XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2019

Rừng Thẳm Tuyết Dày -Chương (1-10)-Khúc Ba

Tên sách : Rừng thẳm tuyết dày
Tác giả : Khúc Ba
Người dịch : Hải Nguyên & Như Hà
Nhà Xuất bản Thanh niên 1991 – Tái bản


                        LỜI NHÀ XUẤT BẢN….

      Cách đây hơn ba mươi năm, Nhà xuất bản Thanh Niên đã giới thiệu với bạn đọc Việt Nam bộ Tiểu thuyết "Rừng thẳm tuyết dày" dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc "Lâm hải tuyết nguyên" của tác giả Khúc Ba, do "Tác gia xuất bản xã" xuất bản Tháng Mười năm 1957 tại Bắc Kinh, Trung Quốc.

      Riêng ở Trung Quốc, chưa đầy hai năm sau khi xuất bản lần đầu, bộ tiểu thuyết đã được in lại tới bốn lần với tổng số gần bốn triệu bản. Điều đó chứng tỏ "Rừng thẳm tuyết dày" được đông đảo bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ tuổi, hoan nghênh. Lớp bạn đọc chúng ta cách đây ba chục năm cũng đã hào hứng tiếp nhận hai lần xuất bản bằng tiếng Việt bộ tiểu thuyết hấp dẫn này.

     Sống dậy trong bộ tiểu thuyết là cả một giai đoạn gian khổ và quyết liệt của nhân dân và các chiến sĩ Giải phóng quân nhân dân Trung Quốc trong cuộc chiến đấu tiễu phỉ, thanh toán nốt tàn quân Quốc dân đảng, bảo vệ những thành quả cách mạng vĩ đại của nhân dân Trung Quốc.

      Bộ tiểu thuyết viết theo thể chương hồi luôn luôn gây hấp dẫn va kích thích trí tưởng tượng của người đọc.

      Những pha lên núi tiêu diệt cha con trùm phỉ Hứa Gậy Gộc, vào hang bắt cọp tóm gọn tên lữ trưởng tinh quái Tọa Sơn Điêu cùng lũ Bát Đại kim cương, vạch mặt và phá rã sức mạnh khống chế của tên trùm đặc vụ đột lốt “Định Hà đạo nhân" và truy đuổi trong cả khoảng rừng thẳm tuyết dày mênh mộng để thanh toán lũ tướng tá cao cấp Quốc dân đảng đã bị "phỉ hóa" như chuyên viên Đảng vụ Quốc dân đảng Hầu Diện Khôn, phó tư lệnh Mã Hy sơn, tư lệnh bảo an quân Tạ Văn Đông...

      Đó là những chiến công của các chiến sĩ trinh sát kỳ tài Dưong Tứ Vinh, chiến sĩ chủ công Lưu Huân Thương, chiến sĩ giao liên Tôn Đạt Đắc, cô y tá xinh đẹp và đa cảm Bạch Như có biệt hiệu là “Bồ câu Trắng...", là sức sống tưởng như vĩnh cửu của các ông già miền núi như ông già Nấm, ông già Dùi, là sức mạnh giác ngộ chân lý trong con người hiệp sĩ Khương Thanh Sơn... dưới sự chỉ huy hết sức khôn khéo và tài giỏi của phân đội trưởng thần kỳ Thiếu Kiếm Ba - một chàng trai mới 22 tuổi, nhưng đã hàm chứa trong bản thân mình trí tuệ của nhân dân, lòng dũng cảm của các hiệp sĩ cách mạng, ý chí quyết chiến quyết thắng của những con người sẵn sàng xả thân vì lợi ích của nhân dân, vì tương lai của đất nước.

     Thoát thai từ cơ sở hiện thực, miêu tả những sự kiện sinh động toát ra từ trong cuộc đấu tranh khẩn trương và quyết liệt, "Rừng thẳm tuyết dày" thể hiện những nhân vật và những hành động dũng cảm phi thường kỳ diệu mà sức cuốn hút của nó đã làm rạo rực cuộc đời biết bao bạn đọc trẻ tuổi của chúng ta.

       Xin gửi đến lớp bạn đọc của ba thập niên sau khi "Rừng thẳm tuyết dày" ra chào đời bộ tiểu thuyết hấp dẫn này, và hy vọng bạn đọc sẽ tìm được hứng thú và sự đồng cảm trong đó…..

                                      NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
                                            Hà nội Tháng 2 năm 1991



HỒI THỨ NHẤT
NỢ MÁU
   
      Một sáng cuối thu, sương mù trắng đất, khí lạnh thấu xương, rét khan ngăn ngắt.

     Kèn hiệu lanh lảnh xé bầu trời yên lặng buổi rạng đông. Trên thao trường, tiếng còi, tiếng khẩu lệnh, tiếng nhịp bước, tiếng hô đâm lê rộn ràng nhưng không rối loạn, quang cảnh thật là hùng tráng.

      Tham mưu trưởng Thiếu Kiếm Ba, quân phục gọn ghẽ, khẩu súng lục óng ánh bên chiếc dây lưng màu da chanh, càng tôn thêm vẻ tuấn tú anh dũng của một viên sĩ quan trẻ mới 22 tuổi. Anh bước nhanh về phía một đơn vị đang tập luyện. Kiếm Ba vừa đặt chân tới một mô đất cao thì đại đội trưởng trực ban cũng vừa dõng dạc hô "nghiêm". Cả thao trường đang sôi sục như biển động sóng cồn, như lửa cháy ngút trời bỗng im phăng phắc. Các chiến sĩ ai nấy đều trang nghiêm đứng tại chỗ.

      Đại đội trưởng trực ban chạy tới trước mô đất, hướng về phía Thiếu Kiếm Ba báo cáo số người và khoa mục, sau đó quay lại ra lệnh:
     - Theo đúng khoa mục cũ, tiếp tục tập!

      Tiếng hô vừa dứt, không khí thao trường càng khẩn trương ồ ạt.

      Kiếm Ba xem xét kỹ lưỡng lối huấn luyện đâm lê của trung đội trưỏng Lưu Huân Thương. Các chiến sĩ thấy có thủ trưởng chú ý tới, ai nấy càng hăm hở tập luyện, khí thế hiên ngang, lưõi lê sáng loáng, động tác dứt khoát, tinh thần phấn chấn. Bốn bề bị lôi cuốn vào quang cảnh oai hùng đó.

      Nửa giờ đã qua, mặt trời vừa nhô một nửa trên ngọn núi phía đông nam. Bỗng viên tham mưu trưởng thông tin liên lạc Trần Kính thở hồng hộc chạy tới phía Kiếm Ba, chào theo kiểu quân sự:  
      - Báo cáo tham mưu trưởng ! Hồi 5 giờ 37 phút, phó tư lệnh Điền gọi dây nói ra lệnh cho trung đoàn ta phải lập tức chọn một tiểu đoàn và một đại đội kỵ binh trang bị gọn gàng, chuẩn bị bôn tập. Tình hình tỉ mỉ sẽ viết giấy đưa xuống ngay. Nhận được mệnh lệnh phải thi hành ngay không được chậm trễ nửa phút. Chúng tôi đang đợi lệnh của đồng chí !

      Kiếm Ba không ngờ có sự thay đổi đột ngột. Anh nghĩ một chút, rồi trả lời Trần Kính:
     - Đồng chí đi báo cáo ngay với trung đoàn trưởng và chính ủy. Tôi sẽ điều động bộ đội tức khắc.

    - Có.

 Trần Kính quay mình chạy ra khỏi thao trường. Kiếm Ba lập tức bảo chiến sĩ giữ hiệu lệnh đang đứng bên
cạnh:
      - Đồng chí ra lệnh cho đại đội kỵ binh cấp tốc tập hợp, đến ngay thao trường, trang bị đầy đủ đợi lệnh xuất phát. Đồng thời ra lệnh cho chính trị viên và tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1, chính trị viên và đại đội trưởng đại đội kỵ binh đến ngay trung đoàn bộ nhận mệnh lệnh.

      Chiến sĩ giữ hiệu lệnh răm rắp làm theo. Phút chốc tiếng kèn inh ỏi vang lên khắp nơi. Người giữ hiệu lệnh lắng nghe tiếng kèn ở các nơi trả lời, lẩm bẩm đếm ::
      - Đại đội 1... Đại đội 2...Đại đội kỵ binh...

      Tiếng kèn vừa dứt thì người giữ hiệu lệnh quay về phía Kiếm Ba báo cáo:
      - Báo cáo thủ trưởng 203, các đơn vị đã nhận được mệnh lệnh.

     Kiếm Ba đang chau mày, suy nghĩ. Anh muốn biết tình hình ra sao, bèn đi về phía chiếc cầu to, nơi bộ tư lệnh đóng quân. Anh vừa đi vừa nghĩ: "Nửa năm trước đây,mấy vạn quân Quốc dân đảng ở vùng Mẫu Đơn Giang đã bị quét sạch, chỉ còn lại mấy đứa đầu sỏ, tiếng là năm lữ đoàn nhưng thực ra chỉ là bọn tướng không quân, vả lại, hiện nay cũng chả biết chúng ẩn nấp ở xó ma nào nữa. Vùng trung tâm thì đang mở rộng cải cách ruộng đất, nơi thì sắp hoàn thành, nơi thì sắp phát động. Bà con nông dân đang lúc ruộng đất trở về tay, gạo trở về bồ, già trẻ trai gái ai nấy đều vui mừng, đâu đâu cũng vang rộn bài hát:
      Ngàn năm cây sắt nở hoa
       Ngàn năm cành héo lại ra mầm hồng….

      Quang cảnh hậu phương hiện nay đúng là thái bình. Bộ đội thì đang khẩn trương luyện tập để chuẩn bị đánh Tưởng...Kiếm Ba chợt nghĩ tới sự chuyển biến mới, nhưng vì đã quen tác chiến nên anh lại nghĩ ngay tới kẻ thù chưa bị tiêu diệt - ừ mà ngụy quyền Mãn Châu, đại địa chủ, thổ phỉ, tuy binh lính của chúng đã bị đánh tan, nhưng bản thân chúng vẫn còn sống sót, mà bọn chúng còn sống thì nhất định là không chịu bó tay đợi chết. Thế nào chúng cũng vật lộn, quấy phá, tìm hết cách để quật lại".

     "Đúng, đúng thế!" Kiếm Ba càng nghĩ càng thấy đúng. Anh đứng ở đầu cầu, nhìn về ngọn đồi phía đông, lẩm bẩm:
       - Trừ giặc không hết, di họa vô cùng!

      Đỉnh đồi chợt bốc bụi mù, hai người phi ngựa lao tới.

     Cảnh vệ Cao Ba, một chiến sĩ trẻ rất linh lợi, chạy vút tới phía ngựa phi, vẫy tay gọi lớn:
     - Đồng chí liên lạc, dừng ngựa lại. Thủ trưởng 203 đang ở đây.

     Hai người liên lạc ghìm cương quay lại, một người dìu ngựa, một người chạy vội tới phía Kiếm Ba, chào rồi trao thư….
  
       Kiếm Ba mở thư, đọc gấp, nét mặt lộ vẻ khẩn cấp, anh quay người đi vội về phía đoàn bộ.

      Trên khoảng tường phía bắc ở trụ sở trung đoàn bộ treo đầy bản đồ quân sự, lúc này tấm màn bảo mật đã được kéo lên, đoàn trưởng Vương, chính ủy Lưu và các cán bộ tiểu đoàn, các cán bộ đại đội kỵ binh, đang phán đoán tình hình và đợi mệnh lệnh.

      Kiếm Ba thoạt bước vào cửa nói vội:
      - Mệnh lệnh đến rồi.

      Mọi người xúm lại quanh anh. Kiếm Ba chuyển mệnh lệnh cho đoàn trưởng Vương. Đoàn trưởng gật đầu bảo:
      - Đồng chí đọc lên xem nào!

      Kiếm Ba mở nhanh thư, mọi người nhìn chằm chằm vào tờ giấy.

      Mệnh lệnh:
      “Bọn đầu sỏ giặc ẩn nấp ở núi sâu, tụ tập khoảng hơn 200 người, mười hai giờ đêm hôm qua (ngày 12) bổ vây thôn Sam Lam, đốt giết càn rỡ. Đội công tác cải cách ruộng đất do đồng chí Cúc, chủ tịch huyện, dẫn đầu đang bị vây. Trung đoàn các đồng chí phái ngay một tiểu đoàn bộ binh với một đại đội kỵ binh gấp rút đi giải nguy. Trước hết dùng kỵ binh triệt đường vào núi của giặc để tiêu diệt kỳ hết”.

     Khi Kiếm Ba đọc tới chỗ đồng chí Cúc, chủ tịch huyện "bị vây", giọng nói bỗng run run, mọi người lo lắng nhìn anh, nhất là chính ủy Lưu lại càng hết sức chú ý.
     - Thưa đồng chí đoàn trưởng: Việc này không thể chậm trễ một phút.

      Tuy Kiếm Ba hết sức trấn tĩnh, nhưng mọi người vẫn thấy anh có vẻ áy náy, bồn chồn.

      Đoàn trưởng Vương ra lệnh:
      - Đúng! Phải xuất phát ngay tức khắc.

      Kiếm Ba rất nóng ruột:
      - Xin cho tôi dẫn đại đội kỵ binh làm nhiệm vụ giải vây và chặn đường về của giặc.

      Đoàn trưởng Vương suy nghĩ một chút, rồi âu yếm nhìn Kiếm Ba:
      - Xưa nay tôi không quyết định như thế bao giờ, nhưng hôm nay...

     Đoàn trưởng đưa mắt nhìn chính ủy Lưu, chính ủy khẽ gật đầu. Đoàn trưởng nói tiếp:
      - Hôm nay thì không có cách nào khác. Thôi đồng chí đi vậy.

     Kiếm Ba hỏi gấp:
      - Tôi có thể đi ngay được chứ ?

      Đoàn trưởng Vương gật đầu. Kiếm Ba vội vã rảo bước ra khỏi cửa.

      Chính ủy Lưu đưa Kiếm Ba ra khỏi cửa và ân cần dặn dò:
      - Đồng chí Kiếm Ba! Đồng chí Cúc là chị ruột đồng chí, nếu đồng chí ấy có mệnh hệ nào thì đồng chí nhớ kỹ là phải hết sức trấn tĩnh mới được.

       Kiếm Ba nằm chặt tay chính ủy:
       - Xin thủ trưởng yên tâm. Thủ trưởng cứ tin tưởng ở tôi...

       Ngoài cửa, Cao Ba đã sửa soạn ngựa chu đáo, đây cũng là thói quen của anh, mỗi khi thấy thủ trưởng có việc cần đi là thế nào anh cũng chuẩn bị mọi thứ hết sức đầy đủ. Anh nay mới 18 tuổi, nhưng đã từng xông pha trăm trận, do đó mọi người gọi anh là "lão chiến sĩ tí hon".

      Kiếm Ba nhảy lên ngựa, phi về phía thao trường tiểu đoàn một, vẫy tay ra hiệu cho đại đội kỵ binh. Đại đội trưởng kỵ binh thấy vậy cấp tốc ra lệnh:
      - Lên ngựa mau!... Tiến lên!

     Tiếng hô vừa dứt, tiếng vó ngựa dồn dập nổi lên, khí thế hùng dũng như thác nước, nhằm thẳng phía núi tây nam phi tới, cát bụi mù trời, hơn hai trăm chiến mã lao mình về thôn Sam Lam.

      Tâm trạng Kiếm Ba cũng cuồn cuộn như vó ngựa phi. Anh nghĩ đến cuộc ác chiến đang đợi chờ trước mắt, nghĩ đến thắng lợi sắp tới. Nhưng rồi anh chợt lo lắng, nghĩ tới ngưòi chị gái đã nuôi mình từ tấm bé: "Hay là có chuyện gì không may xảy ra rồi chăng, không đúng! Chị mình là người rất tháo vát mưu trí, ngay khi còn chống Nhật, đã bao lần chị mình bị nguy với bọn giặc Nhật và Hán gian, có lần cái chết đã treo trước cổ, thế mà chị mình đều tìm cách cùng quần chúng thoát hết mọi nguy hiểm cơ mà".

      "Tình hình địa phương đã ổn định được hơn nửa năm nay rồi, nên chị mình mất cảnh giác đi chăng. Nếu quả như thế, mà bên cạnh chị mình lại không có lực lượng vũ trang gì cả, thi khó mà chống đỡ nổi bọn giặc tập kích bất ngờ ". Nghĩ thế, bất giác anh thấy hoảng sợ vô ngần. Nhưng sau đó anh lại suy nghĩ: "Trong lúc hai bên đánh nhau, không thể mảy may nào trông chờ ở may rủi, mà chỉ có mỗi một cách là đem hết trí tuệ và dũng cảm để chuyển nguy thành thắng".

       Nghĩ tới đó anh thấy sôi sục trong lòng, bèn gấp gáp giục ngựa.
       - Nhanh lên, nhanh lên! Phải nhanh lên lao vào chiến đấu, chỉ có cướp được thời gian mới giành được thắng lợi, mới có thể bảo đảm an toàn cho chị ta, cho các đồng chí bộ đội và cho quần chúng vừa mới vươn mình.

      Chiến mã hí dài, hơn hai trăm kỵ binh ruổi về ngọn núi phía tây thôn Sam Lam, chặn đường rút lui của giặc.
    
      Thôn Sam Lam lúc đó đang lửa cháy ngùn ngụt, khói bốc ngút trời. Kiếm Ba đoán là bọn địch sắp rút hoặc đã rút rồi. Không thể trì hoãn được nữa, anh ra lệnh phải cấp tốc tới đó ngay. Hiệu lệnh vừa phát ra, các chiến sĩ ai nấy gò cương khoa lê, vùn vụt lao xuống núi, vượt qua những cánh đồng cỏ úa, phi tới thôn Sam Lam. Phút chốc cả đoàn kỵ binh đã biến mình vào khói lửa.

      Muộn rồi! Quân giặc đã rút khỏi trước đây bốn giờ, thật là toi công.

      Quang cảnh thôn Sam Lam, ghê thảm kinh người, khắp thôn mênh mông bể lửa. Có nơi lửa cháy đã tàn, nhưng có nơi vẫn đang ngùn ngụt, từng đụn rơm mái nhà trở thành những miếng mồi ngon của thần lửa, làm phụt ra những kiếm lửa dài lồng lộn giữa màn khói đen ngút trời. Một vài con chó bị thiêu chưa chết kêu rên khủng khiếp.

     Khắp thôn không có người chữa cháy, cũng không một người nào gào khóc, mọi người đứng trơ như đá, ai nấy nắm chặt tay, mắt ngầu đỏ căm hờn nhìn ngọn lửa đang nuốt dần những mái nhà thân yêu của mình.

     Kiếm Ba nhảy xuống ngựa, vẫy tay ra lệnh:
     - Chữa cháy….

     Hai trăm chiến sĩ vội vã buộc ngựa, lao mình vào chiến đấu với lửa.

      Kiếm Ba xông xáo khói lửa, xem xét tình hình các nơi. Ở giữa thôn, trên một bãi rộng trước cửa nhà họ Hứa, còn vương một thanh đao lớn đẫm máu tươi, quanh thanh dao ngổn ngang từng mảnh thây người.

      Có đoạn là lưng, có đoạn là đùi, có đoạn là bụng, không còn chiếc đầu nào cả.

     Bên cạnh đó lại la liệt hơn hai mươi xác chết, già có trẻ có, đa số là phụ nữ. Xem kỹ thì là những người vật lộn với giặc để cứu người nhà mà bị giặc giết. Trong số đó, có thây một phụ nữ trẻ tuổi, chỉ mặc một chiếc quần, bụng bị phanh, ruột gan vương vãi cách đấy chừng mười bước, đầu tóc rũ rượi, hai tay nắm chặt y như lúc đang chiến đấu vật lộn.

      Cách đấy chừng 30 bước, cạnh giếng có thây một em nhỏ, bị bóp chết. Chắc là em bé này đã bị giặc giằng khỏi tay mẹ, không rõ mẹ em lúc này ra sao?

      Kiếm Ba rảo tới phía trước, quang cảnh càng thê thảm thương tâm.

      Cạnh giếng nước cho ngựa uống, có chín chiếc đầu lâu bị giặc lấy dây thép xuyên qua lỗ tai treo trên cây liễu, máu tươi đang chảy ròng ròng. Chiếc đầu nào cũng mím môi trừng mắt, chứng tỏ họ tới chết vẫn còn căm thù.

      Liền với đám đầu lâu, có treo một tấm ván gỗ viết mấy chữ "Kết quả cuộc đời của bọn khố rách vươn mình".

       Kiếm Ba lạnh như một pho tượng đồng, sục sôi căm giận, anh quay người trở lại chỗ có thanh đao vấy máu.

      Cạnh đám thây người, có một đống than lớn, nửa thây một bà cụ già đã cháy ra than, còn sót từ ngực và chiếc đầu tóc hạc bê bết từng cục máu đen. Hình như bà cụ đã bị giặc quẳng sống vào đống lửa. Nhìn kỹ, cạnh đó lại còn một chiếc đùi của một em bé chừng năm, sáu tuổi mà phần trên cũng đã bị cháy ra tro còn vương tia khói cuối cùng.

      Cạnh đống tro lại có chừng hơn hai mươi chiếc đòn gánh, bết máu bị lửa hơ khô đông lại như vẩy cá. Không biết là bọn giặc đã dùng những cái này để tra tấn độc ác như thế nào.

      Lửa bị dập tắt rồi, toàn thôn chỉ còn là một bãi tro tàn. Ngói gạch vụn nát vung vãi, mùi khói khét ngột ngạt.

     Trong thôn có phụ nữ chết ngất, có người ngây dại đi. Có người phát điên lên. Nhân dân ai nấy mím môi, trừng mắt bừng bừng căm giận.

      Các chiến sĩ nhặt nhạnh hết các tử thi. Họ tự tay làm lấy tất cả, vì không muốn để quần chúng phải nhìn tận mắt những thảm cảnh của bà con xóm làng mình. Họ là con em của nhân dân, cho nên đối với những người bị giết hại họ cũng coi như cha mẹ, chị em ruột thịt của mình. Họ gượng nhẹ khiêng các xác như sợ người đã chết đau đớn. Rồi họ lại cởi chăn quấn chặt chẽ cho các tử thi.

      Các chiến sĩ đứng chung quanh những người bị giặc giết hại, cúi đầu mặc niệm. Hơn hai trăm con ngựa cũng gục cổ buồn rầu.

      Bỗng hơn hai trăm chiến sĩ vung mạnh cánh tay, giọng nói căm phẫn:
      - Đồng bào thân mến! Chúng tôi đến chậm quá, xin đồng bào tha lỗi cho. Chúng tôi thực là thiếu sót lớn. Xin các cụ và đồng bào hãy thư tâm nghỉ ngơi! Khoản nợ máu này chúng tôi thề nhất định sẽ trả bằng được.

      Hai trăm con ngựa chiến cũng hí những tràng dài ảo não.

      Ở phía tây làng, Cao Ba vừa giụi mắt vừa đi. Trước mặt, Kiếm Ba đang nóng lòng sốt ruột vì không tìm thấy chị mình và đội công tác. Chợt Cao Ba và cụ già tới trước mặt. Cao Ba lấy tay chùi mắt, rồi chỉ về phía núi tây:
      - Thưa thủ trưởng 203, đồng chí Cúc và đội công tác đã hy sinh tại...Cao Ba nghẹn ngào không nói tiếp được nữa, mà chỉ lấy tay trỏ mãi về ngọn núi phía tây.

      Kiếm Ba sắc mặt nhợt nhạt, lòng nặng như đeo đá, hỏi một cách tuyệt vọng:
      - Ở chỗ…

      - Ở trên núi phía tây...

      Cao Ba hãy còn là một chú bé, nên chưa có đủ sự khôn khéo của những người đứng tuổi, thành thử mới nói tới đó đã khóc òa lên…..    

      Kiếm Ba choáng váng như vừa trải qua cơn bom giội ghê gớm, anh thẫn thờ.

      Ông già người làng vừa dẫn Kiếm Ba đi, vừa rủa: “Đồ quỷ dữ! Quân giết người! Tan nát hết rồi, tan nát hết rồi! Trời ơi là trời!"

     Kiếm Ba bước theo như người mất hồn.

     Trên cây thông to ở đồi núi phía tây lủng lẳng chín cái thây, sáu nam, ba nữ, ai nấy đều bị rạch bụng, gan ruột lòng thòng rơi xuống đất, hai tai bị cát cụt, chỉ còn trơ những vết cứa lưỡi lê nhầy nhụa.

     Ông già dẫn Kiếm Ba lên núi, mặt cúi gằm xuống đất, tay ôm lấy mặt không dám nhìn thẳng vào các đồng chí bị giết, miệng lẩm bẩm:
      - Đội công tác, đồng chí Cúc chủ tịch huyện!

       Kiếm Ba thoạt nhìn, mắt mờ đi, đầu muốn vỡ tung, mê mẩn chực gục xuống đất. Cao Ba vừa ôm lấy anh, vừa khóc vừa gọi:
       - Thủ trưởng? Thủ trưởng 203!

       Kiếm Ba gắng sức mở mắt, bình tĩnh, đang định nhìn xác chị, chợt thấy như văng vẳng giọng nói thân thiết của chính ủy Lưu dặn dò trước lúc ra đi: "Đồng chí Kiếm Ba...vạn nhất có chuyện không may xảy ra, thì nhớ kỹ là phải hết sức bình tĩnh". Anh cắn chặt răng, không khóc. Đau thuơng đã biến thành căm thù. Anh chợt nghĩ: "Phải làm nhiệm vụ cái đã. Anh chị em bộ đội đang đợi mình đấy kia". Anh nhìn lại thi thể chị một lần nữa, rồi vội vã xuống núi, ngồi trên một hòn đá lớn, viết thư báo cáo với đoàn trưởng Vương và chính ủy Lưu:
       "Các đồng chí 201, 202. Bọn giặc đã trốn cách đây bốn tiếng đồng hồ, chúng tôi đang cho người theo dõi và đợi lệnh ở đây. Xin cấp tốc đợi lệnh mới".

       Lý Hồng Nghĩa nhận thư, phi ngựa đi ngay.

       Trong lúc đợi lệnh mỏi, các chiến sĩ ai nấy đều viết quyết tâm thư xin cho tiêu diệt bọn thổ phỉ đến tận sào huyệt và bắt sống kỳ hết bọn đầu sỏ để trả thù cho nhân dân.

       Kiếm Ba sai bộ đội trinh sát đi dò xét khắp nơi. Nhân dân trong thôn tụ tập xúm xít chung quanh bộ đội, sụt sùi kể lể mọi nỗi niềm thảm thương. Đứng trước những người đang bị đau khổ, nhất là tình cảm đối với người chị ruột thân thiết của mình, Kiếm Ba tuy cố gắng dung lý trí để nén căm phẫn, nhưng vẫn còn hơi choáng váng. Anh thấy như chị mình cũng đang ở bên cạnh, cũng đang đứng lẫn trong quần chúng kể lể nỗi khổ. Kiếm Ba chợt ngẩng đầu nhìn vào đám đông, nhưng nhìn mãi không thấy có ai là chị mình trong số những người căm hờn đau khổ. Anh bàng hoàng như người đang chiêm bao, và anh cũng hy vọng chuyện đó chỉ là cơn ác mộng.

       Trong đám đông có bà cụ già tóc bạc như cước, mặc chiếc áo rách mỏng, mắt ngơ ngác, hai tay vung vẩy, lẩm bẩm như người điên:
       - Con ta chết, chết, dâu ta chết, chết... Trời ơi! Lấy ai mà nuôi thân già này? Lấy ai mà nuôi thân già này... Bà con ơi! Bà con bảo giùm tôi...

      Một người phụ nữ đứng tuổi, nước mắt đầm đìa, đang bồng một đứa trẻ chừng hai tuổi. Một đứa nhỏ nép sát vào cổ mẹ nó, giương đôi mắt thơ ngây sợ sệt ngước nhìn mặt mẹ, nước mắt của người mẹ chan hòa trên khuôn mặt đứa bé đã tím bầm vì rét. Bên cạnh người đàn bà ấy lại còn có ba đứa trẻ đã lớn hơn, chúng đang ôm chặt lấy chân mẹ, chốc chốc lại ngẩng nhìn mẹ, rồi chùi nước mắt, khóc sụt sịt...

      Kiếm Ba quay người lại thấy bên cạnh mình có một cô gái, đôi mắt buồn rầu, đầu tóc rối bù, đứng trơ như tượng gỗ. Trước mặt có đứa bé chừng năm, sáu tuổi đang náu mình trong vạt áo của cô gái. Đứa bé bất chợt òa khóc: "Chị ơi chị, bố mẹ đâu..". Đứa bé nấc lên không nói nốt được nữa. Cô gái vội cúi đầu lau nước mắt cho em trai, nhưng nước mắt của cô cũng rỏ giọt xuống đầu xuống má đứa em.

      Kiếm Ba bất giác nhớ lại ngày mình còn thơ ấu.

      Khi Kiếm Ba lên sáu, bố mẹ mất cả, hai chị em mồ côi không nơi nương tựa. Lúc đó chị mới 18, làm nghề dạy học lần hồi nuôi em.

      Sáng sáng chị dậy sớm nấu cơm, ăn rồi đưa Kiếm Ba tới trường. Ban ngày chị dạy học, chiều đến chị lại đưa Kiếm Ba về và nấu ăn. Suốt ngày chị vất vả, tối đến lại chăm chỉ tắm rửa khâu vá. Chị lại bảo Kiếm Ba học bài, bao nhiêu thương mến của chị dồn vào đứa em trai côi cút.

      Lúc Kiếm Ba ngủ rồi, chị vẫn còn bận rộn chữa bài cho học trò, có lúc mãi đến canh khuya gà gáy. Đôi má hồng của cô gái ấy dần dần biến sắc. Nhiều đêm mệt quá, chị húng hắng ho, rên se sẽ, có bận chị nức nở nhìn đứa em trai đang say giấc.

      Anh còn nhớ rõ một đêm khuya, tiếng ho và rên của chị làm anh giật mình tỉnh giấc, anh mở mắt mơ màng ngắm chị đang ngồi làm việc bên ngọn đèn con, trong lòng thơ nhỏ phút chốc thấy chua xót. Anh khẽ vén chăn nhỏm dậy, rón rén bước tới bên chiếc bàn sách của chị. Cặp mắt nhỏ của anh chăm chăm nhìn gưong mặt gầy yếu mệt mỏi của chị, rồi rưng rưng nước mắt.
     - Chị ơi, đi ngủ đi!

      Chị quay vội đầu lại, mắt hoa lên, hoảng hốt nhìn đứa em trai rân rấn nước mắt, chị mệt mỏi gượng cười, lấy tay vuốt tóc em, dịu dàng nói:
      - Em Ba, ngủ đi em! Chị không mệt đâu.

      - Không! Chị không ngủ, em cũng không ngủ nữa.

      - Ba! Phải nghe lời chỉ bảo chứ, em ngoan đi, ngủ đi nào.

      Trông chị mệt lắm rồi, chị ạ.
    
      Kiếm Ba cúi đầu, nước mắt lã chã rơi xuống đất. Mắt chị cũng rưng rưng, chị rút khăn tay, lau nước mắt cho em. Chị cố làm ra vẻ khoan khoái để em yên lòng, chị lấy tay vuốt má Kiếm Ba, rồi mỉm cười quay lại nói với em:
      - Em Ba! Em xem chị có mệt đâu nào. Thôi nghe lời chị ! Mau...

     - Chị.

     Kiếm Ba giơ bàn tay nho nhỏ ấm ấm, lùa vào mái tóc rối của chị.
     - Tóc chị rối, má chị gầy, mắt chị đỏ ngầu! Không khéo chị ốm đến nơi mất, em... em...

     Kiếm Ba nức nở:
     - Rồi em biết làm thế nào?

     Chị áp vội đầu Kiếm Ba vào ngực mình, nước mắt giàn giụa. Chị không muốn cho em trai đau khổ, nên sợ nếu mình khóc thì sẽ làm cho em buồn, rồi ảnh hưởng tới tâm tình của tuổi thơ, do đó chị thuận miệng thổi tắt đèn, bồng em đi ngủ.
     - Ừ được rồi, Ba ạ! Em đừng khóc nữa, chị đi ngủ với em đây.

      Được một lát, Kiếm Ba ngủ say rồi, chị nhè nhẹ kéo chăn đắp cho em trai, lặng lẽ tụt xuống giường, châm đèn, lấy đôi tất rách của em ra, tới chỗ mặt rương định lấy hộp kim chỉ, chị hết sức rón rén chỉ sợ động làm em thức giấc. Nhưng bất đồ chị đụng phải chiếc ghế, Kiếm Ba giật mình tỉnh giấc. Tuy vậy, Kiếm Ba không bò dậy mà chỉ he hé mắt, âu yếm nhìn trộm người chị thân yêu.

      Chị len lén nhìn xem em có dậy không, rồi lấy kim vá chỗ tất rách.

      Kiếm Ba bỗng lại thấy chua xót, nhưng Kiếm Ba biết rằng mình có làm như lần trước thì cũng không bắt chị đi ngủ được nữa ; chú bé suy nghĩ một chút, bỗng sợ hãi kêu to:
       - Chị ơi, chị ơi, em sợ, em sợ lắm.

       Kiếm Ba vừa gọi, vừa tung chăn.

      Chị vội vã đến bên Kiếm Ba, luôn miệng gọi:
     - Ba ! Ba ! Đừng sợ! Đừng sợ! Chị ở với em đây! Chị ở với em đây!

       Kiếm Ba lấy đôi tay nhỏ nắm chặt tay chị kéo vào trong chăn. Chị lo em trai vì sợ hãi quá sinh ốm, nên lúc này mới ủ em vào lòng cùng ngủ.

       Năm Kiếm Ba 13, 14 tuổi, chị chơi rất thân với thầy giáo Lý Diệu Quang. Thầy giáo Quang thường trò chuyện với chị tới canh khuya. Mỗi khi thầy đến đều mang tới cho chị một thứ gì, khi thì sách vở, khi thì bản đồ. Thầy giáo Quang coi chị như em gái, coi Kiếm Ba như em trai, không có chút gì ra dáng ông thày cả. Có điều lúc nào hai người trò chuyện với nhau cũng đều tìm cách lánh Kiếm Ba; vẻ bí mật đó càng gọi tính tò mò của chú. Nhưng cứ mỗi khi thầy giáo đến là chị lại vui vẻ, mặt mày hồng hào, đôi mắt sáng ngời. Kiếm Ba rất thương yêu chị, nay thấy người chị gian khổ của mình vui tươi như vậy thì yên lòng vô hạn, nhưng chú lại không hiểu vì sao mà chị được như thế. Mỗi lần chị vui vẻ là một lần chị thường nói cho Kiếm Ba nghe nhiều chuyện nào là dân tộc Trung Hoa vĩ đại, đế quốc Nhật rất hung ác, lao động sáng tạo ra thế giới, người nghèo vì bị bóc lột mà nghèo, người giàu nhờ bóc lột mà giàu... Nhưng còn việc hai người cứ tìm cách lánh Kiếm Ba để nói chuyện riêng với nhau, thì Kiếm Ba vẫn không sao hiểu được.

      Có một lần đang ban ngày, thầy giáo Quang và chị mặt đẫm mồ hôi, vội vã từ ngoài bước vào. Kiếm Ba đang ngồi học bài, chị vừa vào cửa đã giục vội:
      - Em Ba! Em chịu khó ra ngoài chơi một lát nhé!

      Kiếm Ba cho là thày giáo Quang đang cãi nhau với chị, vì vậy chú gấp sách lại, rồi đi ra ngoài. Thấy chị gài then cửa, Kiếm Ba ngây thơ cho đúng là chị và thầy giáo cãi nhau thực, do đó chú bèn len lén nấp ngoài cửa sổ nghe trộm. Nhưng đứng một lúc lâu cũng không thấy cãi nhau mà lại chỉ nghe thấy nói rất nhỏ và rất nghiêm trang.

     Kiếm Ba chỉ nghe thấy chị nói:
     - Chỉ thị của thượng cấp rất chính xác, vụ gặt chiêm là thời cơ rất tốt để đòi tăng tiền công. Lúa chiêm lúc chín rộ ba ngày không gặt là rụng, đó là lúc uy hiếp được bọn địa chủ, phú nông. Lúc này những người canh điền ở năm không làm cho bọn địa chủ,  phú nông phải cuồng quýt lo sợ. Toàn thôn, có 32 người canh điền ở năm, mỗi ngưòi đòi tăng thêm 5 đấu, tổng cộng là 16 thạch, đó là một món lợi không nhỏ đối với người nghèo.

      Thầy giáo Quang cười :  
      - Thế còn những bần nông muốn làm mùa thì sao?

      - Tất nhiên cả hai cùng đòi, hãy để cho bần nông nâng cao giá công, cứ mỗi ngày không đủ 10 cân: không làm, mà trong số bần nông cũng có ba đồng chí, như thế là có thể tiến hành được rồi.

     - Tiến hành như thế nào ?  

     - Đồng chí lãnh đạo bần nông, tôi lãnh đạo những người canh điền ở năm.

      - Trong số người canh điền ở năm thì ai cầm đầu ?

      - Tất nhiên không thể để cho đồng chí Thanh được, bởi vì đồng chí ấy là đảng viên, nếu cầm đầu thì dễ lộ.  

      - Vậy thì ai?

      - Bác Châu và anh Thuyên, họ là người có uy tín trong đám làm thuê dài hạn, vả lại sau đó cũng còn mười người có thể tin cậy được.

      - Được đấy… - giọng thầy giáo Quang vui vẻ, - Chúng ta sẽ tổ chức cuộc đấu tranh trong vụ gặt chiêm này, đây là dịp áp dụng cách đấu tranh mới của công nhân thành thị vào nông thôn. Biện pháp của đồng chí rất hay, quả xứng đáng là một tuyên truyền viên giỏi.

      - Chà, đồng chí bí thư chi bộ ạ, việc thì chưa đâu ra đâu mà đồng chí đã biểu dương người rồi.

     Hai người cùng cười.
  
       Kiếm Ba nghe chuyện, cũng vui nhảy cẫng lên, suýt nữa thì bật tiếng kêu. Nhưng Kiếm Ba nghĩ ngay tới thủ đoạn nguy hại của bọn địa chủ, lại sợ làm cho chị và thầy giáo Quang áy náy, nên chú lặng lẽ lén đi nơi khác. Chú đã bắt đầu hiểu được câu chuyện của hai người, nhưng rất thắc mắc không hiểu những danh từ "đảng viên, đồng chí" mà hai ngưòi nói với nhau là ý nghĩa gì?

      Ba ngày sau quả nhiên cuộc đấu tranh thắng lợi, người canh điền ở năm tăng công 5 đấu, người làm thuê ngắn hạn mỗi ngày được 10 cân.

    Tối hôm đó, chị ở ngoài về, mặt mày hớn hở, se sẽ hát "Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn!...", những đoạn cuối chị hát nhỏ quá, thành ra không nghe thấy rõ, Kiếm Ba mừng rỡ nắm lấy tay chị hỏi:
     - Chị ơi, đảng viên là gì ? Đồng chí là gì ?

     Chị giật mình, nắm lấy Kiếm Ba nghiêm giọng hỏi:
     - Ba, ai dạy em thế? Nói mau! Nói mau!...

     Kiếm Ba bị chị hỏi dồn, hoảng sợ nói vội:
     - Không có ai dạy em đâu. Đấy là em đứng nấp ngoài cửa sổ nghe chị với thầy giáo Quang nói chuyện với nhau đấy chứ...

      Chị thở phào như trút gánh nặng, vuốt má em, âu yếm nhìn em, dặn nho nhỏ:
      -  Từ nay trở đi, em nhớ kỹ chớ nói với ai những điều ấy nhé.

     Kiếm Ba rưng rưng nước mắt, gục đầu vào ngực chị:
     - Chị ơi, chị ơi, em nhớ, em nhớ...

      Chị mỉm cười, hôn nhẹ lên trán Kiếm Ba.

      Năm 15 tuổi, Kiếm Ba được chị và thầy giáo Quang đưa đi tham gia Bát lộ quân. Khi em sắp đi tòng quân, chị lấy một miếng da cừu của mẹ để lại, khâu vào cổ và tay áo cho em, ăn mặc đúng như một chiến sĩ tí hon. Lúc này chị làm đội trưởng tuyên truyền, còn Kiếm Ba thì làm một diễn viên nhỏ tuổi nhất của dội.

      Những lúc diễn vở "Về đội" thì chị đóng vai người mẹ, Kiếm Ba đóng vai con là Đại Bảo. Cả hai chị em đều trở thành những diễn viên xuất sắc rất được các chiến sĩ yêu thích.

     Có lần Kiếm Ba nghịch ngợm làm vỡ chiếc kính cận thị của chị, chị củng vào đầu Kiếm Ba, rồi mắng "Không biết mày đến năm nào mới khôn lớn được. Đồ khỉ ạ". Từ sau ngày mẹ mất, đây là lần đầu Kiếm Ba bị chị mắng. Kiếm Ba khóc nức nở, chị lại thương em kéo vào lòng vỗ về, rồi cũng khóc theo.

      Năm Kiếm Ba 16, hoàn cảnh địch hậu gay go, cơ quan phải di chuyển, các nam diễn viên của đoàn kịch đều được phái đi làm công tác tuyên truyền ở các đơn vị. Kiếm Ba cũng được điều động đi. Kiếm Ba bịn rịn không muốn xa chị, anh thấy ở đời không có ai thân yêu và cưu mang mình như chị nữa.

     Khi chia tay nhau ở trên một bãi cỏ sau làng, dưới ánh trăng đầu xuân, chị ân cần dặn dò như một bà
mẹ hiền:
     - Đi thôi, bây giờ em đã lớn, phải tự lập lấy thân chứ. Các chiến sĩ cộng sản đều thương yêu lẫn nhau, mà hàng ngũ cách mạng là gia đình ấm cúng nhất. Em phải yêu mến các đồng chí, kính mến thủ trưởng như thương yêu kính mến chị ; các đồng chí và thủ trưởng cũng thương yêu và cưu mang em không khác gì chị đâu.

      Kiếm Ba đi được ít lâu, thì chị kết hôn với thầy giáo Quang, hai năm sau thì chị sinh được một cháu gái. Đứa cháu vừa đầy tháng thì Kiếm Ba ở mặt trận về, thoạt bước vào cửa, anh bồng vội lấy đứa cháu, hôn thơm nó :
     - Chị đặt tên cháu là gì ?

     - Đã đặt là gì đâu, còn đợi cậu về đấy.

     Kiếm Ba ngó anh rể hỏi:
     - Nhưng bố nó có đồng ý không đã chứ?

     Anh rể cười:
     - Vợ chồng tôi đồng ý từ lâu rồi!

      Kiếm Ba nghĩ ngợi, rồi lại lấy tự điển ra tìm chữ, hồi lâu chợt nhảy lên reo:
     - Tên này thì hay lắm! Hay lắm!

     - Tên gì nào?

     - Tiểu Thụy.
     Kiếm Ba thấy anh chị vui vẻ, bèn giảng giải :
     - Chị hồi nhỏ rất thích những lông chim đẹp, chữ Thụy nghĩa là chiếc lông đẹp đấy.

      Khi đến Đông Bắc, Tiểu Thụy đã lớn, mà Kiếm Ba cũng trở thành một sĩ quan trẻ tuổi. Những lúc rỗi đi chơi phố, Kiếm Ba thường lấy tiền lương dành dụm của mình ra mua những mảnh vải hoa vụn. Chủ nhật, anh về chơi nhà chị, ngồi gấp những mảnh vải vụn đó thành các bông hoa màu, giắt đầy vào mái tóc và người Tiểu Thụy.

      Có lần nguòi Tiểu Thụy sặc sỡ như một cây đào nhỏ đang nở đầy hoa, Kiếm Ba vui thích cười bảo: "Tiểu Thụy ạ, hôm nay gọi cháu là Tiểu Đào nhé". Có lúc anh giắt đầy hoa trắng vào người cháu, rồi cao hứng bảo:
     - Tiểu Thụy ạ, hôm nay trông cháu giống như một bông ngọc lan, vậy phải gọi là Tiểu Ngọc Lan.

      Có lần anh xếp toàn hoa màu tím gài cho cháu rồi bảo:
      - Hôm nay thì phải gọi cháu là Tiểu Mai Khôi.

     Cứ tới chủ nhật là Kiếm Ba lại làm dáng cho cháu giống một kiểu hoa mới.

     Đổi mãi, đổi mái đã tới hơn mười thứ tên, có điều những tên này chỉ có cậu gọi Tiểu Thụy mới thưa, còn người khác gọi thế nào Tiểu Thụy cũng kệ.....
  
       Có lần chị gọi:
      - Tiểu Mai Khôi!

      Tiểu Thụy dẩu mỏ bảo:
      - Mẹ không được gọi con là Tiểu Mai Khôi.

      - Tại sao?

      - Tại cậu làm dáng cho con, mẹ không làm nên không gọi được.

      Anh rể đứng bên cạnh cười:
      - Đúng đấy con ạ, mẹ con không làm tròn nhiệm vụ nên không có quyền gọi con là Tiểu Mai Khôi.

     Thế là cả nhà cùng cười ầm lên.

     Tiểu Thụy tròn xoe mắt, không hiểu cả nhà cười cái gì, sau đấy nó chạy đến chỗ Kiếm Ba:
     - Cậu ơi, hôm nay tên cháu gọi là gì ?

     Hôm ấy, Kiếm Ba không chuẩn bị, thật khó trả lời. Nhưng anh không muốn làm cháu buồn, nên anh bồng Tiểu Thụy ra ngoài, cho ngồi lên ngựa phi về phía núi. Hôm nay anh định lấy một thứ hoa thực làm dáng cho cháu; nhưng dạo đó cuối thu rồi, ngoài đồng chả chỗ nào có hoa cả, bất đắc dĩ anh phải bẻ cành thông rồi lấy dây buộc chằng lại như chiếc áo tơi khoác vào mình cháu, rồi lên ngựa về nhà. Thoạt về tới cửa, anh chị hỏi:
     - Tiểu Thụy! Hôm nay con tên là gì?

      - Cậu đặt là con Dím!

      Cả nhà lại cười ầm lên.

      Tuy chị đã lấy chồng, có con, nhưng vẫn săn sóc Kiếm Ba như trước. Mỗi khi anh tới nhà chị chơi đùa với cháu chán rồi, là y như chị lại lấy bánh kẹo của Tiểu Thụy ra chia cho Kiếm Ba, làm Kiếm Ba ngượng đỏ mặt nhìn chị:
      - Chị ơi, em lớn bằng ngần này rồi mà con ăn quà của trẻ con à?

     Chị nhìn đứa em trai cao lớn hơn mình nhiều rồi nói :
      - Em lớn rồi à ? Thế mà chị vẫn cứ tưởng em còn bé như ngày nào ấy.

      Đúng thế, mặc dù Kiếm Ba đã cao lớn hơn chị, đã trở nên một sĩ quan anh dũng, nhưng trước con mắt chị, thì anh vẫn là một đứa em nhỏ, vẫn như khi dắt tới trường học, vẫn như hồi còn phải ru ngủ, vẫn chẳng khác gì vai Đại Bảo trong buổi diễn kịch, ngay cả lúc anh ngồi ăn bánh bích-quy, bột bánh rơi lả tả, thì chị cũng thấy Kiếm Ba chả khác gì đứa con gái lên sáu của mình là Tiểu Thụy vậy.

      Mỗi lần Kiếm Ba đến chơi nhà chị là chị lại bảo bỏ áo lót, cởi tất chân đưa cho chị giặt hoặc vá như ngày còn bé. Dù áo quần của chị có phải để cho người khác giặt hộ, nhưng quần áo của Kiếm Ba thì phải do tay chị giặt lấy.

       Không những thế, lần nào chị cũng gội đầu cho Kiếm Ba như ngày nhỏ, vì chị biết tính Kiếm Ba rất lười chải chuốt. Lần nào chị cũng mang nước lại:
      - Đến đây Kiếm Ba! Gội đầu đi em.

      Dáng điệu và giọng nói của chị chả khác gì mười năm về trước :
      - Chị ạ, để về nhà em gội lấy, gớm chị cứ làm như Ià em còn bé lắm ấy.

      Nhưng chị không nghe, cứ kéo Kiếm Ba tới bắt cúi đầu xuống chậu nước, rồi lấy tay chuốt từng sợi tóc. Dưới bàn tay chị, Kiếm Ba lại hoàn toàn thành một đứa bé con.

      Có lần chị gọi Tiểu Thụy lại:
      - Lại đây Tiểu Thụy! Con xem cậu con ở bẩn thế này này.

      Tiểu Thụy chạy đến:
      - Đâu đâu, mẹ cho con xem với! Đúng rồi, cậu ơi, tai cậu đen lắm ! - Rồi nó cũng bắt chước mẹ, lấy bàn tay nhỏ vốc nước kỳ tai cho cậu. - Còn chỗ bẩn này nữa...

     Nó lại rờ rờ vào cổ Kiếm Ba:
     - Ấy lại còn chỗ này nữa... Ấy lại còn chỗ này nữa...

      Kiếm Ba nghĩ tới đó, vẫn thấy như bàn tay chị cùng bàn tay Tiểu Thụy đang vò tóc cho mình, lòng
anh nhói đau như dao cắt:
      - Tiểu Thụy mất người mẹ thân yêu, anh Quang mất người vợ hiền, ta mất người chị kính mến, Đảng mất một người con ưu tú, quần chúng mất một người bạn.

      Kiếm Ba ngẩng đầu nhìn bà con đang đau đớn vì mất người thân yêu như mình, trong lòng lại thấy đau nhói thêm, anh mím chặt môi lại. Kiếm Ba không chịu được nữa, anh lùa vào trong áo như chực nắm lấy chỗ đau, nhưng anh lại nắm phải một vật mềm mềm, ấm ấm ở ngực. Vì anh dùng sức mạnh quá, nên thấy cổ bị kéo giật đau đớn, gây cho anh nhớ lại một chuyện cũ.

      Hồi đó là năm Kiếm Ba 18, sắp tham gia bộ đội chiến đấu. Đối với đứa em trai sắp phải xa mình, chị đã săn sóc chu đáo từng ly từng tí. Chị biết bộ đội chiến đấu thưòng phải bò ở núi, ngủ ngoài trời, nên dễ bị đau bụng, do đó chị lại tháo những mảnh da cừu của mẹ để lại mà ngày xưa mình đã khâu vào cổ và tay áo cho em ra, lấy kim đính liền từng mảnh lại làm thành một cái che bụng cho em. Chiếc dây buộc cái chắn bụng đó cũng là của chị mua cho từ hồi chị còn làm cô giáo trường làng, tiền mua dây, chiếc dây khóa bạc đó là chị đã phải dành dụm mấy năm mới được. Chị định bụng mua chiếc dây này là để khi nào Kiếm Ba cưới vợ thì sẽ mừng cho. Người chị gái trẻ tuổi ấy đã lo tính cả đến chuyện gia đình tương lai cho đứa em còn nhỏ dại.

       Tấm da chắn bụng là do từng mũi kim của chị khâu liền lại. Mỗi mũi kim, mỗi sợi chỉ, mỗi chiếc lông cừu đều còn mang dấu tay của chị, còn chứa đầy lòng chị thương em. Chiếc dây đã thấm bao nhiêu sức lao động của chị, chị phải viết, phải vẽ, phải sửa từng chữ, phải chữa từng câu, nó đã gắn chặt cái tình cảm nồng nàn vô cùng của người chị đối với đứa em trai.

      Lúc này Kiếm Ba chợt thấy toàn thân nóng rực, chiếc dây đeo ở cổ và tấm da chắn bụng đều là trái timmuôn dời đầy nhiệt tình của chị.

      Trong những giọng kể lể nỗi niềm của quần chúng, anh nghe như có cả tiếng Tiểu Thụy:
       - Cậu ơi, hôm nay tên cháu gọi là gì hả cậu? Cậu ơi, cháu với mẹ cháu gội đầu cho cậu nhé... Mẹ cháu ở đâu hở cậu?

      Trong những giọng kể lể nỗi niềm của quần chúng, anh nghe phảng phất có cả tiếng nói của chị, tiếng ho và rên khi chị ngồi làm việc bên ngọn đèn con, tiếng chị giảng bài, có tiếng chị hát ru Kiếm Ba ngủ, có tiếng ngân ca không dứt của chị hồi ở bộ đội, có tiếng gọi dịu dàng: "em Ba, Ba", có cả tiếng trò chuyện yêu đương với chồng nữa... Anh lại thấy tấm da chắn bụng rung động, tiếng rung động ấy cũng chả khác gì khi Kiếm Ba được chị bế nằm gọn trong lòng nghe tiếng trái tim chị đập nhịp. Nhưng tất cả những âm thanh đó đều như nói lên:
      - Em Ba! Đừng khóc! Giết giặc! Báo thù!

      Lúc này đau thương đã biến thành sức mạnh, ngọn lửa căm hờn, ngùn ngụt bốc qua ánh mắt Kiếm Ba.

       Bỗng tiếng ngựa phi làm đứt quãng cuộc đời nhớ lại của anh. Trung đoàn trưởng Vương và chính ủy Lưu đã xuống ngựa ngay trước mặt anh.

      Kiếm Ba hết sức nén nỗi cảm động, đứng thẳng người trước các đồng chí trung đoàn trưởng và chính ủy để báo cáo tình hình. Khi nói tới chỗ chị mình bị giết một cách thê thảm, thì không còn nói ra tiếng  nữa.

      Trung đoàn trưởng Vương và chính ủy Lưu cùng tất cả quần chúng và các chiến sĩ có mặt ở đó đều im lặng, bỏ mũ mặc niệm.

      Trung đoàn trưởng nói:
     - Chúng ta không làm tròn trách nhiệm, thực hổ thẹn vô cùng!

      Chính ủy Lưu nói:
      - Chúng ta rất đau xót trước sự hy sinh của đồng chí Cúc và các đồng chí khác...

      Rồi đồng chí ngẩng đầu, vung cao nắm tay hô lớn:
      - Chúng ta thề phải tiêu diệt kỳ hết bọn thổ phỉ Quốc dân đảng, thề báo thù cho những người đã chết….

      - Báo thù! Báo thù...

     Toàn thể chiến sĩ và bà con đều hô theo chính ủy Lưu, tiếng vang như sấm dậy:
      - Chúng ta phải trả cho xong khoản nợ máu! Chúng ta thề báo cho được mối thù máu này!
..........................
                           
HỒI THỨ HAI
THẰNG “HỨA GẬY GỘC” VÀ CON “YÊU BƯƠM BƯỚM”

      Binh đoàn dũng mãnh nhằm núi Ông Già thẳng tiến.

      Bộ đội như con dao gọt đầu, phải gọt sạch núi Ông Già để diệt hết lũ phỉ. Các chiến sĩ giận chưa bắt được bọn đầu sỏ để băm xé, để đập tan xương bọn chúng.

      Mỗi chiến sĩ còn văng vẳng bên tai những lời uất giận của quần chúng, những tiếng khóc nấc của phụ nữ, của trẻ em. Hận thù như dao khắc trong tim gan. Lòng người chiến sĩ rạo rực căm hờn như nước sôi lủa bỏng.

      Hôm qua, vừa mới đêm hôm qua thôi, mọi người trong thôn Sam Lam còn đang ngủ say, đầy hạnh phúc, chủ tịch Cúc và các đồng chí trong đội công tác còn đang vui mừng trước thắng lợi của quần chúng đã vươn mình, và giúp đỡ quần chúng đặt kế hoạch sản xuất. Đêm khuya rồi, các đồng chí cũng vừa mới đi ngủ.

     Thôn Sam Lam nằm yên trong đêm trường. Trời không có mây, muôn ánh sao lấp lánh. Chung quanh là đồng ruộng và rừng sâu lặng ngắt. Bỗng nhiên từ trên đồi phía tây nam, lóe lên một quả pháo sáng tín hiệu. Tiếp theo những tàn pháo sáng rơi xuống là những tiếng hò hét điên cuồng, những tiếng đập cửa thình thình nổi lên từ bốn phía. Những tiếng đánh xé xen lẫn với những tiếng khóc rống của phụ nữ trẻ em.

      Phút chốc, từ nơi để ngựa xe của nhà họ Hứa bùng lên một khối lửa ngất trời, cả thôn Sam Lam thành rối loạn.

     Bọn phỉ, từ các nơi các ngả, giải những cán bộ của đội công tác và cán bộ thôn về phía lửa sáng. Dưới ánh lửa sáng rực, lộ ra mặt mũi hung ác của bọn phỉ.

      Thằng Hứa Gậy Gộc, đứng bên đống lửa, trừng hai mắt như mắt ngựa, hai tay nắm để ngang lưng, râu ria xồm xoàm. Cái thân béo phị của hắn đứng dưới ánh lửa bập bùng giống hệt như một tên hung thần. Nó nghiến răng lại, quay về phía các đồng chí đội công tác và cán bộ thôn, cười nham hiểm:
      - Đảng cộng sản ! Đồ khố rách áo ôm!...

      Chủ tịch Cúc đứng trên hàng đầu quát lên:
      - Hứa Gậy Gộc! Mày là thằng Hán gian, mày là thằng ác bá giết người, mày là con dã thú...

      Không để chị chửi nốt, một tên phỉ lấy cái khăn tay tọng vào mồm chị.

      Hứa Gậy Gộc cười hì hì, tiến lên một bước:
     - Đảng cộng sản ! Thử xem mồm mày cứng hay con dao của lão Hứa này cứng?  

      - Ai sợ dao của mày, sợ dao đã chả làm cách mạng.

      Anh em cán bộ đều trừng mắt lên, nhìn thẳng vào mặt bọn quỉ sống.
      - Chúng mày giỏi !  

      Hứa Gậy Gộc vênh vang cười nhạt:  
      - Chúng mày chia ruộng của tao, cướp nhà của tao. Chúng mày đuổi tao vào rừng sâu gió rét, mẹ chúng mày, tao cho chúng mày xuống hố mà uống nước rác....

      - Mẹ chúng nó, cho chúng nó xuống địa ngục! Hừ! Bọn khố rách áo ôm kia! Thử xem ai đấu ai nào?

       Một con mụ yêu tinh đằng sau thằng Hứa Gậy Gộc bước ra. Mặt ả giống như một cái bắp ngô vừa dài, vừa gầy, vừa vàng, mồm thì đầy những răng vàng, đít đi thì vẹo vọ. Ai cũng biết đó là con mụ Yêu Bươm Bướm.  

      Cặp vợ chồng quỷ sứ giết người này chính là những tên nợ máu của suốt một dải Mẫu Đơn Giang. Mấy chục năm trước đây, ngay nghe đến tên chúng nó, người ta đã sợ rồi.

      Con Yêu Bươm Bướm là con gái tên đại địa chủ Ba Khương "lợn ỷ" ở Trấn Tiên Động. Địa chủ Khương có hơn hai nghìn mẫu ruộng, nhà cao cửa rộng, trâu ngựa hàng đàn, vú già, gái hầu nhiều vô kể. Hắn lại có riêng hơn một trăm tráng đinh chuyên mang súng dỡ nhà. Ba Khương "lợn ỷ" làm mưa làm gió một đời, nhưng có một điều hắn lấy làm đau lòng rơi lệ. Hắn trước sau đã lấy bảy vợ, song vẫn không có con. Muốn có con, hắn đã không biết bao lần lên miếu cúng thần, vào y viện xin thuốc, tìm thầy bói để bói. Hắn đã tìm mọi cách, song vẫn vô hiệu quả. Người ta thường chửi sau lưng hắn: "Đồ thất đức, đồ tuyệt tự!”..

       Vào khoảng năm 53 tuổi, hắn lấy vợ thứ năm. Con mẹ này là một gái đĩ hạng nhất ở thị xã Mẫu Đơn Giang, tên là Hải Thường Hồng. Ba Khương "lợn ỷ" mua về được bảy tháng, thì ả đẻ được một đứa con gái còm róm. Người ta thường bàn tán sau lưng hắn rằng: "Chả biết là giống nhà ai?"

      Dù sao, về hình thức cũng là "con dòng cháu giống" nhà họ Khương, nên được một trăm ngày, hắn cũng mời hơn 60 mâm khách làm lễ "bách nhật" cho con. Nhưng vì đứa trẻ chỉ là con gái, nên Ba Khương "lợn ỷ" vẫn chưa thỏa. Bởi thế năm 58 tuổi hắn lại lấy luôn hai vợ nữa. Kết quả vẫn không con.

      Khi đứa con gái quý hóa đó được 7,8 tuổi, không những nó đánh đập các hầu gái, vú già trong nhà, mà còn lấy phất trần đánh cả các mẹ nó, chỉ trừ mẹ đẻ ra nó là Hải Thường Hồng.

      Bố nó hút thuốc phiện, ngày nào nó cũng năm bên hút vài điếu. Mới 13 tuổi đầu đã thành gái nghiện.
      
       Nếu bàn đến tướng mạo con mẹ này thì thật là đáng ghê tởm. Mặt thì dài quá khổ: chiều rộng và chiều cao không tương xứng, đúng như một cái bắp ngô chắp vào cổ vậy. Để che cái khó coi đó, nó chải   mớ tóc trước trán thật dài che gần đến lông mày. Nhưng cú vẫn hoàn cú. Lại còn những mụn tàn hương phủ đầy trên làn da mặt khô vàng, thật là đen vàng quá phân minh. Để cứu chữa, nó trát phấn thật nhiều, nhiều đến nỗi, mỗi lúc nó chớp mắt là phấn rụng xuống lả tả. Răng nó, vì hút thuốc phiện, nên  vàng khè. Đã thế nó càng làm cho vàng hơn bằng cách đem bọc vàng tất. Mỗi khi nhe răng ra cười là chói ngời thiên hạ.

      Vì tướng mạo cô "khuê nữ" như thế, nên trong nhà họ Khương có hai chữ phải kiêng: một là kiêng chữ "dài", hai là kiêng chữ "dày". "Dài" thì phải nói "không ngắn", "dày" thì phải nói là "không mỏng".

      Nhưng tại sao nó còn mang cái tên yêu ma nữa là con "Yêu Bươm Bướm"? Điều đó cũng có nguyên do chính vì Khương Tam Tiểu Tử vốn không có con trai, chỉ có một có "khuê nữ" qúy hóa ấy, nên hắn muốn chọn một người rể để phụng dưỡng tuổi già và thừa hưởng gia tài của hắn. Được tin, khắp nơi xa gần, từ cậu ấm nhà quan đến con cái nhà địa chủ đều nô nức tìm đến. Cố nhiên, những chàng công tử này thực ra chẳng phải lấy người, mà chỉ là muốn lấy của. Nhiều người dạm hỏi như thế càng làm cho cô ả bỗng nhiên cao giá thêm. Nỗi phiền muộn không con của Khương Tam Tiểu Tử cũng tiêu tan dần. Hắn kén người này, chọn người kia, cố tìm một chàng rể quý. Cô ả cũng suy hơn, tính thiệt tìm lấy một người tình nhân vừa lòng. Vì thế, ả vừa ý anh này được ba hôm, anh kia được dăm hôm, rồi lại thay đổi ý kiến ngay. Mặt mũi thì xấu như quỷ, nhưng ai đến hỏi cô ả cũng khen "đẹp như tiên"!

      Rõ thật là:
      ''Ông say chẳng phải vì men.
       Ông yêu chỉ bởi cô em lắm tiền".

      Trước tình hình đó, Khương "lợn ỷ" và "cô tiểu thư" lại càng đắc chí. Khương "lợn ỷ" suốt ngày nằm dài trên sập, tay nâng dọc tẩu, lòng đầy vui sướng, dề mồm ra, ngâm dằn từng chữ:
      "Một đóa hoa tươi,
       Bướm ong bay lại bời bời
       Con gái ta sắc đẹp tuyệt vời!
       Đúng thực con Yêu Bươm Bướm"!

       Từ đó tên "Yêu Bươm Bướm" được truyền đi, một thành mười, mười thành trăm, xa gần bốn phương đều biết.

       Người nào nghe nhắc tới cái tên đó cũng đều phì mũi, bĩu môi và bật cười. Có người đã đặt câu thơ chửi sau lưng nó rằng:
       "Cô như hòn cứt bên sông.
        Chung quanh một lũ bọ hung tranh giành".

        Khương "lợn ỷ" kén rể. Yêu Bươm Bướm chọn chồng, kén chọn mãi mười năm rồi chưa được. Yêu Bươm Bướm đã 29 tuổi. Thanh niên công tử thì không ai muốn lấy nó nữa rồi. Đó cũng là cái may cho Hứa Gậy Gộc. Hứa là nguòi thôn Sam Lam, mình cao sáu thước, lưng to vai rộng, lông đen đầy người, đầu trọc lốc, lông mày sâu róm, râu rậm, môi dày. Họ Hứa nhà nó không biết đã mấy đời làm ác bá ở thôn Sam Lam này rồi! Nhà nó nuôi rất nhiều bọn lâu la chó săn, không những cướp tiền mà còn cướp người. Người bị bắt về thôn Sam Lam hoang vu này biến thành nô lệ cho nhà họ Hứa. Họ phải đi phát rẫy khai hoang ở vùng đất đen trong rừng Sam Lam. Từ mấy đời nay, những người ấy đã khai phá hàng ngàn mẫu ruộng cho nhà họ Hứa. Cho đến nay, nhân dân còn lưu truyền một bài ca "oán hận muôn đời".

      Thằng Hứa giống Diêm Vương
       Nuôi một bầy quỷ sứ
       Tay cầm bùa "cầu hồn"
       Bắt người về giam giữ!
       Bé bắt đi chăn dê
       Già cho hổ ăn thịt.
       Thanh niên còn mạnh khỏe
       Bắt làm trâu kéo cày.

       Lại nói chuyện về Hứa Gậy Gộc. Sau sự biến 18-9-1931(Năm Dân quốc thứ 20), giặc Nhật chiếm Đông Bắc, sửa lại trạm phát điện hồ Kính Bạc. Chúng bèn gọi tên Diêm Vương, vốn quen nghề cai quản nô lệ ấy ra giúp chúng coi phu, Hứa Gậy Gộc liền đem theo cả bầy lâu la chó săn của nó, giao cho mỗi đứa một cái gậy thật lớn để tha hồ đánh đập nhân dân bị bắt đến làm phu.

      Sáng nào cũng vậy, chúng tập hợp phu lại và học theo chủ nó là Nhật Bản, đánh cho mỗi ngưòi ba gậy! Mọi người gọi bọn chúng là bọn "Gậy Gộc" con.

       Mùa đông năm ấy nhân dân làm phu, quần áo bị rách nát, bị bắt lên làm trên núi Trường Bạch. Bị đói rét và đánh đập cực khổ, mọi ngưòi không chịu nổi, nên một buổi sáng đã vùng dậy đánh chết mấy tên chó săn, rồi chạy xuống núi. Không may, họ bị quân Nhật canh gác bắt được và giao lại cho Hứa Gậy Gộc. Con quỷ này, nhờ một đơn vị quân Nhật giúp đỡ, đem chôn sống 70 người. Có một số người ốm đau vì đói rét, Hứa Gậy Gộc cho lựu đạn ra phá một mảnh băng ở giữa hồ,rồi đem dìm họ xuống đó. Bọn lâu la đắc ý reo cười:
       - Mẹ ôi! Những vật vất đi này còn có tác dụng nuôi cá! Sang năm cá trong hồ béo phải biết. Hừ! Đợi mà ăn cá béo chúng mày ơi!

     Từ đó về sau, Hứa Gậy Gộc nghĩ ra một kế đề phòng phu chạy trốn. Buổi sáng, trước giờ làm việc, nó bắt lột hết quần áo của phu để vào một chỗ, rồi cho chó béc-giê đứng canh. Sau đó, chúng bắt anh em phu trần truồng đi làm. Nó lấy làm đắc ý về hành động tàn bạo ấy.
      - Nào xem chúng mày không quần, không áo có chạy nữa không.

    Mùa hè năm đó, Ba Khương "lợn ỷ" được Nhật Bản mời, cùng với một số đông cường hào, địa chủ đến tham quan hồ Kính Bạc. Con Yêu Bươm Bướm cũng đi theo. Yêu Bươm Bướm đến đấy được thấy phong cảnh đẹp đẽ của hồ Kính Bạc, lại thấy Hứa Gậy Gộc ở nhà tây, ăn cơm tây, mặc áo tây, lấy làm thích lắm, chỉ tiếc rằng Hứa Gậy Gộc đã có bốn con giai. Con cả là Hứa Phúc 28, 29 tuổi, xấp xỉ bằng tuổi Yêu Bươm Bướm, to lớn như bố nó. Con thứ hai Hứa Lộc, 26, 27 tuổi, mũi như mỏ diều hâu, mắt như mắt khỉ.

      Con thứ ba là Hứa Chính, con thứ tư là Hứa Tường, tuổi chừng 18, 19. Bốn đứa đều tự xưng là "bốn công tử họ Hứa", suốt ngày chỉ đi bắn súng, cưỡi ngựa, chơi với chó béc-giê. Thêm vào đó, bọn lâu la lại càng ỷ thế hoành hành, suốt ngày rượu say bí tỉ làm loạn ngoài phố. Yêu Bươm Bướm từ đó đi lại ăn uống với Hứa Phúc, có lúc hai đứa đem chăn màn lên núi ở với nhau hàng mấy ngày mới về.

       Yêu Bươm Bướm trong lòng rất muốn lấy Hứa Phúc, nhưng Hứa Phúc thấy mặt Yêu Bươm Bướm cũng khó coi, hơn nữa nó đã có hai vợ rồi, nhà vợ vừa có tiền, có thế, cho nên nó cũng chỉ chơi lăng nhăng rồi bỏ. Từ đó về sau Yêu Bươm Bướm lại thưòng đi với Hứa Gậy Gộc, già gấp đôi tuổi nó. Hứa Gậy Gộc bèn lấy nó làm vợ ba.

      Giặc Nhật, vì thấy Hứa Gậy Gộc coi phu tốt, nên thăng cho nó làm cảnh sát trưỏng thị xã Mẫu Đơn Giang. Gặp lúc Ba Khương "lợn ỷ" chết, Yêu Bươm Bướm đem toàn bộ gia tài về với Hứa Gậy Gộc và làm bà ba quan cảnh sát trưởng.

      Thế lực của Hứa Gậy Gộc càng to lớn, thì Yêu Bươm Bướm và bốn anh em Hứa Phúc càng thêm hung ác. Bọn chúng bắt phạm nhân làm bia để tập bắn. Có lúc treo lên cây bắn. Có lúc trói vào cọc, rồi phi ngựa bắn. Con Yêu Bươm Bướm đứng đó, cứ thấy bắn một vài phát không trúng là nó thả chó béc-giê và thúc chó cắn chết tươi phạm nhân.

      Trong việc giết người bọn chúng còn học ở giặc Nhật một lối hình phạt tàn bạo nhất: kiểu chém người. Có lúc dùng gươm Nhật chém ngang lưng, một nhát thành hai đoạn, gọi là kiểu "Bươm bướm bay". Có lúc chém chéo từ vai đến ngang ngực gọi là kiểu "Hạc rơi". Có lúc từ đỉnh đầu chém xuống, chẻ ngưòi làm hai gọi là kiểu "Vũ tạng".

      Sau khi giặc Nhật đầu hàng, giặc Tưởng và bọn thân Nhật họp làm một. Hứa Gậy Gộc trở thành một yếu nhân của Quốc dân đảng vùng Tấn Tuy. Hứa Phúc cũng giữ chức tham mưu trưởng. Bố con tha hồ khoác lác:
      - Nhà ta làm quan ba triều, thay triều đổi đại; song không thể thay đổi được giang sơn nhà ta.

      Nó xây dựng cho Quốc dân đảng một lực lượng vũ trang bao gồm những bọn địa chủ, ác bá, thân Nhật cảnh sát, thổ phỉ, phường nghiện, rồi nó bắt ép rất nhiều tráng đinh đi lính. Có lúc quân số đã lên tới trên một vạn, đưa đi tấn công giải phóng quân và giết hại nhân dân.

      Quân chủ lục của ta đến Mẫu Đơn Giang, đánh luôn ba trận, bôn tập tại sông Mã Liên, mai phục Vũ Phượng Lâu và truy kích ở Tiên Động, Tử Hà, về căn bản đã tiêu diệt bọn chúng. Còn lại hơn 200 đứa rút lui vào khu rừng sâu của núi Ông Già, hơn nửa năm nay chưa tìm thấy tông tích.

      Thôn Sam Lam từ mấy đời nay vốn là sào huyệt của bọn cầm đầu thổ phỉ. Thời kỳ cải cách ruộng đất vừa qua, thôn này là thôn trọng điểm của miền rừng Quần chúng đã đánh đổ tên "Diêm Vương sống” chấm dứt được nỗi oán hận thiên cổ, đưa lại niềm vui sướng muôn đời. Mọi người đã vui tươi hát ca được sống hạnh phúc và công ơn cách mạng.

      Nửa năm nay, người ta thường bàn tán rằng Hứa Gậy Gộc đi Cát Lâm rồi. Có người nói nó đã đi Thẩm Dương theo Hầu Điện Khôn. Cũng có người nói nó vào trong núi trồng thuốc phiện. Nào ai ngờ, con ác quỷ ấy ngày hôm nay lại xuất hiện! Nó từ đâu đến ? Chẳng ai hiểu được.

      Giờ đây đứng trước con quỷ hung ác này, đội công tác và cán bộ thôn cùng hết thảy quần chúng đã biến sợ hãi thành uất giận và biến uất giận thành lực lượng bất khuất. Trong lúc pháp trường của thổ phỉ chưa chuẩn bị xong, trong lúc Hứa Gậy Gộc và Yêu Bươm Bướm đang đắc ý cưòi nói, chủ tịch Cúc được một đồng chí bị trói đứng bên cạnh, dùng răng cắn lấy được miếng khăn mặt ở mồm chị ra, chị hô to:
      - Các đồng chí! Chỉ có đấu tranh mới thắng lợi! Liều đi!

       Lời hô chiến đấu của chị khích động tinh thần mọi người, hơn hai chục đồng chí lấy vũ khí duy nhất của mình là nắm tay, tấn công vào bọn thổ phỉ đầy đủ gươm súng. Trên quảng trường trước nhà ngựa xe họ Hứa, bên đống lửa đỏ rực, diễn ra một trận chiến đấu quyết liệt, tàn khốc. Tất cả đều rối loạn! Trong trường hợp hỗn độn như thế này, rất có thể chạy trốn. Nhưng các đồng chí còn có bạn chiến đấu của mình ở đây, gia quyến mình còn ở trong nanh vuốt của lũ giặc, nên không một ai tham sống sợ chết chạy lấy một mình. Họ đều nghĩ rằng thêm một người là thêm một phần lực lượng.

      Trận chiến đấu thất bại, vì ít người không địch nổi bọn giặc nhiều người.

      Chủ tịch Cúc cùng tám đồng chí đội công tác bị bọn phỉ lấy một sợi dây thật to, xuyên qua vai và xâu vào với nhau như một xâu cá. Còn cán bộ thôn thì bị bọn chúng đánh có người ngất đi. Chúng đến đống củi gần đấy lấy về hơn một chục cây gỗ, rồi buộc một cây ngang, một cây dọc thành những giá chữ thập. Sau đó, chúng đem cán bộ thôn dùng dây thép buộc chặt hai chân, hai tay vào giá chữ thập ấy. Dây thép quấn chặt, ăn vào đến thịt, làm cho chân tay các anh em từ đau đớn trở thành tê dại, và từ tê dại thành không biết đau nữa, nhưng mồm các anh em không lúc nào ngừng chửi rửa thổ phỉ.

      Ba tên phỉ khiêng đến một con dao cắt cổ thật to và ném xuống đất kêu đánh "xoảng".

      Hứa Gậy Gộc liếc nhìn nói:
      - Hừ! Đối phó với bọn khố rách áo ôm này, hãy thử loại dao này xem! Tốt lắm! Đây mới là lần thứ nhất...

      Đám chủ tịch Cúc tất cả chín đồng chí chợt thấy con dao cắt cổ to lớn ấy, thì lửa giận bừng bừng không quản đau đớn, nhảy xổ vào phía Hứa Gậy Gộc. Nhưng ngay hai bước cũng không tiến lên được, sợi dây thép vô tình đã kéo họ lại. Bọn phỉ đã từ lâu buộc chặt sợi dây thép đó vào cái cây ở đằng sau các đồng chí….
..........................
     Hứa Gậy Gộc cười ha hả:
     - Nào thử xem chúng mày muốn trổ tài gì nữa nào? - Rồi nó quay đầu lại giục: - Mau lên!

      Bọn phỉ từ bốn phía dùng roi ngựa, gậy gộc, báng súng, đánh đập gái trai, già trẻ và dồn họ về cái cửa địa ngục này.

      Vợ thôn trưởng Ngô Thiết Sinh, khóc sướt mướt, tay ôm đứa con còn bú, đầu tóc rũ rượi, cũng đang bị đánh và dồn về đây. Ở đằng sau là hai đứa con gái sinh đôi của chị, không mặc quần, bốn cái đùi khẳng khiu. Chúng vừa nắm tà áo mẹ vừa khóc:
      - Mẹ ơi! Mẹ ơi!
      Bà mẹ chủ tịch nông hội Lý Sùng Nghĩa, hơn 70 tuổi, đầu tóc bạc phơ, ôm đứa cháu bồ côi mẹ từ hai năm nay, bị bọn phỉ đánh ngã. Bà cụ bò dậy lại bị chúng vừa đá, vừa đánh lôi về.

      Vợ chưa cưới của ủy viên nông hội Trình Tiểu Vũ, bị lột hết áo, chỉ còn lại một mảnh quần. Thằng Hứa Lộc nắm lấy tóc chị, quật ngã xuống, lấy hai chân đạp lên người chị, rồi lại túm tóc kéo đi.

      Chuẩn bị xong, bọn phỉ cho thêm củi vào đống lửa. Lửa cháy bừng bừng, càng chiếu rõ thêm bộ mặt quỷ sứ hung ác của bọn thổ phỉ đang méo miệng, nhe răng cười nói.

      Yêu Bươm Bướm õng ẹo, ngoảnh về phía Hứa Gậy Gộc và Hứa Phúc the thé nói:
      - Thế nào? Ông nhà và anh cả? Bắt đầu đi chứ!

      Hứa Gậy Gộc gật đầu: "Ừ!"

      Hứa Phúc vung tay hô to:
      - Bắt đầu đi! Bảo bọn khố rách vươn mình đi!

      - Đúng rồi! - Yêu Bươm Bướm gật đầu, gọi the thé. - Bảo bọn khố rách hãy vươn mình lên xem nàol

      Bọn thổ phỉ hét lên một tiếng như quỷ sứ, mang roi, mang gậy, chạy tới các đồng chí cán bộ thôn đang bị trói trên giá chữ thập đánh lấy đánh để, vừa đánh vừa hò hét:
      - Mày vươn mình nữa đi! Bọn khố rách chúng mày vươn mình nữa đi! Vươn này! Vươn này! Sao không vươn đi! Này! Này!

      Các đồng chí cán bộ thôn không hề kêu ca trước roi gậy của quân phỉ, vẫn hiên ngang chửi vào mặt chúng.

      Dân thôn không cầm được nước mắt. Có người không nghĩ gì nữa, lăn xả vào lấy thân che đỡ cho đồng chí. Vọ chưa cưới của Trình Tiểu Vũ mấy lần xông lên đều bị Yêu Bươm Bướm túm lấy tóc lôi trở lại. Chị không nén nổi uất giận trong lòng liền nhảy xổ vào Yêu Bươm Bướm, hai tay vồ lấy mặt ả. Mười ngón tay cào thành những vết máu trên mặt ả. Chị đang sắp sửa nắm chặt lấy cổ con yêu quái, thì không may bị Hứa Phúc nắm được tóc và rút kiếm đâm vào bụng chị. Chị ngã xuống, thi thể chị lăn dưới chân bà cụ mẹ anh Lý Sùng Nghĩa, làm bà lão hơn 70 tuổi sợ quá. Bà ôm chặt đứa cháu và cùng ngã lăn xuống đất, đứa cháu khóc hét lên. Tiếng khóc chưa dứt thì tên phỉ Trịnh Tam Pháo cầm gậy đập vỡ óc, đứa bé chết trong lòng bà.

     Bà cụ bỗng nhiên khí sức xung lên, đúng phắt dậy, tay trái ôm chặt đứa cháu vừa chết, tay phải cấu rứt từng mảnh tóc bạc trên đầu. Điên rồi! Bà cụ điên rồi! Mắt bà nhìn chằm chằm đứa cháu vừa bị đánh chết, rồi bà giật lấy một thanh củi đương bốc cháy xông thẳng vào Hứa Gậy Gộc. Không may Trịnh Tam Pháo đứng bên đập cho bà một cái, hất vào giữa đống lửa. Bà cụ bị thiêu sống. Trong đống lửa bà vẫn ôm chặt đứa cháu trong lòng.

      Các đồng chí đội công tác lại một lần nữa nhảy xổ vào bọn phỉ. Nhưng sợi dây thép ác nghiệt vẫn kéo giật các đồng chí lại.

      Hứa Phúc nhảy lên, trở về phía nhân dân đang sôi sục vừa đau đớn vừa căm giận.

      Hắn quát:
       - Cấm kêu, cấm khóc, đứa nào khóc nữa sẽ giống như con mẹ này.

      Nó chỉ vào thi thể vợ chưa cưới của Trình Tiểu Vũ, cầm gươm trỏ vào phía quần chúng chém vun vút đe dọa mọi người.

      Quần chúng sợ hãi. Chỉ có lũ trẻ ngây thơ vẫn khóc oa oa. Các bà mẹ vội lấy vú nhét vào mồm con cho nó khỏi khóc. Vợ thôn trưởng Ngô Thiết Sinh đương ngây người nhìn chồng không kịp chú ý tới đứa con đang khóc, bị Hứa Phúc giằng lấy đứa bé nắm lấy chân nó tung qua đầu mọi người, chỉ nghe thấy một tiếng kêu thất thanh, rồi im bặt.

      Hứa Gậy Gộc nghiến răng, giậm chân và như con dã thú rống lên:
      - Cắt cổ!

      Chín đồng chí cán bộ thôn đã lần lượt hy sinh. Quần chúng kêu lên một tiếng, rồi âm thầm cúi đầu lấy hai tay và vạt áo lau mặt, không dám nhìn cảnh tàn khốc đó.

       Trong tiếng dao chém phập phập vẫn nghe thấy tiếng hô dũng cảm của các đồng chí: "Đảng cộng sản muôn năm! Dân làng ơi... báo thù!"

       Các đồng chí đội công tác cũng đồng thanh hô lớn:
       - Các đồng chí anh dũng! Đảng không quên các đồng chí đâu! Nhân dân toàn quốc sẽ báo thù cho chúng ta.

      Trước tiếng hô của các đồng chí đội công tác quần chúng ngẩng hẳn đầu lên, lau nước mắt. Hàng nghìn con mắt bừng bừng lửa giận nhìn thẳng vào mặt bọn giặc giết người.

      Hứa Gậy Gộc đắc ý ngẩng mặt nhìn trời, rồi quay lại vung tay ra lệnh:
     - Đi thôi!

      Nói xong hắn khệnh khạng đi về phía Tây Phố. Bọn phỉ cởi dây thép buộc ở cây, rồi áp giải các đồng chí trong công tác đi theo.

      Vừa qua khỏi đống lửa, huyện trưởng Cúc hô to:
      - Các đồng chí! Thề chết không để chúng bắt đi.

      Nghe tiếng hô chín đồng chí vùng lên, dây thép tuột khỏi tay bọn phỉ. Các đồng chí mang theo cả dây thép xông lại phía Hứa Gậy Gộc. Bọn phỉ bị một trận hoảng sợ, nhưng sợi dây thép vô tình vẫn trói buộc các đồng chí và cuối cùng bọn phỉ lại nắm được dây thép. Hứa Gậy Gộc quay trở lại, giơ súng lên, hằm hằm nhìn các đồng chí trong đội công tác, những người đến chết không chịu khuất phục!

      Hắn hỏi Hứa Phúc và Yêu Bươm Bướm :
      - Giết hết đi chăng?

      Yêu Bươm Bướm lắc đầu:
       - Đừng, đừng! Bọn cộng sản này đáng tiền hơn bọn khố rách kia nhiều! Bắt sống chúng mang về nộp chuyên viên thì hơn.

      Rồi nó lại the thé gọi:
      - Anh em ơi, cố áp giải nó đi, về sẽ có thưởng …

      Nói xong, bọn chúng đi thẳng về phía gò Tây Sơn. Bọn phỉ vừa đi, thì thân nhân những người bị giết chạy vội lại ôm lấy thi thể người dã chết, khóc thảm thiết, Hứa Phúc, Trịnh Tam Pháo ngoảnh lại trông thấy, tức thì bắn một loạt tiểu liên làm họ ngã gục xuống bên những thi thể đã chết. Bọn chúng lại lấy chín cái đầu cán bộ thôn dùng dây thép buộc treo lên cây bên giếng. Sau đó Hứa Phúc ra lệnh cho bọn phỉ lại đống lửa, lấy mỗi đứa một thanh củi đang cháy, chạy về phía nhà ở của nhân dân. Bọn phỉ đến đâu đốt đấy. Toàn thôn lửa bốc rừng rực, càng cháy càng lớn. Thôn Sam Lam biến thành một biển lửa. Tiếng nổ đôm đốp của lửa cháy xen lẫn với tiếng khóc bi thảm của nhân dân.

       Huyện trưởng Cúc và các đồng chí bị áp giải tới chân gò, ngoảnh lại thấy toàn thôn bốc cháy, nghe tiếng kêu khóc của quần chúng, trong lòng lại ngùn ngụt căm thù và uất giận.

      Chị hét to lên:
      - Các đồng chí ơi, liều chết với chúng!

      Các đồng chí lại giật dây thép ra khỏi tay bọn phỉ, trong đêm tối, liều chết đánh nhau với chúng. Cuộc vật lộn, đánh giết kéo dài mãi cho đến phút các đồng chí sức cùng lực kiệt, ngã xuống mới thôi.

       Huyện trưởng Cúc cùng các đồng chí, tất cả chín người đã hy sinh dưới gốc cây thông cổ thụ. Thi thể của các đồng chí bị treo lên cây.  

************
      Tất cả những việc đó đã xảy ra từ hôm qua. Giờ đây món nợ máu này đã khắc sâu trong lòng anh em chiến sĩ. Mối thù như lửa cháy trong tim gan. Chiến đấu! Tiến lên! Báo thù! Rửa hận! Ý chí sắt đá ấy như thấm vào từng tế bào của ngưòi chiến sĩ….

      Đoàn quân con em của nhân dân này, giống như một cái lược sắt, hay nói cho đúng hơn, giống như một con dao cạo, hết ngày lại đêm, cạo đồi này sang đồi khác trên dãy núi Ông Già, bắt cho được bọn phỉ giết người ấy……..
.......................

HỒI THỨ BA
NHẬN MỆNH LỆNH
  
     Trên tường nhà làm việc của đồng chí phó tư lệnh Điền, treo la liệt các loại bản đồ quân sự 1/50.000.

      Đoàn trưởng Vương và đoàn trưởng Tống báo cáo tình hình mấy lần bôn tập lùng núi, nhưng đuổi hụt. Các đồng chí đã nhấn mạnh bài học đuổi hụt. Một đơn vị mấy nghìn ngưòi đi lùng trên ngọn núi ông Già trong mười lăm ngày, chẳng tìm thấy gì, cấp dưỡng thiếu nên không thể ở lâu trong rừng. Bọn phỉ đã biết lợi dụng kẽ hở của chúng ta giống như lũ chấy rận lợi dụng cái lược chải đầu. Vì toàn thể bộ đội chúng ta chỉ có thể chiếm được khu rất nhỏ, rất nhỏ trên ngọn núi Ông Già. Kẻ địch ở trong một cái hang đá, trong một đám bụi rậm cũng có thể ẩn nấp an toàn hoặc lọt khỏi vòng vây. Căn cứ vào những bài học thực tế ấy, cần phải có phương pháp tác chiến tiễu phỉ mới.

     Đoàn trưởng Vương nhấn mạnh:
     - Đối phó với giặc phỉ tất phải có trinh sát chính xác, hành động mau chóng, tiêu diệt bất thình lình. Cho nên trinh sát phải là vấn đề thứ nhất.

     Đoàn trưởng Tống bổ sung ý kiến của đoàn trưởng Vương:
      - Tiêu diệt lũ tàn phỉ, không cần thiết phải dùng binh lực lớn, nhưng đối với núi cao rừng rậm mà hành động mù quáng cũng khó thu được kết quả. Cho nên vấn đề mấu chốt là ở chỗ trinh sát thế nào, đánh như thế ấy.

      Tất cả cán bộ tham gia hội nghị đều đang suy nghĩ.

      Đồng chí chính ủy Hà cầm sổ tay đứng lên, bình tĩnh và chậm rãi kéo một hơi thuốc.
       - Bài học! Thật là bài học xương máu! Trừ phỉ không hết, di họa vô cùng. Cuộc chiến đấu của chúng ta trước đây không quét sạch được kẻ địch, bọn phỉ đầu sỏ còn lại đã gây ra tai họa lớn như ngày nay. Đó là trách nhiệm mà chúng ta không thể trút cho ai được. Gần như chúng ta lại buông lỏng cảnh giác, đến nỗi mấy làng bị chúng cướp bóc, giết người, ảnh hưởng đến cải cách ruộng đất và củng cố căn cứ địa. Trong năm ngày nay, bốn thôn Sam Lam, Ẩm Mã Hà, Khao Sơn Đồn, Hưng Long Bảo bị giết chóc, quần chúng, cán bộ bị thảm sát hơn trăm người, nhà cửa, lương thực cơ hồ bị đốt sạch. Kẻ địch thật là vô cùng hung ác. Khẩu hiệu của bọn phỉ là ; Đốt sạch, giết sạch!

      Các cán bộ nhìn đồng chí chính ủy với những cặp mắt như thẹn thùng, như hối hận. Trong đầu Kiếm Ba đang hiện ra cảnh tượng thôn Sam Lam bị cướp bóc. Ba cảm thấy đau đớn, căm giận.

      Chính ủy Hà nói tiếp:
      - Điều đó chẳng có gì lạ! Kẻ địch còn sót lại không phải là kẻ địch thông thường, mà là bọn có tội ác lớn, nợ máu bao nhiêu đời, hiện nay và sau này tất nhiên là bọn phản cách mạng, là kẻ địch kiên quyết chống lại nhân dân. Chúng là bọn đại địa chủ, cảnh sát ngụy Mãn, đặc vụ, hiến binh, thổ phỉ lâu đời, dưới sự điều khiển của đặc vụ Tưởng Giới Thạch. Chúng đang giãy giụa trước khi chết, nên chúng càng độc ác hung hãn. Trước khi có bài học máu này, chúng ta đều cho rằng mười vạn quân địch đã bị chúng ta tiêu diệt hoàn toàn, bọn còn lại đã chạy sang Thẩm Dương, hoặc về phía Nam vùng địch chiếm. Chúng ta chưa nghĩ đến đặc điểm lịch sử địa khu Đông Bắc rất sẵn thổ phỉ. Chúng ta chưa nghĩ đến bọn quân Tưởng cùng tất cả bọn cặn bã xã hội, đầu sỏ phong kiến địa phương kể cả bọn thổ phỉ lâu đời chiếm núi xưng vương đều là một giuộc.

      Căn cứ vào phiên hiệu bắt được hôm nay, thì mấy cuộc giết người đều do bọn Hứa Gậy Gộc, Mã Hy Sơn, Lý Đức Lâm, Tọa Sơn Điêu gây ra cả. Bọn đặc vụ Hầu Điện Khôn và tư lệnh Tạ Văn Đông cũng đã xuống núi. Là con em của nhân dân, nếu chúng ta bó tay chịu kẻ địch tức là có hại cho quần chúng. Bây giờ phải hạ quyết tâm lớn, mau chóng quét sạch chúng! Bảo vệ cải cách ruộng đất, củng cố hậu phương, viện trợ tiền tuyến!

      Phó tư lệnh Điền, một quân nhân nét mặt khôi ngô, tác phong quả cảm, nói cương quyết:  
      - Đứng về chiến thuật, nếu lại dùng đại binh đoàn đối phó với lũ phỉ nhỏ, thật chẳng khác gì dùng nắm đấm đánh con rận, dùng lựu đạn giết con ruồi, dùng lưới bắt con cà ra, không ích lợi gì. Chúng ta phải dùng bộ đội nhỏ tinh nhuệ, kiên cường, vừa có thể trinh sát vừa có thể đánh, quần nhau với địch trong rừng cho đến khi tiêu diệt chúng.

      Đồng chí đấm nhẹ xuống bàn:
      - Bây giờ chúng ta quyết định!

      Đưa mắt nhìn mọi người một lượt, đồng chí dừng lại nhìn Thiếu Kiếm Ba một lúc.
      - Một đơn vị bộ đội nhỏ do đồng chí Thiếu Kiếm Ba tổ chức, không nên nhiều quá, nhưng phải dũng mãnh kiên cường, vừa đánh vừa trinh sát để hoàn thành nhiệm vụ.

      Các cán bộ ngồi họp, từ lúc nghe chính ủy Hà báo cáo bắt đầu suy tính mình sẽ làm gì trong lần chiến đấu này, cũng yêu cầu được giao trách nhiệm.

      Tới khi phó tư lệnh Điền tuyên bố, họ tranh nhau nhận nhiệm vụ.  

     Thiếu Kiếm Ba đứng lên trước. Khuôn mặt trẻ trung hồng hào, hai hàng lông mày dựng đứng đen rậm, tuấn tú. Anh phấn khởi quá, nhưng lại nén xuống, ngước mắt nhìn đồng chí phó tư lệnh Điền, vẻ mặt cảm kích. Xưa nay anh vốn là người hoạt bát nhiệt tình nhất trong số cán bộ đồng cấp, nhưng giờ đây anh không muốn nói nhiều.  
       - Đồng chí chọn một phân đội, cần chọn những chiến sĩ gan dạ nhất. - Phó tư lệnh Điền thân mật nói với anh.

      Gương mặt Kiếm Ba lộ ngay ra vẻ tự hào, tự tin:
      - Tôi tin tưởng mọi chiến sĩ đều gan dạ.
      Chính ủy Hà rất ưa thích người thanh niên dũng cảm này. Chính ủy biết rõ sở trường của anh ta, nhưng còn khêu gợi anh ta một câu:
      - Ở đây có hai thứ gan dạ : một là gan dạ chiến đấu tập thể, hai là gan dạ chiến đấu một mình. Tác chiến hôm nay yêu cầu thứ gan dạ chiến đấu một mình. Có ba nhân tố của gan dạ: một là giác ngộ cao;  hai là võ nghệ cao, mưu trí nhiều ; ba là sức lực mạnh. Chỉ có chiến sĩ như thế mới có thể đối phó được với đối thủ của đồng chí hôm nay.

      Kiếm Ba nhanh nhẹn gật đầu nói:
      - Thưa đồng chí chính ủy, tôi hoàn toàn hiểu rõ lời của đồng chí. Vì chúng ta là bộ đội nhỏ, cho nên lực lượng ta và địch khác nhau xa. Ta có thể sẽ gặp địch có binh lực gấp mấy lần…..

     - Đúng thế!

     Phó tư lệnh Điền chêm thêm một câu:
    - Kẻ địch tuy đã bị tan rã, nhưng so với bộ đội nhỏ của đồng chí, thì không thể coi là nhỏ. Đối thủ của đồng chí trên từ chuyên viên, tư lệnh, lữ trưởng, dưới đến lũ phỉ to, phỉ con đều độc ác và xảo quyệt. Đặc biệt không nên coi thường số phỉ lâu đời trong bọn chúng có năng lực chiến đấu độc lập, nếu anh muốn nuốt sống, tiêu diệt sạch bọn chúng. Vì thế bất cứ hành động sơ suất nào đều thất bại.

     Kiếm Ba mỉm cười nói:
     - Muốn bắt mãnh hổ phải mạnh hơn mãnh hổ!

     Mọi người cười rộ:
    - Khá lắm!

     Chính ủy Hà vui vẻ tươi cười bước tới vỗ vai anh:
      - Còn điều này nữa. Đồng chí phải chinh phục rừng rậm, phải lội qua tuyết sâu. Cơn bão tuyết sắp tới sẽ gây khó khăn cho đồng chí nhiều đấy. Đồng chí cần khéo biến khó khăn ấy thành thuận lợi. Phải điều khiển nó, lợi dụng nó, chinh phục nó.

      Nói xong chìa tay:
      - Chúc đồng chí thành công.

      Kiếm Ba nắm chặt tay chính ủy Hà:
      - Đảng tín nhiệm tôi, làm cho tôi cảm thấy vô cùng vinh dự. Đối với tôi, đó là vinh dự đầu tiên, tôi sẽ phát huy tất cả tài năng sức lực của tôi và bộ đội nhỏ của tôi.
                 **********
       Đêm đã khuya. Chỉ còn tiếng dế kêu rền rĩ. Kiến Ba nằm trên giường trằn trọc mãi không ngủ. Biết bao nhiêu ý nghĩ dồn dập trong đầu óc, nhiệm vụ nặng nề, vinh dự rất lớn, bộ đội nhỏ tổ chức thế nào! Rừng thẳm! Rừng thẳm vô biên! Thổ phỉ! Thổ phỉ hung tàn! Nhân dân! Nhân dân hiền lành! Những lời ân cần căn dặn của chính ủy Hà, của phó tư lệnh Điền...Sau cùng, anh ngồi dậy, lần đến bên bàn, rút bút máy, đặt đồng hồ dạ quang trên bàn, bắt đầu viết kế họach tác phiến. Tiếng bút chạy trên giấy sột soạt, tiếng đồng hồ kêu tích tắc.

      Anh suy nghĩ, viết. Có một vấn đề gì kho khó cho anh dừng bút lại rất lâu không viết ra được. Bỗng, anh vứt bút xuống bàn, chiếc bút chạm vào vỏ đồng hồ vàng kêu đánh "keng" một tiếng. Tiếng kêu nghe  êm tai và quen thuộc lắm. Đôi mắt Kiếm Ba tự nhiên nhìn chằm chặp vào cái "người bạn" đã kết giao với anh từ năm 1943. Anh nhìn rất lâu, hình như muốn từ trong "người bạn" đặc biệt này mà  tìm ra giải pháp. Nhìn mãi, nhìn mãi, luồng tư tưởng của anh trôi theo dòng hồi tưởng, trở lại một đoạn quá khứ.

      ... Cái bút máy và cái đồng hồ có một đoạn sự tích đặc biệt.

      Việc xảy ra vào thời kỳ kháng Nhật - mùa xuân năm 1943….

      Đội công tác võ trang của Thiếu Kiếm Ba hoạt động ở giữa vùng bán đảo Giao Đông, Yên Đài và Phúc Sơn. Nó giống như một lưỡi dao nhọn, cắm vào giữa bụng giặc Nhật - tức là khu căn cứ vùng biển  Yên Đài…

       Vào một buổi tối, bộ tư lệnh và phòng chính trị Quân khu cùng với đảng ủy khu đưa đến một mệnh lệnh đặc biệt gấp. Mệnh lệnh do ủy viên xã hội đảng ủy khu và trưởng ban bảo vệ phòng chính trị đưa tận tay cho Kiếm Ba.

       Một trách nhiệm nặng nề, phức tạp giao cho đội trưởng đội công tác võ trang.

       Trong tổ chức Đảng bí mật ở thị trấn Yên Đài có tên phản bội Khương Ngộ làm phản, đem toàn bộ bí mật tổ chức Đảng tố cáo cho địch. Tổ chức Đảng đã bị phá vỡ! Mười hai đồng chí đảng viên bị bắt ! Tính mệnh của các đồng chí đang treo trên sợi tóc. Cứu các  đồng chí khỏi nguy là một nhiệm vụ đặc biệt cấp bách, không thể chần chừ, nội trong ba ngày phải hoàn thành nhiệm vụ. Phải đánh thẳng vào thị trấn Yên Đài là nơi đóng quân và có lô-cốt rắn chắc của giặc Nhật, phải đánh phá nhà giam đặc biệt của địch có tường cao khóa sắt - tức là pháo đài 148…

      Kiếm Ba và người bạn chiến đấu của anh trong khi tiến hành nhiệm vụ khó khăn đã sáng tạo ra một sự tích phi thường. Do đó, mà anh đã kết giao với hai "người bạn" phi thường - cái bút máy và cái đồng hồ.
       ........................
      Trên con đường cái Yên Duy nằm giữa cánh đồng lúa mì bát ngát, có hai thanh niên hóa trang học sinh, một là Thiếu Kiếm Ba, một là Vương Hiếu Trung. Đang đi, bỗng thấy đằng trước mặt có một người đưa thư đang cưỡi xe đạp. Hai người ghé tai nói thầm với nhau, mừng rỡ. Kiếm Ba nhìn chung quanh rồi đưa mắt nháy Vương Hiếu Trung. Hai người đi cách xa nhau thêm một chút. Hiếu Trung bên trái Kiếm Ba bên phải, song song cùng tiến hai bên đường cái. Cách người đưa thư mỗi lúc một gần, Vương Hiếu Trung, dáng người cao lớn, bước thật nhanh, kéo người đưa thư cùng đi xuống ruộng lúa. Kiếm Ba đẩy chiếc xe đạp theo sau.

       Đi đến một bãi tha ma, thông trồng dày đặc, mồ mả lô nhô, bốn bề hiu quạnh, rất ít người qua lại. Chỉ thấy tro tàn hương khói, chứng tỏ đã có người tới viếng mộ.

      Người đưa thư sợ hãi, bị ngã ngửa trước một ngôi mộ bên cái miếu nhỏ. Anh ta tưởng mình bị bắt cóc lấy tiền, nên luôn miệng kêu van:
      - Không có tiền! Chỉ có mấy đồng ăn cơm thôi!

      Kiếm Ba xua tay:
      - Đừng sợ, bây giờ tôi hỏi anh: Đi đâu?

      Người đưa thư vừa run vừa đáp:
      - Huyện Phúc Sơn…Huyện Phúc Sơn..

      - Tên gì ?

     - Triệu Phú Xương.

      - Người ở đâu?

      - Thị trấn Yên Đài.

      - Cách miếu Tần Hoàng bao xa?

      - Tức là sau miếu Tần Hoàng, số nhà 35 con đường Vĩnh An.

     - Nhà có mấy người?

     - Chỉ có vợ và đứa con 12 tuổi.

     - Hôm nay đi đến bao giờ về?

     - Về ngay hôm nay!

     - Ở Phúc Sơn có bạn không?

     - Có người bạn tên là Mã Quý.

     - Làm gì?

     - Cũng làm nghề như tôi.

     - Vợ anh có biết hắn không?

     - Chưa đến nhà tôi lần nào, không biết.

      Vương Hiếu Trung trợn mắt quật:
      - Phải nói thật!

       Kiếm Ba xua tay ngăn.

      Người đưa thư vừa nghi vừa sộ.
      - Thưa ông, thật cả đấy ạ... - Anh ta không biết gọi bằng gì cho phải.

      - Thật đấy ạ! Mùa đông năm ngoái mới biết. Tôi nói sai thì giời hại tôi.

      Kiếm Ba hỏi:
      - Anh có biết chữ không?

      - Lớp sáu, đã làm giáo viên, còn hiện nay thì…

      - Thế tốt lắm! - Kiếm Ba lấy giấy bút ra, đưa cho người phát thư.

      - Tôi nói thế nào, anh viết thế ấy, nghe không?

      - Vâng! Vâng!

       Kiếm Ba đọc cho anh ta viết một lá thư, sau đó ôn tồn nói với anh ta:
       - Xin lỗi! Xin anh hiểu cho một chút, việc thành xin đa tạ. Phiền anh cho tôi mượn bộ quần áo và giấy thông hành của anh.

      Người đưa thư vừa run sợ, vừa cởi bộ quần áo.

      Kiếm Ba biến thành người đưa thư cưỡi xe đạp luôn vào Yên Đài. Vương Hiếu Trung và người đưa
thư ở lại đám tha ma hiu quạnh.

     Ba giờ chiều, Kiếm Ba đến nhà Triệu Phú Xương :
     - Chào chị! - Kiếm Ba tươi cười chào hỏi vợ Triệu Phú Xương, như người thân thuộc và quen biết từ lâu…

      Vợ Triệu Phú Xuơng cũng thân thiết đáp lại:
       - Vâng, chào anh! - Nhưng đôi mắt chị chăm chú nhìn người khách lạ. Từ thân mật chuyển sang dò xét, chị cố gắng nhớ lại và phân biệt xem người đó là ai. Càng nhìn càng lạ, vì thế chị tỏ ra ngượng ngùng:
      - Anh, anh là...

      Kiếm Ba cười ha hả hỏi lại:
      - Chị chưa nhận ra tôi à?

     - À, à, tôi thật hỏng quá, tôi đã quên mất tên anh rồi …

      Kiếm Ba cười to :
      - Không có gì lạ đâu chị ạ, tôi chưa đến đây bao giờ.

      Nói rồi, đem quần áo, bưu kiện lật đi lật lại, nói đùa :
      - Chị ơi, chị xem đây, không nhận người thì nhận vật  làm tin vậy, đây có phải là quần áo và gói bưu kiện  của anh ấy không?

      Khi chị ta đã nhận ra đồ đạc của chồng, chị liền ngượng ngùng cười:

      - À, tôi nhận ra rồi. Cái xe này tôi cũng nhận ra rồi.

       Kiếm Ba ha hả cười lớn, rút ở trong túi thư ra một lá thư, định đưa cho chị. Bỗng có một em bé mười hai tuổi chạy lại, đứng ngây người nhìn Kiếm Ba.

      Kiếm Ba lập tức hỏi ngay chị:  
      - Cháu đấy phải không chị?  

      Chị sốt sắng giục đứa con giai:
      - Vâng! Mau chào chú đi!

      Kiếm Ba đưa thư cho thằng bé:
      - Lại đây! Xem thư của bố.

       Đứa con giai mở thư đọc:

        Nhà…
        Hôm nay tôi đi đường uống tí nước lạnh bị đau bụng, không về được, phải ở nhà anh bạn Mã Qúy mà tôi vẫn nói chuyện với mình ấy. Chuyến thư hôm nay nhờ anh Mã Qúy đưa giúp. Nhớ phải tiếp đãi anh cẩn thận…..

      Thân ái.
     Triệu Phú Xương.    
       Ba người ngồi trên giường chuyện vãn một lúc, Kiếm Ba lấy cớ ra phổ chơi, đến ngồi trong một hàng cơm ở về phía bắc miếu Tàn Hoàng, gọi một ấm chè hai đĩa hạt dưa, ung dung ngồi xem xét miếu Tần Hoàng.

       Một cái sân trồng đầy thông và liễu bao bọc cái miếu cổ cao lớn, có bốn tầng điện, tường chung quanh cao hơn một trượng năm thước, trên lợp ngói lưu ly màu xanh. Phía góc tây nam có ba tầng lô-cốt to bằng đá, hai tầng bị tường che kín, bên trên chỉ lộ ra một tầng, đó là pháo đài số 148. Trước mặt có một trung đội ngụy quân, hiện đang canh gác căn nhà giam các đồng chí bị bắt.

       Kiếm Ba chăm chú nghiên cứu cái miếu to này không bỏ sót chút nào. Từ bốn giờ đến bảy giờ chiều, anh không hề để phí thì giờ nhìn những cái vô ích.

        Mặt trời đã ngả về phía tây. Mười chiếc cam-nhông chở đầy lính Nhật, từ ngoại ô chạy qua tường miếu, lái ra phố. Lại mười cái nữa, từ phố qua miếu ngoài chạy về ngoại ô. Chắc là đổi gác ngoài lô-cốt. Kiếm Ba nghĩ thầm.

       Trời đã tối, quán hàng sắp đóng cửa. Ở đây, bảy rưỡi đóng cửa, tám giờ giới nghiêm. Chung quanh miếu đã có hai đội gác lưu động, đi lại tuần tiễu ngoài tường miếu, chứng tỏ ban đêm kẻ địch canh gác tòa miếu này rất nghiêm mật. Kiếm Ba buộc phải bước ra, men theo tường miếu, đi quanh một vòng chỗ rất ít người qua lại. Vì anh mặc quần áo người đưa thư nên bọn gác không chú ý.

       Bảy giờ bốn mươi phút, Kiếm Ba trở về nhà Triệu Phú Xương. Chị Xương đã soạn cơm cho anh cẩn thận. Kiếm Ba nói là đã ăn ở ngoài rồi, kỳ thực là chỉ uống ít nước. Anh nghĩ: Trong miếu còn gì nữa? Vì không có cách gì vào được, anh rất sốt ruột. Nhưng thời gian rất gấp, cảnh giới rất nghiêm, nghĩ chưa ra cách gì vào được. Anh từ biệt chị Xương, định ra phố trước giờ giới nghiêm. Vừa ra tới sân, thình lình ngoài đường có tiếng người, bốn tên cảnh
sát tiến lại.

      Một tên có râu rậm, trừng mắt hỏi:
      - Có người lạ không?

      Kiếm Ba luống cuống. May sao trời tối chúng nhìn không rõ người.
      - Không có! Đây là bạn của anh Phú Xương. - Chị Xương chỉ vào Kiếm Ba nói.

      - Phú Xương? - Tên cảnh sát đi đầu bấm đèn pin soi lên mặt Kiếm Ba hai lần, dò xét.

     Kiếm Ba đứng lặng người, tay cầm xe đạp không biết làm gì.

     Một tên nữa hỏi:
     - Lấy khẩu hiệu chưa?
      - Chưa, vì đi ngay hôm nay, - Kiếm Ba bình tĩnh trả lời.

      - Tại sao trước khi giới nghiêm không đi?  Hử?

      Kiếm Ba cười một lát nói:
      - Bây giờ tôi đương sắp sửa ra ngoại thành, đến tám giờ có thể ra được!

     - Mặc kệ nó!

      Một tên cảnh sát khác nói:
      - Mấy hôm nay chưa tìm được tên gian nghi nào, gặp toàn bọn chó chết, mẹ kiếp, lôi nó đi!

       Không phân trần gì cả, chúng kéo Kiếm Ba đi. Vợ Triệu Phú Xương và đưa con giai có phần lo lắng.

      Kiếm Ba quay đầu lại nói:
      - Chị đừng lo, người đưa thư không sợ gì việc này.

      Trong hành lang thứ ba của miếu Tân Hoàng, có một bọn đang cười nói ầm ĩ chơi con súc sắc.

      Bốn tên cảnh sát giải Kiếm Ba vào.
      - Báo cáo cảnh sát trưởng, bắt được một tên gian nghi.

      Một tên đội cảnh sát râu ria xồm xoàm, đầu trọc lốc, tay cầm con súc sắc, chưa gieo,quay đầu lại nhìn
 Kiếm Ba từ đầu đến chân.

       Kiếm Ba không đợi tên đội cảnh sát hỏi, dõng dạc nói phủ dầu:
       - Báo cáo cảnh sát trưởng, còn hai mươi phút nữa mới giới nghiêm, tôi định ra, các ông lại bắt tôi. Trước khi giới nghiêm mà bắt người đưa thư là phạm pháp.

      Tên đội cảnh sát nhìn đồng hồ, bảy giờ năm mươi nhăm phút, hắn chỉ vào bốn tên cảnh sát mắng:
      - Mẹ kiếp, đồ chúng mày toàn làm chuyện rắc rối. Trừ phi đặc biệt giới nghiêm còn thì không được bắt người đưa thư, chúng mày không biết à? Mau thả nó ra! Cút mau! Cút!

      Nói xong hắn quay lưng lại hét:
      - Sáu này! - Con súc sắc quay tít trong đĩa kêu lóc cóc.

      Thấy tình thế như vậy, Kiếm Ba thêm luôn một câu:
      - Báo cáo cảnh sát trưởng! Các ông ấy làm lỡ việc tôi bây giờ đến giờ giới nghiêm rồi, tôi ra làm sao được?

      Tên cảnh sát trưởng quay lại đưa mắt nhìn bốn tên cảnh sát.
      - Mẹ kiếp! Chỉ làm rầy, đã mời thần thì phải tiễn thần, thôi đưa nó ra ngoài phố!

       Bốn tên cảnh sát lủi thủi cùng Kiếm Ba lui ra. Kiếm Ba cố ý bước khập khễnh để tranh thủ thời gian "chụp ảnh" được quang cảnh chung quanh miếu dưới ánh đèn điện.

       Một tên cảnh sát đang không có chỗ trút giận liền quát Kiếm Ba:
      - Giả vờ cái gì thế, còn chưa giã cho mày một trận đấy!

      - Thưa anh, không phải đâu, chân tôi hôm nay ngã xe đạp, đau lắm, anh bỏ lỗi cho.

      Vừa nói xong, nghe thấy một tiếng rên la, ở tòa điện cuối cùng. Sau đó là tiếng chửi: đồ Hán gian bán nước. Kiếm Ba bất giác cảm thấy đau xót: Chắc các đồng chí ta bị tra tấn. Phải đi nhanh, càng nhanh, càng tốt. Anh rảo cẳng bước mau ra khỏi thành phố.

       Dưới ánh trăng, anh nhảy lên xe đạp, đạp như bay.

       Vương Hiếu Trung đợi ỏ miếu bãi tha ma đã sốt cả ruột. Thấy bóng Kiếm Ba, Trung nhẹ hẳn người, chạy vội lại nắm lấy xe đạp hỏi luôn:
       - Thế nào? Thế nào?

      Kiếm Ba vuốt mồ hôi trên mặt, kể cho Vương Vương Hiếu Trung đầu đuôi sự việc xảy ra. Sau đó Kiếm Ba nắm chặt tay vẻ phấn khởi:
      - Mọi cái đã chuẩn bị sẵn, này Hiếu Trung! Đồng chí đi luôn! Căn cứ kế hoạch mà hành động.

       Vương Hiếu Trung lập tức đứng dậy đi ngay, dáng người cao lớn của anh khuất vào trong đồng lúa đêm xuân……
.....................    

       Người đưa thư đã ngủ được một giấc, nhìn thấy hành động của hai người, chẳng rõ chuyện gì. Nhưng anh ta đã không sợ hãi nữa. Kiếm Ba kéo anh ta ra nói chuyện hai tiếng đồng hồ. Anh được biết Triệu Phú Xương vốn là một giáo viên, vì học trò của anh ta thi tiếng Nhật kém quá, nên anh bị cơ quan đặc vụ bắt giam ba tháng, bị giội nước lạnh, bị tra điện. Sau nhờ có mười người bà con bảo đảm, mới được tha. Hiện nay làm người phát thư.

      Nửa đêm, mặt trăng đã chếch về phía tây, sao sáng đầy trời, in trên mặt nước, áo Kiếm Ba ướt đẫm mồ hôi, bay phần phật trước gió.

      Muời hai giờ rưỡi, Kiếm Ba ruột nóng như lửa cháy, đi miết về phía Vuơng Hiếu Trung. Bỗng nhiên súng máy của quân Nhật ỏ đồi Tây Sơn nổ liền ba tràng. Tim Kiếm Ba bất giác đập mạnh, lo cho đội công tác bị bao vây không tới được, kế hoạch sẽ phá sản hoàn toàn.

      Số là ở vùng ngoại vi Yên Đài cứ một nghìn thước là một cái lô-cốt mẹ, lô-cốt con ở giữa, lô-cốt mẹ có một tiểu đội Nhật, lô-cốt con có hai muơi tên ngụy, canh phòng rất cẩn mật.

       Đang khi lo lắng, thấy vệt bóng người từ dưới ruộng đi lên, Kiếm Ba hỏi ngay:
      - Khẩu lệnh?

      - Đánh giặc! - Tiếng Vương Hiếu Trung đáp. Anh đã dẫn đội công tác võ trang đến.  

      Cả thảy có ba muơi người, tinh thần sẵn sàng chiến đấu, dũng khí có thừa.

      Mọi người quây tròn lại, Kiếm Ba phổ biến tỉ mỉ kế hoạch, phân công các tổ chiến đấu và quy định kỷ luật nghiêm khắc.

      - Vì chúng ta ở ngay trong lòng địch, trừ khi thật cần thiết mới được bắn, phải hết sức dùng dao găm và lưỡi lê, vì bắn súng có thể làm kẻ địch biết, nhiệm vụ không hoàn thành, thậm chí có thể bị địch tiêu diệt…

       Người đưa thư rất phấn khởi, nhận việc dẫn đường, cùng Kiếm Ba đi đầu, hăng hái vượt qua khu ngoại ô, ruộng lúa, con lạch, sườn núi, rặng cây cho đến ba căn nhà độc lập phía bắc cạnh miếu Tần Hoàng. Các chiến sĩ lặng lẽ, bí mật, ngắm tòa miếu. Trời sáng giăng, làm cho các đồng chí nhìn được rất rõ.

      Hai tên ngụy quân đi đi lại lại ngoài tường miếu.

      Mười phút qua, hai tên ngụy vác súng đủng đỉnh bước tới, nhưng vừa mới rẽ sang góc đường, liền bị Vương Hiếu Trung và Vu Điển Lễ nấp sẵn ở đấy, nhảy xổ ra ôm chặt lấy ngang lưng. Hai tên ngụy hoảng hồn, vừa định kêu, thì đã bị hai bàn tay to lớn bóp chặt cổ. Lôi chúng ra đằng sau, chĩa thẳng lưõi lê vào ngực, lột bộ quần áo ngụy quân, hỏi khẩu lệnh, nhét khăn tay vào miệng, trói chúng vào một thân cây gỗ tròn nằm ngang.

      Vương Hiếu Trung và Vu Điển Lễ mặc bộ quần áo ngụy, dẫn mười đội viên, xông thẳng vào đội ngụy quân canh gác ở cửa miếu to.

       Kiếm Ba giữ lại mười người ở ngoài miếu để yểm hộ, rồi tự mình dẫn mười người, chồng lên nhau làm thang trèo qua tường phía bắc, víu vào cành cây thông to, buộc một chiếc dây dài, tụt xuống sân miếu đằng sau điện thứ tư.

      Từ trong cửa sổ điện thứ tư hắt ra một vệt ánh sáng chói, vọng ra tiếng rên la của những người bị tra tấn, tiếng chửi rủa căm hờn, chứng tỏ ở đây đang tiến hành tra tấn.

       Kiếm Ba chia mười người làm hai tổ, men theo hai bên tường vào cửa. Từ bên ngoài nhìn vào, thấy trong miếu không có tượng đất, chỉ có ít bài vị gỗ. Ở giữa có ba tên cảnh sát ngồi, khẩu súng ngắn để trên mặt hương án; đứng bên cạnh là một tên giặc đầu sỏ, mặc quần áo thường, dài, hai bên hương án hai tên Iấy khẩu cung, cầm sẵn bút trong tay, chờ phạm nhân nói gì là viết, hình như trước mấy phạm nhân này, công việc lấy khẩu cung của chúng bị thất nghiệp. Trước mặt ba tên đội cảnh sát hung ác, một đồng chí bị tra tấn, chân bị cùm, chửi mắng luôn mồm. Phòng bên cạnh có bốn tên lính cảnh sát, hai tên tay nắm bao "pạc-hoọc" lên đạn dọa, hai tên đang ngồi trước lò than hồng nung dùi sắt.

      - Nói mau, sẽ không phải đau đớn gì cả...  

      Tên đội cảnh sát quát chưa dứt lời, Kiếm Ba đã nhảy phốc vào tới nơi, vung gươm, chém chết ngay tên cảnh sát đeo pạc-hoọc.

     - Đứng im! Ai động đậy chém chết ngay!

       Mười khẩu súng nhất tề chĩa vào bọn sát nhân Bọn chúng run lẩy bẩy, mắt trợn ngược, đứng im như  tượng gỗ. Tên đội cảnh sát đứng giữa, vừa định lấy khẩu súng trên bàn, đã bị Lưu Huân Thương chặt một nhát đứt bốn ngón tay…

      Những tên khác răm rắp quỳ xuống xin tha….  

       Kiếm Ba hạ lệnh cho ba đồng chí đi xem xét tù binh, trói chặt tên đội cảnh sát và tên phản bội lại, rồi tự mình chỉ huy bảy người tiến vào pháo đài 148.

     - Khẩu lệnh!

     - Đông Á!  

      Tiếng trả lời chưa dứt, Lưu Huân Thương, Đổng Trung Tùng đã tiến sát đến trước mặt. Nòng súng chĩa thẳng vào tên cai ngục:
      - Mở cửa!

      Tên cai ngục bị một vố bất thình lình, đứng ngây người, vừa run vừa lấy chiếc thìa khóa to. Đội viên Đổng Trung Tùng giật ngay lấy, mở luôn chiếc khóa to nặng ba cân. Cửa sắt mở ra, một mùi máu tanh nồng nặc xông lên.

       Tiến vào trong, tìm tầng thứ nhất không có gì, Kiếm Ba vội lên thẳng trên gác hai. Thì ra các đồng  chí bị bắt đều bị giam cả ở đây, chật như nêm cối. Người thì đang rên rỉ, ngưòi thì đã thiếp đi, hơi thở khò khè, yếu ớt.

      Kiếm Ba phấn khởi cố hạ thấp giọng:
     - Các đồng chí! Đội công tác võ trang đã đến! Không có gì phải lo sọ, mọi việc đều thuận lợi, mau dậy đi!.

      Đánh "ào" một cái, hai mươi mấy đồng chí đang trong con đau đớn vô cùng, đều cùng nhảy lên vui như điên, tiếng xiềng xích kêu loảng xoảng. Kiếm Ba vội vàng giơ tay ngăn:  
    - Khe khẽ chứ, các đồng chí, đội canh gác còn chưa giải quyết….
  
     Lập tức anh hạ lệnh bắt tên cai ngục lấy khóa tháo xiềng xích. Hai mươi mấy đồng chí chân tay đã được tự do, cầm xiềng xích trong tay, chuẩn bị khi cần thiết sẽ dùng làm vũ khí chiến đấu.

      Để giải quyết mau đội canh gác, Kiếm Ba liền xuống dưới lô-cốt của pháo đài 148. Vừa ra đến cửa đã gặp ngay Vương Hiếu Trung chạy lại: tay trái cầm súng; tay phải cầm đại đao, cái mũ ngụy binh đã vất đi từ bao giò. Hiếu Trung báo cáo khẽ với Kiếm Ba:
      - Mười người chúng tôi, sau khi trả lời khẩu lệnh liền đâm chết luôn hai tên lính gác, tiến thẳng vào căn nhà phía đông nam đội canh gác. Bọn lính bên trong ngủ say như chết. Chúng tôi thu súng trên giá. Bọn địch chẳng biết gì hết. Tôi vừa định quay ra báo cáo, thì gặp ngay bọn đổi gác. Một tên to béo trông thấy, kêu lên một tiếng, định chạy ra ngoài, bị tôi đâm một nhát chết ngay. Bây giờ đã giải quyết xong tất cả.

      - Tốt lắm! Thắng lợi hoàn toàn rồi!

      Kiếm Ba mừng rỡ mỉm cười, nhưng anh lại cau mày suy nghĩ tính toán: Đội công tác ba mươi người, bọn Hán gian và phản bội sáu người, các đồng chí được cứu thoát hai mươi hai người, bọn Hán gian và phản bội sáu người, lại thêm hơn bốn mươi tên lính ngụy gác bị bắt làm tù binh, cộng tất cả gần một trăm người, các đồng chí được cứu thoát thì không đi được. Người đông mục tiêu dễ lộ, dễ bị bọn địch ở lô-cốt bên ngoài phát giác, không đi được, tất phải nhanh chóng rút lui trước khi trời sáng. Do đó anh quyết định giải lũ tù binh và tên cai ngục lên pháo đài 148, rải một mớ truyền đơn và khóa lại bằng một cái khóa to nặng ba cân. Các đồng chí được cứu thoát, vứt hết xiềng xích đi, vác những khẩu súng vừa thu được, tạm chịu đau một chút, dẫn tên phản hội và tên đội cảnh sát đi trước, đội công tác đi sau yểm hộ.

       Đoàn người vừa ra khỏi đám lô-cốt ngoại vi, bỗng nghe thấy một tràng súng nổ, đạn bay lên trời, bảy tên Hán gian đi trong bọn lộ ra một tia hy vọng; các đồng chí được cứu thoát có phần lo lắng. Kiếm Ba nhìn lũ Hán gian cười nhạt, quay lại an ủi hai mươi mấy đồng chí:
     - Các đồng chí, cứ yên trí!

      Vừa nói xong, lại nghe những tiếng nổ dữ dội liên tiếp "oàng! oàng! oàng"!, đằng trước lô-cốt địch bốc lên mười mấy làn khói, tụ lại thành một vòng đen bay thẳng lên trời, át hẳn tiếng súng địch.

      Kiếm Ba reo lên:
      - Các đồng chí, chúng ta thành công rồi!

     Các đội viên cũng đồng thanh reo:
     - Bọn giặc phải một phen ăn cám!

      Số là đồng chí Bản Xuân, chính trị viên đội công tác dựa theo kế hoạch đã định, đúng nửa đêm bố trí một trận địa lôi. Đến gần sáng, khi địch tới nơi, thì địa lôi của đồng chí Bản Xuân đã nổ tung trời...


       Đó là một mẩu chuyện của ngưòi thanh niên Thiếu Kiếm Ba đã làm cho kẻ địch phải một phen mất vía kinh hồn. Do thành tích đó, anh được Bộ tư lệnh tặng thưởng. Tặng vật là hai món chiến lợi phẩm rất quý - bút máy và đồng hồ mạ vàng.

       Nhớ lại những việc đã qua, tinh thần anh trở nên tin tưởng bội phần.


HỒI THỨ BỐN.
DƯƠNG TỬ VỊNH GẶP ANH THỢ ĐỒ GỐM.

       Đoàn trưởng Vương nhìn đồng hồ: 10 giờ kém 2 phút, rồi âu yếm nhìn Thiếu Kiếm Ba. 1 giờ 2 phút nữa, Thiếu Kiếm Ba sẽ lên đường chiến đấu. Họ đã chuyện trò với nhau trong hai tiếng đồng hồ về vấn đề chiến thuật hoạt động trong khu rừng rậm của phân đội.

      - Báo cáo! Phó tư lệnh Điền đã đến!

      Đội viên cảnh vệ Cao Ba vào. Đoàn trưởng Vương và Kiếm Ba vội đứng lên định ra đón, thì phó tư lệnh Điền đã bước qua ngưỡng cửa bắt tay Kiếm Ba nói đùa:
      - Thế nào? Đồng chí tư lệnh viễn chinh?

      - Chuẩn bị đầy đủ cả rồi, còn một giờ nữa mới xuất phát.

      Phó tư lệnh Điền ung dung ngồi xuống ghế:
      - Đầy đủ cả rồi à? Hay lắm! Thế thì bây giờ nói cho nghe những cái đầy đủ ấy xem nào!

     Kiếm Ba đứng trước mặt phó tư lệnh Điền, như đọc báo cáo ngoài thao trường:
      - Phân đội gồm có anh hùng trinh sát Dương Tú Vinh, anh hùng chiến đấu Lưu Huân Thương, tay trèo núi lành nghề Loan Siêu Gia, anh cẳng sếu Tôn Đạt Đắc. - Rồi báo cáo đến vấn đề trang bị, đến vấn đề chiến thuật mà anh đã dự định và mọi sự chuẩn khác.

      Báo cáo xong anh có vẻ thỏa mãn với công tác chuẩn bị của mình; dáng điệu tự hào lộ trên nét mặt.

      Kiếm Ba không ngờ phó tư lệnh Điền nghiêm sắc mặt:
     - Thế gọi là chuẩn bị đầy đủ à?

      Kiếm Ba biết ngay là báo cáo còn thiếu sót, vì anh đã rõ từ xưa tới nay, phó tư lệnh Điền rất nghiêm khắc với sự chuẩn bị của các chiến sĩ trước khi ra chiến trường, không bỏ qua một chút sơ sót nào.

      Kiếm Ba bỗng đỏ tai, không trả lời.

      - Thế nào? Báo cáo hết rồi phải không?

      - Hết rồi!

      - Tôi hỏi đồng chí: Có người bị thương thì thế nào?

      - Cũng chuẩn bị rồi. - Kiếm Ba mỉm cười như trút được một gánh nặng. – Mỗi người mang ba hộp cấp cứu.

      - Ba hộp cấp cứu liệu có thể giải quyết được mọi vấn đề về thương bệnh binh không?

      - Bị thương nhẹ thì được!

      - Nếu bị thương nặng ?

      - Tôi tin tưởng sức chịu đựng và bản lĩnh của các chiến sĩ.

      Phó tư lệnh Điền càng nghiêm sắc mặt nhìn Kiếm Ba.
      - Vu vơ lắm! Nếu vết thương vượt sức chịu đựng của chiến sĩ thì sao? Hay là để các chiến sĩ chết?

       - Không! tuyệt đối không phải thế! - Kiếm Ba có vẻ lúng túng. - Chúng tôi tập trung trí tuệ của mọi  người để giành thắng lợi lớn với con số người chết và bị thương ít nhất.

      - Đó chỉ là nguyện vọng chủ quan của đồng chí thôi. Đồng chí nên biết rằng rừng rộng mênh mông như biển, chứ không phải là phố Yên Đài của đồng chí năm nào đó; mùa đông gió bấc lạnh buốt như cắt, chứ không phải mùa xuân ở bán đảo Giao Đông của đồng chí, bây giờ là đồng chí bắt sói trong rừng, chứ không phải bắt cá trong chậu như ở phố Yên Đài nữa. Đồng chí sẽ chiến đấu ít nhất là nửa năm, chứ không phải một đêm như ở phố Yên Đài. Thời gian, địa điểm, điều kiện đều khác cả rồi, có hiểu không?

       Kiếm Ba thành thực công nhận:   
      - Thưa đúng rồi! Tôi chỉ muốn phân đội càng được tinh gọn, hết sức tránh nặng nề lếch thếch...

       Phó tư lệnh Điền thấy người cán bộ trẻ tuổi, đáng yêu của mình có chút băn khoăn bèn tươi cười, đến trước mặt Kiếm Ba, vỗ vai nói:
     - Trước hết tôi hãy cho đồng chí chịu món nợ đó, chưa chi đã chủ quan, không cẩn thận. Khi nào viết vào nhật ký, đồng chí nhớ ghi một câu: "Thằng cha Điền ghê thật, chửa ra trận hắn đã cho mình một mẻ”… và có thể thêm dấu ngoặc "Điềm không hay".

       Ba người cùng cười rộ lên.

       Phó tư lệnh Điền muốn xem xét phân đội sắp lên đường, đồng thời không muốn làm trở ngại cho công việc chuẩn bị của Kiếm Ba, liền đội mũ đi ra khỏi cửa:
      - Đồng chí mau chuẩn bị một người y tá!

      Đoàn trưởng Vương và Kiếm Ba nhìn nhau cười lè lưỡi:
     - Ghê quá!

      Đoàn trưởng Vương quay người lại gọi dây nói cho đội y tế, ra lệnh cho đội trưởng y tế phái một người y tá khỏe mạnh, lập trường vững vàng, mang đầy đủ thuốc chống rét, thuốc cấp cứu, thuốc chỉ thống cùng đi.

       Một lúc sau, một người y tá mắc bệnh viêm cuống phổi tứ thời khật khừ bước vào. Đoàn trưởng Vương vừa nhìn thấy đã nổi cơn thịnh nộ:
      - Đi về đi, gọi đội trưởng đến đây!

       Người y tá lấy tay giụi đôi mắt còn ngái ngủ quay về. Đội trưởng đội y tế đến thì vừa đúng 10 giờ 30.

       Sau khi nghe những lời phê bình của đoàn trưởng Vương, y đưa ra những khó khăn:
      - Những y tá khỏe mạnh đều đi theo đại đội rồi; còn lại có hai người yếu nhất, bệnh dề dề trong người, nếu không thế, họ cũng đã theo đại đội đi từ sớm. Anh kia thì mắt "cặp bà lời" chẳng bằng anh hen này. Không báo sớm cho chuẩn bị để...

     - Được rồi! Được rồi!

      Đoàn trưởng Vương tiến tới gần máy điện thoại, gọi dây nói đến tiểu đoàn một:
     - Tổng đài, tổng đài... cho tôi tiểu đoàn một...

    - Báo cáo! - Tiếng lanh lảnh của một thiếu nữ làm cho đoàn trưởng Vương vội quay đầu lại. - Không cần phải điều động người của tiểu đoàn nữa, tôi đi đây!....      

        Bạch Như, y tá trưởng của đội y tế, một thiếu nữ 18 tuổi, võ trang đầy đủ, tinh thần hăng hái, giương đôi mắt xinh xinh nhìn thẳng vào đoàn trưởng Vương đang sắp gọi điện thoại.

       Kiếm Ba đứng bên cạnh sốt ruột, xua tay:
       - Đội y tế các đồng chí đến để đùa đấy hả? - Rồi cúi đầu xuống thở dài: - Không cho người ốm đến thì lại cho nhãi ranh đến!

       Bạch Như căm tức:
       - Đừng khinh phụ nữ nhé! Đã lần nào chiến đấu không làm tròn nhiệm vụ chưa?

      Kiếm Ba giương mắt nhìn nàng:
      - Phân đội không cần nữ.

       Nói đoạn anh chạy đến máy điện thoại.

       Đoàn trưởng Vương không gọi được điện thoại, để ống nghe xuống máy, có vẻ bực tức:
      - Đồng chí trực nhật lại ngủ rồi, cái bệnh rất phổ biến...  

      Bạch Như tiến đến trước mặt đoàn trưởng:
      - Đoàn trưởng không cần phải điều động y tá đại đội về, tôi xin đi; chuyên môn của tôi hơn những người khác, xin bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ!

     Nàng mỉm cười tiến lên một bước và nói tiếp:
     - Đoàn trưởng có muốn điều động cũng không có người về, y tá các đại đội đều đi theo học lớp phòng rét của quân khu mở tại huyện Ninh An rồi.

      Đoàn trưởng Vương nhìn nàng, cười:
      - Không được, ở rừng, vào mùa rét, không phải là một chiến trường bình thường, cô "Bồ Câu Trắng" ạ! Cô nhất định không chịu được đâu!

     - Không phải là một chiến trường bình thường nhưng vẫn cứ là một chiến trường.

       Bạch Như thường thường hay nói đùa với đoàn trưởng Vương. Nàng coi đoàn trưởng như anh cả, vì thế nàng nói chuyện có phần tự nhiên không gò bó như lúc nói chuyện với Kiếm Ba.

       Nàng nói tiếp:
       - Một nhà cách mạng đã từng nói: người đảng viên cộng sản không phải là người bình thường, mà do những vật liệu đặc biệt xây dựng nên. Tôi là người đảng viên cộng sản, có những khó khăn đặc biệt gì tôi cũng không sợ. Này đây! - Nàng tháo cái túi thuốc lớn ở trên vai xuống, vừa nói vừa bày ra. - Phòng rét, cấp cứu, thuốc mỡ, thuốc tiêm... cái gì cũng đầy đủ cả rồi, yêu cầu thủ trưởng kiểm tra, xem có thứ nào tôi còn thiếu sót chưa nghĩ tới không? Tôi không có bệnh tật gì cả, người khỏe mạnh, trình độ giác ngộ không phải là thấp, ý chí kiên định, tự nguyện tự giác.

      Nàng càng nói càng nhanh, làm cho ai nấy không dám chen vào.
      - Các đồng chí thủ trưởng thường giáo dục chúng tôi rằng: Thắng lợi trong chiến đấu xây dựng trên nền tảng giác ngộ chính trị cao độ, ý chí vững bền như gang thép, kỹ thuật chiến đấu cao. Bây giờ các đồng chí không để tôi di, thì các đồng chí đã vi phạm nguyên tắc đó, các đồng chí đả kích như giội nước lạnh vào người, cản trở tinh thần tích cực chiến đấu.

      Đoàn trưởng Vương vẫy tay cười:
      - Được rồi, được rồi, cô "Bồ Câu Trắng" ạ! Đừng chụp mũ cho tôi nữa!

     Phó tư lệnh Điền tiến vào, ngắm Bạch Như:
    - Ai mà ghê thế! Làm gì mà "phê" dữ vậy?

     Đoàn trưởng Vương cười:
     - "Bồ Câu Trắng" chiến sĩ cứu thương trong trận Tiểu Sơn Tử.

     - Đồng ý, cô ấy đủ điều kiện tham gia phân đội để cô ấy đi. - Phó tư lệnh Điền vừa hút thuốc vừa nói -  Nhưng phải mang theo một con ngựa.

      - Báo cáo tư lệnh, xin đừng cho tôi ngựa làm phiền phức lôi thôi. Tôi nhất định không làm cho phân đội và thủ trưởng 203 phải phiền phức. Tôi tin rằng tôi sẽ là một chiến sĩ có nhiều tác dụng trong phân đội.

       Kiếm Ba tỏ vẻ khó chịu:
       - Không được, không được! Người nhẹ như chim bồ câu, cả người nặng chưa bằng cánh tay của Lưu Huân Thương. Nữ đồng chí, không ổn!

      Bạch Như nghiêng đầu thẳng thắn nói:
      - Sao lại không ổn? Đó là mệnh lệnh của tư lệnh và đoàn trưởng.

      Đoàn trưởng Vương mỉm cưòi:
      - Đúng! Đó là mệnh lệnh của tư lệnh và đoàn trưởng, bây giờ tôi ra lệnh cho đồng chí về ngay phân đội chuẩn bị xuất phát.

     - Vâng, xin về ngay phân đội, chuẩn bị xuất phát!

      Bạch Như chào theo kiểu quân sự, sung sướng thoăn thoắt ra về.

      Kiếm Ba tỏ vẻ bất mãn được tin phân đội thêm một "cô lính", tự trách mình không chuẩn bị trước đầy đủ; tuy thế muốn cho phân đội thật tinh nhuệ kiên cường anh lại yêu cầu đoàn trưởng lần nữa:
      - Đoàn trưởng, Bạch Như không ổn đâu, hay là...

      Đoàn trưởng dang hai tay ra, rồi nhún vai:
      - Không còn cách nào hơn! Y tá ở đại đội đi dự lớp huấn luyện phòng rét hết cả rồi.

      Nói đoạn, đoàn trưởng tiến lên vỗ vai Kiếm Ba:
      - Bạch Như có nhiều ưu điểm, các chiến sĩ phân đội đều khỏe mạnh, có thể để cô ta đi theo; hơn nữa kỹ thuật chuyên môn của cô ta hơn các y tá khác.

       Bạch Như thật quả là một nữ đồng chí khác thường, đã từng cứu 13 thương binh trong trận Tiểu Sơn Tử và được tặng danh hiệu nữ cứu thương xuất sắc. Sau đó được bổ nhiệm làm y tá trưởng. Bạch Như năm nay mới 18 tuổi. Nàng rất xinh, đôi má ủng hồng như cánh hoa đào, đôi mắt sáng ngời; hai bím tóc tỏa xuống hai bên tai, thân người chắc chắn, giọng nói trong, hát hay múa giỏi. Nàng đi tới đâu là tiếng hát giọng cười vang lên tới đấy. Nàng là một đóa hoa. Nàng họ Bạch, lại vận quần áo trắng của người y tá, tính tình vui vẻ lạc quan; ngày nào cũng hát, hát không biết bao lần bài hát "bay bay bay" thế cho nên ngưòi ta gọi nàng là cô "Bồ Câu Trắng”…

       Phó tư lệnh Điền xem đồng hồ: đã 11 giờ kém 2 phút.
      - Được rồi! Tôi không thay đổi kế hoạch đồng chí nữa, để xem phát tên đầu tiên bắn vào đâu ?

      Kiếm Ba thẳng thắn trả lời:
      - Vẫn là chiếc giày cao-su đó, đến bây giờ vẫn là mục tiêu vết tích duy nhất……

Trời tối, gió thổi ù ù, cát tung bay, mùa đông ở phương Bắc đã tới. Phân đội xuất phát về phía núi Ông Già, giữa rừng núi trùng trùng điệp điệp.

       Ai biết núi Ông Già cao bao nhiêu, rộng dài bao nhiêu? Chỉ thấy có người bảo: Núi Ông Già 3800 ngọn. Phân đội hành quân đã mấy ngày đêm được mười mấy ngọn núi. Tới đêm thứ ba thì dừng lại ở một cái hang cheo leo lưng chừng sườn núi Mẫu Đơn Phong. Cái hang đó so với Mẫu Đơn Phong khác nào một cái móng tay út trên thân thể con người: vậy mà 36 chiến sĩ trong phân đội của Kiếm Ba vẻn vẹn chỉ chiếm một góc hang. Trong cái "doanh trại” hiếm có đó, các chiến sĩ ngắm cảnh lạ trong rừng sâu giữa lúc hoàng hôn còn le lói ánh tà dương. Bỗng đằng trước mặt sừng sững dưới cái hốc cây, một con gấu đen đang bò về phía cái hốc đó. Phân đội từ nay, ngày ngày sống bè bạn với dã thú…

       Một buổi sáng sớm rét như cắt thịt, phân đội đã tới Cửu Long Hội, một thôn nhỏ trong lòng dãy núi Ông Già, cách thôn sát rừng gần nhất độ 200 dặm.

      Thôn Cửu Long Hội đã được người ta đặt cho cái tên đó là vì địa thế của nó chung quanh có chín quả núi chạy về trung tâm, núi non hiểm trở, hình tựa chín con rồng lớn. Ở khoảng giữa chín ngọn núi đó, lại có chín dòng suối, nước chảy rất xiết về phía nam, rồi tụ lại ở giữa một tảng đá lớn ăn sâu thành hồ; hồ đó gọi là hồ Cửu Long. Mùa khô, nước suối chảy lờ đờ, mặt hồ phẳng lặng như gương phản chiếu bầu trời xanh in bóng núi Cửu Long tựa như chín con rồng đang vùng vẫy trong hồ. Đêm tối, trông xuống hồ đầy sao làm cho người ta có cảm tưởng bầu trời sao ở dưới đáy hồ. Đến mùa nước, nước suối chảy cuồn cuộn đổ vào hồ tung sóng lên cao mười mấy trượng trắng xóa như bông….

      Người trong thôn cho nơi hiểm yếu kỳ lạ đó là chốn rừng thiêng. Cứ đến mồng hai tháng Hai âm lịch, nhân dân nói là ngày rồng nhô đầu lên, và là ngày sinh nhật của thần núi, nhà nào nhà ấy mang vàng hương đến cũng lễ…

      Trong thôn tất cả có 36 gia đình cấy lúa trồng rau bên khoảnh đất đen, dưới chân núi đất rất tốt, không hạn, không lụt, năm nào cũng được mùa. Tháng ba ngày tám những lúc nhàn rỗi thì đi đào sâm, đi săn bắn hoặc đi lấy nấm. Nhà ở thì làm toàn bằng cột gỗ tròn hoặc đào núi thành những hầm để ở. Đồ dùng thì rất ít bằng sành, phần lớn là làm bằng quả bầu tự tay trồng lấy; quả lớn làm chậu đựng cơm, quả bé làm bát ăn cơm, nhà nào nhà nấy đều có thờ thần núi hoặc chúa rồng.

      Chỉ vì trước đây trong lần đại quân đi quét giặc miền núi, Dương Tử Vinh bắt được một chiếc giày cao-su trắng cách thôn 30 dặm về phía đông nam,  cho nên mới dẫn phân đội của Kiếm Ba đến đây. Nhưng thổ phỉ ở đâu? Chiếc giày cao-su kia không thể giải đáp nổi, vả lại chung quanh thôn xóm không phát hiện thêm được một dấu vết gì.

       Một số rất ít chiến sĩ trinh sát của một phân đội tìm làm sao được tông tích của phỉ trong rừng mênh mông kia. Điều tra dân chúng trong làng thì họ nói: Cũng là người Trung Quốc cả tại sao còn đánh nhau? Hoặc có người nói: Ba năm trước, quân Nhật đã bước chân tới, nhưng về sau chưa hề thấy quân đội nào đến cả. Tám ngày liền, không dò ra manh mối gì. Lần đầu tiên, người ta thấy Kiếm Ba, một con người vốn nhanh nhẹn đầy nhiệt tình - bỗng lặng lẽ đăm chiêu….

       Kiếm Ba ngồi trong nhà nghĩ tói Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc, hai người đơn độc ra đi chấp hành nhiệm vụ. Họ là người đi đến Cửu Long Hội tối đầu tiên, giả vờ đi mua hàng, mò mẫm đến nơi đã nhặt được chiếc giày cao-su trắng, - đã tám ngày rồi mà không thấy tin tức gì báo về. Tại sao lại giả làm người đi mua hàng? Bởi vì nơi đây, ngoài những người đi săn bắn ra, chỉ có những con buôn đầu cơ đến mua hàng với cái giá rẻ mạt, trong vòng mấy năm mới có một hai người bước chân tới. Họ mang vải, nông cụ hoặc đồ dùng gia đình để đổi lấy nhân sâm, nhung và da, sự trao đổi với cái giá thật bất công đã khiến cho nhân dân trong thôn xóm thù oán loại con buôn đầu cơ này.

      Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc đã mò mẫm tới tận chỗ nhặt được chiếc giày. Trong rừng sâu um tùm không thấy ánh sáng mặt trời, dưới chân cỏ phủ kín mặt dất. Hai người đi vòng quanh khắp núi khe; mấy ngày rồi mà chưa hề tìm ra được tí gì mới lạ. Tuy đã sang đông, hai người mồ hôi vẫn ướt đầm đìa.

      - Không hy vọng gì! Đi tìm manh mối khác đi! – Tôn Đạt Đắc uể oải yêu cầu Dương Tử Vinh.

      - Không! Cậu Đạt Đắc ạ! - Duong Tử Vinh ngồi trên mỏm đá tay vuốt râu. - Chiếc giày cao-su rách này tất phải có manh mối. Giày thì người đi, người không đến đây sao giày lại có thể ở đây được, phải không?

       Dương Tử Vinh nói xong làm ra vẻ tin tưởng để cổ vũ Tôn Đạt Đắc.

      - Có lẽ là người đi săn bắn họ vất ở đó, hoặc họ đã bị dã thú ăn thịt chỉ còn lại chiếc giày. Nếu không, tại sao bốn bề không có một dấu tích gì?

     - Có lẽ thế chăng! - Dương Tử Vinh mỉm cười lấy ở trong bọc ra chiếc giày rách ngắm nghía. - Đạt Đắc anh xem này, giày không giây máu; bốn chung quanh chỗ nhặt được chiếc giày này cũng không có máu,  không có xương; vì thế cho nên người bị dã thú ăn thịt mất thì không phải rồi, theo chỗ tôi biết, người đi săn họ không đi giày cao-su, hơn nữa dân làng trong xóm lại càng không có ai đi loại giày này, anh là người am hiểu rừng núi, chắc anh cũng thấy thế phải không?

       - Đúng đấy! Đúng đấy! - Tôn Đạt Đắc đăm đăm nhìn ra phương xa. - Nhưng cũng có trường hợp biệt... - bất thình lình mắt anh sáng lên, - trường hợp đặc biệt, đặc biệt...

       Anh vừa nói vừa trèo lên, rồi chạy đến chỗ trước mặt, làm cho Dương Tử Vinh không rõ đầu đuôi cũng chạy theo sau.

       Tôn Đạt Đắc chân dài chạy nhanh, chạy đến một gốc cây, đột nhiên nhảy lên, hai tay vỗ vào mông ngoảnh đầu lại reo lên một tiếng sung sướng:
       - Ha ha, Dương Tử Vinh! Đặc biệt, đặc biệt, phát hiện ra điều đặc biệt!....    

      Anh quay người lại kéo Dương Tử Vinh đến một cây to, chỉ vào một chỗ cao bằng đầu người, chỗ vỏ cây bị dao bóc ra còn để lại một mảnh to bằng bàn tay:
      - Một sự phát hiện đặc biệt!

      Dương Tử Vinh sung sướng, nhìn một hồi, phấn khởi nói:
      - Đạt Đắc! Đúng là vết dao, không sai một tí nào!

       Nhưng rồi anh lại do dự nghĩ thầm: Lốt dao này nói lên cái gì? Anh suy nghĩ một lát, đột nhiên vỗ vai Tôn Đạt Đắc:
      - Đạt Đắc! Đó là sự phát hiện thứ nhất trong ba ngày hôm nay của chúng ta; tục ngữ có câu rằng: Người đi qua để dấu lại, nhạn bay qua để tiếng lại. Lẽ nào bọn phỉ rút lui lại không để tông tích gì lại? Đâu có chuyện như thế! Đạt Đắc, chúng ta cứ nhẫn nại chịu khó tìm tòi!

       Dương Tử Vinh theo cây to đi vòng quanh không tìm thấy miếng vỏ cây thứ hai. Anh lại suy nghĩ: Nhát dao này... là của người đi săn thử dao của họ hay có người tiện tay nghịch chơi? Cái đó có liên quan gì tới chiếc giày cao-su kia không? Có liên quan gì đến bọn phỉ kia không? Bao nhiêu câu hỏi thoáng qua trong đầu óc anh.

       Anh đi ngược chiều quan sát từng cây, từ cành cây đến thân cây, từ thân cây đến gốc cây...
       - Hay quá! Lại một chỗ nữa! - Anh kêu to lên một tiếng. - Đạt Đắc! Đến đây! Lại một chỗ nữa!

       Nói đoạn anh chạy lên trước, đến một cây cách cây thứ nhất hơn bốn chục bước ở một chỗ cao bằng đầu người, thấy một miếng vỏ cây bị bóc trắng giống như lần trước.

      Dương Tử Vinh ngoảnh lại ngắm nghía, từ chỗ bắt được chiếc giày cao-su đến cây thứ nhất bị lột vỏ, rồi đến cây thứ hai trong vòng một trăm thước, thành một đường dây từ đông nam đến tây bắc. Hai người lại đi về phía tây bắc, lại phát hiện ra cây thứ ba, cây thứ bốn, cây thứ năm...

      Dương Tử Vinh vuốt râu cười với Tôn Đạt Đắc:
      - Đạt Đắc, lần này thì tìm ra manh mối rồi, nhất định có người sợ lạc đường trong rừng sâu nên mới đánh dấu như thế, có đúng không nào?

      - Đúng! Nhất định, nhất định là như thế! Nhưng người đi săn hay là người đi lấy nấm? Hay là người đi đào sâm? Hay là thổ phỉ? Cái đó ai dám bảo đảm?

      - Bất cứ là ai, trước hết phải tìm cho ra đầu sông ngọn nguồn đã.

     - Đúng đấy! Chúng ta lại bắt đầu di thôi.

      Hai người lại bước nhanh, tiếp tục đi tìm vết tích trong rừng rậm.

       Dương Tử Vinh - một tay trinh sát giàu kinh nghiệm, lúc bé đi ở, anh là một chiến sĩ cũ trong cuộc chiến tranh chống Nhật ở địa khu Nha Sơn trên bán đảo Giao Đông tỉnh Sơn Đông, năm nay 41 tuổi, hiện là trung đội trưởng trinh sát của trung đoàn. Anh tuy chịu khổ từ thưở nhỏ, chưa được đi học, nhưng rất thông minh, truyện Tam Quốc, Thủy Hử, Nhạc Phi anh nhớ không quên một câu, thao thao bất tuyệt. Ngày mưa gió, hoặc mùa đông tháng giá, công việc đồng áng đã xong, dân làng kéo đến ngồi chung quanh, yêu cầu anh kể chuyện. Anh khác nào như lò sưởi mùa đông, như bóng râm mùa hè. Ai cũng yêu mến anh. Anh đã thông minh lại dũng cảm, cho nên anh đã đạt nhiều thành tích trong sự nghiệp trinh sát. Nhưng lần này thì anh làm thế nào để hoàn thành nhiệm vụ?

      Hai người lại tìm tòi, đã ba ngày rồi, lương khô đã cạn, mà không dám săn bắn dã thú, sợ lộ mục tiêu, đành phải ăn nấm nấu chín, thứ ăn duy nhất để qua ngày.

      Một hôm, trời sâm sẩm tối, hai người trèo lên một ngọn núi tai mèo, trèo đến đỉnh núi hai người thở bở hơi tai; nhìn xuống chân núi, bỗng thấy một làn khói xanh Cả hai đều quên cả mệt nhọc, giương to mắt nhìn thì thấy mười mấy nóc nhà gỗ lúc tỏ lúc mờ. Dương Tử Vinh lấy địa bàn ra xem để biết đích xác vị trí của mấy nóc nhà đó, anh tính nhẩm ba ngày đi đường, đi về hướng nào, đi được bao xa, rồi nhớ lại quãng đường đã đi qua; doanh trại phân đội đóng ở chỗ nào, vị trí Cửu Long Hội ra sao?

      Sau khi tính toán, anh bèn bảo Đạt Đắc:
      - Đạt Đắc, lại một phát hiện mới, thôn xóm kia không có trên địa đồ, lần trước tôi đã đến trinh sát, và ở phía bắc Cửu Long Hội không quá 30 dặm đường.

      - Ừ, tôi không rõ lắm, tôi tin tưởng vào quyết định của anh - Tôn Đạt Đắc nhìn vào đám nhà kia một cách cảnh giác, rồi lại nói tiếp. - Đại quân lần trước đến đây, thổ phỉ chạy trốn sạch. Có lẽ chỗ đó là ổ thổ phỉ?

     Dương Tử Vinh tươi cưòi:
     - Chưa chắc. Chúng ta đi tìm đã sáu, bảy ngày rồi, nếu quả là ổ thổ phỉ, thì hay biết bao?   .

      Lúc bấy giờ bỗng có tiếng chó sủa, gà gáy vẳng lại. Sự thất vọng lộ trên nét mặt của Dương Tử Vinh,  anh rất hối hận bảo Tôn Đạt Đắc:
      - Thôi hỏng rồi! Đạt Đắc, ổ thổ phỉ sao lại có gà, có chó?

      Đạt Đắc thở dài ngồi bệt xuống cỏ….

      Dương Tử Vinh cười gượng:
     - Đạt Đắc, chúng ta đi xuống đánh một bữa cơm no rồi sẽ hay, nhưng không được mất cảnh giác, giờ tôi là con buôn, anh là phu khuân vác, cẩn thận đừng lỗ mãng, ít nói, chú ý quan sát. Rõ không?

      Đạt Đắc gật đầu, hai người xem xét lại cách hóa trang của mình, rồi thuận theo sườn núi, đi về phía thôn xóm xa lạ ấy…….    

       Vào tới thôn, trời đã tối đen. Mười mấy nhà trong thôn nhà nào nhà nấy đã lên đèn, đèn đốt toàn bằng đóm thông. Dương Tử Vinh cúi nhìn nhà đầu xóm tây, thấy dưới ánh đèn có hai ông bà già đang ngồi ăn cơm. Họ trông thấy có khách lạ đến, kinh sợ hồi lâu, nói không ra lời.

      Dương Tử Vinh cúi đầu chào:
      - Chúng tôi là khách mua hàng ở Đức Thành, Mẫu Đơn Giang, xin đừng sợ hãi. Chúng tôi vừa tới đây,  xin hai cụ cho trọ nhờ một đêm.

      Hai vợ chồng ông già nghe xong mới hoàn hồn:
      - Khách hàng ở đâu đến?

      - Cửu Long Hội.

      Cụ già ngây người ra:
      - Nghe nói Cửu Long Hội có quân đội đến đóng, không biết hư thực thế nào?

      Dương Tử Vinh thấy cụ già hỏi thế, lặng người đi, bởi vì phân đội đóng ở Cửu Long Hội nhất định phải giữ bí mật, sao họ lại biết? Nhưng anh chuyển ngay
ra vấn đề khác.

      - Quân đội đến là việc của quân đội, chúng tôi buôn bán chỉ biết buôn bán, để tâm những việc đó làm gì!

      Anh bèn lái câu chuyện vào việc buôn bán, nhưng có hai điểm anh phải hỏi cho rõ ràng: tức là vấn đề đây cách Cửu Long Hội bao nhiêu dặm, và làm thế nào mà biết được có quân đội đóng ở Cửu Long Hội. May thay hai vợ chồng cụ già đã nhiều tuổi, không chú ý đến những vấn đề đó, vì thế Dương Tử Vinh đã biết Cửu Long Hội cách đây có 20 dặm dường, vượt qua núi Đại Cương là tới nơi. Họ biết phân đội đóng ở đó là vì những người đi săn bắn ở trên núi trông thấy phân đội đang diễn tập bò núi.

       Ngày hôm sau, Dương Tử Vinh đi từng nhà hỏi giá hàng: nhân sâm, nhung, da. Nhưng dân làng ở đây không lấy tiền mặt, chỉ đổi lấy hàng thôi, vì họ đã bị hai tên gian thương lừa bịp một lần cách đây ba năm…

       Trưa đến, Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc ngồi nghỉ ngoài đường, người lớn trẻ con mấy chục người vây lấy họ, có lẽ là đầy đủ dân toàn thôn. Dương Tú Vinh đang trò chuyện hỏi han hết chuyện này ra chuyện khác, thì bất thình lình Tôn Đạt Đắc lớn tiếng gọi:
      - Dương... a... a ông chủ hàng!

      Dương Tử Vinh liếc mắt, Tôn Đạt Đắc bĩu môi ra hiệu, mắt Dương Tử Vinh đã chăm chú nhìn chân một em bé, độ 10 tuổi, chân phải đi guốc, chân trái đi giày cao-su trắng đã rách, to gấp đôi chân. Dương Tù Vinh không bỏ lỡ cơ hội, hỏi xa hỏi gần mới biết là em bé ở nhà có người cha đã ốm gần ba tháng nay,  em còn có một người mẹ. Mấy hôm trước đây, người cậu bên ngoại, tuổi trạc tứ tuần, làm thợ đồ gốm đến thăm anh, thăm chị và các cháu; bề ngoài ăn mặc ra vẻ người miền xuôi, nhưng chân đi đôi giày ra dáng người đi săn bắn.

     Đêm đã khuya, Dương Tử Vinh ra lệnh cho Tôn Đạt Đắc giám sát chung quanh nhà anh thợ đồ gốm kia trú chân, rồi chính anh theo con đường đã hỏi được, theo hướng địa bàn, lẻn về Cửu Long Hội.

       Kiếm Ba đang viết nhật ký dưới ánh đèn thì Dương Tử Vinh đến:
     - Thế nào, chưa đi ngủ à, thủ trưởng 203?

      Nghe thấy tiếng Dương Tử Vinh, Kiếm Ba vội nhảy từ trên giường xuống, hai người nắm chặt lấy tay nhau:
     - Tử Vinh, Tử Vinh, anh vất vả quá! Lại đây uống chén nước đã.

      Dương Tử Vinh đỡ lấy chén nước uống một hơi, lấy tay chùi mồm, rồi nói một thôi một hồi việc đã xảy ra, cuối cùng anh nói tiếp.
      - Đã tìm thấy chiếc giày cao-su rách nữa rồi - anh thợ đồ gốm đáng tình nghi lắm! Làm thế nào bây giờ? Có thể bắt anh ta để hỏi cung không?

       - Đúng đấy, - Kiếm Ba giương đôi lông mày, rồi cau lại ngay. - Không nên! Bọn phỉ này không giống như bọn tù binh quốc dân đảng, vả lại chúng ta mới tình nghi thôi, làm thế có phần quá thô bạo.

      - Nhưng không có thể trì hoãn được, - Dương Tử Vinh lại chùi mồm nói tiếp. – Bởi vì bí mật của chúng ta không phải là bí mật nữa rồi.

      - Ừ! Tôi cố ý làm cho bí mật của chúng ta không thành bí mật nữa để xem dân làng động tĩnh thế nào. Ý kiến của tôi bây giờ là đuổi nó ra khỏi thôn này, xem nó đi về hướng nào, làm như thế có phần hiệu quả hơn là bắt nó hỏi cung. Anh thấy thế nào?

      Dương Tử Vinh mỉm cười gật đầu.
      - Này! Đồng chí Dương Tử Vinh, điều quan trọng là xem thằng cha tình nghi ấy đi về phía nào. Nếu như nó đi về ổ thổ phỉ ở núi, ta sẽ cho Siêu Gia đi để đối phó với nó; nhưng thằng cha này sẽ không khờ dại như vậy đâu, có lẽ nó sẽ chạy ra ngoài núi. Như thế có lợi cho nó hơn. Nếu vậy thì chúng ta phải sử  dụng đến những thủ đoạn trinh sát phức tạp, đồng chí sẽ đương đầu với hắn.

      - Thế thì còn gì bằng! Như vậy có thể thu nhặt được nhiều tài liệu hơn.

      - Hay lắm, - Kiếm Ba cuời, nói thêm. - Đồng chí Duong Tử Vinh, đồng chí hãy về đóng vai của đồng chí đi, sớm mai tôi sẽ đến.

      Tử Vinh từ  biệt Kiếm Ba ra về giữa lúc đêm khuya sao đặc trời…..  

      Trời sáng, Kiếm Ba dẫn tiểu đội Siêu Gia đi về cái thôn xóm vô danh kia, đến một nhà phía đông, các chiến sĩ bắt đuọc một người lái buôn, một người gánh thuê và một người khách lạ tự xưng là thợ đồ gốm.

      Kiếm Ba mặt lạnh như tiền hỏi người lái buôn:
      - Anh là nguời thế nào?

      - Tôi là người đi mua hàng của hiệu Đức Thành ở Mẫu Đơn Giang.

      - Tên họ là gì?

      - Dương Tích Danh.

      - Xem bộ râu kia, anh không phải là người đi buôn bán. Nói thật đi, anh làm nghề gì?

       - Tôi là người ở Mẫu Đơn Giang, còn gọi là “chàng râu xồm".

      - Cút đi ngay, không cho phép bọn gian thương chúng mày đến đây để lừa bịp dân chúng. Chính phủ sẽ tổ chức cho họ mang ra chợ bán,rõ chưa?

      - Rõ rồi, - anh chàng tự giả danh là lái buôn gật đầu lia lịa. - Hiểu rõ rồi ạ!

       Kiếm Ba quay sang hỏi anh chàng tự xưng là thợ đồ gốm :
     - Làm nghề gì ?

     - Tôi là thợ đồ gốm.

     - Ở đây làm gì có bát đĩa mà đến làm thợ đồ gốm? Rõ ràng là thổ phỉ!

     - Thưa không, bẩm quan lớn, thưa không, tôi làm nghề này nửa đời nay, tôi sinh sống nơi xa kia không phải nơi sơn cước này, tôi đến thăm chị tôi...

      - Mày không biết ở đây có thổ phỉ à? Đến đây để mua lấy cái chết phải không?

      Chàng thợ đồ gốm giả hiệu nhếch mép:
      - Chà chà! Tôi sẽ đi, tôi sẽ đi! Ngày mai tôi ngay!

      Kiếm Ba đang định hỏi thêm mấy câu nữa, thì ở ngoài đi vào một người đàn ông ốm và một người đàn bà tay dắt một em bé trên mười tuổi, tiến tới cửa cúi đầu chào lấy chào để:
      - Người đó là em giai tôi, không phải người xa lạ,  cả nhà chúng tôi xin bảo đảm.

       Tuy mồm nói thế, nhưng nét mặt rất lạnh nhạt, tỏ rõ vẻ sợ hãi….

      - Đồng ý, hẹn cho ngày mai phải đi khỏi nơi này!
       Nói xong Kiếm Ba đứng dậy, dẫn tiểu đội Siêu Gia đi về phía tây vượt những ngọn núi mà Dương Tử Vinh đã đi qua lúc đến.

       Ngày hôm sau, anh thợ đồ gốm đi về phía đông Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc đi theo sau. Họ trở thành bạn đường với nhau. Dọc đường họ bàn tán với nhau về các loại hàng kinh doanh. Anh thợ đồ gốm từ cử chỉ đến ngôn ngữ tỏ vẻ rất thản nhiên.

      Dương Tử Vinh suy đi nghĩ lại: anh ta quả là thợ đồ gốm. Tại sao anh ta đi về ngoài núi lại không đi sâu vào phía trong rừng? Nếu quả là liên lạc của bọn phỉ, tại sao anh ta không chú ý đến chúng mình? Là một người lương thiện ư? Hay là một tên thổ phỉ tài ba? Nếu là người lương thiện, tại sao lại đi đường ngoắt ngoéo thế kia? Dương Tử Vinh trong lòng bắt đầu hoài nghi, nhưng anh là một trinh sát lão luyện, có kinh nghiệm, anh kiên quyết không dao động, tự nghĩ: Không nên coi thường thủ đoạn khôn khéo của bọn phỉ cốt cán...

      Trời đã nhá nhem tối, anh thợ đồ gốm đi càng nhanh, tuy trông anh ra chiều mệt nhọc, có lúc chân nọ đá chân kia, nhưng anh vẫn nghiến răng cố bước, hình như muốn mau chóng về một nơi nào đã có hẹn trước, mặc dầu Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc đề nghị mấy lần dừng chân lại nghỉ, nhưng anh thợ đồ gốm cứ đi, cho rằng: Chỗ này là nơi rừng sâu, dã thú nhiều, cố gắng đi một đoạn đường nữa mới an toàn, càng xa rừng sâu càng bảo đảm hơn.

       Nhưng có lúc ra tới quãng rừng thưa, anh thợ đồ gốm vẫn một mực nói như thế, khiến cho Dương Tử Vinh thêm ngờ vực, anh bấm Tôn Đạt Đắc một cái ra hiệu phải cảnh giác.

      Đêm đã khuya, có lẽ đã sang canh ba. Tới chân một quả núi cao, anh thợ đồ gốm mới dừng chân tại đấy.

      Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc nhìn thấy quả núi cao chót vót, địa thế hiểm trở, chung quanh đen tối như mực, tự thấy trong lòng hoảng sợ: nơi đây có lẽ có thổ phỉ? Rồi bình tĩnh ngay lại, sờ khẩu súng nằm trong túi quần, hai người thấy mạnh dạn thêm, đồng ý dừng chân nghỉ lại.

     Trời thì lạnh, nhưng anh thợ đồ gốm không muốn ngủ chung với Dương Tử Vinh, mà ôm một lá khô to trải xuống dưới một gốc cây lớn, nằm ngủ cách Dương Tử Vinh hai mươi bước.

      Tim Dương Tử Vinh đập mạnh, người đã mệt  nhoài mà không sao nhắm mắt được, anh nghe thấy tiếng ngáy, anh biết là anh thợ đã ngủ yên giấc, vì thế mà sự hoài nghi của anh cũng dần dần tiêu tan theo tiếng ngáy đều đều của ông bạn đường.

       Cái lạnh của đêm khuya đã thấm tới xương qua lần áo bông kẻ đi buôn như kiểu Dương Tử Vinh, cái lạnh ghê gớm đã thức tỉnh Tôn Đạt Đắc, nhưng anh thợ đồ gốm vẫn cứ ngáy hoài. Dương Tử Vinh thấy hiện tượng đó vừa mừng vừa lo; lo là lo ở đây có thổ phỉ mà chỉ có hai người hai khẩu súng, lực lượng quá yếu, mừng là mừng sẽ phát hiện thêm được điều mới mẻ ở anh chàng xảo quyệt kia. Có điều rõ rệt nhất là anh thợ đồ gốm cứ giở mình, cái giở mình của anh không ăn khớp với tiếng ngáy ngủ, trong khi giở mình anh vẫn ngáy dều. Dù rằng có lo sợ, nhưng Dương Tử Vinh lúc này cảm thấy phấn khởi, cười thầm một cái: Được, tao sẽ cho mày biết tay. Dương Vinh bấm Tôn Đạt Đắc một cái, rồi cũng vờ ngáy, tiếng ngáy trước còn nhỏ, sau to dần. Dương Tử Vinh cố ra sức chịu đựng cái rét buốt thấu xương nhất định không giở mình, anh nghĩ thầm: Tao giả vờ còn giống hơn mày nhiều…..   

      - Ông khách hàng ơi! Ông khách hàng ơi! - Tiếng kêu trầm trầm phát ra từ chỗ anh thợ đồ gốm nằm ngủ, rồi đổi sang gọi:
      - Ông chủ Dương ơi!...

       Dương Tử Vinh kéo Tôn Đạt Đắc một cái, rồi im lặng, tay trái ôm chặt khẩu súng trong người.

       Anh thợ đồ gốm không thấy tiếng động, lặng lẽ bò dậy, rón rén đi vòng quanh mấy gốc cây lần mò về hướng núi đá.

      Dương Tử Vinh lại bấm Tôn Đạt Đắc:
      - Nằm im, chuẩn bị nhé! Tôi đi theo dõi.

       Đôi mắt của Dương Tử Vinh đã được rèn luyện nhìn trong đêm tối, chăm chú bám theo chiếc khăn trắng buộc ở dây lưng anh thợ.Dương Tử Vinh đi rón rén, lại được những thân cây to yểm hộ, khiến cho anh thợ đồ gốm dù cảnh giác đến đâu chăng nữa không I thể nào phát giác ở đằng sau mười lăm mười sáu bước có người đang theo vết chân mình.

      Anh thợ đồ gốm đi được độ ba trăm bước, có vẻ khoan khoái rảo bước về phía núi, tới mấy gốc cây lớn ở dưới chân núi thì dừng lại, chỉ thấy anh cúi xuống, rồi đứng thẳng lên, "cạch" một cái, tiếp theo "cục" một tiếng nữa như tiếng đá đập vào nhau, rồi tiếng thứ hai, tiếng thứ ba... anh ta đứng dựa vào thân cây một lát như để quan sát chung quanh xem có động tĩnh gì không, sau đó anh tiến lên mấy bước, rồi biến theo tiếng đá kêu…..

       Dương Tử Vinh nấp dưới thân một cây to, khác nào con mèo đang rình chuột, đôi mắt anh xuyên quamàn tối của đêm khuya chăm chú nhìn nơi có tiếng động, đột nhiên chỗ đó có ánh sáng diêm lóe ra, rồi lập lòe ánh đèn. Mắt Dương Tử Vinh bỗng sáng lên, anh rút trong vạt áo bông ra con dao găm, khe khẽ tước một mảnh vỏ cây, anh nhìn thấy sao bắc đẩu, phân biệt rõ được phương hướng, lúc bấy giờ anh mới ngước mắt nhìn ngọn núi. Sau khi đã quả quyết bất cứ trong trường hợp nào anh cũng tìm về được chỗ này, anh mới nhẹ nhàng tiến thẳng lên chỗ có ánh đèn.

      Ô kìa, một chiếc cửa sổ nhỏ vuông độ một thước hiện ra trước mặt anh. Nhờ ánh sáng lờ mờ chiếu qua chiếc cửa sổ đó, anh thấy rõ chỗ đó là một cái hang, cửa hang chỉ có một cái cửa đan bằng cành gỗ nhỏ tròn, trong hang không một tiếng động chỉ có mội mình anh thợ đồ gốm đang thở.

       Dương Tử Vinh thấy thế, lui về nấp ở một gốc cây, chăm chú rình cái hang bí mật. Một tiếng đồng hồ sau, đèn trong hang bỗng tắt, anh thợ đồ gốm vội bước ra khỏi hang. Dương Tử Vinh chưa kịp rút lui thì anh thợ đồ gốm đã lướt qua trước mặt chạy về chỗ ngủ vừa rồi.

       Dương Tử Vinh thầm lo: "Hỏng việc rồi! Thằng cha này nhất định ra xem mình còn hay đi đâu rồi. Bây giờ làm thế nào?" Anh suy nghĩ, rồi anh rảo bước quanh co sau bóng anh thợ đồ gốm, anh đi quanh co, cho nên không tài nào về trước được.

      Anh thợ đồ gốm về tới chỗ ngủ, khe khẽ gọi:
     - Ông khách hàng, ông chủ Dương!

     - Có lạnh không? - Dương Tử Vinh ôn tồn hỏi.

     Giọng nói của anh thợ đồ gốm có vẻ hoảng hốt:
     - Giào ôi! Ông chủ Dương, ông... ông...

     - Ái chà! Mẹ kiếp! Rét đau cả bụng, đau ghê quá phải đi ngoài, sợ làm mất giấc ngủ của các anh, vội chạy ra phía bắc đi đại tiện. Thế nào, ở đây có ngửi thấy mùi gì không?

     Anh thợ đồ gốm vờ cười nhạt:
     - Không, không sao cả.

      Dương Tử Vinh cúi xuống ôm lấy bụng giả vờ ra bộ đau bụng, đi về chỗ ngủ đắp lại chiếc áo bông cho Tôn Đạt Đắc, rồi nằm xuống.

      Trưa hôm sau, ra khỏi rừng tới một thôn có hơn một trăm gia đình, Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc không muốn gieo vào lòng anh thợ đồ gốm một mối hoài nghi, bèn từ biệt anh ta, đi về thôn Hộ Gia ở phía tây. Trời sắp tối, hai người lại quay trở về thay đổi quần áo trở thành hai chiến sĩ của giải phóng quân, rồi ẩn trong một chiếc nhà đổ nát trên một cái gò; đứng trên gò có thể trông thấy đường sá, nhà cửa sân vườn dưới thôn…..

       Mặt trời đã khuất sau núi.

      Đằng đông có một nhà địa chủ bốn gian, tường đá. Anh thợ đồ gốm trên vai gánh một gánh nặng chạy tọt vào. Một lát, thấy đầu một lão béo béo thò ra nhớn nhác nhìn, sập một tiếng, cửa đóng lại, và chỉ còn nghe tiếng cài then lách cách.

      Tôn Đạt Đắc không suy nghĩ yêu cầu:
      - Lần này đúng rồi! Nhà đại địa chủ, bắt giữ lấy nó!

      Dương Tử Vinh bật cười:
      - Phải nhẫn nại, chúng ta chặt cho hết gốc bọn phỉ, chúng ta không nên hấp tấp vì một việc nhỏ mà để lỡ cả việc lớn. Nước sâu thì dây câu phải dài, dây câu càng dài, thì cá lại càng to.

      Gió núi bắt đầu gào từng cơn.

       Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc bước xuống khỏi gò đất, đi tới tường ngoài của sân nhà lớn, rỉ tai nhau mấy câu, rồi trèo tường vào đứng sau nhà. Gió  ù ù thổi át cả tiếng chân đi, mò mẫm đến dưới cửa sổ gian nhà chính. Trong nhà vắng vẻ hình như không có người, chỉ thấy gian buồng phía đông chiếu ra ánh sáng lờ mờ. Bỗng một mùi thơm đập vào mũi, Tôn Đạt Đắc kéo áo Dương Tử Vinh, khe khẽ bảo:  
       - Mùi thuốc phiện.

       Dương Tử Vinh gạt tay, lắc đầu ra hiệu cho Tôn Đạt Đắc đừng nói nữa, rồi mò mẫm tới cửa sổ, nhổ nước bọt vào đầu ngón tay xoa lên trên giấy dán ở cửa sổ. Giấy dán bên ngoài bị nước thấm ướt thủng bằng hạt hạnh nhân, Dương Tử Vinh ghé mắt nhìn vào bên trong…..      

       Một chiếc giường kê sát-tường, ở giữa là chiếc bàn đèn, anh thợ đồ gốm và lão béo ra đóng cửa ban nãy, người đầu giường, người cuối giường, nằm uốn lưng tôm đang ra sức kéo. Anh thợ đồ gốm hút một hơi dài, nín thở độ một phút, rồi phì ra một làn khói xanh xanh.

       Sau khi đã cơn nghiện, hai người ngồi dậy. Anh thợ đồ gốm nháy nháy đôi mắt cất giọng nói:
      - Cậu Ba ạ, hôm nay cháu mang lại hai trăm lạng.

      Nói đoạn liền nhảy xuống đất lấy trong gói ra mười bánh đen sì sì.

       Lão béo cũng nhảy xuống đất, nhấc ông tượng bày ở sát tường phía bắc ra. Anh thợ đồ gốm xếp mười bánh nhựa vào hòm đặt ngay ở bệ ông Phật.

      Dương Tử Vinh lè lưỡi kinh ngạc:
      - Thằng cha này thật là xảo quyệt, mang nhiều nhựa thế mà không ai biết.

       Hai người lại về chỗ giường cũ, chàng béo mắt lim dim nói:
      - Sao mang ít thế?

      Anh thợ đồ gốm khe khẽ trả lời:
      - Cậu Ba, cậu không hay, lần này không nhận được hàng.

       Chàng béo giương to cặp mắt hoảng sợ hỏi:
       - Thế nào?  

       - Một tí nữa bị cộng sản bắt đi. - Anh thợ đồ gốm ngồi sát gần vào lão béo. - Quân cộng sản đã tiến vào rừng rồi, đóng quân ở Cửu Long Hội. Nếu cháu không nhanh chân thì bị lộ ngay rồi. Cháu vội gạt phắt thằng thanh niên đi. Cháu cũng không dám  nhận hàng, sợ bị lộ tẩy không về tới đây được. Có hai người tự xưng là người hiệu buôn ở Mẫu Đơn Giang cùng đi xuống núi với cháu, nhưng đâu phải là con buôn, rõ ràng là cộng sản, chúng định cho cháu vào tròng, nhưng cháu đóng giả như thật, không việc gì xảy ra, làm hai thằng oắt trơ mắt ếch, bỏ chuồn rồi. Ha ha! - Nói đến đó hắn phá ra cười. - Hôm nay cháu cho chúng theo một mẻ chết thôi.

      Lão béo cười một cách gian giảo, rồi tâng bốc anh thợ đồ gốm:
      - Tùy cơ ứng biến, anh quả là một tay có tài!

      Rồi chuyển sang câu chuyện khác:
      - Này, mấy ngày hôm nay thôn Hòa Thượng đã bắt đầu cải cách ruộng đất. Bọn khố dây ở đâu ra mà lắm thế. - Nói xong hắn ho, mặt buồn thiu như đồ sắp chết.

      Anh thợ đồ gốm cúi đầu xuống, vẻ mặt ỉu sìu:
     - Đã xếp đặt như thế nào rồi?

      - Đâu vào đấy cả rồi. - Lão béo lại có vẻ tự đắc. – còn ông cậu đằng ấy và ba chị em dâu đã đến nhà anh rể đằng ấy ở Mẫu Đơn Giang rồi, anh cả đằng ấy giả mạo giấy tờ khai lý lịch đã trà trộn vào cơ quan đường sắt, các đồ quý báu, "cơm đen" đã dọn đi nơi khác rồi. Cứ gọi bọn bần cùng khố rách đến, nhổ chiếc lông nào thì nhổ!

      Hai người nhìn nhau cười, tuy cười, nhưng nét mặt vẫn lo sợ, giọng nói hết hơi.

      Anh thợ đồ gốm nói:
      - Cậu thật có con mắt tinh đời, thấy tình hình bất lợi thì chuồn ngay lên núi. Trên núi gạo, sắn, thịt nhiều lại có thần núi phù hộ, chỉ còn thiếu muối và thuốc. Bán thuốc phiện lấy tiền mua muối, mua thuốc, lo gì.

       Lão béo thở dài rồi nói:
       - Thuốc phiện tiêu thụ ít, lão Cương ở thôn Hòa Thượng bị bọn quần rách áo ôm đánh chết rồi, lão Phùng ở thôn Bán Điệp bị bắt giam rồi, chỉ còn lại con mụ góa Lưu ở thôn Lưỡng Bán, nó thì mua được bao nhiêu, liệu mà tống đi một ít.

       Hai người im lặng hồi lâu. Anh thợ đồ gốm đành tiếng phá tan cái lặng lẽ:
       - Cậu Ba ạ, không nên vội: từ ngày xảy ra sự việc ở thôn Sam Lam, sóng gió mấy hôm nay dữ dội quá, nên tránh cho qua. Trời sáng, cháu trở về núi tạm lánh xa mấy ngày, cháu không đi đâu vội.

      Đèn tắt, lát sau bên trong nhà đưa ra tiếng ngáy ngủ.

      Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc trèo tường ra.

      Tôn Đạt Đắc phấn khởi bảo Dương Tử Vinh:
      - Lần này bở lắm, bắt cả hai nhé!

      Dương Tử Vinh suy nghĩ một lát:
      - Thằng cha này không có tác dụng gì về mặt quân sự, nó chưa chắc đã hiểu tỉ mỉ tình hình trong núi rừng, giao cho đội công tác, nếu bắt nó đi, đứa con giai nó trà trộn vào cơ quan đường sắt và ba con dâu nó mang đồ quý báu chạy trốn sẽ hoảng sợ, không lợi cho công tác đang tiến hành. Hiện nay, đang cải cách ruộng đất, không nên để chúng phân tán mất số tài sản nào sắp trở về tay nhân dân.

       Tôn Đạt Đắc gật đầu tán thành:
       - Đúng! Không bắt thằng cha già thì bắt tay thợ đồ gốm.

      - Thôi, cho chúng ngủ thêm một giấc nữa!

      Dương Tử Vinh bảo Tôn Đạt Đắc:
      - Về đi! vào hang cọp đợi cọp về rồi sẽ bắt!

      Đến lúc anh thợ đồ gốm ra về hang bí mật của anh ta, Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc đã ngồi đợi mất nửa ngày. Ba người lại ra đi về phía khu rừng rậm ở Cửu Long Hội…….

HỒI THỨ NĂM.
LƯU HUÂN THƯƠNG BẮT SỐNG  DIÊU CHIẾM NHẤT

        Lưu Huân Thương và hai chiến sĩ ngồi trên mỏm đá xanh lưng chừng sườn ngọn Ngưu Độc Sơn, miệng nhai cơm nắm, thảo luận với nhau về kế hoạch công tác.

      - Phân công tiến hành hay thế nào?

       Hai chiến sĩ ngồi im lặng vì đã ba ngày nay đi trinh sát chưa tìm ra một tí đầu mối nào.

      Lưu Huân Thương cổ vũ:
     - Đừng thất vọng, bắt rận cũng còn mất công phu, huống hồ là bắt phỉ. Dương Tử Vinh quanh đi quẩn lại chỗ tìm thấy chiếc giày cao-su ba ngày, rồi mới tìm ra được đầu mối. Hiện nay còn đang đi theo dõi tông tích, và đã đi ra khỏi khu rừng này, tin tức thế nào đến nay vẫn bặt tăm hơi.

      Nói xong, Lưu Huân Thương đứng lên, tay chùi miệng nói tiếp:
     - Thủ trưởng 203 cho chúng ta thấy rõ ràng: người đi qua để dấu lại; nhạn bay qua để tiếng lại, như vậy thổ phỉ qua nơi nào nhất định cũng để dấu vết lại nơi ấy. Chỉ cần chúng ta sục đến cùng, đừng sợ tìm không ra.

      Hai chiến sĩ vừa nhai vừa gói lại nắm cơm, hỏi Lưu Huân Thương.
      - Đúng rồi! Vậy bây giờ làm thế nào?

      Huân Thương hai tay chống nạnh đáp:
      - Theo ý tôi, ba chúng ta cùng tìm một chỗ, phạm vi hẹp, sáu con mắt cũng chỉ bằng hai con mắt thôi, nếu chúng ta phân công nhau mỗi người một ngả, phạm vi sẽ rộng lớn hơn, mắt nhìn được xa hơn, tai nghe được nhiều hơn, tác dụng sáu tai có thể bằng mười hai. Hai đồng chí quan sát đèo Khuyên Mã  Côn gần đây, còn tôi, tôi đi xa hơn nữa. Các đồng chí thấy thế nào?

      Hai chiến sĩ đồng thanh tán thành:
      - Được, nên làm như thế.

      Huân Thương còn quy định cho hai chiến sĩ phải liên lạc với thủ trưởng 203. Sau đó ba ngưòi chia nhau đi sâu vào rừng.

       Huân Thương vốn là một người lực lưỡng, sức mạnh vô cùng, xưa nay chưa ai thấy anh ta kêu mệt. Anh trèo hết núi này sang núi khác, vượt hết suối nọ tới suối kia. Đói, thì anh lấy cơm ra vừa đi vừa ăn. Khát, thì anh đến quãng suối chưa đóng băng, lấy tay  vốc nước uống sùm sụp, và đưa cặp mắt tinh anh nhìn khắp cánh rừng, tìm tòi những vật có ích, như hổ rừng đi tìm mồi vậy.

       Đêm hôm đó, anh ngủ lại trong một khe đá lớn ở dốc sau lưng đèo Phân Thủy. Anh ngủ một đêm yên tĩnh. Sáng sau, anh đưa tay vục nước suối rửa mặt, nhìn toàn bộ trang bị để trên bờ, anh phá lên cười có vẻ tự tin và kiêu ngạo. Anh nghĩ rằng: một khẩu súng, hai trăm viên đạn, bốn lựu đạn, lại thêm một con dao sắc chưa dùng tới bao giờ... Đang còn mười ba cân cơm nắm, nấm rừng lại san sát, may vớ được chú báo nữa mà xào thì tuyệt. Nghĩ tới đó, anh cả cười, rồi nói một mình: Các cậu ơi, dù cánh ta chỉ mấy ngưòi, nhưng tớ là tư lệnh, các cậu là ba quân,  cánh ta phải làm sao cho ra trò đánh Nam dẹp Bắc,  quyết chí không sờn, chờò xem ai là anh hùng hảo hán…

       Nói xong anh lại lấy một nắm cơm ăn, vừa nhai vừa khoác súng lên vai. Dao, lựu đạn... mọi thứ đã thu nhặt xong, anh vượt qua một ngọn núi cao mười mấy trượng tiến về một cánh rừng rậm mênh mang.

     Bất thình lình, anh trầm ngâm nghĩ: đã bốn ngày rồi mà chưa được quái gì. Anh vốn là con người đơn giản, cục tính nên đã thấy nóng trong người. Với cặp mắt chớp lửa, anh vừa bước vội vừa nghĩ:

     - Tao hết sức tìm khắp nơi trong rừng, để xem mày trốn ở đâu?

      Đã gần trưa rồi, tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Anh lẩm bẩm một mình: Mẹ kiếp, mình đi liều thế này tìm đâu ra tung tích địch bây giờ? Anh thấy anh đã sai lầm, anh giậm chân dừng bước; thủ trưởng 203 rõ rang chỉ thị, chúng ta là phải tinh vi, tinh vi, tinh vi! Mà mình lại mắc phải tật thô bạo rồi, tự mình mua khổ vào thân còn gì? Anh bỏ mũ ra, tay vò đầu: Đi trinh sát không khoái bằng chiến đấu, chiến đấu khác nào cạo trọc đầu, năm thằng chết hai, ba ngã gục. Trời ơi, Lưu đây có làm cái việc này bao giờ đâu.

        Huân Thương quả là chiến sĩ dũng mãnh, can đảm, có kỹ thuật chiến đấu toàn tài. Trung đội anh hung do anh lãnh đạo đã được huấn luyện thành những con người dũng cảm như anh. Anh vốn là một học sinh dốt, từ tiểu học đến trung học, thi lần nào cũng chỉ đủ điểm trung bình, nhưng ở con người anh thì một điểm đặc sắc trội hơn mọi người: thể dục, thể thao, bóng rổ, bóng đá, xà đơn, xà kép, ném đĩa, bơi lội, anh rất giỏi. Anh tự rèn luyện cho mình một thân thể rắn chắc, mạnh mẽ. Anh đã được anh em tặng cho cái tên "Xe tăng".

       Thời kỳ kháng chiến, có một lần bọn giặc đến tập kích một thôn ngoài biên cương, hai người trong đội công tác võ trang bị bắt, nhân lúc anh đi làm nhiệm vụ thông tin, thấy sự việc đó, liền đợi đến lúc nhá nhem tối, lẻn vào chỗ quân địch đóng. Trong lúc quân đội địch còn bối rối, anh mò đến gần chỗ địch để súng máy, súng moóc-chi-ê. Anh bật diêm đốt cháy cỏ khô chung quanh đó. Quân địch lúc đó mệt  nhừ nằm lăn ra như lợn. Anh đốt liền mấy đống cỏ khô, lửa bốc cháy rực trời. Quân địch hoảng sợ tỉnh dậy để chữa thì lửa đã lan khắp thôn. Đạn dược của địch bị cháy nổ, mảnh đạn bay tung trời. Nhân cơ hội đó, anh cứu được hai đồng chí trong đội công tác vũ trang trốn thoát khỏi tay địch và phá được kế hoạch càn quét của chúng……

       …Lại một lần, bọn địch đi càn quét, anh bị dồn vào một căn nhà, không còn lấy một viên đạn. Đang lúc cùng kế, anh bèn vơ chiếc gậy lặng lẽ nấp vào sau cánh cửa chờ cuộc giáp chiến cuối cùng, giặc đã ập đến trước cửa chỗ anh đứng, anh liền hét một tiếng, nhảy xổ ra quật ngã hai thằng. Bọn đi sau thấy vậy chạy tán loạn, kêu la ầm ĩ. Ngay lúc đó, anh cướp được một khẩu súng và một băng đạn, đánh thốc ra, thoát được gian nguy.

       Về sau anh được rèn luyện trong chiến đấu, đã trở thành một con người sắt. Anh rất dũng cảm, không hề biết sợ.

      Đương lúc anh kiểm điểm lại cái tính thô bạo của mình, thì bỗng một đàn quạ kêu ầm lên, hoảng sợ bay lướt qua ngọn cây. Anh ngẩng đầu giương mắl nhìn, lẩm bẩm:
      - Đồ khốn nạn! Mùa đông tháng giá ai làm gì mà ầm ĩ cả lên.

       Nói xong, anh sực nhớ đến một câu trong bài học quân sự về trinh sát: Chim bay kêu, tất có người đến làm náo động.

      Anh hết bực dọc, hăng hái đứng lên:
       - Có món ăn rồi! Lưu này có chịu ăn chay bao giờ đâu?

      Rồi anh đi về hướng đàn quạ bay lại. Qua một quãng rừng rậm, anh thấy cây cối thưa dần, một cánh đồng thoai thoải hiện ra trước mắt anh. Cỏ mọc xanh tươi như một tấm thảm. Anh theo đưòng dốc đi xuống suối, rồi thẳng một mạch đi về phía tây. Đang đi, một mùi tanh xông vào mũi. Anh dừng bước nhìn xung quanh, rồi vội vàng chạy lên như bắt được một vật gì hiếm có. Đến nơi thì té ra là xác một con ngựa chết đã mấy ngày, nằm sóng sượt bên một gốc cây, mình mẩy đã bị chim và thú dữ rỉa khoét nát nhừ. Anh chưa kịp nhìn chung quanh xem còn vết tích gì, thì bỗng nhiên một tiếng kêu làm anh hoảng sỢ. Anh rút súng ra chĩa vào chỗ có tiếng động, chăm chú nhìn thì thấy một bầy sói nhe răng đang nhìn anh với một vẻ căm hờn. Thấy thế, anh vội rút dao ra múa vung lên. Bầy sói rú lên mấy tiếng, rồi cúp đuôi chạy mất.

       Anh ngồi xuống, bình tĩnh tìm lối ngựa đi. Nhưng có một điều lạ làm anh không phấn khởi, là lối ngựa đi song song với con đường anh vừa đi qua, chỉ cách nhau độ 200 thước. Còn người cưỡi ngựa đi đâu?

       Chưa thấy vết tích gì. Anh tìm bới từng nơi, một hồi lâu chẳng phát hiện được gì thêm. Anh thở dài tỏ vẻ chán nản. Anh lẩm bẩm một mình: Trinh sát trong rừng khó thật là khó, chỉ một cự ly như vậy mà cũng không nhìn thấy! Với sự phát hiện mới đó, anh đi đến kết luận: Quạ hoảng sợ bay không phải là do thổ phỉ mà là do đàn chó sói, chứ không phải thổ phỉ nào cả.  

       Anh lại suy nghĩ: Nhưng dù sao, đây là một phát hiện lớn hơn chiếc giày cao-su. Nhưng làm thế nào bây giờ? Anh nghĩ không ra. Thấy đói bụng, anh giơ tay lấy cơm, thì tiếng chó sói kêu vẳng lại. Anh giơ súng lên định bắn, chợt nhớ tới lời Kiếm Ba căn dặn; Không nên nổ súng khi gặp thú dữ, hoặc thổ phỉ, trừ trường hợp bất đắc dĩ mà thôi.

       Bây giờ không phải là trường hợp bất đắc dĩ. Bầy sói đến đây cũng chỉ vì con ngựa chết toi nằm kia đâu có phải vì Lưu này. Nổ súng làm gì, thôi "nhượng bộ" chúng. Nghĩ đoạn, anh lùi ra rất xa cho đến khi đàn sói nhâu nhâu cắn xé xác con ngựa chết. Anh quay người lại đi về phía bắc đến một cái gò nhỏ, Qua một đám cây lớn, anh thấy dưới chân gò có một hòn đá xanh hình bánh bao. Đá mọc thẳng, đứng trơ vơ giữa trời. Anh tới trước hòn đá đó, thấy có hai lốt chân người đi giày, một to một nhỏ, một lốt chân nhỏ đi giày cao-su, một lốt chân to đi giày vải. Anh đi rộng ra thì không thấy gì nữa, vì cỏ đã che phủ cả. Anh đi quanh hòn đá một vòng, thấy ở phía đông nam có một đống gio mới. Anh vỗ đùi phấn khởi, bao nỗi mệt nhọc tiêu tan cả, một trận cười rung động, anh vỗ vào nắm cơm:
       - Bạn tốt ta ơi! Không mày tao còn làm nên trò trống gì được!

      Lúc bấy giờ, anh mới thật thấy đói. Anh tìm nơi ẩn nấp, ăn no rồi sẽ ra tay. Anh nhìn xuống dưới, thấy ở phía bắc cách chỗ anh hơn một trăm thước có một cây to. Anh đến tận nơi xem, thấy thân cây rỗng, dưới gốc có một cái hốc quay về phía tây nam. Nhánh cây buông xuống như một tấm rèm che kín miệng hốc. Hốc cây đó ăn thẳng lên thân. Anh vừa vạch nhánh cây ở miệng hốc sang một bên, bỗng "soạt" một tiếng, rồi có vật gì nhảy vọt ra. Anh hoảng sợ lùi lại sau năm sáu thước, định thần nhìn lại thì té ra là mấy con thỏ ăn nấm dưới gốc cây. Anh nhìn thỏ thoăn thoắt chạy đi xa, mỉm cười nói:
       - Xin lỗi các chú! Tôi đã "xâm phạm" đến lãnh thổ của các chú.

       Nói xong, anh cúi xuống vơ một ôm cỏ khô giải trong hốc cây, đoạn chui vào, ngồi xuống lấy cơm ra ăn.

      Đang ăn, anh bỗng phá lên cười, cơm bắn cả ra đằng mũi. Anh biết anh cười gì? Anh chợt nhớ đến câu chuyện ngụ ngôn ngày xưa: "Ngồi gốc cây đợi thỏ". Ngày nay anh cũng đến hốc cây này đợi bắt thổ phỉ, nhưng anh không thể bắt chước thằng lười trong chuyện ngụ ngôn. Ăn no rồi, anh lại còn phải tiếp tục đi lùng đây đó.

       Ánh sáng mặt trời xuyên qua cành cây chiếu rọi vào trong hốc khiến anh thấy ấm. Anh mới rõ ánh mặt trời quý giá biết bao trong rừng sâu giữa mùa đông tháng giá. Miệng nhai cơm, đôi mắt lim dim như muốn ngủ. Bỗng tiếng chim gõ mõ thức tỉnh anh dậy, làm anh cảnh giác:
       - Không thể để vì sơ suất một chút mà làm lỡ nhiệm vụ…….
      Nói xong, anh bò ra khỏi hốc, trèo lên một cây to ở trước mặt, bóc nắm đầu khỉ nhai cót két ngon lành. Đang lúc ăn ngon miệng, anh nghe thấy tiếng người nói vẳng từ sườn núi phía tây lại. Anh lắng tai nghe có tiếng nói:
      - Hai vợ chồng lão ba Tống bán thuốc phiện, một đời...

      Huân Thương không tin tưởng cái tai của mình. Anh dựa sát vào thân cây, lấy tay rẽ cành ra, nhìn qua khe lá về phía có tiếng người nói vẳng lại. Tiếng nói mỗi lúc một gần:
      - Cô ấy tuổi vừa đôi tám. Người ta tặng cho cô cái tên cúng cơm: "Cô Hoa Sen".

      Tiếng nói lại bặt đi. Một người vác súng trường, mặc bộ quần áo dạ vàng Nhật Bản nhô ra, đầu đội mũ rách lệch về sau gáy, lưng đeo một gói vải bạt, vừa đi vừa hát nghêu ngao, men theo sườn núi đi xuống.

       Còn cách hòn đá Bánh Bao bảy, tám chục bước, hắn dừng lại, không hát nữa, nhìn bốn chung quanh, đưa hai bàn tay lên miệng làm loa lớn tiếng gọi:
       - Loan cảnh úy!

       Tiếng vang đi tứ phía, nổi ran lên. Nhưng không có người trả lời. Hắn gọi tiếp mấy tiếng nữa vẫn thấy im bặt, liền cất tiếng chửi:
       - Thằng oắt ấy lại đến muộn rồi!

       Chửi xong hắn đi về phía nam núi Bánh Bao, ngồi xuống bên cạnh đống gio, mặt quay về phía mặt trời, dựa súng vào núi, vất gói vải bạt xuống đất.

       Huân Thương sung sướng muốn bắt ngay, anh nghĩ thầm: Vừa rồi nó gọi Loan cảnh úy, chắc chắn Iát nữa thế nào cũng có thằng phỉ khác, chi bằng xơi thằng một, ăn chắc hơn, đó là yếu lĩnh chiến thuật chiến đấu. Nhất định phải bắt sống. Nghĩ đến đó, anh liền nhảy từ trên cây xuống, luồn theo dốc núi, tay cầm súng tiến thẳng lên. Tên kia nghe thấy tiếng động, từ từ quay người lại nhìn. Không nhìn thấy rõ, hắn đứng lên, chỉ thấy người đang xông tới hắn là một giải phóng quân. Biết là sự việc hỏng đến nơi rồi, nhưng hắn vẫn bình tĩnh hét lên:
      - Ở đâu đến? Tên họ là gì?
       Huân Thương cứ xông lên không để ý đến câu hỏi. Hắn quay lại lấy được súng, thì Huân Thương cũng chỉ còn cách xa hai mươi bước đã chĩa súng vào hắn hô lớn:
       - Đứng im!
      Tay đã cầm súng, hắn tự thấy có sức mạnh không kém, liền lên đạn chĩa về phía Huân Thương:
      - Pằng!
      Súng của Huân Thương đã nổ, trúng tay trái hắn, khẩu súng rơi xuống đất, hắn cắm đầu chạy. Huân Thương thấy tay hắn không có vỏ khí nữa, trong lòng vô cùng sung sướng hét lớn:
      - Tao sẽ vặn cổ mày như vặn cổ gà.
       Anh vẫn nhớ lời Kiếm Ba căn dặn cần bắt sống để lấy khẩu cung. Anh liền giắt súng vào bên hông, co cẳng đuổi theo.

      Hắn là một người sơn cước đi quen đường rừng,  chạy như bay khác nào con khỉ truyền cây. Nhưng  Huân Thương cứ bám sát sau lƯng, không chịu chậm lấy một bước, miệng hô lớn:
      - Đứng lại! Nếu chạy nữa tao sẽ bắn!

      Hắn hoảng sợ ngoảnh đầu lại, kêu lớn:
      - Kìa, đằng sau có người đuổi!

       Huân Thương tưởng là có người thật, vội quay đầu lại, nhưng chẳng thấy bóng vía ai, biết là bị lừa. Nhân lúc đó, hắn đã chạy xa được mấy chục bước. Huân Thương tức giận càng ra sức đuổi gấp.

       Thấy Huân Thương đuổi đã sát tới nơi, hắn vừa chạy vừa la lớn:
      - Đằng sau có người! Đằng sau có người!

       Huân Thương vừa đuổi vừa nghĩ bụng:
       - Đằng sau có người, tao cũng không sợ, tao phải bắt được mày mới nghe.

      Thấy Huân Thương chỉ còn cách ba chục bước, hắn quay đầu lại dọa:
      - Mày muốn mất giống, thì cứ đuổi! Núi phía trước kia đã có người của chúng tao!

      Huân Thương vừa đuổi vừa thét:
      - Tao không sợ, oắt con lại đây!

      Thấy mưu kế thất bại, hắn lại cắm cổ chạy bán sống bán chết.

      Còn cách hai mươi bước nữa, Huân Thương nhặt vội hòn đá, ném đúng chân sau. Hắn lảo đảo mấy bước, rồi ngã gục xuống. Huân Thương định chồm lên ôm lấy, thì hắn đã rút trong lưng ra con dao găm, võ khí cuối cùng của phỉ. Hắn nghiến răng, trừng mắt, tay cầm dao găm, đâm thẳng vào ngực Huân Thương. Huân Thương nhanh như cắt nhảy tránh sang một bên, co chân đá trúng tay phải của hắn, dao găm văng vù vào trong bụi cây.

       Huân Thương chồm lên hai tay bóp chặt cổ, ấn hắn xuống, quật cho ngã lăn hai ba vòng. Hắn thở không ra hơi, vội quỳ xuống đất van xin:
      - Thưa anh, em bé dại không biết gì, anh tha cho.

      Huân Thương vẻ mặt giận dữ, chĩa súng vào ngực hắn hỏi:
     - Ở đây còn ai nữa không?

     - Chỉ có mình tôi chuyên nghề bán nhựa.

      - Mày nói láo!

      Hắn vừa trỏ vào sọ vừa thề:
      - Nếu nói sai súng kia sẽ kết liễu đời tôi.

      - Mày vừa gọi Loan cảnh úy, vậy Loan cảnh úy ở đâu?

       Lưu Huân Thương rút lưỡi lê trong bao ra vung lên. Hắn vội vã cúi đầu van xin:
       - Xin ông tha cho... ông tha cho! Cháu xin nói... Loan Bình ở thôn phía sau Cửu Long Hội. Cứ mười ngày cháu giao nhựa cho y một lần. Nhưng hôm nay chưa thấy đến.

       Huân Thương nghĩ bụng rằng: Thủ trưởng 203 bây giờ chỉ cần "cái lưỡi". Thằng cha này là liên lạc của phỉ, có tác dụng đây, đưa nó về tra hỏi tình hình, rồi hành động sau, có thế mới đỡ mạo hiểm phiêu lưu. Nghĩ đoạn, Huân Thương bèn quả quyết giắt lưỡi lê vào bao và bảo:
      - Đứng lên! Đi theo tao! Loan cảnh úy ở đâu đến? Dẫn tao đi đón, bướng ông chặt đầu.

       Hắn vâng vâng dạ dạ:
       - Con xin đưa đi.

       Huân Thương lúc bấy giờ mới nhìn kỹ tướng mạo của hắn như khỉ, môi thâm, mắt lấm lét, chân vòng kiềng, mặt thì tái mét, hệt dáng bộ một chàng nghiện trông đến buồn cười.

    Lưu Huân Thương muốn kiếm chút chiến lợi phẩm - mối manh, nên anh vừa áp giải vừa gạn hắn:
     - Loan cảnh úy, thằng cha ấy ở đâu đến?

     - Cửu Long Hội, thôn phía sau Cửu Long Hội, đúng như thế, thật quả không sai, nếu sai con xin mất đầu…..                                                                                                          

HỒI THỨ SÁU.
BAN ĐÊM HỎI CUNG.

       Đêm khuya, trăng mờ, sương tỏa. Trong một căn nhà nhỏ, Kiếm Ba đang tra hỏi tên thợ đồ gốm do Dương Tử Vinh bắt về. Không khí trong căn nhà rất căng thẳng. Kiếm Ba lòng nóng như lửa muốn biết tình hình, và sào huyệt bọn phỉ ở đâu. Nhưng tên thợ đồ gốm xảo quyệt nhất định không xưng. Cao Ba và Lý Hồng Nghĩa trợn mắt nghiến răng, như muốn xé xác, móc bụng nó ra để tìm những điều muốn biết.

      Kiếm Ba kiên tâm tra hỏi, và nhận thấy nó là một thằng phỉ gan dạ, xảo quyệt; đồng thời cũng nhìn thấy thủ đoạn lão luyện của nó, thảo nào một tay trinh sát cừ, giàu kinh nghiệm như Dương Tử Vinh đã có lúc phải dao động. Hôm nay là lần tra hỏi thứ hai. Kiếm Ba đã thấy nóng mắt, đăm đăm nhìn:
      - Bây giờ nói lại, làm nghề gì?

      - Tôi đã trả lời ông nhiều lần rồi, tôi làm thợ đồ gốm!

      - Mày là người ở đâu? Tên họ là gì?

      - Thôn Hòa Thượng, tên Vương An.

      - Vương Ân Điền ở Cửu Long Hội đối với mày là thế nào?

      - Anh rể, chị ruột.

      Kiếm Ba cất cao giọng hỏi:
      - Hứa Gậy Gộc ở đâu?

      - Không rõ. Tôi làm nghề thủ công, vì phải tìm kế sinh nhai nên tôi có phạm pháp, đi bán thuốc phiện, làm thế nào mà biết nó ở đâu? Xin các ông đừng gán cho tôi cái tên quốc dân đảng, thổ phỉ.

       Kiếm Ba nổi giận:
       - Tao cần nhắc lại cho mày biết, muốn được khoan hồng thì cũng phải có điều kiện. Không nói thật thì chỉ có hại. Điều đó mày nên rõ. Cậu Ba mày còn có...

      Tên đồ gốm lo lắng cho ông cậu, một thằng nhát như cáy chỉ sợ chết. Lại thêm những câu hỏi của Kiếm Ba, nó bắt đầu tỏ vẻ lo lắng. Ở đôi mắt nó, người ta thấy vẻ hoảng sợ và do dự, đồng thời có thể biết trong tim gan nó đang diễn ra một cuộc đấu tranh gay go. Nhưng nó vẫn giương mắt nhìn và nói:
      - Nếu bắt buộc tôi nói, tôi sẽ nói, nhưng tôi không chịu trách nhiệm những câu nói của tôi.

       Kiếm Ba rất bực tức, nhưng cố gắng trấn tĩnh. Bên ngoài có tiếng chó sủa, Dương Tử Vinh và Bạch Như chạy vào mặt đỏ tía, thở hổn hển.

       Bạch Như, một nữ đội viên ngây thơ nhanh nhẹn vừa bước qua ngưỡng cửa, hai tay chắp lại, miệng mỉm cười, nhảy chân sáo:
      - Thành công! Thành công! Đại thành công!

      Còn Dương Tử Vinh cười ha hả bước vào muốn báo cáo điều gì, nhưng chợt trông thấy tên thợ gốm do chính tay anh bắt về, anh im bặt không nói nữa.

      Kiếm Ba nhìn Bạch Như vui vẻ nói:
      - Kìa khéo... đừng làm tắt đèn.

      Bạch Như đỏ mặt, nghiêng đầu ngồi xuống cạnh giường, sau bóng Cao Ba.

      Kiếm Ba hiểu ý Dương Tử Vinh và Bạch Như, lệnh cho Cao Ba dẫn tên thợ đồ gốm đi.

      Kiếm Ba tủm tỉm cười:
      - Bây giờ nói đi nào! Thành công như thế nào?

      Dương Tử Vinh vừa cất lời định nói, thì bên ngoài có tiếng chân người. Ba người cùng hồi hộp chạy ra. Bước qua cổng thì gặp Đổng Trung Tùng, tiểu đội phó tiểu đội hai, Tùng phấn khởi reo lên:
      - Tham mưu trưởng! Tham mưu trưởng!

      Bạch Như tươi cười cải chính:
      - Lại quên mất rồi. Gọi là 203 hay gọi là đội trưởng!

      Ý Bạch Như muốn nói câu ấy với Kiếm Ba, vì Kiếm Ba cũng đã nhiều lần sửa lại cái quên của nàng.

      Đổng Trung Tùng cười ha hả:
     - Vội quá, thôi gọi thế nào cũng được!

      - Cái gì mà vội thế, nói đi, nói mau đi.

      Đổng Trung Tùng vừa thở vừa nói:
      - Huân Thương đã về, bắt được "bảo bối", - anh nói tiếp, - bước vào cửa là nó cúi đầu lạy: "Xin các ông xét cho!... Cũng là người nhà cả thôi".

       Đổng Trung Tùng bắt chước dáng điệu tên bị bắt làm cho ai nấy phải phì cười. Bạch Như cười ngặt nghẽo, đẩy Tùng:
       - Diễn lại một lần nữa xem nào.

       Huân Thương mặt mấy ngày chưa rửa, mồ hôi nhễ nhại bước vào trong lúc gian nhà còn vang tiếng cười…

      Kiếm Ba bước ra, siết chặt tay Huân Thương:
      - "Xe tăng"! Anh làm chúng tôi đợi sốt cả ruột!

       Mọi người cười lên nói theo:
       - "Xe tăng" đã về, anh em ạ!

      Rồi lần lượt bắt tay Huân Thương. Đến lượt Bạch Như, Huân Thương ra sức nắm lấy tay nàng:.
     - Ái dà!

     Nàng kêu lên, chân dún lên dún xuống, cố kéo tay ra.

      Huân Thương cưòi:
      - "Bồ Câu Trắng"! Cô làm gì đấy, định múa cho chúng tôi xem à! Tôi ở trong rừng sâu cũng nghe thấy tiếng cô cười.

      Nói xong anh bước lên giưòng ngồi.

      Còn Bạch Như đứng xoa xoa cái tay đang đau vì bị nắm chặt, đưa mắt nhìn theo:
     - Gớm! Cái anh tai thỏ này!


  Huân Thương ngồi trên giường, kể lại từng chi tiết việc đã xảy ra. Mọi người lắng tai, cảm thấy như sức mạnh của anh đã truyền sang mình. Ai nấy đều vô cùng phấn khởi…..

       Kiếm Ba vui vẻ đứng lên ra lệnh:
       - Tiếp tục hỏi cung, nếu kéo dài, phỉ có thời gian bố trí đề phòng. Hơn nữa chúng ta dễ bị lộ. Phải đánh chúng khi chúng chưa kịp phòng bị. Thời gian là lực lượng.

      Rồi quay lại hỏi Huân Thương:
      - Thằng này có đặc điểm gì?

      Huân Thương trả lời một cách dứt khoát:
      - Sợ chết!

      - Đúng! Trinh sát thì phải trăm phương nghìn kế, hỏi cung cũng không thể chỉ dùng một phương pháp Tên "thợ đồ gốm" rất xảo quyệt, nó lợi dụng sự khoan hồng của chúng ta. Đối với bọn phỉ cốt cán, phải có sự phân biệt đối đãi; đối với những kẻ táng tận lương tâm, phản cách mạng, chúng ta phải đàn áp. Trung Tùng! Dẫn nó vào đây!

      Trung Tùng vội vã chạy ra:
      - Vâng!

       Huân Thương rút đại đao ra. Bạch Như đốt cành nhựa thông. Ánh sáng tỏa khắp gian nhà. Mắt ai nấy sáng ngời làm cho gian nhà tăng thêm vẻ uy nghiêm.

       Trung Tùng túm lấy cổ áo tên "chiến lợi phẩm" của Huân Thương kéo vào. Tên này rụt cổ lại, còng lưng xuống, đôi mắt lờ đờ, bước qua cửa, qùy xuống, cúi đầu van xin.

      - Bẩm quan lớn tha tội cho, bẩm quan lớn xin đừng giết con!

    Trung Tùng kéo cổ áo nó xốc lên, vật xuống. Nó sợ run lẩy bẩy.

      Kiếm Ba lặng lẽ đăm đăm nhìn, làm nó càng thêm sợ, đứng không vững, cứ chực ngã. Hai phút sau, Kiếm Ba thét lên:
     - Mày muốn sống hay muốn chết!

     - Bẩm lạy quan lớn! Con muốn sống! Quan lớn tha cho!
      - Muốn sống thì nói thật đi, nếu nói sai... - Kiếm Ba đưa mắt nhìn Huân Thương.

      Huân Thương hiểu ý vung dao lên, trợn mắt, quát to:
      - Tao cắt đầu ngay!

      Nó sợ quá kêu lên một tiếng:
      - Mẹ ơi!

      Hai tay nó ôm lấy đầu gục xuống đất. Trung Tùng lại xốc nó lên.

      Kiếm Ba hất hàm hỏi Bạch Như:
      - Ghi chép những lời nó khai.

      Đoạn ngoảnh lại hỏi:
      - Tên gì?

      - Điêu Chiếm Nhất, đáng tội chết.

       Kiếm Ba và Dương Tử Vinh nhìn nhau cười, hai người lúc theo dõi tên thợ đồ gốm cũng nghe thấy nó nói đến tên Điêu đầu khỉ.

      - Điêu đầu khỉ là ai?

      Kiếm Ba hỏi câu đó có ý bảo nó đừng giấu giếm gì nữa, nói thật đi.
     - Chính là tôi. Cứ mười ngày một lần tôi ra đó giao nhựa, nhựa chính tay chúng tôi trồng lấy. Tôi giao cho Loan cảnh úy. Loan cảnh úy lại mang ngoài bán, rồi mua thuốc, mua muối và tình báo đưa lại cho tôi mang về. Chỗ chúng tôi giao nhựa ở núi Bánh Bao dưới chân núi Phân Thủy. Hôm nay, tôi định giao 30 cân nhựa. Loan cảnh úy chưa tới thì bị ngài... – Hắn đưa măt về phía Huân Thương.

       Kiếm Ba hỏi thêm một câu:
       - Mày có quen Loan cảnh úy không?

      - Dạ, quen lắm.

      - Sào huyệt phỉ Hứa Gậy Gộc ỏ đâu?

      - Nãi Đầu Sơn. Nãi Đầu Sơn.

      - Mày có thể dẫn đường đưa tới đó được không?

     - Điều đó con không làm được.

     Huân Thương trợn mắt quát:
     - Mày nói cái gì?

      Chiếm Nhất lại hoảng sợ van xin:
      - Ông tha tội cho, đầu đuôi thế nào con xin nói: "Vào Nãi Đầu Sơn phải qua ba trạm gác. Trạm thứ nhất là tiểu đoàn trưởng Đinh mắt lác, một tay thân tín của Hứa Gậy Gộc, chuyên đi các bản. Trạm thứ hai là con. Con đi đường rừng quen rồi, cho nên khi đi khi về đưa tin, đưa hàng, chứ không được vào bản, không được ra khỏi núi. Trạm thứ ba là Loan cảnh úy, trông nom việc bán thuốc và tình hình trên quãng đường này. Hứa Gậy Gộc sợ lộ, nên cấm hai đầu không ai được qua lại. Nãi Đầu Sơn, con chưa bước chân tới, cho nên địa thế ra sao con không rõ. Đó là những lời thành thực, không dám nói sai. Xin các ông tha cho con về".

     - Dọc đường đi, nó đánh dấu hiệu gì?

     - Con không rõ. Dấu hiệu của con là một nhát dao vào vỏ cây.

      Kiếm Ba nhìn đồng hồ, tự nghĩ thầm: Thằng này chỉ đến thế thôi!

       Rồi rỉ tai Đổng Trung Tùng mấy câu. Trung Tùng dẫn Chiếm Nhất đi ra. Chiếm Nhất không hiểu rõ dẫn đi có ý gì, vừa đi vừa van xin:
      - Ông tha cho...! Ông tha cho!...      

      Kiếm Ba ngoảnh lại hỏi Dương Tử Vinh và Bạch Như:
      - Bây giờ chúng ta có thể đi đến kết luận đầu tiên: Tên thợ đồ gốm tự xưng là Vương An kia, chính là Loan cảnh úy.

      Dương Tử Vinh trả lời:
      - Đúng. Chính hắn.

     Kiếm Ba hỏi thêm một câu:
     - Chúng ta gọi chúng nó lại đối chất, liệu được không?

     Bạch Như cướp lời:  
      - Nhất định được!

     - Vậy thì cần đối chất ngay!

       Kiếm Ba một mặt quyết định, một mặt dặn Cao Ba đưa tên thợ đồ gốm vào, rồi rút ở trong xà cột ra một tờ giấy có kẻ sẵn, lấy bút viết, viết được một nửa thì dừng bút như có điều gì phải suy nghĩ, Kiếm Ba ngẩng đầu lên nói với Dương Tử Vinh và Bạch Như:
     - Thằng cha này xảo quyệt lắm. Tôi phải thú nhận rằng tôi chưa có kinh nghiệm đối phó với hạng phỉ như loại nó. Bây giờ hai đồng chí lợi dụng mấy phút cuối cùng hỏi vợ chồng Vương Ân Điền để thêm rõ, bởi vì mục đích của chúng ta là tìm hiểu tình hình, chứ không phải thủ tiêu một cá nhân nào.

      Dương Tử Vinh và Bạch Như ra đi đầy tin tưởng.

      Tên thợ đồ gốm bước vào, cố ý làm ra bộ thản nhiên. Kiếm Ba không nói năng gì cả, cau đôi lông mày, vẻ mặt bực tức, đăm đăm nhìn để đánh loạn tâmtư của hắn.

      Huân Thương ngồi cạnh giường tay đưa dao lên, đưa dao xuống. Tên thợ đồ gốm nhìn thấy nét mặt của Kiếm Ba, tuy có phần sợ, nhưng vẫn cố bình tĩnh nhìn chung quanh, như tin tưởng không ai trị nổi mình. Đến khi nhìn thấy Huân Thương, một người lạ mặt sát khí đằng đằng, thì tỏ vẻ luống cuống.

      - Loan cảnh úy!

       Kiếm Ba bỗng gọi lên một tiếng làm cho tên thợ đồ gốm hồn xiêu phách lạc. Hắn bỗng tái mặt đi, gục đầu xuống. Hắn quả thật xảo quyệt, nên một phút sau, hắn lấy lại bình tĩnh; nhưng, lúc đầu, cười rất gượng gạo:
      - Tôi không hiểu rõ ý ông muốn gì?

      Kiếm Ba khoan thai đứng lên, với một giọng khinh bỉ:
      - Có thật mày không hiểu?

      - Không hiểu là không hiểu.

       Kiếm Ba quay ra cửa sổ gọi:
       - Vào đây!

     Dương Tử Vinh và Bạch Như dẫn vợ chồng Vương Ân Điền đi vào, bảo họ ngồi xuống cạnh giường. Tên thợ đồ gốm trông thấy vợ chồng Vương Ân Điền thì lo sợ, nhưng lại cố làm ra bộ tươi cười:
      - Anh chị! Nào em có làm gì đâu!

      Vương Ân Điền đứng phắt dậy có dáng điệu là một tay đi săn lão luyện, nhổ vào mặt tên thợ đồ gốm:
     - Ai là anh rể với mày, mày là Loan cảnh úy, tay chân của...

    - Vương Ân Điền ơi! Xin ông đừng ngậm máu phun người.

     Vương Ân Điền tiến lên:
     - Câm cái mồm mày đi! Chúng mày... bọn phỉ chúng mày đã chiếm rừng này, không cho ai săn bắn, chúng mày lại lấy không của tao hơn ba mươi tấm da, ba cân cao hươu bao tử, làm cho tao mùa đông năm nay ôm súng ở nhà, không có hàng bán. Một nhà ba miệng ăn, bó tay chờ chết. Nếu không có kẻ làng người nước, người một đấu, kẻ nửa thưng, thì vợ chồng con cái tao cũng đi chầu Diêm vương từ bao giờ rồi, còn đâu đến ngày nay...

       Nghe tới đó, vợ Vương Ân Điền khóc rú lên, vừa khóc, vừa kể lể:
       - Mười rằm tháng Bảy, đã nửa đêm, mày dắt ba người lạ mặt vào bắt con tao đi, mày bắt tao phải nộp cho mày năm mươi tấm da, hai cân nhung mới thả cho con tao về. Trời ơi! Nó cướp hết của tôi! Hai vợ chồng tôi quỳ xuống lạy nó, nó không nghe; nó cứ bắt tôi nhận àm nơi đi về của chúng, không nhận, nó lại bắt con tôi đi. Nó bắt tôi làm giả chị ruột nó.

      Nói đoạn, lại khóc rú lên. Bạch Như đổ xuống,  ngồi cạnh giường.

      Vương Ân Điền nói tiếp:
      - Mày ấn súng vào gáy dọa tao: nếu để lộ bí mật, mày sẽ bắn chết cả nhà. Nếu có quân trung ương đến, sẽ tính công khen thưởng. Với quân giết người cướp của, còn ai dám làm trái ý chúng mày nữa.

      Hai vợ chồng lại khóc nức nở.

     Tên thợ đồ gốm, - cảnh úy của quân đội Nhật – phó quan của quốc dân đảng, run lẩy bẩy, toát mồ hôi, không còn ung dung như trước nữa.

      Kiếm Ba đưa mắt nhìn, thấy dáng bộ nó như thế,  bụng nghĩ  thầm: Tiếp tục tấn công! Rồi quay ra phía cửa sổ gọi:
       - Trung Tùng!

       Bên ngoài có tiếng trả lời:
       - Tôi đây!

      Trung Tùng lại dẫn Chiếm Nhất vào. Chiếm Nhất ngoan ngoãn bước vào không sợ sệt mấy, vì Trung Tùng đã được Kiếm Ba căn dặn phải tuyên truyền giáo dục cho Chiếm Nhất rõ chính sách rộng lượng khoan hồng của Chính phủ, nên đã cho nó ăn uống tắm giặt chu đáo.

      Chiếm Nhất bước vào cúi rạp đất chào Kiếm Ba:
      - Con xin báo đền công ơn!    

       Rồi ngoảnh lại, tiến lên vả vào mặt tên thợ đồ gốm hai cái tạt tai, lấy tay giúi đầu hắn và dằn giọng:
      - Chính là thằng này! Không còn ai nữa! Mới đầu mày làm cảnh úy ở huyện Vi Hà, dần dần lên chức phó quan. Bây giờ mày buôn thuốc phiện, làm tình báo. Riêng một mình con, con đã giao cho nó 300 cân thuốc. Bẩm quan lớn! Thằng này phải xử bắn ạ !

       Tên thợ đồ gốm nghe xong, mồ hôi toát ra, chảy ròng ròng, chân bủn rủn như muốn qụy.

       Kiếm Ba khoan thai bước đến trước mặt hắn nhẹ nhàng nói:
       - Loan cảnh úy! Đã rõ chưa?  

      Hắn cúi gằm mặt xuống không dám nhìn thẳng rồi ngẩng đầu lên tự tát vào mặt hai cái:
      - Đồ chó chết! Đồ chó chết!

      Kiếm Ba ra lệnh cho Bạch Như dẫn vợ chồng Vương Ân Điền về chỗ cũ và Trung Tùng đưa Chiếm Nhất ra khỏi nhà.

      Kiếm Ba tới trước mặt tên thợ đồ gốm:
    - Tao đã nói với mày năm lần bảy lượt rồi, lần nào cũng giáo dục cho mày thấy chính sách khoan hồng. Ai ngờ mày cứ trơ như đá, không những thế, mày lại còn định lợi dụng chính sách khoan hồng của Chính phù.  

     Kiếm Ba đổi sắc mặt, sát khí đằng đằng, đọc tờ giấy vừa viết xong cho hắn nghe:
       - Loan Bình, Hán gian làm cảnh úy cho ngụy quyền Mãn Châu, tay chân đắc lực của bọn chó săn Nhật Bản, hoành hành tàn sát nhân dân. Sau lại tham gia quốc dân đảng, đốt nhà, giết người, buôn thuốc phiện, làm hại nhân dân.

       Đọc xong, Kiếm Ba hỏi lại hắn:
      - Đó là chân tướng của mày. Mày xem có điểm nàn là điểm không đáng xử bắn không? Tao có thể đại diện cho ủy ban nhân dân tuyên án xử tử mày.

       Tên thợ đồ gốm gục xuống đất kêu van, khóc sướt mướt, nước mắt nước mũi đầm đìa.

       Kiếm Ba nét mặt thản nhiên nói tiếp:
       - Sống chết là ở mày. Mày muốn chết thì mày cứ việc xảo quyệt ngoan cố, mày muốn sống thì phải nói thật, ngoan ngoãn làm ăn. Chính phủ căn cứ vào lời khai bây giờ và hành vi của mày sau này để quyết định chính sách khoan hồng hay trấn áp.

      Tên thợ đồ gốm giọng nói run run:
      - Con muốn sống! Con muốn sống! Quan lớn tha cho con!

      - Cái đó do mày tự quyết định lấy.

      Kiếm Ba ngồi xuống cạnh giường, nói tiếp:
      - Cho mày hai phút nữa để suy nghĩ, chọn lấy một con đường muốn sống hay muốn chết. Sau hai phút, mày không còn được quyền hưởng gì nữa!

      Kiếm Ba tay giữ đồng hồ, Huân Thương cầm lưỡi
dao sáng loáng.

       Kiếm Ba nhắc:
        - Một phút rồi.

      Tên thợ đồ gốm thở hổn hển:
      - Con xin nói! Con xin nói!

       Bạch Như cầm bút lên ghi chép.

      Tên thợ đồ gốm bắt đầu nói từ nhà cậu Ba nó là lão béo, nói tới lão Khương đại địa chủ ở thôn Hòa Thượng, quả phụ Trương ở thôn Lưỡng Hán, Trần Đại ở trạm Hải Lâm, đội trưởng bảo vệ đường sắt ở tổng Mẫu Đơn... Tất cả 18 cứ điểm bí mật và thủ lĩnh của chúng.

       Kiếm Ba thầm nghĩ:
       - Nguy hiểm quá! Phải đề cao cảnh giác. Bọn phỉ đã đánh vào bộ đội chúng ta, có đứa còn làm cán trong hàng ngũ chúng ta nữa.

       Huân Thương đứng bên cạnh, tính nóng như lửa, anh chợt nhớ tới nợ máu xưa, thét lên:
      - Trận tàn sát Sam Lam ai gây ra?

       Dương Tử Vinh vội ra hiệu bảo Huân Thương không được nói nữa. Huân Thương hiểu ý ngay là minh đã lỡ lời.

      Nghe thấy tên "Sam Lam", tên thợ đồ gốm hoảng hốt bào chữa:
      - Bẩm quan lớn! Không phải con! Chính là Trịnh Tam Pháo. Con liên lạc bên ngoài. Còn trinh sát tình báo, đón quân đội trung ương, hoàn toàn do Hầu chuyên viên và Hứa lữ trưởng phụ trách. Những việc đó không có dính dáng gì đến thằng lính quèn như con cả.

        Kiếm Ba lại giục:
        - Nói tiếp đi!

       - Con liên lạc với Tọa Sơn Điêu ở Uy Hồ Sơn, nhưng con không thuộc vị trí nơi đó, con chỉ ở phía ngoài rừng, Trịnh Tam Pháo liên lạc với Hầu chuyên viên và Tạ tư lệnh.

       Nhắc đến tên Hứa Gậy Gộc, y chỉ nói y biết trong núi Nãi Đầu Sơn có Hứa Gậy Gộc, y nhắc đi nhắc lại nguyên nhân ở ngoài làm liên lạc, có nhiều cơ hội sa lưới, vì thế cho nên Hứa Gậy Gộc không để y vào núi Nãi Đầu Sơn và cũng không cho y biết tình hình chi tiết trong núi. Nhung lúc nói đến lực lượng của Hứa Gậy Gộc - không rõ y có dụng ý gì - y nhìn Kiếm Ba các người khác bằng con mắt miệt thị:
     - Phải thận trọng đối với tay chân của Hứa Gậy Gộc. Trừ các quan ra, còn lại đều là những tay thiện xạ trong vùng rừng núi này. Bố con Hứa Gậy Gộc bắn rơi chim sẻ bay. Yêu Bươm Bướm khi hai tay đã cầm hai khẩu súng, thì năm ba chục người đừng hòng tiến lên, lại còn Trịnh Tam Pháo, thưở nhỏ là một tay ăn cướp khét tiếng. Hứa Gậy Gộc bỏ ra một nghìn đồng mua về làm tay chân, chỉ đâu bắn đấy, chỉ mắt trái bắn đúng mắt trái, chỉ mắt phải bắn đúng mắt phải. Bố con Hứa Gậy Gộc rất kiêng nể hắn. Hắn còn có tài đi đường núi như đi đường bằng, một ngày hơn trăm dặm. Hắn có 12 đồ đệ đều là những tay bắn lành nghề. Không nên khinh thường hắn. Con xin cứ thực trình khai.

       Nói xong hắn đưa mắt liếc Kiếm Ba, tỏ vẻ dọa nạt phân đội.

      Gà đã gáy sáng.

      Kiếm Ba nhìn đồng hồ, 5 giờ rồi.

      Cao Ba còn ngái ngủ, bước vào báo cáo:
      - 203! Ông già Nấm.

      - Đợi một tý...

       Kiếm Ba liếc nhìn tên thợ đồ gốm, ra hiệu cho Cao Ba đừng nói nữa Sau đó ra lệnh cho tên thợ đồ gốm điểm chỉ vào giấy khai khẩu cung. Kiếm Ba cảnh cáo thêm một câu:
      - Sào huyệt của chúng mày có bao nhiêu người? Viết ra đây. Nếu mày còn ngoan cố, một ngày kia điều tra ra, thì không lợi cho mày đâu.

      Hắn ra khỏi cửa rồi, Cao Ba tiếp tục báo cáo:
      - Ông già Nấm...

       Kiếm Ba vui vẻ cười, đứng dậy nói:
       - Biết rồi! Các đồng chí, như thế là ta đã tìm ra manh mối. Với sự hiểu biết trước kia, cộng thêm lời khai của hai thằng phỉ này, chúng ta tìm đến Nãi Đầu Sơn. Bây giờ các đồng chí hãy nghỉ sáu tiếng đồng hồ, để rồi vài ngày sau bước vào một giai đoạn gian nan va gay go hơn.

       Mọi người không một ai tỏ ra mệt nhọc, mà lại phấn khởi hơn.

       Kiếm Ba ra lệnh:
       - Nghỉ là nhiệm vụ duy nhất trong giờ phút này. Sáu giờ sau, chúng ta sẽ hỏi tin một cụ già trong núi.
      ...................                            

HỒI THỨ BẨY
NÃI ĐẦU SƠN…LÃO NẤM KỂ CHUYỆN THẦN THOẠI.

        Từ ba hôm nay trong khi Dương Tử Vinh đi lùng "anh thợ gốm", Huân Thương thì dò xét vết tích lũ phỉ trong rừng, Siêu Gia luyện bộ đội về kỹ thuật leo núi. Còn Kiếm Ba suy nghĩ về kế hoạch làm thế nào quét phỉ trên núi Ông Già.

        Núi Ông Già! Núi Ông Già!
        Ba nghìn tám trăm ngọn núi!
        Ngọn nhỏ người chưa từng tới
        Ngọn lớn chim chưa từng qua!

       Đó là bài hát truyền tụng trong dân gian để hình dung núi Ông Già. Quả thực, đó là một khu núi non trùng trùng điệp điệp, núi nọ liền núi kia, núi này chồng lên núi khác, ngoài núi có núi, trên núi có núi, ngọn thì chạm mây, ngọn cây chạm giời. Hổ gầm gấu hét, dã thú hàng đàn, báo hú hươu kêu, nai rừng từng lũ, vào rừng ngẩng mặt lên không thấy giời, lên đỉnh cúi đầu nhìn không thấy đất. Một bọn phỉ nhỏ giết người không biết gớm tay, ẩn nấp trong rừng mênh mông. Tìm ngả nào cho thấy? Kiếm ngả nào cho ra?

      Kiếm Ba buồn bực, đầu óc rối bời.

       Một buổi tối, anh cùng với hai chiến sĩ Cao Ba và Lý Hồng Nghĩa, thuận chân men theo phía tây sườn núi Cửu Long Hội, trông về phía tây bắc, bỗng phát hiện ra bên ngọn suối ở sườn núi, một ánh sáng nho nhỏ. Mới đầu anh tưởng là chất lân tinh ở khe suối, sau nhìn kỹ thấy ánh lửa đỏ, không động đậy mới quyết đoán không phải lân tinh, mà có người ở trong. Anh kéo Cao Ba và Lý Hồng Nghĩa đi về phía ánh đèn. Lại gần đến nơi, thì thấy một cái hang trong sườn núi, ba mặt đều là vách núi, phía nam gần ngọn suối, ở giữa mở một cái cửa, hai bên cửa đều có cửa sổ.

       Trong nhà vọng ra một tiếng rên khe khẽ. Kiếm Ba đẩy cửa bước vào. Một ông già ngồi trên giường, chân đắp một cái áo lông cừu đã rách, đang đốt một mảnh cây thông. Ngọn lửa cháy xèo xèo, tỏa ra một mùi khét lẹt. Ông già ngồi dưới ánh đèn, đầu tóc bạc phơ, râu trắng như cước. Vừa thấy ba người bước vào, cơn giận dữ của ông đã bốc lên ngùn ngụt.

      - Chào cụ ạ!...

      - Các anh đuổi tôi xuống núi, hãy còn chưa bằng lòng, mà lại còn muốn đến tận đây giết chết tôi nữa hay sao? Thật không còn giời đất nào nữa!

       Ông chẳng hỏi han gì, thốt ngay ra mấy câu đó, làm cho Kiếm Ba không hiểu được vì đâu mà ông cụ giận dữ. Anh đoán rằng chắc lại do bọn thổ phỉ đã gây chuyện gì đây.…

     Anh liền vui vẻ giải thích cho ông già:
     - Cụ ơi, chúng tôi là nhân dân giải phóng quân, không phải thổ phỉ trong núi, chúng tôi tới đây để tiễu phỉ, trừ hại cho nhân dân.

      Ông già chẳng hề thay đổi thái độ, nắm ngay một thanh gỗ để ở duới gối, hất mảnh áo da ở trên đùi, quắc mắt nhìn Kiếm Ba như muốn liều thân một mẻ.

      Cao Ba vội vàng gạt Kiếm Ba về đằng sau, nhắc lại câu Kiếm Ba vừa nói, rồi cởi áo dài, bỏ mũ, để lộ ra bộ áo quần của chiến sĩ giải phóng quân.

      Ông lão lim dim đôi mắt, ngắm nghía một hồi, tỏ vẻ đã tin. Cơn giận nguôi rồi, ông ngồi gác chân lên cạnh giường.
      - Thế ra các anh không phải là thổ phỉ?

      Kiếm Ba sợ ông già không nghe rõ, nên nói rất to, từng câu, từng chữ:
      - Chúng tôi không phải là thổ phỉ, chúng tôi là nhân dân giải phóng quân đến đây tiêu diệt thổ phỉ, trừ hại cho nhân dân.

      Ông già ngồi trầm ngâm lặng yên trong mấy phút, lẩm bẩm nói một mình:
      - Quân Chính phủ à? Hừ! Đời đời kiếp kiếp quân đội và thổ phỉ đều là có họ với nhau, thổ phỉ gây tai họa, quân đội cũng gây tai họa! Loạn lạc mấy đời nay không do quân đội thì cũng do thổ phỉ gây ra, chỉ khổ thằng già này...

       Ông già thở ra một cái rất dài:
       - Sáu mươi năm nay, hổ báo sài lang không hại được tôi, mà bây giờ lũ quỷ sứ lại đuổi được tôi xuống núi!

      Kiếm Ba cảm thấy cách nhận xét của ông già đối với xã hội cũ là có nguồn gốc. Anh tươi cười bước đến bên cạnh ông già, thân mật vui vẻ:
      - Cụ ơi, chúng tôi không phải là binh lính của xã hội cũ, chúng tôi là bộ đội con em của nhân dân. Cụ dùng sợ. Chúng tôi không giống quân đội phản động một tí nào.

      Ông già vẫn không nói, với tay lấy cái điếu dài châm lửa hút, thở ra một làn khói làm loãng bớt mùi khét lẹt của nhựa thông.

      Kiếm Ba ngồi sát bên ông lão, thấy ông người nóng, hơi thở khò khè, anh sờ tay ông cụ, vội hỏi:
      - Cụ ơi! Trong người cụ có bệnh?

      - Anh còn hỏi làm gì? Tôi đã biết thừa rồi!

      Cơn giận của ông già lại bốc lên. Lão hậm hực, lẩm bẩm, như muốn trút ra nỗi uất ức nung nấu trong lòng…

       Kiếm Ba hiểu rõ tấm lòng ông già, quay lại bảo Cao Ba:
       - Chạy mau về gọi Bạch Như, nói ở đây có người ốm.

       Mặc ông già có nghe hay không, Kiếm Ba vẫn tìm mọi cách dùng lời lẽ dễ hiểu để giải thích về Nhân dân giải phóng quân……
      Hai mươi phút sau, Cao Ba dẫn Bạch Như lại. Qua một lúc lâu nói chuyện với Kiếm Ba, ông già đã bớt giận. Lão tò mò để ý xem xét bốn ngưòi quân nhân xa lạ này. Khi lão nhìn thấy Bạch Như, cởi áo dài, và mũ quân nhân, để lộ đuôi sam ra làm cho lão càng bình tĩnh thêm.

       Bạch Như vừa thử nhiệt độ cho lão, vừa hỏi bệnh:  
      - Cụ có ho không? Có đi tả không ạ?

      - Vừa ho, vừa tả.

       Ông già trả lời với một tiếng thở dài, nét mặt tỏ ra vô cùng đau khổ, buồn bã.

      - Mấy hôm nay rồi?

      - Từ đêm hôm kia.

      - Đã ăn tí cơm nào chưa ạ?

      - Tôi bực mình hai ngày nay chẳng ăn uống gì! Đồ chó má...

      Ông già bắt đầu kể lể tâm tình và nỗi uất ức của mình. Số là: Cách đây ba ngày, có ba tên thổ phỉ không biết từ đâu lại, đến ăn cuớp đồ đạc của lão và đuổi lão xuống núi. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, ông lão vẫn ở trên ngọn núi này đi hái nấm, năm nay sáu mươi tám tuổi, mùa xuân, mùa thu lên núi, mùa đông, mùa hạ xuống chợ. Cả đời độc thân không vợ con, không họ hàng thân thích. Không ai biết tên ông là gì. Người ở vùng này thường gọi ông là "Lão Nấm".

       Trong câu chuyện, thấy rõ ông già tính tình hào hiệp, rất gan dạ, sống chết không sợ, tuy đã gần bảy mươi, nhưng mắt vẫn sáng ngời, sức lực còn mạnh mẽ.

       Bạch Như xem bệnh biết rằng ông lão bị đau ruột, liền cho lão uống thuốc, tiêm, nấu cháo và đun nước nóng cho lão rửa tay, rửa mặt, chăm sóc lão giống như con gái lão, luôn miệng gọi lão là ông.

       Ông già ngắm nghía từng cử chỉ của Bạch Như, khi thì thở dài, khi thì buồn bã, có khi như muốn thổ lộ nỗi niềm tâm sự với Bạch Như, mắt ông ươn ướt cảm động.

      Ông già lau nước mắt, hỏi Bạch Như:
      - Cô là con gái nhà ai?

      - Cháu là con nhà nghèo, bố trồng rau, mẹ bán rau.

     - Chồng làm gì?

     - Mười tám tuổi, chưa có chồng.

     Câu trả lời thành thật, tự nhiên của Bạch Như làm cho mọi người cười rộ.

     - Thế ra, con gái cũng có thể...

     - Đúng đấy! Con gái cũng có thể tòng quân đánh giặc, tiễu trừ thổ phỉ, bảo vệ người nghèo.

      Ông già từ từ nhắm mắt, hai tay để trước ngực, miệng lẩm bẩm:
      - Xin Sơn thần phù hộ cho các người!

     Khấn mãi không nghỉ, giọng khấn mỗi lúc một nhỏ dần, hình như ông lão muốn ngủ.

      Đầu óc Kiếm Ba vẫn chỉ quanh quẩn nghĩ đến tình hình... tình hình, bụng dạ chẳng yên. Anh bèn để Cao Ba và Bạch Như ở lại chăm sóc ông cụ, anh cùng Lý Hồng Nghĩa ra về.

      Khi sắp đi, anh nói nhỏ với Bạch Như:
      - Ông già thật đáng thương, cả đời không có người thân thích, cả thế giới từ trước đến nay chưa có cái gì làm ông âu yếm.

       Bạch Như yên lặng gật đầu, Kiếm Ba bổ sung thêm một câu nữa:
       - Có lẽ ông già có thể thành một bản đồ sống về núi "Ông Già".

       Bạch Như gật đầu:
        - Tôi hiểu ý anh rồi. Tôi hết sức cố gắng. Ông già có thể giúp ích nhiều cho chúng ta.

      Ba ngày sau, nhờ có Bạch Như chăm sóc, thuốc men, ông già đã được bình phục. Ông già hiền lành, muốn nhận Bạch Như làm cháu gái, cho nên sáng nay trời chưa sáng, ông đã chạy vào trong thôn mời Kiếm Ba làm chủ lễ.

      Mặt trời đã lên đỉnh ngọn cây. Sau sáu tiếng đồng hồ nghỉ ngơi, tiểu phân đội đã lại khỏe khoắn, Kiếm Ba, Dương Tử Vinh, Lưu Huân Thương, Siêu Gia, Cao Ba, Lý Hồng Nghĩa, Bạch Như, cùng đến cả căn nhà lão Nấm. Ông già mừng rỡ vô hạn, lấy chè hoàn đồng ra đãi khách quý. Ông già móc ở trong hốc tường ra một gói bọc vải, đưa cho Dương Tử Vinh, Dương Tử Vinh nhoẻn miệng cuòi:
       - Ái chà, ông lại mừng quà cho cháu gái đây.

       Nói xong, mở gói bọc vải lộ ra một cái hộp gỗ trầm thơm ngát, trắng như ngà voi. Huân Thương mở nắp hộp. Mọi người xúm lại xem, trong hộp gỗ để một thứ đen ngòm ngòm trên có lông mượt, một thứ giống như hột đậu nhỏ.  

      Siêu Gia đưa vật đen đen lên mũi ngửi, cười khúc khích, vỗ vào vai Bạch Như:
      - Này cô "Bồ Câu Trắng"! Ông cô thật là chu đáo.

       Nói rồi anh giơ cao vật đen đen lên, bắt chước giọng của người làm xiếc bán cao, rao hàng:
      - Thuốc này không trị đau đầu nhức óc, không trị gãy xương, cũng không trị bệnh ngủ trưa. Chỉ  chuyên trị bệnh đàn bà kinh nguyệt không đều. Đây là một thứ của quý ở Quan Đông Sơn. Chính hiệu cao hươu bao tử.

       Mọi nguời cười ầm vang cả căn nhà.….      

     ….Siêu Gia lại cầm đến vật giống hạt đậu:
      - Thuốc này gọi là nhân sâm. Không trồng được, không ăn được, chuyên trị một thứ bệnh khó đẻ, gọi là thuốc dễ đẻ.

       Mọi người cùng nhìn Bạch Như cười rộ. Ông già  cũng cười khanh khách. Bạch Như trái lại, có vẻ thẹn thùng tay che miệng, đầu cúi xuống.

      Sau đó, Bạch Như đem đồ lễ của nàng và của phân đội đưa cho ông già. Một thứ là bộ áo cánh trắng do Dương Tử Vinh và Lưu Huân Thương khâu, một thứ là cái túi đựng thuốc do Bạch Như thêu bốn chữ ”Thọ như cây tùng". Ông già nhận hai tặng vật, nắm chặt tay Kiếm Ba và Dương Tử Vinh, cười khà khà, rồi bỗng ông rơi nước mắt.

      Bạch Như lấy khăn mùi-xoa trắng lau nước mắt cho ông già:
       - Ông ơi, ông bảo sáu mươi tám năm nay, ông chưa bao giờ khóc? Vậy mà hôm nay tại sao ông lại khóc?

       Hai tay lão Nấm xoa đầu Bạch Như nói không lời:
      - Cháu ơi! Ông sáu mươi tám tuổi đầu, mà đây lần thứ nhất….

       Mọi người ngồi xuống mép giường và trên súc gỗ nhỏ dưới đất, uống hớp nước trà hoàn đồng, trà ngon có tiếng của ông lão hái trên núi. Ông già chuyện vãn một hồi. Kiếm Ba liếc nhìn Bạch Như, chị hiểu ý, lắc đầu gối ông già, hỏi:
        - Ông ơi, ông vẫn nói con thỏ bé trên núi Ông Già cũng quen ông. Ông bảo thổ phỉ nhất định ở trên núi Nãi Đầu, có thật không? Ông nói chúng cháu nghe, để chúng cháu tiêu diệt chúng nó.

       Lão Nấm nhổ một bãi nước miếng, gõ gõ vào túi thuốc, nét mặt hớn hở, tươi tỉnh, uống một hụm trà,
nói:
      - Lão Nấm tôi, sinh ở trên núi Ông Già, lớn trên núi Ông Già, ăn ở trên núi Ông Già, ngủ nghê trên núi Ông Già. Hai chân tôi đi khắp dẫy núi Ông Già. Nói cho vui, thật đến cả con thỏ cũng biết tôi.

      Mọi người đồng thanh yêu cầu ông già:
      - Thế thì cụ kể chuyện núi Nãi Đầu đi!

      Lão Nấm vuốt sợi râu bạc, đánh nhịp đọc từng câu trong một đoạn sơn ca:
        Nãi Đầu Sơn,
        Nãi Đầu Sơn,
        Ở về miền Tây Bắc
        Sườn núi có một hang,
        Trong hang có thần tiên,
        Đỉnh núi có cái giếng,
        Giếng có chín con mắt.
        Uống một hớp nước giếng
        Người già sẽ trẻ ra.

       Ông già lại nói tiếp:
       - Núi này là đất của thần tiên, địa thế hiểm yếu dân gian nói rất đúng:
      Trèo lên Nãi Đầu Sơn
       Phép lạ có thể thay đổi giời đất,
       Đi vào Tiên Cô Động
       Đến Tề Thiên Đại Thánh cũng phải hàng.

       Hơn bốn mươi năm trước đây, tôi cũng cùng lứa tuổi như các anh, vào quãng tháng Mười, chưa có tuyết, trời nổi gió to, tay tôi cầm ngọn giáo, lưng đeo túi đựng nấm, giắt con dao găm, một mình đi lên Nãi Đầu Sơn.

      Đến núi Ngưu Độc qua đèo Khuyên Mã, trèo lên ngọn Thủy Phân, vượt qua đầm con Cóc, bò đến Lạp Chúc Đài, rồi lại vượt qua mấy quãng núi rừng hoang chẳng có tên, chẳng có ai qua lại, nhìn về phía trước, không còn rừng rậm nữa, toàn là núi đá lởm chởm. Mặt trời chiếu xuống, ánh hào quang sáng rực.

     Men theo một cái khe vách đá, đi xuống phía bắc, hai bên đều là vách núi cheo leo, nhìn lên thấy chóng mặt, gió thổi đập vào núi đá vù vù như lay đổ núi. Ngẩng mặt lên giời, chỉ rộng như một dòng sông, mây trắng bao phủ từng ngọn núi, nối liền các ngọn núi cao, thẳng tắp giống như một cái cầu bằng mây. Cha tôi thường nói: "Đi trên cầu mây có thể lên giời". Quả là đi lên cầu mây, ngẩng đầu có thể chạm giời, với tay có thể sờ thấy giời.

      Qua nhiều vách đá lởm chởm, qua một con đường vòng tròn, ở chính giữa là một tòa núi Nãi Đầu. Bốn chung quanh khu đá lởm chởm đều là những ngọn núi to dốc dựng đứng, vây chặt lấy tòa Nãi Đầu Sơn vào giữa. Hình dáng núi Nãi Đầu thật giống như cái vú của người đàn bà. Chân núi tựa như chân vú, đầu vú là một khối đá đen ngòm, cao độ trăm trượng. Đỉnh núi Nãi Đầu có một lớp đất đen, trên mọc một lớp cây cao.

       Phía tây cách núi Nãi Đầu độ năm, sáu dặm, bên cạnh khu đá lởm chởm là núi phun nước. Núi phun nước là một tảng núi đá xanh, nước từ các kẽ đá phunra. Nước phun vừa mạnh vừa xiết, nhìn xa giống như cái cột nước, chống vào núi đá, có đến mấy nghìn cột nước như thế. Lại có những làn nước chảy ra từ các kẽ trên lưng chừng núi, kể có đến hàng trăm cái. Mỗi cột nước, mỗi một làn, ào ào chảy xuống chân núi, rồi bắn tứ tung, như trăm nghìn hạt ngọc, khi mặt trời chiếu xuống, ánh lên dủ các màu sắc, thật là tuyệt đẹp!

       Cách phía bắc núi Nãi Đầu năm, sáu dặm là rừng núi đá. Có một lô hang đá, sát cạnh ngay núi phun nước. Mỗi một cây đá của rừng núi giống hệt như một cây thông lớn. Vỏ cây, thân cây thật chẳng khác cây thông tí nào. Chỉ khác một đằng là cây đá, một đằng là cây gỗ, không có cành, nếu có cành nữa thì thật là thần tình!
    
      Phía đông là ngọn núi Mỏ Diều, trên ngọn có một khối đá lớn, hệt như mỏ con diều hâu. Núi Mỏ Diều cách núi Nãi Đầu rất gần, độ hơn một trăm bước. Nhưng núi dốc dựng đứng, trên cao lơ lửng một tảng đá như mỏ con diều hâu quay về Nãi Đầu Sơn, như con diều hâu muốn chìa mỏ sang bú, mỏ nhọn như sắp mổ vào ngọn cây trên đỉnh núi Nãi Đầu. Đến chân núi Nãi Đầu, ngẩng lên nhìn, cha mẹ ôi, thì chết khiếp! Tảng đá đen to treo lơ lửng trên đầu, che lấp cả trời, đất cũng tối đen, mắt nhìn ra quáng dở như sắp sửa ngã xuống. Gió lạnh thổi rít lên từng hồi, rét buốt thấu xương, rêu xanh phủ đầy vách đá.

      Còn nhìn về núi Nãi Đầu, chỉ có một con đường có thể leo lên đỉnh, ở vách núi phía tây. Con đường này có từng bậc bước lên, giống như được con người đục ra, tất cả có mười tám đoạn, mỗi đoạn lại có mấy chục bậc, người ta gọi là Thập Bát Đài. Đường Thập Bát Đài chỉ đi vừa một người, hai bên đều là vách dốc ngược. Lên xuống núi Nãi Đầu, nếu không qua Thập Bát Đài, thì chẳng còn đường nào đi nữa.

       Lên đến lưng chừng núi, có một kẽ núi, bên kẽ núi có một cái hang to. Cửa hang quay về hướng tây, đối diện với núi phun nước, trong hang có thể được hai mươi bàn tiệc, rộng độ mười gian. Hai bên hang lại có hai hang nhỏ. Một cái thông lên đỉnh núi, gọi là hang lên giời, lên mãi cho đến ngọn cây trên đỉnh núi. Một cái xuống dưới đất, gọi là hang xuống đất, hang không đáy, tối mò mò, gió thổi vù vù. Từ trước đến giờ chưa ai dám xuống hang này.

      Tôi đã ngủ trong hang một đêm, rất ấm. Ngày hôm sau, đi theo con đường nhẵn thín của hang giời lên đỉnh núi. Cửa hang rộng bằng một gian nhà to, bò lên dốc, là một đường hang nhẵn toàn đá đen to.

       Đỉnh núi là một mảnh rừng cây lâu đời, có cây cổ thụ hàng mấy trăm năm, đổ ngả đổ nghiêng. Lại có những cây cao chọc giời. Dưới chân là một nền cỏ mượt như thảm nhung giải trên mặt đất. Đỉnh núi dài độ năm dặm, rộng độ ba dặm. Khu chính giữa núi Nãi Đầu, có một chỗ đá lõm sâu hơn năm thước, dưới chỗ lõm có chín cái lỗ, nước chảy từ trong lỗ ra, những luồng nước to như chuỗi bánh bao, bốn rnùa chảy mãi không ngừng, giống như những dòng sữa của người đàn bà, ngưòi ta gọi là suối Thiên Nhũ, nghĩa là suối sữa giời. Đất của thần thánh, thì núi cũng cao, mà nước cũng cao. Tôi đã ngần này tuổi đầu mà chưa bao giờ thấy nước cao. Nước phun suốt cả ngày, trời hạn thế nào cũng không cạn, trời mưa thế nào cũng không đầy. Hai bên giếng mọc toàn giống cây trà hoàn đồng. Ngưòi ta nói uống nước ở suối này và uống trà ở đây người già có thể trẻ lại.

       Cho nên hôm nay tôi đặc biệt đem thứ trà này đãi các anh là những người khách quý.

      Hang này là cái hang tiên, năm đó cha tôi bảo tôi rằng, đó là Động Tiên Cô...

       Bạch Như tuy không tin, nhưng khi nói đến tiên cũng tò mò muốn hỏi:
      - Thế nào! Vị tiên này cũng là tiên nữ?

       Nghe Bạch Như hỏi, mọi người phá lên cười. Còn Kiếm Ba thì trái lại, đang suy nghĩ tỉ mỉ về những điều ông già nói, về những điều có ích cho anh em như địa hình, trở ngại về thiên nhiên v.v... và suy nghĩ làm thế nào khắc phục được các trở ngại thiên nhiên này.

       Lão Nấm liếc nhìn Bạch Như:
       - Nghe đây, cô cháu gái ơi: Từ đã lâu lắm, ngày xửa ngày xưa, cũng không biết cách đây bao nhiêu năm, về phía đông nam có một bộ lạc. Trong bộ lạc có hai vợ chồng già chăn cừu. Ông lão chẳng có con giai, cũng không có con gái. May sao giời phù hộ cho mãi đến 50 tuổi đẻ được một người con gái. Hai vợ chồng quý đứa con gái như hòn ngọc. Người ta nói cỏ linh chi rất quí, nên ông bà bèn đặt tên cho đứa con độc nhất của mình là Linh Chi. Nàng Linh Chi thông minh, lanh lợi, mặt đẹp như tiên, tóc đen dài rẽ thành hai bím đuôi sam. Và người ta gọi cô là “cô gái đuôi sam”. Nàng hát rất hay, bắn cung rất giỏi, cưỡi một con nai hoa tám sừng đi nhanh như bay..

      Trong bộ lạc có một thanh niên tên là Anh Nhi, là một người săn bắn giỏi không ai bì kịp, cưỡi con ngựa lông trắng bờm quăn, thổi một chiếc sáo trúc dài. Khi chàng thổi chiếc tù và, hổ báo không dám động. Khi chàng hú lên một tiếng, sói lang cũng phải run. Chàng có thể vật nhau với hổ, đánh nhau với báo.

      Linh Chi rất thích nghe tiếng sáo trúc của Anh Nhi, không lúc nào muốn rời đôi mắt đen to lóng lánh, cùng thân hình dũng mãnh của Anh Nhi. Hai người rất quyến luyến nhau.

       Năm Linh Chi 13 tuổi, có tên tù trưởng Chư Đại Tiêu ở một bộ lạc dã man gần đấy, nhất định đòi lấy nàng. Hắn đem dến không biết bao nhiêu trân châu bảo thạch, nhưng nàng một mực từ chối.

       Mùa thu năm ấy, Chư Đại Tiêu thừa lúc Anh Nhi đi săn ở núi xa, dẫn cả bộ lạc hơn trăm ngưòi sang bắt cóc Linh Chi. Cả bộ lạc nơi nàng ở đánh không lại, phải rút lui. Chỉ còn lại một mình nàng. Chúng giải nàng đi, nàng không cưỡi ngựa của họ Chư, cũng không cưỡi bò của họ Chư, chỉ cưỡi con nai Hoa Mai tám sừng thân yêu của nàng.

      Đi qua bao nhiêu đoạn đường, vượt qua bao nhiêu ngọn núi, nàng Linh Chi khóc khan cả tiếng. Khóc đến nỗi nai cũng phải chảy nước mắt, đến nỗi chim cũng phải ngừng kêu.

      Ba hôm sau, Anh Nhi trở về nhà, chạy đến lều nàng Linh Chi, chỉ thấy lều không. Chàng đau đớn, buồn bã bỏ cả ăn uống, nhảy lên ngựa, đeo chiếc cung nặng 300 cân, một mình đuổi theo, đuổi năm ngày đêm, đến một cánh đồng cỏ, Anh Nhi giao chiến với bọn gia nhân của Chư Đại Tiêu.....

         Hơn một trăm tên gia nhân của Chư Đại Tiêu vây chặt lấy Anh Nhi. Nhưng Anh Nhi không hề nao núng. Chiếc cung dài của chàng bắn không mũi nào ra ngoài, giết bọn gia nhân người ngựa ngổn ngang. Nhưng chàng chỉ có một chiếc cung, bảy bọc tên.  Một người một ngựa, chàng đánh từ sáng sớm cho đến chiều tà. Bọc tên của chàng đã hết, tay đã mỏi,  ngựa đã mệt. Khi nghe thấy tiếng nàng Linh Chi gọi "Anh Nhi, Anh Nhi!". Chàng liền mở một đường máu, gạt nước mắt, lao vào rừng. Chàng nghĩ đến những người bạn đi săn.
        - Đúng rồi! Về gọi họ đến!

       Chàng phi ngựa trở về bộ lạc của mình, đứng trên núi hú lên mấy tiếng, lay chuyển cả rừng núi. Mỗi tiếng chàng hú, lại nghe thấy một tiếng "Anh Nhi". Tiếng kêu hình như của nàng Linh Chi, cũng hình như của những bạn trẻ đi săn cùng chàng.

       Chư Đại Tiêu thắng trận, vội vã đi ngay, vượt qua một trăm linh tám cái khe, trèo qua một trăm linh chín ngọn núi, đến một đỉnh núi xinh đẹp gọi là ngọn Linh Chi.  

      Tên núi giống với tên nàng con gái, trên núi mọc toàn thứ cỏ linh chi, hoa linh chi cũng đỏ hồng như má nàng Linh Chi. Đỉnh núi thường có chim phượng hoàng hót.

       Khi mặt trời lặn, họ cắm trại ở bên cạnh suối Linh Chi, dưới ngọn Linh Chi. Nàng Linh Chi buộc con nai của nàng cho nó ăn no cỏ linh chi trên núi, uống no nước suối Linh Chi. Nàng khóc rất thảm thiết. Khóc đến nỗi trăng không tỏ, sao cũng phải mờ. Nước suối chảy rì rầm, như cũng lên tiếng than thở. Linh Chi gọi cha mẹ, gọi Anh Nhi. Nàng khóc cho đến nửa đêm.

       Bỗng nhiên có một tiếng nổ long trời, khe núi nứt ra, gió thổi như bão, lật tung cả lều trại, những tảng đá to va vào nhau loảng xoảng. Đàn ngựa giật đứt dây cương hí vang trời, chạy biệt tăm tích. Gió thổi mạnh đến nỗi nàng Linh Chi mê man bất tỉnh.

        Con nai của nàng không sợ gió, cõng nàng Linh Chi, trèo non vượt núi, chạy cho đến sáng, gió tạnh mây tan. Trong cơn mê hoảng, nàng Linh Chi bỗng nghe thấy tiếng sáo du dương. Lại nghe thấy con tuấn mã hí, ngủi thấy mùi thịt thơm.

      Nàng tỉnh dậy, mở mắt, chẳng thấy lều trại mà chỉ thấy một cái hang núi. Thì ra Anh Nhi đang vui mừng nướng thịt, thổi sáo, chờ nàng tỉnh dậy. Con tuấn mã và bộ cung tên ở bên cạnh. Hai người phấn khởi vui mừng khôn xiết !

       Nhưng trên núi này không có nước, dưới đất không có gạo, không có cừu, không có cha mẹ, cũng chẳng có hoa cỏ gì. Đang khi lo buồn, bỗng có một tiếng hát thánh thót, êm êm theo làn gió đưa lại. Hai  người nhìn theo tiếng hát, thấy từ xa tiến lại bốn nàng. Một nàng quần đỏ áo xanh, tay cầm hồ lô. Một nàng quần xanh áo đỏ, tay cầm bó hoa tươi. Một nàng quần áo vàng, tay cầm cây lúa. Một nàng toàn thân xanh như lá cây, tay cầm đuôi con phượng. Anh Nhi và Linh Chi cùng tiến lên chào đón.

       Bốn nàng vui vẻ thân mật, xưng tên họ từng người một:
       - Tôi là tiên Thanh Tuyền, tôi là tiên Bách cốc, tôi là tiên Bách Hoa, tôi là tiên Bách Điểu. Anh chị đừng buồn. Làm việc sẽ đem lại cho các người hạnh phúc.

       Nói xong, bốn nàng vung tay một cái, tụ nhiên thấy một ánh hào quang chói lọi, một ngọn núi phun ra nước, núi Nãi Đầu sinh ra gạo, cỏ xanh mọc đầy dưới đất, trăm hoa đua nở, trên giời không biết bao nhiêu là chim choc bay lượn. Nàng Linh Chi vui sướng ca hát. Anh Nhi thổi sáo. Hai người mừng rỡ cho đến nửa đêm, mới nghĩ đến việc bái tạ bốn nàng tiên. Song bốn nàng tiên đã biến mất, chỉ còn lại đám mây hồng đẹp bay trên không.

    Từ đó, hai vợ chồng nàng Linh Chi làm lụng trên núi Nãi Đầu và ở trong cái hang này, cấy lúa, giồng rau, săn bắn, hái nấm, chăn cừu, thổi sáo và ca hát. Con cái đầy đàn. Nàng nuôi con nhớn lên, rồi đem cho những người nghèo và người già hiếm hoi. Ai không có con gái thì cho con gái, không có con giai cho con giai. Hai người đều không thích người ta chú ý nhiều đến mình.

      Khi có người hỏi tên thì nàng nói:
      - Muốn gọi là gì cũng được!

      Ở trong hang không biết bao nhiêu năm, hai người bỏ ra đi, cưỡi mây đi khắp bốn bể, làm phúc cho mọi người. Từ đó người ta gọi cái hang này là hang Tiên Cô Cho Con.

       Kể đến đây, lão Nấm uống một hớp nước chè, hút một điếu thuốc, thở ra một làn khói xanh.
       - Hiện nay thổ phỉ đã chiếm núi Nãi Đầu, chiếm hang Tiên Cô, xuống núi giết người, sát hại nhân dân, đuổi tôi xuống núi. Đó là bọn phạm tội lớn đã xúc phạm thần tiên, trái lẽ trời đất, sau này tất sẽ phải liều mạng. Khi nào nàng Linh Chi, Anh Nhi trở lại, họ sẽ tiêu diệt lũ chó má gian ma qủy quái. Nếu chỉ dựa vào sức người mà đánh liều, thì không đánh được đâu !

      Huân Thương nóng ruột hỏi ngay:
      - Cụ bảo thế nào?

      - Tôi nghĩ bốn mặt chẳng có đường lên, chỉ có một con đường độc nhất vào hang, qua Thập Bát Đài, chỉ vừa một nười đi, nhiều người không được. Chỉ có sức thần! Sức thần!

    Kiếm Ba liếc nhìn mọi người rồi nói:
     - Dù thế nào, chúng tôi cũng có thể tiêu diệt được chúng, nàng Linh Chi và Anh Nhi sắp trở về đấy.

     Câu ấy làm cho mọi ngưòi phá lên cười. Siêu Gia vội hỏi ngay đến một việc mà anh chú ý nhất:
     - Cụ ơi, cụ vừa nói núi Mỏ Diều cách núi Nãi Đầu bao xa?

      Lão Nấm nghĩ một chút, đáp:
      - Tính đường thẳng độ năm, sáu trượng!

      Hình như đã đoán biết ý câu hỏi, ông già lắc đầu:
      - Xa thì chẳng xa lắm, độ năm trượng, người làm sao mà nhảy lên được? Bên dưới khe sâu độ trăm trượng, đá lởm chởm răng sói, nhìn xuống chỉ chực ngã, làm cách nào vượt qua? Núi Mỏ Diều thì cao, núi Nãi Đầu thì thấp. Không lên được đâu! Không lên được đâu!

      Siêu Gia lại hỏi:
      - Cao độ bao nhiêu?

      - Tục ngữ có câu: Diều hâu chìa mỏ bú, ngọn cây đọ sao bằng. Nghĩa là ngọn cây cao nhất ỏ trên Nãi Đầu, cũng không cao bằng núi Mỏ Diều.

      Huân Thương vội hỏi to:
      - Bây giờ đã mấy năm rồi, cây phải mọc cao lên, thì có cao bằng không?

       Mọi người lại cười rộ.

       Lão Nấm vừa cười, vừa nói một câu hóm hỉnh:
       - Tục ngữ nói rất đúng: Cây cao không thể chống giời, người già không thể sống ngoài trăm năm. Tôn Ngộ Không bản lĩnh giỏi, cũng không nhảy qua được bàn tay của đức Phật Như Lai. Cái gáo tuy to cũng không bằng cái chậu nhỏ.

       Kiếm Ba lại hỏi từ núi Mỏ Diều đến ngọn cây bao xa. Ông già đáp:
       - Đến ngọn cây không cao lắm, cũng độ dăm ba trượng.

      Kiếm Ba liếc nhìn Siêu Gia lúc đó đang nghĩ ngợi việc gì. Kiếm Ba cảm ơn ông già, đứng dậy xin lui gót. Ông già bịn rịn quyến luyến, tiễn đưa các đồng chí ra tận ngoài cửa động……                                                                                                

HỒI THỨ TÁM
NHẢY QUA KHE, BAY QUA NÚI, TẬP KÍCH TẬN HANG HÙM.

       Chiều tà. Ánh mặt trời vàng nhạt chiếu vào tận động Tiên Cô.

      Trong động, tướng phỉ là Hứa Gậy Gộc và con cả hắn là Hứa Phúc, nằm cuộn như lưng tôm trên tấm nệm da hổ, hút thuốc phiện ro ro.

      Phía bên kia động, bọn thổ phỉ đang đánh bài cẩu, hát hò dâm loạn. Đứa nào cũng râu dài một tấc.

      Đinh mắt lác, nhọc thở hổn hển nghiến răng mím miệng, bò lên khỏi dốc Thập Bát Đài và vào động Tiên Cô giữa lúc bọn phỉ đang chửi nhau và cười ầm ĩ. Nó tiến vào chỗ Hứa Gậy Gộc nằm, chợt ngửi thấy mùi thuốc phiện, nó rụt cổ lại, hai con mắt nhìn chăm chăm, hai lỗ mũi ra sức hít hơi khói thuốc phiện mà Hứa Gậy Gộc vừa mới nhả ra. Sau đó như đỡ cơn nghiện, nó thở ra một cách khoan khoái, rồi mở miệng:
      - Báo cáo lữ trưởng!

      Hứa Gậy Gộc đang kéo dở hơi thuốc phiện, nghe tiếng Đinh mắt lác, bèn rít mạnh nốt điếu thuốc, xoay mình nằm ngửa lại, khe khẽ gật đầu, mũi thở ra hai luồng khói nhàn nhạt.

      Đinh mắt lác, lại giương mũi hít lấy hít để rồi nói:
      - Bẩm lữ trưởng, có tin của Trịnh Tam Pháo và của bà lớn. Hầu chuyên viên rất khen ngợi việc chúng ta đã càn quét thôn Sam Lam thành công. Ngài đã phong ngay Trịnh Tam Pháo làm đoàn trưởng và nói khi nào quốc quân đến sẽ đề cử lữ trưởng làm phó tư lệnh.

      Hứa Gậy Gộc dương dương tự đắc, "ừ" một tiếng, rồi nằm ngửa lại thở ra một luồng khói thuốc phiện trắng và dày đặc. Đinh mắt lác lại giương mũi hít khói.

      Hứa Gậy Gộc để dọc tẩu xuống, duỗi hai chân ra:
      - Còn phải nói! Lão Hứa này vẫn là tay dám làm những việc lớn. Hừ! Ai bì được với ta!

      Nói xong, nó giơ hai chân lên giời, rồi hạ hai chân xuống lấy đà ngồi nhổm dậy:
     - Lữ trưởng Lý Đắc Lâm chỉ là con lợn béo tham ăn vô dụng; Tọa Sơn Điêu tuy là tay khá, nhưng chỉ hám tiền, không có tiền không làm. Cửu Bưu là thằng ăn cắp già đời, hám lợi, nhưng không muốn ra tay. Mã Hy Sơn cũng có thể làm ăn được, nhưng đã rời khỏi chốn cũ của nó rồi, nên cũng chẳng nước mẹ gì.

      Hứa Gậy Gộc vừa giụi đôi mi mắt dày, vừa nói:
      - Thế nào, có tình báo gì hay không? Xem Hồng quân thế nào? Để các ông xơi cho chúng nó một mẻ.

      Đinh mắt lác cười tít, mặt nhăn lại, mắt hấp ha hấp háy:
      - Bẩm lữ trưởng, có món bở, chuyến này xuống núi thì bở lắm.

      Hứa Phúc cũng đã đủ cơn nghiện, bò nhổm dậy hỏi ngay:
      - Nói mau, nói hết xem nào!

      - Trịnh Tam Pháo đã rời chỗ Hầu chuyên viên và đến Mẫu Đơn Giang rồi. Tin tức đích xác là Hồng quân có chừng một đại đội, nửa tháng nay sục vào trong núi chẳng ăn thua gì, đã thu quân về. Nhưng chúng không trở về Mẫu Đơn Giang, lại đóng quân tại các làng ven núi, giúp bọn nghèo chia ruộng, đánh địa chủ. Chúng đương làm cái việc, mẹ nó chả hiểu một cái gì, gọi là mở "khu đại trắng". Hiện nay ở thị xã Mẫu Đơn Giang, không có quân chủ lực, chỉ có một số tân binh, nhập ngũ chưa đầy hai tháng. Ý của Trịnh Tam Pháo là...

     - Hay lắm, chui vào Mẫu Đơn Giang! Chọc vào giữa bụng Đảng cộng sản!

      Hứa Gậy Gộc đứng phắt dậy:
      - Đúng! Hãy đánh cho chúng một trận, đỡ được đầu không đỡ được chân. Chúng sục vào trong núi, ta đến phá tận thành.

      Đinh mắt lác cũng rướn cặp mắt lác nhìn Hứa Gậy Gộc:
      - Bẩm, ý kiến Trịnh Tam Pháo cũng vậy. Thật là "anh hùng gặp anh hùng!". Hiện nay Trịnh Tam Pháo đang ở trong thị xã bắt liên lạc với những người của ta, chuẩn bị trong đánh ra ngoài đánh vào.

      Hứa Gậy Gộc đắc ý gật gù:
      - Ta đã biết Trịnh Tam Pháo nhà ta không bỏ lỡ dịp nào. Cứ hở đâu là nó chui vào đấy ngay.

      Hứa Phúc từ trên giường nhảy xuống đất, vỗ mạnh vào vai Đinh mắt lác:
      - Chú Đinh này, Trịnh Tam Pháo bắt liên lạc được với trong thị xã, thì chúng ta không phải chỉ có 150 người như bây giờ mà sẽ có tới nghìn người. Một nghìn mãnh hổ như chúng ta vào Mẫu Đơn Giang sẽ như con dao bổ quả dưa vậy. Hừ! Cố lên, phải chặt bọn cộng sản ra làm hai đoạn!

      Hứa Gậy gộc nắm tay đập mạnh xuống giường:
      - Phải đánh cho chúng nó như búa bổ quả dưa, đánh cho mềm như bún, cho nhừ như tương! Đến lúc đó, thì mày và Trịnh Tam Pháo đập tan ngân hàng của cộng sản. Tao sẽ phá tỉnh đảng bộ của chúng. Còn thằng Hai và thằng Đinh đánh vào bộ tư lệnh quân khu.

      Nói xong cả ba đứa đều cười ha hả.

      Hứa Phúc nhún vai, hỏi:
     - Bao giờ thì bắt đầu?

      Hứa Gậy Gộc chau mày lại, rồi trợn đôi mắt trắng dã lên:  
    - Hành binh cốt nhanh chóng, ngày mai lên đường.

     Hứa Gậy Gộc đi về phía hang của bọn phỉ. Giữa lúc bọn này đương hò hét nô đùa, Hứa cất cái giọng lừa rống to lên:
     - Anh em ơi, ngày mai xuất phát! Chúng mình đến Mẫu Đơn Giang tiêu khiển một chút. Ở mãi động Tiên Cô buồn lắm rồi, xuống thị xã một phen cho thỏa thích.

      Bọn phỉ hất phăng những bài bạc xuống đất, dạ ran một tiếng, rồi đứng phắt dậy, hò hét như điên cuồng.

      Hứa Gậy Gộc nghiến răng lại:
      - Đến đấy mệnh lệnh có ba chữ: "Đốt! Giết! Cướp!". Trở về cứ đếm tai cộng sản mà lĩnh thưởng!
..........................
       Chiều đổ tối, trăng vừa mọc tròn và sáng….

      Trong thôn Cửu Long, mọi nhà đã lên đèn. Thỉnh thoảng có tiếng chó sủa oang oang.

      Trên sườn đồi, cách thôn hơn một dặm, toàn thể phân đội đang đứng trang nghiêm. Kiếm Ba trong lòng khoan khoái tiến lên trước đơn vị.

     - Các đồng chí, chúng ta đã tìm thấy sào huyệt thứ nhất của kẻ địch. Đây là một nơi vô cùng hiểm trở, hiểm trở đến nỗi chúng ta chưa từng trông thấy, cũng chưa từng nghe thấy bao giờ. Chúng ta phải chịu mọi sự gian nan, san bằng mọi hiểm trở, phá tan sào huyệt của quân thù.

      Anh giảng giải cho mọi người biết cái hiểm trở của ngọn Nãi Đầu Sơn và phương pháp vượt qua sự hiểm trở đó. Sau đó anh phân tích địch tình:
      - Cuộc chiến đấu lần này, chúng ta thật là vào hang cọp để bắt cọp. Binh lực của địch nhiều gấp bốn, năm lần của ta, nghĩa là chúng ta một người phải địch với bốn năm người. Vì thế, thủ đoạn của chúng ta là phải nhanh như chớp, mạnh như sét, đánh cho quân địch không kịp thở. Nếu không được như thế, để quân địch quật lại được, thì chúng ta sẽ thất bại.

      Như thế có phải là mạo hiểm không? Không!

     Anh nói câu đó với một niềm tin tưởng như sắt đá. Tấm thân bách chiến đã từng rèn luyện cho anh một tính cách kiên nghị, càng gặp khó khăn bao nhiêu, anh càng bình tĩnh rắn rỏi bấy nhiêu.

      Anh tiếp tục:
      - Núi non hiểm trở như thế này vốn là bất lợi cho chúng ta, bất lợi ở chỗ chúng ta không điều động được binh đoàn lớn. Bởi vì làm như thế không khác nào chúng ta dùng súc gỗ to, hòn đá lớn để ném chim sẻ, gỗ chưa kịp lia, đá chưa kịp ném, thì chim sẻ đã bay rồi. Nhưng hôm nay chúng ta là bộ đội nhỏ, núi non hiểm trở lại biến thành có lợi cho chúng ta. Quân địch nhất định ỷ lại vào núi non hiểm trở mà mất cảnh giác. Đó là điều có lợi cho chúng ta. Chúng ta sẽ biến núi non hiểm trở thành sức mạnh của chúng ta. Bây giờ chúng ta xuất phát!

      Vừa lúc ấy, ông già Nấm hổn hển chạy lại, về phía Kiếm Ba trách móc:
    - Tại sao? Tại sao không gọi tôi một tiếng?

    - Cụ có tuổi rồi, cụ ạ!

    - Cái gì? Có tuổi cái gì? Hừ! Thử xem sức này xem! Càng già thì xương càng cứng. Các anh dám khinh thường lão à! Được! Để rồi xem thử lão này già như thế nào?

      Bạch Như ôn tồn kéo tay ông lão:
     - Ông ơi! Ông còn phải ở nhà coi giữ tên thợ đồ gốm và thằng Điêu đầu khỉ chứ. Việc này quan trọng lắm đấy.

     - Hừ! Cả cháu nữa, cháu cũng không tán thành ông ư?

      Bạch Như vẫn lo chúng nó chạy trốn.
      - Không phải thế đâu, ông ạ. Nhưng còn hai thằng phỉ kia thì sao?

      Huân Thương và Tôn Đạt Đắc bỗng nhiên cười khúc khích. Ông già cũng bật cười theo:  
      - Không cần cô phải lo đâu! Tôi đã giấu kỹ hai thằng ấy vào một nơi rồi, không ai có thể biết được. Chúng chạy cũng không nổi, chúng chết cũng không xong! Ai cứu chúng cũng không được!

      Số là, ở dưới thềm nhà của ông già có một cái hầm, bốn phía xây bằng đá tảng, trên miệng hầm lại đậy bằng một phiến đá rất lớn. Chiều hôm qua, Huân Thương và Tôn Đạt Đắc đã giúp ông già mở nắp hầm. Ông lấy ra những của báu trên rừng mà ông đã cất giấu từ mười năm nay trong hầm để chuẩn bị theo phân đội xuống núi. Ông ngỏ ý muốn được dẫn bộ đội đi đánh núi Nãi Đầu! Huân Thương và Tôn Đạt Đắc thấy có ông Nấm dẫn đường thì càng tốt, nên đã đồng ý hứa cho ông đi. Vì thế hôm nay trước giờ xuất phát, ba người bàn nhau, đem hai tên phỉ nhốt xuống hầm, bỏ vào đấy cho chúng một chậu cơm, rồi đậy nắp hầm lại. Trên nắp hầm, lại chèn thêm ba tảng đá lớn bằng hai người khiêng nữa.

      Kiếm Ba đồng ý cho ông già đi với tiểu đội Dương Tử Vinh, phân đội lên đường như một mũi tên bắn thẳng vào khu rừng rậm mênh mông.

      Các chiến sĩ đi rất nhanh, nói là đi hay chạy thì cũng chưa đúng lắm. Họ giống như một đàn cá dũng mãnh bơi trong bể cá, tiến như bay, vượt bao núi cao rừng rậm. Gò Khuyên Mã, đỉnh Ngưu Độc, ngọn Thủy Phân, bao nhiêu chỏm núi cao, phân đội đều vượt qua.

       Ông già Nấm đi trước dẫn đầu. Con người gân guốc, suốt đường dài hành quân cấp tốc, không hề có tiếng thở nhọc mệt.

      Vượt khỏi đầm Con Cóc, phân đội theo lệnh Kiếm Ba chia thành hai đường, tiểu đội Dương Tử Vinh mang súng trường, do ông già Nấm chỉ đường leo lên Lạp Chúc Đài, đi theo con đường mà ông già đã qua cách đây 40 năm, tiến vào một cái khe vách đá, đi tới góc tây nam Nãi Đầu Sơn, vít chặt lấy Thập Bát Đài, con đường duy nhất để lên núi, vây chặn cửa động Tiên Cô.  

      Kiếm Ba thì chỉ huy hai tiểu đội Huân Thương và Siêu Gia đi thẳng về phía tây, trèo lên đỉnh núi Mỏ Diều, chuẩn bị vượt qua khe sâu, sang Nãi Đầu Sơn, từ đằng sau động Tiên Cô qua hang Lên Giời đánh xuống.

      Lên tới đỉnh núi Mỏ Diều trước khi bình minh,  vào lúc giời tối nhất. May còn vầng trăng mờ lạnh trên đầu, soi đường cho các chiến sĩ tìm thấy đúng chỗ cái mỏ nhọn của núi Mỏ Diều. Cúi nhìn xuống Nãi Đầu Sơn ở dưới chân thì chỉ thấy hang sâu thăm thẳm, tối om om, và lởm chởm những đá. Gió lạnh hun hút như cắt thịt thấu xương. Những cây to chọc trời trên đỉnh núi Nãi Đầu Sơn giờ đây đã ở dưới chân mọi người, trở thành nhỏ bé, đương nghiêng ngảlao xao trước gió. Cây cối lay động trước gió làm cho chính những núi đồi hình như cũng lay động. Các chiến sĩ trước núi cao, khe thẳm, trong chốc lát cũng thấy hơi chóng mặt, đứng không vững, luôn vuốt mồ hôi, đăm đăm nhìn thẳng về phía Nãi Đầu Sơn xem động tĩnh của quân giặc.

      Kiếm Ba khẽ ra lệnh:
      - Siêu Gia, mau lên! Trời sắp sáng rồi!

      - Có! Tôi hành động ngay.

      Siêu Gia quay lưng lại, bám vào mỏm đá trèo lên, rồi nhìn hết bên này bên khác…..

…Siêu Gia là một tay trèo núi rất giỏi. Ông anh và bố anh đều là công nhân lâm nghiệp. Anh từ nhỏ dã được theo ông và bố vào rừng. Người anh vừa gầy vừa nhẹ, anh leo trèo nhanh nhẹn giống như vượn leo cây. Anh có thể từ trên một cây to, cao hàng chục trượng, nắm lấy một cành cây nhỏ, rồi đánh đu phi thân sang một cây khác. Vì anh leo trèo tài như
thế nên mọi người gọi đùa anh là “anh khỉ leo”.

      Anh nhằm một cây cao và to nhất trên đỉnh Nãi Đầu Sơn gần chỏm núi Mỏ Diều làm mục tiêu. Cái cây đó có một cành bằng cổ tay chìa ra về phía mỏm Mỏ Diều. Tù chỗ cành cây đó đến mỏm Mỏ Diều, chỗ anh đứng cách nhau chừng 25, 26 thước tây. Trên mỏm Mỏ Diều chỉ có một cây dâu da, cành đã khô đen, anh ôm lấy thân cây và lay mạnh:
      - Được, vẫn chưa mục, còn đủ sức.

      Anh vui vẻ rỉ tai Kiếm Ba:
      - Không việc gì, có thể bay rồi đây.

     Trong lòng Kiếm Ba dường như đeo gánh nặng nghìn cân, bỗng nhẹ nhàng khoan khoái:
     - Siêu Gia, hôm nay thành công hay thất bại là quyết định ở con đường "giời" của đồng chí có vững hay không đấy? Hiện nay, chỉ trông vào một mình đồng chí đó!

      Siêu Gia mỉm cười gật đầu. Anh quay lại ra lệnh cho các chiến sĩ mang một cuộn dây thừng dài 35 thước đem đến gốc cây dâu da. Anh lấy một đầu dây buộc vào cây dâu da, còn một đầu anh bện thành một cái mấu làm chỗ ngồi, rồi buộc vào người anh. Anh làm việc đó rất thành thạo, làm xong lại kiểm tra lại một lần cho chắc chắn.

       Các chiến sĩ đều hết sức hồi hộp và ước mong anh thành công. Mọi ngưòi chăm chú nhìn từng động tác một để xem cái kỳ tài vượt qua khe, bay qua của anh như thế nào.

      Siêu Gia quay lại hỏi ý kiến cấp chỉ huy của anh:
       Chuẩn bị xong cả rồi. Bắt đầu được chứ?

       Kiếm Ba nãy giờ vẫn theo dõi anh từng giây phút, chưa trả lời, chỉ kéo thử dây thừng, kiểm tra lại từng quãng dây một, rồi anh cúi xuống ước lượng lại chỗ cách xa nhau từ đây đến Nãi Đầu Sơn. Trong lòng anh hồi hộp lo lắng, một là lo cho bạn đồng đội của mình nhỡ rơi xuống hang sâu thẳm, hai là lo nếu không bay qua được thì nhiệm vụ hoàn toàn thất bại. Anh lúc đó quên hết mọi sự trên đời, cả tâm trí của anh đều dồn vào vấn đề Siêu Gia có bay được sang Nãi Đầu Sơn hay không?

      Khi đã kiểm tra thấy công tác chuẩn bị không có vấn đề gì, anh bắt tay Siêu Gia:
      - Đồng chí Siêu Gia, chúc đồng chí thành công.

      Siêu Gia nhìn Kiếm Ba bằng cặp mắt rất thân thiết, nắm chặt tay anh và nghiêm trang nói:
      - Thủ trưởng 203, xin chờ đồng chí ở bên kia khe.

      Nói xong, anh quay lại phía các chiến sĩ vẫy tay chào, rồi kéo dây thừng bước ra tận phía ngoài của chỏm núi. Tới đây, anh buông dây thừng ra, thả cho người anh vút xuống khe. Các chiến sĩ chỉ nghe thấy soạt một tiếng và không thấy anh đâu nữa, chỉ còn lại đầu dây vẫn buộc ở cây dâu da.

      Siêu Gia lúc đó còn đang treo ở lưng chừng vách đá của khe núi, tay nắm dây thừng, chân đạp vách đá, lần lần thả mình xuống dưới khe sâu, giống như con nhện buông mình dưới sợi tơ của nó vậy. Khi thừng đã thả hết, chân anh bám vào vách đá, lần tới chỗ đối diện thẳng với Nãi Đầu Sơn.

       Anh em chiến sĩ tim đập hồi hộp. Mấy chục con mắt chăm chú nhìn sang phía cây to bên kia núi, nơi mà Siêu Gia sẽ nhảy xuống đó. Một giây... Mười giây... Một phút... Rồi ba phút...

      Siêu Gia đã lần tới chỗ thích hợp nhất để chuẩn bị phi thân. Trong giây phút nghiêm trọng này, bản thân anh cũng thấy tim mình hồi hộp:
      - Nếu nhảy lần này không thành công thì sao? Nếu không thành công mà lại đánh đu trở lại thì thân mình cũng không điều khiển được mình nữa, tấm thân đánh đu lơ lửng này nhất định sẽ va vào vách đá, đến tan xương nát thịt mất thôi! Nhưng vẫn là việc nhỏ, quan trọng nhất vẫn là kế hoạch của thủ trưởng Kiếm Ba, nhiệm vụ tiêu diệt sào huyệt của thổ phỉ có thể vì mình mà thất bại.

      Một lần nữa anh lại nhìn lại xem quãng cách từ đây đến bên kia khe bao xa? Nên nhảy đúng chỗ nào? Khi thấy đã chuẩn bị đầy đủ, anh co người dùng hết sức của mình lấy hai chân đạp mạnh vách đá để đẩy mình ra, giống như một viên đạn từ vách đá bắn ra, vượt qua không trung, bay sang cành cây trên Nãi Đầu Sơn.

      Các chiến sĩ rùng cả mình, nhịn thở nhìn "viên đạn" Siêu Gia đã bắn tới Nãi Đầu Sơn và treo trên cành cây chĩa về phía khe sâu. Kiếm Ba và anh em chiến sĩ cảm thấy tim mình như đã rơi ra ngoài, khắp người nóng ran như lửa đốt từ gan bàn chân lên đầu ngọn tóc.

       Kiếm Ba vội nằm rạp xuống, tay sờ dây thừng, tay anh cảm thấy sợi dây như kéo dần về phía Nãi Đầu Sơn, càng kéo càng thẳng. Anh mở to mắt, cố nhìn vào cái điểm đen mơ hồ trên cành cây trước mặt và biến dần trong đám lá cây rậm rạp tối om của khu rừng. Kiếm Ba khoan khoái, thở phào một cái, rồi bò dậy vui sướng bảo anh em:
       - Đồng chí Siêu Gia thành công rồi! Anh hùng. Thật là anh hùng! Giờ đến lượt chúng ta. Dũng cảm lên! Chúng ta nắm chắc thắng lợi trong tay rồi!...      

       Anh em chiến sĩ vô cùng phấn khởi tưởng như muốn nhảy lên mà bay vút qua khe.

      - Đồng chí 203! Xem này! - Cao Ba nhanh nhảu nói một giọng rất vui sướng. - Siêu Gia đã đánh tín hiệu cho ta đây này, dây thừng đã buộc chắc rồi.

    An hem chiến sĩ vội vàng chạy xô lại gốc cây dâu da, cúi xuống nhìn theo sợi dây thừng. Một sợi dây thừng to, phía đông cao, phía tây thấp, dốc thẳng xuống chừng 45 độ, nối liền núi Mỏ Diều và Nãi Đầu Sơn. Trên tầng không của khe núi sâu muôn trượng đã dựng lên cái cầu chỉ vẻn vẹn có một sợi dây thừng.

      Kiếm Ba vui vẻ nói đùa:
      - Các đồng chí, cái cầu dây này chính là con đường "giời" để chúng ta đến bắt sống bọn phỉ. Đây là con đường "giời" của Siêu Gia. Bây giờ chúng ta từ trên giời bay xuống. Khoác chặt lấy dây thừng, không sợ gì cả, tôi đi trước! - Nói xong, anh vòng khuỷu tay khoác vào dây sắp sửa đi thì bị Lưu Huân Thuơ nắm lại:
       - Thong thả đã, thủ trưởng 203, chưa phải lúc đồng chí đi.

      Nói xong, Huân Thương quay lại phía các chiến sĩ giơ tay ra lệnh:
      - Tiểu đội 2 theo tôi.

      Nói xong, anh khoác khuỷu tay và khuỷu chân lên trên dây thừng, rồi dùng sức buông mạnh người xuống theo chiều dây. Chỉ nghe thấy soạt một tiếng, anh đã như một quả cầu đen trôi tuột trên dây thừng sang tới vòm cây bên Nãi Đầu Sơn.

      - Các đồng chí! Thật là an toàn!

      Kiếm Ba nói chưa dứt lời, thì trên con đường "giời" bằng dây thừng lại gieo thêm một quả cầu khác nữa, lủng lẳng như một cái chuông khổng lồ. Cứ liên tiếp theo nhau trôi sang phía trước mặt.
     - Phải đi thôi.

      Kiếm Ba nghĩ thế, rồi ngoảnh lại ra lệnh Đổng Trung Tùng:
      - Đồng chí chỉ huy tiểu đội 3 đi sau, tôi đi trước.

      Kiếm Ba làm theo kiểu Huân Thương, khoác tay vào dây thừng. Cao Ba đi trước, Kiếm Ba đi giữa, Lý Hồng Nghĩa đi sau, Bạch Như thì bám sát lấy Lý Hồng Nghĩa. Mỗi người cách nhau một quãng cùng vượt qua khe sâu thăm thẳm, trôi như bay đến Nãi Đầu Sơn.

      Kiếm Ba vừa đặt chân xuống đất ở bên gốc một câyto, thì Siêu Gia chạy tới:
     - Thủ trưởng 203, tìm thấy cửa hang lên giời rồi, tiểu đội Huân Thương đã vây chặt cửa hang.

      Kiếm Ba giơ tay ra lệnh:
      - Đi!

      Siêu Gia vội vàng dẫn Kiếm Ba về phía cửa hang.

      Huân Thương và tiểu đội của anh đã vây chặt gian nhà gỗ trên cửa động. Gian nhà gỗ này do bọn phỉ lấy những gỗ tròn to bằng miệng bát để dựng lên, mặt quay về phía nam, lưng quay về phía bắc, gian nhà gỗ này để che cho cửa hang khỏi bị tuyết và gió mùa đông. Trong cửa hang là một dốc đá đen thăm thẳm đi xuống. Cửa hang có một cái cửa to làm bằng gỗ tròn kết lại. Bên trong đó là chỗ bọn phỉ ở.

       Huân Thương nói khẽ:
       - Thủ trưởng 203! Vừa khéo! Bọn chó còn đang ngủ. Làm thế nào? Đánh ngay vào chăng? Tôi đã buộc ba quả lựu đạn đây rồi. Nổ tung cửa gỗ ra.

      Kiếm Ba xua tay ngát lời Huân Thương:
      - Đừng vội! Có ngửi thấy gì không?

      Anh ngoảnh mặt về phía bắc, rồi hít hít vào mũi.

      Có một mùi vị của thịt và cơm theo gió đưa lại. Hương vị đó khiến cho Kiếm Ba phải cảnh giác về phía bên ngoài hang. Kiếm Ba nghĩ tới suối Thiên  Nhũ mà ông già Nấm thường nói tới. Anh nhíu mắt ra lệnh:
      - Tiểu đội Huân Thương giữ chắc lấy cửa hang. Tiểu đội Siêu Gia theo tôi.

       Siêu Gia đang định quay lại đón tiểu đội 3 do Đổng Trung Tùng chỉ huy thì Tùng và tiểu đội 3 cũng vừa tới.
      - Đi theo tôi!

     Kiếm Ba giơ tay ra lệnh, rồi tiến thẳng về khu rừng phía bắc. Ba tiểu đội chạy theo sau thành đội hình chiến đấu.  

       Càng đến gần thì hương vị càng thơm, cây rừng càng thưa dần. Có một số cây sơn trà to mới ngả xuống năm ngang trước mặt phân đội, cao bằng đầu người. Các chiến sĩ ẩn mình sau đám cây đó, tiến lên,  mắt mở to, cố nhìn rõ đường trong bóng đêm mờ tối. Bỗng nhiên, ở đằng trước mặt, có một tia lửa vụt sáng, rồi lại tắt ngay.

      Phân đội nép mình sau hàng cây, chăm chú nhìn về phía vừa hắt ra ánh sáng. Trong ánh mờ nhạt của trời gần sáng, cách đấy độ 40 thước về phía tay phải, hiện ra một gian nhà cũng làm bằng gỗ tròn. Từ trong khe cửa, lọt ra một tia sáng, giống như ánh sáng đèn pin, chiếu thẳng vào khu rừng.

      Ở phía đông gian nhà gỗ, có một tên phỉ đang đi tiểu, quay mặt về phía phân đội. Kiếm Ba quay lại Cao Ba và Lý Hồng Nghĩa đứng bên cạnh, trỏ cho hai người thấy, rồi dùng hai tay chắp lại với nhau ra hiệu đi bắt tên phỉ ấy. Hai chiến sĩ trẻ tuổi và rất thông minh ấy hoàn toàn hiểu ý, lập tức chạy vút tới chỗ tên phỉ, giống như hai con diều hâu vậy. Tên phỉ chưa biết một tí gì, bị ngay Cao Ba tóm lấy cổ, Lý Hồng Nghĩa giật mạnh chân, ngã ngửa trên mặt đất.

      Tên phỉ vừa giãy giụa vừa nói:
      - Giời rét bỏ mẹ, đừng đùa thế!

       Sau khi thấy rõ Cao Ba là một chiến sĩ giải phóng quân, tên phỉ sợ quá kêu lên một tiếng. Tiếng kêu chưa dứt thì Siêu Gia và Kiếm Ba đã chạy tới. Siêu Gia đạp chân trên bụng tên phỉ và chĩa lưỡi lê vào ngựcnó, nghiêm khắc bảo nhỏ:
      - Im, ngoài hang còn bao nhiêu người? Nói cho thực. Nếu nói sai nửa lời tao sẽ rạch bụng mày ngay!

      Tên phỉ sợ run cầm cập, nói không thành tiếng:
     - Tôi... tôi... làm bếp. Mọi người đều ở trong hang.

     - Trên đỉnh núi có bao nhiêu người? Tao không hỏi mày về trong hang.

     - Hai... hai người làm cơm. Ngoài... ra có mười.. mười anh em.

      Cao Ba nắm lấy tóc tên thổ phỉ, lôi cổ nó dậy:
      - Dẫn chúng tao đi! Đừng nói láo! Đi!

      Tên phỉ sợ quá, chân đứng không vững, vừa lê vừa bò dẫn phân đội đi. Tới bụi cây phía bắc lại thấy một căn nhà gỗ nữa. Phân đội từ ba mặt xông thẳng tới cửa lớn và các cửa sổ. Đột nhiên cửa lớn hé mở, một tên phỉ từ trong đó bước ra, mình mặc chiếc áo rách, tay giữ cạp quần. Mới bước một chân ngoài cửa, thì nó chợt trông thấy phân đội đang xông tới.

      Hoảng sợ quá, nó kêu lên một tiếng:
      - Hỏng rồi!

     Rồi vội quay đầu, chạy tuột vào trong đóng sầm cửa lại. Trong nhà vang lên tiếng kêu rối rít:
      - Quân địch! Quân địch!

      Kiếm Ba hô to:
      - Xung phong!

      Hơn mười chiến sĩ lập tức đổ xô vào cửa lớn, Trung Tùng đạp mạnh, cánh cửa bật tung ra. Anh chạy vọt vào nhà. Siêu Gia, Cao Ba và các chiến sĩ ùa vào theo.

     Trong nhà bọn phỉ cuống quýt. Tên phỉ vừa về giật lấy khẩu súng treo trên tường và nhằm Trung Tùng bắn. Nhưng tiểu liên của Cao Ba đã nổ: Pằng! Tên phỉ ngã gục xuống.

     - Im! Đứa nào động đậy tao sẽ bắn chết!

      Các chiến sĩ chĩa thẳng súng vào hơn mười tên phỉ vừa mới bò dậy, chưa kịp mặc quần, hô to:
      - Nằm cả xuống! Mau!

      Bọn phỉ run lẩy bẩy nằm phục xuống. Siêu Gia ra hiệu và cùng các chiến sĩ nhảy lên giường, lượm hết súng và đạn treo trên tường, rồi quay lại bọn phỉ ra lệnh:
       - Bò dậy! Giơ tay lên! Xuống giường!

      Chín tên thổ phỉ răm rắp tuân theo lệnh của Siêu Gia. Trong bọn chỉ có một đứa có quần đùi. Siêu Gia hạ lệnh cho chúng khoác áo dài rách vào, rồi cho áp giải về phía nhà bếp.
     Kiếm Ba ra lệnh chỉ để lại hai người coi tù binh, còn tất cả cấp tốc về cửa hang….

       Lưu Huân Thương vừa nghe tiếng súng của Cao Ba, đang sốt ruột, bỗng nhiên lại nghe thêm ba phát súng nữa từ dưới khe núi Nãi Đầu. Số là: tiểu đội của Dương Tử Vinh đang tiến vào khe đá ở chân núi để chặn ngang lối vào động Tiên Cô, vì trời bắt đầu sáng, nên bị tên phỉ đứng gác trông thấy. Nó bắn một phát súng, rồi cắm đầu chạy. Khi nó chạy tới dốc Thập Bát Đài ở lưng chừng núi, thì bị Tôn Đạt Đắc bắn hai phát tiểu liên: Pằng! Pằng! Tên phỉ ngã ngửa, cả người và súng lăn lông lốc, rơi xuống vực sâu chết tươi.

     Hai tiếng súng giòn giã của Tôn Đạt Đắc dưới núi, làm bọn phỉ trong động đang ngủ tỉnh dậy rối rít hoảng sợ.

      Hứa Phúc thấy vậy quát lên:
      - Mẹ nó! Làm gì mà rối lên thế! Thử xem cộng  sản đến mấy trăm người?

     Một tên phỉ gác cửa báo cáo:
     - Báo cáo tham mưu trưởng! Dưới chân núi không rõ.

      Hứa Phúc vứt cái chăn đang khoác xuống:
      - Chúng mày giữ đằng sau! Để tao bắn: một trúng một, hai phát giết hai thằng, xem cộng sản bao nhiêu xác lấp được đầy cái khe này?

       Nói xong, nó lấy một khẩu súng trường, rồi chạy ra phía cửa hang.

      Dưới chân núi, Dương Tử Vinh đang khoa trương thanh thế, một loạt súng bắn xả vào cửa hang.

       Hứa Phúc, Hứa Lộc dương dương tự đắc, nằm phục sau tảng đá ngoài cửa hang, mở cái giọng lừa rống lên, quát:
      - Cộng sản oắt! Chúng mày có chân đến, song không có chân về đâu!

      Thực ra, tiểu đội Duơng Tử Vinh có muốn từ chân núi đánh lên hang Tiên Cô cũng không được. Muốn vào hang Tiên Cô phải qua dốc Thập Bát Đài. Hai bên Thập Bát Đài thì toàn là đá to lởm chởm không thể leo được. Đi giữa Thập Bát Đài, thì chỉ có một con đường vừa đủ một người đi.

       Hứa Phúc dựa vào địa thế hiểm hóc của Thập Bát Đài, lại cậy mình là một tay bắn giỏi, nói lớn:
       - Một mình ta canh giữ! Chúng mày cứ ngủ đi. Ăn cơm xong phải nhặt súng, công việc xong xuôi, chúng ta đi Mẫu Đơn Giang tiêu khiển một chuyến chơi!

       Dưới núi, tiếng súng của Dương Tử Vinh vẫn nổ giòn giã: Pằng, pằng, pằng, pằng!

       Trên đỉnh núi, Huân Thương đang sắp sửa phá cửa tiến vào hang thì chợt Kiếm Ba đi tỏi. Huân Thương đang định nói thì "kẹt" một tiếng, cánh cửa gỗ ở động lên giời mở ra, sau đó lại có tiếng khép lại. Kiếm Ba, Huân Thương nhìn qua khe gỗ thấy có hai người đi ra. Đi đầu là một người rậm râu, chừng trên 50 tuổi, mình khoác một cái áo da dê, da đen như quỷ, mặt béo, tai to, râu ria đầy má, môi dày thâm sịt. Không nói ai cũng biết hắn là thằng Hứa Gậy Gộc. Tay khoác một khẩu tiểu liên, vừa đi vừa lẩm bẩm:
       - Mẹ nó! Bọn cộng sản định đến tìm cái chết. Mẹ kiếp! Lại muốn vuốt râu hùm! Không biết chết!

      Vừa ra khỏi căn nhà gỗ, thì Huân Thương ở bên cạnh nhảy chồm ra ôm chặt lấy lưng quật mạnh một cái. Hứa Gậy Gộc kêu "ự" một tiếng, nằm sóng soài trên mặt đất. Hai chiến sĩ trói chặt nó lại.

      Tên phỉ đi đằng sau là con thứ tư Hứa Gậy Gộc, tên là Hứa Tường. Thấy bố bị bắt, nó hét lên tiếng, quay đầu chạy:
      - Hỏng rồi! Trên núi có cộng sản. Lữ trưởng bị bắt rồi!

       Bọn phỉ dù có chiêm bao cũng không thể tưởng tượng được rằng Giải phóng quân lại có thể tới đỉnh núi được. Việc bất ngờ đó làm cho chúng sợ cuống quít.

      Hứa Phúc kêu thất thanh:
     - Mau! Mau! Mau xa khỏi hang lên giời, vượt lên đỉnh núi! Mau lên!

      Huân Thương tay cầm tiểu liên đang định xông vào hang, Kiếm Ba giơ tay ngăn:
      - Thong thả! Lựu đạn đâu?

     Huân Thương lập tức rút một buộc ba quả lựu đạn buộc liền nhau, chuẩn bị rút kíp.

   Bọn phỉ kêu la ầm ỹ và chạy xổ ra ngoài hang. Huân Thương rút kíp ném: Uỳnh, uỳnh, uỳnh! Sau mấy tiếng nổ vang, núi lở, đá rơi ầm ầm. Thây chết ngổn ngang cửa hang. Hang lên giời biến thành một ống khói lớn. Mùi thuốc súng lẫn mùi thịt khét lẹt bay ra. Những tên phỉ còn sống sót vừa khóc vừa kêu:
      - Ối mẹ ơi!
      Kiếm Ba hạ lệnh:
      - Xung phong!

      Huân Thương, Siêu Gia, Trung Tùng cùng hai tiểu đội lập tức xông vào hang.
      Tiếng súng của tiểu đội nổ ran một hồi. Bọn phỉ vừa khóc vừa chạy ra phía cửa trước. Huân Thương vừa bắn vừa tiến lên, chiếm lĩnh đại bộ phận trận địa trong hang. Bọn phỉ còn có đứa vẫn liều chết bắn lại. Huân Thương tập trung bảy tiểu liên giữa hang, bắn như vũ bão. Bọn phỉ chạy hết ra ngoài cửa trước, rồi cắm đầu chạy xuống núi. Vừa tới dốc Thập Bát Đài, thì một loạt súng của tiểu đội Dương Tử Vinh bắn xả lại như mưa. Bảy tám tên phỉ ngã lăn lốc từ trên vách núi cao 100 trượng rơi xuống khe sâu lởm chởm những đá. Thập Bát Đài giờ đây không còn là bức bình phong cho thổ phỉ nữa, mà đã biến thành mồ chôn của chúng.

      Mấy tên phỉ chết hụt, quay đầu chạy về hangVừa về tới cửa lại bị một loạt súng của Huân Thương bắn ra. Các chiến sĩ đồng thanh quát to:
      - Nộp súng thì tha chết.

       Bọn phỉ tuyệt vọng, quỳ xuống răm rắp, dâng súng đầu hàng….    

       Hứa Phúc chen trong đám phỉ, chĩa thẳng súng lục vào Huân Thuơng định bắn, bị tên phỉ đứng bên cạnh giật lấy súng và kêu lên:
      - Cậu cả ơi! Cậu làm thế để anh em tôi chết hết vì cậu hay sao?

      Nghe nói đến "cậu cả", Huân Thương hiểu ngay, lập tức hạ lệnh trói cổ con quỷ giết người ấy lại.

       Con thứ hai Hứa Gậy Gộc là Hứa Lộc, nấp ở khe đá ngoài cửa động trước, quay lưng về phía chân núi.
      Tiểu đội Dương Tử Vinh trông thấy. Một phát súng: Pằng!

      Hứa Lộc gãy một tay. Lúc đó bọn phỉ còn sống bị bắt toàn bộ. Nãi Đầu Sơn cũng im tiếng súng.

     Bố con họ Hứa, trừ Hứa Tường bị bắn chết ở Thập Bát Đài, còn lại bốn người đều bị bắt sống. Vợ Hứa Gậy Gộc là Yêu Bươm Bướm và tên tướng Trịnh Tam Pháo, sau trận tàn sát thôn Sam Lam bận đi báo cáo quan trên của chúng là tên chuyên đảng vụ khu Tân Tuy, nên tạm thời lọt lưới hôm nay.

       Mặt trời đã lên cao, ánh nắng rực sáng Nãi Đầu Sơn. Trong hang Tiên Cô và bên suối Thiên Nhũ vang lên tiếng hát của Bạch Như. Các chiến sĩ cùng hát theo. Lời ca vui tươi, rung động cả bầu trời.

      Nước suối Thiên Nhũ, đã luộc nhừ thịt báo, và đun sôi nước trà thơm. Các chiến sĩ ăn một bữa cơm chiến thắng. Mỗi người cầm một miếng thịt báo to tướng, miệng nhai tay xé. Mỗi người uống một bát trà hoàn đồng.

       Bữa tiệc xuất quân của bọn phỉ sắp đi tàn sát Mẫu Đơn Giang đã biến thành bữa tiệc của tiểu phân đội ăn mừng đại thắng Nãi Đầu Sơn.

      Ông già Nấm cười ha hả:
      - Các anh thật là thần binh thần tướng. Hẳn là có sức thần của cô tiên Linh Chi. Không ngờ tôi 68 tuổi lại còn được đến Nãi Đầu Sơn!

      Kiếm Ba quay về các chiến sĩ hô to:
      - Cám ơn cụ Nấm đã giúp đỡ chúng ta. Chúc cụ mạnh khỏe sống lâu.

      Mọi người hô vang, chạy đến vây chung quanh cụ già. Ông cụ tươi cười, vô cùng vui sướng.

       Trong lúc mọi người đang say sưa vui đùa ca hát, Kiếm Ba nhặt một phiến gỗ mang lại gốc cây to chọc trời ban nãy, gốc cây đã có công giúp anh em chiến sĩ vượt qua khe. Kiếm Ba nắm lấy sợi dây thừng vẫn còn buộc trên cây và đu đưa trước gió. Anh rút bút máy và viết mấy hàng chữ trên phiến gỗ. Viết xong,  anh treo phiến gỗ lên thân cây.

       Các chiến sĩ đương cười nói, bỗng nghe Huân Thương gọi to:
       - Lại đây! Lại đây!

      Các chiến sĩ ùa lại như một đàn ong, rộn rịp chạy theo Huân Thương, đổ xô đến chỗ có treo phiến gỗ.

      Kiếm Ba đứng bên cạnh nhìn anh em mỉm cười.

      Huân Thương tay còn cầm một cái đùi báo vừa nhai vừa đọc:
      - Núi vút ngang mây... Cây…

      Mọi người bật cười thấy Huân Thương miệng nhồm nhoàm đọc không ra tiếng. Siêu Gia giật lấy cái đùi báoở tay anh:
      - Cậu ăn hết mấy đùi rồi, "Xe tăng"? Ăn ngữ này vào cho trương bụng, rồi lại để mọi người khiêng cậu đấy.

       Bạch Như, từ trong đám anh em, chen lên tươi cười, đọc to:
       Núi vút lên mây, cây chọc giời,
       Rừng rậm mang mang không bóng người.
       Câu chuyện thần kỳ ông lão Nấm.
       Nãi Đầu thiên hiểm thế mà thôi!
       Cheo leo vách đá,
       Thăm thẳm khe sâu
      Ý chí đập tan bàn thạch.
      Núi cao vực thẳm kể vào đâu!
      Bên kia là đỉnh Diều Hâu,
      Bên đây chỏm núi Nãi Đầu chơi vơi.
      Một dây buộc giữa lưng trời,
      Cầu cao vun vút lao người trong mây.
      Thần binh một trận như bay,
      Vượt qua Tiên Động chiếm ngay Nãi Đầu
      Phỉ kia còn chạy đi đâu?
      Cha con họ Hứa nộp đầu từ đây!

       Bạch Như đọc xong, vỗ tay và nhảy lên, cặp mắt tươi sáng nhìn Kiếm Ba.

       Các chiến sĩ vui sướng hô to:
       - Thủ trưởng 203 thực văn võ kiêm toàn.
       Bạch Như lúc đó, bỗng không thấy cười nói nữa. Nàng giương hai con mắt to, ngây người nhìn Kiếm Ba, người chỉ huy trẻ tuổi đang đứng ngắm cảnh hùng vĩ của núi rừng. Bạch Như lúc đó tai không còn nghe thấy tiếng hát hùng tráng của anh em chiến sĩ, mắt cũng không còn nhìn thấy cảnh non cao suối đẹp bên mình. Trước mắt nàng chỉ còn lại một trang thanh niên anh dũng, vừa tài giỏi, vừa tuấn tú như một bó hoa tươi lần đầu tiên in sâu trong trái tim trong trắng của nàng…..


                     HỒI THỨ CHÍN - NỖI LÒNG BẠCH NHƯ

      Trong một bản nhỏ ở lọt vào giữa rừng sâu, chỉ có bốn nếp nhà lá. Đó là chỗ tạm trú của Kiếm Ba và phân đội của anh. Bốn nếp nhà ấy không ở liền nhau, mà ở cách quãng, rải ra dưới chân núi. Một con suối nhỏ hình cái đinh ba, chia những nếp nhà ấy thành bốn. Tiểu đội bộ ở trong một căn nhà bên cạnh ngã ba suối, về phía tay trái.

      Lý Hồng Nghĩa ngồi trên giường cỏ, vá túi lựu đạn. Cao Ba cũng ngồi trên giường cỏ tập trung tinh thần đọc quyển sách tập đọc. Anh đọc rất vất vả. Sau mấy ngày chiến đấu, có mấy chữ vừa học được lại quên mất cả.

     - Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu quý tài sản công cộng...

     - Người nghèo cũng không thể nào "yêu" được địa chủ nữa...

     Hồng Nghĩa dừng ngay kim khâu lại, vừa cười, vừa chữa một chữ Cao Ba đọc nhầm:
     - Không “chịu” được chứ, sao lại không "yêu" được.

     Cao Ba dẩu môi cãi:
     - Thôi đi cậu! Không xem sách biết thế nào được.

     - Không xem cũng biết cậu đọc sai rồi. Làm gì có chữ "yêu" địa chủ, chỉ có chữ "chịu" địa chủ thôi.

      - Thì rõ ràng sách viết chữ "yêu", không tin cậu xem xem.

     Lý Hồng Nghĩa không chịu thua, đứng dậy:
     - Chẳng tin cứ đi hỏi "Bồ Câu Trắng"…

     - Hỏi thì hỏi!

      Hai người cùng đi đến gian nhà phía đông chỗ Bạch Như ở.

      Bạch Như đang ngồi trên giường, hai khuỷu tay chống lên bàn, hai bàn tay nhỏ nhắn mềm mại, chống lên hai bên má đỏ hồng, đang ngồi thừ ra suy nghĩ.

      Thường thường chỉ có hai trường hợp người ta mới thấy cô "Bồ Câu Trắng" nhí nhảnh này ngồi yên. Trường hợp thứ nhất: Sau một ngày lao động, làm xong công việc và sau khi ca hát, trước khi đi ngủ. Trường hợp thứ hai: Khi nghe người khác bàn luận về vấn đề chính trị, quân sự, thời sự. Lúc đó nàng ngồi yên một chỗ, ngước đôi mắt đen láy, nhìn miệng người ta nói, hình như muốn thu lấy cả các lời nói, không để lọt ra một lời nào. Nàng im lặng nghe mọi người phát biểu ý kiến, tranh luận.

      Cao Ba chạy đến bên giường, đặt quyển sách tập đọc trước mặt Bạch Như:
     - "Bồ Câu Trắng" ơi! Tôi bảo chữ này là chữ "yêu", Hồng Nghĩa cứ cãi là chữ "chịu", thế thì là chữ gì?

      Không biết có chuyện gì đã xảy ra mà tự nhiên Bạch Như nổi nóng:
       - "Yêu" mấy "chịu" cái gì, phải gió các anh, làm người ta giật cả mình!

       Cao Ba chỉ tay vào quyển sách:
      - Chữ này là chữ "yêu" hay chữ "chịu"? Chị không nghe chúng tôi cãi nhau ngoài kia từ nãy đến giờ à?

      Bạch Như cầm lấy quyển sách, giương mắt tỏ vẻ khó chịu:
      - Ai hơi đâu mà nghe các anh cãi nhau. Chí chóe như chim sẻ cả ngày. Đâu chữ nào?

     Cao Ba chỉ:
     - Đây, chữ phải gió này này.

     Và anh viết một chữ nữa và hỏi:
     - Hai chữ ấy thế nào? Có giống hay không giống? Nói đến nửa ngày mà chị còn chưa nghe ra à?

      Bạch Như đẩy quyển sách đến trước mặt Cao Ba:
      - Không giống!

      Cao Ba bực mình:
      - Chị nhìn kỹ một tí xem, không giống ở chỗ nào? Rõ thật chủ quan, chưa nhìn đã nói liều.

      Bạch Như phát cáu, dùng ngay món chanh chua của cô con gái, phát vào tay Cao Ba:
      - Mắt mù, không nhìn thấy à? Một đàng là chữ “yêu”, một đàng là chữ "chịu" tôi đã bảo các anh từ lâu rồi cơ mà!

          - Tại sao trong sách lại viết chữ "yêu"?

      Bạch Như banh mi mắt của Cao Ba:
      - Anh mở to mắt mà xem. Nhìn kỹ xem có giống nhau không?

     Cao Ba và Hồng Nghĩa cùng lẩm bẩm:
     - Không giống... không giống...

     - Không giống ở chỗ nào?

     Bạch Như cau có nhìn hai người, như một thầy giáo không dạy nổi học sinh.

     Cao Ba ngoảnh đầu lại:
     - Giữa chữ "yêu" (tiếng Trung quốc là chữ Ái)-(ND) có ba chấm và một móc ngang, ở ngoài thêm một cái phẩy.

     - Ba chấm một móc ngang là chữ gì?

      - Là chữ tâm... là chữ tâm... (tiếng Trung Quốc nghĩa là lòng) (ND).

      - Phải rồi! - Bạch Như ngẩng đầu, giọng nói như bao hàm một nỗi niềm gì. Nàng hạ giọng xuống nói khe khẽ, không biết là nói với Cao Ba, Hồng Nghĩa hay nói với mình:
     - Yêu thì phải thật lòng yêu, từ trong lòng mà yêu!


      Cao Ba, Hồng Nghĩa lần đầu tiên nhác thấy một giọng nói đặc biệt, một tâm tư đặc biệt của Bạch Như…..


     Bạch Như hình như trông thấy con mắt tò mò của hai người. Nàng đâm ngượng. Với điệu bộ một đứa trẻ con, như cãi nhau với người khác, nàng nói liền một thôi :
     - Tức là yêu cha mẹ, yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu đồng chí, phải thật lòng yêu, thật lòng yêu, từ trong lòng mà yêu! Chứ còn thế nào nữa !

     Cao Ba và Hồng Nghĩa, cùng phì cười. Cao Ba nói:
    - Thôi, thôi! Cô bé ơi! Cô khó chịu với chúng tôi như thế, tức là không thực lòng đoàn kết hữu ái, tình hữu ái của cô là hữu ái không thật lòng.

      Bạch Như giơ tay, đẩy Cao Ba ra xa mấy bước :
      - Thôi, cút đi! Cút đi!

      Cao Ba tinh nghịch, nhăn mặt:
      - Gớm! Làm gì mà hăng thế? Tôi thấy "Bồ Câu Trắng" sắp sửa thành "diều hâu già" rồi đấy. Mấy hôm nay, cô nhai hột cây thông chưa nát, nó sắp mọc cây ở trong ruột cô đấy.

      Lý Hồng Nghĩa chen vào:
      - Không phải đâu! Bạch Như không chịu được khổ đấy! Núi Nãi Đầu gian lao nguy hiểm như thế, ai mà chẳng sợ! Bây giờ trời lại rét rồi. Sáng nào cũng có tuyết. Làm thế nào mà chịu nổi?

     Hồng Nghĩa lại làm ra bộ đứng đắn:
     - Chỉ có thế thôi! Bé con làm sao mà chịu được!

    Hồng Nghĩa vừa cười, vừa cố ý trêu tức Bạch Như:
      - Vả lại thủ trưởng 203 vốn không muốn có người nữ quân nhân ở trong phân đội...

      Bạch Như nổi giận thực sự, quặc nhau với Lý Hồng Nghĩa:
     - Làm gì mà chụp mũ lung tung thế! Con bé con lạc hậu ở chỗ nào, anh nói đi! Anh nói đi! Chính anh mới sợ khổ!

     Cao Ba cố lên giọng lão luyện:
     - Thôi đừng vội nóng! Cô không chịu được cái khổ này, không quan hệ lắm. Mấy hôm trước, khi dẫn tù binh về, thủ trưởng 203 chẳng đã để cho cô trở về để đổi lấy một nam y tá đấy ư? Nhưng mà cô cứ không chịu về. Ngượng nghịu làm quái gì, đợt hai chưa bắt đầu, bây giờ trở về cũng vẫn chưa muộn, còn kịp chán.

      - Cút đi, hai ông mãnh! Chủ quan không biết xấu !

      Bạch Như điên tiết, cầm ngay cái đĩa nước để trên bàn, định đổ vào Hồng Nghĩa, Cao Ba.

      Ba và Nghĩa cười sằng sặc chạy vội ra ngoài cửa.

      Thật tình là cái cô Bạch Như ngây thơ, nhanh nhẩu, nhí nhảnh từ sau khi lên núi Nãi Đầu, quả có niềm tâm sự. Niềm tâm sự này Ba, Nghĩa làm sao mà hiểu được? Cả Ba cũng như Nghĩa chỉ cho rằng Bạch Như, người nhỏ yếu, lại là một cô con gái mới chớm mười tám tuổi, công việc tác chiến ở trong rừng, hẳn là cô ta chịu không nổi. Hai người đã dự định giúp đỡ Bạch Như như mang hộ đồ đạc, đeo túi thuốc để cho nàng đi người không chẳng hạn.

     Những nỗi lòng của Bạch Như thì không phải ở chỗ đó. Tâm sự của nàng chỉ có nàng biết. Ở trong phân đội này Bạch Như cảm thấy rất sung sướng. Ngoài cái vinh dự được làm nhiệm vụ khó khăn này ra, sau cuộc chiến đấu ở núi Nãi Đầu, trái tim mười tám tuổi của nàng lần đầu tiên đập mạnh vì một trái tim khác.

     Trái tim ấy - tức là cái hình ảnh anh hùng của Kiếm Ba,như một cái mầm non đang lớn dần dưới làn mưa tươi mát và ánh mặt trời ấm áp của mùa xuân. Cái mầm sôi sục ấy không có sức gì cản được. Nhưng nàng không dám thổ lộ tâm tình với Kiếm Ba. Vì nàng biết rằng hiện nay Kiếm Ba quyết không cảm được lòng nàng. Nàng cũng không biết liệu Kiếm Ba có bằng lòng nhận... Đối với nàng thì Kiếm Ba giống như một vầng trăng trong sáng trên trời, như một trang thanh niên anh tuấn đáng yêu và thật chí công vô tư! Nàng muốn đem ánh sáng ấy thu lại trong lòng nàng, chiếm lấy nó một mình. Nhưng mà nó cũng như vầng trăng sáng tỏa ánh chung cho tất cả mọi người, chứ có chiếu riêng cho ai là người chủ tâm thưởng nguyệt.

      Nửa tháng nay, nàng vẫn nhìn trộm Kiếm Ba. Trái tim nàng không lúc nào không nghĩ đến Kiếm Ba. Ít lâu nay, việc đó đã trở thành một sự cần thiết như người ta cần không khí. Nàng đang sống trong một giấc mộng yêu đương đẹp đẽ. Nàng yêu đôi mắt sáng của Kiếm Ba, không những vì nó đẹp mà nó còn chứa đựng bao nhiêu trí tuệ và ánh sáng vô cùng tận. Khuôn mặt trẻ trung với nụ cười thành thật, nhiệt tình của Kiếm Ba, làm cho người ta cảm thấy thân mật, đậm đà. Thậm chí nàng còn muốn nghe cả tiếng chân đi hùng dũng và mau lẹ của Kiếm Ba, tiếng chân đi ấy nàng nghe như một khúc tiến hành ca anh hùng của tuổi trẻ.

     Kiếm Ba mới có hai mươi hai tuổi! Vậy mà trí tuệ của anh sao dồi dào đến thế, gan dạ của anh sao lớn đến thế. Nhưng anh thường nói rất khiêm tốn ; “tất cả đều do Đảng, do quần chúng"….- ”Giá mà ta được làm em gái của một người anh như thế thì thật là hạnh phúc và tự hào biết mấy !”

       Có lúc nàng ngồi thừ ra một mình, nhớ lại một số chuyện dĩ vãng lặt vặt mà trước đây nàng không để ý, nhưng bây giờ nàng lại thấy thú vị.

       Không phải chỉ ở trong phân đội này nàng mới quen biết Kiếm Ba. Năm ấy, Bạch Như làm liên lạc cho đồng chí huyện trưởng Cúc. Ở trong con mắt nàng,Kiếm Ba khi ấy chỉ là một anh tiểu đoàn trưởng tuấn tú, đáng phục, nhưng hãy còn hình dáng trẻ con, hãy còn chia bánh với Tiểu Thụy, quần áo thì lôi thôi, mặc lâu không chịu giặt, nhiều lần huyện trưởng Cúc phải bắt anh ta cởi ra. Đầu tóc chẳng bao giờ chịu chải, còn vệ sinh thì lại càng quá lắm. Nàng còn nhớ một hôm chủ nhật nàng đang ngồi trong nhà chơi với cái Thụy thì nghe thấy tiếng huyện trưởng Cúc nói với Kiếm Ba ở bên ngoài như nói với Tiểu Thụy:
     - Ba! Không biết đến bao giờ em mới cai quản được thân em đấy? Cán bộ gì mà trông lôi thôi bẩn như ma-mút... Không biết sau này có cô "Tiểu Kiều" nào kha khá mới cai quản được cái anh chàng "Tiểu Chu Lang" này!
      Nói xong chị đi lấy chậu nước.

      Bạch Như không nín được cười.

      Huyện trưởng Cúc ôn tồn hỏi:
     - Bạch Như, em cười gì đấy?

      Bạch Như liếc nhìn Kiếm Ba đang xấu hổ đỏ mặt, rồi quay trả lời đồng chí thủ trưởng yêu quí của mình.
      - Câu nói của chị có nhiều ý nghĩa lắm!

     Huyện trưởng Cúc vừa nói vừa cầm chậu rửa mặt:
     - Có ý nghĩa, có ý nghĩa... Bạch Như ạ, em không đấy, từ bé chị vất vả với nó lắm! Vì nó nghịch ngợm, bẩn thỉu, nên chị đánh không biết bao nhiêu lần vào đít rồi.

        Có Bạch Như ở đấy, Kiếm Ba ngượng quá:
     - Thôi chị, đừng nói nữa!

     Bạch Như còn nhớ lúc ấy nàng vừa cười, vừa đón lấy chậu rửa mặt của chị Cúc, chạy như bay xuống bếp, lấy một chậu nước đầy. Khi nàng trở lại, hai con mắt của chị Cúc liếc nhìn Kiếm Ba, lại nhìn nàng một cách rất thân thiết. Hình như đôi mắt của chị Cúc đang nảy ra những tia âu yếm ràng buộc Kiếm Ba và Bạch Như, nối liền trái tim hai người lại.

      Nghĩ tới đây, nàng thấy vui vui, như hoa nở trong lòng: "Chị ơi! Khi ấy chị ví Kiếm Ba như Chu Lang thì chị có ý gì cho em là Tiểu Kiều không? Ý chị xem Bạch Như có xứng đáng với Kiếm Ba của chị không? Khi ấy em là cô bé mười sáu tuổi, em chưa hoàn toàn hiểu được hết ý của chị. Khi ấy em chỉ như một con chim bồ câu nhỏ chưa hiểu sự đời, hiện nay em đã yêu Kiếm Ba, nhưng em không dám nói với Kiếm Ba, em sợ...Vì Kiếm Ba đối với em sao mà nghiêm khắc, Kiếm Ba chưa hiểu được lòng một cô gái nhỏ.

     Chị ơi! Nếu chị còn sống, em sẽ nói rõ nỗi lòng của em, như thế thì hay biết mấy? Nhưng mà bây giờ đây, chị đã vĩnh biệt người em ruột của chị, chị đã vĩnh biệt em – đứa em gái và là đứa học trò của chị. Ai sẽ thay thế chị để chăm sóc người em của chị? Chỉ có em, chỉ có Bạch Như. Ai sẽ thay thế chị để nâng đỡ đứa em gái của chị? Chỉ có Kiếm Ba, chỉ có người em đã được chị dạy dỗ thành người. Chúng em sẽ đáng tự hào và hạnh phúc bao nhiêu, khi có chung một người chị hiền hậu như thế! Nếu em... Nếu em có thể cùng với Kiếm Ba..."

      Nhưng giấc mộng đẹp của Bạch Nhu bỗng như từ trên cao rơi xuống đất. Một ý nghĩ khác chợt đến làm xao động giấc mộng của nàng.

      Anh ấy làm cho người ta giận lắm. Anh ấy đối xử với mình quá nguyên tắc. Anh ấy vẫn cứ gọi mình là "đồng chí Bạch Như". Lời xưng hô ấy đối với các đồng chí thì vô cùng thân mật, nhưng đối với riêng mình cảm thấy sao mà nó lạnh nhạt thế!

      Mấy hôm trước tra hỏi tù binh, mình giúp anh ấy ghi chép rất cẩn thận, chữ viết đẹp hơn trước rất nhiều, nhưng anh ấy cũng chẳng thèm để ý gì đến, hình như sự ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ, nắn nót của mình đều là thừa.

     Mấy hôm trước mình bảo anh ấy cởi áo để mình giặt, chỉ mong dùng bàn tay cô em gái nhỏ để thay bàn tay của chị Cúc. Nhưng, thật đến bực mình, anh ta nói luôn một câu rất khách khí:
      - Cám ơn đồng chí Bạch Như, hiện thời chưa cần.

      Nhưng đến tối, anh ta lại cởi cho Cao Ba giặt hộ.

      May sao, quần áo Cao Ba giặt hôm ấy chưa khô, mình lại tìm thấy một chỗ rách trên cổ áo. Chờ đến khuya Cao Ba và Lý Hồng Nghĩa đi ngủ rồi, mình xõa tóc giả bộ gội đầu để giặt lại cho anh ta một lần nữa. Giặt xong mình đem tới lò lửa, hơ cho khô, rồi lấy kim vá lại cổ áo. Làm xong công việc, lòng mình vui quá!

      Khi mình mang áo vào trong nhà, vừa gặp anh ta bỏ sách xuống, cặp mắt anh ta lần đầu tiên nhìn đầm ấm mặn mà,  nhìn con mắt cũng có thể thấy tim anh ta đập mạnh, má anh ta đỏ hồng. Lòng mình cũng thấy rạo rực sôi nổi! Mình đang định nói chuyện với anh ta, nhưng ở bên ngoài có tiếng chẳng biết là Cao Ba hay Hồng Nghĩa giởmình. Thế là anh hơi thay đổi nét mặt cúi đầu, và vẫn câu trả lòi cũ:
      - Cám ơn đồng chí Bạch Như, thôi đồng chí về đi ngủ đi!

         Mấy hôm nay mình muốn nói với anh ta nhiều hơn nữa, nhưng anh ta thì từ sau hôm tra hỏi tù binh, cả ngày chỉ xem sách vở, bản đồ, suy nghĩ và học tập.

      Trong đầu óc anh ta, ngoài đánh trận, học tập, luyện binh, hình như trên thế giới này không có gì đáng quan tâm nữa.

      Sở dĩ hôm nay "cô giáo Bạch Như" bực mình với hai ông học sinh tinh nghịch chính là vì câu chuyện tối hôm qua. Tối qua, toàn phân đội đều liên hoan vui sống, chỉ có Kiếm Ba là vắng mặt. Sau khi liên hoan bắt đầu, Bạch Như lại nghĩ ngay đến Kiếm Ba : "Cao Ba, Lý Hồng Nghĩa đều ở đây cả, ở nhà chỉ còn một mình Kiếm Ba, chắc là đọc sách, hay làm việc, mình trở về giúp anh ấy, hoặc lấy nước cho anh ấy uống, cho anh ấy ăn ít hạt thông, hoặc mình đọc cho anh ấy một đoạn sách để anh ấy nghỉ ngơi đôi mắt và cũng có thể nói một vài câu chuyện vui."

      Nghĩ đoạn, nàng thấy vui hẳn lên. Thừa lúc mọi người đang vui nhộn, nàng lẻn ra ngoài.

     Hai tay nàng tức tốc cởi cái dây buộc bím tóc. Tóc trên đầu nàng xõa ra giống như một làn suối chảy trên vai. Vì sao nàng muốn làm như thế? Vì hôm qua lúc giặt quần áo đêm, có lẽ vì nàng gỡ bím tóc ra mà đã làm cho Kiếm Ba chú ý đến nàng hơn mọi lần.

     Bước chân nàng cũng mừng rỡ như lòng nàng, đôi chân đi như bay về phân đội bộ. Nàng muốn đến trước mặt Kiếm Ba một cách bất thình lình, cho nên khi gần đến nơi, nàng rón rén bước nhẹ. Đứng dựa vào bóng tối ngoài khung cửa, ghé mắt vào nhìn, chỉ thấy bản đồ bày đầy trên bàn, Kiếm Ba tay trái cầm chiếc đèn dầu thông, tay phải cầm lá thư của Bộ tư lệnh. Anh xem đi xem lại nhiều lần, lúc đọc thư, lúc nhìn địa đồ. Anh suy nghĩ một cách khắc khổ. Lông mày của anh nhíu lại thành mấy nếp nhăn thẳng. Trước mắt Bạch Như, những nếp nhăn này làm cho Kiếm Ba vừa trở thành trang nghiêm lại vừa đẹp.....
        Nhìn thấy Kiếm Ba làm việc vất vả, nàng khẽ thở dài, sự hăm hở lúc nãy lắng xuống. Nàng chưa dám tiến vào vì biết lúc này người thủ trưởng rất dễ nổi nóng. Ngày thường, trừ đối với nữ đồng chí, còn đối với mọi người, anh luôn luôn vui nhộn. Nhưng khi anh gặp vấn đề suy nghĩ, thì chẳng ai dám lại gần. Nếu có người xâm phạm vào cái đặc tính này của anh, bất kể lý do gì, cũng có thể bị anh phê bình kịch liệt, và còn có thể hô “nghiêm" mời ra khỏi nhà.

      Không khí trong phòng làm cho Bạch Như không dám lại gần. Song hình như ở Kiếm Ba tỏa ra một sức hấp dẫn gì mạnh mẽ, làm cho nàng không thể trở về. Nàng nhẹ chân, đứng lặng ở cửa ngoài, dựa vào khung cửa, mím môi đăm đăm nhìn Kiếm Ba.

     Gian phòng yên lặng, tiếng đồng hồ kêu tích tắc. Lồng ngực Kiếm Ba thở phập phồng.

      Đứng như thế đã lâu, Bạch Như không thể bình tĩnh được nữa. Nàng mong cho suy nghĩ của Kiếm Ba đứng lại. Nhưng luồng tư tưởng Kiếm Ba như bị tiếng máy đồng hồ thúc giục, mỗi lúc càng thêm kịch liệt.

      Lông mày Kiếm Ba dựng lên, không khí trong phòng căng thẳng. Sự suy nghĩ của Kiếm Ba đã lên mức tuyệt đỉnh. Anh nhìn bản đồ, tay với ca nước, đưa lên miệng tu. Nhưng ca nước đã dốc nguợc mà chẳng còn một giọt nào. Anh vứt ca nước xuống giường.

     Bạch Như thấy ấm hết nước, vội đi lấy siêu nước trên lò. Không may, trời tối, nàng vấp phải cái ba-lô treo trên tường, kêu đánh "bịch".

     Tiếng Kiếm Ba nghiêm nghị hỏi:
     - Ai?

     Bạch Như vừa cười, vừa rót nước vào ấm.

      Kiếm Ba có vẻ sốt ruột:
      - Sao không đi dự liên hoan?

      Bạch Như hạ thấp giọng, run run:
       - Tôi trở về xem anh có cần gì không. Ỏ nhà...

      - Tôi không cần gì cả.

      - Uống nước cũng cần...

     - Tôi đã nói là tôi không cần gì cả. Hiện nay tôi chỉ cần thời cơ hành động! Hiểu không? Thời cơ hành động!  

      Bạch Như vẻ ngượng nghịu, móc trong túi ra một nắm hạt thông, nói khe khẽ:
      - Tính nết lạ lùng, biết bao giờ mới sửa đổi được?

      Nói xong, nàng để ít hạt thông lên bản đồ.

      - Nào! Để vào đâu? Để vào đâu? Cô đừng làm phiền tôi có được không?

      Bạch Như thấy mình đặt nhầm chỗ, tặc lưỡi, vội móc trong túi ra chiếc khăn mùi-xoa, gói hạt thông lại để trên giường.

      - Thế nào? Quấy rầy đủ chưa?

      Bạch Như không nói chỉ nghĩ bụng: "Anh muốn làm gì tôi cũng không sợ". Nghĩ rồi, nàng mỉm cười, gạt tàn cây thông.

        Kiếm Ba kéo chiếc mùi-xoa, hạt thông lăn ra giường. Anh hạ thấp giọng:
      - Cám ơn đồng chí Bạch Như. Cầm lấy mùi-xoa, thôi, đi dự liên hoan đi.

     Bạch Như mở to cặp mắt vẻ không vui, nghĩ: "Câu nói mới lạnh nhạt làm sao chứ! Cái câu gắt gỏng lúc nãy còn dễ nghe gấp nghìn lần câu lạnh nhạt này!"..

      Mi mắt chớp chớp như muốn khóc, nàng nhặt vội lấy mùi-xoa, quay người đi ra ngoài.

      Thấy dáng điệu Bạch Như như vậy, Kiếm Ba bỗng cảm thấy mình đã có một thái độ quá vô lễ đối với một đồng chí nữ quân nhân vui vẻ, đầy nhiệt tình.

     Khi Bạch Như vừa bước ra khỏi cửa, Kiếm Ba cười vẻ như hối hận, gọi:
     - Này, đồng chí Bạch Như!

      Bạch Như quay người lại, đôi mắt ươn ướt nhìn Kiếm Ba, cúi đầu.

      Kiếm Ba cười hỏi:
      - Có giận không?

      Bạch Như dẩu môi, nguẩy ngưòi:
      - Giận!

      Kiếm Ba nhắc lại câu nói và giọng nói ấy của Bạch Như để làm lành:
      - Giận! Giận! Giận ở đâu mà lắm thế! Kìa trông cô, đầu tóc rối bù, còn ra thứ bộ đội gì nữa!

      Kiếm Ba nhìn mãi mớ tóc đen lòa xòa bao bọc lấy khuôn mặt đỏ hồng của Bạch Như.

      Câu nói đó đã xua đuổi hết không khí lạnh lẽo trong phòng. Bạch Như nhìn Kiếm Ba vẻ thèn thẹn. Một lần nữa nàng lại thấy Kiếm Ba nhìn mình một cách đặc biệt.

     Kiếm Ba nhìn nàng, giọng thân mật:
     - Thôi, vấn tốc lại đi! Ở đây không có ai, mau đến hội trường, không có thì người ta...

     Tới đây, Kiếm Ba dừng lại, rồi vội nói tiếp:
     - Thôi đi, mau đi!

      Kiếm Ba sở dĩ giục giã như thế, là vì anh cũng tự thấy lòng mình có cái gì xáo động, không hợp với hoàn cảnh hiện tại. Anh nghĩ bụng: Lúc nào mới có điều kiện cho mình tỏ tình được với nữ đồng chí này!

       Bạch Như đang trên đường đi đến chỗ liên hoan phân đội. Nghĩ lại chuyện vừa rồi, nàng thấy lòng thêm rạo rực: "Thôi mau đi, quấn tóc lại đi, ở đây không có ai, không thì người ta..."

      "Không thì người ta,.." thế là nghĩa thế nào? “Anh ấy sợ các đồng chí có ý kiến gì chăng? Anh ấy sợ để các đồng chí biết thì ngượng hay sao? Chẳng biết anh đối với mình có thật… Nếu vậy thì hay biết
chừng nào…”

      Nhưng bỗng nhiên, lòng nàng lắng xuống:
      "Không! Không phải thế! Câu ấy còn có thể có một ý khác. Có thể anh ấy muốn nói: "Không thì người ta hiểu nhầm". Nếu như vậy thì anh ấy chẳng yêu mình, anh ấy không để ý gì đến mình"….

      Suốt đêm, Bạch Như xét đoán về câu nói bỏ dở của Kiếm Ba. Khi thì vui, khi thì buồn, nàng suy nghĩ cho tới sáng... 

HỒI THỨ MƯỜl
VẾT CHÂN TRÊN TUYẾT.

       Tháng Chạp giá rét. Mây dày đặc. Gió thổi mạnh, tuyết bay vèo vèo. Tuyết bay, tuyết bay, không biết từ đất bốc lên hay từ trời rơi xuống, bốn phía mang mang mờ mịt, mặt đất, bầu trời hòa thành một khối.

      Toàn thể đội viên của phân đội ngồi trên cái giường to kiểu Quan Đông Sơn. Loan Siêu Gia đứng giữa nhà, tay phải cầm một nắm cỏ ô-la, tay trái cầm một chiếc giầy đi tuyết. Miệng nói, tay chỉ, anh giảng cho mọi người cách cho cỏ vào giày như thế nào, nhét chặt cỏ ra sao, xỏ giày như thế nào cho đúng.

      Các chiến sĩ vừa nghe vừa bắt chước, sôi nổi học tập cách xỏ chân vào đôi giày kiểu Quan Đông Sơn dùng để đi trên tuyết này. Có người cười nói:
     - Quan Đông Sơn có ba của quý là nhân sâm, da con điêu, cỏ ô-la. Lần này mới được thấy tận mắt.

     - Xỏ đôi giày đi tuyết mất nửa tiếng đồng hồ, thật là mắt công hơn phụ nữ ngày xưa bó chân!

     Lưu Huân Thương đã xỏ xong giày, từ trên giường nhảy xuống đất, rồi nhảy luôn mấy cái.
      - Hừ! Tốt lắm! Vừa mềm vừa ấm, vừa nhẹ nhàng, vừa thoải mái!

      Loan Siêu Gia cười bảo Lưu Huân Thương:
      - Đây là đặc sản của Quan Đông Sơn, không ở đâu có. Ở phố Thiên Tân có bán không? "Xe tăng"?

      - Hừ! Đem đến Thiên Tân chúng ta, anh có biết không, thật quý hơn vị "đại qua lạc" trong hiệu thuốc bắc…

      Dương Tử Vinh bĩu môi:
      - Đem đến Sơn Đông chúng mình thì sẽ thành một thứ đồ cổ!

     Đổng Trung Tùng vừa buộc dây giày vừa nói:
     - Tôi xem nó giống như một quả bầu đã cắt thành gáo.

      Mọi người cười cười nói nói, ca ngợi thứ "vũ khí" mới của mình.

      Trong một căn nhà lá ở phía tây thôn, Cao Ba, Lý Hồng Nghĩa cũng đang tập đi giày. Còn Bạch Như thì đi đôi ghệt dành riêng cho phụ nữ.

      Ở gian nhà phía đông, Kiếm Ba một mình đi đi lại lại. Càng suy nghĩ, anh càng thấy gay go. Hình như gió to tuyết lớn ngày hôm nay bắt buộc anh phải quyết định ngay vấn đề. Trông anh có lúc như trầm ngâm, có lúc như vội vàng, có lúc như vui thích, hăng hái. Thái độ luôn luôn đổi thay đó chứng tỏ những việc suy tính đắn đo đang diễn ra trong đầu anh.

     Thổ phỉ hiện ở đâu? Đi về phương nào? Mấy ngày hôm nay các chiến sĩ hàng giờ hàng phút suy nghĩ tới hai vấn đề đó. Từ khi phá Nãi Đầu Sơn đến hôm nay, vừa đúng 32 ngày rồi, phân đội ẩn náu mãi trong cái thôn nhỏ rất bí mật này.

      Sau khi hỏi cung bọn phỉ Hứa Gậy Gộc, đã xác  định được phương hướng và mục tiêu chiến đấu Iần này, nhưng mấy ngày hôm nay tuyết nhỏ đầu mùa đông đã xuống làm óc quả đoán thần diệu của Kiếm Ba bỗng gặp khó khăn. Tuyết rơi xuống đất không tan đi, mà mỗi ngày một dày thêm. Đó là đặc điểm của tuyết miền Đông Bắc. Do tình hình như vậy, mỗi bước chân của phân đội sẽ in hình để lại trên bãi tuyết, lúc đó phân đội sẽ thành một đội đi săn lộ liễu, chứ không còn là một đội ngũ xuất quỷ nhập thần nữa. Mà đối phó với bọn phỉ giảo hoạt, tàn nhẫn, đông gấp mấy lần mình, thì đó thật là một điều vô cùng bất lợi.

      "Tuyết! Tuyết bây giờ đã thành một tên "tình báo" cho quân địch, và thành một "kẻ gian" tiết lộ bí mật của phân đội".

      Mấy hôm nay, Kiếm Ba rất bực mình trước tình hình này. Anh chưa quyết định được việc gì cả. Phải tìm cho ra và nắm lấy cơ hội hành động, đó là điều suy nghĩ của Kiếm Ba từ mười mấy hôm nay.

       Hôm nay, trời đổ tuyết lớn, chính là giờ phút quyết định vấn đề của Kiếm Ba.

      Với giọng đầy tự tin, anh gọi to:
      - Đồng chí cảnh vệ đâu?

      - Có.

      Cao Ba từ gian phía tây chạy lại, đứng bên khung cửa chờ mệnh lệnh.

      Kiếm Ba vẫn im lặng không nói. Thái độ quả quyết của anh bỗng nhiên trù trừ lại. Anh thò vào túi áo, lấy ra một phong thư, xem đi xem lại. Ngồi xuống mép giưòng, chống khuỷu tay trên bàn, anh lẩm nhẩm đọc từng câu, từng chữ trong thư.

      Cao Ba thấy thủ trưởng vẫn còn đang suy nghĩ, bèn khe khẽ rút lui.

      Ngồi bên ngọn đèn tỏa ánh sáng màu xanh, Kiếm Ba gật gù xem thư, lẩm nhẩm đọc..."Thắng lợi thật là đáng mừng, nhưng mới chỉ là bước đầu. Không nên vì thắng mà kiêu, kỵ nhất là khinh địch. Chỉ có một mình đồng chí phải quyết định mọi hành động, càng không nên kiêu ngạo, hấp tấp! Không nên quên rằng lực lượng của đồng chí đơn độc, nhiệm vụ của đồng chí nặng nề, kẻ địch của đồng chí lại vô cùng hung hãn và giảo hoạt. Đồng chí còn trẻ tuổi, điều chúng tôi lo ngại nhất là sợ đồng chí nóng nảy và nông nổi. Cho nên cần đặc biệt nhắc nhở đồng chí. Trinh sát cho đúng, phán đoán cho chắc, tấn công cho mạnh! Khi đồng chí chưa nắm vững, nhất định không nên manh động. Không bao giờ được quên rằng, phân đội hở ra một chút gì là quân địch sẽ đánh hơi thấy ngay. Tuyết gây khó khăn cho đồng chí nhiều, song ngược lại nó cũng có những thuận lợi rất lớn. Vấn đề là đồng chí làm thế nào để lợi dụng được tuyết..."

      Kiếm Ba thấy mắt như sáng ra, vui sướng nhảy xuống giường, tự bảo:
- Thủ trưởng ta rất sáng suốt! Cách xa nghìn dặm, nhưng chỉ một câu đủ giải quyết cho ta vấn đề khó khăn nhất.

  Anh đẩy mạnh cái bàn ra với một giọng rất quả quyết gọi to:
      - Cao Ba! Bạch Như!

      Cao Ba, Bạch Như cùng chạy lại. Kiếm Ba mặt tươi cười, nói như không suy nghĩ:
      - Các đồng chí phải biết, vấn đề mấu chốt là ở chỗ ta lợi dụng nó như thế nào? Có phải không?...

      Cao Ba, Bạch Như nghe hỏi, chẳng biết trả lời ra sao, chỉ biết giương mắt nhìn Kiếm Ba một cách ngạc nhiên và mím môi không nhịn được cười.

      Kiếm Ba lại quay ra, trông qua khe cửa, nhìn gió to tuyết lớn ở bên ngoài. Anh khẽ gật đầu, rồi với một giọng đặc biệt phấn khởi, anh ra mệnh lệnh:
      - Thời cơ tốt, mệnh lệnh cho các tiểu đội, lập tức chuẩn bị xuất phát!

      - Có! - Cao Ba chào, rồi chạy đi.

      Các tiểu đội được lệnh, cấp tốc chuẩn bị.

      Trong rừng thẳm tuyết dày này không có đường đi, nói cho đúng hơn, có chỗ chưa từng có ai qua lại, cũng chưa có ai nhìn thấy bao giờ! Nhất là ra đi vào hôm bão tuyết, lỡ lạc mất phương hướng có thể đi hàng chục ngày không ra khỏi, và không thấy một bóng nguòi. Có chỗ tuyết sâu đến mấy trượng, có khi đến hàng chục trượng, lỡ rơi xuống đấy thời đừng hòng bò lên, những chỗ như thế thường là những khe sâu, hang hiểm, phủ dầy tuyết. Đi vào những nơi như thế, bị chết đói, chết rét hoặc bị tuyết vùi đi cũng là chuyện thường.

      Khi Kiếm Ba đã mặc quần áo và chuẩn bị xong, anh đi về căn nhà phía đông thôn.

      Anh em chiến sĩ đang chờ đợi thủ trưởng với một tinh thần khẩn trương.
      - Nghi... iêm!

      Dương Tử Vinh hô to, khi thấy Kiếm Ba bước vào. Các chiến sĩ đứng dậy chào thủ trưởng.

       Kiếm Ba chào lại, bảo anh em nghỉ, rồi tiến lên đứng ở giữa nhà. Anh em chiến sĩ, người ngồi trên giường, người ngồi dưới đất, người dựa cửa sổ, người ngồi mép giường, lắng tai nghe Kiếm Ba nói.

      Trước hết, Kiếm Ba căn cứ vào lá thư của chính ủy Hà và phó tư lệnh Điền phân tích cho anh em chiến sĩ biết tình hình toàn quốc.

      Anh nói:
      - Đế quốc Mỹ và bè lũ Tưởng Giới Thạch hiện nay đang giở một thủ đoạn cực kỳ nham hiểm. Bọn chúng đang lợi dụng dịp ủy ban tiếp quản đi các nơi để di chuyển đại bộ phận quân đội vào khu giải phóng của chúng ta. Hiện nay quân đội của Hồ Tôn Nam ở Tây Bắc đã tấn công vào khu giải phóng Tây Bắc của chúng ta. Chúng lại tăng quân ở Hoa Đông và Hoa Bắc, tiến hành tấn công có trọng điểm vào vùng Sơn Đông. Quân địch tấn công vào Đông Bắc lại càng hung hãn. Đại bộ phận quân chính quy của Quốc dân đảng đều chuyển lên Đông Bắc. Chúng định lợi dụng điều kiện vận chuyển của Đông Bắc, nhân lúc cơ sở quần chúng của ta còn yếu, nhân lúc ta chưa đứng vững chân, đến để tiêu diệt quân ta. Bọn chúng muốn chiếm lãnh vùng cơ sở công nghiệp của toàn quốc này để làm bàn đạp đánh Liên Xô, đánh "cộng sản" và nhân dân.

      Chúng ta phải thề sống chết giữ lấy khu Đông Bắc và nhất định phải thắng lợi. Đông Bắc có vị trí vô cùng quan trọng đối với cách mạng toàn quốc. Đông Bác dựa sát vào Liên Xô, tài sản cực kỳ phong phú, công nghiệp phát đạt, vận tải tối tân. Đông Bắc vì thế sẽ là căn cứ phản công của chúng ta.Vấn đề mấu chốt hiện nay là phát động quần chúng, mà khâu chính việc phát động quần chúng là ở vấn đề cải cách ruộng đất triệt để, tiêu diệt hết thế lực phong kiến, chỉ có thế mới củng cố được hậu phương, nhưng bọn phỉ-tổ chức quốc dân đảng dã man tàn sát đồng bào lại là trở ngại lớn cho phong trào cải cách ruộng đất. Bởi thế, nhiệm vụ của chúng ta là phải tiêu diệt thổ phỉ không một chút thương tiếc, phải tiêu diệt không sót một tên quân quốc dân đảng nào, bảo vệ cải cách ruộng đất, bảo vệ lấy quả thực thắng lợi của quần chúng, để chuẩn bị viện trợ cho cuộc chiến tranh giải phóng toàn quốc nay mai.

      Lời của Kiếm Ba khích động lòng căm thù của các chiến sĩ. Các chiến sĩ cùng giơ nắm tay lên và hô to:
      - Chúng ta kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ của Đảng !

     Bỗng nhiên, Kiếm Ba vui hẳn lên nói với anh em:
     - Các đồng chí, thời cơ đã đến, bây giờ chúng ta xuất phát ngay đến một nơi địch không thấy ta, nhưng ta lại tìm thấy địch, và đánh cho chúng một trận tơi bời hơn cả trận Nãi Đầu Sơn nữa.

       Kiếm Ba mỉm cười, ngó qua khe cửa nhìn gió to tuyết lớn bên ngoài. Mọi người đều nhìn theo.

      Kiếm Ba nói:
      - Tuyết lớn! Vốn là kẻ địch đối với cuộc hành quân của chúng ta.Nhưng ngày hôm nay tuyết đã trở thành bạn của chúng ta, trở thành lực lượng của chúng ta. Dựa vào tuyết, ta có thể tìm ra tông tích quân địch, dựa vào tuyết, ta lại có thể che kín dấu vết của ta. Điều đó rất lợi cho ta nắm quyền chủ động về quân sự, rất lợi cho ta đánh địch một cách thần thông biến hóa.

       Anh em chiến sĩ nghe nói, bỗng hết hoài nghi, biểu lộ một tinh thần sôi nổi phấn khởi.

      Kiếm Ba cười nói:
      - Lẽ cố nhiên! Có cái lợi, phải có cái thiệt. Kết bạn với cái ông bạn xa này cũng phải chịu tốn một chút. Chúng ta cũng không nên hẹp hòi. Ông bạn chúng ta chỉ yêu cầu có một điều, đó là sự cố gắng và quyết tâm của chúng ta....

Các chiến sĩ đều cười, Kiếm Ba nhún vai nói tiếp:
      - Ông bạn của chúng ta vừa giảo hoạt vừa gian trá, hay ngáng chân người, nhưng lại có tính mềm nắn rắn buông. Chỉ cần chúng ta cứng cỏi, có sức mạnh, ông bạn sẽ phục ta là hảo hán và sẽ phải tôn kính ta. Còn ai là những kẻ đồ tồi, thì ông bạn sẽ kéo chân họ lại!

       Mọi người nghe chuyện ví lý thú đó của Kiếm Ba đều cười ồ cả lên.
      - Trong buổi hành quân hôm nay của chúng ta, cần phải thăm dò tính nết của ông bạn mới và tìm biện pháp để điều khiển ông bạn, làm cho ông bạn có thể giúp chúng ta được nhiều. Cho nên yêu cầu mọi người tập trung trí não, sáng tạo ra những kinh nghiệm chiến đấu hành quân trên tuyết. Bây giờ tôi lệnh: Xuất phát!

      Các chiến sĩ ra đi, khí thế mạnh mẽ và rắn rỏi, xông pha trên bãi tuyết mênh mông giữa lúc tuyết rơi mịt đất trời. Hình bóng phân đội giống như mấy chục chấm đen từ từ bò đi trên bãi tuyết mênh mông vô hạn. Hai con ngựa leo núi rất giỏi lấy được ở Nãi Đầu Sơn của Hứa Gậy Gộc và Yêu Bươm Bướm cũng đi trong đội ngũ của phân đội.

      Tuyết lên tới đầu gối, rồi lên tới háng. Lưu Huân Thương và Tôn Đạt Đắc hai người to lớn đi đầu, gạt tuyết mở đường, vạch thành hai rãnh dài. Anh em theo rãnh tiến lên.

     Tôn Đạt Đắc nói đùa:
      - Hừ! Cái anh bạn tuyết thật là khó chơi!

     Lưu Huấn Thương có cặp giò rất khỏe, lấy sức trượt hai lèo:
      - Hừ! Đi thế này mới khỏe! Bây giờ rèn luyện ở đây, mai sau về đồng bằng thì bay được.

      Đi được một quãng, Kiếm Ba quay đầu lại nhìn. Bao nhiêu dấu vết chân đi của phân đội đã bị tuyết rơi phủ bằng rồi. Chỉ độ nửa giờ là không còn trông thấy có vết chân người đi qua nữa.

      Anh vui sướng gọi to:
      - Các đồng chí! Ngoảnh lại mà xem! Ông bạn tuyết của chúng ta trung thực quá!

      Mọi người ngoảnh đầu nhìn thấy tuyết sắp sửa lấp bằng vết chân đi, đều tươi cười vui sướng.

      Đổng Trung Tùng lau mồ hôi trên trán:
      - Ông bạn trung thực thì có trung thực nhưng đòi hỏi chúng ta ra sức nhiều quá.

      - Thế mới tốt chứ! - Dương Tử Vinh nói. – Ông bạn sợ cậu lạnh, làm cho cậu ra mồ hôi, như thế không tốt hay sao?

      Anh em chiến sĩ lại tươi cười tiến bước.

      Trời tối rồi. Tiếng cười nói cũng dịu dần lại. Gió cũng nhẹ hẳn. Những đôi giày đi tuyết bằng da trâu, giẫm trên tuyết, kêu lẹp xà lẹp xẹp. Mỏi mệt đã đến với các chiến sĩ, như muốn tấn công vào ý chí sắt đá của mọi người.

      Tới một quãng xuống dốc, Bạch Như không đi theo vết chân của những người đi trước, lại đi trệch về một bên, đi trên một quãng dốc 40 độ không có một gốc cây nào. Quãng dốc này lại phủ toàn tuyết mới, cũng trong trắng như cô thiếu nữ Bạch Như, Bạch Như rất thích quãng tuyết ấy và đi trên đấy một cách rất khoái chí. Bỗng nhiên: Tuột! Tuột! Tuột! Bạch Như ngã ngồi phệt xuống tuyết và như một cái ba-lô trôi tuột xuống dốc. Trôi đến quá 30 thước thì tới bên cạnh Lưu Huân Thương, được Thương nắm giữ lại.

      Thương đỡ Bạch Như dậy, thấy không việc gì, cười to và gọi:
      - Anh em xem! Bạch Như ngồi ô-tô đây này!

      Mọi người cười ồ lên. Sau trận cười, đỡ được một chút mệt nhọc. Từ đó về sau anh em chiến sĩ cứ thấy ngã như thế đều gọi là ngồi ô-tô. Chỗ tuyết nông làm nảy đít lên gọi là ngồi ghế cứng. Chỗ tuyết sâu không làm nảy đít lên gọi là ngồi ghế mềm. Hành quân ban đêm mà ngã như thế này là chuyện cơm bữa! Mọi người đều tính xem mình ngồi ô-tô mấy lần. Lưu Huân Thương thấy anh em cứ ngã luôn như thế, càng thấy kích thích tài năng cũ của minh. Anh chạy bên cạnh Kiếm Ba, vội vã nói:
      - 203! 203! Kết bạn với tuyết phải học trượt tuyết, học theo bộ đội trượt tuyết của Hồng quân Liên Xô! Tôi biết trượt tuyết! Chỉ cần có đồ trượt tuyết là được. Chà! Nếu chúng ta nắm được môn kỹ thuật này thì đi mới nhanh!

     - Đúng lắm, - Kiếm Ba rất vui thích nói. - Ta mà nắm được kỹ thuật trượt tuyết thì lúc đó tuyết lớn đối với chúng ta sẽ thành đường cái cho ô-tô, thành đường ray cho xe lửa, thành trời cao cho máy bay, thành đại dương cho chiến hạm! Phải hạ quyết tâm nắm lấy môn kỹ thuật đó!

      Về gần sáng gió lặng tuyết im. Giá rét buốt người. Suốt một đêm đấu tranh với gió tuyết, các chiến sĩ đã cảm thấy đói rét và nhọc mệt, bước đi một cách rất gian nan. Kiếm Ba nhìn địa bàn có dạ quang, nắm vững phương hướng hành quân.

      Có lúc đằng trước còn đang chọn đường đi, anh em được dừng chân một chút. Dù chỉ trong nửa phút thôi, mọi người cũng tranh thủ ngồi một chút cho đỡ mệt. Nhưng ngồi xuống một cái là đã ngáy khò khò trong vũng tuyết rồi. Dù chỉ trong nửa phút thôi, anh em cũng ngủ một cách rất ngon lành. Bạch Như cứ phải luôn mồm gọi lanh lảnh:
       - Dậy đi! Dậy đi! Đừng ngủ! Ngủ thì bị rét chết cứng ra đấy!

       Quả thực như thế, lúc đó ai mà ngủ đi độ 20 phút, sẽ bị rét cứng ra và không còn đủ sức bò dậy nữa.

      Anh em chiến sĩ vẫn tiếp tục đi một cách gian nan, những chiếc giày "lẹp xẹp" trên tuyết, kéo lê theo những bước chân nặng nề mệt mỏi.
      - Gâu, gâu, gâu!

      Đột nhiên có tiếng chó sủa vẳng lại. Tiếng chó xua tan mệt mỏi. Không ai bảo ai, mọi người đều cảnh giác nhìn chăm chú vào phía chó sủa. Xa xa có ánh đèn lấp loáng. Mọi người bỗng thấy khẩn trương và tỉnh hẳn lên.

       Kiếm Ba dẫn phân đội chạy thẳng về phía có ánh đèn. Anh biết rõ chỗ đó không thể có nhiều thổ phỉ, đây là một tình hình đáng mừng. Đến gần thì thấy đây là một cái lều tranh đứng chơ vơ, mái cao chỉ bằng đầu người. Từ trong nhà bốc ra mùi thơm rượu thịt. Chung quanh nhà không có gì đặc biệt, chỉ có một con chó mực, dưới chân đống cỏ, hướng về đoàn khách lạ sủa rối rít.

      Đẩy cửa bước vào, chỉ thấy có hai vợ chồng ông già trên sáu mươi tuổi, rưng rưng nước mắt rất đỗi lo sợ, đăm đăm nhìn mọi người.

     Trên giường còn để một vò rượu. Trong nồi đương ninh thịt, mùi thịt thơm phưng phức tỏa ra khắp nhà. Trước tình hình đó, Kiếm Ba đoán chắc trong nhà vừa xảy ra một việc không bình thường. Trước hết, anh hỏi han, an ủi ông bà già. Khi đã tin rằng Kiếm Ba không phải là người đến làm hại mình, ông bà già mới sụt sùi kể lại câu chuyện vừa xảy ra.
       - Cách đây hai hôm, khi trận bão tuyết này mới bắt đầu, có hai người lạ mặt chưa từng quen biết bao giờ đã tới căn nhà này; một người đàn ông, một người đàn bà. Người đàn ông mình khoác một cái áo lính Nhật, đeo một khẩu súng lục. Người đàn bà khoác một cái áo bông, rét run cầm cập. Từ 13 năm nay, đây là lần đầu tiên có khách bước chân vào túp lều tranh này.

       Trước đây 14 năm, ông bà già có hai trai, một gái đều bị bọn ác bá cấu kết với hiến binh Nhật giết chết. Mấy người này đều là những thanh niên trí thức yêu nước, kháng Nhật. Từ đó đến nay, hai ông bà già vào ẩn trong miền rừng núi vắng bặt bóng người này. Hai người nuôi gà, nuôi thỏ, lấy nấm, cùng nhau gian khó, làm bạn với tuyết gió sống qua cái tuổi già không con cái này.....    

      Ông già thở dài, mặt răn reo lại, biểu lộ một tâm tình vô cùng đau khổ kể tiếp:
      - Hai người ấy bước vào nhà. Người đàn bà vào quãng 25 tuổi, rét run cầm cập, khóc sướt mướt, xem chừng trong lòng có nhiều điều u ẩn, đang lâm vào tình trạng khó xử. Người đàn ông 37, 38 tuổi, mặt mũi như thằng ăn cướp trông rất hung ác, vừa vào đến cửa là đòi rượu, đòi thịt. Nó giết gà, luộc trứng của tôi. Tôi có một vò rượu táo, nó uống sạch cả. Cả ngày say khướt. Nó tự xưng là thám tử của Đảng cộng sản, rồi nói cộng sản tới đâu là cộng đấy, lúa gạo rau dưa, ruộng đất nhà cửa, gà chó ngỗng vịt, quần áo chăn nệm, rượu, thuốc phiện cái gì cũng cộng, ngay cả đàn bà con gái cũng cộng...

      Nói tới đấy, ông già thở dài:
      - Hừ! Không còn thể thống nào nữa! Quan ạ! Cái bọn cộng sản thú vật ấy nhất định phải tiêu diệt.

      Mặt ông lão tỏ vẻ rất oán giận.

      Kiếm Ba vì muốn biết ngay tình hình, nên anh thấy chưa cần phải giải thích vội cho ông già biết sự hiểu lầm của ông về Đảng cộng sản.

      Anh nói bằng một giọng thông cảm với ông cụ:
      - Cụ hãy cho tôi biết, thằng ác qủy ấy nó đi đâu.

      - Hai ngày hôm nay tên đàn ông không biết đòi hỏi cái gì mà lúc thì vỗ về, lúc thì dọa dẫm. Người đàn bà thì cứ nhăn mày nhăn mặt trả lời: "Không tìm thấy đâu! Không thể làm thế nào cho anh được". Nó nói mơ hồ, tôi chả hiểu gì cả. Đêm vừa rồi, trời đã tắt gió im tuyết. Tên đàn ông bắt vợ chồng tôi trở dậy ninh thịt, hâm rượu cho nó. Nó bảo ăn xong nó còn đi. Người đàn bà vừa mặc quần áo xong, bỗng nhiên chửi rầm lên, nói tên đàn ông đánh cắp của nó cái gì ấy, rồi mặt mũi biến sắc đi, nó cứ đòi tên đàn ông. Tên đàn ông thì khăng khăng bảo: Không lấy!

      Hai người quay ra đánh xé lẫn nhau. Sau cùng người đàn bà nói:
      - Mày không giả tao, tao sẽ tố cáo với sư thầy Định Hà.

      Người đàn ông nghe câu ấy lặng người ra một chút, rồi lập tức tỏ vẻ rất hung ác, nhìn hằm hằm vào mặt người đàn bà, tát cho một cái thật mạnh và chửi to :
       - Đồ thối tha! Không biết gì cả, không cho mày một trận, thì mày không biết tay tao.  

       Nó vừa chửi vừa nắm tóc người đàn bà lôi đi. Người đàn bà ở trong nhà còn giãy giụa, ra khỏi cửa liền kêu to: "Cứu tôi với ! Cứu tôi với..." Hai vợ chồng già chúng tôi chạy vội ra khuyên giải. Tôi chưa kịp mở miệng, thì bị ngay tên đàn ông đá cho một cái ngã lăn ra, rồi nó chửi tôi:
      - Thằng già khốn nạn này chỉ khéo rắc rối.

     Đến lúc tôi bò dậy được, thì nó đã đi xa rồi. Được một lúc tên đàn ông quay trở lại mặt đầy sái khí, người đàn bà không thấy về nữa. Nó lấy rượu uống, uống luôn ba bát to. Vừa lúc đó, bên ngoài có tiếng chó sủa. Tên đàn ông giống như một con chó sợ súng, vơ vội lấy áo khoác, rồi chạy ra khỏi cửa. Nó nhìn về phía bắc một chút, rồi quay chân chạy về phía nam.

     Kiếm Ba vội hỏi:
     - Đã lâu chưa?

     - Chừng hút xong hai điếu thuốc thì các quan vào.

     Huân Thương giơ nắm tay:
     - Cưỡi ngựa đuổi chăng?

      Kiếm Ba không trả lời, hơi nhíu mày suy nghĩ và bước ra ngoài cửa. Lúc đó trời đã sáng, trên mặt đất in rõ hai hàng vết chân. Kiếm Ba trông thấy mỉm cười, lẩm bẩm:
      - Cái thằng ngốc này...

      Hai hàng vết này không phải cùng một phương hướng: một hàng đi về phía nam, một hàng đi về phía tây bắc vượt qua quả đồi, đi sâu vào khu bụi rậm. Hàng vết chân sau không phải là của một người, mà là vết tích của hai người giằng co lôi kéo.
      - Nhanh lên! Đồng chí 203! Ta đuổi ngay chứ?

      Huân Thương và các chiến sĩ đều tỏ vẻ rất nóng ruột.

      Kiếm Ba vẫn không trả lời, chỉ nhìn về phía tây chổ còn lưu lại vết chân của hai người giằng co nhau, anh gọi:
     - Bạch Như! Cao Ba! Đằng kia có người chưa biết sống chết thế nào, mau lại đấy xem sao?

     - Tôi cũng đi!
      Huân Thương vừa nói, vừa chạy theo Bạch Như, Cao Ba vượt qua quả đồi phía tây bắc.

      Kiếm Ba lại nhìn những vết chân đi về phía hướng nam, cười bảo Dương Tử Vinh.
      - Cái thằng ngốc này đã để lại dấu chân cho ta theo, ông bạn tuyết của chúng ta tốt thật!

      Dương Tử Vinh cũng cười:
      - Tốt thật!

     - Dương Tử Vinh! Bây giờ chỉ có đồng chí đi thì tôi mới an tâm.

     Kiếm Ba vẻ mặt suy nghĩ nhìn thẳng vào Dương Tử Vinh rồi nói tiếp:
      - Để có thể lợi dụng cái thằng ngốc này, vạch đường cho chúng ta vào sào huyệt của phỉ, chưa cần phải bắt ngay thằng ấy vội. Nhưng có một nguyên tắc là không được bỏ mất nó, cho nên đồng chí cần căn cứ vào tình hình cụ thể mà quyết định.

     - Thủ trưởng 203! Tôi đã rõ ý đồng chí! Đi ngay được chứ?

    - Tôn Đạt Đắc sẽ đi giúp đồng chí. Hắn có bộ giò tốt, lại am hiểu tình hình miền rừng.

      Còn Bạch Như và ba người lần theo vết chân đi về phía tây bắc, vượt qua quả đồi, tới một chỗ tuyết chưa tới mắt cá, bỗng nhiên thấy ở dưới bụi cây trước mặt, một cái thây người đàn bà. Người này nằm một chân co, một chân duỗi thẳng, một tay để lên ngực như nắm chặt lấy áo bông, còn tay khác thì nắm chặt lấy tóc, mái tóc đã phủ đầy những tuyết. Mặt nằm nghiêng, một nửa mặt đã vùi dưới tuyết. Bên cạnh thây người đàn bà, có một cái găng tay nhuộm đầy máu, tím ngắt.

     Bạch Như chạy vội lại, nắm tay xem mạch:
     - Còn cứu được! Mau lên! Hãy khiêng về đã!

      Huân Thương quàng súng ra sau lưng, luồn tay bế xốc người đàn bà về lều hai vợ chồng ông già ban nãy.

     Cao Ba nhặt lấy cái găng tay đầy máu. Găng tay này giống hệt như găng tay của giải phóng quân.

     Thi thể được đem đặt lên giường. Bạch Như rất mau lẹ tiêm thuốc hồi sinh, rửa sạch và băng bó vết thương, phát hiện ba nhát dao đâm, một nhát ở cổ họng và một nhát ở sống lưng.

      May quá! Lưỡi dao của hung thủ ngắn, vết thương chưa đến nỗi sâu.

      Bạch Như vừa nói, vừa làm hô hấp cho người đàn bà. Chị rót vào miệng người đàn bà một ít nước muối. Dưới bàn tay cứu thương lành nghề của Bạch Như, người đàn bà bắt đầu thở được một chút và từ trong miệng phát ra những tiếng kêu ú ớ rất nhỏ.

      Cứu sống lại đuợc người đàn bà bí mật này, mọi người thở phào một cái nhẹ nhàng. Không khí căng thẳng của căn nhà cũng bình thường lại.

      Căn cứ vào kinh nghiệm xem thời tiết của vợ chồng ông già, thì chừng chiều nay lại có tuyết to. Kiếm Ba quyết định lại tiếp tục hành quân, để Bạch Như, Cao Ba ở lại.

      Trước khi ra đi, anh dặn:
      - Người đàn bà này, có quan hệ với thổ phỉ. Phải tìm hiểu xem chúng nó tranh nhau cái gì? Chúng nó đương định đi tìm ai? Sư thầy Định Hà là người thế nào? Tên hung thủ và người đàn bà có quan hệ với nhau như thế nào? Tìm hiểu rõ, rồi sau ba hôm sẽ về đón....
*                                                                                                                                 *  *

      Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc đuổi được nửa ngày, trèo lên một đỉnh núi vừa cao, vừa lởm chởm.

      Trước mặt là một dòng sông quanh co uốn khúc giữa hai quả núi. Đây là khúc sông Mẫu Đơn, dòng nước đã đóng thành băng, nằm dài vô tận như một con rồng trắng. Hai người nhìn theo vết chân của tên phỉ đi về phía đằng xa.
      - Nhìn thấy rồi!

      Tôn Đạt Đắc mừng rỡ trỏ tay:
      - Kia rồi! Anh xem! Anh xem!

      Hai người cùng nhìn, có một điểm đen đang động đậy bò trên nhánh Mẫu Đơn Giang. Dương Tử Vinh nâng ống nhòm nhìn theo điểm đen. Qua ống kính trông thấy rõ ràng tên thổ phỉ đang chạy vội chạy vàng, rất hoảng sợ. Lưng cúi rạp xuống, thỉnh thoảng ngó lại đằng sau, nhưng hai chân vẫn chạy cuống quít.

      Dương Tử Vinh, Tôn Đạt Đắc chạy như bay xuống núi, vượt qua sông băng, ra sức đuổi theo. Điểm đen mỗi lúc một to dần.

      Bỗng nhiên, một trận gió nổi lên, tuyết bay mịt mù, điểm đen mất hút. Tôn Đạt Đắc lau hai mắt bị tuyết che mờ, ngẩng đầu lên nhìn phía tây bắc mây đen dày đặc đang xâm chiếm cả bầu trời, trời càng tối sầm lại. Tỏ vẻ sốt ruột và bực mình, anh bảo Dưong Tử Vinh:
      - Lại bão tuyết rồi!

      - Phải đuổi cho gấp!

       Dương Tử Vinh hơi chau mày và cương quyết:
       - Phải tranh thủ! Một lát nữa trời tối, tuyết rơi, con chó ấy sẽ tẩu thoát mất...

      Nói xong, hai người thấy hăng hái thêm, tinh thần trách nhiệm xua đuổi hết nhọc mệt. Họ lần theo dấu chân, chạy trong màn tuyết, ra sức đuổi cho kỳ được hung thủ.

      Chỗ cặp nhau giữa hai con sông: Mẫu Đơn và Nhị Đạo, có một tòa cổ miếu: miếu Thần Hà. Qua màn tuyết mơ hồ, hình miếu mỗi lúc một rõ dần ở đằng xa.

      Sau một trận đuổi gấp, chỉ còn cách tên thổ phỉ chừng một cây số nữa thôi, hai người cười vui sướng:
      - Mày tưởng mày chạy thoát ta! Bão tuyết cũng không cứu nổi mày!

     Tên kia càng cuống quít, mỗi lần quay lại đằng sau, lại thêm hoảng hốt cắm đầu chạy, vừa ngã, vừa bò mải miết về phía miếu Thần Hà.

     Trời càng tối thêm, tuyết lại bắt đầu rơi. Dương Tử Vinh cắn môi và bảo Tôn Đạt Đắc:
      - Lúc này là lúc bắt nó đây. Mau lên!

      Hai người lại chạy gấp đuổi theo. Gần tới miếu, tên phỉ càng bối rối. Thấy vẻ hoang mang sợ hãi của nó. Dương Tử Vinh biết chắc rằng trong miếu không thể có nhiều thổ phỉ, nên quyết định cứ xông vào. Hai người nắm chắc tay súng, đuổi theo vào con đường ngoằn ngoèo dẫn đến miếu Thần Hà.

      Tới nơi, thấy trong miếu tĩnh mịch, vườn đầy những cây tùng, cây bách. Cây trường lục diệp phủ đầy những tuyết trông như cây mai nở hoa. Con đường vào miếu vừa mới quét tuyết thành một lối đi, vì thế vết chân của tên kia cũng không còn nữa.

      Bước vào miếu, thì trước mắt là điện Tam Thanh. Trong điện vẳng ra những tiếng tụng kinh, và nhìn vào trong điện, chỉ thấy trước tượng Tam Thanh to lớn, có hai người đạo sĩ đang quỳ, một người già, một người trẻ, nhìn vào quyển kinh. Đạo sĩ già tay lần tràng hạt, đạo sĩ trẻ gõ mõ. Ngoài ra, ở gian giữa lại còn một người đàn bà nữa cũng quỳ, quay lưng ra ngoài nên không thấy rõ mặt. Hai người đạo sĩ rất chăm chú tụng kinh, giọng lên bổng xuống trầm, thấy người vào cũng không buồn nhìn.

      Người đàn bà quay đầu nhìn trộm lại. Dương Tử Vinh thấy chị ta ôm trong lòng một đứa trẻ che kín cả đầu và chân. Khi con mắt chị ta bắt gặp Dương Tử Vinh, chị ta quay vội đầu lại, vỗ vỗ đứa trẻ trong lòng, miệng lẩm bẩm:
      - Liên con! Sống lại đi, mẹ chờ con! Liên con! Sống lại đi, mẹ chờ con.

     Dương Tử Vinh ra hiệu cho Tôn Đạt Đắc, rồi với tư thế chỉ huy, hai người đi soát tòa miếu. Phía sau miếu cũng vừa mới quét sạch, lối đi không có một vết chân người.

      Mọi chỗ đều đã kiểm soát, vẫn không tìm thấy tung tích tên thổ phỉ. Trên tường cũng không có dấu vết gì chứng tỏ đã có người nhảy qua. Hai người lại trở về điện Tam Thanh. Dương Tử Vinh bảo Tôn Đạt Đắc trông giữ phía ngoài, còn tự mình đi lại phía người đạo sĩ già. Hai người đạo sĩ không chú ý, vẫn tụng kinh, gõ mõ.

      Dương Tử Vinh cố nén sự sốt ruột của mình, hỏi với một giọng rất ôn hòa:
      - Đạo trưởng ơi, xin lỗi, tôi muốn hỏi một việc, có một người...

      - Thiện tai! Thiện tai! Đừng làm rối loạn việc tụng kinh phải tội.

      Đạo sĩ già đưa mắt nhìn Dương Tử Vinh, nói xong lại nhắm nghiền mắt lại, tiếp tục tụng kinh.

      Còn người đàn bà thì cứ vái rạp đầu, tóc che cả lên mắt, mồm xuýt xoa khấn vái.

      Dương Tử Vinh đang định mở miệng hỏi thêm, thì đạo sĩ già bình tĩnh trách mắng:
      - Thi chủ phương nào? Không tuần luật đạo, tự do làm rối loạn kinh văn? Lạy Đức Đạo tổ đại từ, đại bi! Thiện tai! Thiện tai!

      Nói xong, đạo sĩ tiếp tục vái lạy và tụng kinh.

      Dương Tử Vinh ra hiệu, hai người ra khỏi gian điện, Tôn Đạt Đắc vừa đi vừa chửi:
      - Mẹ nó, con cáo già này làm ngưòi ta tức chết được.

      - Đừng nóng nảy thế, cậu Tôn. Mình ở lại coi, cậu mau đi đón thủ trưởng 203. Trời sắp tối rồi. Tuyết rơi mạnh. Sợ anh em không tìm thấy chỗ này.

     Tôn Đạt Đắc ra đi, lại ngược theo đường cũ.

      Trời tối hẳn. Tùng, tùng, tùng! Boong, boong, boong! Ba tiếng chuông báo tối, chấm dứt tiếng đọc kinh của lão già đạo sĩ.

      Tòa miếu trở lại chơ vơ tịch mịch. Khe núi vắng tanh. Người trinh sát nhân dân như con chim ưng, đứng canh tòa miếu cổ……


5 nhận xét:

  1. Cháu chào chú ạ!
    Đã từ lâu (cách đây 20 năm cháu được đọc cuốn tiểu thuyết "Rừng thẳm tuyết dày" - lúc đó cháu mượn sách ở thư viện huyện Sơn Dương - Tuyên Quang (Quê của cháu). Rồi thời gian gần đây khoảng 10 năm về trước cháu đi tìm lại để được đọc lại bằng nhiều hình thức nhưng không có một chút thông tin nào về cuốn tiểu thuyết trên. Cho đến hôm vừa rồi (ngày 28/04/2020), cháu thử tìm lại và được biết đến trang Blog của chú. Thật quá vui mừng, cháu như tìm lại được thứ mà mình bị đánh mất từ lâu. Cháu đã đọc gần như một mạch cho đến dòng cuối cùng " - Thủ trưởng ta rất sáng suốt! Cách xa nghìn dặm, nhưng chỉ một câu đủ giải quyết cho ta vấn đề khó khăn nhất.". Cháu thấy hơi đáng tiếc và không hiểu vì lý do gì mà chú chỉ dừng ở câu thoại trên. Cảm giác tiếc nuối cứ tồn tại trong cháu mãi cho đến ngày hôm nay. Nhưng dù sao cháu cũng vô cùng cảm ơn chú đã chia sẻ để cháu được đọc lại (dù chưa trọn vẹn) cuốn tiểu thuyết mà trước đây cháu đã từng đọc và vô cùng ấn tượng. Một lần nữa cháu cảm ơn chú và kính chúc chú có thật nhiều sức khỏe ạ.

    Trả lờiXóa
  2. Mình nhớ chuyện này dài lắm mà?

    Trả lờiXóa
  3. Cảm ơn chú đã cho cháu đọc lại cuốn tiểu thuyết mà cháu tìm kiếm bao lâu nay. Lần đầu tiên cháu đọc cuốn này từ thư viện của trường cấp 2 cháu học ,và cái tên Thiếu kiếm ba đã lưu trong đầu cháu từ ngày đó đến giờ (1991) cũng 30 năm rồi nội dung truyện ko còn nhỡ rõ chi tiết nhưng 3 tên nhân vật cháu chưa bao giờ quên Thiếu kiếm Ba , yêu bươm bướm, Hứa gậy gộc. Cháu đã tìm kiếm chuyện này rất lâu rồi mà chưa có. Thật vui khi vô tình cháu lại tìm thấy trên blog của chú cháu rất vui và mãn nguyện . Xin chân thành cảm ơn chú mong chú sức khoẻ up nốt trọn bộ tiểu thuyết này để những người như cháu có cơ hội đọc hết cuốn tiểu thuyết tuyệt vời này

    Trả lờiXóa
  4. Tôi cũng đã đọc cuốn tiểu thuyết này rồi. Tôi nhớ nhất là tình yêu mãnh liệt giữa Thiếu Kiếm Ba và cô y tá Bạch Như.

    Trả lờiXóa
  5. Bạn tự đánh máy hay copy từ trang quansu.vn? Nếu copy thì nên ghi rõ nguồn

    Trả lờiXóa