Mục lục
GIỚI THIỆU
Quyển 1 - Lưu nhị mục truyện LƯU CHƯƠNG TRUYỆN LƯU YÊN TRUYỆN
Quyển 2 – Lưu Tiên chủ
LƯU TIÊN CHỦ TRUYỆN
Quyển 3 - Hậu chủ
HẬU CHỦ TRUYỆN
Quyển 4 - Nhị chủ phi tử truyện NHỊ CHỦ PHI TỬ TRUYỆN
Quyển 5 - Gia Cát Lượng truyện GIA CÁT LƯỢNG TRUYỆN
Quyển 6 - Quan Trương Mã Hoàng Triệu truyện HOÀNG TRUNG TRUYỆN, QUAN
VŨ TRUYỆN, TRƯƠNG PHI TRUYỆN, MÃ SIÊU TRUYỆN, TRIỆU VÂN TRUYỆN
Quyển 7 - Bàng Thống Pháp Chính truyện BÀNG THỐNG TRUYỆN
PHÁP CHÍNH TRUYỆN
Quyển 8 - Hứa My Tôn Giản Y Tần truyện GIẢN UNG TRUYỆN,
Y TỊCH TRUYỆN, MY TRÚC TRUYỆN, TÔN CÀN TRUYỆN, TẦN MẬT TRUYỆN, HỨA
TĨNH TRUYỆN
Quyển 9 - Đổng Lưu Mã Trần Đổng Lã truyện ĐỔNG DOÃN TRUYỆN
ĐỒNG HÒA TRUYỆN LỮ NGHỆ TRUYỆN LƯU BA TRUYỆN MÃ LƯƠNG TRUYỆN TRẦN CHẤN TRUYỆN
Quyển 10 - Lưu Bành Liêu Lý Lưu Ngụy Dương truyện BÀNH DẠNG TRUYỆN LƯU
PHONG TRUYỆN LƯU DIỄM TRUYỆN LÝ NGHIÊM TRUYỆN NGỤY DIÊN TRUYỆN DƯƠNG NGHI
TRUYỆN LIÊU LẬP TRUYỆN
Quyển 11 - Hoắc, Vương, Hướng, Trương, Dương, Phí truyện HOẮC TUẤN
TRUYỆN VƯƠNG LIÊN TRUYỆN HƯỚNG LÃNG TRUYỆN TRƯƠNG DUỆ TRUYỆN DƯƠNG HỒNG TRUYỆN
PHÍ THI TRUYỆN
Quyển 12 - Đỗ, Chu, Đỗ, Hứa, Mạnh, Lai, Duẫn, Lý, Tiếu, Khích
truyện. ĐỖ VI TRUYỆN CHU QUẦN TRUYỆN ĐỖ QUỲNH TRUYỆN HỨA TỪ TRUYỆN MẠNH QUANG
TRUYỆN LAI MẪN TRUYỆN DUẪN MẶC TRUYỆN LÝ SOẠN TRUYỆN TIÊU CHU TRUYỆN KHÍCH CHÁNH TRUYỆN
Quyển 13 - Hoàng Lý Lã Mã Vương Trương truyện HOÀNG QUYỀN TRUYỆN LÝ
KHÔI TRUYỆN LÃ KHẢI TRUYỆN MÃ TRUNG TRUYỆN TRƯƠNG NGHI TRUYỆN VƯƠNG BÌNH TRUYỆN
Quyển 14 - Tưởng Uyển Phí Y Khương Duy truyện KHƯƠNG DUY TRUYỆN TƯỞNG
UYỂN TRUYỆN PHÍ Y TRUYỆN
Quyển 15 - Đặng Trương Tông Dương truyện ĐẶNG CHI TRUYỆN TÔNG DỰ TRUYỆN DƯƠNG HÝ TRUYỆN TRƯƠNG DỰC TRUYỆN
GIỚI THIỆU
Tam quốc chí là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam
Quốc của Trung Quốc từ n ăm 189 đến năm 280, do Trần Thọ biên soạn vào thế kỉ
thứ 3. Tác phẩm này hình thành từ các mẩu chuyện nhỏ kể về các nước Ngụy, Thục
và Ngô của thời đại này, đồng thời là nền tảng cho cuốn tiểu thuyết lịch sử rất
phổ biến là Tam quốc diễn nghĩa được viết vào thế kỉ 14.
Trần Thọ từng làm quan cho nhà Thục Hán, sau khi Thục Hán diệt vong
đến Lạc Dương làm quan cho nhà Tây Tấn. Trần Thọ đã dựa vào các sử liệu cơ bản
như Ngụy thư của Vương Thẩm, Ngụy lược của Ngư Hoạn, Ngô thư của Vi Chiêu… để
viết Tam quốc chí, thuật lại lịch sử Trung Quốc từ khởi nghĩa Khăn Vàng vào
cuối thời Đông Hán đến khi Tây Tấn thống nhất
Trung Quốc, tức từ năm Trung Bình thứ nhất đời Hán Linh Đế (184) đến năm
Thái Khang thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (280). Tam quốc chí được chia làm 4 phần gồm
66 quyển: Ngụy quốc chí 30 quyển, Thục quốc chí 15 quyển, Ngô quốc chí 20
quyển, ngoài ra còn có 1 quyển Tự lục (lời tựa) nhưng đến nay đã bị thất
truyền. Lúc đầu ba tác phẩm Ngụy chí, Thục chí và Ngô chí tồn tại riêng rẽ, đến
năm Hàm Bình thứ 6 thời Bắc Tống (1003) hợp nhất đổi tên thành Tam quốc chí.
Trần Thọ là quan nhà Tấn, do đó phải lấy triều đại đã nhường ngôi
cho Tấn là Tào Ngụy làm chính thống.
Ngụy chí xếp các Hoàng đế nhà Ngụy vào bản kỷ, Tào Tháo tuy chỉ
xưng vương, chưa lên ngôi Hoàng đế nhưng cũng được xếp vào bản kỷ. Có 4 quyển
bản kỷ là Vũ Đế kỷ (Tào Tháo), Văn Đế kỷ (Tào Phi), Minh Đế kỷ (Tào Duệ) và Tam
Thiếu Đế kỷ (Tào Phương, Tào Mao và Tào Hoán). Các văn thư nói về việc các vua
Ngụy xưng vương, xưng đế, trị nước và việc tang đều không chép (ngoại trừ chiếu
nhường ngôi của Hán Hiến Đế - Hán Hiến Đế thiện nhượng sách văn, các văn thư
khác chỉ do Bùi Tùng Chi chú thích).
Thục chí xếp Lưu Bị vào liệt truyện tức Tiên chủ truyện (mặc dù Lưu
Bị xưng đế), không gọi trực tiếp tên húy, khi chết dùng chữ băng ngang địa vị
với chữ tồ. Các văn thư nói về việc Lưu Bị xưng vương, xưng đế, trị nước và
việc tang đều chép đầy đủ (có thể do tình lưu luyến với cố quốc). Hoàng đế thứ
hai nhà Thục Hán là Lưu Thiện được xếp vào Hậu chủ truyện.
Ngô chí trong nguyên bản gọi thẳng tên húy các vua Đông Ngô như Tôn
Quyền truyện, Tôn Lượng Tôn Hưu Tôn Hạo truyện; cách gọi hiện nay Ngô chủ
truyện, Tam tự chủ truyện là do người đời sau sửa lại. Trong phần Ngô chủ
truyện có chép Nam giao tức Hoàng đế vị nói về việc Tôn Quyền tuyên bố xưng đế,
còn văn thư đăng đàn tế cáo trời đất thì không chép, chỉ có trong phần chú
thích của Bùi Tùng Chi.
Đồng thời để tôn trọng sự thống trị của nhà Tấn, Tam quốc chí không
viết liệt truyện về các nhân vật Tư Mã Ý, Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu (do được Tấn
Vũ Đế Tư Mã Viêm truy đặt thụy hiệu). Ngoài ra, tác giả cũng lược bỏ nguyên
nhân Tào Tháo xử tử nhân vật Khổng Dung.
Vào thời Đông Hán, sử học tiếp nhận ảnh hưởng từ trào lưu đơn giản
hóa của kinh học nên xuất hiện trào lưu giản lược hóa các tài liệu lịch sử.
Trong bối cảnh đó, đã xuất hiện Tam quốc chí của Trần Thọ với nội dung giản
lược về thời đại Tam quốc. Sau khi Trần Thọ mất hơn trăm năm, nhiều sử liệu về
thời Tam quốc xuất hiện, Tống Văn Đế thời Nam-Bắc triều thấy nội dung của Tam
quốc chí quá sơ lược nên đã ra lệnh cho Bùi Tùng Chi chú thích. Bùi Tùng Chi đã
tập hợp các sử liệu để bổ sung các phần mà Tam quốc chí không chép hoặc chép
thiếu bằng 6 phương pháp:
1. Dẫn lời bàn luận của nhiều tác gia khác nhau để phân định phải
trái.
2. Tham khảo ý kiến của nhiều tác gia khác nhau để xét chân giả,
thực hư.
3. Sự việc trong các truyện đều kể rõ mọi đầu đuôi, uẩn khúc.
4. Bổ sung các sự việc còn thiếu cho các truyện.
5. Kể rõ cuộc đời của các nhân vật trong các truyện.
6. Phụ thêm các nhân vật còn thiếu cho các truyện.
Theo thống kê của một số học giả, thì số tư liệu mà Bùi Tùng Chi
dùng để chú giải Tam quốc chí là khoảng 240 loại, gấp 3 lần so với nguyên bản
Tam quốc chí. Mã Niệm Tổ trong tác phẩm Thủy kinh chú đẳng bát chủng cổ tịch
dẫn dụng thư mục vị biên cho rằng số tư liệu mà Bùi Tùng Chi sử dụng là 203
loại. Hiện nay, theo thống kê bản hiệu đính Tam quốc chí tại Trung Hoa thư cục
đã phát hiện phần chính văn của Trần Thọ có 366657 chữ và phần chú thích của
Bùi Tùng Chi có 320799 chữ. Tống Văn Đế đương thời gọi công việc chú thích của
Bùi Tùng Chi là “bất hủ”. Các sử gia đời sau như Tư Mã Quang (thời Bắc Tống)
khi biên soạn Tư trị thông giám đã tổng hợp các truyện ký trong Tam quốc chí
của Trần Thọ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi để miêu tả trận chiến Xích
Bích.
Bản Tam quốc chí do Bùi Tùng Chi chú thích là bản thông dụng nhất
hiện nay, còn gọi là Trần chí, Bùi chú .
Không thể phủ nhận được rằng, những sự kiện lịch sử thời Tam Quốc
cùng với các nhân vật của nó trở nên sống động, lưu truyền rộng rãi và có ảnh
hưởng sâu đậm ở khu vực châu Á một phần là nhờ ở bộ tiểu thuyết Tam Quốc diễn
nghĩa của La Quán Trung. Tuy nhiên cũng phải công nhận là thời đại Tam Quốc với
những biến cố long trời lở đất giống như một cái bản lề, xoay chuyển xã hội
Trung Quốc từ thịnh trị của đời Hán sang hỗn loạn của những Bát vương chi loạn,
Ngũ Hồ loạn Hoa, Thập Lục quốc. Rất nhiều nguyên nhân của cả thịnh trị lẫn loạn
lạc này để lại dấu vết trong thời đại Tam Quốc và được ghi lại trong Tam Quốc
chí chú. Như vậy có thể nói Tam Quốc chí chú là một sử liệu hiếm hoi có cả sức
cuốn hút lẫn giá trị khảo cứu cao.
QUYỂN 1 - LƯU NHỊ MỤC TRUYỆN
Lưu Yên, Lưu Chương
LƯU CHƯƠNG TRUYỆN
Chương, tự Quý Ngọc, được nối ngôi vị của Yên, mà Trương Lỗ có chút
kiêu căng phóng túng, không chịu thuận theo Chương, Chương giết mẹ cùng với em
trai Lỗ, vì thế mới thành thù địch. Chương lại sai bọn Bàng Hi đánh Lỗ, mấy lần
bị Lỗ đánh tan. Bộ khúc của Lỗ đa phần ở tại Ba Tây, cho nên Chương lấy Hi làm
Thái thú Ba Tây, cầm binh ngăn Lỗ.
Anh hùng ký chép: Bàng Hi cùng với Chương là chỗ quen biết cũ, lại
cứu thoát các con của Chương lúc hiểm nguy, cho nên Chương chịu hậu ân của Hi,
lấy Hi làm Thái thú Ba Tây, Hi được thế chuyên quyền.
Sau này Hi và Chương đang giao hảo lại có hiềm khích, Triệu Vĩ dấy
binh trong cõi, lòng người chia lìa, đều bởi Chương thiếu sáng suốt lại nghe
lời người ngoài mà ra vậy.
Anh hùng ký chép: Hồi trước, có mấy vạn nhà ở Nam Dương-Tam Phụ
chạy vào Ích châu, Chương thu lấy làm binh sĩ, gọi là binh Đông Châu. Chương cá
tính hoà hoãn nhu nhược, không có uy lược, người Đông Châu dần làm hại dân bản
địa, Chương chẳng thể nào cấm đoán nổi, chính lệnh có nhiều khiếm khuyết, người
ở Ích châu đều oán. Triệu Vĩ có phẩm hạnh rất được lòng người, Chương uỷ thác
cho gánh vác việc vỗ yên dân. Vĩ nhân việc dân chúng oán thán mới mưu phản, lại
đem nhiều của cải đút lót cho Kinh Châu xin hoà, âm thầm cấu kết với các họ lớn
ở trong châu, để cùng khởi binh, quay lại đánh Chương. Người ở Thục Quận, Quảng
Hán, Kiện Vi đều hưởng ứng Vĩ. Chương vội chạy về Thành Đô giữ thành trì, người
Đông Châu lo sợ, hết thảy đồng lòng hợp sức giúp đỡ Chương, đều hết sức tử
chiến, đánh tan quân làm phản, lại tiến đánh Vĩ ở Giang Châu. Tướng của Vĩ là
Bàng Nhạc, Lý Dị làm phản giết quân của Vĩ, chém chết Vĩ.
Hán Hiến Đế xuân thu chép: Hán triều nghe tin ở Ích châu có loạn,
phái Ngũ quan Trung lang tướng Ngưu Đản đến làm Ích châu Thứ sử; cho vời Chương
về làm công khanh, Chương không tới.
Chương nghe tin Tào Công đánh Kinh Châu, có ý muốn yên việc ở Hán
Trung, mới sai người ở Hà Nội là Âm Phổ đưa lễ vật đến chỗ Tào Công. Tào Công
ban thêm cho Chương chức Chấn uy tướng quân, anh Chương là Mạo làm Bình khấu
tướng quân. Mạo có bệnh cuồng vật cố.
Thần Tùng Chi xét: Nguỵ Đài hỏi nghĩa “vật cố”, Cao Đường Long đáp
rằng: “Nghe người trước dạy: vật, là không có bệnh gì; cố là có bệnh vậy, nói
không có bệnh gì lại là có bệnh vậy.”
Chương lại phái quan Biệt giá Tòng sự Thục quận là Trương Túc đưa
đám binh sĩ già cả hơn ba trăm người mang các thứ cống vật đến chỗ Tào Công,
Tào Công phong Túc làm Thái thú Quảng Hán. Chương lại sai Biệt giá Trương Tùng
đến chỗ Tào Công, bấy giờ Tào Công đã định Kinh Châu, Tiên chủ chạy trốn, Tào
Công chẳng để mắt đến Tùng, Tùng vì thế oán hận. Lúc quân của Tào Công gặp bất
lợi ở Xích Bích, lại gặp ôn dịch chết rất nhiều. Tùng quay về, trách móc huỷ
báng Tào Công, khuyên Chương nên cự tuyệt, Hán Thư xuân thu chép: Trương Tùng
yết kiến Tào Công, Tào Công tự khoe khoang tài chinh phạt, chẳng để mắt đến
Tùng. Tùng trở về, bèn khuyên Chương nên cự tuyệt.
Tập Tạc Xỉ(1) nói: Xưa Tề Hoàn một lần khoe khoang công lao mà chín
nước làm phản, Tào Tháo bỗng chốc kiêu căng ngạo mạn mà thiên hạ chia ba, đều
là mấy chục năm chuyên cần mà chót quên trong chốc lát vênh vang với kẻ dưới,
há chẳng đáng tiếc ru! Thế nên bậc quân tử phải lao khổ khiêm cung đến xế trưa,
toan lo vì kẻ dưới, công cao lại càng phải giữ lấy sự nhún nhường, ở thế được
tôn kính phải giữ nghĩa với kẻ thấp hèn. Cái tình gần với vật, cho nên dẫu quý
hiển mà người ta coi trọng chẳng hề chán ghét; đức thiện hoà với quần sinh, nên
công nghiệp lớn lao mà thiên hạ càng hớn hở vui mừng. Người như thế, có thể
được ở ngôi phú quý, giữ được công nghiệp, lúc đương thời được hiển hách vẻ
vang, phúc truyền đến trăm đời, sao lại kiêu căng vậy thay! Thế nên bậc quân tử
biết Tào Tháo chẳng thể kiêm gồm thiên hạ được vậy.
Tùng nhân đó thuyết Chương rằng: “Lưu Dự Châu, sứ quân là người có
tấm lòng, có thể kết giao.” Chương liền ưng theo, phái Pháp Chính đến giao kết
với Tiên chủ, lại lệnh cho Chính cùng với Đạt đem mấy ngàn binh đến đón rước
Tiên chủ, Chính quay lại Kinh châu. Sau Tùng lại thuyết Chương rằng: “Nay chư
tướng trong Châu là bọn Bàng Hi-Lý Dị đều cậy công lên mặt kiêu căng, muốn có ý
khác, không hợp tác với Dự Châu, nếu địch đánh ở ngoài, dân phá ở trong, ấy là
cái đạo thất bại vậy”. Chương lại nghe theo, sai Pháp Chính đi mời Tiên chủ.
Chủ bộ của Chương là Hoàng Quyền bày tỏ lẽ lợi hại, Tòng sự ở Quảng Hán là
Vương Luỹ tự treo ngược mình ở cổng thành môn để can ngăn, Chương nhất định
không nghe, mệnh cho mọi người cung đón Tiên chủ, Tiên chủ vào tới biên cảnh
thấy như ở nhà mình.
Tiên chủ đến phía bắc Giang Châu, từ Điếm Giang theo đường thuỷ tới
Phù Thành, còn cách Thành đô hơn ba trăm sáu mươi dặm, bấy giờ là năm Kiến An
thứ mười sáu. Chương dẫn quân bộ kỵ hơn ba vạn người, gióng xe buông trướng,
tinh kỳ sáng choang như ban ngày, kéo tới hội họp; Tiên chủ dẫn hết tướng sĩ ở
đó đến gặp gỡ, cùng nhau yến ẩm mừng vui hơn trăm ngày. Chương chu cấp của cải
cho Tiên chủ, phái đi đánh dẹp Trương Lỗ, rồi mới chia tay.
Ngô thư chép: Chương lấy hai mươi vạn hộc gạo, một nghìn quân kỵ,
xe cộ một nghìn chiếc, gấm lụa các loại, cùng tư trang đem đến cho Lưu Bị.
Năm sau, Tiên chủ đến Hà Manh, rồi quay binh về hướng Nam, các nơi
đều quy phục. Năm thứ mười chín, tiến vây Thành Đô mấy chục ngày, trong thành còn
ba vạn tinh binh, lương thực vải vóc chi dùng đủ một năm, quan dân đều muốn tử
chiến. Chương nói: “Cha con ta ở Ích châu hơn hai mươi năm, không có ân đức gì
với bách tính. Ba năm nay bách tính chinh chiến triền miên, xương thịt phơi đầy
đồng, ấy là vì Chương vậy, sao ta có thể an lòng đây!” Bèn mở cửa thành ra
hàng, quần thần chẳng ai không sa nước mắt. Tiên chủ dời Chương đến Công An ở
Nam Quận, được đem theo tất cả tài vật cùng ấn thụ Chấn uy tướng quân. Tôn
Quyền giết Quan Vũ, chiếm Kinh Châu, lấy Chương làm Ích châu mục, cho đóng ở Tỉ
Quy. Chương chết, đầu lĩnh vùng Nam Trung là Ung Khải làm phản chiếm giữ quận
Ích châu, nương cậy vào nước Ngô. Quyền lại lấy con của Chương là Xiển làm Ích
châu Thứ sử, là thủ lĩnh vùng biên cảnh xứ Giao-Ích. Thừa tướng Gia Cát Lượng
bình phương Nam, Xiển lại quay về Ngô, làm Ngự sử Trung thừa.
Ngô thư chép: Xiển có một tên là Vĩ, là người rất khiêm cung, khinh
tài trọng nghĩa, có lòng nhân được người đời ca ngợi, sau bị bệnh chết tại nhà.
Khi trước, vợ của Tuần, con trưởng của Chương, là con gái của Bàng
Hi. Tiên chủ bình định Thục, Hi làm Tư mã Tả tướng quân, bấy giờ Chương nghe
theo Hi để Tuần ở lại Ích châu, Tiên chủ lấy Tuần làm Phụng xa Trung lang
tướng. Thế là sau này hai con của Chương, người ở Ngô, kẻ ở Thục.
Bình rằng: Xưa kia Nguỵ Báo nghe lời của Hứa Phụ mà cưới Bạc Cơ về
làm vợ,
Hán Nguỵ Xuân Thu của Khổng Diễn chép: Hứa Phụ, là người ở huyện Ôn
quận Hà Nội, Hán Cao Tổ phong là Minh thư Đình hầu.
Thần Tùng Chi cho rằng ngày nay người ở phương đông gọi mẹ là Phụ,
vì thế Diễn nói rằng Hứa Phụ là người phụ nữ, nói như thế có vẻ phù hợp, nhưng
vào thời Hán Cao Tổ đều phong tước là Liệt hầu(2), chưa có những tước Hương,
Đình(3), nên ngờ rằng việc phong hiệu này chẳng đúng.
Lưu Hâm nhìn thấy hoa văn của sấm đồ mà thay tên đổi tuổi, cuối
cùng thân chẳng thoát hoạ, mà phúc phận thì tập trung vào hai vị quân vương(4).
Thế mới hay thần minh chẳng thể giả dối cầu xin, thiên mệnh chẳng thể mong cầu
bậy bạ được, sự ứng nghiệm là tất nhiên vậy(5). Mà Lưu Yên nghe lời Đổng Phù
quyết chiếm lấy đất Ích châu, nghe theo lời tướng số mà cầu hôn với Ngô thị,
vội vàng chế tạo xe cộ và y phục, mưu đồ trộm cắp thần khí(6), thật là mê muội
quá lắm vậy. Cái tài của Chương chẳng phải cái tài của người hùng, mà chiếm giữ
đất đai thời loạn, khác gì đeo của báu mời quân cường khấu, ấy là lẽ tự nhiên,
bị người khác đoạt lấy, chẳng có gì là bất hạnh vậy.
Trương Phan(7) chép: Lưu Chương ngu dốt nhu nhược mà biết giữ lấy
lời hay, thì chỉ như lũ Tống Tương Công, Từ Yển Vương mà thôi, chưa phải là người
chủ vô đạo vậy. Trương Tùng-Pháp Chính, tuy có nghĩa quân thần mà bất chính,
nhưng xét về danh phận của quan chức, thì tiến chẳng bầy rõ hình thế sự việc,
như Hàn Tung-Lưu Quang (Lưu Tiên) khuyên Lưu Biểu, lui chẳng dứt khoát bỏ
đi(8), như Trần Bình-Hàn Tín(9) rời bỏ Hạng Vũ, mà hai mối lửng lơ, ấy là toan
tính bất trung, tội chỉ dưới Chương mà thôi.
LƯU YÊN TRUYỆN
Lưu Yên tự Quân Lang, người huyện Cánh Lăng(10) quận Giang Hạ,
là hậu duệ Lỗ Cung vương nhà Hán, năm
Nguyên Hoà trung đời Chương Đế dời đến đất phong ở Cánh Lăng, nên mới có một
chi thứ ở đấy. Yên khi còn trẻ ra làm quan ở châu quận, bởi là người trong tông
thất nên được bái làm Trung lang, sau được giao việc tang lễ cúng tế mới bỏ
chức quan.
Thần Tùng Chi xét: Lo việc cúng tế, là quan Tư đồ Chúc Điềm vậy.
Yên ẩn cư ở núi Dương Thành, tích luỹ học vấn dạy dỗ môn đồ, được
cử là Hiền lương phương chính(11), rồi được vời vào phủ Tư đồ, trải qua các
chức Lạc Dương lệnh, Ký châu Thứ sử, Nam dương Thái thú, Tông chánh, Thái
thường(12). Yên thấy chính trị thời Linh Đế suy kém thiếu sót, vương thất có
lắm việc, bèn đưa lời kiến nghị: “Bọn Thứ sử, Thái thú hối lộ để làm quan, bóc
lột làm hại trăm họ, khiến phản loạn triền miên. Nên tuyển chọn những trọng
thần có thanh danh cho làm chức Mục, để trấn an Hoa Hạ.”
Yên ở trong triều cầu lấy chức Mục ở Giao Chỉ, muốn lánh thời loạn
lạc. Việc bàn định còn chưa xong, quan Thị trung ở Quảng Hán là Đổng Phù bảo
riêng với Yên rằng: “Kinh sư sắp loạn, Ích châu sẽ tách riêng ra, nơi ấy có khí
thiên tử vậy.” Yên nghe Phù nói, mới đổi ý muốn tới Ích châu. Gặp lúc Ích châu
Thứ sử là Khước Kiệm làm rối loạn việc thuế khoá, dân tình đồn đại bóng gió xa
xôi, Kiệm, là tổ phụ của Khước Chính vậy. ở Tinh châu Thứ sử Trương Nhất bị
giết, ở Lương châu Thứ sử Cảnh Bỉ bị giết, mưu kế của Yên được thi hành. Yên ra
ngoài làm Giám quân sứ giả, lĩnh Ích châu Thứ sử, được phong là Thành Dương
hầu, Yên liền bắt Kiệm trị tội; Phù lại xin được tới Thục quận ở phía tây làm
Chúc quốc Đô uý, cùng với Thái thương lệnh Ba Tây là Triệu Vỹ đã từ quan, cùng
đi theo Yên.
Sách Tục Hán thư chép: Lúc ấy lấy Lưu Ngu ở U châu, Lưu Yên ở Ích
châu, Lưu Biểu ở Kinh châu, Giả Tông ở Ký châu. Bọn Ngu đều nổi danh là kẻ sỹ
khắp hải nội, hoặc lại tuyển các bậc công khanh, Thượng thư làm chức Mục, đều
có phẩm trật lớn lao. Theo phép cũ: Truyền cho được đi xe vào hầu, được dùng
màn trướng sắc đỏ.
Thần Tùng Chi xét: Sau khi Linh Đế chết, nghĩa quân nổi dậy, Tôn
Kiên giết Thứ sử Kinh châu là Vương Duệ, rồi sau này Lưu Biểu mới làm Kinh châu
mục, chẳng phải là cùng thời với Yên vậy.
Hán Linh Đế kỷ chép: Đế gọi Yên vào hầu, bảo rõ phương lược, lại
ban thưởng thêm cho, rồi sắc mệnh cho Yên làm Ích châu Thứ sử. Vì các Thứ sử
lúc trước là Lưu Tuyển, Khước Kiệm đều tham tàn phóng túng, vơ vét bừa phứa,
trăm họ mất nhờ, tiếng ta thán đầy đồng nội, Yên đến nơi được bắt giữ theo luật
mà xử, rồi vỗ yên muôn dân ở đấy, lại nghiêm cấm tiết lộ các việc, khiến những
ung nhọt ấy vỡ lở ra, lan rộng khắp cả nước. Yên cứ theo mệnh hành sự, khiến
việc đi lại và tin tức bất thông, lại ngăn giữ địa giới với Kinh châu ở phía
Đông.
Sách Ích bộ kỳ cựu truyện của Trần Thọ chép: Đổng Phù tự Mậu An.
Khi còn trẻ theo học ở kinh sư, thông hiểu mấy loại kinh sách, chơi với Âu
Dương Thượng Thư, lại thờ kẻ sỹ ở đất Sính là Dương Hậu, nghiền ngẫm lẽ huyền
diệu của sấm ký. Khi tới kinh sư, đến thăm nhà Thái học, lúc trở về nhà dạy
học, đệ tử từ nơi xa cũng theo đến. Năm Vĩnh Khang nguyên niên, vào ngày có
nhật thực, có chiếu chỉ cho các kẻ sỹ làm Hiền lương Phương chính, sách mệnh
hỏi chuyện được mất. Bọn Triệu Khiêm ở Tả Phùng Dực tiến cử Phù, Phù cáo ốm
không tới, ở mãi Trường An dâng thư về, rồi xưng có bệnh nặng được về nhà. Tể
phủ(13) trước sau cho đòi đến mươi lần, công xa(14) ba lần đến đón, lần nữa
tiến cử làm Hiền lương Phương chính, Bác sỹ, Hữu đạo đều không chịu tới, danh
tiếng lại càng nổi. Đại tướng quân Hà Tiến dâng biểu tiến cử Phù rằng: “Phù có
cái đức của Du-Hạ, tiếp nối phong cách của họ Khổng, tinh thông cái thuật trị
quốc của Tiêu-Đổng(15). Đương lúc Tinh-Lương nhiễu loạn, người Nhung ở phía Tây
nổi lên làm phản, nên sắc mệnh cho công xa đặc cách đến triệu, ban cho lễ đón
tiếp khác thường, để cầu lấy mưu kế lạ”. Vì thế Linh Đế cho triệu Phù, lập tức
bái làm Thị trung. Phù ở triều đình được khen là bậc Nho tông, khi gặp gỡ rất
lấy làm kính trọng. Phù xin ra làm Chúc quốc Đô uý ở Thục quận. Phù đi được một
năm thì Linh Đế băng hà, thiên hạ đại loạn. Về sau Phù từ quan, năm tám mươi
hai tuổi chết tại gia. Ban đầu ngôn từ nghị luận của Phù rất khác thường, có
một không hai ở Ích quận. Bởi thế có biệt hiệu là ‘Chí chỉ’, những lời ấy người
đời chẳng ai bác bỏ được, học vấn ấy chẳng ai theo kịp được. Sau này Thừa tướng
Gia Cát Lượng hỏi Tần Mật về sở trường của Phù, Mật nói: “Đổng Phù có cái hay
là khen cả những điều nhỏ bé, có cái dở là chê những thứ mỏn mọn.”
Bấy giờ bọn nghịch tặc trong Châu là Mã Tương-Triệu Chi ở huyện
Miên Trúc tự xưng là giặc Khăn vàng, tụ họp những dân khốn khổ vì lao dịch,
trong một hai ngày dụ được mấy ngàn người, trước tiên giết chết huyện lệnh Miên
Trúc là Lý Thăng, đám lại dân đều hùa theo, tụ họp đến hơn một vạn người, tiện
đà tiến đánh Lạc huyện, tấn công quận Ích châu giết chết Kiệm,
lại đến tận Thục Quận-Kiện Vi, trong khoảng một tuần(16) phá tan ba
quận. Tương tự xưng là Thiên tử, quân có đến mấy vạn. Viên Tòng sự ở trong châu
là Giả Long (Tố) đốc xuất mấy trăm binh lính ngăn chặn ở phía đông Kiện Vi, thu
gom đám đám lại dân, được hơn ngàn người, đánh lại bọn Tương, có mấy ngày giặc
bỏ chạy, trong châu được yên bình. Long bèn chọn đám lại tốt đến nghênh đón Yên.
Yên dời sở quan đến Miên Trúc, phủ dụ thu nạp những kẻ phản loạn còn ly tán,
thi hành việc khoan dung, ngấm ngầm có âm mưu khác.
Người mẹ của Trương Lỗ mới học được cái đạo của quỷ, lại có chút
dung nhan, vẫn thường qua lại nhà Yên, nên Yên cho Lỗ làm Đốc nghĩa Tư mã, đóng
ở Hán Trung, cắt đứt sạn đạo, giết hại sứ giả của nhà Hán. Yên dâng thư về
triều nói rằng Mễ tặc(17) cắt đứt sạn đạo, việc đi lại không thông, lại mượn cớ
này khác để giết đám cường hào ở trong châu là bọn Vương Hàm- Lý Quyền hơn chục
mạng người, nhằm lập uy tạo phép. Vì thế nên Thái thú Kiện Vi là Nhiệm Kỳ cùng
với Giả Long quay lại đánh Chương, Yên tập kích giết chết Kỳ và Long.
Ích châu kỳ cựu tạp ký chép: Lý Quyền tự Bá Dự, làm trưởng huyện
Lâm Cung(18). Con là Phúc. Chuyện này thấy chép ở biểu văn Phụ thần tán của
người Kiện Vi là Dương Hí(19).
Anh hùng ký chép: Lưu Yên khởi binh, không cùng với thiên hạ đánh
dẹp Đổng Trác, mà giữ lấy Ích châu tự thủ. Thái thú Kiện Vi là Nhiệm Kỳ tự xưng
là tướng quân, cùng với viên Tòng sự là Trần Siêu cất binh đánh Yên, Yên đánh
phá được. Đổng Trác phái quan Tư đồ là Triệu Khiêm dẫn binh tới Ích châu,
thuyết Hiệu uý Giả Long, sai dẫn binh quay lại đánh Yên, Yên tới Thanh Khương
cùng giao chiến, ra sức đánh phá giết được. Kỳ-Long đều là người Thục quận.
Yên có ý thu vén dần dần, cho chế tạo rất nhiều xe kiệu khí cụ của
thiên tử(20). Kinh châu mục Lưu Biểu dâng biểu về triều ngờ rằng Yên có vẻ định
tự lập ở Tây Hà đúng như lời bàn của thánh nhân. Bấy giờ con của Yên là Phạm
làm Tả Trung lang tướng, Đản làm Trì thư Ngự sử, Chương làm Phụng xa Đô uý, đều
đi theo Hiến Đế ở Trường An, chỉ có người con của nàng hầu tên là Mạo làm Biệt
bộ Tư mã đi theo Yên. Hiến Đế sai Chương về thuyết phục Yên, Yên giữ Chương lại
không cho đi nữa.
Anh hùng ký chép: Cha của Phạm là Yên làm Ích châu mục, Đổng Trác
cho đòi, không chịu tới. Trác liền bắt ba anh em Phạm, lấy gông cùm xích lại
giải về My Ổ, giam hết vào trong ngục tối.
Điển lược chép: Lúc ấy Chương làm Phụng xa Đô uý, ở tại kinh sư.
Yên thác rằng có bệnh triệu Chương về, Chương tự dâng biểu xin về thăm hỏi Yên,
Yên bèn giữ Chương lại không cho về kinh nữa.
Khi ấy Chinh Tây tướng quân Mã Đằng làm phản đóng binh ở Mi huyện,
Yên phái Phạm cùng với Đằng kết mưu, dẫn binh tập kích Trường An. Mưu của Phạm
bị tiết lộ, Phạm vội chạy về Hoè Lý, Đằng bại trận, phải lui về Lương Châu,
Phạm bị giết tức thì, Trác lại bắt Đản đem hành hình.
Anh hùng ký chép: Phạm từ Trường An trốn đến doanh trại của Mã
Đằng, lại tới chỗ Yên xin binh. Yên phái Hiệu uý Tôn Triệu dẫn binh đến trợ giúp,
bị đánh bại ở Trường An.
Viên Nghị Lang ở Hà Nam là Bàng Hi cùng với Yên kết thông gia, bèn
xin với Yên cho các cháu vào Thục. Đúng lúc Yên bị lửa trời thiêu rụi cả thành
trì, xe cộ khí cụ hư hỏng hết cả, cháy lan đến cả nhà dân. Yên bèn dời đến đóng
ở Thành Đô, bởi quá đau đớn vì các con, lại cảm khái vì bị vạ lửa, năm Hưng
Bình nguyên niên, phát ung nhọt ở lưng mà chết. Trưởng quan trong châu là Triệu
Vĩ thấy Lưu Chương là người nhân đức ôn hoà, bèn tôn Chương lên làm Ích châu
Thứ sử, lại gửi chiếu thư xin cho Chương làm Giám quân sứ giả, lĩnh chức Ích
châu mục, lấy Vĩ là Chinh đông Trung lang tướng, lĩnh binh đánh Lưu Biểu.
Anh hùng ký chép: Yên chết, con là Chương lên thay làm Thứ sử. Gặp
lúc Trường An(21) phong cho người ở Dĩnh Xuyên là Hỗ Mạo làm Thứ sử(22), vào ở
Hán Trung. Quan Biệt giá ở Kinh châu là Lưu Hạp, cùng phản tướng của Chương là
bọn Thẩm Di, Lâu Phát, Cam Ninh, tập kích Chương nhưng không thắng được, liền
bỏ chạy vào Kinh châu. Chương phái Triệu Vĩ tấn công Kinh châu, đóng quân ở
Cù(23). Cũng vì kẻ ở trên ngu xuẩn, người dưới mới phản phúc vậy
CHÚ THÍCH
(1) Tác giả cuốn sách Tương
Dương kỳ cựu ký, còn gọi là Tương dương ký.
(2) Tước Liệt hầu hầu này là
tước hầu không gắn với tên đất như các tước Đình hầu, Hương hầu, Huyện hầu.
(3) Tức những tước Hương hầu,
Đình hầu. Đây là những tước có gắn với địa danh.
(4) Tức hai vị chúa của Nguỵ
Báo và Lưu Hâm vậy.
(5) Kết cục cuộc đời của Nguỵ
Báo và Lưu Hâm phải xảy ra như thế.
(6) Ý nói Lưu Yên nhòm ngó
ngôi vị đế vương.
(7) Tác giả cuốn sách Hán kỷ.
(8) Ý chê rằng Trương Tùng
Pháp Chính lúc ở bên Chương thì chẳng bầy rõ thế sự, sau lại chẳng đường hoàng
bỏ Chương mà đi như Trần Bình, Hàn Tín bỏ Hạng Vũ theo về Lưu Bang, lại trá
nguỵ làm tay trong cho Lưu Bị mà phản phúc với Chương.
(9) Những tướng tài của Hán
Cao Tổ, trước đều là bộ hạ cũ của Hạng Vũ.
(10) Nay thuộc Thiên Môn, Hà
Bắc.
(11) Người hiền tài đứng đắn.
(12) Tông chính là chức quan
cai quản gia quy của hoàng tộc, Thái thường là chức quan quản việc tế tự, thiên
văn và giáo dục.
(13) Người đứng đầu phủ.
(14) Người đánh xe của quan
phủ.
(15) Tức Tử Du, Tử Hạ, Tiêu
Diên Thọ, Đổng Trọng Thư, đều là những nhân vật Nho đạo nổi tiếng đời Tần Hán.
(16) Một tuần của Trung Quốc
xưa tính bằng 10 ngày.
(17) Tức giặc gạo, còn gọi là
Ngũ đấu mễ. Nguyên đây là một tổ chức tôn giáo do Trương Lăng sáng lập vào thời
Hán mạt. Ai muốn vào tổ chức này đều phải nộp năm đấu gạo làm lệ phí.
(18) Lâm Cung là địa danh một
xứ thuộc Tây Nam tỉnh Tứ Xuyên bây giờ, thuộc đất Thục ngày ấy.
(19) Phụ thần tán là biểu văn
ca tụng công đức của các danh thần Thục Hán do Dương Hí người ở Kiện Vi soạn ra
vào năm Diên Hi thứ tư nhà Thục.
(20) Ý đồ cát cứ xưng vương.
(21) Hán Hiến Đế lúc ấy ở
Trường An với Đổng Trác.
(22) Tức là Thứ sử Ích châu.
(23) Bản gốc khuyết mất một
chữ, nên không rõ địa danh này tên gọi là gì?
QUYỂN 2 – LƯU TIÊN CHỦ
LƯU TIÊN CHỦ TRUYỆN
Tiên Chủ họ Lưu, huý Bị, tự là Huyền Đức, người ở Trác huyện thuộc
Trác quận, vốn là dòng dõi Trung sơn Tĩnh vương Thắng là con của Hán Cảnh Đế.
Con Thắng là Trinh, năm Nguyên Thú(1) thứ sáu được phong làm Lục thành Đình hầu
ở Trác huyện. Một lần dâng rượu tế, bởi vàng sắc xấu nên bị mất tước hầu(2).
Điển lược chép: Lưu Bị vốn là dòng dõi Lâm Ấp hầu.
Tổ phụ(3) của Tiên Chủ là Hùng, cha là Hoằng nối đời làm quan ở
châu quận. Hùng được cử làm Hiếu liêm, làm quan đến chức Lệnh ở huyện Phạm
thuộc Đông Quận. Tiên Chủ mồ côi từ nhỏ, cùng với mẹ đan giầy dệt chiếu đem bán
làm kế sinh nhai. Ở góc đông nam vườn nhà Tiên Chủ có cây dâu cao hơn năm
trượng, xa trông thấy tán sum xuê như cái xe nhỏ, ai đi ngang đều cho là cái
cây ấy quái lạ phi phàm, ngờ rằng nhà này sẽ sinh ra bậc quý nhân.
Hán Tấn Xuân Thu chép: Lí Định, người Trác Quận, nói: “Nhà ấy tất
sẽ sinh bậc quý nhân.”
Thời Tiên Chủ còn nhỏ, cùng chơi đùa với lũ trẻ dưới gốc cây, nói:
“Ta ắt hẳn có ngày phải ngồi lên chiếc xe có lọng thế này”. Người chú nghiêm
mặt bảo rằng: “Mày chớ có nói xằng, kẻo cả họ nhà ta bị diệt đó”. Năm mười lăm
tuổi, được mẹ gửi đi học, cùng với người đồng tông là Lưu Đức Nhiên, và Công
Tôn Toản người Liêu Tây đều thờ cố Thái thú Cửu Giang người cùng quận là Lư
Thực. Cha của Đức Nhiên là Nguyên Khởi thường chu cấp cho Tiên Chủ, cũng như
bọn Đức Nhiên. Vợ của Nguyên Khởi hỏi: “Mỗi nhà mỗi cảnh, sao ta có thể mãi chu
cấp cho nó!” Khởi đáp: “Đứa trẻ ấy có cùng họ với ta, thật là người phi thường
vậy”.
Mà Toản với Tiên Chủ là bạn rất thân thiết. Toản nhiều tuổi hơn,
nên Tiên Chủ coi như anh trai. Tiên Chủ rất không thích đọc sách, chỉ khoái chó
ngựa, hát xướng, quần áo đẹp. Tiên Chủ người cao bảy thước năm tấc, tay dài quá
gối, mắt nhìn được thấy tai. Lại ít nói, mừng giận không lộ ra mặt. Thích giao
kết với kẻ hào kiệt, được nhiều người trẻ tuổi vây quanh.
Bọn đại thương nhân người Trung sơn là Trương Thế Bình-Tô Song gom
được ngàn nén vàng, đi buôn ngựa ở khắp vùng Trác quận, thấy Tiên Chủ khác
thường, bèn giúp cho Tiên Chủ rất nhiều kim ngân tài vật. Nhờ thế Tiên Chủ tập hợp một số quân lính.
Cuối đời Linh đế, quân Khăn vàng nổi dậy, các châu quận đều cất
nghĩa binh. Tiên Chủ dẫn bộ thuộc hạ theo quan Hiệu úy Trâu Tĩnh đánh dẹp giặc Khăn
vàng có công, được thăng làm Uý(4) ở huyện An Hỉ. Điển lược chép: Người ở Bình
nguyên là Lưu Tử Bình biết Lưu Bị là người mạnh bạo lại có uy, bấy giờ Trương
Thuần làm loạn, Thanh Châu bị giáng chiếu chỉ phái quan Tòng sự đưa binh đánh
dẹp Thuần, khi đi qua Bình Nguyên, Tử
Bình tiến cử Bị với quan Tòng sự, Tòng sự bèn cho đi theo, gặp quân giặc ở nơi
cánh đồng, Bị trúng thương suýt chết, sau giặc bỏ đi, nhờ có người dùng xe chở
đi, mới được thoát. Sau vì có công đánh giặc, được làm Uý ở huyện An Hỉ nước
Trung sơn.
Viên quan Đốc bưu nhân việc công đến huyện, Tiên Chủ xin vào yết
kiến, không được, liền xông thẳng vào trói cổ viên Đốc Bưu lại, đánh cho hai
trăm trượng, lại cởi dây thao đỏ(5) buộc vào trước cổ ngựa rồi bỏ quan trốn đi.
Điển lược chép: Sau này triều đình có chiếu thư xuống các châu
quận, rằng những người có quân công được làm trưởng lại, đều bị sa thải. Bị ngờ
rằng mình ở trong đám ấy. Viên Đốc Bưu đến huyện, đương nhiên sẽ phái người gọi
Bị tới, Bị cũng biết việc ấy. Lại nghe tin viên Đốc Bưu nghỉ ở quán dịch, Bị
liền đến xin ra mắt viên Đốc Bưu, Đốc Bưu xưng có bệnh không cho Bị tiếp kiến,
Bị nổi giận, liền quay về sở quan, dẫn bọn lại tốt đi thẳng đến quán dịch, xông
vào tận cửa, nói: “Ta được quan phủ mật sai đến bắt Đốc Bưu.” Rồi tới bên
giường trói viên Đốc Bưu lại, lôi ra khỏi quán dịch, cởi dây thao đỏ ra để trói
cổ viên Đốc Bưu, cột vào gốc cây, đánh cho hơn trăm trượng, dọa giết. Đốc Bưu
phải van xin, Bị bèn phóng thích đuổi đi.
Không lâu sau đó, Đại tướng quân Hà Tiến phái Đô uý Quán Khâu Nghị
đến Đan Dương mộ binh, Tiên Chủ cũng đi cùng, đến Hạ Bi(6) gặp giặc, Bị gắng
sức chiến đấu có công, được phong làm Hạ Mật thừa(7). Rồi lại bỏ chức quan. Sau
được làm chức Uý ở huyện Cao Đường.
Anh hùng ký chép: Năm cuối đời Linh đế, Bị từng ở kinh đô, sau cùng
với Tào Công quay về nước Bái, chiêu mộ tập hợp quần chúng. Khi Linh Đế băng
hà, thiên hạ đại loạn, Bị cũng khởi binh theo đánh Đổng Trác.
Tiên Chủ bị giặc phá ở đó, vội chạy đến chỗ Trung lang tướng Công
Tôn Toản. Toản dâng biểu xin cho làm Biệt bộ Tư mã, sai Tiên Chủ giúp Thứ sử
Thanh Châu là Điền Khải chống cự Ký Châu mục Viên Thiệu. Tiên Chủ mấy lần lập
chiến công, được tạm giữ chức Bình Nguyên lệnh, sau lĩnh chức Bình Nguyên
tướng. Người ở trong quận là Lưu Bình bị Tiên Chủ khinh rẻ, lấy làm hổ thẹn với
người dưới, mới thuê thích khách giết Tiên Chủ. Thích khách không nỡ ra tay,
lại nói cho Tiên Chủ biết rồi bỏ đi. Tiên Chủ được lòng người đến như thế.
Ngụy thư chép: Lưu Bình cấu kết với thích khách để giết Bị, Bị
chẳng hay biết lại đãi thích khách rất hậu, thích khách vì thế kể rõ mọi sự với
Bị rồi bỏ đi. Thời ấy dân chúng gặp năm mất mùa đói kém, tụ tập nhau đi cướp
bóc. Bị bên ngoài phòng ngừa giặc cướp, bên trong rộng rãi giúp đỡ tiền của, từ
binh sĩ tới thủ hạ, đều cho ngồi cùng chiếu, ăn cùng mâm, chẳng phân biệt gì
cả. Bởi thế người theo về rất đông.
Viên Thiệu vây đánh Công Tôn Toản, Tiên Chủ cùng với Điền Khải đóng
quân ở phía đông đất Tề. Tào Công đánh Từ Châu, Từ Châu mục Đào Khiêm sai sứ
đến cáo cấp với Điền Khải, Khải và Tiên Chủ đều tới cứu Khiêm. Bấy giờ Tiên Chủ
có hơn ngàn quân cùng đám quân kỵ tạp nhạp người Ô Hoàn ở U Châu, lại thu nhặt
được mấy ngàn dân đói kém đi kiếm ăn. Khi đến nơi, Khiêm lấy bốn ngàn quân ở
Đan Dương cấp thêm cho Tiên Chủ. Tiên Chủ liền bỏ Khải theo về với Khiêm. Khiêm
dâng biểu lên tiến cử Tiên Chủ làm Thứ sử Dự Châu, đóng ở Tiểu Bái.
Khiêm ốm nặng, bảo với quan Biệt giá là My Trúc rằng: “Phi Lưu Bị
chẳng thể giữ yên được Châu này vậy.” Khiêm chết, Trúc dẫn người trong Châu đi
ngênh đón Tiên Chủ, Tiên Chủ không dám nhận. người ở Hạ Bi là Trần Đăng bảo
Tiên Chủ rằng: “Nay lăng tẩm Hán thất đổ nát, trong ngoài nghiêng ngửa, gây
dựng công lao làm nên sự nghiệp, là ở hôm nay. Từ Châu giàu có, hộ khẩu trăm
vạn, mong rằng sứ quân khuất thân tới cai quản việc trong châu”. Tiên Chủ đáp:
“Viên Công Lộ(8) gần đây ở Thọ Xuân, nhà ông ấy bốn đời có năm người giữ tước
công(9), trong ngoài đều quy phục, ông ấy có thể giúp được châu này.” Đăng nói:
“Công Lộ là vị chúa kiêu căng, chẳng thể làm chủ để dẹp loạn được. Nay sứ quân
gộp cả chục vạn quân mã bộ, trên có thể giúp chúa cứu dân, làm nên cơ nghiệp
của Ngũ bá(10), dưới có thể cắt đất giữ biên cảnh, công lao ghi vào tre lụa.
Nếu như sứ quân chẳng nghe theo, Đăng này cũng không dám nghe lời sứ quân vậy”.
Bắc Hải tướng là Khổng Dung bảo Tiên Chủ rằng: “Công Lộ há lo cho nước mà quên
nhà ru? Nắm xương khô trong mả, sao đáng để ý. Việc hôm nay, trăm họ đều thuận
theo, nếu chẳng chịu nhận, lúc hối cũng chẳng kịp nữa.” Tiên Chủ bèn nắm việc ở
Từ Châu.
Hiến Đế xuân thu chép: Bọn Trần Đăng sai sứ giả đến báo với Viên
Thiệu rằng: “Trời giáng tai ương, hoạ đến bỉ châu, tướng cầm quyền trong châu
mới chết, chúng tôi sợ rằng kẻ gian thần một mai thừa cơ nhòm ngó, để cho minh
chủ phải lo lắng từng ngày, vội cùng nhau tôn cố Bình Nguyên tướng Lưu Bị phủ
quân lên làm tông chủ, khiến cho bách tính biết chỗ mà quy thuận. Giờ đang là
lúc giặc cướp tung hoành, chẳng kịp bẩm báo rõ ràng, nay kính cẩn sai người
dưới tới bẩm báo với ngài Chấp sự(11)”. Thiệu đáp rằng: “Lưu Huyền Đức là bậc
tín nghĩa cao cả, nay Từ Châu tôn người ấy lên làm chủ, thật xứng với lòng mong
mỏi của mọi người”.
Viên Thuật lại đến vây đánh Tiên Chủ, Tiên Chủ dàn quân chống cự ở
Hu Di-Hoài Âm. Tào Công dâng biểu cử Tiên Chủ làm Trấn đông Tướng quân, phong
làm Nghi thành Đình hầu, năm ấy là năm Kiến An thứ nhất. Tiên Chủ cùng với
Thuật cầm giữ nhau hơn một tháng trời, Lã Bố thừa hư tập kích Hạ Bi. Tướng giữ
Hạ Bi là Tào Báo làm phản, mở cửa thành nghênh đón Lã Bố. Bố bắt được vợ con
của Tiên Chủ, Tiên Chủ kéo quân tới Hải Tây.
Anh hùng ký chép: Bị lưu Trương Phi ở lại giữ Hạ Bi, còn mình cầm
binh giao chiến với Viên Thuật ở Thạch Đình xứ Hoài Âm, chưa phân thắng phụ.
Tướng cũ của Đào Khiêm ở Hạ Bi là Tào Báo, Trương Phi muốn giết đi. Báo giữ chặt
quân doanh tự thủ, rồi sai người tới vời Lã Bố. Bố tiến lấy Hạ Bi, Trương Phi
thua trận bỏ chạy. Bị nghe tin ấy, dẫn binh trở về, đi gần đến Hạ Bi, thì quân
nhà đã tan tác. Bị bèn thu nhặt những binh sĩ tản mát kéo về đông lấy Quảng
Lăng, cùng với Viên Thuật giao chiến, lại bị thua.
Dương Phụng-Hàn Tiêm cướp bóc ở khoảng giữa Từ-Dương(12), Tiên Chủ
đón đánh, chém được cả. Tiên Chủ xin hòa với Lã Bố, Bố trả lại vợ con cho Tiên
Chủ. Tiên Chủ bèn sai Quan Vũ giữ Hạ Bi.
Tiên Chủ trở về Tiểu Bái, lại tập hợp được hơn vạn binh lính. Lã Bố
lo sợ, thân dẫn quân đến đánh Tiên Chủ, Tiên Chủ thua trận chạy tới hàng Tào
Công.
Anh hùng ký chép: Quân của Bị ở Quảng Lăng, đói khổ khốn quẫn, quan
lại lớn nhỏ hết sạch lương ăn, bị cái đói bức bách đến cùng cực, muốn kéo về
Tiểu Bái, bèn sai người đến xin hàng Lã Bố. Bố lệnh cho Bị quay về Từ Châu, hợp
sức đánh Thuật. Lại gọi Thứ sử Xa Mã Đồng đến, sai đem vợ con Bị cùng bộ khúc
và gia thuộc tới trả ở bờ sông Tứ, rồi bảo rõ cho Bị biết.
Ngụy thư chép: Chư tướng bảo với Bố rằng: “Bị đã mấy lần phản phúc
khó dung, nên sớm liệu đi”. Bố không nghe, lại nói riêng cho Bị biết. Bị trong
lòng bất an bèn tìm cớ thoát thân, sai người đến thuyết Bố, xin đóng quân ở
Tiểu Bái, Bố liền phái Bị tới đó.
Tào Công đãi ngộ Tiên Chủ rất tử tế, cho làm Dự Châu mục. Rồi phái
tới Tiểu Bái thu nhặt sĩ tốt tản mát, cấp lương cho quân lính, lại giúp thêm
binh lính sai đánh Bố ở phía Đông. Lã Bố phái Cao Thuận đến đánh Tiên Chủ, Tào
Công sai Hạ Hầu Đôn đến cứu, không cứu nổi, bị Thuận đánh tan ở đó, lại bắt
được vợ con Lưu Bị đưa đến chỗ Bố. Tào Công thân xuất quân đông chinh, giúp
Tiên Chủ vây Bố ở Hạ Bi, bắt sống được Bố.
Anh hùng ký chép: Năm Kiến An thứ ba, mùa xuân, Bố sai người mang
vàng bạc đến Hà Nội mua ngựa, nhưng bị lính của Bị cướp đi. Vì thế Bố mới sai
bọn Trung lang tướng Cao Thuận-Bắc địa Thái thú Trương Liêu vây đánh Bị. Tháng
chín, phá được Bái thành, Bị đơn thân trốn chạy, bỏ cả vợ con. Tháng mười, Tào
Công thân đến đánh Lã Bố, Bị tương ngộ Tào Công ở địa giới nước Lương, rồi theo
Công cùng đông chinh.
Tiên Chủ lấy lại được vợ con, rồi theo Tào công về đất Hứa. Công
dâng biểu tiến cử Tiên Chủ làm Tả tướng quân, lễ nghĩa càng trọng hơn, ra ngoài
thì cùng xe, ngồi thì cùng chiếu. Viên Thuật muốn vượt Kinh Châu về bắc tới chỗ
Viên Thiệu, Tào Công phái Tiên Chủ đốc xuất Chu Linh-Lộ Chiêu đón đánh Thuật.
Chưa đến nơi, Thuật đã bị bệnh chết.
Lúc Tiên Chủ chưa đi, cậu của Hiến Đế là Xa kỵ tướng quân Đổng
Thừa, Thần Tùng Chi xét: Đổng Thừa, là cháu Đổng Thái hậu mẹ của Hán Linh Đế,
Hiến Đế gọi là Trượng Nhân(13). Từ xưa không có danh tự Trương Nhân, nên gọi là
cậu vậy.
nhận cái đai áo của Đế bên trong có mật chiếu, chịu gánh vác việc
tru diệt Tào Công. Tiên Chủ còn chưa khởi hành. Lúc ấy Tào Công thung dung bảo
Tiên Chủ rằng: “Ngày nay anh hùng trong thiên hạ, chỉ có sứ quân và Tháo này
vậy. Lũ Bản Sơ(14) chẳng đáng kể đến.” Tiên Chủ đang ăn, đánh rơi cả thìa đũa. Hoa
Dương quốc chí chép rằng: Ngay lúc bấy giờ có tiếng sấm nổ vang, Bị nhân đó bảo
Tháo rằng: “Thánh nhân đã nói ‘sét gầm gió thét hẳn phải biến sắc’, tin rằng là
vậy. Một tiếng sấm ra uy, mà có thể đến thế!”
Tiên Chủ cùng với bọn Trường thuỷ Hiệu úy Chủng Tập-Tướng quân Ngô
Tử Lan-Vương Tử Phục cùng bàn mưu. Mới hội họp, còn chưa thi hành. Việc bị phát
giác, bọn Thừa đều bị tru diệt.
Hiến Đế khởi cư trú chép: Mưu kế của bọn Thừa cùng với Bị còn chưa
thi hành, thì Bị được ra ngoài. Thừa bảo Phục rằng: “Quách Đa có mấy trăm quân
binh, chịu thua Lý Thôi(15) có mấy vạn người, chỉ có túc hạ với ta thôi chẳng
như thế! Xưa dưới cửa nhà Lã Bất Vi, Tử Sở(16) được đối xử rất hậu, nay ta và
túc hạ cũng vậy.” Phục nói: “Tôi sợ hãi chẳng dám nhận, vả lại binh của ta ít
quá.” Thừa nói: “Cử sự xong, thu được hết binh của Tào Công, xem thế chẳng đủ
ru?” Phục nói: “Nay ở kinh sư há có ai tin chúng ta?” Thừa nói: “Trường thuỷ
Hiệu uý Chủng Tập, Nghị lang Ngô Thạc có lòng cùng mưu việc với ta.” Bèn cùng
sắp đặt kế sách.
Tiên Chủ giữ Hạ Bì, Bọn Linh trở về, Tiên Chủ bèn giết Thứ sử Từ
Châu Xa Trụ, để Quan Vũ trấn thủ Hạ Bi, còn mình thân về Tiểu Bái.
Ngô lục của Hồ Xung chép: Tào Công mấy lần phái người thân cận ngầm
dò xét chư tướng và tân khách đến ăn uống, muốn nhân việc đó hại Bị. Bấy giờ Bị
đóng cửa, cùng người nhà trồng rau cải, Tào Công sai người chọc lỗ cửa dòm ngó.
Đã quyết bỏ đi, Bị bảo với Trương Phi-Quan Vũ rằng: “Sao ta phải giả vờ trồng
rau vậy? Hẳn là vì Tào Công đã có ý ngờ ta, ta chẳng thể ở lại được.” Trong đêm
ấy xé hàng rào ở phía sau, cùng với bọn Phi lên ngựa bỏ đi, những y phục được
ban cho, đều gói ghém để lại cả, rồi đến Tiểu Bái thu nhặt tập hợp binh lính.
Thần Tùng Chi xét: Nguỵ Vũ Đế sai Tiên Chủ thống lĩnh chư tướng đón
đánh Viên Thuật, Bọn Quách Gia đều can gián, việc ấy là hiển nhiên, chẳng phải
nhân việc trồng rau mà trốn tránh bỏ đi. Lời Xung nói ra như thế, sao lại trái
lẽ đến quái quỷ như vậy được!
Xương Bá ở Đông Hải làm phản, nhiều quận huyện vì Tiên Chủ phản lại
Tào Công, đông tới mấy vạn người, Bị sai Tôn Càn hứa với Viên Thiệu cùng liên
hoà, Tào Công sai Lưu Đại-Vương Trung đánh Bị, không thắng nổi. Năm thứ năm,
Tào Công đông chinh đánh Tiên Chủ, Tiên Chủ thua trận. Tào Công thu thập được hết binh lính, lại bắt
được vợ con Tiên Chủ, bắt giữ được cả Quan Vũ đem về.
Nguỵ thư chép: Bấy giờ, Công đương có việc gấp ở Quan Độ, bèn chia
binh để chư tướng đóng ở Quan Độ, tự mình dẫn tinh binh đi đánh Bị. Bị lúc
trước cho rằng Công cùng với đại địch đối trận, chẳng sang đông được, mà sau
quân kỵ tới, nói Tào Công thân đến. Bị kinh hoảng, nhưng còn chưa tin. Bèn thân
dẫn mấy chục quân kỵ ra xem quân lính của Công, nhìn thấy cở chỉ huy, vội bỏ cả
quân sĩ mà chạy.
Tiên Chủ chạy đến Thanh Châu. Thứ sử Thanh Châu là Viên Đàm, trước
đây được Tiên Chủ tiến cử làm Mậu tài, dẫn quân bộ kỵ đến nghênh đón Tiên Chủ.
Tiên Chủ theo Đàm đến Bình Nguyên, Đàm vội sai sứ đến bạch với Thiệu. Thiệu
phái tướng sĩ các lộ quân đến đón, lại thân ra khỏi Nghiệp Thành hai mươi dặm,
cùng với Tiên Chủ tương kiến.
Nguỵ thư chép: Bị về với Thiệu, cha con Thiệu dốc lòng cung kính
trọng vọng.
Lưu lại đó hơn một tháng, số ít sĩ tốt thất lạc quanh đó lại kéo
tới. Tào Công cùng với Viên Thiệu kình chống nhau ở Quan Độ, bọn Lưu Tích là
giặc Khăn vàng ở Nhữ Nam phản Tào Công hưởng ứng Thiệu. Thiệu sai Tiên Chủ dẫn
binh cùng với bọn Tích cướp bóc ở đất Hứa. Quan Vũ trốn đi tìm Tiên Chủ. Tào
Công sai Tào Nhân dẫn binh đánh Tiên Chủ, Tiên chủ lại về bên quân Thiệu, lại
ngầm có ý rời bỏ Thiệu, bèn thuyết Thiệu liên kết với Kinh Châu mục Lưu Biểu ở
phía Nam. Thiệu sai Tiên Chủ dẫn số binh lúc trước đến Nhữ Nam, hội họp cùng
với bọn giặc là Cung Đô, binh chúng đông đến mấy ngàn người. Tào Công sai Thái
Dương đánh Bị, Thái Dương bị Tiên Chủ giết chết ở đó.
Tào Công phá xong Viên Thiệu, từ phía Nam tấn công Tiên Chủ. Tiên
Chủ sai Mi Trúc-Tôn Càn tới báo tin với Lưu Biểu, Biểu thân ra ngoài thành đón
tiếp, lấy lễ thượng tân đối đãi Tiên Chủ, giúp thêm binh lính, sai đóng quân ở
Tân Dã. Hào kiệt ở Kinh Châu theo về với Tiên Chủ ngày một đông, Biểu có lòng
nghi kỵ, ngầm kiềm chế Tiên Chủ.
Sách Cửu Châu xuân thu chép: Bị ở Kinh Châu mấy năm, có lần ngồi dự
tiệc ở chỗ Biểu, lúc đứng lên đi ra nhà xí, thấy thịt bắp vế mập ra, thì bùi ngùi
chảy nước mắt. Khi về chỗ ngồi, Biểu lấy làm lạ hỏi Bị, Bị đáp: “Tôi thân
thường chẳng rời yên ngựa, thịt ở bắp vế đều tiêu đi. Nay chẳng ngồi trên ngựa
nữa, bắp vế lại mập ra. Ngày tháng trôi qua, già lão đến nơi rồi, mà chẳng làm
nên công trạng gì, bởi thế nên thương cảm vậy.”
Thế Ngữ chép: Bị đóng ở Phàn Thành, Lưu Biểu muốn hành lễ, sợ những
người ở bên mình, chẳng ai tin dùng được. Bèn mời Bị đến hội yến, Khoái
Việt-Sái Mạo muốn nhân lúc hội họp bắt giữ Bị, Bị phát giác được việc ấy, giả
vờ ra nhà xí, rồi ngầm trốn đi. Con ngựa của Bị có tên là Đích Lư, Bị cưỡi ngựa
Đích Lư đi trốn, bị rơi xuống khe Đàn Khê ở phía tây thành Tương Dương, ngựa
chìm xuống không thoát lên bờ được. Bị nóng nảy mà rằng: “Đích Lư: Hôm nay nguy
khốn lắm rồi, hãy cố sức lên!” Đích Lư bèn hết sức nhảy vọt lên cao ba trượng,
vượt được qua khe, bơi sang bờ bên kia, quân đuổi theo đến bờ khe, lấy ý của
Biểu tạ Bị, rằng: “Sao vội bỏ đi vậy!”
Tôn Thịnh chép: Chẳng thể như lời ấy được. Bấy giờ Bị là khách ở
nhờ, cái thế khách chủ khác nhau, nếu có biến như thế, há được vô sự cho đến
trọn đời Biểu mà chẳng có lúc mắc tội hay sao? Thế đều là lời nói xằng của
người đời, chẳng phải là sự thật vậy.
Biểu sai Bị chống cự bọn Hạ Hầu Đôn-Vu Cấm ở Bác Vọng. Được ít lâu,
Tiên Chủ đặt phục binh, một sớm tự đốt bỏ quân doanh vờ trốn chạy, bọn Đôn đuổi
theo, bị phục binh của Bị đánh tan ở đấy.
Năm thứ mười hai, Tào Công bắc chinh Ô Hoàn, Tiên Chủ khuyên Biểu
tập kích Hứa Xương, Biểu không dùng kế ấy.
Hán Tấn xuân thu chép: Tào Công từ Liễu Thành trở về, Biểu bảo
Bị rằng: “Tô chẳng theo lời ngài, nên bỏ
lỡ mất cơ hội lớn ấy.” Bị đáp: “Nay thiên hạ chia lìa, việc binh đao diễn ra
hàng ngày, cơ hội sẽ lại tới, há đã hết được hay sao? Nếu sau này biết ứng phó,
tất việc ấy chưa đủ để tiếc hận vậy.”
Tào Công nam chinh Biểu, gặp lúc Biểu chết, con là Tông lên thay,
sai sứ đến xin hàng.
Anh hùng ký chép: Biểu ốm, Bị lên lĩnh chức Thứ sử Kinh Châu.
Nguỵ thư chép: Biểu ốm nặng, phó thác việc nước cho Bị, nhìn Bị nói
rằng: “Con ta bất tài, mà chư tướng mỗi người một ý, sau khi ta chết, khanh hãy
thay ta nắm lấy Kinh Châu.” Bị thưa: “Các cháu đều là bậc hiền tài, chủ công cứ
yên lòng dưỡng bệnh.” Có người khuyên Bị nên theo lời Biểu, Bị nói: “Người ấy
hậu đãi ta, nay theo lời ấy, người ta hẳn cho tôi là kẻ bạc bẽo, tôi chẳng nhẫn
tâm được vậy.”
Thần Tùng Chi cho rằng vợ chồng Biểu vốn yêu Tông, bỏ con đích lập
con thứ, ý định đã có từ lâu, không duyên cớ gì lúc lâm chung lại trao Kinh
Châu cho Bị, lời như thế cũng là chẳng đúng.
Tiên Chủ đóng ở Phàn Thành, không hay biết binh Tào Công tới, lúc
nghe tin quân đã đến Uyển Thành, bèn dẫn binh sĩ ở đấy bỏ đi. Qua Tương Dương,
Gia Cát Lượng khuyên Tiên Chủ đánh Tông, Kinh Châu có thể lấy được. Tiên Chủ
nói: “Ta chẳng nhẫn tâm làm vậy.”
Sách Hán Nguỵ xuân thu của Khổng Diễn chép: Lưu Tông xin hàng,
không dám báo tin cho Bị. Bị cũng không biết, mãi sau mới phát giác ra, sai
người đến căn vặn Tông. Tông sai Tống Trung đến chỗ Bị tuyên chỉ. Bấy giờ Tào Công ở Uyển Thành, Bị giật mình kinh
hoảng, bảo Trung rằng: “Mấy người bọn khanh làm việc như thế, chẳng sớm nói ra,
nay hoạ đến nơi mới bảo ta, chẳng quá lắm ư!” Rồi rút đao trỏ vào Trung bảo:
“Nay ta chém đầu khanh, chẳng đủ để tan mối hận, cũng lấy làm hổ thẹn là bậc
đại trượng phu mà đến lúc sắp chia ly lại giết bọn khanh!” Bèn sai đuổi Trung
đi, rồi gọi bộ khúc đến họp bàn. Có người khuyên Bị đoạt lấy binh tướng của
Tông cùng quan lại ở Kinh Châu rồi theo lối tắt đi về Nam đến Giang Lăng, Bị
đáp rằng: “Lưu Kinh Châu lúc sắp mất phó thác con côi cho ta, nếu bội tín tự
lên làm chúa, ta quyết chẳng làm, lúc chết đi sao dám đối mặt với Lưu Kinh Châu
đây!”
Rồi gióng ngựa đến gọi Tông, Tông sợ không dám ra. Tả hữu của Tông
cùng với rất nhiều người ở Kinh Châu theo đi với Tiên Chủ.
Điển lược chép: Bị đi qua vào tạ nơi mộ của Biểu, rồi rỏ nước mắt
mà đi.
Đi gần đến Tương Dương, dân chúng kéo theo hơn chục vạn người, xe
chở đồ nặng mấy ngàn chiếc, mỗi ngày đi được hơn chục dặm đường, Tiên Chủ liền
biệt phái Quan Vũ lĩnh mấy trăm thuyền bè, hẹn gặp nhau ở Giang Lăng. Có người
bảo Tiên Chủ rằng: “Nên gấp rút tới giữ Giang Lăng, nay dẫu ta có nhiều người
ủng hộ, nhưng binh sĩ mặc giáp ít ỏi, nếu binh của Tào Công đến, sao cự nổi
đây?” Tiên Chủ đáp: “Kẻ chúa tể làm nên đại sự hẳn phải lấy dân làm gốc, nay
mọi người đi theo, sao ta nỡ bỏ đi được!”
Tập Tạc Xỉ chép: Tiên Chủ tuy điên đảo gian nan mà tín nghĩa càng
sáng tỏ, tình thế bức bách hành sự hung hiểm mà lời nói chẳng lỗi đạo. Nhớ ân
nghĩa của Cảnh Thăng, cái tình cảm động ba quân; mến yêu nghĩa khí của kẻ sĩ,
mà cam lòng cùng chịu thất bại. Xét cái nguyên nhân thu được lòng người, há chỉ
vì đồng cam cộng khổ với quân dân, vỗ về người già yếu mà thôi đâu! Sau này làm
nên đại nghiệp, chẳng phải là lý đương nhiên sao!
Tào Công thấy Giang Lăng là nơi lắm quân lương, sợ Tiên Chủ chiếm
được, bèn cho bỏ các xe chở đồ nặng, đem quân nhẹ đến Tương Dương. Nghe tin
Tiên Chủ đã đi qua, Tào Công dẫn năm nghìn quân khinh kỵ gấp rút đuổi theo, một
ngày một đêm đi được hơn ba trăm dặm, đuổi kịp ở Đương Dương Trường Bản. Tiên
Chủ bỏ cả vợ con, cùng với bọn Gia Cát Lượng-Trương Phi-Triệu Vân và mấy chục
quân kỵ bỏ trốn, Tào Công bắt được vô số quân lính và các xe chở đồ. Tiên Chủ
vội chạy rẽ sang Hán Tân, vừa hay gặp được chiến thuyền của Quan Vũ, qua được sông
Miện, hội với con trưởng của Biểu là Kỳ làm Thái thú Giang Hạ nắm hơn vạn quân
lính, rồi cùng nhau đến Hạ Khẩu. Tiên chủ phái Gia Cát Lượng thân đến giao kết
với Tôn Quyền.
Giang Biểu truyện chép: Tôn Quyền phái Lỗ Túc đến viếng tang Lưu
Biểu, lại yêu cầu kết giao với Bị. Túc chưa đến nơi mà Tào Công đã qua bến Hán
Tân. Túc cố tiến về phía trước, gặp được với Bị ở Đương Dương. Nhân đó truyền
đạt ý chỉ của Quyền, rồi bàn luận chuyện thiên hạ, tình ý hết sức ân cần. Lại
hỏi Bị rằng: “Nay Dự Châu muốn tới nơi nào?” Bị đáp: “Ta cùng với Thái thú
Thương Ngô là Ngô Thần (Ngô Cự) là chỗ quen biết cũ, muốn qua đó nương nhờ.”
Túc nói: “Tôn Thảo Lỗ(17) là người thông minh nhân ái, yêu kính hiền tài giữ lễ
với kẻ sĩ, những bậc anh hào ở Giang Biểu(18) đều quy phục cả, đã nắm giữ sáu
quận, binh mạnh lương nhiều, đủ để lập đại sự.
Nay như mưu tính của tướng quân, chẳng bằng sai kẻ tâm phúc đi sứ
giao kết với phương đông, kết tình hoà hảo, cùng giúp đời dựng nghiệp, còn nói
rằng muốn đến nương nhờ Ngô Thần (Ngô Cự), thì Thần chỉ là kẻ tầm thường, lại ở
tít tận quận xa xôi, làm tướng cho người ta ở đất ấy, há đủ để ký thác hay
sao?” Bị mừng lắm, lúc tiến đến huyện Ngạc, lập tức phái Gia Cát Lượng đi theo
Túc đến chỗ Tôn Quyền, thề ước kết làm đồng minh.
Quyền phái bọn Chu Du-Trình Phổ cầm ba vạn quân thuỷ, cùng với Tiên
Chủ hợp sức. Giang Biểu truyện chép: Bị theo kế của Lỗ Túc, tiến đến giữ Phàn
Khẩu ở huyện Ngạc. Gia Cát Lượng đến đất Ngô chưa về, Bị nghe tin quân của Tào
Công tiến xuống, rất sợ hãi, hàng ngày phái quân tuần tiễu trên sông dò ngóng
tin tức quân của Quyền. Quân lính trông thấy thuyền của Du, vội đến bẩm với Bị,
Bị nói: “Sao biết rằng đấy chẳng phải là quân Thanh Từ(19)?” Quân lính thưa
rằng: “Nhìn thuyền mà biết được vậy.” Bị sai người đến uý lạo Du. Du nói:
“Tướng quân đã tin tôi, chẳng thể uỷ thác cho người khác đến được, hoặc giả có
thể chịu bỏ cái uy mà tới, tôi thành thực mong được gặp gỡ.” Bị bảo Quan
Vũ-Trương Phi rằng: “Bên kia muốn ta thân tới đó, nay ta liên kết với Đông Ngô
mà chẳng chịu qua đó, không phải với tình đồng minh vậy.” Bèn cưỡi một chiếc
thuyền lớn đến diện kiến Du, hỏi rằng: “Nay ngài chống cự Tào Công, có kế sách
gì hay chăng. Quân sĩ chiến đấu có được bao nhiêu?” Du nói: “Ba vạn người.” Bị
nói: “Tiếc là hơi ít.” Du nói: “Thế là đủ dùng, Dự Châu hãy chờ xem Du phá Tào
Công.” Bị muốn gọi Lỗ Túc đến để cùng bàn bạc, Du nói: “Tôi vâng mệnh phá giặc
chẳng dám nói bừa, nhược bằng muốn gặp Tử Kính, nên để khi khác. Túc cùng với
Khổng Minh đều ở phía sau, chừng đôi ba ngày nữa sẽ tới đây.” Bị dẫu rất thẹn
với Du, mà trong lòng không tin rằng Du có thể phá được quân bắc, nên sai sắp
đặt các việc về sau, đem hai nghìn quân chia đều cho Vũ-Phi, không bằng lòng
trao cả cho Du, để tính bề tiến thủ.
Tôn Thịnh chép: Lưu Bị là kẻ hùng tài, đất đai mất cả hẳn phải đắn
đo, đã cáo cấp với Ngô, chạy đến cầu giúp đỡ, không duyên cớ gì đã mong ngóng
nơi bãi Trường Giang mà lại toan tính chuyện về sau. Lời Giang biểu truyện nói,
đương thời chỉ là những lời duy mĩ của người Ngô đấy thôi.
Liên quân cùng với Tào Công đánh nhau ở Xích Bích, đại phá quân ấy,
đốt hết thuyền chiến. Tiên Chủ cùng với quân Ngô thuỷ lục cùng tiến, đuổi đến
tận Nam Quận, bấy giờ lại có bệnh dịch, quân bắc chết rất nhiều, Tào Công dẫn
quân trở về.
Giang biểu truyện chép: Chu Du làm Thái thú Nam Quận, chia đất ở
Nam Ngạn cho Bị. Bị lập quân doanh ở Du Giang Khẩu, đổi tên thành Công An. Quan
lại tướng sĩ của Lưu Biểu từng theo quân bắc, đa phần làm phản về hàng Bị. Bị
thấy Du cấp cho mình quá ít đất đai, chẳng đủ để an dân, về sau mới tòng quyền
mượn mấy quận Kinh Châu.
Tiên Chủ dâng biểu xin cho Kỳ làm Thứ sử Kinh Châu, lại nam chinh
bốn quận. Thái thú Vũ Lăng là Kim Toàn, Thái thú Trường Sa là Hàn Huyền, Thái
thú Quế Dương là Triệu Phạm, Thái thú Linh Lăng là Lưu Độ đều quy hàng.
Tam Phụ quyết lục chú chép: Kim Toàn tự Nguyên Ky, người ở Kinh
Triệu, đã từng làm Hoàng môn Thị Lang, Thái thú Hán Dương, được bái làm Nghị
Lang, thăng chức Trung lang tướng, lĩnh chức Thái thú Vũ Lăng, vì bị Lưu Bị
đánh cướp ở đấy, chết. Con là Y, việc này thấy chép ở Nguỵ Vũ bản kỷ.
Người ở Lư Giang là Lôi Tự dẫn bộ khúc mấy vạn nhân khẩu đến hàng.
Kỳ bị bệnh chết, những người dưới suy tôn Tiên Chủ lên làm Kinh Châu mục, dinh
sở đóng ở Công An. Quyền có chút uý kỵ về việc ấy, mới tiến dâng em gái mình
cho Bị để giữ tình hoà hiếu. Tiên Chủ đến kinh sư(20) diện kiến Quyền, hai bên
thắt chặt ân tình.
Sơn Dương công tái ký chép: Bị lúc trở về, bảo với tả hữu rằng:
“Tôn Xa kỵ lưng dài chân ngắn, người ấy khó để kẻ dưới thuyết phục, ta chẳng
thể gặp lại được.” Bèn bỏ chạy suốt ngày đêm.
Thần Tùng Chi xét: Nguỵ thư chép lại những lời Lưu Bị nói với Tôn
Quyền, cùng với Thục chí thuật truyện Gia Cát Lượng nói với Tôn Quyền giống
nhau. Lưu Bị khi trước chưa phá được quân Nguỵ, còn chưa cùng với Tôn Quyền
tương kiến, chẳng đúng như lời nói ấy. Cho nên biết Thục chí nói đúng.
Quyền sai sứ đến bàn rằng muốn được chung sức cùng vào lấy đất
Thục, có người cho rằng nên nghe ngóng tin tức ở huyện Hứa, Ngô rút cục chẳng
thể vượt Kinh Châu để lấy Thục được, xứ Thục có thể tự bảo vệ. Quan chủ bộ ở
Kinh Châu là Ân Quan tiến lên nói rằng: “Nếu bị Ngô tiến đánh, tiến chưa thể
thắng được Thục, lui bị quân Ngô thừa cơ lấn, mọi việc sẽ hỏng mất. Nay chỉ nên
tán thành việc đánh Thục, nhưng nói rằng các quận ta mới lấy được, chưa thể
vọng động, Ngô hẳn không dám vượt qua ta một mình vào lấy Thục. Cái kế tiến lui
như thế, có thể giữ được lợi ích của cả Ngô và Thục.” Tiên Chủ theo lời ấy,
Quyền quả nhiên bỏ kế hoạch ấy. Tiên chủ thăng Ân Quan lên làm Biệt giá Tòng
sự.
Hiến Đế xuân thu chép: Tôn Quyền muốn cùng với Bị chung sức lấy
Thục, sai sứ đến bảo Bị rằng: “Mễ tặc(21) Trương Lỗ chiếm cứ đất Ba-Hán xưng
vương, là tai mắt của Tào Tháo, mưu toan dòm dỏ Ích Châu. Lưu Chương không có
uy vũ, chẳng thể tự giữ. Nếu Tháo lấy được Thục, ắt Kinh châu sẽ nguy ngập vậy.
Nay ta muốn đánh Chương trước, rồi tiến lên dẹp Trương Lỗ, đầu đuôi nối liền
với nhau, nhất thống Ngô-Sở, dẫu có mười Tào Tháo, cũng không cần phải lo lắng
vậy.” Bị muốn tự mình lấy Thục, cự tuyệt không nghe theo, nói rằng: “Ích Châu
nhân dân giầu mạnh, đất đai hiểm trở, Lưu Chương dẫu yếu nhược, cũng đủ giữ
mình. Trương Lỗ là kẻ xảo trá, chưa hẳn đã tận tâm với Tháo. Nay vội vã đưa
quân vào Thục-Hán, chuyển quân lương ngàn dặm, mà muốn thu được toàn công, lấy
được chẳng gặp điều bất lợi, chắc Ngô Khởi cũng chẳng thể vạch nổi quy mô, Tôn
Vũ cũng chẳng thể khéo léo mà làm được. Tào Tháo dẫu trong bụng không có chúa
nữa, nhưng lại có danh nghĩa vâng mệnh bậc quân vương, đừng nên bàn rằng Tháo
bị thất lợi ở Xích Bích, mà bảo rằng lực đã khuất, không còn có chí xa xôi nữa.
Nay thiên hạ chia ba Tháo đã có hai phần, vẫn muốn cho ngựa uống nước Thương
Hải, xem binh ở Ngô Hội, sao chịu bằng lòng ngồi đợi lên lão ư? Nay đã là đồng
minh lại vơ cớ công phạt lẫn nhau, giúp không cho Tào Tháo, khiến địch được thể
nhòm ngó, chẳng phải là cái kế lâu dài vậy.” Quyền không chịu, sai Tôn Du đốc
xuất thuỷ quân đóng ở Hạ Khẩu. Bị không chờ quân ấy đến, bảo Du rằng: “Ngươi
muốn lấy Thục, ta sẽ cắt tóc đi vào ở trong núi, chẳng chịu thất tín với thiên
hạ vậy.” Rồi sai Quan Vũ đóng binh ở Giang Lăng, Trương Phi đóng quân ở Tỷ Quy,
Gia Cát Lượng giữ Nam Quận, Bị thân ở Sàn Lăng. Quyền biết ý của Bị, nên cho
triệu Du trở về.
Năm thứ mười sáu, Ích Châu mục Lưu Chương ở nơi xa nghe tin Tào
Công sai tướng là bọn Chung Do nhằm hướng Hán Trung đánh dẹp Trương Lỗ, trong
lòng lấy làm kinh sợ. Quan Biệt giá Tòng sự Thục Quận là Trương Tùng thuyết
Chương rằng: “Tào Công binh khoẻ vô địch trong thiên hạ, nếu nhân việc Trương
Lỗ mà đánh lấy đất Thục, ai có thể ngăn được đây?” Chương nói: “Việc này ta đã
nghĩ lâu rồi mà vẫn chưa có kế sách gì.” Tùng nói: “Lưu Dự Châu, sứ quân là
người trong tông thất lại có mối thâm thù với Tào Công, khéo việc dùng binh,
nếu sai đi đánh dẹp Lỗ, Lỗ tất bị đánh tan.
Lỗ đã bị phá, thì Ích Châu sẽ mạnh lên, Tào Công dẫu có đến, cũng
chẳng thể làm gì.” Chương ưng theo, sai Pháp Chính dẫn bốn ngàn người đi nghênh đón Tiên Chủ, đem số của cải làm quà
trước sau kể đến ức vạn. Chính nhân đó bày tỏ kế sách rằng Ích Châu có thể lấy
được.
Ngô thư chép: Bị trước đó gặp Trương Tùng, sau gặp Pháp Chính, đều
có hậu ý thu nhận lấy, hết sức hoan hỉ ân cần. Nhân đó hỏi xem Thục trung rộng hẹp thế nào, binh khí trong khủ phố và
nhân mã đông ít ra sao, cùng những nơi trọng yếu đường đất xa gần, bọn Tùng đều
nói rành mạch cả, lại vẽ hết địa đồ sông núi ở xứ đó, bởi thế Bị biết được
tường tận tình hình ở Ích Châu.
Tiên Chủ lưu Gia Cát Lượng và bọn Quan Vũ giữ Kinh Châu, dẫn mấy
vạn bộ tốt vào Ích Châu. Đến Phù thành, Chương thân tới nghênh đón, hai bên gặp
nhau rất lấy làm hoan hỉ. Trương Tùng lệnh cho Pháp Chính thưa với Tiên Chủ,
cùng với mưu thần Bàng Thống đưa lời khuyên Bị rằng, tiện dịp gặp gỡ nên tập
kích Chương. Tiên Chủ nói: “Đấy là việc lớn, chẳng nên vội vàng.” Chương cử
Tiên Chủ làm Hành Đại tư mã(22), lĩnh chức Tư lệ Hiệu uý; Tiên Chủ cũng tiến cử
Chương làm Hành Trấn tây Đại tướng quân, lĩnh chức Ích Châu mục. Chương cấp
thêm binh cho Tiên Chủ, sai đánh Chương Lỗ, lại mệnh cho làm Đốc quân ở Bạch
Thuỷ. Tiên Chủ hợp quân được hơn ba vạn người, xe cộ áo giáp khí giới của cải
rất nhiều. Năm ấy, Chương trở về Thành Đô. Tiên Chủ lên Bắc đến Hà Manh, chưa
đánh Trương Lỗ ngay, lo vun trồng ân đức, để thu lấy nhân tâm.
Năm sau, Tào Công đi đánh Tôn Quyền, Quyền gọi Tiên Chủ đến cứu.
Tiên Chủ sai sứ báo với Lưu Chương rằng: “Tào Công đánh Ngô, sợ Ngô nguy cấp.
Họ Tôn với Cô vốn là quan hệ môi răng, lại nữa Nhạc Tiến ở Thanh Nê cùng với
Quan Vũ đối trận, nay chẳng đi cứu Vũ, Tiến hẳn thắng trận, lại chuyển sang xâm
phạm địa giới Ích Châu, mối lo ấy lớn hơn so với Lỗ. Lỗ chỉ là đám giặc tự giữ
mình, chẳng đủ để lo lắng.” Bèn theo đó xin Chương cấp cho một vạn binh cùng
của cải, muốn đi về phía đông. Chương chỉ hứa cấp cho bốn ngàn binh, những thứ
khác đều giảm đi phân nửa.
Nguỵ thư chép: Bị nhân thế nổi giận nói với chúng rằng: “Ta vì Ích
Châu mà đi xa đánh cường địch, quân lính nhọc mệt, chẳng được yên ổn thư nhàn;
Nay tích trữ kho tàng tài vật mà thưởng công bủn xỉn, lại mong bậc đại phu cùng
quân sĩ bỏ sức chiến đấu, có thể được chăng!”
Trương Tùng gửi thư cho Tiên Chủ và Pháp Chính rằng: “Nay đại sự
sắp làm nên, sao lại bỏ đi như thế?” Anh của Tùng là Túc làm Thái thú Quảng
Hán, sợ hoạ đến mình, bèn bẩm bạch với Chương tố giác mưu ấy. Vì thế Chương bắt
chém Tùng, hiềm khích mới nổ ra.
Ích bộ kỳ cựu tạp ký chép: Trương Túc dáng dấp trang nghiêm, dung
mạo cao lớn. Tùng là người thấp bé, phóng túng chẳng giữ tiết tháo, nhưng kiến thức
rất tinh tế quả quyết, có tài cán. Lưu Chương sai đến chỗ Tào Công, Tào Công
không đón tiếp đủ lễ; Chủ bộ của Công là Dương Tu rất trọng tài năng của Tùng,
bạch với Công cho vời Tùng, Công không nghe. Tu lấy cuốn binh thư Tào Công soạn
ra cho Tùng xem, Tùng trong khoảng bữa ăn xem qua một lượt rồi gấp lại đọc rành
rọt cả. Tu cho việc ấy là kỳ lạ.
Chương mệnh cho chư tướng đóng cửa biên ải cấm được để cho Tiên chủ
đi qua cửa quan. Tiên Chủ nổi giận, cho triệu đốc quân ở Bạch Thuỷ là Dương
Hoài đến, trách mắng là đã vô lễ, đem chém đi. Rồi sai Hoàng Trung- Trác Ưng
ngầm dẫn binh quay về đánh Chương. Tiên Chủ đến thẳng Quan Trung(23), giữ vợ
con chư tướng và sĩ tốt làm con tin, rồi dẫn binh cùng với bọn Trung-Ưng tiến
đến Phù thành, định chiếm lấy thành ấy. Chương sai bọn Lưu Kỳ(24)-Lãnh
Bào-Trương Nhiệm-Đặng Hiền đến chống cự Tiên chủ ở Phù Thành, đều bị đánh tan,
phải lui về giữ Miên Trúc.
Ích bộ kỳ cựu tạp ký chép: Trương Nhiệm, người Thục Quận, gia thế
nghèo khó. Thuở nhỏ can đảm dũng lược, có khí tiết, làm quan Tòng sự ở trong
Châu.
Chương lại sai Lý Nghiêm làm Đô đốc ba quân ở Miên Trúc, Nghiêm dẫn
mọi người đến hàng Tiên Chủ. Quân của Tiên Chủ càng mạnh hơn, bèn chia chư
tướng đi bình định các huyện quanh đó, bọn Gia Cát Lượng-Trương Phi- Triệu Vân
dẫn binh ngược sông bình định Bạch Đế-Giang Châu-Giang Dương, chỉ có Quan Vũ ở
lại trấn thủ Kinh Châu. Tiên Chủ tiến quân vây Lạc Thành; bấy giờ con của Chương
là Tuần giữ thành, Bị vây đánh gần một năm trời.
Năm thứ mười chín mùa hạ, Lạc Thành bị phá, Tiên Chủ tiến binh vây
Thành Đô mấy chục ngày, Chương ra hàng.
Ích bộ kỳ cựu tạp ký chép: Lưu Chương sai Trương Nhiệm-Lưu Kỳ dẫn
tinh binh hăng hái chống cự Tiên Chủ ở Phù Thành, bị Tiên Chủ đánh tan, phải
lui về cùng với con của Chương là Tuần cố thủ ở Lạc Thành. Nhiệm ém binh tiến
ra Nhạn Kiều, đánh nhau lại bị thua. Nhiệm bị bắt. Tiên Chủ nghe nói Nhiệm là
người trung dũng, cho quân dụ hàng, Nhiệm cứng cỏi nói lớn rằng: “Lão thần trọn
đời chẳng phụng sự hai chủ vậy.” Đành phải cho giết đi. Tiên Chủ cảm thán
thương tiếc mãi.
Phó tử chép: Khi trước, Lưu Bị tập kích Thục, Thừa tướng Duyện là
Triệu Tiển nói: “Người như Lưu Bị nên việc được sao? dùng binh thì vụng về, mỗi
lần chiến đấu thường thất bại, bôn ba chạy vạy chẳng được yên, sao đánh được
người ta? Thục dẫu nhỏ bé nơi biên bìa, song tứ bề đầy rẫy hiểm trở, một mình
giữ đất, vội vã khó mà lấy được.” Trưng sĩ là Phó Cán nói: “Lưu Bị có độ lượng
rộng rãi với người, có thể khiến người ta dốc sức đến chết. Gia Cát Lượng hiểu
biết lẽ quyền biến, chính là người có mưu kế, mà làm tướng văn; Trương Phi-Quan
Vũ dũng mãnh mà có nghĩa, đều là vạn người khó địch, mà làm tướng võ: Ba người
ấy, đều là bậch nhân kiệt vậy. Với thao lược của Bị, được ba người ấy giúp đỡ,
sao chẳng xong việc?”
Điển lược chép: Triệu Tiển, tự Thúc Mậu, là người quận Kinh Triệu
huyện Trường Lăng. Bản tính hiếu học, thích nói chuyện thi thư, hay thương xót
người khác, chẳng mấy khi bàn luận điều cơ mật. Công phủ cho đòi vào làm Thương
thư Bộ Lang. Đổng Trác muốn lấy để bổ sung vào nội ác của mình, Tiển không
nghe. Trác giận, doạ giết Triệu Tiển, ý chừng khiến Tiển sợ hãi, mà Tiển vẫn cứ
tự nhiên. Lúc gặp Trác, Tiển vẫn đưa lời chính đáng, bày tỏ rõ điều phải trái,
Trác tuy hung ác ngang ngược, cũng phải khuất mà cảm tạ rồi thăng Tiển làm Bình
Lăng lệnh. Cho nên lúc Vương Doãn bị hại, chẳng ai dám đến gần, Tiển bỏ chức
quan đi thu nhặt thi thể. Tam Phụ loạn lạc, Tiển ở trọ tại Kinh Châu, Lưu Biểu
đãi làm tân khách. Tào Công bình định Kinh Châu, cầm tay Tiển nói rằng: “Sao ta
gặp nhau muộn vậy!” Rồi cho vời đến làm Duyện. Về sau làm Ngũ quan tướng Tư mã,
làm Trưởng sử cho tướng quốc Chung Do, mất lúc hơn sáu mươi tuổi.
Thục trung vốn giàu có thịnh vượng yên vui, Tiên Chủ bầy tiệc rượu
cực lớn thết đãi sĩ tốt, lấy kim ngân ở trong thành nước Thục ban thưởng cho
tướng sĩ, cùng với nhiều lương thực vải vóc. Tiên Chủ lại lĩnh chức Ích Châu
mục, Gia Cát Lượng làm bầy tôi tay chân, Pháp Chính làm mưu sĩ, Quan Vũ-Trương
Phi-Mã Siêu làm nanh vuốt, Hứa Tĩnh-My Trúc-Giản Ung làm Tân hữu(25). Đến bọn
Đổng Hoà-Hoàng Quyền-Lý Nghiêm là bầy tôi cũ của Chương đều được thu dụng cả,
bọn Ngô Nhất(26)-Phí Quan là thông gia với Chương, Bành Dạng là người bị Chương
ruồng bỏ đuổi đi, Lưu Ba trước đây bị Tiên Chủ căm ghét, đều được dùng tin dùng
ở vị trí xứng đáng, tận dụng hết được tài năng. Những kẻ sĩ có chí, chẳng ai
không tranh đua cố gắng.
Năm thứ hai mươi, Tôn Quyền nhân vì Tiên Chủ lấy được Ích Châu, sai
sứ đến bảo rằng muốn lấy lại Kinh Châu. Tiên Chủ nói: “Đợi khi ta lấy được
Lương Châu, đương nhiên sẽ trả lại Kinh Châu cho.” Quyền giận, bèn sai Lã Mông
tập kích đoạt lấy ba quận Trường Sa-Linh Lăng-Quế Dương. Tiên Chủ dẫn năm vạn
binh cuốn đất đến Công An, lệnh cho Quan Vũ thâm nhập Ích Dương. Năm ấy, Tào
Công bình định Hán Trung, Trương Lỗ trốn chạy vào Ba Tây, Tiên chủ hay tin,
cùng với Quyền liên hoà, phân chia Kinh Châu, các quận Giang Hạ-Trường Sa-Quế
Dương thuộc phía đông, Nam Quận, Linh Lăng, Vũ Lăng thuộc phương Tây(27), rồi
dẫn quân về Giang Châu. Phái Hoàng Quyền dẫn binh đến nghênh đón Trương Lỗ,
song Trương Lỗ đã hàng Tào Công. Tào Công sai Hạ Hầu Uyên-Trương Cáp đóng quân
ở Hán Trung, mấy lần xâm phạm vào địa giới đất Ba. Tiên Chủ lệnh cho Trương Phi
tiến binh đến Đãng Cừ, cùng với bọn Cáp giao chiến ở Ngoã Khẩu, đánh tan được
bọn Cáp, rồi thu binh về Nam Trịnh. Tiên Chủ cũng trở về Thành Đô.
Năm thứ hai mươi ba, Tiên Chủ đốc xuất chư tướng tiến binh đến Hán
Trung. Chia quân sai bọn Ngô Lan-Lôi Đồng thâm nhập Vũ Đô, đều bị quân Tào Công
đánh giết tan tành ở đó. Tiên Chủ đóng ở cửa ải Dương Bình, cùng với bọn
Uyên-Cáp cầm giữ nhau.
Năm thứ hai mươi bốn mùa xuân, Tiên Chủ từ phía nam Dương Bình qua
sông Miện, men núi tiến lên, dựa vào địa thế Định Quân sơn lập quân doanh. Uyên
dẫn binh đến tranh giành địa thế. Tiên Chủ lệnh cho Hoàng Trung thừa thế ở trên
cao thúc trống đánh xuống, đại phá quân Uyên, chém Uyên cùng tạm quyền Thứ sử
Ích Châu của Tào Công là Triệu Ngung. Tào Công từ Trường An cất đại binh nam chinh.
Tiên Chủ ở nơi xa nghe được nói rằng: “Tào Công dẫu có lại, chẳng thể làm được
gì, ta tất có được Hán Xuyên vậy.” Lúc Tào Công đến, Tiên Chủ thu đại binh giữ
đất hiểm, thuỷ chung không chịu giao phong, hơn tháng không đánh chác gì, quân
sĩ bỏ trốn ngày một nhiều. Mùa hạ, Tào Công dẫn quân quay về, Tiên Chủ lấy được
Hán Trung. Lại phái bọn Lưu Phong-Mạnh Đạt-Lý Bình(28) vây đánh Thân Đam ở
Thượng Dung.
Mùa thu, quần thần tôn Tiên Chủ lên làm Hán Trung Vương, dâng biểu
lên Hán Hiến Đế rằng: “Bọn thần là Bình Tây tướng quân Đô Đình hầu Mã Siêu, Tả
tướng quân Trưởng sử Trấn quân tướng quân Hứa Tĩnh, Doanh tư mã Bàng Hi, Nghị
tào Tòng sự Trung lang quân nghị Trung lang tướng Xạ Viên, Tam quyết phụ lục
chú chép: Viên tự Văn Hùng, người quận Phù Phong. Họ ấy vốn gốc họ Tạ, cùng với
các họ Tạ ở đất Bắc là đồng tộc(29). Thuỷ tổ là Tạ Phục làm tướng quân đi đánh
dẹp nơi xa, Thiên tử thấy Tạ Phục chẳng phải là danh tự hay, đổi ra là Xạ, nên
con cháu mang họ ấy. Anh Viên là Kiên, tự Văn Cố, thuở nhỏ có danh tiếng tốt,
công phủ vời vào làm Hoàng môn Thị lang, Hiến Đế còn nhỏ, Tam Phụ có nạn đói,
Kiên bỏ quan, cùng với em là Viên đi về Nam vào Thục nương nhờ Lưu Chương,
Chương lấy Kiên làm Trưởng sử. Lưu Bị lên thay Chương, lấy Kiên làm Thái thú
Quảng Hán-Thục Quận. Viên thở nhỏ cũng có danh, Thái uý Hoàng Phủ Tung yêu tài
gả con gái cho, Thừa tướng Gia Cát Lượng lấy Viên làm Tế tửu, rồi thăng làm
Tòng sự, đang làm quan thì chết.
Quân sư tướng quân Gia Cát Lượng, Đãng Khấu tướng quân Hán Thọ Đình
hầu Quan Vũ, Chinh Lỗ tướng quân Tân Đình hầu Trương Phi, Chinh Tây tướng quân
Hoàng Trung, Trấn Viễn tướng quân Lại Cung, Dương Vũ tướng quân Pháp Chính,
Hưng Nghiệp tướng quân Lý Nghiêm tất cả một trăm hai mươi người dâng lời rằng :
“Xưa Đường Nghiêu là bậc chí thánh mà tứ hung ở trong triều, Chu
Thành là hiền tài nhân đức mà tứ quốc làm khó, Cao Hậu xưng chế mà họ Lã trộm
mệnh, Hiếu Chiêu nhỏ dại mà Thượng Quan mưu toan thoán nghịch, đều là cậy thế
ân sủng, mượn lý lẽ để nắm quyền quân quốc, cùng hung cực loạn, xã tắc nguy
nan. Chẳng phải Đại Thuấn, Chu Công, Chu Hư, Bác Lục, ắt chẳng thể lưu đày kẻ
có tội giam cầm kẻ nghịch tặc, yên định an nguy.
Nghĩ đến thánh đức to lớn của Bệ hạ, nắm quyền cai trị muôn bang,
nhưng gặp lúc vận hạn khốn khó gian nan. Đổng Trác cầm đầu làm loạn, khuấy động
kinh sư, Tào Tháo nối theo gây vạ, trộm giữ mệnh trời; hoàng hậu thái tử, phải
uống rượu độc mà chết, thiên hạ nhiễu loạn, muôn dân bị tàn hại. Bệ hạ phải
chịu nỗi phong trần lo buồn khốn khổ đã lâu, ẩn mình ở ngôi hư hão. Chúng thần
vô chủ, vương mệnh bị lấn áp, ngôi đế vương bị đè nén, thần khí bị cướp đoạt.
Tả tướng quân Nghi thành Đình hầu lĩnh chức Tư lệ Hiệu uý ba châu Dự-Kinh-Ích
là Bị, đã nhận phẩm trật của triều đình, nghĩ mình phải ra sức, dẫu có chết vì
quốc nạn. Bởi thế nên khi thấy được thời cơ, nỗi giận bùng phát, mới cùng với
Xa kỵ tướng quân Đổng Thừa mưu toan tru diệt Tháo, để an định quốc gia, đưa vua
về cựu đô. Gặp lúc Thừa lo việc không kín, khiến Tháo mặc ý được dịp làm điều
đại ác, tàn hại trong ngoài. Bọn thần vẫn thường sợ vương thất lớn thì có cái
hoạ Diêm Nhạc(30), nhỏ thì có cái biến An Định(31)
Triệu Cao sai Diêm Nhạc giết Nhị Thế. Vương Mãng phế Nhụ Tử làm
Định An Công. Thần đêm ngày lo ngay ngáy, run sợ chẳng dám nghỉ
ngơi.
Việc xưa ở Ngu thư, chín đời theo thứ tự, xét đến hai đời nhà Chu,
phong tước chia đất cho người cùng họ, Kinh Thi nêu rõ việc ấy là nghĩa, truyền
mãi đến muôn đời. Hán triều mới hưng thịnh, cắt chia cương thổ, tôn con em làm
vương, bởi thế về sau diệt được cái hoạ mấy người họ Lã, mà dựng nên nghiệp lớn
họ Lưu.
Chúng thần thấy rằng Bị có lòng vì vương thất, là con cháu công
hầu, tấm lòng gửi ở quốc gia, luôn nghĩ đến việc dẹp loạn. Mới đây phá được Tào
Tháo ở Hán Trung, kẻ anh hùng khắp hải nội ngóng gió mà nương cậy, thế mà tước
hiệu chẳng rõ ràng, ngôi cửu tích chưa được thêm, chẳng phải là việc hay để giữ
yên xã tắc, là gương sáng cho vạn đời vậy.
Chúng thần kính vâng mệnh ở bên ngoài, lễ chế vương mệnh bị đứt
đoạn. Xưa kia Thái thú Hà Tây là Lương Thống đang lúc nhà Hán hưng vượng, ở
trong cõi, địa vị quyền thế nào có hơn ai, chẳng thể làm tướng soái, mà được
chọn làm nguyên suý thay cho Đậu Dung, rút cục lập lên công lao, dẹp tan được
Ngỗi Hiêu. Nay xã tắc gặp nguy nan, Lũng-Thục khốn khó. Tháo ở ngoài nuốt thiên
hạ, bên trong hại đồng liêu, triều đình có mối nguy tường vách, mà kẻ lấn áp
chưa thể ngăn chặn, khiến cho y phải run sợ. Chúng thần
nương theo điển cũ, phong Bị làm Hán Trung Vương, bái làm Đại tư
mã, đốc trách hết lục quân, tập hợp đồng
minh, quét sạch kẻ hung nghịch. Lấy Hán Trung-Ba-Thục-Quảng Hán-Kiện Vi lập
quốc, tạm chiếu theo phép cũ như chư hầu thời Hán sơ. Đã là phép quyền nghi, ví
như có lợi cho xã tắc, chuyên quyền có thể được vậy. Rồi sau này công thành
nghiệp dựng, chúng thần xin chịu tội, dẫu chết không hề hối hận.”
Rồi cho lập đàn tràng ở Miện Dương, bầy đủ các đồ nghi trượng, quần
thần đến đông đủ, đọc tấu chương xong, dâng mũ áo lên cho Tiên chủ.
Tiên chủ dâng biểu lên Hán Hiến đế rằng: “Thần nghĩ rằng mình chẳng
có tài cán, tự đảm đương gánh vác ngôi thượng tướng, tổng đốc ba quân, phụng
mệnh ở bên ngoài, chẳng quét sạch được nạn giặc, ra sức khuông phò vương thất,
khiến cho thánh giáo của bệ hạ bị lấn áp đã lâu, trong sáu cõi, bế tắc chưa
thông, thần trong lòng lo lắng trằn trọc không yên, vạ như có bệnh ở trong đầu.
Ngày trước bởi Đổng Trác gây nên loạn lạc, thế nên sau này, bè lũ
hung nghịch tung hoành, tàn hại trong ngoài. Nhờ vào thánh đức uy linh của Bệ
hạ, nhân thần cùng hưởng ứng, hoặc kẻ trung nghĩa phấn chấn đánh dẹp, hoặc trời
cao giáng phạt, kẻ bạo nghịch đều bị giết, dần dần bị tiêu diệt cả. Chỉ còn một
Tào Tháo, đã lâu chưa trừ được, dần dà chiếm đoạt quốc quyền, mặc lòng phóng
túng gây loạn.
Thần trước đây cùng với Xa kỵ tướng quân Đổng Thừa vạch mưa kế đánh
dẹp Tháo, liệu việc chẳng kín, Thừa bị hãm hại, thần trốn tránh không nơi cư
trú, có lòng trung nghĩa mà chẳng nên công. Khiến cho Tháo được thể hung hăng
cực nghịch, tru lục giết hại cả chủ hậu, mà hoàng tử phải uống rượu độc. Thần
dẫu tụ họp nghĩa binh, đã cố hết sức mình, song thế còn yếu kém, năm tháng trôi
qua việc cũng chưa thành. Vẫn sợ tâm sức mai một, phụ lại quốc ân, khi thức lúc
ngủ mãi thở than, sớm khuya kính sợ mà gắng gỏi.
Nay bọn liêu thuộc của thần cho rằng việc xưa chép ở Ngu thư chín
đời theo thứ tự, mọi người gắng gỏi hết lòng, Ngũ đế thêm bớt, đạo ấy chẳng thể
phế bỏ.
Trịnh Huyền chú rằng: Thứ, là mọi người; lệ, là làm nên; tự là thứ
tự vậy. Chín dòng theo thứ tự là họ hàng thân thích, mà những kẻ thần tử hết
lòng giúp đỡ vậy.
Xét hai đời nhà Chu, chia đất cho những người họ Cơ, thế nên được
cậy nhờ Tấn-Trịnh giúp cho hưởng phúc. Cao Tổ nổi lên, tôn ngôi vương cho con
em, mở ra chín nước, về sau giết được những người họ Lã, để yên định họ Lưu.
Nay Tháo ghét người cương trực trung trinh, bè lũ rất đông, che giấu ác tâm,
mưu soán đoạt đã rõ ràng. Tông thất đã suy vi, dòng dõi Đế không ngôi, muốn
châm chước phép cổ, tạm mượn quyền nghi, tôn thần lên làm Đại tư mã Hán Trung
vương.
Thần suy đi tính lại hai ba lần, đã chịu hậu ân của quốc gia, tự
gánh vác việc ở một phương, hết sức mà việc chưa thành, ơn ấy đã là quá, chẳng
nên nhục chiếm ngôi cao để bị người đời mỉa mai mang tội lớn. Nhưng quần thần
bức bách, lấy nghĩa ép thần. Thần gạt bỏ đi lại nghĩ rằng quân giặc cướp chẳng
hết hung hăng, nạn nước chưa qua, tông miếu lâm nguy, xã tắc ngửa ngiêng, nên
thần lo lắng nghĩ mình phải gánh vác lấy ngôi đầu. Thuận ứng theo lẽ quyền nghi
thông biến, để yên định thánh triều, dẫu xông vào nơi nước lửa, chẳng thể chối
từ, mạnh dạn mà lo lắng cái đạo đáng làm, để phòng sau này không hối tiếc. Thế
nên thuận theo lời bàn của quần thần, bái nhận ấn tỉ, để tôn cái uy của quốc
gia.
Ngẩng lên nghĩ tới tước hiệu, ngôi cao ân hậu, cúi xuống nghĩ rằng
phải báo đáp đến cùng, mối lo sâu xa thì trách nhiệm nặng nề, nỗi sợ hãi chất
chồng, như dấn thân vào lũng thẳm. Nguyện hết sức hết lòng, để tưởng lệ sáu
quân, đốc suất nghĩa binh, ứng trời thuận thời, đánh dẹp kẻ hung nghịch, để yên
xã tắc, mong báo ơn muôn một, kính cẩn thảo tấu chương sai dịch thừa dâng lên
chúa thượng, xin trao trả chúa thượng chức Tả tướng quân cùng ấn thụ Nghi thành
Đình hầu.”
Liền đó về đóng dinh sở ở Thành Đô. Lại đề bạt Nguỵ Diên làm Đô
đốc, trấn thủ Hán Trung.
Điển lược chép: Bị liền cho xây dựng quán dịch, chòi canh, từ Thành
Đô đến Bạch Thuỷ quan, hơn bốn trăm chỗ.
Bấy giờ Quan Vũ đánh tướng của Tào Công là Tào Nhân, bắt được Vu
Cấm ở Phàn Thành. Ít lâu sau Tôn Quyền tập kích giết chết Vũ, chiếm lấy Kinh
Châu.
Năm thứ hai mươi lăm, Nguỵ Văn Đế xưng tôn hào, cải niên hiệu là
Hoàng Sơ. Có người đưa tin Hán Đế bị hại, Tiên Chủ bèn mặc áo trắng cử tang,
truy thuỵ hiệu là Hiếu Mẫn Hoàng Đế. Sau đó quần thần nói rằng gần đấy có điềm
lành, nhật nguyệt nối theo nhau, cho nên các quan Nghị lang Dương Tuyền hầu Lưu
Báo, Thanh Y hầu Hướng Cử, Thiên tướng quân Trương Duệ-Hoàng Quyền, Đại tư mã
Chúc Ân Thuần, Ích châu Biệt giá Tròng sự Triệu Tộ, Trị trung Tòng sự Dương
Hồng, Tòng sự Tế tửu Hà Tông, Nghị tào Tòng sự Đỗ Quỳnh, Khuyến học Tòng sự
Trương Sảng- Doãn Mặc-Tiếu Chu cùng dâng lời rằng:
“Thần nghe rằng Hà Đồ-Lạc Thư, Ngũ kinh Sấm-Vĩ(32), đều do Khổng Tử
xét soi sáng tỏ, đã chứng nghiệm từ lâu. Cẩn trọng tra xét Lạc Thư Chân Diệu Độ
có ghi: ‘Đời vua chuộng màu đỏ thứ ba, đức vận xương thịnh(33), sau chín đời
đến người tên Bị, hợp với ngôi Đế.’ Lạc Thư Bảo Hào Mệnh có ghi: ‘Trời cai quản
đạo đế vương cho người tên Bị xưng làm hoàng đế, lấy chính thống thu lấy đế vị,
trăm việc đều nên chẳng thể thất bại.’ Lạc Thư Lục Kỳ Vận có ghi: ‘Cửu hầu thất
kiệt tranh nhau, dân chúng róc xương làm củi đun, đầu người dẫm đạp trên đường
lộ, ai khiến vị chúa tên Huyền(34) sang.’ Hiếu Kinh Câu Mệnh Quyết Lục có ghi:
‘Đế vương ba người hưng khởi, chín đời đến Bị’. Cha thần là Quần lúc chưa mất,
nói rằng phía tây nam
mấy lần có hoàng khí, bốc cao vài trượng, xuất hiện đã lâu năm, lại
thường gió tốt mây lành từ sao Thiên Tuyền(35) hạ xuống quấn quýt, ấy là điềm
lành phi thường. Lại nữa, giữa năm Kiến An thứ hai mươi hai, mấy lầm có đám mây
như tinh kỳ, bay từ tây sang đông, lơ lửng giữa trời, Đồ-Thư nói rằng ‘Ắt có
thiên tử xuất hiện ở phương ấy’. Lại thêm năm ấy sao Thái Bạch- Huỳnh Hoặc-Trấn
tinh, thường đi theo Tuế tinh(36). Gần đây nhà Hán mới hưng khởi, ngũ tinh cùng
tuế tinh hội họp; tuế tinh chủ nghĩa, ngôi nhà Hán ở phía tây, chính là phương
vị chủ nghĩa, cho nên phép chế của nhà Hán là lấy Tuế tinh để chiêm nghiệm bậc
nhân chủ. Đương khi thánh chủ nổi dậy ở châu ấy, có ý trung hưng. Bấy giờ
Đế(37) còn ở Hứa Đô, cho nên quần thần không dám tiết lộ. Mới đây Huỳnh Hoặc
lại xâm phạm Tuế tinh, ở khu vực Vị-Mão-Tất(38); Sao Mão sao Tất là lưới trời,
kinh sách nói rằng ‘Đế tinh lu mờ(39), bọn tà nghịch tiêu vong.’ Huý của thánh
thượng đã sớm thấy(40), suy xét thời kỳ ứng nghiệm, phù hợp mấy điềm, chẳng
phải chỉ có một mà thôi.
Thần nghe bậc thánh vương hành sự trước ý trời mà trời chẳng lìa
bỏ, hành sự thuận ý trời thì được thiên thời, cho nên ứng thời vận mà sinh, để
tương hợp với thần linh. Mong đại vương ứng lòng trời thuận lòng người, mau
chóng dựng nghiệp đế vương, để yên định quốc gia.”
Bọn Thái phó Hứa Tĩnh, An Hán tướng quân Mi Trúc, quân sư tướng
quân Gia Cát Lượng, Thái thường Lại Cung, Quang lộc huân Hoàng Quyền, Thiếu phủ
Vương Mưu dâng lời rằng:
“Tào Phi thí chúa soán ngôi, chôn vùi ngôi Hán thất, cướp lấy thần
khí, bức hiếp kẻ trung lương, tàn ác vô đạo. Quỷ thần căm giận, đều nghĩ đến họ
Lưu. Nay ở trên không có thiên tử, hải nội bàng hoàng, không có chỗ ngóng
trông. Quần hạ trước sau dâng sớ hơn tám trăm người, đều nói rõ có điềm lành,
và những lời đồ sấm làm chứng cớ rõ ràng. Gần đây có rồng vàng hiện ra ở Xích
Thuỷ núi Vũ Dương, suốt chín ngày mới tan. Hiếu kinh(41) dẫn lời của Thần
Tiết(42) rằng ‘Ân đức đến cùng cực ắt có rồng vàng hiện ra’, rồng, là hình
tượng của vua vậy. Hào thứ chín mươi lăm trong quẻ Càn ở sách Chu
Dịch(43) nói ‘rồng bay ở trên trời’, mà đại vương đang như rồng bay
lên, xứng nhận lấy ngôi đế vậy.
Mới đây Quan Vũ vây Phàn Thành-Tương Dương, con trai của Trương
Gia-Vương Hưu ở Tương Dương dâng biếu ngọc tỉ, ngọc tỉ ấy ẩn dưới sông Hán, nằm
ở nơi đáy sâu, ánh sáng rực rỡ chói chang, thần khí sáng rọi đến tận trời. Nhà
Hán ta, trước kia Cao Tổ nổi dậy yên định thiên hạ mà xưng quốc hiệu, giờ đại
vương noi theo phép xưa của Tiên đế, cũng dấy lên ở Hán Trung. Nay ngọc tỉ của
Thiên tử trước đây lại sáng tỏ, mà ngọc tỉ ấy hiện ra ở Tương Dương, cuối dòng
Hán thuỷ, minh đại vương nhận ngọc tỉ ấy ở hạ lưu, ấy là ngôi vị Thiên tử được
trao cho đại vương, điềm lành ứng với thiên mệnh, chẳng phải sức người làm được
vậy.
Xưa kia nhà Chu có điềm Ô Ngư(44), mọi người nói rằng đó là việc
tốt lành. Chúa thượng vâng mệnh hai tổ(45), Đồ-Thư báo trước, đã chứng nghiệm rồi vậy. Nay trời cao báo điềm
lành, quần nho anh tuấn, đều dẫn sách Hà Đồ-Lạc Thư, cùng lời sấm ký của Khổng
Tử, hết thảy đều đủ cả.
Chúng thần quỳ xuống kính cẩn suy ngẫm rằng Đại vương là dòng dõi
của Trung Sơn Tĩnh Vương Hiếu Cảnh Hoàng Đế, dòng chính dòng phụ trăm đời(46),
thiên địa giáng phúc, đại vương tư thái thần thánh kì vĩ, uy vũ như thiên thần,
nhân đức chồng chất trùm đời, ưu ái dân chúng tôn kính kẻ sĩ, vì thế bốn phương
dốc lòng theo về. Chúng thần khảo sát linh đồ, suy nghĩ sấm vĩ, trẫm triệu của
thần minh, huý danh sáng tỏ. Vậy nên đại vương sớm lên ngôi đế, để tế lễ nhị
tổ, nối nghiệp tổ tiên, thì thiên hạ may lắm. Chúng thần kính cẩn giao cho Bác
sĩ Hứa Từ, Nghị lang Mạnh Quang, kiến lập lễ nghi, chọn giờ lành, để chúa
thượng xưng tôn hiệu.”
Tiên Chủ bèn lên ngôi đế ở núi Vũ Đảm phía nam Thành Đô.
Thục bản kỷ chép: Ở Vũ Đô có kẻ trượng phu hoá làm người con gái,
nhan sắc rất đẹp, như giống tinh ở trong núi vậy. Thục vương lấy làm vợ, vì
không quen thuỷ thổ, bị ốm chết muốn được đưa về nước, Thục vương giữ lại,
chẳng kể gì đến việc người ấy đã chết. Sau Thục vương cho binh lính đào huyệt ở
đất Đảm thuộc Vũ Đô, rồi an táng ở ngay trong Thành Đô, đắp mộ rộng mấy mẫu
đất, cao mười trượng, gọi là Vũ Đảm. Thần Tùng Chi xét, Vũ Đảm, là tên núi, ở
tây bắc Thành Đô, quẻ Càn phương vị ở phía tây bắc, cho nên mới đến đó lên ngôi
đế.
Lại làm bài văn tế rằng: “Duy năm Kiến An thứ hai mươi sáu tháng tư
ngày Bính Ngọ, Hoàng đế là Bị tiến dụng ngôi huyền mẫu, cáo rõ với Hoàng thiên
Thượng đế hậu thổ thần kỳ: Nhà Hán có thiên hạ, số vận dài đến vô cùng. Xưa kia
Vương Mãng soán đạo, Quang Vũ hoàng đế nổi giận lôi đình tru diệt đi, xã tắc
lại còn. Nay Tào Tháo cậy quyền binh làm chuyện tàn nhẫn, tru lục cả chủ hậu,
đầy trời ngập đất, tội trạng đã rõ ràng. Con Tháo là Phi, lại làm chuyện hung
nghịch, cướp giữ ngôi thần khí. Quần thần tướng sĩ cho rằng xã tắc đã đổ nát,
nên Bị phải kế vào, tiếp nối cơ nghiệp của hai tổ, tuân kính mệnh trời đánh kẻ
có tội.
Bị nghĩ mình vô đức, sợ làm nhục đến ngôi Đế. Hỏi đến thứ dân, cùng
các trưởng quan Man Di ngoài cõi, mọi người đều nói rằng ‘thiên mệnh chẳng thể
bỏ ngôi không, cơ nghiệp của tổ tiên chớ nên để suy đồi, bốn bể chẳng thể không
có chủ’. Cả thiên hạ trông ngóng, chỉ còn có một mình Bị. Bị sợ mệnh sáng của
trời, lại sợ ngôi Hán sẽ bị chôn vùi xuống đất, cẩn trọng chọn ngày lành, cùng
trăm quan đăng đàn, nhận tỉ thụ Hoàng đế. Cho sửa sang đồ lễ, cáo tế với thiên
thần, mong thần linh hưởng lộc giúp cho nhà Hán, bốn bể được vĩnh viễn yên
vui!”
Nguỵ thư chép: Bị nghe tin Tào Công chết, sai phó quan là Hàn Nhiễm
dâng điếu thư, lại gửi đồ lễ phúng viếng. Văn Đế ghét cái việc nhân lễ tang cầu
thân, mệnh cho Thứ sử Kinh Châu chém Nhiễm, tuyệt đường sứ mệnh.
Điển lược chép: Bị phái tham mưu duyện Hàn Nhiễm mang điếu thư, lại
dâng gấm vóc. Nhiễm xưng có bệnh, ở lại Thượng Dung. Từ Thượng Dung dâng thư
lên, gặp lúc thọ chung(47), có chiếu thư hồi đáp cho Nhiễm được vào chầu. Bị
được thư hồi đáp, bèn xưng chế.
Năm Chương Vũ nguyên niên mùa hạ tháng tư, đại xá thiên hạ, đổi niên
hiệu. Lấy Gia Cát Lượng làm Thừa tướng, Hứa Tĩnh làm Tư đồ. Đặt ra trăm quan,
xây dựng tông miếu, hợp tế ở miếu Cao Hoàng đế.
Thần Tùng Chi cho rằng Tiên Chủ dẫu rằng xuất thân từ dòng dõi Hiếu
Cảnh, nhưng bao nhiêu đời đã quá xa, chiêu mục khó rõ ràng(48), đã nối ngôi Hán, chẳng biết vì sao Đế lấy ông tổ mới
để lập tông miếu. Mà lúc bấy giờ có hiền tài phụ giúp, các bậc nho sinh ở trong
cung, chế độ tông miếu, hẳn có chương pháp, mà lại ghi chép thiếu sót qua loa,
thật đáng giận thay.
Tháng năm, lập Ngô thị làm Hoàng hậu, con là Thiện làm Hoàng Thái
tử. Tháng sáu, lập con là Vĩnh làm Lỗ vương, Lý là Lương vương. Xa kỵ tướng
quân Trương Phi bị tả hữu hại. Khi trước, Tiên Chủ hận Tôn Quyền tập kích Quan
Vũ, sắp đông chinh, đến mùa thu tháng bảy, bèn thống suất ba quân phạt Ngô. Tôn
Quyền gửi thư xin hoà, Tiên Chủ nổi giận đùng đùng không nghe, Ngô tướng là bọn
Lục Nghị(49)-Lý Dị-Lưu A đóng quân ở Vu huyện- Tỷ Quy; tướng quânNgô Ban-Phùng
Tập ở Vu huyện tấn công đánh tan bọn Dị, rồi dừng quân ở Tỷ Quy, các tộc Man Di
ở Ngũ Khê quận Vũ Lăng sai sứ đến cầu binh.
Năm thứ hai mùa xuân rằm tháng giêng, quân của Tiên chủ về lại Tỷ
Quy, thuỷ quân của các tướng Ngô Ban-Trần Thức đóng ở Di Lăng, giáp với bờ tây
xứ Giang Đông. Tháng hai, Tiên Chủ từ Tỷ Quy dẫn chư tướng tiến quân, men theo
núi Tiệt Lĩnh, ở Di Đạo xứ Hào Đình đóng doanh trại, men núi Giáp thông sang Vũ
Lăng, phái Thị Trung là Mã Lương yên uỷ rợ Man Di ở Ngũ Khê, các tù trưởng đều
hưởng ứng. Trấn bắc Tướng quân Hoàng Quyền làm Đô đốc các quân ở Giang Bắc,
cùng với quân Ngô cự nhau ở Di Lăng đạo. Mùa hạ tháng sáu, có luồng khí màu
vàng hiện ra ở Tỷ Quy trong vòng mấy chục dặm, rộng đến mấy chục trượng. Hơn
chục ngày sau, Lục Nghị đại phá quân Tiên Chủ ở Hào Đình, tướng quân Phùng
Tập-Trương Nam đều bị chết. Tiên Chủ từ Hào Đình chạy về Tỷ Quy, thu họp binh
sĩ li tán, rồi bỏ thuyền, theo đường bộ chạy về Ngư Phúc, đổi huyện Ngư Phúc
thành Vĩnh An. Ngô sai tướng quân Lý Dị-Lưu A ngầm bám theo quân của Tiên Chủ,
đóng binh ở Nam Sơn. Mùa thu tháng tám, thu binh trở về. Tư đồ Hứa Tĩnh chết.
Mùa đông tháng mười, chiếu cho Thừa tướng Lượng lập quân doanh suốt từ nam lên
Bắc tới Thành Đô. Tôn Quyền hay tin Tiên Chủ đóng ở Bạch Đế, rất sợ, sai sứ đến
xin hoà. Tiên Chủ đồng ý, sai Thái trung đại phu Tông Vĩ đến đáp mệnh. Mùa đông
tháng mười hai, Hán gia Thái thú Hoàng Nguyên nghe tin Tiên Chủ ốm không đến
thăm, cất binh chống lại.
Năm thứ ba mùa xuân tháng hai, Thừa tướng Lượng từ Thành Đô đến
Vĩnh An. Tháng ba, Hoàng Nguyên tiến binh đánh huyện Lâm Cung. Triều đình phái
tướng quân Trần Hốt đánh dẹp Nguyên, quân Nguyên bị thua, thuận theo sông xuống
hạ lưu, bị thân binh bắt trói lại, đem về Thành Đô, bị chém. Tiên Chủ ốm nặng,
phó thác con côi cho Thừa tướng Lượng, Thượng thư lệnh Lý Nghiêm làm phó. Tháng
tư mùa hạ ngày Quý Tỵ, Tiên Chủ băng ở Vĩnh An cung, bấy giờ sáu mươi ba tuổi.
Gia Cát Lượng tập chép lại di chiếu của Tiên Chủ sắc mệnh cho Hậu
Chủ rằng: “Trẫm lúc mới ốm chỉ mắc bệnh lị mà thôi, sau chuyển sang tạp bệnh,
sợ rằng chẳng qua khỏi. Người ta năm mươi tuổi chẳng nói là yểu, ta đã hơn sáu
mươi tuổi, sao phải ân hận nữa, chẳng đau xót gì cho mình, chỉ nghĩ đến anh em
khanh. Quan Bộc xạ tới đây, nói rằng Thừa tướng khen khanh sáng suốt hiểu biết,
tiến bộ rất mau, vượt quá ước vọng của y, nếu thực được như thế, ta sao còn
phải lo lắng nữa! Gắng lên, gắng lên! Chớ vì điều ác nhỏ mà làm, chớ vì điều
thiện nhỏ mà không làm. Chỉ có hiền chỉ có đức, mới có thể thu phục được người.
Cha các ngươi đức bạc, chớ nên bắt chước. Ngươi nên đọc sách Hán thư-Lễ ký,
những lúc nhàn nhã nên xem các sách của Chư tử cùng với Lục Thao-Thương quân
thư(50), cũng giúp tăng thêm ý chí và trí
tuệ. Nghe nói Thừa tướng chỉnh lý các sách Thân-Hàn-Quản tử-Lục Thao(51)
đều thông suốt hết cả, chưa đưa ra ngoài, e rằng lỗi đạo, ngươi nên phải tự thân
đến cầu học lấy.”
Lúc lâm chung, Tiên Chủ cho gọi Lỗ vương đến dặn nhỏ rằng: “Sau khi
ta mất, anh em chúng mày phải coi Thừa tướng như cha, lệnh cho ngươi làm cộng
sự giúp cho Thừa tướng mà thôi.”
Lượng dâng biểu lên Hậu Chủ rằng: “Thần quỳ xuống kính cẩn nghĩ
rằng Đại hành Hoàng đế có lòng nhân hơn người gây dựng đức chính, phúc đến cõi
vô cùng, trời xanh chẳng xót thương, bệnh tật cứ ngấm dần, hôm nay ngày mười
bốn tháng hai đã chợt vội đi xa, thần thiếp kêu gào, như cha mẹ mất. Nghĩ đến
di chiếu, là việc lớn tổ tông, trên dưới phải động lòng; trăm qua cử ai, trừ
phục hết ba ngày, đến khi an táng lại theo như lễ; Thái thú các quận quốc,
những bậc quan tướng, Đô uý, Trưởng huyện lệnh, ba ngày mới được bỏ áo tang.
Thần là Lượng thân chịu sắc giới, kính sợ thần linh, chẳng dám phạm lỗi lầm.
Thần xin tuyên rõ để người dưới phụng mệnh thi hành.”
Tháng năm, đem áo quan từ Vĩnh An cung về Thành Đô, đặt thuỵ
là Chiêu Liệt Hoàng Đế. Mùa thu, tháng
tám, an táng ở Huệ lăng.
Cát Hồng thần tiên truyện chép: Vị tiên nhân Lý Ý, là người Thục.
Người đời kể lại, rằng người ấy sống vào thời Hán Văn Đế(52). Tiên chủ muốn
phạt Ngô, sai người nghênh đón Ý. Ý đến nơi, Tiên chủ lấy lễ đón tiếp rất cung kính,
hỏi việc lành dữ. Ý không đáp mà xin giấy bút, vẽ ra binh mã khí trượng vào mấy
chục tờ giấy, xong rồi lấy tay nhất nhất xé nát hết đi, lại vẽ ra một người to
lớn, đào đất chôn cất người chết, xong bỏ đi thẳng. Tiên chủ rất không vui. Từ
khi xuất quân đánh Ngô, đại bại trở về, lấy làm hổ thẹn phẫn hận rồi phát bệnh
chết, mọi người mới hiểu được ý tứ của Ý. Vẽ một người to lớn chôn cất người
chết, tức là ý nói rằng Tiên Chủ chết vậy.
Bình rằng: Tiên Chủ là người cương nghị khoan hoà nhân hậu, hiểu
lòng người kính kẻ sĩ, có phong độ của Hán Cao Tổ, có khí chất của bậc anh hùng.
Đến lúc trao việc nước thác con côi cho Gia Cát Lượng, mà lòng không ngờ vực,
tin rằng vua tôi đều chí công, là điều chưa từng thấy xưa nay vậy. Cơ mưu quyền
biến tài cán thao lược, chẳng theo kịp Nguỵ Vũ(53), bởi thế cơ nghiệp gây dựng
được cũng hạn hẹp. Nhưng vấp ngã mà chẳng sờn lòng, sau cùng chẳng chịu ở dưới
người, có lẽ là suy đoán rằng sự độ lượng của kẻ kia(54) ắt hẳn chẳng dung được
mình, nên chẳng những tranh cái lợi, mà còn tránh hoạ cho mình vậy.
CHÚ THÍCH
(1) Niên hiệu đời Hán Vũ đế.
(2) Đời Hán Vũ đế, khi tế tự
tông miếu thì những người trong tông thất ở tước hầu phải rót rượu dâng vàng
làm lễ.
(3) Tức là ông nội.
(4) Uý là chức quan quản việc
quân sự, khác với chức Lệnh là chuyên lo việc dân sự.
(5) Tức là dây thắt lưng
trong y phục của tầng lớp quan chức thời ấy.
(6) Sách Tam Quốc diễn nghĩa
dịch địa danh này là Hạ Phì.
(7) Đây là chức huyện thừa,
tức giúp việc cho quan huyện.
(8) Tức Viên Thuật.
(9) Tức là những chức quan
Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Đây là ba ngôi vị đứng đầu triều chính. Gia đình
nhà Viên Thiệu bốn đời có năm người giữ ngôi Tam công.
(10) Đó là Tề Hoàn Công, Tấn
Văn Công, Sở Trang Vương, Tống Tương Công và Tần Mục Công.
(11) Lối xưng hô của người
dưới với người có danh vị ở trên, cũng như ta gọi lãnh đạo của mình là sếp vậy.
(12) Từ Châu và Dương Châu.
(13) Tức là người già cả.
(14) Chỉ Viên Thiệu.
(15) Quách Đa tức là Quách Á
Đa là tên tự của Quách Dĩ. Lý Thôi và Quách Dĩ đều là bộ tướng của Đổng Trác,
từng bức hiếp Hiến Đế ở Trường An ngày trước.
(16) Chi tiết này rất thú vị
đáng để ý. Xưa kia Vương Tử Sở là con của Hiếu Văn Vương nước Tần làm con tin ở
nước Triệu, Lã Bất Vi dùng tiền mua chuộc người nước Triệu đưa Tử Sở về Tần,
sau xếp đặt để Tử Sở lên làm vua nước Tần. Tại sao Đổng Thừa lại nói chuyện như
vậy với Vương Tử Phục? Liệu có phải Thừa nói đến việc lật đổ Tháo để sau này
làm vua Hán thay Hiến Đế? Vậy thì Vương Tử Phục này là một vị hoàng tử, con của
Linh Đế? Hoàn Đế? là những vị vua Hán ngay trước thời Hiến Đế đó chăng?
(17) Tức Tôn Quyền, Quyền lúc
đó giữ chức Thảo Lỗ tướng quân.
(18) Trỏ vùng đất ở quanh
Trường Giang.
(19) Tức là quân Thanh Châu,
Từ Châu. Ý nói đến quân của Tào Tháo vậy.
(20) Đây là kinh sư nước Ngô.
(21) Giặc gạo.
(22) Coi việc của Đại tư mã,
tức là tạm nắm quyền chỉ huy quân đội.
(23) Bạch Thuỷ vốn thuộc vùng
Quan Trung, ý ở đây nói rõ ra là sau khi Bị giết Đô đốc Bạch Thuỷ thì đến đó
thu hàng quân sĩ cùng vợ con họ ở nơi ấy.
(24) Truyện Tam Quốc diễn
nghĩa dịch tên nhân vật này là Lưu Hội.
(25) Không rõ phải dịch thế
nào, từ điển chú thích rằng ‘Tân hữu’ tức là ‘vừa là khách vừa là bạn’.
(26) Nguyên người này tên
thật là Ngô Ý, song Trần Thọ viết sử vào đời Tấn phải tránh tên huý của Tư Mã Ý
nên viết chệch tên thành Ngô Nhất.
(27) Đông thuộc Ngô, Tây
thuộc Thục.
(28) Tức Lý Nghiêm, lúc này
Nghiêm đổi tên thành Bình.
(29) Cùng một họ.
(30) Nhị Thế tức Hồ Hợi,
chuyện này xảy ra sau khi Tần Thuỷ Hoàng tạ thế mấy năm.
(31) Nhụ Tử tức Nhụ Tử Anh,
chuyện này xảy ra vào cuối thời Tây Hán.
(32) Hà đồ, Lạc thư, Sấm vĩ
là những sách cổ chuyên về thiên văn bói toán và lời sấm.
(33) Nguyên văn ‘Xích tam
nhật đức xương’. Xưa Hán Cao Tổ Lưu Bang chém rắn trắng khởi nghĩa lập nên nhà
Hán, gọi là Xích Đế (đời thứ nhất). Đến khi Quang Vũ Đế Lưu Tú diệt Vương
Mãng trung hưng nhà Hán (đời
thứ hai). Nay đến Lưu Bị là đời thứ ba vậy.
(34) Huyền Đức.
(35) Sao Bắc đẩu, đây là ngôi
sao luôn đứng yên ở phía Bắc bầu trời, người ta thường lấy nó để định phương
hướng.
(36) Chỗ này nhắc đến một
loạt các ngôi sao trong Nhị thập bát tú, hai mươi tám ngôi sao này chia ra bốn
phương, mỗi phương gồm bảy ngôi, có ý nghĩa rất quan trọng đối với thiên văn cổ
xưa của Trung Hoa, đặc biệt với các bậc đế vương, theo quan niệm thiên tử chịu
mệnh trời.
(37) Chỗ này nhắc đến việc Bị
đang ở đất Hứa với Tào Tháo, có mưu toan với Đổng Thừa việc diệt Tháo, Đế ở đây
là nhắc đến Hiến Đế vậy.
(38) Là ba ngôi sao trong Nhị
thập bát tú, các sao này nằm ở trung khu của các thiên thể.
(39) Nguyên văn câu này là
‘đế tinh xử chi, chúng tà tiêu vong’, chữ xử có nghĩa là ở ẩn, tức là không
thấy nữa, ở đây theo nghĩa dịch là lu mờ. Nguyên lai sao Huỳnh Hoặc tức Hoả
tinh, đây không phải một ngôi sao, chỉ là một hành tinh như trái đất của chúng
ta, vì nó ở gần trái đất nên nó rất sáng, sáng nhất trên bầu trời đêm, chỉ kém
mỗi mặt trăng và sao Kim (tức sao Thái Bạch), nó chạy trên đường hoàng đạo, vậy
nên khi nó đi vào địa phận lưới trời (tức vị trí Mão, Tất) sẽ làm các sao khác
bên cạnh lu mờ vì độ sáng của nó. Người xưa coi Huỳnh Hoặc là ngôi sao chủ việc
hung nghịch càn dỡ vậy. Người Hy Lạp gọi nó là Ares, vị thần chiến tranh.
(40) Thấy ở các sách Ngũ
kinh, Sấm Vĩ, Lạc Thư, Hà Đồ kể trên.
(41) Hiếu Kinh là bộ sách
chép lời của Khổng Tử nói với Tăng Tử về đạo hiếu.
(42) Ông Tiết là thuỷ tổ của
nhà Thương, khi trước là bầy tôi hiền tài của vua Thuấn.
(43) Chu Dịch là sách bói
toán, nghe nói do Chu Công Đán soạn ra, sau này Khổng Tử soạn lại, chính là bộ
Kinh Dịch nổi tiếng hiện nay.
(44) Ô Ngư là con cá đen,
không rõ đây là điển tích g ì.
(45) Nhị tổ ở đây tức là Hán
Cao Tổ Lưu Bang dựng nghiệp Tây Hán và Hán Quang Vũ Lưu Tú dựng nghiệp Đông
Hán.
(46) Nguyên văn là ‘bổn chi
bách thế’, bổn là ngành trưởng, chi là ngành thứ, dịch thoát ý.
(47) Thọ chung là nói Tháo
mới chết.
(48) Theo thứ tự lễ nghi tông
miếu thời cổ thì một đời là hàng chiêu, hai đời là hàng mục, bên tả là hàng
chiêu, bên hữu là hàng mục.
(49) Tức Lục Tốn.
(50) Hán Thư là bộ sử do Ban
Cố đời Hán soạn ra, Lễ ký là bộ sách cổ nói về lễ nghĩa do Khổng Tử chỉnh lý,
Lục Thao là sách binh thư do Khương Tử Nha soạn ra, Thương quân thư là sách dạy
về quyền thuật của Thương Ưởng người nhà Tần soạn.
(51) Chỉ các cuốn sách của
Thân Bất Hại, Hàn Phi Tử, Quản Trọng, Khương Tử Nha soạn ra, đều là những sách
nói về cái thuật trị quốc và b inh pháp.
(52) Hán Văn Đế là vua nhà
Tây Hán, lên nối ngôi Hán Vũ Đế, thời ấy cách thời của Lưu Bị chừng ba trăm
năm.
(53) Tức Tào Tháo.
(54) Kẻ kia tức là Tào Tháo
vậy.
QUYỂN 3 - HẬU CHỦ
HẬU CHỦ TRUYỆN
Hậu Chủ huý Thiện, tự Công Tự, con trai Tiên Chủ. Năm Kiến An thứ
hai mươi tư, Tiên Chủ lên làm Hán Trung vương, lập (Hậu Chủ) làm vương Thái Tử.
Đến khi xưng tôn hiệu (1) có sắc(2) phong rằng: ”Duy ngay Tân Tị tháng năm năm
Chương Vũ thứ nhất. Hoàng Đế thuận nói: Thái Tử Thiện, trẫm gặp lúc vận mệnh
nhà Hán lâm nguy, bọn phản thần tặc tử tiếm đoạt. Xã tắc không người làm chủ,
định ra khuôn phép cho mọi người, tụ họp chính đạo. Thuận theo mệnh trời, trẫm
nối ngôi báu. Nay lấy Thiện làm Hoàng Thái Tử, kế thừa tông miếu, cung kính xã
tắc. Lệnh cho người phụng mệnh cầm cờ tiết là Thừa tướng Lượng khoan hãy trao
ấn tín (Thái Tử cho Thiện). Cung kính lắng nghe các bậc sự phụ (xem Thiện) mọi
việc có đều đạt được ”hành nhất vật nhi tam thiện”(3) hay chưa. Có thể không
cần gượng ép (mà trao chức) vậy!”
Lễ ký phần bàn về sự học nói: Người ”hành nhất vật nhi tam thiện”
duy chỉ có bậc Thế Tử mà thôi. Trịnh Huyền(4) sau này nói: chữ ”vật” giống như
“sự” vậy.
Tháng tư mùa hạ năm Chương Vũ thứ ba, Tiên Chủ hoăng ở Vĩnh An
cung.
Tháng năm (cùng năm), Hậu Chủ lên nối ngôi ở Thành Đô, lúc đó mười
bảy tuổi. Tôn Hoàng Hậu làm Hoàng Thái Hậu, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu.
Nguỵ lược chép: Trước Bị ở Tiểu Bái, không ngờ quân Tào Công (đánh)
tới, kinh hoảng bỏ cả gia quyến, sau chạy vào Kinh Châu. Thiện lúc đó mới vài
tuổi, thay đổi tên họ bỏ trốn, theo người ta chạy sang phía tây vào địa phận
Hán Trung rồi bị họ đem bán. Đến năm Kiến An thứ mười sáu, Quan Trung loạn lạc,
một người Phù Phong lưu tán chạy nạn vào Hán Trung mua được Thiện. (Người ấy)
hỏi ra, biết Thiện là con nhà tử tế bèn nuôi như con, còn giúp (Thiện) lấy vợ,
sinh được một con. Lúc trướcThiện với Bị lạc nhau, còn biết được cha mình tự là
Huyền Đức. (Bị) có người thân cận mang họ Giản. Khi Bị chiếm Ích Châu liền dùng
Giản làm tướng quân. Giản được Bị sai đến Hán Trung, nghỉ tại phòng trọ dành
cho sứ tiết trong đô thành. Thiện bèn đến bái phỏng Giản. Giản tra vấn thẩm
định, thấy mọi sự việc bằng chứng đều tương hợp, mừng rỡ nói lại chuyện với
Trương Lỗ. Lỗ bèn sai tẩy trần tắm gội (cho Thiện) rồi đưa vào Ích Châu. Bị lập
(Thiện) làm Thái Tử, lúc đầu lấy Gia Cát Lương làm Thái Tử Thái Phó. (Sau) đến
khi Thiện lên ngôi, dùng Lượng làm Thừa tướng, uỷ thác mọi việc. Lại nói với
Lượng: ”Chính là họ Cát đã cứu Qủa nhân”. Lượng cũng vì Thiện chưa thông thuộc
chính sự bèn tổng quản công việc trong ngoài.
Thần Tùng Chi bàn rằng: Nhị Chủ Phi Tử truyện chép ‘Hậu Chủ sinh ở
Kinh Châu’. Hậu Chủ truyện chép ‘khi lên nối ngôi mười bảy tuổi’. Như vậy (Hậu
Chủ) sinh vào năm Kiến An thứ mười hai. Năm (KiếnAn) thứ mười ba thua ở Trường
Bản, Bị chạy bỏ cả vợ con. Triệu Vân truyện chép ‘Vân tự mình ôm con nhỏ chay
thoát’ chính là Hậu Chủ vậy. Như thế Bị cùng Thiện chưa từng thất lạc. Lại có
Gia Cát Lượng sau khi Thiện lên ngôi một năm lĩnh chức Ích Châu Mục, trong năm
đó bút đàm với Chủ Bộ Đỗ Vi viết ‘Triêu Đình(5) nay mười tám tuổi’, cùng vớ
truyện về Thiện là phù hợp, thứ tự không có gì sai lạc. Cho nên, Nguỵ lược nói
Bị bại ở Tiểu Bái, Thiện lúc ấy tuổi vừa mới sinh, đến khi chạy vào Kinh Châu,
có thể biết cha tự là Huyền Đức, đại khái khoảng năm sáu tuổi. Bị bại ở Tiểu
Bái vào năm Kiến An thứ năm, tính đến khi Thiện lên ngôi, trước sau là hai mươi
tư năm. Thiên tương ứng phải quá hai mươi tuổi. Lấy sự việc so sánh với nhau lý
lẽ là không đúng. Như vây tất thuyết ở Nguỵ lược là xằng bậy vậy mà đến hai
trăm năm sau vẫn còn được đem ra đàm luận, thật là lạ vậy. Lại xét các sách vở
ghi lại cùng Gia Cát Lượng tập cũng không thấy nói Lượng từng làm Thái Tử Thái
Phó.
Mùa hạ năm Kiến Hưng nguyên niên, Tang Ca Thái Thú Chu Bao chiếm
quận làm phản.
Nguỵ Thị Xuân Thu chép: Ban đầu, Ích Châu Tòng Sự Thường Phòng đi
xếp đặt công việc, nghe tin Bao có lòng khác, bèn bắt Chủ Bộ (của Bao) tra khảo
xét hỏi rồi giết đi. Bao phẫn nộ tấn công giết chét Phòng, vu (cho Phòng) tội
mưu phản. Gia Cát Lượng giết các con Phòng, lại đầy bốn người em Phòng đi Việt
Tuyển, muốn làm yên lòng (Bao). Bao vẫn không chừa mà sửa đổi, dấy quân trong
quân làm phản hưởng ứng Ung Khải.
Thần Tùng Chi bàn rằng: Phòng là bị Bao vu hãm, người chấp chính
nên gạn lọc xét đoán, sao lại có chuyện vì an định mà tuỳ tiện giết người vô
tội để làm đẹp lòng kẻ gian tặc được, chỗ này chắc không đúng vậy.
Từ trước, quận Ích Châu có họ lớn của Ung Khải làm phản, bắt Thái
Thú Trương Duệ giải sang Ngô, chiếm quận không theo mệnh lệnh. Di vương ở Việt
Tuyển là Cao Định cũng dấy loạn. Năm ấy (Hậu Chủ) cưới Hoàng Hậu Trương thị.
Lại sai Thượng Thư lang Đặng Chi sang sứ kết thân với Ngô. Ngô vương sai sứ đáp
lễ giảng hoà với Thục. Cùng năm (hai bên) qua lại hoà hảo.
Mùa xuân năm (Kiến Hưng) thứ hai, chuyên cần cầy cấy trồng trọt
lương thực, đóng cửa an dân.
Tháng ba, mùa xuân năm (Kiến Hưng) thứ ba, Thừa tướng Lượng đi đánh
bốn quận phía nam. Bốn quận đều bình định được. Đổi tên quận Ích Châu thành
quận Kiến Ninh. Chia (một phần) quận Kiến Ninh và (một phần) quận Vĩnh Xương
lập ra quận Vân Nam. Lại chia (một phần) quận Kiến Ninh và (một phần) quận Tang
Ca lập ra quân Hưng Cổ.Tháng mười hai (năm đó) Lương quay về Thành Đô.
Mùa xuân năm (Kiến Hưng) thứ tư. Đô Hộ Lý Nghiêm từ Vĩnh An trở về
đóng ở Giang Châu, xây một thành lớn.
Nay là thành cũ của Ba Quận.
Mùa xuân năm (Kiến Hưng) thứ năm, Thừa tướng Lượng dẫn quân ra đóng
đồn ở Hán Trung, lập doanh trại trên sông Miện, phía bắc đường lớn Dương Bình.
Gia Cát Lượng tập chép: Tháng ba Thiện hạ chiếu rằng: ”Trẫm nghe
đạo của đất trời, phúc ở lòng nhân mà hoạ do buông thả. Gom góp điều nhân là
hưng thịnh, tích cóp điều ác là huỷ diệt, đấy là chuyện cổ kim thường thấy vậy.
Như Thang, Vũ sửa đức mà thành vua; Kiệt, Trụ bạo tàn mà bị diệt. Xưa kia gặp
lúc phúc khí nhà Hán suy vi, lưới trời bỏ sót kẻ gian ác hung tàn. Đổng Trác
gây ra tai hoạ làm hư hoại chấn động kinh đô. Tào Tháo là duyên do của tội ác,
lén giữ quyền lực chí cao, tàn hại khắp cả nước, trong lòng không biết đến quân
vương. Đứa trẻ mồ côi đứng một mình, lại dám đảo lộn ngôi thứ, cướp đoạt thần
khí, thay họ đổi việc, làm nên sự tích xấu xa một thời. Vào lúc bấy giờ, đất
trời tăm tối, thiên hạ vô chủ, chính là lúc vận khí của vua ta trải qua cơn suy
biến. Chiêu Liệt Hoàng Đế(6) riêng mình tỏ rõ đức sáng, quang minh xiển dương
văn vũ, ứng với vận khí đất trời, ra tay dẹp loạn, mưu tính chuyện khắp bốn
phương, thân người đều phò trợ, trăm họ cùng chung lo. Muôn dân hớn hở tôn phù.
Kính vâng theo điềm triệu tốt lành, lập nên tôn hiệu, kế thừa thứ tự trời ban,
sửa chữa hình thế khó khăn, hưng thịnh thời buổi suy bại, khôi phục lại sự nghiệp
của tổ tông, gánh vác giềng mối lớn lao, không để tán thất rụng rơi xuông đất.
Nhưng nhiều vùng còn chưa an định, (Tiên Đế) đã vội sớm xa lìa nhân thế. Trẫm
còn thơ dại, nối theo nắm giữ cơ đồ, chưa quen huấn thị dạy dỗ, nhưng lấy ràng
buộc của tổ tông làm trọng. Sáu cõi chưa vun đắp được, xã tắc chưa dựng xây
xong, là điều (trẫm) luôn ưu tư mãi, mong được nâng đỡ cứu vớt làm rạng rỡ sự
nghiệp trước kia. Chưa làm nên việc, trẫm rất lấy làm sợ hãi. Do đó thức khuya
dậy sớm, không dám nghỉ ngơi, luôn theo một đường cần kiệm mong làm lợi cho
việc nước. Khích lệ người có thân phận chuyên tâm vào việc trồng cấy để mau
giàu mạnh sức dân, giao cho bậc hiền năng ngay thẳng đảm đương chức vị để có
thể nghe lời can gián đàn hặc. Đoạn tuyệt hàng ý riêng tư mà nuôi tướng sĩ.
Những mong vung kiếm bôn tẩu đường xa, trỏ đánh kẻ loạn tặc, hồng kỳ chưa vội
phất, thì Phi sớm lìa đời, thật là củi ta chưa đốt mà đã tự cháy. Nhưng loài
tàn ác có thừa nhơ nhuốc vẫn nghêng ngang phóng túng ở vùng Hà, Lạc(7), ngăn
trở chẳng để việc binh được nghỉ ngơi. Gia Cát thừa tướng cương nghị trung
trinh, dốc lòng vì nước, (vì thế) Tiên đế trao việc thiên hạ, phù trợ quả nhân.
Nay ban cho mao việt, cùng với phó thác trọng quyền, thống lĩnh bộ kỵ hai mươi
vạn binh, nắm giữ nguyên nhung, thay trời tru phạt, trừ hoạn dẹp loạn, chiếm
lại kinh đô, chính là dịp này. Ngày xưa, Hạng Tịch(8) binh tướng hùng mạnh,
chiếm đất nuốt châu, công nghiệp lớn lao, cuối cùng binh bại Cai Hạ, chết tại
thành đông. Tông tộc giết nhau, bêu xấu ngàn năm. Nguyên do là vì không theo
đạo nghĩa, lấn hiếp người trên, ngược đãi kẻ dưới vậy. Ngày nay kẻ giặc bức
vua, trời người đều oán. Nay được lệnh rồi, việc quân nên chóng, nhờ hồng phúc
tổ tông tương trợ, đánh đâu thắng đó. Ngô vương Tôn Quyền đồng lòng thương xót
dân chúng tao loạn, giấu quân cùng mưu, lập thế ỷ giốc phía sau. Quốc quân các
tộc vùng Lương châu ra lệnh cho chư hầu người Hồ nước Nhục Chi, Khang Cư đóng
góp tiền của, hơn hai mươi người nước Khang Trực nhận chức Tiết Độ, đại quân
bắc tiến, thống xuất binh mã, giương giáo đi đầu. Thiên mệnh đã đầy, nhân sự
lại đủ, binh hùng thế mạnh, ắt phải vô địch. Phàm đao quân vương đạo, đã xuất
chinh ắt chiến thắng, tôn phù chính nghĩa, ai dám đương cự. Xưa, sự biến Minh
Điều(9), quân binh vũ khí không lấm máu, trận chiến Mục Dã(10), người Thương
trở giáo quy hàng. Nay cờ soái đi đầu, nơi nào đă qua, thật không muốn cùng
binh độc vũ. Người dân nào biết bỏ tà quy chánh, mang giỏ cơm bầu nước nghênh
đón vương sư, chiếu theo phép nước, mỗi ngươi phong thưởng, lớn nhỏ khác nhau.
Người trong tông thất nhà Ngụy, bất kể trục hệ bàng chi, cân nhắc lợi hại, biết
lẽ thuận nghịch, đến
quy thụân ta,
đều đươc phong
tước. Ngày xưa,
Phụ
Quả(11) đổi họ từ họ Trí, chỉ mong tông tộc khỏi tuyệt diệt; Vi
Tử(12) bỏ nhà Ân, Hạng Bá(13) hàng nhà Hán, đều được vinh dự phong vương hầu.
Đó là những gương sáng đời trước. Còn bọn mê lầm không tỉnh, trợ giúp giặc
loạn, không phục vương mệnh, giết cả vợ con, không hề khoan xá. Tuyên cáo ân uy,
nguyên soái ra uy, chẩn cứu nạn dân. Còn như chiếu thư luật lệnh, thừa tướng
phát hịch khắp nơi. Làm rõ ý trẫm.”
Mùa xuân năm (Kiến Hưng) thứ sáu, Lượng ra đánh Kỳ Sơn, không thắng
được. Mùa đông (năm ấy) lại ra Tán Quan, vây Trần Thương, hết lương phải rút
lui. Nguỵ tướng Vương Song mang quân đuổi theo Lượng. Lượng giao chiến (với
Song) đánh bại, chém chết Song rồi trở về Hán Trung.
Mùa xuân năm (Kiến Hưng) thứ bảy, Lượng sai Trần Thức tấn công Vũ
Đô, Âm Bình cuối cùng thắng trận, an định được hai quận. Mùa đông (năm ấy),
Lượng dời đại bản doanh ở nam sơn đến vùng bình nguyên, lại xây Hán - Nhạc hai
thành. Cùng năm Tôn Quyền xưng đế, kết giao với Thục thề ước cùng chia thiên
hạ.
Mùa thu năm (Kiến Hưng) thứ tám. Nguỵ sai Tư Mã Ý từ Tây Thành,
Trương Cáp từ Tí Ngọ, Tào Chân từ Tà Cốc theo đường núi rất khoa trương tiến
lại, muốn đánh Hán Trung. Thừa tướng Lượng phòng bị bằng cách bền thành và làm
kế thanh dã ở các dốc núi. Trời mưa lớn cắt đứt đường xá, bọn Chân đều quay về.
Cùng năm, Nguỵ Diên đánh bại Ung Châu Thứ Sử nước Nguỵ là Quách Hoài ở Dương
Khê. Chuyển phong Lỗ Vương (Lưu) Vĩnh làm Cam Lăng Vương; Lương Vương (Lưu) Lý
làm An Bình Vương đều vì Lỗ Lương nằm tại biên giới với Ngô.
Tháng hai mùa xuân năm (KiếnHưng) thứ chín, Lương lại ra quân vây
Kỳ Sơn, lần đầu tiên dùng trâu gỗ vận tải. Nguỵ tướng Tư Mã Ý, Trương Cáp ra
cứu Kỳ Sơn. Tháng sáu, mùa hạ (năm ấy), Lượng lương hết phải chuyển quân, Cáp
đuổi theo đến chỗ núi hoang, giao chiến với Lượng, bị trúng tên chết. Tháng
tám, mùa thu (cùng năm), phế đô hộ Lý Bình đưa ra quận Tử Đồng.
Hán Tấn xuân thu chép: mùa đông tháng mười, từ Giang Dương đến
Giang Châu co chim từ bờ nam vượt sông bay sang bờ bắc mà không đến nơi rơi
xuống nước chết có đến hàng nghìn.
Năm (Kiến Hưng) thứ mười, Lượng cho quân sĩ nghỉ ngơi, khích lệ
việc trồng cấy ở vùng đất cát, chế tác hoàn tất trâu gỗ ngựa máy, luyện binh
giảng võ.
Năm (Kiến Hưng) thứ mười một, Lượng ra lệnh cho các đơn vị chuyển
lương, tập kết ở cửa Tà Cốc, sắp xếp các kho lẫm (chứa lương) ở đó. Cùng năm,
Nam Di Lưu Trụ làm phản. Tướng quân Mã Trung đánh bại (Lưu Trụ) bình định vùng
ấy.
Tháng hai, mùa xuân năm (Kiến Hưng) thứ mười hai, Lượng từ Tà Cốc
xuất chinh, lần đầu tiên dùng ngựa máy vận chuyển. Tháng tám mùa thu (năm ấy)
Lượng chết ở Vị Tân. Chinh Tây Đại tướng quân Nguỵ Diên cùng Trưởng Sử phủ Thừa
tướng Trương Nghi bất hoà đem quân đánh lẫn nhau.Diên thất bại bỏ chạy. Chém
đầu Diên, Nghi thông suất ba quân quay về Thành Đô. Đại xá thiên hạ. Lấy Tả
tướng quân Ngô Nhất(14) làm Xa Kỵ tướng quân, ban cho giả tiết đốc lĩnh Hán
Trung. Lấy Trưởng Sử lưu thủ phủ Thừa tướng Tưởng Uyển làm Thượng Thư Lệnh nắm
giữ toàn bộ quốc sự.
Tháng giêng, mùa xuân năm (Kiến Hưng) thứ mười ba, phế Trung Quân
sư Dương Nghi, đày đến quận Tử Đồng. Tháng tư mùa hạ (năm ấy) , thăng Tưởng
Uyển làm Đại tướng quân.
Tháng tư năm (Kiến Hưng) thứ mười bốn, Hậu Chủ đến Tiễn, Thần Tùng
Chi xét: Tiễn là tên huyện, thuộc Thục Quận.
Trèo lên dốc núi quan sát, ngắm nước sông Vấn chảy qua, sau mười
ngày quay về Thành Đô. Dời quốc quân người Đê là Phù Kiện cùng hơn bốn trăm hộ
người Đê từ Vũ Đô về Quảng Đô.
Tháng sáu mùa hạ năm(Kiến Hưng) thứ mười lăm, Hoàng Hậu Trương thị
hoăng. Tháng giêng mùa xuân năm Diên Hi thứ nhất, lập Hoàng Hậu Trương thị. Đại
xá, đổi niên hiệu. Lập con là Tuyền làm Thái tử, Dao làm An Định Vương. Mùa
đông tháng mười một (năm ấy), Đại tướng quân Tưởng Uyển ra đóng quân ở Hán Trung.
Tháng ba mùa xuân năm (Diên Hi) thứ hai, đề cử Tưởng Uyển làm Đại
Tư mã.
Mùa xuân năm (Diên Hi) thứ ba, sai Việt Tuyển Thái Thú Trương Nghi
bình định quận Việt Tuyển Tháng mười, mùa đông năm (Diên Hi) thứ tư, Thượng Thư
lệnh Phí Y đến Hán Trung, cùng Tưởng Uyển thương lượng bàn luận kế sách mưu
lược, cuối năm quay về.
Tháng giêng mùa xuân năm (Diên Hi) thứ năm, Giám quân Khương Duy đị
giám sát các đạo quân bên ngoài từ Hán Trung về đóng đồn ở Phù huyện.
Tháng mười mùa đông năm (Diên Hi) thứ sáu, Đại Tư mã Tưởng Uyển từ
Hán Trung quay về đóng quân ở Phù (huyện). Tháng mười một (năm ấy) đại xá. Lấy
Thượng Thư lệnh Phí Y làm Đại tướng quân.
Tháng nhuận năm (Diên Hi) thứ bảy, Nguỵ Đại tướng quân Tào Sảng, Hạ
Hầu Huyền tiến vào Hán Trung. Trấn Bắc Đại tướng quân Vương Bình cự địch ở
quanh Hưng Thế (Sơn). Đại tướng quân Phí Y thống lĩnh chư quân ra cứu viện.
Quân Nguỵ rút lui. Tháng tư mùa hạ (năm ấy), An Bình Vương (Lưu) Lý chết. Tháng
chín mùa thu, Y trở về Thành Đô.
Tháng tám mùa thu năm (Diên Hi) thứ tám, Hoàng Thái Hậu hoăng.
Tháng mười hai (năm ấy) Đại tướng quân Phí Y đến Hán Trung, tiến hành phòng vệ.
Tháng sáu, mùa hạ năm (Diên Hi) thứ chí, Phí Y trở về Thành Đô. Mùa
thu, đại xá. Tháng mười một mùa đông, Đại Tư mã Tưởng Uyển chết.
Nguỵ lược chép: Uyển chết, Thiện bèn tự năm giữ quốc sự.
Năm (Diên Hi) thứ mười, các Hồ Vương vùng Lương Châu là Bạch Hổ
Văn, Trị Vô Đái dẫn bộ thuộc đến hàng. Vệ tướng quân Khương Duy đón tiếp phủ
dụ, đưa về trú tại Phồn guyện.Năm ấy người Di Bình Khang ở Vấn Sơn làm phản,
Duy đến đánh, phá được giặc, bình định vùng ấy.
Tháng năm mùa hạ năm (Diên Hi) thứ mười một, Đại tướng quân Phí Y
ra đóng đồn ở Hán Trung. Mùa thu (cùng năm) dân thuộc quốc Phù Lăng làm loạn,
Xa Kỵ tướng quân Đặng Chi đến thảo phạt, đều phá được giặc, bình định được hết
cả.
Tháng giêng năm (Diên Hi) thứ mười hai, Nguỵ giết bọn Đại tướng
quân Tào Sảng. Hữu tướng quân (nước Nguỵ) Hạ Hầu Bá đến hàng. Tháng tư mùa hạ
(cùng năm), đại xá. Mùa thu (năm ấy), Vệ tướng quân Khương Duy xuất quân đánh
Ung Châu, không thắng được bèn quay về. Tướng quân Cú An, Lý Thiều hàng Nguỵ.
Năm (Diên Hi) thứ mười ba, Khương Duy lại dẫn quân ra Tây Bình,
không thu được kết quả lại quay về.
Năm (Diên Hi) thứ mười bốn, mùa hạ, Đại tướng quân Phí Y trở về
Thành Đô. Mùa đông (cùng năm) lại đi lên phía bắc, lưu lại ở Hán Thọ. Đại xá.
Năm (Diên Hi) thứ mười lăm, Ngô Vương Tôn Quyền hoăng. (Hậu Chủ)
Lập con là Tông làm Tây Hà Vương.
Tháng giêng mùa xuân năm (Diên Hi) thứ mười sáu, Đại tướng quân Phí
Y bị hàng tướng Quách Tuần giết hại ở Hán Thọ. Tháng tư mùa hạ (năm ấy), Vệ
tướng quân Khương Duy lại xuất quân ra Nam An, không thắng được phải trở về.
Tháng giêng mùa xuân năm (Diên Hi) thứ mười bảy, Khương Duy trở về
Thành Đô. Đại xá. Tháng sáu mùa hạ (năm ấy), duy lại dẫn quyân ra Lũng Tây. Mùa
đông, dời dân ba huyện Địch Đạo, (Hà Gian) (Hà Quan), Lâm Thao vào sống ở Miên
Trúc và Phồn huyện.
Mùa xuân năm (Diên Hi) thú mười tám, Khương Duy về Thành Đô. Mùa Hạ
(năm ấy) lại dẫn quân ra Địch Đạo, cùng Ung Châu Thứ Sử nước Nguỵ là Vương Kinh
giao chiến ở Thao Tây, đại thắng. Kinh chạy về giữ thành Địch Đạo, Duy lui lại
đóng ở Chung Đề.
Mùa xuân năm (Diên Hi) thứ mười chín, đề cử Khương Duy lên địa vị
Đại tướng quân, cai quản binh mã. Duy cùng Trấn Tây tướng quân Hồ Tế ước hẹn
hội quân ở Thương Nhai. Tế thất hẹn không đến. Tháng tám mùa thu (năm ấy), Duy
bị Nguỵ Đại tướng quân Đặng Ngải đánh bại ở Thượng Nhai. Duy rút quân trở lại
Thành Đô. Cùng năm, lập con là Toản làm Tân Bình Vương. Đại xá.
Năm (Diên Hi) thứ hai mươi, nghe tin Nguỵ Đại tướng quân Gia Cát
Đản ở Thọ Xuân làm phản, Khương Duy lại dẫn quân ra Lạc Cốc, đánh đến Mang
Thuỷ. Năm ấy đại xá.
Đổi niên hiêu thành Cảnh Diệu nguyên niên. Khương Duy quay về Thành
Đô. Sử quan nói Cảnh tinh hiển hiện, vì vậy đại xa, đổi niên hiệu. Hoạn quan
Hoàng Hạo bắt đầu nắm hết quyền chính. Ngô Đại tướng quân Tôn Lâm phế chúa là
(Tôn) Lượng, lập Lang Nha Vương Tôn Hưu (làm vua)
Năm (Cảnh Diệu) thứ hai, tháng sáu mùa hạ, lập con là Kham làm Bắc
Địa Vương, Tuân làm Tân Hưng Vương, Kiền làm Thượng Đảng Vương.
Tháng chín mùa thu năm (Cảnh Diệu) thứ ba, truy thuỵcố tướng quân
Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Bàng Thống, Hoàng Trung.
Tháng ba mùa xuân năm (Cảnh Diệu) thứ tư, truy thuỵ cố tướng quân
Triệu Vân.
Tháng giêng mùa xuân năm (Cảnh Diệu) thú năm, Tây Hà Vương Tông chết.
Cùng năm, Khương Duy lại dẫn quân ra Hầu Hoà, bị Đặng Ngải đánh bại, quay về
đóng ở Đạp Trung.
Mùa hạ năm (Cảnh Diệu) thứ sáu, Nguỵ cất đại quân, lệnh cho Chinh
Tây tướng quân Đặng Ngải, Trấn Tây tướng quân Chung Hội, Ung Châu Thứ Sử Gia
Cát Tự mấy đường cùng tấn công. Vì thế (Hậu Chủ) sai Tả Hữu Xa Kỵ tướng quân
Trương Dực, Liêu Hoá; Phụ Quốc tướng quân Đổng Quyết ra chống địch. Đại xá, đổi
niên hiệu thành Viêm Hưng. Mùa đông năm ấy, Đặng Ngải đánh bại Vệ tướng quân
Gia Cát Chiêm ở Miên Trúc. (Hậu Chủ) dùng kế sách của Quang Lộc Đại phu Tiếu
Chu, ra hàng Ngải, dâng thư rằng: ”Giới hạn phân chia Giang - Hán, nhìn rõ mới
thấu thâm sâu. Đất Thục đẳng bậc ở ngoài rìa, nhỏ bé riêng một góc, lỗ mãng
trái với mệnh trời, một thời dần dần đã trôi qua, cùng với kinh kỳ cách xa hàng
vạn dặm. Thường nghĩ đến những năm Hoàng Sơ(15) Văn Hoàng Đế(16) chọn lấy Hổ
Nha tướng quân là tiên phụ mà ban lệnh, tuyên bố mật chiếu, trình bày ân điển,
(cho) thiết lập đất đai môn hộ, tỏ rõ đại nghĩa. Chỉ vì đức bạc tài hèn, tham
việc tư riêng bỏ sót sự nghiệp, cúi xuống ngẩng lên làm hại phép nước, chưa
thuận theo được kỷ cương. Thiên oai chấn động khắp nơi, thần người đều vì thuận
với số mệnh mà theo về, việc khiếp hãi vương sư thần vũ chỉ là thứ yếu. Mạo
muội cũng chẳng dám vắng mặt, xin quy phụ mà nghe theo mạng lệnh! Nay lập tức
răn bảo các tướng quẳng thương cởi giáp; quan lại gắng sức gìn giữ kho tàng,
một thứ cũng không huỷ hoại. Aó vải bình dân lương thực có dư cho phép nghỉ
ruộng để đợi ân trạch sau này mà bảo toàn tính mạng cho trăm họ. Cúi mong Đại
Nguỵ ban bố ân đức, thiết trí giáo hoá. Như bậc tể phụ Y, Chu(17) bao dung
người thua cuộc, chứa chấp kẻ khốn cùng. Kính sai bọn bọn liêu thuộc ở tư gia là Thị Trung Trương
Thiệu, Quang Lộc Đại phu Tiếu Chu, Phụ Mã Đô Uý Đặng Lương mang ấn tín đến dâng
lên, thỉnh cầu mệnh lệnh, trình báo lòng thành, dâng nộp điều trung. Sống chết
ban cho, chỉ tuỳ phán xét. Xe áo quan đang ở sát bên, không dám rườm lời mà
phân bua cặn kẽ.” Hôm đó, Bắc Địa Vương Kham đau đớn vì mất nước mà chết. Trước
giết vợ con, sau tự ải chết.
Hán Tấn Xuân Thu chép: Hậu Chủ thuận theo kế sách của Tiếu Chu. Bắc
Địa Vương Kham giận nói: ”Nếu như lý đuối lực tàn, hoạ hoạn khó tránh, dù cho
cha con vua tôi dựa lưng vào tường thành mà đánh một trận, chết cùng xã tắc,
cũng có thể gặp mặt Tiên Đế vậy.” Hậu Chủ không chấp thuận, rút cuộc sai đưa ấn
tín đi (dâng nộp). Hôm ấy, Kham khóc trong Chiêu Liệt miếu, rồi trước giết vợ
con sau tự sát chết. Tả hữu không ai không rơi lệ khóc.
Thiệu, Lương cùng Ngải gặp nhau ở Lạc huyện. Ngải nhận được thư
(hàng) rất mừng,lập tức viết thư hồi đáp, Vương Ân Thục Ký chép: Thư hồi báo
của Ngải nói: ”Phép tắc vương giả để lạc phương hướng, quần hùng trỗi dậy, long
hổ chiến tranh, cuối cùng thuộc về chân chủ, đó đại khái là cái đạo đi về của
thiên mệnh vậy. Từ xưa thánh đế rồi đến Hán Nguỵ, nhận mệnh trời làm vuatuyệt
chẳng có ai không ở tại Trung thổ. Hà xuất Đồ, Lạc xuất Thư(18) đều là khuôn
phép của thánh nhân, hưng thịnh nghiệp lớn mà không có nguồn gốc từ đó, chưa có
ai là không đảo điên nghiêng đổ. Ngỗi Hiêu(19) nương tựa vào đất Lũng mà bị bại
vong, Công Tôn Thuật(20) chiếm cứ đất Thục mà bị tiêu diệt là vết xe đổ làm
gương từ đời trước vậy. Thánh Thượng anh minh, tể thần lương đống, sánh vai
cùng nhau hưng khởi nhà vàng, lập nên huân lao to lớn một thời. (Tôi) Vâng mệnh
lai chinh, vẫn nghĩ đến âm hưởng tốt lành nghe được, quả nhiên chỉ phiền sứ giả
lại qua, thông báo phúc tin, đây chẳng phải việc của người, há là trời mở cửa
hay sao! Xưa Vi Tử theo Chu, đích xác làm thượng khách. Bậc quân tử biết ứng
phó, bảo tồn đạo nghĩa trong biến động, tới với lời lẽ ôn hoà khiêm cung, lấy
lễ mà vác quan tài, đều là điển cố theo mệnh trời mà người sáng suốt đời trước
đã làm. Nay bảo toàn quốc gia là thượng sách, huỷ hoại quốc gia là tầm thường.
Tự mình không thấu hiểu thông suốt lý sự này, sao có thể tỏ rõ đạo nghĩa của
bậc vương giả được!” Thiện lại sai Thái Thường Trương Tuấn, Ích Châu Biệt Gía
Nhữ Siêu nhận lấy phù tiết. Sai Thái Phó Trương Hiển đem mệnh lệnh ra răn bảo
Khương Duy. Lại saiThượng Thư lang Lý Hổ đem hộ khẩu sổ dân đến nộp. Tổng cộng
hai mươi tám vạn hộ, nam nữ chín mươi tư vạn người, giáp binh tướng sĩ mười vạn
hai nghìn, quan chức bốn vạn người. Gạo hơn bốn mươi vạn hộc; vàng bạc các loại
hai nghìn cân; gấm, lụa hoa, lụa màu, lụa sống các loại hơn mươi vạn thếp và
nhiều thứ khác.
sai Thiệu Lương về trước. Ngải đến cửa bắc thành, Hậu Chủ khiêng
quan tài, tự trói đến cửa quân môn. Ngải đốt quan tài, cởi trói (cho Hậu Chủ)
mời vào gặp mặt.
Tấn Chư Công Tán chép: Lưu Thiện cưỡi xe la đến yết kiến Ngải không
kể đến lễ số của kẻ vong quốc.
(Ngải) Nhân đó thuận theo quy chế phong Hậu Chủ làm Phiêu Kỵ tướng
quân. Những người tiết tháo xung quanh, gặp phải lời răn bảo của Hậu Chủ, về
sau phải chịu khuất phục. Ngải an trí Hậu Chủ trong cung cũ, tự mình qua lại
thăm hỏi, chỗ nương nhờ chưa có gì khe khắt. Tháng giêng năm sau, Ngải bị bắt.
Chung Hội từ Phù đến Thành Đô gây loạn. Chẳng được bao lâu Hội chết, trong Thục
quân binh cướp bóc giết tróc, người chết ngổn ngang mất vài ngày mới an ổn lại.
Cả nhà Hậu Chủ bị chuyển sang đông, không lâu đến được Lạc Dương.
Sách mệnh viết
rằng: ”Duy tháng
ba năm Đinh
Hợi, niên hiệu Cảnh Nguyên thứ năm. Hoàng Đế ngự ra bên
ngoài chính điện. Sai quan Thái Thường gia mệnh Lưu Thiện làm An Lạc huyện
công. Trong lúc nhà trò hát xướng, lên nghe lệnh trẫm! Ôi! Nối tiếp trời cao,
nâng đỡ vạn vật, lấy điều hết thảy cùng trông ngóng làm trọng yếu, an định
thiên hạ, theo thời thế ôn hoà làm nên hưng vượng. Tự mình dưỡng dục chúng sinh
ấy là cái đạo của bậc quân vương. Mà thuận theo ý trời ấy là cái nghĩa làm mẹ
của muôn dân. Trên dưới quan lại thuận hoà, vạn vật nhờ thế rồi mới tốt tươi,
bách tính được hưởng thụ thái bình. Nếu như Hán thị mất người nối vào tông thống,
sáu cõi sẽ đều nhiễu nhương chấn động. Bản Thái Tổ(21) thuận theo vận mệnh,
hưng khởi nghiệp rồng, cứu giúp rộng rãi khắp tám phương, là bởi dùng lẽ hoà
theo đạo trời, thuận lòng lê dân, có tâm an ủi vỗ về lớn nhỏ. Đương thời cha
người nhân khi quần kiệt mạnh mẽ tương tranh nhiều lần chẳng chịu an định. Lợi
dụng trời đất xa xôi cách trở, chiếm giữ thành trì xứ Thục, nên khiến một góc
phía tây biên giới thành ra khu biệt, cương vực bên ngoài ách tắc cách ngăn. Từ
đó, chinh chiến không ngừng, bách tính lê dân không được bảo an tính mạng, đến
nay đã được gần năm kỷ(22). Di chí tổ tông để lại trẫm luôn hằng nhớ, tâm tư
mãi để vào việc vỗ về phủ dụ, tập họp cả bốn bể, thống lĩnh quốc thổ cùng đi
một đường, cho nên tu sửa lục quân, tỏ rõ oai phong ở vùng Lương Ích. Công(23)
đức độ cao vời, nghiêm nhặt kiên trì đạo chính, chẳng sợ uỷ khuất đem thân làm
tin, lấy tình thương dân toàn quốc làm trọng, nén lòng sửa đổi lo toan, biến
báo cập thời, hành vi lời nói đều theo thứ tự, đáng được nhận phúc lộc vô cùng
dành cho kẻ tả hữu, há có thể xa rời hay sao! Trẫm rất đẹp lòng, vua tôi chung
hưởng an bình rạng rỡ dài lâu, để tham cứu lời răn dạy của tiền nhân, đáp đền
công lao cho người khai quốc. Noi theo
tích cũ, này con bò đen, kia gói cỏ trắng, mãi mãi là phụ thần nước Nguỵ, luôn
luôn tôn kính vậy. Công nếu quả cung kính mà phục tùng lệnh trẫm, có thể mở
rộng đức tâm, cuối cùng rồi sẽ vẻ vang hiển hách.”
Thực ấp vạn hộ, lụa được ban vạn thếp, nô tì một trăm người, ngoài
ra các vật đều xứng đáng. Con cháu có ba người làm Đô Uý, được phong Hầu hơn
năm mươi người. Bọn Thượng Thư Lệnh Phàn Kiến, Thị Trung Trương Thiệu, Quang
Lộc Đại phu Tiếu Chu, Bí Thư Lệnh Khích Chánh, Điện Trung Đốc Trương Thông thảy
đều được phong làm Liệt Hầu.
Hán Tấn Xuân Thu chép: ‘Tư Mã Văn Vương(25) cùng Thiện dự yến, trong tiệc cử hành nhạc điệu có nguồn gốc từ
đất Thục. Người xung quanh đều động lòng cảm thương chua xót, nhưng Thiện vẫn
cười nói như thường. Vương nói với Gỉa Sung rằng: ”Người vô tình có thể đến thế
này sao! Ví phỏng dù Gia Cát Lượng còn tại thế, cũng không thể giúp đỡ dài lâu
chu chu toàn cho nổi, huống chi là Khương Duy?” Gỉa Sung đáp: ”Nếu không phải
vậy, Điện hạ vì cớ gì mà gồm thâu được.” Ngày khác, Vương hỏi Thiện rằng: ”Có
nhớ đất Thục lắm không?” Thiện đáp: ”Chỗ này vui lắm, không nhớ gì Thục cả.”
Khích Chánh nghe được, xin gặp Thiện nói: ”Nếu Vương lại hỏi đến, nên khóc mà
đáp rằng: ‘Phần mộ tổ tiên nằm ở đất Lũng Thục xa xôi, bởi vậy trong long
thương nhó miền tây, không ngày nào không không hoài niệm’, nhân đó mà nhắm
mắt.”. Đến khi Vương hỏi lại, (Thiện) đáp như trên. Vương nói: ”sao chỉ giống
như lời Khích Chánh vậy!” Thiện kinh hãi nói: ”Qủa đúng như lời ngài.” Tả Hữu
đều bật cười.
Công hoăng (24) năm Thái Thuỷ(25) thứ bảy ở Lạc Dương. Thục ký
chép: Thuỵ là Tư Công Tử Tuân Tự.
Bình rằng: Hậu Chủ lúc uỷ nhiệm cho trung thân hiền tướng thì là
bậc quân vương biết theo lý lẽ, đến khi bị mê hoặc bởi hoạn quan, người hầu thì
thành ra hôn quân ám chúa. Sách nói rằng ”tơ sống không bền chắc, được cái dễ
bị nhuộm” quả nhiên là vậy! Lễ nói, quốc quân kế tục thể chế, vươt san năm mời
thì thay niên hiệu, nhưng ngay năm Chương Vũ thứ ba liền chuyển sang goi là
Kiến Hưng. Tham cứu ý nghĩa từ cổ đại, thấy (việc này) trái với đạo lý. Lại
thêm quốc gia không thiết lập cơ quan chuyên về sử sách, sự kiệ không có người
biên chép, do đó việc làm phần lớn bị bỏ sót, tai hoạ kỳ sự cũng chẳng được ghi
lại. Gia Cát Lượng tuy thông đạt ở mặt sách lược pháp lệnh, song cũng là loại
tầm thường, vì vậy trải qua nhiều năm mà chưa chu toàn được việc này. Nhưng coi
sóc sửa sang công việc mười hai năm niên hiệu không xê dịch, việc quân luôn
phát động mà không tuỳ tiện ban bố đại xá, cũng không phải là trác tuyệt hay
sao. Từ khi Lượng chết về sau, quy chế dần suy sụp, hơn kém rõ rệt vậy.
Hoa Dương Quốc Chí chép: Thời Lượng làm Thừa tướng, có lời bàn rằng
tiếc không có công đại xá. Lượng đáp: ”Trị nước cần đức lớn chứ không dùng ơn
nhỏ. Xưa Khuông Hành(27), Ngô Hán(28) không đồng ý thi hành đại xá. Tiên Đế
cũng từng có lời sai ta chu toàn nhà của cho Trần Nguyên Phương, Trịnh Khang
Thành(29), mỗi lần gặp gỡ thì bẩm bạch báo lại. Cái đạo lý trị loạn tất phải là
như vậy mà không cần bàn chuyện đại xá. Cứ như Lưu Cảnh Thăng(30) hay cha con
Quý Ngọc(31) mỗi năm lại đại xá mà có giúp ích gì cho việc trị nước.”
Thần Tùng Chi thấy rằng: ”Không tuỳ tiện ban bố đại xá” quả thật có
thể tán dương. Còn như ”niên hiệu không xê dịch” thì vẫn chưa đạt đến. Xét niên
hiệu như Kiến Vũ(32), Kiến An(33) đều rất lâu không thay đổi mà chưa nghe sử
sách xưa kia đàm luận ngợi khen gì. ”Coi sóc sửa sang công việc mười hai năm”
không thể coi là trác tuyệt. Tách biệt (giai đoạn trước và sau khi Lượng chết)
vốn là có ý khác, mà lập luận chẳng đến nơi. Sau khi Lượng chết là những năm
niên hiệu Diên Hi có đến hơn hai mươi năm sung mãn, (cho nên) nói đến ”quy chế
dần dần suy sụp” lại là chẳng đúng.
CHÚ THÍCH
(1) Lên làm Hoàng Đế.
(2) Chiếu vua ban dùng riêng
cho việc phong chức ban tước.
(3) Lam một việc đạt được ba
điều thiện
(4) Đại nho đời Hán.
(5) Đỗ Vi tự nhận mình điếc
nên giao thiệp bằng cách viết ra giấy, xem thêm Đỗ Vi truyện, Thục thư quyển
12.
(6) Chiêu Liệt là miếu hiệu
của Lưu Bị.
(7) Hoàng Hà, Lạc Thủy
(8) Hạng Tịch là tên thật của
Hạng Vũ.
(9) Thành Thang nhà Ân Thương
đánh bại vua cuối cùng nhà Hạ là Kiệt ở Minh Điều nhưng không giết mà chỉ bắt
kẻ thua trận đi đày ở Nam Sào.
(10) Văn Vương đánh Trụ Vương
nhà Ân Thương để lập nên nhà Chu, trận chiến quyết định diễn ra ở Mục Dã. Quân
nhà Thương đông hơn nhưng không muốn chiến đấu vì hôn quân nên phần lớn buông
giáo đầu hàng.
(11) Phụ Quả vốn là Trí Quả
của Trí thị - cường thần nước Tấn thời Xuân Thu Chiến Quốc. Trí Tử giao quyền
điều hành Trí thị cho Trí Bá, Trí Quả không bằng lòng bèn đổi sang họ Phụ,
tuyệt giao với Trí thị nhờ đó tránh được họa diệt tộc khi Trí thị bị Triệu thị,
Ngụy thị, Hàn thị liên kết lật đổ.
(12) Vi Tử (Khải) là em cùng
mẹ của Trụ Vương, đầu hàng nhà Chu, lúc đầu giữ địa vị khách khanh, sau khi Chu
Công Đán dẹp tan cuộc nổi dậy của Vũ Canh - con trai Trụ Vương ở đất Ân, nhà
Chu phong tước Công (lớn nhất trong các chư hầu) ở đất ấy để giữ hương hỏa nhà
Ân Thương. Là người sáng lập nước Tống thời Xuân Thu Chiến Quốc.
(13) Hạng Bá là người tiệt lộ
âm mưu thích sát Lưu Bang tại Hồng Môn yến của Hạng Vũ cho Trương Lương về sau
hàng Hán, được phong hầu.
(14) Ngô Ý.
(15) Tào Phi lên làm vua niên
hiệu là Hoàng Sơ.
(16) Ngụy Văn Đế Tào Phi.
(17) Y Doãn nhà Thương và Chu
Công Đán nhà Chu cả hai đều nổi danh hiền thân phụ chính.
(18) Theo truyền thuyết xưa
của Trung Quốc, trên sông Hoàng Hà đã từng xuất hiện con long mã trên mình có
đồ (Đường vẽ ngoằn nghoèo) gọi là Hà đồ và trên sông Lạc Thủy xuất hiện con
thần qui, trên lưng có thư gọi là Lạc thư. Được coi là nguồn gốc của văn hóa
Trung Quốc.
(19) Thủ lĩnh cát cứ khu vực
Lũng Hữu đầu thời Đông Hán, bị Hán Quang Vũ đánh bại.
(20) Thủ lĩnh cát cứ đất Thục
đầu thời Đông Hán, từng xưng đế, bị Hán Quang Vũ đánh bại.
(21) Chỉ Tào Tháo, Tào Phi
xưng đế truy thụy cho cha là Thái Tổ Vũ Hoàng Đế.
(22) Mỗi kỷ là 12 năm.
(23) Lúc này Lưu Thiện được
phong An Lạc huyện công nên Công ở đây là chỉ Lưu Thiện.
(24) Ở đây Trần Thọ dùng chữ
”hoăng” như bậc quân vương thay cho chữ ”tử” hoặc ”tốt”.
(25) Tư mã Chiêu.
(26) Thái Thủy là niên hiệu
của Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm, Thái Thủy thứ bảy là năm 271.
(27) Đại nho đời Hán.
(28) Khai quốc công thần thời
Hán Quang Vũ.
(29) Không rõ là ai.
(30) Lưu Biểu tự là Cảnh
Thăng.
(31) Lưu Chương tự là Quý
Ngọc.
(32) Kiến Vũ là niên hiệu của
Hán Quang Vũ, kéo dài 32 năm từ 25 đến 56.
(33) Kiến An là niên hiệu của
Hán Hiến Đế, kéo dài 25 năm từ 196 đến 220.
QUYỂN 4 - NHỊ CHỦ PHI TỬ
TRUYỆN
Cam Hoàng hậu, Mục Hoàng hậu,
Kính Ai Hoàng hậu, Trương Hoàng hậu, Lưu Vĩnh, Lưu Lý, Lưu Tuyền
NHỊ CHỦ PHI TỬ TRUYỆN
Cam Hoàng Hậu vợ Tiên Chủ là người đất Bái. Tiên Chủ tới Dự Châu,
đóng quân ở Tiểu Bái, tùy tiện thu nạp. (Từ khi) Tiên Chủ mất vợ chính, (Hậu)
thường cai quản công việc trong nội phủ. (Hậu) theo Tiên Chủ tới Kinh Châu rồi
sinh Hậu Chủ. Gặp lúc quân Tào Công (đánh) đến, đuổi kịp Tiên Chủ ở Đương Đương
Trường Bản, trong lúc khốn quẫn, (Hậu) bị bỏ lại sau cùng với Hậu Chủ. Nhờ có
Triệu Vân bảo vệ mới thoát khỏi nguy nan. Sau (Hậu) mất, táng ở Nam Quận. Năm
Chương Vũ thứ hai, được truy thuỵ là Hoàng Tư Phu Nhân, chuyển về an táng trong
đất Thục, nhưng (linh cữu Hậu) chưa đưa về đến nơi thì Tiên Chủ đã qua đời. Thừa
tướng Lương dâng lời rằng: ”Hoàng Tư Phu Nhân sự tích hành vi đều rõ lòng nhân,
một đời hiền thục cung thuận. Đại Hành Hoàng Đế (1) xưa còn tại thượng nhận làm
phi tần, lại sinh ra Thánh thượng, nhưng số mệnh chẳng được lâu dài. Khi Đại
Hành Hoàng Đế còn sống, lưu luyến nghĩa tình, thương phần mộ Hoàng Tư Phu Nhân
để mãi ở chốn xa vời, riêng sai sứ giả đặc biệt đi đón đem về. Gặp ngay lúc Đại
Hành Hoàng Đế băng. Nay linh cữu Hoàng Tư Phu Nhân đã về tới, mà tử cung(2) còn
ở trên đường, lăng tẩm sắp hoàn thành, an táng nhập thổ đẫ có kỳ hạn. Thần
thường cùng bọn Thái Thường Lại Cung bàn luận rằng: ‘Lễ Ký chép: ‘Dựng nên tình
thương mến với mẹ cha mình trước thì dạy được dân tính hiếu thảo, dựng nên lòng
tôn kính với bậc tôn trưởng của mình trước thì dạy được dân biết thuận tùng.’
Đừng quên cha mẹ, thân ta do họ sinh ra. Theo khuôn mẫu của sách Xuân Thu thì
mẹ vì con mà được quý hiển. Xưa Cao Hoàng Đế truy tôn Thái Thượng Chiêu Linh
Phu Nhân làm Chiêu Linh Hoàng Hậu; Hiếu Hoà Hoàng Đế cải táng cho mẹ ngài là Lương
Quý Nhân, tôn hiệu là Cung Hoài Hoàng Hậu; Hiếu Mẫn Hoàng Đế cũng cải táng cho
mẹ ngài là Vương Phu Nhân, tôn hiệu là Linh Hoài Hoàng Hậu. Nay Hoàng Tư Phu
Nhân nên có tôn hiệu, để an ủi tâm tư chốn hàn tuyền. (Thần) thường cùng bọn
Cung xét chuẩn mực việc đặt thuỵ thấy nên đặt đặt hiệu là Chiêu Liệt Hoàng Hậu.
Kinh Thi chép: ‘Cốc theo phép nên khác nhà, chết theo phép nên cùng huyệt’, Lễ
Ký chép: Thời thượng cổ không có hợp táng, từ trung cổ về sau tuỳ theo thời thế
và địa phương mới có.
cho nên Chiêu Liệt Hoàng Hậu nên cùng hợp táng với Đại Hành Hoàng
Đế. Thần khẩn cầu Thái Uý trình với tông miếu, tuyên cáo với thiên hạ, sửa soạn
nghi lễ riêng để dâng lên”. (Hậu Chủ) phê đáp chuẩn thuận cho.
Tiên chủ Mục Hoàng Hậu người ở Trần Lưu, anh là Ngô Nhất(3). Mồ côi
từ thưở nhỏ. Cha Nhất cùng Lưu Yên là chổ thâm giao, vì thế toàn gia theo Yên
vào đất Thục. Yên có chí khác(4), mà lại nghe người giỏi tướng thuật nói Hậu có
tướng đại quý, bèn khiến con trưởng là Mạo lúc ấy vẫn đi theo nạp Hậu làm vợ.
Mạo chết(5), Hậu sống một mình. Tiên Chủ chẳng bao lâu sau an định được Ích Châu, mà Tôn Phu Nhân thì
lại quay về Ngô.
Hán Tấn Xuân Thu chép: Tiên Chủ đi vào Ích Châu, Ngô sai người đón
Tôn Phu Nhân, Phu Nhân muốn cùng Thái Tử(6) về Ngô. Gia Cát Lương sai Triệu Vân
dẫn quân chặn sông giữ Thái Tử lại mới ngăn cản được.
Thuộc hạ khuyên Tiên Chủ đón cưới Hậu. Tiên Chủ do dự vì Mạo là
người cùng họ. Pháp Chính tiến lên nói rằng: ”luận đến chuyện thân sơ, sao so
được với Tấn Văn và Tử Ngữ(7)”. Vì thế (Tiên Chủ) nạp Hậu làm Phu Nhân.
Tập Tạc Xỉ bàn rằng: Chuyên hôn nhân của con người là đâùi mối của
nhân luân, gốc rễ của vương hoá. Vì thế dẫu là thất phu cũng không thể không
theo lễ huống hồ là bậc nhân quân. Tấn Văn bỏ lễ tòng quyền vốn là để cứu vãn
sự nghiệp. TrướcTử Phạm nói: ‘Có việc cầu người, tất phải thuận theo người’.
(Tấn Văn Công và Tử Ngữ) cùng nhau tranh đoạt quốc gia chứ không phải chỉ là
người vợ mà thôi. Thật chẳng phải vô cớ mà làm chuyện trái lễ vậy. Nay Tiên Chủ
không có quyền hành sự việc chi bức bách mà lại dẫn cái thất thố của tiền nhân
làm ví dụ, thật không phải là cách mở đường cho bậc quân vương đi vào cái đạo
của Nghiêu, Thuấn vậy. Tiên Chủ thuận theo, còn sai hơn.
Năm Kiến An thứ hai mươi tư, (Tiên Chủ) lập (Hậu) làm Hán Trung
Vương Hậu. Tháng năm mùa hạ năm Chương Vũ nguyên niên, phong rằng: ” Trẫm vâng
mệnh trời, lên ngôi chí tôn, cai trị vạn quốc. Nay lấy Hậu làm Hoang Hậu. Sai
Thừa tướng Lượng làm sứ giả đến trao ấn thụ (cho Hậu), kế thừa tông miếu, làm
mẫu nghi thiên hạ. Hậu cung kính mà nhạn lấy!” Tháng năm năm Kiến Hưng nguyên
niên, Hậu chủ nối ngôi, tôn Hậu làm Hoàng Thái Hậu, hiệu là Trường Lạc Cung.
Nhất quan đến Xa Kỵ tướng quân, tước phong đến Huyện hầu. Năm Diên Hi thứ tám,
Hậu hoăng, được hợp táng (với Chiêu Liệt Đế Lưu Bị) ở Huệ Lăng.
Tôn Thịnh viết trong Thục thế phổ rằng: Một người đẹp cung thuận,
đắm chìm trong dòng họ người nam trong ba mươi năm, cũng không có gì là uỷ
khuất cho người nam cả.
Hậu Chủ Kính Ai Hoàng Hậu, là con gái quan Xa Kỵ tướng quân Trương
Phi. Năm Chương Vũ nguyên niên, được lấy làm Thái Tử Phi. Năm Kiến Hưng nguyên
niên lập làm Hoàng Hậu. Năm (Kiến Hưng) thứ mười lăm hoăng, táng ở Nam lăng.
Hậu Chủ Trương Hoàng Hậu(8), em gái Kính Ai Hoàng Hậu lúc trước.
Năm Kiến Hưng thứ mười lăm, nhập cung làm Quý Nhân. Năm Diên Hi thứ nhất, phong
rằng: ”Trẫm đảm đương kế tục nghiệp lớn, làm quân vương trị vì thiên hạ, thờ
phụng giao miếu xã tắc. Nay lấy Quý Nhân làm Hoàng Hậu, lệnh cho người đảm
nhiệm công việc của Thừa tướng là Tả tướng quân Hướng Lãng làm sứ giả cầm cờ
tiêtđến trao ấn thụ. Khuyến khích tu sửa việc trong cung, hết lòng kính cẩn
nghiêm trang mà thờ phụng. Hoàng Hậu cung kính mà nhận lấy!” Năm Hàm Hi nguyên
niên, theo Hậu Chủ sang định cư ở Lạc Dương.
Hán Tấn Xuân Thu viết: Nguỵ đem cung nhân nước Thục ban thưởng cho
chúng tướng chưa có vợ, Lý Chiêu Nghi nói: ”Ta không thể đôi ba lần chịu nhục”,
bèn tự sát.
Lưu Vĩnh tự Công Thọ, con trai Tiên Chủ, em của Hậu Chủ. Tháng sau
năm Chương Vũ nguyên niên, (Tiên Chủ) sai Tư Đồ( Hứa) Tĩnh lập làm Lỗ Vương,
phong rằng: ”Tiểu tử Vĩnh, nhận chăm sóc lấy đất đen. Trẫm vâng thứ tự trời
ban, kế tục thống lĩnh đại nghiệp, noi theo chuẩn mực từ xưa, lập nên (cho con)
quốc gia này, ở vùng đất phía đông, ơn huệ ban cho đầy đủ, đời đời phụ thuộc.
Ôhô. Tuân lời trẫm dạy! Chỉ một nước lỗ này, mỗi lần biến đổi đêu theo đường
thích hợp, phong hoá được bảo tồn. Dân tình yêu đạo đức, nhân thế vẫn ngợi
khen. Làm vương xứ ấy phải vững lòng theo lễ ngiã, phủ dụ lấy học sĩ cùng lê
dân, cùng hưởng cùng nên. Hãy cẩn thận mà gánh vác!” Năm Kiến Hưng thứ tám,
(Hậu Chủ) cải phong (Vĩnh) làm Cam Lăng Vương. Buổi đầu, Vĩnh ghét Hoạn quan
Hoàng Hạo, không lâu sau Hạo được tín nhiệm giao cho xử lý công việc, bèn vu
cáo hãm hại Vĩnh. Hậu Chủ dần đần xa lánh Vĩnh, đến mức hàng chục năm (Vĩnh)
không được vào triều kiến. Năm Hàm Hi nguyên niên, Vĩnh chuyển sang sống ở Lạc
Dương, được bái làm Phụng Xa Đô Uý, tước phong Hương Hầu.
Lưu Lý tự Phụng Hiếu, cũng là con trai Tiên Chủ, em của Hậu Chủ,
song không cùng mẹ với Vĩnh. Tháng sáu năm Chương Vũ nguyên niên, (Tiên Chủ)
sai Tư Đồ (Hứa) Tĩnh lập (Lý) làm Lương Vương, phong rằng: ”Tiểu tử Lý, trẫmkế
thừa thứ tự Hán triều, thuận với thiên mệnh, noi theo quy tắc thứ tự dài lâu,
ban cho ngươi vùng đất ở phía đông, làm thuộc quốc của Hán đình. Chỉ một đất
Lương này, đất đai cương vực đều là đồng ruộng, dân quen giáo hoá, lấy đường hoà nhã mà theo phép
tắc. Đến nơi tất thảy đều có tâm tình bao dong bảo vệ cho lê thứ. Đấy vĩnh viễn
là đất phong của ngươi. Hãy kính cẩn làm vương xứ ấy!” Năm Kiến Hưng thứ tám,
(Hậu Chủ) cải phong (Lý) làm An Bình Vương. Năm Diên Hi thứ bảy chết. Con là Ai
Vương Dận thừa kế, đến năm (Diên Hi) thứ mươì chín thì chết. Con (của Dận) là
Thương Vương Thừa nối tự, đến năm (Diên Hi) thứ hai mươi chết. Năm Cảnh Diệu
thứ tư (Hậu Chủ) hạ chiếu rằng: ”An Bình Vương do Tiên Đế sắc phong, ba đời đều
yểu mệnh, việc kế thừa của quốc gia rơi rụng cạn kiệt. Trẫm lấy làm cảm thương
đau đớn, nay lấy Vũ Ân Hầu Tập tiếp nhận vương vị.” Tập là con của Lý, năm Hàm
Hi nguyên niên chuyển sang sống ở Lạc Dương, được bái Phụng Xa Đô Uý, tước
phong Hương Hầu.
Hậu Chủ Thái Tử Tuyền, tự là Văn Thành. Mẹ là Vương Quý Nhân, vốn
là người hầu của Kính Ai Trương Hoàng Hậu. Tháng giêng năm Diên Hi nguyên niên
sắc phong rằng: ”Xét từ xưa, các bậc đế vương thuận theo thể chế lập ngườikế
tục, làm phó phù trợ quốc thống chính là đạo thường cổ kim. Nay lấy Tuyền làm
Hoàng Thái Tử, lam rực rỡ vẻ vang oai nghi của tổ tông. Lệnh cho người đảm
nhiệm công việc của Thừa tướng là Tả tướng quân Hướng Lãng mang cờ tiết ra trao
ấn tín. Nên gắng gỏi rèn luyện bản tính lương thiện trời ban, cung kính đạo
nghĩa, học hỏi tin theo kinh điển lễ nghi, làm thêm nhiều điều thiện, tự giúp
mình hoàn thiện phẩm hạnh, có thể không chuyên tâm tu chỉnh mà tự gắng sức
vậy!” Lúc ấy (Tuyền) mười lăm tuổi. Mùa đông năm Cảnh Diệu thứ sáu, Thục mất.
Tháng giêng năm Hàm Hi nguyên niên, Chung Hội gây loạn ở Thành Đô, Tuyền bị
loạn quân làm hại.
Tôn Thịnh viết Thục thế phổ rằng: Các em của Tuyền là Dao, Tông,
Toản, Kham, Tuân, Cừ sáu người. Thục bại, Kham Tự sát, những người còn lại đều
chấp thuận thay đổi chỗ ở. Gặp cơn đại loạn thời Vĩnh Gia(9), con cháu đều chết
cả. Riêng cháu Vĩnh là Huyền chạy vào Thục, giữ một mạch nam đinh kế thừa An
Lạc công nhà Ngụy sau (Lưu) Thiện. Vào năm Vĩnh Hoà thứ ba, thảo phát Lý Thế,
(Tôn) Thịnh tham dự việc quân, có gặp Huyền ở Thành Đô.
Bình rằng: Dịch nói: Có vợ chồng rồi mới có cha con, đấy là đầu mối
nhân luân của con người, ân tình hội hợp thất sâu dày, tuyệt không có gì hơn
được. Đó là việc quan yếu phải ghi chép để nghiền ngẫm xét tìm hình trạng một
quốc gia.
CHÚ THÍCH
(1) Vua chết chưa truy thuỵ và tôn miếu hiệu gọi chung là Đại Hành
Hoàng Đế, trong trường hợp này là Lưu Bị.
(2) Quan tài của vua gọi là tử cung
(3) Ngô Ý, Trần Thọ viết Tam Quốc Chí vào thời Tấn vì kỵ huý của Tư
Mã Ý nên viết thành Ngô Nhất.
(4) Ý nói Yên muốn tự lập làm vua.
(5) Mạo bị Đổng Trác giết, xem thêm Lưu Yên truyện, Thục thư quyển
1
(6) Ở đây chỉ Lưu Thiện, có điều lạ là vào thời điểm đó Lưu Bị thậm
chí chưa lên ngôi Hán Trung Vương mà Thiện đã được gọi là Thái Tử.
(7) Tấn Văn chỉ Tấn Văn công còn Tử Ngữ là Tấn Hoài công con của Di
Ngô Tấn Huệ công, cháu ruột Tấn Văn công. Tấn Văn công lưu lạc mấy chục năm ở
nước ngoài, chớp cơ hội Tử Ngữ Tấn Hoài công mất lòng người, mượn thế lực nước
Tần về nước làm vua, phải chấp nhận cưới con gái Tần Mục công vốn là vợ Tử Ngữ
làm vợ.
(8) Bà này chết sau khi Thục mất nước nên không được đặt miếu hiệu,
chỉ gọi là Trương Hoàng Hậu.
(9) Vĩnh Gia là niên hiệu của Tấn Huệ đế, trong những năm Vĩnh Gia
các vương công nhà Tấn tranh chấp đánh lẫn nhau tạo ra một giai đoạn loạn lạc
gọi là Vĩnh Gia chi loạn hay loạn Bát Vương.
QUYỂN 5 - GIA CÁT LƯỢNG
TRUYỆN
Gia Cát Lượng.
GIA CÁT LƯỢNG TRUYỆN
Gia Cát Lượng tự Khổng Minh, người quận Lang Nha huyện Dương Đô, là
hậu duệ của quan Tư lệ Hiệu úy là Gia Cát Phong nhà Hán. Cha là Khuê, tự Quân
Cống, thời Hán mạt làm Quận thừa ở Thái Sơn. Lượng mồ côi sớm, theo chú là
Huyền tạm làm thái thú Dự Chương cho Viên Thuật. Huyền dẫn Lượng cùng em Lượng
là Quân đến nhậm chức. Gặp lúc Hán triều cử Chu Hạo đến thay Huyền. Huyền vốn
cùng Kinh Châu mục Lưu Biểu là chỗ quen biết cũ, nên qua đó nương nhờ.
Hiến đế Xuân Thu chép: Lúc trước, Dự Chương thái thú là Chu Thuật
bị bệnh chết, Lưu Biểu đưa Gia Cát Huyền lên làm Dự Chương thái thú, cai trị ở
Nam Xương. Nhà Hán nghe tin Chu Thuật chết, phái Chu Hạo đến thay Huyền. Hạo
theo Dương Châu thái thú là Lưu Do mượn binh đánh Huyền, Huyền lui về đóng ở
Tây thành, Hạo lấy được Nam Xương. Năm Kiến An thứ hai tháng giêng, dân ở Tây
thành làm phản, giết Huyền, mang đầu đến chỗ Lưu Do. Những lời ở sách ấy, cùng
với bổn truyện(1)bất đồng. Huyền mất, Lượng tự mình cày ruộng, thường ca Lương
phụ ngâm(2) Hán Tấn xuân thu viết: Nhà Lượng ở huyện Đặng thuộc Nam Dương, cách
thành Tương Dương 20 dặm về phía Tây, xứ ấy gọi là Long Trung. Lượng cao tám
thước, thường tự ví mình với Quản Trọng-Nhạc Nghị, người bấy giờ chẳng mấy ai
cho là vậy. Duy chỉ có Thôi Châu Bình ở Bác Lăng và Từ Thứ tự Nguyên Trực ở
Dĩnh Xuyên có giao hiếu với Lượng, lại tin là vậy.
Xét gia phả họ Thôi: Châu Bình, là con của Thái uý Thôi Liệt, em
của Thôi Quân.
Nguỵ lược chép: Lượng ở Kinh Châu, năm Kiến An sơ, cùng với Thạch
Quảng Nguyên và Từ Nguyên Trực ở Dĩnh Xuyên, Mạnh Công Uy ở Nhữ Nam đều là bạn
học. Ba người kia đều chuyên cần học tập đến lẽ tinh thục, riêng Lượng chỉ xem
xét đại lược mà thôi. Mỗi lúc sớm tối thong dung, thường ôm gối cười dài, mà
bảo ba người kia rằng: “Ba người mai sau làm quan, xem tài cán chắc sẽ làm đến
Thứ sử hoặc Quận thú vậy.” Ba người hỏi chí của Lượng, Lượng chỉ cười không
đáp. Sau Mạnh Công Uy nhớ quê muốn quay về Bắc, Lượng nói: “Trung Quốc nhiều
đại sỹ phu, ngao du hà tất phải nhớ cố hương!”.
Thần Tùng Chi cho rằng những lời ấy của Nguỵ lược, nói Gia Cát
Lượng vì Công Uy mà toan tính có thể đúng, nếu bảo đó là lời riêng của Lượng về
mình, có thể nói chưa biểu đạt tâm ý của Lượng vậy. Lão tử nói rằng biết người
là trí, tự biết mình là minh, phàm là những người tài đức, bền lòng sẽ có tất
cả vậy. Cứ như hiểu biết của Gia Cát Lượng, há chẳng tự xét rõ phận mình ư? Cao
giọng ngâm nga đợi thời cơ đến, ý nguyện biểu hiện giữa ngôn từ, chí khí chất
chồng, đã định rõ từ lúc ban đầu. Nếu để Lượng dạo bước Trung Hoa, như rồng bay
lên, há đông đảo kẻ sỹ Trung nguyên có thể nhấn chìm Lượng được sao! Quy phục
Nguỵ thị, thi triển tài năng, tin rằng chẳng phải Trần Trường Văn, Tư mã Trọng
Đạt(3)có thể bay liệng được, huống chi là kẻ khác ư! Không lo sự cẩu thả ắt
nghiệp chẳng nên, đạo sao có thể thi hành, dẫu có chí nuốt cả vũ trụ nhưng kết
cục vẫn chẳng thể ngoảnh mặt về Bắc được, bởi Lượng biết đại quyền đã chuyển,
Hán thất nghiêng đổ, nên mới phụ giúp cho người hào kiệt trong tông thất, lấy
việc hưng vi để nối cái ngôi đã tuyệt là trách nhiệm về mình. Há đâu chỉ vì cái
lợi nhỏ mọn nơi biên ải thôi ư! Có khác gì Tương Như(4)đã nói rằng “Côn bằng
bay lượn ở nơi xa thẳm, mà kẻ bẫy chim còn chăm chú vào bờ lau sậy” hay sao.
Công Uy lập danh ở Ngụy, cũng là bậc quý hiển.
Thời Tiên chủ đóng ở Tân Dã, Từ Thứ ra mắt Tiên chủ, được Tiên chủ
rất kính trọng, Thứ muốn giúp Tiên chủ mới bảo: “Gia Cát Khổng Minh là bậc trí
giả, được gọi là “con rồng nằm”, tướng quân há chẳng mong được gặp
ư?”Tương dương ký
chép: Lưu Bị
bàn chuyện thế
sự với Tư Mã
Đức Tháo(5), Đức Tháo nói: “Đám nho sinh tục sỹ, há biết được thời thế ư? Biết
thời vụ mới là tuấn kiệt. Tất chỉ có một trong hai người Phục Long, Phượng Sồ”.
Bị hỏi là ai? Đáp: “Là Gia Cát Khổng Minh và Bàng Sỹ Nguyên đó”.Tiên chủ nói:
“Tiên sinh hãy đưa y đến gặp ta.” Thứ nói: “Người này chỉ có thể tới gặp, chứ
chẳng thể vời, tướng quân nên khuất giá tới đó”.
Bởi thế Tiên Chủ đến chỗ Lượng, tất cả ba lần, được gặp, cho đuổi
hết người đi rồi nói: “Hán thất nghiêng ngửa suy đồi, gian thần tiếm quyền,
chúa thượng chịu nỗi phong trần. Cô chẳng tự lượng đức lượng lực, muốn đem tín
nghĩa tỏ rõ cùng thiên hạ, nhưng trí thuật kém cỏi, để giặc thoả sức tung
hoành, cho đến tận hôm nay. Hiềm vì ý riêng vẫn còn chưa dứt, tiên sinh hãy
mách bảo cho kế sách lâu dài được chăng?”. Lượng đáp rằng : “Từ thời Đổng Trác
tới đây, hào kiệt cùng nổi dậy, vượt châu chiếm quận nhiều không kể xiết. Tào
Tháo so với Viên Thiệu, danh tiếng nhỏ chẳng bằng, binh lực chênh lệch, nhưng
Tháo lại thắng được Thiệu, lấy yếu thắng mạnh, chẳng phải chỉ có thiên thời, mà
còn bởi mưu người nữa. Nay Tháo cầm quân trăm vạn, bức hiếp thiên tử sai khiến
chư hầu, bởi thế chẳng thể cùng tranh phong được. Tôn Quyền chiếm cứ Giang
Đông, đã trải ba đời, nước hiểm dân thuận, dùng được người hiền tài, như thế
chỉ có thể làm ngoại viện chứ chẳng thể thôn tính. Kinh Châu phía Bắc có sông
Hán, sông Miện, phía Nam có mối lợi Nam Hải, phía Đông liền với Ngô Hội, phía
Tây thông với đất Ba, đất Thục, đó là đất dụng võ, không phải chúa giỏi tất
chẳng giữ được, ấy là trời dành cho tướng quân đó, tướng quân có ý gì chăng?
Ích Châu hiểm trở đầy dẫy, đất đai ngàn dặm phì nhiêu, là kho của
trời cho, Cao Tổ nhờ nơi đó mà thành đế nghiệp. Lưu Chương hôn ám nhu nhược,
Trương Lỗ đe doạ ở phía Bắc, dân đông nước giầu mà chẳng biết trông coi, kẻ sỹ
tài trí chỉ mong gặp đấng minh quân. Tướng quân là dòng dõi tông thất, tín
nghĩa sáng rõ bốn bể, đứng đầu những kẻ anh hùng, mong người hiền như khát
nước, nếu gộp được cả Kinh-Ích, giữ vững nơi hiểm trở, Tây hoà với các tộc
Nhung, Nam phủ dụ Di Việt, ngoài giao hảo với Tôn Quyền, trong sửa sang chính
trị; Khi thiên hạ có biến, mệnh cho một viên thượng tướng đưa quân Kinh Châu
nhằm hướng Uyển-Lạc, tướng quân đích thân đốc xuất đại binh Ích Châu tiến ra
Tần Xuyên, trăm họ ai dám không đem giỏ cơm bầu nước nghênh đón tướng quân?
Được như vậy, ắt nghiệp bá có thể thành, Hán thất có thể hưng được vậy.”
Tiên Chủ khen “Hay!” Từ đó đối với Lượng tình nghĩa ngày càng thắm
thiết. Quan Vũ-Trương Phi rất không hài lòng. Tiên Chủ giải thích rằng: “Cô
được Khổng Minh, như cá gặp nước vậy. Các em chớ nên nhiều lời”. Vũ-Phi phải
chịu.
Nguỵ lược chép: Lưu Bị đóng quân ở Phàn Thành. Ngày ấy Tào công đã
định xong Hà Bắc, Lượng biết Kinh Châu là nơi thụ địch, mà Lưu Biểu vốn tính
trì trệ, không hiểu việc quân. Lượng bèn đi về Bắc ra mắt Bị, do Bị với Lượng
chưa từng quen biết, lại thấy Lượng ít tuổi, mới tỏ ý tiếp đãi như đối với học
trò. Sau buổi họp, khách khứa đã về hết, chỉ còn lại mình Lượng, Bị vẫn không
hỏi han gì cả. Tính Bị thích kết lông mao, gặp lúc có người mới dâng cho Bị một
cái đuôi trâu, Bị tự tay ngồi tết. Lượng bèn tiến đến nói: “Minh tướng quân
nuôi chí cao xa, mà chỉ ngồi tết đám lông trâu thôi ư!”. Bị biết Lượng tất
chẳng phải người tầm thường, liền quẳng cái đuôi trâu đi, bảo: “Sao lại nói
vậy? Là ta đang muốn quên đi sự lo lắng buồn phiền đấy thôi!”
Lượng nhân đó nói tiếp: “Tướng quân nghĩ Lưu trấn Nam(6)có bằng
được Tào công chăng?” Bị đáp: “Không bằng”, Lượng lại hỏi: “Tướng quân tự xét
mình thì thế nào?”. Bị đáp: “Cũng chẳng bằng.” Lượng bảo: “Mọi thứ đều chẳng
bằng, mà binh sĩ của tướng quân bất quá chỉ mấy ngàn người, lấy quân ấy để đợi
địch, có kế cũng chẳng làm gì được!” Bị nói: “Ta đang lo lắng việc ấy, bây giờ
nên làm thế nào?”. Lượng nói: “Nay Kinh Châu dân số chẳng phải ít, nhưng số
biên trong sổ tịch quá ít ỏi, cứ theo sổ tịch trưng binh, tất nhân tâm không
phục; nên nói riêng với Trấn Nam , lệnh cho hết thảy dân di cư trong vùng, đều
phải tới chứng thực, nhân đó có thể tuyển thêm người”. Bị theo kế đó, nên được
đông quân cường mạnh. Bởi thế Bị biết Lượng thao lược hơn người, bèn lấy lễ
thượng khách tiếp đãi. Sách Cửu châu xuân thu cũng chép như vậy.
Thần là Tùng Chi xét biểu văn của Lượng viết rằng: “Tiên đế không
xem thần là kẻ hèn mọn, đem lòng chiếu cố, ba lần đến nơi lều cỏ của thần, cùng
bàn việc thế sự”, tất chẳng phải Lượng đến tìm Bị trước, rõ là vậy. Dẫu rằng trong
văn hay có những câu khác nhau, nảy sinh sự so sánh, nhưng trái ngược đến như
thế, cũng là quái lạ vậy.
Con trưởng của Lưu Biểu tên Kỳ, rất kính trọng Lượng. Biểu lại nghe
lời vợ thứ, yêu con nhỏ là Tông, nhạt tình với Kỳ. Kỳ thường hỏi Lượng kế giữ
mình, Lượng bèn từ chối, không chịu can dự vào việc ấy. Kỳ bèn đưa Lượng đến
chơi hậu viên, cùng lên lầu cao, yến ẩm ở trên đó, sai người cất thang, rồi bảo
Lượng rằng: “Nơi này trên không tới trời, dưới không đến đất, lời ra khỏi miệng
ngài, đến thẳng tai tôi, ngài có thể nói được chưa?” Lượng đáp rằng: “Công tử
chẳng thấy Thân Sinh ở trong thì nguy, Trùng Nhĩ(7)ra ngoài thì yên hay sao?”
Kỳ tỉnh ngộ, ngầm tính kế trốn ra ngoài. Gặp dịp Hoàng Tổ mới chết, Kỳ được ra
ngoài, làm Thái thú Giang Hạ. Không lâu sau Biểu chết, Tông nghe tin Tào công
tới đánh, sai sứ đến xin hàng. Tiên Chủ ở Phàn thành hay được tin ấy, đem binh
xuống phía nam,Lượng và Từ Thứ cùng đi theo, Tào Công truy đuổi đánh phá, bắt
được mẹ của Thứ. Thứ từ biệt Tiên Chủ, trỏ vào ngực mình nói: “Tôi vốn muốn
giúp tướng quân mưu đồ nghiệp vương bá, cho trọn tấc lòng. Nay vì mẹ già thất
tán, tấc lòng đã loạn, chẳng giúp được việc gì, xin đành từ biệt.” Rồi đến chỗ
Tào công.
Nguỵ lược chép: Trước Thứ có tên là Đan Phúc, vốn là con cháu họ
Đan, thủa nhỏ muốn theo nghề kiếm kích. Năm Trung Bình mạt, từng vì người khác
báo thù, rồi trát bùn lên mặt, cắt tóc trốn đi, bị nha lại bắt được, hỏi tên
họ, ngậm miệng không nói. Nha lại bèn trói lại đem rong trên xe, đánh trống
ngoài chợ(8), chẳng ai dám nói ra, sau nhờ bạn bè đánh tháo, thoát được. Vì
thế cảm kích, bỏ nghề đao kiếm, mặc khăn thưa áo mỏng, chuyển sang
học hành. Lúc mới tới trường, các học sinh ở đó nghe rằng Phúc khi trước làm
bậy, chẳng ai chơi cùng. Phúc bèn chịu khó dậy sớm, thường một mình quét sân,
đoán trước động tĩnh, nghe luyện kinh sách, để tinh thục nghĩa lý. Lại cùng với
người đồng quận là Thạch Thao kết tình thân ái. Năm Sơ Bình trung, Trung Châu
dấy binh, bèn cùng với Thao xuôi nam đến đất Kinh Châu, tới nơi, lại đặc biệt
giao kết với Gia Cát Lượng. Gặp lúc Kinh Châu phụ thuộc bên ngoại(9), Khổng
Minh theo về với Lưu Bị, Phúc và Thao cùng về Bắc. Đến năm Hoàng Sơ trung, Thao
làm quan đến chức Quận thú, Điển nông Hiệu uý, Phúc làm đến Hữu Trung lang
tướng, Ngự sử trung thừa. Tới năm Đại Hoà trung, Gia Cát Lượng ra Lũng Hữu nghe
tin Nguyên Trực- Quảng Nguyên quan chức chỉ như thế, cảm thán nói: “Nước Nguỵ
nhiều kẻ sĩ vậy! hai người ấy cũng chẳng được dùng ư?” Sau đó vài năm Thứ bị
bệnh mất, bia mộ đặt tại Bành Thành, nay vẫn còn ở đó.
Tiên Chủ đến Hạ Khẩu, Lượng nói: “Nay việc cấp bách, xin được phụng
mệnh đến cầu cứu Tôn tướng quân”. Bấy giờ Quyền đang hội quân ở Sài Tang, ngóng
xem việc thành bại, Lượng thuyết Quyền rằng: “Thiên hạ đại loạn, tướng quân
khởi binh nắm giữ Giang Đông, Lưu Dự Châu(10)thu quân ở Hán Nam(11), cùng Tào Tháo tranh thiên hạ.
Nay Tháo đã trừ được đại nạn(12), các xứ đã yên, mới đây lại phá được Kinh
Châu, uy chấn bốn bể. Kẻ anh hùng không chốn dụng võ, cho nên Dự Châu phải lẩn
trốn là vậy. Xin tướng quân hãy lượng sức mình mà định liệu: Nếu có thể lấy
quân sĩ Ngô- Việt kháng cự được Trung Quốc, chi bằng sớm đoạn tuyệt ngay; nếu
không thể đương, sao chẳng thu binh cởi giáp, ngoảnh mặt về Bắc mà thờ Tào! Nay
tướng quân ngoài mặt tỏ ý phục tùng, trong lòng lại toan tính do dự, việc khẩn
cấp mà không quyết, hoạ sẽ đến ngay đó!” Quyền hỏi: “Ví quả như lời ngài, sao
Lưu Dự Châu không thờ Tào đi?” Lượng nói: “Điền Hoành, chỉ là một tráng sỹ nước
Tề, còn giữ nghĩa không chịu nhục, huống chi Lưu Dự Châu vốn là dòng vương thất,
anh tài cái thế, hết thảy kẻ sỹ đều ngưỡng mộ, nếu nước chẳng về biển, khiến
việc chẳng xong, ấy là bởi trời vậy, sao có thể quy phục ở yên dưới họ Tào!”.
Quyền bừng bừng nói: “Ta chẳng thể dâng cả đất Ngô, với mười vạn quân binh,
chịu phép của người. Kế ta đã quyết! Phi Lưu Dự Châu chẳng ai đương nổi Tào
Tháo, song Dự Châu mới đây thua trận, chẳng hay có thể chống nổi nạn này?”
Lượng nói: “Dự Châu tuy thua ở Trường Bản, nhưng quân sỹ đã tụ về cùng một vạn
thuỷ quân tinh giáp của Quan Vũ, Lưu Kỳ ở Giang Hạ cũng còn không dưới vạn
binh. Tào Tháo đông quân, từ xa tới đã mỏi mệt, lúc truy kích Dự Châu, quân
khinh kỵ một ngày đêm đi hơn ba trăm dặm, ấy chính là ‘nỏ mạnh đã bắn xa hết
sức, sức chẳng thể xuyên thủng tấm lụa mỏng’ vậy. Cho nên binh pháp kỵ việc ấy,
nói rằng ‘Kể cả Thượng tướng quân cũng ngã nhào vậy.’ Vả lại người phương Bắc
vốn không quen thuỷ chiến; dân chúng Kinh Châu theo Tháo, chỉ vì việc binh bức
bách, mà nhân tâm bất phục. Tin chắc rằng nếu tướng quân sai mãnh tướng thống
lĩnh mấy vạn binh, cùng Lưu Dự Châu đồng tâm hiệp lực, tất phá được quân của
Tháo vậy. Quân Tháo bị phá, ắt hẳn quay về Bắc, như vậy thế Kinh-Ngô sẽ cường,
chân đỉnh hình thành. Cơ hội thành bại, là ở hôm nay vậy.” Quyền rất hài lòng,
lập tức phái Chu Du-Trình Phổ- Lỗ Túc nắm ba vạn thủy quân, theo Lượng đến gặp
Tiên chủ, cùng hợp sức cự Tào công.
Viên tử chép: Trương Tử Bố(13)tiến cử Lượng với Tôn Quyền, Lượng
quyết không lưu lại. Có người hỏi nguyên cớ, bèn rằng: “Tôn tướng quân có thể
là vị chúa tốt, nhưng xem độ lượng người ấy, có thể yêu mến Lượng mà chẳng dùng
hết tài của Lượng được, thế nên ta chẳng lưu lại”. Thần là Tùng Chi xem kỹ lời
lập luận của Viên Hiếu Ni(14), rất kính trọng con người Gia Cát Lượng, nhưng
lời nói đến thế lại khác xa sự thật. Xem Lượng với Bị quân thần tương ngộ, có
thể nói là đời này hiếm thấy, chung thuỷ chẳng lìa, ai có thể xen vào? Quyết
không có việc giữa đường lìa bỏ tình tri ngộ, mang lòng đổi chủ, ví bằng Quyền
dùng được Lượng, việc đổi thay lại dễ dàng đến thế? Cứ như cách hành xử của Gia
Cát tiên sinh, sao như thế được! Quan Vũ bị Tào công bắt được, đãi ngộ rất hậu,
có thể nói là dùng hết tài của Vũ, song Vũ vì nghĩa chẳng bỏ gốc, như thế Khổng
Minh chẳng bằng được Vân Trường ư!
Tào công thua trận Xích Bích, dẫn quân chạy về Nghiệp quận. Tiên
chủ lấy được các quận phía Nam sông, thăng Lượng làm quân sư Trung lang tướng,
cai quản ba quận, Linh Lăng, Trường Sa, Quế Dương, điều hoà thuế khoá, bổ sung
quân lương.
Linh Lăng tiên hiền truyện chép rằng: Bấy giờ Lượng ở Lâm
Trưng(15).
Năm Kiến An thứ mười sáu, Ích Châu mục Lưu Chương, sai Pháp Chính
nghênh đón Tiên chủ, nhờ đánh Trương Lỗ. Lượng cùng Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu.
Tiên chủ từ Hà Manh quay về đánh Chương, Lượng cùng bọn Trương Phi-Triệu Vân
thống suất binh sỹ ngược sông, chia nhau đánh lấy các quận huyện, cùng Tiên Chủ
hợp sức vây đánh Thành Đô. Thành Đô bình định, Lượng lĩnh chức quân sư tướng
quân, tạm coi việc ở phủ Tả tướng quân(16). Tiên Chủ đánh dẹp bên ngoài, Lượng
thường trấn giữ Thành Đô, quân lương đầy đủ. Năm thứ hai mươi sáu(17), quần
thần khuyên Tiên Chủ xưng đế, Tiên Chủ không nghe, Lượng thuyết rằng: “Xưa Ngô
Hán-Cảnh Yểm lúc đầu khuyên Thế Tổ lên ngôi đế, Thế Tổ từ chối, trước sau bốn
lần, Cảnh Thuần(18)mới dẫn lời rằng: ‘Anh hùng trong thiên hạ đều ngưỡng vọng
mong ngóng. Nếu chẳng theo lời bàn luận, sĩ đại phu sẽ đều đi tìm chủ khác,
chẳng ai theo chúa công nữa’. Thế Tổ rất cảm kích vì lời của Thuần, liền ưng
thuận. Nay họ Tào soán ngôi nhà Hán, thiên hạ vô chủ, đại vương là dòng dõi họ
Lưu, kế thừa cơ nghiệp, nay lên ngôi hoàng đế, là việc rất nên làm. Các sĩ đại
phu theo đại vương đã lâu, đắng cay trải đủ, nay cũng mong muốn được chút công
danh như lời Thuần nói vậy.” Bởi thế Tiên chủ lên ngôi hoàng đế, sách mệnh cho
Lượng làm thừa tướng rằng: “Trẫm trong nhà bất hạnh, phụng mệnh kế thừa đại
nghiệp, lòng đau đáu sợ hãi, đâu dám hưởng yên vui, thường lo lắng cho trăm họ,
vẫn sợ tài đức mình chẳng đủ. Than ôi! Thừa tướng của trẫm là Lượng hiểu rõ
bụng trẫm, không lười biếng giúp trẫm sửa bớt lỗi lầm, lấy nghiệp lớn làm trọng,
nay tuyên chiếu bố cáo cùng thiên hạ! mong ngươi hãy gắng sức.” Rồi lấy Lượng
làm thừa Tướng kiêm Lục Thượng thư sự, ban cho Giả tiết. Sau này Trương Phi
mất, Lượng lĩnh thêm chức Tư lệ hiệu úy.
Thục ký chép: Thời Tấn sơ, Phù Phong vương là Tuấn trấn thủ Quan
Trung, tư mã Cao Bình Lưu Bảo, trưởng sử Huỳnh Dương là Hoàn Thấp cùng các sĩ
đại phu luận bàn về Gia Cát Lượng, lúc đó kẻ bàn phần nhiều chê Lượng, gửi thân
không đúng chỗ, làm Thục dân khốn khổ, thế yếu mưu lớn, chẳng biết lượng sức
mình. Quách Xung ở Kim Thành cho rằng Lượng quyền trí, mưu lược hơn Quản-Án, mà
công nghiệp chẳng thành, kẻ bàn luận còn lấy làm ngờ, Xung liền dẫn ra năm việc
của Lượng mà người đời chưa từng nghe, bọn Bảo cũng chẳng thể làm nổi. Phù
Phong vương cho rằng lời của Xung là đúng.
Thần Tùng Chi cho rằng đây là những lời khen kỳ lạ về Lượng, tuy
nghe chân thành, nhưng cái thuyết ấy của Xung, thật rất đáng ngờ, xin cẩn trọng
theo từng việc để vạch rõ những điều sai trái:
Việc thứ nhất nói rằng: Lượng dùng hình pháp khắc nghiệt, bóc lột
trăm họ, từ kẻ quân tử đến tiểu nhân đều oán thán, Pháp Chính can rằng: “Khi
xưa Cao Tổ vào quan ải, giản ước luật pháp chỉ có ba điều, dân Tần chịu ơn đức
ấy, nay ngài mượn vũ lực, chiếm cứ Ích châu, mới lập nước, ân huệ chưa rủ
xuống; Vả lại theo cái nghĩa chủ khách, nên giảm nhẹ đi, hãy khoan hoãn hình
phạt nới lỏng các điều cấm, để đáp ứng kỳ vọng của người dân vậy”. Lượng đáp
rằng: “Ngài chỉ biết một mà chẳng biết hai. Nhà Tần vô đạo, hình pháp hà khắc
nên dân ai oán, kẻ thất phu gầm thét thị oai, thiên hạ băng hoại. Cao Tổ nhân
việc ấy, mới có thể nới lỏng để cứu vớt người ta. Nay Lưu Chương hôn ám nhu
nhược, từ thời Lưu Yên đến nay mỗi đời lại thi ân thêm, lấy văn tự hình pháp
ràng buộc người ta, cùng đắp đổi hỗ trợ cho nhau, mà đức chính chẳng được nêu,
hình phạt không nghiêm túc. Nhân sỹ đất Thục được riêng quyền phóng túng, đạo
quân thần dần bại hoại; Yêu thì ban cho ngôi vị, ngôi vị cao thì sinh ra khinh
nhờn, thuận thì ban ân, ân tột đỉnh thì sinh ngạo mạn. Sở dĩ tệ hại đến thế,
thật bởi từ đó vậy. Nay ta nêu cao hình pháp, có phép tắc rồi mới biết ân, hạn
chế tước lộc, ban cho tước mới thấy vinh; vinh ân gồm đủ, trên dưới có trật tự,
làm được như thế, mới là phân minh rõ ràng”
Luận rằng: Xét Pháp Chính ở thời Lưu chủ còn sống, bấy giờ Pháp
Chính đưa lời can, tất Lưu chủ còn vậy. Gia Cát là bầy tôi chân tay, nhưng mọi
việc đều phải qua chủ, Lưu chủ còn đó, Lượng lại chưa đốc xuất việc ở Ích châu,
muốn thưởng phạt có phép tắc, chẳng thể theo ý riêng của mình. Xung lại kể
Lượng đáp như vậy, ấy là chuyên quyền tự quyết, có phải là cách hành xử nên có
của kẻ bầy tôi. Như Lượng vốn là người khiêm nhường, ngờ rằng chẳng phải vậy.
Lại nói rằng Lượng dùng hình pháp khắc nghiệt, bóc lột trăm họ, quả chưa nghe
thấy khéo dùng luật lại khen là bóc lột.
Việc thứ hai là: Tào công phái thích khách đến gặp Lưu Bị, mới được
đón tiếp, thoạt luận về cái thế phạt Nguỵ, rất hợp ý Bị. Sau hòng tiếp cận,
thích khách còn chưa tiện dịp, thì Lượng đã vào, khách nước Nguỵ thần sắc hoảng
hốt. Lượng nhân đó coi xét y, đoán rằng đó chẳng phải người thường. Bỗng chốc,
khách đi ra nhà xí, bị Bảo Lượng rằng: “Sắp được bậc kỳ sỹ, đủ để giúp ích cho
tiên sinh”. Lượng hỏi ở đâu, Bị đáp: “Là vừa đứng lên vậy.” Lượng chậm rãi than
rằng: “Quan khách sắc mặt động mà thần hãi, ánh mắt thấp mà né tránh, gian
tướng lộ ra ngoài, tà tâm ẩn bên trong, ắt là thích khách của họ Tào vậy.” Đoạn
đuổi theo, thấy đã vượt tường chạy mất.
Luận rằng: Phàm là thích khách, đều là kẻ như hổ dữ rập rình, chết
mà không hối. Lưu chúa có gương nhìn người, lại bị mê hoặc bởi thích khách, ắt
hẳn khách ấy là bậc kỳ sĩ một thời; lại bảo Gia Cát rằng “đủ giúp ích cho tiên
sinh”, tất cũng chẳng kém Gia Cát mấy nỗi. Phàm những bầy tôi như Gia Cát, hiếm
có kẻ làm thích khách cho người ta, đương thời người bá chủ tiếc kẻ tài ba, tất
không đẩy họ vào chỗ chết. Vả lại người này không chết, sau sẽ hiển đạt cho
Ngụy, rốt cục là ai đây? Sao im hơi bặt tiếng là vậy!
Năm Chương Vũ thứ ba mùa xuân, Tiên Chủ lâm trọng bệnh ở Vĩnh An,
triệu Lượng từ Thành Đô tới, phó thác hậu sự, bảo Lượng rằng: “Tài của ngươi
gấp mười lần Tào Phi, tất yên được nước, làm nên đại sự. Nếu có thể giúp được
con trẫm, hãy giúp. Ví như nó bất tài, quân sư hãy tự mình làm chủ”. Lượng ứa
nước mắt khóc nói: “Thần nguyện dốc hết tâm lực phụ chính, một lòng trung
trinh, tới chết mới thôi”. Tiên Chủ lại viết chiếu gửi Hậu Chủ, rằng: “Mọi việc
phải theo lời thừa tướng mà làm, coi như cha vậy”.
Tôn Thịnh nói: Kẻ trượng đạo phù nghĩa, làm ra thể chế để người
khác tín phục, rồi mới có thể giúp chủ nên công, sau cùng mới yên định được đại
nghiệp. Ngạn ngữ nói rằng kẻ đánh cờ đã cất tay mà còn do dự bất định thì chẳng
thể thắng được đối thủ, phương chi phải cân nhắc cái tài của bậc quân vương mà
dè dặt đến hai ba lần, sao có thể diệt hết kẻ địch hùng mạnh lân bang để thu
gồm bốn bể? Bị di mệnh cho Lượng, việc ấy rắc rối làm sao! Đời sau có người bảo
rằng Bị muốn nhấn mạnh sự thành thực ủy thác, lại muốn thống nhất lòng dân
Thục. Bậc quân tử nói rằng: Không đúng vậy; Ví như phó thác cho bậc hiền nhân
trung thần, hẳn không nên dạy bảo rõ ràng như thế, bằng như không phải người
như vậy, chẳng nên khơi dậy mưu đồ soán nghịch làm chi. Thế nên việc cố mệnh
đời xưa, hẳn lưu lại lời răn; lời nói dối trá quỷ quyệt, chẳng phải là lời thác
cô vậy. May mắn gặp phải Lưu Thiện tăm tối nhu nhược, không có tính hiểm độc
nghi ngờ, mà Gia Cát lại uy vũ thao lược, đủ để khống chế mầm mống tranh chấp,
bởi thế khiến những kẻ không cùng lòng chẳng thể nào trỗi dậy được. Nếu không,
sợ rằng đã phát sinh nghi kỵ hiềm khích chẳng được thoả ý mình. Nói rằng đấy là
quyền thuật, chẳng phải sai lầm ư!
Kiến Hưng năm đầu, phong Lượng làm Vũ Hương Hầu, được mở phủ sự,
không lâu sau, lại lĩnh thêm chức Ích Châu mục. Việc chính sự chẳng kể lớn nhỏ,
đều do Lượng quyết. Các quận xứ Nam Trung, cùng nổi lên làm loạn. Lượng nhân
trong nước đang có đại tang, không tiện xuất binh, lại sai sứ sang Ngô, kết
tình hòa hiếu, cùng làm nước đồng minh.
Gia Cát Lượng tập chép: Năm ấy, Nguỵ tư đồ Hoa Hâm, Tư không Vương
Lãng, Thượng thư lệnh Trần Quần, Thái sử lệnh Hứa Chi, Yết giả Phó xạ Gia Cát
Chương đều gửi thư riêng cho Lượng, bày đặt mệnh trời việc người, muốn Lượng
dâng cả nước xưng thần. Lượng không đáp thư, lại viết một bức chính luận rằng:
“Khi xưa Hạng Vũ khởi lên mà chẳng có đức, dẫu lấy được Hoa Hạ, giữ thanh thế
như hoàng đế, rốt cục vẫn phải thân bại danh liệt(19), ấy là lời răn cho hậu
thế. Nước Nguỵ chẳng xem đó là tấm gương, lại theo vết chân ấy; thoát thân đã
là may, lấy làm điều răn cho con cháu. Các vị đều là những bậc nguyên lão, vâng
mệnh Nguỵ chúa mà tiến thư, khác chi Sùng-Tủng xưng tụng công lao của Mãng(20),
cũng là bức bách cầu may cẩu thả tránh hoạ thôi. Xưa Thế Tổ(21)chấn hưng cơ
nghiệp cũ, có mấy nghìn binh lính gắng sức giằng co, bẻ gẫy hơn bốn mươi vạn
cường binh của Mãng ở gần Cổn Dương, mới hay thảo phạt kẻ tà đạo cứ đâu quân ít
hay nhiều. Kìa như Mạnh Đức(22), vẫn lấy sự lừa lọc quỷ quyệt hơn thế lực, đem
vài chục vạn quân đến cứu Trương Cáp ở Dương Bình, thế cùng ngồi lo lắng hối
tiếc, cầu mong thoát nạn, làm nhục khí thế của ba quân, đành cam bề chịu mất
đất Hán Trung, trong bụng biết rõ thần khí(23)chẳng thể làm xằng mà có được,
nên quay về chưa lâu, đã trúng độc mà chết. Tử Hoàn(24)dâm dật, làm việc cướp
ngôi. Các ngài lại buông tuồng dùng những lời quỷ biện hoa mỹ của Tô-Trương(25),
vâng mệnh bề trên mà dâng lên Hoan Đâu(26)những lời lẽ khí thế ngút trời, muốn
huỷ hoại ngôi Đường đế, ngâm nga biện giải chuyện Vũ- Tắc(27), cũng chỉ là chôn
vùi văn thơ làm buồn lòng kẻ hàn mặc(28)mà thôi. Kẻ đại nhân quân tử tất chẳng
bao giờ làm thế. Thiên Quân giới lại viết:
“Vạn quân liều chết, xưng hùng thiên hạ”. Xưa Hiên Viên sửa sang
mấy vạn binh sỹ, mà khống chế bốn phương, yên việc trong cõi, huống chi ta dùng
mấy chục vạn quân, nương theo chính đạo soi xét kẻ có tội, cứ theo lẽ ấy mà suy
thì có thể cầu mà được vậy!
Năm thứ ba mùa xuân, Lượng xuất quân nam chinh, Đến mùa thu bình
định được hết cả. Quân nhu đầy đủ, nước mạnh dân giầu, bèn cho sửa sang khí
giới thao luyện binh sĩ, chờ thời khởi sự.
Hậu chủ ban cho Lượng phủ việt bằng vàng một bộ, lọng cán cong một
chiếc, trước sau còn có mũ lông chim, trống, sáo mỗi thứ một bộ, quân hổ bôn
sáu chục người. Việc chép ở Lượng tập.
Hán Tấn xuân thu chép: Lượng đến Nam Trung, thắng trận ở đó. Nghe
tin Mạnh Hoạch, được người Di-Hán ở đó phục tùng, mới yết bảng cho người bắt
sống đưa tới. Bắt được rồi, sai người dẫn Hoạch đi xem các nơi bầy doanh trại,
hỏi rằng: “Quân của ta thế nào?”, Hoạch thưa rằng: “Trước không rõ hư thực, nên bại. Nay được coi xét
rõ doanh trại, cũng chỉ đến thế, thắng cũng chẳng khó gì”. Lượng cười, thả ra
cho đấu lại, bảy lần bắt bảy lần thả, mà Lượng vẫn sai thả Hoạch. Hoạch không
bỏ đi nữa, nói: “Công, uy danh của ông như trời vậy, người Nam không phản lại
nữa!”, rồi đến Điền Trì. Nam Trung bình định, đều dùng lại những thủ lĩnh ở
đấy. Có người can Lượng, Lượng nói: “Ví như để người ở lại, ắt phải lưu quân,
lưu quân lại chẳng có lương ăn, đó là một điều không nên; xứ Di mới bị tàn phá,
cha anh mất con em, lưu quan mà không lưu binh, tất thành hoạ hoạn, đó là hai
điều không nên; người Di mới luỵ mà phế bỏ hết đi là sai lầm, tự gây ra hiểu
lầm lẫn nhau, nếu lưu người ở lại, chẳng tin được nhau, là ba điều không nên;
nay ta chẳng lưu binh, không phải chuyển lương, như thế kỷ cương tạm ổn định,
Hán-Di cùng yên ổn vậy.”
Năm thứ năm, cất đại quân ra bắc đóng ở Hán Trung, trước khi đi,
dâng biểu tâu lên Hậu Chủ rằng:
“Tiên đế sáng nghiệp chưa lâu nửa đường đã băng hà, nay thiên hạ
chia ba, Ích châu mỏi mệt, quả là sự nguy cấp tồn vong đã ở ngay trước mắt. Thế
nên kẻ bầy tôi chầu chực chẳng dám lười nhác ở bên trong, kẻ sĩ có chí trung
thành vong thân ngoài cõi, là vì nhớ đến cái ơn tri ngộ của Tiên đế, muốn đáp
đền cùng Bệ hạ vậy. Bệ hạ nên rộng rãi thánh minh, để sáng đức tốt của Tiên đế,
thúc đẩy chí khí của kẻ sĩ, chẳng nên làm bừa mà tự coi rẻ mình, dẫn dụ điều
thất nghĩa, lấp con đường trung thực của kẻ can gián. Trong cung phủ đều là một
thể, tưởng thiện phạt ác, chẳng nên phân biệt. Nếu như có điều sai phạm hoặc
trung thiện, nên giao cho sở ty luận rõmà thưởng phạt, để làm sáng tỏ đạo lý
công bằng sáng suốt của Bệ hạ, không nên riêng tư nghiêng lệch, khiến cho khuôn
phép trong ngoài sai khác.
Bọn Thị trung, Thị lang như Quách Du Chi-Phí Y-Đổng Doãn đều là
những lương thần, biết toan tính mà trung thuận, ấy là tiên đế đã lựa chọn và
để lại cho bệ hạ. Ngu ý cho rằng việc ở trong cung, chẳng kể lớn nhỏ, đều phải
bàn kỹ với họ, sau mới thi hành, như thế có thể bồi bổ thiếu sót, có ích rộng
rãi. Tướng quân Hướng Sủng tính hạnh thuần thục, hiểu rõ việc quân, được thử
dùng ngày trước, Tiên đế khen là có tài cán, thế nên mọi người bàn luận và tiến
cử làm Đô đốc. Ngu ý cho rằng việc ở trong doanh trại, ắt phải bàn bạc kỹ với
ông ấy, ắt có thể khiến hàng ngũ hoà thuận, định rõ hơn kém. Thân với hiền
thần, xa lánh tiểu nhân, ấy là lẽ nhà Tiền Hán đã hưng; thân với tiểu nhân, xa
lánh hiền thần, ấy là lẽ nhà Hậu Hán đã nghiêng đổ vậy. Thời Tiên đế còn sống,
mỗi lần cùng với thần đàm luận về việc ấy, không lần nào không than thở đau xót
oán giận cho Hoàn-Linh(29). Các Thị trung, Thượng thư, Trưởng sử, Tham quân đều
là những bề tôi trung trinh đến chết, xin Bệ hạ thân thiết và tin dùng họ, được
thế tất nhà Hán hưng vượng, điều đó có thể tính ngày mà đợi được vậy.
Thần vốn là kẻ áo vải, đem thân cày ruộng ở Nam Dương, mong toàn
tính mệnh ở đời loạn, chẳng cần nổi tiếng với chư hầu. Tiên đế không coi thần
là kẻ hèn mọn, đem lòng chiếu cố, ba lần tìm đến kiếm thần nơi lều cỏ, hỏi thần
về việc đương thời, bởi thế thần rất cảm kích, nguyện theo Tiên đế ruổi rong.
Sau gặp lúc nghiêng ngả, nhận việc giữa lúc quân thua tướng bại, phụng mệnh lúc
gian nguy, tính đến nay đã trải hai mươi mốt năm.
Thần Tùng Chi xét rằng: Lưu Bị thua chạy vào năm Kiến An thứ mười
ba, sai Lượng đi sứ sang Ngô. Đến năm Kiến Hưng thứ năm Lượng dâng biểu Bắc
phạt, tính rõ chỉ có hai mươi năm. Như vậy Bị cùng Lượng tương ngộ, trước lúc
bại quân một năm vậy.
Tiên đế biết thần cẩn thận, trước lúc lâm chung đã phó thác đại sự
cho thần. Từ lúc phụng mệnh đến nay, sớm khuya lo lắng, sợ phụ lại sự uỷ thác,
làm tổn hại đến đức sáng suốt của tiên đế, nên tháng năm vượt Lô giang, vào sâu
nơi đất không cây.Hán thư địa lý chí chép: Dòng Lô giang bắt đầu ở quận Tang ca
huyện Câu Đinh.Nay phương Nam đã định, binh giáp đầy đủ, đương lúc cần khích lệ
ba quân, bắc định Trung nguyên, dốc hết tài mọn, diệt trừ kẻ gian hung, trùng
hưng Hán thất, trở lại cố đô. Như thế thần mới báo đáp được Tiên đế, mà trung
thành với chức phận mà bệ hạ đã giao phó.
Còn như việc châm chước lợi hại, bày tỏ lời trung, đã có Du
Chi-Y-Doãn đảm nhiệm vậy. Những mong bệ hạ uỷ thác để thần được đánh kẻ nghịch
tặc phục hưng nhà Hán; nếu chẳng thành công, xin bắt tội thần, để báo cáo cùng
vong linh Tiên đế. Còn như chẳng tiến dẫn được lời trung khiến cho đức không
được hưng thịnh tất phải trách lỗi của Du Chi-Y-Doãn; Bệ hạ nên tự mình toan tính,
hỏi han đạo phải, xét nạp lời ngay, tuân theo di chiếu của Tiên đế. Thần thụ ân
mà cảm kích khôn cùng, nay đương ở nơi xa, dâng biểu mà khóc, chẳng thể nói hết
lời”.
Liền đó, Lượng đem quân ra đóng ở Miện Dương.
Việc thứ ba Quách Xung nói rằng: Lượng đóng ở Dương Bình, sai Ngụy
Diên dẫn binh Đông hạ, Lượng chỉ lưu một vạn quân giữ thành. Tấn Tuyên Đế(30)thống
xuất hai mươi vạn binh chống Lượng, mà quân Diên bị lạc đường, Tuyên Đế theo
lối tắt mà đến, còn cách Lượng chừng sáu mươi dặm, quân do thám báo với Tuyên
Đế rằng Lượng ở trong thành binh đơn lực bạc. Lượng cũng biết Tuyên Đế sắp đến,
tình thế bức bách, muốn chạy tới chỗ quân của Diên, nhưng khoảng cách quá xa,
địch theo vết mà truy đuổi, tất không chạy kịp, tướng sỹ đều thất sắc, chẳng
biết làm sao. Lượng tỏ ý thản nhiên, lệnh cho trong quân đều ngả cờ im trống,
không được ra khỏi lều trại, lại sai mở toang bốn cửa thành, quét đất dọn rửa.
Tuyên Đế thường nói Lượng là người cẩn trọng, mà giờ thấy thế bên kia yếu
nhược, nghi có phục binh, bèn dẫn quân về phía bắc Thú Sơn. Hôm sau vào giờ ăn
cơm, Lượng cười lớn bảo với các vị Tham tá thủ hạ rằng: “Tư Mã Ý tất bảo là ta
khiếp nhược, chắc rằng có phục binh, ắt men theo núi mà chạy”. Quân do thám về
báo lại, quả như lời Lượng nói. Tuyên Đế sau biết việc đó, rất lấy làm tiếc
hận.
Luận rằng: Xét thấy Dương Bình ở Hán Trung. Khi Lượng mới đóng quân
ở Dương Bình, Tuyên Đế còn làm đô đốc ở Kinh Châu, trấn giữ Uyển Thành, đến khi
Tào Chân chết đi mới nắm quyền ở Quan Trung chống giữ với Lượng. Nguỵ từng sai
Tuyên Đế từ Uyển Thành đến Tây Thành phạt Thục, gặp mưa dầm, chẳng nên công.
Trước sau là thế, chẳng thể nào đến Dương Bình giao chiến được. Nếu quả như lời
Xung nói, Tuyên Đế có hai vạn quân, lại biết Lượng binh ít lực yếu, dẫu nghi có
quân mai phục, đúng ra phải bày đặt bố phòng cẩn trọng, sao lại bỏ chạy ngay?
Lại xét Nguỵ Diên truyện rằng: “Diên thường theo Lượng ra quân, muốn xin riêng
một vạn tinh binh, cùng với Lượng theo đường khác hội quân ở Đồng Quan, Lượng
kiềm chế không cho; Diên vẫn thường nói Lượng nhút nhát, than thở rằng tài của
mình chẳng được dùng hết”. Lượng còn chẳng cho Diên riêng một vạn quân, sao
được như lời Xung nói, là đang nắm giữ trọng binh ở phía trước, mà tự thủ lại
khinh xuất vậy? Vả lại Xung nói với Phù Phong vương như thế, rõ ràng Tuyên Đế
quá kém cỏi, nói chuyện với con lại chê bai cha, lý chẳng thể dung, bảo rằng:
“Phù Phong vương cho rằng lời của Xung là đúng”, thế nên biết sách ấy dẫn toàn
chuyện hão vậy.
Năm thứ sáu mùa xuân, Lượng tung tin theo lối Tà Cốc ra lấy Mi
thành, sai Triệu Vân-Đặng Chi làm nghi binh, chiếm giữ Cơ Cốc. Đại tướng quân
Tào Chân nhà Nguỵ cất quân chống cự. Lượng thân cầm quân ra đóng ở Kì Sơn, quân
nhung chỉnh tề, thưởng phạt đầy đủ mà hiệu lệnh nghiêm minh. Ba quận Nam An,
Thiên Thủy, An Định phản Nguỵ hưởng ứng Lượng. Quan Trung rung động.
Nguỵ lược chép: Lúc trước, quốc gia cho là Thục trung chỉ có một
mình Lưu Bị. Bị đã chết, mấy năm chẳng có động tĩnh gì, bởi thế cũng không tính
chuyện phòng bị; Chợt nghe tin Lượng xuất binh, trong triều ngoài dã đều kinh
hãi, ở Lũng Hữu-Kỳ Sơn lại càng đáng ngại, ba quận ấy cùng hưởng ứng Lượng.
Ngụy Minh Đế(31)sang Tây trấn thủ Trường An, mệnh cho Trương Cáp
chống cự Lượng. Lượng cử Mã Tắc đốc suất ba quân ở trước trận cùng với Cáp đại
chiến ở Nhai Đình. Tốc trái phép của Lượng, hành động thất thố, bị Trương Cáp
đánh tan. Lượng dời hơn một ngàn hộ dân từ Tây Thành vào Hán Trung.
Việc thứ tư Quách Xung nói rằng: Lượng ra Kỳ Sơn, hai quận Lũng
Tây- Nam An hưởng ứng ra hàng, Lượng lại vây Thiên Thuỷ, phá Ký Thành, bắt được
Khương Duy, đuổi mấy ngàn trai gái vào đất Thục. Mọi người đều đến mừng Lượng,
Lượng cau mặt không vui tỏ vẻ thương xót, tạ rằng: “Khắp trong thiên hạ, chẳng
ai không phải dân Hán, uy lực của quốc gia còn chưa dấy lên được, khiến cho
bách tính phải khốn đốn trong miệng sài lang. Mỗi người chết đi, đều là tội của
Lượng, lấy việc ấy là mừng, ta không thẹn sao được”. Bởi thế người Thục đều
biết Lượng nuôi chí diệt Nguỵ, chẳng phải chỉ là nói thác ra thế thôi vậy.
Luận rằng: “Lượng nuôi chí diệt Nguỵ từ lâu, chẳng phải lúc ấy mọi
người mới biết, vả lại bấy giờ ra quân chẳng thành, bị tổn thất phải quay về,
ba quận theo hàng chẳng thể lấy được. Còn Khương Duy, chỉ là một kẻ thất phu ở
Thiên Thuỷ, bắt được là tổn hại cho nước Nguỵ sao? Được một nghìn nhà ở xứ Tây
thành, chẳng bù nổi mất mát ở Nhai Đình, coi đó là công lao, mà người Thục đều
đến chúc mừng ư?
Lượng đem giết Tắc rồi phanh thây để tạ tội với ba quân. Rồi viết
sớ tâu lên Hậu Chủ rằng: “Thần vốn tài hèn, trộm giữ ngôi cao, thân cầm mao
việt thống soái ba quân, mà chẳng thể nêu cao minh pháp, lâm việc sợ hãi, đến
nỗi có việc trái mệnh lầm lỗi ở Nhai Đình, ở phía Cơ Cốc cũng không sao phòng
thủ được, những lỗi ấy đều là bởi thần xét việc không đến nơi. Thần đã không
sáng suốt nhìn người, làm việc u minh, nghĩa Xuân Thu trách tại thống soái,
chức phận của thần phải đảm đương lỗi ấy. Xin tự biếm quan ba bậc, để phạt lỗi
lầm”. Hậu chủ theo đó giáng Lượng làm Hữu tướng quân, coi việc thừa tướng, vẫn
nắm quyền thống soái như trước.
Hán Tấn Xuân thu chép: Có kẻ khuyên Lượng tăng cường binh lực để
đánh Nguỵ, Lượng nói: “Đại quân của ta ở Kỳ Sơn-Cơ cốc đều nhiều hơn địch, thế
mà chẳng thể phá giặc lại bị quân giặc đánh tan, thế tất chẳng phải bởi binh
lực yếu kém, mà bởi tại người cầm đầu vậy. Nay ta muốn giảm binh xét tướng,
sáng phép tỏ lỗi, tính đến cái đạo biến thông mai sau; nếu chẳng làm được như
thế, dẫu nhiều binh cũng chả ích gì! Từ nay về sau, những người trung tín lo
lắng vì quốc gia, nên chuyên cần sửa lỗi cho ta, tất việc có thể nên, giặc sẽ
bị tiêu diệt, cái công có thể nhón chân mà đợi vậy.” Rồi xét kỹ từng việc nhỏ,
nêu rõ những điểm mạnh, chỉ ra những lỗi lầm, cáo rõ với thiên hạ, rồi luyện
quân giảng võ, mưu toan việc về sau, lại kén chọn binh sĩ để rèn luyện, để dân
chúng quên đi thất bại đã qua. Lượng nghe tin Quyền phá Tào Hưu, quân Nguỵ phải
kéo về phía đông, Quan Trung suy yếu, tháng mười một năm ấy, dâng biểu lên Hậu
chủ rằng:
“Tiên đế lo Hán-tặc không thể chung ngôi, vương nghiệp chẳng thể
yên một nửa, nên uỷ thác cho thần thảo phạt giặc giã. Bởi Tiên đế sáng suốt,
lượng được tài mọn của thần, nên biết rằng thần thảo phạt là lấy yếu đánh mạnh;
nhưng nếu không đánh giặc nghiệp vương sẽ mất; chỉ ngồi mà đợi mất, ai sẽ chịu
đánh giặc? Đó là cái cớ để Tiên đế ủy thác lại cho thần mà không nghi ngại. Từ
ngày thần lĩnh mệnh, ăn không ngon, ngủ không yên, chỉ nghĩ đến việc Bắc chinh,
nên trước dẫn quân xuống phương Nam, tháng năm vượt Lô giang, vào sâu nơi đất
không cây, nhiều ngày đói khát. Thần chẳng phải không tiếc thân mình, bởi vương
nghiệp chẳng được toàn vẹn ở Thục đô, nên phải xông pha vào chốn nguy nam để
khỏi phụ lòng Tiên đế, mà kẻ nghị luận bảo rằng chẳng phải kế hay. Nay kẻ địch
đang mỏi mệt ở phía tây, lại lo lắng ở phía Đông, binh pháp dạy rằng phải thừa
lúc địch đang mệt nhọc mà đánh tới. Thần cẩn trọng xin tấu trình mọi nhẽ:
Cao Đế(32)sáng tựa nhật nguyệt, mưu thần uyên bác, thế mà phải vượt
mọi hiểm nguy chịu thương, bị nguy rồi sau mới được an. Nay bệ hạ chưa thể sánh
bằng Cao Đế, mưu thần chẳng được như Lương-Bình(33)mà lại muốn lấy kế lâu dài
để thủ thắng, ngồi yên để an định thiên hạ, đó là điều thứ nhất thần không hiểu
nổi.
Lưu Do-Vương Lãng(34)chiếm cứ châu quận, lập kế sách vỗ yên, dẫn dụ
lời thánh nhân, mọi người còn mang lòng ngờ vực, khó nói ra lời, năm này không
ra đánh, năm sau chẳng cất quân, khiến cho Tôn Sách ngày càng mạnh mẽ, thâu tóm
cả xứ Giang Đông, đó là điều thứ hai thần không hiểu nổi.
Tào Tháo mưu kế kỳ tuyệt hơn người, dùng binh phảng phất như Tôn-
Ngô(35), thế mà vẫn bị khốn ở Nam Dương, gặp hiểm ở Ô Sào, nguy nan ở Kỳ Liên,
bị bức ở Lê Dương, mấy lần thua trận ở Bắc Sơn, suýt chết ở Đồng Quan, sau mới
tạm yên định được một thời, huống chi thần tài mọn, lại muốn không trải nguy
nan mà yên định được, đó là điều thứ ba thần không hiểu nổi.
Tào Tháo năm lần đánh Xương Bá mà không xong, bốn lần vượt Sào Hồ
mà không thành, tin dùng Lý Phục mà Lý Phục mưu mô, uỷ thác cho Hạ Hầu mà Hạ
Hầu bại trận, Tiên đế thường khen Tào Tháo là người tài giỏi, còn có chỗ kém
ấy, huống hồ thần là kẻ kém cỏi, lẽ nào lại nắm chắc phần thắng? Đó là điều thứ
tư mà thần không hiểu nổi.
Từ lúc thần đến Hán Trung, trong khoảng một năm, đã mất Triệu
Vân(36), Dương Quần, Mã Ngọc, Diễm Chi, Đinh Lập, Bạch Thọ, Lưu Cáp, Đặng Đồng,
cùng hơn bảy chục tướng giữ đồn, là những mãnh tướng ít thấy. Những Tán kỵ, Vũ
kỵ người Tung-Tẩu-Thanh Khương cũng mất hơn một nghìn người, những người ấy đều
là tinh hoa thu thập trong vài chục năm, từ bốn phương, chẳng phải từ một châu
mà có được, thế mà chỉ vài năm, đã mất đến hai phần ba, biết lấy gì để đánh
giặc? Đó là điều thứ năm thần không hiểu nổi.
Nay dân nghèo quân mỏi, việc lại chẳng thể dừng, việc chẳng thể
dừng, tất phải chạy ngược chạy xuôi tổn tâm hao trí, mà nay chẳng sớm liệu,
muốn lấy một châu để mưu toan đánh giặc lâu dài, đó là điều thứ sáu thần không
hiểu nổi.
Việc khó bàn định, chính là việc ấy vậy. Xưa kia Tiên Đế thua quân
ở Sở, lúc bấy giờ, Tào Tháo vỗ tay, bảo là thiên hạ đã định. Sau này Tiên đế
liên minh với Ngô-Việt ở phía đông, giữ Ba-Thục ở phía tây, cất quân bắc chinh,
Hạ Hầu mất đầu, ấy là Tháo thất kế mà nghiệp Hán sắp thành vậy. Về sau Đông Ngô
phản bội minh ước, Quan Vũ bị diệt, rồi sai lầm vấp ngã ở Tỷ Quy, Tào Phi xưng
đế. Phàm những việc như thế, khó mà biết đến được. Thần cúc cung tận tuỵ, đến
chết mới thôi, đến như việc thành bại được mất, chẳng phải thần sáng suốt hay
đủ tài năng mà biết trước được”.
Liền đó có chiến dịch Tán Quan. Biểu này không có trong Gia Cát
Lượng tập, mà thấy được ở sách Mặc ký của Trương Nghiễm(37).
Mùa đông, Lượng lại ra Tán Quan, vây Trần Thương, Tào Chân chống
cự, Lượng hết lương phải quay về. Nguỵ tướng Vương Song dẫn kỵ binh truy đuổi
Lượng, Lượng giao chiến, phá được, chém chết Song. Năm thứ bảy, Lượng sai Trần
Thức tiến công Vũ Đô-Âm Bình. Thứ sử Ung Châu nhà Nguỵ là Quách Hoài dẫn quân
muốn tập kích Thức, Lượng tự mình dẫn quân ra Kiến Uy, Hoài phải lui binh,
Lượng lấy được hai quận ấy. Hậu chủ viết chiếu gửi Lượng, rằng: “Chiến dịch
Nhai Đình, lỗi bởi Mã Tốc, khanh lại lấy làm lỗi của mình, tự xin biếm chức,
bởi tôn trọng ý kiến của khanh, trẫm miễn cưỡng thuận theo. Song năm trước
khanh đã làm rạng danh quân ta, chém chết Vương Song mang tai trái về dâng; năm
nay viễn chinh, Quách Hoài phải trốn chạy, hàng phục được các bộ tộc Đê-Khương,
thu về hai quận, uy trấn kẻ hung nghịch, công trạng đã rõ rệt. Nay thiên hạ
đang nhiễu loạn, kẻ địch đầu sỏ chưa bị tiêu diệt, khanh vâng mệnh gánh vác
việc lớn, là rường cột quan trọng của quốc gia, mà ở địa vị uỷ khuất đã lâu,
chẳng phải là điều hay để biểu dương kẻ sỹ. Nay phục chức Thừa tướng cho khanh,
xin chớ chối từ”.
Hán Tấn xuân thu chép: Năm ấy, Tôn Quyền xưng tôn hào(38), cùng
quần thần suy tôn nhị đế(39)bá cáo thiên hạ. Mọi người bàn luận cho rằng việc
giao hiếu là vô ích, mà danh bất thuận, nên sáng rõ chính nghĩa(40), cắt đứt
minh ước. Lượng nói: “Quyền có tâm ý tiếm nghịch đã lâu, quốc gia sở dĩ bỏ qua
ý đồ gây hấn ấy, cầu lấy thế ỷ giốc cứu giúp nhau. Nay nếu công nhiên tuyệt
giao với họ, ắt thù hận của họ với ta rất sâu sắc, đương nhiên chúng ta phải
dời quân sang đông, cùng với họ đấu lực, thôn tính đất đai của họ, rồi mới tính
đến chuyện Trung nguyên. Hiềm vì bên ấy hiền tài đông đúc, đồng lòng nhất ý,
chưa thể một sớm dẹp yên. Dừng binh giằng co, ngồi mà đợi già, khiến kẻ địch ở
phương bắc được lợi, chẳng phải là thượng sách. Xưa Hiếu
Văn phải nhún nhường với Hung Nô(41), Tiên đế cùng với Ngô kết
minh, đều là ứng với cái lẽ quyền mưu biến thông vậy, cần phải nghĩ tới lưọi
ích sâu xa, chớ nên làm việc lỗ mãng gây chia rẽ. Nay bàn định đều cho rằng
Quyền được lợi ở thế ba chân đỉnh, chẳng ngang sức với người, ước vọng đã được
mãn nguyện, mà chẳng có ý muốn lên bờ nữa, xét điều ấy, tưởng rằng đúng mà lại
sai. Sao vậy? Bởi vì Quyền trí lực chẳng đủ, nên chỉ giới hạn ở Trường Giang tự
thủ; Quyền chẳng đủ sức vượt Trường Giang, cũng như giặc Nguỵ chẳng thể vượt
qua Hán Thuỷ, đều chẳng phải lực có thừa mà thấy lợi chẳng làm. Nếu nay ta mang
đại quân thảo phạt, trên thì cùng với họ
phân chia đất đai(42)mưu tính về sau, dưới thì thu lấy dân mở rộng
bờ cõi, bày ra uy vũ bên trong, họ chẳng ngồi yên vậy. Ví bằng họ án binh bất
động giữ tình hoà hảo, khi ta Bắc phạt, chẳng phải lo nghĩ về phía Đông, mà
địch quân ở Hà Nam chẳng dám về hết phía Tây, cái lợi ấy, cũng đã là to lớn lắm
rồi. Cái tội tiếm xưng của Quyền, chưa nên làm rõ vậy”. Rồi sai Vệ uý Trần Chấn
đến chúc mừng Quyền lên ngôi đế.
Năm thứ chín, Lượng lại ra Kỳ sơn, lấy trâu gỗ vận chuyển lương
thảo. Hán Tấn xuân thu chép: Lượng vây Kỳ Sơn, cho vời vua rợ Tiên Ti là
Kha Bỉ Năng, Bỉ Năng đến phía bắc Thạch Thành hưởng ứng Lượng. Bởi Đại
tư mã Tào Chân nhà Nguỵ đang ốm, Tư mã Tuyên Vương từ Kinh Châu về triều, Nguỵ
Minh nói: “Phương Tây có việc trọng đại, phi tướng quân không còn ai để phó
thác nữa”. Rồi sai Tuyên Vương đi về Tây đến Trường An, đôn đốc bọn Trương Cáp,
Phí Diệu, Đới Lăng, Quách Hoài. Tuyên Vương sai Diệu-Lăng giữ bốn nghìn tinh
binh phòng thủ Thượng Nhai, còn lại đều sang tây cứu Kỳ Sơn. Cáp muốn chia binh
đóng ở Ung-My, Tuyên Vương nói: “Ta đồ rằng để độc lập đảm đương việc nơi tiền
tuyến, chỉ còn mỗi tướng quân vậy; nếu tướng quân chẳng gánh vác mà phân binh
làm tiền hậu, lại giống như nước Sở chia quân làm ba cánh rồi bị Kình Bố đánh
bại ngày trước(43).” Rồi tiến binh. Lượng chia vây đánh, lại thân chinh đón
đánh Tuyên Vương ở Thượng Nhai. Quách Hoài-Phí Diệu tập kích Lượng, bị Lượng
đánh tan, nhân đó gặt hết lúa mạch ở ngoài đồng, gặp Tuyên Vương ở phía đông
Thượng Nhai, Tuyên Vương thu binh cậy hiểm mà giữ, hai bên không giao chiến,
Lượng đành dẫn quân quay về. Tuyên Vương bám theo Lượng đến Lỗ Thành. Trương
Cáp nói: “Bên kia từ xa đến đánh ta, muốn đánh không được, ấy là ta không đánh
mà có lợi, muốn dụng kế lâu dài để kiềm chế họ. Vả lại Kỳ Sơn biết rằng đại
quân ở gần đây, cũng yên tâm cố thủ, ta có thể dừng viện đóng binh giữ vững thế
này, nên chia một đội kỳ binh, bất ngờ vòng phía sau đánh tập hậu, chứ chẳng
nên tiến quân mà không dám quyết đấu, ngồi yên một chỗ khiến người dân mất cả
hy vọng. Nay Lượng ít quân thiếu lương, cũng phải rút vậy.” Tuyên Vương không
nghe, vẫn bám theo Lượng. Đã vậy, lại lên núi lập doanh trại, nhất định không giao
chiến. Giá Hủ-Nguỵ Bình mấy lần xin đánh, nhân đó nói: “Công sợ Thục như cọp,
làm trò cười cho thiên hạ sao!” Tuyên vương lấy làm tức giận. Chư tướng đều xin
đánh. Tháng năm ngày Tân Tị, mới sai Trương Cáp tấn công Hà Bình khi ấy đang
canh giữ vòng vây phía Nam, còn tự mình ở trung quân đối đầu với Lượng. Lượng
sai Nguỵ Diên-Cao Tường-Ngô Ban đến đánh, thắng lớn một trận, thu được ba ngàn
thủ cấp cùng áo dầy, giáp đen năm ngàn bộ, cung cứng ba ngàn chiếc, Tuyên Vương
quay về giữ vững doanh trại.
Sau Lượng hết lương phải lui quân, cùng Nguỵ tướng Trương Cáp giao
chiến, bắn chết Cáp.
Việc thứ năm Quách Xung kể rằng: Nguỵ Minh đế thân chinh chống
Thục, đóng ở Tràng An, sai Tuyên Vương đốc suất Trương Cáp cùng chư quân ở các
xứ Ung-Lương hơn ba mươi vạn, ba quân ngầm tiến, nhằm hướng Kiếm Các. Lượng bấy
giờ ở Kỳ Sơn, cờ quạt nghiêm chỉnh khí giới sắc bén, giữ vững những nơi hiểm
yếu, cứ mười binh được thay hai, tại đó đang có tám vạn binh(44). Bấy giờ quân
Nguỵ dàn trận, đúng lúc đổi binh, các
Tham tá đều cho rằng thế giặc cường thịnh, không có binh lực chẳng thể đối
địch, nên quyền biến đình binh lại thêm một tháng, để giữ thanh thế. Lượng nói:
“Ta là thống soái cầm quân, lấy đại tín làm gốc, nay lại thất tín, đó là việc
người xưa lấy làm tiếc; quân lính được về đã thu xếp hành trang chờ đợi, vợ con
ở nhà vươn cổ hạc trông ngóng từng ngày, dẫu gặp chinh chiến gian nguy, tín
nghĩa chẳng thể bỏ”. Rồi cứ truyền lệnh cho quân lính được đi. Bởi thế kẻ được
đi đều cảm động, xin ở lại đánh một trận, kẻ ở lại phấn chấn, dẫu chết cũng cam
lòng. Chúng đều nói rằng: “Ân của Gia Cát công, chết cũng chẳng thể báo đáp
được.” Đến ngày lâm trận, chẳng ai không rút đao tranh nhau xông lên, một địch
nổi mười, giết Trương Cáp, đánh lui Tuyên Vương, đại thắng một trận, ấy chỉ bởi
giữ vững chữ tín mà nên công vậy.
Luận rằng: Thần Tùng Chi xét: Lần trước Lượng ra Kỳ Sơn, Nguỵ Minh
Đế đích thân dẫn quân đến Tràng An, năm ấy chẳng trở lại nữa. Vả lại đại quân
của Lượng đang ở Quan-Lũng, người Nguỵ sao có thể vượt qua quân của Lượng để thẳng
hướng Kiếm Các mà tới? Lượng ở chiến trường, vốn không tính ở lâu dài, sao lại
cho quân Thục về nghỉ ngơi, đều là nói những lời trái với lẽ thường vậy. Tôn
Thịnh-Tập Tạc Xỉ đã tìm kiếm những điểm dị đồng, không bỏ sót điều gì, mà đều
không ghi chép lời Xung nói, biết lời ấy đa phần là ngang trái vậy.
Năm thứ mười hai, Lượng đem hết ba quân theo lối Tà Cốc tiến ra,
lấy ngựa máy để vận chuyển, chiếm núi Võ Công trên Ngũ Trượng nguyên, cùng với
Tư mã Tuyên vương đối trận ở bờ nam sông Vị. Lượng thường lo lắng việc lương
thảo chẳng chuyển kịp, khiến chí của mình chẳng tỏ, bởi thế chia binh lập đồn
điền, muốn làm kế ở lâu dài. Quân lính làm ruộng lẫn với dân nơi bãi sông Vị,
mà trăm họ an cư, quân lính không có chút riêng tư.
Hán Tấn xuân thu chép: Lượng từ lúc đến, mấy lần dụ chiến. Tuyên
Vương cũng dâng biểu về triều cố xin được đánh. Nguỵ sai Vệ uý Tân Bì cầm cờ
tiết đến không cho đánh. Khương Duy nói với Lượng rằng: “Tân Tá Trị mang cờ
tiết đến, quân giặc tất không ra đánh vậy.” Lượng nói: “Bên ấy vốn không muốn
đánh, sở dĩ cố xin được đánh, cốt để yên bụng quân đấy thôi. Tướng ở trong
quân, mệnh vua có chỗ không theo, ví như có thể thắng ta, há phải đi xa nghìn
dặm để xin đánh sao!”
Nguỵ thị Xuân thu chép: Sứ của Lượng đến, Vương chỉ hỏi chuyện ăn
ngủ và những việc làm hàng ngày, chẳng hỏi han gì đến việc binh. Sứ thưa rằng:
“Gia Cát công thức khuya dậy sớm, án phạt từ hai mươi gậy trở lên, đều tự mình
xét hỏi; mà mỗi bữa ăn chẳng được mấy thưng(45)“. Tuyên Vương nói: “Lượng sắp
chết rồi vậy!”
Cầm giữ nhau hơn trăm ngày. Tháng tám năm ấy, Lượng ốm nặng, mất ở
trong quân, lúc ấy được năm mươi tư tuổi.
Nguỵ thư chép: Lượng thế cùng hết lương, lo buồn tức giận đến thổ
huyết, một đêm đốt nhang trong doanh rồi xua binh trốn chạy, vào tới cốc, đã
phát bệnh mà chết.
Hán Tấn Xuân thu chép: “Lượng chết ở Quách thị ổ”.
Tấn Dương thu(46)chép: “Có ngôi sao màu đỏ có sừng nhọn, từ phía
đông bắc bay về tây nam, rơi xuống doanh trại của Lượng, ba lần rơi xuống rồi
lại bay lên, loé sáng rồi vụt tắt(47). Lát sau Lượng chết”.
Thần Tùng Chi cho rằng Lượng mất ở bãi sông Vị, người Nguỵ lần theo
dấu vết lén đuổi theo, cái hình thế được thua, chưa thể lường được, mà bảo rằng
Lượng bị thổ huyết, chỉ là nhân việc Lượng chết mà tự khoa trương vậy. Người
như Khổng Minh là bậc mưu lược, há vì Trọng Đạt mà thổ huyết
hay sao? Sau này Lưu Côn thua quân, có tấu lên Tấn Nguyên
đế(48)rằng: “Lượng thua quân thổ huyết”, ấy là bởi tin theo những ghi chép hư
hão mà nói vậy. Còn nói rằng vào cốc rồi chết, là bởi người Thục vào đến cốc
mới phát tang vậy.
Đến khi quân Thục đã bỏ đi, Tuyên Vương đến xem xét quân doanh luỹ
ở đó, nói: “Thật là kỳ tài thiên hạ vậy!”
Hán Tấn Xuân thu chép: Bọn Dương Nghi chỉnh đốn quân sĩ rút về,
bách tính cấp báo Tuyên Vương, Tuyên Vương đuổi theo, Khương Duy vâng lệnh Nghi
quay cờ gióng trống, nhằm hướng Tuyên Vương đón đánh, Tuyên Vương bèn lui binh,
không dám bức bách. Bọn Nghi lại nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi, về đến cốc mới cho
phát tang. Nhân chuyện Tuyên Vương sợ phải lui binh, trăm họ vì chuyện ấy có
câu ngạn ngữ rằng: “Tử Gia Cát năng
tẩu sinh Trọng Đạt(49)”. Có người mách chuyện ấy với Tuyên Vương,
Tuyên Vương bảo: “Ta chỉ có thể liệu được việc sống, chẳng liệu được việc chết
vậy!”
Lượng di mệnh được táng tại Định Quân Sơn thuộc Hán Trung, mộ phần
tựa vào núi, mả chỉ đủ chứa quan tài, liệm bằng quần áo bình thường, không chôn
theo tài vật. Chiếu viết rằng: “Chỉ ngài văn võ kiêm toàn, sáng suốt thành
thực, chịu mệnh thác cô, đem thân phò trẫm, hưng dòng đã tuyệt, chí mưu dẹp
loạn; sửa việc binh cơ, chinh chiến liền năm, thần vũ hiển hách, uy trấn tám
phương, lập công lớn vào thời cuối Hán, công lao sánh tựa Y- Chu(50). Sao chẳng
xót thương, việc lớn chưa thành, gặp bệnh mà thác! Lòng trẫm đớn đau, tim gan
tan nát. Trọng người đức lớn công đầu, tên hiệu khắc sâu, danh còn sáng mãi về
sau, tiếng thơm bất hủ. Nay sai sứ là Tả trung lang tướng Đỗ Quỳnh cầm cờ tiết,
truy tặng ngài ấn thụ Thừa tướng Võ Hương Hầu, thuỵ hiệu Trung Vũ Hầu. Hồn
thiêng có linh, xin về thượng hưởng. Than ôi thương thay! Than ôi thương thay!”
Lúc trước, Lượng tự viết biểu tâu lên Hậu chủ rằng: “Nhà thần ở
Thành Đô có tám trăm gốc dâu, ruộng xấu mười lăm khoảng, cái ăn mặc của con cái
xem ra đầy đủ. Đến như thần gánh vác việc ở bên ngoài, cũng chẳng có gì khác
người, cái ăn cái mặc đều trông vào cửa quan, chẳng chút tơ hào cho riêng mình,
ấy là để lâu dài thước tấc vậy. Đến ngày thần mất, trong nhà chẳng để thừa gấm
vóc, bên ngoài không có điền sản dư dôi, chính là để khỏi phụ lại lòng tin
tưởng của Bệ hạ vậy”. Sau này Lượng chết, quả đúng như lời đã nói.
CHÚ THÍCH
(1) Là Gia Cát Lượng truyện do Trần Thọ viết.
(2) Lương Phụ Ngâm nguyên là khúc ca cổ của nước Tề thời Chiến
Quốc, kể về sự tích tể tướng nước Tề là Án Anh, dùng hai quả đào giết ba dũng
sĩ. Án Anh thấy ba người kiêu ngạo, sợ rằng nếu họ hợp sức sẽ nguy hại tới quốc
gia, mới bày kế để ba dũng sĩ tranh nhau hai quả đào, cuối cùng cả ba người vì
sĩ diện mà tự sát cả.
(3) Tức Trần Quần và Tư Mã Ý.
(4) Tư Mã Tương Như, một danh thần nhà Hán. (5)Tức Tư Mã Huy còn
gọi là Thuỷ Kính tiên sinh. (6)Tức Lưu Biểu.
(7) Thân Sinh, Trùng Nhĩ là hai con cùng cha khác mẹ của vua Tấn là
Hiến Công. Ái thiếp của vua Tấn là Ly Cơ, có con trai là Hề Tề, vì muốn con
mình được kế vị mới dèm pha với vua Tấn nhằm giết Thân Sinh và Trùng Nhĩ. Thân
Sinh ở lại triều đinh bị mắc mưu phải tự sát, Trùng Nhĩ trốn ở bên ngoài nên
thoát nạn, sau này lên làm vua Tấn.
(8) Xưa khi bắt được phạm nhân thường để dong trên xe tù, đi khắp
đường chợ, gõ trống để dân tình đến xem và nhận mặt hung thủ.
(9) Sái Mạo là anh vợ Biểu nắm quyền to, Biểu yêu Tông (con thứ do
Sái thị đẻ ra), ghét Kỳ (con vợ cả), Biểu đang ngả về phe họ Sái.
(10) Lưu Bị từng nhận chức Dự châu mục nên được gọi là Lưu Dự châu.
(11) Vùng HánNamtức là khục vực phíaNamsông Hán, tức đất Kinh châu.
(12) Ở đây ý nói rằng Tháo đã phá được Thiệu.
(13) Tức Trương Chiêu.
(14) Hiếu Ni tức là Viên Tử vậy.
(15) Lâm Trưng nay thuộc tỉnh Hồ Nam, nằm giữa 3 quận kể trên, rất
thuận tiện giao thông, có thể điều hành hậu cần rất hợp lý cho cả vùng.
(16) Tả tướng quân là chức của Lưu Bị do Hán Hiến đế phong cho.
Lượng tạm coi việc ở phủ sự của Lưu Bị, khi ấy Bị thường đi chinh chiến ở bên
ngoài.
(17) Ý là năm Kiến An thứ hai mươi sáu. Trên thực tế,năm Kiến An
thứ hai mươi lăm, tháng 10, Hán Hiến Đế bị Tào Phi truất ngôi, tháng 4 năm sau
Bị xưng đế kế tục nhà Hán.
(18) Ngô Hán, Cảnh Yểm và Cảnh Thuần đều là bầy tôi của Hán Quang
Vũ Đế Lưu Tú. Thế Tổ tức là Quang Vũ Đế, đã đánh dẹp Vương Mãng, theo lời
khuyên của quần thần lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Đông Hán.
(19) Nguyên văn: Phải nằm trong chảo nước nóng, không hiểu vì sao
lại có câu này. Theo Sử ký của Tư Mã Tử Trường, Hạng Vũ bản kỷ thì Hạng Vũ tự
tử bên bờ sông.
(20) Trần Sùng, Trương Tủng là người thời nhà Tân xưng tụng Vương
Mãng giúp Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán.
(21) Tức Hán Quang Vũ đế.
(22) Mạnh Đức tức Tào Tháo.
(23) Thần khí ở đây trỏ vào ngôi Hoàng đế vậy.
(24) Tức Tào Phi.
(25) Tô Tần và Trương Nghi, những biện sỹ nổi danh đời Chiến quốc.
(26) Hoan Đâu là một trong tam đại thủ lĩnh của Miêu Tộc, vì bất
phục Thuấn nên gây loạn, sau bị Thuấn dẹp được.
(27) Hai trong năm người bề tôi của vua Thuấn khi xưa rất được ca
ngợi, đó là: Vũ, Tắc, Tiết, Cao Dao, Bá Ích.
(28) Hàn mặc là bút mực, ý chỉ những người theo nghiệp văn chương.
(29) Tức Hoàn Đế, Linh Đế nhà Đông Hán.
(30) Tư Mã Ý.
(31) Tức Tào Tuấn.
(32) Tức Hán Cao Tổ, người lập ra vương triều Tây Hán.
(33) Trương Lương, Trần Bình đều là những mưu thần nổi danh giúp
Hán Cao tổ hưng vương nghiệp.
(34) Lưu Do là thứ sử Dương Châu, Vương Lãng là thái thú Cối Kê
thuộc Giang Đông. Hai người này đều bị Tôn Sách đánh tan cả.
(35) Tôn Vũ, Ngô Khởi là những nhà quân sự tài giỏi đời Chiến quốc.
(36) Có một chi tiết đáng ngờ là Triệu Vân, một mãnh tướng hàng đầu
của Thục Hán, ông mất sau khi Lượng ra quân phạt Nguỵ lần thứ hai, mà bài biểu
này lại có trước đó? Vì sao Gia Cát Lượng có nhầm lẫn vô lý như thế? Đây là một
chi tiết mà học giả đời sau suy luận rằng trước tác này không phải do Gia Cát
Lượng viết ra.
(37) Trương Nghiễm tác giả sách Mặc Ký là người xứ Đông Ngô.
(38) Xưng đế.
(39) Tức là truy tôn Tôn Kiên, Tôn Sách.
(40) Nhà Thục Hán nối hương hoả nhà Hán, tự coi mình là chính
thống. Ý các quan lại Thục Hán cho rằng Ngô xưng đế tức là tiếm xưng vậy.
(41) Nhà Hán thời Hiếu Văn Đế bị quân Hung Nô vào cướp phá, Hiếu
Văn Đế phải cầu hoà với Hung Nô, gả công chúa cho vua Hung Nô.
(42) Tỏ ý đem quân Bắc phạt và cùng phân chia giang sơn của Tào
Nguỵ.
(43) Hán Cao Tổ thống nhất thiên hạ, Kình Bố làm phản, đem quân
đánh nước Sở. Tướng Sở muốn chia làm ba đạo quân, hòng cứu lẫn nhau, cho là
hay. Có người nói: “Bố rất thạo việc dùng binh. Nay ta tách quân làm ba cánh,
nếu một cánh quân bị bại tất hai cánh quân kia đều bỏ chạy, làm sao cứu được
nhau?”. Tướng Sở không nghe, quả nhiên khi Bố đánh tan một cánh quân, hai cánh
quân kia đều bỏ chạy cả.
(44) Tạm luận theo ý của sách Hán Tấn Xuân Thu như sau, Lượng xuất
mười vạn quân bắc phạt, muốn cho quân sĩ được nghỉ ngơi, vậy nên mười vạn binh
thì cho hai vạn binh được nghỉ ở tuyến sau, như vậy ở tiền tuyến luôn có tám
vạn binh.
(45) Thưng tức là một lưng bát vậy.
(46) Sách của Tôn Thịnh, người nước Ngô.
(47) Nguyên văn: Vãng đại hoàn tiểu tức là lúc lớn lúc nhỏ, dịch
thoát ý.
(48) Tấn Nguyên Đế là Tư Mã Duệ vua nhà Đông Tấn. Tư Mã Viêm lập
nhà Tấn được mấy chục năm thì xảy loạn bát vương, Tấn Nguyên Đế sau chỉ làm chủ
được vùng Giang Nam. Lưu Côn là bầy tôi của Tấn Nguyên Đế.
(49) Tức là “Gia Cát chết còn đuổi được Trọng Đạt sống”.
(50) Y Doãn, Chu Công là những hiền thần nổi tiếng đời nhà Thương, Chu .
QUYỂN 6 - QUAN TRƯƠNG MÃ
HOÀNG TRIỆU TRUYỆN
Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu,
Hoàng Trung, Triệu Vân.
HOÀNG TRUNG TRUYỆN
Hoàng Trung tự Hán Thăng, người Nam Dương. Kinh Châu mục Lưu Biểu
lấy làm Trung lang tướng, để Trung cùng người cháu là Bàn trấn giữ Du huyện,
Trường Sa. Tào Công chiếm được Kinh Châu, cho Trung kiêm chức Tỳ tướng, vẫn
theo trách nhiệm cũ, lệ thuộc Trường Sa thái thú Hàn Huyền. Tiên Chủ định các
quận phía nam(1), Trung quy phục, theo Tiên chủ vào Thục. Tại ải Hà Manh nhận
lệnh, kéo quân quay về tấn công Lưu Chương, Trung thường đi đầu xung trận, dũng
cảm, cương nghị trùm ba quân. Ích Châu bình định, Trung được phong làm Thảo Lỗ
tướng quân. Năm Kiến An thứ 24, (Trung) từ Định Quân Sơn ở Hán Trung tấn công
Hạ Hầu Uyên. Quân Uyên rất tinh nhuệ, Trung xua quân tiên phong, chỉ tiến không
lùi, khuyến khích sĩ tốt, trống chiêng vang trời, quân reo động cốc, nhất chiến
trảm Uyên, quân Uyên đại bại. Được thăng làm Chinh tây tướng quân. Cùng năm đó,
Tiên chủ làm Hán Trung Vương, muốn dùng Trung làm hậu tướng quân. Gia Cát Lượng
thuyết Tiên chủ rằng: “Danh tiếng của Trung,
không thể so với Quan, Mã(2). Mà nay lại được liệt ngang hàng. Mã,
Trương(3) ở gần, chứng kiến công lao của Trung, còn có thể khuyên bảo được;
Quan(4) chỉ nghe từ xa, sợ tất chẳng bằng lòng, e rằng không thể khuyên bảo
được”. Tiên chủ nói: “ta tự có cách phân giải”. Rồi phong Trung ngang hàng
những người ấy, tước quan nội hầu. Năm sau Trung mất, được truy tặng thụy hiệu
là Cương Hầu. Con là Tự chết sớm, không có người nối dõi.
QUAN VŨ TRUYỆN
Quan Vũ tự Vân Trường, trước có tự là Trường Sinh, người ở huyện
Giải Lương quận Hà Đông. Sau (có tội) bỏ xứ lưu lạc đến Trác Quận. Tiên chủ tập
hợp mọi người trong vùng (5), Vũ với Phi cũng theo hầu. Tiên chủ làm Bình
Nguyên tướng, lấy Vũ-Phi làm Biệt bộ tư mã, chia nhau thống lĩnh bộ khúc (6).
Tiên chủ cùng với hai người ngủ cùng giường, tình thân thiết như huynh đệ. Khi
có việc công, hai người đứng hầu trọn ngày, mọi thứ đều do Tiên chủ chu toàn,
chẳng tị hiềm gian khổ.
Thục ký viết: Tào công cùng với Lưu Bị vây Lã Bố ở Hạ Bi (Phì), Bố
sai Tần Nghi Lộc đến cầu cứu, Quan Vũ bày tỏ với Tào công, xin được lấy người
ấy làm vợ, Công ưng cho. Bố bị phá, Vũ lại tỏ ý với Công. Công ngờ rằng người
ấy hẳn có nhan sắc, mới sai đón trước về xem, thầm tính giữ lại không cho đi,
Vũ trong lòng bất an. Việc ấy sách Nguỵ thị Xuân Thu cũng không nói khác Tiên
chủ đánh úp Từ châu của Thứ sử Xa Trụ, sai Vũ giữ thành Hạ Bi, coi việc Thái
thú, Nguỵ thư chép:lấy Vũ đốc xuất việc ở Từ châu, Bị thân đến Bái huyện.
Năm Kiến An thứ năm, Tào công Đông chinh, Tiên chủ thua chạy sang
với Viên Thiệu, Tào công bắt được Vũ đem về, bái làm Thiên tướng quân, ban cho
lễ cực hậu. Thiệu sai Đại tướng quân (7) Nhan Lương đánh Đông quận Thái thú Lưu
Diên ở Bạch Mã thành, Tào công sai Trương Liêu cùng với Vũ làm tiên phong đánh
lại. Vũ trông xa thấy Lương ở dưới lọng chỉ huy, liền ra roi quất ngựa xông tới
đâm chết Lương giữa vạn quân, chém lấy thủ cấp rồi quay về, chư tướng của Thiệu
chẳng ai dám làm gì, Bạch Mã được giải vây. Tào công liền phong cho Vũ làm Hán
Thọ đình hầu. Lúc trước, Tào công thấy Vũ là người hùng tráng, muốn tỏ ý lưu
lại lâu dài, mới bảo Trương Liêu rằng: “Khanh hãy lấy cái tình của ta đến ướm
hỏi y xem.” Liêu liền lấy ý ấy ra hỏi Vũ, Vũ thở dài nói: “Ta biết Tào công đãi
ta rất hậu, nhưng ta đã chịu hậu ân của của Lưu tướng quân, thề cùng sống chết,
chẳng thể bội ước. Ta thà chết chứ chẳng ở lại được, ý ta muốn lập công để báo
ơn Tào công rồi sẽ ra đi”. Liêu đem lời của Vũ về báo lại với Tào công, Tào
công cảm nghĩa ấy.
Phó Tử viết: Liêu muốn bẩm với Thái tổ, lại sợ Thái tổ giết Vũ,
không bẩm, lại sợ trái đạo quân thần, bèn than thở rằng: “Tào công, là chúa ta;
Vũ, là anh em của ta.” Đành phải báo lại. Thái tổ nói: “Thờ chúa không quên
gốc, thật là nghĩa sĩ thiên hạ vậy. Khi nào thì người ấy sẽ đi?” Liêu đáp: “Vũ
chịu ơn sâu của chúa công, nhất định lập công báo đáp rồi mới ra đi.”
Tới khi Vũ giết Nhan Lương, Tào công biết Vũ tất bỏ đi, bèn tặng
thưởng thêm rất hậu. Vũ liền gói ghém hết những đồ thưởng để lại, viết thư cáo
từ, rồi đi đến chỗ Tiên chủ ở bên quân Viên. Tả hữu muốn đuổi theo, Tào công
nói: “Người ấy bỏ đi vì chủ, chớ nên đuổi theo.”
Thần là Tùng Chi cho rằng Tào công biết Vũ chẳng ở lại mà khen
ngợi chí khí ấy, khi Vũ bỏ đi mà chẳng
sai người đuổi theo ấy là nghĩa, lại tự cho rằng mình chưa đủ sự rộng lượng của
bậc bá vương, ai có thể làm được như vậy? ấy thật sự là Tào công đã sử xự cao
đẹp vậy.
Vũ theo Tiên chủ tới chỗ Lưu Biểu. Biểu chết, Tào công bình định
Kinh châu, Tiên chủ từ Tương Phàn vượt sông chạy về phương Nam, sai Vũ lĩnh
thuỷ quân đốc xuất mấy trăm thuyền chiến hẹn gặp nhau ở Giang Lăng. Tào công
đuổi kịp (Bị) ở Đương Dương Tràng Bản, Tiên chủ chạy rẽ sang bến Hán Tân, vừa
hay gặp chiến thuyền của Vũ ở đó, mới cùng nhau đến Hạ Khẩu.
Thục ký chép: Lúc trước, Lưu Bị ở đất Hứa cùng với Tào công đi săn.
Trong khi săn bắn, mọi người tản mát, Vũ khuyên Bị giết Công, Bị không nghe.
Khi ở Hạ khẩu, lúc phiêu dạt trên sông, Vũ giận nói: “Ngày trước lúc đi săn, ví
như theo lời Vũ này, thì ngày nay có đâu khốn cùng như thế.” Bị nói: “Ấy bởi
bấy giờ cũng vì việc quốc gia mà tiếc (Tháo) đấy thôi; thuận đạo trời mà phụ
chính, ấy là muốn yên ổn nên chẳng gây việc thị phi (8)vậy.”
Thần là Tùng Chi thấy sau này Bị với Đổng Thừa cùng kết mưu (9),
chỉ khi việc bị tiết lộ chẳng nên việc, mới nói rằng vì việc quốc gia mà tiếc
Tào công, nói như thế sao được! Vũ quả thực khuyên Bị như thế mà Bị chẳng bằng
lòng, bởi bên cạnh Tào công có kẻ tâm phúc thân thích, quân sỹ đông đảo, việc
đề phòng dẫu chẳng nghiêm ngặt, nhưng việc cũng chẳng dễ làm vậy; Tào dù có bị
giết, nhưng bản thân cũng khó thoát chết, tính ra thì có chỉ thế, sao nói là
đau tiếc vậy! Việc đã qua rồi, mới nói thác ra để tỏ vẻ chính đáng vậy.
Tôn Quyền phát binh giúp Tiên chủ cự Tào công, Tào công dẫn binh
lui về. Tiên chủ thu được các quận Giang Nam , bèn phong thưởng cho những
người có công, lấy Vũ làm Tương dương Thái thú, Đãng khấu tướng quân, đóng giữ
Giang Bắc. Tiên chủ sang Tây bình định Ích châu, trao cho Vũ đốc trách mọi việc
ở Kinh châu. Vũ nghe tin Mã Siêu theo hàng, chẳng phải người cũ (10), lại nắm
tước vị cao. Vũ gửi thư cho Gia Cát Lượng, hỏi Siêu là nhân tài thế nào mà được
đứng vào hạng ấy. Lượng đã hiểu Vũ từ trước, bèn phúc đáp thư rằng: “Mạnh Khởi
kiêm tài văn võ, hùng liệt hơn người, là hào kiệt một đời, ví như Kình-Bành
(11), xứng đáng tranh tài cao thấp với Dực Đức, chẳng thể so sánh được với ông
Râu dài tuyệt luân siêu quần (12) vậy”.
Vũ vốn có bộ râu dài rất đẹp, nên khi thấy Lượng khen vậy rất lấy
làm thích thú. Vũ xem thư xong vô cùng đắc ý (13), lại đưa thư cho các tân
khách cùng xem.
Vũ từng bị trúng tên, bắn xuyên cánh tay trái, sau vết thương tuy
đã khỏi, mà mỗi lúc mưa dầm trở gió, xương cốt vẫn thường đau nhức, thầy thuốc
chẩn đoán rằng: “Mũi tên có thuốc độc, chất độc ấy thấm vào xương cốt, giờ phải
khoét thịt ở cánh tay bị thương, nạo xương trừ bỏ chất độc, rồi sau mới điều
trị được gốc bệnh.” Vũ liền duỗi tay sai thầy thuốc chữa trị. Lúc ấy Vũ đang
cùng chư tướng uống rượu nói chuyện, huyết trên cánh tay chảy đầm đìa như rót,
cơ hồ đầy cả chậu, mà Vũ vẫn cắt thịt nướng uống rượu, cười nói như không.
Năm thứ hai mươi bốn (Kiến An), Tiên chủ xưng làm Hán Trung Vương,
phong Vũ làm Tiền tướng quân, ban cho tiết việt. Năm ấy, Vũ xuất binh đánh Tào
Nhân ở Phàn thành. Tào công sai Vu Cấm đến giúp Nhân. Đến mùa thu, có mưa lớn,
nước sông Hán ngập mênh mông, bảy cánh quân do Cấm đốc suất đều bị dìm trong
nước. Vu Cấm hàng Vũ, Vũ lại chém chết được tướng quân Bàng Đức. Các xứ Lương,
Giáp, Lục (14) đều có ý ngấm ngầm hưởng ứng Vũ, kết lập bè đảng, Vũ oai chấn cả
Hoa Hạ. Tào công tính chuyện dời về Hứa Đô để tránh mũi nhọn của địch, song Tư
mã Tuyên vương và Tưởng Tế cho rằng Quan Vũ nếu đắc chí, Tôn Quyền ắt hẳn chẳng
chịu yên. Nên sai người khéo léo khuyên nhủ Quyền đánh tập hậu, hứa hẹn rằng sẽ
cắt hẳn Giang Nam
phong cho Quyền, như thế tự nhiên Phàn thành sẽ được giải vây. Tào công nghe
theo. Nguyên khi trước, Quyền sai sứ đến tác thành (15) cho con trai của mình
và con gái Vũ, Vũ chửi mắng nhục mạ sứ giả, không đồng ý hôn sự, Quyền rất tức
giận.
Điển lược viết: Vũ vây Phàn thành, Quyền sai sứ đến xin xuất binh
giúp đỡ, song Quyền chẳng vội vã tiến binh, chỉ phái quan chủ bạ đến báo cho Vũ
biết. Vũ giận vì đợi lâu, lại bởi lúc ấy mới bắt được bọn Vu Cấm, bèn mắng
rằng: “Tặc tử sao dám vậy, ví như lấy xong Phàn thành, ta chẳng thể diệt hắn
ư!” Quyền nghe nói vậy, biết Vũ coi rẻ mình, mới vờ viết thư tạ lỗi với Vũ, hứa
sẽ xuất binh.
Thần Tùng Chi cho rằng Kinh-Ngô dẫu ngoài mặt hoà nhau, mà bên trong có ý nghi ngờ phòng bị lẫn nhau, việc
Quyền đánh lén Vũ, tất giấu kín chẳng hở ra. Lại xét Lã Mông truyện rằng: “Giấu
tinh binh trong khoang kín, sai mặc áo trắng cầm mái chèo, giả dạng làm khách
buôn”, nói ra như thế, thì Vũ chẳng cầu sự giúp đỡ của Quyền, Quyền ắt hẳn
chẳng nói với Vũ là bấy giờ sẽ xuất binh. Nếu hứa rằng bấy giờ xuất binh viện
trợ, hà cớ gì phải giấu kín hình tích như vậy?
Lại nói Nam Quận Thái thú My Phương ở Giang Lăng, tướng quân Phó Sỹ
Nhân đóng binh ở Công An, vốn có hiềm khích với Vũ bị coi rẻ. Vũ xuất quân,
Phương-Nhân cung cấp quân tư trang, chẳng đầy đủ kịp thời. Vũ nói rằng “khi trở
về sẽ trừng trị”, Phương-Nhân trong lòng lo sợ không yên. Bởi thế khi Quyền
ngầm dụ hàng Phương-Nhân, Phương-Nhân sai người nghênh đón Quyền. Tào công bèn
sai Từ Hoảng đến cứu Tào Nhân, Thục ký viết: Vũ cùng Hoảng khi xưa rất quý
trọng nhau (16), lúc ấy trông xa nói chuyện, chỉ nhắc đến những việc thường
ngày, không bàn bạc gì đến việc quân. Chốc lát, Hoảng quay đầu ngựa truyền
lệnh: “Ai lấy được thủ cấp Vân Trường, sẽ thưởng 1.000 cân vàng”. Vũ lo sợ
cuống cuồng, hỏi Hoảng rằng: “Đại huynh, sao lại nói như vậy?” Hoảng đáp: “Ấy
chỉ bởi việc nước mà thôi.” Vũ không đánh được, phải dẫn quân lui về. Quyền
chiếm được Giang Lăng, bắt sống hết được vợ con tướng sỹ, quân của Vũ tản mát
hết cả. Quyền sai tướng đón đường đánh lén Vũ, chém chết Vũ cùng con của Vũ là
Bình ở Lâm Thư.
Thục ký chép: Quyền sai tướng sỹ đánh lén Vũ, bắt được Vũ cùng con
là Bình. Quyền muốn chiêu hàng Vũ dùng để đối địch với Lưu-Tào, tả hữu nói
rằng: “Hổ dữ chẳng thể nuôi, sau tất bị nó hại. Tào công chẳng trừ bỏ người ấy,
đã rước hoạ lớn, phải bàn đến việc dời đô. Nay há nên để cho sống!” Quyền bèn
sai đem chém. Ngô Lịch viết: Quy Thần Tùng Chi xét Ngô thư rằng: Tôn Quyền sai
tướng là Phan Chương đón bắt được Vũ lúc trốn chạy, Vũ bị chém chết, vả lại Lâm
Thư cách Giang Lăng hai ba trăm dặm, sao lại dung tha chẳng giết Vũ ngay lúc
ấy, còn bàn đến chuyện sống chết vậy? Lại nói rằng: “Quyền muốn chiêu hàng Vũ
để đối địch với Lưu-Tào”, thế là chẳng đúng, như vậy tuyệt trí chỉ là lời cửa
miệng hay sao (17).
Ngô Lịch viết: Quyền đem đầu của Vũ đến chỗ Tào công, Tào công lấy
lễ chư hầu mà an táng cho Vũ”.
Sau này Vũ được truy tặng thuỵ hiệu là Tráng mâu hầu.
Thục ký viết: Vũ ban đầu xuất quân vây Phàn thành, mộng thấy có
đàn lợn cắn vào chân, mới nói nhỏ với
Bình rằng: “Ta nay tuổi đã cao, như thế ắt nay đi chẳng thể trở về!” Giang Biểu
truyện viết: Vũ thích xem Tả truyện, thường đọc ngâm nga những chỗ mưu lược đầy
vẻ thích thú.
Con nối dõi của Vũ là Hưng. Hưng tên tự là An Quốc, lúc còn ít tuổi
được làm lệnh ở huyện Vấn, được Thừa tướng Gia Cát Lượng quý trọng khác thường.
Sau làm quan Thị trung, Trung giám quân. Được mấy năm thì chết. Con Hưng là
Thống nối tự, lấy công chúa (con Hậu chúa), làm quan đến Hổ bôn Trung lang
tướng. Khi chết, không có con nối dõi, mới lấy con thứ của Hưng là Di kế tục
tước.
Thục ký viết: Con Bàng Đức là Hội, theo Chung-Đặng phạt Thục, Thục
bị diệt, đã cho giết sạch gia tộc Quan Vũ.
TRƯƠNG PHI TRUYỆN
Trương Phi tự Dực Đức, là người ở Trác quận, lúc còn trẻ cùng với
Quan Vũ theo Lưu Bị khởi sự. Vũ lớn hơn Phi mấy tuổi, Phi nhận làm anh. Tiên
chủ theo Tào công phá Lã Bố, lúc xét công lao, Tào công phong Phi làm Trung
lang tướng. Tiên chủ bỏ Tào công sang nương nhờ Viên Thiệu, Lưu Biểu. Lúc Biểu
chết, Tào công vào được Kinh châu, Tiên chủ thua chạy xuống Giang Nam . Tào công
đuổi theo, một ngày một đêm, đuổi kịp ở Đương Dương Tràng Bản. Tiên chủ hay tin
binh của Tào công đuổi đến, liền bỏ cả vợ con mà chạy, sai Phi cầm 20 kỵ binh
chống cự ở phía sau. Phi chặt cầu giữ bên kia sông, trợn mắt cầm ngang ngọn mâu
quát rằng: “Ta là Trương Dực Đức đây, ai dám cùng ta tử chiến!” Quân địch không
ai dám tiến đến gần, vì thế Tiên chủ được thoát. Khi Tiên chủ đã yên định được
Giang Nam, lấy Phi làm Nghi Đô thái thú, Chinh Lỗ tướng quân, phong làm Tân
đình hầu, sau lại chuyển đến ở Nam Quận.
Tiên chủ vào Ích châu, rồi vây đánh Lưu Chương, Phi cùng với Gia
Cát Lượng ngược sông tiến lên, chia nhau đánh lấy các quận huyện. Tới Giang
Châu, đánh được tướng của Chương là Thái thú Ba quận Nghiêm Nhan, bắt sống
Nhan. Phi bảo Nhan rằng: “Đại quân đã đến, sao không hàng ngay mà dám chống
cự?” Nhan đáp rằng: “Bọn ngươi vô cớ, xâm đoạt châu quận của ta, Ích châu ta
chỉ có tướng quân rơi đầu, không có tướng quân xin hàng.” Phi nổi giận, lệnh
cho tả hữu lôi đi chém đầu, Nhan thần sắc không đổi, nói rằng: “Chém thì cứ
việc chém, cớ sao phải nổi giận?” Phi vội vàng sai cởi trói, dẫn vào đãi như
tân khách. (Hoa Dương quốc chí viết: Lúc trước, khi Tiên chủ vào Thục, đến Ba
quận, Nhan vỗ bụng than thở: “Thế gọi là ngồi một mình trong chốn thâm sơn, gọi
hổ đến giúp mình vậy!”) Phi nhờ thế tiến được nhanh, cùng với Tiên chủ hội quân
ở Thành đô. Ích châu đã bình, Tiên chủ ban tặng cho Gia Cát Lượng, Pháp Chính,
Trương Phi cùng với Quan Vũ 500 cân vàng, 1.000 cân bạc, 5 vạn quan tiền, gấm
lụa 1.000 tấm, cùng nhiều vật phẩm khác, Phi được lĩnh chức Ba Tây thái thú.
Tào công phá Trương Lỗ, để Hạ Hầu Uyên-Trương Cáp trấn giữ Hán
Xuyên. Cáp đốc xuất ba quân hạ Ba Tây, liền di dời dân ở đó vào đất Hán Trung,
tiến binh đến Đãng cừ-Mông đầu-Đãng thạch, cùng với Phi cầm giữ nhau hơn 50
ngày. Phi dẫn hơn vạn quân tinh nhuệ theo đường nhỏ đón đánh quân của Cáp,
đường núi nhỏ hẹp, đầu đuôi không thể cứu ứng được nhau, Phi phá được Cáp, Cáp
liền bỏ ngựa trèo lên núi, cùng hơn chục quân tướng theo đường hẻm trốn về, rồi
dẫn quân chạy tuốt đến Nam Trịnh, đất Ba yên định được. Tiên chủ xưng làm Hán
Trung Vương, bái Phi làm Hữu tướng quân, ban cho giả tiết.
Năm Chương Vũ nguyên niên, đổi Phi làm Xa kỵ tướng quân, lĩnh Tư mã
Thái uý, lại phong thêm tước Tây Hương hầu, chiếu rằng: “Trẫm vâng theo mệnh
trời, kế thống đại nghiệp, trừ hung dẹp loạn, đức lớn chưa rọi khắp bốn phương.
Nay quân giặc hung đồ, muôn dân bị tàn hại, kẻ sỹ hướng về nhà Hán, vươn cổ hạc
ngóng trông. Trẫm lấy làm đau xót, chẳng thể ngồi yên, ăn chẳng thấy ngon, chỉnh
đốn quân binh bá cáo cùng thiên hạ, thay trời đánh kẻ nghịch tặc. Nay cất nhắc
người trung liệt, tài theo kịp Triệu-Hổ, danh vang khắp xa gần, mệnh lệnh đã rõ
rệt, ban cho được tước lộc cao, kiêm quản nơi kinh sư. Nắm giữ quyền uy, lấy
nhu thuận để gây dựng đại đức, đánh dẹp kẻ phản loạn, thoả lòng mong mỏi của
trẫm. Kinh Thi chẳng đã nói rằng, ‘Không có loạn chẳng phải gấp gáp, vua được
yên vị ở trên cao. Lúc có biến phải khéo việc binh nhung, dùng ân điển được ban
mà tạo phúc.’Vậy nên chẳng thể không hết sức!”.
Xưa, Phi hùng tráng uy mãnh, chẳng kém gì Quan Vũ, mưu thần nước
Nguỵ là Trình Dục khen Vũ và Phi là vạn người khó địch. Vũ khéo đối xử với sĩ
tốt mà kiêu ngạo với đại sỹ phu, Phi yêu kính người quân tử mà không thương xót
kẻ tiểu nhân. Tiên chủ thường khuyên bảo Phi rằng: “Khanh dùng hình phạt quá
mức, lại hay đánh đập người dưới, xử phạt xong mà vẫn giữ bên mình, ấy là chuốc
lấy tai vạ vậy.” Phi vẫn không chịu sửa đổi. Tiên chủ phạt Ngô, lúc ấy Phi
thống lĩnh hơn vạn quân lính, từ Lãng Trung kéo về Giang châu. Khi mới khởi
quân, bộ hạ dưới trướng là Trương Đạt - Phạm Cương giết Phi, cắt lấy thủ cấp,
xuôi theo sông lớn chạy sang xin hàng với Tôn Quyền. Tướng lĩnh ở doanh trại
của Phi dâng biểu báo tin đến Tiên chủ, Tiên chủ hay tin có biểu từ doanh trại
của Phi báo về, than: “Ôi! Phi hỏng mất rồi.” Liền đó truỵ tặng Phi thuỵ hiệu
là Hoàn hầu. Con trưởng của Phi là Bào, chết sớm. Con thứ là Thiệu nối dõi, làm
quan đến chức Thị trung Thượng thư Phó xạ. Con Bào là Tuân làm đến chức Thượng
thư, theo Gia Cát Chiêm ra Miên Trúc, đánh nhau với Đặng Ngải, bị chết.
MÃ SIÊU TRUYỆN
Mã Siêu tự Mạnh Khởi, người ở quận Phù Phong huyện Mậu Lăng. Cha là
Đằng, cuối đời Linh Đế cùng với Biên Chương, Hàn Toại khởi sự ở các châu quận
phía Tây. Năm Sơ Bình thứ ba, Toại - Đằng lĩnh binh đến Tràng An. Nhà Hán lấy
Toại làm Trấn Tây tướng quân sai đóng binh ở Kim Thành, Đằng được làm Chinh Tây
tướng quân, sai đóng binh ở My huyện. Sau Đằng đánh úp Trường An, bị thua trận
phải trốn chạy, lui binh về giữ Lương Châu. Tư mã Thái uý Chung Do trấn Quan
Trung gửi thư cho Đằng-Toại, nói rõ việc lợi hại. Đằng sai Siêu theo Do đánh
dẹp Quách Viên - Cao Cán ở Bình Dương, Siêu cùng với Bàng Đức chém chết Quách
Viên cắt lấy thủ cấp. Sau Đằng với Hàn Toại có mối bất hoà, mới xin về kinh sư.
Đằng được bổ làm
Vệ uý, lại lấy Siêu làm Thiên tướng quân (18), phong tước Đô Đình
hầu, nắm giữ những binh lính cũ của Đằng.
Điển lược viết: Đằng tự Thọ Thành, vốn là hậu duệ của danh tướng Mã
Viện (19) ngày trước. Vào thời vua Hoàn Đế, cha Đằng là Túc tự Tử Thạc, từng
làm Thiên Thuỷ Lan kiền uý. Sau bị mất chức quan, mới lưu lạc ở Lũng Tây, sống
cùng với rợ Khương ở đó. Gia cảnh bần hàn chẳng có vợ con gì cả, nhân thế mới
lấy con gái rợ Khương, sinh ra Đằng. Đằng thủa nhỏ nghèo hèn chẳng có chút sản
nghiệp nào, thường theo Chương vào núi lấy củi, mang đến bán ở chốn thị thành,
lấy đó làm kế sinh nhai. Đằng thân cao hơn tám thước, thân thể vạm vỡ, mặt mũi
kỳ dị khác thường, song tính nết hiền hậu, được mọi người kính nể.
Cuối đời Linh Đế, Lương châu thứ sử Cảnh Bỉ dùng kẻ gian hoạt làm
lại, dân trong vùng (20) cùng các bộ tộc người Đê-Khương đứng lên làm phản.
Châu quận bèn chiêu mộ những người mạnh khoẻ xung vào quân ngũ, đánh dẹp, Đằng
ra ứng mộ. Ở các châu quận, có đặt ra chức Tòng sự, để cai quản binh lính. Bởi
có công đánh dẹp, Đằng được thăng làm Quân Tư mã (21), sau luận công lao lại
thêm chức Thiên tướng quân, rồi thăng lên đến Chinh Tây tướng quân, sai đóng
binh ở miền Hữu-Lũng. Giữa năm Sơ Bình, được phong làm Chinh Đông tướng quân.
Lúc bấy giờ, các châu quận phía Tây thiếu lương, Đằng dâng biểu nói rằng binh
lương rất thiếu thốn, muốn lấy lương thảo ở Trì dương, và chuyển đến đóng binh
ở phía trước thành Trường Bình. Tướng quân Vương Thừa sợ Đằng hại mình, bèn tấn
công doanh luỹ của Đằng. Khi ấy Đằng ở ngay trong dinh không có phòng bị, nên
thua trận bỏ chạy, về phía Tây. Rồi họp quân ở xứ Tam Phụ (22) làm loạn, không
phục tùng phương Đông nữa, lại cùng với Trấn Tây tướng quân Hàn Toại câu kết
với nhau kết tình huynh đệ, ban đầu rất thân thiết, sau này mới chuyển sang
ngấm ngầm thù ghét nhau, đổi thành thù địch. Đằng đánh Toại, Toại bỏ chạy, lại
họp quân lính thuộc hạ quay lại đánh Đằng, giết vợ con Đằng, liên quân không
thể hoà giải được.
Kiến An năm đầu, kỷ cương quốc gia được nới lỏng, triều đình bèn
sai Tư đãi Giáo uý Chung Do, Lương châu mục Vi Đoan đến hoà giải hai bên. Trưng
tập Đằng về đóng binh ở Hoè Lý, đổi làm Tiền tướng quân, ban cho giả tiết,
phong tước Hoè Lý hầu. Đằng phía Bắc liên hệ với rợ Hồ, phía Đông kết với quân
Bạch kỵ, đãi kẻ sỹ tiến người hiền, cứu giúp dân chúng, đất Tam Phụ được yên ổn
nên rất lấy làm kính trọng Đằng. Năm Kiến An thứ mười (23) (năm), Đằng được vời
về kinh làm Vệ uý (24), Đằng nghĩ mình tuổi đã cao, mới vào triều làm Túc vệ
(25). Khi trước, Tào công làm Thừa tướng, cho vời con trưởng của Đằng là Siêu
đến, Siêu không chịu. Sau này Siêu được làm Tư đãi Giáo uý đốc xuất việc quân,
đánh dẹp Quách Viên, Siêu có tài bắn tên, khi đánh trận thường đeo túi ở chân,
phá được địch, chém lấy thủ cấp của Quách Viên. Vua xuống chiếu phong cho Siêu
làm Từ châu thứ sử, sau lại bái làm Gián nghị đại phu. Đến khi Đằng về kinh,
nhân việc ấy mới xuống chiếu ban cho Siêu làm Thiên tướng quân, sai nắm quân sỹ
trong doanh của Đằng. Lại phong cho em trai Siêu là Hưu làm Phụng xa Đô uý, em
trai Hưu là Thiết làm Kỵ Đô uý, dời cả gia thuộc khỏi xứ ấy đến ở huyện Nghiệp,
chỉ còn mình Siêu ở lại mà thôi.
Siêu đã nắm được đại binh, bèn cùng với Hàn Toại hợp quân, lại gặp
được bọn Dương Thu, Lý Kham, Thành Nghi mới cùng câu kết với nhau, tiến quân
đến Đồng Quan. Tào công cùng với Toại - Siêu một mình ngồi trên mình ngựa nói
chuyện, Siêu cậy quân đông, ngấm ngầm định bắt Tào công trước trận, Hứa Chử
đứng cạnh Tào công nổi giận quắc mắt nhìn, Siêu chẳng dám vọng động. Tào Công
dùng mưu của Giả Hủ, ly gián Siêu-Toại, khiến tướng lĩnh bên ấy nghi ngờ lẫn
nhau, quân ấy đại bại.
Sơn dương công tái ký viết: Ban đầu, Tào công đóng quân ở Bồ Bản,
muốn sang phía Tây, Siêu bảo Hàn Toại rằng: “Ta nên giữ Bắc sông Vị cự địch,
bất quá chỉ chừng mươi ngày, vùng Hà Đông hết lương, bên kia tất bỏ chạy.” Toại
nói: “Mặc kệ địch qua sông, ta tràn ra chặn đánh giữa chừng, chẳng hay hơn ư?”.
Bởi thế kế của Siêu chẳng được thi hành. Tào công nghe việc ấy nói: “Thằng ranh
họ Mã chẳng chết, ta chết không có đất mà chôn.”
Siêu chạy trốn đến chỗ người Nhung, Tào công đuổi đến tận An Định,
hội quân bàn việc phương Bắc, rồi dẫn quân về phía Đông. Dương Phụ nói với Tào
công rằng: “Siêu có cái dũng của Lã Bố, rất được lòng người Khương, Hồ. Khi đại
quân quay về, ắt không có đủ lực lượng giữ vững xứ này, các quận Lũng thượng sẽ
chẳng còn của quốc gia nữa.” Quả nhiên Siêu đốc xuất người Nhung tấn công các
quận huyện ở Lũng thượng, các quận huyện Lũng thượng hưởng hứng theo, giết chết
Lương châu thứ sử Vi Khang, chiếm cứ Ký thành, thu hết binh sỹ ở đấy. Siêu tự
xưng là Chinh Tây tướng quân, lĩnh chức Tinh Châu mục, đốc xuất việc quân ở
Lương châu. Khang chết rồi, đám đề lại là Dương Phụ, Khương Tự, Lương Khoan,
Triệu Cù cùng bàn mưu đánh Siêu. Phụ-Tự cất binh ở Lỗ Thành, Siêu ra đánh,
không hạ được; Khoan-Cù đóng cửa Ký Thành, Siêu không vào thành được. Tiến
thoái
lưỡng nan, đành phải chạy vào Hán Trung nương nhờ Trương Lỗ (26).
Lỗ chẳng biết xét việc, không dùng Siêu, cho ở ngoài, Siêu nghe tin Tiên chủ
đang vây Lưu Chương ở Thành Đô mới gửi thư xin hàng.
Điển lược viết: Năm Kiến An thứ mười sáu, Siêu cùng với các tướng ở
Quan Trung là bọn Hầu Tuyển, Trình Ngân, Lý Kham, Trương Hoành, Dương Thu, Hàn
Toại, gồm 10 lộ quân, cùng làm phản, quân lính đông đến 10 vạn người, chiếm giữ
vùng Hà-Đồng (27), đóng trại luỹ giăng thành hàng. Năm ấy, Tào công Tây chinh,
cùng với lũ Siêu đánh nhau ở vùng Hà-Vị (28), bọn Siêu thua trận bỏ chạy. Siêu
tới An Định, Toại chạy về Lương Châu.
Triều đình xuống chiếu bắt giết hết gia tộc Siêu. Siêu lại thua lớn
ở Lũng Thượng. Sau phải chạy vào Hán Trung, Trương Lỗ lấy làm Đô giảng Tế tửu,
muốn gả con gái cho, có kẻ can Lỗ rằng: “Người như thế chẳng nên yêu mến thân
gần, sao có thể cầu thân được?” Lỗ bèn bỏ ý ấy.
Mới đầu, lúc Siêu chưa làm phản, vợ lẽ là Đệ Chủng ở lại Tam Phụ,
đến khi Siêu thua trận, Chủng chạy vào Hán Trung trước. Một sớm, Chủng chết ở
chỗ Siêu, Siêu đấm ngực đến thổ huyết than rằng: “Cầm lòng sao được (29), một
sớm cùng nhau, nay hai ta cách biệt rồi sao?” Siêu mấy lần đến gặp Lỗ xin binh,
muốn về Bắc lấy lại Lương châu, Lỗ cho đi, không được việc. Khi ấy tướng của Lỗ
là Dương Bách muốn hại Siêu, Siêu bèn chạy vào với rợ Đê ở Vũ Đô, rồi bỏ sang
đất Thục. Bấy giờ là năm Kiến An thứ mười chín.
Tiên chủ sai người nghênh đón Siêu, Siêu tiến binh thẳng đến Thành
Đô.
Dân chúng ở Thành đô hoang mang sợ hãi, Chương lập tức ra hàng, Điển
lược viết: Bị nghe tin Siêu đến, cười rằng: “Ta tất lấy được Ích châu vậy.” Bèn
sai người bảo Siêu không vội tiến binh, lại ngầm lấy binh của mình giao cho
Siêu. Siêu đến nơi, hạ lệnh đóng quân ở phía Bắc Thành Đô, Siêu đến chưa đầy
một tuần (30) mà lòng người ở Thành Đô tan lở cả.
Tiên chủ lấy Siêu làm Bình Tây tướng quân, Đốc Lâm Tự, nhận tước Đô
đình hầu (31).
Sơn dương công tái ký chép: Siêu nhân thấy Bị hậu đãi mình, khi nói
chuyện với Bị, thường gọi tên tự của Bị, Quan Vũ nổi giận, đòi giết. Bị nói:
“Người ta cùng quẫn mới theo về với ta, các khanh phẫn nộ vì việc người ấy gọi
tên tự của ta mà đòi giết đi, sao yên được lòng người thiên hạ vậy!” Trương Phi
nói: “Như thế, cần phải làm cho hắn giữ lễ mới được.” Hôm sau mọi người gặp
mặt, Bị gọi Siêu vào, Vũ-Phi đều chống gậy cầm đao kính cẩn đứng hầu, Siêu tìm
chỗ để ngồi, chẳng để ý gì đến Phi-Vũ, chợt thấy hai người nghiêm trang đứng
đó, Siêu thất kinh, nhân vì thế chẳng dám gọi tên tự của Bị lần nào nữa. Hôm
sau than rằng: “Ta nay mới biết mình kém cỏi vậy. Gọi hẳn tên tự của chủ nhân
ra, khiến cho Quan Vũ-Trương Phi cứ một mực đòi giết.” Từ đấy về sau rất lấy
làm tôn kính Bị. Thần Tùng Chi xét rằng, bởi Siêu thế cùng mới theo về với Bị,
chịu nhận tước vị, sao dám ngạo mạn mà gọi thẳng tên tự của Bị ra? Vả lại khi
Bị vào Thục, lưu Quan Vũ trấn thủ kinh châu, Vũ chưa từng tới đất Ích châu.
Việc Vũ nghe tin Mã Siêu quy hàng, đã gửi thư hỏi Gia Cát Lượng rằng: “Siêu là
nhân tài thế nào mà được đứng vào hạng ấy”, chẳng đúng như việc chép ở chỗ này.
Sao Vũ lại cùng với Phi cung kính đứng hầu được? Phàm là người hành sự, đều là
người khá cả, biết việc không thể làm, tất chẳng dám làm vậy. Siêu nếu quả có
gọi tên tự của Bị, cũng nên phải sửa lại ngay. Đến mức khiến cho Vũ đòi giết
Siêu, Siêu vẫn chẳng hay biết gì, chỉ thấy hai người đứng hầu ở đó, sao vì thế
mà biết vì việc mình gọi tên tự của Bị, mà khiến cho Quan-Trương cứ một mực đòi
giết? Nói không theo lẽ thường, thật khiến người ta tức giận. Bọn Viên (32),
Nhạc Tư (33) chép đầy rẫy những điều xằng bậy hão huyền, đại loại như vậy, ngờ
rằng chẳng thể lấy để bàn luận vậy.
Tiên chủ xưng Hán Trung vương, phong cho Siêu làm Tả tướng quân,
ban cho giả tiết. Năm Chương Vũ nguyên niên, đổi thăng làm Phiêu kỵ tướng quân,
lĩnh chức Lương châu mục, lại phong thêm tước Uy Hương hầu, chiếu rằng: “Trẫm
chẳng có đức, trộm kế ngôi chí tôn, phụng thừa tông miếu. Cha con Tào Tháo, tội
lỗi chất chồng, gây tai vạ ngập đầu, trẫm lấy làm xót xa đau đớn. Người trong
nước đều oán giận, theo về chính nghĩa, đánh kẻ nghịch tặc, nay các tộc
Đê-Khương đã quy thuận, người Huân (34) mến mộ chính nghĩa. Tướng quân tín
nghĩa lan toả đất Bắc, uy vũ sáng rõ tận Tinh châu, nay uỷ thác cho tướng quân
trách nhiệm lớn lao, chống giữ địch ở Dương Bình, kiêm quản việc đốc trách
trong vạn dặm, sao cho dân được yên vui, khiến cho đức lớn của vương triều lan
đến nơi xa, hãy nhớ giữ vững biên cương, việc thưởng phạt phải thận trọng, vững
tin vào nghiệp Hán, để ứng phó với cả thiên hạ”. Hai năm sau Siêu chết, khi ấy
mới có 40 tuổi. Lúc chết, dâng sớ lên bề trên rằng: “Trong cửa nhà thần có 200
nhân khẩu, đã bị Mạnh Đức giết sạch, chỉ còn người em là Đại, gánh vác việc nối
dòng huyết thống ăn lộc nối đời, xin ký thác nơi Bệ hạ, dẫu nói cũng chẳng thể
hết lời”. Truy tặng thuỵ hiệu cho Siêu là Uy hầu, con là Thừa nối dõi. Đại làm
quan đến chức Bình Bắc tướng quân, lĩnh tước Trần Thương hầu. Con gái Siêu lấy
An Bình vương Lý.
Điển lược viết: Lúc Siêu mới chạy vào Thục, vợ lẽ của Siêu là Đổng
cùng với con là Thu, lưu lại nhờ vả Trương Lỗ. Lỗ bại binh, Tào công bắt được
vợ con Siêu, mới lấy Đổng ban cho Diêm Phố, giao Thu cho Lỗ, Lỗ tự tay giết đi.
TRIỆU VÂN TRUYỆN
Triệu Vân tự Tử Long, người ở quận Thường Sơn huyện Chân Định.
Trước theo hầu Công Tôn Toản, Toản sai Tiên chủ giúp Điền Khải chống Viên
Thiệu, Vân liền đi theo, đốc xuất quân kỵ cho Tiên chủ.
Vân Biệt truyện (35) viết rằng: “Vân mình cao tám thước, tư nhan
(36) hùng vĩ, dân trong quận nổi dậy, Vân vì nghĩa mộ binh theo về với Công Tôn
Toản. Bấy giờ Viên Thiệu xưng là Ký Châu mục, Toản rất lo lắng người trong châu
ấy sẽ theo về với Thiệu, vừa hay lúc Vân đến trợ giúp, Toản mới cao hứng bảo
Vân rằng: “Nghe tin người ở quý châu đều tới với họ Viên, sao một mình ngươi về
với ta, chẳng là bỏ lối mê mà phản tỉnh đấy ư?” Vân đáp rằng: “Thiên hạ loạn
lạc, chưa biết ai thế nào, dân chúng chao đảo thống khổ vì chiến loạn, người ở
bỉ châu nghị luận, mong theo về bậc chính nhân, chẳng phải vì xa rời Viên công
mà thân gần với tướng quân vậy.” Rồi cùng với Toản đi đánh dẹp. Thời ấy Tiên
chủ cũng nương nhờ Toản, vẫn thường gặp Vân, Vân rất muốn gửi thân kết tình
theo Bị. Sau Vân nhân vì có tang anh trai, bèn từ giã Toản tạm thời về quê,
Tiên chủ biết Vân không trở lại, nắm chặt tay không nỡ rời xa, Vân từ tạ rằng:
“Sau này chẳng thể quên ơn đức vậy.” Tiên chủ tới chỗ Viên Thiệu, Vân biết nên
đến Nghiệp quận. Tiên chủ với Vân ngủ cùng giường, bí mật sai Vân chiêu mộ được
mấy trăm người, đều xưng là bộ hạ của Lưu Tả tướng quân, Thiệu không hề hay
biết. Rồi Vân theo Tiên chủ đến Kinh châu.
Lúc Tiên chủ bị Tào công truy đuổi ở Đương Dương Trường Bản, bỏ cả
vợ con chạy trốn về phía Nam, Vân tự thân bồng ấu chủ, tức hậu chủ, bảo hộ Cam
phu nhân, là mẹ hậu chủ, đều thoát được về Nam. Vân được thăng làm Nha môn
tướng quân. Tiên chủ vào Thục, Vân ở lại Kinh châu.
Vân Biệt truyện viết: “Lúc trước, Tiên chủ thua trận, có người nói
Vân đã bỏ về Bắc, Tiên chủ trỏ tay vào người ấy nói rằng: “Tử Long chẳng khi
nào bỏ ta mà trốn đi vậy.” Chốc lát, Vân đã đến nơi. Khi bình định Giang Nam,
lấy Vân làm Thiên tướng quân, lĩnh chức Quế Dương thái thú, thay Triệu Phạm.
Phạm có người chị dâu goá chồng là Phàn thị, là bậc quốc sắc, Phạm muốn đem gả
cho Vân. Vân từ chối rằng: “Ta với ngươi vốn cùng họ, anh ngươi cũng là anh
ta”. Rồi cố từ tạ không nhận. Bấy giờ có người khuyên Vân thu nhận người ấy,
vân nói: “Phạm bị bức mà theo hàng, tâm địa chưa biết thế nào; đàn bà con gái
trong thiên hạ đâu có thiếu gì.” Nhất định không chịu. Sau này Phạm quả nhiên
bỏ trốn, Vân chỉ lặng lẽ cười thầm. Trước đấy, Vân cùng Hạ Hầu Đôn đánh nhau ở
gò Bác Vọng, bắt sống được Hạ Hầu Lan. Lan với Vân vốn là người cùng làng, lúc
nhỏ có quen biết nhau,
Vân bạch (37) với Tiên chủ tha chết cho, lại tiến cử Lan quản việc
pháp luật, lấy làm Quân chính (38). Vân chẳng bao giờ nhờ vả người thân gần,
mưu tính thận trọng tuỳ từng việc như thế. Tiên chủ vào Ích châu, Vân lĩnh chức
Tư mã đốc trách việc giữ quân doanh. Thời ấy Tiên chủ Tôn phu nhân là em gái
Quyền vốn kiêu căng, có nhiều binh tướng Ngô là thủ hạ, thao túng ngang ngược
chẳng có phép tắc. Tiên chủ thấy Vân nghiêm nghị cẩn trọng, tác phong đường
hoàng, mới giao cho đặc trách chưởng quản nội sự. Quyền nghe tin Bị Tây chinh,
liền sai mang thuyền tới đón em gái về, phu nhân lại muốn mang Hậu chủ về Ngô,
Vân cùng với Trương Phi giăng binh chẹn sông, mang được Hậu chủ về.
Tiên chủ từ Hà Manh quay về đánh Lưu Chương, triệu gọi Gia Cát
Lượng. Lượng đốc Vân cùng với Trương Phi ngược sông tiến về phía Tây, bình định
các quận huyện. Đến Giang châu, chia quân sai Vân tiến ngược sông Giang, cùng
với Lượng hẹn gặp nhau ở Thành đô. Thành đô đã định được, Tiên chủ lấy Vân làm
Dực quân tướng quân.
Vân biệt truyện viết: Ích châu đã định, bấy giờ có người bàn nên
lấy nhà cửa ở Thành đô cùng những đất đai vườn tược quanh đó ban cho chư tướng.
Vân bác đi nói rằng: “Xưa kia Hoắc Khứ Bệnh (39) từng nói rằng Hung Nô chưa bị
diệt, sao nghĩ đến việc nhà, nay quốc tặc chẳng phải chỉ như Hung Nô, chưa thể
cầu an được vậy. Nên để lúc thiên hạ yên định, mọi người đều trở về quê, cầy
cấy nơi ruộng cũ, việc ấy mới nên làm. Nay dân chúng Ích châu, mới mắc nạn binh
đao, nhà cửa ruộng vườn rất nên trả về cho họ, để dân được an cư lạc nghiệp,
sau này mới có binh lương quân dịch, như thế dân sẽ hoan hỉ vui mừng vậy.” Tiên
chủ liền nghe theo.
Hạ Hầu Uyên bại trận, Tào công tranh chiếm đất Hán Trung, vận lương
ở dưới chân núi Bắc Sơn, mấy ngàn vạn hộc (40), Hoàng Trung cho rằng có thể
cướp được, Vân dẫn binh theo sau Trung đi lấy lương. Quá hẹn mà Trung chưa về,
Vân dẫn mấy chục quân khinh kỵ phá vây, đón được Trung. Tào công ở Dương Bình
xuất đại quân vây hãm, Vân đi tiên phong đánh lại, kịch chiến trong vòng vây,
quân địch rất đông, thế mạnh, Vân xông pha trước trận, vừa đánh vừa lui. Quân
Tào thua trận, lại họp nhau đuổi, Vân phá tan quân địch, xông thẳng vào vòng
vây. Khi ấy tướng quân Trương Trứ bị thương, Vân lại cứu được rồi đỡ lên ngựa
ruổi chạy về doanh. Tào công dẫn quân truy bức đến tận nơi, lúc ấy tướng giữ
trại Miện Dương (41) là Trương Dực muốn đóng cửa doanh chống cự địch, Vân vào
trong dinh, sai mở toang cổng trại, hạ cờ im trống. Tào công nghi Vân có phục
binh, dẫn quân quay về (42). Vân mới sai thúc trống vang trời, lệnh cho quân
cung nỏ bắn loạn xạ vào sau lưng quân Tào, quân Tào kinh hãi, dẫm lên nhau mà
chạy, rơi xuống sông Hán Thuỷ chết rất nhiều. Hôm sau Tiên chủ tự mình đến
doanh quân của Vân xem xét chiến địa, khen rằng: “Tử Long quả thật một thân
toàn là đảm (43) vậy.” Rồi cho tấu nhạc uống rượu đến tận đêm khuya, từ đấy
trong quân gọi Vân là Hổ oai tướng quân.
Tôn Quyền đánh úp Kinh châu, Tiên chủ giận lắm, muốn sang đánh
Quyền. Vân can rằng: “Quốc tặc chính là Tào Tháo, không phải Tôn Quyền, ví bằng
đã diệt được Nguỵ, tất Ngô phải phục tùng. Tháo tuy đã chết, con là Phi làm
chuyện soán đoạt, nhân tâm bất phục, nếu ta sớm đồ được Quan Trung, chiếm giữ
thượng lưu hai sông Hà-Vị để thảo phạt kẻ hung nghịch, các nghĩa sỹ ở Quan Đông
tất gói lương dắt ngựa nghênh đón vua tôi chúng ta. Nếu quên việc đánh Nguỵ, mà
đánh Ngô trước; việc binh đã xảy ra, chẳng thể nào dứt ngay được.” Tiên chủ
không nghe, dẫn quân đông chinh, lưu Vân
ở lại đốc trách Giang châu. Tiên chủ thua trận ở Tỷ Quy, Vân tiến binh đến Vĩnh
An, Quân Ngô bèn lui về.
Năm Kiến Hưng nguyên niên, lấy Vân làm trung hộ quân, chức Chinh
Nam tướng quân, tước Đô đình hầu, sau đổi làm Trấn Đông tướng quân. Năm Kiến
Hưng thứ năm, theo Gia Cát Lượng ra Hán Trung. Năm sau, Lượng xuất quân, phô
trương thanh thế ở đường Tà Cốc, Tào Chân phái đại quân chống giữ. Lượng sai
Triệu Vân và Đặng Chi cự địch, còn Lượng thân tấn công Kỳ Sơn. Vân-Chi binh yếu
địch mạnh, gặp thất lợi ở Cơ Cốc, mới làm nghi binh cố thủ, chẳng chịu thua
trận. Sau phải lui binh, biếm chức xuống Trấn quân tướng quân.
Vân biệt truyện viết: Lượng nói: “Việc rút quân ở Nhai Đình, binh
tướng ta chẳng ai không bị thiệt hại, việc lui quân ở Cơ Cốc, binh tướng ở đấy
chẳng mấy tổn thất, sao vậy?” Chi thưa rằng: “Vân tự thân đi đoạn hậu, quân tư
trang vật dụng, đều không bỏ sót, binh tướng được vô sự nên không tổn thất gì.”
Vân lấy được nhiều quân tư trang và vải lụa thừa, Lượng sai đem những vật ấy
ban cho tướng sỹ của Vân, Vân nói rằng: “Việc quân đã bất lợi, sao có thể nhận
phần thưởng được? Xin đưa hết những vật phẩm ấy vào phủ khố (44) ở Xích ngạn,
đợi đến tháng 10 sang Đông giá rét mà ban thưởng” Lượng rất lấy làm phải và
nghe theo. Năm 70 tuổi Vân chết, truỵ thuỵ hiệu là Thuận Bình hầu. Khi trước,
thời Tiên chủ còn sống, chỉ có mình Pháp Chính được ban thuỵ hiệu; sang thời
Hậu chủ, Gia Cát Lượng công đức cái thế, Tưởng Uyển-Phí Vỹ gánh vác việc lớn
quốc gia, mới được đặt thuỵ; sau nữa đến Trần Chi (45) mới cho sủng đãi, việc
tưởng lệ đã khác hẳn, Hạ Hầu Bá ở nơi xa theo hàng với Thục, chết cũng được ban
thuỵ; khi Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung cùng với Vân được truy thuỵ
hiệu, bấy giờ bàn xét lấy đó làm vinh dự.
Vân biệt truyện chép Hậu chủ viết chiếu rằng: “Xưa kia Vân theo
Tiên đế, trải nhiều khó nhọc. Khi trẫm còn nhỏ dại, bước đường gian nan, nhờ
cậy lòng trung, vượt được nỗi hiểm nguy. Ban cho thuỵ hiệu để tỏ rõ công trạng
lớn lao, người ngoài chớ bàn bạc mà dị nghị.” Đại tướng quân Khương Duy bàn
rằng, Vân trước theo Tiên đế, trải nhiều lao khó, sửa sang thiên hạ, tuân thủ
phép tắc, công trạng đáng ghi vào sách vở. Trận chiến Đương Dương, nghĩa như
vàng đá, tận trung với chúa, vua tưởng nhớ ban thưởng, lễ nghĩa đủ đầy, đến kẻ
bầy tôi đã quên cả thân mình. Chết vẫn biết rằng, thân danh chẳng nát; sống cảm
ân đức, danh chẳng phai mờ. Kính cẩn theo khuôn phép mà xét thuỵ, nhu thuận
hiền hậu ấy là Thuận, làm việc thuận ngôi thứ, khắc chế được tai hoạ, ấy là
Bình, ứng theo phép đặt cho thuỵ là Thuận Bình hầu.
Con của Vân là Thống nối tự, làm quan đến Hổ bôn Trung lang tướng,
Đốc hành lĩnh quân. Con thứ là Nghiễm (Quảng), làm Nha môn tướng, theo Khương
Duy ra Đạp Trung, chết khi lâm trận.
CHÚ THÍCH
(1) Gồm 4 quận Võ Lăng, Linh Lăng, Quế Dương và Trường Sa.
(2) Chỉ Quan Vũ, Mã Siêu.
(3) Mã Siêu, Trương Phi.
(4) Quan Vũ.
(5) Đánh giặc khăn vàng.
(6) Tướng tá binh sĩ dưới trướng.
(7) Đại tướng quân ở đây chỉ ý rằng Nhan Lương là đại tướng cầm quân
của Viên Thiệu chứ không phải mang hàm Đại tướng quân của nhà Hán.
(8) Nguyên văn là ‘phúc tà’, phúc là tốt lành, tà là cong queo -
dịch thoát.
(9) Bị với Thừa ký vào ‘chiếu đai áo’ của Hán Hiến đế ước thề giết
Tào Tháo.
(10) Siêu mới theo hàng được thăng quan tước ngang hàng với Quan
Vũ, Vũ giận cho rằng Siêu chưa có công lao gì, sao được đứng ngang hàng với Vũ
nên gửi thư hỏi Gia Cát Lượng.
(11) Kình Bố, Bành Việt là những dũng tướng của Hán Cao Tổ.
(12) Tài giỏi kỳ tuyệt hơn đời.
(13) Nguyên văn ‘đại duyệt’ tức là rất hài lòng, thái độ của Vũ rất
ngạo mạn nên dịch rõ nghĩa là rất đắc ý.
(14) Không rõ những địa danh nào, có lẽ là mấy vùng đất ở gần Hứa
huyện của Tào Tháo.
(15) Cầu hôn, kết thông gia.
(16) Nhắc lại chuyện ngày Vũ còn ở với Tào Tháo. Hoảng, Liêu và Vũ
đều có nghĩa khí nên rất quý trọng nhau.
(17) Ý rằng người ta vẫn khen Quan Vũ là bậc tuyệt trí siêu quần,
Vũ chẳng thể nào hàng Ngô được. Bùi Tùng nói vậy có hàm ý là việc nói rằng
Quyền muốn chiêu hàng Vũ là không có thật, tức là Thục ký nói sai việc ấy.
(18) Chữ Thiên này là ‘một bên’, không phải Thiên là trời.
(19) Mã Viện tức Phục Ba tướng quân, là danh tướng nhà Đông Hán,
từng sang đánh nước Việt ta thủa Bà Trưng, Bà Triệu.
(20) Nguyên văn: dân vương quốc, tức là người trong nước, ý chỉ vào
vùng biên ải nên dịch là người trong vùng.
(21) Một chức quan nhỏ.
(22) Địa danh này có lẽ ở đâu đó thuộc vùng Lũng Tây.
(23) Không hiểu Trần Thọ viết thêm chữ (năm) sau chữ ‘thập’ là
nghĩa gì? Chiếu theo các sự kiện xảy ra ở các thiên truyện về những nhân vật
khác có liên quan thì việc này xảy ra vào năm Kiến An thứ 10. Có lẽ Trần Thọ
nghi ngờ việc này nên ý là có thể việc Đằng vào kinh là năm Kiến An thứ 5
chăng? Như vậy thì có vẻ không đúng.
(24) Vệ uý là một chức quan lớn trong triều, dự vào hàng Cửu khanh.
(25) Tuổi cao, chinh chiến vất vả, nên về triều làm chức quan hộ vệ
cho Vua.
(26) Siêu lấy các quận Lũng Thượng, Dương Phụ-Lương Tự ở Lỗ Thành
cất quân đánh Siêu, Lương Khoan-Triệu Cù giữ Ký thành, Siêu xuất binh ra khỏi
Ký Thành đánh đuổi, khi quay về bị Khoan-Cù đóng cử không cho vào, phải chạy
sang Hán Trung.
(27) Vị Thuỷ, Đồng Quan.
(28) Vị Thuỷ, Đồng Quan.
(29) Nguyên văn: ‘hạp môn bách khẩu’, tức là ‘đóng cửa trăm miệng’,
dịch ý.
(30) Một tuần thời xưa ở Trung Quốc tính bằng 10 ngày.
(31) Trước đây triều đình nhà Hán đã phong cho Siêu tước này. Lúc
ấy tước của Mã Siêu cao nhất, hơn cả Phi, Vũ, chỉ kém mỗi Lưu Bị mà thôi.
(32) Một chữ tên người không dịch được, không biết họ Viên ấy tên
là gì. ND tìm đọc một số điển tích trên các trang web tiếng Hán thì thấy có
đoạn bổ chú là Trần Thọ cho rằng Viên-Nhạc Tư làm sách ghi chép những điều nhảm
nhí, có rất nhiều chuyện xằng bậy, hình tượng ấy chỉ việc nói mà không suy nghĩ
thấu đáo, chép việc dẫu nhiều nhưng chẳng hiểu biết gì.
(33) Một bộ tộc rợ ở phương Bắc Trung Quốc.
(34) Theo phép ‘chủ - khách’ thì khi Trần Thọ viết Tam Quốc chí đã
lấy nước Nguỵ là chủ để lập kỷ cương đế vương, mà Nguỵ-Ngô là khách. Rõ nét
nhất là việc bộ sử này có phần ‘đế kỷ’ dành cho các vua nhà Nguỵ, còn các đế
nhà Thục thì chỉ ‘Thục chủ, Ngô chủ’ mà thôi, đều là liệt truyện, không có bản
kỷ. Câu viét này cũng thể hiện phần nào việc ấy. Rõ ràng là câu nói của Siêu,
mà Siêu hận Tháo đến thấu xương, nhưng vẫn gọi Tháo rất kính trọng là Mạnh Đức
quả là lạ. Có lẽ Siêu đã viết là ‘đã bị giặc Tháo giết sạch’chứ không phải viết
rõ tên tự của Tháo là Mạnh Đức như thế.
(35) Tác giả cuốn Biệt truyện là Trương Thức, phần viết về Triệu
Vân gọi là Vân Biệt truyện.
(36) Có lẽ diện mạo Vân có nét con gái nên sách viết là tư nhan,
thường khi tả dáng người sắc mặt đàn ông phải viết là dung mạo.
(37) Bạch nghĩa là lời kẻ dưới thưa với người trên, cũng có nghĩa
như chữ ‘bẩm’ vậy.
(38) Một chức quan coi xét việc hình luật.
(39) Hoắc Khứ Bệnh là danh tướng nhà Hán thời Hán Vũ đế từng đánh
dẹp quân Hung Nô.
(40) Nguyên văn là ‘nang’ có nghĩa là túi, bị, bọng. Tạm dịch là
‘hộc’.
(41) Vân đi cứu Trung, phó tướng Trương Dực giữ trại.
(42) Trại tựa lưng xuống sông, chính là đất chết vậy. Tháo nghi ngờ
rằng Vân bày binh theo lối Hàn Tín trước kia nên sợ có phục binh mà lui về.
(43) Chữ ‘đảm’ có nghĩa là Quả mật, ý nói Vân lớn mật, dũng cảm.
(44) Kho tàng của doanh trại.
(45) Khi Trần Chi coi việc Thượng thư thì nước Thục đã sắp bị diệt.
QUYỂN 7 - BÀNG THỐNG PHÁP
CHÍNH TRUYỆN
Bàng Thống, Pháp Chính
BÀNG THỐNG TRUYỆN
Bàng Thống, tự Sĩ Nguyên, người ở Tương Dương. Thuở nhỏ chất phác
ngu độn, kiến thức thiếu sót. Tư Mã Huy (1) ở Dĩnh Xuyên là người thanh nhã, có
mắt nhìn người, năm Thống vừa trưởng thành tới gặp Huy, Huy hái lá dâu trên
cây, Thống ngồi dưới gốc cây, hai người nói chuyện từ sáng tới đêm. Huy rất kì
lạ, gọi Thống là kẻ sĩ hàng đầu của các châu phía nam bấy giờ, bởi thế danh
tiếng Thống dần vang xa.
Tương Dương kí chép: Gia Cát Khổng Minh là Ngọa Long, Bàng Sĩ
Nguyên là Phượng Sồ, Tư Mã Đức Tháo là Thủy Kính, đều là lời của Bàng Đức Công
cả. Đức Công là người ở Tương Dương. Khổng Minh thường hay tới nhà, một mình
lạy ở dưới giường, Đức Công ban đầu chẳng chỉ bảo gì. Đức Tháo từng tới chỗ Đức
Công, gặp lúc Đức Công qua sông Miện, lên tế mộ tổ tiên, Đức Tháo bèn vào thẳng
nhà, gọi vợ con Đức Công, bảo nhanh chóng chuẩn bị cơm nước, “Từ Nguyên Trực
hướng vào nhà nói có khách lại để cùng Bàng Công đàm luận”. Vợ con Đức Công đều
ra lạy chào, quỳ khắp cả nhà, rồi vọi vã chạy đi bày tiệc. Chốc lát, Đức Công
về, vào thẳng nhà gặp gỡ, chẳng biết sao lại có khách. Đức Tháo nhỏ hơn Đức
Công mười tuổi, tôn Đức Công làm anh, gọi là Bàng Công, bởi thế người đời bèn
bảo Bàng Công chính là tên của Đức Công, chẳng phải như vậy. Con Đức Công là
Sơn Dân, cũng có danh tiếng, lấy chị gái nhỏ của Gia Cát Khổng Minh, làm Hoàng
môn lại bộ thị lang của Ngụy, mất sớm. Con Dân là Hoán, tự Thế Văn, những năm
giữa niên hiệu Thái Khang nhà Tấn làm thái thú Tang Ca. Thống là cháu gọi Đức
Công bằng chú (bác), tuổi nhỏ kiến thức thiếu sót, chỉ có Đức Công coi trọng
Thống, năm Thống mười tám tuổi, sai đến gặp Đức Tháo. Đức Tháo cùng trò chuyện,
lát sau than rằng: Đức Công thật biết nhìn người, người ấy quá giỏi vậy.
Sau quận cho Thống làm Công tào. Tính Thống yêu thích đạo lý làm người,
siêng năng phụng dưỡng người cao tuổi. Nói chuyện thường hay bày tỏ quá mức,
nhiều điều vượt cả chức phận, người đương thời lấy làm lạ hỏi Thống, Thống đáp:
Hiện nay thiên hạ đại loạn, chính đạo suy đồi, thiện nhân thì ít mà ác nhân thì
nhiều. Ý tôi muốn chấn hưng phong tục, nâng cao đạo nghiệp, đàm luận mà không
hay tức thanh danh chưa đủ ngưỡng vọng, chưa đủ ngưỡng vọng thì điều thiện sẽ
ít vậy. Nay tôi nêu lên mười điều chắc rơi rụng mất năm, cũng còn được một nửa,
có thể truyền bá sự giáo hóa, khiến kẻ có chí được khích lệ, cũng không nên hay
sao? Tướng Ngô là Chu Du giúp Tiên chủ lấy Kinh Châu, nhưng lại làm thái thú
Nam Quận. Du chết, Thống đưa tang về Ngô, người Ngô đa phần đều nghe danh
Thống. Đến lúc quay về phía tây, mọi người tụ họp ở Xương Môn, Lục Tích, Cố
Thiệu, Toàn Tông đều tới. Thống nói: Lục tiên sinh ví như con ngựa chạy chậm mà
có sức chân nhanh, Cố tiên sinh ví như con trâu hèn mà có thể kéo nặng đi xa
vậy.
Trương Bột ngô lục chép: Có người hỏi Thống rằng: Cứ như tôi thấy,
Lục tiên sinh có vẻ giỏi hơn ông? Thống nói: Ngựa chạy chậm tuy tinh, nhưng cái
tài ấy chỉ đủ cho một mình vậy. Trâu hèn ngày đi ba trăm dặm, nhưng cũng chỉ đủ
mang một mình mà thôi. Thiệu tới chỗ Thống ngủ lại một đêm, trò chuyện, nhân đó
hỏi: Ngài có tiếng là biết nhìn người, xin hỏi tôi với ngài ai hơn? Thống đáp:
đào tạo thế tục, kén chọn nhân tài, tôi không bằng ngài; bàn luận kế sách đế
vương, nắm hết cái thiết yếu nhất của chính trị, tôi hơn hẳn ngài. Thiệu phục
những lời ấy mà thân thiết với Thống.
Thống bảo Toàn Tông rằng: Ngài là người mẫu mực, yêu danh, có thể
ví với Phàn Tử Chiêu ở Nhữ Nam, Tưởng Tế vạn cơ luận nói Hứa Tử Tương khen chê
không công bằng, để nâng Phàn Tử Chiêu mà dìm Hứa Văn Hưu. Lưu Diệp nói: Tử
Chiêu thành đạt từ việc buôn bán, tuổi đã sáu mươi, lui có thể giữ được cái
tĩnh, tiến có thể không cẩu thả. Tế đáp: Tử Chiêu từ trẻ tới già giữ trọn tiết
tháo, nhưng quan sát lời ăn tiếng nói, phong thái đàm luận, thì chẳng sánh bằng
Văn Hưu vậy. tuy trí lực không nhiều, song cũng là kẻ có danh một thời vậy.
Tích, Thiệu bảo Thống rằng: Nếu thiên hạ thái bình, xin cùng ngài liệu đoán kẻ
sĩ bốn biển. Hai người cùng Thống kết bạn thâm giao rồi quay về.
Tiên chủ nắm Kinh Châu, Thống làm tòng sự, giữ chức huyện lệnh Lỗi
Dương, nhưng chẳng ngó ngàng tới huyện, bị miễn chức. Tướng Ngô là Lỗ Túc để
lại thư cho Tiên chủ nói rằng: Cái tài của Bàng Sĩ Nguyên chẳng phải chỉ trong
vòng trăm dặm, nên cho làm Trị trung biệt giá, mới phát huy hết sức chân của
con ngựa Kí (2) vậy. Gia Cát Lượng cũng nói với Tiên chủ về Thống, Tiên chủ bèn
gặp, cùng đàm luận tâm đắc, vô cùng coi trọng Thống, lấy làm Trị trung tòng sự.
Giang biểu truyện chép: Tiên chủ cùng Thống ung dung ăn tiệc, trò
chuyện, hỏi Thống rằng: Khanh làm Công tào chỗ Chu Công Cẩn, Cô (3) tới Ngô,
nghe thấy người ấy bí mật tâu trình, khuyên Trọng Mưu (4) lưu ta lại đó, có việc ấy không? Theo chủ nên vì chủ,
khanh đừng giấu ta. Thống đáp: Có việc ấy. Bị than rằng: Cô đương lúc nguy cấp,
phải tới cầu cạnh, không được không đi, sợ chẳng thoát được khỏi tay Chu Du! Kẻ
mưu trí trong thiên hạ, cách nhìn giống nhau vậy ư. Lúc đó Khổng Minh can Cô
đừng đi, vốn chỉ có ý như vậy, Khổng Minh hẳn cũng lo nghĩ việc ấy. Cô dùng
Trọng Mưu để phòng phương bắc, Trọng Mưu lại nhờ Cô làm viện trợ, việc ấy quyết
định chẳng có chút nghi ngờ. Ấy thật là đi vào chỗ nguy hiểm, chẳng phải kế vạn
toàn vậy.
Tiên chủ thân thiết tiếp đãi Thống chẳng khác gì Gia Cát Lượng, cho
cùng Lượng làm Quân sư trung lang tướng.
Cửu Châu xuân thu chép: Thống thuyết Bị rằng: Kinh Châu hoang tàn,
nhân tài điêu tán, đông có Tôn Ngô, bắc có họ Tào, cái kế tạo thành chân vạc,
khó mà như ý được. Nay Ích Châu nước giàu dân mạnh, hộ khẩu trăm vạn, binh mã
bốn bộ, đều đầy đủ cả, kinh tế chẳng cần tới bên ngoài, nên quyền biến mượn lấy
mà định đại sự. Bị nói: Nay ta với Tào Tháo như nước với lửa, Tháo cấp bách, ta
khoan thai; Tháo tàn bạo, ta nhân từ; Tháo xảo quyệt, ta trung hậu; cái gì cũng
ngược với Tháo cả, việc mới thành được vậy. Nay được cái nhỏ mà mất đi tín
nghĩa với thiên hạ, ta không làm đâu. Thống nói: Bây giờ là lúc quyền biến, yên
định thiên hạ chẳng phải chỉ có một lối vậy. Sát nhập những nước nhỏ yếu, chính
là việc của ngũ bá ngày xưa. Nghịch chiếm mà thuận trị, báo đáp ấy là nghĩa,
sau này mọi việc đã định, phong cho (Lưu Chương) một nước lớn, sao lại phụ tín
được? Nay không lấy Ích Châu, cuối cùng kẻ khác được lợi mà thôi. Bị nghe theo.
Lượng ở lại trấn giữ Kinh Châu, Thống theo Tiên chủ vào Thục.
Ích châu mục Lưu Chương cùng Tiên chủ gặp mặt ở Phù huyện, Thống
dâng kế rằng: Nay kẻ ấy đến hội họp, ta tiện thể bắt lấy, thời tướng quân chẳng
mất một binh một tốt, ngồi một chỗ mà định Ích Châu vậy. Tiên chủ nói: Mới vào
nước người ta, ân, tín đều chưa đủ, cách ấy không được. Chương về Thành Đô rồi,
Tiên chủ gánh vác việc bắc chinh Hán Trung giúp Chương, Thống lại thuyết rằng:
Ngầm tuyển tinh binh, bất kể ngày đêm, tập kích thẳng vào Thành Đô; Chương vốn
bất vũ, lại là chỗ quen biết không phòng bị, đại quân chợt tới, tất chỉ một
trận là định được, ấy là thượng sách. Dương Hoài, Cao Bái, hai danh tướng của
Chương cậy binh cường thủ nơi cửa khẩu hiểm yếu, nghe nói đã mấy lần dâng biểu
can gián Chương, xin đuổi tướng quân về Kinh Châu. Nay tướng quân tới đó, sai
người báo trước cho họ biết, nói Kinh Châu có việc gấp, muốn quay về cứu viện,
lại cho binh lính đều sắp xếp hành trang, bên ngoài làm ra vẻ quay về; hai
người ấy đã nghe tiếng anh hùng của tướng quân, lại mừng rỡ vì tướng quân bỏ
đi, tất sẽ cưỡi khinh kị lại đón, tướng quân nhân đó bắt lấy, rồi mạnh dạn xuất
binh, nhắm hướng Thành Đô, đó là trung sách. Quay về Bạch Đế, rồi dẫn binh về
Kinh Châu, thong thả tính kế quay lại lấy Ích Châu, đó là hạ sách. Nếu do dự
chẳng đi, tất sẽ nguy to, không thể đợi thế được. Tiên chủ chọn theo trung
sách, chém ngay được Hoài, Bái, hướng về Thành Đô, đi tới đâu đánh được tới đó.
Tiên chủ mở hội ở Phù huyện, bày tửu yến ăn mừng, bảo Thống rằng: Hội hôm nay,
có thể nói là vui vậy. Thống nói: Đánh nước người ta mà lấy đó làm vui, thật
không đáng là quân của bậc nhân giả. Tiên chủ say rượu, nổi giận mà rằng: Vũ
Vương phạt Trụ, trước ca sau múa, cũng không phải là bậc nhân giả ư? Khanh nói
chẳng hợp lẽ, nên đứng lên mà bước ngay đi! Bởi thế Thống đắn đo từ chức. Tiên
chủ hối hận, thỉnh Thống trở lại. Thống phục chức cũ, cũng chẳng nghĩ tới việc
tạ lỗi trước, cứ ăn uống tự nhiên. Tiên chủ bảo rằng: Bàn luận bữa trước, là ai
thất thố vậy? Thống đáp: Vua tôi cùng thất thố cả. Tiên chủ cười ầm lên, lại
vui vẻ như trước.
Tập Tạc Xỉ (5) nói: Kẻ bá vương tất lấy nhân, nghĩa làm gốc, cậy
tín, thuận làm chủ, một điều không đủ,
thì đạo sẽ không hòa. Nay Lưu Bị đánh úp, đoạt lấy đất của Chương, tuy quyền
biến để nên nghiệp lớn, song phụ tín lìa tình, đức, nghĩa đều sai, tuy công có
lớn, song cái mất cũng nhiều, chẳng khác gì chặt tay để giữ lấy thân thể, sao
vui được đây? Bàng Thống sợ lời nói ấy lan ra ngoài, biết chắc rằng quân chủ sẽ
thấu hiểu, cho nên công khai chỉnh sửa lỗi lầm (của Bị) mà chẳng quan tâm đến
đạo lý khiêm cung. Lời trách mắng tuy quá kịch liệt nhưng đã biểu lộ tác phong
cương trực, khẩu phong lanh lẹ. Quân chủ lầm lỗi nhưng biết cải sửa là nhờ bày
tôi biết can gián vậy. Dung nạp ý kiến chính đáng mà không chấp vào ý kiến cá
nhân là thuận theo lý vậy. Có bày tôi giỏi thì vương quyền hưng thịnh; theo lý
thì mọi chính sắch đều đươc thi hành. Một lời mà thu đủ ba điều lợi; (lời)
khuyên ngắn mà sáng soi ngàn đời. Có thể nói đã đạt được đại thể (của đạo trị
quốc) Nếu chỉ chăm chăm cái thua thiệt nhỏ thì đánh mất lợi ích quốc gia. Nếu
bo bo giữ ý kiến sai lầm mà phế bỏ rường mối dài lâu, (quân vương) như vậy mà
mong hoàn thành đại nghiệp, chưa từng có vậy.
Thần Tùng Chi cho rằng mưu tập kích Lưu Chương, tuy là kế của
Thống, nhưng trái với nghĩa để nên công, vốn là cái đạo dối trá, lòng Thống đã
áy náy, tất cái vui vẻ tự tắt, bởi thế nghe Bị nói là vui, bất giác buột miệng
mà đáp lại vậy. Bị thỏa thuê yến tiệc chẳng đúng lúc, việc ấy giống như cười
trên nỗi đau kẻ khác, tự so mình với Vũ Vương mà chẳng hề xấu hổ, ấy là Bị
không đúng chứ Thống chẳng sai, Thống nói: “Vua tôi cùng thất thố cả”, chỉ là
lời che đậy, cùng chia sẻ cái lỗi vậy. Lời bàn của họ Tập, tuy đại ý không sai,
nhưng những lời suy diễn như thế, cũng có chút phóng túng vậy.
Quân vây Lạc huyện, Thống suất binh công thành, bị trúng tên lạc mà
chết, năm ấy Thống ba mươi sáu tuổi. Tiên chủ thương tiếc Thống, nhắc tới là
rơi nước mắt. Phong cho phụ thân của Thống làm Nghị lang, sau thăng làm Gián
nghị đại phu, do Gia Cát Lượng đích thân bổ nhiệm. Thống được truy tặng tước
quan nội hầu, tên thụy là Tĩnh hầu. Con Thống là Hoành, tự Cự Sư, tính cương
trực giản dị, dám khen dám chê, vì ngạo mạn coi thường Thượng thư lệnh Trần
Chi, bị Chi đè nén, khi chết cũng chỉ làm tới Thái thú Phù Lăng. Em Thống là
Lâm, làm Trị trung tòng sự ở Kinh Châu, theo Trấn bắc tướng quân Hoàng Quyền
chinh Ngô, thua trận, theo Quyền hàng Ngụy, Ngụy phong làm Liệt hầu, quan tới
Thái thú Cự Lộc.
Tương Dương ký chép: Vợ của Lâm là em gái Tập Trinh (6) , người
cùng quận. Sự tích của Trinh được chép trong Phụ thần tán của Dương Hí. Tào Công
đánh phá Kinh Châu, vợ Lâm cùng Lâm chia cách, trông coi nuôi dưỡng đứa con gái
nhỏ mới hơn mười tuổi, sau Lâm theo Hoàng Quyền hàng Ngụy, mới được đoàn tụ.
Ngụy Văn Đế (7) nghe vợ Lâm hiền, ban cho màn chiếu y phục, để nghĩa tiết được
vẻ vang.
PHÁP CHÍNH TRUYỆN
Pháp Chính tự Hiếu Trực, người quận Phù Phong, Mi huyện. Tổ phụ là
Chân, nổi tiếng thanh khiết.
Tam phụ quyết lục chú chép: Chân tự Cao Khanh, thuở nhỏ đã hiểu rõ
Ngũ Kinh, lại rành việc đoán lành dữ, không học lâu ở một thầy nào, nổi tiếng
là tài cao. Thường quấn khăn xếp gặp quan trấn thủ Phù Phong, quan trấn thủ
nói: Ai Công (8) tuy bất tài, nhưng kẻ thần tử Trọng Ni (9), Liễu Hạ Huệ (10)
cũng chẳng bỏ quê cha đất mẹ mà đi, ý tôi muốn ngài khuất thân làm Công tào
được không? Chân nói: Minh phủ (11) tiếp đãi hữu lễ, cho nên Chân đã bốn lần
bái yết, nhược bằng muốn Chân làm quan lại, Chân sẽ ở phía bắc Bắc Sơn, phía
nam Nam Sơn vậy (12). Sau quan trấn thủ Phù Phong không dám lấy Chân làm lại.
Trước, khi Chân chưa đầy hai mươi tuổi, phụ thân ở Nam Quận, Chân đi bộ tới
ngóng, phụ thân bèn giữ lại ăn mùng một tết, cho xem các quan tụ hội lúc sáng
sớm. Hội có mấy trăm người, Chân chọc cái lỗ trên cửa sổ dòm ngó rồi thì thầm
với phụ thân. Hết hội, mới hỏi Chân: Ai là người hiền? Chân đáp: Tào duyện Hồ
Quảng có độ lượng của bậc công khanh. Sau quả nhiên Quảng có làm tới ngôi tam
công cửu khanh, người đời bởi thế phục tài nhìn người của Chân. Trước sau mấy
lần Chân được vời làm quan, nhưng đều không tới, nhóm bạn Quách Chính đều khen
ngợi, gọi Chân là Huyền Đức tiên sinh. Chân mất vào năm Trung Bình ngũ niên,
được tám mươi chín tuổi. Phụ thân Pháp Chính là Diễn, tự Quý Mưu, làm Tư đồ
duyện, Đình úy tả giám.
Kiến An sơ, thiên hạ mất mùa, Chính cùng với người đồng quận là
Mạnh Đạt cùng vào Thục nương nhờ Lưu Chương, mãi về sau mới được làm Tân Đô
lệnh, rồi được gọi về tạm làm Quân nghị hiệu úy. Chính đã không được dùng, lại
bị lũ khách ở nhờ châu ấp chê bai là thiếu đức hạnh, nên bất đắc chí. Ích Châu
biệt giá Trương Tùng chơi thân với Chính, nghĩ Chương chẳng có tương lai,
thường than thở riêng với nhau. Tùng ở Kinh Châu thấy Tào Công về (bắc), khuyên
Chương đoạn tuyệt với Tào Công mà liên kết với Tiên chủ. Chương nói: Ai có thể
làm sứ giả? Tùng bèn tiến cử Chính, Chính từ tạ không được đành đi. Chính quay
về, cùng Tùng kể Tiên chủ anh hùng thao lược, hai người bí mật mưu tính kế
hoạch hiệp lực, muốn cùng phụng sự (Tiên
chủ), mà chưa có dịp. Sau Chương nghe tin Tào Công muốn sai tướng đánh Trương
Lỗ, trong lòng sợ hãi, nhân đó Tùng bèn thuyết Chương nên nghênh đón Tiên chủ,
khiến đi đánh Lỗ, Chương lại sai Chính đi. Chính truyền ý chỉ xong, ngầm hiến
kế cho Tiên chủ rằng: Tướng quân là người anh tài, nên thừa cơ Lưu mục (13) nhu
nhược (mà lấy Ích Châu); Trương Tùng, cánh tay đắc lực của châu Ích, sẽ làm nội
ứng bên trong; sau đó nhờ cái giàu có của Ích Châu, cậy cái hiểm trở trời cho,
nên nghiệp lớn như trở bàn tay vậy. Tiên chủ tán đồng, theo sông về tây, hội
họp với Chương ở Phù huyện. (Tiên chủ) bắc tiến trấn ải Hà Manh, rồi hoàn nam
tấn công Chương.
Trịnh Độ khuyên Chương rằng:
Hoa dương quốc chí chép: Độ là người Quảng Hán, làm tòng sự ở châu.
Tả tướng quân (14) dẫn một đám quân cô độc tập kích ta, binh chẳng
tới vạn người, tướng sĩ chưa phục, lại chỉ trông vào thóc lúa ngoài đồng, chứ
không có lương thực. Chi bằng rời hết dân ở Ba Tây, Tử Đồng về tây Phù Thủy,
còn bao nhiêu kho lương đồng lúa đốt hết một lượt, giữ thành cao hào sâu, lấy
tĩnh mà cự địch. Bên kia tới khiêu chiến, ta chẳng ra, địch chẳng trông cậy vào
đâu được, chẳng quá trăm ngày tất phải rút chạy. Họ chạy, ta bèn đuổi đánh, tất
bắt được (Bị) thôi. Tiên chủ nghe được kế ấy, lo lắng không yên, bèn hỏi Chính.
Chính nói: (Chương) không dùng đâu, chẳng nên lo vậy(15). Quả nhiên như lời
Chính nói, Chương bảo với quần thần rằng: Ta chỉ nghe cự địch để an dân, chứ
chưa nghe phiền dân để tránh địch vậy. Rồi bãi quan của Độ, không dùng kế ấy.
Đến lúc quân vây Lạc thành, Chính thư cho Chương trước, viết rằng:
Chính vốn buông thả vô thuật, mà nay minh hảo giữa hai nước đã tổn hại, sợ quần
thần không rõ đầu đuôi, tất đều quy tội cho tôi, khiến tôi hổ thẹn tới chết,
còn làm nhục tới ngài, bởi vậy đành bỏ thân ở ngoài, chứ không dám trái lệnh.
Lại sợ ngài nghe thấy những lời dơ bẩn, chẳng dám kính thư vấn an, lòng hoài
niệm cái tình tiếp đãi khi xưa, mà chỉ dám trông xa nhớ nhung không dứt. Trước
sau duy có Chính dám biểu lộ tim gan, từ thuở ban đầu tới tận bây giờ, thật
chẳng dám giấu giếm ý riêng, hay có lòng không hết sức, chỉ hiềm Chính ngu tối
kế mỏng, tấm lòng thành chẳng đủ cảm động ngài, mới đến nông nỗi như bây giờ
vậy. Nay quốc gia lâm nguy, tai vạ ập đến, tuy Chính đã vứt thân buông thả bên
ngoài, chịu những lời oán ghét, nhưng vẫn tham lam hết lòng lo nghĩ, lấy đó để
biểu lộ sự trung thành. Bổn ý của tướng quân Chính hiểu rõ, thật không muốn
đánh mất cái ý viện trợ của Tả tướng quân, sở dĩ cuối cùng tới nỗi này, cũng
bởi tả hữu bên ngài vốn chẳng thông suốt cái đạo hành sự của kẻ anh hùng, có
thể nói đã trái lời thề ước, lại thêm lấy tình cảm để kết giao, nhật nguyệt
cùng lặn (16), xu nịnh mong cầu lọt tai vừa mắt, a dua ý chỉ, mà chẳng màng tới
kế sách trị quốc sâu xa vậy. Nay biến cố phát sinh, chẳng biết cân nhắc cái thế
cường nhược, lại cho là Tả tướng quân binh ít viễn chinh, không có lương thực,
hòng lấy nhiều đánh ít, lôi thôi kéo dài. Nhưng (Tả tướng quân) theo cửa quan
tới đây, đi đến đâu đánh được đến đó, binh của tướng quân trấn ở hành cung, chỉ
trong một ngày đã tự suy bại. Dưới Lạc thành binh tuy tới vạn, nhưng chết cả
trong trận chiến, tướng đã bại quân, còn muốn tranh thắng trận chiến trong chốc
lát, xét thế, lực binh tướng hai bên, thật chẳng tương đương vậy. Bên tướng
quân muốn dùng kế tiêu thổ lâu dài, nhưng bên này doanh trại thủ giữ bền chắc,
lương thực chất đống, mà tướng quân đất đai mỗi ngày một mất, bách tính mỗi
ngày một khốn, đối phương đã nhiều, mà bên tướng quân cung ứng lại rỗng tuếch.
Cứ như ngu ý, tất bên tướng quân kiệt lương trước, chẳng kéo dài lâu hơn được
vậy. Cứ thủ chẳng chiến, còn chẳng kham nổi, nay Trương Dực Đức mang quân mấy
vạn, đã lấy Ba Đông, vào tới ranh giới Kiền Vi, lại chia binh lấy Tư Trung, Đức
Dương, ba đường tiến tới, tướng quân lấy gì để ngăn được? Trước người ta bày
mưu cho tướng quân, tất bảo bên này quân cô độc đi đánh nơi xa, đã chẳng có
lương, lại cung vận không kịp, quân đã ít lại chẳng có bổ sung vậy. Nay lộ Kinh
Châu đã thông, quân đã gấp mấy chục
lần, lại thêm Tôn Xa kị (17) sai em cùng Lí Dị, Cam Ninh làm hậu
viện. Nhược bằng muốn tranh cái thế chủ khách, cậy đất nhà để giành chiến
thắng, thì nay bên họ đã chiếm được Ba Đông, Quảng Hán, Kiền Vi, hơn nửa đã
định, một quận Ba Tây, cũng chẳng còn là của tướng quân nữa. Tính ra Ích Châu
chỉ dựa vào đất Thục, thì nay Thục cũng tổn hại, ba phần mất hai, dân chúng mỏi
mệt, nghĩ rằng mười hộ có tới tám hộ làm loạn vậy. Nếu như địch cách xa thì
bách tính chẳng kham nổi việc nô dịch, địch ở gần thì đất đổi chủ chẳng phải
chỉ trong chốc lát sao. Các huyện Quảng Hán, là một ví dụ rõ ràng vậy. Lại như
Ngư Phục với cửa khẩu thật là “phúc họa chi môn” của Ích Châu, mà nay hai cửa
này tất thủng, thành kiên cố mấy cũng mất, quân lính tan vỡ, binh, tướng đều
hết, mà địch theo mấy lộ cùng tiến, đã vào tới nơi yếu địa, chỉ ngồi mà thủ
Thành Đô, Lạc Thành, cái thế tồn vong, thật rõ ràng vậy. Chính chỉ bàn đại
lược, còn như chi tiết, thật khó mà nói hết bằng lời.
Như Chính vốn ngu dốt, còn biết việc ấy (18) chẳng thể làm được,
huống chi những mưu sĩ thông minh sáng suốt bên cạnh tướng quân, há chẳng thấy
được số mệnh như thế ư? Những kẻ ấy chỉ là phường sáng tối tranh giành sủng
hạnh, cầu chốn dung thân để xu nịnh bề trên, mà chẳng biết lo tính mưu xa,
chẳng tận tâm hiến dâng lương kế vậy. Ví như tình thế cấp thiết, các tướng liền
mạnh ai nấy tìm đường sống, cầu xin được qua cửa ngõ, trăn trở trằn trọc, ngày
trước so với bây giờ xét ra khác xa, họ thật khó vì tướng quân mà tận tâm tới
chết. Nhà tướng quân đành tự gánh vác nỗi ưu tư mà thôi. Chính tuy chịu những
lời phỉ báng bất trung, nhưng tự vấn tâm chẳng phụ thánh đức, lòng hoài niệm
cái nghĩa chúa tôi mà đau đớn thảm thiết. Tả tướng quân từ trước tới nay, tấm
lòng cũ chẳng hề thay đổi, thật chẳng có ý bạc bẽo. Ngu ý cho rằng có thể tính
chuyện quyền biến, chính là để bảo toàn gia đình tướng quân đó.
Năm Kiến An thứ mười chín, (Tiên chủ) tiến binh vây Thành Đô, thái
thú Thục Quận của Chương là Hứa Tính định trèo tường ra hàng, việc bị phát
giác, không thành. Chương bởi nguy vong gần kề nên không giết Tĩnh. Lúc Chương
đầu hàng, Tiên chủ vì việc ấy mà bạc đãi, không dùng Tĩnh. Chính khuyên rằng:
Thiên hạ có những kẻ hữu danh vô thực, Hứa Tĩnh chính là như vậy. Nhưng nay
chúa công mới tạo dựng đại nghiệp, chẳng thể giải thích rõ ràng cho từng người
trong thiên hạ, cái hư danh của Tĩnh đã lan rộng bốn bể, nếu như thiếu lễ,
thiên hạ tất cho chúa công là khinh rẻ người hiền. Chẳng bằng càng nên kính
trọng, làm mê hoặc xa gần, như ngày xưa Yên Vương đãi Quách Ngỗi (19) vậy. Do
vậy Tiên chủ bèn hậu đãi Tĩnh.
Tôn Thịnh nói: Hạ mình cầu hiền, tôn trọng cái đức, là đạo lý quan
trọng của quốc gia; phong tặng phần mộ, đi qua cửa ( của bậc tiên hiền) là cách
các bậc tiên vương lập ra khuôn thước ( cho thiên hạ biết mình tôn trọng người
hiền). Do đó ăt phải thể nghiệm và thực hành đạo lý nhìn xa trông rộng, nghĩa
cao ngút trời, mai sau có thể nhìn xa khắp bốn bể, chấn phục lê dân. Nếu chẳng
phải người như thế, thì đại đạo chẳng được thực thi vậy. Hứa Tĩnh, ỏ nhà thì
huynh đệ bất hòa, xuất sĩ thì quan không xứng chức, xét về tín nghĩa thì thời
thế vừa đổi gan ruột cũng đổi, luận về kiến thức thì là đầu mối họa hoạn. Thì
làm sao có thể khiến người hiền tài căn cứ vào kẻ sĩ được trọng dụng mà đầu
phục đuợc? Nếu như chỉ chuộng cái danh hão huyền mà khinh thường vinh nhục cá
nhân, thì những kẻ sĩ chính trực trọng nghĩa dựa vào cái gì để phục đây? Chính
chỉ chuyên dùng thuật mê hoặc, đánh mất phong thái của người cao quý, lại ví
Hứa Tĩnh như Quách Ngỗi, thật bất bình thường vậy. Thần Tùng Chi cho rằng Quách
Ngỗi chẳng phải người hiền, chỉ bởi kế quyền biến mà được hưởng ân sủng, huống
hồ Văn Hưu danh tiếng vang xa, thiên hạ đều bảo là người tài năng khác thường,
tuy cuối đời có lầm lỗi, song việc ấy chẳng dễ hiểu rõ được, nếu không dùng lễ
mà đãi, làm sao giải thích những nghi hoặc xa gần? Pháp Chính lấy Tĩnh so với
Ngỗi, vị tất đã không đúng, mà Thịnh lại lấy việc các bậc tiên vương phong mộ,
qua cửa (bậc tiên hiền) để bắt bẻ, thật là quá lắm! Thế thì Yên Vương cũng sai,
sao chỉ có mình Lưu ông (20) được? Xét việc bất hòa trong nhà, sai ở Tử Tương,
cứ theo lời Tưởng Tế thì chẳng phải lỗi của Văn Hưu vậy. Còn việc Tôn Thạnh mỉa
mai Tĩnh làm quan không xứng chức, ắt chỉ việc Tĩnh làm quan với Đổng Trác,
Trác lúc vừa chấp chính, hết lòng đề bạt nhân tài, người được Trác tuyển chọn,
nhiều không kể xiết. Nhưng Hứa Tĩnh bước vào hoạn lộ, trước khi Đổng Trác
chuyên quyền. Sau thăng làm Trung Thừa, không thể nói (nhờ Trác) mà vượt cấp.
Lấy việc này mà bêu riếu thì danh sĩ như Tuân Sảng, Trần Kỷ đều bị đời ghét bỏ
hay sao?
(Tiên chủ) lấy Chính làm Thái thú Thục Quận, Dương Vũ tướng quân,
bên ngoài thống lĩnh cả kinh kỳ, bên trong làm tham mưu trưởng. Một bữa cơm ân
đức hay một cái trừng mắt oán giận, Chính cũng chẳng bỏ sót, lại chuyên quyền
bắt giết, phá hoại mấy người cho thỏa lòng riêng. Có người nói với Gia Cát
Lượng rằng: Pháp Chính ở Thục Quận tung hoành quá mức, tướng quân nên bẩm với
chúa công, hạn chế bớt quyền hành của ông ta đi. Lượng đáp: “Chúa công khi ở
Công An, phía bắc úy kị Tào công cường mạnh, phía đông lo lắng Tôn Quyền bức
bách, ở gần lại sợ Tôn phu nhân (21) sinh biến ngay sát nách. Tình thế lúc ấy,
thật là tiến thoái lưỡng nan, may nhờ Pháp Hiếu Trực giúp cho, chúa công mới
cất cánh bay liệng tự do được, chẳng sợ ai kiềm chế mình nữa. Nay ta lòng nào cấm
đoán Pháp Chính, khiến ông ấy chẳng thỏa được ý riêng sao?”. Nguyên trước Tôn
Quyền gả em gái cho Tiên chủ, Tôn phu nhân vốn là người tài giỏi, nhanh nhẹn
cương mãnh, có phong thái của các anh, thị tì hơn trăm người đều quen cầm đao
đứng hầu, Tiên chủ mỗi lần vào đều thấy lạnh cả người. Lượng lại biết Tiên chủ
rất quý trọng tin tưởng Chính, nên mới nói như thế.
Tôn Thịnh nói: Thưởng phạt tùy tiện, là cái đạo mất nhà hại nước;
bắt thả theo yêu ghét, là nguồn gốc của việc phá khuôn phép, loạn đạo lý. Chẳng
phải (Chính) cậy mình là công thần mà phóng túng cùng cực, cậy ân huệ mà lợi
dụng quyền lực sao? Xưa Điên Hiệt (22) tuy cần cù, cũng chẳng thoát được hình
phạt vì trái lệnh; Dương Can (23) tuy thân thiết, cũng bởi làm loạn mà suýt bị
phanh thây, vương pháp xưa chẳng nể tình thân vậy. Cứ như lời Gia Cát, chẳng lẽ
bỏ qua việc phạt Chính hay sao?
Năm Kiến An thứ hai mươi hai, Chính thuyết Tiên chủ rằng: Tào Tháo
chỉ một trận mà hàng phục Trương Lỗ, bình định Hán Trung, lại chẳng nhân đà ấy
mà lấy Ba, Thục, chỉ lưu Hạ Hầu Uyên, Trương Cáp trấn thủ, rồi quay về bắc,
chẳng phải bất trí mà do lực không đủ vậy, hiển nhiên trong nước có điều lo
nghĩ bức bách. Nay Uyên, Cáp thao lược chẳng bằng chủ soái (Tào Tháo), ta khởi
binh thảo phạt tất được. Sau khi thành công, ta tích cực trồng trọt, tích trữ
lương thực, chờ đợi sơ hở của địch, hay nhất là có thể đánh đổ quân giặc, tôn
trợ vương thất, thứ đến có thể chiếm dần hai châu Ung, Lương, mở rộng bờ cõi,
hoặc ít ra cũng có thể cố thủ nơi hiểm yếu, tính kế lâu dài. Đó là cơ hội trời
cao ban cho chúng ta, không thể đánh mất được. Tiên chủ nghe kế ấy, suất chư
tướng tiến binh lấy Hán Trung, Chính cũng đi theo. Năm Kiến An thứ hai mươi tư,
Tiên chủ từ ải Dương Bình qua sông Miện Thủy ở phía nam, men theo mặt trước
núi, lập trại ở Định Quân sơn. Hạ Hầu Uyên đưa quân tới tranh địa thế. Chính
nói: Có thể đánh. Tiên chủ ra lệnh cho Hoàng Trung từ trên cao gõ trống reo hò
đánh xuống, đại phá quân của Uyên, Uyên cùng các tướng đều phải nộp đầu. Tào
công dẫn binh tây chinh, nghe kế sách (24) của Chính, bèn rằng: Ta vẫn biết
Huyền Đức chẳng đủ sức, kế ấy tất có người chỉ cho vậy.
Thần Tùng Chi cho rằng Thục với Hán Trung, như môi với răng vậy.
Sao Lưu chủ lại không biết tới điều đó được? Sách lược chưa kịp triển khai, thì
Chính đã nói trước mà thôi. Vả lại biết nghe, dùng mưu hay để thành công nghiệp,
bá vương chi chủ có ai không như thế? Ngụy Vũ (25) cũng cho việc có người chỉ
dạy là kém ư! Những lời thừa thãi đầy sự sỉ nhục oán giận ấy, chưa chắc đã là
lời của Ngụy Vũ vậy.
Tiên chủ lên ngôi Hán Trung Vương, lấy Chính làm Thượng thư lệnh,
Hộ quân tướng quân. Năm sau Chính mất, lúc ấy bốn mươi lăm tuổi. Tiên chủ
thương tiếc Chính, rơi lệ nhiều ngày. Chính được đặt thụy là Dực Hầu. Con Chính
được ban tước quan nội hầu, làm quan tới Phụng xa đô úy, Thái thú Hán Dương.
Gia Cát Lượng với Chính tuy không cùng sở thích, nhưng đều lấy việc công làm
trọng. Lượng thường ngạc nhiên với trí thuật của Chính. Tiên chủ vừa xưng đế
xong, lập tức tính việc đông chinh Tôn Quyền để rửa nhục cho Quan Vũ, quần thần
can gián rất nhiều, nhưng Tiên chủ chẳng nghe ai. Năm Chương Vũ nhị niên, đại
quân bại trận, lui về Bạch Đế. Lượng than rằng: Nếu còn Pháp Hiếu Trực, hẳn có
thể ngăn cản chúa thượng không đi sang đông; hoặc có sang đông, tất cũng không
nguy hiểm vậy. Tiên chủ giao chiến với Tào công, ở thế không lợi, nên lui binh,
mà Tiên chủ tức giận vô cùng không chịu lùi về, chẳng ai dám can. Tên bay như
mưa, Chính bèn tới chắn trước Tiên chủ, Tiên chủ rằng: Hiếu Trực đừng lên.
Chính nói: Minh công còn tự mình đứng trước mũi tên hòn đá, huống chi là tiểu
nhân. Tiên chủ bèn nói: Hiếu Trực, ta với ngươi cùng đi. Rồi lùi về.
Bình rằng: Bàng Thống là người chính trực hòa nhã, học nhiều, suy
nghĩ sâu xa, là tuấn kiệt đất Kinh, Sở đương thời. Pháp Chính thấu rõ thành bại,
có mưu kế lạ, nhưng không được khen về phẩm hạnh. So với các đại thần nước
Ngụy, Thống với Tuân Úc gần như một cặp, Chính và Trình, Quách (26)cũng tương
đương vậy?
CHÚ THÍCH
(1) Tư Mã Huy tự là Đức Tháo.
(2) Ngựa Kí là con ngựa hay,
ngày đi được nghìn dặm. Ý ở đây là nên cho Thống làm Trị trung biệt giá, mới
xứng với tài năng của Thống.
(3) Lưu Bị tự xưng mình là
Cô.
(4) Trọng Mưu là tên tự của
Tôn Quyền.
(5) Tập Tạc Xỉ là tác giả của
Hán Tấn xuân thu. Những lời trên Bùi Tùng Chi trích từ Hán Tấn xuân thu.
(6) Tập Trinh là người nổi
tiếng ở đất Kinh Châu. Họ Tập là một trong những họ lớn, có ảnh hưởng ở đất đó.
Khi Lưu Bị lấy được Kinh Châu, Tập Trinh cũng hỗ trợ việc ổn định chính quyền
rất nhiều.
(7) Tào Phi.
(8) Lỗ Ai Công, vua nước Lỗ
thời Chiến quốc, cùng thời với vua Phù Sai nước Ngô và Câu Tiễn nước Việt.
(9) Trọng Ni là tên tự của
Khổng Khâu, thường gọi là Khổng Tử, ông tổ của đạo nho, tác giả (hoặc người
chỉnh lý) nhiều bộ kinh sách quý của Trung Quốc như Kinh Thi, Thư, Lễ, Dịch và
Kinh Xuân Thu. Khổng Tử sinh tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ. Khổng Tử
từng làm tể tướng nước Lỗ, giúp Lỗ trở nên cường thịnh, nhưng bị ly gián, dèm
pha nên ra đi. Sau đó ông vẫn quay về Lỗ
và mất ở đó.
(10) Liễu Hạ Huệ tên thật là
Triển Hoạch, người đất Liễu Hạ, nước Lỗ thời Chiến quốc, trong lịch sử nổi
tiếng là một chính nhân quân tử. Ông làm quan ba lần bị truất mà không bỏ nước.
Tuy nhiên ông không sống ở thời Lỗ Ai Công mà sống vào thời Lỗ Hi Công trước đó
hơn một trăm năm. Không rõ vì sao quan trấn thủ Phù Phong lại đưa cả Liễu Hạ
Huệ vào câu nói về Lỗ Ai Công.
(11) Phủ ở đây chỉ quan phủ
quận Phù Phong, minh là cách xưng hô tôn kính. Ví dụ như Minh công, Minh phủ.
(12) Không rõ ý Pháp Chân là
gì. Có lẽ Chân muốn nói: Chân phiêu du bất định, không muốn làm
quan.
(13) Chỉ Lưu Chương. Do
Chương làm chức Ích Châu mục nên gọi là Lưu mục.
(14) Chỉ Lưu Bị. Chức của Bị lúc này là Tả tướng quân nhà Hán.
(15) Ý Pháp Chính nói bầy tôi của Lưu Chương toàn những kẻ giao du với
nhau bằng tình cảm, xu nịnh bề trên, mặt trời (Lưu Chương) xuống thì mặt trăng
(bầy tôi) cũng xuống theo, thế là trái với lẽ thường.
(16) Chỉ Tôn Quyền. Theo Ngô chủ truyện, Tam Quốc Chí, thì vào thời điểm
này Tôn Quyền giữ chức Xa kị tướng quân, do Lưu Bị biểu tấu lên triều đình.
(17) Việc chống cự quân của Lưu Bị.
(18) Yên Vương thời chiến quốc muốn cầu người hiền, hỏi kế Quách Ngỗi.
Ngỗi nói: Đại vương nên trọng dụng ngay tôi đây. Ngỗi tôi vốn bất tài còn được
ngài trọng dụng, kẻ hiền khác thấy vậy tất lại với đại vương.
(19) Chỉ Lưu Bị. Lưu ông là cách gọi lịch sự.
(20) Tử Tương là tên tự của Hứa Thiệu, anh Hứa Tĩnh.
(21) Tôn phu nhân là vợ Lưu Bị, em gái Tôn Quyền, có sách nói tên là Tôn
Thượng Hương.
(22) Điên Hiệt là tướng của Tấn Văn Công, ghen tị với Hỉ Phụ Cơ là người
có ơn với Tấn Văn Công nên đốt nhà Hỉ Phụ Cơ. Việc bại lộ, bị xử chết.
(23) Dương Can là em Tấn Điệu Công. Làm trái quân pháp, suýt bị nguyên
soái nước Tấn là Ngụy Giáng giết.
(24) Ở đây chỉ ý kiến của Pháp Chính về tầm quan trọng của Hán Trung.
(25) Chỉ Tào Tháo. Ngụy Văn Đế Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, đặt thụy cho
cha là Ngụy Vũ Đế.
(26) Trình Dục, Quách Gia.
QUYỂN 8 - HỨA MY TÔN GIẢN Y
TẦN TRUYỆN
Hứa Tĩnh, My Chúc, Tôn Càn,
Giản Ung, Y Tịch, Tần Bật
GIẢN UNG TRUYỆN
Giản Ung tự Hiến Hoà, người quận Trác, kết bạn với Tiên Chủ từ thưở
nhỏ, tuỳ tùng (Tiên Chủ) đi khắp nơi. Tiên Chủ đến Kinh Châu, Ung cùng Mi Trúc,
Tôn Càn cùng là Tòng Sự Trung Lang, thường làm thuyết khách, vâng mệnh qua lại
(các nơi) như sứ giả. Tiên Chủ vào Ích Châu, Lưu Chương gặp Ung, rất mến mộ.
Sau Tiên Chủ vây Thành Đô, sai Ung đến thuyết phục Chương. Chương thuận cùng
Ung ngồi chung một xe ra thành nghe lệnh. Tiên Chủ bái Ung làm Chiêu Đức tướng
quân(1). (Ung) ưa đùa bỡn rong chơi, thích chỉ trích châm biếm, tính cách cứng
cỏi khinh mạn chẳng chịu đè nén, ở chỗ ngồi của Tiên Chủ mà vẫn còn xoạc chân
ngồi dựa nghiêng vào, chẳng biết cung kính uy nghi, cứ buông lung ý mình. (Ung)
sai thuộc hạ của Gia Cát Lượng) kê một chiếc giường nhỏ, nằm gối đầu cao mà bàn
việc, không gì khuất phục nổi. Vào lúc hạn hán có lệnh cấm nấu rượu, ở nhà
người kia tìm được đồ nấu rượu, mọi người bàn bạc muốn ra lệnh xử phạt (người
ấy) cùng tội với những người nấu rượu. Ung cùng Tiên Chủ ra ngoài du ngoạn, gặp
một đôi nam nữ trên đường, bèn nói với Tiên Chủ rằng: ”Người kia muốn hành dâm,
sao không bắt mà trói lại?” Tiên Chủ hỏi: ”Sao khanh biết vậy?” Ung đáp: ”Bọn
họ có dâm cụ, với người muốn nấu rươu là cùng tình huống.” Tiên Chủ cười lớn,
liền tha cho người muốn nấu rượu kia. Tính Ung khôi hài, đại loại là như vậy.
Ngờ rằng: Ung vốn họ Cảnh. Người U Châu nói chữ Cảnh ra thành chữ
Giản nên thuận theo mà thay đổi.
Y TỊCH TRUYỆN
Y Tịch tự Cơ Bá,người Sơn Dương. Từ nhỏ nương nhờ người đồng hương
Trấn Nam
tướng quân Lưu Biểu(2). Khi Tiên Chủ ở Kinh Châu. Tịch thường qua lại cậy nhờ.
Biểu chết, (Tịch) theo Tiên Chủ vượt sôngchạy về phía nam, rồi theo Tiên Chủ
vào Thục. Sau khi an định Ích Châu, Tiên Chủ lấy Tịch làm Tả tướng quân Tòng Sự
Trung Lang, trọng đãi gần như bọn Tôn Càn, Giản Ung. Lại sai (Tịch) sang sứ
Đông Ngô, Tôn Quyền nghe danh (Tịch) có tài biện luận, muốn lấy lời lẽ đối đáp
mà bắt bẻ. Tịch vừa vào bái lạy, Quyền nói: ”Hầu hạ hôn quân có mệt mỏi chăng?”
Tịch đáp ngay rằng: ”Lạy một lạy rồi đứng dạy chưa đủ để nói là vất vả gì.” Tài
tinh tế mẫn tiệp của Tịch đại khái là như vậy, Quyền rất lấy làm lạ. Sau (Tiên
Chủ) thăng (Tịch) làm Chiêu Văn tướng quân, (Tịch) với bọn Gia Cát Lượng, Pháp
Chính, Lưu Ba, Lý Nghiêm cùng viết nên pháp luật nước Thục. Pháp luật nước Thục
được đặt ra là nhờ năm người đó.
MY TRÚC TRUYỆN
Mi Trúc tự Tử Trọng, người đất Cù vùng Đông Hải. Tổ tiên nhiều đời
giàu có, nô bộc tân khách hàng vạn người, tiền của tài sản cực lớn.
Sưu Thần Ký(3) chép: Có lần Trúc đi Lạc Dương về, còn cách nhà
chừng mười dặm, bên đường thấy một người đàn bà xin Trúc cho đi nhờ. Đi được
mấy dặm, người đàn bà ấy cám ơn mà đi, bảo Trúc rằng: ”Ta được trời sai xuống,
đến đốt nhà My Trúc ở Đông Hải, cám ơn ngài thấy mà trở giúp cho nên báo để ông
biết.” Trúc nhân đó xin riêng (cho mình). Người đàn bà nói: ”Không thể không
đốt được. Như thế này, ngài có thể nhanh chóng trở về, tôi đi chậm lại, trong
ngày lửa sẽ cháy.” Trúc bèn về nhà, gấp rút chuyển tài sản ra ngoài, quả nhiên
trong ngày lửa cháy lớn.
Sau Từ Châu Mục Đào Khiêm mời (Trúc) làm Biệt Gía Tòng Sự. Khiêm
chết, Trúc theo di mệnh của Khiêm đến đón Tiên Chủ ở Tiểu Bái. Năm Kiến An thứ
nhất, Lữ Bố thừa lúc Tiên Chủ ra chống Viên Thuật, tập kích Hạ Bì, cướp cả vợ
con Tiên Chủ. Tiên Chủ chuyển quân về đóng ở Hải Tây thuộc Quảng Lăng. Ở đó
Trúc dâng em gái cho Tiên Chủ thu làm vợ, (ngoài ra còn) nô tỳ gia khách hai
nghìn người, (lại đem) vàng bạc tiền của ra giúp việc chi dùng trong quân. Giữa
lúc khốn khổ thiếu thốn, (Tiên Chủ) nhờ vào đó lại chấn hưng (được sự nghiệp).
Sau Tào Công dâng biểu (tiến cử) Trúc nhận chức Doanh Quận Thái Thú.
Tào Công tập tái công biểu chép: Quận Thái Sơn phạm vi rộng lớn xa
xôi, dân phần lớn khinh mạn hung hãn, hiện tại nên quyền biến, có thể tách năm
huyện tạo thành Doanh Quận, lại kén chọn tuyển lựa người thanh liêm làm Thái
Thú. Thiên Tướng quân Mi Trúc hành vi cao khiết, trung liệt khẳng khái, văn võ
rỡ ràng hiển hách, xin lấy Trúc làm Doanh Quận Thái Thú, chiêu dụ vỗ về dân
tình quan lại.
Em Trúc là Phương, làm Bành Thành tướng, cùng bỏ quan, theo Tiên
Chủ đi khắp nơi. Tiên Chủ sắp tới Kinh Châu, sai Trúc đưa tin tức qua lại với
Lưu Biểu, lấy Trúc làm Tả Tướng quân Tòng Sự Trung Lang(4). Ích Châu được bình
định, bái (Trúc) làm An Hán Tướng quân(5), ngôi thứ ở trên Quân Sư Tướng quân.
Trúc là người ung dung thành khẩn thanh cao, song không có sở trường của kẻ phụ
tá rường cột. Vì thế (Tiên Chủ) lấy lễ thượng khách mà khoản đãi, chưa từng
giao cho quyền bính, nhưng ban thưởng ân sủng thì không ai bì kịp.
Phương làm Thái Thú Nam Quận, cộng sự với Quan Vũ, nhưng ngầm có
hai lòng, làm phản nghêng đón Tôn Quyền. Do đó Vũ thất bại nghiêng ngả. Trúc tự
trói xin chịu tội. Tiên Chủ truyền dạy an ủi rằng anh em không phải chịu tội
lẫn cho nhau, vẫn trọng đãi như lúc ban đầu. Trúc uất giận hổ thẹn sinh bệnh,
hơn một năm sau thì chết. Con (Trúc) là Uy, quan tới Hổ Bôn Trung Lang tướng.
Con Uy là Chiếu làm Hổ Kỵ Giám. Từ Trúc tới Uy đều giỏi nghề cung ngựa, quen
bắn tên dong xe.
TÔN CÀN TRUYỆN
Tôn Càn tự Công Hữu, người Bắc Hải. Tiên Chủ nhận chức (Mục) ở Từ
Châu, lấy (Càn) làm Tòng Sự, Trịnh Huyền truyện nói: Huyền tiến cử Càn với
châu. Càn được lệnh mời là do Huyền đề xuất.
Sau (Càn) tuỳ tùng (Tiên Chủ) đi khắp nơi. Tiên Chủ bỏ Tào Công,
sai Càn chủ động liên kết với Viên Thiệu. Khi sắp đến Kinh Châu, Càn lại theo
Mi Trúc cùng đi sứ (đến chỗ) Lưu Biểu. Mỗi lần (đi ngoại giao) đều hoàn thành
nhiệm vụ. Sau Lưu Biểu cùng Viên Thượng(6) trao đổi thư từ, đàm luận chuyện anh
em (Thượng) tranh chấp với nhau có viết: ”Thường cùng Lưu Tả tướng quân(7), Tôn
Công Hựu nhắc đến việc này, lần nào cũng đau đớn tận tâm can, rất lấy làm buồn
thương.” Như vậy (Càn) rất được xem trọng. Tiên Chủ bình định Ích Châu, thăng
(Càn) từ Tòng Sự Trung Lang lên làm Bỉnh Trung tướng quân(8), cùng Giản Ung
được hậu đãi gần bằng Mi Trúc. Chẳng được bao lâu thì mất.
TẦN MẬT TRUYỆN
Tần Mật tự Tử Sắc, người Miên Trúc quận Quảng Hán. Từ nhỏ đã có tài
học, châu quận cho lệnh đòi thường cáo bệnh không tới. Dâng thư cho châu Mục
Lưu Biểu, tiến cử nho sĩ Nhậm Định Tổ(9) rằng: ”Xưa Bách Lý(10), Kiển Thúc(11)
lấy kinh nghiệm tuổi già mà hoạch định sách lược. Cam La(12), Tử Kỳ(13) là tiểu
đồng chưa đội mũ mà lập được công lao, cho nên Thư tán tụng người cao tuổi mà
Dịch khen ngợi Nhan Uyên(14). Cố nhiên đã rõ rằng chọn lựa kẻ sĩ năng lực là
cần nhất, không phân già trẻ mới sáng suốt vậy. Từ đó đến nay, việc xem xét đề
cử trong nước đại khái coi trong anh tài mà bỏ xót người cao tuổi, nhiều cách
bình luận không giống nhau, phản bác và đồng tình mỗi bên một nửa. Âý là thuận
theo hình thế tốt lành an ổn, không phải sự vụ cấp bách của thời loạn thế. Kẻ
muốn cứu giúp nguy nan vỗ an loạn lạc, (tự) sửa mình mà định (lòng) người, có
lẽ là bậc siêu quần trác việt, với đương thời đoạn tuyệt mọi thú vui, làm lân
bang chấn động kinh hãi, bốn phương hoảng sợ rung động, trên thuận thiên ý,
dưới hợp lòng người. Trời người cùng yên ổn, chẳng hổ thẹn trong lòng, dù gặp
loạn lạc hiểm nguy, há có điều gì lo sợ! Xưa Sở Diệp Công(15) thích rồng, rồng
thần giáng hạ. Cái yêu thích chưa chính đính còn thấu đến trời, huống chi lòng
thành thật? Nay ẩn sĩ Nhậm An giữ đạo nhân nghĩa, nổi danh khắp bốn phương,
theo đúng như lệnh xem xét tuyển chọn thì một châu được vui lòng. Xưa Thang đề
cử Y Doãn (16) không phải là người nào xa xôi cả, Hà Vũ(17) tiến cử Nhị
Cung(18) danh tự sóng đôi trên tre lụa. Cố tham cái tài giỏi của đám tầm thường
mà lơ là với chỗ chót vót cao vạn nhận, thích trang điểm bề ngoài mà quên sự an
vui của thiên hạ (là) cách xa lòng chân thành cẩn thận từ cổ vậy.
Đục đá tìm ngọc, mổ trai lấy châu là Tuỳ hay Hoà(19) đã rõ rành như
ban ngày vậy, há còn hồ nghi gì nữa! Lòng thành nghĩ rằng giữa trưa thì không
cần cầm đuốc, mặt trời đã thừa chiếu sáng rồi. Nho nhỏ một chút ý riêng ngu dại
mê mải tỏ bày để (ngài) hiểu rõ.”
Ích Bộ kỳ cựu truyện chép(20): An, người Quảng Hán, lúc nhỏ tham
gia mời đón Dương Hậu(21) nghiên cứu đến tận cùng các thư tịch, bản vẽ. Từng
đến chơi kinh đô(22) sau về nhà dạy học, nổi danh ngang với Đổng Phù(23) về
chuyện học hành. Quận vời làm Công Tào(24), châu mời làm Trị Trung Biệt Gía(25)
song không giữ chân được bao lâu. Được đề cử làm Hiếu Liêm, Mậu Tài; Thái Uý
lại vời làm Bác Sĩ(26) cho xe đến đón nhưng đều thác bệnh không ra. Châu Mục
Lưu Yên dâng biểu tiến cử An (là người) nghiền ngẫm lầu thông tiêu chuẩn đạo
lý, khí tiết nghiêm trang siêu việt, tài năng cao thâm khó dò, là báu vật của
quốc gia, nên dùng làm phụ tá rường cột để hoá giải tai hoạ phi thường, đáng
dùng lễ huyền huân mà đón rước. Nhưng đường lớn bị ngăn trở nên không có lệnh
tìm đòi. Thọ bảy mươi chín tuổi, mất vào năm Kiến An thứ bảy. Học trò mến mộ
kính ngưỡng, lập bia ghi nhớ. Sau Thừa tướng Lượng có hỏi Tần Mật về sở trường
của An, Mật đáp: ”Nhớ tài của người, quên lỗi của người.”
Thời Lưu Chương, người cùng quận với Mật là Vương Thường làm Trị
Trung Tòng Sự gửi thư cho Mật nói: ”Nghèo hèn khốn khổ thời nào cũng có thể
trọn đời. (Nhưng) Biện Hoà khoe ngọc là để chiếu sáng cho thiên hạ. Nên tới một
lần, cùng quan châu gặp gỡ.” Mật viết thư đáp rằng: ”Xưa Nghiêu ưu đãi Hứa Do,
không gì không phát dương, mà (Do) rửa cả hai tai. Sở mời Trang Chu, không gì
không rộng rãi, mà (Chu ) giữ sào chẳng tới.
Dịch ghi: ‘bền chắc biết bao, không gì thay đổi nổi’ nào ai có khoe gì? Vả
chăng quốc quân là người đức hạnh, con cháu đều là trợ thủ tài năng, không lấy
được chỗ (hay) đó để dựng lên kế sách Tiêu, Trương(27) của bây giờ thì còn tài
trí nào mà chưa đủ dùng. Kẻ hèn này được ở trên bờ ruông dơ lưng mà phơi nắng,
ngâm câu giỏ cơm bầu nước họ Nhan(28), ngân nga thú cửa cỏ lều tranh của Nguyên
Hiến(29), thường bay lượn nơi rừng chằm, cùng ủ ê, trầm mê kết bạn, nghe tiếng
huyền viên hú than van, coi tiếng hạc kêu trên chơi vơi. Lấy an phận làm vui,
lấy vô lo làm phúc, coi danh như hão huyền trống rỗng, giữ mình như con rùa
không thông tỏ sự đời chỉ mong hiểu lấy chính mình, coi bản thân là quý. Xa
cách là thứ khiến kẻ hèn này thoả chí đó, sao lại buồn rầu khốn khổ được!” Sau
Thường lập đền thờ Nghiêm Quân Bình(30), Lý Hoằng(31). Mật gửi thư rằng: ”Đau
ốm lại lui, vừa mới biết túc hạ lập đền
thờ cho Nghiêm, Lý có thể nói là kẻ siêng năng vậy. Xem xét văn chương của họ
Nghiêm đáng cho là đứng đầu trong thiên hạ. (Như) Do, Di(32) ẩn tránh sự vụ,
đinh ninh chốn núi cao, khiến người xưng tụng chẳng thở than. Còn như Lý Trọng
Nguyên không gặp lời lẽ đúng phép, tiếng tăm tốt đẹp ắt đắm chìm, e rằng cũng
không có vân vằn như hổ báo, có thể nói là người nương rồng dựa phượng vậy. Hay
như Dương Tử Vân(33) bền lòng biên soạn học thuật, có chỗ giúp ích cho đời, bùn
đất không vấy bẩn, trải qua tham cứu thánh sư, ngày nay trong cả nước (vẫn) đàm
luận ngâm vịnh lời lẽ (của ông) ấy. Vùng ta có những người này, đã đủ rạng rỡ
với bốn phương kỳ lạ là cháu con đời sau đối với họ lại không lập đền thờ. Thục
vốn không có sẵn học sĩ, Văn Ông(34) sai Tương Như(35) sang đông nhận Thất
kinh(36) về truyền lại cho quan lại và thứ dân, nhờ đó sự học ở Thục mới sánh
được với Tề, Lỗ. Vì vậy Địa Lý chí(37) chép: ‘Văn Ông đề ra giáo hoá, Tương Như
là bậc tôn sư’. Từ đời Hán, (Thục) có được kẻ sĩ trở nên hưng hưng vượng, học
trò của Trọng Thư(38) không thông suốt việc tế lễ phong thiện, Tương Như chế ra
lễ ấy. Người ta có thể định ra lễ nhạc qua đó thay đổi phong tục.
Không thứ gì hữu ích với sự ngăn nắp của thế gian hơn lễ! Bởi vậy
có được ràng buộc điều cung thuận cho vương thất là nhờ ở Khổng Tử hơn là
nghiệp bá của Tề Hoàn(39), nhờ ở cái hiền của Công Dương(40) hơn cái nhượng
củaThúc Thuật(41). Kẻ hèn này cũng thích giáo hóa của Trường Khanh, (thấy rằng)
nên lập đền thờ, mau ước định mà định liệu.”
Lúc trước Lý Quyền theo Mật khen ngợi Chiến Quốc sách(42). Mật nói:
”Chiến Quốc tung hoành thì có tác dụng gì?” Quyền nói: ”Trọng Ni, Nghiêm Bình
tụ tập các loại thư tịch, làm thành Kinh Xuân Thu, Sách Chỉ Quy. Biển vì hội tụ
các sông mà hoá ra vĩ đại, người quân tử vì kiến thức sâu rộng mà thành cao
cả.” Mật đáp rằng: ”Thư tịch không phải sử ký đời Chu ,
Trọng Ni không ngó đến; Đạo mà trái với lẽ hư vô của tự nhiên, Nghiêm Bình
chẳng xiển dương. Biển vì hưởng được sự ứ đọng mỗi năm một bát ngát xanh trong.
Bậc quân tử kiến thức quảng bác thì điều phi lễ không nhìn. Nay Chiến Quốc Sách
(chỉ có) phương kế phản phúc của Nghi, Tần(43) giết người để mình sống, bỏ
người để mình còn, đố kỵ tầm thường. Trước đây Khổng Tử phát giận lên soạn ra
Kinh Xuân Thu, quan trọng nhất là để giữ lẽ phải, lại soạn Hiếu Kinh, quảng bá
trình bày những việc làm đạo đức. Ngăn chăn dần dần, đề phòng sự việc (xấu)
phát sinh, dự đoán trước cách đè nén, nhờ đó các nghành họ cổ cắt đứt hoạ hoạn
ở lúc chưa thành hình, há không tin tưởng được chăng. Thành Thang là bậc thánh
minh, nhìn thấy con cá ngoài đồng hoang mà biết việc săn bắt có được mất. Định
Công là người hiền đức, thấy nữ nhạc mà quên công việc triều chính, Thần Tùng
Chi xét: Thư tịch chép truyện Lỗ Định công không có chỗ nào có thể gọi là hiền
đức. Mật nói (Định Công) hiền, (thần) sở học nông cạn chưa lấy làm thông suốt. hoặc
là (những chuyện) giống như vậy, nhờ đó có thể tuyên dương những điều tốt đẹp.
Đạo gia pháp(44) viết rằng: Không thấy sự ham muốn, khiến cho lòng không loạn!
Âý là cố lấy chính đính xét soi trời đất, lấy ngay thẳng làm rạng rỡ nhật
nguyệt. Thẳng như tên bắn mới là hành vi của người quân tử.
Khuôn mẫu ghi lại tai hoạ chủ yếu phát sinh từ lời lẽ vỏ ngoài, hà
huống cái quỷ quyệt ở bên trong của Chiến quốc sách vậy thay!”
Có người nghi hoặc bảo Mật rằng: ”Túc hạ muốn tự sánh mình với Sào,
Hứa, Tứ Hạo(45), vì cớ gì mà cứ phô bày văn chương ra đầu ngọn bút vậy?” Mật
đáp rằng: ”Kẻ hèn này văn chương không thể nói hết lời, lời không thể tỏ hết ý,
làm gì có văn chương mà phô bày! Xưa Khổng Tử ba lần yết kiến
Ai công, lời nói ghi thành bảy quyển, sự việc đại khái không ai có
thể cười cợt được, Sách Thất Lược của Lưu Hướng viết: Khổng Tử ba lần yết kiến
Ai công, ba lần làm lễ triều kiến, ghi lại trong bảy thiên sách ngày nay dựa
vào đó để cử hành các đại lễ quan trọng.
Thần Tùng Chi bàn: Trong các bộ Kinh có tám thiên sách chép việc
Khổng Tử ba lần lên triều, một thiên là mục lục, còn lại goi là bảy quyển.
Tiếp Dư(46) vừa đi vừa hát, bàn luận chuyện nhà mà làm sáng tỏ
chính sự; Ngư Phụ (47) tả làn sóng trong xanh mà soi rõ văn chương người hiền
đức. Hai người này cũng có mong cầu gì với thế thời đâu. Con hổ đẻ ra đã có vằn
lồ lộ. Con phượng sinh ra cũng có sẵn năm màu. (Con hổ) há lấy được năm màu
(của con phượng) mà che đậy được tai hoạ hay sao? Đó là thiên tính tự nhiên
thôi. Dấu ấn Lạc, Hà(48) nhờ văn mà hiện lên, Lục Kinh do văn mà phát xuất,
người quân tử bởi văn đức mà được ngợi khen, sao phải hao tổn (trí lực) mà chọn
lọc trang điểm! Kẻ hèn này vốn dốt nát nhưng cũng lấy làm xấu hổ với lầm lẫn
của Cách Tử Thành, có lẽ nào lại đi tôn sùng chính mình!”
Thần Tùng Chi bàn: Nay Luận Ngữ dựng lên truyện Cách Tử Thành(49)
nói: ”Quân tử bản tính mộc mạc sao phải lấy văn tự mà ràng buộc!” Bẻ cong lời
của Tử Cống(50) nên cho là lầm lẫn vậy.
Tiên Chủ an định Ích Châu, Quảng Hán Thái Thú Hạ Hầu Toản mời Mật
làm Sư Hữu Tế Tửu(51), đốc xuất Ngũ quan Duyện, gọi là Trọng Phụ. Mật cáo bệnh
năm ở công quán. Toản cùng Công Tào(52) Cổ Phác, Chủ Bộ(53) Vương Phổ (sai) nấu
nướng chuẩn bị đồ ăn, ở gần nơi Mật nằm mà bày tiệc đàm luận, Mật vẫn nằm như
cũ. Toản hỏi Phác rằng: ”Cho đến chuyện dưỡng sinh quý châu cũng đầy đủ, thật
lạ so với các châu khác, không rõ có nhân sĩ như các châu khác không?” Phác đáp
rằng: ”Từ trước thời Hán đến nay, nói về những người có tước vị hoặc giả (Ích
Châu) không được bằng các châu khác, còn nói về những người soạn văn viết sách
làm khuôn mẫu phép tắc cho đời thì (Ích Châu) không kém. Nghiêm Quân Bình xem
Hoàng, Lão soạn ra Chỉ Quy. Dương Hùng(54) xem Dịch soạn ra Thái Huyền, xem
Luận Ngữ sáng tác Pháp Ngôn. Tư Mã Tương Như vì Vũ Đế chế ra nghi thức Phong
Thiện. Đến bây giờ thiên hạ đều nghe danh vậy.” Toản nói: ”Trọng Phụ thì như
thế nào?” Mật lấy cái hốt đánh vào mặt nói: ”Mong Minh Phủ chớ lấy chữ Trọng
Phụ ra mà giả trá với lão nhà quê tầm thường này. Xin Minh Phủ để lão dân trình
bày sử sách căn bản. Thục có núi Vấn Phụ, sông từ lòng núi chảy ra, là chỗ hưng
thịnh nghiệp đế vương, nơi thần linh dựng phúc lành, cho nên có thể tưới tắm
vạn dặm ruộng đồng.
Hà Đồ quát địa tượng chép: Mân Sơn nằm ở phía đông (đất Thục), là
nơi đế vương hưng vượng, thần linh tạo phúc, trên có giếng trời.
Tả Tư Thục Đô Phú(55) chép: Phía xa là núi thần Mẫn Sơn, trên có
giếng trời là nơi linh khí đất trời xoay chuyển tụ hội, phúc lớn thần minh dấy
mãi lên.
Hoài, Tể Tứ Độc(56), đứng đầu các sông. Đó là một vậy. Núm đá nơi
vua Vũ sinh ra nay là quận Vấn Sơn, Đế vương thế kỷ chép: Cổn thu thị nữ ở đất
Hữu Sằn tên là Chí, khen rằng biết sửa lỗi mình. Đi lên núi, thấy sao Mão rơi,
cảm tưởng như đang trong mộng, lại nuốt thần châu, đoán răng hoài bão trong
lòng sẽ đổ nát thất bại nhưng sinh ra Vũ ở núm đá.
Tiếu Chu Thục bản kỷ chép: Vũ người huyện Quang Nhu quận Vấn Sơn,
sinh ra ở núm đá, đất ấy người đời sau moi móc thành ra bằng phẳng, Thế Đế Kỷ
viết như vậy.
Đời Nghiêu xưa gặp cơn hồng thuỷ, Cổn không thể lo liệu trị lý
được, Vũ bèn khơi sông tháo nước dẫn đổ về đông ra tận biển khơi, vì dân mà trừ
hại, đối với đời sống của bách tính đến nay không có ai công đức lớn hơn được.
Đó là hai vậy. Thượng Đế sắp đặt khuôn phép đàn hặc trị tội, khuôn phép đàn hặc
trị tội ấy là địa phận Ích Châu. Tam Hoàng(57) nhân lúc ngẫu nhiên cưỡi xe ra
khỏi cốc khẩu, (cốc khẩu ấy) nay là Tà Cốc.
Thục Ký chép: Tam Hoàng nhân lúc ngẫu nhiên cưỡi xe ra khỏi cốc
khẩu, chưa rõ vì đâu Mật lại biết đó là Tà Cốc.
Như vậy há phải châu tầm thường này là nơi bờ ruộng. Minh phủ lấy ý
cao nhã thử luận xem có theo kịp với các châu khác chăng?” Khi ấy Toản ngần ngừ
chẳng biết đáp lại thế nào.
Ích Châu lấy Mật làm Tòng Sự Tế Tửu. Tiên Chủ vừa xưng tôn hiệu lại
sang đông đánh Ngô, Mật trình bày rằng thiên thời không có lợi, bị buộc tội
giam vào ngục tối sau được khoan hồng thả ra. Năm Kiến Hưng thứ hai, Thừa tướng
Lượng nhận chức Ích Châu Mục, chọn đón Mật làm Biệt Gía, lại bái (Mật) làm
Trường Thuỷ Hiệu Uý. Ngô Sai Trương Ôn sang Sứ thăm hỏi, (lúc Ôn về) trăm quan
cùng đến tiễn chân, mọi người đều đã đến cả mà Mật vẫn chưa lại, Lượng lệnh cho
người đi thúc giục. Ôn nói: ”Người ấy là ai vậy?” Lượng nói: ”Là Học sĩ đất Ích
Châu.” Đến khi (Mật) tới, Ôn hỏi rằng: ”Ngài có học chăng?” Mật nói: ” Đồng tử
cao năm xích còn có học huống chi tiểu nhân!” Ôn lại hỏi rằng: ”Trời có đầu không?”
Mật nói: ”Có chứ.” Ôn hỏi: ”Ở phương nào?” Mật nói: ”Ở phương tây. (Kinh) Thi
nói: ‘Lại nghoảng về tây’. Từ đó suy ra,
đầu ở phương tây.” Ôn nói: ”Trời có tai không?” Mật đáp: ”Trởitên cao mà nghe
được dưới thấp. (Kinh) Thi nói: ‘Hạc kêu ở chín tầng cao, tiếng thấu đến trời.’
Nếu không có tai, sao lại nghe được?” Ôn nói: ”Trời có chân chăng?” Mật nói:
”Có. (Kinh) Thi nói: ‘Trời bước khó khăn, giống như trẻ thơ.’ Nếu không có chân
sao lại bước được?” Ôn hỏi: ”Trời có họ không?” Mật đáp: ”Có.” Ôn hỏi: ”Họ gì?”
Mật đáp: ”Họ Lưu.” Ôn hỏi: ”Sao biết thế?” Mật đáp: ”Thiên tử họ Lưu cho nên
biết vậy.”
Ôn nói:” Mặt trời xuất hiện ở phương đông đúng chăng?” Mật đáp:
”Tuy xuất hiện ở phương đông mà ẩn náu ở phương tây.” (Mật)trả lời câu hỏi như
tiếng vọng, theo thanh âm mà phát xuất, vì vậy Ôn rất kính phục. Lý luận văn
chương của Mật đại loại đều như vậy. (Mật) được thăng làm Đại Tư Nông(58), năm
(Kiến Hưng) thứ tư chết. Khi trước Mật xem sách Đế Hệ thấy chép Ngũ Đế(59)đều
là người cùng một tộc, Mật phân tích vốn dĩ chẳng phải là như vậy. Lại giải
thích chuyện Hoàng Đế, bá vương nuôi rồng rất rành rẽ mạch lạc. Tiêu Duẫn
Nam(60) lúc nhỏ mấy lần đến bái phỏng hỏi
han, (muốn) ghi chép lại lời (Mật) bàn về Kinh Xuân Thu nhưng không được
đồng ý, văn chương (của Mật) phần lớn vì thế mà không biên chép lại.
Bình rằng: Hứa Tĩnh vốn có tiếng tốt, đã vì trung hậu mà được tán
dương, lại bởi chuyện người mà bị nghi ngờ. Tưởng Tế coi như ”đại giác lang
miếu khí”
Vạn Cơ Luận luận Hứa Tử Tương(61) viết: Hưa Văn Hưu đại giác lang
miếu khí mà Tử Tương chê bai. Nếu quả thật không biết tôn trọng như vậy thì
thật là không sáng suốt. (Tĩnh) là người chân thành tốt bụng biết việc, đại để
là lương thiện.
Mi Trúc, Tôn Càn, Giản Ung, Y Tịch đều chứa chất phong độ ung dung,
thấy được lễ nghĩa trên đời. Tần Mật lúc đầu ưa chuộng lẽ cao quý tránh đời mà
không phải thật thà như kẻ ngu hèn, sau cách đối đáp đặc biệt còn để lại, văn
chương hào tráng mỹ lệ, có thể gọi là bậc tài danh một thời vậy.
HỨA TĨNH TRUYỆN
Hứa Tĩnh tự Văn Hưu, người Bình Dư quận Nhữ Nam , từ nhỏ đã cùng nổi danh với
người em họ tên là Thiệu. Cả hai đều được khen ngợi ở chỗ có tài luận cái hay
dở của người nhưng tình riêng chăng hoà thuận được với nhau. Thiệu làm Công Tào
ở quận, ruồng rẫy bài xích Tĩnh không kể đến tuổi tác thứ tự. Tĩnh phải làm
nghề chăn ngựa(62) nuôi thân. Đến khi Lưu Dực ở Dĩnh Xuyên làm Thái Thú Nhữ Nam
mới cử Tĩnh làm Kế Lại(63), xét cho làm Hiếu Liêm, rồi được bổ nhiệm làm Thượng
Thư Lang lo đề bạt tuyển chọn.
Linh Đế băng, Đổng Trách nắm chính sự, lấy Chu Bí ở Hán Dương làm
Lại Bộ Thượng Thư, cùng với Tĩnh trù hoạch lựa chọn đường tiến thoái cho
kẻ sĩ trong thiên hạ, gạt bỏ những kẻ
xấu xa gian ác, vinh danh đề bạt ẩn sĩ hiền năng. Tiến cử bọn Tuân Sảng, Hàn
Dung, Trần Kỷ ở Dĩnh Xuyên dùng và các chức Công, Khanh, Quận Thú. Lại bái
Thượng Thư Hàn Phức làm Ký Châu Mục, bái Thị Trung Lưu Đại làm Duyện Châu Thứ
Sử, bái Trương Tư ở Dĩnh Xuyên làm Nam Dương Thái Thú, bái Khổng Trụ ở Trần Lưu
làm Dự Châu Thứ Sử, bái Trương Mạc ở Đông Quận làm Trần Lưu Thái Thú. Đến
lúcđổi Tĩnh làm Ba Quận Thái Thú, Tĩnh không theo nên sung vào chức Ngự Sử
Trung Thừa(64). Bọn Phức đến nhiệm sở, mỗi người đều cất quân đánh về Kinh Đô
muốn tiêu diệt Trác. Trác giận, bảo Bí rằng: ”Các vị nói nay là lúc đề bạt
tuyển dụng kẻ sĩ tài ba. Trác nay nghe theo lời các vị, chẳng muốn làm trái
lòng người trong thiên hạ. Nhưng những người các vị dùng, ngay trong ngày nhậm
chức đã quay lại định giết ta. Trác này há có thể dùng những kẻ phụ mình sao!”
Quát đuổi Bí ra chém ở bên ngoài. Anh họ Tĩnh là Trần Tương Sướng lại hợp mưu
với (Khổng) Trụ. Tĩnh sợ bị giết, bèn bỏ chạy đến chỗ Trụ.
Thục Ký chép: Ngày sau Tĩnh tự thổ lộ rằng: ”Giặc cướp xin tha
mạng, tình cũng có chỗ bất nhẫn. Làm quan giữ chức tước để rước tai hoạ, dẫu
chết cũng không nên nghĩa. Trộm nghĩ đến cổ nhân dùng lẽ thường để gánh vác
nguy nan cho nên mới quyền biến mà cứu lấy đạo.”
Trụ chết, (Tĩnh) nương tựa vào Dương Châu Thứ Sử Trần Y. (Sau khi)
Y chết, Ngô Quận Đô Uý là Hứa Cống, Cối Kê Thái Thú là Vương Lãng đều vốn là
bạn cũ của Tĩnh nên Tĩnh đên chỗ họ giữ thân. Tĩnh lại thu nhận cứu giúp họ
hàng làng xóm, gánh vác việc an ủi cấp dưỡng, tỏ ra là người nhân hậu.
Tôn Sách vượt sông đông tiến, mọi người đều chạy xuống Giao Châu
tránh nạn. Tĩnh tự ngồi giữ ở bến sông, trước tiên nâng đỡ những người nương
tựa cùng theo, thân sơ hết thảy lên đã lên đường rồi mới đi. Đương thời ai
trông thấy cũng thở than khen ngợi. Khi đến Giao Chỉ, Giao Chỉ Thái Thú Sĩ
Nhiếp đối đãi càng thêm nồng hậu kính trọng. Viên Huy người nước Trần (lúc ấy)
gửi thân ở Giao Châu, gửi thư cho Thượng Thư Lệnh Tuân Úc rằng: ”Hứa Văn Hưu là
kẻ sĩ tài năng kỳ vĩ, mưu kế thao lược đủ để trù liệu sự nghiệp. Từ khi trôi
dạt lưu lạc đến nay thường kết giao với nhân sĩ các nơi, mỗi khi có hoạn nạn
nguy cấp thường trước lo cho người saumới nghĩ đến thân, cùng trăm họ trong
ngoài chung chịu đói rét. Phép tắc (của Tĩnh) lúc nào cũng giống nhau, là nhân
hậu khoan dung thành khẩn thương xót, tất cả công việc đều đạt hiệu quả rõ
ràng, không thể kể lại chi tiết riêng một hai chuyện được.” Trương Tường người
Cự LộcVạn Cơ Luận chép: Tường tự Nguyên Phượng.nhận lệnh vua đi sứ Giao Châu,
nhân đó chiêu mộ Tĩnh, muốn cũng Tĩnh thê thốt hẹn ước nhưng Tĩnh khước từ
không đồng ý. Tĩnh lại viết thư gửi Tào Công rằng:
” Ngày nay đường lối binh nhung đắc thế, hoạ hại nguy nan vì vậy
nảy ra, (tôi đây) yếu hèn khiếp nhược mà trộm sống, tự ẩn tránh nơi đất man
mọi, thoáng chốc đã được mười năm, bỏ lễ tiết để tránh tai hoạ. Xưa ở Cối Kê,
được thư gửi tới, lời lẽ ý tứ khẩn khoản gần gụi, hẹn cũ nào có dám quên. Ngặt
nỗi Viên Thuật trái lệnh làm hại thân thuộc, khích động nghịch tặc, làm đường
lối bốn phương đều bị ngăn trở. Vì vậy dù tấc lòng treo lơ lửng ở cảnh tượng
nơi miền bắc, muốn lên đường mà chẳng có cơ duyên. Quan Chánh Lễ vừa đi, binh của
Thuật đã đến. Côi Kê nguy ngâp ngả nghiêng, Cảnh Hưng mất nơi nương tựa, tam
giang ngũ hồ(65) đều là đất địch. Ở vào cảnh gian nan khốn quẫn không có cách
gì biện bác cho được, liền cùng Viên Bá, Đặng Tử Hiếu các người bơi ra ngoài
bể, đi xuống phía nam đến tận Giao Châu. Vượt qua các nước Đông Âu, Mân, Việt,
trải đến vạn dăm đường, không còn nhìn thấy đất Trung Quốc, trôi dạt giữa sóng
gió, lương thảo cạn kiệt, chịu đói nhiều phen, chết mất quá nửa. Đến khi qua
được Nam Hải, gặp gỡ được người có đức hiếu thảo lĩnh chức quận thú ở đó, mới
biết túc hạ nổi lòng trung nghĩa, sắp đặt chỉnh đốn binh nhung, đi sang phía
tây tiếp đón thánh giá, kiểm soát Trung Nhạc(66). Nhận được tin ấy mới ngừng
thăm hỏi, nửa buồn nửa vui, liền cùng Viên Bái và Từ Nguyên Hiền lại khẩn cấp
sửa soạn hành trang, định đi lên phía bắc trở lại Kinh Châu. Đúng lúc ấy, dân
Di Việt ở các huyện thuộc Thương Ngô cùng nhau nổi dậy, châu sở nguy ngân
nghiêng ngả, đường xá ngăn cách đứt đoạn, Nguyên Hiền bị hại, người già kẻ yếu
đều chết. Tĩnh tìm dọc theo bờ bãi bên sông đến hơn năm nghìn dặm, lại thêm mắc
bệnh nặng, cả bá mẫu(67) cũng qua đời. Lúc gặp lại được những người cùng đi thì
vợ con đột nhiên đã bị chiếm mất. Lại cố nâng đỡ săn sóc lẫn nhau, tiến đến trị
sở quận ấy. Tính ra những người bị quân binh giết hại cùng mắc bệnh mà chết
mười phần chỉ còn lại một hai. Sinh ra làm người trong thời gian khổ thật cay
đắng khôn cùng, há có thể kể hết cho được.
Thần Tùng Chi từng nghe Khổng Tử nói: ”Hiền nhân tránh đời, thứ
nhân chạy loạn”. Cái quan trọng là tri thức nhận ra điều an việc nguy, trốn
lánh thì đạt được điều gì. Hứa Tĩnh làm khách trọ ở Cối Kê, là nhân sĩ giữa dân
gian. Tôn Sách dù đến, với Tĩnhnào có chuyện gì? Mà bèn trôi nổi vạn dặm xa
ngoài biển, đi tới xứ sở của bệnh tật, đến nỗi khiến cho bậc tôn trưởng, người
yếu đuối lâm cảnh lầm than, chịu đựng trăm điều sầu khổ, có thể nói tự mình gây
nên vậy. Mưu thần mà như thế ấy khó gọi là tài trí. Nếu như suy nghĩ kỹ càng,
lo liệu thuận theo thời thế yên ổn, ngay ngắn thôi thúc Ngô Việt, cùngTrương
Chiêu Trương Hoành kết bạn, bảo hộ trăm họ thì có tốt hơn không?
Sợ rằng cuối cùng điên đảo ngả nghiêng, vĩnh viễn thành kẻ nô lệ,
mệt mỏi âu sầu bị thương u ám quên cả ăn ngủ. Mong nương tựa vào sứ đoàn dâng
cống về triều, tự trù hoạch đường lối đi về, dẫu chết cũng quay lại nơi cung
khuyết. Nhưng đi sang Kinh Châu thuỷ bnộ đều không có lói, giao thông bằng dịch
trạm của sứ đoànbị ngăn chặn. Muốn đi lên Ích Châu lại mắc tuần phòng nghiêm
nhặt. Quan chức cũ, nha lại xưa, một người cũng không qua được. Trước đã có
mệnh lệnh của Giao Chỉ Thái Thú Sĩ Uy Ngạn hết lòng gửi gắm phân tách với anh
em ở Ích Châu. Tĩnh lại cũng tự gửi thư cực nhọc van cầu. Song hồi đáp chỉ là
im lặng, chưa thấy kết quả. (Vì thế) dù ngưỡng vọng quang cảnh tốt lành mà đành
kiễng chân nghển cổ chứ không phải vì giả dối mà cố che đậy đến cùng đâu?
Biết rằng Thánh Chúa anh minh, giao cho túc hạ trách nhiệm vẻ vang
toàn quyền đi đánh dẹp. Pham những kẻ làm trái tiết nghĩa phần lớn đã bị thảo
phạt tru diệt. Ước gì được một lòng hết sức tranh đua, cùng quay về làm kẻ
thuận tòng. Lại có Trương Tử Vân xưa ở kinh sư, có chí khuông phò vương thất,
nay dù ở chốn xa xôi, không được tham dự vào công việc triều ta nhưng cũng là
căn bản của quốc gia, ngoại viện của túc hạ đó.
Tử Vân tên là Tân, người Nam Dương, làm Giao Châu Thứ Sử, được nhắc
đến ở Ngô Chí(68)
Hán Thư Hoắc Quang truyện chép: ”Quang rời kinh sư học theo các
quan Vũ Lâm, lúc lên đường xướng to Cảnh Tất.” Còn chữ Hổ Bôn chưa rõ từ đâu
xuất hiện.
Gỉa sử Kinh Sở yên ổn êm đềm, hoàng ân thâu đến phương nam, túc hạ
bỗng có tin tức mạng lệnh hướng đến Tử Vân, ân cần tỏ lộ thái độ phó thác bảo
hộ thì người được lệnh nên theo đường Kinh Châu xuất phát. Bằng không lại phải
chịu qua lại giới thiệu với anh em ở Ích Châu, thu nhận sứ giả lẫn của nhau.
Nếu như trời đợi cho một vài năm, người hoãn được hạn kỳ gây hoạ, (để tôi) được
về chết ở quê nhà, xoá đi cái lỗi lầm chốn chạy thì dẫu phải nát thân chôn cửu
tuyền cũng chẳng có gì ân hận nữa! Còn như thời thế đổi thay trắc chở, sự việc
có chỗ nhanh chậm khác nhau, số mạng con người khó đoán trước, chết đi vẫn chưa
hoàn thành tâm nguyện thì đành ôm mối nợ lỗi lầm chôn theo xuống đất biên thuỳ
vậy.
Xưa Doanh Khâu(69) giúp rập nhà Chu ,
cầm phủ việt nắm đại quân, rộng đường phù trợ giống Hán, hùng dũng mạnh mẽ
phòng bị lối đường. Ngày nay túc hạ cứu nguy đỡ nghiêng, là cột đá của nước
nhà, đã giữ trách nhiệm của Sư Vọng(70) lại nắm quyền thế của Hoắc Quang(71).
Ngũ hầu cửu bá(72) túc hạ đều cai quản trong tay. Từ cổ đến nay, kẻ thần tử địa
vị chí cao chỉ có túc hạ. Người tước vị cao thì lo lắng nhiều, bổng lộc lắm thì
trách nhiệm nặng. Túc hạ chiếm chức vị có ngôi thứ cao, giữ địa vị gánh trách
nhiệm có trách nhiệm lớn, mỗi lời nói ra lập tức thành lẽ thưởng phạt, mỗi ý
niệm trong lòng lập tức thành chuyện hoạ phúc. Làm việc đúng đường thì xã tắc
yên ổn. Làm việc sai trái thì bốn phương tan tác. An nguy quốc gia đặt hết trên
người túc hạ; Sinh mạng của bách tính treo ở người chấp chính. Từ Hoa tới Di,
ai cũng chăm chăm ngưỡng vọng. Túc hạ nhận công việc ấy, há có thể không xem kỹ
trong thư tịch, hiểu rõ duyên do của hưng phế, then chốt của vinh nhục, bài trừ
xoá bỏ lầm lỗi cũ, khoan dung hoà hợp với bá quan, thẩm định ngũ tài (73), vì
công việc lựa tĩnh cách? Ví thử được người trúng cách, dẫu là kẻ thù cũng đề
cử; Ví thử được người không hợp, dù thân cũng không trao chức. Vì an ninh xã
tắc, vì cứu vớt lê dân, lập công tạo nghiệp, nối tiếp tiếng đàn điệy sáo, ghi
tạc huân lao vào vàng đá, mong ngài gắng sức thêm! Vì quốc gia tự bảo trọng. Vì
lê dân tự thương thân.”
Tường hận Tĩnh không chấp thuận, lục tìm trước tác thư từ Tĩnh gửi
khi trước vứt tất cả xuống nước.
Sau Lưu Chương sai sứ đón rước Tĩnh, Tĩnh bèn vào Thục. Chương dùng
Tĩnh làm Ba Quận, rồi Quảng Hán Thái Thú. Tống Trọng Tử người Nam Dương đang ở
Kinh Châu gửi thư cho Thái Thú Thục Quận là Cương Thương rằng: ”Văn Hưu ài giỏi
lạ lùng, có bản lĩnh gánh vác thời thế, túc hạ nên dùng làm người hướng dẫn.”
Ích Châu Kỳ Cựu Truyện chép: Thương tự Văn Biểu, người Quảng Hán,
nổi danh học thức tài ba, tiếng tăm rực rỡ trong châu, được Lưu Chương mời làm
Trị Trung Tòng Sự. Lúc bấy giờ đường lớn bị ngăn cách đứt đoạn, những người giữ
chức Mục làm bá ở các châu cũng giống như chư hầu thời Thất Quốc(74). Riêng
Chương yếu hèn lười biếng lại đa nghi không dùng được đại thầnngay thẳng trung
thực. Thương dâng lời can Chương. Chương có phần động lòng hiểu ra. Tước, Hàn
Toại và Mã Đằng khởi loạn ở Quan Trung mấy lần cùng cha Chương là Yên trao đổi
tin tức qua lại. Đến con Đằng là Siêu lại cùng Chương gửi thư cho nhau, có ý
muốn liên hợp với Thục. Thương bảo Chương rằng: ”Siêu dũng mãnh mà bất nhân,
thấy lợi không kể đến tình nghĩa, không thể kết làm môi răng được. Lão Tử nói:
‘Thế mạnh của quốc gia, không thể đem cho người.’ Nay Ích Châu này, dân nhiều
tướng giỏi, sản vật đầy đủ, lại xa cách những kẻ hiểm ác có lòng khuynh đảo
phản phúc. Bọn Siêu vì thế mà nhòm ngó phía tây. Gỉa sử lôi kéo thân gần bọn
chúng, thì cũng như nuôi hổ, chẳng khác nào tự gieo mầm hoạ.” Chương theo lời
Thương, cự tuyệt Siêu. Kinh Châu Mục Lưu Biểu và danh nho Tống Trung thảy đều
nghe danh Thương, gửi thư bày tỏ tình cảm ân cần. Hứa Tĩnh được xựng tụng giỏi
xem người, đến Thục, gặp Thương mà còn khen rằng:
”Gỉa sử Thương sinh ở Hoa Hạ thì dù Vương Cảnh Hưng(75) cũng
không hơn được.” Chương dùng Thương làm
Thái Thú Thục Quận. Ở Thành Đô có Cầm Kiên làm việc chí hiếu, Thương đến dựng
bia trên mộ lại truy tặng chức Hiếu Liêm. Lại cùng Nghiêm Quân Bình, Lý Hoằng
dựng đền lập minh(76) tuyên dương các bậc tiên hiền. Ngoài ra tu sữa việc học,
khuyến khích nghề nông, làm lợi cho bách tính. Gĩư chức mười năm, chết ở công
môn. Hứa Tĩnh kế nhiệm.
Năm Kiến An thứ mười sáu, Tĩnh được chuyển làm Thái Thú Thục Quận.
Sơn Dương Công Tái Ký chép: Năm Kiến An thứ mười bảy, Hán lập Hoàng Tử Hi làm
Tể Âm Vương, Ý làm Sơn Dương Vương, Đôn làm Đông Hải Vương. Tĩnh nghe tin nói:
” Sắp muốn thu lại tất cố thả ra, sắp muốn lấy về tất cố trao cho. Âý là Mạnh
Đức vậy!”
Năm Kiến An thứ mười bảy, Tiên Chủ thu được đất Thục, dùng Tĩnh
lamg Tả Tướng Quân Trưởng sử. Lúc Tiên Chủ làm Hán Trung Vương, lấy Tĩnh làm
Thái Phó. Đến khi xưng tôn hiệu, phong Tĩnh rằng: ”Trâm được suy tôn kế thừa
nghiệp lớn, cai trị vạn quốc, sớm tối bàng hoàng, sợ chẳng thể yên, chưa gần
gụi với trăm họ, chưa khiêm nhượng với quần thần. Lập ngươi làm Tư Đồ, kính bày
ra Ngũ Giáo(77), xem xét việc khoan thứ, vì vua mà gắng sức. Ngươi giữ đức chớ
lười biếng, cho xứng với ý của trẫm.”
Tĩnh dù tuổi đã quá bảy mươi vẫn yêu quý các nhân sĩ, thường
khuyên bảo thu nhân hậu tiến, cùng nhau
đàm luận không biết mệt. Thừa Tướng Lượng đều bái phục. Năm Chương Vũ thứ hai
Tĩnh chết. Con là Khâm, chết trước Tĩnh. Con Khâm là Du, trong những năm Cảnh
Diệu làm Thượng Thư. Trước kia anh Tĩnh phụng sự cho Trần Kỷ ở Dĩnh Xuyên, cùng
với bọn Viên Hoán ở Trần Quận, Hoa Hâm ở Bình Nguyên, Vương Lãng ở Đông Hải rất
thân thiết. Hâm, Lang và con của Kỷ là Quân vào thời Nguỵ sơ đều làm phụ chính
đại thần, thảy đều gửi thư cho Tĩnh, tỏ bày tình cũ, ân nghĩa thành khẩn, văn
thư đa phần không được ghi chép lại.
Nguỵ Lược chép: Vương Lãng viết thư cho Văn Hưu rằng: ”Văn Hưu túc
hạ. Nghe tin vẫn được bình an. Thật mừng thật mừng. Có nhớ chăng thấm thoát
chia tay đã hơn ba mươi năm chưa có duyên gặp gỡ! Thi nhân so một ngày xa cách
với năm với tháng, huỗng chi dằng dặc trải qua đã bao năm. Từ khi cùng anh ly
biệt, tính chi xiết những chìm rồi lại nổi, tính chi xiết nỗi dứt rồi lại nối.
Nhưng nay đến sau cùng sống ở Thăng Bình trong Kinh Đô(78) nương tựa dưới cánh
rồng bay Thánh Chúa. Bạn hữu cùng bối phận dần
vắng bóng, may còn được lên lão cùng anh liệt vào hàng tuổi cao còn
sót lại, chỉ ngặt nỗi phải chịu cách xa nhau tính đến hàng nghìn dặm lại thêm
khác biệt khó đổi thay. Gìơ nghe thấy tin tức âm hao, tình hoài niệm gửi gắm
vào nhung nhớ, chăm chăm gửi đến chốn xa xăm, thật với thời thế lạ kỳ này cũng không phải chuyện gì kỳ lạ lắm. Trước
đây theo quân tới Kinh Châu, gặp Đặng Tử Hiếu và Hoàn Nguyên Tương bước đầu
nghe thấu tình hình túc hạ. Biết rằng Túc Hạ hiện đã giữ chức đứng đầu một quận
ở Ích Châu, khuôn phép đức độ vốn có tuy tuổi đã cao mà không hề rơi rụng. Thời
ấy, phụng sự Vũ Hoàng Đế(79)với Giang Lăng Lưu Cảnh Thăng trên sảnh đường bàn
đại sự, cùng túc hạ đàm luận thâu đêm, thiết tha thành khẩn, thật chẳng nỡ rời.
Từ khi Thái Tử còn ỏ Đông Cung cho đến sau khi tức vị, mỗi lúc cùng các bậc
hiền tài thảo luận về những người tài tuấn còn tại thế, đâu phải người người ai
cũng dễ dàng thành kẻ anh tài mà giới sĩ phu lại khó lòng chọn được tay tuấn
kiệt, do đó lo ngại không muốn lấy chất hủ bại của Nguyên Nhưỡng mà cảm động
đến sự quan tâm của Phu tử; Mỗi khi nhắc đến túc hạ, cho là người mưu trí hàng
đầu, từ đó thường lưu tâm, lại còn hơn so với thời trước. Thư nói: ‘Người chỉ
tìm bạn cũ”; Dịch viết: ‘Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu’. Lưu Tướng
Quân(80) với Đại Nguỵ đôi bên cùng đứng, tính lại cũng là hai nghĩa ấy. Những
gặp gỡ trong quá khứ, muốn đồng nhất mà ra khác biệt thật không phải là ý định
của Vũ Hoàng Đế. Sai nhầm lầm lỡ đã qua đi, thuận lợi bỗng hoá thành không cũng
chẳng phải mong muốn của túc hạ. (Hoàng Thượng) hiểu rõ ý nghĩa Thư và Dịch,
biết rằng kết giao quý ở chỗ phân lý song vẫn giữ được tình hữu hảo. Vì vậy
(tôi) sai những người mới đến hàng đưa tới đất Ngô dâng biếu ngựa hay, lông
điêu, áo ấm cũng chẳng bị hiềm nghi. Đường xá mới khai thông, vội tỏ bày tình cũ
để cốt thể hiện lời thăm hỏi. Nhớ nhung tích tụ sau lâu dài xa cách không phải
bút mực tầm thường có thể viết ra cho hết được, cũng là mong túc hạ có cùng ý
niệm. Nay, trai gái túc hạ sinh ra được mấy người? Tuổi tác đã được bao nhiêu?
Tôi đây liên tiếp mất một trai một gái, giờ chỉ còn có hai trai. Đứa lớn tên là
Túc, được hai mươi chín tuổi, sinh ở Cối Kê. Đứa nhỏ mới hơn một tuổi. Viết thư
mà buồn lòng đau xót, nhung nhớ triền miên.”
Laị viết: ”Từng nghe: ‘Thụ chung ư Văn Tổ’(81) là lời ở Thượng Thư.
Lại nghe: ‘Lịch sổ tại cung, duẫn chấp kỳ trung’(82) là lời ở Luận Ngữ. Đấy há
phải là câu chuyện hạng già lão tự nghĩ được ra. Ngay bây giờ là lúc chúng ta
gặp dịp Thánh Chúa nhận mệnh trời, tự hiểu rõ ba lần thoái thác khiêm nhượng
rành rành, xem xét thấu mọi điềm triệu tốt lành cùng hội tụ, thấy đại lễ nghiêm
cẩn đoan trang, ngắm khói xanh từ đuốc tế bốc lên rực rỡ. Đến bây giờ bỗng có
tự có vận hội của thời Đường Ngu(83), ấy là số mạng ở cung Tử Vi trên Thiên
Đình. Lại thương cảm chẳng được dắt tay anh, cùng thế thời được liệt danh là có
hai người được nghe câu ‘Khâm Thử’ của Đường triều. Anh tuy ở đất xa xôi ngoài
biên ải, nghĩ cũng mút mắt ngóng trông về, nghiêng tai xa lắng nghe, dài cổ như
hạc đứng. Xưa Trần Công ở Nhữ Nam
mới được thăng quan, không cư xử theo thói thường, nhường chức Thượng Khanh cho
Lý Nguyên Lễ. Nhìn việc từ nhượng ấy, ta nên tự lui mà tránh chỗ cho anh. Ví
thử được tránh anh mà trộm nhường tên rồi sau ấn thụ dây thao gửi gắm lại, ngao
du đàm luận vùng Bình Bột. Cùng kể lể với anh nỗi gian lao cực khổ trên đường
trốn lánh thời gian qua. Say chén rươu, vui bữa tiệc, cao giọng luận bàn, lớn
tiếng bật cười, đủ để quên nỗi lo tuổi già. Gĩư chặt ngọn bút bày tỏ tâm tình
thuân theo nỗi mừng vui.”
Lại viết: ”Mùa hẻ trước có gửi thư mà chưa đến (tay anh) được. Nay
lại có thư mà hết lòng thăm hỏi y như trước. Hoàng Đế rất đỗi tiếc thương Lưu
Tướng Quân sớm qua đời, lại lo lắngcon côi của người không biết đường thay đổi,
mà cũng đau tiếc cho nhân sĩ bầy tôi như Túc hạ, Khổng Minh phải chịu đắm chìm
ử vùng Khương Di dị chủng, vĩnh việnbất hoà đoạn tuyệt với Hoa Hạ, không có
duyên được đón vào chầu ở Trung Quốc mà chiêm ngương đất cũ quê xưa đã trông
ngóng ước mong. Cho nên lại dùng tình yêu thương từ ái để uý lạo nhân tâm.
Trinh trọng ban minh chiếu mà hiển lộ ân tình, nói rõ lời răn dạy, bày tỏ nỗi
đợi chờ. Đặc biệt sai (tôi) gửi thư đến bọn túc hạ. Túc hạ vốn thông minh chắc
đo lường được sự ân cần trong thánh ý, nhận ra được núi Thái bể sâu vẫn luôn
còn đó, hiểu ra được trăm sông nên trút nước về đâu. Xưa Y Doãn bỏ Hạ theo Ân,
Trần Bình bội Sở đầu Hán, đều vì đức sáng soi tỏ người chấp chánh, huân lao ghi
tạc bậc công thần. Nếu túc hạ có thể giúp đỡ đứa con côi, an định lòng người
đang do dự, bỏ nguỵ hiệu trái lẽ thường, theo về phụng thờ nhận mệnh từ Đại
Nguỵ thì nơi chủ khách tên tuổi sẽ hiển đạt phi thường, cả trên dưới cùng được
cậy nhờ sáng soi vĩnh viễn. Công lao sự nghiệp sánh kề nhau, thanh danh thành
tựu đều ghi khắc. Xét công tích cống hiến đủ để vượt qua Y, Lữ. Vừa vâng theo
chiếu chỉ vừa khôi phục tình xưa, tình bạn cũ thương nhờ chẳng hề ngưng. Nếu
không bàn bạc nhưng việc túc hạ có thể làm, những điều túc hạ có thể thấy, thì
không thể ban bố rõ chiếu chỉ mệnh lệnh, thể hiện ân huệ rực rỡ lớn lao, sắp
đặt trước mong mỏi trong mộng tưởng ngày xưa. Gỉa sử trời mở lòng người, anh có
ý rời nước Thục, thì quả thật bây giờ tôi đã mong ngày nắm tay nhau. Còn giả
sử, đường đi trắc trở chửa bình yên, không theo như điều anh định liệu, thì nên
theo tin tức dò hỏi có đáng sợ hay không để xét kỹ đường lối rời đi. Trước sau
hai thư, mỗi khi viết đến chỗ này, ít khi không động đến nỗi tha thiết trong
lòng. Túc hạ chu du khắp giang hồ, đã tới Nam Hải, quan sát trắc nghiệm tập tục
người Di, có thể nói là đi khắp nơi vậy. Nhưng đoán chắc lòng túc hạ vẫn đọng
lại nỗi nhớ về Hoa Hạ vô cùng sâu sắc vậy. Vì mình mà chọn chỗ an cư vẫn có gốc
rễ là Trung Thổ. Vì chủ mà lựa điều yên ổn, há có thể không nhớ về Kinh Sư mà
cứ do dự mãi ở nơi hoang ải? Mong anh xét rõ lời ngu dại của tôi rồi sớm ngày
báo lại.”
CHÚ THÍCH
(1) Chiêu Đức tướng quân: Quan hàm ngũ phẩm, (Ở Thục bao gồm: phụ
hán, an hán, đãng khấu, thảo nghịch, thảo khấu, thảo lỗ, chiêu đức, chiêu văn,
bỉnh trung, kiến nghĩa, phụng nghĩa, trung tiết, kiến tín, quân sư, chấp thận,
phủ nhung, tuy vũ, dực quân, hưng nghiệp, phó quân,dực vũ, phụ quân, tuy quân,
nha môn.)
(2) Lưu Biểu quê ở Sơn Dương, trước khi được giao chức Mục ở Kinh
Châu là Trấn Nam
tướng quân.
(3) Sưu Thần Ký: Do Giản Giới đời Tấn soạn, chép nhưng việc thần kỳ
quái dị trong dân gian.
(4) Tòng Sự Trung Lang: Chức danh, vào thời Hán Nguỵ tương đương
tham mưu. Lưu Bị lúc ấy mang quan hàm Tả Tướng quân, Tả Tướng quân Tòng Sự
Trung Lang diễn nôm là tham mưu của quan Tả Tướng.
(5) An Hán Tướng quân: Chức danh, hàm ngũ phẩm, cùng hàm nhưng về
trật đứng cao hơn Quân Sư Tướng quân là chức danh của Gia Cát Lượng.
(6) Viên Thượng: Con Viên Thiệu, sau khi Viên Thiệu chết các con là
Đàm và Thượng đánh lẫn nhau.
(7) Lưu Tả Tướng quân: Lưu Bị.
(8) Bỉnh Trung tướng quân: Quan hàm ngũ phẩm, về trật đứng ngay
dưới Chiêu Văn của Y Tịch.
(9) Nhậm Định Tổ: Nhậm An tự Định Tổ, đại nho thời Tây Hán thầy học
của Đỗ Vi, Đỗ Quỳnh. Xem thêm Đỗ Vi, Đỗ Quỳnh truyện - Thục thư quyển 12.
(10) Bách Lý: Ngũ Cổ Đại Phu Bách Lý Hề. Tuổi trẻ có tài mà không
được dùng lưu lạc khắp nơi, được Tần Mục công dùng năm bộ da dê chuộc về dùng
làm Đại Phu lúc bảy mươi tuổi.
(11) Kiển Thúc: Anh kết nghĩa
của Bách Lý Hề. Sau khi Bách Lý Hề làm Đại Phu tiến cử Kiển húc cho Tần Mục
công.
(12) Cam La: Cam La năm mười
hai tuỗĩnin vua Tần cho sang sứ nước Triệu, bằng ba tấc lưỡi thuyết phục vua
Triêu giao năm thành vùng Hà Gian cho Tần.
(13) Tử Kỳ: Duẫn Tử Kỳ, mười
tuổi hiến kế an định thành Đông A nước Tề. Được Tề Tuyên vương phong làm thành
chủ, thống lãnh quân dân Đông A đánh bại quân Nguỵ.
(14) Nhan Uyên: Nhan Hồi tự
Tử Uyên cũng gọi là Nhan Uyên người nước Lỗ thời Xuân Thu đệ tử đắc ý và nhỏ
tuổi nhất của Khổng Tử.
(15) Sở Diệp Công: Chưa biết
ai.
(16) Vua Thành Thang đề cử Y
Doãn làm Tể tướng phò trợ mình lập ra nhà Thương lúc ông này đang đi cày ở đất
Hữu Sằn.
(17) Hà Vũ: Danh thần Tây
Hán.
(18) Nhị Cung: Cung Hoà, Cung
Thắng hai anh em nổi danh tài ba cao khiết thời Hán Ai Đế được Cát Hồng đời Tân
ca ngơi rằng: ”Tư hung dữ sao, do đồng thì; Vương Mãng dữ Nhị Cung cộng thế,
nhi bất năng hiệu dã.”
(19) Tuỳ, Hoà: Đoạn trên nhắc
đến việc đục đá tìm ngọc nên Hoà chắc thợ đá Biện Hoà nước Sở nhìn ra khối ngọc
trong tảng đá còn Tuỳ thì chưa rõ là ai.
(20) Ích Bộ kỳ cựu truyện: Do
Trần Thọ tác giả Tam Quốc Chí soạn, chép sự tích các nhân vật nổi tiếng ở Ích
Châu.
(21) Dương Hậu: Dương Hậu tự
Trọng Hoàn, người Quảng Hán đại nho đời Hán, giỏi đoán Đồ Sấm.
(22) Kinh đô: Chỉ Lạc Dương.
(23) Đổng Phù: Danh nho cuối
thời Đông Hán, xem thêm Lưu Yên truyện - Thục thư quyển 01.
(24) Công Tào: Chức danh,
được đặt ra từ thời Tây Hán, là thư lại chính của người đứng đầu Quận, Huyện.
(25) Trị Trung Biệt Gía: Cấp
phó quan trọng nhất trong Châu.
(26) Bác Sĩ: Chức danh, chủ
yếu chưởng quản thư tịch, thường cũng làm cố vấn cấp cao.
(27) Tiêu, Trương: Tiêu Hà,
Trương Lương hai mưu thần hàng đầu của Hán Cao Tổ.
(28) Họ Nhan: Nhan Hồi (cũng
là Nhan Uyên) lấy từ một câu trong Luận Ngữ: ”Hiền thay, anh Hồi! một giỏ cơm,
một bầu nước, ở ngõ hẻm, người khác u sầu khong chịu nổi cảnh khốn khổ đó, anh
Hồi thì vẫn không đổi niềm vui.”
(29) Nguyên Hiến: Học trò
Khổng Tử, tính cách đạm bạc, trọn đời vui cảnh thanh bần.
(30) Nghiêm Quân Bình: Tây
Hán học giả, người Thành Đô, giỏi bói toán.
(31) Lý Hoằng: Chưa rõ là ai.
(32) Do, Di: Hứa Do, Bá Di đã
chú bên Tiêu Chú truyện.
(33) Dương Tử Vân: Dương Hùng
tự Tử Vân đã chú bên Tiêu Chu truyện.
(34) Văn Ông: Văn Đảng tự
Trọng Ông (156tcn - 101tcn) người Lư Giang, làm Thục Quận Thái Thú dưới triều
Hán Cảnh Đế, cử học trò về Trường An học học hỏi, chấn hưng học phong đất Thục.
(35) Trương Như: Tư Mã Tương
Như(179TCN - 117TCN) nổi tiếng với khúc Phượng Cầu Hoàng và truyện tình cùng
nàng Trác Văn Quân, tự là Trường Khanh, người Thành đô rời quê hương đi Trường
An trong thời Hán Cảnh Đế khi trở về mang theo kiến thức thu lượm được, có ảnh
hưởng lớn đến văn hoá đất Thục thời kỳ đó. Tuy nhiên em không tìm thấy tài liệu
nào nói ông ta ra đi theo sự sếp đặt của Văn Ông.
(36) Thất Kinh: Các sách chỉ
nói đến Ngũ Kinh không rõi Thất Kinh ở đây là những thư tịch gì.
(37) Địa lý chí: Tức phần Địa
lý chí trong Hán Thư của Ban Cố.
(38) Trọng Thư: Đổng Trọng
Thư danh nho đời Hán.
(39) Tề Hoàn: Hoàn Công nước
Tề thống lĩnh chư hầu, tôn phù thiên tử nhà Chu
một trong các vị bá chủ thời Chiến quốc.
(40) Công Dương: Công Dương
Cao người nước Tề, tác giả cuốn sách diễn giải nghĩa lý Kinh Xuân Thu mà ngày
nay người ta vẫn quen gọi là Xuân Thu Công Dương truyện.
(41) Thúc Thuật: Anh trai của
Thúc Thuật là Di Phụ Nhan bị kết tội chết, Thúc Thuật được chỉ định kế vị nhưng
không nhận, chỉ quản lý quốc sự, sau khi Di Phụ Nhan được giải oan, Thúc Thuật
lại nhượng quyền cho con của anh.
(42) Chiến Quốc Sách: Do Lưu
Hướng đời Đông Hán soạn.
(43) Nghi, Tần: Trương Nghi,
Tô Tần hai thuyết khách lớn thời Chiến quốc.
(44) Đạo Gia Pháp: Chưa rõ
nói đến thư tịch nào.
(45) Sào, Hứa, Tứ Hạo: Sào
Phủ, Hưá Do hai người hiền thời vua Thuấn và Thương Sơn Tứ Hạo bốn người hiền
sống vào thời Tần mạt Hán sơ không muốn làm quan ở ẩn trong núi Thương Sơn.
(46) Tiếp Dư: Lục Thông tự
Tiếp Dư người nước Sở thời Chiến quốc thường giả điên cuồng ca hát để nói
chuyện đạo lý thường được nhắc đến với danh xưng Sở Cuồng Tiếp Dư.
(47) Ngư Phụ: Tên một thiên
trong Sở từ của Khuất Nguyên, kể chuyện một ông lão đánh cá thấy Khuất Nguyên
tiều tuỵ khố khổ thì khuyên nên tuỳ theo dòng đời chìm nổi mà sông nhưng bị
Khuất Nguyên cự tuyệt. Thể hiện ý chí thanh cao của Khuất Nguyên.
(48) Lạc, Hà: Chỉ Lạc thư, Hà
đồ.
(49) Cách Tử Thành: Em chưa
rõ là ai.
(50) Tử Cống: Học trò Khổng
Tử.
(51) Sư Hữu Tế Tửu: Chức
danh, là người có địa vị tối cao trong đám thư lại hoặc tham mưu trong phủ
trưởng quan ở địa phương.
(52) Công Tào: Thư lại chủ
yếu trong quận hoặc huyện.
(53) Chủ Bộ: Người chưởng
quản văn thư tá lại trong quận.
(54) Dương Hùng: Danh nho
thời Hán, nhảy lầu tự tử (nhưng không chết) để tỏ ý bất hợp tác với Vương Mãng.
(55) Hà Đồ quát địa tượng:
Chưa rõ là thư tịch nào do ai viết.
(56) Tả Tư Thục Đô Phú: Bài
Thục đô Phú của Tả Tư thời Tây Tấn.
(57) Hoài, Tể Tứ Độc: Vương
chế trong Lễ Ký chép Hoàng Đế (Trung Hoa) cổ đại tế núi cao sông lớn là Ngũ
Nhạc và Tứ Độc. Trong đó Tứ Độc gồm: Đông Độc - Đại Hoài, Nam Độc - Đại Giang,
Tây Độc - Đại Hà, Bắc Độc - Đại Tể là bốn con sông lớn chảy ra biển. Vào thời
Đông Hán, Hoàng Hà chuyển dòng ở vùng Vũ Trác, Tu Vũ chảy vào chảy vào sông Tể
Thuỷ nên ngày nay Tể Thuỷ là đoạn hạ lưu của Hoàng Hà còn Hoài Hà thì đoạn hạ
lưu bị tắc ngẽn nên chảy vào Trường Giang. Hoài Hà, Tể Thuỷ đều xuất phát từ
địa phận Hà Nam.
(58) Đại Tư Nông: Chức danh,
được đặt từ đời Tần, lúc đầu quản lý kinh tế tài chính quốc gia sau là người
cai quan quốc khố hoặc khuyến khích nông nghiệp.
(59) Tam Hoàng: Ba vị tổ đầu
tiên của các tộc người Hán, tuy theo từng thư tịch mà danh tự ba vị này biến
đổi khác nhau.
(60) Ngũ Đế: Năm vị minh quân
đầu tiên của người Hán.
Tiêu Duẫn Nam :
Tiêu Chu, xem thêm Tiêu Chu truyên - Thục thư quyển 12
(61) Vạn Cơ Luận là bài biểu
Tưởng Tế dâng cho Tào Phi, Hứa Tử Tương là Hứa Thiệu anh họ Hứa Tĩnh người đã
xem tướng cho Tào Tháo lúc còn hàn vi.
(62) Nguyên văn: 马磨
(63) Kế Lại: Quan chức cấp
quận, phụ trách bộ tịch và kế hoạch.
(64) Ngự Sử Trung Thừa: Là
một chức danh được đặt ra từ thời Tần. Trong đời Hán quản lý thư tịch sách vở,
kiểm soát văn chương biểu tấu của công khanh.
(65) Tam Giang: Trường Giang,
Ngô Tùng, Tiền Đường; Ngũ Hồ: Động Đình hồ,Phiên Dương hồ, Thái hồ, Sào hồ, Hồng
Trạch hồ.
(66) Trung Nhạc: Trung Sơn,
ngầm chỉ khu vực Hà Nam ,
Lạc Dương.
(67) Bá mẫu ở đây có lẽ chỉ
mẹ của Từ Nguyên Hiền.
(68) Ngô Chí: Ở đây là phần
Ngô thư của Tam Quốc Chí.
(69) Doanh Khâu: Là đất phong
cho con cháu Khương Thái Công từng giúp Chu Vũ Vương diệt Trụ.
(70) Sư Vọng: Nguyên văn: 师望
(71) Hoắc Quang: Phụ chính
đại thần thời
(72) Ngũ Hầu: Công, Hầu, Bá, Tử , Nam
năm tước hiệu dùng để phong cho chư hầu; Cửu Bá: Trưởng quan tại chín châu lớn
của Trung Hoa cổ.
(73) Ngũ Tài: Sách Lục Đạo,
thiên Long Thao, phần Luận Tướng cho ngũ tài là Dũng, Trí, Nhân, Tín, Trung.
(74) Thất Quốc: Tần, Tề, Sở,
Triệu, Nguỵ, Hàn, Yên bảy nước thời Chiến Quốc.
(75) Vương Cảnh Hưng: Vương
Lãng danh thần Tào Nguỵ làm đến Tam Công.
(76) Minh: Một lại văn bài
ghi lại công đức hoặc răn bảo chép vào bia, chuông, bình phong hay quạt.
(77) Ngũ Giáo: Phụ nghĩa, Mẫu
từ, Huynh hữu, Đệ cung, Tử hiếu.
(78) Nguyên văn: 居升平之京师
(79) Vũ Hoàng Đế: Chỉ Tào
Tháo
(80) Lưu Tướng Quân: Chỉ Lưu
Bị.
(81) Thụ chung ư Văn Tổ: 受终於⽂祖: Nhận hết từ Văn Tổ. Văn Tổ là tổ của vua
Nghiêu. Nghiêu nhường hiền, nhường ngôi cho Thuấn. Thuấn được nhận cơ nghiệp
truyền lại từ Văn Tổ.
(82) Lịch sổ tại cung, duẫn
chấp kỳ trung: 历数在躬,允执其中: Liệt kê công việc bên mình, chấp thuận
cho người nắm giữ. Nghiêu nhường ngôi, liệt kê hết công việc trong ngoài, giao
cho Thuấn nắm. Thư này viết vào lúc Tào Phi mới soán ngôi nhà Hán. Vương Lãng
làm quan tới Tam Công ở Nguỵ, viết thư cho Hứa Tĩnh không chỉ đơn thuần là tình
cảm bè bạn riêng tư mà còn muốn trình bày lập trường chính trị của phe mình và
tỏ ý chiêu hồi.
(83) Đường: Triều đại của vua
Nghiêu, họ là Đào Đường; Ngu: Triều đại của vua Thuấn.
QUYỂN 9 - ĐỔNG LƯU MÃ TRẦN
ĐỔNG LÃ TRUYỆN
Đổng Hòa, Lưu Ba, Mã Lương,
Trần Chấn, Đổng Doãn, Lã Nghệ
ĐỔNG DOÃN TRUYỆN
Đổng Doãn tự Hưu Chiêu, con trai quan Chưởng Quân Trung Lang tướng
Đổng Hoà. Tiên Chủ lập Thái tử, Doãn được tuyển làm Xá nhân, theo hầu dắt ngựa.
Hậu Chủ kế vị, phong (Doãn) làm Hoàng Môn Thị lang. Thừa tướng Lượng huy quân
bắc chinh, đóng ở Hán Trung, lo Hậu Chủ phú quý liền năm, khó phân vàng đá, lại
thấy Doãn lòng dạ kiên cường công minh liêm chính, muốn uỷ thác sự vụ trong
cung. Dâng sớ tâu rằng: ‘’ Bọn Thị Trung Quách Du Chi, Phí Y, Thị Lang Đổng
Doãn, đều do Tiên Đế tuyển chọn đề bạt để lại cho Bệ hạ, đến lúc suy xét nguyên
tắc lợi hại, dâng hết lời trung chính là nhiệm vụ của họ. Ví như trong cung có
việc, bất kể lớn nhỏ, tất thảy cùng thương nghị ắt có thể sửa chữa, bổ khuyết
lỡ lầm thu được lợi ích. Còn như không có lời lẽ bày tỏ được đức sáng, thì phải
trách phạt bọn Doãn, để làm rõ sự lười biếng của họ.’’ Lượng lại mời Y làm Tham
Quân, Doãn lên làm Thị Trung lĩnh Hổ Bôn Trung lang tướng, chỉ huy Túc vệ thân
binh.
Du Chi tính tình cao khiết hiền hoà, là người chu đáo.
Sở Quốc tiên hiền truyện viết: Du Chi người Nam Dương, tài danh nổi
tiếng đương thời.
Nhận trách nhiệm dâng lời can gián, Doãn chuyên tâm làm việc. Lấy
ngăn ngừa đề phòng mà giải quyết sự vụ, dốc lòng hết sức khuông phò nêu cao đạo
lý. Hậu Chủ thường muốn tuyển thêm mỹ nữ sung vào hậu cung, Doãn dẫn sự tích
các vị cổ đại thiên tử hậu phi không quá mười hai người, nay cung tần đã đủ,
không nên tăng thêm, cuối cùng cố giữ không nghe theo. Hậu Chủ càng thêm tôn
trọng nể vì. Thượng Thư Lệnh Tưởng Uyển lĩnh Ích Châu Thứ Sử, dâng sớ nhường
cho Y và Doãn, lại có biểu rằng: ‘’ Doãn phục vụ trong cung đã nhiều năm, phò
tá vương thất, nên ban danh vị đất đai để tán dương công lao khó nhọc.’’ Doãn
cố từ không nhận. Hậu Chủ trưởng thành dần, tuổi cao quý hoạn quan Hoàng Hạo.
Hạo có tài xu nịnh, thuận theo ý vua, muốn tham dự triều chính. Doãn thường
trước nghiêm mặt khuyên chủ, sau trách mắng cật vấn Hạo. Hạo sợ Doãn, không dám
làm trái. Doãn còn tại thế, chức vị của Hạo chỉ là Hoàng Môn thừa.
Doãn từng hẹn hò ngao du yến ẩm cùng bọn Thượng Thư Lệnh Phí Y,
Trung Điển quân Hồ Tể, cùng nghiêm cẩn phụng giá hành sự, nhưng Lang Trung
Tương Dương Đổng Khôi đến nhà sửa đạo chính cho Doãn. Khôi tuổi trẻ chức thấp,
đề nghị Doãn huỷ bỏ cuộc vui, quay ngựa trở về, Doãn không đồng ý nói: ‘’Ta sở
dĩ ra ngoài chỉ là muốn cùng bạn tốt dạo chơi đàm luận, nay ngài cố ý bẻ cong
lý lẽ, thổi phồng sự việc, bỏ cuộc đàm luận này, dự buổi yến tiệc kia, chẳng có
ý nghĩa gì cả.’’ Bèn ra lệnh cởi xe, cùng bọn Y bỏ cuộc không đi nữa. (Doãn)
giữ đạo chính với kẻ dưới thường là như thế vậy.
Tương Dương ký chép: Đổng Khôi tự Hưu Tư, người Tương Dương. Vào
Thục, làm Tuyên Tín Trung Lang theo Phí Y sang sứ nước Ngô. Tôn Quyền từng say
rượu hỏi Y rằng: ‘’ Dương Nghi, Nguỵ Diên đều là loại trẻ trâu nhỏ mọn, tuy tuỳ
nơi tuỳ lúc làm được điều nọ điều kia hữu ích , song khi giao cho trọng nhiệm,
tất không thể xem thường, nếu một mai không còn Gia Cát Lượng, tất họ sẽ gây
hoạ làm loạn vậy. Các ông bối rối, sao không biết đề phòng nỗi lo này, đã để
lại mưu lược quyết sách cho cháu con chưa?’’ Y ngạc nhiên ngoái lại nhìn, không
thể đáp ngay được. Khôi nhìn Y nói: ‘’ Ngắn gọn có thể đáp rằng, lâu dài không
hoà hợp cùng nhau được tất sinh ra những thù hận riêng tư, nhưng chưa có dấu
vết biểu hiện gì cũng khó dựng tường mà chế ngự ý niệm của người ta. Nay đang
lúc đánh dẹp cường địch, công lao do năng lực mà có, sự nghiệp nhờ tài trí mà
thành, nếu thôi không dùng những người ấy để phòng hậu hoạn thì cũng như dùng
sách lược đục thuyền bẻ chèo mà phòng sóng to gió ngược, không phải là kế lâu
dài vậy.’’ Quyền vừa ý cười lớn. Gia Cát Lượng nghe chuyện, cho là lời hiểu
biết. (Khôi) trở về chức cũ được ba ngày, vời vào Thừa tướng phủ dặn dò, thăng
làm Ba Tây Thái Thú.
Thần Tùng Chi xét: Hán Tấn xuân thu cũng chép câu này, song không
nói là lời của Đổng Khôi, ngôn từ cũng hơi khác biệt. Vậy xem ra hai sách chép
hai chuyện bất đồng. Bổn truyện viết: ‘’ Khôi tuổi nhỏ chức thấp’’, nếu như
từng vào Thừa tướng phủ nghe dặn bảo, ra làm Ba Quận Thái Thú, tất chức vị
không phải như đã chép. Có thể thấy sách này có lời đáng ngờ chưa thể thẩm định
rõ ràng được vậy.
Năm Diên Hi thứ sáu, thăng thêm chức Phụ Quốc tướng quân. Năm (Diên
Hi) thứ bảy làm Thị Trung thủ Thượng Thư Lệnh làm phó cho Đại Tướng quân Phí Y.
Năm (Diên Hi) thứ chín, chết.
Hoa Dương quốc chí chép: Đương thời người Thục gọi Gia Cát Lượng,
Tưởng Uyển, Phí Y cùng Doãn bốn tướng là Tứ Anh đệ nhất hào kiệt.
Trần Chi kế nhiệm Doãn làm Thị Trung, cùng Hoàng Hạo trong ngoài hỗ
trợ giúp đỡ lẫn nhau, Hạo bắt đầu được tham dự vào chính sự. Sau khi Chi chết,
Hạo từ Hoàng Môn lệnh lên làm đến Trung Thường thị, Phụng Xa Đô Uý, nắm giữ
quyền bính, thao lộng triều cương cho đến khi mất nước. Người Thục không ai
không tưởng nhớ Doãn. Đến khi Đặng Ngải đến Thục, nghe tiếng Hạo gian ác, bèn
bắt giữ, muốn đem giết, nhưng Hạo hối lộ nhiều cho bộ hạ của Ngải, được tha.
Chi tự Phụng Tông, người Nhữ Nam, cháu ngoại của anh trai Hứa Tĩnh.
Thửơ nhỏ mồ côi, lớn lên trong nhà Tĩnh. Tuổi trẻ đã nổi tiếng, dần dần được
tuyển vào chức Tào Lang, diện mạo thần thái rất uy võ nghiêm trang.
Nhiều tài năng, giỏi toán thuật, Phí Y rất lấy làm lạ, cố đưa lên
kế tục Doãn làm nội thị. Lữ Nghệ chết, Chi lại lên làm Thị Trung thủ Thượng Thư
Lệnh, them Trấn Quân tướng quân, Đại tướng quân Khương Duy tuy ngôi vị ở trên
Chi, song luôn thống lĩnh tướng sĩ bên ngoài, hiếm khi đích thân vào chầu tham
dự chính sự. Chi trên phụng mệnh vua, dưới thân hoạn thị, quan hệ mật thiết,
tình cảm sâu xa, quyền lớn hơn Duy. Năm Cảnh Diệu nguyên niên chết, Hậu Chủ đau
tiếc, khóc thương rơi lệ, bèn hạ chiếu rằng: ‘’ Chi giữ chức một kỷ, ôn hoà giữ
phép, cung kính hữu lễ,thuận nghĩa ích dân, công nghiệp huy hoàng rạng rỡ. Mạng
chẳng dài lâu, trẫm lấy làm thương tiếc. Người sống để tiếng tốt, tất chết thêm
mỹ thuỵ , thuỵ là Trung Hầu.’’. Ban cho con là Xán tước Nội Hầu, đề bạt con thứ
là Dụ vào chức Hoàng Môn thị lang.
Từ khi Chi được sủng ái, Hậu Chủ nhớ lại rất giận Doãn ngày xưa,
địa vị (của Doãn) từ đó bị xem thường, cũng bởi Chi là người xu nịnh,cùng Hạo ở
bên trong cấu kết dần dần thêm bớt xúc siểm chuyện cũ mà ly gián. Cháu Doãn là
Hoành, thăng làm Ba Tây Thái Thú.
Thần Tùng Chi lấy con Trần Quần là Thái, con Lục Tốn là Kháng, đời
trước truyền lại đời sau, con nối theo cha tính cách tái hiện không khác biệt,
cùng Vương Túc, Đỗ Thứ, Trương Thừa, Cố Thiệu một dòng, tuyệt chẳng khác nhau,
duy chỉ có Doãn một mình sai trái, kiến giải chưa được rõ ràng, so với đương
thời Doãn có tiếng tăm địa vị tốt đẹp cao sang, sự tích lại càng sai lạc. Cùng
với Hạ Hầu Huyền, áo cũ đều có sừng thú sắc đỏ trang hoàng, cũng là người xa
xỉ, Nguỵ thư đề danh tự trong quyển Chư Hạ Hầu Tào truyện, vậy mà đến lúc chết
không mặc thêm chút đồ hoa lệ; Hay Trần Vũ với biểu cùng tận Thiên Tướng Quân,
đều là những việc đã qua không xét rõ được vậy.
ĐỒNG HÒA TRUYỆN
Đổng Hoà tự Ấu Tể, người Nam Quận, tổ tiên gốc làm nghề chài lưới ở
Ba Quận. Thời Hán mạt, Hoà dẫn người trong họ đi sang phía tây ( vào đất Thục
). Ích Châu Mục Lưu Chương lấy làm huyện trưởng ở Ngưu Bỉ, rồi huyện trưởng
Giang Nguyên, sau làm Thành Đô Lệnh.
Khi ấy đất Thục giàu có mà nhiễm thói xa xỉ, những nhà quyền quý ăn
uống tốn kém, phục sức hoa lệ, ma chay cưới hỏi linh đình đến khuynh gia bại
sản. Hoà dẫn dắt lối sống giản dị, tự mặc áo thô ăn cơm rau, ngăn chặn hoang
phí bừa bãi, tạo ra nền nếp, làm phong tục nơi ấy biến chuyển tốt lên, người
kính mà theo. Nhưng bọn cường hào trong vùng sợ pháp chế nghiêm minh của Hoà,
thuyết phục Chương đổi làm Đô uý thuộc quận Ba Đông. Quan viên, dân nghèo, phụ
lão cầu khẩn lưu Hoà lại kể đến hàng nghìn. Chương nghe dân xin suốt hai năm,
lại chuyển Hoà về làm Ích Châu Thái thú, thực hiện sự giản kiệm tốt đẹp như
trước. Hoà làm việc với người Man chân thành nhường nhịn, dân phương nam yêu mà
tin theo.
Tiên Chủ vỗ yên đất Thục, lấy Hoà làm Chưởng quân Trung Lang tướng,
cùng Quân sư Tướng quân Gia-cát Lượng cộng sự tạm lo việc ở phủ Tả Tướng quân,
Đại Tư mã, phân biệt lợi hại, quan hệ thân mật. Hoà ăn lộc quan hơn hai chục
năm, ngoài thì tự chăn nuôi, trong thì tự dệt vải, đến lúc chết gia sản chẳng
có gì đáng giá.
Lượng sau làm Thừa tướng, dạy thuộc hạ rằng: ” Kẻ đảm đương
việc nước phải biết tập hợp những ý kiến
thẳng thắn, xuất phát từ trí tuệ của số đông. Nếu vì những hiềm khích nhỏ mà xa
lánh mọi người sẽ khó được biết các cách nhìn khác biệt, không tránh khỏi thiệt
hại. Có quan điểm bất đồng để đánh giá sự việc, mới chặn được điều xấu thu được
điều tốt. Phải nỗi người ta rất khó hết lòng, chỉ riêng Từ Nguyên Trực ngày ấy
giao thiệp chẳng nghi ngờ, lại thêm Đổng Ấu Tể tham chính bảy năm, mỗi khi xảy
việc chưa nghĩ đến tận cùng, dù có mười cách nhìn khác nhau cũng không ngại mà
nói hết. Mong người người đều chuyên tâm như Nguyên Trực, ân cần như Ấu Tể, tận
trung báo quốc, giúp ta tránh khỏi sai nhầm”.
Lại nói: ” Ta lúc xưa quen biết với Châu Bình, thường được học hỏi
lẽ mất còn, rồi khi qua lại với Nguyên
Trực, hay được mở mang thêm kiến thức; trước có Tham mưu Âú Tể, mỗi lời đều cẩn
thận, tận lý, Sau có Tòng sự Vĩ Độ, can ngăn góp ý rất thẳng thắn. Tuy ta thiên
bẩm tối tăm, không thể hoàn toàn hiểu hết ý họ, song ta với bốn vị tiên sinh ấy
thuỷ chung vẫn là bạn tốt, tuyệt đối chẳng vì lời lẽ chân thành của họ mà chẳng
vừa lòng”.
Lượng hoài niệm Hoà thể hiện ra đến thế vậy.
Vĩ Độ họ Hồ tên là Tể, nghĩa khí hơn người. Khi Lượng làm chủ bộ,
trung thành hết sức giúp việc, rất được khen ngợi. Lượng chết, làm Trung Điển
quân, thống lĩnh binh mã, phong tước Thành Dương Đình hầu, sau đổi làm Trung
Giám quân Tiền tướng quân, được ban giả tiết lĩnh chức Duyện Châu Thứ sử. Em Tể
là Bác làm Thượng thư, Trường Thuỷ hiệu uý.
LỮ NGHỆ TRUYỆN
Lữ Nghệ tự Quý Dương, người Nam Dương. Cha (Nghệ) là Thường, trước đưa tướng cũ Lưu Yên vào Thục, gặp lúc
đường lớn bị ngăn trở nên không quay về được. Nghệ mồ côi từ thưở nhỏ, thích
đọc sách gẩy đàn. Tiên Chủ bình định Ích Châu, đặt ra chức Diêm phủ Giáo Uý,
coi sóc nguồn lợi từ muối và sắt. Dưới Giáo Uý Vương Liên mời Nghệ cùng bọn Nam
Dương Đỗ Kì, Nam Hương Lưu Cán cùng làm Điển Tào Đô Uý. Nghệ được thăng làm Tân
Đô, rồi Miên Trúc Lệnh, bởi có lòng thương xót cứu giúp người nghèo kẻ khó nên
được bách tính khen ngợi tán dương, trở thành người đứng đầu các thành trong
vùng. Và được thăng lên làm Ba Tây Thái Thú. Thừa tướng Gia Cát Lượng xuất quân
nhiều năm, phân phối sai phái các quận (mộ binh), đa phần (các quận) không giúp
được (Lượng việc này). Nghệ lựa chọn tổ chức được năm nghìn người cho Lượng. Lại
an ủi vỗ về, cai quản kiểm soát họ khiến cho không có một người nào đào ngũ.
(Nghệ) Được dời đến làm Hán Trung Thái Thú, kiêm chức Đốc Nông, sắp đặt cung
cấp quân lương. Lượng chết, Nghệ chuyển đến làm Quảng Hán, rồi Thục Quận Thái
Thú. Thục Quân là thành lớn, nhân khẩu rất nhiều mà sau khi Lượng chết binh đội
lười biếng, trốn bước gian nan trì trệ giả dối gian xảo bất nhất. Nghệ đến nhậm
chức, vừa cấm đoán ngăn ngừa, vừa hướng dẫn khuyến khích, chỉ trong vài năm
những người trốn tránh tự ra đăng ký có đến hàng vạn. Sau (Nghệ) về làm Thượng
Thư, lại kế tục Đổng Doãn làm Thượng Thư Lệnh, việc của dân không để chừa lại,
tân khách chẳng giữ trong nhà. Nghệ trải qua chức vụ trong ngoài, tự mình cần
kiệm, khiêm tốn thanh tĩnh chẳng nhiều lời lo liệu việc nước đơn giản tiện lợi
không gây phiền nhiễu dáng kể vào hàng trong sạch tài năng; Nhưng giữ luật cứng
nhắc thích dung điển chương như kẻ thư lại tầm thường lại cố nắm đại quyền nên
thanh danh giảm sút ở các quận huyện. Năm Diên Hi thứ mười bốn chết. Con là Thần,
trong những năm Cảnh Diệu làm Thành Đô
Lệnh. Em Thần là Nhã, rất có tài năng. Nhã thanh bạch nghiêm trang có văn tài,
sáng tác ra mười lăm thiên Khuôn phép luận.
Đỗ Kì từng làm Quận Thú, Giám Quân, Đại Tướng quân, Tư Mã. Lưu Cán
quan chức đến Ba Tây Thái Thú đều là người thân thiết với Nghệ, đương thời cũng
là những người nổi tiếng nhưng cần kiệm giữ khuôn phép không bằng được Nghệ.
Ba lí bình rằng: Đổng Hoà hành vi mộc mạc cao khiết. Lưu Ba khí
tiết thanh bạch cao thượng. Mã Lương trung trinh thành thật đáng gọi là kẻ sĩ.
Trần Chấn trung thành kính cẩn , tuổi cao càng đắc dụng. Đổng Doãn giúp chủ,
đạo nghĩa hiển lộ ra nét mặt. Thảy đều là lương thần đất Thục. Lữ Nghệ cai quản
các quận để tiếng thơm, song coi sóc triều chính gặp phải lời chê trách, cũng
coi như thất bại, xếp vào hạng thấp hơn.
LƯU BA TRUYỆN
Lưu Ba tự Tử Sơ, người ở nam Linh Lăng. Nổi tiếng từ thưở nhỏ,
Linh Lăng tiên hiền truyện viết: Tổ phụ của Ba là Diệu, từng làm
Thái Thú Thương Ngô. Cha Ba là Tường, nguyên là Giang Hạ Thái Thú, Đãng Khấu
tướng quân. Khi Tôn Kiên cử binh đánh Đổng Trác, Nam Dương Thái Thú Trương Tư
không chịu cấp quân lương nên (bị Kiên) giết chết. Tường cũng đồng lòng (với
Kiên), Nam Dương nhân sĩ vì vậy oán hận tường, cử binh đến đánh, trong lúc giao
tranh (Tường) bại trận, chết. Lưu Biểu vốn cũng không có quan hệ tốt với Tường
nên giam lỏng Ba, muốn giết, song lại cân nhắc, sai người thân tín cũ của Tường
giả mật báo với Ba rằng: ”Lưu Mục(1) muốn hại tôi, có thể cho tôi cùng chạy
trốn chăng.’’ Ba lần như thế, Ba đều không đáp ứng. Biểu được thuật lại việc
này, bèn bỏ ý định giết Ba. Năm mười tám tuổi, (Ba) làm Tào Sử Chủ ký chủ bộ ở
quận(2). Lưu Tiên Chủ muốn sai Chu Bất Nghi(3) theo Ba học tập. Ba đáp rằng:
”(Tôi) trước lãng du đất Kinh Bắc, nay lặn lội chốn quan trường, hỏi đến sự
học, chẳng có đủ phép tắc của bậc danh gia, trong đã không có thủ thuụât trầm
ổn của
Dương Chu(4), ngoài lại thiếu phong độ giúp đời của Mặc Địch(5),
giống như sao Cơ ở trời nam, hão huyền vô dụng. (Ngài) viết thư muốn (tôi dạy)
cháu ngài từ chỗ có vẻ đẹp của loài loan loài phượng thành ra biết múa điệu vũ
của chim yến chim sẻ, sao có thể gọi là chỉ rõ đạo sáng (cho cháu ngài) được.
(Tôi) tự thẹn rằng (học vấn) có mà như không, tưởng đầy đủ hoá ra trống rỗng,
sao dám tuân lời.”
Kinh Châu Mục Lưu Biểu liên tục gọi mời, tiến cử làm Mậu Tài, (Ba)
đều không tới. Biểu chết. Tào Công đánh Kinh Châu. Tiên Chủ chạy xuống Giang Nam , kẻ sĩ vùng
Kinh Sở đều chạy theo về phía đó, riêng Ba đi lên phía bắc bái phỏng Tào Công.
Tào Công lấy làm Duyện, sai đi chiêu nạp Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương.
Linh Lăng tiên hiền truyện viết: Khi Tào Công bại ở Ô Lâm, trở về
phía bắc, muốn dùng Hoàn Giai. Lời Giai không giống với Ba. Ba nói với Tào Công
rằng: ‘‘Không thể để Lưu Bị chiếm lấy Kinh Châu được.” (Tào) Công đáp: ”Bị nếu
có tham vọng ấy, Cô đã có sẵn kế sách bộ binh.”
Khi Tiên Chủ thu được ba quận, Ba không thể trở về (với Tào Tháo)
nữa, rút cuộc tránh đến Giao Chỉ.
Linh Lăng tiên hiền truyện chép: Ba đến Linh Lăng, nhiệm vụ không
thành, muốn qua Giao Châu mượn đường trở về kinh sư. Khi Gia Cát Lượng ở Lâm
Chưng, Ba gửi thư cho Lượng nói: ”Nhân khi khốn đốn, trải lúc nguy nan đến cai
quản những người dân biết hướng về đạo nghĩa, tự mình giúp đỡ chúng sinh, nương
theo ý trời, thuận với vạn vật, chẳng phải ta tự mình có khả năng mưu toan mà
khuyến khích được(6). Còn nếu bàn đến cùng xét đến hết thì lời uỷ thác lúc lâm
chung như biển rộng không thể quay lại coi sóc Kinh Châu nữa.” Lượng đáp lại
rằng: ”Lưu Công hùng tài cái thế, thu phục đất Kinh Châu, chẳng ai không cảm
đức mà quy phục, trời người cùng theo về là việc có thể thấy vậy, túc hạ còn
muốn gì nữa?” Ba nói: ”Thụ mệnh mà làm, việc không thành thì trả lại, đó mới là
đúng lý, lời của túc hạ sao không ngay thẳng vậy!”Tiên Chủ rất căm hận.
Ba theo đường Giao Chỉ đến Thục.
Linh Lăng tiên hiền truyện chép: Ba tới Giao Chỉ, đổi thành họ
Trương. Cùng Thái Thú Giao Chỉ Sĩ Khê(7) thương thảo kế sách không hợp, bèn
theo đường Tang Ca trở về. Bị giam giữ ở quận sở quận Ích Châu, Thái Thú (Ích Châu)
muốn giết Ba. Người Chủ Bộ can rằng: ‘’ Đây là kẻ phi thường, không thể giết
được. ‘’ Viên Chủ Bộ lại xin tự giải Ba lên trụ sở châu, yết kiến Ích Châu Mục
Lưu Chương. Cha Chương là Yên khi xưa do cha Ba là Tường tiến cử làm Hiếu Liêm,
(Chương) gặp lại Ba vô cùng xúc động, mỗi khi có việc lớn đều đến hỏi han
thương lượng. Thần Tùng Chi bàn rằng: Lưu Yên vào thời Hán Linh đế làm Kinh
Tông chánh Thái Thường, rồi ra nhận chức Ích Châu mục. Tường thì khi Tôn Kiên
quật khởi ở Trường Sa mới bắt đầu làm Giang Hạ Thái Thú, không thể tiến cử Yên
làm Hiếu Liêm. Nay xét rõ vậy. Ít lâu sau Tiên Chủ bình định Ích Châu. Ba có
lời tạ tội trái lệnh lúc trước, Tiên Chủ không trách.
Linh Lăng tiên hiền truyện chép: Chương sai Pháp Chính đón Lưu Bị,
Ba can rằng: ”Bị là người mạnh mẽ, vào (Thục) tất gây hoạ hoạn, không thể dung
nạp được.” (Bị) vào Thục, Ba lại can rằng: ”Nếu dùng Bị để đánh Trương Lỗ, ấy
là thả hổ về rừng núi vậy.’’ Chương không nghe, Ba đóng cửa cáo bệnh. Bị đánh
Thành Đô, ra lệnh trong quân rằng: ”Ai làm hại Lưu Ba, sẽ tru di đến ba họ.”
Thu phục được Ba, (Bị) rất mừng.
(Lưu Ba) được Gia Cát Khổng Minh tán dương cân nhắc tiến cử, Tiên
Chủ dùng làm Tả Tướng quân Tây Tào duyện.
Linh Lăng tiên hiền truyện chép: Trương Phi từng đến chỗ Ba ở, song
Ba không cùng bàn luận (với Phi), Phi lấy làm tức giận. Gia Cát Lượng nói với
Ba rằng: ”Trương Phi tuy đúng là võ tướng nhưng rất kính trọng quý mến túc hạ.
Nay Chúa công muốn hội tụ văn võ để xấy đại nghiệp, túc hạ tuy tính tình cao
khiết, trung trực giỏi giang nhưng sao thiếu thành ý hạ cố cùng hoà hợp vậy.”
Ba đáp rằng: ”Đại trượng phu ở trên đời, hướng đến anh hùng bốn bể mà quan hệ,
còn như với mấy gã nhà binh thì có chuyện gì mà nói.” Bị nghe chuyện, giận nói:
”Cô muốn yên định thiên hạ, nhưng Tử Sở cứ một mình gây rối. Lẽ nào muốn quay về
phía bắc, nếu chí hướng như vậy đâu có phải muốn giúp Cô xây thành đại nghiệp.”
Bị lại nói: ”Tử Sơ tài trí hơn người, như ta, có thể dùng được, ngoài ta ra khó
ai dùng nổi.” Lượng cũng nói: ”Ngồi trong màn trướng trù liệu kế sách, tôi còn
kém Tử Sơ xa lắm! Còn như so đo ở chỗ cầm dùi trống ra trước trăm quân, khiến
bách tính vui vẻ mà liều chết thì cũng còn phải nghe xem mọi người nghị luận
thế nào.’’ Lúc đầu đánh Lưu Chương, Bị hẹn với quân sĩ rằng: ”Nếu xong việc,
vạn vật trong kho đụn, Cô không can thiệp đến.’’ Khi chiếm được Thành Đô, quân
sĩ đều bỏ vũ khí chạy đến các kho tàng mà đua nhau lấy tài vật. Quân dụng chi
dùng không đủ, Bị rất lo buồn. Ba nói: ”Dễ thôi, nếu đúc ngay tiền trị giá một
trăm, điều hoà giá trị mọi vật, dùng thư lại làm quan kiểm soát.’’ Bị nghe
theo, chỉ khoảng vài tháng, kho tàng lại đầy đủ sung túc..
Năm Kiến An thứ hai mươi bốn, Tiên Chủ xưng Hán Trung vương, Ba làm
Thượng Thư, sau kế tục Pháp Chính làm Thượng Thư Lệnh. Gĩư hành vi khiêm hoà
liêm khiết, không lo đến sản nghiệp cá nhân, lại tự nghĩ việc quy phục của mình
không trong sáng, sợ mắc hiềm nghi nên cung kính trầm mặc, từ chối quan hệ
riêng tư, không phải việc công thì không lên tiếng.
Linh Lăng tiên hiền truyện chép: Thời bấy giờ ở Trung Nguyên lòng
người chưa định, nghe Bị ở Thục, bốn phương dài cổ ngóng chờ. Mà Bị cũng có ý
muốn mau chóng lên ngôi, Ba cho rằng (vội vàng) như vậy chưa yên được thiên hạ,
hãy tạm hoãn lại. Cùng Chủ bộ Ung Mậu can Bị, Bị mượn cớ khác giết Mậu, những
người ở xa vì thế không quy phục nữa..
Tiên Chủ xưng tôn hào, bố cáo trời đất thần minh, đại khái các loại
văn cáo sách mệnh đều do Ba chấp bút. Năm Chương Vũ thứ hai chết. Sau khi Ba
chết, quan Thượng Thư phó xạ nước Nguỵ là Trần Quần có viết thư gửi Thừa Tướng
Gia Cát Lượng hỏi thăm tin tức của Ba, gọi Ba là Lưu quân Tử Sơ, vô cùng kính
trọng.
Linh Lăng tiên hiền truyện chép: Phụ Ngô tướng quân Trương Chiêu
nói với Tôn Quyền về tính khí hẹp hòi làm nên tai hoạ của Ba, cho rằng chẳng
đáng phải cự tuyệt Trương Phi quá thế. Quyền nói: ‘’ Nếu Tử Sơ theo đời chìm
nổi, rộng rãi làm đẹp lòng Huyền Đức, sao đủ để xưng là cao sĩ ?’’
MÃ LƯƠNG TRUYỆN
Mã Lương tự Quý Thường, người đất Nghi Thành thuộc Tương Dương. Nhà
Lương có năm anh em đều là bậc anh tài, riêng Lương lông mày có sắc trắng,
người trong vùng thường nói: ‘’Họ Mã năm người, mày trắng tài nhất.’’ Tiên Chủ
thu được đất Kinh Châu, vời Lương làm Tòng sự. Lúc Tiên Chủ vào Thục, rồi Gia
Cát Lượng sau cũng theo vào, Lương ở lại Kinh Châu gửi thư cho Lượng nói:
‘’Nghe Lạc Thành đã đổ, đúng là vận hạnh trời ban. Tôn huynh gánh vác kỳ vọng
giúp đời, sắp xếp sự nghiệp quang quốc hẳn thấy điều này.
Thần Tùng Chi nghĩ Lương cùng Lượng kết nghĩa anh em, hoặc thành
bạn bè thân thiết; Lượng tuổi cao hơn, Lương quen gọi Lượng là ‘’tôn huynh’’.
Sau (Tiên Chủ) sai (Lương) sang sứ nước Ngô. Lương nói với Lượng
rằng: ‘’Nay phụng quốc mệnh, bàn việc hoà hảo hai nước, mừng thay cho Lương
được làm trung gian với Tôn Tướng quân.’’ Lượng nói: ‘’Xin ngài tự viết điệp
văn.’’ Lương liền viết rằng: ‘’Vua chúng tôi sai văn thần Mã Lương ở vào hàng
hậu bối, còn chưa có công danh qua thăm nối tình hữu ái. Thỉnh các vị nhân sĩ
hào kiệt, quan chức anh tài hai xứ Kinh Sở tận sức giúp cho để người thường làm
nổi việc hay, đảm đương công chuyện tốt đẹp đến tận cùng. Lòng thành mong được
xét xoi mà chấp thuận, cung kính mà nghe lệnh.’’ (Tôn) Quyền rất kính trọng.
Khi Tiên Chủ xưng tôn hào, lấy Lương làm Thị Trung. Lúc sang đông
đánh Ngô, sai Lương đến Vũ Lăng chiêu nạp người Man ở Ngũ Khê, thủ lĩnh người
Man đều nhận ấn tín, nghe theo mệnh lệnh. Tiên Chủ bại ở Di Lăng, Lương cũng bị
hại. Tiên chủ dùng con Lương là Bỉnh làm Kị Đô uý.
Em Lương là Tắc, tự Âú Thường, vốn làm Tòng Sự ở Kinh Châu theo
Tiên Chủ vào Thục, được phong Miên Trúc, rồi Thành Đô lệnh, sau làm Việt Tuyển
Thái Thú. Tài chí hơn người, giỏi bàn kế sách, Thưa Tướng Gia Cát Lượng trọng
đãi khác thường. Tiên Chủ khi sắp mất bảo Lượng rằng: ‘’Mã Tắc nói lời quá sự
thật, không thể đảm đương việc lớn, ngươi nên cẩn thận đánh giá người này!’’
Lượng còn không cho lời ấy là phải, dùng Tắc làm Tham Quân, thường cùng đàm
luận từ sáng đến tối.
Tương Dương ký chép: ‘’Năm Kiến Hưng thứ ba, Lượng đi đánh Nam
Trung, Tắc tiễn hơn mười dặm. Lượng hỏi: ‘’ Tuy cùng bàn thảo suốt năm qua, nay
còn có đổi thay sang suốt nào đáng nói ra chăng?’’ Tắc đáp: ‘’Người Nam Trung
dựa vào địa thế xa xôi hiểm trở , lâu nay không chịu phục tùng. Tuy hôm nay dẹp
tan, ngày mai lại làm phản. Nay ngài đang muốn tiến ra phương bắc thảo phạt
cường tặc. Bọn họ nếu biết được binh lực trong nước suy giảm sẽ lại tức khắc
làm loạn. Còn như giết sạch người Di để trừ hậu hoạn thật không phải việc làm
của người có lòng nhân, mà dẫu có muốn cũng không phải là việc có thể làm ngay
được. Kẻ biết cầm quân tất phải lấy công tâm làm đầu, phá thành là phụ, thâu
tóm lòng người là chính, cử binh quyết chiến là thứ yếu, xin Thừa Tướng xét kỹ
mà thu phục nhân tâm của người Di.’’ Lượng nghe lời ấy, tha Mạnh Hoạch, bình
định phương nam. Đương thời khi Lượng còn sống, người nam không dám làm phản.
Năm Kiến Hưng thứ sáu, Lượng dẫn quân ra hướng Kỳ Sơn, tướng tài
như bọn Nguỵ Diên, Ngô Nhất(10) khi ấy đều ra trận. Trong quân đàm luận mọi người
đều muốm lấy (Trương) Nghi(11) chấp chưởng quân tiên phong. Nhưng Lương không nghe, đề bạt Tắc
thống lĩnh đạo tiền quân, giao chiến với Nguỵ tướng Trương Cáp tại Nhai Đình,
bị Cáp đánh bại, quân sĩ tan tác hết. Lượng ra quân không thu được chút công
nào, phải rút về Hán Trung. Tắc bị giam trong ngục rồi chết, Lượng xót thương
rơi lệ. Lương chết năm ba mươi sáu tuổi, Tắc chết năm ba mươi chín tuổi.
Tương Dương ký chép: ”Tắc sắp chết gửi thư cho Lượng viết: ”Minh
công coi Tắc như con, Tắc coi Minh công như cha. Mong Minh công nhớ đến phong
thái giết Cổn mà dùng Vũ, để quan hệ bình sinh giữa chúng ta không vì việc này
mà đứt đoạn, Tắc chết xuống hoàng tuyền cũng không ân hận.” Đương thời ai cũng
rơi lệ xót thương. Lượng thân đến bái tế, lại đãi con côi của Tắc như khi Tắc
còn sống. Tưởng Uyển khi ấy phụng mệnh đến Hán Trung thăm hỏi có can Lượng
rằng: ”Xưa nước Sở giết Đắc Thần(12) mà Tấn văn công(13) lấy làm mừng rỡ. Nay
thiên hạ chưa định đã vội bỏ người tài chí, há chẳng đáng tiếc lắm sao.” Lượng
sa lệ đáp: ”Tôn Vũ sở dĩ có thể khắc chế người trong thiên hạ là nhờ có pháp
luật nghiêm minh. Âý là chuyện Dương Can(14) làm trái phép, Nguỵ Giáng(15) giết
tuỳ tùng. Nay bốn bể chia lìa, chính là lúc việc binh đao vừa mới bắt đầu, nếu
không thi hành pháp luật thì biết lấy gì để thảo phạt giặc giã.”
Tập Tạc Xỉ luận rằng: ”Gia Cát Lượng chẳng có tài lo toan hết mọi việc
quốc gia, há chẳng phải thế sao. Người làm tể phụ cần nghe lời can gián mà giúp
nước sao nỡ cố làm sai để thu xếp việc công; Sở Thành Vương khi xưa hôn ám mà
Đắc Thần chỉ biết nghĩ đến mình, cố đánh nên suy bại nặng nề.
Nay nước Thục ở nơi xa xôi nhỏ hẹp, nhân tài ít ỏi, lại giết người
tuấn kiệt, trở lại chọn dùng kẻ tầm thường, lấy pháp kỷ nghiêm minh thay cho
năng lực, ấy là cái lẽ không đánh mà bại vậy, dẫu có thành đại sự cũng khó lắm
thay. Vả lại Tiên Chủ từng răn bảo, Tắc không thể cho đảm đương việc lớn, há
chẳng phải nói hắn bất tài sao. Lượng nghe lời nhắc nhở mà chẳng vâng theo,
không xét ra Tắc là kẻ không dùng được. Làm Tể Tướng một nước, muốn tận dụng
hết tài lực trong thiên hạ nhưng không xét tài trao quyền, tuỳ chí giao việc.
Hiểu ra cơ sự thôi đã muộn, lại trái lời khuyên răn của chủ, xét việc trong
thất bại liền giết người hữu ích, thật khó gọi là trí giả vậy.”
TRẦN CHẤN TRUYỆN
Trần Chấn tự Hiếu Khởi, người Nam Dương. Tiên Chủ lên làm Kinh Châu Mục, lấy (Chấn) làm Tòng Sự, xếp đặt công
việc các quận, sau theo Tiên Chủ vào Thục. Đất Thục bình định xong, (Tiên Chủ)
dùng (Chấn) làm Thục Quận Bắc Bộ Đô Uý, nhân khi đổi tên các quận, sang làm Vấn
Sơn Thái Thú rồi chuyển về Kiện Vi. Năm Kiến Hưng thứ ba, được thăng Thượng Thư
sau lên Thượng Thư Lệnh, phụng mệnh sang sứ nước Ngô. Năm (Kiến Hưng) thứ bảy,
Tôn Quyền xưng tôn hiệu, (Hậu Chủ) lấy Chấn làm Vệ Uý, sang chúc mừng Quyền lên
ngôi. Gia Cát Lượng gửi thư cho anh là Cẩn(16) nói: ‘’ Hiếu Khởi tính tình
trung hậu, tuổi cao lại càng thuần phác, gặp lúc ngợi ca quan hệ Đông Tây, cùng
vui khúc ca hoà hiếu, chính là người tôn quý thích hợp. ‘’
Chấn vào đất Ngô, nói với quan viên tiếp đón rằng: ‘’ Đông cùng với
Tây, tín sứ vẫn thường qua lại, mũ đội che đỡ lẫn nhau, thể hiện tín ước tốt
đẹp từ thưở trước, ngày nay lại có tình hình mới. Đông thuận theo suy cử lên
ngôi đại bảo, thông cáo khắp nơi, tiếp nhận mệnh trời, phân định cương thổ,
người người hưởng ứng, chỗ chỗ theo về. Nếu vào lúc này, đồng lòng đánh giặc,
liệu có kẻ địch nào mà đương cự nổi. Triều đình phía Tây, vua tôi tất thảy đều
mừng đón tin lành tới. Chấn vốn bất tài, được làm sứ giả sang chúc hạ, phụng
mệnh bày tỏ tình giao hảo, bước qua cương giới vui muốn nhảy lên, vào (nước
Ngô) mà như trở về nhà. Phấn khích phát tiết ra có chỗ lố lăng, phạm điều kiêng
kị, thật đáng chê cười mãi. Tâm nguyện mong được bẩm bạch rõ lên trên, cũng là
việc người đi sứ kết tình hoà mục phải làm
vậy. Nay lập tức bố cáo với mọi nơi, hai nước nguyện ý kết minh. Theo dòng
xét việc, thấy quốc pháp hai bên có chỗ bất đồng nên sinh ra những điều nghi ngờ lo sợ, mong lấy việc mừng mà khuyên
răn dậy bảo, làm cho rõ lẽ giao hoà. ‘’ Chấn đến Vũ Xương, Tôn Quyền cùng Chấn
đăng đànthề ước, giao kết cùng chia thiên hạ: các châu Từ, Dự, U, Thanh thuộc
Ngô; các châu Tinh, Lương, Kí, Duyện thuộc Thục, còn đất châu Tư Lệ lấy của Hàm
Cốc làm ranh giới phân chia. Chấn về nước được phong Thành Dương đình hầu.
Năm (Kiến Hưng) thứ chín, Đô Hộ Lý Bình(17) phạm tội vu khống dối
lừa bị bãi chức; Gia Cát Lượng viết thư cho Trưởng Sử Tưởng Uyển, Thị Trung
Đổng Duẫn nói: ‘’ Hiếu Khởi lúc trước sang Ngô, cùng ta đàm luận biện pháp
thích đáng trong bụng chứa đầy binh giáp, không phải là người đồng hương phe
phái có thể thân gần lợi dụng được(18). Hiếu Khởi vẫn là tâm phúc của ta song chưa được nghe biết việc
phạm pháp xấu xa kia chứ không có liên quan gì đến mưu đồ phản phúc. Việc canh
tân sửa đổi nếu có chuyện gì, có thể cho Hiếu Khởi cùng biết. ‘’ Năm (Kiến
Hưng) thứ mười ba, Chấn chết. Con nối nghiệp.
CHÚ THÍCH
(1) Lưu Biểu giữ chức Kinh Châu mục nên gọi là Lưu Mục. Cũng có khi
gọi là Lưu Kinh Châu để phân biệt với Lưu Dự Châu Lưu Bị, Lưu Ích Châu Lưu Yên,
Lưu U Châu Lưu Ngu.
(2) Quân Linh Lăng.
(3) Cháu họ về bên ngoại của Lưu Bị.
(4) Chưa biết ai.
(5) Hiệp sĩ, triết gia Trung quốc sáng lập ra Mặc phái một trong
cửu lưu của Trung Hoa cổ đại.
(6) ⾮余⾝谋所能劝动 không biết dịch đã sát chưa.
(7) Các sách khác để là Sĩ Nhiếp.
(8) Bá Nha: Cao thủ âm nhạc Trung Hoa cổ đại.
(9) Tử Kỳ: Còn gọi là Chung Tử Kỳ rất hiểu âm luật tri âm của Bá
Nha.
(10) Ngô Nhất: Vốn là Ngô Ý, Trần Thọ kỵ húy Tư Mã Ý viết thành Ngô
Nhất
(11) Trương Nghi: Thục tướng, xem thêm Trương Nghi truyện
(12) Đắc Thần: Thành Đắc Thần mãnh tướng nước Sở dưới triều Sở
Thành vương thời Xuân Thu. Được ban miễn tử bài. Tiền nhiệm Lệnh doãn Đấu Tử
Văn tiến cử làm người kế nhiệm. Lúc Thần dẫn quân Sở đi tranh bá ở Trung
Nguyên, Sở Thành vương ra lệnh, chắc thắng mới đánh, bằng không phải xử hòa để
bảo tồn thực lực và vị thế nước Sở. Thần quyết giao chiến, đại bại ở Thành Bộc.
Bị Sở vương xử chết. Vi Giả nhắc chuyện miễn tử bài, cho rằng Thần kiêu dũng
nếu có người trầm tĩnh giúp đỡ tất có ngày khôi phục được uy danh quốc gia. Sở
Vương vội ban lệnh ân xá nhưng Thần đã chết.
(13) Tấn Văn Công: Một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu, đối thủ của Thành
Đắc Thần.
(14) (15) Dương Can, Ngụy Giáng: chưa biết là ai.
(16) Gia Cát Cẩn anh ruột Gia Cát Lượng, đại thần Đông Ngô.
(17) Lý Nghiêm, lúc Lưu Bị chết, lấy Lý Nghiêm là cố mệnh đại thần,
phong làm Trung Đô hộ lưu thủ Vĩnh An cung. Lý Nghiêm đổi tên là Lý Bình.
(18) Lý Nghiêm vốn người Nam Dương, đồng hương với Trần Chấn.
Mục lục:
Sự thật gây sốc về Quan Vũ: Cả đời chỉ chém đúng 2 tướng
Trả lờiXóaQuan Vũ là nhân vật có thật trong lịch sử, đứng đầu Ngũ hổ tướng nhà Thục Hán, có ảnh hưởng sâu rộng tới văn hóa Trung Quốc nói riêng và Đông Á nói chung. Nhưng hình tượng của Quan Vũ, qua tiểu thuyết “Tam quốc Diễn nghĩa”, đã được thần thành hóa quá mức đặc biệt là các chiến tích của ông. Bởi theo ghi chép chính sử, cả đời đánh trận, Quan Vũ thực ra chỉ… chém đầu đúng 2 tướng địch.
Quan Vũ người Giải Lương, quận Hà Đông (nay là Vận Thành, tỉnh Sơn Tây), tự Vân Trường, là một vị tướng thời cuối Đông Hán và Tam Quốc. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, Quan Vũ là anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi, góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán. Ông là người đứng đầu trong Ngũ Hổ tướng nhà Thục, gồm Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung.
Quan Vũ: Võ thánh trong văn học và truyền thuyết dân gian
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả Quan Vũ cao chín thước (tức hơn 2m), mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt. Hình tượng Quan Vũ thường gắn liền với Thanh Long yển nguyệt đao nặng 82kg và Ngựa Xích Thố. Dưới ngòi bút của La Quán Trung, Quan Vũ hiện lên như một biểu tượng bậc nhất của lòng hào hiệp, tinh thần trượng nghĩa và sự trung thành bên cạnh võ nghệ siêu quần.
Truyền thuyết trong dân gian cộng thêm ảnh hưởng to lớn từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa khiến hình tượng Quan Vũ trở nên thần thánh hóa. Quan Vũ được thờ phụng ở rất nhiều nơi, không chỉ tại Trung Quốc mà còn cả Việt Nam và nhiều nước Đông Á. Theo thống kê của các sử gia, Quan Vũ chính là nhân vật được phong tặng nhiều danh hiệu nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Thậm chí vào năm 1763, Vua Càn Long đời nhà Thanh còn tôn Quan Vũ làm “Sơn Tây Quan Phu Tử”, trở thành nhân vật duy nhất sau Khổng Tử nhận danh hiệu Phu Tử. Năm 1914 thời Trung Hoa Dân Quốc, Quan Vũ được thờ chung với Nhạc Phi - “Vũ liệt trung thần” bậc nhất lịch sử Trung Quốc tại Võ miếu.
Tóm lại, trong văn học, trong truyền thuyết và trong dân gian, Quan Vũ có một vị trí tối thượng, gần như là Một, là Duy Nhất, vượt xa những vị đại tướng hay các nhà quân sự công danh hiển hách có thực trong lịch sử Trung Quốc.
Dù vậy, hầu như tất thảy kết quả nghiên cứu của các sử gia Trung Quốc đều có chung 1 điểm: Vũ dũng cảm phi thường, sức định vạn người, trọng nghĩa, giữ tín, tuyệt đối trung thành nhưng lại kẻ kiêu ngạo, tự phụ nên phạm những sai lầm về chiến lược – chính trị ảnh hưởng lớn đế kế hoạnh định thiên hạ của nhà Thục Hán.
Cả đời đánh trận, Quan Vũ thực sự chém chết bao nhiêu tướng địch?
Trả lờiXóaCó rất nhiều chi tiết, câu chuyện về Quan Vũ được La Quán Trung thêu dệt, hư cấu, thậm chí thần thành hóa trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Đáng chú ý nhất chính là số lượng đại tướng phía đối thủ bị chém bởi Quan Vũ. Thống kê từ Tam Quốc Diễn Nghĩa chỉ ra rằng, Vũ trước sau chém 16 đại tướng khi giao tranh. Cụ thể như sau: Chém Trình Viễn Chi – tướng khởi nghĩa Khăn Vàng; Chém Hoa Hùng – tướng Đổng Trác; Chém Quản Hợi – dư đảng Khăn Vàng; Chém Tuân Chính – tướng của Viên Thuật; Chém Xa Trụ, tướng của Tào Tháo ở Từ châu; Chém Nhan Lương – tướng Viên Thiệu ở Bạch Mã; Chém Văn Xú – tướng Viên Thiệu ở Diên Tân; Chém Khổng Tú ở ải Đông Lĩnh; Chém Mạnh Thản ở Lạc Dương; Chém Hàn Phúc ở Lạc Dương; Chém Biện Hỉ ở Nghi Thủy, Chém Tân Kỳ ở Hoạt Châu; Chém Sái Dương ở Cổ Thành; Chém Hạ Hầu Tồn ở Tương Dương; Chém Dương Linh – tướng của Hàn Huyền ở Trường Sa.
Quan Vũ chém Nhan Lương ở trận Bạch Mã là sự kiện có thật trong chính sử
Tuy nhiên, trong 16 tướng tử trận kể trên, chỉ có duy nhất Nhan Lương được chính sử ghi nhận là do Quan Vũ chém. Tam Quốc chí chép: “Tháng 4 năm 200, Tào Tháo dẫn Quan Vũ và Trương Liêu đi cứu Bạch Mã; mặt khác lại chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Viên Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã. Quan Vũ ra trận, giết chết mãnh tướng của Viên Thiệu là Nhan Lương, giải vây cho thành Bạch Mã”.
15 nhân vật còn lại thì hết 11 là hư cấu trong khi 4 người khác không phải bị chết bởi đao của Quan Vũ, gồm Hoa Hùng (sử ghi bị Tôn Kiên bắt giết), Xa Trụ (thực ra là quan văn và bị giết bởi Lưu Bị), Văn Xú (chết trong đám loạn quân), Sái Dương (tử trận khi giao tranh với Lưu Bị ở Nhữ Nam). Ngoài ra, trong trận chiến ở Phàn Thành, Quan Vũ từng bắt sống Bàng Đức ở Khoái Khẩu và sau đó chém đầu tướng này. Đây là sự kiện có thật trong lịch sử.
Tóm lại, cả đời chinh chiến Quan Vũ chỉ chém đầu đúng 2 tướng địch là Nhan Lương khi giao tranh trực tiếp và Bàng Đức (ra lệnh hành quyêt sau khi khuyên hàng không được). Sau này con trai của Bàng Đức là Bàng Hội theo Chung Hội - Đặng Ngải đánh Thục, tiến thẳng Thành Đô và giết sạch gia tộc họ Quan.
Phần lớn các chiến công lừng lẫy của Quan Vũ là chuyện đời sau thêu dệt
Quan Vũ đã được La Quán Trung thần thánh hóa đến mức nào?
Thanh Long đao: Vũ khí của Quan Vũ, trong Tam Quốc diễn nghĩa là Thanh Long yển nguyệt đao, nặng hơn 80kg. Nhưng Thanh long đao của Vũ thực ra là do La Quán Trung hư cấu. Loại vũ khí này đến thời Đường mới xuất hiện. Chính sử không khi chép cụ thể Vũ thường dùng vũ khí gì. Khi giết Nhan Lương sử chép Quan Vũ đâm chết Nhan Lương;
Ngựa xích thố: Ngựa xích thố “ngày đi ngàn dặm” của Lã Bố, sau thuộc về Tào Tháo là có thật. Nhưng việc Tháo đem Xích thố tặng Vũ và từ đó nó trở thành người bạn đồng hành của Vũ qua bao trận chiến, là hoàn toàn hư cấu.
Đơn đao phó hội: Tôn Quyền muốn lấy lại Kinh châu, bày mưu dụ Quan Vũ đến hội ở Lục Khẩu và cho phục binh, nếu không đồng ý trả Kinh châu thì sẽ giết chết. Nhưng Quan Vũ quá uy dũng, vừa thủ thanh long đao trong tay, vừa nắm lấy Lỗ Túc khiến quân Ngô không thể động thủ, nhờ vậy trở về an toàn. Đấy là tóm lược điển tích trong Tam Quốc diễn nghĩa. Còn trong chính sử, sự kiện này không có thật.
Tam Quốc chí có đoạn chép như sau: “Năm 214, nhân lúc Lưu Bị vào Tây Xuyên và điều động thêm nhiều quân cùng các tướng giỏi Triệu Vân và Trương Phi, Tôn Quyền bèn sai Lỗ Túc và Lã Mông đánh mấy quận Kinh châu. Quân Đông Ngô đông đảo, chiếm 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa. Quan Vũ chỉ còn giữ được nửa quận Giang Hạ và Vũ Lăng. Lưu Bị ở Ích châu được tin, thấy tình hình Kinh châu nghiêm trọng, vội mang quân ra thành Công An thuộc quận Vũ Lăng, sai Quan Vũ dẫn quân đi đánh Lã Mông và Lỗ Túc. Tôn Quyền đích thân từ Ngô quận tiến ra Lục Khẩu phòng thủ và sai Lỗ Túc dẫn quân ra Ích Dương. Quan Vũ và Lỗ Túc gặp nhau tại Ích Dương. Hai bên hội đàm trước trận. Nói lý qua lại, Vũ thu quân về”.
Qua năm ải chém sáu tướng: Đây là chuyện được La Quán Trung hư cấu hoàn toàn. Theo chính sử: Đầu năm 200, trong khi Tào Tháo đang theo dõi sát sao tình hình mặt trận Quan Độ và điều quân để quyết một trận kịch chiến với Viên Thiệu thì Quan Vũ gói toàn bộ tặng phẩm của Tào Tháo để lại, viết một lá thư cáo biệt và lẳng lặng ra đi. Các tướng lính Ngụy muốn truy kích nhưng Tào Tháo ngăn lại không cho đuổi theo nhờ vậy Vũ bình an tìm về được với Lưu Bị.
Trả lờiXóaThu phục Hoàng Trung ở Trường Sa: Trận chiến này hoàn toàn không có thực. Quan Vũ và Hoàng Trung chưa từng giao chiến và càng không có chuyện Vũ dùng nhân nghĩa để thu phục Trung. Theo chính sử, chính Hoàng Trung đã khuyên thái thú Trường Sa – Hàn Huyền không đánh mà hàng Lưu Bị.
Con trai Quan Bình: Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung viết Quan Vũ gặp được Quan Bình rồi nhận làm con nuôi ở hành trình “Qua năm ải chém sáu tướng”. Dĩ nhiên, đây là sự kiện hư cấu. Quan Bình đúng là con của Quan Vũ, nhưng là con ruột (trưởng nam – con thứ của Vũ là Quan Hưng). Tháng Chạp năm 219, sau khi để mất Kinh Châu, hai cha con Vũ bị bộ tướng của Phan Chương bắt sống tại Lâm Thư và cùng bị hành quyết tại chỗ.
Theo Tầm Hoan (SHTT/DocBao)