Để rộng đường Thánh nhơn lập quốc đến hậu duệ, NKL (Nguyễn Kiểm Lâm nik name facebook) quyết định viết Trường ca HCM (3420 câu) bằng mỡ trên lá khoai cho kiến cắn thành chữ đến cư dân mạng. Trân trọng bạn đọc.
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng
(Xin phép tác giả đăng Trường ca lên trang để mọi
người cùng đọc và góp ý bổ sung đồng thời làm căn cứ sửa đổi-Nếu tất cả thông
tin ở đây đều đúng sự thật thì cũng là một tư liệu quý về lịch sử văn hoá cho
thế hệ sau khảo cứu và học tập)
Mở đầu: QUÊ HƯƠNG, GIA TỘC
1. Bỉnh
Khiêm [1] từ nhiệm về thiền,
2. Đêm
đêm thắp lửa nỗi niềm non sông.
3. Gió
thổi từ phía Bể Đông,
4. Mang
theo tiếng sấm bão giông mỗi mùa.
5. Nước
Nam loạn lạc thắng thua,
6. Mục
đồng có cửa làm vua ngai vàng.
7. Cơm
sống thì phải đem rang,
8. Lê
triều[2] nhịn Mạc, Nguyễn Hoàng[3] xuôi Nam...
9. Bạch
Vân thấp thỏm nén nhang,
10. Gieo
đồng xu kẽm hương tàn không ra?
11. Một
người khách ở nơi xa,
12. Tặng
con xúc xắc lưỡng hoa văn hồng.
13. Chữ
Vạn[4], dấu Thập bên hông,
14. Bốn
mặt trắng muốt như bông rộ mùa.
15.
Khách rằng: Trạng thắp hương hoa,
16. Mặt
trắng nổi chữ là ra sấm truyền.
17.
Khách đi để lại nỗi niềm,
18. Mây
bông bảng lảng tiếng chim gọi bầy.
19. Tiểu
đồng theo Trạng nhiều ngày,
20. Tự
dưng ca hát chân tay nhịp nhàng.
21.
Trăng thanh gió thổi dịu dàng,
22.
Trạng gieo xúc xắc chữ vàng nổi nhanh:
23.
"Nam Đàn bò đái thất thanh,
24. Núi
bằng nứt kẽ thánh Thành đầu thai"[5]
25. Tiểu
đồng đái trái am khai,
26.
Trạng biên thành sấm truyền dài bách niên.
27.
Phượng hoàng [6]tìm đất thánh hiền,
28.
Trung Đô là đất Cao Biền[7] không ưng?
29. Gió
Lào thổi rát cặp mông,
30. Nữ
nhi vất vả chiều chồng nuôi con.
31. Gió
Lào thổi bong tróc sơn,
32. Thếp
vàng rơi rụng chỉ còn cốt xương!
33.
Người dân xứ ấy yêu thương,
34. Xa
quê gắn kết thành phường Nghệ An.
35. Xứ
nhiều ngày nắng chang chang,
36. Mặt
trời mài miết màu vàng Phật sa !
37.
Người dân sống khá thật thà,
38. Nồi
khoai luộc với hông trà xanh thơm.
39. Rất
nhiều món ăn thay cơm,
40. Cá
kho trừ bữa qua cơn đói mềm.
41. Xứ
này mặn ngọt hay thêm,
42.
Xương cứng, não trạng gần thềm thánh nhân.
43. Người
xưa cho đến người gần,
44. Theo
đường khoa bảng là phần ưu tiên.
45.
Nhiều người ba họ tá điền,
46. Chăm
đường đèn sách đỗ liền mấy khoa.
47. Trần
thị một người đàn bà,
48.
Thiên ý cho biết ai là liền ông.
49. Kẻ
sĩ lúc vắng khi đông,
50. Phàm
phu tục tử bà không lạ gì.
51. Núi
cao nước chảy rầm rì,
52.
Tiếng bò đái xối sau thì thất thanh.
53. Nghe
như gió thổi đồi tranh,
54. Đụn
sơn phân thuỷ cỏ xanh me[8] vàng.
55. Ngũ
hổ[9] chữ nghĩa Nam Đàn ,
56. Một
người hiểu được sấm tràn đến đây.
57. Trần
thị giang đôi bàn tay,
58. Sinh
ra bố thánh trong ngày bão giông.
59. Gian
truân ghép gả thuận tòng,
60. Bao
nhiêu trang sử thuộc lòng đúng sai?
61. Từ
xưa các bậc thiên tài,
62. Dấu
huyền phủ xuống là bài học hay.
63.
Trắng đen bởi ánh dương này,
64. Tạo
hoá như thể con quay, con cù.
65. Trần
thị đi vào mịt mù,
66.
Người con sinh thánh gặp dù lão gia.
67. Họ
Hoàng gốc ở nơi xa,
68. Nghe
sấm "Phủ Khoái" đi ra khỏi làng.
69. Được
thầy dậy chữ nên ngoan,
70. Con
thầy xinh đẹp, phượng loan hạp tình.
71.
Quyết đường khoa bảng thân vinh,
72. Nam
Đàn đồn đoán Sấm Trình Sào Nam ?
73. Súng
dài chiến trận Vũ Quang ,
74. Cần
Vương[10] chiếu mỏng, cờ tàn bi ai.
75. Khoá
Sắc đêm ngày luyện tài,
76. Vợ
sinh ra Thánh năm khoai được mùa.
77. Thầy
Đường tuổi đã già nua,
78. Lấy
ngay lá số tử vi cháu mình.
79. Các
thầy giải chữ "Đại tinh":
80. Ngôi
sao to lớn hiện hình phương Nam.
81. Cung
thê không có chữ "phàm",
82. Gia
đình lưu lạc khi làm đế vương.
83. Cung
sinh khúc khuỷu con đường,
84. Phục
binh thấp thoáng chúng thường tháo lui.
85. Sĩ
phu xứ Nghệ ngậm ngùi,
86. Đất
vương tái xuất chiến vùi lấp nhau.
87.
Tiếng trống Xô viết[14] về sau,
88.
Người ta hơn kiểu người Tàu nội tranh!
89. Mái
nhà quê ngoại lợp gianh,
90. Vườn
chè xen bụi tre xanh bốn mùa.
91. Vườn
khoai lang giống tiến vua,
92. Đôi
khi làm lễ cúng chùa mời sư.
93. Tuổi
thơ câu cá đánh cù,
94. Leo
rú[11] hóng gió, hái cờ cỏ lau.
95. Bữa
cơm chủ yếu là rau,
96. Cần
lao thuở đó nhuốm mầu tịnh chay.
97. Một
hôm Sào Nam xem tay,
98. Bấm
thêm quẻ dịch Đông Tây phán rằng:
99. Cháu
nên xuất ngoại theo đằng,
100.
Đông du đất nước Thiên hoàng[15] đảo xa.
101. Đế
xưa cá tính khoe ra,
102. Đế
nay kín tiếng sau là phát tâm.
103.
Thượng thư họ Cao[16] có tầm ,
104.
Giúp thầy giáo xóm ngấm ngầm nhưng hay.
105.
Sách hiếm bổn cũ trao tay,
106.
Khoá Sắc[12] chăm chỉ bừa cày kinh thư.
107. Bố
vợ[13] rút ruột nhả tơ,
108.
Những mong con rể trúng mùa khoa thi.
109. Năm
đầu khoá Sắc ra đi,
110.
Trình non đành phải trở về trắng tay.
111. Kỳ
sau học vị đổi thay,
112.
Thêm chức Phó bảng[17] đỗ ngay một chầu.
113. Kim
Liên sen rộ sắc mầu,
114.
Vinh quy nhận mảnh đất đầu làng ban ,
115. Mái
nhà [18] trên ruộng khoai lang,
116. Lộc
dân tặng các ông quan về triều.
117. Mẹ
từng thúng mủng nồi niêu,
118. Dắt
con vượt núi qua đèo về Kinh[19].
119. Huế
nhiều mơ mộng linh tinh,
120. Ngọ
môn vàng vọt bóng hình sông Hương.
121.
Kiếp nghèo ai cũng đáng thương,
122. Đời
sau xúc động ấu vương đói nghèo.
123. Đom
đóm thả vỏ trứng treo,
124. Lá
đa đun bếp xèo xèo lửa quăn.
125. I
tờ học lấy chữ nhân,
126. Sôi
kinh học phép minh quân nước nhà.
127.
Quan Sắc hiện tánh hào hoa,
128.
Rượu trưa trà với quan nha trong Triều.
129.
Lương quan như gió đuổi diều,
130. Vợ
tần tảo chợ sớm chiều Đông Ba.
131. Lên
được chức tước đại nha,
132.
Chắc chắn sung sướng hơn là mụn quan?
133. Học
phí không miễn hoàn toàn
134.
Thầy Tây lương bổng hơn đoàn thầy Ta.
135. Con
quan khác con dân xa,
136. Phu
đò xe chỉ kiếp nhà cần lao!
137. Cậu
Thành sung sướng biết bao,
138. Ăn
mặc no đủ bước vào trường Tây [20].
139. Học
ba thứ tiếng mỗi ngày,
140.
Pháp-Trung-Việt từ các thầy giỏi giang.
141.
Ngoại khoá sinh hoạt dịu dàng,
142.
Ngược xuôi sông nước đến làng nhiều cau .
143. Đẹp
giai học giỏi gái yêu,
144.
Tình đầu chớm nở búp đầu bông sen!
145. Vận
đời lúc đỏ khi đen,
146. Kim
Kiều[22] bén gót ngõ quen lối về.
147.
Tang gia ập đến các thê,
148. Mẹ
nàng Út sớm cận kề cõi tiên .
149. Mẹ
chàng chưa đến tứ niên,
150. Ốm
đau cô quạnh hết tiền là đi.
151.
Cảnh nhà đôi lứa biệt ly,
152.
Xuôi Nam Út [23]chả nói gì với Ba.
153.
Quan Sắc trở lại ngôi nhà,
154. Vợ
không còn nữa khóc oà thảm thương.
155. Vua
bổ tri huyện thôn hương[21],
156. Dân
nghèo sinh tặc toàn phường trộm kê!
157. Tri
huyện hay đuổi trộm về,
158.
Thăng đường xử án chán chê trộm gà[24].
159.
Trình thấp khoác áo quan nha,
160.
Trình cao tiền ít hai là phận chung!
161.
Thượng thư họ Cao chỉ dùng,
162.
Quan nha tài đức đã từng có công.
163. Phó
bảng không biết lấy lòng,
164.
Dưới trên nên đã vào vòng khi quân.
165.
Đường nha đứt áo mũ quần,
166.
Trăm hèo bổ hạ xuống phần cần lao.
167. Bài
học cay đắng thuở nào,
168.
Theo Ba hun hút đi vào đường đua.
169.
Nhẫn lòng không phải chịu thua,
170. Một
lùi hai tiến ngai vua vững vàng.
171. Đạo
dân hay phép làm quan,
172.
Nhẫn là tàn bạo được quàn cất đi.
173.
Bung ra đúng lúc, đúng thì,
174.
Nhẫn thành sấm sét chẳng gì bình yên.
175. Nén
tình kiểu tu dòng Tên[25] ,
176. Mục
sư Man tuýt[26] trình lên mọi người.
177.
Tiết dục là cách xả hơi,
178. Đa
dâm nhục dục là toi tức thì.
179. Ba
học nhiều bài khắc ghi,
180.
Chân dài, đao búa chi chi mềm lòng!
181. Trí
sĩ tánh đó nhiều ông,
182.
Thượng thư Diệm[27] đã toàn tòng nguyên trinh.
183. Gối
chăn đơn chiếc một mình,
184. Quả
nhân cô quạnh toan rình binh đao.
185.
Chia xa thành Huế hôm nao,
186.
Hoàng thành trầm mặc rêu bao xanh mờ.
187.
Nhẩm ngày nào đó trở về,
188.
Thắp nhang mộ mẹ xén vê cỏ già.
189.
Chuông Chùa gióng tiếng ngân xa,
190. Mái
chèo khua nước vân hoa đôi bờ.
191.
Nguyễn Hoàng mở cõi năm xưa,
192.
Phương Nam hành tiến đến bờ Hà Tiên.
193. Bao
đời chúa Sãi, chúa Hiền,...
194.
Trăm năm gươm phạt lấy miền đất xa.
195.
Trời Nam dày đức ông cha,
196. Máu
xương tranh bá, thắng là chính danh.
197.
Theo hãng kinh doanh Liên Thành[28] ,
198.
Chàng làm giáo học Dục Thanh[29] một thời.
199.
Giáo hoá vào ngả phân đôi,
200. Tây
Tầu, mới cũ chơi vơi học đường.
201. Số
thầy Thành được trò thương,
202. Đẹp
giai tài đức tấm gương soi trò.
203.
Biển xanh nước mặn thấm bờ,
204. Trò
yêu lắm chuyện bất ngờ ngộ ghê!
205.
Sóng xô bờ cát sóng vê,
206. Nã
phá luân[30] muốn Ăng lê cúi đầu!
207.
Nhìn xa, con mắt thẳm sâu,
208.
Thoảng như mắt sói ngửa đầu hóng trăng!
209. Trò
yêu tay nắm tay giăng,
210.
Tình thương trong sáng thấu chăng lòng thầy?
211. Lên
thuyền nước mắm chia tay,
212. Bờ
xa cát trắng hẹn ngày đón nhau!
213.
Thánh nhân đã bước lên tàu,
214. Cát
vùi vướng bận, sóng nhàu ưu tư.
215. Là
người ai cũng bước đi,
216.
Đích xa gần đã chắc gì giống nhau?
217.
Giữa trời cao vút hàng cau,
218.
Ngọn cao, ngọn thấp trước sau nên tình.
219. Đời
thường vun vén cho mình,
220. Đế
vương toan tính dân tình đi theo!
221. Bến
Rồng[31], xóm chợ dân nghèo,
222. Đón
Ba tá túc cho theo phu tàu.
223. Sài
Côn miền đất đẹp giàu,
224. Cá
tôm quẫy đạp đục ngầu kinh mương.
225. Sài
Gòn hội tụ bốn phương,
226. Ba
Tầu[32] chủ vựa, Pháp thường đặt mua.
227. Dân
mình chăm chỉ vẫn thua,
228.
Nước trong gạo trắng bán như giá bèo.
229.
Pháp cho thuộc địa đi theo,
230. Dân
chủ tư sản báo [33]treo sạp sàn .
231. Tự
do mua bán thả dàn,
232.
Nhất là bán dạo tiếng khàn thâu đêm.
233. Ba
tìm thấy Út vui thêm,
234.
Tình này xứ Huế êm đềm không phai.
235. Xưa
nay gái sắc giai tài,
236. Như
kèo bám cột, như bài thơ hay.
237. Cha
Út [34]phẫn chí tửu cay,
238. Cai
đoàn phu cảng tiền dày làm chi?
239.
Tiếng đờn réo rắt mỗi khi,
240. Tàu
chưa về bến phu thì đói cơm!
241. Gặp
con Phó bảng vui hơn,
242.
Rượu đưa tay đẩy nỗi buồn biệt ly.
243.
Quan trường trong sạch được gì?
244. Vào
luồn, ra cúi bước đi lưng còng.
245. Từ
quan, lấy tên Tư Đờn ,
246.
Biệt ly xứ Huế đưa con xuôi tàu.
247. Chủ
cửu hào phóng vẫn giầu,
248. Chủ
hàng, nhà bến chia mầu rất ngon.
249.
Thói thường gả chồng cho con,
250.
Sống đời no đủ, sống mòn kiếp nô.
251. Cậu
Thành yêu Út vô bờ,
252. Sấm
truyền vận Đế, đành chờ kiếp sau.
253.
Chàng xin một suất đi tàu,
254. Văn
Ba tên gọi buổi đầu xuất dương.
255. Còi
tàu giục giã lên đường,
256. Từ
đây phác hoạ đế vương hiện hình.
Phần I : BẾN NHÀ RỒNG
------
[1]Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ. Ông đậu Trạng nguyên khoa
thi Ất Mùi (1535) làm quan triều Mạc, ông được phong tước “Trình Tuyền hầu” rồi
thăng tới “Trình Quốc công” mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.
[2]Nhà
Hậu Lê do Lê Lợi lập ra. Nó được phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009) do Lê
Hoàn lập ra cuối thế kỷ X. Nhà Hậu Lê gồm 2 giai đoạn: Nhà Lê sơ (1428 - 1527), do Lê Lợi lập ra,
chấm dứt thời Bắc thuộc lần 4. Nhà Lê trung hưng (1533-1789), tức nhà Hậu Lê
được lập lại năm 1533, tạo ra cục diện Nam Bắc triều với nhà Mạc
(1533–1593).Nhà Hậu Lê không có thực quyền bởi Chúa Trịnh (1545 – 1787) là một
vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài.
[3]Nguyễn
Hoàng (1525 - 1613) hay Nguyễn Thái Tổ, Chúa Tiên, là vị chúa Nguyễn đầu tiên ở
lãnh thổ Đàng Trong, người đặt nền móng cho vương triều Nguyễn (1802 - 1945).
[4]Chữ
Vạn là một hình dạng hình học có nhiều kiểu dáng trên nền chữ thập + và là một
biểu tượng tôn giáo cổ xưa trong các nền văn hóa của Á-Âu. Nó được sử dụng như
một biểu tượng của thần linh và tâm linh trong các tôn giáo Ấn Độ. Trong thế
giới phương Tây, nó là biểu tượng của điềm lành và may mắn cho đến những năm
1930, khi nó trở thành một đặc trưng của biểu tượng Đức quốc xã 卍 như
là một biểu tượng của bản sắc chủng tộc Aryan (Chủng tộc thượng đẳng).
[5]Lời
“Sấm ký” của Trạng Trình “Đụn Sơn phân giải/Bò Đái thất thanh/Thủy đáo Lam
thành/Nam Đàn sinh thánh”. Dịch nghĩa: “Khi núi Đụn phân đôi, khe Bò Đái tiếng
khác, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh bậc thánh
nhân”. Học giả Đào Duy Anh (1904 -1988) hỏi ông Phan Bội Châu câu ấy vận vào cụ
Phan, Cụ Phan trả lời không phải tôi mà là Nguyễn Tất Thành,…
[6]Phượng Hoàng Trung Đô là kinh thành do
vua Quang Trung (1752-1792) xây dựng bên dòng sông Lam và núi Dũng Quyết; nay
thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Tại đây vua Quang Trung đã tập trung 10 vạn
quân trước khi tiến ra Bắc để giành lại thành Thăng Long lúc bấy giờ đang bị
quân Thanh xâm chiếm. Ngôi thành này dự định được xây dựng để thay thế kinh đô
Phú Xuân.
[7]Cao
Biền (821- 887) là một tướng lĩnh triều Đường, Trung Quốc, một nhân vật chính
trị, người đầu tiên trở thành Tiết độ sứ của trong lịch sử Việt Nam thời nhà
Đường đô hộ. Truyền thuyết dân gian ở Việt Nam kể rằng khi sang Giao Châu, Cao
Biền thấy long mạch ở đây rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy,
cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế và phá những nơi có hình thế sông núi
đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu,
hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém
đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch…
[8]Me,
tiếng Nghệ An là con bê.
[9]Nam
Đàn tứ hổ: Trong một lần hát ví, một cô gái ghẹo một câu: “Nam Đàn tứ hổ là
ai?/ Nói cho em biết để mai em chào”. Chàng trai Phan Văn San (tên gọi lúc trẻ
của cụ Phan Bội Châu) ứng tác đáp ngay: “Nam Đàn tứ hổ là đây/ San, Long,
Lương, Quý, một bầy bốn anh”. Bốn anh này là: Phan Văn San (làng Đan Nhiệm, có
tài mẫn tiệp); Nguyễn Đình Song (Xuân Hồ, học hành thâm thúy); Trần Văn Lương
(Kim Liên, trí nhớ tuyệt vời); Vương Thúc Quý (Kim Liên, sắc sảo thông minh).
Tất cả đều hoạt động trong phong trào Duy Tân, nổi bật là Phan Bội Châu. Dân
gian kể “Ngũ hổ” chỉ thêm ông Hồ Sĩ Tạo (quê huyện Thanh Chương đẹp trai giỏi
phú), dạy học ở Nam Đàn, nhiều nghiên cứu chỉ ra ông là ông nội anh Ba.
[11]Ngọn
núi nơi nghĩa quân khởi nghĩa Hương Khê (1885 -1896) do Phan Đình Phùng
(1847-1895), lãnh đạo, nay thuộc huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
[10]Phong
trào Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ 19 do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất
Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi đề xướng chống cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Phong trào Cần Vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ
trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ
1885 cho đến 1896.
[12]Nguyễn
Sinh Sắc (1862-1929) là cha đẻ anh Ba- Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh là Chủ
tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử
nhân từng làm quan hành tẩu bộ Hộ, sau thi đậu Phó bảng năm Tân Sửu (1901), năm
đó ngày 22 tháng 12 năm Canh Tý (10 tháng 2 năm 1901) bà Hoàng Thị Loan mẹ ruột
Hồ Chí Minh, ốm mất ở Huế khi ông Sắc đang đi coi ở Thanh Hóa.
[13]Cụ
Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (cha đẻ bà Hoàng Thị Loan) là đời thứ 19 của
họ Hoàng. Gia phả ông tổ là Hoàng Nghĩa Kiều (1540-1587) là đời thứ 6 của dòng
họ Hoàng làng Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Ông là
quan võ của nhà Lê. Năm Đinh Tỵ (1557), quan Thái phó Hồng Quốc Công Hoàng Thế
Kiều vâng lệnh vua đem quân vào Nghệ An dẹp quân nhà Mạc.
[14]Xô
Viết Nghệ-Tĩnh là tên gọi chỉ phong trào đấu tranh của lực lượng công nhân và
nông dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong năm 1930-1931 chống lại đế quốc Pháp tại
Việt Nam. Tên gọi Xô viết Nghệ Tĩnh xuất phát từ sự hình thành các "xã bộ
nông" mà những người cộng sản gọi là "Xô viết".
[15]Thiên
hoàng còn gọi là Ngự môn hay Đế là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở
Nhật Bản. Phan Bội Châu- Sào Nam muốn anh Ba qua đó du học.
[16]Cao
Xuân Dục (1843-1923) là một quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam,
từng làm tổng đốc, thượng thư và Đông các đại học sĩ, tổng tài Quốc sử quán.
Ông có cảm tình với Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
[17]Học vị này có từ năm 1829- 1919. Vua Minh
Mạng quy định đỗ đại khoa chia thành hạng Chính bảng (hạng trên: gồm Cập đệ,
Hoàng giáp, Tiến sĩ) và Phó bảng (hạng dưới).
[18]Là
ngôi nhà lá 5 gian được dân làng Sen quê nội Hồ Chí Minh dựng lên từ quỹ công
của dân làng để mừng ông Nguyễn Sinh Sắc khi ông đỗ phó bảng khoa thi Hội năm
1901. Cụ Nguyễn Sinh Sắc dành hai gian để đặt bàn thờ bà Hoàng Thị Loan và để
tiếp khách. Khi về thăm quê, Bác cười nói “Đây là nhà của Cụ Phó bảng chứ có
phải nhà Bác Hồ đâu”.
[19]Vào năm 1898, nhờ sự vận động của ông Hồ
Sĩ Tạo với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc
được nhận vào học Quốc Tử Giám. Nguyễn Sinh Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy,
đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám.
[20]Hồ
Chí Minh có tên là Nguyễn Sinh Côn và được nhận vào Quốc Học Huế vào ngày 7 - 8
-1908. Trường Quốc Học (tên chính thức hiện nay: Trường Trung học Phổ thông
Chuyên Quốc Học) là một ngôi trường nổi tiếng ở cố đô Huế, thành lập vào ngày
23 tháng 10 năm 1896.
[21]Thôn
Vỹ Dạ nay là một phường thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nguyên thủy
địa danh này là Vi Dã có nghĩa là "cánh đồng lau sậy" nhưng vì biến
âm đọc trại lâu ngày mà thành Vĩ Dạ. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, thì
vào thế kỷ 18 thời các chúa Nguyễn là đất thuộc các làng xã Vỹ Dã Thượng, Vỹ Dã
Hạ,... tổng Vỹ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa.
[22]Nhân
vật trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du
kể lại cuộc đời, những thử thách và đau khổ của Thúy Kiều, một phụ nữ
trẻ xinh đẹp và tài năng, phải hy sinh thân mình, lỡ mối duyên với Kim Trọng để
cứu gia đình.
[23]Bà
Lê Thị Huệ (189? - 1981), gọi thân mật là Út Vân, Út Huệ: (Trong thời gian đó,
trò chuyện với Huệ, chị em hiểu nhau, và O mới biết Huệ là người thương của cậu
Thành. Hai người đã có một tuổi thơ gắn bó từ hồi ở Huế. Cha Huệ (Lê Quang
Hưng) làm bên bộ Công. Huệ mất mẹ. Thành cũng mồ côi mẹ. Cha O thì không tục
huyền. Cha Huệ sau tục huyền với một người phụ nữ Huế, bà ta đanh đá, cảnh nhà
không vui. (lời bà Nguyễn Thị Thanh chị ruột Nguyễn Tất Thành)
[24]Ngày
19 tháng 5 năm 1910, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc làm tri huyện Bình Khê (nay là xã
Tây Giang, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). bị đưa về kinh xét xử vì các tội: Để
tù chính trị phạm vượt ngục; Hà khắc với hào lý; Bênh vực dân đen; Không thu đủ
thuế,…bị Triều đình phạt đánh 100 trượng. May nhờ có các ông Thượng thư Hồ Đắc Trung,
ông Cao Xuân Dục (1842-1923) và Đào Tấn cùng dập đầu xin vua tha chết nhưng bị
hạ bốn cấp quan và sa thải.
[25]Dòng
Tên (còn gọi là Dòng Chúa Giêsu) của Giáo hội Công giáo do ông Inhaxiô người xứ Basque Tây Ban Nha, cùng một
số bạn hữu sáng lập và được Giáo hoàng Phaolô III phê chuẩn năm 1540.
[26]Thomas Robert Malthus (1766 - 1834) là một
nhà nhân khẩu học, nhà kinh tế học người Anh. Thuyết dân số của ông với quy
luật tăng dân số 1% thì sau mỗi 70 năm, dân số sẽ tăng gấp đôi. Nếu với tỉ lệ
2% thì dân số tăng gấp đôi sau mỗi 35 năm và các biện pháp ổn định dân số.
[27]Ngô
Đình Diệm (1901- 1963) làm quan thượng thư nhà Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó
làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tổng thống đầu
tiên của Việt Nam Cộng hòa, ông không lấy vợ.
[28]Một
tổ chức kinh doanh do các sĩ phu yêu nước ở Bình Thuận sáng lập vào năm 1906 để
hưởng ứng phong trào Duy Tân. Tên Liên Thành được lựa chọn với ngụ ý bảo tồn
truyền thống, có ý nghĩa là thành hoa sen, nguyên là tên cũ của tỉnh Bình
Thuận.
[29]Dục Thanh Học hiệu (Giáo Dục Thanh Thiếu
Niên) là một ngôi trường do các sĩ phu yêu nước ở Phan Thiết, Bình Thuận sáng
lập vào năm 1907. Đây cũng là ngôi trường mà Nguyễn Tất Thành đã dừng chân dạy học một thời gian trước khi
vào Sài Gòn trong chuyến xuất ngoại.
[30]Napoleon
Bonaparte (1769 – 1821) nhà lãnh đạo quân sự,
Hoàng đế Pháp với đế hiệu là Napoleon I từ năm 1804 đến năm 1814 và trở
lại ngôi vua vào năm 1815 trong 100 ngày trị vị.
[31]
Bến Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn, trụ sở của hãng vận tải Messageries Maritimes
từ năm 1864 -1955; ngày 5- 6 - 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
đã xuống con tàu Amiral Latouche Tréville làm phụ bếp để có điều kiện sang châu
Âu, mở đầu hành trình cách mạng của mình.
[32]Chỉ
người Hoa sang Việt Nam định cư. Có nhiều cách lý giải cách gọi nhưng không
thuyết phục.
[33]Khai sinh sớm nhất trong làng báo Quốc ngữ
Việt Nam được cho là Gia Định báo. Tờ báo tổng hợp này có khuôn khổ 25 x 32 cm,
ra hàng tuần tại Sài Gòn và tồn tại suốt 44 năm sau khi phát hành số đầu vào ngày
15 tháng 4 năm 1865.
[34]Cha
Út Huệ, gọi theo cách Nam Bộ.
Phần I : BẾN NHÀ RỒNG
257.
Mình thương bố của bạn mình,
Con nhà
dòng dõi nhưng thành con hoang.
Nhà nho
xứ nóng đàng hoàng
260 Gán
gả, biếu lễ tính đàng thiệt hơn…
Mình yêu
thầy dậy có con,
Gả cho
một chú trò ngoan nên người.
Khoa
bảng vất vả gặp thời,
Bằng Phó
tiến sĩ sang đời danh gia.
Mình
thương mẹ bạn rất là,
Tảo tần
thoi cửi cơm và vú dâng.
Miềng
thương bạn tính bâng khuâng,
Để mẹ
đau ốm muôn phần đớn đau.
Mình bảo
bạn đi hái rau,
270. Mua
chịu con qué ở đầu Vỹ thôn.
Không
như Trịnh Kiểm[1] rất khôn,
Trộm gà
cho mẹ sau phồn thịnh xa.
Bạn mình
chữ nghĩa thật thà,
Để mẹ,
em đói … khóc òa Ba Mươi.
Tết năm
xa lắc nay rồi,
Cha về
than khóc hận đời lãng quên.
Cần lao
bên cầu Tràng Tiền,[2]
Tốt lời
đẹp miệng nhưng tiền không chi.
Cha con
bạn phải ra đi,
280 Mang
theo mối hận an nguy nước nhà.
Cha bạn
uống rượu thật thà,
Sầu lên,
con cái phải ra ngoài đường.
Nỗi buồn
quan nhỏ thôn hương,
Cha mắc
nghi án chết luôn một thằng.
Nhà vua
thấy chuyện bất bằng,
Vung hèo
giáng chức cho thăng miệt vườn.
Bạn buồn
không lại cố hương,
Bà con
lối xóm thêm buồn bã thay.
Thần
Kinh [3] có bọn a cay,
290.Bảo
rằng đã hết- dời ngay kinh kỳ.
Bạn vội
xuống tàu ra đi,
Thiếu
thốn lộ phí phải tùy bước chân.
May quá
có trường Dục Thanh,
Các thầy
yêu mến Ba nhanh được mời.
Thầy
Thành đứng lớp tươi cười,[4]
Giảng sử
đất Việt, dạy đời trẻ con.
Giáo
Thành tài trí rất khôn,
Nửa năm
rồi xuống tàu buôn Liên Thành.
Tuyền
phồm nước mắm thơm… tanh,
300. Sài
Gòn nhộn nhịp đất lành gặp hên.
Dù cho
trong túi hết tiền,
Quan
Hưng bạn bố đỡ liền liền tay.
Biết
rằng chí nhớn có ngày,
Bất
Vi[5] xưa đã chịu đày nhiều năm.
Bạn bố
có con gái tầm,
Gần bằng
tuổi bạn nét cằm búp sen…
Thử cho
sức khỏe vững bền,
Bạn đi
phu cảng vác tuyền gạo thôi.
Quên ăn
bữa sáng là rơi,
310.Ngã
vật ra đất tỉnh thời thấy em.
Út nâng
đỡ, nước giót thêm,
Bạn tình
tỉnh dậy thấy êm êm rồi.
Chí trai
quyết định xa khơi,
Những
người yêu nước chạy nơi kiếm tìm.
Một việc
phải làm ngày đêm,
Trên tàu
Đô đốc[6],… phí mềm mềm thoai.
Chia tay
bạn gái ở ngoài,
Bến tàu
còi hú “Đợi hoài anh Ba”.
Cô út
rất là thật thà,
320.
Không như đài các toàn là gái khôn!
Ba rằng
: “Anh sẽ không quên,
Thề hẹn
gặp lại ở trên bến này”.
Út buồn
mắt đỏ cay cay:
“Anh đi
anh nhớ những ngày vừa qua!
Tình em trong
trắng ngọc ngà
326.
Kiếp này, kiếp nữa mãi là của anh!”
Phần II: BÔN BA
[1]
Trịnh Kiểm (1503 - 1570), là nhà chính trị, quân sự có ảnh hưởng của Đại Việt
thời Nam-Bắc triều. Dù tước hiệu cao nhất của ông khi còn sống là Thái quốc
công, ông được đời sau truy tôn làm Thế Tổ Minh Khang Thái Vương và được xem là
vị chúa đầu tiên của họ Trịnh – gia tộc nắm thực quyền cai trị Đại Việt hơn 200
năm từ giữa thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 18. Thuở nhỏ nghèo khó, ông hay trộm gà
chăm mẹ.
[2] Cầu
Trường Tiền còn được gọi là Cầu Tràng Tiền, là chiếc cầu dài 402,60 m, gồm 6
nhịp dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m, được thiết kế
theo kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương, thành phố Huế, kinh đô Nhà Nguyễn;
cầu hoàn thành năm Thành Thái thứ 11 (1899).
[3] Huế
còn được gọi là Đất Thần Kinh hay Xứ thơ, là một trong những thành phố được
nhắc tới nhiều trong thơ văn và âm nhạc Việt Nam vì nét lãng mạn và thơ mộng.
[4] Mùa
Thu năm 1910, Nguyễn Tất Thành đến trú tại chùa Phước An, được Hòa thượng Bửu
Hiền trụ trì chùa chăm sóc. Nguyễn Tất Thành được cụ Nghè Mô -Trương Gia Mô
(1866 - 1929) giới thiệu với cụ Hồ Tá Bang để vào dạy học tại Trường Dục Thanh
ở Phan Thiết (từ tháng 8-1910 đến tháng
2-1911).
[5]Lã
Bất Vi (292 TCN - 235 TCN) là một thương nhân người nước Vệ, sau trở thành
Tướng quốc của nước Tần thời Chiến Quốc bên Trung Quốc. Ông nổi tiếng trong
lịch sử về buôn quan bán tước, xoay trở từ người buôn bán bình thường trở thành
một chính trị gia có ảnh hưởng.
[6]
Chiếc tàu được đặt theo tên của Đô đốc hải quân Pháp Louis René
Latouche-Tréville (1745-1804), mang số hiệu 5601960, tải trọng 7.500 tấn, sức
chứa 1.100 người, từng chuyển quân trong thế chiến I. Ngày 5 - 6 -1911, tàu nhổ
neo rời Sài Gòn để thực hiện cuộc hành trình đến Singapore. Nhiều tài liệu lịch
sử ghi nhận rằng một thanh niên người Việt tên Văn Ba đã từng phục vụ trên tàu
từ năm 1911 đến 1913 với vai trò phụ bếp.
Phần II:
BÔN BA
327. Lên
tàu việc của bạn Thành,
Nấu
nướng chảo súp to đoành mỗi hôm.
Gió gào,
sóng nhảy chồm chồm,
330.
Chân buộc sợi xích, phao ôm lấy người.
Hành
khách thủ thủy bật cười,
Thuyền
trưởng chỉ bảo: “Cuộc đời anh Ba,
Không
như bọn ăn thịt gà,
Quẩn
quanh triều chính kiếp nha tối xầm”
Thảnh
thơi bạn cũng đi tầm,
Nhưng
không cờ bạc chỉ cầm sách thôi.
Dạy bao
thủy thủ nói cười,
Tiếng
Tây- tiếng Mẹ dưới trời bể xanh.
Trên tàu
có một đàn anh,
340.Kĩ
sư nông nghiệp nổi danh quê nhà,
Bảo bạn
Tây học sẽ là:
Danh cao
vợ đẹp tà tà lọng che.
Ba rằng:
“Bố tôi ông nghè,
Muốn
phục lại chức phải về Phá lang,[1]
Tôi cũng
rất muốn cao sang,
Nhưng mà
học bổng ở đàng nào đây?”
Quang
Chiêu[2]: “Ta giúp một tay,
Nhưng mà
phải hứa theo Tây trọn đời.”
Ba nhìn
sóng vỗ tả tơi,
350.Ngoảnh
về cố quốc, thưa: Thôi học đường…
Qua
nhiều bến cảng phấn hương,
Thủy thủ
quá cảnh lên thường ăn chơi.
Có thằng
dạy bạn mùi đời,
Ba rằng
tớ đã có người ở quê.
Sau này
nhiều lần “trách chê”
Nhưng
vẫn đắm đuối thân sơ vài người.
Tàu về
bến cảng nghỉ ngơi,
Nước
Pháp - mẫu quốc sáng ngời đèn dây.
Thanh
Giản[3] chánh sứ đến đây,
360.Cùng
quan Trường Tộ[4] ngất ngây ánh đèn.
Lận lựng
vốn có ít tiền,
Ba từng
phải biếu nhiều tên trên tàu,
Lính
tráng trở thói rất ngầu,
Trấn lột
của khách từng xâu bạc vàng.
Ngơ ngẩn
trước cảnh cao sang,
Thấy cần
lao khổ, Ba bàng hoàng kinh,
Thì ra
không ở xứ mình,
Xứ này
cũng có cực hình,… lưu manh.
Thủ đô
Ánh sáng đón anh,
370.Trường,Truyền,
Trinh[5] gọi: “Em Thành, Thành ơi!
Cậu đến
rất là kịp thời,
Ta cần
tuổi trẻ đổi đời nước Nam.
Ngày mai
em sẽ đi làm,
Đưa bài
báo đến bậc tam cấp tòa.
Chúng
mình rất cần cái loa,
Đứng tên
tuổi trẻ bên nhà vừa sang….”
Ba rằng
: “Các huynh định phang,
Em chết
tức khắc bởi mang tên vào?”
Trường
nghe thấy vậy thở phào:
380.“Bên
này ngôn luận được vào tự do,
Chú em
chăm chỉ không lo,
Mai sau
chí lớn làm cho nước mình,
Chú trẻ
cần có chuyện tình,
Bọn anh
giới thiệu gái xinh tóc vàng…”
Đôi bàn
tay trắng lang thang,
Báo
người Lao khổ[6] ra ràng ế trơ.
Phan Chu
câu khách bằng thơ,
Trường
Truyền viết luận, Ninh[7]cờ quạt bay.
Chào mời
quảng cáo ăn may
390.Doanh
gia nước Pháp tẩy chay báo rồi.
Những ngày
cơ cực, Mẹ ơi!
Xảy nhà
thất nghiệp cuộc đời bất an!
Một hôm
nghe gọi Thành, Thành…
Từ người
thủy thủ học anh tiếng bồi.
Bây giờ
lính xế mê tơi,
Đệ nhất
thế chiến dụng người An Nam.
“Ba ơi,
phải có việc làm,
Gửi bạn
ít tiền tiêu tạm tàm thôi”.
Đồng
hương xứ sở của tôi,
400.Yêu
thương đùm bọc tình người bao la…
Chung cư
có họ Phăng - xoa,[8]
Chủ hộ
khấm khá cần gia sư thầy.
Anh Ba
được tuyển dụng ngay,
Dạy con
gái chủ chữ bay bướm vào.
Cầm tay
đưa bút xôn xao,
Như là
thư tháp thuở nào anh theo.
Năm sau
con chủ rất yêu,
Như là
cô Út những chiều gió reo.
Chia tay
gia chủ cận nghèo,
410.Lận
lưng Ba có tiền tiêu pha rồi.
Bồi bàn,
xúc tuyết tạm thôi,
Anh qua
xứ sở sương rơi mịt mù.
Lạnh
lùng đêm cuối mùa thu,
Gạch
nướng lót ổ hận thù bão giông:
(Thương
em Út ở bên sông
Giờ nay
cha uống riệu nồng nơi đâu?
Thương
mẹ lạnh lẽo đất sâu,
Chị
Thanh, anh Đạt[9] buồn sầu làm chi?…)
Chia tay
xứ sở Ăng Ly,[10]
420.Xắc
Xông[11] phớt lạnh…Pa ri-anh về.
Viết
ngay vở kịch Rồng Tre,[12]
Chửi vua
Định Khải như hề xuất dương.
An Nam
đậm tính đồng hương,
Ký giả
họ Phạm dặm trường bôn ba.
Bữa cơm
thân mật xôi gà,
Phạm
Quỳnh[13] tiên lượng: Ba là vĩ nhân.
Ba rằng:
Quỳnh sống vì dân,
Nhưng
nặng gánh của vợ gần con xa.
Quỳnh
thưa, tôi tính hài hòa,
430.Dựng
xây cuộc sống phải là trí nhân,
Đánh
nhau chỉ chết người dân,
Tôi cứu
đất nước bằng chân thiện hòa…
Từ đó
đôi bạn chia xa,
Sau tuần
Độc lập Quỳnh là oan khiên,
Những
thằng đâu đó cuồng điên,
Thượng
Chi khuất bóng ở triền sông Hương,…
Đi về
ngõ nhỏ thân thương,
Công
poanh[14] nghèo đói dân thường khổ đau.
Một hôm
xem tờ báo nhầu,
440."Luận
cương thuộc địa"[15] Lin râu thét gào:
Vô sản
thế giới cần lao,
Phải
liên hiệp lại cuốc đào lỗ chôn,
Lập nên
nhà nước công nông,
Tước
đoạt giới chủ không còn một xu.
Thực
dân, phong kiến là thù,
Phan Chu
nghị viện hỏa mù khó coi.
Giáo hoá
cải tạo giống nòi,
Tự do
báo chí phải đòi trước tiên,...
Thế
Truyền mê mải kiếm tiền,
450.Anh
em thuỷ thủ về miền Boóc đô[16],
Bán hàng
ăn uống, đủ no,
Mời anh
Ba đến giúp cho việc làm.
Một dạo
anh Ba quá giang,
Qua Thành
Tua[17] thấy loa oang oang mời :
Vô sản
Liên Xô tuyệt vời,
Pháp sắp
đại hội những người công nông,
Lập Đảng
Cộng sản phổ thông,
Nhằm
giải phóng kiếp làm công đói nghèo.
Anh Ba
quyết định đi theo,
460.Viết
bài tham luận được treo lên tường.
Các đồng
chí rất yêu thương,
Một đảng
viên nữ vẫn thường đến thăm.
Lo cho
chỗ anh Ba nằm,
Ấm êm
tạm ổn rồi tâm tình đời,...
Biết là
nước Nga xa xôi,
Ba quyết
đến đó xem thời thế sao.
Giấy mời
hội họp cần lao,
Hoả xa
liên vận anh vào Bạch dương.[18]
Lê
nin[19] tái lại vết thương,
470.Ngoài
năm mươi tuổi đứt đường đấu tranh.
Mùa Đông
gió tuyết khô hanh,
Cần lao
Xô viết lòng thành viếng Lin.
Tưởng là
xứ sở thần tiên,
Cần lao
sung sướng tiêu tiền xả ga.
Anh đi
thăm Mát cơ va,[20]
Vào nông
trang thấy bò gà gầy trơ,
Nước Nga
nội chiến xác xơ,
Cách
mạng xô viết bên bờ vực sâu,
Công
nông binh được đứng đầu,
480.Ku
lắc[21], tư sản bị thâu hết quyền.
[1] Phú
Lang Sa (France) là tên gọi nước Cộng hòa Pháp. Đến Pháp. Ngày 15- 9 -1911,
Nguyễn Tất Thành viết thư gửi Tổng thống và Bộ trưởng thuộc địa Pháp xin được
vào học Trường thuộc địa ở Pháp nhưng không được chấp nhận; Ngày 31-10-1911,
anh gửi thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ chuyển giúp số tiền 15 đồng cho cha mà anh
không có điều kiện gửi trực tiếp. Số tiền anh Ba dành dụm được khi làm phụ bếp
- một cử chỉ rất đáng quan tâm về trách nhiệm và tình cảm thương mến với gia
đình.
[2] Bùi
Quang Chiêu (1873-1945) là một nhà chính trị tranh đấu đòi tự trị cho Việt Nam
vào đầu thế kỷ 20, ông là người Việt đầu tiên đỗ bằng kỹ sư canh nông của Pháp,
cùng các ông Nguyễn Phan Long, Trương Văn Bền, thành lập Đảng Lập hiến vào năm
1923 ở Sài Gòn. Hiện nay, tên ông được đặt cho một con đường tại Thị trấn Mỏ
Cày, tỉnh Bến Tre.
[3] Phan
Thanh Giản (1796 -1867) là quan đại thần Triều Nguyễn. Ông đàm pháp ký các hiệp
ước Triều Nguyễn với nước Pháp đến nay còn nhiều ý kiến trái ngược.
[4]
Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871), còn được gọi là Thầy Lân (gia đình theo Công
giáo Roma) là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở
thế kỷ 19. Ông đã viết bài tấu lên vua "Người da trắng nếu ta đối xử tốt
với họ, họ cũng sẽ đối xử tốt với mình. Còn nếu không, họ sẽ chiếm nước ta
thành thuộc địa, giống như người da đen".
[5] Phan
Văn Trường (1876 - 1933) là một luật sư, một nhà báo yêu nước. Quê ông ở làng
Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, (nay là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm), thành
phố Hà Nội.
Nguyễn
Thế Truyền (1898 -19 tháng 9 năm 1969) là một nhà chính trị người Việt từng
hoạt động trong phong trào vận động đòi người Pháp rút khỏi Việt Nam vào đầu thế
kỷ XX, Ông quê làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định, con một gia đình quyền thế.
Phan
Châu Trinh (1872 - 1926), hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, tự là Tử Cán. Ông là
nhà thơ, nhà văn, và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt
Nam theo hướng duy tân, bất bạo động.
[6]
Người cùng khổ (Le Paria) là tờ báo được xuất bản tại Paris, cơ quan chủ quản
là "Hội Hợp tác Người cùng khổ", trực thuộc Hội Liên hiệp Thuộc địa,
người sáng lập tờ báo là Nguyễn Ái Quốc (chủ nhiệm kiêm chủ bút). Báo được in ba
thứ tiếng: Pháp, Ả Rập và Trung Quốc. Số đầu tiên ra ngày 1- 4 -1922, tồn tại
cho tới năm 1926, tổng cộng xuất bản được 38 số với nội dung chống chủ nghĩa
thực dân, kêu gọi đoàn kết các dân tộc thuộc địa.
[7]
Nguyễn An Ninh (1900 - 1943) là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo và là
nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam.
[8]
François, chỉ tên riêng người Pháp.
[9] Chị
gái, anh trai của anh Ba
[10]
Nước Anh.
[11]Anglo-Saxon
là một dân tộc sống tại Anh từ thế kỷ 5 CN. Họ bao gồm những người có gốc từ
các bộ lạc German tới từ lục địa châu Âu, và những cư dân bản địa tiếp nhận một
số khía cạnh của văn hóa và ngôn ngữ Anglo-Saxon. Về mặt lịch sử, giai đoạn
Anglo-Saxon ở Đảo Anh trải dài từ năm 450 tới năm 1066,
[12] Vở
kịch của anh Ba viết năm 1922 bằng Pháp ngữ và được Léo Poldes (1891-1970), một
nhà báo người Pháp, chủ nhiệm câu lạc bộ Faubourg, cho công diễn tại ngoại ô
thành phố Paris. Nội dung phê phán vua nhà Nguyễn, Khải Định. Đến nay chưa tìm
thấy văn bản vở kịch này?.
[13]
Phạm Quỳnh (1892 - 6 tháng 9 năm 1945),
sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã
Thúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà
văn và quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng
bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết
lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh Hoa Đường, Hồng
Nhân. Ông là người có tinh thần dân tộc, ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu
hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước.
[14] Nhà
số 9 ngõ Côngpoanh, quận 17, Paris (Pháp), nơi anh Ba đã ở từ năm 1921 - 1923.
[15]
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo
Nhân đạo (L’ Humanité) - cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số ra ngày 16
và 17 - 7 - 1920. Tư tưởng chính là vô sản các nước giúp nhau giành độc lập dân
tộc ở các nước thuộc địa là nhiệm vụ của cách mạng XHCN. “Lin râu” là cách viết tắt, khẩu ngữ chỉ ô
V.I.Lênin với đặc điểm có chòm râu cằm.
[16]
Bordeaux là một thành phố cảng quan trọng của Pháp, toạ lạc ở hạ nguồn sông
Garonne. Nó là thủ phủ của vùng Nouvelle-Aquitaine thuộc miền tây nam nước
Pháp.
[17]
Tours là thành phố của tỉnh Indre-et-Loire, thuộc vùng hành chính Centre-Val de
Loire của nước Pháp. Anh Ba tham đến dự hội nghị thành lập đảng Xã hội Pháp.
[18] Tên
gọi nước Nga, xứ sở Bạch Dương.
[19]
Vladimir Ilyich Lenin còn thường được gọi với tên V. I. Lenin hay N. Lenin
(1870 -1924) là một nhà cách mạng, chính khách, nhà lý luận chính trị người
Nga. Ông đứng đầu chính phủ của nước Nga Xô viết từ năm 1917 - 1924 và của Liên
Xô từ năm 1922 - 1924. Dưới sự lãnh đạo của ông, Nga, và sau đó là Liên Xô, trở
thành một nhà nước một đảng theo chủ nghĩa Marx-Lenin do Đảng Cộng sản Liên Xô
điều hành. Ông đã phát triển chủ nghĩa Marx vào thực tế gọi là chủ nghĩa Lenin.
Ngày 30 - 8 - 1918, Lê nin bị ám sát gây thương tích, nay chưa rõ âm mưu từ
phía nào?
[20] Thủ
đô nước Nga.
[21]
Kulak (tiếng Nga: кулак) là từ ngữ từ thế kỷ 19 được dùng để chỉ nông dân giàu
có, sang thế kỷ 20 là tiếng xấu. Đến năm 1917, các kulaks sở hữu hơn 90% diện
tích đất canh tác ở châu Âu thuộc Nga.
Phần II. Bôn Ba (481-580)
481.Quốc
tế nông dân có tên,
Văn Ba
nhậm chức Uỷ viên hội đồng.
Phụ
trách Chi cục Phương Đông[1]
Trụ sở
đặt ở Hồng Công gần Tầu.
Đang
tuổi giai đẹp đi đâu,
Gái xinh
đeo bám thả câu móc mồi.
Việt
kiều ở đó ăn chơi,
Toàn con
trí phú sang nơi đất Tào.
Một giai
tên Thụ[2] mời chào,
490.Anh
Ba nhập hội Bội Châu[3] cầm cờ.
Quang
phục, Tâm xã[4] rất ngờ,
Tuyên
truyền vận động xẩm sờ trối tai.
Lâm Thụ
không muốn lai rai,
Bỏ Phan
chí sĩ tiền xài xông xênh.
Em gái
vợ Thụ rất xinh,
Con gái
tư sản gốc mình máu Hoa.
Gái xinh
giai đẹp bao la,
Mật thám
Pháp nhợn[5] xét tra phải dừng.
Cuộc đời
cách mạng tửng tưng,
500.
Chiến tranh chuyện nhỏ có chừng mực thôi.
Năm
tháng lãng mạn tuyệt vời,
Quê nhà
bên Nghệ có người cực xinh.
Con gái
ký lục tên Minh,[6]
Gót hồng
cằm búp sen tình rất tươi.
Kém gì
Nàng Út Vân ơi,
Bôn ba
cách mạng cần người gối khăn.
Nàng làm
thư ký rất chăm,
Thanh
niên cách mạng họp ăn uống đều.
Lớp học
có nhiều tình yêu,
510. Gái
Tào thời đó rất chiều giai Ta,...
Phái bộ
cố vấn người Nga,
Quyết
định trưng tập anh Ba vào đoàn.
Làm chủ
ngôn ngữ hoàn toàn,
Pháp,
Nga, Anh, Việt chuyển sang tiếng Tàu.
Thời kỳ
Dân quốc đứng đầu,
Học viện
Hoàng Phố[7] nạp thâu học trò.
Giai ta
háo hức tò mò,
Anh Ba
giới thiệu Tưởng cho nhập trường.
Bề ngoài
Quốc Cộng[8] bình thường,
520. Bên
trong toan tính con đường xâm lăng.
Dùng mỹ
nhân kế bẫy giăng,
Tuyển mộ
tình báo tuyền bằng tiền tươi.
Anh Ba
vào tầm ngắm rồi,
Lâm
Lan[9] cấp tá tuổi đời trẻ trung.
Mến mộ
anh Ba đến cùng,
Làm việc
có lợi cho Trung cộng Tầu.
Danh
Tống[10] thiếu tá rất ngầu,
Y Lan
yêu mến gục đầu vai anh.
Cách
mạng Việt Nam thành canh,
530.
Phải nhờ Trung cộng đấu tranh điên cuồng.
Tư tưởng
tình thương mến thương,
Lấy đồng
chí hướng kỷ cương làm đầu.
Trong
khi giai gái nước Tầu,
Yêu kiểu
cổ điển sắc mầu hủ nho.
Chúng
thích kể chuyện đọc thơ,
Kiểu Tây
Anh Pháp Nga xô tuyệt vời.
Y Lan
chiến không nghỉ ngơi,
Nàng đã
thể hiện suốt đời yêu Ba.
Giang
sơn người đẹp luôn là,
540. Con
đường hảo hán từ xa xưa rồi.
Trớ trêu
luôn nở nụ cười,
Chàng
tin vào Chúa cưới người mới yêu.
Trương
Béo một tay rất điêu,
Giới
thiệu Tăng Tuyết[11] tín điều Gia tô.
Trung
Cộng sướng gần phát rồ,
Chu phu
nhân giúp quạt cờ thành hôn.
Trung-
Việt, tính kế trường tồn,
Mượn
đường diệt quắc phải luồn sợi dây.
Nhưng mà
từ đó đến nay,
550. Vẫn
là nghi hoặc đổi thay huyền tình?
Chia tay
Cha sớm bình minh,
Quy Nhơn
sóng cát trắng tinh bến bờ.
Vuốt
chòm râu bạc lơ thơ:
Cha tên
Thông[12] con phải thờ chữ “Minh".
Dặm
trường đụng với yêu tinh,
Vén mây
khéo lựa gái xinh đức tài.
Dường
như suốt một đời trai,
Anh qua
cửa ải chân dài, búa đao:
Thầy số
Ta sang bên Tào,
560.Bói
chàng Ái Quấc[13] vận vào đế vương.
Tử vi
thuở ở quê hương,
Tên[14]
có dấu thập nên thường đơn côi.
Ba
lê[15] anh sắm đĩa xôi,
Thầy
tướng Tào phán vận đời quả nhân...
Mao làm
cách mạng nhân dân,
Quảng
Châu công xã thua quân Tưởng[16] rồi.
Pháp
quốc nhạy thính đánh hơi,
Truy
lùng thủ lĩnh quyết đòi bắt Ba.
Mao quân
ve vãn tính xa,
570. Lập
chi nhánh cộng đô la giót vào.
Hồng
Công[17] là xứ anh hào,
Luật lệ
dân chủ kẻ nào cũng mê.
Đã từng
sống ở Ăng lê,
Quá
giang Nữu ước[18] trở về Phá lang,
Ba vào
rất nhiều nhà hàng,
Hội thảo
trà rượu với làng luật sư.
Soạn bài
báo chí rất phê,
Thông
tín viên Tống giỏi nghề gom tin.
Tầm
chương tuyển Mác- Lê nin,
580.Tư
Cưu Mạnh Đức[19], Oa sinh tơn làu[20].
[1] Hội
nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 - 15 tháng 10 năm 1923), anh
Ba được bầu vào Ban Chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội
lần thứ 5 Đệ Tam Quốc tế (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8- 7 -1924), anh được
cử làm Ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
[2] Lâm
Đức Thụ (1890 - 1947) biệt danh là Trương Béo hoặc Hoàng Chấn Đông, quê ở Thái
Bình, thi đỗ đầu xứ gọi là Đầu xứ Viễn,
ông hoạt động cách mạng chống Pháp rồi trở thành chỉ điểm cho mật thám
Pháp, người được cho là đã bán đứng Phan Bội Châu cho thực dân Pháp và cũng là
người được phía Trung Quốc cho rằng đã mai mối Tăng Tuyết Minh cho anh Ba.
[3] Phan
Bội Châu (1867 - 1940), khai sinh là Phan Văn San, các hiệu Hải Thụ, về sau đổi
là Sào Nam, bút hiệu Thị Hán, Phan Giải
San, Sào Nam Tử, Hạo Sinh, Hiếu Hán,…quê Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An. Ông là là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động
trong thời kỳ Pháp thuộc, lập Hội Duy tân, phát động Đông du, lập Quang phục
hội.
[4] Tâm
tâm xã là tổ chức của nhóm thanh niên trí thức Việt Nam ở Trung Quốc (Tầu, Tào)
gồm Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lâm Đức Thụ…bất
đồng với nhóm lớn tuổi.
[5] Cách
gọi không thân thiện. Nhợn là cảm giác khó chịu ở cổ khi ăn, muốn nhằn ra.
[6]
Nguyễn Thị Minh Khai tên khai sinh là Nguyễn Thị Vịnh sinh ngày 1-11-1910 tại
xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, mất ngày 28-8-1941 là nhà cách mạng
Việt Nam, một trong những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai
đoạn 1930-1940. Bà là vợ của nhà cách mạng, Tổng bí thư đảng cộng sản Đông
Dương Lê Hồng Phong, ông bà có một người con gái. Em gái Bà là Nguyễn thị Minh
Thái (mất trong tù đế quốc) là vợ đầu của đại tướng Võ Nguyên Giáp.
[7]
Trường Quân sự Hoàng Phố, chỉ học viện quân sự đào tạo sĩ quan lục quân của
Trung Hoa Dân Quốc hoạt động từ năm 1924-1927, đặt tại đảo Trường Châu, khu
Hoàng Phố, thành phố Quảng Châu. với 5 khóa đào tạo, nhưng đã đào tạo ra nhiều
danh nhân quân sự cho cả Quân đội Trung Hoa Dân Quốc lẫn Quân Giải phóng Nhân
dân Trung Quốc, nhiều nhà cách mạng, tướng lĩnh của Việt Nam cũng từng học hoặc
giảng dạy tại Trường quân sự Hoàng Phố.
[8] Chỉ
sự liên minh giữa Trung Hoa Quốc Dân Đảng và Trung Quốc Cộng sản Đảng trong các
thời kỳ 1924-1927 dẹp các quân phiệt chống lại chính quyền non trẻ của Tôn
Trung Sơn, và 1937-1945 chống phát xít Nhật.
[9] Lâm
Y Lan (189? - 1968), Lâm Lan. Bà là nhà cách mạng của Đảng cộng sản Trung Quốc,
quân hàm cấp tá trong quân đội, có học vấn cao từng giảng ở Học viện quân sự
Hoàng Phố, có mối quan hệ với anh Ba từ năm 1930 do Đảng cộng sản Trung quốc
phân công.
[10] Tống
Văn Sơ là tên anh Ba từ sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2-1930
đến 1-1933 kết thúc vụ án Hồng Công. Cơ quan tình báo áp quân hàm nhưng không
trao quân hàm?
[11]
Tăng Tuyết Minh (1905-1991) là một phụ nữ Trung Quốc. Theo nghiên cứu của một
số học giả thì bà đã kết hôn với anh Ba
khi đó có bí danh là Lý Thụy vào năm 1926 và đã sống chung với anh được nửa năm
cho đến khi anh phải rời Trung Quốc sau vụ chính biến năm 1927. Hôn lễ có chứng
kiến của bà Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu
Ân Lai) và một số học viên khoá huấn luyện phụ vận. Câu chuyện này đến nay vẫn
như là “tiểu thuyết giả tưởng”
[12] Khi anh Ba làm Chủ tịch nước, ô đi Pháp, hải
quan hỏi tên cha? Ông trả lời “Bác tên Minh, tên cha là Thông”
[13] Nguyễn Ái Quốc (Quấc) tên gọi anh Ba và nhóm
yêu nước ở Paris chọn làm bút danh.
[14] Tên
khai sinh chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Cung, tiếng địa phương gọi là
Coong, hoặc Côn. Tương truyền, lá số tử vi được các bậc túc nho quê Nam Đàn
xem.
[15]
Paris, cách phiên âm Hán Việt.
[16]
Quân đội Trung Hoa Dân quốc, còn gọi là Hoa quân, quân Tàu Tưởng, quân Tầu
trắng, Tào ô do Tưởng Giới Thạch làm thống chế. Khởi nghĩa Quảng Châu năm 1927
là một cuộc khởi nghĩa thất bại của những người cộng sản tại thành phố Quảng
Châu, miền nam Trung Quốc.
[17] Lãnh
thổ Trung quốc là thuộc địa của đế quốc Anh
từ năm (1842-1997), tên gọi Hương Cảng, Cảng Thơm.
[18] New
York, thành phố lớn ở miền Đông Hoa Kỳ.
[19]
Montesquieu (1689 - 1755) phiên âm là Mạnh Đức Tư Cưu là một nhà bình luận xã
hội và tư tưởng chính trị Pháp sống trong thời đại Khai sáng, ông thường được
biết đến dưới tên Montesquieu. Ông nổi tiếng với lý thuyết tam quyền phân lập.
[20]
George Washington ( 1732 - 1799) là nhà chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn
đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 -1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ
chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là
tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775 -1783, ông cũng chủ trì việc viết ra
Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội Hoa Kỳ nhất trí chọn ông làm tổng thống đầu
tiên của Hoa Kỳ (1789 -1797).
Phần II. Bôn Ba (581 - 748 )
581. Đã
từng bốn bể năm châu,
Hai mươi
ngoại ngữ chuyện hầu yếu nhân.
Rượu
cùng hoạ sĩ lừng danh,
Pi cát
xô[1] vẽ tặng anh chim trời.
Không
thẹn thân phận người bồi,
Đầu quân
thế mạng con người chủ Tây.[2]
Luân
đôn, Pa ri, Mác xây,
Nuôi
quân thế chiến đủ ngày chiến binh.
Cảnh sát
châu Âu rập rình,
590.
Nhiều lần trò chuyện chân tình chúng yêu.
Xưa nay
trí giả luyện chiêu,
Anh dùng
chân thật gặp nhiều quý nhơn.
Thập
phương hội tụ Hồng Công,
Ba
truyền ngọn lửa mầu hồng tin yêu.
Trước
sau chỉ có một điều,
Giải
phóng dân tộc theo chiều đấu tranh.
Thực dân
đang đẫy miếng ăn,
Chúng sợ
bác ái mất phần lợi to.
Pháp
quốc rắp tâm rình mò,
600.Thưởng
hậu cho kẻ tìm dò anh Ba.
Tình báo
Bát lộ[3] xét tra,
Giao Lâm
Lan nữ vào ra tìm đường.
Đưa Quốc
về một thôn hương,
Dự phong
chính uỷ cự Trương Quốc Đào.[4]
Rừng cây
gió biển lao xao,
Y Lan
mắt sáng tựa vào vai anh:
“Giá như
không có chiến tranh,
Đôi ta
nghề giáo song hành bên nhau,
Về dạy
đại học Quảng Châu,[5]
610.Thỉnh
giảng Ha vớt[6] gội đầu cho dân...”
Minh
Khai ngày càng lại gần,
Văn
phòng Hải ngoại cộng quân hình thành.
Tuyển
người du học Mác - Lanh,[7]
Đưa
người về nước vin cành buộc loa.
Đấu
tranh theo hướng hài hoà,
Khẩu
hiệu dân chủ trên toa, cầu đường.
Pháp
nhợn thấy bất bình thường,
So với
Công xã chẳng tương xứng gì,...
Quốc tế
cử Lý Thuỵ[8] đi,
620.Sang
Xiêm vận động lập chi bộ đầu.
Cưới
nàng Tăng Tuyết bên Tàu,
Bình
phong nâng đỡ Chín Thầu[9] bên Xiêm.
Anh cầm
cán búa chuôi liềm,
Làm nhà,
gặt lúa gây niềm tin yêu.
Miến,
Xiêm, Lào,Cam[10] dập dìu,
Lập chi
bộ Đảng búa rìu chống Tây,
Mùa mưa
đứng dưới rừng cây.
Mùa hè
đóng khố đi cầy học nhau,
Sư Xiêm
nhiều vị người Tào.
630.Dõi
theo thầy Chín ra vào U đon.
Người
quê qua Thái kiếm cơm,
Nhiều
người ướm hỏi nhác nom "Tất Thành",
Con quan
Phó bảng thầy lang,
Cháu Cụ
giáo[11] sống gần làng Kim Liên.
Chín
Thầu lảng chuyện họ tên,
Nhận
mình người Việt sống bên đất Tầu.
Tuyết
Minh son trẻ buồn sầu,
Thư từ
thất lạc đi đâu ko về?
Cưới
nhau Chúa chứng câu thề,
640.Một
ngày nên nghĩa đam mê đượm nồng.
Chuyện
tình đôi lứa có không?
Xưa nay
lắm chuyện kết hôn thật đùa,…
Một hôm
Chín đến vãn chùa,
Gặp sư
tiếng Phạn[12] đón đưa chân tình.
Sư rằng
Thầu bậc "Khai minh",
Tu đường
"Thông tuệ" tự mình đấu tranh.
Tu thân
gắng làm điều lành,
Từ từ về
nước để giành ngôi cao.
Đường đi
nước bước thế nào?
650.Sư
Phạn đắc đạo đã trao Chín Thầu.
Chàng về
thánh địa Quảng Châu,[13]
Phong
trào cách mạng đang ngầu bọt bông.
Nhật bản
xâm lấn miền Đông,
Mao,
Tưởng ngúng nguẩy dở ông dở thằng.
Quê nhà
đảng phái nhiều đằng,
Tân
Việt[14] cộng sản rất hăng chiến thù.
Pháp
quốc khôn ngoan dự trù,
Dùng
đảng cộm cán hoả mù đảng kia.
Nguy cơ
phân liệt chia lìa,
660.Đũa
rời khỏi bó, chả chìa cho Tây.
Anh về
chụm lại hàng cây,
Hợp nhất
các đảng dựng xây phong trào.
Rất
nhiều trí sĩ trình cao,
Lương
Bằng,Tùng Mậu[15] bên Tào đã lâu.
Quốc đi
Thượng Hải chụm đầu,
Nhắc
Lương Sao Đỏ nhờ Tầu giúp Ta.
Bạc tiền
Vương Minh[16] tung ra,
Đòi dăm
Trung uỷ phải là người Hoa.
Bọn
Hẹ[17] toan tính gần xa,
670.Tìm
người đóng thế khi Ba bị tèo.
Bùa Sư
nước Phạn anh treo,
Vào cổ
chân lúc hiểm nghèo gian nguy.
Sư trụ
chùa Tào uy nghi
Đôi lúc
Ba đến thầm thì là êm
Lâm Thụ
cờ bạc thâu đêm
Nợ sắp
bị vỡ nghe bên nước nhà
Toà Vinh
xử vắng anh Ba[18]
Án tử,
treo thưởng kẻ ra nước ngoài
Bắt Quốc
về nước đầu đài
680.Cờ
bạc trộm cắp tính bài tố anh
Cộm cán
nhiều tên ma lanh
Nhìn
thấy bùa ngải chúng thành thật lui
Pháp
nhợn toan tính rất cùi
Chi trả
cảnh sát bắt người Hồng Công
Dẫn độ
về nước là xong
Nhưng
Ăng lê phớt đừng hòng chúng nghe
Mao
Tưởng toan tính chở che
Con bài
Nam tiến là nghề xâm lăng
Ăng lê
theo dõi rất căng
690.Bắt
Tống Sơ ở một căn gác thường
Nổ ra vụ
án bất thường
Tống Sơ
xộ khám công đường Ăng lê[19]
Vụ này
kinh điển nhà nghề
Bài học
xét xử trở về mai sau
Luật sư
dốc máu lên đầu
Chẳng
mong kết cỏ ơn sâu bạc tiền
Pháp đòi
dẫn về Kim Liên
Để cho
dân chúng búa liềm nhận ra
Toà Vinh
"Giết hổ dọa gà"
700.Ăng
lê chê Pháp đúng là trẻ con
Pháp mua
cai ngục ra đòn
Để cho
Tống tử trong khuôn lao tù
Phu nhân
họTống[20]gật gù
Xuất
chiêu quyền thế bảo kê giang hồ.
Sau này
anh Ba ướm ngờ
Khánh
Linh vui sướng tôn thờ ông anh
Phi
trường Gia Lâm nắng hanh
Chủ tịch
ngả mũ chân thành chuyển sang
Áp vai
nguyên thủ sóng hàng
710.Gọi
em Tống Khánh khiến nàng vui tươi.
Đề hình
Ăng lê trát mời
Các bên
lợi hại vào nơi công quyền
Chánh
toà xét hỏi luyên thuyên
Không có
chứng cớ các bên bắn đòm
Luật sư
để râu hơi xồm
Nhắc bài
Anh quốc thượng tôn pháp đình:
"Thuở
xưa Âu lục linh tinh
Đòi tù
Mác[21] tội chỉ dình đánh nhau
Quá bộ Măng
xơ[22] chuyến tầu
720.Nước
Anh phớt các quả đầu mưu toan
Bất bạo
động là dân ngoan
Phím bài
sách báo hoàn toàn tự do
Cuối đời
Mác hơi nghi ngờ
Con
đường bạo động bao giờ mới yên ?
Mác biết
Ăng lê rất khôn
Chia dân
chủ vời miếng cơm giảm thù
Bị lừa
dân chúng vẫn ngu
Mác
quyết khởi nghĩa tịch thu chánh quyền"
Tình báo
Mao Tưởng bắn tin:
730.Tống
Văn ký giả mưu sinh chân thành
Toà
tuyên Tống phải xuất hành
Khỏi đất
Hương Cảng càng nhanh càng bình
Luật sư
Ăng lê rất tinh
Lừa cảnh
sát Pháp, phao tin Tống tèo
Com lê
ca táp tay hèo
Căn cước
tên khác chân leo lên tàu
Ra biển
tàu xả sóng ngầu
"Lốt"
Sinh nhưng lại quay đầu Shanghai
Vợ chồng
luật sư Giơ bai[23]
740.Về
nhà thở nhẹ hơi dài lo toan
Qua bến
Thượng Hải an toàn
Có Lương
Nguyễn dụ nhà đoan Tưởng Tầu
Tháng
năm sống ở châu Âu
Chàng
đọc Kinh thánh chuyện hầu đạo Công
Em gái
xóm đạo phố Đông[24]
Cảm tình
giúp đỡ giàu lòng đức tin
Các bên
đế quốc kiếm tìm
748.Thấy
bùa nước Phạn chúng im lặng dừng !
[1]
Pablo Ruiz Picasso (1881-1973), thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay
Picasso là một họa sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha yêu hòa bình, chống
chiến tranh, cảm tình giúp đỡ Việt Nam... Ô bạn với anh Ba từ năm 1911, mến anh
Ba vẽ bức họa trên báo Le Paria (Người cùng khổ). Năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đến Pháp thăm họa sĩ, họa sĩ vẽ tặng bức chân dung, sau thất lạc.
[2] Khai
lý lịch nhập trường Quốc tế Phương Đông vào năm 1934, anh Ba ghi “Làm lính Pháp
vào thời gian 1914-1918”. Anh Ba phụ bếp với tên Paul Thành đã nhận đi lính
thay cho con trai Vua bếp Escoffier khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ.
A.Escoffier là người Pháp đến hành nghề ở Luân đôn và có một con trai tên là
Paul Escoffier.Câu chuyện này được bàn đến nhưng chưa có xác nhận.
[3] Bát
lộ quân là lực lượng quân sự do Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền lãnh
đạo.Trong thời kỳ Quốc-Cộng hợp tác (1924-1927 và 1937-1945 ) đội quân này được
tổ chức lại thành Quốc dân Cách mạng Quân Đệ thập bát Tập đoàn quân, nằm trong
biên chế của quân đội Trung Hoa Dân quốc, thực tế vẫn do đảng viên Đảng Cộng
sản Trung Quốc nắm quyền lãnh đạo, hoạt động từ năm 1936 đến 1947. Cùng với Tân
Tứ quân, Bát lộ quân được xem là thành phần nòng cốt, tiền thân hình thành nên
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
[4]Trương
Quốc Đào (1897 - 1979) một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc
năm 1921. Năm 1938, ông bỏ trốn khỏi Diên An về Vũ Hán đầu hàng Tưởng Giới
Thạch.
[5] Tỉnh
biên giới Trung Quốc, giáp Việt Nam.
[6] Đại
học Harvard, là một viện đại học nghiên cứu tư thục, thành viên của Liên đoàn
Ivy nằm ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ. Với lịch sử thành lập từ năm 1636,
tầm ảnh hưởng và tài sản của mình, Harvard là một trong những đại học danh
tiếng nhất thế giới.
[7] Mác-
Lê nin, hai lãnh tụ của giai cấp vô sản,
cha đẻ học thuyết cộng sản.
[8]
Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu với bí danh Lý Thụy, làm phiên dịch trong
văn phòng của Đoàn cố vấn Xô Viết từ năm 1924 do Mikhail Markovich Borodin,
tiếng Trung là Quý Sơn Gia (1884-1951) ông người gốc Do Thái, một nhà cách mạng
Nga, nhà hoạt động chính trị, xã hội Liên Xô, đại diện của Quốc tế Cộng sản tại
Trung Quốc, thời kỳ 1923-1928
[9] Thầu
Chín là tên của anh Ba thời kỳ 1928-1929 hoạt động ở tỉnh Un đon, Thái Lan.
[10]
Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Phu chia
[11] Cụ
Hoàng Xuân Đường (1835 - 1893) ông ngoại anh Ba.
[12]
Tiếng Phạn là cổ ngữ của Ấn Độ còn gọi là bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali
là nam Phạn, là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo
Bắc Tông.
[13]
Tỉnh, thành phố của Trung Quốc giáp với Việt Nam. Năm 1927 có một cuộc khởi
nghĩa thất bại của những người cộng sản tại. Xô viết Quảng Châu được gọi là
"công xã Quảng Châu" hoặc "công xã Paris phương Đông"
[14] Tân
Việt Cách mệnh Đảng (hay gọi tắt là Đảng Tân Việt) là một chính đảng tồn tại ở
Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ 20 với chủ trương "Đánh đổ đế quốc, xây
dựng một xã hội bình đẳng, bác ái". Đảng Tân Việt chấm dứt hoạt động vào
năm 1929 khi phân chia làm hai phái. Một phái với xu hướng thành lập Liên đoàn
Quốc gia và một phái với ảnh hưởng của tư tưởng cộng sản tách ra thành lập Đông
Dương Cộng sản.
[15] Hai
nhà cách mạng Việt Nam: Nguyễn Lương Bằng (1904 -1979) có bí danh Anh Cả, Sao
đỏ;Hồ Tùng Mậu (1896 –1951), Ông từng là đảng viên của cả Đảng Cộng sản Trung
Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam.
[16]
Vương Minh (1904 - 1974) tên thật: Trần Thiệu Vũ là một nhà lãnh đạo cấp cao
của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng Bí thư thứ IV của Đảng Cộng sản Trung Quốc
[17] Tên
gọi khác của người Khách Gia, là một tộc người Hán nay phân bố ở Nam Trung
Quốc, Đài Loan.
[18]
Ngày 10-10-1929, Tòa án Vinh (Nghệ An) của thực dân Pháp xử vắng mặt, anh Ba-
Nguyễn Ái Quốc bị khép vào án tử hình.
[19] Vụ
án Hồng Công năm 1931-1933, anh Ba tức Tống Văn Sơ bị bắt trên lãnh thổ Hồng
Công thuộc tô giới của Vương quốc Anh, được xử theo Luật Anh.
[20]
Tống Khánh Linh (1893- 1981) là phu nhân của Tôn Trung Sơn tổng thống đầu tiên
của Trung Hoa Dân Quốc, sau Bà làm Phó chủ tịch nước CHND Trung Hoa. Bà là
người say mê ủng hộ các tổ chức quốc tế nhân đạo, chống chiến tranh. Anh Ba
tham gia tổ chức “Quốc tế Cứu trợ các chiến sĩ cách mạng”. Có tư liệu Bà và gia
đình bà (Phủ Tống) thuê Luật sư Francis Henry Loseby bảo vệ Tống Văn Sơ trước
Tòa.
[21]
Karl Marx (1818 - 1883) là một nhà triết học, nhà kinh tế học, nhà sử học, nhà
xã hội học, nhà lý luận chính trị, nhà báo và nhà cách mạng người Đức gốc Do
Thái.. Marx chuyển tới London tháng 5 năm 1849 và ở lại đó trong phần còn lại
của cuộc đời.
[22] Eo
biển Manche là một đoạn eo biển dài thuộc Đại Tây Dương xen giữa đảo Anh và bờ
biển phía bắc của Pháp, liền với biển Bắc Hải. Eo biển này dài 562 km, chỗ rộng
nhất 240 km, chỗ hẹp nhất là 34 km (eo biển Dover).
[23]
Luật sư Anh, Francis Loseby (1883-1967), người giúp Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi
Hồng Công thuộc địa Anh khi đó. Năm 1960, gia đình Luật sư đến Việt Nam. Tượng
Luật sư Loseby đặt ở Khu tưởng niệm Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Ba Đình, Hà Nội.
[24] Nữ
bác sĩ Phương Thảo là nhân vật trong phim “Vượt qua Bến Thượng Hải- Hãng phim
Hội Nhà văn Việt Nam”
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II. Bôn Ba (749 - 1000 )
749. Qua
Mãn Châu Lý[1] Lyn mừng
750. Về
I - a - cút[2] nhiều từng cần lao
Giang hồ
ở xứ Á Châu
Tìm về
Xô viết xin đầu quân Lanh[3]
Trê -
Ca[4] đang độ tranh giành
Tiêu
diệt Bạch vệ[5] càng nhanh càng mừng
Lương
thực bị Chính quyền trưng
Ngủ đệm
cỏ ấm ăn chừng mực thôi
Đại học
Phương Đông[6] nhiều người
Tuổi trẻ
theo "Thép đã tôi"[7] đông đàn
Lyn[8]
về ngồi ngay vào bàn
760.Thẩm
vấn liên tiếp uống ăn tại phòng
Côn
sắc[9], Ku lắc[10] rất đông
Chúng
quyết giáng trả diệt Hồng quân Nga
Phản
động sinh sôi hơn gà
Hợp tung
nhị thập quốc gia chiến đòm
Trê - ca
giỏi món ra đòn
Thủ tiêu
bí mật thằng con nghi ngờ
Lyn bị
thẩm vấn nhiều giờ
Kiểm
điểm báo cáo nhiều tờ giấy than
Người
Tầu có bạn họ Khang[11]
770.Chỉ
muốn quốc tế giết chàng trai Lyn
Đến thời
của Hồng vệ binh
Tấu trình
trảm chém Khang Sinh ký ròng
Phong
trào cộng sản Á Đông
Phập phù
co cụm hiểu không đúng bài
Lyn chỉ
ra nhiều cái sai
Lý luận
cùn mẻ thích xài búa đao ?
Quốc tế
đọc thấy nôn nao
Tạm thời
giảm lỏng Lyn vào Phương Đông
Nhiều ý
muốn Lyn bằng không
780.Xử
bắn, phát vãng đầu sông rừng già
Cơ may
lại đến với Ba
Một nữ
đồng chí vào ra học đường
Thấy
chàng quá đỗi mến thương
Kiểm
điểm báo cáo mục trương rõ ràng
Chút
tình gái goá rộn ràng
Cứu
người trong sáng mơ màng thịt da
Lyn vốn
lịch lãm thật thà
Xen chút
hóm hỉnh bôn ba giang hồ
Nữ đồng
chí thấy nên thơ
790.Bút
phê bác bỏ nghi ngờ anh Lyn
Bổ chức
trợ giáo làm tin
Bài
giảng cách mạng nhiều nghìn trò nghe
Khang
Sinh dự giờ rất mê
Xem lý
lịch thấy Lyn nghề đấu tranh
Khang
ủng hộ Lyn rất nhanh
Tính
Khang cơ hội đã thành siêu sao
Thời Mao
đấu tố máu trào
Khang
con địa chủ vẫn vào hàng trên
Vật liệu
mau hỏng, lâu bền
800. Sơn
ăn từng mặt, ma nghiền từng nơi
Dân gian
thường gọi số trời
Tuổi thơ
ngoan ngoan sau thời ác ôn
Khéo lừa
thoi suốt tuột trơn
Tơ mềm,
tay búng lụa luôn chùng diềm
Xa xưa
đã có búa liềm
Mặc
nhiên cố kết thành miền cần lao
Nhiều
người từ đó đi vào
Giai
tầng bóc lột hỗn hào với dân.
Ra đi Ba
cứng bước chân
810. Mẹ
quy tiên sớm phúc phần cho con
Khác
Cha, Ba né được đòn
Xì gà
anh dụng rượu không mặn mà
Những
ngày nghiên mực trường Nga
Học bổng
rất hẻo dưng Ba vẫn còn
Tài
khoản nhà băng Hồng Công
Kịp rút
hạn mức lãi ròng mang theo
Học viên
Phương Đông rất nghèo
Anh bao
bọc mãi tiền teo tóp rồi,…
Mùa thu
nước Nga tuyệt vời
820.
Bạch dương đẹp bởi dáng người gái Nga
Thảo
nguyên bát ngát bao la
Hương
trời gió biển tâm tà bay đi
Tóc vàng
vai nõn ôm ghì
Tinh
thần Xô viết khắc ghi những ngày
Ba cùng
tay nắm bàn tay
Sau này
Cừ Nguyễn[12] đi đày Vàng Danh
Muốn
thắng trong cuộc đấu tranh
Gần dân
thân thiết là thành công ngay
Phương
Đông có một ông thầy
830. Đọc
bài, ngó vở, xem tay rất mừng
Cách
mạng không có điểm dừng
Bằng Kan
di dat[13] Lyn trưng quê nhà
Đề tài
công thổ quốc gia
Nông dân
có ruộng sau là nông trang
Lê nin
triết lý rõ ràng:
Để dân
suy tưởng trên hàng lúa khoai
Quan
điểm cách mạng không sai
Ngang
trình Ha-vớt kinh tài tự do
Anh Ba
không phải lần mò
840. Dân
tộc theo hướng thước đo thị trường
Thầy
rằng phải có một chương:
Phản
phong đuổi đế ở quê hương nhà
Đề tài
đã bị Trê - ca
Nhòm
thấy tư tưởng anh Ba lạc đề
Bọn
Trốt-kít[14] cười hề hề
Quan
điểm Ba hướng đi về tự do
Bao lực
đúng, tự kháng to
Cần lao
dễ hiểu hét hò đấu tranh
Sau Ba
gặp Xít -Ta-lanh
850. Bị
phê phán cách tranh giành nhẹ tay:
"Hữu
khuynh sẽ có một ngày
Thực dân
đế quốc xóa bay ngọn cờ"
Ba rằng
tôi có giấc mơ:
"Cần
lao áo ấm cơm no kết đoàn"
Những
ngày nghỉ dưỡng lo toan
Cờ -
rim[15] sóng vỗ nhặt khoan bến bờ
Biển
Đen[16] xa thẳm mịt mờ
Trứng cá
muối, thèm cá cờ quê hương
Chuyên
chánh vô sản rất cương
860. Xử
ngay những kẻ bất thường hồ sơ
Ăng lê
có thể đáng ngờ?
Biết đâu
họ chuyển những tờ cung khai
Lyn ngẫm
mình không oan sai
Án Hồng
Công có nhiều bài báo hay,…
Xòe ra
bấm đốt ngón tay
Năm Châu
chỉ nước Anh này công minh
Nữ hoàng
sống rất có tình
Ngân
sách Cung điện không phình lên to
Tư sản
dân chủ vẫn thờ
870.
Hoàng gia một hộ căn cơ đồng tiền
Nghĩ về
xứ Huế thần tiên
Những
ngày đi học dân hiền như mơ
Vua quan
dân sống tỉnh bơ
Việc
Triều chính được phân chia rõ ràng
Pháp
quốc chúng từng oang oang
Xứ thuộc
địa nhất ông hoàng An Nam
Các vua
phát vãng đi làm
Đảo xa
cày cuốc bán hàng mộc may
Hàm
Nghi, Duy Tân[17],… bị đày
880.
Nhận ra Pháp quốc khéo tay trị người
Sau
Chu[18] Bộ trưởng chê cười
Đi đày
sơn cước sống đời thổ dân
Mạnh
Hà[19] Bộ trưởng nhanh chân
Về làng
Tây sống nhưng gần gũi ta
Ủng hộ
kháng chiến hài hòa
Là cách
yêu nước được tha truy lùng
Đối
kháng hung hãn điên khùng
Xit-ta-lanh
quyết phải dùng bạo tra
Đấu
tranh giai cấp buông tha
890. Hữu
khuynh hòa hoãn tự ta ra đồng
Đoàn ăn
dưỡng có nhiều ông
Trê - ca
thăm hỏi sau không thấy gì?
Bất ngờ
bị dẫn giải đi
Về trại
Gu - lắc[20] chết thì đem chôn
Nhân
gian rất nhiều cô hồn
Nguyễn
Du viết chữ cháo hòn chúng sinh
Tự lượng
thấy sức của mình
Lyn
nguyện vọng học tránh hình phạt căng
Tù Tây
Hương Cảng công bằng
900. Hai năm ở trại kiểu Ăng lê rồi
Tù Ta
sớm muộn là toi
Quần đảo
Gu-lắc hết đời thánh nhân
Lá bùa
hộ mệnh ở chân
Tiếng sư
nước Phạn anh lần ra ngay
Quốc tế
thuận ý ký tay
Bắt Lyn
đi học bậc thầy Lin râu
Học
phiệt ở đó khá ngầu
Tưởng
Giới Thạch[21] đã cãi nhau bỏ về
Thạch tự
dân chủ dám chê
910.
Cách mạng bạo lực hả hê làm gì?
Nghèo
đông giàu ít siết ghì
Hóa ra
đi cướp, Thạch ghi vào lề
Hữu tả
hay buôn dưa lê
Lyn nghe
phát ngấy mỗi khi họp bàn
Quan
điểm của Lyn rõ ràng
Tìm mắt
xích yếu hô làng búa đao
Cách
mạng thắng được đoạn nào
Ăn chắc
đoạn đó phong trào nổi lên
Giáo sư
học viện Ông Lin
920.
Khen trò thuộc địa biết tìm lối đi
Võ biền
thuần túy biết gì
So găng
thất bại là tùy táng nhau.
Về
Trường Lyn học rất sâu
Nghiên
cứu sách vở báo nhàu cũng xem
Thư từ
với các anh em
Chi bộ
bên Pháp xưng tên vang lừng
Tình
hình thuộc địa bên Trung
Đế quốc
xâu xé, trong lùng xét tra
Đặc biệt
cộng sản nước Nga
930.
Đang thời chỉnh huấn soái Sa hoàng[22] tèo
Đảng
quyền có thứ đáng yêu
Đảng
quyền cực tả rất nhiều tang thương
Liên Xô
cất bước lên đường
Đẩy tăng
năng suất nông trường rất to
Gang
thép ào ào ra lò
Trang bị
vũ khí đợi chờ đánh nhau
Cần lao
nguôi nhạt cơn đau
Cơm áo
hơn đứt ngày đầu Liên bang
Nhà ăn
tập thể xếp hàng
940.
Bánh mì bơ đặc hoàn toàn tự do
Kinh tế
tư nhân co ro
Bị quốc
hữu hóa sạch trơ răng hàm
Quân đỏ
trấn áp xóm làng
Bạch vệ
lẩn trốn chạy sang nước người
Từng qua
Mỹ quốc “rong chơi”
Anh Ba
vẫn nhớ những người anh em
Nhớ nàng
văn sĩ Ka men[23]
Tinh
thần phóng khoáng bậc trên địa cầu
Liên Xô
có lẽ còn lâu
950. Mới
đạt được những cây cầu bên kia
Bánh mỳ
Mỹ bán giá vừa
Đồ dùng,
thức uống đầy thừa quán ăn
Áo quần
Mỹ vải ít nhăn
Công
nghệ may dệt khác quần bố Nga
Thiệp
hồng Lyn gửi đi xa
Thăm
nàng văn sĩ tuổi ta ngũ tuần
Thiệp
hình nước Nga mùa Xuân
Hoa cỏ
trắng muốt ngút ngần thảo nguyên
Đi nhiều
Lyn ngộ ra quyền
960. Con
người mỗi nước, các miền khác nhau
Nhiều
nơi dân không biết đau
Cam phận
nô lệ chẳng sầu muộn chi
Nhiều
vùng dân rất hay đi
Xuống
đường phản đối sau thì di cư
Cầm
quyền đa số rất hư
Chúng
thường thay đổi cách lừa nhân dân
Khẩu
hiệu nước Nga có phần[24]
Giống
quân phát xít ở gần Ba Lan
Lyn đề
xuất đi thực hành
970.
Nông trường, trại lính, lều tranh, phố phường
Một học
viên nữ bạn đường
Trê - ca
cài cắm? Lyn thường đa nghi
Lộ trình
dài dặm họ đi
Tây Âu
cho đến Bắc Phi trở về
Qua vùng
Trung Á gớm ghê
Giáo dân
dao quắm súng kề trên vai
Bạn
đường khen Lyn đẹp trai
Hào hoa
phong nhã tiền xài xông xênh
Mỗi lần
tá túc cửa thiền
980. Dục
vọng co thắt nhưng tiền phồng ra
Bạn
đường nhận mình Trê- ca
Giám sát
đồng chí nghi là điệp viên
Những
ngày điền dã thảo hiền
Thấy Lyn
chân thật với miền quê Nga
Một đêm
trăng sáng trại gà
Rơm thơm
cỏ ngái như là dụ dâm
Nữ đồng
đưa tay Lyn cầm
Dưới
trăng thơ mộng sương dầm đôi vai
Người
đâu tài đức đẹp giai?
990.
Tình đi những bước rộng dài nhân gian
Lyn ôm
đồng chí dịu dàng
Dùng
phép sư Phạn cho nàng dịu nguôi
Một hôm
họ tách đi chơi
Lyn lên
xe ngựa theo người lạ xa
Đến một
Hội quán nước Nga
Có người
Do Thái xưng là Hội Tam[25]
Nghi lễ
đón tiếp nhẹ nhàng
Lyn chìa
bùa chú thuở sang Xiêm thiền
Bánh
chay nước lọc giót thêm
1000.
Nhiệm vụ làm đế một niềm tin trao
[1] Mãn
Châu Lý là một thành phố thuộc khu tự trị Nội Mông Cổ, Trung Quốc. và có gianh
giới với Nga ở phía bắc.
[2]
Yakutsk là một thành phố ở vùng Viễn Đông Nga, nằm cách khoảng 450 km (280 dặm)
về phía nam Vòng Bắc cực. Đây là thủ phủ của Cộng hòa Sakha, Nga và là một cảng
lớn trên sông Lena.
[3]
Iosif Vissarionovich Stalin (1878 -1953) là lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô
viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời năm 1953. Trong trường ca gọi là " Ta- lanh"
[4] Ủy
ban Đặc biệt toàn Nga (là cơ quan mật vụ của Nhà nước Xô Viết, được thành lập
ngay sau cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga năm 1917. Đây là tiền thân của cơ quan
an ninh Liên Xô (KGB).
[5] Bạch
vệ là lực lượng chính trị và quân sự Nga
chống lại những người Bolshevik sau Cách mạng tháng Mười và chiến đấu chống lại
Hồng quân trong Nội chiến Nga từ năm 1917 đến năm 1923.
[6]
Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông được Quốc tế Cộng sản thành lập
tại Moskva ngày 21 tháng 4 năm 1921 làm một cơ sở đào tạo các cán bộ cộng sản
cho các nước thuộc địa và một số nước phương Đông.
[7] Thép
đã tôi thế đấy! là một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nikolai
A.Ostrovsky viết vào năm 1930-1934.
[8] Lyn
(Lin) là bút hiệu anh Ba từ tháng 1 -1935 đến tháng 9 -1939.
[9]
Aleksandr Vasiliyevich Kolchak (1874 - 1920) là một chỉ huy hải quân Nga, người
thám hiểm Bắc cực và đầu sau đó là chỉ huy tất cả các lực lượng Bạch vệ tham
gia các trận đánh chống lại chính quyền Bolshevik ở Xibia
[10] Kulak (кулак) từ thế kỷ 19 được dùng để chỉ nông
dân giàu có ở Nga. Sang thế kỷ 20 nó trở thành một nghĩa xấu.
[11]
Khang Sinh (1898 - 1975) từng giữ chức
vụ Phó Chủ tịch Đảng, Phó Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân
dân Toàn quốc Trung Quốc. Khang Sinh được coi là "Beria Trung Quốc"
là người đứng đầu cơ quan an ninh và gián điệp của Trung Hoa đã thực hiện những
ngược đãi các đồng chí của mình trong thời kỳ Cách mạng văn hóa. Năm 1980, ông
bị trục xuất khỏi Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
[12]
Nguyễn Văn Cừ (1912 - 1941) là Tổng Bí thư thứ tư của Đảng Cộng sản Đông Dương
từ năm 1938 đến năm 1940, ông chưa từng ra nước ngoài, chưa gặp anh Ba.
[13] Phó
tiến sĩ theo tiêu chuẩn Nga từ 13 tháng 1 năm 1934
[14] Lev
Davidovich Trotsky (1879 -1940). Ông là một trong những lãnh đạo của cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chỉ sau Lenin. Trong những ngày đầu lịch sử Liên
Xô, ông làm dân uỷ ngoại giao, là người thành lập và chỉ huy Hồng quân và dân
uỷ chiến tranh. Ông cũng là một trong những thành viên đầu tiên của Bộ chính
trị. Giữa Trotsky và Stalin có sự mâu thuẫn, điều này dẫn đến việc Trotsky bị
trục xuất và cuối cùng là bị ám sát ở Mexico sau khi Stalin lên cầm quyền.
[15] Bán
đảo Krym hay Crưm là một bán đảo lớn ở châu Âu được nước biển Azov và biển Đen
bao bọc gần như hoàn toàn, nằm ngay về phía nam của đất liền của Ukraina và về
phía tây của miền Kuban thuộc Nga. Về hành chính, bán đảo này là một chủ thể
liên bang Nga trong cuộc Khủng hoảng Krym 2014 khi Nga sáp nhập lãnh thổ này
sau cuộc trưng cầu dân ý của cư dân trên bán đảo từ Ukraina.
[16]
Biển Đen hay Hắc Hải là một biển nội địa nằm giữa Đông Nam châu Âu và vùng Tiểu
Á. Biển Đen được nối với Địa Trung Hải qua eo biển Bosporus và biển
Marmara.Biển Đen có diện tích vào khoảng 422.000 km², nơi sâu nhất đến 2210
mét. Sông Danube là dòng sông quan trọng nhất đổ vào Biển Đen. Được mệnh danh
là biển ấm nhất Trái Đất.
[17] Hàm
Nghi (1871 -1944), thụy hiệu Xuất Đế, tên thật Nguyễn Phúc Ưng Lịch là vị hoàng
đế thứ tám của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt
Nam.Ông đã phát động phong trào Cần
Vương, kêu gọi văn thân, nghĩa sĩ giúp vua, giúp nước. Phong trào này kéo dài
đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ
Algérie) và qua đời tại đây năm 1943 vì bệnh ung thư dạ dày. Do áp lực của Pháp
nên nhà Nguyễn không lập miếu hiệu cho ông.
Duy Tân (1900 - 1945), tên khai sinh là
Nguyễn Phúc Vĩnh San là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn. Khi vua cha Thành
Thái bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu.
Tuy nhiên, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp, ông bị đem an
trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 -
1945) ông gia nhập quân Đồng Minh chống
phát xít Đức, ông mất vì tai nạn máy bay ở Cộng hòa Trung Phi.
[18] Chu
Bá Phượng (1906 - 1964) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông là
một trong những thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng, từng giữ các chức
vụ Bộ trưởng Bộ Kinh tế (nay là Bộ Công thương) và Bộ trưởng Bộ Cứu tế (nay là
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.Sau khi Quốc dân Đảng thất thế tại Việt Nam, ông bị Việt Minh giam tại Hà
Giang đến khi qua đời.
[19]
Nguyễn Mạnh Hà (1913 - 1992) là nhà trí thức Công giáo, nhà chính trị Việt Nam,
từng giữ chức Thanh tra Lao động Bắc kỳ, Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia trong
Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945. Ông về Pháp cùng các trí
thức vận động chống chiến tranh Đông dương.Hồ Chí Minh khẳng định “ông là người
yêu nước”.
[20]
Quần đảo GULAG hay Quần đảo ngục tù là tác phẩm văn học của nhà văn người Nga
Aleksandr Solzhenitsyn, người từng đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Cuốn sách
gồm 3 tập, được viết từ năm 1958 tới 1968, được xuất bản ở phương Tây năm 1973.
Cuốn sách là một tập hợp các lời kể về hệ thống trại giam Gulag của Liên Xô.
[21] Tưởng Giới Thạch (1887 - 1975), là nhà chính
trị và nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại. Ông sinh tại
Ninh Ba, Chiết Giang, mất tại Đài Bắc, Đài Loan .Ông từng làm việc với cố vấn
Nga, đến Nga vào năm 1923 để mua vũ khí, sau đó quyết định đưa con trai Tưởng
Kinh Quốc tới đây học tập.
[22]
Trước chiến tranh Thế giới II, Liên Xô thanh trừng nhiều nguyên soái, tướng
lĩnh, đa phần họ là những người từng phục vụ quân đội Sa hoàng.
[23] Tên
gọi thân mật của nhà văn, nhà báo Anh - Mỹ nào đó ở Boston (Hoa Kỳ) gặp anh Ba
năm 1912 .
[24]
Trước chiến tranh Thế giới II, tranh cổ động và khẩu hiệu của Liên Xô có nét vẽ
giống tranh cổ động, khẩu hiệu của Đức cùng thời.
[25]
Ngày 4- 6- 1922, Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào Hội Tam điểm và đã dự nghi
lễ chấp nhận tại Trụ sở của Liên hội Quốc tế, số 94 đại lộ Đơ Xuypphơren (De
Suffren), Pari. Anh vào Hội với ý thức muốn tìm hiểu mặt tiến bộ của tổ chức
này. Cuối tháng 12-1922, Nguyễn Ái Quốc đã rút khỏi Hội.
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba ( 1001-
1200)
1001.
Hội Tam hứa cho người vào
Miền Nam
Trung quốc để trao uy quyền
Chủ yếu
võ khí và tiền
Xem thời
tạo thế chiếm miền Đông Dương
Môi-sơ[1]
xưa đã chỉ đường
Các Mác
khi mất nhắm phương Nam rồi
Do Thái
là một giống người
Cơ mưu
dài rộng được Trời ban ra
Ngày
Cách mạng tháng Mười Nga
1010.
Lái buôn Do Thái tung ra Rúp vàng
Cung
Điện mùa Đông pàng pàng
Sau phát
pháo hạm quân tràn lên nhanh
Khởi sự Lê
nin đã thành
Vạn sự
nhiều cuộc tranh giành, nay yên?
Nước
Pháp cũng có vài tên
Đứng
trong Hội kín ở bên nước Tàu
Thời
gian hành khách lỡ tầu
Bao
nhiêu huyền bí phía sau mờ dần!
Trở về
học tập hàng tuần
1020.Đề
cương luận án nhiều phần rất xương
Tiếng Nga
không đủ tầm chương
Tiếng
Tàu trích cú bình thường như ai
Tiếng
Anh Pháp Đức Lyn xài
Tóm lược
viết báo đăng bài rất hay
Sa lon
báo chí từ đây
Mỗi khi
làm việc chốt ngay cửa phòng
Rượu
thuốc cà phê ròng ròng
Sau hao
sức khoẻ thuở trong Nà Lừa[2]
Lúc buồn
anh cũng cò cưa
1030.Nhị
và sáo trúc thuở quê hương mình
Nhớ lời
Cha dạy chữ "Minh"
Tử vi lý
số anh trình bày hay
Mát cơ
va có nhiều thầy
Chiêm
tinh sao số họ bầy cho anh
Chào
nhau chai rượu sâm banh
Vốt ka
hậu tạ kết thành tri âm
Thấy Lyn
là người có tâm
Ngả xới
bốc phệ phí tầm tầm thôi
Về nước
ông Ké một thời[3]
1040.Thầy
mo cúng bái nhiều người rất mê
Gió
trăng một túi đề huề
Qua hang
thổ phỉ, đồng quê giặc càn
Yêu nước
không chỉ cả gan
Phải
nâng nhận thức trên ngang cõi đời
Trê- ca
giam lỏng lâu rồi
Luận văn
bảo vệ sau thời giảng văn
Mệnh
trời giao đế nhân dân
Phúc vào
tà áo phải phân chia đều
Gái xinh
dụ dẫn quá nhiều
1050.Đắm
vào sắc dục là tiêu danh trường
Đệ đơn
về với quê hương
Học viện
ngâm bản thói thường quan liêu
Thư về
Hồng quân ông Mao
Khang Sinh
thích lắm mời vào Tây An[4]
Kế hoạch
chia tay rõ ràng
Nước Nga
còn tính Sa hoàng lôi thôi
Rừng tai
ga[5] một hồi còi
Tu hành
xuống núi cập thời đế vương
Trê -ca
cho người dẫn đường
1060.Âm
thầm đưa tiễn, má hường chia ly
Sau này
nguyên thủ khắc ghi
Hỏi
thăm, nàng đã mất vì chiến tranh
Mát cơ
va lùi xa nhanh
Tuyết
rơi lấp ngọn cây xanh trắng mờ
Bánh mỳ
khô cứng ngoáy bơ
Phương
Đông xích lại vẫn mờ mịt đen
Trên tàu
có chú thổi kèn
Bài ca
quốc tế giọng rền rĩ buông
Lanh
-téc –na- xi- ô -loong[6]
1070.Cách
mạng thắng, dân phải tòng Đảng ta
Chờ cho
tuổi Đảng chín già
Đại đồng
thế giới khó mà thành công
Hội Tam
gửi nhắn đôi dòng:
"Quê
nhà có kẻ tố ông lỗi thời
Hữu
khuynh xa cách giống nòi
Không
dám về nước, rong chơi Nga Tầu"
Hà
Tổng[7] tuy trẻ nhưng ngầu
Tố sai,
“ném đá” vào đầu anh Ba
Quốc tế
cộng sản lo xa
1080.Đình
chức, bắt Quốc phải ra học đường[8]
Hà Huy
số phận đau thương
Hội Tam
ở xứ Đông dương xuống hèo
Thúc đẩy
Xứ uỷ chạy theo
Phong
trào manh động cờ treo hịch truyền
Mật thám
mua chuộc bằng tiền
Nhiều kẻ
phản bội dấu tên muôn đời
Một cuộc
đàn áp tả tơi
Đảng sớm
thay máu từ thời thiếu nhi
Quẻ
"Tẩu" anh Ba khắc ghi
1090.Từ
ngày anh thích ôm ghì Út Vân
Viễn
Đông nâng đỡ bước chân
Theo con
đường mật hồng quân dẫn về
Quân tư
trang tá vừa ghê
Vai hàm
thiếu tá dấu ve đặc tình
Diệp[9]
chính uỷ tướng nhà binh
Trao hàm
nói chuyện tình hình Nhật Trung
Chuyển
lời lãnh tụ tin dùng
Giúp cho
bát lộ quân hùng tráng lên
Bật ra
đi ô ngày đêm
1100.Thông
dịch nhiều tiếng sang bên chữ Tầu
Có dàn
thư ký ngồi chầu
Hồ
Quang thiếu tá hất đầu sang trang
Mao quân
ở khắp thôn làng
Nghe bài
huấn luyện cách phang quân thù
Lợi khẩu
lại giỏi văn thư
Hồ Quang
tố Nhật ác như ma tà
Viết báo
bút danh Pau la
Chu Ân
thích quá tưởng là gái xinh
Một lần
Chu quyết tỏ tình
1110.Pau-la
tắm táp thân hình nai tơ
Cuộc đời
tự lên cơn mơ
Chu Lai
thân thiết hóng chờ chàng Pôn
Nhân
gian tẻ nhạt vô hồn
Chẳng
còn rung động sống mòn, sống trơ
Sau này
tình ấy nên thơ
Vịt quay
thùng xốp gửi cho bạn già[10]
Báo cáo
Quang gửi về Nga
Tình
hình Trung Quốc phân ra nhiều tầng
Tưởng
quyết chiến thắng Ja pan
1120.Mao
trường chinh kiểu tuyển quân trung thành
Toạ sơn
hổ đấu rõ rành
Nhật
thua Tưởng yếu Mao giành đế vương
Liên Xô
chi viện chiến trường
Tò vò
nuôi nhện lớn thường bỏ đi
Sau này
Nga Trung xiết ghì
Đánh
nhau mấy trận chán thì buông ra
Báo cáo
có chương đắt là:
Chiến
tranh du kích quân ta chiến gần
Hồ Quang
hiểu sử quốc dân
1130.Từ
quê hương Việt đánh quân nước ngoài
Chéo
chân, đóng cửa soạn bài
Lối đánh
du kích Mao xài khá hay
Đối
phương thua thiệt a cay
Chúng
dùng phản gián nuôi bầy Hán gian
Xét về
mưu lược vũ trang
Chiến
tranh hiệu quả Hồ Quang bậc thầy
Anh em
tướng tá sau này
Gọi cha
già chiến, bố hay vi hành
Suốt đời
lãnh đạo chiến tranh
1140.Suốt
đời theo vận phải giành đế vương
Phá Luân
hoàng đế phi thường
Thua
trận đứt gánh giữa đường tháo lui
Quốc tế
cộng sản ngậm ngùi
Chỉ
thuần bạo lực ai vùi lấp ai?
Một số
bảo cách đó sai
Số khác
khẳng định là bài học hay
Sinh tồn
từ xưa đến nay
Mỗi loài
một kiểu đổi thay miếng mồi
Phong
trào trong nước sụt trồi
1150.Nửa
vào bí mật nửa chơi nghị trường
Võ trang
dao gậy phạt ngang
Đông
Triều thổ phỉ hàng đàn Tàu Ta
Quốc dân
Đảng[11] mất đại ca
Đệ tử
vẫn chiến Lang sa cắc tùng,...
Thổ phỉ
biên giới Việt - Trung
Săn gấu
lấy mật buôn rừng phiện nha
Bán sang
Tầu lấy đô la
Mua súng
nòng xoắn bắn xa phừng phừng
Mao
Tưởng dạt vòm tứ tung
1160.Vân
Nam, lưỡng Quảng toàn vùng phía Nam
Ta gọi
chúng là Hán gian
Cùng
Việt bất hảo sẵn sàng đón phong,...
Trò phỉ
anh Ba thuộc lòng
Thuở phu
khuân vác Nhà Rồng anh hay
Chủ cửu
rất là cao tay
Nắn bóp
công xá, thuổng ngay bao hàng
Út không
biết, rất dịu dàng
Yêu Ba
như thuở chàng nàng xa xưa
Còi tầu
khăn áo đón đưa
1170.Yêu
Ba phu cảng được cha vun vào
Chín
phương còn một ánh hào
Khơi
trong gạn đục lấy vào tinh hoa
Tiền dư
đã gửi cho Ba
Những
mong nghiệp đế cứu nhà cứu dân
Nhà băng
Đông Dương có phần
Lận lưng
lộ phí Ba lần lần tiêu
Bất Vi
xưa đánh võ liều
Buôn vua
dốc bạc cực nhiều công lênh
Đời
thường nhiều kẻ xông xênh
1180.Niềm
tin nghĩa lớn biết bênh vực người
Ba đi
không nở nụ cười
Ôm em Út
nhỏ trọn đời yêu thương
Ba mươi
năm cận đế vương
Về hang
Pắc Bó má hường bủa vây
Nghĩa
tình Sài Gòn chia tay
Còi tầu
thề nhớ một ngày hợp duyên
Rõ ràng
sức mạnh đồng tiền
Cộng
tình chân thật là thiên sử vàng
Xưa nay
nhiều chuyện trái ngang
1190.Ăn
táo ngọt, tay lại quàng cây phong
Bất nghì
bất nghĩa lộn tròng
Uống ăn
nước khoáng quên nguồn cao xa
Tuyển
quân vào đất Chi na
Giang
hồ, cộm cán vài ba hạng người:
Sinh
viên bị đuổi học rồi
Giáo
chức bãi khóa ở nơi thị thành
Cách
mạng cần lứa tuổi xanh
Người dân
mạn ngược rất rành lối đi
Bình
minh nhân loại từ khi
1200.Tìm
ra ngọn lửa phún phì tự nhiên
[1]
Moses là lãnh tụ tôn giáo, người công bố luật pháp, nhà tiên tri, nhà chỉ huy
quân sự và sử gia. Ông cũng được xem là người chép kinh Torah (năm sách đầu tiên
của Kinh Thánh, còn gọi là Ngũ kinh Moses). Trong tiếng Hebrew, ông được gọi
là "Moses Thầy chúng ta".
Moses cũng là một nhà tiên tri quan trọng trong Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi
giáo,Đạo Bahá'í, Mormon, và Phong trào Rastafari.
[2] Lán
Nà Nưa, đây là một căn lán nhỏ, nằm ở sườn núi Nà Nưa, cách làng Tân Lập (nay
là Tân Trào) gần 1 km về hướng đông thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Hồ
Chí Minh ở đó từ cuối tháng 5 đến ngày 22-8-1945 để chuẩn bị và lãnh đạo cuộc
Tổng khởi nghĩa toàn quốc. Ở đây ông ốm nặng và nói với ông Võ Nguyễn Giáp “Dù
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”
[3] Tên
gọi anh Ba từ ngày 28-1-1941 về Pắc Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) đến khi chuyển
xuống Tuyên Quang tháng 5/1945. Ông từng cải trang làm thầy cúng.
[4] Tây
An là một trong 4 kinh đô trong lịch sử Trung Hoa, là kinh đô của 13 triều đại,
bao gồm: nhà Chu, nhà Tần, nhà Hán và
nhà Đường. Tây An cũng là điểm kết thúc phía đông của Con đường tơ lụa huyền
thoại. Thành phố có lịch sử hơn 3100 năm với tên gọi trong thời đấy Tràng An
hay Trường An. Năm 1936, sự kiện Tây An
đã diễn ra trong thành của thành phố trong nội chiến Trung Quốc. Sự kiện này đã
khiến Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc thoả thuận đình chiến để tập
trung đánh quân Nhật Bản.
[5] Rừng
taiga là một khu sinh thái với đặc trưng nổi bật là các rừng cây lá kim. Taiga
bao phủ hầu hết phần trên đại lục của Alaska, Canada, Thụy Điển, Phần Lan, Na
Uy và Nga (đặc biệt là Siberi), cũng như phần xa nhất về phía bắc của Hoa Kỳ
(không kể Alaska), bắc Kazakhstan và khu vực Hokkaido của Nhật Bản.
[6] Điệp
khúc bài Quốc tế ca, nguyên tiếng Pháp “L'Internationale nghĩa là quốc tế”, lời
tiếng Việt “Lanh-téc-na-xi-ông-na-lơ”
[7] Hà
Huy Tập (1906-1941) là một nhà cách mạng Việt Nam, Tổng Bí thư thứ ba của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Ông sinh ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng,
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Ông hiểu lầm về quan điểm dân tộc chủ nghĩa của
Nguyễn Ái Quốc.
[8] Ở
Liên Xô năm 1934-1938, anh Ba ở Ban thuộc địa của Quốc tế cộng sản, không được
giao nhiệm vụ cụ thể. Anh được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn
đề thuộc địa.
[9] Diệp
Kiếm Anh (1897 - 1986) Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Nhân đại (Quốc hội Trung
Quốc) từ năm 1978 -1983. Ông là một
trong 10 nguyên soái của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đầu năm 1939, Diệp Kiếm
Anh đến Hồ Nam (quê hương Mao Trạch Đông) để huấn luyện chiến tranh du kích -
lúc ấy Hồ Chí Minh (người của Quốc tế Cộng sản) đóng vai một sĩ quan cấp bậc
thiếu tá tham gia đoàn của Diệp Kiếm Anh (với bí danh Hồ Quang) để giảng dạy
hai khóa liền từ tháng 2 đến cuối tháng 9 năm đó.
[10] Thủ
tướng Chu Ân Lai biếu tặng Chù tịch Hồ Chí Minh năm 1969 thể hiện tình đống chí
thân thiết nhiều chục năm.
[11]
Việt Nam Quốc dân Đảng là chính đảng được thành lập năm 1927 tại Hà Nội, lãnh
tụ là ô Nguyễn Thái Học làm khởi nghĩa Yên Bái tháng 2-1930. Sau năm 1975, tại
Việt Nam, tổ chức này bị cấm hoạt động, hầu như chỉ hoạt động bên ngoài lãnh
thổ Việt Nam.
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba (1201-
1500)
1201.Tinh
thần độc lập đặt trên
Lịch sử
đất Việt triền miên chống thù
Mượn Tầu
tạm lập chiến khu
Hải
ngoại cách mạng từ xưa nay rồi
Chiến
tranh khói lửa ngút trời
Tây phát
xít Đức, Đông thời Ja pan
Bĩ cực
chồng chéo thế nan
Rất cần
sấm Trạng nổ vang lúc này
Hồ Quang
tranh thủ từng ngày
1210.
Đọc kinh Lão tử[1] xem tay Trạng Trình
Xem lời
cha tặng chữ "Minh"
Lần bùa
sư Phạn đoán tình thế Ta
Hải
Thần[2] thích xem chân gà
Học
Lãm[3] dân quốc đoán già đoán non
Thái lai
thử thách cô đơn
Hồ Quang
thấy quẻ Càn Khôn[4] vào mình
Hội Tam
phán đoán đồng minh
Thắng
quân phát xít bằng hình phạt cao
Tiền bạc
lặng lẽ chuyển vào
1220.
Cho các dự án máu trào Á Đông
Chiến
tranh dịch chuyển xoay vòng
Về nơi
lạc hậu thử lòng các bên
Lái súng
kiếm chác nhiều tiền
Thế giới
phân cực thánh hiền về đâu?
Hồ thiếu
tá hiểu rất sâu:
Gia
Long[5] lập chiến khu đầu phía Nam
Đảo xa
đất Phật Xiêm, Cam
Hai mươi
năm chiến đánh tan Quang Bình[6]
Nguyễn
Vương từ thuở bình sinh
1230.
Mang vào nghiệp đế nâng trình đánh nhau
Nã phá
luân lên ngôi đầu
Ngạo mạn
chinh chiến thua đau vận tàn
Hồ Quang
toan tính rõ ràng
Theo
Đồng minh đánh Nhật hoàng là hay
Tưởng
Mao biết rõ tay này
Ân tình
thả xuống những ngày tù lao
Thiếu tá
hai gạch một sao
Hồ Quang
số má đỉnh cao ngút trời
Lâm Lan
từng rủ đi chơi
1240.
Vào rừng thi bắn Ba thời điểm cao
Võ biền
thử thách anh hào
Bù nhìn
rơm cháy chúng chào sư huynh
Giáo
Văn[7] yếu ớt đòm uỳnh
Già
Thu[8] thấy Giáp nhẫn hình vòng khuyên
Chiến
tranh lúc tỉnh khi điên
Nướng
quân như chả sau thiền tỉnh bơ
Dụng
nhân nào đứng dưới cờ
Bản bộ
ngõ ngách giang hồ đi theo :
Tử
Phòng[9] thấy huyện Bái reo[10]
1250.
Nguyên Hãn[11] Bạch Hạc thuyền chèo Lam Sơn
Lệ
thường lấy chức trả ơn
Công lao
chia thổ lớn hơn "đao điền"[12]
Muốn tu
thành bậc thánh hiền
Cõi
người phải hóng khắp miền chúng dân
Sau này
như thế Việt gian
Khi ấy
là những sĩ quan quân Tầu
Tình yêu
tim đặt lên đầu
Gặp Lâm
Lan ở Quảng Châu xong rồi
Danh
sách đồng hương của tôi
1260.
Cấp hàm chinh chiến nhiều nơi bắn đòm
Gặp nhau
xiết vòng tay ôm
Tính về
Tổ quốc một hôm đẹp trời
Chí Kiên[13]
cứng rắn tuyệt vời
Thiết
Hùng[14] đã một góc đời chiến tranh
Nguyên
Bác[15] vạn lý trưởng thành
Văn
chương võ giúp đàn anh chưa về
Văn
Thụ[16] thao lược rất ghê
Mật thám
Pháp đã về quê rình mò
Văn
Cáp[17] trong sáng ngây thơ
1270.
Chất người mỏ sắt biết thờ chính nhân
Tư tưởng
cách mạng phải gần
Cần lao
công xưởng Nam phần nhiều hơn
Xứ uỷ
Nam kỳ rất khôn
Gieo mầm
khởi nghĩa Ba Son, Phú Riềng
Sỹ phu
Bắc Hà niềm riêng
Xuân
Khu[18], Hạ Bá[19] rất siêng né thù
Đời sau
không rõ thực hư
Đấu
tranh dũng cảm lao tù tất nhiên
Trách
ham sống thích nhiều tiền
1280.
Như Ngô[20] thường vụ uỷ viên đầu hàng
Trách gì
đối lập trái ngang
Xưng
hùng tranh bá phải phang đến cùng
Bắc Sơn
rừng núi điệp trùng
Chu[21]
hùm sám nổi Tây từng phát kinh
Thái
Nguyên Đội Cấn[22] tự mình
Làm cuộc
binh biến tình hình đổi thay
Đô
Lương[23] cảm hứng mê say
Ba
Tơ[24] nổi dậy rừng dầy chở che
Tranh
hùng khí thế rất ghê
1290.
Chặt cây vướng mấu, chẻ tre gặp gờ
Anh em
hải ngoại không chờ
Trâu
chậm cỏ bụi nước bờ đục hoen
Hải Thần
xem chân gà đen
Phán
rằng Nhật Bản sớm chèn Phá Lang
Để cho
hổ đấu tan hoang
Theo
Đồng minh chống xâm lăng hợp thời
Tống
Khánh kêu gọi mọi người
Chống
quân phát xít khắp nơi địa cầu
Tống
Mỹ[25] phu nhân sang chầu
1300.
Quốc hội Mỹ quyết lập cầu hàng không
Giúp
Tưởng Thống chế lập công
Mao quân
nghênh chiến nhưng không hao mòn
Hồ Quang
đi lại mỏi mòn
Hai bên
Mao Tưởng thông ngôn rõ ràng
Tưởng
nhìn thấy chỗ quá giang
Dạt vòm
Bắc Việt mở mang đất Tầu
Mao tin
chất cộng trong đầu
Hồ Quang
bạn hữu dài lâu sâu bền
Nhờ Lâm
Y Lan nhận tiền
1310.Lương
hàm thiếu tá uỷ quyền ký danh
Đến năm
Kỷ Dậu, Hoàng Tranh[26]
Giáo sư
cho biết vẫn thanh toán đều
Có thời
Ba thiếu tiền tiêu
Viết thư
kể khổ như liều thuốc tiên
Nhà băng
Đông Dương cảm phiền
Vẫn lưu
tài khoản đến nghìn năm sau
Trước
ngày anh Ba xuống tàu
Ngoại tệ
cục lớn đã chầu nhà băng
Tư Đờn
Cha của Út Vân
1320.Chăm
nuôi phu cảng tối gần một chai
Cổ xưa
cái chuyện tiền tài
Không
tiêu tán hết đất xài biến đi
Ông
Trần[27] bốc đúng quẻ "tuỳ"
Năm thìn
rồng khát gặp thì hanh thông
Ba ba
cắt tiết vài con
Gà giò
một túm tụ đồng chí ta
Con
đường xuống núi thông qua
Đông Nam
hành tiến sớm ra thái bình
Hội Tam
bắt mạch rất kinh
1330.Vào
năm Ất Dậu tình hình đổi thay
Hoa Kỳ,
Tàu Tưởng chung tay
Đánh
Nhật mở cứ địa đầy Côn Minh
Căn cứ
này khá yên bình
Đội đặc
nhiệm Mỹ đóng dinh nơi này
Ông Trần
tạo thế cờ hay
Về hang
Cốc thử ớt cay cỡ nào?
Không
qua được mắt Tưởng Mao
Mà trúng
kế đánh người vào nước Nam
Thổ dân,
thổ phỉ rất ham
1340.Con
đường buôn bán rộng hàm lại qua
Chàng
trai sơn cước Quảng Ba[28]
Gốc Kinh
bạt xứ thật thà giao liên
Ông Trần
sẵn sàng chi tiền
Đô,
Bảng, Quan tệ sang Yên Nhật hoàng
Tiền tạo
sức mạnh phi thường
Ngàn xưa
mãi lộ con đường lụa tơ
Văn Thụ
tạm quyền chức to
Hội nghị
lần Tám trưởng trò về hang
Xuân Khu
cùng với Bá Cang
1350.Sỹ
phu đất Bắc lên hàng Trụ to
Già
Thu[29] râu phún lơ phơ
Được gọi
là "Bác"[30] từ bờ suối Lin
Nghị
quyết lập Tổng Việt minh:
Địa hào
trí phú chúng mình đánh Tây
Đuổi
Nhật bảo vệ dân cày
Doanh
gia yêu nước chung tay góp tiền
Học sinh
cùng thanh thiếu niên
Phụ nữ,
lão ấu, đạo Thiên, Phật, Hoà…
Công
nhân truyền hịch to loa
1360.Việt
minh vận động muôn nhà đánh Tây !
Cài
người ở khắp đó đây
Truyền
đơn như sấm báo ngày bão giông
Cháu
Trưng, cô Ngát[31] giàu lòng
Mến yêu
cụ Ké[32] như ông thánh hiền
Rau măng
cháo bẹ ngô nghiền
Ba ba,
cá suối rau giền nấu canh
Vòm hang
nước thấm rất nhanh
Đô la ẩm
ướt Cụ đành đem phơi
Chông
chênh tảng đá ngoài trời
1370.Gác
tiền, canh bạc Cụ ngồi thả câu
Dịch
luôn sử Đảng Nga, Tầu
Dự các
đồng chí đứng đầu quân Ta
Bên Tầu
có trát mời qua
Mua rẻ
vũ khí nhận quà Hội Tam
Sóng
Hồng bận, không đi sang
Bá Cang
trở lại địa đàng Từ Sơn
Rùa suối
hôm đó đói cơm
Cắn câu,
cháu Ngát vội đơm về lò
Cụ bật
dậy như lò so
1380.Xem
mai rùa[33] thấy phải vò vè bay
Hành
trang sửa soạn đi ngay
Phục
trang ông lái buôn Tày quá giang
Quảng Ba
khăn gói vác mang
Giữa
đường trượt ngã vội vàng thoái lui
Khoai
chấm mật, số ngọt bùi
Quân
Tưởng bắt được chúng vui vô cùng
Lì xì
Tôn tệ chúng mừng
Tướng
lĩnh quân Tưởng đã từng nghe danh
Thống
chế nhận ra rất nhanh
1390.Sau
là Nhật ký ngục xanh tháng ngày
Quê nhà
đợi cánh hạc bay
Phong
trào trong nước nhẹ chày giữ sân
Tin vào
thánh, dựa vào thần
Manh
động cách mạng là dân ốm đòn
Sóng Đỏ
không kém trí khôn
Sĩ phu
thế thủ giải buồn làm thơ
Hồ ca bị
Tưởng nghi ngờ
Gián
điệp Nhật Bản đang chờ lấy tin
Thẻ báo
chí cộng tác viên
1400.Có
bài chống Nhật đăng liền mấy trang
Hồ sơ
yếu nhân rõ ràng
Tưởng sợ
ám sát vội vàng chuyển đi
Qua
nhiều lao khám ly kỳ
Cả trại
tị nạn dân quy hàng Tầu
Trí thức
rủ rê nhà giàu
Bỏ Mao
theo Tưởng từ đâu kéo về
Thường
phạm cộm cán rất ghê
Vào tù
cờ bạc luyện nghề phạt nhau
Biệt
danh tù nhân Min râu
1410.Tiếng
Nga, Pháp, Mỹ, Việt, Tàu nói nghe
Thư pháp
múa như rồng tre
Tiếu lâm
kim cổ tù mê Min rồi
Đại
bàng, đầu gấu có nhời
Dạ thưa,
nhường nhịn, kính mời cao lương
Chúng tù
bắt rận chiếu giường
Tầm
quất, điếu đóm ngày thường tù lao
Một hôm
Min nhận quà trao
Cai tù
kính cẩn xin chào đại ca
Bọc quà
từ từ mở ra
1420.Sách
Thống chế tặng, bút và giấy biên
Bì thư
bự một xấp tiền
Đồ dùng
thức nhắm rượu truyền tay nhau
Wis ky,
Cô nhắc, Đài Tầu
Tù nhân
được bữa cực ngầu nhà pha
Thuốc lá
cà phê đạo trà
Đi cung
mỗi sáng Min ra ngoài trời
Làm thơ
chữ Hán tuyệt vời
Tù mà
như thế suốt đời tù lao
Nhưng
Min thân thể thanh tao
1430.Đường
thi bát cú vận vào thánh nhân
Bọn tù
thấy thế theo chân
Đi xia
chúng cũng cằn nhằn ra thơ
Tránh tù
cộm cán điên rồ
Giải Min
đi sớm bất ngờ ai hay
Hội Tam
điểm đã ra tay
Nhờ
tướng quân Tưởng : Min này phải giam
Thả ra
hỏng việc Nước Nam
Để ma
tù, những việc làm toi ngay
Sư Phạn
cử đến một thày
1440.Nói
rằng bùa ngải Min này đã theo
Quê nhà
ảnh Cụ đã treo
Lễ Truy
điệu Đế cảnh nghèo buồn thương
Thầy mo
mang đến bó hương
Bùa
phướn một mớ lợn mường một con
Tin từ
một tay lái buôn
Chuyển
tờ nhật báo chữ tuôn bên lề
Anh em
vui sướng tê mê
Quay lợn
chén, đợi Cha về cầm binh
Tưởng
giao cho Hầu Chí Minh[34]
1450.Chủ
nhiệm chính trị quyền hình xét tra
Hầu mới
chớm tuổi người già
Thích
nghe Hồ kể nước Nga bắn đòm
Chuyện
tộc Cờ-rô-ma-nhom
Quan hệ
tình ái kiểu tòm tem nhau
Hầu
xướng kinh kịch nhạc Tầu
Van-xơ
Hồ lướt mấy chầu rượu ngon
Liễu
Châu thiên cảnh mê hồn
Chú Hầu
dâng rượu lên hòn đá chông
Hầu
rằng: Học Lãm có công
1460.Với
Tưởng Thống chế đồng môn năm nào
Tình báo
Tưởng bên quân Mao
Khen Hồ
thiếu tá trình cao đức dầy
Nhật
thua tính tháng, đếm ngày
Quốc
Cộng hợp nhất bắt tay ôn hòa
Hầu mong
Hồ sớm đại ca
Nước
Nam, nước Bắc chúng ta yên bình
Phát
Khuê[35] tướng Tưởng có tình
Dự phóng
thích bạn Chí Minh trở về
Lập căn
cứ địa ở quê
1470.Giúp
Đồng minh Mỹ đánh về phía Nam
Chuyện
Hầu toan vít cành cam
Gắp lửa
chinh chiến chuyển sang nước nhà
Người
Tầu chờm hớp rất xa
Lưỡng
nghi, tứ tượng chúng là bậc trên
Chén
anh, chén chú dâng lên
Hồ rằng:
Độc lập vững bền như xưa
Anh về
đất nước làm vua
Đón em
sang Việt nhặt thưa trống chèo
Á Đông
mình rất là nghèo
1480.Nhưng
mà chớ vội đi theo nước người
Anh qua
Âu Mỹ rong chơi
Kiểu
chúng ăn ở đứng ngồi khác ta
Hàu chủ
nhiệm: kính đại ca
Trăng
tàn rặng liễu mờ xa cuối rừng
Đồng
minh khí thế tưng bừng
Đánh
Nhật đuổi Pháp trùng trùng quân đi
Tiêu
Văn[36], Phát Khuê thầm thì
Nháy Hầu
Chủ nhiệm mạnh chi bạc tiền
Hồ đi
rất nhiều biên duyên
1490.Gặp
các tướng lĩnh ở bên Tưởng Tầu
Mùa hè ở
trấn Liễu châu
Chiến
khu Dân quốc xanh mầu cỏ non
Nguyễn
Du xưa tựa lầu son
“Bắc
hành Tạp lục”[37] gợi hồn Kiều ca
Anh em
trong nước lại qua
Vào
trường quân chính Tưởng- Ta kết đoàn
Vẫn bài
lý luận không mòn
Vẫn bài
du kích chui luồn đánh nhau
Lớp học
có vài tướng Tàu
1500.Dự
giờ thích quá cái đầu anh Ba
[1] Lão
Tử (571 TCN - 471 TCN) là một nhân vật chính yếu trong Triết học Trung Quốc, sự
tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Lão Tử được coi
là người viết Đạo đức kinh
[2]
Nguyễn Hải Thần (1869 -1959) là một nhà cách mạng chống Pháp, người sáng lập và
lãnh đạo Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách). Nguyễn Hải Thần giữ chức
Phó Chủ tịch trong Chính phủ Liên hiệp.Tháng 7 năm 1946, khi tranh chấp giữa
Việt Minh và các phe phái đối lập xảy ra, Việt Minh tấn công lực lượng của Việt
Cách, Nguyễn Hải Thần phải sang Trung Quốc rồi đến Hồng Công lưu vong.
[3] Hồ
Học Lãm (1884 - 1943) là một chí sĩ Việt Nam thời cận đại.Ông là bạn học với
Tưởng Giới Thạch ở trường Võ bị Bắc Kinh, làm sĩ quan cao cấp trong quân đội
Quốc dân Đảng.
[4] Quẻ
Càn là trời (dương), ký hiệu ba vạch (≡) , quẻ
Khôn là đất (âm) ký hiệu vạch ba vạch đứt (≡ ≡). Quẻ Càn Khôn, xếp trên Càn
dưới Khôn, có nhiều cách chú dịch quẻ này : "Nhất âm nhất dương chi
vị đạo" (một âm một dương gọi là Đạo).
[5] Gia
Long (1762 -1820), tên húy là Nguyễn Phúc Ánh, gọi tắt là Nguyễn Ánh (Nguyễn Vương) là nhà chính trị,
nhà quân sự, vị hoàng đế sáng lập nhà Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng
trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
[6]
Quang Trung Hoàng đế (1753 - 1792), danh xưng khác là Bắc Bình Vương, tên khai
sinh là Hồ Thơm, sau đổi tên thành Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Bình, là nhà chính
trị, nhà quân sự và là vị hoàng đế thứ hai của Nhà Tây Sơn.
[7] Võ
Nguyên Giáp (25 - 8 năm 1911- 4 tháng 10 - 2013), tên khai sinh là Võ Giáp, còn
được gọi là tướng Giáp hoặc anh Văn, là một nhà chỉ huy quân sự và chính trị
gia Việt Nam. Ông được bình chọn là một trong 100 vị tướng xuất sắc nhất mọi
thời đại, và cũng là một trong những nhà quân sự vĩ đại nhất lịch sử hiện đại.
Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng Tư lệnh của Quân đội nhân dân Việt Nam… Tháng 5
năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà
Nội.
[8] Tên
gọi anh Ba ở Pắc Bó năm 1941.
[9]
Trương Lương (250 TCN - 186 TCN), biểu tự Tử Phòng là danh thần khai quốc nổi
tiếng thời nhà Hán. Ông cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được người đời xưng tụng là
Hán sơ Tam kiệt, đóng vai trò quan trọng giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng
Hạng Vũ trong chiến tranh Hán Sở, sáng lập ra nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Ông thường được xếp vào hàng ngũ 10 đại quân sư kiệt xuất nhất lịch sử phong
kiến Trung Quốc, đứng thứ 3 sau Tôn Vũ, Tôn Tẫn và đứng trên các bậc quân sư
kiệt xuất khác như Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn. Vì thế, hậu nhân hay gọi ông là
Mưu Thánh.
[10]
Huyện Bái (nay là huyện Phong thuộc tỉnh Giang Tô), tên gọi Lưu Bang tức Hán
Cao Tổ (256 TCN -195 TCN), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi Hoàng đế được 8 năm (202 TCN -195 TCN).
[11]
Trần Nguyên Hãn (1390 - 1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người
thuộc dòng dõi nhà Trần là con cô con cậu với Nguyễn Trãi, cùng Nguyễn Trãi
tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông từng giữ chức Tư đồ,Thái úy, chỉ huy các trận
đánh giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (1425-1426), bao vây Đông Quan, công phá
thành Xương Giang và chặn đường tiếp tế của quân Minh trong chiến dịch Chi
Lăng-Xương Giang (1427). Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế
(1428). Trần Nguyên Hãn được phong làm Tả tướng quốc. Nhưng về sau vì tính đa
nghi, Thái Tổ bắt tội ông, khiến ông tự sát ở Bạch Hạc. Đến đời Hoàng đế Lê
Nhân Tông, ông mới được ân xá và khôi phục chức vị.
[12] Vua
Lý Thái Tông định công ban thưởng cho Lê Phụng Hiểu, Lê Phụng hiểu thưa rằng:
“Thần không muốn thưởng tước, chỉ xin cho về ở núi Băng Sơn (huyện Hoằng Hóa,
Thanh Hóa nay), ném dao lớn đi xa, dao rơi đến chỗ nào trong đất công thì xin
ban cho làm sản nghiệp”. Vua nghe theo Phụng Hiểu lên núi, ném dao xa đến hơn
mười dặm. Vua lấy số ruộng ấy ban cho, tha thóc thuế cho ruộng ném dao ấy. Vì
vậy, người Châu Ái gọi ruộng thưởng công là ruộng ném dao”.
[13]
Phùng Chí Kiên (1901-1941) là nhà hoạt động cách mạng và quân sự Việt Nam. Năm
1994, liệt sĩ Phùng Chí Kiên được truy tặng Huân chương Chiến công hạng ba. Hơn
62 năm sau ngày mất, tháng 11 năm 2003, ông được Chính phủ Việt Nam và Đảng
Cộng sản Việt Nam ra quyết định phong là cán bộ quân đội cấp tướng.
[14]
Thiếu tướng Lê Thiết Hùng (1908 -1986) nhà hoạt động cách mạng, là vị tướng
được phong quân hàm đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
[15]
Nguyễn Sơn (1908-1956) là một trong những người Việt Nam được phong quân hàm
cấp thiếu tướng đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân
hàm tướng vào năm 1955 nên ông được gọi là Lưỡng quốc tướng quân. Là vị tướng
văn võ song toàn.
[16]
Hoàng Văn Thụ (1909 - 1944) là nhà lãnh đạo cao cấp của Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương, người có đóng góp lớn vào phong trào cộng sản Việt Nam và là
nhà thơ cách mạng Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
[17]
Đặng Văn Cáp (1894-1984) một chiến sĩ cách mạng kiên trung, người cận vệ đầu
tiên của Bác Hồ, người thầy thuốc tận tâm, tận tụy.
[18]
Trường Chinh (1907 - 1988), tên khai sinh là Đặng Xuân Khu, là một chính khách
Việt Nam. Ông giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam từ năm 1981 đến
năm 1987. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (lần thứ
nhất: 1941 - 1956, lần thứ hai: 1986), Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1960
- 1975) và Chủ tịch Quốc hội (khóa V, VI), là một nhà thơ cách mạng với bút
danh Sóng Hồng.
[19]
Hoàng Quốc Việt (1905-1992), ông tên thật là Hạ Bá Cang giữ chức Bí thư Tổng bộ
Việt Minh, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân
Tối cao, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Xứ ủy Bắc
Kỳ.
[20] Ngô
Đức Trì (1901-1941), Ủy viên, Ủy viên Thường vụ
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được bầu tại Hội nghị
tháng 10-1930. Ông là con trai của nhà cách mạng Ngô Đức Kế.
[21] Chu
Văn Tấn (1909 - 1984), Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là
người tham gia lãnh đạo khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 khi quân Nhật tấn công Pháp
ở tỉnh Lạng Sơn.
[22] Đội
Cấn, hay Ông Đội Cấn (1881 - 1918) là biệt danh của Trịnh Văn Cấn, một thủ lĩnh
trong cuộc binh biến chống chính quyền thực dân Pháp tại Thái Nguyên năm 1917.
[23]
Ngày 13 -1 - 1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung), binh lính
đồn Chợ Rạng (Thanh Chương, Nghệ An) đã nổi dậy chống lại thực dân Pháp. đánh
chiếm đồn Đô Lương.
[24]
Khởi nghĩa Ba Tơ là cuộc nổi dậy giành chính quyền của quân dân châu Ba Tơ
thuộc tỉnh Quảng Ngãi, nổ ra ngày 11 -3 -1945, sau 2 ngày Nhật đảo chính Pháp ở
Việt Nam.
[25]
Tống Mỹ Linh, cũng được gọi là Bà Tưởng Giới Thạch (1897 - 2003) là một trong 3 chị em họ Tống và được mô tả
là người yêu quyền lực.
[26]
Hoàng Tranh (nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Trung Quốc)
tác giả bài “Hồ Chí Minh với người vợ
Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” tạp chí Đông Nam Á Tung hoành (Dọc ngang Đông Nam
Á), số tháng 12 năm 2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc mang tính giả
thuyết tính tiểu thuyết. Cuốn “Hồ Chí Minh dữ (thân) Trung Quốc” Giải Phóng
Quân xuất bản xã, 1987 cho biết Hồ Chí Minh có tổng thời gian 17 năm ở Trung
Quốc...
[27]
Cuối tháng 2 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc với bí danh Ông Trần đến hiệu dầu cù là
Vĩnh An Đường ở Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức cộng
sản Việt Nam ở Vân Nam để từ đó tìm cách trở về nước.
[28] Lê
Quảng Ba (1914-1988) là một tướng lĩnh người Tày đầu tiên của Quân đội nhân dân
Việt Nam, nguyên Tư lệnh đầu tiên Quân khu Việt Bắc. Ông là một trong những
người đã đưa Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về nước đầu năm 1941, chịu trách nhiệm
nơi ăn, chốn ở, nơi họp và bảo vệ Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
lần thứ 8.
[29] Tên
gọi Nguyễn Ái Quốc năm 1941 tại hang Pắc Bó.
[30] Tên
gọi “Bác” xuất hiện từ dịp họp hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 5 năm 1941
ở Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng.
[31]
Nông Thị Trưng, có tài liệu ghi Nông Thị Ngát (1920 -2003), trong vòng 8 tháng
vào năm 1941-1942, bà đã làm giao liên cho "Già Thu", bí danh của Hồ
Chí Minh lúc đó. Bà từng giữ chức Chánh án Toà án nhân dân Tỉnh Cao Bằng.
[32] Tên
gọi Hồ Chí Minh cuối tháng 4 năm 1945 ở Cao Bằng
[33] Từ
hàng ngàn năm trước người Trung Quốc xem “Bói mai rùa” đoán cát hung trong
những sự kiện quan trọng.
[34] Hầu
Chí Minh (1896-1980), Thiếu tướng, Trung tướng, Chủ nhiệm Cục Chính trị Chiến
khu 4 của Trung hoa Dân quốc, người đã trực tiếp thả Hồ Chí Minh theo lệnh của Tưởng Giới Thạch.
[35]
Trương Phát Khuê (1896-1980), Thượng tướng quân đội Trung Hoa Dân Quốc, tham
gia Bắc phạt, nổi tiếng trong binh biến Nam Xương. Trong chiến tranh kháng
Nhật, là tư lệnh mặt trận Thượng Hải lần thứ nhất, sau đó là tư lệnh của Đệ Tứ
quân khu. Sau năm 1949, ông sống tại Hồng Công.
[36]
Tướng Trung Hoa Dân Quốc, Phó tư lệnh Hoa quân nhập Việt vào cuối tháng 8 năm
1945, chỉ huy Quân đoàn 62 và 53 tiến từ Quảng Tây chiếm Cao Bằng, Lạng Sơn, và
những vị trí quan trọng dọc theo bờ biển tới Hải Phòng, từng làm trợ lý Tư lệnh
Chiến khu 4 đóng tại Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc.
[37] Bắc
hành tạp lục (Ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương Bắc) là tập thơ bao gồm
131 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du sáng tác trong khoảng thời gian ông dẫn đầu
đoàn sứ bộ nhà Nguyễn sang Trung Quốc từ đầu năm Quý Dậu 1813 đến đầu năm Giáp
Tuất 1814.
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba (1501
-1800)
1501.Học
viên nước Phạn cũng qua
Học cách
bảo vệ nhà chùa bằng dân
Hội Tam
điểm, tay lần lần
Bí mật
chi viện cho quân Việt Tầu
Sự đời
nào biết gì đâu
Âm mưu
học thuyết đứng đầu thế gian
Hít le
cùng với Nhật hoàng
Từng lên
Tây Tạng vào hang thỉnh thầy
Nhưng vì
cái cách xuống tay
1510.Bạo
tàn quá mức ai bày cho khôn
Hầu chủ
nhiệm muốn rõ hơn
Mời Hải
Thần đến chơi đờn so dây
Tiệc
tùng xôm tụ đã bầy
Quan
quân nho sĩ vui vầy một chương
Gái xinh
y vũ phấn hương
Mao đài
chén chú kính nhường đại ca
Vỗ tay,
Hầu gọi chân gà
Sở
trường lý số xem đà Đồng minh
Hải Thần
tung vế đối kinh
1520."Hầu,
Hồ" xoắn chữ rất tinh tế đời[1]
Hồ ca
nhấp ngụm nước sôi
Thả ra
vế đáp "nhĩ thời, ngã công"
Tình Hồ
với Tưởng mặn nồng
Tuyết
rơi Cụ vẫn ra sông tắm trần
Tiêu Văn
cảm kích muôn phần
Ngỡ
ngàng người Việt nếp dân nước Tàu?
Không
biết tiền bạc ở đâu?
Hồ ca
quà cáp nhiều đầu thiếu nhi
Phong
bao hơn cả lì xì
1530.Cho
trẻ mua áo quần đi đến trường
Xưa nay
tình thương mến thương
Hoa quân
nhập Việt chúng thường nhẹ tay
Giải
giáp, quân Nhật về ngay
Đổi chác
với Pháp,Tưởng quay về nhà
Vài
người biết rõ Hồ ca
Những
năm Lưỡng Quảng đã là vĩ nhân?
Trả lời
báo chí liên quân:
Tôi là
cộng sản vì dân nước mình
Xin thề
một nhát đóng đinh:
1540.Năm
mươi năm nữa tình hình vẫn yên
Cộng sản
chưa thể dựng lên
Kiểu Nga
xô viết ở trên quê nhà
Khán
phòng họp báo cười khà,...
Nữu ước
Thời báo: Đây là Đồng minh!
Hồ ca
cảm nhận rất tinh
Chơi với
Mỹ quốc nước mình khá hay
Phi
trường dã chiến có ngay
Sĩ quan
nước Mỹ vội bay đến Tầu
Mật đàm
sau đó không lâu
1550.Không
vận cấp tập đầu cầu Vân Nam
Dàn xếp
các đội võ trang
Xem ngày
cát lợi rẽ sang đất nhà
Vượt Tây
Côn Lĩnh nhìn xa
Gió trời
êm ả Quảng Ba dẫn đầu
Văn Cáp
lặng lẽ bước sau
Giấy
thông hành của Trưởng châu ký rồi
Trước
sau vẫn có bóng người
Hoa quân
bí mật cắm nơi Cụ dừng
Mùa này
còn hoa chuối rừng
1560.Săn
con lợn lửng vui mừng chia tay
Tiệc
tùng vừa độ mê say
Trời Nam
xanh thắm hẹn ngày gặp nhau
Đường
xưa mây trắng phau phau
Chiến
khu đất bạn hai đầu đế vương
Gia Long
xưa rất can trường
Dạt qua
Băng Cốc[2] tìm đường về Nam
Hà Tiên
rừng mặn đước tràm
Chim
trời cá sấu mỏ hàm cắn nhau
Gai dẻ
Trùng Khánh[3] nhọn đầu
1570.Cụ
Vương[4] rẽ đất chẳng sầu muộn chi
Miền Tây
ở xứ Trung Kỳ
Trường
Sơn chỉ để quân đi bắn đòm
Quà Mỹ
tặng một ống nhòm
Cụ Vương
giương hướng vào chòm bản xa
Một dàn
du kích reo ca
Súng
dài, cung nỏ đón Cha già về
Mặt mừng
tay bắt thoả thuê
Bác mong
các chú giỏi nghề chiến binh
Trước
hết phải khỏe thân hình
1580.Thú
rừng còn đó phải rình bắt săn
Rượu
ngô, cơm lam phải ăn
Lấy sức
chiến đấu với thằng giặc to
Căm bây
xen tiếng rô rô
Du kích
quân khoái già Hồ từ đây
Bộ tướng
hội họp vài ngày
Biên
cương phía Bắc dựng ngay hàng rào
Trấn áp
bọn phỉ bên Tào
Chúng
giả thương lái tiến vào nước ta
Đúng là
trình độ đại ca
1590.Chống
phỉ Nam tiến toàn ma nước Tầu
Rừng
xanh núi thẳm xiên xâu
Phỉ và
buôn lậu đánh nhau hàng ngày
Tưởng
Mao thoáng chút a cay
Xâm nhập
hàng xóm kiểu này từ xưa
Nguyễn
Bình[5] đệ tứ chiến khu
Dùng
toàn thổ phỉ cò cưa biên thuỳ
Cụ Vương
cử ngay người đi
Hứa
phong độc nhãn ngang thừa tướng quân
Tư tưởng
chiến tranh nhân dân
1600.Vũ
trang hậu thuận cho cần lao lên
Cách này
mới thật vững bền
Kiểu dàn
trận lớn hai bên mình tèo
Tựa như
thân phận nhà nghèo
Khéo ăn
qua bữa khéo chèo qua sông
Ngày mẹ
vận áo nâu sồng
Canh cửi
chợ tạm kiếm đồng bạc tiêu
Cha làm
quan rượu quá nhiều
Bạn hữu
qua lại, tiêu điều bỏ đi
Ba mươi
năm lẻ ngựa phi
1610.Năm
châu tứ bể Cụ ghi khắc lòng
Nghiệp
lớn rất dễ đi tong
Chỉ vì
quá chén bốc đồng lạc trôi
Tỷ phú
Nhật Vượng[6] cập thời
Là nhờ
năm tháng bên trời Nga Xô
Năm Thân
tháng tận xô bồ
Khỉ rừng
chí choé bên bờ suối reo
Báo năm
Ất Dậu[7] hiểm nghèo
Cùng
đường bất biến tự tèo quốc gia
Tắc
thông đang hé lộ ra
1620.Quân
Nhật bị đói dân ta khốn cùng
Nguyên
Bình[8] heo hút cánh rừng
Vén rèm
hang Cốc Cụ trưng đồ nghề
Chú Văn
vội vã quay về
Nhận
ngay Thánh chỉ hội thề nghĩa quân
Cụ giao
cờ mũ áo quần
Vỏ bao
súng ngắn vặn căn đôi lời:
Tuyên
truyền giải phóng cuộc đời
Dụ dân gậy
gộc gặp thời vùng lên
Nghĩa
quân sẽ có bạc tiền
1630.Mua
vũ khí ở đường biên đem về
Mỗi
người phải thấm lời thề
Tận
trung với nước nhận bề tôi dân
Đánh
giặc phải nắm chắc phần
Thua
dừng, thắng xốc thảo quần tới lui
Bài đánh
du kích luyện trui
Sách
chiến rất mỏng, chết vùi nghiêm trang
Trai
tráng ở các bản làng
Đầu quân
nườm nượp dài hàng nghĩa quân
Có chú
chân đất ở trần
1640.Chung
nhau tấm áo chăn phần cỏ thơm
Sắn bùi
thịt nướng thay cơm
Chuẩn bị
đánh chiếm Động Ngườm Ngao[9] kia
Thổ phỉ
giấu của để chia
Toàn
hàng Tàu Pháp súng chìa nòng đen
Nà Ngần,
Phay Khắt[10] sáng đèn
Lính Ta
lính Pháp gầy đen nhúm thằng
Giáp
chĩa Pạc hoọc[11] pằng pằng
Nghĩa
quân ném đá dao quăng chém vào
Tây Ta
tháo chạy ào ào
1650.Chúng
chỉ mong đợi cớ vào Phủ quan
Vạn sự
thắng lợi hoàn toàn
Chia
nhau chiến lợi liên hoan tưng bừng
Nhật lùn
chiếm cứ đồng bằng
Nam
Triều phong kiến thấy căng lắm rồi
Chẻ tre
lật mấu như chơi
Bỏ hang
về chiếm đất trời Tuyên Quang
Quân
Tưởng quyết định đi sang
Giúp Ta
kháng Nhật, vũ trang tăng dần
Tân Trào[12]
rừng thẳm thưa dân
1660.Hơn
đứt Bắc Cạn Chu quân dọn đường
Đã từng
đọc vận đế vương
Cụ vào
lán nứa xa nương tài mà
Chiến
tranh Nhật- Mỹ ở Ta
Sỹ quan
binh lính trình gà mờ thôi
Trung úy
Sao bị bắn rơi
Trong
trận không chiến trên trời biên cương
Chiến
công tự đến bất thường
Bất
chiến mà thắng đế vương đã từng
Ông Cụ
rất đỗi vui mừng
1670.Đón
phi công Mỹ trong rừng nguyên sinh[13]
Kế hoạch
giao cho Đồng minh
Hổ
Bay[14] sướng đến giật mình ký ngay
Giấy tờ
đi lại hàng ngày
Côn
Minh, Trùng Khánh vung tay chuyện trò
Pát
ty[15] bên Mỹ hỏi dò
Quân của
cụ Ké bây giờ ở đâu?
Cụ rằng:
ở chỗ nông sâu
Toàn dân
tự vệ hóng chầu Đồng minh
Hành
lang vận động lý tình
1680.Pháp,
Tưởng, Mỹ quốc, Cụ khinh Mao rồi
Cà phê
tiệc nhẹ cùng mời
Các hàng
tướng tá bên trời Vân Nam
Chặn ý
đồ Tưởng tràn sang
Nhận đồ
tiếp vận nhiều hàng hóa hay
Phía Mỹ
thực dụng đưa ngay
Mỹ kim
một xấp bạc dầy xanh lơ
Ông Cụ
cảm ơn xin chờ !
Đội đặc
nhiệm đến đúng giờ hay hơn
Cơ hội
hợp tác vuông tròn
1690.Tiếc
thay bên Mỹ chờn vờn ngó nghiêng
Trở về
Khu chiến Cụ nghiền
Dụng
binh Tôn Tử sách biên rõ ràng
Hỏa công
lừa địch dọc ngang
Nghi
binh bằng trống rộn ràng khắp nơi
Soạn ra
rất nhiều tờ rơi
Đưa về
xuôi dọa dụ người địch ta
Nhóm
biệt kích Mỹ đã qua
Lũng Cò
dù trắng ngỡ ma nhà Trời
Anh Văn
thấp bé nhẹ còi
1700.Tô
Mát[16] đội trưởng cứ đòi Cụ Vương
Hai bên
tổ chức thao trường
Thực
binh kiểu Mỹ nhiều chương luyện rèn
Lũng Cò
lấp lánh ánh đèn
Cụ Vương
Tô Mát ngồi bên rượu trà
Chuyện
nhiều sơ ý lộ ra
Đội Con
Nai biết ông già này hay
Từng đến
Mỹ quốc nhiều ngày
Xem thần
tượng nữ phơi bày Tự Do
Tô Mát
vẫn thấy lo lo
1710.Chất
cộng sản dễ bóp cò vào nhau.
Nà Lừa
lán ở rừng sâu
Lội qua
con suối ngập đầu gối sang
Nguyên
tắc bí mật an toàn
Đưa cơm
như thể cho chàng chăn trâu
Trung
đội gác ở hai đầu
Mò cua
bắt cá nước ngầu đục trong
Nửa đêm
cụ Ké nóng lòng
Lên cơn
sốt rét đôi tròng mắt to
Tình
hình đất nước cam go
1720.Nhật
tàn Tưởng sẽ hét hò kéo sang
Nam
Triều theo cách bảo hoàng
Để dân
chết đói bỏ làng ra đi
Non sông
lại kiếp nô tỳ
Bánh bao
Tầu Tưởng chấm xì dầu cay
Còn đâu
mái tóc óng dầy
Còn đâu
những bát phở đầy sớm hôm
Gối mây
chăn mỏng Cụ ôm
Cột tre
liếp nứa gió nồm rét run
Anh Văn
kịp đến giúp giùm
1730.Cụ
rằng thời vận phá cùm xích gông
Hai ngàn
cây số Trường Sơn
Dẫu phải
phóng hỏa làm luôn lúc này[17]
Phải
giành độc lập từ đây
Chính
danh dân chủ mới thay đổi đời
Văn
tướng kêu ối giời ơi !
Loan cho
các đệ gần nơi lán Lừa
Thuốc
của thầy cúng, thầy mo
Mũi tiêm
của Mỹ Cụ bò dậy nhanh
Một khi
nghiệp đế chưa thành
1740.Ma
nào dám bắt hãm phanh lúc này
Tân Trào
quan tướng đủ đầy
Trèo lên
tảng đá một ngày họp xong
Tất cả
đồng hướng đồng lòng
Nghĩa
quân đã xuống tận Phong Châu rồi
Thái
Nguyên, Bờ Đậu có người
Giao
liên bị bắn bụng lòi ra thư
Chả biết
câu chuyện thực hư
Út Vân
gửi đến tâm tư mong chờ[18]
Giữa lúc
cả nước đỏ cờ
1750.Tình
riêng có thể bất ngờ tàn canh
Thư này
bị hủy quá nhanh
Út Vân
buồn tủi trở thành ni cô
Kỷ Dậu
Bà vẫn nghi ngờ
Anh Ba
còn sống Út chờ trăm năm
Anh Văn
kê thực đơn ăn
Ba ba
đầu suối cá tầm cửa hang
Thảo
dược toa thuốc thầy lang
Đầu bếp
ngoại hạng tiến dâng Cha già
Từ đó Cụ
ít dùng gà
1760.Toàn
chén đặc sản vườn nhà thả hoang
Rau rừng
ở xứ Tuyên Quang
Mọc trên
núi đá rau hoàng đế xưa
Anh em
gần lán Nà Lừa
Săn thú
hái nấm măng chua ở rừng
Gốc đa
bày cỗ tưng bừng
Mái đình
Hồng Thái khói lừng lên cao
Tô Mát
da dẻ hồng hào
Wis ky
đã hết rượu nào cũng ham
Báo cáo
gửi về Vân Nam
1770.Khen
Việt Minh biết việc làm độc chiêu
Trung
đội Con Nai sớm chiều
Tắm tiên
bên suối rất yêu đất này
Đồng
minh gửi hàng sang ngay
Lựu đạn
súng cối mũ giày thuốc men
Tưởng
cung cấp lựu đạn đen
Cán dài
chém gió bay lên nổ đùng
Nghĩa
quân hừng hực oai hùng
Ở trần
ôm cọc vượt bùng nhùng gai
Thời
loạn thử thách chí trai
1780.Lập
công báo quốc chọn bài báo ân
Tầng
tầng, lớp lớp nhân dân
Cọc tre
vót nhọn dao gằn đá hoa
Trống
chiêng tín hiệu loan xa
Vùng lên
đánh phá cửa nhà quan Tây
Phìa
tạo[19] bị xích hàng dây
Van xin
từ bỏ ruộng cầy cho dân
Tự do
độc lập đến gần
Khắc làm
khắc chén ba quân sướng nhoè
Cần lao
từ đó hay khoe
1790.Việt
Minh giải phóng chẳng đe nạt gì
Tiến quân
về phía hạ du
Nhật
hàng, Pháp chạy chiến thù nhẹ tâng
Thành
lập đội Giải phóng quân
Đánh đồn
phá bốt tiến gần Thủ đô
Hà Nội
thời khắc xô bồ
Pháp
Nhật, đảng phái phát rồ phát điên
Nhà giầu
đúc túi giấu tiền
Cần lao
chết đói hốt lên xe bò[20]
Bánh sắt
khô khốc bờ Hồ
1800.Chợ
thành âm phủ nấm mồ cần lao
[1]
Nguyễn Hải Thần ra vế “Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai
minh”. Hồ Chí Minh đối “ Nhĩ cách mệnh, Ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh
tất cách”. (Dịch: Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, hai vị đồng chí, chí đều sáng/ Anh
cách mạng, tôi cách mạng, mọi người cách mạng, mạng phải cách).
[2] Thủ đô Vương quốc Thái Lan, còn gọi là
Vọng Các
[3]
Huyện thuộc tỉnh Cao Bằng
[4] Bút
danh của Hồ Chí Minh từ năm 1925
[5]
Nguyễn Bình (1908 - 1951) là Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt
Nam, lãnh đạo quân dân miền Nam Việt Nam kháng chiến chống Pháp.Ông là đảng
viên Việt Nam Quốc dân đảng, ly khai năm 1936, tháng 6-1945 ông lập chiến khu
Đông Triều. Ông cũng là người đầu tiên trong quân đội được nhận ông Huân chương
Quân công hạng nhất.
[6] Phạm
Nhật Vượng (sinh ngày 5 tháng 8 năm 1968 tại Hà Nội) là một doanh nhân và tỷ
phú người Việt Nam. Năm 2020, ông là người giàu nhất Việt Nam và giàu thứ 286
trên thế giới với 5.6 tỷ USD.
[7] Năm
1945. Hồ Chí Minh từng tiên đoán năm Cách mạng Việt Nam thành công. Thơ chúc
Tết ông viết ở Côn Minh, Trung Quốc” Vũ trang đón lấy thời cơ/ Đứng lên giết
giặc trao cờ tự do/ Rồi trăm họ ấm no sung sướng/ Trên thế giới được hưởng bình
quyền/ Nghìn thu danh vọng Rồng Tiên”
[8],
Huyện Nguyên Bình, phía Nam tỉnh Cao Bằng, có Khu di tích lịch sử rừng Trần
Hưng Đạo: thuộc xã Tam Kim, nơi thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân là tên của đội quân chủ lực của Mặt trận Việt Minh từ tháng 12 năm 1944
đến tháng 5 năm 1945. Đây là tổ chức quân sự được xem là tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam.
[9] Động
Ngao hay Ngườm Ngao, đôi khi gọi là Động Ngườm Ngao, là một hang động nằm ở bản
Gun, xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Động này toạ lạc
trong lòng một quả núi, cách thác Bản Giốc 5 km.
[10]
Trận Phai Khắt và Nà Ngần ngày 25 và 26 tháng 12 năm 1944 là 2 trận đánh đầu
tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiêu diệt 2 đồn nhỏ do đích
thân Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
[11]
Loại súng ngắn (pháo hộp, hay thủ thương)
[12] Tân
Trào là một xã thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, nơi Đại hội Quốc dân
họp tại Đình Tân Trào ngày 16/8/1945 chuẩn bịTổng khởi nghĩa và bầu Ủy ban dân
tộc giải phóng.
[13]
Tháng 10/1944, có một Trung uý phi công Mỹ tên là William Shaw trong khi làm
nhiệm vụ lái máy bay trên vùng trời biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã bị quân
Nhật bắn rơi xuống xã Đề Thám (huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng), được Việt Minh
cứu, Hồ Chí Minh dẫn viên phi công trao cho quân Mỹ ở Côn Minh.
[14]
Claire Lee Chennault (1893-1958), ông là trung tướng không lực Hoa Kỳ, Chỉ huy
Không đoàn 14 - còn được biết đến với cái tên nổi tiếng "Mãnh Hổ
Bay", là cố vấn cấp cao cho lực lượng không quân Quốc Dân Đảng thời Đệ nhị
thế chiến
[15]
Archimedes L.A. Patti (1914-1998) là cựu sĩ quan tình báo, người đứng đầu phái
bộ tiền trạm OSS đến Hà Nội tháng 8 năm 1945 để thực hiện nhiệm vụ giải cứu tù
binh và chuẩn bị cho việc giải giới quân Nhật tại Bắc Đông Dương. Thời gian
này, ông có những tiếp xúc với Hồ Chí Minh và chứng kiến ngày lễ Độc lập của
Việt Nam. Năm 1980, ông cho xuất bản quyển hồi ký "Tại sao Việt
Nam?", ghi chép lại những sự kiện chính trị quan trọng và về vai trò của
người Mỹ tại Việt Nam trong giai đoạn này.
[16]
Ngày 16 tháng 7 năm 1945, nhóm Con Nai thuộc cơ quan tình báo Mỹ OSS do Thiếu
tá Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung cách Tuyên Quang 20
dặm về phía đông. Nhóm tình báo Con Nai được lực lượng Việt Minh tại Tuyên
Quang gồm khoảng 200 người đón tiếp. Trong vòng một tháng, nhóm Con Nai đã huấn
luyện cho lực lượng Việt Minh cách sử dụng những vũ khí Mỹ và chiến thuật du
kích. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhóm Con Nai cùng Việt Minh về Hà Nội và tham dự
lễ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
[17] Tại
lán Nà Lừa ông Cụ ốm nặng và nói với ông Võ Nguyễn Giáp “Dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập
[18] Út
Vân ở Sài Gòn gửi thư cho Anh Ba nhưng không tới.(Chi tiết này được nhà văn Sơn
Tùng nói chuyện)
[19]
Giai cấp thống trị trong xã hội dân tộc Thái thời trước.
[20] Nạn
đói năm Ất Dậu là một thảm họa nhân đạo xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong
khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng từ 400.000 đến 2
triệu người dân chết đói
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần II Bôn ba (1801
-2000)
1801.Đảng
phái sa lông dâng trào
Chính
phủ thân Nhật mũ cao áo dài
Hóng chờ
nho chín để xài
Thực là
một lũ bất tài sợ Tây
Hà Nội
không vội là đây
Lòng dân
ấp ủ một ngày sao rơi
Mạch
nguồn phải biết cách khơi
Vàng
trong dân phải có người làm tin
Biết bao
cô gái ngoan xinh
1810. Lỡ
thời thất tiết phí nghìn vàng danh
Cần lao
đồn thổi rất nhanh
Đế vương
xa giá rừng xanh sắp về
Tiếng
súng ở mấy miền quê
Sao vàng
cờ đỏ lời thề quyết tâm
Đêm đêm
bước chân rầm rầm
Hát diệt
phát xít cứu dân cứu nhà
Giang hồ
trộm cướp nghe ra
Chúng
thôi cướp bóc chuyển qua quân mình
Chùa
chiền am miếu ngôi đình
1820.Cứu
quốc quân[1] ở dân tình dâng xôi
Việt
minh cài cắm tuyệt vời
Thợ
hoạn, kẻ sĩ là người của ta
Lái buôn
địa chủ xông ra
Chống
Tây cứu đói các nhà con dân
Cộng sản
khi đó ẩn danh
Các cấp
uỷ đảng rất rành thời cơ
Nguyễn
Khang[2] vào thành may cờ
Họp chi
bộ Đảng bên bờ ao thôn
Chùa Hà
nơi cầu vọng con
1830.Cầu
tình tình được, cô hồn rất thiêng
Cốm Làng
Dịch Vọng[3] giã nghiêng
Hạt dẹt
tròn dẻo đem chiên thơm lừng
Không
chờ quân lệnh từ rừng
Thời cơ
đã đến ngập ngừng là thua
Tướng ở
tiền duyên từ xưa
Tự quyết
không phải hỏi vua làm gì
Sáng
ngày Mười chín tháng Thu
Cần lao
vác trống rúc tù và công
Sao vàng
cờ đỏ công nông
1840.Thay
cờ ba sọc ở trong các Toà
Sắt tây
cuộn thành chiếc loa
Bảo an
đoàn trại bị ba phát đòm
Một số
nông dân bán rơm
Tiện thể
phóng hoả khói thơm ngút trời
Quân
Nhật thua trận xả hơi
Kệ dân
đất Việt tranh đòi tự do
Làng quê
tỉnh lỵ reo hò
Trống
rền, gậy đập, đốt lò khói xanh
Việt
Minh thực chất tranh giành
1850.Chính
quyền bị cướp cũng đành chịu thôi
Cách
mạng đâu phải long trời
Kiểu bắn
pháo hạm của người Nga Xô
Trọng
Kim[4], Bảo Đại[5] trơ trơ
Mắt nhìn
có vẻ nghi ngờ Việt Minh
Tưởng
Tây Sơn, Nguyễn Quang Bình
Đánh ra
miền Bắc thình lình về Nam
Việt
Minh sơ lược võ trang
Dùng
súng bằng gỗ, đập càng kéo xe
Lòng
người có rãnh có khe
1860.Giải
tỏa áp bức nhất tề đứng lên
Sĩ phu
đầu cầu Tràng Tiền
Mũ ni
quắp má ưu phiền Nam ai
Điệu hò
xứ Huế ngắn dài
Sông
Hương nước chảy tượng đài trơ vơ
Chuông
chùa Thiên Mụ ngẩn ngơ
Đò về Vĩ
Dạ thuyền chờ Văn Lâu
Thái Hoà
hương đỉnh u sầu
Hoàng
thành rêu phủ hào sâu đặc bèo
Gió thu
thổi hàng thông reo
1870.Quan
Nguyễn Công Trứ[6] không theo kiếp người
Dự rằng
chuyên chế muôn đời
Súng ầm
Cửa Thuận cát bồi Lăng Cô
Tình yêu
đất nước vô tư
Quan
quân nhà Nguyễn không từ gian nan
Thế giới
đang thời lật trang
Cộng hoà
tư sản đi sang đất người
Khoẻ
cưỡi đầu yếu muôn đời
Dân ngu
dễ bảo dân chơi dễ lừa
Chế độ
thuộc địa nhiều mùa
1880.Bên
nền quân chủ dân thua xích xiềng
Núi cao bởi
ánh chiều nghiêng
Leo lên
lại thấy núi miền kia hơn
Lưỡi
trai lệch, miệng thờn bơn
Chó mèo
ngắm ngía chê lông mày dầy
Bằng
nhau là món chả cầy
Kiếp
người đã bị trời đầy từ lâu
Khố rợ
phải nấm nát nhầu
Đổi thay
cách mạng nhiều mầu mây trôi
Ỳ trệ
chắc chắn bị toi
1890.Hùm
thiêng sa hố theo voi sập hầm
Thượng
Chi treo ấn âm thầm
Uống trà
rũ áo không cầm cờ ai
Hoa
Đường[7] biệt thự quả sai
Bầu đoàn
no đủ tiêu xài hàng rong
Quan
trường đến lúc nản lòng
Buông
trôi thời thế bằng không bất kỳ
Người
nhà Hữu Bài[8] giải đi
Bắn luôn
hai vị quan vì hiềm xưa
Sinh ra
ân oán thâm thù
1900.Nhà
Ngô chấp chính bắt tù Việt Minh
Cần lao
tính cách thất tình
Kiểu đa
nhân cách từ bình minh lên
Giữa hai
làn đạn đảo điên
Tư thù
xen kẽ lê xiên xích cùm
Võ quan
họ Phan tên Hàm
Biết
người họ Nguyễn Hữu làm quân ta
Con cháu
lặn lội khóc òa
Cụ rằng
: “Lịch sử xét tra sau này
Các cháu
hăng hái mê say
1910.Đi
theo cách mạng có ngày thành danh”
Phó
Tướng Trần Huy[9] vào Thành
Tiếp
nhận Bảo Đại đầu xanh cựu hoàng
Mỗi bên
nổ ba tiến đoàng
Cờ vua
lên xuống, bẽ bàng ấn gươm
Cờ Ta
sao béo gườm gườm
Kinh
Thành Huế vẫn gió buồn nhớ nhung
Chu
Xương[10] vệ sĩ yêng hùng
Cụ mời
ngồi xuống cho dùng thuốc thơm
Cụ rằng
: Ngựa đã tung bờm
1920.Đạn
ra nòng súng đỏ ngòm nước Nam !
Ý Cụ bắt
Triều đình giam
Kiểu Ăng
lê phớt đã làm từ lâu
Cựu
hoàng bữa cuối u sầu
Sau làm
cố vấn ghế đầu Ủy ban
Hoàng
cung dịch chuyển vào Nam
Chức
danh Quốc trưởng quai hàm rất oai
Dẫu lìa
ngó ý còn dai
Tơ hồng
vương vấn tuyền đài vấn vương
“Một cơn
gió bụi”[11] đau thương
1930.Trọng
Kim- cựu thủ cùng đường Cao nguyên
Sài Gòn
xứ sở kim tiền
Chúng
dân no đủ mặt hiền như mơ
Đảng
phái nhận thấy thời cơ
Rắp tâm
dựng một ngọn cờ ly khai
Nam Kỳ
quốc[12] lắm anh tài
Dân chủ
tư sản chơi bài ngửa ra
Anh chị
lọc lõi ranh ma
Bảo kê
chính khách quen sa lông ngồi
Xứ uỷ
Nam kỳ phục hồi
1940.Khởi
binh lớp lá từ nơi bưng biền
Từ xã
huyện tỉnh tiến lên
Tầm vông
nhọn hoắt trống rền phủ Tây
Vũng
Liêm nổi tiếng một tay
Non hai
mươi tuổi bắp cày võ trang
Biệt
danh chú Sáu[13] nhân dân
Bí thư
huyện uỷ sau lần lần thăng
Văn
Giàu[14] cao học Phờ răng
Phương
Đông tu luyện ngang bằng Dân Tiên[15]
Ông về
Nam bộ cướp quyền
1950.Xuống
tay quá mức chẳng phiền toái ai
Tuyên
ngôn công trạng một bài
Gốc địa
chủ muốn ly khai song kỳ
Trát đòi
Giàu phải ra đi
Sống đời
học thuật số như Liệu Trần[16]
Giao
thời nhiều kẻ tranh giành
Hỗn mang
bát nhào trở thành phân ly
Loài
người gốc ở Đông Phi
Hành
hương các hướng mầu bì trắng đen
Bọn
người da trắng lớn lên
1960.Bọn
da màu nhám vững bền số đông,...
Út về
thăm bến nhà Rồng
Nghe còi
tàu hú nóng lòng nhớ Ba
Biết
rằng người ấy ở xa
Đế vương
còn nhớ ngày ta hẹn hò?
Thông
đường nhưng vẫn phải dò
Vào tù
ra khám hỏa lò nhiều nơi
Đường về
có lúc Cụ ngồi
Xe con
dặt dẹo như trời hành nhau
Nằm cáng
quân đi trước sau
1970.Đến
làng Gạ,[17] Cụ nhức đầu dừng chân
Sư bên
nước Phạn lại gần
Đổi trao
bùa ngải mệnh quân vương rồi
Đào Nhật
Tân chúm chím cười
Năm dân
chết đói lạnh trời muộn hoa
Phố
phường Hà Nội nhạt nhòa
Mùa Thu
se lạnh mưa sa ngập đường
Các đệ
dọn dẹp tiền phương
Chọn số
48 phố phường đông dân[18]
Nhà ông
tư sản Nam phần
1980.Bán
buôn tơ lụa toàn tằm ăn dâu
Tầng hai
gió thoảng rộng sâu
Phòng
làm việc có hai đầu cửa thông
Bảo vệ
mật canh rất đông
Giả làm
bán báo, hàn đồng thiếc nhôm
Sáng ra
tay xách nách ôm
Bó hoa
tươi đẹp rượu thơm trà hồng
Cô chủ
mắt hạt nhãn lồng
Được
trên căn dặn chăm ông Thượng nầy
Một hôm
vua nắm bàn tay
1990.Khen
cô phúc lớn hậu dầy trăm năm
Giai cấp
tư sản rất thâm
Ngôi nhà
cho mượn chỉ tầm ngàn cây
Cháu con
đòi suốt đêm ngày
Đòi
đường tên bố rộng dầy dài xa
Những
ngày Cụ duyệt quốc ca
Thảo
Tuyên độc lập khách ra khách vào
Tuyên
ngôn Mỹ Pháp dạt dào
Dân
sinh, dân chủ, dân trao lợi quyền
Pát ty, Mạnh
Tường[19] được quyền
2000.Đọc
dịch hiệu đính ra tuyền chữ Tây
[1] Cứu
quốc quân là tên gọi chung chỉ các đội du kích chống Pháp của Việt Nam ở chiến
khu Bắc Sơn trong thời kỳ 1941-1945; tháng 5 năm 1945, Cứu quốc quân đã hợp
nhất với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân, trở thành Việt Nam Giải
phóng quân.
[2]
Nguyễn Khang (1919-1976) là một cựu chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Thường
vụ Xứ ủy Bắc Kỳ năm 1945, người đầu tiên
quyết định và trực tiếp lãnh đạo thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Hà Nội trong
Cách mạng tháng Tám, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt.
[3] Tên
nôm là làng Vòng có chùa Hà, nay phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội
[4] Trần
Trọng Kim (1883 - 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học,
văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần từng làm thủ tướng của chính phủ
Đế quốc Việt Nam vào năm 1945 (chính phủ này được Đế quốc Nhật Bản thành lập
trong thời kỳ chiếm đóng Việt Nam).
[5] Bảo
Đại (1913 - 1997), tên khai sinh: Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy là hoàng đế thứ 13 và là vị vua cuối cùng của
triều đại nhà Nguyễn, cũng là vị hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ trong
lịch sử Việt Nam.
[6]
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ thời nhà
Nguyễn. Ông làm quan qua các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Ông nổi bật về việc khai hoang, mộ dân ở và lập nhiều chiến công trong việc
đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình và trong Chiến tranh Việt–Xiêm
(1841–1845). Ông viết: Kiếp sau xin chớ làm người/Làm cây thông đứng giữa trời
mà reo/Giữa trời vách đá cheo leo/Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
[7] Biệt
thự bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, Phạm Quỳnh
(Thượng Chi) lui về sống ẩn dật ở biệt thự.
[8]
Nguyễn Hữu Bài (1863 -1935) là Thượng thư Bộ Lại trong triều đình Huế. Tướng
Phan Hàm cho biết, người nhà Nguyễn Hữu Bài tham gia xử bắn ông Phạm Quỳnh. Khi
làm quan hai ông Thượng thư có hiềm khích.
[9] Trần
Huy Liệu (1901 -1969) là một nhà văn, nhà hoạt động cách mạng, nhà sử học, nhà
báo Việt Nam. Tháng 8 năm 1945, ông dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào và được bầu
làm Phó chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, là chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam..
[10] Chu
Đình Xương (1913 - 1985) là cán bộ cao cấp của ngành công an, từng giữ chức
Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ năm 1945, Phó Giám đốc Sở Công an Trung Bộ, Giám đốc
Sở Công an Nam Trung Bộ, sau chuyển ngành làm Chánh Văn phòng Bộ Văn hóa. Ông
kể với con ông là GS.Chu Hảo “…đoàn công tác vào Huế để tước ấn kiếm và buộc
Bảo Đại thoái vị thì Bác Hồ tỏ ra không bằng lòng: “Sao các chú dại thế? Thế
giới người ta đang nhìn mình “đỏ loè”, còn một chút “vàng vàng” thì các chú lại
bôi cho “đỏ” nốt!”
[11]
Cuốn Hồi ký do Trần Trọng Kim (1883-1953) viết năm 1949, xuất bản lần đầu tiên
năm 1969 mang nội dung tóm lược quãng đời làm chính trị của ông từ năm 1942 đến
năm 1949.
[12]
Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ là chính thể bán độc lập tồn tại giai đoạn 1946 - 1948
tại địa phận Nam Kỳ thuộc Liên hiệp Pháp nhưng không được Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa công nhận.
[13] Võ
Văn Kiệt (1922 - 2008) là nhà chính trị
Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ, quê ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng
Liêm, tỉnh Vĩnh Long, Trong thời gian Khởi nghĩa Nam Kỳ ông là Huyện ủy viên,
Bí thư chi bộ tại huyện Vũng Liêm.
[14]
Trần Văn Giàu (1911 - 2010) là nhà hoạt động cách mạng, nhà nghiên cứu lịch sử,
triết học và nhà giáo Việt Nam. Năm 1928, sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông được
gia đình cho sang Pháp du học tại Đại học Toulouse với lời hứa "mang về
hai bằng tiến sĩ"; giữa năm 1931, ông được tổ chức đưa sang Liên Xô học
tại Trường Đại học Đông Phương. Ông làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy ban
Kháng chiến Nam Bộ.
[15]
Trần Dân Tiên là tác giả của cuốn tiểu sử nổi tiếng “Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch”. Đây cũng là tác phẩm duy nhất của tác giả Trần Dân
Tiên. Có ý kiến cho rằng Trần Dân Tiên là bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
[16]
Trần Huy Liệu, đã chú dẫn.
[17] Nay
là làng Phú Gia (tên nôm là làng Gạ),phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Ngày 23 đến 25- 1945 Cụ Hồ ở đây trên đường về Thủ đô.
[18] Nhà
số 48 Hàng Ngang của ông bà Trịnh Văn Bô nằm giữa khu phố cổ, trung tâm thương
mại sầm uất của Hà Nội xưa, nay thuộc phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội,
Trung ương Đảng chọn làm nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những
ngày đầu Người từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội tháng 8/1945.
[19]
Nguyễn Mạnh Tường (1909 -1997) là một luật sư, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn
học Việt Nam. Năm 23 tuổi (1932) ông đỗ liên tiếp hai bằng Tiến sĩ tại Pháp,
được khen ngợi là một tài năng hiếm có.
Xem tiếp
1420 câu...
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương
(2201-2300)
2201.Đế
Vương thao thức trong lòng,
Tuổi dậy
thì đã phập phồng tim yêu.
Bóng cau
ngả sớm nghiêng chiều,
Út Vân
xinh đẹp dúi liều tay Ba.
Khi
chiếc bánh, lúc đồng quà,
Là người
ai cũng nhớ ra nghĩ về.
Trường
Sơn xẻ dọc lời thề,
Quê nhà
trở lại rồi về Đá Chông.
Chưa nên
tình nghĩa vợ chồng,
2210.
Duyên tình trai gái Nhà Rồng duyên Vua!
Pháp là
đế quốc cò cưa,
Ký xong
“Sơ bộ”[1] lại lùa quân ra.
Bắn phá
gây hấn quân Ta,
Phông -
ten[2] cơ hội đã qua mất rồi.
Xanh- tơ
-ni[3] muốn nuốt tươi,
Đội quân
ông Cụ trẻ người dạ non.
Hoà đàm
mở rộng lối mòn,
Quốc mẫu
phải để cho con lấy chồng.
Tham lam
già néo sang đòn,
2220.Xắn
tay thượng võ sống còn cũng hay.
Pháp tuyển lê dương cả bầy,
Tù binh
phát xít tràn đầy nước ta.
Chết
thay cho giống Gô - loa[4],
Kinh đô
Ánh sáng[5] bịp loà Đồng minh,
Châu Âu
chuyển lửa chiến chinh,
Quân
Pháp không biết phận mình là ai?
Nổi lên
đàn lũ tay sai,
Tương
tàn huynh đệ hơn bài sử xưa.
Hà Nội
chưa vội sang thu,
2230.Phượng
hồng rực lửa tiếng ve bào trời.
Quốc dân
bầu bán xong rồi,
Biếu
không vài chục ghế ngồi chỉ danh.
Rất
nhiều đảng phái tranh giành,
Lộ ra
tên tuổi, phát đoàng về sau.
Ngu nào
cũng dễ ngu lâu,
Tham sân
si chẳng biết đâu điểm dừng.
Bạo tàn
không có giờ ngưng,
Chi bằng
chân thật lấy mừng quên lo,...
Mùa đông
Đinh Hợi Bờ Hồ,
2240.Ba
càng bốc nổ cụ Rùa nhức tai.
Hà Thành
chiến Pháp lần hai,
Cảm tử
quân viết nên bài sử xanh.
Leo dây
bám mái đu cành,
Tự vệ
Hoàng Diệu[6] tranh giành với Tây.
Mùa đông
giá buốt bàn tay,
Siết cò
súng nổ đạn cày tứ tung.
Tây Ta
đuổi bắt, truy lùng,
Phố
phường Hà Nội cảnh rừng thợ săn.
Rét về
môi bụm vào răng,
2250.Nhĩ
Hà nước cạn quân băng qua dòng[7].
Toàn
quốc kháng chiến loan xong,
Pháo Đài
khai hoả lửa hồng Thủ đô.
Ngoại
xâm một lũ điên rồ,
Bắn dân
chạy loạn cướp vồ của rơi.
Đế vương
bí mật di rời,
Chau mày
nhìn lửa ngút trời Thành đô.
Nước Nam
từ thuở xa xưa,
Vua đi
kháng chiến thắng thua đã từng.
Nước Nam
quá nửa núi rừng,
2260.Nứa
tre dây rợ lập vùng chiến khu.
Tuyên Quang
trở thành Thủ đô,
Gió ngàn
đưa xác quân thù về xuôi.
Khỉ rừng
chí choé cắn đuôi,
Măng le
chấm muối chăm nuôi quốc đoàn.
Đánh
nhau kiểu quỷ nhập tràng,
Chiến
dịch Việt Bắc phá toang thế cờ.
Thông
đường biên giới quân cơ,
Mao quân
chiến Tưởng bất ngờ gặp ta.
Cụ cho
quân tiến quá đà,
2270.Thuật
xưa chọn cách giết gà dọa trâu!
Thập Vạn
Đại Sơn [8]chiến ngầu,
Mao quân
sái cổ gật đầu khen hay.
Mỹ
-Trung -Việt từng bắt tay,
Mắt sau
mày trước vung chày đâm dao.
Sử xanh
chớp loé ánh hào,
Đêm ngày
súng nổ, cuốc đào hố chôn.
Núi sông
ấp ủ cô hồn,
Mầu da
sắc tộc đổ dồn về đây.
Mùa mưa
sông nước dâng đầy,
2280.Bom
rơi đạn nổ hố lầy thân đê.
Bốt đồn
ung nhọt làng quê,
Bắn dân
thay lối đường về thôn hương.
Mái
tranh, bàn nứa, ống bương,
Cụ ngồi
vê bút chì thường nát tan.
Quân
lệnh thúc giục tướng Văn,
Quân cơ
Sóng Đỏ ở gần tấu lên.
Trường
kỳ kháng chiến vững bền,
Phá Luân
từng phải bỏ miền Ban Nha.
Rút lui
khỏi Mát cơ va,
2290.Thua
đau trận cuối ở Oa téc lồ.
Vườn
không nhà trống thế cờ,
Ém quân,
thần tốc bất ngờ đó đơm.
Mưu lược
chiến của Hồ Thơm,
Mưu toan
của đế Nguyễn Vương kết vào.
Dựng nên
sách lược bậc cao,
Dụng
binh Tôn tử[9], mưu Tào Tháo chơi.
Ba quân
răm rắp vâng lời,
Đoàn kết
dân tộc thọ thời chiến tranh.
Hoà bình
truy xét công danh,
2300.Còn
nhiều nhầm lẫn sinh ganh ghét đời.
[1] Hiệp
định sơ bộ Pháp-Việt là một hiệp định được ký tại Hà Nội ngày 6 - 3 -1946 giữa
Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiệp định này được xem là một nước cờ chính
trị của cả hai bên nhằm mưu đồ lợi ích riêng.Các nhà sử học phương Tây và Việt
Nam đều cho rằng Hồ Chí Minh đã đặt cược uy tín của mình để đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh giữa hai dân tộc Pháp -Việt.
[2] Hội
nghị Fontainebleau chính diễn ra từ ngày 6-7 đến ngày 10-9 năm 1946 tại lâu đài
Fontainebleau (Cộng hòa Pháp) theo phía Việt Nam đã thất bại, do phái đoàn Pháp
vẫn cố giữ lập trường thực dân và ngay trong thời gian đang đàm phán họ đã ráo
riết thực hiện âm mưu mở rộng chiếm đóng tại Việt Nam, liên tiếp vi phạm các
điều khoản của Hiệp định sơ bộ 6-3. Tuy cuộc đàm phán bị bỏ dở, nửa đêm hôm
sau, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nhà riêng Bộ trưởng Bộ Hải ngoại
là Marius Moutet ký kết Tạm ước Việt - Pháp mục đích ngưng bắn ở Nam kỳ. Sau
khi ký Tạm ước Việt - Pháp, Hồ Chí Minh nói với nhân viên mật thám Pháp được
phân công bảo vệ ông: "Tôi vừa mới ký một bản án tử hình của tôi!".
[3] Jean
Sainteny (1907-1978) là một chính khách và cựu sĩ quan tình báo người Pháp, đại
diện cho chính phủ Pháp tại Đông Dương những năm 1945-1946, về nước có tư tưởng
giải quyết chiến tranh bằng thương lượng. Từ 1962 -1966 ông là Bộ trưởng Bộ Cựu
chiến binh và Nạn nhân Chiến tranh, năm 1969 ông đại diện cho Chính phủ Pháp dự
Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh.
[4] Tổ
tiên của người Pháp là người Gô-loa (Gauiois), tiếng Latinh viết là Gallus còn
có nghĩa là "gà trống". Gà trống là một biểu tượng quốc gia của nước
Pháp.
[5]
Paris là thủ đô của nước Pháp, cũng là một trong ba thành phố phát triển kinh
tế nhanh nhất thế giới cùng Luân Đôn và New York.
[6] Đoàn
Thanh niên Tuyên truyền Xung phong thành Hoàng Diệu là một lực lượng võ trang
tuyên truyền tồn tại từ 1945 đến 1947 ở nội thành Hà Nội, sau thuộc quyền chỉ
thị trực tiếp của Việt Minh.
[7] Ngày
17-2 -1947, sau 2 tháng chiến đấu cầm chân quân Pháp tại Hà Nội bảo vệ 38 nghìn
người tản cư an toàn, Trung đoàn Thủ đô đã thực hiện thành công cuộc rút lui
chiến lược ra khỏi vòng vây của quân Pháp cùng với một bộ phận nhân dân Liên
khu 1. Bắt đầu 17 giờ ngày 17, từ đình Phất Lộc, ra bãi cát ven sông Hồng,
trung đoàn đi dưới gầm cầu Long Biên (có lính Pháp gác trên cầu), lội sang bãi
giữa sông rồi vượt sông bằng thuyền, về vùng tự do thuộc huyện Đông Anh. Đến 8
giờ ngày 18 tháng 2, toàn trung đoàn đã vượt sông xong. Khi gần sáng, quân Pháp
phát hiện và truy kích nhưng bị chặn đánh và phải bỏ cuộc trước đội du kích
Hồng Hà, do ông Nguyễn Ngọc Nại chỉ huy.
[8] Đầu
tháng 6-1949, lực lượng Việt Minh tham gia chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn chống
quân Tưởng Giới Thạch, chia làm hai bộ phận, một bộ phận từ Cao Bằng, Lạng Sơn,
vượt biên giới sang hoạt động ở Biên khu Điền Quế, vùng Long Châu (Mặt trận
phía Tây Thập Vạn Đại Sơn) và một bộ phận từ Lạng Sơn, Hải Ninh hành quân sang
hoạt động ở Biên khu Việt Quế vùng Khâm Châu và Phòng Thành (Mặt trận phía Đông
Thập Vạn Đại Sơn).
[9] Tôn
Vũ (545 TCN - 470 TCN) là một danh tướng kiệt xuất của nước Ngô ở cuối thời
Xuân Thu, nhờ cuốn binh thư của mình mà được tôn là Tôn Tử, lại bởi hoạt động
chủ yếu ở nước Ngô, nên được gọi là Ngô Tôn Tử để phân biệt với Tôn Tẫn ( 382 TCN - 316 TCN),Tề Tôn Tử là người nước
Tề ở thời Chiến Quốc.
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương
(2301- 2500)
2301.Chiến
dịch quân sự khắp nơi,
Hùm gầm,
voi xéo tàn rơi lửa bùng.
Pháp
chiếm biên giới Việt-Trung,
Binh
đoàn mãnh hổ Sác tông[1] đóng đồn.
Mao quân
run rẩy bồn chồn,
Tiện tay
Pháp dắt bò non của Tầu.
Đường
Bốn, Văn Việt[2] cực ngầu.
Trung
đoàn Hổ xám đánh nhau đêm ngày.
Công
kiên đồn bốt của Tây,
2310.
Thuốc nổ nhồi ống thành cây sào dài.
Đế Vương
sức vóc dẻo dai,
Vuốt râu
ra trận lên đài chỉ huy.
Việt
minh thắng trận Đông Khê,
La
Văn[3] chặt đứt tay thề xung phong.
Dường
như Cụ đã thuộc lòng,
Thế trận
kinh điển Tây Đông đã từng.
Giáp
tướng định chiếm một vùng,
Vĩnh
Yên[4] cửa ngõ Pháp dùng pháo binh.
Na pan
dội xuống rất kinh,
2320.
Trận này địch giết Việt minh khá nhiều.
Lệ
thường thua trận tướng tiêu,
Ta rút
kinh nghiệm chỉ điều chỉnh quân.
Nam Bộ
và xứ Trung phần,
Địch ta
giao chiến lúc gần khi xa.
Ý đồ của
tướng Na va[5],
Dựng xây
cứ điểm mái nhà Đông Dương.
Đoàn
quân Tây Tiến[6] can trường,
Bắc Lào
chinh phạt xẻ đường núi cao.
Rừng cây
gió thổi lao xao,
2330.
Gặp địch thì ít hổ nhào thì đông.
Nấm mồ
viễn xứ nhớ không?
Dọc
ngang Tây Bắc sang Phông -xa- lỳ…
Thư giãn
Cụ cưỡi ngựa đi,
Vào rừng
săn thú súng tỳ chạc cây.
Tiếng
đòm khói tỏa lên mây,
Chưa bao
giờ trúng cáo cầy, chồn hoang.
Đệ tử
bồi thêm tiếng đoàng,
Thịt
quay bữa tối đón vầng trăng lên.
Cõi trần
lắm lúc như tiên,
2340. Đế
vương mang tính Thánh hiền nhiều đâu?
Giáp
tướng mơ mộng tình đầu,
Tâm tư
với Bác tình sâu thuở nào.
Chiến
tranh mất liễu, hết đào,
Giống
nòi ta biết thả vào đúng nơi ?
Tuổi Bác
chớm ngoại sáu mươi,
Đêm ngày
ắt phải có người gối chăn.
Bác cười
trán giãn vết nhăn,
Cuộc đời
tranh đấu phúc phần đem chia.
Buông
câu trên bến ngòi Thia[7],
2350.
Bơi thuyền sông Đáy nhớ về cố nhân.
Binh đao
khói lửa mau tàn,
Bến Rồng
ước hẹn với nàng Út xinh.
Ra đi
mang một dấu tình,
Ngựa xe
lối cũ chỉ mình với ta.
Trời tuy
có mắt nhưng xa,
Trái tim
thầm vọng "Anh Ba hẹn về"
Diễm
tình nâng đỡ lời thề,
Chân
tình hun đúc đam mê việc lành.
Đồn rằng
bà chị tên Thanh,
2360. Đi
xem bói số cậu Thành quả nhân.
Chỉ vì
đế quốc xâm lăng,
Chối từ
thỉnh nguyện tấm bằng Soóc- bon[8].
Không
phục chức nha cỏn con,
Để cha
phiêu bạt sườn non xình lầy.
Yêu sách
Thuộc địa tập dầy,
Các bên
hội họp Véc-xây[9] chối từ.
Con giun
cái kiến nát nhừ,
Quằn lên
chinh chiến không trừ gian nan.
Bờ đê
nước lũ ngập tràn,
2370. So
găng bạo lực phá tan xích xiềng.
Nước
Pháp mê mẩn kim tiền,
Pa ri
kiêu hãnh nỗi niềm sông Xen.
Quốc kỳ
Pháp ngả màu đen,
Mỗi lần
thua trận chao đèn để tang.
A dua
theo kiểu dưa gang,
Thấy cà
đỏ đít vội vàng đỏ trôn.
Pa ri
hoa lệ hút hồn,
Tinh hoa
nhân loại đổ dồn về đây.
Viễn
chinh làm mẹ làm thầy,
2380.
Sớm quên hận Đức xéo dày Kinh đô.
Các bên
thắng Nooc-man-di[10],
Quay
sang xâu xé ăn chia nước mình.
Sa lầy
thế trận Việt minh,
Quyết
giành độc lập chiến chinh trường kỳ.
Tam anh
được Cụ phân chia:
Giáp Văn
quân sự, Chinh thì đề cương,
Chú Đồng
kiến thiết dân thường,
Lập
pháp, hành pháp hai chương một người.
Sắc lệnh
ban ra ít lời,
2390.
Còn nguyên giá trị mấy đời thần dân.
Đế Vương
bật mực cầm cân,
Dẫu vào
tình thế, đúng phần nhiều hơn.
Chính
phủ Kháng chiến rất khôn,
Chiêu dụ
địa chủ nuôi cơm quân mình.
Xây dựng
biệt động nội thành,
Vận đồ
về tận rừng xanh núi ngàn.
Trấn áp
cộm cán Việt gian,
Bất ngờ
nổ súng dụ hàng tính sau.
Đế vương
giải toả u sầu,
2400.
Xách bương, dắt trẻ tưới rau vườn rừng[11].
Than
hồng lửa cháy tửng tưng,
Nướng
ngô tiếp khách tối thường thịt quay.
Gió ngàn
vui sướng mê say,
Quân đi
quân đến suốt ngày chiến khu.
Tướng
Pháp đánh quả tù mù,
Non cao
cứ điểm nhảy dù Mường Thanh[12].
Tưởng
rằng núi đỏ, rừng xanh,
Việt
minh chân đất khó giành thế công,...
Vào hầm
Tổng thống thực lòng:
2410.
Chửi thề thế trận của ông cha mình,
Ngu thì
thua đứt Việt minh,
Mít-tơ-răng[13]
đã thình lình nói ra,...
Xung
trận hát Tiến quân ca,
Vinh
quang xây xác quân ta, quân thù.
Cụ buồn
chê báo chí ngu:
Chết
nhiều đừng nói, bắt tù phải tăng,
Tấm
gương đuổi bắt xe tăng,
Đuốc
sống,chèn pháo nên đăng vừa vừa,
Muốn
đánh giặc Pháp chịu thua,
2420. Cô
chú báo chí đừng lừa nhân dân.
Ngoại
giao rộng cửa hội đàm,
Sẵn sàng
ngưng chiến để làm bạn nhau.
Giới sử
nước Pháp về sau,
Tiếc cho
thế lực đứng đầu Pa-ri,
Hòa
bình, nước Việt sẽ đi,
Theo
đường Ánh sáng xiết ghì bàn tay,
Cùng
khối Pháp ngữ dựng xây,
Lợi
quyền hai nước ngày ngày tăng lên,
Cả hai
cùng đong đẫy tiền,
2430.
Sông Hồng nước đỏ Sông Xen xanh mầu.
Liên
quân do Mỹ đứng đầu,
Triều
Tiên bốc hoả gọi Tầu tràn sang.
Các bên
dừng ở ngôi làng,
Bàn Môn
ký kết cấm sang cấm về.[14]
Dẫu chưa
cắt máu ăn thề,
Ta chống
lại phía bên kia Nam Hàn.
Miền
Trung đất Việt gian nan,
Lê dương
Hàn quốc moi gan dân lành.
Miền Bắc
quân Kim Nhật Thành[15],
2440.
Lái tàu bay Mig đoành đoành tầng không.
Giang hồ
ân oán trong lòng,
Máu dân
các phía ròng ròng đất Ta.
Sợi chỉ
đế vương vạch ra,
Độc lập
thống nhất nước nhà nổi lên.
Đánh
đuổi Pháp phải ưu tiên,
Lửa tàn
chinh chiến tính liền bước sau.
Chiến
dịch Điện Biên bắt đầu:
Him Lam,
Độc Lập[16] đánh nhau đúng bài.
Trần
Canh[17] tướng Tào đẹp giai,
2450.
Khuyên Giáp dàn trận ngang dài xông lên.
Việt
Minh tính kiểu chắc bền,
Đánh lấn
phải thắng,võ biền là thua.
Mường
Thanh chính ngọ ban trưa,
Quả đồi
sụt lún tiếng hò xung phong.
Hai
tháng máu chảy thành sông,
Xác ngẽn
Nậm Cúm chiến công lẫy lừng.
Pa-ri
hoa lệ rưng rưng,
Một
chiều ảm đạm xem chừng bỏ cơm.
Sợ nhất
Việt minh sẽ đòm,
2460.
Bêu đầu Đờ Cát[18] mắt nhòm về Tây.
Bắc Phi
cũng có một ngày,
Nín thở
chờ đợi bàn tay khoan hồng.
Các bên
hội họp tranh công,
Sói hùm
nước lớn mề lòng tối tăm.
Tham lam
gieo rắc hờn căm,
Phân
chia nước Việt toan cầm tù nhau.
Thế giới
tăm tối cái đầu,
Đông Tây
nước Đức thêm chầu Á Đông.
Đài Loan
một cõi xa trông,
2470.
Triều Tiên cắt giữa, Ta sông chia bờ.
Lái súng
chúng chỉ mong chờ,
Bán
nhiều hàng nóng lãi lờ tăng cao.
Đòi như
Bá Lanh[19] năm nào,
Vải
nhung kéo đổ tường cao kẽm dầy ?
Dân chủ
không thích giả cầy,
Củ mài
thách đố đất dầy thuổng mai.
Đấm bàn
có một anh trai,
Triệu
Phong[20] là đất hun tài đúc tâm.
Rằng:
tay chắc chắn phải cầm,
2480.
Súng gươm chiến nhị thập năm mới dừng.
Đế vương
nghe thấy rất mừng,
Mời anh
ra Bắc lên từng đỉnh cao.
Quyền
hành Đại hội đã trao,
Nhà sàn
Cụ hóng, bờ ao buông cần.
Chiến
khu vào độ thu phân,
Trám bùi
mật ngọt cam phần vàng tươi.
Đai hội
thành công tuyệt vời,
Chức Chủ
tịch Đảng[21] đời đời không thay.
Đuốc hoa
lửa trại mê say,
2490.
Van-xơ chàng lướt nhớ ngày sông Xen.
Nước
Pháp cử một phóng viên,
Chuyện
về cuộc chiến sang phiên lụi tàn.
Tiếng
Tây Cụ nói ngang hàng,
Nhớ đồng
quê Pháp nắng tràn màu nho.
Thích
chuyến xe ngựa hẹn hò,
Rung
reng lục lạc như đò sông Lam.
Phóng
viên hỏi ý Việt Nam,
Thể chế
đất nước, cách làm ra sao?
Châm
thuốc nâng ly lên cao,
2500. Cụ
rằng hai nước đổi trao chân tình,
[1]
Trung tá Pierre Charton, chỉ huy Binh đoàn Pháp tại Chiến dịch Biên giới thu
đông 1950.
[2] Đặng
Văn Việt (1920 - 25 tháng 9 năm 2021) là một cựu trung tá Quân đội nhân dân
Việt Nam. Ông nguyên là trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn 174- một
trong 3 trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng
được người Pháp mệnh danh là "Hùm xám đường 4" do thành tích chỉ huy
đơn vị mình trong Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, bắt sống cả hai chỉ huy
binh đoàn Pháp là các Trung tá Marcel Lepage và Pierre Charton.
[3] La
Văn Cầu (sinh 1932) là một sĩ quan cấp Đại tá. Ông là một trong bảy người đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân tại Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc lần I. Trong chiến tranh Đông Dương,
từ năm 1948 đến năm 1952, La Văn Cầu đã tham gia chiến đấu 29 trận. Trong Trận
Đông Khê năm 1950, La Văn Cầu nhờ đồng đội dùng lưỡi lê chặt đứt cánh tay phải
bị thương và tiếp tục chiến đấu. Ông dùng tay trái ôm bọc phá đánh mở đường.
[4] Trận
Vĩnh Yên là một trận đánh quan trọng của Chiến dịch Trần Hưng Đạo diễn ra từ
ngày 13 đến 17 -1- 1951. Đây là trận đánh có quy mô cấp trung đoàn trong Chiến
tranh Đông Dương giữa lực lượng của Liên hiệp Pháp và Quân đội Nhân dân Việt
Nam. Lực lượng quân đội khối Liên hiệp Pháp, do Đại tướng Jean de Lattre de
Tassigny làm Tổng chỉ huy, đã thành công trong việc ngăn chặn ý đồ chiếm giữ
thị xã Vĩnh Yên của lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam, do Đại tướng Võ
Nguyên Giáp làm Tổng chỉ huy.
[5]
Henri Eugène Navarre (1898 -1983) là tướng của quân đội Pháp. Ông đã tham gia
Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai và là chỉ huy thứ 7
của Quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông trong Chiến tranh Đông Dương.
Navarre là tổng chỉ huy quân Pháp trong thời gian diễn ra trận Điện Biên Phủ.
[6]
Trung đoàn 52 Tây Tiến, thường gọi là Trung đoàn Tây Tiến, là một trung đoàn
của Quân đội nhân dân Việt Nam trong Kháng chiến chống Pháp. Binh sĩ gồm nhiều
thành phần, ở nhiều vùng quê. Mặt trận của Trung đoàn trải từ Bắc Lào đến Tây
Bắc, đồng bằng Bắc bộ Việt Nam,... Năm 1948, nhà thơ Quang Dũng đã viết bài thơ
Tây Tiến nổi tiếng về đoàn quân Tây Tiến. Trên tấm bia ghi chiến tích trung
đoàn Tây Tiến đặt tại tỉnh Hòa Bình có tạc 10 câu thơ trong bài.
[7] Địa
danh ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang là lưu vực sông Phó Đáy. Sông có chiều
khoảng 170km, chảy qua địa phận các tỉnh Bắc Kạn, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc rồi đổ
vào sông Lô ở TP. Việt Trì (Phú Thọ) với lưu vực khoảng 1.610km2.
[8] Danh
từ Sorbonne (La Sorbonne) thông thường được dùng để chỉ Đại học Paris hay một
trong các đại học kế nhiệm. Từ "Sorbonne" thực ra đã được dùng với
nhiều nghĩa khác nhau trải qua nhiều thế kỷ. Ngày 6 -7 -1911, sau hơn 1 tháng
đi biển, tàu cập cảng Marseille, Pháp.Tại Marseilles, anh Ba đã viết thư đến
Tổng thống Pháp, xin được nhập học vào Trường Thuộc địa, trường chuyên đào tạo
các nhân viên hành chính cho chính quyền thực dân, với hy vọng "giúp ích
cho Pháp". Thư yêu cầu của anh bị từ chối và được chuyển đến Khâm sứ Trung
Kỳ ở Huế.
[9] Lâu đài Versailles ở Paris. Yêu sách của nhân
dân An Nam còn gọi là Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam là bản yêu sách được
gửi ngày 18 - 6 -1919, của Hội những người An Nam yêu nước, gồm tám điểm được
viết bằng tiếng Pháp, được ký bằng cái tên chung là "Nguyễn Ái Quốc"
và gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles.
[10]
Cuộc đổ bộ của quân đội khối Đồng minh vào các bãi biển vùng Normandie ngày 6 -
6 -1944, còn gọi là Trận chiến vì nước Pháp.Đây là cuộc tấn công từ biển vào
đất liền lớn nhất trong lịch sử, với hơn 150.000 quân lính của Hoa Kỳ, Anh
Quốc, Canada cùng với quân kháng chiến Pháp, Tiệp Khắc, Ba Lan, Bỉ, Hà Lan, Na
Uy, theo các chiến hạm lớn nhỏ từ miền nam Anh Quốc kéo vào đất Pháp lúc bấy
giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của quân Đức Quốc Xã.
[11] Ý
Bài thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1949 ở Chiến khu Việt Bắc
dịch: Đường non khách tới hoa đầy/Rừng sâu quân đến tung bay chim ngàn/Việc
quân việc nước đã bàn/Xách bương dắt trẻ ra vườn hái rau.
[12]
Cánh đồng thuộc tỉnh Điện Biên nay. Ngày 2 -11- 1953, Navarre đã chỉ thị cho
Cogny từ ngày 15 -20- 11, chậm nhất là ngày 1-12-1953, phải đánh chiếm Điện
Biên Phủ để thiết lập một điểm ngăn chặn bảo vệ cho Thượng Lào. Cuộc hành binh
đánh chiếm Điện Biên Phủ có bí danh là "Hải Ly" (Cuộc hành quân
Castor), chỉ huy là tướng Jean Gilles. Ngày 20-11-1953, lúc 11 giờ sáng, 63
chuyến máy bay C-47 Dakota thả 3.000 lính dù và chiến cụ các loại xuống Điện
Biên Phủ.
[12]
François Maurice Adrien Marie Mitterrand (1916- 1996) là Tổng thống Pháp từ năm
1981 đến năm 1995 với tư cách là đại diện của Đảng Xã hội. Từ ngày 9 -11 tháng
2 năm 1993 ông đến Việt Nam, thăm chiến trường Điện Biên Phủ, Tổng thống lặng
lẽ ngắm hồi lâu khắp những vật dụng chiến tranh đã nhuốm màu thời gian.
[14] Bàn
Môn Điếm là một ngôi làng nằm giữa tỉnh Gyeonggi thuộc Hàn Quốc và tỉnh
Hwanghae Bắc thuộc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, là giới tuyến phân
cách Triều Tiên và Hàn Quốc. Tại đây, vào năm 1953, Hiệp định Ngừng bắn của
Chiến tranh Triều Tiên được ký kết. Tòa nhà nơi Hiệp định được ký kết vẫn còn
tồn tại đến ngày nay, mặc dù nó nằm ở phía bắc giới tuyến, nằm giữa Khu phi
quân sự Triều Tiên
[15] Kim
Il-sung (1912 -1994), Kim Nhật Thành. là nhà lãnh đạo đầu tiên (1948) của Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên) từ
khi thành lập nước này đến khi ông qua đời vào năm 1994, là Lãnh tụ của Đảng
Lao động Triều Tiên. Từ năm 1966-1968,khoảng 200-400 lính Bắc Triều Tiên, bao
gồm khoảng 90 phi công, được cử chiến đấu gần Hà Nội chiến đấu, hiện còn 14 mộ
quân nhân ở Bắc Giang.
[16]
Đúng 8 giờ sáng ngày 13/3/1954, những viên đạn sơn pháo của quân Việt Nam bắn
vào sân bay Mường Thanh làm hai chiếc máy bay Đacôta của quân Pháp vừa hạ cánh
xuống đây bị bốc cháy. Đó chính là những viên đạn đầu tiên mở màn của Chiến
dịch Điện Biên Phủ kéo dài suốt 55 ngày đêm.
Đến 17
giờ 05 phút chiều ngày 13/3/1954, 40 khẩu pháo 75 -120 ly đồng loạt nhả đạn vào
các vị trí của quân Pháp trong cứ điểm Him Lam, quân Việt Nam xuất kích bắt đầu
trận đánh mở màn của Chiến dịch Điện Biên Phủ.
16 giờ
45 phút ngày 14/3/1954, quân Việt Nam nổ súng đánh đồi Độc Lập. Trận đánh kéo
dài đến 6 giờ 30 phút sáng ngày 15/5/1954 thì kết thúc.
Jean
Charles Clement Piroth (1906- 15 tháng 3 năm 1954), Trung tá quân Pháp, chỉ huy
trưởng pháo binh của Binh đoàn tác chiến Tây Bắc, từng tuyên bố hùng hồn
"Tôi có nhiều đại bác hơn số tôi cần",nhưng đã xấu hổ tự sát sau khi
nhận ra tình cảnh bế tắc không thể chống lại được lực lượng pháo binh đối
phương tại trận.
Sáng
ngày 17/3/1954, thấy quân Việt Nam chuẩn bị tấn công, quân Pháp ở Bản Kéo sợ
hãi bỏ chạy. Trung đoàn 36 của ta không cần phải nổ súng đã chiếm được Bản Kéo
và thừa thắng tiến vào chiếm các ngọn đồi ở phía Bắc sân bay Mường Thanh.
[17]
Trần Canh (1903 -1961), là một Đại tướng Quân giải phóng nhân dân Trung
Quốc Ngày 7 tháng 7 năm 1950, Trần Canh
dẫn đầu đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc gồm 14 người sang giúp Quân đội nhân dân
Việt Nam đánh Pháp.
[18]
Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries (1902 -1991) là một sĩ quan
chỉ huy cấp tướng người Pháp tại trận Điện Biên Phủ năm 1954.
[19] Bức tường Berlin chia cắt phần Tây Berlin của
Tây Đức với phần phía Đông của thành phố và với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân
chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ ngày 13 -8 -1961 đến ngày 9 -11
-1989. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc
Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức
[20]
Huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị quê hương ông Lê Duẩn (1907–1986) còn gọi là
Ba Duẩn, ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1960-1986, từ năm 1960-
1976 gọi là Bí thư thứ nhất
[21] Chủ
tịch Đảng Cộng sản Việt Nam (chức vụ này duy nhất do Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm
giữ từ Đại hội Đảng lần 2 năm 1951 đến khi qua đời năm 1969)
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương
(2501 - 2700 )
2501.
Quan điểm của bên Việt Minh,
Độc lập
dân tộc mưu sinh ôn hoà,
Ý thức
hệ mãi mãi là:
Cơm no
áo ấm nước nhà bình an,
Cực
chẳng đã phải chiến tranh,
Quyết
định ấy thuộc muôn ngàn người dân.
Ước mơ
của tôi rất gần,
Xách
bương tưới cỏ mộ phần Mẹ Cha.
Ngẹn
ngào ánh mắt lệ nhoà,
2510.
Anh em cấp dưới muốn òa khóc than.
Phóng
viên Pa ri nhẹ nhàng,
Kể về
nước Pháp phố làng bình yên,
Dân
Gô-loa thích kiếm tiền,
Không
ham chinh chiến ưu phiền tang gia.
Trăng
non thấp thoáng rừng già,
Kiếp
người chỉ muốn hài hoà yên vui!
Báo
đăng, dân Pháp ngậm ngùi,
Chiến
tranh thuộc địa chôn vùi ước mơ.
Mặc kệ
nước thần Tự do[1],
2520.Khoe
niềm kiêu hãnh chơi trò đánh nhau.
Nước
Pháp không chịu ngu lâu,
Đờ-gôn[2]
bỏ đất tránh ngầu Pa-ri.
Vùng
Vịnh[3] khói lửa phún phì,
Liên
quân Pháp chiến chỉ nhì nhằng thôi.
Mỹ quốc
kêu ối giời ơi!
Nước
Pháp truyền thống nướng người lê dương[4]
Ngoại
kiều[5] đến Pháp đầy đường,
Tuyên
ngôn độc lập một chương dân quyền.
Đánh
thuê cho Pháp được tiền,
2530.Tù
binh phát xít chúng liền đi theo.
Điện
Biên toàn chết dân nghèo,
Giéc-manh[6]
cầm súng leo trèo Mường Thanh.
Nước Mỹ
khôn lâu ngu nhanh,
Can
thiệp vào nước chiến tranh quen rồi[7].
Cầm
quyền là lũ cực tồi,
Có nhiều
quyết sách như thời man di.
Mọi rợ
bạo lực làm gì?
Người
hại người để bắt quỳ van xin?
Sử Việt
đã bốn nghìn niên,
2540.Bạo
tàn chinh chiến triền miên nước mình.
Sang
thời đại Hồ Chí Minh,
Ngoại
xâm rất thích chiến chinh đất này?
Cà cuống
xả chất thơm cay,
Đạn bom
đế quốc bừa cầy nước Ta.
Chư hầu
đủ loại gần xa,
Bầy đàn
linh cẩu hôi quà dã man.
Dĩ vãng
đã lật nhiều trang,
Sử xanh
sử đỏ sử vàng công khai.
Đời sau
còn rất là dài,
2550.Quên
xưa dù có đa tài vẫn hư.
Tạm thời
giới tuyến phân chia,
Ai ngờ
lát cắt mút mùa Ngưu Lang.
Chức Nữ
đợi người tình sang,
Mưa ngâu
bom đạn chàng nàng gặp nhau.
Dừa
nghiêng, cao ngỏng hàng cau,
Biệt ly
đôi lứa thương nhau mịt mờ,...
Trở về
tiếp quản Thủ đô,
Cốm Vòng
chính vụ chuối vừa chấm đen.
Đoàn
quân bước theo điệu kèn,
2560.Khải
hoàn chiến thắng qua Đền Hùng Vương.
Cha già
chinh chiến dặm trường,
Thề non
hẹn nước dâng hương Vua Hùng.
Đền Hạ
quân tướng điệp trùng,
Giữ nước
nhiệm vụ của chung dân mình[8].
Hà Thành
trai đẹp gái xinh,
Tâm tư
chiêm ngưỡng Việt minh trở về.
Toàn
giai ở các miền quê,
Tác
phong nếp sống ngô nghê tức cười.
Cà phê,
cháo, phở, chè xôi,
2570.Vào
ra ngơ ngác chào mời lơ ngơ.
Áo quần
bạc phếch, bạc phơ,
Đường
trần trấn thủ sờn mờ rách bông.
Trở về
quê cũ ruộng đồng,
Ngàn xưa
chinh chiến cha ông đã từng.
Giáp Ngọ
lửa cháy bừng bừng,
Ất Mùi
bách thảo trùng phùng đoàn viên.
Bính
Thân Cải cách địa điền,[9]
Long
trời lở đất nhiều niên rã rời.
Lộ ra
tính cách giống nòi,
2580.Lông
chìm đá nổi thói đời ghét nhau.
Xẻ nhà
chia ruộng chung trâu,
Cối chày
xoong chảo gáo gầu đem chia.
Bần nông
xả tức thoả thuê,
Hăng lên
đấu đá xa lìa anh em.
Dâu tố
bố chồng tòm tem,
Đàn bà
tố bị hiếp dâm nhiều lần.
Bị bắn
có tên tụt quần,
Rằng tao
không có cái chân giữa này.
Nga Tàu
cộng sản thẳng tay,
2590.Rau
nào sâu ấy Việt này khác xa !
Bá Cang,
Sóng Đỏ tưởng là:
Đấu
tranh giai cấp moi ra kẻ thù?
Lý luận
cách mạng tù mù,
Đế Vương
khóc nấc vội thu quân về.
Ân oán
giai cấp gớm ghê,
Vượt
sông Bến Hải dinh tê phục thù.
Chín năm
đằng đẵng chiến khu,
Bao
nhiêu người đã bỏ về làng Tây?
Nam
triều có một ông thầy,
2600.Thông
nho, hóng Chúa, qua tay Mỹ về.
Sống đời
không kiếp phu thê,
Tròn ba
mươi tuổi đã nghề đại quan.
Thượng
thư biết Triều Huế tàn,
Từ nhiệm
du hý địa đàng tầm sư.
Việt
minh bắt tống vào tù,
Bào
huynh bị bắn oán thù gỡ ra.
Đòi làm
Thủ tướng nước ta[10],
Một cuộc
hội kiến chia xa hai người.
Bắc Nam
phân định phương trời,
2610.Bên
làm Tổng thống, Bên thời Minh quân.
Sông
Gianh xưa máu ngập tràn,
Nay dòng
Bến Hải tương tàn đệ huynh,
Buồn cho
đất nước phân tranh,
Con Rồng
cháu Lạc muốn giành điều chi?
Xuống
tay bất thuận, bất nghì,
Bát nước
lỡ hắt đổ đi mất rồi.
Lòng dân
gặp sóng lạc trôi,
Dòng ý
thức hệ tiết nhồi lòng non.
Súng
gươm tỷ thí sống còn,
2620.Cuộc
nội ngoại chiến vùi chôn bao người.
Hai phe
trợ giúp cuộc chơi,
Đạn bom
ngoại quốc có nơi thử dùng.
Đế Minh
tìm hướng bao dung,
Gởi cành
đào thắm vượt trùng ngàn xa[11].
Nhuốm
màu huyền tích Trung Hoa,
Tay chàm
đã nhúng bỏ qua nhiễu điều.
Mỗi lần
thay đổi vương triều,
Nghinh
tân tống cựu yêu kiều tàn phai.
Dường
như bế tắc đời trai?
2630.Chuyển
thành tính cách hai Ngài đa nhân.
Tấm lòng
yêu nước thương dân,
Quên
riêng tư để đi gần, du xa.
Thích
tặng nghèo khó đồng quà,
Muốn cho
đất nước hài hoà nhân gian.
Nhưng
trong sâu thẳm tâm can,
Mày sai
tao đúng, tranh giành bá vương.
Loài
người chưa bỏ thói thường,
Cả tin
mình đúng chẳng nhường nhịn ai!
Đua nhau
tỷ thí đức tài,
2640.Tranh
điền lấn thổ bám vai siêu cường.
Đã mang
vào nghiệp đế vương,
Tham lam
mở rộng biên cương biển trời.
Mỹ, Xô
khao khát lên đời,
Chạy đua
vũ khí giết người cực nhanh.
Chủ nghĩa
thực dân bất thành,
Chim câu
tưởng bở ngậm cành ô liu.
Những
vùng đất nước đìu hiu,
Cú nhìn
sói trực thêm diều hâu bay.
Đế Minh
biết trạng thái này,
2650.Bữa
cơm Pắc Bó vận may đến gần.
Nhìn
cách ăn uống của dân,
Xì xoạp
gắp húp canh chan cơm và.
Khoảng
cách văn minh rất xa,
Chăn dân
hơn hẳn mái gà mớm con,...
Phương
Đông hội thảo bàn tròn,
Chuyên
chính vô sản sống còn ưu tiên.
Dễ như
cướp được chính quyền,
Khó như
gặp bão chèo thuyền ra khơi.
Vũ trang
dự định khắp nơi,
2660.Kẻ
nào chống đối cho toi tức thì.
Cu Ba
sóng biển rầm rì,
Phi-đen
cầm lái cho xì gà thơm.
Đế Minh
am hiểu bát cơm,
Cho dân
tư hữu ruộng vườn phần trăm[12]
Ngọn cờ
hợp tác phăm phăm,
Công
thương gia hiến hết tầm của riêng.
Cần lao
chung một nỗi niềm,
Theo Vua
dẫn bước tới miền bồng lai.
Tiên
cảnh là chặng đường dài,
2670.
Hôm nay định hướng độ vài trăm năm.
Con cá
may mắn vượt khăm,
Cần lao
ngí ngóp cá tầm rất to.
Con tôm
cao hứng nhảy bờ,
Tin là
tôm tướng như thơ tỏ tình…
Hòn Ngọc
Viễn Đông lung linh,
Sài Gòn
trù mật dân tình nhào vô.
Trăm năm
kinh tế tự do,
Làm thuê
vẫn bát cơm no tối ngày.
Ruộng
đồng mỏi cánh cò bay,
2680.Nước
trong gạo trắng của bày bán ra.
Quốc
trưởng Bảo Đại bê tha,
Rượu chè
gái mú kệ cha chúng mày.
Đảng
phái các loại vung chầy,
Cần lao
nhân vị có tay dựng cờ.
Bào đệ
Tổng thống là Nhu[13],
Đã từng
giữ chức thủ thư một thời.
Học
thuyết Nhân vị[14] khơi khơi,
Đằng sau
đao búa bắt người tống giam.
Gia đình
ngự trị miền Nam,
2690.Lối
mòn cổ hủ ngang tầm hôn quân.
Giang hồ
làm loạn bất thần,
Tướng tá
đảo chính kéo quân vào thành[15].
Tướng
Giáp tuổi trẻ đầu xanh,
Chăm học
kế sách khi chinh chiến tàn.
Cho quân
cầy cấy thôn trang,
Động
viên khi có xâm lăng tràn vào.
Đệ nhất
cộng hoà hô hào,
Chúng
dọa Bắc tiến nhảy vào Thăng Long[16].
Nhân văn
giai phẩm đi tong[17],
2700.Tư
sản tiểu chủ toàn tòng theo Ta.
[1]
Tượng Nữ thần Tự do (tên đầy đủ là Nữ thần Tự do soi sáng thế giới; tiếng Anh:
Liberty Enlightening the World; tiếng Pháp: La Liberté éclairant le monde) là
một tác phẩm điêu khắc bằng đồng theo phong cách tân cổ điển với kích thước
lớn, đặt trên Đảo Liberty tại cảng New York. Tác phẩm này do kiến trúc sư người
Pháp Frédéric Bartholdi (1834-1904)
thiết kế và được khánh thành vào ngày 28 -10 -1886. Đây là tặng vật của nhân
dân Pháp gửi nước Mỹ.
[2]
Charles de Gaulle (1890 - 1970) là chính khách nổi tiếng của Pháp. Ông xuất
thân là một quân nhân trong Quân đội Pháp. Năm 1940, khi chính phủ Pháp đầu
hàng phát xít Đức, ông đã vượt biển sang London, lãnh đạo tổ chức "Pháp
quốc Tự do", thành lập chính phủ Pháp lưu vong, ra lời kêu gọi người Pháp
tiếp tục kháng chiến chống sự chiếm đóng của Quân đội phát xít Đức trong Chiến
tranh thế giới thứ hai. Năm 1958, ông thành lập nền Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp và giữ
chức Quyền Tổng thống từ năm 1959 đến năm 1969
[3]
Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 (cũng gọi là Chiến tranh vịnh Ba Tư hay Chiến
dịch Bão táp Sa mạc) là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh 38 quốc gia do
Hoa Kỳ lãnh đạo và được Liên Hiệp Quốc phê chuẩn để giải phóng Kuwait, Pháp có
2 quân nhân tử trận.
[4] Binh
đoàn Lê dương Pháp (French Foreign Legion- FFL) là một đội quân được tổ chức
chặt chẽ, có chuyên môn cao, trực thuộc Lục quân Pháp. FFL hiện là lực lượng tổ
chức tuyển mộ mạnh nhất thế giới thông qua Internet. Binh đoàn lê dương thành
lập năm 1831, đến nay vẫn duy trì 8000 người thuộc 36 quốc tịch, trong binh
đoàn không phân biệt chủng tộc.Ngoài tiền lương, thân nhân lính Lê Dương có thể
được nhận tới 300.000 Euro khi tử nạn.
[5] Năm
2008, ước tính gần 20% dân số Pháp là người nhập cư thế hệ thứ nhất hoặc thứ
hai, trong đó có trên 5 triệu người gốc Âu và 4 triệu người gốc Bắc Phi, Châu
Á,...
[6] Khoảng 1.200 đến 1.300 người Đức chủ yếu là
tù binh phát xít đã tham chiến tại Điện Biên Phủ, trong tổng số hơn 15.000 binh
sĩ quân đội Pháp.
[7] Tới
năm 1954, 73% chiến phí của Pháp ở Đông Dương là do Hoa Kỳ chi trả, 37 phi công
Mỹ mất ở trận Điện Biên Phủ.
[8] Tại
Đền Giếng trong khu di tích Đền Hùng (thuộc núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện
Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn
Quân Tiên Phong (Sư đoàn 308, Quân đoàn 1) chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô Hà Nội:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
[9] Năm
1956. Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm phân chia
lại ruộng đất nông thôn, xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần
phản quốc (theo Pháp, chống đất nước), phản động (chống chính quyền) như địa
chủ phản cách mạng, Việt gian, cường hào cộng tác với Pháp... được Đảng Lao
động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm
1953-1956.
[10] Ngô
Đình Diệm bị giam tại tỉnh miền núi Tuyên Quang ít lâu rồi được trả tự do theo
lệnh ân xá vào đầu năm 1946. Hồ Chí Minh mời Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng
vì cho rằng ông có tài lãnh đạo. Ngô Đình Diệm trả lời rằng ông chỉ đồng ý lời
mời đó với điều kiện ông được Việt Minh thông báo về tất cả mọi hành động và
biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này do
đó Ngô Đình Diệm từ chối hợp tác với Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh vẫn
giao cho ông làm phụ tá của Bảo Đại, là cố vấn tối cao của Chính phủ
[11] Tết
Quý Mão năm 1963, thông qua Ủy hội Quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mang vào
tặng Tổng thống Ngô Đình Diệm một cành đào.
[12]
Các hộ dân miền Bắc Việt Nam sau khi giao đất vào hợp tác xã thì được
HTX trích lại 5% quỹ đất giao cho các hộ nông dân được tự chủ phát triển kinh
tế, trồng rau, hoa màu, lương thực.
[13] Ngô
Đình Nhu (1910-1963) là một nhà lưu trữ và một chính trị gia Việt Nam Cộng hoà.
Ông nổi tiếng với danh nghĩa là cố vấn chính trị cho anh mình là Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm; tuy nhiên, hầu hết các tài liệu lịch sử đều
nhận định ông mới thực sự là người đề ra mọi chủ trương, chính sách của nền Đệ
Nhất Cộng hòa Việt Nam.
[14]
Đảng Cần lao nhân vị Việt Nam, chính đảng hoạt động tại Việt Nam Cộng hòa từ
8/8/1954 đến 1/11/1963 do Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu thành lập vào cuối năm
1954 tại Sài Gòn mà dựa trên sự kết hợp chủ thuyết chính trị Nhân vị (Personalism) của triết gia người
Pháp Emmanuel Mounier và Nho giáo của Khổng Tử. Đảng Cần lao Nhân vị theo dẫn
giải của Ngô Đình Nhu đã được đề ra để làm ý thức hệ trung dung giữa tập thể
chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản với cá nhân chủ nghĩa của
chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản.
[15] Chế
độ Ngô Đình Diệm (Đệ nhất cộng hòa) gặp nhiều đối lập không phải là cộng sản,
từ năm 1957 đến năm 1962, Ngô Đình Diệm nhiều lần bị ám sát nhưng đều may mắn
thoát chết. Hai vụ đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1960 và đến 1-11-1963 thì nhóm
tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa lật đổ chế độ, sát hại anh em Tổng thống.
[16] Chế
độ Mỹ- Diệm từng hô hào "Bắc tiến, lấp sông Bến Hải, nhẩy dù Thăng Long”.
[17]
Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính
trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, khởi xướng đầu năm 1955 và chính thức bị kết thúc vào tháng 6
- 1958. Phong trào ra ấn phẩm Nhân Văn ra được 5 số báo và Giai Phẩm ra được 4
số báo (Tháng Ba, Tháng Tư, Tháng Mười và Tháng Chạp 1956) trước khi phải đình
bản.
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương
(2701-3000 )
2701.Hưu
chiến sức dân nở hoa,
Kết quả
khác loại bất hoà tăng lên.
Toan
tính của mỗi một Bên,
Như Đông
Tây Đức giống Triều Tiên kia.
Đế Minh
rất sớm ngộ ra,
Giang
sơn một cõi phải là đấu tranh.
Miền Nam
đậu phộng đậu nành,
Năng
suất cao ngật giật giành thế công.
Lê nin
thiết chế công nông,
2710.
Kêu gọi tư sản giúp đồng bào Nga.
Quản lý
kinh tế hài hoà,
Năng
suất tư bản phải là ưu tiên.
Đổi mới
cách chia đồng tiền,
Chúng
dân no đủ cầm quyền đủ no.
Giàu có
chỉ được tự do,
Trong
tầm cương toả, tránh trò cướp cơm.
Học
phượt, hành sượng bờm xơm,
Sinh ra
một lũ lôm côm bất tài.
Một buổi
Cụ thuyết trình dài,
2720.
Quan chức gật gật nghe bài sấm thôi.
Sáu
Búa[1] nhận mình thiên lôi,
Thực ra
là bậc bề tôi thượng quyền.
Sóng Đỏ
lúc trẻ tiêu tiền,
Xông
xênh một chút mơ miền đế vương.
Chú Đồng
chịu khó chịu thương,
Giai quê
lấy gái phố phường, hiền khô.
Ngủ trên
nguyệt quế thơm tho,
Giáp Văn
ngự phủ cực to Ba Đình.
Khôn đâu
đến trẻ em xinh,
2730.
Dại đâu đến bậc đế minh giang hồ.
Lại thêm
ông Tố[2] làm thơ,
Xuân Thu
Tết đến tôn thờ Đế vương.
Chín năm
công trạng chiến trường,
Nghĩ
mình tài giỏi chẳng nhường nhịn ai !
Lòng tay
Phá luân thiên tài,
Mu tay
lố bịch diễn hài líu lo.
Nã thua trận
Oa téc lô,
Chỉ vì
cố đấm xua lùa Liên quân.
Thống
chế Ăng lê xuất thần,
2740. Nã
phá luân bại, mộ phần đảo xa.
Ếch chết
tại miệng ba hoa,
Mái mơ
cục tác trứng và miệng trăn.
Ếch tìm
cua để nuốt ăn,
Ngoé kêu
thảm thiết thợ săn kịp thời,
Bắt trăn
rắn bỏ vào nồi,
Sinh tồn
có cánh được trời ban cho.
Quê
hương văng vẳng điệu hò
Sông Lam
nước biếc núi cờ cỏ may
Cu đơ[3]
bùi ngọt mê say
2750.
Chè vườn thơm mát khoai đầy nồi hông
Tuổi thơ
tắm ở bến sông
Chơi trò
đuổi bắt tồng ngồng rất vui
Nhớ mẹ
yếm thắm tươi cười
Thoi đưa
khung cửi cơm mời sớm trưa,...
Cha mang
phận thân cư thê
Ngoại
gốc đất Bắc triền đê Sông Hồng[4].
Tuổi thơ
tên gọi Cung, Coong,
Chào đời
khi núi toác lòng phân đôi.
Nước
chảy như bò đái thôi,
2760.
Nam Đàm sinh thánh cho trời Việt Nam[5].
Đồ Nghệ
giải nghĩa, tọa đàm,
Tính
bước ấu Chúa, Sào Nam đỡ đầu[6].
Khác cha
không phải chăn trâu,
Chỉ đi
kiếm củi, thả câu đầm hồ.
Lin -
côn[7] đi hết tuổi thơ,
Đọc
sách, bổ củi đợi chờ phao trôi,
Lên làm
Tổng thống tuyệt vời,
Giải
phóng nô lệ cứu người da đen,...
Hầu như
các bậc quan trên,
2770.
Tính cách khác lạ ở miền tuổi thơ:
Đinh
tiên lúc trẻ thích cờ[8],
Cỏ lau
trận giả, giết bò thật ăn.
Lưu Bị
hai mắt rất căng,
Nhìn tai
thấy nốt ruồi bằng hạt ngô.
Hít le
ngồi đến nhiều giờ,
Giết
sạch đàn kiến bằng trò búa đao.
Hồ Thơm
mắt sáng như sao,
Tắt đèn
uống rượu khách nào cũng kinh.
Gia Long
từ thuở bình sinh,
2780.
Thích xem cày cuốc, hay rình bẫy chim.
Tào Tháo
đưa não về tim,
Ngửa mặt
cười nấc, phải tìm đường lui.
Nếu
không quá nặng bệnh cùi.
Vần thơ
Hàn Mạc[9] chẳng mùi mẫn chi...
Đường
vào xứ Huế chân đi,
Qua đèo
vượt suối tuổi thì thiếu niên.
Bố làm
quan nhỏ vừa tiền,
Dân
nghèo tạp dịch phu phen đói mờ.
Kinh
Thành một thoáng mộng mơ,
2790.
Còn lại nhiều góc xẩm sờ mưu sinh.
Đồn rằng
những lúc một mình,
Chàng
hay tĩnh toạ khai minh tâm hồn.
Tường
kinh thành Huế rêu buồn,
Điệu hò
xưa cũ mỏi mòn sông Hương.
Khi lên
đến bậc đế vương,
Nhớ quê
Người thích món tương ớt cà.
Anh, Chị
khăn gói bu gà,
Thăm em
giữa lúc nước nhà cam go.
Chị rằng
"Dân chúng chửi o,
2800. Vò
xé ảnh cậu bỏ lò nhóm than"[10]
Huynh
trưởng: chú gắng bình an,
Anh đưa
mộ mẹ đặt ngang núi rồi,
Phong
thủy anh xem đúng nơi,
Một sư
nước Phạn cho lời khuyên hay,
Có người
từ trong miền Tây,
Nhắn
rằng mộ chí của thầy hợp long,
Chị về
nhà Tổ thuận tòng,
Con
đường lãnh tụ hanh thông vững vàng".
Chị bấm
anh Cả nhẹ nhàng:
2810."Thời
gian dội nước phũ phàng cậu em
Giá như
lật áo lên xem
Phải có
nốt đỏ mới êm ấm lòng".
Ngũ thập
niên có vài dòng,
Tài cao
khác lạ, đức không thể nhầm.
Chuyện
riêng là cõi âm thầm,
Chuyện
công nhiều vụ vẫn nhầm lẫn trôi.
Thường
dân lắm chuyện lôi thôi,
Cung
đình bí ẩn cuộc đời đế vương!
Lần đầu
về thăm quê hương,
2820.Cha
già vẫn nhớ ngày thường ấu thơ,
Lối mòn
nhà ngoại cỏ bờ,
Gió Lào
thổi bốn chục mùa tàn phai,
Cau cao
thân mốc quả sai,
Vườn
hoang cỏ dại tre gai xoắn cành,
Vừa qua
một cuộc chiến tranh,
Dân làng
ly tán đất thành vô cư.
Đế Minh
xao xuyến tâm tư,
Chỉ rào
dâm bụt lối xưa chỗ này[11].
Giang
sơn còn một cánh tay,
2830.Nỗi
buồn chia cắt đến ngày nào tan?
Tin đế
vương về thăm làng,
Dân tràn
ra ngõ hô vang đất trời:
"Muôn
năm vạn tuế" đây rồi !
Nhìn
quanh chỉ nhớ vài người ấu thơ.
Hàn
huyên tay bắt, tay sờ,
Dái tai
mắc lưỡi câu giờ sẹo đây.
Tiếng
Nghệ theo gió bay bay,
Đế cười
ngữ điệu tròn đầy âm vang.
Lần hai
trở lại xóm làng,
2840.Cũng
là lần cuối nắng tràn đồng quê.
Anh em
ruột thịt đã về,
Bên phần mộ Mẹ núi kia, rú này.
Miền Nam
trong cả vòng tay,
Trái tim
đập nhớ những ngày yêu thương.
Lục thập
tính khí thất thường,
Riêng tư
sâu kín khó lường hiểm nguy.
Quyết
sách, thăng giáng, xét truy,
Theo
phân tâm học chỉ vì bế kinh:
Tổng
thống nước Mỹ đa tình,
2850.Trăng
hoa lả lướt, vợ xinh vẫn thừa.
Khủng
hoảng tên lửa Cu Ba
Hai bên
nghinh chiến Mỹ, Nga muốn đòm.
Nhiều
lần cãi lộn om xòm,
Nhà
trắng bố trí cho ôm chân dài.
Ken-nơ-đi[12]
được xả hơi,
Vào
phòng Bầu dục họp cười nói vui.
Phi-đen[13]
chiến thắng ngậm ngùi,
Vợ bỏ
sang Mỹ, trống dùi cách xa.
Chiến
hữu tàu Gơ-ran-ma[14],
2860.Tìm
nữ đồng chí mát-xa cho Người.
Hòn đảo
thơ mộng vui tươi,
Tự do
thân thể biển trời đẹp xinh.
Ngày đi
Vạn lý Trường chinh,
Ông Mao
khao khát diễm tình hành quân,
Gặp nàng
kỹ nữ Giang Thanh[15],
Làm cho
lò lửa chiến tranh nguội tàn.
Có nam
có nữ nên xuân,
Có xôi
có thịt có phần trẻ em.
Đế vương
nào cũng bị kèm,
2870.Khỏe
đường ong bướm được thêm nhiệm kỳ.
Nhiều
vua tặc lưỡi quên đi,
Mẹ gà
con vịt ru ri lộn sòng.
Đế Minh
không thể nóng lòng,
Tình xưa
ở bến Nhà Rồng rất xa.
Mối tình
hải ngoại bôn ba,
Bèo trôi
về bến phù sa êm đềm.
Các chú
bảo vệ gác đêm,
Thấy bên
bếp lửa có thêm một người,
Lão thủy
thủ đã một thời,
2880.Bôn
ba hải ngoại được mời đến thăm,
Hai Cụ
đưa tay chống cằm,
Chuyện
xưa đất khách âm thầm với nhau.
Người
thường thấm nhẹ nỗi đau,
Đế vương
cô quạnh buồn sầu quả nhân.
Tìm
người nâng gối sửa chăn,
Quẩn
quanh giúp việc nhậm nhằng sớm khuya.
Đế buồn
phụ nữ nước ta,
Vô ý vô
tứ đi ra đi vào.
Áo quần
phơi ở bờ rào,
2890.Lối
đi của khách chỗ chào hỏi nhau.
Một hôm
nheo mắt mày chau,
Thẳng
thắn bảo đệ thôi chầu mỹ nhân[16].
Tử vi
Bác sống độc thân,
Việc
riêng có lẽ tự mần lấy thôi.
Một lần
chuyện phiếm vui tươi:
“Trên
rốn đúng tuổi, dưới thời trẻ trung,
Bác bận
nhiều việc của chung,
Chậm
chồng muộn vợ xin đừng học nhau”.
Cần lao
thương xót nỗi đau,
2900.Đế
vương không có tí nhau nối dòng.
Chuyện
này vẫn chưa thể xong,
Bên Tầu
mai mối lòng thòng se duyên.
Lâm Lan
Trung ương ủy viên,
Đào
Chú[17] mong muốn uyên ương cẩn vào.
Âm mưu
này rất là cao,
Bí thơ
thứ nhất không trao duyên nầy.
Đã mang
vào kiếp sư thầy,
Suốt đời
mô phạm không say cõi phàm.
Có người
nước Phạn đến thăm,
2910.Trao
cụ tín sắc cỡ tầm cao siêu.
Để cho
hậu thế kính yêu,
Tập kinh
lên kệ tín điều sáng ra.
Bao lần
trở lại nước Nga,
Lần này
diện kiến Xít- ta- lin rồi.
Có hai
cái ghế mời ngồi,
Ghế này
quốc tế cao vời nhón chân.
Ghế kia
dân tộc hơi bần,
Xít-ta-lin
hỏi ông phần ghế nao?
Đế vương
ta có lời chào,
2920.Xuất
khẩu cách mạng xin trao quý Ngài!
Đế Minh
nhắc ý thiên tài:
Chỗ mắt
xích yếu phải quai búa liền.
Lê-nin
sớm về cõi tiên,
Chậm một
giáp dân tiêu tiền thả phanh.
Chính
sách kinh tế đẩy nhanh,
Quân đỏ,
quân trắng, quân xanh hài hoà.
Năng
suất chiếc bánh to ra,
Của cải
như nước mọi nhà công minh.
Chủ
nghĩa xã hội chân tình,
2930.Làm
nhiều ăn đẫy, biếng mình cầm hơi...
Xít-ta-lin
nhếch ria cười:
Vũ khí
thoải mái phải chơi đến cùng,
Rất
khoát phải sở hữu chung,
Tư nhân
bóc lột chúng đùng đòm Ta,...
Năm Dần
bốc quẻ đi xa[18],
Qua Tầu
yên ổn, đất Nga yên bình.
Vũ khí
nhiều loại pháo binh,
Súng đạn
quá đát cho mình đánh Tây.
Giảm tô
giảm tức dân cày,
2940.Mô
hình Gu-lắc phủi tay rũ quần.
Chiến
trường chỉnh cán, chỉnh quân,
Bắn Bà
địa chủ ở gần Thái Nguyên[19].
Từ hình
đại tá tiêu tiền,
Dụ
Châu[20] lạm dụng chức quyền tham ô.
Chiến
trường vang a-lô-xô,
Lập công
báo quốc tiếng hô long trời.
Mao định
té nước kịp thời,
Cho quân
chí nguyện ăn chơi đất nhà.
Thư từ
cho Hồ Đại Ca,
2950.Đế
vương chỉ nhận súng và tướng thôi.
Gọng kìm
Xô-Trung một thời,
Nay Tàu
kiềm toả biển trời đảo xa.
Mười bảy
năm đất Trung Hoa,
Chiếm
hơn phân nửa bôn ba nước ngoài.
Bánh bao
ăn nhiều hơn khoai,
Hăm-bơ-gơ
Mỹ bánh dài Pháp qua.
Anh yêu
lát bánh mì Nga,
Đen xốp
chấm muối chính là công nông.
Muôn đời
chiếm cứ số đông,
2960.Làm
nên lịch sử cho ông bà hoàng.
Tai nghe
súng nổ đoàng đoàng,
Pháo hạm
xô-viết bàng hoàng thất kinh.
Vào
trong sâu thẳm tâm linh,
Vạn cùng
bất đắc chiến chinh điêu tàn.
Nhiều
lần Người muốn hòa ngang,
Thực dân
đế quốc sài lang không dừng.
Người
khôn ăn nói có chừng,
Kẻ tham
chỉ muốn luật rừng nuốt tươi.
Gậy gai
sau, cà rốt mồi,
2970.Đạn
bom nổ trước là loài bất nhân.
Với Tàu
cộng, Cụ mang ân,
Nghĩa
tình sau trước, nợ nần nói ra.
Trung
cộng cướp trắng Hoàng Sa[21],
Cướp
thêm quần đảo Gạc Ma[22] của mình.
Tằm tơ
nhiều đoạn rối tinh,
Tham tàn
Hoa tộc mấy nghìn năm qua.
Đế Minh
thông sử nước Nhà,
Những
mong hai nước hài hoà sống vui.
Chia
nhau một con bê thui,
2980.Trung
cộng đòi hết hai đùi lẹm vai,
Cố quên
các bậc hiền tài,
Nước Nam
có chủ, ly lai không nhường.
Tư tưởng
xây dựng hậu phương,
Lần Ba
Hội Đảng kỷ cương siết vào.
Dựng xây
các loại phong trào,
Công
nông binh trí trụ cao vũ đài.
Tăng tốc
tiến tới bồng lai,
Các đệ
tính chỉ một vài năm sau.
Công hữu
hoá đặt lên đầu,
2990.Công
nghiệp nặng chế ra nhiều thép gang.
Hợp tác
hoá khắp xóm làng,
Diệt hết
tư hữu, thiên đàng hiện ra.
Quốc hữu
phủ đến sâu xa,
Giồng
rau, cắt tóc, nuôi gà quốc doanh.
Mười năm
đánh trống cầm canh,
Miền Bắc
được một, Nam giành đầy kho.
Hai miền
cơm cháo đủ no,
Cả hai
toan tính chơi trò đánh nhau.
Nhập đàn
tuyển chọn con đầu,
3000.Thuộc tính sinh học của trâu bò rừng.
[1] Lê
Đức Thọ (1911 -1990) là chính khách Việt Nam, giữ chức Trưởng ban Tổ chức Trung
ương, phụ trách nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt một thời kỳ dài
1956-1982, trực tiếp phụ trách đoàn ngoại giao Việt Nam đàm phán với Mỹ về Hiệp
định Paris. Ông Thọ từng được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng với cố vấn
ngoại giao Mỹ ông Henry Kissinger vào năm 1973, nhưng ông đã từ chối nhận giải
với lý do đất nước Việt Nam chưa thể có được hòa bình. Đó là giải Nobel duy
nhất dành cho người Việt cho đến nay. Ông Sáu Búa, Sáu Thọ là tên gọi thân mật
đồng chí Lê Đức Thọ ở miền Nam thời kỳ chiến tranh chống Pháp.
[2] Tố
Hữu, (1920 - 2002) là một nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, là một
chính khách quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính
trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
[3] Kẹo
Cu đơ là một loại kẹo lạc (đậu phộng) đặc sản của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. Kẹo
được nấu từ mật mía, đường, mạch nha, gừng có thêm lạc nhân và được đổ vào hai
miếng bánh tráng khô nướng ép lại. Loại kẹo này rất dẻo và dính, có thể thưởng
thức cùng với nước trà xanh.
[4] Xã
Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, Hưng Yên là nơi phát tích của dòng họ Hoàng ở thôn
Vân Nội. Đây là dòng họ nổi tiếng có truyền thống lịch sử lâu đời không chỉ vì
sự nổi danh của 18 đời quận công mà còn là quê hương của bà Hoàng Thị Loan,
thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà Hoàng Thị Loan (1868-1901) là con gái của cụ
Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (Nam Đàn, Nghệ An). Theo gia phả họ Hoàng ở
đây, cụ tổ của dòng họ Hoàng ở Nghệ An là Hoàng Nghĩa Kiều (1540-1587), đời thứ
6 của dòng họ Hoàng là người làng Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên.
[5] Xứ
Nghệ “địa linh nhân kiệt” đã mấy trăm năm lưu truyền câu Sấm của Trạng Trình
(Nguyễn Bỉnh Khiêm), đến đầu thế kỷ XX thì trở thành sự thật: “Đụn Sơn phân
giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Nghĩa là “Núi
Đụn phân đôi/ (khe) Bò Đái mất tiếng/ Nước (sông Lam) khoét vào núi Lam Thành/
(đất) Nam Đàn sinh thánh”.
[6] Mùa
Thu năm 1905, Phan Bội Châu lo việc tổ chức thanh thiếu niên Việt Nam qua Nhật,
cụ có ý muốn đưa Nguyễn Tất Thành sang bên đó nhưng cậu không đi.
[7]
Abraham Lincoln (1809-1865), là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ tháng 3 năm
1861 cho đến khi bị ám sát vào tháng 4 năm 1865. Lincoln thành công trong nỗ
lực lãnh đạo đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng hiến pháp, quân sự, và đạo đức,
cuộc Nội chiến Mỹ, duy trì chính quyền Liên bang, đồng thời chấm dứt chế độ nô
lệ, và hiện đại hóa nền kinh tế, tài chính của đất nước. Sinh trưởng trong một
gia đình nghèo ở vùng biên thùy phía Tây, kiến thức Lincoln thu đạt được hầu
hết là nhờ tự học.
[8] Đinh
Tiên Hoàng ( 924 - 979), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước phong
kiến tập quyền đầu tiên, Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có
công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu
tiên của Việt Nam sau thời phương Bắc đô hộ.
[9] Hàn
Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, (1912 - 1940) là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng
thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra “Trường thơ Loạn”. Hàn
Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình
Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
[10] Năm
1946, biết tin Chủ tịch Hồ Chí Minh là em trai mình, ngày 27/10/1946, Bà Nguyễn
Thị Thanh (1884 -tháng 3-1954) ra Hà Nội thăm em. Bà kể chuyện sau khi Hồ Chí
Minh ký Hiệp định sơ bộ Pháp Việt (6-3 -1946, tại số nhà 38 Lý Thái Tổ, Hà
Nội), tạm ước Việt - Pháp ngày 14/9/1946 ờ Paris, dân quê đốt ảnh Chủ tịch. Hồ
Chí Minh nói “Bà con là những người yêu nước” trước đó nói với quốc dân trên
sóng Radio “Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí
Minh không phải là người bán nước.”
Ngày
03/11/1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm (1888- tháng 10/1950) là anh ruột ra Hà Nội
thăm em là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
[11] Lần
thứ nhất: Ngày 16-6-1957. Lần thứ hai,
sáng ngày 8/12/1961, Bác về xã Kim Liên nhưng một điều bất ngờ không có trong
kế hoạch là Bác bất ngờ về thăm làng Hoàng Trù - quê ngoại trước. Người trò
chuyện với những người bạn tuổi thơ, ôn lại kỷ niệm thời thơ ấu.
[12]
John Fitzgerald Kennedy (1917 -1963), thường được gọi là Jack Kennedy hay JFK,
là một chính trị gia và Tổng thống thứ 35 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, tại nhiệm
từ năm 1961 - 1963. Sự kiện Kennedy bị ám sát vào ngày 22 -11 -1963 là một bước
ngoặt trong lịch sử nước Mỹ vào thập niên 1960. Đương thời, ông là người đào
hoa.
[13]
Fidel Alejandro Castro Ruz, phiên tiếng Việt Phi-đen Cát-xtơ-rô (1926 -2016) là
một nhà cách mạng và chính trị gia người Cu ba, Thủ tướng Cu ba từ tháng 2
-1959 đến tháng 12 - 1976 và sau đó là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cu ba đến khi
ông từ chức tháng 2 - 2008. Ông là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cu ba từ tháng
10 -1965 tới tháng 4 - 2011, em trai là ông Raúl Castro được kế nhiệm chức vụ
này vào ngày 19 - 4 -2011 đến ngày 19 - 4 - 2021. Ông là người đương thời với
những nhà lãnh đạo nổi tiếng như Che Guevara, Hồ Chí Minh, Nelson Mandela,…Ngày
15-9 -1973, giữa lúc cuộc Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra, ông đã đến vùng
giải phóng thị xã Đông Hà, Quảng Trị, cổ vũ cuộc kháng chiến chống Mỹ.
[14] Tàu
Granma dài 18 mét. Ngày 2- 12 -1956, Fidel trong 80 người trở lại Cuba sau khi
đổ bộ lên miền Đông, họ bị bao vây bởi quân chính phủ Batista. Một trận đánh ác
liệt diễn ra, nhóm cách mạng chỉ còn 12 người sống sót và rút vào vùng rừng núi
Sierra Maestra để tổ chức kháng chiến. Nhóm kháng chiến được quần chúng ủng hộ
và phát triển lên đến 800 người. Trong suốt 2 năm, họ áp dụng chiến thuật đánh
du kích gây nhiều thiệt hại cho quân chính phủ. Ngày 1-1 -1959, quân đội của
Fidel Castro tiến vào thủ đô La Havana,
[15]
Giang Thanh (1914-1991) là người vợ thứ tư của Mao Trạch Đông (kết hôn ở Diên
An năm 1938). Bà là một người của Tứ nhân bang (bè lũ bốn tên) trong Cách mạng
Văn hóa ở Trung Quốc thập kỷ 60 thế kỷ 20. Khi đang ở đỉnh cao quyền lực, Giang
Thanh từng phê chuẩn lệnh bắt nhiều đảng viên cộng sản vu là phản cách mạng,
thậm chí cả đầu bếp và người giúp việc của họ cũng không thoát.
[16] Bà
L.Th.Ph.M, cán bộ cao cấp của Bộ LT-TP nói: "Không ai nói với tôi là có ý
định giới thiệu với Bác nhưng đúng là có bố trí để tôi tiếp cận. Nhưng vì tôi
trẻ quá, nên ngay từ những ngày đầu gặp Bác, Bác đã gọi tôi bằng cháu".
Chồng bà là ông Tr.Đ, nguyên Viện trưởng Viện KHH, UBKHNN.
[17] Ông
Đào Chú (1908-1969), Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) cũng là một
người bạn thân thiết của cụ Hồ, quan tâm đến hạnh phúc riêng tư của bạn.
[18] Mùa
Xuân năm 1950, sau 5 năm Kháng chiến chống Pháp, Việt Nam đã giành nhiều thắng
lợi. Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân công nhận và đặt quan hệ
ngoại giao với Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Góp phần quyết định
vào thắng lợi đó, là chuyến công du bí mật sang Trung Quốc và Liên Xô của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
[19]
Nguyễn Thị Năm (1906 -1953), quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội, là một địa
chủ có công đóng góp tài sản cho Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Trong
cuộc Cải cách ruộng đất, bà bị nông dân địa phương đấu tố là địa chủ gian ác và
bị xử bắn. Bà nguyên là Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Thái
Nguyên. Nhiều nhân chứng viết hồi ký đều ghi nhận sự phản ứng quyết liệt của Hồ
Chí Minh khi nghe báo cáo về vụ việc bà Năm.
[20]
Trần Dụ Châu (1906-1950), Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Cục trưởng
Cục Quân nhu (tiền thân của Tổng cục Cung cấp, nay là Tổng cục Hậu cần, Quân
đội nhân dân Việt Nam); bị tử hình trong vụ án tham nhũng nổi tiếng năm 1950
trong Chiến tranh Đông Dương.
[21] Hải
chiến Hoàng Sa là một trận chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân
Trung Quốc xảy ra vào ngày 19-1- 1974 trên quần đảo Hoàng Sa khi cả hai phía
đều tuyên bố có chủ quyền ở quần đảo này. Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa
sau đó.
[22]
Ngày 14-3-1988, Hải quân Trung Quốc tấn công vũ trang hòng chiếm đóng bãi đá Cô
Lin, bãi đá Len Đao và bãi đá Gạc Ma thuộc Quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền
Việt Nam, Hải quân Nhân dân Việt Nam đang bảo vệ và xây dựng công trình trên các đảo. Sau đó
Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma và xây dựng nhiều công trình quân sự.
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương
(3001 -3100 )
3001.Bờ
gai, búi cỏ bùng nhùng,
Lý luận
chầy cối phát khùng nổi điên.
Song
hành lợi ích bạc tiền,
Tranh
mồi di giống tự nhiên sinh tồn.
Cho rằng
mình đúng, mình khôn,
Không
chung cách nghĩ phải dồn ép nhau.
Thế gian
đa dạng từ lâu,
Tôn
giáo, sắc tộc nhiều màu đỏ đen.
Hoà
bình, hoà hợp vững bền,
3010.Song
song đồng hướng, phương miền tự do.
Nhất
điền vạn chủ sống nhờ,
Sông dài
biển lớn, bến bờ thông nhau.
Lão tử
xưa thấm nỗi đau,
Khuyên
vua các nước đối đầu phải nguôi:
Diện
tích các nước nhỏ thôi,
Nghe chung
gà gáy, giọng người qua sông.
Bang
giao giữ lấy tấm lòng,
Đạo phu
thê sống thuận tòng sẻ chia.
Biên
cương chồng lấn riềm rìa,
3020.Núi
sông hào lũy, cây que cắm rào.
Bắc Nam
hai nửa địa cầu,
Nam
nghèo tăm tối, Bắc giầu phát quang.
Đông Tây
phân cực rõ ràng,
Người
Tây thực chứng, Đông đàng tâm linh.
Nhiều
lần đệ hỏi Đế Minh,
Ngoại
xâm nhòm ngó nước mình, sợ ai?
“Đế sợ
các chú chạy dài,
Đoàn kết
trụ cột chiến hoài là xong”.
Chiến
thắng Ấp Bắc[1] nức lòng,
3030.Mặt
trận Giải phóng thành đồng miền Nam.
Trường
Sơn xẻ dọc, xiên ngang,
Đường
mòn trên biển vận hàng chiến tranh,...
Ta mềm
giặc lấn rất nhanh.
Gia Long
nhảy cóc dinh thành Phú Xuân,
Bỏ Quy
Nhơn, đốc thúc quân,
Điều
binh khiển tướng chia phần Thăng Long.
Diệm hô:
Bắc tiến, lấp sông,
Nhảy dù
ăn phở, cháo lòng tiết canh,
Trở về
đình miếu Hà Thành,
3040.Bái
lậy tiên tổ chiến tranh đã tàn…
Nam luận
cùn: Bắc xâm lăng,
Non sông
là một đất bằng từ xưa.
Đấu
tranh huynh đệ thắng thua,
Lúa vàng
trúng vụ, mất mùa cau xanh.
Tự quyết
là quyền chính danh,
Thần Tự
do Pháp hiểu nhanh chuồn rồi.
Hoa Kỳ
toan tính đánh hôi,
Lê dương
chinh chiến đất trời Việt Nam.
Đức nhân
biến thành lòng tham,
3050.Tự
do dân chủ hóa phàm tục hư.
Người
Việt-Mỹ chẳng thâm thù,
Chỉ lũ
hiếu chiến hoả mù chúng dân.
Đổ quân
chiếm cứ Nam phần,
Nghĩ
rằng trật tự, liên quân vãn hồi.
Cồn
Tiên, Dốc Miếu[2] dựng chòi,
Kiểu Bàn
Môn Điếm một thời đã qua.
Trận
chiến quân tử miền xa,
Sông
Đrăng[3] khúc chiến ca dạo đầu.
Đế Minh
buộc nói câu ngầu:
3060."Giôn
xơn bè lũ"[4] phải chầu Diêm vương.
Toàn
quốc xốc gậy lên đường,
Đạn bom
chết chóc, chiến trường khắp nơi.
Muôn năm
chỉ có một thời,
Ngô
khoai hạt củ rạch ròi bát cơm.
Tình yêu
vị ngọt hương thơm,
Không
chấp nhận thói bờm xơm ngoại tình.
Hai vua
một nước lình xình,
Một
chồng hai vợ ắt rình đánh ghen.
Tháp
Mười đã nở hoa sen,
3070.Bông
súng, điên điển phải men bụi bờ.
Tay bo
Bắc thắng, Nam thua,
Nồi da
huynh đệ nửa mùa chợ tan.
Trường
Sơn mây gió bạt ngàn,
Bước
chân nát đá, lửa tàn rừng cây.
Mười
nghìn liệt sĩ với tay,
Mười
nghìn khát vọng một ngày bình yên[5].
Chiến
tranh mở rộng hai miền,
Cháy
sang hai nước Lào, Miên[6] láng giềng.
Bầu trời
Xiêng Khoảng[7] đảo điên,
3080.Cánh
đồng Chum đá xô nghiêng nứt rời.
Ăng
Co[8] lửa cháy ngút trời,
Quạ bay
táo tác đàn dơi chập chờn.
Đông Tây
hai ngả Trường Sơn,
Bể Đông
ngầu bọt nỗi buồn chiến tranh.
Một
chiều mưa ngớt, trời xanh,
Có người
nước Phạn đến thành Thăng Long.
Đế Minh
đón tiếp trải lòng,
Ngũ
Hành[9] Bát quái một vòng ngả ra.
Nước Nam
vào thế gân gà[10],
3090.Khó
nhai, khó nuốt liệu mà giằng co.
Thuyết âm
mưu chúng bỏ lò,
Cá quả
chín cháy chơi trò nướng dân.
Đế buồn
tính khí thất thần,
Thả câu
ao cá, cả tuần kém cơm,
Bánh mì
khoai nướng trà thơm,
Treo ảnh
nguyên soái gờm gờm nhìn nhau,
Bản đồ
chiến sự xước nhàu,
Thước
cà, bút vạch mực mầu đỏ đen[11].
Những
đêm Đế vặn nhỏ đèn,
3100.Song Ba[12] toan tính Giời quên mất rồi?
[1] Trận
Ấp Bắc là một trận quy mô lớn diễn ra vào giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ với kết quả là chiến thắng lớn đầu tiên của quân vũ
trang Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (phía Hoa Kỳ và Việt Nam
Cộng hòa gọi là Việt Cộng) đối với quân chính quy của Quân lực Việt Nam Cộng
hòa được cố vấn Mỹ chỉ huy. Trận này diễn ra vào ngày 2 -1- 1963, gần Ấp Bắc
thuộc tỉnh Mỹ Tho lúc bấy giờ (ngày nay là tỉnh Tiền Giang), cách Sài Gòn 65 km
về phía tây nam.
[2] Cồn
Tiên, xã Gio Sơn, Gio Linh, Quảng Trị, Việt Nam. Trong thời kỳ chiến tranh Việt
Nam, nơi đây có một căn cứ thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nằm gần khu phi quân sự
khoảng 3 km so với Bắc Việt Nam, từng diễn ra trận đánh khốc liệt từ tháng 2
-1967 đến tháng 2 -1968
Dốc Miếu
thuộc xã Gio Phong, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, cách cầu Hiền Lương khoảng
7km về phía Nam. Từ năm 1947, căn cứ Dốc Miếu được thực dân Pháp thành lập; sau
năm 1954, Mỹ đã đầu tư 800 triệu USD xây dựng căn cứ quân sự quan trọng về pháo
binh, dựng hàng rào điện tử Macnama bao gồm 12 lớp kẽm gai, mỗi lớp cao khoảng
3m, xen giữa những hàng rào cài các loại mìn tự động và hệ thống bãi mìn dày
đặc hàng trăm mét.
[3] Trận
Ia Đrăng (địa điểm nay là huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai), là một trong những
trận lớn đầu tiên giữa liên quân Việt Nam Cộng hòa-Quân đội Hoa Kỳ và Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam. Trận đánh là một phần trong Chiến dịch Plei Me (từ
ngày 19 -10 đến ngày 26 -11 -1965) do Bộ Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa
thực hiện để đáp trả lại Chiến dịch Plâyme của Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3 quân Giải
Phóng (từ ngày 19 đến 26 tháng 10 năm 1965).
[4]
“Giônxơn và bè lũ phải biết rằng: chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân
hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng
có thể dùng hàng nghìn máy bay, tǎng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết
không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân Việt Nam anh hùng. Chúng càng hung hǎng thì tội của chúng càng thêm nặng.
Chiến tranh có thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân
dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn?” Lời kêu gọi
toàn quốc chống Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đài phát thanh Tiếng nói Việt
Nam truyền đi sáng ngày 17-7-1966.
Lyndon
Baines Johnson (Giônxơn) (1908 - 1973) là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 36, tại vị
trong giai đoạn 1963-1969. Trước đó, ông đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng thống Hoa
Kỳ thứ 37 trong giai đoạn 1961-1963. Ông là một trong bốn người duy nhất đắc cử
bốn chức vụ liên bang: hạ nghị sĩ, thượng nghị sĩ, phó tổng thống, và tổng
thống.
[5]
Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn ở Quảng Trị, nơi 10.000 liệt sĩ yên
nghỉ. Nguồn cảm hứng của Đại tá Nguyễn Hữu Quý là cây bút chuyên nghiệp của
quân đội viết bài thơ “Khát vọng Trường Sơn”.
[6]
Campuchia, tên chính thức: Vương quốc Campuchia, còn gọi là Cao Miên hay Cam
Bốt là một quốc gia nằm trên bán đảo
Đông Dương. Campuchia giáp với vịnh Thái Lan, giáp Thái Lan ở phía tây bắc, Lào
ở phía đông bắc và Việt Nam ở phía đông. Năm 1968 Quốc vương Norodom Sihanouk
(1922 - 2012) phản đối tất cả các vụ Mỹ đánh bom trên lãnh thổ Campuchia với
bất kỳ lý do gì.
[7]
Xiangkhouang, tiếng Lào nghĩa là "Thành phố phía chân trời" hiện nay
thuộc tỉnh Phonsavan của nước Lào. Nơi đây có Cánh đồng Chum, gồm hàng ngàn
chum đá có niên đại 1500 - 2000 năm, nằm rải rác dọc theo thung lũng và đồng
bằng trung tâm thuộc Cao nguyên Xiengkhuang. Hầu hết chúng nằm thành từng cụm
với số lượng từ một cho đến vài trăm cái chum.
[8]
Angkor là một tên thường gọi của một khu vực tại Campuchia đã từng là kinh đô
của Đế quốc Khmer đã phát triển rực rỡ
vào khoảng thế kỷ 9 đến thế kỷ 15. Từ "Angkor" xuất phát từ tiếng
Phạn nagara và có nghĩa là "thành phố". Chính xác hơn, thời kỳ Angkor
có thể được định nghĩa là thời kỳ từ năm 802, khi vị vua Hindu Jayavarman II
của người Khmer tự xưng "vua thiên hạ" và "thiên tử" của
Campuchia, cho đến năm 1431 khi người Thái chiếm được kinh đô của Khmer khiến
cho dân cư ở đây di cư về phía nam đến khu vực PhnomPenh.
[9] Theo
triết học cổ Trung Hoa, tất cả vạn vật đều phát sinh từ 5 nguyên tố cơ bản và
luôn trải qua 5 trạng thái là: Hỏa Thủy Mộc Kim Thổ. Năm trạng thái này được
gọi là Ngũ hành không phải là vật chất như cách hiểu đơn giản theo nghĩa đen
trong tên gọi của chúng mà đúng hơn là cách quy ước của người Trung Hoa cổ đại
để xem xét mối tương tác và quan hệ của vạn vật trong mối tương quan hài hòa,
thống nhất. Bát quái là 8 quẻ được sử
dụng trong vũ trụ học Đạo giáo như là đại diện cho các yếu tố cơ bản của vũ
trụ, được xem như là một chuỗi 8 khái niệm có liên quan với nhau. Mỗi quẻ gồm 3
hàng, mỗi hàng là nét rời (hào âm) hoặc nét liền (hào dương), tương ứng đại
diện cho âm hoặc dương. Tám quẻ gồm : Càn là Trời, Chấn-Sấm, Khảm- Nước, Cấn
-Núi, Khôn-Đất,Tốn-Gió, Ly-Hỏa, Đoài là Đầm, kết hợp hàng và cột hình thành 64 quẻ.
Bát quái có liên quan đến triết học thái cực và ngũ hành và cả ba đều của Kinh
Dịch. Bát quái được ứng dụng trong thiên văn học, chiêm tinh học, địa lý, phong
thủy, giải phẫu học, gia đình, và những lĩnh vực khác.
[10]
Dương Tu (175 - 219) là mưu sĩ của Tào Ngụy, giải thích cho tướng Hạ Hầu Đôn
rằng khẩu lệnh "kê lặc - gân gà" nói lên tâm trạng của Tào Tháo, vừa
muốn rút quân, vừa không muốn bỏ như gân gà, ăn thì không có thịt, bỏ đi thì
thấy tiếc. Quả nhiên, Tào Tháo ra lệnh hồi kinh. Việc Dương Tu đoán được ý đến
tai Tào Tháo, khiến Tào Tháo rất tức giận và muốn tìm cơ hội giết Dương Tu.
[11] Tại
Nhà sàn nơi Hồ Chí Minh ở treo bản đồ chiến sự và ảnh nguyễn soái Liên Xô
Stalin.
[12] Hồ
Chí Minh và Lê Duẩn đều có tên gọi anh Ba, trong quá trình hoạt động cách mạng.
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương
(3101 - 3200 )
3101.
Bia miệng, bia đá lạc trôi,
Tự do
Độc lập được Trời đất dung.
Báo chí
hò hét tùng tùng,
Đế
khuyên vòng nhắc chết đừng vống cao.
Pa-ri[1]
bốn phía lao nhao,
Cối chày
nhịp thấp nhịp trào trước sau.
Hoa Kỳ
dư đạn đánh nhau,
Hiện
sinh chủ nghĩa vào đầu viễn chinh.
Chết
nhiều, dân Mỹ giật mình[2],
3110.
Quan tài bay lượn Thái bình dương qua.
Phong
trào phản chiến xông pha,
Đốt thẻ
quân dịch hét la phố phường.
Nửa
triệu lính Mỹ, lê dương,
Đánh
thuê cho Thiệu chiến trường mở ra.
Tưởng
ngon xơi miếng chả gà,
Đệ nhị
thế chiến khác xa lần này.
Chiến Mỹ
khó hơn đánh Tây,
Việt
cộng sáng tạo đổi thay cách đòm!
Quân
tướng kháng Pháp vẫn còn,
3120.Binh
chủng hiện đại ra đòn mới tinh.
Đấu với
nhà nghề viễn chinh,
Nguỵ
quân từng chiến Việt Minh dạn dầy[3],
Chư hầu
từ Đông sang Tây,
Liên
quân hợp chủng đóng đầy miền Nam[4].
Liên xô,
Trung Quốc rất ham,
Những
mong Bắc Việt mời tham chiến cùng[5].
Thế giới
đang tuổi điên khùng,
Giai tơ
gái mấng muốn dùng thịt cơ.
Mây đưa,
hạc đón từng giờ,
3130.Thần
chiến tranh chán cuộc cờ sát nhân!
Lợi
quyền mớm miệng thứ dân,
Thắng
thua sống kiếp đời cần lao thôi.
Ba ba
cắn đũa là toi,
Bao
nhiêu tôm cá mắc mồi câu ngon.
Muôn năm
tìm cuộc vuông tròn,
Vợ chồng
Tạo hoá sống còn cãi nhau,…
Chiến
dịch tìm diệt xiên xâu,
Xăm hầm
Việt cộng, mua đầu giá cao,
Da
cam[6] diệt cỏ thấp cao,
3140.Thả
cây nhiệt đới[7] căng rào đóng quân.
Đánh
nhau, Việt cộng ở trần,
Hỏa
tiễn, bộc phá tiến gần mới phang.
Hai bên
dụ nhau đầu hàng,
Truyền
đơn bướm trắng loa vàng cánh bay.
Cùng
kiểu du kích cù nhầy,
Khe Sanh
tử chiến, Làng Vây tử thù,
Thuỷ
quân lục chiến, lính dù,
Bom rơi
đạn nổ khói mù tầng không.
Biệt
cách, biệt động, đặc công,
3150.Trổ
tài giết chóc dạ lòng sói lang.
Đắm chìm
bùn khẳm ngách hang,
Mậu
Thân, thành Huế máu tràn bước chân[8].
Binh đao
dân chết hơn quân,
Phật
buồn, Chúa khổ, Thánh thần chào thua.
Mậu Thân
trái gió trở mùa,
Người
nổi tính khỉ hái bừa quả xanh.
Ních-xơn
tái nhiệm chiến tranh,
Rút quân
nhỏ giọt, Việt giành mạng nhau.
Việt
Cộng về núi rừng sâu,
3160.Đói
ăn, sốt rét thương đau lấp vùi.
Sắn non
chưa kịp bới lùi,
Bom rơi
trốc rễ, đạn khui nóc hầm.
Né dạt
sang đất bạn nằm,
Chiêu
binh mãi mã rầm rầm vào sâu.
Ghế da
rách bởi họp lâu,
Pa
ri bế tắc, về chầu đạn bom.
Một ngày
hai trăm chiếc hòm,
Dân
chúng nước Mỹ chán đòm Việt Nam.
Cháy nhà
hàng xóm lửa lan,
3170.Lào,
Miên lây chiến phỉ Vàng Pao[9] la.
Lon
Nol[10] nổi loạn đánh Ta,
Kong
Le[11] nghênh chiến đả Pa thét Lào.
Khơ me
đỏ độc lánh vào,
Sau
thành Pôn Pốt[12] theo Tào đánh Ta.
Trung
cộng nhòm ngó Hoàng sa,
Bóng bàn
séc chót, chúng ra tay đòm[13].
Bể xanh
máu Việt đỏ lòm,
Khó đòi
lại mất thêm hòn Gạc Ma.
Năm cùng
tuổi Đế vương già,
3180.Mắt
mờ chân mỏi tóc pha sương chiều.
Lòng còn
vương vấn thương yêu,
Quê
hương, cha mẹ cánh diều qua sông.
Duyên
tình thấm ướt lệ rưng,
Nẻo
đường cách mạng không ngừng đấu tranh.
Đế buồn
dạo bước vườn xanh,
Mặt ao
cá quẫy, trên cành chim ca.
Tin rằng
nước Việt sau xa,
Toàn dân
đoàn kết cơm và áo mang.
Tin rằng
non nước đàng hoàng,
3190.Hậu
sinh khả uý kinh bang cập thời.
Cộng sản
thế giới sụt trồi,
Đảng
Việt Nam[14] biết giã rời bùn nhơ.
Dù cho
đổi nước, thay cờ,
Nước Nam
thống nhất ước mơ vẹn toàn.
Bao lần
gieo được quẻ Càn,
Vạch
Khôn nét đứt bể tràn nước dâng.
Trời
cao, đất hẹp chia phần,
Giang
sơn liền thổ, nhân dân kết đoàn.
Nương
dâu bãi bể cạnh tranh,
3200.Lấy dĩ bất biến, cao xanh hài hoà.
[1] Hội
nghị Paris ở thủ đô nước Cộng hòa Pháp. Thời gian đàm phán từ tháng 5-1968 đến
tháng 1 -1973. Các bên tham gia ban đầu chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa
Kỳ; sau mở ra thành hội nghị 4 bên, có thêm Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam cũng đã đưa ra các giải pháp hòa bình, trong đó đề nghị 10
điểm ngày 8-5-1969 mà sau này đã trở thành xương sống cho bản Hiệp định năm
1973.
[2]
Trong số ngoại quốc tham chiến, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn
58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương
nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn Quốc bị chết và
khoảng 11.000 bị thương; Úc có khoảng 500 binh sĩ chết và hơn 3.000 bị thương;
New Zealand có 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan có 351 chết và bị thương; còn
Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể. Trong chiến tranh, con số này
được cập nhật hàng ngày và công khai sớm.
[3] Hầu
hết tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa xuất thân binh nghiệp từ trước năm 1955 theo
Pháp chống Việt Minh.
[4] Các
quốc gia có quân đến Việt Nam tham chiến cùng Mỹ giai đoạn (1955–1975) gồm: Hàn
Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, Lào, Campuchia, Philippines.
[5] Quân
đội Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên giúp Việt Nam chống Mỹ giai đoạn
(1955–1975), chủ yếu đóng quân ở Miền Bắc.
[6] Chất
độc da cam là tên gọi của một loại chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây được
quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam. Chất này không có màu và được chứa trong
các thùng màu da cam (do vậy trong vụ kiện hậu quả của nó được gọi nhầm là chất
độc màu da cam). Chất này tác hại đến môi trường lâu dài, tổn hại sức khỏe con
người và di chứng. Đến nay, Chính phủ Hoa Kỳ vẫn từ chối trách nhiệm với những
nạn nhân này.Tuy nhiên vào tháng 5/2007, Quốc hội Hoa Kỳ đã phân bổ khoản ngân
sách 3 triệu USD nhằm khắc phục ảnh hưởng của chất độc da cam và môi trường tại
một số điểm nóng nhất và năm 2009 tăng lên 6 triệu USD.
[7]
Những thiết bị điện tử của quân đội Mỹ gồm khoảng gần 100 loại khác nhau được
rải xuống rừng núi Trường Sơn, được mệnh danh là những "thám tử giấu
mặt", những "kẻ gác đường". Có những máy radar nhỏ rải rác khắp
các nẻo đường để phát hiện tiếng động hoặc tia hồng ngoại do các xe cơ giới
phát ra, báo về trung tâm chỉ huy. Có những máy đánh hơi được mùi amoniac trong
mồ hôi để gọi máy bay oanh tạc tới.
[8] Trận
Mậu Thân tại Huế (Cố đô Nhà Nguyễn) là trận chiến kéo dài 26 ngày giữa Mặt trận
Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam với Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và đồng
minh Hoa Kỳ trong sự kiện Tết Mậu Thân. Trận chiến này cũng là một phần của
Chiến tranh Việt Nam. Đây là một trận đánh ác liệt nhất trong đợt 1 Tổng tiến
công Tết Mậu Thân. Dù quân Giải phóng bị đánh bật khỏi Huế song nó mang lại sự
đổ vỡ tâm lý và chính trị lớn nhất cho Hoa Kỳ.
[9] Vàng
Pao (1929-2011) là người H'mong đầu tiên được phong hàm tướng Quân đội Hoàng
gia Lào. Ông từng được mệnh danh là vua Mèo tại Thượng Lào từ năm 1960. Trong
Chiến tranh Đông Dương, Vàng Pao được CIA nâng đỡ để chỉ huy Quân khu II ở miền
bắc nước Lào chống lại Pathet Lào và việc sử dụng đường Trường Sơn của Quân đội
Nhân dân Việt Nam trong chiến dịch mang tên "Cuộc chiến bí mật"
[10] Lon
Nol (1913 - 1985) là chính trị gia Campuchia giữ chức Thủ tướng Campuchia hai
lần cũng như đã liên tục giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dưới thời vua Norodom
Sihanouk. Ông tự tuyên bố là tổng thống nước Cộng hòa Khmer sau khi thực hiện
cuộc đảo chính chống lại chính quyền Sihanouk vào năm 1970. Ngày 12-3-1970, Lon
Nol và Sirik Matak hạ lệnh đóng cửa cảng Sihanoukville, nơi vận chuyển vũ khí
tới tay Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, đồng thời ban hành tối hậu thư yêu cầu tất cả lực lượng Quân đội Nhân dân
Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam phải rút khỏi đất Campuchia trong vòng 72
giờ hoặc phải đối mặt với hành động quân sự.
[11]
Kong Le (1933-2014) là đại úy tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 nhảy dù Quân đội
Hoàng gia Lào, người tiến hành cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính phủ Hoàng gia
Lào năm 1960. Ngày 13 -12-1960, quân của
hoàng thân Phoumi Nosavan tiến chiếm thủ đô Lào. Lực lượng của Lữ đoàn dù của
đại úy Kong Le bị đẩy bật ra khỏi Viêng Chăn.
[12]
Saloth Sar (1925 -1998), là Thủ tướng của Campuchia Dân chủ từ năm 1975-1979,
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Kampuchea từ 1963-1981, là lãnh tụ phong trào cộng
Khmer Đỏ gây ra nạn diệt chủng ở Campuchia giết hại đến 2 triệu người từ năm
1975-1979.
[13]
Ngoại giao bóng bàn nói tới sự kiện giao lưu giữa những cầu thủ bóng bàn Hoa Kỳ
và Trung Quốc trong những năm đầu thập niên 1970, bắt đầu trong suốt Giải vô
địch bóng bàn quốc tế ở Nagoya, Nhật Bản. Sự kiện đã đánh dấu việc ấm lên quan
hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc mở đường cho chuyến thăm tới Bắc Kinh năm 1972 của Tổng
thống Richard Nixon và ra Thông cáo chung Thượng Hải, Hoa Kỳ công nhận Đài Loan
là một bộ phận của Trung Quốc…
[14] Hồ
Chí Minh tuyên bố trước Quốc hội khóa I, Kỳ họp thứ hai, rằng: “Tôi chỉ có một
đảng, đảng Việt Nam”.
Trường ca Hồ Chí Minh. Phần III. Đế Vương
(3201 -3420 hết )
3201Thắng
đừng có vội hò la,
Thua
đừng nhụt chí, đẩy tà huy[1] bay.
Việc cần
trước, phải làm ngay,
Cơm no
áo ấm làm ngày, học khuya.
Mặt trời
tỏa sợi nắng tua,
Thời vận
đến phải guồng đua nhịp nhàng.
Đế đưa
bút xổ dọc ngang,
Mực Tầu
chữ Phạn giấy vàng bùa treo!
Tiết
trời năm ấy mưa nhiều,
3210.
Đầu Xuân khô hạn tiêu điều xác xơ.
Lệ
thường chúc Tết làm thơ,
Cuối năm
thăm bạn thuở Sơ[2] hầu toà.
Bay sang
đất nước Trung Hoa,
Trước là
dưỡng sức sau là tri ân.
Bạn bè
thuở Bát Lộ quân,
Toàn
hàng nguyên soái đang quần thảo nhau.
Cách
mạng Văn hoá[3] nước Tầu,
Hồng vệ
binh đã xén râu công thần.
Xô Trung
hục hặc kéo quân,
3220. Về
miền biên ải tranh phần thiệt hơn.
Đế buồn
trông cảnh chiều hôm,
Con
thuyền vô sản cánh buồm tả tơi.
Đông Âu
cách mạng nửa vời,
Đệ nhị
quốc tế thích chơi nghị trường.
Pa ri
họp nát như tương,
Các đệ
xung khắc[4], chiến trường cam go.
Nước
giàu sợ béo, sợ no,
Dân mình
đói kém xương trờ ngoài da.
Chủ
chiến phe của đệ Ba,
3230.
Trường kỳ kháng giặc, Giáp ta quen bài.
Liên
quân Mỹ trải dọc dài,
Phía
nam Bến Hải gần hai triệu thằng.
Nổi dậy
tiến về đồng bằng,
Giao
thừa phát hoả pằng pằng pháo bông.
Lững lờ
máu nhuộm dòng sông,
Đưa về
biển cả trai mồng thành Loa.
Ba điệu
Giáp tướng đi xa,
Điện cho
Bác ở Trung Hoa chậm về.
Phi
trường chiều đông tái tê,
3240.
Đường băng tắt điện thử nghề phi cơ.
Máy bay
vòng lượn bất ngờ,
Tiếp đất
dừng bánh sương mờ ngừng bay[5].
Điếu
thuốc còn ở trên tay,
Thản
nhiên Bác nói :"Họa này còn xa",
Bùa ngải
nước Phạn kéo ra,
Ngàn cân
sợi tóc vẫn là thảnh thơi.
Chủ
chiến giao chú Ba chơi,
Khiến
dân nước Mỹ rụng rời thất kinh.
Loài
người phát triển nhờ tình,
3250.
Một con ngựa ốm cỏ khinh cả chuồng.
Bác buồn
kiếp nạn dân thường,
Bom rơi
đạn lạc, cởi truồng tản cư.
Huế mang
nặng mối thâm thù,
Nhiều
người hoàng tộc cậy vua làm càn.
Lông
chìm đá nổi trái ngang,
Tai bèo,
nón cối ngập tràn sông Hương.
Đông Ba
máu bết nẻo đường,
Đạn bom
hai phía chẳng thương dân lành.
Truy
đuổi Việt cộng lên xanh,
3260.
Súng không còn đạn,…thôi đành đò đưa.
Hàm
Đan[6] cốt trắng thành xưa,
Đống
xương Vô Định[7] bây giờ vùi sâu.
Ngàn năm
hay mãi về sau
Cối chày
đạo lý cãi nhau tơi bời .
Năm sau
Đế mỏi rã rời,
Cơm đưa
lưng bát, khách mời Bác lui.
Tình xưa
khói lửa bùi nhùi,
Rơm thơm
rút đống, sắn lùi lên hương.
Quá nửa
thế kỷ dặm trường,
3270.
Đấu tranh, chinh chiến đuổi phường xâm lăng.
Lên ngôi
trong tiếng súng đoàng,
Non sông
cách trở dân làng đánh nhau.
Bác nhìn
lên ngọn hàng cau,
Vườn dừa
tướp lá nỗi đau quặn lòng.
Niềm tin
thống nhất non sông,
Đá thề
nứt toác, gươm còn trơ trơ.
Hiện lên
dòng giữa bài thơ,
Ngoại
xâm phải cút, ngụy thờ chính nhân[8].
Nửa giáp
giải phóng Nam phần,
3280.
Non sông một mối muôn dân một nhà.
Vinh
quang cay đắng xót xa,
Một trời
vui lớn dịu xoa nỗi buồn,...
Út Vân
ra bến Nhà Rồng,
Nén
nhang bè chuối theo dòng nước trôi.
Cửa Phật
nương ẩn một đời,
Cửa Chùa
toả sáng một trời thương yêu.
Sáu mươi
năm lẻ bóng chiều,
Trung
trinh nguyện ước đi theo mối tình.
Đèn Giời
rọi sáng lung linh
3290. Bao
lần trợ giúp Đế Minh tranh quyền?
Tóc nàng
Út bạc mầu thiền,
Hao gầy
thân thể rộng miền chân tu.
Sóng
tình ngó ý mau thưa,
Tơ lòng
một sợi mút mùa Đạt Ma[9].
Thấu
tình cõi Phật mờ xa,
Nhãn
tiền không lợi người ta vẫn làm.
Chí
tình, chí nguyện trời Nam,
Trời Bắc
bông huệ hương lan khắp phòng[10].
Tình yêu
ấm áp cõi lòng,
3300.
Miền Nam trong trái tim hồng mai sau.
Đại tang
vào chính mùa ngâu,
Ngưu
Lang Chức Nữ qua cầu ô bay.
Tiếng
súng thưa nhạt ít ngày,
Tiếng
than dậy đất, khóc mây mịt mờ.
Đế đi
vào đúng ngày giờ,
Năm xưa
lập quốc trên gờ bục cao.
Hai ngày
trong một không sao,
Niềm vui
Quốc lễ mâm cao giỗ đầy.
Nỗi buồn
theo áng mây bay,
3310. Tơ
lòng xao xuyến dặm dầy bôn ba.
Bác muốn
nghe điệu dân ca,
Núi Hồng
vĩ dặm, tỳ bà Phương Đông.
Bác khen
ca sĩ, nhạc công,
Cảm ơn
tặng một bông hồng xinh tươi.
Ca nhạc
Tây Tầu đến chơi,
Bác muốn
sống lại một thời đấu tranh.
Bóng
hồng một thuở đầu xanh,
Chập
chờn gương mặt bên thành giường con.
Một đời
sắt máu màu son,
3320.
Một đời vì nước vì non yên bình.
Một đời
vun đắp chữ tình,
Yêu
thương đoàn kết dân mình ấm no…
Phút
giây để lời dặn dò,
Anh Ba
thứ nhất phải lo chiến trường.
Đón chờ
trận chiến bi thương,
Dòng
sông Thạch Hãn[11] máu xương tơi bời,
Thủ đô
khói đặc bầu trời,
Không
chiến trận chót sau ngồi Pa ri…[12]
Nhiều đệ
vội phải ra đi,
3330.
Nắm tay Đế dặn khắc ghi vào lòng.
Sáu
Dân[13], Mười Cúc[14] khóc ròng,
Sau lên
hàng Trụ vừa lòng chúng dân.
Sáu Thọ
được mời đến gần,
Bác dặn
giữ Đảng trắng ngần sạch thơm.
Tướng
Giáp được chuyện nhiều hơn:
Phải thờ
chữ Nhẫn, biết ơn đồng bào,
Cho con
ra đứng chiến hào,
Triệu
người ngã xuống công lao không vừa.
Hương
hồn liệt sỹ phải thờ,
3340.
Muôn năm tưởng nhớ vô bờ bến xưa.
Thanh
niên nhiệt huyết dư thừa,
Phải học
hành tốt hẹn mùa bội thu.
Dân tình
khổ cực lơ ngơ,
Trợ cấp,
giáo hóa không giờ nghỉ ngơi.
Nguy cơ
phản động muôn đời,
Lấy nhân
lễ nghĩa giúp người đổi thay.
Thận
trọng mỗi lúc xuống tay,
Phòng
ngừa phản loạn, trấn ngay giặc thù.
Tuần lễ
mưa gió mịt mù,
3350.
Trời tuôn nước mắt tiễn đưa Thiên tài.
Trở về
xứ sở Bồng Lai,
Thánh
hiền hội ngộ không ngai ngọc ngà.
Người về
sống dưới mái Nhà,
Sớm đèn
tối lửa với bà con dân.
Tìm
người xưa cũ tri ân,
Gặp bên
đối địch nợ nần cho xong.
Làm
người đều muốn thật lòng,
Nhưng là
tranh đấu phải phòng ngừa nhau.
Ngày
tang đen đậm, trắng phau,
3360.
Mưa rơi tầm tã, mưa sầu, mưa ngâu.
Ngưu
Lang, Chức Nữ[15] qua cầu,
Ô thước
giang cánh nghiêng đầu kết duyên.
Út Vân
sống ở trong Miền,
Không
tin chàng đã về thiên cổ rồi ?
Niềm tin
nhiều thứ chơi vơi,
Tình yêu
chung thuỷ vàng mười còn non.
Thế
Truyền[16] than khóc héo mòn,
Huynh
đi, đệ sống chỉ còn chua cay?
Hai tuần
sau Truyền xuôi tay,
3370.
Theo huynh để nhớ tháng ngày Ba lê !
Cần lao
khóc lóc thảm thê,
Nghe ông
Ba Duẩn “xin thề” xung phong.
Điện
buồn theo mưa ròng ròng,
Lễ nghi
trang trọng tấm lòng đệ huynh.
Miền Nam
bom đạn uỳnh uỳnh,
Ních xơn
nhận thấy viễn chinh sắp tàn.
Việc Nam
hoá cuộc chiến tranh,
Mỹ rút
nhỏ giọt người mình đánh nhau.
Đội quân
các nước chư hầu,
3380.
Tham tiền cố chiến lấy mầu Mỹ chi.
Trường
Sơn rầm rập quân đi,
Lời thề
tang lễ súng tì chắc vai.
Sáu năm
chiến tiếp chặng dài,
Tháng Tư
năm Mão[17] xong bài sử thi!
Chặng
đường dài dặm bước đi,
Bình
minh hé rạng thiên thu gọi về!
Cuộc
chiến tự vệ lê thê,
Láng
giềng hung hãn dao kề cổ ta.
Vang lên
bài "Tiến quân ca",
3390.
Viễn chinh"Thốt nốt"[18] tiến ra biên thuỳ[19]
Non sông
vào thế an nguy,
Cha già
với lính ăn thề từ lâu.
Chiến
trường rừng thẳm vực sâu,
Vãn hồi
hoà hiếu hai đầu núi sông.
Đế vương
luôn lấy chữ đồng,
Nhẫn
nhịn vượt ngưỡng là vung búa rìu,...
Người đi
để lại thương yêu,
Mặt trời
tắt nắng lửa vào lòng dân,
Một đời
thờ phụng chữ “Nhân”,
3400.
Ngải bùa nước Phạn hoá tàn tro bay.
Gia tài
để lại sau này:
Tự do
Độc lập vui vầy anh em.
Ngôi nhà
chỉ một mái sàn,
Bồ câu
tung cánh đầy đàn sinh sôi.
Bờ ao cá
quẫy hóng Người,
Vườn cây
chim hót dưới trời trong xanh.
Chùm
chuông gió thổi thanh thanh,
Nguyện
hồn các loại chúng sanh nước nhà.
Không
châu báu, chẳng ngọc ngà,
3410.
Lòng dân thân thiện vào ra viếng Người.
Ra đi
nhẹ nhõm thảnh thơi,
Tự tin
như thuở biển trời viễn dương.
Để lại
hình ảnh yêu vương,
Đời sau
chiêm nghiệm vào đường nhân sinh.
Thập
toàn khuyết một mối tình,
Không
nên chồng vợ, một mình gối chăn.
Tư tưởng
Chí Minh rõ rành:
Cơm no
áo ấm chúng sanh hài hoà…
Lời quê
sáng tối đậm nhoà,
3420. Để
cho bạn đọc gần xa tỏ tình.
___________________
Làng Đại Yên, Hà Nội,… 2019-2021
[1] Ánh
sáng xế chiều.
[2] Tống
Văn Sơ trong phiên Tòa án xử vụ án Hồng Công
[3] Đại
Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa diễn ra trong 10 năm từ tháng 5 - 1966 đến tháng 10
-1976, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống ở Hoa lục nên
cũng được gọi là "10 năm hỗn loạn". Cuộc cách mạng này được Mao Trạch
Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16 - 5 -1966, với mục tiêu chính thức là
đấu tranh với giai cấp tư sản phong kiến. Tuy nhiên, mục đích chính của cách
mạng này được một số người cho là một cách để Mao Trạch Đông trấn áp lấy lại
quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt bị thất bại dẫn
đến sự tổn thất quyền lực đáng kể của Mao Trạch Đông. Giới trẻ Trung Quốc hưởng
ứng bằng việc thành lập các nhóm Hồng vệ binh trên khắp đất nước, đấu tố cán bộ
các cấp, phá hủy rất nhiều các di tích và hiện vật lịch sử có giá trị,…
[4] Lãnh
đạo cao cấp Việt Nam có tranh luận quan điểm chiến tranh, các chiến dịch được
rút kinh nghiệm, đặc biệt là Cuộc Tổng tiến công chiến lược Mậu Thân năm 1968
và chiến dịch Quảng Trị năm 1972.
[5] Bác
Hồ trên chuyến bay từ Trung Quốc về Việt Nam cuối năm Đinh Mùi 1967.
[6] Trận
Hàm Đan, (259 TCN - 257 TCN) là cuộc chiến tranh diễn ra vào thời Chiến Quốc do
nước Tần phát động tiến công vào kinh đô Hàm Đan của nước Triệu nhằm tận diệt
quốc gia này. Trận chiến này có sự tham gia của bốn nước chư hầu là Ngụy,
Triệu, Sở và Tần với kết quả là liên quân ba nước đánh bại quân Tần. Thiệt hại
rất lớn, xương trắng xóa chân thành, dân lấy làm củi đun. Hàm Đan nay thuộc
tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.
[7] Đống
xương người xưa chết trận bên bờ sông Vô Định tỉnh Thiểm Tây,Trung Quốc. Nước
sông chảy xiết cuốn theo cát, lòng sông chỗ nông, chỗ sâu không nhất định nên
gọi là "Vô định hà". Từ thời xưa trên bờ sông này là bãi chiến
trường.
[8] Bài
thơ Xuân Kỷ Dậu (1969) Bác viết: Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến
chắc càng thắng to/Vì độc lập, vì tự do/Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào/Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào/Bắc Nam
sum họp xuân nào vui hơn!
[9]
Bồ-đề-đạt-ma (470-543), Ông là Tổ thứ 28
và cuối cùng sau Phật Thích-ca Mâu-ni của Thiền tông Ấn Độ và là Sơ tổ của
Thiền tông Trung Quốc. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông đã truyền thụ phương
pháp rèn luyện thân thể cho các nhà sư Thiếu Lâm và dẫn đến việc hình thành môn
võ Thiếu Lâm.
[10] Khi
nhớ lại khoảng thời gian sống cùng Tống Văn Sơ, bà Rô-da Lô-dơ-bai (Vợ luật sư
Lô-dơ-bai trong vụ án Hồng Công) vẫn thường nhắc đến hai loài hoa Bác yêu thích
là hoa huệ và hoa hồng. Bà kể rằng: “Chúng tôi lưu ý thấy Người rất thích hoa
huệ. Nhưng khi tặng hoa cho ai thì Người thường tặng hoa hồng…”
[11]
Trận Thành cổ Quảng Trị là một trận chiến giữa một bên Quân đội Nhân dân Việt
Nam với một bên là Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại khu vực
thành cổ Quảng Trị vào năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt bậc
nhất trong Chiến dịch Xuân Hè 1972, một phần của Chiến tranh Việt Nam. Trận
chiến kéo dài trong suốt 81 ngày đêm, từ ngày 28 - 6 đến ngày 16 - 9 -1972, Hoa
Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã thành công trong việc tái chiếm lại Thành cổ nhưng
vẫn không thể giành lại nửa Bắc của tỉnh Quảng Trị.
[12]
Chiến dịch Linebacker II (còn gọi là Điện Biên phủ trên không) là chiến dịch quân
sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu từ ngày 18-12 đến ngày 30 -12 -1972. Hoa Kỳ đã
huy động máy bay ném bom chiến lược là pháo đài bay B-52 làm nòng cốt để ném
bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn và các mục
tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm. Đây là những cuộc ném bom dữ dội nhất
trong Chiến tranh Việt Nam và là một trong những cuộc tập kích có cường độ cao
nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Trong 12 ngày, Mỹ đã thả hơn 36.000 tấn
bom, vượt quá khối lượng bom đã ném xuống miền Bắc Việt Nam trong toàn bộ thời
kì từ 1969 đến 1971. Thiệt hại quân sự rất lớn nhưng có số liệu khác nhau. Dân
sự có 2.368 thường dân thiệt mạng, 1.355 người dân bị thương.
[13] Võ
Văn Kiệt (đã chú giải). Từ năm 1959 đến cuối năm 1970, ông được giao trọng
trách là Bí thư Khu ủy T.4, tức khu Sài Gòn - Gia Định.
[14]
Nguyễn Văn Linh (1915- 1998) là Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI từ 1986 đến 1991 Từ đây bắt đầu thời kỳ Đổi
Mới của Việt Nam.
[15] Ngưu
Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc
dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bê việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng sáo
của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận dữ, bắt cả hai phải ở
cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông. Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình
nên gia ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau vào ngày 7 tháng Bảy âm lịch.
Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi
xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu,
gọi họ là “Ông Ngâu Bà Ngâu’.
[16]
Nguyễn Thế Truyền (đã chú giải), nghe tin Hồ Chí Minh mất, ông buồn và mất ngày
19 tháng 9 năm 1969 tại Sài Gòn.
[17] Sự
kiện 30 tháng 4 năm 1975, gọi là Ngày 30 tháng Tư, là sự kiện Quân đội Nhân dân
Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam tiến vào thành phố Sài Gòn, Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh cùng nội các tuyên bố đầu hàng vô điều kiện
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vào sáng ngày 30 tháng
4 năm 1975. Ngày này là kết quả trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975 và
là một mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
[18]
Chiến tranh biên giới Tây Nam là cuộc xung đột quân sự giữa Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Campuchia Dân chủ. Cuộc chiến có nguyên nhân từ các hoạt động
quân sự của quân Khmer đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân
và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những năm 1975-1978.Việc đánh đổ Khmer đỏ đã
được thực hiện xong từ năm 1979, tuy nhiên tàn quân Khmer Đỏ (Pol pốt) vẫn còn
tồn tại và đe dọa chính phủ mới tại Campuchia, và Việt Nam đóng quân ở lại
Campuchia trong suốt 10 năm tiếp theo, đến 1989.
[19]
Chiến tranh biên giới 1979, hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt –
Trung năm 1979, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm
1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa 2
nước. Chiến tranh biên giới Việt – Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng kéo
dài giữa hai quốc gia, diễn ra trong khoảng một tháng với thiệt hại về người và
tài sản cho cả hai phía. Xung đột vũ trang tại biên giới giữa hai nước vẫn còn
tiếp diễn thêm hơn 10 năm nữa. Tới năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, Quan hệ
ngoại giao Việt – Trung mới chính thức được bình thường hóa.
Trường
ca Hồ chí Minh
Mục lục
Mở đầu :
Quê hương Gia tộc. 1- 256
Phần I : BẾN NHÀ RỒNG (257-326)
Trường
ca Hồ Chí Minh. Phần II: BÔN BA (327- 480)
Phần II. Bôn Ba (481-580)
Bôn Ba
(581 - 748)
Bôn Ba
(749 - 1000)
Bôn ba (1001- 1200)
Phần II
Bôn ba (1201- 1500)
Bôn ba (1501 -1800)
Bôn ba (1801 -2000)
Phần II Bôn ba (2001-2022)
Phần III. Đế Vương (2023-2200)
Phần III. Đế Vương (2301- 2500)
Đế Vương
(2501 - 2700)
Đế Vương
(2701-3000)
Đế Vương
(3101 -3200)
Đế Vương
(3201 -3420 hết)
Trân trọng bạn đọc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét