XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2019

Tam Quốc Chí-Ngụy Thư 3

 
TANG BÁ TRUYỆN
Tang Bá tự Tuyên Cao, người quận Thái Sơn huyện Hoa. Cha là Giới, làm phó cai ngục ở huyện, quan Thái thú sở tại muốn giết người theo ý riêng, Giới giữ phép không theo. Thái thú cả giận, lệnh cho
người bắt Giới đến phủ nha, lúc ấy có hơn trăm người đưa tiễn. Bá năm ấy mười tám tuổi, dẫn mấy chục người khách men lối tắt trong núi Bỉ Tây muốn cướp cha lại, những người đi theo Giới chẳng ai không cảm động, nhân đó Bá cùng cha trốn nạn ra Đông Hải, bởi thế Bá nổi danh là hùng tráng và dũng liệt
Quân Hoàng Cân nổi dậy, Bá theo Đào Khiêm đánh phá giặc, được bái làm Kỵ đô uý. Rồi thu nhặt binh sĩ ở Từ Châu, cùng với bọn Tôn Quan-Ngô Đôn-Doãn Lễ tập hợp quân lính, Bá làm thống lĩnh, đóng binh ở Khai Dương. Thái tổ đi đánh Lã Bố, bọn Bá dẫn binh đến tương trợ Bố. Đến lúc Bố bị bắt, Bá bỏ trốn. Thái tổ cho yết bảng tìm bằng được Bá, lúc gặp mặt rất hài lòng, sai Bá đi chiêu hàng bọn Ngô Đôn-Doãn Lễ-Tôn Quan và anh của Quan là Khang, chúng đều đến chỗ Thái tổ. Thái tổ lấy Bá là Lang Nha tướng, Đôn làm Thái thú Lợi Thành, Lễ làm Thái thú Đông Hoàn, Quan làm Thái thú Bắc Hải, Khang làm Thái thú Thành Dương, cắt hai châu Thanh-Từ, uỷ thác các việc ở đó cho Bá.
Thái tổ tới ở Duyện châu, dùng Từ Hấp-Mao Huy làm tướng. Đến khi Duyện châu có loạn, Hấp-Huy đều làm phản. Về sau Duyện Châu yên định, Hấp-Huy bỏ trốn đến hàng Bá. Thái tổ bảo đến kêu với Lưu Bị(1), lại sai người bảo Bá đưa hai kẻ có tội đến. Bá nói với Bị rằng: "Bá này nếu như có thể tự quyết định được, thì đã chẳng phải làm thế này. Bá chịu cái ơn sinh toàn của chủ công, chẳng dám trái mệnh. Nhưng ngài là bậc vương bá có thể trình bày rõ được đạo nghĩa, xin tướng quân hãy giúp cho vài lời." Bị đem lời của Bá bạch với Thái tổ, Thái tổ than thở, bảo Bá rằng: "Đấy là việc làm của cổ nhân mà ngươi có thể làm được, Cô tha thứ cho ngươi." Rồi lại cho cả Hấp và Huy làm Quận thú.
Thời Thái tổ đương cùng Viên Thiệu chống giữ nhau, Bá mấy lần đưa tinh binh xâm nhập Thanh châu, nên Thái tổ được chuyên chú vào việc chống Thiệu, chẳng phải nghĩ đến việc ở phương Đông. Thái tổ phá Viên Đàm ở Nam Bì, bọn Bá họp mặt chúc tụng. Bá nhân đó xin phái con em cùng cha anh chư tướng đưa gia quyến đến huyện Nghiệp. Thái tổ nói: "Lòng trung hiếu của các ông, há cứ phải ở chỗ này! Xưa kia Tiêu Hà phái mười hai đệ tử vào hầu, mà Cao tổ chẳng cự tuyệt, Cảnh Thuần đốt nhà khiêng áo quan đi theo, mà Quang Vũ chẳng đón nhận, ta phải làm gì để ngươi đổi ý đây!"
Đông châu nhiễu loạn, bọn Bá tuyển nghĩa binh đánh dẹp, Hải Đại ở Thanh Định, Đại Yên ở Công Mạc, đều được phong là Liệt hầu. Bá được phong làm Đô đình hầu, thêm chức Uy lỗ tướng quân. Lại cùng với Vu Cấm đi đánh dẹp Xương Hi, cùng Hạ Hầu Uyên đánh dẹp dư đảng giặc Hoàng Cân ở Từ châu, có công, được thăng chức Thứ sử Từ châu.
Người ở nước Bái là Vũ Chu làm Hạ Bi lệnh, Bá kính trọng Chu khác thường, thân đến tận lệnh xá. Người đứng đầu bộ Tòng sự làm việc không có khuôn phép, Chu biết được lỗi ấy, liền bắt đem ra xét tội, Bá càng quý trọng Chu hơn.
Bá theo đi đánh Tôn Quyền, xông lên phía trước, lại xâm nhập Sào Hồ, tấn công Cư Sào, đánh được. Trương Liêu đi đánh Trần Lan, Bá được biệt phái đến đất Hoán, đánh tướng Ngô là Hàn Đương, khiến Quyền không cứu được Lan. Đương phái binh đón đánh Bá, Bá tham chiến ở Phùng Long, Đương lại phái binh đón đánh Bá ở Giáp Thạch, Bá lại tham chiến phá tan quân ấy. rồi lui về đóng quân ở huyện Thư. Quyền phái mấy vạn quân đến đóng ở Thư khẩu, chia binh đi cứu Lan, binh kia nghe tin quân của Bá đang ở huyện Thư, liền trốn về. Bá đuổi theo ngay trong đêm, gần sáng, đuổi được hơn trăm dặm, chặn đánh phía trước đang quân giặc. Giặc quẫn bách, không lên được thuyền, ngã xuống sông rất nhiều. Bởi thế quân giặc không cứu được Lan, Liêu mới phá được bọn ấy.
Bá lại theo đi đánh Tôn Quyền ở Nhu Tu khẩu, cùng với Trương Liêu làm tiên phong, lúc hành quân gặp mưa rào, đại quân chưa tiến kịp, nước sông dâng cao, thuyền địch tiến lên được một chút, tướng sĩ đều bất an. Liêu muốn bỏ về, Bá ngăn lại nói: "Công Minh ở Lợi Độn, sao đành lòng bỏ bọn ta được?" Hôm sau quả nhiên có lệnh. Liêu đến, kể việc ấy với Thái tổ. Thái tổ khen ngợi Bá, bái làm Dương uy tướng quân, ban cho Giả tiết. Về sau Quyền xin hàng, Thái tổ quay về, lưu Bá cùng bọn Hạ Hầu Đôn đóng quân ở Cư Sào.
Văn đế lên tức vương vị, thăng Bá làm Trấn đông tướng quân, tiến tước Vũ An Hương hầu, đô đốc các việc quân sự ở Thanh châu. Đến khi lên ngôi đế, tiến phong Bá làm Khai Dương hầu, lại đổi phong tước Lương Thành hầu. Cùng với Tào Hưu đi đánh giặc Ngô, phá Lã Phạm ở Động Phổ, được vời về làm Chấp kim ngô, ngôi vị Đặc tiến(2). Mỗi khi có việc quân, Đế thường hỏi ý Bá.
Nguỵ lược chép: Bá có một tên là Nô khấu. Tôn Quan tên là Anh tử. Ngô Đôn là Ảm nô. Doãn Lễ là Lô nhi(3). Năm Kiến An thứ hai mươi bốn, Bá sai một cánh quân đóng ở Lạc huyện. Lúc Thái tổ mất, quân Thanh châu nơi dinh sở của Bá đóng, cho rằng thiên hạ sắp loạn, cùng nhau thúc trống bỏ đi. Văn đế lên tức vị, lấy Tào Hưu làm Đô đốc Thanh-Từ, Bá bảo Hưu rằng: "Quốc gia chưa hề theo lời Bá! Nếu như Bá có vạn quân bộ kỵ, hẳn có thể hoành hành ở Giang Biểu." Hưu nói lời ấy với Đế, Đế ngờ là quân của Bá trước đây bỏ đi, nay xem chừng đã lớn mạnh mới tỏ ý như thế! Bèn đi tuần thú phía Đông, nhân lúc Bá về triều liền tước đoạt binh quyền của Bá.
Minh đế lên tức vị, tăng thực ấp cho Bá thêm năm trăm hộ, cộng cả lúc trước là ba nghìn năm trăm hộ. Chết, được ban thuỵ hiệu là Uy hầu. Con là Ngải nối tự.
Nguỵ thư chép: Ngải lúc nhỏ được khen là giỏi nhạc lý, làm Hoàng môn lang, từng giữ chức Quận thú.
Ngải làm quan đến chức Thứ sử Thanh châu, Thiếu phủ. Ngải chết, được ban thuỵ là Cung hầu. Con là Quyền nối tự. Bá trước sau nhiều công lao, có ba người con được phong làm Liệt hầu, một người được ban tước Quan nội hầu.
Một con của Bá là Tuấn, tự Thái Bá, thời nhà Tấn làm Tán kỵ thường thị, được biết đến ở Bách quan danh thời Vũ đế. Bát quan danh này, chẳng biết ai soạn ra, đều có đề mục, có khen vua Thuấn là "tài dĩnh điều sướng, thức tán thì nghi.*"
Còn Tôn Quan cũng làm quan đến chức Thứ sử Thanh châu, được ban Giả tiết, theo Thái tổ đi đánh Tôn Quyền, khi chiến đấu bị thương, chết. Con là Dục nối tự, cũng làm đến chức Thứ sử Thanh châu.
Nguỵ thư chép: Tôn Quan tự Trọng Thai, người quận Thái Sơn. Cùng nổi dậy với Tang Bá, đánh dẹp Hoàng cân, được bái làm Kỵ đô uý. Thái tổ phá Lã Bố, sai Bá đi chiêu hàng anh em Quan, đều được đãi ngộ rất hậu. Quan cùng với Bá đều đi chinh phạt, Quan thường xông lên trước, đi chinh chiến bình định đảng tặc ở Thanh-Từ, công lao cũng như Bá, được phong là Lữ Đô Đình hầu. Tôn Khang cũng có công được phong làm Liệt hầu. Quan cùng với Thái tổ gặp gỡ ở Nam Bì, rồi đưa con em tới nhập cư ở huyện Nghiệp, Quan được bái làm Thiên tướng quân, lại thăng làm Thứ sử Thanh châu. Theo đi đánh Tôn Quyền ở Nhu Tu khẩu, được ban Giả tiết. Lúc vây đánh Quyền, vì trúng tên, bị thương ở chân trái, cố sức chiến đấu không nghĩ đến vết thương, Thái tổ an uỷ nói: "Tướng quân bị thương rất nặng, mà
mãnh khí lại càng phấn chấn, chẳng phải là người vì nước yêu thân sao?" Được chuyển làm Chấn uy tướng quân, vết thương quá nặng, sau chết.
Chú thích:
(1) Khi ấy Lưu Bị đang nương nhờ Tào Tháo.
(2) Đây không phải là một chức quan chính thức, chỉ phong cho những người có địa vị đặc biệt, ở trong triều chỉ dưới ngôi Tam công.
(3) Không biết đoạn mà Nguỵ lược chép tên mấy người ấy nên cắt nghĩa thế nào, đành tạm hiểu như đây là những biệt danh mà người đương thời đặt cho bốn người ấy, là quân kẻ cướp, là thằng nhãi, là gã mặt đen, là thằng bé đen đúa. Có lẽ là đặt tên theo dáng vóc, nét mặt, hàm ý chê bai.

NGỤY THƯ QUYỂN 19 - Nhâm Thành Trần Tiêu Vương truyện
Tào Chương, Tào Thực, Tào Hùng

TRUYỆN NHÂM THÀNH UY VƯƠNG TÀO CHƯƠNG
Nhâm Thành Uy Vương là Chương, tự Tử Văn. Thủa trẻ giỏi cưỡi ngựa bắn tên, sức khỏe hơn người, tự tay bắt thú dữ, không ngại hiểm trở. Nhiều lần theo đi đánh dẹp, ý chí khảng khái. Thái Tổ từng ngoảnh bảo rằng: "Mi không lo đọc sách theo đạo hóa, mà lại cưỡi ngựa trận đánh kiếm, đấy chỉ là cái việc của một tên lính, sao đủ để tôn quý"! Bắt Chương đọc Thi, Thư, Chương bảo tả hữu rằng: "Trượng phu phải như Vệ, Hoắc(1), đem mười vạn quân kị rong ruổi trên sa mạc, đuổi rợ Nhung, Địch, lập công dựng tiếng vậy, sao chỉ làm kẻ đọc sách thôi"? Thái Tổ từng hỏi điều mà các con thích làm, sai đều nói rõ chí của mình, Chương nói: "Thích làm tướng". Thái Tổ nói: "Làm tướng thế nào"? Đáp rằng: "Mặc giáp cầm giáo, gặp nạn không lùi, đi đầu quân sĩ, thưởng tất theo, phạt tất tin". Thái Tổ cười rộ. Năm Kiến An thứ hai mươi mốt, phong Yên Lăng Hầu.
Năm thứ hai mươi ba, người Ô Hoàn ở Đại Quận làm phản, lấy Chương làm Bắc trung lang tướng, làm Kiêu kị Tướng quân. Sắp đi, Thái Tổ răn Chương nói: "Ở nhà là cha con, nhận việc là vua tôi, làm việc vâng theo phép tắc, ngươi phải răn giới lấy"! Chương lên đánh miền bắc, vào đất Trác Quận, rợ Hồ phản đem mấy nghìn quân kị vừa đến. Bấy giờ quân mã chưa tụ xong, chỉ mới có nhìn quân bộ, mấy trăm quân kị, bèn dùng kế của Điền Dự, cố giữ chỗ yếu hại, giặc lại tan chạy. Chương đuổi theo, tự thân xông đánh, bắn quân kị của rợ Hồ, hễ căng dây cung là kẻ đó ngã xuống, trước sau chồng lên nhau. Đánh hơn nửa ngày, trên áo giáp của Chương cắm mấy mũi tên, ý chí thêm hăng, nhân thắng mà đuổi về phía bắc, đến ở huyện Tang Can,
Thần là Tùng Chi xét: Huyện Tang Can thuộc Đại Quận.
nay giặc bắc đã chiếm được, gọi là đô thành Tác Can. cách Đại Quận hơn hai trăm dặm. Các tướng, quan Trưởng sử đều cho rằng vừa vào phương xa, quân mã mệt mỏi, lại vâng phép lệnh, không được đi quá Đại Quận, không nên vào sâu, trái lệnh khinh địch, Chương nói: "Đem quân đi đánh, có lợi ở trước, sao phải theo phép lệnh? Vả lại rợ Hồ chạy chưa xa, đuổi theo chắc phá được chúng. Nếu duỗi tha cho địch thì không phải là tướng giỏi vậy". Rồi lên ngựa, lệnh trong quân rằng: "Kẻ nào chậm sẽ chém". Một ngày một đêm đuổi kịp giặc, đánh phá được chúng, chém đầu bắt sống đến mấy vạn người. Chương bèn ban thưởng lớn cho tướng sĩ, tướng sĩ không ai không vui mừng. Bấy giờ đại súy của người Tiên Ti là Kha Tỉ Năng đem mấy vạn quân kị đứng xem yếu mạnh, thấy Chương gắng đánh, đến đâu phá đó, bèn xin hàng phục. Phương bắc đều bình. Bấy giờ Thái Tổ ở tại Trường An, gọi Chương đi về đến ở đấy. Chương từ Đại Quận qua đất Nghiệp, Thái tử(2) bảo Chương rằng: "Khanh mới lập công, nay đến phía tây gặp cha, nên đừng cho là mình tự lập công, đối đáp như là không đủ vậy". Chương đến, theo lời Thái tử, kể công cho các tướng. Thái Tổ mừng, cầm râu của Chương nói: "Thằng râu vàng mới lạ làm sao"!
Ngụy lược chép: Thái Tổ ở tại Hán Trung, lúc ấy Lưu Bị đóng quân ở trên núi, sai Lưu Phong xuống dụ đánh. Thái Tổ mắng rằng: "Thằng con nhà bán dép kia lại sai thằng con nuôi chống ông hắn chăng(3)! Đợi ta gọi thằng râu vàng đến, sai đánh chúng". Bèn gọi Chương. Chương ngày đêm đi đường, sang phía tây đến Trường An nhưng Thái Tổ đã rút, lại từ Hán Trung mà về. Râu của Chương màu vàng, cho nên gọi như thế.
Thái Tổ về miền đông, lấy Chương làm Việt kị Tướng quân, ở lại Trường An. Thái Tổ đến Lạc Dương, bị bệnh, sai người gọi Chương, chưa đến, Thái Tổ băng.
Ngụy lược chép: Chương đến, bảo Lâm Truy Hầu là Thực rằng: "Tiên vương gọi ta đến, muốn lập mi vậy". Thực nói: "Không phải. Không thấy gương anh em họ Viên(4) sao"!
Văn Đế lên ngôi Vương, Chương cùng chư hầu đến nước.
Ngụy lược chép: Thái tử nối lập, đã táng(5), sai Chương đến nước. Lúc đầu, Chương tự cho là được Tiên vương dùng có công, do đó bèn mong được trao dùng, nhưng nghe tin sắp bị phân phong, ý rất không vui, không đợi lệnh mà đi trước. Bấy giờ vì huyện Yên Lăng cằn cỗi, sai trị ở Trung Mâu. Lúc Văn Đế nhận ngôi, nhân đó phong làm Trung Mâu Vương. Sau đó xe lớn đến Hứa Xương, chư hầu lớn nhỏ ở miền bắc đều sợ oai nghiêm của Chương, hễ qua Trung Mâu, không dám không đi nhanh.
Hạ chiếu nói: "Đạo lí của Tiên vương là ban thưởng cho người thân, cùng phong lập anh em, mở nước lập nhà, do đó mới sinh sôi dòng dõi, ngăn nạn ngừa họa. Lúc trước Chương vâng mệnh đánh phía bắc, dẹp yên miền Sóc Phương(6), công lao to lớn. Tăng ấp năm nghìn hộ, cùng một vạn hộ trước đây". Năm Hoàng Sơ thứ hai, phong tước Công. Năm thứ ba, lập làm Nhâm Thành Vương. Năm thứ tư, chầu ở kinh đô, mắc bệnh hoăng ở nhà nghỉ, tặng thụy là Uy.
Ngụy thị Xuân thu chép: Lúc trước, Chương hỏi ấn thao, muốn có chí khác, cho nên đến chầu mà không vào gặp ngay. Chương oán giận mà hoăng.
Lúc táng, ban cho xe loan, cờ rồng(7), năm trăm lính hổ bôn đi tiễn, như việc cũ của Đông Bình Vương của nhà Hán(8). Con là Khải, chuyển phong ở Trung Mâu. Năm thứ năm, đổi phong ở huyện Nhâm Thành. Năm Thái Hòa thứ sáu, lại đổi phong ở nước Nhâm Thành, ăn lộc hai nghìn năm trăm hộ của năm huyện. Năm Thanh Long thứ ba, Khải mắc tội sai riêng quan thuộc đến chỗ quan Trung thượng phương(9) làm đồ vật cấm, trừ lộc hai nghìn hộ. Năm Chính Thủy thứ bảy, đổi phong ở huyện Tế Nam, lộc ba nghìn hộ. Đầu năm Chính Nguyên, Cảnh Nguyên, liên tiếp tăng ấp, cả thảy bốn nghìn bốn trăm hộ.
Đầu năm Thái Thủy, Khải làm Sùng hóa Thiếu phủ, xem ở Bách quan danh chí.
Chú thích
(1) Vệ, Hoắc: chỉ Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, thời Vũ Đế nhà Hán làm tướng đánh đuổi rợ Hung Nô chạy dài về phía tây.
(2) Thái tử: chỉ Tào Phi là con cả của Thái Tổ Tào Tháo, bấy giờ làm Thái tử.
(3) Thằng con nhà bán dép kia lại sai thằng con nuôi chống ông hắn chăng!: chỉ con nhà bán dép là Lưu Bị sai con nuôi là Lưu Phong đánh chống Tào Tháo.
(4) Gương anh em họ Viên: chỉ việc ba anh em Viên Đàm, Viên Hi, Viên Thượng, sau khi cha là Viên Thiệu chết thì ba anh em tranh quyền đánh lẫn nhau, cuối cùng bị Tào Tháo phá diệt.
(5) Đã táng: chỉ đã táng Tào Tháo.
(6) Sóc Phương: chỉ miền bắc Trung Quốc thời xưa, thời nhà Hán từng lập ra bộ Sóc Phương để trông coi người Hung Nô.
(7) Xe loan, cờ rồng: xe loan chỉ xe có gắn chuông nhỏ, cờ rồng chỉ cờ thêu hình rồng, thường dùng cho nhà vua.
(8) Đông Bình Vươngcủa nhà Hán: chỉ Lưu Vũ là con thứ ba của vua Tuyên Đế nhà Hán, được phong làm Đông Bình Vương.
(9) Trung thượng phương: Trung thượng phương là chức quan có từ thời Hán, coi việc làm ra các đồ dùng trong cung điện.

TRUYỆN TRẦN TƯ VƯƠNG TÀO THỰC - TÀO HÙNG
Trần Tư Vương là Thực, tự Tử Kiến. Năm hơn mười tuổi thuộc làu kinh Thi, Luận ngữ và biết làm phú có mấy chục vạn chữ, giỏi viết văn. Thái Tổ từng xem lời văn của Thực, bảo Thực rằng: "Mi mượn người khác viết giúp chăng"? Thực quỳ gối nói: "Nói ra nên luận, bút hạ thành văn, cúi mặt xét xem, sao lại người giúp"? Bấy giờ đài Đồng Tước ở đất Nghiệp vừa dựng xong, Thái Tổ đem hết các con lên đài, đều sai làm phú. Thực cầm bút viết xong, đáng xem, Thái Tổ rất khen lạ.
Ngụy kỉ của Âm Đạm chép bài phú của Thực rằng:
"Theo cha hiền mà vui chơi chừ, Lên đài lầu thỏa lòng vui.
Xem cảnh rộng mở phủ lớn chừ, Là đài mà đức thánh tạo.
Dựng lập cửa cao chót vót chừ, Hai cửa cổng chọc trời xanh. Đứng giữa trời nhìn cảnh đẹp chừ, Gác cao nối liền cõi tây.
Xem nước sông Chương chảy dài chừ, Rót qua vườn quả ngọt ngào.
Đón gió xuân thổi mát rượi chừ,
Nghe chim hót tiếng bi thương. Mây trời vần vũ quanh ta chừ, Lòng ta muốn đã đạt được.
Nêu nhân hóa khắp vũ trụ chừ, Kinh sư hết thảy cung kính.
Nghĩ Hoàn,Văn(1) dựng thời thịnh chừ, Há bằng bậc thánh minh này!
Tốt thay! Đẹp thay! Ân trạch truyền xa.
Mong giúp nhà vua ta chừ, Dẹp yên bốn cõi.
Cùng quy luật của trời đất chừ, Sáng như mặt trời mặt trăng. Mãi tôn quý mà chẳng hết chừ,
Tuổi thọ sánh với đông vương(2)"...
Thái Tổ rất khen lạ.
Tính giản dị, không trọng uy nghi. Không ưa xe ngựa áo quần hoa lệ. Hễ được gọi đến hỏi han, ứng lời mà đối đáp, do đó rất được sủng ái. Năm Kiến An thứ mười sáu, phong Bình Nguyên Hầu. Năm thứ mười chín, chuyển phong Lâm Truy Hầu. Thái Tổ đánh Tôn Quyền, sai Thực ở lại giữ đất Nghiệp, răn Thực rằng: "Ngày xưa ta làm Đốn Khâu Lệnh, vừa hai mươi ba tuổi. Nghĩ việc mà ta làm thời ấy, đến nay chẳng có gì hối tiếc. Ngày nay mi cũng hai mươi ba tuổi rồi, không nên gắng sức ư"! Thực đã có tài mà được đãi sủng, lại có bọn Đinh Nghi, Đinh Dực, Dương Tu giúp làm vây cánh. Thái Tổ do dự, mấy lần muốn lập làm Thái tử. Nhưng Thực theo tính mình mà làm, không tự gắng sức, uống rượu không giảm. Văn Đế dùng thuật để ngăn chế Thực, tự nắn sửa mình, do đó người trong cung giúp đỡ, đều rất vừa lòng, bèn được định lập làm người nối tự. Năm thứ hai mươi hai, ban thêm thực ấp năm nghìn hộ, cả thực ấp lúc trước là vạn hộ. Thực từng ngồi xe đi giữa đường, mở cửa Tư Mã mà ra, Thái Tổ cả giận(3), quan Công xa lệnh bị xét tội chết, do đó càng thêm ngăn cấm chư hầu, rồi ngày càng ít sủng ái Thực.
Ngụy Vũ cố sự chép lệnh rằng: "Lúc trước ta bảo rằng: "Trong các người con thì Tử Kiến là người cuối cùng có thể nắm việc lớn". Lại lệnh rằng: "Từ khi Lâm Truy Hầu là Thực đi riêng ra, mở cửa Tư Mã đến cửa Kim Môn, khiến cho ta có con mắt khác nhìn về người con này vậy". Lại lệnh rằng: "Quan trưởng sử và người dưới trướng của chư hầu có biết ra chọn lập chư hầu là có ý gì không? Từ khi Tử Kiến đi riêng mở cửa Tư Mã mà ra, ta chẳng còn tin cậy vào chư hầu nữa. E rằng ta nuông chiều thì chư hầu lại tự ý làm riêng, cho nên sửa nắn vậy. Đấy chẳng phải là khiến cho các ngươi mãi làm tim bụng của ta sao"!
Thái Tổ đã suy nghĩ đến sự biến trước sau, thấy Dương Tu có vẻ tài lược, lại là cháu ngoại của họ Viên, do đó kể tội mà giết Tu. Trong lòng Thực càng không tự yên.
Điển lược chép: Dương Tu tự Đức Tổ, là con của Thái úy Bưu(4) vậy. Tính khiêm nhường mà tài rộng. Giữa năm Kiến An, cử Hiếu liêm, bái làm Lang trung, Thừa tướng(5) cử làm Thương tào thuộc Chủ bạ. Bấy giờ, nhiều việc quân trong nước, Tu biết cả trong ngoài, làm đều vừa ý, từ Thái tử của
nhà Ngụy trở xuống đều tranh nhau giao du. Lại bấy giờ Lâm Truy Hầu là Thực vì tài lớn mà được sủng ái, cũng có ý dựa vào Tu, nhiều lần gửi thư cho Tu, thư rằng: "Nhiều ngày không gặp, nhớ ngài mà khổ sở; chỉ muốn cùng gặp vậy. Kẻ hèn này thủa trẻ đã ưa thơ phú, trải đến đến nay đã hai mươi lăm năm rồi, nhưng người viết thơ phú đời nay gọi là có ít ỏi vậy. Ngày xưa Trọng Tuyên bước riêng ở miền nam sông Hán, Khổng Chương dương cánh ở miền bắc sông Hà, Vĩ Trưởng nổi danh ở miền Thanh Châu, Công Cán lẫy lừng ở miền bờ biển, Đức Liên phát tích ở đất Đại Ngụy, túc hạ ngạo nghễ ở miền kinh sư(6). Vào thời bấy giờ, người người cho là nắm ngọc châu của rắn thần(7), nhà nhà cho là ôm ngọc đẹp ở núi Kinh(8) vậy. Do đó bậc Vương ta bày lưới trời để bắt lấy, trùm tám sợi để chụp thu, đến nay đã thu cả về nước ta rồi. Như mấy người kia, vẫn chưa thể bay cao hút gót, một bước nghìn dặm vậy. Như cái tài của Khổng Chương, chẳng giỏi thơ phú, vậy mà nhiều lần tự cho là giống phong cách của Tư Mã Trường Khanh(9) ví như vẽ hổ không thành lại vẽ thành chó vậy. Lúc trước ta gửi thư giễu cợt hắn, nhưng hắn gửi thư đáp lại cho rằng kẻ hèn này khen ngợi lời văn của hắn. Như việc Chung Kì không nghe lầm tiếng đàn(10), đến nay vẫn được khen. Ta cũng không dám khen ngợi bừa bãi, vì sợ người đời sau chê cười ta vậy. Nếu người đời bàn tán thì không thể không nghĩ. Kẻ hèn này thường ưa người khác bàn xét lời văn của mình; có kẻ cho là không hay thì liền sửa đổi. Ngày xưa Đinh Kính Lễ từng làm bài văn nhỏ, muốn kẻ hèn này sửa chữa, kẻ hèn này tự thấy tài năng không hơn được người ta, cho nên từ chối không sửa. Kính Lễ nói: 'Ngài có chỗ nghi ngờ chăng! Ý hay đẹp của bài văn, ta tự biết được, người đời sau có ai biết được lời văn của ta sao'? Ta thường khen lời nói đúng ấy, lại cho là lời bàn hay đẹp. Ngày xưa lời văn của Ni Phủ(11) được người đời sửa chữa; đến như kinh Xuân thu thì bọn Du, Hạ(12) không sửa một chữ. Xem thế mà nói là không có lỗi lầm, đấy là điều mà ta chưa thấy qua vậy. Có vẻ đẹp của Nam Uy(13), mới biết bàn luận về người đẹp; có cái sắc của kiếm Long uyên(14) mới bàn được về chặt chém. Cái tài của Lưu Quý Tự không theo kịp những người kia nhưng lại ưa ngâm viết văn chương, suy xét đúng sai. Ngày xưa Điền Ba(15) chê cười Ngũ Đế, kể tội Tam Vương, mỉa mai Ngũ Bá ở ấp Tắc Hạ, một sớm mà khiến cho nghìn người chịu phục, nhưng Lỗ Liên(16) nói một lời mà khiến cho Điền Ba rụt thân ngậm miệng. Lời lẽ của Lưu Quý Tự không bằng Điền Ba. Lỗ Trọng Liên của ngày nay cũng chẳng khó tìm, đáng không than thở sao! Người ta đều có điều mà mình ưa thích, mùi thơm của hoa lan chỉ tôn huệ là thứ mà người đời thích, nhưng lại có người đuổi theo người có mùi hôi; các bài hát Hàm trì, Lục anh(17) mà bài hát mà mọi người thích, nhưng Mặc Địch lại có bài luận biết không thích những bài hát ấy; há cùng giống nhau! Xưa nay thơ phú mà kẻ hèn này thủa trẻ viết nên đều cho người khác đọc qua. Trong nhà ngoài phố bàn tán, tấy có chỗ đáng xem. Như bài hát của kẻ đánh xe cũng có lời hay đẹp, lời văn của kẻ thất phu cũng không dễ mà coi thường vậy. Thơ phú của ta ít nói đạo lí, cho nên không đủ để nêu cao nghĩa lớn, soi sáng đời sau vậy. Ngày xưa Dương Tử Vân(18) chỉ là bầy tôi cầm kích của thời trước mà vẫn nói rằng: 'Người lớn không làm việc ấy'. Ta dẫu đức mỏng, chỉ làm phiên thần, vẫn mong được gắng sức giúp nhà nước, ban ân cho dân, lập nghiệp cho muôn đời, truyền lại công vàng đá, há chỉ theo công nghiệp bút nghiên, lấy việc viết văn để làm người quân tử sao? Nếu chí ta không thành, đạo ta chẳng lập, cũng muốn chọn chép lời văn của quan lại, biện luận cái được cái mất của phong tục thời nay, tỏ nỗi lòng nhân nghĩa, lập thành học thuyết của một nhà, dẫu không cất giữ được ở trong núi cao thì cũng trao cho người cùng yêu thích, bàn luận đến khi đầu bạc, há chỉ bàn luận ở thời nay sao! Ta nói lời này ra chẳng thẹn, mong ngài hiểu cho ta vậy. Sáng mai gặp nhau, trong thư chẳng tỏ hết nỗi lòng". Tu đáp rằng: "Không hầu mấy ngày mà dài tựa mấy năm, há chỉ chịu nhận ân trạch thăm hỏi, khiến cho ta ngưỡng mộ tình sâu mà thôi đâu! Kẻ hèn này xin nói rõ ý nình, như việc ngâm đọc ngược xuôi, dẫu bàn về Nhã, Tụng(19) cũng không hơn được ngài vậy. Như bọn Trọng Tuyên vang danh ở miền Giang Biểu, họ Trần rong ruổi ở miền Kí Châu, Từ, Lưu nổi rõ ở miền Thanh, Dự, Ứng Sinh phát tích ở nước Ngụy, họ đều đúng như thế. Còn như Tu đây, chỉ được nghe qua, đức hạnh không rõ, mắt chỉ liếc xem qua văn truyện, sao dám ngao nghễ mà nhìn người ta? Cúi nghĩ quân hầu thủa trẻ lớn lên trong nhà quyền quý, là thân thể của Đán, Phát(20), có cái giáo hóa thánh thiện. Người gần xa trông xem kẻ hèn này đều cho là có thể nêu cao đức lành, chiếu rõ nghiệp lớn mà thôi, không cho là xem qua kinh truyện, chú ý ở văn chương vậy. Nay lại nhận được thư bày kể của ngài, chỉ mới đọc qua mà khiến cho người xem giật mình mà dụi mắt, người nghe cúi đầu mà vểnh tai; nếu không phải là người thông thái rộng rãi, vâng theo tự nhiên thì ai có thể nói lên được những lời như thế? Lại từng tự mình nắm việc cầm bút giữ sách, có chỗ chép soạn, thành thạo ý nghĩa trong lòng, múa tay là thành văn, lại thêm không vì thế mà ít chăm chú suy nghĩ. Trọng Ni như mặt trời mặt trăng, không ai hơn được vậy. Tu ngưỡng mộ ngài gần như cũng thế. Cho nên đối đáp mà từ chối, làm bài Thử phú qua ngày mà không dâng lên, là vì thấy vẻ đẹp của Tây Thi lại thẹn cho vẻ mặt của mình vậy. Cúi nghĩ kẻ hèn này làm việc không biết lẽ đúng đắn, thẹn thùng cúi nhận ban tặng, chỉ bày giúp sửa nắn thôi. Kinh Xuân thu viết xong, chẳng ai tăng giảm, còn như sách Lữ thị Xuân thu, Hoài Nam Tử, mỗi chữ đáng nghìn vàng, nhưng vẫn bị người đời truyền ngoa, người ngoài chợ cùng nắm tay sửa lại, đấy là vì bậc thánh hiền nổi bật, cho nên khác hẳn với kẻ tầm thường vậy. Các thơ phú của thời nay và thơ phú của thời xưa không ai bằng Khổng Tử, nhưng phong cách không khác vậy. Tu như Tử Vân, già không hiểu việc, chỉ chép một sách, vẫn tiếc vì ít viết. Như thế, bọn Trọng Sơn, Chu Đán(21) đều có lỗi lầm sao! Quân hầu quên gương sáng của bậc thánh hiền, nói ra lời sai của kẻ tầm thường, kẻ hèn này trộm cho là chưa sâu xa vậy. Nếu là không quên cái nghĩa lớn giúp nước, truyền tiếng tăm với nghìn năm, khắc công lên chuông khánh, ghi tên vào tre lụa, đấy là do tính nhã nhặn bao chứa vậy, há ngăn cản với văn chương được sao? Kẻ hèn này nhận được ân trạch của ngài, chỉ mong đui mù ngâm đọc được thơ phú mà thôi. Dám quên ban ân mà nhục Trang Tử! Còn như Quý Tự nhỏ nhặt, sao đáng nói tới". Họ qua lại với nhau, rất nhiều lần như thế. Sau đó Thực vì phóng túng mà bị ruồng bỏ, nhưng Thực vẫn không ngừng giao kết với Tu, Tu cũng không dám tự dứt. Đến mùa thu năm thứ hai mươi tư, Tào Công vì Tu trước sau nói lời tiết lộ, giao kết chư hầu, bèn bắt giết Tu. Tu sắp chết, bảo người quen cũ rằng: "Ta bị bắt giết vẫn còn muộn vậy". Ý nói cho là bị tội vì giao kết với Tào Thực vậy. Sau khi Tu chết trăm ngày thì Thái Tổ hoăng, lập Thái tử, bèn có thiên hạ. Lúc trước, Tu lấy thanh kiếm của Vương Bưu dâng cho Thái tử, Thái tử thường đeo kiếm ấy. Đến lúc lên ngôi cao, ở tại Lạc Dương, ung dung ra khỏi cung, xét nghĩ Tu mắc lỗi nhỏ, vuốt kiếm ấy, ngừng xe ngoảnh bảo tả hữu nói: "Đấy là thanh kiếm mà ngày xưa Dương Đức Tổ lấy của Vương Bưu vậy. Ngày nay Bưu ở đâu"? Liền gọi Bưu đến gặp, ban lúa gấm cho Bưu.
Văn chương chí của Chí Ngu chép: Tên của Lưu Quý Tự là Tu, là con của Lưu Biểu, làm đến Đông An Thái thú. Viết thơ, phú, tụng có sáu thiên.
Thần là Tùng Chi xét: Lữ thị Xuân thu chép: "Có người có mùi hôi, anh em vợ con của người ấy đều chẳng ai ở cùng, người ấy tự khổ sở mà đến ở trên bờ sông. Người trên bờ sông thích lại thích mùi hôi ấy, ngày đêm đi theo người ấy mà không rời được". Đấy là lời Thực nói: "Đuổi theo người có mùi hôi" vậy. Việc về Điền Ba chép trong Lỗ Liên Tử, cũng thấy ở Hoàng lãm, lời văn nhiều cho nên không chép ra đây.
Thế ngữ chép: Vào năm Tu hai mươi lăm tuổi, vì là nhà quyền quý lại có tài năng cho nên được Thái Tổ coi trọng, cùng anh em Đinh Nghi đều muốn giúp Thực làm người nối tự. Thái tử lo lắng, lấy xe chở cái rương hỏng chuyển đến mưu tính với Triều Ca Trưởng là Ngô Chất. Tu đem việc ấy bẩm lên Thái Tổ, chưa kịp xét hỏi. Thái tử sợ, báo cho Chất, Chất nói: "Lo gì? Ngày sau lại đem rương đặt trong xe kéo đi để khiến cho hắn nghi hoặc, Tu tất thêm bẩm lên, bẩm lên tất suy nghĩ, nếu xét không đúng thì bên ấy bị trách tội vậy". Thái tử nghe theo, quả nhiên Tu bẩm lên, nhưng không có người trên xe, do đó Thái Tổ nghi ngờ Tu. Tu với Giả Quỳ, Vương Lăng cùng làm Chủ bạ, lại được Thực kết bạn. Hễ sắp đến gặp Thực, lo việc có lỗi, xét nghĩ ý của Thái Tổ, làm sẵn bài văn
dạy đáp có hơn mười điều để khuyên kẻ dưới, dạy xong thì đối đáp. Lời dạy chép xong, lời đáp đã vào, Thái Tổ thấy lạ cái nhanh nhẹn ấy, xét hỏi bắt tiết lộ. Thái Tổ sai Thái tử và Thực đều qua một cửa ở thành Nghiệp, nhưng ngầm hạ lệnh không cho ai được qua cửa để xem việc mà Tu làm. Thế tử đến cửa thành, không ra được mà về. Tu khuyên Thực trước rằng: "Nếu quân hầu không ra qua cửa thành thì quân hầu được nhân ngôi vua, nên chém tướng giữ thành". Thực nghe theo. Cho nên Tu bèn bị kể tội giao kết mà ban chết. Con Tu là Hiêu, con Hiêu là Hoài, đều nổi danh vào thời nhà Tấn. Hiêu vào đầu năm Thái Thủy làm Điển quân Tướng quân, dốc lòng dạ làm việc, chết sớm. Hoài tự Thủy Khâu, cuối thời Huệ Đế làm Kí Châu Thứ sử.
Kí Châu kí của Tuân Xước chép: Hoài thấy phép vua chẳng sửa, bèn buông thả uống rượu, không chú ý làm việc quan, vui chơi qua ngày mà thôi. Thành Đô Vương biết Hoài không sửa mình, nhưng vẫn cho rằng Hoài là kẻ sĩ giỏi, tiếc mà không trách, gọi đến làm Quân mưu Tế tửu. Rời phủ về nhà, chư hầu miền Quan Đông bàn nghị muốn lấy Hoài sửa năm các việc để tỏ ý chuộng đức kính hiền. Việc chưa làm được thì chết. Con Hoài là Kiệu, tự Quốc Ngạn, Mao tự Sĩ Ngạn, đều là kẻ anh hào đời sau. Hoài thân thiện với Bùi Ngôi, Nhạc Quảng, sai Hoài đến gặp họ. Tính Ngôi thẳng thắn, thích phong thái cao thượng của Kiệu, bảo Hoài rằng: "Kiệu tất làm đến công khanh, còn Mao lại kém hơn vậy". Tính Quảng trong sạch, ưa cái tính tiết kiệm của Mao, bảo Hoài rằng: "Kiệu tự làm đến công khanh, nhưng Mao tinh thông hơn". Hoài than rằng: "Cái hay đẹp của hai con ta là cái hay đẹp của Bùi, Nhạc vậy". Người bình cho rằng Kiều dẫu là cao thượng nhưng tiết kiệm không bằng Mao, nói rộng là thế. Phó Sướng nói: "Kiệu giống Hoài mà thô sơ". Em Kiệu là Tuấn, tự Huệ Ngạn, trong sạch hơn cả. Kiệu, Mao đều làm quan có bổng hai nghìn thạch. Tuấn làm Thái phó duyện.
Năm thứ hai mươi tư, Tào Nhân bị Quan Vũ vây, Thái Tổ lấy Thực làm Nam trung lang tướng, giữ chức Chinh lỗ Tướng quân, muốn sai đến cứu Nhân, gọi đến để răn bảo. Thực say rượu không vâng lệnh được, do đó hối hận mà bãi chức.
Ngụy thị Xuân thu chép: Thực sắp đi, Thái tử mời Thực ăn uống, ép cho Thực say rượu. Ngụy Vương gọi Thực, Thực không tự nhận được mệnh lệnh, cho nên Ngụy Vương giận Thực vậy.
Văn Đế lên ngôi Vương, giết Đinh Nghi, Đinh Dực và con trai của họ.
Ngụy lược chép: Đinh Nghi tự Chính Lễ, người quận Bái. Cha là Xung, vốn thân thiện với Thái Tổ, bấy giờ thường cùng ngồi xe đi theo. Thấy nhà nước chưa định, bèn gửi thư cho Thái Tổ rằng: "Thủa trước túc hạ thường bảo rằng mình có chí giúp nước, ngày nay là lúc giúp rồi". Bấy giờ Trương Dương vừa về quận Hà Nội, Thái Tổ nhận được thư ấy, bèn dẫn quân đón Thiên tử đi về phía đông đến đất Hứa, lấy Xung làm Tư lệ Hiệu úy. Sau đó mấy lần qua chỗ các tướng ăn uống, uống rượu ngon chẳng nghỉ, cháy ruột mà chết. Thái Tổ thấy Xung lúc trước khuyên bảo mình, thường khen đức của Xung. Nghe nói Nghi là kẻ sĩ có tài, dẫu chưa gặp nhưng muốn gả con gái yêu cho Nghi, đem việc hỏi Ngũ quan tướng. Ngũ quan tướng nói: "Vẻ mặt của con gái xinh đẹp mà mắt của Nghi lại xấu xí, chỉ e con gái yêu không vừa lòng vậy. Thần cho rằng không bằng gả cho con của Phục ba Tướng quân(22) là Mậu". Thái Tổ nghe theo. Rồi gọi Nghi làm Duyện thuộc, đến cùng bàn luận, khen tài năng của Nghi, nói: "Đinh Duyện thuộc là kẻ sĩ giỏi vậy, nếu đúng hai mắt của người ấy mù lòa thì ta vẫn gả con gái cho, huống cho chỉ là chột? Là con ta làm ta lầm rồi". Bấy giờ Nghi cũng hận vì không được lấy công chúa, liền thân thiện với Lâm Truy Hầu, nhiều lần khen tài lạ của Lâm Truy Hầu. Thái Tổ đã có ý muốn lập Thực, mà Nghi lại cùng khen ngợi Thực. Đến lúc Thái tử lập, muốn trị tội Nghi, chuyển Nghi làm Hữu thích gian duyện, muốn Nghi
tự xét tội mình mà Nghi không làm được, bèn gặp Trung lĩnh quân Hạ Hầu Thượng cúi đầu xin giúp, Thượng khóc lóc mà chẳng giúp được. Sau đó bèn nhân có việc khác mà bắt vào ngục, giết Nghi. Dực tự Kính Lễ, là em của Nghi vậy. Văn sĩ truyện chép: Thủa trẻ Dực có tài năng, học rộng biết nhiều. Lúc trước được mời đến phủ công, giữa năm Kiến An làm Hoàng môn Thị lang. Dực từng ung dung bảo Thái Tổ rằng: "Lâm Truy Hầu bản tính nhân hiếu, rộng rãi tự nhiên, lại thông minh hiểu biết, chẳng ai kịp bằng. Lại còn học rộng sâu xa, văn chương hơn người, là bậc quân tử hiền tài thời nay, không kể già trẻ đều muốn giao du với ngài và vì ngài mà chết, thật là người mà trời trao phúc nhà Đại Ngụy, khiến cho bổng lộc giữ mãi không hết vậy". Muốn để khuyên bảo Thái Tổ. Thái Tổ đáp nói: "Thực là người ta thích, há đợi khanh nói ra? Ta muốn lập hắn làm người nối tự, thế nào"? Dực nói: "Việc này là nguyên nhân khiến cho nhà nước hưng suy, là nguyên nhân khiến cho thiên hạ còn mất, là việc mà kẻ ngu hèn này không dám bàn đến. Dực nghe nói biết tôi chẳng ai bằng vua; biết con chẳng ai bằng cha. Đến như vua không kể sáng tối, cha không kể hiền ngu, lại thường biết được tôi, con của mình chăng? Có lẽ là do biết được không chỉ một việc một vật, biết hết không phải chỉ một sớm một tối. Huống chi minh công thử ngài mà dùng lời của bậc thánh, tin ngài mà trao việc của người con. Ngày nay nêu rõ lệnh sáng suốt, nói lời tốt làn, có thể nói là trên ứng mệnh trời, dưới hợp lòng người, được việc ở chốc lát, trải qua đến muôn đời vậy. Dực không e bị chết bởi rìu búa, dám nói hết lời". Thái Tổ khen lời ấy.
Thực và chư hầu cùng đến nước. Năm Hoàng Sơ thứ hai, Giám quốc yết giả là Quán Quân xin đến gặp, về tấu rằng: "Thực say rượu khinh mạn, đánh hiếp sứ giả". Quan coi việc xin trị tội ấy, Đế vì Thái hậu can ngăn, bèn giáng phong làm An Hương Hầu. Ngụy thư chép chiếu rằng: "Thực là em cùng mẹ của trẫm. Trẫm đối với thiên hạ không chỗ nào không bao bọc, huống chi là Thực? Nể tình cốt nhục, tha mà không giết, đổi phong cho Thực". Năm đó đổi phong làm Quyên Thành Hầu. Năm thứ ba, lập làm Quyên Thành Vương, thực ấp hai nghìn năm trăm hộ.
Năm thứ tư, chuyển phong làm Ung Khâu Vương. Năm đó, chầu ở kinh sư.
Năm thứ sáu, Đế đánh miền đông, trở về qua Ung Khâu, đến cung của Thực, ban thêm năm trăm hộ.
Năm Thái Hòa thứ nhất, chuyển phong làm Tuấn Nghi Vương. Năm thứ hai, lại về Ung Khâu.
Năm thứ ba, chuyển phong làm Đông A Vương. Mùa đông năm đó, hạ chiếu sai các Vương hẹn đến chầu vào tháng giêng năm thứ sáu. Tháng hai năm đó, lấy bốn huyện của quận Trần phong Thực làm Trần Vương, thực ấp ba nghìn năm trăm hộ. Thực thường muốn được gọi đến bàn luận chính trị thời ấy, mong cầu dùng thử, nhưng cuối cùng chẳng được. Đã về, buồn bã tuyệt vọng. Theo phép chế thời ấy, đối đãi với nước phiên đã ép bức, lại nữa bọn quan thuộc đều là kẻ buôn bán kém tài, chỉ cấp cho quân sĩ già yếu, lớn cũng chẳng hơn hai trăm người. Lại vì Thực lúc trước có lỗi, các việc đều bị cắt giảm, trong khoảng mười một năm mà ba lần chuyển phong, thường lo lắng không vui, bèn phát bệnh chết, bấy giờ bốn mươi mốt tuổi.
Thực thường gảy đàn ca hát, có lời rằng: "Than ôi thân phiêu dạt,
Ở đời sao cô độc! Rời xa nơi gốc gác, Ngày đêm chẳng thảnh thơi.
Đông tây qua chín lối, Nam bắc vượt bảy bờ. Bỗng gặp cơn gió nổi, hổi ta vào cõi mây.
Vừa lên đến trời cao, Lại rơi xuống vực sâu. Gió cuồng kéo ta dậy, Lại vào cánh đồng này. Đằng nam rồi mé bắc, Sang đông lại sang tây. Dây dưa biết dựa đâu? Sắp chết mà sống lại. Trôi nổi khắp tám đầm, Liên miên qua năm núi. Rong ruổi chẳng ở yên, Ai biết ta vất vả?
Muốn làm cây trong rừng, Mùa thu cháy theo bãi. Cháy tàn há chẳng đau? Chỉ mong rễ liền gốc".
Tôn Thịnh nói: "Lạ thay cho cái cách phong kiến của nhà Ngụy! Chẳng theo phép của Tiên vương, không xét cái thuật giữ phên dậu, làm trái phong tục hòa mục, phản lại cái nghĩa giữ nước. Theo cách phong kiến vào thời đầu của nhà Hán, có chỗ quyền thế ngang với vua trên, dẫu nói là không phải phép nhưng thời thế phải như thế vậy. Như chư hầu của nhà Ngụy lại hèn kém tựa kẻ thất phu, như việc phạt tội bảy nước, cũng đã sửa nắm được lỗi lầm vậy. Vả lại nhà Ngụy thay nhà Hán vốn không phải là do tích đức, phong tục đã kém, sáu cõi chưa liền mà chặt bẻ cành nhánh, trao quyền cho họ khác, thế như cây mục, nguy như ổ màn, chẳng lâu thì dứt, đấy chẳng phải do trời diệt vậy. Theo phép ngũ đẳng(23), đấy là phép vạn đời chẳng đổi. Sáu đời hưng vong(24). Tào Quýnh (25) bàn đã rõ rồi".
Truyền lệnh lại sai táng sơ qua. Lấy con nhỏ là Chí làm chủ giữ nhà, muốn lập Chí vậy.
Lúc trước, Thực trèo lên núi Ngư, đến huyện Đông A, thở dài có ý chết ở đấy, bèn đào làm mộ. Con là Chí nối tự, chuyển phong làm Tế Bắc Vương. Giữa năm Cảnh Sơ hạ chiếu rằng: "Ngày trước Trần Tư Vương dẫu có lỗi lầm nhưng tự thân cận thận làm việc để bù đắp lỗi trước. Vả lại từ thủa trẻ đến lúc mất, sách vở không rời khỏi tay, thật là tài năng khó tìm vậy. Các sớ biểu vào giữa năm Hoàng Sơ mà từ công khanh trở xuống bàn nghị với ba phủ Thượng thư, Bí thư, Trung thư, Đại hồng lư từng kể tội Thực đều đã xóa bỏ. Soạn chép thơ, phú, tụng, minh, tạp luận mà Thực trước sau viết nên cả thảy mấy trăm thiên, giúp cất giữ ở trong ngoài". Chí được tăng thêm ấp, cả lúc trước là chín trăm chín mươi hộ.
Chí biệt truyện chép: Chí tự Doãn Cung, ham học lại có tài. Vào thời Vũ Đế của nhà Tấn làm Trung phủ quân, đón Thường Đạo Hương Công ở đất Nghiệp, buổi đêm Chí gặp nhau với Đế, cùng nói chuyện với Đế từ chiếu đến sáng mai, rất coi trọng Chí. Đến lúc nhận ngôi, đổi phong làm Quyên Thành Công. Hạ chiếu lấy Chí làm Nhạc Bình Thái thú, làm quan qua ở các quận Chương
Vũ, Triệu Quận, chuyển làm Tán kị Thường thị, Quốc tử Bác sĩ, sau lại chuyển làm Bác sĩ Tế tửu. Đến lúc Tề Vương là Du sắp đến làm phiên thần, trọng lễ theo phép của quan lại mà ban thưởng, Chí than rằng: "Há có người tài như thế, thân thích như thế mà không được sửa trị giáo hóa, mà lại cho ra ngoài cõi xa sao"? Lại bày kể để khuyên can, lời lẽ rất khẩn thiết. Đế cả giận, bãi chức của Chí. Sau lại làm Tán kị Thường thị. Chí gặp lúc mẹ mất, chịu tang hết kì, do đó mắc bệnh, vui giận khác thường, năm Thái Khang thứ chín thì chết, thụy là Định Công.
Tiêu Hoài Vương là Hùng, hoăng sớm. Năm Hoàng Sơ thứ hai, truy phong hiệu là Tiêu Hoài Công. Năm Thái Hòa thứ ba, lại truy phong tước Vương. Năm Thanh Long thứ hai, con là Ai Vương là Bỉnh nối tự, thực ấp hai nghìn năm trăm hộ. Năm thứ sáu thì hoăng, không có con, nước trừ.
Bình rằng: Nhâm Thành Vương võ nghệ tráng mãnh, có khí chất của tướng súy. Trần Tư Vương văn chương hay đẹp, đủ để truyền lại cho đời sau, nhưng không biết giữ gìn phòng xa, dẫn đến bị hiềm ganh. Kinh truyện chép: "Nước Sở cũng làm mất rồi, mà nước Tề cũng không có được", lời ấy nói đúng về hai người chăng!
Ngư Hoạn nói: "Ngạn ngữ có nói: 'Nghèo mà chẳng tiết kiệm, hèn mà chẳng khiêm nhường', đấy chẳng phải tính người vốn thế, mà là do thời thế khiến nên như vậy. Cái thế rõ ràng ấy, thật chẳng sai vậy. Nếu mà Thái Tổ ngăn ngừa bọn Thực, vào thời xưa ấy thường khen là hiền, thì sao lại có ý trông đợi được? Chương vẫn mang hận, vẫn không biết làm sao. Còn đối với Thực, sao lại chuốc nạn mà khiến cho Dương Tu vì giao du mà bị hại, Đinh Nghi mong ý mà nhà diệt? Thương thay! Ta hễ đọc xem văn chương của Thực, ý nghĩa có thần. Từ đấy mà xét, tấm lòng dao động của Thái Tổ cũng có cái hay vậy"(26).
Chú thích
(1) Hoàn,Văn: chỉ Hoàn Công của nước Tề, Văn Công của nước Tấn thời Xuân thu, dựng nên nghiệp bá.
(2) Đông vương: chỉ Đông Vương Công, theo truyền thuyết là thần đứng đầu các vị tiên nam, thần còn lại là Tây Vương Mẫu đứng đầu các vị tiên nữ.
(3) Thực từng ngồi xe đi giữa đường, mở cửa Tư Mã mà ra, Thái Tổ cả giận: cửa Tư Mã là cửa ngoài cung của nhà vua, canh phòng rất nghiêm ngặt, Thực tự ý mở cửa ra, do đó Tháo giận vậy.
(4) Thái úy Bưu: chỉ Dương Bưu tự Văn Tiên, người quận Hoằng Nông, làm Thái úy vào thời vua Hiến Đế của nhà Hán.
(5) Thừa tướng: chỉ Tào Tháo, bấy giờ làm Thừa tướng.
(6) Ngày xưa Trọng Tuyên bước riêng ở miền nam sông Hán, Khổng Chương dương cánh ở miền bắc sông Hà, Vĩ Trưởng nổi danh ở miền Thanh Châu, Công Cán lẫy lừng ở miền bờ biển, Đức Liên phát tích ở đất Đại Ngụy, túc hạ ngạo nghễ ở miền kinh sư.: Vương Xán tự Trọng Tuyên, người quận Sơn Âm, cuối thời Hán loạn lạc chạy đến Kinh Châu ở phía nam sông Hán nương nhờ Lưu Biểu. Trần Lâm tự Khổng Chương, người quận Quảng Lăng, sau khi Hà Tiến bị giết, chạy đến Kí Châu ở miền sông Hoàng Hà theo Viên Thiệu. Từ Cán tự Vĩ Trưởng, người quận Bắc Hải, thời Hán loạn, giữ ở Thanh Châu. Lưu Trinh tự Công Cán, người quận Đông Bình. Ứng Sướng tự Đức Liên, người quận Nhữ Nam. Dương Tu tự Đức Tổ, người quận Hoằng Nông. Đều là những người giỏi văn chương vào thời Hán, Tam quốc.
(7) Ngọc châu của rắn thần: theo truyền thuyết, vào thời Xuân thu, Tùy Hầu thấy một con rắn bị
thương, liền lấy thuốc chữa cho nó, sau đó con rắn ấy từ giữa sông ngậm một viên ngọc lớn bơi lên đền ơn. Thường sánh người tài năng như ngọc châu của rắn thần vậy.
(8) Ngọc đẹp ở núi Kinh: chỉ ngọc của Biện Hòa người nước Sở thời Xuân thu phát hiện được ở núi Kinh.
(9) Tư Mã Trường Khanh: chỉ Tư Mã Tương Như tự Trường Khanh, người Thục Quận thời Vũ Đế nhà Hán, giỏi làm thơ, phú.
(10) Chung Kì không nghe lầm tiếng đàn: Chung Kì, còn gọi là Chung Tử Kì, người nước Sở thời Xuân thu, tương truyền có một người giỏi âm nhạc là Bá Nha gảy đàn ở bên bờ sông, Chung Kì nghe được, nói: "Tiếng đàn cao vời như núi cao, lại cuồn cuộn như nước chảy". Bá Nha cho là Chung Kì hiểu tiếng đàn của mình mình.
(11) Ni Phủ: chỉ Khổng Tử.
(12) Du, Hạ: chỉ Tử Du, Tử Hạ, là hai học trò của Khổng Tử.
(13) Nam Uy: Nam Uy, còn gọi là Nam Chi Uy, là người con gái xinh đẹp của nước Tấn thời Xuân thu, vua Văn Công của lấy được Nam Uy, ba ngày không nghe chính trị.
(14) Kiếm Long uyên: Long uyên là tên của một trong năm thanh kiếm báu do Âu Dã Tử thời Xuân thu đúc.
(15) Điền Ba: Điền Ba là người giỏi biện luận, người nước Tề thời Chiến quốc, tương truyền biện luận ở ấp Trở Khâu, nghị bàn ở ấp Tắc Hạ, một ngày thuyết phục mười người.
(16) Lỗ Liên: Lỗ Liên, còn gọi là Lỗ Trọng Liên, Lỗ Liên Tử người nước Tề thời Chiến quốc, giỏi biện luận.
(17) Hàm trì, Lục anh: Hàm trì, Lục anh là tên hai khúc nhạc thời xưa, tương truyền do Đế Chuyên Húc soạn nên.
(18) Dương Tử Vân: chỉ Dương Hùng ()
(19) Nhã, Tụng: Nhã, Tụng là hai chủ đề trong kinh Thi.
(20) Đán, Phát: Đán chỉ Cơ Đán là Chu Công, Phát chỉ Cơ Phát là Vũ Vương của nhà Chu, là con của Văn Vương.
(21) Trọng Sơn, Chu Đán: Trọng Sơn chỉ Trọng Sơn Phủ vốn là nhà nông, sau được tiến cử vào triều làm Tể tướng cho vua Tuyên Vương của nhà Chu. Chu Đán chỉ Chu Công.
(22) Phục ba Tướng quân: chỉ Hạ Hầu Đôn tự Nguyên Nhượng, từng được bái làm Phục ba Tướng quân.
(23) Ngũ đẳng: chỉ năm bậc tước là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
(24) Sáu đời hưng vong: chỉ nhà Ngụy thời Tào Tháo đến đời Tào Phi, Tào Duệ, Tào Phương,
Tào Mao, Tào Hoán là sáu đời. Hưng từ thời Tào Tháo mà vong vào thời Tào Hoán vậy.
(25) Tào Quýnh: Tào Quýnh tự Nguyên Thủ, là con của Ngụy Minh Đế Tào Duệ, từng viết bài luận về sự hưng vong của sáu đời nhà Ngụy.
(26) Ta hễ đọc xem văn chương của Thực, ý nghĩa có thần. Từ đấy mà xét, tấm lòng dao động của Thái Tổ cũng có cái hay vậy".: Ý nói văn chương của Thực có thần, đáng xem. Thái Tổ sủng ái, muốn lập làm Thái tử, sau dao động mà ruồng bỏ, sau lại bị Văn Đế hiềm ganh, o đó Thực sinh lòng buồn bã, từ đấy chăm chú thơ phú, ít màng chính trị. Cũng vì thế mà mới có Tào Thực văn chương hay đẹp, tình cảm sâu sắc chăng!

NGỤY THƯ QUYỂN 20 - Vũ Văn thế Vương Công truyện
Tào Ngang, Tào Thước, Tào Xung, Tào Cứ, Tào Vũ, Tào Lâm, Tào Cổn, Tào Huyền, Tào Tuấn, Tào Củ, Tào Cán, Tào Thượng, Tào Bưu, Tào Cần, Tào Thừa, Tào Chỉnh, Tào Kinh, Tào Quân, Tào Cấc, Tào Huy, Tào Mậu, Tào Hiệp, Tào Nhuy, Tào Giám, Tào Lâm, Tào Lễ, Tào Ung, Tào Cống, Tào Nghiễm
Vũ Hoàng Đế có hai mươi lăm con trai: Biện Hoàng hậu sinh Văn Hoàng Đế, Nhâm Thành Uy Vương là Chương, Trần Tư Vương là Thực, Tiêu Hoài Vương là Hùng; Lưu phu nhân sinh Phong Mẫn Vương là Ngang, Tương Thương Vương là Thước; Hoài phu nhân sinh Đặng Ai Vương là Xung, Bành Thành Vương là Cứ, Yên Vương là Vũ; Đỗ phu nhân sinh Bái Mục Vương là Lâm, Trung Sơn Cung Vương là Cổn; Tần phu nhân sinh Tế Dương Hoài Vương là Huyền, Trần Lưu Cung Vương là Tuấn, Doãn phu nhân sinh Phạm Dương Mẫn Vương là Củ; Vương chiêu nghi sinh Triệu Vương là Cán; Tôn cơ sinh Lâm Ấp Thương công tử là Thượng, Sở Vương là Bưu, Cương Thương công tử là Cần; Lí cơ sinh Cốc Thành Thương công tử là Thặng, Mi Đái Công tử là Chỉnh, Linh Thương công tử là Kinh; Chu cơ sinh Phàn An Công là Quân; Lưu cơ sinh Quảng Tông Thương công tử là Cức; Tống cơ sinh Đông Bình Linh Vương là Huy; Triệu cơ sinh Lạc Lăng Vương là Mậu.
Phong Mẫn Vương là Ngang, tự Tử Tu. Tuổi 'nhược quán'(1) cử hiếu liêm, theo Thái Tổ đánh miền nam, bị Trương Tú hại. Không có con. Năm Hoàng Sơ thứ hai, truy phong thụy là Phong Trác Công. Năm thứ ba, lấy con của Phàn An Công là Quân tên là Uyển làm dòng dõi của Ngang, phong Trung Đô Công; năm đó chuyển phong con cả tên là Công. Năm thứ năm, truy tặng Ngang hiệu là Phong Trác Vương. Năm Thái Hòa thứ ba, đổi thụy Ngang là Mẫn Vương. Năm Gia Bình thứ sáu, lấy Uyển nối tước Ngang làm Phong Vương. Giữa năm Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, cùng hai nghìn bảy trăm hộ lúc trước. Uyển hoăng, thụy là Cung Vương. Con là Liêm nối tự.
Tương Thương Vương là Thước, chết sớm. Năm Thái Hòa thứ ba, truy phong thụy. Năm Thanh Long thứ nhất, con là Mẫn Vương tên là Tiềm nối tự; năm đó hoăng. Năm thứ hai, con là Hoài Vương tên là Yển nối tự, thực ấp hai nghìn năm trăm hộ. Năm thứ tư, hoăng, không có con. Nước trừ. Năm Chính Nguyên thứ hai, lấy con của Lạc Lăng Vương là Mậu là Dương Đô Hương Công tên là Tủng nối dõi của Thước.
Đặng Ai Vương là Xung, tự Thương Thư. Thủa bé thông minh tột vời, sinh được năm sáu tuổi đã trí tuệ, có cái trí như của người lớn. Bấy giờ Tôn Quyền từng cống voi lớn, Thái Tổ muốn biết cân nặng của nó, hỏi với bầy tôi, đều chẳng ai bày được cách cân. Xung nói: "Đặt voi lên thuyền lớn, rồi khắc chỗ mà mực nước đến, đem vật khác để thay vào thì sẽ biết được vậy". Thái Tổ cả mừng, liền cho làm ngay. Bấy giờ quân lữ nhiều việc, dùng hình rất nghiêm. Yên ngựa của Thái Tổ ở kho bị chuột gặm, quan coi kho sợ tất chết, bàn muốn trói đầu chịu tội, vẫn lo không thoát được. Xung bảo rằng: "Đợi ba ngày nữa rồi mới tự bẩm". Do đó Xung lấy đao cắt áo cộc làm như chuột gặm, rồi tỏ vẻ thất ý, mặt có vẻ buồn, Thái Tổ hỏi sao, Xung đáp rằng: "Người đời cho là áo bị chuột gặm thì chủ áo không được tốt. Nay áo cộc bị gặm, cho lên lo buồn". Thái Tổ nói: "Đấy là nói bậy thôi, không sao cả vậy". Chốc lát thì quan coi kho bẩm việc cái yên bị gặm, Thái Tổ cười rằng: "Cái áo trẻ con ở bên còn bị gặm, huống chi là cái yên treo trên cột đây"? Rồi không hỏi nữa. Xung nhân ái hiểu biết, đều đại loại như thế. Hễ ai phải tội chết mà được Xung bày lí lẽ biện luận thì nhờ đó mà được cứu, trước sau có mấy chục người.
Ngụy thư chép: Xung hễ gặp kẻ bị phạt, liền xét kĩ có oan uổng không mà nói lí lẽ. Đến như những quan lại chăm chỉ có lỗi lầm mà bị tội, thường bày bẩm Thái Tổ, nên khoan thứ cho họ. Tính ưa xem xét lại nhân ái, dáng vẻ đẹp đẽ, có khác với mọi người, cho nên rất được sủng ái.
Thần là Tùng Chi cho rằng: Câu nói một ý là "Dáng vẻ đẹp đẽ" mà chia ra nói làm ba lần, cũng là một lỗi chép văn sai vậy.
Thái Tổ nhiều lần đối với bầy tôi mà khen ngợi, có ý muốn truyền vị cho. Năm mười ba tuổi, vào năm Kiến An thứ mười ba thì bệnh chết. Thái Tổ tự đến thăm chăm. Lúc mất, rất buồn. Văn Đế an ủi Thái Tổ, Thái Tổ nói: "Đấy là điều không may của ta, lại là điều may của bọn mi vậy".
Tôn Thịnh nói: "Theo nghĩa Xuân thu, lập con trưởng làm người nối tự không kể hiền hay không. Xung dẫu còn sống cũng không nên lập, huống chi đã chết mà nói ra lời ấy? Kinh Thi chép: 'Chớ nói dễ dãi'. Ngụy Vũ Đế nói thế là dễ dãi vậy".
Nói mà rơi lệ, đem hợp táng với con gái đã mất của Chân thị, tặng ấn thao Kị đô úy, sai con của Uyển Hầu là Cứ tên là Tông nối dõi Xung. Năm thứ hai mươi hai, phong Tông làm Đặng Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ hai, truy tặng thụy Xung là Đặng Ai Hầu, lại thêm hiệu là Công.
Ngụy thư chép lệnh rằng: "Vào ngày bính ngọ tháng tám năm Hoàng Sơ thứ hai, Hoàng đế nói: Nhớ Đặng Ai Hầu ngươi là Xung, ngày xưa trời cao truyền tính đẹp, tặng cái tài thông đạt cho thân ngươi, thành danh ở tuổi trẻ; đáng được hưởng lộc lâu dài, thọ đến trọn đời. Sao lại không may, giữa đời mệnh yểu! Trẫm nối ngôi trời, trị cả bốn cõi, phong tặng người thân để làm phên dậu của nhà nước, nghĩ ngươi không kịp hưởng vinh hiển, lại nữa lễ táng chưa đủ. Trong lòng thương cảm, đau buồn xót xa. Nay chuyển táng ở Cao Lăng, sai Sứ trí tiết kiêm Yết giả bộc xạ Lang trung Trần Thặng đến truy tặng hiệu là Đặng Công, lấy đồ thái lao cúng tế. Hồn mà có linh, hãy nhận vinh sủng. Than ôi thương thay"!
Ngụy lược chép: Văn Đế thường nói: "Anh ta hiếu liêm, tự biết phận mình. Nếu Thương Thư còn sống thì ta cũng không có thiên hạ"!
Năm thứ ba, thêm tước cho Tông, chuyển phong làm Quán Quân Công. Năm thứ tư, chuyển phong Kỉ Thị Công. Năm Thái Hòa thứ năm, thêm hiệu Xung là Đặng Ai Vương. Năm Cảnh Sơ thứ nhất, Tông bị khép tội ở phủ Thượng phương làm vật cấm, trừ ba trăm hộ, giảm tước làm Đô hương hầu. Năm thứ ba, lại làm Kỉ Thị Công. Năm Chính Thủy thứ bảy, chuyển phong làm Bình Dương Công. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, cùng một nghìn chín trăm hộ lúc trước.
Bành Thành Vương là Cứ, năm Kiến An thứ mười sáu được phong làm Phạm Dương Hầu. Năm thứ hai mươi hai, chuyển phong làm Uyển Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ hai, tiến tước làm Công. Năm thứ ba, làm Chương Lăng Vương; năm đó chuyển phong làm Nghĩa Dương Vương. Văn Đế vì miền nam ẩm thấp, lại vì Hoài thái phi là người quận Bành Thành, bèn chuyển phong làm Bành Thành Vương; lại chuyển phong Tế Âm Vương. Năm thứ năm, chiếu nói: "Đế vương ngày xưa phân phong, tùy thời mà định. Hán Cao Tổ tăng quận mà nhà Tần đặt, đến thời Quang Vũ Đế vì thiên hạ tổn giảm bèn cắt bớt quận huyện. Đến nay cũng thế, ích chẳng gì hơn. Nay đổi phong các Vương, đều làm Huyện vương". Cứ được đổi phong ở huyện Định Đào. Năm Thái Hòa thứ sáu, đổi phong các Vương hầu, đều lấy quận làm nước, Cứ lại chuyển phong ở quận Bành Thành. Năm Cảnh Sơ thứ nhất, Cứ bị khép tội sai người người đến phủ Thượng phương làm vật cấm, cắt bớt hai nghìn hộ.
Ngụy thư chép chiếu thư rằng: "Chiếu lệnh Bành Thành Vương: Quan coi việc tấu nói Vương sai Tư mã Đổng Hòa đem ngọc châu đến phủ Thượng phương trong kinh sư, làm nhiều vật cấm, qua lại với Công quan, ra vào phủ quan, chuyển dời vô độ, khinh lệnh trái phép, dùng luật trói buộc. Trẫm lấy làm ngạc nhiên, trong lòng không yên. Vương ở ngôi trọng của thân thích, nắm vị của phiên thần, điển tịch hằng ngày bày ở trước, sách đọc không nghỉ ở bên; lại vốn tính nhã nhặn trong sạch, cung kính thận trọng, làm việc tu đạo, chăm chỉ không nhác, há quên tu thân thuận ý, quên xét kĩ thiếu sót sao? Nếu có lỗi nhỏ, hoặc bị tiểu nhân gièm pha, sao lại không biết được mà để lầm lỗi như thế? Kinh Thư chép: 'Thánh nhân không lo suy nghĩ cũng sẽ thành kẻ cuồng, kẻ cuồng lo suy nghĩ cũng thành được thánh nhân'. Người xưa răn bảo mà đến như thế, cho nên quân tử suy nghĩ không ngừng về đạo hóa sâu xa vậy. Thường nghĩ là vì tu đức mà bỏ thì đức sáng vậy; mở ý là vì nghẽn mà thông suốt thì ý yên vậy; giữ hạnh là vì lỗi mà sửa thì hạnh trọn vậy; ba điều ấy là điều mà Vương nên có. Nay hạ chiếu quan coi việc tha cho Vương, cắt một huyện, hai nghìn hộ để nêu rõ phép tắc ra oai và phạt lỗi. Ngày xưa Hi-Văn soạn kinh Dịch(2), chép lời hay đẹp, Trọng Ni luận đức hạnh, nói là có lỗi thì sửa được. Vương nên sửa đức, nêu rõ nghĩa lớn, kính theo chớ biếng".
Năm thứ ba, trả lại hộ ấp bị cắt. Giữa năm Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả bốn nghìn sáu trăm hộ lúc trước.
Yên Vương là Vũ, tự Bành Tổ. Năm Kiến An thứ mười sáu, phong Đô hương hầu. Năm thứ hai mươi hai, đổi phong Lỗ Dương Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ hai, tiến tước làm Công. Năm thứ ba, làm Hạ Bì Vương. Năm thứ năm, đổi phong ở huyện Đan Phủ. Năm Thái Hòa thứ sáu, đổi phong làm Yên Vương. Minh Đế thủa nhỏ ở cùng với Vũ, thường yêu mến Vũ. Đến lúc lên ngôi, ban sủng khác với các Vương hầu. Năm Thanh Long thứ ba, mời vào chầu. Năm Cảnh Nguyên thứ nhất, về huyện Nghiệp. Mùa hạ năm thứ hai, lại mời đến kinh đô. Tháng mười hai mùa đông, Minh Đế bệnh nặng, bái Vũ làm Đại tướng quân, trao cho việc sau. Nhận mệnh được bốn ngày, Vũ cố từ chối; ý Đế cũng đổi, bèn bãi chức của Vũ. Mùa hạ năm thứ ba, về huyện Nghiệp. Giữa năm Cảnh Sơ, Chính Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả năm nghìn năm trăm hộ trước kia. Thường Đạo Hương Công tên là Hoán là con của Vũ, vào nối dòng cả.
Bái Mục Vương là Lâm, năm Kiến An thứ mười sáu được phong làm Nghiêu Dương Hầu. Năm thứ hai mươi hai, chuyển phong ở huyện Tiêu. Năm Hoàng Sơ thứ hai, tiến tước làm Công. Năm thứ ba, làm Tiêu Vương. Năm thứ năm, đổi phong ở huyện Tiêu. Năm thứ bảy, chuyển phong ở huyện Quyên Thành. Năm Thái Hòa thứ sáu, chuyển phong ở nước Bái. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả bốn nghìn bảy trăm hộ lúc trước. Lâm hoăng, con là Vĩ nối tự.
Xét Kê thị phả chép: Vợ của Kê Khang là con gái của con Lâm vậy.
Trung Sơn Cung Vương là Cổn, năm Kiến An thứ hai mươi mốt được phong Bình Hương Hầu. Thủa trẻ ham học, hơn mười tuổi biết làm văn. Hễ đọc sách, quan Văn học tả hữu thường sợ vì chăm chỉ mà sinh bệnh, nhiều lần can ngăn. Nhưng tính vốn thích, không bỏ được vậy. Năm thứ hai mươi hai, chuyển phong làm Đông Hương Hầu, năm đó lại đổi phong làm Phí Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ ba, tiến tước làm Công, quan thuộc đều mừng, Cổn nói: "Ta sinh ở cung sâu không biết cái gian khổ của việc trồng trọt, lại phần nhiều kiêu ngạo. Các khanh đã chúc mừng ta, nên giúp sửa lỗi sót nữa". Hễ anh em chơi vui, riêng Cổn suy đọc kinh điển, quan Văn học phòng phụ nói với nhau rằng: "Ta vâng lệnh xét
hành động của ngài, có lỗi phải tấu, có việc tốt cũng nên bẩm lên, không được giấu cái tốt vậy". Bèn cùng tấu khen tính tốt của Cổn. Cổn nghe tin, rất lo lắng, trách lỗi quan Văn học rằng: "Tu thân tự giữ là đức của người thường, vậy mà các ông lại bẩm lên, đấy là tang thêm lỗi của ta vậy. Vả lại nếu có tốt thì lo gì không được nghe biết mà lại cùng làm như thế? Đấy chẳng phải giúp ích cho ta vậy". Người này cẩn thận như thế. Năm thứ ba, làm Bắc Hải Vương; năm đó, rồng vàng hiện ở sông Chương phía tây huyện Nghiệp, Cổn dâng thư khen ngợi. Hạ chiếu ban mười cân vàng ròng, chiếu nói: "Ngày xưa Đường Thúc dâng lúa, Đông Bình hiến tụng(3), đấy đều là cốt nhục khen nhau để nêu rõ tình thân. Vương thông suốt tịch điển, xét kĩ đạo hóa, văn nhã sáng sủa, trẫm rất khen ngợi. Vương nên cẩn thận dưỡng đức để trọn tiếng tốt". Năm thứ tư, đổi phong làm Phí Vương. Năm thứ bảy, chuyển phong ở huyện Bộc Dương; năm Thái Hòa thứ hai đến nước, vẫn tiết kiệm, hạ lệnh thê thiếp thêu dệt vải lụa, tập làm việc trong nhà. Mùa đông năm thứ năm, vào chầu. Năm thứ sáu, đổi phong ở quận Trung Sơn.
Trước đây, Cổn đến chầu, phạm cấm ở kinh đô. Năm Thanh Long thứ nhất, quan coi việc tấu hạch tội Cổn. Chiếu nói: "Vương vốn thận trọng, chợt nhiên đến đây, nên lấy phép thân thích mà bàn việc". Quan voi việc cố gàn, bèn hạ chiếu bớt hai huyện, bảy trăm năm mươi hộ.
Ngụy lược chép chiếu thư rằng: "Chế chiếu cho Trung Sơn Vương: Quan coi việc tấu nói Vương vừa đến chầu, phạm cấm giao du ở kinh sư; trẫm nghĩ cái ân thân thích, bỏ lời bàn của quan lại, nhưng phép tắc là cùng với thiên hạ, không được bãi bỏ. Nay cắt hai huyện bảy trăm năm mươi hộ của Vương. Nên tu thân lập lễ, xứng lòng nhân của thánh nhân, sớm lỗi chiều sửa là đức của quân tử. Vương nên kính theo, chớ có gây lỗi nữa".
Cổn lo lắng, răn bảo quan thuộc thêm nghiêm; Đế khen ý ấy. Năm thứ hai, trả lại huyện bị cắt. Mùa thu năm thứ ba, Cổn bị bệnh tật, chiếu sai Thái y xem bệnh, lính hổ bôn trong điện mang chiếu thư đến, ban món ăn ngon lạ, lại sai thái phi, Bái Vương là Lâm cùng đêm thăm bệnh. Cổn bệnh nặng, hạ lệnh quan thuộc rằng: "Ta đức mỏng sủng ít, mệnh lớn sắp hết. Ta đã ưa tiết kiệm, mà triều đình soạn lệnh xét hỏi, làm phép tắc của thiên hạ. Vào ngày ta tắt thở, tự liệm và táng, việc hãy theo chiếu thư. Ngày xưa Đại phu của nước Vệ là Cừ Viện táng ở Nghiệp Dương, ta xem mộ ấy thường mong theo ý này, muốn mượn hồn thiêng để che răng tóc, dựng phần mộ của ta, phải đến theo đó. Về lễ, con trai không chết trong trong tay đàn bà. Nên nhanh làm xong sảnh đường". Sảnh làm xong, đặt tên là sảnh Toại Chí, ôm bệnh lên kiệu đến ở đấy. Lại lệnh Thế tử rằng: "Mi tuổi nhỏ, chưa được biết tiếng, nếu sớm làm chư hầu thì chỉ biết vui mà không biết khổ, tất tỏ lỗi kiêu căng vậy. Nên dựa vào đại thần, lấy lễ đối đãi họ. Nếu không phải là đại thần, gặp người già cũng phải đáp bái. Kính cẩn thờ anh, thân ái giúp em; nếu anh em có đức không tốt thì phải quỳ gối can gián. Nếu can gián không được thì khóc lóc mà khuyên; khuyên mà không đổi thì bẩm với mẹ. Nếu vẫn không sửa thì phải tấu lên, xin từ tước phong. So với giữ sủng mà chước họa, không bằng nghèo hèn mà trọn thân vậy. Đấy cũng gọi là tội lỗi lớn, nếu lỗi nhỏ việc nhỏ, nên che đậy lại. Xét mi còn nhỏ, nên cẩn thận tu thân, trung trinh để giúp triều đình, hiếu kính để thờ thái phi. Ở trong phòng khuê thì vâng lệnh với thái phi; ở ngoài cửa nhà phải vâng lời Bái Vương; ý chớ lười biếng để làm yên lòng ta". Năm đó hoăng. Hạ chiếu Bái Vương là Lâm ở lại táng, sai Đại hồng lư cầm cờ tiết đến coi việc tang, quan Tông chính tế điếu, tặng thưởng rất hậu. Soạn văn chương cả thảy hơn hai vạn chữ, tài không bằng Trần Tư Vương nhưng ham làm văn sánh được cùng. Con là Phu nối tự. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả ba nghìn bốn trăm hộ lúc trước.
Tế Dương Hoài Vương là Huyền, năm Kiến An thứ mười sáu được phong làm Tây Hương Hầu, chết sớm, không có con. Năm thứ hai mươi, lấy con của Bái Vương là Lâm tên là Tán nhận tước ấp của Huyền, hoăng sớm, không có con. Văn Đế lại lấy em của Tán là Nhất nối dõi Huyền. Năm Hoàng Sơ thứ hai, đổi phong làm Tế Dương Hầu. Năm thứ tư, tiến tước làm Công. Năm Thái Hòa thứ tư, truy tiến tước cho Huyền, thụy là Hoài Công. Năm thứ sáu, lại tiến hiệu là Hoài Vương, truy thụy Tán là Tây Hương Ai Hầu. Nhất hoăng, thụy là Trác Công, con là Hằng nối tự. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả một nghìn chín trăm hộ lúc trước.
Trần Lưu Cung Vương là Tuấn, tự Tử An. Năm Kiến An thứ hai mươi mốt, phong Mi Hầu. Năm thứ hai mươi hai, chuyển phong ở huyện Tương Ấp. Năm Hoàng Sơ thứ hai, tiến tước làm Công. Năm thứ ba, làm Trần Lưu Vương. Năm thứ năm, đổi phong ở huyện Tương Ấp. Năm Thái Hòa thứ sáu, chuyển phong ở quận Trần Lưu. Năm Cam Lộ thứ tư, hoăng. Con là Áo nối tự. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả bốn nghìn bảy trăm hộ lúc trước.
Phạm Dương Mẫn Vương là Củ, chết sớm, không có con. Năm Kiến An thứ hai mươi hai, lấy con của Phàn An Công là Quân tên là Mẫn nối dõi Củ, phong Lâm Tấn Hầu. Năm Cảnh Sơ thứ ba truy phong thụy Củ là Phạm Dương Mẫn Công. Năm thứ năm, đổi phong Mẫn làm Phạm Dương Vương. Năm thứ bảy, chuyển phong ở huyện Câu Dương. Năm Thái Hòa thứ sáu, truy tiến hiệu Củ là Phạm Dương Mẫn Vương, đổi phong Mẫn làm Lang Da Vương. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả ba nghìn bốn trăm hộ lúc trước. Mẫn hoăng, thụy là Nguyên Vương, con là Hỗn nối tự.
Triệu Vương là Cán, năm Kiến An thứ hai mươi được phong Cao Bình Đình Hầu. Năm thứ hai mươi hai phong Lại Đình Hầu; năm đó đổi phong làm Hoằng Nông Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ hai, tiến tước, chuyển phong làm Yên Công.
Ngụy lược chép: Cán còn có tên là Lương. Lương vốn là con của người thiếp là Trần thị, Lương sinh thì Trần thị chết, Thái Tổ sai Vương phu nhân nuôi Lương. Lương năm tuổi thì Thái Tổ bệnh nặng, truyền lệnh lại bảo Thái tử rằng: "Thằng bé ấy ba tuổi mất mẹ, năm tuổi mất cha, gửi cho mi vậy". Do đó Thái tử thân thiết hơn các em. Lương thủa nhỏ thường gọi Văn Đế là A Ông, Đế bảo Lương rằng: "Ta là anh mi vậy". Văn Đế lại thương Lương như thế, thường lại rơi lệ.
Thần là Tùng Chi xét: Truyện này cho rằng mẹ quý hay hèn là thứ yếu, không kể tuổi của anh em, cho nên Sở Vương là Bưu tuổi dẫu lớn nhưng truyện chép ở sau Cán. Lại xét Chu Kiến Bình truyện, biết rằng Bưu hơn Cán hai mươi tuổi.
Năm thứ ba, làm Hà Gian Vương. Năm thứ năm, đổi phong ở huyện Lạc Thành. Năm thứ bảy, chuyển phong ở quận Cự Lộc. Năm Thái Hòa thứ sáu, đổi phong làm Triệu Vương. Mẹ Cán được Thái Tổ sủng ái, kịp lúc Văn Đế làm người nối tự, mẹ Cán có công giúp. Văn Đế sắp băng, có chiếu truyền lại, cho nên Minh Đế thường ban thêm ân. Năm Thanh Long thứ hai, qua lại riêng với tân khách, bị quan coi việc tấu xét, ban ấn thư cho Cán để khuyên răn, nói: "Kinh Dịch chép: 'Mở nước lập nhà, chớ dùng tiểu nhân'; kinh Thi chép lời răn rằng: 'Xe lớn, bụi bẩn'(4). Từ buổi Thái Tổ vâng lệnh dựng nghiệp, xét rõ nguồn gốc của thịnh loạn, soi lí lẽ của được mất, mới đầu phong chư hầu, lấy lời rất thận trọng để dạy bảo, chọn kẻ sĩ đoan chính để giúp, thường khen lời răn của Mã Viện(5), trọng điều cấm chư hầu giao du với tân khách, không khiến cho tốt xấu cùng nhau. Há vì thế mà bạc bẽo với anh em sao? Chỉ muốn con em không có lỗi sai sót, dân chúng không bị nạn họa hại mà thôi. Cao Tổ lên ngôi, cẩn thận vạn bề, xét soạn lệnh chư hầu không được vào chầu. Trẫm cảm nhà thơ làm bài Thường lệ, khen ý của bài Thái thục, cũng soạn lời chiếu rằng: 'Nếu có chiếu thì đến kinh đô'. Cho nên lệnh các Vương hầu giữ lễ chầu gặp. Vậy mà Sở-Trung Sơn(6) phạm điều cấm giao du, Triệu Tông-Đái Tiệp đều phải chịu tội vạ. Gần đây Đông Bình Vương lại sai quan thuộc đánh quan lại của huyện Thọ Trương, bị quan coi việc tấu xét, trẫm phải cắt huyện. Quan coi việc tấu là bọn Tào Toản, Vương Kiều cậy mình là họ hàng tông thất, tụ hội ở nhà Vương, có khi không đúng lúc, đều làm trái lệnh cấm. Trẫm nghĩ Vương vốn có tính kính thuận, lại nhận lệnh truyền lại của Tiên đế, muốn chuộng ân lễ kéo dài đến đời sau, huống chi chỉ có ở đời Vương sao? Vả lại không là thánh nhân, ai mà không có lỗi? Đã hạ chiếu quan coi việc tha cho lỗi của Vương. Người xưa có nói: 'Quân tử thận trọng đối với điều mà mình chưa được xem, sợ hãi đối với việc mà mình chưa được nghe. Không thấy ở chỗ ẩn, không rõ ở chỗ tối. Cho nên quân tử thận trọng ở hành động'. Chú học theo kinh điển của thánh nhân, lại đã nhận lệnh truyền của Tiên đế, phải run run rẩy kính vâng ngôi vị, làm đẹp ý trẫm". Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả năm nghìn hộ lúc trước.Lâm Ấp Thương Công tử là Thượng, chết sớm. Năm Thái Hòa thứ năm, truy phong thụy. Không có con.
Sở Vương là Bưu, tự Chu Hổ. Năm Kiến An thứ hai mươi mốt, phong Thọ Xuân Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ hai, tiến tước, chuyển phong làm Nhữ Dương Công. Năm thứ ba, phong Dặc Dương Vuơng; năm đó chuyển phong làm Ngô Vương. Năm thứ năm, đổi phong ở huyện Thọ Xuân. Năm thứ bảy, chuyển phong ở huyện Bạch Mã. Mùa đông năm Thái Hòa thứ năm, chầu ở kinh đô. Năm thứ sáu, chuyển phong ở quận Sở. Lúc trước, Bưu đến chầu, phạm cấm; năm Thanh Long thứ nhất, bị quan coi việc tấu hạch, hạ chiếu cắt ba huyện, một nghìn năm trăm hộ. Năm Gia Bình thứ nhất, Duyện Châu Thứ sử Lệnh Hồ Ngu cùng Thái úy Vương Lăng mưu đón Bưu đến đóng đô ở Hứa Xương, chép tại Vương Lăng truyện. Bèn sai Thái phó cùng Ngự sử đại phu đến nước xem xét, bắt những người liên quan với nhau. Đình úy xin gọi Bưu về trị tội. Do đó noi theo việc cũ của Yên Vương là Đán thời nhà Hán(7), sai Đình úy Đại hồng lư mang cờ tiết đến trao ấn thư trách hỏi Bưu, sai phải tự xử.
Hán Ngụy xuân thu của Khổng Diễn chép chiếu thư rằng: "Đế vương thời xưa phong thưởng không hiềm thù hận, phạt tội không nể thân thích, đấy là nghĩa rất công bằng vậy. Cho nên Chu Công rơi lệ xử tội của hai người chú, Hiếu Vũ đau xót mà xét tội ngục của Chiêu Bình(8), đấy là phép thường xưa nay vậy. Nghĩ Vương là người rất thân cận của nhà nước, làm phên dậu ở ngoài, vậy mà không chịu vâng phép vua làm gương cho tông thất, mà lại mưu với kẻ gian tà, lại kết thông mưu nghịch với Thái úy Vương Lăng, Duyện Châu Thứ sử Lệnh Hồ Ngu, muốn lấy xã tắc, có ý phản bội, không có lòng trung hiếu. Tông miếu có linh, Vương còn mặt mũi nào mà nhìn Tiên đế? Trẫm xét kĩ Vương tự giẫm vào tội vạ, đã biết ý của Vương, rất lấy làm kinh ngạc. Quan coi viện tấu Vương đáng phải băt đến sở quan Đại lí, nhưng trẫm theo nghĩa xét xử tông thất, không nỡ bắt Vương bỏ ở chợ, cho nên sai sứ giả đem thư, Vương tự gây tội, chẳng phải do kia khác, việc cũ của Yên Thích cũng đủ để xem. Vương hãy tự xử đi"!
Bưu bèn tự sát. Vợ cùng các con đều tha làm dân thường, chuyển đến quận Bình Nguyên. Quan thuộc trở xuống và Giám quốc yết giả của Bưu bị khép tội biết việc mà không có nghĩa khuyên giúp, đều bắt giết. Nước trừ lập thành quận Hoài Nam. Năm Chính Nguyên thứ nhất, hạ chiếu rằng: "Sở Vương là Bưu phản quốc theo gian, thân chết con bỏ, dẫu tự chuốc lấy nhưng vẫn nên thương xót. Ngậm bẩn giấu bệnh là cái đạo thương người thân vậy. Nay phong Thế tử của Bưu là Gia làm Thường Sơn Chân Định Vương". Năm Cảnh Nguyên thứ nhất, tăng ấp, gộp cả hai nghìn năm trăm hộ lúc trước.
Thần là Tùng Chi xét: Gia vào nhà Tấn, phong làm Cao Ấp Công. Giữa năm Nguyên Khang, cùng với Thạch Sùng làm Quốc tử bác sĩ. Sau đó Gia làm Đông Hoản Thái thú, Sùng làm Chinh lỗ tướng quân, coi xét việc quân ở miền Thanh-Từ, đóng đồn ở Hạ Bì; Gia gửi thơ cho Sùng rằng:
"Văn võ dùng đúng lúc, đã tài lại sáng suốt. Đấy là Thạch tiên sinh, hào kiệt của nhà nước. Vào thì hầu cạnh vua, ra thì lên chín bậc.
Oai trùm miền Thanh-Từ, đức vỗ miền Ngô-Việt.
Ngày xưa can đồng liêu, tình hơn cả Lỗ-Vệ.Chia li hơn mười năm, nghĩ kĩ lòng gắn kết. Mong ngài giữ lòng thành, nóng lạnh đừngchuyển tiết".
Sùng đáp rằng:
"Xưa thường gặp tiên sinh, cùng chơi giữa mây xanh, Dốc lòng dạy Thái tử, đạo hóa đã tốt lành.
Cùng tiếng chẳng khác âm, cho nên được vinh sủng. Há chỉ có hữu hảo, giữ phận đến cuối cùng.
Khổng chẳng chê Đông Di, Lão hướng về Tây Nhung. Tiêu dao ở góc biển, cũng giữ được dòng Vương. Việc đời chẳng ngó ngang, mong chi làm Chu Công. Tĩnh lặng mà sâu xa, cho nên vẻ ung dung".
Tấn thư của Vương Ẩn chép sớ của Lại bộ thị lang Lí Trọng rằng: "Tông thất nhà Ngụy thần phục là nhờ ân huệ của triều đình còn. Đông Hoản Thái thú Tào Gia có tài văn học dẫu không bằng Chí-Ông(9) nhưng tính cách trong sạch tốt đẹp lại hơn; lại đã trải hai quận. Thần cho là nên tiến cử dòng dõi của triều trước, nên lấy Gia làm Viên ngoại tán kị thị lang".
Cương Thương công tử là Cần, chết sớm. Năm Thái Hòa thứ năm, truy phong thụy. Không có con.
Cốc Thành Thương công tử là Thặng, chết sớm. Năm Thái Hòa thứ năm, truy phong thụy. Không có con.
Mi Đái công tử là Chỉnh, làm dòng dõi của chú ruột là Lang trung Thiệu. Năm Kiến An thứ hai mươi hai, phong Mi Hầu. Năm thứ hai mươi ba, hoăng. Không có con. Năm Hoàng Sơ thứ hai truy phong tước, thụy là Đái Công. Lấy con của Bành Thành Vương là Cứ tên là Phạm nối dõi Chỉnh. Năm thứ ba, phong Bình Thị Hầu. Năm thứ tư, phong ở huyện Thành Vũ. Năm Thái Hòa thứ ba, tiến tước làm Công. Năm Thanh Long thứ ba, hoăng, thụy là Trác Công, không có con. Năm thứ tư, hạ chiếu lấy em Phạm là Đông An Hương Công tên là Xiển làm Đái Công, nối dõi Chỉnh. Giữa năm Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả một nghìn tám trăm hộ lúc trước.
Linh Thương công tử là Kinh, chết sớm. Năm Thái Hòa thứ năm, truy phong thụy. Không có con.
Phàn An Công là Quân, làm dòng dõi của chú ruột là Kế Cung Công tên là Bân. Năm Kiến An thứ hai mươi hai, phong Phàn Hầu. Năm thứ hai mươi tư, hoăng. Con là Kháng nối tự. Năm Hoàng Sơ thứ hai, truy tiến tước Công, thụy là An Công. Năm thứ ba, chuyển phong Kháng làm Kế Công. Năm thứ tư, chuyển phong làm Đồn Lưu Công. Năm Cảnh Sơ thứ nhất, hoăng, thụy là Định Công. Con là Kham nối tự. Giữa năm Cảnh Sơ, Chính Nguyên, Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả một nghìn chín trăm hộ
lúc trước.
Quảng Tông Thương công tử là Cức, chết sớm. Năm Thái Hòa thứ năm, truy phong thụy. Không có con.
Đông Bình Linh Vương là Huy, làm dòng dõi của chú là Lãng Lăng Ai Hầu tên là Ngọc. Năm Kiến An thứ hai mươi hai, phong Lịch Thành Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ hai, tiến tướng làm Công. Năm thứ ba, làm Lư Giang Vương. Năm thứ tư, chuyển phong làm Thọ Trương Vương. Năm thứ năm, đổi phong ở huyện Thọ Trương. Năm Thái Hòa thứ sáu, đổi phong ở huyện Đông Bình. Năm Thanh Long thứ hai, Huy sai quan thuộc đánh quan lại của huyện Thọ Trương, bị quan coi việc tấu hạch, hạ chiếu cắt một huyện, năm trăm hộ; năm đó trả lại huyện bị cắt. Năm Chính Thủy thứ ba, hoăng. Con là Ông nối tự. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên- Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả ba nghìn bốn trăm hộ lúc trước.
Thần là Tùng Chi xét: Ông vào nhà Tấn, phong làm Lẫm Khâu Công. Trong tông thất của nhà Ngụy, nổi danh sau Quyên Thành Công(10). Đến năm Thái Thủy thứ hai, Ông sai Thế tử là Côn mang biểu đến chầu. Hạ chiếu rằng: "Ông giữ đức tu đạo, là người tài của nhà Ngụy; nay Côn từ xa đến, trao cho ấn thao Thế tử, bái thêm làm Kị đô úy, ban một cái áo, mười vạn tiền, các đồ khác đủ dùng". Ông soạn sách Giải hàn thực tán phương, cùng các sách mà Hoàng Phủ Mật soạn đều truyền ở đời.
Lạc Lăng Vương là Mậu, năm Kiến An thứ hai mươi hai được phong làm Vạn Tuế Đình Hầu. Năm thứ hai mươi ba, đổi phong làm Bình Dư Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ ba, tiến tước, chuyển phong làm Thặng Chi Công. Năm thứ bảy, chuyển phong ở huyện Trung Khâu. Mậu tính ngang bướng, thủa nhỏ không được Thái Tổ sủng ái. Kịp đến thời Văn Đế, riêng không phong Vương. Năm Thái Hòa thứ nhất, chuyển phong làm Liễu Thành Công; năm đó phong Vương. Hạ chiếu nói: "Ngày xưa Tượng rất ngỗ ngược, nhưng Đại Thuấn vẫn cho làm Hầu ở ấp Hữu Bí(11). Gần đây Hoài Nam-Phụ Lăng của nhà Hán đều là tôi phản con nghịch mà có người vẫn được dựng lại nước(12), hoặc đến đời con thì được phong đất. Họ Hữu Ngu phong đất ở thời xa xưa, các vua Văn-Minh-Chương của nhà Hán chỉ mới trước đây thôi, họ đều chăm tỏ nghĩa với người thân thích vậy. Liễu Thành Công là Mậu thủa nhỏ không chăm lễ giáo, lớn lên không lo tu đạo. Tiên đế cho rằng người xưa phong tước chư hầu đều trao cho người hiền, trong những người họ Cơ ngày xưa không hẳn là đều được phong Hầu, cho nên riêng Mậu không được phong Vương. Thái hoàng thái hậu(13) nhiều lần đã nói xin. Nghe nói Mậu vừa rồi biết hối lỗi trước đây, muốn tu thiện sau này. Quân tử đối với người thì tiến cử không hiềm lỗi trước vậy. Nay phong Mậu làm Liễu Thành Vương để an ủi Thái hoàng thái hậu ở chín suối". Năm thứ sáu, chuyển phong làm Khúc Dương Vương. Năm Chính Thủy thứ ba, Đông Bình Linh Vương hoăng, Mậu xưng bệnh đau họng, không chịu phát tang, ăn ở ra vào tự nhiên. Quan coi việc tấu xin trừ đất phong, hạ chiếu cắt một huyện, năm trăm hộ. Năm thứ năm, chuyển phong ở huyện Lạc Lăng, hạ chiếu rằng phụng ấp của Mậu ít mà các con lại nhiều, trả lại huyện bị cắt, lại tăng bảy trăm hộ. Giữa năm Gia Bình-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả năm nghìn hộ lúc trước.
Chú thích
(1) Tuổi 'nhược quán': thời Hán-Ngụy, trẻ con đến tuổi hai mươi thì bắt đầu đội mũ để tỏ là người trưởng thành gọi là tuổi 'nhược quán'.
(2) Ngày xưa Hi-Văn soạn kinh Dịch: Hi chỉ Phục Hi, Văn chỉ Chu Văn Vương. Theo truyền thuyết Phục Hi tạo ra hình vẽ tám quẻ của kinh Dịch, còn Chu Văn Vương soạn lời diễn giải từng quẻ.
(3) Ngày xưa Đường Thúc dâng lúa, Đông Bình hiến tụng: Đường Thúc là chú của Chu Thành Vương, ở ấp Đường có cây lúa tốt mọc bèn đem dâng cho nhà Chu, cho là vì đức của Chu Công nên mới thế. Đông Bình chỉ Đông Bình Vương là Lưu Thương của nhà Hán, dâng bài tụng khen đức của Quang Vũ Đế, rất được khen ngợi.
(4) Kinh Thi chép lời răn rằng: 'Xe lớn, bụi bẩn': trọn câu chép là: 'Đừng đem xe lớn đến chỗ bụi bẩn'. Ý nói đừng đem xe lớn đến đón kẻ tiểu nhân.
(5) Lời răn của Mã Viện: chỉ việc tướng của nhà Hán là Mã Viện răn bảo cháu họ không được kết giao với tân khách khinh bạc mà nên học theo người thận trọng tiết kiệm.
(6) Sở-Trung Sơn:Sở chỉ Sở Vương là Bưu, Trung Sơn chỉ Trung Sơn Cung Vương là Cổn, đều vì phạm cấm giao du ở kinh đô mà bị tấu hạch, cắt giảm hộ ấp, quan lại giao du là bọn Triệu Tông, Đái Tiệp cũng bị khép tội.
(7) Việc cũ của Yên Vương là Đán thời nhà Hán: chỉ việc sau khi Hán Chiêu Đế lên ngôi, Yên Vương là Lưu Đán mưu phản, phải tự sát.
(8) Chu Công rơi lệ xử tội của hai người chú, Hiếu Vũ đau xót mà xét tội ngục của Chiêu Bình: Chu Thành Vương nối ngôi, Chu Công phụ chính, hai người chú của Thành Vương là Sái Thúc và Quản Thúc làm phản, Chu Công đánh bại họ, giết Sái Quản Thúc và đày Sái Thúc. Thời Hán Vũ Đế, con của Long Lự công chúa là Chiêu Bình Quân hung bạo, giết cả vú nuôi của mẹ, bị bắt giam ngục, theo phép tắc mà xử tội chết.
(9) Chí-Ông: Chí chỉ Tào Chí là con của Trần Tư Vương là Tào Thực, xem ở phần chú Trần Tư Vương truyện; Ông chỉ Tào Ông là con của Đông Bình Vương là Tào Huy, xem ở phần Đông Bình Linh Vương truyện.
(10) Quyên Thành Công: chỉ Tào Chí là con của Trần Tư Vương là Tào Thực, sau khi nhà Tấn lập, phong làm Quyên Thành Công.
(11) Ngày xưa Tượng rất ngỗ ngược, nhưng Đại Thuấn vẫn cho làm Hầu ở ấp Hữu Bí: Tượng là em của Thuấn, tính ngang ngược từng mưu giết Thuấn, sau khi Thuấn nối thay vua Nghiêu vẫn phong cho ở ấp Hữu Bí. Cũng vì tình anh em nên mới thế.
(12) Gần đây Hoài Nam-Phụ Lăng của nhà Hán đều là tôi phản con nghịch mà có người vẫn được dựng lại nước: Hoài Nam chỉ Hoài Nam Vương là Lưu Trường, là con út của Hán Cao Tổ, vào thời Hán Văn Đế nhiều lần không theo phép tắc nhưng Văn Đế tha cho không giết, sau khi chết thì Văn Đế lại phong cho con là Lưu An làm Phụ Lăng Hầu rồi phong làm Hoài Nam Vương.
(13) Thái hoàng thái hậu: chỉ Biện thị, là vợ cả của Ngụy Thái Tổ là Tào Tháo, mẹ của Ngụy Văn Đế là Tào Phi, bà nội của Ngụy Minh Đế là Tào Duệ vậy. Bấy giờ Ngụy Minh Đế tôn Biện thị là Thái hoàng thái hậu.

TIẾP THEO
Văn Hoàng Đế có chín con trai: Chân thị Hoàng hậu sinh Minh Đế; Lí quý nhân sinh Tán Ai Vương là Hiệp; Phan thục viện sinh Bắc Hải Trác Vương là Nhuy; Chu thục viện sinh Đông Vũ Dương Hoài Vương là Giám; Cừu chiêu nghi sinh Đông Hải Định Vương là Lâm; Từ cơ sinh Nguyên Thành Ai Vương là Lễ; Tô cơ sinh Hàm Đan Hoài Vương là Ung; Trương cơ sinh Thanh Hà Trác Vương là Cống; Tống cơ sinh Quảng Bình Ai Vương là Nghiễm.
Tán Ai Vương là Hiệp, chết sớm. Năm Thái Hòa thứ năm, truy phong thụy là Kinh Thương Công. Năm Thanh Long thứ hai, lại truy đổi thụy hiệu. Năm thứ ba, con là Thương Vương tên là Tầm nối tự. Năm Cảnh Sơ thứ ba, tăng năm trăm hộ, gộp cả ba nghìn hộ lúc trước. Năm Chính Thủy thứ chín,
hoăng, không có con. Nước trừ.
Bắc Hải Trác Vương là Nhuy, năm Hoàng Sơ thứ bảy Minh Đế lên ngôi, lập làm Bình Dương Huyện Vương. Năm Thái Hòa thứ sáu, đổi phong ở quận Bắc Hải. Năm Thanh Long thứ nhất, hoăng. Năm thứ hai, lấy con của Lang Da Vương tên là Tán làm dòng dõi của Nhuy, phong Xương Hương Công. Năm Cảnh Sơ thứ hai, lập làm Nhiêu An Vương. Năm Chính Thủy thứ bảy, chuyển phong ở huyện Văn An. Giữa năm Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả ba nghìn năm trăm hộ lúc trước.
Đông Vũ Dương Hoài Vương là Giám, năm Hoàng Sơ thứ sau được phong; năm đó hoăng. Năm Thanh Long thứ ba, ban thụy. Không có con. Nước trừ.
Đông Hải Định Vương là Lâm, năm Hoàng Sơ thứ ba phong làm Hà Đông Vương. Năm thứ sáu, đổi phong ở huyện Quán Đào. Minh Đế lên ngôi, theo ý truyền lại của Tiên đế, sủng ái Lâm hơn các chư hầu khác, nhưng Lâm tính thô bạo, ở trong phòng the, các tì thiếp phần nhiều bị tàn hại. Năm Thái Hòa thứ sáu, đổi phong ở quận Đông Hải. Năm Gia Bình thứ nhất, hoăng. Con là Khải nối tự. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả sáu nghìn hai trăm hộ lúc trước. Cao Quý Hương Công tên là Mao là con của Lâm vậy, vào nối dòng cả.
Nguyên Thành Ai Vương là Lễ, năm Hoàng Sơ thứ hai được phong làm Tần Công, lấy quận Kinh Triệu làm nước. Năm thứ ba, đổi phong làm Nguyên Thành Vương. Năm Thái Hòa thứ ba, hoăng. Năm thứ năm, lấy con của Nhâm Thành Vương là Khải tên là Đễ nối dõi Lễ. Năm thứ sáu, đổi phong làm Lương Vương. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả bốn nghìn năm trăm hộ lúc trước.
Hàm Đan Hoài Vương là Ung, năm Hoàng Sơ thứ hai được phong làm Hoài Nam Công, lấy quận Cửu Giang làm nước. Năm thứ ba, tiến làm Hoài Nam Vương. Năm thứ tư, đổi phong ở quận Trần. Năm thứ sáu, đổi phong ở huyện Hàm Đan. Năm Thái Hòa thứ ba, hoăng. Năm thứ năm, lấy con của Nhâm Thành Vương là Khải tên là Ôn nối dõi Ung. Năm thứ sáu, đổi phong ở huyện Lỗ Dương. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả bốn nghìn bốn trăm hộ lúc trước.
Thanh Hà Trác Vương là Cống, năm Hoàng Sơ thứ ba được phong. Năm thứ tư, hoăng, không có con. Nước trừ.
Quảng Bình Ai Vương là Nghiễm, năm Hoàng Sơ thứ ba được phong. Năm thứ tư, hoăng, không có con. Nước trừ.
Bình rằng: Vương hầu của nhà Ngụy dẫu đã có danh là có tước ấp mà không có xã tắc thực, lại ngăn cấm xa cách, giống với tù ngục; vị hiệu chẳng định, lớn nhỏ thay đổi hằng năm; cái ân cốt nhục đã dở, cái nghĩa anh em lại bỏ. Lập phép tắc xấu tệ nên dẫn đến như thế chăng!
Viên Tử nói: "Nhà Ngụy nổi dậy nối sau thời đại loạn, dân chúng giảm tổn, không noi theo được phép cũ. Do đó phân phong vương chư hầu, đều sai đến ở nước, chỉ có danh hão mà không có thực. Vương hầu chỉ có hơn trăm quân già để giữ gìn nước mình. Dẫu có hiệu Vương hầu nhưng chỉ ngang kẻ thất phu. Cách trở ở ngoài cõi nghìn dặm, không có lễ chầu gặp, nước bên không có phép hội họp. Chư hầu đi săn không được quá ba mươi dặm, lại sắp đặt quan Phòng phụ giám quốc để dò xét họ. Vương hầu
đều mong làm kẻ áo vải mà cũng chẳng được. Đã trái với nghĩa lấy tông thất làm phên dậu, lại phá hỏng cái ân họ hàng cốt nhục".
Ngụy thị xuân thu chép thư của tông thất là Tào Quýnh dâng rằng: "Thần nghe nói bậc Đế vương thời xưa phải phong cho người cùng họ để tỏ rõ thân thích, phải lập người khác họ để nêu rõ người hiền, cho nên kinh truyện chép: 'Phong thưởng người thân, gần gũi người hiền'; kinh Thư chép: 'Nêu rõ đức cao để thân họ hàng; kinh Thi chép: 'Có đức thì yên, họ hàng làm thành'. Do đó mà xét, nếu không có người hiền thì không lập được công, không có họ hàng thì không được giúp đỡ. Nếu theo cái đạo chỉ gần gũi người thân thì dần dần cũng suy yếu, nếu theo cái đạo chỉ chọn dùng người hiền thì sẽ bị cướp đoạt. Bậc thánh hiền thời xưa biết như thế cho nên tìm cầu rộng rãi cả người thân cả kẻ xa mà cùng dùng họ; gần thì có cái vững của tông thất làm phen dậu, xa thì có cái giúp của người hiền làm phụ tá, thời thịnh thì cùng với họ coi việc, thời suy thì cùng với họ giữ đất, lúc yên thì cùng với họ hưởng phúc, lúc nguy thì cùng với họ chung họa. Do đó mới có được nhà nước, giữ được xã tắc, lịch số lâu dài, gốc cành trăm đời vậy. Nay phép gần người hiền của nhà Ngụy dẫu rõ nhưng đạo gần người thân chưa đủ. Kinh Thi chẳng chép: 'Tích linh ở đồng, anh em cứu nạn'(1) sao? Do đó mà nói, nêu rõ anh em cứu nhau ở lúc tang loạn, cùng lòng ở giữa buổi họa phúc, dẫu có khi tranh giành nhưng không quên cái việc chống người ngoài bức hiếp. Vì sao? Vì cùng hoạn nạn vậy. Nay thì không thế, hoặc dùng nhưng không coi trọng, hoặc bỏ mà không dùng, một sớm biên giới báo việc, đóng cửa chống lại, đùi tay không giúp, tim bụng không giữ. Thần trộm nghĩ như thế, ngủ không yên giấc, mưu tỏ lòng son, dâng lên cử khuyết. Xin soạn tập những điều mà thần nghe, luận bàn thành bại, luận rằng:
Ngày xưa nhà Hạ-Thương-Chu trải qua mấy chục đời, vậy mà nhà Tần chỉ hai đời là mất. Sao thế? Vua của ba nhà cùng với chư hầu trị dân, cho nên chư hầu cùng coi việc. Vua của nhà Tần chỉ trị dân của mình, cho nên nguy khốn mà chẳng ai cứu. Nhà nào cùng vui với dân thì người khác tất cùng lo nỗi lo của mình; cùng yên với dân thì người khác tất cứu cái nạn của mình vậy. Đế vương thời xưa biết trị riêng thì không lâu dài được, cho nên cùng trị với người ta; biết giữ riêng thì không giữ vững được, cho nên cùng giữ với người vậy. Chọn người thân kẻ xa mà dùng cả hai, coi cả khác giống mà cùng lập. Cho nên nặng nhẹ đủ để đối nhau, thân xa đủ để giữ nhau, con đường cướp chiếm bị nghẽn, tính phản nghịch không sinh. Đến lúc suy kém, Hoàn-Văn(2) dùng lễ; nước Sở không cống túi cỏ thì vua Tề đánh nước Sở. Vua Tống không phục nhà Chu thì vua Tấn đánh vua của họ. Phép vua chùng mà lại căng, chư hầu kiêu ngạo mà phải nghiêm túc. Sau thời hai vị vua ấy, dần dần suy bại. Nước Ngô-Sở cậy sông Giang, dựa thành lớn, dẫu ý mong chín đỉnh(3) nhưng vẫn lo sợ họ Cơ, tính gian vỡ ở trong bụng, mưu nghịch tiêu ở miệng lưỡi; đấy há chẳng phải vì (nhà Chu) coi trọng tông thất, tin dùng người hiền, cành lá sum suê, gốc rễ được vững sao? Từ đó về sau, quay sang đánh nhau; nước Ngô bị nước Việt chiếm, nước Tấn chia làm ba(4), nước Lỗ bị nước Sở diệt, nước Trịnh gộp vào nước Hàn; trải đến thời Chiến quốc, họ Cơ bèn suy, riêng vua Yên-Vệ vẫn còn, nhưng đều nhỏ yếu; vì bá chủ miền tây là nước Tần mạnh, phía nam hiếp Tề-Sở, cho nên lo sợ diệt vong, không rỗi cứu nhau. Đến thời vua là Noản, dẫu giáng làm dân thường nhưng cành nhánh giữ nhau, dẫu ngồi ở ngôi hão như trong nước không có chủ mà vẫn được hơn bốn mươi năm. Nước Tần ngồi ở đất thắng thế, dùng phép tắc trá quyệt, đánh dẹp miền Quan Đông, ăn nuốt chín cõi, đến thời Thủy Hoàng bèn định ngôi trời. Ngày dài như thế, dùng sức thế kia, há chẳng phải vì cái đạo rễ sâu gốc bền thì không nhổ được sao? Kinh Dịch chép: 'Nguy nan đã trừ, treo ở cây dâu'. Đức của nhà Chu có thể nói là như thế. Nhà Tần thấy cái nạn của nhà Chu, cho là nhỏ yếu sẽ bị cướp, cho nên bỏ tước ngũ đẳng(5), đặt quan lại ở quận huyện, bỏ dạy lễ nhạc, dùng hình hà khắc; con em không một tấc thước đất phong, công thần không một mảnh đất cắm dùi, trong không có họ hàng để giúp đỡ, ngoài không có chư hầu để làm phên dậu, ý lòng không gần gũi thân thích, ân trạch không ban cho anh em; lại còn cắt xén đùi cổ, chỉ dùng tim bụng, cưỡi thuyền vượt biển mà còn vứt tay chèo; người đứng xem mà đau lòng; vậy mà Thủy Hoàng điềm nhiên tự cho là có cái vững của miền Quan Trung, có thành vàng nghìn dặm, cho là con cháu có cái rạng rỡ của Đế vương vạn đời; há chẳng lầm sao! Bấy giờ Thuần Vu Việt(6) can rằng: 'Thần nghe nói vua của nhà Ân-Chu phong con em công thần có hơn nghìn thành. Nay bệ hạ làm vua của bốn cõi mà con em như thất phu, nếu chợt có bọn tôi thần như Điền Thường(7) và bọn 'lục khanh' (8) mà không có ai giúp đỡ thì lấy gì cứu nhau? Thần chưa nghe nói việc mà không theo phép xưa mà được lâu dài vậy'. Thủy Hoàng nghe lời lệch lạc của Lí Tư mà bỏ lời bàn ấy, kịp đến ngày thân chết, chẳng cứu vớt được nữa, gửi thiên hạ vào tay của của thất phu, trao việc phế lập vào miệng của gian thần, khiến cho bọn Triệu Cao giết chóc tông thất. Hồ Hợi thủa nhỏ đã quen cái thói hà khắc, lớn lên nối nghiệp của cha, không đổi thay đổi được phép tắc, không sủng ái anh em, mà lại bắt chước Thân-Thương(9), nghe mưu Triệu Cao; tự ở cung cấm, giao việc cho bọn siểm nịnh, thân mất ở cung Vọng Di, dẫu xin làm kẻ dân đen còn được nữa sao? Rút cuộc quận huyện vỡ tan, dân chúng phản loạn, bọn Thắng-Quảng(10) nổi lên ở trước, lũ Lưu-Hạng(11) nối theo ở sau. Nếu Thủy Hoàng nghe kế của Thuần Vu Việt, bỏ lời bàn của Lí Tư mà chia cắt đất đai phong cho con em, noi theo phép tắc của ba nhà, trả đền công lao của tôi thần, khiến cho kẻ sĩ biết vua trên, dân chúng có chúa tể, anh em giúp nhau, đầu đuôi cứu được, dẫu là con cháu có lỗi hỏng đạo hạnh, nhưng thời ấy không có người hiền như Thang-Vũ(12); mưu gian chưa phát thì thân đã chết gục, lũ Lưu-Hạng nhỏ nhoi kia há còn bắt tay nhau được sao? Do đó Hán Cao Tổ giương thanh kiếm ba thước mà xua dân chúng ô hợp, trong khoảng năm năm bèn lập nên nghiệp Đế. Từ thủa mở nước đến nay, lập công tạo thế chưa có ai dễ như nhà Hán vậy. Chặt cây rễ sâu thì khó dùng sức, bẻ cây khô mục thì dễ ra sức, đấy là lí lẽ dương nhiên vậy. Nhà Hán xét cái sai của nhà Tần, phong cho con em, kịp lúc họ Lữ chuyên quyền, mưu phế nhà Hán, nhưng thiên hạ không dao động, trăm họ chẳng thay lòng là vì chư hầu lớn mạnh như bàn đá vững chắc, cũng là vì Đông Mâu-Chu Hư(13) vâng mệnh ở trong, Tề-Đại-Ngô-Sở(14) làm phên dậu ở ngoài vậy. Nếu Hán Cao Tổ nối theo cái phép tắc của nhà Tần mất thì thiên hạ đã truyền không phải của nhà Hán vậy. Nhưng Cao Tổ phân phong, quyền vị hơn cả phép cũ, kẻ lớn thì chiếm châu cắt quận, kẻ nhỏ thì có mấy chục thành trì; trên dưới không biệt, quyền ngang nhà vua, cho nên có cái loạn của bảy nước. Giả Nghị nói: 'Chư hầu lớn mạnh, lâu ngày sẽ gây loạn. Muốn thiên hạ yên ổn, chẳng bằng phong nhiều chư hầu mà giảm bớt sức của họ, khiến cho thế của cả nước như cánh tay của thân thể, như ngón tay của cánh tay, vậy thì thiên hạ chẳng còn lòng phản bội, vua trên chẳng phải nghĩ mưu đánh dẹp'. Văn Đế không nghe. Đến thời Hiếu Cảnh, chỉ dùng kế của Triều Thố(15), cắt xén chư hầu, khiến cho người thân oán giận, kẻ xa lo lắng, do đó Ngô-Sở bày mưu, năm nước theo gió(16). Bắt đầu từ thời Cao Đế, kịp đến thời Văn-Cảnh(17) mắc nạn, là do phép tắc hơi lỏng lẻo, không được nghiêm ngặt vậy. Đấy gọi là ngọn lớn thì tất gãy, đuôi lớn thì khó vẫy. Đuôi cùng với thân vẫn có lúc không vẫy được, huống chi là đuôi không thuộc thân, nó mà vẫy được sao? Vũ Đế theo kế của Chủ Phụ(18), hạ lệnh ban ân, từ đó về sau, nước Tề chia làm bảy, nước Triệu phân làm sáu, nước Hoài Nam cắt làm ba, nước Lương-Đại xẻ làm năm, bèn bị lấn ép, con cháu suy yếu, chỉ thu tô thuế cơm áo, không được nắm chính sự, hoặc bị giảm vàng bỏ phong, hoặc vì không có nối dõi mà bỏ tước. Đến thời Thành Đế, họ Vương nắm quyền(19). Lưu Hướng can rằng: 'Thần nghe nói tông thất là cành nhánh của nhà nước; cành nhánh rụng thì gốc rễ không còn được che chắn. Ngày nay người cùng họ bị xua đuổi, họ ngoại chuyên quyền, rũ bỏ tông thất, họ hàng suy yếu, đấy chẳng phải là giữ gìn xã tắc, dựng vững dòng dõi của nhà nước vậy'. Lời nói khẩn thiết, nhiều chỗ trích dẫn, Thành Đế dẫu bùi ngùi than thở nhưng không nghe theo. Đến thời Ai-Bình(20), họ khác nắm quyền, mượn việc của Chu Công mà làm cái loạn của Điền Thường, ngồi cao mà nắm ngôi trời, một sớm thì có được bốn cõi, Vương hầu tông thất của nhà Hán bỏ ấn cởi thao, dâng cống xã tắc, còn sợ không được làm tôi thần, hoặc thì cho là hợp mệnh, khen tụng ân đức của Mãng, há chẳng xót sao! Do đó mà nói, nếu chẳng có tông thất trung hiếu ở thời Huệ-Văn(21) dẫu có phản nghịch ở buổi Ai-Bình thì quyền suy thế yếu, không thể định được vậy. Cậy vào cái tài hơn đời của Quang Vũ Hoàng Đế, bắt Vương Mãng đã xong, nối lại dòng dõi của nhà Hán ở lúc đã dứt, đấy há chẳng phải là công của tông thất sao? Vậy mà vẫn không xét cái phép sai của nhà Tần, không theo phép cũ của nhà Chu, không đi theo đường lối phân phong, lại mong chờ ở điều may mắn không cùng. Đến thời Hoàn-Linh(22), hoạn quan nắm quyền, trong không có tôi thần liều chết cứu nạn, ngoài không có chư hầu cùng lo việc nước, vua lẻ loi ở trên, tôi phóng túng ở dưới, gốc ngọn không cứu được nhau, đầu đuôi không qua lại được. Do đó thiên hạ vỡ lở, kẻ gian tranh giành, tông miếu cháy thành tro than, cung thất hóa thành bụi cỏ. Vua ngồi ở trên chín cõi mà thân không được yên ổn, thương thay! Thái Tổ Vũ Hoàng Đế của nhà Ngụy ta tỏ đức thánh minh, gồm cả tài lược văn võ, thẹn vì phép vua cắt đứt, thương vì nhà Hán nghiêng lật, cho nên rồng bay ở Tiêu-Bái, phượng vỗ ở Duyện-Dự, quét trừ hung nghịch, cắt diệt kình nghê, ngưỡng nhìn vua ở tây kinh(23) định đô ở ấp Dĩnh(24), đức cảm trời đất, nghĩa động thần người. Nhà Hán vâng mệnh trời, trao ngôi cho nhà Đại Ngụy. Nhà Đại Ngụy nổi lên đến nay đã hai mươi tư năm rồi, xem cái được mấy của năm nhà mà không dùng được kế hay, thấy cái nghiêng lật của xe trước mà không đổi xết xe; con em Vương hầu nắm ngôi hão, chỉ có dân không dùng được, tông thất tránh vào thôn ấp, không được bàn chính sự của nhà nước, quyền ngang thất phu, thế như dân thường; trong không không có cái vững khó lay của rễ sâu, ngoài không có cái giúp bàn đá của họ hàng, đấy chẳng phải là để giữ yên xã tắc, mưu nghiệp cho vạn đời vậy. Vả lại Châu mục, Quận thú ngày nay là phương bá thời xưa mà đều có đất đai nghìn dặm, có nhà có mấy người coi cả việc quân lữ, có kẻ anh em cùng nắm việc; vậy mà con em tông thất từng chưa có một người tham dự ở trong đó để tự giữ chống lẫn nhau, đấy chẳng phải làm cứng thân yếu cành, phòng ngừa nạn chợt đến vậy. Ngày nay dùng người hiền, hoặc chọn làm chủ của quận lớn, hoặc làm tướng của quân mạnh, vậy mà tông thất có người tài văn chỉ làm chủ của huyện nhỏ, người có tài võ chỉ đặt trên trăm người. Nếu kẻ sĩ có đức cao thì tất để ý ở trong xe lớn, người có tài năng thẹn vì cùng bậc với bọn không cùng hàng. Đấy chẳng phải là lễ chọn người tài và khen thưởng tông thất vậy. Suốt cạn thì sông khô, rễ mục thì lá héo; cành rậm thì che rễ; lá rụng thì thân lẻ vậy. Cho nên có câu rằng: 'Con sâu có trăm cái chân thì đến chết vẫn không nát'. Đấy là đông để giúp vậy. Lời ấy dẫu nhỏ nhưng sánh ý lại lớn. Vả lại tường cao không phải chốc lát mà dựng xong, tiếng nổi không phải một sớm mà có, đều phải dần dần mới thành, dựng có phép thường. Ví như trồng cây, lâu ngày thì gốc rễ của nó cắm sâu, cành lá của nó sum suê, nếu có dời từ giữ rừng núi đến trồng ở dưới cửa cung, dẫu lấy đất đen để vun đắp, lấy nắng xuân để tỏa ấm, vẫn không cứu được khô héo, nói chi đến làm cho sum suê đây? Cây vẫn có thân thích, đất vẫn có dân chúng, dựng lập không lâu thì khinh dưới lấn trên, thời bình yên vẫn sợ bị bội phản, huống chi là lúc nguy cấp đây? Cho nên bậc Đế vương hiền thánh dẫu yên mà vẫn không nghỉ để ngừa nạn vậy, được mà vẫn phòng bị để tránh mất vậy. Cho nên gió lớn chợt thổi đến mà không lo bị gãy nhổ, thiên hạ có biến mà không sợ nguy khốn vậy".
Quýnh là dòng dõi của Trung thường thị Thúc Hưng, là bác họ của Thiếu Đế vậy. Bấy giờ thiên tử nhỏ dại, Quýnh mong dùng lời bàn này để khuyên dụ Tào Sảng, nhưng Sảng không nghe theo.
Chú thích
(1) Kinh Thi chẳng chép: 'Tích linh ở đồng, anh em cứu nạn': tích linh là một loài chim thường sống ở ven nước bắt cá nhỏ. Ý nói vốn quen ở ven nước mà lại ở trên đồng thì không quen, phải kêu đồng loại cứu nạn. Mượn ý này nói anh em giúp nhau trong lúc hoạn nạn vậy.
(2) Hoàn-Văn: chỉ Tề Hoàn Công và Tấn Văn Công thời Xuân thu, đều là thân thích của nhà Chu.
(3) Chín đỉnh: tương truyền vua Hạ Vũ dùng vàng đúc thành chín cái đỉnh (còn gọi là vạc) có khắc
hình vẽ sông núi của chín châu, truyền qua nhà Thương rồi truyền cho nhà Chu. Kịp lúc nhà Chu suy mà nước Sở mạnh lên, có cầu chín đỉnh nhưng không được.
(4) Nước Tấn chia làm ba: chỉ cuối thời Xuân thu, nước Tấn chia làm nước Hàn, Triệu, Ngụy.
(5) Ngũ đẳng: chỉ năm tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
(6) Thuần Vu Việt: thời Chiến quốc làm Bác sĩ của nước Tề, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước được làm Bộc xạ, khuyên Thủy Hoàng bỏ chế độ quận huyện mà theo chế độ phân phong chư hầu như thời nhà Chu, nhưng bị Thừa tướng Lí Tư phản bác, rồi bị bãi quan về quê, lại can gián Thủy Hoàng đừng đốt sách chôn Nho mà bị giết.
(7) Điền Thường: là đại thần của nước Tề thời Xuân thu, giết Tề Giản Công mà lập Tề Bình Công, tự làm Tướng quốc, thu quyền bính vào họ Điền.
(8) Bọn 'lục khanh': chỉ sáu đại thần của nước Tấn thời Xuân thu là họ Phạm, họ Trung Hàng, họ Trí, họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy tranh giành lẫn nhau, cuối cùng chỉ có ba họ là Hàn, Triệu, Ngụy còn, chia nước Tấn làm ba nước.
(9) Thân-Thương:Thân chỉ Thân Bất Hại, Thương chỉ Thương Ưởng, theo thuyết pháp gia, cho rằng thống trị đất nước phải coi trọng hình pháp, đây là phép tắc chủ yếu của nhà Tần.
(10) Thắng-Quảng: chỉ Trần Thắng và Ngô Quảng.
(11) Lưu-Hạng: chỉ Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) và Hạng Vũ.
(12) Thang-Vũ: chỉ vua Thang của nhà Ân và vua Vũ Vương của nhà Chu.
(13) Đông Mâu-Chu Hư: Đông Mâu chỉ Đông Mâu Hầu là Lưu Chương, Chu Hư chỉ Chu Hư Hầu là Lưu Hưng, đều là tông thất của nhà Hán giữ gìn ở thành Tràng An, khi họ Lữ chuyên quyền bèn chống đối, rút cuộc cùng các đại thần là Trần Bình, Chu Bột đánh bại được họ Lữ, giữ nghiệp của họ Lưu.
(14) Tề-Đại-Ngô-Sở: sau khi Hán Cao Tổ dựng nhà Hán, phong Vương cho các con và anh em. Phong em là Lưu Giao làm Sở Vương; phong cháu họ là Lưu Tị làm Ngô Vương; phong con là Lưu Hằng làm Đại Vương, con là Lưu Phì làm Tề Vương.
(15) Triều Thố:người quận Dĩnh Xuyên, thời Hán Cảnh Đế thế lực của chư hầu rất lớn, bèn bày kế sách trừ bỏ chư hầu để ngừa mưu phản, cho rằng từ từ trừ bỏ không bằng nhanh chóng trừ bỏ chư hầu.
(16) Ngô-Sở bày mưu, năm nước theo gió: thời Hán Cảnh Đế, các chư hầu mưu phản, khởi từ Ngô Vương là Lưu Tị và Sở Vương là Lưu Mậu rồi liên kết với năm vị khác là Triệu Vương, Giao Tây Vương, Giao Đông Vương, Truy Xuyên Vương, Tế Nam Vương chia đường hướng về phía tây đến thành Tràng An.
(17) Văn-Cảnh: chỉ vua Văn Đế và Cảnh Đế của nhà Hán.
(18) Chủ Phụ: tức Phủ Phụ Yển, người quận Lâm Truy, vào thời Hán Vũ Đế bày kế chia nhỏ ấp phong của chư hầu để giảm bớt thế lực của họ.
(19) Họ Vương nắm quyền: chỉ thân thích họ ngoại là Vương Mãng soán ngôi vị.
(20) Ai-Bình: chỉ vua Ai Đế và Bình Đế của nhà Hán.
(21) Huệ-Văn: chỉ vua Huệ Đế và Văn Đế của nhà Hán.
(22) Hoàn-Linh: chỉ vua Hoàn Đế và Linh Đế của nhà Hán.
(23) Tây kinh: chỉ thành Tràng An ở phía tây là kinh đô cũ nhà Hán, đối với thành Lạc Dương là kinh đô phía đông.
(24) Định đô ở ấp Dĩnh: Tào Tháo đón Hán Hiến Đế đóng đô ở Hứa Xương thuộc quận Dĩnh Xuyên, ở bên sông Dĩnh, cho nên gọi thế.

NGỤY THƯ QUYỂN 22 - Hoàn nhị Trần Từ Vệ Lư truyện
Hoàn Giai, Trần Quần, Trần Thái, Từ Tuyên, Vệ Trăn, Lư Dục.

TRẦN THÁI TRUYỆN
Thái tự là Huyền Bá. Năm Thanh Long trung, được làm Tán kỵ Thị lang. Năm Chính Thuỷ trung lại được đổi sang làm Kích tướng quân, Tinh châu thứ sử, gia thêm Chấn uy tướng quân, được cầm cờ tiết, lĩnh chức hộ Hung Nô Trung lang tướng, Thái lấy sự nhu thuận đối xử với người Di ở đấy, rất có ân uy. Có bậc quý nhân ở đất Kinh Ấp gửi biếu Thái rất nhiều tiền bạc của cải, bởi thế lúc mua nô tì, Thái treo hết những của cải ấy ở trên vách, không hề đụng đến, khi được vời về làm Thượng thư, Thái lại đem hết những của cải đó mang trả lại người ấy.
Năm Gia Bình sơ, Thái được cử thay Quách Hoài làm Ung châu thứ sử, gia thêm Phấn uy tướng quân. Thục đại tướng quân Khương Duy xuất binh men lối Khúc sơn đắp hai toà thành, sai Nha môn tướng là Câu An, Lý Hâm cố thủ ở đó, lại hẹn rợ Khương Hồ ước thệ cùng vào cướp bóc các quận quanh đó.
Chinh tây tướng quân Quách Hoài cùng với Thái bàn kế chống giữ. Thái nói: "Khúc thành tuy vững chắc, nhưng đường từ Thục đến đó xa xôi hiểm trở, việc vận lương tất chậm trễ. Quân rợ Khương sợ Duy khó khăn việc lao dịch, ắt chưa dễ giúp đỡ hết lòng. Nay ta cần vây hãm quân ấy, có thể không cần phải hết sức phá thành; dẫu họ có quân cứu viện, nhưng đường núi hiểm trở, đâu dễ hành binh như trên đất bằng được". Hoài bèn theo kế của Thái, sai Thái lĩnh binh vây đánh quân Thục. Hộ quân Từ Chất, Nam An thái thú Đặng Ngải cùng tiến binh vây hãm Khúc thành, cắt đứt đường lấy nước. Bọn Câu An phải ra đánh, Ngải không ứng chiến, quân Thục khốn quẫn, bốc tuyết nấu ăn cho qua ngày tháng chờ cứu viện.
Duy quả nhiên dẫn quân đến cứu giúp, tiến binh ra hướng Ngưu đầu sơn, cùng với Thái đối trận. Thái nói với chư tướng rằng: "Binh pháp quý ở chỗ không cần đánh mà khuất phục được được địch. Nay ta chẹn đường ở Ngưu đầu sơn, Duy không có đường tiến, sẽ bị ta cầm giữ ở đây." Rồi lệnh cho các tướng cố sức giữ chắc thành luỹ không được giao chiến, lại phái sứ đến bẩm với Hoài, muốn từ phía Nam vượt qua Bạch Thuỷ, men sông tiến về hướng Đông, đề nghị Hoài đến thẳng Ngưu Đầu sơn, cắt đứt đường về của quân Thục, có thể bắt được Duy, như thế chẳng cần lo đến bọn Câu An nữa. Hoài khen kế ấy, dẫn ba quân đến Thao Thuỷ. Duy kinh hãi, phải bỏ chạy. Bọn Cẩu An cô thế, bèn ra hàng.
Hoài chết, Thái được cử lên thay làm Chinh tây tướng quân, được ban giả tiết, kiêm quản mọi việc quân sự ở Ung, Lương. Năm sau, Ung châu thứ sử Vương Kinh bẩm với Thái rằng, Khương Duy và Hạ Hầu Bá sắp chia quân làm ba đạo nhằm các hướng Kỳ Sơn, Thạch Doanh, Kim Thành, xin tiến binh làm vây cánh, điều quân ở Lương châu tiến đến Bào Hãn đánh vào quân Thục để giảm áp lực cho quân ở Kỳ Sơn. Thái liệu thế địch thấy không thể đương nổi cả ba đường, vả lại chia rẽ binh lực là việc rất không hay, mà quân Lương châu lại chưa ra khỏi cõi, liền bảo Kinh rằng: "Cần phải xét kỹ việc này, để định rõ phương lược, lại phải từ hai phía Đông Tây hợp binh lại mà tiến mới được".
Bấy giờ Duy dẫn mấy vạn quân tiến đến Bào Hãn, nhằm hướng Địch Đạo. Thái lệnh cho Vương Kinh tiến lên đóng quân ở Địch Đạo, đợi quân các nơi đến đủ, sẽ tuỳ cơ đánh giữ. Còn Thái tiến quân đến Trần Thương. Kinh lại thống lĩnh ba quân tiến đến Cố Quan cùng với địch đánh nhau ở đó, gặp bất lợi, Kinh vội chạy về Thao Thuỷ. Thái thấy Kinh không chiếm đóng Địch Đạo, sợ có biến, bèn sai đóng năm dinh quân ngay trước trận, Thái đốc ba quân đóng ở phía sau. Kinh cùng Duy đại chiến ở Thao Thuỷ, bị thua lớn, mới dẫn hơn vạn quân lui về giữ thành Địch Đạo, binh sĩ còn lại đều thua chạy tan tác cả. Duy thừa thắng vây hãm Địch Đạo. Thái đóng quân ở Thượng Nhai, chia binh đóng giữ nơi hiểm yếu, sớm tối canh giữ nghiêm ngặt. Đặng Ngải, Hồ Phấn, Vương Bí cũng đến nơi, Thái liền cùng với Ngải, Bí chia quân làm ba đạo, tiến đến Lũng Tây.
Ngải cho rằng "Vương Kinh cậy quân mạnh giao chiến nên bị thua lớn ở phía Tây, nay kẻ địch đông mà sỹ khí đang hăng, lại đang thừa thắng nên quân ta khó mà đương nổi, quân lính của ta vốn là quân ô hợp, nếu bị thua thêm một trận nữa, ắt tướng sỹ đều mất vía cả, mà vùng Lũng Hữu sẽ nguy mất. Cổ nhân có câu rằng: 'Bị rắn độc cắn vào tay, tráng sĩ phải cắt bỏ cánh tay mình'. Tôn Tử lại nói: 'Việc binh có lúc không cần đánh, đất đai có lúc chẳng cần phải giữ.' Chính là bỏ cái nhỏ để bảo toàn lấy cái lớn vậy. Nay Lũng Hữu gặp nguy hiểm, cái hại còn hơn cả độc xà, Địch Đạo bị vây hãm, chẳng cần phải cố giữ. Khương Duy tiến binh, ta hãy tạm tránh mũi nhọn của địch. Lại chẹn giữ những nơi hiểm yếu, chờ kẻ địch mệt mỏi, rồi sau mới tiến binh cứu, kế ấy mới là hay vậy."
Thái nói: "Khương Duy cất tinh binh thâm nhập, chính là muốn cùng với ta tranh chiến, cần đánh một trận mà được lợi. Vương Kinh nếu cậy thành cao hào sâu cố thủ, sẽ bẻ gẫy được nhuệ khí của địch. Nay lại cùng giao chiến, khiến cho quân địch đắc kế, đại phá quân của Vương Kinh, lại vây hãm Địch Đạo. Nếu như Duy thắng được sẽ diễu võ dương oai, tiến binh về phía Đông, chiếm giữ Lịch Dương là nơi chứa lương của ta, thu nhặt hàng binh, liên kết với rợ Khương-Hồ, ngoảnh về Đông tranh tranh chiếm vùng Quan-Lũng, truyền hịch ra bốn quận, như thế thì quân ta sẽ bị rầy rà to. Mà Duy thừa thắng tiến binh, thành cao cũng bị hạ, nhuệ khí đã mất, có hết sức cũng khó mà giữ được, cái thế đánh giữ khác nhau, khách chủ bất đồng là vậy. Binh thư nói rằng: 'Sửa cái thuyền, ba tháng thì xong, làm cái mái chèo lại mất quá ba tháng thì vứt đi cả'. Ta tin rằng quân kia ở xa mới tới, Duy sẽ dùng mưu mẹo trí trá để cướp lương thảo. Quân địch ở xa đến chỉ đóng tạm ở đó ít bữa, lương thực ắt không mang đủ, như vậy theo ý ta thì bây giờ cần phải gấp rút tiến lên phá địch, nếu bảo rằng nóng nảy vội vàng mà không theo, tự nhiên bỏ phí mất thời cơ. Thao Thuỷ hình thế như cái dải áo, bọn Duy đang ở sâu phía trong, nay quân ta đóng ở trên cao, chỉ cần dàn binh ở núi Hạng Lĩnh, thì chẳng cần đánh quân kia ắt phải bỏ chạy. Quân địch đến chớ nên buông thả, quân ta bị vây không thể chờ lâu, sao ngươi có thể nói như thế được?"
Rồi ngầm tiến quân đến núi Hạng Lĩnh, ngay trong đêm đến phía Đông Nam thành Địch Đạo đóng quân trên đỉnh núi, sai đốt lửa làm hiệu, ngày thì thúc trống. Tướng sĩ trong thành Địch Đạo thấy quân cứu viện đã đến, đều lấy làm phấn chấn. Thục tướng Khương Duy cho rằng cứu binh còn đang tụ tập bèn phát động tấn công, sĩ tốt nghe tin địch đến, ngờ rằng đóng quân lại ắt có biến, trên dưới đều kinh hoảng. Thái bèn dẫn quân tiến binh đến Lũng Tây, nhân thấy sơn đạo hiểm trở, đồ rằng địch tất đặt phục binh ở đó. Vì thế Thái liền rẽ về con đường phía Nam, quả nhiên Duy đặt quân mai phục binh ở đó đã ba ngày.
Bởi việc hành quân được suôn xẻ, sĩ tốt tiến được xuống phía Nam. Duy thấy thế liền vượt núi đuổi theo, Thái cùng Duy giao chiến, Duy gặp bất lợi phải lui binh. Quân Lương Châu cũng vừa tới phía nam Kim Thành chiếm giữ nơi sườn núi. Thái mật hẹn với Kinh, cùng tiến binh ra đường lớn, Duy hay được tin ấy, bèn bỏ chạy, tướng sĩ trong thành Địch Đạo được giải vây. Kinh than rằng: "Lương thảo trong thành còn chẳng đủ dùng mười ngày, sắp sửa chẳng giữ được nơi then chốt, phải bỏ thành mà chạy, làm mất đi một châu quận của quốc gia rồi". Thái uý lạo tướng sĩ, cho ba quân lần lượt kéo về, lại đổi quân khác trấn giữ thành trì, sửa sang chiến luỹ, rồi lui binh đóng giữ Thượng Nhai.
Lúc trước, Thái nghe tin Kinh bị vây hãm, quân binh tướng sĩ ở đấy đồng lòng, cố sức bảo vệ thành, Duy cùng sĩ tốt đánh phá hết sức nguy cấp. Thái dâng biểu về triều rồi hoả tốc đêm ngày hành binh đến đó. Trong triều chúng tướng bàn rằng nếu Kinh bỏ chạy về phía Bắc, thành sẽ không thể giữ nổi, Duy ví bằng cắt đứt đường đi Lương châu, hiệu triệu dân Di ở bốn quận, chiếm cứ chỗ hiểm vùng Quan – Lũng, không những sẽ tan mất cánh quân của Vương Kinh mà Lũng Hữu cùng bị uy hiếp nặng. Nên đợi đại binh ở bốn phương tụ tập đầy đủ, rồi kéo đến đánh dẹp. Đại tướng quân Tư mã Văn vương cho rằng: "Xưa Gia Cát Lượng thường tiến ra đó, mà đến chết chẳng làm được việc ấy. Mưu việc lớn ở phương xa, ắt Duy chẳng thể không gắng hết sức. Vả lại trong thành không chứa sẵn lương thảo mà sĩ tốt ở đó bị vây, lương thiếu lại đang nguy cấp, phải nhanh chóng Tây chinh để cứu giúp, đó là thượng sách".
Một mình Thái trông coi việc một phương, thường hay phô trương thanh thế để trấn áp thiên hạ, ít khi tâu bày công việc lên bề trền, dẫu đường đất đi lại bất quá chỉ chừng 600 dặm. Tư mã Văn vương nói riêng với Tuân Ỷ rằng: "Huyền Bá thâm trầm dũng mãnh mà quyết đoán, gánh vác việc nặng nhọc ở một phương, cứu tướng bị vây hãm trong thành, mà chẳng xin thêm binh, lại hiếm khi tâu bẩm việc lên bề trên, ắt hẳn đủ tài dẹp địch. Những bậc Đô đốc Đại tướng, cũng chẳng hơn được nào!"
Sau này Thái được vời về làm Thượng thư hữu Phó xạ, Điển tuyển cử (1), gia thêm Thị trung Quang lộc đại phu. Đại tướng nước Ngô là Tôn Tuấn xâm phạm vùng Hoài Tứ. Triều đình lấy Thái làm Trấn quân tướng quân, ban cho Giả tiết đô đốc mọi việc quân sự ở Hoài Bắc, lại xuống chiếu cho phép Thái được điều động toàn bộ quân lính ở Từ Châu. Tuấn lui binh, ba quân kéo về, Thái được chuyển làm tả Phó xạ. Gia Cát Đản dấy loạn ở Thọ Xuân, Tư mã Văn vương đốc xuất sáu lộ quân đóng ở Khâu Đầu, Thái được xếp đứng đầu một lộ. Tư mã Cảnh vương, Văn vương đều chơi thân với Thái, cả Vũ Cai ở đất Bái cũng thân thiện với Thái. Văn Vương hỏi Cai rằng: "Huyền Bá sao bằng cha ông ấy là Tư không được?" Cai nói: "Hiểu hết lẽ sách Nhĩ Nhã thì sướng ý, có thể khiến thiên hạ dốc lòng theo mình, chẳng phải thế sao; minh thống kiêm quản ngôi cao, lập công lập sự, còn hơn thế nữa." Thái trước sau nhờ công lao mà được ăn lộc thêm hai vạn sáu ngàn hộ, con em thì một người được làm Đình hầu, hai người được làm quan nội hầu. Năm Cảnh Nguyên nguyên niên chết, được truy tặng chức Tư không, thuỵ hiệu là Mục hầu.
Tấn Kỷ của Kiền Bảo chép rằng: Cao Quý hương công bị giết (2), Tư mã Văn vương hội triều thần bàn việc. Trần Thái không chịu đến, Vương sai cậu là Tuân Khải triệu gọi. Khải đến, Thái nói: "Người ta vẫn bàn rằng, Thái tôi so được với cậu, nay xem ra cậu chẳng bằng Thái này được vậy". Con em nội ngoại Thái đều bị bức đến cả, mọi người đều phục xuống rỏ nước mắt. Vương đợi một lát rồi bảo rằng: "Huyền Bá, khanh xem ta nên khu xử thế nào?" Đáp rằng: "Nên giết Giả Sung để tạ lỗi với thiên hạ." Văn Vương nói: "Ta nghĩ nên giảm xuống một bậc". Thái nói: "Thái tôi chỉ biết nghĩ đến bậc ấy, chứ chẳng biết thứ bậc nào nữa cả". Văn vương không chịu đổi ý.
Nguỵ thị Xuân thu chép: Đế đã băng hà, Thái phó Tư Mã Phu, Thượng thư Hữu phó xạ Trần Thái gối đầu vào đùi thi thể của Đế, khóc lóc rất bi thương. Bấy giờ Đại tướng quân vào đến trong cung, Thái thấy thế rất đau lòng, Đại tướng quân cũng đứng sánh vai với Thái mà khóc, rồi nói rằng: "Huyền Bá, việc này ta nên xử thế nào?" Thái nói: "Chỉ có giết Giả Sung, mới có thể tạ lỗi với thiên hạ một chút." Hồi lâu Đại tướng quân mới nói: "Khanh hãy nghĩ mà đổi xuống cho người khác". Thái nói: "Há nên để cho Thái nói thêm lời nữa". Rồi thổ huyết mà chết.
Con Thái là Tuân nối tự, Tuân chết, không có con. Em Tuân là Ôn nối tước. Năm Hàm Hi trung mới lập được chức Ngũ đẳng, bởi Thái có công lao với tiền triều, mới đổi phong tước cho con của Ôn là Thận.
Chú thích:
(1) Coi xét việc tiến cử.
(2) Tào Mao bị Tư mã Chiêu giết.

TRẦN KIỂU TRUYỆN
Trần Kiểu tự Quý Bật, người quận Quảng Lăng huyện Đông Dương. Lúc đi tránh loạn ở Giang Đông đến Đông Thành, từ chối theo mệnh của Tôn Sách và Viên Thuật, quay về bản quận. Thái thú Trần Đăng mời làm Công tào, sai Kiểu đến huyện Hứa, bảo rằng: "Người ở huyện Hứa luận bàn, bình phẩm về ta không được tốt lắm; túc hạ hãy vì ta đến đó xem xét, rồi quay về chỉ giáo cho ta biết." Kiểu đi rồi quay về nói: "Tôi nghe ngôn luận xa gần, hầu hết nói rằng minh phủ kiêu căng tự đại." Đăng nói: "Nói đến gia môn hòa mục, đức hạnh vẹn toàn, ta kính trọng anh em Trần Nguyên Phương; nói tới sự băng thanh ngọc khiết, khuôn phép lễ nghĩa, ta kính trọng Hoa Tử Ngư; nói về sự hiểu biết chính trực, ghét cái ác như thù, ta kính trọng Triệu Nguyên Đạt; nói về nghe rộng nhớ dai, tài hoa lỗi lạc, ta kính trọng Khổng Văn Cử; nói tới anh hùng kiệt xuất, có mưu lược bá vương, ta kính trọng Lưu Huyền Đức(1). Ta tôn kính người khác như thế, sao ta lại là người kiêu ngạo được! Ngoài ra những việc nhỏ nhặt tầm thường ta đối xử với các vị, vậy có biên chép hết cả lại mà đánh giá được hay chăng?" Đăng nhã nhặn ý tứ đến như thế, mà đối với Kiểu lại rất đỗi kính trọng.
Vì quận trị bị Tôn Quyền phái Khuông Kỳ vây hãm, Đăng ra lệnh cho Kiểu cầu cứu với Thái tổ. Kiểu thuyết Thái tổ rằng: "Bỉ quận tuy nhỏ, nhưng về hình thế đối với quốc gia là trọng yếu, nếu ngài ra ân cứu viện, lấy nơi đó làm phên dậu, thì mưu đồ của người Ngô sẽ dứt, vùng Từ Châu được yên ổn lâu dài, thanh danh uy vũ chấn động nơi xa, sự nhân ái được lưu truyền, những kẻ chưa phục tùng quốc gia, theo gió kéo đến mà nương tựa, rồi tôn sùng đức hạnh nuôi dưỡng uy thế, đó là sự nghiệp của bậc bá vương vậy." Thái tổ cho Kiểu là bậc kỳ tài, muốn lưu lại. Kiểu từ chối nói: "Bản quốc có mối nguy treo ngược, tôi chạy vội đến cáo cấp, dù cho không học đòi được Thân Tư, há dám quên cái nghĩa của Hoằng Diễn được chăng(2)?"
Sách Tân tự của Lưu Hướng chép: Tề Hoàn công cầu hôn với nước Vệ, nước Vệ không nghe, mà gả con cho nước Hứa. Nước Vệ bị nước Địch đánh, Hoàn công không cứu. Thi thể của Vệ Ý công bị người nước Địch ăn mất, duy có buồng gan là còn. Ý công có người bầy tôi là Hoằng Diễn, vừa mới đi sứ trở về, hủy hoại thân mình ở chỗ buồng gan nói: "Vua ở bên trong, thì bầy tôi ở bên ngoài." Rồi mổ bụng mình bỏ buồng gan vào trong bụng mà chết. Tề Hoàn công nói: "Nước Vệ có bầy tôi như thế mà còn bị diệt, quả nhân không có được người như vậy, chết không biết ngày nào đây!" Bèn cứu nước Vệ, yên định ngôi quân vương nước ấy.
Thái tổ bèn phái quân tới cứu. Quân Ngô đã lui về, Đăng đặt rất nhiều quân mai phục, ngầm dẫn binh đuổi theo, đại phá chúng.
Thái tổ cho vời Kiểu làm Tư không duyện thuộc, phong cho làm Tương lệnh, Chinh nam Trưởng sử(3), Thái thú Bành Thành, Lạc lăng, Tây bộ đô úy Ngụy Quận. Có người dân ở Khúc Chu vì cha bị bệnh, dùng trâu để cầu cúng, huyện kết tội phải chém ở giữa chợ(4). Kiểu nói: "Người ấy là hiếu tử vậy." Bèn dâng biểu xin tha người ấy. Kiểu được thăng làm Thái thú Ngụy Quận. Bấy giờ trong nhà giam có mấy nghìn người, bị giam giữ đến mấy năm trời, Kiểu cho rằng pháp chế của nhà Chu có ba điển, pháp luật của nhà Hán có ba chương, nay tham cái đạo lý nặng nhẹ, mà giam giữ tù phạm lâu là tai họa, có thể nói là sai lầm vậy. Kiểu tự mình xem xét hết tội trạng của phạm nhân, trong một lúc bàn bạc rồi quyết định. Đại quân đông chinh, Kiểu về triều làm Thừa tướng trưởng sử. Quân quay về, Kiểu lại làm Thái thú Ngụy Quận, rồi chuyển sang làm Tây tào duyện.
Kiểu theo đi đánh Hán Trung, rồi quay về triều làm Thượng thư. Đi chưa đến huyện Nghiệp, Thái tổ băng ở Lạc Dương, quần thần câu nệ đạo thường, cho rằng Thái tử lên tức vị, phải đợi chiếu mệnh. Kiểu nói: "Vương mất ở bên ngoài, thiên hạ sợ hãi. Thái tử nên nén đau thương lên tức vị, để úy lạo và ràng buộc lòng trông ngóng xa gần. Vả lại các con của đại vương ở ngay bên cạnh, ví như người này người kia sinh biến, thì xã tắc nguy mất." Rồi lập tức bố trí quan viên và bày biện đủ lễ nghi, xong xuôi hết trong ngày. Hôm sau, dùng lệnh của Vương hậu(5), sách mệnh cho Thái tử lên tức vị, đại xá thiên hạ. Văn Đế nói: "Trần Quý Bật vào lúc quan trọng khẩn yếu, mưu lược sáng suốt hơn người, đích thực là kẻ tuấn kiệt một thời vậy." Đế đăng cơ, chuyển Kiểu sang tạm nhận chức Lại bộ, phong tước Cao Lăng đình hầu, thăng làm Thượng thư lệnh.
Minh đế lên tức vị, Kiểu được tiến tước Đông hương hầu, hưởng thực ấp sáu trăm hộ. Có lần xa giá thốt nhiên đến cửa Thượng thư, Kiểu quỳ xuống hỏi Đế rằng: "Bệ hạ đến đây là mong muốn điều gì vậy?" Đế nói: "Ta muốn đến xem ngươi coi xét văn thư mà thôi." Kiểu nói: "Việc đấy là chức phận của thần, chẳng phải là thứ Bệ hạ nên xem. Nếu thần không xứng với chức phận đó, thì xin Bệ hạ hãy phế truất thần. Bệ hạ nên về đi thôi." Minh Đế rất xấu hổ, lên xe ra về. Kiểu thành thực và chính trực đến như thế.
Thế Ngữ chép: Lưu Diệp lúc trước diện kiến Đế, nhân đó dèm pha Kiểu là chuyên quyền. Kiểu sợ, đem hỏi con trưởng là Bản, Bản không biết làm thế nào. Con thứ là Khiên nói: "Chủ thượng là bậc thánh minh thông đạt sự lý, đại nhân là bậc đại thần, nay nếu không hợp nhau, bất quá chẳng làm tước công nữa." Mấy ngày sau, Đế cho triệu kiến Kiểu, Kiểu lại hỏi hai con, Khiên nói: "Bệ hạ có ý nguôi, cho nên mới gặp đại nhân vậy." Kiểu gặp Đế, cuối ngày, Đế nói: "Lưu Diệp tố cáo ngươi, trẫm có cho xem xét ngươi; trong lòng trẫm đã rõ rồi." Rồi đem năm nậm rượu bằng vàng trao cho Kiểu, Kiểu từ chối. Đế hỏi: "Ngươi cho là ân huệ quá ít chăng? Ngươi đã biết tấm lòng của trẫm, song vợ con ngươi chưa biết được nguyên cớ vậy." Đế lo lắng cho xã tắc, hỏi Kiểu: "Tư Mã Công là kẻ trung chính, có thể nói là kẻ bầy tôi giỏi của xã tắc được chăng?" Kiểu nói: "Ý là chỗ triều đình trông vào; việc xã tắc, thì chưa biết được."
Kiểu được gia thêm chức Quang lộc đại phu, rồi thăng làm Tư đồ. Năm Cảnh Sơ nguyên niên thì chết, được ban thụy là Trinh hầu.
Nguỵ thị Xuân Thu chép: Kiểu vốn là con của họ Lưu, sinh ra bởi người cậu hôn phối với người trong dòng tộc. Từ Tuyên thường chê bai việc ấy, lúc nghị sự ở triều đình cho đó là thiếu sót. Thái tổ tiếc Kiểu là người tài trí độ lượng, muốn giữ toàn vẹn cho Kiểu, bèn hạ lệnh rằng: "Từ khi tang loạn đến nay, phong tục và giáo hoá điêu bạc, lời bàn luận báng bổ, khó mà dùng để chê bai được. Chuyện từ năm Kiến An thứ năm về trước, nhất thiết chớ có bàn luận. Đem chuyện từ giai đoạn trước mà luận bàn phỉ báng, sẽ vì tội đó mà trị tội."
Con của Kiểu là Bản nối tự, trải các chức Quận thú, Cửu khanh. Ở đâu cũng giữ kỷ cương, được khen ngợi là có cương lĩnh, có thể khiến cho quần hạ hết lòng. Có tài làm thống soái, không quen với việc nhỏ, chẳng đọc sách về pháp luật mà được Đình uý khen ngợi, hơn hẳn bọn Tư Mã Kỳ, tinh luyện về đạo lý văn vẻ. Sau được thăng làm Trấn bắc tướng quân, được ban Giả tiết đô đốc các việc quân sự ở Hà Bắc. Rồi chết, con là Sán nối tự. Em của Bản là Khiên, năm Hàm Hi trung là Xa kỵ tướng quân.
Xét Tấn thư chép: Khiên tự Hưu Uyên, là công thần sáng nghiệp nhà Tấn, ngôi vị đến Thái phó, được phong làm Cao Bình quận công.
Khi trước, Kiểu làm Công tào ở quận, đi sứ qua địa giới huyện Thái Sơn. Thái thú Thái Sơn người Đông Quận là Tiết Đễ, kết làm thân hữu. Lúc đùa bỡn bảo Kiểu rằng: "Làm quận lại mà giao du với quan Nhị thiên thạch, được vua của nước láng giềng khuất thân theo làm bồi thần đi du ngoạn, chẳng cũng đúng sao?" Đễ sau làm Thái thú Nguỵ Quận, rồi làm Thượng thư lệnh, ngôi vị đều kém hơn so với Kiểu.
Thế Ngữ chép: Đễ tự Hiếu Uy. Năm hai mươi hai tuổi, làm Tòng sự ở Duyện châu, rồi làm Thái thú Thái Sơn. Khi trước, Thái tổ bình định Ký Châu, lấy Đễ và người ở Đông Bình là Vương Quốc làm tả hữu Trưởng sử, sau làm đến chức Trung lĩnh quân, đều hết sức trung trinh chuyên cần với công việc, là quan lại tiêu biểu ở đời.
Chú thích:
(1) Tức là Trần Kỷ (chú của Trần Quần); Hoa Hâm; Triệu Dục (danh sĩ Từ Châu, có nói đến ở Đào Khiêm truyện); Khổng Dung; và Lưu Bị.
(2) Nước nhà bị nguy khốn, Thân Bao Tư cầu viện nước Tần, khóc bảy ngày liền ở trước sân, vua Tần phát binh cứu viện, Thân Bao Tư mới chịu trở về; còn về Hoằng Diễn, phần chú của Bùi Tùng Chi đã nói rõ.
(3) Tức là quan Trưởng sử của Chinh nam tướng quân Tào Nhân.
(4) Thời xưa đặc biệt chú trọng nông nghiệp, trâu cày là vật nuôi rất quan trọng với nghề nông.
Vô cớ giết trâu, dùng để cúng tế là tội rất nặng.
(5) Tức Biện thái hậu.

TRẦN QUẦN TRUYỆN
Trần Quần tự Trường Văn, người quận Dĩnh Xuyên huyện Hứa Xương. Tổ phụ là Thật, cha là Kỷ, chú là Kham, đều là những người nổi tiếng.
Thật tự Trọng Cung, Kỷ tự Nguyên Phương, Kham tự Quý Phương.
Nguỵ thư chép: Đương thời, Thật là vị quan có đức, Kỷ-Kham đều có danh vọng lớn ở đời. Thật làm trưởng huyện Thái Khâu, gặp tai hoạ bè đảng, đi ẩn cư ở Kinh Sơn, xa gần coi là bậc tông sư(1). Linh đế băng hà, Hà tiến làm phụ chính, tiến dụng kẻ sĩ trong thiên hạ, cho vời Thật, muốn lấy làm Tham quân, vì Thật già cả bệnh tật, quyết không khuất tiết theo lệnh, Kham làm Tư không duyện, chết sớm. Kỷ làm quan trải các chức Bình Nguyên tướng, Thị trung, Đại hồng lư, soạn được mấy chục thiên sách, người đời gọi Kỷ là Trần tử(2). Thật mất rồi, Tư không Tuân Sảng, Thái phó lệnh Hàn Dung đều để tang ba năm, bắt con cháu phải theo lễ. Ở bốn phương có mấy nghìn cỗ xe đến viếng, bọn Quách Thái ở Thái Nguyên chẳng ai không đến dự.
Phó tử chép: Thật mất, người khắp thiên hạ đến phúng điếu, lúc an táng Thật có ba nghìn người dự, lại có mấy trăm người mặc áo xô gai để tang.
Tiên hiền hành trạng chép: Đại tướng quân Hà Tiến phái thuộc hạ đến phúng viếng, đặt cho thuỵ hiệu là Văn Phạm tiên sinh. Vì thế, Thật, Kỷ đều nổi tiếng là bậc cao danh, mà Kham cũng được dự vào đó, người đời gọi họ làm Tam quân. Mỗi khi quan phủ hạ lệnh trưng triệu, tất cả ba người đều đến cùng lúc, lễ vật của công khanh, đại phu chất thành đống, bọn thừa, duyện lần lượt qua lại ba nhà(3). Trăm họ ở Dự châu đều vẽ hình Thật, Kỷ, Kham treo ở trong nhà.
Lúc Quần còn nhỏ, Thật thường cho rằng Quần là người kỳ dị, bảo với các vị phụ lão ở trong họ rằng: "Thằng nhỏ ấy tất làm rạng rỡ tổ tông nhà ta." Khổng Dung ở nước Lỗ kiêu ngạo là có tài cao, ở vào giữa độ tuổi của Kỷ và Quần, trước đấy cùng với Kỷ là bạn hữu, về sau kết giao cùng với Quần, lại được Kỷ bái phong, vì thế nổi danh. Khi Lưu Bị đến Dự châu, cho vời Quần đến làm Biệt giá. Lúc Đào Khiêm bị bệnh chết, Từ châu nghênh đón Bị, Bị muốn qua đó, Quần thuyết Bị rằng: "Viên Thuật còn đang mạnh, nay ta về Đông, tất phải giao chiến với họ. Lã Bố nếu như tập kích ở phía sau tướng quân, tướng quân dẫu có được Từ châu, đại nghiệp tất không thành được." Bị sau cứ đi, cùng Viên Thuật giao chiến. Bố quả nhiên tập kích Hạ Bi, phái binh đến giúp Thuật, đại phá quân của Bị, Bị hận đã không dùng lời của Quần. Quần được tiến cử Mậu tài, rồi đổi làm Chá lệnh(4), không chịu đi, theo Kỷ đến lánh nạn ở Từ châu. Vừa lúc Lã Bố bị phá, Thái tổ cho vời Quần tới làm Tư không Tây tào duyện chúc. Bấy giờ có người tiến cử Vương Mô ở Lạc An, Chu Quỳ ở Hạ Bi, Thái tổ cho vời họ đến. Quần yêu cầu chỉ cho họ làm giáo chức(5), cho rằng Mô, Quỳ đức xấu, Thái tổ không nghe. Về sau Mô, Quỳ phạm tội trộm cướp bị giết, Thái tổ bèn tạ lỗi với Quần. Quần tiến cử người ở Quảng Lăng là Trần Kiểu, người ở Đan Dương là Đái Kiền, Thái tổ đều dùng họ. Sau này người Ngô làm phản, Kiền vì trung nghĩa tử nạn, Kiểu về sau là danh thần, người đời cho là Quần biết xét người. Quần được đổi làm chức lệnh ở các huyện Tiêu, Tán, Trường Bình, lúc cha mất Quần bỏ chức quan. Về sau vì Tư không duyện đề cử cao đệ, Quần được làm Trì thư Thị ngự sử, rồi chuyển sang làm tham mưu việc quân cho Thừa tướng. Nguỵ quốc kiến lập, Quần được thăng làm Ngự sử Trung thừa.
Thời ấy Thái tổ thương nghị việc khôi phục lại nhục hình, từng xuống lệnh rằng: "Làm sao có được người tài thấu hiểu chuyện cổ kim mà thông tỏ được cái đạo lý quyền biến của bậc quân tử, để có thể giúp ta quyết định việc này đây! Trước đây Trần Hồng Lư(6) cho rằng tử hình là cái cách ban ơn nhân đạo nhất, chính là nói về việc ấy vậy. Ngự sử Trung thừa có thể bầy tỏ rõ cái nghị luận của phụ thân khanh được chăng?" Quần thưa rằng: "Cha thần là Kỷ cho rằng nhà Hán loại bỏ nhục hình mà tăng hình phạt đánh roi, vốn xuất phát từ sự trắc ẩn nhân tâm nhưng số người chết lại nhiều thêm, việc đó nếu về danh nghĩa thì là nhẹ mà thực chất lại là nặng vậy. Danh nghĩa nhẹ thì dễ phạm tội, thực chất nặng thì hại đến dân. Thư Kinh viết: 'Chỉ có kính sợ ngũ hình, mới thành tam đức(7).' Dịch đặt ra các phép, xẻo mũi, chặt cẳng, cắt ngón chân, là dùng để phụ giúp việc chính trị, giáo dục người dân, trừng trị kẻ xấu khiến người phạm tội giảm đi. Vả lại giết người đền mạng, là hợp với phép xưa; đến như kẻ làm hại người ta, hoặc tàn huỷ thân thể họ mà chỉ cắt râu tóc của kẻ ấy, là trái với đạo lý ấy vậy. Nếu dùng lại hình phạt thời xưa, khiến cho kẻ phạm tội dâm phải vào tàm thất(8), kẻ phạm tội trộm cắp phải bị chặt chân, như thế thì vĩnh viễn không có kẻ dâm ô phóng đãng, đào tường khoét ngạch làm chuyện gian tà vậy. Trong ba nghìn thứ tội, dẫu chưa thể trừ bỏ hết, nếu người ta nghĩ đến mấy hình phạt ấy, thì đó chính là mối lo lắng của họ vậy, ta nên sớm cho thi hành. Theo pháp luật của nhà Hán thì giết người chưa hẳn là tội chết, lòng nhân thế là chưa đúng mức, nên ngoài cái tội chết, ta có thể dùng hình. Như thế, thì dùng hình là giúp cho người ta được sống, đủ để thay cho cái chết vậy. Nay dùng phép đánh roi để chết thay cho hình phạt không chết người, ấy là trọng thân thể mà coi thường tính mệnh của người ta vậy." Bấy giờ Chung Do cùng với Trần Quần bàn định cùng ý kiến, Vương Lãng cùng với những người khác cho rằng việc ấy chưa thể thi hành. Thái tổ rất khen lời của Do và Quần, song lấy cớ việc quân chưa dứt được, để bàn định thêm, cho nên việc đó tạm dừng.
Quần được chuyển sang làm Thị trung, lĩnh chức Thừa tướng Đông Tây tào duyện(9). Ở chốn triều đường, cứ việc hợp đạo lý thì làm(10), rất quý trọng danh nghĩa, chẳng làm việc trái đạo với người. Thời Văn đế còn ở ngôi Đông cung, rất kính trọng tài năng của Quần, lấy lễ bạn hữu mà tiếp đãi, thường khen rằng: "Từ khi ta có Hồi, các học trò ngày càng thân thiết với ta(11)."
Tào Phi tức vương vị(12), phong Quần làm Xương Vũ đình hầu, rồi chuyển sang làm Thượng thư. Việc định ra cửu phẩm pháp điển cho người làm quan, đó là ý kiến của Quần vậy. Lúc Tào Phi lên ngôi, Quần được thăng làm Thượng thư Bộc xạ, gia thêm chức Thị trung, rồi đổi làm Thượng thư lệnh, tiến tước Dĩnh hương hầu. Đế đi đánh Tôn Quyền, đến Quảng Lăng, sai Quần lĩnh chức Trung lĩnh quân. Đế quay về, ban cho Quần Giả tiết, đô đốc thuỷ quân. Lúc về Hứa Xương, lấy Quần làm Trấn quân Đại tướng quân, lĩnh Trung hộ quân, Lục thượng thư sự. Đế ốm nặng, Quần cùng với bọn Tào Chân, Tư mã Tuyên vương đều nhận dị chiếu làm phụ chính. Minh đế lên tức vị, tiến phong Quần làm Dĩnh Âm hầu, tăng thực ấp lên năm trăm hộ, cộng cả lúc trước là một nghìn ba trăm hộ, cùng với Chinh đông Đại tướng quân Tào Hưu, Trung quân Đại tướng quân Tào Chân, Phủ quân Đại tướng quân Tư mã Tuyên vương đều được mở phủ riêng. Ít lâu sau, được làm Tư không, giữ chức Lục thượng thư sự như trước.
Thời ấy, Đế mới bắt đầu gánh vác chính sự, Quần dâng sớ rằng: "Kinh Thi chép 'Lấy gương của Văn vương làm khuôn mẫu, muôn dân thấy mà tin theo(13)'; Lại nói 'Hãy làm gương cho vợ của mình, rồi đến anh em, cho đến khắp cả nước nhà(14).' Đạo lý từ đó mới gần gũi, mà người trong thiên hạ được cảm hoá dần. Từ khi tang loạn đến nay, gươm đao giáo mác chưa ngừng nghỉ, trăm họ không biết đến cội rễ của vương giáo, sợ hãi loạn lạc thái quá. Bệ hạ nhận lấy ngôi cao nhà Nguỵ, gánh vác cơ nghiệp của nhị tổ(15), thiên hạ hi vọng thời trị đã đến, chỉ nên dùng đức để cảm hoá người ta, ban ơn thương xót đến lê dân, thì trăm vạn dân may lắm. Nếu thần cạn ý như mọi người, để thị phi lẫn lộn, ấy là đại hoạ cho quốc gia vậy. Mà để quần thần chẳng hoà mục thì sẽ sinh ra đảng thù, có đảng thù thì vô cớ huỷ hoại sự yên vui, sự yên vui bị huỷ hoạn thì chân thật giả dối mất đi thật, chẳng thể không phòng bị kỹ lưỡng, lấy đó để dứt tuyệt mầm mống việc ấy."
Năm Thái Hoà trung, Tào Chân dâng biểu muốn theo mấy đường phạt Thục, từ Tà Cốc tiến vào. Quần cho rằng "Ngày trước Thái tổ đến Dương Bình tấn công Trương Lỗ, thu được nhiều lúa, đậu để bổ sung quân lương, Lỗ chưa hạ được mà lương thực đã thiếu thốn. Nay đã không xét nguyên do ấy, vả lại Tà Cốc hiểm trở, khó bề tiến lui, việc vận chuyển tất sẽ bị giặc cướp đánh chặn, nếu để nhiều binh để giữ nơi trọng yếu, tất sẽ hao tổn quân sĩ, chẳng thể không suy tính kỹ được." Đế theo lời bàn của Quần. Chân lại dâng biểu xin từ Tý Ngọ tiến quân. Quần lại bầy tỏ rằng hướng ấy ra quân rất bất tiện, cho rằng việc quân cần phải dụng kế. Đế hạ chiếu để Quần nghị bàn cùng với Chân, Chân được toại nguyện xuất quân. Bấy giờ là lúc mưa dầm liên miên, Quần lại cho rằng nên hạ chiếu gọi Chân về, Đế nghe theo.
Chú thích:
(1) Giai đoạn lịch sử này có nguyên nhân là vì hoạn quan lộng hành, giới trí thức đa phần ủng hộ ngoại thích diệt trừ hoạn quan, việc bại lộ nên rất nhiều trí thức thanh lưu bị bắt, giết, bị cấm đoán, lịch sử gọi sự kiện này là tai hoạ bè đảng. Trần Thật là trí thức, tránh hoạ bè đảng nên phải lánh đi ở ẩn, vì tài năng khác thường, được người ta gọi là 'tông sư', bậc thầy.
(2) Người đời khen ngợi Kỷ, coi Kỷ như những người soạn các trước tác, đưa ra luận thuyết, nổi tiếng ở đời như Trang tử, Lão tử, Phó tử... Tức là đánh giá Trần Kỷ rất cao vậy.
(3) Nguyên văn đoạn này là 'mỗi tể phủ tịch mệnh, suất giai đồng thì, cao nhạn thành quần, thừa duyện giao chí'. Hai chữ 'tịch mệnh' theo zdic giảng là 'trưng triệu, nhận mệnh'; hai chữ 'suất giai' thì được giảng là 'tất cả đều', hai chữ 'cao nhạn' được giảng là 'lễ vật của quan khanh, đại phu'. Theo sách Chu lễ, Xuân Quan - Đại Tông Bá thì quan khanh dùng lễ vật là con dê con, đại phu dùng lễ vật là chim nhạn. Xin dịch thoát ý cả câu như trên.
(4) Chức lệnh ở huyện Chá.
(5) Chức quan nhỏ, chỉ lo việc dạy học.
(6) Trần Hồng Lư tức là Trần Kỷ, cha Trần Quần, từng làm chức Đại Hồng Lư nên được gọi một cách kính trọng là Trần Hồng Lư.
(7) Ngũ hình là năm thứ hình phạt nặng thời cổ, mỗi loại lại chia ra nhiều cấp bậc khác nhau; tam đức là ba đức tính tốt của người ta.
(8) Tàm thất là cái nhà ngục để thiến người, kẻ bị thiến phải ở buồng kín như buồng tằm nên gọi là tàm thất.
(9) Cai quản việc ở cả Đông tào duyện và Tây tào duyện của phủ Thừa tướng.
(10) Câu này xuất xứ từ sách Luận Ngữ, nguyên cả câu trong Luận Ngữ là: 'Tử viết: Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô thích dã, vô mạc dã, nghĩa chi dữ tị.' Có nghĩa là 'Bậc quân tử với việc đời, không có gì là không có ý làm, không có gì là không có ý bỏ, cứ hợp nghĩa là làm.'
(11) Nguyên văn: 'Tự ngô hữu Hồi, môn nhân nhật dĩ thân', đây vốn là câu nói của Khổng tử khen trò giỏi của mình là Nhan Hồi. Tào Phi nói câu ấy cũng là có ngụ ý rằng 'từ khi mình có Trần Quần, thì người thân thiết với mình ngày càng nhiều'.
(12) Lên nối ngôi vương của Tào Tháo.
(13) Đây là một câu trong Kinh Thi. Nguyên văn trong sách là 'Thượng thiên chi tải, vô thanh vô xú, nghi hình Văn Vương, vạn bang tác phu', có nghĩa là 'Trời ở trên cao, không mùi không vị, tấm gương của Văn Vương là khuôn mẫu, muôn dân thấy mà tin.". Chữ 'hình' ở đây được giải nghĩa như là 'nêu gương, tấm gương'.
(14) Đây cũng là một câu lấy từ kinh Thi. Nguyên văn là: 'Văn Vương hình ư quả thê, chí ư huynh đệ,
dĩ ngự ư gia bang'. Chữ 'quả thê' là chữ mà Văn Vương gọi vợ mình, sau này các vua chúa hay xưng là quả nhân, có lẽ lấy ý từ đây. Câu này hiểu là 'Văn Vương làm gương cho vợ của mình, rồi đến anh em, cho đến khắp cả nước nhà'.
(15) Tào Phi, Tào Tháo.

NGỤY THƯ QUYỂN 24 - Hàn Thôi Cao Tôn Vương truyện
Hàn Kỵ, Thôi Lâm, Cao Nhu, Tôn Lễ, Vương Quán

TÔN LỄ TRUYỆN
Tôn Lễ tự Đức Đạt, người Trác quận huyện Dung Thành. Thái tổ bình định U châu, cho triệu Lễ làm Tư không quân mưu duyện. Lúc mới xảy tang loạn, Lễ cùng với mẹ lạc nhau, người đồng quận là Mã Đài tìm được mẹ của Lễ, Lễ đem cả gia tài chu cấp cho Đài. Về sau Đài phạm tội bị xử tử hình, Lễ ngầm chỉ dẫn cho Đài vượt ngục rồi ra đầu thú, xong việc, Đài nói: "Thần theo đạo nghĩa không thể bỏ trốn." Rồi đến ngay chỗ quan Thứ gian Chủ bộ là Ôn Khôi nhận tội. Khôi khen ngợi, bạch rõ với Thái tổ, Thái tổ hạ lệnh giảm tội cho cả hai người xuống một bậc.
Sau Lễ được đổi sang chức Quận thừa ở Hà Gian, rồi thăng làm Đô uý Huỳnh Dương. Bọn đạo tặc ở Sơn Trung có mấy trăm tên, giữ vững nơi đất hiểm, làm hại dân chúng; triều đình bèn cho Lễ làm Lỗ tướng(1). Lễ đến nhậm chức, mở kho lương, phát chẩn cho dân, tuyển mộ quân binh, chiêu nạp kẻ ra hàng, khiến bọn đạo tặc bị chia rẽ, vùng ấy lập tức yên bình. Lễ lần lượt làm Thái thú các quận Sơn Dương, Bình Nguyên, Bình Xương, Lang Nha. Rồi theo Đại tư mã Tào Hưu đi đánh Ngô ở Giáp Thạch, Lễ đưa lời can gián cho rằng không nên vào sâu trong đất địch, Hưu không nghe nên bại trận. Lễ được thăng làm Thái thú Dương Bình, sau về triều làm Thượng thư.
Minh đế đang sửa sang cung thất, nhưng thời tiết không thuận, thiên hạ thiếu lương thực. Lễ cố can ngăn, việc sai dịch được bãi bỏ, có chiếu rằng: "Cung kính thu nhận lời nói thẳng, sẽ khiến cho dân chúng làm theo." Bấy giờ Lý Huệ làm Giám tác, lại tấu xin đợi một tháng, việc xây dựng sẽ xong hẳn. Lễ đi đến công trường, không dâng chiếu lại lần nữa, phao lên rằng có chiếu giải tán dân, Đế lạ về ý ấy nhưng không trách tội.
Đế đi săn ở núi Đại Thạch, có con hổ vụt đến bên xe, Lễ liền quăng roi nhảy xuống ngựa, định vung kiếm phạt con hổ, Đế chiếu lệnh cho Lễ lên ngựa. Lúc Minh đế sắp băng hà, lấy Tào Sảng làm Đại tướng quân, nên Sảng được tin tưởng, ở bên giường nhận di chiếu, bái Lễ làm Trưởng sử cho Đại tướng quân, thêm chức Tán kỵ thường thị. Lễ thành thật chính trực, Sảng chẳng thấy tiện, mới dùng Sảng làm Thứ sử Dương châu, thêm chức Phục ba tướng quân, ban cho tước Quan nội hầu. Đại tướng quân nước Ngô là Toàn Tông thống suất mấy vạn binh lính đến xâm lấn cướp bóc, bấy giờ binh lính ở trong châu đang kỳ nghỉ, ở đó không có bao nhiêu. Lễ thân dẫn vệ binh đến ngăn chúng, giao chiến ở Thược Pha, từ sáng đến chiều tối, tướng sĩ tử thương quá nửa. Lễ xông pha giẫm đạp đao gươm, ngựa bị mấy vết thương, tay vẫn cầm dùi trống, hăng hái chẳng đoái hoài đến thân mình, bọn giặc phải lui. Có chiếu thư uý lạo, ban cho bảy trăm xấp lụa. Lễ vì những quân sĩ bị chết bày cỗ tế tự khóc lóc, thương gào xé ruột, lấy hết số lụa giao cho gia quyến người chết, không lấy chút gì cho mình.
Lễ được vời về triều bái làm Thiếu phủ, sau ra ngoài làm Thứ sử Kinh châu, rồi thăng làm Ký châu mục. Thái phó Tư Mã Tuyên Vương bảo Lễ rằng: "Nay có việc tranh chấp địa giới giữa Thanh Hà và Bình Nguyên đã tám năm, trải qua hai đời Thứ sử, không thể giải quyết được tranh chấp; việc của Ngu, Nhuế đợi đến Văn Vương mới xong(2), ngươi nên khéo léo giải quyết sao cho phân minh rõ ràng." Lễ nói: "Việc kiện tụng đất đai thì có chứng cứ là khu mộ địa để chứng nghiệm, xét xử thì lấy chính kiến của các vị bô lão già cả, mà người già thì chẳng thể dùng roi đánh đập, lại nữa là khu mộ địa hoặc là đã di chuyển tới nơi cao ráo phẳng phiu, hoặc là bị dời đi vì cừu thù. Như những điều nghe được hiện nay, dù là Cao Đào(3) cũng còn khó giải quyết. Nếu muốn làm cho không có kiện tụng, nên dùng địa đồ trước đây của Liệt tổ(4) thời phong đất ở Bình Nguyên mà quyết định. Hà tất phải suy tìm điển cố thời xưa, để thêm chương từ kiện tụng? Trước kia Thành Vương lấy lá ngô đồng đùa bỡn Thúc Ngu(5), Chu công liền phong đất cho Thúc Ngu. Nay địa đồ tàng trữ ở thiên phủ, căn bản có thể ngồi một chỗ mà quyết đoán, há phải đợi chờ người đến tận châu quận ấy phân xử sao?" Tuyên vương nói: "Phải đấy. Nên phân chia theo địa đồ." Lễ đến nơi, án theo địa đồ chia các vùng thuộc huyện Bình Nguyên. Nhưng Tào Sảng tin lời của người ở Thanh Hà, hạ chiếu thư rằng: "Địa đồ chẳng nên dùng, nên tham chiếu những điểm khác biệt." Lễ dâng sớ rằng: "Quản Trọng giúp đỡ kẻ làm bá, khí độ của ông ấy lại nhỏ, mà còn có thể tước đoạt Biền Ấp của họ Bá, mà khiến cho không ai có lời oán thán. Thần nhận trách nhiệm làm Mục bá(6), vâng lệnh thánh triều minh xét địa đồ, chứng nghiệm làm rõ bờ cõi địa giới, địa giới huyệt Thật lấy sông Vương Ông làm mốc; còn huyện Phụ lấy Mã Đan Hậu để thẩm hạch, huyện Trá lấy sông Minh Độc làm mốc. Ví như không có kiện tụng, ngờ là phủ quan lầm lẫn. Thần trộm nghe được rằng lời của số đông thì nấu chảy được vàng, khiến đá nổi gỗ chìm, ba người nói dối thì lời như hổ dữ, từ mẫu quăng thoi(7). Nay hai quận tranh bờ cõi đã tám năm, một sớm quyết xong, duyên do từ việc phân tích rõ bức địa đồ, mới có thể tìm xét mà đính chính được. Quận Bình Nguyên ở giữa hai con sông, theo hướng đông đi lên, ở giữa có đê Tước, đê Tước ở phía tây nam huyện Cao Đường, vùng đất tranh chấp ở phía tây bắc Cao Đường, cách xa hơn hai mươi dặm, như thế có thể khiến người ta thở dài sa nước mắt. Phân tích rõ địa đồ mà tấu lên thì huyện Phụ không vâng chiếu lệnh, thế là thần hèn nhát vô dụng chẳng làm nổi chức trách của mình, thần còn mặt mũi nào hưởng tước lộc hư hão đây." Xong lập tức mặc áo đi giầy, gióng xe đợi triều đình bãi chức. Sảng thấy bản tấu của Lễ, cả giận. Bèn hặc tội Lễ có ý oán vọng, kết tội phạt năm năm. Ở nhà hết hạn phạt, chúng nhân đa phần vì Lễ đưa lời xin, triều đình phong cho Lễ làm Thành môn hiệu uý.
Bấy giờ vua Hung Nô là Lưu Tĩnh có binh lính thuộc hạ cường thịnh, còn người Tiên Ti mấy lần vào cướp ở biên giới, triều đình bèn dùng Lễ làm Thứ sử Tinh Châu, gia thêm chức Chấn vũ tướng quân, cho cầm cờ tiết, hộ Hung Nô trung lang tướng. Lễ qua gặp Thái phó Tư Mã Tuyên Vương, sắc mặt có ý giận dữ mà không nói. Tuyên Vương hỏi: "Ngươi được Tinh Châu, còn chê bai gì? Hay tức giận về việc phân chia địa giới mà mất danh phận chăng? Nay sắp chia biệt đi xa, sao chẳng vui mừng?" Lễ nói: "Minh công sao nói ra cái điều vụn vặt quái gở vậy! Lễ dẫu bất đức, há vì chức vị hay việc đã qua mà có ý giận sao? Ta vốn cho là Minh công noi được vết chân Y, Lã(8), khuông phò Nguỵ thất, trên báo sự phó thác của Minh đế, dưới gây dựng công huân cho vạn đời. Nay xã tắc sắp nguy nan, thiên hạ binh biến, Lế này vì thế mà không vui vậy." Liền đó chảy nước mắt ròng ròng. Tuyên Vương nói: "Ngài hãy thôi khóc, nên tạm nhẫn nhịn cái không thể nhẫn vậy." Sảng về sau bị giết, Lễ về triều làm Tư lệ hiệu uý, trước sau coi xét việc ở bảy quận trong năm châu, đều có uy tín. Lễ được thăng làm Tư không, phong tước Đại Lợi đình hầu, thực ấp trăm hộ. Lễ thời ấy cùng người đồng quận là Lô Dục cùng một bọn, nhưng tình cảm hay có bất hoà. Hai người dù đắp đổi vắn dài, nhưng danh vị từa tựa như nhau. Năm Gia Bình nguyên niên Lễ chết, được ban thuỵ là Cảnh hầu. Cháu là Nguyên nối tự.
Chú thích:
(1) Tướng quốc nước Lỗ.
(2) Nước Ngu và nước Nhuế là chư hầu ở phía Tây nhà Thương thời vua Trụ, vì biên giới ở Điền Dã sinh ra tranh chấp, họ tới xin Văn Vương phân định.Văn Vương mời họ tới nước Chu, thấy dân chúng và trăm quan sống theo lễ nghĩa, trên kính dưới hoà, nhường nhịn giúp đỡ nhau, hai vua Ngu, Nhuế đều xấu hổ, nói với nhau rằng: "Tiểu nhân như chúng ta, sao dám lên điện diện kiến bậc quân tử để nhờ phân xử?". Hai người không gặp Văn Vương nữa, đã đều chủ động nhường vùng đất vốn đang tranh giành nhau ấy cho nhau, thế là vùng đất đó bị để không, người đời sau
gọi đó là "Nhàn điền" hay là "Nhàn nguyên". Chư hầu xung quanh nghe chuyện ấy, kéo nhau tới xin quy thuận nhà Chu, thế là thiên hạ ba phần, nhà Chu có hai phần."
(3) Là đại thần của vua Nghiêu, một trong năm bầy tôi giỏi nhất.
(4) Tức là Tào Tháo.
(5) Chu Thành Vương thời nhỏ cùng em trai là Thúc Ngu chơi ở vườn sau hoàng cung, Thành Vương cắt chiếc lá ngô đồng thành hình viên ngọc, đưa cho em, nói: "Anh dùng cái này phong cho em là chư hầu." Chu Công biết chuyện, xin Thành Vương chọn ngày tốt phong Thúc Ngu làm chư hầu. Thành Vương cười nói: "Chỉ là đùa thôi." Chu Công nói: "Thiên Tử không thể nói đùa, vì đã nói gì, sử quan ghi lại lời ấy, đại thần truyền bá điều ấy." Thành Vương bèn phong đất Đường cho Thúc Ngu. Đó là câu chuyện "Tiễn đồng phong đệ" nổi tiếng trong cổ sử Trung Hoa.
(6) Tôn Lễ là Ký châu mục, toàn quyền cai quản cả văn và võ ở Ký châu, nên nhận mình là làm chức Mục bá.
(7) Chỗ này Tôn Lễ có ý nói rằng lời nói của nhiều người thì có sức mạnh của tin đồn, thị phi điên đảo, có thể làm người ta tin rằng đá nổi được mà gỗ thì chìm, ba người nói dối thì có sức mạnh như hổ dữ, đến bà mẹ của người hiền như Tăng Sâm cũng tin là con trai bà giết người.
(8) Y Doãn, đại thần nhà Thương; Lã Vọng, đại thần nhà Chu.

NGỤY THƯ QUYỂN 25 - Tân Bì Dương Phụ Cao Đường Long truyện
Tân Bì, Dương Phụ, Cao Đường Long

DƯƠNG PHỤ TRUYỆN
Dương Phụ tự Nghĩa Sơn. Người huyện Kí quận Thiên Thủy. Ngụy lược viết: "Phụ thuở nhỏ với người cùng quận là Y Phụng tự Thứ Hội, Triệu Ngang tự Vĩ Chương đều nổi tiếng, Vĩ Chương, Thứ Hội và Phụ đều làm Lương Châu Tòng sự". Làm Lương Châu Tòng sự được Châu mục là Vi Đoan sai đến đất Hứa, bái làm An Định Trưởng sử. Phụ về, các tướng vùng Quan Hữu hỏi Viên, Tào xem ai thắng thua, Phụ nói: "Viên Công khoan hòa mà không quyết đoán, có mưu mà không nhanh nhẹn; không quyết đoán thì không có uy, không nhanh nhẹn thì làm lỡ việc sau này, nay dẫu mạnh nhưng rút cuộc không làm nên được việc lớn. Tào Công có hùng tài mưu xa, nhanh nhẹn không do dự, hình pháp chắc chắn mà quân mạnh, dùng được người ở ngoài, người mà được dùng thì dốc hết sức, là người làm nên việc lớn được". Trưởng sử là chức mà Phụ không thích, bèn bỏ quan. Rồi Đoan gọi làm Thái bộc, con Phụ là Khang thay làm Thứ sử, bái Phụ làm Biệt giá. Xét làm Hiếu liêm, gọi đến phủ Thừa tướng, châu cử làm Tham quân sự.
Mã Siêu thua trận ở bờ nam sông Vị, chạy đến giữ các đất của người Khương. Thái Tổ đuổi đến huyện An Định, lại có Tô Bá phản ở Hà Gian, sắp dẫn quân về miền đông. Phụ bấy giờ nhận đi sứ, bảo với Thái Tổ nói: "Siêu có cái dũng của Hàn Tín, Anh Bố, rất được lòng người Khương, người Hồ, miền tây đều kính sợ hắn. Nếu đại quân về, không nhanh phòng bị thì các quận miền Lũng Thượng nhà nước không lấy được nữa". Thái Tổ cho là phải, nhưng quân về vội vã, phòng bị không chắc chắn. Siêu đem cừ súy của người Khương đến đánh các quận huyện miền Lũng Thượng, các quận huyện miền Lũng Thượng đều hướng theo Siêu, chỉ có thành huyện Kí là vâng lệnh của châu quận là giữ vững. Siêu thu hết quân của miền Lũng Hữu, mà Trương Lỗ lại sai Đại tướng Dương Ngang đến giúp Siêu, đem hơn vạn quân đến đánh thành. Phụ lĩnh hơn nghìn quân là kẻ sĩ đại phu và em em họ hàng, sai em họ là Nhạc ở trên thành làm trại yển nguyệt, (1) đón đánh với Siêu, từ tháng giêng đến tháng tám chống giữ mà quân cứu không đến. Châu sai Biệt giá Diễm Ôn men theo sông ngầm ra xin cứu, bị Siêu giết, do đó Thứ sử, Thái thú biến sắc mặt, bắt đầu có ý hàng Siêu. Phụ khóc lóc can nói: "Bọn Phụ đem anh em họ hàng vì nghĩa mà đến giúp nhau, có chết cũng không hai lòng; cái tiết tháo của Điền Đan cũng không chắc hơn thế. Bỏ cái công sắp thành, vùi cái tiếng là không có nghĩa, Pạu dẫu chết cũng xin giữ". Lại kêu khóc. Thứ sử, Thái thú rút cuộc sai người xin hòa, mở cửa thành đón Siêu. Siêu vào, bắt Nhạc ở huyện Kí, sai Dương Ngang giết Thứ sử, Thái thú.
Phụ trong lòng có chí trả thù Siêu, nhưng không gặp lúc tiện. Chốc lát, Phụ mượn cớ có tang vợ xin đi táng, anh họ ngoại vợ của Phụ là Tự đóng đồn ở thành huyện Lịch. Phụ lúc nhỏ lớn lên ở nhà Tự, lúc gặp mẹ Tự và Tự, kể việc trong huyện Kí lúc trước, than thở rất là đau xót. Tự nói: "Làm gì bây giờ"? Phụ nói: "Giữ thành không được, chủ mất mà không chết được, há còn mặt mũi nào mà ngước nhìn ở thiên hạ nữa! Mã Siêu trái cha phản vua, giết bừa tướng của châu, há chỉ là nỗi lo của Phụ, mà còn là nỗi nhục của kẻ sĩ đại phu của một châu. Chủ giữ quân nắm lệnh mà không có lòng đánh giặc, đấy là nguyên nhân sử sách có chép việc Triệu Thuẫn giết vua vậy. Siêu mạnh nhưng không có nghĩa, nhiều lỗi, dễ đánh hắn thôi". Mẹ Tự cho phải, lệnh Tự theo Phụ tính kế. Tính kế xong, ngoài cùng người làng là Khương Ẩn, Triệu Ngang, Y Phụng, Diêu Quỳnh, Khổng Tín, người quận Vũ Đô là Lí Tuấn, Vương Linh kết mưu, giao hẹn đánh Siêu, sai em họ là Mô đến huyện Kí bảo với Nhạc, cùng liên kết với người huyện An Định là Lương Khoan, người huyện Nam An là bọn Triệu Cù, Bàng Cung. Hẹn thề đã rõ, tháng chín năm thứ mười bảy, cùng Tự dấy binh ở thành huyện Tín. Siêu nghe tin bọn Phụ dấy binh, tự đi ra. Rồi bọn Cù, Khoan cởi trói cho Nhạc, đóng cửa thành huyện Kí, đánh vợ con của Siêu. Siêu đánh úp thành huyện Lịch, bắt được mẹ Tự. Mẹ Tự mắng Siêu nói: "Người là con nghịch phản cha, giặc ác giết chủ, trời đất há chứa ngươi được lâu, sao không chết sớm đi, còn có mặt mùi nào nhìn người ta nữa"! Siêu giận, giết mẹ Tự. Phụ đánh với Siêu, thân bị năm vết thương, anh em họ hàng chết đến bảy người. Siêu bèn chạy về phía nam đến chỗ Trương Lỗ.(2).
Lũng Hữu Bình xong, Thái Tổ phong tước hầu cho mười một người có công đánh Siêu. Ban Phụ tước Quan Nội Hầu. Phụ nhường nói: "Phụ lúc chủ còn mà không có công cứu nạn, lúc chủ mất mà không có tiết tháo chết theo, về nghĩa là đáng trách, về pháp là đáng phạt; Siêu lại không chết, không đáng nhận lấy tước lộc". Thái Tổ báo nói: "Ông và bọn người hiền cùng lập nên công lớn, người miền tây bàn khen là hay, Tử Cống chối thưởng thì Trọng Ni cho là ngăn việc tốt Ông nên mở lòng nhận lấy mệnh lệnh của nhà nước. Còn mẹ của Khương Tự khuyên tự dấy binh sớm, trí sáng như thế, dẫu là vợ của Dương Xưởng cũng không hơn được. Hiền thay! Hiền thay! Sử sách ghi chép, tất không rơi xuống đất".
(3) Liệt nữ truyện của Hoàng Phủ Mật viết: "Mẹ của Khương Tự là mẹ của Khương Bá Biến. (4)
Giữa năm Kiến An, Mã Siêu đánh huyện Kí, giết Lương Châu Thứ sử Vi Khang, người trong châu thương xót, chẳng ai không căm giận. Tự làm Phủ Di Tướng quân, đem quân đóng đồn ở huyện Lịch. Con cô của Tự là Dương Phụ trước làm Tòng sự của Khang, cùng hơn mười người khác đều lệ thuộc vào Siêu, ngầm mưu với nhau để trả thù cho Khang, chưa có cơ hội. Gặp lúc vợ Phụ chết, xin Siêu về phía tây thăm hỏi, nhân đó qua huyện Lịch, thăm mẹ Tự, kể việc Khang bị hại và cái nạn trong huyện Kí, đối mặt mà khóc hồi lâu. Cả nhà Khương Tự xót xa, mẹ Tự nói: 'Ôi! Bá Biến, Vi sứ quân gặp nạn, há chỉ là cái nhục của một châu, mà cũng là trách nhiệm của ngươi, há chỉ có Nghĩa Sơn thôi sao? Ngươi không báo cho ta, việc để lâu tất sinh biến. Người ta ai không chết? Chết vì nước là cái chết lớn của người trung nghĩa vậy. Nay việc đã gấp, ta tự vì ngươi mà gánh vác lấy, không vì tấm thân đàn bà tuổi già này'. Do đó lệnh Tự cùng Phụ bàn mưu, ưng theo, chia sai người đi báo cho người làng xóm là Y Phụng, Triệu Ngang cùng người huyện An Định là bọn Lương Khoan được biết, sai Tự đem quân phản Siêu trước, Siêu giận, liền tự đến đánh Tự, bọn Khoan nhân đó theo sau đóng cửa thành. Ước đã xong, Tự bèn đem quân vào huyện Tín, bọn Ngang, Phụng giữ huyện Kì Sơn. Siêu nghe tin, bèn tự ra đánh Tự, bọn Khoan theo sau đóng cửa thành huyện Kí, Siêu không chiếm được, liền qua huyện Tín, Tự giữ huyện Tín. Siêu do đó đi đến huyện Lịch, người trong huyện Lịch thấy Siêu đến, cho là quân Tự về. Lại truyền nhau là Siêu đã bỏ chạy đến quận Hán Trung, cho nên huyện Lịch không phòng bị. Lúc Siêu vào huyện Lịch, bắt mẹ Tự, mẹ Tự giận mắng Siêu. Siêu bị mắng thì cả giận, liền giết mẹ Tự và con Tự, đốt thành rồi đi. Bọn Phụ kể tình trạng, Thái Tổ rất khen họ, tự ra lệnh khen ngợi. Lời như truyện gốc". Thần Tùng Chi xét: Mật nói Phụ là con cô của Tự, mà truyện gốc nói Tự là anh họ ngoại của Phụ, so với trong ngoài tên ngày nay là không giống. Mật nói nói về vợ của Triệu Ngang rằng: "Vợ của Triệu Ngang tên là Dị, tức vợ của Ích Châu Thứ sử Triệu Vĩ Chương (5) người quận Thiên Thủy, là con gái họ Vương. Ngang làm Khương Đạo Lệnh. Để Dị ở tại miền tây. Gặp lúc người cùng quận là Lương Song phản, đánh phá huyện Tây Thành, giết hai con trai của Dị. Con gái Dị là Anh, mới sáu tuổi, ở một mình với Dị ở trong thành. Dị thấy hai con trai đã chết, lại sợ bị Song đến giết, dẫn đao muốn tự sát, ngoảnh nhìn Anh mà than nói: 'Thân ta chết ở đây, ngươi nương dựa vào ai! Ta nghe nói Tây Thi mặc áo không sạch thì người ta bịt mũi, huống chi dáng vẻ ta không bằng Tây Thi'? Bèn lấy phân trong nhà xí bôi lên vải gai mà mặc, ăn ít để cho người gầy đi, từ mùa xuân đến mùa đông đều như thế. Song hòa với châu quận, Dị do đó mà thoát được nạn. Ngang sai quan đến đón Dị, chưa đến ba mươi dặm, dừng lại bảo Anh nói: 'Đàn bà không có phù tín và bảo phó (6) thì không ra phòng trong. Chiêu Khương chìm sông, (7) Bá Cơ cháy lửa, (8) hễ đọc truyện về họ lòng ta cho đó là tráng. Nay ta gặp loạn mà không chết đi, còn muốn được gặp lại các cô sao? Ta tạm sống không chết là vì thương ngươi thôi. Nay phủ quan đã gần, ta phải bỏ ngươi mà chết đây'. Bèn nuốt thuốc độc mà chết. Bấy giờ vừa có thang thuốc tốt giải thuốc độc, vén miệng cho thuốc vào, hồi lâu lại tỉnh. Giữa
năm Kiến An, Ngang chuyển làm Tham quân sự, dời đến ở huyện Kí. Gặp lúc Mã Siêu đánh huyện Kí, Dị tự thân mang bao tên, giúp Ngang phòng giữ, lại đem hết vòng ngọc, áo thêu mà mình đeo mặc để thưởng cho quân sĩ. Lúc Siêu đánh gấp, trong thành đói khổ, Thứ sử Vi Khang vốn là người nhân hậu, thương quân dân bị tàn hại, muốn hòa với Siêu. Ngang can nhưng không nghe, về bảo với Dị, Dị nói: 'Chủ có bầy tôi tranh bàn, đại phu có cái nghĩa giữ lợi; giữ lợi là không sai. Biết sao được quân cứu không đến miền Quan Lũng? Nên cùng gắng sức để lập công to, giữ vẹn tiết tháo đến chết, không nên theo hòa". Vừa lúc Ngang quay lại thì Khang đã hòa với Siêu. Siêu bèn trái ước giết Khang, lại bắt Ngang, bắt con đầu của Ngang là Nguyệt làm tin ở huyện Nam Trịnh. Muốn đòi Ngang dốc sức giúp mình, nhưng lòng chưa tin lắm. Vợ Siêu là Dương nghe nói Dị có tiết hạnh, xin cùng vui chơi suốt ngày. Dị muốn Ngang được Siêu tin để giúp mưu của mình, bảo Dương nói: 'Xưa Quản Trọng vào nước Tề, lập nên công khắp chín cõi; Do Dư theo nước Tấn, do đó Mục Công làm Bá. Nay lúc xã tắc mới định, trị loạn cốt ở được lòng người, quân mã của Lương Châu có thể tranh mạnh với Trung Hạ, không nên không xét rõ'. Dương rất cảm kích, cho là có lòng trung hơn mình, bèn cùng Dị kết mưu với nhau. Ngang được Siêu tin, lập công lại tránh được họa, cũng vì có công của Dị vậy. Đến lúc Ngang cùng bọn Dương Phụ kết mưu đánh Siêu, báo cho Dị nói: 'Ta mưu như thế, việc tất trọn vẹn, còn Nguyệt thì sao'? Dị lớn tiếng đáp nói: 'Đem thân vì trung nghĩa, rửa nỗi nhục lớn cho chủ cha, vùi thân mình còn chẳng cho là trọng, huống chi là một đứa con? Như bọn Hạng Thác, Nhan Uyên, há sống trăm tuổi, nhưng nghĩa lớn vẫn còn'. Ngang nói: 'Được'. Bèn mở cửa thành đuổi Siêu, Siêu chạy đến quận Hán Trung, theo Trương Lỗ lại đem quân về. Dị lại cùng Ngang giữ huyện Kì Sơn, bị Siêu vây. Ba mươi ngày thì quân cứu đến mới giải vây. Siêu bèn giết con của Dị là Nguyệt. Từ lúc gặp nạn ở thành huyện Kí đến lúc đến ở huyện Kì Sơn, Ngang nhiều lần lập công lạ, Dị có tham gia.
Thái Tổ đánh quận Hán Trung, lấy Phụ làm Ích Châu Thứ sử. Về, bái làm Kim Thành Thái thú, chưa đi, chuyển làm Vũ Đô Thái thú. Quận gần đất Thục Hán, Phụ xin noi theo việc cũ của Cung Toại, (9) vỗ về quận ấy mà thôi. Lúc Lưu Bị sai bọn Trương Phi, Mã Siêu từ đường huyện Thư đến huyện Hạ Biện thì hơn vạn người thuộc bảy bộ lạc của bọn Lôi Định người Đê phản theo bọn Siêu. Thái Tổ sai Đô hộ Tào Hồng chống bọn Siêu, bọn Siêu rút về. Hồng bày rượu mở hội lớn, sai con gái hát mặc áo lụa mịn, đạp trống, người ngồi đều cười. Phụ lớn tiếng trách Hồng nói: "Trai gái phân biệt là lễ tiết của nhà nước, sao lại có gái cởi trần thân thể ở giữa chốn đông người! Dẫu Kiệt, Trụ làm loạn cũng không hơn thế". Bèn giơ áo đi ra. Hồng đứng dậy bỏ hát nhạc, xin Phụ vào ngồi, vẻ mặt nghiêm túc.
Đến lúc Lưu Bị lấy quận Hán Trung đến gần huyện Hạ Biện, Thái Tổ thấy quận Vũ Đô xa lẻ, muốn dời đi nhưng sợ quan dân vương vấn đất đai. Phụ có uy tín rõ ràng, trước sau dời hơn vạn hộ dân, người Đê đến ở quận Kinh Triệu, quận Phù Phong, quận Thiên Thủy, dời quận đến huyện Hòe Lí, trăm hoj cũng địu mà đi theo. Làm việc chỉ làm căn bản mà thôi, không nỡ ép kẻ dưới. Văn Đế hỏi bọn Thị trung Hoa Hâm rằng: "Vũ Đô Thái thú là người thế nào"? Đều khen Phụ có tiết tháo của quan giúp đỡ. Chưa kịp dùng thì Đế hoăng. Ở tại quận hơn mười năm, gọi về bái làm Thành môn Hiệu úy.
Phụ thường thấy Minh Đế đội mũ gấm, mặc áo lụa mỏng nửa tay áo, Phụ hỏi Đế nói: "Áo này là áo gì trong lễ nghi vậy"? Đế im ỉm không đáp, từ đó không mặc áo thường để gặp Phụ.
Chuyển làm Tương tác Đại tượng. (10) Bấy giờ mới sửa cung điện, phát gái đẹp cho vào ở nhà sau, nhiều lần ra vào săn bắt. Mùa thu, có sấm sét mưa to, giết nhiều chim tước. Phụ dâng sớ nói: "Thần nghe nói rằng vua sáng ở trên, bầy tôi dốc hết lời bàn bạc ở dưới. Vua Nghiêu, vua Thuấn có đức thánh, chẳng cầu lời can lẻ; vua Đại Vũ chăm chỉ nhưng làm cung điện nhỏ; vua Thành Thang gặp hạn, đổi lỗi cho mình; Chu Văn Vương lập phép tắc cho vợ cả để trông coi trong nhà; Hán Văn Đế làm việc tiết kiệm, thân mặc áo đen; đấy đều là bậc có thể làm rõ hiệu lệnh, mưu truyền lộc cho con cháu vậy. Cúi mong Bệ hạ nhận lấy nghiệp lớn của Vũ Đế mở mang, giữ lấy công to của Văn Hoàng Đế thu được, nên nghĩ đến chính trị hay đẹp của cấc bậc Đế Vương thời xưa gây dựng, xem rõ cái chính trị xấu xa của mấy đời cuối buông thả. Gọi là chính trị hay đẹp cốt ở tiết kiệm, coi trọng sức dân; gọi là chính trị xấu xa, đó là lòng muốn buông thả, theo cảm xúc mà phát ra vậy. Mong Bệ hạ xét kĩ đời đầu vì sao lại sáng rõ, đến đời cuối vì sao lại suy kém, dẫn đến bị tiêu diệt, gần đây thì xem ở cuộc biến loạn cuối thời Hán cũng đủ làm cho lòng người lo sợ mà đề phòng rồi. Nếu trước đây Hoàn Đế, Linh Đế không bỏ phép tắc của Cao Tổ, không bỏ cái tiết kiệm của Văn Đế, Cảnh Đế thì Thái Tổ dẫu có sức thần, có thể thi thố tài năng của mình được sao? Mà Bệ hạ do đâu mà có được ngôi quý ấy? Nay Ngô, Thục chưa định, quân sĩ ở ngoài, mong Bệ hạ làm thì nghĩ ba lần, tính kĩ rồi mới làm, ra vào phải cẩn thận, lấy việc xưa mà soi xét việc ngày nay. Lời này dẫu nhẹ nhàng, nhưng quan hệ trọng đại đến được mất. Gần đây trời mưa, lại có sấm sét dữ dội khác thường, giết nhiều chim tước. Trời đất thần minh xem Đế Vương như con, nếu chính trị không hay thì bị phạt vạ. Tu thân nghĩ kĩ là cái mà thánh nhân ghi nhớ. Mong Bệ hạ lo nghĩ đến giặc bên ngoài không có hình, cẩn thận với cái điềm báo mở đầu đang nảy mầm, noi theo Hán Hiếu Văn thả người đẹp của Huế Đế, lệnh họ tự lấy chồng; những cô gái nhỏ mới chở về, ở xa không cần sai đến, nên lo cho đời sau. Các chỗ nên sửa chính trị, làm việc tiết kiệm. Kinh Thư viết: 'Chín họ đã yên, hòa hợp muôn nước'. Việc nên như thế, để theo đạo thẳng, mưu tính hay tốt, giảm bớt tổn phí. Ngô, Thục đã định mới trên yên dưới vui, chín họ sáng rõ. Như thế về sau, tổ tiên vui lòng, vua Nghiêu, vua Thuấn còn lo gì nữa? Nay nên tỏ tín với thiên hạ để làm yên lòng dân chúng, để vỗ về phương xa". Bấy giờ Ung Khâu Vương Thực (11) giận vì không được nói đến, nước phiên đến chầu, pháp cấm nghiêm ngặt, cho nên Phụ lại bày tỏ nghĩa của chín họ. Hạ chiếu nói: "Nghe được sớ biểu, kể rõ các bậc vua thánh chủ sáng thời xưa để chê bai chính trị u tối ngày nay, lời lẽ rất khẩn thiết, thật thà trong sáng. Lui nghĩ sửa sai, theo việc tốt chữa cái xấu, rất là đầy đủ. Xem nghĩ lời trung, trẫm rất khen ngợi".
Sau chuyển làm Thiếu phủ. Bấy giờ Đại Tư mã Tào Chân đánh Thục, gặp mưa không đi được. Phụ dâng sớ nói: "Xưa Văn Vương có điềm báo của quả đỏ mà vẫn lúc xế chiều không ăn nghỉ; Vũ Vương có điềm cá trắng nhảy lên thuyền thì bầy tôi biến sắc mặt. Mà lúc làm có điềm lành, vẫn còn lo sợ, huống chi ngày nay có tai vạ mà không sợ việc đánh trận sao? Nay Ngô, Thục chưa bình mà trời thường giáng tai biến, Bệ hạ nên nên nghĩ kĩ để có kế hay ứng đáp, ngồi ở bên chiếu, lấy đức để vỗ về phương xa, lấy tiết kiệm để an ủi trong nước. Gần đây các quân mới đi, lại có cái hại trời mưa, thêm có núi hiểm, đã lâu ngày rồi. Chuyển chở khó nhọc, gánh vác khổ sở, phí tổn rất nhiều, nếu không nối liền đường vận lương tất làm trái mưu trước. Truyện viết: 'Thấy lợi thì đi, biết khó thì lui, đấy là phép hay của việc dùng binh vậy'. Sai chuyển sáu quân vào chỗ khốn khó ở giữa hang núi, đi không đánh được, lui lại chẳng xong, đấy không phải là cái đạo cầm quân vậy. Xưa Vũ Vương đem quân về, nhà Ân bèn bị diệt, đấy là biết cơ trời vậy. Nay mùa mất dân đói, nên hạ chiếu bớt ăn ngon, giảm mặc áo đẹp, đều vứt bỏ các vật quý ngọc bảo. Xưa Thiệu Tín Thần làm Thiếu phủ ở thời không có việc mà vẫn tấu xin vứt bỏ món ăn ngon; nay các quân không có lương dùng đủ, càng nên tiết kiệm". Đế liền hạ chiếu sai các quân về.
Sau có chiếu bàn về chính trị không có lợi cho dân, Phụ bàn cho rằng: "Chính trị cốt ở dùng người hiền, dựng nước cốt ở chăm cày cấy. Nếu bỏ người hiền mà dùng ngời vì thân quen, đấy là rất bỏ bê chính trị vậy. Mở rộng cung điện, làm lầu đài cao, ngăn trở nghiệp dân, đấy là rất tổn hại việc cày cấy vậy. Trăm thợ không được cầm đồ nghề, lại thay làm đồ xa xỉ để hợp ý vua, đấy là rất làm hại bản thân vậy. Khổng Tử nói: 'Chính trị tàn ác hơn cả thú dữ'. Nay giữ quan lại tầm thường, coi chính trị không lo sửa bản thân, bừa bãi phiền nhiễu, đấy là rất làm loạn dân vậy. Việc gấp của ngày nay là nên bỏ bốn cái 'rất' kia, cùng hạ chiếu cho công khanh, quận quốc cử kẻ sĩ hiền lương ngay thẳng chất phác mà chọn dùng họ,đấy cũng là một cách tìm người hiền vậy".
Phụ lại dâng sớ muốn giảm các cung nữ không được sủng ái, lại hạ chiếu cho quan lại trong cung vua hỏi xem số cung nữ trong hậu cung. Quan lại giữ phép cũ, đáp nói: "Cung cấm kín đáo, không nên để lộ ra". Phụ giận, đánh một viên quan một trăm đòn, mắng hắn nói: "Nhà nước không kín đáo với các quan Cửu khanh, (12) lại kín đáo với các quan nhỏ sao"? Đế nghe nói mà càng kính trọng Phụ.
Phụ lại dâng sớ muốn giảm các cung nữ không được sủng ái, lại hạ chiếu cho quan lại trong cung vua hỏi xem số cung nữ trong hậu cung. Quan lại giữ phép cũ, đáp nói: "Cung cấm kín đáo, không nên để lộ ra". Phụ giận, đánh một viên quan một trăm đòn, mắng hắn nói: "Nhà nước không kín đáo với các quan Cửu khanh, lại kín đáo với các quan nhỏ sao"? Đế nghe nói mà càng kính trọng Phụ.
Đế vừa làm cung ở đất Hứa, lại xây dựng cung điện quán gác ở thành Lạc Dương. Phụ dang sớ nói: "Vua Nghiêu ưa nhà cỏ tranh mà muốn nước được ở yên, vua Hạ Vũ làm cung điện nhỏ mà thiên hạ được vui nghiệp; cho đến nhà Ân, nhà Chu cũng làm miếu thờ cao ba thước, chỉ đủ trải chín cái chiếu tre mà thôi. Vua sáng chủ hiền thời xưa chưa có ai làm cung điện cao đẹp để làm tổn hại tiền sức của trăm họ vậy. Vua Kiệt làm nhà bằng ngọc, hiên bằng ngà voi, vua Trụ làm cung Khoảnh, (13) đài Lộc (14) mà vùi xã tắc của mình; Sở Linh Vương vì đắp đài Chương Hoa mà thân bị tai họa; Tần Thủy Hoàng làm cung A Phòng mà gây vạ cho con của mình, thiên hạ phản lại, chỉ hai đời là diệt. Ôi, không nghĩ đến sức của muôn dân, mà chỉ theo ham muốn của tai mắt mình, chưa có ai không bị diệt cả. Bệ hạ nên lấy vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Hạ Vũ, vua Thang, Văn Vương, Vũ Vương làm phép tắc, vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Ân, Sở Linh Vương, Tần Thủy Hoàng làm răn giới. Bậc vua ở trên, phải có đức dày. Cẩn thận giữ ngôi vị để vâng mệnh tổ tiên, nghiệp lớn lồng lộng phải sợ có ngày làm mất. Ngày đêm chẳng nghĩ, không lo giúp dân mà lại tự rỗi rãi tự buông thả, chỉ lo xây dựng cung điện xa xỉ, đấy tất chuốc họa nguy vong lật đổ. Kinh Dịch viết: 'Xây nhà cao, làm cửa rộng, nhìn qua cửa, chẳng thấy người đâu'. Người làm vua xem thiên hạ là nhà, cho rằng cái họa của việc xây nhà cao là dẫn đến nhà cửa không có người vậy. Nay hai tên giặc đang liên hợp, mưu làm nguy xã tắc, quân có mười vạn xông xáo đông tây, biên giới không yên một ngày; người cày cấy bỏ nghiệp, dân có vẻ đói. Bệ hạ không cho đấy là nỗi lo, lại xây dựng cung điện không có lúc ngừng. Nếu nước mất mà thần có thể còn thì thần lại không nói ra; Thần Tùng Chi cho rằng: Cái đạo trung nhất là quên mình để nói lí. Cho nên sửa chữa lỗi sai, không nghĩ cho mình. Mà sớ Phụ nói: 'Nếu nước mất mà thần có thể còn thì thần lại không nói ra'. Đấy là quyết ý vì mình, há lại vì nước sao? Như lời này, há không làm tổn hại đến cái nghĩa nói thẳng, không phải là một chỗ kém của tờ sớ sao! Vua làm đầu đỉnh, thần làm đùi tay, cùng thân còn mất, cùng chung được mất. Hiếu kinh viết: 'Thiên tử có bảy bầy tôi tranh bàn bạc, dẫu là không có đạo lí cũng không làm mất thiên hạ'. Thần dẫu yếu kém, dám quên cái nghĩa tranh bàn luận sao? Lời không tha thiết thì không đủ để Bệ hạ cảm kích. Nếu Bệ hạ không xét lời thần, sợ rằng lộc to lớn của tô tiên sẽ rơi xuống đất. Nếu mình thần chết đi mà giúp được một cái ấy thì một ngày chết cũng như một năm sống. Kinh xin sắm quan quách, tắm rửa, cúi đợi tội chết". Tấu lên, Thiên tử cảm kích lòng trung ấy, tự tay viết chiếu. Hễ triều đình hội bàn, Phụ thường thẳng thắn cho là giúp thiên hạ là trách nhiệm của mình. Nhiều lần bàn can, Đế không nghe, bèn thường xin nhường chức, không cho. Lúc chết, nhà không có của thừa, cháu là Báo thay.
...
Bàn nói: Tân Bì, Dương Phụ ngay thẳng sáng suốt, can gián quên thân, có phong thái sánh với Cấp Ảm (15) vậy...
Chú thích:
Cao Đường Long: nhân vật này không mấy tiếng tăm, chỉ có viết sớ biểu dài cho nên dịch giả tạm không dịch. Mời các vị
(1) Trại yển nguyệt (偃月): là trại hình nửa Mặt trăng.
(2) Ngăn việc tốt: ý nói khiến cho người khác không làm việc tốt mà nhận thưởng.
(3) Không rơi xuống đất: ý nói tên tuổi không mất đi, còn lưu trong sách sử.
(4) Khương Bá Biến: tức Khương Tự tự Bá Biến.
(5) Triệu Vĩ Chương: tức Triệu Ngang tự Vĩ Chương.
(6) Phù tín và bảo phó: Phù tín là tiết lệnh làm tin của Đế vương hoặc tướng lại; bảo phó là vú nuôi, thời xưa thường ở trong cung nuôi dưỡng trẻ con hoặc chăm sóc người vợ của quan lại, Đế vương.
(7) Chiêu Khương chìm sông: vợ của Sở Chiêu Vương là người con gái của Tề Hầu, họ Khương cho nên gọi là Chiêu Khương (昭姜). Sở Chiêu Vương đi chơi để Chiêu Khương ở lại trên đài Tiềm rồi đi. Chợt nghe nói nước sông sắp dâng bèn sai sứ giả đến đón nhưng không có phù tín, Chiêu Khương cho rằng muốn mời phu nhân phải có phù tín làm chứng, do đó không chịu đi, nước lớn dâng lên làm đài vỡ đổ, bị nước cuốn trôi mà chết.
(8) Bá Cơ cháy lửa: vợ của Tống Cộng Công là con gái của Lỗ Tuyên Công, tên là Bá Cơ (), sống rất thọ. Vào thời Tống Cảnh Công, vào buổi đêm cung điện có lửa cháy, người trong cung muốn cứu Bá Cơ ra, nhưng Bá Cơ cho là không có bảo phó đến cùng thì không chịu ra, do đó chịu chết cháy ở trong cung.
(9) Cung Toại: bầy tôi thời Hán Tuyên Đế. Bấy giờ quận Bột Hải mất mùa, trộm giặc nổi lên, quan lại không cấp chẩn. Nhà vua lo lắng, bàn bạc chọn Toại làm Bột Hải Thái thú, Toại đến vỗ về yên quận ấy.
(10) Tương tác Đại tượng: chức quan trông coi việc xây dựng cung điện.
(11) Ung Khâu Vương Thực: tức Tào Thực tự Tử Kiến, coi trai thứ của Tào Tháo, phong làm Ung Khâu Vương.
(12) Cửu khanh: quan đứng đầu chín phủ của triều đình, nắm giữ công việc quan trọng, mỗi thời lại khác nhau. Thời Hán là: Thái thường, Quang lộc huân, Vệ úy, Đình úy, Thái phó, Đại Hồng lư, Tông chính, Đại Tư nông, Thiếu phủ.
(13) Cung Khoảnh (倾宫): cung điện cao lớn, đứng trên điện nhìn xuống mà choáng ngợp muốn ngã xuống.
(14) Đài Lộc (鹿台): cái đài xưa do vua Trụ của nhà Thương xây, đem các vật lạ, châu bảo cất chứa ở
đấy.
(15) Cấp Ảm: bầy tôi thời Hán Vũ Đế, nổi tiếng thẳng thắn can gián.

TÂN BÌ TRUYỆN
Tân Bì (1) tự Tá Trị, người huyện Dương Trạch (2) quận Dĩnh Xuyên. Tổ tiên của Bì vào giữa năm Kiến Vũ từ quận Lũng Tây dời đến miền đông. Bì theo anh là Bình đi theo Viên Thiệu. Thái Tổ làm Tư không, gọi Bì, Bì không đến nghe lệnh được. Đến lúc Viên Thượng đánh anh là Đàm ở quận Bình Nguyên, Đàm sai Bì đến chỗ Thái Tổ xin hòa.
Anh hùng kí viết: "Đàm, Thượng đánh ở cửa ngoài, quân Đàm thua chạy về miền bắc. Quách Đồ khuyên Đàm nói: 'Nay Tướng quân nước nhỏ binh ít, lương hết thế yếu, Hiển Phủ (3) đến đánh, lâu ngày khó mà chống nổi. Kẻ ngu này cho rằng nên gọi Tào Công đến đánh Hiển Phủ. Tào Công đến, tất đánh đất Nghiệp trước, Hiển Phủ phải về cứu. Tướng quân dẫn quân về phía tây, từ đất Nghiệp lên phía bắc đều có thể đánh lấy được. Nếu quân của Hiển Phủ phá, quân của hắn chạy trốn, thì có thể thu lấy để chống Tào Công. Tào Công từ xa lại ở trọ, lương thảo không liền, tất tự bỏ chạy. Nếu đến lúc đó, từ nước Triệu lên phía bắc đều bị ta chiếm lấy, cũng đủ để chống với Tào Công vậy. Nếu không thì không xong'. Đàm lúc đầu không nghe, sau lại nghe theo. Hỏi Đồ nói: 'Sai ai đi'? Đồ đáp nói: 'Tân Tá Trị đi được'. Đàm bèn sai Bì đến chỗ Thái Tổ".
Thái Tổ sắp đánh Kinh Châu, đến ở quận Tây Bình. Bì gặp Thái Tổ báo ý của Đàm. Thái Tổ cả mừng. Mấy ngày sau, lại muốn bình Kinh Châu trước, khiến cho Đàm, Thượng tự đánh nhau. Ngày sau bày rượu, Bì nhìn mặt Thái Tổ, biết có đổi, nói với Quách Gia. Gia nói với Thái Tổ, Thái Tổ bảo Bì nói: "Đàm đáng tin không? Thượng chắc thắng được không"? Bì đáp nói: "Minh công không cần hỏi tín hay giả vậy, chỉ nên bàn về thế lực của họ thôi. Họ Viên vốn là anh em đánh nhau, không phải người khác xen được vào giữa họ mà là thiên hạ có thể định được ở tại mình vậy. Nay một sớm xin cứu với minh công, xem thế là biết được. Hiển Phủ thấy Hiển Tư (4)khốn mà không đánh lấy được, sức hắn đã kiệt rồi. Quân sĩ bị thua ở ngoài, mưu sĩ bị giết ở trong, anh em hiềm nghi, nước chia thành hai; nhiều năm đánh nhau, lại giáp trụ sinh chấy rận, có thêm châu chấu, đói kém vừa đến, nước không có kho lúa, đi không mang lương, họa đến từ trên trời, khốn đến từ dưới người, dân dẫu là kẻ ngu dốt cũng đều biết đất đai vỡ lở, đấy là lúc trời diệt Thượng vậy. Binh pháp có nói: 'Có thành đá ao lầy trăm vạn quân mặc giáp mà không có lương thì không giữ được'. Nay đến đánh đất Nghiệp, nếu Thượng không về cứu, tức không tự giữ được. Về cứu, tức Đàm chặn ở sau. Đem cái uy của minh công để chống kẻ địch khốn cùng, phá quan giặc mỏi mệt, không cần gió giật mạnh để cuốn lá mùa thu vậy. Trời đem Viên Thượng cho minh công, minh công không lấy mà đánh Kinh Châu. Kinh Châu đầy đủ, nước không có loạn. Trọng Hôi có nói: 'Nhân loạn mà đánh nước sắp mất'. Nay đang lúc hai Viên (5) không lo việc xa mà bên trong tự đánh nhau, có thể nói là loạn vậy; người ở không có ăn, người đi không có lương, có thể nói là sắp mất vậy. Buổi sớm không mưu lúc tối, mạng dân chẳng sống yên, mà chẳng vỗ về, muốn đợi đến năm khác; nếu năm khác được mùa, lại tự biết sắp mất mà tu sửa đức hạnh, làm mất cái cốt yếu của việc dùng binh. Nay nhân lúc Đàm xin cứu mà vỗ về hắn, lợi nào lớn hơn? Vả lại giặc của bốn phương, chẳng ai lớn hơn giặc vùng Hà Bắc; nếu vùng Hà Bắc bình thì sáu quân thịnh mà thiên hạ rúng động vậy". Thái Tổ nói: "Hay". Bèn hứa hòa với Đàm, đến ở huyện Lê Dương. Năm sau đánh đất Nghiệp, chiếm lấy được, bái Bì làm Nghị lang.
Lâu sau, Thái Tổ sai Đô hộ Tào Hồng bình huyện Hạ Biện, sai Bì cùng Tào Hưu đi theo, lệnh nói: "Xưa Cao Tổ tham tiền ham gái mà bọn Trương Lương, Trần Bình uốn nắn cái lỗi của Cao Tổ. Nay Tá Trị, Văn Liệt là người giỏi không được coi thường vậy. Quân về, làm Thừa tướng Trưởng sử.
Văn Đế lên ngôi, chuyển làm Thị trung, ban tước Quan Nội Hầu. Bấy giờ bàn đổi chính sóc (6). Bì cho rằng: "Nhà Ngụy nối dòng của vua Thuấn, vua Vũ, thuận trời theo dân; đến như vua Thang, vua Vũ(7) lấy can qua mà định thiên hạ còn đổi chính sóc. Khổng Tử nói: 'Lịch của nhà Hạ'. Tả thị truyện viết: 'Lịch nhà Hạ đúng với lịch của trời'. Sao phải làm trái nhau". Đế mừng mà nghe theo.
Đế muốn dời mười vạn hộ nhà kẻ sĩ vùng Kí Châu đến ở vùng Hà Nam. Bấy giờ có châu chấu liên tiếp, dân đói, bầy tôi cho là không nên, nhưng ý Đế rất quyết. Bì và bầy tôi cùng xin gặp, Đế biết họ muốn can, nghiêm mặt để gặp họ, chẳng ai dám nói. Bì nói: "Vệ hạ muốn dời nhà kẻ sĩ, kế này thế nào"? Đế nói: "Khanh bảo ta dời là sai sao"? Bì nói: "Đúng cho là sai vậy". Đế nói: "Ta không thể cùng khanh bàn bạc". Bì nói: "Bệ hạ không cho thần là kẻ không có tài, cho làm tả hữu, ở bên làm quan bày mưu, há lại không cùng thần bàn việc được sao! Lời mà thần nói không phải là vì việc riêng, mà là lo nghĩ cho xã tắc vậy, sao lại giận thần"! Đế không đáp, dậy vào trong; Tỉ đi theo mà dẫn vạt áo của Đế, Đế lại giơ áo không quay lại, rất lâu sau mới ra, nói: "Tá Trị, sao khanh đợi ta lâu vậy"? Bì nói: "Nay dời là làm mất lòng dân, lại không có gì được". Đế bèn dời một nửa trong số đó. Từng theo Đế đi bắn chim trĩ, Đế nói: "Bắn chim trĩ vui thay"! Bì nói: "Đối với Bệ hạ thì rất vui, đối với bầy tôi thì rất khổ". Đế ngấm ngẩm, sau đó bèn ít ra đi săn.
Thượng Đại Tướng quân Tào Chân đánh Chu Nhiên ở Giang Lăng, Bì làm Quân sư. Về, phong Quảng Bình Đình Hầu. Đế muốn đem đại quân đánh Ngô, Bì can nói: "Dân vùng Ngô, Sở, trắc trở mà khó trị, đạo hưng thì phục sau, đạo suy thì phản trước, từ xưa đã có rồi, không phải đến nay. Nay Bệ hạ đã có Trung Nguyên, những kẻ không thần phục, há được lâu sao? Xưa Úy Đà xưng Đế, Tử Dương tiếm hiệu, năm tháng chẳng mấy, có kẻ thần phục có kẻ bị diệt. Vì sao? Đạo trái ngược thì không yên lâu mà đức lớn thì không có chỗ nào là không phục vậy. Nay thiên hạ mới định, đất rộng dân thưa. Mưu tính nơi trình đình rồi mới đem quan đi, khi vào trận còn sợ, huống chi mưu tính nơi triều đình lại ít mà muốn dùng quân thì thần thực chưa thấy được cái lợi. Tiên đế thường đem quân mạnh, đến sông Giang mà quay về. Nay sáu quân không mạnh hơn trước, nếu lại theo việc cũ, đấy không dễ vậy. Tính kế ngày nay, chẳng bằng sửa kế nuôi dân của Phạm Lãi, học kế hay của Quản Trọng, theo kế đóng quân làm ruộng của Triệu Doãn Quốc, làm rõ chính sách vỗ về phương xa của Trọng Ni; trong vòng mười năm, khỏe mạnh chưa già, tuổi trẻ hăng hái, triệu dân biết nghĩa, tướng sĩ dũng mãnh, rồi mới dùng quân, thì sai đi không cần cân nhắc vậy". Đế nói: "Như ý khanh, lại đem giặc cho con cháu sao"? Bì đáp nói: "Xưa Chu Văn Vương đem vua Trụ cho Vũ Vương, đấy là biết thời vậy. Nếu thời chưa được, nên dừng đi chăng"! Đế cuối cùng đánh Ngô, đến sông Giang mà về.
Minh Đế lên ngôi, tiến phong Dĩnh Hương Hầu, thực ấp ba trăm hộ. Bấy giờ Trung thư giám Lưu Phóng, Trung thư lệnh Tôn Tư được vua tin dùng, xử đoán chính trị, đại thần chẳng ai không kết giao, nhưng Bì không cùng qua lại. Con Bì là Xưởng can nói: "Nay Lưu, Tôn xét việc, mọi người đều hùa theo, đại nhân nên tỏ ý nhún nhường, ngồi cùng hòa hợp; nếu không tất có lời chê bai". Bì nghiêm mặt nói: "Vua trên dẫu chưa gọi là sáng suốt nhưng không u tối. Ta lập thân tự có gốc ngọn. Nếu không cùng yên với Lưu, Tôn, chẳng qua cũng khiến ta không làm đến bậc Tam công mà thôi, có gì nguy hại đâu? Há là đại trượng phu muốn làm Tam công mà làm hỏng tiết tháo cao đẹp sao". Cùng theo quan Bộc xạ đều cầm biểu nói: "Thượng thư Bộc xạ Vương Tư là quan cũ chăm chỉ, nhưng sự trung thành và mưu kế không bằng Bì, Bì nên thay Tư". Đế cho là có ý chê bai bọn Phóng, Tư, bọn Phóng, Tư đáp nói: "Bệ hạ dùng Tư, đấy là muốn lấy được tài năng của hắn, không quý ở tiếng tăm sáo rỗng vậy. Bì đúng là tốt đẹp nhưng tính cứng cỏi mà chuyên chú, nay thánh thượng nên xét kĩ vậy". Cuối cùng không dùng. Ra làm Vệ úy.
Đế đang sửa cung điện, trăm họ khổ sở, Bì dâng sớ nói: "Nghe trộm rằng Gia Cát Lượng giảng vũ luyện quân, mà Tôn Quyền lại mua ngựa ở Liêu Đông, xét ý của chúng, có lẽ muốn giúp đỡ nhau. Phòng bị thì không lo gì, đấy là kế hay của thời trước. Vậy mà nay dựng cung điện lớn, lại thêm nhiều năm lúa gạo không thu gặt được. Kinh Thi viết: 'Dân đã khổ sở, nên cho yên vui, ban ân Trung Quốc, vỗ về bốn phương'. Mong Bệ hạ nghĩ kế cho xã tắc". Đế báo nói: "Hai tên giặc chưa diệt mà sửa cung thất, đây là lúc kẻ can thẳng lập danh. Như đô của Đế Vương phải để dân cùng xây dựng, khiến cho đời sau không cần phải xây lại, đấy là bắt chước kế lớn của Tiêu Hà giúp nhà Hán vậy. Nay khanh là bầy tôi trọng yếu của nhà Ngụy, cũng nên tỏ ý nghe theo". Đế lại muốn san bằng đồng cỏ miền bắc, lệnh ở trên đó làm đài quán, muốn làm bến Mạnh Tân. Bì can nói: "Tính của trờ đất là cao cao thấp thấp, nay lại muốn làm trái, đã sai lí lẽ, lại tổn phí sức người, dân không gánh nổi. Vả lại chín sông chảy xiết, nước lớn gây hại, vậy mà đều dẹp bằng gò đống, lấy gì mà ngăn được"? Đế mới thôi.
Ngụy lược viết: "Gia Cát Lượng vây Kì Sơn, không thắng, dẫn quân về. Trương Cáp đuổi theo, bị trúng tên lạc mà chết. Đế tiếc Cáp, lên triều mà than nói: 'Thục chưa bình mà Cáp chết, các tướng còn ai như thế'! Tư không Trần Quần nói: 'Cáp thực là tướng giỏi, là người mà nhà nước nương dựa vậy'. Ý của Bì cho rằng Cáp dẫu đáng tiếc, nhưng đã chết, không nên làm kém ý chí của vua mà tỏ cái không mạnh ra bên ngoài. Bèn chống Quần nói: 'Trần Công sao lại nói thế! Vào cuối năm Kiến An, thiên hạ không thể một ngày không có Vũ Hoàng Đế, đến lúc trao việc nước, mà Văn Đế nhận lệnh, vào năm Hoàng Sơ, cũng là không thể không có Văn Hoàng Đế, đến lúc trao gửi thiên hạ, mà Bệ hạ lên ngôi. Nay cái mà trong nước thiếu, há chỉ có Trương Cáp thôi'? Trần Quần nói: 'Cũng đúng như lời Tân Bì;. Đế cười nói: 'Trần Công có thể nói là giỏi ứng đáp'. Thần là Tùng Chi cho rằng: Xét người cốt ở đạo lí của người, giữ ước nên dựa vào điều ấy, cho nên quân tử đối với lời nói của mình thì không có chỗ nào nói vội vã mà thôi vậy. Bì muốn mở rộng ý vua, nên cất nhắc như bọn Trương Liêu, sao lại vì cái chết của một tướng mà đem tổ tông ra nói ví được? Lời mà không nói, chẳng gì sai bằng lời ấy, tiến thì trái với mọi người, lui thì như nịnh hót, Tá Trị một thân ngay thẳng, không nên như thế. Ngụy lược viết đã khó tin, họ Tập lại theo đó mà chép vào, trộm nghĩ người này bị vu không không ít điều.
Năm Thanh Long thứ hai, Gia Cát Lượng đem quân ra bờ nam sông Vị. Lúc đầu, Đại Tướng quân Tư Mã Tuyên Vương (8) mấy lần xin đánh với Lượng, nhưng Minh Đế cuối cùng không nghe. Năm đó sợ không cấm được, bèn dùng Bì làm Đại Tướng quân Quân sư, sai cầm cờ tiết; sáu quân đều kính theo Bì sai khiến, chẳng ai dám trái.
Ngụy lược viết: "Tuyên Vương nhiều lần muốn ra đánh, Bì cấm không nghe. Tuyên Vương dẫu có thể theo ý mình, nhưng thường chịu theo Bì". Lượng chết, lại về làm Vệ úy. Hoăng, thụy là Túc Hầu. Con là Xưởng thay, giữa năm Hàm Hi làm Hà Nội Thái thú.
Thế ngữ viết: "Xưởng tự Thái Ung, làm đến Vệ úy. Con gái của Bì là Hiến Anh, gả cho Thái thường Dương Đam người quận Thái Sơn". Cháu ngoại là Hạ Hầu Kham viết truyện về Hiến Anh nói: "Hiên Anh thông minh có tài năng. Trước đây Văn Đế cùng Trần Tư Vương tranh làm Thái tử, rồi đến lúc Văn Đế được lập, ôm cổ Bì mà mừng nói: 'Tân Quân biết ta vui không'? Bì báo cho Hiến Anh, Hiến Anh than nói: 'Thái tử là người thay vua làm chủ xã tắc tông miếu vậy. Thay vua không thể không gần gũi, làm chủ nước không thể không sợ, nên gần gũi mà vui mừng, lấy gì được dài lâu? Nhà Ngụy há không tốt sao'! Em Xưởng làm Tham quân của Đại Tướng quân Tào Sảng. Tư Mã Tuyên Vương sắp giết Sảng, do đó Sảng đi ra, đóng cửa thành. Đại Tướng quân Tư Mã Lỗ Chi đem quân trong phủ của Sảng phá cửa chặt then, ra thành báo cho Sảng biết, đến gọi Xưởng cùng bỏ ra. Xưởng sợ, hỏi Hiến Anh nói: 'Thiên tử ở ngoài, Thái phó đóng cửa thành, người ta nói sắp có việc không có lợi cho nhà
nước, việc này nên làm thế nào'? Hiến Anh nói: 'Thiên hạ có kẻ không biết được, nhưng theo ta xét thấy Thái phó chỉ là không thể không làm thế! Minh Hoàng hậu sắp băng, cầm tay Thái phó, giao việc sau này cho Thái phó, lời này vẫn còn vang bên tai của bầy tôi trong triều. Vả lại Tào Sảng cùng Thái phó đều được nhận lệnh gửi gắm, vậy mà chỉ quen chuyên quyền, làm việc ngạo mạn, với nhà vua thì không có lòng trung, với người ta thì không ngay thẳng. Lần đem quân này chẳng qua là để giết Tào Sảng thôi'. Xưởng nói: 'Vậy thì việc xong chăng'? Hiến Anh nói: 'Chỉ e không đợi được! Cái tài của Sảng không sánh được với Thái phó'. Xưởng nói: 'Vậy thì Xưởng không nên đi ra chăng'? Hiến Anh nói: 'Sao lại không ra được. Giữ chức phận là nghĩa lớn của người. Hễ người ta khó khăn vẫn có kẻ cứu giúp; vì người ta cầm roi mà bỏ mất việc của mình là không hay, không nên vậy. Vả lại vì người mà chết, vì người mà nhận, là chức phận của người thân cận vậy, nên theo mọi người mà thôi'. Xưởng bèn ra. Tuyên Vương quả đúng giết Sảng. Sau khi việc xong, Xưởng than nói: 'Ta không có mưu bằng chị, lại không có nghĩa bằng'. Đến lúc Chung Hội làm Trấn tây Tướng quân, Hiến Anh bảo con thứ là Dương Hỗ nói: 'Chung Sĩ Quý sao lại đến phươgn tây'? Hỗ nói: 'Sắp đến diệt Thục vậy'. Hiến Anh nói: 'Hội làm việc tùy tiện, không có đạo coi việc lâu dài ở chỗ khác, ta e là hắn có chí khác'. Hỗ nói: 'Mẹ út chớ nói nhiều'. Sau đó Hội xin con là Tú làm Tham quân, Hiến Anh lo nói: 'Ngày trước thấy Chung Hội đi ra, ta đã lo cho nhà nước. Ngày nay nạn đến nhà ta, đấy là việc lớn của nhà nước, tất không ngăn được vậy'. Tú cố xin Tư Mã Văn Vương, Văn Vương không nghe. Hiến Anh bảo Tú nói: 'Đi rồi phải đề phòng mới được! Quân tử thời xưa vào phải giữ đạo hiếu với người thân, ra phải giữ tiết tháo với nhà nước, về chức phận phải nghĩ đến việc mà mình trông coi, về nghĩa phải nghĩ đến cái mà mình làm, chỉ cần không để lại lo lắng cho cha mẹ mà thôi. Giữa chốn quân đội, nên làm người giúp đỡ, há chỉ có lòng nhân từ sao! Ngươi phải cẩn thận'! Tú cuối cùng vì vậy mà giữ toàn thân. Hiến Anh thọ đến bảy mươi chín tuổi, năm Thái Thủy thứ năm chết".
Chú thích:
(1) Chữ bì () , bản dịch Tam quốc diễn nghĩa của Phan Kế Bính đọc là tỉ. Theo Đường vận dọc âm là 'bàng chi thiết', tức đọc là 'bì', nên đọc là 'bì'.
(2) Chữ trạch (), một âm đọc nữa là 'địch', thông với chữ địch () chỉ người thiểu số phương bắc Trung Quốc thời xưa.
(3) Hiển Phủ tức Viên Thượng tự Hiển Phủ.
(4) Hiển Tư tức Viên Đàm tự Hiển Tư.
(5) Hai Viên tức Viên Đàm và Viên Thượng.
(6) Chính sóc (正朔) là ngày đầu trong một năm. Ý nói Ngụy Văn Đế đổi chính sóc như thời nhà Hạ.
(7) Vua Vũ tức Vũ Vương của nhà Chu.
(8) Tư Mã Tuyên Vương tức Tư Mã Ý, thời nhà Ngụy có công lớn nên được phong làm Tuyên Vương, do đó gọi là Tư Mã Tuyên Vương.
NGỤY THƯ QUYỂN 26 - Mãn Điền Khiên Quách truyện
Mãn Sủng, Điền Dự, Khiên Chiêu, Quách Hoài

TRUYỆN MÃN SỦNG
Mãn Sủng tự Bá Ninh, người huyện Xương Ấp quận Sơn Dương. Mười tám tuổi làm Đốc bưu trong quận. Bấy giờ người trong quận là bọn Lí Sóc đều đem bộ khúc đi làm hại đến dân thường, Thái thú sai Sủng xét trị chúng. Bọn Sóc nhận tội, không cướp bóc nữa. Giữ chức Cao Bình Lệnh, người trong huyện là Trương Bao làm Đốc Bưu của quận, tại chức tham lam, làm nhiễu loạn việc quan, Sủng nhân lúc hắn đang ở nhà nghỉ, đem quan quân ra bắt hắn, tránh mắng lỗi mà hắn phạm phải, liền hôm đó xét hỏi, rồi bỏ quan về quê.
Thái Tổ đến Duyện Châu, gọi làm Tòng sự. Đến lúc làm Đại tướng quân, chuyển làm Tây tào thuộc, làm Hứa Lệnh. Bấy giờ Tào Hồng là họ hàng thân cận, có tân khách ở ngoài nhiều lần phạm pháp, Sủng bèn bắt trị tội chúng. Hồng gửi thư xin Sủng, Sủng không nghe. Hồng báo cho Thái Tổ, Thái Tổ gọi người coi việc ở huyện Hứa đến. Sủng biết Thái Tổ muốn tha, liền nhanh giết bọn ấy. Thái Tổ mừng nói: "Việc này không đáng như thế chăng"? Thái úy Dương Bưu trước đây bị bắt giam vào tù trong huyện, bọn Thượng thư lệnh Tuân Úc, Thiếu phủ Khổng Dung đều khuyên Sủng nói: "Chỉ nên dùng lời, chớ dùng hình bức". Sủng đều không đáp một người nào, xét hỏi đúng theo hình pháp. Mấy ngày sau, xin gặp Thái Tổ, nói với Thái Tổ rằng: "Dương Bưu bị xét hỏi mà không có lời cãi khác. Kẻ đáng giết thì phải nêu rõ tội của kẻ đó trước, nhưng người này nổi tiếng trong nước, nếu không làm rõ tội trạng tất làm mất lòng trông mong của dân chúng, làm cho minh công nuối tiếc". Thái Tổ liền hôm đó thả Bưu ra. Lúc đầu, bọn Úc, Dung nghe nói Sủng dùng hình bức Bưu, đều giận, đến lúc Bưu được tha lại khen Sủng.
Thần là Tùng Chi cho rằng: Dương Công ở nhà tu đức, thân là danh thần, dẫu có lúc phóng túng lỗi lầm thì vẫn nên khoan thứ, huống chi dùng hình pháp nặng nề mà lại xét hỏi được vậy? Nếu về lí đáng xét hỏi thì hai vị Tuân, Khổng há lại tùy tiện cùng nhau xin khoan thứ sao? Sủng làm việc ấy là có tấm lòng của quan lại tàn khốc vậy. Dẫu sau đó được khen, nhưng sao cỏi bỏ được tiếng xấu tàn khốc lúc trước?
Bấy giờ Viên Thiệu nổi mạnh ở phía bắc sông Hà(1), mà quận Nhữ Nam là quận gốc của Thiệu, bọn tân khách bạn bè rải khắp các huyện, đem quân tự giữ, Thái Tổ vì vậy mà lo lắng, lấy Sủng làm Nhữ Nam Thái thú. Sủng chiêu mộ được năm trăm người thần phục, đem quân đánh chiếm hơn hai mươi đồn, dụ bọn cừ súy chưa hàng trong số bọn chúng, giết hơn mười người ở trên ghế, một lúc đều yên. Thu được hai vạn hộ dân, hai nghìn quân, sai đến làm ruộng.
Năm Kiến An thứ mười ba, theo Thái Tổ đánh Kinh Châu. Đại quân về, giữ Sủng ở lại làm Phấn uy Tướng quân, đóng quân ở huyện Đương Dương. Tôn Quyền nhiều lần quấy nhiễu miền đông, lại gọi Sủng về làm Nhữ Nam Thái thú, ban tước Quan Nội Hầu. Quan Vũ vây thành Tương Dương, Sủng giúp Chinh nam Tướng quân Tào Nhân đóng quân ở Phàn Thành chống Vũ, mà quân của bọn Tả Tướng quân Vu Cấm vì mưa dầm lâu ngày nước sông dâng cao, bị Vũ diệt. Vũ đánh Phàn Thành gấp, Phàn Thành bị ngập nước, các chỗ vỡ lở, quân sĩ đều mất sắc mặt. Có người bảo Nhân nói: "Ngày nay nguy khốn, không có sức giúp. Nên nhân lúc Vũ vây chưa gấp, buổi đêm chèo thuyền nhẹ mà chạy, dẫu mất thành nhưng vẫn còn thân". Sủng nói: "Nước sông chảy xiết nhưng sẽ không lâu. Nghe nói Vũ đã sai tướng khác đóng quân ở dưới huyện Giáp, từ huyện Hứa về phía nam, trăm họ rối loạn, mà Vũ không dám đến đuổi là vì sợ quân ta chặn mặt sau của hắn thôi. Nay nếu bỏ trốn thì vùng sông Hồng về phía nam không còn thuộc nhà nước nữa; ông nên giữ đợi". Nhân nói: "Hay". Sủng bèn giết ngựa trắng, thề ước cùng quân sĩ. Vừa lúc bọn Từ Hoảng đến cứu, Sủng gắng đánh có công, Vũ bèn rút. Tiến phong An Dương Đình Hầu. Văn Đế lên ngôi Vương, chuyển làm Dương vũ Tướng quân. Có công phá quân Ngô ở Giang Lăng, lại bái làm Phục ba Tướng quân, đóng quân ở Tân Dã. Đại quân đánh phương nam, đến hồ Tinh, Sủng đem các quân đi trước, đối trận cách sông với giặc. Sủng răn các tướng nói: "Đêm nay gió rất mạnh, giặc tất đến đốt quân ta, nên phòng bị chúng".Các quân đều cảnh giác. Nửa đêm, giặc quả đúng sai mười cánh quân lẻn buổi đêm đến đốt lửa. Sủng ém quân đánh phá giặc, tiến phong Nam Hương Hầu. Năm Hoàng Sơ thứ ba, ban tiết việt cho Sủng. Năm thứ năm, bái làm Tiền Tướng quân. Minh Đế lên ngôi Đế, tiến phong Xương Ấp Hầu. Năm Thái Hòa thứ hai, lĩnh chức Dự Châu Thứ sử. Mùa xuân năm thứ ba, người huyện Giáng nói là Ngô phòng giữ nghiêm ngặt, nói phao là muốn đến phía bắc sông Giang săn bắn, Tôn Quyền muốn tự đi. Sủng tính Quyền tất đánh úp huyện Tây Dương, bèn phòng bị chỗ ấy, Quyền nghe tin, rút về. Mùa thu, sai Tào Hưu từ phía nam Lư Giang vào Hợp Phì, sai Sủng đến Hạ Khẩu. Sủng dâng sớ nói: "Tào Hưu dẫu sáng suốt nhưng ít khi dùng binh, nay con đường mà Hưu đi dựa lưng vào hồ, lại bên cạnh sông, dễ đi mà khó rút, đấy là đất lõm của cánh quân ấy. Nếu vào cửa Vô Cường, nên phòng bị cẩn thận". Biểu của Sủng chưa đến, Hưu đã vào sâu. Giặc quả đúng từ cửa Vô Cường cắt đứt hang Giáp Thạch, chặn đường về của Hưu. Hưu đánh không được lợi, rút chạy. Vừa lúc bọn Chu Linh từ phía sau đến chặn đường, gặp nhau với giặc, giặc kinh hãi rút chạy, quân của Hưu mới về được. Năm đó Hưu hoăng, Sủng từ chức Tiền Tướng quân thay Hưu trông coi việc quân của các quận Dương Châu. Quân dân quận Nhữ Nam luyến tiếc, lớn nhỏ dắt nhau đi theo trên đường, không ngăn cấm được. Quân hộ vệ dâng biểu lên muốn giết kẻ đứng đầu trong bọn ấy. Hạ chiếu sai Sủng đem nghìn quân thân cận đi theo, quân còn lại một tên cũng không hỏi tới. Năm thứ tư, bái Sủng làm Chinh đông Tướng quân. Mùa đông năm đó, Tôn Quyền phao tin muốn đến Hợp Phì, Sủng lệnh gọi các quân Duyện Châu, Dự Châu đều tụ tập. Giặc bèn dần dần lui về, hạ chiếu bãi binh. Sủng cho rằng nay giặc phát binh lớn mà lại rút, đấy không phải là ý gốc vậy, tất muốn giả rút để cho quân ta bãi rồi quay lại thừa cơ lúc trống trải, đánh lúc quân ta không phòng bị vậy, do đó lệnh không bãi binh. Hơn mười ngày sau, Quyền quả nhiên quay lại, đến thành Hợp Phì, không thắng mà về. Năm sau đó, tướng Ngô là Tôn Bố sai người đến Dương Châu xin hàng, nói rằng: "Đường xa không tự thân đến được, xin đem quân đến đón". Thứ sử Vương Lăng tin thư của Bố, xin quân mã đón Bố. Sủng cho là tất giả, không cho quân, lại sai Lăng viết thư gửi nói: "Biết được phải trái, muốn tránh họa đón thuận, bỏ ngược bạo theo chính đạo, thật đáng khen ngợi. Nay muốn sai quân đến đón, nhưng vì quân ít thì không đủ để phòng bị, quân nhiều thì việc tất truyền xa. Vả lại giữ kín kế trước để ý muốn được làm xong, tùy lúc mà làm cho vừa hợp". Gặp lúc Sủng nhận thư phải về chầu, răn bảo quan Trưởng sử ở lại nói: "Nếu Lăng muốn đến đón, không được cho quân". Lăng sau đó nhiều lần xin quân không được, bèn tự sai một Đô đốc đem bảy trăm quân kị bộ đến đón Bố. Bố nhân buổi đem lẻn đánh, quan Đô đốc đều chạy, chết hại quá nửa. Lúc trước, Sủng làm việc không hợp với Lăng, bè đảng của Lăng gièm pha Sủng già bệnh lầm lẫn, cho nên Minh Đế mới gọi Sủng về. Đã đến, thấy chí khí cứng cỏi, bèn sai quay lại.
Thế ngữ viết: Vương Lăng dâng biểu nói Sủng tuổi già lại ham rượu, không nên coi việc nơi xa. Đế muốn gọi Sủng về, Cấp sự trung là Quách Mưu nói: "Sủng làm Nhữ Nam Thái thú, Dự Châu Thứ sử hơn hai mươi năm có công to lớn. Đến lúc giữ Hoài Nam, người Ngô sợ Sủng. Nếu không đúng như biểu của Lăng, đấy là bị gièm vậy. Cũng nên lệnh về chầu, hỏi việc ở địa phương để xem xét". Đế nghe theo. Sủng đã đến, vào gặp, uống đến một thạch rượu mà không say. Đế vỗ về Sủng, sai quay lại.
Sủng nhiều lần dâng biểu xin ở lại, hạ chiếu lệnh nói: "Xưa Liêm Pha ăn khỏe, Mã Viện ngồi yên(2), nay ông chưa già mà tự nói là đã già, sao lại làm trái với Liêm, Mã vậy? Lòng trung của người giữ yên được biên giới, đấy là cái ân cho Trung Quốc vậy".
Năm sau, tướng Ngô là Lục Tốn đến Lư Giang, người bàn cho là nên nhanh đến phòng bị. Sủng nói: "Lư Giang dẫu nhỏ nhưng tướng khỏe binh mạnh, giữ được lâu dài. Lại nữa giặc bỏ thuyền cách hai trăm dặm đến đấy, phía sau để trống, vẫn muốn dụ quân ta, nay nên nhân lúc này mà đi đánh, chỉ e chạy không kịp được thôi". Đem quân đến cửa Dương Nghi, giặc nghe tin đại quân xuống phía đông, liền nhân buổi đêm chạy trốn. Bấy giờ Quyền có kế đánh lại. Năm Thanh Long thứ nhất, Sủng dâng sớ nói: "Phía nam thành Hợp Phì liền với sông hồ, phía bắc xa thành Thọ Xuân, nếu giặc đến vây chỗ ấy, nên dựa vào sông mà chống giữ; nếu quân đến cứu, phải phá sau lưng giặc rồi mới giải được vây. Giặc đến rất dễ, mà quân ta đến cứu lại rất khó, nên đem quân vào trong thành, phía tây thành ba mươi dặm có chỗ hiểm nên dựa được, lại đắp thành đề giữ vững, đấy là dẫn giặc vào đất bằng mà chặn đường về của chúng vậy, kế ấy là hay hơn". Hộ quân Tưởng Tế bàn cho rằng: "Đã tỏ vẻ yếu trước thiên hạ, lại đứng xem giặc đốt lủa mà phá thành, đấy là chưa đánh mà tự thua vậy. Còn hơn như thế, bị cướp bóc không kể hết, tất phải về phía bắc sông Hoài mà giữ thôi". Đế chưa theo. Sủng dâng biểu dồn dập nói: "Tôn Tử nói: 'Dùng binh phải lừa dối'. Cho nên có sức mà tỏ vẻ yếu không sức. Lấy lợi để làm địch kiêu căng, tự mình tỏ vẻ sợ hãi. Đấy là tỏ vẻ ngoài như thế mà không phải như thế vậy. Lại nói: "Người giỏi dẫn dụ địch, phải tỏ vẻ ngoài". Nay giặc chưa đến mà dời rút vào thành, đấy gọi là tỏ vẻ ngoài để dụ địch vậy. Dẫn giặc rời sông, chọn lúc lợi mà đánh, ở ngoài đánh được thì ở trong tất được giúp vậy". Thượng thư Triệu Tư cho rằng kế của Sủng là hay, bèn hạ chiếu nghe theo. Năm đó, Quyền tự đi, muốn vây thành mới, vì chỗ ấy xa sông, đợi hai mươi ngày không dám xuống thuyền. Sủng bảo các tướng nói: "Quyền thấy ta dời thành, trong quân tất có kẻ nói lời kiêu ngạo, nay phát quân lớn đến muốn đánh một trận mà lập công, dẫu không dám đến, nhưng tất đem quân lên bờ để diễu oai mạnh". Bèn ngầm sai sáu nghìn quân bộ kị nấp phục ở ngoài thành Hợp Phì để đợi giặc. Quyền quả
đúng đem quân lên bờ diễu oai, quân sĩ nấp phục của Sủng cùng xông ra đánh, chém mấy trăm thủ cấp, có kẻ rơi xuống nước chết. Năm sau, Quyền tự đem mười vạn quân đến Tân Thành của thành Hợp Phì. Sủng đi nhanh đến cứu, chiêu mộ mấy chục tráng sĩ, chặt gỗ thông làm đuốc, lấy dầu bôi lên, từ đầu nguồn gió phóng lửa, đốt chiến cụ của giặc, bắn chết con em của Quyền là Tôn Thái. Do đó giặc rút về. Mùa xuân năm thứ ba, Quyền sai mấy nghìn nhà quân làm ruộng ở phía bắc sông. Đến tháng tám, Sủng cho rằng lúa ruộng sắp chín, trai gái ra đồng, quân phòng vệ của giặc có kẻ rời thành mấy trăm dặm, đánh lén được vậy. Sai Trưởng sử đem ba quân men theo phía đông sông mà xuống, đánh phá các trại, đốt cháy thóc lúa rồi về. Hạ chiếu khen Sủng, nhân đó đem hết các đồ thu được của giặc thưởng cho tướng sĩ.
Năm Cảnh Sơ thứ hai, thấy Sủng tuổi già bèn gọi về, chuyển làm Thái úy. Sủng không vun vén tiền của, trong nhà không có của thừa. Hạ chiếu nói: "Ông coi việc quân ở ngoài, dốc lòng nghĩ việc công, có phong thái của Hành Phủ, Sái Tôn(3). Ban cho mười khoảnh ruộng, năm trăm hộc gạo, hai mươi vạn đồng tiền, để biểu dương tiết tháo trung thành tiết kiệm". Sủng trước sau được tặng ấp, cả thảy có chín nghìn sáu trăm hộ, phong hai người con cháu làm Đình hầu. Năm Chính Thủy thứ ba thì hoăng, thụy là Cảnh Hầu. Con là Vĩ nối tự. Vĩ có đức hạnh mà nổi tiếng, làm quan đến chức Vệ úy.
Thế ngữ viết: Vĩ tự Công Hoành, có phong thái của Sủng, hai mươi tư tuổi làm Đại Tướng quân duyện. Vào thời nạn Cao Quý Hương Công(4), theo chức phận giữ cửa cung điện của Nhà vua, em của Tư Mã Văn Vương là An Dương Đình Hầu tên là Hàn muốn vào. Vợ của Hàn là em gái của Vĩ vậy. Trường Vũ bảo Hàn nói: "Cửa ấy gần, Công sắp đến, không có người vào, nên theo cửa phía đông". Hàn bèn nghe theo. Văn Vương hỏi Hàn vào sao chậm vậy, Hàn nói nguyên nhân. Tham quân Vương Tiện không vào được, giận lắm. Rồi Tiện vì tả hữu của Văn Vương là Khải Vương, Mãn Duyện chặn cửa không cho người vào trong, bị xét tội. Ở trận Thọ Xuân, Vĩ theo Văn Vương đến đất Hứa, bị bệnh không đi, cho con đi theo, xin về nhà chữa bệnh, việc xong lại theo về, do đó bị Văn Vương giận. Bắt Trường Vũ xét hỏi đánh đến chết, Vĩ được tha, giáng làm dân thường. Bấy giờ người đời cho là oan uổng. Con em của Vĩ là Phấn, giữa năm Nguyên Khang thời nhà Tấn làm đến chức Thượng thư lệnh, Tư lệ Hiệu úy. Sủng, Vĩ, Trường Vũ, Phấn đều có thân cao tám thước. Kí Châu kí của Tuân Xước viết: Tính Phấn điềm tĩnh, tiết kiệm. Tấn chư công tán viết: Tính Phấn rộng rãi nhã nhặn, có phong thái của Sủng vậy.
Chú thích:
(1) Sông Hà: tức sông Hoàng Hà.
(2) Liêm Pha ăn khỏe, Mã Viện ngồi yên: Liêm Pha là tướng nước Triệu thời Chiến quốc, vua Triệu muốn dùng làm tướng chống quân Tần, vì lo Liên Pha tuổi già nên sai sứ đến thử xem, Liêm Pha bèn ăn một đấu gạo, mười cân thịt trong một bữa, rồi mặc áo giáp lên ngựa chạy mấy vòng để tỏ rõ còn khoẻ mạnh. Mã Viện là tướng nhà Hán, người Man ở Ngũ Khê làm loạn, Mã Viện bấy giờ đã già nhưng vẫn xin đi đánh, vua Hán sai thử, bèn lấy ngồi yên ngựa nắm cương mà cưỡi để tỏ rõ mình còn khỏe mạnh. Đều là những tướng già ham đánh trận lập công thời xưa.
(3) Hành Phủ, Sái Tôn: Hành Phủ tức Quý Văn Tử, đại thần nước Lỗ thời Xuân thu, cẩn thận tiết kiệm. Sái Tôn là đại tướng thời Hán, lập nhiều công lao, cẩn thận tiết kiệm, nhà không có của thừa.
(4) Cao Quý Hương Công: tức Tào Mao, bấy giờ Tư Mã Văn Vương nắm chính sự, Tào Mao mưu diệt thế lực của họ Tư Mã, việc lộ, bị giết.

TRUYỆN ĐIỀN DỰ
Điền Dự tự Quốc Nhượng, người huyện Ung Nô quận Ngư Dương. Lúc Lưu Bị đến nương nhờ Công Tôn Toản thì Dự còn nhỏ tuổi, tự gửi thân nơi Bị, Bị rất coi trọng. Lúc Bị làm Dự Châu Thứ sử, Dự vì mẹ già mà xin về, Bị khóc lóc cùng chia tay, nói: "Chỉ hận không được cùng ông làm nên nghiệp lớn".
Công Tôn Toản sai Dự làm Đông Châu Lệnh, tướng của Toản là Vương Môn phản Toản, giúp Viên Thiệu đem hơn vạn quân đến đánh. Quân sợ, muốn hàng, Dự lên mặt thành bảo Môn nói: "Ông được họ Công Tôn coi trọng mà lại bỏ đi, trong lòng chắc là bất đắc dĩ thôi; vậy mà nay lại làm giặc, biết ông là kẻ làm loạn rồi. Người có trí nông cạn như cái bình nhỏ mà vẫn biết giữ lòng trung không đổi, ta đã nhận lệnh, sao ngươi đánh gấp vậy"? Môn thẹn mà rút quân. Toản dẫu biết Dự có mưu lược nhưng lại không dùng vậy. Toản thua, rồi Tiên Vu Phụ được người trong quận bầu chọn, coi việc quan Thái thú, vốn khen tài Dự, dùng làm Trưởng sử. Bấy giờ hào kiệt cùng nổi dậy, Phụ chẳng biết theo về ai, Dự bảo Phụ nói: "Người cuối cùng định được thiên hạ tất là họ Tào vậy, nên nhanh theo về thì sau này không rước họa". Phụ theo kế của Dự, bèn được phong thưởng. Thái Tổ gọi Dự đến làm Thừa tướng Quân mưu duyện, làm Dĩnh Âm, Lang Lăng Lệnh, chuyển làm Dặc Dương Thái thú, các chỗ đến nhậm chức đều được sửa trị.
Yên Lăng Hầu Chương(1) đánh Đại Quận, lấy Dự làm Tướng. Đem quân đến phía bắc huyện Dịch, giặc ém quân kị chặn đánh, quân sĩ rối loạn, chẳng biết làm sao, Dự dựa vào thế đất, đem quân về lập thế trận vòng tròn, đặt cung nỏ dày đặc ở trong trận, làm nghi binh để che giấu chỗ kém của mình. Quân Hồ không tiến được, tan chạy. Đuổi đánh, đại phá chúng, cuối cùng đi đến bình Đại Quận, đều là kế của Dự vậy.
Chuyển làm Nam Dương Thái thú. Lúc trước, người trong quận là Hầu Âm phản, tụ tập mấy nghìn người trong núi làm bọn cướp, gây hại lớn cho quận. Thái thú lúc trước bắt được phe đảng và hơn năm trăm người của chúng, dâng tấu xin xử tội chết, Dự đến gặp hết bọn tội tù, an ủi, mở con đường tự sửa mới cho chúng, cùng lúc cởi trói ra mà sai khiến. Bọn tội tù đều cúi đầu, xin tự chuộc tội, liền tự bảo nhau, bọn cướp một sớm đều tan rã, trong quận được yên ổn. Đem việc tấu lên, Thái Tổ khen Dự.
Đầu thời Văn Đế, người Địch miền bắc cường mạnh, xâm nhiễu biên ải phía bắc, bèn sai Dự lĩnh chức Trì tiết Hộ Ô Hoàn Hiệu úy, Khiên Chiêu, Giải Tuấn cùng làm Hộ Tiên Ti Hiệu úy. Từ huyện Cao Liễu đến phía đông, từ chỗ của người Uế Mạch về phía tây, mấy chục bộ lạc Tỉ Năng, Di Gia, Tố Lợi người Tiên Ti cắt đất chiếm giữ, đều có chia ranh giới, lại cùng thề ước, đều không muốn đem ngựa trao đổi với Trung Quốc. Dự cho rằng người Di Địch hợp làm một thì không phải là điều lợi của Trung Quốc, bèn li gián chúng trước, khiến cho chúng tự thù ghét, đánh giết lẫn nhau. Bộ lạc Tố Lợi làm trái lời thề, đem nghìn con ngựa trao cho quan quân, bị bộ lạc Tỉ Năng đánh, xin cứu với Dự. Dự lo chúng tự hợp lại với nhau, sẽ gây hại nhiều thêm, bèn cứu kẻ thiện, đánh kẻ ác, tỏ ân tín với người Địch, tự đem quân tinh nhuệ đi sâu vào trại giặc, người Hồ đông nhiều, đem quân vây trước sau, chặn ngang đường về. Dự bèn tiến quân, lập đồn trại cách giặc hơn mười dặm, tụ nhiều phân trâu ngựa khô lại mà đốt, rồi từ đường khác dẫn quân đi. Người Hồ thấy khói lửa không dứt, cho rằng Dự vẫn ở đó, bèn bỏ đi, được mấy chục dặm mới biết, lại đuổi theo Dự đến Mã Thành, vây đến mười vòng, Dự phòng giữ nghiêm ngặt, sai quan Tư mã dựng cờ tinh, đánh gõ trống, đem quân bộ kị ra từ cửa nam, người Hồ đều dõi mắt đến đuổi theo. Dự đem quân tinh nhuệ ra từ cửa bắc, đánh trống hò reo mà ra, hai đầu cùng ập đến, ra chỗ giặc không ngờ, quân giặc rối loạn, đều tự dẫn dắt ngựa mà chạy, đuổi đánh đến hơn hai mươi dặm, thây chết đầy đất. Lại có vua của người Ô Hoàn là Cốt Tiến ương ngạnh không thần phục, do đó Dự ra biên ải xem xét, tự đem hơn trăm quân kị thuộc hạ vào trại, Tiến đón bái, bèn sai tả hữu chém Tiến, kể rõ tội lỗi của hắn để ban lệnh cho quân dân, quân dân đều sợ hãi không dám động đậy, lại lấy em của Tiến thay Tiến. Từ đấy, người Hồ vỡ mật, oai lừng sa mạc. Bọn giặc trên núi là Cao Ngải có mấy nghìn người cướp bóc, gây hại ở miền U, Kí, do đó Dự dụ bộ lạc Tố Lợi người Tiên Ti chém Ngải, đưa đầu đến kinh đô, phong Dự làm Trường Lạc Đình Hầu. Làm Hộ Ô Hoàn Hiệu úy được chín năm, ngăn ngừa người Di Địch, thường bẻ gãy ra mà chiếm lấy, chia rẽ bọn cường mạnh. Như những kẻ trốn tránh gian xảo giúp người Hồ tính kế gây việc không có lợi cho quan quân, Dự đều quấy phá chia rẽ, khiến cho mưu ác xấu của chúng không thành, những bộ lạc tụ họp không được yên ổn. Việc còn chưa xong, mà bè đảng của U Châu Thứ sử Vương Hùng muốn Hùng lĩnh chức Ô Hoàn Hiệu úy, phá kế của quấy biên của Dự(2), gây khó cho nhà nước, bèn chuyển Dự làm Nhữ Nam Thái thú, thêm chức Điễn Di Tướng quân.
Cuối năm Thái Hòa, Công Tôn Uyên đem quận Liêu Đông phản, Đế muốn đánh Uyên nhưng khó chọn người, Trung lĩnh quân Dương Kị cử Dự nên dùng.
Thần là Tùng Chi xét: Kị tự Hưu Tiên, người huyện Huỳnh Dương, việc này thấy ở truyện Lưu Diệp. Con Kị là Triệu, làm Kinh Châu Thứ sử thời Tấn. Khải sự của Sơn Đào khen Triệu có tài năng. Con Triệu là Đàm, tự Đạo Nguyên, con thứ là Hâm, tự Công Tự, con Đàm là Úc, tự Trường Văn, con thứ là Kinh, tự Trọng Vũ, đều thấy ở trong Phan Nhạc tập.
Bèn sai Dự giữ chức cũ, đô đốc các quân của vùng Thanh Châu, cầm cờ tiết đến đánh Uyên. Gặp lúc giặc Ngô sai sứ đến liên kết với Uyên. Đế cho là giặc đông nhiều, lại đã vượt biển, hạ chiếu Dự phải bãi binh. Dự tính thuyền giặc sẽ quay về, cuối năm gió to, tất sợ trôi dạt, mà đi về phía đông lại không có bờ, phải đến Thành Sơn. Thành Sơn không phải là chỗ chứa thuyền, phải men theo bờ biển, xem xét thế đất và các núi đảo, ngăn chặn nơi hiểm yếu, bày binh đóng giữ. Dự tự vào Thành Sơn, trèo lên đài Hán Vũ mà trông. Giặc về, quả đúng gặp gió to, thuyền đều va vào núi đá chìm nghỉm, sóng xô ngập bờ, không có chiếc thuyền nào được thoát, rút cuộc bắt hết quân giặc. Lúc đầu, các tướng đều cười Dự đợi giặc ở chỗ trống vắng, đến lúc giặc phá, mới chịu cùng mưu tính, xin vào biển vớt lấy thuyền trôi, Dự sợ giặc thế cùng liều chết mà đánh, đều không nghe. Lúc trước, Dự làm Thái thú, đô đốc các quân của Thanh Châu, Thanh Châu Thứ sử Trình Nhất trong lòng không phục, lúc có việc quân, nhiều lần làm sai lầm. Nhất biết Đế thích ngọc châu, bèn ngầm dâng biểu nói: "Dự dẫu có công đánh trận nhưng hiệu lệnh buông trễ, bắt được đồ khí giới vàng ngọc rất nhiều mà lại chia ra, đều không nạp vào sở quan". Do đó không được xét công.
Sau đó, Tôn Quyền đem mười vạn quân đánh Tân Thành, Chinh đông Tướng quân Mãn Sủng muốn đem các quân đến cứu. Dự nói: "Giặc phát hết quân lớn, không những tìm lấy cái lợi nhỏ mà còn muốn đánh Tân Thành để dụ đại quân ta đến đánh thôi. Nên nghe theo đến đánh, bẻ gãy khí mạnh của giặc, không cần tranh thắng với giặc, nếu thành không vỡ, giặc tất rút về; sau khi rút về mới đuổi đánh mới thắng lớn được vậy. Nếu giặc biết kế ấy, tất không đánh thành, như thế cũng phải tự rút chạy. Nếu tiến binh ngay, tất trúng kế giặc. Lại nữa, đại quân chọn hướng đi phải khiến cho giặc khó biết, không để giặc tự mưu tính trước". Dự liền tấu lên, Thiên tử theo kế ấy. Đúng là giặc rút chạy. Sau đó quân Ngô lại đến cướp, Dự đến chống chúng, giặc lại rút. Các quân buổi đêm kinh hãi, nói: "Giặc lại đến"! Dự nằm không dậy, lệnh ba quân rằng: "Ai dám đánh thì chém". Chốc lát, rút cuộc không có giặc đến.
Cuối năm Cảnh Sơ, tăng ba trăm hộ ấp, cùng năm trăm hộ trước. Đầu năm Chính Thủy, chuyển làm Sứ trì tiết, Hộ Hung Nô Trung lang tướng, thêm chức Chấn uy Tướng quân, lĩnh chức Tinh Châu Thứ sử. Người Hồ ngoài biên giới nghe uy danh của Dự, cùng nhau đến cống nạp. Biên giới yên tĩnh, trăm họ nhờ ơn ấy. Gọi về làm Vệ úy, thường xin nhường chức, Thái bảo Tư Mã Tuyên Vương cho rằng Dự cứng cỏi, hạ chiếu dụ không nghe. Dự gửi thư đáp nói: "Qua bảy mươi tuổi mà vẫn nhậm chức, ví như chuông kêu hồi kết, lại đi đêm không được nghỉ, đấy là kẻ có tội vậy". Lại cố xưng bệnh nặng, rồi bái làm Thái trung Đại phu, ăn lộc quan Khanh. Tám mươi hai tuổi thì hoăng. Con là Bành Tổ nối tự.
Ngụy lược viết: Dự từ quan về nhà, trú ở huyện Ngụy. Gặp lúc quận Nhữ Nam sai Kiện Bộ đi đánh phương bắc, cảm kích ân đức của Dự, qua bái tạ Dự. Dự bèn giết gà nấu cơm, đi tiễn đến đầu bờ ruộng, bảo Kiện Bộ nói: "Ta đã già, ngươi vất vả qua đây mà ta không có gì giúp, vất vả không"? Kiện Bộ thương cái nghèo khổ của Dự, khóc lóc mà đi, trở về được quan dân khen ngợi. Người quận Nhữ Nam góp mấy nghìn đồng tiền, sai người đến tặng Dự, Dự chẳng lấy một đồ gì. Gặp lúc bệnh chết, răn vợ con mình nói: "Phải táng ta ở bên cạnh mộ Tây Môn Báo"(3). Vợ gạn hỏi nói: "Tây Môn Báo là người thần thời xưa, sao lại phải táng bên người này"? Dự nói: "Việc mà Báo làm giống ngang với ta vậy, cho nên lúc chết vẫn có linh, tất làm bạn với ta". Vợ con nghe theo. Người quận Nhữ Nam nghe tin Dự chết, bùi ngùi, rồi vẽ tranh hình Dự, lại làm bia khắc công.
Dự trong sạch tiết kiệm, có ban thưởng đều chia cho tướng sĩ. Mỗi khi người Hồ, người Địch tặng riêng, đều cất vào sở quan, không giấu ở nhà riêng; nhà thường nghèo túng. Dẫu là người khác, đều khen tiết tháo cao đẹp của Dự.
Ngụy lược viết: Bọn Tố Lợi người Tiên Ti nhiều lần đến làm khách, nhiều lần đem trâu ngựa đến tặng Dự; Dự chuyển hết vào sở quan. Người Hồ cho rằng các vật tặng Dự lúc trước rất quý báu, nhưng không bằng đem tặng vàng, bèn ngầm đem ba mươi cân vàng đến, bảo Dự rằng: "Nguyện làm tả hữu, ta muốn có cái đạo của tả hữu". Dự nghe theo, người Hồ nhân đó quỳ bái, nói: "Ta thấy ông nghèo, cho nên trước sau tặng trâu ngựa cho ông, ông lại cho vào sở quan, nay ngầm đem vàng dâng cho ông, nên lấy làm tiền của trong nhà mình". Dự đưa túi ra nhận lấy, đối đáp ý tốt ấy. Sau khi người Hồ đi, đều đem hết ra ngoài, lấy việc này tấu lên. Do đó hạ chiếu khen Dự nói: "Ngày xưa Ngụy Giáng(4) vỗ về để thu nạp người Khương, ngày nay khanh nâng túi để nhận vàng của người Địch, trẫm rất khen ngợi". Lại liền bàn cho năm tram thất lụa. Dự được ban, chia một nửa cất trong nhà mình, sau đó người Hồ lại đến, đem một nửa tặng cho họ.
Năm Gia Bình thứ sáu, hạ chiếu khen thưởng, ban tiền gạo cho nhà Dự. Lời này tại truyện Từ Mạc.
Chú thích:
(1) Yên Lăng Hầu Chương: tức Tào Chương, con thứ của Tào Tháo, được phong tước Yên Lăng Hầu.
(2) Kế của quấy biên của Dự: là kế li gián, quấy rối sự liên kết của người Hồ của Điền Dự.
(3) Tây Môn Báo: người nước Ngụy thời Chiến quốc, có tài năng chính trị.
(4) Ngụy Giáng: người nước Tấn thời Xuân thu, đề ra chủ trương hòa thân với người Sơn Nhung phía bắc.

TRUYỆN KHIÊN CHIÊU
Khiên Chiêu tự Tử Kinh, người huyện Quan Tân quận An Bình. Năm hơn mười tuổi , đến nhà người cùng huyện là Nhạc Ẩn theo học. Sau đó Ẩn làm Trưởng sử của Xa kị Tướng quân Hà Miêu, Chiêu đi theo làm lính. Đến thời kinh đô loạn, Miêu, Ẩn bị hại, Chiêu và học trò của Ẩn là bọn Sử Lộ xông xáo vào nơi đao nhọn, cùng tấn liệm thây Ẩn, chở về quê chôn táng, trên đường đi bị cướp bóc, bọn Lộ đều tan chạy cả, bọn cướp muốn phá quách lấy đinh, Chiêu rơi nước mắt xin tha. Bọn cướp khen là có nghĩa, bèn tha bỏ đi. Do đó mà nổi tiếng.
Kí Châu Mục là Viên Thiệu mời làm Đốc quân Tòng sự, trông coi quân đột kị Ô Hoàn. Người nhà của Thiệu trái lệnh, Chiêu chém trước rồi báo sau, Thiệu cho là lạ mà không phạt tội vậy. Thiệu chết, lại thờ con Thiệu là Thượng. Năm Kiến An thứ chín, Thái Tổ vây huyện Nghiệp. Thượng sai Chiêu đến Thượng Đảng, coi việc chở lương quân. Chưa về, Thượng thua chạy đến Trung Sơn. Bấy giờ anh họ bên ngoại của Thượng là Cao Hàn làm Tinh Châu Thứ sử, Chiêu cho rằng bên trái Tinh Châu có cái hiểm của núi Hằng Sơn, bên phải có cái vững của sông lớn, có năm vạn quân mặc giáp, phía bắc liền với người Hồ mạnh, khuyên Hàn đón Thượng, dựa vào đất Tinh Châu mà xem sự biến, nhưng Hàn không nghe, lại muốn hại Chiêu. Chiêu nghe tin, đi lẻn mà bỏ trốn, đường nghẽn không theo kịp Thượng, bèn đi về phía đông đến chỗ Thái Tổ. Lúc Thái Tổ lĩnh cả Kí Châu, cho làm Tòng sự.
Thái Tổ sắp đánh Viên Đàm, nhưng người Ô Hoàn huyện Liễu Thành muốn đem quân kị giúp Đàm. Thái Tổ cho rằng Chiêu từng trông coi quân Ô Hoàn, bèn sai đến Liễu Thành. Đến nơi, vừa lúc Tiễu Vương Nghiêm đang đem năm nghìn quân kị đến tặng Đàm. Lại có Liêu Đông Thái thú Công Tôn Khanh tự xưng Bình Châu Mục, sai sứ giả là Hàn Trung đem ấn Thiền vu ban cho Tiễu Vương, Tiễu Vương tụ họp bầy tôi, Trung cũng ngồi trong hội. Tiêu Vương hỏi Chiêu nói: "Lúc trước Viên Công nhận lệnh của Thiên tử, phong ta làm Thiền vu; nay Tào Công lại nói sẽ báo cho Thiên tử, phong ta làm Thiền vu thật; sứ giả quận Liêu Đông lại cầm ấn thao đến. Như thế, ai mới là chính"? Chiêu đáp nói: "Ngày trước Viên Công thừa lệnh, được tự ý bái phong, nhưng bên trong là trái lệnh, cho nên Thiên tử sai Tào Công đến đánh, nói là sẽ báo cho Thiên tử, phong làm Thiền vu thật, là đúng vậy. Liêu Đông là quận dưới, há được tự ý phong bái sao"? Trung nói: "Liêu Đông ta tại phía đông của biển lớn, có trăm vạn quân, lại có các đồ dung của người Phù Dư, Uế Mạch; xét thế ngày nay, kẻ mạnh làm chủ, há chỉ Tào Tháo làm được sao"? Chiêu cười Trung nói: "Tào Công kính thuận sánh suốt, giúp đỡ Thiên tử, đánh đổ kẻ phản, vỗ về kẻ phục, vỗ yên bốn cõi, vua tôi nhà ngươi ngang bướng, nay dựa vào nơi xa hiểm, làm trái lệnh vua, muốn tự tiện phong bái, coi thường Thiên tử, sắp diệt vong đến nơi, há dám kiêu căng lấn lướt bậc người trên sao"? Liền nắm đầu Trung ghì xuống nền nhà, rút đao muốn chém đi. Tiễu Vương sợ hãi, đi nhanh ôm lấy Chiêu để xin tha cho Trung, tả hữu đều biến sắc mặt, Chiêu mới về chỗ ngồi, nói rõ thành bại, họa phúc giúp bọn Tiễu Vương, đều xuống chiếu quỳ bái, kính theo lệnh vua, lại biện bác sứ giả Liêu Đông, bãi quân kị của họ.
Thái Tổ diệt Đàm ở Nam Bì, cho Khiên làm Quân mưu duyện, theo đi đánh người Ô Hoàn, đến Liễu Thành, bái làm Hộ Ô Hoàn Hiệu úy. Về huyện Nghiệp, sứ giả Liêu Đông đem đầu Viên Thượng đến, treo đầu ở chợ ngựa, Chiêu nhìn mà thương cảm, đến tế dưới đầu, Thái Tổ khen là có nghĩa, cử làm Mậu tài. Đi theo bình Hán Trung, giữ Chiêu lại làm Trung hộ quân. Việc bỏ, về huyện Nghiệp, bái Bình lỗ Hiệu úy, Tướng quân, trong coi việc quân của các quận Từ Châu, Thanh Châu, đánh giặc Đông Lai, chém cừ súy của chúng, miền đông yên ổn.
Văn Đế lên ngôi, bái Chiêu làm Sứ trì tiết, Hộ Tiên Ti Hiệu úy, đóng quân ở Xương Bình. Bấy giờ dân chúng nơi biên giới lưu tán nơi đầm núi, lại có kẻ phản trốn trong chỗ người Tiên Ti, mỗi chỗ có đến hàng nghìn người, Chiêu ban bố ân tín, chiêu dụ họ hàng phục, bọn Kiến nghĩa Trung lang tướng Công Tôn Tập đem lĩnh bộ khúc đến đều nghe lệnh, sai về quận cũ. Lại vỗ về mấy chục vạn người Tiên Ti của bộ lạc Tối Lợi, Di Gia, đều lệnh phải ở yên nơi biên ải.
Đại quân muốn đánh Ngô, gọi Chiêu về, lúc đến, lại bãi binh, bái làm Hữu Trung lang tướng, ra làm Nhạn Môn Thái thú. Quận này tại biên giới, dẫu có phòng bị dò xét nhưng bị cướp bóc không thôi, Chiêu bèn dạy dân đánh trận, lại dâng biểu lập lại việc thu tô thế hơn năm trăm nhà người Ô Hoàn, sai phải sửa sắm yên ngựa, đi ra dò ngóng. Hễ giặc đến xâm phạm biên ải thì đem quân chặn đánh, kẻ đến liền bị đánh phá, do đó khí thế của dân nơi biên giới ngày càng hăng hái, nơi đồng hoang không còn lo sợ nữa. Lại gài người vào li gián, khiến cho giặc tự nghi ngờ nhau. Bọn Đại phu Bộ Độ Căn, Tiết Quy Nê của người Tiên Ti gây hiềm khích với Tỉ Năng, đem hơn ba vạn nhà của bộ lạc mình đến quận nương dựa, hạ lệnh quay về đánh Tỉ Năng, giết em của Tỉ Năng là Tư La Hầu, đến lúc bọn phản phản người Ô Hoàn là Quy Nghĩa Hầu Vương Đồng, Vương Kí, kết thù oán với nhau, do đó Chiệu tự ra, đem theo bọn Tiết Quy Nê đánh Tỉ Năng ở quận cũ Vân Trung, đại phá Tỉ Năng. Chiêu qua lại với hơn mười vạn nhà của bọn Phụ Đầu người Tiên Ti ở phía tây sông Hà, sửa đắp thành quán ở huyện cũ Hình Bắc, đặt quân đồn đóng để ngăn chặn trong ngoài, người Di lớn nhỏ chẳng ai không theo về, bọn trốn phản dẫu là gần gũi cũng không dám giấu giếm, đều bắt hết chở đến. Do đó ngoài đồng bình yên, giặc cướp ngừng nghỉ. Chiêu lại chọn lựa người có tài năng, đưa đến trường học dạy cho, sai trở về tự dạy bảo nhau, trong vòng mấy năm, nhiều trường học được dựng lên. Sở trị của quận ở huyện Quảng Vũ, các giếng nước khô khan, dân đều gánh thùng đi xa mà múc lấy nước, qua lại đến bảy dặm, Chiêu dò xét thế đất, dựa vào mạnh của gò núi mà đục bờ đào kênh, dẫn nước vào trong thành, dân được nhờ cái lợi ấy.
Minh Đế lên ngôi, ban tước Quan nội hầu. Năm Thái Hòa thứ hai, Hộ Ô Hoàn Hiệu úy Điền Dự ra biên ải, bị Kha Tỉ Năng vây ở thành cũ Mã Ấp, hạ chiếu sai Chiêu đến cứu, Chiêu liền sắm sửa binh mã, muốn nhanh đến cứu Dự. Người Tinh Châu dựa theo phép thường để ngăn Chiêu, Chiêu cho là tướng cầm cờ tiết bị vây, không nên cố chấp theo phép quan, tự đem quân đi ngay. Lại cùng gửi hịch đến, kể rõ thế trận, nói là nên đến phía tây bắc bắt lấy nhà giặc rồi mới đi về phía đông, hợp lại đánh giặc. Hịch đến, quân Dự hăng hái, lại đem một tờ hịch đến dụ gọi giặc, giặc liền sợ hãi, phe đảng tan rã. Đem quân đến huyện Bình Thành cũ, giặc lại tan chạy. Tỉ Năng thu nhặt quân kị lại, đến phía bắc biên ải Bình Châu, Chiêu bèn đi lẻn đến đánh, chém nhiều đầu giặc. Chiêu cho rằng giặc Thục là Gia Cát Lượng nhiều lần ra đánh, mà Tỉ Năng lại giảo hoạt, có thể qua lại với nhau, bèn dâng biểu xin phòng bị, người bàn cho là huyện ở xa, chưa ai tin vậy. Gặp lúc Lượng ra tại Kì Sơn, quả đúng sai sứ đến liên kết với Tỉ Năng. Tỉ Năng đến Thạch Thành quận Bắc Địa cũ, đầu đuôi qua lại nhau. Đế bèn hạ chiếu gọi Chiêu, sai tùy theo tình thế thích hợp mà đánh giặc. Bấy giờ Tỉ Năng đã về phía nam sa mạc, Chiêu bàn với Thứ sử Tất Chấp nói: "Giặc Hồ dời chuyển vô thường, nếu đem quân đuổi xa thì rút về không theo kịp. Nếu muốn đánh lén lại gặp khe núi hiểm trở, vận chuyển lương thực lại vất vả, nên sai quân giữ hai cửa ải Tân Hưng, Nhạn Môn, ra đóng quân ở Hình Bắc, ngoài thì vỗ về, trong thì cho quân làm ruộng, cất chứa lương thực, đợi đến thu đông ngựa béo thì hợp binh của châu quận, thừa lúc giặc khó khăn mà đánh dẹp, đánh tất thắng lớn. Chưa kịp thi hành, bị bệnh chết. Chiêu ở tại quân mười hai năm, oai phong lừng cõi xa. Cái tài thống trị dân biên giới chỉ đứng sau Điền Dự, trăm họ nhớ ơn Chiêu. Lại có người quận Ngư Dương là Phó Dung cũng có tiếng tăm ở quận Nhạn Môn, nối nghiệp sau Chiêu, có công lao ở Liêu Đông vậy.
Con Chiêu là Gia nối tự. Con thứ là Hoằng, cũng dũng mãnh có phong thái của Chiêu, làm Lũng Tây Thái thú, theo Đặng Ngải đánh Thục có công, giữa năm Hàm Hi làm Chấn uy Tướng quân. Gia là người cùng mẹ với Tư đồ Lí Dận của nhà Tấn, chết sớm.
Xét Tấn thư viết: Hoằng sau này làm Dương Châu, Lương Châu Thứ sử, cứng cỏi mà chết vì việc nước ở biên giới. Con Gia là Tú, tự Thành Thúc.
Kí Châu Kí của Tuân Xước viết: Tú có tài năng, tính lại hào hiệp, tuổi trẻ đã có tiếng tốt, vào giữa năm Thái Khang được bọn Vệ Quán, Thôi Hồng, Thạch Sùng tiến cử, từ chức Tân An Lệnh Bác sĩ làm Tư không Tòng sự Trung lang, khinh ghét nhau với cậu của Đế là Hoàng môn Thị lang Vương Khải. Khải sai Tư lệ Tuân Khải lệnh Đô quan tấu vu khống Tú buổi đêm thông dâm với vợ của Cao Bình Quốc Thú sĩ Điền Hưng. Tú liền dâng biểu kể rõ nguyên nhân mình bị vu khống, nói rằng Khải làm việc nhơ bẩn, lời lẽ rất hay đẹp. Bấy giờ dẫu có nhiều bầy tôi chứng minh, nhưng tiếng tăm của Tú do đó cũng bị tổn hại. Sau đó Trương Hoa xin làm Trưởng sử, dần dần làm đến Thượng thư. Hà Gian Vương lấy Tú làm Bình bắc Tướng quân, Giả tiết, bị hại tại quận Phùng Dực. Người đời khen thơ phú của Tú, tiếc tài cán của Tú.

TRUYỆN QUÁCH HOÀI
Quách Hoài tự Bá Tế, người huyện Dương Khúc quận Thái Nguyên.
Xét Quách thị phả viết: Ông tổ của Hoài là Toàn, làm Đại Tư nông; cha là Ôn, làm Nhạn Môn Thái thú.
Giữa năm Kiến An cử Hiếu liêm, cho làm Bình Nguyên Phủ thừa. Lúc Văn Đế làm Ngũ quan tướng, làm Môn hạ Tặc tào(1), lại chuyển làm Thừa tướng Binh tào nghị Lệnh sử, theo đi đánh Hán Trung. Thái Tổ về, giữ Chinh tây Tướng quân Hạ Hầu Uyên ở lại chống Lưu Bị, lấy Hoài làm Tư mã của Uyên. Uyên đánh với Bị, bấy giờ Hoài mắc bệnh không đi. Uyên bị hại, trong quân rối loạn, Hoài thu gom quân sĩ tản mát, bầu Đãng khấu Tướng quân Trương Cáp làm tướng quân, các trại mới yên. Ngày hôm sau, Bị muốn vượt sông Hán đến đánh. Các tướng bàn rằng quân mình ít khó địch, vả lại Bị đang thừa thắng, bèn muốn dựa vào sông bày trận để chống. Hoài nói: "Đấy là tỏ cái yếu và không đủ sức để chống địch, kế sai vậy. Không bằng rời xa sông bày trận, dụ địch đi đến, nửa quân qua sông rồi quay lại đánh, mới phá được Bị". Bày trận xong, Bị nghi ngờ, không vượt sông, Hoài bèn giữ vững, tỏ ý không muốn rút quân về. Kể tình trạng báo lên, Thái Tổ khen kế ấy, ban Giả tiết cho Cáp, lại lấy Hoài làm Tư mã. Văn Đế lên ngôi Vương, ban tước Quan nội hầu, chuyển làm Trấn tây Tướng quân, lại giữ chức Chinh Khương Hộ quân, giúp Tả Tướng quân Trương Cáp, Quán quân Tướng quân Dương Thu đánh giặc núi là bọn người Hồ làm phản ở Trịnh Cam, Lô Thủy, đều phá bình chúng. Quan Trung mới định, dân được yên ổn làm việc.
Năm Hoàng Sơ thứ nhất, vâng lệnh về chúc mừng Văn Đế lên ngôi, mà trên đường bị bệnh, cho nên gần xa phải chờ đợi. Lúc bầy tôi dự hội vui vẻ, Đế nghiêm mặt trách Hoài nói: "Ngày xưa vua Vũ hội chư hầu ở Đồ Sơn, Phòng Phong đến muộn, bị xử tội chết. Nay thiên hạ cùng đến chúc mừng mà khanh đến muộn nhất, sao vậy"? Hoài đáp nói: "Thần nghe nói Ngũ Đế lấy đức để dạy dỗ dân, chính sự của nhà Hạ Hậu(2) suy kém mới dùng hình phạt. Nay thần gặp được thời Đường Ngu(3), cho nên tự biết rằng được tha tội chết của Phòng Phong vậy". Đế khen lời này, cho làm Ung Châu Thứ sử, phong Xạ Dương Đình Hầu. Giữ chức năm năm, cừ súy người Khương huyện An Định là Tích Phiếm làm phản, đánh phá bắt hàng hắn. Hễ người Khương, người Hồ đến hàng, Hoài liền sai người thăm hỏi người thân, bao nhiêu trai gái, năm tuổi già trẻ của họ trước; cho nên lúc gặp, nói một hai điều ấy cho họ nghe, hỏi han cặn kẽ, họ đều khen là thần minh.
Năm Thái Hòa thứ hai, Thừa tướng Thục là Gia Cát Lượng ra Kì Sơn, sai Tướng quân Mã Tắc đến Nhai Đình, sai Cao Tường đóng quân ở thành Liệt Liễu. Trương Cáp đánh Tắc, Hoài đánh trại của Tường, đều phá được. Lại phá thủ lĩnh người Khương quận Lũng Tây là Đường Phiếm ở Bào Hãn, bái thêm chức Kiến uy Tướng quân. Năm thứ năm, quân Thục lại ra Lỗ Thành, bấy giờ miền Lũng Hữu không có lúa, mọi người bàn muốn chở lương từ miền Quan Trung đến, Hoài lấy ân uy vỗ về người Khương, Hồ, khiến cho họ đem lúa ra, giúp việc chuyển chở được yên, lương quân đủ dùng, chuyển làm Dương vũ Tướng quân. Năm Thanh Long thứ hai, Gia Cát Lượng ra hang Tà Cốc, lại làm ruộng ở vùng Lan Khanh, bấy giờ Tư Mã Tuyên Vương đóng quân ở bờ nam sông Vị; Hoài tính Lượng tất tranh bãi Bắc Nguyên, nên chiếm lấy trước, nhiều người bàn là không nên. Hoài nói: "Nếu Lượng vượt sông Vị lên bãi, đóng quân liên tiếp ở Bắc Sơn, chặn ngang đường Lũng Đạo, vỗ về người Di, đấy không phải là điều lợi của nhà nước vậy". Tuyên Vương khen lời ấy, Hoài bèn đóng quân ở bãi Bắc Nguyên, đắp lũy chưa xong, đại quân Thục đã kéo đến, Hoài đón đánh chúng. Mấy ngày sau, Lượng đem nhiều quân đi về phía tây, các tướng đều cho rằng Lượng muốn đánh lũy phía tây, riêng Hoài cho rằng Lượng tỏ vẻ đến phía tây, muốn khiến cho quan quân kéo đến ứng cứu chỗ ấy, tất muốn đánh bờ bắc sông mà thôi. Buổi đêm ấy, quả đúng Lượng đánh bờ bắc sông, nhưng có phòng bị nên không lên bờ được.
Năm Chính Thủy thứ nhất, tướng Thục là Khương Duy ra Lũng Tây. Hoài liền tiến quân, đuổi đến Cường Trung, Duy rút chạy, bèn đánh người Khương là bọn Mê Đương, vỗ về hơn ba nghìn người Đê ở huyện Nhu, dời đến mở mang miền Quan Trung. Chuyển làm Tả Tướng quân. Người Hồ theo đạo Hưu Đồ(4) ở Lương Châu là bọn Lương Nguyên Bích đem hơn hai nghìn nhà của bộ lạc mình đến nương nhờ ở Ung Châu, Hoài tấu xin sai họ đến ở tại ấp An Bình của huyện An Định, làm dân giữ biên ải, sau nhân đó đặt chức Tây Châu Đô úy. Chuyển làm Tiền Tướng quân, trông coi châu như cũ.
Năm thứ năm, Hạ Hầu Huyền đánh Thục, Hoài đem các quân làm tiên phong. Hoài tính thế không được lợi, liền rút quân về, cho nên không bị thua to. Về, ban Giả tiết cho Hoài. Năm thứ tám, người Khương ở Lũng Tây, Nam An, Kim Thành, Tây Bình là bọn Ngạ Hà, Thiêu Qua, Nga Già liên kết với nhau làm phản, vây đánh thành ấp, phía nam mời gọi quân Thục, thủ lĩnh người Hồ ở Lương Châu là Trị Vô Đái cùng ứng theo chúng. Thảo Thục Hộ quân Hạ Hầu Bá đem các quân đóng trại ở Vi Sí. Hoài đem quân vừa đến Địch Đạo, các tướng bàn rằng nên đánh chiếm Bào Hãn trước, trong dẹp người Khương ác, ngoài bẻ gãy mưu của giặc. Hoài tính Duy tất đến đánh Bá, bèn vào Phong Trung, về phía nam để đón Bá. Quả đúng Duy đánh Vi Sí, kịp lúc quân của Hoài vừa đến, Duy rút về. Đến đánh người Khương phản loạn, chém Ngạ Hà, Thiều Qua, hơn vạn nhà hàng phục. Năm thứ chín, bọn Già Tắc đóng quân ở thành cũ Hà Quan, Bạch Thổ, dựa vào sông để chống quan quân. Hoài vờ đến đầu nguồn, ngầm đem quân xuôi xuống chiếm thành Bạch Thổ, đánh, đại phá chúng. Trị Vô Đái vây Vũ Uy, để người nhà ở tại Tây Hải. Hoài đem quân hãm Tây Hải, muốn bắt lấy người nhà của hắn, vừa gặp Trị Vô Đái quay về, đánh với nhau ở phía bắc huyện Long Di, phá đuổi hắn. Sai đem hết giặc ác đến ở tại phía tây núi Thạch Đầu, đang trên đường đi thì dừng lại, ngăn chặn sứ giả của Nhà vua, Hoài quay về đánh, đại phá chúng. Khương Duy ra Thạch Doanh, từ Cường Xuyên đi về phía tây đón Trị
Vô Đái, để Âm Bình Thái thú Liêu Hóa đắp thành ở núi Thành Trùng, thu nạp quân Khương bị phá về giữ ở đấy. Hoài muốn chia quân đi đánh lấy. Các tướng cho rằng quân của Duy đến phía tây liên kết với người Hồ mạnh, mà quân của Hóa lại giữ chỗ hiểm, nếu chia quân giữ hai bên, thế quân sẽ bị yếu, đi không ngăn được Duy, lui không chống được Hóa, là kế sai vậy, không bằng hợp lại cùng đi về phía tây, nhân lúc người Hồ, Thục chưa liên kết, ngăn chặn trong ngoài của chúng, đấy là phá thế giao kết của giặc vậy. Hoài nói: "Nay đến đánh lấy quân của Hóa, ra chỗ giặc không ngờ, Duy tất ngoảnh lại cứu. Nếu Duy tự đến, đủ để dẹp được quân của Hóa, lại khiến cho Duy chạy đi vất vả. Như thế quân ta không cần phải đi xa về phía tây mà thế giao kết với người Hồ của giặc tự phá, là kế một lần đánh mà vẹn toàn hai việc". Rồi sai riêng bọn Hạ Hầu Bá đuổi Duy ở Đạp Trung, Hoài tự đem các quân đến đánh bọn Hóa. Duy quả nhiên đi nhanh về cứu Hóa, đều như kế của Hoài. Tiến phong Đô Hương Hầu.
Năm Gia Bình thứ nhất, chuyển làm Chinh tây Tướng quân, đô đốc việc quân của miền Ung, Lương. Năm đó, cùng bày kế với Ung Châu Thứ sử Trần Thái, bắt hàng bọn Nha môn tướng Câu An của Thục ở Sí Thượng. Năm thứ hai, hạ chiếu nói: "Xưa có trận Hán Xuyên, gần như bị nghiêng lật. Hoài xông vào nơi nguy khốn để cứu nạn, ghi công vào Vương phủ(5). Ở tại Quan Hữu hơn ba mươi năm, ngoài đánh dẹp giặc cướp, trong vỗ về người Di. Từ đó đến nay, đập tan Liêu Hóa, bắt giữ Câu An, công lao sáng rõ, trẫm rất khen ngợi. Nay lấy Hoài làm Xa kị Tướng quân, Nghi đồng Tam ti, Trì tiết, Đô đốc như cũ". Tiến phong Dương Khúc Hầu, thực ấp có hai nghìn bảy trăm tám mươi hộ, chia ba trăm hộ phong một người con làm Đình Hầu.
Thế ngữ viết: Vợ Hoài là em gái Vương Lăng. Lăng bị giết, em gái phải bị tội theo, quan Ngự sử đến bắt, quan Đốc tướng cùng mấy nghìn cừ súy người Khương, Hồ rập đầu xin Hoài dâng biểu xin giữ vợ ở lại, Hoài không nghe. Vợ bị bắt đi trên đường, chẳng ai không khóc lóc, người người níu tay, muốn cướp giữ lại. Năm con của Hoài rập đầu chảy máu xin Hoài, Hoài không nỡ đứng nhìn, bèn sai tả hữu theo vợ. Do đó mấy nghìn quân kị đuổi theo, mấy ngày sau mới đưa về. Hoài gửi thư cho Tư Mã Tuyên Vương nói: "Năm người con thương mẹ, chẳng ai tiếc thân mình; nếu không còn mẹ thì không còn năm người con, cũng không còn Hoài nữa. Nay liền đuổi theo đem về, nếu chẳng hợp với luật pháp thì đáng bị chủ phạt tội, sẽ đến hầu đợi phạt tội". Thư đến, Tuyên Vương cũng tha cho.
Năm Chính Nguyên thứ hai, hoăng, truy tặng chức Đại Tướng quân, thụy là Trinh Hầu. Con là Thống nối tự. Thống làm đến Kinh Châu Thứ sử, hoăng, con là Chính nối tự. Giữa năm Hàm Hi, lập ra năm bậc tước(6), vì Hoài có công với triều trước, đổi phong làm Phần Dương Tử.
Tấn chư công tán viết: Em Hoài là Phối, tự Trọng Nam, có tiếng tăm, làm đến Thành Dương Thái thú. Bùi Tú, Giả Sung đều làm rể của Phối. Con là Triển, tự Thái Thư, có chí khí tài năng, làm qua các chức có công lao sáng rõ, cuối cùng làm Thái phó. Em thứ là Dự, tự Thái Ninh, làm Tướng quốc Tham quân, cũng nổi tiếng, chết sớm. Con gái gả cho Vương Diễn. Em Phối là Trấn, tự Quý Nam, làm Yết giả Bộc xạ. Con Trấn là Dịch, tự Thái Nghiệp. Khải sự của Sơn Đào khen Dịch trong sạch cao thượng, làm qua các chức Ung Châu Thứ sử, Thượng thư.
Bình nói: Mãn Sủng thẳng thắng cứng cỏi, dũng mà có mưu. Điền Dự giữ thân trong sạch, mưu lược sáng suốt. Khiên Chiêu mạnh mẽ giữ nghĩa, uy phong hiện rõ. Quách Hoài bày kế tinh tường, bao trùm miền Tần, Ung. Nhưng Dự làm quan chỉ ở châu nhỏ, Chiêu cuối cùng làm chức Quận thú, chưa dùng hết tài của họ vậy.
Chú thích:
(1) Môn hạ Tặc tào: chức quan đặt ra từ thời Tây Hán, đến thời Tam quốc vẫn dùng, trông coi bọn giặc cướp.
(2) Hạ Hậu: chỉ vua Vũ lập ra nhà Hạ, còn gọi là họ Hạ Hậu.
(3) Đường Ngu: Đường tức Đào Đường, họ vua Nghiêu; Ngu tức Hữu Ngu, họ của vua Thuấn. Thời Đường Ngu là thời thiên hạ yên ổn.
(4) Đạo Hưu Đồ: sách xưa nói là đạo Phù Đồ, tức đạo Phật.
(5) Ghi công vào Vương phủ: ý nói ghi công vào sử sách trong phủ của Nhà vua.
(6) Năm bậc tước: tức năm bậc tước là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
NGỤY THƯ QUYỂN 28 - Vương Vô Khâu Gia Cát Đặng Chung truyện
Vương Lăng, Vô Khâu Kiệm, Gia Cát Đản, Đường Tư, Đặng Ngải, Chung Hội

CHUNG HỘI LIỆT TRUYỆN
Chung Hội tự Sỹ Quý, người ở quận Dĩnh Xuyên huyện Trường Xã, là con út của quan Thái phó Chung Do. Vốn thông minh lanh lợi từ thủa nhỏ.
Hội vi kỳ mẫu truyện viết: "Phu nhân Trương thị, tự Xương Bồ, là con một họ lớn ở Thái Nguyên, Thái phó Định Lăng là Thành Hầu lấy làm vợ. Phu nhân mất cả cha mẹ từ nhỏ, đến ở với gia đình Thành Hầu, tu thân đứng đắn, điều trái lễ không theo, người trên kẻ dưới đều khen ngợi. Có người quý thiếp là Tôn thị, chuyên quyền lấn áp vợ cả, có ý muốn hại người hiền, mấy lần mỉa mai gièm pha không được. Tôn thị biện bác xảo trá, ngôn từ giảo hoạt biến không thành có, khiến mọi người chẳng ai thương. Đến khi có mang, tật ghen ghét đố kỵ còn hơn nữa, mới để thuốc vào đồ ăn, phu nhân bị trúng độc, ăn xong thổ hết ra, say lừ đừ đến mấy ngày. Có người nói rằng: 'Sao chẳng nói việc ấy với tướng công?' Đáp rằng: 'Vợ lẽ tác quái, phá gia nguy quốc, xưa nay vẫn lấy đó làm tấm gương răn dạy. Ví như tướng công tin ta, trong các ngươi ai biết rõ việc này? Kẻ kia trong bụng đã liệu được ta, rằng ta ắt hẳn sẽ nói ra, chắc chắn sẽ làm việc ấy trước ta; việc do kẻ kia nói ra, yên lặng mà xem chẳng khoái ý ư!' Bèn phao tin rằng bị ốm không biết gì cả. Tôn thị quả nhiên nói với Thành Hầu rằng: 'Thiếp mong sẽ có con trai, vì thế mới uống thuốc để sinh con trai, có kẻ để thuốc vào đồ ăn bảo rằng ấy là thuốc độc!' Thành Hầu nói: 'Uống thuốc sinh con trai là việc tốt, kẻ để thuốc vào đồ ăn là làm việc ám muội, chẳng có tính người vậy!' Bèn tra hỏi người hầu, Tôn thị bởi lộ chuyện đắc tội bị đuổi ra ngoài. Thành Hầu hỏi phu nhân sao chẳng nói gì, phu nhân mới nói rõ việc ấy, Thành Hầu cả kinh, lại càng quý mến hơn. Năm Hoàng sơ thứ sáu, sinh được Hội, ân tình càng sâu nặng. Bởi Thành Hầu đã đuổi Tôn thị, mới lấy phu nhân thay vào ngôi chính thất của Giả thị.
Trung hộ quân Tưởng Tế từng luận xét rằng: "Cứ xem con mắt, đủ để biết người". Năm Hội 5 tuổi, Do sai Hội đến hầu Tế, Tế thấy Hội rất kinh ngạc, nói: "Thật là người phi thường vậy." Đến lúc Hội 30 tuổi, kiêm tài kỹ nghệ, mà học vấn uyên bác lịch duyệt thông tỏ điều lý, lại chuyên cần học tập suốt đêm ngày, bởi thế được thiên hạ khen ngợi. Năm Chính thuỷ trung, được lấy làm Bí thư lang, rồi đổi làm Thượng thư Trung thư thị lang.
Sách Thế Ngữ chép: Tư mã Cảnh vương sai Trung thư lệnh Ngu Tùng làm tờ biểu, lúc trình lên lại không vừa ý, mới sai Tùng sửa lại. Để sửa theo ý Cảnh vương lúc bấy giờ, Tùng nghĩ hết lẽ cũng không sao làm nổi, trong bụng lo lắng, lộ ra nét mặt. Hội thấy Tùng có vẻ ưu tư, liền hỏi, Tùng cứ tình thật nói ra. Hội coi xem việc ấy, rồi sửa có 5 chữ. Tùng vui lòng ưng theo, đem trình Cảnh Vương, Vương nói: "Chẳng phải là ngươi làm nổi, ai đã làm việc đó?" Tùng thưa: "Là Chung Hội. Thần cũng đã muốn sớm bẩm việc này, bởi Hội hỏi thần rồi thẳng thắn giúp cho, thần chẳng dám tham lam nhận lấy cái tài ấy". Vương nói: "Ra thế, người này cần phải dùng vào việc lớn, có thể sai khiến được về sau đây." Hội hỏi Tùng xem Vương có thuận theo không, Tùng nói: "Ngài học rộng uyên thâm, hiểu cùng mọi lẽ, chẳng chỗ nào không thấu đáo." Hội bèn bỏ hết tân khách, nghĩ ngợi 10 ngày, mỗi sớm vào hầu, đến trống canh hai mới trở ra. Sau này, Vương có lần vỗ tay than rằng: "Ấy mới thật là người có tài vương tá vậy!"
Tùng tự Thúc Mậu, người ở Trần Lưu, là cháu ngoại của Cửu Giang thái thú Biên Nhượng. Tùng thuở nhỏ cũng có tài danh, Tư mã Tuyên vương đi chinh chiến ở Liêu Đông, Tuyên vương sai Tùng làm tờ hịch, lúc phá được giặc, cất nhắc lên làm Lộ Bố. Tùng theo về, Tuyên vương cho vời đến làm chức
Duyện, năm ấy Tùng 24 tuổi, sau lại thăng lên làm Trung thư lang, rồi làm đến chức Thái thú. Con Tùng là Tuấn, tự Hiển Hoằng, đời Tấn làm đến chức Đình Uý.
Thần Tùng Chi thấy Chung Hội danh là con nhà công hầu, lời ngợi khen rỡ ràng từ rất sớm, trẻ tuổi đã được vào triều, trải ngôi vị quý hiển, Cảnh vương đứng đầu trăm quan, sao chẳng biết rõ, lại vì Ngu Tùng dâng biểu rồi sau mới nhờ đó mà biết đến hay sao? Ví thử việc lúc trước chẳng biết ai giúp, chỉ thấy năm chữ kia mà lại đoán rằng có thể dùng người ấy vào việc lớn, dẫu đến bậc thánh nhân cũng còn do dự, huống chi là Cảnh vương vậy?
Cao quý Hương công lên tức vị, Hội được ban tước Quan nội hầu.
Quán Khâu Kiệm dấy loạn, Đại tướng quân Tư mã Cảnh vương đông chinh, Hội theo trong quân, trông coi việc cơ mật, Vệ tướng quân Tư mã Văn vương cầm đại quân đi sau. Cảnh vương chết ở Hứa Xương, Văn Vương cầm đầu sáu lộ quân, Hội định mưu kế nơi màn trướng. Bấy giờ ở trên sai Thượng thư Phó Hỗ đem sắc lệnh tới Đông Nam huyện Tân Định, yêu cầu Vệ tướng quân đóng binh tại Hứa Xương để chi viện trong ngoài, lệnh cho Hỗ xuất lĩnh chư quân quay về. Hội cùng với Hỗ bàn mưu, sai Hỗ dâng biểu lên chúa thượng, rồi với Vệ tướng quân cùng khởi hành, lui về đến phía Nam sông Lạc đóng binh ở đó. Bởi thế triều đình phải bái Văn Vương làm Đại tướng quân, cầm quyền phụ chính, Hội được thăng lên làm Hoàng môn Thị lang, tấn phong Đông vũ Đình hầu, được ăn lộc 300 hộ.
Năm Cam Lộ thứ hai, triều đình cho gọi Gia Cát Đản từ Thọ Xuân về triều làm Tư không, bấy giờ Hội đang chịu tang tại gia, liền gửi thư bạch với Văn Vương rằng Đản ắt hẳn không chịu phụng mệnh. Văn Vương bởi việc đã cho thi hành, không chịu đổi lại.
Kỳ mẫu truyện chép rằng: "Phu nhân tính tình nhân ái mà nghiêm cẩn, chỉ lấy điều sáng suốt dạy con, Hội dẫu còn bé, vẫn khuyên bảo rất ân cần. Năm Hội bốn tuổi đã dạy những điều hiếu thuận trong kinh sách, bảy tuổi cho đọc sách Luận Ngữ, lúc tám tuổi dạy đọc Kinh Thi, khi mười tuổi dạy xem Kinh Thương thư, mười một tuổi học Kinh Dịch, mười hai tuổi đọc các sách Xuân thu Tả truyện-Quốc Ngữ, mười ba tuổi đọc Kinh Lễ-Lễ Ký, mười bốn tuổi đọc sách của Thành Hầu soạn ra, mười lăm tuổi cho vào nhà Thái học để được học hỏi những lời văn lạ cùng những điều giáo huấn ở khắp bốn phương. Lại bảo với Hội rằng: 'Học nhiều một lúc ắt mỏi mệt, mỏi mệt sẽ sinh lười biếng; ta sợ mày sẽ lười biếng, nên giáo huấn mày dần dần, nay mày có thể tự học được rồi vậy.'
Hội rất thích đọc thư tịch, đã đọc hết Kinh thư, đặc biệt thích các sách Kinh Dịch, Lão tử, mỗi khi đọc kỹ đoạn Dịch mà đức Khổng Tử đã luận rằng: (nghe) tiếng chim kêu trong bóng râm, bậc quân tử khó nhọc mà nhún nhường, lễ vật dâng dùng cỏ trắng, chẳng nên ra khỏi cửa vườn, thường khiến Hội phải đọc đi đọc lại, nghĩ rằng: Dịch có hơn 300 hào, Trọng Ni giảng giải như thế, ấy là lấy sự nhún nhường để răn mình phải cẩn thận, đó là điều then chốt ban đầu, đã làm phải đến được chỗ cốt yếu, vinh thân chính từ đó mà ra, theo được đường lối ấy là đã vượt người ta, đủ để làm bậc quân tử vậy'.
Năm Chính Thuỷ thứ tám, Hội làm Thượng thư lang, phu nhân cầm tay Hội dạy rằng: 'Mày mới 20 tuổi đã được xếp hàng vào chầu, con người ta không biết thế nào cho đủ, phải cố suy xét kỹ để răn mình!" Khi ấy Đại tướng quân Tào Sảng nắm quyền triều chính, suốt ngày đắm chìm trong men rượu, anh trai Hội là Dục làm Thị Trung vừa đi ăn yến về, nói việc ấy ra. Phu nhân bảo: 'Tiếng nhạc vui mà nghe mãi, như thế khó được lâu bền. Ở ngôi cao mà không kiêu, biết kiềm chế cẩn thận, sau này mới không phải lo việc nguy nan. Nay xa xỉ quá độ lấn áp kẻ trên như thế, chẳng phải là con đường giữ ngôi phú quý lâu dài'.
Năm Gia Bình nguyên niên, xa giá đến Cao Bình lăng, Hội làm Trung thư lang, cũng đi theo. Tướng quốc truyền cho Văn hầu khởi binh, mọi người lo sợ, mà phu nhân vẫn tự nhiên như không. Trung thư lệnh Lưu Phóng, Thị lang Vệ Quán, Hạ Hầu Hoà đang ở đó đều lấy làm lạ hỏi rằng: 'Phu nhân cùng với con ở giữa chỗ nguy nan, sao lại không lo lắng gì cả?' Đáp rằng: 'Đại tướng quân xa xỉ vô độ, ta thường ngờ rằng sẽ chẳng được an lành. Thái phó vì nghĩa chẳng để quốc gia gặp nguy nan, ắt hẳn vì Đại tướng quân mà khởi binh vậy. Ta ở cạnh vua sao phải lo lắng? Vả nghe tướng quân ra ngoài không mang theo nhiều quân, như thế chắc chắn không đánh nhau lâu được.' Quả đúng như lời ấy, chúng đều khen là sáng suốt.
Hội coi việc cơ mật hơn chục năm, tham dự vào việc chính sự. Phu nhân nói rằng: 'Khi trước con nhỏ của Phạm thị là Triệu Giản Tử bày kế đánh các nước để phù nhà Chu, việc ấy được lòng dân, có thể nói là khéo vậy. Nhưng bởi bà mẹ nhân việc ấy làm nhiều điều dối trá, nên hỏng cơ nghiệp vì việc mọn, vì thế chẳng thể tồn tại được lâu dài. Đã hiểu biết đến lẽ sâu xa, thì đâu cần người bên cạnh phải nói ra, ta thường vui vì biết lẽ làm người. Mày giữ lòng chính trực, thì ta khỏi phải lo lắng vậy. Những muốn mày tu chí dần dần để giúp ích cho đời, chẳng nhục với các bậc tiền nhân. Người ta thường nói rằng mọi sự đều theo lẽ tự nhiên, chỉ cốt gắng sức làm việc không mỏi mệt, bị người khác đè nén cũng cho là việc nhỏ. Dẫu tiếp kẻ hèn mọn, cũng phải nói lời thủ tín. Biết giữ lấy lẽ phải, cần minh bạch rõ ràng'. Hỏi rằng: 'Thế không phải là tầm thường ư?' Đáp: 'Quân tử liệu việc, đều là gom nhặt cái nhỏ thành đại sự, xem việc thiện nhỏ vô ích mà chẳng làm, ấy mới là tiểu nhân vậy. Muốn tất cả mọi người phải tôn trọng và ngưỡng mộ mình, ta cho rằng chẳng phải là hay'.
Hội từ lúc nhỏ, y phục bất quá chỉ một màu, luôn làm việc nhà, tự biết cần kiệm. Biết việc phải quấy, ở chốn giầu sang mà nhún nhường. Hội trước sau được ban vàng lụa kể mấy trăm vạn, đều bỏ vào kho chung của gia đình để chi dụng, một chút cũng không lấy. Năm phu nhân 59 tuổi, nhằm năm Cam Lộ thứ hai tháng hai bị bạo bệnh chết. Khi an táng, thiên tử tự tay thảo chiếu, sai Đại tướng quân Cao Đô Hầu phúng tặng rất hậu, mọi việc tang lễ bất kể lớn nhỏ, đều chu cấp cho cả. Lại yêu cầu phu nhân của các bậc Công hầu, vợ các vương hầu, thê thiếp, đều phải gọi phu nhân là bậc mệnh phụ. Chiếu theo việc Thành Phong-Định Tự thời Xuân Thu, nên trọng điển lễ, không được gọi thẳng tên ra, mọi người đều phải gọi là Thành Hầu mệnh phụ. Việc chôn cất đã xong, lại theo phép xưa, đưa tặng đồ tế lễ."
Đến khi Đản làm phản, xa giá đóng ở Hạng Thành, Văn Vương đến Thọ Xuân, Hội lại đi theo.
Lúc trước, Đại tướng nước Ngô là Toàn Tông, được Tôn Quyền gả con gái cho nên nắm ngôi trọng thần, Con Tông là Dịch, cùng với bọn Toàn Đoan, Toàn Phiên, Toàn Tập đều tiến binh lại để cứu Đản. Con của anh trai Dịch là Toàn Huy, Toàn Nghi đều ở lại Kiến Nghiệp, người trong nhà tranh giành kiện tụng nhau, dắt díu mẹ già cùng bộ khúc mấy chục nhà vượt Trường Giang, đến theo hàng Văn Vương. Hội lập kế sách, bí mật giúp Nghi, Huy soạn một bức thư, sai Huy, Nghi cho người thân tín mang vào thành cho bọn Dịch, nói rằng chúa Ngô rất tức giận vì bọn Dịch không lấy nổi Thọ Xuân, đang muốn tru lục toàn gia tướng sĩ, chi bằng nên bỏ trốn. Bọn Dịch rất kinh hãi, bèn mở cửa thành phía Đông ra hàng, đều được phong thưởng rất hậu, bởi thế lòng người trong thành đều li tán cả. Thọ Xuân phá được, phần nhiều ở mưu của Hội, do vậy mà sự yêu mến của Chiêu với Hội ngày càng lớn, người bấy giờ đều gọi Hội là Trương Tử Phòng.
Quân lui về, thăng Hội làm Thái phó, Hội cố từ không nhận. Lại lấy Hội làm Trung lang ở phủ Đại tướng quân cai quản công việc, Hội dốc lòng gánh vác mọi sự. Bởi có công đánh dẹp Gia Cát Đản, Hội được tiến tước Trần hầu, lại nhún nhường không chịu nhận. Chiếu viết rằng: "Hội giữ việc binh cơ, cùng tham dự vào kế sách, liệu địch chế thắng, có mưu lược mà nên công, được ân sủng lại nhún nhường, thành khẩn chối từ, chí bất khả đoạt. Người có công lại chẳng bận lòng, cổ nhân cũng phải lấy làm kính trọng, thật đáng khen ngợi." Rồi thăng Hội lên làm Tư mã Thái uý. Dẫu Hội ở bên ngoài, thường vẫn giúp việc chính sự. Bọn Kê Khang bị giết, cũng đều là mưu của Hội cả.
Văn vương nhân vì Thục Đại tướng tướng quân Khương Duy luôn quấy nhiễu biên thuỳ, liệu rằng nước nhỏ dân nghèo, quân lực kiệt quệ, muốn cử đại binh đồ Thục. Chỉ có Hội cho rằng Thục có thể lấy được, đã sớm trù liệu địa hình, khảo luận thế sự.
Năm Cảnh Nguyên tam niên, mùa Đông, lấy Hội làm Trấn tây tướng quân, ban cho Giả tiết, đô đốc các việc quân sự ở Quan Trung. Văn vương ban sắc lệnh cho các châu Thanh, Từ, Duyện, Dự, Kinh, Dương đều phải chuẩn bị thuyền bè, lại hạ lệnh cho Đường Tư đóng các chiến thuyền cực lớn, bề ngoài làm bộ sẽ đánh nước Ngô.
Năm Cảnh Nguyên thứ tư, mùa Thu, hạ chiếu sai Đặng Ngải, Gia Cát Tự đều thống lĩnh chư quân ba vạn người, Ngải đến Cam Tùng, Đạp Trung cầm chân Duy, Tự tiến đến Vũ Nhai chặn đầu cầu cắt đứt đường về của Duy.
Hội thống lĩnh hơn chục vạn quân, chia đường theo lối Tà Cốc, Lạc Cốc xâm nhập. Trước tiên sai Nha môn tướng Hứa Nghi đi trước mở đường, Hội dẫn quân theo phía sau, tới Kiều Xuyên, ngựa của Hội bị sa xuống hố, liền chém chết Nghi. Hứa Nghi là con trai Hứa Trử, có công với vương thất, tuy vậy vẫn không được tha. Ba quân nghe thấy thế, chẳng ai không kinh sợ. Thục lệnh cho ba quân giữ chắc thành trì, không được ra ứng chiến, lại lui về hai thành Hán, Lạc cố thủ.
Nguỵ Hưng thái thú Lưu Khâm tiến đến Ngọ Cốc, chư quân mấy đạo cùng tiến, đến Hán Trung. Giám quân nước Thục là Vương Hàm giữ Lạc Thành, Hộ quân Tưởng Bân giữ Hán Thành, binh mã đều có 5.000 người. Hội sai Hộ quân Tuân Khải, Tiền tướng quân Lý Phụ mỗi người lĩnh một vạn quân, Khải vây hãm Hán Thành, Phụ vây Lạc Thành. Hội tiến theo lối tắt, tiến tới phía Tây cửa Dương An, sai người đến tế mộ Gia Cát Lượng. Lại sai Hộ quân Hồ Liệt tiến lên, công phá cửa quan, lấy được kho lương.
Khương Duy từ Đạp Trung quay về, đến Âm Bình, tập hợp quân sỹ, chạy tới cửa quan. Tới nơi, nghe tin cửa quan đã bị phá, liền lui binh về Bạch Thuỷ, cùng với Thục tướng Trương Dực, Liêu Hoá hợp binh giữ chặt cửa Kiếm Các chống cự Hội. Hội gửi hịch cho tướng sỹ và dân chúng nước Thục rằng: "Từ khi nhà Hán suy vi, quốc gia tan lở, muôn dân lầm than, kỷ cương dứt mối. Thái tổ Vũ Hoàng đế thần võ thánh minh, ra tay dẹp loạn , cứu vớt sinh linh, gây dựng lại Hoa Hạ. Cao Tổ Văn Hoàng đế ứng mệnh trời thuận lòng người, nhận mệnh lên ngôi đế. Liệt tổ Minh Hoàng đế sáng suốt lấy quốc gia làm trọng, kế thừa hồng nghiệp. Nhưng giang sơn biên ngoại, bỏ đường chính theo lối tục, chiếm đất thu dân không theo về vương hoá, vì thế ba tiên vương vẫn mang lòng di hận. Nay chủ thượng thánh đức cao vời, nối đức lớn của tiền nhân, dốc hết lòng trung giúp chúa, có công với vương thất, bầy ra khuôn phép mà nghĩ đến việc ban ơn huệ với cư dân chốn biên thuỳ để giúp đỡ muôn bang, cảm hoá trăm họ người man khiến họ phải cung kính riều cống.
Tiếc cho Ba Thục, chẳng vì muôn dân, xót thương cho trăm họ nơi ấy, phải nhọc nhằn lao dịch không ngừng. Ta chịu mệnh cầm sáu quân, kính mệnh trời đánh dẹp, quân mã Chinh Tây, Ung Châu, Trấn Tây năm đạo cùng tiến. Việc hành quân từ xưa, vốn lấy nhân làm gốc, lấy nghĩa để trị; Bậc vương giả cầm quân, dẫn quân đi không cần phải đánh; Đời nhà Ngu, Thuấn Vũ chỉ múa kiều thích (1) mà thu phục được người Miêu, Chu Vũ vương ban phát của cải, mở kho lương, dựng biểu văn để nêu tỏ việc nghĩa. Nay ta vâng mệnh trên đi đánh dẹp phương Tây, thống suất việc binh nhung, bố cáo hịch văn này để nêu cao đạo nghĩa, lấy việc cứu giúp trăm họ mà truyền mệnh, chẳng muốn dùng võ lực để đánh đến cùng, mong chỉ một ngày nên chính đạo, bầy tỏ mấy lời báo rõ sự an nguy, mong các ngươi nghe rõ điều ta nói.
Tiên chủ ở Ích châu là bậc anh kiệt trên đời, sớm hưng binh nơi thảo dã, bị vấp ngã khốn cùng ở Từ-Ký, phải chịu mệnh làm tay chân của Lã Bố-Viên Thiệu, được Thái tổ giang tay cứu vớt, giúp cho ở ngôi tôn quý. Song giữa đường chia lìa, bởi không cùng chí hướng, sau này Gia Cát Khổng Minh luôn mưu toan lấy đất Tần Xuyên, Khương Bá Ước thường tiến ra Lũng Hữu, khuấy động vùng biên cảnh nước ta, ngấm ngầm nhiễu loạn các tộc Đê-Khương, nhưng quốc gia đang có nhiều việc, chưa rảnh rỗi hội họp chư quân đi chinh phạt. Nay vùng biên cảnh đã thanh bình, bên trong không có việc, bây giờ chính là lúc phải dụng sức, muôn binh trông về một hướng, mà Ba Thục chỉ có một châu, lại phải chia binh chống giữ, nghĩ rằng khó ngăn nổi muôn quân thiên hạ.
Kể từ trận Đoạn Cốc-Hầu Hà bại binh thua lớn, nguyên khí bị tổn thương, không còn có thể dàn trận công nhiên đối địch. Lại từ bấy đến nay, trong nước chưa năm nào được yên ổn, khiến cho kẻ chinh chiến ở nơi xa mỏi mệt, khó có thể yên uỷ được lòng dân. Những điều ấy hầu hết các bậc hiền tài đều biết rõ vậy. Những việc Thục tướng bị cầm giữ ở đất Tần, Công Tôn Thuật (2) mất đầu về tay Hán, chín châu nối liền, giang sơn một họ. Các việc ấy những bậc hiền tài đều đã nghe vậy. Người sáng suốt biết được cái nguy lúc nó chưa thành hình, bậc trí giả tính được cái hoạ khi nó chưa xảy ra, ấy là việc Vi Tử bỏ nhà Thương, làm tân khách ở nhà Chu, Trần Bình phản Hạng Vũ, lập công cho nhà Hán. Há như thế chẳng thái bình vô sự hay sao, nhận bổng lộc chẳng chính đáng hay sao?
Nay quốc triều ân đức lớn lao như trời bể, ta vì đức lớn mà giúp chúa mở lòng khoan thứ, người sớm quy thuận sẽ được ra ơn, kẻ ngoan cố phải giết bỏ, người tốt thì được sống, kẻ ác ắt phải chết. Khi trước Ngô tướng là Tôn Nhất dẫn binh đến nương nhờ, nhận ngôi vị Thượng ti, phẩm trật khác thường. Văn Khâm-Đường Tư làm hại lớn cho nước, phản chúa làm kẻ cừu địch, lúc quay về vẫn được giữ việc binh nhung. Tư bị bức bách khốn cùng phải theo về, hai con Khâm quy hàng, đều được làm tướng quân, phong hầu cả; Tư còn được dự nghe việc quốc sự. Bọn Nhất đã khốn cùng phải theo mệnh, còn được ban ân sủng, huống chi những bậc hiền tài Ba Thục biết được cơ hội mà theo về! Tin rằng mọi người có thể lấy đó làm tấm gương soi rõ việc mất còn, bậc cao đạo nghĩ xa xôi, hãy nên theo lối xưa Vi Tử, thác thân theo con đường của Trần Bình, tất được hưởng phúc như cổ nhân, ấy là điều đáng mừng cho con cháu, bách tính sỹ dân, nghiệp cũ được yên, kẻ làm ruộng chẳng lo mất ruộng, kẻ làm quan chẳng sợ mất ngôi, dứt bỏ mối nguy như trứng chồng, được mãi mãi yên lành hưởng phúc, há chẳng tốt đẹp hay sao! Còn như những kẻ sớm khuya rình rập, u mê lầm lạc chẳng chịu hối cải, khi đại binh tiến đến, ngọc đá nát tan, dẫu có hối hận, cũng không kịp nữa. Lợi hại bày tỏ đã rõ ràng, các ngươi hãy tự tìm lấy phúc cho mình, mấy lời tuyên ra, khắp nơi đều đã biết."
Đặng Ngải đuổi theo Khương Duy đến Âm Bình, kén chọn tinh binh, muốn theo lối Đức Dương Đình xâm nhập Giang Du, tiến về phía đông Đam Đạo đến thẳng Miên Trúc, sẽ nhanh chóng đến Thành Đô, đề nghị Gia Cát Tự cùng đi. Tự vốn dĩ đã nhận việc đón chặn Khương Duy, cho rằng đi về phía Tây không phải là chiếu mệnh ban đầu, bèn tiến quân lên phía trước nhằm hướng Bạch Thuỷ, hợp quân cùng với Hội. Hội sai Tướng quân Điền Chương từ Kiếm Các đi về phía Tây, nhằm thẳng hướng Giang Du. Đi chưa được trăm dặm, Chương phá được phục binh Thục ở Tam Giáo, Ngải liền thúc Chương tiến lên. Chương dẫn quân ruổi dài về phía trước. Quân của Hội và Tự đóng ở Kiếm Các, Hội muốn riêng nắm quyền quân chính, mật tâu lên trên rằng Tự hèn nhát không chịu tiến quân, bắt nhốt Tự vào xe tù đưa về (3). Quân lính đều thuộc quyền Hội, Hội tấn công Kiếm Các, không đánh được, phải lui binh, quân Thục cậy hiểm yếu chống giữ.
Ngải đến được Miên Trúc, đại chiến ở đấy, chém được Gia Cát Chiêm. Bọn Duy hay tin Chiêm thua trận, liền khởi hết ba quân nhằm hướng Đông tiến về Ba quận. Hội bèn tiến quân đến Phù Thành, sai Hồ Liệt, Điền Tục, Bàng Hội cùng đuổi theo Duy. Ngải tiến quân về Thành Đô, Lưu Thiện đến tận chỗ Ngải xin hàng, phái sứ giả đến hạ sắc lệnh cho bọn Duy phải hàng Hội. Duy đến Thê huyện thuộc Quảng Hán, lệnh cho binh sỹ đều phải buông khí giới, theo thứ tự đi đến trạm quân của Hồ Liệt, lại theo con đường phía Đông đến hàng Hội.
Hội tâu lên bề trên rằng: "Bọn địch Khương Duy, Liêu Hoá, Trương Dực, Đổng Quyết tránh cái chết trốn chạy, muốn đến Thành Đô. Thần lập tức sai Tư mã Hạ Hầu Hàm, Hộ quân Hồ Liệt vượt qua Kiếm Các, tiến ra Tân Đô, Đại Độ cắt đứt đường ở phía trước, lại cử Tham quân Viên Thanh Sam, tướng quân Cẩu An đuổi theo ở phía sau, Tham quân Hoàng Phủ Khải, Tướng quân Vương Mãi từ phía nam Phù Thành tiến ra phía tả, thần đóng ở Phù Thành tạo thế đông tây tương hỗ lẫn nhau. Bọn Duy còn nắm giữ quân kỵ bộ đến bốn năm vạn người, giáp dầy binh sắc, chiếm giữ những nơi hiểm yếu ở đất Xuyên, trong vòng mấy trăm dặm đầu đuôi nối tiếp nhau, chúng nương tựa vào đấy, hướng cả về Tây. Thần đã sắc mệnh cho bọn Hàm, Khải sai chia binh đóng giữ các nơi, chăng lưới ở Quảng Hán, chặn đường chạy trốn ở phía Nam, cắt đường phía Tây đi Thành Đô, tuyệt lối xổng về phương Bắc, bốn mặt tụ lại, đầu đuôi cùng tiến, mọi đường chạy đều đã bị cắt đứt, địch muốn trốn cũng không có đất. Thần lại chính tay viết thư đến dụ, mở con đường sống, bọn địch bị bức bách khốn khổ, mệnh cùng số tận, phải cởi giáp quẳng đao, cúi mặt ra hàng, ấn thụ (4) kể hàng mấy vạn, của cải đồ dùng chất cao như núi.
Khi xưa Thuấn Vũ chỉ múa kiều thích (5), mà người Miêu chịu phục tùng; Đi chinh phạt mà không phải đánh, thì thịnh nghiệp đế vương. Lấy được trọn vẹn nước địch là tối thượng, phá tan nước địch là thứ yếu; lấy được vẹn toàn quân đội của giặc là tối thượng, đánh tan quân địch là thứ yếu, dụng binh phải có phép tắc rõ ràng.
Bệ hạ (6) là bậc thánh đức, theo kịp những bậc vua hiền thuở trước, người phụ chính (7) sáng suốt trung trinh, sáng ngang với Chu Công Đán thủa xưa, mở đạo hiếu sinh, nên đánh dẹp kẻ có tội mà chẳng sát phạt, khác hẳn lẽ thường, với kẻ không chịu phục tùng thì dạy dỗ kịp thời, binh khí không cần vấy máu, khiến người ở xa vạn dặm đều phải ngợi ca, chín châu liền một cõi. Thần phụng thánh ý tuyên chiếu mệnh, nêu cao ân điển, tạm bỏ việc phu phen, khiến nhà nhà được yên vui, điều hoà thuế khoá, khiến việc sưu dịch được nới lỏng, thuận đức lễ để thu lấy rộng rãi lời khen, cũng là đường lối đổi thay thói tục, mà trăm họ hớn hở, người người mừng vui, sau lại thêm phấn chấn, về nghĩa chẳng phải là trái lẽ."
Hội lại cấm sỹ chúng không được cướp bóc ở trong cõi, muốn thừa hư dẫn dụ mọi người, lại làm nơi đón tiếp tướng sỹ xứ Thục, cùng với Duy tình nghĩa thắm thiết vô cùng.
Sách Thế Ngữ chép: Hạ Hầu Bá chạy vào Thục, Thục chúa hỏi: "Tư mã công có ý thế nào?" Phách thưa: "Vì đương thu xếp việc trong nhà, chưa lo gì đến việc ngoài." Hỏi: "Tuấn sỹ ở kinh sư có ai?" Đáp rằng: "Có Chung Sỹ Quý, người ấy quản việc triều chính, là người mà Ngô-Thục phải lo lắng vậy."
Hán Tấn Xuân Thu chép: Khi trước, Hạ Hầu Bá hàng Thục, Khương Duy hỏi Bá rằng: "Tư Mã Ý nắm việc nước ở bên ấy, liệu có ý chinh phạt nơi nào chăng?" Phách đáp: "Kẻ kia đương mưu gây dựng việc gia môn, chưa kịp lo việc bên ngoài. Có Chung Suỹ Quý là bậc trí giả, tuổi dẫu còn trẻ, sau này sẽ làm Ngô-Thục phải lo lắng, nhưng nếu chẳng có người phi thường cũng chẳng thể dùng được vậy." Sau đấy 15 năm Hội quả nhiên diệt Thục.
Xét lời Tập Tạc Xỉ nói về việc ấy, cũng chẳng khác những gì đã ghi chép lại, việc chọn dùng lời ở Thế Ngữ để phụ thêm vào ý vậy.
Tháng 12, chiếu viết rằng: "Hội đến đất giặc bẻ gẫy địch quân, tiến lên không sợ địch mạnh, giam hãm thành trì, giăng lưới bủa vây. Khiến hào kiệt xứ Thục phải cúi mặt đầu hàng, mưu kế không thiếu sót điều gì, cất binh không cần bỏ nhiều công sức. Làm việc đầy mưu toan, đi không cần phải đánh, một lần đánh toàn thắng, cõi ấy phải quy hàng. Bày kế định phương Tây, khiến đất biên ngoại được thanh bình. Nay lấy Hội là Tư đồ, tiến phong Huyện hầu, tăng thực ấp vạn hộ. Phong cho hai con làm Đình hầu, đều được hưởng thực ấp một ngàn hộ."
Hội trong lòng có chí khác, nhân chuyện Đặng Ngải thừa chế chuyên quyền, mới mật bạch lên trên rằng Ngải có ý làm phản, sách Thế Ngữ chép rằng: Hội tìm người khéo viết, ở Kiếm Các đòi Ngải chương biểu trình bày mọi việc, rồi thay đổi những lời ấy, thành những lời kiêu căng trái lẽ, hơn nữa lại tự khoe khoang công trạng. Lại huỷ những thư từ của Văn Vương hồi đáp, tự làm nên mối ngờ của Văn Vương về việc ấy. Vương liền hạ chiếu thư sai bắt Ngải nhốt vào tù xa. Tư mã Văn Vương sợ Ngải có thể không theo mệnh, sắc mệnh cho Hội tiến binh vào Thành Đô, Giám quân Vệ Quán đi ở phía trước Hội, lấy thủ bút của Văn Vương tuyên lệnh bảo rõ với quân của Ngải, quân của Ngải đều buông bỏ khí giới, Quán liền bắt Ngải nhốt vào xe tù.
Hội vốn chỉ kiêng dè có Ngải, Ngải đã bị cầm tù nên Hội rất thoả chí, một mình thống lĩnh đại quân, uy danh vang động phương Tây. Bởi Hội công danh cái thế, tự nghĩ chẳng thểở dưới người khác, hơn nữa tướng khoẻ binh mạnh đều ở trong tay, bèn mưu phản. Muốn sai Khương Duy cùng các tướng Thục tiến binh ra Tà Cốc, Hội tự cầm đại quân theo ở phía sau. Khi đến Tràng An, sẽ hạ lệnh cho kỵ binh tiến theo đường bộ, bộ binh theo đường thuỷ xuôi dòng sông Vị tiến đến, chừng 5 ngày sẽ đến Mạnh Tân, cùng với quân kỵ hợp binh ở Lạc Dương, một sớm có thể yên định thiên hạ.
Hội nhận được thư của Văn Vương nói rằng: "Ta sợ rằng Đặng Ngải nghi ngờ không theo mệnh, nay sai Trung Hộ quân Giả Sung cầm vạn quân kỵ bộ theo lối tắt đến Tà Cốc, đóng binh ở Lạc Thành, ta thân cầm 10 vạn quân đóng ở Tràng An, sẽ tương kiến một ngày gần đây". Hội được thư, lấy làm kinh sợ gọi tả hữu đến nói nhỏ rằng: "Chỉ bắt Đặng Ngải, tướng quốc biết chỉ mình ta làm là đủ; nay cầm đại quân lại, tất đã biết ta có ý khác, nên phải nhanh chóng khởi binh. Việc nếu thành, ta có thể được
cả thiên hạ,; nếu việc chẳng nên, lui về giữ Thục Hán, cũng đủ làm Lưu Bị rồi. Ta từ ngày ở Hoài Nam tới đây, vạch kế sách không sai sót, bốn bể đều đã biết cả. Ta muốn chủ trì việc yên định như thế, được chăng!"
Hội lấy ngày hôm sau là rằm tháng giêng năm Cảnh Nguyên thứ năm, mời tất cả các quan tướng từ Hộ quân, Quận thú, Nha môn kỵ đốc trở lên cùng với các quan lại cũ nước Thục, làm lễ phát tang Thái hậu ở triều đường nước Thục. Nói thác ra rằng Thái hậu có di chiếu, sai Hội khởi binh phế bỏ Văn Vương, bảo với hết thảy mọi người ngồi đó, rồi sai mọi người bàn định, xong xuôi cùng biên tên và ký vào đó, lại đổi hết những tướng thân tín của mình cho thống lĩnh chư quân. Sau khi thỉnh ý bá quan, Hội bắt các tướng đều phải ở lại trong cung, cửa thành cung môn đều khoá hết cả, cho binh lính canh giữ nghiêm ngặt. Bộ hạ dưới trướng của Hội là Khâu Kiến vốn là gia thuộc cũ của Hồ Liệt, được Liệt tiến cử với Văn vương, Hội xin cho đi theo bên mình, rất lấy làm quý mến. Kiến thương Liệt bị buộc tội, bẩm với Hội, nên cho một thân binh được ra vào trong cung để mang đồ ăn thức thức uống cho các tướng, các nha môn theo phép đều do một người ấy mà thôi.
Liệt ngầm bảo với người thân binh nói giúp cho con mình ở ngoài được biết rằng: "Khâu Kiến mật nói với ta rằng các tướng bị giữở trong cung sẽ bị giết hết, Hội đã sai đào một cái hố lớn, để sẵn những vồ cùng gậy lớn ở đó. Lại gọi mấy nghìn binh ở ngoài vào trong cung, tra vấn mọi người, bắt làm phản, người nào không theo sẽ dùng vồ đập chết quăng xuống hố." Ở các nha môn thân binh cũng đều nói lại như thế, trong một đêm mọi người truyền nhau tin ấy, khắp nơi sinh biến hết cả. Có người bảo Hội rằng: "Nên giết hết những người từ Nha môn kỵ đốc trở lên." Hội do dự chưa quyết.
Đến trưa ngày mười tám, quân binh của Liệt gõ trống ầm ỹ ngoài cửa cung, quân binh các nơi chẳng hẹn mà đều khua trống náo loạn ở bên ngoài, không cần thúc giục đều tới hết cả, tranh nhau xông lên trước hướng đến cổng thành. Bấy giờ Khương Duy đang phân phát những gậy lớn cho quân sỹ, có người thưa rằng ở bên ngoài có tiếng la rầm rĩ, lại có cả lửa cháy, chốc lát, lại nói rằng có nhiều binh sỹ đang chạy đến cửa thành. Hội cả kinh, bảo Duy rằng: "Binh sỹ kéo lại hẳn có ý muốn làm việc ác, làm sao bây giờ?" Duy nói: "Chỉ còn cách đánh mà thôi." Hội liền sai lấy binh khí định giết hết các Nha môn Quận thú, mọi người ở trong cung lấy những chốt lớn để chống giữ các cửa, quân binh ra sức phá cửa, không phá được. Vụt chốc, quân ở ngoài cửa cung bắc thang trèo lên thành, có kẻ châm lửa đốt cháy mấy nhà trong cung, bọn sâu kiến (8) bên trong náo loạn hết cả lên, tên bắn ra xối xả như mưa rào, các Nha môn Quân thú đều phải dỡ mái leo lên nóc nhà trốn ra ngoài, được binh tốt cứu thoát. Khương Duy dẫn Hội cùng tả hữu xông pha đánh giết, tự tay giết được năm sáu người, quân sỹ đánh nhau lộn bậy chém được Duy, rồi tranh nhau chạy đến giết Hội. Bấy giờ Hội mới có bốn mươi tuổi, tướng sỹ đánh nhau loạn xạ chết mất mấy trăm người.
Lúc trước, Ngải làm Thái uý, Hội làm Tư đồ, đều được cầm cờ tiết, đô đốc chư quân như nhau, đều chưa được thụ phong mà đã chết. Anh trai Hội là Dục, chết vào mùa Đông năm Cảnh Nguyên thứ tư, Hội thuỷ chung vẫn chưa biết mà hỏi đến. Con trai của anh Hội là Ung, cũng chết theo cùng với Hội, Hội lại nhận nuôi dưỡng mấy con nữa của anh mình là Nghị và Tuấn, bởi Hội làm phản, nên bọn ấy bị bắt hạ ngục, đương nằm chờ bị mang ra giết.
Tư mã Văn Vương dâng biểu lên Thiên tử, Thiên tử hạ chiếu rằng: "Tổ phụ bọn Tuấn là Do có công to, nối nhau ba đời, ngôi vị cực cao đến chức Thai ti (9), giúp chúa lập nhiều công lao, hưởng lộc miếu đình. Cha là Dục, đã trải các chức vụ trong ngoài, làm việc có tài năng dành được nhiều thành tích.
Xưa kia nước Sở trị tội Tử Văn, mà chẳng giết chết Đấu thị để có người nối dõi. Nhà Tấn chép lại việc Thành Tuyên có lòng trung, nên còn dùng Triệu thị về sau. Bọn Hội, Ung có tội, mà đem diệt hết dòng dõi Diêu, Dục, ta rất lấy làm xót thương! Huynh đệ Tuấn riêng một người được tha thứ, được giữ quan tước như cũ. Chỉ có Nghị và Ung phải chịu tội chết.
Có người nói: Dục từng mật bẩm với Tư mã Văn Vương, nói rằng Hội cậy tài khó gánh được trách nhiệm lớn lao, chẳng nên chuyên dụng, vì thế mới rộng lòng tha thứ cho Tuấn. Hán Tấn Xuân Thu chép rằng: Văn vương khen lời ấy sáng suốt mà tỏ rõ lòng trung, cười bảo Dục rằng: "Theo như lời khanh nói, hẳn chẳng thể dùng đến cả người trong họ nữa hay sao!"
Khi trước, Văn vương muốn sai Hội đánh Thục, Tây tào chúc Thiệu Đễ vào yết kiến vương, nói rằng: "Nay sai Chung Hội đốc xuất hơn chục vạn quân đánh Thục, Ngu thần cho rằng không nên để Hội một mình gánh vác việc lớn, chẳng bằng sai thêm mấy người cùng đi." Văn vương cười nói: "Ta há lại chẳng biết hay sao? Nước Thục làm thiên hạ khốn khổ, khiến người dân chẳng được yên nghỉ, nay ta dẹp được là việc đã nắm chắc trong lòng bàn tay, mà chúng nhân đều nói là Thục không thể dẹp được. Người mà trong lòng nhút nhát ngờ sợắt trí dũng suy kiệt, trí dũng suy kiệt mà miễn cưỡng sai khiến, đi cũng sẽ bị địch cầm giữ mà thôi. Chỉ có Chung Hội cùng đồng ý kiến, nay sai Hội phạt Thục, tất sẽ diệt xong Thục. Sau khi Thục bị diệt, tựu như điều khanh nghĩ đến, sao ta cần phải lo lắng nhỉ? Phàm đã thua quân thì tướng chẳng thể nói dũng, quốc gia bai vong thì đại phu chẳng thể nghĩ khôn, ruột gan đã tan nát (10) cố gắng sao được đây. Thục đã bị phá, dân còn sót lại tất kinh sợ, chẳng đủ để mưu toan việc; tướng sỹ Trung Quốc cũng đều nghĩ đến chuyện quay về, chẳng bằng lòng giúp Hội. Ví bằng làm việc xấu, là tự rước lấy hoạ diệt tộc vậy. Khanh chẳng nên lo nghĩ như thế, ngươi cũng chớ có để ai nghe được việc này nhé."
Đến khi Hội bạch rằng Đặng Ngải không tuân theo phép nước, Văn Vương mới dẫn binh về phía Tây, Đễ lại nói: "Chung Hội làm thống soái, năm sáu lần vu tội cho Đặng Ngải, chỉ nên ra sắc mệnh cho Hội bắt Ngải, minh công chẳng cần phải thân chinh làm gì." Văn Vương nói: "Khanh quên lời khanh đã nói lúc trước rồi sao, mà bảo rằng ta chẳng nên đi nhỉ? Dù có như vậy, việc ấy cũng chẳng nên tuyên bố rộng rãi. Ta những muốn lấy tín nghĩa đãi người, những người chẳng phụ ta, ta há nên sinh lòng kia khác trước họ! Một ngày gần đây, Giả hộ quân (11) đã hỏi ta rằng: 'Minh công chẳng nghi ngờ Chung Hội sao?' Ta đáp rằng: 'Nếu ta sai ngươi đi, ta cũng nghi ngờ ngươi hay sao?' Giả Sung cũng không thay đổi được lời ta đã nói. Khi ta tới Tràng An, tự khắc ngươi sẽ biết cả." Khi quân đến Tràng An, Hội quả nhiên đã chết, đều đúng như kế sách đã vạch lúc trước.
Chú thích:
(1) Kiều - là cái mộc che tên, Thích - là cái búa. Tích xưa kể rằng, rợ Miêu không phục vua Nghiêu, tướng đi đánh dẹp, không đánh được. Vua Nghiêu cho múa kiều thích thị oai ở cung đình, bảy ngày sau rợ Miêu đến hàng phục.
(2) Công Tôn Thuật là người cuối thời Tây Hán, sau loạn Vương Mãng, Thuật chiếm cứ đất Thục xưng đế, thủ phủ đóng ở Thành Đô. Quang Vũ Đế khôi phục nhà Hán, chiêu dụ, Thuật cự tuyệt rồi bị Quang Vũ Đế bắt giết. Trước sau Thuật xưng đế được 12 năm.
(3) Có lẽ Hội lấy lý do Tự không chịu đi cùng Ngải nên bắt tội đưa về Nguỵ để mình được chuyên quyền.
(4) Ấn thụ là con dấu và dây thao đỏ, chỉ đám tướng linh quân binh đến hàng, phải nộp ấn tín, dây đai.
(5) Kiều thích: Xem chú thích ở trên.
(6) Trỏ Tào Mao.
(7) Trỏ Tư Mã Chiêu, cũng ngầm khoe công mình. 8) Quân sỹ của Hội.
(9) Thai tức là sao Tam Thai, theo sách Thiên văn nói thì ngôi sao ấy như ngôi Tam Công vậy. Ý ở đây nói dòng dõi nhà Hội ba đời là Tam công
(10) Nguyên văn là 'tâm đảm dĩ phá', dịch thoát.
(11) Giả Sung, bấy giờ làm Hộ quân.

ĐẶNG NGẢI TRUYỆN
Đặng Ngải tự Sĩ Tái, người huyện Cức Dương quận Nghĩa Dương. Mồ côi cha từ thở nhỏ, lúc Thái tổ đánh Kinh Châu, Ngải chạy đến Nhữ Nam, tự làm ruộng nuôi thân. Năm 12 tuổi, Ngải theo mẹ đến Dĩnh Xuyên, có đọc một tấm văn bia cổ trên cái gò lớn, có câu rằng: "Văn tự có khuôn phép, ấy là hành vi của kẻ sỹ vậy", (văn vi thế phạm, hành vi sĩ tắc) Ngải rất thích thú bèn lấy danh là Phạm, tự là Sĩ Tắc. Về sau họ hàng đều dùng tên ấy, việc đổi danh là vậy. Lúc Ngải làm Đô uý học sỹ, bởi tật nói lắp, không được cất nhắc lên làm cán tá (1), chỉ giữ chức trông coi đám nông dân cấy cầy phạt cỏ. Có ông lão làm Đề lại là người đồng quận thương Ngải gia cảnh bần hàn, chu cấp cho rất hậu, Ngải cũng chẳng chịu cảm tạ. Mỗi khi đi đâu nhìn thấy núi cao đầm rộng, Ngải thường lấy tay đo vẽ chia thành bờ luỹ lập quân doanh, người bấy giờ thấy thế đều cười chế nhạo. Sau này Ngải được làm chức Điển nông cương kỷ, rồi làm Thượng kế lại, bởi thế mới được tham kiến Thái uý Tư mã Tuyên Vương. Tuyên Vương lấy làm lạ, cho vời đến làm duyện (2), sau lại đổi cho làm Thượng thư lang.
Sách Thế ngữ chép: Lúc còn trẻ Đặng Ngải làm người giúp việc cho quan Điển Nông coi sóc việc chăn dân cùng với Thạch Bao khi ấy mới chừng 12, 13 tuổi. Bấy giờ quan Yết giả ở Dương Địch là Quách Huyền Tín, có con là Quách Đản Nguyên được Vũ Đế dùng làm Giám quân. Vào giữa những năm Kiến An, bởi con nhỏ là Cát khởi binh làm loạn ở Hứa Đô, Huyền Tín phải chịu hình tại gia, vì thế Điển nông Tư mã mới cần tìm một người đánh xe, Ngải-Bao được chọn làm việc ấy, đánh xe đi được chừng hơn 10 dặm, thấy thành thục lắm, tỏ ý hài lòng, mới cho cả hai người cùng đi theo để giúp việc. Ngải sau này làm Điển nông Công tào, phụng mệnh đến chỗ Tuyên Vương, vì thế mới được Tuyên Vương biết đến, rồi sau này mới được cất nhắc lên.
Thời bấy giờ mùa màng tốt tươi, các loại sâu có hại chẳng có, triều đình phái Ngải đi qua đất Trần-Hạng về phía Đông đến Thọ Xuân. Ngải coi xem rồi nói: "Đất đai ở đây rất tốt mà thiếu nước, không tận dụng hết được địa lợi, nên cho đào một con kênh lớn, để dẫn nước về tưới tiêu cho đồng ruộng, như thế có thể tăng thêm được lương để nuôi quân, lại có thể lưu thông được theo đường thuỷ đạo". Bèn đem việc khai sông ra bàn bạc với các quan và xin chỉ dụ về việc ấy. Lại dâng biểu rằng: "Xưa kia vì phá giặc Hoàng cân, nên mới lập ra đồn điền, tích trữ lương thực ở Hứa Đô hòng khống chế bốn phương. Nay tam phương đã định, việc binh lương chính là ở xứ Hoài Nam, mỗi khi cất đại quân chinh phạt ở nơi xa, quân sỹ vận chuyển binh lương chiếm đến quá nửa, công sức hao phí ức vạn, cần phải lấy rất nhiều quân dịch. Hai xứ Trần - Thái ở giữa thiên hạ, là đất tốt để cày cấy lấy lương thực nuôi quân, lại xét rằng xung quanh vùng Hứa Xương đều là ruộng cấy, cần phải khai thông thuỷ đạo để có thể xuôi được về Đông. Nay lệnh cho các xứ Hoài Bắc lấy 2 vạn lính thú, Hoài Nam 3 vạn lính, cứ hết 12 tháng quân dịch thì được nghỉ ngơi, luôn luôn phải có 4 vạn người, vừa cấy cầy vừa tham gia khai thuỷ đạo. Đường thuỷ thông được thì mùa màng thu nhiều gấp ba lần lúc trước, tính trừ hết các phí tổn, mỗi năm thu về được hơn 500 vạn hộc lương để nuôi quân. Lấy số thừa ra ấy để tính việc nước Ngô, lo gì chẳng thắng được." Tuyên Vương khen hay, liền cho thi hành việc ấy. Năm Chính Thuỷ thứ hai, cho khai rộng thuỷ đạo, mỗi khi các xứ phía Đông và Nam có việc, lại cất đại quân, cưỡi thuyền xuôi dòng mà xuống, khắp vùng Giang Hoài, nhờ có lương thực tích trữ ấy mà phấn chấn lên được, ấy là Ngải có sở kiến vậy.
Đến khi Ngải tham gia việc quân ở phía Tây, được thăng làm Nam An thái thú. Năm Gia Bình nguyên niên, cùng với Chinh Tây tướng quân Quách Hoài chống cự Thục tướng Khương Duy. Duy lui binh, Hoài muốn theo hướng Tây đánh vào đất của rợ Khương. Ngải nói: "Giặc lui về chưa xa, sợ rằng sẽ
quay trở lại, ta nên chia quân chống giữ đề phòng bị đánh bất ngờ". Hoài bèn để Ngải đóng quân ở phía bắc Bạch thuỷ. Ba ngày sau, Duy sai Liêu Hoá tới đánh vào phía nam quân doanh của Ngải ở Bạch thuỷ. Ngải bảo với chư tướng rằng: "Binh sỹ của Duy nay mới quay lại, quân ta ít hơn địch, thế mà họ lại không vượt sông hoặc bắc cầu. Ấy là Duy sai Hoá cầm giữ ta ở đây, để ta không dám lui về. Duy ắt sẽ dẫn quân từ phía Đông lại để đánh úp lấy Thao Thành của ta vậy." Thao Thành ở phía bờ Bắc sông, cách nơi Ngải đóng binh chừng 60 dặm. Ngay đêm ấy, Ngải ngầm thúc binh theo lối tắt đến đó, Duy quả nhiên vượt sông, còn Ngải đến được Thao Thành trước chống giữ ở đấy, nên mới giữ được. Bởi công ấy mà Ngải được ban tước Quan nội hầu, thăng làm Thảo khấu tướng quân, sau lại đổi làm Thành Dương thái thú.
Lúc bấy giờ ở Tinh châu có Hữu hiền vương Lưu Báo gây việc can qua, Ngải tâu lên bề trên rằng: "Nhung Địch (3) là loại sài lang, chẳng thể lấy nghĩa mà thân gần được, khi mạnh họ tất xâm lấn gây hại, khi yếu sẽ nhờ vả nương tựa, từ trước tới nay giống Hiểm Duẫn (4) vốn là quân thảo khấu, Hán Cao tổ xưa đã phải xây thành để cự chúng. Mỗi khi quân Hung Nô cường thịnh, lại gây mối lo ghê gớm. Bởi lẽ Hiền Vu (5) ở ngoài biên trấn, không thuận theo thể chế của vương triều. Cần dẫn dụ họ đến tận cùng, khiến họ phải theo về. Như thế sẽ khiến người Khương Di quên mất gốc gác, hợp tan vô chủ. Được vậy thì Thiền Vu sẽ thuộc về Trung Quốc, vạn dặm nơi xa đều phục tùng vương pháp cả. Nay giúp cho Thiền Vu được tôn kính, đất biên ngoại ắt sợ uy mà dần dần phải coi trọng, như thế ắt quân Hồ Lỗ chẳng thể không kinh hãi được. Thần nghe thấy tin Lưu Báo muốn chống đối với rợ Hồ, có thể sẽ tổn hại đến cả hai bên, làm chia rẽ hình thế trước đây. Vứt bỏ hết công quả rỡ ràng của tiền triều, con cháu chẳng thể kế nghiệp, thiết nghĩ nên ban cho họ danh hiệu cao quý hơn nữa, khiến họ ở yên Nhạn Môn quan. Chia rẽ địch quốc sẽ khiến họ bị suy yếu đi, đó là duy trì được công lao cũ, ấy mới là kế giữ vững biên cương lâu dài vậy." Lại bầy kế rằng: "Người dân Khương Hồ cũng như dân bản quốc, nên thay đổi cách đối xử với họ, khiến cho dân ấy biết trọng giáo hoá liêm sỉ, ắt sẽ dứt bỏ được đạo gian tà vậy". Đại tướng quân Tư mã Cảnh vương mới lên giúp việc chính sự, rất khen ngợi và dùng kế sách ấy.
Khi Ngải được đổi chức làm Nhữ Nam thái thú, rất muốn tìm kiếm viên Đề lại đã hậu đãi mình lúc trước, thì người ấy chết đã lâu rồi, Ngải sai kẻ lại dưới quyền làm lễ cúng tế, lại cung phụng mẹ già người ấy và giúp cho con trai ông lão được làm chức lại. Ngải ở đó, cho khai khẩn ruộng hoang, quân dân vùng ấy đều phấn chấn.
Gia Cát Khác vây Hợp Phì-Tân Thành, không đánh được, phải lui về. Ngải nói với Cảnh vương rằng: "Tôn Quyền đã chết, Đại thần chưa đủ sức phụ chính, người Ngô vốn là danh tông đại tộc, mỗi người đều có đội quân riêng, nhờ cậy vào binh ấy mà tạo thế lực, đủ để sai dụng. Khác mới nắm việc quốc chính, mà bên trong không có người chủ trương, chẳng nghĩ đến việc phủ dụ người trên, giúp đỡ kẻ dưới để gây dựng căn cơ, lại ganh đua với bên ngoài, ngược đãi bá tánh, vắt kiệt sức dân, dốc sức đánh thành cướp đất, người chết kể hàng mấy vạn, rước lấy hoạ vào thân, ấy là Khác tự gây hoạ cho mình vậy. Xưa Tử Tư-Ngô Khởi-Thương Ưởng-Nhạc Nghị đều biết dốc lòng thờ chúa, thế mà lúc chủ chết vẫn phải vong thân. Huống chi Khác tài chẳng được như bốn người ấy, lại chẳng biết nghĩ đến hoạ lớn, việc vong bại có thể ngồi mà đợi được vậy". Khác về nước, quả nhiên bị giết.
Ngải được đổi làm Duyện châu thứ sử, thêm chức Chấn uy tướng quân. Ngải dâng biểu lên bề trên rằng: "Quốc gia có biến, nghĩ rằng kẻ đi cầy phải biết lo lắng, quốc phú ắt binh cường, binh cường ắt chiến thắng. Như thế thì người dân, chính là gốc của sự thành bại vậy. Đức Khổng Tử nói rằng:
'Lương đủ nuôi quân, quân đủ để bảo vệ dân' như thế thì lương thực chính là mối lo đầu tiên của binh gia vậy. Nếu như người trên không biết khuyến khích, ắt kẻ dưới chẳng khéo lo toan. Nay nếu xét công mà khen thưởng, sẽ khiến cho dân tích trữ được nhiều lương thực mà giàu có, ắt việc rong chơi sẽ dứt, sự phù phiếm sẽ phải tuyệt đường vậy".
.
Cao Quý hương công (6) lên tức vị, Ngải được tiến phong làm Nghi thành Đình hầu. Vô Kỳ Kiệm (Khâu Kiệm) dấy loạn, sai lính mang thư tới chỗ Ngải, khiến binh sĩ xôn xao, Ngải chém sứ giả, thúc quân tiến lên, trước tiên đến thành Nhạc Gia, cho bắc cầu để vượt sông. Tư mã Cảnh vương đến, đóng quân ở đó. Văn Khâm sau bị đại quân đánh bại ở Hạng Thành, Ngải đuổi theo đến tận Khâu Đầu. Khâm chạy sang Ngô. Đại tướng quân nước Ngô là Tôn Tuấn đốc xuất hơn chục vạn quân, vượt Đại Giang, Trấn Đông tướng quân Gia Cát Đản sai Ngải đóng quân ở Phì Dương, Ngải sớm liệu thế địch, xét thấy đất ấy chẳng phải nơi trọng yếu, liền dời đến đóng quân ở Phụ Đình, sai Thái thú Thái Sơn là Gia Cát Tự đến Lê Tương đánh địch, địch phải bỏ chạy. Năm ấy Ngải được bái làm Trường thuỷ Thái uý. Bởi có công lao trong việc phá được Văn Khâm, Ngải được tiến phong làm Thành Hương hầu, hành An Tây tướng quân (7). Triều đình sai đến giúp Ung Châu thứ sử Vương Kinh đang bị vây hãm ở Địch Đạo, Khương Duy phải lui binh về đóng ở Chung Đê, triều đình lại lấy Ngải làm An Tây tướng quân, ban cho Giả Tiết, lĩnh chức Đông Khương Thái Uý.
Bấy giờ đa phần đều bàn rằng Duy binh lực đã kiệt, không thể ra quân được nữa. Ngải nói rằng: "Ta thua trận ở Thao Tây, tổn hại không phải nhỏ, quân tan tướng chết, kho đụn rỗng không, trăm họ li tán, quốc gia nguy nan. Nay xét kỹ thì thấy rằng, họ vẫn ở thế thắng, ta kỳ thực đang ở thế thua, đó là lẽ thứ nhất. Bên kia quân tướng luyện tập cùng nhau đã lâu, ngũ binh bền sắc, bên ta đổi tướng thay binh liên tục, khí trượng chưa thuần thục, ấy là lẽ thứ hai. Họ đi thuyền, ta đi bộ, sự khó nhọc nhàn nhã khác nhau, là lẽ thứ ba. Các xứ Địch Đạo, Lũng Tây, Nam An, Kỳ Sơn đều là đất chiến thủ, bên kia chỉ cần tiến ra một mặt, ta phải chia binh giữ cả bốn phía, ấy là lẽ thứ tư. Địch ra các xứ Nam An, Lũng Tây, có sẵn thóc gạo của người Khương mà ăn, nếu ra Kỳ Sơn, có cả nghìn thửa lúa mạch vừa chín tới, lấy lương đó để mà chi dụng, ấy là năm lẽ. Kẻ địch tất sáng suốt tất tính được như thế, ắt sẽ lại ra nữa vậy." Không bao lâu, Duy quả nhiên lại tiến ra Kỳ Sơn, nghe tin Ngải đã có phòng bị rồi, bèn đi tắt theo lối Đổng Đình tới Nam An, Ngải đóng binh chống giữ ở Vũ Thành Sơn. Duy đấu quân với Ngải tranh chiếm nơi đất hiểm, không hạ được, ngay đêm ấy, Duy vượt sông Vị hướng về Đông, men núi tiến đến Thượng Nhai, Ngải đại chiến với Duy ở Đoạn Cốc, thắng lớn ở đấy.
Năm Cam Lộ nguyên niên, triều đình gửi chiếu khen Ngải rằng: "Nghịch tặc Khương Duy cậy tài ngông cuồng liền năm đánh phá, khiến người Di bị quấy nhiễu, đất phương Tây chẳng được yên bình. Ngải trù liệu lo toan giữ được nơi ấy, trung dũng hơn người, chém được mười tướng địch, dâng hơn nghìn đầu giặc; khiến oai danh bản quốc chấn động khắp xứ Ba Thục, tiếng tăm vang dậy khắp từ Đại Giang đến vùng Mân Triết. Nay lấy Ngải làm Trấn Tây tướng quân, đô đốc nắm giữ việc quân sự ở Lũng Hữu, tiến phong tước là Đặng hầu. Cho được ăn lộc 500 hộ, ban cho con Ngải là Trung tước Đình hầu".
Năm Cam Lộ thứ hai, Ngải chống đánh Khương Duy ở Trường Thành, Duy phải lui binh. Ngải lại được đổi làm Chinh Tây tướng quân, trước sau được ban thêm sáu ấp ăn lộc 6.600 hộ. Năm Cảnh Nguyên thứ ba, Ngải lại phá được Duy ở thành Hầu Hà, Duy lui về giữ Đạp Trung.
Mùa thu năm Cảnh Nguyên thứ tư, triều đình xuống chiếu lệnh cho ba quân phạt Thục, Đại tướng quân
Tư mã Văn vương nhận chỉ dụ điều tiết mọi mặt, Chiêu sai Ngải cầm giữ quân của Duy; Ung châu thứ sử Gia Cát Tự đón bắt Duy. Ngải phái Thiên Thuỷ thái thú Vương Kỳ đánh trực diện vào doanh luỹ của Duy, Lũng Tây thái thú Khiêm Hoằng đón lõng Duy ở mặt trước, còn Kim Thành thái thú Dương Hân tiến thẳng đến Cam Tùng. Duy nghe tin đại quân của Chung Hội đã xâm nhập vào Hán Trung, mới dẫn quân lui về giữ. Bọn Hân gấp rút đuổi theo Duy đến Xuyên khẩu, đại chiến ở đấy, Duy thua trận bỏ chạy. Lại nghe đồn rằng quân Ung Châu đã đóng giữ chiếm đầu cầu, Duy mới theo cửa Hàm Cốc tiến thẳng về Bắc, có ý tiến ra lấy Ung Châu. Gia Cát Tự thấy thế, vội vã lui về 30 dặm. Duy tiến về Bắc được 30 dặm, nghe tin Tự đã lui quân, liền quay lại, vượt qua bên kia cầu Âm Bình, Tự đuổi theo đánh Duy, hết ngày vẫn không đuổi kịp. Duy kéo quân về phía Đông, lui giữ cửa Kiếm Các. Chung Hội tấn công Duy không sao thắng được.
Ngải dâng biểu lên bề trên rằng: "Nay quân giặc đã bị bẻ gẫy, nên nhân cơ hội này, dẫn quân theo lối Âm Bình men đường hẻm vượt qua Đức Dương Đình tiến tới Phù Thành, nơi đó cách Kiếm Các về phía Tây chừng 100 dặm, tiến về Thành Đô cũng có 300 dặm. Kỳ binh của ta đã đóng ở đó, quân địch đang giữ ở Kiếm Các tất phải lui về cứu Phù Thành, ắt Hội sẽ rộng đường mà tiến; bằng như quân ở Kiếm Các chẳng lui về, ắt quân giữ ở Phù Thành sẽ đơn độc. Ở Binh pháp, thiên Quân Chí có nói rằng: 'Công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý'. Nay nên giấu kín ngay việc ấy, phá địch ắt chỉ có như thế thôi vậy."
Mùa Đông tháng 10, Ngải từ Âm Bình tiến sâu vào đất không dấu chân người đến hơn 700 dặm, đào núi mở đường, xây cầu bắc ván. Núi cao vực sâu, tận cùng gian hiểm, lại còn lương thực mang theo chẳng đủ dùng, mối nguy nan luôn rình rập. Ngải quấn chăn khắp mình, lăn từ trên cao xuống. Tướng sĩ đều vin cây bám chặt vào vách núi, đính liền nhau như xâu cá, cứ thế mà tiến. Khi Ngải tiến quân đến Giang Du, Thục tướng là Mã Mặc ra hàng. Vệ tướng quân nhà Thục là Gia Cát Chiêm từ Phù Thành lui về Miên Trúc, bày trận đợi Ngải ở đó. Ngải phái con yêu là Đình hầu Đặng Trung tiến ra mé hữu, Tư mã Sư Toản tiến ra mé tả đón đánh Chiêm. Trung, Toản đánh nhau không được lợi, đều phải lui binh về, bẩm với Ngải rằng: "Giặc chưa thể đánh được trong lúc này". Ngải nổi giận mắng: "Cái lẽ được mất đã rõ ràng rồi, chỉ một lần này là xong việc, sao không biết gắng hết sức?" Lại quát mắng bọn Trung-Toản, muốn chém. Trung-Toản vội quay lại đánh tiếp, phá được quân Thục, chém chết Chiêm và quan Thượng thư Trương Tuân (8) cắt lấy đầu, rồi tiến quân đến lấy Lạc Thành. Lưu Thiện phái sứ giả đem dâng nộp tỉ thụ Hoàng đế cho Ngải và xin hàng.
Ngải đến Thành Đô, Thiện đem Thái tử và các vương hầu cùng quần thần hơn sáu chục người cúi mặt khiêng áo quan đến quân môn chịu tội, Ngải cởi trói đỡ dậy, lại sai đốt bỏ áo quan, nhận cho hàng. Rồi kiểm xét danh sách các tướng sĩ trong cung, không bỏ sót người nào, vỗ về kẻ ra hàng, cho giữ nguyên công việc như trước, vì thế người Thục đều yên bụng cả.
Ngải riêng ý chiếu theo việc của Đặng Vũ ngày trước, thừa mệnh phong cho Thiện chức Hành Phiêu kỵ tướng quân, cho Thái tử giữ chức Phụng xa, các vương hầu được ban chức Phụ mã Đô uý. Quần thần nước Thục tuỳ theo thứ bậc cao thấp đều được cho làm quan cả, hoặc nhận các chức tước phụ thuộc trong quân doanh của Ngải. Ngải lại lấy Sư Toản làm Ích châu thứ sử, Lũng Tây thái thú Khiêm Hoằng đốc xuất các quận ở Thục trung. Lại sai đắp một đài lớn ở Miên Trúc làm sở quan, nhằm ca tụng chiến công của mình. Những binh sĩ bị chết vì việc nước, kể cả Thục binh đều được mai táng như nhau cả. Ngải có ý khoe công của mình, bảo với các đại phu nước Thục rằng: "Các ngươi may gặp được ta, mới có được ngày hôm nay vậy, ví bằng gặp phải bọn tướng khác, ắt là chết cả rồi". Lại nói: "Khương
Duy tự cho chỉ có mình là anh hùng, cùng với ta tương tranh, giờ đã cố cùng rồi vậy". Bậc thức giả đều cười chê lời ấy.
Tháng 12, chiếu gửi Ngải viết rằng: "Ngải diễu võ trổ oai, thâm nhập vào sâu nơi phủ đình, chém tướng cướp cờ, mạnh như kình nghê (9), khiến cho chúa tiếm hiệu phải kê đầu giơ cổ chịu hàng, một sớm bình định được hết cả. Trong lúc binh không đầy đủ, đánh chẳng trọn ngày, thế mà như cuốn chiếu xua mây, dẹp yên Ba Thục. Dẫu Bạch Khởi phá cường Sở, Hàn Tín đánh quân Triệu dũng mãnh, Ngô Hán lấy Tử Dương, Á Chu diệt thất quốc, tính công mà luận xét, cũng chẳng thể hơn được công quả ấy. Vậy phong cho Ngải làm Thái uý, tăng thêm lộc hai vạn hộ nữa, phong cho hai con được làm Đình hầu, đều được ăn lộc một ấp có ngàn hộ.
Viên Tử viết: Gia Cát Lượng, dùng người cẩn trọng, dụng binh bất ngờ, ấy là biết nước nhỏ dân ít khó có thể giữ được lâu dài. Nay quốc gia một lần cất quân diệt được nước Thục, chinh phạt nên công, cũng chưa phải dụng binh thần tốc như vậy. Mà Đặng Ngải dùng có vạn người thâm nhập Giang Du đến cùng gian hiểm, còn Chung Hội dụng 20 vạn quân lại bị chặn ở cửa Kiếm Các mà chẳng tiến được, ba quân tướng sĩ sắp thiếu ăn, Ngải tuy thắng trận khắc địch, khiến Lưu Thiện trong mấy ngày phải ra hàng, mà hai tướng ấy ra đi đều khó bề quay lại được. Nên công nghiệp như thế là nguy hiểm vậy. Quốc gia lúc trước lấy quân ở Thọ Xuân để sai khiến, sau này diệt được nước Thục nên công, trăm họ nghèo khó mà rương đẫy rỗng không. Ôi việc nước nhỏ phải lo lắng, ở chỗ gây dựng để tự bảo tồn, nước lớn phải lo toan, ở chỗ thắng địch mà kiệt lực, thành công là việc về sau, biết lo sợ mà phòng bị là việc lúc bấy giờ vậy.
Ngải gửi thư cho Tư mã Văn vương nói rằng: "Việc binh trước hết là phô trương thanh thế sau mới đến việc thực, nay nhân lúc mới bình được Thục nên thừa thế đồ nước Ngô, người Ngô tất rung động kinh hoàng, thế cuốn chiếu là như vậy. Nhưng cất đại quân thiết nghĩ nên để sau này, bởi tướng sĩ mới lao khó nhọc mệt, không nên dùng ngay, hãy tạm hoãn việc ấy lại; nên để hai vạn quân ở lại Lũng Hữu, cùng hai vạn quân Thục, để nấu muối khai mỏ, làm các binh cụ yếu dụng, cho đóng thuyền bè, chuẩn bị sẵn sàng để xuôi dòng mà xuống, rồi sau sai sứ đến nói rõ lợi hại, người Ngô ắt phải quy phục, có thể không cần phải đánh mà cũng bình định được vậy. Nay nên hậu đãi Lưu Thiện lấy đó để nhử Tôn Hưu, yên kẻ sỹ cùng muôn dân để thu lấy bụng người ở xa, nhược bằng đưa ngay Thiện về kinh đô, người Ngô thấy thế, ắt chẳng yên bụng mà đổi tâm chuyển ý. Nên quyền biến mà cho Lưu Thiện ở lại Thục, đợi đến mùa đông năm sau sẽ tính, như thế người Ngô cũng yên lòng. Nay hãy tạm phong cho Lưu Thiện làm Phù phong vương, cho của cải để nuôi đầy tớ, ban cho tả hữu để hầu hạ bên mình. Cho đất riêng để ở như Đổng Trác ở My Ổ khi trước, cho làm cung xá tá túc. Con cái được ở ngôi công hầu, ăn lộc một quận trong huyện, để sáng tỏ ân sủng của quốc gia. Mở rộng cửa nơi Quảng Lăng, Thành Dương nhằm hậu đãi người Ngô, tất họ sẽ phục uy mến đức, ắt trông xa theo gió mà quy hàng cả".
Văn Vương liền sai Giám quân Vệ Quán bảo Ngải rằng: "Làm việc nên bẩm báo rõ, chẳng nên tự ý thi hành." Ngải mới nặng lời rằng: "Ta vâng mệnh đi chinh phạt, phụng chỉ nhận kế sách, kẻ đầu sỏ đã phải phục tùng; rất nên được thừa chế mà hành xử, có thế sẽ an lòng kẻ mới theo về, thế mới là hợp lẽ quyền biến. Nay cả nước Thục đã theo vương mệnh, đất đai kéo đến tận Nam Hải, phía Đông tiếp giáp với Ngô Hội, nên sớm vỗ yên. Ví như đợi quốc mệnh, theo đạo lý thông thường, sẽ phải dây dưa ngày tháng. Kinh Xuân Thu có câu rằng, quan đại phu ra ngoài cõi, nếu có thể yên xã tắc, làm lợi cho quốc gia, thì chuyên quyền cũng được. Nay nước Ngô chưa thần phục; thế tất liên kết với Thục, chẳng nên câu nệ đạo thường đánh mất cơ hội. Theo binh pháp, tiến không cầu danh, lui không tránh tội, Ngải này tuy không bằng được người xưa, nhưng chẳng thể nhún mình để thiệt cho nước vậy."
Bọn Chung Hội, Hồ Liệt, Sư Toản đều thưa rằng Ngải có ý phản nghịch, cố tình làm trái. Chiêu liền gửi thư sai bắt Ngải nhốt vào xe tù.
Nguỵ thị Xuân Thu chép: Ngải ngửa mặt lên trời than rằng: "Ngải này là bậc trung thần, cũng có lúc như thế này ư! Bạch Khởi xưa phải ăn năn, cũng như ta ngày nay vậy."
Cha con Ngải đã bị bắt tội, Chung Hội vào Thành Đô, trước hết cho áp tải Ngải về kinh, rồi sau dấy loạn. Lúc Hội chết, tướng sĩ trong doanh của Ngải đuổi theo thả Ngải ra khỏi xe tù, rồi đón về. Vệ Quán sai Điền Tục đến giết Ngải, gặp ở phía Tây thành Miên Trúc, chém được. Con Ngải là Trung cũng chết cùng với cha, người con khác ở Lạc Dương cũng bị giết, vợ Ngải cùng cháu đích tôn bị đầy đi tận xứ Tây Vực.
Hán Tấn Xuân Thu chép: Khi trước Ngải xuống đến Giang Du, nhân vì Điền Tục không chịu tiến binh, Ngải muốn chém, may được tha tội. Đến khi Quán sai Tục giết Ngải, mới bảo rằng: "Ta để ngươi báo thù cái nhục ở Giang Du lúc trước". Đỗ Dự nói với mọi người rằng: "Bá Ngọc kia chẳng đã được thoát tội rồi đấy sao! Thân làm danh sĩ, ngôi vị quá cao, đã chẳng biết làm việc ân đức, lại không biết ngăn kẻ dưới để làm điều ngay thẳng, ấy là tiểu nhân mượn khí độ người quân tử mà thôi, sao có thể gánh vác việc mai sau?" Quán nghe thế, chẳng đợi xa giá tới nơi đã vội vàng tạ lỗi.
Sách Thế ngữ viết: Sư Toản cũng bị chết cùng với Ngải ngày hôm ấy. Toản nóng nảy mà thiếu ân, chết không toàn thây.
Lúc trước, Ngải đương phạt Thục, mộng thấy mình ngồi trên đỉnh núi mà lại thấy nước chảy, mới đem hỏi Điễn lỗ Hộ quân là Viên Thiệu. Thiệu nói rằng: "Kinh Dịch có quẻ rằng, trên núi có nước chảy là Kiển. Quẻ Kiển nói rằng: 'lợi về mặt Tây Nam, bất lợi về mặt Đông Bắc'. Khổng Tử giảng rằng: "Quẻ Kiển lợi mặt Tây Nam, nghĩa là đi thì có công; Bất lợi ở mặt Đông Bắc, nghĩa là đến đó là đường cùng." E rằng đi chuyến này tất đánh được Thục, nhưng sợ chẳng trở về được nữa!" Ngải nghe nói rất không vui, tâm trạng bùi ngùi.
Sách Ký châu ký sự của Tuân Xước chép rằng: Thiệu bắt đầu từ chức cán lại, rồi làm đến tận chức Vệ uý. Con trưởng là Hàn, làm Thái thú Hà Đông. Con thứ là Sưởng, làm Đại tư nông. Con út là Thiến, tự là Quân Ấu, tính tình khoan hậu mà có khí phách, có tiếng lúc bấy giờ, từng làm Ký châu Thứ sử, sau Thái tử lấy làm túc vệ luôn mang theo bên mình. Con Hàn là Du, tự Thế Đô, thanh bạch kiên trinh mà cao khiết, có tài bàn xét nghị luận, cùng với Công Tôn Long đàm luận về đạo lý. Lúc còn nhỏ đã nổi danh, được vời vào phủ Thái uý, làm đến chức Thị trung trung thư lệnh, sau đổi làm chức Giám ti.
Thần Tùng Chi xét rằng: Thoán từ quẻ Kiển (10) nói rằng: "Kiển lợi về mặt Tây Nam, đi phải đúng chính đạo", không nói rằng: "có công"; dưới lại nói rằng: "Gặp được đại nhân giúp cho mới có lợi, đi thì có công vậy'.
Năm Thái thuỷ nguyên niên, Tấn thất lên ngôi đế, chiếu viết rằng: "Xưa Thái uý Vương Lăng mưu phế Tề vương, mà Vương sau cùng chẳng đủ sức giữ ngôi vị. Chinh Tây tướng quân Đặng Ngải, kiêu căng cậy công mà thất tiết, trọng tội rõ ràng. Đã bị chiếu thư bắt tội, tước bỏ quân quyền, phải bó tay chịu
chết, ấy là bởi muốn sinh lòng làm việc ác, mà việc chẳng thành. Nay đại xá xoá bỏ tội trạng, nhược bằng tử tôn không còn nữa sẽ phải tìm người trong họ để tạo lập về sau, lệnh cho phải làm lễ tế tự không để dòng tộc bị tuyệt diệt".
Năm Thái Thuỷ thứ ba, quan Nghị lang dâng sớ lên bề trên nói rõ việc làm của Ngải rằng: "Ngải mang lòng trung nghĩa mà lại phải gánh tội phản nghịch, có công bình định Ba Thục mà lại bị tru diệt, thần lấy làm thương tiếc lắm. Thương thay, nói rằng Ngải làm phản ư! Ngải vốn tính cương cường nóng nảy, coi rẻ kẻ mạo phạm mà nhã nhặn với người phàm tục, không hoà mình với đồng liêu, vì thế khiến người ta chẳng hài lòng. Thần mạo muội nói rằng Ngải chẳng phải làm phản vậy. Xưa Khương Duy đánh phá tan tành ở Lũng Hữu, Ngải sửa sang việc phòng bị, khiến lương đủ binh cường. Gặp năm hung hạn, Ngải chia thóc lúa cho dân, thân mặc áo thô, tay cầm cầy cuốc, làm gương cho tướng sỹ. Khiến cho trên dưới đều cảm kích, chẳng ai dám không tận lực. Ngải nắm quyền trấn thủ biên cương, thống lĩnh mấy vạn binh, mà không ngã lòng vì gian khó nhọc nhằn, kẻ sĩ dân đi lao dịch, chẳng câu chấp lẽ trung cần, đã mấy ai được như vậy? Việc chiến trận ở Lạc Môn, Đoạn Cốc, lấy ít địch nhiều, mà phá tan được cường địch. Tiên đế biết việc ấy càng tin tưởng, mới uỷ thác cho Ngải kế sách, trao cho việc lớn. Ngải vâng mệnh quên thân, thúc ngựa ruổi xe, xông pha nơi tử địa, dũng khí xung mây, sĩ chúng thừa thế xông lên, khiến vua tôi Lưu Thiện phải cúi mặt, trói tay quỳ gối xin hàng. Ngải công trạng đã thành, danh ấy đáng ghi vào tre lụa, lưu truyền đến vạn đời. Ông già 70 tuổi, sao còn muốn làm phản đây! Tin rằng Ngải chịu ơn mẹ già dưỡng dục chu đáo, tâm ấy chẳng nên ngờ, tuy có lỗi thừa chế (*), nhưng là quyền biến để an xã tắc; dẫu trái đạo thường, nhưng hợp nghĩa xưa, nếu suy cho cùng mà định tội, thật chẳng nên vậy. Chung Hội vốn ghen ghét uy danh của Ngải, mới dựng lên chuyện ấy. Khiến kẻ trung mà bị giết, tín mà bị nghi ngờ, đầu phải treo trên lưng ngựa, con cái đều bị giết thảm, ai nhìn thấy cũng phải cúi đầu, tai nghe thấy đều buông lời than thở. Bệ hạ mới lên ngôi, nên mở lòng đại lượng, cởi bỏ mọi nỗi hiềm kỵ, chẳng nên câu nệ việc trước. Xưa dân Tần thương Bạch Khởi vô tội mà chết, người Ngô thương Tử Tư bị oan khuất mà khóc, đều lập đền thờ. Nay người trong thiên hạ vì Ngải mà thương tâm oán giận, cũng giống như vậy. Thần coi Ngải chết chẳng toàn thây, thân thể vứt bỏ nơi bãi cỏ, nên cho thu nhặt để an táng, trả lại tất cả ruộng vườn. Lấy việc bình Thục làm công lao, cho cháu chắt được nối nghiệp cha ông, sai đóng áo quan mà ban cho thuỵ hiệu, khiến người chết không còn oán hận. Xá tội cho một oan hồn ở dưới hoàng tuyền, lấy được tín nghĩa nơi hậu thế, táng cho một người đã chết mà thu lấy lòng ái mộ của thiên hạ, chôn cất một linh hồn khiến thiên hạ thấy nghĩa mà theo về, mà người vợ goá của Ngải cũng vui lòng, ấy là việc rất nên vậy."
Năm Thái thuỷ thứ chín, chiếu rằng: "Ngải có công huân, chịu tội mà chẳng bỏ trốn, mà con cháu bị bắt làm dân thường, trẫm vẫn lấy làm thương xót. Nay lấy cháu đích tôn là Lãng làm Lang trung".
Thời Ngải ở phía Tây, đã cho sửa sang nơi đất hiểm, xây cất thành quách thôn xóm. Năm Thái Thuỷ trung, người Khương dấy loạn lớn, giết chết quan Thứ sử ở đấy, xứ Lương châu bị chia cắt. Riêng dân chúng ở những nơi Ngải xây cất thành quách khi trước, thôn xóm đều được yên bình cả.
Sách Thế ngữ chép: Năm Hàm Ninh trung, triều đình lấy Tích xạ tướng quân Phàn Chấn giữ cửa ngõ phía Tây cự người Nhung, Chấn từ chối, Vũ Đế hỏi Chấn vì sao lại không đi, Chấn tấu trình rằng bởi cháu của Đặng Ngải phạt Thục khi trước bấy giờ đang làm môn hạ dưới trướng ở đó, Đế bèn hỏi về Ngải, Chấn cho rằng Ngải là bậc trung thần, nói rồi nước mắt chảy giàn giụa. Bởi khi trước đã lấy cháu Ngải là Lãng làm lệnh ở huyện Đan Thuỷ, vì thế liền đổi Lãng đến làm lệnh ở đất Định Lăng. Một người cháu khác của Ngải là Thiên Thu bấy giờ cũng là người có danh vọng, được Quang lộc đại phu
Vương Nhung lấy làm Duyện. Năm Vĩnh Gia trung, Lãng được cử làm Tân Đô thái thú, chưa kịp đến nhậm chức thì ở Tương Dương xảy ra hoả hoạn lớn, Lãng cùng mẹ già, vợ con bị chết cháy, chỉ có hai con là Thao và Hành thoát nạn. Thiên Thu đã chết trước đó, hai người con của Thu cũng bị chết cháy.
Người cùng làng với Ngải thời ở Nam Dương là Chu Thái, cũng lập nên công nghiệp rỡ ràng, rất khéo việc dụng binh, làm quan đến chức Chinh Lỗ tướng quân, được ban Giả tiết, kiêm quản mọi việc quân sự, làm Đô Đô đốc Giang Nam. Năm Cảnh Nguyên thứ hai chết, được truy tặng chức Vệ tướng quân, thuỵ hiệu là Tráng hầu.
Sách Thế Ngữ chép: Khi trước, Thứ sử Kinh châu là Bùi Tiềm lấy Thái làm Tòng sự, Tư mã Tuyên vương đang trấn giữ Uyển thành, Tiềm mấy lần sai Thái đến chỗ Tuyên Vương, bởi thế Tuyên vương mới biết đến Thái. Đến lúc đánh Mạnh Đạt, Thái lại làm hướng đạo, Vương mới cho gọi Thái. Thái từng phải để trùng tang bố, mẹ và ông, liền chín năm cư tang, Tuyên Vương cho giữ lại một chức quan còn khuyết để chờ bổ nhiệm cho Thái, bổ nhiệm được 36 ngày, lại cất Thái lên làm Thái thú Tân thành. Tuyên Vương thường ví Thái với Hội, khiến Thượng thư Chung Do đùa Thái rằng: "Ngươi rũ áo vải lên nhận việc nơi tể phủ, có 36 ngày mà nắm quyền chỉ huy, cai quản binh mã trong quận; ta xin làm đứa nhỏ theo hầu bên xe, để một lần rong ngựa cho ngươi được chăng?" Thái nói: "Nếu được như thế còn gì hơn nữa. Nhưng ngài là bậc công hầu, chí ít cũng lựa chọn người văn nhã, cớ gì mà theo viên lại, chỉ như con khỉ cưỡi trâu mà thôi, sao mà chậm chạp vậy!" Hết thảy tân khách đều cười rộ. Sau này Thái chuyển qua các chức Thứ sử Duyện châu, Dự châu, công việc ở những nơi đó đều được trù liệu chu đáo cả.
Chú thích:
(1) Cán tá: Giúp việc.
(2) Duyện: Tức là người phụ tá chuyên giúp việc.
(3) Nhung Địch là những bộ tộc Rợ ở phía Bắc và Tây Bắc vùng Hoa Hạ.
(4) Hiểm Duẫn là chỉ các tộc người rợ phương Bắc.
(5) Hiền Vu tức là vua tộc Hung Nô, cũng là một bộ tộc lớn phương Bắc, sau này là Mông Cổ. 6) Tức Tào Mao.
(7) Hành tức là trông coi việc.
(8) Trương Tuân là con Trương Bào, cháu Trương Phi.
(9) Kình ngê tức là cá voi cá kình.
(10) Nguyên văn lời thoán trong Kinh dịch về quẻ Kiển là 'lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc, lợi kiến đại nhân, trinh cát'. Tức là Đi về Tây Nam thì lợi, đi về Đông Bắc sẽ bất lợi. Gặp đại nhân giúp mới được lợi, bền giữa chính đạo thì mới tốt. Ở đây cụ Bùi Tùng lý giải rõ quẻ Kiển khác với lời mà cụ Trần Thọ dẫn qua lời nhân vật Viên Thiệu nói về quẻ Kiển với Đặng Ngải.

TRUYỆN QUÁN KHÂU
Quán Khâu Kiệm tự Trọng Cung, người huyện Văn Hỉ quận Hà Đông. Cha là Hưng, giữa năm Hoàng Sơ làm Vũ Uy Thái thú, đánh dẹp kẻ phản, vỗ về kẻ phục, mở thông miền Hà Hữu(1), nổi tiếng sau Kim Thành Thái thú Tô Tắc. Đánh giặc là Trương Tiến và đánh người Hồ phản có công, phong Cao
Dương Hương Hầu.
Ngụy danh thần tấu chép biểu của Ung Châu Thứ sử Trương Kí nói: "Miền Hà Hữu xa xôi, nhiễu loạn đã lâu, quận Vũ Uy là đường lối cổ họng của các quận, lại thêm người rợ ở lẫn, nhiều lần có nạn binh đao. Từ khi Thái thú Quán Khâu Hưng đến làm quan, trong an ủi quan dân, ngoài vỗ về Khương, Hồ, khiến cho họ theo phục, làm quan có tài. Hoàng Hoa, Trương Tiến vừa mưu làm loạn, lay động tả hữu, chí Hưng trung liệt, gặp nạn không lùi, vì các quan tướng người rợ mà bày rõ họa phúc, nghe nói thì khóc lóc. Bấy giờ vạn người trai gái đều mang lòng cảm kích, bỏ ý gây loạn, thề ước vâng lệnh. Rồi đêm quân mạnh đến thẳng Trương Dịch, giúp cứu được Thái thú Đỗ Thông, Tây Hải Thái thú Trương Mục. Quan dân hai huyện Phiên Hòa, Li Kiền quận Trương Dịch và người rợ trong quận bỏ kẻ ác mà đến theo Hưng, Hưng đều vỗ yên, sai dân chăm chỉ làm ruộng. Hưng hễ đi qua đâu, đều dốc hết tâm sức, thực là quan giỏi của nhà nước vậy. Điện hạ lên ngôi, lo nghĩ vạn bề. Nếu có việc hay dẫu nhỏ, cũng có ban thưởng, thần vâng theo ý chỉ, bày kể việc này".
Vào làm Tướng tác Đại tượng, Kiệm nối tước của cha, làm Bình Nguyên Hầu Văn học. Minh Đế lên ngôi, làm Thượng thư lang, chuyển làm Vũ lâm giám. Vì là bạn của Đông cung(2) nên rất được sủng ái. Ra làm Lạc Dương Điển nông. Bấy giờ lấy người cày ruộng đi dựng cung điện, Kiệm dâng sớ nói: "Thần ngu dốt cho rằng việc thiên hạ gấp diệt trừ là hai tên giặc, việc cần trước là cơm áo. Nếu hai tên giặc không diệt, quân dân lại đói rét, dẫu cung điện to đẹp cũng chẳng ích gì vậy". Chuyển làm Kinh Châu Thứ sử.
Giữa năm Thanh Long, Đế mưu đánh quận Liêu Đông, vì Kiệm có mưu lược, chuyển làm U Châu Thứ sử, thêm chức Độ Liêu Tướng quân, Sứ trì tiết, Hộ Ô Hoàn Hiệu úy. Đem các quân U Châu đến Tương Bình, đóng đồn ở Liêu Toại. Bọn Thiền vu Ô Hoàn ở quận Hữu Bắc Bình là Khấu Lâu Quách, Đô đốc Ô Hoàn ở quận Liêu Tây là Suất Chúng Vương Hộ Lưu ngày trước theo Viên Thượng đến Liêu Đông liền đem hơn năm nghìn người đến hàng. Khấu Lâu Quách sai em là bọn A La Bàn đến cửa khuyết chầu cống, phong hơn hai mươi tù trưởng của họ làm Hầu, Vương, ban các đồ xe ngựa, lụa gấm. Công Tôn Uyên đón đánh với Kiệm, không được lợi, dẫn quân về. Năm sau, Đế sai Thái úy Tư Mã Tuyên Vương lĩnh mấy vạn người trung quân cùng bọn Kiệm đánh Uyên, bình Liêu Đông. Vì Kiệm có công nên được tiến phong An Ấp Hầu, thực ấp ba nghìn chín trăm hộ.
Giữa năm Chính Thủy, Kiệm thấy người Cao Câu Li nhiều lầm xâm lấn, lĩnh các quân có vạn bộ kị ra quận Huyền Thố, theo các đường đánh chúng. Vua Cao Câu Li là Cung lĩnh hai vạn kị bộ, đem quân đến trên sông Phất Lưu, đánh lớn ở cửa Lương Khẩu, Lương, đọc là 'khát'. Cung thua chạy liên tiếp. Kiệm bèn buộc ngựa dừng xe để lên Hoàn Đô, phá kinh đô của nước Câu Li, bắt chém đến mấy nghìn thủ cấp. Quan Phái giả của nước Câu Li tên là Đắc Lai nhiều lần can gián Cung,
Thần là Tùng Chi xét: Đông Di truyện viết: 'Phái giả' là tên chức quan của nước Câu Li.
nhưng Cung không theo lời. Đắc Lai than rằng: "Đứng xem nước này sắp mọc cỏ lau". Rồi không ăn mà chết, cả nước khen là hiền. Kiệm sai các quân không bới mộ, không chặt cây bên mộ, bắt được vợ con của hắn, đều cho thả ra. Cung một mình đem vợ con chạy trốn, Kiệm dẫn quân về. Năm thứ sáu, lại đi đánh, Cung bèn đến Mãi Câu. Kiệm sai Huyền Thố Thái thú Vương Kì đuổi theo,
Thế ngữ viết: Kì tự Khổng Thạc, người quận Đông Lai, giữa năm Vĩnh Gia thời nhà Tấn có tên giặc Vương Di là cháu của Kì vậy.
qua nước Ốc Trở hơn nghìn dặm, đến đất phía nam của nước Túc Thận, khắc bia đá ghi công, san núi ở Hoàn Đô, khắc chữ ở thành Bất Nại. Bắt giết và thu nạp hơn tám nghìn người, luận công ban thưởng,
hơn tám trăm người được phong Hầu. Đào núi dẫn nước, dân được nhờ cái lợi ấy.
Chuyển làm Tả Tướng quân, Giả tiết, trông coi các quân Dự Châu, lĩnh chức Dự Châu Thứ sử, lại chuyển làm Trấn nam Tướng quân. Gia Cát Đản đánh ở Đông Quan, không lợi, bèn sai Đản, Kiệm thay nhau. Đản làm Trấn nam Tướng quân, trông coi các quân Dự Châu, Kiệm làm Trấn đông Tướng quân, trông coi các quân Dương Châu. Thái phó của nước Ngô là Gia Cát Khác vây Tân Thành ở Hợp Phì, Kiệm cùng Văn Khâm chống lại, Thái úy Tư Mã Phu đem trung quân đến phía đông giải vây, Khác rút về.
Trước đây, Kiệm thân thiện với bọn Hạ Hầu Huyền, Lí Phong. Dương Châu Thứ sử Tiền Tướng quân Văn Khâm là người cùng ấp của Tào Sảng vậy, dũng mãnh cứng cỏi, nhiều trận lập công, bắt nhiều quân địch, hạ chiếu ban thưởng mà nhiều lần không thấy đến, do đó ngày càng oán giận. Kiệm bày kế đối đãi Khâm hậu hĩnh, kết thân vui vẻ, Khâm cũng cảm kích, dốc lòng không đổi.
Tháng giêng năm Chính Nguyên thứ hai, có sao chổi dài mấy chục trượng rực trời ở phía tây bắc, nổi lên từ đất Ngô, Sở. Kiệm, Khâm mừng, cho là điềm lành, bèn giả viết chiếu của Thái hậu, kể tội Đại Tướng quân Tư Mã Cảnh Vương, gửi thư đến các châu quận, dấy binh làm phản. Ép buộc các tướng đóng đồn cùng quan dân lớn nhỏ của miền Hoài Nam đều vào thành Thọ Xuân, dựng đàn ở phía tây thành, mở hội thề uống máu dấy binh, chia người già yếu giữ thành, Kiệm, Khâm tự đem năm, sáu vạn quân vượt sông Hoài đi về phía tây đến huyện Hạng. Kiệm giữ vững, Khâm ở ngoài đem quân đi tuần tra.
Kiệm, Khâm viết biểu rằng: "Tướng quốc Ý(3) ngày trước giúp đỡ nhà Ngụy, giữ lòng trung trinh, cho nên Liệt Tổ Minh Hoàng Đế trao việc gửi gắm. Ý dốc sức hết lòng, vỗ yên Hoa Hạ. Lại nữa Tề Vương(4) thông minh, không có đức xấu, bèn chăm chỉ gắng sức giúp vua, thiên hạ được nhờ. Ý muốn đánh hai tên giặc(5) để dẹp yên Trung Quốc, bắt đầu chia lương quân, chọn ngày cùng dấy binh, chưa xong thì hoăng. Tề Vương thấy Ý có công lớn giúp vua, cho nên sai Sư nối thay tước của Ý, trao cho việc lớn. Vậy mà Sư nhiều năm giữ chức, không có tật lại giả bệnh, ngồi nắm quân lớn, không có lễ phép của tôi thần, trăm quan cho là sai, kẻ sĩ chê cười hắn, thiên hạ đều đều biết, đấy là một tội. Ý bày kế đánh giặc, tốn nhiều lương quân, đã có hẹn ngày. Sư là đại thần, nên trừ nạn nước, lại là người con nên nối nghiệp cha. Tiếng khóc chưa dứt mà lại ngừng bãi, làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, đấy là hai tội. Giặc rút qua Đông Quan, ngồi tự sai quân, ba phía cùng đi, quân vỡ công mất, nhiều năm quân mạnh, một sớm mà hết, vời dẫn giặc đến, thiên hạ nhiễu động, chết chóc lìa tan, đấy là ba tội. Giặc đem hết cả nước, kêu có năm mươi vạn, hướng về Thọ Xuân, mưu đến Lạc Dương, gặp lúc Thái úy Phu(6) bày kế với bầy tôi, bèn ngăn ngặn nơi hiểm yếu, không cùng giao tranh, giữ vững Tân Thành. Tướng sĩ miền Hoài Nam xông vào đao nhọn, ngày đêm tự giữ, vất vả trăm ngày, người chết đầy đất, từ khi nhà Ngụy dấy binh đến nay, gặp nạn rất nhiều mà cũng không hơn thế. Vậy mà Sư mặc ý phóng túng, không luận ban thưởng, tự mình chuyên quyền, không cho ghi công, đấy là bốn tội. Bọn Trung thư lệnh Lí Phong ngày trước thấy Sư không có lễ tiết của tôi thần, muốn bàn phế hắn. Sư biết thì mời Phong đến, buổi đêm bắt giết, chở thây chôn quan. Bọn Phong là đại thần, là tim bụng của Đế Vương, vậy mà tự ý lập hình tàn khốc, chết mà không có tội, Sư không có ý giúp vua, đấy là năm tội. Ý thường khen ngợi Tề Vương tự giữ lễ của người làm vua, vua tôi đã lập nghĩa. Từ lúc đó đến nay đã mười lăm năm, vừa nắm lại chính trị, dùng người tài năng, hạ chiếu sai quân vệ không được ra ngoài làm bừa. Sư tự biết mình xấu xa, thần người không ai giúp, do đó phế vua, lại gán thêm tội. Phu là chú của Sư, tính rất nhân hòa, đưa tiễn Tề Vương còn thương cảm không thôi. Bầy tôi đều giận mà Sư vẫn nỡ àm, không nghĩ đến nghĩa lớn, đấy là sáu tội. Quang lộc Đại phu Trương Tập ngày trước không có tội mà bị giết, giết cả vợ con, rồi lại phế Hoàng hậu, ép bức bậc chí tôn, đùn đẩy sai khiến, bấy giờ thương khóc, chẳng ai không đau lòng; vậy mà Sư khen hay, tự mình vui vẻ, đấy là bảy tội. Bệ hạ lên ngôi, thông minh thần vũ, làm việc hay đẹp, muốn tự tiết kiệm, thiên hạ nghe biết, chẳng ai không vui mừng. Vậy mà Sư không tự sửa lỗi, không lập lại lễ tiết của tôi thần, vẫn lo chiêu binh chọn quân, phá vỡ cung điện, sắp đặt quân vệ. Bệ hạ mới lên ngôi mà không chầu đợi. Bệ hạ muốn tự đến nhà Sư để hỏi thăm bệnh lại từ chối không cho, không theo phép tắc, đấy là tám tội. Gần đây Lĩnh quân Hứa Doãn sắp làm Trấn bắc Tướng quân, đem tiền phủ cấp cho, vậy mà Sư dâng tấu xin bãi chức, dẫu cho đi đày, nhưng trên đường bỏ đói cho chết, thiên hạ nghe tin, chẳng ai không thương khóc, đấy là chín tội. Quân giữ ba miền, một sớm thiếu vắng, chọn nhiều quân mạnh, cho làm quân vệ, năm doanh lĩnh quân, thiếu mà không thêm, chở nhiều khí giới tụ đầy ở doanh của mình, thiên hạ nghe tin, lòng người giận oán, kêu than đầy đường, trong nước nghi ngờ, đấy là mười tội. Rút nhiều quân phòng giữ về để xét chọn dùng, để làm bốn phía trống rỗng, muốn tự ý chuyên quyền mặc sức phóng túng. Chọn người lập đồn làm ruộng, lại thêm thưởng tặng, dựa quân gây ác, làm loạn phép cũ. Tụ hợp các vương hầu phiên thuộc để làm phen dậu, lại muốn giết hết họ, một sớm dấy quân phế vua. Thiên hạ gặp ác lâu ngày, khiến cho mắt sưng không nhìn thấy, đấy là mười một tội. Cha anh bọn thần đều đi theo Thái Tổ Vũ Hoàng Đế đánh dẹp kẻ hung bạo, lập nên công lớn, cùng Cao Tổ Văn Hoàng Đế chịu nhận ngôi nhà Hán, mở nước dựng nhà, vẫn mong được lưu danh như Nghiêu, Thuấn vậy. Thần cùng bọn An phong Hộ quân Trịnh Dực, Lư Giang Hộ quân Lữ Tuyên, Thái thú Trương Hưu, Hoài Nam Thái thú Đinh Tôn, Đốc thủ Hợp Phì Hộ quân Vương Hưu bàn mưu, đều cho rằng nhiều đợi chịu ân, nghìn năm gió bụi, vẫn dốc hết sức để lập công giữ trọn xã tắc cho vua. Nghĩa ấy nếu thành, dẫu đốt cả vợ con, nuốt bùn bôi thân, chết cũng không tiếc vậy. Xét tội của Sư, nên phạt tội nặng để nêu rõ tội ác. Theo nghĩa Xuân thu, một đời làm việc tốt thì một đời được tha. Ý có công lớn, trong nước đều nhớ, dựa theo phép cũ, phế Sư thì phong Hầu cho em, em là Chiêu, trung trinh sáng suốt, vui thân kẻ sĩ, có khí độ của quân tử trên đời, trung thành giúp nước, không giống với Sư. Bọn thần rập đầu tiến cử, nên dùng người thay Sư giúp dẫn Nhà vua. Thái úy Phu, cẩn thận trung hiếu, nên được ban sủng, cho làm Bảo phó(7). Hộ quân Tán kị Thường thị Vọng, gắng giúp việc công, làm quan tài năng, người xa đón xem, có công hộ vệ, nên cho làm Trung lĩnh quân. Theo nghĩa Xuân thu, vì nghĩa lớn mà diệt người thân, cho nên Chu Công giết em, Thạch Thác băm con, Quý Hữu hại anh, giúp nước trên hết, giữ họ hàng là thứ dưới. Giết Cổn dùng Vũ(8) là phép cũ của thánh nhân, được xưa nay khen ngợi. Xin Bệ hạ nghe lời tấu của bọn thần, triều đình xét kĩ. Thần nói đúng đạo, nếu Sư nhường chức cho người hiền, bãi binh ngừng giữ như phép cũ của thời Tam Hoàng thì thiên hạ cùng hợp. Nếu Sư dựa vào quyền thế không tự rút lui thì bọn thần đem tướng thuộc hạ, ngày đêm cùng đi, tự lệnh đến đánh. Bọn thần ngày nay dâng tấu, chỉ mong cho Đại Ngụy còn mãi, cho Bệ hạ được làm vua thật, cắt đứt cái họa diệt vong, trăm họ an toàn, sáu cõi hợp một, khiến cho trung thần liệt sĩ không thẹn với Tam Hoàng, Ngũ Đế vậy. Thần sợ một khi dấy binh thì thiên hạ nhiễu loạn, cho nên thần bày việc lên, gửi thư đến Tam công cùng các quan Điển nông châu quận, đều vỗ về quân dân các nơi ấy, không được làm bừa, cẩn thận để báo tin. Mong Bệ hạ nuôi dưỡng chí lớn, xét rõ nguy hại. Sư chuyên quyên tạo thế, phóng túng thưởng phạt, nghe tin bọn thần dấy binh, tất hạ chiếu ngăn chặn các cửa ải bến sông, khiến cho thư tấu không gửi đến được, tự ý điều động, sai người tìm bắt. Đấy là chiếu thư của Sư mà không phải là chiếu thư của Bệ hạ, ở đó đều không được vâng theo vậy. Bọn thần ở xa, sợ tấu biểu đều không được gửi đến, liền tạm thời thưởng phạt, tùy lúc mà làm việc, chốc lát sẽ dâng biểu lên".
Đại Tướng quân đem quân trong ngoài đánh Kiệm, sai riêng Gia Cát Đản đem các quân Dự Châu từ bến An Phong hướng đến Thọ Xuân, Chinh đông Tướng quân Hồ Tôn đem các quân Thanh Châu, Từ
Châu ra đến miền Tiêu, Tống, ngăn chặn đường về của Kiệm. Đại Tướng quân đóng đồn ở Nhữ Dương, sai Giám quân Vương Cơ đem các quân tiên phong chiếm miền nam Dĩnh Xuyên để đợi Kiệm. Sai các quân đều giữ lũy không được ra đánh. Kiệm, Khâm đến không đánh được, rút thì sợ Thọ Xuân bị đánh úp không về được, kế cùng không biết làm thế nào. Nhà tướng sĩ miền Hoài Nam đều tại miền bắc, lòng người lìa tan, theo nhau xin hàng, chỉ có người dân vừa mới theo về ở Hoài Nam là theo lệnh. Đại Tướng quân sai Duyện Châu Thứ sử Đặng Ngải đem hơn vạn quân của quận Thái Sơn đến Lạc Gia, tỏ vẻ yếu kém để dụ Khâm, Đại Tướng quân ngầm đi từ huyện Chu đến. Khâm không biết, quả nhiên buổi đêm đến muốn đánh úp bọn Ngải, vừa sáng, thấy quân mã của Đại Tướng quân đông, bèn rút về.
Ngụy thị Xuân thu viết: Con giữa của Khâm là Thục, còn có tên là Ương. Tuổi còn nhỏ nhưng sức khỏe hơn người, bảo Khâm rằng: "Lúc giặc chưa ổn nên đánh chúng mới phá được". Do đó chia làm hai đội, đuổi đêm đến đánh. Thục đem tráng sĩ đến trước, gọi lớn Đại Tướng quân, trong quân chấn động. Khâm ở sau không đáp. Vừa sáng, Thục rút, Khâm cũng dẫn quân về.
Ngụy mạt truyện viết: Trong điện có người họ Y, tự Đại Mục, thuở nhỏ làm nô của nhà họ Tào, thường hầu ở bên vua, Đại Tướng quân muốn đi cùng. Đại mục biết một mắt Đại Tướng quân đã lồi ra, bẩm rằng: "Văn Khâm vốn là người tim bụng của minh công, chỉ bị người ta mê hoặc mà thôi, lại là người cùng thôn ấp của Thiên tử. Đại Mục ngày trước được Văn Khâm tin cậy, xin được đến khuyên dụ hắn, sai kết thân lại với minh công". Đại Tướng quân nghe theo sai Đại Mục một mình đến, cưỡi ngựa lớn, mặc áo giáp, tìm Văn Khâm cùng nhau nói chuyện. Trong lòng Đại Mục muốn giúp họ Tào, nói khơi rằng: "Quân hầu sao lại khổ sở không chịu nhịn được mấy ngày vậy"! Muốn khiến cho Khâm hiểu ý mình. Khâm vẫn không biết, lại còn lớn tiếng mắng Đại Mục nói: "Mi là người nhà của Tiên đế, không nghĩ cách đền ân mà lại giúp Tư Mã Sư làm phản; không nghĩ đến Thiên tử, trời chẳng tha mi"! Bèn lắp tên giương cung muốn bắn Đại Mục, Đại Mục khóc lóc nói: "Việc lớn hỏng rồi, hay cho còn tự gắng sức".
Đại Tướng quân xua quân kị khỏe đuổi đánh, đại phá Khâm, Khâm chạy trốn. Hôm ấy, Kiệm nghe tin Khâm thua trận, sợ hãi buổi đêm cũng chạy, quân vỡ. Kịp đến huyện Thận, quân sĩ tả hữu dần dần bỏ Kiệm mà đi, Kiệm một mình cùng em út là Tú và cháu là Trọng nấp ở trong bãi cỏ ven sông. Dân của An Phong tân Đô úy Trương Thuộc liền bắn chết Kiệm, chuyển đầu về kinh đô. Thuộc được phong Hầu. Tú, Trọng chạy vào nước Ngô. Các tướng sĩ bị Kiệm, Khâm ép bức đều hàng cả.
Khâm gửi thư cho Quách Hoài nói: "Đại Tướng quân Chiêu Bá và Thái phó(9) cùng nhận mệnh vua, gọi đến giường nắm tay, trao gửi thiên hạ, đấy là điều mà người gần xa đều biết. Sau lại vì thế lợi bèn dứt lòng thờ vua, cho nên họ hàng của mình đều là bọn anh tuấn một đời cũng vì thế mà đau lòng. Sao thế, sao thế! Công hầu cậy có ân gần gũi Tư Mã Công, nghĩa như vàng đá, nhưng vào thời bấy giờ bị mắc bệnh nặng cho nên chỗ không gánh vác được. Vương Thái úy(10) ghét sự chuyên quyền của Thái phó, ngầm muốn dấy binh, việc chẳng thành công, lại bị giết cả, gây hại đến Sở Vương(11), nghĩ thật là tiếc giận. Thái phó đã mất, nhưng con là Sư thay nối nghiệp cha, bạo ngược phóng túng, ngày càng nhiều thêm, đuổi vua giết Hậu, giết hại tôi trung, mang chứa lòng ác, rồi lại giết vua. Việc ấy còn nỡ làm thì việc gì không nỡ làm đây? Khâm lấy cớ là tôi cũ, thờ vua có nghĩa, mang giữ lòng trung, quên ăn quên ngủ, không gì hối tiếc vậy. Lúc Quán Khâu Tử Bang(12) tự gửi thư cho cha, khuyên nên Công hầu, dốc hết trung nghĩa thờ vua, tóc trắng dựng đứng thật như Thái Công. Mong nghĩ về miền đông, bóng hình giúp nhau. Ngày ấy nghe tin, không gì cảm kích bằng! Cho nên nghĩ đến bệnh tật của vợ con, liền cùng Quán Khâu Trấn đông Tướng quân dấy hơn ba vạn nghĩa binh, đi về phía tây đến kinh sư,
muốn giúp đỡ Nhà vua, tẩy trừ kẻ gian nghịch, kiễng chân về phía tây, không được nghe tiếng vọng, dẫu người Lỗ trông Cao Tử(13) cũng không đủ sánh vậy. Làm việc nhân không từ chối, huống chi là cứu nạn cho vua, vì thấy đường đi xa trở cho nên chưa hẹn đúng mà thôi. Cùng thuyền cùng vượt sông, cùng nhận an nguy, đã vướng họa hại, không lời gì giải bỏ được, tự Công hầu biết rõ vậy. Cùng thờ họ Tào, tin cậy nhà Ngụy, đến người đi đường đều biết như vậy. Như kẻ sĩ ở triều đình, mưu lợi sống tạm, tráng sĩ bị coi khinh, Công hầu bị xem thường, bọn nhà buôn cũng không nỡ làm vậy, huống chi là kẻ sĩ làm quan đây? Quân đã đến huyện Hạng, ta hẹn đến ngày mười sáu tháng nhuận sẽ tiến quân đi riêng, đến ở thành Lạc Gia đánh Sư. Nếu quân của Sư lúc ấy bị vỡ lở, sẽ bị chặt giáo, không còn lập lại thế, rồi ruổi dài đến thẳng kinh sư vậy. Nhưng chuyển lời đến trước, Quán Khâu Tướng quân còn chưa hiểu rõ, lại nói là ta bị lầm, các quân do đó mà tan vỡ. Quán Khâu Tướng quân chạy về, rồi dần cởi giải, nhưng không kịp nữa. Ta phải về huyện Hạng, lại gặp mười hai tên quân của bọn Vương Cơ, tìm gặp Quán Khâu Tướng quân, đem quân đánh Sư, liền đánh phá được, đến đâu thắng đấy, bị chặn ở sau không nối tiếp sao? Quân lẻ lộn xộn, chẳng còn chỗ tiến lùi, bèn về giữ Thọ Xuân, lại bỏ Thọ Xuân, toàn quân lìa tan, chẳng còn kế gì, chỉ còn biết theo về nước Ngô, mượn quân xin lương, bắt chước Ngũ Viên(14) mà thôi. Nếu không theo về, nếu còn dốc lòng, trả thù cho vua, mãi thờ cúng ân sủng của họ Tào, đấy cũng cái mà nước lớn ghi nhớ vậy. Há Công hầu không khiến cho Trình Anh, Xử Cữu(15) bị tiếng xấu ở thời xưa, mà khiến cho riêng Đại Ngụy không còn kẻ sĩ trung nghĩa chăng? Nay nước Đại Ngô vâng theo nghĩa lớn, thương cảm sâu sắc. Vẫn nghĩ đến giúp đỡ nước liền kề, có chung một thế, muốn cùng dấy binh, làm móng vuốt cho Trung Quốc, không muốn giúp cho riêng mình mà thôi. Công hầu hẳn muốn mang lòng bụng cùng dấy binh, mở rộng thế lớn, chỉ sợ quân lính miền Tần Xuyên không thể nổi dậy riêng lẻ vậy. Kế của ngày nay, nên cúi mình theo người, trao thân theo nhà Hán(16), đông tây cùng nổi dậy mới có thể đánh thắng quân của Sư vậy. Mong xét kĩ lời này, nếu kế ngu này làm được, nên sai quân đất Hán chiếm giữ chỗ hiểm, khiến cho sáu cõi lướt theo để được cùng ban thưởng như Chu, Thiệu, nghĩ kế cho con cháu. Đấy cũng không phải là việc dễ, nhưng đại trượng phu nên ở vào thời nhiễu loạn để được tỏ rõ lòng trung. Đang mong tin lành". Bấy giờ Quách Hoài đã chết, Khâm còn chưa biết cho nên viết thư này.
Thế ngữ viết: Quán Khâu Kiệm bị giết, bắt phe đảng hơn bảy trăm người, sai Thị ngự sử Đỗ Hữu xét tội, chỉ kể tội mười người đứng đầu, còn lại đều thả ra. Hữu tự Quý Tử, người Đông Quận, làm quan Kí Châu Thứ sử, Hà Nam Doãn của nhà Tấn. Con là Mặc, tự Thế Huyền, làm qua chức Lại bộ lang, Vệ úy.
Con Kiệm là Điện, làm Trị thư thị Ngự sử, lúc trước biết Kiệm mưu sắp nổi dậy, tự mình đem người nhà chạy trốn trên núi Linh Sơn huyện Tân An. Sai quân đi riêng đánh hạ được, giết ba họ của Kiệm.
Thế ngữ viết: Điện tự Tử Bang, có tiếng ở kinh kì. Lúc Tề Vương bị phế, Điện bảo Kiệm nói: "Đại nhân gánh vác việc lớn ở đất rợ, nước nghiêng lật mà vẫn vui vẻ tự giữ, chịu bị người bốn biển chê trách sao"? Kiệm cho là phải. Đại Tướng quân ghét Kiệm giúp người khác vậy. Lúc Kiệm dấy binh, xét hỏi những người ở đấy, nói là không theo người không làm được vậy. Kiệm mới dấy binh, sai bốn con là bọn Tông vào nước Ngô. Giữa năm Thái Khang, nước Ngô bình, anh em Tông đều về Trung Quốc. Tông tự Tử Nhân, có phong thái của Kiệm, làm đến chức Linh Lăng Thái thú. Con Tông là Áo, làm Ba Đông Giám quân, Ích Châu Thứ sử. Tập Tạc Xỉ nói: "Quán Khâu Kiệm cảm kích mệnh lệnh của Minh Đế cho nên dấy binh ấy. Người quân tử cho rằng việc của Quán Khâu Kiệm không thành nhưng đáng gọi là tôi trung. Dốc hết khí tiết mà giữ nghĩa là do mình vậy, thành hay bại là do thời vậy. Nếu mình không gặp thời, sao mà thành công được đây? Quên mình mà không tự cho là như thế, đấy vốn gọi là trung vậy. Người xưa có nói: 'Chết mà lại sống, sống thì chẳng thẹn'. Như Quán Khâu Kiệm
có thể nói là không thẹn vậy".
Khâm trốn vào nước Ngô, vua Ngô lấy Khâm làm Đô hộ, Giả tiết, Trấn bắc Tướng quân, U Châu Mục, Tiêu Hầu.
Khâm dâng biểu hàng Ngô nói: "Chịu mệnh không may, thường giúp nước Ngụy, hai lần bị trời ngăn chặn. Dẫu nép bên góc đô vẫn tự biết không có đường đến vậy. Tư Mã Sư tội ác đầy trời, phế bỏ hai vua, dẫu Tân, Quý, Cao, Mãng(17), tội ác cũng không đủ sánh. Khâm nhiều đời chịu ân của nhà Ngụy, cái tình quạ mớm, mang chứa trong lòng, cái nghĩa ba vị, vẫn hẹn báo đáp. Khâm cùng bọn Quán Khâu Kiệm, Quách Hoài cùng dấy nghĩa binh, sắp cùng đánh Sư, tẩy trừ hung ác, thực là thần còn lo lắng vì ngu dốt. Mưu trí nông cạn, khí tiết không vững, đi không có chỗ dựa, thực là đau lòng. Trộm nghĩ không thể giúp đỡ bản triều nhưng vẫn mang lòng ngưỡng trông, không chỗ tự đặt. Liều theo phép xưa, gửi thân theo về, dựa vào oai trời, được nhờ gì chăng? Nếu một ngày chết đi cũng không hối tiếc. Liền dẫn tướng sĩ theo về giáo hóa, tạm xin được sống, không biết nói gì hơn. Kính dâng ấn thao Sứ trì tiết, Tiền Tướng quân, Sơn Tang Hầu mà nhà Ngụy trao. Dâng biểu hổ thẹn, chịu nhận tội chết". Ngụy thư viết: Khâm tự Trọng Nhược, người Tiêu Quận. Cha là Tắc, giữa năm Kiến An làm Kị tướng, có sức khỏe. Khâm thuở trẻ đã có tiếng là con nhà tướng, có tài võ được khen. Ngụy Phúng làm phản, Khâm bị khép tội nói chuyện qua lại với Phúng, lúc bắt vào ngục, bị đánh mấy trăm roi, sắp chết, Thái Tổ vì Tắc mà tha cho. Giữa năm Thái Hòa làm Ngũ doanh Hiệu đốc, ra làm Nha môn tướng. Tính Khâm cứng cỏi không có lễ phép, ở đấy nghênh ngang phạm quan trên, không vâng phép cấm, liền bị trách phạt, Minh Đế giáng chức. Sau lại cho làm Hoài Nam Nha môn tướng, chuyển làm Lư Giang Thái thú, Ưng dương Tướng quân. Vương Lăng tấu kể Khâm tham bạo, không nên cho vỗ về biên giới, xin bãi quan trị tội, do đó gọi Khâm về. Tào Sảng thấy Khâm là người cùng thôn ấp, đối đãi hậu hĩnh, không nghĩ đến việc cũ của Khâm, lại sai về Lư Giang, bái thêm chức Quán quân Tướng quân, ban sủng hơn trước. Khâm do đó thêm kiêu ngạo, ưa tự đánh dẹp, cậy mình vũ dũng hơn người, bèn ngày càng có tiếng hão ở ba quân. Sau khi Tào Sảng bị giết, bái Khâm làm Tiền Tướng quân để Khâm yên lòng, sau lại thay Gia Cát Đản làm Dương Châu Thứ sử. Từ khi Tào Sảng bị giết, Khâm thường sợ trong lòng, ghét nhau với Gia Cát Đản, không cùng mưu tính. Lúc Đản bỏ quân, Quán Khâu Kiệm đến, bèn ngầm cùng kết mưu. Thua trận chạy, ngày đêm đi gấp, quân đuổi theo không kịp, bèn vào được nước Ngô, được Tôn Tuấn đãi hậu. Khâm dẫu tại nước khác cũng không biết cúi mình dưới người, từ bọn Lữ Cứ, Chu Dị đến các Đại tướng đều ghét bỏ Khâm, chỉ có Tuấn là thường giúp đỡ Khâm.
Chú thích:
(1) Miền Hà Hữu: tức vùng đất phía tây sông Hoàng Hà. Sông Hoàng Hà có chỗ chảy từ phía nam lên phía bắc, phía tây sông gọi là vùng Hà Tây, hoặc vùng Hà Hữu.
(2) Đông cung: thời xưa Thái tử ở cung phía đông cho nên Thái tử cũng gọi là 'Đông cung'. Ý nói lúc Ngụy Minh Đế còn làm Thái tử rất gần gũi với Kiệm.
(3) Tướng quốc Ý: tức Thái phó Tư Mã Ý.
(4) Tề Vương: tức Tào Phương.
(5) Hai tên giặc: chỉ hai nước Ngô và Thục
(6) Thái úy Phu: tức Thái úy Tư Mã Phu.
(7) Bảo phó: tức tên gọi chung cho chức quan dạy dỗ con em quý tộc trong cung.
(8) Giết Cổn dùng Vũ: thời vua Thuấn, nước sông tràn ngập, vua Thuấn sai Cổn đi trị thủy, mười năm không xong, giết Cổn, dùng con Cổn là Vũ thay đi trị thủy, bèn xong, tức vua Vũ của nhà Hạ.
(9) Đại Tướng quân Chiêu Bá và Thái phó: tức Đại Tướng quân Tào Sảng, tự Chiêu Bá và Thái
phó Tư Mã Ý. Bấy giờ được Ngụy Minh Đế trao gửi con nhỏ là Tào Phương.
(10) Vương Thái úy: tức Thái úy Vương Lăng.
(11) Sở Vương: tức Tào Bưu, con thứ của Tào Tháo.
(12) Quán Khâu Tử Bang: tức Quán Khâu Điện, tự Tử Bang, con của Quán Khâu Kiệm
(13) Người Lỗ trông Cao Tử: Cao Tử là Cao Hề, lúc nước Lỗ nhiễu loạn không yên, Tề Hoàn Công sai Cao Tử sang giúp nước Lỗ dẹp loạn, do đó người nước Lỗ nhớ ơn, vẫn trông mong Cao Tử.
(14) Ngũ Viên: tức Ngũ Tử Tư, người nước Sở, cha là Ngũ Xa bị giết, bèn trốn sang nước Ngô.
(15) Trình Anh, Xử Cữu: Trình Anh là bạn của Đại phu nước Tấn là Triệu Thuẫn và con của Triệu Thuẫn là Triệu Sóc. Xử Cữu cũng là tân khách của Triệu Thuẫn. Vào thời Tấn Cảnh Công, Đại phu Đồ Ngạn Cổ giết Triệu Thuẫn, diệt cả họ hàng. Hai người Trình Anh, Xử Cữu cùng mưu đem con nhỏ của Triệu Sóc ẩn nấp tránh nạn ở trong núi, do đó mà họ Triệu vẫn còn người nối dõi.
(16) Nhà Hán: ý chỉ nước Thục.
(17) Tân, Quý, Cao, Mãng: Tân là vua Kiệt cuối thời nhà Hạ, Quý là vua Trụ cuối thời nhà Ân, Cao tức Cao Hậu Lữ Trĩ đầu thời nhà Tây Hán, Mãng là Vương Mãng cuối thời nhà Tây Hán, đều là những người bạo ngược, làm loạn chính trị thời xưa.

TRUYỆN GIA CÁT ĐẢN
Gia Cát Đản tự Công Hưu, người huyện Dương Đô quận Lang Nha, là dòng dõi của Gia Cát Phong(1) vậy. Lúc đầu vì làm Thượng thư lang mà được bái làm Huỳnh Dương Lệnh.
Ngụy thị Xuân thu viết: Đản làm Lang, cùng Bộc xạ Đỗ Kì chèo thuyền trên sông Đào, gặp gió lật chìm, Đản cũng cùng bị đắm. Lính hổ bôn bơi sông cứu Đản, Đản nói: "Cứu Đỗ Hầu trước đi". Đản trôi vào bờ, chết rồi sống lại.
Vào làm Lại bộ lang, có người trao gửi người thân, liền xét rõ lời ấy mà cho dùng, sau làm việc sai trái, liền bị bàn xét lỗi đúng sai mà khen phạt, từ đấy quan lại chẳng ai không cẩn thận tiến cử. Dần dần chuyển làm Ngự sử Trung thặng Thượng thư, kết thân với bọn Hạ Hầu Huyền, Đặng Dương, nổi tiếng ở triều đình, người kinh đô cho là phải. Có người bàn nói Đản, Dương làm việc xa xỉ, chỉ có danh hão, dần dần không nên dùng lâu. Minh Đế ghét việc này, bãi chức Đản.
Thế ngữ viết: Bấy giờ kẻ sĩ anh tuấn thời ấy là bọn Tán kị Thường thị Hạ Hầu Huyền, Thượng thư Gia Cát Đản, Đặng Dương cùng qua lại với nhau, cho rằng bốn người bọn Huyền là 'tứ thông'(2), tám người bọn Đản là 'bát đạt'(3), ba người là con của Trung thư giám Lưu Phóng là Hi, con cỉa Tôn Tư là Mật, con của Lại bộ Thượng thư Vệ Trăn là Liệt đều không bằng được, nhưng vì dựa vào vị thế của cha mà xếp ba người vào bọn, cả thảy mười lăm người. Đế thấy họ xa xỉ lâu ngày, đều bãi quan ngăn cấm.
Gặp lúc Đế băng, đầu năm Chính Thủy bọn Huyền còn làm quan, lại lấy Đản làm Ngự sử Trung thặng Thượng thư, ra làm Dương Châu Thứ sử, thêm chức Chiêu vũ Tướng quân.
Lúc Vương Lăng ngầm mưu phản, Thái phó Tư Mã Tuyên Vương ngầm đem quân đánh miền đông, lấy Đản làm Trấn đông Tướng quân, Giả tiết, trông coi các quân Dương Châu, phong Sơn Dương Đình Hầu. Gia Cát Khác đem quân đến Đông Quan, sai Đản đem các quân đánh Khác, đánh với nhau, không lợi. Về, chuyển làm Trấn nam Tướng quân.
Sau đó Quán Khâu Kiệm, Văn Khâm phản, sai sứ giả đến chỗ Đản, kêu gọi quân quân Dự Châu. Đản chém sứ giả của chúng, cáo thị thiên hạ, cho biết bọn Kiệm, Khâm hung nghịch. Đại Tướng quân Tư Mã Cảnh Vương đánh miền đông, sai Đản đem các quân Dự Châu vượt bến An Phong hướng đến Thọ Xuân. Lúc Kiệm, Khâm bị phá, Đản đến Thọ Xuân trước. Hơn mười vạn người trong thành Thọ Xuân nghe tin Kiệm, Khâm thua, sợ bị giết, đều phá cửa thành ra ngoài, tản mát nơi đầm núi, có người chạy trốn vào nước Ngô. Vì Đản lâu ngày ở tại miền Hoài Nam, bèn lại cho làm Trấn đông Tướng quân, Nghi đồng Tam ti, trông coi Dương Châu. Đại tướng Ngô là bọn Tôn Tuấn, Lữ Cứ, Lưu Tán nghe tin miền Hoài Nam loạn, vừa lúc Văn Khâm đến, bèn đem quân tướng đến thẳng Thọ Xuân; bấy giờ các quân của Đản đã đến, không đánh được thành, liền rút. Đản sai Tướng quân Tưởng Ban đuổi đánh chúng, chém Tán, gửi đầu về, thu lấy ấn thao, tiến phong Cao Bình Hầu, thực ấp ba nghìn năm trăm hộ, chuyển làm Chinh đông Tướng quân.
Đản đã thân thiết với bọn Huyền, Dương, lại nữa bọn Vương Lăng, Quán Khâu Kiệm thay nhau bị giết sạch, sợ hãi không yên, dốc hết kho tàng cấp chẩn để gắn kết lòng người, nuôi dưỡng mấy nghìn người thân cùng bọn hiệp khách làm kẻ sĩ liều chết.
Ngụy lược viết: Đản ban thưởng quá mức, có kẻ phạm cấm đáng chết cũng phá lệ mà tha cho được sống.
Mùa đông năm Cam Lộ thứ nhất, giặc Ngô muốn đến Từ Yết đánh bộ tướng của Đản là Mã Túc để đợi Đản, rồi lại xin mười vạn quân giữ Thọ Xuân, lại xin quận Lâm Hoài đắp thành để phòng giữ giặc cướp, trong lòng muốn giữ lấy miền Hoài Nam. Triều đình ngầm biết Đản có ý nghi ngờ, nhưng vì Đản là tôi cũ, muốn gọi về để ngăn ngừa. Tháng năm năm thứ hai, gọi về làm Tư không, Đản nhận chiếu thư, thêm sợ, bèn làm phản. Gọi họp các tướng, tự ra đánh Dương Châu Thứ sử Nhạc Sâm, giết Sâm.
Thế ngữ viết: Tư Mã Văn Vương đã nắm việc triều đình, Trưởng sử Giả Sung cho rằng nên sai giúp đỡ vỗ về bốn phương, do đó sai Sung đến Thọ Xuân. Sung về báo Văn Vương rằng: "Đản lại về Dương Châu, có oai danh, lòng dân theo về. Nay gọi về, tất không đến, đấy là họa nhỏ việc nhỏ; không gọi về, việc gấp họa lớn vậy". Bèn bái làm Tư không. Thư đến, Đản nói: "Ta làm Công khanh đáng được đứng sau Văn Vương, nay lại làm Tư không sao! Không sai sứ giả mà mang thư đi nhanh, lại sai đem quân cho Nhạc Sâm, đấy tất là việc mà Sâm làm". Liền đem mấy trăm tả hữu đến thành Dương Châu, người Dương Châu muốn đóng cửa, Đản quát rằng: "Ngươi không phải là quan thuộc cũ của ta chăng"! Đi vào, Sâm chạy lên lầu, liền chém Sâm.
Ngụy mạt truyện viết: Giả Sung gặp nhau với Đản, nói chuyện việc thời ấy, nhân đó bảo Đản nói: "Những người hiền ở Lạc Dương đều muốn nối ngôi, đấy là điều mà ông biết vậy. Ông cho là thế nào"? Đản nghiêm mặt nói: "Ngươi không phải là con của Giả Dự Châu(4) chăng? Nối đời nhận ân của nhà Ngụy, sao lại phản nước, muốn đem nhà Ngụy trao cho người khác thế? Ta không nỡ nghe thế. Nếu Lạc Dương có nạn, ta đành liều chết thôi". Sung im lặng. Đản đã bị gọi về, mời các Nha môn tướng đến bày rượu hội yến, gọi các quân của Nha môn tướng đến, đều ban cho uống rượu, bảo mọi người rằng: "Lúc trước lập nghìn quân mang giáp vừa xong, muốn đem đi đánh giặc. Nay sắp về Lạc
Dương, không được dùng nữa, nay tạm đem ra, sẽ cùng mọi người đi vui chơi, chốc lát lại về; các ông tạm dừng". Liền đánh trống sai bảy trăm người đi ra. Nhạc Sâm nghe tin, đóng cửa thành. Đản đi qua cửa nam truyền lệnh nói: "Sắp về Lạc Dương, tạm đi vui chơi, thành Dương Châu sao lại đóng cửa phòng giữ"? Đi đến cửa đông, cửa đông lại đóng, lại sai quân trèo thành phá cửa, người phủ chạy cả, thuận chiều gió phóng lửa, đốt kho phủ của châu, bèn giết Sâm. Đản dâng biểu nói: "Thần nhận việc nặng nề của nhà nước, trông coi quân sĩ ở miền đông, Dương Châu Thứ sử Nhạc Sâm lừa dối, nói là thần qua lại với giặc Ngô, lại nói là nhận chiếu thư nên thay chức của thần, không có phép tắc lâu rồi. Thần chịu mệnh vua, đem cái chết mà báo đền, rút cuộc không có lòng khác. Giận Sâm bất trung, liền đem bảy trăm quân kị bộ đến ngày sáu tháng này đánh Sâm, liền hôm đó chém đầu, treo đầu trên ngựa chuyển đến. Nếu triều đình xét rõ thì thần là tôi của nhà Ngụy; nếu không xét rõ thì thần là tôi của nước Ngô. Không kìm nổi tức giận đã lâu, kính dâng biểu bày tỏ ý ngu, đau xót khóc ra máu, nức nở sụt sùi, không biết làm sao, xin triều đình xét lòng thành của thần".
Thần là Tùng Chi cho rằng: Lời mà Ngụy mạt truyệnviết đều là thô tục. Ngờ rằng Đản dâng biểu kể lên không đến nỗi như thế.
Thu hơn mười bạn quan quân đóng đồn làm ruộng ở các quận huyện miền Hoài Nam và Hoài Bắc, bốn, năm vạn quân Dương Châu vừa nương dựa, chứa thóc đủ dùng một năm, đóng thành tự giữ. Sai Trưởng sử Ngô Cương đem con nhỏ là Tịnh đến Ngô xin giúp.
Thế ngữ viết: Cuối năm Hoàng Sơ, người Ngô đào mộ của Trường Sa Vương Ngô Nhuế(5), đem gạch trong mộ đến Lâm Tương xây miếu thờ Tôn Kiên. Vẻ mặt Nhuế như lúc sống, áo quần không mục. Sau có thầy xem tướng gặp Ngô Cương nói: "Ông giống gì với Trường Sa Vương Ngô Nhuế, hay là cháu nhỏ thôi"? Cương kinh ngạc nói: "Là tổ tiên vậy, ông sao lại biết được"? Người đó nói nguyên nhân, Cương nói: "Nên táng lại chăng"? Đáp nói: "Mau táng lại đi". Từ năm Nhuế chết đến lúc đào mộ đã hơn bốn trăm năm, Cương là cháu đời thứ mười sáu của Nhuế vậy.
Người Ngô rất mừng, sai tướng là bọn Toàn Dịch, Toàn Đoan, Đường Tư, Vương Tộ đem ba vạn quân ngầm cùng với Văn Khâm đến cứu Đản. Lấy Đản làm Tả Đô hộ, Giả tiết, Đại Tư đồ, Phiếu kị Tướng quân, Thanh Châu Mục, Thọ Xuân Hầu. Bấy giờ Trấn nam Tướng quân Vương Cơ vừa đến, đem các quân vây Thọ Xuân, không thắng. Bọn Tư, Khâm từ phía đông bắc thành men theo núi đến chỗ hiểm, liền đem quân phá vây vào thành.
Tháng sáu, Nhà vua đánh miền đông, đến huyện Hạng. Đại Tướng quân Tư Mã Văn Vương đem hai mươi sáu vạn quân trong ngoài đến miền sông Hoài đánh chúng. Đại Tướng quân đóng đồn ở Khâu Đầu, sai Cơ cùng bọn An đông Tướng quân Trần Khiên hợp vây bốn mặt, tròn ngoài nhiều lớp, đắp lũy rất cao, lại sai bọn Giám quân Thạch Bao, Duyện Châu Thứ sử Trần Thái chọn quân khỏe làm quân đi tuần tra phòng bị giặc ở ngoài vào cướp. Bọn Khâm mấy lần ra phá vây, đón đánh đuổi chúng. Tướng Ngô là Chu Dị lại đem đại quân đến đón bọn Đản, vượt sông Lê Tương, bọn Trần Thái cùng đón đánh, thường bẻ gãy thế mạnh của chúng. Tôn Sâm thấy Dị không tiến được, giận mà giết Dị. Trong thành lương càng thiếu, quân cứu ở ngoài lại không đến, quân không biết nhờ ai. Tướng quân Tưởng Ban, Tiêu Di đều là người nanh vuốt bày mưu cho Đản bèn bỏ Đản trèo thành ra theo Đại Tướng quân.
Hán Tấn Xuân thu viết: Tưởng Ban, Tiêu Di nói với Gia Cát Đản rằng: "Bọn Chu Dị đem đại quân đến mà không tiến được, Tôn Sâm giết Dị mà về Giang Đông, ngoài mượn tiếng là phát binh nhưng
trong thực là ngồi mà xem thành bại, ý họ muốn về đã rõ vậy. Nay nên nhân lúc lòng quân còn vững, quân sĩ dùng được, dốc sức liều chết đánh vào một phía, dẫu không thắng cả được nhưng vẫn có chỗ vẹn toàn". Văn Khâm nói: "Người Giang Đông dựa vào oai thắng trận lâu rồi, chưa có cái nạn ở miền bắc. Huống chi ngày nay ông đem hơn mười vạn quân theo về, mà Khâm và bọn Toàn Đoan đều cùng ở nơi đất chết, cha con anh em ở cả tại Giang Đông, nếu Tôn Sâm không muốn cứu, vua trên cùng họ hàng há chịu nghe theo sao? Vả lại Trung Quốc không năm nào không có việc quân, quân dân đều mệt mỏi, nay chống ta một năm, sức lực đã khốn, chỉ mưu nghĩ đường sống, sắp có sinh biến, xét việc cũ mà chuẩn bị việc ngày nay thì có thể tính ngày mà đợi vậy". Ban, Di cố khuyên Đản, Khâm giận, rồi Đản muốn giết Ban. Hai người sợ, lại biết Đản tất thua, đến tháng mười một bèn cùng dắt nhau ra hàng.
Đại Tướng quân lại sau về li gián, đem việc này khuyên bọn Toàn Đoan, bọn Đoan bèn đem mấy nghìn quân mở cửa ra ngoài. Người trong thành sợ hãi, không biết làm gì.
Tháng giêng năm thứ ba, bọn Đản, Khâm, Tư làm chiến cụ lớn, năm sáu ngày đêm phá vòng vây ở phía nam, muốn quyết đánh mà ra.
Hán Tấn Xuân thu viết: Văn Khâm nói: "Tưởng Ban, Tiêu Di nói rằng quân ta không ra mà chạy thoát được, Toàn Đoan, Toàn Dịch lại đem quân ra hàng, đây là lúc địch không phòng bị, nên ra đánh thôi". Đản và bọn Đường Tư cho là phải, bèn cùng đem hết quân ra đánh.
Các quân ở trên vòng vây đến chỗ cao để bắn tên lửa ném tảng đá đốt phá chiến cụ của chúng, tên nỏ cùng tảng đá bay như mưa rơi, người chết trùm đất, máu chảy đầy lũy. Lại về vào thành, trong thành lương sắp hết, mấy vạn người ra hàng. Khâm muốn xua hết người miền bắc ra ngoài, giảm ăn, cùng người Ngô giữ vững, Đản không nghe, do đó tranh cãi. Khâm vốn có hiềm khích với Đản, dẫu cùng mưu kế nhưng việc gấp thì ngờ nhau. Khâm gặp Đản bày kế, Đản bèn giết Khâm. Con Khâm là Ương và Hổ lĩnh quân ở trong thành nhỏ, nghe tin Khâm chết, đem quân đi nhanh đến xem, quân không theo lệnh. Ương, Hổ chạy riêng, trèo thành ra ngoài theo về Đại Tướng quân. Quan tướng xin giết họ, Đại Tướng quân hạ lệnh rằng: "Tội của Khâm không đáng giết, con hắn đáng ra phải giết nhưng Ương, Hổ vì thế cùng mà theo hàng, vả lại thành chưa phá, giết họ là làm cho lòng người trong thành thêm vững vậy". Bèn tha Ương, Hổ, sai đem mấy trăm quân kị đi quanh thành, kêu gọi người trong thành rằng: "Con của Văn Khâm còn không bị giết, người khác sợ gì"? Cho Ương, Hổ làm Tướng quân, ban tước Quan Nội Hầu. Trong thành vừa mừng vừa lo, lại ngày càng đói khổ, trí lực của bọn Đản, Tư đã cùng. Đại Tướng quân lại tự đến vòng vây, phát quân bốn phía, cùng lúc đánh trống trèo lên thành, người trong thành không dám động. Đản vội vàng một mình cưỡi ngựa đem người dưới cờ phá cửa thành nhỏ ra ngoài. Quân bản bộ của quan Tư mã Hồ Phấn của Đại Tướng quân đón đánh, chém Đản, chuyển đầu đến, giết ba họ. Mấy trăm người dưới cờ của Đản không chịu hàng bị bắt chém, đều nói: "Vì Gia Cát Công mà chết cũng không tiếc". Đản được lòng người như thế.
Tấn kỉ của Can Bảo viết: Mấy trăm người bị trói tay xếp thành hàng, hễ chém người nào liền khuyên hàng, đến hết nhưng chẳng đổi ý, người thời ấy sánh họ với Điền Hoành(6). Tướng Ngô là Vu Thuyên nói: "Đại trượng phụ chịu mệnh của vua, đem quân cứu người, đã không thắng được, lại trói tay hàng địch, ta chẳng làm vậy". Liền cởi mũ xông vào trận mà chết.
Đường Tư, Vương Tộ và các bộ tướng đều trói tay hàng, quân Ngô có đến vạn người, đồ vũ khí nhiều hất thành đống.
Lúc đầu vây Thọ Xuân, nhiều người bàn muốn đánh nhanh đi, Đại Tướng quân cho rằng: "Thành vững lại quân đông, đánh gấp tất sức mỏi, nếu lại có giặc ngoài, trong ngoài cùng gặp địch, đấy là nguy vậy. Nay ba tên giặc phản tụ nhau ở trong thành lẻ, đấy là trời giúp ta sai chúng cùng bị giết, ta nên dùng kế vẹn toàn mà bắt trói chúng, có thể ngồi mà chống vậy". Đản làm phản từ tháng năm năm thứ hai đến tháng hai năm thứ ba thì bị phá diệt. Sáu quân bỏ giáp, hào sâu lũy cao mà Đản tự khốn, rút cuộc không đánh nhiều mà thắng.
Tấn kỉ của Can Bảo viết: Lúc trước, thành Thọ Xuân mỗi năm mưa to, nước sông Hoài dâng lên tràn ngập thành ấp, cho nên Văn Vương đắp lũy vây, Đản cười việc ấy nói: "Lũy ấy không cần đánh mà tự vỡ vậy". Lúc Đại Tướng quân đánh, lại nhiều năm khô hạn. Thành đã hãm, ngày đó mưa to, lũy vây đều vỡ. Con Đản là Tịnh, tự Trọng Tư, sau khi Ngô bình thì theo nhà Tấn. Con Tĩnh là Khôi, tự Đạo Minh, làm đến Thượng thư lệnh, truy tặng chức Tả quang lộc Đại phu Khai phủ.
Lúc phá Thọ Xuân, người bàn lại cho rằng người miền Hoài Nam vẫn hay phản nghịch, người nhà của quân Ngô ở tại Giang Nam, không nên tha, nên chôn sống hết chúng. Đại Tướng quân cho rằng: "Người xưa dùng binh, giữ vững đất nước là trên hết, chỉ giết kẻ đầu sỏ gây ác mà thôi. Nếu quân Ngô được thả về thì được dịp tỏ rõ cái rộng lượng của Trung Quốc vậy". Bèn không giết người nào, chia họ ra tại ba quận miền Tam Hà để ở yên.
Đường Tư vốn là người quận Lợi Thành. Giữa năm Hoàng Sơ, người quận Lợi Thành phản, giết Thái thú Từ Cơ, bầu Tư làm chủ. Văn Đế sai các quân đến đánh phá Tư, Tư chạy vào biển, rồi trốn đến Ngô, làm đến chức Tả Tướng quân, phong tước Hầu, ban Giả tiết. Đản, Khâm bị giết, Tư cũng bị bắt sống, ba tên giặc phản đều bắt được, thiên hạ vui mừng.
Phó Tử nói: "Tống Kiến giết trâu cầu đảo, cuối cùng tự phá diệt. Văn Khâm hằng ngày cúng tế thờ trời, bị người khác chém. Vợ chồng Gia Cát Đản tụ họp thầy mo, cúng tế xin phúc, bị phơi thây ở miền Hoài Nam, đấy là việc mà thiên hạ cùng thấy, đủ để soi rõ vậy".
Bái Tư làm An viễn Tướng quân, các bộ tướng khác đều ban chức vị, người Ngô theo phục. Người Giang Đông cảm kích, đều không giết người nhà của Tư. Các quân dân quan tướng miền Hoài Nam bị Đản bắt ép, chỉ giết kẻ đứng đầu, còn lại đều tha. Nghe nói Ương, Hổ thu liệm thây Khâm, cấp cho xe ngựa, đến táng ở mộ cũ.
Tập Tạc Xỉ nói: "Từ đấy thiên hạ sợ oai nhớ đức vậy. Người quân tử nói Tư Mã Đại Tướng quân ở trận ấy có thể nói là giỏi dùng đức mà đánh vậy. Người dựng nghiệp tài lạ, đều có chỗ giỏi, nhưng không được giỏi hết cả. Cho nên bậc anh hùng rất thần vũ bị diệt bởi không có lòng nhân, kẻ có nghĩa giữ nước lại thua vì nhu nhược. Nay một trận mà phá được ba kẻ phản, bắt được nhiều quân Ngô, thu cuốn miền Hoài Nam, bắt trói mười vạn người, có thể nói là tráng vậy. Vậy mà không trọn vẹn, gạt bỏ công của Vương Cơ, ban huệ cho người Ngô, kết tình với nước khác, cho Ương táng Khâm, quên hiềm khích ngày trước, không bắt lỗi quân của Đản, khiến cho kẻ sĩ Dương Châu mang thẹn, công cao mà người dân vui theo nghiệp, nghiệp lớn mà địch nhớ đức, oai võ đã lan rộng, tài văn lại thấm sâu, xem đạo ấy của ông, thiên hạ có ai sánh được ông đây"? Gạt công của Vương Cơ, lời nói tại Vương Cơ
truyện. Ương còn có tên là Thục. Tấn chư công tán viết: Sau đó Thục làm Tướng quân, phá giặc ở Lương Châu, tiếng nổi thiên hạ. Giữa năm Thái Khang làm Đông Di Hiệu úy, Giả tiết. Đang làm quan, vào từ biệt Vũ Đế, Đế gặp mà ghét Thục, mượn việc khác mà bãi chức Thục. Đông An Công Do là cháu ngoại của Gia Cát Đản muốn giết Thục, nhân lúc giết Dương Tuấn, gièm Thục mưu phản, bèn giết ba họ.
Chú thích:
(1) Gia Cát Phong: người huyện Gia quận Lang Nha, thời Hán Nguyên Đế làm Tư lệ Hiệu úy, tính thẳng thắn không xu nịnh.
(2) 'Tứ thông': tức 'bốn người thông minh', chỉ bốn người là bọn Hạ Hầu Huyền.
(3) 'Bát đạt': tức 'tám người thông đạt', chỉ tám người là bọn Gia Cát Đản.
(4) Giả Dự Châu: tức Giả Quỳ, thời Ngụy Văn Đế làm Dự Châu Thứ sử, cho nên gọi là Giả Dự Châu.
(5) Trường Sa Vương Ngô Nhuế: tức Ngô Nhuế, thời Tần làm Bà Dương Lệnh, rất được lòng dân ở vùng hồ Bà Dương và sông Trường Giang. Lúc chư hầu nổi dậy chống nhà Tần, đem người Bách Việt giúp chư hầu, Hán Cao Tổ xét công phong làm Trường Sa Vương, đống đô ở thành Lâm Tương.
(6) Điền Hoành: là dòng dõi quý tộc nước Tề cuối thời Chiến quốc, cuối thời Tần, cùng anh em Điền Đam, Điền Vinh nổi dậy chống nhà Tần. Sau khi Lưu Bang thống nhất chư hầu, Hoành không chịu theo nhà Hán, tự sát, hơn năm trăm tráng sĩ thuộc hạ cũng tự sát theo.

VƯƠNG LĂNG TRUYỆN
Vương Lăng tự Ngạn Vân, người quận Thái Nguyên huyện Kỳ. Chú ruột là Doãn, làm quan Tư Đồ nhà Hán, từng tru diệt Đổng Trác. Bọn tướng của Trác là Lý Thôi, Quách Dĩ vì Trác báo cừu, vào Trường An, giết Doãn, giết sạch gia quyến. Lăng cùng với anh là Thần, bấy giờ còn ít tuổi, trèo thành chạy thoát, bỏ trốn về quê. Lăng được tiến cử làm Hiếu liêm, làm trưởng huyện Phát Kiền, ít lâu sau được thăng làm Thái thú Trung Sơn, tại chức được một thời gian, Thái Tổ cho vời Lăng về làm Thừa tướng duyện chúc.
[Nguỵ lược chép: Lăng làm Trưởng huyện, lỡ mắc tội, phải chịu hình phạt cắt tóc năm năm, đi quét rác ở trên đường. Lúc xe của Thái Tổ qua đó, hỏi Lăng mắc tội gì, tả hữu đem tội trạng thưa lại. Thái Tổ nói: "Con của ông ấy cũng là con của sư huynh ta(1), có tội thì bị buộc tội cũng là công bằng thôi." Rồi cho viên Chủ giả tuyển Lăng làm Kiêu kỵ chủ bộ.]
Văn Đế lên ngôi, bái Lăng làm Tán kỵ thường thị, rồi cho ra ngoài làm Thứ sử Duyện Châu, cùng với bọn Trương Liêu đến Quảng Lăng đánh dẹp Tôn Quyền. Sắp đến đại giang, ban đêm có gió lớn, bọn tướng Ngô là Lã Phạm bơi thuyền đến bờ Bắc. Lăng cùng chư tướng đón đánh, lùng bắt chém đầu bọn giặc, bắt được thuyền địch, có công, Lăng được phong làm Nghi Thành đình hầu, gia thêm chức Kiến vũ tướng quân, chuyển về Thanh Châu. Lúc bấy giờ ở Hải Tân vì mới sau cơn tang loạn, luật pháp chưa nghiêm chỉnh. Lăng ban bố chính giáo để thi hành, thưởng thiện phạt ác, rất có kỷ cương, được bách tính ngợi khen, chẳng kể hết lời. Sau Lăng theo Tào Hưu đi đánh Ngô, cùng với quân giặc gặp
nhau ở Giáp Thạch, quân của Hưu thất lợi, Lăng ra sức chiến đấu phá vỡ vòng vây, Hưu được thoát nạn. Lăng vẫn bị chuyển đi làm Thứ sử Dương Châu, Dự Châu, Lăng ở đâu đều khiến cho quân dân ở đó được vui lòng. Lúc Lăng mới đến Dự Châu, cho treo biển biểu dương con cháu của các bậc tiên hiền, cầu lấy những kẻ sĩ chưa được hiển danh, mọi việc đều có khuôn phép, ý nghĩa rất cao đẹp. Trước đó, Lăng cùng với Tư Mã Lãng, Giả Quỳ là bạn hữu, lúc đến Duyện, Dự, Lăng kế thừa được công tích của bọn họ. Năm Chính Thuỷ sơ, Lăng làm Chinh đông tướng quân, được ban Giả tiết đô đốc các việc quân sự ở Dương Châu. Năm thứ hai, đại tướng nước Ngô là Toàn Tông đem mấy vạn quân vào cướp phá Thược Pha, Lăng thống suất chư quân đón đánh, cùng với giặc tranh chiếm con đê, hết sức giao chiến liên tiếp nhiều ngày, quân giặc rút lui. Lăng được tấn phong tước Nam Hương hầu, hưởng thực ấp một ngàn ba trăm năm mươi hộ, thăng chức Xa kỵ tướng quân, Nghi đồng tam ti.
Bấy giờ cháu ngoại của Lăng là Lệnh Hồ Ngu vì có tài năng được làm Thứ sử Duyện Châu, đóng trị sở ở Bình A. Các cậu của Ngu đều giữ binh quyền, chuyên trách công việc ở Hoài Nam. Lăng đã được thăng làm Tư Không. Tư Mã Tuyên Vương giết xong Tào Sảng, tiến cử Lăng làm Thái uý, ban cho Giả tiết việt. Lăng, Ngu bí mật cùng tính kế, nói rằng Tề vương(2) chẳng qua vì được thiên vị, Sở vương Bưu lớn tuổi mà có tài, muốn nghênh đón lập Bưu đóng đô ở Hứa Xương. Năm Gia Bình nguyên niên tháng chín, Ngu phái tướng là Trương Thức đến Bạch Mã, cùng với Bưu qua lại thăm hỏi nhau(3). Lăng lại phái xá nhân là Lao Tinh đến Lạc Dương, nói chuyện với con mình là Quảng. Quảng nói: "Phế lập là chuyện đại sự, chớ gây hoạ cho tổ tiên."
[Hán Tấn Xuân Thu chép: Lăng, Ngu bàn mưu, vì đế còn nhỏ bị áp chế bởi cường thần, chẳng kham nổi cương vị làm chúa, Sở vương Bưu lớn tuổi mà có tài, muốn đón về lập làm đế, để hưng Tào thị. Lăng sai người đến bảo với Quảng, Quảng nói: "Phàm làm chuyện đại sự, phải ứng theo nhân tình. Nay Tào Sảng kiêu xa mất lòng dân, Hà Bình Thúc rỗng tuếch mà chẳng sửa mình, Tất, Hoàn, Đặng, Dương dù gồm đủ có danh vọng, song hết thảy đều ganh đua với đời(4). Thêm nữa là thay đổi phép tắc triều đình, thì phải cân nhắc cải biến chính lệnh, dù giữ được ngôi cao mà kẻ làm việc ở dưới chẳng tiếp nhận nổi, dân quen với lỗi cũ, mọi người chẳng ai theo. Dẫu cho thế lực có nghiêng bốn bể, danh tiếng chấn động thiên hạ, cùng một ngày chém giết, các danh sĩ giảm đi một nửa, mà bách tính yên lặng, tuyệt chẳng có ai ngờ vực hay xót thương, ấy là mất lòng dân vậy. Nay chí nguyện của Ý dẫu khó lường, song làm việc chưa có gì sai trái, mà đề bạt dùng kẻ hiền năng, mở mang gây dựng điều tốt cho mình, trước tiên là sửa sang chính lệnh triều đình, xứng với thỉnh cầu của chúng nhân. Sảng đối với việc đó thì cho là xấu, mà bên kia chẳng ai không mong thay đổi, sớm tối làm việc cẩn trọng, chuyên cần gắng sức chẳng lười biếng, lấy thương dân làm đầu. Cha con anh em ông ấy, đều nắm giữ binh quyền trọng yếu, chưa dễ vong bại được" Lăng không theo.]
[Thần Tùng Chi cho rằng những lời giống như thế, sử sách thời trước đều không chép lại, mà xuất hiện ở Tập thị. Vả lại đặt ra những lời về khuôn phép thể chế chẳng giống như sự tích, ngờ là đều do Tạc Xỉ tự tạo ra vậy(5).]
Tháng mười một năm ấy, Ngu lại phái Thức đến chỗ Bưu, còn chưa quay về, vừa lúc Ngu bị ốm chết.
[Nguỵ thư chép: Ngu tự Công Trì, vốn có tên là Tuấn, năm Hoàng Sơ trung, làm Hoà nhung hộ quân. Quan hiệu uý ở quận ô Hoàn là Đoàn Dự đánh dẹp rợ Hồ lập công, song có lỗi nhỏ trái là lệnh điều động, Ngu lấy phép tắc bó buộc Dự. Đế giận, bắt trói Ngu, bãi miễn chức quan trị tội,
chiếu viết "Tuấn gì mà ngu dốt vậy!" Bởi thế mới có cái tên ấy(6). Năm Chính Thuỷ trung, Ngu được làm Trưởng sử cho Tào Sảng, sau ra ngoài làm Thứ sử Duyện Châu.]
[Nguỵ lược chép: Ngu nghe nói Sở Vương Bưu có trí dũng. Ngày trước ở Đông quận có kẻ nói xằng bậy rằng: "Có con ngựa bạch ở Hoàng Hà biến thành Yêu mã, ban đêm đi qua chỗ quan coi ngựa ở ven sông hí vang, các con ngựa khác đều hưởng ứng, sáng hôm sau thấy ở bờ sồng có dấu vết, lớn như cái hộc, kéo dài mấy dặm, rồi quay về chui xuống dòng sông." Lại có lời đồng dao rằng: "Ngựa bạch vốn ở xứ người, nay rong ruổi xuống tây nam, ai cưỡi được nó, thì là Chu hổ kỵ." Vì Sở vương tiểu tự là Chu Hổ, cho nên Ngu và Vương Lăng có âm mưu lập Sở vương(7). Ngu bèn phái người chuyển ý đến Vương, nói "Sứ quân(8) gửi ý tới Vương, việc trong thiên hạ chẳng thể biết được, xin Vương hãy tự quan tâm đến bản thân mình!" Bưu cũng ngầm hiểu ý ấy, đáp lời rằng "Ngươi bảo với sứ quân, là ta biết hậu ý của sứ quân rồi."]
Năm thứ hai, sao Huỳnh hoặc phạm vào Nam đẩu, Lăng bảo: "Ở giữa chòm Nam đẩu có ngôi sao, là đang có việc quý hiển bất ngờ vậy."
[Ngụy lược chép: Lăng nghe nói có người dân ở Đông Bình là Hạo Tường hiểu thiên văn, cho gọi người đến hỏi Tường. Tường ngờ là Lăng ngầm có ý riêng tây, muốn làm Lăng hài lòng, không nói rằng nước Ngô đang có tang sự, mà nói việc ở địa phận Hoài Nam nước Sở, nay Ngô, Sở là cùng một quẻ, đang là lúc vượng khí hưng thịnh. Cho nên kế của Lăng mới định.]
Năm thứ ba mùa xuân, giặc Ngô phong tỏa đường thủy. Lăng muốn nhân đó cử sự, bèn nghiêm lệnh chỉnh đốn ba quân, dâng biểu xin ra đánh dẹp giặc; có chiếu chỉ trả lời là triều đình không đồng ý. Âm mưu của Lăng quá lớn, liền phái tướng quân Dương Hoằng đem việc phế lập bảo với Thứ sử Duyện châu là Hoàng Hoa, Hoa và Hoằng liên danh đem chuyện bẩm với Thái phó Tư Mã Tuyên Vương. Tuyên Vương đem trung quân xuôi đường thủy đánh Lăng, trước tiên xuống lệnh xá tội cho Lăng, lại gọi quan Thượng thư Quảng Đông, sai viết thư dụ Lăng, đại quân âm thầm tiến đến Bách Xích uy bức Lăng. Lăng tự biết thế cùng, bèn cưỡi một chiếc thuyền nhỏ ra nghênh đón Tuyên Vương, phái phó quan là Vương Úc đến tạ tội, mang theo ấn thụ, tiết việt. Quân đến Khâu Đầu, Lăng tự trói mình ở trên sông. Tuyên Vương thừa chiếu phái quan Chủ bộ cởi trói cho kẻ làm phản đã phục tùng, rồi diện kiến Lăng, úy lạo, trao trả ấn thụ, tiết việt, phái sáu trăm quân bộ kỵ đưa Lăng về kinh đô. Lăng đến huyện Hạng, uống thuốc độc mà chết.
[Ngụy lược chép bức thư của Lăng gửi Thái phó rằng: "Chợt nghe được tin thần quân bí mật tiến phát, giờ Tỵ đã ở Bách Xích, dẫu biết số mệnh mình cùng tận, vẫn đợi ngài để được tương kiến, thân thủ có phân li, cũng chẳng lấy thế làm ân hận, trước sau đã sai phái sứ giả gửi thư đi, mà chưa có tin báo về, nhón gót chân trông về tây, không rõ vì sao. Hôm qua sau khi kẻ hèn này phái người đưa thư đi, đã lập tức cưỡi thuyền tới nghênh đón, nghỉ đêm ở Khâu Đầu, sớm nay tiến phát từ Phồ Khẩu, kính nhận cáo thư xá tội, lại được gia ân thêm hai mươi ba ngày nữa, rồi liên tiếp nhận được thư tín, dạy bảo khuyên răn cho hiểu rõ, kẻ này nghe mệnh mà kinh ngạc, cõi lòng tan nát, chẳng biết nên tự xử mình ở chỗ nào? Kẻ hèn này lâu nay làm nhục đến ân huệ của triều đình, thường được tin dùng mà không công hiệu, cho thống quản binh nhung, đi chinh phạt nhất thống miền đông, việc làm có chỗ khiếm khuyết, lúc cốt yếu lại vi phạm phép tắc, mắc tội hay thay đổi(9), vợ con ở cùng huyện, không có chỗ để trông mong vậy. Chẳng ngờ trời che đất chở được nhận thánh ân, vượt quá với cái ân huệ là bảo toàn mệnh sống, còn được thấy nhật nguyệt. Ngờ rằng vì
lời của bọn tiểu nhân của đứa cháu ngoại đã chết là Lệnh Hồ Ngu, mà kẻ hèn này lập tức bị oan ức, khiến cho chẳng được nói rõ hết sự tình. Điều người ta đã biết, có thần minh chứng giám, ấy là việc sai trái không tỏ tường, đến nay thốt nhiên bùng phát ra ngoài, kẻ hèn này biết rằng đó là tội bị giết bêu đầu. Ôi, sinh ra ta là cha mẹ, cứu sống ta là ngươi vậy." Lại viết thêm: "Thân này bị hãm vào hình tội, được tha thứ cho việc làm xằng bậy. Nay phái phó quan đưa ấn thụ sang, lát sau xin đến, sẽ làm như chiếu thư tự trói mình theo mệnh. Dù túc hạ thiên vị cho ta, nhưng phép tắc của nhà nước có phân biệt." Khi đến nơi, làm đúng như thư đã viết. Thái phó sai người cởi trói cho Lăng. Lăng đã được tha, thêm nữa cậy vào giao tình cũ, không còn nghi ngờ gì, bèn cưỡi một chiếc thuyền nhỏ ra tự thú với Thái phó. Thái phó sai người chặn Lăng lại, cắm thuyền ở giữa sông, còn cách hơn mười trượng. Lăng biết mình bị coi là người ngoài, bèn ở đằng xa bảo Thái phó rằng: "Khanh trực tiếp viết thư cho người triệu ta, ta há dám không đến chăng? Sao còn phải dẫn quân đến đây nữa!" Thái phó nói: "Vì khanh viết thư không nhận là mình có lỗi nên như vậy thôi." Lăng nói: "Khanh phụ ta!" Thái phó nói: "Ta thà phụ khanh, chứ chẳng thể phụ quốc gia được." Bèn sai người hộ tống Lăng về phương tây. Lăng tự biết mình tội nặng, dò tìm cái đinh đóng quan tài, để xem xét ý tứ của Thái phó, thấy Thái phó đã cung cấp đủ. Lăng đến huyện Hạng, đang đêm gọi phó quan thuộc hạ rồi vĩnh biệt rằng: "Ta tuổi gần đến tám mươi, thân danh đều bị diệt sao!" Rồi tự sát.]
[Tấn kỷ của Can Bảo chép: Lăng đến huyện Hạng, thấy đền thờ của Giả Quỳ ở bên sông, Lăng kêu to rằng: "Giả Lương Đạo, Vương Lăng hết mực trung thành với xã tắc nhà Ngụy, chỉ có thần minh mới biết được tấm lòng của Lăng thôi." Tháng tám năm ấy, Thái phó có bệnh, mộng thấy Lăng và Quỳ khắp mình lở loét, rất căm ghét bọn ấy, sau chết.]
Tuyên Vương bèn đến Thọ Xuân. Bọn Trương Thức đều ra tự thú, Vương bèn tra xét đến cùng việc ấy. Bưu được ban cho tự xử, chư tướng liên quan tất cả đều bị tru di tam tộc.
Triều đình bàn luận hết thảy cho rằng theo nghĩa lý của kinh Xuân Thu, Thôi Trữ, Trịnh Quy ở nước Tề tội còn hơn cả mức truy lục, bị phá quan tài phơi bày thi thể, tội trạng chép vào điển tịch(10). Cái tội của Lăng và Ngu nên xét theo như phép cũ. Đế bèn cho đào bới mộ của Lăng và Ngu, phá quan tài, phơi thi thể ở gần chỗ chợ búa ba ngày, thiêu hủy ấn thụ và triều phục của hai người, rồi vùi thân xuống đất.
Lại tiến cử ban cho Hoằng, Hoa tước vị là Hương hầu. Quảng có chí hướng ưa chuộng việc học hành, lúc chết mới ngoài bốn mươi tuổi.
(Hết Vương Lăng truyện)
Chú thích:
(1) Vương Lăng là con của Vương Doãn, Tào Tháo trước đây ở triều đình cũng có quen biết Vương Doãn, nên mới nói là con của Vương Doãn thì cũng như con của anh (thầy) mình.
(2) Tức Tào Phương, được nối ngôi đế của Tào Duệ (Tuấn).
(3) Chứng cớ không thực sự rõ ràng, song theo luật pháp nước Nguỵ thì chư hầu không được đi lại thăm hỏi nhau, chỉ được ở đất phong của mình, nói có tội thì cũng đúng.
(4) Hà Yến, tự Thúc Bình, cháu của Hà Tiến, đại tướng quân thời Hán Thiếu đế; Đặng Dương, tự
Huyền Mậu, dòng dõi Đặng Vũ thời Hán Quang đế Lưu Tú; Đinh Bật tự Nghiện Tĩnh; Tất Phạm tự Chiêu Tiên; Hoàn Phạm tự Nguyên Tắc, mấy người này là bộ hạ của Tào Sảng.
(5) Tập thị tức là sách của họ Tập, tức Tập Tạc Xỉ. Ông này còn là tác giả cuốn sách nổi tiếng là Tương Dương kỳ cựu ký. Bùi Tùng Chi chú giải Tam quốc chí, ngờ là những điều này không thấy ghi trong các sử sách trước đó, những điều ghi chép không đúng với sự tích, đó là do Tập Tạc Xỉ bịa đặt ra.
(6) Tuấn tức là sâu xa, Ngu tức là ngu dốt. Đế xỉ vả Lệnh Hồ Tuấn làm việc ngu dốt. Theo Nguỵ thư dẫn thì cái tên Lệnh Hồ Ngu có xuất xứ như vậy.
(7) Sở Vương Tào Bưu được ở đất phong tại huyện Bạch Mã, phía tây nam huyện Bạch Mã là kinh đô Lạc Dương, nói ngựa bạch (Bạch mã) rong ruổi xuống tây nam tức là ám chỉ rằng Tào Bưu vào làm chủ Lạc Dương.
(8) Sứ quân ở đây là trỏ vào Lệnh Hồ Ngu, Ngu làm Thứ sử Duyện châu nên được gọi là Sứ quân.
(9) Câu này nguyên văn là 'tội tại tam bách'. Hai chữ tam bách trỏ sự thay đổi, nguyên là khi xưa sách Mao Thi có ba trăm mười một thiên, sáu thiên bị mất, còn lại ba trăm linh năm thiên, người sau chỉ nói rằng Mao thi có ba trăm (tam bách) thiên, vì có mấy thiên bị thay đổi. Về sau hai chữ 'tam b
(10) Trịnh Quy, chưa rõ là ai; còn Thôi Trữ, là quan đại phu nước Tề thời Xuân Thu, có tội giết vua, sau khi chết, bị phá quan tài phơi thây ngoài chợ, tội bị chép vào thư tịch của nước nhà. Kinh Xuân Thu chép việc ấy.

NGỤY THƯ QUYỂN 29 - Phương kỹ truyện
Hoa Đà, Đỗ Quỳ, Chu Kiến Bình, Chu Tuyên, Quản Lộ

TRUYỆN HOA ĐÀ
Hoa Đà tự Nguyên Hóa, người huyện Tiêu nước Bái, còn có tên là Phu.
Thần là Tùng Chi xét: Chữ 'phu' cổ giống nhau với chữ 'chuyên', nhiều người viết chữ không phân biệt được. Mà Đà tự Nguyên Hóa thì tên của Đà phải là Phu vậy.
Du học ở Từ Châu, thuộc làu mấy quyển kinh. Bái Tướng là Trần Khuê cử Hiếu liêm, Thái úy Hoàng Uyển mời, đều không đến. Hiểu thuật dưỡng tính(2), người bấy giờ cho rằng Đà sống trăm tuổi mà dáng vẻ vẫn khỏe mạnh. Lại giỏi làm thuốc, cách trị bệnh của Đà là dùng thang(3) thuốc không trộn hơn vài loại thuốc, phân tích trong đầu, không cần tự tay tính đếm, nấu sôi rồi cho uống, nói rõ công hiệu và cấm kị khi dùng thuốc, uống xong sẽ khỏi. Nếu phải cứu(4) thì không quá một hai chỗ, mỗi chỗ không quá bảy, tám tráng(5), bệnh cũng trừ được. Nếu phải châm(6) thì không quá một hai chỗ, lúc châm nói: "Cảm ứng kéo đến chỗ đấy, nếu đến, nói ta biết". Người bệnh nói: "Đã đến". Mới liền nhổ châm, bệnh cũng chữa khỏi. Nếu mầm bệnh tụ ở trong, là chỗ mà thuốc châm không đến được thì phải ổ xẻ, lại cho người bệnh uống bột 'ma phất tán'(7), chốc lát người bệnh lại như ngủ say không biết cái gì, nhân đó mổ xẻ. Nếu bệnh ở trong ruột, lại mổ ruột mà tẩy rửa rồi khâu bụng mà bôi cao(8) lên bụng; bốn, năm ngày say sẽ khỏi, không đau, người bệnh cũng không tự thức dậy được, trong vòng một tháng liền khỏe lại vậy.
Phu nhân(9) của Cam Lăng Tướng ngày trước có thai sáu tháng, bụng đau không yên, Đà xem mạch(10), nói: "Thai đã chết rồi". Sai người dùng tay mò để biết ở chỗ nào, nếu ở bên trái là con trai, ở bên phải là con gái. Người ta nói: "Ở bên trái". Do đó làm thang thuốc cho uống, quả đúng sinh ta một con trai, rồi khỏi.
Huyện lại(11) là Doãn Thế khổ vì tứ chi(12) mỏi mệt, trong miệng khô, không muốn nghe tiếng người, tiểu tiện(13) không lợi. Đà nói: "Thử ăn món ăn nóng, nếu mồ hôi ra thì sống; nếu không có mồ hôi ra thì ba ngày sau sẽ chết". Liền ăn món ăn nóng nhưng không có mồ hôi ra, Đà nói: "Tạng khí(14) đã hết ở trong, nếu kêu khóc sẽ chết". Đúng như Đà nói.
Phủ lại(15) là Nghê Tầm, Lí Diên cùng đến, đều đau đầu, nóng thân, bị đau giống nhau. Đà nói: "Tầm phải tháo dạ, Diên phải phát mồ hôi.". Có người hỏi sao lạ vậy, Đà nói: "Tầm bị bệnh ở ngoài thân, Diên bị bệnh trong thân, cho nên trị phải khác". Liền đều cho thuốc, ngày sau cùng khỏe dậy.
Người huyện Diêm Độc là Nghiêm Hân và mấy người cùng đến đợi Đà, vừa đến, Đà bảo Hân nói: "Trong người ông khỏe không"? Hân nói: "Vẫn như thường". Đà nói: "Ông có bệnh nặng thấy ở mặt, không nên uống nhiều rượu". Ngồi xong đi về, đi được mấy dặm, Hân bỗng đau đầu hoa mắt rơi xuống xe, người ta chở đưa về nhà, giữa đêm thì chết.
Viên Đốc bưu ngày trước là Đốn Tử Hiến mắc bệnh đã khỏi, đến chỗ Đà xem mạch, nói: "Vẫn yếu, chưa khỏe lại, chớ làm việc vất vả, giao hợp tất chết. Nếu sắp chết phải lè lưỡi ra mấy tấc". Vợ hắn nghe tin hắn bệnh khỏi, đem theo hoăn trăm người nhà đến xem, giữa đêm giao hợp, trong vòng ba ngày sau phát bệnh, đều như Đà nói.
Viên Đốc bưu là Từ Nghị mắc bệnh, Đà đến xem bệnh. Nghị bảo Đà nói: "Hôm trước sai Y tào lại Lưu Tổ châm vị quản(16) xong, lại càng ho khan, muốn nằm mà chẳng yên". Đà nói: "Châm không đúng vị quản, châm nhầm phải gan vậy. Nay nên ăn ít, nếu không năm ngày sau không cứu được". Rút cuộc như Đà nói.
Người huyện Sơn Dương là Trần Thúc Sơn có con trai nhỏ hai tuổi bị bệnh, lúc tiểu tiện thường khóc, càng ngày thêm khốn. Hỏi Đà, Đà nói: "Mẹ nó lúc mang thai có chứa khí âm, trong vú lạnh rỗng, do đó con bị nhiễm khí lạnh của mẹ, cho nên khiến cho bệnh không khỏi ngay được". Đà cho bốn viên 'vật nữ uyển hoàn'(17), uống mười ngày liền khỏi.
Phu nhân của Bành Thành (18) buổi đêm đi nhà xí bị con bọ cắn vào tay, rên rỉ không thôi. Đà làm thang thuốc ấm gần sôi, ngâm tay vào trong đó, cuối cùng được khỏe, nhưng vẫn sai người thân nhiều lần nấu thang thuốc làm cho tay ấm, một sớm liền khỏi.
Quân lại(19) là Mai Bình bị bệnh, bỏ quan về nhà, nhà ở quận Quảng Lăng nhưng đi chưa đến hai trăm dặm, sai người thân dừng lại. Chốc lát, Đà tình cờ đến chỗ của chủ nhân, chủ nhân(20) sai Đà xem
bệnh cho Bình, Đà bảo Bình nói: "Nếu ông gặp ta sớm thì bệnh không thể đến thế này. Nay bệnh đã nặng, đi về nhanh mới gặp được người nhà, năm ngày sau tất chết". Liền đi về, như lời mà Đà nói.
Đà đi đường, thấy một người bị bệnh nghẽn họng, ăn uống mà không tháo dạ(21) được, người nhà đang dùng xe muốn chở đến chỗ thầy thuốc. Đà nghe tiếng người bệnh rên rỉ, dừng xe đến xem, bảo người bệnh nói: "Vừa đi qua bên đường có một chum giấm tỏi lớn, đến lấy ba thăng mà uống, bệnh tất tự khỏi". Liền theo lời Đà, đứng thổ ra một con trùng(22), rồi treo bên xe, muốn đến báo cho Đà. Đà vẫn chưa về, con nhỏ đang chơi ngoài cửa, ngẩng mặt lên nhìn, tự bảo nhau nói: "Người này giống với người bệnh bên xe đã gặp cha ta". Người bệnh đi vào ngồi, thấy trên vách nhà phía bắc có treo mấy chục con trùng.
Lại có một viên Quận thú(23) mắc bệnh, Đà cho rằng phải làm cho người này phát giận mới khỏi, bèn nhận nhiều tiền của của người này mà không chữa trị, không lâu lại bỏ đi, để thư lại mắng người này. Quận thú quả đúng cả giận, sai người đuổi bắt giết Đà. Con của Quận thú biết được, sai thuộc quan không đuổi nữa. Quận thú đã quá tức giận, thổ mấy thăng máu đen mà tự khỏi.
Lại có một Sĩ đại phu(24) không khỏe, Đà nói: "Ông bệnh nặng, nên mổ bụng ra lấy mầm bệnh. Nhưng ông thọ cũng không quá mười năm nữa, bệnh không giết được ông. Nếu ủ bệnh mười năm nữa, tuổi thọ cũng hết, không bằng để ta mổ xẻ". Sĩ đại phu không chịu đau bệnh, muốn phải trừ đau. Đà bèn ra tay, bệnh đau dần đỡ, được mười năm thì chết.
Quảng Lăng Thái thú Trần Đăng mắc bệnh, trong ngực nhức nhối, mặt đỏ, không ăn. Đà xem mạch nói: "Trong dạ dày của Phủ quân(25) có mấy thăng con trùng sắp gây thành ung nhọt, là do ăn thịt sống gây ra vậy". Liền làm hai thăng thang thuốc, cho uống một thăng trước rồi dần dần cho uống hết. Uống xong, thổ ra hơn ba thăng con trùng, đầu đỏ mà đều cử động, nửa thân như mang cá sống, bệnh đau lại khỏi. Đà nói: "Bệnh này sau ba năm lại phát, nếu gặp thầy thuốc giỏi mới cứu giúp được". Đến kì quả đúng phát bệnh, bấy giờ Đà không ở đó, như lời Đà mà chết.
Thái Tổ nghe nói liền gọi Đà, Đà thường ở bên tả hữu. Thái Tổ khổ vì đầu trúng gió, hễ phát bệnh thì tim loạn, mắt hoa, Đà châm huyệt cách(26), châm đến đâu đỡ đến đó.
Đà biệt truyện viết: "Có người mắc bệnh hai chân què không đi được, ngồi kiệu đến chỗ Đà, Đà từ xa thấy, nói: 'Ta đã châm cứu làm thuốc nhiều rồi, không cần phải xem mạch'. Liền sai người cởi áo, cứu mấy chục chỗ trên lưng, mỗi chỗ cách nhau một tấc, có chỗ năm tấc, lộn xộn không giống nhau. Nói là mỗi cứu đều có mười tráng, cứu xong thì khỏe liền đi được. Sau lại cứu ở gần gáy một tấc, các chỗ trên dưới ngay ngắn thẳng đều như hình sợi kẻ vậy".
Vợ của Lí Tướng quân bệnh nặng, gọi Đà xem mạch, nói: "Sinh non mà thai không ra được". Tướng quân nói: "Nghe nói là sinh non nhưng thai đã ra rồi". Đà nói: "Xem mạch, thai chưa ra vậy". Tướng quân cho là không đúng. Đà bỏ đi, người vợ có vẻ đỡ chút ít. Hơn trăm ngày sau lại phát bệnh, lại gọi Đà, Đà nói: "Lúc trước xem mạch có thai. Lúc trước đáng sinh hai con, một con ra trước, máu ra rất nhiều, con sau không sinh kịp. Mẹ không tự biết, người bên cạnh cũng chẳng hay, không đón ra, bèn không sinh được. Thai chết, mạch máu không về được, tất khô cục ở gáy, cho nên khiến cho nhiều lần đau gáy. Nay làm cho thang thuốc cùng châm một chỗ, cái thai chết ấy tất ra". Cho uống thang thuốc rồi châm, người vợ đau đớn như muốn sinh. Đà nói: "Cái thai chết này lâu ngày đã khô, không tự ra được,
phải sai người móc ra". Quả đúng có một cái thai con trai chết, tay chân đầy đủ, màu đen, dài đến một thước.
Kĩ thuật cao siêu của Đà đại loại như thế. Nhưng vốn là kẻ sĩ mà lấy việc làm thuốc lập nghiệp, ý thường tự hối, sau Thái Tổ nắm chính sự, bị bệnh thêm nặng, sai Đà đến xem. Đà nói: "Bệnh này khó chữa, chăm lo chữa trị, có thể kéo dài năm tháng". Đà xa nhà lâu ngày có ý về, nhân đó nói: "Nay nhận được thư nhà, đang muốn xin về". Đến nhà, lại lấy cớ vợ bệnh mà từ chối, nhiều lần hẹn mà không quay lại. Thái Tổ gửi thư gọi, lại sai quận huyện điều lệnh. Đà cậy vào tài năng mà khinh ghét việc hầu hạ, vẫn không lên đường. Thái Tổ cả giận, sai người đến xem xét. Nếu vợ bệnh thật thì ban cho bốn mươi hộc đậu, tha cho tội hoãn lâu ngày; nếu có lừa dối thì bắt chở đến. Do đó chở đến đất Hứa giam vào ngục. Xét hỏi mà nhận tội. Tuân Úc xin nói: "Đà có thuật giỏi, cứu được mạng người, nên tha cho hắn". Thái Tổ nói: "Không lo, thiên hạ ngày nay không có bọn chuột này chăng"? Rồi xét hỏi Đà đến chết, Đà sắp chết, lấy một quyển sách trao cho quan coi ngục, nói: "Nó có thể cứu người". Quan coi ngục sợ phạm pháp không nhận, Đà cũng không ép, lấy lửa đốt sách. Sau khi Đà chết, bệnh đau đầu của Thái Tổ chưa khỏi, Thái Tổ nói: "Đà có thể trị khỏi bệnh này, nhưng hắn là kẻ tiểu nhân có ý kéo dài bệnh để được trọng được dùng nhiều, nếu ta không giết kẻ này, cuối cùng hắn cũng không giúp ta cắt trừ cái gốc rễ của bệnh". Sau đó con yêu là Thương Thư mắc bệnh, Thái Tổ than nói: "Ta giết bừa Hoa Đà, khiến cho con nhỏ bị chết vậy".
Trước đây, Quân lại là Lí Thành khổ vì ho khan, ngày đêm không ngủ được, có lúc thổ ra máu mủ, đến hỏi Đà. Đà nói: "Ông bị bệnh trúng độc trong ruột, đấy là nguyên nhân gây ho; không phải từ phổi vậy. Nay cho ông hai tiền thuốc tán, nếu thổ ra hơn ha thăng máu mủ thì ngừng uống, tự chăm sóc, một tháng có thể đỡ vừa, phải tự giữ gìn, một năm sẽ khỏi. Sau mười tám năm sẽ có một lần phát lại, lại uống thuốc tán này, cũng khỏe lại được. Nếu không dùng thuốc này, sẽ phải chết". Lại cho hai tiền thuốc tán nữa, Thành lấy thuốc rồi đi. Năm, sáu năm sau, trong người thân có người mắc bệnh giống Thành, bảo Thành nói: "Ông nay khỏe mạnh, ta sắp chết, sao lại nỡ không nhanh cho ta uống thuốc ấy mà lại giấu đi,
Thần là Tùng Chi xét: Tiếng cổ, nói giấu là khứ.
để đợi điều không lành? Hãy cho ta mượn dùng trước, ta khỏi rồi sẽ vì ông mà đến chỗ Hoa Đà xin thêm thuốc". Thành cho người đó. Rồi đến huyện Tiêu, vừa lúc Đà bị bắt, vội vàng không chịu đi xin. Mười tám năm sau, bệnh của Thành lại phát, không có thuốc chữa, do đó mà chết.
Đà biệt truyệt viết: "Có người vào giữa năm Thanh Long gặp Sơn Dương Thái thú người quận Quảng Lăng là Lưu Cảnh Tông, Cảnh Tông nói là giữa năm Trung Bình mấy lần gặp Hoa Đà, cách trị bệnh của Đà là dùng tay bắt mạch, hiệu nghiệm như thần, người quận Lang Nha là Lưu Huân làm Hà Nội Thái thú có con gái gần hai mươi tuổi, trên đầu gối chân trái có vết thương, có vết mà không đau. Vết thương lành mấy chục ngày sau lại phát, cứ như thế bảy, tám năm, đón Đà đến xem, Đà nói: 'Nó dễ trị thôi. Phải lấy được bã gạo, một con chó lông vàng, hai con ngựa khỏe đến đây'. Lấy dây thừng buộc cổ chó, xua ngựa chạy kéo chó đi, ngựa chạy hết cỡ, tính ra ngựa chạy được hơn ba mươi dặm, nhưng khó không đi được, lại sai người đi bộ dẫn đi, tính ra đến năm mươi dặm. Lại lấy thuốc cho người con gái đó uống, người con gái liền nằm ngủ không biết gì nữa, rồi lấy dao lớn cắt phần trước của chân ở sau gần bụng chó, lấy chỗ mà mình cắt hướng vào vết thương, chỉ cách hai, ba tấc. Dừng lại chốc lát, nếu có con trùng từ vết thương chảy ra lại lấy cái dùi sắt đâm ngang xuyên đầu trùng. Trùng ở trong da vẫy động hồi lâu, chốc lát không động nữa, lại kéo ra, dài đến ba thước, thân giống rắn, chỉ có chỗ mắt mà không có con người, lại có vảy ngược. Lấy cao tán bôi vào vết thương, sau bảy ngày liền khỏi. Lại có gười mắc bệnh đau đầu, đầu không cử động được, mắt cũng không nhìn được, đã nhiều năm rồi. Đà sai cởi hết áo rồi treo người ngược lại, khiến cho đầu cách mặt đất một hai tấc, lấy vải thấm nước lau rửa thân thể, lau quanh người, đợi xem các mạch, đều lộ ra năm màu, Đà sai mấy học trò lấy dao sắc rạch mạch, máu năm màu chảy ra hết, chỉ thấy máu màu đỏ, rồi cho người xuống, lấy cao xoa khắp bụng, mồ hôi ra quanh người, lấy bột 'đình lịch khuyển huyết tán'(27) cho uống, bèn khỏi. Lại có một người đàn bà mắc bệnh nhiều năm, người ta gọi là người bệnh nóng lạnh. Giữa tháng mười một mùa đông, Đà sai người bệnh ngồi trong máng đá, giữa buổi sáng rót nước lạnh chảy vào máng, nói là phải rót nước đủ trăm lần. Mới bảy, tám lần rót, vừa lúc người bệnh run rẩy sắp chết, người rót nước sợ hãi, muốn dừng. Đà lệnh phải rót đủ. Sắp đến lần rót thứ tám mươi, khí nói lại bay ra, cao vùn vụt đến hai, ba thước. Rót đủ trăm lần, Đà lại sai người đốt lửa sưởi ấm giường, cho nằm xuống, hồi lâu sau mồ hôi chảy ra, xoa bột, mồ hồi khô ráo mới khỏi. Lại có người bệnh nửa trong bụng rất đau, trong hơn mười ngày, tóc mai rơi rụng, Đà nói: 'Đấy là do lá lách bị vỡ nửa rồi, phải mổ bụng chữa trị vậy". Cho uống thuốc nằm ngủ, mổ bụng ra xem, quả đúng lá lách đã bị vỡ nát hơn nửa. Lấy dao cắt ra, xẻo bỏ thịt thối, lấy cao bôi vào vết thương, lấy thuốc cho uống, trăm ngày sau khỏe lại".
Người huyện Quảng Lăng là Ngô Phổ, người huyện Bành Thành là Phàn A đều theo học Đà. Phổ dựa theo thuật trị bệnh của Đà, cứu chữa được nhiều người. Đà bảo Phổ nói: "Thân người phải được lao động, nhưng không nên quá sức. Lao động thì cốc khí(28) được tan hóa, mạch máu được chảy suốt, bệnh không sinh được, tựa như then cửa không mục vậy. Cho nên người tiên thời xưa bày ra cách luyện tập như con gấu nghển cổ, con cú quay đầu, kéo dãn thân eo, hoạt động các đốt xương để được khỏi già. Ta có một thuật gọi là 'trò diễn của năm loài vật', một là hổ, hai là hươu, ba là gấu, bốn là vượn, năm chim, cũng để trừ bệnh, lại làm lợi cho bàn chân, nay truyền lại cho ngươi. Nếu trong người không khỏe thì diễn trò của một con vật ấy, đến khi mồ hôi thẫm đẫm ra thì bôi phấn lên, lúc đó thân thể sẽ khỏe khoắn, trong bụng cũng muốn ăn".
Phổ làm theo trò ấy, sống đến hơn chín mươi tuổi, tai mắt sáng suốt, răng xương chắc chắn. A giỏi thuật châm, bọn thầy thuốc đều nói rằng trong phần lưng và bụng ngực không được châm bừa, chỉ châm không quá bốn phân, nhưng A lại châm vào lưng sâu đến một, hai tấc, có khi châm vào huyệt cự khuyết(29) nơi bụng ngực sâu đến năm, sáu tấc, mà bệnh liền đều khỏi. A theo Đà xin thuốc có thể giúp ích cho người, Đà lấy bột 'tất diệp tán'(30), bột 'thanh niêm tán '(31) cho A. Một thăng bột 'tất diệp tán', mười bốn lạng bột 'thanh niêm tán', lấy đó mà trộn, nói rằng uống nhiều có thể diệt trùng, làm lợi cho ngũ tạng(32), thân thể nhanh nhẹn, khiến cho tóc đầu không trắng. A theo lời ấy, thọ hơn trăm tuổi. Tất diệp có ở nhiều chỗ, thanh niêm có ở ấp Phong, nước Bái, huyện Bành Thành và huyện Triều Ca thôi.
Đà biệt truyện viết: "Thanh niêm còn có tên là 'địa tiết', lại có tên là 'hoàng chi', chủ trị ngũ tạng, làm lợi tinh khí(33). Vốn có từ người đi lầm vào núi, được người tiên cho uống, về báo cho Đà. Đà cho là hay, liền bảo với A, A lại giữ kín. Người gần đây thấy A sống lâu mà khí lực khỏe mạnh thì lấy làm lạ, bèn đòi A cho uống, tìm cách chuốc rượu say rồi bày nói ra. Thế là thuốc được dùng, nhiều người được uống, đều có công hiệu lớn".
Văn Đế luận bàn việc bọn Khích Kiệm viết: 'Người quận Dĩnh Xuyên là Khích Kiệm có tài bỏ ăn gạo, chỉ ăn phục linh(34). Người huyện Cam Lăng là Cam Thủy cũng giỏi vận khí, già mà có dáng trẻ. Người quận Lư Giang là Tả Từ biết thuật phác đạo(35). Đều làm quân lại. Trước đây, Kiệm đi đến, mua phục linh lại càng thêm nhiều. Nghị lang người huyện An Bình là Lí Đàm học bỏ ăn gạo, ăn phục linh ấy, uống nước lạnh, tháo dạ lợi nhưng nguy hiểm mất mạng. Sau khi Thủy đến, mọi người không ai là không ngưỡng mặt trông mong, kêu gọi xin học, Quân mưu Tế tửu người quận Hoằng Nông là Đổng Phân học theo nhưng làm sai cách, khí tắc không thông, lâu sau mới thông. Tả Từ đến, lại liền trao dạy thuật phác đạo, người đến phủ là Nghiêm Tuấn, đến theo hỏi học. Người bị thiến hoạn thực là không thể học thuật ấy vậy, người ta đua đòi mới đến như thế. Giữa năm Quang Hòa, Bắc Hải Vương là Hòa Bình cũng ưa học đạo thuật, tự muốn thành tiên. Người quận Tế Nam là Tôn Ung thuở nhỏ cũng học Hòa Bình, theo đến kinh sư. Gặp lúc Hòa Bình bệnh chết, Ung nhân đó táng Hòa Bình ở huyện Đông Đào, lấy được hơn trăm quyển sách, mấy túi thuốc đều táng theo Hòa Bình. Sau đó học trò là Hạ Vinh nói là thây Hòa Bình đã mục rữa. Ung đến nay vẫn tiếc vì không lấy được sách quý thuốc tiên. Lưu Hướng(36) bị lời văn của sách Bảo kê(37) mê hoặc, Quân Du(38) bị lời nói của Tử Chính(39) cảm dụ. Người mê lầm thời xưa, há chỉ có một người thôi'!".
Đông A Vương(40) làm bài Từ đạo luận viết: "Người đời có phương sĩ(41), bậc Vương ta gọi họ đến xem hết, huyện Căm Lăng có Cam Thủy, quận Lư Giang có Tả Từ, huyện Dương Thành có Khích Kiệm. Thủy có tài vận khí đạo dẫn, Từ hiểu thuật phòng trung(42), Kiệm giỏi bỏ ăn gạo, đều nói là sống đến ba trăm tuổi. Cuối cùng mời hợp vào cả ở nước Ngụy, thực là sợ rằng bọn người này bày trò gian xảo để lừa dối người, làm việc yêu tà để mê hoặc dân, há lại muốn thấy thần tiên ở Doanh Châu(43) mà cầu yên ở biển đảo, bỏ xe vàng mà ngồi kiệu mây(44), vứt sáu con ngựa kí(45) mà cưỡi rồng bay sao? Từ Nhà vua và Thái tử cho đến các anh em đều cho là đáng cười, không tin được vậy. Nhưng bọn Thủy biết Nhà vua đối đãi chúng chỉ một lúc, không cấp bổng nhiều cho quan lại, không thưởng thêm cho người không có công, biển đảo khó mà đi đến được, sáu phất(46) khó mà đeo được, rút cuộc không dám dâng câu trống rỗng, không dám gửi lời văn khác thường nữa. Ta từng thử Khích Kiệm bỏ ăn gạo trăm ngày, tự thân cùng hắn ngủ nghỉ, chỉ được đi lại trong nhà thoải mái thôi. Phu nhân của hắn không ăn bảy ngày thì chết nhưng Kiệm vẫn như thường. Mà lại không bị tổn tuổi thọ, có thể tránh bệnh mà không sợ bị đói khát vậy. Tả Từ giỏi tu thuật phòng trong, dẫu sai lầm nhỏ thôi cũng mất mạng rồi, nếu tự thân không có có chí trong trắng lắm thì chẳng ai làm được. Cam Thủy già mà có dáng trẻ, các thuật sĩ(47) đều cùng theo học hắn. Nhưng Thủy nói nhiều làm ít, lại hay nói lời quái lạ. Ta thường gọi đến làm tả hữu, chỉ nói chuyện với hắn, hỏi việc mà hắn làm, nói lời mềm mỏng để dụ dỗ hắn, dùng lời đẹp đẽ để dạy bảo hắn, Thủy bảo ta nói: 'Thầy ta vốn là họ Hàn, tự Thế Hùng, ta từng cùng thầy luyện vàng
ở biển Nam Hải, trước sau được mấy chục vạn cân, có ném mấy vạn cân vàng xuống biển'. Lại nói: 'Vào thời Chư Lương(48), người Hồ miền tây đến cống len thơm, đai buộc eo, đao cắt ngọc, bấy giờ tiếc vì không lấy'. Lại nói: 'Có nước ở phía tây của nước Xa Sư(49), có đứa trẻ sinh ra thì trên bàn tai lộ ra lá lách, muốn ăn ít mà chạy lại nhanh'. Lại nói: 'Bắt lấy một đôi cá chép dài năm tấc trộn nấu cùng với thuốc, cho vào trong cao nấu sôi, có con cá chép vẫy đuôi mở mang, bơi lặn chìm nổi tựa như ở vực nước, một con cá chép trong đó đã chín thì ăn được'. Bấy giờ ta hỏi nói: 'Ta thử làm theo được không'? Thủy nói: "Thuốc này cách xa đây hơn vạn dặm, chỉ có ở biên giới; Thủy không tự đi nên không có được vậy'. Lời nói không cùng(50) như thế, còn nhiều nữa khó mà chép hết, cho nên tạm chép những chuyện lạ nhất trong đó ra đây. Thủy mà gặp được Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế thì lại như bọn Từ Thị, Loan Đại(51) vậy".
Chú thích:
(1) Phương kĩ: chỉ những người có kĩ thuật hơn người như làm nghề bốc thuốc, dưỡng sinh.
(2) Thuật dưỡng tính: thuật tu dưỡng tâm tính.
(3) Thang: thuốc nấu với nước cho sôi rồi uống.
(4) Cứu: là một phương pháp trị bệnh dùng lá ngải làm thành nén hoặc cuộn rồi đốt hơ vào huyệt trên
người.
(5) Tráng: mỗi lần đốt ngải để cứu là một tráng.
(6) Châm: là phương pháp trị bệnh dùng kim chích vào huyệt trên người.
(7) Bột 'ma phất tán': là một loại thuốc bột do Hoa Đà pha chế dùng để gây mê.
(8) Cao: tức thuốc mỡ dầu để bôi lên vết thương.
(9) Phu nhân: tên gọi tôn trọng đối với vợ của quan lại hoặc quý tộc.
(10) Mạch: máu chảy trong các mạch, ý nói nhịp đập của tim đẩy máu đi khắp thân thể.
(11) Huyện lại: quan lại của huyện.
(12) Tứ chi: chỉ hai tay và hai chân.
(13) Tiểu tiện: hoạt động của khứ bỏ chất bã ra khỏi cơ thể, tức đái.
(14) Tạng khí: khí trong ngũ tạng.
(15) Phủ lại: quan lại trong phủ quan.
(16) Vị quản: ống dẫn vào dạ dày.
(17) Viên 'vật nữ uyển hoàn': một loại thuốc viên của Hoa Đà
(18) Phu nhân của Bành Thành: vợ của quan lại của huyện Bành Thành.
(19) Quân lại: quan lại làm việc trong quân đội.
(20) Chủ nhân: người thay chủ trông coi việc nhà.
(21) Tháo dạ: tức đại tiện, khứ chất bã khỏi cơ thể qua hậu môn.
(22) Con trùng: chỉ con vật thân dài như hình con rắn. Có lẽ chỉ con giun, con sán.
(23) Quận thú: tức quan Thái thú đứng đầu quận.
(24) Sĩ đại phu: chỉ người có chức vị quan tước hoặc người đọc sách có tiếng tăm.
(25) Phủ quân: tên gọi tôn trọng đối với quan Thái thú đứng đầu quận, hoặc Tướng quốc của một quận.
(26) Huyệt cách: huyệt ở đốt thứ bảy trên xương sống, ở giữa ngực và bụng.
(27) Bột 'đình lịch khuyển huyết tán': một loại thuốc bột do Hoa Đà chế ra.
(28) Cốc khí: khí trong dạ dày.
(29) Huyệt cự khuyết: huyệt trên phần bụng, gần phần ngực.
(30) Bột 'tất diệp tán': một loại thuốc bột làm từ lá cây sơn.
(31) Bột 'thanh niêm tán': một loại thuốc bột, có lẽ có màu xanh.
(32) Ngũ tạng: tức năm bộ phận trong bụng là: tim, gan, phổi, lá lách, thận.
(33) Tinh khí: khí gốc trong người.
(34) Phục linh: một loại nấm mọc trên gốc cây.
(35) Thuật phác đạo: thuật dưỡng sinh.
(36) Lưu Hướng: tự Tử Chính, học giả thời Tây Hán.
(37) Bảo kê: chỉ sách 'Bảo kê vạn tất thuật' mà Lưu Hướng từng sửa chữa.
(38) Quân Du: có lẽ chỉ Trương Kham tự Quân Du, một nho sĩ thời Đông Hán.
(39) Tử Chính: có lẽ chỉ Lưu Hướng.
(40) Đông A Vương: tức Tào Thực, được phong làm Đông A Vương.
(41) Phương sĩ: người luyện thuốc muốn để thành tiên.
(42) Thuật phòng trung: thuật dưỡng sinh giữ khí.
(43) Doanh Châu: chỉ các đảo ngoài biển phía đông, tương truyền phương sĩ là Từ Phúc thời Tần trốn đến đấy.
(44) Kiệu mây: thần tiên lấy mây làm xe kiệu.
(45) Ngựa kí: ngựa khỏe dùng để kéo xe.
(46) Phất: áo của quan lại và quý tộc có hoa văn.
(47) Thuật sĩ: chỉ chung những người có kĩ thuật nào đó như thầy thuốc, thầy bói, nhà Nho, nhà luyện
đan...
(48) Thời Chư Lương: không rõ.
(49) Nước Xa Sư: một nước ở phía tây Trung Quốc thời xưa.
(50) Không cùng: ý nói lí lẽ xa vời, không có thực.
(51) Từ Thị, Loan Đại: Từ Thị còn gọi là Từ Phúc là một phương sĩ thời Tần Thủy Hoàng, đi tìm thuốc trường sinh rồi trốn ra Doanh Châu. Loan Đại phương sĩ thời Hán Vũ Đế, bày chuyện thần tiên để mê hoặc Vũ Đế, cuối cùng bị Vũ Đế giết.

TRUYỆN ĐỖ QUỲ
Đỗ Quỳ tự Công Lương, người quận Hà Nam. Vì biết âm nhạc nên được làm Nhã nhạc lang(1). Năm Trung Bình thứ năm(2), mắc bệnh mà bỏ quan. Châu, quận, quan Tư đồ bỏ lễ, lại vì thời loạn nên tránh đến Kinh Châu. Kinh Châu Mục là Lưu Biểu sai Quỳ cùng Mạnh Diệu giúp vua Hán làm nhã nhạc(3), nhạc làm xong, Biểu muốn đặt ở sân đình tấu xem, Quỳ can nói: "Nay Tướng quân không có lệnh làm nhạc giúp Thiên tử mà đem ra bày ra ở sân đình, chẳng phải không nên sao"! Biểu nghe lời này mà dừng lại. Sau con Biểu là Tông hàng Thái Tổ, Thái Tổ lấy Quỳ làm Quân mưu Tế tửu, tham dự việc của quan Thái nhạc lệnh(4), nhân đó sai làm ra nhã nhạc.
Quỳ giỏi chung luật(5), sáng suốt hơn người, tám âm tơ tre(6), không gì không giỏi, chỉ có múa hát không giỏi lắm. Bấy giờ Tán lang Đặng Tĩnh, Y Tề giỏi ngâm nhã nhạc, thầy hát là Y Hồ hát được khúc hát lúc cúng tế tông miếu, thầy múa là Phùng Túc, Phục Dưỡng hiểu biết các điệu múa thời trước, Quỳ tổng hợp các tinh hoa, xét sâu các sách, chọn lấy các việc cũ, giảng dạy học tập, làm đủ các nhạc khí(7), soạn lại âm nhạc thời trước, đều bắt đầu từ Quỳ vậy.
Giữa năm Hoàng Sơ, làm Thái nhạc lệnh, Hiệp luật Đô úy(8). Thợ đúc chuông thời Hán là Sài Ngọc có tài khéo léo, đều chế tạo nhiều đồ trong các loại nhạc khí, cũng là người tôn quý được biết tên tuổi. Quỳ sai Ngọc đúc chuông đồng, tiếng trong và đục của tiếng chuông đều không đúng phép tắc, nhiều lần phải hủy đi làm lại. Ngọc rất chán ghét, nói là Quỳ chỉ theo ý riêng, có vẻ chống đối Quỳ. Quỳ, Ngọc bèn cùng nhau bảo với Thái Tổ, Thái Tổ lấy chuông mà Ngọc đúc ra thử, tiếng vang lẫn lộn, bèn biết Quỳ là đúng mà Ngọc là xằng vậy, do đó giáng tội cho Ngọc và các con, đều sai làm người nuôi ngựa. Văn Đế yêu đãi Ngọc, lại từng sai Quỳ cùng bọn Tả Nguyên thổi sáo gảy đàn trong lúc tiếp tân khách, Quỳ có vẻ khó chịu, do đó ý Đế không vui. Sau nhân có việc khác mà ép buộc Quỳ, sai bọn Nguyên đến học, Quỳ tự nói là người học nhạc phải trong sạch, làm quan phải ngay thẳng, ý vẫn không thỏa, bèn xin bãi quan về nghỉ.
Học trò người quận Hà Nam là Thiệu Đăng, Trương Thái, Tang Phức đều làm đến chức Thái nhạc thừa, người quận Hạ Bì là Trần Hàng làm Tư luật Trung lang tướng. Từ bọn Tả Diên Niên dẫu có âm nhạc hay, đều giỏi âm nhạc của họ Trịnh, nhưng ưa nhạc cổ chính thống thì chẳng ai bằng Quỳ.
Bấy giờ có người quận Phù Phong là Mã Quân, khéo léo hơn người. Phó Huyền làm bài tựa nói rằng: "Mã tiên sinh(9) là người khéo léo trong thiên hạ, thuở nhỏ thì vui vẻ, không tự biết mình khéo léo vậy. Vào thời ấy, không nói đến cái khéo léo của mình thì người đời há không biết được sao? Làm Bác sĩ, nhà cửa nghèo hèn, lại nghĩ cách sửa đổi khung dệt vải, không nói mà người đời biết được cái khéo léo của mình. Khung dệt vải cũ thì cứ năm mươi lần đan lại năm mươi lần dệt,
tiên sinh ghét việc này tốn công phí buổi, bèn đều đổi thành mười hai lần dệt. Hoa văn tinh tế biến đổi theo ý muốn của người dệt, vẫn tạo thành hình tự nhiên, không cùng như âm dương. Nói chuyện với người dệt vải lại không nói ra được, lại há có thể nói được hiệu nghiệm sao? Tiên sinh làm Cấp sự trung(10), cùng Thường thị Cao Đường Long, Kiêu kị Tướng quân Tần Lang tranh luận ở triều đình, nói về xe chỉ nam(11), hai người(12) cho rằng thời xưa không có xe chỉ nam, đấy là cái sai của sách vở. Tiên sinh nói: 'Thời cổ có nó, thời nay chưa nghĩ ra thôi, sao lại cho nó là xa vời'. Hai người cười tiên sinh nói: "Tên tiên sinh là Quân, tự Đức Hành. Quân(13) là khuôn làm gốm mà hành(14) là vật dùng để xác định vật nặng hay nhẹ, không có gì không dùng khuôn mà xác định vật nặng hay nhẹ không đúng sao'! Tiên sinh nói: 'Tranh luận sáo rỗng, không bằng thử làm sẽ biết thôi'. Do đó hai người bèn đến báo cho Minh Đế, hạ chiếu tiên sinh làm, rồi làm thành xe chỉ nam. Đấy là một cái lạ vậy, lại không nói ra được vậy. Từ đó thiên hạ phục cái khéo léo của tiên sinh. Ở tại kinh đô, trong thành có đất có thể dùng làm vườn, lo không có nước để tưới vườn, bèn làm xe chở, sai bọn trẻ con kéo xe, mà nước lại tử rót xuống, vào rồi lại ra, cái khéo léo hơn người như thế. Đấy là hai cái lạ vậy. Sau này có người dâng đồ có kĩ thuật rối tạp hơn, nhưng đặt ra nhưng không động được. Đế đem hỏi tiên sinh nói: "Động được không'? Đáp nói: 'Động được'. Đế nói: 'Làm nó khéo hơn được không'. Đáp nói: 'Khéo hơn được'. Vâng lệnh làm nó, lấy gỗ lớn đẽo đồ, làm thành hình như bánh xe, đặt trên đất bằng, dưới làm phần dẫn nước, trên đẽo tượng người con gái múa hát, lại có tượng người gỗ đánh trống thổ sáo; làm núi lớn, làm tượng người gỗ cầm quả cầu, vung kiếm, xếp thành hàng dài, ra vào tự nhiên; lại có tượng gỗ trăm quan xử án, cối giã gạo, gà chọi, biến ảo trăm mối. Đấy là ba cái lạ vậy. Tiên sinh thấy nỏ bắn tên liên tiếp của Gia Cát Lượng, nói: 'Khéo thì khéo rồi, nhưng chưa tốt cả'. Nói rằng có thế làm bắn tên thêm năm lần. Lại lo rằng lúc bắn đá thì quân địch ở trên lầu treo da trâu ướt, nếu bắn trúng thì lại rơi xuống, đá không thể bắn liền đến được. Muốn làm một cái bánh xe, treo mấy chục viên đá lên, dùng phép tắc lấy máy khua bánh xe để treo đá bắn bay vào thành địch, khiến cho bắn từ đầu đến cuối được đến nhanh. Từng lấy bánh xe tre treo mấy chục viên gạch đá để thử, bắn xa được mấy trăm bước. Có Bùi Tử là kẻ sĩ ở kinh đô, hiểu biết sâu rộng, nghe nói mà cười nhạo tiên sinh. Lại đến hỏi tiên sinh, tiên sinh ngậm miệng không đáp. Bùi Tử tự cho rằng đã bắt khó được chỗ yếu của tiên sinh, lại cười nhạo không thôi. Phó Tử bảo Bùi Tử nói: 'Cái mà ông giỏi là lời nói, cái mà ông kém là khéo léo vậy. Cái mà Mã tiên sinh giỏi là khéo léo, cái kém là lời nói vậy. Lấy cái mà ông giỏi để tranh với cái mà người ấy kém, thì người ấy không thể không phục ông. Lấy cái mà ông kém để hỏi vặn cái mà người ấy giỏi thì tất có chỗ không giải được. Kĩ thuật là việc khéo léo trong thiên hạ, cái mà ông không giải được hỏi vặn người ấy không thôi, đấy là tranh cãi với nhau, tất tự xa rời vậy. Đấy là trong lòng cho là sai mà ngoài miệng cho chịu phục, đấy là nguyên nhân họ Mã không đáp vậy'. Phó Tử gặp An Hương Hầu, nói đến lời bàn của Bùi Tử, An Hương Hầu lại nói giống với Bùi Tử. Phó Tử nói: 'Thánh nhân dùng người chọn vật, dùng người không theo một phép tắc nào cả; có người có vẻ thần mà dùng, có người vì khéo nói mà dùng, có người giỏi việc mà dùng. Có người có vẻ thần mà dùng, đấy là người không nói nhưng trong lòng thành thật đã tỏ ra rồi, có đức hành như Nhan Uyên(15) vậy. Người khéo nói mà chọn, là người khéo bàn chuyện đúng sai, lời nói như Tể Ngã, Tử Cống(16) vậy. Người vì được việc mà dùng, giỏi chính trị như Nhiễm Hữu, Quý Lộ(17), giỏi văn học như Tử Du, Tử Hạ(18) vậy. Dẫu là thánh nhân biết rõ muôn vật, nếu có chỗ dùng, tất phải thử trước. Do đó lấy việc chính trị để thử Nhiễm Hữu, Quý Lộ, lấy việc văn học để thử Tử Du, Tử Hạ vậy. Bọn Tử Du, Tử Hạ còn phải thế, huống chi là người từ họ về sau! Sao vậy? Đạo lí treo lửng, không thể dùng lời mà nói hết. cốt ở việc làm thôi, nói thì khó rõ mà thử làm thì dễ biết vậy. Như cái mà họ Mã muốn làm đều là những vật tinh xảo của nhà nước, đồ cốt yếu của quân sĩ vậy. Hao phí gỗ mười trượng, làm mệt sức của hai người, không cần nhiều
buổi mà biết được đúng sai. Như việc hỏi vặn việc dễ làm và dùng lời khinh rẻ để châm chọc tài lạ của người khác, đấy cũng như việc tự cho mình đã biết gánh vác việc thiên hạ, không đổi đạo lí của mình để ngồi trên muôn vật khó hiểu hết, do đó mà tự vứt bỏ vậy. Cái mà họ Mã làm, dựa theo sự biến ảo mà làm nên, vậy thì lời nói lúc trước đều là không đúng. Lời ấy không đúng mà không dùng người ấy, đấy là cái khéo léo trên đời không có chỗ được dùng vậy. Người cùng được yêu thì ghen ghét nhau, người cùng làm việc thì làm hại nhau, người trong cuộc không tránh khỏi được. Cho nên quân tử không dùng người để hại người, tất lấy việc thử xét làm cân đo; nếu bỏ cân đo mà không dùng thì đấy là ngọc đẹp bị gièm vu là đá xấu, đấy là nguyên nhân Kinh Hòa ôm ngọc mà khóc(19) vậy'. Do đó An Hương Hầu hiểu ra, rồi nói với Vũ An Hầu, Vũ An Hầu coi thường tiên sinh, không dùng thử. Đấy là việc dễ thử, lại nữa tiếng tăm khéo léo của họ Mã đã có rồi, mà vẫn coi thường không xét, huống chi là cái tài sâu xa, viên ngọc không tên đây? Vậy thì để quân tử đời sau soi xét thôi! Cái khéo léo của Mã tiên sinh, dẫu Công Du Ban, Mặc Địch, Vương Nhĩ(20) thời xưa, Trương Bình Tử(21) thời Hán gần đây cũng không hơn được vậy. Công Du Ban, Mặc Địch đều được dùng ở thời trước, lại có ích cho đời. Bình Tử dẫu là Thị trung, Mã Tiên sinh dẫu là quan Cấp sự trung, nhưng đều không được làm Công quan, sự khéo léo không được giúp ích cho đời. Dùng người không đúng với cái tài năng của người ấy, tài giỏi không được dùng thử, thật đáng tiếc thay". Bùi Tử là Bùi Tú. An Hương Hầu là Tào Tiện. Vũ An Hầu là Tào Sảng.
Chú thích:
(1) Nhã nhạc lang: chức quan trông coi về âm nhạc trong cung.
(2) Năm Trung Bình thứ năm: tức năm 188 Công nguyên thời Hán Linh Đế.
(3) Nhã nhạc: âm nhạc dùng trong nghi lễ chúc mừng hoặc trong hội yến và cúng tế trời đất.
(4) Thái nhạc lệnh: chức quan trông coi việc sắp đặt âm nhạc của nhà nước.
(5) Chung luật: phép tắc âm nhạc của chuông.
(6) Tám âm tơ tre: chỉ tám loại âm thanh phát ra từ đàn và sáo làm bằng tám vật liệu là tơ, tre, vàng, đá, vỏ quả bầu, da thú, gỗ, đất.
(7) Nhạc khí: dụng cụ dùng để phát ra âm nhạc.
(8) Hiệp luật Đô úy: chức quan có từ thời Hán trông coi về âm nhạc.
(9) Tiên sinh: tên gọi tôn trong đối với người có học thức thời xưa.
(10) Cấp sự trung: chức quan có từ thời Tần, thường ở bên Nhà vua, tham mưu các công việc.
(11) Xe chỉ nam: xe chỉ về hướng nam, tương truyền do Chu Công làm ra.
(12) Hai người: chỉ Thường thị Cao Đường Long, Kiêu kị Tướng quân Tần Lang
(13) Quân: là tên của Mã Quân, nghĩa gốc là cái bàn xoay để làm đồ gốm.
(14) Hành: là tên chữ của Mã Quân, nghĩa gốc là cái cân để cân đo nặng nhẹ của vật.
(15) Nhan Uyên: là người nước Lỗ thời Xuân thu được Khổng Tử khen là có đức hạnh.
(16) Tể Ngã, Tử Cống: Tể Ngã, Tử Cống đều là người nước Lỗ thời Xuân thu được Khổng Tử khen là có tài biện bác.
(17) Nhiễm Hữu, Quý Lộ: Nhiễm Hữu, Quý Lộ đều là người nước Lỗ thời Xuân thu được Khổng Tử khen là có tài chính trị
(18) Tử Du, Tử Hạ: Tử Du là người nước Ngô, Tử Hạ là người nước Tấn thời Xuân thu được Khổng Tử khen là có tài văn học.
(19) Kinh Hòa ôm ngọc mà khóc: chỉ Biện Hòa người nước Sở (còn gọi là nước Kinh) nhặt được một viên ngọc dưới núi Kinh, đem dâng cho Sở Vũ Vương, hai lần dâng đều bị cho là ngọc giả, bị phạt tội chặt cả hai chân. Lúc Sở Thành Vương lên ngôi, Biện Hòa ôm ngọc đến dưới núi Kinh mà khóc. Thành Vương nghe tin, sai người đến xem thì đúng là ngọc đẹp thật.
(20) Công Du Ban, Mặc Địch, Vương Nhĩ: Công Du Ban là người nước Lỗ thời Xuân thu, còn gọi là Lỗ Ban, là một thợ mộc giỏi nổi tiếng chư hầu. Mặc Địch là người nước Lỗ thời Xuân thu, tức Mặc Tử, được xem là ông tổ của phái Mặc gia. Vương Nhĩ là một người thợ giỏi thời xưa, không rõ thời nào, có lẽ trước thời Hán.
(21) Trương Bình Tử: tức Trương Hành tự Bình Tử, người thời Đông Hán, là nhà thiên văn học giỏi.

TRUYỆN CHU KIẾN BÌNH
Chu Kiến Bình, người nước Bái. Giỏi xem tướng, ở vùng thôn ấp, hiệu nghiệm không chỉ có một lần. Thái Tổ làm Ngụy Công, nghe nói vậy, gọi đến làm quan Lang(1) Văn Đế làm Ngũ quan tướng, khách ngồi trong hội có hơn ba mươi người, Văn Đế hỏi tuổi thọ của mình, lại sai xem tướng bọn khách. Kiến Bình nói: "Tướng quân đáng thọ đến tám mươi tuổi, đến lúc bốn mươi tuổi có một mối nguy nhỏ, mong hãy cẩn thận giữ gìn". Bảo Hạ Hầu Uy nói: "Ông đến bốn mươi chín tuổi làm Châu mục(2) nhưng phải có mối nguy, nếu qua được nguy, có thể thọ đến bảy mươi tuổi, làm đến bậc Công phụ"(3). Bảo Ứng Cừ nói: "Ông sáu mươi hai tuổi làm đến bậc Thường bá(4), nhưng có mối nguy, trước đó một năm một mình thấy một con chó trắng nhưng người bên cạnh không thấy". Bảo Tào Bưu nói: "Ông giữ nước phiên, đến năm năm mươi bảy tuổi sẽ có mối nguy vì việc binh, nên đề phòng trước".
Trước đây, người quận Dĩnh Xuyên là Tuân Du, Chung Do thân thiện với nhau. Du mất trước, con còn nhỏ. Do trông coi nhà cửa của Du, muốn lấy vợ của Du. Gửi thư cho người khác nói: "Ta với Công Đạt(5) từng cùng sai Chu Kiến Bình xem tướng, Kiến Bình nói: 'Tuân Quân dẫu nhỏ hơn, nhưng phải đem việc sau này giao cho Chung Quân'. Ta bấy giờ cợt hắn nói: 'Chỉ nên gả A Vụ(6) cho ngươi thôi'. Nào ngờ thằng ấy(7) lại chết mất sớm, lời nói đùa trở thành thật vậy! Nay muốn lấy A Vụ, để cho ở yên. Nghĩ ngợi lời đúng của Kiến Bình, dẫu Đường Cử, Hứa Phụ(8) lấy gì hơn được"!
Năm Hoàng Sơ thứ bảy(9) thời Văn Đế, vừa bốn mươi tuổi, bệnh khốn, bảo tả hữu nói: "Lời mà Kiến Bình nói là thọ tám mươi tuổi, đấy là qua loa, ta phải chết rồi". Chốc lát, đúng là băng. Hạ Hầu Uy làm Duyện Châu Thứ sử, năm bốn chín tuổi, vào đầu tuần tháng mười hai bị bệnh, nhớ đến lời Kiến Bình, tự cho là tất chết, chuẩn bị làm lệnh truyền lại và các đồ tống táng, đều sai làm đầy đủ. Đến cuối tuần lại đỡ, rồi dần khỏe lại, xế chiều ngày thứ ba mươi, sai Kỉ cương đại lại(10) bày rượu, nói: "Cái bệnh đau của ta dần dần đỡ, hôm sau gà gáy sẽ sang năm mươi tuổi, lời răn giới của Kiến Bình, tất sai thật rồi". Sau khi Uy bãi khách, hoa mắt bệnh phát, nửa đêm bèn chết. Cừ đến sáu mươi mốt tuổi làm Thị trung, đi vào trong phủ, chợt thấy một con chó trắng, hỏi với mọi người, đều nói không thấy. Do đó nhiều lần mở hội, cùng đi chơi xem nơi ruộng vườn, ăn uống làm vui, qua được một năm, sáu mươi ba tuổi thì chết. Tào Bưu được phong làm Sở Vương, đến năm năm mươi bảy tuổi, bị kết tội thông mưu với Vương Lăng, ban cho chết. Như nói về bọn này, không gì là không như Kiến Bình nói. Không rõ hết được, cho nên ghi chép sơ qua mấy việc trên. Chỉ có xem tướng về Tư không Vương Sưởng, Chinh bắc Tướng quân Trình Nhất, Trung lĩnh quân Vương Túc là có sai lầm mà thôi. Túc đến sáu mươi hai tuổi bệnh nặng, bọn thầy thuốc đều cho là không khỏi. Phu nhân của Túc dùng lời cố hỏi, Túc nói: "Kiến Bình xem tướng nói ta thọ hơn bảy mươi tuổi, làm đến bậc Tam công(11) nay đều chưa đến, còn lo gì chăng"! Rồi Túc bèn chết.
Kiến Bình lại giỏi xem tướng cho ngựa. Văn Đế sắp đi, lấy ngựa ở ngoài vào, Kiến Bình trên đường gặp ngựa, bảo nói: "Tướng của con ngựa này, ngày nay tất chết". Đế sắp cưỡi ngựa, ngựa ghét mùi thơm trên áo, hí lộn cắn vào đầu gối của Đế, Đế cả giận, bèn liền giết ngựa. Giữa năm Hoàng Sơ thì Kiến Bình chết.
Chu Tuyên tự Khổng Hòa, người huyện An Lạc. Làm quan trong quận. Thái thú Dương Phái nằm mơ có người nói: "Ngày mùng một tháng tám Tào Công sẽ đến, tất đem gậy cho ông, cho uống rượu thuốc". Sai Tuyên bói xem. Bấy giờ giặc Khăn vàng nổi dậy, Tuyên đáp nói: "Gậy để người yếu tựa dậy, thuốc để trị bệnh cho người, ngày mùng một tháng tám, tất trừ diệt giặc". Đến kì, giặc
đúng bị phá.
Sau này người quận Đông Bình là Lưu Trinh nằm mơ thấy một con rắn mọc bốn chân, đào hang ở trong nhà, sai Tuyên bói xem, Tuyên nói: "Đấy là nằm mơ vì việc nước, không phải vì việc nhà ông. Là điềm giết con gái và kẻ làm giặc". Chốc lát, bọn giặc đàn bà là Trịnh, Khương bèn cùng bị đánh dẹp, con rắn là điềm về đàn bà, bốn chân không phải là nguồn gốc của rắn vậy.
Văn Đế hỏi Tuyên nói: "Ta năm mơ có hai viên ngói trên cung điện rơi xuống đất hóa thành một đôi chim uyên ương(12) đấy là điềm gì"? Tuyên đáp nói: "Chốn cung sau sắp có kẻ giết nhau". Đế nói: "Ta lừa khanh thôi"! Tuyên đáp nói: "Nằm mơ là điềm báo vậy, tạm theo hình trong giấc mơ mà nói, lại bói được tốt xấu". Nói chưa xong thì quan Hoàng môn lệnh tấu rằng cung nhân(13) giết nhau. Không lâu, Đế lại hỏi nói: "Ta tối qua nằm mơ thấy một luồng khí xanh từ đất bốc lên trời". Tuyên đáp nói: "Thiên hạ sắp có một người con gái tôn quý bị chết oan". Bấy giờ, Đế đã sai sứ giả ban ấn thư cho Chân Hậu(14) nghe Tuyên nói mà hối hận, sai người đuổi theo sứ giả không kịp. Đế lại hỏi nói: "Ta nằm mơ mài xóa chữ trên đồng tiền, muốn sai vứt mất nhưng sáng hơn, đấy là điềm gì"? Tuyên im ỉm không đáp. Đế gắng hỏi, Tuyên đáp nói: "Đấy là việc nhà của Bệ hạ, dẫu điềm này như thế nhưng Thái hậu không theo, cho nên chữ sắp mất mà tự sáng thôi". Bấy giờ Đế muốn trị tội của em là Thực, bị Thái hậu ép, nhưng vẫn giảm tước. Lấy Tuyên làm Trung lang, thuộc quan Thái sử.
Từng có người hỏi Tuyên rằng: "Ta hôm qua nằm mơ thấy chó rơm(15) ông bói thế nào"? Tuyên đáp nói: "Ông muốn có món ăn ngon thôi"! Chốc lát, đi ra, quả đúng gặp món ngon. Sau lại hỏi Tuyên nói: "Hôm qua cũng nằm mơ thấy chó rơm, là sao"? Tuyên nói: "Ông sắp bị rơi xuống xe gãy chân, nên cẩn thận đề phòng". Chốc lát, đúng như Tuyên nói. Sau lại hỏi Tuyên: "Tối qua lại nằm mơ thấy chó rơm, là sao"? Tuyên nói: "Nhà ông bị lửa cháy, nên nhanh giữ gìn". Chốc lát bèn có lửa cháy. Bảo Tuyên nói: "Trước sau là ba lần đều không mơ như vậy, sao bói lại đều đúng thế"? Tuyên đáp nói: "Đấy là thần minh báo cho ông thôi, cho nên không khác với giấc mơ thật". Lại hỏi Tuyên nói: "Ba lần mơ thấy chó rơm mà ông bói khác nhau, sao vậy"? Tuyên nói: "Chó rơm là vật tế thần, cho nên giấc mơ đầu của ông đúng điềm báo có thức ăn vậy. Cúng tế đã xong thì chó rơm bị xe nghiến qua, cho nên giấc mơ giữa đúng điềm báo rơi xuống xe gãy chân vậy. Sau khi chó rơm đã bị xe nghiến qua, tất chở đi để đốt, cho nên giấc mơ sau đúng điềm báo lửa cháy vậy". Tuyên bói giấc mơ, đại loại như thế, mười việc đúng đến tám, chín việc, người đời sánh với cái tài xem tướng của Kiến Bình. Các lần bói khác không chép ra đây. Cuối thời Minh Đế thì chết.
Chú thích:
(22) Lang: tức quan Thị lang, thường coi việc sách vở trong cung, phủ.
(23) Châu mục: tức quan Thứ sử đứng đầu một châu. Cuối thời Hán loạn lạc, Châu mục nắm hết việc binh của một châu.
(24) Công phụ: Chỉ Tam công và Tứ phụ, giống Thừa tướng.
(25) Thường bá: chức quan trông coi một vùng.
(26) Công Đạt: tức Tuân Du tự Công Đạt.
(27) A Vụ: tức tên vợ của Tuân Du
(28) Thằng ấy: tiếng gọi gần gũi mà Chung Do nói về Tuân Du.
(29) Đường Cử, Hứa Phụ: Đường Cử là người nước Lương thời Chiến quốc, Hứa Phụ là người đàn bà thời Tần, đều là người giỏi xem tướng.
(30) Năm Hoàng Sơ thứ bảy: tức năm 226 Công nguyên thời Ngụy Văn Đế.
(31) Kỉ cương đại lại: có lẽ nói về quan lại nhỏ của quận huyện.
(32) Tam công: thời Tam quốc chỉ ba vị quan là Tư đồ, Tư không, Thái úy.
(33) Chim uyên ương: tức một loài chim thường bơi trên mặt ao hồ, dáng giống con vịt nhưng nhỏ, con trống gọi là uyên, con mái gọi ương, thường bơi thành đôi.
(34) Cung nhân: vợ của vua hoặc người hầu gái trong cung.
(35) Chân Hậu: tức Chân Mật, nổi tiếng xinh đẹp vùng Kí Châu, lúc đầu là vợ của Viên Hi, sau thành vợ của Ngụy Văn Đế, bị Quách Hậu gièm pha, bắt phải tự sát. Ngụy Minh Đế lên ngôi truy phong làm Hoàng hậu.
(36) Chó rơm: tức con chó giả được đan bằng rơm cỏ, dùng để cúng tế tông miếu thời xưa.

TRUYỆN QUẢN LỘ
Quản Lộ tự Công Minh, người quận Bình Nguyên. Dáng vẻ xấu xí, không có uy nghi lại thích uống rượu, không chơi với người có chí khác, cho nên nhiều người yêu nhưng không kính vậy.
Lộ biệt truyện viết: Lộ năm tám, chín tuổi lại thích ngưỡng xem thiên văn, gặp người nào liền hỏi tên sao, đêm không chịu ngủ. Cha mẹ thường cấm Lộ nhưng không ngăn được. Tự nói: "Tuổi ta dẫu nhỏ, nhưng trong mắt thích xem thiên văn". Thường nói: "Gà nhà chim đồng vẫn còn biết mùa tiết, huống chi là người"? Cùng chơi với bọn trẻ xung quanh ở giữa bãi đất, liền vẽ hình vòm trời cùng Mặt trời, Mặt trăng, vì sao trên mặt đất. Hễ đối đáp bàn việc, đều nói những việc không tầm thường, những kẻ học vững không bắt bẻ được, đều biết Lộ đang có tài lạ. Lúc thành người lớn, quả đúng hiểu rõ cái đạo lí của Chu dịch, thiên văn, phong giác, bói đoán, xem tướng, không gì không tinh thông. Tính vốn rộng rãi, được nhiều người ưa, ghét mà không thù, yêu mà không khen, thường muốn lấy đức báo oán. Thường nói: "Trung, hiếu, tín, nghĩa là gốc rễ của con người, không thể không xem trọng; trong sạch, thẳng thắn chỉ là vẻ ngoài hão rỗng của kẻ sĩ, không đủ để xem trọng". Tự nói: "Ít người biết ta thì ta thích, há ngăn được dòng sông Giang, sông Hán, ngăn được việc nước chảy làm mòn đá sao? Cùng Quý Chủ vui vẻ luận đạo, không muốn ngồi cùng thuyền với người đánh cá, đấy là chí của ta vậy". Lộ thờ cha mẹ có hiếu, thật thà với anh em, tin yêu bạn bè, đều tỏ rõ lòng nhân hòa, cả đời không có chỗ thiếu sót. Kẻ sĩ bình luận, kẻ già cũng chịu phục. Cha làm Tức Khâu Trưởng thuộc quận Lang Nha, bấy giờ mười lăm tuổi, đi đến phủ quan đọc sách. Lúc đầu đọc kinh Thi, Luận ngữ và sách Dịch, lại hiểu sâu viết bút, lời lẽ rõ ràng. Bấy giờ trong trường học có hơn bốn trăm học trò trong nước và phương xa đều phục tài của Lộ. Lang Nha Thái thú Đan Tử Xuân nhã nhặn có tài, nghe nói Lộ là người tài của một trường, muốn được gặp, cha Lộ liền sai Lộ đến báo. Hội lớn có hơn trăm tân khách, người ngồi trong hội là những kẻ sĩ giỏi ăn nói, Lộ hỏi Tử Xuân nói: "Phủ quân là kẻ sĩ nổi tiếng, lại có vẻ tôn quý, Lộ còn tuổi nhỏ, mật chưa cứng cỏi, nếu muốn nhìn nhau, sợ mất phách vía, xin uống ba thăng rượu ngon trước, rồi mới nói chuyện". Tử Xuân cả mừng, bèn rót ba thăng rượu ngon, sai Lộ uống một mình. Sau khi uống rượu xong, hỏi Tử Xuân nói: "Nay muốn đối đáp với Lộ, giống kẻ sĩ ngồi bốn phía của phủ quân chăng"? Tử Xuân nói: "Ta muốn tự mình cầm cờ đánh trống ngang nhau với ngươi". Lộ nói: "Lúc đầu đọc kinh Thi, Luận ngữ, sách Dịch, sức học nông cạn, chưa dẫn giải được cái đạo thánh nhân, chưa bày được việc của thời Tần, thời Hán, chỉ muốn bàn về việc quỷ thần, kim mộc thủy hỏa thổ thôi". Tử Xuân nói: "Đấy là những đạo lí khó nhất, mà ngươi cho là dễ sao"? Do đó bắt đầu bàn luận rôm rả, lại bàn qua thuật số âm dương, lời lẽ như cánh hoa trôi, như cành lá mọc, dẫn ít sách vở của thánh nhân nhưng chọn nhiều việc thực của thiên nhiên. Tử Xuân và bọn kẻ sĩ cùng bắt bẻ, lời lẽ sắc bén, nhưng Lộ đối đáp từng người một, nói đều có khác. Từ sáng đến tối, không kịp ăn uống. Tử Xuân bảo mọi người nói: "Người này tuổi nhỏ mà có tài lớn, nghe lời bàn của hắn, thật giống bài phú Thiên tử đi săn của họ Tư Mã, thế nhưng có khí hùng tráng cao lớn, chất anh hào tốt đẹp, tất biết rõ được cái biến hóa của thế đất hình trời, không chỉ giỏi lí lẽ thôi đâu". Do đó lững lẫy ở Từ Châu, gọi là thần đồng.
Cha làm Lợi Tào Trưởng, dân huyện Lợi Tào là ba anh em Quách Ân đều mắc bệnh què chân, sai Lộ bói cỏ thi xem nguyên nhân. Lộ nói: "Trong quẻ có cho biết mộ gốc của nhà ông, trong mộ có quỷ nữ, không phải là bá mẫu của ông, thì là thúc mẫu vậy. Thời xưa đói khổ, lúc ấy tham lợi mấy thăng gạo mà xô đẩy người ấy xuống giếng, kêu cứu the thé, rồi đẩy một tảng đá lớn xuống làm vỡ đầu người ta, quỷ nữ đau oán, tự kêu với trời". Do đó Ân khóc lóc nhận tội.
Lộ biệt truyện viết: Dân huyện Lợi Tào là Quách Ân tự Nghĩa Bác, có tài học, giỏi đọc sách Chu dịch, giải nghĩa sách Xuân thu, lại biết xem thiên văn. Lộ đến chỗ Nghĩa Bác đọc sách Dịch, trong mấy chục ngày bèn hiểu rõ được, lí lẽ hơn cả thầy. Do đó bói cỏ thi lập quẻ, suy nghĩ sâu xa, bói xem việc tang ma, giàu nghèo, chết mất, bệnh tật của bọn học trò trong trường học, vốn không sai khác, chẳng ai không kinh ngạc, gọi là người thần vậy. Lại theo Nghĩa Bác học xem thiên văn, trong vòng ba mươi ngày thâu đêm không ngủ, bảo Nghĩa Bác nói: "Ông chỉ nói được những chỗ sơ qua thôi, đến như những việc vận hội, tai họa, tự có trời bảo cho ta biết". Học chưa được một năm, Nghĩa Bác lại phải theo Lộ hỏi các đạo lí quan trọng của kinh Dịch và thiên văn. Nghĩa Bác hễ nghe lời Lộ nói, chưa từng không cảm khái chịu phục, tự nói: "Lúc trông nghe lời bàn phải của ông, quên cả bệnh nặng của ta, sáng tối không thể đuổi kịp được ông, có lẽ càng xa hơn"! Bác Nghĩa bày lễ chủ khách, chỉ mời Lộ, nói hết cay đắng, tự nói: 'Ba người anh em ta bị bệnh què chân, không biết vì sao? Thử giúp ta lập quẻ, để biết được từ đâu. Nếu có tai họa gì, thì đạo trời cũng tha cho người, nay ta cầu phúc với thần minh là vì không được thần minh yêu quý vậy. Nếu anh em ta gặp may thì như được sống lại". Lộ liền lập quẻ, biết rằng chẳng lành. Đến chiều tối, nhân đó nghỉ lại, đến giữa đêm, bảo Nghĩa Bác rằng: "Ta đã bói được rồi". Nói xong việc ấy, Nghĩa Bác buồn rầu khóc ướt áo, nói: 'Cuối thời nhà Hán, đúng có việc ấy. Ông không nói với ta là vì ngại. Ta không nói được là vì lễ. Anh em ta què chân đã hơn ba mươi năm, chân như có cây gai, không thể chữa được, chỉ mong con cháu không bị thôi". Lộ nói rằng hành hỏa không dứt, hành thủy không thừa, không lan đến đời sau.
Vợ của Lưu Phụng Lâm người huyện Quảng Bình mắc bệnh nặng, đã mua quan quách. Bấy giờ là tháng giêng, sai Lộ bói, nói: "Mất lúc giữa buổi vào ngày tân mão tháng tám". Lâm nói là không đúng, rồi vợ dần đỡ, đến mùa thu lại phát bệnh, đúng như Lộ nói.
Lộ biệt truyện viết: Bào Tử Xuân làm Liệt Nhân Lệnh, có tài sáng suốt, gặp nhau với Lộ, nói: "Nghe nói ông giúp Lưu Phụng Lâm bói xem ngày mất của vợ, hay sâu như thế, thử bàn ý nghĩa của nó không"? Lộ nói ý của hào tượng, bàn nghĩa của biến hóa, như khuôn tròn khuôn vuông, không gì không hợp. Tử Xuân tự nói: "Ta thuở nhỏ thích bàn về Dịch, lại ưa bói cỏ thi, có thể nói là thằng mù muốn nhìn trắng đen, kẻ điếc muốn nghe trong đục, vất vả mà không được gì. Sau khi nghe ông nói, tự biết được thân mình, thật là kẻ ngu mê".
Lộ đến gặp An Bình Thái thú Vương Cơ, Cơ sai Lộ lập quẻ, Lộ nói: "Sắp có người vợ lẽ sinh một bé trai, rơi xuống đất lại chạy vào trong bếp mà chết. Lại trên giường sắp có một con rắn lớn ngậm cái
bút, người lớn nhỏ cùng đứng xem, chốc lát lại bỏ đi. Lại có một con quạ bay vào trong nhà, cùng đánh với con én, con én chết, con quạ bay đi. Đấy là ba việc lạ". Cơ cả sợ, hỏi lành dữ của việc ấy. Lộ nói: "Chỉ là ở phòng khách do ông ở xa lâu ngày, bọn quỷ si mi, võng lượng gây việc lạ này. Trẻ con sinh ra lại chạy, nhưng không tự chạy được, chỉ là con yêu quỷ Tống Vô Kị đem đứa trẻ vào bếp vậy. Con rắn lớn ngậm cái bút, chỉ là viên Thư tá già vậy. Con quạ đánh với con én, chỉ là viên Linh hạ vậy. Nay trong quẻ thấy tượng mà không thấy cái xấu, biết rằng không có điềm yêu quỷ gây xấu, không phải tự lo lắng". Sau đúng là không có hại.
Lộ biệt truyện viết: Cơ và Lộ cùng bàn Dịch, trong mấy ngày, đều cho là vui mừng, bảo Lộ nói: "Cùng nghe biết ông giỏi bói mai rùa, cùng bàn cái hay đẹp của nó, ông có tài lạ trên đời, đáng ghi vào thẻ tre dải lụa vậy". Lộ giúp Cơ lập quẻ, biết là không có việc xấu, nhân đó bảo Cơ nói: "Cái vạc của Cao Tông thời xưa, không phải là cái mà chim trĩ đậu, sân đình của nhà Ân, không phải là chỗ mà cây mọc, vậy mà quạ hoang đến đậu, Vũ Đinh là Cao Tông, lúa dâu liền mọc, là điềm Thái Mậu hưng khởi vậy. Biết rằng ba việc dẫu không phải là điềm lành, nhưng cũng mong phủ quân yên thân tu đức, rộng rãi sáng suốt, chớ vì nghĩ về quỷ gian mà bôi xấu cho tính chân thật".
Bấy giờ đàn bà nhà Tín Đô Lệnh kinh hãi, lại thay nhau mắc bệnh tật, sai Lộ bói cỏ thi. Lộ nói: "Góc tây nhà phía bắc của ông có hai cái thây đàn ông chết, một thây cầm mâu, một thây cầm cung tên, đầu ở trong vách, chân ở ngoài vách. Thây cầm mâu thì đâm vào đầu, cho nên đầu đau nặng không cử động được; thây cầm cung tên thì bắn vào bụng ngực, cho nên trong tim ngực đau nhức không ăn uống được. Ngày thì bay dạt, đêm thì gây bệnh cho người, cho nên làm cho đàn bà kinh hãi vậy". Do đó đào lên dời xương cốt đi, người trong nhà đều khỏi.
Lộ biệt truyện viết: Vương Cơ liền sai Tín Đô Lệnh đào trong nhà mình, đào đất sâu tám thước, quả có hai quan tài, trong một quan tài có mâu, trong một quan tài có cung sừng và cây tên, cây tên đã lâu ngày, gỗ đều mục nát, chỉ có mũi sắt và sừng còn thôi. Lúc dời xương cốt, rời thành mười dặm mà chôn, bèn không bị bệnh nữa. Cơ nói: "Ta thuở nhỏ ham đọc kinh Dịch, nhưng trễ nhác đã lâu, không ngờ cái số của thần minh lại kì diệu như thế". Lại theo Lộ học Dịch, bàn thêm thiên văn. Lộ hễ lập mở tượng biến hóa, giải thích điềm lành dữ, chưa từng không kĩ càng chu đáo, nói hết ý nghĩa của nó. Cơ nói: "Lúc đầu nghe ông nói, làm sao biết được ý nghĩa thường là rối rắm, đấy là tự trời giúp cho, không phải tự người biết được vậy". Do đó cất sách Chu dịch, thôi suy nghĩ, không theo học bói mai rùa, cỏ thi nữa. Người làng ấp của Lộ là Nãi Thái Nguyên hỏi Lộ rằng: "Ông ngày trước giúp Vương phủ quân bàn việc lạ, nói viên Thư tá già là con rắn, tên Linh hạ già là con quạ, đấy vốn đều là người, sao lại hóa thành kẻ hèn được? Chỉ thấy ở hào tượng, sao ông lại biết ý ấy"? Lộ nói: "Nếu không có tính gốc và đạo trời, sao lại vì trái hào tượng mà dùng người tim bụng vậy? Cái biến hóa của muôn vật là không có hình thường, cái đổi lạ của người là không có thân thường, hoặc lớn thành bé, hoặc bé thành lớn, vốn là không có tốt hay xấu. Cái biến hóa của muôn vật là cái đạo thường có vậy. Cho nên Hạ Cổn là cha của Thiên tử, Triệu Vương Như Ý là con của Hán Cao Tổ, vậy mà Cổn hóa thành gấu vàng, Như Ý hóa thành chó đen, họ đều là giữ ngôi rất tôn quý mà biến thành loài mõm đen. Huống chi con rắn hợp ở ngôi thìn tị, con quạ đậu ở giữa Mặt trời, đấy là hình rõ trong các vật đen tối, như ánh sáng giữa ban ngày. Như Thư tá, Linh hạ đều là cái thân nhỏ mọn hóa thành con rắn, con quạ, cũng chẳng quá đâu".
Người huyện Thanh Hà là Vương Kinh bỏ quan về nhà, gặp nhau với Lộ. Kinh nói: "Gần đây có một việc lạ, lòng rất không vui, muốn phiền ông lập quẻ giúp". Quẻ thành, Lộ nói: "Hào tốt, không phải là lạ. Ông buổi đêm ở truớc cửa phòng có một tia sáng như cái chén én bay vào trong người ông, có tiếng râm ran, trong lòng không yên, cởi áo ngập ngừng, vẫy gọi đàn bà đến tìm kiếm tia sáng thừa". Kinh cười to nói: "Đúng như ông nói". Lộ nói: "Hào tốt, là điềm chuyển quan vật, ứng nghiệm may lắm". Chốt sau, Kinh làm Giang Hạ Thái thú.
Lộ biệt truyện viết: Kinh muốn sai Lộ bói mai rùa, nhưng có lời nghi ngờ, Lộ cười mà trách Kinh nói: "Quân hầu là người thành đạt trong châu, sao lại nói lời hèn mọn! Xưa Tư Mã Quý Chủ có nói rằng người bói mai rùa phải học theo thói thường của trời đất, noi theo phép tắc của bốn mùa, thuận theo nhân nghĩa. Phục Hi lập tám quẻ, Chu Văn Vương lập ba trăm tám mươi tư hào thì thiên hạ được trị. Có kẻ mắc bệnh thì chữa khỏi, có kẻ sắp chết thì cứu sống, có kẻ mắc họa thì giúp tránh, việc làm thì phải xong, cưới vợ hỏi thiếp thì giúp sinh con nhiều, há chỉ vì mấy nghìn đồng tiền sao? Lấy đó mà suy, đấy mới là việc quan trọng. Nếu đạo sáng thì người thánh hiền không từ bỏ, huống chi ta là kẻ tiểu nhân, ta dám cho là khó làm sao"! Ngạn Vĩ chắp tay tạ lỗi với Lộ nói: "Lời trước là đùa thôi". Do đó Lộ bèn lập quẻ, lời bói đều ứng nghiệm. Kinh hễ bàn về Lộ, cho rằng Lộ là thần của rồng mây, người biết giữ lòng yên ổn, biết giao tiếp với quỷ thần, không chỉ có tài tổng hợp mà thôi.
Lộ lại đến nhà Quách Ân, có con chim câu (26) bay đến đậu trên cột, kêu rất buồn. Lộ nói: "Sắp có ông già từ phương đông đến, mang theo một đầu lợn, một bầu rượu, chủ nhà dẫu vui, nhưng có việc liên quan đến con nhỏ". Ngày sau đúng có khách, như Lộ bói. Ân sai khách bớt uống rượu, kiêng thịt, cẩn thận với đồ nóng, lại bắn gà nấu thịt, mũi tên từ giữa cây bay nhanh trúng vào tay của con nhỏ mới vài tuổi, máu chảy vung vãi.
Lộ biệt truyện viết: Nghĩa Bác sau khi theo Lộ học bói tiếng kêu của chim, Lộ nói: "Ông dẫu ham học đạo, tài năng đã ít, lại không giỏi âm luật, e rằng khó làm thầy được". Lộ giảng về cái biến hóa của gió bốn phương, trong số năm tiếng âm, dựa theo âm luật lấy tiếng của các loài chim là tiếng thương, lấy sáu giáp là đầu mối của ngày mùa, trái ngược đan xen, ra vào không cùng. Nghĩa Bác yên lặng nghĩ sâu, trải qua mấy ngày, rút cuộc chẳng học được gì. Nghĩa Bác nói: "Tài chẳng hơn gì, khó mà nghĩ bói điềm báo ở thứ này". Bèn thôi.
Lộ đến nhà An Đức Lệnh là Lưu Trưởng Nhân, có con chim khách bay đến trên cửa nhà mà kêu. Lộ nói: "Chim khách kêu ở phía đông bắc có điềm báo người vợ tối nay giết chồng, mượn cớ chồng mình vướng víu với người nhà phía tây, đợi không quá ngày vào lúc mặt trời lặn, người báo tin tất đến vậy". Đến lúc, đúng có dân huyện Đồng Ngũ từ phía đông bắc đến báo, có người đàn bà bên cạnh giết chồng mình, nói dối là chồng mình có hiềm khích với người nhà phía tây, đến giết chồng mình.
Lộ biệt truyện viết: Người quận Bột Hải là Lưu Trưởng Nhân có tài biện luận, lúc đầu dẫu nghe nói Lộ hiểu được tiếng chim kêu, sau thường gặp Lộ hỏi nói: "Âm tiếng của người sống gọi là nói, âm tiếng của chim thú gọi là kêu, cho nên người nói thì biết được thần thái, chim thú kêu thì biết được tên hèn, sao lại cho rằng tiếng chim kêu là lời nói, làm loạn cái khác nhau mà thần minh sắp đặt vậy? Khổng Tử nói 'người ta không cùng bầy với chim thú', làm rõ cái hèn mọn của chim thú rồi vậy". Lộ đáp nói: "Trời dẫu có hình tượng lớn nhưng không tự nói ra được, cho nên sao dời ở trên, thần minh chuyển ở dưới, bày điềm báo cho mây gió để tỏ rõ điềm báo tai vạ, đặt chim thú để giao tiếp với thần minh. Kẻ tỏ rõ tai vạ tất có lúc chìm lúc nổi, kẻ giao tiếp với thần minh tất có điềm ứng của tiếng cung tiếng thương, cho nên Tống Tương Công mất đức thì có điềm báo sáu con chim cốc cùng chết, Bá Cơ sắp bị cháy thì có điềm con chim kêu báo trước tai họa, bốn nước chưa cháy mà gió nóng đã nổi dậy,
chim đỏ đến trong ngày, gây vạ xảy ra tại miền Kinh Sở. Đấy là con vật mà trời cao sai đi báo tin, là đầu mối rõ ràng của tự nhiên. Xét âm luật thì âm tiếng có tiếng của gỗ, tìm bói về việc người thì việc lành dữ không sai. Ngày xưa tổ tiên của nhà Tần có công mà được phong, ở thành Cát Lư nghe âm tiếng chim kêu, được chép tại sách Xuân thu, những việc này đều là có thật trong sách vở, không phải là lời hão của bậc thánh hiền. Nhà Thương sắp nổi lên, cũng có điềm báo từ một quả trứng của chim én. Văn Vương nhận ngôi, có điềm con chim đỏ ngậm sách, đấy là điềm lành của thánh nhân, lộc tốt của nhà Chu, sao lại là hèn mọn được? Nghe tiếng chim kêu, thần minh ở tại sao Thuần hỏa, điều lành báo ở tám quẻ, tự nó không tự nói ra được, nhưng vẫn biết được việc sống chết của Tử Lộ vậy". Trưởng Nhân nói: "Ông nói dẫu nhiều, hay mà không thật, ta chưa dám tin". Chốc lát có hiệu nghiệm của tiếng chim khách kêu, Trường Nhân mới chịu phục.
Lộ đến chỗ của người huyện Liệt Nhân là Điển nông Vương Hoằng Trực, có gió lốc cao đến hơn ba thước, từ hướng thân thổi đến, cuộn xoáy vòng quanh, dừng rồi lại thổi, hồi lâu mới thôi. Trực do đó hỏi Lộ, Lộ nói: "Phía đông sắp có quan coi ngựa đến, sợ rằng có điềm báo cha khóc con, vậy sao'! Ngày sau có quan từ huyện Giao Đông đến, con Trực quả đúng chết. Trực hỏi nguyên nhân, Lộ nói: "Ngày ấy là ngày ất mão, lại ứng với con trưởng. Gỗ rụng ở hướng thân, sao Đẩu ở hướng thân, mà thân phá dần là điềm ứng chết tang vậy. Thêm nữa ngày đến giờ ngọ mà gió lại nổi thì ứng với điềm về con ngựa. Quẻ li là văn chương, ứng với quan lại. Thân mùi là hổ, hổ là đại nhân, thì ứng với điềm người cha vậy". Có con chim trĩ trống bay đến, đậu trên đầu cột chuông trong nhà Trực, Trực rất lấy làm không yên, sai Lộ lập quẻ, Lộ nói: "Đến tháng năm tất nhận chức". Bấy giờ là tháng ba, đến kì, Trực quả đúng làm Bột Hải Thái thú.
Lộ biệt truyện viết: Lộ lại nói: "Gió thổi theo từng lúc, hào ứng với tượng, bấy giờ thần mới sai sứ đi, tượng là hình dạng của lúc ấy, cũng chỉ là một lúc, không đủ xem là điềm nạn". Vương Hoằng Trực cũng là người có học thức, có thuật đạo, nhưng đều không giỏi. Hỏi Lộ rằng: "Gió thổi thay đổi, là như thế chăng"? Lộ nói: "Đấy chỉ là gió thổi nhẹ, sao đủ xem là tai vạ? Nếu mà các vì sao không sáng thì các vị thần làm loạn, gió tám phương thổi to, khí mạnh bay giật, núi lở đá rơi, cây cỏ gãy ngã, bụi bay vạn dặm, nhìn chẳng thấy trời, chim thú trốn nấp, triệu dân kinh sợ, do đó sai bọn như Tử Thận, trèo lên đài cao, ngóng khí gió, xét tai họa, đoán ngày ứng, rồi mới biết nghĩ sâu về cõi xa xăm, gió lạ như thế mới đáng sợ".
Quán Đào Lệnh là Gia Cát Nguyên chuyển làm Tân Hưng Thái thú, Lộ đến tống tiễn Nguyên, tân khách cùng dự hội. Nguyên tự đứng dậy lấy trứng én, tổ ong, con nhện để trong hộp, sai đoán mở. Quẻ thành, Lộ nói: "Vật thứ nhất, chứa khí rồi đổi, dựa vào hiên nhà, thành hình trống mái, dương cánh duỗi bay, đấy là trứng én vậy. Vật thứ hai, nhà cửa đảo ngược, cánh cửa lắm nhiều, chứa tinh nuôi độc, mùa thu mới hóa, đấy là tổ ong vậy. Vật thứ ba, chân dài lập cập, nhả tơ thành lưới, giăng mạngi tìm ăn, chiều tối mới lợi, đấy là con nhện vậy". Mọi người ngồi đều kinh ngạc.
Lộ biệt truyện viết: Gia Cát Nguyên tự Cảnh Xuân, cũng là một kẻ sĩ có học thức. Ưa bói đoán, nhiều lần đoán mở với Lộ, nhưng không bằng Lộ. Cảnh Xuân muốn phân chia cao thấp với Lộ, nhân lúc Lộ đến tiễn mình, có rất nhiều khách giỏi bàn chuyện ở đấy. Mọi người nghe nói Lộ gỏi bói mai rùa, xem thiên văn, nhưng không biết Lộ có tài cao lạ, do đó cùng bàn về nguồn gốc các sách vở nổi tiếng của thánh nhân, lại kể về điềm báo Ngũ Đế, Tam Vương nhận ngôi. Lộ giải thích sâu xa cho Cảnh Xuân, rồi mở ra trận đánh, có ý làm cho không vững, ẩn náu nơi trống trải để đợi đến đánh. Cuối cùng Cảnh Xuân chạy về phía bắc, quân sĩ thua vỡ, tự nói rằng mình thấy Lộ ở dưới cờ tinh, mà thành lũy đã đổ.
Quân muốn đánh của Lộ ở dưới gõ trống thổi tù và, treo thang mây, bắn cung nỏ hỗn loạn, tụ tập cờ ngà. Sau đó trèo lên thành ra oai, mở cửa ra đánh. Ở trên bàn về Ngũ Đế trôi chảy như sông Giang sông Hán, dưới nói đến Tam Vương rộn ràng như bay như vỗ, bọn anh tài của Lộ như hoa mùa xuân cùng nở, người đánh trận của Lộ như gió mùa thu thổi lá. Người nghe ngơ ngác, không hiểu nghĩa gì, người nói im tiếng, chẳng ai không phục, dẫu Bạch Khởi chôn sống quân Triệu, Hạng Vũ ngăn nước sông Tuy, chẳng gì hơn thế. Bấy giờ khách đều muốn trói tay ngậm ngọc, xin buộc tay ở dưới trống quân. Lộ vẫn đứng chỉ huy ở trên gò, chưa chịu hứa cho. Đến hôm sau, vào lúc chia tay, rồi mới có ý muốn đầu cuối. Lúc ấy có tám, chín người là kẻ sĩ tuấn kiệt trong nước vậy. Thái Nguyên Tài ở trong nhóm bạn ấy là có tài năng nhất, ở giữa nhóm bạn ấy nói: "Vốn nghe nói ông vẽ chó sao lại là rồng"? Lộ nói: "Dương ẩn chưa đổi, không phải là cái mà các ông biết, há chỉ có chó mới được nghe tiếng rồng chăng"! Cảnh Xuân nói: "Nay sắp chia xa, biết lúc nào gặp? Lại được cùng một lần đoán mở nữa"! Lộ đoán đã đều đúng, Cảnh Xuân cười to, nói: "Ông giúp ta nói ý của quẻ, khiến lòng ta mới chịu phục". Lộ bèn mở hào giải nghĩa, phân bố hình tượng, lời nói sâu xa mà thuận hợp, kì diệu không thể nói hết. Cảnh Xuân cùng bọn khách sau khi nghe nói chẳng ai không khen hay, còn vui hơn cả lúc đoán mở. Cảnh Xuân chia tay với Lộ, lấy hai việc để răn bảo Lộ, nói: "Tính ông ham rượu, dẫu uống được nhiều, nhưng không nên nữa, phải giảm bớt đi. Ông có tài như kính sáng, người soi đều là kì diệu, xem thiên văn dẫu là giỏi, nhưng họa như lửa ngầm, không thể không cẩn thận. Dựa vào cái tài lạ của ông, có thể dạo khắp dải sông ngân, không lo không được giàu có". Lộ nói: "Không uống hết rượu được thì không trổ tài hết được, ta muốn lấy rượu làm lễ nghi, xem tài năng là dốt nát, còn lo gì nữa"?
Có người anh họ của Lộ là Hiếu Quốc, ở tại huyện Xích Khâu, Lộ đến theo người ấy, hội với hai người khách. Sau khi khách đi, Lộ bảo Hiếu Quốc nói: "Giữa trán và tai miệng của hai người ấy đều có khí xấu, tai vạ tất đến, như hai cái hồn không có mộ,
Lộ biệt truyện viết: Lộ lại nói: "Mùi nồng độc hại, thần thái tối tăm, lấy hố làm quách, đổi làm xe tang".
hồn bay vào sông, xương về ở nhà, ít lúc nữa sẽ cùng chết vậy". Mấy chục ngày sau, hai người uống rượu say, buổi đêm cùng ngồi xe, trâu sợ đi đường mà rơi xuống sông Chương, đều bị chết đuối.
Lúc bấy giờ, ở làng ấp của Lộ, nhà không cần đóng cửa ngoài, không có kẻ trộm cắp nhau, Thanh Hà Thái thú Hoa Biểu gọi Lộ làm Văn học duyện. Người huyện An Bình là Triệu Khổng Diệu tiến cử Lộ với Kí Châu Thứ sử Bùi Huy nói: "Lộ rộng rãi hòa nhã, không hiềm với người đời, ngẩng xem thiên văn thì tài như Cam Công, Thạch Thân, cúi nhìn Chu dịch thì sâu xa như Quý Chủ. Nay sứ quân đang muốn rủ lòng nơi đồng cỏ, chú ý chốn đầm sâu, Lộ lại ứng điềm nhu hòa, gặp lúc được làm vây cánh vậy". Do đó Huy gọi làm Văn học Tòng sự, dẫn đến gặp nhau, cả mừng mà kết bạn. Dời nhà đến quận Cự Lộc, chuyển làm Trị trung Biệt giá.
Vừa vâng lời châu gọi, cùng ngồi xe với em là Quý Nho đến phía tây huyện Vũ Thành, tự gieo quẻ đoán tốt xấu, bảo Nho nói: "Sắp thấy ba con cáo ở trong thành cũ, đến đấy mới rõ". Đi đến góc thành cũ phía tây sông, đúng là thấy ba con cáo cùng ngồi bên thành, anh em đều mừng. Năm Chính Thủy thứ chín, cử Tú tài.
Lộ biệt truyện viết: Lộ được Hoa Thanh Hà gọi, làm Bắc huỳnh Văn học, lúc ấy bạn bè chẳng ai không ngưỡng mộ. Người huyện An Bình là Triệu Khổng Diệu sáng suốt có học thức, có tình bạn Quản, Bão với Lộ, bèn từ huyện Phát Can đến ở giữa trường quận gặp nhau với Lộ, nói: "Trong bụng anh rộng rãi, thời xưa người chết người xưa đã mất chỉ bằng nửa của anh, người ở thời nay chẳng ai sánh kịp anh, nay sắp bỏ chỗ thấp mà bay cao, lượn lờ trên trời xanh, có mây ở đó không? Nghe tin về anh, khiến ta ăn không ngon miệng. Bùi sứ quân của Kí Châu tài giỏi trong sáng, giải thích sâu xa, thường bàn về kinh Dịch và đạo Lão, Trang chưa từng không chăm chú bằng Nghiêm, Cù vậy. Lại xem ý ta tha thiết, cũng là người tin cậy nhau. Nay sắp rời đi, vì anh mà bày tỏ lòng thành cảm hổ chẻ đá". Lộ nói: "Ta không phải là con rồng nơi vực sâu, sao làm Mặt trời ban ngày, Mặt trăng buổi đêm được? Nếu anh quạt được gió đông, thổi mây buổi sớm thì chí ta không chối". Do đó bèn đến Kí Châu gặp Bùi sứ quân. Sứ quân nói: "Cái mặt của ta sao lại gầy sút vậy"? Khổng Diệu nói: "Trong người không có bệnh vì uống thuốc đá, nhưng thấy trong quận Thanh Hà có một con ngựa kì kí, sau nhiều năm bị bó buộc ở chuồng đã chạy cách xa Vương Lang, Bá Nhạc một trăm tám mươi dặm, nhưng không được ruổi trên đình trời, rong giữa gió bụi". Sứ quân nói: "Ngựa kì kí nay ở đâu vậy"? Khổng Diệu nói: "Người quận Bình Nguyên là Quản Lộ tự Công Minh, vừa ba mươi sáu tuổi, rộng rãi nhã nhặn, không hiềm với người đời, có thể nói là bậc anh hùng trong bọn kẻ sĩ. Ngưỡng xem thiên văn thì tinh thông như Cam Công, Thạch Thân, cúi đọc Chu Dịch thì nghĩ sâu như Quý Chủ. Dạo chơi học thuật đạo, đoán ý thần không có chỗ cùng, có thể nói là bậc anh tài trong bọn kẻ sĩ. Ôm ngọc núi Kinh, mang châu đêm sáng, vậy mà chỉ được quận Thanh Hà cho làm Bắc huỳnh Văn học, có thể nói là đau lòng đau đầu vậy. Sứ quân đang muốn để lòng nơi vực sâu, thả ý nơi cõi lặng, muốn khiến cho bậc chủ hiền không coi việc một mình, người tài không bị ứ lâu, gió mạnh được thổi xa, chẳng ai không cúi rạp, vậy nên khiến cho Lộ được ứng hợp với âm nhu, gặp thời được tin dùng, tất dương cao giáo hóa, vang vọng khắp chín cõi". Bùi sứ quân nghe nói thì cảm khái nói: "Có như thế sao! Dẫu tại châu lớn nhưng chưa được thấy người cái tài lạ cởi bỏ nỗi buồn rầu, ta có ý về kinh sư, muốn cùng bàn về thuật đạo thôi, huống chi giữa chốn đồng ruộng có người tài kì lạ như thế? Nếu vì thế mà chọn dùng, chẳng phải là làm cho ngựa kì kí lại thành ngựa quèn, ngọc núi Kinh trở thành đá thường sao"! Liền viết hịch gọi Lộ đến làm Văn học Tòng sự. Lúc gặp nhau, nói chuyện cả ngày, không biết chán mệt. Bấy giờ trời nóng, dời giường đến dưới cây trước sân, lại đến lúc gà gáy báo sáng rồi mới đứng dậy. Lần gặp sau, chuyển làm Cự Lộc Tòng sự. Lần gặp thứ ba, chuyển làm Thị trung, lần gặp thứ tư, chuyển làm Biệt giá. Đến tháng mười, cử làm Tú tài. Lộ từ chối Bùi sứ quân, sứ quân nói nói: "Hai vị Thượng thư họ Hà, họ Đặng (44) dẫu có tài năng giúp nước nhưng không giỏi về đạo lí của muôn vật. Hà Thượng thư có ý nghĩ kĩ càng, lời nói khéo léo, e rằng một sợi lông cũng chú ý đến, ông nên cẩn thận! Ông tự nói không thể giải thích chín việc của đạo Dịch, họ tất đến hỏi xem. Nếu đến Lạc Dương, nên hiểu rõ cái đạo lí ấy". Lộ nói: "Nếu Hà Thượng thư khéo léo, lấy cái tài ấy mà gây khó, chỉ lộ vẻ bề ngoài, chưa vào trong lòng ý vậy. Nếu vào lòng ý thì ta phải nhìn thiên văn, xét âm dương, khảo cái huyền ảo, nghĩ đến cùng cõi thần cõi người, rồi mới xem đến cái đạo không cùng, không dễ nói kĩ hết. Như muốn phân chia đạo Lão Trang mà hỏi đến hào, tượng, ưa biện bác xét nét mà nói lời văn vẻ, sáo rỗng, đấy chỉ là cái khéo đợi bắn tỉa, không có cái tài xét nét từng sợi lông đâu. Nếu chín việc của ta đều rất phải, thì không cần phải lo xa. Nếu hỏi về âm dương, cái này ta giỏi đã lâu. Sau khi Lộ đi, đầu năm sẽ có gió nổi, gió nổi tất bẻ gãy cây gỗ. Nếu phát từ hướng càn, tất có oai trời, họ không đủ cùng nói chuyện".
Ngày hai mươi tám tháng mười hai, Lại bộ Thượng thư Hà Yến gọi Lộ, mà Đặng Dương cũng ở chỗ Yến, Yến bảo Lộ nói: "Nghe nói ông gieo quẻ rất thần kì, thử giúp ta gieo một quẻ, có làm đến ngôi Tam công không"? Lại hỏi: "Nhiều lần nằm mơ thấy con ruồi xanh có mấy chục cái đầu bay đến đậu trên mũi, xua chúng mà không chịu bay đi, có điềm gì không"? Lộ nói: "Chim cú bay là chim hèn dưới vòm trời, đến khi nó đến trên cành cây ăn quả dâu thì kêu tiếng hay làm người ta cảm động, huống chi lòng Lộ chẳng phải là cây cỏ, dám không dốc hết lòng trung? Xưa nguyên khải giúp đỡ Trọng Hoa, ban ân hòa thuận, Chu Công che chở Thành Vương, ngồi mà đợi sáng, cho nên sáng rõ khắp sáu cõi, muôn nước đều yên. Đấy là điềm ứng đạo được sửa ngay, không phải do bói đoán làm rõ vậy. Nay quân hầu giữ chức nặng như núi lớn, thế như sấm điện, mà người trông mong thì ít, kẻ sợ oai thì nhiều, e rằng không phải là lòng nhân cận thận có nhiều phúc lành. Lại nữa mũi là quẻ cấn, đấy là núi giữa trời, Thần là Tùng Chi xét: Sách xem tướng nói rằng chỗ của mũi là giữa trời, mũi có tượng núi, cho nên nói là "núi giữa trời" vậy.
dẫu cao mà không đổ, đấy mới giữ tôn quý được lâu dài vậy. Nay ruồi xanh xấu xí bay đến đậu ở đó. Ở chỗ cao là đỉnh đầu, kẻ ngang ngược thì dễ ngã chết, không thể không nghĩ đến cái số hại lớn, kì hạn của thịnh và suy. Cho nên núi ở giữa đất gọi là khiêm, sấm ở trên trời gọi là tráng; khiêm thì tổn nhiều thêm ít, tráng thì không có lễ không làm được. Chưa bị tổn thân thì không sáng lớn, không làm thì không bị thương hại. Mong quân hầu trên nghĩ về cái hay của sáu hào Văn Vương, dưới xét cái nghĩa của duyên tượng Ni Phủ, sau đó mong làm ngôi Tam công, mới đuổi được ruồi xanh". Dương nói: "Đấy là lời tầm thường của ông trẻ". Lộ đáp nói: "Ông trẻ nhưng thấy được người không trẻ, kẻ nói lời tầm thường thì thấy được kẻ không nói". Yến nói: "Năm sau sẽ lại gặp nhau".
Lộ biệt truyện viết: Lộ được Hà Yến gọi, rồi cùng bàn chín việc của Dịch, chín việc đều rõ. Yến nói: "Ông bàn về âm dương, trên đời này không có hai người". Bấy giờ Đặng Dương cùng ngồi với Yến. Dương nói: "Ông có thể nói là giỏi đạo Dịch, mà ta sơ sài không hiểu kịp ý nghĩa trong đạo Dịch, vì sao thế"? Lộ lựa lời đáp nói: "Người giỏi đạo Dịch thì không bàn về đạo Dịch". Yến ngậm cười mà khen Lộ rằng: "Có thể nói là chọn lời mà nói không làm buồn lòng người khác". Nhân đó xin Lộ lập quẻ. Lộ đã dẫn gương cũ để răn, Yến tạ Lộ nói: "Biết được bao nhiêu về sự thần kì của đạo Dịch đâu? Người xưa đã cho là khó; quẻ sơ qua mà tỏ rõ được sự thật, người nay cũng cho là khó biết. Nay ông một mặt mà biết hết hai cái đạo khó ấy, có thể nói là đức sáng lâu dài. Kinh Thi chẳng nói là 'trong lòng đã khắc ghi thì ngày nào cho quên' sao"!
Lộ về nhà quê, đem lời ấy để nói cho người cậu, người cậu mắng Lộ nói xằng quá. Lộ nói: "Nói với người chết, còn sợ gì sao"? Người cậu cả giận, nói là Lộ xằng bậy. Đầu năm, phía tây bắc nổi gió to, bụi bay đầy trời, hơn mười ngày sau, nghe tin Yến, Dương đều bị giết, sau đó người cậu mới phục.
Lộ biệt truyện viết: Cậu là Hạ Đại phu hỏi Lộ rằng: "Ngày trước gặp họ Hà, họ Đặng, đã thấy có khí xấu chưa vậy"? Lộ nói: "Cùng gặp với người mang họa, sau đó biết thần minh giao loạn; giống nhau với người lành, lại biết bậc thánh hiền tìm cái thần kì. Bước đi của họ Đặng thì gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt, ngồi đứng nghiêng đảo như không có chân tay, gọi quỷ xiêu. Lúc họ Hà hỏi han thì hồn không giữ xác, mặt không có màu tươi, tinh thần vật vờ, dáng như cây khô, tướng ấy gọi là quỷ tối. Cho nên quỷ xiêu thì dễ bị gió thổi, quỷ tói thì dễ bị lửa đốt, đấy là điềm báo tự nhiên, không che được vậy". Sau Lộ vì thế mà được yên, Bùi sứ quân hỏi rằng: "Hà Bình Thúc là người tài một thời, sự thật thế nào"? Lộ nói: "Cái tài của người ấy như nước trong hộp thùng, thấy được thì trong, không thấy được thì đục. Lòng muốn biết rộng, nhưng chí không ở tại cái học không cùng, như thế chẳng thành người tài được. Muốn lấy nước trong hộp thùng để tìm cái hiểu biết có hình to như quả núi, thì không tìm hiểu hình được, vậy thì trí do đó mà mê hoặc. Cho nên bàn về đạo Lão Trang khéo léo mà sáo rỗng, nói về đạo Dịch thì đẹp mà giả dối; sáo rống thì đạo rởm, giả dối thì lòng rỗng; được tài cao thì nông cạn mà dòng dứt, được tài vừa thì đổi ý mà cô lẻ, Lộ cho rằng đấy chỉ là cái tài vừa nhỏ thôi". Bùi sứ quân nói: "Đúng như ông nói. Ta mấy lần bàn đạo Lão Trang cùng đạo Dịch với Bình Thúc, thường thấy lời lẽ của hắn có tinh diệu, không bắt bẻ được. Lại nữa người thời nay hùa theo, đều tin phục hắn, ta càng thêm không rõ. Nay gặp nhau được nghe lời phải, mới được hiểu rõ".
Lúc trước Lộ qua chỗ Ngụy Quận Thái thú Chung Do, cùng bèn về đạo Dịch, Lộ nhân đó nói: "Bói biết được ngày sinh ngày chết của ông". Do sai bói ngày tháng sinh của mình, như Lộ nói không sai khác. Do rất kinh ngạc, nói: "Ông đáng sợ thật. Chết phó mặc cho trời, không phó mặc cho ông". Bèn không bói nữa. Do hỏi Lộ rằng: "Thiên hạ sắp yên ổn không"? Lộ nói: "Nay bốn phương chín cõi nổi vận, đại nhân được lợi, thần minh dựng lập, đạo vua sáng rõ, lo gì không yên"? Do chưa hiểu lời Lộ, không lâu, bọn Tào Sảng bị giết, mới biết được vậy.
Lộ biệt truyện viết: Ngụy Quận Thái thú Chung Do, trong sạch tài giỏi, hỏi hơn hai mươi việc về kinh Dịch, tự cho rằng câu hỏi rất sâu sắc. Lộ lựa lời mà đối đáp, nói chẳng ngưng tắc, phân chia hào tượng, nghĩa đều thần kì. Do bèn tạ Lộ, Lộ bói biết ngày sinh của Do, Do kinh ngạc nói: "Thánh nhân hiểu biết thần minh, liền nối với muôn vật, sao lại sáng rõ như thế"! Lộ nói: "Cõi người và cõi thần cùng biến hóa, cùng một đường sống chết, thái cực mênh mông, về cuối lại về đầu. Văn Vương tổn thọ vẫn không cho là lo, Trọng Ni chống gậy vẫn không cho là sợ. Gieo quẻ đoán bói, nên xét hết ý". Do nói: "Sống là việc lành, chết là việc xấu, vui buồn phân biệt, ta chẳng giúp được gì, đành phó mặc cho trời thôi". Thạch Bao làm Điển nông của huyện Nghiệp, gặp nhau với Lộ, hỏi nói: "Nghe nói người làng ông là Trạch Văn Diệu biết thuật ẩn thân, việc ấy tin được chăng"? Lộ nói: "Đấy chỉ là thuật số âm dương che dấu thôi, nếu có thuật ấy thì bốn ngọn núi lớn cũng che được, sông biển cũng giấu xong. Huống gì là thân người bảy thước. Trong cõi biến hóa, tán sương mây để che thân, bày kim thủy để xóa dấu vết, biết thuật vừa đủ, không đủ xem là khó". Bao nói: "Muốn được thấy cái thần kì của nó, ông hãy bàn về thuật số này được không"? Lộ nói: "Vật không trong sạch thì không phải là thần, thuật số không tinh tế thì không phải là đạo thuật, cho nên vật trong sạch là nơi mà thần tụ hội, thuật tinh tế là đạo mà người có trí hiểu biết, thần minh tụ hội rất ít, có thể dùng tấm lòng mà hiểu thấu, khó để nói thành lời được. Cho nên Lỗ Ban không nói được về tay mình, chu li không nói được về mắt mình. Lời nói không khó, Khổng Tử nói 'sách không nói hết', là lời kĩ vậy, 'nói không hết ý', là ý sâu vậy, đấy đều là nói về cái thần kì. Để ta nêu qua loa để làm chứng: Mặt trời buổi ngày thì mọc lên trời, chuyển qua vạn dặm, không vật gì không được chiếu sáng, đến lúc lặn xuống đất, còn ánh sáng lửa than, rồi không thấy được. Đêm mười lăm trăng tròn, trong sáng như đuốc đêm, có thể nhìn xa, lúc trăng giữa buổi ngày, sáng không bằng gương. Nay kẻ ẩn Mặt trời Mặt trăng tất có phép âm dương, số của âm dương thông với muôn vật, chim thú còn biến hoá, huống chi là người! Biết số thì diệu, biết thần lthì tinh, không chỉ đúng nghiệm với người sống, người chết cũng có điềm báo. Cho nên Đỗ Bá ngồi trên khí lửa để rèn chí, Bành Sinh ngâm vào nước để lập hình. (50) Người sống ra được cũng vào được, người chết hiện được cũng ẩn được, đấy là khí thần của vật, hoá thành hồn bay, người và quỷ cảm ứng nhau, số âm dương khiến nên như thế". Bao nói: "Mắt thấy số âm dương, nhưng không hơn ông, sao ông không ẩn thân"? Lộ nói: "Chim đỗ nơi gò đống, thích nơi cao ráo của nó, không muốn như cá bơi nơi sông Giang, sông Hán; cá ở đầm ao, vui chỗ ẩm ướt của nó, không đổi lên chỗ chim lướt gió; vì tính khác mà thân không giống vậy. Thật thà giữ thân để làm rõ đạo thuật, nắn thẳng mình để gần lẽphải, biết đạo mà không cho là lạ, biết thuật mà không cho là kì, ngày đêm ngẫm xét cái thần kì của thuật

NGỤY THƯ QUYỂN 30 - Ô Hoàn Tiên Ti Đông Di truyện
Ô Hoàn, Tiên Ti, Phù Dư, Cao Câu Ly, Ốc Trở, Ấp Lâu, Uế, Hàn, Nụy

TRUYỆN VỀ CÁC TỘC NGƯỜI Ô HOÀN & TIÊN TI
Kinh Thư chép: "Man Di lấn Hạ", kinh Thi chép: "Hiểm Duẫn(1) ngang ngược", đã từ lâu họ là cái hại của Trung Quốc vậy. Từ thời Tần, Hán đến nay, người Hung Nô lâu ngày gây hại ở biên giới. Hiếu Vũ Đế dẫu ngoài theo đuổi 'tứ Di', phía đông bình hai nước Việt(2), Triều Tiên, phía tây đánh nước Nhị Sư, Đại Uyển, mở đường đến các nước Cung, Tạc, Dạ Lang, nhưng các nước ấy đều ở tại ngoài cõi hoang vắng, không gây hại nặng nhẹ cho Trung Quốc. Vậy mà người Hung Nô lại gây ép bức lớn nhất đối với Hoa Hạ, quân kị của rợ Hồ xuống lấn phía nam thì ba nơi biên giới đều bị địch, do đó thường sai các tướng Vệ, Hoắc đi sâu vào miền bắc mà đánh, đuổi Thiên vu đến nơi tận cùng, cướp lấy đất sinh sôi của chúng. Sau đó bèn giữ biên ải xưng thần, ngày càng suy yếu. Giữa năm Kiến An, Hô Hàn Tuyền làm Thiền vu của Nam Hung Nô(3) vào chầu, bèn ở lại làm nội thị, sai Hữu hiền vương(4) vỗ về nước ấy, từ đấy người Hung Nô cúi phục hơn đầu thời nhà Hán. Nhưng người Ô Hoàn, Tiên Ti lại dần dần lớn mạnh, cũng nhân đó gây loạn vào cuối thời nhà Hán. Vừa lúc Trung Quốc có nhiều việc mà không rỗi ra ngoài đánh dẹp, cho nên tự ý xuống phía nam chiếm đất của nhà Hán, cướp phá thành ấp, giết cướp người dân, miền biên giới phía bắc bị gây khốn. Kịp lúc Viên Thiệu chiếm cả miền Hà Bắc, bèn vỗ về người Ô Hoàn ở ba quận(5), ban ân sủng cho những cừ súy lớn mà thu lấy quân kị tinh nhuệ cứng khỏe của họ. Sau đó Thượng, Hi lại trốn đến chỗ Đạp Đốn. Đạp Đốn là kẻ kiêu căng, những cừ súy miền biên giới đều sánh hắn với Mặc Đốn, cậy vào nơi xa trở, dám thu nhận kẻ trốn tránh để xưng hùng ở đất rợ. Thái Tổ ngầm sai quân lên phía bắc đánh dẹp, ra chỗ họ không ngờ, một trận là định được, do đó người Di Địch chịu phục, oai lừng cõi bắc. Rồi dẫn người Ô Hoàn đi theo đánh dẹp, từ đó dân biên giới được yên ổn. Sau đó cừ súy của người Tiên Ti là Kha Tỉ Năng lại ép phục bọn rợ, thu hết đất cũ của người Hung Nô, từ quận Vân Trung, Ngũ Nguyên về phía đông đến sông Liêu đều thành đất của người Tiên Ti; nhiều lần lấn cướp biên ải, miền U, Tinh bị khổ; Điền Dự vị vây ở Mã Ấp, Tất Chấp bị thua ở Hình Bắc. Giữa năm Thanh Long, Đế bèn nghe lời của Dương Hùng, sai kiếm khách đi đâm giết cừ súy của họ. Rồi đó bộ lạc chia rẽ, đánh lấn phá nhau, kẻ mạnh thì trốn xa, kẻ yếu thì xin hàng. Do đó biên thùy lại yên, miền biên ải ít việc, dẫu có lúc cướp bóc nhưng không còn gây rối loạn được nữa. Người Ô Hoàn, Tiên Ti là rợ Đông Hồ(6) mà người xưa nói đến vậy. Tập tục, việc thời trước đều đã ghi chép ở sách sử của nhà Hán rồi, cho nên chỉ kể những việc cuối thời Hán đầu thời Ngụy đến nay để chép bù những việc xảy ra của 'tứ Di' vậy.
Ngụy lược chép: Ô Hoàn là rợ Đông Hồ vậy. Đầu thời Hán, vua Hung Nô là Mặc Đốn diệt nước ấy, những người còn sót lại giữ núi Tiên Ti, nhân đó đặt tên ấy. Tục giỏi cưỡi ngựa bắn tên, men theo các bãi cỏ ven sông mà chăn thả, không ở một chỗ lâu dài, lấy lán rạp làm nhà, đều để cửa về phía đông. Ngày ngày săn bắt cầm thú, ăn thịt uống sữa, lấy lông da làm áo. Không kể sang hèn già trẻ, tính khí đều hung bạo, giận thì giết cả cha anh, nhưng lại không giết mẹ của mình, lấy mẹ làm dòng họ, cha anh cũng lấy mẹ làm dòng giống, cho nên không phạm hại vậy. Thường bầu kẻ dũng mãnh dũng cảm mà thi đấu để chọn làm cừ súy, các ấp lạc đều có 'tiểu súy', không được nối thay. Cứ mấy trăm lạc lại tự lập thành một bộ, nếu cừ súy kêu gọi thì khắc gỗ làm tin để truyền lệnh cho ấp lạc, không có chữ viết nhưng người trong bộ chẳng ai dám trái lệnh. Họ tộc không có phép thường, lấy tên gọi của cừ súy khỏe mạnh làm họ. Dưới bậc cừ súy đều tự coi việc chăn nuôi, không phải tự lao dịch. Phép cưới hỏi thì đều thông dâm với nhau trước, rồi bắt cướp đàn bà con gái đi, hoặc trăm ngày, có khi nửa năm, rồi mới sai người mai mối đem trâu ngựa dê đến để làm lễ cưới hỏi. Chàng rể theo vợ về nhà, gặp nhà vợ mà chẳng có phép trên dưới, chỉ đứng mà bái, lại không tự bái lạy cha mẹ của mình. Làm lao dịch hai năm cho nhà vợ, lúc ấy nhà vợ mới cho đem con gái về nhà rể, các tiền vật nhà ở đều để lại nhà vợ. Do đó tục của họ là theo kế của đàn bà, đến lúc đánh trận thì được tự quyết. Không kể cha con trai gái đều ngồi xổm đối mặt nhau, cắt hết tóc để cho nhẹ nhõm. Đàn bà đến lúc lấy chồng mới để tóc dài, chia ra mà búi, cài trâm cong làm bằng vàng ngọc giống mũ đeo lục lạc của người Trung Quốc vậy. Cha anh chết thì lấy lấy mẹ và chị dâu của mình; nếu không lấy chị dâu thì đem họ của mình gả cho chú bác, lúc chú bác chết lại về nhà chồng cũ. Tục biết lúc cầm thú sinh nở để phân biệt bốn mùa, lúc trồng trọt thường dùng tiếng kêu của chim 'bố cốc' để canh chừng. Đất hợp với lúa tắc xanh, cỏ đông tường, cỏ đông tường như cỏ bồng, quả như cây quỳ, đến tháng mười thì chín. Làm được rượu trắng, biết làm hèm rượu. Gạo ăn thường trông vào Trung Quốc. Cừ súy biết làm cung yên yên lặc, rèn vàng sắt để làm binh khí. Biết khắc da thú để làm hoa văn, dệt sợi len. Có bệnh cũng biết ngải cứu, hoặc đốt nóng đá mà tự chườm vào người, đốt nóng đất mà nằm lên, hoặc tùy vào chỗ đau bệnh mà lấy đao rạch mạch mà tiết máu ra, rồi cầu cúng thần trời đất sông núi. Không biết uống thang thuốc, châm huyệt. Người tôn quý chết thì liệm thây bỏ vào quan, vừa chết thì khóc, lúc táng thì múa hát đi tiễn. Đem con chó béo ra, buộc dây lục lạc để kéo đi; lại lấy ngựa cưỡi, áo quần, trang sức của người chết đều đốt mà táng theo. Lấy riêng một con chó gầy ra tế, ý nói là sai đưa linh hồn người chết về ở núi Xích Sơn. Núi Xích Sơn tại phía tấy bắc quận Liêu Đông mấy nghìn dặm, như người Trung Quốc cho rằng chết thì linh hồn về ở núi Thái Sơn vậy. Đến ngày táng, buổi đêm họp họ hàng bè bạn cùng ngồi, dắt các con ngựa, chó ra theo vị thứ, có kẻ khóc, có kẻ hát, ném thịt cho chó ăn. Sai hai người ngâm văn điếu, ý muốn cho linh hồn người chết được đi thẳng qua chỗ hiểm trở, không bị ma quỷ ngăn chặn để đến được núi Xích Sơn, sau đó lại giết ngựa, chó, quần áo, tiền vật rồi đốt. Kính quỷ thần, thờ trời đất, Mặt trăng, Mặt trời, sao sáng, sông núi lớn cùng những vị cừ súy khỏe mạnh thời trước, cũng lấy trâu dê để cúng tế, xong rồi đều đốt đi. Lúc ăn uống phải cúng tế trước. Phép tắc của họ là làm trái lời cừ súy thì giết chết; trộm cắp cũng không tránh khỏi tội chết. Đánh giết lẫn nhau, các bộ lạc tự báo thù nhau, nếu báo thù nhau không dứt thì đến chỗ cừ súy xin xét xử, kẻ có tội thì đem trâu ngựa của mình để đền mạng của người chết, lúc ấy mới dứt. Nhưng tự giết cha anh của mình lại không bị xét tội. Những kẻ trốn tránh bị cừ sùy đuổi bắt thì các ấp lạc không được thu nhận, đều xua đuổi đến chỗ hoang vắng, tại đấy không có núi, có bãi cát, dòng nước, cây cỏ, nhiều rắn hổ mang. Người Tiên Ti ở tại phía tây nam của nước Đinh Linh, phía đông bắc của nước Ô Tôn, do đó mà bị khốn cùng. Từ lúc trước sau khi bị người Hung Nô đánh phá, dân chúng suy yếu, lại chịu phục vào người Hung Nô, thường mỗi năm chuyển trâu, ngựa, dê đến dâng, nếu quá hẹn mà không dâng đủ thì liền bị bắt vợ con. Đến thời Thiên vu Nhất Diên Đê của Hung Nô, người Ô Hoàn lại mạnh lên, đào bới mộ của Thiền vu của Hung Nô để báo thù cái thẹn từng bị Mặc Đốn đánh phá. Thiền vu Nhất Diễn Đê cả giận, phát hai vạn quân kị đến đánh người Ô Hoàn. Đại tướng quân Hoắc Quang nghe tin, sai Độ liêu Tướng quân Phạm Minh Hữu đem ba vạn quân kị ra quận Liêu Đông đuổi đánh người Hung Nô, vừa lúc Minh Hữu đến thì người Hung Nô đã bỏ đi. Người Ô Hoàn mới bị họa binh đao của người Hung Nô, nhân sự suy yếu ấy mà đến đánh người Ô Hoàn, chém hơn sáu nghìn thủ cấp, chém được đầu ba cừ súy của họ đem về. Sau lại nhiều lần lấn biên ải, Minh Hữu liền đánh phá chúng. Đến cuối thời Vương Mãng, cùng với người Hung Nô vào cướp. Vào lúc Quang Vũ Đế định thiên hạ, sai Phục ba Tướng quân Mã Viện đem ba nghìn quân kị từ cửa Ngũ Nguyên ra biên ải đánh chúng, không được lợi, bị giết mất hơn bốn nghìn con ngựa. Từ đấy người Ô Hoàn bèn mạnh, đánh cướp người Hung Nô, người Hung Nô phải dời lùi nghìn dặm, phía nam sa mạc bèn trở thành đất trống. Năm Kiến Vũ thứ hai mươi lăm, cừ súy của người Ô Hoàn là bọn Hách Đán đem hơn chín nghìn người đến cửa khuyết, bèn phong hơn tám mươi cừ súy của họ làm Vương, Hầu, sai ở lại trong biên ải, chia ra ở tại các xứ Liêu Đông thuộc quốc, quận Liêu Tây, quận Hữu Bắc Bình, quận Ngư Dương, quận Quảng Dương, quận Thượng Cốc, quận Đại, quận Nhạn Môn, quận Thái Nguyên, quận Sóc Phương, kêu gọi người của bộ lạc đến, cấp cho cơm áo, đặt quan Hiệu úy để trông coi, do đó trở thành người phòng giữ của nhà Hán, sai ra đánh người Hung Nô, Tiên Ti. Đến giữa năm Vĩnh Bình, cừ súy của người Ô Hoàn ở quận Ngư Dương là Khâm Chí Bôn lĩnh bộ lạc làm phản, người Tiên Ti lại gây hại; Liêu Đông Thái thú Sái Dung đánh giết Chí Bôn, rồi phá quân ấy. Đến thời An Đế, Suất Chúng Vương của người Ô Hoàn ở các quận Ngư Dương, Hữu Bắc Bình, Nhạn Môn là bọn Vô Hà lại cùng hợp sức với người Tiên Ti, Hung Nô đánh cướp các quận Đại, Thượng Cốc, Trác Quận, Ngũ Nguyên; bèn lấy Đại tư nông Hà Hi làm Xạ kị Tướng quân, đem năm doanh quân tả hữu vũ lâm, phát hai vạn quân ở các doanh Lê Dương của bảy quận đi đánh chúng. Do đó người Hung Nô hàng phục, người Tiên Ti, Ô Hoàn đều chạy ra ngoài biên ải. Từ đấy về sau, người Ô Hoàn dần dần lại theo phục, bái cừ súy của họ là Nhung Mạt Ngôi làm Đô úy. Đến thời Thuận Đế, Nhung Mạt Ngôi đem các Vương, Hầu là bọn Đốt Quy, Khứ Diên theo Ô Hoàn Hiệu úy Cảnh Diệp ra biên ải đánh người Tiên Ti, có công, trở về đều được phong làm Suất Chúng Vương, ban lụa bó.
Cuối thời Hán, cừ súy của người Ô Hoàn tại quận Liêu Tây là Khâu Lực Cư có hơn năm nghìn lạc, cừ súy của người Ô Hoàn tại quận Thượng Cốc là Nan Lâu có hơn chín nghìn lạc, đều xưng Vương; còn cừ súy của người Ô Hoàn tại Liêu Đông thuộc quốc là Tô Bộc Diên có hơn nghìn lạc lại tự xưng là Tiễu Vương, cừ súy của người Ô Hoàn tại quận Hữu Bắc Bình là Ô Diên có hơn tám trăm lạc, tự xưng là Hãn Lỗ Vương, đều là kẻ trí mưu dũng mãnh. Trung Sơn Thái thú Trương Thuần làm phản, theo vào quân của Khâu Lực Cư, tự xưng là Di Thiên An Định Vương, làm nguyên súy của người Ô Hoàn tại ba quận, cướp bóc bốn châu Thanh, Từ, U, Kí, giết cướp quan dân. Cuối thời Linh Đế, lấy Lưu Ngu làm Châu mục, chiêu mộ rợ Hồ chém đầu Thuần, do đó các châu miền bắc mới yên. Sau đó Khâu Lực Cư chết, con là Lâu Ban còn nhỏ tuổi, con trong họ là Đạp Đốn có vũ lược, thay lập, thống lĩnh các bộ lạc của ba quận, quân đều theo phép lệnh của hắn. Viên Thiệu đánh Công Tôn Toản nhiều lần mà không thắng, Đạp Đốn sai sứ đến chỗ Thiệu xin hòa cầu thân, giúp Thiệu đánh Toản, phá được Toản. Thiệu tự ý ban ấn thao Tiễu Vương, Hãn Lỗ Vương cho bọn Đạp Đốn, đều lấy làm Thiền vu.
Anh hùng kí chép: Thiệu sai sứ đến bái ba vị vua của người Ô Hoàn làm Thiền vu, đều được cưỡi xe êm, treo lọng hoa, dựng cờ mao, đi xe màu vàng, cắm cờ tiết bên trái. Hạ lệnh rằng: "Sứ trì tiết, Đại tướng quân, đô đốc việc quân miền U, Thanh, Tinh, lĩnh Kí Châu Mục, Nguyễn Hương Hầu là Thiệu, thừa lệnh hạ chiếu sai Suất Chúng Vương ở Liêu Đông thuộc quốc là Ban Hạ, Suất Chúng Vương của người Ô Hoàn ở quận Liêu Tây là Đạp Đốn, Suất Chúng Vương ở quận Hữu Bắc Bình là Hãn Lô Duy rằng: Tổ tiên các ngươi mộ nghĩa giữ thiện, theo phục nơi biên ải, phía bắc ngăn rợ Hiểm Duẫn, phía đông chống rợ Uế Mạch, nối đời giữở biên thùy, làm phên dậu của trăm họ, dẫu có lúc phạm lấn bờ cõi, cho nên sai tướng đi đánh chặn trị tội, cũng có lúc không theo phục nhưng hối tiếc sửa lỗi, so với các dân rợ ngoài cõi khác thì thông minh hơn cả. Lúc đầu lấy cừ súy của nghìn người, cừ súy của trăm người để thay nhau thống lĩnh, dốc hết lòng dạ, tỏ rõ công lao với nhà nước, dần dần được phong tước Vương, Hầu. Từ thời nhà vua ta mắc nhiều việc, Công Tôn Toản gây nạn, đem cái sức của dân ít đất vắng để dối trời lấn chủ, do đó người ở trong bốn cõi đều cầm can qua để giữ xã tắc. Ba vị vua các ngươi dốc lòng ở nơi biên giới, ghét kẻ gian, lo việc nước, dấn thân làm vây cánh của quân Hán, thực là rất trung hiếu, được triều đình khen ngợi. Vậy nhưng rắn dài hổ lớn vẫn lúc nhúc đầy đường, do đó quan tước chiếu phong chưa được ban đến. Nếu kẻ có công mà không được thưởng thì người giúp đỡ lười biếng vậy. Nay sai Yết giả Dương Lâm đem ấn thao xe áo Thiền vu đến để an ủi các ngươi. Các ngươi đều phải vỗ yên các bộ lạc, kính theo giáo hóa, chớ được gây ra nạn hại. Cho các ngươi nối đời nhận tước vị, làm vua của các bộ lạc. Bên ấy có lỗi sai thì không che giấu, là không trừ bỏ bổng lộc của các ngươi vậy. Nên dẹp nạn mà lập công, chẳng đáng cố gắng sao! Vẫn cho làm Thiền vu của
người Ô Hoàn, thống lĩnh bộ lạc. Thiền vu tả hữu vâng phép lệnh, những việc khác đều như cũ".
Sau đó Lâu Ban lớn lên, Tiễu Vương lĩnh bộ lạc bầu Lâu Ban làm Thiền vu, chọn Đạp Đốn làm Vương. Đạp Đốn lại bày nhiều kế sách. Người quận Quảng Dương là Diêm Nhu thủa nhỏ trốn vào vào giữa người Ô Hoàn, Tiên Ti, được các bộ lạc tin theo. Nhu bèn lĩnh quân Tiên Ti giết Ô Hoàn Hiệu úy Hình Cử để thay chức ấy, Thiệu nhân đó ban sủng để vỗ yên miền biên giới phía bắc. Sau đó Viên Thượng thua trận trốn đến chỗ Đạp Đốn, cậy vào thế của hắn, lại mưu đánh Kí Châu. Gặp lúc Thái Tổ bình miền Hà Bắc, Nhu lĩnh người Tiên Ti, Ô Hoàn theo phục, nhân đó bèn lấy Nhu làm Hiệu úy, vẫn cầm cờ tiết của nhà Hán, trị ở huyện Quảng Ninh như cũ. Năm Kiến An thứ mười một, Thái Tổ tự đi đánh Đạp Đốn ở Liễu Thành, ngầm đem quân đi đường khác, chưa đến hơn trăm dặm, giặc phát hiện. Thượng cùng Đạp Đốn đem quân đón đánh ở Phàm Thành, quân mã rất đông. Thái Tổ trèo lên chỗ cao để nhìn trận giặc, lúc ấy quân ở Liễu Thành chưa đến, thấy quân ấy ít động, bèn đánh phá được quân ấy, lại vào trận chém đầu Đạp Đốn, người chết đầy bãi. Bọn Tốc Phụ Hoàn, Lâu Ban, Ô Diên chạy đến quận Liêu Đông, người quận Liêu Đông chém hết chúng, đem đầu đến dâng. Bọn còn lại đều đến hàng. Hơn vạn lạc Ô Hoàn ở Tinh Châu mà Nhu lĩnh đều dời hết đến ở tại Trung Quốc, đem quân sĩ của bọn cừ súy Vương, hầu của họ cùng đi theo đánh dẹp. Do đó người Ô Hoàn của ba quận trở thành quân kị nổi danh trong thiên hạ.
Ngụy lược chép: Năm Cảnh Sơ thứ nhất, mùa thu, sai U Châu Thứ sử Quán Khâu Kiệm đem quân sĩ đánh quận Liêu Đông. Thiền vu của người Ô Hoàn ở quận Hữu Bắc Bình là Khấu Lâu Quách, viên Đô đốc Suất Chúng Vương của người Ô Hoàn tại ở quận Liêu Tây là Hộ Lưu Diệp ngày xưa theo Viên Thượng trốn đến quận Liêu Tây, nghe tin quân của Kiệm đến, bèn lĩnh hơn năm nghìn quân ra hàng. Khấu Lâu Quách sai em là bọn A La Bàn đến cửa khuyết chầu cống, phong hơn ba mươi cừ súy của họ làm Vương, ban cho xe ngựa, gấm vóc đều theo thứ bậc.
Bộ Độ Căn của người Tiên Ti đã lập,
Ngụy thư chép: Tiên Ti cũng là nhóm còn lại của rợ Đông Hồ, giữ riêng ở núi Tiên Ti, nhân đó lấy hiệu ấy. Tiếng nói phong tục giống người Ô Hoàn. Đất ấy phía đông liền sông Liêu, phía tây đến Tây Thành. Thường đến cuối mùa xuân thì tụ hội, hát nhạc ở bên sông, cưới vợ gả chồng, cắt tóc ăn uống. Thú vật khắc với Trung Quốc, có ngựa hoang, dê sừng lớn, trâu đoan. Lấy sừng của trâu đoan làm cung, người đời dọi là cung giác đoan. Lại có chồn, nạp, chuột nhỏ, da lông mềm mại, cho nên thiên hạ cho là lông tốt. Người Tiên Ti từ khi bị Mặc Đốn đánh phá, trốn xa ở ngoài biên ải quận Liêu Đông mà không tranh hơn với các nước, do đó danh tiếng chưa truyền đến nhà Hán, nhưng gần nhau với Ô Hoàn. Đến thời Quang Vũ Đế, Thiên vu của hai miền nam bắc lại đánh phá nhau, người Hung Nô tổn hao mà Tiên Ti lại mạnh. Năm Kiến Vũ thứ ba mươi, cừ súy của người Tiên Ti là Ư Cừu Bôn đem quân dân đến cửa khuyết chầu cống, phong Ư Cừu Bôn làm Vương. Giữa năm Vĩnh Bình, Sái Dung làm Liêu Đông Thái thú, dụ dỗ người Tiên Ti, sai chém đầu người Ô Hoàn phản bội là bọn Khâm Chí Bôn, do đó cừ súy của người Tiên Ti từ các quận Đôn Hoàng, Tửu Tuyền về phía đông đều đến quận Liêu Đông nhận ban thưởng, hai châu Thanh, Từ cấp cho tiền, năm đó lấy hai ức bảy nghìn vạn tiền để thưởng. Vào thời Hòa Đế, Đại đô hộ Hiệu úy Ngôi của người Tiên Ti đem quân bản bộ theo Ô Hoàn Hiệu úy Nhâm Thượng đánh kẻ làm phản, phong Hiệu úy Ngôi làm Suất Chúng Vương. Giữa năm Diên Bình thời Thương Đế, người Tiên Ti lại về phía đông vào biên ải, giết Ngư Dương Thái thú Trương Hiển. Vào thời An Đế, cừ súy của người Tiên Ti là Yên Lệ Dương vào chầu, nhà Hán ban cho ấn thao Tiên Ti Vương, xe ngựa mui đỏ, đến ở dưới sở trị của Ô Hoàn Hiệu úy. Mở chợ trao đổi với rợ Hồ, đắp sở quan ở hai bộ nam bắc, nhận con tin của hai mươi bộ lạc. Từ đó lúc hàng lúc phản, có
lúc lại đánh phá nhau với người Hung Nô, Ô Hoàn. Cuối thời An Đế, phát hơn hai vạn quân bộ kị ở biên giới ra đóng đồn ở nơi trọng yếu. Sau đó có tám nghìn quân kị đánh quận Đại và ải Mã Thành vào giết trưởng lại, nhà Hán sai Độ liêu Tướng quân Đặng Tuân, Trung lang tướng Mã Tục ra biên ải đuổi đánh phá được chúng. Cừ súy của người Tiên Ti là bọn Ô Luân, Kì Chí Kiện đem hơn bảy nghìn người đến chỗ Tuân xin hàng, phong Ô Luân làm Vương, Kì Chí Kiện làm Hầu, ban tặng lụa mịn. Sau khi Tuân đi, Kì Chí Kiện lại phản, vây Ô Hoàn Hiệu úy ở Mã Thành, Độ liêu Tướng quân Cảnh Quỳ và quan U Châu Thứ sử đến cứu giải vây. Kì Chí Kiện mạnh lên, xua lĩnh mấy vạn quân kị đi theo mấy đường vào biên ải, đến huyện Ninh Mạch, đánh Thiền vu của nam Hung Nô, giết Tả Áo Kiện Nhật Trục Vương. Vào thời Thuận Đế, lại vào biên ải, giết Đại Quận Thái thú. Nhà Hán sai quân tại doanh Lê Dương đóng đồn ở quận Trung Sơn, đem quân tại các quận biên giới đóng đồn ở dưới cửa ải, sai quan Nỗ sư lệnh của năm doanh dạy đánh trận bắn tên, Thiền vu của Nam Hung Nô cũng đem hơn vạn quân kị đến giúp quân Hán đánh lùi quân giặc. Sau đó Ô Hoàn Hiệu úy Cảnh Diệp đem Suất Chúng Vương ra biên ải đánh người Tiên Ti, chém nhiều đầu giặc, do đó hơn ba vạn lạc Tiên Ti đến quận Liêu Đông xin hàng. Sau khi người Hung Nô và Thiền vu của Bắc Hung Nô chạy trốn, hơn mười vạn bộ lạc Hung Nô còn lại đến ở lẫn tại quận Liêu Đông, đều tự hiệu là quân Tiên Ti. Đầu Lộc Hầu theo quân Hung Nô được ba năm, vợ hắn ở nhà, có con. Đầu Lộc Hầu về, ngờ mà muốn giết vợ. Vợ nói: "Ta từng đi ngày nghe tiếng sấm sét, ngẩng lên trời xem thì luồng điện xẹt vào trong miêng, nhân đó mà nuốt, rồi có thai, được mười tháng thì sinh, đứa con này chắc có kì lạ, nên nuôi hắn lớn". Đầu Lộc Hầu vốn không tin. Vợ bèn khuyên bảo, lại lấy đem nuôi, hiệu là Đàn Thạch Hòe, lớn lên thì dũng mãnh, mưu trí hơn người. Vào lúc mười bốn, mười lăm tuổi, cừ súy của bộ khác là Bộc Bôn Ấp cướp lấy trâu dê của nhà họ ngoại mình, Đàn Thạch Hòe sai quân kị đuổi đánh, đến đâu thì đó không địch nổi, lấy hết các con vật bị mất đem về. Do đó bộ lạc sợ phục, liền đặt phép cấm, phép phân biêt đúng sai, chẳng ai dám phạm, bèn được bầu làm cừ súy. Đàn Thạch Hòe đã lập, lại dựng đình ở trên sông Xuyết Cừu bên núi Đàn Hãn tại phía bắc thành Cao Liễu hơn ba mươi dặm, các cừ súy của các bộ lạc đông tây đều theo phục, quân mã rất đông, bèn phía nam cướp biên giới của nhà Hán, phía bắc chống người Đinh Linh, phía đông đánh lui người Phù Dư, phía tây đánh người Ô Tôn, chiếm cả đất cũ của người Hung Nô, đông tây hơn một vạn hai nghìn dặm, nam bắc hơn bảy nghìn dặm, bao trùm sông núi, rãnh nước, mỏ muối rất rộng. Nhà Hán lo lắng, vào thời Hoàn Đế sai Hung Nô Trung lang tướng Trương Hoán đánh hắn, không thắng. Lại bèn sai sứ giả đem ấn thao đến, phong Đàn Thạch Hòe làm Vương, muốn cùng hòa thân. Đàn Thạch Hòe chống lại không chịu nhận, lại càng cướp bóc thêm. Rồi chia đất của mình thành ba bộ giữa, đông, tây: từ quận Hữu Bắc Bình về phía đông đến quận Liêu Đông, kề đến nước Phù Dư, Uế Mạch là bộ đông, có hơn hai mươi ấp, cừ sùy của bộ ấy là Di Gia, Khuyết Cơ, Tố Lợi, Hòe Đầu; từ quận Hữu Bắc Bình về phía tây đến quận Thượng Cốc là bộ giữa, có hơn mười ấp, cừ súy của bộ ấy là bọn Kha Tối, Khuyết Cư, Mộ Dung, làm đại súy; từ quận Thượng Cốc về phía tây đến quận Đôn Hoàng, phía tây tiếp nước Ô Tôn là bộ tây, có hơn hai mươi ấp, cừ súy của bộ ấy là bọn Trí Kiện Lạc La, Nhật Luật Suy Diễn, Yến Lệ Du, đều làm cừ súy, đều thần thuộc vào Đàn Thạch Hòe. Đến thời Linh Đế, cướp bóc hai châu U, Tinh; các quận biên giới không năm năm không bị gây hại. Năm Gia Bình thứ sáu, sai Hộ Ô Hoàn Hiệu úy Hạ Dục, Phá Tiên Ti Trung lang tướng Điền Yến, Hung Nô Trung lang tướng Tang Mân cùng Thiền vu của Nam Hung Nô ra ải Nhạn Môn, ba đường cùng đi, qua hơn hai nghìn dặm đánh chúng. Đàn Thạch Hòe đem quân sĩ đón đánh, bọn Mân thua chạy, quân mã quay về chỏ còn một phần mời mà thôi. Do đó người Tiền Ti ngày càng đông, săn bắn chăn thả không đủ để ăn. Sau đó Đàn Thạch Hòe lại ngăn nước sông Ô Hầu Tần, mở rộng mấy trăm dặm, ngăn nước không cho chảy, trong nước có cá nhưng không bắt được. Nghe nói người nước Hãn giỏi bắt cá, do đó Đàn Thạch Hòe sang đông đánh nước Hãn, bắt được hơn nghìn nhà, dời đến trên sông Ô Hầu Tần, sai bắt cá để cấp thức ăn. Đến ngày nay, trên sông Ô Hầu Tần còn có mấy trăm hộ người nước Hãn. Đàn Thạch Hòe vào năm bốn mươi lăm tuổi thì chết, con là Hòa Liên thay lập, tài lực của Hòa Liên không bằng cha, lại tham dâm, dẹp bỏ phép tắc, hơn nửa quân sĩ phản loạn. Những năm cuối thời Linh Đế thường ra cướp bóc, đánh quận Bắc Địa, dân thường của quận Bắc Địa có kẻ giỏi bắn tên bắn trúng Hòa Liên, Hòa Liên bèn chết. Con là Khiên Mạn còn nhỏ, con của anh là Khôi đầu thay lập. Sau khi Khôi Đầu đã lập, Khiên Mạn lớn lên, tranh đất với Khôi Đầu, quân sĩ bèn tan loạn. Khôi Đầu chết, em là Bộ Độ Căn thay lập. Từ sau khi Đàn Thạch Hòe chết, các cừ súy bèn nối đời thay nhau mà lập.
quân ngày càng suy yếu, anh giữa là Phù La Hàn cũng lĩnh mấy vạn quân mà làm cừ súy. Giữa năm Kiến An, Thái Tổ định U Châu, Bộ Độ Căn cùng bọn Kha Tỉ Năng nhờ Ô Hoàn Hiệu úy Diêm Nhu đến dâng cống. Sau đó người Ô Hoàn ở Đại Quận là bọn Năng Thần Đê làm phản, xin theo về Phù La Hàn, Phù La Hàn đem hơn vạn quân kị đón chúng. Đến huyện Tang Can, bọn Đê bàn nghị cho rằng phép cấm của Phù La Hà lỏng lẻo, sợ không giúp được, lại sau người gọi Kha Tỉ Năng. Tỉ Năng liền đem hơn vạn quân kị đến đón, cùng lập hội thề. Tỉ Năng lại giết Phù La Hàn ở trong hội, con của Phù La Hàn là Tiết Quy Nê cùng quân bản bộ đều theo về Tỉ Năng. Tỉ Năng tự thấy mình giết cha của Quy Nê, bèn đối đãi Quy Nê rất nồng hậu. Từ đấy Bộ Độ Căn giận Tỉ Năng. Vào lúc Văn Đế lên ngôi, bái Điền Dự làm Ô Hoàn Hiệu úy, Trì tiết, Hộ Tiên Ti, đóng đồn ở Xương Bình. Bộ Độ Căn sai sứ dâng ngựa, Đế bèn bái hắn làm Vương. Sau đó nhiều lần đánh phá nhau với Kha Tỉ Năng, dân chúng của Bộ Độ Căn ngày càng suy giảm, bèn đem hơn vạn lạc về giữ ở quận Thái Nguyên, quận Nhạn Môn. Bộ Đô Căn lại sai người gọi Tiết Quy Nê rằng: "Cha mi bị Tỉ Năng giết chết, đã không nghĩ báo thù mà lại theo nhà hắn. Nay hắn dẫu đãi hậu mi, đấy là kế muốn giết mi đấy. Không bằng về theo ta, ta với mi là người thân ruột thịt, há theo kẻ thù"? Do đó Tiết Quy Nê đem bộ lạc của mình trốn về chỗ Bộ Độ Căn, Tỉ Năng đuổi theo nhưng không kịp. Đến năm Hoàng Sơ thứ năm, Bộ Độ Căn đến cửa khuyết cống nạp, ban thưởng hậu hĩnh, từ đấy dốc lòng giữ biên ải, không còn cướp hại nhưng bộ lạc của Kha Tỉ Năng ngày càng lớn mạnh. Minh Đế lên ngôi, theo đuổi việc hòa thân với người Nhung Địch để ngừng đánh dẹp, chỉ ràng buộc lỏng lẻo hai bộ lạc ấy mà thôi. Đến năm Thanh Long thứ nhất, Tỉ Năng dụ Bộ Độ Căn liên kết hòa thân, do đó Bộ Độ Căn đem Tiết Quy Nê cùng bộ lạc đến theo Tỉ Năng, lại đánh phá Tinh Châu, giết cướp quan dân. Đế sai Phiếu kị Tướng quân Tần Lang đánh chúng, Quy Nê bèn phản Tỉ Năng, đem bộ lạc đến hàng, phong làm Quy Nghĩa Vương, ban cho màn trướng, lọng cong, trống sáo, trú ở Tinh Châu như cũ. Bộ Độ Căn bèn bị Tỉ Năng giết chết.
Kha Tỉ Năng vốn là thủ lĩnh của bộ lạc nhỏ người Tiên Ti, nhưng dũng mãnh, vứt vỏ phép tắc, không tham tiền của, mọi người bầu làm cừ súy. Bộ lạc ấy gần biên ải, từ thời Viên Thiệu chiếm miền Hà Bắc, người Trung Quốc trốn tránh phần lớn theo về hắn, bày cho hắn làm binh khí khôi giáp, lại học viết chữ, do đó hắn chăm chỉ dạy quân dân, học theo Trung Quốc, ra vào săn bắn, dựng lập cờ trướng, lấy tiếng trống làm lệnh tiến lùi. Giữa năm Kiến An, nhờ Diêm Nhu đến dâng cống. Thái Tổ sang tây đánh miền Quan Trung, vừa lúc Điền Ngân làm phản ở giữa miền sông Hoàng Hà, do đó Tỉ Năng đem hơn ba vạn quân kị theo Diêm Nhu đánh Ngân. Sau đó người Ô Hoàn ở Đại Quận làm phản, Tỉ Năng lại giúp chúng cướp hại; Thái Tổ lấy Yên Lăng Hầu là Chương làm Phiếu kị Tướng quân, lên bắc mà đánh, đại phá chúng. Tỉ Năng chạy khỏi biên ải, sau đó lại đến cống nạp. Đầu năm Diên Khang, Tỉ Năng sai sứ dâng ngựa, Văn Đế cũng phong Tỉ Năng làm Phụ Nghĩa Vương. Năm Hoàng Sơ thứ hai, Tỉ Năng đem hơn năm trăm nhà người Ngụy ở tại trong người Tiên Ti về trú ở Đại Quận. Năm sau, Tỉ Năng lĩnh các cừ súy lớn nhỏ của bộ lạc mình, đem hơn ba nghìn quân kị người Ô Hoàn ở Đại Quận của bọn Tu Vũ Lô, xua hơn bảy nghìn con trâu ngựa đến trao đổi, lại sai hơn nghìn nhà người Ngụy đến trú ở quận Thượng Cốc. Sau tranh giành với cừ súy của người Tiên Ti ở phía đông là Tố Lợi và ba bộ lạc của Bộ Độ Căn, lại đánh phá lẫn nhau. Điền Dự sai phải hòa thuận, không được xâm lấn nhau.
Năm thứ năm, Tỉ Năng lại đánh Tố Lợi, do đó Dự đem quân kị nhẹ đi thẳng đến chặn phía sau. Tỉ Năng sai tiểu súy là Tỏa Nô đi riêng chống Dự, Dự đến đánh, đuổi phá được, do đó Tỉ Năng sinh lòng nghi ngờ, bèn gửi thư cho Phụ quốc Tướng quân Tiên Vu Phụ rằng: "Người Di Địch không biết chữ viết, lúc trước Hiệu úy Diêm Nhu tiến cử ta lên Thiên tử. Ta gây thù với Tố Lợi, năm ngoái đánh phá hắn, nhưng Điền Hiệu úy lại giúp Tố Lợi. Ta vào trận sai Tỏa Nô đánh chặn, nghe tin Điền Hiệu úy đến thì liền dẫn quân rút lui. Bộ Độ Căn nhiều lần cướp bóc, lại giết mất em ta, vậy mà vu cho ta cướp bóc. Ta là người Di Địch dẫu không biết lễ nghĩa nhưng anh em con cháu ta lại nhận ấn thao của Thiên tử, trâu ngựa còn biết cỏ bên sông tươi tốt mà gặm, huống chi ta là người có tấm lòng! Tướng quân nên xét rõ lòng ta báo lên Thiên tử"! Phụ nhận thư rồi gửi lên, Đế lại sai Dự vỗ về an ủi hắn. Bộ lạc của Tỉ Năng lại lớn mạnh, thống lĩnh hơn mười vạn quân kị. Hễ cướp lấy được tiền của liền chia đều cho mọi người, một cái trước mắt cũng chẳng lấy riêng, cho nên được lòng quân sĩ, cừ súy của các bộ lạc đều sợ phục hắn, nhưng vẫn không bằng Đàn Thạch Hòe vậy.
Năm Thái Hòa thứ hai, Dự sai người phiên dịch là Hạ Xá đến chỗ con rể của Kha Tỉ Năng là Uất Trúc Kiện, Xá bị Kiện giết. Mùa thu năm ấy, Dự đem người Tiên Ti ở phía tây là bọn Bồ Đầu, Tiết Quy Nê ra cửa ải đánh Uất Kiện Bộ, đại phá hắn. Về đến Mã Thành, Tỉ Năng tự đem ba vạn quân kị vây Dự trong bảy ngày. Thượng Cốc Thái thú Diên Chí là em của Nhu vậy, vốn được người Tiên Ti tin theo, Chí liền đến khuyên dụ, liền giải vây bỏ đi. Sau đó U Châu Thứ sử Vương Hùng lĩnh chức Hiệu úy, dùng ân tín mà vỗ về. Tỉ Năng nhiều lần đến cửa ải, vào châu quận cống nạp. Đến năm Thanh Long thứ nhất, Tỉ Năng dụ nạp Bộ Độ Căn, sai hắn phản ở Tinh Châu, cùng kết thân với hắn, lại tự xua vạn quân kị đón quân của hắn ở Hình Bắc. Tinh Châu Thứ sử Tất Chấp sai bọn Tướng quân Tô Thượng, Đổng Bật đánh chúng, Tỉ Năng sai con đem quân kị đến đánh với bọn Thượng ở Lâu Phiền, vào trận giết Thượng, Bật. Đến giữa năm thứ ba, Hùng sai dũng sĩ là Hàn Long đâm chết Tỉ Năng, người Tiên Ti lại lập em của hắn.
Tố Lợi, Di Gia, Khuyết Cơ đều làm cứ súy ở ngoài biên ải các quận Liêu Tây, Hữu Bắc Bình, Ngư Dương, nhưng vì đường lối xa xôi nên không gây hại nơi biên giới, nhưng dân chúng của họ phần nhiều lại theo Tỉ Năng. Giữa năm Kiến An, nhờ Diêm Nhu dâng cống, thông chợ, Thái Tổ đều tiến phong làm Vương. Khuyết Cơ chết, lại lập con hắn là Sa Mạt Hãn làm Thân Hán Vương. Đầu năm Diên Khang, lại đều sai sứ dâng ngựa. Văn Đế phong Tố Lợi, Di Gia làm Quy Nghĩa Vương. Tố Lợi lại đánh phá nhau với Kha Tỉ Năng. Năm Thái Hòa thứ hai, Tố Lợi chết. Con còn nhỏ, lấy em là Thành Luật Quy làm Vương, thay lĩnh dân chúng.
Chú thích
(1) Hiểm Duẫn: Hiểm Duẫn, còn chép là Huân Dục, tương truyền thời xưa bị Hoàng Đế xua đuổi về phía bắc. Vào thời Tây Chu dần dần lớn mạnh từng uy hiếp Trung Quốc. Thời Xuân thu gọi là Nhung, Địch, chỉ dân du mục miền bắc.
(2) Hai nước Việt: chỉ hai nước Nam Việt và Mân Việt thời nhà Hán, bị Vũ Đế sai quân đánh diệt, xem ở Hán thư - Lưỡng Việt truyện.
(3) Nam Hung Nô: từ sau khi bị hai tướng Hoắc, Vệ thời Tây Hán đánh phá, người Hung Nô ngày càng suy yếu. Đến thời Quang Vũ Đế thời Đông Hán, cừ súy của người Hung Nô phân chia thành hai miền nam bắc. Bắc Hung Nô chạy về phía bắc và phía tây, còn Nam Hung Nô thần phục vào nhà Hán.
(4) Hữu hiền vương: Hữu hiền vương là chức quan lớn của Thiền vu của người Hung Nô, xem ở Sử kí - Hung Nô liệt truyện.
(5) Người Ô Hoàn ở ba quận: chỉ người Ô Hoàn ở ba quận Liêu Tây, Liêu Đông, Hữu Bắc Bình. Ba quận này ở biên giới phía đông bắc Trung Quốc, kề đất người Ô Hoàn, người Ô Hoàn cũng đến sinh sống ở ba quận ấy.
(6) Đông Hồ: người Trung Quốc xưa gọi những bộ lạc du mục miền bắc như Hung Nô, Tiên Ti, Ô Hoàn, Đinh Linh là Hồ, những bộ lạc ở phía đông như Ô Hoàn, Tiên Ti thì gọi là Đông Hồ.

TRUYỆN VỀ CÁC DÂN TỘC SÔNG PHÍA ĐÔNG
Kinh Thư chép: "Phía đông tới bờ biển, phía tây đến tại Lưu Sa"(1). Theo phép phân chia chín cõi thì có thể biết mà chép vậy. Nhưng ở ngoài miền nơi xa lánh, phải trải dài mà đến, không có vết chân xe đến được, chưa có ai biết được phong tục của các nước lạ. Từ thời nhà Ngu đến thời nhà Chu, người Tây Nhung đến dâng ngọc trắng, người Đông Di có nước Túc Thận đến cống, đều cách nhiều đời mới đến, cũng vì xa xôi nên như thế. Đến lúc nhà Hán sai Trương Khiên đi sứ Tây Vực, đến cùng nguồn của sông Hoàng Hà, đi qua các nước, bèn đặt chức Đô hộ để trông coi xứ ấy, sau đó những việc về Tây Vực đều còn, cho nên quan chép sửđã chép rõđược vậy. Nhà Ngụy nổi dậy, người Tây Vực dẫu không đến cả nhưng các nước lớn như Quy Từ, Vu Trí, Khang Cư, Ô Tôn, Sơ Cần, Nguyệt Chi, Thiện Thiện, Xa Sư không năm nào không đến chầu cống, đại khái cũng như việc cũ thời nhà Hán. Lại còn Công Tôn Uyên cậy vào ba đời tổ tiên chiếm lấy miền Liêu Đông, Thiên tử cho là hắn ngăn bờ cõi, bèn giao cho các việc giao tiếp với các nước ở ngoài biển, do dó ngăn cách Đông Di, không qua lại được với Hoa Hạ. Giữa năm Cảnh Sơ, đại phá quân sĩ, đánh Uyên, lại ngầm đem quân vượt biển, thu lấy các quận Lạc Lãng, Đái Phương, từ đó miền ngoài biển yên ổn, người Đông Di chịu phục. Sau đó nước Cao Câu Li phản bội, lại sai quân mạnh đến đánh, đuổi đến chốn cùng, qua các xứ Ô Hoàn, Hoàn Đô, qua nước Ốc Trở, giẫm vào đình của nước Túc Thận, phía đông đến biển lớn. Người già nói rằng có người mặt lạ ở gần chỗ mà Mặt trời mọc, rồi đi xung quanh các nước, chọn chép phong tục của các nước, lớn nhỏ khác biệt, đều có tiên gọi, có thể chép rõ. Dẫu là nước Di Địch nhưng vẫn biết giữ gìn lễ nghi cúng tế. Một khi Trung Quốc bỏ lễ nghi thì tìm ở 'tứ di', cũng đúng. Cho nên chép các nước theo thứ tự, nêu rõ giống khác để bù điều mà sử sách ngày trước chưa chép.
Nước Phù Dư tại phía bắc trường thành, cách quận Huyền Thố nghìn dặm, phía nam tiếp với nước Cao Câu Li, phía đông tiếp với nước Ấp Lâu, phía tây tiếp đất Tiên Ti, phía bắc có sông Nhược, đất rộng khoảng hai nghìn dặm. Có tám vạn hộ, dân tụ thành thôn ấp, có cung thất, kho tàng, nhà ngục. Nhiều gò núi, đầm rộng, là đất bằng phẳng nhất so với các nước Đông Di khác. Đất đai hợp với ngũ cốc(2), không mọc ngũ quả(3). Người nước này to khỏe, tính cứng cỏi nồng hậu, không ưa cướp bóc. Nước này có vua, đều đặt tên quan lại theo tên lục súc(4), có quan Mã gia, Ngưu gia, Trư gia, Cẩu gia, Đại sứ, Đại sứ giả, Sứ giả. Thôn ấp có người giàu, các nhà dưới quyền đều là nô bộc. Các quan lại chia ra làm chủ các miền, quan lớn thì làm chủ nghìn nhà, quan nhỏ thì làm chủ mấy trăm nhà. Ăn uống đều dùng mâm chén, những lúc hội họp, phong tước, nhận tước, đều nhường nhau lên xuống. Hẹn vào tháng giêng thì tế trời, người trong nước tụ hội, suốt ngày ăn uống múa hát, đặt tên là 'nghênh cổ', do đó phá nhà giam, cởi trói tù ngục. Ở nước này người ta ưa mặc áo màu trắng, vải trắng làm tay áo lớn, áo choàng, quần khố, đi dày da. Ra khỏi nước thì ưa mặc gấm lụa len dạ, quan lớn thì mặc áo lông cáo, lông khỉ đen, chồn đen, lấy vàng bạc gắn lên mũ,. Người phiên dịch đều quỳ, tay dựa vào đấy mà nói. Dùng hình pháp nghiêm ngặt, kẻ nào giết người thì tội chết, thu người nhà làm nô tì. Nếu cướp trộm thì trộm một thì đền mười. Nếu trai gái gian dâm, đàn bà hay ghen thì đều bị giết. Rất ghét kẻ hay
ghen tị, đã giết rồi còn ném lên núi phía nam của nước này mặc cho thối rữa. Muốn được lấy vợ thì chuyển trâu ngựa mà trao cho. Anh chết thì em lấy chị dâu, giống tục với người Hung Nô. Người nước này giỏi chăn nuôi, xuất ngựa tốt, ngọc đỏ, chồn khỉ, ngọc trai; ngọc trai to như quả táo chua. Lấy cung, tên, đao, mâu làm binh khí, nhà nhà đều có áo giáp. Người già của nước này tự nói rằng dân mình trốn tránh đến đây từ thời xưa. Đắp thành lũy đều hình tròn, có chỗ tựa như nhà ngục. Người đi đường ngày đêm không kể già trẻ đều hát, suốt ngày tiếng hát không dứt. Có việc quân thì cũng tế trời, giết trâu xem móng chân để đoán tốt xấu, móng chân nứt nẻ là xấu, móng chân lành lặn là tốt. Có giặc thì các 'gia'(5) cũng tự đánh trận, người các nhà đều mang đồ ăn uống mà cấp cho các 'gia'. Nếu chết thì vào các tháng mùa hạ dùng băng mà táng, giết người để táng theo, lớn thì mấy trăm người. Táng trọng hậu, có quách mà chẳng có quan.
Ngụy lược chép: Tục nước này táng trong năm tháng, để lâu cho là vinh hạnh. Cúng tế người chết có khi sơ sài có khi kĩ càng. Chủ tang không muốn nhanh mà người khác lại ép thì thường tranh luận cho rằng đấy là giữ tiết tháo. Lúc để tang, trai gái đều mặc áo trắng, đàn bà lấy áo vải che mặt, bỏ vòng đeo, đại khái cũng hơi giống người Trung Quốc.
Nước Phù Dư vốn thuộc quận Huyền Thố. Cuối thời Hán, Công Tôn Độ xưng hùng ở miền đông ven biển, lấn phục người Di ngoài cõi, do đó vua Phù Dư là Úy Cừu Đài liền thần phục vào quận Liêu Đông. Bấy giờ các nước Cao Câu Li, Tiên Ti lớn mạnh, Độ thấy nước Phù Dư ở giữa hai nước giặc ấy, bèn đem con gái trong họ gả cho vua Phù Dư. Úy Cừu Đài chết, Giản Vị Cư lập, không có con cả, có con vợ thứ là Ma Dư. Vị Cư chết, các 'gia' cùng lập Ma Dư. Con anh của quan 'Ngưu gia' mượn tiếng của Vị Cư mà tự làm Đại sứ, khinh tiền của ưa bố thí, người trong nước đều dựa theo, hằng năm sai sứ giả đến kinh đô(6) dâng cống. Giữa năm Chính Thủy, U Châu Thứ sử Quán Khâu Kiệm đánh nước Cao Câu Li, sai Huyền Thố Thái thú Vương Kì đến nước Phù Dư, Vị Cư sai các quan 'gia' ra ngoài thành đón, cấp cho lương quân. Ngưu gia Quý Phủ có hai lòng, Vị Cư giết cha con Quý Phủ, thu hết tiền của, sai sứ nhặt lấy đem vào sở quan. Theo tục của của nước Phù Dư, gặp lúc nước khô hạn thì không thu thuế, nếu ngũ cốc không chín thì đều đổ lỗi cho vua, có kẻ nói là nên đổi ngôi vua, có kẻ nói là nên giết vua. Ma Dư chết, con là Y Lự mới sáu tuổi, được lập làm vua. Vào thời Hán, vua Phù Dư táng dùng rương ngọc, thường sắm sẵn để ở quận Huyền Thố, lúc vua chết thì đón lấy mà táng. Công Tôn Uyên bị giết, ở kho quận Huyền Thố còn có một cái rương ngọc. Ngày nay kho tàng của nước Phù Dư có mấy tấm ngọc bích, ngọc khuê, ngọc toản, nhiều đời cho là vật báu, người già cả nói là vật ban cho tổ tiên vậy.
Ngụy lược chép: Nước này giàu có, từ đời trước đến nay chưa từng bị phá hoại.
Ấn của vua nước này khắc chữ 'ấn của Uế Vương'. nước này có thành cũ là thành Uế, có lẽ vốn là đất của rợ Uế Mạch, mà vua Phù Dư ở trong ấy, lại tự gọi là 'người Vong', hoặc là giống thế.
Ngụy lược chép: Sách cũ có chép rằng ngày xưa phương bắc có người nước Cao Li, người hầu gái của vua nước ấy có thai, vua muốn giết đi, người hầu gái nói: "Có luồng khí như quả trứng gà bay xuống, cho nên ta có thai". Sau đó sinh con, vu vứt con ở trong chuồng heo, heo đến bú mớm cho, lại dời đến chuồng ngựa, ngựa lại thở hít cho, không chết. Vua ngờ là con của trời, bèn sau mẹ thu lấy mà nuôi, đặt tên là Đông Minh, thường sai chăn ngựa. Đông Minh giỏi bắn cung, vua sợ hắn đoạt lấy nước mình, muốn giết đi. Đông Minh chạy về phía nam đến sông Thi Yểm, giương cung bắn xuống nước, thế là cá rùa nổi lên làm thành cầu, Đông Minh vượt xong, cá rùa lại giải tán, quân đuổi theo không qua được.
Đông Minh nhân đó làm vua ở nước Phù Dư.
Cao Câu Li tại phía đông quận Liêu Đông nghìn dặm, phía nam tiếp với nước Triều Tiên, Uế Mạch, phía đông tiếp với nước Ốc Trở, phía bắc tiếp với nước Phù Dư. Đóng đô ở dưới Hoàn Đô, đất vuông khoảng hai nghìn dặm; có ba vạn hộ. Nhiều đầm núi hang hốc lớn, không đủ làm đầy bụng miệng(7), do đó tục nước này tiết kiệm, ưa dựng cung thất, ở bên trái phải của nhà mình ở có dựng một ngôi miếu lớn để tế quỷ thần, lại tế sao linh, xã tắc(8). Người nước này hung hăng, giỏi cướp bóc. Nước này có vua, quan lại có 'Tương gia', 'Đối lô', 'Phái giả', 'Cổ sồ gia', 'Chủ bạ', 'Ưu đài thừa', 'Sứ giả', 'Tạo y tiên nhân', lớn nhỏ đều có cấp bậc. Người Đông Di lúc trước cho rằng họ là một chủng khác của người Phù Dư, các việc tiếng nói phần nhiều giống với người Phù Dư nhưng tính tình và áo quần có khác. Vốn có năm bộ, có bộ Quyên Nô, Tuyệt Nô, Thuận Nô, Quán Nô, Quế Lâu. Lúc đầu bộ Quyên Nô làm vua, sau đó suy yếu, ngày nay bộ Quế Nô nối lập. Thời Hán ban cho ca kĩ, trống sáo, thường đến quận Huyền Thố nhận khăn mũ quần áo của triều đình ban phát, sai vua Cao Câu Li làm chủ hộ tịch của mình. Sau lại kiêu ngạo, không còn đến quận, đắp tòa thành nhỏ ở phía đông, đặt khăn mũ quần áo của triều đình ở đấy, hằng năm thì đến lấy. Ngày nay người Hồ vẫn gọi thành ấy là 'Trách câu lâu'. Từ 'câu lâu' có nghĩa là 'tòa thành' trong tiếng Cao Câu Li vậy. Cách sắp đặt quan lại: có quan 'Đối lô' thì không đặt quan 'Phái giả', có quan 'Phái giả' thì không đặt quan 'Đối lô'. Họ hàng của vua, quan lớn thì đều gọi là 'Cổ sồ gia', cũng được dựng tông miếu, tế sao linh, xã tắc. Bộ Tuyệt Nô nhiều đời có hôn nhân với vua, cũng ban hiệu là 'Cổ sồ gia'. Các quan lớn cũng được đặt chức 'Sứ giả', 'Tạo y tiên nhân', phải đề tên lên cho vua xem. Còn như bầy tôi là khanh đại phu thì cùng ngồi nằm, cùng được cùng hàng với 'Sứ giả', 'Tạo y tiên nhân' của nhà vua. Trong nước này, nhà quan lớn không làm ruộng, kẻ chỉ ngồi mà ăn có hơn vạn người, những nhà dưới phải gánh gạo, cá, muối từ xa đến cung cấp. Dân nước này ưa múa hát, trai gái các thôn ấp trong nước ngày đêm tụ nhóm, cùng nhau hát đùa. Không có kho tàng lớn, nhà nhà đều tự có kho nhỏ, gọi tên là 'phù kinh'. Người nước này sạch sẽ vui vẻ, ưa cất giấu rượu, quỳ bái chỉ bó một chân, khác với người Phù Dư, đi bộ mà như chạy. Đến tháng mười thì tế trời, người trong nước tụ hội, gọi là hội 'đông minh'. Lúc hội họp, đều tự mặc áo gắn vàng bạc gấm lụa. Quan lớn chủ tế đầu đội khăn, chỉ đội khăn mà không có gắn vật khác, quan nhỏ chủ tế thì đội khăn 'chiết phong'(9), hình như mũ 'biện'. Phía đông nước này có cái hố lớn, gọi là 'toại huyệt'(10). Tháng mười thì người trong nước tụ hội, đón thần chòi về phía đông của nước ấy mà tế, đặt chòi gỗ ở chỗ ghế thần. Không có nhà ngục, kẻ có tội thì các 'gia' bàn nghị, tội nặng thì giết, thu lấy vợ con làm nô tì. Tục nước này cưới hỏi, đã bàn bạc xong thì nhà gái làm một gian nhà nhỏ ở sau gian nhà lớn, gọi là 'nhà rể', chàng rể đến tối thì đến ngoài nhà gái, tự nói là đến đón dâu, xin được đem dâu về nhà, cứ như thế nói ba lần, cha mẹ nhà gái nghe theo mới đới đem dâu về trong gian nhà nhỏ, bên cạnh đặt tiền lụa, đến lúc sinh con đã lớn khôn mới đem vợ về nhà. Tục nước này say mê, trai gái đã thành vợ chồng rồi liền làm áo cho lúc mất. Táng hậu, dùng vàng bạc tiền của chôn hết theo người chết, chất đá làm nấm mộ, trồng tùng bách xung quanh. Ngựa của nước này đều nhỏ, nhưng leo núi nhanh. Người nước này có sức khỏe, luyện tập chiến đấu, nước Ốc Trở, Đông Uế đều thần phục. Lại có người 'tiểu thủy Mạch'. Vào lúc người Cao Câu Li dựng nước từng dựa vào đất của người 'tiểu thủy Mạch' mà ở; phía bắc huyện Tây An Bình có con sông nhỏ, chảy về phía nam đổ vào biển, một nhóm người khác của người Cao Câu Li dựa vào con sông ấy mà dựng nước, nhân đó đặt tên là 'tiểu thủy Mạch', xuất cung tốt, gọi là 'cung Mạch' vậy.
Vào đầu thời Vương Mãng, điều quân của nước Cao Câu Li để đánh rợ Hồ, nhưng không muốn đi, ép bắt họ đi, do đó đều trốn ra biên ải làm giặc cướp. Liêu Tây Đại doãn Điền Đàn đuổi đánh chúng, bị giết chết. Châu quận đổ lỗi cho vua Cao Câu Li là Đào, nhưng Nghiêm Ưu tấu rằng: "Người Mạch
phạm pháp, tội chẳng do từ Đào, tạm nên vỗ về. Nay hắn bị khép tội lớn, sợ hắn tất phản". Mãng không nghe, sai Ưu đánh Đào. Ưu dụ hẹn vua Cao Câu Li là Đào đến mà chém đi, chuyển chở đầu Đào đến Trường An. Mãng cả mừng, bố cáo thiên hạ, lại đổi tên Cao Câu Li là 'Hạ Câu Li'. Thời bấy giờ là nước phong tước Hầu. Năm thứ tám thời Quang Vũ Đế của nhà Hán, vua Cao Câu Li sai sứ chầu cống, bắt đầu được xưng Vương.
Đến giữa thời Thương, An(11), vua Cao Câu Li là Cung nhiều lần cướp quận Liêu Đông, lại vào cướp quận Huyền Thố. Liêu Đông Thái thú, Sái Phong, Huyền Thố Thái thú Diêu Quang thấy Cung gây hại cho hai quận, bèn dấy binh đánh Cung. Cung giả hàng xin hòa, do đó quân của hai quận không đánh. Cung ngầm sai quân đánh quận Huyền Thố, đốt huyện Hầu Thành, vào thành Liêu Toại, giết quan dân. Sau đó Cung lại vào lấn quận Liêu Đông, Sái Phong lại đem quân đuổi đánh Cung, quân thua mà chết.
Cung chết, con là Bá Cố lập. Giữa thời Thuận, Hoàn(12), lại vào lấn quận Liêu Đông, cướp các huyện Tân An, Cư Hương, lại đánh huyện Tây An Bình, giết Đái Phương Lệnh ở trên đường, cướp được vợ con của Lạc Lãng Thái thú. Năm Kiến Ninh thứ hai thời Linh Đế, Huyền Thố Thái thú Cảnh Lâm đánh nước ấy, bắt chém được mấy trăm đầu giặc, Bá Cố xin hàng, nội thuộc vào quận Liêu Đông. Giữa năm Gia Bình, Bá Cố xin nội thuộc vào quận Huyền Thố. Vào thời Công Tôn Độ xưng hùng miền đông ven biển, Bá Cố sai bọn 'gia' Ưu Cư, Chủ bạ Nhiên Nhân giúp Độ đánh giặc ở núi Phú Sơn, phá được chúng.
Bá Cố chết, có hai con trai, con cả là Bạt Kì, con út là Y Di Mô. Bạt Kì chẳng giỏi, người trong nước lại lập Y Di Mô làm vua. Từ thời Bá Cố về sau nhiều lần cướp quận Liêu Đông, lại thu nhận hơn năm trăm nhà rợ Hồ trốn tránh đến ở. Giữa năm Kiến An, Công Tôn Độ đem quân ra đánh phá được nước ấy, đốt cháy thôn ấp. Bạt Kì oán vì là anh mà chẳng được lập, cùng hơn ba vạn người và các quan tướng của bộ Quyên Nô đến chỗ Khang xin hàng, sai về đóng quân ở sông Phất Lưu. Rợ Hồ ở nhờ cũng phản Y Di Mô, do đó Y Di Mô lại lập nước mới, đấy là nước ngày nay Cao Câu Li ngày nay vậy. Bạt Kì bèn đến quận Liêu Đông, có con ở lại nước Cao Câu Li, nay là quan 'Cổ sồ gia' Bác Vị Cư vậy. Sau đó lại đánh quận Huyền Thố, quận Huyền Thố cùng quận Liêu Đông hợp sức đánh, đại phá quân nước ấy.
Y Di Mô không có con, thông dâm với người của bộ Quán Nô, sinh con là Vị Cung. Y Di Mô chết, lập Vị Cung làm vua. Nay vua Cao Câu Câu Li là Cung vậy. Vì ông nội tên là Cung, sinh mà đã sáng mắt, người trong nước ghét Cung, lúc lớn lên, quả nhiên hung ngược, nhiều lần cướp bóc, nước bị tàn phá. Nay vua sinh ra đã bò dưới đất, cũng trợn mắt nhìn người. Người Cao Câu Li cho là tướng người tựa như ông nội, cho nên đặt tên là Vị Cung. Vị Cung có sức khỏe, cưỡi ngựa nhanh, săn bắn giỏi. Năm Cảnh Sơ thứ hai, Thái úy Tư Mã Tuyên Vương đem quân đánh Công Tôn Uyên, Cung sai Chủ bạ Đại Gia đem mấy nghìn người đến giúp quân. Năm Chính Thủy thứ hai, Cung cướp huyện Tây An Bình. Năm thứ năm, bị U Châu Thứ sử Quán Khâu Kiêm đánh phá. Chép tại Quán Khâu Kiệm truyện.
Đông Ốc Trở tại phía đông núi lớn Cái Mã của nước Cao Câu Li, gần biển lớn mà ở. Thế đất hẹp ở phía đông bắc mà rộng rãi ở phía tây nam, dài khoảng nghìn dặm, phía bắc tiếp với nước Ấp Lâu, Phù Dư, phía nam tiếp với nước Uế Mạch. Có năm nghìn hộ, không có quân trưởng lớn, nối đời ở thôn ấp đều có cừ súy. Tiếng nói đại khái giống người Cao Câu Li, chỉ khác chút ít. Đầu thời Hán, kẻ trốn tránh người nước Yên là Vệ Mãn làm vua Triều Tiên, bấy giờ nước Ốc Trở cũng thần phục theo. Năm Nguyên Phong thứ hai thời Vũ Đế của nhà Hán, đánh nước Triều Tiên, giết cháu của Mãn là Hữu Cừ,
chia nước ấy lập thành bốn quận(13), lấy thành Ốc Trở lập ra quận Huyền Thố. Sau lại bị người Di Mạch xâm lấn, dời quận đến phía tây bắc nước Cao Câu Li, nay gọi là phủ cũ của quận Huyền Thố vậy. Nước Ốc Trở lại thuộc vào quận Lạc Lãng. Nhà Hán thấy đất đai xa rộng, ở tại phía đông núi lớn Đan Đan, bèn chia đặt quan Đông bộ Đô úy, trị ở thành Bất Nại, trông coi bảy huyện ở phía đông núi. Bấy giờ nước Ốc Trở cũng đều lập thành huyện. Năm thứ sáu thời Quang Vũ Đế của nhà Hán, bớt các quận biên giới, đó đó quan Đông bộ Đô úy bị bãi. Sau đó đều lấy cừ súy trong các huyện ấy phong làm Huyện hầu, các huyện Bất Nại, Hoa Lệ, Ốc Trở đều nước phong tước Hầu. Người Di Địch lại đánh phá lẫn nhau, riêng Bất Nại Hầu đến nay vẫn đặt các quan Công tào, Chủ bạ, đều là người Uế làm quan ấy. Các cừ súy của thôn ấp ở nước Ốc Trở đều tự xưng là 'tam lão', đấy là pháp tắc của quận huyện vậy. Nước nhỏ thì bị ép vào giữa nước lớn, rút cuộc thần thuộc nước Cao Câu Li. Người Cao Câu Li lại đặt quan lớn trong đấy làm sứ giả, sai chọn thủ lĩnh, lại sai quan Đại gia coi xét việc thu tô thuế, vải Mạch, cá, muối, các vật trong biển, gánh từ nơi vạn dặm mà đem đến, lại chở gái đẹp đến làm nô tì, xem họ như nô bộc.
Đất đai nước ấy màu mỡ, dựa vào núi hướng ra biển, hợp với ngũ cốc, giỏi làm ruộng. Tính người thẳng thắn cứng cỏi, ít đi xe ngựa, giỏi cầm mâu đánh bộ. Ăn uống, chỗ ở, quân áo, lễ tiết có giống người Cao Câu Li. Ngụy lược chép: Phép tắc cưới hỏi ở nước ấy là con gái đến mười tuổi đã được hứa gả. Nhà rể đến đón về, nuôi lớn thì trở thành vợ. Đến lúc lớn, lại về nhà gái. Nhà gái đòi tiền, đem tiền xong mới cho về lại nhà rể. Phép táng thì làm quách bằng gỗ lớn, dài hơn mười trượng, mở một đầu làm hộ. Người vừa chết thì đều táng trước, đợi lúc thân rữa, da thịt mất hết mới lấy xương đem vào quách, cả nhà đều cùng một quách, đẽo gỗ như hình người sống, mấy người táng chết theo. Lại có cái hũ sứ, đặt gạo ở trong, treo hũ ấy ở bên quách.
Quán Khâu Kiệm đánh nước Cao Câu Li, vua Cao Câu Li là Cung trốn đến nước Ốc Trở, bèn đem quân đến đánh. Các thôn ấp ở Ốc Trở đều bị phá, bắt chém hơn mấy trăm đầu giặc, Cung lại trốn đến đất Bắc Ốc Trở. Bắc Ốc Trở còn có tên là Trí Câu Lâu, cách Nam Ốc Trở hơn tám trăm dặm, phong tục nam bắc đều giống nhau, tiếp với nước Ấp Lâu. Người Ấp Lâu ưa cưỡi thuyền đi cướp bóc, người Bắc Ốc Trở sợ họ; vào mùa hạ thường ở trong hang sâu trên vách núi mà giữ gìn, đến mùa đông băng đóng thuyền không đi được lại xuống ở tại thôn ấp. Vương Kì sai quân đi riêng đuổi đánh Cung, đến cùng phía đông. Hỏi người già nước ấy rằng: "Miền đông ven biển này có người khác không"? Người già nói là người trong nước từng cưỡi thuyền đi bắt cá, gặp gió thổi mấy chục ngày, dạt về phía đông đến một hòn đảo, trên ấy có người, tiếng nói không hiểu nhau, phong tục thì thường đến tháng bảy lại lấy con gái trinh ném xuống biển. Lại nói là có một nước cũng ở tại giữa biển, chỉ có gái mà chẳng có trai. Lại nói là lấy được một cái áo vải, từ giữa biển trôi đến, thân áo như áo của người Trung Quốc, hai tay áo dài ba thước. Lại nói là lấy được một con thuyền vỡ theo sóng mà trôi vào bên bờ biển, trên thuyền có một người mà giữa cổ lại có mặt, bắt sống được người đó, nói chuyển chẳng hiểu được nhau, rồi không ăn mà chết. Đất ấy đều ở giữa biển phía đông của nước Ốc Trở.
Nước Ấp Lâu tại phía đông bắc nước Phù Dư hơn nghìn dặm, kề bờ biển lớn, phía nam tiếp với nước Bắc Ốc Trở, chưa biết phía bắc nước ấy đến tận chỗ nào. Đất đai nhiều núi hiểm, dáng người như người Phù Dư, tiếng nói lại không giống với người Phù Dư, Cao Câu Li. Có ngũ cốc, trâu, ngựa, vải gai. Người phần nhiều khỏe mạnh. Không có quân trưởng lớn, thôn ấp đều có cừ súy. Ở giữa rừng núi, thường đào hang mà ở. Nhà lớn sâu đến chín tầng, cho rằng càng sâu càng tốt. Khí hậu lạnh, khác với nước Phù Dư. Phong tục ưa nuôi heo, ăn thịt heo, lấy da làm áo. Mùa đông lấy mỡ heo bôi lên người, dày đến mấy phân để chống gió lạnh. Mùa hạ thì cởi trần, lấy một thước vải ẩn trước sau để che thân
thể. Người nước này không sạch sẽ, làm nhà xí ở chính giữa, dân vây quanh mà ở. Cây cung dài bốn thước, chắc như nỏ, cây tên làm bằng gỗ cây hộ, dài một thước tám tấc, lấy đá xanh làm mũi tên, tức nước Túc Thận thời xưa vậy. Giỏi bắn tên, người bắn tất trúng. Mũi tên tẩm độc, người trúng đều chết. Xuất ngọc đỏ, chồn tốt, nay gọi là chồn Ấp Lâu vậy. Từ thời Hán đến nay, thuộc vào nước Phù Dư, người Phù Dư đòi tô thuế rất nặng, cho nên giữa năm Hoàng Sơ làm phản lại. Người Phù Dư mấy lần đánh, nhưng người Ấp Lâu dẫu ít nhưng ở tại núi hiểm, người xung quanh đều sợ cung tên của họ, rút cuộc chẳng phục được. Người nước này lại cưỡi thuyền đi cướp bóc, nước bên cạnh cũng lo lắng. Người Đông Di ăn uống đều dùng mâm chén, riêng Ấp Lâu thì không, phong tục rất không có kỉ cương như vậy.
Nước Uế phía nam tiếp với nước Thần Hàn, phía bắc tiếp với nước Cao Câu Li, Ốc Trở, phía đông liền bờ biển lớn, nay phía đông của đất Triều Tiên đều là đất của nước ấy vậy. Hai vạn hộ. Ngày xưa Cơ Tử đã đến Triều Tiên, chép ra tám điều giáo hóa để dạy dân ấy, do đó nhà không đóng cửa mà dân cũng không bị cướp. Hơn bốn mươi đời sau, vua Triều Tiên là Chuẩn tiếm hiệu xưng Vương. Bọn Trần Thắng nổi dậy, thiên hạ phản nhà Tần, do đó mấy vạn người dân các nước Yên, Tề, Triệu tránh loạn mà đến đất Triều Tiên. Người nước Yên là Vệ Mãn bèn búi tóc mặc áo của người Di, lại đến làm vua ở nước ấy. Vũ Đế của nhà Hán đánh diệt nước Triều Tiên, chia nước ấy lập thành bốn quận. Từ đó về sau, người Hồ, người Hán phân biệt. Không có quân trưởng lớn, từ thời Hán đến nay, quan lại có chúa ấp được phong tước Hầu, quan 'Tam lão' trông coi các nhà dưới. Người già cả của nước ấy tự bảo rằng dân mình cùng chủng với người Cao Câu Li. Tính người thật thà, biết hổ thẹn, không phục người Cao Câu Li. Tiếng nói, phong tục đại khái giống với người Cao Câu Li, nhưng quần áo có khác. Trai gái đều mặc áo có cúc, con trai tán bạc thành tấm rộng mấy thước để làm trang sức. Từ núi lớn Đan Đan đến phía tây thuộc quận Lạc Lãng, bảy huyện từ núi đến phía đông thì do quan Đô úy trông coi, đều lấy người Uế làm dân hộ. Sau đó bỏ quan Đô úy, phong tước Hầu cho cừ súy của dân ấy, nay người Uế ở thành Bất Nại đều là chủng người ấy. Cuối thời Hán lại thuộc vào nước Cao Câu Li. Phong tục coi trọng sông núi, sông núi đều có bộ phận, không được tự ý dẫm chân vào. Người cùng họ không lấy nhau. Nhiều kị húy, nếu bệnh tật chết chóc đều ném vứt ở nhà cũ, rồi làm nhà mới. Có vải gai, tằm dâu để làm gấm. Hiểu cách xem sao, biết trước được năm nào đầy đủ hoặc thiếu thốn. Không dùng ngọc làm vật báu. Thường đến tháng mười thì tế trời, ngày đêm uống rượu múa hát, đặt tên là 'vũ thiên'. Lại tế hổ cho là thần. Nếu thôn ấp đánh lấn nhau liền đòi phạt trâu ngựa, nhân khẩu, gọi tên là 'trách họa'. Kẻ giết người thì đền mạng. Ít cướp bóc. Làm cây mâu dài ba trượng, có cây phải dùng mấy người cùng nắm để đánh trên bộ. Cây cung làm bằng gỗ đàn của quận Lạc Lãng là xuất từ đất của người Uế. Biển xuất ra da cá, đất này có nhiều báo lông vằn, lại xuất ngựa 'quả hạ', vào thời Hiến Đế của nhà Hán từng dâng ngựa ấy.
Thần là Tùng Chi xét: Ngựa 'quả hạ' cao ba thước, cưỡi ngựa này mà đến dưới cây quả thì không đi, cho nên gọi là ngựa 'quả hạ'. Thấy chép trong Bác vật chí, Ngụy đô phú.
Năm Chính Thủy thứ sáu, Lạc Lãng Thái thú Lưu Mậu, Đái Phương Thái thú Cung Tuân lĩnh dân Đông Uế thuộc vào nước Cao Câu Li, lại đem quân đánh người Uế, bọn Bất Nại Hầu đem cả ấp xin hàng. Năm thứ tám, đến cửa khuyết chầu cống, hạ chiếu bái làm Bất Nại Vương. Làm nhà ở lẫn trong dân, bốn mùa đến quận chầu gặp. Hai quận sai người đưa xe đi đòi tô thuế, cung cấp lao dịch, đãi như dân thường.
Chú thích
(1) Lưu Sa: chỉ bãi đất bồi của ven sông suối.
(2) Ngũ cốc: tức năm loại lúa hạt, thời xưa các sách chép khác nhau; Trịnh Huyền chú Chu lễ cho rằng ngũ cốc là cây gai, lúa nếp, lúc tắc, lúa mạch, hạt đậu. Triệu Kì chú Sở từ cho rằng ngũ cốc là lúa nước, lúa nếp, lúa tắc, lúa mạch, hạt đậu.
(3) Ngũ quả: thời xưa chỉ năm loại cây quả là đào, hạnh, mận, táo, giẻ.
(4) Lục súc: thời xưa chỉ sáu con vật được con người chăn nuôi là ngựa, trâu, dê, heo, chó, gà.
(5) Các 'gia': chỉ các quan theo tên lục súc như Mã gia, Ngưu gia, Trư gia, Cẩu gia.
(6) Kinh đô: chỉ thành Trường An, Lạc Dương.
(7) Không đủ làm đầy bụng miệng: ý nói thiếu đói, không no đủ.
(8) Sao linh, xã tắc: sao linh, còn gọi là sao thiên điền, sao long được xem là biểu tượng của thần của nghề nông. Xã tắc chỉ thần đất và thần lúa.
(9) Mũ 'chiết phong': một loại mũ của người Cao Câu Li, giống mũ biện, không rõ hình dạng.
(10) 'Toại huyệt': chỉ cái hố lớn tự nhiên hay được đào, có lẽ là có nguồn gốc từ lối sống trong hang động và đào hầm để tránh gió lạnh thời xưa.
(11) Thương, An: chỉ Thương Đế, An Đế của nhà Hán.
(12) Thuận, Hoàn: chỉ Thuận Đế, Hoàn Đế của nhà Hán.
(13) Bốn quận: chỉ bốn quận sau khi nhà Hán diệt nước Triều Tiên lập ra là Huyền Thố, quận Lạc Lãng, quận Lâm Đồn, quận Chân Phiên.

TRUYỆN VỀ CÁC DÂN TỘC SÔNG PHÍA ĐÔNG (TIẾP)
Nước Hàn tại phía nam quận Đái Phương, đông tây lấy biển làm giới hạn, phía nam tiếp với nước Oa, đất rộng bốn nghìn dặm. Có ba chủng, một là Mã Hàn, hai là Thần Hàn, ba là Biện Hàn.
Thần Hàn là nước Hàn thời xưa vậy. Mã Hàn ở tại phía tây, Dân nước này tụ thành thôn ấp, trồng trọt, biết tằm dâu, làm vải gấm. Đều có cừ súy, lớn thì tự gọi là 'Thần trí', thứ nữa là 'Ấp tá', tản mát ở giữa sông núi, không có thành quách. Có nước Viên Tương, nước Mâu Thủy, nước Tang Ngoại, nước Tiểu Thạch Sách, nước Đại Thạch Sách, nước Ưu Hưu Mâu Trác, nước Thần Phần Cô, nước Bách Tế, nước Tốc Lô Bất Tư, nước Nhật Hoa, nước Cổ Đản Giả, nước Cổ Li, nước Nộ Lam, nước Nguyệt Chi, nước Tư Li Mâu Lô, nước Sách Vị Can, nước Cổ Viên, nước Mạc Lô, nước Ti Li, nước Chiêm Li Ti, nước Thần Hấn, nước Chi Xâm, nước Cẩu Lô, nước Ti Di, nước Giám Hề Ti Li, nước Cổ Bồ, nước Trí Lợi Cúc, nước Nhiễm Lộ, nước Nghê Lâm, nước Tứ Lô, nước Nội Ti Li, nước Cảm Hề, nước Vạn Lô, nước Tích Ti Li, nước Cữu Tư Ô Đán, nước Nhất Li, nước Bất Di, nước Chi Bán, nước Cẩu Sách, nước Tiệp Lô, nước Mâu Lô Ti Li, nước Thần Tô Đồ, nước Bá Lô, nước Cổ Lạp, nước Giám Sách Bán, nước Thần Vân Tư, nước Như Lai Ti Li, nước Sở Sơn Đồ Ti Li, nước Nhất Nan, nước Cẩu Hề, nước Bất Vân, nước Bất Tư Phần Tà, nước Viên Trì, nước Càn Mã, nước Sở Li, cả thảy hơn năm mươi nước. Nước lớn thì có hơn vạn nhà, nước nhỏ thì có mấy nghìn nhà, cả thảy là hơn mười vạn nhà. Thần Vương (1) trị ở nước Nguyệt Chi. 'Thần trí' đặt hiệu là Hoặc Gia Ưu Hô Thần Vân Khiển Chi Báo An Tà Địch Chi Phần Thần Li Nghê Bất Liệt Câu Tà Tần Chi Liêm. Quan lại có 'Nguy suất thiện', 'Ấp quân', 'Quy nghĩa hầu', 'Trung lang tướng', 'Đô úy', 'Bá trưởng'.
Vua là Chuẩn đã tiếm hiệu xưng Vương, bị kẻ trốn tránh người nước Yên là Vệ Mãn đánh lấy, Ngụy lược chép: Ngày xưa dòng dõi của Cơ Tử làm vua Triều Tiên, thấy nhà Chu suy, nước Yên tự xưng Vương muốn sang đông chiếm đất, do đó vua Triều Tiên cũng tự xưng làm Vương, muốn dấy binh đón đánh quân Yên để tôn nhà Chu. Quan Đại phu tên là Lễ can ngăn, mới thôi. Sai Lễ sang tây khuyên vua Yên, vua Yên dừng mà không đánh. Sau đó con cháu kiêu ngược, vua Yên bèn sai tướng là Tần Khai đánh biên giới phía tây của nước ấy, chiếm đất hơn hai nghìn dặm, đến bến Mãn Phiên làm ranh giới, do đó nước Triều Tiên bèn suy. Đến lúc nhà Tấn chiếm cả thiên hạ, sai Mông Điềm đắp trường thành, đến quận Liêu Đông. Bấy giờ vua Triều Tiên là Phủ lập, sợ quân Tần đánh úp, bèn xin thần phục nhà Tần nhưng không chịu chầu gặp. Phủ chết, con là Chuẩn lập, được hơn hai mươi năm thì vừa lúc Trần, Hạng(2) nổi dậy, thiên hạ loạn, dân Yên, Tề, Triệu sầu khổ, dần dần trốn đến chỗ Chuẩn, Chuẩn bèn đặt họ ở tại biên giới phía tây. Đến lúc nhà Hán phong Lô Oản làm Yên Vương, Triều Tiên cách nước Yên ở sông Phối. Đến lúc Oản phản, vào đất Hung Nô, vừa lúc người nước Yên là Vệ Mãn trốn tránh, mặc áo Hồ, sang đông vượt sông Phối đến chỗ Chuẩn hàng, xin Chuẩn cho ở tại biên giới phía tây, do đó người trốn tránh Trung Quốc làm phên dậu của nước Triều Tiên. Chuẩn tin dùng Mãn, bái làm Bác sĩ, ban cho ngọc khuê, phong ấp rộng trăm dặm, sai giữ biên giới. Mãn bèn dụ người trốn tránh, quân ngày càng đông, rồi sai người lừa báo cho Chuẩn, nói là mười cánh quân Hán sắp đến, xin vào làm Túc vệ, do đó về đánh Chuẩn. Chuẩn đánh với Mãn, không địch được.
đem tả hữu cung nhân chạy vào biển, trú ở đất Hàn, tự hiệu là Hàn Vương.
Ngụy lược chép: Con và người thân của Chuẩn ở tại nước ấy, nhân đó đổi họ là Hàn. Chuẩn làm vua ở giữa đất ấy, không qua lại với nước Triều Tiên.
Sau đó diệt vong, ngày nay người Hàn vẫn có người cúng tế Chuẩn. Vào thời Hán thuộc quận Lạc Lãng, bốn mùa chầu gặp.
Ngụy lược chép: Lúc đầu vào lúc Hữu Cừ chưa bị phá, Thừa tướng của nước Triều Tiên là Lịch Khê Khanh can ngăn Hữu Cừ nhưng không nghe, bèn sang đông đến nước Hàn, bấy giờ dân đi theo ra ở đến hơn hai nghìn nhà, cũng không qua lại cống nạp với nước Triều Tiên. Đến những năm Địa Hoàng thời Vương Mãng, có người là Liêm Tư Trác làm cừ súy của nước Thần Hàn, nghe nói Lạc Lãng đất đai đẹp, ngườu dân vui vẻ, muốn trốn đến hàng. Vừa ra khỏi thôn ấp, thấy một chàng trai đang đuổi bắt chim trĩ ở trong ruộng, tiếng nói của anh ta không phải tiếng Hàn. Hỏi anh ta, anh ta đáp: "Ta là người Hán, tên là Hộ Lai, bọn ta có một nghìn năm trăm người chặt cây trong thôn, bị người Hàn đánh bắt được, đều cắt tóc làm nô, đã ba năm rồi". Trác nói: "Ta sắp đến hàng quận Lạc Lãng của nhà Hán; các ngươi muốn đi không"? Hộ Lai nói: "Được". Trác nhân đó đem Hộ Lai ra đến huyện Hàm Tư, quan huyện báo cho quận, quận liền lấy Trác làm người phiên dịch, lại từ huyện Sầm Trung cưỡi thuyền lớn vào đất Thần Hàn, đón lấy Hộ Lai, bọn đi theo chỉ được nghìn người, năm trăm người trong số đó đã chết. Bấy giờ Trác bèn bảo người Thần Hàn rằng: "Các người mau trả năm trăm người kia, nếu không thì quận Lạc Lãng sẽ đem vạn quân cưỡi thuyền đến đánh các ngươi". Người Thần Hàn nói: "Năm trăm người kia đã chết, bọn ta sẽ đến đền bù vậy". Bèn đem một vạn năm nghìn người Thần Hàn, một vạn năm nghìn thất vải Biện Hàn để đền, Trác thu lấy rồi về. Quận khen Trác có công nghĩa, ban cho khăn mũ, ruộng vườn, con cháu mấy đời sau đến năm Diên Quang thứ tư thời An Đế lại bị tước bỏ.
Cuối thời Hoàn, Linh(3) người Hàn, Uế lớn mạnh, quận huyện không ngăn được, dân chúng phần nhiều trốn vào nước Hàn. Giữa năm Kiến An, Công Tôn Khang chia đất từ huyện Đồn Hữu đến cõi hoang phía nam mà lập ra quận Đái Phương, sai bọn Công Tôn Mô, Trương Xưởng thu tập dân lưu tán, đem quân đánh người Hàn, Uế, do đó dân ấy ra hàng, từ đó người Oa, Hàn bèn thần thuộc vào quận Đái
Phương. Giữa năm Cảnh Sơ, Minh Đế ngầm sai Đái Phương Thái thú Lưu Hân, Lạc Lãng Thái thú Tiên Vu Tự vượt biển bình hai quận, ban ấn thao cho 'Ấp quân', 'Thần trí' các ấp của nước Hàn, sau đó ban cho 'Ấp trưởng'. Phong tục ưa mặc áo đội mũ, các nhà đến quận chầu gặp đều mặc áo mũ, tự đeo ấn thao mặc áo mũ đến hơn nghìn người. Bộ tòng sự là Ngô Lâm thấy quận Lạc Lãng vốn trông coi cả nước Hàn, bèn chia cắt tám nước của người Hàn nhập vào quận Lạc Lãng, quan lại dịch tiếng có giống khác, 'Thần trí' khích động dân Hàn oán giận, đánh trại Kì Li của quận Đái Phương. Bấy giờ Thái thú Cung Tuân, Lạc Lãng Thái thú Lưu Mậu đem quân đánh người Hàn, Tuân chết trận, quân của hai quận bèn phá nước Hàn.
Phong tục ít kỉ cương, nước dẫu có chủ súy nhưng ở lẫn trong thôn ấp, không thể ngăn chế lẫn nhau, không có lễ quỳ bái. Nhà ở làm vách đất mái cỏ, hình như nấm mồ, làm cửa ở trên, cả nhà cùng ở trong ấy, không phân biệt già trẻ trai gái. Phép táng có quách nhưng không có quan, không biết cưỡi trâu ngựa, trâu ngựa chết đầy trên đường. Lấy ngọc trai làm vật báu, hoặc lấy áo làm bằng lông chim trĩ làm trang sức, hoặc đeo ngọc ở cổ, đeo vòng tai, không lấy vàng bạc gấm lụa làm vật quý. Tính người cứng cỏi, đầu trần lộ chỏm, mặc áo choàng, chân đi giày dép da. Trong nước có thành quách mà nhà quan sai đắp, những kẻ khỏe mạnh trẻ tuổi đều đục da thịt, lấy dây lớn xâu qua, lại lấy cái kim gỗ dài khoảng một trượng để xâu qua, suốt ngày hô hoán trổ sức, không cho là đau, mà lại còn khuyến khích làm, lại cho rằng thế là khỏe. Thường đến cuối tháng năm thì cày trồng xong, bèn tế quỷ thần, tụ hội múa hát, ngày đêm uống rượu không nghỉ. Lúc múa, mấy chục người cùng nối theo nhau, dẫm đất cúi ngửa, tay chân ứng nhịp, tiết tấu có lúc tựa múa chuông. Tháng mười thì việc cấy trồng xong, lại cúng tế uống rượu múa hát như trước. Tin thờ quỷ thần, trong mỗi nước đều lập một người chủ tế thần trời, gọi là 'thiên quân'. Lại nữa các nước đều có ấp riêng gọi là 'tô đồ'. Dựng một cây gỗ lớn, treo chuông trống lên đấy để thờ quỷ thần. Những người trốn tránh đến chỗ ấy đều không cho quay về. Ưa làm giặc, lập nghĩa 'tô đồ', có chỗ giống đạo Phù Đồ(4) nhưng việc làm thiện ác có khác. Phía bắc gần các quận huyện(5) lại hiểu biết lễ tục, nơi xa xôi lại như bọn tù ngục nô tì tụ tập. Không có các vật báu khác. Cầm thú cây cỏ đại khái giống với Trung Quốc. Xuất cây giẻ lớn, lớn như cây lê. Lại xuất gà đuôi nhỏ, đuôi đều dài hơn năm thước. Đàn ông nước này đều xăm mình. Lại có người Hồ của chân quận ở tại trên đảo lớn giữa biển tây của nước Mã Hàn, người này hơi thấp bé, tiếng nói không giống với người Hàn, đầu tóc đều giống người Tiên Ti nhưng áo lại khác, ưa nuôi trâu và heo. Mặc áo phần trên mà không che dưới thân, qua loa như cởi trần. Cưỡi thuyền qua lại mua bán giữa nước Hàn.
Thần Hàn tại phía đông Mã Hàn, người già cả truyền đời tự nói rằng dân mình là người trốn tránh việc lao dịch của nhà Tần mà đến nước Hàn, người Mã Hàn cắt đất phía đông mà trao cho. Có thành rào. Tiếng nói không giống với người Mã Hàn, gọi nước là 'bang', gọi cung là 'hồ', gọi giặc là 'khấu', uống rượu gọi là 'hành thương', có giống người Tần, không chỉ giống tiếng nói của người Yên, Tề mà thôi. Gọi người quận Lạc Lãng là 'a tàn'; người phương đông gọi người ta là 'a', tức gọi người quận Lạc Lãng vốn là 'kẻ rời rạc' vậy. Nay có người lại gọi họ là người Tần Hàn. Lúc đầu có sáu nước, dần dần chia thành mười hai nước.
Biện Hàn cũng có mười hai nước, lại có các ấp nhỏ khác, đều có cừ súy, lớn thì gọi là 'Thần trí', nhỏ hơn là 'Sát hề', thứ nữa là 'Ấp tá'. Có nước Dĩ Đế, nước Bất Tư, nước Biện Thần Di Li Di Đống, nước Biện Thần Tiếp Đồ, nước Cần Kì, nước Nan Di Li Di Đống, nước Biện Thần Cổ Tư Di Đống, nước Biện Thần Cổ Thuần Thị, nước Nhiễm Hề, nước Biện Thần Bán Lộ, nước Biện Nhạc Nô, nước Biện Quân Di, nước Biện Thần Di Ô Tà Mã, nước Như Trạm, nước Biện Thần Cam Lộ, nước Lô Lộ, nước Châu Tiên, nước Biện Thần Cẩu Tà, nước Biện Thần Tẩu Tào Mã, nước Biện Thần An Tà, nước Biện
Thần Độc Lô, nước Tư Lô, nước Ưu Do. Biện Hàn, Thần Hàn hợp lại là hai mươi tư nước, nước lớn thì có bốn, năm nghìn nhà, nước nhỏ thì có sáu, bảy trăm nhà, cả thảy bốn, năm vạn hộ. Trong đó có mười hai nước thuộc Thần Vương. Thần Vương thường dùng người Mã Hàn làm vua, nối đời thay nhau. Thần Vương không được tự lập làm Vương.
Ngụy lược chép: Rõ ràng Thần Vương là dân lưu tán vậy, cho nên bị người Mã Hàn ngăn chế.
Đất đai màu mỡ, hợp ngũ cốc và lúa nước, biết dâu tằm, làm vải mịn, cưỡi xe trâu ngựa. Lễ tục cưới hỏi, trai gái có chia biệt. Lấy lông chim lớn để táng theo người chết, ý là muốn cho người chết được bay cao.
Ngụy lược chép: Người nước này làm nhà lấy nhiều cây gỗ xếp liền, có giống nhà ngục vậy.
Nước này có sắt, người Hàn, Uế, Oa đều đến thu lấy. Đồ trao đổi mua bán đều dùng sắt, như Trung Quốc dùng tiền, lại lấy sắt cung cấp cho hai quận. Tục ưa múa hát uống rượu. Có đàn tì, hình giống đàn trúc, gảy thì cũng có âm khúc. Sinh con liền lấy đá ép đầu trẻ, muốn cho đầu nhỏ. Nay người Thần Hàn đều đầu nhỏ. Trai gái giống người Oa, cũng xăm mình. Giỏi đánh trên bộ, binh khí giống với người Mã Hàn. Phong tục lúc đi mà gặp nhau thì đều nhường đường.
Người Biện Hàn ở lẫn với người Thần Hàn, cũng có thành quách. Áo quần, nhà ở cũng giống với người Thần Hàn. Tiếng nói luật tục cũng giống nhau nhưng cúng tế quỷ thần có khác. Nhà bếp đều đặt ở phía tây nhà. Nước Độc Lô tiếp với người Oa. Mười hai nước cũng có vua, dáng người đều to lớn, áo quần sạch đẹp, để tóc dài. Cũng làm khăn rộng bằng vải mịn. Phép tắc rất nghiêm ngặt.
Người Oa tại giữa biển lớn phía đông nam của quận Đái Phương, dựa vào núi đảo mà lập nước ấp. Lúc trước có hơn trăm nước, vào thời Hán có nước đến chầu gặp, ngày nay chỉ có ba mươi nước sai sứ giả qua lại. Từ châu quận đến nước Oa phải men theo bờ vượt biển mà đi, qua nước Hàn, sang đông sang sang nam, đến nước Cẩu Tà Hàn ở bờ bắc, qua hơn bảy nghìn dặm, lại bắt đầu vượt một vùng biển, đi hơn nghìn dặm đến thì nước Đối Mã. Quan lớn của họ gọi là 'Ti cẩu', phó là 'Ti nô mẫu li'.Ở nơi đảo xa, đất rộng hơn bốn trăm dặm, đất đai hiểm trở, nhiều rừng sâu, đường lối nhỏ bé gập ghềnh. Có hơn nghìn hộ, không có ruộng tốt, ăn vật biển mà sống, cưỡi thuyền đi lại nam bắc trao đổi. Lại về phía nam qua một vùng biển dài hơn nghìn dặm, gọi là 'biển rộng', đến một nước lớn, quan lại cũng gọi là 'Ti cẩu', phó là 'Ti nô mẫu li'. Đất rộng ba trăm dặm, nhiều rừng rậm tre gỗ, có khoảng ba nghìn nhà, đều có ruộng đất, nhưng làm ruộng vẫn không đủ ăn, cũng qua lại nam bắc trao đổi. Lại qua một vùng biển nữa, hơn nghìn dặm thì đến nước Mạt Lô, có hơn bốn nghìn nhà, ở gần núi biển, cây cỏ sum suê, đi lại chẳng thấy người. Ưa bắt sò cá, nước chẳng kể sâu nông, đều ngụp lăn mà bắt lấy. Đi bộ về phía đông năm năm trăm dặm thì đến nước Y Đô, quan lại gọi là 'Nhĩ chi', phó là 'Tiết mô cô', 'Bính cừ cô'. Có hơn nghìn nhà, nhiều đời có vua, đều thần thuộc vào nước Nữ Vương, quan lại của châu quận qua đây thường trú ở đấy. Đi về phía đông nam trăm dặm thì đến nước Nô, quan lại gọi là 'Hủy mã cô', phó là 'Ti nô mẫu li', có hơn hai vạn nhà. Đi về phía đông trăm dặm thì đến nước Bất Nhĩ, quan lại gọi là 'Đa mô', phó là 'Ti nô mẫu li' có hơn nghìn nhà. Phía nam đi đường thủy hai mươi ngày thì đến nước Đầu Mã , quan lại gọi là 'Di di', phó là 'Di di na lợi', có khoảng hơn năm vạn nhà. Phía nam đi đường thủy mười ngày, đi đường bộ một tháng thì đến nước Tà Mã Nhất, là kinh đô của nước Nữ Vương vậy. Quan lại có 'Y chi mã', thứ là 'Di mã thăng', thứ là 'Di mã hoạch chi', thứ nữa là 'Nô khuê đê', có khoảng hơn bảy vạn hộ. Từ nước Nữ Vương lên phía bắc, số hộ nhà và đường lối
không chép qua được, các nước bên cạnh còn lại thì xa lánh, không được biết rõ. Lại có nước Tư Mã, lại có nước Dĩ Bách Chi, lại có nước Y Tà, lại có nước Đô Chi, lại có nước Di Nô, lại có nước Hảo Cổ, lại có nước Bất Hô, lại có nước Thư Nô, lại có nước Đối Tô, lại có nước Tô Nô, lại có nước Hô Ấp, lại có nước Hoa Tô Nô, lại có nước Quỷ, lại có nước Vi Ngô, lại có nước Quỷ Nô, lại có nước Tà Mã, lại có nước Cung Thần, lại có nước Ba Lợi, lại có nước Chi Duy, lại có nước Ô Nô, lại có nước Nô, đấy là các nước xa nhất của nước Nữ Vương vậy. Phía nam có nước Cẩu Nô, đàn ông làm vua, quan lại có 'Cẩu cổ trí ti cẩu', không thần thuộc nước Nữ Vương. Từ châu quận đi hơn một vạn hai nghìn dặm mới đến nước Nữ Vương.
Đàn ông không kể lớn bé đều vẽ mặt xăm mình. Từ xưa đến nay, sứ giả của họ đến Trung Quốc đều tự xưng là 'Đại phu'. Con của vua Thiếu Khang nhà Hạ Hậu(6) được phong ở đất Cối Kê, cắt tóc xăm mình để tránh cái hại của giao long(7). Nay người Oa ven sông ngụp lặn bắt cá hến, xăm mình cũng là để ngăn cá lớn dưới nước, sau đó dần dần để trang sức. Các nước xăm mình đều khác nhau, có nước xăm bên trái, có nước xăm bên phải, hoặc hình lớn hoặc hình nhỏ, sang hèn đều có khác. Xét vị trí của nước ấy thì ứng tại phía đông của huyện Đông Dã quận Cối Kê vậy. Tục nước này không dâm dật, con trai đều để chỏm, lấy vải gấm quấn đầu. Mặc áo khăn ngang, nhưng bó buộc liền nhau, qua loa không may vá. Đàn bà búi tóc bó chỏm, làm áo như áo cộc, xuyên lỗ ở giữa, xỏ đầu mà mặc. Trồng lúa nếp, gai sợi, dâu tằm, cây sợi. Xuất sợi gai mịn, gấm mềm. Đất này không có trâu, ngựa, hổ, báo, dê, chim khách. Quân dùng mâu, khiên, cung gỗ. Cung gỗ dưới ngắn trên dài, lấy tre nứa hoặc sắt thép, xưng thú làm mũi tên, không giống với người quận Đam Nhĩ, Chu Nhai. Khí hậu nước Oa ấm áp, mùa đông mụa hạ thì ăn rau sống, đều đi chân trần. Có nhà ở, cha mẹ anh em ngồi năm khác chỗ, lấy nước sơn đỏ son bôi lên thân như người Trung Quốc dùng son phấn vậy. Ăn uống dùng chén đĩa, lấy tay bốc mà ăn. Lúc chết, táng dùng quách mà không có quan, đắp đất làm nấm mồ. Vừa chết thì để tang hơn mười ngày, lúc ấy không ăn thịt, chủ tang khóc lóc, người khác lại múa hát uống rượu. Đã táng xong, cả nhà lại xuống giữa sông tắm rửa để cho sạch sẽ.
Có người qua lại vượt biển đến Trung Quốc, thường sai một người không được chải đầu, không được bắt chấy rận, quần áo dơ bẩn, không được ăn thịt, không được gần gũi đàn bà như người để tang vậy, gọi là 'Trì suy'. Nếu người đi yên lành thì cấp tiền của cho người nhà; nếu người đi bệnh tật, bị nạn hại thì muốn giết người đó, gọi là 'Trì suy bất cẩn'. Xuất ngọc trai, ngọc xanh. Núi ở đấy có quặng đất đỏ, có cây là cây nam, cây thữ, cây dự chương, cây nhựu lịch, cây đầu cương, cây ô hiệu, cây phong hương, có cây tre nhỏ, cành đào. Có cây khương, cây quất, cây tiêu, cây nhương hà, không biết mùi vị ra sao. Có vượn khỉ, chim trĩ đen. Phong tục làm việc đi lại liền bàn luận, đốt xương thú mà bói để đoán tốt xấu, báo cho người muốn bói trước, cách bố như bói mai rùa, xem vết cháy để đoán điềm. Lúc hội họp thì cùng ngồi, cha con trai gái không phân biệt. Tính người ưa uống rượu,
Ngụy lược chép: Tục nước này không biết năm tháng mùa tiết, chỉ biết mùa xuân thì trồng trọt, mùa thu thì gặt hái mà ghi năm tháng.
gặp quan lớn đáng kính thì chỉ chắp tay để thay cho quỳ bái. Người nước này sống lâu, có kẻ đến trăm tuổi, hoặc tám, chín mươi tuổi. Phong tục thì quan lớn của nhà nước đều có bốn, năm vợ, nhà dưới chỉ có hai, ba vợ. Đàn bà không dâm dật, không ghen tị. Không trộm cướp, ít tranh tụng. Người phạm pháp, nhẹ thì bắt thu vợ con, nặng thì giết cả nhà. Còn họ hàng cao thấp đều có thứ bậc, đủ để thần phục nhau, thu tô thuế. Có nước Để Các, nước này có chợ, có lúc trao đổi có lúc không, sai quan lớn người Oa coi xét. Từ nước Nữ Vương lên phía bắc, đặt riêng một quan lớn để xem xét các nước, các nước đều e sợ viên quân ấy. Thường trị ở nước Y Đô, ở trong nước giống quan Thứ sử vậy. Vua sai sứ đến kinh đô, quận Đái Phương, các nước Hàn. Đến lúc châu quận sai sứ đến nước Oa, đều đến bờ
biển truyền báo, đem thư từ và các vật ban tặng đến Nữ vương, không được sai lạc. Nếu nhà dưới gặp với quan lớn trên đường thì nhường bước vào bãi cỏ ven đường. Lúc truyền lời tấu việc, hoặc ngồi xổm hoặc quỳ bái, hai tay chống xuống đất để tỏ ý cung kính. Đối đáp thì nói là 'ôi', ý như vừa lòng vậy.
Nước này vốn cũng lấy đàn ông làm vua, lập được bảy, tám mươi năm thì nước Oa loạn, đánh dẹp nhau nhiều năm, bèn lập một người con gái làm vua, tên là Tì Di Hô, thờ đạo quỷ, có thể mê hoặc dân chúng, tuổi đã già lớn mà không lấy chồng, có em trai giúp trị nước. Từ khi làm vua đến nay ít có người thấy. Lấy nghìn người hầu gái để tự hộ vệ, chỉ có một người đàn ông được hầu cấp ăn uống, truyền lời ra vào. Chỗ ở có cung thất lầu quán, thành rào rất chặt chẽ, thường có người cầm binh khí phòng giữ.
Từ nước Nữ Vương vượt biển hơn nghìn dặm lại có nước khác, đều thuộc người Oa. Lại có nước Chu Nho tại phía nam, người chỉ cao ba, bốn thước, cách nước Nữ Vương hơn bốn nghìn dặm. Lại có nước Khỏa, nước Hắc Xỉ cũng tại phía đông nam, đi thuyền một năm thì đến được. Thử hỏi về đất Oa, nói là cách trở ở trên bãi đảo giữa biển lớn, hoặc cách hoặc liền, vòng quanh khoảng hơn năm nghìn dặm.
Năm Cảnh Sơ thứ hai, tháng sáu, Nữ vương của nước Oa sai bọn Đại phu Nan Thăng Mễ đến châu quận, xin được dâng cống cho Thiên tử, Thái thú Lưu Hạ sai quan tướng chở đến kinh đô. Tháng mười một năm ấy, hạ chiếu đáp Nữ vương của nước Oa rằng: "Hạ chiếu cho người thân nhà Ngụy là nữ vương của nước Oa là Tì Di Hô biết rằng: Đái Phương Thái thú Lưu Hạ đã sai sứ đến nhận bốn người con trai, sáu người con gái, hai trượng hai thất vải gấm mà Đại phu Nan Thăng Mễ, Đô Thị Ngưu Lợi của các ngươi đến dâng. Các ngươi ở nơi xa xôi mà vẫn sai sứ dâng cống, đấy là lòng trung hiếu của các ngươi vậy. Ta rất cảm kích các ngươi. Nay cho các người làm nữ vương của nước Oa thân với nhà Ngụy, ban cho ấn vàng thao đỏ, đóng gói lại giao cho Đái Phương Thái thú cấp cho các ngươi. Các ngươi phải vỗ về dòng giống, khuyên bảo hiếu thuận. Sứ giả các ngươi là Nan Thăng Mễ, Ngưu Lợi vượt đường xa, đi lại vất vả, nay lấy Nan Thăng Mễ làm Suất thiện Trung lang tướng, Ngưu Lợi làm Suất thiện Hiệu úy, ban cho ấn bạc thao xanh, đem đồ ban tặng quay về. Nay lấy năm thất gấm giao long giáng địa, Thần là Tùng Chi cho rằng: 'Địa' phải là 'đề', vua Văn Đế của nhà Hán mặc áo đen gọi là 'dặc đề' vậy. Chữ này này không theo quy tắc, nếu không phải là cái sai của nhà Ngụy thì cũng là người viết chữ nhầm lẫn vậy.
mười tấm len giáng địa trứu túc, năm thất vải đỏ, năm thất xanh sẫm để báo đáp vật mà các ngươi cống. Lại ban riêng ba thất cám địa, năm tấm len ban hoa, năm mươi thất lụa trắng, tám lạng vàng, hai cái đao dài năm thước, trăm tấm gương đồng, năm mươi cân ngọc trai, quặng chì, đều bọc lại giao cho Nan Thăng Mễ, Ngưu Lợi đem về dùng. Phải đem hết ra cho người trong nước các ngươi được biết, tỏ rõ ý nhà nước thương các ngươi. Do đó coi trọng ban vật tốt cho các ngươi vậy".
Năm Chính Thủy thứ nhất, Thái thú Cung Tuân sai bọn Kiến trung Hiệu úy Thê Tuấn mang chiếu thư ấn thao đến nước Oa, bái gặp vua của nước Oa, lại hạ chiếu ban cho vàng, lụa, gấm len, đao, gương, lá rau, vua của nước Oa nhân đó sai sứ dâng biểu báo đáp tạ ân. Năm thứ tư, vua Oa lại sai tám người bọn Đại phu Y Thanh Kì, Dịch Tà Cẩu dâng tặng người sống, gấm Oa, vải mịn xanh, áo gấm, gỗ đỏ, con phụ, cung tên ngắn. Bọn Dịch Tà Cẩu đều nhận ấn thao Suất thiện Trung lang tướng. Năm thứ sáu, hạ chiếu ban khăn vàng cho bọn Nan Thăng Mễ của nước Oa, giao cho châu quận cung cấp. Năm thứ tám, Thái thú Vương Kì đến làm quan. Nữ vương của nước Oa là Tì Di Hô vốn không hòa thuận với
vua nam của nước Cẩu Nô là Tì Di Cung Hô, sai bọn Oa Đái Tư, Ô Việt đến châu quận nói rõ tình trạng đánh phá lẫn nhau của nước mình. Sai bọn Tái tào Duyện lại Trương Chính nhân đó đem chiếu thư, cờ vàng đến, sai bảo Nan Thăng Mễ làm hịch cáo dụ chúng. Tì Di Hô đã chết, làm mộ lớn, rộng hơn trăm bước, hơn một trăm nô tì bị táng theo. Lại lập đàn ông làm vua, người trong nước không chịu, bèn đánh giết nhau, bấy giờ giết hơn nghìn người. Lại lập người con gái trong họ của Tì Di Hô là Nhất Dư làm vua, trong nước mới yên. Bọn Chính đem thư hịch dụ Nhất Dư, Nhất Dư sai hai mươi người bọn Đại phu Suất thiện Trung lang tướng Dịch Tà Cẩu hộ tống bọn Chính quay về, nhân đó lên bờ, dâng ba mươi người trai gái, cống năm nghìn viên ngọc trai trắng, hai tấm ngọc xâu lỗ màu xanh, hai mươi tư thất gấm sọc vằn.
Bình rằng: Sử kí, Hán thư chép về Triều Tiên, hai nước Việt, Đông kinh ghi chép về Tây Khương. Thời nhà Ngụy, người Hung Nô đã suy, lại có Ô Hoàn, Tiên Ti và cả Đông Di sai sứ qua lại, cho nên ghi chép các việc, đấy là việc thường vậy!
Ngụy lược - Tây Nhung truyện chép: Người Đê có vua đã từ lâu rồi. Từ thời nhà Hán mở Ích Châu, đặt quận Vũ Đô, xếp dân ấy ở đấy, chia ra ở giữa hang núi, hoặc tại huyện Phúc Lộc, hoặc tại vùng sông Khiên, hoặc tại hai bên tả hữu núi Lũng. Dân ấy không chỉ có một chủng, tự xưng là dòng dõi của Bàn Hồ(8), hoặc gọi là Thanh Đê, hoặc gọi là Bạch Đê, hoặc gọi là Nhiêm Đê, đấy đại khái là dân rợ đến ở tại Trung Quốc, người ta liền dựa theo màu áo mà đặt tên vậy. Dân ấy tự gọi nhau là Hạp Trĩ, đều có Vương, Hầu, phần nhiều chịu Trung Quốc phong bái. Gần đây vào giữa năm Kiến An, vua người Đê ở huyện Hưng Quốc là A Quý, vua Đê ở huyện Bạch Hạng là Thiên Vạn đều có hơn vạn bộ lạc. Đến năm thứ mười sáu, theo Mã Siêu phản. Sau khi Siêu bị phá, A Quý bị Hạ Hầu Uyên đánh diệt, Thiên Vạn sang phía tây nam vào đất Thục, bộ lạc của hắn không chịu đi, đều hàng. Nhà nướcchia dời họ trước sau ở hai đầu, cho ở tại quận Phù Phong, huyện Mĩ Dương, là hai bộ mà An Di, Phủ Di hộ quân trông coi vậy. Quan Thái thú lại chia ra ở tại quận Thiên Thủy, quận Nam An, là Quảng Ngụy Thái thú ngày nay vậy. Phong tục tiếng nói không giống với người Trung Quốc, giống với người Khương và người Hồ, đều tự có họ như họ của người Trung Quốc. Quần áo ưa màu xanh sẫm. Tục biết dệt vải, giỏi làm ruộng, chăn nuôi heo. trâu, ngựa, lừa, la. Đàn bà lấy chồng mặc vạt áo lộ, cách trang sức thì giống người Khương, vạt áo để lộ lại giống áo choàng của người Trung Quốc. Dân này kết tóc. Nhiều người biết tiếng Trung Quốc vì ở lẫn với người Trung Quốc vậy, lúc về giữa bộ lạc thì tự nói tiếng Đê. Phép cưới hỏi có giống với người Khương, có lẽ là dân Tây Nhung tại đất Nhai, Kí, Hoàn thời xưa vậy. Nay dẫu thuống thuộc vào châu quận nhưng dân ấy tự có Vương, Hầu ở tại trong bộ lạc. Lại nữa đất quận Vũ Đô hai bên tả hữu đường lối bằng phẳng, cũng có hơn vạn bộ lạc. Người Ti Lô gốc là người Hung Nô, người Hung Nô gọi nô tì là 'ti'. Lúc trước vào năm Kiến Vũ, người Hung Nô suy yếu, phân chia nô tì của mình, trốn náu tại quận Kim Thành, quận Vũ Uy, vùng sông Hắc ở phía bắc quận Tửu Tuyền, phía đông tây miền Tây Hà, chăn nuôi heo ở bãi cỏ ven sông, thường cướp bóc miền Lương Châu, do đó bộ lạc càng đông, có đến mấy vạn, không giống với người Tiên Ti ở phía đông vậy. Dân này không chỉ có một chủng, có người Đại Hồ, có người Đinh Linh, cũng có dân ở lẫn với người Khương, vốn là nô tì trốn tránh vậy. Vào giữa thời Hán, Ngụy, cừ súy của họ có Đàn Chá, sau khi chết thì cừ súy trong bộ ở tại phía nam gần quận Quảng Ngụy, huyện Linh Cư có Thốc Khôi Lai nhiều lần làm phản, bị người miền Lương Châu giết. Nay có Thiệu Đề khi hàng lúc phản, hoặc bỏ trốn, thường gây hại trên đường ở miền tây. Giữa núi phía nam vùng Tây Vực, quận Đôn Hoàng, từ nước Nhi Khương về phía tây đến đỉnh Thông Lĩnh mấy nghìn dặm có chủng khác ở nước Nguyệt Chi là người Thông Sài Khương, Bạch Mã Khương, Hoàng Ngưu Khương, đều có tù trưởng, phía bắc tiếp với các nước, không biết đường lối rộng hẹp ra sao. Nghe nói người Hoàng Ngưu Khương lại có nhánh chủng, đàn bà mang thai sáu tháng thì sinh, phía nam kề với người Bạch Mã Khương. Các nước Tây Vực, dầu thời nhà Hán mở đường đến đấy, có ba mươi sáu nước, sau đó chia thành hơn năm mươi nước. Từ năm Kiến Vũ về sau lại đánh chiếm lẫn nhau, đến nay có hai mươi nước. Từ cửa Ngọc Môn quận Đôn Hoàng vào miền Tây Vực, xưa có hai con đường, nay có ba con đường. Từ phía tây cửa Ngọc Môn mà ra, qua nước Nhi Khương mà sang phía tây, qua đỉnh Thông Lĩnh, vượt núi Huyền Độ, vào nước Đại Nguyệt Chi, là con đường phía nam. Từ phía tây cửa Ngọc Môn mà ra, phát từ giếng Đô Hộ, vòng qua đầu bắc bãi Tam Lũng, qua kho Cư Lô, từ giếng Sa Tây sang phía đông bắc, qua gò Long Đôi đến nước Lâu Lan cũ, chuyển sang phía tây đến nước Quy Từ mà đến đỉnh Thông Lĩnh, là con đường giữa. Từ phía tây bắc cửa Ngọc Môn mà ra, qua hang Hành Khanh, tránh bãi Tam Lũng và gò Long Đôi, từ phía bắc đường Ngũ Thuyền mà đi, đến sở trị của Thành kỉ Hiệu úy ở nước Xa Sư là huyện Cao Xương, lại chuyển về phía tây đi con đường giữa mà đến nước Quy Từ, là con đường mới mở. Những vật xuất từ miền Tây Vực thì sử cũ đã có chép đủ rõ, cho nên nay chỉ chép qua. Từ con đường phía nam đi về phía tây, có nước Thư Chí, Tiểu Uyển, Tinh Tuyệt, Lâu Lan đều thuộc vào nước Thiện Thiện vậy. Nước Nhung Lô, nước Hãn Di, nước Cừ Lặc, nước Huyệt Sơn, nước Bì Sơn đều thuộc vào nước Trí. Nước Kế Tân, nước Đại Hạ, nước Cao Phụ, nước Thiên Trúc đều thuộc vào nước Đại Nguyệt Chi. Nước Lâm Nghê, theo kinh Phù Đồ chép rằng vua của nước ấy sinh Phù Đồ. Phù Đồ là Thái tử vậy. Cha là Tiết Đầu Tà, mẹ là Mạc Da. Phù Đồ mặc áo màu vàng, tóc xanh như tơ xanh, vú có lông xanh, môi đỏ như đồng. Lúc đầu Mạc Da nằm mơ gặp con voi trắng mà có thai, lúc sinh, từ nách trái mẹ mà chui ra, sinh ra đã kết tóc, xuống đất đã biết đi bảy bước. Nước ấy tại giữa thành Thiên Trúc. Trong thành Thiên Trúc lại có người thần, tên là Sa Luật. Ngày xưa vào năm Nguyên Thọ thứ nhất thời Hán Ai Đế, Bác sĩ Đệ tử Cảnh Lô tiếp nhận kinh Phù Đồ từ lời truyền miệng của sứ giả nước Nguyệt Chi là Y Tồn, nói: "Người truyền được đạo này là người này vậy". Kinh Phù Đồ chép có chép về Bồ tắc, Tang môn, Bá văn, Sơ vấn, Bạch sơ vấn, Tì khưu, Thần môn, đều là hiệu của học trò vậy. Kinh Phù Đồ cũng chép là kinh này đem ra vào cùng với kinh Lão Tử của Trung Quốc, có lẽ cho rằng Lão Tử đi về phía tây ra khỏi cửa ải, qua nước Thiên Trúc của miền Tây Vực mà dạy người Hồ. Phù Đồ đặt hiệu riêng cho học trò, cả thảy có hai mươi tám người, ở đây không thể chép rõ, cho nên nói qua như thế. Nước Xa Li còn có tên là Lễ Duy Đặc, còn có tên là Bái Lệ Vương, tại phía đông nam nước Thiên Trúc hơn ba nghìn dặm, đất này nóng nực ẩm ướt, vua nước này trị ở thành Sa Kì, có mấy chục thành khác, người dân yếu đuối, bị người Nguyệt Chi, Thiên Trúc đánh phục. Đất ấy đông tây nam bắc rộng mấy nghìn dặm, người dân trai gái đều cao một trượng hoặc tám thước, cưỡi voi, đứng trong bao che để đánh, ngày nay bị người Nguyệt Chi bắt nạp thuế lao dịch. Nước Bàn Việt còn có tên là Hán Việt Vương, tại phía đông nam nước Thiên Trúc mấy nghìn dặm, gần nhau với miền Ích Châu, người nước này nhỏ ngang với người Trung Quốc, nhà buôn đất Thục thường đến đấy. Từ con đường phía nam mà sang phương tây, về phía đông nam thì đó tận cùng rồi. Từ con đường giữa đi về phía tây, có nước Úy Lê, nước Nguy Tu, nước Sơn Vương, đều thuộc vào nước Yên Kì; nước Cô Mặc, nước Ôn Túc, nước Úy Đầu đều thuộc vào nước Quy Từ; nước Trinh Trung, nước Sa Xa, nước Kiệt Thạch, nước Cừ Sa, nước Tây Dạ, nước Y Nại, nước Mãn Lê, nước Ức Khổ, nước Du Linh, nước Tổn Độc, nước Hưu Tu, nước Cầm đều thuộc vào nước Sơ Lặc. Từ đấy về phía tây, có nước Đại Uyển, nước An Tức, nước Điều Chi, nước Ô Dặc. Nước Ô Dặc còn có tên là nước Bài Đặc, đấy là nước thứ tư ở phía tây, có nước này không thêm bớt gì cả. Người đời trước lầm lẫn cho rằng nước Điều Chi tại phía tây nước Đại Tần, nay xét rõ thật là tại phía đông. Người đời trước lại nhầm lẫn cho rằng nước Điều Chi bị nước An Tức bức ép, ngày nay lại bắt nước An Tức thần phục, hiệu là 'cõi tây An Tức'. Người đời trước lại nhầm lẫn cho rằng sông Nhược tại phía tây nước Điều Chi, nay xét rõ sông Nhược tại phía tây nước Đại Tần. Người đời trước lại nhầm lẫn cho rằng từ nước Điều Chi đi về phía tây hơn hai mươi ngày thì đến chỗ mà Mặt trời lặn, nay xét lại cho rằng phía tây nước Đại Tần
mới là chỗ mà Mặt trời lặn. Nước Đại Tần còn gọi là Lê Gian, tại phía tây biển lớn ở phía tây nước An Tức, Điều Chi, từ thành An Cốc của nước An Tức đi thuyền thì thẳng đến nước Hải Tây, nếu gặp gió thuận thì hai tháng sẽ đến, nếu gặp gió ngược thì một năm, nếu không có gió thì mất ba năm. Nước ấy tại phía tây biển cho nên gọi là nước Hải Tây vậy. Có sông chảy từ nước ấy, phía tây nước ấy lại có biển lớn. Nước Hải Tây có thành Trì Tán, từ miền nam nước ấy đi thẳng lên phía bắc thì đến thành Ô Đan, về phía tây nam lại vượt một con sông, cưỡi thuyền một ngày mới qua được. Về phía tây nam lại vượt một con sông nữa, cũng một ngày mới qua được. Cả thảy có ba kinh đô lớn, tức từ thành An Cốc đi bộ lên phía bắc đến phía bắc nước, lại đi thẳng về phía tây đến phía tây nước, lại đi thẳng về phía nam đến thành Ô Trì Tán, qua một con sông, cưỡi thuyền một ngày mới qua được. Đi vòng quanh biển, cả thảy sáu ngày mới qua được biển lớn mới đến được nước ấy. Nước ấy có cả thảy hơn bốn trăm thành ấp nhỏ, đông tây nam bắc rộng mấy nghìn dặm. Vua của nước ấy trị ở gần vùng bờ sông bờ biển, lấy đá làm thành quách. Đất đai mọc tùng, bách, hòe, tể, tre, cỏ lau, dương liễu, ngô đồng, nhiều loài cỏ. Dân làm ruộng trồng ngũ cốc, chăn nuôi có ngựa, la, lừa, lạc đà, tằm dâu. Tục người nước này ưa huyền ảo, trong miệng thổ ra lửa, tự trói rồi tự cởi, nhảy lộn mười hai vòng rất khéo léo. Nước này không có vua thường lập, nếu trong nước có tai họa thì liền lập người hiền khác lên làm vua mà bãi bỏ vua cũ, vua cũ cũng không dám oán. Người nước này cao lớn thẳng thắn như người Trung Quốc nhưng lại mặc áo Hồ. Tự nói là vốn là một chủng khác của người Trung Quốc, thường muốn sai sứ qua lại với Trung Quốc, nhưng bị người nước An Tức mưu thu lợi cho nên không qua được. Người nước này biết chữ Hồ. Theo phép chế, cung thất công tư đều làm nhà nhiều tầng, dựng cờ gõ trống, ngồi xe nhỏ treo lọng trắng, có đặt trạm dịch như Trung Quốc. Từ nước An Tức qua biển lớn lên phía bắc thì đến nước ấy, người dân tụ cư, cứ mười dặm lại có một ngôi đình, ba mươi dặm lại có một tòa trạm, do đó chẳng có giặc cướp, chỉ có hổ dữ, sư tử gây hại, nếu đi đường mà không hợp thành nhóm thì không được qua. Nước ấy đặt mấy chục vua nhỏ, những vua nhỏ này trị ở tòa thành rộng mấy trăm dặm, có cung thất văn thư. Vua này có năm cung, mỗi cung cách nhau mười dặm, vua này mỗi sớm thì đến một cung để nghe tấu việc, đến chiều tối lại nghỉ, hôm sau lại đến một cung khác, cứ năm ngày là xong một vòng. Đặt ba mươi sáu viên tướng; hễ bàn việc, dẫu có một viên tướng không đến thì cũng không bàn việc. Vua đi ra thường sai người đi theo cầm một cái túi da, có người tấu việc thì chép lời mà bỏ vào túi, về cung lại mở ra xem xét. Lấy thủy tinh làm cột cung và các vật. Làm cung tên. Có nhiều nước nhỏ khác, gọi là nước Trạch Tán, nước Lư Phân, nước Thư Lan, nước Hiền Đốc, nước Dĩ Phục, nước Vu La, các nước nhỏ còn lại rất nhiều, không thể chép rõ hết được. Nước này xuất vải mịn. Làm tiền vàng bạc, mỗi đồng tiền vàng ngang mười đồng tiền bạc. Có dệt thành vải mịn, nói là dùng lông của dê, gọi là vải Hải Tây. Lục súc của nước này đều xuất lông, có người nói là không chỉ dùng lông dê mà thôi, cũng dùng vỏ cây hoặc sợ kén tằm mà làm, dệt thành đồ thảm lông, chiếu lông, màn len đều bền, màu sắc lại sáng hơn đồ mà các nước phía đông biển làm. Lại thường mua tơ lụa của Trung Quốc, xẻ ra mà làm lụa Hồ, cho nên thường mua bán với các nước An Tức ở trên biển. Nước biển mặn không uống được, cho nên người qua lại ít đến nước này. Trong núi xuất đá ngọc có chín màu, một là màu xanh, hai là màu đỏ, ba mà màu vàng, bốn là màu trắng, năm là màu đen, sáu là màu lục, bảy là màu tía, tám là màu hồng, chín là màu sẫm. Ngày nay trong núi Y Ngô có đá chín màu, tức loại đá ấy. Vào năm Dương Gia thứ ba, vua của nước Sơ Cần là Thần Bàn dâng một hòn đá xanh, một dải vàng Hải Tây. Ngày nay lại có sách Tây Vực cựu đồ chép: Các nước Kế Tân, Điều Chi xuất đá lạ, là một loại đá ngọc vậy. Nước Đại Tần có nhiều vàng, bạc, đồng, sắt, chì, thiếc, rùa thần, ngựa trắng, lông đỏ, hãi kê tê, đồi mồi, gấu đen, con li đỏ, chuột trị độc, sò lớn, xà cừ, mã não, vàng ròng, thúy tước, cuống lông chim, ngà voi, ngọc khắc phù, ngọc trai sáng, ngọc trai sáng vào đêm, ngọc trai trắng, hổ phách, san hô, ngọc lưu li có mười màu đỏ, trắng, lục, vàng, xanh, sẫm, hồng, tía, ngọc cầu lâm, lang can, thủy tinh, mai côi, hùng hoàng, thư hoàng, ngọc bích, ngọc năm màu, thảm lông mười màu vàng, trắng đen, lục, tía, hồng, sẫm, biếc, bac, vàng sánh, chiếu lông năm màu, chiếu lông có năm màu chín màu trên dưới, gấm thêu vàng, lụa màu tạp, vải dát vàng, vải Phi Trì, vải Phát Lục, vải Phi Trì Cừ, vải chống lửa, vải A La Đắc, vải Ba Tắc, vải Độ Đại, vải Ôn Túc, vải đào năm màu, màn thêu vàng giáng địa, màn đầu năm màu, nhất vi mộc, nhị tô hợp, địch đề, mê mê, đâu nạp, bạch phụ tử, huân lục, vàng sẫm, vân giao, mười hai loại gỗ cây cỏ thơm. Đường vào nước Đại Tần đã từ phía bắc biển đi bộ đã thông, lại men theo biển mà xuống phía nam mà trao đổi với các nước rợ ở ngoài bảy quận Giao Chỉ, lại có đường sông thông với quận Ích Châu, quạn Vĩnh Xương, cho nên quận Vĩnh Xương xuất vật lạ. Người thời trước nói là chỉ có đường thủy mà không có đường bộ. Nay biết qua như thế, còn số hộ dân không thể biết rõ vậy. Từ đỉnh Thông Lĩnh về phía, nước Đại Tần là lớn nhất, đặt các nước nhỏ có vua rất nhiều, cho nên chỉ chép những nước lớn phụ thuộc vào nước ấy mà thôi. Nước Trạch Tán thuộc nước Đại Tần, trị ở vùng giữa cõi, phía nắc đến nước Lư Phân, đi đường thủy nửa năm, nếu gặp gió mạnh thì một tháng sẽ đến, là nước gần nhất với thành An Cốc của nước An Tức, về phía tây nam đến kinh đô của nước Đại Tần, không biết mấy dặm. Nước Lư Phân thuộc nước Đại Tần, sở trị cách kinh đô của nước Đại Tần hai nghìn dặm. Từ phía tây thành của nước Lư Phân đến nước Đại Tần phải vượt biển băng qua hai trăm ba mươi dặm, đi đường biển về phía tây nam, rồi qua biển đi thẳng về phía tây. Nước Thư Lan thuộc nước Đại Tần, từ nước Tư Đào thẳng về phía nam vượt sông, lại đi thẳng về phía tây mà đến nước Thư Lan chỉ ba nghìn dặm. Đi đường từ phía nam sông, rồi đi về phía tây, từ nước Thư Lan đi thẳng về phía tây đến nhước Dĩ Phục chỉ sáu trăm dặm. Con đường phía nam đến ở nước Dĩ Phục, lại đi về phía tây nam đến nước Hiền Đốc. Từ nước Thư Lan, Dĩ Phục đi thẳng về phía nam lại có một bãi đá, phía nam bãi đá có biển lớn, xuất san hô, ngọc trai. Ở phía nam nước Thư Lan, Dĩ Phục, Tư Tân A Man có một dãi núi, trải từ đông sang tây. Ở phía đông của nước Đại Tần, Hải Tây đều có một dãy nũi, đều trải từ nam sang bắc. Nước Hiền Đốc thuộc nước Đại Tần, trị tại phía đông bắc cách nước Dĩ Phục sáu trăm dặm. Nước Dĩ Phục thuộc nước Đại Tần, trị ơ phía đông bắc cách nước Vu La ba trăm bốn mươi dặm vượt biển. Nước Vu La thuộc nước Đại Tần, trị tại phía đông bắc nước Dĩ Phục, vượt sông, từ phía đông bắc nước Vu La lại vượt sông, đến phía đông bắc nước Tư La lại vượt sông. Nước Tư La thuộc nước An Tức, tiếp với nước Đại Tần vậy. Phía tây nước Đại Tần có sông Hải, phía tây sông Hải có sông Hà, từ phía tây nam sông Hà đi về phía bắc có một trái núi lớn, phía tây núi có sông Xích, phía tây sông Xích có núi Bạch Vương, núi Bạch Vương có gò Tây Vương Mẫu, phía tây gò Tây Vương Mẫu có bãi Tu Lưu, phía tây bãi Tu Lưu có nước Đại Hạ, nước Kiên Sa, nước Chúc Dao, nước Nguyệt Chi, phía tây bốn nước này có sông Hắc, người ta nói rằng đấy là chỗ tận cùng của miền tây rồi. Từ con đường mới đi về phía tây, đến nước Đông Thư Di, nước Tây Thư Di, nước Đan Hoàn, nước Tất Lục, nước Bồ Lục, nước Ô Tham, đều thuộc vào các nước phía sau của nước Xa Sư. Vua trị ở thành Lại. Nhà Ngụy bái vua nước ấy là Nhất Đa Tạp làm Thủ Ngụy Thị trung, hiệu là Đại đô úy, nhận ấn Ngụy Vương. Sang phía tây bắc thì đến nước Ô Tôn, Khang Cư, nước này chẳng thêm bớt. Nước Bắc Ô Y Biệt tại phía bắc nước Khang Cư; lại có nước Liễu; lại có nước Nham; lại có nước Yểm Sái, một tên nữa là nước A Lan, đều giống phong tục với nước Khang Cư, phía tây tiếp với miền đông nam nước Đại Tần, tiếp với nước Khang Cư. Nước này nhiều chồn đẹp, chăn nuôi thả nơi bãi cỏ ven sông, gần đầm lớn, lúc trước thuộc vào nước Khang Cư, ngày nay không thuộc vào. Nước Hô Đắc tại phía bắc đỉnh Thông Lĩnh, ở phía bắc nước Ô Tôn, phía đông bắc nước Khang Cư, có hơn vạn quân khỏe, đi chăn thả, xuất ngựa tốt, có chồn. Nước Kiên Côn tại phía tây bắc nước Khang Cư, có ba vạn quân khỏe, đi chăn thả, cũng có nhiều chồn, có ngựa tốt. Nước Đinh Linh tại phía bắc nước Khang Cư, có sáu vạn quân khỏe, đi chăn thả, xuất da chuột tốt, da chột đồng trắng, da chột đồng xanh. Đấy là ba nước lớn, nước Kiên Côn ở giữa, đều cách sông Tập bên triều đình Thiền vua của người Hung Nô bảy nghìn dặm, phía nam cách nước Xa Sư năm nghìn dặm, phía tây nam cách nước Khang Cư ba nghìn dặm, phía tây cách sở trị của vua nước Khang Cư tám nghìn dặm.
Có người cho rằng nước Đinh Linh ấy là nước Đinh Linh phía bắc đất Hung Nô, nhưng nước Đinh Linh bắc tại phía tây nước Ô Tôn có lẽ là chủng khác của họ vậy. Lại phía bắc đất Hung Nô có nước Hồn Dũ, có nước Khuất Xạ, có nước Đinh Linh, có nước Cách Côn, có nước Tân Lê, như thế rõ ràng phía nam của miền bắc tự có nước Đinh Linh, không chỉ phía tây nước Ô Tôn mới có nước Đinh Linh vậy. Người già cả của nước Ô Tôn nói rằng nước Đinh Linh phía bắc có nước Mã Hĩnh, tiếng nói của người nước này như tiếng chim nhạn, từ đầu gối trở lên thân đầu thì giống người, từ đầu gối trở xuống thì mộc lông như vó ngựa chân ngựa, không cưỡi ngựa nhưng chạy nhanh như ngựa, người nước này khỏe mạnh đánh trận giỏi. Nước Đoản Nhân tại phía tây bắc nước Khang Cư, trai gái đều cao chỉ ba thước, dân chúng rất đông, cách các nước Yểm Sái rất xa. Bậc già cả của nước Khang Cư nói rằng thường có nhà buôn đến nước ấy, cách nước Khang Cư khoảng hơn vạn dặm. Ngư Hoạn luận rằng: "Người đời cho rằng cá ở ao nhà không biết đến cái rộng lớn của sông biển, vật trôi nổi chẳng biết khí hậu của bốn mùa, là sao thế? Chỉ vì chỗ mà các vật ấy sinh sống nhỏ hẹp vậy. Ngày nay ta xem qua các nước Đại Tần là những nước rợ ở ngoài mà vẫn còn rộng lớn bao trùm như thế, huống chi là cái mà Trâu Diễn suy đoán, điều mà kinh Dịch, kinh Thái huyền đo lường đây! Đấy là ép mình tại vũng nước của vết chân trâu, lại chẳng có cái tuổi thọ của Bành Tổ cho nên không mượn được gió lành để thổi đi chơi, không ngồi được ngựa tốt để ruổi đi xem, chỉ là liếc nhìn tam thần(9) mà suy đoán về tám cõi vậy".
Chú thích
(1) Thần Vương: tức của vua của các nước Hàn. Bấy giờ có ba nhóm lớn là Thần Hàn, Mã Hàn, Biện Hàn, nhóm Thần Hàn là lớn hơn cả, thủ lĩnh của Thần Hàn làm vua lớn.
(2) Trần, Hạng: chỉ Trần Thắng, Hạng Vũ cuối thời Tần.
(3) Hoàn, Linh: chỉ Hoàn Đế, Linh Đế của nhà Hán.
(4) Phù Đồ: tức Phật Đà, phiên âm của từ 'Buddha' trong tiếng Phạn cổ, nghĩa là 'đấng giác ngộ'.
(5) Quận huyện: chỉ quận Lạc Lãng, Đái Phương, tiếp với các nước Hàn.
(6) Con của vua Thiếu Khang nhà Hạ Hậu: theo sách Ngô Việt xuân thu của Triệu Diệp thời Đông Hán chép: vua Thiếu Khang phong cho con thứ là Ư Việt, hiệu là Vô Dư ở núi Cối Kê để trông coi việc cúng tế vua Vũ.
(7) Giao long: chỉ cá sấu và các con cá to ở sông nước.
(8) Bàn Hồ: Bàn Hồ, theo Hậu Hán thư - Nam Man liệt truyện chép rằng: Vào thời Cao Tân thị (vua Khốc) có giặc Khuyển Nhung gây hại, đánh dẹp không được, bèn mời gọi thiên hạ, nếu ai chém được đầu giặc thì ban cho nghìn vàng, thực ấp vạn hộ, lại gả con gái út cho. Bấy giờ có một con chó nuôi lông năm màu tên là Bàn Hồ ngậm đầu giặc đem về dưới cửa khuyết, vua cả mừng, bèn phong thưởng, gả con gái như đã hứa. Bàn Hồ cõng con gái của vua vào núi Nam Sơn, dừng lại ở trong hang đá, là nơi hiểm vắng, dấu chân người không đến được, về sau sinh mười hai người con, sáu trai, sáu gái, tự lấy nhau, trở thành tổ tiên của người Man Di phía nam. Do đó nhiều bộ lạc miền núi Ngũ Khê, Ích Châu xem Bàn Hồ là tổ tiên vậy.
(9) Tam thần: chỉ Mặt trời, Mặt trăng và sao, thiên văn nói chung.
HẾT


Mục lục:

4 nhận xét:

  1. Tam Quốc diễn nghĩa - Những tình tiết ...bịa đặt trắng trợn
    (PLO) -Nhiều người thắc mắc về tuổi tác các nhân vật chính trong lịch sử. Nếu xếp thứ tự từ cao xuống thấp, sẽ là: Tào Tháo – Lã Bố - Triệu Vân – Quan Vũ – Lưu Bị - Trương Phi – Lỗ Túc – Chu Du – Gia Cát Lượng – Tôn Quyền – Lục Tốn. Một số tư liệu cho thấy, Triệu Vân nhiều hơn Lưu Bị ít nhất 2 tuổi; năm xảy ra trận Xích Bích, Triệu Vân đã 50, Trương Chiêu kém Tôn Kiên 1 tuổi, Quan Vũ nhiều hơn Lưu Bị 1 tuổi.
    Tam Quốc diễn nghĩa - Những tình tiết ...bịa đặt trắng trợn
    Bị hại thành...bị tội!
    “Tam Quốc diễn nghĩa” có chuyện Ngụy Diên làm phản nhưng thực tế, Ngụy Diên là người bị hại. Hay chuyện Phụng Sồ chết ở gò Lạc Phụng cũng lệch hàng trăm cây số: Bàng Thống trúng tên mà chết khi đánh Lạc Thành, không phải chết ở gò Lạc Phụng.
    Chuyện “Hoàng Trung chiến Quan Vũ” cũng ....hư cấu nốt! Không có chuyện Quan Vũ tha Hoàng Trung vì nghĩa. Trong chính sử, Quan Vũ chê Hoàng Trung già bỏ không dùng, sao có chuyện tha vì nghĩa.
    Còn Lưu Tông, sau khi hiến Kinh Châu, được Tào Tháo bổ nhiệm làm Thích Sử Thanh Châu, phong Liệt hầu chứ không bị giết. Về sau, để ghi nhận công tích Lưu Tông, Tào Tháo thăng làm Gián nghị Đại phu.
    “Lưu Hoàng thúc Lưu Bị” cũng là chuyện nực cười. Hư cấu ra chuyện Hán Hiến Đế gọi “Lưu Hoàng thúc” là để biểu đạt Lưu Bị “bảo vệ Hán thất” và Tào Tháo là “quốc tặc”; còn nếu Lưu Bị là Hoàng thúc thì Lưu Biểu, Lưu Chương là gì, đố ai phân biệt được thế thứ các ông này?
    Sự thật Thanh Long đao, Xích Thố mã
    “Thanh Long đao” gắn liền với hình tượng Quan Vũ nhưng thật ra...Quan Vũ không sử dụng đao, mà dùng trường mâu. Lã Bố lại dùng trường mâu chứ không phải Phương Thiên họa kích; còn Trương Phi cũng không dùng Bát Xà mâu mà chỉ dùng một cây mâu bình thường. Những cái tên binh khí ...kêu như chuông kia được thêm thắt chỉ nhằm khắc họa hình ảnh nhân vật mà thôi.
    Còn ngựa Xích Thố thì vốn do Lã Bố cưỡi, sau khi bại trận, không biết bỏ đi đâu mất. Quan Vũ không có ngựa Xích Thố, đến khi buộc phải hàng Tào Tháo, được Tháo sai quân sĩ dắt ngựa Xích Thố ra tặng hòng mua chuộc Quan Vũ, nói là “ngựa này vốn của Lã Bố khi trước”.
    La Quán Trung bịa ra chi tiết này chỉ để khắc họa hình ảnh uy vũ của ông, hư cấu luôn thêm chuyện nó bỏ ăn rồi chết sau khi Quan Vũ bị hại. Nếu nó bỏ ăn để chết thì đã chết sau khi Lã Bố chết. Vả lại thời gian Lã Bố chết cách rất xa Quan Vũ chết, ngựa không bỏ ăn thì cũng đã chết vì già.

    Trả lờiXóa
  2. Triệu Vân
    Quan Vũ: Bất hòa đồng liêu, lại mê nữ sắc
    Quan hệ giữa Quan Vũ và các đồng liêu rất không hài hòa. Khi Mã Siêu mới quy hàng, Quan Vũ không phục, viết thư cho Khổng Minh hỏi: “Tài năng Mã Siêu có thể so được với ai?”. Nghe Hoàng Trung làm Hậu Tướng quân, Quan bèn phẫn nộ: “Đại trượng phu quyết không ngang hàng với lão già!”. Với My Phương: “Thái thú Nam Quận, cộng sự Quan Vũ, nhưng do bất hòa nên phản biến theo Tôn Quyền”.
    Với Phó Sĩ Nhân: “Mâu thuẫn Quan Vũ nên phản bội đón Tôn Quyền vào”. Với Lưu Phong, Mạnh Đạt, hai người trấn thủ Thượng Dung, trong trận Tương Phàn Quan Vũ đề nghị họ phát binh ứng cứu nhưng họ bỏ mặc không cứu.
    Liêu Lập thì đánh giá, bình luận về Quan Vũ trước mặt Thừa tướng, Lý Thiệu, Tưởng Uyển: “Dựa vào danh tiếng anh dũng, cầm quân không có chương pháp, thực là chủ quan làm bừa”.
    Các sách “Tam Quốc chí”, “Thục thư”, “Ngụy thư” đều ghi lại chuyện: Tào Tháo và Lưu Bị vây đánh Lã Bố ở Hạ Bì; Lã Bố phái Tần Nghi Lộc ra ngoài thành cầu cứu Thái thú Hà Nội Trương Dương.
    Quan Vũ nghe nói vợ Tần Nghi Lộc rất xinh đẹp đang ở thành Hạ Bì bèn mấy lần thỉnh cầu Tào Tháo: “Vợ tôi không sinh con; đánh hạ thành, xin được lấy vợ Tần Nghi Lộc”. Nào ngờ Tháo thấy Quan Vũ sốt ruột như thế sinh nghi chắc Đỗ Thị vợ Lộc rất đẹp nên khi hạ được thành, Tháo liền truyền gọi Đỗ Thị đến, quả nhiên là trang quốc sắc thiên hương bèn giữ lấy cho mình.
    Quan Vũ vì chuyện này rất căm Tào Tháo, muốn nhân cơ hội đi săn giết béng Tháo, nhưng bị Lưu Bị ngăn cản. Xem ra, Quan Thánh đế cũng là kẻ có “thất tình lục dục”.
    Chuyện Quan Công chém Điêu Thuyền dưới trăng, đại đa số các nhà sử học đều cho là hư cấu. Điêu Thuyền không thấy ghi trong chính sử, trong “Tam Quốc diễn nghĩa” sau khi Lã Bố chết cũng không nói gì về Điêu Thuyền.
    Nếu đúng có chuyện như trên thì Quan Vũ cũng không đáng mặt nam nhi. Quan Vũ tại Mạch Thành hiên ngang cự tuyệt đầu hàng cũng không đúng. Tôn Quyền cho người khuyên hàng, Quan Vũ trá hàng, giả cắm cờ ở đầu thành này rồi tháo lui ở cửa khác nhưng bị Lã Mông đoán biết chặn đường giết chết.

    Trả lờiXóa
  3. Quan Hưng báo thù
    Theo “Tam Quốc diễn nghĩa”, sau khi Quan Vũ bị giết, trong trận Di Lăng khi Lưu Bị đem quân phạt Ngô, Quan Hưng - con Quan Vũ và Trương Bào - con Trương Phi đều tham chiến để báo thù cho cha, điều này không phù hợp lịch sử.
    Trong “Tam Quốc chí” và các sách đều không thấy ghi chuyện Quan Hưng tham gia trận Di Lăng và bắt kẻ thù để rửa hận. Cũng trận chiến Di Lăng,Lưu Bị chỉ mang 4 vạn quân, Tôn Quyền cấp cho Lục Tốn 5 vạn; Lục Tốn chiến thắng đâu chỉ nhờ vào chiến thuật giỏi hơn.
    Ngoài ra theo “Tam Quốc chí. Phan Chương truyện”, Phan Chương lập công cho Tôn Quyền trong trận Di Lăng, khiến Quan Bình thất thủ Tương Dương, chết vào năm Gia Hòa thứ 3 (234), sống thêm được hơn 10 năm sau trận Di Lăng.
    Mã Trung là nhân vật nhỏ, trong sử tịch không nhắc đến. Hai người Sĩ Nhân, My Phương sau cũng không thấy ghi trong sử. Họ vốn là những người bình thường, sau khi hàng Ngô không làm nên gì, rơi vào quên lãng, sử sách cũng không cần nhắc đến họ.
    Ngoài ra theo “Thục Ký”, Bàng Hội con tướng Ngụy Bàng Đức theo Chung Hội, Đặng Ngải phạt Thục (năm 263), vì Bàng Đức bị Quan Vũ giết chết nên để báo thù đã chu diệt toàn gia họ Quan, nên Quan Vũ không có hậu duệ nối dõi.
    Hoàng Trung
    Quan Sách cũng là nhân vật hư cấu, chỉ xuất hiện trong dã sử, truyền thuyết dân gian. Còn Quan Bình - con đẻ của Quan Vũ, xuất hiện 2 lần trong “Tam Quốc diễn nghĩa”. Quan Vũ còn có 1 con gái, tương truyền tên là Ngân Bình, lấy con trai Lý Khôi, nhưng khi vào “Tam Quốc diễn nghĩa” thì trở thành con nuôi.
    “Tam Quốc diễn nghĩa” cũng tả Trương Phi thô lỗ nhưng thực ra Trương Phi là người giỏi thư pháp, tinh thông nghệ thuật, văn võ toàn tài, thư sinh nho nhã. Trần Cung bắt Tào Tháo cũng là hư cấu: Trần Cung luôn là thủ hạ của Tào Tháo. Chuyện bắt và thả Tào xảy ra vào năm Trung Bình thứ 6 (189), Trần Cung bắt đầu theo Tào Tháo năm Sơ Bình thứ 2 (191).

    Trả lờiXóa
  4. Không có “Ngũ hổ tướng”, lại bịa “thất tinh đàn”
    Lưu Bị không phong Ngũ Hổ đại tướng, nhưng có 5 người chức vụ trong quân cao nhất: Quan Vũ - Tiền tướng quân, Trương Phi - Xa kỵ tướng quân, Mã Siêu - Phiêu kỵ tướng quân, Hoàng Trung - Hậu tướng quân, Triệu Vân - Dực quân tướng quân. Từ khi Quan Vũ phạt Ngụy, năm Diên An thứ 24 đến Chương Vũ thứ 2, chỉ trong vòng 4 năm, cả Quan, Trương, Mã, Hoàng đều chết.
    “Hậu xuất sư biểu” cũng do người đời sau bịa ra, không phải do Gia Cát Lượng soạn. Việc truy mệnh Lã Mông, Ngọc Tuyền hiển thánh thì chẳng cần nói cũng biết là chuyện bịa đặt. Đặc biệt, việc Lưu Bị dùng máu bò phá yêu pháp của Trương Bảo là chuyện mê tín phong kiến, không có thật.
    Bát trận đồ bằng đá phục kích Lục Tốn cũng không đáng tin. Khổng Minh lập “Thất tinh đàn”, dùng “Thất tinh đăng” nhằm kéo dài mạng sống cũng là hư cấu, khỏi cần giải thích…Trong lịch sử đúng là có chuyện Gia Cát Lượng Nam chinh, cũng có người tên là Mạnh Hoạch, nhưng trong “Tam Quốc chí” không thấy ghi chuyện “7 lần bắt 7 lần tha Mạnh Hoạch” này.
    Mạnh Hoạch về sau được Thục Quốc bổ nhiệm là Ngự Sử Trung Thừa, là quan văn. Riêng Khổng Minh phạt Ngụy không phải 7 lần mà thực tế chỉ có 5 lần và thua cũng... không đẹp như trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.../.
    Lan Hương (theo báo chí TQ)

    Trả lờiXóa