mòn sông Hương.

Khi lên đến bậc đế vương,

Nhớ quê Người thích món tương ớt cà.

Anh, Chị khăn gói bu gà,

Thăm em giữa lúc nước nhà cam go.

Chị rằng "Dân chúng chửi o,

2800. Vò xé ảnh cậu bỏ lò nhóm than"[10]

Huynh trưởng: chú gắng bình an,

Anh đưa mộ mẹ đặt ngang núi rồi,

Phong thủy anh xem đúng nơi,

Một sư nước Phạn cho lời khuyên hay,

Có người từ trong miền Tây,

Nhắn rằng mộ chí của thầy hợp long,

Chị về nhà Tổ thuận tòng,

Con đường lãnh tụ hanh thông vững vàng".

Chị bấm anh Cả nhẹ nhàng:

2810."Thời gian dội nước phũ phàng cậu em

Giá như lật áo lên xem

Phải có nốt đỏ mới êm ấm lòng".

Ngũ thập niên có vài dòng,

Tài cao khác lạ, đức không thể nhầm.

Chuyện riêng là cõi âm thầm,

Chuyện công nhiều vụ vẫn nhầm lẫn trôi.

Thường dân lắm chuyện lôi thôi,

Cung đình bí ẩn cuộc đời đế vương!

Lần đầu về thăm quê hương,

2820.Cha già vẫn nhớ ngày thường ấu thơ,

Lối mòn nhà ngoại cỏ bờ,

Gió Lào thổi bốn chục mùa tàn phai,

Cau cao thân mốc quả sai,

Vườn hoang cỏ dại tre gai xoắn cành,

Vừa qua một cuộc chiến tranh,

Dân làng ly tán đất thành vô cư.

Đế Minh xao xuyến tâm tư,

Chỉ rào dâm bụt lối xưa chỗ này[11].

Giang sơn còn một cánh tay,

2830.Nỗi buồn chia cắt đến ngày nào tan?

Tin đế vương về thăm làng,

Dân tràn ra ngõ hô vang đất trời:

"Muôn năm vạn tuế" đây rồi !

Nhìn quanh chỉ nhớ vài người ấu thơ.

Hàn huyên tay bắt, tay sờ,

Dái tai mắc lưỡi câu giờ sẹo đây.

Tiếng Nghệ theo gió bay bay,

Đế cười ngữ điệu tròn đầy âm vang.

Lần hai trở lại xóm làng,

2840.Cũng là lần cuối nắng tràn đồng quê.

Anh em ruột thịt đã về,

Bên  phần mộ Mẹ núi kia, rú này.

Miền Nam trong cả vòng tay,

Trái tim đập nhớ những ngày yêu thương.

Lục thập tính khí thất thường,

Riêng tư sâu kín khó lường hiểm nguy.

Quyết sách, thăng giáng, xét truy,

Theo phân tâm học chỉ vì bế kinh:

Tổng thống nước Mỹ đa tình,

2850.Trăng hoa lả lướt, vợ xinh vẫn thừa.

Khủng hoảng tên lửa Cu Ba

Hai bên nghinh chiến Mỹ, Nga muốn đòm.

Nhiều lần cãi lộn om xòm,

Nhà trắng bố trí cho ôm chân dài.

Ken-nơ-đi[12] được xả hơi,

Vào phòng Bầu dục họp cười nói vui.

Phi-đen[13] chiến thắng ngậm ngùi,

Vợ bỏ sang Mỹ, trống dùi cách xa.

Chiến hữu tàu Gơ-ran-ma[14],

2860.Tìm nữ đồng chí mát-xa cho Người.

Hòn đảo thơ mộng vui tươi,

Tự do thân thể biển trời đẹp xinh.

Ngày đi Vạn lý Trường chinh,

Ông Mao khao khát diễm tình hành quân,

Gặp nàng kỹ nữ Giang Thanh[15],

Làm cho lò lửa chiến tranh nguội tàn.

Có nam có nữ nên xuân,

Có xôi có thịt có phần trẻ em.

Đế vương nào cũng bị kèm,

2870.Khỏe đường ong bướm được thêm nhiệm kỳ.

Nhiều vua tặc lưỡi quên đi,

Mẹ gà con vịt ru ri lộn sòng.

Đế Minh không thể nóng lòng,

Tình xưa ở bến Nhà Rồng rất xa.

Mối tình hải ngoại bôn ba,

Bèo trôi về bến phù sa êm đềm.

Các chú bảo vệ gác đêm,

Thấy bên bếp lửa có thêm một người,

Lão thủy thủ đã một thời,

2880.Bôn ba hải ngoại được mời đến thăm,

Hai Cụ đưa tay chống cằm,

Chuyện xưa đất khách âm thầm với nhau.

Người thường thấm nhẹ nỗi đau,

Đế vương cô quạnh buồn sầu quả nhân.

Tìm người nâng gối sửa chăn,

Quẩn quanh giúp việc nhậm nhằng sớm khuya.

Đế buồn phụ nữ nước ta,

Vô ý vô tứ đi ra đi vào.

Áo quần phơi ở bờ rào,

2890.Lối đi của khách chỗ chào hỏi nhau.

Một hôm nheo mắt mày chau,

Thẳng thắn bảo đệ thôi chầu mỹ nhân[16].

Tử vi Bác sống độc thân,

Việc riêng có lẽ tự mần lấy thôi.

Một lần chuyện phiếm vui tươi:

“Trên rốn đúng tuổi, dưới thời trẻ trung,

Bác bận nhiều việc của chung,

Chậm chồng muộn vợ xin đừng học nhau”.

Cần lao thương xót nỗi đau,

2900.Đế vương không có tí nhau nối dòng.

Chuyện này vẫn chưa thể xong,

Bên Tầu mai mối lòng thòng se duyên.

Lâm Lan Trung ương ủy viên,

Đào Chú[17] mong muốn uyên ương cẩn vào.

Âm mưu này rất là cao,

Bí thơ thứ nhất không trao duyên nầy.

Đã mang vào kiếp sư thầy,

Suốt đời mô phạm không say cõi phàm.

Có người nước Phạn đến thăm,

2910.Trao cụ tín sắc cỡ tầm cao siêu.

Để cho hậu thế kính yêu,

Tập kinh lên kệ tín điều sáng ra.

Bao lần trở lại nước Nga,

Lần này diện kiến Xít- ta- lin rồi.

Có hai cái ghế mời ngồi,

Ghế này quốc tế cao vời nhón chân.

Ghế kia dân tộc hơi bần,

Xít-ta-lin hỏi ông phần ghế nao?

Đế vương ta có lời chào,

2920.Xuất khẩu cách mạng xin trao quý Ngài!

Đế Minh nhắc ý thiên tài:

Chỗ mắt xích yếu phải quai búa liền.

Lê-nin sớm về cõi tiên,

Chậm một giáp dân tiêu tiền thả phanh.

Chính sách kinh tế đẩy nhanh,

Quân đỏ, quân trắng, quân xanh hài hoà.

Năng suất chiếc bánh to ra,

Của cải như nước mọi nhà công minh.

Chủ nghĩa xã hội chân tình,

2930.Làm nhiều ăn đẫy, biếng mình cầm hơi...

Xít-ta-lin nhếch ria cười:

Vũ khí thoải mái phải chơi đến cùng,

Rất khoát phải sở hữu chung,

Tư nhân bóc lột chúng đùng đòm Ta,...

Năm Dần bốc quẻ đi xa[18],

Qua Tầu yên ổn, đất Nga yên bình.

Vũ khí nhiều loại pháo binh,

Súng đạn quá đát cho mình đánh Tây.

Giảm tô giảm tức dân cày,

2940.Mô hình Gu-lắc phủi tay rũ quần.

Chiến trường chỉnh cán, chỉnh quân,

Bắn Bà địa chủ ở gần Thái Nguyên[19].

Từ hình đại tá tiêu tiền,

Dụ Châu[20] lạm dụng chức quyền tham ô.

Chiến trường vang a-lô-xô,

Lập công báo quốc tiếng hô long trời.

Mao định té nước kịp thời,

Cho quân chí nguyện ăn chơi đất nhà.

Thư từ cho Hồ Đại Ca,

2950.Đế vương chỉ nhận súng và tướng thôi.

Gọng kìm Xô-Trung một thời,

Nay Tàu kiềm toả biển trời đảo xa.

Mười bảy năm đất Trung Hoa,

Chiếm hơn phân nửa bôn ba nước ngoài.

Bánh bao ăn nhiều hơn khoai,

Hăm-bơ-gơ Mỹ bánh dài Pháp qua.

Anh yêu lát bánh mì Nga,

Đen xốp chấm muối chính là công nông.

Muôn đời chiếm cứ số đông,

2960.Làm nên lịch sử cho ông bà hoàng.

Tai nghe súng nổ đoàng đoàng,

Pháo hạm xô-viết bàng hoàng thất kinh.

Vào trong sâu thẳm tâm linh,

Vạn cùng bất đắc chiến chinh điêu tàn.

Nhiều lần Người muốn hòa ngang,

Thực dân đế quốc sài lang không dừng.

Người khôn ăn nói có chừng,

Kẻ tham chỉ muốn luật rừng nuốt tươi.

Gậy gai sau, cà rốt mồi,

2970.Đạn bom nổ trước là loài bất nhân.

Với Tàu cộng, Cụ mang ân,

Nghĩa tình sau trước, nợ nần nói ra.

Trung cộng cướp trắng Hoàng Sa[21],

Cướp thêm quần đảo Gạc Ma[22] của mình.

Tằm tơ nhiều đoạn rối tinh,

Tham tàn Hoa tộc mấy nghìn năm qua.

Đế Minh thông sử nước Nhà,

Những mong hai nước hài hoà sống vui.

Chia nhau một con bê thui,

2980.Trung cộng đòi hết hai đùi lẹm vai,

Cố quên các bậc hiền tài,

Nước Nam có chủ, ly lai không nhường.

Tư tưởng xây dựng hậu phương,

Lần Ba Hội Đảng kỷ cương siết vào.

Dựng xây các loại phong trào,

Công nông binh trí trụ cao vũ đài.

Tăng tốc tiến tới bồng lai,

Các đệ tính chỉ một vài năm sau.

Công hữu hoá đặt lên đầu,

2990.Công nghiệp nặng chế ra nhiều thép gang.

Hợp tác hoá khắp xóm làng,

Diệt hết tư hữu, thiên đàng hiện ra.

Quốc hữu phủ đến sâu xa,

Giồng rau, cắt tóc, nuôi gà quốc doanh.

Mười năm đánh trống cầm canh,

Miền Bắc được một, Nam giành đầy kho.

Hai miền cơm cháo đủ no,

Cả hai toan tính chơi trò đánh nhau.

Nhập đàn tuyển chọn con đầu,

3000.Thuộc tính sinh học của trâu bò rừng.

[1] Lê Đức Thọ (1911 -1990) là chính khách Việt Nam, giữ chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương, phụ trách nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt một thời kỳ dài 1956-1982, trực tiếp phụ trách đoàn ngoại giao Việt Nam đàm phán với Mỹ về Hiệp định Paris. Ông Thọ từng được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng với cố vấn ngoại giao Mỹ ông Henry Kissinger vào năm 1973, nhưng ông đã từ chối nhận giải với lý do đất nước Việt Nam chưa thể có được hòa bình. Đó là giải Nobel duy nhất dành cho người Việt cho đến nay. Ông Sáu Búa, Sáu Thọ là tên gọi thân mật đồng chí Lê Đức Thọ ở miền Nam thời kỳ chiến tranh chống Pháp.

[2] Tố Hữu, (1920 - 2002) là một nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, là một chính khách quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

[3] Kẹo Cu đơ là một loại kẹo lạc (đậu phộng) đặc sản của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. Kẹo được nấu từ mật mía, đường, mạch nha, gừng có thêm lạc nhân và được đổ vào hai miếng bánh tráng khô nướng ép lại. Loại kẹo này rất dẻo và dính, có thể thưởng thức cùng với nước trà xanh.

[4] Xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, Hưng Yên là nơi phát tích của dòng họ Hoàng ở thôn Vân Nội. Đây là dòng họ nổi tiếng có truyền thống lịch sử lâu đời không chỉ vì sự nổi danh của 18 đời quận công mà còn là quê hương của bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà Hoàng Thị Loan (1868-1901) là con gái của cụ Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (Nam Đàn, Nghệ An). Theo gia phả họ Hoàng ở đây, cụ tổ của dòng họ Hoàng ở Nghệ An là Hoàng Nghĩa Kiều (1540-1587), đời thứ 6 của dòng họ Hoàng là người làng Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

[5] Xứ Nghệ “địa linh nhân kiệt” đã mấy trăm năm lưu truyền câu Sấm của Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm), đến đầu thế kỷ XX thì trở thành sự thật: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Nghĩa là “Núi Đụn phân đôi/ (khe) Bò Đái mất tiếng/ Nước (sông Lam) khoét vào núi Lam Thành/ (đất) Nam Đàn sinh thánh”.

[6] Mùa Thu năm 1905, Phan Bội Châu lo việc tổ chức thanh thiếu niên Việt Nam qua Nhật, cụ có ý muốn đưa Nguyễn Tất Thành sang bên đó nhưng cậu không đi.

[7] Abraham Lincoln (1809-1865), là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ tháng 3 năm 1861 cho đến khi bị ám sát vào tháng 4 năm 1865. Lincoln thành công trong nỗ lực lãnh đạo đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng hiến pháp, quân sự, và đạo đức, cuộc Nội chiến Mỹ, duy trì chính quyền Liên bang, đồng thời chấm dứt chế độ nô lệ, và hiện đại hóa nền kinh tế, tài chính của đất nước. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở vùng biên thùy phía Tây, kiến thức Lincoln thu đạt được hầu hết là nhờ tự học.

[8] Đinh Tiên Hoàng ( 924 - 979), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước phong kiến tập quyền đầu tiên, Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời phương Bắc đô hộ.

[9] Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, (1912 - 1940) là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra “Trường thơ Loạn”. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.

[10] Năm 1946, biết tin Chủ tịch Hồ Chí Minh là em trai mình, ngày 27/10/1946, Bà Nguyễn Thị Thanh (1884 -tháng 3-1954) ra Hà Nội thăm em. Bà kể chuyện sau khi Hồ Chí Minh ký Hiệp định sơ bộ Pháp Việt (6-3 -1946, tại số nhà 38 Lý Thái Tổ, Hà Nội), tạm ước Việt - Pháp ngày 14/9/1946 ờ Paris, dân quê đốt ảnh Chủ tịch. Hồ Chí Minh nói “Bà con là những người yêu nước” trước đó nói với quốc dân trên sóng Radio “Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước.”

Ngày 03/11/1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm (1888- tháng 10/1950) là anh ruột ra Hà Nội thăm em là Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

[11] Lần thứ nhất:  Ngày 16-6-1957. Lần thứ hai, sáng ngày 8/12/1961, Bác về xã Kim Liên nhưng một điều bất ngờ không có trong kế hoạch là Bác bất ngờ về thăm làng Hoàng Trù - quê ngoại trước. Người trò chuyện với những người bạn tuổi thơ, ôn lại kỷ niệm thời thơ ấu.

[12] John Fitzgerald Kennedy (1917 -1963), thường được gọi là Jack Kennedy hay JFK, là một chính trị gia và Tổng thống thứ 35 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, tại nhiệm từ năm 1961 - 1963. Sự kiện Kennedy bị ám sát vào ngày 22 -11 -1963 là một bước ngoặt trong lịch sử nước Mỹ vào thập niên 1960. Đương thời, ông là người đào hoa.

[13] Fidel Alejandro Castro Ruz, phiên tiếng Việt Phi-đen Cát-xtơ-rô (1926 -2016) là một nhà cách mạng và chính trị gia người Cu ba, Thủ tướng Cu ba từ tháng 2 -1959 đến tháng 12 - 1976 và sau đó là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cu ba đến khi ông từ chức tháng 2 - 2008. Ông là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cu ba từ tháng 10 -1965 tới tháng 4 - 2011, em trai là ông Raúl Castro được kế nhiệm chức vụ này vào ngày 19 - 4 -2011 đến ngày 19 - 4 - 2021. Ông là người đương thời với những nhà lãnh đạo nổi tiếng như Che Guevara, Hồ Chí Minh, Nelson Mandela,…Ngày 15-9 -1973, giữa lúc cuộc Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra, ông đã đến vùng giải phóng thị xã Đông Hà, Quảng Trị, cổ vũ cuộc kháng chiến chống Mỹ.

[14] Tàu Granma dài 18 mét. Ngày 2- 12 -1956, Fidel trong 80 người trở lại Cuba sau khi đổ bộ lên miền Đông, họ bị bao vây bởi quân chính phủ Batista. Một trận đánh ác liệt diễn ra, nhóm cách mạng chỉ còn 12 người sống sót và rút vào vùng rừng núi Sierra Maestra để tổ chức kháng chiến. Nhóm kháng chiến được quần chúng ủng hộ và phát triển lên đến 800 người. Trong suốt 2 năm, họ áp dụng chiến thuật đánh du kích gây nhiều thiệt hại cho quân chính phủ. Ngày 1-1 -1959, quân đội của Fidel Castro tiến vào thủ đô La Havana,

[15] Giang Thanh (1914-1991) là người vợ thứ tư của Mao Trạch Đông (kết hôn ở Diên An năm 1938). Bà là một người của Tứ nhân bang (bè lũ bốn tên) trong Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc thập kỷ 60 thế kỷ 20. Khi đang ở đỉnh cao quyền lực, Giang Thanh từng phê chuẩn lệnh bắt nhiều đảng viên cộng sản vu là phản cách mạng, thậm chí cả đầu bếp và người giúp việc của họ cũng không thoát.

[16] Bà L.Th.Ph.M, cán bộ cao cấp của Bộ LT-TP nói: "Không ai nói với tôi là có ý định giới thiệu với Bác nhưng đúng là có bố trí để tôi tiếp cận. Nhưng vì tôi trẻ quá, nên ngay từ những ngày đầu gặp Bác, Bác đã gọi tôi bằng cháu". Chồng bà là ông Tr.Đ, nguyên Viện trưởng Viện KHH, UBKHNN.

[17] Ông Đào Chú (1908-1969), Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) cũng là một người bạn thân thiết của cụ Hồ, quan tâm đến hạnh phúc riêng tư của bạn.

[18] Mùa Xuân năm 1950, sau 5 năm Kháng chiến chống Pháp, Việt Nam đã giành nhiều thắng lợi. Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Góp phần quyết định vào thắng lợi đó, là chuyến công du bí mật sang Trung Quốc và Liên Xô của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

[19] Nguyễn Thị Năm (1906 -1953), quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội, là một địa chủ có công đóng góp tài sản cho Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc Cải cách ruộng đất, bà bị nông dân địa phương đấu tố là địa chủ gian ác và bị xử bắn. Bà nguyên là Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Thái Nguyên. Nhiều nhân chứng viết hồi ký đều ghi nhận sự phản ứng quyết liệt của Hồ Chí Minh khi nghe báo cáo về vụ việc bà Năm.

[20] Trần Dụ Châu (1906-1950), Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu (tiền thân của Tổng cục Cung cấp, nay là Tổng cục Hậu cần, Quân đội nhân dân Việt Nam); bị tử hình trong vụ án tham nhũng nổi tiếng năm 1950 trong Chiến tranh Đông Dương.

[21] Hải chiến Hoàng Sa là một trận chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc xảy ra vào ngày 19-1- 1974 trên quần đảo Hoàng Sa khi cả hai phía đều tuyên bố có chủ quyền ở quần đảo này. Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa sau đó.

[22] Ngày 14-3-1988, Hải quân Trung Quốc tấn công vũ trang hòng chiếm đóng bãi đá Cô Lin, bãi đá Len Đao và bãi đá Gạc Ma thuộc Quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, Hải quân Nhân dân Việt Nam đang bảo vệ và  xây dựng công trình trên các đảo. Sau đó Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma và xây dựng nhiều công trình quân sự.

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (3001 -3100 )

3001.Bờ gai, búi cỏ bùng nhùng,

Lý luận chầy cối phát khùng nổi điên.

Song hành lợi ích bạc tiền,

Tranh mồi di giống tự nhiên sinh tồn.

Cho rằng mình đúng, mình khôn,

Không chung cách nghĩ phải dồn ép nhau.

Thế gian đa dạng từ lâu,

Tôn giáo, sắc tộc nhiều màu đỏ đen.

Hoà bình, hoà hợp vững bền,

3010.Song song đồng hướng, phương miền tự do.

Nhất điền vạn chủ sống nhờ,

Sông dài biển lớn, bến bờ thông nhau.

Lão tử xưa thấm nỗi đau,

Khuyên vua các nước đối đầu phải nguôi:

Diện tích các nước nhỏ thôi,

Nghe chung gà gáy, giọng người qua sông.

Bang giao giữ lấy tấm lòng,

Đạo phu thê sống thuận tòng sẻ chia.

Biên cương chồng lấn riềm rìa,

3020.Núi sông hào lũy, cây que cắm rào.

Bắc Nam hai nửa địa cầu,

Nam nghèo tăm tối, Bắc giầu phát quang.

Đông Tây phân cực rõ ràng,

Người Tây thực chứng, Đông đàng tâm linh.

Nhiều lần đệ hỏi Đế Minh,

Ngoại xâm nhòm ngó nước mình, sợ ai?

“Đế sợ các chú chạy dài,

Đoàn kết trụ cột chiến hoài là xong”.

Chiến thắng Ấp Bắc[1] nức lòng,

3030.Mặt trận Giải phóng thành đồng miền Nam.

Trường Sơn xẻ dọc, xiên ngang,

Đường mòn trên biển vận hàng chiến tranh,...

Ta mềm giặc lấn rất nhanh.

Gia Long nhảy cóc dinh thành Phú Xuân,

Bỏ Quy Nhơn, đốc thúc quân,

Điều binh khiển tướng chia phần Thăng Long.

Diệm hô: Bắc tiến, lấp sông,

Nhảy dù ăn phở, cháo lòng tiết canh,

Trở về đình miếu Hà Thành,

3040.Bái lậy tiên tổ chiến tranh đã tàn…

Nam luận cùn: Bắc xâm lăng,

Non sông là một đất bằng từ xưa.

Đấu tranh huynh đệ thắng thua,

Lúa vàng trúng vụ, mất mùa cau xanh.

Tự quyết là quyền chính danh,

Thần Tự do Pháp hiểu nhanh chuồn rồi.

Hoa Kỳ toan tính đánh hôi,

Lê dương chinh chiến đất trời Việt Nam.

Đức nhân biến thành lòng tham,

3050.Tự do dân chủ hóa phàm tục hư.

Người Việt-Mỹ chẳng thâm thù,

Chỉ lũ hiếu chiến hoả mù chúng dân.

Đổ quân chiếm cứ Nam phần,

Nghĩ rằng trật tự, liên quân vãn hồi.

Cồn Tiên, Dốc Miếu[2] dựng chòi,

Kiểu Bàn Môn Điếm một thời đã qua.

Trận chiến quân tử miền xa,

Sông Đrăng[3] khúc chiến ca dạo đầu.

Đế Minh buộc nói câu ngầu:

3060."Giôn xơn bè lũ"[4] phải chầu Diêm vương.

Toàn quốc xốc gậy lên đường,

Đạn bom chết chóc, chiến trường khắp nơi.

Muôn năm chỉ có một thời,

Ngô khoai hạt củ rạch ròi bát cơm.

Tình yêu vị ngọt hương thơm,

Không chấp nhận thói bờm xơm ngoại tình.

Hai vua một nước lình xình,

Một chồng hai vợ ắt rình đánh ghen.

Tháp Mười đã nở hoa sen,

3070.Bông súng, điên điển phải men bụi bờ.

Tay bo Bắc thắng, Nam thua,

Nồi da huynh đệ nửa mùa chợ tan.

Trường Sơn mây gió bạt ngàn,

Bước chân nát đá, lửa tàn rừng cây.

Mười nghìn liệt sĩ với tay,

Mười nghìn khát vọng một ngày bình yên[5].

Chiến tranh mở rộng hai miền,

Cháy sang hai nước Lào, Miên[6] láng giềng.

Bầu trời Xiêng Khoảng[7] đảo điên,

3080.Cánh đồng Chum đá xô nghiêng nứt rời.

Ăng Co[8] lửa cháy ngút trời,

Quạ bay táo tác đàn dơi chập chờn.

Đông Tây hai ngả Trường Sơn,

Bể Đông ngầu bọt nỗi buồn chiến tranh.

Một chiều mưa ngớt, trời xanh,

Có người nước Phạn đến thành Thăng Long.

Đế Minh đón tiếp trải lòng,

Ngũ Hành[9] Bát quái một vòng ngả ra.

Nước Nam vào thế gân gà[10],

3090.Khó nhai, khó nuốt liệu mà giằng co.

Thuyết âm mưu chúng bỏ lò,

Cá quả chín cháy chơi trò nướng dân.

Đế buồn tính khí thất thần,

Thả câu ao cá, cả tuần kém cơm,

Bánh mì khoai nướng trà thơm,

Treo ảnh nguyên soái gờm gờm nhìn nhau,

Bản đồ chiến sự xước nhàu,

Thước cà, bút vạch mực mầu đỏ đen[11].

Những đêm Đế vặn nhỏ đèn,

3100.Song Ba[12] toan tính Giời quên mất rồi?

[1] Trận Ấp Bắc là một trận quy mô lớn diễn ra vào giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ với kết quả là chiến thắng lớn đầu tiên của quân vũ trang Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa gọi là Việt Cộng) đối với quân chính quy của Quân lực Việt Nam Cộng hòa được cố vấn Mỹ chỉ huy. Trận này diễn ra vào ngày 2 -1- 1963, gần Ấp Bắc thuộc tỉnh Mỹ Tho lúc bấy giờ (ngày nay là tỉnh Tiền Giang), cách Sài Gòn 65 km về phía tây nam.

[2] Cồn Tiên, xã Gio Sơn, Gio Linh, Quảng Trị, Việt Nam. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, nơi đây có một căn cứ thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nằm gần khu phi quân sự khoảng 3 km so với Bắc Việt Nam, từng diễn ra trận đánh khốc liệt từ tháng 2 -1967 đến tháng 2 -1968

Dốc Miếu thuộc xã Gio Phong, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, cách cầu Hiền Lương khoảng 7km về phía Nam. Từ năm 1947, căn cứ Dốc Miếu được thực dân Pháp thành lập; sau năm 1954, Mỹ đã đầu tư 800 triệu USD xây dựng căn cứ quân sự quan trọng về pháo binh, dựng hàng rào điện tử Macnama bao gồm 12 lớp kẽm gai, mỗi lớp cao khoảng 3m, xen giữa những hàng rào cài các loại mìn tự động và hệ thống bãi mìn dày đặc hàng trăm mét.

[3] Trận Ia Đrăng (địa điểm nay là huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai), là một trong những trận lớn đầu tiên giữa liên quân Việt Nam Cộng hòa-Quân đội Hoa Kỳ và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Trận đánh là một phần trong Chiến dịch Plei Me (từ ngày 19 -10 đến ngày 26 -11 -1965) do Bộ Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa thực hiện để đáp trả lại Chiến dịch Plâyme của Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3 quân Giải Phóng (từ ngày 19 đến 26 tháng 10 năm 1965).

[4] “Giônxơn và bè lũ phải biết rằng: chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tǎng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chúng càng hung hǎng thì tội của chúng càng thêm nặng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn?” Lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam truyền đi sáng ngày 17-7-1966.

Lyndon Baines Johnson (Giônxơn) (1908 - 1973) là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 36, tại vị trong giai đoạn 1963-1969. Trước đó, ông đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng thống Hoa Kỳ thứ 37 trong giai đoạn 1961-1963. Ông là một trong bốn người duy nhất đắc cử bốn chức vụ liên bang: hạ nghị sĩ, thượng nghị sĩ, phó tổng thống, và tổng thống.

[5] Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn ở Quảng Trị, nơi 10.000 liệt sĩ yên nghỉ. Nguồn cảm hứng của Đại tá Nguyễn Hữu Quý là cây bút chuyên nghiệp của quân đội viết bài thơ “Khát vọng Trường Sơn”.

[6] Campuchia, tên chính thức: Vương quốc Campuchia, còn gọi là Cao Miên hay Cam Bốt  là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương. Campuchia giáp với vịnh Thái Lan, giáp Thái Lan ở phía tây bắc, Lào ở phía đông bắc và Việt Nam ở phía đông. Năm 1968 Quốc vương Norodom Sihanouk (1922 - 2012) phản đối tất cả các vụ Mỹ đánh bom trên lãnh thổ Campuchia với bất kỳ lý do gì.

[7] Xiangkhouang, tiếng Lào nghĩa là "Thành phố phía chân trời" hiện nay thuộc tỉnh Phonsavan của nước Lào. Nơi đây có Cánh đồng Chum, gồm hàng ngàn chum đá có niên đại 1500 - 2000 năm, nằm rải rác dọc theo thung lũng và đồng bằng trung tâm thuộc Cao nguyên Xiengkhuang. Hầu hết chúng nằm thành từng cụm với số lượng từ một cho đến vài trăm cái chum.

[8] Angkor là một tên thường gọi của một khu vực tại Campuchia đã từng là kinh đô của Đế quốc Khmer  đã phát triển rực rỡ vào khoảng thế kỷ 9 đến thế kỷ 15. Từ "Angkor" xuất phát từ tiếng Phạn nagara và có nghĩa là "thành phố". Chính xác hơn, thời kỳ Angkor có thể được định nghĩa là thời kỳ từ năm 802, khi vị vua Hindu Jayavarman II của người Khmer tự xưng "vua thiên hạ" và "thiên tử" của Campuchia, cho đến năm 1431 khi người Thái chiếm được kinh đô của Khmer khiến cho dân cư ở đây di cư về phía nam đến khu vực PhnomPenh.

[9] Theo triết học cổ Trung Hoa, tất cả vạn vật đều phát sinh từ 5 nguyên tố cơ bản và luôn trải qua 5 trạng thái là: Hỏa Thủy Mộc Kim Thổ. Năm trạng thái này được gọi là Ngũ hành không phải là vật chất như cách hiểu đơn giản theo nghĩa đen trong tên gọi của chúng mà đúng hơn là cách quy ước của người Trung Hoa cổ đại để xem xét mối tương tác và quan hệ của vạn vật trong mối tương quan hài hòa, thống nhất. Bát quái là 8 quẻ  được sử dụng trong vũ trụ học Đạo giáo như là đại diện cho các yếu tố cơ bản của vũ trụ, được xem như là một chuỗi 8 khái niệm có liên quan với nhau. Mỗi quẻ gồm 3 hàng, mỗi hàng là nét rời (hào âm) hoặc nét liền (hào dương), tương ứng đại diện cho âm hoặc dương. Tám quẻ gồm : Càn là Trời, Chấn-Sấm, Khảm- Nước, Cấn -Núi, Khôn-Đất,Tốn-Gió, Ly-Hỏa, Đoài là Đầm, kết hợp hàng và cột hình thành 64 quẻ. Bát quái có liên quan đến triết học thái cực và ngũ hành và cả ba đều của Kinh Dịch. Bát quái được ứng dụng trong thiên văn học, chiêm tinh học, địa lý, phong thủy, giải phẫu học, gia đình, và những lĩnh vực khác.

[10] Dương Tu (175 - 219) là mưu sĩ của Tào Ngụy, giải thích cho tướng Hạ Hầu Đôn rằng khẩu lệnh "kê lặc - gân gà" nói lên tâm trạng của Tào Tháo, vừa muốn rút quân, vừa không muốn bỏ như gân gà, ăn thì không có thịt, bỏ đi thì thấy tiếc. Quả nhiên, Tào Tháo ra lệnh hồi kinh. Việc Dương Tu đoán được ý đến tai Tào Tháo, khiến Tào Tháo rất tức giận và muốn tìm cơ hội giết Dương Tu.

[11] Tại Nhà sàn nơi Hồ Chí Minh ở treo bản đồ chiến sự và ảnh nguyễn soái Liên Xô Stalin.

[12] Hồ Chí Minh và Lê Duẩn đều có tên gọi anh Ba, trong quá trình hoạt động cách mạng.

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (3101 - 3200 )

3101. Bia miệng, bia đá lạc trôi,

Tự do Độc lập được Trời đất dung.

Báo chí hò hét tùng tùng,

Đế khuyên vòng nhắc chết đừng vống cao.

Pa-ri[1] bốn phía lao nhao,

Cối chày nhịp thấp nhịp trào trước sau.

Hoa Kỳ dư đạn đánh nhau,

Hiện sinh chủ nghĩa vào đầu viễn chinh.

Chết nhiều, dân Mỹ giật mình[2],

3110. Quan tài bay lượn Thái bình dương qua.

Phong trào phản chiến xông pha,

Đốt thẻ quân dịch hét la phố phường.

Nửa triệu lính Mỹ, lê dương,

Đánh thuê cho Thiệu chiến trường mở ra.

Tưởng ngon xơi miếng chả gà,

Đệ nhị thế chiến khác xa lần này.

Chiến Mỹ khó hơn đánh Tây,

Việt cộng sáng tạo đổi thay cách đòm!

Quân tướng kháng Pháp vẫn còn,

3120.Binh chủng hiện đại ra đòn mới tinh.

Đấu với nhà nghề viễn chinh,

Nguỵ quân từng chiến Việt Minh dạn dầy[3],

Chư hầu từ Đông sang Tây,

Liên quân hợp chủng đóng đầy miền Nam[4].

Liên xô, Trung Quốc rất ham,

Những mong Bắc Việt mời tham chiến cùng[5].

Thế giới đang tuổi điên khùng,

Giai tơ gái mấng muốn dùng thịt cơ.

Mây đưa, hạc đón từng giờ,

3130.Thần chiến tranh chán cuộc cờ sát nhân!

Lợi quyền mớm miệng thứ dân,

Thắng thua sống kiếp đời cần lao thôi.

Ba ba cắn đũa là toi,

Bao nhiêu tôm cá mắc mồi câu ngon.

Muôn năm tìm cuộc vuông tròn,

Vợ chồng Tạo hoá sống còn cãi nhau,…

Chiến dịch tìm diệt xiên xâu,

Xăm hầm Việt cộng, mua đầu giá cao,

Da cam[6] diệt cỏ thấp cao,

3140.Thả cây nhiệt đới[7] căng rào đóng quân.

Đánh nhau, Việt cộng ở trần,

Hỏa tiễn, bộc phá tiến gần mới phang.

Hai bên dụ nhau đầu hàng,

Truyền đơn bướm trắng loa vàng cánh bay.

Cùng kiểu du kích cù nhầy,

Khe Sanh tử chiến, Làng Vây tử thù,

Thuỷ quân lục chiến, lính dù,

Bom rơi đạn nổ khói mù tầng không.

Biệt cách, biệt động, đặc công,

3150.Trổ tài giết chóc dạ lòng sói lang.

Đắm chìm bùn khẳm ngách hang,

Mậu Thân, thành Huế máu tràn bước chân[8].

Binh đao dân chết hơn quân,

Phật buồn, Chúa khổ, Thánh thần chào thua.

Mậu Thân trái gió trở mùa,

Người nổi tính khỉ hái bừa quả xanh.

Ních-xơn tái nhiệm chiến tranh,

Rút quân nhỏ giọt, Việt giành mạng nhau.

Việt Cộng về núi rừng sâu,

3160.Đói ăn, sốt rét thương đau lấp vùi.

Sắn non chưa kịp bới lùi,

Bom rơi trốc rễ, đạn khui nóc hầm.

Né dạt sang đất bạn nằm,

Chiêu binh mãi mã rầm rầm vào sâu.

Ghế da rách bởi họp lâu,

Pa ri  bế tắc, về chầu đạn bom.

Một ngày hai trăm chiếc hòm,

Dân chúng nước Mỹ chán đòm Việt Nam.

Cháy nhà hàng xóm lửa lan,

3170.Lào, Miên lây chiến phỉ Vàng Pao[9] la.

Lon Nol[10] nổi loạn đánh Ta,

Kong Le[11] nghênh chiến đả Pa thét Lào.

Khơ me đỏ độc lánh vào,

Sau thành Pôn Pốt[12] theo Tào đánh Ta.

Trung cộng nhòm ngó Hoàng sa,

Bóng bàn séc chót, chúng ra tay đòm[13].

Bể xanh máu Việt đỏ lòm,

Khó đòi lại mất thêm hòn Gạc Ma.

Năm cùng tuổi Đế vương già,

3180.Mắt mờ chân mỏi tóc pha sương chiều.

Lòng còn vương vấn thương yêu,

Quê hương, cha mẹ cánh diều qua sông.

Duyên tình thấm ướt lệ rưng,

Nẻo đường cách mạng không ngừng đấu tranh.

Đế buồn dạo bước vườn xanh,

Mặt ao cá quẫy, trên cành chim ca.

Tin rằng nước Việt sau xa,

Toàn dân đoàn kết cơm và áo mang.

Tin rằng non nước đàng hoàng,

3190.Hậu sinh khả uý kinh bang cập thời.

Cộng sản thế giới sụt trồi,

Đảng Việt Nam[14] biết giã rời bùn nhơ.

Dù cho đổi nước, thay cờ,

Nước Nam thống nhất ước mơ vẹn toàn.

Bao lần gieo được quẻ Càn,

Vạch Khôn nét đứt bể tràn nước dâng.

Trời cao, đất hẹp chia phần,

Giang sơn liền thổ, nhân dân kết đoàn.

Nương dâu bãi bể cạnh tranh,

3200.Lấy dĩ bất biến, cao xanh hài hoà.

[1] Hội nghị Paris ở thủ đô nước Cộng hòa Pháp. Thời gian đàm phán từ tháng 5-1968 đến tháng 1 -1973. Các bên tham gia ban đầu chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ; sau mở ra thành hội nghị 4 bên, có thêm Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng đã đưa ra các giải pháp hòa bình, trong đó đề nghị 10 điểm ngày 8-5-1969 mà sau này đã trở thành xương sống cho bản Hiệp định năm 1973.

[2] Trong số ngoại quốc tham chiến, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn Quốc bị chết và khoảng 11.000 bị thương; Úc có khoảng 500 binh sĩ chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand có 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan có 351 chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể. Trong chiến tranh, con số này được cập nhật hàng ngày và công khai sớm.

[3] Hầu hết tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa xuất thân binh nghiệp từ trước năm 1955 theo Pháp chống Việt Minh.

[4] Các quốc gia có quân đến Việt Nam tham chiến cùng Mỹ giai đoạn (1955–1975) gồm: Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, Lào, Campuchia, Philippines.

[5] Quân đội Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên giúp Việt Nam chống Mỹ giai đoạn (1955–1975), chủ yếu đóng quân ở Miền Bắc.

[6] Chất độc da cam là tên gọi của một loại chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây được quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam. Chất này không có màu và được chứa trong các thùng màu da cam (do vậy trong vụ kiện hậu quả của nó được gọi nhầm là chất độc màu da cam). Chất này tác hại đến môi trường lâu dài, tổn hại sức khỏe con người và di chứng. Đến nay, Chính phủ Hoa Kỳ vẫn từ chối trách nhiệm với những nạn nhân này.Tuy nhiên vào tháng 5/2007, Quốc hội Hoa Kỳ đã phân bổ khoản ngân sách 3 triệu USD nhằm khắc phục ảnh hưởng của chất độc da cam và môi trường tại một số điểm nóng nhất và năm 2009 tăng lên 6 triệu USD.

[7] Những thiết bị điện tử của quân đội Mỹ gồm khoảng gần 100 loại khác nhau được rải xuống rừng núi Trường Sơn, được mệnh danh là những "thám tử giấu mặt", những "kẻ gác đường". Có những máy radar nhỏ rải rác khắp các nẻo đường để phát hiện tiếng động hoặc tia hồng ngoại do các xe cơ giới phát ra, báo về trung tâm chỉ huy. Có những máy đánh hơi được mùi amoniac trong mồ hôi để gọi máy bay oanh tạc tới.

[8] Trận Mậu Thân tại Huế (Cố đô Nhà Nguyễn) là trận chiến kéo dài 26 ngày giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam với Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh Hoa Kỳ trong sự kiện Tết Mậu Thân. Trận chiến này cũng là một phần của Chiến tranh Việt Nam. Đây là một trận đánh ác liệt nhất trong đợt 1 Tổng tiến công Tết Mậu Thân. Dù quân Giải phóng bị đánh bật khỏi Huế song nó mang lại sự đổ vỡ tâm lý và chính trị lớn nhất cho Hoa Kỳ.

[9] Vàng Pao (1929-2011) là người H'mong đầu tiên được phong hàm tướng Quân đội Hoàng gia Lào. Ông từng được mệnh danh là vua Mèo tại Thượng Lào từ năm 1960. Trong Chiến tranh Đông Dương, Vàng Pao được CIA nâng đỡ để chỉ huy Quân khu II ở miền bắc nước Lào chống lại Pathet Lào và việc sử dụng đường Trường Sơn của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong chiến dịch mang tên "Cuộc chiến bí mật"

[10] Lon Nol (1913 - 1985) là chính trị gia Campuchia giữ chức Thủ tướng Campuchia hai lần cũng như đã liên tục giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dưới thời vua Norodom Sihanouk. Ông tự tuyên bố là tổng thống nước Cộng hòa Khmer sau khi thực hiện cuộc đảo chính chống lại chính quyền Sihanouk vào năm 1970. Ngày 12-3-1970, Lon Nol và Sirik Matak hạ lệnh đóng cửa cảng Sihanoukville, nơi vận chuyển vũ khí tới tay Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời ban hành tối hậu thư yêu cầu tất cả lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam phải rút khỏi đất Campuchia trong vòng 72 giờ hoặc phải đối mặt với hành động quân sự.

[11] Kong Le (1933-2014) là đại úy tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 nhảy dù Quân đội Hoàng gia Lào, người tiến hành cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính phủ Hoàng gia Lào năm 1960.  Ngày 13 -12-1960, quân của hoàng thân Phoumi Nosavan tiến chiếm thủ đô Lào. Lực lượng của Lữ đoàn dù của đại úy Kong Le bị đẩy bật ra khỏi Viêng Chăn.

[12] Saloth Sar (1925 -1998), là Thủ tướng của Campuchia Dân chủ từ năm 1975-1979, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Kampuchea từ 1963-1981, là lãnh tụ phong trào cộng Khmer Đỏ gây ra nạn diệt chủng ở Campuchia giết hại đến 2 triệu người từ năm 1975-1979.

[13] Ngoại giao bóng bàn nói tới sự kiện giao lưu giữa những cầu thủ bóng bàn Hoa Kỳ và Trung Quốc trong những năm đầu thập niên 1970, bắt đầu trong suốt Giải vô địch bóng bàn quốc tế ở Nagoya, Nhật Bản. Sự kiện đã đánh dấu việc ấm lên quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc mở đường cho chuyến thăm tới Bắc Kinh năm 1972 của Tổng thống Richard Nixon và ra Thông cáo chung Thượng Hải, Hoa Kỳ công nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc…

[14] Hồ Chí Minh tuyên bố trước Quốc hội khóa I, Kỳ họp thứ hai, rằng: “Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam”.

 

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương (3201 -3420 hết )

3201Thắng đừng có vội hò la,

Thua đừng nhụt chí, đẩy tà huy[1] bay.

Việc cần trước, phải làm ngay,

Cơm no áo ấm làm ngày, học khuya.

Mặt trời tỏa sợi nắng tua,

Thời vận đến phải guồng đua nhịp nhàng.

Đế đưa bút xổ dọc ngang,

Mực Tầu chữ Phạn giấy vàng bùa treo!

Tiết trời năm ấy mưa nhiều,

3210. Đầu Xuân khô hạn tiêu điều xác xơ.

Lệ thường chúc Tết làm thơ,

Cuối năm thăm bạn thuở Sơ[2] hầu toà.

Bay sang đất nước Trung Hoa,

Trước là dưỡng sức sau là tri ân.

Bạn bè thuở Bát Lộ quân,

Toàn hàng nguyên soái đang quần thảo nhau.

Cách mạng Văn hoá[3] nước Tầu,

Hồng vệ binh đã xén râu công thần.

Xô Trung hục hặc kéo quân,

3220. Về miền biên ải tranh phần thiệt hơn.

Đế buồn trông cảnh chiều hôm,

Con thuyền vô sản cánh buồm tả tơi.

Đông Âu cách mạng nửa vời,

Đệ nhị quốc tế thích chơi nghị trường.

Pa ri họp nát như tương,

Các đệ xung khắc[4], chiến trường cam go.

Nước giàu sợ béo, sợ no,

Dân mình đói kém xương trờ ngoài da.

Chủ chiến phe của đệ Ba,

3230. Trường kỳ kháng giặc, Giáp ta quen bài.

Liên quân Mỹ trải dọc dài,

Phía nam Bến Hải gần hai triệu thằng.

Nổi dậy tiến về đồng bằng,

Giao thừa phát hoả pằng pằng pháo bông.

Lững lờ máu nhuộm dòng sông,

Đưa về biển cả trai mồng thành Loa.

Ba điệu Giáp tướng đi xa,

Điện cho Bác ở Trung Hoa chậm về.

Phi trường chiều đông tái tê,

3240. Đường băng tắt điện thử nghề phi cơ.

Máy bay vòng lượn bất ngờ,

Tiếp đất dừng bánh sương mờ ngừng bay[5].

Điếu thuốc còn ở trên tay,

Thản nhiên Bác nói :"Họa này còn xa",

Bùa ngải nước Phạn kéo ra,

Ngàn cân sợi tóc vẫn là thảnh thơi.

Chủ chiến giao chú Ba chơi,

Khiến dân nước Mỹ rụng rời thất kinh.

Loài người phát triển nhờ tình,

3250. Một con ngựa ốm cỏ khinh cả chuồng.

Bác buồn kiếp nạn dân thường,

Bom rơi đạn lạc, cởi truồng tản cư.

Huế mang nặng mối thâm thù,

Nhiều người hoàng tộc cậy vua làm càn.

Lông chìm đá nổi trái ngang,

Tai bèo, nón cối ngập tràn sông Hương.

Đông Ba máu bết nẻo đường,

Đạn bom hai phía chẳng thương dân lành.

Truy đuổi Việt cộng lên xanh,

3260. Súng không còn đạn,…thôi đành đò đưa.

Hàm Đan[6] cốt trắng thành xưa,

Đống xương Vô Định[7] bây giờ vùi sâu.

Ngàn năm hay mãi về sau

Cối chày đạo lý cãi nhau tơi bời .

Năm sau Đế mỏi rã rời,

Cơm đưa lưng bát, khách mời Bác lui.

Tình xưa khói lửa bùi nhùi,

Rơm thơm rút đống, sắn lùi lên hương.

Quá nửa thế kỷ dặm trường,

3270. Đấu tranh, chinh chiến đuổi phường xâm lăng.

Lên ngôi trong tiếng súng đoàng,

Non sông cách trở dân làng đánh nhau.

Bác nhìn lên ngọn hàng cau,

Vườn dừa tướp lá nỗi đau quặn lòng.

Niềm tin thống nhất non sông,

Đá thề nứt toác, gươm còn trơ trơ.

Hiện lên dòng giữa bài thơ,

Ngoại xâm phải cút, ngụy thờ chính nhân[8].

Nửa giáp giải phóng Nam phần,

3280. Non sông một mối muôn dân một nhà.

Vinh quang cay đắng xót xa,

Một trời vui lớn dịu xoa nỗi buồn,...

Út Vân ra bến Nhà Rồng,

Nén nhang bè chuối theo dòng nước trôi.

Cửa Phật nương ẩn một đời,

Cửa Chùa toả sáng một trời thương yêu.

Sáu mươi năm lẻ bóng chiều,

Trung trinh nguyện ước đi theo mối tình.

Đèn Giời rọi sáng lung linh

3290. Bao lần trợ giúp Đế Minh tranh quyền?

Tóc nàng Út bạc mầu thiền,

Hao gầy thân thể rộng miền chân tu.

Sóng tình ngó ý mau thưa,

Tơ lòng một sợi mút mùa Đạt Ma[9].

Thấu tình cõi Phật mờ xa,

Nhãn tiền không lợi người ta vẫn làm.

Chí tình, chí nguyện trời Nam,

Trời Bắc bông huệ hương lan khắp phòng[10].

Tình yêu ấm áp cõi lòng,

3300. Miền Nam trong trái tim hồng mai sau.

Đại tang vào chính mùa ngâu,

Ngưu Lang Chức Nữ qua cầu ô bay.

Tiếng súng thưa nhạt ít ngày,

Tiếng than dậy đất, khóc mây mịt mờ.

Đế đi vào đúng ngày giờ,

Năm xưa lập quốc trên gờ bục cao.

Hai ngày trong một không sao,

Niềm vui Quốc lễ mâm cao giỗ đầy.

Nỗi buồn theo áng mây bay,

3310. Tơ lòng xao xuyến dặm dầy bôn ba.

Bác muốn nghe điệu dân ca,

Núi Hồng vĩ dặm, tỳ bà Phương Đông.

Bác khen ca sĩ, nhạc công,

Cảm ơn tặng một bông hồng xinh tươi.

Ca nhạc Tây Tầu đến chơi,

Bác muốn sống lại một thời đấu tranh.

Bóng hồng một thuở đầu xanh,

Chập chờn gương mặt bên thành giường con.

Một đời sắt máu màu son,

3320. Một đời vì nước vì non yên bình.

Một đời vun đắp chữ tình,

Yêu thương đoàn kết dân mình ấm no…

Phút giây để lời dặn dò,

Anh Ba thứ nhất phải lo chiến trường.

Đón chờ trận chiến bi thương,

Dòng sông Thạch Hãn[11] máu xương tơi bời,

Thủ đô khói đặc bầu trời,

Không chiến trận chót sau ngồi Pa ri…[12]

Nhiều đệ vội phải ra đi,

3330. Nắm tay Đế dặn khắc ghi vào lòng.

Sáu Dân[13], Mười Cúc[14] khóc ròng,

Sau lên hàng Trụ vừa lòng chúng dân.

Sáu Thọ được mời đến gần,

Bác dặn giữ Đảng trắng ngần sạch thơm.

Tướng Giáp được chuyện nhiều hơn:

Phải thờ chữ Nhẫn, biết ơn đồng bào,

Cho con ra đứng chiến hào,

Triệu người ngã xuống công lao không vừa.

Hương hồn liệt sỹ phải thờ,

3340. Muôn năm tưởng nhớ vô bờ bến xưa.

Thanh niên nhiệt huyết dư thừa,

Phải học hành tốt hẹn mùa bội thu.

Dân tình khổ cực lơ ngơ,

Trợ cấp, giáo hóa không giờ nghỉ ngơi.

Nguy cơ phản động muôn đời,

Lấy nhân lễ nghĩa giúp người đổi thay.

Thận trọng mỗi lúc xuống tay,

Phòng ngừa phản loạn, trấn ngay giặc thù.

Tuần lễ mưa gió mịt mù,

3350. Trời tuôn nước mắt tiễn đưa Thiên tài.

Trở về xứ sở Bồng Lai,

Thánh hiền hội ngộ không ngai ngọc ngà.

Người về sống dưới mái Nhà,

Sớm đèn tối lửa với bà con dân.

Tìm người xưa cũ tri ân,

Gặp bên đối địch nợ nần cho xong.

Làm người đều muốn thật lòng,

Nhưng là tranh đấu phải phòng ngừa nhau.

Ngày tang đen đậm, trắng phau,

3360. Mưa rơi tầm tã, mưa sầu, mưa ngâu.

Ngưu Lang, Chức Nữ[15] qua cầu,

Ô thước giang cánh nghiêng đầu kết duyên.

Út Vân sống ở trong Miền,

Không tin chàng đã về thiên cổ rồi ?

Niềm tin nhiều thứ chơi vơi,

Tình yêu chung thuỷ vàng mười còn non.

Thế Truyền[16] than khóc héo mòn,

Huynh đi, đệ sống chỉ còn chua cay?

Hai tuần sau Truyền xuôi tay,

3370. Theo huynh để nhớ tháng ngày Ba lê !

Cần lao khóc lóc thảm thê,

Nghe ông Ba Duẩn “xin thề” xung phong.

Điện buồn theo mưa ròng ròng,

Lễ nghi trang trọng tấm lòng đệ huynh.

Miền Nam bom đạn uỳnh uỳnh,

Ních xơn nhận thấy viễn chinh sắp tàn.

Việc Nam hoá cuộc chiến tranh,

Mỹ rút nhỏ giọt người mình đánh nhau.

Đội quân các nước chư hầu,

3380. Tham tiền cố chiến lấy mầu Mỹ chi.

Trường Sơn rầm rập quân đi,

Lời thề tang lễ súng tì chắc vai.

Sáu năm chiến tiếp chặng dài,

Tháng Tư năm Mão[17] xong bài sử thi!

Chặng đường dài dặm bước đi,

Bình minh hé rạng thiên thu gọi về!

Cuộc chiến tự vệ lê thê,

Láng giềng hung hãn dao kề cổ ta.

Vang lên bài "Tiến quân ca",

3390. Viễn chinh"Thốt nốt"[18] tiến ra biên thuỳ[19]

Non sông vào thế an nguy,

Cha già với lính ăn thề từ lâu.

Chiến trường rừng thẳm vực sâu,

Vãn hồi hoà hiếu hai đầu núi sông.

Đế vương luôn lấy chữ đồng,

Nhẫn nhịn vượt ngưỡng là vung búa rìu,...

Người đi để lại thương yêu,

Mặt trời tắt nắng lửa vào lòng dân,

Một đời thờ phụng chữ “Nhân”,

3400. Ngải bùa nước Phạn hoá tàn tro bay.

Gia tài để lại sau này:

Tự do Độc lập vui vầy anh em.

Ngôi nhà chỉ một mái sàn,

Bồ câu tung cánh đầy đàn sinh sôi.

Bờ ao cá quẫy hóng Người,

Vườn cây chim hót dưới trời trong xanh.

Chùm chuông gió thổi thanh thanh,

Nguyện hồn các loại chúng sanh nước nhà.

Không châu báu, chẳng ngọc ngà,

3410. Lòng dân thân thiện vào ra viếng Người.

Ra đi nhẹ nhõm thảnh thơi,

Tự tin như thuở biển trời viễn dương.

Để lại hình ảnh yêu vương,

Đời sau chiêm nghiệm vào đường nhân sinh.

Thập toàn khuyết một mối tình,

Không nên chồng vợ, một mình gối chăn.

Tư tưởng Chí Minh rõ rành:

Cơm no áo ấm chúng sanh hài hoà…

Lời quê sáng tối đậm nhoà,

3420. Để cho bạn đọc gần xa tỏ tình.

            ___________________

                                   Làng Đại Yên, Hà Nội,… 2019-2021

[1] Ánh sáng xế chiều.

[2] Tống Văn Sơ trong phiên Tòa án xử vụ án Hồng Công

[3] Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa diễn ra trong 10 năm từ tháng 5 - 1966 đến tháng 10 -1976, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống ở Hoa lục nên cũng được gọi là "10 năm hỗn loạn". Cuộc cách mạng này được Mao Trạch Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16 - 5 -1966, với mục tiêu chính thức là đấu tranh với giai cấp tư sản phong kiến. Tuy nhiên, mục đích chính của cách mạng này được một số người cho là một cách để Mao Trạch Đông trấn áp lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt bị thất bại dẫn đến sự tổn thất quyền lực đáng kể của Mao Trạch Đông. Giới trẻ Trung Quốc hưởng ứng bằng việc thành lập các nhóm Hồng vệ binh trên khắp đất nước, đấu tố cán bộ các cấp, phá hủy rất nhiều các di tích và hiện vật lịch sử có giá trị,…

[4] Lãnh đạo cao cấp Việt Nam có tranh luận quan điểm chiến tranh, các chiến dịch được rút kinh nghiệm, đặc biệt là Cuộc Tổng tiến công chiến lược Mậu Thân năm 1968 và chiến dịch Quảng Trị năm 1972.

[5] Bác Hồ trên chuyến bay từ Trung Quốc về Việt Nam cuối năm Đinh Mùi 1967.

[6] Trận Hàm Đan, (259 TCN - 257 TCN) là cuộc chiến tranh diễn ra vào thời Chiến Quốc do nước Tần phát động tiến công vào kinh đô Hàm Đan của nước Triệu nhằm tận diệt quốc gia này. Trận chiến này có sự tham gia của bốn nước chư hầu là Ngụy, Triệu, Sở và Tần với kết quả là liên quân ba nước đánh bại quân Tần. Thiệt hại rất lớn, xương trắng xóa chân thành, dân lấy làm củi đun. Hàm Đan nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.

[7] Đống xương người xưa chết trận bên bờ sông Vô Định tỉnh Thiểm Tây,Trung Quốc. Nước sông chảy xiết cuốn theo cát, lòng sông chỗ nông, chỗ sâu không nhất định nên gọi là "Vô định hà". Từ thời xưa trên bờ sông này là bãi chiến trường.

[8] Bài thơ Xuân Kỷ Dậu (1969) Bác viết: Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/Vì độc lập, vì tự do/Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/Tiến lên!  Chiến sĩ đồng bào/Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn!

[9] Bồ-đề-đạt-ma (470-543),  Ông là Tổ thứ 28 và cuối cùng sau Phật Thích-ca Mâu-ni của Thiền tông Ấn Độ và là Sơ tổ của Thiền tông Trung Quốc. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông đã truyền thụ phương pháp rèn luyện thân thể cho các nhà sư Thiếu Lâm và dẫn đến việc hình thành môn võ Thiếu Lâm.

[10] Khi nhớ lại khoảng thời gian sống cùng Tống Văn Sơ, bà Rô-da Lô-dơ-bai (Vợ luật sư Lô-dơ-bai trong vụ án Hồng Công) vẫn thường nhắc đến hai loài hoa Bác yêu thích là hoa huệ và hoa hồng. Bà kể rằng: “Chúng tôi lưu ý thấy Người rất thích hoa huệ. Nhưng khi tặng hoa cho ai thì Người thường tặng hoa hồng…”

[11] Trận Thành cổ Quảng Trị là một trận chiến giữa một bên Quân đội Nhân dân Việt Nam với một bên là Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại khu vực thành cổ Quảng Trị vào năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt bậc nhất trong Chiến dịch Xuân Hè 1972, một phần của Chiến tranh Việt Nam. Trận chiến kéo dài trong suốt 81 ngày đêm, từ ngày 28 - 6 đến ngày 16 - 9 -1972, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã thành công trong việc tái chiếm lại Thành cổ nhưng vẫn không thể giành lại nửa Bắc của tỉnh Quảng Trị.

[12] Chiến dịch Linebacker II (còn gọi là Điện Biên phủ trên không) là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu từ  ngày 18-12 đến ngày 30 -12 -1972. Hoa Kỳ đã huy động máy bay ném bom chiến lược là pháo đài bay B-52 làm nòng cốt để ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn và các mục tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm. Đây là những cuộc ném bom dữ dội nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là một trong những cuộc tập kích có cường độ cao nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Trong 12 ngày, Mỹ đã thả hơn 36.000 tấn bom, vượt quá khối lượng bom đã ném xuống miền Bắc Việt Nam trong toàn bộ thời kì từ 1969 đến 1971. Thiệt hại quân sự rất lớn nhưng có số liệu khác nhau. Dân sự có 2.368 thường dân thiệt mạng, 1.355 người dân bị thương.

[13] Võ Văn Kiệt (đã chú giải). Từ năm 1959 đến cuối năm 1970, ông được giao trọng trách là Bí thư Khu ủy T.4, tức khu Sài Gòn - Gia Định.

[14] Nguyễn Văn Linh  (1915- 1998) là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI từ 1986 đến 1991 Từ đây bắt đầu thời kỳ Đổi Mới  của Việt Nam.

[15] Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bê việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng sáo của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận dữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông. Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên gia ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau vào ngày 7 tháng Bảy âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu, gọi họ là “Ông Ngâu Bà Ngâu’.

[16] Nguyễn Thế Truyền (đã chú giải), nghe tin Hồ Chí Minh mất, ông buồn và mất ngày 19 tháng 9 năm 1969 tại Sài Gòn.

[17] Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, gọi là Ngày 30 tháng Tư, là sự kiện Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam tiến vào thành phố Sài Gòn, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh cùng nội các tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày này là kết quả trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975 và là một mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

[18] Chiến tranh biên giới Tây Nam là cuộc xung đột quân sự giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Campuchia Dân chủ. Cuộc chiến có nguyên nhân từ các hoạt động quân sự của quân Khmer đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những năm 1975-1978.Việc đánh đổ Khmer đỏ đã được thực hiện xong từ năm 1979, tuy nhiên tàn quân Khmer Đỏ (Pol pốt) vẫn còn tồn tại và đe dọa chính phủ mới tại Campuchia, và Việt Nam đóng quân ở lại Campuchia trong suốt 10 năm tiếp theo, đến 1989.

[19] Chiến tranh biên giới 1979, hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa 2 nước. Chiến tranh biên giới Việt – Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia, diễn ra trong khoảng một tháng với thiệt hại về người và tài sản cho cả hai phía. Xung đột vũ trang tại biên giới giữa hai nước vẫn còn tiếp diễn thêm hơn 10 năm nữa. Tới năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, Quan hệ ngoại giao Việt – Trung mới chính thức được bình thường hóa.

Trường ca Hồ chí Minh

Mục lục

Mở đầu : Quê hương Gia tộc. 1- 256

Phần I : BẾN NHÀ RỒNG  (257-326)

Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II: BÔN BA (327- 480)

Phần II. Bôn Ba (481-580)

Bôn Ba (581 - 748)

Bôn Ba (749 - 1000)

Bôn ba (1001- 1200)

Phần II Bôn ba (1201- 1500)

Bôn ba (1501 -1800)

Bôn ba (1801 -2000)

Phần II Bôn ba (2001-2022)

Phần III. Đế Vương (2023-2200)

Phần III. Đế Vương (2301- 2500)

Đế Vương (2501 - 2700)

Đế Vương (2701-3000)

Đế Vương (3101 -3200)

Đế Vương (3201 -3420 hết)

Trân trọng bạn đọc.

NGUỒN BÀI ĐĂNG