XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Năm, 19 tháng 12, 2019

Tam Quốc Chí-Ngô Thư 2


LỖ TÚC TRUYỆN
Lỗ Túc tự Tử Kính, người huyện Đông Thành quận Lâm Hoài. Lúc sinh thì mất cha, ở với bà nội. Nhà rất nhiều tiền của, tính lại ưa bố thí. Bấy giờ thiên hạ đã loạn, Túc không lo việc nhà, chỉ phân chia tiền của, bán bỏ ruộng đất để cấp chẩn cho người nghèo cùng, giao kết với kẻ sĩ, rất được lòng người trong thôn ấp.
Chu Du làm Cư Sào Trưởng, đem mấy trăm người cố qua thăm Túc, và xin lương tiền. Nhà Túc có hai vựa lúa, mỗi vựa có ba nghìn hộc, Túc bèn đem một vựa trao cho Du, do đó Du thêm coi trọng Túc, bèn giao kết với nhau, làm bạn Kiều, Trát(1). Viên Thuật nghe danh Túc, liền cho làm Đông Thành Trưởng. Túc thấy Thuật không có phép tắc, không đủ cùng mưu việc, bèn đem hơn trăm người già yếu, người trẻ hào hiệp đi về phía nam, đến Cư Sào gặp Du. Lúc Du vượt sông về phía đông, nhân đó cùng đi.
Ngô thư viết: Túc có dáng vẻ khôi kì, thuở trẻ có chí lớn, ưa bày mưu lạ. Bấy giờ thiên hạ sắp loạn, bèn học đánh kiếm, bắn cung, cưỡi ngựa, chiêu tụ người trẻ tuổi, cấp cơm áo cho họ, qua lại núi Nam Sơn săn bắn, ngầm chọn bộ khúc, giảng võ luyện quân. Người già cả đều nói: “Nhà họ Lỗ suy kém mới sinh ra thằng cuồng ấy”! Sau đó hào kiệt cùng nổi dậy, Trung Châu rối loạn, túc bèn lệnh thuộc hạ nói: “Trung Quốc mất phép tắc, giặc cướp làm càn, vùng Hoài Tứ(2) không phải là đất sinh sôi, ta nghe nói miền Giang Đông có đồng lầy vạn dặm, dân giàu quân mạnh, có thể tránh nạn, ai chịu cùng theo ta đến miền đông để đợi xem sự biến không”? Thuộc hạ đều nghe lệnh, bèn sai người nhỏ yếu đi trước, kẻ khoẻ mạnh đi sau, cả thảy hơn ba trăm trai gái cùng đi. Quân kị trong châu đuổi theo, bọn Túc đi chậm, xua quân chống lại, bảo chúng nói: “Bọn khanh là trượng phu nên biết thế lớn. Nay thiên hạ quân loạn, có công chẳng được thưởng, chớ đuổi theo người không có tội, sao lại ức ép nhau thế”? Lại tự dựng khiên, lấy cung bắn chúng, tên đều xuyên thâu. Quân kị đã khen lời Túc, lại không chống được, bèn dắt nhau chạy về. Túc vượt sông đến gặp Sách, Sách cũng khen là kì khôi.
Lưu người nhà ở Khúc A. Gặp lúc bà nội chết, đem về táng ở Đông Thành.
Lưu Tử Dương làm bạn tốt với Túc, gửi thư cho Túc nói: “Ngày nay hào kiệt trong thiên hạ cùng nổi dậy, ta nhờ vào tiền của của ông mới được như ngày nay. Vì việc gấp mà về đón mẹ già, rồi không có việc gì đành ở lại tại Khúc A. Gần đây có người tên là Trịnh Bảo đang ở tại Sào Hồ, tụ hơn vạn người, đất đai màu mỡ, người quận Lư Giang phần lớn đến nương nhờ ở đấy, huống chi bọn ta đây” Xem hình thế đất ấy có thể tụ tập đông đảo, thời cơ không nên để mất, túc hạ mau đến đi”. Túc đáp thư theo kế ấy. Táng xong, về Khúc A, muốn đi về phía bắc. Vừa lúc Du đã dời mẹ Túc đến đất Ngô, túc kể tình trạng cho Du. Bấy giờ Sách đã hoăng, Quyền vẫn ở tại đất Ngô. Du bảo Túc nói: “Ngày xưa Mã Viện đáp Quang Vũ Đế nói: ‘Vào thời ngày nay, không chỉ vua chọn tôi, mà còn tôi cũng chọn vua’. Nay ông chủ kính người hiền yêu kẻ sĩ, thu mưu kì, nạp kế lạ, vả lại ta nghe nói có lời sấm của bậc hiền thánh ngày trước nói rằng người thay vận họ Lưu ứng tại miền đông nam. Suy xét thế cuộc, nay đang là buổi ấy vậy. Xoay dứt ngôi Đế để hợp mệnh trời, đây là lúc kẻ sĩ nhanh chóng nương rồng dựa phượng. Ta sắp làm thế, túc hạ chớ nên vướng vịn vào lời của Tử Dương”. Túc nghe lời này, Du nhân đó tiến cử Túc là người tài giúp đời được, lại tìm nhiều người như thế để lập nên nghiệp lớn, không nên khiến họ bỏ đi.
Quyền đã gặp Túc, cùng nói chuyện rất vui. Bọn khách đã bãi hội, Túc cũng từ tạ đi ra, bèn dẫn riêng Túc về, cùng ngôi trên giường uống rượu, nhân đó bàn ngầm rằng: “Nay nhà Hán nghiêng nguy, bốn phương rối loạn, ta nối nền nghiệp của cha anh, mưu lập công của Hoàn, Văn. Ông đã chịu theo, làm sao để giúp”? Túc đáp nói: “Ngày xưa Cao Đế khăng ngăng muốn tôn thờ Nghĩa Đế(3) mà không cướp ngôi, để cho Hạng Vũ gây hại. Tào Tháo ngày nay như Hạng Vũ ngày xưa, Tướng quân sao lại chỉ làm Hoàn Công mà thôi? Túc đã nghĩ kĩ rồi, nhà Hán không thể dựng lại, không thể không trừ Tào Tháo, bày kế cho Tướng quân, chỉ có làm thế chân vạc ở Giang Đông, đợi xem sự biến của thiên hạ. Khuôn phép như thế, cũng chẳng bị ghét. Vì sao? Phương bắc đang có nhiều việc, nhân lúc phương bắc có nhiều việc mà diệt trừ Hoàng Tổ, đến đánh Lưu Biểu, đi ngược chỗ cùng của sông dài mà chiếm lấy đất ấy, sau đó xưng hiệu Đế Vương mà mưu tranh thiên hạ, đấy là nghiệp lớn của Cao Tổ vậy”. Quyền nói: “Nay gắng sức lấy một vùng, như thế là giúp nhà Hán rồi, lời này không thể làm được”. Trương Chiêu cho là Túc không có chí nhún nhường, liền chê bai Túc, nói rằng Túc tuổi còn trẻ dại, chưa nên dùng. Quyền không vì thế mà vướng bận, lại càng coi trọng Túc. Ban áo quần màn trướng cho mẹ Túc, cho ở nhà nhiều tiền của như ở nhà cũ.
Lưu Biểu chết, Túc đến nói rằng: “Kinh Sở liền kề với ta, dòng nước thuận lên phía bắc, ngoài liền dải với miền Giang Hán, trong bao bọc gò, có cái vững của thành vàng, đồng lầy vạn dặm, dân chúng giàu có, niếu chiếm lấy đất ấy, đấy là cái của cải của Đế Vương vậy. Nay Biểu mới chết, hai người con vốn không hòa mục, các tướng trong quân lại đều mỗi người mỗi ý. Lại thêm Lưu Bị kiêu hùng, có hiềm khích với Tháo mà ở nhờ chỗ Biểu, Biểu ghét tài Bị mà không được dùng vậy. Nếu Bị hợp lòng với bên ấy, trên dưới cùng giúp, thì nên vỗ về, cùng kết thề ước; nếu có trái nghịch, nên chia rẽ mà đánh lấy để mưu việc lớn. Túc xin được vâng lệnh sang thăm hai con Biểu, nhân đó an ủi những người coi việc trong quân của bên ấy, cùng khuyên Bị vỗ về quân của Biểu, một lòng một ý, cùng chống Tào Tháo, Bị tất mừng mà vâng lệnh. Nếu bên ấy theo về, mới định được thiên hạ. Nay nếu không đến sớm, sợ rằng Tháo sẽ đến trước”. Quyền liền sai Túc đi. Đến Hạ Khẩu, nghe tin Tào Công đã hướng về Kinh Châu, đi gấp ngày đêm, kịp đến Nam Quận, lại nữa con Biểu là Tông đã hàng Tào Công, Bị kinh hoàng vội bỏ chạy, muốn vượt sông về phía nam. Túc bèn đi thẳng đón Bị, đến Trường Bản huyện Đương Dương, gặp với Bị, nói rõ lệnh của Quyền, đến lúc bày trận vững mạnh ở Giang Đông, khuyên Bị hợp sức với Quyền. Bị rất vui mừng. Bấy giờ Gia Cát Lượng đi theo với Bị, Túc bảo Lượng nói: “Ta là bạn của Tử Du”(4). Liền cùng giao kết. Bị bèn đến Hạ Khẩu, sai Lượng làm sứ giả đến chỗ Quyền, Túc cũng quay về.
Thần là Tùng Chi xét: Lưu Bị hợp sức với Quyền cùng chống Trung Quốc, đều là mưu ý của Túc. Lại bảo Gia Cát Lượng rằng: “Ta là bạn của Tử  Du”, vậy thì Lượng thường nghe nói đến Túc rồi. Mà truyện về Lượng trong Thục thư nói: “Lượng bày mưu liên hoành mà khuyên Quyền, Quyền bèn cả mừng”, cứ như là kế ấy bắt đầu có từ Lượng. Như quan chép sử của hai nước đều chép những điều mà mình được nghe nói đến, lại muốn nêu cao cái hay đẹp của nước mình, cùng lấy công về nước mình. Nay chép hai sách ấy làm chứng rằng kế ấy cùng xuất từ một người, vậy mà lẫn lộn như thế, đấy không phải là phép tắc của việc chép sử vậy.
Gặp lúc Quyền biết được tin Tào Công muốn đánh phía đông, bàn với các tướng, đều khuyên Quyền đón Tào Công, nhưng riêng Túc không nói. Quyền đứng dậy thay áo, Túc theo vào sau nhà, Quyền biết ý ấy, cầm tay Túc nói: “Khanh muốn nói gì”? Túc đáp nói: “Nếu xét ý của mọi người, chỉ muốn làm cho Tướng quân lầm lỡ, không đủ để cùng mưu việc lớn. Nay Túc đón Tháo được thôi, còn Tướng quân thì không nên vậy. Vì sao nói thế? Là vì nay Túc đón Tháo, Tháo tất đem Túc về trao cho thôn ấp, ban cho chức tước, vẫn không mất chức Hạ tào Tòng sự, ngồi xe bò, đi theo quan quân, giao du với kẻ sĩ, làm quan chẳng dưới châu quận vậy. Tướng quân đón Tháo, muốn được chỗ yên? Mong sớm định kế lớn, chớ dùng lời bàn của mọi người”. Quyền than thở nói: “Đấy là mọi người cố giữ lời bàn ấy, rất làm mất sự trông đợi của ta; nay khanh bày mở kế lớn, thật giống với ta, đấy là trời đem khanh cho ta vậy”.
Ngụy thư và Cửu Châu Xuân thu viết: Tào Công đánh Kinh Châu, Tôn Quyền kinh hãi, Lỗ Túc thật muốn khuyên Quyền chống Tào Công, bèn nói khích Quyền nói: “Tào Công bên ấy thật là địch mạnh, vừa chiếm đất của Viên Thiệu, quân mã rất khỏe, thừa oai thắng trận mà đánh nước tang loạn, tất chiếm được vậy. Không bằng sai quân giúp Tào Công, lại chở người nhà Tướng quân đến đất Nghiệp luôn; nếu không, nguy đến nơi”. Quyền cả giận, muốn chém Túc, Túc nhân đó nói: “Nay việc đã gấp, phải có mưu khác, sao không sai quân giúp Lưu Bị mà lại muốn chém ta”? Quyền cho là phải, bèn sai Chu Du giúp Bị. Tôn Thịnh nói: “Ngô thư và Giang Biểu truyện cho rằng Lỗ Túc một lần gặp Tôn Quyền liền nói ra kế chống Tào Công và bàn về việc Đế Vương, cái chết của Lưu Biểu, lại xin đi sứ để xem sự biến, như thế là không có dịp để quay về nói khích Quyền đón Tào Công vậy. Lại nữa, bấy giờ nhiều người khuyên đón Tào Công, lại nói chỉ muốn chém Túc, lại càng chứng tỏ không có lời nói khích ấy.
Bấy giờ Chu Du được sai đến tại Bà Dương, Túc khuyên Quyền đến gọi Du về. Bèn dùng Du làm việc, lấy Túc làm Tán quân Hiệu úy, giúp bày mưu kế. Tào Công thua chạy, Túc liền về trước, Quyền sai các tướng đón Túc. Túc sắp vào cửa bái, Quyền đã ra tiếp Túc, nhân đó bảo nói: “Tử Kính, ta cầm yên xuống ngựa mà đón khanh, đủ để làm khanh rạng rỡ chưa”? Túc đi nhanh đến đáp nói: “Chưa vậy”. Mọi người nghe nói thế, chăng ai không sửng sốt. Đến ngồi, thong thả cầm roi nói rằng: “Mong hãy đem oai đức ban khắp bốn cõi, thổi bay chín châu, làm nên nghiệp Đế, lúc đó lấy xe êm bánh mềm mà đón Túc, như thế mới rạng rỡ”. Quyền vỗ tay cười vui.
Sau đó Bị đến kinh gặp Quyền, xin trông coi Kinh Châu, chỉ có Túc khuyên Quyền cho Bị mượn đất ấy để cùng chống Tào Công.
Hán Tấn Xuân thu viết: Lữ Phạm khuyên giữ Bị ở lại, Túc nói: “Không nên. Oai thần của Tướng quân dẫu hơn đời, nhưng thế lực của Tào Công rất mạnh, mới vào Kinh Châu, ân tín chưa rõ, nên cho Bị mượn, sai vỗ về đất ấy, khiến Tháo có nhiều kẻ địch, rồi tự lập phe đảng riêng, đấy là kế hay hơn cả”. Quyền liền nghe theo.
Tào Công nghe tin Quyền đem đất đai cho Bị dựng nghiệp, đang viết thư mà quẳng bút xuống đất.
Chu Du bệnh khốn, dâng sớ nói: “Ngày nay thiên hạ sắp có việc quân, đấy là điều mà Du ngày đêm lo lắng, mong bậc chí tôn(5) mưu nghĩ trước khi có việc, rồi mới vui vẻ sau. Nay đã thành kẻ địch với Tào Tháo, mà Lưu Bị gần ở Công An, bờ cõi gần kề, nhưng trăm họ chưa theo, nên chọn tướng giỏi để đánh dẹp hắn đi. Lỗ Túc có mưu trí nên dùng, xin lấy Túc thay Du. Nay Du sắp lìa đời, đấy là điều mà Du mong mỏi lần cuối vậy”.
Giang Biểu truyện viết: Lúc trước Du bệnh khốn, gửi thư cho Quyền nói: “Du vì tài kém, ngày trước may mắn được nhận lệnh đánh giặc, làm người tim bụng, bèn lạm giữ chức cao, thống lĩnh quân mã, chí cầm cung roi, tự  xét việc quân. Tự muốn định yên Ba Thục, sau đó lấy Tương Dương, cậy nhờ vào oai linh của tổ tiên, vẫn tự vắt tóc suy nghĩ. Nhưng lại không cẩn thận, trên đường mắc bệnh nặng, trước đã mắc bệnh, ngày càng nặng không giảm. Người ta tất bị chết, chỉ là sớm hay muộn thôi, thật là không đáng tiếc, nhưng hận nỗi chí nhỏ ấy chưa thành, không được vâng mệnh giúp vua nữa.
Nay Tào Công tại phía bắc, bờ cõi chưa yên. Lưu Bị ở nhờ, như có nuôi hổ. Việc trong thiên hạ, chia biết kết cuộc ra sao, đây là lúc bầy tôi nên nếm mật(6), bậc chí tôn phải xét nghĩ vậy. Lỗ Túc trung liệt, làm việc chẳng lầm, nên cho thay Du. Người ta sắp chết, lời nói cũng hay, nếu nghe lời này, thân Du chết cũng không mục”. Xét lời văn này so với lời văn của truyện gốc, ý nghĩa dẫu giống, nhưng lời lẽ khác hơn vậy.
Liền bái Phấn vũ Tướng quân, thay Du lĩnh quân. Du lĩnh hơn bốn nghìn quân sĩ, phụng ấp có bốn huyện, đều giao cho Túc. Lệnh Trình Phổ lĩnh chức Nam Quận Thái thú. Túc lúc đầu đến Giang Lăng, sau lại xuống đóng quân ở Lục Khẩu, ân uy lên cao, thu nạp thêm hơn vạn quân, bái Hán Xương Thái thú, Thiên Tướng quân. Năm thứ mười chín, theo Quyền phá Hoản Thành, chuyền làm Hoành giang Tướng quân.
Lúc đầu, Ích Châu Mục là Lưu Chương làm phép tắc rơi rụng, Chu Du, Cam Ninh cùng khuyên Quyền lấy đất Thục, Quyền giao cho Bị, Bị trong muốn tự định, vẫn vờ báo thư nói: “Bị mượn cớ là họ hàng với Chương, cậy dựa anh linh của tổ tiên để giúp nhà Hán. Nay Chương gây tội cho tả hữu, riêng Bị kính sợ, không dám báo tin, mong đượng tha thứ. Nếu không được tha, Bị sẽ bỏ đi vào rừng núi”. Sau Bị về phía tây đánh Chương, để Quan Vũ ở lại giữ, Quyền nói: “Con hổ ranh lại dám lừa dối ta”! Đến lúc chỗ Vũ liền cõi với chỗ Túc, mấy lần gây nghi ngờ, tranh chia bờ cõi, Túc thường vui vẻ vỗ về Vũ. Bị đã định Ích Châu, Quyền xin lấy lại các quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương, nhưng Bị không theo lệnh, Quyền sai Lữ Mông đem quân đến lấy. Bị nghe tin, tự về Công An, sai Vũ tranh ba quận. Túc trú ở Ích Dương, chống nhau với Vũ. Túc mời Vũ gặp nhau, đều phục quân mã trên bờ cách trăm bước, chỉ xin đem quân cầm một thanh đao đến gặp. Túc nhân đó trách mắng Vũ nói: “Nhà nước nhún nhường vốn là đem đất đai cho các ông mượn, các ông vốn thua trận từ xa đến, không có gì làm đất riêng vậy. Nay đã lấy Ích Châu, vậy mà không có ý trả về, nhà nước chỉ xin lại ba quận, lại không chịu nghe”. Lời nói chưa xong, có một người ngồi nói: “Đất đai chỉ thuộc về người có đức mà thôi, muốn có dễ sao”! Túc lớn tiếng mắng người đó, lời lẽ rất khẩn thiết, Vũ cầm đao đứng dậy nói: “Đấy là việc của nhà nước, ta sao biết được”! Liếc mắt sai người ấy đi ra.
Ngô thư viết: Túc muốn gặp nói chuyện với Vũ, các tướng nghi sợ có biến, bàn không nên đến. Túc nói: “Việc của ngày nay nên cùng nói cho rõ. Lưu Bị quên ơn, việc đúng hay sai còn chưa quyết, Vũ cũng dám muốn làm trái lệnh sao”! Bèn liền đến chỗ Vũ. Vũ nói: “Ở trận Ô Lâm, thân Tả Tướng quân(7) ở trong trận, ngủ chẳng cởi giáp, gắng sức phá quân Ngụy, há không vất vả, không được phong một mảnh đất nhỏ sao, mà sao túc hạ đến muốn thu lại đất vậy”! Túc nói: “Không phải. Lúc trước mới cùng Lưu Dự Châu đứng xem sự biến ở Trường Bản, quân của Lưu Dự Châu không đủ một đội, kế cùng lo lắm, chí khí suy yếu, chỉ mong muốn đi xa tránh nạn, chẳng mong được như thế. Chủ ta thương xót Lưu Dự Châu không có chỗ ở, không yêu lấy công lao của quân sĩ mở đất, sai các chỗ che chở cứu giúp nạn, vậy mà Lưu Dự Châu mưu muốn chiếm riêng, đức hạnh lầm lỡ, tiếng tốt hủy hoại.
Nay đã lấy được Tây Châu(8) rồi, lại muốn cắt chiểm cả Kinh Châu, việc này dẫu kẻ thất phu cũng không nỡ làm sai, huống chi là người chủ đứng đầu của vạn người! Túc nghe nói rằng tham của mà vứt đạo nghĩa, tất bị họa đến thân. Ta thấy ông gánh vác việc lớn, đã không làm rõ đạo lí, chia rành chức phận để giữ lễ nghĩa, mà lại cậy dựa quân gầy yếu để mưu tính tranh giành, đem quân già yếu, sao mà giành lấy được”? Vũ không đáp được.
Bị bèn chia sông Tương làm ranh giới, do đó bãi quân.
Túc chết vào năm bốn mươi sáu tuổi, bấy giờ là năm Kiến An thứ hai mươi hai. Quyền bày lễ cử tang, lại đến thăm mộ Túc. Gia Cát Lượng cũng lấy lễ cử tang.
Ngô thư viết: Túc là người thẳng thắn, ít dùng ngọc báu, trong ngoài đều tiết kiệm, không kết giao với kẻ tầm thường. Trị quân nghiêm chỉnh, đề ra phép cấm, dẫu lúc vào trận, tay không bỏ sách vở. Lại giỏi bàn luận, thông thạo văn từ, ý tứ sâu xa, sáng suốt hơn người. Sau Chu Du, đứng đầu là Túc vậy. Quyền xưng tôn hiệu, lên đàn, ngoảnh bảo công khanh nói: “Ngày trước Lỗ Tử Kính từng xét việc này, có thể nói là biết rất rõ thời thế vậy”.
Túc có người con còn trong bụng mẹ(9) là Thục, Nhu Tu Đốc là Trương Thừa nói là tất sẽ làm chức cao. Giữa năm Vĩnh An, làm Chiêu Vũ Tướng quân, Đô Hương Hầu, Vũ Xương Đốc. Giữa năm Kiến Hành, ban Giả tiết, chuyển làm Hạ Khẩu Đốc. Chỗ làm quan nghiêm chỉnh, có tài lược. Năm Phượng Hoàng thứ ba thì chết. Con là Mục thay tước, lĩnh quân mã.

LỮ MÔNG TRUYỆN
Lữ Mông tự Tử Minh, người huyện Phú Bi quận Nhữ Nam. Thuở trẻ vượt sông về phía nam, nương nhờ chồng của chị là Đặng Đương. Đương làm tướng của Sách, nhiều lần đánh người Sơn Việt. Bấy giờ Mông mới mười lăm, mười sáu tuổi, lén đi theo Đương đánh giặc, Đương ngoảnh nhìn mà kinh ngạc, quát mắng cũng không ngăn cấm được. Trở về báo cho mẹ Mông, mẹ giận muốn phạt tội Mông, Mông nói: “Nghèo hèn khó sống yên được, nếu sửa lầm mà gắng lập công, tất sẽ giàu có. Vả lại không vào hang hổ, sao bắt được hổ con”? Mẹ thương mà tha cho. Bấy giờ bọn quan lại của của Đương thấy Mông tuổi nhỏ mà coi thường Mông, nói: “Thằng nhóc ấy làm được gì? Chỉ muốn lấy thịt mà nuôi hổ thôi”. Ngày sau gặp với Mông, lại làm nhục Mông, Mông cả giận, cầm đao giết bọn quan lại rồi chạy ra, trốn
đến nhà của viên tước Ấp Tử(10) là Trịnh Trường. Lại ra chỗ Hiệu úy Viên Hùng để tự thú tội, nhân đó báo lên trên, Sách gọi đến gặp cho là lạ, bèn cho làm tả hữu.
Được vài năm, Đặng Đương chết, Trương Chiêu cử Mông thay Đương, bái Biệt bộ Tư mã. Quyền coi việc, thấy các tướng sĩ trẻ đã ít lại dùng kém, muốn thu hợp lại. Mông bèn ngầm vay tiền, mua vải làm áo quần cho quân sĩ, đến ngày kén chọn, bày trận sáng rõ, luyện tập quân sĩ, Quyền thấy mà vui mừng, tăng quân cho Mông. Theo đi đánh quận Đan Dương, chỗ đi qua đều lập công, bái Bình bắc Đô úy, lĩnh chức Quảng Đức Trưởng.
Lúc đánh Hoảng Tổ, Tổ sai Đô đốc Trần Tựu đem quân thủy ra đón đánh. Mông xua quân đi trước, tự chém đầu Tựu, tướng sĩ thừa thắng đến đánh thành của Tổ. Tổ nghe tin Tựu chết, bỏ thành chạy, đem quân đuổi bắt Tổ. Quyền nói: “Thắng trận này là do bắt được Trần Tựu trước vậy”. Lấy Mông làm Hoành dã Trung lang tướng, ban cho nghìn vạn thoi tiền.
Năm đó, lại cùng bọn Chu Du, Trình Phổ đi về phía tây phá Tào Công ở Ô Lâm, vây Tào Nhân ở Nam Quận. Tướng của Ích Châu là Tập Túc đem quân đến hàng, Du xin lấy quân của Túc tăng cho Mông. Mông rất khen Túc có đảm dũng, lại ngưỡng mộ mà từ xa đến, về nghĩa thì nên tăng cho quân mà không nên đoạt lấy quân vậy. Quyền khen lời ấy, trả quân cho Túc. Du sai Cam Ninh đến chiếm Di Lăng, Tào Nhân chia quân đánh Ninh, Ninh nguy cấp, sai sứ đến xin cứu. Các tướng cho là quân ít không đủ chia, Mông bảo Du và Phổ rằng: “Để Lăng Công Tích(11) ở lại, Mông cùng ông đi giải bỏ nguy cấp, tình thế ấy cũng không lâu nữa, Mông tin chắc Công Tích giữ được mười ngày vậy”. Lại khuyên Du chia sai ba trăm người lấy củi gỗ chặn ở đường hiểm, giặc chạy qua sẽ lấy được ngựa của giặc. Du nghe theo. Đem quân đến Di Lăng, liền hôm đó giao chiến, giết đến quá nửa. Địch đuổi đêm bỏ trốn, đi đường gặp củi gỗ, quân kị đều bỏ ngựa mà chạy bộ, quân đuổi gấp đến đánh, bắt được ba trăm con ngựa, dùng thuyền chở về. Do đó khí thế của tướng sĩ tăng lên gấp đôi, liền qua sông đóng trại, cùng đánh nhau với địch, Tào Nhân phải rút chạy, bèn chiếm Nam Quận, vỗ về Kinh Châu. Trở về, bái Thiên Tướng quân, lĩnh chức Tầm Dương Lệnh.
Lỗ Túc thay Chu Du, đang đi đến Lục Khẩu, qua dưới trại của Mông. Ý Túc còn coi thường Mông, có người khuyên Túc nói: “Công danh của Lữ Tướng quân ngày càng rạng rỡ, không nên giữ ý ganh chống, ông nên vào thăm”. Bèn đến chỗ Mông. Lúc uống rượu, Mông hỏi Túc nói: “Ông nhận trách nhiệm nặng nề, ở chỗ gần cõi với Quan Vũ, sắp có mưu kế gì để phòng bị điều không may”? Túc do dự đáp nói: “Tùy lúc mà làm”. Mông nói: “Nay
đông tây dẫu là một nhà(12), nhưng Quan Vũ thật là hổ gấu vậy, sao lại  không phòng bị trước”? Nhân đó giúp Túc bày năm kế. Túc do đó rời chiếu đến vỗ lưng Mông nói: “Lữ Tử Minh, ta không biết tài lược của ông lại thấu suốt như thế”. Bèn bái tạ mẹ Mông, kết làm bạn rồi đi.
Giang Biểu truyện viết: Lúc trước, Quyền bảo Mông và Tưởng Khâm nói: “Nay các ông cùng gánh vác việc công, nên học hỏi để tự mở mang hiểu biết thêm”. Mông nói: “Trong quân thường có nhiều việc, e rằng không có lúc rảnh rỗi đọc sách”. Quyền nói: “Ta há muốn các khanh đọc sách để làm kẻ sĩ học rộng sao? Chỉ muốn sai làm các việc lặn lội săn bắn thôi. Các khanh nói có nhiều việc nhưng sao bằng ta? Ta thuở trẻ đọc qua Thi, Thư, Lễ kí, Tả truyện, Quốc ngữ, chỉ không đọc Dịch. Đến lúc nắm việc đến nay, đọc thêm Tam sử(13), các sách nhà binh, tự cho là có ích nhiều. Như hai người khanh, tính ý sáng suốt, học tất hiểu được, sao lại không đọc đi? Nên nhanh đọc Tôn Tử, Lục thao, Tả truyện, Quốc ngữ và Tam sử. Khổng Tử nói: ‘Cả ngày không ăn, cả đêm không ngủ mà nghĩ, là không có ích vậy, không bằng học vậy’. Quan Vũ coi việc binh mã, tay không rời sách. Mạnh Đức cũng tự nói là dẫu già nhưng ham học. Các khanh sao lại không tự cố gắng thế”? Mông bắt đầu theo học, dốc chí không ngừng, xem qua các sách, dẫu nhà Nho cũng chẳng hơn được. Sau Lỗ Túc được thay Chu Du, qua chỗ Mông bàn bạc, thường muốn chịu nhún. Túc vỗ lưng Mông nói: “Ta từng nói em lớn có tài võ thôi, nhưng kẻ học rộng thời nay, chẳng ai bằng anh Mông của đất Ngô”. Mông nói: “Kẻ sĩ sau ba ngày lại trố mắt mà nhìn(14). Lời bàn ngày nay của anh lớn, cũng xứng bằng Nhưỡng Hầu(15) chăng? Nay anh thay Công Cẩn, liên tiếp gặp khó, lại ở gần với Quan Vũ. Người này làm chức lớn
mà vẫn ham học, xem qua Tả truyện mà đều nói ra miệng được, lại sáng dạ có chí hùng, nhưng tính ngang bướng tự kiêu, ưa lấn áp người khác. Nay đối địch với người này, nên bày kế lạ để chống đỡ mới được”. Ngầm giúp Túc bày ba kế, Túc kính nghe theo, giữ kín không nói ra. Quyền thường than rằng: “Người  ta  làm  chức  cao  mà vẫn  học  thêm,  như  Lữ  Mông, Tưởng Khâm, có lẽ chẳng ai theo kịp. Giàu có rạng rỡ, lại giữ tiết tháo ham học, hiểu thấu sách truyện, khinh tiền trọng nghĩa, đi đến đâu lập công đến đó, được phong đất đai, cũng chẳng tốt sao”!
Bấy giờ Mông ở gần kề với đồn trại của Thành Đương, Tống Định, Từ Cố, lúc ba tướng chết, con em nhỏ dại, Quyền đem hết quân của họ trao cho Mông, Mông cố từ chối, kể rõ bọn Cố chăm chỉ giúp nước, con em dẫu nhỏ, nhưng không nên bỏ. Ba lần dâng thư, Quyền mới nghe. Do đó Mông lại giúp chọn thầy, sai giúp dạy họ, lòng tốt của Mông đại khái như thế.
Ngụy sai người quận Lư Giang là Tạ Kì làm Kì Xuân Điển nông, đóng trại làm ruộng ở huyện Hoản. Mông sai người đến dụ, không theo, liền rình chờ đánh úp, Kì bèn rút lui, bộ khúc của Kì là bọn Tôn Tử Tài, Tống Hòa đều mang cõng người già yếu đến hàng Mông. Sau theo Quyền chống Tào Công ở Nhu Tu, mấy lần dâng kế lạ, lại khuyên Quyền men theo cửa sông mà dựng ụ, do đó phòng giữ rất vững.
Ngô lục viết: Quyền muốn dựng ụ, các tướng đều nói: “Lên bờ mà đánh giặc, chân trần mà lên thuyền, dựng ụ làm gì”? Lữ Mông nói: “Quân không có đồn vững, đánh không thắng trăm trận, nếu lúc gặp giặc, chống cả kị bộ, không may bị xuống sông, lúc đó còn vào thuyền được không”? Quyền nói: “Hay”. Bèn làm ụ.
Tào Công không chiếm được mà rút quân.
Tào Công sai Chu Quang làm Lư Giang Thái thú, đóng quân ở huyện Hoản, mở rộng ruộng lúa, lại sai người lén đi chiêu dụ tướng giặc ở Bà Dương, sai làm nội ứng. Mông nói: “Ruộng lúa ở huyện Hoãn màu mỡ, nếu gặp vào vụ chín, quân bên ấy tất được tăng, cứ được vài năm, thế của Tháo tất lên, nên sớm trừ đi”. Bèn kể rõ tình trạng, do đó Quyền tự đi đánh huyện Hoản, gọi các tướng đến hỏi bày kế sách.
Ngô thư viết: Các tướng đều khuyên đắp gò đất, sửa chữa binh khí, Mông bước ra nói: “Đắp sửa gò đất và binh khí thì phải mất nhiều ngày mới xong, đắp xong gò đất thì quân cứu ở ngoài tất đến, lúc ấy khó mà đánh được. Vả lại đang lúc nước mưa ngấm vào, nếu ở lại lâu ngày, nước tất ngấm hết, đường về lại khó khăn, Mông cho rằng đấy là thế nguy. Nay xem thành này không được vững lắm, nếu lấy khí mạnh của ba quân, cùng đánh bốn mặt, thì chiếm được không lâu nữa, vừa kịp lúc nước đã rút, đấy là kế hơn cả vậy”. Quyền nghe theo.
Mông lại cử Cam Ninh đốc quân lên thành, đánh ở phía trước, Mông đem quân tinh nhuệ theo sau. Gần sáng đến đánh, Mông tự đánh trống, quân sĩ đều trèo thang mà lên, đến giờ ăn thì phá thành. Sau đó Trương Liêu đến Giáp Thạch, nghe tin thành đã bị phá, liền rút về. Quyền khen công ấy, liền bái Lư Giang Thái thú. Bắt được người ngựa ở trận ấy đều ban cho Mông, lại ban riêng sáu trăm người làm ruộng, ba mươi quan thuộc ở Tầm Dương; Mông về Tầm Dương, chưa lâu thì giặc ở Lư Lăng nổi dậy, các tướng đánh dẹp không bắt được, Quyền nói: “Cả bầy trăm con chim tợn, không bằng một con chim ngạc”(16). Lại lệnh Mông đánh giặc. Mông đến, giết kẻ đứng đầu của giặc, bọn còn lại đều thả ra, cho làm dân thường.
Bấy giờ Lưu Bị sai Quan Vũ đóng giữ, chiếm cả đất Kinh, Quyền sai Mông đến phía tây lấy ba quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương. Mông gửi thư đến hai quận, lướt theo thần phục, chỉ có Linh Lăng Thái thú Hách Phổ giữ thành không hàng. Do đó Bị từ đất Thục tự đến Công An, sai Vũ tranh ba quận. Bấy giờ Quyền đóng quân ở Lục Khẩu, sai Lỗ Túc đem vạn quân đóng đồn ở Ích Dương chống Vũ, lại gửi thư đến gọi Mông, sai bỏ  Linh Lăng, nhanh về giúp Túc. Lúc đầu, Mông đã bình Trường Sa, đang đến Linh Lăng, qua huyện Linh, đem theo người quận Nam Dương là Đặng Huyền Chi, Huyền Chi là bạn cũ của Hách Phổ, muốn sai dụ Phổ. Lúc nhận thư gọi về. Mông giữ kín, buổi đêm gọi các tướng đến, trao cho kế sách, lệnh đến sớm đánh thành, ngoảnh bảo Huyền Chi nói: “Nghe nói Hách Thái thú là người trung nghĩa trong đời, cũng mong là làm như vậy, nhưng không biết thời thế. Tả Tướng quân tại Hán Trung, bị Hạ Hầu Uyên vây. Quan Vũ tại Nam Quận, nay bậc chí tôn tự đến đấy. Gần đây phá trại gốc ở đất Phàn, cứu huyện Linh, lại bị Tôn Quy phá. Đấy đều là việc ở trước mắt, là việc mà ông tự thấy vậy. Bên ấy đầu đuôi treo ngược, tránh chết chẳng được, há có sức thừa mà giữ ở đấy được sao? Nay quân sĩ của ta tinh nhuệ, một lòng vâng mệnh, bậc chí tôn cũng sai quân đến, theo nhau trên đường. Nay Tử Thái(17) đem tính mạng treo trong sớm tối để đợi quân cứu không trông mong được, như cá trong vết chân trâu(18), muốn dựa vào miền Giang Hán, biết là không
thể cứu cũng rõ rồi vậy. Nếu Tử Thái được quân sĩ dốc lòng, chống giữ ở thành lẻ, vẫn kéo dài được trong sớm tối, để đợi ta quay về, như thế cũng được. Nhưng nay kế sức ta đã nghĩ kĩ, lúc đến đánh thành, chẳng được mấy ngày thì sẽ phá được, sau khi phá thành, thân chết có ích gì không? Khiến cho mẹ già trăm tuổi tóc bạc bị giết, há chẳng đau xót sao? Xét thấy người này không được nghe tin bên ngoài, vẫn mong chờ quân cứu, cho nên mới như thế, ông nên gặp hắn, nói rõ họa phúc”. Huyền Chi gặp Phổ, cùng truyền ý của Mông. Phổ sợ mà nghe theo. Huyền Chi về báo cho Mông trước, sau đó Phổ liền đến. Mông sai bốn tướng chuẩn bị, đều chọn trăm người. Phổ đi ra, lại vào giữ thành. Chốc lát Phổ ra, Mông đón cầm tay Phổ, cùng nhau xuống thuyền. Nói xong, đem thư ra cho Phổ xem, nhân đó vỗ tay cười lớn, Phổ thấy thư, biết Bị tại Công An, mà Vũ tại Ích Dương, tiếc giận đành trao thành. Mông để Tôn Hà ở lại, giao cho việc trông coi. Liền hôm đó, dẫn quân đến Ích Dương. Lưu Bị xin kết thề, Quyền mới trả bọn Phổ về, chia sông Tương làm ranh giới, đem trả quận Linh Lăng. Lấy các huyện Tầm Dương, Dương Tân làm phụng ấp của Mông.
Quân về, lại đánh Hợp Phì, đã rút quân, bị bọn Trương Liêu đánh úp, Mông cùng Lăng Thống liều chết để bảo vệ. Sau Tào Công lại phát quân đến Nhu Tu, Quyền lấy Mông làm Đô đốc, giữ ụ ở phía trước, đặt vạn chiếc nỏ cứng ở trên ụ để chống Tào Công. Quân tiền phong của Tào Công chưa lập xong đồn, Mông đến đánh phá, Tào Công dẫn quân rút về. Bái Mông làm Tả Hộ quân, Hổ uy Tướng quân.
Lỗ Túc chết, Mông đi về phía tây đóng quân ở Lục Khẩu, đem hết hơn vạn quân mã của Túc cho Mông. Lại bái Hán Xương Thái thú, ăn lộc các huyện Tạ Tuyển, Lưu Dương, Hán Xương, Châu Lăng. Chia đất biên giới với Quan Vũ, biết Vũ kiêu hùng, có ý chiếm lấy, lại trú ở đầu nguồn của đất nước, hình thế khó giữ lâu. Lúc trước, bọn Lỗ Túc cho rằng Tào Công vẫn còn, vừa gây họa nạn, nên cùng giúp đỡ, cùng nhau chống địch, không nên làm mất lòng, Mông lại ngầm bày kế sách nói: “Nên sai Chinh lỗ Tướng quân(19) giữ Nam Quận, Phan Chương đóng quân ở thành Bạch Đế, Tưởng Khâm đem vạn quân đi xa, men theo sông lên đầu nguồn, đến chỗ địch ở. Mông vì nhà nước sẽ đến chiếm Tương Dương, như thế mối lo vì Tháo, cần gì nhờ Vũ chống nữa? Vả lại Vũ là bầy tôi lớn, chỉ khoe sức giả, làm việc phản nghịch. Nay Vũ chưa tiện hướng về phía đông là vì bậc chí tôn sáng suốt, bọn Mông vẫn còn thôi. Nay nhân lúc hắn không vững mạnh mà đánh đi, một sớm ngã nhào, muốn bày kế lấy lại, lúc đó còn lấy được không”? Quyền thu nạp kế ấy, lại bèn cùng bàn kế lấy Từ Châu, Mông đáp nói: “Nay Tháo ở xa tại phía bắc ông Hà, vừa phá quân họ Viên, vỗ về miền U, Kí, chưa rảnh ngoảnh về phía đông. Nghe nói quân giữ Từ Châu không đáng ngại, nếu quân ta đến tất chiếm được. Nhưng thế đất ấy bằng phẳng, là chỗ mà quân kị xông xáo, ngày nay bậc chí tôn lấy được Từ Châu, sau đó Tháo tất đến tranh ngay, dẫu có bảy, tám vạn quân giữ đất ấy, vẫn phải lo lắng. Không bằng bắt lấy Quan Vũ, chiếm cả miền sông dài, hình thế sẽ thêm lớn”. Quyền cho rằng lời này là đúng. Lúc Mông thay Túc, vừa đến Lục Khẩu, liền ban bố ân tín, kết thân với Vũ.
Sau Quan Vũ đánh đất Phàn, để quân tướng ở lại giữ Công An, Nam Quận. Mông dâng sớ nói: “Vũ đánh đất Phàn mà để nhiều quân ở lại phòng giữ, chỉ là sợ Mông đánh úp mặt sau mà thôi. Mông thường mắc bệnh, xin chia quân sĩ về Kiến Nghiệp, lấy cớ là chữa bệnh. Vũ nghe tin, tất rút quân phòng giữ đem hết đến Tương Dương. Đại quân đi ngược sông, ngày đêm lên đầu nguồn, đánh úp đất vắng thì Nam Quận tất chiếm được, lại bắt được Vũ vậy”. Bèn xưng bệnh nặng, Quyền lại phát hịch gọi Mông về, ngầm cùng mưu kế. Vũ quả nhiên tin thật, liền đem quân đi đến đất Phàn. Ngụy sai Vu Cấm cứu đất Phàn, Vũ bắt hết bọn Cấm, thu mấy vạn người ngựa, lại vì lương thiếu bèn tự đến lấy gạo ở Tương Quan. Quyền nghe tin, đi ngay, sai Mông đi phía trước. Mông đến Tầm Dương, giấu hết quân tinh nhuệ ở trong khoang thuyền, sai mặc áo trắng chèo thuyền, mặc áo của người buôn bán, đi gấp ngày đêm, đến đồn canh phòng mà Vũ đặt ở bên sông, bèn bắt trói hết quân ở đồn ấy, cho nên Vũ không hay biết. Liền đến Nam Quận, bọn Phó Sĩ Nhân, Mi Phương đều hàng.
Ngô thư viết: Tướng quân Phó Sĩ Nhân chống giữ tại Công An, Mông sai Ngu Phiên dụ Nhân. Phiên đến cửa thành, bảo quân giữ thành nói: “Ta muốn nói chuyện với Tướng quân của các ngươi”. Nhân không chịu gặp nhau, bèn gửi thư rằng: “Người sáng suốt thì phòng họa lúc chưa nảy mầm, người có trí thì trừ hại lúc chưa đến, biết được biết mất, mới làm người được. Biết còn sống biết chết, đủ phân biệt được tốt, xấu. Đại quân ta đi, quân canh không kịp phòng bị, đuốc lửa không kịp đốt, đấy không chỉ là mệnh trời, mà còn có nội ứng vậy. Tướng quân không biết thời trước, đến nay lại không phòng bị, chỉ giữ thành dải quanh này mà không hàng, nếu liều chết đánh giữa thì hủy diệt cả họ hàng tông miếu, bị thiên hạ chê cười. Lữ Hổ uy muốn đến thẳng Nam Quận, cắt chặn đường bộ, như thế con đường sống bị nghẽn, xét hình thế của đất ấy, là tai miệng của Tướng quân vậy, lúc ấy chạy trốn cũng khó thoát. Nếu hàng thì bỏ mất nghĩa, ta chỉ sợ Tướng quân không yên nên vất vả mưu nghĩ giúp”. Nhân được thư, khóc lóc mà hàng. Phiên bảo Mông nói: “Đấy là quân giả hàng vậy, nên đen Nhân đi, để quân tạ lại giữ thành”. Bèn đem Nhân đến Nam Quận. Nam Quận Thái thú Mi Phương giữ thành, Mông đem Nhân ra cho xem, bèn hàng.
Ngô lục viết: Trước đây, trong thành Nam Quận dẫn lửa, liền đốt cháy vũ khí. Vũ trách tội Phương, Phương trong lòng sợ hãi, Quyền nghe tin mà dụ Phương, Phương ngầm hòa thân. Lúc Mông đến đánh, bèn đem trâu rượu ra hàng.
Mông vào chiếm thành, bắt hết người nhà của Vũ và tướng sĩ, đều vỗ về họ, hạ lệnh trong quân không được lấn ép người nhà của họ, không được cướp đoạt. Có một tên lính thuộc hạ của Mông là người quận Nhữ Nam lấy một cái nón của nhà dân để làm áo giáp, áo giáp dẫu là của công, nhưng Mông vẫn cho là làm trái lệnh cấm, không thể vì người cùng làng ấp mà bỏ lệnh cấm được, bèn khóc lóc mà chém người ấy. Do đó trong quân nghiêm túc, đi đường không dám nhặt của rơi. Mông sớm tối sai người thân cận đi chăm sóc người già cả, thăm hỏi những nhà không đầy đủ, cấp thuốc chữa cho người bệnh tật, ban cơm áo cho người đói rét. Các tiền của kho tàng của Vũ đều đóng kín để đợi Quyền đến. Vũ về, tại đường đi, nhiều lần sai người hỏi tin của Mông, Mông liền đãi hậu sứ giả của Vũ, cho đi khắp trong thành, đến hỏi các nhà, có kẻ tự tay viết thư để làm tin. Sứ giả của Vũ về, bàn riêng với nhau, có người biết người nhà không bị gì, được đối đãi tốt hơn lúc trước, cho nên quan quân của Vũ không còn lòng dạ chiến đấu nữa. Lúc Quyền vừa đến, Vũ tự biết thế cùng, bèn chạy đến Mạch Thành, lại về phía tây đến Chương Hương, quân đều bỏ Vũ mà hàng. Quyền sai Chu Nhiên, Phan Chương chặn đường đi của Vũ, cha con liền cùng bị bắt, thế là Kinh Châu bèn định.
Lấy Mông làm Nam Quận Thái thú, phong Sàn Lăng Hầu, Giang Biểu truyện viết: Quyền mở hội lớn ở Công An, Lữ Mông lấy cớ bệnh từ chối không đến, Quyền cười rằng: “Công bắt được Vũ là do mưu của Tử Minh vậy. Nay công lớn đã thành, chưa được khen thưởng, há lại u uất sao”? Bèn ban thêm quân bộ kị, trống sáo, sai chọn quan thuộc của Hổ uy Tướng quân, cùng được uy nghi cả hai quận Lư Giang, Nam Quận. Bái xong về trại, quân mã đi theo, trước sau đánh trống thổi sáo, rạng rỡ trên đường.
ban một ức tiền, năm trăm cân vàng ròng. Mông cố từ chối tiền vàng, nhưng Quyền không nghe. Chưa hạ lệnh phong tước, vừa lúc Mông phát bệnh, bấy giờ Quyền ở tại Công An, đón vào trong điện, tìm vạn phương thuốc để chữa bệnh, chiêu mộ người nào chữa khỏi bệnh cho Mông sẽ ban cho nghìn vàng. Bấy giờ có thầy thuốc châm chữa, Quyền vì Mông mà đau xót, muốn mấy lần thấy vẻ mặt của Mông, lại sợ Mông động đậy, thường xuyên lỗ qua tường để xem, thấy Mông đứng dậy ăn được thì nói cười, nếu không thì than thở, đêm không ngủ được. Bệnh được khỏi, liền hạ lệnh sai bầy tôi đến chúc mừng. Sau lại thêm nặng, Quyền tự đến thăm, sai đạo sĩ vì Mông mà cầu đảo ở đàn tế sao. Lúc bốn mươi hai tuổi, bấy giờ chết ở trong điện. Quyền rất đau buồn, vì Mông mà rũ mòn. Vào thời Mông chưa chết, được ban các đồ vàng ngọc đều đem hết vào kho phủ, sai người coi kho rằng đến ngày mình hết mạng thì đều trả về cho Nhà vua, việc tang phải tiết kiệm. Quyền nghe tin, lại càng thương cảm.
Mông thuở trẻ không lo đọc sách truyện, hễ bày kế lớn, thường nói ra miệng làm lời bàn. Thường làm bộ khúc, bị Giang Hạ Thái thú Sái Di khinh thường, Mông không lấy làm giận. Lúc Dự Chương Thái thú Cố Thiệu chết, Quyền hỏi ai dùng được, nhân đó khen Di làm quan tốt đẹp, Quyền cười nói:
“Ông muốn làm Kì Hề(20) chăng”? Do đó dùng Mông. Cam Ninh cục cằn  hay giết người, đã làm mất lòng Mông, bấy giờ lại làm trái lệnh của Quyền, Quyền giận Ninh, Mông liền xin rằng: “Thiên hạ chưa định, tướng khỏe như Ninh khó tìm, nên tha cho hắn”. Quyền bèn tha Ninh, rút cuộc lại dùng.
Con Mông là Bá thay tước, cho ba trăm nhà giữ mộ, lại ban năm mươi khoảnh ruộng. Bá chết, anh là Tông thay tước. Tông chết, em là Mục nối tự.
Tôn Quyền cùng Lục Tốn bàn về Chu Du, Lỗ Túc và Mông rằng: “Công Cẩn hùng tráng, mưu lược hơn người, bèn phá Mạnh Đức, mở mang Kinh Châu, công to dường như khó ai thay được, nhưng nay ông tiếp nối Du. Ngày xưa Công Cẩn mời Tử Kính đến miền đông, muốn cho đến gặp ta, ta cùng Tử Kính nói chuyện, lại bày mưu lược dựng nghiệp Đế Vương, đấy là một cái vui vậy. Sau đó Mạnh Đức nhân có thế bắt được Lưu Tông, nói phao sắp đem mấy chục vạn quân thủy bộ cùng xuống. Ta lên họp các tướng, hỏi nên làm thế nào, chẳng ai bàn chống, đến như Tử Bố, Văn Biểu(21) đều nói nên sai sứ đem hịch đón hàng, Tử Kính liền gạt đi mà nói là không nên, khuyên ta nhanh gọi Công Cẩn về, đem quân trao lệnh, đón mà đánh Mạnh Đức, đấy là hai cái vui vậy. Lại quyết định kế sách, ý sâu xa như kế của Trương, Tô(22); sau dẫu khuyên ta cho Huyền Đức mượn đất, đấy là một chỗ kém, nhưng không đủ để làm tổn đến hai điều tốt kia vậy. Chu Công không cầu tìm phòng bị ở một người, cho nên ý của ta là quên cái kém mà trọng cái iỏi của người đó, thường sánh Túc ngang với Đặng Vũ(23). Lại còn Tử  Minh tuổi trẻ, ta nói là hắn không có biện luận, chỉ là dũng cảm có khí đảm mà thôi; đến lúc lớn lên, tài học càng thêm, bày mưu kế lạ, có thể đứng sau Công Cẩn, chỉ là lời lẽ không hay đẹp bằng mà thôi. Mưu bắt lấy Quan Vũ, lại hơn Tử Kính. Tử Kính đáp thư ta nói: ‘Dựng nghiệp Đế Vương, đều có kẻ phải tiễu trừ, nhưng Vũ không đáng lo’. Đấy là trong lòng Tử Kính không có cách đánh, cho nên mượn lời nói ở ngoài thôi, ta cũng giận nhưng không nỡ trách mắng vậy. Nhưng lại luyện quân, đóng trại không lầm, đề ra pháp lệnh ngăn cấm, nơi biên giới không bị bỏ hoang, người đi đường không nhặt của rơi, pháp lệnh cũng tốt đẹp”.
Bình nói: Tào Công nhân lúc làm Thừa tướng của nhà Hán, kẹp Thiên tử để quét sạch bọn hào kiệt, vừa dẹp yên đất Kinh, diễu oai đến miền đông, bấy giờ người bàn chẳng ai không nao núng. Riêng có Chu Du, Lỗ Túc bày kế hay, làm gương cho mọi người, thật là có tài lạ. Lữ Mông dũng cảm lại có mưu lược, biết kế dùng quân, lừa Hách Phổ, bắt Quan Vũ, rất là giỏi vậy. Lúc trước dẫu bị khinh thường mà giết bừa, nhưng cuối cùng thành công, có phong thái của kẻ sĩ, há chỉ là tướng võ mà thôi chăng! Lời bàn của Tôn Quyền đúng đắn vừa phải, cho nên chép vào đây.

CHÚ THÍCH
(1) iều, Trát: Kiều là Tử Sản, cháu của vua Trịnh. Trát là Quý Trát, em của vua Ngô là Chư Phàn, đều là người thời Xuân thu. Vua Ngô sai Quý Trát đi sứ nước Trịnh, mới gặp Tử Sản lần đầu mà thân ái như gặp người quen cũ, hai người làm bạn với nhau, Quý Trát tặng một dải lụa mộc cho Tử Sản, Tử Sản lại tặng một cái áo sợi gai cho Quý Trát. Người đời sau gọi là “bạn Kiều, Trát”.
(2) ùng Hoài Tứ: là vùng đất giữa sông Hoài và sông Tứ.
(3) ghĩa Đế: tức Sở Nghĩa Đế, dòng dõi vua cuối cùng của nước Sở. Khi Tần diệt nước Sở phải làm dân thường, sau khi Hạng Vũ cùng chư hầu diệt Tần, tôn làm Nghĩa Đế, sai bị Hạng Vũ sai người giết chết ở trên sông Trường Giang.
(4) Tử Du: tức Gia Cát Cẩn tự Tử Du, anh của Gia Cát Lượng.
(5) Bậc chí tôn: người được tôn kính nhất, tức Hoàng Đế, ý chỉ Tôn Quyền.
(6) Nếm mật: chuyện xưa Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật để mưu dựng nghiệp lớn, ý nói phải làm việc chăm chỉ.
(7) Tả Tướng quân: chỉ Lưu Bị bấy giờ làm Tả Tướng quân.
(8) Tây Châu: tức Ích Châu, Lương Châu, là đất Ba Thục ở phía tây.
(9) Túc có người con còn trong bụng mẹ: ý nói lúc Túc chết thì vợ đang mang thai một người con.
(10) Ấp Tử: người được phong ấp, ban tước Tử.
(11)  Lăng Công Tích: tức Lăng Thống tự Công Tích.
(12)  Đông tây dẫu là một nhà: ý nói Lưu Bị chiếm Kinh Châu ở phía tây, trên danh nghĩa là cùng một nhà với Tôn Quyền chiếm đất Ngô ở phía đông.
(13)  Tam sử: tức ba bộ sử là Sử kí của Tư Mã Thiên, Tiền Hán thư của Ban Cố và Hậu Hán thư của Tạ Thừa, viết sử từ thời kì Đông Hán, Tây Hán trở về trước.
(14)  Kẻ sĩ sau ba ngày lại trố mắt mà nhìn: ý nói kẻ sĩ đọc sách, tăng thêm hiểu biết từng ngày, ba ngày sau mới gặp phải trố mắt mà nhìn kinh ngạc.
(15)  Nhưỡng Hầu: tức Ngụy Nhiễm, đại thần của nước Tần thời Chiến quốc, có công nên được phong ở đất Nhưỡng, gọi là Nhưỡng Hầu.
(16)  Chim ngạc: một loài chim săn mồi ăn thịt, móng nhọn, mỏ sắc.
(17)  Tử Thái: tức Hách Phổ tự Tử Thái.
(18)  Cá trong vết chân trâu: trâu đi qua để lại vết lõm, nước đọng vào, ý nói cá ở trong vét lõm ấy như trong chậu, tình thế rất nguy hiểm.
(19)  Chinh lỗ Tướng quân: tức Tôn Giao, được bái Chinh lỗ Tướng quân.
(20)  Kì Hề: Kì Hề là họ hàng của vua nước Tấn thời Xuân thu. Làm quan qua bốn đời vua của nước Tấn. Tấn Trác Công hỏi ai nên thay chức Trung quân úy, có người tên Giải Hồ là kẻ thù đã giết cha của Kì Hề, không vì thù riêng, bèn tiến cử cho Trác Công, hỏi vì sao, Kì Hề nói: “Vua đã hỏi, thì không hỏi kẻ thù của thần vậy”.
(21)  Tử Bố, Văn Biểu: tức Trương Chiêu tự Tử Bố và Tần Tùng tự Văn Biểu, đều là bầy tôi chức cao của Tôn Quyền.
(22)  Trương, Tô: tức Trương Nghi và Tô Tần thời Chiến quốc.
(23)  Đặng Vũ: danh tướng thời Đông Hán, giúp Quang Vũ Đế nhà Hán dẹp loạn cát cứ.

QUYỂN 10 - TRÌNH HOÀNG HÀN TƯỞNG CHU TRẦN ĐỔNG CAM LĂNG TỪ PHAN ĐINH TRUYỆN
Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Đương, Tưởng Khâm, Chu Thái, Trần Vũ, Đổng Tập, Cam Ninh, Lăng Thống, Từ Thịnh, Phan Chương, Đinh Phụng

CHU THÁI TRUYỆN
Chu Thái tự Âú Bình, người vùng Hạ Thái(1) thuộc Cửu Giang. Thái cùng Tưởng Khâm theo làm tả hữu cho Tôn Sách, hành sự nghiêm trang cẩn thận, mấy lần lập được chiến công. Quyền thích cách làm việc của Thái, xin Sách cho Thái theo mình. Sách đi thảo phạt sơn tặc ở Lục huyện. Quyền ở lại Tuyên Thành, dùng giáp sĩ để phòng thủ, binh lực không đến nghìn người, trong lòng vẫn có ý lơ là chểnh mảng, không sửa soạn bảo vệ chỗ ở, mà sơn tặc đột nhiên kéo đến mấy nghìn tên xông vào. Quyền vừa mới lên ngựa thì đao sắc của giặc đã kề sát hai bên phải trái, có nhát chém trúng yên ngựa. Tả hữu xung quanh chẳng có ai tự trấn tĩnh được, riêng mình Thái gắng sức đánh tới, liều thân bảo vệ cho Quyền, dũng khí vượt bậc. Mọi người noi theo Thái đều có thể cự địch. Sau khi sau khi sơn tặc phân tán rã đám, Thái bị mười hai vết thương, rất lâu sau mới bình phục. Hôm ấy không có Thái, Quyền sẽ gặp hiểm nguy. Sách cảm ơn ấy, bổ dụng Thái làm Trưởng ở Xuân Cốc. Sau Thái lại theo đi đánh đất Hoàn(2), Khi Sách chinh phạt Giang Hạ về qua Dự Chương lại bổ dụng Thại làm Trưởng ở Nghi Xuân. Bổ nhiệm Thái ở đâu đều cho thu thuế ăn lộc ở đó.
Thái theo đi đánh Hoàng Tổ lập được chiến công. Sau lại cùng Chu Du, Trình Phổ chống cự Tào Công(3) ở Xích Bích, đánh Tào Nhân ở Nam Quận. Kinh Châu được bình định, Thai dẫn quân đóng đồn ở đất Sầm. Tào Công tấn công Nhu Tu(4), Thái lại đến ứng chiến, Tào Công rút lui, Thái được phong Bình Lỗ Tướng Quân. Lúc ấy bọn Chu Nhiên, Từ Thịnh đều ở dưới quyền Thái mà đều không phục. Quyền đặc biệt ra tra xét đến tận luỹ Nhu Tu, nhân đó hội họp các tướng mở hiệc lớn vui say. Quyền tự cầm chến rượu đến trước mặt Thái, lệnh cho Thái cởi áo. Tay Quyền chỉ vào từng vết thương trên người Thái, miệng hỏi vì sao nên nỗi. Thái liền nhớ lại việc chiến đấu xưa kia đáp lời. Xong, Quyền bảo Thái mặc lại áo, vui vẻ dự yến đến hết đêm. Hôm sau, Quyền sai sứ ban cho Thái chiếc lọng của mình.
Giang Biểu truyện(5) chép: Quyền cầm tay Thái, nước mắt chảy thành dòng, thân thiết nói: ”Ấu Bình, khanh vì anh em Cô chiến đấu như hổ dữ, chẳng tiếc gì thân thể tính mạng, bị thươg hơn mười chỗ, da như bị chạm khắc vào. Cô cũng lòng nào mà không đối đãi với khanh như ruột thịt, uỷ thác đại quyền binh mã cho khanh! Khanh là công thần của ta. Ta với khanh cùng chung vinh nhục, chia sẻ vui buồn. Ấu Bình, khanh vốn tính cách hào sảng, chớ tự coi mình là hàn môn mà rụt rè ngần ngại nhé.” Liền lấy cái khăn xanh bịt đầu thường dùng và cái lọng ban cho. Tiệc tan, Quyền ngồi lại, sai Thái dẫn binh mã lên đường, đánh trống thổi tù và gẩy đàn mà xuất quân.
Vì thế bọn Thịnh đều chịu phục.
Sau Quyền đánh bại Quan Vũ, muốn tiến vào chiếm lấy Thục, dùng Thái làm Hán Trung Thái Thú, phong Phấn Uy Tướng Quân, tước Lăng Dương Hầu. Thái chết trong những năm Hoàng Vũ(6)
Con Thái là Thiệu làm Kỵ Đô Uý thống lĩnh quân binh, khi Tào Nhân đánh Nhu Tu chiến đấu lập được công tích, lại tham gia phá Tào Hưu, được phong Bì Tướng Quân, chết năm Hoàng Long(7) thứ hai. Em là Thừa thống lĩnh quân binh kế thừa tước hầu.

TRẦN VÕ TRUYỆN
Trần Võ tự Tử Liệt, người ở Tùng Tư thuộc Lư Giang(8). Khi Tôn Sách ở Thọ Xuân, Võ đến bái yết, lúc bấy giờ mới mười tám tuổi, người cao bẩy thước bẩy tấc. Võ nhân đó theo Sách vượt sông đi đánh dẹp lập được công lao, được Sách bái làm Biệt Bộ Tư Mã. Sách đánh bại Lưu Huân thu được phần lớn dân Lư Giang, thấy họ là những người mạnh mẽ giỏi giang bèn giao cho Võ thống suất. Âý là việc từ trước chưa từng có tiền lệ. Đến khi Quyền lên thống lính công việc, chuyển Võ sang coi sóc quân Ngũ Giáo(9). Võ nhân hậu thích giúp người, đồng hương hay khách viên phương nhiều kẻ đén nương tựa dựa dẫm vào Võ. Quyền lại càng đặc biệt thân thiết yêu quý, mấy lần đến ban thường cho.Võ nhiều phen lập nên chiến công, được thăng lên làm Thiên Tướng Quân. Năm Kiến An thứ hai mươi, theo đi đánh trận ở Hợp Phì, gắng sức nghe lệnh chiến đấu mà chết trận. Quyền xót thương thân đến dự tang lễ.
Giang Biểu truyện chép: Quyền ra lệnh bắt ái thiếp của Võ tuẫn táng, lại chôn theo cả gia khách hai trăm người.
Tôn Thịnh nói: Xưa Tam Lương chết theo Mục Công(10), quân Tần vì thế mà không ra trận nổi. Nguỵ Thiếp đã được phóng thích, Đỗ Hồi vì vậy phải ngã nhào(11). Chuyện hoạ phúc như vậy đã hiệu nghiệm rõ ràng. Quyền dở mưu dùng kế, bắt người sống đi theo người chết, gấp gáp cầu phúc trền đời, chẳng phải là không nên sao!
Con trai Võ là Tu, có phong thái của Võ, khi mười chin tuổi được Quyền triệu kiến bái yết ban lời khích lệ, phong làm Biệt Bộ Tư Mã, giao cho quân binh năm trăm người. Bấy giờ tân binh các nơi phần nhiều có việc bỏ trốn, nhưng Tu phủ dụ vỗ về rất đúng cách, không bị mất một người nào. Quyền lấy làm lạ, phong làm Hiệu Uý, sau khi truy phong xem xét công thần, phong Tu làm Đô Đình Hầu, giữ chức Giải Phiền Đốc(12). Năm Hoàng Long (13)          nguyên niên thì chết.
Em trai Tu là Biểu tự Văn Aó, con thứ của Võ. Biểu từ nhỏ đã nổi danh, cùng bọn Gia Cát Khắc, Cố Đàm, Trương Hưu đều theo phụng thị Thái Tử, kết bạn thân thiết bên nhau. Có quan Thượng Thư là Kỵ Diễm cũng quý mến Biểu. Sau Diễm mắc tội, người đương thời đều nghĩ cách tự che đậy cho mình, tin cậy càng nồng hậu lời lẽ càng khắc bạc. Riêng có Biểu không cư xử như vậy, kẻ sĩ vì thế mà coi trọng Biểu. Biểu được dời làm Thái Tử Trung Thứ Tử, lĩnh chức Dực Chánh Đô Uý.
Sau khi anh Biểu là Tu chết, mẹ Biểu không vui lòng phụng dưỡng mẹ Tu. Biểu nói với mẹ rằng: ”Anh con bất hanh mất sớm, Biểu con này đứng đầu mọi việc trong nhà, gánh vác trách nhiệm phụng dưỡng mẹ cả. Mẹ nếu như có thể vì Biểu mà ép lòng thuận thảo, chịu theo mẹ cả, thì đấy là điều tâm nguyện con mong mỏi; Còn nếu mẹ không thể, chính nên ra ở riêng phía bên ngoài.” Biểu vì đại nghĩa mà công chính như vậy, hai mẹ thấy thế cũng cảm động tỉnh ngộ mà hoà hợp với nhau. Biểu lại lấy cớ cha chết trên đất địch, khẩn cầu xin được bổ dụng làm tướng, chỉ huy năm trăm quân. Vi muốn chiến sĩ tận sức cho minh nên dốc lòng tiếp đãi họ. Thuộc hạ đều yêu thương tuân phục, vui vẻ nghe theo mệnh lệnh. Bấy giờ có kẻ lấy trộm đồ vật của công, nghi cho tên lính ở doanh Vô Nan là Thi Minh. Minh vốn khoẻ mạnh ương nghạnh, nhận lấy đòn roi vô cùng gay gắt, chỉ một chết không nhận.
Sự việc đến cả Đình Uý(14) cũng nghe tin. Quyền thấy Biểu có tài thu phục tâm can dũng sĩ, ban chiếu ra lệnh giao Minh cho Biểu. Sai Biểu tự theo ý mình tìm lấy sự thật. Biểu liền phá bỏ gông cùm, đưa Minh đi tắm gội, thay đổi quần áo, bày đặt đồ ăn rượu uóng thịnh soạn, thân ái mà khuyên bảo. Minh rút cuộc cúi đầu, trình bày đầy đủ phe đảng bè lũ. Biểu làm đơn tố cáo lên. Quyền lấy làm lạ, muốn bảo toàn danh tiếng nên đặc biệt xá tội cho Minh, chỉ tru diệt hết phe đảng. Lại chuyển Biểu làm Vô Nan Hữu Bộ Đốc, phong tước Đô Đình Hầu, kế tục tước vị cũ của cha anh. Tất cả Biều đều xin nhường lại, truyền cho con của Tu là Diên nhưng Quyền không đồng ý. Năm Gia Hoà (15)thứ ba, Gia Cát Khắc lĩnh chức Thái Thú ở Đan Dương, thảo phạt vùng Sơn Việt, lấy Biểu làm Đô Uý Tân An, cùng Khắc xem xét hình thế. Lúc trước, Biểu được ban tứ người phục dịch hai trăm nhà ở huyện Tân An thuộc Cối Kê. Biểu quan sát kiểm tra thấy đám người này đều có thể làm lính giỏi, bèn dâng sớ trần tình xin từ chối, muốn đưa họ trỏ lại quân đội, sung tất cả vào lính tinh nhuệ. Quyền ban chiếu rằng: ”Tiên Tướng Quân(16) có công với quốc gia, nay nhà nước vì thế mà đền đáp, sao khanh được chối từ.” Biểu bèn thưa rằng: ”Nay diệt quốc tắc, bao mối thù cha, cần phải lấy người làm gốc. Dùng những người hăng hái mạnh mẽ làm nô tỳ gia bộc thật phí phạm thiếu thiết thực, đó không phải là chí của Biểu vậy.” Rồi liền coi sóc bổ xung họ vào đội ngũ. Từ địa phương tin tức truyền đi, Quyền rất ngợi khen, lại ban lệnh cho các quận huyện kiểm điểm các hộ dân phiêu dạt ràng buộc lấy người để giúp ích cho địa phương. Biểu giữ chức ba năm, mở rộng việc khẩn hoang, thu nạplấy kẻ khuất phục, có quân hơn vạn người. Lại mưu sự nhanh nhẹn mẫn tiệp, gánh vác cả bên ngoài. Khi ở Bà Dương dân các huyện Ngô Cự làm loạn, đánh lấy thành quách khiến các huyện liên quan dao động, Biểu lập tức vượt qua cương giới sang đánh dẹp, nhanh chóng phá được loạn đảng cuối cùng hàng phục được. Lục Tốn phong Biểu làm Thiên Tướng Quân, tiến cử xin phong Biểu làm Đô Hương Hầu, dẫn quân lên phia bắc đóng đồn ở Chương Khanh. Biểu chết năm ba mươi tư tuổi, tài sản trong nhà dùng hết để nuôi tướng sĩ. Ngày Biểu chết vợ con ra đứng ngoài đường. Thái Tử Đăng phải xây dưng nhà cửa cho. Con Biểu là Ngao, mới mười bảy tuổi được bái làm Biệt Bộ Tư Mã, nhận quân bốn trăm người. Ngao chết, con Tu là Diên lại làm Tư Mã kế nhiệm. Em Diên là Vĩnh làm đến tướng quân, được phong Hầu. Thi Minh lúc trước cảm ơn Biểu, tự thay đổi làm việc tốt trở thành tướng giỏi, cũng lên đến địa vị tướng quân.

ĐỔNG TẬP TRUYỆN
Đổng Tập tự Nguyên Đại người vùng Dư Diêu thuộc Cối Kê(17), mình cao tám thước, oai phong mạnh mẽ hơn người Hậu Hán Thư của Tạ Thừa(18) khen Tập ý chí khí tiết khẳng khái hiên ngang, oai vũ mạnh mẽ phong độ hào hùng.
Tôn Sách tới Cối Kê, Tâp ra nghênh đón tận Cao Thiên Đình. Sách thấy là người kỳ vĩ, khi đến nơi xếp đặt làm Tắc Tào(19) ở dưới trướng. Đương thời núi Âm Sơn vốn là nơi bọn giặc cướp Hoàng Long La, Chu Bột tụ tập, bè lũ có đến nghìn người. Sách tự mình ra đánh dẹp. Tập đi theo, chém được đầu La và Bột, khi về được bái làm Biệt Bộ Tư Mã, thống lĩnh hàng nghìn quân, sau chuyển làm Dương Vũ Đô Uý. Rồi Tập lại theo Sách đi đánh đất Hoàn, lại theo thảo phạt Lưu Huân ở Tầm Dương, đánh Hoàng Tổ ở Giang Hạ.
Sách hoăng. Quyền còn ít tuổi, vừa mới thống lĩnh công việc. Thái Phi(20) lấy làm lo lắng, gọi Trương Chiêu cùng bọn Tập đến gặp, hỏi Giang Đông có thể giữ yên chăng. Tập đáp rằng: ”Giang Đông có núi sông bền vững mà Thảo Nghịch Tướng Quân(21) sáng suốt, tạo ra ơn đức cho dân. Thảo Lỗ Tướng Quân(22) kế thừa cơ nghiệp, lớn nhỏ dùng mệnh lệnh để sai khiến. Có Trương Chiêu giữ vững công việc, dùng bọn Tập làm nanh làm vuốt. Địa lợi nhân hoà ấy vào buổi bây giờ nghìn vạn lần không phải lo gì.” Mọi người đều khâm phục lời Tập nói.
Bọn giặc ở Bà Dương là Bành Hổđông đến vạn người. Tập cùng Lăng Thống, Bộ Chất, Tưởng Khâm các người chia đường thảo phạt. Hương của Tập đánh luôn luôn thắng, bọn Hổ trông thấy kỳ hiệu từ xa đã lập tức bỏ chạy tan rã, trong vòng mười ngày đã bình định xong hết. Tập được làm Uy Việt Hiệu Uý rồi đổi thành Thiên Tướng Quân.
Năm Kiến An thứ mười ba, Quyền đánh Hoàng Tổ. Tổ xoay ngang mấy chiếc Mông Trùng(23) hợp lại với nhau để phòng thủ Miên Khẩu(24), lấy  thừng lớn kết từ cây cọ buộc đá làm neo. Trên Mông Trùng xếp đặt nghin người cầm nỏ cứng cùng lúc bắn xuống, tên bay như mưa. Quân của Quyền không tiến lên được. Tập với Lăng Thống cùng đi tiên phong, tướng tá tuỳ tùng cảm tử mà đánh có trăm người, thân đều mặc hai lần giáp, cưỡi trên thuyền mành, đột nhập vào bên trong dẫy Mông Trùng. Tập tự dùng đao chém đứt dây neo, Mông Trùng cứ xoay ngang thế mà trôi xuôi theo dòng. Đại quân của Quyền nhân đó tiến lên. Tổ liền mở của thành mà chạy, bị quân đuổi theo chém chết. Trong bữa tiệc lớn hôm sau, Quyền nâng chén bảo Tập rằng: ”Yến hội hôm nay là để mừng công chém dây neo đó.”
Tào Công ra đánh Nhu Tu, Tập theo Quyền đến chống cự. Quyền sai Tập đốc xuất Ngũ Lâu Thuyền ở Nhu Tu Khẩu. Đang đêm bỗng có gió lớn, Ngu Lâu Thuyền nghiêng ngả, tả hữu tan tác chạy sang thuyền nhỏ, xin Tập rời Ngũ Lâu Thuyền. Tập giận nói: ”Ta nhận trách nhiệm làm tướng quân, nay gặp lúc có giặc, sao có thể là loại bỏ sự uỷ thách mà đi. Ai dám nói lời như thế nữa thì chém!” Vì vậy không ai dám khuyên can nữa. Đêm ấy thuyền sụp. Tập chết. Quyền thay đổi trang phục đến điếu tang, lại chu cấp rất hậu cho người nhà Tập.

ĐINH PHỤNG TRUYỆN
Đinh Phụng tự Thừa Uyên, người ở An Phong(25) thuộc quận Lư Giang. Lúc thiếu niên nhờ gan dạ mạnh khoẻ mà thành tiểu tướng, làm thuộc hạ của Cam Ninh, Lục Tốn, Phan Chương các người. Mấy lần theo họ đi đánh trận, thường chiến đấu trong quân ngũ, từng chém tướng đoạt cờ thân mang vết thương. Tôn Lượng lên nối ngôi, Phụng được làm Quan Quân Tướng Quân, tước phong Đô Đình Hầu.
Nguỵ sai bọn Gia Cát Đản, Hồ Tuân đánh vào Đông Hưng. Gia Cát Khắc thống lĩnh quân binh ra cự địch. Các tướng đều nói: ”Địch nghe tin Thái Phó tự thân đến nơi, bên bờ bên kia tất bỏ chạy trốn.” Riêng Phụng nói: ”Không phải thế. Bên kia mà bị lay động đến các vùng trong cương giới, tất sẽ từ Hứa Lạc cất đại quân mà đến. Nếu quả đã thành phép tắc như thế, há lại bỏ không mà quay về sao? Chớ chờ đợi rằng địch quân không đến mà hãy trông cậy vào chúng ta có cách thắng địch thôi.” Đến khi Khắc lên bờ, Phụng cùng với các tướng Đường Tư, Lũ Cư, Lưu Tán đều theo đường núi tiến sang phía tây. Phụng nói: ” Nay các đạo vừa mới đi đường, nếu như địch đóng ở chỗ địa thế thuận lợi thì khó có thể cùng bọn chúng tranh phong được.” Bèn rời bỏ con đường các đạo quân đang dùng, chỉ huy thuộc hạ ba nghìn người theo lối tắt tiến lên. Lúc ấy đang có gió bắc, Phụng dương buồm mà đi, sau hai ngày đã tới nơi, đóng quân ở Từ Đường. Trời tuyết lạnh, các tướng địch bày rượu quý mở hội. Phụng thấy đạo tiền quân của địch binh ít, nói với thuộc hạ rằng: ”Lấy được phong hầu thưởng tước, chính là ở hôm nay!” Bèn sai quan cởi giáp sắt, bỏ mũ trụ, cầm binh khí ngắn. Địch ung dung cười nói không sắp đặt phòng bị, Phung tung quân ra chém giết, đại phá tiền đồn của chúng. Khi bọn Cư đến nơi, Nguỵ quân đã tan vỡ. Phụng được chuyển làm Diệt Khấu Tướng Quân , thăng phong Đô Đình Hầu.
Nguỵ tướng là Văn Khâm tới hàng. Lấy Phụng làm Hổ Uy tướng quân theo Tôn Tuấn đến tận Thọ Xương nghênh đón, giao chiến với quân Nguỵ đuổi theo Văn Khâm ở Cao Đình. Phụng cưỡi ngựa cầm mâu xông vào giữa trận địch, chém hơn trăm đầu, đoạt hết quân khí của chúng, được phong làm An Phong Hầu.
Năm Thái Bình(26)thứ hai, Đại Tướng Quân nước Nguỵ là Gia Cát Đản ở Thọ Xuân lại hàng, bị người Nguỵ vây. Ngô sai các tướng Chu Dị, Đường Tư đến cứu, lại sai Phụng cùng Lê Phỉ phá vòng vây. Phụng đến trước tiên, đóng đồn ở ở Lê Tương, cố gắng chiến đấu có công, được phong Tả Tướng Quân.
Tôn Hưu lên ngôi, cùng Trương Bố mưu tính, muốn tru diệt Tôn Lâm. Bố nói: ”Đinh Phụng tuy khôngcó tài đọc sách như thư lại nhưng mưu kế sách lược hơn người, có thể quyết định đại sự.” Hưu vời Phụng đến bảo rằng: ”Lâm giữ quyền lực quốc gia, sắp sửa làm việc trái phép, muốn cùng tướng quân trừ đi.” Phụng nói: ”Anh em Thừa Tướng có bạn hữu phe đang rất mạnh, sợ rằng lòng người chẳng giống nhau, không thể chế phục hết được, nếu nhân dịp lễ hội cuối năm, có đủ quân của Bệ Hạ thì giết được.” Hưu dùng kế ấy, nhân khi lễ hội mời Lâm. Phụng và Trương Bố cầm đầu tả hữu chém đi. Phụng (và Bố) được thăng Đại Tướng Quân, thêm chức Tả Hữu Đô Hộ. Năm Vĩnh An(27) thứ ba, ban cho Phụng giả tiết, giao chức Mục ở Từ Châu. Năm Vĩnh An thứ sáu, Nguỵ đánh Thục. Phụng chỉ huy các đạo quân tiến vào Thọ Xuân, tạo ra hình thế cứu Thục. Thục mất, lại dẫn quân quay về.
Hưu hoăng. Phung và bọn Thừa Tướng Bộc Dương Hưng nghe theo lời Vạn Úc, cùng đón Tôn Hạo về lập làm vua, được thăng chức Hữu Đại Tư Mã, Tả Quân Sư. Năm Bảo Đỉnh(28) thứ ba, Hạo lệnh cho Phụng và Gia Cát Tịnh đánh Hợp Phì. Phụng gửi thư cho Đại Tướng nước Tấn là Thạch Bao, tạo ra sự ly gián làm Bao bị triệu về.
Năm Kiến Hành(29) nguyên niên, Phụng lại dẫn tướng sĩ sửa sang khu vực Từ Đường, nhân đó đánh vao Cốc Dương trên dất Tấn. Dân Cốc Dương biết trước, rời đất ấy bỏ đi, Phụng không thu hoạch được gì. Hạo giận, chém quân dẫn đường của Phụng. Năm Kiến Hành thứ ba, Phụng chết. Phụng vinh hiển mà lại có công, dần dần trở nên kiêu căng, có người mỉa mai bỉ báng. Hạo xét lại việc xuất quân năm trước, dời gia đình Phụng đến Lâm Xuyên. Em Phụng là Phong, làm quan đến chức Hậu Tướng Quân, chết trước Phụng.
Bình rằng: Nói chung các tướng này đều là hổ tướng vùng Giang Biểu. Họ Tôn vì thế mà hậu đãi. Lấy như Phan Chương không biết sửa mình, Quyền có thể quên công lao ghi nhớ đã qua nhưng vẫn để cho được sinh sống yên ổn một góc đông nam, đó là thích hợp vậy! Trần Biểu chỉ là nghành thứ của con nhà tướng mà cùng con trưởng danh nhân sánh vai ngang bằng, vượt trội hơn đời, cũng không phải là tốt đẹp lắm sao!

LĂNG THỐNG TRUYỆN
Lăng Thống tự Công Tích người Dư Hàng thuộc Ngô Quận(30).  Cha Thống là Tháo, nghĩa hiệp lại can đảm có khí phách. Khi Tôn Sách vừa mới khởi sự, Tháo luôn theo đi chinh phạt, thường đi trước quan quân. Tháo giữ chức Trưởng ở Vĩnh Bình, sắp xếp dẹp yên đất Sơn Việt, làm cho kẻ gian tà phải chùn tay, được phong làm Phá Tặc Hiệu Uý. Đến khi Quyền chỉ huy công việc, Tháo theo đi đánh Giang Hạ. Đại quân tiên vào Hạ Khẩu, Tháo xông pha đi trước, đánh bại tiền quân của địch, một minh cưỡi thuyền nhẹ xông lên, bị trúng tên lạc mà chết.
Thống lúc ấy mới mười lăm tuổi, tả hữu phần lớn cho rằng có thể kế tục được sự nghiệp của cha. Quyền nhớ đến Tháo chết vì việc nước nên phong cho Thống làm Biệt Bộ Tư Mã, đảm đương công việc Phá Tặc Đô Uý, sai cai quản quân lính của cha. Sau Thống theo Quyền đi đánh sơn tặc. Quyền dẹp tan trại trại Bảo Truân rồi trở về trước, còn lại trại Ma Truân hàng vạn người, Thống cùng bọn tướng Trương Di ở lại vây đánh, hẹn ngày tấn công. Trước ngày hẹn, Thống và tướng Trần Cần gặp mặt uống rượu. Cần cứng cỏi mạnh mẽ, có khí độ trách nhiệm do đó đảm đương việc dâng rượu tế, nhưng lại chèn ép hiếp đáp người trong tiệc, nâng lên đặt xuống không theo phép tắc nào. Thông ghét thói khinh bạc vô lễ ấy, ngay mặt nói thẳng không chịu tuân theo. Cần giận mắng Thống cùng cha Thống là Tháo. Thống rơi lệ không đáp. Mọi người vì thế bỏ ra về. Cần nhân lúc rượu vào càng trái lẽ tợn, lại ở giữa đườngnhục mạ Thống. Thống không nhịn được rút đao chém Cần. Được vài hôm Cần chết. Lúc đó đang tấn công vào trại giặc, Thống nói: ”Ngoài cái chết ra klhông biết lấy gì tạ tội.” Bèn thống suất khích lệ sĩ tốt, tự minh xông pha tên đạn, đánh vào một mặt, nhận lấy cơ hội phá tan tường hào. Các tướng cũng thừa thắng mà đánh, cuối cùng đại phá trại giặc. (Khi trở về) Thông tự trói đến nới quân pháp. Quyền khen là quả quyết cứng cỏi, cho lấy công chuộc tội.
Sau Quyền lại đánh Giang Hạ. Thống làm tiên phong, thường cùng dũng sĩ thân cận mấy chục người ngồi chung một thuyền, đi trước đại quân mấy chục dặm. Tiến vào phía tây Trường Giang, chém tướng của Hoàng Tổ là Trương Thạc, thu hết thuỷ quân của Thạc rồi quay về báo với Quyền, dẫn quân gấp lên đường, thuỷ bộ cùng tụ hội. Bấy giờ, Lã Mông đánh bại được thuỷ quân Giang Hạ mà Thống trước đã đánh thành vì vậy thắng to. Quyền lấy Thống làm Thừa Liệt Đô Úy, cùng bọn Chu Du chống cự, đánh bại Tào Công ở Ô Lâm, rồi lại đi đánh Tào Nhân, được thăng làm Đô Úy. Thống tuy ở trong quân ngũ nhưng biết yêu quý người hiền, xem trọng đạo nghĩa có phong đô của bậc quốc sĩ.
Thống theo Quyền đi đánh đất Hoàn, được phong Đãng Khấu Trung Lang Tướng, thống suất Phái Tương. Thống lại cùng bọn Lã Mông đánh sang phía tây lấy đất ba quận, rồi quay về từ Ích Dương theo Quyền đến Hợp Phì, làm Hữu Bộ Đốc. Đương thời Quyền lui binh, đội tiền phong đã lên đường thì bọn Trương Liêu tướng nước Nguỵ sấn đến bờ bắc bến sông. Quyền sai đuổi theo gọi tiền quân quay lại, nhưng tiền quân đã đi xa không cứu giúp kịp. Thống chỉ huy bộ tướng hơn ba trăm người phá vây, hộ tống bảo vệ Quyền đi ra. Địch quân đã phá cầu, hai tấm ván cầu chắp vá, Quyền quất ngựa chạy qua, Thống quay về chiến đấu. Đến khi tả hữu chết hết, Thống cũng bị thương, chém giết mấy chục người, ước chừng Quyền đã chạy thoát bèn chạy trở lại nhưng cầu đã sập, đường hết. Thống khoác áo giáp mà lặn đi. Quyền đã ngồi trên thuyền, nhìn thấy vừa sợ vừa mừng. Thống thương người thân cận không ai trở về đau buồn không kiềm chế được. Quyền lấy tay áo lau cho bảo rằng: ”Công Tích, người đã chết vậy thay, ví phỏng khanh còn sống đây, sao phải lo không có người?”
Ngô Thư chép: Thống bị thương nặng. Quyền bèn giữ Thống trong thuyền, thay đổi hết y phục. Vết thương lại gặp được thuốc quý nhà họ Trác cho nên mới không chết.
Được phong làm Thiên Tướng Quân, cấp cho binh lính nhiều gấp bội.
Bấy giờ có kẻ tiến cử người đồng hương với Thống là Thinh Xiêm với Quyền, cho là bậc ngay thẳng khí khái cực kỳ tiết tháo, có chỗ còn hơn Thống. Quyền nói: ”Hãy cứ tốt đẹp như Thông là đủ rồi.” Sau Xiêm được đưa đến vào ban đêm, Thông đã đi nằm, nghe tin bèn mặc áo ra ngoài cửa nắm tay đưa vào. Thống yêu quý người tài không hề ghen ghét là như thế.
Thống thấy người Trung Sơn phần lớn là mạnh mẽ ương ngạng, có thể lấy ân uy mà khuyên bảo dẫn dắt nên Quyền lệnh cho Thống sang phía đông thôn tính lấy thử dò xét xem. Lại ban lệnh cho các thành liền đấy nếu Thông có yêu cầu gì thì trước đều cung cấp đủ rồi sau mới báo về. Thống vốn yêu quý kẻ sĩ. Kẻ sĩ cũng yêu quý Thống. Vì vây thu được hơn vạn quân tinh tráng. Khi Thống trở về đi qua quê cũ, đi bộ vào cửa dinh, gặp gỡ quan lại hoai niệm tam bản(31), hết lòng cung kính giữ lễ. Đối với bạn bè quen biết cũ tình cảm lại càng nồng hậu. Công việc hoàn thành đang lúc lên đường thì mắc bệnh chết, tuổi mới bốn mươi chín. Quyêng nghe tin đạp tay xuống giường ngồi dậy, tiếc thương không kìm nổi, bỏ ăn mấy ngày liền, hễ nói đến là rơi lệ, sai Trương Thừa làm bài minh kể lại công đức của Thống.
Hai con Thống là Liệt và Phong, mỗi người lúc ấy chỉ được mấy tuổi, Quyền đem vào nuôi trong cung, yêu thương đối đãi giống như con mình. Mỗi khi có khách vào yết kiến thường bảo rằng: ”Đây là nhưng đứa con hổ báo của ta.” Đến khi tám chín tuổi, sai Cát Quang dạy đọc sách, mười ngày một lần lệnh cho đi cưỡi ngựa. Sau lại truy xét công lao của Lăng Thông khi xưa, phong làm Liệt Đình Hầu, trao lại binh lính cũ. Về sau Liệt phạm tội bị bãi chức, Phong lại kế thừa chức tước thống lĩnh quân binh. Tôn Thịnh viết: Xem cách Tôn Quyền săn sóc cho kẻ sĩ thật đã hết dạ dốc lòng để mong họ tận trung. Như khóc cho vết thương của Chu Thái, chôn sông ái thiếp của Trần Võ, khẩn cầu lựa chọn của Lã Mông, nuôi nấng con côi của Lăng Thông, tất cả đều khiêm nhường chu đáo hết lòng chẳng quên, thành khẩn đến điều vậy. Vì thế cho nên dầu tiếng tốt chẳng đồn xa, nhân hậu khoan dung lại sáng tỏ ở trong nước, mới có thể hàng phục kẻ mạnh ở Kinh Ngô, suy nghĩ đến việc tiếm hiệu nhiều năm, cùng là có lý do cả.  Nhưng đạo bá vương chỉ chờ trông ở chỗ lớn lao lâu dài. Do đó các bậc tiên vương đắp xây nền móng của phẩm hạnh phép tắc; thu phục lòng tin thuận thành trong hải nội; đặt ra trật tự của khuôn mẫu sách lược; làm rõ thứ tự giữa cao quý , thấp hèn. Thay đổi tuyển lựa mà thân thiết có thể bền lâu. Thực hành trọn vẹn mà huân nghiệp đầy đủ lớn lao. Há lại quanh co nhỏ nhặt, chuyên chú vào vào chỗ thân gần, đón mời lấy cái lợi ở thời hiện tại hay sao? Tục ngữ nói: ”Dù là việc nhỏ, tất có thể từ đó mà xem xét, suy đến sâu xa mà lo sợ bùn nhơ.” Chính là nói chuyện ấy vậy!

PHAN CHƯƠNG TRUYỆN
Phan Chương tự Văn Khuê, người ở Phách Can thuộc Đông Quận(32). Khi Tôn Quyền làm Trưởng ở Dương Tiện, Chương bắt đầu đến theo Quyền. Tính cách Chương rộng rãi phóng túng, sống ngheo nàn mà hay mua chịu rượu. Khi những người cho nợ đến tận cửa đòi, thường nói ngày sau giàu có sẽ trả. Quyền lấy làm yêu thích nhân đó sai đi chiêu mộ, được hơn trăm người, bèn dùng làm đầu lĩnh. Chương đánh dẹp sơn tặc có công, được sắp xếp làm Biệt Bộ Tư Mã. Sau Chương làm Đại Phất ở Ngô Quận bắt giữ tội phạm, làm cho trộm cướp dứt hẳn nhờ đó mà nổi danh, được chuyển đến dự Chương làm Trưởng ở Tây An. Lưu Biểu ở Kinh Châu, dân tình nhiều lần bị cướp, từ khi Chương đến nhận công vụ, trộm cướp không xuất hiện ở địa phương nữa. Huyện Kiến Xương ở liền kề nổi lên bọn cướp làm loạn. Chương chuyển sang đốc suất Kiến Xương thăng thêm chức Vũ Mãnh Hiệu Uý, đánh dẹp trừng trị đám dân có tội, tròn một tháng bình định hết sạch, lại kêu gọi chiêu tập kẻ li tán, được tám trăm người, chỉ huy trở về Kiến  Nghiệp.
Chiến dịch Hợp Phì, Trương Liêu bất ngờ xông đến, các tướng không kịp phòng bị. Trần Vũ chết trận. Tống Khiêm, Từ Thịnh đêu phân tán bỏ chạy. Chương tự mình ở đội phía sau, lập tức giong ruổi tiến lên, giật ngựa lại chém hai người đào binh trong đội của Khiêm và Thịnh, làm toàn quân quay lại chiến đấu. Quyền rất khen ngợi, phong Chương làm Thiên TướngQuân, nhân đó thống lĩnh đội Bách Giáo(33), đóng quân ở Bán Châu.
Quyền đánh Quan Vũ. Chương với Chu Nhiên chăn đường chạy của Vũ, đến đóng ở Lâm Thu, trú quân ở Giáp Thạch. Bộ tướng của Chương là Tư Mã Mã Trung bắt được Vũ cùng con của Vũ là Bình và bọn Đô Đốc Triệu Luỹ. Quyền liền cắt đất hai huyện Nghi Đô, Tỷ Quy lập nên quận Cố Lăng, phong Chương làm Thái Thú ở đấy, giữ chức Chấn Uy Tướng Quân, tước Lật Dương Hầu. Sau khi Cam Ninh chết, Chương lại thông lĩnh bộ tốt của Ninh. Lưu Bị đánh vào Di Lăng, Chương cùng Lăng Tốn(34) đều hết sức chống trả. Bộ hạ của Chương chém chết Hộ Quân của Bị là bọn Phùng Tập, đánh giết rất nhiều. Chương được phong Bình Bắc Tướng Quân, làm Thái Thú ở Tương Dương.
Bọn Hạ Hầu Thượng tướng nước Nguỵ vây Nam Quận, chia ra ba vạn quân làm cầu nổi, vượt qua trăm dặm bãi sông. Gia Cát Cẩn, Dương Xán đều hội quân đến cứu nhưng chưa biết lúc nào mới đến nơi mà quân Nguỵ hàng ngày vượt sông không nghỉ. Chương nói: ”Quân Nguỵ thế mạnh mà nước sông lại nông, chưa thể đánh nhau với chúng được.” Liền thống suất các tướng đi lên phía thượng du quân Nguỵ năm chục dặm, chặt lấy cỏ lau vạn bó, kết thành những bè lớn, muốn thuận theo dòng nước phóng hoả dốt cháy cầu nổi. Bè lau vừa văn làm xong, đang chờ thuỷ triều rút xuống thì Thượng đã mau chóng dẫn quân rút lui. Chương đi xuống phòng bị Lục Khẩu(35) Tôn Quyền xưng tôn hiệu, phong Chương làm Hữu Tướng Quân.
Chương là người thô hào can đảm, nhưng biết sợ lệnh cấm, lại thích lập công danh sự nghiệp. Thướng thống suất binh mã không đến nghìn người nhưng ở chiến trường oai thế thường như vạn người. Đến khi chinh phạt kết thúc lại mau chóng đặt quân công, các quân hiệu khác không có điều này đều kính trọng bộ hạ của Chương. Nhưng Chương có tính xa hoa, tuổi già lại càng tệ hại, quần áo đồ vật mô phỏng giả mạo trái phép địa vị của người trên. Quan lại binh sĩ giàu có mấy người bị Chương giết để đoạt của. Các quan giam sát tâu lên nhưng Quyền nhớ công lao mà thường tha thứ không hỏi đến. Năm Gia Hoà(36) thứ ba chết. Con là Bình làm việc vô pháp bị chuyển đến Cối Kê. Vợ Chương ở lại Kiến Nghiệp, được ban nhà của ruộng đất và người phục dịch năm mươi hộ.

TRÌNH PHỔ TRUYỆN
Trình Phổ tự Đức Mưu, người quận Hữu Bắc Bình huyện Thổ Ngân, ban đầu làm Lại ở châu quận, dung mạo thoát tục lại có mưu kế, khéo đối đáp. Theo Tôn Kiên đi chinh phạt, đánh Hoàng Cân ở Uyển-Đặng(37), phá Đổng Trác ở Dương Nhân, đánh thành chiếm đất, thân bị thương tật.
Kiên chết, Phổ lại đi theo Tôn Sách ở Hoài Nam, tới đánh quận Lư Giang, lấy được, rồi cùng đi về phía Đông. Sách về đến Hoành Giang-Đương Lợi, phá được bọn Trương Anh-Vu Mi, rồi chuyển xuống lấy Mạt Lăng-Hồ Thục-Cú Dung-Khúc A, Phổ đều lập được công, được giao thêm 2.000 quân binh và 50 quân kỵ. Lại tiến phá Ô Trình-Thạch Mộc-Ba Môn-Lăng Truyền- Dư Kháng, phần nhiều là công của Phổ. Sách lấy được Cối Kê, cho Phổ làm Đô uý Ngô Quận, đóng dinh sở ở huyện Tiền Đường. Về sau Phổ được chuyển làm Đô uý Đan Dương, đóng giữ Thạch Thành. Lại đánh dẹp bọn giặc ở Tuyên Thành, Kính, An Ngô, Lăng Dương, Xuân Cốc, đều phá được. Sách từng tấn công Tổ Lang, bị vây chặt ở đó, Phổ cùng với một quân kỵ đến che đỡ cho Sách, lại ruổi ngựa đi trước quát thét, khua mâu xông xáo trong đám giặc, địch phải rẽ ra, Sách nhờ thế mới thoát được. Sau này Phổ được bái làm Đãng khấu Trung lang tướng, lĩnh chức Thái thú Linh Lăng, theo đi đánh dẹp Lưu Huân ở Tầm Dương, tấn công Hoàng Tổ ở Sa Tiện, rồi quay về trấn giữ Thạch Thành.
Sách chết, Phổ cùng với bọn Trương Chiêu phụ giúp Tôn Quyền, thu xếp các việc ở ba quận, dẹp yên những kẻ bất phục. Lại theo đi chinh chiến ở Giang Hạ, rồi quay về Dự Chương, chia quân đánh dẹp ở Nhạc An. Nhạc An bình định, thay Thái Sử Từ phòng bị ở Hải Hôn, cùng với Chu Du làm Tả Hữu đô đốc, phá Tào Công ở Ô Lâm, lại tiến công Nam Quận, bức Tào  Nhân phải bỏ chạy. Phổ được bái làm Bì tướng quân, lĩnh chức Thái thú Giang Hạ, dinh sở đóng ở Sa Tiễn, được ăn lộc bốn huyện.
Phổ nhiều tuổi hơn các tướng, lúc tuổi đã cao, người bấy giờ đều gọi là Trình Công. Tính Phổ hay giúp đỡ người, quý trọng sỹ đại phu. Chu Du  chết, Phổ lên thay lĩnh chức Thái thú Nam Quận. Quyền phân chia Kinh Châu với Lưu Bị, Phổ lại về nhận chức ở Giang Hạ, được thăng lên làm Đãng khấu Tướng quân, rồi mất.
Ngô thư chép: Phổ bắt được những kẻ làm phản đến mấy trăm người, sai đem ném hết vào đống lửa, ngay hôm ấy đổ bệnh, được hơn trăm ngày thì chết.

TƯỞNG KHÂM TRUYỆN
Tưởng Khâm tự Công Dịch, người quận Cửu Giang huyện Thọ Xuân. Tôn Sách theo về với Viên Thuật, Khâm đi theo làm Cấp sự. Lúc Sách vượt sông về Đông, bái Khâm làm Biệt bộ Tư mã, cho nắm binh sĩ. Khâm cùng với Sách đi khắp nơi, bình định ba quận, lại đi theo bình định Dự Chương. Rồi điều đến làm Đô uý ở Cát Dương, trải qua ba lần làm huyện trưởng, đánh dẹp bình đạo tặc, được thăng làm Tây bộ Đô uý. Bọn giặc cỏ ở Cối Kê là Lã Cáp-Tần Lang làm loạn, Khâm dẫn binh tới đánh dẹp, bắt được Cáp-Lang, bình định xong năm huyện, được đổi làm Thảo Việt Trung lang tướng, lấy đất Kinh Câu-Chiêu Dương cho làm thực ấp(38).
Hạ Tề đi đánh dẹp Y tặc, Khâm đốc suất một vạn binh, cùng với Tề hợp sức, bình định được Y tặc. Lại đến chinh chiến ở Hợp Phì, Nguỵ tướng Trương Liêu tập kích Quyền ở Tân Bắc, Khâm hết sức chiến đấu có công, được thăng Đãng khấu Tướng quân, lĩnh chức Đô đốc Nhu Tu. Sau được triệu về kinh đô, bái làm Hữu Hộ quân, coi sóc việc tố tụng(39).
Quyền từng đến chỗ mẫu thân Khâm, thấy màn trướng của bà rất sơ sài, quần áo của thê thiếp đều bằng vải bố. Quyền than rằng Khâm ở nơi tôn quý mà quá tiết kiệm, lập tức mệnh cho ngự phủ may áo gấm cho mẹ Khâm, thay đổi màn trướng, y phục của thê thiếp tất cả đều là gấm 5 màu.
Khi trước, Khâm đóng ở Tuyên Thành, từng đánh dẹp bọn giặc ở Dự Chương. Vu Hồ lệnh là Từ Thịnh lệnh bắt giam quan lại của Khâm, dâng biểu xin chém, Quyền cho rằng Khâm ở xa không nghe theo, bởi thế Thịnh có hiềm khích với Khâm. Tào Công tiến đến Nhu Tu, Khâm cùng với Lã Mông nắm ba quân chủ trì giữ vững. Thịnh thường sợ Khâm nhân đó hại mình, mà Khâm vẫn thường khen Thịnh. Thịnh bội phục đức hạnh của Khâm, người bàn luận cũng ca ngợi.
Giang biểu truyện chép: Quyền bảo Khâm rằng: “Trước đây Thịnh bẩm bạch về khanh, nay khanh lại bảo cử cho Thịnh, muốn bắt chước Kỳ Hề đó ư?” Khâm thưa rằng: “Thần nghe rằng việc tiến cử cho người thì chẳng nên xử tệ với họ vì tư oán, Thịnh trung dũng chuyên cần mà cứng cỏi, có đởm lược có dũng khí, là người tài giữa vạn người. Nay đại sự chưa định, thần đang cầu lấy bậc hiền tài giúp nước, há dám hẹp hòi vì tư hận để che lấp mất kẻ hiền tài ư!” Quyền khen lời ấy
Quyền đánh Quan Vũ, Khâm đốc thuỷ quân tiến vào sông Miện, khi về, bị bệnh chết ở trên đường. Quyền mặc áo trắng cử tang, lấy 200 hộ dân ở Vu Hồ cùng 200 khoảnh ruộng, cấp cho vợ con Khâm. Con Khâm là Nhất được phong làm Tuyên Thành hầu, lĩnh binh cự Lưu Bị có công, lúc về tới Nam Quận, cùng với người Nguỵ giao chiến, chết khi lâm trận. Nhất không có con, em là Hưu lĩnh binh ấy, sau bị tội đánh mất cơ nghiệp.

HÀN ĐƯƠNG TRUYỆN
Hàn Đương tự Nghĩa Công, người quận Liêu Tây huyện Lệnh Chi. Giỏi nghề cung ngựa, có sức khoẻ, được Tôn Kiên yêu mến, theo đi đánh dẹp khắp nơi, mấy lần xông vào chốn nguy nan, vây hãm bắt sống địch quân, được làm Biệt bộ tư mã.
Ngô thư chép: Đương cần mẫn lo lập công, những thứ được cấp thêm ở trong quân, đem chia cả cho tướng sĩ, nên tước vị chẳng có gì hơn người. Cho đến hết thời Kiên, Đương chỉ làm Biệt bộ Tư mã.
Khi Tôn Sách vượt sông về Đông, Đương đi theo đánh dẹp ba quận, được thăng làm Tiên Đăng hiệu uý, trao cho 2.000 binh, 50 quân kỵ. Theo đi đánh Lưu Huân, phá Hoàng Tổ, quay về đánh dẹp ở Bà Dương, lĩnh chức trưởng huyện Nhạc An, Sơn Việt hiệu uý. Sau lấy làm Trung lang tướng cùng với bọn Chu Du kháng cự phá Tào công, lại cùng với Lã Mông đánh úp lấy được Nam Quận, được thăng làm Thiên tướng quân, lĩnh chức Vĩnh xương Thái thú. Chiến dịch Nghi Đô, cùng với bọn Lục Tốn, Chu Nhiên vây đánh quân Thục ở Trác Hương, thắng lớn ở đó, được chuyển làm Uy liệt Tướng quân, phong tước Đô Đình hầu. Tào Chân đánh Nam Quận, Đương giữ ở phía Đông Nam . Ở bên ngoài lấy mình làm gương, khích lệ tướng sĩ đồng lòng cố thủ, lại kính trọng Đốc ti, vâng theo pháp lệnh, Quyền khen ngợi việc ấy. Năm Hoàng Vũ thứ hai, được phong Thạch Thành hầu, thăng lên làm Chiêu Vũ tướng quân, nhận chức Quán quân Thái thú, sau lại thêm danh hiệu Đô đốc. Đương dẫn một vạn quân cảm tử đến Giới Phiền, đánh dẹp bọn giặc cỏ ở Đan Dương, phá được. Lúc bị bệnh chết, con là Tống nối tước hầu nắm binh sĩ đó.
Năm ấy, Quyền đi đánh Thạch Dương, vì Tống có tang, mới sai giữ Vũ Xương, mà Tống dâm loạn chẳng có phép tắc gì. Quyền dẫu vì cha Tống mới mất bỏ qua không bắt tội, Tống trong bụng lo sợ,
Ngô thư chép: Tống muốn làm phản, sợ tả hữu không theo, mới giả sai người đi cướp bóc, lại ngầm bảo sẽ tha cho, quân sĩ bảo nhau nhất mực thi hành, làm cản trở việc hành binh. Sau lại nói trá rằng bị vua hạ chiếu trách mắng, bởi việc để bộ khúc cướp bóc bị cật vấn, rằng ” Từ tướng lại trở xuống, đều phải bị trừng trị”, Tống lại sợ tội đến mình. Tả hữu nói rằng: “Giờ chỉ còn cách bỏ chạy mà thôi.” Tống bèn dùng kế ấy, mới nhân đám tang của cha, cho gọi hết những chị em thân thích, đem gả cho các quan, những tì thiếp yêu, đều ban cho những người thân cận, rồi giết trâu uống rượu sáp huyết cùng chung thề ước. Bèn đem thuyền chở xác cha, rồi dẫn mẹ và cả gia quyến cùng bộ khúc nam nữ mấy nghìn người chạy sang Nguỵ. Nguỵ lấy làm tướng quân, phong làm Quảng Dương hầu. Tống đã mấy lần xâm phạm biên cảnh, giết hại dân chúng, Quyền thường nghiến răng căm giận. Chiến dịch Đông Hưng, Tống làm tiên phong, thua quân thiệt thân, Gia Cát Khác chém chết Tống cắt lấy đầu, đem cáo tế ở miếu thờ của Quyền.

HOÀNG CÁI TRUYỆN
Hoàng Cái tự Công Phúc, người quận Linh Lăng huyện Tuyền Lăng.Ngô thư chép: Cái vốn là hậu duệ của Nam Dương Thái Thú là Hoàng Tử Liêm, tách ra từ một chi nhánh thuộc họ nhà vua, bởi tổ tiên dời đến ở Linh Lăng, mới lưu trú ở đó. Cái mồ côi từ thuở nhỏ, gặp cảnh tang gia khốn khó, nếm đủ mùi cay đắng, nhưng có chí lớn, dẫu ở nơi bần tiện, cũng chẳng vì thế mà giống như những kẻ tầm thường khác, những lúc rảnh rỗi thường ngả mình trên đám cỏ, học chút ít chữ nghĩa, bàn chuyện binh nhung. Ban đầu Cái làm Lại ở quận, đến kỳ xét Hiếu Liêm, được vời vào công phủ. Tôn Kiên khởi
nghĩa binh, Cái đi theo. Kiên ở phía Nam phá sơn tặc(40), phía Bắc đuổi Đổng Trác, lấy Cái làm Biệt bộ Tư mã. Kiên chết, Cái theo Sách và Quyền. Thường mặc giáp che kín toàn thân, xông pha tên đạn đánh phá thành trì.
Bọn người ở Sơn Việt không phục, quấy phá gây vạ trong huyện, Quyền liền dùng Cái làm huyện trưởng. Các viên lại ở huyện Thạch Thành, triều đình rất khó kiểm tra, Cái bèn đặt ra hai chức Duyện(41), phân định rõ quyền hạn của từng vị quan. Dạy rằng: “Lệnh trưởng(42) chẳng có tài, ta chỉ lấy võ để làm việc công với các quan, không lấy việc văn để cân nhắc. Nay quân giặc cướp chưa bình được, quân lữ rất bận rộn, những việc văn thư ta uỷ thác cho hai viên Duyện, nhận trách nhiệm tra xét các vị quan, chỉ ra những việc sai lầm. Hai vị tạm coi các việc ở đây, xem xét các văn kiện gửi đến gửi đi, ví bằng có sự gian dối, ta tuyệt đối không dùng đến roi gậy đâu, thế nên mọi người đều phải tận tâm, không được làm việc như trước nữa.”
Lệnh mới ban ra, mọi người ngày đêm cung cúc với chức phận; được ít lâu, đám quan lại thấy Cái không coi xét việc văn thư, nên có người dần dần biếng nhác. Cái bề ngoài cũng ngờ có kẻ lười biếng, bấy giờ mới coi xét đầy đủ, biết được hai viên Duyện mấy lần làm việc không theo quy củ. Cái bèn mời tất cả các viên Duyện đến, cho ăn uống, nhân đó đem các việc ra căn vặn. Hai viên Duyện trình bày quanh co, rồi đều phải khấu đầu tạ tội. Cái nói: “Ta đã có mệnh từ trước, tuyệt đối không dùng đến roi gậy, chẳng phải là nói dối vậy.” Bèn cho giết đi. Người trong huyện kinh hoàng rung động. Về sau Cái chuyển đến làm trưởng huyện Xuân Cốc, rồi Tầm Dương lệnh. Cả thảy coi việc ở chín huyện, ở những nơi đó đều bình định. Cái được thăng lên làm Đô uý Đan Dương, đè nén kẻ mạnh, nâng đỡ kẻ yếu, người ở Sơn Việt mến mà theo.
Cái ngoài mặt nghiêm nghị, nhưng khéo dưỡng sĩ tốt, mỗi khi đi đánh dẹp, sĩ tốt đều tranh nhau xông lên. Năm Kiến An trung, Cái theo Chu Du cự Tào Công ở Xích Bích, hiến kế hoả công, việc đã nói ở Chu Du truyện.Ngô thư chép: Việc đánh nhau ở Xích Bích, Cái bị lạc tên bắn trúng, ngã xuống sông giữa lúc trời rét, có người lính Ngô ở đấy vớt lên, không biết đó là Cái, mới vứt ở giữa sàn thuyền. Cái còn khoẻ lấy hết sức gọi Hàn Đương, Đương nghe tiếng kêu, nói: “Đấy là tiếng của Công Phúc vậy.” Rồi hướng vào Cái mà chảy nước mắt, cởi áo của mình mặc cho, Cái mới sống sót được.” Cái được bái làm Vũ phong Trung lang tướng. Người Man-Di ở Vũ Lăng làm phản gây loạn, đánh chiếm thành ấp, Quyền liền cho Cái lĩnh chức Thái thú ở đó. Bấy giờ quân binh trong quận có chừng 500 người, Cái tự biết không thể đối địch, vì thế mới cho mở toang cửa thành, địch vào đến nửa chừng, Cái bèn tập kích, chém được mấy trăm thủ cấp, đám còn lại đều cuống quýt chạy trốn, các ấp lạc đều quy phục cả. Cái cho kể tội rồi giết những kẻ đầu sỏ, những kẻ theo về thì được tha tội. Từ xuân sang hạ, loạn lạc cướp bóc bình được hết, những ấp hầu là trưởng quân ở các vùng hẻo lánh như Ba, Lễ, Do, Đản(43) đều thay đổi thái độ, dâng lễ vật xin vào hầu, các cõi trong quận được thanh bình. Sau này các huyện Trường Sa, Ích Dương bị sơn tặc vây đánh, Cái lại đi đánh dẹp bình định. Được thêm chức Thiên tướng quân, bị bệnh chết lúc còn làm quan.
Cái đang làm việc quan thì mất, mà công việc không hề bỏ sót, người trong nước đều thương cảm. Ngô thư chép: Lại cho vẽ hình của Cái, để ở trong đền bốn mùa cúng tế. Lúc Quyền lên ngôi Đế, đoái xét đến công lao của Cái, ban cho con của Cái là Bính tước Quan nội hầu.

TỪ THỊNH TRUYỆN
Từ Thịnh tự Văn Hương, người đất Cử vùng Lang Da, gặp thời loạn thế phiêu dạt xa quê dến ở đất Ngô, nhờ gan dạ dũng cảm mà nổi danh. Tôn quyền thống lĩnh công việc, dùng Thịnh làm Biệt Bộ Tư Mã, nhận năm trăm quân, thường trụ giữ Sài Tang, chống lại Hoàng Tổ. Con Tổ là Xạ, từng chỉ huy mấy nghìn quân đến đánh Thịnh. Lúc ấy tướng sĩ của Thịnh chưa đủ hai trăm, phòng thủ Xạ đánh đến, hạ quân của Thịnh hơn nghìn người, rồi mở của đánh ra, đại phá quân của Xạ. Xạ rốt cuộc tuyệt hẳn không dám quay lại cướp phá nữa. Quyền lấy Thịnh làm Hiệu Uý, giữ chức Lệnh ở Vu Hồ. Thịnh lại thảo phạt sơn tặc ở vùng núi Nam A thuộc Lâm Thành lập nên chiến công, được chuyển làm Trung Lang Tướng, chỉ huy hiệu quân.
Tào Công đến đánh Nhu Tu, Thịnh theo Quyền tới chống cự. Quân Nguỵ từng kéo ra đông đảo đầy cả mặt sông, Thịnh cùng các tướng đều xuất chiến. Lúc ấy quân Ngô cưỡi thuyền Mông Trùng gặp phải gió thốc, thuyền trôi về bờ bên địch. Các tướng hoảng sợ, chưa có kế gì. Thịnh một mình dẫn quân bất ngờ xông lên chém giết. Địch lùi rẽ ra mà chạy, nhiều kẻ bị quân Thịnh đánh hạ giết chết. Kịp lúc gió ngưng toàn quân thuận lợi quay về. Quyền vô cùng khen ngợi.
Đến khi Quyền nhận làm phiên thân của Nguỵ. Nguỵ sai Hình Trinh đến phong cho Quyền tước Ngô Vương. Quyền rời cung đình ra chờ đón Hình Trinh. Trinh lộ vẻ ngạo mạn. Trương Chiêu đã giận mà Thịnh thì uất ức tức hận, nghoảng lại bảo các tướng cùng hàng rằng: ”Bọn Thịnh này chẳng thể gắng hết sức mình tuân theo mệnh lệnh, vì quốc gia gồm thâu Hứa, Lạc; nuốt gọn Ba, Thục khiên cho chủ của chúng ta thệ ước với Trinh, cũng chẳng phải là nhục nhã lắm sao!” Vì vậy rơi lệ khóc ở ngang đường. Trinh nghe chuyện, bảo với người cùng đi rằng: ”Tướng sĩ Giang Đông khí chất thế này, chẳng chịu mãi làm kẻ dưới người người ta vậy.”
Sau Thịnh đổi sang chức Kiến Vũ Tướng Quân, tước phong Đô Đình Hầu, làm Thái Thú ở Lư Giang, được cho ăn lộc huyện Lâm Thành. Lưu Bị đến Tây Lăng, Thịnh đánh giữ các đồn trại, lập được công lao trên hướng của mình. Tào Hưu tấn công Động Khẩu. Thịnh cùng Lã Phạm, Toàn Tông vượt sông phòng thủ chống cự. Gặp cơn gió lớn, thuyền phần lớn đều chìm, Thịnh thu thập quân binh còn lại, cùng với Tào Hưu cầm cự bên sông. Hưu sai quân tụ tập đánh Thịnh. Thịnh lấy ít chọi nhiều, địch không thắng nổi, hai bên đều dẫn quân về. Thịnh được phong An Đông Tướng Quân, tước Vu Hồ Hầu.
Sau Nguỵ Văn Đế đẫn đại quân đến, có chí muốn vượt sông. Thịnh hiến kế từ Kiến Nghiệp xây tường bao, làm thành hàng rào, trên tường bao dựng các lầu giả, ngoài bải sông thả nổi chiến thuyền. Các tướng cho là vô ích nhưng Thịnh không nghe, kiên quyết dựng lên. Văn Đế đến Quảng Lăng, nhìn thấy tường bao tràn khắp mấy trăm dặm rất ngạc nhiên, mà nước sông rất lớn, liền dẫn quân về. Các tướng đều phục kế của Thịnh..
Can Bảo Tấn Kỷ(44) gọi thành ấy là thành mơ, đã chú ở Tôn Quyền  truyện.
Nguỵ Thị Xuân Thu(45) chép: Văn Đế than rằng: Nước Nguỵ có vũ sĩ kỵ binh nghìn đội mà không có chỗ dùng.
Thịnh chết trong những năm Hoàng Vũ(46). Con là Giai kế thừa tước vị, thống lĩnh binh sĩ.

CAM NINH TRUYỆN
Cam Ninh tự Hưng Bá, người ở Lâm Giang thuộc Ba Quận(47).
Ngô Thư(48) chép: Ninh quê gốc ở Nam Dương, tổ tiên phiêu dạt đến Ba Quận. Quan lại đề cử Ninh làm Kế Duyện, rồi lại bổ dụng làm Quận Thừa ở Thục Quận, nhưng chẳng bao lâu Ninh bỏ quan về nhà.
Ninh từ lúc nhỏ đã có sức mạnh, thích dao du hành động vì nghĩa, chiêu nạp tụ tập đám thiếu niên nhanh nhẹn hư hỏng để làm thủ lĩnh của chúng. Thường cùng nhau tụ hội thành bè, giữ cung cầm nỏ, đội lông thú đeo chuông nhỏ. Dân nghe tiếng chuống liền biết là Ninh.
Ngô Thư chép: Ninh làm việc nghĩa mà giết người, phải trốn lánh giữ mạng, tiếng tăm vang dội trong quận.
Mỗi khi Ninh ra vào, trên bộ thường sắp đặt ngựa xe, dưới nước liên tiếp ngồi thuyền nhẹ, người hầu đi theo được ăn mặc hoa lệ, giống như ánh sáng vút qua trên đường. Dừng nghỉ ở đâu luôn lấy gấm lụa buộc thuyền, rời đi có người cắt bỏ, lấy thế làm xa hoa. Thường dân và quan lại các thành gặp gỡ Ninh, hễ ai đón tiếp đãi đằng trọng hậu thì Ninh cũng người đó giao hảo vui vẻ; Nếu không liền buông thả cho bộ hạ cướp đoạt tài sản của người ta. Trong giới trưởng lại cũng có người bị cướp đoạt làm hại, làm cho tiếng tăm của Ninh dựa vào đó càng hưng thịnh đến hơn hai mươi năm. Ninh thôi không đánh cướp nữa, hơi đọc sách vở của chư tử, bèn đến nương tựa vào Lưu Biểu, nhân đó định cư ở Nam Dương, nhưng không được nhận ra mà tiến cử sử dụng. Sau chuyển sang gửi gấm vào Hoàng Tổ. Tổ lại coi như kẻ tầm thường mà lưu lại.
Ngô Thư chép: Ninh đem gia đồng trang khách tám trăm người về theo Lưu Biểu. Biểu là người văn vẻ, không thạo việc quân. Bấy giờ các lộ anh hùng mỗi người mỗi khởi binh. Ninh xem cách Lưu Biểu tham dự vào thời cuộc, biết rằng cuối cùng Biểu tất không làm nên sự nghiệp gì. Lại sợ rằng một ngày cương vực của Biểu tan tành, sẽ phải chịu chung tai hoạ, nên muốn đi sang đất Ngô. Hoàng Tổ lúc ấy đóng ở Giang Hạ, quân của Ninh không đi qua được nên ở lại nương nhờ vào Tổ, trải qua ba năm mà Tổ không hậu đãi. Quyền đánh Tổ. Tổ thua quân bỏ chạy, bị đuổi theo rất gấp. Ninh vốn bắn giỏi, cầm quân đi sau, bắn chết Hiệu Úy Lăng Tháo. Tổ đã được thoát, cho quân về trại nghỉ ngơi, lại đối xử với Ninh như lúc ban đầu. Đô Đốc của Tổ là Tô Phi mấy lần tiến cử Ninh nhưng Tổ không dùng, lại sai người dùng lời cám dỗ gia khách của Ninh. Gia khách dần dần bỏ trốn. Ninh muốn rời đi, lại sợ không thoát được, một mình lo lắng buồn rầu. Phi hiểu lòng Ninh, bèn hẹn gặp Ninh, bày tiệc rượu, bảo Ninh rằng: ”Tôi đã mấy lần tiến cử ông nhưng chúa công không chịu dùng. Ngày tháng phôi pha, đời người mấy độ, nên tự lo xa, sau sẽ gặp người tri kỷ.” Ninh im lặng hồi lâu rồi nói: ”Tuy tôi có ý đó, nhưng chưa biết có cơ hội nào không.” Phi nói: ”Tôi muốn thưa lên để ông làm Trưởng ở huyện Chu. Ở nơi ấy có ai cùng nhìn để xoi xét việc dẹt biến thành tròn được đâu.” Ninh nói: ”Thật là rất may mắn vậy.” Phi trình với Tổ, thuận cho Ninh đến huyện ấy. Ninh chiêu mộ gọi về gia khách đã bỏ đi cùng những người vì nghĩa mà theo được mấy trăm người.
Vì vậy Ninh theo về với Ngô. Chu Du và Lã Mông đều cùng tiến cử. Tôn Quyền lấy làm lạ, đối xử giống như cựu thần. Ninh trình bày kế sách rằng: ”Nay phúc khí nhà Hán mỗi ngày một suy vi. Tào Tháo càng thêm ngạo mạn, cuối cùng sẽ làm việc soán đoạt. Vùng đất phía nam Kinh Châu núi đồi địa hình thuận lợi, sông ngòi vận động linh hoạt, quả thật là có hình thế một quốc gia. Ninh đã quan sát thế lực của Lưu Biểu. Ông ta nghĩ đã chẳng xa mà các con lại kém cỏi, không phải là người đủ tài gánh vác nền móng, đảm đương cơ nghiệp. Chí Tôn nên sớm trù liệu việc này, không thể tính toán châm trễ. Kế sách chiếm đoạt đất ấy, trước tiên nên chọn lấy Hoàng Tổ. Tổ nay tuổi già, đã rất u mê tăm tối. Tiền của lương thực đều thiếu thốn, bộ hạ thì trí trá khinh nhờn. Lại chỉ biết chăm chú vào việc thủ lợi từ quan chức và tướng sĩ. Quan chức và tướng sĩ đã đem lòng thống hận, thuyền bè chiến cụ hư hỏng không sửa chữa, trồng cấy nông tang bỏ bê lười nhác, quân binh không giữ pháp độ hàng ngũ. Chí Tôn nay đến, nhất định có khả năng đánh bại được. Một khi phá tan quân Hoàng Tổ, lại đánh trống tiến sang phía tây, chiếm giữ ải quan nước Sở. Khi ấy đại thế càng tăng, liền có khả năng dần dần thôn tính Ba Thục.” Quyền rất tán thành. Trương Chiêu ngồi một bên căn vặn rằng: ”Đất Ngô nguy cơ trùng điệp, nếu ngài nhất quyết tiến hành, sở rằng tất xảy ra loạn lạc.” Ninh bảo Chiêu rằng: ”Quốc gia đem trách nhiệm của Tiêu Hà(49) giao phó cho ngài. Ngày lưu thủ mà lo loạn lạc, lấy gì mà tưởng nhớ đến cổ nhân đây?” Quyền nâng chén rươu dặn Ninh rằng: ”Hưng Bá, năm nay tiến hành thảo phạt, bằng chén rượu này quyết định phó thác cho khanh. Khanh nếu gắng gỏi đảm đương xây dựng phương kế sách lược. Mệnh lệnh ban ra tất khắc chế được Tổ, ấy là công của khanh. Khanh hà tất phải không bằng lòng với lời của Trương Trưởng Sử.” Quyền tiến sang phía tây, quả nhiên bắt được Tổ, thu hết tướng sĩ của hắn, rồi giao quân cho Ninh, đóng đồn cai quản quan ải.
Ngô Thư chép: Lúc đầu khi Quyền đánh bại Tổ, trước tiên làm hai cái hộp, muốn đựng đầu Tổ và Tô Phi.Phi sai người cấp báo với với Ninh. Ninh nói: ” Dù Tô Phi không nói, ta há lại quên sao?” Quyền vì các tướng đặt tiệc rượu, Ninh rời chỗ ngồi xuống dập đầu, huyết lệ chảy lẫn vào nhau, nói với Quyền: ”Phi ngày xưa có ơn đức cũ với thần. Ninh này không gặp được Phi nhất định đã vùi xương trong ngòi trong rãnh, không được hiến dâng tính mạng dưới cờ. Nay tội của Phi đáng bị chém giết. Ninh đặc biệt theo tướng quân xin được nhận đầu Phi.” Quyền thương cảm cho lời ấy, bảo rằng: ”Nay khiến cho người hết lòng như vậy nhưng nếu Phi bỏ chạy thì sao?” Ninh nói: ”Phi tránh được cái hoạ bị cắt chém, nhận lấy ơn đức sinh ra thêm lần nữa, đã hơn chỗ mong cầu tất sẽ không bỏ chạy, há còn dám mưu tính trốn tránh làm gì! Nếu là như thế xin lấy đầu Ninh thay thế bỏ vào hòm.” Quyền bèn tha cho.
Sau Ninh theo Chu Du chống cự đánh bại Tào Công ở Ô Lâm. Khi đánh Tào Nhân ở Nam Quận vẫn chưa hạ được, Ninh hiến kế trước theo đường tắt ra lấy Di Lăng. Tới nơi liền đoạt ngay được thành này, nhân đó bèn vao trong thành phòng giữ. Lúc ấy thủ hạ của Ninh có mấy trăm người, cộng với lính mới mộ ở địa phương chưa đầy một nghìn quân. Tào Nhân bèn sai năm sáu nghìn người đến vây Ninh. Ninh bị tấn công ngày này qua ngày khác. Địch dựng lầu cao ở bên ngoài bắn như mưa vào trong thành. Quân sĩ đều sợ hãi, riêng Ninh vẫn cười nói như thường lại sai sứ đến báo với Du. Du dùng kế của Lã Mông, chỉ huy các tướng đến giải vây. Sau Ninh lại theo Lỗ Túc đến trấn phủ canh giữ Ích Dương, chống lại Quan Vũ. Vũ huyênh hoang có ba vạn quân, đích thân tuyển chọn ra lấy dũng sĩ năm nghin người, đưa đến chỗ nước cạn trên thượng du cách huyện hơn mười dặm, bảo rằng muốn đương đêm vượt sông sang. Túc với các tướng cùng nhau bàn luận. Ninh lúc ấy có ba trăm quân, bèn nói: ”Có thể lại đem thêm năm trăm quân nữa cấp cho tôi. Tôi đến đó chống chọi. Đảm bảo Vũ nghe tiếng tôi ho hắng khạc nhổ không dám lội xuống nước, mà nếu có lội xuống tất bị tôi bắt.” Túc lập tức chọn lấy nghìn quân trao thêm cho Ninh. Ninh trong đêm đến nơi. Vũ nghe tin, thôi không vượt sông nữa mà dựng trại gỗ đóng quân. Nhân đó ngày nay tên xứ ấy là khe Quan Vũ. Quyền khen công lao của Ninh, bái làm Tây Lăng Thái Thú, thống suất hai huyện Dương Tân và Hạ Trĩ.
Sau đó Ninh theo đi đánh đất Hoàn, chỉ huy đội Thăng Thành. Tay Ninh cầm lụa trắng thân dẫn đầu tướng sĩ trèo lên thành, cuối cùng đánh bại bắt được Chu Quang. Tính toán công lao, Lã Mông thứ nhất, Ninh thứ hai. Ninh được phong Chiết Xung Tướng Quân. Sau Tào Công đánh Nhu Tu. Ninh chỉ huy quân tiên phong nhận lệnh xuất trận đánh đội tiền quân của địch. Quyền đặc biệt ban Mễ Tửu làm đồ ăn cho mọi người. Ninh bèn đem chia cho thủ hạ hơn trăm người. Ăn xong, Ninh lấy chén bạc rót rượu, tự mình uống trước hai chén rồi mới rót cho viên đô đốc đám thủ hạ. Đô đốc phục xuống không nguyện nắm lấy thời cơ. Ninh rút Bạch Tước(50) đặt trên đùi, quát bảo rằng: ”Người hiểu biết hơn Chí Tôn, thành thục hơn Cam Ninh chăng? Cam Ninh ở trên không tiếc cái chết, sao ngươi một mình tiếc cái chết đến thế?” Đôc đốc thấy Ninh thần sắc nghiêm trang đứng ngay dậy vái lạy đón lấy chén rượu, lại rót cho quân binh mỗi người một chén. Đến lúc canh hai, cưỡi ngựa ngậm hàm thiếc ra đánh địch. Địch chấn động bèn lui lại. Ninh càng được kính trọng hơn, quân được cấp thêm hai nghìn người.
Giang Biểu truyện chép: ”Tào Công đánh Nhu Tu, lệnh cho bốn chục vạn bộ kỵ dắt ngựa xuống uống nước Trường Giang. Quyền thống suất bộ tốt bảy vạn người ra ứng chiến. Sai Ninh chỉ huy ba nghìn quân đốc suất đội tiền phong. Quyền mật ra lệnh cho Ninh, sai đang đêm tập kích vào trại quân Nguỵ. Ninh bèn lựa chọn lấy thủ hạ dũng mãnh hơn trăm người, theo lối tắt đến chỗ Tào Công hạ trại, sai nhổ chông chà, vượt luỹ vào trại, chém được mấy chục đầu. Bắc quân chấn động đánh trống ầm ĩ, đốt đuốc sáng như sao. Ninh quay chở về trại, đánh trống kéo đàn tấu khúc quân ca, hô vang vạn tuế. Ngay trong đếm đó đến yết kiến Quyền. Quyền mừng nói: ”Đủ để làm lão già kinh hãi hay chăng? Nhờ ở chỗ được thưởng thức lòng can đảm của khanh đó.” Lập tức ban cho lụa nghìn xấp, đao trăm thanh. Quyền lại nói: ”Mạnh Đức có Trương Liêu, cô có Hưng Bá, đủ để đối chọi với nhau vậy.” Đóng quân chông giữ hơn một tháng, bắc quân liền lùi.
Ninh tuy thô hào mạnh mẽ thích giết chóc nhưng hào sảng khoáng đạt có mưu kế thao lược, lại biết coi nhẹ tiền tài, kính trọng kẻ sĩ, hơn nữa có tài hậu đãi nuôi dưỡng sĩ tốt. Sĩ tốt cũng vui vẻ tuân theo lệnh Ninh. Năm Kiến An thứ hai mươi, Ninh theo đi đánh Hợp Phì, gặp lúc có dịch bệnh, các cánh quân đều dừng tiến phát, chỉ có đội Hổ Sĩ hơn nghìn người ở dưới xe cùng bọn Lã Mông, Tưởng Khâm, Lăng Thống và Ninh tuỳ tùng Quyền đi lên bờ bắc bến Tiêu Diêu. Trương Liêu dò xét dòm dở biết được, liền chỉ huy bộ kỵ đột ngột sấn đến. Ninh dương cung bắn giặc, cùng bọn Thống tận lực chiến đấu, nghiêm giọng hỏi quân nhạc sao chẳng tấu lên, khi phách hào hùng kiên cường quả cảm. Quyền lại càng khen ngợi.
Ngô Thư chép: Lăng Thống oán Ninh giết cha Thống là Tháo. Ninh luôn đề phòng Thống, không cùng gặp gỡ. Quyền cũng lệnh cho Thống không được hận thù. Có lần yến hội ở nhà Lã Mông, vui rượu, Thông bèn múa đao. Ninh đứng dậy nói: ”Ninh có tài múa song kích.” Mông bảo: ”Ninh tuy tài nhưng chưa được khéo bằng Mông.” rồi cầm đao giữ mộc, tự mình đứng giữa hai người. Sau Quyền biết ý Thống bèn lệnh cho Ninh cầm quân chuyển đến đóng đồn ở Bán Châu.
Thuộc hạ đầu bếp nhỏ tuổi của Ninh từng có tội, bỏ chạy đến nương nhờ Lã Mông. Mông sợ Ninh giết nó nên không lập tức trả về. Sau Ninh đem lễ vật đến hiếu kính mẹ Mông. Gặp lúc cùng nhau lên công đường, Mông bèn đem đứa đầu bếp nhỏ tuổi nọ ra trả về cho Ninh. Ninh hứa với Mông sẽ không giết nó, rồi chờ tới khi về đến thuyền thì trói vào cây dâu, tự mình dương cung bắn chết. Xong, Ninh bảo người trong thuyền thả thêm neo, tự mình cởi áo vào nằm bên trong. Mông rất giận, đánh trống hội quân, muốn đến thuyền đánh Ninh. Ninh nghe biết, vẫn nằm như cũ không dậy. Mẹ Mông chân trần đi bộ ra can Mông rằng: ”Chí Tôn đãi Ninh như ruột thịt, lại phó thác việc lớn cho con.Sao lại có việc vì nỗi tức hận riêng tư mà muốn đánh giết Cam Ninh? Ngày Ninh chết, cho dù Chí Tôn không hỏi đến, con vẫn là thân tử làm trái pháp luật.” Mông vốn chí hiếu, nghe mẹ nói đột nhiên thông suốt tiêu tan ý định, tự mình dến thuyền Ninh gọi to: ”Hưng Bá, mẹ ta chờ ông đến ăn cơm, mau dậy!” Ninh rơi nước mắt khóc sụt sùi: ”Tôi đã phụ ông.” rồi cùng Mông về gặp mẹ, vui vẻ ăn uống trọn ngày.
Ninh chết, Quyền rất thương tiếc. Con Ninh là Khiết, mắc tội bị chuyển đến Cối Kê, chẳng bao lâu thì chết.

CHÚ THÍCH
(1) Hạ Thái: Nay là huyện Phượng Thái tỉnh An Huy, Trung Quốc.
(2) Hoàn; Nay là phía bắc huyện Tiềm Sơn tỉnh An Huy, Trung Quốc.
(3) Tào Công: Chỉ Tào Tháo.
(4) Nhu Tu: Nay là phía bắc huyện Vô vi tỉnh An Huy Trung Quốc.
(5) Giang Biểu Truyện: Do Ngu Phổ đời Đông Tấn soạn, đề cao nhân vật Đông Ngô, hạ thấp nhân vật hai phe Ngụy và Thục.
(6) Hoàng Vũ: Niên hiệu của Tôn Quyền từ 222 đến 229.
(7) Hoàng Long: Niên hiệu của Tôn Quyền từ 229 đên 232.
(8) Tùng Tư: Nay là huyện Túc Tùng thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc.
(9) Ngũ Giáo: Tên một doanh quân Đông Ngô.
(10) Tam Lương: La ba anh em Yển Tử, Tương Hành, Châm Hổ. Tần Mục Công mở tiệc, lúc rượu say nói với ba anh em rằng ”sống thì cung vui, chết cùng cùng buồn”. Mục Công chết, ba anh em đều chết theo.
(11)  Ngụy thiếp, Đồ Hồi: Chính là sự tích Kết cỏ nổi tiếng.
(12)  Giải Phiền: Tên một quân doanh Đông Ngô.
(13)  Hoàng Long: Niên hiệu của Ngô Đại Đế Tôn Quyền, bắt đầu từ năm 229 đến 232.
(14)  Vô Nan: Tên quân doanh cấm vệ Đông Ngô.
(15)  Gia Hòa: Niên hiệu của Ngô Đại Đế Tôn Quyền, bát đầu từ năm 232 đến 238.
(16)  Tiên Tương Quân: Chỉ Trần Võ.
(17)  Dư Diêu: Nay là huyện Dư Diêu tính Triết Giang, Trung Quốc.
(18)  Hậu Hán Thư của Tạ Thừa: Bộ này do Tạ Thừa em rể Tôn Quyền soạn, nay đã thất truyền khác với bộ do Phạm Diệp đời Lưu Tống soạn.
(19)  Tặc Tào: Chức danh, phụ trách việc đánh bắt trộm cướp trong quân huyện.
(20)  Thái Phi: Vợ Tôn Kiên.
(21)  Thảo Nghịch Tướng Quân: Chỉ Tôn Sách.
(22)  Thảo Lỗ Tướng Quân: Chỉ Tôn Quyền, đây là danh hiệu chính thức được triều đình phong của hai anh em Sách và Quyền.
(23)  Mông Trùng: Chiến thuyền di chuyển rất nhanh, thân bọc da trâu, trên đặt nỏ lớn tiện dụng cả tấn công và phòng thủ, rất được ưa chuộng trong thuỷ chiến ở khu vức trường Giang giai đoạn Tam Quốc.
(24)  Miện Khẩu: Cũng là Hạ Khẩu, Hán Khẩu, Lỗ Khẩu là nơi Hán Thuỷ chảy vào Trường Giang.
(25)  An Phong: Nay là thị trấn An Phong, huyện Đông Thai tỉnh An Huy, Trung Quốc.
(26)  Thái Bình: Niên hiệu của Tôn Lượng, bắt đầu từ năm 256 đến năm 258.
(27)  Vĩnh An: Niên hiệu của Tôn Hưu, bắt đầu từ năm 258 đến năm 264.
(28)  Bảo Đỉnh: Niên hiệu của Tôn Hạo, bắt đầu từ năm 266 đến năm 269.
(29)  Kiến Hành: Niên hiệu của Tôn Hạo, bắt đầu từ năm 269 đến năm 271.
(30)  Dư Hàng: Nay là Dư Hàng thuộc tỉnh Triết Giang, Trung Quốc.
(31)  Tam Bản: Nguyên văn: Kiến trưởng lại hoài tam bản.
(32)  Phách Can: Nay thuộc Bộc Dương tỉnh Hà Nam Trung Quốc.
(33)  Bách Giáo: Tên một hiệu quân Đông Ngô.
(34)  Lăng Tốn: Chưa rõ ai.
(35)  Lục Khẩu: Nay là thị trấn Lục Khê huyện Gia Ngư Tỉnh Hồ Bắc.
(36)  Gia Hoà: Niên hiệu của
(37)  Hai địa danh tên huyện ngày xưa.
(38)  Ăn lộc ở đất ấy.
(39)  Các việc liên quan đến đơn từ kiện cáo.
(40)  Giặc núi.
(41)  Duyện là chức phó giúp việc.
(42)  Ý nói đến bản thân mình.
(43)  Quận Vũ Lăng là đất có nhiều bộ tộc người Man, người Di. Ấp hầu trưởng quân là trỏ những đầu mục của các bộ lạc hẻo lánh ở những nơi ấy.
(44)  Can Bảo Tấn Kỷ: Do Can Bảo đời Tấn soạn
(45)  Nguỵ Thị Xuân Thu: Do Tôn Thịnh đời Tấn soạn.
(46)  Hoàng Long: Niên hiệu của Ngô Vương Tôn Quyền, bắt đầu từ năm 222 đến 229.
(47)  Lâm Giang: Nay là huyện Trung tỉnh Trùng Khánh, Trung Quốc.
(48)  Ngô Thư: Do Vi Chiêu người Đông Ngô soạn.
(49)  Tiêu Hà: Khai quốc công thần của Hán Cao Tổ. Trong chiến tranh Hán Sở, Tiêu Hà có công giữ vững hậu phương, đảm bảo hậu cần cho quân viễn chinh.
(50)  Bạch Tước: Chưa rõ là vũ khí gì.


QUYỂN 11-CHU TRỊ CHU NHIÊN LÃ PHẠM CHU HOÀN TRUYỆN
Chu Trị, Chu Nhiên, Lã Phạm, Chu Hoàn.

CHU TRỊ TRUYỆN
Chu Trị tự Quân Lý, người quận Đan Dương huyện Cố Chướng. Ban đầu làm Huyện lại, sau trúng cử Hiếu liêm, quan châu vời đến làm Tòng sự, theo Tôn Kiên chinh phạt. Năm Trung Bình thứ năm, được bái làm Tư mã, theo đi đánh dẹp giặc ở ba quận Trường Sa, Linh, Quế là bọn Chu Triều, Tô Mã,
có công, Kiên dâng biểu xin cho Trị làm Hành đô úy(1). Trị theo đi phá Đổng Trác ở Dương Nhân, vào Lạc Dương. Kiên lại dâng biểu xin cho Trị làm Hành đốc quân hiệu úy(2), riêng nắm quân bộ kỵ, rồi sang đông giúp Từ châu mục Đào Khiêm đánh dẹp Hoàng Cân.
Lúc Kiên chết, Trị giúp đỡ Sách, tới nương nhờ Viên Thuật. Sau đó Trị biết Thuật chẳng lập nổi đức chính, bèn khuyên Sách quay về bình định Giang Đông. Thời Thái phó Mã Nhật Đê ở Thọ Xuân, cho vời Trị đến làm Huyện lại, rồi thăng làm Đô uý Ngô Quận. Bấy giờ Ngô Cảnh đang ở Đan Dương, còn Sách vì Thuật mà tấn công Lư Giang, vì thế Lưu Do sợ Viên, Tôn hợp sức với nhau, nên mới sinh ra hiềm khích. Nhưng gia đình Sách đều ở trong châu ấy, Trị liền sai người đến Khúc A nghênh đón Thái phi và anh em Quyền, từ đó cung phụng, giúp đỡ che chở cho họ, rất chu đáo lễ phép. Trị từ Tiền Đường định đi đến huyện Ngô, Thái thú Ngô Quận là Hứa Cống dàn quân giữ ở Do Quyền, Trị cùng giao chiến, đại phá Cống. Cống xuôi nam tới chỗ sơn tặc là Nghiêm Bạch Hổ, Trị liền vào trong quận, tự giữ công việc của Thái thú. Sách đã Lưu Do bỏ chạy, rồi sang Đông bình định Cối Kê.
Năm Quyền mười lăm tuổi, Trị đề cử làm Hiếu liêm. Sau khi Sách mất, Trị và bọn Trương Chiêu cùng tôn phù phò tá Quyền. Năm Kiến An thứ bảy, Quyền dâng biểu xin cho Trị làm Thái thú Cửu Chân (Ngô Quận), giữ chức Hành phụ nghĩa tướng quân(3), lấy Cát Lâu, Do Quyền, Vô Tích, Bì Lăng làm phụng ấp, đặt ra chức Trưởng lại. Trị đi đánh dẹp các tộc Di Việt, giúp cho vùng Đông Nam yên định, bắt hết dư đảng của Hoàng Cân là bọn Trần Bại, Vạn Bỉnh. Năm Hoàng Vũ nguyên niên, Trị được phong tước Bì Lăng hầu, cai quản quận như cũ. Năm thứ hai, được bái làm An Quốc tướng quân, có kim ấn và dây thao tía, dời đất phong về Cố Chướng(4).
Quyền từ lúc ở ngôi vị Thượng tướng, cho đến lúc làm Ngô Vương, Trị mỗi khi vào yết kiến, Quyền thường thân ra đón tiếp, tay cầm hốt giao bái, thết yến tặng đồ, ân sủng kính trọng đặc biệt, đến cả những quan lại đi theo Trị, đều được tặng lễ vật riêng, Trị được trọng vọng khác thường như thế.
Khi trước, em của Quyền là Dực, bản tính rất nóng nảy, mừng giận mặc ý, Trị mấy lần trách mắng, lấy đại nghĩa khuyên giải. Anh họ của Quyền là Thái thú Dự Chương Tôn Bôn, có con gái là vợ của Tào công tử, lúc Tào công phá Kinh Châu, uy chấn nam thổ, Bôn sợ hãi, muốn phái con đến làm con tin(5). Trị nghe tin ấy, xin tới gặp Bôn, bầy tỏ việc an nguy, Bôn vì thế mới cho dừng chuyện ấy lại.
Giang Biểu truyện chép lại lời Trị thuyết Bôn rằng: “Phá lỗ tướng quân trước kia thống suất nghĩa binh vào đánh dẹp Đổng Trác, tiếng tăm vang dội Quan Trung, nghĩa sĩ ngợi khen. Thảo Nghịch kế tiếp, mở mang yên định sáu quân, riêng có quân hầu là cốt nhục chí thân, tài năng sinh đúng thời, nên đã dâng biểu lên Hán triều, cho làm phiên trấn ở Đại Quận, kiêm quản việc gây dựng tướng giáo, luôn giữ quan hệ mật thiết với lưỡng phủ, vinh dự đứng đầu tông thất, hết thảy xa gần ngưỡng vọng. Lại thêm Thảo Lỗ là bậc thông minh thần vũ, kế thừa hồng nghiệp, thu dụng giao kết với các bậc anh hào, chăm lo giúp đời, binh chúng ngày một thịnh, sự nghiệp ngày càng hưng vượng, dù là Tiêu vương trước kia ở Hà Bắc, không hơn được vậy(6), thế tất sẽ gây dựng được vương nghiệp, ứng thời vận ở phía Đông Nam. Việc Lưu Huyền Đức ở xa bầy tỏ tấm lòng, cầu kiến xin cứu giúp, đó là thiên hạ cùng biết vậy. Hôm trước tôi ở phía Đông nghe được lời người qua đường, nói rằng tướng quân có ý lạ, thật khiến cho người ta phải bùi ngùi. Nay Tào công cậy binh lực, làm ngiêng ngửa nhà Hán, ấu chúa phải lưu ly, bách tính trăm họ chưa biết quay đầu về đâu. Còn Trung Quốc thì tiêu điều, ngờ là bách tính không yên, thành ấp rỗng không, người chết đói ở trên đường ngóng trông nhau, kẻ sĩ than thở bên ngoài, phụ nữ trong nhà ai oán, lại thêm việc binh lữ, dẫn đến cảnh mất mùa đói kém, lấy đó mà suy tính, há họ có thể vượt Trường Giang cùng với ta tranh mối lợi chăng? Tướng quân đang lúc như thế này, nên bỏ tình thân cốt nhục, là cái kế vạn an, còn dứt bỏ cái tình đồng khí da thịt, theo lời dụ dỗ của hổ lang, vì một người con gái, mà đổi mối ưu tư bằng toan tính, lỡ cơ một hào một ly, sai lầm vạn dặm, há chẳng tiếc ru? “
Quyền thường khen Trị chuyên cần lo lắng cho vương sự. Bản tính cần kiệm giản dị, dẫu ở chỗ phú quý, xe cộ y phục chỉ dùng cho công việc. Quyền cho Trị là người rất đặc biệt, bởi thế cho Trị đảm nhiệm chức vụ Đốc quân ngự sử chuyên ghi chép văn thư ở kinh thành, Trị chỉ tiếp nhận tô thuế ở bốn huyện mà thôi. Những con em trong công tộc và bốn họ lớn ở đất Ngô đa phần ra làm quan ở quận, quan lại ở quận thường có mấy nghìn người, Trị thống quản công việc mấy năm, tất cả bọn họ đều phái người đến vương phủ, mỗi nơi mấy trăm người, hàng năm đúng mùa dâng cống vật, Quyền báo đáp lại còn hậu hĩnh hơn. Thời ấy Đan Dương là vùng đất ở xa, luôn có phản loạn, Trị cũng vì tuổi sắp lên lão, lưu luyến đất phong, tự dâng biểu lên xin
về đóng quân ở Cố Chướng, trấn thủ vỗ về người ở Sơn Việt(7). Các vị phụ lão là người quen cũ, chẳng ai không đến nhà Trị, Trị đều cho dẫn vào, cùng yến tiệc, làng xóm cho thế là vinh dự. Trị ở Cố Chướng hơn một năm, lại quay về Ngô Quận. Năm Hoàng Vũ thứ ba thì chết, Trị ở quận ba mươi mốt năm, thọ sáu mươi chín tuổi.
Con của Trị là Tài, vì phẩm hạnh cao khiết được làm Hiệu uý cai quản binh lính, rồi nối tước của cha, được thăng làm Thiên tướng quân.
Ngô thư chép: Tài tự Quân Nghiệp, là người tinh nhanh, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, Quyền yêu mến khác thường, thường cho đùa bỡn với kẻ hầu. Lúc trẻ vì cha được nhậm chức Vũ vệ hiệu uý, lĩnh binh làm tuỳ tùng đi theo chinh phạt, luôn thắng trận lập công. Người ở bản quận chê là Tài còn trẻ được ở chỗ vinh hiển phú quý, không lưu ý đến xóm làng, Tài bèn than rằng: “Ta mới làm tướng, nói về việc cưỡi ngựa giầy xéo địch, đem thân dẫm vào chốn gươm đao, là đủ để dương danh, chẳng biết sao người trong thôn xóm lại truy xét cử chỉ đó của ta là thất thố ư?” Vì thế mới thay đổi chuyển sang nhún mình cung kính, lưu ý đến tân khách, khinh tài trượng nghĩa, giúp người khác chẳng mong báo đáp, lại học binh pháp, thanh danh vang dậy xa gần. Được ít lâu thì ốm chết.
Em của Tài là Kỷ, Quyền đem con gái của Sách gả cho, cũng cho làm Hiệu uý cai quản binh lính. Em Kỷ là Vĩ, Vạn tuổi nhỏ, đều chết yểu. Con của Tài là Tuyển, được tập tước làm tướng, làm quan đến chức Trấn Tây tướng quân.

CHU NHIÊN TRUYỆN
Chu Nhiên tự Nghĩa Phong, là con trai người chị gái của Trị, vốn gốc họ Thi. Khi trước Trị chưa có con trai, năm Nhiên được mười ba tuổi, Trị bèn bẩm với Tôn Sách xin lấy Nhiên làm con nối dõi. Sách lệnh cho Quận thú quận Đan Dương đem dương tửu tới triệu Nhiên, Nhiên đến Ngô quận, Sách đưa hậu lễ chúc mừng.
Nhiên từng cùng với Quyền học chung sách, kết tình thân ái. Đến lúc Quyền thống quản công việc, lấy Nhiên làm Trưởng huyện Dư Diêu, bấy giờ Nhiên mười chín tuổi. Sau lại đổi Nhiên làm Sơn Âm lệnh, gia thêm chức Chiết xung Hiệu úy, thống đốc năm huyện. Quyền lấy làm lạ về tài năng của Nhiên, bèn tách quận Đan Dương lập quận Lâm Xuyên, lấy Nhiên làm Thái thú, trao cho giữ hai nghìn binh.
Thần Tùng Chi xét: Đấy là quận Tầm Bãi, không phải là quận Lâm Xuyên hiện nay(8).
Gặp lúc sơn tặc đồng loạt nổi dậy, Nhiên bình định đánh dẹp, trong
khoảng tuần trăng thì yên định được cả. Tào công tiến ra Nhu Tu, Nhiên đóng trại ở Đại Ổ và Tam Quan phòng bị, được bái làm Thiên tướng quân.
Năm Kiến An thứ hai mươi bốn, theo đi đánh Quan Vũ, được biệt phái cùng với Phan Chương đến Lâm Tự bắt sống Vũ, Nhiên được thăng làm Chiêu Vũ tướng quân, phong tước Tây An hương hầu.
Hổ uy tướng quân Lã Mông bị bệnh nặng, Quyền hỏi rằng: “Khanh nếu như chẳng đứng dậy nổi, ai có thể thay được?” Mông thưa rằng: “Chu Nhiên cam đảm tiết nghĩa có thừa, ngu ý cho rằng có thể đảm nhiệm được.” Mông chết, Quyền cho Nhiên tạm được cầm phù tiết, trấn thủ Giang Lăng. Năm Hoàng Long nguyên niên, Lưu Bị cất binh tấn công Nghi Đô, Nhiên đốc suất năm nghìn quân cùng Lục Tốn hợp sức chống cự Bị. Nhiên được biệt phái đánh phá quân tiên phong của Bị, cắt đứt đường lui của Bị, Bị sau bị đánh tan bỏ chạy. Nhiên được bái làm Chinh bắc tướng quân, phong tước Vĩnh An hầu.
Nước Ngụy phái bọn Tào Chân, Hạ Hầu Thượng, Trương Cáp tấn công Giang Lăng, Ngụy Văn đế tự đóng giữ Uyển thành, làm hình thế viện trợ, đóng trại liền nhau vây thành. Quyền phái Tướng quân Tôn Thịnh đốc suất một vạn người phòng bị ở Châu Thượng, xây dựng Vi Ổ, làm thế cứu viện ở vòng ngoài cho Nhiên. Trương Cáp đưa binh qua sông tấn công Thịnh, Thịnh không thể kháng cự, tức thì lui binh về, Cáp chiếm cứ Châu Thượng bao vây quân phòng bị, Nhiên trong ngoài bị cắt đứt. Quyền phái bọn Phan Chương, Dương Sán tới giải vây nhưng không được. Bấy giờ binh sĩ của Nhiên ở trong thành đa phần bị bệnh phù thũng, quân có khả năng chiến đấu chỉ chừng năm nghìn người. Bọn Chân đắp núi đất, đào địa đạo, lập lầu gỗ, ở trên cao bắn tên như rót vào thành, tướng sĩ đều thất sắc, Nhiên lặng yên không có ý sợ hãi, khích lệ sĩ tốt, dò xét lúc chúng sơ hở tấn công phá hai trại địch. Ngụy quân vây đánh Nhiên cả thảy là sáu tháng ròng, không lui. Giang Lăng lệnh là Diêu Thái lĩnh binh phòng thủ ở cửa bắc thành, thấy bên ngoài binh đông, trong thành thì ít người, lương thực sắp hết, nhân đó cùng với địch thông đồng, toan mưu làm nội ứng. Lúc sắp phát động, việc bị phát giác, Nhiên trừng trị phanh thây Thái. Bọn Thượng không đánh được, bèn triệt quân tấn công lui về. Bởi thế Nhiên danh chấn địch quốc, được đổi phong làm Đương Dương hầu.
Năm thứ sáu, Quyền tự mình thống suất binh sĩ tấn công Thạch Dương, đến lúc binh sư quay về, Phan Chương đi đoạn hậu. Ban đêm quân sinh thác loạn, địch đuổi theo đánh Chương, Chương không thể ngăn cản. Nhiên lập tức quay lại cự địch, lệnh cho thuyền quân ở phía trước lui về thật xa, rồi Nhiên thong thả tiến phát sau. Năm Hoàng Long(9) nguyên niên, Nhiên được bái làm Xa kỵ tướng quân, Hữu hộ quân, lĩnh chức Duyện châu mục. Ít lâu sau, vì Duyện châu là địa phận của nước Thục, nên bãi chức Mục ấy.
Năm Gia Hòa thứ ba, Quyền giúp Thục hẹn cùng cất đại quân đánh Nguỵ, Quyền tự sang hướng Tân Thành, Nhiên cùng Toàn Tông đều được nhận Phủ việt(10), làm tả hữu đốc. Gặp lúc quân sĩ bị bệnh tật, cho nên chưa đánh mà lui về.
Năm Xích Ô thứ năm, Nhiên đi đánh Tô Trung, tướng nước Ngụy là Bồ Trung, Hồ Chất, mỗi tướng có mấy nghìn người, Trung chặn giữ chỗ hiểm yếu, toan cắt đứt đường phía sau của Nhiên, Chất đi sau làm cứu viện cho Trung.
Tương Dương ký chép: Chữ Tô này phát âm như chữ Tô trong từ ‘tô thuế’. Tô Trung nằm ở địa giới Thượng Hoàng, cách thành Tương Dương một trăm năm mươi dặm. Thời Ngụy Di Vương là Mai Phu có ba người anh em, bộ khúc tụ tập ở chỗ ấy có hơn vạn nhà, phân bố tại Trung Lư ở phía tây Nghi Thành vùng Sơn Yên và trong hai thung lũng ven sông Miện, đất đai bằng phẳng rộng rãi, có nhiều cây tang ma(11), giao thông thủy bộ dễ dàng, phía nam sông Miện đất đai mầu mỡ, mơi ấy gọi là Tô Trung.
Bấy giờ Nhiên đốc suất binh tướng tiến ra bốn phía, nghe được tin địch chưa kịp tập hợp, Nhiên liền dẫn tám trăm thủ hạ dưới trướng ngầm đón đánh. Trung giao chiến bất lợi, bọn Chất đều lui về.
Dị đồng bình của Tôn Thịnh chép: Ngụy chí (Ngụy thư) cùng Giang Biểu truyện nói rằng Nhiên vào năm Cảnh Sơ nguyên niên, năm Chính Thủy nhị niên mấy lần tiến ra cửa khẩu, phá Hồ Chất, Bồ Trung vào năm Cảnh Sơ nguyên niên. Ngụy chí nối theo Ngụy thư, không đưa lời khẳng định là bọn Chất bị Nhiên đánh tan ở đó, mà nói thẳng là Nhiên lui quân về vậy. Ngô chí nói là năm Xích Ô thứ năm, ở nước Ngụy là năm Chính Thuỷ thứ ba, tướng nước Ngụy là Bồ Trung cùng với Chu Nhiên giao chiến, Trung gặp bất lợi, bọn Chất đều lui. Xét Ngụy Thiếu Đế kỷ cùng Tôn Quyền truyện(12), thì năm ấy là vô sự, đích thị là Trần Thọ nhầm lẫn năm Gia Hòa thứ sáu nhà Ngô là năm Xích Ô thứ năm vậy.
Năm thứ chín, lại đi đánh Tô Trung, tướng nước Ngụy là bọn Lý Hưng nghe tin Nhiên xâm nhập, đốc suất sáu nghìn quân bộ kỵ cắt đứt đường phía sau của Nhiên, Nhiên trong đêm xuất binh đón đánh Hưng, sau khi thắng trận liền kéo về. Trước đấy, Mã Mậu ở Quy Nghĩa mang lòng gian, việc phát giác bị giết, Quyền rất căm phẫn Mậu. Nhiên lúc sắp hành quân dâng sớ rằng: “Tên tiểu tử Mã Mậu, dám phụ cái ơn dưỡng dục. Thần nay phụng thiên uy, hi vọng có thể đưa tin thắng trận, bắt sông được giặc, uy danh vang dội soi sáng xa gần, thuyền bè đã xếp hàng ngay ngắn phủ kín Trường Giang, đáng để ngắm xem, làm tiêu tan nỗi căm phẫn với kẻ dưới của hoàng thượng. Hi vọng Bệ hạ nhớ lời nói trước của thần, trách mắng thần để sau này thần nỗ lực đến cùng.” Quyền bấy giờ cất tờ biểu đi không đưa ra. Nhiên thắng trận trở về, quần thần dâng biểu chúc mừng, Quyền bèn nâng chén rượu cho tấu nhạc, rồi đưa tờ biểu của Nhiên ra nói: “Nhiên trước khi đi sớm dâng biểu, Cô cho là việc khó mà xong, nay quả như lời của Nhiên, có thể nói là sáng suốt ở chỗ biết việc vậy.” Rồi phái sứ giả bái Nhiên làm Tả tư mã, Hữu quân sư.
Nhiên mình cao chẳng đầy bảy thước, nóng lạnh phân minh rõ ràng, bên trong sửa mình trong sạch, những thứ tốt đẹp của mình, chỉ dùng vào việc trang bị trong quân, bản thân dùng toàn đồ mộc mạc. Suốt ngày kính cẩn chăm chỉ, thường ở chiến trường, nguy cấp ở gần kề thì bình tĩnh xếp đặt, kỳ tuyệt hơn đứt người thường, dẫu việc đời vô sự, thường sớm tối đánh trống nghiêm cẩn, binh lính ở doanh trại, đều xếp hành trang gọn gàng, vì thế có thể đùa bỡn với địch, khiến chúng không biết đâu mà phòng bị, cho nên xuất binh luôn lập được công lao. Con của Gia Cát Cẩn là Dung, con của Bộ Chất là Hiệp, dù đều nối việc của cha, Quyền đặc biệt cho Nhiên cầm đầu làm Đại đốc. Lại nữa là sau khi Lục Tốn chết, công thần danh tướng còn lại duy có Nhiên, sự đãi ngộ tuyệt chẳng ai so sánh được. Nhiên nằm bệnh hai năm, sau càng nặng dần, Quyền ban ngày giảm bớt cỗ bàn, ban đêm ngủ không say giấc, đích thân phái người đưa thuốc men và đồ ăn cho Nhiên, và đứng trông theo ở trên đường. Nhiên mỗi lần phái sứ giả dâng biểu rằng bệnh tật đã tiêu tan, Quyền lập tức cho triệu kiến, miệng hỏi han bệnh tật, khi đến thì ban cho đồ ăn thức uống, lúc ra về thì đưa tặng vải lụa. Từ khi các công thần sáng nghiệp ốm bệnh, tất cả như ý Quyền, thì Lã Mông, Lăng Thống là rất nặng, thứ nữa là đến Nhiên. Nhiên được sáu mươi tám tuổi, là năm Xích Ô thứ mười thì chết, Quyền mặc áo trắng cử ai, rất bi thống. Con của Nhiên là Tích nối tự.
Tích tự Công Tự, nhờ cha được đảm nhiệm chức Lang, sau được bái làm Kiến Trung đô uý. Người chú là Tài chết, Tích được lĩnh binh của Tài, theo Thái thường Phan Tuấn đi đánh dẹp ở Ngũ Khê, vì can đảm và có sức khoẻ được khen ngợi. Rồi thăng làm Thiên tướng quân Doanh hạ đốc, coi việc đánh đạo tặc, giữ phép tắc không hề nghiêng ngả. Lỗ Vương Bá để ý và giao du với Tích, từng đến dinh sở của Tích, khi đến nơi ngồi chơi, muốn cùng giao kết, Tích ngồi xuống đất không dậy, khước từ không nhận. Nhiên chết, Tích nối nghiệp, được bái làm Bình Nguỵ tướng quân, Lạc Hương đốc. Năm sau, Chinh nam tướng quân nước Nguỵ là Vương Sưởng đốc xuất quân lính tấn công thành Giang Lăng, không thắng phải lui về. Tích gửi thư cho Phấn uy tướng quân Gia Cát Dung nói: “Sưởng từ xa đến đây mỏi mệt khốn khó, ngựa không có lương ăn, lực khuất phải bỏ chạy, đó trời giúp ta vậy. Nay ta đuổi theo thì binh lực ít, túc hạ nên dẫn binh theo giúp ta, ta sẽ phá chúng ở phía trước, túc hạ ngồi xe ở phía sau, há đâu là cái công của một người, chúng ta nên cùng vì nghĩa chặt vàng.” Dung đáp thư hứa theo Tích. Tích liền dẫn binh đuổi kịp Sưởng ở Kỷ Nam, Kỷ Nam ở cách thành trì ba mươi dặm, Tích ban đầu chiến thắng, nhưng Dung không tiến binh, Tích về sau mất lợi thế. Quyền rất khen ngợi Tích, nổi giận trách Dung, anh của Dung là Đại tướng quân Gia Cát Khác được quý trọng, cho nên Dung không bị phế truất. Khi trước Tích cùng với Dung và Khác đã bất bình, lúc xảy ra việc này, nên hiềm khích càng nặng.
Năm Kiến Hưng nguyên niên, Tích được thăng làm Trấn đông tướng quân. Năm thứ hai mùa xuân, Khác ra hướng Tân Thành, yêu cầu Tích hợp sức, nhưng lưu lại ở Bán Châu, sai Dung kiêm quản việc ấy. Mùa đông, Khác và Dung bị hại, Tích lại quay về Lạc Hương, được ban Giả tiết.
Năm Thái Bình thứ hai, Tích được bái làm Phiêu kỵ tướng quân. Tôn Lâm nắm quyền chính, đại thần nghi ngờ, Tích sợ rằng nước Ngô tất nhiễu loạn, rồi Trung Quốc thừa cơ gây hấn, bèn bí mật gửi thư giao kết với nước Thục, để cả hai bên cùng lo toan. Thục phái Hữu tướng quân Diêm Vũ đưa năm nghìn quân, tăng cường giữ thành Bạch Đế, để đợi hiệu lệnh của Tích. Năm Vĩnh An sơ, Tích được thăng làm Thượng đại tướng quân, Đô hộ đốc, từ Ba Khâu lên đến Tây Lăng. Năm Nguyên Hưng nguyên niên, triều đình cho người tới bái làm Tả đại tư mã.
Khi trước, Nhiên vì chịu tang Trị xong, xin khôi phục lại họ gốc, Quyền không đồng ý, Tích đem năm con chim phượng về dâng biểu và xin trả lại họ Thi, năm Kiến Hành thứ hai thì chết.
 
LÃ PHẠM TRUYỆN
Lã Phạm tự Tử Hành, người quận Nhữ Nam huyện Tế Dương. Thời trẻ làm huyện lại, có dáng dấp, nghi dung đẹp đẽ. Người họ Lưu trong ấp, gia đình giàu có lại có người con gái rất đẹp, Phạm đến cầu thân. Mẹ người con gái không thích, muốn cấm giao du, Lưu thị nói: “Con xem Lữ Tử Hành há lại chịu nghèo hèn mãi sao?” Bèn hứa hôn. Về sau Phạm tránh loạn ở Thọ Xuân, Tôn Sách gặp được lấy làm lạ, Phạm bèn tự uốn mình thân gần, đem trăm người khách riêng của mình quy phục Sách. Bấy giờ Thái phi(13) ở Giang Đô, Sách phái Phạm đến nghênh đón. Từ châu mục Đào Khiêm bảo Phạm là Viên thị đang dò xét, khuyên quan huyện bắt lấy Phạm để tra khảo, Phạm chọn những thân cận trẻ khoẻ cướp phu nhân đưa về. Bấy giờ chỉ có Phạm và Tôn Hà thường đi theo Sách, lặn lội đắng cay khổ ải, nguy nan chẳng nề hà, Sách cũng đãi Phạm như người thân thích.
Sau Phạm theo Sách đi công phá Lư Giang, cùng về đông qua sông, đến Hoành Giang, Đương Lợi, đánh tan Trương Anh, Vu Mi, hạ Tiểu Đan Dương, Hồ Thục, Phạm được lĩnh chức Hồ Thục tướng. Sách bình định Mạt Lăng, Khúc A, bắt Trích Dung, Lưu Do và bộ hạ của chúng, lại tăng thêm cho Phạm hai nghìn binh, năm mươi quân kỵ. Sau Phạm lĩnh chức Uyển Lăng lệnh, đánh dẹp phá giặc cướp ở Đan Dương, khi về Ngô, được thăng làm Đô đốc.
Giang Biểu truyện chép: Sách thong dong một mình cùng với Phạm đánh cờ, Phạm nói: “Nay tướng quân sự nghiệp ngày một lớn, quân sĩ ngày càng đông, Phạm ở nơi xa, nghe nói cương kỷ còn có chỗ chưa nghiêm chỉnh, Phạm tình nguyện tạm lĩnh chức Đô đốc, gánh giúp một bộ phận quân đội cho tướng quân.” Sách nói: “Tử Hành, khanh đã là sĩ đại phu, hơn nữa thủ hạ cũng có đại quân, lập công ở bên ngoài, há nên khuất thân nhận một chức vụ nhỏ, khanh có biết những việc ở nhỏ mọn ở trong quân chăng?” Phạm nói: “Không đúng. Nay tôi bỏ cố hương mà thác thân theo tướng quân, không vì vợ con, là muốn chuyên chú vào việc giúp đời. Cũng như cùng thuyền lội bể, mọi việc chẳng phải lo lắng, tức là cùng cam chịu thất bại. Ấy cũng là toan tính của Phạm này, chẳng phải chỉ vì tướng quân vậy.” Sách cười, không đáp. Phạm ra ngoài, đổi áo ngắn, mặc khố kép, cầm roi, đến cửa nách phía dưới bầy giải công việc, tự xưng là đã lĩnh chức Đô đốc, Sách bèn trao cho quyền bính, uỷ thác cho việc quân. Bởi thế hiệu lệnh trong quân nghiêm chỉnh, pháp lệnh được thi hành rộng rãi.
Bấy giờ người ở Hạ Bi là Trần Vũ tự xưng là Thái thú Ngô quận, trú ở Hải Tây, cùng với cường tộc(14) là Nghiêm Bạch Hổ thông đồng. Sách thân đến đánh dẹp Hổ, biệt phái Phạm cùng Từ Dật đánh Vũ ở Hải Tây, đánh thắng, chém bêu đầu đại tướng của Vũ là Trần Mục.
Cửu Châu Xuân Thu chép: Năm Sơ Bình tam niên, Thứ sử Dương Châu là Trần Y(15) chết, Viên Thuật sai Vũ lĩnh chức Dương Châu mục. Sau Thuật bị Tào công đánh bại ở Phong Khâu, xuôi nam định phản Vũ, Vũ cự Thuật.
Thuật chạy trốn tới Âm Lăng, xong đưa thư trách Vũ, Vũ không hiểu quyền nghi, lại khiếp nhược, không lập tức đánh Thuật. Thuật ở Hoài Bắc tụ tập binh lính hướng đến Thọ Xuân. Vũ sợ, sai em mình là Công Diễm tới xin hoà với Thuật. Thuật bắt Diễm rồi tiến lên, Vũ chạy trốn về Hạ Bi.
Phạm lại theo đi đánh Tổ Lang ở Lăng Dương, Thái Sử Từ ở Dũng Lý. Bảy huyện bình định, Phạm được bái làm Chinh lỗ Trung lang tướng, đi chinh chiến ở Giang Hạ, rồi về bình định Bà Dương.
Sách chết, Phạm đưa về táng ở Ngô quận. Sau Quyền lại đi đánh Giang Hạ, Phạm cùng với Trương Chiêu ở lại giữ Ngô quận.
Tào công đến Xích Bích, Phạm giúp bọn Chu Du cùng chống cự phá được, Phạm được bái là Bì tướng quân, lĩnh chức Thái thú Bành Trạch, lấy Bành Trạch, Sài Tang, Lịch Dương làm phụng ấp(16). Lưu Bị đến kinh đô  gặp Quyền, Phạm bí mật xin giữ Bị lại. Sau Phạm được thăng làm Bình nam tướng quân, đóng trại ở Sài Tang.
Quyền đánh Quan Vũ, đi qua công quán của Phạm, bảo rằng: “Xưa kia ta sớm theo lời khanh, thì không phải nhọc nhắn thế này. Nay ta đang ngược dòng bắt hắn, khanh hãy vì ta mà giữ Kiến Nghiệp.” Quyền phá Vũ trở về, bái Phạm làm Kiến uy tướng quân, phong tước Uyển Lăng hầu, lĩnh chức Thái thú Đan Dương, trị sở ở Kiến Nghiệp, đốc trách từ Phù Châu ra đến biển, chuyển lấy Lật Dương, Hoài An, Ninh Quốc làm phụng ấp.
Bọn Tào Hưu, Trương Liêu, Tang Bá đến đánh, Phạm đốc suất bọn Từ Thịnh, Toàn Tông, Tôn Thiều, đem thuyền binh chống cự bọn Hưu ở Đỗng Khẩu. Phạm được thăng làm Tiền tướng quân, ban cho Giả tiết, đổi phong làm Nam Xương hầu. Lúc ấy bất ngờ gặp gió lớn, thuyền nhân bị lật chìm, chết mấy nghìn người, quân kéo về, Phạm được bái làm Dương châu mục.
Phạm tính thích uy vũ và nghi thức, người trong châu như Lục Tốn, Toàn Tông cùng là công tử quý tộc, đối với Phạm đều sửa mình cung kính trang nghiêm, chẳng dám khinh mạn. Phục sức của Phạm ở xứ mình thì xa hoa mĩ miều, nhưng lại chuyên cần việc tuân theo phép nước, cho nên Quyền vui mừng với cái trung của Phạm, chẳng quái lạ về việc xa xỉ của Phạm.
Giang Biểu truyện chép: Có người bẩm rằng Phạm cùng với Hạ Tề dùng lụa đẹp xa xỉ, phục sức bắt chước như bậc vương giả, Quyền nói: “Xưa kia Quản Trọng vượt cả lễ giáo, Hoàn Công vẫn bao dung cho, không tổn hại tới ngôi bá, Nay Tử Hành, Công Miêu, bản thân không có cái lỗi của Di Ngô, chỉ là khí giới của họ tinh xảo, xe thuyền nghiêm chỉnh mà thôi, thế là vừa đủ cho nghi dung của quân đội, có tổn hại gì đến việc trị quân nhỉ?” Người mách bảo bèn không dám nói lại nữa.
Khi trước Sách sai Phạm giữ chức Chủ tài kế(17), Quyền bấy giờ ít tuổi, tới xin tiền để dùng riêng, Phạm quả là vị quan thanh bạch, không dám tự tiện đồng ý, vì thế được người đương thời ngưỡng vọng. Quyền giữ chức trưởng huyện Dương Tiễn, có lấy ở đó ít của riêng, Sách ngờ hoặc cho tra xét, viên Công tào là Chu Cốc liền giúp Quyền sửa sổ sách giấy tờ, khiến Sách không hỏi han trách móc gì. Quyền ngay lúc bấy giờ rất hài lòng về Cốc, đến sau này khi thống quản công việc, vì Phạm trung thành, được hậu đãi tín nhiệm, còn Cốc có thể dối lừa sửa đổi sổ sách giấy tờ, không được dùng vậy.
Năm Hoàng Vũ thất niên, Phạm được thăng làm Đại tư mã, ấn thụ chưa ban xuống, Phạm đã bị bệnh chết. Quyền mặc áo trắng cử ai, phái sứ giả truy tặng ấn thụ. Lúc trở về kinh đô Kiến Nghiệp, Quyền đi qua mộ Phạm gọi to rằng: “Tử Hành!” Gọi xong rơi nước mắt, rồi tự mình làm cỗ thái lao để tế.
Giang Biểu truyện chép: Khi trước, Quyền dời đô về Kiến Nghiệp, đại hội tướng văn tướng võ, bấy giờ bảo Nghiêm Tuấn rằng: “Cô trước đây khen Lỗ Tử Kính sánh được với Đặng Vũ, Lã Tử Hành so được với Ngô Hán(18), khanh là một trong những người không đồng ý với lời ấy, hôm nay định nói gì đây?” Tuấn lui về chỗ ngồi nói: “Thần chưa hiểu rõ đại ý, nhưng Túc, Phạm nhận được nhiều lời tán dương như thế, tiếng khen là quá với sự thực vậy.” Quyền nói: “Xưa kia giữa lúc Đặng mới gặp được Quang Vũ, Quang Vũ bấy giờ vâng mệnh Canh Thuỷ(19) đi sứ, phủ dụ Hà Bắc, tạm giữ công việc của Đại tư mã thôi, chưa có cái chí của bậc đế vương vậy. Vũ khuyên Quang Vũ đế khôi phục lại nghiệp Hán, thế là Vũ là người đầu tiên bàn định là đầu mối việc khai quốc vậy. Tử Kính là người anh vũ hào sảng có mưu lược khác thường, Cô mới cùng nói mọi chuyện, nhân tiện đề cập đến đại kế, so với Vũ cũng tương tự, cho nên Cô mới so sánh vậy. Lã Tử Hành dốc lòng trung sáng suốt thẳng thắn, bản tính dẫu ưa xa xỉ, nhưng trước tiên là vì lo lắng đến việc công, chẳng đủ để tổn hại, lìa Viên Thuật tự theo về với anh Cô, anh Cô nhấc lên làm đại tướng, riêng lĩnh bộ khúc, bởi lo lắng cho công việc của anh Cô, mới xin làm Đô đốc, làm việc sửa sang chỉnh đốn quân đội, hơn nữa lại kính cẩn siêng năng, so với Ngô Hán cũng tương tự, cho nên Cô mới so sánh với ông ta. Đều là có căn cứ cả, chẳng phải là ý của riêng cô vậy.” Tuấn mới phục.
Con trưởng của Phạm chết sớm, con thứ là Cứ nối tự. Cứ tự Thế Nghị, nhờ cha được nhận chức Lang, sau Phạm ốm nặng, Cứ được bái làm Phó quân Hiệu uý, giúp cai quản việc quân. Phạm chết, Cứ được thăng làm An quân Trung lang tướng. Mấy lần đi đánh dẹp sơn tặc, những nơi thâm ác kịch địa(20), đánh ở đâu cũng đều phá được. Cứ theo Thái thường Phan Tuấn đi đánh dẹp Ngũ Khê, lại lập công. Chu Nhiên tấn công Phàn thành, Cứ cùng Chu Dị đánh phá các thành ngoại vi, khi về được bái làm Thiên tướng quân, vào triều được bái làm Mã Nhàn hữu bộ đốc, rồi thăng làm Việt kỵ Hiệu uý. Năm Thái Nguyên nguyên niên, có gió lớn, nước sông Giang tràn mênh mông, ngấm đọng ở cửa thành, Quyền sai người xem kỹ thế nước, chỉ thấy mình Cứ sai người dùng thuyền lớn để phòng hại. Quyền khen ngợi, bái Cứ làm Đãng Nguỵ tướng quân. Quyền ốm nặng, lấy Cứ làm Thái tử Hữu bộ đốc. Thái tử lên tức vị, bái Cứ làm Hữu tướng quân. Nước Nguỵ xuất binh ra Đông Hưng, Cứ đến đánh dẹp có công. Năm sau, Tôn Tuấn giết Gia Cát Khác, thăng Cứ làm Phiêu kỵ tướng quân, coi việc ở cung Bình Tây. Năm Ngũ Phượng nhị niên, được ban Giả tiết, cùng với bọn Tuấn tập kích Thọ Xuân, khi quay về bất ngờ gặp tướng nước Nguỵ là Tào Trân, phá Trân ở Cao Đình. Năm Thái Bình nguyên niên, Cứ thống suất binh sư xâm lấn nước Nguỵ, chưa đến sông Hoài, nghe tin Tôn Tuấn chết, em họ là Lâm tự lên thay, Cứ cả giận, dẫn quân về, muốn phế Lâm. Lâm nghe được tin ấy, sai quan Trung thư vâng chiếu chỉ, chiếu lệnh sai bọn Văn Khâm, Lưu Toản, Đường Tư bắt lấy Cứ, lại phái anh họ là Lự đem Đô hạ binh(21) đón đánh Cứ ở Giang Đô. Tả hữu khuyên Cứ hàng Nguỵ, Cứ nói: “Ta hổ thẹn vì kẻ phản thần.” Bèn tự sát. Bị tru di tam tộc.

CHÚ THÍCH
(1) Tạm coi việc của Đô uý.
(2) Coi việc Đốc quân hiệu uý.
(3) Tạm giữ chức Phụ nghĩa tướng quân.
(4) Cho đất phong ở quê quán.
(5) Con gái Tôn Bôn là vợ của con trai Tào Tháo, Tháo đánh Kinh Châu, phương nam chấn động, Dực sợ, muốn gửi con làm tin.
(6) Không rõ nhân vật này lai lịch thế nào, sống ở đời nào, sự tích ra sao.
(7) Đan Dương là quận trị, có huyện Cổ Chướng là đất phong của Chu Trị, Trị xin về đất phong, vỗ về dân Sơn Việt ở đó, nhất cử lưỡng tiện.
(8) Hai chữ ‘hiện nay’ ở đây tức là thời điểm mà Bùi Tùng Chi bổ chú cuốn Tam Quốc chí của Trần Thọ.
(9) Chỗ này hẳn sách chép lầm hoặc Trần Thọ ghi lầm, chiếu theo đúng sự kiện thì phải là năm Hoàng Vũ thứ nhất, chứ không phải Hoàng Long.
(10) Cái búa lớn tượng trưng cho uy quyền của vua.
(11) Là một loại cây giống cây dâu nhưng có gai.
(12) Nguyên ủy tên ban đầu của quyển 47, Ngô chủ truyện là Tôn Quyền truyện, người sau chép sách mới đổi tên đi vậy.
(13) Tức mẹ của Tôn Sách.
(14) Cường tộc là cường hào địa phương, có lực lượng quân binh trong họ tộc rất mạnh, tụ tập nhau lại đóng trại tự giữ.
(15) Có sách dịch là Trần Ôn.
(16) Ấp được thu thuế, ăn lộc.
(17) Tức là chủ quản về tài chính, nắm giữ tiền bạc trong quân.
(18) Đặng Vũ là công thần của Hán Quang Vũ đế Lưu Tú, giữ chức Tư Mã, sau này Ngô Hán lên thay Đặng Vũ giữ chức ấy.
(19) Canh Thuỷ đế Lưu Huyền do Quang Vũ lập nên, để giương cờ khởi nghĩa đánh lại Vương Mãng, người cướp ngôi Hán.
(20) Những khu vực đất đai cực kỳ hiểm trở.
(21) Không rõ những binh này là thế nào? Là tên một doanh quân của Đông Ngô chăng?

QUYỂN 12 - NGU LỤC TRƯƠNG LẠC LỤC NGÔ CHU TRUYỆN
Ngu Phiên, Lục Tích, Trương Ôn, Lạc Thống, Lục Mạo, Ngô Xán, Chu Cứ

TRUYỆN LỤC MẠO
Lục Mạo tự Tử Chương, là em của Thừa tướng Tốn vậy. Thủa trẻ ham  học lại ưa việc nghĩa. Người nước Trần là Trần Dung, người quận Trần Lưu là Bộc Dương Dật, người nước Bái là Tưởng Toản, người quận Quảng Lăng là Viên Địch đều nghèo hèn mà có chí, đến chỗ Mạo giao du, Cháu của Địch là Diệp, tự Tư Quang, soạn sách Hiến Đế xuân thu, chép là Địch cùng với bọn Trương Hoành vượt sông, cha của Trụ là Tuy, làm Thái phó duyện; vào lúc Trương Siêu đi đánh Đổng Trác, lấy Tuy coi việc ở quận Quảng Lăng.
Mạo chia ngọt xẻ bùi, cùng nhau giao kết. Vào lúc người cùng quận là Từ Nguyên chuyển đến ở quận Cối Kê, vốn không biết nhau, nhưng sắp chết gửi thư xin gửi gắm con nhỏ, Mạo vì người ấy mà đắp dựng phần mộ, nhận nuôi dạy con của người ấy. Lại nữa chú ruột là Tích chết sớm, để lại hai con trai một con gái đều mới vài tuổi, liền đem về nuôi dưỡng, đến lớn mới thôi. Châu quận cử gọi, đều không đến.
Bấy giờ Thượng thư Kị Diễm soi xét tốt xấu, xử đoán tam thự, (1) nêu kể cái ám mội để bày rõ cái lỗi sai của họ. Mạo gửi thư rằng: “Thánh nhân yêu thiện ghét ác, quên tội ghi công để lập giáo hóa tốt đẹp. Nay nghiệp vương mới dựng, sắp thống nhất chính thống, đây là buổi Hán Cao Tổ bỏ lỗi chọn dùng vậy. Như việc khiến cho thiện ác khác biệt, quý lời bình nguyệt đán của người miền Nhữ-Dĩnh, (2) thực là có thể khuyến khích phong tục, nhưng sợ rằng chưa dễ làm vậy. Chỉ nên xa thì bắt chước tấm lòng rộng lượng của Trọng Ni, giữa thì học theo việc giúp đỡ của Quách Thái, (3) gần thì tăng thêm đạo lớn thôi”. Diễm không làm theo được, rút cuộc thất bại.
Năm Gia Hòa thứ nhất, xe công mời Mạo, bái làm Nghị lang, Tuyển tào thượng thư. Tôn Quyền giận cái tính xảo trá phản phúc của Công Tôn Uyên, muốn tự đánh hắn, Mạo dâng sớ can rằng: “Thần nghe nói vua hiền ngăn giữ người rợ phương xa chỉ lỏng lẻo mà thôi, không thường giữ được, cho nên người xưa chia đất, gọi đấy là miền hoang phục, ý nói là miền xa xôi vô thường, không giữ được vậy. Ngày nay Uyên là rợ Đông Di nhỏ nhoi, lánh tại bờ biển, dẫu mang mặt người nhưng không khác với cầm thú. Nhà nước không thích hàng hóa của hắn mà đi xa tặng cho hắn, đấy không phải là khen đức nghĩa của hắn vậy, chỉ là muốn khuyên răn cái tính phóng túng để thu lấy ngựa của hắn mà thôi. Uyên là kẻ kiêu căng, cậy ở xa mà chống lệnh, đấy là thói thường của rợ Mạch ở nơi xa lánh, há đáng xem là lạ? Ngày xưa nhà Hán cũng từng chú ý theo đuổi người rợ ngoài nước, sai sứ giả đem hàng hóa đi tặng cho người miền Tây Vực, họ dẫu có lúc theo phục nhưng sứ giả lại bị họ làm hại, hàng hóa cũng bị cướp mất, không kể hết được. Nay bệ hạ không nhịn cái giận đùng đùng, muốn vượt biển lớn mà tự giẫm lên đất ấy, bọn  thần bàn nghị cho là không yên. Vì sao? Giặc bắc liền tiếp bờ cõi với nước ta, nếu có kẽ hở thì thừa cơ mà đến vậy. Vả lại vượt biển tìm ngựa vốn do từ ý của Uyên, đấy chỉ là tìm cái thuốc chữa trước mắt để trừ cái bệnh ở tim bụng, lại là vứt gốc mà tìm ngọn, bỏ gần mà theo xa. Nổi giận mà đổi phép tắc, nóng nảy mà phát quân, đấy là ý mốn của con hổ dữ, không phải là kế hay của nước Đại Ngô vậy. Theo phép tắc của nhà binh, đem quân đánh nhau, lấy nhàn đợi mỏi, trong lúc được mất, lại càng phải biết điều này. Vả lại bến Đạp cách chỗ Uyên đường đi còn xa; nay đến bờ ấy, thế quân phải chia ba, sai quân khỏe đi đánh, thứ nữa phải giữ thuyền, lại còn chuyển lương, người đi dẫu nhiều nhưng khó mà dùng hết được; lại nữa phải đi bộ mà chở lương, đường xa vào sâu, đất giặc lại nhiều ngựa, gập ghềnh vô thường; nếu Uyên xảo trá, chưa dứt qua lại với giặc bắc thì vào ngày ta phát quân tất răng môi giúp nhau. Còn nếu hắn thực không có chỗ dựa cậy thì tất sợ hãi mà trốn xa, lúc ấy cũng khó mà diệt được. Nếu quân ta ngưng trệ ở bãi bắc thì bọn giặc trong núi lại thừa cơ mà nổi lên, sợ rằng đấy không phải là kế hay vẹn toàn vậy”. Quyền không nghe.
Mạo lại dâng sớ rằng: “Binh đao là thứ để đánh dẹp bạo loạn, uy hiếp người rợ ở bốn phương vậy. Nhưng trận này ở thời kẻ gian hùng đã bị trừ, thiên hạ không có việc gì, chỉ nên ung dung trở trên triều đình mà nghe lời bàn nghị mà thôi. Đến như thời Trung Quốc rối loạn, chín cõi tranh giành vẫn phải chờ đợi rễ sâu gốc bền, giữ sức tiếc của, chăm chỉ nuôi dưỡng để đợi kẽ hở của nước địch; nếu chưa đúng vào thời cơ mà bỏ gần đánh xa, đấy là tự phá vỡ quân mình vậy. Ngày xưa Úy Đà phản nghịch, tiếm hiệu xưng Đế, bấy giờ thiên hạ yên ổn, trăm họ no đủ, áo giáp xếp rộng, lương thực chứa đầy, có thể nói là nhiều, nhưng Hán Văn Đế vẫn cho là đánh phương xa không dễ, chỉ nêu oai giễu quân để khuyên dụ mà thôi. Nay kẻ hung nghịch chưa diệt, bờ cõi vẫn có hấn, dẫu có loạn của Xi Vưu-Quỷ Phương thì vẫn nên vỗ về chúng, chớ nên xem việc đánh Uyên là việc đầu. Mong bệ hạ nhịn oai mà dùng kế, tạm dừng sáu quân, bỏ giận mà theo phép để mưu tính về sau, vậy thì thiên hạ may lắm”. Quyền lại xem thư của Mạo, khen lời lẽ thẳng thắn, bèn không đi.
Trước đây, người cùng quận của Mạo thường có danh tiếng được phong tước thì tặng cấp cho họ hàng, riêng Mạo cho là không đúng, sau đó quả như lời ấy.
Năm Xích Ô thứ hai, Mạo chết. Con là Hỉ cũng học sách vở, có đức hạnh tốt; vào thời Tôn Hạo làm Tuyển tào thượng thư.
Ngô lục chép: Hỉ tự Văn Trọng, là con thứ hai của Mạo; vào thời Tấn làm Tán kị thường thị. Cháu của Mạo là Diệp, tự Sĩ Quang, làm đến Xa kị tướng quân, Nghi đồng tam ti. Em của Diệp là Ngoạn, tự Sĩ Dao. Tấn Dương thu chép: Ngoạn khí độ nhã nhặn, làm đến Tư không, truy tặng chức Thái úy.

TRUYỆN CHU CỨ
Chu Cứ tự Tử Cứ, người huyện Ngô quận Ngô. Có dáng vẻ khỏe mạnh, lại biết luận nghị. Đầu năm Hoàng Sơ, gọi đến bái làm Ngũ quan lang trung, lĩnh chức Thị ngự sử. Bấy giờ Tuyển tào thượng thư Kị Diễm ghét kẻ làm quan mà tham ô, muốn bãi bỏ chúng; Cứ cho là thiên hạ chưa định, nên lấy công chuộc tội, xóa lỗi chọn dùng, (4) cử người trong sạch, khơi trong gạn đục, đủ để khuyên răn, nếu một chốc phế bỏ thì sợ có lỗi về sau. Diễm không nghe, rút cuộc bại.
Quyền tiếc nuối quân tướng, buồn bã than thở, nghĩ nhớ bọn Lữ Mông, Trương Ôn, cho là Cứ có tài cả văn võ, thay thế được họ, từ đấy bái làm Kiến nghĩa hiệu úy, đem quân đóng đồn ở Hồ Thục. Năm Hoàng Long thứ nhất, Quyền dời đô đến Kiến Nghiệp, gọi Cứ về lấy công chúa, bái Tả tướng quân, phong Vân Dương Hầu. Khiêm nhường đối đãi kẻ sĩ, khinh tiền của, ưa bố thí, bổng lộc dẫu nhiều mà thường không đủ dùng. Giữa năm Gia Hòa, bắt đầu đúc tiền lớn, một tiền ngang năm trăm tiền cũ; sau đó bộ khúc của Cứ được nhận ba vạn xâu tiền, nhưng có người thợ là Vương Toại lừa mà nhận lấy, Điển hiệu Lữ Nhất nghi rằng Cứ chiếm lấy, xét hỏi người coi việc, chết ở dưới gậy, Cứ thương quan coi việc không có tội, thu liệm mà táng hậu. Nhất lại tấu là quan thuộc của Cứ giúp Cứ che giấu cho nên táng hậu. Quyền mắng trách hỏi Cứ, Cứ không biết lấy gì làm để tự làm rõ, quỳ trên chiếu đợi tội. Được mấy tháng, Điển quân Lưu Trợ biết được, nói là do Vương Toại lấy, Quyền mới rất cảm thương, nói: “Chu Cứ mà còn bị oan, huống chi là quan dân khác đây”! Bèn xét trị tội của Nhất, thưởng trăm vạn tiền cho Trợ.
Năm Xích Ô thứ chín, chuyển làm Phiếu kị tướng quân. Gặp lúc hai cung tranh giành, (5) Cứ giúp đỡ Thái tử, nói rất thống thiết, nghĩa tỏ ra mặt, giữ ý dẫu chết, bèn bị chuyển làm Tân Đô Quận thừa.
Thông ngữ của Ân Cơ chép lời bàn của Cứ rằng: “Thần nghe nói Thái tử là gốc rễ của nhà nước, tính tình nhân hiếu, thiên hạ ngóng theo, nay chợt trách mắng, đấy là sắp có nỗi lo một sớm vậy. Ngày xưa Tấn Hiến Công dùng Li Cơ thì Thân Sinh chẳng còn, Hán Vũ Đế tin Giang Sung thì Lệ thái tử chết oan. (6) Thần sợ rằng Thái tử không gánh nổi nỗi lo này. Dẫu dựng cung Tư Tử (7) thì hối cũng chẳng kịp nữa vậy”.
Chưa đến nhận chức, Trung thư lệnh Tôn Hoằng gièm vu Cứ, nhân lúc Quyền nằm bệnh, Hoằng soạn chiếu lệnh đuổi theo bắt chết, bấy giờ năm mươi bảy tuổi.
Vào thời Tôn Lượng, hai con là Hùng, Tổn đều được lĩnh binh, bị Toàn công chúa gièm pha, đều chết. Giữa năm Vĩnh An, ghi nhớ công cũ, dùng con của Hùng là Tuyên nhận tước Vân Dương Hầu, lấy công chúa. Vào thời Tôn Hạo, Tuyên làm đến Phiếu kị tướng quân.

TRUYỆN NGÔ XÁN
Ngô Xán tự Khổng Hưu, người huyện Ô Trình quận Ngô.
Ngô lục chép: Xán sinh được mấy tuổi, có người đàn bà ở huyện Cô Thành (8) thấy Xán, bảo mẹ Xán rằng: “Thằng này có cốt của khanh tướng”.
Vào lúc Tôn Hà làm huyện trưởng, Xán làm viên quan nhỏ, Hà rất cho là lạ. Sau đó Hà làm Tướng quân, được tự chọn trưởng lại, cử Xán làm Khúc A Thừa, chuyển làm Trưởng sử, làm việc có công tích. Dẫu xuất thân hèn kém nhưng cùng sánh vai nổi danh với người cùng quận là bọn Lục Tốn, Bốc Tĩnh. Tôn Quyền làm Xa kị tướng quân, gọi làm Chủ bạ, ra làm Sơn Âm Lệnh, lại về làm Tham quân hiệu úy.
Năm Hoàng Vũ thứ nhất, cùng với bọn Ngô Phạm, Hạ Tề đem quân thuyền chống tướng Ngụy là Tào Hưu ở Động Khẩu. Gặp lúc trời có gió lớn, các thuyền đứt mất dây buộc, trôi nổi vào bờ, bị quân Ngụy thu được, có cái nghiêng lật chìm đắm, riêng thuyền lớn là vẫn còn, quân sĩ giữa nước níu dây kêu cứu, các quan tướng khác sợ thuyền chìm lật, đều lấy qua mâu chặt đứt không chịu cứu. Riêng Xán cùng Hoàng Uyên sai người trên thuyền đến cứu họ, tả hữu cho là thuyền nặng tất chìm vỡ, Xán nói: “Thuyền chìm thì nên cùng chết thôi! Người ta khốn cùng, sao lại bỏ mặc được”! Hơn trăm người được Xán, Uyên cứu sống.
Về, chuyển làm Cối Kê Thái thú, gọi kẻ sĩ ở ẩn là Tạ Đàm làm Công tào, Đàm lấy cớ bệnh không đến, Xán bảo rằng: “Ứng long (9) vì ưỡn bay mà thành thần, phượng hoàng vì kêu hay mà thành quý, sao phải ẩn hình ở ngoài trời, giấu thân ở vực sâu như thế”? Xán chiêu tập dân chúng, bái làm Chiêu nghĩa trung lang tướng, cùng Lữ Đại đánh dẹp người Sơn Việt, vào làm Đồn kị hiệu úy, Thiếu phủ, lại chuyển làm Thái tử thái phó. Gặp lúc hai cung sinh biến, nói lời thẳng thắn, chia rõ phận trưởng thứ, muốn sai Lỗ Vương là Bá ra đóng đồn ở Hạ Khẩu, lệnh Dương Lan không được làm quan Lệnh tại vùng kinh đô. Lại nhiều lần đưa tin tức nói với Lục Tốn, bấy giờ Tốn đóng đồn ở Vũ Xương cũng liên tiếp dâng biểu can gián. Do đó bị bọn Bá, Lan vu hại, bắt giam ngục giết chết.

QUYỂN 13 - LỤC TỐN TRUYỆN

LỤC TỐN
Lục Tốn tự Bá Ngôn, người huyện Ngô quận Ngô. Vốn có tên là Nghị, nối đời làm họ lớn của miền Giang Đông.
Lục thị thế tụng viết: Tổ tiên của Tốn là Hu, tự Thúc Bàn, hiền lành lại chăm học, làm Thành môn Hiệu úy. Cha là Tuấn, tự Quý Tài, thật thà chất phác, được họ hàng kính trọng, làm đến Cửu Giang Đô úy.
Tốn thuở nhỏ cô, theo chú họ là Lư Giang Thái thú Khang ở tại sở quan. Viên Thuật có hiềm khích với Khang, muốn đánh Khang, Khanh sai Tốn cùng họ hàng về huyện Ngô. Tốn lớn hơn con Khang là Tích mấy tuổi, cho làm Cương kỉ Môn hộ.
Tôn Quyền làm Tướng quân, bấy giờ Tốn hai mươi mốt tuổi, bắt đầu vào phủ trướng, làm Đông tây tào Lệnh sử, ra làm Hải Xương đồn điền Đô úy, lĩnh hết các việc của huyện.
Lục thị từ đường tượng tán viết: Hải Xương là huyện Diêm Quan ngày nay. Huyện nhiều năm khô hạn, Tốn mở kho lúa để cứu dân nghèo, khuyến khích làm ruộng, trăm họ được nhờ. Bấy giờ các quận Ngô, Cối Kê, Đan Dương có nhiều giặc ẩn náu. Tốn bày kế nên làm, xin cho đi chiêu mộ. Thủ lĩnh giặc núi ở Cối Kê là Phan Lâm lúc trước gây hại ở quận, nhiều năm không bắt được, Tốn sai quan thuộc tuyển quân, đánh dẹp nơi sâu hiểm, đến đâu đều theo phục, bộ khúc đã có hơn hai nghìn người. Tướng giặc ở huyện Bà Dương là Vưu Đột làm loạn, lại đến đánh hắn, bái làm Định uy Hiệu úy, đóng quân ở Lợi Phố. Quyền đem con gái của anh Sách gả cho Tốn, nhiều lần hỏi việc đời, Tốn bày kế nói: “Ngày nay anh hùng kèn cựa, hổ sói dòm ngó, phá địch dẹp loạn, nếu không dùng quân thì không làm được. Lại thêm giặc núi gây hại, dựa vào nơi sâu hiểm. Tim bụng chưa yên, khó mà mưu việc nơi xa. Nên tăng thêm đội ngũ, chọn lấy quân cứng khỏe”. Quyền nghe lời ấy, cho làm Hữu bộ đốc dưới trướng. Gặp lúc tướng giặc ở Đan Dương là Phí Sạn nhận ấn thao của Tào Công, lôi kéo người Sơn Việt, giúp làm nội ứng, Quyền sai Tốn đánh Sạn. Bè đảng của Sạn đông mà quân đến đánh lại ít, Tốn bèn tăng thêm cờ phướn, bày đặt chiêng trống, buổi đem ngầm vào hang núi, gõ trống mà tiến, quân giặc tan vỡ. Rồi chọn quân ở ba quận, kẻ mạnh thì làm lính, kẻ yếu thì cho vào sổ hộ, thu được mấy vạn quân khỏe, dẹp trừ kẻ ác, qua đâu đều yên ổn, về đóng đồn ở Vu Hồ.
Gặp lúc Cối Kê Thái thú Thuần Vu Thức kể việc Tốn chọn bừa người dân, nhiễu loạn ở quận. Sau đó Tốn đến kinh, lại nói khen Thức là quan giỏi, Quyền nói: “Thức xét tội ông mà ông lại tiến cử hắn, vì sao”? Tốn đáp nói: “Ý Thức muốn nuôi dân cho nên xét tội Tốn. Nếu Tốn lại chê Thức để làm loạn tai thánh thì không được hay vậy”.
Lữ Mông xưng bệnh về Kiến Nghiệp, Tốn đến gặp Mông, bảo rằng: “Quan Vũ gần cõi, sao lại quay về, sau lưng không chống được là việc đáng lo sao”? Mông nói: “Đúng như lời ông, nhưng ta bệnh nặng”. Tốn nói: “Vũ tỏ ý kiêu ngạo, chèn ép người khác. Lập được công lớn, lòng càng phóng túng, nhưng chỉ mưu đánh miền bắc, không ngờ gì ta. Nghe tin ông bệnh tất không phòng bị thêm. Nay ra chỗ hắn không ngờ thì có thể bắt giữ được. Về gặp chúa công, nên bày kế hay”.
Mông nói: “Vũ vốn dũng mãnh, khó mà địch nổi, lại đã giữ Kinh Châu, ân tín trùm khắp, thêm có công lớn, thế lực thêm mạnh, không dễ đánh vậy”. Mông đến kinh, Quyền hỏi rằng: “Người nào thay khanh được”? Mông đáp nói: “Lục Tốn suy nghĩ sâu xa, có tài gánh vác việc lớn, xem mưu lược của hắn, có thể cho giữ chức cao. Lại chưa có tiếng xa, không bị Vũ nghi ngờ, không ai hợp hơn. Nếu dùng hắn, nên sai tự che đậy ở ngoài, xét sửa ở trong rồi mới thắng được”. Quyền bèn gọi Tốn về, bái Thiên Tướng quân, Hữu bộ đốc thay Mông.
Tốn đến Lục Khẩu, gửi thư cho Quan Vũ nói: “Lúc trước nhân thấy kẽ hở mà động, đem quân đúng lúc, đánh ít thắng lớn, công lao lớn thay! Nước địch thua vỡ, lợi cho nước bạn, tin mừng vang reo, mong hãy thừa thắng, cùng giúp Nhà vua. Ta kém cỏi không giỏi, được dùng đến miền tây, ngưỡng mộ ánh sáng, thưa với người giỏi”. Lại nói: “Bọn Vu Cấm bị bắt, ta ở xa mà hớn hở, cho rằng công lao của Tướng quân đủ để truyền cho nhiều đời, dẫu quân của Tấn Văn Công đánh trận Thành Bộc, mưu của Hoài Âm Hầu phá quân Triệu(10) ngày xưa cũng không hơn được. Nghe nói bọn Từ Hoảng đem ít quân kị đến đóng giữ, dòm ngó cờ trướng. Tào Tháo gian dối, chắc căm giận không ngại khó, e rằng ngầm tăng quân để mưu thỏa lòng. Dẫu ông đã già nhưng vẫn dũng mãnh, vả lại sau trận thắng thường tỏ ý khinh địch, người xưa khuyên rằng quân thắng phải càng cảnh giác. Mong Tướng quân mưu bày kế lớn để giữ trọn trận thắng. Ta là kẻ đọc sách quê kệch, thẹn không gánh vác được việc, nhưng vui nghe oai đức của nước bên, mừng mà tự kính phục, dẫu chưa có kế hợp nhưng vẫn nên giữ ý. Mong liếc mắt nhìn, chú ý xét rõ”. Vũ xem thư của Tốn có ý nhún nhường tự gửi gắm, lòng bèn rất vui, không còn nghi ngờ. Tốn tấu báo tình trạng, bày kể kế nên đánh lấy. Quyền liền ngầm đem quân mà đi lên, sai Tốn cùng Lữ Mông làm Tiền bộ, đến liền chiếm Công An, Nam Quận. Tốn đi thẳng, lĩnh chức Nghi Đô Thái thú, bái Phủ biên Tướng quân, phong Hoa Đình Hầu. Nghi Đô Thái thú Phàn Hữu của Bị bỏ quận chạy, trưởng lại các thành cùng tù trưởng của người rợ đều hàng. Tốn xin đem ấn đồng vàng bạc để trao cho những người mới theo hàng. Năm đó là tháng mười một năm Kiến An thứ hai mươi tư vậy.
Tốn sai bọn Tướng quân Lí Dị, Tạ Tinh đem ba nghìn quân đánh tướng
Thục là bọn Đam Yến, Trần Phượng. Dị lĩnh quân thủy, Tinh lĩnh quân bộ, chặn giữ chỗ hiểm, liền phá bọn Yến, bắt sống được Phong. Lại đánh Phòng Lăng Thái thú Đặng Phụ, Nam Hương Thái thú Quách Mục, đại phá chúng. Họ lớn huyện Tỉ Quy là bọn Văn Bố, Đặng Khải đem hơn nghìn quân rợ liên kết ở miền tây, Tốn lại sai bộ tướng Tạ Tinh đánh phá Bố, Khải. Bố, Khải chạy thoát, người Thục cho làm tướng, Tốn sai người dụ chúng, Bố đem quân về hàng, trước sau bắt chém và thu nạp đến mấy vạn người. Quyền lấy Tốn làm Hữu Hộ quân, Trấn tây Tướng quân, tiến phong Lâu Hầu.
Ngô thư viết: Quyền khen công đức của Tốn, muốn ban vinh hiển, dẫu làm Thượng Tướng quân, Liệt hầu nhưng vẫn sai trông coi châu cũ, bèn sai Dương Châu Mục là Lữ Phạm đến gọi về làm Biệt giá Tòng sự, cử Mậu tài.
Bấy giờ kẻ sĩ Kinh Châu mới theo về, có người đến làm quan, có kẻ còn chưa làm, Tốn dâng sớ nói: “Ngày xưa Hán Cao Tổ nhận lệnh, mời gọi người tài, Quang Vũ Đế trung hưng, bọn giỏi đều đến, nếu có người nêu cao được đạo hóa thì không kể gần hay xa. Nay Kinh Châu mới định, lòng người chưa vững, thần thường lo lắng, xin ban thêm ân đức kén chọn rộng rãi, lại lệnh cho tự tiến cử, sau đó người bốn cõi nghển cổ mà theo về giáo hóa thôi”. Quyền nghe theo lời ấy.
Năm Hoàng Vũ thứ nhất, Lưu Bị đem đại quân hướng đến biên giới phía tây, Quyền sai Tốn làm Đại bộ đốc, Giả tiết, lĩnh năm vạn quân cùng bọn Chu Nhiên, Phan Chương, Tống Khiêm, Hàn Đương, Từ Thịnh, Tiên Vu Đan, Tôn Hoàn chống Bị. Bị đi đường vòng từ Vu Hiệp, Kiến Bình đến đất Di Lăng, dựng mấy chục đồn, đem vàng gấm ban tước dụ dỗ người rợ, sai bọn Tướng quân Phùng Tập làm Đại đốc, Trương Nam làm Tiền bộ, bọn  Phụ Khuông, Triệu Dung, Liệu Thuần, Phó Dung làm Biệt đốc, sai Ngô Ban đem mấy nghìn quân dựng đồn ở đất bằng trước, muốn đến dụ đánh. Các tướng đều muốn đánh chúng, Tốn nói: “Đấy tất có mưu lừa, tạm đứng xem”.
Ngô thư viết: Các tướng đều muốn đón đánh Bị, Tốn cho là không nên, nói: “Bị đem quân xuống miền đông, khí mạnh đang vững, lại men chỗ cao giữ nơi hiểm, khó mà đánh được, dẫu đánh gấp ngay cũng khó mà thắng hết. Nếu có gì không lợi tất làm tổn hại thế lớn của quân ta, đấy chẳng phải là việc nhỏ đâu. Nay chỉu nên khuyến khích tướng sĩ, bày rõ kế sách, đợi xem sự biến. Nếu chỗ ấy là đất bằng bãi rộng thì sợ có nỗi lo ruổi chạy dẫm đạp. Nay nên men núi mà đem quân đi thì thế giặc không thi triển được, tự sẽ mệt mỏi ở giữa vùng cây núi, thong thả mà ngăn chống giặc mệt mỏi vậy”. Các tướng không hiểu, cho rằng Tốn sợ giặc, đều mang ý giận.
Bị biết kế mình không xong, lại dẫn tám nghìn quân ẩn nấp từ trong hang núi đi ra. Tốn nói: “Ta không nghe lời các ông đánh bọn Ban là vì đoán được chúng có kế gian vậy”. Tốn dâng sớ nói: “Di Lăng là chỗ yếu hại, là then chốt của nước ta, dẫu là dễ lấy nhưng cũng dễ mất. Nếu mất chỗ ấy thì không chỉ là mất đi một quận mà còn khiến cho miền Kinh Châu sẽ đáng lo. Ngày nay tranh chỗ ấy, việc này tất xong. Bị làm trái phép thường, không giữ hang núi mà lại chia ra tự giữ. Thần dẫu không có tài, nhưng dựa vào oai linh của tổ tiên để đánh dẹp giặc ngược, sắp phá được thôi. Lại thấy Bị trước sau đem quân đi, thua nhiều thắng ít, do đó mà xét, hắn không đủ gây lo lắng. Thần lúc đầu e ngại hắn là vì hắn đem quân thủy bộ cùng tiến, nay lại bỏ thuyền mà đi bộ, đóng trại các chỗ, xét cách sắp đặt của hắn, chắc không có thay đổi. Kính mong bậc chí tôn kê gối cao, không cần lo nghĩ vậy”. Các tướng đều nói: “Lúc đầu nên đánh Bị, nay hắn đã vào năm, sáu trăm dặm, kèn cựa dây dưa bảy, tám tháng, bên ấy đã giữ vững các chỗ yếu hại, nếu lại đánh tất không được lợi”. Tốn nói: “Bị là người giảo hoạt, trải nghiệm nhiều việc, vả lại quân ấy mới tụ, ta lo quân ấy còn khỏe, cho nên chưa đánh vậy. Nay đến đã lâu, không đánh được ta, quân mỏi kế cùng, chẳng có mưu nữa, phá tan giặc ấy, vào lúc này đây”. Bèn sai đánh một đồn trước, không lợi, các tướng đều nói: “Giết uổng quân thôi”. Tốn nói: “Ta đã hiểu cách phá được giặc”. Lại sai các quân đều nắm một bó cỏ, dùng kế phóng lửa mà đánh. Chốc lát kế thành, liền đem các quân cùng lúc đến đánh, chém đầu bọn Trương Nam, Phùng Tập cùng vua của người rợ là Sa Ma Kha, phá hơn bốn mươi đồn giặc. Tướng của Bị là bọn Đỗ Lộ, Lưu Ninh khốn cùng xin hàng. Bị lên núi Mã Yên, bày binh tự giữ. Tốn đốc lĩnh các quân vây ép bốn phía, quân sĩ vỡ lở, chết đến mấy vạn người, Bị nhân buổi đêm chạy trốn, người ngựa mang cõng, vứt các đồ áo giáp chặn ở sau, chỉ vào được thành Bạch Đế. Các đồ vũ khí thuyền bè, đồ dùng của quân thủy bộ đều bị cướp sạch, thây chết trôi nổi tắc nghẽn dưới sông. Bị rất thẹn giận, nói: “Ta mà bị Tốn làm nhục, há chẳng phải là do trời chăng”!
Lúc đầu, Tôn Hoàn đi riêng đánh quân tiên phong của Bị ở Di Đạo, bị quân Bị vây, xin cứu với Tốn, Tốn nói: “Không được”. Các tướng nói: “Tôn An đông là họ hàng của chúa công, bị vây đã gấp, sao lại không cứu”? Tốn nói: “An đông được lòng quân sĩ, thành vững lương đủ, không cần lo lắng. Đợi kế ta thành, chưa đến cứu An đông thì An đông đã tự giải vây rồi”. Lúc kế sách đã sắp đặt xong, Bị quả nhiên tan vỡ. Sau đó Hoàn gặp Tốn nói: “Lúc trước thật là ta giận vì không được cứu, đến ngày nay mới biết suy nghĩ tự bày mưu lược vậy”.
Vào lúc chống Bị, trong các Tướng quân có người là tướng cũ của Tôn Sách, có người là họ hàng tông thất, đều tự kiêu ngạo, không chịu nghe lệnh. Tốn rút kiếm nói: “Lưu Bị nổi tiếng thiên hạ, Tào Tháo còn sợ, nay đến tại biên giới, đấy là địch mạnh vậy. Các ông đều chịu ân của nhà nước, phải nên hòa mục cùng dẹp tên giặc ấy, trên báo ân vua mà lại không theo lệnh, không nên thế vậy. Ta dẫu là trẻ tuổi, vâng lệnh chủ trên, nhà nước đem các ông sai cùng trông xét việc này là vì ta cũng có chút ít tài giỏi, lại biết nhẫn nhịn chịu nhục vậy. Đều trao việc ấy, há còn từ chối! Phép quân có thường, không được phạm cấm”. Đến lúc phá Bị, phần nhiều là kế của Tốn. Quyền nghe tin, nói: “Lúc trước khanh sao lại không báo kể tội trái lệnh của các tướng vậy”? Tốn đáp nói: “Thần chịu ân sâu, việc quá tài năng. Lại vì các tướng có người là tim bụng, có kẻ là nanh vuốt, có ông là công thần, đều là những người sẽ cùng làm nên việc lớn. Thần dẫu hèn kém, vẫn ngưỡng mộ nghĩa nhún nhường nhau của Tương Như, Khấu Tuân(11) để giúp việc nước”. Quyền cười lớn khen hay, bái Tốn làm Phụ quốc Tướng quân, lĩnh chức Kinh Châu Mục, lại đổi phong làm Giang Lăng Hầu.
Lại nữa Bị đã vào giữ thành Bạch Đế, bọn Từ Thịnh, Phan Chương, Tống Khiêm đều dâng biểu nói tất bắt được Bị, xin lại đến đánh. Quyền đem việc hỏi Tốn, Tốn cùng Chu Nhiên, Lạc Thống cho rằng Tào Phi tụ hợp quân sĩ, ngoài mượn tiếng là giúp nước đánh Bị, trong thực là có ý gian, xét kĩ kế rồi về. Không lâu, quân Ngụy quả nhiên đi ra, ba phía gặp địch vậy.
Ngô lục viết: Lưu Bị nghe tin quân Ngụy ra đánh, gửi thư cho Tốn rằng: “Nay giặc đã đến tại Giang Lăng, tướng của ta lại đến phía đông, Tướng quân nói xem có được không”? Tốn đáp nói: “Chỉ sợ quân vừa bị phá, vết thương chưa lành, nên cùng kết thân, tạm hãy tu sửa, không rỗi mà động binh nữa vậy. Nếu không tính kĩ mà muốn đem quân vừa bị nghiêng lật đi đường xa đến nữa thì không còn chỗ trốn vậy”.
Sau đó Bị bệnh chết, con là Thiện nối ngôi, Gia Cát Lượng nắm việc, liên hòa với Quyền. Bấy giờ việc hợp, Quyền liền sai Tốn bảo với Lượng, cùng khắc ấn của Quyền để trao cho Tốn. Quyền hễ gửi thư cho Thiện, Lượng thường đưa cho Tốn xem qua, nặng nhẹ đáng lo hay có chỗ không ổn liền sai sửa đổi, lấy ấn đóng dấu gửi đi.
Năm thứ bảy, Quyền sai Bà Dương Thái thú Chu Phường lừa quan Đại tư mã của nhà Ngụy là Tào Hưu, Hưu quả nhiên đem quân vào huyện Hoản, lại gọi Tốn đến trao lưỡi búa vàng, bái Đại Đô đốc, đón đánh Hưu.
Lục Cơ khắc văn nói về Tốn rằng: “Đại Tư mã Tào Hưu của nước Ngụy xâm cõi bắc của nước ta, bèn ban cho ông lưỡi búa vàng, đem lĩnh sáu quân cùng trung quân cấm vệ mà nắm giữ việc quân, Nhà vua cầm roi, trăm quan quỳ gối”.
Ngô lục viết: Ban lưỡi búa vàng cho Tốn, vua Ngô tự tay cầm roi để gặp Tốn.
Hưu đã biết được, thẹn vì bị lừa, nhưng tự cậy vào quân mã đông khỏe, bèn giao chiến. Tốn tự làm trung quân, sai Chu Hoàn, Toàn Tông làm hai cánh tả hữu, ba đường cùng đánh, liền xông vào quân nép phục của Hưu, nhân đó xua đuổi chúng, đuổi chạy về phía bắc, thẳng đến Giáp Thạch, bắt chém hơn vạn người, cướp sạch vạn cỗ xe cùng lừa la ngựa trâu, đồ dùng vũ khí. Hưu về, mọc nhọt trên lưng mà chết. Các quân kéo về qua Vũ Xương, Quyền sai tả hữu đem lọng vua cho Tốn để ra vào cửa điện, ban cho Tốn đều là những đồ vật của vua dùng, bấy giờ chẳng ai sánh được. Lại sai về Tây Lăng.
Năm Hoàng Long thứ nhất, bái Thượng đại Tướng quân, Hữu đô hộ. Năm đó, Quyền đi tuần phía đông đến Kiến Nghiệp, lưu Thái tử, Hoàng tử cùng chín quan Thượng thư ở lại, gọi Tốn về giúp Thái tử, nắm hết việc ba quận Dự Chương và Kinh Châu, coi xét việc quân cả nước. Bấy giờ Kiến Xương Hầu là Lự làm lan can hình đầu vịt ở trước nhà, có vẻ tinh xảo, Tốn nghiêm mặt nói: “Quân hầu mau dỡ bỏ đi. Xạ thanh Hiệu úy Tùng là người gần gũi nhất trong các vị Hoàng tử, đem quân làm trò vui không chịu tu thân, Tốn cắt tóc quan lại của hắn. Người quận Nam Dương là Tạ Cảnh thích bàn về phép tắc dùng hình trước đáp lễ sau của Lưu Dặc, Tốn lại mắng Cảnh rằng: ‘Lễ lớn hơn hình đã lâu rồi, Dặc dùng lời lẽ thấp kém mà dối gạt đạo lí của thánh nhân, đều là sai trái vậy. Nay ông hầu Thái tử, phải nên theo việc nhân nghĩa để gây dựng đức hạnh, như lời bàn ấy, không được giảng dạy nữa’”.
Tốn dẫu gửi thân ở ngoài nhưng lòng vẫn hướng về triều đình, dâng sớ bày kể việc thời ấy rằng: “Thần cho rằng hình pháp nghiêm ngặt phần nhiều làm hại kẻ dưới. Từ năm trước đến nay, quan tướng mắc tội, dẫu không không thể không phạt, nhưng thiên hạ chưa hợp một, đang mưu đánh lấy, nên ban ân tha lỗi để làm yên lòng người. Vả lại việc đời ngày càng nhiều lên, chọn người tài là việc đầu, từ kẻ gian xấu hay người lỗi khó chịu, vẫn nên cho sửa lại, gắng sức chuộc tội. Đấy là vua sáng quên lỗi ghi công để lập nên nền móng vậy. Ngày xưa Hán Cao Tổ tha lỗi của Trần Bình, dùng tài lại của người đó, rút cuộc lập nên nghiệp lớn, ghi công nghìn năm. Hình pháp nghiêm ngặt không phải là cách Đế Vương dựng nghiệp; có hình phạt mà không có tha thứ không phải là cách vỗ về phương xa vậy”.
Quyền muốn sai quân mạnh đánh lấy Di Châu và quận Chu Nhai, đều đem việc hỏi Tốn, Tốn dâng sớ nói: “Kẻ ngu này cho rằng bốn cõi chưa định, đang tu sức dân để giúp việc đời. Nay dấy binh nhiều năm, thấy dân tổn giảm, Bệ hạ suy nghĩ vất vả, quên ăn quên ngủ, muốn đem quân đi xa lấy Di Châu để lập việc lớn. Thần lại nghĩ xét kĩ, chưa thấy lợi đâu, mà vạn dặm đánh lấy, sóng gió khó lường, dân lạ thủy thổ, tất bị bệnh tật. Nay xua quân đi, lội vào đất hoang vắng, muốn ích mà lại tổm, muốn lội mà lại hại vậy.  Lại còn quận Chu Nhai ngăn trở, dân như cầm thú, thu được dân ấy không đủ để giúp việc, không có quân ấy không làm cho quân ta yếu kém. Nay quân sĩ Giang Đông tự đủ để mưu việc, chỉ nên nuôi sức trước mà đánh sau thôi. Ngày xưa Hoàn Vương(12) lập nền, quân không một đội mà mở được nghiệp lớn. Do đó Bệ hạ nối nghiệp, mở mang Giang Biểu. Thần nghe nói dẹp loạn đánh phản phải đem quân làm oai, cày ruộng trồng trọt là nghề gốc của dân, vậy mà can qua không ngừng, dân đã có đói rét. Kẻ ngu này cho rằng nên nuôi dưỡng quân dân, nới lỏng tô thuế, hòa thuận với dân, lấy nghĩa để khuyến khích kẻ dũng cảm, như thế miền Hà Vị(13) mới bình được, nghiệp thống nhất đã được chín phần rồi vậy”. Quyền bèn đánh Di Châu, không được sửa lỗi.
Gặp lúc Công Tôn Uyên trái ước, Quyền muốn đến đánh, Tốn dâng sớ nói: “Uyên cậy hiểm dựa vững, bắt giữ sứ giả, không dâng ngựa tốt, thực đáng căm giận. Nhưng người mọi rợ xâm phạm Hoa Hạ, chưa theo giáo hóa, ẩn náu nơi xa, chống lại quân vua, khiến cho Bệ hạ nổi giận đùng đùng, muốn đem vạn quân coi thường trôi sông vượt biển mà không nghĩ đến nguy hại khó đoán. Ngày nay thiên hạ nhiễu loạn, bọn anh hùng tranh giành, liếc mắt dòm ngó. Bệ hạ dựa vào cái oai thần vũ, chụp lấy thời cơ, phá Tào Tháo ở Ô Lâm, đánh Lưu Bị ở Tây Lăng, bắt Quan Vũ ở Kinh Châu, ba tên giặc ấy là hào kiệt thời nay, đều bẻ mũi nhọn của chúng. Giáo hóa ban truyền, đến nơi vạn dặm, sắp dẹp yên Hoa Hạ, thống nhất vào một vua. Nay nếu không nhịn cái giận nhỏ mà mà phát cái giận sấm sét thì là trái với cái răn bảo của bậc chí tôn, coi nhẹ cái tôn quý của một nước có vạn cỗ xe vậy. Thần nghe nói người có chí trùm khắp vạn dặm thì không đi được giữa đường thì dừng chân; người mưu chiếm cả bốn cõi thì không giữ ý giận nhỏ để chuốc cái hại lớn. Nay giặc mạnh tại biên giới, miền hoang phục chưa theo về, Bệ hạ sai quân bơi thuyền đi đánh phương xa, bọn giặc tất dòm ngó, dẫn đến lo lắng, lúc đó hối hận cũng không kịp. Nếu việc lớn thành công thì Uyên không cần đánh cũng tự thần phục vậy; nay lại vì tiếc quân và ngựa của miền Đông, sao lại chỉ muốn làm tổn hại đến nghiệp lớn yên dân của miền Giang Đông mà không tiếc sao? Xin dừng sáu quân, chỉ nên ra oai với giặc mạnh, nên dẹp yên Hoa Hạ trước, làm rạng rỡ mai sau”. Quyền nghe lời này.
Năm Gia Hòa thứ sáu, Quyền đánh miền bắc, sai Tốn cùng Gia Cát Cẩn đánh Tương Dương. Tốn sai người thân là Hàn Biển đem biểu đến tấu báo, lúc về gặp địch ở Miện Trung, bắt giữ được Biển. Cẩn nghe tin rất lo lắng, gửi thư cho Tốn rằng: “Xe vua đã về, giặc bắt được Hà Biển, biết cả đường đi của quân ta. Vả lại nước sông khô cạn, nên nhanh đi thôi”. Tốn chưa đáp, đang sai người trồng rau phúng, cùng các tướng đánh cờ làm vui như thường. Cẩn nói: “Bá Ngôn nhiều mưu trí, đang làm gì chăng”? Tự đến gặp Tốn, Tốn nói: “Giặc biết xe vua đã về, không biết làm gì, lại chuyển sức đánh sang ta. Ta lại đã giữ chỗ yếu hại, quân tướng muốn đánh, lại đã tự định kế để làm yên lòng chúng. Bày đặt kế hay, rồi mới ra đánh. Nay ta tỏ vẻ rút lui, giặc tất bảo ta sợ, tất đến vội vã, đấy là thế tất phá được giặc vậy”. Bèn ngầm bày kế với Cẩn, sai Cẩn đem thuyền bè, Tốn đem hết quân mã đi lên hướng đến thành Tương Dương. Địch vốn sợ Tốn, vội vàng vào thành.
Cẩn lại dẫn thuyền ra, Tốn thong thả sửa sang đội ngũ, khuếch trương thanh thế, đi bộ lên thuyền, địch không dám đánh. Đem quân đến Bạch Vi, nói dối là đi săn, ngầm sai bọn Tướng quân Chu Tuấn, Trương Lương đánh các huyện Thạch Dương, An Lục, Tân Thị của quận Giang Hạ, huyện Thạch Dương có chợ búa tấp nập, bọn Tuấn chợt đến, người dân đều bỏ hàng hóa mà chạy vào thành. Cửa thành mắc kẹt không đóng được, địch bèn tự giết hại dân mình, rời mới đóng được cửa. Chém đầu bắt sống đến hơn nghìn người.
Thần là Tùng Chi cho rằng: Tốn lo Quyền đã rút thì quân Ngụy chuyển sức đánh với mình, rồi bèn khuếch trương thanh thế, khiến cho địch không dám đánh, đang đi thuyền thuận dòng, nên không ngừng phòng bị, sao lại còn ngầm sai các tướng đánh úp các huyện nhỏ, làm cho người dân ở chợ búa sợ hãi bỏ chạy, tự làm thương hại? Bắt chém được nghìn người, chưa đủ làm nước Ngụy tổn hại, chỉ làm cho người dân không có tội bị tai vạ chết chóc, so với quân ở nơi bến sông của Gia Cát Cẩn, há khác gì sao! Cái đạo dùng binh của đã sai, lại làm mất phép tắc thì bị bị họa, bổng lộc chẳng truyền được đến ba đời, đến đời cháu thì dứt, đấy là cái vạ để lại vậy!
Những người bị bắt đều cho vào doanh quân, không sai quân sĩ quấy rối xâm lấn. Kẻ đem người nhà đến thì sai người chăm sóc. Kẻ bị lạc mất vợ con liền cấp cho cơm áo, lại thêm an ủi, sai phải đi về, cũng có người cảm kích dắt nhau mà đi theo. Người biên giới yên lòng,
Thần là Tùng Chi cho rằng: Đấy chẳng khác gì làm vỡ lật tổ trên cây mà giữ lại trứng chim, huệ ít ân nhỏ, sao đền bù được cái ác lớn?
bọn Giang Hạ Công tào Triệu Trạc, Dặc Dương Bị tướng Bùi Sinh và vua của người rợ là Mai Di cùng đem phe đảng đến nương dựa Tốn. Tốn cấp tiền lụa, cứu giúp xung quanh.
Lại có Giang Hạ Thái thú Lục Thức lĩnh hết quân mã gây hại biên biên giới nhưng không vốn hợp với tướng cũ miền bắc là con của Văn Sính là Hưu. Tốn nghe tin ấy, liền viết thư dối đáp Thức rằng: “Nhận được thư mà thương xót, biết ông hiềm khích với Hưu đã lâu, hai người chẳng thể cùng sống, muốn đến theo dựa, liền đem thư kín đến báo lên, đem quân đón nghênh. Nên ngầm đi nhanh đến kịp ngày hẹn”. Đem thư để trên biên giới, quân của Thức lấy được thư đưa cho Thức xem, Thực sợ hãi, bèn tự đem vợ con về Lạc Dương. Do đó quan lại không còn được thân thiết, Thức bèn bị bãi chức.
Thần là Tùng Chi cho rằng: Tướng ngoài biên giới gây hại là việc thường thấy, khiến cho Thức mắc tội, nhưng người khác thay cũng như thế. Nếu bên kia chẳng phải giảo quyệt phóng túng sắp gây họa lớn thì cần gì suy nghĩ vất vả, bày ra cái mưu gian kia? Lại cho đấy là hay, lại chẳng phải vậy.
Năm thứ sáu, Trung lang tướng Chu Chi xin chiêu mộ quân dân ở Bà
Dương, đem việc hỏi Tốn. Tốn cho rằng dân quận ấy dễ loạn khó yên, không nên cho đi chiêu mộ, sợ rằng dẫn giặc cướp đến. Nhưng Chi vẫn cố bày tỏ xin làm, quả nhiên người trong quận ấy là bọn Ngô Cự làm giặc giết Chi, đánh diệt các huyện, dân ác của các quận Dự Chương, Lư Lăng cùng ứng theo Cự làm cướp. Quyền nghe tin, liền đánh phá được, bọn Cự dắt nhau hàng, Tốn chọn được hơn tám nghìn quân khỏe, ba quận đều bình.
Bấy giờ Trung thư Điển hiệu Lữ Nhất chuyên quyền càn rỡ, ra oai tác phúc, Tốn cùng Thái thường Phan Tuấn cùng lòng lo lắng, nói đến rớt nước mắt. Sau đó Quyền giết Nhất, rất tự trách mình, lời nói tại Tôn Quyền truyện.
Bấy giờ bọn Tạ Uyên, Tạ Hoành đều tấu bày việc nên làm, muốn làm lợi sửa đổi, Cối Kê điển lục viết: Tạ Uyên tự Hưu Đức, thuở nhỏ tu đức hạnh, chăm chỉ cày bừa mà không buồn chán, lại chẳng lo lắng, do đó mà nổi tiếng. Cử Hiếu liêm, dần dần làm đến Kiến vũ Tướng quân, dẫu tại quân ngũ nhưng vẫn nghĩ đến việc đời. Con của Lạc Thống là Tú bị gièm pha ở triều đình, mọi người đều nghi ngờ, chẳng ai làm rõ được, Uyên nghe tin mà than thở rằng: “Công Tự chết sớm, trăm quan đều thương. Nay nghe nói con hắn có chí lớn hiểu rộng mà bị nói xấu mờ ám, trông xem các quan phán xét rõ ràng, nếu còn nghi ngờ thì ta chẳng mong vậy”. Rút cuộc Tú được xét rõ, không có lỗi lầm, rồi trở thành kẻ sĩ nổi tiếng, đấy là do công của Uyên vậy.
Ngô lịch nói tóm lại rằng Tạ Hoành có tài biện bác mưu lược.
đem việc hỏi Tốn, Tốn bàn rằng: “Nước lấy dân làm gốc, mạnh là do sức dân, tiền cũng do dân làm ra. Chưa từng có việc dân giàu mà nước yếu, dân nghèo mà nước mạnh vậy. Cho nên người lập nước, được sức dân thì yên, mất sức dân thì loạn. Nếu không được lợi mà lại sai dốc sức làm, cũng là khó vậy. Cho nên kinh Thi viết rằng: ‘Hợp với người dân thì được trời ban lộc’. Xin ban ân đức, vỗ yên trăm họ, lúc đó trong vòng mấy năm, đất nước đầy đủ, rồi mới mưu được”.
Năm Xích Ô thứ bảy, thay Cố Ung làm Thặng tướng, hạ chiếu nói: “Trẫm vì không có đức, gặp thời chuyển vận, phép vua chưa thống nhất, kẻ gian ác đầy đường, do đó ngày đêm lo lắng, ngủ không cởi mũ. Nghĩ ông vốn tính thông suốt, đức sáng mưu hay, nắm chức Thượng tướng, giúp nước trừ nạn. Người lập được công hơn đời tất được ban thưởng nhiều lớn; kẻ có tài cả văn võ phải được gánh vác chức cao của xã tắc. Ngày xưa Y Doãn theo dựa vua Thang, Lữ Thượng(14) giúp đỡ nhà Chu, trông coi trong ngoài, như ông thực xứng đáng. Nay lấy ông làm Thặng tướng, Sứ trì tiết, sai Thái thường Phó Thường trao ấn thao. Ông hãy làm rạng đức cao, lập thêm công lớn, kính theo mệnh vua, dẹp yên bốn cõi. Ô hô! Nắm giữ các việc, dạy bảo quan lại, không nên làm sao! Ông hãy gắng sức. Lĩnh chức Châu mục Đô hộ, coi các việc ở Vũ Xương như cũ”.
Lúc đầu, hai cung(15) đều thiếu người, nhiều quan lại coi việc trong ngoài sai con em vào hầu. Toàn Tông báo cho Tốn, Tốn cho rằng: “Nếu con em có tài thì không lo không dùng được, nhưng không nên dựa vào đó để mưu cầu vinh lợi; nếu làm không tốt thì rút cuộc lại chuốc lấy tai vạ. Vả lại nghe nói hai cung đấu đá, tất có việc ấy, đấy là điều kị lớn của người xưa vậy”. Con Tông là Kí quả nhiên a dua theo Lỗ Vương, dốc lòng giao kết. Tốn gửi thư cho Tông nói: “Ông không noi gương Nhật Đê mà lại để thằng Kí ở đấy, rút cuộc nhà cửa túc hạ dẫn đến họa thôi”. Nhưng Tông không nghe, lại còn hiềm khích. Đến lúc Thái tử có lời bàn không yên, Tốn dâng sớ nói: “Thái tử là người nối ngôi chính, nên có chí vững như bàn đá. Lỗ Vương chỉ là phiên thần, nên ban nhiều sủng ái mà thôi, nếu đâu vào đấy thì trên dưới yên ổn. Kính rập đầu chảy máu báo lên”. Gửi thư ba, bốn lần, lại xin về kinh, muốn tự miệng bàn về thân phận trưởng, thứ để sửa nắn sai lầm. Nhưng lại không được nghe theo, rồi học trò của Tốn là bọn Cố Đàm, Cố Thặng, Diêu Tín cùng đến theo dựa Thái tử, làm việc sai trái mà bị bắt đi đày. Thái tử Thái phó Ngô Xán bị bắt tội gửi thư qua lại với Tốn, cũng bắt bỏ ngục mà chết. Quyền bèn sai quan Trung sứ đến trách mắng Tốn, do đó Tốn buồn bực mà chết, bấy giờ sáu mươi ba tuổi. Nhà không có của thừa.
Trước đây, Kị Diễm bàn việc dựng doanh phủ, Tốn can ngăn hắn, cho rằng tất gây họa. Lại bảo Gia Cát Khác nói: “Người trên ta, ta phải vâng theo với người đó; người dưới ta thì ta nên giúp đỡ người đó. Nay thấy ông chí lấn lướt cả người trên, ý khinh thường cả người dưới, đấy không phải là cái nền của yên ổn vậy”. Lại nữa người quận Quảng Lăng là Dương Lan trẻ tuổi mà đã nổi tiếng, nhưng Tốn nói là hắn tất thua, khuyên anh Lan là Mục nên đem người nhà chia dời đi. Tốn biết trước được như thế. Con trưởng là Diên chết sớm, con thứ là Kháng nối tước. Vào thời Tôn Hưu, truy thụy Tốn là Chiêu Hầu.
Kháng tự Ấu Tiết, là cháu ngoại của Tôn Sách vậy. Lúc Tốn chết, Kháng vừa hai mươi tuổi, bái Kiến vũ Hiệu úy, lĩnh năm nghìn quân của Tốn, đem tang về miền đông, đến kinh tạ ân. Tôn Quyền đem mười việc mà Tốn nói về Dương Lan để hỏi Kháng, lại ngăn cấm tân khách, quan Trung sứ đến báo, Kháng không cần xét hỏi đến họ mà tự đối đáp các việc, ý Quyền dần dần hiểu ra. Năm Xích Ô thứ chín, chuyển làm Lập tiết Trung lang tướng, cùng Gia Cát Khác thay nhau đóng đồn ở Sài Tang. Kháng sắp đi, đều đắp vòng lũy của Hoản Thành, sửa lại tường nhà, trồng thêm cây dâu bên nhà ở, không bị sụt lở. Khác vào đồn, thấy ngăn nắp như mới, mà đồn cũ của Khác ở Sài Tang có vẻ vỡ lở, rất lấy làm thẹn. Năm Thái Nguyên thứ nhất, đến kinh chữa bệnh, bệnh khỏi lại về, Quyền khóc lóc chia tay, nói: “Ta lúc trước nghe lời gièm mà không màng đến nghĩa lớn của cha ngươi, do đó mà đổ lỗi cho ngươi. Nay trước sau xét hỏi, đều đã xóa bỏ, chẳng ai thấy nữa vậy”. Năm Kiến Nguyên thứ nhất, bái Phấn vũ Tướng quân. Năm Thái Bình thứ hai, tướng Ngụy là Gia Cát Đản đem quân Thọ Xuân hàng, bái Kháng làm Sài Tang Đốc, đến Thọ Xuân, phá Nha môn tướng, Thiên Tướng quân của nhà Ngụy, chuyển làm Chinh bắc Tướng quân. Năm Vĩnh An thứ hai, bái Trấn quân Tướng quân, trông coi các quân ở Tây Lăng, từ bến Quan Vũ đến thành Bạch Đế. Năm thứ ba, ban Giả tiết. Tôn Hạo lên ngôi, thêm chức Trấn quân Đại Tướng quân, lĩnh chức Ích Châu Mục. Năm Kiến Hành thứ hai, Đại Tư mã Thi Tích chết, bái Kháng trông coi các quân ở Tín Lăng, Tây Lăng, Di Đạo, Lạc Hương, Công An, trị ở Lạc Hương.
Kháng nghe nói chính trị ở kinh đô có nhiều thiếu sót, lo nghĩ sâu sắc, bèn dâng sớ rằng: “Thần nghe nói đức ngang thì nhiều thắng ít, sức ngang thì yên thắng nguy, cho nên sáu nước bị nước Tần mạnh chiếm lấy, người Tây Sở ngoảnh mặt về phía bắc theo Hán Cao Tổ(16) vậy. Nay kẻ địch ngăn chặn chín cõi, không chỉ có đất Quan Hữu; lại còn chiếm giữ chín châu, há chỉ có từ Hồng Câu đến phía tây mà thôi? Nay nhà nước ngoài không có cái cứu viện của nước bạn, trong không có cái mạnh của miền Tây Sở, chính trị suy kém, dân đen chẳng yên, cái mà người bàn dựa chỉ là miền sông dài núi cao, bờ cõi ngăn cách, đấy là cái thứ yếu của việc giữ nước, không phải là cái trước tiên của người có trí vậy. Thần thường nghĩ kĩ cái điềm còn mất của các nước Chiến quốc, gần thì xem xét cái họa sụp đổ của họ Lưu, tra cứu sách vở, theo đó mà làm việc. Nửa đêm vỗ gối, đến bữa quên ăn. Ngày xưa Hung Nô chưa diệt, Khứ Bệnh bỏ nhà; đạo nhà Hán chưa tốt, Giả Sinh thương khóc(17). Huống chi thần là cháu của nhà vua, nối đời nhận ân sủng, thân cùng tốt xấu, cùng buồn với nước, hẹn thề sống chết, nghĩa chẳng sơ qua, ngày đêm lo lắng, nghĩ đến thảm thương. Cái nghĩa thờ vua là dẫu phạm lấn nhưng không lừa dối, cái tiết tháo của bầy tôi là chăm chỉ đến chết mới thôi. Kính bày mười bảy điều nên làm như dưới đây”. Mười bảy điều đã lạc mất, cho nên không chép.
Bấy giờ Hà Định chuyên quyền, hoạn quan nắm việc, Kháng dâng sớ rằng: “Thần nghe nói dựng nước lập nhà, chớ dùng kẻ tiểu nhân, nói ngoa làm sai, Đường thư(18) đã răn bảo, đấy là nguyên nhân làm người giỏi oán giận, Trọng Ni than thở vậy. Cái tai vạ từ thời Xuân thu về sau, qua thời Tần, Hán chưa có gì là không do từ kẻ ấy vậy. Kẻ tiểu nhân không rõ đạo lí, hiểu biết nông cạn, dẫu có tình thân dốc hết khí tiết nhưng vẫn không đáng tin dùng, huống chi là kẻ vốn có lòng ác lại yêu ghét dễ đổi sao? Nếu chúng lo mất chức thì không gì không làm. Nay nên trao chức cho người hiểu biết, dựa vào oai làm việc của họ, không nên mong dựa vào cái tiếng hão của Hề Hi, cái đạo hóa của Túc Thanh vậy. Quan lại ngày nay dẫu ít người có tài  lạ, nhưng nếu kẻ đội mũ miện, dần dần hiểu đạo hóa, nếu chăm chỉ tự lập, như thế cũng dùng được, nên tùy vào tài năng mà trao chức. Nếu bãi bỏ bọn tiểu nhân thì giáo hóa mới trong sạch, chính trị mới không nhơ bẩn vậy”.
Năm Phượng Hoàng thứ nhất, Tây Lăng Đốc là Bộ Xiển chiếm thành làm phản, sai sứ giả hàng nhà Tấn. Kháng nghe tin, hôm đó phân chia các quân, sai bọn Tướng quân Tả Dịch, Ngô Ngạn, Sái Cống đến thẳng Tây Lăng, lệnh quân lập trại dựng lũy vững vàng, rồi từ Xích Khê đến Cố Thị, trong thì vây Xiển, ngoài thì ngăn giặc, ngày đêm đánh gấp như là địch đã đến, quân rất vất vả. Các tướng đều can ngăn nói: “Nay đem hết thế mạnh của ba quân để gấp đánh Xiển, nếu quân Tấn đến, Xiển tất phá vây được. Sao lại cứ vây mà khiến cho sức quân dân mệt mỏi”? Kháng nói: “Chỗ thành này có thế đã vững, lương gạo lại đủ, vả lại thành ấy sắm đủ các đồ phòng giữ, đấy đều có đủ đồ dùng để chống gữa. Nay nếu đem quân đánh thành, tất không làm cho quân thắng trận, lại khiến cho quân bắc kéo đến, đến thì thành ấy không phòng bị, trong ngoài bị nạn, lấy gì mà ngăn được”. Các tướng đều muốn đánh Xiển, Kháng đều không cho. Nghi Đô Thái thú Lôi Đàm nói rất khẩn thiết, Kháng muốn cho quân tin phục, bèn cho đánh một trận, quả nhiên đánh không lợi, thành giữ càng chặt. Xa kị Tướng quân Dương Hỗ của nhà Tấn đem quân hướng đến Giang Lăng, các tường đều cho rằng Kháng không nên lên chống, Kháng nói: “Giang Lăng thành vững quân đủ, không cần lo lắng. Nếu để cho địch đánh Giang Lăng, tất không giữ được, nhưng tổn thất lại ít. Nếu để cho Tây Lăng liên kết thì người rợ ở núi Nam Sơn đều sẽ nhiễu động, lúc đó càng lo lắng, khó mà nói hết vậy. Ta nên bỏ Giang Lăng mà đánh Tây Lăng, huống chi Giang Lăng bền vững”? Lúc trước, Giang Lăng bằng phẳng, đường đi thông suốt, Kháng sai Giang Lăng Đốc là Trương Hàm đắp đập lớn chứa nước, chứa nước vào chỗ bằng để ngăn chặn giặc phản. Hỗ muốn nhân có nước chứa ấy mà chèo thuyền chở lương, nói phao lên là sắp phá đập để đi xe đường bộ. Kháng nghe tin, sai Hàm nhanh phá đập. Các tướng đều tiếc, thường can ngăn nhưng không nghe. Hỗ đến Đương Dương, nghe tin đập vỡ, lại bỏ thuyền để dùng xe chở, tốn công hao phí rất nhiều. Nhà Tấn sai Ba Đông Giám quân Từ Dận đem quân thủy đến Kiến Bình, Kinh Châu Thứ sử Dương Triệu đến Tây Lăng. Kháng sai Trương Hàm giữ vững thành ấy; Công An Đốc là Tôn Tuân đi tuần tra bờ nam để chống Hỗ; Thủy quân đốc là Lưu Lự, Trấn tây Tướng quân là Chu Uyển chống Dận; tự mình đem ba quân, dựa vào lũy mà đối trận với Triệu. Tướng quân Chu Kiều, Doanh Đô đốc Du Tán trốn đến chỗ Triệu. Kháng nói: “Tán là quan lại cũ trong quân, biết được thật giả của quân ta, ta thường lo quân rợ vốn không được luyện tập, nếu địch đánh lũy, tất đánh chỗ ấy trước”. Liền đêm đó đổi quân rợ, đều lấy tướng giỏi thêm vào. Hôm sau, Triệu quả nhiên đánh chỗ mà quân rợ đóng giữ, Kháng sai đem quân đánh chúng, tên đá như mưa, quân của Triệu chết chồng lên nhau. Triệu vì đã hơn một tháng kế cùng, bèn buổi đêm chạy trốn. Kháng muốn đuổi theo, lại lo Bộ Xiển dốc sức chặn nơi yếu hại, dòm ngó bờ cõi, mà quân lại không đủ chia giữ, do đó chỉ đánh trống xua quân như muốn đuổi theo. Quân của Triệu sợ hãi, đều cởi giáp rút chạy, Kháng sai quân khỏe đuổi theo, quân của Triệu thua vỡ, bọn Hỗ đều dẫn quân về. Kháng lại hãm thành Tây Lăng, giết sạch họ hàng và các quan tướng của Xiển, lại xin tha cho mấy vạn người từ bọn ấy trở xuống. Đắp sửa thành lũy, rồi đến miền đông về Lạc Hương, mặt không có vẻ kiêu căng, khiêm nhường như thường, cho nên lòng quân sĩ vui mừng.
Tấn Dương thu viết: Kháng lập phận Kiều, Trát với Dương Hỗ. Kháng từng tặng rượu cho Hỗ, Hỗ uống mà không nghi ngờ. Kháng có bệnh, Hỗ lại gửi thuốc đến, Kháng cũng yên lòng mà uống. Người bấy giờ cho là Hoa Nguyên, Tử Phản(19) sống lại ngày nay.
Hán Tấn Xuân thu viết: Dương Hỗ đã theo về, tu sửa đức tín để vỗ về người Ngô. Lục Kháng thường báo cho tướng giữ biên rằng: “Bên ấy chăm sửa đức, bên ta hay gây ác, đấy là không đánh mà tự phục vậy. Đều phải giữ biên, không được tìm lấy cái lợi nhỏ vậy”. Do đó vùng biên của Ngô, Tấn đều không xâm lấn các đồ lương gạo, ruộng đất thừa, có trâu ngựa chạy rông thì báo rõ để cho dắt về. Người ở vùng sông Miện đi sắn, người Ngô bắt được người Tấn đang bị thương, đều liền giúp chở về. Kháng từng mắc bệnh, xin thuốc với Hỗ, Hỗ làm thuốc trao cho Kháng, nói: “Đấy là thuốc tốt, gần đây tự làm, chưa kịp uống, nhưng ông bệnh nặng, cho nên đưa  đến”. Kháng nhận lấy mà uống, các tướng đều can ngăn, Kháng không đáp. Tôn Hạo nghe tin hai bên giao hảo, đem việc hỏi Kháng, Kháng nói: “Một ấp một thôn không thể không có một người tín nghĩa, huống chi là nước lớn? Nếu thần không làm thế thì không thể nêu rõ đức hạnh, vả lại Hỗ không có ý làm thần bị thương vậy”. Có người cho là Hỗ, Kháng làm mất lễ tiết của bầy tôi, hai người chê giễu người đó. Tập Tạc Xỉ nói: “Người có đạo lí thì được thiên hạ giúp đỡ, người có tín nghĩa thì được vạn người tôn trọng, dẫu nghiệp lớn đã vỡ nhưng tiếng nghĩa vang mãi, dẫu là kẻ gian xảo rong ruổi ở trên đường, quyền biến trùm khắp việc gấp, người thả sức ngang dọc, bọn kẻ nô nộc chăn thả, chưa có ai không dựa vào đó để lập công, chưa có ai bỏ cái đó mà dựng nghiệp được. Cho nên Tấn Văn Công rút lui thì người nước Nguyên vâng lệnh(20); Mục Tử vây nước Cổ mà dốc sức dạy bảo(21); Dã Phu bày kế thì người nước Bỉ theo về (22); Nhạc Nghị hoãn đánh thì tiếng cao còn mãi(23). Xem những người ấy khiến người khác tin phục, há chỉ dùng oai sức và lừa dối nhau mà được chăng! Từ khi ba nhà lập thế chân vạn hơn bốn mươi năm nay, người Ngô không thể vượt sông Hoài, sông Miện mà đánh lấy Trung Quốc, người Trung Quốc cũng không thể qua sông Trường Giang để tranh lợi. Sức đều trí ngang, nhưng đạo lí không đủ để lật đổ nhau vậy. Giết người mà làm lợi ta, không bằng làm lợi ta mà không cần giết; dùng quân để làm hiếp người, không bằng ban đức để vỗ về dân. Kẻ thất phu còn không dùng sức để bắt ép người, huống chi là một nước? Dùng sức để bắt ép vẫn không bằng dùng ân đức, mà huống chi là không bắt ép? Cho nên Dương Hỗ dùng mưu sách hòa bình, lập phép tắc của năm quân, giúp người dân của mình, ban phát ân trạch, nêu cao tín nghĩa để vỗ về người Ngô mạnh, tỏ rõ nhân ái để sửa tục bạo, khiến cho dân chúng nghe theo chạy đến mà không cần đánh ở Giang Biểu. Cho nên đức rất tốt thì dân chúng cõng nhau đến theo, nước ngoài xunh quanh nghe tiếng nghĩa mà giao kết. Nước Ngô tự bị thua là vì không được như thế vậy. Kháng thấy nước nhỏ vua bạo mà nhà Tấn lại có đức sáng, người làm việc tốt để vỗ về mình, mà mình lại không có cái phép tắc giữ nghiệp, trăm họ nhớ theo đức sáng của địch, trong nước không có nỗi lo bỏ vua, do đó giữ vững lòng dân, vỗ yên trong ngoài, dẹp bỏ nguy yếu, Kháng nắm quyền lớn trong nước, chẳng bằng tự thân giữ đạo lí để đòi nhang với nước địch. Khiến cho đức của mình cũng được như nước địch, do đó mà tiếng tốt vang vọng, lan truyền đến nước xung quanh, soi sáng đến phương xa, giữ đức ở trên gối chiếu, mưu ý ở trong màn trướng, phá địch mà không cần dùng sức của quân sĩ, giữ nước mà không cần dựa vào cái vững của sông sâu núi cao, tín nghĩa trùm cả kẻ thù, lòng son hơn cả người xưa. Há đấy là bày mưu gian trá mà gạt bỏ người hiền, giết thân mình để tạo danh tiếng, tham tiền của để làm giàu mình, lén ép lấn người mà không cần phòng bị sao? Do đó mà luận, nếu giúp đời và giữ nước thì phải dốc hết tài đức; theo vận để cứu nguy là việc làm của kẻ tiểu nhân, mưu gian để ngừa người ta là suy nghĩa của bọn nô bộc; ra oai để cầu yên là điều mà bậc sáng suốt cho là kém. Bậc quân tử hiền tài cứu đời lập phép tắc là vì bỏ cái ấy mà lấy cái kia vậy, cũng vì đạo lí của mình tốt đẹp vậy”.
Bái thêm chức Đô hộ. Nghe tin Vũ Xương Tả bộ đốc Tiết Oánh bị bắt vào ngục, Kháng dâng sớ nói: “Người tuấn nghĩa là ngọc đẹp của nhà nước, vật quý của xã tắc, là người sửa nắn chính trị, sửa sạch bốn cửa vậy. Đại Tư nông Lâu Huyền, Tán kị Thường thị Vương Phiên, Thiếu phủ Lí Úc ngày trước đều người tuấn nghĩa trên đời, là vật quý của một thời, đã nhận ân sủng, ung dung giữ chức, vậy mà đều bị giết chết, có người bị giết cả người nhà, có kẻ bị đày đến nơi hoăng vắng. Đại khái Chu lễ có nói đến lễ tha người hiền, nghĩa giúp người thiện, kinh Thư viết: ‘Giết người không có tội, không nên không theo phép tắc’. Vậy mà bọn Phiên chưa định tội trạng mà lại dùng hình phạt, mang lòng trung nghĩa mà thân bị tội chết, há chẳng đau xót sao! Vả lại hình phạt giết chết ấy nếu không biết rõ thì đốt cháy vứt trôi nổi trên bờ sông đi. Đấy e rằng chẳng phải là phép cũ của Tiên vương cũng
không phải là điều mà Phủ Hầu(24) răn giới vậy. Do đó trăm họ lo lắng,  quân dân buồn rầu. Phiên, Úc đã chết, hối cũng chẳng kịp. Mong Bệ hạ tha cho bọn Huyền ra. Lại vừa rồi nghe nói Tiết Oánh đã bị bắt giữ. Cha Oánh là Tống tấu biểu cho Tiên đế, lại giúp đỡ Văn Đế, lúc Oánh nối nghiệp, nổi danh trong nước. Nay xét tội của Oánh, cũng nên tha cho. Thần e quan coi việc chưa làm rõ việc mà lại giết chóc thì làm mất lòng trông mong của dân. Xin ban ân lớn, hãy tha tội của Oánh, thương xót đến tù ngục, dẹp bỏ hình pháp rườm rà, như vậy thì thiên hạ may lắm”!
Bấy giờ vẫn điều động quân sĩ, trăm họ mỏi mệt, Kháng dâng sớ nói: “Thần nghe nói rằng kinh Dịch trọng ở việc theo thời, Tả truyện ưa ở việc xem biến, cho nên nhà Hạ mắc nhiều tội thì Ân Thang dùng quân, vua Trụ bạo ngược thì Chu Vũ Vương vung búa. Nếu không theo thời thì đài Ngọc Đài có nỗi lo vỡ lở, bến Mạnh Tân có quân phất cờ nổi dậy. Nay không lo làm nước giàu quân mạnh, không chăm chỉ làm ruộng, không làm cho nghiệp văn võ được thi triển, trăm quan không được tu sửa chức nghiệp, không xét rõ việc bãi truất và cất nhắc để khuyến khích kẻ sĩ, không xét kĩ hình pháp để tỏ ý khuyến khích việc ngăn ngừa tội lỗi, không dùng đức để dạy bảo các quan lại, lại không lấy lòng nhân để vỗ về trăm họ, không muốn thuận trời hợp vận mà cuốn thu thiên hạ, mà lại nghe theo các tướng ưa đánh dẹp, quân khốn võ cùng, tổn phí vạn mối, quân sĩ yếu mệt. Quân giặc không suy kém mà quân ta lại bệnh tật vậy. Nay tranh ngôi Đế Vương, lại tìm cầu cái lợi nhỏ nhoi, đấy là kế kém của tôi thần, không phải là mưu hay của nhà nước vậy. Ngày xưa hai nước Tề, Lỗ đánh ba trận, người nước Lỗ thắng mà không đánh nữa. Sao vậy? Là cái thế lớn nhỏ khác nhau vậy. Huống chi ngày nay quân ta đã thắng mà không sửa bù tổn hại chăng? Vả lại dùng quân thì không còn dân, đấy là tấm gương sáng thời xưa. Thật mong theo phép tắc mà tạm dừng nghỉ việc đánh dẹp để nuôi dưỡng sức dân, ngồi yên xem lỗi sai của địch, thì không gì phải hối tiếc”.
Mùa xuân năm thứ hai, liền bái Đại Tư mã, Kinh Châu Mục. Mùa hạ năm thứ ba, bệnh nặng, dâng sớ nói: “Tây Lăng, Kiến Bình là phên dậu của đất nước, đã ở cuối dòng, lại tiếp gần hai châu của địch. Nếu địch chèo thuyền thuận dòng, thuyền bè nghìn dặm, đến như sao rơi điện xẹt, chợt nhiên đi đến, lúc đó không thể cứu giúp các quận để cứu thế nghiêng lật vậy. Chỗ ấy là cái then chốt an nguy của xã tắc, không chỉ là cái hại nhỏ xâm lấn bờ cõi mà thôi. Cha thần là Tốn ngày xưa ở tại miền tây có cho rằng Tây Lăng là cửa ngõ phía tây của đất nước, dẫu nói là dễ giữ nhưng cũng dễ mất. Nếu không giữ được thì không chỉ mất đi một quận mà còn khiến cho nước Ngô ta không có đất Kinh Châu nữa vậy. Nếu đất ấy nguy cấp thì nên dốc hết sức tranh lại. Thần giữ tại Tây Lăng, nối theo gót của Tốn, trước có xin ba vạn quân khỏe, nhưng quân đến thì lại tầm thường, lại chưa chịu sai đến. Từ lúc Bộ Xiển phản về sau, ngày càng tổn hại. Nay thần trông coi một dải đất dài nghìn dặm, chịu địch bốn phía, ngoài thì chống giặc mạnh, trong thì vỗ về bọn người rợ, vậy mà quân sĩ trên dưới chỉ có mấy vạn người, lại mỏi mệt lâu ngày, khó để chống giặc. Kẻ ngu muội này cho rằng Nhà vua nhỏ dại, chưa nắm việc nước, nên tạm trao quyền cho Tể tướng, cất nhắc người hiền tài, không dùng quân mã đánh dẹp nữa để chăm chú vào việc trọng yếu. Lại nữa bọn hoạn quan Hoàng môn làm việc bạo ngược, dân chúng oán giận, chạy trốn lao dịch. Xin hạ chiếu giảm bớt, nhanh chóng bãi bỏ để tu sửa các chỗ chống địch, cấp cho thần đủ được tám vạn quân, dừng nghỉ việc đánh dẹp, làm rõ thưởng phạt, nếu vậy dẫu Hàn, Bạch sống lại cũng không đánh được vậy. Nếu không thêm quân, cách làm cũ không đổi, lại muốn làm xong việc lớn thì đấy là nỗi lo sâu sắc của thần vậy. Nếu sau khi thần chết, xin chú ý phòng bị đến miền tây. Mong Bệ hạ xét kĩ lời thần thì thần chết cũng không mục”. Mùa thu bèn chết, con là Yến nói tự. Yến và em là Cảnh, Huyền, Cơ, Vân chia nhau lĩnh quân của Kháng. Yến làm Tì tướng quân, Di Đạo Giám. Năm Thiên Kỉ thứ tư, quân Tấn đánh Ngô, Long tương Tướng quân Vương Tuấn thuận dòng xuống miền đông, đến đâu thắng đó, đúng như nỗi lo của Kháng. Cảnh tự Sĩ Nhân, vì lấy công chúa mà được bái làm Kị Đô úy, phong Bì Lăng Hầu, đã lĩnh quân của Kháng, bái Thiên Tướng quân, Trung Hạ Đốc, dốc sức chăm học, viết sách có mấy chục chương.
Văn sĩ truyện viết: Mẹ Lục Cảnh là con gái của Trương Thặng, là cháu ngoại của Gia Cát Khác. Lúc Khác bị giết, mẹ Cảnh cũng bị đuổi. Cảnh thuở nhỏ được bà nội nuôi dưỡng, lúc bà nội mất, Cảnh đau lòng để tang ba năm.
Ngày nhâm tuất tháng hai, Yến bị quân của Vương Tuấn giết. Ngày quý hợi, Cảnh cũng bị hại, bấy giờ ba mươi mốt tuổi. Vợ Cảnh là chị cả của Tôn Hạo, cùng với Cảnh là cháu ngoại của Trương Thặng vậy. Em Cảnh là Cơ, tự Sĩ Hành, Vân tự Sĩ Long.
Cơ Vân biệt truyện viết: Cuối năm Thái Khang thời nhà Tấn cùng vào Lạc Dương, gặp Tư không Trương Hoa, Hoa gặp lần đầu mà cho là lạ, nói: “Trong trận đánh Ngô, có lợi là bắt được hai người tài này đây”. Bèn nêu cao tiếng tăm, tiến cử với các công khanh. Thái phó Dương Tuấn mời Cơ làm Tế tửu, chuyển làm Thái tử Tẩy mã, Thượng thư Trước tác lang. Vân làm Lang trung lệnh của Ngô Vương, rất có tài làm việc, quan dân ghi công, lập đền thờ sống. Sau đó cùng làm quan to. Cơ vốn trong sạch, văn chương hay đẹp, đứng đầu thời ấy. Vân cũng giỏi viết văn, hay đẹp không bằng Cơ nhưng miệng lưỡi biện luận lại hơn. Bấy giờ triều đình nhiều việc, Cơ, Vân cùng liên kết với Thành Đô Vương là Dĩnh. Dĩnh dùng Cơ làm Bình Nguyên Tướng, Vân làm Thanh Hà Nội sử, rồi chuyển Vân làm Hữu Tư mã, rất được tin dùng. Không lâu thì gây hiềm khích với Trường Sa Vương, bèn dấy binh đánh vào Lạc Dương, lấy Cơ làm Hậu Tướng quân, đem hai mươi vạn quân của bọn Vương Túy, Khiên Tú đi đánh, Sĩ Long lại viết bài văn Nam chinh phú để khen việc này. Cơ là người Ngô, lẻ loi ở trọ, sắp đặt làm việc ở bên các quan lại, nhiều người không phục. Cơ đánh trận thường không được lợi, chết vỡ quá nửa. Lúc đầu, hoạn quan là Mạnh Cửu là người mà được Dĩnh sủng ái, nhân đó nắm quyền, Vân nhiều lần kể rõ điểm kém của hắn nhưng Dĩnh không nghe, Cửu do đó mà ghét Vân. Em Cửu là Siêu cũng lĩnh quân chống Cơ, không vâng phép quân. Cơ dùng phép tắc ép buộc, Siêu bèn nói phao là Cơ muốn làm phản. Vừa lúc bọn Khiên Tú cũng gièm Cơ với Dĩnh, cho rằng Cơ mang hai lòng, Cửu lại nói xấu ở trong, Dĩnh tin theo, sai người bắt Cơ và bắt Vân cùng em là Đam, đều bị bắt giết. Anh em Cơ đã là người tài của miền Giang Nam, lại nổi danh ở Hoa Hạ, đều không có tội mà bị giết cả, thiên hạ thương tiếc họ. Văn chương của Cơ được người đời xem trọng, các bài văn mà Vân viết cũng đười truyền cho đời. Lúc trước, Khánh đánh thắng Bộ Xiển, giết cả trẻ con, người biết đạo lo lắng nói: “Đời sau tất gặp tai vạ”. Đến lúc Cơ bị giết, ba họ chẳng còn, Tôn Huệ gửi thư cho Chu Đản rằng: “Mã Viện chọn vua là điều mà người đời đều biết, vậy mà không ngờ ba Lục chọn giúp vua ác, thân diệt danh tổn, thật đáng thương xót”. Việc này cũng chép trong Tấn thư.
Bình rằng: Lưu Bị xưng hùng trong thiên hạ, một thời bị e sợ. Lục Tốn tuổi trẻ đang khỏe, oai danh chưa rõ, vậy mà đánh thắng Bị, không gì không thỏa chí. Ta đã khen mưu lược của Tốn, lại than cái tài biết dùng người của Quyền, cho nên làm nên việc lớn vậy. Đến khi Tốn trung thành kính xin, lo việc nước mà chết, đại khái là bầy tôi giỏi của xã tắc vậy. Kháng suy tính sáng suốt, đều có phong thái của cha, để tiếng đẹp cho đời, xem xét kĩ càng, có thể nói là người giỏi giữ nghiệp của người trước chăng!

QUYỂN 14 - NGÔ CHỦ NGŨ TỬ TRUYỆN
Tôn Đăng, Tôn Lự, Tôn Hòa, Tôn Bá, Tôn Phấn

TÔN ĐĂNG TRUYỆN
Tôn Đăng tự Tử Cao, là con trai trưởng của Quyền. Năm Hoàng Sơ thứ hai nhà Ngụy, lấy Quyền làm Ngô Vương, bái Đăng làm Đông trung lang tướng, phong tước Vạn hộ hầu, Đăng lại từ chối có bệnh không nhận. Năm ấy, Quyền lập Đăng làm Thái tử, cho tuyển chọn đặt chức Sư phó, lựa chọn và bổ nhiệm kẻ sĩ ưu tú, cho làm bằng hữu tân khách, vì thế bọn Gia Các Khác, Trương Hưu, Cố Đàm, Trần Biểu được tuyển vào cung, để hầu hạ và giảng Thi, Thư, còn theo Đăng ra ngoài săn bắn. Quyền muốn Đăng đọc Hán thư, hiểu biết thành thục các việc ở triều Hán, vì Trương Chiêu có sở trường căn bản về phép tắc, Quyền trịnh trọng nhờ Chiêu, lệnh cho Hưu theo Chiêu học tập, rồi về truyền thụ lại cho Đăng. Đăng đối đãi với liêu thuộc của mình rất giản dị, giảm thiểu lễ nghi, cùng với bọn Khác, Hưu hoặc ngồi chung xe mà đi, hoặc chung giường mà ngủ. Thái phó Trương Ôn nói với Quyền rằng: “Chức quan Trung thứ tử là rất thân gần mật thiết với Thái tử, phải khẩn thiết cầu giáo lấy kẻ thích hợp, và nên tuyển chọn bổ dụng người có đức cho đảm nhiệm chức trách.” Vì thế Quyền bèn dùng bọn Biểu làm Trung thứ tử. Về sau lại ra hạn định về lễ nghi của Trung thứ tử với Thái tử, là khi vào hầu phải mũ áo ngay ngắn chỉnh tề. Năm Hoàng Long nguyên niên, Quyền xưng tôn hiệu, lập Đăng là Hoàng thái tử, lấy Khác làm Tả phù, Hưu làm Hữu bật, Đàm làm Phụ chính, Biểu làm Dực chính đô úy, xưng là Tứ hữu, còn bọn Tạ Cảnh, Phạm Thận, Điêu Huyền, Dương Hạnh đều làm tân khách, vì thế Đông cung có tiếng là nhiều kẻ sĩ.
Ngô lục chép: Thận tự Hiếu Kính, người quận Quảng Lăng, là tri kỷ thì hết lòng trung với quân vương, với bạn hữu thì ngay thẳng rộng lượng mà hiểu biết(25), người bấy giờ cho là cao đẹp. Thận soạn ra hai mươi thiên đàm luận, gọi là ‘Kiểu phi(26)’. Sau làm Thị trung, rồi cho ra ngoài bổ nhiệm làm Vũ Xương tả bộ đốc, chỉnh đốn việc quân. Tôn Hạo dời đô, rất kiêng dè Thận, có chiếu rằng: “Công huân và đức hạnh của Thận đều tốt đẹp, trẫm căn cứ vào sự thận trọng của Thận, đưa lên ngôi vị Thượng công, để xứng đáng với ước vọng của mọi người.” Rồi lấy Thận làm Thái úy. Thận bởi oán hận vì được làm tướng muộn, bèn thác là mình già lão xin về. Quân sĩ lưu luyến Thận, cả dinh quân vì thế mà rơi nước mắt. Năm Phượng Hoàng thứ ba Thận chết, con là Diệu nối tự. Huyền, là người quận Đan Dương, Hạnh là người quận Nam Dương.
Ngô thư chép: Hạnh bắt đầu làm Trung thứ tử, mới có hai mươi tuổi. Bấy giờ Đình úy giám là Ẩn Phồn giao kết với các hào kiệt, từ bọn Vệ tướng quân Toàn Tông trở đi đều dốc lòng cung kính đón tiếp, duy có Hạnh lúc tuyên chiếu được tiến dụng làm chức Lang ở Dự Chương là cự tuyệt không hợp tác, người bấy giờ lấy làm lạ. Nhưng sau này Phồn phản nghịch, mọi người mới phục Hạnh.
Giang biểu truyện chép: Đăng sai Thị trung là Hồ Tống sáng tác bài ‘Tân hữu mục’ rằng: “Anh tài xuất chúng, siêu việt hơn người, là Gia Cát Khác. Hiểu rõ thời cơ, thấu lẽ nhiệm mầu, đấy là Cố Đàm. Biện bác thông suốt, nói năng cô đọng, thì là Tạ Cảnh. Nghiên cứu đến cùng, bậc ngang Du Hạ(27), đó là Phạm Thận.” Hạnh bèn ngầm bác lại Tống rằng: “Nguyên Tốn tài năng nhưng lơ đễnh, Tử Hắc tinh tế nhưng tàn nhẫn, Thúc Phát giỏi biện bác nhưng phù phiếm, Hiếu Kính thâm thúy nhưng nhỏ mọn.” Những lời của Hạnh đều đầy đủ và rõ ý. Nhưng Hạnh rút cục vì lời nói ấy bị trách cứ, chẳng làm bằng hữu thân cận với bọn Khác. Về sau bốn người đều bại vong, người Ngô bảo rằng những lời Hạnh nói là có chứng cớ. Hạnh làm quan đến chức Thái thú Quế Dương, rồi chết.
Quyền dời đô về Kiến Nghiệp, trưng tập Thượng đại tướng quân Lục Tốn phụ giúp Đăng trấn thủ Vũ Xương, thống lĩnh công việc ở Cung phủ. Đăng mỗi lần đi săn bắn, hay đi theo đường nhỏ, thường tránh xa chỗ ruộng đất mầu mỡ, vì thế không xéo nát lúa của dân, đến lúc dừng chân nghỉ ngơi, lại chọn chỗ đất trống, việc làm chẳng muốn phiền nhiễu đến dân chúng như thế. Một lần Đăng lên ngựa xuất hành, chợt có một viên đạn bắn ra, tả hữu truy tìm xem ai bắn. Có một người đeo túi đạn bị hạch tội, mọi người cho là đúng người ấy đã bắn, người kia cãi không phục, những kẻ đi theo muốn đánh người ấy, Đăng không nghe, sai người đi tìm viên đạn đã bắn ra, so sánh với viên đạn của người kia thì không giống nhau, người kia liền được thả ra. Lại có lần cái khay đựng chén uống nước bằng vàng có hình con ngựa bị mất, Đăng biết được người chủ tâm làm việc ấy, là người ở bên cạnh mình, nhưng không nỡ trừng phạt, chỉ gọi người ấy vào trách mắng, rồi phái người đưa người ấy về quê, lệnh cho người thân cận chớ được nói việc ấy ra. Sau khi em của Đăng là Lự chết, Quyền vì việc ấy mà giảm bớt ăn uống, Đăng ngày đêm gấp rút lên đường, đến Lại Hương, Quyền nghe tin, lập tức cho triệu kiến. Đăng thấy Quyền khóc lóc bi thương, bèn can rằng: “Lự ốm nặng không qua khỏi, đó là số mệnh vậy. Hiện nay đất phương bắc chưa thống nhất, bốn bể ngóng trông, Bệ hạ đầu gánh vác trọng trách như trời bể, nên lo nghĩ cho con cháu, nhưng giảm bớt thái quan chăm lo việc ăn uống, là quá với lễ chế, thần trộm lấy làm lo sợ.” Quyền thu nhận lời ấy, khẩu phần ăn uống thêm lên. Ở lại hơn chục ngày, Quyền muốn phái Đăng quay về phương tây, Đăng tự thân cầu xin trình bày rằng, vì chia ly đã lâu mới về thăm hầu, với đạo làm con là có khiếm khuyết, lại bầy tỏ rằng Lục Tốn là người chăm chỉ trung thành, không có chỗ nào là không theo phận sự của kẻ bầy tôi, Quyền mới cho Đăng ở lại. Năm Gia Hòa tam niên, Quyền đi đánh Tân Thành, sai Đăng ở lại phòng giữ, thống quản công việc ở nhà. Năm ấy mùa màng thất thu, đạo tặc rất nhiều, Đăng bèn tuyên bố định ra pháp lệnh, để phòng giữ ngăn ngừa chúng, gian đạo bị dập tắt rất mau chóng.
Trước kia, mẫu thân của Đăng là thứ dân, Đăng thủa nhỏ nhận cái ơn nuôi dưỡng của Từ phu nhân, về sau Từ thị vì hay ghen bị phế truất bỏ rơi ở huyện Ngô, còn Bộ phu nhân lại rất được sủng ái. Bộ thị ban thưởng cho Đăng, Đăng không dám nhận, chỉ bái tạ mà thôi. Từ thị sai người đến, ban tặng cho Đăng y phục, Đăng nhất định tắm gội rồi mặc y phục ấy. Đăng sắp được bái làm Thái tử, dâng lời rằng: “Cái gốc có vững thì đạo lý mới sinh ra, muốn lập Thái tử, nên lập Hoàng hậu trước.” Quyền nói: “Mẫu thân của khanh hiện ở đâu?” Đăng thưa rằng: “Ở huyện Ngô.” Quyền lặng im không nói.
Ngô thư chép: Em của Đăng là Hòa được Quyền sủng ái, Đăng thân gần kính trọng, đối đãi với Hòa như anh trai, thường có lòng muốn nhường.
Đăng được lập(28) cả thảy hai mươi mốt năm, năm ba mươi ba tuổi chết. Lúc lâm chung, dâng thư rằng: “Thần vốn không có công trạng, bị bệnh tật chằng trói, tự xét mình là kẻ hèn kém, vẫn sợ rằng bị chết bất ngờ. Thần chẳng tiếc thân mình, nghĩ đến việc phải vứt bỏ trách nhiệm phụng dưỡng, vùi thân dưới đất đen, mãi mãi chẳng còn được vâng mệnh ngóng trông ở chốn hoàng cung, tháng ngày lên triều hầu hạ, sống đã không có ích với quốc gia, chết lại để mối lo lắng thâm sâu cho Bệ hạ, vì thế trong lòng uất ức khó nói ra được. Thần nghe nói sống chết có mệnh, thọ yểu là bởi số trời, Chu Tấn, Nhan Hồi(29) có tài trí cao, mà còn chết yểu, huống chi thần ngu dốt bỉ lậu, tuổi thọ so với những người ấy là quá rồi, lúc sống làm người nối dõi của quốc gia, khi chết được hưởng phúc lộc vẻ vang, với thần là đã quá nhiều, cũng có gì phải tiếc hận đâu! Hiện nay đại sự chưa định, những kẻ bỏ trốn cướp bóc chưa dẹp được, muôn nước ngóng trông, ký thác tính mệnh nơi Bệ hạ, ở chỗ nguy nan thì mong ngóng sự yên bình, ở chỗ loạn lạc thì ngẩng trông vào việc cai trị. Mong bệ hạ hãy quên đi cái chết của thần, dứt bỏ mối ân tình với kẻ hậu bối, sửa sang cái thuật của Hoàng Lão(30), dốc  lòng bồi dưỡng thần khí, tăng thêm khẩu phần ăn uống, rộng lòng sáng suốt lo toan, để yên định cái nghiệp lớn đến vô cùng, thì thiên hạ may lắm, thần chết không có gì ân hận vậy. Hoàng tử Hòa thông minh nhân hiếu, đức hạnh cao quý trong sạch, nên sớm kiến lập, để tiếp nối sự trông ngóng của muôn dân. Gia Cát Khác có mưu lược tài năng uyên bác thấu triệt lý lẽ, có khí độ gánh vác trọng trách giúp đỡ thời thế. Trương Hưu, Cố Đàm, Tạ Cảnh, đều thông minh mau lẹ có hiểu biết và quyết đoán, ở trong nên ủy thác làm kẻ phúc tâm, ra ngoài có thể làm nanh vuốt. Phạm Thận, Hoa Dung cương cường tráng liệt, có phong độ của bậc quốc sỹ. Dương Biện nhanh nhẹn, có tài đối đáp đặc biệt. Điêu Huyền rộng rãi hơn người, đạt đến cái chân tâm của đạo lý. Bùi Khâm thông suốt việc giấy má, văn chương hoa mỹ đủ để dùng. Tưởng Tu, Ngu Phiên, chí hướng tiết tháo phân minh. Hết thảy những bầy tôi ấy, có người thích hợp ở chốn triều đường, có kẻ đảm nhiệm làm tướng soái, đều lão luyện việc đời, pháp lệnh sáng suốt thành thục, vững đạo nghĩa giữ chữ tín, những kẻ có chí ấy chẳng nên bỏ sót. Đấy đều là những bầy tôi Bệ hạ tháng ngày soi xét, tuyển lựa bố trí làm quan ở chỗ thần, thần được cùng làm việc, đủ biết được phẩm hạnh và chí hướng của họ, nên bạo dạn bầy tỏ biểu văn này. Thần nhiều lần suy nghĩ rằng hiện nay bên ngoài có lắm mối lo toan, việc quân chưa ngừng nghỉ, phải khích lệ sáu quân, để mưu đồ tiến thủ. Quân đội lấy người làm số đông, mọi người cho tiền của là quý, thần trộm nghe nói các quận huyện rất hoang tàn, muôn dân đói rách tàn tạ, là mầm mống sinh ra gian loạn, vì thế cấm lệnh gia tăng, hình phạt thêm nặng nề. Thần nghe nói làm chính trị phải thuận theo dân, pháp luật quân lệnh theo thời cuộc phải biến đổi, thực rất nên phải cùng với văn võ đại thần phân biệt tường tận thích hợp, phải lựa chọn rộng rãi cái hay trong lời bàn của mọi người, nới lỏng hình phạt giảm bớt sưu thuế, trưng dụng lao dịch hợp lý, để thuận với lòng trông ngóng của dân. Lục Tốn là người trung cần giúp đời, đem thân lo lắng cho quốc gia, chính trực với việc công, có tiết tháo quên mình. Gia Cát Cẩn, Bộ Chất, Chu Nhiên, Toàn Tông, Chu Cứ, Lã Đại, Ngô Sán, Hám Trạch, Nghiêm Tuấn, Trương Thừa, Tôn Di có lòng trung thành giúp quốc gia, thấu hiểu thể chế trị quốc. Hãy khiến cho họ bầy tỏ lên những điều giản tiện thích hợp, trừ bỏ những phiền hà, quý mến che chở cho sĩ tốt, vỗ về trăm họ. Ngoài năm năm, trong vòng mười năm, người ở xa quy phục, kẻ ở gần dốc sức, binh khí không phải vấy máu, mà đại sự có thể định được vậy. Thần nghe nói ‘con chim sắp chết thì tiếng kêu bi ai, con người sắp chết thì lời nói phải’, cho nên những lời gan ruột trước lúc lâm chung của người ta, là lời nói răn đời, bậc quân tử cho đó là trung, huống chi Đăng lại là kẻ thần tử, thì những lời này có thể là như thế đó chăng? Mong bệ hạ lưu tâm lắng nghe mà chọn lựa lấy điều hay, thần dẫu hôm nay chết đi, cũng như còn đang sống vậy.” Sau khi Đăng chết rồi thì thư mới dâng lên, Quyền càng lấy làm thương cảm, nói lời mà sa nước mắt. Năm ấy, là năm Xích Ô tứ niên.
Tạ Cảnh thời ấy làm Thái thú Dự Chương, chẳng ngăn nổi xót thương, bỏ chức quan đến viếng tang, rồi bái lạy dâng biểu tự hặc tội mình. Quyền nói: “Ngươi từng cùng với Thái tử làm việc, khác với các quan lại khác.” Rồi sai quan Trung sứ úy lạo, xét cho phục chức lúc trước, phái quay về quận. Đăng được ban thụy là Tuyên thái tử.
Ngô thư chép: Ban đầu Đăng được an táng ở Câu Dung, bố trí người coi giữ lăng mộ, tuân thủ theo đúng phép tắc, sau ba năm cải táng ở Tương Lăng.
Con của Đăng là Phan và Hy, đều chết sớm, con thứ là Anh, được phong tước Ngô hầu. Năm Ngũ Phượng nguyên niên, Anh vì việc Đại tướng quân Tôn Tuấn chuyên quyền, mưu giết Tuấn, việc bị phát giác phải tự sát, nước bị trừ bỏ.
Ngô Lịch chép: Vì Tôn Hòa không có tội mà bị giết, mọi người đều mang lòng oán thán, trước đó Tư Mã Hoàn lo lắng nhân đó mới tập hợp quan lại tướng lĩnh, muốn cùng giết Tuấn lập Anh, việc lộ ra, đều bị giết, Anh quả thực không biết.
Tạ Cảnh tự Thúc Phát, là người quận Nam Dương huyện Uyển. Có công tích ở quận, được quan lại dân chúng khen ngợi, cho rằng đứng đầu là Cố Thiệu, thứ nữa tức là Cảnh. Được mấy năm thì chết khi đương chức.

QUYỂN 15 - HẠ TOÀN LÃ CHU CHUNG LY TRUYỆN
Hạ Tề, Toàn Tông, Lã Đại, Chu Phường, Chung Ly Mục

LÃ ĐẠI TRUYỆN
Lã Đại tự Định Công, người quận Quảng Lăng huyện Hải Lăng, Đại làm huyện lại trong quận, tránh loạn đến huyện Nam Độ. Tôn Quyền thống quản công việc, Đại đến thẳng mạc phủ(31), được cho ra giữ chức Thừa ở huyện
Ngô. Quyền đích thân phá kho tàng và nhà ngục, các trưởng lại huyện thừa
đều đến gặp, Đại theo phép tắc đến hỏi, rất đúng ý Quyền, nên được triệu đến tạm nhận chức Lục sự, sau cho ra ngoài bổ nhiệm làm trưởng huyện Dư Diêu, Đại chiêu mộ được hơn nghìn quân tinh nhuệ. Bọn giặc là Lã Cáp, Tần Lang ở năm huyện Đông Dã, quận Cối Kê làm loạn, Quyền dùng Đại làm Đốc quân Hiệu úy, cùng bọn tướng quân Tưởng Khâm đem binh đánh dẹp, sau bắt được bọn Cáp, Lang, năm huyện bình định, Đại được bái làm Chiêu tín trung lang tướng.
Ngô thư chép: Năm Kiến An thứ mười sáu, Đại đốc xuất bọn lang tướng  là Doãn Dị, đem hai nghìn binh sĩ sang phía tây dụ tên giặc ở Hán Trung là Trương Lỗ đến thành Hán Hưng, Lỗ nghi ngờ là đường đi bị cắt đứt, việc toan tính không thành, Quyền bèn triệu Đại trở về.
Năm Kiến An thứ hai mươi, Đại thống lĩnh bọn Tôn Mậu gồm mười tướng quân theo đi lấy ba quận ở Trường Sa. Các huyện lại ở bốn huyện An Thành, Du, Vĩnh Tân, Trà Lăng cùng vào thành Âm Sơn, tập hợp binh chúng chống cự Đại, Đại vây đánh, chúng mau chóng ra hàng, ba quận yên định ngay. Quyền lưu Đại lại trấn thủ Trường Sa. Trưởng huyện An Thành là Ngô Nãng cùng bọn Trung lang tướng Viên Long lần lượt theo Quan Vũ, lại quay lại làm phản gây loạn. Nãng chiếm cứ huyện Du, Long ở huyện Lễ Lăng. Quyền phái Hoành Giang tướng quân là Lỗ Túc đánh huyện Du, Nãng phá vây trốn chạy. Đại đánh huyện Lễ Lăng, sau cầm tù và chém đầu Long, Đại được thăng làm Thái thú Lư Lăng.
Năm Diên Khang nguyên niên, Đại lên thay Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu. Lúc đến châu, tên đầu lĩnh của giặc ở Cao Lương là Tiền Bác xin hàng, Đại nhân đó thừa chế, lấy Bác làm Cao Lương tây bộ Đô úy. Lại có giặc người Di ở Uất Lâm tấn công vây quận huyện, Đại đánh dẹp phá chúng. Bấy giờ có tên giặc là Vương Kim ở huyện Trinh Dương quận Quế Dương  tụ hợp quân chúng trên địa giới quận Nam Hải, cầm đầu quân phản loạn gây hại, Quyền lại chiếu lệnh cho Đại đánh dẹp bọn ấy, bắt sống được Kim, giải đến kinh đô, chém đầu, còn bắt sống cả thảy hơn vạn một người. Đại được thăng làm An Nam tướng quân, ban cho Giả tiết, phong tước Đô Hương hầu.
Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp chết, Quyền dùng con của Tiếp là Huy làm An Viễn tướng quân, lĩnh chức Thái thú Cửu Chân, lấy Hiệu úy Trần Thì lên thay Tiếp. Đại dâng biểu xin chia ba quận ở Hải Nam lập ra Giao Châu, lấy Tướng quân Đái Lương làm Thứ sử, chia bốn quận ở Hải Đông làm Quảng Châu, Đại tự mình làm Thứ sử. Rồi phái Lương và Thì vào phương nam, nhưng Huy không vâng lệnh, dấy binh đóng ở cửa biển để chống cự bọn Lương. Đại vì thế dâng sớ xin đánh dẹp Huy trị tội, đốc suất ba nghìn quân đêm ngày vượt biển. Có người bảo Đại rằng: “Huy mượn cái ân mấy đời, được người một châu phục tùng, không dễ mà xem thường”. Đại nói: “Nay Huy dẫu mang lòng toan tính phản nghịch, nhưng chưa liệu được là quân sĩ của ta kéo đến, nếu ta ngầm đem khinh quân đến, đánh chỗ không phòng bị, việc phá chúng tất xong vậy. Trì hoãn mà không làm mau chóng, khiến cho giặc sinh lòng ngờ, sẽ vây quanh thành cố thủ, trăm họ người Man ở bảy quận, tụ họp nhau hưởng ứng, dù có là bậc trí giả, ai có thể giết hết được bọn chúng?” Rồi đi, qua Hợp Phố, cùng với bọn Lương đều tiến lên. Huy nghe tin Đại đến, quả nhiên kinh hãi cuống cuồng, không biết chạy đâu, bèn thống suất sáu người anh em cởi trần trùng trục ra nghênh đón Đại. Đại chém hết bọn họ đưa đầu về kinh đô. Đại tướng của Huy là bọn Cam Lễ, Hoàn Trị thống suất quan dân tấn công Đại, Đại gắng sức đánh đại phá chúng, bởi có công Đại được tấn phong tước Phiên ngu hầu. Vì thế giữ chức ở Quảng Châu, sau lại làm Thứ sử Giao Châu như cũ.
Đại đã bình định được Giao Châu, lại tiến lên đánh dẹp quận Cửu Chân, chém và bắt sống mấy vạn người. Lại phái quan Tòng sự xuôi nam tuyên bố phong hóa của nhà nước, truyền đến các bậc Vương của các nước Phù Nam, Lâm Ấp, Đường Minh ở ngoài biên, bọn họ đều phái sứ giả dâng cống vật. Quyền khen ngợi công lao ấy, bái Đại làm Trấn Nam tướng quân.
Năm Hoàng Long tam niên, vì đất phương nam yên định thanh bình, triều đình triệu Đại về đóng ở Âu Khẩu quận Trường Sa.
Giao Quảng ký của Vương Ẩn chép: Nước Ngô sau khi đặt lại Quảng Châu, dùng người ở nam Dương là Đằng Tu làm Thứ sử. Có người nói với Tu là có con Hà Tu dài một trượng, Tu không tin, về sau người ấy có việc đến Đông Hải, lấy được một con Hà Tu dài bốn trượng bốn thước, gói lại mang về bảo với Tu, Tu mới chịu phục người ấy.
Gặp lúc người Man người Di ở Vũ Lăng khuấy động, Đại và Thái thường là Phan Tuấn cùng đến đánh dẹp yên. Năm Gia Hòa thứ ba, Quyền ra lệnh cho Đại đốc xuất binh sĩ của Phan Chương, đóng ở Lục Khẩu, sau dời đến Bồ Kỳ. Năm thứ tư, giặc ở Lư Lăng là Lý Hoàn, giặc ở Lô Hợp và huyện Đông Dã quận Cối Kê là Tùy Xuân, giặc ở Nam Hải là bọn La Lệ nhất thời cùng nổi dậy. Quyền lại hạ chiếu cho Đại đốc suất bọn Lưu Toản, Đường Tư phân chia bộ hạ đánh dẹp, Xuân lập tức ra hàng, Đại bái Xuân làm Thiên tướng quân, sai lĩnh binh ấy, sau Xuân làm Liệt tướng, bọn Hoàn, Lệ đều bị chém đầu, đưa thủ cấp tới kinh đô. Quyền hạ chiếu cho Đại nói: “Lệ cậy chỗ hiểm gây loạn, tự đưa mình đến chỗ bị bêu đầu; Hoàn hung ác gian giảo phản phúc, đã hàng rồi lại làm phản. Ta trước sau thảo phạt, nhiều năm không bắt được, chẳng phải là ngươi có tài mưu lược, thì ai có thể bêu đầu chúng? Cái khí tiết trung vũ của ngươi, vì thế càng sáng rõ. Kẻ ác đầu sỏ đã bị trừ, lớn nhỏ rung động mất hồn phách, những kẻ đồng loại nhỏ nhặt của chúng, bị quét sạch như đám bụi. Từ nay về sau, quốc gia mãi mãi không phải lo lắng trông về phương nam, ba quận yên bình phẳng lặng, không còn cảnh tượng sợ hãi kinh hoàng, kẻ ác dân phải làm việc để cung cấp thuế khoá, ngươi đáng được trọng dụng và khen ngợi. Việc khen thưởng chẳng để qua một tháng, đó là phép thường của quốc gia, chế độ ấy là thích hợp,  ngươi hãy tuân theo quốc điển.”
Phan Tuấn chết, Đại thay Tuấn kiêm quản việc văn thư ở Kinh Châu(32), cùng với Lục Tốn đều ở Vũ Xương, cho nên vẫn đốc trách ở Bồ Kỳ. Không lâu sau đó, Liêu Thức gây loạn, vây đánh thành ấp, các quận Linh Lăng, Thương Ngô, Uất Lâm dao động không yên, Đại tự dâng biểu rồi đi ngay, sao đêm còn sáng trên đường. Quyền phái sứ giả đuổi theo bái Đại làm Giao Châu mục, đồng thời phái chư tướng là bọn Đường Tư cưỡi ngựa trạm đi theo không dứt, đánh dẹp một năm thì phá được, chém Thức rồi sai phái mấy người ở đó vờ đặt bọn Phí Dương làm Thái thú Lâm Hạ, thâu gồm bè đảng của chúng, các quận huyện bình được cả, Đại lại quay về Vũ Xương. Năm  ấy Đại tuổi đã tám mươi, nhưng thể chất vẫn tỉnh táo cần mẫn, hết mình vì vương ngiệp. Phấn uy tướng quân Trương Thừa gửi thư cho Đại nói: “Xưa kia Đán, Thích(33) cùng giúp đỡ nhà Chu, làm ra khúc ca Nhị Nam, nay thì  có túc hạ và Lục Tử(34) vậy. Vì lẽ trung cần thì cùng tiến lên, có công lao thì cùng khiêm nhượng, công việc thì quyền biến mà thành, thay đổi thì hợp đạo lý, bậc quân tử ngợi khen cái đức ấy, kẻ tiểu nhân vui thích sự cao đẹp ấy.
Thêm nữa là ngài có việc văn thư khó nhọc, tân khách suốt ngày, nghỉ ngơi chẳng quên công việc, nhọc nhằn chẳng nói là mỏi mệt. Lại biết nhảy múa trên lưng ngựa, chẳng cần kẹp chân mà bước xuống nhẹ nhàng, như thế túc hạ đã hơn Liêm Pha(35) rồi vậy. Ngài làm việc gì cũng quyết đoán. Theo Chu Dịch nói, về lễ thì cung kính, về đức thì là thịnh, túc hạ sao lại có được hết những điều cao đẹp như thế vậy!” Lục Tốn chết, Gia Cát Khác lên thay Tốn, Quyền bèn chia Vũ Xương làm hai bộ, Đại làm Đốc hữu bộ, từ Vũ Xương Thượng đến Bồ Kỳ. Lại thăng Đại lên chức Thượng Đại tướng quân, bái con của Đại là Khải làm Phó quân Hiệu uý, làm Giám binh ở Bồ Kỳ, Tôn Lượng lên tức vị, bái Đại làm Đại tư mã.
Đại đem thân thanh bạch phụng sự việc công, địa phương kể lại. Khi trước Đại ở Giao Châu, nhiều năm không đem tiền lương về nhà, vợ con đói rét. Quyền nghe nói than thở, liền trách quần thần rằng: “Lã Đại đem thân ra nơi vạn dặm, vì quốc gia chuyên cần vơi công việc, gia môn ở trong khốn khó, mà Cô không biết sớm. Các ngươi là bầy tôi tai mắt của ta, họ đưa lời trách móc thì ta sao được yên?” Vì thế ban cho tiền bạc, gạo, vải vóc, lụa là, mỗi năm theo hạn định.
Ban đầu, người thân cận với Đại ở Ngô quận là Từ Nguyên, khảng khái mà có tài năng và chí khí, Đại biết người ấy có thể thành đạt, đem tặng cho mũ áo, cùng nhau bàn luận, sau liền tiến cử đề bạt lên, làm quan đến chức Ngự sử. Nguyên bản tính trung tráng, ưa nói thẳng, Đại thì nói năng có cân nhắc được mất, Nguyên liền can ngăn, lại công khai bàn về việc ấy, có người đem kể với Đại, Đại than rằng: “Ta sở dĩ quý mến Đức Uyên là điều ấy vậy.” Lúc Nguyên chết, Đại khóc lóc rất bi ai, nói: “Đức Uyên, Lã Đại này có một người bạn, nay bất hạnh, Đại làm sao còn nghe được lỗi lầm của mình nữa đây?” Kẻ bàn bạc khen lời ấy.
Năm Thái Bình nguyên niên, năm chín mươi sáu tuổi Đại chết, con Đại là Khải nối tự. Đại có di lệnh khi chôn cất mình dùng áo quan mộc, đội khăn thưa mặc áo cộc, theo đúng phép tống táng, mọi việc đơn giản tiết kiệm, Khải đều vâng mệnh theo lời.

CHUNG LY MỤC TRUYỆN
Chung Ly Mục tự Tử Cán, người huyện Sơn Âm quận Cối Kê, là cháu đời thứ bảy của Lỗ Tướng là Ý (36) thời nhà Hán vậy.
Cối Kê điển lục chép: Cha Mục là Tự, làm Lâu thuyền Đô úy, anh là Nhân, làm Thượng kế lại, lúc trẻ cùng nổi tiếng với người cùng quận là Tạ Tán, người quận Ngô là Cố Đàm. Thủa trẻ nhỏ Mục gọi là Trì Nột, Nhân thường bảo mọi người rằng: “Mục tất hơn ta, không nên coi thường”. Người thời ấy đều cho là không đúng.
Thủa trẻ đến ở huyện Vĩnh Hưng, tự thân khẩn ruộng, trồng lúa hơn hai mươi mẫu. Lúc chín, có người dân trong huyện biết được điều ấy, Mục nói: “Vốn là ruộng hoang, cho nên mở mang thôi”. Rồi đem lúa cho người trong huyện. Huyện trưởng nghe tin, gọi người dân ấy đến bắt vào ngục, muốn dùng hình phạt, Mục xin tha cho người đó, huyện trưởng nói: “Ông học theo Thặng Cung, tự làm việc nghĩa, Tục Hán thư chép: Cung tự Thiếu Tử, người quận Lang Nha, từng trồng trọt lúa tắc ở trong núi Mông Âm, lúc chín, mọi người đến biết được. Cung liền trao cho mọi người rồi bỏ đi, đó đó mà nổi danh, làm đến Tả trung lang tướng, Thị trung.
Ta là kẻ chăn dân, (37) phải dùng pháp trị kẻ dưới, sao có thể bỏ phép công mà theo ý ông được”? Mục nói: “Chỗ ấy là ranh giới của quận, mong ngài chú ý, nên tạm đến đấy xem qua. Nay nếu vì một ít lúa mà giết người dân của huyện ấy, làm sao yên lòng”? Rồi trả đồ dùng, quay về huyện Sơn Âm, huyện trưởng tự đến can ngăn, lại cởi trói cho người dân ấy. Người dân ấy hổ thẹn, đem sáu mươi hộc gạo mà vợ con mình đã giã mà trả cho Mục, Mục đóng cửa không nhận. Người dân ấy chở đến để ở bên đường, chẳng ai dám lấy. Do đó Mục nổi tiếng.
Từ Chúng (38) bình rằng: “Mục làm theo phép tắc cao thượng. Có người hỏi rằng: ‘Như điều mà Mục làm, bị người ta xâm phạm mà chẳng vướng bận, lại tha mà giúp người ta, mình đúng mà chẳng thu lấy lúa, lại nữa người ta trả lúa về mà chẳng nhận, đấy chẳng phải gọi là nhân nhượng hay sao’?
Đáp rằng: ‘Lạ thay điều mà mà ta nghe biết! Nguyên Hiến (39) đến hỏi với Khổng Tử rằng: ‘Người không làm điều gọi là ưa thắng, kiêu căng, oán giận, tham muốn, có thể coi là người có lòng nhân không’? Khổng Tử nói: ‘Làm được như thế thì khó lắm, lòng nhân thì ta không thấy vậy. Ghét người không có lòng nhân, cốt ở tự mình làm điều nhân mà thôi’. Nay người dân kia không làm được bốn điều kia, lại cho rằng là lúa của mình, thế là rất không có lòng nhân vậy. Vậy mà Mục trao lúa cho người ấy, lại cứu tội của người ấy, thế là nhún nhường chẳng đúng chỗ, cứu chẳng đúng người, đấy không phải là ghét người không có lòng nhân vậy. Nếu không ghét người không có lòng nhân thì làm sao mà làm điều nhân đây! Thương Ngô Kiêu (40) cưới vợ xinh đẹp, nhường cho anh mình; Vĩ Sinh (41) giữ tín, nước dâng tràn nhưng không chạy mà chết; Trực Cung (42) thẳng thắn, tố cha trộm dê, Thân Minh (43) vâng lệnh, dốc hết lòng trung với vua mà bắt cha mình. Trung, tín , thẳng thắn, nhún nhường là bốn đức hạnh, là điều mà bậc thánh hiền quý trọng vậy. Nhưng không quý trọng cái nhún nhường của Thương Ngô Kiêu, vì đấy không phải là cái đạo nhún nhường vậy; không chọn cái tín của Vĩ Sinh, vì không phải là đạo tín vậy; không theo cái thẳn thắn của Trực Cung, vì không phải là cái gốc của đức thẳng thắn vậy; không khen lòng trung của Thân Minh, vì đấy không phải là lòng trung thật vậy. Nay Mục bị xâm phạm mà chẳng vướng bận, người ta trả về mà chẳng lấy, có thể cho là nạn vậy, chưa thể là nhân nhượng vậy. Thánh nhân lấy đức báo đức, lấy thẳng thắn báo oán, mà Mục muốn lấy đức báo oán, là sai vậy. Nếu bất đắc dĩ phải chọn ai trong hai người thì ta theo Khổng Tử”.
Năm Xích Ô thứ năm, từ chức Lang trung được bái làm Phụ nghĩa Đô úy giúp Thái tử, chuyển làm Nam Hải Thái thú.
Cối Kê điển lục chép: Tướng giặc ở huyện Cao Lương là bọn Nhưng Nỗ cướp phá trăm họ, tàn hại quan dân, Mục qua quận đánh dẹp, trong một tuần đều hàng phục. Lại có tướng giặc ở huyện Yết Dương là bọn Tăng Hội có mấy nghìn người, trải hơn mười năm, triều đình phong tước Hầu tặng nghìn tấm gấm lụa, gửi thư chiêu dụ, nhưng chống lại không theo. Mục sai người vỗ về, bèn đều cúi đầu, tự đổi làm dân lành. Thủy Hưng Thái thú Dương Đạo gửi thư cho Thái thường Đằng Dận rằng: “Chung Li Tử Cán là người quen biết của ta ngày xưa, nay được gặp hắn ở quận Nam Hải, ân uy trùm quân sĩ, trí dũng nổi rõ, lại có tiết tháo trong sạch, có phong thái của người xưa”. Người này được quý trọng như thế. Ở tại quận được bốn năm, vì bệnh mà bỏ chức.
Chuyển làm Thặng tướng Trưởng sử, lại chuyển làm Tư trực, rồi chuyển làm Trung thư lệnh. Gặp lúc người miền núi ở ba quận Kiến An, Bà Dương, Tân Đô làm loạn, cho Mục ra làm Giám quân sứ giả, đánh dẹp chúng. Tướng giặc là bọn Hoàng Loạn, Thường Cụ đưa quân bản bộ ra hàng, đem vào quân ngũ. Phong làm Tần Đình Hầu, bái Việt kị Đô úy.
Năm Vĩnh An thứ sáu, nước Thục bị nhà Ngụy chiếm, người rợ ở vùng Ngũ Khê liền kề với nước Thục, bấy giờ bàn luận sợ rằng họ phản loạn, bèn lấy Mục làm Bình Ngụy Tướng quân, lĩnh chức Vũ Lăng Thái thú, đến tại quận. Nhà Ngụy sai quan Trưởng của huyện Hán Tiết là Quách Thuần đến thử giữ chức Vũ Lăng Thái thú, đem dân ở huyện Phù Lăng vào huyện Thiên Lăng của đất Thục, đóng đồn ở Xích Sa, chiêu dụ tù trưởng của người rợ, có kẻ nổi dậy theo Thuần, lại đến đánh huyện Dậu Dương, người trong quận sợ hãi. Mục hỏi quan lại ở triều đình rằng: “Tây Thục nghiêng lật, biên giới bị lấn, nên làm gì để chống lại”? Đều đáp nói: “Nay hai huyện có núi hiểm, người rợ lại đem quân ngăn chặn, không nên đem quân đến làm kinh động, nếu kinh động thì người rợ tất liên kết với nhau. Nên để dần dần yên lặng, rồi sai quan lại đến dùng ân tín mà vỗ về”. Mục nói: “Không được. Bờ cõi bị vào lấn, dụ dỗ người dân, nên nhân lúc gốc rễ của địch chưa cắm sâu mà đến nhổ đi, đấy là việc dập lửa cốt ở nhanh gấp vậy”. Bèn hạ lệnh quan quân ở ngoài nghiêm ngặt, bọn quan lại bàn luận chống lại lời của Mục đều phải theo phép quân. Phủ Di Tướng quân Cao Thượng khuyên Mục rằng: “Ngày xưa Phan Thái thường (44) lĩnh được năm vạn quân rồi mới đến đánh người rợ ở Ngũ Khê vậy. Bấy giờ liên hòa với họ Lưu, (45)người rợ theo giáo hóa, nhưng ngày nay không có cái giúp của các việc ngày xưa ấy, vả lại Quách Thuần đã chiếm Thiên Lăng, vậy mà phủ quân đem ba nghìn quân vào sâu, Thượng này chưa thấy được lợi vậy”. Mục nói: “Việc làm khác thường, cần gì theo phép xưa”? Liền đem quân bản bộ ngày đêm lên đường, men núi hiểm mà đi, trải dài hai nghìn dặm, theo đường trên biên ải, chém hơn trăm đầu cừ súy của dân ác mang lòng khác và mấy nghìn phe đảng của chúng, bọn Thuần tan chạy, vùng Ngũ Khê được bình. Chuyển làm Công An Đốc, Dương vũ Tướng quân, phong Đô Hương hầu, lại chuyển làm Nhu Tu Đốc.
Cối Kê điển lục chép: Mục ở tại Nhu Tu, ngầm mưu kế tiến đánh có thể được, nhưng không dám bày tỏ kế của mình, dự yến với quan Thị trung Đông Quán Lệnh là Chu Dục, cảm khái than thở. Dục cho là Mục hận vì kế mình không được làm, nhân đó bảo Mục rằng: “Các quan lại ở triều đình ngày nay chỉ ngồi giữ chức cao, mà không ai có công sánh được với quân hầu, quân hầu lại không chịu ở dưới người ta, cho nên kẻ dòm ngó vẫn lấy làm buồn rầu, huống chi là đình hầu”! Mục cười mà đáp rằng: “Lời mà ông nói, chưa hợp ý ta vậy. Mã Viện (46) có nói: ‘Người ta nên lập công nhiều  và nhận thưởng ít’. Huống chi ta lập công không đủ để ghi chép mà lại được ban sủng quá mức, há cho là giận? Nhà nước không ai biết ý ta, ta lại thấy người ở triều đình bị hại, cho nên im ỉm không dám bày kế. Nếu triều đình không thế thì ta sẽ bày kế đến đánh để báo đền cái ân mà ta từng chịu nhận, không chỉ là tự giữ chức mà thôi. Ta than buồn là do ấy vậy”. Dục lại nói: “Nhà nước biết đến quân hầu, nếu dùng cái tài của quân hầu thì không việc gì không thành. Kẻ ngu này sẽ tự bày kể tấm lòng của quân hầu”. Mục nói: “Vũ An Quân (47) bảo Tần Vương (48) rằng: ‘Lập nghiệp không khó, tìm  được người hiền mới khó; tìm được người hiền không khó, dùng người hiền mới khó; dùng người hiền không khó, tin dùng người hiền mới khó’. Vũ An Quân muốn giúp Tần Vương chiếm cả sáu nước, nhưng sợ trao việc mà không được tin dùng, cho nên nói ra lời ấy trước. Tần Vương đã hứa theo mà lại không tin dùng, rút cuộc làm lỡ cái nghiệp sắp thành, ban kiếm tự  sát ở ấp Đỗ Bưu. Ngày nay dẫu nhà nước biết ta nhưng không bằng Tần Vương biết dùng Vũ An Quân, mà kẻ muốn hại ta lại còn hơn cả Phạm Thư. (49) Vào thời Đại Hoàng Đế, (50) Lục Thặng tướng (51) đánh quận Bà Dương, đem hai nghìn quân trao cho ta, Phan Thái thường đánh quận Vũ Lăng, ta lại được lĩnh ba nghìn quân, vậy mà ngày nay triều đình bàn luận vứt ta ở đây, sai các tướng ở vùng bờ sông không được phát binh giúp nhau. Ta chịu ân nhà nước mà giúp đỡ, vậy mà ngày làm việc bình thường. Nếu ta không xét nghĩ đến cái việc nên làm thời nay mà có ý dâng kế, lúc ấy nếu được trao việc thì thế quân cũng chẳng đủ, rút cuộc sẽ có cái hại thua vỡ, lúc ấy há không việc gì không thành sao”?
Lại bái làm Tiền Tướng quân, ban Giả tiết, lĩnh chức Vũ Lăng Thái thú. Chết ở sở quan. Nhà không có của thừa, quan dân nhớ ân. Con là Y nối tự, thay lĩnh quân.
Cối Kê điển lục chép: Con thứ của Mục là Thịnh, cũng có đức khiêm nhường, làm Thượng thư lang. Em là Tuân làm tướng lĩnh quân, bái Thiên tướng quân, giữ Tây Lăng, bàn luận hình thế địa lí với Giám quân sứ giả Đường Thịnh, bảo là các huyện Nghi Thành, Tín Lăng liền kề huyện Kiến Bình, nếu không đắp thành ở đấy trước thì quân định tất vào trước. Thịnh lấy bọn Thi Tích, Lưu Bình là tướng giỏi mưu lược, thường tuần tra ở đấy, có người nói là không nên đắp thành ở đấy, không theo kế của Tuân. Nửa năm sau, quả nhiên quân Tấn sai tướng đến đắp thành ở Tín Lăng. Quân Tấn bình Ngô, Tuân lĩnh quân thủy, vào đánh chết trong trận.

HẠ TỀ TRUYỆN
Hạ Tề tự Công Miêu, người huyện Sơn Âm quận Cối Kê.
Tấn thư của Ngu Dự chép: Họ Hạ vốn là họ Khánh. Bác ruột của Tề là Thuần, học đạo Nho có tiếng tăm, vào thời An Đế của nhà Hán làm Thị trung, Giang Hạ Thái thú, bỏ quan với người quận Giang Hạ là Hoàng Quỳnh, người quận Hán Trung là Dương Hậu cùng ngôi xe vua gọi. Tránh tên húy cha của An Đế là Hiếu Đức Hoàng Đế, đổi sang họ Hạ. Cha Tề là Phụ, làm Vĩnh Ninh Trưởng.
Thủa trẻ làm quan trong quận, giữ chức Diệm Trưởng. Có viên quan trong huyện là Tư Tòng càn rỡ làm việc ác, Tề muốn bắt trị tội hắn, quan Chủ bạ can ngăn rằng: “Tòng là con nhà họ lớn trong huyện, lại được người Sơn Việt theo phục, nếu ngày nay bắt hắn, ngày sau giặc cướp tất đến”. Tề nghe xong thì cả giận, liền đứng dậy đi chém Tòng. Phe đảng của Tòng bèn tụ họp với nhau, có đến hơn nghìn người, đem quân đánh huyện. Tề đem quan dân mở cửa thành ra đánh, đại phá bọn chúng, rúng động cả vùng người Sơn Việt. Sau đó dân các huyện Thái Mạt, Phong Phố làm phản, chuyển làm Thái Mạt Trưởng, giết kẻ ác, giúp người tốt, một tháng thì bình xong.
Năm Kiến An thứ nhất, Tôn Sách đến quận, (52) xét Tề trúng Hiếu liêm. Bấy giờ Vương Lang trốn đến ở Đông Dã, Hầu Quan Trưởng là Thương Thăng giúp Lang dấy binh. Sách sai Vĩnh Ninh Trưởng là Hàn Yến lĩnh chức Nam bộ Đô úy, (53) đem quân đánh Thăng, lấy Tề làm Vĩnh Ninh Trưởng. Yến bị Thăng đánh thua, Tề lại thay Yến làm việc quan Đô úy. Thăng sợ oai danh của Tề, sai sứ đến thề ước, Tề nhân đó khuyên dụ, kể rõ họa phúc, Thăng bèn trao nạp ấn thao, ra trại xin hàng. Tướng giặc là bọn Trương Nhã, Chiêm Cương không muốn hàng theo Thăng hàng, cùng nhau giết Thăng, Nhã xưng là Vô thượng Tướng quân, Cường xưng là Cối Kê Thái thú. Giặc mạnh mà quân mình ít, chưa đủ để đánh, Tề dừng quân nghỉ ngơi. Nhã cùng con rể là Hà Hùng tranh thế mạnh hai bên, Tề sai người Sơn Việt nhân đó mà giao kết với họ, dẫn đến nghi ngờ, đem quân đánh nhau. Tề lại đến đánh, một trận phá được Nhã, quân của Cường sợ hãi, dắt nhau ra hàng.
Đã bình huyện Hầu Quan, rồi các huyện Kiến An, Hán Hưng, Nam Bình lại phản, Tề đem quân đến Kiến An, lập phủ Đô úy, năm đó là năm thứ tám vậy. Quận phát năm nghìn quân của các huyện, đều sai các quan huyện trưởng lĩnh lấy, đều chịu sự trông coi của Tề. Năm người bọn giặc là Hồng Minh, Hồng Tiến, Uyển Ngự, Ngô Miễn, Hoa Đương đều lĩnh vạn hộ, đóng đồn liền tiếp ở huyện Hán Hưng, đem năm, sáu nghìn hộ ở huyện Ngô đóng đồn riêng ở huyện Đại Trạch, đem sáu nghìn hộ ở huyện Trâu Lâm đóng đồn riêng ở huyện Cái Trúc, lại cùng đến huyện Dư Can, Đọc âm là ‘can’. đem quân đánh huyện Hán Hưng, qua huyện Dư Can. Tề cho rằng quân giặc ít, vào sâu mà không nối tiếp, sợ bị đánh chặn, do đó sai Tùng Dương Trưởng là Đinh Phiên ở lại giữ huyện Dư Can. Phiên vốn ở bên thành của Tề, lấy làm thẹn vì bị gọi vào đội ngũ, từ chối không chịu ở lại. Tề bèn chém Phiên, do đó trong quân run sợ, không ai không vâng mệnh. Rồi chia quân ở lại giữ, đến đánh bọn Minh, liên tiếp phá được bọn chúng. Chém được Minh ở trong trận, Miễn, Đương, Tiến, Ngự đều ra hàng. Sang đánh huyện Cái Trúc, đem quân hướng đến huyện Đại Trạch, tướng giặc ở đấy ra hàng. Cả thảy đánh dẹp chém sáu nghìn đầu, tướng giặc bị bắt cả, lại lập ra huyện ấp, thu nạp được vạn quân, bái làm Bình đông Hiệu úy. Năm thứ mười, sang đánh huyện Thượng Nghiêu, chia huyện ấy lập ra huyện Kiến Bình.
Năm thứ mười ba, chuyển làm Uy vũ Trung lang tướng, đánh các huyện Y, Thiệp của quận Đan Dương. Bấy giờ, người bốn ấp Vũ Cường, Diệp Hương, Đông Dương, Phong Phố hàng trước, Tề dâng biểu xin lấy ấp Diệp Hương lập thành huyện Thủy Tân. Nhưng tướng giặc ở huyện Thiệp là Kim Kì đem vạn hộ đóng đồn ở núi Vạn Lặc, Mao Cam đem vạn hộ đóng đồn ở núi Ô Liêu, tướng giặc ở huyện Y là bọn Trần Bộc, Tổ Sơn đem hai vạn hộ đóng đồn ở núi Lâm Lịch. Núi Lâm Lịch bốn bề vách đá dựng đứng, cao đến mấy chục trượng, đường hẹp ngăn trở, không vừa đao khiên, giặc lên chỗ cao ném đá xuống, do đó không đánh lên được. Đóng quân nhiều ngày, quan tướng lo lắng. Tề tự đi xung quanh, xem xét địa hình, ngầm kén chọn quân khỏe mạnh, tạo ra lưỡi câu sắt, ém nấp ở chỗ hiểm mà quân giặc không phòng bị, lấy lưỡi câu móc mà men theo đường, buổi đêm ngầm sai trèo lên, lại bày treo nhiều dây xuống dưới, do đó đem mấy trăm người trèo lên được, bốn bề bủa vây, lại cùng đánh trống thổi tù và, Tề lĩnh quân đợi giặc. Giặc buổi đêm nghe tiếng trống bốn bề, bảo nhau là đại quân đã lên được hết, sợ hãi rối loạn, không biết làm gì, những kẻ giữ chỗ hiểm đều chạy về dựa vào quân mình. Đại quân nhân đó trèo lên trên, đại phá bọn Bộc, bọn còn lại đều hàng phục, cả thảy chém bảy nghìn đầu.
Bão Phác Tử chép: Ngày xưa vua Ngô sai Hạ Tướng quân đánh giặc trên núi, bọn giặc có vật chỗng đỡ tốt, hễ lúc giao tranh, đao kiếm của quan quân không đâm chém được, cung nỏ tên đạn đều bị bật trở lại, do đó thường không được lợi. Hạ Tướng quân suy nghĩ hồi lâu, rồi nói: “Ta nghe nói mũi đao sắt cứng vẫn ngăn được, rắn có nọc độc vẫn chống được. Nếu không phải là vật có mũi nhọn, không phải là rắn có nọc độc thì không ngăn được. Địch ngăn được vũ khí của quân ta, chắc không thể ngăn được vũ khí không có mũi nhọn vậy”. Bèn làm nhiều cây gậy màu trắng cứng chắc, chọn năm nghìn quân khỏe mạnh trèo lên trước, đều nắm chặt gậy. Giặc trên núi cậy vào vật ngăn chống tốt kia mà không lo phòng bị. Do đó quan quân cầm gậy trắng mà đánh đập, vật ngăn chống kia quả nhiên không còn đỡ được, giặc bị đánh giết đến vạn người.
Tề lại dâng biểu xin chia huyện Thiệp lập ra các huyện Tân Định, Lê Dương, Hưu Dương, gồm cả huyện Y, huyện Thiệp, cả thảy là sáu huyện,
(54) Quyền bèn chia đặt thành quận Tân Đô, lấy Tề làm Thái thú, lập phủ ở huyện Thủy Tân, bái thêm chức Thiên tướng quân.
Năm thứ mười sáu, dân ở huyện Dư Hàng quận Ngô là Lang Trĩ hợp phe đảng nổi dậy, có đến mấy nghìn người, Tề lại ra đánh, liền chém được Trĩ, dâng biểu xin chia huyện Dư Hàng lập ra huyện Lâm Thủy. Ngô lục chép: Nhà Tấn đổi tên thành huyện Lâm An.
Ra lệnh về sở quan, lúc đang về quận, Quyền ra đón ở đường, bày voi tấu nhạc.
Ngô thư chép: Quyền bảo Tề rằng: “Ngày nay định yên thiên hạ, đóng đô ở Trung Quốc, khiến cho phương xa dâng vật quý, thú dữ cũng thần phục, không phải do ông thì ai đây”? Tề đáp rằng: “Điện hạ trổ oai thần vũ đúng kì, mở mang nghiệp Vương, thần chỉ là may mắn gặp thời, được rong ruổi dưới gió bụi, giúp đỡ việc chưa làm, dùng sức của ưng chó, đấy là mong muốn của thần vậy. Như phương xa dâng cống, thú dữ thần phục, là do ở đức thánh, không phải do cái tài của thần vậy”.
Ban cỗ xe dùng đôi ngựa khỏe cho Tề, rời chỗ ngồi đến bên xe, sai Tề lên xe. Tề từ chối không dám lên, Quyền sai tả hữu đỡ Tề lên xe, sai dẫn quan quân lính kị như lễ nghi ở quận. Quyền đứng từ xa mà cười rằng: “Mọi người nên gắng sức, nếu không làm việc góp công thì không được như thế”. Đi mấy trăm bước rồi quay lại.
Năm thứ mười tám, dân phía đông quận Dự Chương là bọn Bành Tài, Lí Ngọc, Vương Mai nổi dậy làm loạn, có đến mấy vạn người. Tề đến đánh dẹp chúng, giết kẻ đứng đầu, bọn còn lại đều hàng phục. Chọn kẻ khỏe mạnh vào làm lính, còn lại cho vào sổ hộ. Chuyển làm Phấn vũ Tướng quân.
Năm thứ hai mươi, theo Quyền đi đánh quận Hợp Phì. Bấy giờ quân trong thành ra đánh, Từ Thịnh bị thương làm rơi cây mâu. Tề xua quân đánh chặn, lấy được cây mâu mà Thịnh làm rơi.
Giang Biểu truyện chép: Quyền đánh quận Hợp Phì rút về, bị Trương Liêu đánh úp ở phía bắc bờ sông, suýt bị giết chết. Bấy giờ Tề đem ba nghìn quân ở tại bờ nam đón Quyền. Quyền đã vào thuyền lớn, họp các tướng ăn yến, Tề quỳ xuống chiếu khóc lóc mà nói: “Vua là bậc chí tôn, nên thường cẩn thận. Gặp việc ngày nay, suýt bị vỡ lở, bầy tôi sợ hãi như không còn  thấy trời đất nữa. Mong lấy đó làm gương cả đời”. Quyền đến trước mặt mà lau nước mắt của Tề, nói: “Thẹn thay! Ta kính ghi nhớ trong lòng, không chỉ chép vào các sách mà thôi”.
Năm thứ hai mươi mốt, dân ở quận Bà Dương là Vưu Đột nhận ấn thao của Tào Công, dụ dân làm giặc, dân các huyện Lăng Dương, huyện Thủy An, huyện Kinh đều ứng theo với Đột. Tề cùng Lục Tốn đánh phá Đột, chém mấy nghìn đầu, bọn còn lại sợ phục, ba huyện của quận Đan Dương đều bình, thu được tám nghìn quân tinh nhuệ. Bái làm An đông Tướng quân, phong Sơn Âm Hầu, ra giữ ở miền trên sông Giang, trông coi miền Phù Châu lên đến huyện Hoản.
Đầu năm Hoàng Sơ, nhà Ngụy sai Tào Hưu đến đánh, Tề vì đường xa mà đến sau, nhân đó đóng quân ở Tân Thị mà ngăn chống. Gặp lúc các quân ở Động Khẩu gặp gió giật mà rơi xuống nước chìm đắm, chết đuối rất nhiều, tướng sĩ biến sắc, cậy vào việc Tề chưa qua sông, quân khỏe vẫn còn, do đó các tướng được nhờ vào thế của Tề.
Tính Tề hoa lệ, ưa làm việc quân, các đồ binh khí rất là đẹp đẽ, thuyền mà mình ngồi có khắc vẽ hoa văn màu đỏ, che lọng màu xanh, trùm màn gấm, các đồ can qua mâu kích đều vẽ hình đẹp, cung nỏ tên đạn đều làm bằng gỗ tốt, trùm bít các đồ lên trên đầu thuyền, nhìn từ xa như quả núi. Bọn Hưu e ngại, bèn dẫn quân về. Chuyển làm Hậu tướng quân, ban Giả tiết, lĩnh chức Từ Châu Mục.
Lúc trước, Tấn Tông làm Hí Khẩu Đốc, đem quân phản theo Ngụy, về làm Kì Xuân Thái thú, mưu đánh úp huyện An Lạc, bắt lấy quân dân. Do đó Quyền thẹn giận, nhân lúc mới bãi binh, vào giữa mùa hạ tháng sáu mà ra chỗ không ngờ, hạ chiếu sai Tề đem bọn Mi Phương, Tiên Vu Đan đánh úp quận Kì Xuân, bèn bắt sống được Tông. Sau đó năm thứ tư thì chết, con là Đạt và em là Cảnh đều có tiếng tăm, là tướng giỏi vậy.
Cối Kê điển lục chép: Cảnh làm Diệt tặc Hiệu úy, trị quân nghiêm ngặt mà có ân, binh khí sáng loáng, đứng đầu vào thời ấy, nhưng chết sớm. Đạt cũng có khí mạnh, nhưng nhiều lần làm trái, cho nên dẫu đánh dẹp có công mà không được ban chức tước, nhưng khinh tiền trọng nghĩa, tráng liệt hơn người. Con là Chất, làm đến Hổ nha Tướng quân. Con Cảnh là Thiệu, cũng có truyện chép.

TOÀN TÔNG TRUYỆN
Toàn Tông tự Tử Hoàng, người huyện Tiền Đường quận Ngô. Cha là Nhu, thời Linh Đế của nhà Hán cử Hiếu liêm, bái làm Thượng thư lang Hữu thặng. Vào thời loạn Đổng Trác, bỏ quan về quê. Châu gọi làm Biệt giá  Tòng sự, hạ chiếu đến bái làm Cối Kê Đông bộ Đô úy. Vào thời Tôn Sách đến quận Ngô, Nhu đem quân theo phục trước, Sách cử Nhu làm Đan Dương Đô úy. Tôn Quyền làm Xa kị Tướng quân, lấy Nhu làm Trưởng sử, chuyển làm Quế Dương Thái thú. Nhu từng sai Tông đem mấy nghìn hộc gạo đến quận Ngô, cho được trao đổi. Tông đến, đều chia ra dùng, thuyền rỗng mà về, Nhu cả giận, Tông cúi đầu nói: “Kẻ ngu này cho rằng việc trao đổi không phải là việc cần gấp, mà là kẻ sĩ đang có cái nạn treo ngược, cho nên mới chia ra cấp chẩn, không kịp bẩm báo”. Nhu bèn cho là lạ.
Từ Chúng bình rằng: “Theo đúng lễ nghĩa thì con thờ cha không cất của riêng, không được tự ý chia của mà cấp chẩn, là để kính trọng người trên vậy. Vậy mà trái lệnh chia của để mong nổi danh, đấy chưa phải là dốc hết cái lễ của con đối với cha vậy”. Thần là Tùng Chi cho rằng: Tử Lộ hỏi rằng: “Nghe rồi làm được không”? Khổng Tử đáp rằng: “Có cha anh còn đấy”. (55)Tông chia tiền của của cha, thực là không có đạo của người con, nhưng quân sĩ đang treo mạng sống, gặp nạn trong sớm tối, phải cân nhắc nặng nhẹ, cứu người là việc gấp trước, người này cũng như bọn Phùng Noãn mua nghĩa, Cấp Ảm cứu chẩn (56) vậy. Nếu cho rằng Tông làm việc ấy để mong nổi danh thì e rằng là trái với ý thật của Tông.
Bấy giờ kẻ sĩ ở Trung Châu tránh loạn về phía nam, có mấy trăm người đến nương nhờ ở nhà Tông, Tông đem tiền trong nhà cứu giúp, cấp cho kẻ không có tiền, do đó nổi danh gần xa. Sau đó Quyền bái làm Phấn uy Hiệu úy, trao cho mấy nghìn quân, sai đi đánh người Sơn Việt. Nhân đó chiêu dụ, thu nạp hơn vạn quân tinh nhuệ, ra đóng đồn ở Ngưu Chử, chuyển làm Thiên tướng quân.
Năm Kiến An thứ hai mươi tư, tướng của Lưu Bị là Quan Vũ vây thành Phàn, Tương Dương, Tông dâng sớ bày kế đánh được Vũ, bấy giờ Quyền đã mưu với Lữ Mông đánh úp Vũ, sợ việc lộ, cho nên giữ kín sớ biểu của Tông mà không đáp. Đến lúc bắt được Vũ, Quyền mở yến uống rượu ở Công An, ngoảnh bảo Tông rằng: “Lúc trước ông bày kể việc ấy, ta không đáp lại, nhưng nay đã thắng, xét thấy cũng có công của ông vậy”. Do đó phong Dương Hoa Đình Hầu.
Năm Hoàng Sơ thứ nhất, nhà Ngụy đem quân thuyền ra ở Động Khẩu, Quyền sai Lữ Phạm đem các tướng chống giữ, cái trại ngóng nhau, địch nhiều lần đem thuyền nhẹ đánh cướp, Tông thường mặc giáp cầm kiếm, canh gác không nghỉ. Chốc lát, địch đem mấy nghìn quân vào giữa sông, Tông đánh phá chúng, treo đầu Tướng quân Doãn Lô của địch. Chuyển Tông làm Tuy nam Tướng quân, tiến phong Tiền Đường Hầu. Năm thứ tư, ban Giả tiết, lĩnh chức Cửu Giang Thái thú.
Năm thứ bảy, Quyền đến huyện Hoản, sai Tông cùng Phụ quốc Tướng quân Lục Tốn đánh Tào Hưu, phá Hưu ở Thạch Đình. Bấy giờ dân ở các quận Đan Dương, Ngô, Cối (57) lại làm giặc cướp, đánh diệt ấp huyện, Quyền chia chỗ hiểm của ba quận ấy lập thành Đông An, lấy Tông làm Thái thú.
Ngô lục chép: Bấy giờ Tông trị ở Phú Xuân.
Đến nơi, nêu rõ thưởng phạt, vỗ về kẻ hàng phục, trong vòng mấy năm, thu được mấy vạn người. Quyền gọi Tông về Ngưu Chử, bỏ quận Đông An.
Giang Biểu truyện chép: Tông về, đi qua huyện Tiền Đường, sửa tế phần mộ tổ tiên, trùm trướng che lọng, rạng rỡ thôn ấp, mời gặp người quen cũ trong ấp, anh em họ hàng của Tông đều được ban tặng, có đến hàng nghìn hàng vạn tiền, thôn ấp cho là vinh dự.
Năm Hoàng Long thứ nhất, chuyển làm Vệ tướng quân, Tả hộ quân, Từ Châu Mục, Ngô thư chép: Lúc trước, Tông là tướng dũng cảm, dẫu đánh địch gặp nạn nhưng vẫn cố gắng không chịu lùi bước. Đến lúc làm tướng súy, oai danh thêm lừng, hễ lĩnh quân, thường bày kế sách, không mưu cái lợi nhỏ. Giang Biểu truyện chép: Quyền sai con là Đăng đi đánh, đã xuất quân, đến ở huyện An Lạc, bầy tôi chẳng ai dám can ngăn. Tông dâng biểu kín nói: “Xưa nay Thái tử chưa từng đi đánh vậy, theo phép xưa, đi đánh thì gọi là Phủ quân, ở lại thì gọi là Giám quốc. Ngày nay Thái tử ra đánh phía đông là trái với phép xưa vậy. Thần trộm nghĩ mà nghi ngờ”. Quyền liền nghe theo, sai Đăng rút quân về, mọi người bàn luận đều cho rằng Tông có khí tiết của bậc đại thần.
lấy công chúa.
Năm Gia Hòa thứ hai, lĩnh năm vạn quân bộ kị đánh huyện Lục An, dân huyện Lục An tan chạy, các tướng muốn chia quân đi bắt giữ. Tông nói: “Vào chỗ nguy để mong được lợi thì không được trọn vẹn, đấy không phải là thể diện của nhà nước vậy. Nay chia quân đi bắt dân, được và mặt ngang nhau, há gọi là trọn vẹn sao? Nếu ra bắt được, vẫn không đủ để làm cho địch suy yếu và giúp được nhà nước vậy. Nếu có lầm lỡ thì tổn hại không nhỏ, cùng bắt được và bị tội, lúc ấy Tông thà đem thân gánh lấy, chứ không dám mong lập công ấy để phụ lại nhà nước vậy”.
Năm Xích Ô thứ chín, chuyển làm Hữu đại Tư mã, Tả quân sư. Là người kính thuận, giỏi ở việc vâng theo phép tắc, chưa từng nói lời xằng tiện. Lúc trước, Quyến muốn vây đánh quận Châu Nhai và Di Châu, đều hỏi Tông trước, Tông nói: “Dựa vào cái oai của triều đình thì đánh đâu mà chẳng thắng được? Nhưng phương xa xứ lạ, cách trở nơi góc biển, thủy thổ độc hại, từ xưa đã có việc quân vào dân đến, tất sinh bệnh tật, lây nhiễm lẫn nhau, người đến sợ chẳng về được, có thu được nhiều lợi đâu? Đem nhiều quân ở bờ sông để mong thu cái lợi của một vùng nhỏ, kẻ ngu này vẫn không yên lòng”. Quyền không nghe, đem quân đi hơn một năm, quân sĩ bệnh tật đến tám, chín phần mười, Quyền rất hối tiếc. Sau lại nói đến việc ấy, Tông đáp rằng: “Vào thời ấy, trong bầy tôi có kẻ không can gián, thần cho rằng đấy là không có lòng trung”.
Tông đã được coi trọng, con em họ hàng đều được tôn quý, ban cho nghìn vàng, nhưng vẫn khiêm nhường đãi kẻ sĩ, vẻ mặt không kiêu căng. Năm thứ mười hai thì chết. Con là Dịch nối tự, sau đó nối nghiệp lĩnh binh, cứu Gia Cát Đản ở Thọ Xuân, ra thành hàng trước, nhà Ngụy cho làm Bình đông Tướng quân, phong Lâm Tương Hầu. Con của anh Dịch là bọn Y, Nghi, Tĩnh cũng hàng Ngụy, đều làm Quận thú, phong Liệt hầu.
Ngô thư chép: Con cả của Tông là Tự, thủa bé được biết tên, vâng lệnh triều đình, trao cho quân, dần dần chuyển làm Dương vũ Tướng quân, Ngưu Chử Đốc. Tôn Lượng lên ngôi, chuyển làm Trấn bắc Tướng quân. Ở trận Đông Quan, Tự cùng Đinh Phụng bàn nghị nên dẫn quân ra trước để phá quân Ngụy, phong một người con làm Đình hầu. Chết vào năm bốn mươi bốn tuổi. Con thứ là Kí, khép tội hùa theo Lỗ Vương là Bá mà ban chết. Con út là Ngô, là cháu ngoại của Tôn Quyền, phong Đô hương hầu.

CHU PHƯỜNG TRUYỆN
Chu Phường tự Tử Ngư, người huyện Dương Tiện quận Ngô. Thủa trẻ ham học, cử Hiếu liêm, làm Ninh Quốc Trưởng, dời đến huyện Hoài An. Đại súy (58) ở huyện Tiền Đường là bọn Bành Thức tụ tập làm cướp, lấy Phường làm Tiền Đường Hầu tướng, trong vòng một tháng, chém đầu Thức và phe đảng của hắn, chuyển làm Đan Dương Tây bộ Đô úy. Giữa năm Hoàng Vũ, đại súy ở quận Bà Dương là Bành Ỷ làm loạn, đánh diệt thành ấp, lại lấy Phường làm Bà Dương Thái thú, cùng Hồ Tống gắng sức đánh dẹp, bèn bắt sống Ỷ, chở về Vũ Xương, bái thêm chức Chiêu nghĩa Hiệu úy. Hạ lệnh ngầm tìm các cừ súy họ hàng trong núi được quân bắc nghe biết, sai dụ dỗ Đại tư mã Dương Châu Mục của nhà Ngụy là Tào Hưu. Phường đáp e rằng cừ súy của dân ấy xấu xa không đáng tin dùng, nếu việc tiết lộ thì không dụ được Hưu, xin sai người thân cận mang thư kể bảy điều để dụ Hưu. (59) Báo thư sai làm. Hưu quả nhiên tin Phường, lĩnh mười vạn quân kị bộ, đồ xe nặng đầy đường, đến thẳng huyện Hoản. Phường cũng hợp quân, theo Lục Tốn chặn đánh Hưu, quân của Hưu vỡ lở tan rã, bị bắt chém đến vạn người.
Lúc trước, vào lúc Phường lập kế, có quan lại vâng chiếu đến xét hỏi các việc, Phường bèn đến dưới cửa bộ quận, nhân đó cắt tóc xuống để tạ, do đó Hưu nghe tin, không còn nghi ngờ. Việc xong rút quân, Quyền mở hội các tướng vui vẻ dự yến, rót rượu, bảo Phường rằng: “Ông cắt tóc làm tin, lập thành việc lớn của ta, công danh của ông, đáng ghi vào tre lụa”. Bái thêm chức Tì tướng quân, ban tước Quan nội hầu.
Từ Chúng bình rằng: “Tôi thần lập công giữ tiết, dẫu không phải một đường, nhưng đều có chức phận vậy. Làm tướng cầm can qua thì phải có nghĩa liều chết, giữ chí thì có cái nghĩa làm theo chức vụ, dẫu chết cũng phải đúng việc, nghĩa chẳng vụng về. Phường làm Quận thú, chức tại trị dân, vậy mà không được vua sai mà tự ý dụ địch, cắt xén râu tóc để mong lập công danh. Dẫu việc thành được ban tước nhưng không được quân tử khen hay”.
Tướng giặc là Đổng Tự cậy vào chỗ hiểm mà cướp bóc, các quận Dự Chương, Lâm Xuyên đều bị hắn gây hại.
Thần là Tùng Chi xét: Vào năm Thái Bình thứ hai thời Tôn Lượng mới lập quận Lâm Xuyên, bấy giờ chưa có quận Lâm Xuyên.
Ngô Xán, Đường Tư từng đem ba nghìn quân đánh dẹp, nhiều tháng không thắng được. Phường dâng biểu xin rút quân, nên tùy lúc vừa hợp mà làm việc. Phường sai người đi dò xét, trao cho kế sách, dụ kẻ gian giết Tự. Em của Tự sợ hãi, đến Vũ Xương theo hàng Lục Tốn, xin ra ở tại đất bằng, tự đổi làm việc thiện, do đó mấy quận không còn nỗi lo. Phường ở tại quận mười ba năm thì chết. Thưởng thiện phạt ác, ban bố ân uy. Con là Xứ, cũng có tài năng văn võ, giữa năm Thiên Kỉ làm Đông Quán Lệnh, Vô Nạn Đốc.
Tấn thư của Ngu Dự chép: Xứ vào nhà Tấn, làm Ngự sử Trung thặng, nhiều lần xét hỏi, không kiêng dè quan lớn. Tề Vạn Niên (60) phản, lấy Xứ làm Kiến uy Tướng quân, đánh phía tây, quân ít không địch được, Xứ khảng khái xông trận, gắng sức không lùi, bèn chết ở trong trận, truy tặng chức Bình tây Tướng quân. Con Xứ là Dương, Trát, đều có tài võ, buổi đầu trung hưng, (61) đều được tin dùng, các con em đều nắm chức cao, làm hào tộc ở Dương Châu, nhưng Trát hung hăng phóng túng, bị trăm họ ghét. Giữa năm Thái Ninh, Vương Đôn (62) giết Trát, diệt cả họ.

QUYỂN 16 - PHAN TUẤN LỤC KHẢI TRUYỆN
Phan Tuấn, Lục Khải

TRUYỆN PHAN TUẤN
Phan Tuấn tự Thặng Minh, người huyện Hán Thọ quận Vũ Lăng. Thời trẻ theo Tống Trọng Tử chịu học(63).
Ngô thư viết: Tuấn là người thông minh, hỏi đáp có lí lẽ, người huyện Sơn Dương là Vương Tang gặp mà quý trọng Tuấn. Do đó được biết tên, làm quan Công tào trong quận.
Chưa đầy ba mươi tổi, Kinh Châu Mục là Lưu Biểu gọi đến làm Giang Hạ Tòng sự. Bấy giờ quan Sa Tiện Trưởng tham ô không chịu sửa, Tuấn kể tội mà giết đi, cả quận chấn động. Sau làm Tương Hương Lệnh, trị dân rất có tiếng. Lưu Bị lĩnh Kinh Châu, lấy Tuấn làm Trị trung Tòng sự. Bị vào Thục, ở lại giúp việc tại Kinh Châu.
Tôn Quyền giết Quan Vũ, thu lấy Kinh Châu, bái Tuấn làm Phụ quân Trung lang tướng, trao cho quân sĩ.
Giang Biểu truyện viết: Quyền chiếm Kinh Châu, quan tướng đều theo về cả, nhưng riêng Tuấn cáo bệnh không gặp. Quyền sai người đến bên giường dùng kiệu đưa đi, Tuấn cúi mặt vào giường chiếu không chịu dậy, nước mắt đầm đìa, nức nở không tự yên được. Quyền vỗ về cùng nói chuyện, gọi tên chữ của Tuấn rằng: “Thặng Minh, ngày xưa có Quán Đinh Phụ(64) là tù  binh ấp Nhược mà Vũ Vươngcho làm Quân sư; Bành Trọng Sảng(65) là tù binh nước Thân mà Văn Vương cho làm Lệnh doãn. Hai người ấy là người hiền thời trước ở đất Kinh của khanh vậy, lúc đầu dẫu bị bắt nhưng sau đó đều được chọn dùng, làm danh thần của nước Sở. Chỉ có khanh không cho là phải, chưa có ý chịu hàng, chọn cách khác lại với ý của người xưa chăng”? Sai người thân cận lấy khăn tay lau mặt Tuấn, do đó Tuấn đứng dậy rụp xuống đất bái tạ. Liền cho làm Trị trung, các việc quân của Kinh Châu đều hỏi Tuấn. Quan Vũ Lăng Tòng sự là Phàn Trụ dụ dẫn người Di, mưu đem quận Vũ Lăng theo Lưu Bị, người ngoài tấu lên xin đem vạn quân đến đánh hắn. Quyền không nghe, gọi riêng Tuấn đến hỏi, Tuấn nói: “Đem năm nghìn quân đến, đủ để bắt được Trụ”. Quyền nói: “Khanh có khinh địch chăng”? Tuấn nói: “Trụ là người gốc ở quận Nam Dương, lại hay làm bừa nói bậy mà không có tài biện luận. Thần biết được người ấy là vì Trụ từng bày hội yến với người trong châu, sắp đến giữa ngày, ăn không hết được, có hơn mười người tự đứng dậy, đấy cũng chỉ là khí tiết của bọn thấp kém thôi”. Quyền cười lớn mà theo lời Tuấn, liền sai Tuấn đem năm nghìn quân đến, quả nhiên phá chém được Trụ.
Chuyển làm Phấn uy Tướng quân, phong Thường Thiên Đình Hầu.
Ngô thư viết: Nhuế Huyền chết, Tuấn lĩnh hết quân của Huyền, đóng đồn ở Hạ Khẩu. Huyền tự Văn Biểu, người quận Đan Dương. Cha là Chỉ, tự Tuyên Tự, theo Tôn Kiên đánh dẹp có công, Kiên cử Chỉ làm Cửu Giang Thái thú, sau đó chuyển đến Ngô Quận, có tiếng tăm ở đấy. Anh Huyền là Lương, tự Văn Loan, theo Tôn Sách bình định miền Giang Đông, Sách cho làm Cối Kê Đông bộ Đô úy, lúc chết, Huyền lĩnh quân của Lương, bái Phấn vũ Trung lang tướng, xét công phong Lật Dương Hầu. Quyền giúp con là Đăng kén chọn gái hiền, bầy tôi đều khen cha Huyền là Chỉ, anh là Lương đều có đức nghĩa, tài cả văn vũ, nổi danh ba đời, cho nên bèn lấy con gái của Huyền làm vợ vậy. Năm Hoàng Vũ thứ năm thì chết, Quyền rất thương tiếc Huyền.
Quyền xưng tôn hiệu, bái làm Thiếu phủ, tiến phong Lưu Dương Hầu.
Giang Biểu truyện viết: Quyền thích đi bắn chim, Tuấn can Quyền, Quyền nói: “Sau khi xa ngươi, thường ít khi ra bắn chim, không còn nhiều như lúc trước nữa”. Tuấn nói: “Thiên hạ chưa định, việc công còn nhiều, bắn chim không phải là việc cần gấp, nếu dây cung đứt mũi tên gãy thì đều có thể gây hại, xin vì thần mà xếp dừng việc này”. Tuấn đi ra, thấy lọng lông chim vẫn ở đấy, bèn tự tay vặt xé đi, do đó Quyền tự dừng, không còn bắn chim nữa.
Chuyển làm Thái thường. Người mọi rợ vùng Ngũ Khê(66) liên kết làm phản, Quyền ban Giả tiết cho Tuấn, đem các quân đi đánh. Người tin cậy tất thưởng, không được phạm phép cấm, chém đầu bắt sống đến mấy vạn người, từ đấy người rợ suy yếu, một vùng yên ổn.
Ngô thư viết: Phiếu kị Tướng quân Bộ Chất đóng đồn ở Ẩu Khẩu, xin chiêu mộ người các quận để tăng quân. Quyền do đó hỏi Tuấn, Tuấn nói: “Tướng khỏe ở trong dân, ưa loạn gây hại, như Chất lại có danh tiếng, ở đấy được yêu mến, không nên nghe theo”. Quyền theo lời. Trung lang tướng người quận Dự Chương là Từ Tông là kẻ sĩ có danh tiếng, từng đến kinh sư giao kết với Khổng Dung, nhưng là nhà Nho càn rỡ, cho bộ khúc phóng túng, không vâng phép cấm, giúp chúng làm nhà cao, Tuần bèn chém đi. Tuấn vâng phép cấm không e dè lời bàn riêng, đều đại loại như thế. Người theo hàng là Ẩn Phiên(67) vì có tài biện luận mà được hào kiệt thân gần, con Tuấn là Chứ cùng Chu Tòan cũng đi theo, đưa tặng tiền của hắn. Tuấn nghe tin cả giận, gửi thư mắng Chứ nói: “Ta chịu ân dày của nhà nước, có chí lấy cả mạng sống mà báo đền, các ngươi ở tại kinh sư, đáng phải cung kính, thân người hiền theo kẻ tốt, sao lại kết bạn với bọn xin hàng, lại tặng tiền của cho chúng? Ta ở xa nghe tin, lòng giận mặt nóng, buồn bực suốt tuần nay. Thư đến, phải nhanh chịu đánh trăm gậy của sứ giả, lấy lại tiền của đã tặng”. Người thời ấy đều cho là lạ, rồi Phiên quả đúng mưu phản bị giết, mọi người mới chịu phục.
Giang Biểu truyện viết: Bấy giờ anh vợ Tuấn người quận Linh Lăng là Tưởng Uyển làm Đại tướng quân của nước Thục, có người gièm Tuấn cho Vũ Lăng Thái thú Vệ Tinh, nói là Tuấn ngầm sai người qua lại với Uyển, muốn có kế tự dựa vào Uyển. Tinh đem việc này báo cho Quyền, Quyền nói: “Thặng Minh không phải như thế”. Liền đóng kín thư của Tinh để cho Tuấn biết, rồi gọi Tinh về, bãi chức quan.
Lúc trước, Tuấn và Lục Tốn cùng đóng đồn ở Vũ Xương, trông coi việc quân, được làm chức cũ. Bấy giờ Hiệu úy Lữ Nhất nắm quyền làm bừa, tấu kể tội bọn Chưng tướng Cố Ung, Tả tướng quân Chu Cứ, đều bị ngăn chặn. Hoàng môn Thị lang Tạ Hoành gạn hỏi Nhất rằng: “Cố Công làm việc thế nào”? Nhất đáp: “Không được tốt”. Hoành lại hỏi rằng: “Nếu người ấy bị bãi quan, ai thay người ấy được”? Nhất không đáp Hoành, Hoành lại nói: “Sao không dùng Phan Thái thường thay được”? Nhất hồi lâu đáp rằng: “Lời ông tin được vậy”. Hoành khuyên nói: “Phan Thái thường luôn ganh chống với ông, chỉ vì đường xa mà không có cơ hội thôi. Nếu ngày nay Tuấn thay Cố Công, e rằng ngày sau lại gạt đẩy ông vậy”. Nhất cả sợ, bèn thôi bàn việc  của Ung. Tuấn xin về chầu, đến Kiến Nghiệp, muốn dốc sức can gián. Lúc đến, nghe tin Thái tử Đăng đã nhiều lần nói mà không được nghe theo, Tuấn bèn xin lệnh của trăm quan, muốn nhân đó mà cầm đao giết Nhất, muốn tự mình làm việc ấy, giúp nước trừ họa. Nhất ngầm nghe biết, xưng bệnh không đi, Tuấn hễ đến gặp, không lúc nào không nói về cái gian hiểm của Nhất. Do đó Nhất càng ít được sủng ái, sau đó bèn bị giết. Quyền kể tội trách mình, nhân đó tạ lỗi với đại thần, lời này tại “Tôn Quyền truyện”. Năm Xích Ô thứ hai, Tuấn chết, con là Chứ nối tự. Con gái Tuấn lấy Kiến Xương Hầu Tôn Lự.
Ngô thư viết: Chứ tự Văn Long, bái Kị Đô úy, sau đó thay cha lĩnh quân, chết sớm. Em Chứ là Bí, Quyền lấy con gái của chị là Trần Thị gả cho Bí, bái làm Tương Hương Lệnh.
Tương Dương kí viết: Người quận Tương Dương là Tập Ôn làm Kinh Châu Đại công bình. Đại công bình là chức Châu Đô đốc ngày nay vậy. Bí có tài biện luận hơn Ôn, hỏi nói: “Cha ta ngày trước nói quân hầu đáng làm quan Nghị chủ trong châu, nay đúng là như thế, sao quân hầu không xét trong châu ai sẽ lại thay được”? Ôn nói: “Không ai hơn được ông”. Sau đó Bí làm Thượng thư Bộc xạ, thay Ôn làm Đại công bình, rất được người trong châu khen ngợi.

TRUYỆN LỤC KHẢI
Lục Khải tự Kính Phong, người huyện Ngô quận Ngô, là con trong họ của Thặng tướng Lục Tốn vậy. Đầu năm Hoàng Vũ làm Vĩnh Hưng, Chư Kị Trưởng, ở đấy có công tích, bái Kiến vũ Đô úy, lĩnh quân sĩ. Dẫu lĩnh quân sĩ nhưng tay không rời sách. Ưa đọc sách Thái huyền(68), luận giải ý của sách đó, hễ bói là đúng. Giữa năm Xích Ô, làm Đam Nhĩ Thái thú, đánh giặc ở Chu Nhai, bắt chém giặc có công, chuyển làm Kiến vũ Hiệu úy. Năm Ngũ Phượng thứ hai, đánh giặc trên núi là Trần Bí ở Linh Lăng, chém quân khỏe của Bí, bái Ba Khâu Đốc, Thiên Tướng quân, phong Đô Hương Hầu, chuyển làm Vũ Xương Hữu bộ đốc. Cùng với các tướng đến ở Thọ Xuân, rồi về, bái làm Đãng Ngụy, Tuy viễn Tướng quân. Tôn Hưu lên ngôi, bái Chinh bắc Tướng quân, ban Giả tiết, lĩnh chức Dự Châu Mục. Tôn Hạo lập, chuyển làm Trấn tây Đại Tướng quân, Đô đốc Ba Khâu, lĩnh chức Kinh Châu Mục, tiến phong Gia Hưng Hầu. Tôn Hạo hòa với nhà Tấn, sứ giả Đinh Trung từ miền bắc trở về, nói với Hạo là nên đánh úp huyện Dặc Dương, Khải can ngăn, lời nói tại Tôn Hạo truyện. Năm Bảo Đỉnh thứ nhất, chuyển làm Tả Thặng tướng.
Tính Hạo không thích người khác xem mình, bầy tôi ở bên chẳng ai dám làm trái. Khải khuyên Hạo nói: “Vua tôi không có đạo quen biết nhau, nếu gặp lúc không may thì không biết mà đến giúp”. Hạo cho Khải tự xem mình.
Hạo dời đô đến Vũ Xương, trăm họ vùng Dương Châu ngược dòng cung cấp, cho là khổ sở, lại nữa chính trị yếu kém, dân chúng khốn cùng. Khải dâng sớ rằng:
“Thần nghe nói vua có đạo thì lấy điều vui mà làm cho dân vui; vua không có đạo thì lấy điều vui mà làm cho mình vui. Vua làm cho dân vui thì điều vui được dài; vua làm cho mình vui thì không vui mà chết. Dân là gốc của đất nước vậy, phải nên chăm lo cái ăn của dân, yêu quý mạng sống của dân. Dân yên thì vua yên, dân vui thì vua vui. Từ năm trước đến nay, cái oai của vua lớn hơn vua Kiệt, Trụ(69), cái trí của vua tối hơn bọn gian hùng, cái đức của vua thua cả bọn ác. Trời không giáng tai họa mà dân mất mạng, không làm gì mà kho tiền nhà nước trống không. Phạt kẻ không có tội, thưởng người chẳng có công, khiến cho vua có lỗi lầm sai trái, do đó trời giáng vạ lạ vậy. Vậy mà các quan công khanh nịnh nọt vua để xin được yêu thích, làm cho dân nghèo khổ để cầu giàu có, dẫn vua vào chỗ bất nghĩa, đẩy chính trị vào chỗ dâm dật. Thần vì thế mà đau lòng thay. Nay các nước gần kề cùng hòa thân, bốn cõi không có việc gì, là lúc nên ngừng lao dịch, nuôi quân sĩ, chứa đầy kho tàng để đợi thời cơ. Vậy mà lại làm ngược trái ý trời, quấy rối vạn dân, khiến cho dân không yên, lớn nhỏ đều kêu than. Đấy không phải cách nuôi dân giữ nước vậy.
Thần nghe nói tốt xấu tại trời, giống có bóng tại hình, có âm vang tại tiếng kêu vậy. Hình động thì bóng động, hình dừng thì bóng dừng, đấy là số phận có quan hệ, không phải cái tiến lùi của miệng nói vậy. Ngày xưa nhà Tần làm mất thiên hạ là vì thưởng ít mà phạt nhiều, chính trị sai lầm, sức dân cạn kiệt, trăm họ lo sợ, thiên hạ khổ sở, do đó mới có nỗi lo ‘ổ lật trứng vỡ’(70). Nhà Hán mạnh là vì kính người đức hạnh, tin người thật thà, nghe lời can gián, dùng người hiền tài, ban đức đến người vác củi, cúi xin tận nơi hang núi, mở rộng việc chọn dùng, xem xét người hiền tài để lập nên kế sách. Đấy là chứng cứ rõ ràng thời xưa vậy.
Gần đây nhà Hán suy yếu, ba nhà liền lập thế chân vạc, họ Tào làm mất kỉ cương, nhà Tấn bèn có chính trị. Lại nữa Ích Châu hiểm trở, nhiều quân  khỏe mạnh, nếu đóng cửa giữ chắc thì giữ được vạn đời, vậy mà họ Lưu nối theo cái sai lầm ngày xưa, thưởng phạt không đúng, ý vua ham xa xỉ, sức  dân bị việc không cần gấp làm cho cạn kiệt, do đó bị nhà Tấn đánh, vua tôi bị bắt. Đấy là việc ứng nghiệm rõ ràng trước mắt vậy.
Lí lẽ của thần u tối, văn chẳng có nghĩa, trí tuệ nông cạn, không mong được xem, chỉ mong Bệ hạ thương lấy thiên hạ thôi. Thần kính tấu những điều mà tai mắt thần được nghe thấy, là những điều làm cho trăm họ lo lắng, nhưng điều làm cho chính trị sai loạn vậy. Mong Bệ hạ ngừng việc xây dựng, giảm lao dịch, nới lỏng sức dân, chớ làm việc sai ngược.
Lại nữa đất đai Vũ Xương, đúng là hiểm trở lại khô xấu, không phải là chỗ làm kinh đô giữ nước nuôi dân, thuyền neo đậu thì chìm lật, gò đống thì gập gềnh, vả lại bọn trẻ con nói hát rằng: ‘Nước ở Kiến Nghiệp ngọt thay, đừng ăn cá ở Vũ Xương, về Kiến Nghiệp chết còn hơn, đừng đến ở tại Vũ Xương’. Thần nghe nói sao Dực gây biến, sao Huỳnh hoặc giáng vạ, lời hát của bọn trẻ con sinh ra từ ý trời, mới đem việc ở yên so sánh với cái chết, đủ để thấy ý trời đã rõ, biết được việc mà dân cho là khổ vậy.
Thần nghe nói nhà nước không cất chứa thóc lúa ba năm là không phải nhà nước, mà ngày nay không cất chứa được một năm, đấy là lỗi của bầy tôi vậy. Vậy mà các công khanh ở ngôi trên người khác, truyền lộc cho con cháu, đã không có khí tiết báo đền, lại không có kế sách giúp nước, tiến cử những kẻ mưu lợi nhỏ cho nhà vua, để cầu sự yên thân mà gây họa cho trăm họ, đấy là không giúp vua mưu tính vậy. Từ lúc theo Tôn Hoằng (71) lập nghĩa binh đến nay, đã bỏ việc trồng trọt, ở đấy không còn chuyển chở, lại chia ra cha con một nhà phải lao dịch khác nhau, ăn tiêu ngày càng nhiều mà cất chứa ngày càng giảm, dân oán vì bị chia lìa, nước có nạn lưu tán, vậy mà chẳng ai thương xót. Sức dân khốn cùng, bán cả con nhỏ, tô thuế liên tiếp, ngày càng nhiều thêm, trưởng lại các huyện không xem xét gì thêm, lại nữa các Giám quan đã không yêu dân lại còn ra oai cậy thế, các huyện nhiễu động, rồi thành rườm rà, dân khổ hai tròng, tiền sức càng giảm, đấy là không có ích lại tổn hại vậy. Mong Bệ hạ cho dân nghỉ ngơi, thương xót kẻ yếu lẻ để vỗ về lòng trăm họ. Đấy như cá rùa được thoát khỏi ao nước độc, chim thú được thoát khỏi tấm lưới vây, dân bốn phương tất dắt cõng nhau mà đến vậy. Như thế dân mới được bảo vệ, nước của Tiên vương mới được giữ còn vậy.
Thần nghe nói năm tiếng âm khiến cho tai người không thông, năm màu sắc khiến cho mắt người không sáng, cái ấy không có ích cho chính trị mà làm tổn hại đến người làm việc. Ngày xưa vào thời Tiên đế, gái đẹp trong cung và các cung nữ không đầy một trăm người, vậy mà gạo lúa được cất chứa, của cải có thừa. Sau khi Tiên đế băng, vua nhỏ lên ngôi, đổi thành xa xỉ, không theo lối cũ. Nghe nói cung nữ và kẻ ngồi nhàn có đến mấy nghìn người, tính ra họ làm ra không đủ để làm tiền của cho nhà nước, vậy mà ngồi ăn kho lúa, nhiều năm thay nhau, đấy là không có ích. Mong Bệ hạ cho họ ra lấy chồng, ban cho người không có vợ. Như thế, trên ứng mệnh trời, dưới hợp ý dân, thiên hạ may lắm.
Thần nghe nói vua Ân Thang(72) chọn kẻ sĩ ở bọn mua bán, Tề Hoàn Công chọn kẻ sĩ ở bọn đánh xe, Chu Vũ Vương chọn kẻ sĩ ở bọn gánh củi, nhà Hán chọn kẻ sĩ ở bọn nô bộc. Vua hiền chủ sáng chọn kẻ sĩ vì người đó hiền, không vì người đó có thân phận thấp kém, cho nên công đức được tràn đầy, ghi tên vào thẻ trúc dải lụa, không tìm người có sắc đẹp mà chỉ chọn lấy người tín phục, nói giỏi, hợp ý vậy. Thầy được thấy các bầy tôi được sủng ái ngày nay, nắm chức không đúng người, dùng chẳng vừa tài năng, không thể giúp nước cứu đời, phe đảng lại giúp nhau, hại người trung hiền. Mong Bệ hạ giảm bớt quan lại văn võ, sai các quan phải chăm chỉ, các quan Đốc tướng Châu mục chống giữ ở ngoài, các quan Thượng thư công khanh phải tu sửa giáo hóa, trên giúp Bệ hạ, dưới đỡ dân chúng, phải dốc hết lòng trung, sửa đổi lỗi sai, vậy thì khúc ‘Khang tai’(73) được hát, hình pháp sai lầm được trừ. Mong Bệ hạ lắng nghe lời nói trung trinh của kẻ bầy tôi ngu kém này”.
Bấy giờ có tướng lớn trên điện là Hà Định gian xảo nịnh nọt, được vua tin dùng, Khải đối mặt mắng Định nói: “Ông trước sau không dốc lòng trung với vua, làm loạn chính trị, há là người được trọn vẹn sao! Sao lại chuyên làm việc gian xấu, vấy bẩn Thiên tử? Nên tự sửa lỗi, nếu không ông sẽ gặp tai họa khó lường đấy”. Định rất hận Khải, trong lòng muốn làm hại Khải, nhưng Khải rút cuộc không để ý tới, lòng vẫn nghĩ về nhà vua, tỏ nghĩa trên sắc mặt, các biểu sớ đều vì việc công mà không rườm rà, có ý trung thành.
Năm Kiến Hành thứ nhất, mắc bệnh, Hạo sai Trung thư lệnh Đổng Triều đến hỏi điều mà Khải muốn nói, Khải nói rằng: “Không nên tin dùng Hà Định, nên cho ra giữ chức bên ngoài, không nên cho nắm việc nước. Hề Hi là quan nhỏ, dựng lập ruộng ven bờ, muốn lập lại việc cũ của Nghiêm Mật, cũng không nên nghe theo. Diêu Tín, Lâu Huyền, Hạ Thiều, Trương Đễ, Quách Trác, Tiết Oánh, Đằng Tu cùng con em là Hỉ, Kháng, có người trong sạch chăm chỉ, có người tài năng cao siêu, đều là cốt cán của xã tắc, quan giỏi của nhà nước. Mong Bệ hạ coi trọng lời trung trinh, hỏi việc nơi họ, đều khiến cho họ dốc hết lòng trung, cứu giúp lúc nguy khó”. Rồi chết, bấy giờ bảy mươi hai tuổi.
Con là Y, lúc đầu làm Hoàng môn Thị lang, ra lĩnh bộ khúc, bái Thiên Tướng quân. Sau khi Khải chết, vào làm Thái tử Trung thứ tử. Hữu quốc sử Hoa Hạch tiển cử Y nói: “Tính Y vốn thẳng thắn, chí khí vững vàng, có tài thống lĩnh, dẫu Lỗ Túc cũng không hơn được. Lúc nhận chiếu gọi về, đi thẳng đến kinh sư theo đường Vũ Xương, từng không ngoảnh lại, đồ quân tư khí giới, chẳng lấy một cây, trong quân cứng cỏi, có khí tiết nhường tiền của. Hạ Khẩu là chỗ hiểm yếu của giặc, nên chọn tướng giỏi để chống giữ chỗ ấy. Thần suy nghĩ kĩ, chẳng ai giỏi hơn Y”.
Lúc trước, Hạo thường ôm giận vì Khải nhiều lần tự ý nhìn mặt mình, lại thêm Hà Định gièm pha không phải một lần, đã làm bầy tôi quan trọng, khó lấy phép cấm ràng buộc được, lại nữa bấy giờ Lục Kháng làm Đại tướng ở biên giới, cho nên giữ ý nhẫn nhịn. Sau khi Kháng chết, bèn dời người nhà Khải đến ở quận Kiến An.
Có người nói tháng mười hai năm Bảo Đỉnh thứ nhất, Khải mưu với Đại Tư mã Đinh Phụng, Ngự sử Đại phu Đinh Cố, nhân lúc Hạo đến tông miếu, muốn phế Hạo mà lập con của Tôn Hưu. Bấy giờ Tả Tướng quân Lưu Bình đem quân đi trước, bèn nói ngầm với Bình, Bình chống lại không theo, nhưng thề không tiết lộ chuyện này, do đó mưu kế không thành. Thái sử lang Trần Miêu tấu với Hạo là trời lâu ngày không có mưa, khí gió thổi ngược, sắp có mưu ngầm, do đó Hạo lo sợ mà cảnh giác vậy.
Ngô lục viết: Lúc trước cúng tế ở tông miếu, chọn người Đại Tướng quân lĩnh ba nghìn quân làm quân vệ, Khải muốn dựa vào quân ấy để bắt Hạo, sai quan Tuyển tào bẩm là nên dùng Đinh Phụng. Hạo chợt không muốn, nói: “Đổi chọn”. Khải sai theo lệnh, dẫu tạm bỏ, nhưng nên sai người lĩnh quân ấy. Hạo nói: “Dùng Lưu Bình”. Khải sai con là Y báo mưu cho Bình. Bình vốn hiềm khích với Đinh Phụng, Y chưa kịp báo ý của Khải, Bình bảo Y nói: “Nghe nói có con heo hoang vào trại của Đinh Phụng, đấy là điềm xấu vậy”. Có vẻ mừng. Y bèn không dám nói, rồi về, nhân đó nói cho Khải biết, bèn dừng lại.
Ta(74) tổng hợp lời của những người đến từ miền Kinh, Dương thấy biểu mà Khải can Hạo có mười hai điều, hỏi kĩ người Ngô, nhiều người nói là không nghe nói Khải có biểu ấy. Lại xét lời văn rất thẳng thắn, e rằng biểu ấy không được Hạo chịu nhận vậy. Có người cho rằng Khải giấu tờ biểu ở trong rương sách, chưa dám dâng lên. Lúc bệnh nặng, Hạo sai Đổng Triều đến thăm hỏi, Khải muốn nói, nhân đó đem tờ biểu trao cho Đổng Triều. Thật giả khó rõ, cho nên không chép vào sách, nhưng thích lời văn chỉ rõ việc sai lầm của Hạo, đủ để răn bảo đời sau, cho nên chép vào trong Lục Khải truyện vậy.
Hạo sai người thân cận là Triệu Khâm đọc chiếu lệnh đáp biểu trước của Khải rằng: “Ta nhỏ tuổi phải noi theo Tiên đế, sao lại không phải thế? Lời ông can gián là sai vậy. Lại nữa cung Kiến Nghiệp không có lợi, cho nên ta tránh chỗ ấy. Mà cung điện nhà cửa phía tây mục nát, mưu tính dời đô, sao lại không nên chuyển”? Khải dâng sớ nói:
“Thần xem Bệ hạ từ khi nắm việc đến nay, âm dương không hòa, ngũ tinh(75) trật quỹ, quan lại không trung, bọn gian giúp nhau, đấy là Bệ hạ không noi theo chính trị của Tiên đế.
Giang Biểu truyện chép biểu ấy của Khải nói rằng: “Thần cúi nhận chiếu lệnh, lòng dạ đau nhói. Sao ý Bệ hạ lại khó hiểu, rất không thông suốt đến vậy”!
Bậc Đế vương dựng nghiệp, vâng lệnh ở trời, sửa nghiệp tại đức, há tại cung điện sao? Vậy mà Bệ hạ không hỏi các công khanh, lại có ý làm nhanh, sáu quân buồn bã lìa tan. Nếu nghịch phạm trời đất thì trời đất giáng tai họa, bọn trẻ con hát lời báo trước vậy. Dẫu khiến cho Bệ hạ cả đời được yên ổn, nhưng trăm họ đau khổ, thống trị làm sao? Đấy là một điều không noi theo Tiên đế vậy.
Thần nghe nói nhà nước lấy người hiền làm gốc, ngày xưa nhà Hạ giết Long Phùng(76), nhà Ân có được Y Chí(77), đấy là việc cũ rõ ràng thời xưa, làm tấm gương cho ngày nay. Trung thường thị Vương Phiên hiểu thấu lí lẽ, trung trinh với triều đình, là người quan trọng của xã tắc, là Long Phùng của nước Ngô vậy. Vậy mà Bệ hạ giận người này nói lời khó nghe, ghét tính thẳng thắn của người này, chém bêu đầu ở trên điện, phanh thây vứt xương, khiến cho người trong nước đau lòng, có kẻ lo lắng, đều cho là Phù Sai(78) của nước Ngô sống lại. Tiên đế kính người hiền, Bệ hạ lại trái ngược. Đấy là hai điều Bệ hạ không noi theo Tiên đế vậy.
Thần nghe nói Tể tướng là cột chống của nhà nước, không thể không vững, cho nên có bọn Tiêu Hà, Tào Tham của nhà Hán, Tiên đế có bọn Cố Ung, Bộ Chất vậy. Vậy mà Vạn Úc là kẻ tài kém tầm thường, ngày xưa chỉ làm đầy tớ, một chốc được vào cung điện, người giỏi văn đã có đủ, người có chí đã có đầy, nhưng Bệ hạ lại thích cái tài kém của hắn, không bắt chước  cái hay của người khác, cho hắn giữ ngôi cao quý hơn cả bậc bầy tôi cũ. Khiến cho người hiền tài nổi giận, kẻ sĩ hiểu biết quát mắng. Đấy là ba điều không noi theo Tiên đế vậy.
Tiên đế yêu dân hơn cả yêu con nhỏ, người dân không có vợ thì lấy vợ gả cho họ, thấy người mặc áo mỏng thì lấy gấm lụa cấp cho họ, người chết xương khô không ai nhặt thì lấy mà chôn cho họ. Vậy mà Bệ hạ ngược lại. Đấy là bốn điều không noi theo Tiên đế vậy.
Ngày xưa Kiệt, Trụ diệt bởi gái đẹp, U, Lệ(79) loạn vì vợ yêu, Tiên đế soi xét, cho đấy là điều răn thân mình, cho nên tả hữu không sắp đặt gái đẹp dâm đãng, hậu cung không chứa nhiều cung nữ. Nay trong cung có đến mấy vạn người, không cho họ đi lấy chồng, ở ngoài lại có nhiều đàn ông góa bụa, ở trong đàn bà lại kêu than. Mưa gió ngược mùa, do đó mà nổi lên. Đấy là năm điều không noi theo Tiên đế vậy.
Tiên đế lo nghĩ vạn bề, vẫn còn sợ có sai lầm. Bệ hạ từ khi coi việc đến nay, vui chơi ở hậu cung, mê hoặc bởi đàn bà, lại khiến cho việc khác ngày càng nhiều, quan lại cất giấu kẻ gian. Đấy là sáu điều Bệ hạ không noi theo Tiên đế vậy.
Tiên đế cao thượng chân thật, không mặc áo sặc sỡ, không ở cung điện cao lớn, đồ vật không chạm trổ tinh xảo, cho nên nước giàu dân đủ, kẻ gian không gây hại. Vậy mà Bệ hạ thu gom tiền của của châu quận, vắt kiệt sức dân, đất đai đen vàng mà cung điện đỏ chói. Đấy là bảy điều không noi theo Tiên đế vậy.
Tiên đế ngoài dựa vào bọn Cố, Lục, Chu, Trương(80), trong gần với bọn Hồ Tông, Tiết Tông, cho nên mọi việc rõ ràng, trong nước yên ổn. Ngày  nay, ngoài không dùng những người ấy, trong cũng không có những người kia, bọn Trần Thanh, Tào Phụ là bọn quan tài kém như cái đấu, là bọn mà Tiên đế bỏ đi, vậy mà Bệ hạ lại tin dùng chúng. Đấy là tám điều Bệ hạ không noi theo Tiên đế vậy.
Tiên đế hễ mở hội gặp bầy tôi, giảm bớt rượu nồng, bầy tôi cả ngày không lo bị say mê, trăm quan bầy tôi đều được bày kể điều mà mình muốn nói. Vậy mà Bệ hạ bắt bầy tôi phải uống để xem xét họ có kính trọng mình hay không, chỉ lo uống rượu không hết. Rượu là để giữ lễ, nếu uống quá thì làm hỏng đạo đức, đấy không khác gì Thương Tân uống rượu thâu đêm. Đấy là chín điều không noi theo Tiên đế vậy.
Hoàn, Linh của nhà Hán ngày xưa gần gũi bọn hoạn quan, làm mất lòng dân. Ngày nay bọn Cao Thông, Chiêm Liêm, Dương Độ là bọn quan Hoàng môn nhỏ, vậy mà Bệ hạ ban tước cao cho chúng, cho quân nắm quyền. Nếu bến sông có nạn, đuốc lửa nổi lên thì tài năng của bọn Độ không thể ngăn được giặc là rõ ràng vậy. Đấy là mười điều không noi theo Tiên đế vậy.
Nay cung nữ chứa đầy, mà quan Hoàng môn còn chạy đến châu quận, chọn lấy con gái trong dân, có tiền thì tha, không có tiền thì bắt lấy, tiếng oán khắp đường, mẹ con chia lìa. Đấy là mười một điều không noi theo Tiên đế vậy.
Vào thời Tiên đế cũng nuôi con của các Vương hầu, nếu lấy mẹ nuôi vào chăm trong cung, thì người chồng đi lao dịch được ban cho tiền của, cấp cho lương ăn, lúc ấy sai quay về, còn thấy yếu gầy nữa là. Nay thì không như  thế, vợ chồng bị chia lìa, chồng thì lao dịch, con theo sau mà chết, nhà cửa trống không. Đấy là mười hai điều không theo Tiên đế vậy.
Tiên đế than rằng: ‘Nước lấy dân làm gốc, dân lấy thức ăn làm đầu, làm nông là thứ hai, ba điều này ta vẫn canh cánh trong lòng’. Nay thì không như thế, việc làm nông trồng trọt đều bị bỏ. Đấy là mười ba điều không noi theo Tiên đế vậy.
Tiên đế chọn kẻ sĩ, không vì người đó thấp hèn, dùng họ làm quan ở thôn ấp, sai phải làm việc, người được dùng không lo lắng, người chịu nhận chức cũng không làm bừa. Nay thì không như thế, bọn xa xỉ nắm chức, bọn kết bè đảng được tiến cử. Đấy là mười bốn điều không noi theo Tiên đế vậy.
Những quân sĩ của Tiên đế, không bị bắt đi lao dịch khác, lệnh mùa xuân chỉ trồng trọt, mùa thu chỉ gặt lúa, nếu bến sông có việc thì sai đi đánh giữ. Quân sĩ ngày nay, bắt phải lao dịch nhiều, kho lúa không đủ dùng. Đấy là mười lăm điều không noi theo Tiên đế vậy.
Thưởng để khuyến khích lập công, phạt để ngăn ngừa việc xấu, nếu thưởng phạt không đúng thì quân dân tan lạc. Nay tướng sĩ ven sông, chết không được phát tang, có công không được thưởng. Đấy là mười sáu điều không noi theo Tiên đế vậy.
Ngày nay ở sở quan, đã bị rối ren, lại có quan tay sai, quấy rối ở trong, một người dân mà có mười viên quan, dân lấy gì để gánh vác? Ngày xưa vào thời Cảnh Đế(81), người quận Giao Chỉ phản loạn, thực là do đấy mà nổi dậy vậy. Đấy là noi theo lỗi lầm của Cảnh Đế, mười bảy điều không noi theo Tiên đế vậy.
Quan Hiệu sự là kẻ thù của quan dân vây. Cuối thời Tiên đế, dẫu có Lữ Nhất, Tiền Khâm, nhưng đều bị giết sạch để tạ lỗi trăm họ. Nay lại lập thêm các quan Hiệu sự, phóng túng nói làm. Đấy là mười tám điều không noi theo Tiên đế vậy.
Vào thời Tiên đế, người làm quan đều giữ chức được lâu, sau đó xét hỏi bãi truất. Nay các quan của châu huyện, kẻ giỏi chính trị chẳng có mấy, lại gọi đi chuyển đổi, đón mới bỏ cũ, dằng dặc trên đường, tham tiền hại dân, do đó càng xấu. Đấy là mười chín điều không noi theo Tiên đế vậy.
Tiên đế hễ xem tấu biểu trình bày đều chú ý suy xét, do đó nhà tù không có người bị oan, kẻ đáng chết không nói lời oán giận. Nay thì trái lại. Đấy là hai mươi điều không noi theo Tiên đế vậy.
Nếu lời thần được chép lại thì cất ở phủ lớn; nếu có lời xằng bậy thì trị tội của thần. Mong Bệ hạ chú ý”.
Giang Biểu truyện viết: Hạo ngày càng bạo ngược, Khải biết Hạo sắp mất, dâng biểu nói: “Thần nghe nói không nên chứa đựng việc ác, không nên kéo dài lỗi lầm; việc ác chứa đựng, lỗi lầm kéo dài là nguồn gốc của tang loạn vậy. Cho nên người xưa sợ không nghe được lỗi lầm, bèn đặt cờ khuyến khích nói việc tốt, dựng trống khuyên nên can gián. Vũ Công(82) đã chín mươi tuổi còn nghe lời khuyên răn, cho nên kinh Thi khen đức tốt của Vũ Công, kẻ sĩ khen việc làm của Vũ Công vậy. Thần xét Bệ hạ không có nghĩa nghe lời khuyên răn, mà lại ngày càng chứa đựng việc ác. Thần thật là rất lo lắng, đấy là điềm khơi họa đến vậy. Cho nên thần bày tỏ qua việc quan trọng, dốc hết suy nghĩ. Bệ hạ nên coi xét mình mà lập lại lễ nghĩa, tu sửa đức hạnh, không nên gạt bỏ lời thần để nghe theo lời xa xỉ. Lời xa xỉ thì rất tình cảm nhưng ngày càng lừa dân; dân lìa tan thì trên không tin dưới, dưới lại nghi trên. Xương thịt chống nhau, cha con bỏ nhau. Thần dẫu ngu, không biết mệnh trời nhưng lấy tấm lòng mà xem xét thì thấy thua không quá hai mười năm nữa vậy. Thần thường căm giận những người làm mất nước như vua Kiệt của nhàn Hạ, vua Trụ của nhà Ân, cũng mong Bệ hạ không nên khiến cho người đời sau lại căm giận Bệ hạ vậy. Thần chịu ân của nhà nước, thờ qua ba đời vua, còn có tuổi thừa, đến thời Bệ hạ, không thể sửa tục, chìm nổi với mọi người. Như bọn Tỉ Can, Ngũ Viên(83) vì trung trinh mà bị giết, vì thẳng thắn mà bị nghi, tự nói rằng đủ xong, không còn hận nữa, dẫu đem thân nơi chín suối cũng không phụ lại Tiên đế. Mong Bệ hạ nghĩ kĩ, mưu giữ xã tắc”. Lúc trước, Hạo bắt đầu dựng cung điện, Khải dâng biểu can gián, không nghe, Khải lại dâng biểu nói: “Thần nghe nói cung điện đang dựng thì ngày đêm không yên ổn, cho nên thường báo việc rối ren, các chỗ ở trong không được coi xét, than thở ở ấp, trông mong ngừng nghỉ. Lúc ăn tối, thần nhận chiếu rằng: ‘Lời mà ông can gián, thật là rất tốt, nhưng không hợp ý ấy, vì sao? Cung điện ấy không có lợi thì nên tránh đi, sao lại mượn cới lao dịch vất vả mà ngồi mãi ở cung điện không có lợi được? Cha không được yên, con cũng lấy gì mà dựa’? Thần nhận chiếu thư, cúi đọc một hồi, không chỉ đau nhói trong ngực mà còn nước mắt rơi như mưa vậy. Thần đã sáu mươi chín tuổi, bổng lộc đã nhiều, với thần đã là quá rồi, còn mong gì nữa? Nhưng vẫn chăm chỉ nhiều lần dâng biểu khó nghe là vì thần nghĩ rằng Đại Hoàng đế(84) lập nền dựng nghiệp, rất là vất vả, tóc trắng mọc ở mái tai, già cả còn mang giáp trụ. Thiên hạ mới yên, nhà vua băng sớm, từ bọn yên thân cho đến bọn hay nói không ai không than thở, như phát tang bà tổ của mình vậy. Vua nhỏ nối tự, trao quyền cho bầy tôi, quân sĩ nhiều năm đánh dẹp tốn kém, dân bị tổn hại điêu tàn. Gian thần nắm chính trị, nhà vua suy yếu. Nay giặc mạnh đang mưu đồ, Tây Châu nghiêng lật, dân chúng lẻ loi, phải nên nuôi dưỡng sức dân, gắng sức trồng trọt để phòng bị tai họa. Vả lạ dời đô, nếu lỡ có việc quân, lúc đó quân sĩ lìa tan, châu quận nhiễu động, đang xây dựng to lớn mà phải kêu gọi bốn phương, đấy không phải là cách giữ nước sửa trị vậy. Thần nghe nói người làm vua thì lấy đức để trừ tai họa, lấy nghĩa để sửa lỗi lầm. Cho nên vua Thang gặp lúc khô hạn, tự thân cầu đảo trong rừng rậm; sao Huỳnh hoặc ở ngôi giữa, Tống Cảnh Công lui khỏi cung điện, cho nên tai họa khô hạn được dẹp bỏ, sao xấu được chuyển dời. Nay dựng cung điện không có lợi, chỉ nên sửa thân mình mà giữ lễ nghĩa, xét cái đạo lớn của Thang, Tống mà thương xót cái khổ sở của dân chúng, sao lại lo lắng cung điện không yên, lo không trừ được tai họa? Bệ hạ không chịu tu đức mà lại xây sửa cung điện. Nếu không chịu tu đức, không lo sửa lỗi, dẫu đài Dao Đài của Ân Tân(85), cung A Phòng của Tần Hoàng(86) sao ngăn được việc diệt thân mất nước, phá vỡ tông miếu đây? Xây đất lớn, dựng đài cao, đã dẫn đến nước cạn, dân lại bị bệnh, đấy là điều không phải nghi ngờ. Làm cho cha yên ổn mà khiến cho con không có chỗ dựa, đấy là con bị cha chia rời, bầy tôi bị Bệ hạ chia cách vậy. Bầy tôi nếu chia rời, lúc đó dẫu nghĩ sâu xa, không bỏ nhà tranh, còn có ích gì nữa? Cho nên Đại Hoàng đế ở tại cung phía nam, tự cho là hơn cả cung A Phòng. Đại thần thời trước kia cho rằng cung điện nên làm cao lớn, oai vệ khác thường, nhưng Đại Hoàng đế nói: ‘Các ngươi coi chừng, phải nên yêu lấy trăm họ, sao lại vui thú làm những việc không cần gấp’? Do đó bầy tôi hổ thẹn, do đó bất đắc dĩ phải thu gom tiền của của các quận, tạm làm yên lòng dân, sắp đến lúc xây dựng nhưng do dự ba năm không làm. Vào thời lúc ấy, bọn cướp sợ oai, không dám lấn nước ta, đem quân lên phía bắc, lại về phía tây chặn ngang miền Mân, Hán, miền nam không có việc gì, đấy là do khiêm nhường, không chịu xây dựng cung điện vậy. Huống chi Bệ hạ sinh vào lúc nguy khó, lại kém hơn đức của Đại Hoàng đế, không đáng lo nghĩ hay sao? Mong Bệ hạ chú ý, thần không dám nói bừa”.
Lục Dận tự Kính Tông, là em của Khải vậy. Lúc đầu làm Ngự sử, Thượng thư Tuyển tào lang, Thái tử Hòa nghe danh tiếng, lấy lễ đối đãi rất đặc biệt. Gặp lúc bọn Toàn Kí, Dương Lan xu nịnh theo Lỗ Vương Bá, tranh chia với Hòa, ngầm gièm vu nhau. Dận bị bắt vào ngục, trải qua đau đớn(87), rút cuộc không nói lời khác.
Ngô lục viết: Thái tử lo sợ bị phế bỏ, mà Lỗ Vương rất được trông chờ. Bấy giờ Quyền thấy Dương Lan gọi tả hữu đến bàn về tài năng của Bá, Lan kể rõ tài năng văn võ của Bá, nên cho làm người nối tự, do đó Quyền bèn hứa lập Bá, cho quan Cấp sứ quỳ ở dưới giường nghe lệnh. Nghe tin ấy, đến báo cho Thái tử. Dận đang đến Vũ Xương, đến từ biệt Thái tử. Thái tử không gặp, rồi mặc áo thường đến nép dưới xe của Dận, cùng ngầm bàn việc, muốn sai Lục Tốn dâng biểu can gián. Sau đó Tốn dâng biểu can gián, Quyền ngờ Lan làm lộ việc ấy, Lan từ chối không chịu nhận. Quyền sai Lan ra tìm hiểu nguyên nhân, Lan bẩm là chỉ có Dận đi về phía tây, tất người này nói ra. Lại sai người hỏi Tốn làm sao mà biết việc ấy, Tốn nói là do Dận nói. Bèn gọi Dận về xét hỏi, Dận giúp Thái tử giữ kín, nói: “Dương Lan nói cho thần biết việc ấy”. Bèn bắt cùng vào ngục. Lan không chịu được đau đớn, chịu nhận là mình nói. Lúc đầu Quyền ngờ Lan tiết lộ việc ấy, lúc Lan chịu nhận, cho là đúng thế, liền chém Lan.
Sau làm Hành Dương Đốc quân Đô úy. Năm Xích Ô thứ mười một, người rợ ở quận Giao Chỉ, Cửu Chân(88) đánh diệt thành ấp, Giao Châu nhiễu động. Lấy Dận làm Giao Châu Thứ sử, An nam Hiệu úy. Dận vào miền nam, dùng ân tín để dụ, ưa việc chiêu nạp, hơn ba nghìn người phe đảng của bọn cừ súy Hoàng Ngô ở huyện Cao Lương đều ra hàng. Dẫn quân xuống phía nam, tuyên bố rất thật, đem tiền của để trao tặng. Hơn trăm tướng giặc, năm vạn người dân ở nơi sâu xa khó quản, chẳng ai không cúi đầu, do đó Giao Châu yên bình. Liền bái chức An nam Tướng quân. Lại đánh giặc ở huyện Kiến Lăng quận Thương Ngô, phá chúng, trước sau đem hơn tám nghìn quân để cấp vào quân đội.
Năm Vĩnh An thứ nhất, gọi về làm Tây Lăng Đốc, phong Đô Đình Hầu, sau lại chuyển làm Tả Hổ lâm. Trung thư chưng Hoa Hạch tiến cử Dận nói: “Tính Dận vốn thông đạt, tài lược trong sạch, xưa làm Tuyển tào, công lao đáng ghi. Trở về tại Giao Châu, ban bố ân đức của triều đình, dân li tán nương dựa, góc biển yên ổn. Các quận Thương Ngô, Nam Hải trước đây mỗi năm có cái hại của gió chướng, gió mạnh bẻ gãy cây, thổi bay cát đá, khí lại nóng nực, chim bay không qua. Từ lúc Dận đến châu, khí gió ngừng nghỉ, khách buôn đi yên, dân không bệnh tật, ruộng vườn tươi tốt. Sở trị của châu gần biển, hễ đến mùa thu nước biển tràn đầy, Dận lại ngăn nước, dân được ăn ngon, ân đức bao trùm, cảm hóa thần người, lại dựa vào oai trời, thu nạp dân li tán. Đến lúc nhận chiếu thư gọi về, dân cảm ân ấy, bỏ cả đất đai, cõng già dắt trẻ, vui lòng đi theo, dân không hai lòng. Không đặt quân vệ. Các tướng khác hợp quân đều ra oai uy hiếp, chưa có ai như Dận chỉ dùng ân tín mà thôi. Nhận lệnh ở châu, được hơn mười năm, làm khách đất lạ, có nhiều vật đẹp, nhưng vợ trong nhà không bôi son phấn đeo ngọc châu, nhà không có các vật gắn ngà voi sừng tê chạm trổ. Bầy tôi ngày nay, khó được như thế. Nên ở kinh sư, giúp đỡ nhà vua để hát bài ‘Khang tai’ của thời Đường, Ngu. Ven sông việc nhỏ, không dùng hết tài, Hổ lâm, Tuyển tào, nhiều người đã giữ. Nếu gọi về kinh, cho làm chức cao, thì việc lớn tất sửa, công lao  sáng rõ vậy. Dận chết, con là Thức nối tự, làm Sài Tang Đốc, Dương vũ Tướng quân. Năm Thiên Sách thứ nhất, cùng với anh họ là Y dời đến quận Kiến An. Năm Thiên Kỉ thứ hai, gọi về Kiến Nghiệp, làm Tướng quân, tước Hầu.
Bình rằng: Phan Tuấn trong sạch quyết đoán, Lục Khải trung trinh thẳng thắn, đều có khí tiết cứng cỏi, có phong thái của bậc đại trượng phu. Dận rửa thân coi việc, nổi tiếng ở miền nam, có thể nói là quan lại tài giỏi vậy.

QUYỂN 17 - THỊ NGHI HỒ TỐNG TRUYỆN
Thị Nghi, Hồ Tống

THỊ NGHI TRUYỆN
Thị Nghi tự Tử Vũ, người quận Bắc Hải huyện Doanh Lăng. Nghi gốc họ Thị, ban đầu làm Huyện lại, sau ra làm quan ở quận, tướng ở quận là Khổng Dung trào lộng Nghi, nói “chữ Thị” giống “chữ Dân”, là không có gì cao hơn nổi, nên đổi thành “chữ Thị”, rồi đổi họ cho Nghi(89).
Từ Chúng bình rằng: Thời xưa đặt ra họ, hoặc lấy nơi sinh trưởng, hoặc lấy quan hiệu, hoặc lấy tên của tổ tiên, đều có ý nghĩa nhất định, để nêu rõ họ tộc. Cho nên nói đền đáp đất đai và ban đặt cho họ, đấy là phép tắc của tiên vương, lý do là để sáng tỏ cội nguồn trọng cái thủa ban đầu, biểu chương công đức, con cháu chẳng quên được. Nay chia văn tách chữ, ngang ngược sinh ra kỵ huý, khiến cho Nghi phải đổi họ, quên gốc gác tổ tông, chẳng là xằng bậy sao! Khiến cho người ta thay họ, theo người ta đổi dòng tộc, là Dung đã có lỗi rồi, Nghi lại theo là không được vậy.
Về sau Nghi nương nhờ Lưu Do, tránh nạn ở Giang Đông. Dao thua quân, Nghi lại dời về Cối Kê.
Tôn Quyền kế thừa nắm đại nghiệp, ưa văn chương của Nghi nên cho vời. Nghi đến nhậm chức, được chuyên trách giữ việc cơ mật, bái làm Kỵ đô úy.
Lã Mông mưu đồ tập kích Quan Vũ, Quyền đem chuyện hỏi Nghi, Nghi khen kế ấy, khuyên Quyền nghe theo. Nghi theo đi đánh Vũ, được bái làm Trung nghĩa hiệu uý. Nghi bầy tỏ lời cảm tạ, Quyền xuống lệnh rằng: “Cô dẫu chẳng phải là Triệu Giản, khanh sao chẳng tự khuất mình làm Chu Xá được ru?(90)”
Sau khi định Kinh Châu, Quyền đóng đô ở Vũ Xương, bái Nghi làm Bì tướng quân, sau phong tước Đô đình hầu, giữ chức Thị trung. Quyền muốn lần nữa trao cho Nghi binh quyền, Nghi tự thấy mình không có tài, cố từ không nhận. Năm Hoàng Vũ trung, Quyền phái Nghi đi huyện Hoàn tới chỗ tướng quân Lưu Thiệu, muốn dùng mẹo dụ lừa Tào Hưu. Hưu đến nơi, quân Ngô đại phá được, Nghi được thăng lên chức Thiên tướng quân, ở trong cửa khuyết thì coi xét việc của Thượng thư, bên ngoài thì bình trị tất cả các quan lại, kiêm quản việc tố tụng, lại lệnh cho Nghi dạy dỗ các công tử học hành sách vở.
Đại giá dời về Đông(91), Thái tử Đăng ở lại trấn thủ Vũ Xương, Quyền sai Nghi giúp đỡ Thái tử. Thái tử kính trọng Nghi, có việc thì hỏi Nghi trước, sau mới thi hành. Nghi được tấn phong tước Đô hương hầu. Về sau Nghi theo Thái tử về Kiến Nghiệp, lại được bái làm Thị trung, giữ việc chấp pháp, bình trị các quan lại, quản việc tố tụng như cũ. Điển hiệu lang(92) là Lã Nhất vu khống cố Thái thú Giang Hạ là Điêu Gia phỉ báng quốc chính, Quyền giận, bắt Gia hạ ngục, thẩm vấn cho rõ ràng. Bấy giờ những người cùng ngồi hết thảy sợ hãi uý kỵ Nhất, đều nói là có nghe thấy việc đó, riêng Nghi nói là không nghe thấy gì. Vì thế bị cật vấn khốn khổ mấy ngày, chiếu chỉ chuyển xuống rất nghiêm khắc, quần thần vì việc đó mà khép nép. Nghi đáp rằng: “Nay đao cưa đã ở cổ của thần, thần sao dám vì Gia mà giấu diếm, đành tự chọn lấy cái chết, làm con quỷ bất trung! Song để biết rõ ràng phải có gốc rễ ngọn ngành mới được.” Nghi cứ sự thực đối đáp, lời lẽ chẳng hề dao động. Quyền bèn tha cho Nghi, Gia cũng được thoát.
Từ Chúng bình rằng: Thị Nghi là lữ khách ở miền khác đến, làm quan khách ở triều Ngô, gặp lời gièm pha trơ trẽn, mà uy thế nghiêm trang quả cảm, đúng mực, ở thời khác tính mệnh treo lơ lửng, nguy cơ tai vạ ở trước mắt, không nói theo kẻ khác để hại người, chẳng cẩu thả tránh hoạ để tổn thương đạo nghĩa, có thể nói là kẻ sĩ trung dũng công chính(93), dẫu Kỳ Hề cứu Thúc Hướng(94), Khánh Kỵ giúp Chu Vân(95), sao đã hơn được? Trung  là không siểm nịnh vua, dũng là chẳng run sợ oai thế, công là không nghĩ
cho riêng mình, chính là chẳng theo tà đảng, nhờ có bốn đức tính ấy, lại thêm văn tài sáng suốt, đầy đủ vẻ nhún nhường, hành vi hoà thuận, gánh vác công việc giúp nhị cung, giữ được thanh danh và sự ưu ái, chẳng cũng nên sao!
Thục tướng Gia Cát Lượng chết, Quyền rủ lòng với Tây châu(96), sai Nghi đi sứ Thục bầy tỏ tình đồng minh hữu hảo bền vững. Nghi vâng mệnh đi sứ xưng ý chỉ, sau được bái làm Thượng thư bộc xạ.
Hai cung Nam, Lỗ mới lập(97), Nghi lấy chức phận trước đây giúp đỡ Lỗ Vương. Nghi hiềm rằng hai cung được đối xử gần ngang nhau, bèn dâng sớ rằng: “Thần thiết nghĩ Lỗ vương đức trời sinh trội hơn các bậc thường, kiêm tài văn võ, nay đang là lúc thích hợp, nên trấn áp bốn phương, làm phên dậu che chở cho quốc gia. Tuyên dương mỹ đức, làm rạng rỡ uy linh, ấy là quy hoạch tốt đẹp của quốc gia, bốn cõi đều trông ngóng. Chỉ vì ngôn từ của thần hạn hẹp, chẳng thể bày tỏ được hết ý mình. Ngu thần cho là hai cung nên có hơn kém, phải có thứ tự trên dưới, để sáng tỏ cái gốc rễ của giáo hoá.” Thư dâng lên ba bốn lần. Nghi giúp việc tận trung, liên tục đưa lời can gián; làm việc trên cả mức chuyên cần, cung kính giúp đỡ người(98).
Nghi chẳng vun vén sản nghiệp, không nhận ân huệ bố thí, phòng ốc nhà cửa tiền của chỉ đủ dùng. Láng giềng có người xây nhà lớn, Quyền ra ngoài trông thấy, hỏi rằng ai xây dựng ngôi nhà lớn đó, tả hữu thưa rằng: “Hình như là nhà của Thị Nghi.” Quyền nói: “Nghi là người cần kiệm, tất không phải vậy.” Hỏi ra quả nhiên là nhà khác. Nghi được hiểu và tin tưởng đến như thế. Nghi chẳng mặc áo trơn, ăn uống chẳng phải cỗ bàn, cứu giúp cho người nghèo hèn khốn khổ, trong nhà không tích trữ gia súc. Quyền nghe chuyện, đến tận nhà Nghi, xin một bữa cơm rau, tự mình nếm thử, rồi hướng vào Nghi mà than thở, lập tức tăng bổng lộc thêm cho Nghi, lại cho thêm ruộng vườn. Nghi mấy lần nhún nhường từ chối, cho rằng ân huệ là mối lo.
Nghi luôn luôn tiến cử cho người, chưa từng nói đến sở đoản của người khác. Quyền thường trách Nghi vì đã không nói gì về việc ấy, là không biết phải trái, Nghi đáp rằng: “Thánh chủ ở trên, thần ở dưới giữ chức phận, sợ là còn chưa xứng, thật không dám nói những lời ngu dốt hẹp hòi, mạo phạm đến tai thánh thượng.”
Nghi thờ phụng quốc gia mấy chục năm, chưa từng có lỗi lầm. Lã Nhất mấy lần tấu bẩm về các văn võ đại thần, có người bị hỏi tội đến bốn lần, riêng Nghi không bao giờ bị bẩm bạch. Quyền than rằng: “Nếu người người đều tận tâm như Thị Nghi, sao phải dùng luật pháp làm gì?”
Lúc Nghi ốm nặng, di mệnh là dùng áo quan mộc(99), tẩm liệm dùng thường phục, cốt sao cho giản tiện, năm tám mươi mốt tuổi thì Nghi chết.

QUYỂN 18 - NGÔ PHẠM LƯU ĐÔN TRIỆU ĐẠT TRUYỆN
Ngô Phạm, Lưu Đôn, Triệu Đạt

TRUYỆN NGÔ PHẠM
Ngô Phạm tự Văn Tắc, người huyện Thượng Ngu quận Cối Kê. Vì hiểu thuật số, (100) biết phong khí (101) mà nổi tiếng ở quận. Cử hữu đạo, (102) gọi đến kinh đô, nhưng thời loạn không đi. Gặp lúc Tôn Quyền nổi dậy ở miền đông nam, Phạm trao thân theo giúp, hễ có điềm xấu, liền đoán số mà báo việc, thuật số phần nhiều ứng nghiệm, bèn vì thế mà nổi tiếng.
Lúc đầu, Quyền ở tại quận Ngô, muốn đánh Hoàng Tổ. Phạm nói: “Năm nay ít có lợi, không bằng đến năm sau. Năm sau là năm mậu tí, Lưu Biểu chết thì đất Kinh Châu cũng mất”. Quyền vẫn đánh Tổ, rút cuộc chẳng  thắng. Năm sau, lại phát quân, đi đến Tầm Dương. Phạm xem phong khí, nhân đó lên thuyền chúc mừng, khuyên đem quân đi nhanh, đến liền phá Tổ, Tổ liền buổi đêm chạy trốn. Quyền sợ không bắt được, Phạm nói: “Không lâu nữa tất bắt sống được Tổ”. Đến giữa canh năm, quả nhiên bắt được. Lưu Biểu đã chết, Kinh Châu bị chia cắt.
Đến năm nhâm thìn, Phạm lại bẩm rằng: “Vào năm giáp ngọ, Lưu Bị sẽ lấy được Kinh Châu”. Sau đó Lữ Đại từ đất Thục về, gặp Bị ở thành Bạch Đế, nói là quân sĩ của Bị tan lạc, chết thương quá nửa, việc tất chẳng xong. Quyền lại hỏi Phạm, Phạm nói: “Lời mà thần nói là mệnh trời, nhưng lời mà Đại nói là việc người mà thôi”. Bị rút cuộc lấy được đất Thục.
Quyền cùng Lữ Mông mưu đánh Quan Vũ, bàn với bầy tôi thân cận, nhiều người nói là không đánh được. Quyền lại hỏi Phạm, Phạm nói: “Đánh được”. Sau Vũ đến tại Mạch Thành, sai sứ xin hàng. Quyền hỏi Phạm rằng: “Nên cho hàng không”? Phạm nói: “Bên ấy có ý chạy, nói là hàng tất là dối thôi”. Quyền sai Phan Chương chặn đường đi của Vũ, quân dò thám về, nói là Vũ đã bỏ đi. Phạm nói: “Dẫu bỏ đi nhưng chẳng thoát được”. Hỏi lúc nào, đáp nói: “Giữa ngày hôm sau”. Quyền dựng đồng hồ nước để đợi xem. Đến giữa ngày không thấy tin, lại hỏi vì sao, Phạm nói: “Lúc này chưa đúng giữa ngày vậy”. Chốc lát, có gió thổi lay động màn trướng, Phạm vỗ tay nói: “Vũ đến rồi”. Lát sau, người ngoài xưng vạn tuế, truyền lời là bắt được Vũ.
Sau đó Quyền hòa thân với nhà Ngụy, Phạm nói: “Xét phong khí mà nói, bên ấy bề ngoài là đến, nhưng thật ra có mưu, nên phòng bị đi”. Lưu Bị đem quân nhiều đến ở Tây Lăng, Phạm nói: “Sau lại hòa thân”. Cuối cùng như lời Phạm. Lời đoán bói đúng nghiệm như thế.
Quyền lấy Phạm làm Kị đô úy, lĩnh chức Thái sử lệnh, (103) Quyền nhiều lần theo học hỏi, muốn được bày dạy. Phạm giữ kín thuật ấy, không đem thuật mà bày nói cho Quyền. Do do Quyền lấy làm tiếc.
Ngô lục chép: Phạm chỉ để trong lòng, cho là mình được coi trọng là vì biết thuật ấy, thuật mà mất thì thân cũng bị ruồng bỏ, cho nên không nói.
Trước đây, lúc Quyền làm Tướng quân, Phạm từng nói rằng miền Giang Nam có khí của bậc Đế vương, vào năm hợi-tí tất có phúc lộc lớn. Quyền nói: “Nếu rút cuộc như lời này, sẽ phong ông làm tước Hầu”. Lúc lập làm Ngô Vương, bấy giờ Phạm hội yến, nói: “Ngày trước tại quận Ngô, từng nói việc này, Đại vương còn nhớ chăng”? Quyền nói: “Có nhớ”. Nhân đó gọi tả hữu, ban dải thao tước Hầu cho Phạm. Phạm biết Quyền muốn chối bỏ lời lúc trước, liền xua tay không nhận. Lúc sau luận công ban phong, lấy Phạm làm Đô đình hầu. Chiếu lệnh sắp ban ra, Quyền ghét Phạm chỉ biết giữ thuật cho riêng mình, bèn trừ bỏ tước phong.
Phạm là người thẳng thắng, lại có phần tự kiêu, nhưng lại thân tình trước sau với bạn cũ. Vốn thân nhau với người cùng ấp là Ngụy Đằng. Đằng từng có tội, Quyền trách mắng rất nghiêm, lệnh ai dám can sẽ giết, Phạm bảo Đằng rằng: “Sẽ cùng chết với ông”. Đằng nói: “Chết mà không có ích, chết để làm gì”? Phạm nói: “Ta nghĩ gỡ được việc này, há ngồi xem ông chết sao”? Bèn cắt tóc tự trói đến dưới cửa, sai lính hầu vào báo, lính hầu không dám, nói: “Ta vào tất chết, không dám nói”. Phạm nói: “Ngươi có con không”? Đáp nói: “Có”. Phạm nói: “Nếu ngươi vì Ngô Phạm ta mà chết, con ngươi sẽ đưa cho ta nuôi”. Lính hầu nói: “Dạ”. Liền cho vào cửa. Nói chưa xong, Quyền cả giận, muốn lấy kích để đâm. Lính hầu lùi lại đi ra, Phạm nhân đó xông vào, rập đầu chảy máu, nói mà khóc lóc. Hồi lâu, Quyền có ý tha, bèn tha tội Đằng. Đằng gặp Phạm tạ rằng: “Cha mẹ nuôi ta lớn được, nhưng không tha cho ta khỏi chết được. Bậc trương phu quen biết nhau, như ông là đủ rồi, há cần chi nhiều”!
Cối Kê điển lục chép: Đằng tự Chu Lâm, ông nội là Hà Nội Thái thú Lãng, tự Thiếu Anh, được xếp vào hàng ‘bát tuấn’. (104) Đằng tính thẳng thắn, chẳng mấy hòa mục với ai, dẫu gặp khốn bức, cũng chẳng đổi tính.
Lúc đầu cũng vì làm trái ý Sách mà suýt chết, may nhờ thái phi (105) cứu mới thoát, chép ở Phi tần truyện. Làm quan qua các chức Lệnh của ba huyện Lịch Dương, Bà Dương, Sơn Âm, rồi làm Bà Dương Thái thú.
Năm Hoàng Vũ thứ năm, Phạm bệnh chết. Con cả chết trước, con út còn nhỏ, do đó nghiệp dứt. Quyền nghĩ nhớ Phạm, chọn những người biết được thuật số như Ngô Phạm, Triệu Đạt ở ba châu , phong tước Hầu thực ấp nghìn hộ, nhưng cuối cùng chẳng có ai.
Ngô lục chép: Phạm biết trước ngày mình chết, bảo Quyền nói: “Bệ hạ đến ngày đó sẽ để tang Quân sư”. Quyền nói: “Ta không có Quân sư, sao mà để tang được”? Phạm nói: “Bệ hạ đem quân chống địch, nhờ thần nói trước rồi mới đi. Thần là Quân sư của bệ hạ vậy”. Đến ngày đó quả nhiên chết. Thần là Tùng Chi xét: Vào lúc Phạm chết, Quyền chưa xưng Đế, mà sách này xưng là bệ hạ, sai vậy.

TRUYỆN LƯU ĐÔN
Lưu Đôn tự Tử Nhân, người quận Bình Nguyên. Gặp loạn tránh nạn, làm khách tại quận Lư Lăng, theo giúp Tôn Phụ. Vì biết thiên văn thuật số mà nổi danh ở miền nam. Hễ có nạn khô hạn, giặc cướp, đều đoán biết trước được, không gì là không đúng. Phụ lấy làm lạ, cho làm Quân sư, trong quân đều kính phục Đôn, khen là thần minh.
Giữa năm Kiến An, Tôn Quyền ở tại quận Dự Chương, bấy giờ có sao rơi, đến hỏi Đôn, Đôn nói: “Có họa tại quận Đan Dương”. Quyền nói: “Vì sao”? Đáp nói: “Khách lấn cả chủ, đến ngày ấy sẽ nói rõ”. Bấy giờ, Biên Hồng làm loạn, đúng như lời Đôn.
Đôn đối với các thuật đều giỏi, giỏi rõ nhất là thuật thái ất, đều suy đoán từng việc, rất là kì diệu, soạn thành sách có hơn trăm thiên, nhà Nho nổi tiếng là Điều Huyền cũng khen là thần kì; nhưng Đôn cũng quý tiếc thuật của mình, không chịu dạy cho người khác, cho nên người đời chẳng ai biết rõ vậy.

TRUYỆN TRIỆU ĐẠT
Triệu Đạt là người quận Hà Nam. Thủa trẻ theo học quan Thị trung của nhà Hán là Đan Phủ, suy nghĩ sâu xa, nói là miền đông nam có khí của bậc Đế vương, nên đến tránh nạn được, do đó đem thân vượt sông. Xét thuật cửu ung nhất toán, (106) nghiên cứu cái tinh diệu của thuật ấy, cho nên biết tùy  cơ mà ứng biến, đối đáp như thần, đến như tính xem có nạn châu chấu bay, đoán vật ẩn náu, không gì là không đúng. Có người hỏi Đạt rằng: “Những con vật biết bay vốn không xét đoán được, ai biết được là đúng, đấy chỉ là nói bừa thôi”. Đạt sai người ấy lấy mấy hạt đậu nhỏ đặt ở trên chiếu, để ở vài chỗ trên đó, đến lúc đoán đúng người ấy mới tin thật. Từng qua nhà bạn cũ, bạn cũ mời Đạt ngồi ăn. Ăn xong, bảo Đạt rằng: “Kho ít rượu thiếu, lại không có món ngon, không làm vừa ý, được sao”? Đạt nhân đó lấy một cái đũa trong mâm, lại khua ngang khua dọc ba lần, rồi nói: “Dưới vách phía đông nhà ông có một hộc rượu ngon, lại có ba cân thịt hươu, sao lại nói là không có”? Bấy giờ có người khách khác cũng ngồi, trong lòng biết ý của chủ nhà, chủ nhà thẹn nói: “Ông giỏi đoán vật ẩn náu thật không, muốn thử xem sao thôi, không ngờ hiệu nghiệm như thế”. Bèn đem rượu ra uống. Lại có thẻ tre, trên ấy chép mấy nghìn vạn chữ, cất giấu ở trong kho, nhờ Đạt tính xem. Đạt tính số đoán, nói: “Chỉ là có danh mà không có thật”. Sự tinh diệu của Đạt đại khái như thế.
Đạt quý tiếc thuật ấy, bọn Khám Trạch, Ân Lễ đều là nhà Nho hay kẻ sĩ giỏi, cúi mình nhún nhường theo học, nhưng Đạt giữ kín không nói ra. Thái sử thừa Công Tôn Đằng thủa trẻ theo học Đạt, chăm chỉ nhiều năm, Đạt hứa truyền dạy cho chỉ mấy năm thôi, lúc sắp nói ra nhưng rồi lại dừng. Ngày  sau Đằng đem rượu ngon đến, xem sắc mặt, quỳ bái mà xin, Đạt nói: “Tổ tiên ta biết được thuật này, muốn mưu làm thầy của Đế vương, làm quan đến nay trải ba đời vua, nhưng không hơn chức Thái sử lang, thật là không muốn truyền dạy nữa. Vả lại thuật này thần kì, cộng đầu trừ đuôi, như thuật nhất toán, không thể cùng nói với ông. Nhưng thấy ông chăm học không chán, nay sẽ truyền dạy cho ông”. Uống mấy chén rượu xong, Đạt đứng dậy lấy hai quyển sách giấy trắng, dày bằng ngón tay, Đạt nói: “Nên chép lại mà đọc nó thì tự hiểu được. Ta bỏ đã lâu, không còn xem nữa. Nay muốn bàn nghĩ riêng một lúc, mấy ngày sau đến nói cùng”. Đằng theo hẹn lại đến, đến thì sách thuật đã mất rồi, kinh ngạc mà trách, Đạt nói: “Hôm qua con rể đến, tất là do hắn trộm lấy”. Bèn từ đó thôi học.
Lúc trước, Quyền đem quân đánh dẹp, hễ lệnh sai Đạt bói đoán xem, đều như Đạt nói. Quyền hỏi cách đoán, Đạt rút cuộc chẳng nói, do đó mà đối đãi càng bạc, chẳng cho bổng lộc.
Ngô thư chép: Lúc đầu, Quyền lên ngôi vị, sai Đạt đoán số của thiên tử sẽ được mấy năm. Đạt nói: “Cao Tổ lập được được mười hai năm, nay bệ hạ sẽ gấp đôi”. Quyền cả mừng, tả hữu đều hô: “Vạn tuế”. Đúng như lời Đạt.
Đạt thường cười bảo những người xem sao, phong khí, thuật số rằng: “Phải tính đoán ở trong màn trướng, không cần ra cửa mà vẫn biết mệnh trời, lại chẳng phải ngày đêm hứng sương gió để xem điềm khí, cũng chẳng khó hơn sao”! Ở trong nhà không đi đâu, tính toán đều ứng nghiệm, lại than rằng: “Ta tính được ngày tháng năm hết mệnh, sắp đến rồi”. Vợ của Đạt nhiều lần biết Đạt đoán đúng, nghe nói thế thì khóc lóc. Đạt muốn xoa dịu ý vợ, rồi lại đoán nữa, nói: “Nếu đoán sai lầm thì chưa đến lúc vậy”. Sau quả đúng chết thật. Quyền nghe nói Đạt có sách thuật, xin nhưng chẳng được, lại gọi con gái của Đạt đến hỏi, mở quan quách cũng chẳng có, thuật ấy bèn mất.
Ngô lục chép: Hoàng Tượng tự Hưu Minh, người huyện Giang Đô quận Quảng Lăng. Thủa nhỏ tập viết chữ. Bấy giờ có Trương Tử Tinh, Trần Lương Phủ cũng giỏi viết chữ. Phụ viết chữ nhỏ, Tinh viết chữ to, Tượng bèn chọn viết sách kết hợp giữa hai cách viết chữ ấy, rất là tinh diệu, những người viết chữ giỏi của Trung Quốc chẳng ai theo kịp. Nghiêm Vũ tự Tử hanh, là cháu họ của Vệ úy Tuấn, (107) chơi cờ vây chẳng ai sáng bằng. Tống Thọ giỏi đoán mơ, mười chẳng sai một. Tào Bất Hưng giỏi vẽ tranh, Quyền sai vẽ bức bình phong, vẽ sai, bèn lấy bút chấm một nét, nhân đó liền vẽ hình con ruồi. Dâng lên vua xem, Quyền cho là như con ruồi thật, cử tay mà bắt. Người huyện Cô Thành là Trịnh Ẩu giỏi xem tướng người, cùng với Phạm, Đôn, Đạt là tám người, người đời khen là thần diệu, gọi là ‘bát tuyệt’
(108) vậy. Tấn dương thu chép: Nước Ngô có Cát Hành, tự Tư Chân, hiểu rõ thiên văn, lại có tài khéo, làm ra máy ‘hồn thiên’, đặt quả đất trong đó, lấy máy mà làm cho chuyển động, trời chuyển thì đất dừng, ở trên ứng với quỹ đạo.
Bình rằng: Ba người đối với thuật số đều giỏi vậy, suy nghĩ thần kì thay! Nhưng bậc quân tử để lòng ở chỗ thần minh, nên hợp với nơi xa nơi lớn, cho nên gọi là kẻ sĩ hiểu biết thì phải bỏ cái thuật ấy mà tìm lấy việc của bậc quân tử vậy.
Tôn Thịnh nói: “Ôi, dựa vào thuật huyền hoặc chưa chắc đã đúng mà đoán xét việc mai sau, dẫu là Bì Táo-Tể Thận (109) còn sai sót nữa là, huống chi là cái thuật số thấp kém ấy? Sách sử nước Ngô chép rằng Đạt biết miền đông am sẽ có khí của Đế vương cho nên nhanh chân vượt sông. Nhà Ngụy thay hà Hán, nhận lệnh ở Trung Nguyên, vậy mà Đạt không xem biết trước cái mầm mống ấy mà lại trốn dạt đến miền Ngô-Việt. Lại không biết cái thấp kém của thuật số, cho nên bấy giờ bị đỗi đãi bạc bẽo, há lại hiểu rõ mệnh trời và biết xét điềm báo của bậc Đế vương sao? Ngày xưa vua hiền xem tượng của trời đất để vẽ nên hình của tám quẻ, cho nên liền lập thành cách bói cỏ thi, biến hóa hình tượng ở sáu hào, cho nên ba loại kinh Dịch dẫu khác nhưng ý nghĩa của quẻ vẫn là một, há có lập quẻ tính đếm để suy sâu xét xa, chú ý đoán bói mà biết được việc sắp xảy ra sao? Thói thường ưa lạ, nói bừa là thần kì. Như cái chẳng hai là cái mà Trọng Ni vứt bỏ. Cho nên quân tử chú ý ở điều hay, không chọn ở thuật ấy. Thần là Tùng Chi cho rằng: Tôn Thịnh nói: “Quân tử chú ý ở điều hay, không chọn ở thuật ấy”. Đấy là có ý bàn xét người khác, không có ý mới vậy. Các lời chê khác thì đều không có lí. Vì sao? Từ lúc Trung Nguyên nhiễu loạn đến năm Kiến An, trong mấy chục năm, dân chúng chết cả, đến như có ít lúc yên ổn, cũng chỉ là một phần trăm thôi. Miền Giang Tả dẫu có binh đao nhưng không bằng cái khổ cực của Trung Quốc, đấy há chẳng phải Đạt tính đến việc an nguy, biết được họa nhiều ít, có lợi ở miền đông nam để giữ vẹn thân mình sao? Sao lại trách Đạt không biết nhà Ngụy sắp nổi lên, đi dạt vào miền Ngô-Việt! Như suy tính của Kinh Phòng, vẫn không tự thoát được tội chết, (110) huống chi Đạt dùng cái thuật ấy mà chỉ bị đỗi đãi bạc bẽo, trong thế hối tiếc mà thôi! Cái đạo thuật thời xưa, không chỉ có một, cái hay của xét đoán, há chỉ ở việc dùng sáu hào? Nếu hiểu được điều cốt yếu thì dễ mà biết được vậy. Lập quẻ tính đếm, sao gọi là gở? Cái suy đoán của Đạt, hiểu thấu cái kì diệu để biết được cái sâu xa, nào thẹn với người xưa! Vậy nên mượn Bì-Tể để chê Đạt, cho rằng Đạt là bậy bạ, thì chẳng phải là lời bàn đúng đắn vậy. Bão Phác Tử chép: Bấy giờ có người là Cát Tiên Công, hễ uống rượu say lại thường vào nằm giữa khe nước trước cửa nhà người ta, hết ngày mới ra. Từng theo Ngô chủ đi đến Liệt Châu, lúc về gặp gió lớn, thuyền của trăm quan phần nhiều bị chìm, thuyền của Tiên Công cũng chìm đắm. Ngô chủ rất lo sợ. Hôm sau sai người móc tìm thuyền của Tiên Công, lại lên chỗ cao để nhìn xem. Hồi lâu, thấy Tiên Công đi bộ trên mặt nước đến, nhưng dày áo không ướt, có vẻ uống rượu. Đã gặp mà nói rằng: “Hôm qua thần theo hầu thì Ngũ Tử Tư mời gặp, rồi uống rượu hơi nhiều, chểnh mảng không tỉnh, nên mới thế”. Lại có người tên là Diêu Quang, biết thuật lửa, Ngô chủ tự đến thử hắn, chất mấy nghìn bó cỏ, sai Quang ngồi lên đó, lại lấy mấy nghìn bó cỏ trùm lên hắn, rồi thổi gió mà đốt. Cỏ cháy hết, cho rằng Quang tất đã hóa thành tro, nhưng Quang chui ra từ giữa tro, rũ áo mà đứng dậy, cầm một quyển sách. Ngô chủ cầm sách ấy mà xem, không hiểu được gì. Lại chép: Ngô Cảnh Đế có bệnh, tìm thầy mo xem, được một người. Cảnh Đế muốn thử người ấy, bèn giết một con ngỗng rồi chôn ở trong vườn, treo màn nhỏ, đặt giường ghế, sai đàn bà đi guốc mặc áo đi trên ấy, rồi sai thầy mo xem, báo rằng: “Nếu nói được hình dạng của hồn người đàn bà trong mộ ấy sẽ ban thưởng và tin theo ngay”. Suốt ngày thâu đêm không nói, Cảnh Đế cố hỏi người ấy, bèn nói: “Thực là không thấy có hồn, chỉ thấy một con ngỗng trắng đứng ở trên mộ, thần không bẩm ngay là vì ngờ rằng quỷ thần biến hóa thành hình ấy, phải đợi nó biến thành hình thật mới định rõ. Nhưng nó lại không thay đổi, không biết vì sao cho nên không dám không đem sự thực để bẩm”. Cảnh Đế bèn ban thưởng hậu hĩnh. Vậy thì con ngỗng chết rồi cũng có hồn vậy. Thần tiên truyện của Cát Hồng chép: Có người tiên là Giới Tượng, tự Nguyên Tắc, người quận Cối Kê, hiểu các phương thuật. Ngô chủ nghe tin, gọi Tượng đến Vũ Xương, rất kính trọng hắn, gọi là Giới Quân, giúp dựng nhà, cấp trướng ngự cho hắn, trước sau ban tặng đến nghìn vàng, theo Tượng học thuật che thân. Thử về hậu cung, lúc ra khỏi cửa điện, chẳng ai nhìn thấy. Lại sai Tượng bày phép biến hóa, trồng rau dưa hoa quả, đều mọc ra ăn được. Ngô chủ cùng luận rằng trong các loài cá thì loài nào đẹp nhất, Tượng nói: “Cá truy (111) là nhất”. Ngô chủ nói: “Luận về loài cá gần đây thôi, loài ấy sống ở giữa biển, sao mà bắt được”? Tượng nói: “Bắt được vậy”. Liền sai người đào một cái hố vuông ở giữa sân điện, múc nước đổ đầy vào, xin được câu, Tượng làm mồi câu, rủ dây câu ở trong hố. Chốc lát, quả nhiên câu được cá truy. Ngô chủ cả mừng, hỏi Tượng rằng: “Ăn được không”? Tượng nói: “Cố vì bệ hạ mà lấy nó làm món thịt sống, sao dám không làm được món ăn được”! Bèn sai thuộc hạ làm thịt cá. Ngô chủ nói:
“Nghe tin sứ Thục đến, nếu đem củ khương (112) của đất Thục đến thì tốt  quá, tiếc là bấy giờ không có nó”. Tượng nói: “Củ khương của đất Thục há không dễ có, xin sai sứa giả đến để mua về”. Ngô chủ sai một tả hữu, trao cho năm mươi xâu tiền. Tượng chép một lá bùa, bọc một cây gậy xanh ở trong, sai người đi phải nhắm cưỡi gậy, gậy dừng thì mùa củ khương, xong, lại nhắm mặt. Người ấy theo lời Tượng mà cưỡi gậy, chốc lát thì dừng, đã đến Thành Đô, không biết là chỗ nào, hỏi người, người ta nói là có bán ở trong chợ của đất Thục, bèn mua củ khương. Bấy giờ sứ Ngô là Trương Ôn đã đến đất Thục trước, rồi ở trong chợ biết nhau, rất kinh ngạc, rồi viết thư nhờ gửi về nhà mình. Người ấy mua củ khương xong, cầm thư vác củ khương, cưỡi gậy nhắm mắt, chốc lát là về đến nước Ngô, vừa lúc thuộc hạ làm món thịt xong. Thần là Tùng Chi cho rằng: Điều là Cát Hồng chép có vẻ mê hoặc mọi người, thư văn của người này có phần truyền ở đời, cho nên chọn lấy mấy việc, chép nó vào cuối truyện này. Cái thuật của thần tiên cũng xét đoán được.Theo suy đoán của thần, nếu cho là mê hoặc mọi người thì đấy gọi là ‘sâu trùng mùa hạ không biết đến băng giá’ (113) vậy.
 CHÚ THÍCH
(1) Tam thự: chỉ ba dinh Ngũ quan, Tả, Hữu, mỗi dinh đều đặt quan Trung lang tướng để trông coi. Châu quận cử hiếu liêm để chọn người vào làm việc ở ba dinh ấy, người năm mươi tuổi trở lên thì cho vào dinh Ngũ quan, dưới thì cho vào hai dinh Tả, Hữu.
(2) Lời bình nguyệt đán: cuối thời Hán, có danh sĩ Hứa Thiệu tự Tử Tương, người quận Nhữ Nam, mỗi khi đến đầu tháng (nguyệt đán) thì lại cùng người trong ấp là Lí Tĩnh bàn luận về đức hạnh của người khác, cho nên người miền Nhữ-Dĩnh (hai quận Nhữ Nam-Dĩnh Xuyên) gọi là lời bình nguyệt đán.
(3) Việc giúp đỡ của Quách Thái: cuối thời Hán có danh sĩ là Quách Thái tự Lâm Tông, người quận Thái Nguyên, học rộng sách vở, có phẩm hạnh, giỏi bàn luận, quan phủ mời gọi nhưng không đến, đóng cửa dạy học, có đến nghìn học trò.
(4) Xóa lỗi chọn dùng: chỉ không màng lỗi lầm cũ mà vẫn chọn dùng.
(5) Hai cung tranh giành: chỉ cung Thái tử Tôn Hòa và cung Lỗ Vương là Tôn Bá tranh giành sự sủng ái của Tôn Quyền. Chu Cứ cùng bọn Gia Cát Khác, Cố Đàm, Đằng Dận ủng hộ Thái tử; bọn Toàn Tông, Tôn Hoằng lại hùa theo Lỗ Vương mưu phế trưởng lập thứ.
(6) Ngày xưa Tấn Hiến Công dùng Li Cơ thì Thân Sinh chẳng còn, Hán Vũ Đế tin Giang Sung thì Lệ thái tử chết oan: Thân Sinh là Thế tử của Tấn Hiến Công, sau khi Hiến Công sủng ái Li Cơ thì bị Li Cơ gièm pha mà lập con mình là Hề Tề làm Thế tử, do đó Thân Sinh trốn đến ấp Tân Thành rồi tự sát ở đấy. Lệ thái tử của Hán Vũ Đế là Lưu Cứ bị sủng thần của Vũ Đế là Giang Sung gièm pha, cũng tự sát.
(7) Cung Tư Tử: một cung do Hán Vũ Đế dựng ở huyện Hồ. Sau khi Lệ thái tử chết, Vũ Đế biết là oan, dựng cung ấy ấy để ghi nhớ Lệ thái tử.
(8) Người đàn bà ở huyện Cô Thành: chỉ Trịnh Ẩu. Ngô lục chép rằng người huyện Cô Thành là Trịnh Ẩu giỏi xem tướng người, cùng với bọn Ngô Phạm, Lưu Đôn, Triệu Đạt là tám người, người đời khen là thần diệu, gọi là ‘bát tuyệt’ vậy.
(9) Ứng long: theo truyền thuyết, ứng long là loài rồng có cánh.
(10) Quân của Tấn Văn Công thắng trận Thành Bộc, mưu của Hoài Âm Hầu phá quân Triệu: tức thời Xuân thu, Tấn Văn Công đánh bại quân Sở ở Thành Bộc, xưng Bá chư hầu. Thời Hán Sở tranh nhau, Hàn Tín đem quân dựa vào sông Bối mà phá quân Triệu.
(11)  Nghĩa nhún nhường nhau của Tương Như, Khấu Tuân: Lạn Tương Như là đại thần của nước Triệu thời Chiến quốc, giỏi biện luận mà được cất nhắc chức cao, Liêm Pha là tướng giỏi cũng ghanh đua, Tương Như nhún nhường, do đó Liêm Pha cảm kích rồi hòa thuận. Khấu Tuân là tướng giỏi thời Hán Quang Vũ Đế, vì giết một tên lính mắc tội của Giả Phục mà Giả Phục mang hận hiềm khích, nhưng Khấu Tuân vẫn giữ ý nhường nhịn, cuối cùng hai người hòa thuận với nhau.
(12)  Hoàn Vương: tức Tôn Sách, được truy tặng là Trường Sa Hoàn Vương, cũng gọi là Hoàn Vương.
(13)  Miền Hà Vị: tức miền sông Hoàng Hà và sông Vị, ý chỉ Trung Quốc.
(14)  Lữ Thượng: tức Khương Tử Nha, làm quân sư cho Chu Vũ Vương đánh vua Trụ mà lập nên nhà Chu.
(15)  Hai cung: chỉ cung của Thiên tử và cung Thái tử.
(16)  Sáu nước bị nước Tần mạnh chiếm lấy, người Tây Sở ngoảnh mặt về phía bắc theo Hán Cao Tổ: thời Chiến quốc, sáu nước lớn Sở, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Yên bị nước Tần chiếm lấy. Thời Hán Sở tranh nhau, Tây Sở Bá Vương là Hạng Vũ thua trận, mất nước vào Hán Cao Tổ là Lưu Bang.
(17)  Hung Nô chưa diệt, Khứ Bệnh bỏ nhà; đạo nhà Hán chưa tốt, Giả Sinh thương khóc: Hoắc Khứ Bệnh là danh tướng thời Hán Vũ Đế, cùng Tướng quân Vệ Thanh đánh đuổi rợ Hung Nô chạy dài trên thảo nguyên có công, Vũ Đế muốn dựng nhà lớn cho Khứ Bệnh ở, Khứ Bệnh nói: “Hung Nô chưa diệt, chưa cần dựng nhà vậy”. Giả Sinh là nhà văn thời Hán Văn Đế, lúc đầu làm Thái phó cho Trường Sa Vương, sau lại làm Thái phó cho Lương Hoài Vương, can gián Văn Đế không nghe, lúc Lương Hoài Vương chết, tự cho là mình chẳng được dùng nữa, tự buồn bực khóc lóc hơn một năm thì chết.
(18)  Đường thư: tức chương Nghiêu điển trong sách Thượng thư nói về thời vua Nghiêu, họ Đào Đường.
(19)  Hoa Nguyên, Tử Phản: thời Xuân thu, Hoa Nguyên là đại thần của nước Trịnh, Tử Phàn là tướng của nước Sở. Quân Sở vây thành Thương Khâu của nước Trịnh bảy tháng, rất nguy cấp, vua Trịnh là Văn Công sai Hoa Nguyên sang xin hòa, buổi đêm lẻn vào doanh trại của quân Sở, gặp Tử Phản giao hẹn bãi binh.
(20)  Tấn Văn Công rút lui thì người nước Nguyên vâng lệnh: thời Xuân thu, Tấn Văn Công đánh nước Nguyên, hạ lệnh nếu đánh ba ngày không thắng thì rút lui ba mươi dặm, bấy giờ nước Nguyên lương hết sức mỏi nhưng vẫn như lệnh mà rút lui, người nước Nguyên thấy Văn Công trọng tín nghĩa mà ra hàng.
(21)  Mục Tử vây nước Cổ mà dốc sức dạy bảo: Mục Tử tức Trung Hàng Mục Tử là tướng của Tấn, đi đánh nước Cổ, có người nước Cổ muốn dâng thành hàng, Mục Tử không chịu, cho rằng: “Tướng giữ thành không được hai lòng, phải dốc hết sức đánh chống chứ không được rút hàng. Nếu ta cho quân địch hàng thì chẳng khác nào dạy cho quân mình cũng như thế”. Bèn gọi tướng giữ thành ra đánh.
(22)  Dã Phu bày kế thì người nước Bỉ theo về: Dã Phu tức Dã Âu Phu, là quan Đại phu của nước Lỗ. Tướng nước Lỗ là Thúc Cung đem quân vây nước Bỉ, không thắng, lại bị thua, đại thần là Quý Bình Tử giận, hạ lệnh nếu gặp người nước Bỉ thì bắt giam. Dã Phu nói: “Không nên. Nếu gặp người nước Bỉ, người rét thì cho áo, người đói thì cho cơm, giúp cả vua của họ, cấp cho người nghèo khó; như thế người nước Bỉ sĩ theo về, họ Nam tự diệt vậy”. Quý Bình Tử nghe theo, quả nhiên người nước Bỉ phản họ Nam mà theo hàng nước Lỗ.
(23)  Nhạc Nghị hoãn đánh thì tiếng cao còn mãi: Nhạc Nghị là tướng nước Yên đem quân đi đánh nước Tề. Tướng nước Tề là Điền Đan giữ thành Tức Mặc dùng kễ hoãn binh, sai người li gián Nhạc Nghị và vua Yên, do đó vua Yên nghi ngờ mà gọi Nhạc Nghị về, bèn đại phá quân Yên, nổi tiếng chư hầu.
(24)  Phủ Hầu: Phủ Hầu là đại thần của Chu Mặc Vương, bấy giờ nhà Chu suy yếu, chư hầu không thần phục, bèn bàn tấu lập hình pháp, ghi rõ ràng đầy đủ các điều mục.
(25)  Nguyên văn câu này là ‘triền miên tam ích chi hữu’. Sách Luận ngữ có câu ‘ích giả tam hữu, hữu trực, hữu lượng, hữu đa văn’; tức là bạn tốt có ba hạng là ngay thẳng, rộng lượng, hiểu biết nhiều. Tạm dịch thoát.
(26)  Uốn nắn, sửa lại những điều không đúng đắn.
(27)  Du Hạ tức trỏ vào hai người Tử Du và Tử Hạ, là những đệ tử nổi danh của Khổng Tử.
(28)  Khi Tào Phi xưng Đế, Tôn Quyền nhận Cửu tích, được bái làm Ngô vương, phong Đăng làm Vương thái tử. Sau này Quyền xưng Đế, Đăng chưa được lập làm Hoàng thái tử. Việc lập danh vị nói đến ở đây là nói chức Vương thái tử của Đăng vậy.
(29)  Nhan Hồi là một trong mười hai đại đệ tử nổi danh của Khổng Tử, rất có tài trí, nhưng chết sớm; còn Chu Tấn, không rõ là ai?
(30)  Tức Hoàng Đế và Lão Tử.
(31)  Mạc phủ là nơi màn trướng của tướng quân.
(32)  Kinh Châu là đất chiến thủ, tiếp giáp với Ngô và Thục, trông coi việc văn thư ở đó tức là trực tiếp thực thi các vấn đề đại sự của quốc gia liên quan đến lân bang, một việc rất hệ trọng, có ảnh hưởng lớn. Có thể thấy rằng Đại nắm giữ chức vụ cực kỳ quan trọng.
(33)  Là Chu Công Đán và Thiệu Công Thích, hai đại thần phò tá giúp Chu Thành Vương dẹp nội loạn, yên định vương nghiệp.
(34)  Là Lục Tốn?
(35)  Liêm Pha là danh tướng nước Triệu thời Chiến Quốc, tám mươi tuổi vẫn lên ngựa ra trận, quân nước Tần kinh sợ.
(36)  Lỗ Tướng là Ý: chỉ Chung Li Ý (钟离意) tự Tử A, người huyện Sơn Âm quận Cối Kê., vào thời Minh Đế của nhà Hán ra làm Lỗ Tướng.
(37)  Kẻ chăn dân: thời xưa xem quan lại ở địa phương là cha mẹ của dân, dân như con đỏ, cần phải dẫn dắt, do đó gọi quan lại là ‘kẻ chăn dân’ vậy.
(38)  Từ Chúng: Từ Chúng (徐众), còn có tên là Từ Huề (徐觽), người thời nhà Tấn, viết lời bình sách Tam quốc chí.
(39)  Nguyên Hiến: Nguyên Hiến () tự Tử Tư, người nước Lỗ thời Xuân thu, là học trò của Khổng Tử.
(40)  Thương Ngô Kiêu: theo sách Hoài Nam Tử ( ) thời Tây Hán chép có người là Thương Ngô Kiêu (苍梧绕), người thời Đông Hán là Cao Dụ () chú thích rằng: “Thương Ngô Kiêu là người cùng thời với Khổng Tử, lấy vợ đẹp lại nhường cho anh của mình”.
(41)  Vĩ Sinh: theo sách Trang Tử () thời Chiến quốc chép: “Có người là Vĩ Sinh () hẹn với con gái ở dưới cầu, con gái không đến, nước sông tràn lên mà không bỏ đi, ôm cột cầu mà chết”.
(42)  Trực Cung: theo sách Lữ thị Xuân thu (⽒春秋) thời Tần chép: “Có người nước Sở là Trực Cung ( ), cha mình trộm dê thì báo lên quan lại, quan lại bắt giữ muốn giết đi. Trực Cung xin chết thay cha. Lúc sắp giết, bảo với quan lại rằng: ‘Cha trộm dê mà con báo lên quan, cũng chẳng phải là người có tín sao? Cha bị giết mà thay cha, cũng chẳng phải là người có hiếu sao? Người có tín và hiếu mà lại bị giết, nước này sắp có kẻ không bị giết chăng’? Vua Sở nghe tin, bèn không giết. Khổng Tử nghe tin ấy, nói: ‘Lạ thay Trực Cung làm điều tín kia, người cha lại cũng được cái tiếng ấy’. Do đó cái tín của Trực Cung chẳng bằng không có tín”.
(43)  Thân Minh: theo sách Thuyết uyển (说苑) thời Tây Hán chép: “Có kẻ sĩ là Thân Minh ( ) ở nhà mà nuôi dưỡng cha, có hiếu nổi tiếng ở nước Sở, nhà vua muốn bái làm Tướng quốc, Thân Minh từ chối không nhận, người cha nói: ‘Nhà vua muốn cho mi làm Tướng quốc, sao mi không nhận vậy’? Thân Minh đáp nói: ‘Bỏ làm người con có hiếu của người cha để làm tôi trung của nhà vua, được sao’? Người cha nói: ‘Nếu lập công ở nước, lập nghĩa ở nhà, mi vui thì ta chẳng buồn vậy. Ta muốn mi làm Tước quốc’. Thân Minh nói: ‘Dạ’. Bèn vào triều đình, vua Sở cho làm Tướng quốc. Được ba năm, Bạch Công làm loạn, giết Tư mã Tử Kì, Thân Minh muốn đến liều chết cùng, người cha ngăn lại nói: ‘Bỏ cha mà chết, như thế được sao’? Thân Minh nói: ‘Nghe nói người làm quan đem thân trao cho vua mà đem lộc trao cho người thân. Nay đã bỏ cha mà thờ vua, há không chết vì nạn ấy sao’? Rồi từ tạ mà đi, nhân đó đem quân vây Bạch Công. Bạch Công bảo Thạch Khất nói: ‘Thân Minh là dũng sĩ trong thiên hạ, nay đem quân vây ta, ta biết làm sao đây’? Thạch Khất nói: ‘Thân Minh là là người con có hiếu của trong thiên hạ, nay nên đến bắt cha hắn làm con tin, Thân Minh nghe tin tất đi đến, nhân đó mà khuyên dụ hắn”. Bạch Công nói: ‘Hay’. Liền đến bắt người cha, cầm lấy mà chống Thân Minh, báo cho Thân Minh rằng: ‘Ngài với ta, ta với ngài đều thờ nước Sở; nếu ngài không giúp ta thì cha ngài tất chết thôi’. Thân Minh khóc lóc mà đáp rằng: ‘Lúc trước ta là người con có hiếu của cha, ngày nay ta là tôi trung của vua. Ta nghe nói rằng ăn lộc của người nào thì chết vì người đó, đã nhận lộc của của vua phải dốc hết tài sức; nay ta đã không còn là người con có hiếu của cha nữa, mà là tôi trung của vua vậy. Ta làm gì để trọn vẹn’! Rồi cầm khiên gõ trống, đến giết Bạch Công, người cha cũng chết. Nhà vua thưởng cho nghìn cân vàng, Thân Minh nói: ‘Ăn lộc của vua mà tránh nạn của vua, thế là không phải tôi trung vậy. Dựng lại nước của vua mà lại giết cha của mình, thế là không phải là người con có hiếu vậy. Hai tiếng ấy không cùng lập, làm không thể trọn cả hai. Nếu mà sống trên đời thì còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ nữa’! Bèn tự sát”.
(44)  Phan Thái thường: chỉ Phan Tuấn ( ) tự Thặng Minh, thời Tôn Quyền làm quan Thái thường.
(45)  Họ Lưu: chỉ cha con Lưu Bị, Lưu Thiện của đất Thục.
(46)  Mã Viện: Mã Viện ( ) tự Văn Uyên, người huyện Mậu Lăng quận Phù Phong, thời vua Quang Vũ nhà Đông Hán đánh quận Giao Chỉ trở về, phong Tân Tức Hầu, thực ấp ba nghìn hộ, nhưng tự cho là lập công ít mà được thưởng nhiều.
(47)  Vũ An Quân: chỉ Bạch Khởi ( ), người huyện Mi nước Tần thời Chiến quốc, thời Chiêu Vương của nước Tần được dùng làm tướng, đánh hãm các thành Yên, Dĩnh của nước Sở, được phong làm Vũ An Quân.
(48)  Tần Vương: chỉ Chiêu Vương của nước Tần.
(49)  Phạm Thư: Phạm Thư ( ), người ấp Đại Lương của nước Ngụy, trốn sang nước Tần, được Chiêu Vương của nước Tần tin dùng làm Tướng quốc, giỏi ăn nói lí lẽ. Sau khi Bạch Khởi phá quân Triệu ở trậnTrường Bình, muốn nhân đó mà đánh đến thành Hàm Đan của nước Triệu, nhưng Phạm Thư xui Chiêu Vương sai Bạch Khởi rút quân, bỏ lỡ thời cơ phá nước Triệu. Do đó Bạch Khởi hiềm khích với Phạm Thư. Phạm Thư lại gièm Bạch Khởi khiến cho Chiêu Vương ban kiếm cho Bạch Khởi phải tự sát.
(50)  Đại Hoàng Đế: chỉ Tôn Quyền, được người Ngô tôn làm Đại Hoàng Đế.
(51)  Lục Thặng tướng: chỉ Lục Tốn ( ) tự Bá Ngôn, thời Tôn Quyền làm Thặng tướng.
(52)  Tôn Sách đến quận: ý nói Tôn Sách vượt sông sang phía đông chiếm lấy quận Cối Kê.
(53)  Nam bộ Đô úy: ý chỉ Cối Kê Nam bộ Đô úy. Quan Đô úy trông coi việc quân của một quận. Bấy giờ quận Cối Kê rộng lớn, nhà Ngô chia thành hai bộ Đông và Nam, mỗi bộ do một quan Đô úy nắm việc quân.
(54)  Sáu huyện: tức sáu huyện Thủy Tân, Tân Định, Lê Dương, Hưu Dương, Y, Thiệp, lập thành quận Tân Đô, trị ở huyện Thủy Tân.
(55)  Tử Lộ hỏi rằng: “Nghe rồi làm ngay được không”? Khổng Tử đáp rằng: “Có cha anh còn đấy”.: theo sách Luận ngữ (论语) chép: “Tử Lộ hỏi rằng: ‘Nghe rồi làm được không’? Khổng Tử đáp nói: ‘Có cha anh còn đấy, sao lại nghe rồi là làm ngay được’”! Ý nói có cha anh thì không nên tự ý làm gì đó mà phải hỏi trước rồi làm.
(56)  Phùng Noãn mua nghĩa, Cấp Ảm cứu chẩn: Phùng Noãn ( ) là một trong những tân khách của Mạnh Thường Quân của nước Tề thời Chiến quốc, Mạnh Thường Quân sai Phùng Noãn đi thu tiền nợ ở ấp Tiết, nhưng Phùng Noãn đến đốt hết giấy ghi nợ rồi về, người dân đều khen ngợi, bảo Mạnh Thường Quân rằng: “Nhà ngài chất đầy vật báu, chó ngựa đầy trong chuồng, gái đẹp đầy phòng. Cái mà nhà ngài ít có là nghĩa mà thôi, ta giúp ngài mua nghĩa vậy”. Cấp Ảm (汲黯) là danh thần thời Vũ Đế của nhà Hán, gặp lúc quận Hà Nội bị cháy, vua sai Ảm đến xem, đi qua quận Hà Nam thấy cảnh khô hạn, hơn nghìn nhà nghèo đói, có người ăn thịt nhau, tự ý cầm cờ tiết sai mở kho thóc của quận Hà Nam để cứu chẩn dân nghèo, vua cho là hiền mà tha tội tự ý ra lệnh.
(57)  Ngô, Cối: chỉ quận Ngô, quận Cối Kê.
(58)  Đại súy: đại súy ( ) hay còn gọi là cừ súy ( ) , nghĩa là thủ lĩnh lớn, thường chỉ thủ lĩnh của người rợ miền núi. Bấy giờ chỉ thủ lĩnh của người Sơn Việt.
(59)  Phường đáp e rằng cừ súy của dân ấy xấu xa không đáng tin dùng, nếu việc tiết lộ thì không dụ được Hưu, xin sai người thân cận mang thư kể bảy điều để dụ Hưu: sau đoạn văn này có chép thư kể bảy điều gửi cho Tào Hưu và bức thư kín gửi về cho Tôn Quyền nhưng người dịch tạm bỏ qua không dịch.
(60)  Tề Vạn Niên: Tề Vạn Niên ( ) là thủ lĩnh của người Đê ở Ung Châu thời Tây Tấn.
(61)  Buổi đầu trung hưng: chỉ thời loạn tám vị Vương, nhà Tấn bị người rợ Hung Nô vào xâm lấn, nhà Tấn phải dời về miền Giang Nam lập nên nhà Đông Tấn.
(62)  Vương Đôn: Vương Đôn ( ), người quận Lang Nha, hành trạng chép trong Tấn thư - Vương Đôn truyện.
(63)  Tống Trọng Tử: tức Tống Trung tự Trọng Tử, người quận Nam Dương, bấy giờ làm quan thuộc của Kinh Châu Mục là Lưu Biểu.
(64)  Quán Đinh Phụ: là người ấp Nhược thời Xuân thu, lúc vua Vũ Vương của nước Sở đánh ấp Nhược, bắt làm tù binh, sau dùng làm Quân sư.
(65)  Bành Trọng Sảng: là người nước Thân thời Xuân thu, lúc vua Văn Vương của nước Sở đánh nước Thân, bắt làm tù binh, sau dùng làm Lệnh doãn.
(66)  Người mọi rợ vùng Ngũ Khê: tức các dân tộc thiểu số ở vùng có ‘năm dòng suối’ ở quận Vũ Lăng. Theo Thủy kinh chú, quận Vũ Lăng có năm  dòng suối là Hùng Khê, Mãn Khê, Dậu Khê, Vũ Khê, Thìn Khê.
(67)  Ẩn Phiên: người Thanh Châu của nước Ngụy, sau đó hàng nước Ngô, lại phản Ngô, bị giết.
(68)  Thái huyền: là một loại sách viết về vũ trụ, âm dương, khoa học huyền bí có từ thời Tây Hán, hay dùng để bói đoán.
(69)  Kiệt, Trụ: Kiệt là vua cuối cùng của nhà Hạ. Trụ là vua cuối cùng của nhà Ân. Đều là vua tàn bạo.
(70)  Ích Châu: ý nói nước Thục, bấy giờ người nước Ngô còn gọi là Tây Châu.
(71)  Tôn Hoằng: đại thần của nước Ngô, thời Tôn Quyền làm Trung thư lệnh, được gửi con nhỏ, sau bị Gia Cát Khác giết.
(72)  Ân Thang: tức vua Thang của nhà Ân.
(73)  Khúc ‘Khang tai’: Thời vua Thuấn nhà Ngu, thiên hạ thái bình, Cao Dao hát khen là “Khang tai”! Do đó người đời sau gọi khúc “Khang tai” để nói về thời thái bình.
(74)  Ta: tức Trần Thọ, người viết sách Tam quốc chí.
(75)  Ngũ tinh: chỉ năm ngôi sao sáng trên bầu trời là sao Thủy ở phía bắc, sao Mộc ở phía đông,
sao Kim ở phía tây, sao Hỏa ở phía nam, sao Thổ ở giữa.
(76)  Long Phùng: là quan giỏi thời vua Kiệt nhà Hạ, vì can gián vua Kiệt đừng ham rượu, gái đẹp mà bị giết.
(77)  Y Chí: còn gọi là Y Doãn, viên quan giỏi giúp vua Thang nhà Ân diệt vua Kiệt nhà Hạ.
(78)  Phù Sai: vua nước Ngô thời Xuân thu, tuy giỏi nhưng tính hung bạo, cuối cùng bị vua nước Việt là Câu Tiễn diệt, mất nước.
(79)  U, Lệ: tức U Vương, Lệ Vương của nhà Chu.
(80)  Cố, Lục, Chu, Trương: tức Cố Ung, Lục Tốn, Chu Hoàn, Trương Ôn, tướng giỏi của Tôn Quyền.
(81)  Cảnh Đế: tức vua Cảnh Đế của nước Ngô là Tôn Hưu.
(82)  Vũ Công: tức vua Vũ Công của nước Vệ thời Xuân thu.
(83)  Tỉ Can, Ngũ Viên: Tỉ Can là con của vua Thái Đinh của nhà Ân, khuyên can vua Trụ mà bị giết. Ngũ Viên là người nước Sở, sau chạy sang nước Ngô làm quan Đại phu cho Phù Sai, can gián Phù Sai không nghe, ban kiếm cho tự vẫn.
(84)  Đại Hoàng đế: ý nói Tôn Quyền.
(85)  Ân Tân: tức vua Trụ của nhà Ân.
(86)  Tần Hoàng: tức Thủy Hoàng Đế của nhà Tần.
(87)  Trải qua đau đớn: ý nói trải qua hình phạt xét hỏi của quan coi ngục.
(88)  Người rợ ở quận Giao Chỉ, Cửu Chân: ý nói đến Triệu Ẩu, người quận Cửu Chân, bấy giờ tụ quân nổi dậy chống quan lại nước Ngô ở Giao Châu.
(89)  Chỗ này nghe chừng rắc rối, nguyên gốc họ của Nghi là Thị (nghĩa là chi nhánh, ngành họ, vốn thuộc bộ Thị), viết gần giống chữ Dân (nghĩa là người dân, cũng thuộc bộ Thị), Khổng Dung đổi họ cho Nghi thành Thị (nghĩa là phải, chữ này thuộc bộ nhật, viết khác hẳn, song đọc vẫn giống như thế.)
(90)  Đây là một điển tích hay. Triệu Giản Tử là đại thần nước Tấn, nổi tiếng thanh cao, uyên bác, có rất nhiều người theo ông. Chu Xá đến gặp, xin làm công việc rất lạ là ở bên cạnh ông để ghi chép các việc ông làm, nhưng là các việc sai sót, Triệu Giản Tử đồng ý. Sau một tháng, Chu Xá trình những việc ghi chép lên, Triệu Giản Tử nổi giận, nhưng nghĩ lại thấy cũng đúng, ông theo đó sửa mình, khắc phục được những cố tật, nên rất trọng Chu Xá. Sau khi Chu Xá mất, ông rất buồn. Một lần ông tổ chức tiệc rượu, mọi người xúm lại ca ngợi ông, ông buồn rầu nói: “Ngàn người vâng dạ, không bằng lời của một kẻ sĩ chân chính.”
(91)  Tôn Quyền dời đô về Kiến Nghiệp ở phía Đông.
(92)  Là chức quan chuyên thẩm tra văn thư của các quan lang. Đây là chức quan của riêng Đông Ngô vào thời Tam Quốc, tuy nhiên ngay trong Tam Quốc Chí, Trần Thọ cũng có bất đồng trong cách gọi chức danh này, ở Tôn Quyền truyện có câu: “Sơ, quyền tín nhậm giáo sự Lã Nhất”, chưa rõ là thế nào?
(93)  Trung tín, dũng cảm, công minh, chính trực.
(94)  Thúc Hướng tức Dương Thiệt Bật, con của Dương Thiệt Chức, là người tài ở nước Tấn thời Xuân Thu, em Dương Thiệt Bật là Dương Thiệt Hồ, thuộc phe đảng của Loan Doanh. Tấn Bình Công đuổi Loan Doanh, lùng bắt phe đảng, Dương Thiệt Hổ làm loạn, bị bắt, cả họ mắc tội. Kỳ Hề bấy giờ đã cáo lão về nghỉ hưu, nghe Dương Thiệt Bật sắp bị hại, liền chống gậy từ nhà đến kinh đô cứu giúp, Dương Thiệt Bật được thoát.
(95)  Chu Vân là quan dưới thời Hán Thành Đế, có lần tấu rằng: “Nay đại thần, trên không phò chúa, dưới không giúp dân. Nếu được ban bảo kiếm, thần nguyện sẽ chém một kẻ nịnh thần để răn chúng”. Vua hỏi chém ai? Vân tâu: “An Xương hầu Trương Vũ”. Vua giận nói: “Tiểu thần phạm thượng, không thể tha được”. Sai lính bắt Vân, Vân trèo lên xà ngang cung điện, xà gẫy. Vân kêu: “Thần mong được xé gan như Tỉ Can khi xưa là mãn nguyện, không biết Thánh Triều rồi sẽ ra sao?” Tả Tướng quân Khánh Kỵ bỏ mũ, rập đầu kêu xin cho Vân, vua tha. Sau các quan đề nghị thay cây xà gẫy, vua phán đừng thay, hãy sửa lại, để ghi nhớ hành động quyết liệt của kẻ trung thần. Chuyện này sau thành điển tích ‘Xé gan bẻ cột.’
(96)  Chỉ Tây Thục.
(97)  Bấy giờ là niên hiệu Xích Ô, năm thứ năm (242 Tây lịch), Tôn Quyền lập Thái tử là Tôn Hoà và Lỗ vương là Tôn Bá.
(98)  Bấy giờ Tôn Quyền ưu ái Lỗ vương Tôn Bá, nên đối xử với Bá cũng như Thái tử, Thị Nghi dù lúc ấy đang giúp Lỗ Vương, nhưng thấy đó là việc không thoả đáng, nên dâng sớ nhắc Quyền là nên đưa Tôn Bá đi xa để làm phên dậu cho quốc gia, và nói rõ là ngôi vị phải có hơn kém, có trên dưới, lại tận trung với Lỗ vương, đưa lời can gián. Thị Nghi thực là trung thần.
(99)  Áo quan gỗ thường, không điêu khắc chạm trổ, tô vẽ hoa văn, như người bình thường.
(100)          Thuật số: thuật bói toán dựa vào lí số, can-chi.
(101)          Phong khí: thuật bói toán nhìn hướng gió thổi.
(102)          Cử hữu đạo: cách tuyển chọn người tài ra làm quan thời xưa; hữu đạo là người có đạo đức theo khuôn phép của triều đình.
(103)          Thái sử lệnh: còn gọi là Thái sử, chức quan trông coi việc xem thiên văn, tính toán lịch pháp và chép sử của triều đình.
(104)          ‘Bát tuấn’: chỉ tám người tài cuối thời Đông Hán là Lí Ưng, Tuân Dục, Đỗ Mật, Vương Sướng, Lưu Hựu, Ngụy Lãng, Triệu Điển, Chu Ngụ.
(105)          Thái phi: Chỉ Ngô phu nhân, vợ của Tôn Kiên và là mẹ của Tôn Sách, Tôn Quyền.
(106)          Thuật cửu cung nhất toán: tên phép tính thời xưa, lập thành chín ô (cung) như ruộng hình chữ tỉnh, số 5 ở giữa, cặp số 6,8 ở hai ô dưới, cặp số 2,4 ở hai ô trên, tương tự sắp xếp theo quy luật là cặp số còn lại 3,7 và 1,9. Ở đây liên quan đến bói toán, chắc còn kết hợp với bát quái, can-chi ứng với từng số.
(107)          Vệ úy Tuấn: chỉ Vệ úy Nghiêm Tuấn, tự Man Tài, người quận Bành Thành, xem ở Ngô thư - Nghiêm Tuấn truyện.
(108)          ‘Bát tuyệt’: chỉ tám người tài hơn người của nước Ngô, như Ngô lục chép ở trên.
(109)          Bì Táo-Tể Thận: Bì Táo là quan Đại phu của nước Trịnh, Tể Thận là quan Đại phu của nước Lỗ thời Xuân thu, đều là người có tài bói toán nổi tiếng.
(110)          Như suy tính của Kinh Phòng, vẫn không tự thoát được tội chết: Kinh Phòng tự Quân Minh thời Tây Hán, giỏi bói Dịch, nhưng luận bàn khác với quan lại, cũng gây hiềm khích, cuối cùng bị giam ngục rồi bị xử chém ở chợ.
(111)          Cá truy: còn gọi là cá đối, thường sống ở vùng ven biển nước lợ, thân tròn dài, vảy màu bạc.
(112)          Củ khương: khương, là một tên gọi khác củ gừng, vị cay, dùng để nêm trong nấu ăn, ngày xưa từng trồng ở đất Thục.
(113)          ‘Sâu trùng mùa hạ không biết đến băng giá’: sâu trùng ở mùa hạ không biết đến cái băng giá của mùa đông; ý chỉ những người hiểu biết nông cạn, như ếch ngồi đáy giếng, không biết cái rộng lớn bên ngoài.

QUYỂN 19 - GIA CÁT ĐẰNG NHỊ TÔN BỘC DƯƠNG TRUYỆN
Gia Cát Khác, Đằng Dận, Tôn Tuấn, Tôn Lâm, Bộc Dương Hưng

GIA CÁT KHÁC TRUYỆN
Gia Cát Khác tự Nguyên Tốn, là con cả của Cẩn vậy. Thuở nhỏ được biết tiếng. “Giang Biểu truyệnviết: Khác trẻ tuổi mà có tài năng, văn vẻ hay đẹp, biện luận ứng đáp, chẳng ai sánh kịp. Quyền gặp mà khen lạ, bảo Cẩn rằng: “Lam Điền sinh ngọc(1), thật chẳng sai vậy”.
Ngô lục” viết: Khác cao bảy thước sáu tấc, râu ria thưa, mũi hếch trán rộng, miệng lớn tiếng to.
Lúc thành người lớn được bái Kị Đô úy, giảng luận đạo học hầu bên Thái tử Đăng với bọn Cố Đàm, Trương Hưu, cùng làm bè bạn. Từ chức Trung thứ tử chuyển làm Tả phụ Đô úy.
Cha Khác là Cẩn mặt dài như mặt con lừa, Tôn Quyền hội gặp bầy tôi, sai người dắt một con lừa vào, thấy con lừa mặt dài, đề chữ ‘Gia Cát Tử Du’. Khác quỳ nói: “Xin cho viết thêm hai chữ”. Nhân đó nghe theo cho viết.
Khác viết tiếp ở dưới là ‘chi lư’(2). Người ngồi cười vui, lại ban con lừa cho Khác. Hôm sai lại gặp, Quyền hỏi Khác rằng: “Cha khanh so với chú(3) khanh ai hiền hơn”? Đáp nói: “Cha thần hiền hơn”. Quyền hỏi vì sao, đáp nói: “Cha thần biết người mà mình theo giúp, chú thần không biết, cho nên hiền hơn”. Quyền lại cười vang, sai Khác mời rượu, đến trước mặt Trương Chiêu, Chiêu trước đã có vẻ say rượu, không chịu uống, nói: “Đấy không phải là cái lễ chăm người già vậy”. Quyền nói: “Khanh có thể làm cho Trương Công chịu phục lại phải uống nữa không”? Khác hỏi Chiêu rằng:
“Ngày xưa Sư Thượng Phủ(4) chín mươi tuổi còn cầm cờ mao lưỡi búa, vẫn chưa cho là già. Ngày nay có việc quân thì Tướng quân ở sau, có hội ăn uống thì Tướng quân ở trước, sao lại nói là không chăm người già”? Chiêu rút cuộc không từ chối, bèn uống hết chén rượu. Sau có sứ giả của nước Thục đến, bầy tôi cùng hội gặp, Quyền bảo sứ giả rằng: “Đấy là Gia Cát Khác giỏi lại ưa cưỡi ngựa, khanh về báo Thặng tướng, tặng cho con ngựa tốt”. Khác nhân đó cảm tạ, Quyền nói: “Ngựa chưa đến mà tạ là sao”? Khác đáp nói: “Nước Thục chỉ là cái chuồng ngựa ngoài cung của Bệ hạ, nay có chiếu ban ân, ngựa tất dắt đến, sao dám không tạ”? Sự lanh lợi của Khác đều đại khái như thế.
Khác biệt truyện viết: Quyền từng mời sứ giả của nước Thục là Phí Y ăn yến, hạ lệnh bầy tôi trước rằng: “Sứ giả đến, ngồi ăn chớ đứng dậy”. Y đến, Quyền đã ăn xong nhưng bầy tôi không đứng dậy. Y cười cợt họ rằng: “Chim phượng hoàng đến đậu, con kì lân còn phải thổ nhả, nhưng con lừa la không biết, cứ ngồi ăn như thế”. Khác đáp rằng: “Trồng cây ngô đồng để đợi chim phượng hoàng, vậy mà có con chim én tự đâu bay đến đậu? Sao không bắn đuổi nó về chỗ cũ”! Vĩ dừng chén cơm, muốn làm bài phú về cây lúa mạch, Khác cũng tự xin làm bài phú về cây gai, đều khen là hay. Quyền từng hỏi Khác rằng: “Gần đây sao lại tự làm vui mà da thịt béo mĩm”? Khác đáp nói: “Thần nghe nói làm cho nhà giàu có, khiến cho đức thấm thân, thần không dám tự làm vui, chỉ là tu thân mà thôi”. Lại hỏi rằng: “Khanh thấy Đằng Dận thế nào”? Khác đáp nói: “Lên điện coi việc thì thần không bằng Dận; bày kế đặt mưu thì Dận không bằng thần”. Khác từng dâng ngựa cho Quyền, cắt tai ngựa trước, Phạm Thận bấy giờ đang ngồi, cợt Khác nói: “Ngựa dẫu là con thú lớn nhưng được trời sinh cho khí lạ. Nay cắt tai nó, há chẳng làm tổn hại đến lòng nhân sao”? Khác đáp nói: “Người mẹ đối với con gái có thể nói là ân tình sâu lắm, vậy mà xuyên tai đeo ngọc, có tổn thương đến lòng nhân sao? Thái tử từng cợt Khác rằng: “Gia Cát Nguyên Tốn ăn được phân ngựa”. Khác nói: “Thái tử ăn được trứng gà”. Quyền nói: “Người ta nói khanh ăn phân ngựa, khanh lại bảo người ta ăn trứng gà là sao”? Khác đáp nói: “Những thứ ấy xuất ra cùng chỗ(5) vậy”. Quyền cười lớn.
“Giang Biểu truyện” viết: Từng có con chim đầu trắng đậu ở trước điện, Quyền nói: “Đấy là chim gì”? Khác nói: “Là chim ‘ông đầu trắng’ vậy”. Trương Chiêu tự thấy trong đám người ngồi thì mình là già nhất, ngờ rằng Khác lấy con chim ấy mà cợt mình, nhân đó nói: “Khác lừa Bệ hạ, chưa từng nghe nói có chim nào tên là ‘ông đầu trắng’, thử sai Khác tìm con chim ‘bà đầu trắng’ xem”. Khác nói: “Có con chim tên là ‘mẹ vẹt’, chưa hẳn là có cặp đôi, thử sai Phụ Ngô Tướng quân(6) tìm con chim tên là ‘bố vẹt’ xem”. Chiêu không đáp được, người ngồi đều cười vui.
Quyền rất khen lạ, muốn đem việc để thử, sai làm Tiết độ. Quan Tiết độ trông coi lương thực của quân đội, sách vở rườm rà, không phải là việc Khác ưa vậy.
“Giang Biểu truyệnviết: Quyền làm Ngô Vương, vừa đặt chức Tiết độ, sai trông coi lương thực của quân đội, không phải là theo phép chế của nhà Hán. Lúc đầu dùng Thị trung Thiên tướng quân Từ Tường, lúc Tường chết lại chọn dùng Khác. Gia Cát Lượng nghe tin Khác thay Tường, gửi thư cho Lục Tốn rằng: “Anh ta tuổi già mà Khác còn trẻ dại, nay sai trông coi lương thực, mà lương thực là thứ cốt yếu của quân đội. Ta dẫu ở xa nhưng vẫn không yên. Mong túc hạ hãy bẩm với bậc chí tôn xin chuyển việc khác đi”. Tốn đem việc ấy báo Quyền, liền chuyển cho Khác lĩnh quân.
Khác cho rằng quận Đan Dương hiểm yếu, dân lại phần nhiều cứng cỏi, dẫu lúc trước phát binh, chỉ dời được dân thường ngoài huyện mà thôi, còn lại ở nơi sâu xa, chẳng bắt hết được, thường tự xin ra đấy làm quan, cho là ba năm thu tất được bốn vạn quân mang giáp. Mọi người bàn luận đều cho  rằng: “Địa thế Đan Dương hiểm trở, liền kề với bốn quận Ngô, Cối Kê, Tân Đô, Bà Dương, vòng quanh mấy nghìn dặm, hang núi liên tiếp, người dân ở nơi sâu tối, chưa từng vào thành ấp, còn các quan lại chỉ đều đem quân ở nơi đồng ruộng, tự giữ ở ven rừng mà thôi. Kẻ trốn tránh đều cùng ẩn náu ở đấy. Núi lại có nhiều đồng thiếc, tự đúc thành áo giáp, tục lại giỏi đánh trận, ưa thích dùng sức, người ở đất trèo núi lội suối, băng đạp rừng gai như cá bơi đầm vực, vượn khỉ trèo cây vậy. Bấy giờ nơi ấy xa lánh, ra làm giặc cướp, hễ đem quân đánh dẹp họ lại ẩn náu, lúc đánh trận thì đến như ong, lúc thua thi như chim bay, từ thời trước đến nay không ràng buộc được vậy”. Đều cho là khó. Cha Khác là Cẩn nghe tin, cũng cho rằng việc ấy khó thành, than nói: “Khác không giúp nhà ta rạng rỡ lại muốn làm cho nhà ta trơ trụi vậy”. Khác gắng bày kể việc tất xong. Quyền bèn bái Khác làm Phủ Việt Tướng quân, lĩnh chức Đan Dương Thái thú, trao ba trăm quân kị cầm kích cứng. Bái xong, sai Khác sắm sửa đồ nghi trượng, đặt trống sáo, cho đem về nhà, bấy giờ ba mươi hai tuổi.
Khác đến phủ, liền gửi thư cho quan lại các thành của bốn quận, sai đều tự giữ bờ cõi, sắp đặt đội ngũ, những người dân theo giáo hóa đều lệnh ở yên. Lại chia sai các tướng đem quân chặn chỗ hiểm, chỉ đóng giữ rào lũy, không ra giao tranh, đợi thóc lúa của địch sắp chín thì tung quân ra gặt hái, khiến cho địch không còn lúa giống. Lúa cũ đã hết, ruộng mới lại không gặt, dân thường ở yên, địch không vào cướp được, do đó dân trên núi đói khốn, dần dần ra hàng. Khác bèn hạ lệnh lại rằng: “Người trên núi bỏ điều ác theo giáo hóa, đều nên vỗ về, dời ra huyện ngoài, không được gây nghi ngờ, nếu có sẽ bắt giam”. Cữu Dương Trưởng là Hồ Kháng bắt được dân hàng là Chu Di, Di vốn là dân ác cũ, vì khốn cùng mà ra hàng, trong lòng mưu phản nghịch, Kháng bắt trói đến phủ. Khác thấy Kháng làm trái lệnh, liền chém để răn chúng, đem tình trạng báo lên. Dân nghe tin Kháng vì có tội bắt người mà bị giết, biết rằng quan lại chỉ muốn bọn mình ra hàng mà thôi, do đó già trẻ dắt nhau mà ra, đến hẹn, số người ra hàng đều như phép cũ. Khác tự thu lấy vạn người, còn lại cấp cho các tướng. Quyền khen công ấy, sai Thượng thư Bộc xạ Tiết Tống đến an ủi quân sĩ. Tống gửi thư cho bọn Khác trước rắng: “Người trong núi cậy chỗ hiểm, không thần phục đã nhiều đời, vỗ về thì như chuột rúc đầu, đánh dẹp thì như sói dòm ngó. Hoàng đế giận dữ, sai tướng đi đánh, trong bày kế thần, ngoài tỏ khí mạnh. Quân không dùng đao, giáp không nhuộm máu mà kẻ ác treo đầu, bè đảng theo hàng, dẹp bằng rừng núi, thu mười vạn quân. Đồng không còn giặc cướp, ấp chẳng còn ác ngược. Đã quét bọn xấu, lại nạp vào quân, cây dại bụi rậm hóa thành cỏ tốt. Ma quái quỷ tà trở thành quân hổ. Dẫu thực là dựa vào uy nghi của nhà nước nhưng cũng do cái tín nghĩa của tướng súy mới dẫn đến như thế vậy. Dẫu kinh
Thi  khen  công  vỗ  về,  kinh  Dịch  ngợi  công  chém  đầu(7),  dẫu Phương, Thiệu của nhà Chu, Vệ, Hoắc của nhà Hán(8), há đủ để bàn? Công hơn người xưa, huân quá thời trước. Vua trên mừng rỡ, ở xa xuýt xoa. Cảm cái phép cũ ‘tứ mẫu’(9), nhớ cái thói xưa ‘ẩm chí’(10), cho nên sai quan lại thân cận đến đón ban thưởng để nêu rõ công to, để tỏ ý an ủi”. Bái Khác làm Uy bắc Tướng quân, phong Đô Hương Hầu. Khác xin đem dân đến làm ruộng ở Lư Giang, Hoản Khẩu, nhân đó đem quân đánh úp huyện Thư, bắt được dân ở đấy rồi về. Lại sai người dò ngóng gần xa, xem xét nơi hiểm yếu, muốn đánh lấy Thọ Xuân, Quyền cho là không được.
Giữa năm Xích Ô, Tư Mã Tuyên Vương của nhà Ngụy mưu muốn đánh Khác, Quyền đang phát binh đến cứu, người bói khí gió cho là không lợi, do đó dời Khác đến đóng đồn ở Sài Tang. Gửi thư cho Thặng tướng Lục Tốn nói: “Dương Kính Thúc bàn luận thẳng thắn, cho rằng ngày nay người tài sạch nhẵn, kẻ giữ đức không có mấy ai, nên chọn lựa tả hữu, lại cho giúp đỡ, trên làm rõ việc nước, dưới sửa nắn lỗi sai. Lại nữa những kẻ tầm thường ưa vu vạ lẫn nhau, khiến cho trở thành thói quen, trong ngày càng tổn hại, do đó người tiến cử không được vui cười. Nghe nói thế mà than thở, thực là đúng vậy. Kẻ ngu này cho rằng bậc quân tử không phòng bị ở một người, học trò trong nhà họ Khổng có đến ba nghìn người, trong đó có bảy mươi hai người giỏi, đến như bảy mươi người bọn Tử Trương, Tử Lộ, Tử Cống là những kẻ có đức chỉ đứng sau bậc thánh mà vẫn có những chỗ kém, Sư thiên lệnh, Do thô lậu(11), không chịu an phận, huống chi những kẻ sau bọn họ mà không có chỗ thiếu sao? Vả lại Trọng Ni không lấy việc không phòng bị nhiều học trò mà cho làm bạn, không lấy chỗ kém của người ta mà bỏ chỗ mạnh của người ta vậy. Lại nữa ngày nay chọn kẻ sĩ, nên rộng rãi hơn thời xưa, vì sao? Ngày nay việc nhiều mà người giỏi lại ít, các quan lại của nhà nước thường phải làm việc vất vả mà chẳng chọn thêm người. Nếu khiến cho tính không gian ác, chí hay gắng sức thì mới thành công, làm tròn chức phận. Nếu với những việc nhỏ vừa hợp, không đủ để làm riêng, đều nên tha thứ, không cần trách phạt. Vả lại kẻ sĩ thực không nên xét hỏi quá kĩ, quá kĩ thì thì người ấy dẫu  là hiền thánh vẫn có chỗ không trọn vẹn, huống chi là tầm thường vào đây? Cho nên nói lấy đạo mà xem người thì khó, dùng người xem người thì dễ, như thế hiền ngu có thể biết. Từ cuối thời nhà Hán đến nay, kẻ sĩ của Trung Quốc như bọn Hứa Tử Tương(12), chỉ lo mỉa mai nhau, có kẻ bị họa, vì đó  mà có vậy, không phải vì có kẻ thù, chỉ là ngồi giữ thân mà không dốc hết lễ nghĩa, không lấy lẽ phải để trách người vậy. Đã không dốc hết lễ nghĩa thì người khác không phục. Lấy lẽ phải để trách người thì người không chịu theo. Trong không phục đức ấy, ngoài không chịu lỗi ấy thì không thể không oán nhau. Một khi oán nhau thì kẻ tiểu nhân được chứa trong đó. Được chứa trong đó thì có lời đồn ‘ba lần truyền đến’, lời gièm vu hại, giằng co tranh giành, dẫu sai người sáng suốt hay người thân cận của mình đến xét xử thì cũng khó mà quyết định được, huống chi là người đã có hiềm khích lại không sáng suốt đây? Cho nên Trương, Trần bị nạn đao máu, Tiêu, Chu không trọn tiếng tốt(13), chỉ là do đấy mà thôi. Nếu không tha lỗi nhỏ mà vẫn xét nét trách phạt thì lâu dần dẫn đến oán giận trong nhà, lúc ấy cả nước không còn kẻ sĩ trọn đức vậy”. Khác biết Tốn vì công ấy mà hiềm mình, cho nên xét rõ lí lẽ mà khen ý tốt vậy. Gặp lúc Tốn chết, Khác chuyển làm Đại Tướng quân, Giả tiết, trú ở Vũ Xương, thay Tốn lĩnh việc Kinh Châu.
Lâu sau, Quyền không vui, mà Thái tử còn nhỏ, liền gọi Khác làm Đại Tướng quân, lĩnh chức Thái tử Thái phó, Trung thư lệnh Tôn Hoằng làm Thiếu phó. Quyền bệnh khốn, gọi Khác, Hoằng cùng Thái thường Đằng Dận, Tướng quân Lữ Cứ, Thị trung Tôn Tuấn đến trao việc sau này.
Ngô thư” viết: “Quyền bệnh nặng, bàn việc trao gửi. Bấy giờ bầy tôi đều cùng chú ý đến Khác, lại nữa Tôn Tuấn nói Khác có tài chính trị, nên trao cho việc lớn. Quyền lại hiềm Khác cứng cỏi quá tất tự chuyên quyền, nhưng Tuấn lại cho rằng triều đình ngày nay chẳng ai bằng Khác, bèn cố giữ ý ấy, do đó liền gọi Khác đến. Sau đó dẫn bọn Khác đến bên chỗ nằm, nhận chiếu dưới giường, Quyền hạ chiếu rằng: “Ta bệnh nặng rồi, sợ không được gặp nhau nữa, các việc đều giao cho các ngươi”. Khác than thở khóc lóc nói: “Chúng thần đều nhận ân dày, sẽ vâng lệnh đến chết, mong Bệ hạ giữ yên tinh thần, giảm suy nghĩ, không cần lo lắng việc khác”. Quyền hạ chiếu cho các quan lại đem mọi việc giao cho Khác, được xét việc giết phạt trước rồi mới báo lên. Lại dựng phủ quán, đặt quân vệ, được nhận lễ nghi bái tạ của trăm quan, đều có phẩm trật. Còn các hình pháp không tiện lợi thì sắp xếp báo lên, Quyền liền nghe theo. Trong ngoài yên ổn, lòng người vui mừng.
Hôm sau, Quyền hoăng. Hoằng vốn không hợp với Khác, sợ bị Khác trị tội, nhân lúc Quyền chết muốn lén sửa chiếu mà trừ diệt Khác. Tuấn đem việc ấy báo cho Khác, Khác mời Hoằng đến bàn việc, trong lúc ngồi mà giết Hoằng. Lại mặc áo phát tang, gửi thư cho em là Công An Đốc là Dung  rằng:
“Hôm nay là ngày kỉ mùi mùng sáu tháng mười, Đại Hành Hoàng Đế(14) rời khỏi vạn nước, bầy tôi lớn nhỏ chẳng ai không đau thương. Đến như anh em cha con ta cùng nhận ân lớn, không chỉ là bầy tôi tầm thường cũng buồn bã, tim gan chia cắt mà thôi. Hoàng Thái tử đến ngày đinh dậu lên ngôi vị, vui buồn cùng lúc, không biết làm sao. Thân ta chịu mệnh gửi gắm, giúp đỡ vua nhỏ, tự mình xét đoán, tài năng không rộng lớn mà phải chịu mệnh gửi gắm như Chu Công, lo làm nhục cái tiếng tăm Thặng tướng giúp nhà Hán, sợ làm tổn cái sáng suốt Tiên đế gửi mệnh, cho nên thẹn thùng sợ hãi, lo nghĩ vạn bề. Vả lại dân ghét vua trên, động thì bị dò xét, thời này dễ sao? Nay dựa vào dáng dấp ngu tối mà được giữ chức Tể tướng, nạn nhiều mà trí ít, việc nặng mà mưu cạn, ai là răng môi? Gần đây vào thời nhà Hán, Yên, Cái kết mưu, có sự biến của Thượng Quan(15), ta đem thân làm quan lớn, dám vui mừng được sao? Lại còn em ở đấy chống nhau kèn cựa với giặc, ngày nay nên chỉnh đốn quân mã, khích lệ tướng sĩ, phòng bị hơn thường, phải nghĩ vào nơi vạn chết, không mong một sống để báo đền triều đình, không làm nhục tổ tiên của mi. Lại nữa các tướng phòng giữ các chỗ, vân sợ quân giặc nghe biết lỗi sai, dòm ngó lén cướp. Các quan lại ở biên giới cấp dưới đều phải ràng buộc, các tướng lĩnh bộ khúc không được tự ý trao cho quân sĩ, không được bỏ chỗ đến chịu tang. Dẫu trong lòng đau buồn, nhưng vì nghĩa công mà quên lợi riêng, Bá Li đánh rợ Nhung vẫn phải làm trái lễ(16), không chỉ là lỗi nhỏ. Lấy người thân mà giúp người ngoài là điều răn rõ ràng của người xưa vậy”. Khác liền được bái làm Thái phó. Do đó bỏ dò xét, bãi Hiệu quan, tha kẻ trốn tránh, giảm tô thuế, ban phát ân trạch, dân chẳng ai không vui. Khác hễ ra vào, trăm họ ngoái cổ, nhìn xem hình dạng.
Lúc trước vào năm Hoàng Long thứ nhất, Quyền dời đô đến Kiến Nghiệp, đến năm thứ hai thì đắp đê Đông Hưng để ngăn nước hồ. Sau lại đánh miền Hoài Nam, thua vì dùng thuyền ở đấy, do đó bỏ mà không sửa lại. Khác hẹn đến tháng mười năm Kiến Hưng thứ nhất hội quân ở Đông Hưng, lại đắp đê lớn, đắp hai tòa thành liền núi ở hai phía trái phải, đều đặt nghìn quân ở đấy, sai Toàn Đoan, Lưu Lược giữ thành rồi dẫn quân đi về. Nhà Ngụy thấy quân Ngô vào bờ cõi của mình, thẹn vì bị lấn, sai bọn Đại tướng Hồ Tuân, Gia Cát Đản đem bảy vạn quân muốn vây đánh hai thành, mưu phá vỡ đê. Khác phát bốn vạn quân ngày đêm đến cứu. Bọn Tuân lệnh các quân làm cầu nổi vượt sông, bày trận ở trên đê, chia quân đánh hai thành. Thành ở chỗ cao, không đánh hạ được. Khác sai Tướng quân Lưu Tán, Lữ Cứ, Đường Tư, Đinh Phụng làm Tiền bộ, bấy giờ tuyết lạnh, các tướng Ngụy đang uống rượu, thấy quân của bọn Tán ít lại cởi bỏ áo giáp, không cầm mâu kích, chỉ đội mũ cầm đao khiên, cởi trần đi dọc bờ đê, bèn cười lớn chê giễu, không lo chỉnh đốn quân sĩ. Quân Ngô lên bờ, lại gõ trống vang lừng, quân Ngụy kinh hãi tan chạy, tranh qua cầu nổi, cầu đứt gãy, tự rơi xuống nước, lại giẫm đạp nhau. Bọn An Lạc Thái thú Hoàn Gia cùng lúc bị chìm, chết đến mấy vạn người. Tướng đã phản trước đây là Hàn Tống làm Tiền quân đốc của nhà Ngụy cũng bị chém. Bắt thu xe ngựa, trâu, lừa, la đến mấy nghìn con, đồ vũ khí chất đống, rồi rút quân về. Tiến phong Khác làm Dương Đô Hầu, bái thêm chức Kinh Châu Mục, trông coi việc quân trong ngoài, ban một trăm cân vàng, hai trăm con ngựa, vạn thất gấm lụa.
Khác bèn có ý khinh địch, thắng trận vào tháng mười hai, đến mùa xuân năm sau lại muốn phát quân.
Hán Tấn Xuân thu” viết: Khác sai Tư mã Lí Hành đến nước Thục khuyên Khương Duy cùng dấy binh, nói: “Người xưa có nói thánh nhân không thể tạo ra thời cơ, nhưng thời cơ đến cũng không nên làm mất. Ngày nay chính trị của nước địch rơi vào tay kẻ khác, trong ngoài nghi ngờ, quân thua ở ngoài mà dân oán ở trong, từ thời Tào Tháo đến nay, thế nguy vong của nước địch chưa có khi nào như ngày nay vậy. Nếu phát đại quân đánh chúng, cho quân Ngô đánh phía đông, quân Thục đánh phía tây. Nếu bên ấy cứu phía tây thì phía đông tất trống trải, coi trọng phía đông thì trống trải phía tây, đem quân khỏe mạnh đến đánh kẻ địch trống trải thì tất phá được vậy”. Duy nghe theo.
Các đại thần cho rằng mấy lần phát quân mỏi mệt, cùng nói lời can ngăn, Khác không nghe. Trung tán Đại phu Tưởng Diên vẫn cố giữ ý, bị đuổi ra. Khác lại viết bài luận dụ ý mọi người rằng: “Trời không có hai Mặt trời, nước không có hai vua, xưa nay chưa có bậc làm vua nào mà không nghĩ việc thu gom thiên hạ và truyền lộc cho đời sau vậy. Ngày xưa vào thời Chiến quốc, chư hầu tự dựa vào quân mạnh đất rộng, cứu giúp lẫn nhau, như thế cũng đủ để truyền cho đời sau, chẳng ai gây nguy được. Tự cho là thỏa ý, sợ bị vất vả, khiến cho nước Tần ngày càng lớn mạnh, rồi đến chiếm cả các nước ấy. Đấy là thế chắc chắn vậy. Gần đây Lưu Cảnh Thăng ở tại Kinh Châu có mười vạn quân, lương thực chất cao như núi, không chịu nhân lúc Tào Tháo còn yếu mà dốc sức tranh giành đi mà lại ngồi xem hắn lớn mạnh lên chiếm diệt họ Viên. Sau khi dựng đô ở miền bắc, Tháo đem ba mươi vạn quân hướng đến Kinh Châu, bấy giờ dẫu là người khôn ngoan cũng không thể bày kế chống, do đó con nhỏ của Cảnh Thăng phải trói tay xin hàng, trở thành người tù. Hễ là nước địch muốn chiếm nhau thì thù hận muốn diệt nhau vậy. Có thù mà kéo dài nó thì họa không tại mình mà là tại người, không thể không nghĩ kĩ vậy. Ngày xưa Ngũ Tử Tư(17) nói: ‘Nước Việt được mười năm sinh sôi, mười năm được dạy dỗ, nếu hơn hai mươi năm thì nước Ngô sẽ bị thành cái ao thôi”! Phù Sai tự cậy lớn mạnh, nghe nói thế mà coi thường, do đó giết Tử Tư mà không có ý phòng bị nước Việt, đến khi thua trận mới hối tiếc, há còn kịp không? Nước Việt nhỏ hơn nước Ngô mà vẫn là mối họa của nước Ngô, huống chi là nước lớn mạnh đây? Ngày xưa nước Tần chỉ có đất Quan Tây(18) mà thôi mà vẫn chiếm được sáu nước, nay giặc đều có được đất chín châu xưa là Tần, Triệu, Hàn, Ngụy, Yên, Tề, đất gồm cả xứ có nhiều giáp ngựa, kẻ sĩ nhiều như rừng rậm. Ngày nay đem nhà Ngụy sánh với nước Tần thời xưa, đất đai rộng hơn gấp đôi, lấy nước Ngô và nước Thục sánh với sáu nước thời xưa lại không bằng một nửa. Nhưng ngày mà địch được bên ấy chỉ là vì quân sĩ bên ấy vừa sạch nhẵn hơn cả thời Tào Tháo và kẻ nối nghiệp chưa được lớn mạnh cả vậy. Ngày nay là lúc giặc suy yếu chưa lớn lên, lại thêm Tư Mã Ý giết Vương Lăng trước, sau đó tự tổn hại, con còn nhỏ dại mà nắm giữ quyền lớn, dẫu là kẻ sĩ có mưu kế cũng chưa dùng được. Ngày nên nên đánh đi, là vận xấu của địch vậy. Thánh nhân gấp theo thời cơ, đúng là bảo về ngày nay vậy. Nếu thuận lòng người, giữ ý cầu yên, chỉ cậy vào cái hiểm của sông lớn để truyền cho đời sau, không bàn về cái trước sau của nhà Ngụy, lại đem việc ngày nay mà gửi cho đời sau, đấy là điều mà ta thường than thở vậy. Từ nay về sau phải chăm nuôi dưỡng, ngày nay dân bên ấy năm tháng càng đông nhiều, nhưng vẫn còn yếu, chưa thể dùng được vậy. Nếu sau mấy chục năm nữa thì dân bên ấy tất nhiều mạnh gấp đôi ngày nay, mà nhà nước ta đang có quân mạnh thì lúc ấy sẽ trống trơn, chỉ có dùng quân ấy mới định được việc. Nếu không sớm dùng quân mạnh ấy, ngồi yên mà đợi già, lại sau mấy chục năm nữa sẽ tổn khoảng một nửa, lại thấy con em không đủ nói đến. Nếu quân địch đông thêm mà quân ta tổn một nửa thì dẫu có Y, Quản giúp mưu cũng chẳng làm gì được. Nay có người không biết nghĩ kĩ thì hẳn là cho đấy là xa vời. Nhưng nhân lúc tai họa chưa đến mà suy xét trước đi, đấy là sửa nắm cái xa vời của mọi người vậy. Đến lúc nạn đến mới chau mày, dẫu là người có trí cũng chẳng giúp được. Đấy cũng là cái nạn xưa nay, không chỉ một thời mà thôi. Ngày xưa vua Ngô cho rằng ý của Ngũ Viên là xa vời, cho nên nạn đến thì không cứu được. Lưu Cảnh Thăng không nghĩ đến việc mười năm sau, cho nên không truyền được lộc cho con cháu. Nay Khác không có cái tài của tôi thần
giỏi mà nhận chức lớn của Tiêu, Hoắc(19) ở Đại Ngô, trí giống mọi người, suy nghĩ chẳng sâu xa. Nếu không theo thời cơ ngày nay để giúp nước mở đất, ngồi đợi tuổi già, khiến cho giặc thù càng mạnh, lúc ấy muốn đâm cổ để tạ lỗi còn làm được không? Nay nghe nói mọi người vì trăm họ còn nghèo, muốn cho nghỉ ngơi, đấy là không biết lo nghĩ cái họa lớn mà lại yêu thích cái công nhỏ vậy. Ngày xưa Hán Cao Tổ may lắm mới có được đất Tam Tần(20), sao lại không đóng cửa giữ chỗ hiểm để tự vui vẻ, đừng ra đánh Sở để tránh thân bị thương tật, để cho giáp trụ sinh chấy rận, tướng sĩ khỏi bị khốn khổ, há lại chịu xông vào đao nhọn mà quên đi yên ổn sao? Nếu lo nghĩ lâu dài thì không trọn hai đường vậy! Ta hễ xem việc Kinh Hàm đem mưu tiến đánh để khuyên Công Tôn Thuật(21), gần đây lại xem biểu của chú ruột bày kế tranh giành với quân giặc mà chưa từng than thở cảm khái vậy. Sớm tối trằn trọc, lo nghĩ đến ngư thế, cho nên liều bày tỏ ý ngu để mong đạt được hai, ba ý ngọn của người quân tử. Nếu một sớm chết đi, chí mưu không thành, cũng khiến cho người đời biết được nỗi lo của ta, được người đời sau suy nghĩ”. Mọi người đều muốn từ chối lời lẽ trong bài luận ấy của Khác nhưng chẳng ai dám nói.
Đan Dương Thái thú Niếp Hữu vốn thân thiện với Khác, gửi thư can ngăn Khác rằng: “Đại Hành Hoàng Đế vốn có kế ngăn chặn miền Quan Đông nhưng kế chưa kịp làm. Nay ông giúp dựng nghiệp lớn, tạo thành chí của Tiên đế, giặc xa tự chịu phục, tướng sĩ cậy dựa uy đức, dấn thân vâng mệnh, một sớm lập công khác thường, há không phải là nhờ phúc của xã tắc anh linh tông miếu chăng! Nay nên tạm đóng quân nuôi thế mạnh, đợi cơ hội mà phát động. Nhân có thế ấy mà muốn phát binh, thời cơ chưa đúng vậy. Vả lại nên tin nghe ý của nhiều người, nếu theo ý riêng thì sẽ không yên”. Khác  đọc bài luận xong, viết thư đáp Hữu nói: “Túc hạ dẫu có lí chắc chắn nhưng chưa thấy được vận lớn. Xét kĩ bài luận ấy, có thể làm cho hiểu rõ vậy”. Do đó làm trái ý mọi người, phát hai mươi vạn đại quân của châu quận, trăm họ nhiễu động, bắt đầu làm mất lòng người.
Ý Khác muốn diễu oai đến miền Hoài Nam, bắt cướp người dân, nhưng các tướng có người can ngăn rằng: “Nay đem quân vào sâu, dân ở biên giới tất dắt nhau chạy xa, sợ rằng quân mệt mà lập công ít, không bằng chỉ vây Tân Thành, nếu Tân Thành khốn thì quân cứu tất đến, đến thì đánh chúng, có thể thắng lớn”. Khác theo kế ấy, đem quân về vây Tân Thành, vây đánh liên ngày, không hạ được thành. Quân sĩ mệt mỏi, nhân trời nóng mà uống nước, đái tháo nặng nề, mắc bệnh quá nửa, nằm chết đầy đất. Các tướng các trại cũng tự nói là mắc bệnh rất nhiều, Khác cho là dối, muốn chém họ, từ đấy chẳng ai dám nói. Khác trong lòng thì chẳng có kế gì, ngoài thì thẹn vì không hạ được thành, buồn giận tỏ rõ ra mặt. Tướng quân Chu Dị có chỗ đúng sai, Khác giận, liền đoạt lấy quân sĩ của hắn. Đô úy Sái Lâm mấy lần bày kế, không lại không dùng, liền ruổi ngựa trốn sang quân Ngụy. Nhà Ngụy biết quân sĩ mỏi mệt, liền đem quân đến cứu. Khác dẫn quân đi về. Quân sĩ bệnh tật, vứt qua đầy đường, có kẻ đâm đầu xuống hang hố, có kẻ lại bị bắt cướp, sống chết buồn giận, lớn nhỏ kêu than. Vậy mà Khác vẫn tỉnh bơ tự vui. Ra đóng quân ở bến sông một tháng, mưu lập đồn điền ở Tầm Dương, hạ chiếu gọi về, bèn thong thả rút quân. Từ đấy quân dân thất vọng, tiếng oán thán nổi lên vậy.
Tháng tám mùa thu, quân về. Đem quân kéo theo đi vào phủ quán. Liền gọi Trung thư lệnh Tôn Mặc đến, lớn tiếng mắng rằng: “Các ngươi sao dám tự tiện soạn chiếu”? Mặc sợ hãi mà nói ra, nhân đó xưng bệnh về nhà. Sau khi Khác đi đánh về, các quan lại sắp đặt trong phủ đều bị bãi, rồi chọn lại, coi xét thêm nghiêm ngặt, trách phạt nhiều người, người ta đứng xem, không ai không lo sợ. Lại thay đổi quân vệ, dùng người thân của mình, rồi lệnh sửa quân, muốn hướng đến miền Thanh Châu, Từ Châu.
Tôn Tuấn nhân lúc nhiều người dân oán giận, quân sĩ nghi ngờ, muốn phát biến bắt lấy Khác, bày mưu với Lượng, đặt mâm rượu mời Khác đến. Khác buổi đêm nằm nghỉ, tinh thần rối bời, cả đêm không ngủ. Trời sáng, muốn tắm rửa, ngửi thấy mùi nước tanh hôi, người hầu trao áo, áo quần cũng hôi. Khác lấy làm gở, muốn thay nước đổi áo mà vẫn hôi như lúc đầu, do đó lòng buồn bã không vui. Xong rồi đi ra, có con chó ngậm chặt lấy áo Khác, Khác nói: “Chó không muốn ta đi sao”? Lại ngồi, chốc lát lại đứng dậy, con chó lại ngậm chặt áo, Khác sai người đi theo đuổi chó, rồi lên xe.
Lúc trước, Khác sắp đánh miền Hoài Nam, có người con mất cha mẹ mặc áo tang vào trong cửa nhà Khác, người hầu bẩm báo, sai ra ngoài hỏi xem, người con ấy nói: “Không tự biết là đi vào”. Bấy giờ quân vệ trong ngoài cũng đều không thấy, mọi người đều cho là lạ. Sau khi đi đánh, có một cây cột chống ở chỗ mà Khác ngồi bị gãy. Từ Tân Thành ra đến Đông Hưng, có cầu vồng trắng xuất hiện trên thuyền, trở về bái lễ ở Tưởng Lăng, cầu vồng trắng lại vòng quanh xe.
Đến lúc sắp gặp, dừng xe ngoài cửa cung, Tuấn đã ém quân ở trong trướng, sợ Khác không chịu vào thì việc lộ, bèn tự ra gặp Khác nói: “Nếu thân thể của sứ quân không khỏe, hãy tự thong thả, Tuấn sẽ bẩm báo vua trên”. Muốn xét thử ý Khác. Khác đáp rằng: “Tự ta vào được”. Bọn Tán kị Thường thị Trương Ước, Chu Ân ngầm gửi thư cho Khác nói: “Ngày nay sắp đặt khác thường, ngờ có việc khác”. Khác xem thư rồi bỏ ra. Chưa ra khỏi cửa, gặp Thái thường Đằng Dận, Khác nói: “Bụng ta đau, không muốn vào”. Dận không biết là Tuấn có kế gian, bảo Khác nói: “Ông từ lúc đi đánh về chưa gặp, nay Nhà vua bày rượu mời ông, ông đã đến cửa, nên gắp sức đến”. Khác do dự rồi quay lại, đeo kiếm lên điện, tạ Lượng, về chỗ ngồi. Bày rượu, Khác ngờ vẫn chưa uống, Tuấn nhân đó nói: “Sứ quân mắc bệnh chưa khỏi, nên thường uống rượu thuốc, tự sẽ đỡ được”. Lòng Khác mới yên, uống riêng rượu mà mình mang theo.
Ngô lịch” viết: Trương Ước, Chu Ân ngầm báo cho Khác, Khác đem việc này hỏi Đằng Dận, Dận khuyên Khác ra về, Khác nói: “Tuấn là đứa trẻ ranh thì làm được chi! Chỉ sợ là nhân lúc uống rượu mà hại người thôi”. Bèn đem rượu thuốc vào.
Tôn Thịnh nói: “Khác thân thiết với Dận, bọn Ước báo tin, đấy là việc lớn khác thường mới bảo cho Dận biết, cùng mưu an nguy, nhưng tính Khác
cứng cỏi, lại vốn coi thường Tuấn, không tự ti, cho nên đi vào, há phải là do Dận khuyên vào mà dẫn đến bị họa sao? Ngô lịch chép đúng vậy”.
Uống mấy chén rượu, Lượng vào trong, Tuấn đứng dậy đi vào nhà xí, cởi áo dài, mặc áo ngắn, ra nói: “Có chiếu bắt Gia Cát Khác”!
Ngô lục” viết: Tuấn đọc chiếu giương đao bắt Khác, Lượng đứng dậy nói: “Không phải ta ra lênh! Không phải ta ra lệnh”! Vú nuôi dẫn Lượng vào trong.
Ngô lịch” viết: Tuấn dẫn Lượng vào trước rồi mới đọc chiếu. So với truyện gốc thì giống nhau.
Thần là Tùng Chi cho rằng: Tuấn muốn đọc chiếu đúng như truyện gốc và “Ngô lịchchép, không như lời mà “Ngô lụcchép vậy.
Khác kinh hoàng đứng dậy, chưa kịp rút kiếm ra thì đao của Tuấn đã xông tới. Trương Ước ở bên cạnh chém Tuấn, cắt thương tay trái, Tuấn lại vung tay chém Ước, cắt đứt tay phải. Các quân võ vệ đều xông lên điện, Tuấn nói: “Kẻ bị bắt là Khác, nay đã chết”. Đều sai bỏ đao, lại rửa nền đất uống rượu tiếp.
Sưu thần kí viết: Khác vào, đã bị giết, vợ Khác ở nhà, hỏi người hầu gái nói: “Mi sao lại có máu hôi”? Người hầu gái nói: “Không có”. Chốc lát thêm nồng nặc, lại hỏi người hầu gái rằng: “Con mắt mi nhìn xem, có gì khác thường”? Người hầu gái bỗng nhiên nhảy lên, đập đầu vào cột nhà, nắm tay nghiến rằng mà nói rằng: “Gia Cát Công sẽ bị Tôn Tuấn giết”! Do đó lớn nhỏ biết Khác chết rồi, lúc ấy quan quân vừa đến.
Chí lâm viết: Lúc trước Quyền bệnh nặng, gọi Khác phụ chính. Sắp đến, Đại Tư mã Lữ Đại răn bảo Khác rằng: “Thời nay nhiều nạn, ông hễ làm việc phải suy nghĩ kĩ càng”. Khác đáp nói: “Ngày xưa Quý Văn Tử(22) ba lần nghĩ mới làm, Phu Tử(23) nói: ‘Nghĩ trước mới được’. Nay ông  khuyên Khác nghĩ kĩ, làm rõ việc của Khác vậy”. Đại không đáp nữa, người bấy giờ đều cho là lời sai. Ngu Hi nói: “Trao gửi thiên hạ là việc rất lớn vậy, cho bầy tôi mượn oai của vua là việc rất khó vậy, có cả hai cái kia mà trông coi muôn việc, người gánh vác nổi xưa nay ít có vậy. Nếu không chọn nạp mưu của mọi người, không xét hỏi cả người nơi đồng cỏ, không nhún nhường nghe lời người khác, ý chí không vững thì chẳng lập nên công danh, công lao chẳng rõ vậy. Huống chi Lữ Hầu Quốc(24) là bậc già cả, mưu nghĩ sâu xa, vẫn đem việc suy nghĩ kĩ càng mà răn bảo Khác, vậy mà lại đem việc chối bỏ, đấy là cái lỗi sót của Nguyên Tốn, mưu lược chẳng đủ vậy. Nếu theo cái lẽ suy nghĩ kín kẽ ấy, hỏi rộng các việc thời ấy, nghe lời hay gấp như sấm động, theo lời can ngăn nhanh như gió giật, há bị mất đầu ở triều đường, chết bởi tay của thằng ác ranh sao? Người đời khen cái tài đối đáp của Khác, ý hay đáng xem, vậy mà chê cười Lữ Hầu Quốc không đáp được mà cho là thô lậu, không nghĩ đến cái trước sau của mối an nguy, đấy là vui thích vẻ tươi đẹp của hoa nở mùa xuân mà quên đi vị ngon lành của quả chín mùa thu vậy. Ngày xưa người Ngụy đánh nước Thục, người Thục chống lại, chí vững tóc rủ, sáu quân rối loạn, quân mã mặc giáp, thư từ qua lại, Phí Y bấy giờ làm tướng đầu, nắm việc lớn của nước, vậy mà vẫn chơi cờ  với Lai Mẫn, ý chẳng mảy may. Mẫn bảo riêng Y rằng: ‘Ông tất uy hiếp được giặc vậy’. Nói lời sáng suốt mưu định ở trong, vẻ mặt không lo lắng ở ngoài, Huống Trường Ninh(25) cho rằng đấy là người quân tử lúc gặp việc vẫn lo sợ, chỉ bày mưu hay mới thành công. Vả lại Thục là nước nhỏ bé, lại đang chống địch mạnh, vậy mà vẫn mưu tính, chỉ đánh và giữ, sao lại có thừa ý kiêu căng, thản nhiên không lo lắng như thế? Là vì người ấy có tính rộng rãi, không xét nét cái nhỏ nhặt, rút cuộc bị kẻ hàng là Quách Tu (26) hại chết, há chẳng phải có điềm báo từ việc ấy mà rước họa ấy ư”? Ngày trước ta nghe nói việc Trường Ninh xem xét Văn Vĩ, ngày nay ta xem Nguyên Tốn làm trái ý của Lữ Hầu, hai việc ấy giống nhau, cho nên cùng chép vào, có thể làm tấm gương răn bảo người đời sau, mãi làm gương cho đời vậy.
Trước đây, trẻ con hát rằng: “Gia Cát Khác mặc áo cỏ tranh buộc đai câu lạc, sao lại chọn đến ở gò Thành Tử”. Gò Thành Tử là tiếng lóng của gò Thạch Tử vậy. Phía nam thành Kiến Nghiệp có một cái gò dài, tên là gò Thạch Tử, táng vào đấy vậy. Đai câu lạc là đai cỏ có thiêu gắn, người đời gọi là đai câu lạc. Quả nhiên Khác bị lấy cỏ tranh bọc thây và lấy đai cỏ buộc eo rồi táng ở gò ấy.
Ngô lục viết: Bấy giờ Khác năm mươi mốt tuổi.
Con cả của Khác là Xước, làm Kị Đô úy, vì giao kết với Lỗ Vương,
Quyền lệnh trao cho Khác, sai phải sửa lỗi, Khác bắt uống rượu độc chết. Con giữa là Tủng, làm Trường thủy Hiệu úy. Con út là Kiến, làm Bộ binh Hiệu úy. Nghe tin Khác bị giết, lấy xe chở mẹ mà chạy trốn. Tuấn sai Kị đốc Lưu Thặng đuổi chém Tủng ở Bạch Đô. Kiến vượt được sông, muốn chạy lên phía bắc vào nước Ngụy, đi được mấy chục dặm, bị quân đuổi bắt được. Cháu ngoại của Khác là bọn Đô hương hầu Trương Chấn và Thị trung Chu Ân đều bị giết ba họ.
Lúc trước, Tủng nhiều lần can ngăn Khác, Khác không nghe, thường lo bị mắc vạ. Lúc chết, người quận Lâm Hoài là Tang Quân dâng biểu xin nhặt thây táng Khác rằng: “Thần nghe nói sấm động điện xẹt không đầy một sớm, gió lớn thổi giật ít khi suốt ngày, mà vẫn tiếp đó có mây mưa, nhân đó mà thấm ướt vạn vật, đấy là cái oai của trời đất, không thể tỏ ra suốt ngày vậy. Cái giận của Đế vương cũng không nên quá sức hết ý. Thần là kẻ ngu liều, không biết kiêng húy, dám liều với cái tội giết chóc để đón gặp lúc mưa gió. Cúi nghĩ Thái phó Gia Cát Khác ngày trước nối cái tráng liệt truyền lại của tổ tiên, các chú bác gặp buổi vận nhà Hán đã hết, chín châu lập thế chân vạc, chia thành ba miền, cùng tỏ sức lực, gây dựng cơ nghiệp. Truyền đến đời Khác, lớn lên giúp nhà nước, nuôi dưỡng giáo hóa, nổi tiếng là anh hoa, làm việc theo phép, ý phản không có, Tiên đế trao cho chức nặng của Y, Chu(27), gửi lại các việc trăm bề. Tính Khác vốn cứng cỏi, kiêu căng lấn lướt người khác, không thể kính giữ vật thần, vỗ yên trong nước, chỉ dấy quân mạnh, chưa một năm mà ba lần phát binh, quân dân tổn hại, kho tàng trống rỗng, chuyên quyền phép nước, tự ý đổi chuyển, mượn hình pháp để điều động  dân chúng, lớn nhỏ đều lo sợ. Thị trung Vũ vệ Tướng quân Đô Hương hầu cùng nhận chiếu gửi gắm của Tiên đế, thấy hắn ác nghịch ngày càng nhiều thêm, lo sợ tông miếu lay động, xã tắc nghiêng đổ, do đó tỏ rõ oai giận, chí ngút trời xanh, mưu kế hơn cả thần minh, trí dũng quá cả Kinh, Niếp, thân cầm đao sắc, chém Khác ở triều đường, công vượt Chu Khư, huân quá Đông Mâu. Kẻ ác của nhà nước, một sớm bị diệt trừ, đem đầu thị chúng, sáu quân vui mừng, nhật nguyệt thêm sáng, gió bụi không bay, đấy thực là oai thần của tông miếu, người giỏi của nhà trời vậy. Nay đầu ba cha con Khác đã treo ở phố chợ, mấy vạn người đứng xem, tiếng mắng thành gió. Hình phạt của nhà nước, không gì là không lừng lẫy, già cả trẻ nhỏ, không ai không thấy. Lòng người hơn cả vạn vật, hết vui thì sinh buồn, thấy Khác quý hiển, trên đời chẳng có hai, thân nắm chức cao trong vòng mấy năm, lại lại bị giết chóc không khác gì cầm thú, người xem lại động lòng, không khỏi cảm thương! Vả lại người ta đã chết, nằm cùng đất đai, nên đào huyệt chôn cất, chẳng gây hại được nữa. Mong triều đình noi theo lẽ thường của trời đất, chẳng nên giận mãi, sai quan dân thôn ấp cũ của Khác, thu lấy áo của quân lính, ban cho quan tài rộng ba tấc. Ngày xưa Hạng Tịch vẫn được nhận đất chôn táng, Hàn Tín còn được ân thu liệm, đấy là tiếng tốt thần minh của Hán Cao Tổ vậy. Mong Bệ hạ học theo lòng nhân ái của Tam Hoàng, tỏ ý thương xót, khiến cho ân trạch của nhà nước ban đến cả tấm xương khô chết chóc, phát ân không ngừng để nêu cao tiếng tăm đến phương xa, khuyến khích thiên hạ, há chẳng tốt lành sao! Ngày xưa Loan Bố liều mình liệm thây của Bành Việt(28), thần rất cảm khái, không muốn cầu xin Nhà vua để chuốc lấy cái tiếng phóng túng ấy, chỉ mong không bị giết là may lắm rồi. Nay thần không dám nói ra ý ngu để lay động ân trời, kính tự tay viết thư, liều chết bày tỏ, xin triều đình xét kĩ”. Do đó Lượng, Tuấn cho quan lại cũ của Khác thu liệm thây, rồi táng ở gò Thạch Tử.
Giang Biểu truyện viết: Trong bầy tôi có người xin lập bia ghi công lao của Khác, Bác sĩ Thịnh Xung cho rằng không nên. Tôn Hưu nói: “Giữa mùa hạ xuất quân, quân sĩ hao tổn, không có công chút ít, không thể nói là có tài; chịu mệnh lớn gửi gắm mà chết bởi tay của thằng ranh, không thể coi là có trí. Lời Xung phải đấy”. Bèn thôi.
Lúc trước, Khác rút quân về, Niếp Hữu biết Khác sắp thua, gửi thư cho Đằng Dận rằng: “Người ta gặp buổi lớn mạnh còn nhổ vớt được núi sông. Nếu một sớm suy yếu thì lòng người vạn mối, nói ra thì đau xót”. Sau khi Khác bị giết, Tôn Tuấn hiềm Hữu, muốn cho làm Uất Lâm Thái thú, Hữu lo lắng phát bệnh mà chết. Hữu tự Văn Đễ, người quận Dự Chương vậy.
Ngô lục viết: Hữu có tài ăn nói, thủa nhỏ làm quan trong huyện. Ngu Phiên bị đày đến Giao Châu, quan Huyện lệnh sai Hữu đưa tiễn, Phiên nói chuyện cùng mà cho là lạ, gửi thư cho Dự Chương Thái thú Tạ Phỉ, khuyên dùng làm Công tào. Huyện bấy giờ đã có quan Công tào, Phỉ thấy vậy, hỏi mọi người rằng: “Quan huyện là Niếp Hữu có gánh vác được việc không”? Đáp nói: “Người này chỉ là viên quan nhỏ trong huyện mà thôi, chỉ nên cho làm quan giúp việc”. Phỉ nói: “Người bàn cho rằng nên làm Công tào, các ông sao lại hiềm”. Bèn cho làm Công tào, sai đến kinh, Gia Cát Khác kết bạn với Hữu. Bấy giờ người bàn là Cố Tử Mặc, Cố Tử Trực(29) không ai  chịu mang chứa, Khác muốn đưa Hữu về nhà mình ở, do đó mà nổi danh. Sau đó làm tướng đi đánh quận Đam Nhĩ, trở về bái làm Đan Dương Thái thú, chết vào năm ba mươi ba tuổi.
  
ĐẰNG DẬN TRUYỆN
Đằng Dận tự Thặng Tự, người huyện Kịch quận Bắc Hải. Bác ruột là Đam, cha là Trụ, là thông gia cùng châu huyện với Lưu Do, vì thời nhiễu loạn mà vượt sông nương dựa Do. Tôn Quyền làm Xa kị Tướng quân, bái Đam làm Hữu Tư mã, vì rộng lượng mà được khen, chết sớm, không có con nối dõi. Trụ giỏi văn thư, Quyền lấy lễ tân khách mà đối đãi, thư từ việc quân còn sơ sài, thường sai sửa chữa thêm bớt câu từ, cũng không may mệnh ngắn. Quyền làm Ngô Vương, ghi nhớ ân cũ, phong Dận làm Đô đình hầu. Thuở nhỏ có khí tiết, dáng vẻ đẹp đẽ.
Ngô thư viết: Dận năm mười hai tuổi cô lẻ một mình, biết tu thân sửa đức. Là người trong sạch, uy nghi đáng xem. Hễ vào ngày đầu năm chầu mừng thì chỉnh trang, các đại thần nhìn thấy, chẳng ai không khen ngợi. Lúc thành người lớn lấy công chúa. Năm ba mươi tuổi, rời nhà đi làm Đan Dương Thái thú, dời đến Ngô Quận, Cối Kê, ở đấy được khen.
Ngô thư viết: Dận dâng biểu bày kể việc nên làm, đến như các việc giúp dân, phần nhiều giúp đỡ. Quyền vì việc của Dận mà thêm thưởng cho công chúa, thường đến thăm hỏi. Dận hễ nghe lời kiện tụng, xét đoán tội trạng, nghe lời nói và xem sắc mặt, các việc rất có tình lí. Có người bị oan nói lời đau thương, đối mặt người ấy mà khóc lóc.
Năm Thái Nguyên thứ nhất, Quyền ốm nặng, đến kinh, ở lại làm Thái thường, nhận chiếu lệnh phụ chính với bọn Gia Cát Khác. Tôn Lượng lên ngôi, bái thêm chức Vệ tướng quân.
Khác đem hết quân đánh Ngụy, Dận can ngăn Khác rằng: “Ông gặp lúc có tang, chịu mệnh gửi gắm của Y, Hoắc, vào thì vỗ yên triều đình, ra thì bẻ gãy địch mạnh, danh tiếng lẫy lừng cả nước, thiên hạ chẳng ai không chấn động, lòng của trăm họ chỉ mong ngài dừng nghỉ. Nay bỗng nhiên sau cuộc đánh dẹp mỏi mệt lại muốn đem quân ra đánh, dân mỏi sức mệt, nước kia lại phòng giữ trước. Nếu đánh thành mà không thắng, cũng chẳng thu được lợi gì thì vứt công lao trước kia mà chuốc lấy trách phạt sau này vậy. Không bằng xếp giáp dừng quân, xem kẽ hở mà phát động. Vả lại việc quân là việc lớn, việc lụy đến dân, nếu dân không vui thì ông há được yên sao? Khác nói: “Mọi người đều nói là không nên, đều không biết tính kế, chỉ mong yên thân mà thôi, như ông lại cho là như vậy, ta còn mong vào ai? Bên kia Tào Phương u tối, chính trị rơi vào tay kẻ khác, dân chúng bên kia vốn đã có lòng chia lìa. Nay ta dựa vào cái giàu có của nhà nước, cậy vào cái oai thắng trận, thì đến đánh sao chẳng thắng được”! Lấy Dận làm Đô hạ đốc, ở lại coi việc kinh đô. Dận sáng ngày tiếp đãi tân khách, buổi đêm xem xét văn thư, có khi đến hửng sáng vẫn không ngủ.
 Ngô thư viết: Dận được tin dùng thêm trọng, tiếp đãi kẻ sĩ thêm chăm chỉ, các biểu tấy thư sớ đều tự xét ý, không giao cho kẻ dưới.

TÔN TẪN TRUYỆN
Tôn Tuấn tự Tử Viễn, là cháu của em Tôn Kiên là Tĩnh vậy. Tĩnh sinh Hạo. Hạo sinh Cung, làm Tán kị Thị lang. Cung sinh Tuấn. Thuở nhỏ giỏi bắn cung cưỡi ngựa, cứng cỏi dũng cảm. Cuối thời Tôn Quyền, chuyển Vũ vệ Đô úy, làm Thị trung. Quyền sắp hoăng, trao lệnh phụ chính, lĩnh chức Vũ vệ Tướng quân, trông coi quân cấm vệ, phong Đô hương hầu. Sau khi giết Gia Cát Khác, chuyển làm Thặng tướng Đại Tướng quân, trông coi việc quân trong ngoài, Giả tiết, tiến phong Phú Xuân Hầu. Đằng Dận vì là bố vợ của con Khác là Tủng nên xin từ chức, Tuấn nói: “Tội của Cổn không gán cho Vũ(30) Đằng Hầu sao bị”? Tuấn, Dận dẫu trong lòng không hòa hợp nhưng ngoài mặt lại bao chứa, tiến phong Dận làm Cao Mật Hầu, cùng làm việc như trước.
Ngô lục viết: Bầy tôi dâng tấu cùng bầu Tuấn làm Thái úy, bàn bái Dận làm Tư đồ. Bấy giờ có kẻ nịnh bợ Tuấn, cho rằng chính thống nên trao cho họ hàng của Nhà vua, nếu Dận làm Tư đồ thì tiếng tăm đã nổi, lại thêm lòng người theo phục, không nên cho làm. Rồi dâng biểu lấy Tuấn làm Thặng tướng, lại không đặt quan Ngự sử Đại phu, kẻ sĩ đều thất vọng.
Tuấn vốn không có danh tiếng, kiêu ngạo hiểm ác, ưa dùng hình phạt, trăm họ im lặng. Lại gian dâm với cung nữ, tư thông với công chúa Lỗ Ban. Năm Ngũ Phượng thứ nhất, Ngô Hầu là Anh mưu giết Tuấn, việc phát lộ, Anh bị giết.
Năm thứ hai, tướng Ngụy là Quán Khâu Kiệm, Văn Khâm đem quân phản, đánh với quân Ngụy ở Lạc Gia. Tuấn đem Phiếu kị Tướng quân Lữ Cứ, Tả Tướng quân Lưu Tán đánh úp thành Thọ Xuân, gặp lúc Khâm thua hàng, rút quân về.
Ngô thư viết: Lưu Tán tự Chính Minh, người huyện Trường Sơn quận Cối Kê. Thuở trẻ làm quan trong quận, đánh với tướng giặc Khăn vàng là Ngô Hoàn, tự tay chém được Hoàn. Một chân Tán bị thương, bèn bị co quắp không duỗi thẳng được. Nhưng tính cứng mạnh, ưa đọc sách binh pháp và sách sử, thường đọc truyện về các tướng giỏi đánh trận thời xưa, hễ đọc xong lại than, nhân đó gọi người thân cận đến bảo rằng: “Ngày nay thiên hạ nhiễu loạn, anh hùng cùng nổi dậy, xem qua các thời trước, người tầm thường không được phú quý, mà chân ta bị co quắp ở tại nhà cửa, sống chết cũng không khác. Nay muốn cắt bỏ chân ta, may ra không chết mà chân lại duỗi thẳng được, mong lại được dùng, nếu chết thì thôi vậy”. Người thân đều can ngăn. Chốc lát, Tán bèn lấy dao tự cắt gân chân, máu chảy đầm đìa, tắt thở hồi lâu. Sau đó người nhà kinh hãi, cũng đã thấy dậy, bèn duỗi thẳng được chân. Vết thương ngày càng lành, rồi đi bộ được. Lăng Thống nghe tin, xin cùng gặp nhau, rất khen là lạ, bèn dâng biểu tiến cử Tán, rút cuộc được dùng. Nhiều lần lập công, dần dần chuyển làm Đồn kị Hiệu úy. Bấy giờ chính trị thiếu sót, thường hay can gián, nói lời thẳng thắn mà không a dua, Quyền do đó mà e ngại. Gia Cát Khác đánh ở Đông Hưng, lấy Tán làm Tiền bộ, hợp đánh xông vào trận trước, đại phá quân Ngụy, chuyển làm Tả Tướng quân. Tôn Tuấn đánh miền Hoài Nam, trao Giả tiết cho Tán, bái Tả hộ quân. Chưa đến Thọ Xuân, trên đường phát bệnh, Tuấn sai Tán đem đồ xe nặng về trước. Tướng Ngụy là Tưởng Ban đem bốn nghìn quân kị bộ đuổi theo Tán. Tán bệnh khốn, không thể điều trận, biết tất thua, bèn cởi ấn thao mũ lọng trao cho con em đưa về, nói: “Ta tự làm tướng, phá tướng chặt cờ, chưa từng bị thua. Nay bệnh nặng quân mỏi, quân ít khó địch, các ngươi mau về đi, nếu cùng chết thì không có ích gì cho nhà nước, chỉ riêng ta quyết đánh mà thôi”. Con em không chịu vâng lệnh, rút đao muốn chém Tán, nhưng lại đi. Lúc trước, Tán làm tướng, gặp địch thì hô to về phía địch trước, rồi hòa theo tiếng hô mà hát, tả hữu đều ứng theo, rồi mới đến đánh, đánh không trận nào không thắng. Lúc thua, than rằng: “Ta đánh có phép thường. Nay bệnh nặng như thế, là mệnh trời vậy”. Bèn bị hại, bấy giờ bảy mươi ba tuổi, quân sĩ đều thương xót. Hai con là Lược, Bình đều làm Đại tướng.
Năm đó, sứ giả của nước Thục đếm thăm, bọn Tướng quân Tôn Nghi, Tôn Thiệu, Tôn Di muốn nhân đó mà giết Tuấn. Việc lộ, bọn Nghi tự sát, mấy chục người khác và công chúa Lỗ Dục đều bị giết.
Tuấn muốn đắp thành ở Quảng Lăng, bầy tôi biết không đắp thành được, nhưng sợ không ai dám nói. Chỉ có Đằng Dận can ngăn, cũng không theo, do đó làm chẳng thành.
Năm sau đó, Văn Khâm khuyên Tuấn đánh Ngụy, Tuấn sai Khâm và Lữ Cứ, Xa kị Tướng quân Lưu Toản, Trấn nam Tướng quân Chu Dị, Tiền tướng quân Đường Tư từ Giang Đô vào miền Hoài, Tứđể mưu đánh miền Thanh, Từ. Tuấn cùng Dận đến Thạch Đầu, nhân đóđưa tiễn, lĩnh hơn trăm người đi theo vào trại của Cứ. Cứ giữ quân nghiêm ngặt, Tuấn sợ Cứ, trong lòng đau đáu, buổi đêm nằm mơ bị Gia Cát Khác đánh, sợ hãi phát bệnh mà chết, bấy giờ ba mươi tám tuổi, đem việc sau này giao cho Sâm.

TÔN SÂM TRUYỆN
Tôn Sâm tự Tử Thông, là người cùng tổ với Tuấn. Cha Sâm là Xước làm An dân Đô úy. Sâm lúc đầu làm Thiên Tướng quân, lúc Tuấn chết, làm Thị trung Vũ vệ Tướng quân, lĩnh các việc quân trong ngoài, thay nắm việc triều đình. Lữ Cứ nghe tin ấy thì cả giận, cùng đề tên với các tướng lại tiến cử Đằng Dận làm Thặng tướng, Sâm lại cho Dận làm Đại Tư mã, thay Lữ Đại đóng giữ Vũ Xương. Cứ dẫn quân về, sai người báo cho Dận, muốn cùng phế Sâm. Sâm nghe tin, sai anh họ là Hổ đem quân chặn Cứ ở Giang Đô, lệnh Trung sứ sai bọn Văn Khâm, Lưu Toản, Đường Tư hợp quân đánh Cứ, sai Thị trung Tướng quân Hoa Dung, Trung thư thặng Đinh Yến lệnh Dận bắt Cứ, cùng dụ ý Dận nên nhanh bỏ đi. Dận tự thấy họa đến, nhân đó bắt giữ Dung, Yến, đem quân tự giữ, gọi Điển quân Dương Sùng, Tướng quân Tôn Tư, báo việc Sâm gây loạn, ép bọn Dung viết thư về kể tội Sâm. Sâm không nghe, tấu nói Dận làm phản, phong tước cho Tướng quân Lưu Thặng, sai đem quân kị nhanh vây đánh Dận. Dận lại cướp bọn Dung đi, sai viết chiếu giả phát binh. Bọn Dung không nghe, Dận liền giết họ.
Văn sĩ truyện viết: Hoa Dung tự Đức Nhuy, người huyện Giang Đô quận Quảng Lăng. Ông nội tránh loạn ở dưới núi Nhị huyện Sơn Âm. Bấy giờ Hoàng Tượng cũng ẩn náu ở huyện Sơn Âm, người quận Ngô là Trương Ôn đến chỗ Tượng theo học, muốn đến chỗ ấy. Có người bảo Ôn rằng: “Dưới núi Nhị có Hoa Đức Nhuy dẫu tuổi trẻ mà có đức cao chí lớn, đến học được”. Ôn bèn đến nhà Dung, sớm tối giảng luận. Chốc lâu, Ôn làm Tuyển bộ Thượng thư, bèn tiến cử Dung làm Thái tử Thứ tử, do đó được hiển đạt nổi danh. Con Dung là Tư, làm Hoàng môn lang, cùng bị hại với Dung. Con út là Đàm, có tài biện luận, thời nhà Tấn làm Bí thư giám.
Dận giữ vẻ mặt không đổi, cười nói như thường, có người khuyên Dận dẫn quân đến cửa Thương Long, tướng sĩ thấy Dận đi ra thì tất bỏ Sâm đến chỗ Dận vậy. Bấy giờ đã nửa đêm, Dận đợi hẹn với Cứ, lại khó đem quân vào cung, bèn hạ lệnh bộ khúc ở yên, nói là Lữ Hầu đã ở gần bên đường, do đó đều vì Dận mà chết cả không có ai thoát được. Bấy giờ có gió lớn, hửng sáng, Cứ không đến, quân Sâm hội tụ, bèn giết Dận và mấy chục tướng sĩ, giết ba họ của Dận.
Thần là Tùng Chi cho rằng: Tôn Sâm dẫu ác nghịch, nhưng vốn không có hiềm khích với Đằng Dận, nếu Dận tạm theo ý của Sâm, ra giữ Vũ Xương thì há bị cái họa giết chóc kia? Lúc ấy vẫn giữ được tốt lành. Vậy mà phạm lấn vào chỗ nguy, tự chuốc lấy di diệt. Thương thay!
Sâm chuyển làm Đại Tướng quân, Giả tiết, phong Vĩnh Ninh Hầu, dựa vào chức cao, nhiều lần vô lễ. Lúc trước, em họ của Tuấn là Lự từng cùng mưu giết Gia Cát Khác, Tuấn rất coi trọng, cho làm đến Hữu Tướng quân, Vô Nạn Đốc, trao cho ô lọng, coi việc ở các cung. Sâm đối đãi Lự bạc bẽo hơn thời Tuấn, do đó Lự giận, cùng Tướng quân Vương Đôn mưu giết Sâm. Sâm giết Đôn, Lự uống thuốc độc chết.
Đại tướng quân Gia Cát Đản của nhà Ngụy đem quân trong thành Thọ Xuân làm phản, giữ thành xin hàng. Vua Ngô sai bọn Văn Khâm, Đường Tư, Toàn Đoan, Toàn Dịch đem ba vạn quân cứu Đản. Trấn nam Tướng quân Vương Cơ của nhà Ngụy vây Đản, bọn Khâm phá vây vào thành. Nhà Ngụy tăng thêm hơn hai mươi vạn quân trong ngoài đến vây Đản. Chu Dị đem ba vạn quân đóng giữ ở thành An Phong, giúp oai cho Văn Khâm. Duyện Châu Thứ sử Trần Thái của nhà Ngụy chống Dị ở Dương Uyên, Dị thua chạy, bị Thái đuổi đánh, chết thương hai nghìn người. Do đó Sâm phát đại quân ra đóng đồn ở Hoạch Lí, lại sai Dị đem bọn Tướng quân Đinh Phụng, Lê Phỉ dẫn năm vạn quân đánh quân Ngụy, để đồ xe nặng ở Đô Lục. Dị đóng đồn ở Lê Tương, sai bọn Tướng quân Nhậm Độ, Trương Chấn chọn sáu nghìn quân dũng cảm đến phía tây đồn sáu dặm mà làm cầu nổi nhân buổi đêm vượt sông, dựng trại hình nửa mặt trăng, bị Giám quân Thạch Bao của nhà Ngụy đánh phá, liền rút quân về chỗ cao. Dị lại làm rương xe đến vây thành Ngũ Mộc. Bao, Thái đánh Dị, Dị thua rút về, nhưng Thái Sơn Thái thú Hồ Liệt của nhà Ngụy lại đem năm nghìn quân mượn đường đánh úp Đô Lục, đốt sạch đồ lương thực của Dị. Sâm trao ba vạn quân cho Dị, sai liều chết mà đánh, Dị không theo, Sâm chém Dị ở Hoạch Lí, lại sai em là Ân đến cứu, gặp lúc Đản thua trận bèn rút quân về. Sâm đã không cứu được Đản, lại làm tổn hại quân sĩ, tự giết tướng giỏi, chẳng ai không oán giận.
Sâm thấy Tôn Lượng bắt đầu tự thân nắm chính trị, nhiều chỗ xét hỏi, rất lo sợ. Về đến Kiến Nghiệp, xưng bệnh không chầu, dựng nhà ở phía nam cầu Chu Tước, sai em là Uy viễn Tướng quân Cứ vào cung Thương Long làm Túc vệ, em là Vũ vệ Tướng quân Ân, Thiên Tướng quân Cán, Trường thủy Hiệu úy Khải chia ra đóng giữ các trại, muốn để chuyên quyền tự giữ. Trong lòng Lượng hiềm Sâm, lại nghĩ Lỗ Dục bị giết không rõ tội, trách giận Hổ Lâm Đốc là Chu Hùng, em Hùng là Ngoại bộ đốc Chu Tổn theo giúp Tôn Tuấn, bèn sai Đinh Phụng giết Hùng ở Hổ Lâm, giết Tổn ở Kiến Nghiệp. Sâm vào can ngăn nhưng không nghe, Lượng lại cùng công chúa Lỗ Ban, Thái thường Toàn Thượng, Tướng quân Lưu Thặng bàn mưu giết Sâm. Vợ Lượng là con gái của chị họ Sâm vậy, đem mưu ấy báo cho Sâm. Sâm đem quân buổi đêm đánh úp Toàn Thượng, sai em là Ân giết Lưu Thặng ở ngoài cửa Thương Long, rồi vây cung.
Giang Biểu truyện viết: Lượng gọi con của Toàn Thượng là Hoàng môn Thị lang Kỉ ngầm mưu rằng: “Tôn Sâm chuyên quyền, khinh thường cả
trẫm. Ta đã hạ lệnh, sai người nhanh lên bờ cứu giúp bọn Đường Tư, lại ở lại trong hồ, không lên bờ một bước. Lại đổ lỗi cho Chu Dị, tựý giết công thần, không dâng biểu lên trước. Dựng nhà ở phía nam cầu, không chịu vào chầu. Đấy là phóng túng, không biết sợ ai nữa, không nên để lâu. Nay theo phép mà bắt lấy hắn, cha khanh là Trung quân Đô đốc, sai chỉnh đốn quân sĩ nghiêm ngặt, trẫm sẽ tự ra đến cầu, đem quân túc vệ hổ bôn, hai mặt trái phải cùng lúc vây đánh hắn. Viết chiếu thư sai các bộ tướng của Sâm phải giải tán, không được phát động, lúc đó sẽ tự bắt được. Khanh đi ra chỉ nên giữ kín mà thôi. Khanh nên báo cho cha khanh, chớ báo cho mẹ khanh biết được, đàn bà đã không hiểu việc lớn, vả lại là chị họ của Sâm, không hẹn mà tiết lộ, sẽ làm làm hỏng việc của trẫm vậy”. Kỉ vâng chiếu, đến báo cho Thượng, Thượng không lo xa, báo cho mẹ Kỉ biết. Mẹ Kỉ liền sai người  ngầm báo cho Sâm. Đêm đó Sâm phát binh phế Lượng, vừa sáng, quân đã vây cung. Lượng cả giận, trèo lên ngựa, cầm roi đeo cung muốn ra, nói: “Ta là người nối nghiệp của Đại Hoàng Đế, giữ ngôi đã năm năm, ai dám không theo phục”? Thị trung cận thần và vú nuôi cùng giằng tay ngăn lại, bèn không ra được, khóc lóc ba ngày không ăn, mắng vợ mình rằng: “Cha ngươi ngu dốt, làm hỏng việc lớn của ta rồi”! Lại gọi Kỉ đến, Kỉ nói: “Cha thần vâng chiếu mà không cẩn thận, làm hỏng việc của chúa thượng, thần không còn mặt mũi nào nhìn người khác nữa”! Rồi tự sát. Tôn Thịnh nói: “ Tôn Lượng truyện chép Lượng thuở nhỏ thông minh, việc tất mưu với Kỉ trước mà không mưu với vợ trước là biết vậy. Giang Biểu truyện chép là việc tiết lộ là có nguyên nhân, như việc này là rõ rồi”.
Sai Quang lộc huân Mạnh Tông tuyên cáo việc phế Lượng ở tông miếu, gọi bầy tôi đến bàn rằng: “Vua nhỏ xấu xa hôn loạn, không nên giữ ngôi cao, nay ở tông miếu báo cho Tiên đế việc phế bỏ, các ông nếu không vừa ý hãy bàn bạc”. Đều sợ hãi, nói: “Xin theo lệnh của Tướng quân”. Sâm sai Trung thư lang Lí Sùng đoạt lấy ấn thao của Lượng, đem tội của Lượng ban bố khắp gần xa. Thượng thư Hoàn Di không chịu tin tội ấy, Sâm giận mà giết đi.
Hán Tấn Xuân thu viết: Di là em của Thượng thư lệnh Hoàn Giai vậy.
Ngô lục viết: Tấn Vũ Đế hỏi Tiết Oánh về các danh thần của nước Ngô, Oánh đáp khen Di có khí tiết trung trinh.
Điển quân Thi Chính khuyên Sâm lập Lang Nha Vương là Hưu, Sâm nghe theo, sai Tông chính Khải tấu thư cho Hưu rằng: “Sâm có tài kém, được trao chức lớn, không giúp đỡđược Nhà vua. Từ tháng trước đến nay, nhều lần chọn lập, người thân cận là Lưu Thặng vui mừng tỏ ra mặt, phát con gái của quan dân, chọn người đẹp trong số đó đưa vào trong cung, lấy con em binh lính từ mười tám tuổi trở lên được hơn ba nghìn người, luyện tập ở trong vườn, suốt ngày qua đêm, lớn nhỏ hô gọi, chặt mâu khích trong kho hơn năm nghìn chiếc để làm đồ vui chơi. Chu Cứ là bầy tôi cũ của Tiên đế, con trai là Hùng, Tổn đều nối nghiệp của cha, dốc hết lòng trung nghĩa, ngày xưa giết Chu công chúa, từ đấy bị Toàn công chúa ghét, Đế lại không xét rõ gốc ngọn mà giết Hùng, Tổn, can ngăn cũng chẳng nghe, bầy tôi chẳng ai không than thở. Đế làm hơn ba trăm chiếc thuyền ở trong cung, lấy vàng bạc gắn vào, sai thầy mo ngày đêm hát múa không dứt. Thái thường Toàn Thượng nhiều đời nhận ân trên lại không giúp đỡ họ hàng tông thất, khiến cho bọn Toàn Đoan bỏ thành hàng Ngụy. Chức quan của Thượng rất trọng, lại không có một lời can ngăn Nhà vua, lại còn qua lại với kẻ địch, khiến cho nhà nước lung lay, thần sợ sẽ làm xã tắc nghiêng đổ, bèn xét theo phép cũ, tụ họp các Vương hầu, liền hẹn đến ngày hai mươi bảy tháng này bắt Thượng, chém Thặng, giáng Đế làm Cối Kê Vương, sai Khải vâng lệnh đến đón. Trăm quan ngưỡng trông, đợi ở bên đường”.
Sâm sai tướng quân Tôn Đam đem Lượng đến nước(31), đày Thượng đến Linh Lăng, dời công chúa đến Dự Chương. Ý Sâm càng phóng túng, thường ép lấn dân chúng, rồi đốt miếu thờ Ngũ Tử Tư ở đầu cầu lớn, lại phá chùa Phù Đồ, (32) chém người theo đạo. Hưu đã lên ngôi, xưng là bầy tôi nơi đồng cỏ đến cửa khuyết dâng thư rằng: “Thần cúi mình tự xét, tài chẳng giúp được nước, vì làm tim bụng mà được nắm chức cao nhất của bậc bầy tôi, tổn hại vua trên, tội lỗi rõ rệt, thiếu sót càng thêm, ngày đêm sợ hãi. Thần nghe nói trời cũng giúp người thành thật, tất cứu đỡ người có đức, cho nên U, Lệ(33) làm mất đức thì Chu Tuyên Vương(34) trung hưng, Bệ hạ có đức thánh nên được nối nghiệp chính thống, được tôi hiền giúp đỡ, nêu cao tiếng đẹp. Dẫu thời vua Nghiêu cường thịnh vẫn tìm cầu Tắc, Tiết(35) giúp đỡ để nêu rõ đức sáng vậy. Người xưa có nói: ‘Nếu có tài thì làm quan, không có tài thì thôi’. Thần tài hèn sức kém, không có ích cho chính trị, kính dâng ấn thao tiết việt, lui về ruộng vườn để tránh con đường làm quan của người hiền”. Hưu dẫn đến an ủi, lại hạ chiếu rằng: “Trẫm không có đức, giữ ở phên dậu, kịp gặp thời mà được công khanh trăm quan đến đón, về nối giữ tông miếu. Trẫm thêm lo lắng, như lội vực sâu. Đại Tướng quân giữ lòng trung trinh, cứu nguy dẹp nạn, vỗ yên xã tắc, công huân hiển hách. Ngày xưa Hán Hiếu Tuyên lên ngôi, Hoắc Quang(36) được vinh hiển, khen đức thưởng công, đấy là lẽ thường xưa nay vậy. Nay lấy Đại tướng quân làm Thặng tướng, Kinh Châu Mục, thực ấp năm huyện”. Ân làm Ngự sử Đại phu, Vệ Tướng quân, Cứ làm Hữu Tướng quân, đều phong Huyện hầu. Cán làm Tạp hiệu Tướng quân, phong Đình hầu, Khải cũng phong làm Đình hầu. Một nhà Sâm có năm người phong tước hầu, đều nắm quân cấm vệ, quyền lấn cả vua, từ khi nước Ngô lập nước đến đấy chưa từng có vậy.
Sâm đem trâu rượu đến chỗ Hưu, Hưu không nhận, đem đến chỗ Tả Tướng quân Trương Bố; mời rượu, nói lời oán giận rằng: “Lúc trước vào thời phế vua nhỏ, nhiều lần khuyên ta tự làm lấy. Ta thấy Bệ hạ hiền minh cho nên đón về. Nếu Đế không có ta thì chẳng được lập, nay dâng lễ vật lại từ chối, đấy là coi ta không khác gì bầy tôi tầm thường vậy, ta sẽ mưu đổi vua thôi”. Bố đem lời ấy báo cho Hưu, Hưu mang giận trong lòng, nhưng sợ có biến, nhiều lần ban thưởng, lại bái thêm Ân làm Thị trung, cùng Sâm coi xét văn thư. Có kẻ báo việc Sâm mang lòng oán giận vua trên mà muốn làm phản, Sâm bắt người ấy trao cho Sâm, Sâm giết người ấy, do đó thêm lo, nhân lúc Mạnh Tông xin ra đóng giữ Vũ Xương, Hưu hứa cho, đem hết hơn vạn quân tinh nhuệ trong các trại cho Tông, sai đều luyện tập, đồ vũ khí trong kho tàng mà mình giữ đều cấp cho dùng.
Ngô lịch viết: Sâm xin làm Trung thư lưỡng lang, trông coi việc các quân Kinh Châu, người chủ việc tấu là không nên cho quan Trung thư ra ngoài, Hưu vẫn nghe lời Sâm, những thứ mà Sâm xin làm đều cấp cho cả.
Tướng quân Ngụy Mạc khuyên Hưu rằng: “Sâm ở ngoài tất có biến”. Vũ vệ sĩ là Thi Sóc lại báo nói: “Sâm có ý làm phản”. Hưu ngầm hỏi Trương Bố, Bố và Đinh Phụng mưu hẹn giết Sâm.
Ngày đinh mão tháng mười hai năm Vĩnh An thứ nhất, trong thành Kiến Nghiệp có câu hát nói là sắp có biến, Sâm nghe tin, không vui. Buổi đêm có gió lớn thổi cây lá xào xạc, cát bụi mù mịt, Sâm thêm sợ. Vào ngày chạp mậu thìn, Sâm xưng bệnh. Hưu cố gọi đến, hơn mười bọn sứ giả đến mời, Sâm bất đắc dĩ, sắp vào, mọi người can ngăn, Sâm nói: “Nhà nước có phép thường, không thể chối. Nên phòng bị quân sĩ, sai người trong phủ nổi lửa, lúc đó thì mới được về nhanh”. Bèn vào, rồi có lửa nổi, Sâm xin ra, Hưu nói: “Quân ở ngoài giữ nhiều, không đáng phiền đến Thặng tướng vậy”. Lâm đứng dậy rời chiếu, Phụng, Bố liếc mắt sai tả hữu bắt trói Sâm. Sâm rập đầu nói: “Xin đày đi Giao Châu”. Hưu nói: “Sao khanh không đày Đằng Dận, Lữ Cứ”? Sâm lại nói: “Xin giáng làm nô lệ của quan lại”. Hưu nói: “Sao không lấy Dận, Cứ làm nô lệ”! Rồi chém Sâm, đem đầu Sâm bảo cho quân sĩ rằng: “Những kẻ cùng mưu với Sâm đều được tha”. Do đó tha năm nghìn người. Khải cưỡi thuyền muốn lên phía bắc hàng Ngụy, đuổi giết được, diệt ba họ. Phá quan quách của Tôn Tuấn, thu lấy ấn thao, chặt quan rồi chôn lại, vì đã giết bọn Lỗ Dục vậy.
Sâm chết lúc hai mươi tám tuổi. Hưu thẹn vì là cùng họ với Tuấn, Sâm, liền xóa tên ra khỏi dòng họ, gọi họ là Cố Tuấn, Cố Sâm. Hưu lại hạ chiếu rằng: “Gia Cát Khác, Đằng Dận đại khái không có tội mà bị anh em Tuấn, Sâm giết hại, rất là đau lòng, mau cho táng lại, đều cúng tế cho họ. những người khác vì việc của Khác mà bị đày đến phương xa đều cho gọi về”.

BỘC DƯƠNG HƯNG TRUYỆN
Bộc Dương Hưng tự Tử Viễn, người quận Trần Lưu. Cha là Dật, cuối thời Hán tránh loạn đến miền Giang Đông, làm đến Trường Sa Thái thú.
Việc của Dật thấy trong Lục Mạo truyện.
Hưng thuở nhỏ có tiếng tăm, thời Tôn Quyền làm Thượng Ngu Lệnh, dần dần chuyển đến chức Thượng thư Tả tào, giữ chức Ngũ quan Trung lang tướng đi sứ đến nước Thục, chuyển làm Cối Kê Thái thú. Bấy giờ Lang Nha Vương là Hưu trú ở Cối Kê, Hưng thân thiện cùng liên kết. Lúc Hưu lên ngôi, gọi Hưng về làm Thái thường Vệ tướng quân, trông coi các việc quân trong nước, phong Ngoại Hoàng Hầu.
Năm Vĩnh An thứ ba, Đô úy Nghiêm Mật lập ruộng bên hồ ở quận Đan Dương, mở ruộng bên sông, hạ chiếu trăm quan bàn luận, đều cho là tốn nhiều công mà ruộng lại khó thành, chỉ có Hưng cho là làm được. Bèn hội các quân dân đến làm, các đồ tổn phí không thể kể hết, quân sĩ bị chết, có kẻ bị giặc giết, trăm họ oán giận việc này.
Hưng chuyển làm Thặng tướng. Cùng với sủng thần là Tả tướng quân Trương Bố bao che cho nhau, người trong nước thất vọng.
Tháng bảy năm thứ bảy, Hưu hoăng. Tả Điển quân Vạn Úc vốn thân thiện với Ô Trình Hầu là Tôn Hạo, bèn khuyên Hưng, Bố, do đó Hưng, Bố phế con cả của Hưu mà lập Hạo. Hạo đã lên ngôi, bái thêm Hưng làm Thị lang, lĩnh chức Thanh Châu Mục. Chốc lát Úc gièm Hưng, Bố hối tiếc việc trước. Đầu tháng mười một vào chầu, Hạo nhân đó bắt giam Hưng, Bố, đày đi Quảng Châu, trên đường đuổi theo giết chết, diệt cả ba họ.
Bình rằng: Gia Cát Khác tài năng mưu lược, được người trong nước khen ngợi, nhưng kiêu căng lại hẹp hòi, Chu Công cũng chẳng khinh địch, huống chi là Khác? Kiêu căng thì lấn lướt người khác, có thể không thua sao? Nếu nghe theo lời thư mà Lục Tốn và em là Dung khuyên răn thì chẳng đến nỗi hối tiếc, còn lo gì tai vạ nữa đây? Đằng Dận tu sửa khí tiết của kẻ sĩ, làm theo phép tắc, do đó thời Tôn Tuấn vẫn giữ được tôn quý, nhưng đấy là cái lí tất bị nguy hại vậy. Tuấn, Sâm ngang ngược ác nghịch, vốn không đáng bàn luận. Bộc Dương Hưng đem thân nắm chức Tể tướng, không nghĩ giúp  nước, chỉ kết hợp với Trương Bố, nghe lời của Vạn Úc, dẫn đến bị di diệt là phải thôi.

CHÚ THÍCH
(1) Lam Điền sinh ngọc: Lam Điền là tên đất ở thuộc nước Tần thời xưa, nổi tiếng sản sinh ra ngọc đẹp. Ý nói cha hiền thì sinh con hiền.
(2) ‘Chi lư’: Khác viết thêm hai chữ này thành câu “Gia Cát Tử Du chi lư”, nghĩa là “con lừa của Gia Cát Tử Du”.
(3) Chú: ý nói chú ruột của Khác là Gia Cát Lượng tự Khổng Minh, bấy giờ làm Thặng tướng của nước Thục.
(4) Sư Thượng Phủ: là danh hiệu của Lữ Thượng hay Khương Tử Nha.
(5) Những thứ ấy xuất ra cùng chỗ: ý nói phân ngựa và trứng gà cùng được xuất ra từ hậu môn cả.
(6) Phụ Ngô Tướng quân: tức Trương Chiêu tự Tử Bố, bấy giờ được Tôn Quyền bái làm Phụ Ngô Tướng quân.
(7) Kinh Thi khen công vỗ về, kinh Dịch ngợi công chém đầu: kinh Thi có câu viết: “Bắt được giặc xấu, vỗ về mà thả về”. Kinh Dịch có câu viết: “Vua đi đánh dẹp, chém đầu vua nước Hữu Gia, lại bắt được kẻ xấu, không có lỗi”. Ý nói khen ngợi công lao đánh dẹp.
(8) Phương, Thiệu của nhà Chu, Vệ, Hoắc của nhà Hán: Phương tức Phương Thúc ( ), Thiệu tức Thiệu Hổ ( ), là hiền thần thời vua Tuyên Vương của nhà Chu, đánh dẹp rợ Hiểm Duẫn ở phía bắc và rợ Man Kinh ở phía nam. Vệ tức Vệ Thanh, Hoắc tức Hoắc Khứ Bệnh, là danh tướng thời vua Vũ Đế của nhà Hán, đánh dẹp rợ Hung Nô ở phía bắc.
(9) ‘Tứ mẫu’: kinh Thi có bài hát Tứ mẫu nói về nỗi lòng nhớ về quê nhà của một viên quan đi vỗ về phương xa. Tả truyện   có chép:     Tứ mẫu là bài hát mà vua hát để an ủi sứ giả vậy”. Ý nói an ủi người đi xa về.
(10) ‘Ẩm chí’: ‘Ẩm chí’ là đem rượu ra uống. Tả truyện có chép: “Đi đánh trận thì cáo tế ở tông miếu. Lúc quay về thì đem rượu uống rồi ban tước, thưởng công, đấy là lễ vậy”. Ý nói lễ mừng thắng trận.
(11)  Sư thiên lệnh, Do thô lậu: Sư tức Tử Trương, Do tức Tử Lộ là học trò giỏi của Khổng Tử, nhưng vẫn có chỗ kém, Khổng Tử xét rằng: “Sư thiên lệnh, Do thô lậu”.
(12)  Hứa Tử Tương: tức Hứa Thiệu tự Tử Tương, người quận Hà Nam thời Đông Hán, từng bình luận Tào Tháo rằng: “Ông là gian thần thời bình, anh hùng thời loạn”.
(13)  Trương, Trần bị nạn đao máu, Tiêu, Chu không trọn tiếng tốt: Trương, Trần là Trương Lương và Trần Bình, Tiêu, Chu là Tiêu Hà và Chu Bột. Theo sử sách, Lương, Trần đều trọn vẹn không chết vì binh đao, Tiêu, Chu cũng trọn vẹn cả, lời văn này khá lạ và khó hiểu.
(14)  Đại Hành Hoàng Đế: chỉ Tôn Quyền.
(15)  Yên, Cái kết mưu, có sự biến của Thượng Quan: Yên chỉ Yên Vương Lưu Đán (燕王刘旦), Cái chỉ Trưởng công chúa Ngạc Ấp (长公主), Thượng Quan chỉ Thượng Quan Kiệt (上官桀). Sau khi Hán Vũ Đế chết, truyền ngôi cho con nhỏ mới sáu tuổi là Hán Chiêu Đế, nhưng Yên Vương là Lưu Đán cùng Trưởng công chúa Ngạc Ấp, Tả tướng quân Thượng Quan Kiệt mưu phản, mưu lộ, bọn Thượng Quan Kiệt bị bắt giết, Yên Vương và Trưởng công chúa cũng tự sát.
(16)  Bá Li đánh rợ Nhung vẫn phải làm trái lễ: Bá Li là con cả của Chu Công Cơ Đán, là vua mở nước Lỗ, vào lúc tang Văn Vương, Bá Li vẫn làm trái lễ để tang thì không được đánh trận, nhưng Bá Li đánh dẹp rợ Nhung ở miền Từ Châu, giữ gìn nước Lỗ.
(17)  Ngũ Tử Tư: tức Ngũ Viên tự Tử Tư, người nước Sở, trốn sang nước Ngô giúp vua Ngô là Phù Sai, khuyên đánh diệt nước Việt nhưng Phù Sai không nghe, cuối cùng nước Việt diệt nước Ngô.
(18)  Đất Quan Tây: tức vùng đất phía tây cửa Hàm Cốc ( ), phía đông cửa Hàm Cốc là đất Quan Đông vậy.
(19)  Tiêu, Hoắc: chỉ đại thần của nhà Hán là Tiêu Hà và Hoắc Quang.
(20)  Đất Tam Tần: cuối thời Tần, Hạng Vũ đem quân chư hầu diệt nhà Tần, phong cho Lưu Bang làm Hán Vương, Chương Hàm làm Ung Vương, Tư Mã Hân làm Tái Vương, đều ở trên đất Tần cũ, do đó gọi là Tam Tần.
(21)  Kinh Hàm đem mưu tiến đánh để khuyên Công Tôn Thuật: đầu thời Đông Hán, Công Tôn Thuật chiếm giữ đất Thục xưng Đế, bái Kinh Hàm làm Kị Đô úy, thấy Quang Vũ Đế là Lưu Tú dẹp yên miền đông, khuyên Công Tôn Thuật đem quân đánh trước nhưng Thuật không nghe. Cuối cùng bị Lưu Tú diệt.
(22)  Quý Văn Tử: là đại thần của nước Lỗ thời Xuân thu, giúp ba đời vua là Tuyên Công, Thành Công, Tương Công của nước Lỗ, tự mình xét việc, chăm chỉ tiết kiệm.
(23)  Phu Tử: danh hiệu tôn kính của Khổng Khâu tự Trọng Ni, thường gọi là Khổng Tử.
(24)  Lữ Hầu Quốc: chỉ Lữ Đại tự Hầu Quốc.
(25)  Huống Trường Ninh: người nước Thục thời Tam quốc, không rõ hành trạng.
(26)  Quách Tu: con gọi là Quách Tuần ( ) tự Hiếu Tiên, người quận Tây Bình, làm Trung lang tướng của nhà Ngụy. Năm Diên Hi thứ mười ba (năm 250 Công nguyên), tướng Thục là Khương Duy đem quân ra Lũng Hữu, đánh cướp quận Tây Bình, bắt được Tu đem về. Tháng giêng năm Diên Hi thứ mười sáu, Tu cầm đao đâm chết Phí Vĩ trong hội yến.
(27)  Y, Chu: tức Y Doãn của nhà Ân và Chu Công của nhà Chu.
(28)  Loan Bố liều mình liệm thây của Bành Việt: cuối thời Tần và đầu thời Hán, Loan Bố và Bành Việt thân thiện với nhau. Bành Việt bị Hán Cao Tổ nghi ngờ làm phản mà bị giết, treo đầu ở thành Lạc Dương, lại hạ lệnh rằng: “Ai dám thu liệm thì bắt ngay”. Loan Bố không theo lệnh cấm, đến dưới thành quỳ khóc cúng tế dưới đầu Việt. Hán Cao Tổ muốn giết nhưng rồi lại tha cho.
(29)  Cố Tử Mặc, Cố Tử Trực: tức con của Thặng tướng Cố Ung của nước Ngô là Cố Đàm tự Tự Mặc và Cố Thặng tự Tử Trực.
(30)  Tội của Cổn không gán cho Vũ: thời vua Thuấn có nạn nước lớn ngập tràn, vua Thuấn dùng Cổn ngăn nước, mười năm không xong, bèn giết Cổn mà dùng Vũ thay làm. Ý nói Khác bị giết thì Dận không bị tội lây.
(31)  Đến nước: tức đến nước phong là quận Cối Kê.
(32)  Phù Đồ: tức Phật Đà, phiên âm của từ ‘Buddha’ trong tiếng Phạn cổ, nghĩa là “đấng giác ngộ”, “người thông thái”…
(33)  U, Lệ: chỉ U Vương, Lệ Vương của nhà Chu, làm việc bạo ngược, dâm ác.
(34)  Chu Tuyên Vương: tức Tuyên Vương của nhà Chu, là con của Lệ Vương. Lệ Vương bạo ngược vô đạo, dân chúng nổi dậy, phải chạy về phía đông ở nhờ trên đất của người Hoài Di miền sông Hoài rồi chết ở đấy, Tuyên Vương lên thay, sửa sang chính trị, đuổi rợ Hiểm Doãn, Nhung, Địch ở phía bắc, dẹp rợ Man Kinh, Hoài Di ở phía nam.
(35)  Tắc, Tiết: Tắc, Tiết là hai đại thần của vua Nghiêu. Tiết là tổ của nhà Thương.
(36)  Hoắc Quang: tự Tử Mạnh, người quận Hà Đông thời Vũ Đế của nhà Hán, là em khác mẹ của danh tướng Hoắc Khứ Bệnh, vâng lệnh phụ chính Chiêu Đế, Chiêu Đế chết lại lập Tuyên Đế, nắm quyền cao trọng thời ấy.

QUYỂN 20 - VƯƠNG LÂU HẠ VI HOA TRUYỆN
Vương Phồn, Lâu Huyền, Hạ Thiệu, Vi Chiêu, Hoa Hạch.

VƯƠNG PHỒN TRUYỆN
Vương Phiền tự Vĩnh Nguyên, người quận Lư Giang. Xem rộng biết nhiều, thông thạo đạo thuật. Lúc đầu làm Thượng thư lang, rồi bỏ quan. Tôn Hạo lên ngôi, cùng với Hạ Thiệu, Tiết Oánh, Ngu Dĩ làm Tán kị thường thị, đều bái làm Phụ mã đô úy. Người đời bàn cho là hay. Sai đi sứ đến nước Thục, người Thục khen ngợi, về làm Hạ Khẩu Giám quân.
Đầu thời Tôn Hạo, lại vào làm Thường thị, cùng chức với Vạn Úc. Úc có thân quen với Hạo, là kẻ tầm thường hẹp hòi, bảo là Phiền tự khinh mạn. Lại có viên Trung thư thừa Trần Thanh là sủng thần của Hạo cũng nhiều lần vu hãm Phiền. Phiền vốn tính ngay thẳng, không chịu theo mặt thuận ý họ, có lúc làm trái ý họ, do đó thêm bị ganh ghét.
Năm Cam Lộ thứ hai, Đinh Trung đi sứ đến nhà Tấn về, Hạo mở hội lớn gặp bầy tôi, Phiền say rượu ngã nép xuống, Hạo ngờ vực không vui, lấy xe đưa Phiền ra ngoài. Chốc lát lại xin quay lại, uống rượu cũng không tốt. Phiền tính có uy nghiêm, đi đứng tự ý, Hạo cả giận, quát tả hữu ở dưới điện chém Phiền; Vệ tướng quân Đằng Mục, Chinh tây tướng quân Lưu Bình xin tha nhưng không được.
Giang Biểu truyện chép: Hạo tin nghe lời thầy mo, bảo là cung Kiến Nghiệp không tốt, bèn chuyển về phía tây đến Vũ Xương, vẫn có ý dời đô, sợ bầy tôi không theo, bèn mở hội lớn, ban tặng cho quan tướng, hỏi Phiền rằng: “Bắn không cốt trúng đích, mà cốt ở sức có đều hay không, ý là thế nào”? Phiền suy nghĩ chưa đáp, Hạo liền ở dưới điện chém Phiền, ra ngoài lên núi, sai tướng thân cận đá đầu Phiền, bày trò hổ vồ sói nhảy cắn gặm đầu Phiền, đầu đều vỡ nát, muốn để ra oai, khiến cho mọi người không dám phạm. Ở đây chép không giống với truyện gốc. Ngô lục chép: Hạo hễ ở hội, nhân lúc uống rượu liền sai cận thần cợt giễu công khanh, lấy đó làm vui. Vạn Úc đã làm Tả thừa tướng, Phiền chê Úc rằng: “Cá lặn ở ao, ra khỏi nước thì quẫy nhảy, vì sao? Vật đều có tính thường, không thể ở nơi khác chỗ của mình vậy. Úc xuất thân từ hang núi, thân dê da hổ, được nhận ân sủng hiển hách, nhảy qua ba chín thứ bậc; chó ngựa còn biết người nuôi mình, làm sao để báo ân dày đây”! Úc nói: “Ở đình của Đường-Ngu không có người tài được chọn xằng, ở cửa của Tạo Phủ không có con ngựa gầy
yếu, (1) Phiền trên cợt hãm người được chọn sáng suốt, dưới chê bai người cốt cán, do đó biết người này phần nhiều không biết cân nhắc vậy”. Thần là Tùng Chi xét truyện gốc chép là Đinh Trung đi sứ đến nhà Tấn về, Hạo mở hội lớn, ở trong hội giết Phiền, xét rằng Trung từ phương bắc về là vào mùa xuân năm ấy, bấy giờ Úc vẫn chưa làm Thừa tướng, đến mùa thu mới làm Thừa tướng vậy. Lời mà Ngô lục chép là không giống nhau như thế.
Thừa tướng Lục Khải dâng sớ nói: “Thường thị Vương Phiền hiểu thấu lí lẽ, biết trời biết vật, trung với triều đình, là người quan trọng của xã tắc, là Long Phùng (2) của nhà Đại Ngô vậy. Ngày xưa thờ Cảnh Hoàng, (3) ở bên tả hữu can gián, Cảnh Hoàng khen ngợi, than là lời bàn hay lạ. Vậy mà bệ hạ giận người này nói lời khó nghe, ghét tính thẳng thắn của người này, chém bêu đầu ở trên điện, phanh thây vứt xương, khiến cho người trong nước đau lòng, có kẻ lo lắng”. Lời lẽ xót Phiền như thế.
Phiền chết vào lúc ba mươi chín tuổi, Hạo đày người nhà Phiền đến Quảng Châu. Hai em là Trứ, Diên đều tò lòng ngay, vào lúc Quách Mã nổi dậy, không chịu để Mã dùng, bị hại.

LÂU HUYỀN TRUYỆN
Lâu Huyền tự Thặng Tiên, người huyện Kì nước Bái. Vào thời Tôn Hưu làm Giám nông ngự sử. Tôn Hạo lên ngôi, cùng với Vương Phiền, Quách Trác, Vạn Úc làm Tán kị trung thường thị, ra làm Cối Kê Thái thú, lại vào làm Đại tư nông. Trước đây những người coi việc trong cung được tự chọn người thân cận làm việc, Úc dâng tấu xin lấy người thân quen làm việc, nên dùng người tốt, Hạo nhân đó hạ lệnh sai quan coi việc cầu tìm kẻ sĩ trong sạch để ứng chọn, bèn dùng Huyền làm Cung hạ trấn cấm trung hầu, chủ việc trong điện. Huyền theo cửu khanh đeo đao ở bên làm thị vệ, tự thân thống lĩnh mọi người, theo phép mà làm, đối đáp thẳng thắn, nhiều lần làm trái ý Hạo, dần dần bị oán trách. Sau có người vu cho Huyền gặp nhau với Hạ Thiệu, ở lại nói bên tai mà cười lớn, giễu cợt chính sự, bèn hạ chiếu xét hỏi, đày đi Quảng Châu.
Đông quán lệnh Hoa Hạch dâng sớ nói: “Thần trộm nghĩ cái gốc của trị nước cũng như trị nhà. Người chủ làm ruộng đều nên chọn người thật thà, lại nên lấy một người coi xét cả các việc, để làm phép tắc, do đó mọi việc mới thông. Luận ngữ chép: ‘Không cần làm gì mà thiên hạ yên ổn, vua Thuấn là người như vậy chăng! Chỉ là thong thả ngoảnh mặt về phía nam mà thôi’. Ý nói là dùng đúng người, cho nên thảnh thơi mà tự yên vậy. Nay trong nước chưa định, thiên hạ nhiều việc, các việc không kể lớn nhỏ đều tự xem nghe, tự mình coi xét thì tổn hao tâm ý. Bệ hạ đã rủ ý xét việc xưa, tìm tòi đạo thuật, chăm chỉ học phép hay, nên tùy lúc mà xét, phải chọn lúc yên tĩnh để suy nghĩ, tìm lấy điều tốt, hợp với ý trời. Thần ngày đêm nghĩ ngợi, trong các quan lại coi việc cốt cán đủ để giao phó chẳng ai hơn được Lâu Huyền. Huyền trong sạch trung trinh vâng theo phép công, tài giỏi ở đời, mọi người phục khí tiết, chẳng ai tranh hơn được. Người trong sạch thì lòng yên lặng mà thẳng thắn, người trung trinh thì giữ đạo chính mà làm theo. Như tính của Huyền, trước sau đều giữ vững. Xin bệ hạ tha lỗi trước của Huyền, sai tự sửa mới, trao cho chức cao, đòi phải chuộc tội, sai phải chọn người tùy tài mà dùng, lúc ấy cái sự thong thả của vua Thuấn chỉ gần nữa thôi”. Hạo ghét danh tiếng của Huyền, lại đày huyền và con là Cứ giao cho tướng ở quận Giao Chỉ là Trương Dịch, sai phải đánh trận mà chuộc tội, ngầm hạ lệnh riêng sai Dịch giết Huyền. Cứ đến Giao Chỉ, mắc bệnh chết. Một thân Huyền theo Dịch đánh giặc, cầm đao lăn lội, gặp Dịch thì bái, Dịch không nỡ giết. Gặp lúc Dịch chết, Huyền liệm thây Dịch, thấy trong đồ có chiếu lệnh, trở về liền tự sát.
Giang Biểu truyện chép: Hạo sai tướng là Trương Dịch ban thuốc độc cho Huyền, Dịch thấy Huyền là người hiền, không nỡ đọc chiếu lệnh bắt uống thuốc độc, Huyền cũng ngầm biết được, bảo Dịch rằng: “Nếu báo cho Huyền biết sớm, Huyền há tiếc sao”. Liền uống thuốc độc mà chết. Thần là Tùng Chi cho rằng: Cái tính thanh cao của Huyền, chắc không vì an nguy mà đổi ý, vậy mà vô cớ ruổi ngựa sai Trương Dịch giết Huyền để làm bẩn khí tiết của người này. Lại nữa tai họa đã phát, há trăm lần bái mà thoát được sao? Lời mà Giang Biểu truyện chép, về lí là đúng.

HẠ THIỆU CHUYỆN
Hạ Thiệu tự Hưng Bá, người huyện Sơn Âm quận Cối Kê.
Ngô lục chép: Thiệu là cháu của Hạ Tề, con của Hạ Cảnh.
Tôn Hưu lên ngôi, từ chức Trung lang làm Tán kị thường thị, ra làm Ngô Quận Thái thú. Vào thời Tôn Hạo, vào làm Tả điển quân, chuyển làm Trung thư lệnh, lĩnh chức Thái tử thái phó.
Hạo hung bạo kiêu căng, chính sự ngày càng tệ, Thiệu dâng sớ can rằng: “Vua hiền thời xưa ở trong chỗ sâu kín mà biết được cái tình của vạn vật, ở nơi cao thả tay mà biết rõ được chỗ ngoài tám cõi, đấy là vì cái công dùng người hiền vậy. Bệ hạ vì có đức hay đẹp, nối thay nghiệp đế, nên tự thân sửa đạo, kính theo phép thường, dùng hiền nêu thiện để làm yên chính sự. Từ mấy năm trở lại đây, triều chính lầm lỗi, thật giả lẫn lộn, trên dưới xa cách, văn võ trống rỗng, ngoài không có cái vững của tướng tá già dặn, trong không có tôi thần sửa lỗi; bọn nịnh bợ vỗ cánh bay cao, gây loạn triều đình, trộm lấy vinh lợi; mà kẻ trung lương lại bị đẩy ngã, kẻ có tín cũng bị hại. Cho nên kẻ sĩ ngay thẳng cũng phải vứt bỏ tiết tháo, tôi thần bên cạnh cũng phải a dua, dõi theo ý vua, đều muốn theo thời, người dân giữ lời lẽ sai trái, kẻ sĩ thổ lời bàn giả dối, rút cuộc khiến cho trong sạch trở thành bẩn đục, kẻ trung thần phải ngậm miệng. Bệ hạ ở ngôi cao chín tầng, náu trong cung trăm vòng, nói ra thì gió lướt, ban lệnh thì bóng theo; nếu tự sửa nắn bầy tôi a dua, hằng ngày nghe lời thuận ý, chọn người hiền có tài thực, như vậy thì thiên hạ được yên vậy. Lòng thần không được yên, cho nên dám nói ra tấu lên.
Thần nghe nói rằng nước hưng thịnh thì vua vui nghe nói về cái lỗi của mình, nước loạn lạc thì vua thích nghe khen danh của mình; vua vui nghe  nói về cái lỗi của mình thì cái lỗi ngày một trừ mà phúc đến, vua thích nghe khen danh của mình thì danh ngày một tổn mà họa đến. Cho nên người làm vua thời xưa nhún nhường để tìm người hiền, cúi mình để cầu người ta nói về cái lỗi của mình, nêu ngôi vị ở bánh xe, cầm đuôi hổ làm răn mình. Đến như bệ hạ, dùng hình pháp nghiêm ngặt để cấm lời nói thẳng, bỏ kẻ sĩ tốt lành để ngăn tôi thần can gián, mê hoặc bởi tiếng khen ngợi, đắm chìn bởi lời của cận thần. Ngày xưa Cao Tông (4) nghĩ cách trị nước, nằm mộng gặp được người hiền, vậy mà bệ hạ chỉ mong quên, khinh thường mà bỏ họ. Thường thị Vương Phiền trung trinh với vua, có tài làm phụ tá, chỉ vì say rượu mà bị dùng hình nặng. Gần đây Hồng lư Cát Hề là tôi thần cũ của tiên đế, chỉ vì trái ý, nói lời trong lúc say, sau ba chén rượu tỏ lễ không kiêng húy, bệ hạ chợt nổi giận đùng đùng, cho là khinh mạn, lấy rượu nồng bắt uống, trúng độc mà chết. Từ đấy về sau, trong nước đau lòng, bầy tôi thất vọng, người làm quan xem việc lui về là may, người phủ đình coi việc bỏ ra là phúc, đấy chẳng phải là nêu rõ công lao, không phát triển đạo hóa vậy.
Lại còn Hà Định là đứa tiểu nhân xu nịnh, nô bộc thấp kém, thân chẳng có đức chút gì, không có cái tài của ưng khuyển, (5) vậy mà bệ hạ yêu cái tính  xu nịnh của hắn, trao cho oai quyền, khiến cho Định cậy sủng mà phóng túng, tự ra oai gây phúc, nói bàn việc nước, gâyrối lẽ trời, trên làm mờ cái sáng của nhật nguyệt, dưới chặn đường tiến thân của người quân tử; kẻ tiểu nhân xin vào thì bày kế gian mưu lợi, Định xằng bậy sắp đặt lao dịch, phát lính thú ở ven sông để đuổi bắt hươu nai, kết lưới ở gò núi, cắt cỏ ở rừng sâu, đem hết thú ngoài đồng tụ hết ở trong vườn cung; trên không bày việc có  ích, dưới có tổn phí hao hụt. Lại còn binh sĩ mệt mỏi vì chuyển chở, sức dân kiệt cạn vì đuổi bắt, già yếu đói rét, lớn nhỏ than oán. Thần trông xem thiên văn, từ năm trước đến nay âm dương lẫn lộn, bốn mùa đảo ngược, đất động nhật thực, giữa mùa hạ có sương muối, xét ở sách cũ, đấy đều là điềm khí  âm lấn khí dương, kẻ tiểu nhân chuyên quyền mới thế. Thần từng xem sách truyện, xét rõ các việc, đấy là ứng điềm diệt vong, cho nên run rẩy. Ngày  xưa Cao Tông tu thân để trừ cái điềm gở chim trĩ đậu trên tai đỉnh, Tống Cảnh Công sửa đức để đầy lùi cái biến của sao Huỳnh hoặc; (6) mong bệ hạ trên sợ cái điềm báo chê trách của trời cao, dưới xét cái đạo trừ họa của hai vị vua ấy, xem rộng cái công dùng người hiền của đời trước, tỉnh biết cái lỗi trao chức bừa bãi ở ngày nay, làm trong sạch triều đình, chọn dùng người tuấn nghĩa, vứt bỏ kẻ nịnh bợ, thu lại quyền bính, như thế người hiền được dùng lại, cất nhắc người tài đức, nghe ngóng lời nói thẳng, vâng theo mệnh trời, kính nhận nghiệp vua, vậy thì giáo hóa sáng rõ, người trong thiên hạ trông mong vậy.
Kinh truyện chép: ‘Vua của nước hưng thịnh thì xem dân như con đỏ, vua của nước sắp mất thì xem dân như cỏ rơm’. Ngày xưa bệ hạ ẩn ý sáng suốt, tỏ đức ở miền đông, có phong thái bậc thánh triết như rồng bay thẳng trời, khiến cho bốn cõi ngoái cổ, tám phương liếc mắt, nếu nêu cao giáo hóa thì tất chỉ thành trong sớm tối vậy. Nhưng từ khi lên ngôi đến nay, pháp lệnh rườm rà, tô thuế thêm nhiều, nội quan trong cung chia ra các châu quận bày đặt lao dịch, mưu cầu lợi riêng, trăm họ gặp phải cảnh hao tổn, dân đen mệt mỏi vì cái mong muốn không cùng, già trẻ đói rét, sắc mặt nhợt nhạt, mà quan lại ở đấy lại lấn ép gây khó, hình pháp nghiêm nghiêm ngặt, làm cho dân khổ. Cho nên sức dân không gánh nổi, nhà cửa li tán, kêu tiếng than thở, cảm thương sụt sùi. Lại nữa lính thú ở ven sông, ở xa nên mở mang bờ cõi, ở gần phải giữ đất phòng nạn, nên được đãi hậu để đợi lúc có việc, vậy mà kêu gọi phát động, kéo đến tụ tập, áo chẳng vẹn cúc ống, ăn chẳng đủ sớm tối, ra thì đến chỗ nạn mũi chọn, vào thì chuốc nỗi buồn không vui. Do đó cha con bỏ nhau, kẻ làm phản nổi lên. Mong bệ hạ nới lỏng tô thuế, cứu chẩn người nghèo cùng, giảm những việc không cần gấp, bớt xén hình phạt, vậy thì trong nước vui mừng, giáo hóa tràn khắp. Dân là gốc của nước, lương thực  là mạng sống của dân vậy. Vậy mà nay nước không chứa lương thực đủ một năm, nhà không còn lương thực một tháng, lại còn những kẻ chỉ ngồi ăn trong hậu cung có đến hơn vạn người. Trong có cái oán li tán, ngoài có cái tổn phí hao mòn, khiến cho kho tàng trống rỗng đến nỗi không có dùng, quân dân đói đến nỗi phải bã cám.
Lại nữa giặc bắc đảo mắt, dòm ngó cái thịnh suy của nước ta, bệ hạ không cậy vào oai đức của mình mà chỉ dựa vào việc giặc không đến, trong nước thì khốn cùng mà khinh địch không cho đấy là cái nạn, đấy thực chẳng phải là kế sách cốt yếu để giữ tông miếu vậy. Ngày xưa Đại Hoàng Đế chăm chỉ làm việc, lập nghiệp ở cõi nam, cắt chiếm sông núi, mở đất vạn dặm, dẫu gặp thời vận nhưng thực là do sức người vậy. Qua mấy lần nối, đến thời bệ hạ,  bệ hạ nên sùng kính đức hạnh để nêu rõ cái oanh liệt của đời trước, yêu dân nuôi quân, giữ vững phép cũ, há coi thường công lao của tổ tiên, sao nhãng việc giữ nghiệp lớn, quên việc những người còn chưa được cấp chẩn trong thiên hạ, quên cái sự biến hưng suy sao? Thần nghe nói rằng tốt xấu vô thường, lành dữ là do người, cái hiểm trở của sông dài không cậy được lâu, nếu ta không giữ thì địch chỉ cần một cái bè nhỏ là đi qua được vậy. Ngày xưa nhà Tần lập hiệu xưng Hoàng đế, giữ cái hiểm của Hào-Hàm (7) mà không tu sửa đức hóa, pháp lệnh hà khắc, gây độc dân chúng, trung thần ngậm miệng, cho nên một người hô lớn thì xã tắc nghiêng lật. (8) Gần đây họ
Lưu giữ cái vững của ba cửa quan, chặn cái hiểm của núi cao, có thể nói là thành vàng nhà đá, dựng nghiệp muôn đời, nhưng tin dùng những kẻ không phải người hiền, cho nên một sớm vỡ đổ, vua tôi trói cổ, (9) đều làm nô bộc. Đấy là cái gương sáng cho đời nay, cái răn bảo ở trước mắt vậy. Mong bệ hạ xa thì xét việc trước, gần thì soi sự biến đời nay, đắp nền giữ móng, sửa nắn giáo hóa, vậy thì cái thời thịnh của Thành-Khang (10) được nổi lên, cái lộc  lớn của tổ thánh được phát rõ vậy”. 亲近 Sớ tấu lên, Hạo rất ghét Thiệu. Thiệu vâng phép công thẳng thắn, người thân cận cũng phải e ngại, bèn cùng gièm pha rằng Thiệu cùng Lâu Huyền giễu cợt việc nước, đều bị trách hỏi, Huyền bị đày đi miền nam, Thiệu được tha mà làm chức khác. Sau đó Thiệu trúng gió độc, miệng không nói được, bỏ chức mấy tháng, Hạo ngờ Thiệu mượn cớ bệnh, bắt uống rượu vào, khảo xét nghìn lần, Thiệu đến chết không nói một lời, cuối cùng bị giết hại, người nhà bị đày đến quận Lâm Hải. Lại hạ chiếu sai giết con cháu của Huyền, bấy giờ là năm Thiên Sách thứ nhất, Thiệu vừa bốn mươi chín tuổi.
Con của Thiệu là Tuần, tự Ngạn Tiên.
Tấn thư của Ngu Dự chép: Tuần vào lúc cha bị hại, bị đày đến bờ biền, kịp khi nước Ngô bình, về quê nhà. Tiết tháo thẳng thắn, thủa nhỏ đã không tầm thường, nói làm việc gì tất theo lễ nghĩa; ham học thích nghe, giỏi ở đọc ‘tam lễ’; (11) cử tú tài, bái làm Dương Tiện-Vũ Khang Lệnh. Cố Vinh, Lục Cơ, Lục Vân dâng biểu tiến cử Tuần rằng: “Cúi thấy viên Vũ Khang Lệnh thuộc quận Ngô Hưng là Hạ Tuần đức tính nồng hậu, tài năng sâu xa, trong lòng trong sạch, tiết tháo cao đẹp, trải qua ba thành, phép lệnh nghiêm túc, coi giữ huyện nhỏ mà nêu danh nơi xa; xuất từ nước mới cho nên triều đình không biết đến, ở yên nơi ngoài, chí không tự mưu, năm tháng dây dưa, vẫn thờ ơ không tiến thủ, thực là khiến cho kẻ ngu kẻ khôn cũng tiếc nuối. Bọn thần đều là kẻ tầm thường, được trao thêm chức, nhận được ân trạch, làm quan trong triều, nếu biết kẻ sĩ tài năng mà giữ miệng không nói thì sợ rằng đấy là cái lỗi che lấp người hiền, cho nên không kìm nén cái ngu hèn, xin liều chết tiến cử”. Lâu sau, gọi làm Thái tử xá nhân. Vào lúc Thạch Băng
(12)  phá Dương Châu, Tuần cũng hợp quân, việc xong, đóng cửa không ra. Vào lúc Trần Mẫn (13) làm loạn, lấy Tuần làm Đan Dương Nội sử, Tuần  cũng xưng bệnh cố từ chối, Mẫn không dám ép. Bấy giờ nhà quyền thế ở Giang Đông không ai không nhận tước vị của Mẫn, riêng Tuần và người cùng quận là Chu Đản không treo vào lưới giặc. Sau đó bái làm Ngô Quốc Nội sử, không đến. Vào lúc Nguyên Hoàng Đế (14) còn làm Trấn đông tướng quân, mời Tuần làm Quân tư mã; vào lúc Đế làm Tấn Vương, lấy Tuần làm Trung thư lệnh, cố nhường không nhận; chuyển làm Thái thường, lĩnh chức Thái tử thái phó. Bấy giờ triều đình mới dựng, làm gì liền bàn nghị, phép tắc tông miếu đều do Tuần sắp đặt, trong triều ngoài nội bàn tán cho là nhà Nho nổi tiếng một thời. Năm Thái Hưng thứ hai thì chết, thọ sáu mươi tuổi. Truy tặng chức Tư không, thụy là Mục. Các bài luận mà Tuần soạn đều truyền ở đời. Con là Thấp, làm Lâm Hải Thái thú.

CHÚ THÍCH
(1) Ở đình của Đường-Ngu không có người tài được chọn xằng, ở cửa của Tạo Phủ không có con ngựa gầy yếu: Đường-Ngu chỉ vua Nghiêu của nhà Đường và vua Nghiêu của nhà Đường thời xưa, giỏi chọn dùng quan lại, dựng nên thời thái bình. Tạo Phủ là người đánh xe của Chu Mục Vương, giỏi nuôi ngựa, đánh Từ Yển Vương có công, phong tước ở Triệu Thành, trở thành ông tổ của họ Triệu.
(2) Long Phùng: là vị quan giỏi thời vua Kiệt của nhà Hạ, vì can gián vua Kiệt đừng ham rượu, gái đẹp mà bị giết.
(3) Cảnh Hoàng: tức Cảnh Đế của nhà Ngô là Tôn Hưu.
(4) Cao Tông: chỉ vua Vũ Đinh của nhà Ân, sau khi mất truy hiệu là Cao Tông.
(5) Cái dùng của ưng khuyển: thời xưa nhà vua đi săn thường dùng khuyển (chó) và chim ưng để đuổi bắt thú, do đó nói là ‘ưng khuyển’ để chỉ những người làm nanh vuốt phụ tá của nhà vua.
(6) Ngày xưa Cao Tông tu thân để trừ cái điềm gở chim trĩ đậu trên tai đỉnh, Tống Cảnh Công sửa đức để đầy lùi cái biến của sao Huỳnh hoặc: Cao Tông là vua Vũ Đinh của nhà Ân, lúc tế Mặt trời chợt có một con chim trĩ bay đến đậu ở trên tai đỉnh (cái vạc), bầy tôi cho là quái gở, chính sự thiếu sót nên mới thế, bèn nói: “Xét thấy các vị vua hiền thời trước nếu gặp điềm gở thì phải sửa nắm chính sự mới giải trừ được”. Tống Cảnh Công là chư hầu thời Xuân thu, vào năm thứ ba mươi bảy, sao Huỳnh hoặc chuyển vào vùng sao Tâm, bầy tôi có người nói: “Sao Huỳnh hoặc là điềm báo trời phạt, sao Tâm ứng vào phận nước Tống, họa sắp giáng vào ngài, nhưng có thể chuyển sang quan Tể tướng”. Cảnh Công không nỡ làm thế. Bầy tôi lại nói là có thể chuyển sang dân chúng, cũng không nỡ. Cuối cùng bầy tôi nói: “Trời cao mà rủ thấp, ngài có lòng như thế thì tất sao Huỳnh hoặc cũng chuyển sang phận khác”. Quả nhiên đúng thế, mấy năm sau đó nước Tống không bị họa binh đao.
(7) Hào-Hàm: chỉ núi Hào và cửa Hàm Cốc, là những vùng then chốt của nhà Tần
(8) Một người hô lớn thì xã tắc nghiêng lật: chỉ thời nhà Tần vô đạo, thiên hạ khổ sở, có một người dân phu là Trần Thắng nhân lúc bị bắt lao dịch mà dương tay kêu gọi nổi dậy, sau đó bọn Hạng Vũ, Lưu Bang cũng dấy binh phản nhà Tần, rút cuộc khiến cho nhà Tần sụp đổ.
(9) Vua tôi trói cổ: chỉ việc vua tôi nhà Hán phải nhường ngôi cho nhà Ngụy.
(10)  Thành-Khang: chỉ Thành Vương và Khang Vương của nhà Chu, thời hai vị này thì nhà Chu cường thịnh.
(11)  ‘Tam lễ’: chỉ ba sách Chu lễ, Nghi lễ, Lễ kí.
(12)  Thạch Băng: là bộ tướng của thủ lĩnh người Man ở miền Kinh Châu là Trương Xương. Theo Tấn thư - Huệ Đế kỉ chép rằng: Mùa thu tháng bảy năm Thái An thứ hai, Thạch Băng đánh cướp miền Dương Châu, Dương Châu Thứ sử Trần Huy đánh với Băng, thua to, các quận vỡ cả. Người quận Lâm Hoài là Phong Vân cũng dấy binh theo Băng. Tháng ba năm Vĩnh Nguyên thứ nhất bị Quảng Lăng Độ chi Trần Mẫn đánh bại.
(13)  Trần Mẫn: là người quận Lư Giang, có tài cán, làm Quảng Lăng Độ chi, đánh phá bọn Thạch Băng, Phong Vân có công, bái làm Quảng Lăng Tướng. Bấy giờ Trung Quốc rối loạn (loạn tám vị vương của nhà Tấn), bèn chiếm giữ huyện Lịch Dương, tự xưng Đô đốc trong coi việc quân ở miền Giang Đông.
(14)  Nguyên Hoàng Đế: chỉ Nguyên Đế của nhà Đông Tấn, lúc người Ngũ Hồ vào lấn Trung Quốc, nhà Tấn chỉ giữ được miền Giang Nam mà thôi, tức nhà Đông Tấn.

Mục lục:
Xem thêm:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét