Phạm Văn Sơn
Việt Sử Toàn Thư
Từ Thượng Cổ Đến Hiện Đại
Lời giới thiệu Lời tác giả
Mục Lục
Phần Thứ Nhất
Chương 1
- Khái luận về xã hội Việt Nam
xưa và nay
1. Địa
lý thiên nhiên –
2. Người
Việt Nam
–
3. Gốc
tích.
Chương 2
- Đời sống thượng cổ của dân tộc Việt Nam
Chương 3
- Nhà Hồng Bàng (2879 - 258 tr. T. L.)
1.
Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng –
2. Nước
Văn Lang
Chương 4
- Nhà Thục (257 - 207 tr. T. L.)
Chương 5
- Xã hội Trung Hoa trong thời thượng cổ
1. Xã
hội và văn hóa –
2. Trật
tự xã hội và gia đình –
3. Việc
quan chế --
4. Pháp
chế --
5. Binh
chế --
6. Điền
chế --
7. Học
chính –
8. Khổng
Tử --
9. Lão
Tử --
10.
Trang Tử --
11. Tuân
Huống.
Phần Thứ Hai Bắc Thuộc Thời Đại
Chương 1
- Nhà Triệu (Bắc thuộc lần thứ I 207-111 tr. T. L.)
1. Chỗ
rẽ của lịch sử Âu Lạc –
2. Chính
trị của Triệu Đà –
3. Nam
Việt và Tây Hán -
4. Xã
hội Việt Nam
dưới thời Triệu Đà –
5. Những
vua kế nghiệp Triệu Đà ---
6. Đế
quốc Việt Nam
xụp đổ --
7. Công
tội của Thái Phó Lữ Gia (Phê bình của Ngô Thời Sĩ).
Chương 2
- Nhà Tây Hán (Bắc thuộc lần II 111 tr. T. L. - 39 T. L.)
1. Đơn
vị hành chánh trên đất Giao Chỉ -- 2. Bộ máy cai trị ở đất Giao Châu.
Chương 3
- Nhà Trưng (40 - 43)
1. Phần
cờ nương tử -- 2. Nhà Đông Hán phục thù -- 3. Tính chất cách mạng của cuộc khởi
nghĩa năm Canh Tý.
Chương 4
- Bắc thuộc lần III (43 - 544 Đông Hán - Nam Bắc triều)
Cuộc cải
cách của Mã Viện trên đất Giao Châu
Chương 5
- Người Việt Nam
học chữ Tàu
1. Việc
truyền bá Hán học –
2. Ảnh
hưởng Phật đồ với nền văn học của chúng ta --
3. Phật
Giáo –
4. Một
điều sai lầm về Sĩ Nhiếp.
Chương 6
- Cuộc cách mạng phản Đế lần thứ hai của dân Giao Chỉ
1. Bà
Triệu chống quân Đông Ngô –
2. Lâm
Ấp quấy phá Giao Châu.
Chương 7
- Nhà Tiền Lý (544 - 602)
1. Lý
Nam Đế (544 - 548) –
2. Hậu
Lý Nam
Đế (571 - 602).
Chương 8
- Bắc thuộc lần IV (603 - 939)
1. Nhà
Tùy đánh Lâm Ấp –
2. Nhà
Đường đối với An Nam –
3. Mai
Hắc Đế khởi nghĩa (722) –
4. Giặc
Côn Lôn và Đồ Bà –
5. Bố
Cái Đại Vương –
6. Cuộc
xâm lăng Giao Châu của Nam Chiếu ---
7. Sự
thất bại của Nam Chiếu và sự nghiệp của Cao Biền.
Chương 9
- Cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam từ họ Khúc đến họ Ngô
Trận
thủy chiến đầu tiên của Việt Nam .
Phần Thứ Ba Việt Nam Trên Đường Độc Lập (939)
Chương 1
- Nhà Ngô (939 - 965)
Chương 2
- Nhà Đinh (968 - 980)
1. Đinh
Tiên Hoàng –
2. Đinh
Phế Đế.
Chương 3
- Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
1. Lê
Hoàn đánh Tống –
2. Việc
ngoại giao –
3. Việc
đánh Chiêm Thành –
4. Sự mở
mang trong nước –
5. Cái
án Lê Hoàn và Dương Hậu.
Chương 4
- Các vua kế tiếp Lê Đại Hành
I. Lê
Trung Tông (1005)
II. Lê
Ngọa Triều (1005 - 1009)
1. Việc
ngoại giao với Bắc Triều –
2. Sự
tàn ác của Ngọa Triều –
3. Vụ âm
mưu cướp ngôi nhà Tiền Lê.
Chương 5
- Nhà Hậu Lý (1010 - 1225)
I. Lý
Thái Tổ (1010 - 1028)
II. Lý
Thái Tông (1028 - 1054)
1.Việc
chính trị --
2. Việc
quân sự --
3. Dẹp
Chiêm Thành.
III.Lý
Thánh Tông (1054 - 1072)
1. Việc
mở mang Phật Giáo và Nho Giáo –
2. Đánh
Chiêm Thành.
IV. Lý
Nhân Tông (1072 - 1127)
1.Vụ
tranh dành quyền vị --
2. Việc
chính trị --
3. Việc
đánh Tống –
4. Cuộc
phục thù của nhà Tống –
5. Đánh
Chiêm Thành.
V. Lý
Thần Tông (1128 - 1138)
VI. Lý
Anh Tông (1138 - 1175)
1. Đỗ
Anh Vũ và Tô Hiến Thành –
2. Việc
ngoại giao.
VII. Lý
Cao Tông (1176 - 1210)
VIII. Lý
Huệ Tông (1211 - 1225)
IX.Lý
Chiêu Hoàng (1225)
Chương 6
- Khái niệm về Phật giáo và văn học dưới đời nhà Lý
Chương 7
- Nhà Trần (1225 - 1413) -- Nước Việt Nam dưới đời Trần Sơ
I. Trần
Thái Tông (1225 - 1258)
1. Tàn
sát họ Lý. –
2. Việc
đảo lộn nhân luân. –
3. Việc
đánh dẹp trong nước. –
4. Những
công cuộc cải cách. –
5. Việc
binh chế và lực lượng quân đội dưới đời Trần - Sơ. –
6. Kinh
tế và xã hội. –
7. Phong
tục. –
8. Văn
hóa. –
9. Cuộc
chiến tranh tự vệ thứ nhất của Việt Nam .
II.Trần
Thánh Tông (1258 - 1278)
1.Việc
chính trị. –
2. Việc
ngoại giao với Mông Cổ.
III.Trần
Nhân Tông (1279 - 1293)
A- Mông
Cổ gây hấn lần thứ hai
1. Việc
ngoại giao tan vỡ. –
2 Huyết
chiến giữa Việt Nam
và Mông Cổ.
- Hội
Nghị Bình Than (1282).
- Hội
Nghị Diên Hồng (1284).
- Quân
Nam rút theo kế hoạch.
- Hội
nghị quân sự Vạn Kiếp.
III Mông
Cổ tấn công.
- Mặt
trận Đông Nam .
- Cuộc
tổng tấn công của Việt Nam .
Việt Nam
thu phục Thăng Long.
- Trận
Tây Kết. - Trận Vạn Kiếp.
B- Mông
Cổ tấn công lần thứ hai (1287)
I Trận
Vân Đồn.
II Trận
Bạch Đằng.
III Việc
truy kích Thoát Hoan.
IV Cuộc
giảng hòa. V Chiến pháp của Hưng Đạo Vương.
IV.Trần
Anh Tông (1293 - 1314)
Việc gả
Huyền Trân cho Chế Mân
V.Trần
Minh Tông (1314 - 1329)
VI.Trần
Hiến Tông (1329 - 1341)
Giặc
Ngưu Hống và giặc Lào
VII.Trần
Dụ Tông (1341 - 1369)
1.Việc
chính trị. –
2. Việc
giao thiệp với Trung Hoa. –
3. Việc
giao thiệp với Chiêm Thành. –
4. Dụ
Dương Nhật Lễ.
VIII. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)
Tiểu sử
Hồ Quý Ly.
IX.Trần
Duệ Tông (1372 - 1377)
X.Trần
Phế Đế (1377 - 1388)
1.Việc
giao thiệp với nhà Minh. –
2. Chiêm
Thành tấn công Thăng Long. –
3. Âm
mưu trừ Hồ Quý Ly thất bại.
XI.Trần
Thuận Tông (1388 - 1398)
1. Chế
Bồng Nga tử trận. –
2. Cuộc
cách mạng của Hồ Quý Ly: Cải cách chính trị. Cải cách quân sự. Cải cách kinh
tế. Cải cách xã hội. Cải cách văn hóa. –
3. Cuộc
đảo chính Hồ Quý Ly.
Chương 8
- Nhà Hồ (1400 - 1407)
I. Hồ
Quý Ly (1400)
II. Hồ
Hán Thương (1400 - 1407)
1. Cuộc
giao tranh giữa nhà Hồ và nhà Minh. - Thành Đa Bang thất thủ. - Trận Mộc Phàm
Giang. - Trận Hàm Tử Quan. - Nguyên nhân thất bại của Hồ Quý Ly.
2. Hồ
Quý Ly có làm mất nước không?
Chương 9
- Bắc thuộc lần thứ năm -- Nhà Hậu Trần (1407 - 413)
1. Chính
sách thống trị của nhà Minh. –
2. Giản
Định Đế khởi nghĩa (1407 - 1409). -
3. Trần
Quý Khoách (1409 - 1413)
Chương
10 - Nhà Hậu Lê. Lê Lợi chấm dứt chế độ Minh thuộc (1417 - 1427)
1. Giai
đoạn đen tối. –
2. Giai
đoạn tươi sáng. –
3. Cuộc
tổng phản công của giặc Minh (Mặt trận miền Bắc). –
4. Trận
Tuy Động. –
5. Việt
quân phong tỏa Đông Đô.
6. Trận
chi Lăng. –
7. Quân
Minh xin hòa giải. –
8. Việc
cầu phong.
Nhà Hậu Lê (1428 - 1527)
I. Lê
Thái Tổ (1428 - 1433)
1. Học
chính. –
2. Luật
pháp. –
3. Hành
chánh. –
4. Cải
cách điền địa. –
5. Binh
chế. –
6. Việc
giết công thần.
II. Lê
Thái Tông (1434 - 1442)
Cái án
Lê Chi Viên (1442)
III. Lê
Nhân Tông (1443 - 1459)
IV. Lê
Thánh Tông (1460 - 1497)
1.Việc
chính trị. –
2. Tổ
chức hương thôn. –
3. Việc
đình. –
4. Hành
chính. –
5. Quan
chế. –
6. Thuế
đinh. –
7. Thuế
điền thổ. –
8. Nông
nghiệp. –
9. Luật
pháp bảo vệ nhân quyền. –
10.
Quyền lợi xã hội. –
11. Tổ
chức võ bị. –
12. Võ
công đời Hồng Đức. –
13. Văn
trị đời Hồng Đức.
V. Lê
Hiến Tông (1497 - 1504)
VI. Lê
Túc Tông (1504 1505)
VII. Lê
Uy Mục (1505 - 1509)
VIII. Lê
Tương Dực (1510 - 1516)
IX. Lê
Chiêu Tông
X. Lê
Cung Hoàng (1516 - 1527)
Chương 11 - Nhà Mạc (1527 - 1667)
Mạc Đăng
Dung (1527 - 1529)
1.Tình
trạng Việt Nam
đầu thế kỷ XVI. –
2. Tiểu
sử Mạc Đăng Dung. –
3. Vụ
Trần Thiêm Bình thứ hai. –
4. Một
cuộc chiến tranh tâm lý. –
5.Vụ án
Mạc Đăng Dung.
Chương 12 - Loạn phong kiến Việt Nam . Nam Bắc triều
(1527 - 1592)
1. Trịnh
Kiểm và Nguyễn Kim. –
2. Biến
cố tại Nam
triều. –
3. Thất
bại của Bắc triều.
Chương 13 - Nước Việt Nam từ Bắc vào Nam (1674 - 1775)
1. Họ
Trịnh làm chúa miền Bắc. –
2. Họ
Nguyễn xưng hùng phương Nam .
Chương 14 - Trịnh - Nguyễn phân tranh (1627 -
1775)
1. Đại
chiến lần thứ nhất (1627). –
2. Đại
chiến lần thứ hai (1630) –
3. Đại
chiến lần thứ ba (1635). –
4. Đại
chiến lần thứ tư (1648). –
5. Đại
chiến lần thứ năm (1655) –
6. Đại
chiến lần thứ sáu (1661) –
7. Đại
chiến lần thứ bảy (1672).
Chương 15 - Sự nghiệp hai họ Trịnh - Nguyễn
Chương 16 - Những vụ phiến loạn dưới đời chúa Trịnh Chương 17 - Các hoạt động của
Nguyễn
Chương 18 - Các cuộc chiến tranh cuối cùng của
hai họ Trịnh - Nguyễn (1774) Chương 19 - Nhà Tây Sơn (1778 - 1802)
1. Tiểu
sử nhà Tây Sơn. –
2. Tây
Sơn diệt Nguyễn tại Nam Việt. –
3.
Nguyễn Huệ đuổi quân Xiêm. –
4.
Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa. –
5.
Nguyễn Huệ ra Thăng Long. –
6. Chim
Bằng gẫy cánh.
Chương 20 - Một võ công oanh liệt bậc nhất của
Việt Nam
cuối thế kỷ XVIII
1. Cái
chết của Vũ Văn Nhậm. –
2. Chiến
sự Việt-Thanh. –
3. Cuộc
giao thiệp giữa Tây Sơn và Thanh đình. –
4. Chính
trị của vua Quang Trung. –
5. Vua
Chiêu Thống bị nhục trên đất Tàu.
Những cuộc chiến tranh cuối cùng giữa Tây Sơn
và Cựu Nguyễn
1.
Nguyễn Vương quật khởi. –
2.
Nguyễn Vương tấn công Qui Nhơn lần thứ nhất (1790). –
3. Qui
Nhơn thất thủ lần thứ hai và ba. –
4. Phú
Xuân đổi chủ. –
5.
Nguyễn Vương ra Bắc Hà.
Chương 21 - Người Âu Châu sang Việt Nam
1. Việt
Nam dưới con mắt người Pháp. –
2. Đạo
Thiên Chúa.
Chương 22 - Nhà Nguyễn (1802 - 1945)
I. Gia
Long (1802 - 1820)
1. Thế
tổ xưng đế hiệu. –
2. Bộ
máy chính quyền trung ương. –
3. Các
địa hạt hành chính lớn. –
4. Binh
chế. –
5. Công
vụ. –
6. Việc
học hành và luật pháp. –
7. Việc
tài chính. –
8. Việc
ngoại giao với Pháp. –
9. Việc
ngoại giao với Trung Quốc. -
10. Giao
thiệp với Miên-Lào-Tiêm La.
–
11. Bàn
về loạn phong kiến ở Việt Nam .
--
12. Vài
ý kiến về vua Gia Long.
II.Thánh Tổ (1820 - 1840)
1. Hoàn
thiên bộ máy chính quyền. –
2. Việc
học hành thi cử. –
3. Sách
vở. –
4. Những
cuộc phiến loạn. –
5. Việc
ngoại giao với Pháp. –
6. Việc
Ai Lao và Chân Lạp. –
7. Việc
cấm đạo. –
8. Bàn
về Thánh Tổ.
III.Hiến Tổ (1841 - 1847)
1.Cá
nhân của vua Hiến Tổ. –
2. Việc
Chân Lạp và Tiêm La.
–
3. Cuộc
đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam .
Phần Thứ Tư
Việt Nam
Mất Độc Lập Về Tay Pháp
Chương 1
- Dực Tông (1847 - 1883)
1. Vua
Tự Đức và tình thế Việt Nam
giữa thế kỷ XIX. –
2. Việc
ngoại giao và cấm đạo. –
3. Việc
văn học và binh chế. –
4. Những
vụ phiến động trong nước.
Chương 2
- Người Pháp ra mặt xâm chiếm Việt Nam
1.
Nguyên nhân của sự xâm lăng. –
2. Đặc
phái viên Pháp đến Việt Nam .
–
3. Việt
Nam mất ba tỉnh Đông Nam Kỳ. –
4. Phản
ứng của triều đình Huế. –
5. Phong
Trào kháng Pháp ở Nam Kỳ. –
6. Người
Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. –
7. Những
nghĩa sĩ miền Nam .
Chương 3
- Quân Pháp đánh Bắc Kỳ
1.
Nguyên nhân việc người Pháp ra Bắc. –
2. Pháp
quân đánh Bắc Kỳ lần thứ I. –
3. Hòa
ước năm Giáp Tuất (1874). –
4. Hà
thành thất thủ lần thứ hai. –
5. Sự
phế lập ở Huế. –
6. Hòa
ước năm Quí Mùi (1883). –
7. Hòa
ước Thiên Tân lần thứ hai. –
8. Hòa
ước Patenôtre (1884).
Chương 4
- Tàn cuộc của phong kiến Việt Nam
1. Phong
trào Cần Vương cứu quốc. –
2. Phong
trào Văn Thân kháng Pháp. –
3. Vua
Thành Thái (1884 - 1907). –
4. Vua
Duy Tân (1907 - 1916). –
5. Cuộc
bảo hộ của nước Pháp.
Chương V
- Những cuộc tranh thủ độc lập của Việt Nam từ 1928 - 1954
1. Xã
hội Việt Nam
dưới thời Pháp thuộc. –
2. Những
cuộc tranh đấu của thế hệ trẻ tuổi. –
3. Cuộc
đảo chánh 9-3-1945. –
4. Lá
bài Bảo Đại và Hiệp Định Hạ Long. --
5.Cuộc
chiến tranh Thực - Cộng (1945 - 1954). –
6. Thỏa
hiệp Genève. –
7. Kết
Luận
Tài liệu tham khảo
Ý kiến
của văn gia trí thức về Việt Sử Toàn Thư
Phụ lục
1: Bảng đối chiếu các triều đại Việt Nam với triều đại Trung Hoa
Phụ lục
2: Thế Phả họ Nguyễn
Phụ lục
3: Thế Phả họ Trịnh
Kính
dâng hương hồn song thân đã sớm hun đúc cho con một tấm lòng thiết tha với đất
nước để viết nên những trang sử oai hùng của dân tộc.
Lời Giới Thiệu
Phạm Văn Sơn
"Chim
Việt làm tổ cành nam (Việt điểu sào nam chi)", một câu nói ngắn gọn nhưng
hàm chứa một ý nghĩa thật sâu: người Việt Nam không bao giờ quên được cội
nguồn của mình! Nhờ tinh thần đó mà trên
trường quốc tế, dù phải chịu một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ
giặc Tây.
Nhưng
hiện nay, với chính sách hủy diệt văn hóa truyền thống dân tộc trong nước, và
sức lôi cuốn mãnh liệt của nền văn minh vật chất Âu Mỹ ngoài nước, dân tộc
chúng ta đang phải đối đầu với một hiểm họa diệt vong mới, có mức độ trầm trọng
hơn tất cả các hiểm họa đã gặp phải trong quá khứ.
Chỉ có
lòng yêu nước nồng nàn, phát xuất từ đáy lòng của mọi người Việt mới giúp chúng
ta vượt qua được hiểm họa này. Chỉ có
lòng yêu quê hương thiết tha mới là động cơ bắt chúng ta chung góp tâm trí vào
việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa cao quý của cha ông để lại.
Với mục
tiêu duy nhất là nuôi dưỡng lòng yêu nước cần thiết trong lòng mọi người Việt
tại Nhật, sinh thành những tâm hồn thiết tha với quê hương, dân tộc, chúng tôi
đã mạn phép in lại 600 bộ Việt Sử Toàn Thư này của Sử Gia Phạm Văn Sơn để phân
phối trong cộng đồng người Việt tại Nhật.
Với công
trình khảo cứu sâu rộng của Sử gia yêu nước Phạm Văn Sơn và tính chất khách
quan, dân tộc, khoa học, phong phú, giản dị ... của bộ sách này, chúng tôi mong
muốn mỗi gia đình Việt Nam tại Nhật sẽ có ít nhất một bộ, lúc nào cũng có trong
nhà, để dễ dàng chỉ dạy con em về lịch sử hào hùng bất khuất của dân tộc Việt.
Chúng
tôi cũng chân thành cảm tạ Hiệp Hội Liên Đới Người Tỵ Nạn Đông Dương đã yểm trợ
toàn thể chi phí để in lại bộ sách này.
Hiệp Hội
Người Việt Tại Nhật Bản Nhật Bản, 1983
Cùng Bạn
Đọc Thân Mến
Từ mười
hai năm nay, bước chân vào làng sử học, chúng tôi đã được hân hạnh giới thiệu
các bạn văn gia trí thức và học sinh một tổ tác phẩm nhỏ như Việt Nam Tranh Đấu
Sử, Việt Nam Hiện Đại Sử Yếu, Vĩ Tuyến 17, Việt Sử Tân Biên quyển I, II, III.
Những
cuốn sách này được tái bản nhiều lần và trước những sự đóng góp của chúng tôi
đối với văn hóa nước nhà, các bạn đọc đã tỏ có nhiều cảm tình và tin cậy, do đó
để tạ lòng tri kỷ bốn phương hàng năm chúng tôi tiếp tục gửi đến tay các bạn
những tác phẩm về sử học.
Gần đây,
Việt sử tân biên được các bạn trí thức trong nước và ngoài nước đặc biệt lưu ý
và tán thưởng trên các báo Bách Khoa, Thế Giới Tự Do, Tân Dân, Chỉ Đạo, Ngôn
Luận, Tự Do, v.v... nhưng bộ sử này còn tới 4 cuốn nữa mới hết, tức là phải
xuất bản đều đặn luôn bốn năm mới hoàn thành.
Trong
lúc này, nhiều bạn giáo sư và học sinh thường gửi thư đến chúng tôi yêu cầu nên
gấp rút soạn một cuốn Việt sử tân biên thâu hẹp gồm đủ chi tiết từ Thượng cổ
thời đại đến hết thời Pháp thuộc để tiện dụng hơn trong các trường học. Theo ý
các bạn, Việt Sử Tân Biên gồm 7 cuốn chỉ lợi ích nhiều cho các giáo sư sử địa,
các văn gia trí thức cần biên khảo rộng rãi và cho một số sinh viên nặng tình
đặc biệt với sử học. Quả vậy, chúng tôi đã đọc khá nhiều sách, chuyện ký để
viết một bộ sách có mục đích giúp các bạn kể trên khỏi mất nhiều thời giờ tìm
tòi sử liệu và nghĩ ngợi về sự bình giải, mặc dầu công việc của chúng tôi vẫn
có thể còn nhiều khuyết điểm.
Ngoài
ra, từ trên 30 năm nay, tuy trong các thư viện của chúng ta đã có một sách về
lịch sử, nhưng các sách này vẫn còn mang nặng ảnh hưởng của tư tưởng thời phong
kiến, đế quốc. Nếu cần tiến bộ, tất nhiên ta phải có những cuốn sử mới viết
theo quan niệm rộng rãi và tinh thần phóng khoáng của trào lưu dân chủ ngày nay
cùng gồm thâu được nhiều điều mới lạ do sự khám phá hay sưu tầm của các học giả
cận đại, hiện đại.
Hôm nay,
Việt Sử Toàn Thư ra mắt các bạn. Chúng tôi hy vọng tác phẩm này sẽ hợp với nhu
cầu của tình thế một phần nào, góp được ít nhiều công quả cần thiết cho sự phát
triển và xây dựng văn học của nước nhà trong giai đoạn mới của lịch sử. Tuy nhiên do sử học nước nhà chưa hết phôi
thai, ấu trĩ, sử liệu lại thất đắc khá nhiều qua các quốc biến, sách này không
khỏi có điều lỗi lầm, sơ sót. Trong khi chờ đợi một hoàn thiện, chúng tôi xin
sẵn sàng chào đón sự uốn nắn và chỉ bảo của các bạn trí thức gần xa.
Sài gòn
ngày 14 tháng 3 năm Canh Tý - Phạm Văn Sơn
Lời giới thiệu Lời tác giả
Mục Lục
Phần Thứ Nhất
Chương 1
- Khái luận về xã hội Việt Nam
xưa và nay
1. Địa
lý thiên nhiên –
2. Người
Việt Nam
–
3. Gốc
tích.
Chương 2
- Đời sống thượng cổ của dân tộc Việt Nam Chương 3 - Nhà Hồng Bàng (2879 - 258
tr. T. L.)
1.
Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng –
2. Nước
Văn Lang
Chương 4
- Nhà Thục (257 - 207 tr. T. L.)
Chương 5
- Xã hội Trung Hoa trong thời thượng cổ
1. Xã
hội và văn hóa –
2. Trật
tự xã hội và gia đình –
3. Việc
quan chế --
4. Pháp
chế --
5. Binh
chế --
6. Điền
chế --
7. Học
chính –
8. Khổng
Tử --
9. Lão
Tử --
10.
Trang Tử --
11. Tuân
Huống.
Phần Thứ Hai Bắc Thuộc Thời Đại
Chương 1 - Nhà Triệu (Bắc thuộc lần thứ I 207-111 tr. T. L.)
1. Chỗ
rẽ của lịch sử Âu Lạc –
2. Chính
trị của Triệu Đà –
3. Nam
Việt và Tây Hán –
4. Xã
hội Việt Nam
dưới thời Triệu Đà –
5. Những
vua kế nghiệp Triệu Đà ---
6. Đế
quốc Việt Nam
xụp đổ --
7. Công
tội của Thái Phó Lữ Gia (Phê bình của Ngô Thời Sĩ).
Chương 2 - Nhà Tây Hán (Bắc thuộc lần II 111
tr. T. L. - 39 T. L.)
1. Đơn
vị hành chánh trên đất Giao Chỉ --
2. Bộ
máy cai trị ở đất Giao Châu.
Chương 3 - Nhà Trưng (40 - 43)
1. Phần
cờ nương tử --
2. Nhà
Đông Hán phục thù –
3. Tính
chất cách mạng của cuộc khởi nghĩa năm Canh Tý.
Chương 4 - Bắc thuộc lần III (43 - 544 Đông
Hán - Nam
Bắc triều)
Cuộc cải
cách của Mã Viện trên đất Giao Châu
Chương 5 - Người Việt Nam học chữ Tàu
1. Việc
truyền bá Hán học –
2. Ảnh
hưởng Phật đồ với nền văn học của chúng ta –
3. Phật
Giáo –
4. Một
điều sai lầm về Sĩ Nhiếp.
Chương 6 - Cuộc cách mạng phản Đế lần thứ hai
của dân Giao Chỉ
1. Bà
Triệu chống quân Đông Ngô –
2. Lâm
Ấp quấy phá Giao Châu.
Chương 7 - Nhà Tiền Lý (544 - 602)
1. Lý
Nam Đế (544 - 548) –
2. Hậu
Lý Nam
Đế (571 - 602).
Chương 8 - Bắc thuộc lần IV (603 - 939)
1. Nhà
Tùy đánh Lâm Ấp –
2. Nhà
Đường đối với An Nam –
3. Mai
Hắc Đế khởi nghĩa (722) –
4. Giặc
Côn Lôn và Đồ Bà –
5. Bố
Cái Đại Vương –
6. Cuộc
xâm lăng Giao Châu của Nam Chiếu ---
7. Sự
thất bại của Nam Chiếu và sự nghiệp của Cao Biền.
Chương 9 - Cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam từ họ Khúc
đến họ Ngô
Trận thủy chiến đầu tiên của Việt Nam .
Phần Thứ Ba
Việt Nam Trên Đường
Độc Lập (939)
Chương 1 - Nhà Ngô (939 - 965)
Chương 2 - Nhà Đinh (968 - 980)
1. Đinh
Tiên Hoàng -- 2. Đinh Phế Đế.
Chương 3 - Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
1. Lê
Hoàn đánh Tống –
2. Việc
ngoại giao –
3. Việc
đánh Chiêm Thành –
4. Sự mở
mang trong nước –
5. Cái
án Lê Hoàn và Dương Hậu.
Chương 4 - Các vua kế tiếp Lê Đại Hành
I.Lê Trung
Tông (1005)
II.Lê
Ngọa Triều (1005 - 1009)
1.Việc
ngoại giao với Bắc Triều –
2. Sự
tàn ác của Ngọa Triều
3. Vụ âm
mưu cướp ngôi nhà Tiền Lê.
Chương 5 - Nhà Hậu Lý (1010 - 1225) I. Lý Thái Tổ (1010 - 1028)
II.Lý
Thái Tông (1028 - 1054)
1.Việc
chính trị --
2. Việc
quân sự --
3. Dẹp
Chiêm Thành.
III.Lý
Thánh Tông (1054 - 1072)
1.Việc
mở mang Phật Giáo và Nho Giáo –
2. Đánh
Chiêm Thành.
IV.Lý
Nhân Tông (1072 - 1127)
1.Vụ
tranh dành quyền vị --
2. Việc
chính trị --
3. Việc
đánh Tống –
4. Cuộc
phục thù của nhà Tống –
5. Đánh
Chiêm Thành.
V.Lý
Thần Tông (1128 - 1138)
VI.Lý
Anh Tông (1138 - 1175)
1.Đỗ Anh
Vũ và Tô Hiến Thành –
2. Việc
ngoại giao.
VII.Lý
Cao Tông (1176 - 1210)
VIII.Lý
Huệ Tông (1211 - 1225)
IX.Lý
Chiêu Hoàng (1225)
Chương 6 - Khái niệm về Phật giáo và văn học
dưới đời nhà Lý Chương 7 - Nhà Trần (1225 - 1413) -- Nước Việt Nam dưới đời
Trần Sơ
I. Trần
Thái Tông (1225 - 1258)
I Tàn
sát họ Lý. II Việc đảo lộn nhân luân. III Việc đánh dẹp trong nước. IV Những
công cuộc cải cách. V Việc binh chế và lực lượng quân đội dưới đời Trần - Sở.
IV Kinh tế và xã hội. VII Phong tục. VIII Văn hóa. IX Cuộc chiến tranh tự vệ
thứ nhất của Việt Nam .
II.Trần
Thánh Tông (1258 - 1278)
I Việc
chính trị. II Việc ngoại giao với Mông Cổ.
III.Trần
Nhân Tông (1279 - 1293)
A - Mông
Cổ gây hấn lần thứ hai
I Việc
ngoại giao tan vỡ. -- II Huyết chiến giữa Việt Nam và Mông Cổ. - Hội Nghị Bình
Than (1282). - Hội Nghị Diên Hồng (1284). - Quân Nam rút theo kế hoạch. - Hội
nghị quân sự Vạn Kiếp. -- III Mông Cổ tấn công. - Mặt trận Đông Nam . - Cuộc
tổng tấn công của Việt Nam .
Việt Nam
thu phục Thăng Long. - Trận Tây Kết. - Trận Vạn Kiếp.
B - Mông
Cổ tấn công lần thứ hai (1287)
I Trận
Vân Đồn. -- II Trận Bạch Đằng. -- III Việc truy kích Thoát Hoan. -- IV Cuộc
giảng hòa. -- V Chiến pháp của Hưng Đạo Vương.
IV.Trần
Anh Tông (1293 - 1314)
Việc gả
Huyền Trân cho Chế Mân
V.Trần
Minh Tông (1314 - 1329)
VI. Trần
Hiến Tông (1329 - 1341)
Giặc
Ngưu Hống và giặc Lào
VII.Trần
Dụ Tông (1341 - 1369)
I Việc
chính trị. II Việc giao thiệp với Trung Hoa. III Việc giao thiệp với Chiêm
Thành. IV Dụ Dương Nhật Lễ.
VIII.Trần
Nghệ Tông (1370 - 1372)
Tiểu sử
Hồ Quý Ly.
IX.Trần
Duệ Tông (1372 - 1377)
X .Trần
Phế Đế (1377 - 1388)
I Việc
giao thiệp với nhà Minh. II Chiêm Thành tấn công Thăng Long. III Âm mưu trừ Hồ
Quý Ly thất bại.
XI Trần
Thuận Tông (1388 - 1398)
I Chế
Bồng Nga tử trận. II Cuộc cách mạng của Hồ Quý Ly: Cải cách chính trị. Cải cách
quân sự. Cải cách kinh tế. Cải cách xã hội. Cải cách văn hóa. III Cuộc đảo
chính Hồ Quý Ly.
Chương VIII - Nhà Hồ (1400 - 1407) I Hồ Quý Ly
(1400)
II Hồ
Hán Thương (1400 - 1407)
I Cuộc
giao tranh giữa nhà Hồ và nhà Minh. - Thành Đa Bang thất thủ. - Trận Mộc Phàm
Giang. - Trận Hàm Tử Quan. - Nguyên nhân thất bại của Hồ Quý Ly. II Hồ Quý Ly
có làm mất nước không?
Chương IX - Bắc thuộc lần thứ năm - Nhà Hậu
Trần (1407 - 413)
I Chính
sách thống trị của nhà Minh.
II Giản
Định Đế khởi nghĩa (1407 - 1409).
III Trần
Quý Khoách (1409 - 1413)
Chương X - Nhà Hậu Lê. Lê Lợi chấm dứt chế độ
Minh thuộc (1417 - 1427)
I Giai
đoạn đen tối.
II Giai
đoạn tươi sáng.
III Cuộc
tổng phản công của giặc Minh (Mặt trận miền Bắc).
IV Trận
Tuy Động.
V Việt
quân phong tỏa Đông Đô.
VI Trận
chi Lăng.
VII Quân
Minh xin hòa giải.
VIII
Việc cầu phong.
Nhà Hậu Lê (1428 - 1527)
I. Lê Thái Tổ (1428 - 1433)
I Học
chính.
II Luật
pháp.
III Hành
chánh.
IV Cải
cách điền địa.
V Binh
chế.
VI Việc
giết công thần.
II. Lê Thái Tông (1434 - 1442)
Cái án
Lệ Chi Viên (1442)
III. Lê Nhân Tông (1443 - 1459)
IV. Lê Thánh Tông (1460 - 1497)
I Việc
chính trị.
II Tổ
chức hương thôn.
III Việc
đình.
IV Hành
chính.
V Quan
chế.
VI Thuế
đinh.
VII Thuế
điền thổ.
VIII
Nông nghiệp.
IX Luật
pháp bảo vệ nhân quyền.
X Quyền
lợi xã hội.
XI Tổ
chức võ bị.
XII Võ
công đời Hồng Đức.
XIII Văn
trị đời Hồng Đức.
V. Lê Hiến Tông (1497 - 1504) VI Lê Túc Tông
(1504 1505)
VII. Lê Uy Mục (1505 - 1509)
VIII. Lê Tương Dực (1510 - 1516)
IX. Lê Chiêu Tông
X. Lê Cung Hoàng (1516 - 1527) Quyển II
Chương XI - Nhà Mạc (1527 - 1667)
Mạc Đăng Dung (1527 - 1529)
I Tình
trạng Việt Nam
đầu thế kỷ XVI.
II Tiểu
sử Mạc Đăng Dung.
III Vụ
Trần Thiêm Bình thứ hai.
IV Một
cuộc chiến tranh tâm lý.
V Vụ án
Mạc Đăng Dung.
Chương XII - Loạn phong kiến Việt Nam . Nam Bắc triều
(1527 - 1592)
I Trịnh
Kiểm và Nguyễn Kim.
II Biến
cố tại Nam
triều.
III Thất
bại của Bắc triều.
Chương XIII - Nước Việt Nam từ Bắc vào Nam (1674 - 1775)
I Họ
Trịnh làm chúa miền Bắc.
II Họ
Nguyễn xưng hùng phương Nam .
Chương XIV - Trịnh - Nguyễn phân tranh (1627 -
1775)
I Đại
chiến lần thứ nhất (1627).
II Đại
chiến lần thứ hai (1630)
III Đại
chiến lần thứ ba (1635).
IV Đại
chiến lần thứ tư (1648).
V Đại
chiến lần thứ năm (1655)
VI Đại
chiến lần thứ sáu (1661)
VII Đại
chiến lần thứ bảy (1672).
Chương XV - Sự nghiệp hai họ Trịnh - Nguyễn
Chương XVI - Các hoạt động của Trịnh
Chương XVII - Các hoạt động của Nguyễn
Chương XVIII - Các cuộc chiến tranh cuối cùng
của hai họ Trịnh - Nguyễn (1774) Chương XIX - Nhà Tây Sơn (1778 - 1802)
I Tiểu
sử nhà Tây Sơn.
II Tây
Sơn diệt Nguyễn tại Nam Việt.
III
Nguyễn Huệ đuổi quân Xiêm.
IV
Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa.
V Nguyễn
Huệ ra Thăng Long.
VI Chim
Bằng gẫy cánh.
Chương XX - Một võ công oanh liệt bậc nhất của
Việt Nam
cuối thế kỷ XVIII
I Cái
chết của Vũ Văn Nhậm.
II Chiến
sự Việt - Thanh.
III Cuộc
giao thiệp giữa Tây Sơn và Thanh đình.
IV Chính
trị của vua Quang Trung.
V Vua
Chiêu Thống bị nhục trên đất Tàu.
Những cuộc chiến tranh cuối cùng giữa Tây Sơn
và Cựu Nguyễn
I Nguyễn
Vương quật khởi.
II
Nguyễn Vương tấn công Qui Nhơn lần thứ nhất (1790).
III Qui
Nhơn thất thủ lần thứ hai và ba.
IV Phú
Xuân đổi chủ.
V Nguyễn
Vương ra Bắc Hà.
Chương XXI - Người Âu Châu sang Việt Nam
I Việt Nam dưới con
mắt người Pháp.
II Đạo
Thiên Chúa.
Chương XXII - Nhà Nguyễn (1802 - 1945)
I. Gia Long (1802 - 1820)
I Thế tổ
xưng đế hiệu.
II Bộ
máy chính quyền trung ương.
III Các
địa hạt hành chính lớn.
IV Binh
chế.
V Công
vụ.
VI Việc
học hành và luật pháp.
VII Việc
tài chính.
VIII
Việc ngoại giao với Pháp.
IX Việc
ngoại giao với Trung Quốc.
X Giao
thiệp với Miên - Lào - Tiêm La.
XI Bàn
về loạn phong kiến ở Việt Nam .
XII Vài
ý kiến về vua Gia Long.
II. Thánh Tổ (1820 - 1840)
I Hoàn
thiện bộ máy chính quyền.
II Việc
học hành thi cử.
III Sách
vở.
IV Những
cuộc phiến loạn.
V Việc
ngoại giao với Pháp.
VI Việc
Ai Lao và Chân Lạp.
VII Việc
cấm đạo.
VIII Bàn
về Thánh Tổ.
III. Hiến Tổ (1841 - 1847)
I Cá
nhân của vua Hiến Tổ.
II Việc
Chân Lạp và Tiêm La.
III Cuộc
đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam .
Phần Thứ Tư
Việt Nam
Mất Độc Lập Về Tay Pháp
Chương I - Dực Tông (1847 - 1883)
I Vua Tự
Đức và tình thể Việt Nam
giữa thế kỷ XIX.
II Việc
ngoại giao và cấm đạo.
III Việc
văn học và binh chế.
IV Những
vụ phiến động trong nước.
Chương II - Người Pháp ra mặt xâm chiếm Việt
Nam
I Nguyên
nhân của sự xâm lăng.
II Đặc
phái viên Pháp đến Việt Nam .
III Việt
Nam
mất ba tỉnh Đông Nam Kỳ.
IV Phản
ứng của triều đình Huế.
V Phong
Trào kháng Pháp ở Nam Kỳ.
VI Người
Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.
VII
Những nghĩa sĩ miền Nam .
Chương III - Quân Pháp đánh Bắc Kỳ
I Nguyên
nhân việc người Pháp ra Bắc.
II Pháp
quân đánh Bắc Kỳ lần thứ I.
III Hòa
ước năm Giáp Tuất (1874).
IV Hà
thành thất thủ lần thứ hai.
V Sự phế
lập ở Huế.
VI Hòa
ước năm Quí Mùi (1883).
VII Hòa
ước Thiên Tân lần thứ hai.
VIII Hòa
ước Patenôtre (1884).
Chương IV - Tàn cuộc của phong kiến Việt Nam
I Phong
trào Cần Vương cứu quốc.
II Phong
trào Văn Thân kháng Pháp.
III Vua
Thành Thái (1884 - 1907).
IV Vua
Duy Tân (1907 - 1916).
V Cuộc
bảo hộ của nước Pháp.
Chương V - Những cuộc tranh thủ độc lập của
Việt Nam
từ 1928 - 1954
I Xã hội
Việt Nam
dưới thời Pháp thuộc. II Những cuộc tranh đấu của thế hệ trẻ tuổi. III Cuộc đảo
chánh 9-3-1945. IV Lá bài Bảo Đại và Hiệp Định Hạ Long. V Cuộc chiến tranh Thực
- Cộng (1945 - 1954). VI Thỏa hiệp Genève. VII Kết Luận
Phần 1 - Chương 1
Khái Luận Về Xã Hội Việt Nam Xưa và Nay
- Địa lý
thiên nhiên Việt Nam
- Người
Việt Nam
- Gốc
tích của người Việt Nam
1- Địa Lý Thiên Nhiên Việt Nam
Việt Nam ngày nay là một nước trên bán đảo Đông Dương
ở vào khoảng giữa Ấn Độ và Trung Hoa thuộc Châu Á hướng về phía Nam . Bắc, Việt Nam giáp Trung Hoa (giáp giới ba tỉnh miền Nam
Trung Quốc: Vân Nam ,
Quảng Đông và Quảng Tây), Tây giáp Ai Lao, Cao Mên, Đông giáp bờ bể Nam Hải.
Một đằng khác, ở Đông Nam Châu Á, bán đảo Đông Dương trong đó có Việt Nam nhìn
qua quần đảo Phi Luật Tân và duỗi chân về phía Nam như đạp xuống quần đảo Mã
Lai mà vị trí cùng mối liên hệ đối với bán đảo Đông Dương có thể ví với Địa
Trung Hải ở Âu Châu.
Nước
Việt Nam
giống hình chữ S hẹp ở giữa, rộng hai đầu. Chiều cong vòng theo bờ biển bắt đầu
từ vịnh Bắc Việt, lượn vào đến đầu Trung Việt dần dần ưỡn ra, xuống đến Nam
Việt thì chiều cong lại dần dần ăn vòng vào theo một đường rất êm dịu.
Diện
tích rộng chừng 312.000 cây số vuông trong đó:
Bắc
Việt: 105.000 cây số vuông Trung Việt: 150.000 cây số vuông Nam Việt: 57.000
cây số vuông
Bắc Việt
chia ra làm ba miền: Thượng du có nhiều rừng núi chạy vòng cánh cung theo hình
thể xứ Bắc, như chiếc quạt xòe ra từ nơi giáp miền Thượng Lào chạy sát các vùng
biên giới Việt Hoa. Ngọn núi cao nhất là Hoàng Liên Sơn (3.141 thước). Trung du
là miền ở giữa trung châu và thượng du, sát các khu rừng núi. Trung châu đáng
chú ý vì có nhiều đồng bằng, sẵn ruộng đất để cầy cấy và sông ngòi thuận tiện
cho mọi việc giao thông (sông Hồng Hà phát nguyên từ Tây Tạng có nhiều chi
nhánh tản mác khắp Trung Châu, sông thường không rộng lắm) - dân cư rất đông
đúc, thóc lúa, ngô, khoai có nhiều.
Trung
Việt là một giải đất hẹp, có giẫy Trường Sơn giống như cái xương sống chạy dọc
từ Bắc Việt vào Nam Việt, có thể ví là cái bình phong ngăn cách hai xứ Việt
Lào, ở đây ruộng đất hiếm hoi, khô khan, vì vị trí sát bể và núi nên sự sinh
sống của dân chúng trông vào lâm sản và hải sản hay ngư lợi (nghề đánh cá).
Kinh tế nông nghiệp ở đây không được phong phú như ở miền Bắc Việt và Nam Việt
có thể coi là hai vựa thóc của Việt Nam .
Nam Việt
ở vào khúc dưới sông Cửu Long có sông Tiền Giang, Hậu Giang, Vàm Cỏ và
Đồng Nai
chạy dài trên
toàn cõi, lại
có nhiều đất
ruộng nên rất
thịnh đạt về
nông nghiệp. Nhân dân ở đây không đông đúc mấy, tương đối với tổng số
diện tích đất đai, vừa sống với biển, vừa sống với ruộng vườn nên không chật
vật, vất vả như dân Bắc Việt bị nạn nhân mãn từ bao nhiêu đời. (Mật độ dân cư
trung bình lên tới 800 người trên một cây số vuông, có chỗ lên tới 2.000 người,
điều ít thấy ở một nơi nào trên thế giới ngày nay.)
Việt Nam là một xứ thuộc nhiệt đới, nhưng khí hậu có
khác nhau từ Nam
ra Bắc, thường nóng và ẩm thấp. Bắc Việt giáp giới Trung Quốc là một miền ôn
đới, có bốn mùa rõ rệt, mùa xuân đầm ấm, có nhiều ngày lất phất mưa, cũng có
khi lạnh. Trong mùa này, cây cỏ mọc mạnh. Mùa hè nóng bức, có khi rất oi ả, khó
chịu, nhưng cũng là mùa để thảo mộc sinh sôi nảy nở, thuận tiện cho nông
nghiệp. Các bệnh dịch tả nhất là đối với con trẻ hay phát sinh trong vụ hè. Vào
khoảng tháng sáu hay tháng bảy, thường có nước lớn do những trận mưa rào như
trút nước từ các vùng thượng du về đồng bằng dễ sinh ra nạn nước lụt, xưa kia
hay phá vỡ đê điều, gây nên nhiều sự thiệt hại về tài sản và tính mệnh cho dân
chúng vùng Trung Châu. Cuộc chống chọi với nước lũ hằng năm đe dọa đê điều,
đáng kể là một công cuộc vĩ đại của dân tộc Việt Nam trải qua bao nhiêu thế kỷ trong
khi khoa học chưa được áp dụng. Đây là một cuộc chiến đấu giữa Người và Thiên
Nhiên, có lẽ đã hun đúc cho dân tộc chúng ta cái đức tính kiên nhẫn và một tinh
thần chiến đấu đáng kể. Trái lại vì lụt mà ruộng đất thêm mầu mỡ, nhất là ở
đồng bằng sông Cửu Long. Mùa thu có những ngày nắng dịu nhưng về những ngày
chót, đời sống của cỏ cây bắt đầu ngưng trệ cho đến mùa đông thì rõ rệt là mùa
thu, nắng hanh thường hay phát sinh các bệnh lặt vặt và gió bấc lạnh thổi buốt
kèm với mưa phùn, lại có những sự thay đổi thời tiết rất đột ngột, đang nóng
đổi ngay ra lạnh.
Từ cửa
Hàn trở vào Nam Việt khí hậu hình như riêng biệt. Ở đây có rõ rệt hai mùa mưa,
nắng, nhất là ở Nam Việt, nghĩa là có 6 tháng nắng. Trong một ngày có nhiều
trận mưa rào đổ xuống trong chốc lát rồi trời lại nắng ráo như thường. Buổi tối
thường có gió mát. Ở địa phương này vấn đề thực phẩm, khí hậu và nông nghiệp
chịu ảnh hưởng của biển rất nhiều.
Sống
trên đất Việt Nam, ngoài dân tộc Việt Nam còn có nhiều giống khác nữa tại các
vùng sơn cước mà người Việt ngày nay gọi là các đồng bào Thượng, vì trải qua
bao nhiêu thế hệ đã cùng sinh sống với nhau tuy không trực tiếp nhiều, nhưng đã
cùng chung lưng đấu cật những biến cố lớn lao của lịch sử và không hề có sự mâu
thuẫn gì về quyền lợi tinh thần hay vật chất.
Ở miền
thượng du Bắc Việt có dân Thái, Thổ, Mường, Mán, Mèo, Nùng, Yao, Lô Lô...Ở các
miền rừng núi Trung Việt có giống Mọi và Chàm. Ở Nam Việt trong các vùng sơn
lâm cũng có dân Mọi, Chàm, các thành thị có Chà Và, Hoa Kiều, cùng người Thổ nguồn
gốc Cao Mên, lâu đời sinh sống ở đây vui vẻ êm ấm như người Việt và không bị
một đố kỵ nào hết.
Nhân dân
Việt Nam ở Bắc Việt có vào khoảng 9 triệu người, Trung Việt có độ 6 triệu, Nam
Việt có chừng 5 triệu, đó là con số ước lượng 30 năm về trước. Giờ đây có thể
con số đó đã vượt quá rồi. Còn dân miền núi cũng tới trên dưới một triệu.
2-Người Việt Nam
Người
Việt Nam thuộc giống da vàng. Kẻ làm nghề lao động dầm mưa dãi nắng da ngăm
ngăm đen. Người làm các nghề nhàn nhã ít ra ngoài trời thì da trắng mầu ngà. Về
chiều cao, người Việt Nam phần nhiều tầm thước (không cao không thấp), nhỏ hơn
người Tầu chút ít -- mặt phần nhiều xương xương, trán cao rộng, mắt đen và hơi
xếch về phía bên, gò má cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dầy, răng to thường khểnh,
râu thưa, tóc đen và nhiều, cắt ngắn. Dáng đi lanh lẹ, vẻ mặt lanh lợi, thân
hình mảnh dẻ nhưng cứng cát và vững chắc.
Y phục
của người đàn ông Việt Nam thường dài, rộng trong áo hẹp. Người lao động vận
quần áo ngắn, ở nơi tỉnh thành dùng mầu trắng, chốn thôn quê dùng mầu nâu hoặc
đen, đi ra ngoài thăm bè bạn, dự lễ nghi thường mặc thêm chiếc áo thâm dài quá
gối. Ở chốn thôn quê thì thêm chiếc khăn đen hay quấn ngang đầu làm cho vẻ mặt
thêm phần nghiêm trang. Ngày nay, ở các thành thị, những người tân tiến như các
công chức, trí thức, sinh viên là những phần tử có tiếp xúc với văn hóa Tây
phương thường vận Âu phục do lẽ thuận tiện và mỹ thuật.
Phụ nữ
Việt Nam ở các đô thị Bắc Việt và Trung Việt thường mặc quần trắng hay đen,
nhưng áo dài thì thay đổi nhiều mầu, chít khăn đen, cuộn tròn ngang đầu. Ở thôn
quê thì mặc váy, có yếm che ngực, lại cũng có nhiều người mặc quần như đàn bà
thành thị. Ở Nam Việt, đàn bà ưa mặc quần đen, áo ngắn và búi tóc.
Người
đàn bà Việt Nam có nhiều đức tốt hơn là thói xấu. Phần lớn từ thành thị đến
thôn quê, người đàn bà lo buôn bán, cầy cấy, biết tần tảo, chịu thương khó và
rất hy sinh cho chồng con. Sự kiện tốt đẹp nầy là do ảnh hưởng của giáo lý
Khổng Mạnh đã đi sâu vào đời sống tinh thần của dân tộc chúng ta từ ngót hai
ngàn năm nay.
Gần một
thế kỷ trở về đây, Việt Nam lại xúc tiếp với Tây phương, phụ nữ Việt Nam hấp
thụ văn hóa Âu Mỹ đã tỏ ra có nhiều khả năng trên trường học vấn và đã có những
sự tranh đấu về quyền lợi gia đình, xã hội với nam giới.
Bàn về
các điều tốt xấu trong con người Việt Nam, ta thấy đồng bào ta thông minh, nhớ
dai, có óc nghệ thuật, khéo tay chân, giàu trực giác hơn là luận lý, ưa điều đạo
đức, ham chuộng văn chương. (Có người nói người Việt ta thích văn chương phù
hoa hơn là thực học, thiết tưởng không đúng, chẳng qua chúng ta trong mười thế
kỷ mất độc lập, chịu ảnh hưởng văn hóa nô dịch nên không được hướng dẫn phải
đường, phải lối mà thôi, chớ không phải là ta không biết trọng thực học). Chúng
ta lại còn đức tính lễ phép và biết ơn, chuộng hòa bình và giàu óc hy sinh.
Người
lao động rất cần cù và nhẫn nại, có sức chịu đựng những việc nặng nhọc rất bền
bỉ, nhất là các đồng bào miền Bắc.
Người đi
lính ra trận rất trọng kỷ luật và can đảm. Nói đến người lính đây tức là lớp
nông dân của chúng ta trong vai trò tranh đấu cho Tự do và Độc lập của xứ sở từ
bốn ngàn năm lập quốc đến giờ rất đáng phục.
Tinh
thần dân tộc được như vậy là nhờ ở hoàn cảnh kinh tế, địa lý, văn hóa và chính
trị cấu tạo nên bởi:
1) Bắc
giáp Trung Quốc, Nam giáp Chiêm Thành là hai gọng kìm ghê gớm, luôn luôn xiết
chặt vào dân tộc chúng ta.
2) Rừng
núi Bắc Việt hoang vu và nhiều thú dữ.
3) Đồng
bằng Bắc Việt hay bị lụt lội và hạn hán.
4) Miền
duyên hải Trung Việt hay nổi giông tố.
5) Vì
hai vụ gió mùa đổi thay luân chuyển, khí hậu thường hay khô ráo và ẩm thấp.
Đó là
những yếu tố đã hun đúc cho chúng ta nhiều năng lực tranh đấu, sức chịu
đựng với
thiên nhiên và các cường bang ngoại địch.
Chúng ta
cũng có nhiều tính xấu như các dân tộc khác:
Người
dân trung lưu và hạ lưu hay nông nổi, háo danh, thích phô trương, mê cờ bạc,
tin ma quỷ, sùng việc cúng bái, không nhiệt tín tôn giáo nào cả, ham kiện cáo,
tinh vặt và quỷ quyệt.
Tiếng
nói của người Việt có thể cho là đồng nhất, mặc dầu có sự phân biệt Trung-
Nam-Bắc, giọng nói hơi nặng nhẹ ở một vài nơi, nhưng người Việt đi đến đâu cũng
hiểu nhau. Tính tình, phong tục, tôn giáo cũng không có gì khác biệt lắm từ Nam
ra Bắc.
Xã hội
Việt Nam gồm 4 giai cấp: Sĩ, Nông, Công, Thương, cùng sống dưới chế độ phong
kiến lâu đời, nhưng không có nhiều chia rẽ quá đáng như ở nhiều dân tộc khác.
Tóm lại,
Việt Nam, nếu đem so sánh với nhiều dân tộc khác thì rõ rệt có rất nhiều đức
tính thuần nhất nhờ đó mà có đủ sức mạnh vật chất, tinh thần để giải quyết
nhiều việc khó khăn nội ngoại, qua nhiều thế hệ.
Tiếng
nói của người Việt có thể cho là đồng nhất vì mặc dầu có sự phân chia Trung-
Nam-Bắc, giọng nói có hơi nặng nhẹ ít nhiều, nhưng người Việt đi đến đâu cũng
hiểu nhau. Tính tình, phong tục, tôn giáo cũng không có gì khác biệt từ Nam ra
Bắc.
Đây là
sự trình bày đại khái về vị trí, tính tình, phong tục của người Việt Nam. Chúng
tôi xin nghiên cứu kỹ lưỡng thành từng vấn đề ở những trang dưới đây tùy theo
sự thuận tiện của việc biên khảo.
3- Gốc Tích Của Người Việt Nam
Bàn về
gốc tích dân tộc Việt Nam, những nhà làm sử của chúng ta và các học giả ngoại
quốc thường không đồng ý kiến. Nguyên do dân tộc Việt Nam là một dân tộc rất cố
cựu, ra đời trong khi khoa học, nhân chủng học, địa dư học và sử học chưa khai
triển. Thêm vào đó, dân tộc Việt Nam từ bốn ngàn năm lập quốc, trải qua bao
nhiêu cuộc biến chuyển của Lịch sử, sống một cuộc đời bất định từ lưu vực sông
Nhị Hà, sông Mã cho tới ngày nay mới ngừng hẳn bên bờ biển Tiêm La.
Nhiều
nhà khảo cổ Pháp cho rằng người Việt Nam phát tích ở miền núi Tây Tạng cũng như
người Thái, qua các triều đại di cư dần xuống Bắc Việt, lần xuống phía Đông Nam
và lập ra nước Việt Nam ngày nay. Còn người Thái lần theo sông Cửu Long
(Mêkong) tạo ra nước Tiêm La và Mên, Lào. Như vậy dân tộc Việt Nam là một trong
nhiều dân tộc đã do các miền Tây Bắc Trung Hoa là nguồn gốc. Đồng thời, một vài
dân tộc khác ở các quần đảo Đông Nam di cư lên như dân Mã Lai, dân Phù Nam,
Chiêm Thành cũng tập hợp trên bán đảo Đông Dương.
Có
thuyết cho rằng người Việt thuộc giống Anh-đô-nê-diêng (Indonésien) bị giống A-
ri-ăng (Aryens) đánh bạt ra khỏi Ấn Độ phải chạy qua bán đảo Hoa Ấn. Tới đây ta
chia ra làm hai ngành, một ở lại bán đảo Hoa Ấn tiêu diệt đám thổ dân ở đây là
người Mê- la-nê-diêng (Mélanésien), một thiên xuống Nam Dương quần đảo -- Ở mạn
Bắc, ta hòa giống với người Mông Cổ, chịu ảnh hưởng văn minh Trung Quốc. Ở mạn
Nam giống Anh-đô-nê-diêng hợp thành giống Cao Mên và Chiêm Thành, chịu văn hóa
Ấn Độ. Ngay ngành ở mạn Bắc cũng chia ra hai chi phái: một sinh tụ ở Trung Châu
sông Nhị Hà và các miền duyên hải, nhờ có đất cát phì nhiêu lại chịu nhiều cuộc
biến chuyển lịch sử mà xúc tiếp được với văn hóa Trung Quốc nên tiến bộ mau lẹ.
Còn chi phái kia lần lên các vùng cao nguyên, sống với rừng núi -- chịu ảnh
hưởng của giống Thái ở lân cận tuy vẫn giữ được nền nếp cũ là các tổ chức và
thể chế phong kiến. Các người Mường hiện cư trú tại Hòa Bình và Nghệ An ngày
nay là di duệ của chi phái này.
Ông Léonard
Aurousseau, căn cứ vào sách Tàu, cho rằng người Việt Nam thuộc dòng dõi người
nước Việt đời Xuân Thu tức là thuộc quyền Quốc vương Câu Tiễn thời đó (cuối thế
kỷ thứ 6 trước Công Lịch), đóng kinh đô ở thành Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang
ngày nay. Năm 333 trước Công Lịch), nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy
lùi thêm xuống miền Nam chia ra làm phái:
1) Đông
Âu hay là Việt Đông Hải thuộc miền Ôn Châu (phía Nam tỉnh Chiết Giang).
2) Mân
Việt tụ tập tại Phúc Châu tức Phúc Kiến.
3) Nam
Việt thuộc Quảng Đông và phía Bắc Quảng Tây.
4) Lạc
Việt hay là Tây Âu Lạc ở phía Nam Quảng Tây. Và miền Bắc Việt của chúng ta bây
giờ.
Chúng ta
thuộc thị tộc nào?
Tác giả
cuốn "Nguồn gốc dân tộc Việt Nam" như chúng tôi xét, cũng không đứng
ngoài thuyết này.
Giao Chỉ và Việt Thường
Theo sự
khảo cứu của ông Đào Duy Anh, ở đời thái cổ từ Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương trong
lịch sử Trung Hoa, trong khi người Hán tộc đương quanh quẩn ở lưu vực sông
Hoàng Hà và sông Vị Thủy thì ở miền Nam trong khoảng lưu vực sông Dương Tử,
sông Hán và sông Hoài có những giống người văn hóa khác hẳn với văn hóa người phương
Bắc. Trong thư tịch của người Trung Hoa, bọn người đó gọi là Man Di sống ở bên
các bờ sông, bờ biển, các đầm hồ và trong các rừng hoang. Họ sinh hoạt bằng
nghề chài lưới, săn bắn. Họ có tục đặc biệt là xâm mình và cắt tóc ngắn; để
giải thích phong tục đó người ta nói rằng người Man Di hằng ngày lặn lội dưới
sông, biển thường bị giống Giao Long làm hại nên xâm mình thành hình trạng Giao
Long để Giao Long tưởng là vật cùng giống mà không giết hại.
Từ đời
Nghiêu Thuấn, một dân tộc khai hóa rất sớm là người Giao Chỉ đã giao thiệp với
người Hán tộc. Đem đối chiếu những điều trong thư tịch thì Giao Chỉ ở về miền
Hồ Nam ngày nay, gần hồ Động Đình và núi Nam Lĩnh.
Người
Hán tộc gọi nhóm Man Di đó là Giao Chỉ. Ban đầu người Giao Chỉ xâm mình để
thành hình trạng Giao Long rồi dần dần chính họ phát sinh mối tin tưởng mình là
đồng chủng của giống Giao Long. Quan niệm "Tô Tem" bắt nguồn từ chỗ
này. Người Hán thấy họ có hình trạng Giao Long, thờ Giao Long làm tổ nên gọi
nơi họ ở là Giao Chỉ tức là miền đất của giống người Giao Long.
Một
thuyết khác cho rằng người Giao Chỉ có tên này do hai ngón chân cái giao nhau.
Theo hai
Bác sĩ P. Huard và Bigot trong Bulletin de la Société Médico-chirurgicale de
l'Indochine quyển XV, số 5 tháng 5, năm 1937 trang 489-506, dưới tiêu đề:
"Les Giao Chỉ " thì việc người Giao Chỉ có hai ngón chân cái giao
nhau không đáng coi là một điều đặc biệt, tức là nhiều dân tộc khác ở Á Đông
cũng có hình tích này.
Bộ Từ
Nguyên (quyển Tí, trang 141) chép: Theo nghĩa cũ bảo hai ngón chân cái giao
nhau là Giao Chỉ, nhưng xét đời cổ bên Hy Lạp có tiếng đối trụ, lân trụ để gọi
loài người trên thế giới (đối trụ là phía Nam phía Bắc đối nhau, lân trụ là
phía Đông phía Tây liền nhau). Sở dĩ có tên Giao Chỉ là hợp với nghĩa đối trụ
vì dân tộc phương Bắc gọi dân tộc phương Nam đối nhau, không phải thực là chân
người giao nhau. (Chữ Giao Chỉ chép ở Sử Tầu trước nhất vào đời Thần Nông).
-- Ngoài
nghề đánh cá là nghề căn bản, người Giao Chỉ ở nơi đầm lầy hay đất bồi đã biết
trồng trọt và làm ruộng. Trong lúc này, ở khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Phiên
Dương từ đời Nghiêu Thuấn đã có giống người Tam Miêu biết nghề canh nông rồi;
và người Giao Chỉ đã ở trên một phần đất của người tam Miêu. Căn cứ vào nghề
đánh cá, nghề nông cùng chế độ vật tổ là đặc tính của xã hội thị tộc, người ta
cho rằng người Giao Chỉ bấy giờ ít nhất cũng là ở cuối đời đá cũ và đầu đá mới
(đá đẽo với đá mài) tuy chưa tìm được di tích sinh hoạt gì của họ ở dưới đất.
Còn về thời Nghiêu Thuấn, những đồ làm ruộng toàn bằng đá cả, xét vào các di
vật đào được ở Ngưỡng Thiều tỉnh Hà Nam và ở lưu vực sông Hoàng Hà.
Họ làm
nhà bằng cây, bằng tre hay nứa, có lẽ như nhà sàn của người thượng du ngày nay,
trên các đầm hồ hay khe núi. (Theo thiên Vũ Cống ở miền đất châu Kinh có nhiều
tre).
Sách xưa
chép ở phía Nam đất Giao Chỉ, cuối đời Chu nước Việt Thường đã có phen thông sứ
với Chu Thành vương và có cống một con bạch trĩ. Nước Việt Thường xuất hiện có
lẽ đã lâu lắm từ đầu đời nhà Chu ở trên địa bàn cũ của nước Tam Miêu (ở giữa hồ
Động Đình và hồ Phiên Dương), trung tâm điểm của nước ấy là xứ Việt Chương. Vua
Sở Hùng Cừ (thế kỷ thứ 9) phong cho con út là Chấp Tỳ ở đây. Nước Việt Thường
bắt đầu suy từ khi có Sở thành lập ở miền Hồ Nam, Hồ Bắc sau những cuộc lấn đất
về phía Tây (của Việt Thường qua đến đời Hùng Cừ đất Việt Chương ở miền hồ
Phiên Dương thời hết). Người Việt Thường cũng sinh hoạt bằng nghề đánh cá như
người Giao Chỉ, có lẽ cũng có tục xâm mình nhưng họ thông thạo nghề nông hơn.
Theo thiên Vũ Cống thì miền châu Kinh và châu Dương có những sản vật như vàng,
bạc, gỗ quý để làm nhà, các thứ trúc để làm nỏ, lông chim, da bò, ngà voi, da
tê ngưu, vải gai v...v... Dân Việt Thường còn biết chế đồ đồng đỏ. Trình độ kỹ
thuật đã tới trình độ đá mới. Họ cũng sống theo chế độ thị tộc và cũng có tín
ngưỡng "Tô Tem" như người Giao Chỉ.
Mối quan
hệ giữa người Giao Chỉ và Việt Thường thế nào đến nay vẫn chưa được rõ rệt chỉ
biết rằng khi Việt Thường xuất hiện thì tên Giao Chỉ không còn nữa. Và địa bàn
ức đoán của Việt Thường choán một phần Đông Nam của Địa bàn ức đoán của người
Giao Chỉ.
Ngoài ra
Việt Thường với Giao Chỉ đều là người Man Di thuộc về Việt tộc là giống người
đã sinh tụ ở khắp lưu vực sông Dương Tử, từ miền Vạn Huyện (đời Chu là nước
Quí Việt) tỉnh
Tứ Xuyên ra
tới biển, nghĩa
là suốt châu
Kinh, châu Dương
trong Vũ Cống.
Cứ những
điều chúng ta biết về đặc tính văn hóa thì Việt tộc vào thời đó có lẽ không
thuộc ảnh hưởng chủng tộc Mông Gô Lích một phần nào như người Hán, tuy chưa thể
nói thấy tục xâm mình là tục đặc biệt của các dân tộc thuộc giống
Anh-đô-nê-diêng ở miền Nam và Tây Nam Á Châu, (từ người Miêu Tử, Lô Lô, Mán,
Lái, Lê, Dao, Xa, Đản, Đông cho đến người Dayak ở đảo Bornéo đều là di duệ của
người Man Di). Đám người này, theo các nhà nhân chủng học chia ra hai giống
Tạng Miến (Tibéto-birman) và Anh- đô nê-diêng. Nhưng họ không khác biệt nhau
mấy, ngay cả về đặc tính kỹ thuật. Theo các nhà bác học Leroy, Gourhan về nhân
loại học, người Anh-đô-nê-diêng và giống Tạng Miến gần nhau quá, nếu có khác
nhau thì sự khác biệt đó cũng hết sức mỏng manh, có lẽ vì sự pha trộn tức là sự
lai giống. Hai đám dân tộc này phải chăng đã sống gần gũi nhau nên có sự trạng
này hay là đã cùng thoát thai ở một gốc? Và chúng tôi nghĩ rằng cái gốc người
ta đề cập đó có lẽ là Việt tộc. Các nhà tiền sử học và ngôn ngữ học phát biểu
rằng suốt từ miền A-Xam ở phía Bắc Ấn Độ trải qua Nam Bộ Trung Hoa xuống tới
Nam Dương quần đảo có một thứ văn hóa hiện nay còn di tích trong các dân tộc
Anh-đô-nê-diêng. Chúng ta có thể ngờ rằng người Việt tộc xưa có lẽ là một nhánh
của chủng tộc Anh-đô-nê-diêng. Chủng tộc này trong thời thái cổ đã có mặt hầu
khắp miền Đông Nam Á Châu.
Bách Việt
Căn cứ
vào các sử sách của Tàu trong đời nhà Chu, ta thấy Bách Việt có mặt ở lưu vực
sông Dương Tử rồi sau này tản mác khắp miền Nam bộ Trung Hoa. Nói là Bách Việt,
người ta căn cứ vào thuyết truyền kỳ về Lạc Long Quân kết duyên cùng Bà Âu Cơ
sinh ra trăm con trai. Sự thực, về thời thượng cổ giống Bách Việt có nhiều
nhóm, nhiều bộ lạc sinh sống rời rạc như các dân tộc thiểu số ngày nay tại miền
Thượng du. Đến đời nhà Chu, các bộ lạc này đi dần đến chỗ thống nhất do những
biến thiên của Lịch sử, các bộ lạc nhỏ dần bị các bộ lạc lớn kiêm tính và họp
lại thành năm nhóm lớn sau đây đã đạt đến hình thức quốc gia là: Đông Việt hay
Đông Âu, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt. Sau này ba nhóm
trên bị đồng hóa theo Hán tộc, còn lại trên lịch sử đến ngày nay là nhóm Tây Âu
và Lạc Việt.
Vào thế
kỷ thứ 9, một số thị tộc người Việt ở Chiết Giang có lẽ có quan hệ với những
phần tử Việt tộc ở Nam bộ Trung Hoa và đối với Lịch sử của chúng ta là người
Việt Nam ngày nay nữa. Họ lập thành nước Việt do một nhà quý tộc họ Mị thuộc về
thị tộc Mị cùng họ với vua nước Sở. Buổi đầu tiên trên bốn thế kỷ trước đời Câu
Tiễn, nước Việt chỉ là một nước phụ dung của nước Ngô, một nước lớn ở lưu vực
sông Giang và sông Hoài. Cuối thế kỷ thứ 6 vua nước Ngô là Hạp Lư giận vua nước
Việt là Doãn Thường không theo mình đi đánh nước Sở nên đem binh đánh nước
Việt, thắng Doãn Thường ở Tuy Lý (phủ Gia Hưng). Doãn Thường chết, con là Câu
Tiễn đem quân quyết tử trả thù giết được Hạp Lư. Cháu Hạp Lư là Phù Sai, cũng
trả thù cho ông, diệt được nước Việt. Sau này Câu Tiễn nhờ được bề tôi giỏi là
Văn Chủng và Phạm Lãi khôi phục được nước Việt, phá được Ngô, xưng bá miền
Giang Hoài (năm 402). Ngôi bá chủ này, con cháu Câu Tiễn còn giữ được ba đời
nữa, đến đời thứ 4 thì thất bại ở Giang Đông. Bốn mươi tám năm sau đời Câu Tiễn
thì nước Việt suy. Bốn mươi sáu năm sau nữa, nước Việt bị Sở thôn tính.
Trong
lịch sử 600 năm của nước Việt, Câu Tiễn đã là người anh hùng làm nước Việt nhỏ
bé bán khai ở miền Giang Nam nổi lên thành một nước mạnh tung hoành non một thế
kỷ ở một phương, mở rộng cương vực choán một phần lớn tỉnh Chiết Giang về phía
Nam, và một phần lớn tỉnh Giang Tây về phía Bắc, tuy miền Giang Tây chỉ là phạm
vi thế lực.
Trạng
thái sinh hoạt vật chất của nước Việt đại khái như sau đây: cũng như người nước
Ngô, người Việt vẫn sinh nhai bằng nghề đánh cá là nghề chính. Nông nghiệp của
họ chưa phát đạt vì đất xấu, kỹ thuật canh tác còn thô sơ, lại chưa biết dùng
cầy bừa và trâu bò. Có lẽ người Việt chỉ trồng được lúa nếp ở trên các khoảng
đất cao và ăn trọng yếu là tôm cá, sò hến.
Về y
phục, người Việt dệt bằng sợi gai hay đay, và biết dệt vải hoa như người Mường,
Thổ là một thứ sản phẩm rất được người Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng
và thiếc để làm binh khí. Người ta đào được ở Chiết Giang những đồ đồng như
đinh ba chân, đao, thương, dao găm, mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là
thứ kiếm đồng hai lưỡi là vật quý báu ở đời Xuân Thu.
Họ sinh
hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ
thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tụ lự,
thuyền có lầu tức là Lâu thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua thuyền.
Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về
thủy chiến (Điều này làm ta nhận thấy dân tộc Việt Nam quả có tài chiến đấu đặc
biệt về mặt thủy trong các cuộc xung đột với Trung quốc từ 20 thế kỷ nay).
Về kiến
trúc, hình như họ ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây mộ và thành bằng đá
và gạch. Việt Tuyệt Thư chép: nước Việt có rất nhiều thành và lăng mộ, còn di
tích đến đời Hậu Hán.
Về văn
hóa, tinh thần của người Việt chúng ta chưa được nhiều tài liệu để xét đoán, về
ngôn ngữ chẳng hạn. Ta chỉ biết rằng tiếng nói của người Việt khác với tiếng
nói của người Hán nhiều, thường một tiếng Việt phải phiên âm bằng hai ba tiếng
Hán.
Về phong
tục thì có tục xâm mình, cắt tóc là đặc tục của toàn thể Việt tộc. Họ còn tục
khắc cánh tay để ăn thề, khác với tục xâm mình có ý nghĩa "Tô Tem" .
Họ thờ quỷ thần, tin điều họa phúc, chuộng phù pháp, thờ người chết rất thành
kính. Các nhà quý tộc xây mộ bằng đá và bằng gạch lớn, bỏ đồ binh khí bằng đá,
đất hay đồng, vào áo quan để người chết có các thức dùng.
Xét các
đồ đồng và đồ gốm khai quật được ở Chiết Giang, các nhà khảo cổ buộc các nghệ
thuật của các đồ ấy vào một nghệ thuật lớn gọi là nghệ thuật Đông Sơn, có nhiều
đặc điểm tương tự với nghệ thuật đời chiến quốc ở miền sông Hoài. Những đặc
điểm ấy là hình trôn ốc cập đôi và hình giây bện. Ông Đào Duy Anh cho rằng nghệ
thuật ấy chính ở miền Ngô Việt lúc thịnh thời đã có rồi. Sau đó sự xúc tiếp với
người Hán ở miền Bắc, nghệ thuật đó có ảnh hưởng đến nghệ thuật Chu Mạt hay
Chiến Quốc và do sự di cư của Việt Tộc xuống miền Nam thành nghệ thuật Đông
Sơn.
Về tính
tình, người Hán cho người Man Di (Việt) có tính khinh bạc, hiếu chiến, sắc sảo
về việc binh, không sợ chết. Việt Tuyệt Thư viết: Họ ở núi mà đi đường thủy lấy
thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo.
Sử ký chép: Vì dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm, bon chen. Tóm lại người
Hán có ý ghê sợ tinh thần quật cường của Việt tộc, luôn luôn chống trả kịch
liệt các cuộc xâm lăng của họ, ngoài ra người Việt lại thường hoài vọng phát
triển về miền Bắc nữa. Đáng chú ý là cái tinh thần bất úy tử của người Việt mà
Câu Tiễn trong khi đánh Ngô, đã có dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân đến trước
quân Ngô khiêu chiến, la ó om sòm, rồi tự cắt cổ mà chết. Giữa khi quân Ngô
ngạc nhiên ngắm cái trò tự sát này, thì quân chủ lực của Việt ập đến).
Về chính
trị, nước Việt dưới đời Câu Tiễn đã vượt qua chế độ bộ lạc và thành một quốc
gia theo chế độ quân chủ phong kiến. Sau khi đánh được Ngô thì Việt vẫn xưng
thần với nhà Chu. Sau một trăm năm cường thịnh, nước Việt lại suy vi. Bao nhiêu
chế độ kinh tế, chính trị phỏng theo người Hán lại xụp đổ và người Việt lại trở
về chế độ bộ lạc, một phần phiêu lưu về miền Lĩnh Nam, một phần bị đồng hóa với
người Hán tộc.
Các nhóm
khác là Đông Việt, Mân Việt và Nam Việt là thế nào, ngoài Ư Việt hay Vu Việt mà
di chủng hiện còn lưu trên lịch sử là dân tộc Việt Nam do những quan hệ xa gần?
Các nhóm này có từ bao giờ, chưa sử gia nào có thể trả lời một cách thỏa đáng,
chỉ biết rằng họ đã có mặt ở các miền Nam bộ Trung Quốc đã lâu đời, trước khi
nhà Tần đem quân vượt núi Ngũ Lĩnh xuống chinh phục họ. Bấy giờ họ đã thành các
quốc gia tuy tổ chức về mọi phương diện chưa được quy củ lắm.
Đây số
phận của họ từ triều đại nhà Tần qua triều đại nhà Đông Hán! Năm 218, năm đạo
quân Tần gồm những người lưu vong, những rể thừa và lái buôn mở cuộc Nam chinh.
Đạo quân thứ năm ngừng lại trên sông Dư Can trong tỉnh Quảng Tây ở phía Nam hồ
Phiên Dương phụ trách việc đánh Đông Việt và Mân Việt khi đó còn là những quốc
gia mới chớm nở. Hai nhóm này xưa kia thần phục Sở. Sau Trung Quốc rối loạn, họ
nhân đó mà giành lấy độc lập.
Đông
Việt bấy giờ đóng ở trung tâm điểm miền Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu, tỉnh Chiết
Giang về phía Nam Tâm Môn Loan. Mân Việt ở trung tâm điểm Mân Huyện, thuộc Phúc
Châu trong địa hạt Phúc Kiến ngày nay.
Thế quân
Tần bấy giờ đang mạnh, việc bình định được Trung Nguyên với cái kết quả rực rỡ
huy hoàng của nó khiến hai nhóm Đồng Việt và Mân Việt khiếp sợ, nhờ vậy mà quân
Tần thắng nhanh chóng, dễ dàng ngay trong năm đầu. Việc chinh phục xong, Tần
hợp hai nước lại làm một, đặt thành quận Mân Trung. Quốc Vương bản xứ hạ xuống
làm quân trưởng (tù trưởng) để cai trị dân như cũ.
Đến ít
năm sau Tần suy biến, Đông Việt và Mân Việt theo chư hầu đánh Tần rồi lại giúp
Hán đánh Sở. Hán Cao Đế năm thứ 5 (202) thưởng công cho tù trưởng Mân Việt là
Vô Chu bằng tước Mân Việt vương. Đến Huệ Đế năm thứ 3 (192) chi lại đất Mân
Trung cũ mà đặt thêm nước Đông Hải và cũng để đền đáp cho tù trưởng Đông Việt
là Dao, Hán phong cho tước Đông Hải vương, đóng đô ở miền Vĩnh Gia.
Sau này
Mân Việt và Đông Việt xung đột với nhau đã là cơ hội rất tốt cho sự kiêm tính
của nhà Hán. Buổi đầu hai nước nầy thần phục nhà Hán nhưng vẫn nuôi hoài vọng
tiến về phương Bắc nếu có dịp thuận tiện cho nên cả hai đã phụ lực cho Ngô
Vương Tỵ và Hoài Nam vương trong việc phản Hán. Nhà Hán e ngại Mân Việt hơn
hết. Rồi Hán dụ được Đông Việt giết Tỵ mà quay về với mình. Con Tỵ là Tu Câu
xin Mân Việt đánh Đông Việt năm thứ ba đời Vũ Đế (138). Đông Việt thế nguy cầu
cứu Hán nhưng khi tướng Hán là Nghiêm Trợ xuất binh thì quân Mân Việt đã rút
lui về Nam, vì trong nước có loạn; Nghiêm Trợ đến Đông Âu lấy danh nghĩa cứu
nạn đói liền dời một phần đông dân Đông Âu về Giang Hoài có ý rút bớt thực lực
của Đông Âu để tránh hậu họa sau nầy. Có lẽ một phần dân Đông Âu đã chống lại
chính sách này nên theo vua di chuyển xuống miền Nam gần Tuyên Sơn tỉnh Phúc
Kiến.
Năm thứ
6 hiệu Kiến Nguyên (135), Mân việt đem quân đánh Nam Việt. Nam Việt cũng cầu
cứu nhà Hán -- Vương Khôi được Hán Đế cử đi đánh Mân Việt cùng Hàn An Quốc một
do đường Dự Chương, một do đường Cối Kê, nhưng chưa tới cõi Mân thì Mân Việt vì
nội loạn phải xin hàng.
Nam Việt
Nhóm Nam
Việt cũng như Mân Việt và Đông Việt là một trong nhiều nhóm Việt tộc. Nó mang
tên Nam Việt có lẽ tự khi nó có mặt ở miền Nam bộ Trung Hoa cùng thời với các
nhóm trên đây, rồi sau này dưới đời Tần, Triệu Đà chinh phục được nhóm Nam Việt
và Âu Lạc lập thành một đế quốc ở miền Đông Nam Á Châu và tự xưng Đế. Chính đạo
quân thứ tư trong năm đạo quân Tần đã ở phía Nam Dự Chương do đường Đại Du (nay
là đèo Mai Lĩnh) tiến vào Quảng Đông là lĩnh thổ của nhóm Nam Việt? Có lẽ đạo
quân thứ 5 sau khi chiếm được Đông Việt và Mân Việt đã theo đường bể do đèo Yết
Dương tấn công vào Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay). Đạo thứ nhất, thứ nhì,
thứ ba tiến vào phía Bắc Quảng Tây và Tây Bắc Quảng Đông không gặp sức kháng
chiến nào đáng kể. Nhưng ít lâu sau họ bị người Tây Âu chống trả kịch liệt ở
miền Quảng Tây, vì vấn đề tiếp tế khó khăn do đường xá xa xôi, vì do khí hậu
quá độc nên luôn trong ba năm đoàn quân viễn chinh của nhà Tần bị khốn đốn và
hao mòn vô kể. (Xin coi việc kháng chiến của Tây Âu ở đoạn dưới đây). Bị ngừng
lại, nhà Tần thiết lập bộ máy cai trị ở các nơi đã chiếm được như ở Đông Việt
và Mân Việt -- Quảng Đông và Quảng Tây thành ra ba quận Nam Hải, Quế Lâm và
Tượng Quận. Năm 214 việc đặt Quận, huyện thành tựu, nhà Tần cử Nhâm Ngao làm Đô
Úy quận Nam Hải và Triệu Đà làm Huyện Lệnh Long Xuyên (Huyện thuộc Quận). Đến
khi Trung Quốc có loạn, chư hầu nổi lên đánh đổ nhà Tần, nhà Hán ra đời thì
Triệu Đà xưng Đế ở Nam Việt, chiếm địa phương này làm của riêng trong một giai
đoạn nhưng sau cũng thần phục nhà Hán. Sau này Triệu Đà chết đi, các con cháu
kế nghiệp bất tài, nhà Hán liền chiếm hẳn Nam Việt. Âu Lạc bấy giờ nằm trong
phạm vi ảnh hưởng của Nam Việt cũng nhào theo. Rồi Nam Việt cũng bị chia làm
quận huyện. Tuy dân Nam Việt không bị cưỡng bức di cư như Đông Việt và Mân Việt
để đồng hóa với Hán tộc, nhưng từ đời nhà Tần họ ăn chung ở lộn với mấy vạn
quân Nam chinh và một vạn năm ngàn phụ nữ Hán mà Triệu Đà được nhà Tần cấp cho
để giữ việc may vá cho quân lính nên ngay từ thời Nam Việt còn thịnh đạt đã có
sự pha trộn giữa hai dân tộc Hán Việt...
Một điều
đáng chú ý là sau khi nước Việt bị diệt, nhiều nhóm tàn dân U Việt đã chạy
xuống các miền Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến tụ họp với những người đồng tộc
là Mân Việt và Đông Âu Đã di cư từ trước. Họ có trình độ văn hóa cao nên khi
hợp với các thị tộc chiếm đóng miền Nam trước họ thì họ đem đến đó một hình
thức chính trị kinh tế cao hơn. Những nhà quý tộc của họ họp thành những bộ lạc
lớn mà tự xưng vương. Ngay từ khi họ còn sinh tụ tại miền Chiết Giang cho tới
lúc họ tản mác dần xuống miền Đông Nam Trung Quốc.
Để có
một nhận định rõ rệt về mối liên hệ giữa người Việt Nam chúng ta ngày nay và
các nhóm đồng tộc trên đây, chúng tôi xin trình bầy các đặc tính văn hóa của
người Bách Việt sau khi đã nói về U Việt cũng cùng về một vấn đề. Căn cứ vào
những tài liệu rải rác ở các cổ sử như Sử ký. Hán Thư và nhất là tác phẩm của
Hoài Nam vương Lưu An là người Hán sơ sinh trưởng ở miền tiếp cận của Bách Việt
thì biết rằng người Việt xưa kia sống một cách rất đơn giản. Họ không có thành
quách, thôn ấp. Họ ở trong các vùng rừng núi, bờ lau, khe suối. Họ rất thạo
thủy chiến, rất quen dùng thuyền, ở trên cạn ít mà ở dưới nước nhiều. Họ cắt
tóc, xâm mình, đóng khố ngắn để tiện bơi lội, tay áo cộc để tiện chèo thuyền. Ở
đảo Hải Nam cũng là nơi thuộc địa bàn của người Bách Việt, theo sách Hán Thư
đàn ông cầy ruộng trồng lúa nếp, lúa tẻ, đay và gai. Đàn bà trồng dâu nuôi tầm.
Có lẽ ở miền đồng bằng trong lưu vực sông Tây Giang miền Quảng Đông và Quảng
Tây người Bách Việt cũng làm ruộng theo kỹ thuật thô sơ như dân Hải Nam vậy.
Người
Bách Việt đã biết nuôi gia súc như bò, dê, lợn, gà, chó. Họ có các sản vật quý
giá như: sừng tê, ngà voi, đồi mồi, trân châu, ngọc đỏ, bạc, đồng, trái cây
(quả nhãn, quả vải) vải gai. Hẳn họ cũng biết kỹ thuật đồ đồng như người Ngô
Việt nhưng chắc không tinh bằng dân Ngô Việt. Họ ít giao thông bằng đường bộ
nên không dùng ngựa. Họ không giỏi thương mại nhưng vì có nhiều sản phẩm nên
hay giao dịch với người Trung Quốc tại Quảng Đông, Hợp Phố, Tư Văn và Phiên
Ngung một thời đã trở nên nơi đô hội lớn.
Về kiến
trúc họ chưa có gì đáng kể vì chỉ ở nhà sàn, nhà gác bằng tre và gỗ, vì ngay
như thành trì để phòng ngừa quân địch họ cũng không có như người nước Việt
trong thời cường thịnh. Họ chỉ nhờ thế rừng núi hiểm trở để tự vệ thôi.
Về văn
hóa tinh thần, họ cũng không khác người nước Việt mấy và người Hán cũng cho họ
là khinh bạc và hiếu chiến. Họ vẫn còn sống theo chế độ thị tộc. Có lẽ riêng
nhóm Đông Âu và Mân Việt đã tiến bộ hơn và đã tiến qua chế độ gia tộc. Về chính
trị có lẽ họ ở giữa chế độ bộ lạc và phong kiến.
Lạc Việt và Tây Âu
Theo tác
giả "Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam" tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt
Nam là nhóm Lạc Việt sinh tụ ở miền Trung Châu Bắc Việt và miền Bắc Trung Việt,
nhưng nói một cách chuẩn đích rằng nhóm này đến chiếm đóng ở đây từ bao giờ thì
chúng ta chưa có câu trả lời dứt khoát, chỉ biết khi Triệu Đà cát cứ ở huyện
Long Xuyên thuộc Nam Hải (Quảng Đông) thì người Lạc Việt đã có mặt ở lưu vực
sông Nhị Hà rồi. Ở đây họ đã tổ chức thành quốc gia tuy chưa ra khỏi tình trạng
bán khai, và ngự trị quốc gia Lạc Việt bấy giờ là họ Hồng Bàng.
Căn cứ
vào Từ Quảng (do Sử Ký Sách Án Dẫn) người Mân Việt ở Phúc Kiến đều họ Lạc cả
khiến ta ngờ rằng người Lạc Việt ở Việt Nam bây giờ với Lạc Việt ở Phúc Kiến có
mối liên hệ với nhau.
Về Nhân
loại học, ông Cl. Madrolle trong bài Le Tonkin ancian B.E.F.E.A. XXXVII đã phát
biểu ý kiến này rồi ức đoán ở Phúc Kiến có một nhóm Việt tộc làm nghề chài
lưới, hàng hải đã dùng thuyền gỗ hay mảng tre có buồm, hằng năm theo gió mùa,
nhân gió bấc phiêu lưu theo dọc miền duyên hải rồi ghé vào miền Trung Châu sông
Nhị, sông Mã (Việt Nam). Nhóm này cũng đã có phen vượt biển xuống cả Nam Dương,
rồi lại nhân tiết gió nồm quay về căn cứ. Có thể một số đã ở lại Bắc Việt để
sinh sống, vì ở đây đất cát có nhiều mầu mỡ, cho tới khi dân Việt tại miền Đông
Nam Trung Quốc bị Sở diệt liền kéo cả toàn thể bộ lạc xuống Bắc Việt. Hán Từ
Quảng đã căn cứ vào một số người họ Lạc còn sót lại ở đất Phúc Kiến nên nói
rằng người Mân Việt họ Lạc.
Tại sao
có cái tên Lạc Việt?
Ông Đào
Duy Anh cho rằng nhóm Lạc Việt ấy đã thường tự sánh mình với một giống chim hậu
điểu cứ đến mùa gió bấc lạnh lẽo cũng rời bờ biển Giang Nam với họ và tiến
xuống miền Nam, đến khi mùa nóng trở về thì chim và người cùng quay lại chốn
cũ. Dần dần trong tâm lý của họ phát sinh ra quan niệm tô tem (giống chim Lạc
là một giống chim hậu điểu về loại ngỗng trời). Họ nhận giống chim Lạc là vật
tổ rồi lấy tên của giống chim này đặt cho thị tộc của mình. Rồi họ mang lông
chim Lạc ở đầu và ở mình, lại trang sức thuyền của họ thành hình vật tổ, hoặc
đeo khắp nơi trong thuyền những huy hiệu vật tổ cốt để cầu một sự hộ vệ của vật
tổ trong khi lăn lóc giữa sóng gió bể khơi. Ngày nay người ta thấy trên mặt
trống đồng Ngọc Lư có chạm các hình ảnh này. Các nhà khảo cổ Pháp như Goloubew
và Finot cho rằng sự kiện này do ý nghĩa "tô tem". Đây chỉ là một sự
ức đoán căn cứ vào các di tích mà các nhà khảo cổ đã tìm thấy.
Lân cận
với nhóm Lạc Việt là nhóm Tây Việt hay Tây Âu ở mé Đông Nam tỉnh Quảng Tây đã
nằm trong chương trình chinh phục Bách Việt của nhà Tần, trong khi quân Tần sẻ
sông ngòi để chuyển vận binh lương xuống các vùng Quế Lâm, Nam Hải, Tần diệt
được Đông Âu và Mân Việt nhưng đã vấp phải sức kháng chiến của nhóm Tây Âu mặc
dầu hạ được tù trưởng là Địch Hu Tống. Sau này một mặt quân Tây Âu rút vào rừng
sâu, một mặt, cứ đêm lại tiến ra đánh du kích giết được Đồ Thư là quan Úy nhà
Tần và làm hao mòn mấy chục vạn quân của Tần nữa. Cứ lời Lưu An, sau sự thất
bại đau đớn trên đây quân Tần rút về miền Bắc chiếm đóng ở phía Bắc sông Ly.
Ảnh hưởng của Đế quốc Tần bấy giờ mới choán được địa quận Quế Lâm tức Uất Lâm
bây giờ và miền Nam Hải (tức là Quảng Đông và Quảng Tây) mà thôi.
Ngày nay
người ta ngờ rằng người kế tiếp tù trưởng hay thái tử chết ở núi Bạch Lộc là một
người con thứ của vua Thục mà sử chép là Thục Phán (An Dương vương) đã có công
chống Tần trên đây sau khi nước Thục (ở Tứ Xuyên) bị Tần diệt được (Sử ký chép
việc ấy vào năm thứ 5 đời Chu Thành vương tức năm 316); khi dư đảng chạy về
phía Nam Lãnh náu mình ở đất Diên Trì là đất của nước Sở cừu địch của Tần mới
chiếm được.
Rồi Phán
cảm thấy đất dung thân chật hẹp nghèo nàn, nên chiếm đất Tây Âu và Lạc Việt,
theo lối con đường xe lửa Điền Việt ngày nay, qua Khúc Tịnh, Mộng Tự rồi theo
sông Hồng Hà chiếm Lạc Việt hợp Tây Âu và Lạc Việt vào làm một thành ra Âu Lạc
sau này, lấy Cổ Loa làm kinh đô, tự xưng hiệu là An Dương vương (Có lẽ muốn nhớ
lại tên cố hương là Hoa Dương, tên miền đất Thục ở Tứ Xuyên).
Việc
Thục Phán vào đất Việt có lẽ xẩy ra trước khi quân Tần đánh Tây Âu. Lúc này Tây
Âu đã thuộc về Thục Phán.
Đến ngày
nay, căn cứ vào thuyết của L. Aurousseau và tài liệu của Đào Duy Anh người ta
gần như có thể quyết định rằng người Việt Nam bây giờ tức là người Lạc Việt
thuở xưa sinh tụ ở miền Nam bộ Trung Quốc, sau này trôi rạt xuống lưu vực sông
Nhị Hà. Các nhà khảo cổ gần đây đào sâu các tầng đất thấy hài cốt người
Anh-đô-nê-diêng, Mê-la-nê-diêng ở dưới, còn hài cốt người Lạc Việt hay Giao Chỉ
ở trên nên cho rằng người Lạc việt đến lập cơ sở ở Bắc Việt chưa lâu lắm.
Lấy gì
căn cứ để nói rằng chúng ta là một trong đám Bách Việt và các nhà sử học và cổ
học đã dẫn chứng bằng những hình dáng, tính tình, phong tục và các đặc tính văn
hóa của người Việt là những tiêu chuẩn vững chắc nhất xưa nay về nhân chủng học,
để ấn định nguồn gốc và giòng giống của một dân tộc.
Thuyết nói
rằng người Việt chúng ta đến miền Trung Châu sông Nhị và sông Mã chưa lâu lắm có thể đúng vì trên khu vực
này giống người Anh-đô-nê-diêng đã đến trước chúng ta. Họ do bán đảo Ấn Độ di cư
tới và chiếm đóng những miền đồi núi giáp Trung Châu Bắc Việt (Phó Bình Gia và
làng Cườm ở Bắc Sơn. Hòa Bình, Chợ Gành) và miền Bắc Trung Việt (Đa Bút ở Thanh
Hóa, Cầu Giát ở Nghệ An). Nhà bác học Sylvain Lévy lấy kỹ thuật đồ đá trau tìm
thấy ở suốt bán đảo Hoa Ấn mà cho rằng những thứ này đã do người
Anh-đô-nê-diêng đưa tới. Nhiều nơi còn có những đống vỏ sò, vỏ điệp được coi là
di tích sinh hoạt của người Anh-đô-nê-diêng có lẽ đã sống về nghề chài lưới ở
ven sông và bên bờ biển. Người Lạc Việt mà chúng tôi đoán cũng là giống
Anh-đô-nê-diêng làm nghề chài lưới đã tiếp xúc với người Thổ Trước miền Bắc
Việt Nam cùng phương thức sinh hoạt tương tự rồi dần dần đồng hóa họ. Một phần
của đám người Thổ Trước vì sự phát triển quá mạnh của người Lạc Việt đã bị dồn
lên đồi núi, còn để lại ngày nay những di tích như hài cốt và các đồ dùng trong
đời sống hằng ngày của họ, đã do các nhà địa chất học khai quật lên được. Khi
còn ở Phúc Kiến, người Lạc Việt đã tiếp xúc với người Hán tộc thuộc giống
Mông-gô-lích từ lâu, lại tới khi qua Âu Lạc pha máu với người Anh-đô-nê-diêng
là giống chiếm cứ địa bàn ấy từ xưa, cho nên ta có thể nói rằng người Lạc Việt
là một giống tạp chủng gồm nhiều yếu tố Anh-đô-nê-diêng và một phần nào yếu tố
Mông-gô-lích. Nữ sĩ Colani tìm được trong một cái hầm mộ làng Cườm (Bắc Sơn một
cái đầu lâu gồm cả tính chất Anh-đô-nê-diêng và Mông-gô- lích. Có lẽ là đầu của
một người Lạc Việt nào lạc lõng vào trong đám Anh-đô-nê-diêng bị dồn lên miền
sơn cước.
Truy cứu
theo đặc tính sinh lý, ở nơi chúng ta, người ta cho rằng có sự pha máu giữa
giống Anh-đô-nê-diêng với giống Mông Cổ, nếu xét tầm vóc người Việt Nam cao độ
1 thước 58, chân tay khẳng khiu, cái sọ tròn (chỉ xuất 82,8), môi hơi dầy,
miệng hơi vẩu, mặt dẹt và hơi tròn, mắt có mí và hơi xếch, gò má cao, râu thưa
và cứng, da ngăm ngăm, ta không thể không nhận đấy là đặc tính sinh lý của
người Mông Cổ. Sự pha trộn này đã tạo thành con người Việt Nam có thể coi là
một thực tế, nhưng qua các biến chuyển của lịch sử và do ảnh hưởng của thời
tiết, thổ ngơi, con người Việt Nam cũng chịu nhiều sự thay đổi và có nhiều sắc
thái khác để trở nên riêng biệt...
Đến Bắc
Việt sau khi đã làm chủ nhân sông lưu vực sông Nhị và sông Mã, hẳn người Lạc
Việt vẫn tiếp tục nghề chài lưới nhưng có lẽ chỉ một phần nào sống gần biển,
ngoài ra dân Lạc Việt đã theo sinh hoạt định cư và lấy nghề nông làm căn bản do
đó sách Quảng Châu Ký chép về Giao Chỉ nói: vua là Lạc vương, dân là Lạc dân,
ruộng là Lạc điền và Lạc dân đã biết dùng nước thủy triều lên xuống để làm
ruộng. Theo sách Hậu Hán Thư khi Lạc Việt đã thuộc về Hán mà dân Lạc Việt ở Cửu
Chân vẫn chưa biết cày bừa bằng trâu bò, có lẽ vì sự tiến hóa của dân Lạc Việt
mới chỉ phát triển tới lưu vực sông Nhị mà thôi chăng? Ở Trung Châu Bắc Việt
người ta tìm thấy lưỡi cầy và lưỡi cuốc bằng đồng. Vì đồ dùng ở lưu vực sông
Nhị, sông Đáy, nhất là ở Đông Sơn trên bờ sông Mã, người ta tìm thấy đồ đá, đồ
gốm và đồ đồng của người Lạc Việt. Về những đồ đá, các nhà khảo cổ cho là thuộc
về thời đại đồ đá mới còn sót lại. Đồ gốm đào được ở Đông Sơn thuộc về hậu kỳ
của thời đại đồ đá mới mà hình thức cùng kỹ thuật tương tự với các đồ đào được
ở Chiết Giang. Người ta cho rằng kỹ thuật này có lẽ do người Lạc Việt đem đến
vì người Anh-đô-nê-diêng chưa tới một trình độ kỹ thuật cao như vậy. Đồ đồng phần
nhiều là binh khí, búa, rìu, mũi thương, mũi mác, dao găm, mũi tên, lưỡi qua
giống hệt như các thứ tìm được ở miền Giang Hoài và Chiết Giang của người Việt
tộc. Song từ khi truyền đến Việt Nam thì kỹ thuật đồ đồng của người Lạc Việt mà
xuất xứ là miền Ngô Việt, có lẽ đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của văn hóa
Anh-đô-nê-diêng rồi nhờ điều kiện sinh hoạt dễ dàng được phát đạt dần đến một
trình độ khá cao. Cái trống đồng Ngọc Lư hiện giữ được ở viện Quốc gia bảo tàng
ở Hà Nội đã chứng tỏ lời chúng tôi nói đây. Và chính Mã Viện đã lấy ở đất Lạc
Việt một cái trống đồng loại này đem về nước, đúc tượng ngựa đồng. Theo Lâm Ấp
Ký dẫn ở Thủy Kinh Chú: người Lạc Việt còn đúc cả thuyền bằng đồng nữa. Xem các
đồ đồng tìm được ở Đông Sơn người ta thấy hình người có tóc búi sau gáy, có bịt
một cái khăn ngang hai mối thắt lại thả dài xuống lưng. Ở mỗi tai có đeo một
cái vòng lớn. Hình như lưng có thắt một cái giây, ở sau lưng có một cái tua bỏ
thõng xuống. Lại có một hình người khác, tai cũng đeo vòng lớn, nhưng phần thân
dưới mang một cái váy như váy Mọi ngày nay. Ở trước váy có thêm miếng lá phủ,
tóc thì búi cao lên đỉnh đầu, một nửa kết thành bím bỏ thõng xuống lưng. Búi
tóc có bịt một cái khăn. Kiểu tóc và kiểu khăn này giống hệt cách trang sức của
người Dayak ngày nay.
Hai hình
người này cho ta phỏng đoán cách phục sức ngày xưa của người Lạc Việt. Theo lời
tâu của Tiết Tôn làm quan ở Giao Châu dưới đời Tam Quốc, người Lạc Việt bấy giờ
búi tóc và đi chân không.
Người
Lạc Việt có tục xâm mình, tin mình là con cháu Giao Long (truyền thuyết con
Rồng cháu Tiên) mà họ gọi là Lạc Long Quân. Họ tin tưởng quỷ thần, có tục chôn
người chết, bỏ đồ binh khí bằng đá và bằng đồng vào quan tài trước khi hạ xuống
đất. Tôn giáo có tính cách nông nghiệp. Mỗi năm về mùa Xuân, họ mở hội cho trai
gái tự do vui đùa múa hát có ý nghĩa ghi dấu mùa Xuân và mở mùa Hạ, trai gái
dùng trầu cau làm lễ cầu hôn. Trong những hội hè ở các nơi, dân đã có tế lễ rất
thành kính. Nhiều miền thượng du ngày nay, dân sơn cước cũng rất ham chuộng và
vẫn bảo tồn phong tục này. Về chế độ xã hội khi mới đến, dân Lạc Việt còn theo
chế độ thị tộc như người thổ trước Anh-đô-nê-diêng. Sau này nông nghiệp phát
đạt, tiến đến chế độ gia tộc phụ hệ, còn ở những miền hẻo lánh, rừng núi chế độ
thị tộc vẫn còn tiếp tục.
Hậu Hán
Thư quyển 116 chép về văn hóa của người Lạc Việt như sau: "Người Giao Chỉ
không phân biệt trưởng ấu... Không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không
biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng, nghĩa là không có tổ chức gia tộc
theo chế độ phụ hệ, chế độ tôn pháp như Trung Quốc.
Trong sớ
của tiết Tôn ở đời Tam Quốc (Tam Quốc Chí 9.53) có đoạn nói rằng khi mới thuộc
Hán, người Giao Chỉ ở huyện Mê Linh, và Cửu Chân ở huyện Đô Lương, hễ anh chết
thì em lấy chị dâu, đó là di tích của chế độ mẫu hệ. Sau này xúc tiếp mỗi ngày
một sâu với văn hóa Bắc phương những phong tục dấu vết của thời man mọi này
tiêu ma dần cho đến mất hẳn từ thời Tích Quang và Nhâm Diên tức là thời Đông
Hán. Trong cuốn Xã Hội Việt Nam ông Lương Đức Thiệp có nêu ra điểm này và trong
cuốn Les Grandes époques de l'Indochine, Bulletin de la S.E.M. du Tonkin, Tome
XV -- No. 2 pp. 281-287, ông L. Finot cũng có nói: Dân Văn Lang trước thế kỷ
thứ 2 và thứ 3 còn sống ở trong trạng thái gia đình mẫu hệ (matriarcat) và có
tục đàn bà góa phải tái giá với anh em chồng (lévirat). Trạng thái này đổi dời
lần lần do sự đồng hóa với Tàu để từ gia tộc mẫu hệ biến thành gia tộc phụ
quyền. Ông Nguyễn Văn Tố bác bỏ kịch liệt thuyết này cho rằng không có chế độ
thị tộc mẫu hệ vì họ Hồng Bàng từ vua Đế Minh đến Lộc Tục (Kinh Dương Vương) đã
có việc hôn phối tức là không có việc đàn bà chung chạ với nhiều người đàn ông,
các con chỉ biết có mẹ, và cũng không có tục đàn bà góa phải tái giá với anh em
chồng. Chúng tôi thiết nghĩ chế độ mẫu hệ có thể xuất hiện với đời thái cổ ở
bất cứ nơi nào khi người ta chưa có văn minh, đạo đức. Lời phản đối của ông
Nguyễn Văn Tố phải chăng vì lòng tự ái dân tộc chăng?
Về tổ
chức chính trị, các thị tộc Lạc Việt còn là những bộ lạc đặt dưới quyền một tù
trưởng và khi thị tộc Lạc Việt đến Bắc Việt khuynh hướng tập trung bắt đầu rồi
thành một chế độ phong kiến sơ sài. Tình trạng này khởi từ họ Hồng Bàng nên sử
chép bấy giờ có vua là Lạc Vương, dân gọi là Lạc dân, các cấp chỉ huy là Lạc
hầu, Lạc tướng, Bố chính chia nhau các thái ấp lớn nhỏ tùy theo địa vị của mỗi
đẳng, cấp. Và cũng do việc phân chia đất đai nầy ta nhận thấy đời sống của Lạc
Việt khi đó đã là đời sống định cư từ các miền Cao nguyên cho tới các địa
phương Trung Châu trên lưu vực sông Nhị Hà và sông Mã. Chế độ phong kiến đó
hiện nay còn ở các nơi người Mường trú ngụ cho ta một hình ảnh có thể phù hợp
với đời sống cổ xưa của dân ta kể từ họ Hồng Bàng...
Trong
khi xét về nguồn gốc của người Giao Chỉ, Đông Âu, Mân Việt, Tây Âu và Lạc Việt
chúng tôi đã trình bày các điểm tương đồng của các thị tộc trên đây với thị tộc
Lạc Việt chúng ta, và chúng tôi có cảm tưởng rằng:
1. Người
Việt của chúng ta xuất hiện từ đời thượng cổ ở miền Bắc Nam bộ Trung Hoa và dần
dần tản mác xuống miền Bắc bán đảo Hoa Ấn.
2. Chủng
tộc của chúng ta do các biến thiên của Lịch Sử đã lẫn lộn với người Hán tộc mà
yếu tố Mông Gô Lích là một yếu tố quan trọng trong dòng máu của họ. Chúng ta
lại hỗn hợp cả với giống Anh-đô-nê-diêng là một giống rải rác ở khắp Đông Nam Á
Châu và đã đến bán đảo Hoa Ấn trước chúng ta.
3. Người
Lạc Việt chúng ta đã tiên phong phiêu lưu xuống Bắc Việt và miền Bắc Trung Việt
trước áp lực của người Hán tộc. Các chủng tộc ở Á Châu phát tích ở miền đại lục
thường chỉ tiến về phía Nam theo đường biển gần như một công lệ...
4. Người
Việt chúng ta là những phần tử dũng cảm nhất có lẽ vì được hưởng nhiều đặc tính
quý báu nhờ sự pha máu với nhiều chủng tộc, nên đã đương đầu được với nhiều
cuộc xâm lăng của Bắc phương mặc dầu đã phải trải qua nhiều phút thăng trầm bi
đát. Và cũng có thể nói rằng những cuộc hưng vong thê thảm này đã hun đúc cho
dân tộc chúng ta một tinh thần tranh đấu bền bỉ, để tồn tại đến ngày nay, oanh
liệt dưới vòm trời Đông Nam Á.
Phần 1 - Chương 2
Đời Sống
Thượng Cổ Của Dân Tộc Việt Nam
Đời sống
vật chất của ông cha chúng ta trong thời cổ xưa dĩ nhiên là khó khăn, chật vật
hết sức. Sử sách tới nay chưa có sự kê cứu rõ rệt về vấn đề này vì đây là một
vấn đề thuộc về thuở tiền sử và khuyết sử.
Ta có
thể căn cứ vào câu "Ăn lông ở lỗ" để hình dung đại khái đời sống của
người thượng cổ khi còn man dã. Dân tộc nào trên thế giới buổi nguyên thủy đều
cũng vậy. Họ đã sống như bầy thú, trú ngụ trong các hang hốc. Họ lấy lá che
thân, làm lều, túp trên các cành cây. Ăn thì ăn sống, nuốt thì nuốt tươi khi
chưa biết dùng lửa. Hằng ngày rủ nhau săn bắn hoặc chài lưới, để tìm ra thực
phẩm. Cuộc sống luôn luôn phải di chuyển vì chưa tìm ra được nhiều khả năng
kinh tế (khi chưa có nghề giồng cây, giồng lúa, chế tạo các dụng cụ) và chống
với Thiên Nhiên tàn bạo. Tâm hồn lúc nào cũng bị hoảng hốt vì mọi vật (động vật
hay cả bất động vật) đều có thể là thù nghịch của họ. Họ cảm thấy mình là những
sinh vật nhỏ mọn, yếu đuối vật vờ giữa cái vũ trụ mênh mông, bát ngát đầy huyền
bí. Dòng thác đổ, cành cây rơi, cơn lốc thổi, tảng đá lăn, cơn sóng gầm, tiếng
thú thét, hết thảy đều là những thứ ngày đêm khủng bố, ám ảnh họ. Họ cho đấy là
sự hờn giận của các hung thần. Không có ý niệm về các hiện tượng trong trời đất
và vạn vật, vả lại không có cách gì đối phó, thảng hoặc có đối phó thì cũng vẫn
e sợ nên họ phải tôn thờ mọi vật, bởi trong đầu óc người cổ xưa, mọi vật đều có
linh hồn và linh cảm, có thể sinh họa hay tác phúc. Vì vậy tục bái vật và
thuyết đa thần đã chi phối họ rất mạnh mẽ. Với thuyết đa thần người ta tin có
Thần Sấm Sét (thần thiên lôi), Thần Mưa, Thần Gió, Thần Sông, Thần Đất, Thần
Nước, Thần Núi v.v... có lẽ bởi các vị thần này có thể có ảnh hưởng đến đời
sống của họ. Với tục bái vật, người ta thờ cây đa, cây đề, ông bình vôi, hổ,
rắn, cho rằng các thứ đó đều có quan hệ mật thiết đến đời sống của mình, cai
quản mình trực tiếp hay gián tiếp. Những phong tục và dị đoan đó đến ngày nay
cũng hãy còn lác đác ở các thôn quê Việt Nam, cũng như ở nhiều bộ lạc da đen
(châu Phi, châu Mỹ hay châu Á).
Thời
gian trôi qua, người cổ của chúng ta mỗi ngày một tiến rồi một ngày kia biết
lặn lội trong những khoảng ruộng bùn lầy, tưới những giọt mồ hôi xuống đất cứng
để sinh sống. Bấy giờ chưa có gia súc, chưa có dụng cụ tinh xảo, họ trần lực
lấy sức tay chân tranh đấu với Thiên nhiên. Họ đẽo đá làm thành những lưỡi cuốc
nhọn để sới đất khô và đập cho nhỏ chờ lúc nước sông tràn vào ruộng, ruộng sẽ
có bùn ngầu cho họ gieo giống. Họ biết tháo nước ra vào để khỏi nạn úng thủy
hay thiếu nước. Gần bể về mùa hanh, họ biết dùng mực nước thủy triều lên xuống
ở các ngành sông để lấy nước vào ruộng. Nhờ vậy ngay thời bấy giờ tại Trung
châu Bắc Việt đẵ có nơi làm ruộng được cả hai mùa. Sau này sum họp với người
Tàu họ biết dùng lưỡi cày sắt và trâu bò.
Vào thời
cổ miền Trung châu Bắc Việt đâu có ruộng lớn như ngày nay. Đầm lầy, gò đống còn
rải rác khắp nơi vì chưa khai thác, nhiều đồ nông nghiệp còn manh nha. Ngoài bờ
biển và các cửa sông lau sậy cùng cây sú mọc đầy, rừng cây um tùm ở các đồi
núi. Người cổ ở thưa thớt tại các thung lũng và các miền ruộng hợp thành từng
làng, từng xóm. Năm bẩy chục nóc nhà tranh, vách đất quây tụ im lìm sau những
lũy tre cao ngất. Ngoài làng là những cánh đồng, không có đồn trại, thành thị,
phố phường gì hết.
Sông Nhị
Hà bấy giờ là mạch máu chính nếu ta ví vùng Trung châu là cái thân. Con sông
nầy đã bồi đắp nên mảnh đồng bằng hằng năm, bằng những lớp phù sa trở qua các
thác ghềnh từ miền núi Vân Nam đem về nuôi nấng trang điểm đứa con nuông. Sóng
bể Đông hãy còn rào rạt ở ngoài đồng bãi thuộc tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Kiến
An bây giờ. Hai chục thế kỷ qua, chỗ đất liền tiến rộng ra miền nước mặn được
hàng trăm cây số mở rộng Trung châu thêm được mấy tỉnh. (Đại để hai huyện Tiền
Hải, Kim Sơn cách đây trên dưới 100 năm còn là vùng biển rồi bỗng hiện lên
nhiều làng mạc sầm uất như do một phép lạ).
Đây là
lời Lưu An về đời Hán đã am hiểu tình trạng dân tộc chúng ta khi nền đô hộ của
Bắc phương đã thành hình trên đất Giao chỉ.
Ngay
thuở đó, về chính trị dân ta đã lập thành nước (do họ Hồng Bàng) theo thể chế
phong kiến. Trong mỗi nóc nhà đã có chế độ gia tộc, gia trưởng. Ngoài làng mạc
có chế độ tù trưởng, lạc hầu, lạc tướng v.v...
Sau này
nhờ cuộc xúc
tiếp với văn
hóa Bắc phương,
kỹ thuật canh
tác được cải thiện, sức người được sức trâu bò hỗ trợ,
nông nghiệp trở nên phát đạt. Nhân khẩu bắt đầu tăng gia, trí não mỗi ngày thêm
cứng rắn trước Thiên Nhiên và vạn vật, đời sống hoạt động và dồi dào trông
thấy.
Những
ngày mùa đông tháng giá qua, xuân về đầm ấm, cây cỏ xanh tươi lại dưới ánh mặt
trời, tinh thần của con người như bị kích thích do cái vui, cái tươi, cái linh
động của vạn vật. Người có cảm tưởng trong khoảng thời gian này vị chúa tể thế
gian đến với họ, gần gũi để thi ân, thi đức. Họ cũng vui theo cái vui của vạn
vật. Họ khởi các công việc đồng áng nhưng ung dung thong thả rồi mở hội hè đình
đám để làm vui từ già đến trẻ.
Trai gái
hợp nhau xúng xính áo quần trên những ngọn đồi rộng hay bên các lũy tre xanh,
hoặc giữa nơi đình trung điếm sở, hoặc rún rẩy trên các cây đu, hoặc tung còn,
đánh phết, hoặc cất lên nhũng câu hát đúm để ca ngợi cái tuổi trẻ đầy hứa hẹn
mơ mộng, hoặc hy vọng những chuyện lứa đôi đằm thắm, hoặc mừng buổi thanh bình,
thịnh trị. Đây là những điệu ca, những bài thơ mô tả cái đời sống mộc mạc,
thuần phác hoàn toàn có tính cách bình dân giữa những buổi sáng huy hoàng của ngày
xuân hay giữa những đêm trăng trong, bên cạnh ngọn cỏ lá cây qua những đôi mắt
thắm của các cô thôn nữ luôn luôn mỉm cười để hé hàm răng đen nhức.
Rồi sau
tiết Xuân có những cuộc vui công cộng, trai gái trưởng thành quen biết nhau,
yêu nhau đính ước việc gia thất. Người con trai đem trầu cau đến xin bố mẹ
người con gái rồi mới được cưới. Đám cưới là
một dịp làng xóm, hương thôn vui chơi ăn uống, nhai trầu nói chuyện. Trầu cau
là một món cần trong sự xã giao vậy.
Về trầu
cau có một chuyện cổ tích rất là cảm động lâm ly: Vào thời thượng cổ hai anh em
nhà họ Cao thương yêu một người con gái; Người anh lấy được cô gái đó khiến
người em đau đớn tuyệt vọng bỏ ra đi. Rồi người anh đi tìm em, vợ đi tìm chồng,
rút cục ba người vì thương nhau trong cái nghĩa anh em chồng vợ quá thiết tha
mà chết cả. kẻ hóa ra hòn đá vôi, kẻ hóa ra cây cau, kẻ thành cây trầu quấn
quít lấy nhau. Người ta đem nhai quả cau và lá trầu cùng vôi (của hòn đá) thì
thấy thành một chất đỏ tươi, vị đậm đà, phải chăng là cả mối tình thương yêu
chân thật, nồng thắm? Trai gái lấy nhau, bè bạn kết giao đều lấy miếng trầu gây
tình thân mật, thật là có ý nghĩa vô cùng.
Về việc
hôn nhân của người Việt chúng ta xưa kia thì lập gia đình chẳng phải là để cùng
mưu cuộc sống mà thôi. Hôn nhân còn có ý nghĩa vì người chết hay người sẽ chết
nữa. Lấy nhau, người Việt có lẽ nghĩ trước hết đến vấn đề sinh con đẻ cái để có
người lo việc khói hương cho tổ tiên và cả cho mình sau này nữa. Không người kế
tự, đó là một sự đau đớn, nhục nhã hết sức cho người Việt, và đấy cũng là môt
căn nguyên của chủ nghĩa đa thê ngoài ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Người
Việt tin rằng người chết nhưng linh hồn còn phảng phất ở chốn nhân gian do sự
luyến tiếc con cháu, thì con cháu lo việc thờ cúng để tỏ lòng thương nhớ và
cung kính người quá cố. Một lẽ nữa là sự mong mỏi người chết phù hộ cho kẻ
sống, mối tin tưởng ở hầu khắp các tầng lớp dân tộc chúng ta từ xưa đến nay.
Người
chết, vào thời thượng cổ, xác còn phải quàn ở trong nhà. Người nhà đục gỗ làm
áo quan, hàng ngày dâng cơm nước thờ phụng như khi còn sống (phong tục này các
đồng bào thiểu số nhất là dân Mường, Thổ vẫn còn giữ đến bây giờ). Lúc đem chôn
cũng phải chôn theo đồ ăn, thức đựng cho linh hồn khỏi phải thiếu thốn (tục đốt
vàng mã đã do quan niệm này, bây giờ gần mất hẳn).
Trước
khi Khổng Giáo tràn qua và có ảnh hưởng nhiều vào văn hóa của chúng ta, chúng
ta còn tập tục này nữa: nếu trong một nhà người anh chết đi thì người em út
phải lấy chị dâu để cáng đáng mọi việc thay anh và trông nom các cháu. Các nhà
chép sử cho rằng tục này phát sinh vì lý do kinh tế, tức là không muốn người
đàn bà trẻ tái giá đem của cải và con cái của bên chồng đi. Phong tục này còn
đến cuối đời Hán vẫn còn và có lẽ đã bị bãi bỏ trong thời Nhậm Diên, Sĩ Nhiếp
và Tích Quang là những người có nhiệm vụ du nhập văn hóa Trung Quốc vào đất này
và thủ tiêu những tập tục của dân bản thổ.
Buổi
nguyên thủy người Việt sống theo chế độ bộ lạc tức là sống trong tình trạng dã
man. Đời sống lại không có phong tục và đạo đức như trên đây đã nói rõ, và sự
xúc tiếp giữa các bộ lạc đã xây dựng trên sức mạnh tàn bạo. Các bộ lạc yếu phải
tòng phục các bộ lạc mạnh, do đó chế độ phong kiến ra đời cho tới sau này họ
Hồng Bàng, một bộ lạc mạnh nhất xuất đầu lộ diện ngự trị tất cả các bộ lạc khác
(xin coi dưới đây cội rễ của họ Hồng Bàng).
Về y
phục, người thượng cổ khi chưa biết dệt vải, may áo đã sống trần truồng, rét
mướt thì lấy lá hay vỏ cây che thân. Sau này có nghề dệt mới biết đóng khố,
quấn khăn, mặc quần áo. Người bình dân khi xưa lúc ở nhà chỉ đóng cái khố và mặc
cái áo ngắn. Đàn bà mặc thêm cái váy. Có lẽ từ giai đoạn người Việt biết đóng
khố, biết làm nhà cửa, biết dùng đồ kim khí là khi đã có tiếp xúc với các dị
tộc, nhất là người Hán văn minh hơn họ. Tuy vậy y phục của họ rất là đơn giản
do xứ ta thuộc vùng nhiệt đới, nóng nhiều rét ít. Ngày nay người ta tìm thấy
trên mặt các trống đồng, các tảng đá hình người ở trên, đóng khố, đầu đội mũ
bằng lông chim. Có thể đây là những di tích về hình ảnh người Việt Nam cổ. Còn
khi người Trung Hoa sang chinh phục chúng ta, bấy giờ sự ăn vận mới bắt đầu tề
chỉnh và đồng thời nông nghiệp của ta trở nên thịnh đạt. Ta biết búi tóc hay
quấn khăn, mặc áo khép về tay phải hay mở ở giữa. Y phục của người Mường, Thổ
ngày nay có lẽ là y phục của ông cha chúng ta thuở xưa.
Phần
đông hạng bình dân cắt tóc ngắn để tiện làm lụng, chỉ có đàn bà và các nhà quý
phái mới để tóc dài cũng do ý muốn làm dáng và để phân biệt giai cấp. Họ bện
tóc quấn quanh đầu hay búi thành một búi tóc to ở sau gáy, ngoài bịt một chiếc
khăn màu nhỏ để giữ cho chặt.
Họ không
biết đi giày, guốc. Giày, nón là sau khi có người Tàu đem sang, ta mới có. Tính
thích trang điểm, họ đeo đầy cổ và chân tay những vòng bằng đồng, xương hổ
phách hay đồi mồi.
Đối với
khách lạ, dân Việt rất tử tế ân cần. Họ ưa mời ăn uống, coi khách như người
trong nhà. Lệ tiếp khách bao giờ cũng có cơi trầu, chén nước, đôi bên vừa nói
chuyện vừa ăn trầu. Cũng vì tính hay ăn trầu nên họ có tục nhuộm răng. Điều này
có lợi là răng được bền chặt thêm và nếu giữ gìn răng cứ đen nhánh mãi.
Bàn về
phong tục của dân ta, chúng tôi phải nghĩ tới bài khảo luận về văn hóa Đông
Dương (Les civilisations de l'Indochine) của ông G. Coedès. Nhà khảo cổ này đã
nhận thấy ở dân tộc chúng ta không phải chỉ có những phong tục thuần túy
"Trung Quốc" mà từ vua chúa đến dân thứ của ta hầu hết đều theo cả; ở
nơi chúng ta còn có những phong tục trong gia đình, ngoài làng mạc như những
việc thờ thần ở đình, miếu khác hẳn Trung Quốc. Những phong tục này có trước
khi người Tàu qua đây, và tồn tại đến ngày nay mặc dầu ảnh hưởng của văn hóa
Trung Quốc trên mảnh đất này khá mạnh. Ông Coedes ngờ rằng trước khi văn học
Trung Quốc du nhập vào đây (đầu thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa) người Việt Nam
chúng ta đã chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Nam Á (Austro Asiatique) nên mới có
những phong tục riêng biệt này. (Đáng chú ý có nhiều phong tục của Tàu trên đất
Việt mà chính người Tàu cận lai không còn giữ nữa).
Nhận xét
này được nhiều học giả hiện đại cho là đúng vì văn hóa Ấn Độ đã đặt dấu vết và
ảnh hưởng ở miền Nam Á (nói chung) và miền Nam Đông Dương (nói riêng)
trước khi người
Trung Quốc có
mặt ở Bắc
Việt ít nhất
trên một thế
kỷ, tức là vào
khoảng thế kỷ thứ nhất theo Thiên chúa kỷ nguyên. Ngoài ra người Giao Chỉ đến
Bắc Việt lại không phải là những người đầu tiên. Ông cha chúng ta đi dần xuống
đây xua đuổi người thổ trước là giống Anh-đô-nê-giêng, hợp chủng với những phần
tử còn lại nên đã có những phong tục khác Tàu đến nay đã thành những đặc điểm
của chúng ta. Tóm lại, có thể rằng chúng ta đã có thâu nhập một mớ phong tục
thuộc văn hóa Nam Á nữa. Rồi văn hóa Trung Quốc hợp với một phần văn hóa Nam Á
đã tạo nên nhiều cá tính quốc gia của người Việt Nam chúng ta ngày nay.
Phần 1 - Chương 3
Nhà Hồng Bàng (2879-258 trước tây lịch)
- Truyền
thuyết về nhà Hồng Bàng
- Nước
Văn Lang của chúng ta.
1- Truyền Thuyết Về Nhà Hồng Bàng:
Các nhà
chép sử gọi dòng họ đầu tiên ngự trị giống Lạc Việt là Hồng Bàng thị.
Trong
Lịch Sử Xã Hội Việt Nam truy cứu ở Từ Nguyên Hoàng Thúc Trâm giải thích ba chữ
Hồng Bàng thị như sau:
1) Hồng
Bàng là thứ tên chim nước to hơn con nhạn cánh đen, bụng trắng, mầu tro, tính
mạnh dạn. thính giác lanh lẹ.
2) Hồng
theo ý nghĩa thông dụng là lớn. Tỉ dụ hồng thủy (nước lớn).
3) Chim
"Hồng" nói trong sách cổ thường chỉ về con "Hồng hộc" tức
là con ngỗng trời.
Nếu đi
với "Hoang" thì hồng hoang nghĩa là thái cổ. Bàng cũng theo Từ Nguyên
tức là đầy, lớn, bác tạp không thuần túy.
Thị theo
Thuyết Văn là gò, núi như Hoàng Đế ban đầu ở đất Hữu Hùng nên gọi là Hữu Hùng
thị sau đến đời Hiên Viên chi ngưu gọi là Hiên Viên thị. Như vậy chữ
"thị" chỉ do chỗ đất mà được gọi tên là "thị". Không có
nghĩa là họ mà là bộ tộc hay "thị tộc" theo danh từ xã hội học ngày
nay.
Như vậy
Hồng Bàng chỉ là một thị tộc do Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân lãnh đạo.
Theo lời
tục truyền thì vua Đế Minh cháu thứ ba đời vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam
đến miền núi Ngũ Lĩnh thuộc núi Hồ Nam gặp một nàng tiên, lấy nhau rồi sinh ra
Kinh Dương Vương đặt làm vua phương Nam. Sau nầy Kinh Dương Vương lấy con gái
Động Đình Quân là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh
ra một bọc có trăm trứng nở ra 100 con trai, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha
xuống bể Nam Hải, vì mẹ là giống Tiên và cha là giống Rồng do đó có giống Bách
Việt rải rác khắp niền nam Trung Quốc (nước của Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu
là Xích Quỷ gồm tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây bây giờ). Người Việt ngày nay tự cho
mình là con Tiên cháu Rồng là do sự tích này. (Cũng như người Nhật tự xưng mình
là con cháu của Thái Dương thần (Amatérasu), người Tàu cho mình là con cháu
Hoàng Đế, người Đức dưới chế độ Quốc Xã vừa qua tự cho mình là một giống người
thượng đẳng sinh ra để thống trị các dân tộc khác (theo thuyết Mein Kampt của
Hitler đảng trưởng Quốc Xã). Các nhà làm sử sách vì lòng ái quốc, trọng nòi
giống mà tô điểm cho dân tộc của mình những điều tốt đẹp hoặc có ý muốn làm
phấn khởi tinh thần dân tộc.
Lạc Long
Quân phong cho con cả làm vua nước Văn Lang (quốc hiệu đầu tiên của nước ta)
xưng là Lạc Vương.
Họ Hồng
Bàng kể từ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Lạc Vương là những triều
đại trước hết. Những triều đại nầy theo ý chúng tôi và cũng dựa vào thuyết của
Léonard Aurous seau, đã ra đời vào cuối đời Xuân Thu (6 thế kỷ trước công lịch)
bởi nếu cho rằng họ Hồng Bàng xuất hiện từ năm Nhâm Tuất (2897) đến năm Quý Mão
(258 trước Công Lịch) vừa đúng 2621 năm, thì mỗi triều vua trung bình 150 năm
sau, chúng tôi e rằng có sự sai lầm quá lớn.
Bàn về
danh hiệu của Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ta không thể quên chữ Kinh và
Dương là đất Dương, hai châu thuộc địa bàn của giống Giao Chỉ chúng ta. Với chữ
Lạc Long Quân cũng vậy. Danh hiệu này chỉ có nghĩa là vua của giống Lạc Long
cũng như Kinh Dương Vương là vua miền Châu Kinh, châu Dương, Vân Nam Vương, Hán
Đế v.v... nó nhắc tên đất đai hay chủng tộc của các vua chúa, Lạc Long Quân lấy
Âu Cơ tức là nàng con gái đất Âu.
Chữ Âu
lại gặp trong chữ Âu Giang tên một con sông nước Việt (Chiết Giang) ngày nay
vẫn còn tên ấy. Nó nhắc chữ Âu Lạc, Âu Việt, Đông Âu, Tây Âu...
Như trên
đã nói, vào thế kỷ thứ 9 một số thị tộc Việt lập ra nước Việt do một nhà quý
tộc họ Mị cùng họ với vua nước Sở, do đó ta thấy các vua Sở lấy chữ Hùng làm
hiệu thì 18 ông vua nhà Hồng Bàng cũng làm theo các vua nước Sở, tỷ dụ:
1. Hùng
Dịch (1122-1078 tr T.C)
2. Hùng
Nghệ (1078 tr T.C)
3. Hùng
Đán (1052 tr T.C)
4. Hùng
Thắng (1001 tr T.C)
5. Hùng
Dương (946 tr T.C)
6. Hùng
Cừ (887 tr T.C)
7. Hùng
Chấp (877 tr T.C)
8. Hùng
Duyên (876 tr T.C)
9. Hùng
Dõng (847-837 tr T.C)
Và 18
ông vua của nhà Hồng Bàng lấy hiệu như sau:
1. Kinh
Dương Vương (Lục Dục Vương).
2. Lạc
Long Quân (Hùng Hiền Vương).
3. Hùng
Lân (Hùng Quốc Vương).
4. Hùng
Việt Vương
5. Hùng
Hi Vương
6. Hùng
Huy Vương
7. Hùng
Chiêu Vương
8. Hùng
Vị Vương
9. Hùng
Định Vương
10. Hùng
Uy Vương
11. Hùng
Trịnh Vương
12. Hùng
Vũ Vương
13. Hùng
Việt Vương
14. Hùng
Anh Vương
15. Hùng
Triều Vương
16. Hùng
Tạo Vương
17. Hùng
Nghị Vương
18. Hùng
Duệ Vương1
Còn nói
theo cha một nửa xuống biển, một nửa theo mẹ lên núi, tức là một phần qui tụ ở
miền sơn cước, một phần ở rải rác vùng đồng bằng là ra tới bể là lưu vực sông
Dương Tử với miền núi ở giẫy Nam Lĩnh. Dân tiến xuống bể được nhiều điều kiện
thuận tiện nên tiến bộ nhiều vì vậy đã sống vào trạng thái phụ hệ, còn đám
người lên non chậm việc khai hóa nên còn ở vào chế độ mẫu hệ. Đó là các dân dã
man tỉnh Quí Châu, Vân Nam (ở Quí Châu có dân Miêu Tử. Ở Vân Nam có dân Sâm Ly
hay Xa Lý đến đời Nguyên mới bị chinh phục. Họ tương truyền đời Chu Thành vương
có sai xứ triều cống khi về được Chu Công Đán làm xe Chỉ Nam tiễn chân, cho nên
họ có tên là Xạ Lý. Cũng có Bộ lạc tên là Lão Qua, xưng là Việt Thường dưới đời
Chu, bộ lạc nầy bị nhà Minh chinh phục. Tài liệu nầy ở cuốn Les babrbares du
Yun nan trong B.E.F.E.O. tome 8 1908).
Nhưng
một điều quan hệ khác cần phải xét lại là Việt tộc hay họ Hồng Bàng có phải con
cháu Thần Nông không và Thần Nông là người Hán tộc hay Việt tộc.
Chúng
tôi không đồng ý với các sử liệu Tàu cho rằng Hồng Bàng là con cháu Thần Nông,
điều mà nhiều người Việt chúng ta tin có thật vì quên rằng đấy chỉ là một
truyền thuyết.
1 Có nơi chép Hùng Vương 18
là Hùng Tuấn Vương hiện nay còn ở làng Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (Bắc
phần).
Thần
Nông đây thực ra chỉ có nghĩa là vị thần dạy nghề nông, ông tổ nghề Nông. Có lẽ
người ta đã lầm Thần Nông của ta với Thần Nông thị là dòng họ làm vua giống Hán
sau Phục Hi thị (4480-4350 tr C.L.)
Ta nhận
thấy rằng truyền thuyết trên đây dù sao cũng có phần nào sự thật. Ngày nay căn
cứ vào các tài liệu của các nhà khảo cổ và sử học, ta có thể giải thích như sau
để hiểu rõ tình trạng dân tộc ta dưới thời Thái cổ rõ rệt hơn:
Vào thế
kỷ 30 trước C.L. dân Hán tộc sống dọc sông Hoàng Hà. Tại Lưu vực sông Dương tử
thì có dân bản thổ: bên bờ sông phía Bắc có dân Miêu và Man, bên bờ phía Nam
vùng Động Đình và Phiên Dương có dân Việt chúng ta ở rải rác đến núi Ngũ Lĩnh,
các dân ở đây có trình độ xã hội canh nông.
Một nhà
quí tộc dạy dân nghề khai khẩn ruộng đất, sau dân nhớ ơn thờ người ấy làm Thần
Nông, Miêu, Man tuy không cùng chung chủng tộc nhưng cùng ở dưới quyền một nhà
quí tộc thuộc dòng dõi Thần Nông. Người cháu ba đời của Thần Nông đi tuần thú
về phương Nam đến Ngũ Lĩnh gặp một nàng con gái đẹp như tiên, ăn ở cùng nhau
xin được một đứa con trai đặt tên là Lộc Tục. Sau vua phong cho con trưởng làm
vua dân Miêu và Man ở phía Bắc sông Dương Tử và cho Lộc Tục làm vua dân Việt ở
phương Nam, nghĩa là đất Kinh và Dương lấy quốc hiệu là Xích Quỉ vào khoảng thế
kỷ thứ XXIX trước C.L.
Bấy giờ
là thời đại phong kiến. Xích Quỉ chia ra ba nước (theo Vũ Cống trong Kinh Thư).
Trong ba nước ấy, vùng Động Đình là một, vua Kinh Dương Vương lấy con gái vua
kế vùng Động Đình là Long Nữ được một con trai tên là Sùng Lãm nối ngôi vua,
xưng là Lạc Long Quân. Vua Lạc Long cưới con gái vua một nước láng giềng đất
Âu, nàng Âu Cơ đến đây ta gặp một thời kỳ khuyết sử. Sau nầy Hán tộc tràn xuống
phía Nam qua nước Sở thì nước Xích Quỉ có 100 nhà quí tộc đều xưng là dòng dõi
của vua Lạc Long và Âu Cơ. (Ở đây ta có thể loại bỏ việc Âu Cơ đẻ ra trăm con
do một bọc nở ra 100 trứng là hiện tượng không từng thấy trong y học). Có lẽ
trong dịp áp lực của Bắc phương, có người mưu trí trong các nhà quí tộc đó đã
nêu lên thuyết một trăm thị tộc cùng máu mủ, một cha mẹ phải đoàn kết để tự vệ,
như vậy chắc trước kia họ thường xung đột với nhau.
Vào thế
kỷ thứ 24 trước C.L trong ba nước kể trên có nước Việt thường kinh đô đóng ở
phía Nam hồ Phiên Dương trở nên cường thịnh làm bá chủ vùng Phiên Dương và Động
Đình. Năm 1352 trước C.L. có sai sứ sang cống vua Đế Nghiêu một con rùa lớn và
năm 1109 tr. C.L. có cống cho vua Thành Vương nhà Chu.
Trước
thế kỷ XII tr. C.L., trong các quí tộc có người tên là Hùng Dịch chinh phục
được dân Miêu, Man miền sông Hán chảy vào sông Dương Tử, tổ chức thành một quốc
gia, Tàu gọi là Kinh Man, đóng đô ở Đan Dương gần thành Nghi Xương (Itchang)
ngày nay. Đến đời vua Hùng Cừ đem binh đánh lấy nước Đông và Dương Việt (nghĩa
là người Việt đất Dương Tử. Việt Chương trước kia là Việt Thường, luôn dịp nước
Ngạc ở vào khoảng thành Vũ Xương (Ou T chang) thuộc tỉnh Hồ Bắc cũng bị kiêm
tính nốt.
Rồi Hùng
Cừ cho con trưởng là Khang ở đất Cú Đản, con thứ hai là Hồng ở đất Ngạc, con
thứ ba là Chấp Tỳ làm vua Việt Chương đó là nguyên nhân của chữ Hùng Vương
trong truyền thuyết của ta.
Dân Việt
quen sống với cảnh thái bình, bỏ lâu chinh chiến, không chống nổi quân Kinh Man
nên phải thua. Vì dân số đông, nên dân Việt, một phần phải tiến lên núi Nam
Lĩnh và đa số đã tiến xuống Nam Hải rồi lại gặp nhau ở đất Quảng Đông và Quảng
Tây sau gọi là Bách Việt vậy.
Từ vua
Chấp Tỳ trở về sau lịch sử Việt Thường ra sau? Có lẽ có lúc thịnh, vào năm 581
trước C.L., con cháu Chấp Tỳ có người làm vua Việt Thường xưng là Hùng Vương
thứ nhất. Người Việt bấy giờ ở theo dọc bờ Nam Hải và Nam ngạn sông Dương Tử
cho đến hồ Động Đình, họ đều có xâm mình nên người Tàu gọi là Văn Lang.
Bấy giờ
nước Sở trước kia ở Kinh Man trở nên cường thịnh và thạo văn hóa Hán Tộc bành
trướng về phương nam trở nên nguy hiểm cho nước Việt thường.
Thế rồi
một ông vua họ Hùng bèn thiên đô qua đất Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang đặt quốc
hiệu là U Việt. Đến đời vua Hùng Vương thứ VI mà người Tàu gọi là Câu Tiễn (496
tr. C.L.) Việt chiếm được Ngô trở thành cường quốc, làm bá chủ một khoảng đất
phía Bắc tiến đến gần tỉnh Sơn Đông phía Tây gồm Việt Thường phía Nam giáp Hồ
Tôn.
Câu Tiễn
mất, đế quốc chia cho con cháu. Một người con Câu Tiễn được làm vua đất Lạc
Việt ở tận phía Nam giáp Hồ Tôn xưng Hùng Vương thứ VII hoặc vì có lẽ là con
trưởng, hoặc vì có ý dòm ngó các nước Việt ở phía Bắc nên xưng như vậy để tỏ ý
là chúa tể chính thức của dân Văn Lang.
Đến đời
vua Hùng Vương thứ XVIII, phía Bắc Lạc Việt có nước Âu Việt. Vua nước nầy là
Thục An Dương Vương cướp được Lạc Việt nhập hai nước làm một gọi là Âu Lạc. Vì
hai dân đều thuộc thị tộc Việt, ngôn ngữ cũng giống nhau nên con gái Hùng Vương
thứ 18 gọi là Mị Nương, con gái An Dương Vương tên là Mị Châu đều có chữ Mị cả.
Ấy là bằng chứng dân Âu Lạc tuy là hai nước mà vẫn là người Văn Lang, tức người
Việt.
2- Nước Văn Lang
Bờ cõi
của nước Văn Lang theo sử cũ gồm có 15 bộ:
1. Văn
Lang: (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên).
2. Châu
Viên: (Sơn Tây vùng núi Ba Vì).
3. Phước
Lộc: (Miền đồng bằng).
4. Tân
Hưng: (Hưng Hóa Tuyên Quang).
5. Vũ
Định: (Thái Nguyên và một phần đất của Hoa Nam).
6. Vũ
Ninh: (Bắc Ninh).
7. Lục
Hải: (Lạng Sơn và một phần Quảng Tây).
8. Ninh
Hải: (Quảng Yên và một phần Quảng Đông).
9. Dương
Tuyền: (Hải Dương).
10. Giao
Chỉ: (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình).
11. Cửu
Chân: (Thanh Hóa).
12. Hoài
Nam: (Nghệ An Hà Tĩnh).
13. Cửu
Đức: (Lưu vực sông Đà, sông Mã).
14. Việt
Thường: (Quảng Bình, Quảng Trị) không phải là vị trí nguyên thủy.
15. Bình
Văn: (?).
Xét địa
thế 15 bộ trên đây, ta thấy dưới đời những ông vua cuối cùng Hồng Bàng (thời
Chu Mạt) vị trí địa dư của nước Văn Lang đã lùi xuống Bắc Việt, và phía Nam của
Văn Lang gồm hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay.
Còn
cương vực của nước Văn Lang phía Bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam), phía Tây
giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), Phía Đông giáp
Nam Hải, là cương vực cổ xưa của toàn thể gia đình Bách Việt hay là của nước
Xích Quỉ, mà chúng ta chỉ là một chi phái. trong đoạn bàn về Bách Việt chúng
tôi đã có dịp nói vào những thời khởi thủy dân Giao Chỉ sinh tụ ở Nam bộ Trung
Quốc tại lưu vực sông Dương Tử, rồi tổ tiên chúng ta di cư dần xuống lưu vực
sông Nhị và sông Mã. Tới nơi cuối nầy, địa bàn của chúng ta quả gồm có đúng 15
bộ đã kể trên. Sở dĩ có sự sai lầm mà ta thấy trong một vài cuốn sử chữ nho về
vấn đề cương giới sau nầy của nước Văn Lang là vì chữ Văn Lang (trong cái tên
Văn Lang) với chữ Dạ (trong cái tên Dạ Lang) hơi giống nhau. Dạ Lang đầu đời
Hán là một nước Miêu Tử (Mèo) ở phía Nam Trung Quốc. Đây không phải là điều ức
đoán bởi sách chép nhầm thật. Quyển Thông Điển (Quyển 181 25b) chép: Phong Châu
là nước Văn Lang đời xưa (Cỗ nầy viết chữ lãng "lương" bên chữ nguyệt
và cho rằng có sông Văn Lang). Nguyên Hòa Quân Huyện Chí (Quyển 38 tờ 9b) nói
quả quyết rằng Phong Châu là đất của Dạ Lang đời xưa. Thực thế, trong địa phận
huyện Tân Xương bấy giờ có khe nước Dạ Lang và đây là địa bàn của nước Miêu Tử.
Nước nầy
ăn qua một phần Quảng Tây và Quý châu, phía tây giáp La La (Lô Lô) gọi là Điền
ở phía Tây Vân Nam, phía Đông Hồ Vân Nam thuộc Quận Kiện Ví, khi lệ thuộc về
Hán từ năm III trước T.C. Sau quận ấy chia làm hai, phía Bắc là Kiện Ví phía
Nam là Thương Ngô. Cuối đời Tiền Hán, quận Kiện Ví giáp phía Bắc và phía Tây
sông Dương Tử.
Còn quận
thương Ngô giáp phía Bắc quận Kiện Ví và phía Tây quận Tân Ninh là nước Điền
ngày xưa ở phía Đông Bắc Thương Ngô giáp quận Ngũ lãng, ở đấy có Hồ Động Đình.
Tóm lại vì Dạ Lang và Văn Lang đã lấn nhau, tất nhiên người ta phải lầm bờ cõi
Dạ Lang là của Văn Lang.
Về vấn
đề nầy, Ô. Lê Chí Thiệp phát biểu một ý kiến khác. Theo ông, trong thư tịch cũ
của Trung Quốc không thấy nói tới tên Văn Lang, đến đời Thái Bình ngự lãm nhà
Đường mới nói. Văn Lang để gọi chung người Kinh Man (dân Sở) ở dọc sông Dương
Tử, người Việt ở Chiết Giang và người Lạc Việt là những người có vẽ mình, sau
nầy sống ở Lưu Vực sông Dương Tử trôi dạt dân xuống tới bờ biển Nam Hải, bởi
vậy các cổ sử mới ghi bờ cõi Văn Lang: Bắc giáp Hồ Động Đình, Đông giáp Nam
Hải, Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành) v.v...
Tên Văn
Lang nầy được đặt ra do một quan niệm chủng tộc để phân biệt với giống dân
không vẽ mình chớ không phải là dân một nước....
Vậy nên
kết luận rằng cương vực cũ của chúng ta khi còn là Giao Chỉ gồm hồ Động Đình,
biển Nam Hải, Tứ Xuyên và Hồ Tôn. Sau nầy dân ta di cư xuống Bắc Việt thì nước
ta chỉ gồm 15 bộ kể ở trên, hoàn toàn trên đất Bắc Việt và vào tới Nghệ An. Đây
là vị trí địa dư cuối cùng của ta sau cuộc Nam chinh của nhà Tần và khi đế quốc
Nam Việt của Triệu Đà thành lập.
Ngoài ra
ta còn thấy sử chép nước Văn Lang có 15 bộ. Trong đó có bộ Văn Lang, Giao Chỉ,
Việt Thường là thế nào? phải chăng nhớ nguồn gốc của mình ngày xưa kia ở miền
Hoa Nam, nên dân gian giữ các tên đó để đặt quốc hiệu hay đặt tên cho các bộ ?
Giai cấp
phong kiến thời thượng cổ của chúng ta như thế nào ?
Theo
Maspéro trong cuốn Royaume de Văn Lang BEEO trang 9, mỗi Lạc Tướng coi vài làng
xóm, thuộc quyền Lạc Hầu là chủ những đất đai rộng bằng một tỉnh hay vài huyện
ngày nay. Cũng có khi một vị Lạc Hầu đem chia bớt gia tài cho các con cháu và
phong chúng làm Lạc Tướng. Công việc của các Lạc Hầu Lạc Tướng cai trị nhân
dân. Khi họ nhàn rỗi thường họp nhau săn bắn. Tính họ hoạt động và hiếu chiến
nên hay xung đột với các dân láng giềng. Ra trận họ mặc bộ áo giáp dầy dệt bằng
lông chim hay bện bằng cỏ cây để tránh dấu tên hay mũi giáo; áo giáp có hai
mảnh che đằng trước và đằng sau, từ ngang lưng thõng đến bắp chân. Mình mặc áo
ngắn chẽn để hở cổ và hai cánh tay trạm hình sặc sỡ. Họ mang lá mộc (có chỗ gọi
là lá chắn) hình vuông đan bằng tre trên mặt có kẻ hoa và vẽ mặt người. Đầu họ
cũng đội một thứ mũ cũng bằng lông chim thực dài kết cái hình dữ dội. Họ đeo
cung lớn, mang giáo dài và dao nhọn, luôn luôn bắn, phóng và đâm. Mũi tên có
tẩm thuốc độc chạm vào da thịt dù chỉ sướt qua loa. thuốc cũng ngấm vào và phải
chết. (Theo Parmentier: trong cuốn Lestambors de bronze).
Dân lo
việc giồng lúa cho họ ăn, làm nhà cho họ ở, cắt người phục dịch cho họ mà không
được đòi công sá. Xét ra như vậy dân chỉ là một thứ tài sản của họ mà thôi.
Ngày nay các dân tộc thiểu số dưới chế độ quan Lang ở miền Bắc Việt có thể nói
là hình ảnh hoàn toàn của chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng thuở xưa.
Các vị
Lạc Hầu, Lạc Tướng tuy giữ quyền tự trị ở khu vực của mình nhưng cũng phải theo
về một vị tù trưởng giàu mạnh ở phía Tây Bắc Trung châu sát với Trung du gồm
địa phận tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, Sơn Tây ngày nay. Đây là một miền có nhiều
thung lũng phì nhiêu, đồi đất tốt, dân đông đảo phát đạt hơn cả.
Kinh đô
của Lạc Vương đóng ở Phong Châu (vào địa hạt huyện Bạch Hạc tỉnh Vĩnh Yên bây
giờ). Họ nhà vua gọi Hồng Bàng. Lạc Vương đặt quan chế như sau: tướng văn gọi
là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, các quan nhỏ gọi là Bồ chính. Con vua
gọi là quan Lang. Con gái gọi là Mị Nương. Các Lạc Hầu được đặt trên các Lạc
Tướng và có thôn, ấp lớn hơn. Hết thảy từ vua đến chúa đến các Lạc Hầu, Lạc
Tướng điều có quyền thế tập.
Nước Văn Lang ra đời đã chịu cả uy thế của các
vương triều Trung Quốc nên ngay buổi bấy giờ đã biết lập chính sách ngoại giao.
Về đời vua Nghiêu, nhà đường bên Trung Quốc, sứ thần Văn Lang đã có lần đem
dâng con rùa lớn. Về đời Chu Thành Vương (nhà Chu) có nói ở đoạn trên của sách
nầy.
Phần 1 - Chương 4
Nhà Thục
(257-207 trước tây lịch)
Sử chép
Thục Vương Phán cướp nước Văn Lang cuối đời Hồng Bàng tức đời Lạc Vương thứ 18.
Vấn đề nầy đã làm nẩy nở nhiều mối dư luận khác nhau trong các nhà viết sử.
Lệ thần
Trần Trọng Kim cho rằng Thục Phán có lẽ là một họ nào độc lập ở gần nước Văn
Lang và căn cứ vào địa dư nếu Ba Thục (Tứ Xuyên) là xuất xứ của Thục Phán đối
với Văn Lang phải qua nhiều đường đất, núi sông cách trở, việc chinh phục Văn
Lang như vậy ắt không có thể được.
Vệ thạch
Đào Duy Anh nghĩ rằng, Thục Phán có thể là một người con trai của vua Thục ở Tứ
Xuyên. Năm 316 là năm thứ năm đời Chu Thành Vương, nước Thục bị nước Tần diệt,
dân Thục chạy về phía Nam Lĩnh nương náu ở đất Diên Trì là đất của nước Sở cừu
địch của nhà Tần mới chiếm được. Phán thấy không đất dung thân chật hẹp liền từ
miền Nam Lĩnh Vân Nam, tiến xuống lưu vực sông Nhị Hà, thôn tính Tây Âu là Lạc
Việt (nước Văn Lang) rồi lập lại nước Âu Lạc. Phải chăng đây là lời giải thích
đối với sự hoài nghi của tác giả Việt Nam Sử Lược.
Lại một
chỗ bất đồng nữa!
Theo Đào
Duy Anh, việc chinh phục Văn Lang do Thục Phán đã xẩy ra trước đời nhà Tần
nghĩa là đời nhà Chu khi đó dân tộc ta mang tên là Lạc Việt.
L.
Aurousseau cho là Lạc Việt vong quốc từ năm 210 trước kỷ nguyên năm Tần Thủy
Hoàng mất đến năm 207 là năm Triệu Đà đang oanh liệt ở miền Nam Hải. Nhân lúc
Trung Quốc rối loạn, một người con vua nước Thục nào đó đã thừa cơ chiếm đất
Tượng Quận của nhà Tần để dựng nước (Tượng Quận tức là Tây Âu gồm phủ Khai
Viễn, Thái Bình thuộc địa phận Quảng Tây, phủ Liêm và phủ Lôi, phủ Liêm thuộc
địa phận Quảng Đông).
L.
Aurousseau đã lầm vì cho rằng Tây Âu với Lạc Việt là một, ông bằng vào lời chú
giải của cổ sử ở Tiền Hán Thư (K. 95) nói là Tây Âu tức là Lạc Việt để giải
thích chữ Tây Âu Lạc là nước Triệu Đà kiêm tính. Vì sử cổ không nói rõ rằng bấy
giờ sở dĩ gọi là Tây Âu Lạc là vì nhóm Tây Âu hay Tây Việt và nhóm Lạc Việt là
hai nhóm trong Bách Việt ở miền Quảng Tây và Bắc Việt ngày nay đã do An Dương
Vương gồm làm một nước tức sử ta gọi là nước Âu Lạc.
Trên đây
chúng tôi đã có dịp nói đến việc đánh Bách Việt của nhà Tần trong đó Thục Phán
đã đóng một vai trò quan trọng. Nay dẫn thêm ít tài liệu theo sách Hoài Nam Tử
để hiểu cuộc tranh đấu giữa Thục Phán và vua nhà Tần trong cuộc Nam Chinh của
họ:
Khoảng
năm 221, giữa lúc toàn thịnh nhà Tần (năm 33) đời Tần Thủy Hoàng dùng bọn lưu
vong, rể thừa và lái buôn làm lính tiến xuống miền Nam là nơi sinh tụ của người
Bách Việt. Việc này xảy ra khoảng năm 221-214 trước Tây Lịch. Quan Hiệu Úy là
Đồ Thư đem quân lâu thuyền cùng tướng Sử Lộc đào sông vận lương đi sâu vào đất
Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Dương, Quế Lâm (nay là huyện Minh Quý tỉnh Quảng Tây),
Nam Hải (Quảng Đông ngày nay) sau khi diệt được nhóm Đông Âu và Mân Việt. Đến
lượt Tây Âu cũng bị cuộc xâm lăng của đạo quân viễn chinh Trung Quốc. Tù trưởng
Tây Âu là Dịch Hu Tống nhưng ở đây quân Tần vấp sức kháng chiến dẻo dai của Tây
Âu. Người Việt (Tây Âu) rút vào rừng sống cùng cầm thú, và cứ đêm tối lại đem
quân ra tập kích quân Tần. Cuộc kháng chiến kéo dài 10 năm. Sau quân Tần chết
rất nhiều. Đồ Thư bị hại, quân Tần hao tổn đến vài chục vạn, phần bị giết, phần
thì không chịu được lam sơn chướng khí. Tần triều đành ngừng lại và thiết lập
bộ máy cai trị ở các miền đất đai đã lấy được lập ra ba quận Nam Hải, Quế Lâm
(Quảng Tây) Tượng Quận.
Về Tượng
Quận, Việt Nam Sử Lược chép là Bắc Việt2. Chúng tôi không đồng ý vì Bắc Việt
khi đó là Âu Lạc đã thành Tượng Quận thì sau nầy đâu có sự kiêm tính của Triệu
Đà bằng binh đao, chúng tôi cũng không thấy sách nào nói như Việt Nam Sử Lược
rằng An Dương Vương đầu phục nhà Tần để quyết định rằng vì sự thần phục nầy mà
Âu Lạc biến thành Tượng Quận.
Tóm lại
ảnh hưởng của nhà Tần bấy giờ chỉ mới đến địa phận Tây Âu là tỉnh Quảng Tây và
miền Uất Lâm cùng Nam Hải. Sau đó Tần triều phái 50 vạn người tù đầy đến chiếm
đóng các nơi đã cướp được để bảo vệ bộ máy cai trị vừa mới thiết lập.
Ai đã
cầm đầu cuộc kháng chiến có hiệu quả của Tây Âu? theo Quảng Châu Ký và Giao
Châu Ngoại Vực Ký trong lúc tù trưởng bị hại, nhóm Tây Âu vô chủ thì người Kiệt
Tuấn được nhân dân Tây Âu cử ra là An Dương Vương nhà Thục, vào khoảng năm 219
đến năm 207. Thục Phán đã nhân cơ hội nhà Tần suy, Quân Tần thất bại mà thâu
phục nhóm Lạc Việt lập ra nước Âu Lạc. Trong việc chống nhau với Tần, Thục Phán
tỏ được một tinh thần dũng cảm phi thường. Có thể nói như vậy là vì lúc nầy Tần
vừa gồm thâu 6 nước, nhất thống thiên hạ Trung Quốc dựng thành Vạn Lý bên trong
dẹp được mọi phản lực của giai cấp phong kiến có nền móng từ mấy ngàn năm, bên
ngoài thuyết phục được các phiên bang ngang tàng hùng mạnh. So với sự tiến hóa
của giống Hán tộc bấy giờ thì quả thật các thị tộc Việt đáng gọi là "Man
di". Vậy mà Thục Phán dám đem sức "Mọi" chống với một đế quốc
phú cường, hùng hậu thì cái tinh thần bất khuất ấy cũng là đáng phục. Lại nhân
lúc nhà Tần lâm vào thế biến, Thục Phán chinh phục
2 Theo
Trúc Khê tiên sinh: Sử ta nói Tượng Quận nhà Tần là đất Bắc Kỳ. Trung Kỳ bây
giờ song so sánh địa lý và dẫn chứng với các sách thì Tượng Quận chính thuộc về
một phần đất của Tỉnh Quảng Tây nước Tần ngày nay. Việt Nam Sử Lược của Trần
Trọng Kim nói Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng.
Văn Lang
dựng nên một quốc gia riêng một phương trời, Phán quả là một kẻ có óc tự cường
và biết lợi dụng thời cơ.
Thục
Phán chiếm được Văn Lang từ năm Giáp Thìn (257 trước Công Lịch). Xong việc
chinh phục Phán xưng là An Dương Vương lập kinh đô ở Phong Khê tức huyện Đông
Anh tỉnh Phúc Yên bây giờ, và hai năm sau cho đắp thành Cổ Loa (Tên thành là Cổ
Loa vì xây cuốn nhiều vòng như hình trôn ốc, hiện nay còn dấu tích ở huyện Đông
Anh và cái giếng Trọng Thủy, thành nầy lại có tên là Tu Long. Người Đường gọi
là thành Côn Luân vì thành ấy cao lắm, rộng nghìn trượng).
Thục
Phán đã đem văn hóa quê hương mình là nước Thục du nhập vào đất Việt, thiết lập
mọi quy mô chính trị quân sự, dạy cho người Việt xây thành bằng đất, lấy tre
làm cung nỏ, tên bịt đồng là hai kỹ thuật sở trường của người Thục. Rồi nhờ địa
thế hiểm trở của Tây Âu và Âu Lạc lắm rừng nhiều núi lại thêm tinh thần quật
cường của người Việt, Thục Phán đã lập nên sự nghiệp trên đây (đã nói trong
việc đương đầu với làn sóng Nam tiến của giống Hán) .
Dân tộc
Âu Lạc bước vào trường tranh đấu và được phát triển mọi khả năng có lẽ từ khi
được Thục Phán lĩnh đạo, tiếc rằng không có cuốn sử nào nói về sự nghiệp của
Thục Vương. Sau nầy với Triệu Đà, một tướng có tài thao lược của Trung Quốc
hùng cứ miền Hoa Nam, tình thế của Âu Lạc không bao lâu phải đi sang chỗ rẽ.
Rồi năm thứ 50 đời An Dương Vương, Âu Lạc bị lọt qua tay họ Triệu và thành một
nước phụ dung của đế quốc Nam Việt. Trong lúc nầy nhà Tần đã đổ, Hán lên thay.
Việc xâm chiếm Âu Lạc xẩy vào năm 180 sau khi Cao Hậu nhà Hán qua đời và lúc
nầy Triệu Đà đã xưng đế ở Nam Việt.
Theo
thuyết chính thống, An Dương Vương không thuộc về một thị tộc Việt nào hết,
nhưng một vài sử gia ngày nay cho là An Dương Vương là người ngoài cũng chưa có
chứng cớ đầy đủ. Theo tác giả trong giai đoạn lịch sử nầy. Hán tộc chưa có mặt
miền Hoa Nam, Thục Phán có thể là một lĩnh tụ phong kiến cũng thuộc Việt tộc
như nhiều lãnh tụ khác trong đám con Hồng cháu Lạc. Miền Hoa Nam quá rộng lớn,
sông núi cách trở nhiều, Việt tộc lại phân tán khắp nơi mới có sự bỡ ngỡ nầy.
Vịnh Bi Kịch Thành Loa
Thành
Loa trăm thước chẳng còn bền.
Mống rùa
ba tấc chẳng là thiêng.
Nước nhà
dấy mất tại người cả.
Gió mưa
gây dựng công khó nhọc.
Nam gồm
Văn Lang, bắc Ba Thục.
Dư đồ
muôn dặm mở mang tới.
Một tấm
sơn hà một tấm vóc.
Sẵn sàng
cơ nghiệp không biết giữ.
Chiến đã
không xong. hòa cũng ngộ.
Biên
phòng chểnh mảng, thù hận quên.
Quanh
quẩn một lầm hai tại lỡ,
Thân già
đâu nới kẻ thù gia.
Chồng
nào thương vợ, con lìa cha.
Giặc
ngồi sau lưng nói chi nữa.
Nước ôi
nhà ôi, biến Đại Nha !..
Dương Bá Trạc
Cổ Loa Hoài Cảm
Thành
quách còn mang tiếng Cổ Loa.
Trải bao
gió táp với mưa sa.
Nỏ
thiêng hờ hững giây oan buộc.
Giếng
ngọc vơi đầy giọt lệ pha.
Hoa cỏ
vẫn cười ai bạc mệnh,
Cung
đình chưa sạch bụi phồn hoa.
Hưng
vong biết chửa người kim cổ ?
Tiếng
cuốc năm canh bóng nguyệt tà.
Trần Tuấn Khải
CHÚ
THÍCH. 1) Theo sử ký của Tư Mã Thiên là cuốn sử lâu đời hơn tất cả và đáng tin
hơn hết, việc chinh phục Âu Lạc do Triệu Đà vào năm 180 trước kỷ nguyên chớ
không phải vào năm 207 như Việt Nam Sử Lược đã dẫn. tức là năm Giáp Ngọ như sử
ta.
2) Theo
Đào Duy Anh "Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam" Mân Việt mất vào khi quân
Tần đánh Bách Việt chớ không phải do Triệu Đà, sau nầy cùng thời với việc cướp
nước Âu Lạc của An Dương Vương.
3) Thuyết
nói rằng An Dương Vương chưa chắc đã là người ngoài, căn cứ vào sách Quảng Châu
Ký và Giao Châu Ngoại Vực Ký. Sách nầy chép: Khoảng 221-214 Quân Tần đánh người
Việt, giết được vua Tây Âu (tức Âu Lạc) gọi là Dịch Hu Tống. Coi đoạn sách nầy
thì ta có thể cho rằng trước khi có cuộc xâm lăng của nhà Tần đất Giao Chỉ đã
gọi là Tây Âu. Vua Tây Âu là Dịch Hu Tống bị giết có thể là vị Lạc Vương cuối
cùng. Sau nầy dân Việt giữa lúc vô chủ và nguy biến đã cử người Kiệt Tuấn đứng
ra lĩnh đạo cuộc kháng chiến là An Dương Vương nhà Thục, vậy Thục Phán chẳng
phải là người nước Thục ở miền Tứ Xuyên. Còn cái tên Tây Âu hay Tây Âu Lạc hay
Âu là do người Tầu đặt ra để gọi xứ ấy cho có sự phân biệt với các rợ Việt
khác.
Phần 1 - Chương 5
Xã HộI Trung Hoa Trong Thời Thượng Cổ
- Các tổ
chức chính trị, xã hội, văn hóa... dưới các triều đại Hạ - Ân - Chu.
- Các
học thuyết cổ điển của Trung quốc (Khổng tử, Lão Tử, Trang Tử, v.v...)
Để biết
trình độ của dân tộc Việt Nam chúng ta vào thời thượng cổ thế nào, ta có thể
lấy cái văn minh của Trung Quốc cũng trong thời kỳ này làm mực thước để đo
lường. Và cũng ở điểm này ta tìm hiểu ảnh hưởng của Trung Quốc bắt đầu lan tràn
sang đất Việt qua các biến thiên của Lịch Sử.
Về chính
trị, Trung Quốc khởi đầu tổ chức quốc gia và chính trị bằng chế độ phong kiến
khi người Hán còn là các bộ lạc dã man, lạc hậu rải rác khắp các nơi trên lãnh
thổ Trung Hoa. Trải qua thời kỳ man mọi và du mục, dân tộc Trung Quốc thượng cổ
đã biết làm nhà cửa để ẩn náu, chế tạo ra dụng cụ cần thiết, tìm ra mọi phương
kế nông nghiệp, sáng lập ra chữ viết để phô diễn ý tưởng tâm tình, các công
cuộc văn hóa, chính trị, kinh tế bắt đầu thành hình, tiến triển và đi dần đến
chỗ thống nhất.
Trung
Quốc rộng lớn mênh mông đã chia ra nhiều địa phương. Mỗi địa phương có một lĩnh
tụ cắt cử, và chịu uy quyền của một vị lãnh tụ lớn nhất mà họ tôn thờ là vị
Hoàng Đế hay Thiên Tử. Các lãnh tụ nhỏ giờ đó là các chư hầu phải chịu mệnh
lệnh của Thiên Tử. Vào thời thái cổ chư hầu có hàng ngàn nước. Đó là tình trạng
dưới đời vua Đại Vũ nhà Hạ, nhưng đến vua Vũ Vương nhà Chu các chư hầu đã bớt
đi nhiều lắm nghĩa là chỉ còn độ 800 nước. Cho đến đời nhà Tần việc thống nhất
được thực hiện sau bao nhiêu cuộc nội chiến liên miên khiến dân chúng lầm than,
điêu đứng hết chỗ nói. Cuộc nội chiến này bắt đầu từ đời Tam Đại (đời nhà Hạ,
nhà Ân và nhà Chu).
Vũ Vương
nhà Chu dẹp được Trụ Vương nhà Ân số chư hầu còn lại là 70 chia ra làm 5 bậc:
công, hầu, bá, tử, nam. (Xin coi việc ấn định quyền lợi và trách vụ của họ ở
trang sau đây).
1- Xã
Hội Và Văn Hóa
Trung
Quốc phát triển trước hết về nông nghiệp. Đến đời Hoàng Đế (2704 trước Thiên
Chúa) nhân dân đã có đầy đủ các thứ cho đời sống hàng ngày (các thứ ăn uống,
mặc, ở, dụng cụ sinh sản) biết làm nghề nhuộm, phát minh thuyền bè, xe cộ, chế
tạo cung tên, chầy, cối, v.v...
Đời
Hoàng Đế có đặt quan Đào Chánh để điều khiển việc làm đồ gốm, quan Mộc Chánh
trông nom việc làm các đồ gỗ để cung ứng mọi sự cần thiết xã hội. Hoàng Đế biết
dùng đồ gỗ dể dựng nhà cửa. Vợ Ngài là Lão Tổ dạy dân chăn tầm, ươm tơ.
Từ đời
Hoàng Đế trở về sau nền văn hóa Trung quốc cũng xuất hiện và tiến triển dần.
Qua đời Đường Ngu (2356 trước C.L.) áo quần có vẽ mầu nghĩa là từ sự cần che
thân, người ta đã tiến đến sự trang điểm. Đời vua Hạ Vũ đã có khoa trị thủy, có
dây làm mực, có thước để đo. Mọi thứ bắt đầu lìa bỏ sự thô sơ để trở nên hoàn
bị và có mỹ thuật. Nghệ thuật kiến trúc phát đạt mạnh cho nên đời Hạ Khải có
Điếu Đài Toàn, đời vua Hạ Kiệt có Khuynh Cung Dao Đài, đời vua Thương Trụ có
Lộc Đài tức là những cung điện nguy nga để yến tiệc chơi bời, chớ chẳng phải
chỉ để che mưa gió như thuở trước.
Khi văn
tự chưa phát minh, để ghi nhớ công việc người ta chỉ biết thắt nút. Đời Phục Hi
đặt ra tám quẻ Càn, Khôn, Tốn, Chấn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài (bát quái) để chỉ Trời,
đất, gió, sấm, nước, lửa, núi, đầm. Dần dần người ta lấy dấu hiệu thay cho việc
thắt nút. Tục truyền đời Hoàng Đế có Thương Hiệt dùng móng thú và dấu chân chim
in trên đất, cát để đặt ra văn tự. Văn tự dần dần lại theo lối tượng hình nghĩa
là ghi chép hình ảnh của sự vật mà đặt thành chữ.
Cũng từ
đời Hoàng Đế người ta dùng Giáp Tý để tính năm tháng và phát minh bói toán (bói
cỏ thi). Xét như vậy, giống Hán đã có một nền văn hóa khá cao 27 thế kỷ trước
khi Thiên Chúa Giáng Sinh.
2- Trật
Tự Xã Hội, Gia Đình
Giữ
quyền chúa tể trong thiên hạ là Thiên Tử. Thiên Tử có địa vị độc tôn, vô
thượng. Theo quan niệm Á Đông, Thiên Tử thay Trời trị dân. Dưới Thiên Tử là các
chư hầu được đặt theo cấp bậc: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam và được lĩnh phần thái
ấp. Thiên Tử có ngàn dậm đất. Công, Hầu được trăm dậm. Bá được bảy chục dậm.
Tử, Nam được năm chục dậm.
Thiên Tử
có vạn cỗ xe, chư hầu được ngàn cỗ trở xuống. Có nhiều xe thì có nhiều binh vì
xe dùng vào việc chiến tranh.
Y phục
của vua, chúa cũng có sự phân biệt. Vua mặc áo màu vàng thêu rồng (hoàng bào)
các chư hầu và các quan chức dùng màu khác.
Đến phi
hậu cũng có sự ấn định rõ rệt: Thiên Tử có Đông Cung và Tây Cung và mười hai
cung phi (nhưng đến Tần Thủy Hoàng cung A Phòng đã chứa đến ba ngàn mỹ nữ). Chư
hầu có chín người.
Thiên Tử
được riêng quyền cúng tế trời đất và có những nhạc dùng cho lễ nghi triều trung
của Thiên Tử.
Các chư
hầu hàng năm phải tiến cống Thiên Tử nhân tài, mỹ nữ, báu vật. Mỗi khi Thiên Tử
đi chinh phạt, chư hầu có bổn phận đi theo đánh giúp hay tiếp tế binh lính,
quân lương.
Dưới chư
hầu có các quan đại phu cũng là những nhân vật quan trọng dưới chế độ phong
kiến, họ cũng được hưởng quyền thế tập được chia đất, nhưng sau này đại phu
được lựa chọn trong đám người hiền vua biết đến hay có người tiến dẫn.
Gia đình
của người Trung Quốc thời cổ cũng đã chịu một trật tự nghiêm minh. Ông nội hay
người cha là chủ, phụ trách việc khói hương, ra các mệnh lệnh cho mọi người
theo. Kế tiếp ông hay cha là người con trưởng hay cháu trưởng (đích tôn). Cha
mất, quyền trong gia đình qua tay người con cả, dầu có mẹ hay chị lớn (quyền
huynh thế phụ). Đây là một nguyên tắc.
Thường
dân chia ra 4 giới: Sĩ, Nông, Công, Thương và không có giai cấp nô lệ như ở La
Mã và ở nhiều xã hội Âu Châu. Nhà Nông cũng được trọng như kẻ Sĩ nhưng Thương
nhân thì bị khinh khi do đó có sự hạn chế mặc áo đẹp, ở nhà lớn.
Làm dân
phải trung với Vua, vì Vua là tiêu biểu cao quý nhất cho quốc gia. Bất trung
với Vua tức là phạm tội phản quốc. Bất hiếu với Cha Mẹ, tội cũng lớn vào bậc
nhất và phải trọng hình...
Việc Quan Chế
Nhà Hạ
đặt chức tam công là ba chức lớn nhất triều đình -- cửu khanh, 27 đại phu và 81
nguyên sĩ.
Nhà Ân
đặt hai quan tướng, sáu quan Thái: Thái Tể, Thái Tôn, Thái Sư, Thái Chúc, Thái
Sĩ, Thái Bốc -- năm quan: tư đồ, tư mã, tư không, tư sĩ, tư khấu -- sáu phủ: tư
thể, tư mộc, tư thủy, tư thảo, tư khí, tư hỏa -- sáu công: thổ công, kim công,
thạch công, thủy công, thú công và thảo công.
Đến nhà
Chu có sự canh cải chút ít. Chu Công đặt ra sáu quan: thiên quan, địa quan,
xuân quan, hạ quan, thu quan, đông quan. Dưới quyền mỗi quan có 60 thuộc quan.
Đứng đầu
thiên quan là chức Chủng Tể (sau này tức là chức Tể Tướng) coi tất cả mọi việc
chính trị và lý tài trong nước và kiểm soát cả mọi việc trong cung.
Đứng đầu
địa quan là chức Đại Tư Đồ trông nom các việc thương, việc nông, việc giáo dục
và cảnh sát.
Đứng đầu
xuân quan là chức Đại Tôn Bá coi việc tế, tự, triều, sính, hội đồng, v.v...
Đứng đầu
hạ quan là chức Đại Tư Mã coi việc quân sự đánh dẹp, giữ trật tự trong nước.
Đứng đầu
thu quan gọi là Đại Tư khấu coi việc dân sự, kiện tụng.
Đứng đầu
đông quan là Đại Tư Không, giữ việc khuyến khích công nghệ, nông nghiệp, thổ
mộc.
Trên sáu
quan có tam công là: Thái sư, thái phó, thái bảo và tam cô: thiếu sư, thiếu
phó, thiếu bảo có nhiệm vụ trông coi, kiểm điểm, đặt để đường lối chính trị
trong nước và không dự việc hành chánh.
Pháp Chế
Đời thái
cổ có 5 hình để trừng phạt các tội nặng nhất -- ngoài ra có tội phải xử trị
bằng roi da và tội lưu. Qua đời Hạ, Ân, Chu đặt thêm tội chặt chân, gọt đầu và
tội đồ, và cuối đời nhà Chu vì sự biến loạn mỗi ngày một nhiều, nhà vua đặt
thêm tội bêu đầu, xé xác, lăng trì, mổ muối, v..v..
Binh Chế
Tới nay
không có sách nào nói rõ về tổ chức quân sự đời nhà Hạ và nhà Ân. Dưới thời nhà
Chu, người ta đặt 5 tên lính là một ngũ -- 5 ngũ là một lượng -- bốn lượng (100
người) thành một tốt -- 5 tốt thành một lữ -- 5 lữ thành một sư -- 5 sư (12500)
thành một quân.
Quân có
quan Mạnh Khanh làm Tướng. Sư có quan Trung Đại Phu làm Súy.
Lữ có
quan Hạ Đại Phu cũng làm Súy. Tốt có quan Thượng Sĩ làm Trưởng.
Lượng có
quan Trung Sĩ làm Tư Mã.
Thiên Tử
có 6 quân. Chư hầu nào lớn có 3 quân. Chư hầu vừa có 2 quân. Chư hầu nhỏ có 1
quân. Để giúp việc quân sự được mạnh mẽ, nhân dân phải tham gia vào các việc tổ
chức sau đây:
Nước
chia ra làm nhiều tỉnh. Mỗi tỉnh có 8 nhà. Bốn tỉnh là một ấp (32 nhà)
Bốn ấp
là một khấu (128 nhà) Bốn khấu là một điện (512 nhà)
Mỗi điện
phải chịu một cỗ binh xa, 4 con ngựa, 12 con bò, 3 giáp sĩ, 72 người bộ tốt, 25
người làm việc khuân vác các đồ nặng (tức là dân công nô dịch chiến trường).
Tổng số là 100 người.
Điền Chế
Việc
chia ruộng đất về đời thái cổ, đến nay chưa rõ ra thế nào, chỉ biết từ đời nhà
Hạ triều đình chia 50 mẫu làm một gian -- 10 gian là một Tổ. Cứ 10 nhà cấy một
khoảng ruộng (?) và quân phân hoa lợi. Nhà nước thu thuế 1/10 tức là cống xuất.
Dưới
triều Ân và Chu, nhà vua đặt phép tỉnh điền tức là chia đất ra làm 9 khu hình
chữ tỉnh. Những khu ở chung quanh là tư điền. Khu ở giữa là công điền. Mỗi tỉnh
phải cho 8 nhà cầy cấy công điền rồi nộp hoa lợi cho Vua.
Dưới đời
nhà Ân mỗi tỉnh có 630 mẫu. Mỗi nhà được 70 mẫu. Phép đánh thuế gọi là phép
trợ. Qua đời nhà Chu, mỗi tỉnh có 900 mẫu. Mỗi nhà được 100 mẫu. Phép đánh thuế
gọi là phép triệt. Cứ xét như trên đây mỗi tỉnh có 8 nhà và mỗi nhà được cầy
cấy từ 70 mẫu đến 100 mẫu, ắt rằng dân số của mỗi nhà đây phải khá đông do
nhiều gia đình tập hợp lại, trái lại một gia đình thượng cổ có 5 hay 10 người
làm thế nào mà khai khẩn được hàng 100 mẫu ruộng trong khi nông nghiệp chưa mở
mang, điền khí còn thô sơ. Ta còn có thể coi mỗi nhà ngày xưa ở Trung Quốc như
một xóm lớn hay một làng nhỏ ngày nay hoặc một họ mới hợp lý hóa được việc trên
đây.
Sử lại
chép dưới đời nhà Chu có lệ cứ 20 tuổi thì được chia cho 100 mẫu ruộng và số
ruộng này được giữ tới 60 tuổi mới phải trả lại cho nhà Vua. Nhà nào có con thứ
nhì gọi là dư phu, đến 16 tuổi được lĩnh 25 mẫu ruộng. Nhờ có phép chia ruộng
như vậy nên trong dân gian không có sự chênh lệch quá đáng về tài sản. Theo
thiển ý chúng tôi, sự ghi chép trên đây có sự sai lầm vì không thể nào từ đời
nhà Ân đến đời nhà Chu tình trạng đất đai lại có thể phân phối như vậy. Nhà Ân
cấp cho mỗi nhà 70 mẫu, nhà Chu cấp cho 100 mẫu rồi lại có thể cấp cho những
trai tráng từ 20 tuổi mỗi người 100 mẫu . Như vậy số ruộng đất ở đâu ra mà cấp
phát nhiều thế và mỗi trai tráng 16 tuổi hay 20 tuổi đảm đương sao được từ 25
đến 100 mẫu? Đây là tài liệu trích trong Việt Nam Sử Lược trang 34. Ngoài ra
chúng ta cũng chưa từng thấy nói mẫu ruộng ngày xưa nhỏ hẹp hơn mẫu ruộng ngày
nay, để có thể tin một phần nào.
Đến đời
Chiến quốc, phép chia đất bỏ đi, dân gian được tự do cầy cấy tùy sức kể từ Lý
Khôi làm tướng nước Ngụy và Thương Uởng giữ chức tướng quốc nước Tàu.
Học Chính
Nhà Hạ
lập nhà Đông Tự và Tây Tự cho hai cấp đại học và tiểu học. Nhà Ân đặt Hữu Học
và Tả học cũng theo ý nghĩa đó. Các nơi này còn là chỗ tập bắn, làm văn và
dưỡng đường cho các người già cả.
Nhà Chu
lập nhà Tích Ung hoặc Thành Quân làm trụ sở dạy học cho con cháu vua, quan và
những người tuấn tú lựa ở các thôn xã. Ở các Châu, Đảng3, thì đặt nhà tiểu học
gọi là Tự và nhà Tường cho dân chúng. Bấy giờ việc học cũng hạn định về tuổi:
từ 8 tuổi đến 14 tuổi cho bậc Tiểu học, từ 15 đến 20 tuổi cho bậc Đại học.
Chương
trình Đại học gồm có: Lễ, nhạc, thi, thư.
Chương
trình Tiểu học có: luân lý, đạo đức và cách ứng đối, v.v.. Văn minh, học thuật
Trung Quốc từ đời nhà Chu đến đời Xuân Thu đã tiến nhiều, xét qua các cơ cấu
chính trị, kinh tế và xã hội trên đây nếu so với tình trạng của nhiều dân tộc
khác bấy giờ. Điều đáng chú ý hơn cả là những học thuyết, tư tưởng và giáo lý
đã được đề xướng do mục đích cải tạo hoàn cảnh xã hội Trung Quốc trong giai
đoạn này hết sức nhiễu nhương vì nhiều cuộc biến loạn liên miên đã xảy ra giữa
các phe nhóm phong kiến và quý tộc trước vấn đề quyền vị và danh vọng. Dân
chúng dĩ nhiên là nạn nhân truyền kiếp của tình thế tam phân, ngũ liệt, của các
vụ tranh vương đồ bá giữa vua chúa và các chư hầu.
3 Cứ 500
nhà gọi là một Đảng, 12.500 nhà gọi là một Châu.
Những
nhân vật khả kính đã ra đời trong thời kỳ này là Khổng Tử, Lão Tử và Trang Tử
v.v.. Khổng, Lão đã xướng ra hai đạo thuyết tuy khác nhau nhưng đều hướng vào
chỗ lập lại trật tự xã hội và giải phóng con người ra khỏi vòng hệ lụy. Nhiều
học giả khác cũng góp phần trong cái lâu đài tư tưởng của Trung Quốc như Mặc
Địch, Dương Chu, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Thi Giảo, Điền Biền, Quỷ Cốc, v.v...
Mặc Địch
chủ trương thuyết Kiêm Ái, Dương Chu lập ra thuyết "Vị Ngã", Thân Bất
Hại, Hàn Phi thuộc phái pháp gia đề xướng việc triệt để dùng luật pháp trị
thiên hạ....
Qua
nhiều thế hệ người đời sau lưu tâm đến đạo thuyết của Khổng Phu Tử và của Lão
Tử (tự là Lý Đạm) hơn cả.
Khổng Tử
Khổng Tử
tên là Khưu, tự là Trọng Ni sinh năm 551 trước Công Lịch tức là năm 25 đời
Tương Công nước Lỗ và Linh Vương nhà Chu, ngày 27-8 ở huyện Khước Phụ nước Lỗ,
mất năm 479, thọ được 72 tuổi. Ngài xuất thân hàn vi từng làm Ủy Lại coi việc
gạt thóc, giữ kho, sau này làm Tư Chức Lại trông nom việc nuôi bò dùng vào việc
cúng tế. Đến khi đạo đức của Ngài được người đương thời chú ý, có lần ngài đã
giữ chức Tư Không nước Lỗ, nhưng không thi hành được ý muốn cứu dân cứu đời,
vãn hồi nhân tâm thế tục. Ngài bỏ đi chu du thiên hạ luôn 13 năm. Ngài từng đặt
gót chân ở Tống, Tề, Sở, Vệ, Tần, Thái vẫn không gặp được người tri kỷ. Đến năm
68 tuổi Ngài trở về cố hương (Lỗ) viết sách dạy học, môn sinh có tới 3.000
người.
Ngài đã
lấy các quan thư của các thời trước chỉnh đốn thành Kinh Thi, lấy thi ca lịch
đại soạn thành Kinh Thư, định đính kính Lễ, kinh Nhạc và làm Kinh Xuân Thu để
thuật lịch sử nước Lỗ.
Tư tưởng
luân lý đạo đức của Ngài gồm ở mấy điểm: Nhân, hiếu, đễ, trung, thứ và lễ nhạc.
Như vậy người ta trước hết phải sửa mình để thành con người đạo đức. Có đạo đức
là có tư cách, có nhân phẩm, đây là những yếu tố căn bản tạo nên giá trị của
con người, trong gia đình và xã hội. Mà muốn gây được cái đức, người ta phải
theo đạo trời là "Nhân" nó bao gồm cả vạn vật trong vũ trụ, nó là sự
yêu thương mọi người như yêu thương chính mình vậy. Mạnh Tử sau này giải thích
chữ Nhân là "Lòng trắc ẩn, là mối đầu của đức Nhân" mà ta có thể nói
cách khác: người có Nhân là người có lòng trắc ẩn. Lòng Nhân đó theo Khổng Tử,
trước hết phải đem áp dụng hằng ngày với cái xã hội quanh mình là gia đình,
giữa những người thân thiết là cha mẹ, anh em, chị em rồi mới ra đến ngoài. Đức
Nhân ở đây phát sinh ra điều Hiếu và Đễ. Nó có thiên hình vạn trạng để thích
hợp với mọi người, mọi hoàn cảnh và gây nên những sự tốt lành.
Với chữ
"Trung" Khổng Tử muốn rằng ta phải đem hết tấm lòng của ta đối với
người khác (tận kỷ chi tâm) và thi hành chữ "thứ" thì phải xét khi ta
làm việc gì cho ai, ta có muốn người ta làm cho ta điều đó không, tức là phải
tính lẽ hơn thiệt, lợi hại. Tóm lại, nếu ta làm điều gì cho ai, ta phải xét
thấy có lợi, thì hãy làm, cũng như ta làm cho ta vậy. Nếu có sự thiệt thòi cho
người ta, ta phải tránh.
Khổng Tử
hiểu chữ "Nhân" có nhiều bậc. Đạt được bậc cao nhất của chữ
"Nhân" là bậc thánh tức là người siêu quần bạt chúng. Dưới thánh nhân
là Quân Tử tức là người có nhân cách, đạo đức, mô phạm để giữ địa vị dìu dắt
dân chúng và làm gương mẫu cho họ nữa.
Tuy
Khổng Tử chủ trương lấy "Đức" mà trị người, nhưng cũng nhận lễ phép
là điều cần thiết. Mục đích của lễ phép là giữ mối giềng cho quốc gia, giữ vẻ
tôn nghiêm của vua, duy trì trật tự phân minh ngoài xã hội. Ngài còn cho rằng
Nhạc cũng phải có, để điều hòa tâm tình con người và chính trị làm bằng Lễ Nhạc
là chính trị lý tưởng.
Về
phương diện xử thế, Khổng Tử còn nêu ra đạo Trung Dung, Khổng Tử nói người quân
tử trong khi xử đối việc đời phải giữ lẽ triết trung, nghĩa là không thiên quá
nhiều về một bề nào, không cực đoan, không thái quá, bất thiên bất ỷ, do đó
người ta tránh được những điều quá đáng bao giờ cũng có hại. Các nhà Nho của ta
chịu ảnh hưởng của thuyết "Trung Dung" thường khuyên kẻ hậu sinh
trong mọi cuộc giao dịch trong ngoài nhớ câu: "Hồng thắm thì hồng chóng
phai, thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu..", quả thật là thiết thực
như vậy. Một nho gia, ông Tổ Canh Trần Đình Sóc gần đây giải thích Trung Dung
một cách khoa học như sau:
"Ta
đem thả một khối đặc xuống một thế loãng ví như thả một khúc gỗ xuống một cái
hố sâu nước. Khúc gỗ bắt đầu chìm: ta tưởng nó chìm tới đáy, nhưng không, nó
chỉ chìm tới chừng nào để đạt tới quân bình giữa trọng lực dìm nó xuống với sức
nước đẩy nó lên. Hai bên đều nhau thì nó lơ lửng ở giữa. Ở đây là thế
"Hòa" của khối đặc trong hoàn cảnh loãng của nó. Chỗ nó đứng là vị
trí an bài đắc kỳ sở ở thế quân bình. Ta nhận thấy ở khối đặc và thế loãng ấy
có hai thế lực chống nhau: một thế động và một thế phản động thừa trừ lẫn nhau
mà sinh ra một thế thứ ba là thế "Hòa" hay là thế "quân
bình" nó đã dung hoà được hai phương diện mâu thuẫn, hai khuynh hướng đối
lập của nó.
Cùng một
lý ấy ta suy rộng ra thì thấy các vì tinh tú dun dẩy, hấp dẫn nhau vào đúng vị
trí của thế quân bình nên vẫn luân chuyển mà không xô xát. Thời tiết được thế
quân bình thì vạn vật sinh thành nãy nở, v.v... cho nên người ta nhận lấy cái
định luật này để noi theo và ứng dụng vào cuộc đời mới mong thành công trong
mọi việc..."
Về chính
trị (Khổng Tử còn là nhà chính trị nữa). Khổng Tử nêu lên thuyết chính danh, đó
là một tư tưởng chủ yếu của Ngài. Và nếu Khổng Tử có tư tưởng này là vì Ngài
sinh ra giữa thời phong kiến, xã hội đang đảo lộn, trật tự đang ngửa nghiêng,
nhân tâm đang suy bại. Muốn chấm dứt cái thời đại vô kỷ cương đó, Ngài khuyên
các vua chúa và thứ dân phải xử sự cho hợp cái địa vị, cái danh nghĩa của mình,
nghĩa là kẻ làm vua phải biết đạo và theo đúng đạo làm vua, kẻ làm tôi, làm cha
làm con cũng vậy, đừng ai xâm phạm đến địa vị quyền lợi của kẻ khác, trên dưới
một lòng để đi đến chỗ thống nhất cho quốc gia về mọi phương diện.
Tóm lại,
từ đấng vương giả dến dân chúng đều phải tuân theo tam cương ngũ thường và liên
đới trách nhiệm trước mọi cuộc thịnh suy của dân tộc, xã hội. Mọi điều khuyến
cáo này xét ra được khảo sát trong lệ tục nhà Chu trước khi xuất hiện trong Lễ
Kinh và Nhạc Kinh mà Ngài đã biên soạn sau nhiều năm đi chu du các nước. Họ
Khổng khuyên vua chúa có đức độ trong cái nhiệm vụ thay trời trị dân (thừa
thiên thụ mệnh) nhưng phải cố kiêng dùng chế độ võ lực và chuyên chế. Họ Khổng
lại tin rằng người ta sinh ra vốn có tính thiện (Nhân chi sơ, tính bản thiện,
tính tương cận, tập tương viễn) và sau này sinh ra gian ác là vì chịu ảnh hưởng
xấu xa của những kẻ chung quanh. Như vậy hình phạt để ngăn tội lỗi chỉ nên dùng
một cách bất đắc dĩ mà thôi, ngoài ra nên lấy lễ nhạc để cảm hóa lòng người là
hơn.
Nho Giáo
cũng phản đối kịch liệt các hôn quân, bạo chúa nên trong Kinh Lễ có câu: Quân
mệnh thuận tắc thần hữu thuận mệnh, quân mệnh nghịch tắc thần nghịch mệnh. Rồi
một nho giả đã từng viết: Vua là thuyền, dân là nước, nước đỡ thuyền nhưng cũng
có thể làm đắm được thuyền. Như vậy nho giáo rõ rệt đã có tinh thần dân chủ và
cách mạng ở trong và đã khuyên vua chúa hành động sao cho hợp lòng dân và ý
trời. Nếu trái ý dân là vi thiên mệnh thì dân có quyền chống lại.
Tư tưởng
này đã phát sinh ra ở một vài quan niệm chính là Người và Trời có mối tương
quan hay là có hai trật tự: trật tự thiên nhiên và trật tự nhân sinh mật thiết
liên lạc với nhau, hòa hợp với nhau. Nếu so với các tư tưởng chính trị cổ của
các nước Âu Châu, Nho Giáo đặt quyền lợi của người dân trên quyền lợi của Vua
chúa thì quả là tư tưởng Nho Giáo cấp tiến hơn nhiều. Âu Châu thời xưa coi vua
chỉ chịu trách nhiệm với Trời tức là Thượng Đế hay Thiên Chúa mà thôi và dân
không có quyền kiểm soát Vua chúa.
Có điều
đáng để ý là Nho Giáo không đề cập cách kiểm soát Vua chúa hoặc quyền hành của
họ do dân chúng trao cho để ngăn trừ những hành động chuyên chế và lạm dụng.
Phải chăng phái trí thức tức nho giả thời xưa không tin ở năng lực của Đại
chúng nên chỉ biết kêu cái thiện tâm, thiện chí của các nhà cầm quyền khiến ta
phải nghĩ rằng Nho Giáo chỉ biết nêu cao tinh thần đạo đức mà thôi. Ngoài ra về
chính trị Nho Giáo đã thiếu hẳn một cái gì thực tế trong căn bản nên không đi
tới một kết quả để vãn hồi ngay được nhân tâm, thế tục thuở ấy. Cái quan niệm
thật sự và triệt để dân chủ ngày nay là Chính phủ phải là của dân, phụng sự dân
và tùy quyền dân (Tổng Thống Abraham Lincoln) đã giải thích chính thể dân chủ ở
Hợp Chủng Quốc ngày nay như vậy: The Government Of The People and By The
People).
Lão Tử
Bên cạnh
Nho Giáo có Lão Giáo là một đạo giáo đã từng được nêu cao như một giáo thuyết
khác ở Trung Quốc. Và sau Lão Giáo có Phật Giáo ngoài Nho Giáo. Ba thứ đạo giáo
này quan hệ vô cùng cho nền học thuật của Đông Phương, vì vậy đã được ấn định
vào các chương trình khoa cử sau này và về mặt thực hành các đạo giáo này đã
được hoan nghênh, cổ võ khắp nơi nhưng không gây ra những sự xung đột gắt gao
như các tôn giáo khác ở nhiều dân tộc trên thế giới. Vì vậy người ta gọi ba đạo
giáo này là "Tam giáo đồng nguyên".
Phải
chăng Khổng Giáo cũng như Lão Giáo hay Phật Giáo đều cũng phát sinh ở mục đích
cứu dân, cứu đời, sửa chữa nhân tâm, triệt bỏ mọi tham ý, tà dục và nêu cao tình
ưu ái giữa Gia đình, Xã hội và Nhân loại để con người đi tới một tập thể có Hòa
bình, Cơm áo, Tự do và Hạnh phúc? Từ nguyên lý đến phương pháp, đến cứu cánh.
Nho Phật Lão chỉ khác nhau ít nhiều ở mặt thực hành; chẳng hạn Nho Giáo đi tìm
chân lý trên con đường nhân sinh tương đối ở phạm vi nhập thế, mà Lão Trang hay
Phật Giáo thì đưa ra những điều cao siêu, huyền diệu ở phạm vi xuất thế, tựu
trung cả ba đều mưu sự hòa vui cho nhân loại giải phóng con người trên mọi
phương diện.
Dưới
đây, chúng tôi xin trích bản khảo luận ngắn về thân thế và tư tưởng của Lão Tử
vị lãnh tụ của tư trào phương Nam trên 20 thế kỷ trước và cả ngày nay nữa.
Lão Tử,
là người nước Sở, họ là Lý, tên là Nhĩ tự là Đạm. Không rõ ngày sinh và chết
vào năm tháng nào, cứ Hồ Thích dẫn chứng thì đại ước thì Ngài sinh vào khoảng
năm 570 trước C.L., hơn Khổng Tử chừng 20 tuổi. Ngài từng làm quan Trụ Hạ Sử
nước Chu, coi giữ kho sách nhà vua. Ngài tuy làm quan song vẫn tu hành đạo đức,
lấy sự tự ẩn vô danh làm chủ. Ở nước Chu lâu ngày, sau thấy nhà Chu suy nhược
không thể vãn hồi được bèn bỏ đi, rồi không rõ tung tích thế nào. Sách của Ngài
làm ra, chỉ có một bộ Đạo Đức Kinh thôi.
Nhưng
trái với Khổng Tử và Mạnh Tử chú trọng đến nhân nghĩa, lễ nhạc để cứu vãn tình
thế đương thời, lập lại trật tự xã hội, Lão Tử tuy cùng quan niệm như Khổng Tử
có một trật tự thiên nhiên, nhưng trật tự ấy không có nghĩa bó buộc người đời
trong một khuôn khổ nào hết. Chính trị, đạo đức, giáo dục, học vấn đến cả Trời
đều không là gì hết (Thiên địa bất nhân) mà lại còn có hại là đàng khác. Lão Tử
bài xích hết thảy các tiên vương, tiên thánh: Thần Nông, Hoàng Đế, Nghiêu,
Thuấn, Thang, Vũ... nên đã dám nói rằng: Làm loạn thiên hạ là ông Nghiêu, ông
Thuấn. Làm đói thiên hạ là Thần Nông (Loạn thiên hạ giả Nghiêu dữ Thuấn, cơ
thiên hạ giả thần nông); chế độ chính trị nào cũng chỉ là những phương cách bóc
lột, đè nén dân chúng của một hay nhiều giai cấp xã hội. Lập ra nhiều phép tắc,
luật lệ càng đưa dân chúng đến chỗ nghèo nàn, khốn cực, gian ác, những phương
pháp làm giàu càng đưa gia đình đến chỗ bại hoại, suy đốn.
Phủ nhận
và bài xích hết thảy mọi qui mô và tổ chức đã sẳn có, Lão Tử nêu ra Vô Vi Chủ
Nghĩa.
Sách Đạo
Đức Kinh của Ngài khuyên người đời sống Hòa Hợp với thiên nhiên, tự cải hóa,
cởi bỏ mọi điều dục vọng. Đứa trẻ sơ sinh là hình ảnh của Thiên nhiên, của đời
sống hồn nhiên thuở nguyên thủy. Một khi loài người và Tạo vật đã hòa hợp được
với nhau, nghĩa là đều vô tri, vô hám thì không còn sự tranh giành, xô xát thế
giới sẽ có hòa bình, hạnh phúc.
Lão Tử
là tiên phong cho tư tưởng đương thời, phàm chư tử bách gia đời sau, phần nhiều
là gốc ở Lão học. Nội dung của Lão học đại khái như sau đây:
1. Thiên Luận
Trước
Lão Tử thì trong tư tưởng giới người ta đều cho trời là có ý chí và chủ tể hết
thẩy. Đến đời Xuân Thu, Chiến quốc là buổi chiến loạn liên miên, người ta đối
với trời bèn sinh lòng hoài nghi, rồi đến oán vọng trách mạ. Lão Tử thuộc giòng
quí tộc, thấy chế độ phong kiến đương ở vào cảnh vỡ lở, lại có phẫn khái nhiều,
cho nên ngài cho rằng: "Trời đất là bất nhân, xem vạn vật như đồ chó
rơm"4. Ngài đã không tin trời cho 4 Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật như sô
cẩu. nên mới nêu ra một cái gọi là "Đạo" là cái "tự nhiên hỗn
thành trước khi có trời đất, im lặng quạnh quẽ, đứng một mình mà không đổi, chỗ
nào cũng đi mà không mỏi, muôn vật trong vũ trụ đều gốc ở đó mà sinh ra."
5 Tác dụng của Đạo là: "Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh
vạn vật".6 Đạo chỉ là tự nhiên không có ý chí, cho nên Ngài lại nói rằng:
"Trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên"7. Hai chữ "tự
nhiên" ấy là không thừa nhận trời làm đấng chủ tể của muôn vật vậy.
2. Vô Vi Luận
Lão Tử
đã trọng tự nhiên, cho rằng vạn vật đều có một cái đạo lý "độc lập nhi bất
biến, chu hành bất đãi", là không cần có trời làm chủ tể, cũng không cần
đến người gây dựng sắp đặt. Do tư tưởng ấy rồi thành ra tư tưởng phóng nhiệm,
tức là lý thuyết Vô Vi. Nhân sinh triết học của Lão Tử là ở thuyết Vô Vi ấy.
Ngài cho rằng người ta phải giữ lòng cho bao giờ cũng thanh tĩnh, cái gì cũng
để theo lẽ tự nhiên, đừng nên thiết đến cái gì cả "Thường có bỏ hết được
cái lòng ham muốn thì mới biết được chỗ huyền diệu của Đạo"8. Người đã giữ
được đạo thì không ra khỏi cửa mà biết được cả muôn vật trong thiên hạ, không
dòm ra ngoài cửa sổ mà biết được cái đạo trời thống trị cả thế gian, người ta
hễ muốn đi xa bao nhiêu thì lại càng biết ít bấy nhiêu.9 Về việc học cũng vậy
"càng học càng biết nhiều mối thì lại càng vô ích mà hại cho mình, chứ đã
đem tâm trí mà chú vào đạo thì cái biết càng ngày càng ít đi, càng ít mãi cho
đến bực vô vi, tuy vô vi nhưng mà không có cái gì là không có ảnh hưởng của
mình".10
Về chính
trị Lão Tử cũng theo nguyên lý vô vi cho rằng "không làm gì mà dân tự hóa
thành hay, cứ yên lặng mà dân tự ngay thẳng."11 Tuy nhiên, vô vi không
phải là cứ ngồi yên không hành động gì cả đâu, nhưng đã làm việc chính trị thì
phải phòng ngừa từ trước, lo việc từ trước, từ lúc chưa có việc gì xẩy ra thì
mới được12. Ngài cho rằng: "Đạo lớn đã bỏ thì mới đặt ra nhân nghĩa; có kẻ
trí tuệ thì mới có những điều gian ác phản nghịch, vì cha con vợ chồng không
hòa với nhau nên mới sinh ra hiếu tử, vì quốc gia biến loạn cho nên mới có
trung thần" 13, nghĩa là những điều ước thúc của luân lý, đạo đức đều là
trái với đạo cả.
5 Hữu
vật hỗn thành, tiện thiên địa sinh tịch hề, liên hề, độc lập nhi bất cải, chu
hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu.
6 Đạo
sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.
7 Thiên
pháp đạo, đạo pháp tự nhiên.
8 Thường
vô dục dĩ quan kỳ diệu.
9 Bất
xuất hồ tri thiên đạo, bất khuy hữu kiến thiên đạo, kỳ xuất di viễn kỳ tri dĩ
thiên. 10 Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn, tổn chi hữu tổn, dĩ chí ư vô vi. Vô
vi nhi vô bất vi. 11 Vô vi nhi dân tự hóa.
12 Vi
chư ư vị hữu, tri chí ư vi loạn.
13 Đại
đạo phế, hữu nhân nghĩa, trí tuệ xuất, hữu đại ngụy, lục thân bất hòa, hữu hiếu
tử, quốc gia hỗ loạn, hữu trung thần
Những
nhà chính trị biết theo đạo thì không cần lấy nhân nghĩa lễ trí mà dạy dân, chỉ
cần khiến cho dân giữ lấy tính giản dị chất phác mà theo tự nhiên. Cái xã hội
lý tưởng của Lão Tử là "nước nhỏ ít người, không cần kỳ xảo, văn vật,
không cần đến binh mã, quân lính, không cần giao thông, không cần những đồ xa
xỉ trang sức, miễn được ăn no, mặc ấm, ở yên, giữ lấy phong tục dịu dàng hòa
nhã."14
Nhưng
quan niệm "thiên địa bất nhân", "thanh tĩnh vô vi", ấy rất hợp
với tư tưởng yếm thế ở xã hội đương thời cùng những ý thức tiêu cực và phẫn oán
của giai cấp quý tộc phong kiến đương suy đốn.
Trang Tử
Chủ
nghĩa xuất thế của Trang Chu cũng theo chủ nghĩa vô vi của Lão Tử mà suy diễn
ra. Song vô vi chủ nghĩa của Lão Tử còn có hàm ý vị xử thế, chứ xuất thế chủ
nghĩa của Trang Chu thì cho rằng: "Trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với
ta là một", cho nên vô thủy vô chung, vô tiểu vô đại, vô yểu, vô thọ, vạn
sự vạn vật đều là nhất tề. Nhân thế mà Trang Tử có cái nhân sinh quan tự nhiên
nhi thiên, hễ gặp lúc nào sống mà sống là hợp thời, gặp lúc nào chết mà chết là
thuận cảnh"15. Trang Tử nói: "Kẻ chân nhân ở đời xưa không biết ham
sống, ghét chết. Đẻ ra cũng không mừng, chết đi cũng không chống, thoát qua
thoát lại, không quên lúc mới sinh, chết cũng để mặc kệ, sinh ra rồi thì thường
tự đắc, có chết nữa cũng là trở lại với trời, không cần dụng tâm mà vực đạo,
không cần lấy sức người mà giúp trời, như thế gọi là chân nhân vậy"16
Tư tưởng
Lão Trang quả là một thứ triết học cao siêu kỳ diệu khiến trí não người ta bay
bổng lên lên những cảnh giới siêu nhiên huyền diệu chứ không như tư tưởng của
Nho Giáo chỉ giữ tinh thần người ta ở trong vòng thực tế tầm thường, ở trong
vòng lễ giáo chật hẹp. Bởi vậy tuy trong thời trung cổ và cận cổ, Nho Giáo độc
tôn, mà những nhà nho học lỗi lạc vẫn thường nghiên cứu học thuyết của Lão
Trang mượn nó làm mối an ủi những nỗi khổ não ở đời.
Tuy
nhiên, cái ảnh hưởng trực tiếp của Lão Trang ở trong tư tưởng giới nước ta
không lấy gì làm quan trọng lắm, mà cái ảnh hưởng của Lão Giáo bị Đạo giáo lợi
dụng lại sâu xa, phổ cập vô cùng. Kể từ đời Tần Hán, Nho học được độc tôn thì
học thuyết Lão Trang suy dần. Đến khoảng 147-167 đời Hậu Hán, có Trương Đạo
Lăng học được đạo trường sinh rồi lên ở núi Hộc Minh Sơn ở đất Thục làm một bộ
Đạo Thư 24 thiên để dẫn dụ nhân dân. Phàm ai nhập môn thì phải nộp năm đấu gạo
nên người ta gọi là "ngũ mễ đạo". Phép trị bệnh của đạo ấy là dùng
nước bùa (phù thủy) cho người bệnh 14 Tiểu quốc quả dân, sử hữu thập bách chí
khí nhi bất dụng, sử dân trọng tử nhi bất viện tỷ. Tuy hữu chu xa, vô sở thừa
chi, tuy hữu binh giáp vô sở trần chi, sử dân phục kết thắng nhi dụng chi. Cam
kỳ thực, mỹ kỳ phục, an kỳ cư, lạc kỳ túc. Lân quốc tương vong, kê cầu chi
thanh tường văn, đan chi Lão Tử bất tương vãng lai.
15 Yêu
thời nhi xử thuận.
16 Cô
nhi chân nhân bất tri duyệt sinh, bất tri ố tử, kỳ xuất bất tố, kỳ nhập bất cử,
tiêu nhiên nhi vãng, tiêu nhiên nhi lai nhi dĩ hĩ. Bất vong kỳ sở thủy, bất cầu
kỳ sở chung, thu nhi hĩ chi, vong nhi phục chi? Thi chi vi bất dĩ tâm ấp đạo,
bất dĩ nhân trợ thiên. Thi vị chân nhân. uống, hay là viết tên họ người bệnh
vào ba tờ giấy, một tờ dán ở trên núi, một tờ chôn ở dưới đất và một tờ ném
chìm xuống nước. Con Lăng là Hoành, cháu là Lỗ, cũng tu đạo ở đấy. Đến con Lỗ
là Trương Thịnh thì dời đến Long Hổ Sơn ở tỉnh Giang Tây rồi đạo thống kế tục
mãi mãi.
Trương
Đạo Lăng phụ hội thuyết thần quái của bọn phương sĩ đời Lưỡng Hán và lợi dụng
Hư Vô chủ nghĩa cùng Phá Hoại chủ nghĩa của Lão học để lung lạc những kẻ bất
bình trong xã hội cho nên kết nạp được rất nhiều tín đồ. Lại nhân văn thể của
Lão Tử có vần dễ tụng, có nhiều chỗ mập mờ khó hiểu, hoặc những đoạn thư
"thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu" có vẻ thần bí, cho nên lại
càng khiến người ta sợ hãi và mê tín thêm. Gia dĩ cuối đời Hán sang đời Tần,
học Hoàng Lão thịnh hành, những kẻ sùng bái học ấy, lấy điều siêu nhiên cao cả
làm chủ, cho nên rất lưu ý về phép trường sinh bất tử, vũ hóa đăng tiên. Từ đó
Đạo giáo nghiễm nhiên thành phép tu tiên, đến đời Đông Tấn có Cát Hồng qui định
rất là chu đáo, rồi sinh ra vô số những phương thuật và mê tín khác.
Qua đời
nhà Đường các thi bá, trí thức như Mạnh Hạo Nhiên, Tống Chi Văn, Vương Duy, Lý
Kỳ, Trương Cửu Linh, Lạc Tân Vương, Lưu Vũ Tích, Lý Thương Ẩn v..v.. rất tôn
sùng các đạo sĩ. Tỉ dụ Kỳ Đạo Sĩ về quán Ngọc Thanh, Lý Kỳ có bài thơ sau đây:
....
Đại đạo
bãn vô ngã
Thanh
xuân trường dữ quân Trung châu nga dĩ đáo
Chí lý
đắc nhi văn
Minh
chúa giáng hoàng ốc Thời nhân khán bạch vân
.....
Đại ý:
Đạo lớn vốn là vô ngã (không có mình) xuân xanh theo mãi với ông, chỉ thoắt
chốc về đến Trung Châu, khiến chúng tôi đươc nghe những sâu sắc kỳ diệu của
đạo. Đấng minh chúa từ nhà vàng xuống đón mời, người đời trông mây trắng mà
biết đạo sĩ đi về.
Đông
Nhạc chân nhân Trương Luyện Sĩ Cao tình nhã đạm thế gian hi.
Xem như
vậy, người tu đạo ở đời Đường có đạo hạnh và đạo tâm thì được cảm tình của nhân
dân thế nào.
Dưới đời
Tống, địa vị của Đạo cũng rất tốt đẹp. Vua Tống Huy Tông tự xưng là giáo chủ
Đạo Quân Hoàng Đế. Song từ Nam Tống (1127-1279 Đạo giáo suy sụp dần, chia ra
phái Nam, phái Bắc, mỗi phái truyền đạo theo một thuyết riêng, đó là điều tai
hại cho Đạo.
Đến nhà
Kim, nhà Nguyên vào chiếm Trung Ngyên, đạo giáo lại chia rẽ phen nữa, lần nầy
thành ba phái: một là Chân Đại Đạo Giáo do Lưu Đức Nhân triều Kim đứng ra, hai
là Thái Nhất Giáo do người cháu đời thứ 36 của Trương Đạo Lăng là Trương Tông
Diễn vâng lệnh vua Thế Tổ nhà Nguyên quản lĩnh Đạo giáo miền Giang Nam. Ba là
Thát Nhất Tam Nguyên giáo do Tiêu Bảo Chân cũng dưới nhà Nguyên sáng lập. Dầu
vậy, dưới đời Nguyên, đạo giáo có nhiều phen thất bại: dưới đời Hiến Tông bị
thế lực Phật Giáo lấn át -- dưới đời Thế Tổ lại có hồi bị cấm chế nữa. Mãi cho
đến đời vua Thái Tổ, nhà Minh, khoảng năm Hồng Vũ thứ 10 con cháu Trương Đạo Lăng
(tức Trương thiền sư) mới phục hồi được địa vị trước (1377) nhất là dưới triều
Minh Thế Tông năm Gia Tĩnh (1522-1566) nhà vua rất tin dùng đạo sĩ để học thuật
trường sinh. Triệu Nguyên Tiết được phong làm Thái Nhất chân nhân thường nói
chuyện cho vua nghe về huyền lý của Đạo. Thiệu giải thích như sau:
"Chân
giáo chỉ thu vào trong một chữ tĩnh. Tĩnh sinh trí, trí sinh sáng, sáng sinh
yên. Động sinh mờ, mờ thì tối, tối thì loạn. Đấng thánh quân trị thiên hạ quý
vô vi. Chính nho gia cũng vô vi. Khổng Tử có nói: "Vô vi mà trí là vua
Thuấn chăng! Nào có làm gì đâu, chỉ tự cung kính ngồi ngoảnh về phía Nam mà
thôi".
Sang đời
nhà Thanh, thế lực của đạo giáo dầu suy lạc và không được triều đình tôn trọng
cho tới khi khoa học Tây Phương tràn vào Trung Quốc như ánh sáng mặt trời soi
vào đám sương mai mù mịt. Đạo giáo bị lung lay đến nền tảng vì những phương
thuật mê tín hơn nghìn năm để lại chống sao nổi những kỳ diệu của nền văn minh
cơ giới rất đắc lực trong việc phụng sự nhân sinh. Nhân dân dần dần hết tin đạo
rồi Dân Quốc cách mệnh nổi lên với các tư tưởng cải cách, duy tân, đạo giáo tan
rã nhường không còn gì nữa. Thêm vào đó, chính phủ Quốc Dân đã ra nghiêm lệnh
thủ tiêu Đạo giáo và phá hủy cơ sở của nó là Long Hổ Sơn.
Ngày nay
hệ thống tư tưởng và luân lý nước Trung Quốc đang thay đổi mạnh do sự hiện diện
của chính phủ Cộng Sản Mao Trạch Đông, Phật Giáo và Nho Giáo ở Trung Quốc cũng
đến lượt bị đào thải trước trào lưu mới.
Tuân Huấng
Ngoài
những nhà đạo đức, triết gia, khoa học, chính trị trên đây mà một số đáng coi
là những ngôi sao sáng trên nền trời văn minh, học thuật của Trung Quốc, người
ta còn phải kể đến nhà đại tư tưởng và khoa học Tuân Huống cũng sinh vào thời
Chu mạt và ngay thời đó Tuân đã có rất nhiều ảnh hưởng đối với văn học giới
nhất là về đời Tây Hán.
Nhưng
vào thuở đó danh tiếng của ông không lẫy lừng như các bậc trên đây do ông không
ưa tuyên truyền và phô trương. Có thể ví ông như Kant ở Âu Châu đáng lẽ còn nức
danh hơn Copercinus người đã tìm ra trái đất tròn, mà vẫn bị lu mờ tên tuổi.
Ông có trí
thức rất uyên bác, những kiến giải rất tinh tế, những sáng tác đặc biệt, những
nhận định rất sát với khoa học. Trên 2.000 năm trước đây mà có một nhà khoa học
như vậy kể cả ngay trên thế giới chớ chẳng riêng ở Trung Quốc cũng còn là điều
hãn hữu lắm thay.
Ông cống
hiến gì cho đời bây giờ?
Tư tưởng
của ông về triết lý và khoa học ra sao?
Thời đó
tại phương Nam Trung Quốc, và ở nước Tề, theo sách của Tư Mã Thiên người ta rất
"mê tín việc đồng bóng, chuộng điềm quái gở", Tuân Tử (tức Tuân
Huống) bài xích kịch liệt những việc cúng mặt trời, lạy mặt trăng, tin thần rắn
trên cây lớn, sợ sấm sét, sao sa cùng ma quỷ. Ông nhận rằng mưa gió không đáng
sợ mà chỉ là những điều tự nhiên, những hiện tượng rất thường trong trời đất;
người ta phải khống chế thời tiết, ngự trị thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên
trong đời sống của mình để giải quyết mọi vấn đề xã hội, chính trị, nhân sinh.
Nhà đại triết học Russel ngày nay nói: "kẻ thù địch lớn của loài người,
chính là loài người vậy." Còn Tuân Tử nói: Muốn làm xong chính trị của
người (tức là dân chủ) phải quét sạch những sự quái gở trong tâm hồn con người.
Để tránh sự hỗn độn trong xã hội phải thi hành một chính sách cương quyết và
phải áp dụng lễ nhạc mềm mại để điều hòa cùng làm êm dịu việc trị dân, nhiên
hậu nước mới có an lạc và thái bình.
Bàn về
tính tình con người ông nói: "Những điều tự nhiên mà đến mà có là tính.
Tính có ham ghét; mừng giận thương vui gọi là tình. Những điều lựa chọn, đắn đo
gọi là lo. Tính là sự thành tựu của trời. Tình là bản chất của tính; dục là sự
ứng dụng của tình. Cho rằng cái lòng dục có thể được mà đi kiếm nó, đó là cái
tình ắt không tránh khỏi. Cho rằng được mà làm, đó là do sự biết. Tính dục nếu
không cần thiết phải dẹp bỏ hoặc đè nén bởi người ta còn biết lo lắng, suy xét
để thắng bớt nó. Nhân nghĩa đạo đức người ta sinh ra mới tập được. Tập các điều
đạo đức phải theo phép dạy bảo của các thánh hiền. Tập các điều lễ nghi phải do
âm nhạc nung đúc. Thực lòng giữ điều nhân, điều nghĩa mới có thể khiến xui được
điều nhân nghĩa và biến điều nhân nghĩa đạo đức thành tính thứ hai của con
người, do đó mới tránh được mọi sự tương tàn, tương sát để đi tới thái
bình".
Lý luận
của ông đều do phương pháp khoa học thực nghiệm không hoang đường như Trang Chu
(Trang Chu nói: Thiên hạ chẳng gì lớn hơn mảnh lông mùa thu. Núi Thái Sơn là
nhỏ, chẳng gì thọ hơn đứa con sảo thai. Bành Tổ là yểu).
Tuân Tử
nói: "Xưa nay vẫn chung một mực, loại không trái nhau, trước và sau vẫn
cùng một lẽ.." Thật là đúng với những quan niệm khoa học đời nay, căn cứ
về luật nhân quả, trước những điều biến hóa của vạn vật do những định luật bất
di bất dịch chi phối, từ Đông qua Tây, từ kim tới cổ. Đại khái: ở Trung Hoa
nước đến độ "không" thì đóng giá. Ở Tây Phương nước đến độ
"không" cũng phải như vậy. Ngàn năm về trước cho tới ngàn năm về sau,
định luật này không bao giờ thay đổi hay vượt ra ngoài lề lối trên đây. Ông
ngược cả với Mặc Tử, Huệ Thi đã đưa ra những điều lầm lạc (Mặc Tử nêu thuyết:
Thánh nhân không tự yêu mình giết trộm cướp chớ chẳng giết người... Huệ Thi
nói: Núi với vực cũng bằng phẳng như nhau...) Ông tôn thờ Khổng Tử, nhưng sửa
đổi mở mang thêm học thuyết của họ Khổng. Ông theo chỗ "hư không lặng lẽ
của Lão Trang, lựa góp sự cân nhắc lợi hại của họ Mặc, lấy sự "thành thật
sáng suốt" của Tử Tư, Mạnh Kha" rất chú trọng đến Lễ là khuôn phép ở
bên ngoài. Theo ông con người không lễ thì không sống, việc không lễ thì không
thành, nước không lễ thì không yên... Lương Khải Siêu phê bình Tuân Tử là nhà
triết học theo "chủ nghĩa lễ trị!" Lễ trị tức là triết trung giữa hai
thứ "Đức trị và Pháp trị" có thể nói là khuôn khổ của thuyết xã hội
dân chủ trên lịch sử thế giới ngày nay vậy.
Ngoài tư
tưởng triết học, tư tưởng văn nghệ của ông như trên đây đã nói cũng gây nhiều
ảnh hưởng cho văn học đời Lưỡng Hán (Tây Hán và Đông Hán) sau này. Đối với 300
bài thi của văn học phương Bắc, ông nhận định rất rõ ràng. Khi về già ở ẩn tại
phương Nam, ông thưởng thức lối văn Sở từ âm điệu và khuôn khổ của nó. Sau này
ông tổng hợp văn nghệ hai miền Nam Bắc thành một thứ tân văn học đối với đời bấy
giờ nó mở đường cho lối phú và thi nhạc phú đẹp đẽ cho hai triều đại trên đây.
Đến cả chế độ giáo dục bằng lối học kinh cũng chịu ảnh hưởng của ông nữa. Còn
thiên Khuyến Học của Tuân Tử bàn về các quy mô giáo dục, học chế, tư cách giáo
sư ta thấy thật là hết sức sâu sắc, chu đáo. (Bài này trích dịch trong một tạp
chí Trung Hoa).
Phần 2 - Chương 1
Bắc Thuộc Thời Đại Nhà Triệu
Bắc
Thuộc Lần Thứ Nhất (207-111 trước Công lịch)
1) Triệu
Vũ vương
2) Triệu
Văn vương
3) Triệu
Minh vương
4) Triệu
Ai vương
5) Triệu
Dương vương
Theo các
Việt sử chữ nho và quốc ngữ từ xưa đến nay, Bắc thuộc chia ra làm 5 thời kỳ, kể
từ nhà Hán lấy Nam Việt của con cháu Triệu Đà (111 trước C.L.) đến năm Khúc
Tiên chúa gây nền tự chủ cho dân tộc chúng ta (906 sau C.L.).
Gần đây
nhiều học giả xét lại vấn đề này cho rằng Bắc thuộc (lần thứ nhất) phải kể từ
khi Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc (207 trước C.L.), chúng tôi cũng tán thành nhận
định này là xác đáng vì Triệu Đà là một tướng nhà Tần, dòng dõi người Trung
Quốc xâm lăng nước ta để làm thuộc địa thì việc ngoại thuộc phải kể từ khi
Triệu Đà đặt chân vào đất Việt. Đồng thời, ta phải bỏ nhà Triệu ra ngoài cuốn
sử nước nhà mới hợp lý. Trái lại, coi Bắc thuộc thời đại bắt đầu từ nhà Hán lấy
Đế quốc Nam Việt (111 trước C.L.) tức là đặt nhà Triệu vào một triều vua chính
thống của dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi đề nghị chia Bắc thuộc ra làm 5 thời
kỳ như sau này:
- Thời kỳ thứ nhất: Kể từ Triệu Đà thôn tính
Âu Lạc (207 trước C.L.) đến năm 111 trước Công Lịch con cháu nhà Triệu bị dứt.
- Thời kỳ thứ hai: Kể từ năm 111 trước C.L.
nhà Tây Hán đặt nền đô hộ ở Giao chỉ đến năm 40 sau C.L. có cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc do hai bà Trưng lĩnh đạo. Chúng ta được một thời kỳ độc lập tuy
ngắn ngủi từ năm 40-43 sau C.L..
- Thời kỳ thứ ba: Kể từ năm 43 đến năm 544,
nước ta bị lệ thuộc về nhiều vương triều Trung Quốc, bắt đầu là nhà Đông Hán
đến Nam Bắc Triều. Qua năm 544 nhà Tiền Lý ra đời đến thời Hậu Lý Nam Đế tan rã
(602) là thời kỳ tranh thủ và vận động độc lập.
- Thời kỳ thứ tư: Kể từ 603 đến năm 906 nước
ta thuộc về nhà Tùy, nhà Đường, sau giai đoạn này có Khúc Thừa Dụ ba đời, Dương
Diên Nghệ 14 năm, Kiều Công Tiễn 1 đời, Ngô Quyền 3 đời và một thời 12 sứ quân,
cộng tất cả 62 năm rồi mới đến Đinh Tiên Hoàng nhất thống nước Nam, Từ đó người
Việt Nam kế tiếp nhau cai trị lấy nước Nam.
- Thời kỳ thứ năm: Tức thời nhà Minh chiếm cứ
nước ta (1407-1428).
1- Chỗ
Rẽ của Lịch Sử Âu Lạc
Trong
khi Văn Lang biến thành Âu Lạc thì tấn bi kịch đẫm máu và nước mắt của xã hội
Trung Quốc đã kéo dài trên 600 năm, dưới đời nhà Chu, từ từ hạ màn. Nhà Tần ra
đời và nền thống nhất của dân Hán thành hình. Rồi triều đại Tần Thủy Hoàng đã
đánh dấu lịch sử nước Trung Hoa bằng một chế độ vô cùng tàn ác. Với chế độ này
người ta thi hành một chính thể tuyệt đối chuyên chế và bạo liệt: chôn học trò,
đốt sách nho để ngu dân, để diệt trừ mầm loạn bên trong, xây Vạn Lý về phương
Bắc bằng "xương máu của hàng triệu sinh linh để đề phòng "ngoại
họa", dựng cung A Phòng nhốt ba ngàn gái đẹp để tận hưởng lạc thú nhân
sinh, tung ra trên 50 vạn quân về phương nam mở rộng cương vực Hán Tộc..., tất
cả mọi sự việc nầy đều ngược với quyền lợi đại chúng nên binh hùng tướng mạnh,
thành Vạn Lý sau này cũng chẳng bền vững được bao lâu. Rồi nhà Tần đổ, nền
phong kiến Trung Hoa lại một phen nữa tơi bời như tro bụi. Giữa lúc này trên
nội địa, Hán tộc lâm vào thế biến thì các quan lại ở biên cương cũng thay lòng
đổi dạ.
Nhâm
Ngao và Triệu Đà cát cứ bấy lâu ở Nam Hải nghe có loạn Trần Thắng bên kia giải
Nam Lĩnh liền nẩy ý muốn lập riêng một triều đình miền Nam và thôn tính Âu Lạc
nữa. Quý Tỵ năm thứ 50 (năm thứ hai đời Tần Nhị Thế) Nhâm Ngao khi gần chết đã
khuyên Triệu Đà lợi dụng thời cơ dựng nền tự chủ ở phương Nam. Chẳng bao lâu
viên huyện lệnh Long Xuyên( thuộc quận Nam Hải) đã ngang nhiên xưng vương, đổi
hai quận Quế Lâm và Nam Hải ra nước Nam Việt, chưa phỉ chí, Triệu Đà còn nhìn
sang Âu Lạc nữa.
Theo
Việt Nam Sử Lược trang 29 có nói khi Tần mở cuộc Nam chinh An Dương vương xin
qui phục nhà Tần vì thế nên Âu Lạc bị đổi ra Tượng Quận. Cuối trang này tác giả
V.N.S.L. lại nói: "Năm thứ 50 đời vua An Dương vương Triệu Đà đem quân
sang đánh Âu Lạc..."
Theo chỗ
suy cứu của chúng tôi qua các cổ sử và cả các tài liệu do các học giả hiện đại
sưu tầm chẳng thấy chỗ nào nói An Dương vương xin qui phục nhà Tần hết. Và xem ngay
V.N.S.L. ta cũng thấy điều không ổn, vì nếu An Dương vương đã qui phục nhà Tần
thì Tượng Quận cũng như Quế Lâm và Nam Hải đã đặt dưới quyền của bọn Nhâm Ngao,
Triệu Đà rồi, đâu còn phải sau này cất quân đi đánh nữa. Phải chăng đây là một
sự mâu thuẫn của V.N.S.L.?
Hay đây
chỉ là một sự thần phục về tinh thần chăng?
Cũng
không, vì chẳng sách nào nói như vậy. Tóm lại, ta chỉ có thể tin như trên đây
sau cuộc chinh phục của nhà Tần, ảnh hưởng của Tần chưa ra khỏi đất Quế Lâm và
Nam Hải. Vì vậy khi Triệu Đà dựng xong nước Nam Việt mới lo kiêm tính cả Âu
Lạc.
Trước
khi xưng vương, Triệu Đà truyền hịch đi các cửa ải Hoàng phố, Dương Sơn, Hoàng
Hác nói rằng cuộc biến loạn đang xảy khắp nơi, triều đình xa biên cương, hai
quận Quế Lâm và Nam Hải cần phải tự chủ để đối phó với tình thế. Các quận huyện
đều hưởng ứng. Đà liền cho giết hết các quan lại của nhà Tần đã đặt ra và đưa
tay chân của mình lên sau đó đem quân đi đánh Âu Lạc.
Cuộc
chinh phục Âu Lạc đến nay chưa có gì rõ rệt trong các sử sách. Có thuyết nói rằng
buổi đầu Triệu Đà đánh Âu Lạc bị thất bại sau xin kết làm thân gia với An Dương
vương. Rồi sau này nhân An Dương Vương chểnh mảng việc nước. Triệu Đà đem quân
đánh úp. Âu Lạc mất, và do cuộc diệt vong của Âu Lạc mới nảy ra một thiên tình
sử đầy máu và nước mắt giữa Trọng Thủy, con trai Triệu Đà và Mỵ Châu, con gái
An Dương Vương.
Dù sao
ta đã thấy về thực tế An Dương vương mất nước. Theo Tư Mã Thiên "Triệu Đà
đem binh uy hiếp biên thùy và lấy của cải dụ dỗ hai xứ Mân Việt và Tây Âu Lạc
nên sai khiến được họ." Việc này xảy ra vào năm thứ 9 đời Hán Cao Đế.
2- Chính
Trị của Triệu Đà Trên Đất Giao Chỉ
Sau khi
chinh phục được Âu Lạc, Triệu Đà không áp dụng chế độ phương Bắc, ý giả cho
rằng dân Âu Lạc vốn khó cai trị hơn dân Nam Việt (tại Quảng Đông và Quảng Tây).
Đà chỉ chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Có lẽ quận Giao Chỉ
gồm hết địa phận Bắc Việt và một phần đất phía Nam tỉnh Quảng Tây nữa. Ở mỗi
quận, Đà đặt một quan Điển Sứ để coi việc chính trị, hành chính, một quan Tả
tướng coi việc quân sự, còn các quý tộc bản xứ vẫn giữ được thái ấp và trị dân
như cũ. Con cháu của Thục Phán ở đất Tây Vu, trung tâm điểm Loa thành vẫn được
xưng vương (Tây Vu vương) và được biệt đãi hơn cả. Chế độ Triệu thuộc xét như
vậy không có gì là quá khắt khe và không thay đổi đời sống của dân tộc Lạc Việt
là bao nhiêu về các phương diện. Chúng tôi nói như vậy không phải là vì căn cứ
vào chỗ Triệu Đà đóng kinh đô ở Phiên Ngung (Quảng Tây) và tập trung hết thảy
các hoạt động chính trị, quân sự và kinh tế ở đây, mà xét về chính trị của Giao
Chỉ và Cửu Chân. Hai xứ này bây giờ về chế độ thực tế chỉ là hai xứ phụ dung
của Đế quốc Nam Việt ở dưới quyền họ Triệu, Giao Chỉ vẫn giữ được đầy đủ các cá
tính quốc gia, tinh thần cố hữu của nó. Lại nhân cuộc thay trò đổi cảnh hai xứ
này được thêm sự mở mang kinh tế và chấn hưng nông nghiệp. Điều đó phải nhận là
có lợi cho dân bản địa.
Và tuy
sử sách không nói nhiều về việc cai trị dưới thời Triệu Đà hay dở thế nào ở đất
Giao Chỉ nhưng ta tin chắc rằng họ Triệu đã đối đãi dân Giao Chỉ không khác gì
với nhân dân hai quận Quế Lâm, Nam Hải. Họ Triệu coi Giao Chỉ và Cửu Chân là
giang sơn riêng của mình không như nhà Hán, nhà Đường trước và sau đó đã có sự
phân biệt Trung Hoa ngoại di và do sự phân biệt này các quan lại Tàu nhờ chỗ
triều đình xa biên cương tha hồ vét đầy túi tham, vì vậy mà máu và nước mắt của
chúng ta đã đổ ra rất nhiều. Trái lại Đà muốn các đất đai của Đế Quốc Nam Việt
mạnh và tiến bộ để sự nghiệp của ông ở phương Nam được vững vàng và lâu bền.
3- Nam
Việt và Tây Hán
Nam Việt
lúc bấy giờ đã mạnh về quân sự, về chính trị Nam Việt cũng thiết lập được mọi
qui mô, khiến Hán triều phải thắc mắc. Điều này rất dễ hiểu vì Triệu Đà không
những là một nhà tướng có tài mà lại còn là một nhà chính trị khôn ngoan sâu
sắc, nếu so sánh ông với những người đồng thời tại Trung Quốc, có lẽ ông cũng
không thua kém ai. (Xem cách ứng đối, tiến thoái sau này giữa ông với Lục giả,
phái viên của Hán triều cử sang Nam việt). Ông lo mở mang Nam Việt mục đích
không chịu lệ thuộc về Trung Quốc, gây cơ sở riêng có đủ tính cách độc lập giữa
lúc Lưu Bang bên Tàu đánh đổ nhà Tần dựng nên nhà Tây Hán. Nhân tâm Trung Quốc
hướng cả vào họ Lưu như một cứu tinh vì đã từ lâu họ bị ngột ngạt trong cái
không khí "bạo Tần". Lần này với người anh hùng đất Bái nền thống
nhất lĩnh thổ và sự thống nhất nhân tâm mới có hiệu lực thật sự, do đó Triệu Đà
13 năm sau đành chịu xưng thần với Hán chúa.
Năm Ất
Tị (196 trước Công Lịch ) Hán Cao Tổ phái Lục Giả sang chiêu dụ phương Nam. Nhà
Triệu bấy giờ đã ra đời được 12 năm rồi và nhà Hán cũng được 11 năm. Trong cuộc
gặp gỡ Hán sứ đã có một giai thoại như sau: Triệu ngồi thản nhiên khi sứ Hán
tới. Lục Giả vốn là tay chính khách ngoại giao rất có tài nhưng trước thái độ
kiêu căng của họ Triệu, ông vẫn bình tĩnh. Ông nói: "Nhà Vua hẳn rõ Hán đế
bây giờ đã bình định được toàn cõi Trung nguyên, thế lực ra sao không phải bàn.
Mồ mả và bà con thân thích của
nhà Vua ở
cả châu Chân Định, nay
nhà Vua không
chịu thụ phong, không tiếp sứ, cái hại trước mắt hẳn
nhà Vua cũng trông thấy..." Vũ vương thấy lời sứ giả quyết liệt tuy cách
diễn tả điều lợi hại vẫn mềm dẻo liền niềm nở bước xuống tiếp sứ cười mà nói
rằng: "Tiếc thay ta không khởi nghiệp ở Trung Quốc!".
Do cử
chỉ này ta hiểu Triệu Đà bấy giờ trong thâm tâm cũng thấy rằng dù sao Hán vẫn
mạnh hơn Nam Việt. Hán chỉ cần sự thần phục của phương Nam để Trung Quốc có một
uy thế về tinh thần đối với các ngoại biên mà thôi. Thực ra Hán cũng chẳng mong
đòi hỏi và bó buộc gì hơn, Hán vừa gây dựng sự nghiệp, thế còn đang hăng, chống
lại Hán chỉ có hại, huống hồ Nam Việt so với Hán triều vẫn có thể thua cả lượng
lẫn phẩm.
Cuộc
bang giao Hán Việt êm đẹp được một thời, đến năm Mậu Ngọ (185 trước C.L.) Hán
Cao Tổ qua đời, triều chính nhà Hán trải qua một cuộc khủng hoảng. Vợ Cao Tổ là
Lã Hậu cướp ngôi của Huệ Đế. Chính sự ngửa nghiêng Lã Hậu nghe lời dèm pha bãi
bỏ việc thông sứ với Vũ vương lại còn ra lệnh cấm người Hán không được buôn bán
đồ vàng, đồ sắt và các dụng cụ canh nông với dân Nam Việt. Tóm lại mọi việc
giao dịch về chính trị và kinh tế đều đoạn tuyệt hết.
Vũ Vương
lấy làm bất bình, ngờ Trường Sa vương thêu dệt điều kia nọ với Lã Hậu, một mặt
tự xưng là Nam Việt Hoàng Đế (Mậu Ngọ năm 25 tức năm 5 đời Hán Cao Hậu), để tỏ
ý đứng ra ngoài vòng lệ thuộc của Hán triều, một mặt cất quân đánh vào quận
Tràng sa là khu vực cai trị của Tràng Sa vương (Quận Tràng Sa ở vào địa hạt Hồ
Nam bây giờ, chắc là nơi giáp giới của đất Nam Việt ).
Phản ứng
đó kích thích Hán triều khá mạnh nên hai năm sau là năm Canh Thân, Cao Hậu phái
Long Lân hầu Chu Táo đem quân qua Nam Việt trả thù. Thủy thổ phương Nam không
thích hợp với Hán quân, nên họ ốm đau, chết hại rất nhiều. Về chiến sự quân Hán
cũng không tiến được bước nào đáng kể.
Kịp tới Cao Hậu mất (năm 180 trước C.L.) Hán triều xét việc Nam chinh không lợi
liền ra lệnh bãi binh. Vũ Vương bấy giờ nhất thống phương Nam, sau vụ này uy
danh càng lừng lẫy. Họ Triệu từ đó đàng hoàng dùng mọi nghi thức Hoàng Đế
nhường như sánh đôi với Hán Đế ở Trung Quốc.
Họ Lã
mất, Hán Văn Đế lên ngôi, cuộc bang giao Bắc Nam lại tiếp tục. Sự thần phục của
Đế Quốc Nam Việt thuở đó rất quan hệ cho uy tín của các vương triều Trung Quốc,
dường như vương triều nào không có Nam Việt trong vòng lệ thuộc của mình thì
vương triều đó không rõ rệt là chúa tể bốn phương, mặc dầu "Thiên Triều
Trung Quốc" vẫn coi khinh dân tộc miền Nam là "Nam man" cũng như
đã gọi giống người bên kia Vạn Lý trường thành là Hung Nô hay "Phiên
Ngung" hoặc "Rợ Hồ". Sự miệt thị đó đã tỏ rõ cái tính kiêu ngạo
của vương triều Trung Quốc tuy ngay trong thời đó và sau này, lịch sử từng
chứng dẫn nhiều phen, vương triều Trung Quốc đã thất cơ lỡ vận và điêu đứng vì
bọn "man di mọi rợ" đó: Mông cổ chiếm Trung Hoa, Mãn Thanh vào làm
vua Trung Quốc, Lý Thường Kiệt nhập Tống, Trần Hưng Đạo bại nguyên, Nùng Trí
Cao đánh chiếm Hoa Nam V..V....
Hán
triều lại phái Lục Giả sang Nam Việt và biết rằng xứ này dưới quyền điều khiển
của một danh tướng xưa kia của Trung Quốc luôn mấy chục năm đã càng ngày càng
mạnh, huống hồ vàng thau đã có phen thử lửa, vậy áp dụng một giải pháp chính
trị có lợi hơn là một giải pháp quân sự.
Rồi Lục
Giả mang một bức thơ có những lời lẽ rất nhũn nhặn, nhờ vậy mà đôi bên Hán Việt
lại nối tiếp cuộc hoà hiếu.
4- Xã
Hội Việt Nam Dưới Thời Triệu Đà
Triệu Vũ
Vương mất năm Giáp Thìn (137 trước C.L.) làm vua được 70 năm, thọ 121 tuổi. Sự
nghiệp của Vũ Vương thế nào, tới nay Lịch Sử không có biên chép rõ rệt lắm,
ngay cả sự nghiệp của các Vua đời Hồng Bàng.
Ta chỉ
biết đại khái rằng dưới thời Triệu Đà, mọi tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội
và văn hóa của Nam Việt đều rập theo đúng khuôn khổ của Trung Quốc.
Với
Triệu Đà ta thấy xã hội Việt Nam bắt đầu tiến do sự phát triển về nông nghiệp
nhờ sự cải thiện của nghệ thuật canh tác trước đây còn quá thô sơ (nghề săn
bắn, chài lưới bấy giờ vẫn còn thịnh). Họ Triệu nhập cảng lưỡi cầy sắt để thay
cho lưỡi cuốc bằng đá trau, cho dùng trâu bò thay vào sức người, đem gia súc từ
Tàu qua để mở mang việc chăn nuôi, nhờ vậy mà sinh sản lượng tăng gia gấp bội ;
sự phát triển về văn hóa, chính trị, quân sự cũng do cái bản lĩnh hơn người của
họ Triệu đã thúc đẩy dân tộc Việt Nam lên một bước đáng kể, nếu ta nhớ rằng
dưới đời Hồng Bàng người Việt Nam vẫn chưa thoát ly hẳn tình trạng bán khai,
mọi điều còn ở trình độ rất thấp kém trước khi nước ta nội thuộc về phương Bắc.
Sự tiến hóa
về các phương diện trên đây tuy còn ít ỏi nhưng cũng đã làm nảy nở ít nhiều ý
thức quốc gia của người Việt, nhất là sau những cuộc xô xát bằng quân sự và
ngoại giao với Hán triều trong thời Lã Hậu cầm quyền. Ý thức quốc gia đó qua
các triều đại sau càng thêm mạnh do những cuộc đảo lộn chính trị ở Trung Quốc
và trên đất Việt. Ý thức quốc gia còn nảy nở trong những giai đoạn người Việt
độc lập, tự chủ và tự cường nữa. Tóm lại, ta có thể nhìn nhận người cắm cái mốc
đầu tiên trên đường tiến hóa của chúng ta là tướng Triệu Đà. Còn nói rằng dân
Việt có nên biết ơn sự nghiệp của Triệu Đà hay không thì ta thấy rằng họ Triệu
đã mang hết tài năng thi thố trên đất Việt chỉ do một chủ trương kiến tạo một
giang sơn giàu mạnh cho mình và cho con cháu chớ họ Triệu đâu có ý phụng sự một
dị tộc.
5- Những
Vua Kế Nghiệp Triệu Đà
Với
những trang trên đây, ta thấy Triệu Đà khôn ngoan, tài giỏi thế nào, điều này
không ai chối cãi, nhưng đến đời con cháu tiếc thay lại quá đớn hèn. Ta than
cho họ Triệu đã dầy công xây dựng một đế quốc có uy thế tại phương Nam, được
Trung Quốc kiêng nể, biệt xử thì ta lại không khỏi buồn cho dân tộc chúng ta
vừa bộc khởi được một giai đoạn lại bị Trung Quốc nhân sự bất lực của con cháu
Triệu Đà mà đè bẹp ngay xuống.
Vũ Vương
truyền ngôi cho cháu đích tôn là Hồ, con trai Trọng Thủy và Mỵ Châu tức là
Triệu Văn vương, tại vị được 12 năm. Văn Vương tính tình nhu nhược, tài năng
thấp kém lên ngôi
được hai năm
thì bị quân
Mân Việt (Phúc
Kiến) xâm lăng
miền biên cương. Vì không đủ sức
chống chọi được với quân Mân Việt, Văn Vương liền phái người sang cầu cứu Hán
triều, Hàn An Quốc và Vương Khôi được lệnh Hán Đế đem quân đánh Mân Việt. Quân
Mân Việt khiếp uy Hán triều sinh nội phản, giết quốc vương lấy đầu dâng nộp.
Nam Việt tránh được cái họa Mân Việt thì lại lần đi vào một mối nguy khác,
nghĩa là do sự lộn xộn giữa Nam Việt và Mân Việt, nhà Hán hiểu rằng con cháu
Triệu Đà bất lực liền nghĩ ngay đến việc chiếm nốt mảnh đất phương Nam để mở
rộng cương vực Đế Quốc. Ta có thể tin rằng Hán triều khi đó chắc là mạnh lắm
nên quân Hán chưa tới Mân Việt thì bên trong hàng ngũ quân Mân đã có sự rối
loạn và sau đó có cuộc nội phản. Sau vụ Mân Việt bấy giờ chẳng mất đất đai thì
cũng ít nhất phải xưng thần, tức là lệ thuộc về Hán, Hán Đế liền tính chiếm nốt
Nam Việt, xét cơ hội lúc bấy giờ vô cùng thuận tiện. Khi Triệu Đà còn sống Hán
Đế có bao giờ dám nghĩ tới việc này.
Giải
quyết xong vấn đề Mân Việt, Hán Đế phái luôn người Trang Trợ sang dụ Triệu Văn
Vương vào chầu. Ai mà không nhớ cái lối vua chư hầu vào chầu Thiên Tử thời Xuân
Thu chiến quốc! Thời đó là một thời đại loạn, vua chẳng ra vua (thời Đông Chu
khi sắp tàn) tôi chẳng ra tôi, trật tự xã hội đảo điên, mạnh được yếu thua, lớn
hiếp bé, cho nên có tục tới chầu hầu Thiên tử ( phong tục này chỉ áp dụng cho
bọn nhược tiểu) nhà vua không đến chầu thì phải cho con đi thay thế để tỏ lòng
trung tín, đó là không kể chuyện xưng thần nạp cống hàng năm theo thường lệ.
Người làm con tin có khi bị giữ lại 5 hay 10 năm không được quay về xứ sở, trừ
dịp may có cuộc biến cố ở chính quốc. Lệ đó đến đời Hán vẫn còn truyền lại ;
Hán Đế đòi Triệu Văn Vương sang chầu xem Nam Việt có phản ứng gì chăng và nếu
không có phản ứng tức là Nam Việt chịu hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Triệu
Văn Vương ươn hèn, nhu nhược tất nhiên không dám trái ý "Thiên triều"
còn quần thần của nhà vua khi đó rất là lúng túng. Người ta nhớ lại Triệu Vũ
Vương lúc còn sống đã nói: "Thờ nhà Hán cho đủ lệ, chớ nên sang chầu vì
sang chầu ít có cơ về". Nghĩa là đối với Hán phải xử theo lối "kính
nhi viễn chi".
Cực
chẳng đã, Văn Vương phái Thái tử Anh Tề đi thay. Anh Tề ở luôn tại đất Hán 10
năm có thừa, trong khi đó Hán triều tha hồ làm mưa nắng với triều đình Nam
Việt. Năm Bính thìn tức năm 125 trước Công lịch, Văn Vương mất, Anh Tề mới được
quay về quê hương để nối ngôi.
6- Đế
Quốc Nam Việt Sụp Đổ
Mười năm
sống trên đất Hán, Anh Tề có dan díu với một cô gái điếm ở đất Hàm Đan tức là
Cù Thị. Sau này, Anh Tề trở nên Triệu Minh Vương, Cù Thị cũng theo về Nam Việt.
Minh Vương cũng chỉ ở ngôi được 12 năm thì thở hơi cuối cùng năm Mậu thìn (113
trước C.L.). Con là Thái tử Hưng lên thay thế giữa buổi ấu niên. Cù Thị được
tôn làm thái hậu đóng vai chỉ đạo cho Triệu Ai Vương.
Hán
triều lúc này rất chăm chú đến nội tình Nam Việt, dĩ nhiên vì Nam Việt là miếng
mồi ngon, thịt béo. Cơ hội tốt đã đến bởi Ai Vương đã kém, con cũng lại chẳng
hơn gì cha, cháu lại đang ở trong vòng thơ dại. Thảm hại hơn nữa, chính sự Nam
Việt lại có người đàn bà chen vào, triều thần lại thiếu kẻ xuất sắc. Hán triều
nghĩ ngay đến việc lấy hẳn Nam Việt. Lần này việc thôn tính có thể chắc chắn và
dễ dàng hơn, không phải cần đến binh đao. Cũng năm Mậu Thìn ấy, Hán Đế phái sứ
giả An Thiếu Quý sang Nam Việt dụ Ai Vương sang chầu, bọn Chung quân biện sĩ,
làm chức Gián nghị Đại phu sang tuyên cáo lời dụ ấy. Theo kế hoạch bọn Ngụy
thần làm dũng sĩ phụ tá để quyết định; Vệ úy Lộ Bác Đức đem binh đóng ở đồn Quế
Dương đợi hiệu lệnh của sứ giả, giữ nhiệm vụ hậu tập. Quân đội tiên phong do
Hàn Thiên Thu và Cù Nhạc (em Cù thị) điều khiển, tiến vào cõi Nam Việt đánh phá
các ấp nhỏ cách thành Phiên Ngung 40 dặm...
Tóm lại,
mưu của Hán triều là đem vua Nam Việt và thái hậu ra khỏi bờ cõi, rồi chiêu
hàng triều đình Nam Việt, nếu không xong thì quân đội sẳn sàng tập công ngay
tức khắc. Việc đánh phá của Hàn Thiên Thu có ý tiên báo triều đình Nam Việt
chính sách của Hán Đế, nếu Nam Việt không chịu khuất phục.
An Thiếu
Quý là nhân vật thế nào, và có quan trọng chăng? Y là tình nhân của Cù thị thuở
trước khi Cù thị còn là kỷ nữ. Y xin lãnh sứ mạng đó, do hai mục đích công và
tư. Rồi những việc gì phải đến đã đến: Hằng ngày y ra vào cung cấm tư thông với
Cù thị không kể là điều ngang tai chướng mắt người Nam Việt. Y lại xúi mẹ con
Ai Vương đem Nam Việt dâng nhà Hán, việc này được mẹ con Ai Vương hưởng ứng.
Nhưng một
người đã không chịu cái trò "Về Hán" ấy, là Thái phó Lữ Gia. Ông là
một kẻ huân thần của họ Triệu, làm quan trải 3 đời vua, con cháu tới 70 người
dự chính. Ông khuyên can mẹ con Ai Vương nhiều lần không chuyển liền truyền
hịch đi khắp nơi tố cáo nhân dân ý định dâng nước của Cù thị và Ai Vương, cùng
mưu mô sâu độc của triều Hán. Liền ngay đó, ông họp đại thần đem cấm binh vào
trừ An Thiếu Quý và mẹ con Cù thị, trong khi bọn này sửa soạn lên đường....Ông
lập con trưởng Minh Vương là Hoàng tử Kiến Đức, con bà Thuật Dương dòng dõi
Việt, lên làm vua tức là Dương Vương. Cuộc đảo chánh vừa xong, thì ngoài biên
giới quân Hán Việt đã chạm trán nhau, Hàn Thiên Thu tử trận. Lữ Gia cho gói cờ
Tiết của sứ giả trả về nhà Hán, và viết thơ nói khéo để tạ tội, mặt khác ông
chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu.
Mùa đông
năm Canh Ngọ (111 trước T.C.) Phục Ba tướng quân, Lộ bác Đức và Dương Bộc đem
9.000 binh chia làm 5 đạo, ồ ạt kéo sang Nam Việt. Lộ Bác Đức dùng đường Dự
Chương đi xuống Hoành Phố. Qua thuyền Tướng quân là Nghiêm và Hạ Lại Tướng quân
là Giáp, ra Linh Lang vượt Ly Thủy đến Thương Ngô, Tri Nghĩa Hầu là Quí lấy
quân Dạ Lang qua sông Trường kha cùng vây đánh Phiên Ngung.
Hán quân
trước hết hãm đường Tầm Thiếp thuộc Quảng Đông, phá Bến Đá của Lữ Gia, cướp
được thuyền thóc của Nam Việt. Bác Đức đem tội nhân ở Ba Thục hơn 1000 tiến
sau, trong khi Dương Bộc vây kín mặt Đông Nam kinh đô Nam Việt. Bác Đức tới
phong tỏa mặt Tây Bắc. Trong lúc này Triều đình Nam Việt hết sức chống đỡ, sau
địch quân phá được thành và phóng hoả khắp nơi, thành mất dân phải ra hàng.
Thương
Ngô vương Triệu Quang cùng họ với vua Nam Việt và quan Giám ở Quế Lâm là Cư Ông
cũng xin giải giáp. Mấy đạo quân Hán của Hạ Lại, Qua Thuyền và quân Dạ Lang của
Tri Nghĩa Hầu chưa tới, Nam Việt đã mất. Vua Kiến Đức bỏ chạy ra bể xuống
thuyền đi về phiá Tây. Hiệu Uý Tư Mã là Tô Hoàng đuổi theo bắt được Kiến Đức.
Việt Lang, Đỗ Kế bắt được Lữ Gia. Nam Việt phút chốc tan tành, vua tôi bị giết,
năm đó là năm 111 trước Công lịch. Vì cuộc bại trận này, Nam Việt rơi vào vòng
nô lệ của Trung Quốc và bị đổi ra làm Giao Chỉ Bộ, chia ra 9 quận trực thuộc
quyền cai trị của quan lại Trung Quốc. (Theo ch. Patris, Dương Vương và mẹ bị
chết trong cung cấm khi Hán quân hãm thành).
Nhiều
nhà viết sử hay phê bình nhân vật Lịch sử đã từng lên tiếng kết án hoặc mạt sát
Cù Thị, cho rằng mẹ con Cù Hậu đã đưa lại cho người Việt cái họa mất nước. Ý
kiến đó thiết tưởng quá khắc khe, tuy Cù Hậu không hẳn là vô tội đối với người
Việt. Theo giáo lý Khổng Mạnh, Cù Hậu phải thờ chồng nuôi con để kế nghiệp tiên
tổ. Về phương diện xã hội, địa vị của thị lại vô cùng quan hệ vì là kẻ phụ đạo
cho thiếu quân. Nếu triều đình Nam Việt chẳng thừa nhận cái ưu thế tuyệt đối
của Cù Thị, Cù Thị đâu có thể dự vào quốc chính. Chỉ hiềm người đàn bà này đầu
óc quá tầm thường nên không ý thức được cái địa vị cao quí của mình, chỉ biết
nghe theo tiếng gọi của ái tình. Ngoài ra, thị tưởng một cách đơn giản rằng
mình là người Hán, nay có cơ hội đem nước Việt sáp nhập vào đất Hán là làm được
một việc ái quốc huống hồ việc này lại còn do áp lực của tình nhân nữa. Xét cho
phải, việc tồn vong của Nam Việt bấy giờ là do thời thế và chỉ nên quy trách
nhiệm vào đám người lãnh đạo Nam Việt mà thôi.
Chúng ta
ai mà không thấy từ Triệu Văn vương, Minh Vương, Ai Vương đến Dương Vương thực
lực Nam Việt mỗi ngày một kém, do chính sự suy bại dần, nhân tài không có. Sự
yếu hèn đó là hậu quả của mấy tiền triều liên tiếp. Triều đình Hán mỗi ngày một
mạnh thì trái lại hùng khí phương Nam lại sút kém dần. Tể tướng Lữ Gia và đám
triều thần dưới đời Dương Vương, lòng trung quân ái quốc có lẽ có thừa nhưng
tài kinh bang tế thế quả đã thiếu sót. Con thuyền mục nát ấy tất nhiên phải tan
tành trước cơn gió dữ. Nếu quy tội lỗi cho người đàn bà goá vô hạnh và đứa trẻ
thơ ngây chẳng hóa những ông mũ cao áo dài của luôn mấy triều không có trách
nhiệm gì chăng? Đấy là ý kiến riêng của chúng tôi, nhưng để so sánh hai quan
niệm cổ kim trước các biến chuyển của lịch sử, chúng tôi xin dành ít lời phê
bình cho cụ Cử Dương Bá Trạc và sử thần Ngô thời Sĩ qua các dòng dưới đây:
Nước nào
cũng có sử, Chuyện xưa ghi chép đều hoang đường, Nước ta có nước từ bao giờ? Họ
vua đầu hết là Hồng Bàng. Truyền rằng vua lấy bà Âu Cơ, Con vua Thủy Tề là
nghĩa gì? Con rồng cháu tiên đẻ trăm trứng,
Biển non
hai ngả chia đường đi, Nước mình lúc ấy chưa có sử, Người sau thuật lại lắm chỗ
kỳ,
Thần
quyền thời đại tư tưởng thế, Càng nói ma quỉ càng không nghĩ. Cho hay tiền nhân
thương nước nhỉ! Nói quí người mình trong quốc thể?
Như
người Nhật kể giống Thiên Hoàng, Như người Tàu khoe giống Hoàng đế. Bấy giờ
chia nước mười năm khu.
Phong
châu một xứ là kinh đô. Nam giáp Hồ tôn, tây Ba thục, Đông biển, Bắc đến Động
Đình hồ. Cứ trong bản đồ thật không sai, Nước ta rầy giáp Quảng đông, tây, Xưa
là một nước tưởng cũng phải, Bờ cõi ba phần nay mất hai.
Thục
phán, Triệu Đà hai vua sau, Người ở Âu Lạc, người Phiên Ngung, Hợp với nước
mình xáp làm một, Dựng thành nước lớn trên địa cầu, Phải chăng giang sơn có hào
kiệt, Tấc vàng tấc đất đừng cho Tàu.
Sau gồm
Chiêm Thành lấy Chân Lạp, Vẫy vùng biển Á nhường ai đâu,
Tiếc
thay con cháu hai nhà này, Giấy người lửa người đốt đang tay,
Người thì yêu con, kẻ mê vợ, Nước đã gần mất
còn chưa hay, Nỏ rùa thành ốc, khéo bày đặt, Cho hay Thục Phán người huyền
hoặc, Giữ gìn thành quách nhờ binh oai, Trấn áp nhơn tâm mượn thần thuật, Ông
cha thì thế! con cháu ngu.
Vô phúc
đẻ phải nàng Mỵ Châu, Nặng tình gối đệm, nhẹ xã tắc, Hớ hênh đem nước cho quân
thù. Triệu Đà người Bắc sang làm vua,
Khai hóa
người mình công cũng to, Lễ giáo phong tục của Trung Quốc, Du nhập Nam thổ từ
bấy giờ.
Tội với
nước mình cũng nhà Triệu, Vua hiền không có, nước liền yếu. Kết cuộc, Minh
vương lấy vợ Tàu. Đem cả non sông làm quà biếu.
Quân gì
bán nước, hư là hư! Lịch sử nước mình từ đây nhớ. Về sau Đinh, Lê lập quốc lại,
Đất nước còn có như bây giờ.
7. Bàn về công tội của Thái phó Lữ Gia, Ngô
Thời Sĩ viết:
"...
Lữ Gia cầm quyền một nước, nắm giữ việc binh từ trong đến ngoài Cung phủ, đâu
chẳng thuộc quan Chủng tể, Giả sử Lữ Gia là một kẻ sánh suốt, canh phòng cẩn
mật, khám xét gắt gao: những lời ở sứ quán không lọt được vào cung, nhưng hạng
đằng tần không được vượt ra khỏi cửa, rồi hậu lễ để tiếp sứ giả, nhún lời để
đáp vua Hán, bề ngoài tỏ lòng kính thờ nước lớn, bề trong làm vững công cuộc
phòng bị để chống cuộc chinh phục của nhà Hán, khiến họ biết trong nước có
người tài thì dù họ có muốn ngốn nuốt đi nữa tự khắc cũng phải đổi đường toan
tính. Mà từ đó mối binh tranh cũng đến phải ngừng.
"Vậy
mà Lữ Gia để cho Cù Hậu và Thiếu Quý gặp nhau, bêu chuyện dâm ô ra khắp trong
nước, cùng nhau làm thành cái mưu phụ thuộc vào nhà Hán. Lại trùng trình ngày
tháng, biểu qua thư lại, đợi đến khi họ đã sửa soạn hành trang mới có thư cản
ngăn, tiệc rượu không lành mới tính việc nổi loạn! Kịp lúc quân Hán đã kéo vào
bờ cõi, không còn biết xoay mưu tính chước ra sao, bèn thí vua giết hậu để đi
gấp đến bước diệt vong! Đâu lại có hạng người lo nước như vậy mà mong làm nên
công chuyện được?
"Vậy
thấy cái cuồng của Cù Hậu và cái ngu của Lữ Gia mà biết cuộc bại vong của họ
Triệu đã gây nền, xây móng ngay từ lúc Anh Tề lấy vợ và phong tước rồi ".
Nhưng
đến một chỗ khác, sử thần Ngô Thời Sĩ nhường nới tay đối với Lữ Gia và thể
lượng cho cái khổ tiết của khách cô trung ấy:
".....Lữ
Gia là thế thần họ Triệu, đương lúc chúa thơ ấu, nước nguy nghi, đối với nước
lớn không biết lấy lễ để thờ, toan tính cái chước giữ nước mình cho bền vững
thì phương lược lại lầm lỡ, bên trong gây nên cái mưu của Cù Hậu, bên ngoài
chọc giận vua Hán, rồi không lượng sức, tự làm cho chóng bại vong! Phiên Ngung
không giữ được, rồi thế như đất lở không sao cứu nổi đến nỗi mất hết cả phần
đất nước cũ của vua An Dương trước, khiến cho cái khu vực mà Hoà Trọng đã dựng
ấy cũng thuộc về người Tàu từ Hán đến Đường hàng 5, 6 trăm năm!
"Truy
nguyên đến cái vạ ban đầu thì Lữ Gia không tránh khỏi tội vậy. Nhưng đó đều là
những việc " đã rồi ". Gia riêng không lấy ấn tín nhà Hán làm vinh,
giữ vững cái thuyết cho nội phụ là không tiện, không thể bảo là không trí.
"Giết
Thiếu Quý, diệt Thiên Thu, gói trả sứ tiết nhà Hán, dàn quân giữ mọi nơi hiểm
yếu, rửa sạch cái tức giận cho tiên quân ở nơi suối vàng ; không thể bảo là
không dũng.
"Bỏ
một vua nay lại lập một vua khác, chỉ biết có con cháu Võ Đế, xã tắc họ Triệu,
liều sống chết để giữ lấy, chứ không nghĩ đến chuyện khác ; không thể bảo là
không trung.
"Quân
tử bàn người nên lấy từng đốt một. Đến như bỏ hiểm yếu làm mất nước, đành rằng
Gia vẫn đắc tội với nhà Triệu. Nhưng từ nhà Triệu đến nay (triều Lê, đời Ngô
thời Sĩ ) chưa bao giờ có thể thu trọn được cả đất Ngũ Lĩnh, nhìn thẳng tận mặt
để tranh với Trung nguyên thì là chuyện còn phải đợi đến những tay thánh hiền,
hào kiệt ở sau này, cũng không đủ cho đó là tội của Lữ Gia được (Trích dịch
theo nguyên văn chữ Hán trong Đại Việt Sử Ký, ngoại thuộc Triệu Ký ).
Phần 2 - Chương 2 Nhà Tây Hán
Bắc
Thuộc Lần Thứ Hai
(111
trước Công lịch - 39 sau Công lich)
- Đơn vị
Hành chính trên đất Giao Chỉ
- Bộ máy
chánh quyền của Tây Hán
1- Những Khu Vực Hành Chính Trên Đất Giao Chỉ
Dưới Đời Tây Hán
Đế quốc
Nam Việt mất thì ở bên Giao Chỉ các quan lại của nhà Triệu cùng các Lạc hầu Lạc
tướng cũng mất tinh thần xin đầu hàng tuy Hán quân chưa vào cõi. Hai quan điểm
sứ Giao Chỉ và Cửu Chân, nghe lời dụ của quan Giám quận Quế Lâm là Cư Ông, cũng
đến dinh Lộ Bác Đức xin quy phục và nộp sổ dinh của dân Âu Lạc bấy giờ có 40
vạn. Một điều đáng chú ý, tại đất bản bộ của An Dương Vương là đất Tây Vu mà
trung tâm điểm là Loa Thành, khi nghe thấy con cháu họ Triệu suy vong, các quý
tộc địa phương toan thừa cơ hội để quật khởi. Tả tướng Hoàng Đồng do nhà Triệu
đặt ở Giao Chỉ đàn áp ngay cuộc mưu toan cách mạng này.
Đối với
Nam Việt và Giao Chỉ (nước phụ dung của đế quốc Nam Việt) nhà Tây Hán lập thành
các quận như sau:
1) Nam
Hải
2) Hợp
Phố vào địa hạt Quảng Đông
3) Uất
Lâm
4) Thương
Ngô gồm đất đai tỉnh Quảng Tây
5) Giao
Chỉ
6) Cửu
Chân
7) Nhật
Nam gồm Bắc Việt và mấy tỉnh Trung Việt
8) Châu
Nhai
9) Đạm
Nhĩ tức là Đảo Hải Nam
Theo Hán
Thư Địa Lý Chí, Giao Chỉ gồm 92.440 nhà, 746.217 người, có 10 huyện là Liên
Lâu, An Định, và Câu Lâu, Mê Linh, Khu Lương, Bác Đại, Tây Vu, Long Biên và
Châu Diên. Mỗi huyện là một thái ấp của quý tộc cũ. Xét vị trí của 10 huyện
trên đây, ta thấy rằng đại khái địa bàn của Giao Chỉ là vùng Trung du và Hạ du
Bắc Việt, khoảng giữa lưu vực sông Nhị Hà và sông Thái Bình. Trị sở quận Giao
Chỉ bấy giờ là thành Mê Linh nay là làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên. (Sử cũ gọi là
Châu Phong, trung tâm điểm của các Lạc vương xưa).
Còn Tây
Âu xưa kia An Dương vương đã hợp nhất với Văn Lang. Có lẽ nhà Hán đã đem xáp
nhập vào với quận Quất Lâm ở Quảng Tây.
Cửu Chân
gồm 35.743 nhà 166.013 người 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung (Đô Lương ngày
nay chăng ?), Dư Phát, Hàm Hoan, Võ Thiết (xưa là Võ Công) đại khái tương đương
với miền Thanh Hóa lưu vực sông Mã, sông Chu và miền Nghệ Tĩnh.
Trị sở
miền Cửu Chân có thể gọi là Tư Phố tức là làng Đông Sơn gần Hàm Rồng, mà 25 năm
trước đây nhà Bác Cổ Viễn Đông đã khai quật được nhiều di tích về thời đại đồ
đồng. Quận Cửu Chân từ trước đến bây giờ thuộc địa bàn của người Lạc Việt. Nhật
Nam
Quận
Nhật Nam đến đời Tây Hán mới có, ở phỉa Nam Cửu Chân, phạm vi của nó kể từ phía
Nam Đèo Ngang đến miền Nam đèo Hải Vân tức là vào khoảng giữa Trung Việt bây
giờ. Quận này gồm có 15.460 nhà, 69.485 người, có 5 huyện là Chu Ngô, Ty Cảnh,
Lộ Dung, Tây Quyền và Tượng Lâm. Trị sở, theo sự suy đoán của Đào Duy Anh, ở Tây
Quyền tức là nơi Chiêm Thành sau này dựng thành Khu Túc để giữ biên giới của họ
về phía Bắc. Địa điểm này giáp sông Gianh, tỉnh Quảng Bình, mà di tích thành
Hời vẫn còn đến bây giờ. Dân ở đây là các bộ lạc thuộc giống Anh-đô-nê-diêng
sống tại các nơi rừng rậm hay theo dọc sông biển. Di duệ của họ là những người
Mọi, nhưng trên bờ sông Gianh bấy giời đã xuất hiện một số người Lạc Việt ở đây
rồi, căn cứ vào các đồ đồng đào được ở đây giống hệt đồ đồng đào được ở Đông
Sơn.
2- Bộ Máy Cai Trị Của Giao Chỉ Dưới Thời Tây
Hán.
Nhà Tây
Hán để nguyện vẹn bộ máy cai trị của Giao Chỉ đã do nhà Triệu thiết lập. Xin
nhắc rằng nhà Triệu xưa kia cũng tôn trọng tình trạng và chế độ của dân bản địa
nên ta đã có thể coi dù thay thầy đổi chủ dân Lạc Việt ta vẫn giữ được nề nếp
xưa về chính trị cũng như phong tục, bởi vậy một vài học giả ngày nay cho rằng
trên thực tế nước ta đã là một nước phụ dung dưới đời nhà Triệu.
Nhà Tây
Hán vẫn dùng hai quan Điển Sứ của nhà Triệu, và họ được đổi sang chức mới là
Thái Thú. Trên các Thái Thú có quan Thứ Sử tất nhiên là người Trung Quốc. Các
Lạc hầu, Lạc tướng dưới quyền Thái Thú coi việc trị dân như cũ. Họ vẫn giữ
quyền thế tập và chỉ phải mỗi năm nộp thuế cống cho Thái Thú, các Lạc dân vẫn
làm ruộng nộp lúc cho các Lạc hầu, Lạc tướng như dân Mường, Thổ, đối với các
quan Lang ngày nay. Họ có bổn phận phục dịch vào các việc xây thành, đắp đường,
dựng lâu đài, doanh trại. Bên cạnh quan Thái Thú có một võ quan chức Đô Úy, chỉ
huy một số quân đồn trú để giữ trật tự. Tóm lại, nhà Tây Hán trong 119 năm đô
hộ đối với dân Lạc Việt buổi đầu bằng một chính sách tương đối tự do và nhân
nhượng, nhưng sau khi Vương Mãng thoái vị, nhà Hán trung hưng đối với các châu
quận xa có sự thây đổi do mục đích kiểm soát ráo riết các miền ngoại biên.
Trước kia, quan Thử sử (như chức Thủ Hiến, hay Toàn quyền thời Pháp thuộc) cứ
tháng 8 bắt đầu đi kinh lý, rồi đến đầu năm sau về Kinh trình bày mọi việc. Như
vậy vị Thứ sử không ở nhất định tại châu trị. Đến đời Trung Hưng, các Thứ sử
không được dời châu trị, dù có tang cha mẹ. Sự ngặt nghèo này gián tiếp cho ta
biết trong thời Tây Hán, mầm cách mạng của dân ta thường hay nẩy nở làm cho Bắc
Triều phải ngày đêm thắc mắc, nên buộc các Thứ Sử phải luôn luôn có mặt tại trị
sở để đối phó với tình thế, đề phòng sự bất trắc, và thi hành những luật lệ
khắc nghiệt.
Cơ cấu
hành chính thời đó đã thiết lập như sau đây: Thứ sử có các Lạc viên tức là Tòng
sự sử giúp việc. Dưới là quan Thái thú có một viên Quận thừa thay mặt Thái thú
khi có nhiều việc. Chung quanh Thái thú có các Duyên sử chia ra các Tào tức là
các phòng giấy. Tỉ dụ Công tào sử lựa chọn người có công lao để tuyển dụng. Mỗi
Tài có 1 số Thư tá (thư ký) chuyên việc giấy tờ, bẩm báo. Các quan lại cấp trên
giúp việc Thức sử và Thái thú là người Trung Quốc còn từ Duyên sử và Thư tá thì
không nhất định phải là người Trung Quốc, tức là người bản xứ cũng được dùng
đến, miễn có văn tự.
Trước cơ
cấu chính trị và hành chính trên đây, ta nhận thấy tuy nhà Tây Hán có đạt ra
nhiều phép tắc để ràng buộc dân chúng bản thổ, quân đội thường trú lúc nào cũng
có mặt đẻ đề phòng mầm loạn, nhưng việc cai trị trực tiếp nhân dân vẫn ở trong
tay quý tộc ta. Và chỉ có quý tộc bản thổ mới có đủ uy lực tinh thần và vật
chất để cai trị nhân dân, khi đó còn sống lẻ tẻ từng đoàn thể theo hệ thống
phong kiến. Vì vậy, nhà Hán không thể bãi bỏ cái vai trò của quý tộc Giao Chỉ,
mặc dầu bao giờ cũng nghi ngờ, e ngại.
Có điều
khiến ta phải suy nghĩ là chế độ Lạc hầu, Lạc tướng thời bấy giờ rõ rệt giống
chế độ phong kiến thời Trung Cổ ở Âu Châu sau này, các công, hầu, bá, tử, đã
sống nhởn nhơ trên mồ hôi nước mắt đám nông nô. Duy tình trạng quý tộc và dân
chúng Giao Chỉ thuở đó có sự đặc biệt là họ cùng bị áp chế mỗi giới một cách.
Do chỗ đồng thuyền đồng điệu này, sau trên một thế kỷ đau khổ, họ đã hợp sức
với nhau để đánh đuổi kẻ thù chung.
Viên Thứ
sử đầu tiên trên đất Việt là Thạch Đái, đóng ở Lũng khê (thuộc phủ Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh bây giờ), không thiện mà cũng không ác. Trong một thời gian, việc
giao dịch giữa Giao Chỉ bộ với nhà Tây Hán không thấy sử sách ghi chép mấy. Mãi
đến năm Kỷ Sửu tức là năm Khiến Võ thứ năm, đời vua Hán Quang Vũ (nhà Đông
Hán), mới thấy có chuyện Thứ sử Giao Châu là Đặng Nhượng cho sứ đem công vật về
Trung Quốc. Trong thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, các quan cai trị Trung Quốc
tại Giao Chỉ bộ không chịu thần phục (Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục...). Cuộc
bang giao giữa Hán triều và Giao Chỉ bộ đứt đoạn hẳn. Sau này vua Quang Vũ
trung hưng mới có sứ bộ Giao Chỉ đi lại. Đáng chú ý, một số quan lại, trí thức
Trung Quốc lánh nạn chính trị chạy qua lưu trú ở Giao Chỉ đã góp một phần đáng
kể trong việc mở mang văn hóa ở dây. Và lương quan của nhà Tây Hán có một vài
người như Tích Quang và Nhậm Diên (không phải là Nhâm Diên), Thái thú Giao Chỉ,
Cửu Chân đã tỏ được lòng chân chính với người Việt trong những năm đầu của Công
lịch là lúc xảy ra cuộc đô hộ được ít lâu.
Tích
Quang sang bên ta từ đời vua Bình Vương (Tây Hán) vào khoảng năm thứ hai, thứ
ba và Nhậm Diên từ năm Kiến Võ nhà Đông Hán. Họ khai hóa cho nhân dân, nhờ vậy
dân mới được hiểu biết các điều lễ nghĩa, luân thường, đạo lý. Họ khuyến khích
nông nghiệp bằng cách chỉ bảo trồng trọt canh tác, khẩn hoang dể tăng gia sản
xuất. Trước kia, dân Giao Chỉ quen sinh sống bằng nghề săn bắn, chài lưới. Họ
dạy việc lễ nghi, hiếu hỷ đặt thành quy tắc, và đáng chú ý học thực hành cả
lòng nhân đạo bắt đầu ngay từ họ là những nhà cầm quyền (các lại thuộc phải san
sẻ một phần lương bổng của mình để cấp đỡ dân chúng trong việc lấy vợ, lấy
chồng). Do điểm này, ta hiểu nhân dân Giao Chỉ bấy giời túng quẫn như thế nào.
Và ta nên nhớ rằng các công cuộc Nhậm Diện và Tích Quang chỉ là sự tiếp tục sự
nghiệp của tướng Triệu Đà thuở trước. Tiếc rằng Nhậm Diện chỉ cai trị quận Cửu
Chân có 4 năm rồi phải đổi đi nơi khác. (Dân ta nhớ ơn ông nên làm đền thờ và
lấy tên ông để đặt cho con, có lẽ theo ý họ, nhờ có công mà có dòng có giống?).
Sau này
chế độ Tây Hán mỗi ngày một khe khắt do chính sách trực trị được thi hành triệt
để, quý tộc và sĩ dân Giao Chỉ không chịu được sự bóc lột và tàn ác của đế quốc
nên phải vùng dậy cùng nhau tranh đấu, chống kẻ xâm lăng.
Phần 2 -
Chương 3
Nhà
Trưng
(40-43
sau Công lịch)
Cuộc
Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc Đầu Tiên Của Việt Nam
- Hai Bà
Trưng đuổi Tô Định
- Cuộc
phục thù của nhà Đông Hán
- Tính
chất Cách mạng của cuộc khởi nghĩa
- Những
cuộc cải cách của Mã Viện
1- Phất
Cờ Nương Tử
Như ta
đã thấy nhà Triệu bị đứt vào năm 111 trước Công lịch rồi nhà Tiền Hán đô hộ
nước ta150 năm. Trong khoảng thời gian này, tuy Nam Việt bị đổi ra Giao Chỉ bộ
và sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng dân chúng ở đây được hưởng thể chế
một nước "phụ dung" nghĩa là quý tộc bản xứ vẫn trực tiếp cai trị
nhân dân. Mỗi quận có một quan Thái thú chịu quyền quan Thứ sử là người điều
khiển tối cao của Bộ. Ngoài chức Thái thú còn chức quan lệnh để trông nom hành
chính ở cấp huyện thường là người Tàu bổ sang. Xét ra hành chính Giao Chỉ bộ
không khác gì nền hành chính ở các địa phương khác tại lục địa Trung Quốc nhưng
có điều kiện là các Lạc hầu, Lạc tướng của chúng ta vẫn được tại vị nguyên vẹn
dầu phải lệ thuộc vào bộ máy chính quyền của người Tàu như trên đã nói.
Nhưng
đến đầu thế kỷ thứ nhất (Công lịch) nhà Tiền Hán suy kém dần rồi Vương Mãng
cướp ngôi nhà Hán từ năm thứ 9 đến năm thứ 26 Giao Chỉ bộ xa triều đình nên
không còn liên lạc gì với chính quốc. Nhiều văn thần võ tướng của Hán triều
sang tỵ nạn ở nước ra để được yên ổn rồi bọn người di cư này được thay thế dần
đám quan lại bản xứ. Họ lại chiếm cả một số ruộng đất ở đây dựa vào thế họ là
người của "Thiên triều".
Bị xâm
lăng về quyền hành, lại bị đẽo gọt cả về kinh tế, quý tộc cũng như nhân dân
Giao Chỉ rất lấy làm căm phẫn và thấy đời sống bị đe dọa. Lại ngay bấy giờ
(Giáp Ngọ (34) năm Kiến Vũ thứ 10) Tô Định sang làm Thái thú ở quận bóc lột
nhân dân quá tệ, dân Việt đến nước không còn chịu đựng được hơn nữa.
Họ tuyệt
vọng rồi Giao Chỉ bộ trở thành một đống thuốc súng chỉ đợi người ta ném xuống
một chiếc qua diêm là bùng nổ.
Đấy là
nguyên nhân gần nhất.
Nguyên
nhân xa hơn nữa trước khi Tô Định đến Giao Chỉ bộ, dân Việt đã quá nghèo khổ
rồi đến nỗi đầu thế kỷ thứ nhất, nghĩa là trước đó trên 30 năm, Tích Quang và
Nhậm Diên17 hai lương lại của Trung Quốc phải hô hào các lại thuộc bớt tiền
lương giúp dân bản địa lấy vợ lấy chồng. Tích Quang cũng như Nhậm Diên nhân dịp
này du nhập văn hóa Trung Quốc vào đất Việt bằng cách dạy dân về lễ nghĩa và
nghề canh tác, nhờ vậy mới có đủ thóc gạo ăn thì dư hiểu hơn 150 năm sống trong
cảnh nô lệ, dân Việt đã lụn bại cả về tinh thần lẫn vật chất. Họ ở yên trong
bấy lâu là vì trước đây Tích Quang, Nhậm Diện đã dùng nhiều thủ đoạn khôn khéo
xoa dịu nỗi dau khổ của họ phần nào. Nhưng đây chỉ là những hạt mưa hiếm hoi
trong một cánh đồng bị hạn hán lâu ngày. Sự kiện này chỉ trì hoãn được cuộc nổi
loạn nhất thời mà thôi. Hai lương lại này đi rồi, Tô Định dến Giao Chỉ đã áp
dụng một chế độ bạo ngược tham tàn. Một phần cũng tại từ thời Trung hưng (Vương
Mãng Đổ, nhà Đông Hán ra đời), chính sách ngoại biên bắt đầu cứng rắn, nhiều
luật lệ ngặt nghèo được đặt ra và các Thứ sử phải ở luôn phủ trị không được đi
về như trước để phòng loạn. Đây là những việc đã khêu ngọn lửa oán hờn của nhân
dân Nam Việt.
Bấy giờ
quý tộc ở Mê Linh, làng Hạ Lôi, tổng Yên Lãng, tỉnh Phú Yên, có nhà Lạc tướng
dòng dõi Lạc vương có nhiều uy danh nhất. Con gái là Trưng Chắc rất dũng cảm
kết hôn cùng con trai Lạc tướng Chu Diên là Đặng Thi Sách bấy giờ đang làm quan
lệnh tại địa hạt này18.
Đặng Thi
Sách cũng là một nhân vật anh hùng, khí khái, đã cùng Trưng Chắc nên duyên
chồng vợ vì đôi bên cùng yêu dân thương nước như nhau, cùng có đầu óc bài Hán.
Vợ chồng họ Đặng đã âm mưu cùng mẹ (mẹ bà Trưng) là bà Man Thiện cháu ngoại Lạc
Vương góa chồng từ sớm, để lật đổ chế độ Hán thuộc. Tình ý của gia đình cách
mạng này đã lọt vào mắt của bọn thống trị nên Tô Định thi hành gấp nhiều biện
pháp để ràng buộc và bắt bớ các nhà Cách mạng người Việt mà vợ chồng Thi Sách
được coi là nguy hiểm nhất. Xin nhớ thêm rằng bên cạnh vợ chồng Thi Sách còn
Trưng Nhị cũng là một chiến sĩ rất hăng hái. Sau lời hiệu triệu bí mật của Thi
Sách và Trưng Chắc, quý tộc và hào kiệt cùng nhân dân khắp nơi đều hưởng ứng
chẳng khác chi thời kháng chiến chống quân Tần xưa kia.
Bắt đầu
là các đồng chí ở Đông Sàng(?), Liên Chiểu, Phù Xá (Phúc Yên) đem nữ binh đến
giúp. Quân số mới có 2.000 sau được quân của các bộ lạc, các huyện, châu, quận
gần xa nổi lên ủng hộ đông tới hàng vạn.
17 Tích
Quang đến Giao Chỉ vào đầu thế kỷ thứ nhất năm thứ ba hay là thứ ba đời vua
Bình Vương nhà Tây Hán. Nhậm Diên làm Thái thú quận Cửu Chân từ năm Kiến Vũ nhà
Đông Hán. Cả hai chỉ ở nước ta khoảng 4 hay 5 năm mà thôi.
18 Chu
Diên thuộc phủ Vĩnh Tương trước thuộc về Sơn Tây sau thuộc về tỉnh Vĩnh Yên.
Cuộc tổ
chức võ trang chống Hán còn ở trong vòng âm thầm, bí mật thì Tô Định cho quân
đến bắt vợ chồng ông Đặng Thi Sách. Thế chẳng đừng, cờ Mê Linh liền phất lên
công khai nhưng Thi Sách chưa chuẩn bị đầy đủ nên bị tử trận. Việc rất không
may này không làm nản lòng hai vị nữ chiến sĩ; Bà Trưng vội thay chồng cầm
quyền đại tướng xông ra trước quân thù sau khi thiếp lập xong đại bản doanh ở
Nam Nguyên (Hát Môn).
Quân Cách
mạng đánh thẳng vào Liên lâu thành (theo Maspéro và C. Patris phủ trị của Giao
Chỉ bộ bấy giờ đang ở phía Nam tỉnh Hà Đông, bên bờ sông Nhuệ gọi là thành Liên
lâu).
Tương
truyền khi xuất trận hai Bà cưỡi voi, mặc áo giáp vàng, che lọng vàng, trang
sức rất lộng lẫy, tinh thần không vì việc tang tóc mà suy giảm19.
Quân Hán
bấy giờ phần nhiều là quân Bắc, vóc người to lớn khí giới lại sắc bén, giáp trụ
đầy đủ, tiến lui có phương pháp và kỷ luật, tướng tá của họ thông thạo chiến
thuật, chiến lược.
Quân
Việt thì ô hợp, vũ khí thô sơ, thiếu thốn lại kém rèn luyện ít kinh nghiệm
chiến trường. Tuy vậy khi hai quân gặp nhau, quân Việt nhờ có lòng căm thù bốc
mạnh như gió bão nên đánh rất hăng, quân Hán khắp nơi phải bỏ chạy. Chẳng bao
lâu, các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và toàn bộ Giao Chỉ thuộc quyền kiểm
soát của quân Cách Mạng. Núi sông của Lạc Việt lại trở về tay chủ cũ sau khi Tô
Định và lũ bộ hạ chạy tháo thân về Nam Hải20.
Dẹp yên
quân Hán thâu được 5621 thành hai Bà xưng vương đóng đô tại quê nhà là Mê Linh.
Nền độc lập được thâu hồi từ năm Canh Tí đến tháng hai năm Quí Mão (40-43 sau
C.L.). Các quy mô lập quốc chưa kiệp thành hình và có điều đáng kể, hiệu lệnh
cũng chưa thấu được các châu, quận xa vì đường giao thông khó khăn. Trên thực
tế uy quyền của hai Bà chỉ thi thố được trong nội địa Mê Linh và Chu Diên,
nhiều nhất là trong thành ấp, quận Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi22.
2- Cuộc
Phục Thù Của Nhà Đông Hán
Trong
giai đoạn có cuộc cách mạng nổi lên ở Giao Chỉ, nhà Đông Hán cũng đang mắc míu
vào nhiều vụ lộn xộn bên Trung Quốc nên chưa đối phó ngay được với nhà Trưng.
Họ mới chỉ ra lệnh cho các quận miền Nam dự bị xe cộ, thuyền bè, binh sĩ, bắc
cầu, đắp đường cùng dự trữ lương thực.
19 Quân
sĩ tỏ vẻ ngạc nhiên. Hai Bà giải thích rằng việc nước là hệ trọng, không thể vì
nỗi đau buồn riêng mà hủy bỏ dung nhan khiến thần thí kém đi. Trái lại, phải
phấn khởi quân sắc y phục rực rỡ để quân địch bị xúc động mới dễ thắng.
20 Tô
Định bỏ chạy. Thứ sử lúc này ở Liên lâu thành với họ Tô cũng tháo lui một lúc
bởi bấy giờ nước ta chia ra làm 2 quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Thứ sử đóng tại
Giao Chỉ nên cùng ở một nơi với Thái thú.
21 Tô
Định bỏ chạy. Thứ sử lúc này ở Liên lâu thành với họ Tô cũng tháo lui một lúc
bởi bấy giờ nước ta chia ra làm 2 quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Thứ sử đóng tại
Giao Chỉ nên cùng ở một nơi với Thái thú.
22 Miền
Hợp Phố và Nhật Nam bấy giờ không có quan hệ trực tiếp với Mê Linh vì cách quá
xa.
Tháng 12
năm 17 hiệu Kiến Võ (tháng 1 năm 42) Hán triều cử Mã Viện là một lão tướng hữu
danh 70 tuổi, vừa đàn áp xong cuộc quật khởi của Lý Quảng ở Hoãn Thành (An Huy)
trở về. Mã Viện được phong chức Phục Ba tướng quân cầm đầu cuộc viễn chinh. Phụ
tá của Mã có Lưu Long và Đoàn Chí. Họ Đoàn phụ trách về thủy quân.
Các
tướng Hán mang hơn một vạn binh sĩ lấy ở các quận Tràng Sa, Quế Dương, Linh
Lăng và Thương Ngô. Tháng 9 năm 17 hiệu Kiến Võ (năm 42 sau C.L.); họ lấy thêm 12.000
ở các quận thuộc về bộ Giao Chỉ, (chắc là ở các địa hạt thuộc Nam Quảng Tây
chưa chịu ảnh hưởng của nhà Trưng).
Bộ binh
của Hán từ Hồ Nam tiến xuống Quảng Tây và Quảng Đông tập trung với thủy quân
của Đoàn Chí ở Hợp Phố. Đoàn Chí đến đây chưa bao lâu thì bị bệnh và chết. Vua
Hán ra lệnh cho Mã Viện theo đường thủy mà tiến vào. Họ Mã phải đi tắt qua
Quảng Yên rồi do sông Thái Bình mà xâm nhập vào nội địa của dân ta23. Quân lâu
thuyền (thuyền chiến có lầu) lục tục đi theo do sông Bạch Đằng.
Ở những
miền Hán quân đi qua bấy giờ không sự kháng cự nào đáng kể, có lẽ các bộ lạc
chưa kịp tổ chức kháng chiến hoặc không chịu mệnh lệnh của Mê Linh. Theo Ch.
Patris các tù trưởng đã kếp hợp với hai Bà chỉ do mục đích đả phá chế độ trung
ương tập quyền của nhà Hán không lẽ họ lại tự ý khuất phục hai Bà dù sao cũng
chỉ là một trong các nhóm tù trưởng ở xứ Giao Chỉ như họ bấy giờ mà thôi
...Hình như thấy việc đi sâu vào nội địa của nhà Trưng là điều bất lợi, quân
Đông Hán lại rút ra hoặc bị đánh bật ra, rồi họ về đóng ở Lãng Bạc gần Tiên Du
Sơn, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Theo H. Maspéro, Lãng Bạc đây không phải Hồ
Tây bây giờ mà là một địa điểm ở sát hai con sông chảy về phía Nam Giao Chỉ,
giữa thành Cổ Loa ở phía Tây và Long Uyên ở phía Đông. Giáo sư H. Maspéro dựa
vào sách Thủy Kinh Chú.
Tới đây
khí hậu ác độc của phương Nam đã làm cho binh sĩ Đông Hán tật bệnh nhiều, nào
nước lụt, nào mưa nhiều, nắng hạ bốc lên như lửa đốt, trên trời diều hâu đang
bay bỗng rớt xuống mà chết. Chính Mã Viện lúc này cũng thấy ngao ngán cho cái
ấn phong hầu và cái quyền đại tướng của mình.
Nhưng
nghĩ đến sứ mạng quận vương trao cho rất là trịnh trọng. Mã phải gắng. Rồi một
trận lớn đã diễn ra tại Lãng Bạc do sự tấn công của Việt quân tự Tây Vu (hay
Tây Lý) kéo đến (vào tháng 3 năm 18, hiệu Kiến Vũ tức là tháng 4 năm 43).
Trưng
Vương đại bại rút về Cẩm Khê (theo Cương Mục). Cẩm Khê thuộc phủ Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Yên. Theo chúng tôi ở bên sông Thao, tỉnh Phú Thọ 10 cây số về phía
Bắc có huyện Cẩm Khê, trước mặt có nước, sau rừng rậm có núi cao, có thể Trưng
Vương đã cố lợi dụng địa điểm quân sự này chăng? Ngay tại làng Hiền Quan trông
sang tỉnh lỵ Phú Thọ có một ngôi đền lớn thờ một vị nữ tướng của nhà Trưng,
điều này cũng đáng cho ta suy nghĩ.
23 Theo
Nguyễn Văn Tố, Mã Viện dùng đường biển quan vùng Ô Hứa (Lạng Sơn) men theo một
bên là núi, một bên là nhánh Bắc sông Thái Bình để tránh các đầm lầy bởi thuở
đó nước thủy triều còn vào đến Trung châu ngày nay.
Theo Hậu
Hán Thư, Lưu Long phá được nghĩa quân, bắt được Trưng Nhị nhưng Mã Viện Truyện
cũng trong sách ấy chép rằng tự Mã Viện đuổi được quân của nhà Trưng đến Cẩm
Khê và đánh tan được nghĩa binh. Tháng Giêng năm sau, Mã Viện chém được Trưng
Chắc và Trưng Nhị rồi gởi đầu về Lạc Vương báo tiệp. Theo sử ta và theo thần
tích làng Hạ Lôi chỉ có Trưng Nhị tử trận, còn Trưng Trắc thì lên núi Hi Sơn
rồi hóa. Dã sử của ta nói hai Bà tự trầm ở Hát Giang. Nay ở bãi Đồng Nhân gần Hà
Nội có đền thờ hai Bà hàng năm đến 6 tháng 2 thì có hội và quốc tế.
Sau cuộc
đại thắng này Mã Viện tiến vào Cửu Chân với hai ngàn chiếc thuyền và hai vạn
quân trừ nốt được thủ túc của Trưng Vương là bọn Đô Dương từ huyện Võ Công đến
huyện Cư Phong, chém được hơn hai ngày thủ cấp.
3- Tính
Chất Cách Mạng Của Cuộc Khởi Nghĩa Năm Canh Tý
Cuộc
chống đối một Đế quốc xâm lăng hay thống trị để giải ách cho nhân dân và để
thoát ly nô lệ phải được gọi là cuộc Cách mạng. Sử ta trước đây chưa quen với
danh thừ mới này còn các nhà chép sử vào thời Pháp thuộc cũng e dè là điều ta
đã hiểu nên chỉ gọi cuộc chống đối của hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa.
Cuộc
Cách mạng năm Canh Tý ngày nay được quan niệm là một đấu tranh do thị tộc mẫu
hệ lĩnh đạo, do quý tộc chỉ huy và do nhân dân tích cự tham gia, hưởng ứng.
Nó biểu
thị được thinh thần bất khuất của ông cha người Việt chúng ta đã luôn luôn coi
Tự do, Độc lập là lẽ sống duy nhất từ thuở còn quy tụ ở lưu vực sông Dương Tử
xuống đến phần đất cuối cùng của Hoa Nam ngày nay. Cuộc Cách mạng trên đây đã
thành công mau lẹ buổi đầu nhờ sự đoàn kết giữa các bộ lạc không cam khuất thân
làm tôi tớ người ngoài. Về sự thất bại của nó. Theo ô. Bùi Quang Tung, giảng sư
tại trường Văn Khoa đại học: "Nhà nước tự chủ do Trưng Vương xây dựng với
sự tập hợp của các bộ lạc trong ấy về kinh tế thì quan hệ sản xuất thị tộc còn
nặng về chính trị thì xu hướng phân tán tự lập còn mạnh, chưa có cơ sở nào tổ
chức vững chắc nên trước sự phản công mạnh mẽ của Hán quân là lực lượng quân sự
của một quốc gia hùng cường, thì nó không thể duy trì nổi. Vì thế mà sự thất
bại cũng mau chóng và dễ dàng
..."
Lương
Đức Thiệp trong Việt Nam Tiến Hóa Sử nói: "Một xã hội không thống nhất như
xã hội phong kiến đâu có thể gây được sức đoàn kết lâu dài, huống chi xã hội
nông nghiệp lại không phải là chỗ tựa vững bền cho xã hội thị tộc mẫu hệ sinh
tồn. Ngay những mâu thuẫn nội tại này cũng đủ làm cho sự nghiệp của hai Bà phải
nghiêng ngửa, huống chi hai Bà còn phải đương đầu với những lực lượng binh bị
có tổ chức nữa, nên khi Mã Viện đem quân sang chinh phạt, hai Bà đương không
nổi đều bị hại. Đám quân ô hợp tự tan rã. Bọn quý tộc phần thì bỏ trốn, phần
thì đầu hàng..."
Về
nguyên nhân phát sinh ra cuộc Cách mạng năm Canh Tý, một số sử cũ của ta đã vô
tình cho rằng động lực thúc đẩy nó là một cuộc báo phục của cá nhân bà Trưng.
Tỉ dụ Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca có câu:
Bà Trưng
quê ở Châu phong
Giận
người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em
nặng một lời nguyền,
Phất cờ
nương tử thay quyền tướng quân v.v...
rồi từ
Việt Nam sử lược, Việt Nam văn hóa sử cương, Khâm định Việt sử v.v... cũng
không có sự trình bầy rõ rệt tính cách của cuộc Cách mạng này khiến hậu sinh
chúng ta có thể lầm rằng bà Trưng đã vì thù nhà hơn vì hận nước.
Nhưng
nhiều sách sử của Trung Quốc lại nhắc đến việc hai Bà phân minh hơn.
Hậu Hán
Thư viết: Người đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Chắc với em là Trưng Nhì làm
phản "Chú: Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở Mê Linh, vợ người huyện Chu
Diên tên là Thi Sách rất hùng dũng". Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp
luật mà ràng buộc. Chắc oán giận nên làm phản.
Việt
Kiều Thư, Annam Chí Nguyên cũng xác nhận như trên, sau này giáo sư Maspéro cũng
cho rằng: dân tộc Lạc Việt bấy giờ oán ghét Tô Định lắm. Họ đã sắp đặt âm mưu
chống Hán và người đứng đầu là Thi Sách. Như vậy ta hiểu rằng Thi Sách không bị
giết thì cuộc Cách mạng vẫn bùng nổ chỉ khác việc Tô Định giết Thi Sách đã thúc
đẩy cuộc Cách mạng tiến gấp mà thôi. Ngoài ra ta nên nhớ rằng nếu lòng người
không chán ghét Tô Định và chế độ cay nghiệt của nhà Đông Hán, người ta có thể
vì cuộc báo thù của một cá nhân mà nổi lên như sóng cồn chống quân thống trị
chăng? Dân Giao Chỉ, Cửu Chân đã vậy, còn dân Nhật Nam, Hợp Phố là những dân ở
xa ảnh hưởng của quý tộc Giao Chỉ thì sao? Tóm lại, khi mà toàn dân nổi lên
tranh đấu thì cuộc tranh đấu phải là vì chính nghĩa chớ không bao giờ vì quyền
lợi của một cá nhân, dầu cá nhân đó có nhiều uy vọng đến đâu !
Do những
lý kể trên, ta có thể kết luận việc chống Hán năm Canh Tý bắt nguồn ở ý định
lật đổ chế độ Hán thuộc và do lòng ham sống tự do của giống dòng Hồng Lạc vậy.
Phần 2 - Chương 4
Bắc Thuộc Lần Thứ Ba
(Từ Đông
Hán đến Nam Bắc triều) (43-544)
1- Cuộc
Cải Cách của Mã Viện tại Giao Châu
Nhà
Trưng bị diệt rồi, Mã Viện thấy cần phải thiết lập một chế độ chặt chẽ để kìm
hãm tinh thần quật cường của dân Giao Chỉ, đồng thời để thanh toán bằng uy
quyền và võ lực những yếu tố bảo thủ còn ngăn trở ít nhiều chính sách đồng của
Trung Quốc. Thực ra những yếu tố bảo thủ này còn non nớt do từ đời Hồng Bàng
đến nhà Thục, nhà Triệu cho tới thời nhà Trưng mở nước, dân Lạc Việt ta chưa ra
khỏi tình trạng sơ khai. Nền văn hóa cố hữu của chúng ta dù sao cũng chỉ là một
sự chớm nở đang tràn đầy sinh khí. Mã Viện đã thắng một cách dễ dàng, nhất là
lúc này dân Giao Chỉ vừa bại trận, tinh thần đang bị tê liệt hẳn, trước một
chính sách hoàn toàn dựa vào sắt máu.
Mã Viện
đi kinh lý khắp mọi nơi từ Giao Chỉ đến Cửu Chân đặt đồn ải, thành trì để phòng
ngự cuộc dấy loạn. Chỗ nào có cư dân đông đúc, Mã Viện đặt quân, huyện rồi dùng
người Trung Quốc điều động guồng máy cai trị. Nơi nào rộng quá thì xẻ ra cho
nhỏ đi để tiện việc kiểm soát. Chỗ nào có thể mở mang việc canh tác, Mã Viện
cho đào sông khai ngòi. Về luật pháp, Mã Viện xin Hán triều ban bố một chế độ
riêng biệt giữa người Việt và Hán, tất nhiên để câu thúc dân bản địa gắt gao
hơn. (Hán Hậu Thư quyển 44). Với chế độ này, giai cấp phong kiến và quý tộc
Giao Chỉ mất hết uy quyền và ảnh hưởng mà Bắc phương đã nhận rõ là rất nguy
hiểm cho việc đô hộ, do kinh nghiệm ở những việc đã xảy ra tức là từ nay Giao
Chỉ bộ phải chịu chế độ trực trị. Về phương diện kinh tế, xã hội, Mã Viện cũng
du nhập vào xứ này mọi phương thức của Trung Quốc.
Kết quả
của cuộc thay đổi cảnh này bi đát như thế nào? Chúng tôi nói cuộc cải cách Mã
Viện là điều bi đát bởi chúng tôi nghĩ rằng nó đã thủ tiêu một phần quan trọng
cái tinh thần cố hữu của người Lạc Việt, là một cái gì quý nhất cho một dân tộc
tuy rằng sau này cũng có sự bù trừ một phần nào.
Theo Đào
Duy Anh, về phương diện nhân chủng, buổi đầu người Lạc Việt có lẽ còn mang rất
ít yếu tố Mông-gô-lích, rồi trải qua hai thế kỷ thuộc nhà Triệu và nhà Tây Hán
do sự hỗn hợp Việt Hán, yếu tố này tăng lên, nhưng yếu tố Anh-đô-nê-diêng vẫn
còn giữ phần chủ yếu. Sau này với Mã Viện và cuộc đô hộ trên một ngàn năm, sự
tạp chủng với người Hán lại mạnh mẽ và ráo riết hơn lên, vì vậy sự thay đổi
trong con người Lạc Việt càng rộng lớn hơn. Chứng cớ là cái mặt của người đàn
bà Việt đào được ở Đông Sơn dưới đời Tống, sau thời kỳ Bắc thuộc, đã có nhiều
nét Mông-gô-lích, duy cái sọ là còn dấu tích Anh-đô-nê-diêng mà thôi. Tuy vậy
tính tình, phong tục, chế độ của người Việt Nam nhất là người bình dân dưới các
đời Trần, Lê vẫn còn giữ được một phần nào đặc biệt hay cố hữu, nếu so với dân
Trung Quốc về phương diện này. Đến nay ta có thể nói rằng dù cuộc đồng hóa
trong thời Bắc thuộc đã đi sâu, bén rộng vào cơ cấu chủng tộc và văn hóa của
người Lạc Việt, nhưng qua thời kỳ nô lệ Trung Quốc, người Việt đã lấy tư cách
Lạc Việt, dung hòa những yếu tố chủng tộc và văn hóa của người Hán tộc và một
ít yếu tố của các giống khác để thành một nhân cách riêng. Nhân cách này đã
được cấu tạo và đào luyện trong các cuộc tranh đấu đầy gian lao, đau khổ giữa
những ngày nhục nhã và vinh quang qua 10 thế kỷ.
Một điều
đáng kể sau khi hỗn chủng và đồng hóa với người Hán, cái gốc Lạc Việt chia làm
hai chi phái: Một chi phái ở đồng bằng, do sự sinh hoạt và giao thông dễ dàng
đã chịu khá nhiều ảnh hưởng của Hán tộc. Một chi phái tản mác lên các miền
Thượng du ít xúc tiếp với người Hán nên còn giữ được nhiều yếu tố Lạc Việt
thuần túy hơn. Đó là những người Mường mà một số đồng bào chúng ta ngày nay còn
ngộ nhận là dị tộc.
Về văn
hóa Lạc Việt, từ cuộc cải cách Mã Viện, ta còn thấy có sự biến đổi (về kỹ
thuật) do những đồ cổ tích đào được ở Đông Sơn, trọng yếu nhất là đồ đồng mà
nhà khảo cổ học Goloubew đặt vào thế kỷ thứ nhất thức là thời kỳ Mã Viện làm
mưa nắng ở đây. Những đồ đồng này chia ra làm 3 bộ: bố thứ nhất là những trống
đồng, lưỡi búa, lưỡi rìu, mũi mác, mũi tên, gươm hai lưỡi, dao găm có hình
người cùng một số đồ trang sức thuần túy Lạc Việt, nhất là cái trống đồng Ngọc
Lư. Bộ thứ hai là cái bình kiểu biển hồ, cái gương kiểu nhà Hán, những đồng
tiền ngũ thù do người Trung Hoa đem đến. Bộ thứ ba là những đồ mà về mặt kỹ
thuật đã chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, đại khái cái bình lớn có vết khuôn
những miếng giáp đồng, những dao găm, những đồ nửa đồng nửa sắt. Để kết luận,
ta nhận thấy vài ảnh hưởng của Trung Quốc giữa thế kỷ thứ nhất về mọi phương
diện chưa đậm đà lắm, nhưng sau này do cuộc đô hộ của nhà Đông Hán tiếp tới hơn
10 thế kỷ Bắc thuộc, ảnh hưởng của Hán tộc càng ngày càng mạnh nên những đồ
dùng đào được ở Đông Sơn về đời Tống chỉ còn là đồ gốm của người Trung Hoa, đồ
đồng của người Lạc Việt không thấy dấu vết nữa, chắc là mai một từ thuở đó.
Sự trạng
này đã giúp luận cứ cho Maspéro đề kết rằng chính Mã Viện là người đầu tiên đã
dùng bạo lực cưỡng gian văn hóa Lạc Việt tức là văn hóa Trung Quốc đi sâu xa
vào đời sống của xã hội chúng ta từ cuộc tái chiếm Giao Chỉ của nhà Đông Hán.
Mã Viện
chết đi, người
Trung Quốc ở
thị trấn Đông
Hưng24 có dựng
đền và đúc tượng để thờ, ý chừng họ muốn thị oai với
dân Việt. Một nhân vật vô danh đi qua có đề bài thơ dưới đây:
Trèo non
vượt bể biết bao trùng! Một trận Hồ Tây chút vẫy vùng Quắc thước khoe chi mình
tóc trắng, Cân đai đọ với khách quần hồng!
24 Thị
trấn Đông Hưng của Tàu trông sang Moncay của ta chỉ cách con sông hẹp và cái
cầu sắt.
Gièm chê
luống những đầy xe ngọc. Công cáo ra chi dựng tượng đồng? Ai đó chép công, ta
chép oán
Công
riêng ai đó, oán ta chung.
Một bài
Vịnh hai Bà cũng một tác giả khuyết tên tuổi: Một bụng em cùng chị,
Hai vai
nước với nhà. Thành Mê khi đế bá, Sông Cấm lúc phong ba. Ngựa sắt mờ non Vệ, Cờ
lau mở động Hoa.
Ngàn năm
bia đá tạc, Công đức nhớ Hai Bà
Phần 2 - Chương 5 Người Việt Nam Học Chữ Tàu
- Việc
truyền bá Hán học
- Ảnh
hưởng của Phật Đồ với nền văn học cũ của chúng ta
- Một
vài điều sai lầm về Sĩ Nhiếp
1- Việc
Truyền Bá Hán Học
Hồi Hán
thuộc, người Việt Nam học chữ Hán, cũng thi cử, cũng đỗ đạt. Có thể nói rằng
tính hiếu học của người Việt là một điều đặc biệt, ai ai cũng thán phục. Đối
với cái gì gọi là văn minh tư tưởng cho đến cả tôn giáo, người Việt rất hoan
nghênh chỉ trừ chính sách đô hộ, thực dân, đế quốc thì ở vào tình thế nào người
Việt cũng chống lại. Có tiếng trong đám người theo đuổi Hán học thuở xưa là: Lý
Tiến, người Cao Hưng, đất Giao Chỉ, do tài học đã giữ được chức Thái Sử, khoảng
niên hiệu Trung Bình đời Hán Linh Đế (183-189). Lý Cầm người Giao Châu làm túc
vệ trong triều Hán (205 trước T.C-219) sau giữ chức Tư Lệ Hiệu Úy. Hai ông này
đã tranh đấu để các người trí thức Giao Châu được trọng dụng vào các địa vị
ngang hàng với người Tàu. Trương Trọng, người Hợp Phố có tài biện bác và nhanh
trí khôn cũng làm một chức hầu cận vua Hán, sau làm Thái Thú Kim Thành đã biết
giữ gìn thể diện quốc gia trong khi ứng đối với vua Hán. (Vua Hán một hôm có
hỏi: Dân Nhật Nam đều hướng về phương Bắc, chầu mặt trời phải không? Trương
Trọng trả lời: tên quận cũng có nơi gọi là Vân Trung hoặc Kim Thành, nhưng sự
thật có thế đâu. Quận Nhật Nam mặt trời cũng mọc ở đằng Đông... còn chỗ ở của
quan cũng tùy tiện về phương hướng hoặc Đông hoặc Tây, hoặc Nam hay Bắc... chớ
không nhất định về phía nào).
Tinh
Thiều cũng là một nhà văn học thuở nhà Lương (505-543) cai trị Giao Châu. Ông
không thèm nhận chức Quảng Dương Môn Lang do Sài Tiến thượng thư triều Lương đề
nghị. Ông lui về quê hương rồi giúp Ông Lý Bôn (Lý Bí) năm 544 đánh đuổi Thái
Sử Tiêu Tư lập ra nước Vạn Xuân. Khương Công Phụ đậu tiến sĩ dưới đời Đường Đức
Tông (789-804) làm quan đến chức Bình Chương (An Nam Chí Nguyên)
Chúng
tôi giới thiệu đây mấy nhà khoa mục và văn học thời Bắc thuộc để các bạn hiểu
sự truyền bá văn học của Sĩ Nhiếp. Nhậm Diên, Tích Quang đã tạo nên những đệ tử
sau này đến bực nào. Nhưng chắc chắn muốn học đến trình độ cao cả thì học sinh
người Việt phải sang tận Trung Quốc mới thành đạt lớn được. Dầu sao ta cũng có
thể nói rằng được ăn học đầy đủ, khả năng của trí thức Giao Chỉ chẳng kém gì
trí thức Trung Quốc. Chứng cớ là nhiều người Việt đã từng giữ chức Thái Thú,
Thái Sử và Tiết Độ Sứ, do chính người Tàu đặt ra thì rõ người Giao Châu đã làm
cho các vương triều Trung Quốc kiêng nể e ngại là phải. Và Lý Tiến, Lý Cầm dâng
thư lên vua Hán để đòi được đãi ngang với người Hán đã chỉ căn cứ vào thực tại
của những trí thức Giao Chỉ bấy giờ.
Ngoài
ra, ta lại nhớ rằng các nhà trí thức trên đây đã dự một phần quan trọng trong
việc truyền bá Hán học. Thân thế và sự nghiệp của họ cũng là một điều đã có ảnh
hưởng cho phong trào Hán học dưới thời Hán thuộc rất nhiều. Có người cho rằng
bọn người này chỉ là tay sai cho các đế quốc đời bấy giờ thì dù sao mọi hoạt
động của họ cũng không đáng kể. Xét lời phê bình quá nghiệt ngã và quá câu
chấp, vì ta nên nhìn nhận ảnh hưởng của họ nếu quả họ đã gây được một ảnh hưởng
nào khả quan; vả chăng trong khi chưa đủ sức chống lại kẻ mạnh thì phải học đòi
cái tài giỏi của kẻ mạnh đâu có phải là chuyện vô ích. Còn việc khôi phục độc
lập, mưu đồ phú cường phải chờ thời, tùy thế, chẳng hơn cứ đóng cửa, ngồi nhà
cứ ôm lấy sự u tối sao? Mà thái độ cố chấp tiêu cực có phải là một lợi khí, một
phương tiện tranh đấu bao giờ đâu!
2- Ảnh Hưởng Của Phật Đồ Với Nền Văn Học Của
Chúng Ta
Đạo Phật
lan vào đất Việt qua đường Ấn Độ Dương, và do các nhà cai trị Trung Quốc. Tôn
giáo này, du nhập vào xứ sở chúng ta trong thời Bắc thuộc qua ba thời kỳ:
A) Từ
đầu thế kỷ III đến thế kỷ VI. Ban đầu, Khang Tăng Hội (Sogdien Seng Houei --
280), thứ đến Khương Lương Lâu Chí (Indoscythe Kaliyanaruci -- 255 hoặc 256)
rồi tới các thầy tu Ấn Độ Ma La Kỳ Vực (Ksudra -- 294) là những nhà truyền giáo
Phật Giáo trước nhất. Sau là Mâu Bắc (Meou Po), người Tàu, vì nghiên cứu Phật
Giáo mà tới Bắc Việt.
B) Sư Ti
Ni Da Lưu Chi (Vinitaruci) từ năm 580 Bắc Việt giảng dạy tại chùa Dâu về Thiền
Tông và lập một tông phái ở Bắc Ninh lấy danh hiệu là xứ đó.
C) Vô
Ngôn Thông (họ Trịnh) sang trú ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, huyện Tiêu Du,
tỉnh Bắc Ninh hồi tháng 9 năm Đường Nguyên Hòa thứ 15 (820) tu theo lối
"Bích Quan" của Đạt Ma (Bodhi dharma) và lập ở chùa đó một thiền tông
mới.
Các Phật
Đồ kể trên đây trong khi truyền giáo đã gián tiếp giúp rất nhiều cho nền văn
học của chúng ta buổi đầu tiên suốt 700 năm. Rồi sau Vô Ngôn Thông, nhiều tăng
ni ra đời. Bọn người này đã phải dùng Hán học làm cái chìa khóa để mở cửa Phật
và khi giảng dạy kinh kệ, nếu không thâm thúy về Hán học đâu có thể cắt nghĩa
được về các điều mầu nhiệm, xa xôi của Phật Giáo. Ta còn nên nhớ rằng dưới
triều Đường có bốn vị cao tăng (Vô Ngãi tu ở chùa Thiên Tỉnh, hạt Cửu Châu,
Phụng Đình, Duy Giám...) đã sang cả bên Trung Quốc giảng kinh trong cung nhà
vua và khi già mới trở về nước.
Ngoài
ra, tăng giới Việt Nam sau thời Bắc thuộc cũng sản xuất được nhiều vị khác nữa
dự vào văn học và chính giới, đóng những vai trò rất quan trọng. Chúng tôi xin
kể ở những trang sau.
Để kết
luận, vấn đề văn học thời Bắc thuộc chúng ta có thể tóm tắt nhờ việc người
Trung Hoa đặt chủ quyền trên đất Giao Chỉ, Hán học đã ảnh hưởng lớn lao đến đời
sống dân tộc và quốc gia của chúng ta. Dân ta trở nên một quốc gia văn hiến, có
nhiều thuần phong mỹ tục. Đó là một điều lợi ích vĩ đại chẳng nên chối cãi. Đem
sự đau khổ dưới ách thống trị của ngoại bang mà đổi lấy một nền văn hóa sáng
sủa tốt đẹp, người Việt thức thời chúng ta hẳn không phàn nàn, đã đành rằng
người Việt học chữ Hán chỉ biết đại khái về văn tử từ chương mà thôi, chớ chưa
thật đã đi sâu vào cõi học thuật và tư tưởng của Trung Quốc, huống hồ vào đời
Tần Thủy Hoàng các việc đốt sách Nho, chôn học trò (246- 208 tr. C.L.) tất
nhiên sách vở đưa sang đây không đầy đủ được. Người Việt xưa kia hẳn chỉ bước
tới cái bậc từ chương mà thôi nhưng trong giới văn học bấy giờ cũng có nhiều
người tỏ ra thông minh lỗi lạc chẳng kém gì các danh sĩ Trung Quốc, cứ xem việc
xướng họa và ngoại giao dưới đời Lê Đại Hành với Bắc triều sau này đủ rõ. Và sử
chép rằng vì bài thơ tiễn sứ (tiễn Lý Giác) mà Giao Chỉ là một nước mới mẻ, non
nớt đã nổi tiếng là văn hiến đối với người Tống.
3- Phật Giáo
Ngoài
ảnh hưởng của Phật Đồ đối với văn học sơ khai thuở ấy, ta còn nên tìm hiểu qua
một vài nét chính của tôn giáo này và sự phát triển của nó trên đất Trung Quốc
trước khi qua Việt Nam.
Phật
Giáo do đức Thích Ca Mâu Ni xướng lên, chủ trương giải thoát con người ra khỏi
điều khổ não là: sinh, lão, bệnh, tử. Ngoài bốn điều này đã do Tạo Hóa gây nên
trong khi cấu tạo con người cũng như khi xây dựng vũ trụ. Tạo hóa còn đặt ra
những định luật khắc khe là có sinh phải có diệt, có hình hài thì phải chịu sự
hủy hoại, suy vong, lại còn bao nhiêu điều đau khổ khác phát sinh bởi lòng dục.
Lòng dục của con người là những sự ham mê danh lợi, phú quí, sắc đẹp... nó là
những nghiệp báo, những căn nguyên của mọi sự đe dọa, trụy lạc. Đạo Phật quan
niệm rằng muốn tránh được các điều nghiệp báo, oan gia thì cởi bỏ lòng dục, thi
hành việc thiện ích cho đời, cho đồng loại, cho muôn vật. Những hành động có thiên
lương ở kiếp này sẽ ảnh hưởng tốt đẹp cho kiếp sau. Đó là luật nhân quả. Trái
lại, nếu con người cứ đắm chìm trong dục vọng sẽ phải luẩn quẩn mãi mãi trong
vòng luân hồi. Ngoài ra, cắt bỏ được lòng dục đầy tội lỗi không những người ta
tránh được các điều hệ lụy của kiếp này mà còn được hưởng thụ nhiều về kiếp sau
hay sẽ được lên cõi Niết Bàn và thành Phật. Khi đó sẽ không còn vấn đề sinh
diệt nữa.
Không
tham danh lợi khỏi ưu phiền, Niệm chí từ bi dứt nghiệp duyên, Vớt kẻ trầm luân
nơi khổ ải,
Noi theo
tôn chỉ hội quần tiên.
Phê bình
đạo Phật về phương diện thực hành người ta cho rằng đối với cuộc cạnh tranh và
đời thực tế nhất là trong kỷ nguyên nguyên tử này, chủ trương nhập thế và xuất
thế của Phật Giáo không thích hợp với nhân sinh, thế sự. Loài người lúc này chỉ
tôn thờ sức mạnh, không có triết lý nào hơn là sức mạnh và quyền lợi thì một
tôn giáo xây dựng trên căn bản đạo đức thuần túy không thể nào giải quyết được
mọi vấn đề hạnh phúc và hòa bình trên thế giới. Ít nhất mọi dân tộc trên thế
giới cùng chấp thuận một quan niệm tôn giáo và hòa bình theo Phật Giáo thì mới
có kết quả được.
Cội rễ
của đạo Phật là đạo Bà La Môn (Brahmane) nhưng tôn chỉ của đạo Phật lại chống
với đạo này rồi hai tôn giáo đã mâu thuẫn nhau trong một khoảng thời gian khá
dài. Sau ba bốn thế kỷ, đức Thích Ca mất đi rồi, đạo Phật mới hưng khởi ở Ấn
Độ.
Đức
Thích Ca Mâu Ni, thủy tổ của Phật Giáo đã áp dụng lý thuyết của Ngài trước hết
(sau cái quan niệm: đời là sông mê, bể khổ...), Ngài thuộc dòng vương tộc ở Ấn
Độ, có vợ có con. Ngài đã bỏ lầu son gác tía đi tìm đạo, mục đích dìu dắt người
đời ra khỏi cảnh trầm luân đày đọa. Theo đạo phái miền Bắc Ấn Độ, Ngài sinh năm
1028 (trước Thiên Chúa) vào đời Chu Chiêu vương. Đạo phái miền Nam cho rằng
Ngài sinh khoảng 624. Nhưng theo các nhà bác học ngày nay thì Ngài đồng thời
với Khổng Phu Tử nghĩa là Ngài xuất thế vào năm 558 hay 520.
Đời vua
Hán Vũ Đế (140-86 trước CL), quân nhà Hán đánh hung nô lấy được tượng kim nhân
và thấy người Hung Nô thắp nhang thờ phật, đến đời vua Ai Đế là Công lịch năm
thứ hai, vua Hán cho Tần Cảnh Hiến sang xứ rợ Nhục Chi học truyền khẩu các kinh
phật. Người ta thấy tôn giáo này có nhiều tốt đẹp và cũng muốn vãn hồi nhân
tâm, thế tục nên nhập cảng Phật Giáo vào Trung Quốc. Có thể vãn hồi nhân tâm
thế tục không phải chỉ là phục hưng tinh thần đạo đức trong đám dân chúng mà
còn ở cả trong giai cấp phong kiến, quí tộc từ ngàn năm trước đã vì cuộc tranh
giành quyền vị mà gây nên bao nhiêu cuộc đảo lộn xã hội, thảm cảnh máu đổ thịt
rơi. Các nhà chính trị xưa hoặc nay
đều thường nhìn
các tôn giáo
vào điểm này
trước hết, còn những người thường chỉ lưu ý vào triết lý và luân lý của
nó.
Rồi Phật
Giáo mỗi ngày một đi rộng trên đất Tàu qua các triều đại. Vua Minh Đế nhà Đông
Hán phái Ban Siêu đi sứ các nước Tây Vực, Hán sử báo cáo tình hình Phật Giáo
thịnh hành ở đây nên sau đó nhà vua cử Thái Am sang Tây Trúc mời các thầy tăng
Ấn Độ về nước để thuyết giáo tại Trung Quốc. Thái Am mang về được 42 chương
kinh. Đến đời Tam Quốc mới có người giữ việc truyền bá đạo Phật. Việc sưu tầm
kinh kệ càng ngày càng mạnh rồi các kinh kệ được dịch ra chữ Tàu để phổ biến
khắp dân gian. Đến đời nhà Đường (630) nhà sư Huyền Trang (tục gọi là Đường Tam
Tạng) cũng qua Ấn Độ với sứ mạng là khảo cứu Phật Giáo và đem về Tàu được 650 bộ
kinh. Bốn mươi hai năm sau, dưới đời Đường Cao Tông, ông Nghĩa Tĩnh rước về
được 400 bộ nữa.
4- Một Vài Điều Sai Lầm Về Sĩ Nhiếp
Chép
thân thế và sự nghiệp của Sĩ Nhiếp, một lương lại có tiếng thời Bắc thuộc,
trọng nhậm ở nước ta giữ buổi loạn ly, nhiều nhà chép sử đã đề cao một cách quá
đáng vị quan cai trị này: người ta tôn Sĩ Nhiếp lên bậc Vương; có người tặng Sĩ
Nhiếp một sự nghiệp vĩ đại hơn nữa: "Nam Bang Học Tổ". Người ta còn
gọi thời Sĩ Nhiếp cai trị đất Giao Chỉ là một Kỷ: "Sĩ Vương Kỷ"!
Chúng
tôi không phủ nhận sự nghiệp đáng kể của Sĩ Nhiếp trong suốt nửa thế kỷ cai trị
ở nước ta, nhưng chúng tôi muốn đính chính những điều gì không được xác thực,
bằng những dòng dưới đây:
Năm Quí
Mùi (203), là năm thứ ba đời vua Hán Đế, Sĩ Nhiếp bấy giờ làm Thái Thú cùng với
Thái Sử Trương Tân xin Hán Đế đổi Giao Chỉ ra Giao Châu. Lúc này Trung Quốc
giặc cướp nổi lên lung tung, ở Giao Châu cuộc rối loạn cũng nhóm lác đác ở
nhiều nơi. Sĩ Nhiếp đã khéo léo trong việc cai trị, hợp anh em trong nhà, chia
nhau giữ các châu quận, nên lại khôi phục trật tự ở Giao Châu. Ngoài ra, ông
khôn ngoan đối với Hán triều (ông vẫn giữ lễ tiến cống) nên được phong làm An
Viễn Tướng Quân Long Độ Đình Hầu. Sau này, nhà Đông Hán đổ, Trung Quốc lâm vào
thành thế chân vạc do sự tranh giành ảnh hưởng của ba nhà: Bắc Ngụy, Tây Thục
và Đông Ngô, thì Giao Châu nằm trong khu vực Đông Ngô, Sĩ Nhiếp liền theo Đông
Ngô. Ông vẫn giữ được mọi quyền hành như Hán triều xưa kia. Tính ra tuy không
là Thái Sử nhưng ông đã làm được một sự nghiệp đáng kể ở Giao Châu suốt 40 năm
ròng. Chính trị của ông rất khéo léo ở chỗ ông biết an dân, trọng đãi trí thức,
được toàn thể nhân dân ủng hộ và tôn sùng nên địa vị mới bền vững được lâu dài
như vậy. Còn đối với các Vương triều Trung Quốc, gió chiều nào ông che chiều
ấy. Về việc người ta xưng ông là học tổ Nam Bang, đó là theo trong lệnh chỉ của
Trịnh Tạc (1657-1682) và của Trịnh Sâm
(1767-1782) chép trong quyển Sĩ Vương Sự Tích trang đầu, bản sao của trường Bác
Cổ số A 426 tờ 41b và 46a -- Trong bia đá làng Tam Á và làng Lung Khê phủ Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh, ông Nguyễn Hoán, đỗ Thám Hoa, khoa Kỷ Dậu (1659) cũng ghi
như vậy.
Sự thực
trong chính sử không thấy chép Sĩ Nhiếp đem chữ Nho sang Việt Nam, ngoài câu:
"Nước ta thông thi thư, tập lễ nhạc, gọi là văn hiến bắt đầu từ Sĩ
Vương" bởi văn hóa Trung Quốc nhập cảng vào Giao Châu đã có từ ba thế kỷ
trước khi có Sĩ Nhiếp. Tới khi Sĩ Nhiếp cầm quyền ở nước ta người Giao Châu đã
có một số đỗ Hiếu Liêm và Mậu Tài rồi. Có chỗ tôn thời Sĩ Nhiếp là thờ Sĩ Vương
Kỷ, có lẽ sử thần giận trong khoảng 100 năm quan lại Tàu không có người chính
thống trong sạch, nay gặp một nhân quan như Sĩ Nhiếp, dân được yên vui hơn 40
năm cho nên đã tôn Sĩ Nhiếp là Vương.
Sĩ Nhiếp
tuy có tiếng là quan cai trị cả 7 quận nhưng thực ra ông chưa hề nắm được toàn
cõi Giao Châu bao giờ. Trong đời Sĩ Nhiếp, chính Trương Tân mới là người được
vua Hán Hiến Đế phong làm Thái Sử Giao Châu. Ta nên nhớ châu cai trị quận. Còn
về ảnh hưởng thì lấy sự công bằng Đào Hoàng bốn đời, Đỗ Viện ba đời làm Thái
Sử, độc quyền cả Giao Châu còn nhiều ơn ích hơn Sĩ Nhiếp.
So sánh
với các lương lại kể trên đã lấy việc lễ nghi, điều nhân nghĩa dạy cho dân Giao
Chỉ và Cửu Chân để người ta biết đạo vợ chồng, nghĩa cha con, tình thầy trò,
bằng hữu biết thương yêu kính mến nhau, sự nghiệp của Sĩ Nhiếp chưa dễ đã hơn,
vậy mà họ chưa được chép riêng ra một kỷ.
Còn điều
Sĩ Nhiếp được gọi là Sĩ Vương, là do triều Trần phong ông làm Đại Vương theo lệ
phong tặng bách thần, sau Ngô Sĩ Liêm dưới đời Lê đã nhân tước Đại Vương mà
chép là Sĩ Vương. Dù sao chúng ta cũng phải nhận rằng việc tôn kính Sĩ Nhiếp
như thế cũng có một vài phần đích đáng, do ông đã dựng chính sách nhân nghĩa
đối với dân ta xưa kia. Còn chuyện ông đã đem chữ Nho sang dạy ta đầu tiên thì
không có bằng chứng. Đây là ý kiến của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố.
Phần 2 - Chương 6
Cuộc Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc Thứ Hai Của
Dân Giao Chỉ
- Bà
Triệu chống nhau với Đông Ngô
- Lâm Ấp
quấy phá Giao Châu
1- Bà Triệu Chống Nhau Với Đông Ngô
Thời
cuộc của các vương triều Trung Quốc bấy giờ luôn luôn có ảnh hưởng đến Giao
Châu. Trên đây đã nói nhà Đông Hán đổ thì Trung Quốc chia ra làm ba nước Bắc
Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô, Giao Châu thuộc vào khu vực của nhà Đông Ngô. Tuy
rằng Sĩ Nhiếp lúc sinh thời rất khôn ngoan, chịu lệ thuộc vào Ngô chủ nhưng tình thế Giao Châu
dưới con mắt người Đông Ngô chỉ có thể coi là chuyện tạm thời, bởi khi đó chính
quyền của Đông Ngô chưa được củng cố đầy đủ. Khi thế của Đông Ngô hầu vững thì
triều đình Đông Ngô không chịu để kéo dài chế độ tự trị của Giao Châu nữa. Đông
Ngô cũng muốn đặt một chế độ trực trị tại đây vì xét có lợi hơn hoặc dễ nắm
chặt dân bị trị hơn. Lúc này, Sĩ Nhiếp đã qua đời (năm Bính Ngọ, 226 sau Công
Lịch), con là Sĩ Huy tự động lên thay quyền Thái Thú. Đông Ngô liền xếp đặt lại
mọi việc. Về đất đai, Đông Ngô chia đất giao Châu từ Hợp Phố về Bắc đặt tên là
Quảng Châu, cử Lữ Đại làm Thái Sử. Từ Hợp Phố vào Nam là Giao Châu, đặt Đái
Lương làm Thái Sử. Còn quận Giao Chỉ về miền Bắc Việt bấy giờ phái Trần Thì làm
Thái Thú thay con cháu Sĩ Nhiếp. Như vậy quan niệm và chính trị Đông Ngô không
khác gì Đông Hán trước đó.
Thật là
một cuộc thay đổi lớn lao và đột ngột. Sĩ Huy chống lại sự thay đổi đó, nhưng
thấy binh lực của Lữ Đại mạnh nhiều, sau năm anh em Sĩ Huy phải thuận theo lời
chiêu dụ. Lữ Đại liền bắt chém hết anh em Sĩ Huy và đưa đầu về Đông Ngô. Quảng
Châu và Giao Châu sáp nhập, Trong lúc này quận Cửu Chân cũng rối ren. Lữ Đại
lại một phen nữa đem quân đánh dẹp giết hại hàng vạn người rồi phái các chức
Tòng Sử Sự tới tuyên truyền đức hóa của vua Ngô. Các nước Lâm Ấp, Phù Nam, đều
cho sứ sang cống, Ngô chủ phong thêm cho y chức Trấn Nam Tướng Quân.
Dưới chế
độ của Hán triều, dân Giao Chỉ đã đau khổ lầm than. Cuộc thay đổi mới này với
Đông Ngô cũng không cải thiện được đời sống của Giao Chỉ phần nào. Tóm lại chế
độ trực trị của Trung Quốc bao giờ cũng tàn ác, do sự tham bạo vô lái của các
quan lại Tàu, vì vậy lửa loạn lại âm ỉ trong tâm hồn người Giao Chỉ.
Năm Mậu
Thìn (248), tức là năm thứ 11 nhà Đông Ngô, khi Lục Dận sang làm Thái Sử Giao
Châu, non sông Việt Nam lại sản xuất một vị nữ kiệt, rồi một phen nữa, ngọn cờ
nương tử được phất lên tại quận Cửu Chân theo gương hai chị em bà Trưng trước đó
hai thế kỷ. Lần này, người khởi cuộc cách mạng năm Mậu Thìn cũng là một phụ nữ
sinh trưởng tại huyện Nông Cống (thuộc tỉnh Thanh Hóa) mới trên 20 xuân xanh
tên Triệu Thị Trinh, cũng thuộc giòng quý tộc, và chưa có chồng (có sách chép
là Triệu Nguyên). Người Tàu căm hận đặt tên là Triệu Ẩu. Chữ Ẩu có nghĩa là
"mụ".
Bà Triệu
(người Việt tôn là Bà để tỏ lòng sùng kính hơn), trong cuộc cách mạng Mậu Thìn
đã biểu dương sự phẫn uất của quý tộc và dân chúng Giao Châu, mặc dầu lực lượng
của mình đối với quân xâm lăng rõ rệt quá sút kém. Bà mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ
nên phải ở với anh là Triệu Quốc Đạt. Bà gặp người chị dâu cay nghiệt và tầm
thường nên không chịu được tính tình hiên ngang khác người của bà. Quả vậy, cô
gái thơ ấy có một thể chất cương cường, một tinh thần bất khuất ngay cả nam nhi
cũng ít sánh kịp. Có lẽ vì các dị tính đó mà bà Triệu đã giết chị dâu để khỏi
có sự cản trở trên con đường tranh đấu của mình cho dân, cho nước. Không những
bà có chí khí anh hùng, bà lại có sức mạnh và mưu lược nên hàng ngàn chiến sĩ
đã xin theo chiến đấu dưới cờ và cùng vào rừng núi để rèn binh luyện võ.
Buổi
đầu, ông Triệu Quốc Đạt không tán thành công cuộc của bà và lấy những lời lẽ
thông thường để khuyên can, nhưng sau ông chịu theo ý kiến của em gái, xét cuộc
đấu tranh dù thành hay bại cũng là điều hữu ích. Bà Triệu trong cuộc luận với
anh, đã để lại sau này trong lịch sử những lời khảng khái bất hủ:
"Tôi
muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét
sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời
cúi đầu khom lưng làm tì thiếp cho người ta".
Triệu
Quốc Đại cùng em khởi binh đánh quận Cửu Chân. Trong chiến trận, bà tỏ ra can
đảm phi thường nên được tôn làm chủ tướng. Bà mặc áo giáp vàng, cỡi voi xông ra
trước quân địch như đi vào chỗ không người. Tiếng "Nhụy Kiều Tướng
Quân" một thời đã vang lừng cõi Giao Châu và từng làm khiếp đảm quân Ngô
trong sáu tháng. Sau cuộc chiến đấu vì quân ít, thế cô nên bất lợi dần, Bà lui
binh đến xã Bồ Điền (ngày nay đổi tên là Phủ Diễn thuộc huyện Mỹ Hòa, Thanh
Hóa) rồi tự tử. Để kỷ công người nữ chiến sĩ đã hy sinh vì nền Tự Do của dân
tộc, vua Nam Đế nhà Tiền Lý cho dựng miếu thờ và phong là "Bật Chính Anh
Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân"
Cuộc
cách mạng Mậu Thìn (248) bị dập tắt thì 16 năm sau (năm Giáp Thân 264) đất đai
Giao Châu lại chịu thêm một cuộc phân chia khác. Nhà Ngô hợp đất Nam Hải và Uất
Lâm lại thành Quảng Châu, đặt châu trị ở Phiên Ngung. Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu
Chân và Nhật Nam thành Giao Châu, châu trị đóng ở Long Biên. Xét như vậy đất
Nam Việt của Bà Triệu xưa kia do cuộc phân chia này thành Giao Châu và Quảng
Châu bấy giờ. Việc này có tính cách tập trung để tiện việc cai trị.
Trung
Quốc từ khi có cuộc tam phân Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô, lại mở màn cho
nhiều cuộc biến loạn liên miên. Sau nhà Tấn phá được nhà Ngụy rồi đem binh
chiếm Giao Châu. Nhà Ngô phái tướng Đào Hoàng sang dành lại. Sau đó, Đào Hoàng
được phong thành Giao Châu mục cho đến năm 280, Ngô mất thì Đào Hoàng đem Giao
Châu nộp cho nhà Tấn. Họ Đào được giữ nguyên địa vị.
Cuộc tập
trung đất đai trên đây của nhà Đông Ngô để dễ điều khiển guồng máy cai trị
không đạt được mục đích. Bọn quan lại Trung Quốc trước tình trạng đại loạn,
loạn từ chính quốc sang tới thuộc quốc, tất nhiên thấy địa vị của mình luôn
luôn bất trắc, nên chỉ lo vơ vét cho đầy túi tham, huống hồ từ bao nhiêu lâu họ
bị nhiễm cái bệnh phong kiến hay sinh trưởng ở cái huyết thống phong kiến sẵn
chất tham tàn. Còn dân Giao Châu từ hai cuộc cách mạng Trưng Triệu bắt đầu đứng
trước cái đà đã mở, hoàn cảnh chính trị khắc khe lại luôn luôn thúc bách nên họ
không sao ngừng đấu tranh. Đến đời nhà Tấn lại không có sự thay đổi tốt đẹp
nào, lại tệ hơn là khác. Tấn dựng được cơ nghiệp xong trên đất Trung Hoa liền
phong cho bà con thân thuộc trấn giữ các nơi để làm vây cánh. Bọn này tranh
nhau quyền lợi đem quân đánh phá lẫn nhau, chính họ đã thác sinh ra một phần
lớn sự biến loạn ngoài những hành động nhũng lạm. Từ Ngô qua Tấn, dân Giao Châu
thường nổi lên giết bọn Thái Thú. Trong nước mấy khi có sự yên ổn hẳn.
Bà Triệu
Cao một trượng, cả một vừng,
Bỏ tóc
ngang lưng, vú chấm sừng,
Họp
chúng rừng xanh oai náo nức,
Cỡi đầu
voi trắng, tiếng vang lừng,
Mác dài
trỏ vẫy tan đàn giặc,
Ngôi cả
lăm le học họ Trưng,
Ví có
anh hùng duyên định mấy,
Thời chi
Đông Hán dám lung lăng.
Vô danh
(Thơ đời Hồng Đức)
2- Lâm
Ấp Quấy Phá Giao Châu
Trên đây
chúng ta thấy dưới đời nhà Tấn dân Giao Châu có phần cơ cực hơn bao giờ hết. Họ
bị lôi cuốn vào cuộc đánh phá lẫn nhau của thân vương khi đó giữ quyền ở các
phiên trấn, ngoài cái nạn bóc lột đã từ lâu thành một sự trạng thường xuyên. Sự
đói khổ trong nhân gian cũng là một mầm biến loạn nữa. Thêm vào đó là sự quấy
nhiễu của nước Lâm Ấp. Vị trí của nước này bắt đầu từ tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị vào đến lục tỉnh Nam Việt ngày nay. Người ta phỏng đoán cội rễ người Lâm Ấp
thuộc giống Mã Lai, theo văn minh Ấn Độ và giống Mã Lai tức giống Anh Đô Nê
Dieng (Indonesien) xưa kia bị giống Aryens đánh bật ra khỏi Ấn Độ rồi lan tràn
sang bán đảo Hoa Ấn. Họ đồng hóa với giống Cao Miên và giống Chiêm Thành trong
khi một chi phái của họ hợp với giống Mông Cổ làm thành dân tộc Việt Nam hấp
thụ văn minh Trung Quốc.
Văn hóa
của Lâm Ấp là văn hóa của Ấn Độ. Người Lâm Ấp đã hùng cường kể từ đệ nhị thế
kỷ. Họ thường đem quân quấy nhiễu địa phận Nhật Nam là một địa phận giáp giới.
Khi dân Giao Chỉ ta còn thuộc nhà Đông Hán, tại địa điểm này có quan cai trị
Tàu trọng nhậm để phòng sự đánh phá của Lâm Ấp. Qua các triều đại sau như đời
Tam Quốc, đời Đông Tấn sự rối loạn ở Nhật Nam luôn luôn tiếp diễn. Năm Quý Sửu
(353) dưới đời vua Mục Đế nhà Đông Tấn thái tử Giao Châu là Nguyên Phu đánh vua
Lâm Ấp, phá được 50 đồn lũy thì năm 399 Lâm Ấp cướp được hai quận Nhật Nam và
Cửu Chân rồi định tràn tới Giao Châu. Thái thú Giao Châu là Đỗ Viện ngăn được
và lấy lại cả hai châu đã mất, sau được phong là Giao Châu Thái Sử. Từ năm Quý
Sửu (413) đến năm Canh Thân (420) cứ luôn luôn có cuộc xung đột giữa Lâm Ấp và
Giao Châu, nhưng từ năm Canh Thân, Giao Châu đại thắng chém giết người Lâm Ấp
vô cùng tàn hại, sự quấy rối của Lâm Ấp mới tạm yên ít lâu và hàng năm Lâm Ấp
phải cống hiến voi, vàng bạc, đồ mồi v.v...
Dưới
thời Nam Bắc Triều (420-588), khi Tấn đổ, nhà Tống hưng khởi ở phương Nam và
Ngụy thâu được Lương, Yên, Hạ lập nên Nam Bắc Triều. Trung Quốc lại trở về với
cái cảnh tam phân ngũ liệt gần như dưới đời Đông Chu: một lực lượng cát cứ miền
Hoa Bắc, một lực lượng cát cứ miền Hoa Nam. Các ngai vàng luôn luôn thay đổi.
Do vị trí của nó, Giao Châu thuộc về Nam Triều. Lâm Ấp muốn nhân cơ hội biến
loạn ở Trung Quốc cho sứ sang điều đình với Tống Triều cho "bao thầu"
đất Giao Châu, nhưng đề nghị của họ không được chấp thuận.
Trái lại
năm 468 tháng ba, mùa hạ, triều Tống cử Đàn Hòa Chi sang làm Thái Sử Giao Châu
và cầm tướng lệnh đi đánh Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại hoảng sợ xin trả
lại các người dân Nhật Nam bị Lâm Ấp bắt trước đây và xin nạp một vạn lạng vàng
và mười vạn lạng bạc để tạ tội.
Đàn Hòa
Chi dâng biểu về Tàu xin ý kiến; trong khi này nội bộ Lâm Ấp kẻ chủ hòa, kẻ chủ
chiến nên sứ giả đến nói chuyện của người Tống bị giữ lại. Tức thì quân Tống
hãm ngay
thành Khu Lật.
Tướng Lâm Ấp
giữ thành này
là Phù Long
bị giết. Phạm Dương Mại ở tình thế chẳng đặng đừng,
phải đứng ra chống Tống cứu thành cũng bị bại rồi mang vợ con đi trốn. Quân
Tống vào thành tha hồ vơ vét vàng bạc.
Sử không
ghi rằng sau cuộc thắng trận này nhà Tống có lập nền đô hộ Lâm Ấp không, có lẽ
họ đã cho Lâm Ấp đầu hàng và hàng năm nộp cống.
Phần 2 - Chương 7 Nhà Tiền Lý (544-602)
1) Lý
Nam Đế
2) Triệu
Việt Vương
3) Hậu
Lý Nam Đế
1- Lý Nam Đế (544-548)
Năm Kỷ
Mùi (479) bên Trung Quốc nhà Tống mất ngôi, nhà Tề lên thay rồi 22 năm sau Tề
bị Lương đánh đổ. Bọn quan cai trị Tàu cũng quen thói như những bọn trước là
nhân cuộc biến loạn bên chính quốc mà tranh quyền lợi ở các biên cương và mưu
sự độc lập lối địa phương tự trị. Bấy giờ Thứ Sử Tiêu Tư cai trị đất Giao Châu
cũng đi theo vết xe đổ của bọn Tô Định, Lục Dận, Lữ Đại: nhân dân Giao Châu
thấy ngột ngạt vì cái không khí nội biến, ngoại xâm (vì sự quấy phá của Lâm Ấp)
liền chụp cơ hội chính quyền của bọn thống trị nghiêng ngửa liền hưởng ứng theo
tiếng gọi của ông Lý Bôn (còn tên khác là Lý Bí) người huyện Thái Bình thuộc
Phong Chuy, tức là Sơn Tây ngày nay, ông vốn cội rễ là người Tàu. Tổ tiên ông
chạy loạn dưới đời Tây Hán qua Giao Châu đến ông là 7 đời nên có tính tình hoàn
toàn như người bản địa. Ông có đủ tài văn võ, đã có thời làm quan với nhà
Lương, sau bất đắc chí liền cùng nghĩa sĩ bốn phương họp nhau đánh đuổi Tiêu
Tư. Việc khởi nghĩa nhằm năm Tân Dậu (54) tức năm Đại Đồng thứ 7 đời Lương Vũ
Đế.
Bấy giờ
ông coi quận Cửu Đức, liên kết được vài châu, các hào kiệt đều hưởng ứng.
Tại Chu
Diên có tù trưởng Triệu Túc đem quân theo trước nhứt.
Tháng
chạp năm Nhâm Tuất (542) nhà Lương sai Lư Tử Hùng là Thứ Sử châu Tân và Tôn
Quýnh Thứ Sử châu Giao sang đánh. Bọn này dùng dằng không muốn tiến quân. Tiêu
Tư làm sớ về triều Lương vu tấu bọn Hùng, Quýnh giao thông với người ngoài cõi,
nên hai người này bị tử tội.
Lúc này
Lý Bôn đã chiếm thành Long Biên được 3 năm (năm Quý Hợi 543). Tháng 4 năm ấy
vua Lâm Ấp là Luật Đà La Bát Na (Rudravarman I) vào cướp phá quận Nhật Nam
(quận Nhật Nam còn được nhà Lương gọi là Đức Châu) Lý Bôn sai Phạm Tu đem quân
đi đánh dẹp, Phạm Tu thắng trận ở Cửu Đức. Vua Lâm Ấp bỏ chạy.
Năm Giáp
Tí (544) Lý Bôn tự xưng là Nam Việt Đế lấy niên hiệu là Thiên Đức, ngang với
nhà Lương là năm thứ 10 hiệu Đại Đồng, và lấy quốc hiệu là Vạn Xuân sau khi
đuổi hẳn được Tiêu Tư. Ông thiết lập triều đình, cho Triệu Túc làm thái phó,
Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ.
Cũng năm
ấy, nhà Lương phái Tả Vệ tướng quân là Lan Khâm sang đánh Nam Việt Đế, Lan Khâm
mới vượt khỏi Ngũ Lĩnh đã bị bệnh và chết. (Đại Việt Sử Ký quyển 5 tờ 2 a b).
Tháng 6
năm Ất Sửu (545) là năm thứ hai hiệu Thiên Đức, nhà Lương cử Dương Siêu (Việt
Nam Sử Lược chép là Dương Phiêu) làm Thứ Sử Giao Châu, Trần Bá Tiêu (sau là cao
tổ nhà Trần bên Tàu) làm Tư Mã và hạ lệnh cho Thái Sử Châu Định là Tiêu Bột hợp
quân với Dương Siêu cùng đánh.
Ông Lý
Bôn đem ba vạn quân chống nhau với quân Lương ở Chu Diên bị thua, chạy tới sông
Tô Lịch lại bại trận lớn hơn nữa, sau phải rút về Gia Ninh (phủ Yên Lãng, tỉnh
Phúc Yên). Tháng giêng năm Bính Dần (546) quân Lương vây hãm thành và chiếm
được vào ngày 25-2-546. Lý Nam Đế chạy thoát được về vùng Tân Xương (tỉnh Sơn
Tây). Đến tháng 8, Lý Nam Đế đem hai vạn quân ra đóng ở hồ Điền Triệt (nay là
huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Yên) chế tạo thuyền bè định phản công. Tại đây quân
Trần Bá Tiên lại thắng trận lớn nữa vì Lý Nam Đế không kịp phòng bị. Ngài lại
rút về Tân Xương (có chỗ chép là
Tân Hưng) để
chấn chỉnh lại
quân đội sau
giao lại binh
quyền cho Tả Tướng quân Triệu Quang Phục (Đại Việt Sử
Ký, quyển 5 tờ 3 và Toàn Thư quyển 4 tờ 16 b 17 a ).
Từ năm
547 miền đồng bằng Bắc Việt và Bắc Trung Việt lại lệ thuộc về Tàu. Anh Lý Nam
Đế là Lý Thiên Bảo cố đánh được Đức Châu (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) nhưng không
bao lâu lại bại trận tại Ái Châu, phải đào tẩu.
2-Triệu Việt Vương
Triệu
Quang Phục là con Thái Phó Triệu Túc: hai cha con ông theo Lý Nam Đế đã lâu,
vừa là tướng có tài, vừa là người trung thần nên được lãnh sứ mạng đó; thấy
quân Tàu còn mạnh, Triệu rút quân về Dạ Trạch là nơi đồng lầy, chung quanh sẵn
rừng núi (thuộc tỉnh Hưng Yên bây giờ). Ông thiết lập doanh trại ở bên trong
rất là bí mật, hiểm trở rồi cứ đêm tối dùng thuyền độc mộc đem thủy quân ra
đánh cướp được lương thực về nuôi quân đội. Lối du kích chiến này ông là người
thực hành đầu tiên đã mang lại nhiều thắng lợi, nên Trần Bá Tiên mặc dầu binh
hùng tướng mạnh đánh mãi không xong. Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế mất. Năm sau
Triệu lên thay xưng là Việt Vương, nhưng lương thực hao mòn dần. Tình thế giữa
đôi bên vẫn nhùng nhằng, chẳng ngã ngũ bề nào thì nhờ dịp bên Trung Quốc có
loạn Hầu Cảnh, Trần Bá Tiên phải triệu về để tùy tướng là Dương Sản ở lại trông
nom việc quân. Triệu thừa dịp tấn công quân Tàu rồi lấy lại thành Long Biên.
Về phía
quân Tàu được yên thì Triệu Việt Vương lại phải đối phó với Lý Phật Tử. Nguyên
Lý phật Tử là người họ của Lý Thiên Bảo, Thiên Bảo là anh họ của Lý Bôn khi ông
Lý Bôn thất thế thì cả bọn chạy vào quận Cửu Chân rồi bị quân Lương đuổi phải
bôn tẩu qua xứ Lào, đến đóng ở Dạ Lăng xưng là Đào Lăng Vương lấy quốc hiệu là
Dạ Lăng. Lý Thiên Bảo mất (năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương) không con nên giao
binh quyền lại cho Lý Phật Tử. Năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về tranh
giành địa vị với Triệu Việt Vương nhưng đánh mấy trận đều không có kết quả liền
xin Việt Vương chia đất giảng hòa. Việt Vương nghĩ tình cố chủ và thương hại
trăm họ bấy lâu đau khổ vì chiến tranh ưng lời đề nghị của Lý Phật Tử. Địa giới
của Việt Vương kể từ Long Biên ra bãi Quần Thần làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm.
Còn Lý Phật Tử đóng tại Ô Diên (tức làng Đại Mỗ huyện Từ Liêm trở về xuôi).
Triệu Việt Vương còn gả con gái là Cảo Nương cho Phật Tử để mưu cuộc hòa hiếu
lâu dài, không ngờ Phật Tử vẫn giữ manh tâm trước.
Năm Tân
Mão (521) Phật Tử xuất quân đánh bất thình lình vào Long Biên. Triệu Việt Vương
xuất kỳ bất ý phải chạy đến sông Đại Nha (huyện Đại An, tỉnh Nam Định) thì nhảy
xuống tự vẫn.
3- Hậu Lý Nam Đế (571-602)
Hạ được
Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử xưng Đế Hiệu (tức là Hậu Lý Nam Đế) cắt Lý Đại
Quyền giữ thành Long Biên, Lý Phổ Đĩnh giữ Ô Diên, kinh đô dời về Phong Châu
(thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên). Chính quyền như vậy đã được thống nhất,
công cuộc của ông không thành tựu lâu dài vì chính sự bên Trung Quốc lại được
ổn định. Nhà Tùy đánh đổ được nhà Lương thâu gồm được cả Nam Bắc, đến năm Nhâm
Tuất (602) phái Lưu Phương đem 27 doanh sang đánh Hậu Lý Nam Đế. Xét không
kháng cự nổi quân nhà Tùy, Lý Phật Tử chịu nghe lời dụ và kéo cờ hàng. Giao
Châu lại lệ thuộc về Trung Quốc thêm một giai đoạn nữa (giai đoạn này kéo dài
336 năm).
Phần 2 - Chương 8
Bắc Thuộc Lần Thứ Tư (603 - 939)
- Nhà
Tùy và nhà Đường đối với Lâm Ấp và Giao Chỉ
- Mai
Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương
- Cuộc
Xâm Lăng của Nam Chiếu
- Sự
nghiệp của Cao Biền
1- Nhà Tùy Đánh Lâm Ấp
Nhà Tùy
mất năm Mậu Dần (618) sau 28 năm ở ngôi. Vương triều này không để lại gì trên
lịch sử Việt Nam vì quá ngắn ngủi nhưng sử chép rằng năm Nhâm Tuất (602) khi
nhà Hậu Lý Nam Đế hết thời (Ất Sửu - 605) tướng nhà Tùy là Lưu Phương được lệnh
đem quân đánh Lâm Ấp vì nghe nói nước này có nhiều vàng bạc và quý vật.
Lâm Ấp
lúc này cũng khá mạnh. Quốc Vương là Phạm Phàm Chi, nghe tin quân Tùy tới bèn
sửa soạn chống đỡ.
Hai quân
buổi đầu gặp nhau ở sông Đồ Lê (?). Quân Tùy vượt qua sông đánh quân tiền đạo
của Lâm Ấp. Đại binh của Lâm Ấp đến cứu với một số voi trận (Việt Nam dưới đời
nhà Trưng đã biết sử dụng tượng binh).
Lưu
Phương liền bầy mẹo, đào hố phủ cỏ lên rồi nhử đối phương tới. Quân Tùy vờ bại
trận chạy, tượng binh Lâm Ấp đuổi theo sa hết xuống hố. Tức thì quân Tùy trở
lại phản công kịch liệt, cung nỏ bắn tên bay qua như mưa cũng làm cho một phần
tượng binh phải kinh sợ tháo lui giày xéo lên quân Lâm Ấp chết hại nhiều.
Trận
đánh tiếp diễn luôn 8 ngày đêm sau đó quân Tùy mới tiến được vào thủ đô Lâm Ấp.
Vua Lâm Ấp bấy giờ đã cùng hoàng gia rút khỏi kinh thành.
Quân Tùy
vào cướp phá rồi rút về sau khi quốc vương xin tiếp tục cuộc hòa hiếu và tiến
cống như cũ. Đến đời Đường Thái Tông vào năm Trinh Quan, vua Lâm Ấp là Phạm Đầu
Lê chết đi, con là Phạm Trấn Long nối ngôi bị giết, người con của bà cô là Chư
Cát Địa được tôn lập.
Chư Cát
Địa đổi quốc hiệu ra Hoàn Vương Quốc nhưng nước này vẫn quen thói quấy nhiễu
Giao Châu. Đã có phen họ chiếm được Châu Hoan, Châu Ái (tức là hai tỉnh Thanh
Nghệ của ta).
Hai thế kỷ sau vào năm Mậu Tí (808), Đô Hộ
Trương Chu lại đem quân đánh vào Hoàn Vương Quốc rất tai hại khiến họ phải lui
xuống phía Nam (hai vùng Nam Ngãi bây giờ).
Lại một
lần nữa do sự thất bại, quốc hiệu Lâm Ấp đổi ra Chiêm Thành cho tới ngày nay.
2- Nhà Đường Đối Với Việt Nam
Năm Mậu
Dần (618), nhà Tùy mất sau 28 năm thống trị, nhà Đường lên thay. Ba năm sau,
vua Cao Tổ phái Khâu Hòa làm đại tổng quản sang cai trị Giao Châu. Việc phái
một võ tướng qua Giao Châu cho ta hiểu rằng nhà Đường đã áp dụng một chế độ quân
phiệt đối với chúng ta. Họ rút kinh nghiệm ở dĩ vãng giữa Giao Châu với các
vương triều Trung Quốc trước nên đề phòng cẩn mật mọi sự bất trắc bằng một
chính sách hoàn toàn võ lực, chính sách này tất nhiên phải dùng đến nhiều luật
lệ khe khắt, thời nào cũng vậy và ở đây, ta thấy nhà Đường đã rất am hiểu vấn
đề Giao Châu.
Năm Kỷ
Mão (679), Giao Châu đổi ra An Nam đô hộ phủ đưới đời Đường Cao Tông, chia ra
12 châu, 59 huyện. Nhiều tỉnh bên Trung Quốc cũng lâm vào cuộc cải cách này.
(Nước ta đeo cái tên An Nam từ thưở đó.)
Mười hai
châu như sau:
1) Giao
Châu có 8 huyện (Hà Nội, Nam Định, v.v.)
2) Lục
Châu có 3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn)
3) Phúc
Lộc Châu có 3 huyện (Sơn Tây)
4) Phong
Châu có 3 huyện (Sơn Tây)
5) Thăng
Châu có 3 huyện
6) Trường
Châu có 3 huyện
7) Chi
Châu có 7 huyện
8) Võ
Nga Châu có 7 huyện
9) Võ An
Châu có 2 huyện
10) Ái
Châu có 6 huyện (Thanh Hóa)
11) Hoan
Châu có 4 huyện (Nghệ An)
12) Diễn
Châu có 7 huyện (Nghệ An).
Còn một
châu nữa ở phía Tây Bắc Giao Châu, hẳn là vùng thượng du Bắc Việt bây giờ, có
dân Mường, Mán trú ngụ, gọi là Man Châu (có 3 huyện), hàng năm phải tiến cống
nhà Đường và chịu một một chế độ riêng biệt.
3- Mai Hắc Đế Khởi Nghĩa (722)
Dưới bàn
tay sắt của nhà Đường, phương Nam có được yên trị hay không? Ta có thể nói rằng
không.
Từ khi
nhà Đường lên ngôi là năm Mậu Dần (618) đến năm Nhâm Tuất (907) tức là trong
vòng ba thế kỷ, phương Nam luôn luôn rối loạn, khi ở địa hạt này, khi ở khu vực
khác, tuy không to tát. Đến năm thứ 10 dưới đời Đường Huyền Tông (sau hơn một
trăm năm) Mai Thúc Loan, người Hoan Châu thuộc huyện Thiên Lộc (hay Can Lộc, Hà
Tĩnh) phất cờ cách mạng. Ông rất khoẻ mạnh, to lớn mặt đen xì, thấy nhân dân
quằn quại dưới ách tham tàn của bọn quan lại nhà Đường, liền hô hào trăm họ
đứng dậy chống quân xâm lược. Ông được các nơi hưởng ứng nhiệt liệt. Việc đầu
tiên của ông là chiếm lấy một nơi để làm căn cứ tại Hoan Châu thuộc huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An, xây thành đắp lũy, tự xưng là hoàng đế và được mệnh danh là
Hắc Đế. Ông liên kết ngay với Lâm Ấp và Chân Lạp để có hậu thuẫn và rộng đường
lui tới, càng làm cho nhà Đường thêm lo ngại.
Nhà
Đường phái quân do Dương Tư Húc điều khiển, sang hợp với Đô Hộ Quang Sở Khách
đánh Mai Hắc Đế. Hắc Đế không cầm cự nổi phải bỏ chạy và ít lâu bị bệnh mà mất.
Theo
Đông Tùng trong Minh Tân Tạp Chí số 48, nghĩa quân chạy tới sườn núi Hùng Sơn
tục gọi là Rú Đụn, bên bờ Lam Giang sau một trận ác chiến cuối cùng. Mai Hắc Đế
đã vì nước hy sinh một cách vô cùng anh dũng.
Nay ở
núi Vệ Sơn, huyện Nam Đường, tỉnh Nghệ An còn có di tích thành cũ của vua Hắc
Đế và còn đền thờ Ngài ở xã Đức Nậm, huyện Nam Đường (Nam Đường nay đổi tên là
Nam Đàn), kiến trúc rất huy hoàng.
4- Giặc Côn Lôn Và Đồ Bà
Năm Đinh
Vị (767), là năm Đại Lịch thứ hai đời vua Đại Tông nhà Đường, giặc bể là quân
Côn Lôn và Đồ Bà vào cướp phá Giao Châu, vây hãm phủ trị. Kinh Lược Sứ là
Trương Bá Nghi cùng với Đô Úy Cao Chính Bình họp nhau trừ được quân giặc bể.
Sau này Trương Bá Nghi cho đắp La Thành để đề phòng mọi cuộc biến loạn. La
Thành có từ bấy giờ.
5- Bố Cái Đại Vương
Việc
đánh dẹp yên, năm Tân Vị (791) Cao Chính Bình được cử giữ chức Đô Hô Giao Châu.
Y cai trị dân rất tàn ác, lòng người oán giận vô cùng.
Tại quận
Đường Lâm thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, Phùng Hưng vận động dân chúng
đánh phá phủ
trị khiến Cao Chính Bình
lo sợ mà
chết. Quân Giao
Châu chiếm được La Thành và phủ trị nhưng mấy tháng sau Phùng Hưng bị
bệnh qua đời, nhân dân nhớ ơn ông lập đền thờ và gọi ông là Bố Cái Đại Vương.
Bằng danh từ này, dân tỏ ý quý ông như cha mẹ đối với con cái. Con ông là Phùng
An được nhân dân tôn lên để kế nghiệp.
Nhà
Đường lại đem quân sang dẹp, cử Triệu Xương làm Đô Hộ, Phùng An yếu thế đành
phải hàng.
6- Cuộc Xâm Lăng Giao Châu Của Nam Chiếu
Giao
Châu đau khổ về cuộc thống trị của nhà Đường cũng như của các tiền triều Trung
Quốc như trên đã nói; Giao Châu còn bị Lâm Ấp luôn luôn cướp phá, đó là cái nạn
thứ hai. Khi nhà Đường sắp mất, Giao Châu lại bị cuộc xâm lược của Nam Chiếu,
đó là cái nạn thứ ba.
Nam
Chiếu là nước nào và ở đâu?
Phía Tây
Bắc Giao Châu thuộc miền tây tỉnh Vân Nam, có một xứ mà dân là người Thái xưa
kia, chia làm 6 chiếu tức là thuộc 6 tù trưởng (chiếu đối với dân Thái tức là
vua) địa phương quản trị; Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng
và Mông Xá. Sáu chiếu này đã cùng thần phục nhà Đường.
Mông Xá
ở phía Nam đối với các chiếu trên kia và giáp địa phận Giao Châu. Đó là Nam
Chiếu. Dân Nam Chiếu đã từng sống nhiều phen oanh liệt và quật cường. Dưới đời
Ngô Tôn Quyền (thời Tam Quốc) họ đã biết tìm những nơi sông ngòi, núi non hiểm trở
như Hà Hoa, Quế Chữ, Vọng Cái, Hoành Sơn, Trường Sa, Hải Ngạn, Lỗ Lôi, Ô Tôn,
thuộc Hoa Nam để tụ hợp. Ngoài ra họ còn giao dịch mật thiết với nước Tây Bà Dạ
để lấy vây cánh. Có sách chép họ là con cháu của Triệu Vũ Đế và quan thái phó
Lữ Gia bị các tướng nhà Hán là Lộ Bác Đức và Dương Bộc đánh xiêu bạt đến các xứ
trên đây.
Dưới đời
Tấn (265-316), họ lại hợp lực với bọn thổ tù lân cận là Triệu Công Lý chiếm cứ
châu Quỳ, châu Diên đặt làm lộ Da La, lấy châu Cầm, châu Hoan làm lộ Lâm An,
cùng nhau cai trị. Họ lập thành trì ở xã Cao Xá, thuộc đất Diễn Châu, phía đông
giáp bể, phía tây giáp Tây Bà Dạ, phía nam giáp núi Hoành Sơn rồi tự xưng
vương.
Đời Đông
Tấn (317-420) Tào Nhĩ được cử đi đánh, nhiều phen đuổi được Nam Chiếu ra tận
bể, nhưng quân Nam Chiếu rất khôn ngoan, biết trốn tránh sức mạnh, biết áp dụng
chiến thuật co dãn và tiêu hao. Quân Tấn không chịu được thủy thổ, đau ốm chết
hại nhiều, phải rút lui. Nam Chiếu lại trở về hoành hành như cũ. Khoảng năm
Khai Nguyên (713-741) đời vua Đường Huyền Tông, Bì La Cáp là vua Nam Chiếu có
chí lớn, đút lót Tiết Độ Sứ đạo Kiêm Nam là Vương Dục, xin thống nhất và quản
lĩnh cả 6 chiếu và lấy cớ rằng 5 chiếu kia suy nhược không đứng vững nổi. Đường
triều, theo lời đề nghị của Vương Dục chấp thuận cho việc thống nhất này và đặt
tên cho 6 chiếu hợp nhất là Qui Nghĩa. Việc thống nhất thực hiện xong, Nam
Chiếu trở nên một quốc gia cường thịnh xuất quân đánh phá các dân tộc lân cận.
Trước nhất là nước Thổ Phồn (sau này là Tây Tạng) bị Nam Chiếu xâm lăng. Thắng
trận này, Nam Chiếu dời đô đến thành Thái Hòa để có một vị trí vững vàng hơn.
Sau này, Nam Chiếu tự đặt thêm một tên khác là Đại Lý và thành một mối lo ở
biên cương cho Trung Quốc.
Năm Tân
Tỵ, Đường Thiên Bảo thứ 9 (750), quân Nam Chiếu vây thành Côn Minh (quận Vân Nam)
cướp được hai châu Tiêu Châu và Riêu gồm tất cả đến 32 xứ. Nam Chiếu biết lợi
dụng rừng núi, nhử quân Đường vào sâu rồi vây hãm và tấn công. Tiết Độ Sứ ở
Kiêm Nam là Trọng Thông rồi tới Tiết Độ Sứ Đường Quốc Trung hai lần huy ộng 28
vạn quân đánh nhau với Nam Chiếu đều bị thua rất thảm hại.
Năm
Đường Trình Nguyên thứ 16 (800) An Phủ Sứ Vân Nam là Vi Cao đánh quân Nam Chiếu
thua ở Thiết Kiều, phủ Lệ Giang.
Năm Bính
Dần (846) Nam Chiếu tràn qua Giao Châu nhưng Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Dụ đánh
đuổi được. Sau đó, đến Vương Thức thay Bùi Nguyên Dụ biết cách cai trị nên mọi
mầm loạn đều tắt. Đến năm Canh Thìn (860), Lý Hộ sang làm Đô Hộ thì Nam Chiếu
đã mạnh thêm nhiều lắm. Con Phong Hưu (vua Nam Chiếu) là Tư Long tự xưng đế và
đặt quốc hiệu là Đại Mông, sau lại đổi ra Đại Lễ. Tư Long lo tăng cường ráo
riết về quân sự, động viên thanh niên từ 15 tuổi để đưa vào quân ngũ. Rồi một
việc đã xẩy ra dẫn đường cho quân Nam Chiếu bước thêm lần nữa vào đất Giao
Châu. Nguyên Lý Hộ ỷ thế mạnh của "thiên triều" giết người tù trưởng
của dân Mường là Đỗ Thủ Trừng khiến toàn thể dân Mường bất mãn. Dân Mường vốn
có liên lạc với Nam Chiếu, muốn báo thù
nhưng không đủ
sức liền vạch
đường chỉ nẻo
và xui giục
quân Nam Chiếu xâm lược Giao
Châu. Tháng 11 năm ấy, Thành Đô Hộ bị thất thủ, Lý Hộ và Giám Quận bỏ chạy về
Vũ Châu. Tháng Giêng năm sau Đường triều phải cho Vương Khoan đem quân Ung Châu
và các miền lân cận sang cứu viện. Quân Nam Chiếu lại rút về, nhưng hai năm sau
họ lại lần đến. Tướng Đường là Thái Tập đem ba vạn quân sang đối phó, Nam Chiếu
lại lui binh. Sau này Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam là Thái Kinh sợ Thái Tập lập được
công to, mật tấu về triều đình rằng tình hình Giao Châu đã ổn định không cần
phải để quân đội ở lại. Vua Đường liền rút đoàn quân viễn chinh về, Thái Tập
muốn để lại 5.000 binh cũng không được.
Hiểu
được sự lục đục kể trên, năm Quý Mùi tức một năm sau Nam Chiếu mở cuộc tấn công
mãnh liệt hơn bao giờ hết, bằng số 50.000 quân tràn như nước lũ vào Giao Châu,
chiếm được phủ thành. Thái Tập thế cô phải tự sát. Tướng Đường là Nguyên Duy
Đức đem 400 quân Kinh Nam đến cứu cũng thua, chạy ra đến bờ sông thì bí lối vì
không có thuyền bè. Y liền hô hào quân sĩ quay lại, liều sống mái với quân Nam
Chiếu vì thế nào cũng chết. Cuộc phản công này hại được hai ngàn binh sĩ Nam
Chiếu nhưng đến đêm Nguyên Duy Đức kiệt lực, bị tướng Nam Chiếu vây đánh và
giết được cả bọn. Thắng trận hoàn toàn, quân Nam Chiếu vào phủ thành sát hại
tới 15 vạn nhân mạng.
Giao
Châu lọt vào tay Nam Chiếu, vua Nam Chiếu là Mông Thế Long cử Dương Tư Tấn trấn
thủ Giao Châu với 2 vạn quân, và đặt Đoàn Tú Thiên làm Tiết Độ Sứ.
Trong
câu chuyện này, ta thấy rõ vì sự đố kỵ nhau của bọn văn võ tướng nhà Đường mà
Giao Châu lâm vào cuộc binh lửa vô cùng tàn hại. Nhưng vẫn chưa hết!
Mất Giao
Châu, tạm thời nhà Đường thiên An Nam Đô Hộ Phủ về Hải Môn (?) rồi triệu tập
quân các đạo về Lĩnh Nam, lo việc thuyền bè và lương thực. Mùa thu năm sau
(864), Cao Biền được lệnh xuất quân.
7- Cuộc
Thất Bại Của Quân Nam Chiếu Và Sự Nghiệp Của Cao Biền
Năm Ất
Dậu (865), Cao Biền được nhà Đường cử làm tướng hợp cùng Giám Quận là Lý Duy
Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn (?) để giải quyết vấn đề Nam Chiếu, Cao Biền
sinh ở cửa tướng lại là tay văn học uyên thâm, dẫn 5.000 quân làm tiền đạo và
ước cùng Lý Duy Chu điều động quân hậu viện tiến sau. Lý Duy Chu không muốn Cao
Biền thành công, biết rằng Cao Biền giầu mưu lược, có tài quân sự, tất sẽ thắng
trận, và Nam Chiếu tuy đông nhưng man mọi và ô hợp, chiến đấu lại không có
phương pháp. Y chỉ còn cách không đem quân tiếp viện để Cao Biền hao mòn dần
thực lực mà thất bại bại chăng. Cao Biền cất quân đi rồi, Lý Duy Chu vẫn cứ
đóng nguyên vẹn tại chỗ.
Giám
Quận nhà Đường là Trần Sắc lại phái thêm một đạo quân 7.000 người nữa, do tướng
Vi Trọng Tể lĩnh đạo, sang tăng cường cho đoàn quân viễn chinh của Cao Biền.
Bấy giờ Cao Biền mới xuất trận, thắng được Nam Chiếu mấy kỳ, (năm 866 hồi tháng
6) và cho báo tiếp về Trung Quốc. Hồi tháng 9, năm thứ 6 hiệu Hàm Thông (865)
Cao Biền đánh lén 5 vạn quân Nam Chiếu lúc đang gặt hái ở Phong Châu (Vĩnh Yên)
giết được một số quân Nam Chiếu và cướp được thóc lúa đem về nuôi quân lính. Ta
nhận thấy Cao Biền khôn ngoan ở chỗ không đánh mạnh ngay vì chưa có tiếp tế và
chưa đầy đủ lực lượng. Việc đánh Phong Châu trước đó chỉ do vấn đề cần lương thực.
Và khi có tiếp viện hẳn hoi (quân của Vi Trọng Tể đến) Cao Biền mới thực sự lâm
chiến.
Biết
tình thế khó khăn, vào khoảng tháng 4 năm 866, Tư Long thăng cho Đoàn Tú Thiên
làm Tiết Độ Sứ đất Thiên Xiển (kinh đô riêng của Nam Chiếu ở phía tây bắc Giao
Châu) cho Dương Thấp Tư (An Nam Chí Nguyên chép là Dương Tư Tấn) đến giúp Tú
Thiên giữ Giao Châu, cho Phạm Nê Ta làm Đô Thống Phủ Đô Hộ. Nay Vân Nam còn
thành Phủ Ta ở huyện La Thư.
Tin báo
thắng trận của họ Cao đến Hải Môn thì bị Lý Duy Chu chận lại. Triều đình Trung
Quốc lâu không thấy tăm hơi của bọn Cao Biền liền cho hỏi Lý, thì Lý nói dối
rằng Cao Biền không chịu xuất trận và vẫn án binh bất động ở Phong Châu. Thực
ra, Cao Biền đã phá được quân Nam Chiếu là bọn Trương Thuyên, Lý Ta và Long
Man, hàng được hơn 1 vạn quân, nhờ được ba lũy ở Ba Phong và đang vây hãm quân
Nam Chiếu ở La Thành quá 10 hôm rồi. Cuộc đắc thắng chỉ còn là vấn đề thời gian
thì vua Đường Ý Tông phái Vương Án Quyền và Lý Duy Chu tới thay. Họ Cao trước
khi về kinh đã mật phái tiểu hiệu Tăng Cổn về Trung Quốc trình bày tin tức
thắng trận và mọi sự hãm hại của Lý. Rồi sau khi giao binh quyền cho Vi Trọng
Tể, Cao Biền cùng 100 thủ túc lên đường. Khi Vua Đường hiểu rõ manh mối, Cao
Biền lại được thăng chức Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư và được quay gót về Giao
Châu tiếp tục việc đánh dẹp. Trong lúc này, bọn Vương Án Quyền, Lý Duy Chu mới
đánh thành. Vương Án Quyền nhút nhát, việc gì cũng tùy ở Duy Chu. Còn Duy Chu
thì tham lam, tàn ác, tướng tá không phục, nhờ vậy quân Nam Chiếu giải được hai
lần vây, trốn được quá nửa. Đến khi Cao Biền trở lại, hạ được thành, bại được
Dương Thấp Tư, chém được bọn Tú Thiến, Nê Ta, Nạc Mi và Chu Cổ Đạo là Thổ Mán
đã làm hướng đạo cho Nam Chiếu, cùng giết được 3 vạn quân Nam Chiếu.
Cao Biền
lại đánh phá 2 động Thổ Mán đã theo Nam Chiếu và giết tù trưởng. Thổ Mán quy
phục một vạn bẩy nghìn người.
Mùa Đông
tháng 11 năm ấy, Vua Đường ban chiếu đặt Tĩnh Hải Quận ở Châu Giao, cho Cao
Biền làm Tiết Độ Sứ kiêm Hành Doanh Chiêu Thảo Sứ các đạo. Từ Lý Hộ tham nhũng,
độc ác, quân Man khởi loạn gần 10 năm đến bấy giờ mới yên và "An Nam Đô Hộ
Phủ" đổi thành Tĩnh Hải Quận bắt đầu từ đấy.
Xét ra,
Giao Châu bị nạn Nam Chiếu ròng rã 10 năm vô cùng tàn hại. Từ đó Cao Biền phục
hồi được uy tín cho nhà Đường và ở lại làm Tiết Độ Sứ Giao Châu. Theo tu viện
trưởng A. Launay, Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc, tác giả "Histoire ancienne
at moderne de l'AnNam" trang 34, sau khi bại trận vài năm, Nam Chiếu lại
lợi dụng cơ hội Trung Quốc có loạn để dấy quân: Vua Đường phải điều đình gả công
chúa cho Vua Nam Chiếu. Theo lời khuyên của Cao Biền, nhà Vua đánh thuốc độc
giết chết 3 đặc phái viên sang đón công chúa là linh hồn của Nam Chiếu. Do đó
nước này tê liệt và nhà Đường giữ được Giao Châu thêm một thời gian.
Cao Biền
thi hành những công cuộc gì ở đây?
Ông ta
đã làm tất cả những việc của một võ tướng và một văn quan có tài. Trước hết ông
ta khởi việc xây thành đắp lũy ở các nơi biên cảnh để đề phòng giặc giã, do đó
ông vội cho đắp ngay lại thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch. Thành này bề mặt dài
hơn 1.982 trượng, cao 2 trượng linh 6 thước. Bên ngoài thành có một con đê chạy
theo để bao bọc lấy thành. Đê dài hơn 2.125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng
rưỡi, dầy 2 trượng. Trong thành có tới 40 vạn nóc nhà (?) Sự sống của nhân dân
rất là sầm uất. Ông lại khai phá các ghềnh thác để mở rộng đường thủy cho các
thuyền bè buôn bán đi lại.
Về mặt
cai trị ông cũng có một chính sách rõ rệt tránh được mọi điều nhũng lạm của bọn
thừa hành nên ông đã gây được thiện cảm giữa ông và dân chúng cho nên ông được
tôn là Cao Vương. Ông lập các sở thuế để có tiền chi dụng. Sau này người ta cho
rằng người Việt Nam phải đóng sưu thuế từ thuở Cao Biền làm Tiết Độ Sứ ở Giao
Châu. Điều đó không hẳn thế. Có lẽ rằng với Cao Biền Giao Châu chịu một chế độ
thuế khóa phân minh thì phải hơn, còn trong thời các tiền triều vì không có hẳn
một chính sách thu nạp rõ rệt nên sự đóng góp của dân phần lớn chỉ vào cái túi
tham nhũng không đáy của bọn quan lại Trung Quốc.
Năm Ất
Vị (875) vua
Đường đổi Cao
Biền đi làm
Tiết Độ Sứ tại
Tây
Xuyên (Tứ Xuyên) và ưng thuận lời
đề nghị của Cao Biền cho Cao Tầm (cháu Cao Biền) thay thế chú ở phương Nam.
Chẳng
bao lâu nước Tàu lại loạn và cái cảnh tam phân ngũ liệt lại tái diễn. Cũng như
mọi lần, cuộc thay đổi chính sự bên Trung Quốc là một dịp tinh thần quốc gia
Việt Nam được thức tỉnh.
Phần 2 - Chương 9
Cuộc Tranh Đấu Của
Dân Tộc Việt Nam Từ Họ Khúc Đến Họ Ngô
Trận
Thủy Chiến Đầu Tiên Của Việt Nam
Nhà
Đường mất ngôi năm Đinh Mão (907) và kế tiếp nhà Đường là đời Ngũ Quý. Nước Tàu
lại một phen chia năm sẻ bẩy như biết bao lần trước. Nếu trước thời Đông Hán có
loạn Tam Quốc (Ngô, Ngụy, Thục tranh hùng), thì giờ đây là Hậu Lương, Hậu
Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu gây cuộc biến loạn để nắm cái ngôi chúa tể
Trung Quốc. Đó là bọn Ngũ Quý hay là đời Ngũ Quý, Ngũ Đại, chẳng nhà nào mạnh
hẳn và được lâu bền. Mỗi nhà đứng vững được năm ba năm rồi bị đào thải. Dân
Trung Hoa bị lửa loạn bùng cháy liên miên trên nửa thế kỷ.
Dân Giao
Châu tất nhiên không bỏ lỡ cơ hội. Khi Đường triều bắt đầu nghiêng đổ, uy quyền
trung ương không thấu mạnh ra ngoài bờ cõi thì một người dân Giao Châu là ông
Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) đứng
lên chiếm đoạt lấy guồng máy chính quyền ở đây. Ông vốn là một nhà hào phú,
phóng túng, đạo đức nên nhân dân kính phục. Nhà Đường (năm 906) rất khôn ngoan
liền cử ông lên làm Tiết Độ Sứ (sau phong thêm làm Đồng Bình Chương Sự) thay
Tăng Cổn bỏ thành trốn về Tàu để yên dân. Sự thực, nếu nhà Đường được vững vàng
yên tĩnh như thuở nào, người ta đâu có dại phó thác vận mệnh một thuộc quốc vào
tay một người bản xứ, nhất là người đó lại được nhân tâm nhiệt liệt quy phục,
và có tinh thần độc lập. Chẳng qua thế chẳng đừng và là một cách hòa hoãn với
nghịch cảnh mà người ta phải đẩy con thuyền chính trị thuận theo chiều gió.
Năm sau
Đường bị diệt hẳn đến nhà Hậu Lương kế tiếp, người ta cũng để ý ngay vấn đề
Giao Châu - Lưu An được phong làm Nam Bình Vương kiêm Quảng Châu Tiết Độ Sứ với
dự định đem quân đội sang Giao Châu một khi có cơ hội thuận tiện. Ông Khúc Thừa
Dụ ở địa vị chưa được một năm thì qua đời trao lại cho con là Khúc Hạo cái sứ
mạng nặng nề của ông là tiếp tục giữ gìn đất nước và chống xâm lăng.
Khúc Hạo
là một người kế nghiệp rất xứng đáng và là một nhà chính trị có tài. Ông sửa
sang nền hành chính, đặt các quan lại thế vào bọn tay sai của ngoại quốc trước
đây, mở mang các phủ, châu, xã, sửa soạn đường lối giao thông, chia nước ra
thành từng xứ, lộ, phủ đặt chức lệnh trưởng và tá lệnh trưởng, biên tên làng,
quận và làm sổ hộ tịch. Việc thuế má được chia đều, chính trị khoan nhân giản
dị, dân nhờ ơn ông "mà sống lại" (Khâm Định Việt Sử Tiền Biên). Do
tình trạng Giao Châu được thịnh đạt nên quân nhà Lương mặc dầu có ý định tái
chiếm xứ này nhưng vẫn chưa dám bước chân vào biên giới của chúng ta. Trong lúc
này ông Khúc Hạo phái con là Khúc Thừa Mỹ sang Quảng Châu, bề ngoài là đi việc
sứ bộ nhưng bề trong là dò xét tình ý và thực lực của họ Lưu. Sự phục tòng nhà
Lương bấy giờ chỉ là về hình thức mà thôi.
Lưu An
đóng phủ trị ở Quảng Châu được 4 năm thì mất. Em là Lưu Cung được lên thay
nhưng sau có điều bất mãn với triều Lương (Hậu Lương) Lưu Cung tuyên bố biệt
lập và xưng đế, lấy quốc hiệu là Đại Việt. Sau này (năm Đinh Sửu 917) Lưu Cung
lại đổi quốc hiệu ra Nam Hán.
Năm Đinh
Sửu (917) ông Khúc Hạo mất. Nhà Lương giao chức Tiết Độ Sứ cho Khúc Thừa Mỹ là
con ông. Trong giai đoạn này ta nhận xét nhà Lương không mạnh nên phải chịu để
người Giao Châu giữ đất Giao Châu và khoanh tay nhìn sự biệt lập của dòng họ
Lưu trên mảnh đất miền Nam Trung Quốc.
Theo
Trần Trọng Kim, Nam Hán thấy Giao Châu giao hảo với nhà Lương có ý bất bình,
sau Nam Hán đem quân sang đánh Khúc Thừa Mỹ. Thiết tưởng đây không phải là một
cớ vững chắc. Việc xâm lăng của Nam Hán vào Giao Châu chỉ do ý muốn gồm thâu
Giao Châu vào lĩnh thổ của mình nghĩa là do ý chí đế quốc chớ đâu có phải do
một chuyện hờn giận về tình cảm.
Năm Quí
Mùi (923) quân Nam Hán thắng trận. Khúc Thừa Mỹ bị bắt, sau được thả về. Bàn về
sự nghiệp của ba đời họ Khúc tiên Chúa, trung Chúa và hậu Chúa, sử thần Ngô Sĩ
Liên cho rằng nước Nam ta nẩy mầm tự trị từ ba đời họ Khúc tuy chưa xưng Đế,
xưng Vương. Mọi công cuộc cải cách chính trị của họ Khúc đã tỏ được sự trưởng
thành về chính trị của chúng ta và đáng làm gương cho đời sau. Từ bấy giờ trở
đi đến họ Đinh nhất thống nước Đại Cồ Việt hơn 60 năm nay (906 - 967) dân Nam
thoát vòng lao lung của người Tàu...
Lời bàn
ấy xét ra rất đích đáng. Tướng Nam Hán là Lý Khắc Chính được ở lại chiếm đóng
Giao Châu, Lý Tiến giữ chức thứ sử, nhưng chính quyền của Nam Hán cũng không được
lâu bền. Tám năm sau (931) một kiện tướng của Khúc Hạo xưa kia là Dương Đình
Nghệ lại huy động được dân chúng đuổi được bọn Lý Khắc Chính và Lý Tiến rồi lên
thay vào chức Tiết Độ Sứ. Nam Hán không có một phản ứng nào đối với việc này,
có lẽ rằng họ cũng kính nể lực lượng của Giao Châu chăng? Sáu năm qua đang êm
đẹp, đời sống của Giao Châu như nước thuận dòng thì xẩy ra cuộc chính biến giữa
người Giao Châu với nhau: Dương Đình Nghệ bị nha tướng là Kiểu Công Tiễn giết
và cướp lấy quyền, nhưng rồi đến lượt Kiểu Công Tiễn cũng bị ngã trong khi tấp
tễnh bước lên cái địa vị chúa tể Giao Châu. Y bị Ngô Quyền là tướng của Dương
Đình Nghệ cử binh đánh phá để báo thù cho chủ và nhạc phụ. Nguyên họ Ngô là một
người tài ba, lỗi lạc, lại có lòng trung thành nên Dương Đình Nghệ yêu quý nên
đem con gái gả cho. Ông quê quán ở Đường Lâm (thuộc tỉnh Sơn Tây) cùng một quê
hương với nhà ái quốc Phùng Hưng xưa kia. Dương Đình Nghệ lúc sinh thời đã giao
ông đảm nhiệm chức trấn thủ Ái Châu là một địa hạt quan trọng hồi đó, vừa về
chính trị và quân sự bởi cần đề phòng quân Lâm Ấp. Kiểu Công Tiễn thua trận
liền cho người sang cầu cứu nhà Nam Hán.
Do nơi
Kiểu Công Tiễn phái người sang cầu cứu và bầy tỏ cuộc chính biến ở Giao Châu,
vua tôi nhà Nam Hán liền chụp ngay cơ hội này mà họ chờ đợi từ lâu. Họ hiểu
rằng mỗi khi Giao Châu được người lĩnh đạo có tài, có đức thì lực lượng Giao
Châu chóng trở nên mạnh và đáng sợ vì sức đoàn kết của dân tộc đã chặt chẽ và
nguyện vọng tự do, độc lập luôn luôn nung nấu lòng người. Cho nên mỗi khi muốn
chinh phục nước Nam, các triều đại Bắc phương rất là thận trọng. Ta hẳn nhớ sự
giao dịch giữa nhà Hán và Triệu Đà xưa kia là cả một sự kiêng nể với những lý
do đích đáng của nó. Nhưng khi họ Triệu qua đời, những kẻ thừa kế ươn hèn thì
"thiên triều" lại áp dụng ngay cái chính sách kẻ cả. Tóm lại người
phương Bắc tuy hơn chúng ta về phương diện văn hóa nhưng vẫn phải e dè cái tinh
thần quốc gia của chúng ta mà họ biết là khả kính.
Nam Hán
đối với chúng ta cũng vậy, nhất là địa phận Quảng Châu của họ lại sát nách
chúng ta. (Xin nhớ rằng đến thời đó người Việt chúng ta đã chuyển dịch xuống
miền lưu vực sông Hồng Hà, miền Bắc Việt bây giờ chứ không còn gồm ba tỉnh miền
Hoa Nam như dưới thời Triệu Đà.) Họ hiểu chúng ta hơn hẳn nhà Lương nhất là sau
khi Dương Đình Nghệ đã đuổi văn thần, võ tướng của họ ra khỏi Giao Châu năm Tân
Mão (931).
Lần thứ
hai này Nam Hán qua Giao Châu là một cuộc hành binh lớn lao, có thể nói họ đã
xuất toàn lực của họ bởi không phải chỉ có những võ tướng lên đường mà còn cả
thái tử Hoằng Tháo, con vua Nam Hán góp sức. Hoằng Tháo đem hậu quân đi tiếp
viện. Khi quân kỳ của Nam Hán phất phới bay gần sông Bạch Đằng thì Kiểu Công
Tiễn đã bại trận và bị giết.
Vấn đề
nội địch đã giải quyết xong, họ Ngô liền nghĩ ngay ra một kế là hạ Nam Hán bằng
cuộc thủy chiến có nhiều hy vọng thắng lợi hơn là địa chiến. Nhà tướng này
truyền hịch cho quân dân đề phòng xâm lăng mọi mặt và bề khác cho người cắm cọc
gỗ nhọn đầu bọc sắt ở lòng sông Bạch Đằng trong khi nước triều lên đợi nước
thủy triều xuống mới mở cuộc phản công. Giai đoạn đầu, quân Nam Hán và quân
Giao Châu xô sát với nhau trên mặt sông. Dĩ nhiên quân Giao Châu đánh cầm chừng
rồi bỏ chạy chờ nước rút xuống. Kế này thành công. Khi nước rút, thuyền của đại
quân Nam Hán bị cọc đâm thủng nát và đổ vỡ không sao tiến thoái được. Quân Giao
Châu liền quay lại theo chiến lược đã định và cuộc phản công đáng kể là khốc
liệt hết sức. Quá nửa lực lượng Nam Hán bị tiêu diệt. Thái tử Hoằng Tháo bị bắt
sống và bị đem về giết đi. Sau khi dòng máu Nam Hán lai láng trên con sông
Bạch, một ít tàn quân chạy thoát về Phiên Ngung, mộng đế quốc của phương Bắc
sau cuộc chiến thắng của Ngô Quyền lại một phen nữa tan ra mây khói.
Phần 3 -
Chương 1
Việt Nam
Trên Đường Độc Lập (939 sau C.L)
1) Tiền
Ngô Vương
2) Dương
Tam Kha
3) Hậu
Ngô Vương
4) Thập
Nhị Sứ Quân
Nhà Ngô
ra đời năm Kỷ Hợi (939) sau khi đã làm nhiều việc lớn lao hiển hách: bên trong
dẹp được nghịch thần, bên ngoài đuổi bọn cường địch và chấm dứt cái nạn vong
quốc đầy tủi nhục dài trên 11 thế kỷ (1146 năm). Nói rằng nhà Ngô đã có công
lớn trong việc mở đường dọn lối cho các triều đại tự chủ sau này là Đinh, Lê,
Lý, Trần tưởng không phải là ngoa vậy.
Ngô
Quyền xưng vương và thành Cổ Loa (Phúc Yên) lại một phen nữa thành kinh đô cho
một triều đại. Ngô Vương tổ chức triều nghi đặt các phẩm tước, định việc phục
sắc, chỉnh đốn mọi việc chính trị quy mô đế vương kể đã đầy đủ. Ông muốn gây
một sự nghiệp lâu dài nhưng tiếc rằng số mệnh quá ngắn ngủi. Ông ở ngôi đựơc 6
năm và qua đời năm Giáp Thìn (944), thọ được 47 tuổi.
Ngô Vương
trước khi chết ký thác việc lập tự cho Dương Tam Kha là em vợ (Dương Hậu, con
gái Dương Đình Nghệ). Họ Dương đáng lẽ phải tôn phù Ngô Xương Ngập theo lời di
chúc nhưng lợi dụng cơ hội. tự đặt mình lên ngôi xưng là Bình Vương (945 950).
Ngô Xương Ngập biết rằng ở bên cạnh Dương Tam Kha có thể nguy đến tính mạng,
liền bỏ trốn sang Nam Sách (Hải Dương) và được Phạm Lệnh Công ở làng Trà Hương,
huyện Kim Thành giúp đỡ. Tam Kha sai quân đuổi bắt vì e hậu họa, nhưng Ngô
Xương Ngập được họ Phạm dấu trong núi.
Ngô
Xương Ngập còn một người em là Ngô Xương Văn, Dương Tam Kha nuôi làm con nuôi.
Sau này tại Sơn Tây có loạn (ở hai thôn Thái Bình) Ngô Xương Văn và các tướng
Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc được cử đi đánh dẹp.
Thời bấy
giờ từ sĩ phu đến dân chúng không ai phục Tam Kha nên "nổi lên như
ong" chiếm các huyện ấp. Nhận thấy lòng người chống lại họ Dương, các
tướng cùng Ngô Xương Văn lợi dụng quân lực trong tay trở lại kinh sư gây cuộc
đảo chánh. Dương Tam Kha bị bắt.
Ngô Xương Văn
lên ngôi xưng
là Nam Tấn
Vương. Nghĩ tình
cậu cháu, Xương Văn không nỡ làm
tội Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Trương Dương công và cấp cho thái ấp để hưởng
lộc. Bấy giờ ở gần nước ta, Nam Hán đang cường thịnh. Nam Tấn
Vương xin lệ thuộc và Hán chúa Lưu Thanh phong
Ngô Vương làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ Kiêm Đô Hộ (Khâm Định Việt Sử quyển 5 tờ 25a
và b).
Nạn
Dương Tam Kha trừ xong, Ngô Xương Văn cho người đi tìm anh ở Trà Hương về
cùng chia ngôi
vị. Ngô Xương
Ngập xưng là
Thiên Sách Vương.
Sử gọi là Hậu Ngô Vương. Sau ít lâu, Thiên Sách Vương ỷ
mình là trưởng nắm hết quyền chính, nhưng đến năm Giáp Dần thì mất.
Việc
chính trị dưới thời Hậu Ngô Vương mỗi ngày một suy kém. Nam Tấn Vương cũng
không tỏ gì là xuất sắc.
Trong
nước vẫn xảy ra biến loạn ở nhiều nơi. Lên ngôi vừa xong tức là ngay năm thứ
nhứt, Xương Văn đem quân đi đánh Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư không thâu lượm được kết
quả nào đáng kể. Sau này Nam Tấn Vương đi dẹp Chu Thái, thũ lĩnh loạn quân ở
hai thôn Thái Bình (thuộc Sơn Tây), vì khinh địch và bất cẩn bị trúng tên chết
ngay tại Đại Bản Doanh. Xét ra Nam Tấn Vương ở ngôi được 15 năm (950-965),
không có người kế tự.
Con
Thiên Sách Vương là Ngô Xương Xí lên thay nhưng cũng không hơn gì cha và chú
nên các giai cấp quí tộc, phong kiến không phục rồi nạn Thập Nhị Sứ Quân bùng
ra. Ngô Xương Xí đóng ở đất Bình Kiều bấy giờ cũng chỉ là một trong 12 sứ quân
mà thôi. Thời Thập Nhị Sứ Quân ở nước ta là một thời đại loạn, là một cuộc
tranh giành xâu xé vì quyền lợi giữa các lực lượng địa phương luôn 22 năm ròng.
Nguyên nhân
xa xôi của loạn 12 sứ quân:
Nếu
chúng ta theo dõi lịch sử, ta thấy rằng loạn sứ quân không phải một ngày mà có.
Hoàn cảnh xã hội Giao Châu trong thời Bắc thuộc luôn luôn thay đổi, thăng trầm
với cảnh hưng vong của Trung Quốc. Quan lại Trung Quốc và các đẳng cấp quý tộc
mới kế tiếp các giai cấp phong kiến thuần túy Giao Châu trước, đến giờ phút đó
luôn luôn nghĩ đến sự tự tạo cho mình một địa vị để đề phòng tình thế bất trắc,
hoặc trông chờ những cơ hội thuận tiện để tranh vương đồ bá.
Đầu thế
kỷ thứ 10, nhà Đường sắp đổ đã gây nên trạng thái tâm lý này. Qua đời Ngũ Quý,
tâm lý Giao Châu càng bị xúc động thêm. Rồi họ Khúc, họ Dương, họ Ngô dấy
nghiệp. Trong khi xây dựng cơ đồ các họ trên đây không thể không lấy các phần
tử phong kiến làm vây cánh, vì vậy mầm phong kiến nảy nở càng thêm xanh tốt.
Sau này
nhà Ngô đã thiết lập hẳn một vương triều để thống nhất đất đai và chính trị,
quyền hành của
phong kiến bị
thu hẹp dần và mối
mâu thuẩn bắt
đầu phát động. Trong thời họ Khúc, họ Dương và Ngô cầm
quyền, phong kiến nằm yên ngủ kỹ, không dám cựa quậy, vì các vị lãnh đạo quốc
gia bấy giờ được nhân dân hoàn toàn cảm phục. Họ Khúc nổi tiếng về đức độ và
lòng ái quốc. Họ Dương, họ Ngô là những anh hùng giải phóng dân tộc. Dân chúng
đâu có chịu vì những kẻ mưu đồ quyền lợi riêng tư để chống lại với các thũ lĩnh
uy danh sáng ngời đó. Các quý tộc biết vậy nên đã không dám đi ngược với lòng
dân. Nhưng khi Ngô qua đời Dương Tam Kha phụ lời ủy ký, mối biến loạn đã có sẵn
nay mới có cơ hội để bột phát. Ngay từ lúc Dương Tam Kha tiếm vị của cháu, tại
hai thôn Thái Bình thuộc Sơn Tây đã náo động, rồi cuộc biến loạn lan tràn khắp
mọi nơi trước sự bất tài của anh em Ngô Xương Văn và con cháu. Mối loạn đó tất nhiên
ta thấy rõ đã do các lĩnh tụ 12 địa phương rải rác trên toàn cõi Giao Châu gây
ra. Họ đều thuộc đẳng cấp quý tộc tất cả.
Mười hai
sứ quân dưới thời Hậu Ngô Vương là:
1) Ngô
Xương Xí (nay là làng Bình Kiều, phủ Khoái Châu, Hưng Yên).
2) Đỗ
Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (huyện Thanh Oai, Hà Đông).
3) Trần
Lãm xưng Trần Minh Công giữ Bố Hải Khẩu (tỉnh Thái Bình)
4) Kiều
Công Hãn xưng là Kiều Tam Chế giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc tỉnh Vĩnh Yên).
5) Nguyễn
Khoan xưng là Nguyễn Thái Bình giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên).
6) Ngô
Nhật Khánh xưng là Ngô Lãm Công giữ Đường Lâm (Phúc Thọ - Sơn Tây).
7) Lý
Khuê xưng Lý Lãng Công giữ Siêu Loại (phủ Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh).
8) Nguyễn
Thủ Tiệp xưng là Nguyễn Lịnh Công giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9) Lữ
Dương xưng là Lữ Tá Công giữ Tế Giang (Vân Giang Bắc Ninh).
10) Nguyễn
Siêu xưng là Nguyễn Hữu Công giữ Tây Phủ Liệt (Thanh Trì Hà Đông).
11) Kiều
Thuận xưng Kiều Lịnh Công giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê tỉnh Phú Thọ).
12) Phạm
Bạch Hổ xưng là Phạm Phòng Át giữ Đằng Châu (Hưng Yên).
Dân
chúng Giao Châu đối với vấn đề sứ quân thế nào? Lẽ tất nhiên họ không tán thành
phong trào qua phân, nó là căn bệnh thường xuyên của phong kiến. Họ đã thấy mọi
sự đau khổ đều do nơi phong kiến mà ra. Sau thời Bắc thuộc, kinh tế nông nghiệp
đã phát đạt, dân số tăng lên rất nhiều, lĩnh thổ quốc gia toàn vẹn, người dân
chỉ muốn an cư lạc nghiệp. Do xu hướng thống nhất chính trị và ham chuộng hòa
bình dân chúng đã ủng hộ ông Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình
lên nắm chính quyền.
Loạn
Thập nhị Sứ Quân khởi đầu từ năm 945 đến 967 cáo chung. Họ Đinh đánh dẹp xong
thì quốc gia Việt Nam trở nên lành mạnh.
Phê Bình 12 Sứ Quân.
Gần đây
có nhà làm sử chữ nho bình phẩm mười hai sứ quân như sau:
"Xem
cuộc đời 12 sứ quân tranh nhau thì biết nghĩa hợp quần là khó nhưng cũng biết
cái trí não dân tộc ta về hồi ấy đã đến trình độ tiến hóa. Lúc ấy hai vua Ngô
tuy mất, Xương Xí là dòng dõi Thiên Hoàng, cũng như Đông Chu quân nhà Chu, Hoài
Dương vương nhà Hán, nếu các thổ hào cùng nhau phục tòng hợp hơn mười bọn nhỏ
làm một bọn lớn, tôn Ngô Xương Xí làm thiên hạ cộng chủ để nối dòng họ Ngô, mà
các bộ sứ quân thời tự trị lấy trong bộ mình, khi quốc gia vô sự thời áo xiêm
ngọc bạch như Tần Tấn liên hoàn. Khi quốc gia hữu sự thời môi hở răng lạnh, giữ
gìn nhau như Ngu, Quắc kết nghĩa, thế thì Hợp Chủng Quốc ở Bắc Mỹ lợi kiên và
hai mươi nhăm liên bang ở Nhật Nhĩ Man há chẳng xuất hiện vào nước ta về thế kỷ
thứ 12 rồi ư?
Lại
không làm thế, sớm chuông trống, tối giáo mác, mạnh ăn thịt yếu, rút cục bị
tiêu ma cả ở dưới ngọn cờ bông lau, há chẳng phải là cái tội quần học bất
minh" (không rõ nghĩa hợp quần). Nhưng mà còn có chỗ đáng khen, vì trước
hồi ấy mỗi khi gặp một phen biến loạn thì người nước phần nhiều dựa thế người
Tàu như Đỗ Hoàng Văn đương khi có bệnh mà gắng đi xe sang nhà Tống. Lý Thúc
Hiến đi đường tắt để chầu nhà Tề là mượn thế lực người ngoài để bắt nạt đồng
loại, thật đáng bỉ. Lúc bấy giờ các sứ quân mỗi người xưng hùng xưng bá một
phương, có Nam Hán là một nhà khôn ngoan, muốn mở rộng đất đai, ở ngay kế nách,
thế mà chưa hề nghe có người nào phải nhờ thế lực người ngoài để hại đồng loại
vì rằng cái trình độ dân trí của ta bấy giờ đã khá cao cho nên tuy có cái lòng
"cá lớn nuốt cá con -- giống mạnh ăn thịt giống yếu" mà ai cũng biết
"cõng rắn cắn gà nhà", "Rước voi về giầy mồ" là không hay.
Sau này Đinh Tiên Hoàng cả xưng Vạn Thắng thì thế lực không chống nổi, nhưng
vẫn là người Nam làm vua nước Nam, tưởng 12 sứ quân có linh thiêng cũng ngậm
cười ở nơi chín suối (Đại Việt Sử Ký cải lương A 1146, quyển 1 tờ 63-66b).
Về 12 sứ
quân đời bấy giờ có câu ca dao như sau này: Của đời muôn sự của chung,
Hơn nhau
một tiếng anh hùng mà thôi ...
Phần 3 - Chương 2
Nhà Đinh (968-980)
I. Đinh Tiên Hoàng
1) Tổ
chức nội bộ 2) Ngoại giao với Tống
3) Binh
chế 4) Chính trị
II. Đinh Phế Đế
1- Đinh Tiên Hoàng (968-980)
Đinh Tiên
Hoàng tức Đinh Bộ Lĩnh, ra đời vừa đúng giữa khi lịch sử Việt Nam đang trải một
giai đoạn hắc ám trên 30 năm, kể từ khi Dương Tam Kha thoán nghịch đến loạn 12
sứ quân, dân chúng lầm than không kể xiết. Thời thế đó đã cấu tạo nên con người
hào kiệt để chấm dứt cảnh cốt nhục tương tàn và theo gót Trưng, Triệu, Lý, Mai,
Ngô v.v... họ Đinh đã đặt thêm viên đá cho nền độc lập và thống nhất của nước
nhà.
Đinh Bộ
Lĩnh là con Ông Đinh Công Trứ, giữ chức Thứ Sử Hoan Châu về đời Dương Đình Nghệ
và Ngô Vương Quyền. Cha mất sớm, ông theo mẹ về quê sống cuộc đời hoàn toàn
thảo dã gần như mất hết dấu vết quý tộc thuở trước. Nhưng, ngay từ khi còn thơ
ấu Ông đã có những cử chỉ và khí phách khác người. Ngày thường chơi với các bạn
ở ngoài đồng bãi là những trẻ chăn trâu bò, bắt chúng phải khoanh tay làm kiệu,
Ông ngồi lên trên để cho chúng rước đi chơi. Ông lại sai chúng lấy bông lau làm
cờ và bày thế trận đánh nhau. Các trẻ trong địa phương đều tôn Ông làm đàn anh.
Tới tuổi trưởng thành, uy tín của Bộ Lĩnh mỗi ngày một vang dội, dân trong vùng
theo rất nhiều. Do tính tình ngang tàng, Ông và người chú bất hòa với nhau nên
Ông phải rời bỏ quê hương, cùng con trai là Đinh Liễn sang Bố Hải Khẩu (thuộc
phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) theo sứ quân Trần Minh Công. Từ đó trở đi, Bộ
Lĩnh tiến dần trên con đường sự nghiệp. Thấy Ông chí khí hiên ngang, cử chỉ
đĩnh đạc, diện mạo khôi ngô, họ Trần yêu mến và cho dự phần quan trọng trong
việc điều khiển binh đội. Ông được họ Trần trao cho binh quyền trước khi mất.
Sau đó Ông chuyển quân đội về quê nhà (Hoa Lư) là nơi Ông đã đặt nhiều ảnh
hưởng lúc thiếu thời, chiêu mộ thêm hào kiệt và binh lính. Lực lượng của Ông
mỗi ngày một mạnh. Năm Tân Hợi (951), anh em Nam Tấn Vương đã có lần xuất quân
đến đánh mà không được25. Nhà Ngô mất, họ Đinh đánh bại được sứ quân Phạm Phòng
Át, phá được Đỗ Cảnh Thạc (huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông) rồi dần dần tiêu diệt
được hết các lĩnh tụ địa phương sau một năm ròng. Cuộc chiến thắng của họ Đinh
thật rực rỡ và đã quyết định tình thế thời bấy giờ vì những hào kiệt của Giao
Châu hầu hết đều có mặt dưới cờ của Đinh Bộ Lĩnh (Giao Châu thất hùng: Đinh Bộ
Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng) Sau
những chiến công oanh liệt liên tiếp ông được dân chúng tôn làm Vạn Thắng
Vương.
Tổ Chức Nội Bộ
Năm Mậu
Thìn (968), Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đến, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt
quốc hiệu là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn), niên hiệu là Thái Bình nguyên niên,
đóng đô ở Hoa Lư, xây cung điện, định triều nghi. Quần thần tôn Ngài là Đại
Thắng Minh Hoàng Đế. Đáng chú ý Tiên Hoàng Đế đã lưu tâm nhiều đến việc quân
sự, vì thời đó là thời loạn, việc võ cần được mở mang nhiều, huống hồ nạn xâm
lăng của Bắc phương đời nào cũng rình mò ngoài cổng ngõ của chúng ta. Những
công thần và đại thần thuở đó đều là những tướng lĩnh: Nguyễn Bặc được phong
làm Định Quốc Công, Lê Hoàn làm Thập Đạo Tướng Quân, Đinh Liễn (con cả Tiên
Hoàng Đế) làm Nam Việt Vương.
Năm Canh
Ngọ, (970) là năm đầu tiên niên hiệu Thái Bình, Tiên Hoàng Đế đặt 5 ngôi Hoàng
Hậu: Đan Gia, Trịnh Minh, Kiểu Quốc, Cù Quốc và Ca Ông. (Về việc này, sử thần
Lê Văn Hưu chê rằng: Đinh Tiên Hoàng là người không biết cổ học mà bầy tôi bấy
giờ không ai sửa chữa lại, đến nỗi mê đắm, thiên tư lập 5 ngôi Hoàng Hậu ngang
nhau. Sau Lê, Lý phần nhiều bắt chước, chính là do Tiên Hoàng khởi xướng...).
Tiên Hoàng vừa khởi đế nghiệp ở Việt Nam thì Triệu Khuông Dẫn cũng lập ra nhà
Tống bên Trung Quốc, và luôn ngay khi đó, nhà Tống phái Đại Tướng Phan Mỹ sang
đánh Lưu Thành, chúa nhà Nam Hán, vì đã chống cự mệnh lệnh.
Việc
Ngoại Giao Với Nhà Tống
Đinh
Tiên Hoàng xét thực lực của mình chưa mạnh, quốc gia vừa thành hình nếu bị Tống
triều đánh phá tất có sự bất lợi nên sai sứ sang thông hiếu.
Lần thứ
nhất, Tiên Hoàng cử sứ bộ qua Bắc triều, vào tháng giêng năm 970. Lần thứ hai,
năm thứ ba hiệu Thái Bình nguyên niên, Nam Việt Vương Đinh Liễn sang biếu Tống
triều đồ phương vật. Năm sau nữa (972) sau khi Nam Việt Vương trở về, nhà Tống 25
Trong khi Đinh Bộ Lĩnh cát cứ ở Hoa Lư động, hai vua Ngô khởi binh đánh, Bộ
Lĩnh sợ sai con là Đinh Liễn đến làm con tin xin hoãn binh. Khi Đinh Liễn đến
hai vua Ngô bắt giam rồi xuất chinh. Đôi bên đánh nhau hơn một tháng không
thắng bại, sau hai vua Ngô bèn sai trói Đinh Liễn đem treo ở trên cầu rồi cho
người sang bảo Đinh Bộ Lĩnh rằng: nếu không hàng sẽ giết Liễn, Bộ Lĩnh nổi giận
nói rằng: người đại trượng phu cốt ở công danh sự nghiệp chứ đâu có bắt chước
đàn bà con trẻ. Nói rồi sai 10 người cầm nỏ chỉa vào Liễn toan bắn. Hai vua Ngô
thất kinh nói: Ta sở dĩ treo con hắn là buộc lòng hắn phải theo. Nay hắn tàn
nhẫn như thế thì giết cũng vô ích. Rồi không giết Liễn mà thu quân về. (Khâm
Định Việt Sử, 9,5 tờ 24a,b) sang sách phong Tiên Hoàng làm "Giao Chỉ Quận
Vương", Đinh Liễn làm "Kiểm Hiệu Thái Sư Tĩnh Hải Quận Tiết Độ Sứ An
Nam Đô Hộ".
Binh Chế
Việc
ngoại giao yên ổn, Tiên Hoàng liền lo mọi vấn đề nội trị. Ngài tổ chức quân đội
làm 5 cấp: Đạo, Quân, Lữ, Tốt, Ngũ. Mỗi Đạo có 10 Quân, Quân có 10 Lữ, Lữ có 10
Tốt, Tốt có 10 Ngũ, mỗi Ngũ có 10 người. Như vậy là mỗi Đạo có 10 vạn người.
Tổng số quân đội của nhà Đinh có tới 1 triệu người. Sử gia Trần Trọng Kim cho
rằng bấy giờ nước ta còn nhỏ, dân ta còn thưa thớt, làm gì có đủ thực lực để
nuôi nổi 1 triệu quân. Nhưng, bàn về binh chế của nhà Đinh, Ứng Hoè Nguyễn Văn
Tố, trong báo Tri Tân, phát biểu rằng điều đó có thực do quân đội bấy giờ chia
ra làm 2 hạng: một hạng là quân đội thường trực hay hiện dịch, một hạng là trừ
bị, luân chuyển nhau trong 1 thời hạn nhất định để phụng sự dưới cờ, tức là mãn
kỳ quân dịch, quân sĩ lại trở thành nông dân. Theo đó, quân số nhà Đinh có thể
lên tới một triệu.
Chính Trị
Về chính
trị, Tiên Hoàng Đế ban hành nhiều luật lệ rất khắt khe. Ngài đặt vạc dầu ở
trước điện, nuôi hổ báo trong vườn, dựng cột đồng nung đỏ để trừng trị những kẻ
gian ác và phản bội. Nhờ có hình luật nghiêm khắc này, nền an ninh quốc gia
được vãn hồi. Đạo Phật từ
6 thế kỷ
trước đã có
mặt ở nước
ta, bấy giờ
cũng khá phát
đạt. Tiên Hoàng rất trọng dụng
các Thiền sư vì họ có học lực uyên bác và Ngài cho lập ngạch tăng thống. Sư
Khuông Việt đã được Ngài phong làm Quốc Sư. Đinh Tiên Hoàng tuy khởi nghiệp
trên mình ngựa, học hành ít ỏi, nhưng về phương diện nội trị và ngoại giao, ta
thấy họ Đinh không phải chỉ có tài đánh Đông, dẹp Bắc. Luật lệ nghiêm khắc bao
nhiêu chứng tỏ tình thế bấy giờ hỗn loạn bấy nhiêu, vì vậy việc dùng kỷ luật
thép chỉ là do nhu cầu thời đại. Quả vậy, ta hãy coi thượng tầng xã hội là quý
tộc, là phong kiến thì luôn luôn có chuyện tranh giành và phiến động ở các địa
phương, lòng dân lại hết sức hoang mang, mạnh đâu theo đấy, thật chẳng khác gì
xã hội Trung Quốc bên kia miền Ngũ Lĩnh. Như thế, vạc dầu và hổ báo của Đinh
Tiên Hoàng chỉ có mục đích khuất phục những kẻ phản nghịch hơn là để đối phó
với dân chúng, nếu ta nhìn sát vào nội tình nước ta trước và sau đó. Và ta nên
thừa nhận mọi sự khe khắt của hình luật triều Đinh đều chỉ lấy sự yên ấm của
nhân dân làm mục đích. Điều này, họ Đinh đã thực hiện luôn 12 năm ròng khi cầm
vận mệnh dân tộc cho đến lúc quá cố, đối với dân chúng cũng như đối với giai
cấp quý tộc.
Họ Đinh
mất, ngay khi mồ tiên chúa chưa xanh ngọn cỏ thì cuộc khủng hoảng chính trị đã
xảy ngay giữa triều đình, nhiều biến cố tai hại đã sinh ra truy nguyên cũng do
một vài điều thất sách của Tiên Hoàng.
Việc
biến cố thứ nhất của triều Đinh: Năm Thái Bình thứ 9 (978), họ Đinh bỏ trưởng
lập ấu. Thiếu tử là Hạng Lang được phong làm Thái Tử, (tất vì bà Hoàng Hậu đẻ
ra Hạng Lang được sủng ái nhất nên họ Đinh bất chấp cả lệ thường) con thứ là
Đinh Tuệ làm Vệ Vương, còn Đinh Liễn là con cả theo cha từ lúc hàn vi, lập
nhiều chiến công, từng chịu nhiều vất vả trong việc đi sứ, nay bị bỏ nên Liễn
giận lắm ngầm sai người giết Hạng Lang. Mùa xuân năm 979 đã đánh dấu cảnh cốt
nhục tương tàn này.
Việc
biến cố thứ hai: Cận thần Đỗ Thích đã lẻn vào cung giết được Tiên Hoàng và Nam
Việt Vương Liễn luôn trong một đêm, khi hai cha con cùng say rượu nằm ngủ ngoài
sân. Đỗ Thích bị bắt và bị làm tội. Vệ Vương Đinh Tuệ được tôn lên ngôi ngay
nhưng mới có sáu tuổi.26
Kể từ
bấy giờ (979), nhà Đinh coi như sụp đổ sau 12 năm nắm chính quyền. Tiên Hoàng
thọ được 56 tuổi.
2- Đinh Phế Đế
Vệ Vương
Đinh Tuệ lên ngôi vào tháng 10 - 979. Mẹ là Dương Thái Hậu lâm triều dùng
Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lê Hoàn làm phụ chính. Lê Hoàn xưa chuyên giữ việc binh
nhung, được lòng Thái Hậu và lại cùng Thái Hậu tư thông nên tự do ra vào nơi
cung cấm và có ý lộng quyền. Bọn Bặc, Điền là tôi trung của tiền triều không
chịu được những điều ngang chướng và ý định cướp ngôi của họ Lê nên âm mưu
chống lại
Đại Nam
Quốc Sử Diễn Ca viết:
... Nối
sau Thiếu Đế thơ ngây,
Lê Hoàn
nhiếp chính từ rày dọc ngang. Tiếm xưng là phó quốc vương,
Ra vào
cùng ả họ Dương chung tình.
Hai vị
trọng thần này cùng Phạm Hạp là bộ tướng cũ của vua Đinh ngầm rút về Ái Châu
khởi binh đánh Lê Hoàn nhưng thất bại và bị giết hết (Phạm Hạp và Đinh Điền bị
bắt sống đem về xử tử ở kinh đô Hoa Lư).
Sự lộn
xộn này bị bọn quan lại nhà Tống ngoài biên trông thấy, Tống triều liền lợi
dụng ngay cơ hội cử đại quân do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tố, Lưu
Trừng, Gia Thực, dẫn qua nước ta. Hầu Nhân Bảo được lĩnh chức Giao Châu Chuyển
Vận Sứ, và theo kế hoạch của nhà Tống, việc Nam chinh thành công thì thiết lập
ngay việc đô hộ.
Lê Hoàn
cử Phạm Cự Lượng làm Đại tướng. Trước khi Phạm Cự Lượng xuất quân, họ Phạm
tuyên bố: "Hiện thời Vua còn nhỏ dại, tướng sĩ đi đánh giặc lấy ai là
người biết để thưởng phạt cho minh, chi bằng ta nên tôn ông Lê Hoàn lên làm vua
rồi hãy xuất quân".
Quân sĩ
đều tán thành.
26 Theo
dã sử, Đỗ Thích một hôm nằm trên cầu mơ thấy một vì sao sa vào miệng cho là
điềm thần dị báo trước hồng vận, bèn nảy ra cuồng vọng giết vua Tiên Hoàng và
con trưởng là Nam Việt Vương để tiếm ngôi.
Thái Hậu
bèn cho đem áo hoàng bào ở trong cung ra, tự tay khoác vào mình Lê Hoàn. Đinh
Tuệ phải giáng xuống làm Vệ Vương. Đời sau cho rằng đây là cả một cuộc dàn cảnh
giữa các nhân vật chính thời đó: Dương Hậu, Lê Hoàn và Phạm Cự Lượng.
Phần 3 - Chương 3
Nhà Tiền Lê
- Lê
Hoàn đánh Tống
- Việc
ngoại giao
- Sự
nghiệp của Tiền Lê
1- Lê Hoàn Đánh Tống
Lê Hoàn
lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thiên Phúc (980-988) Hưng
Thống (989-993) và Ứng Thiên (994-1005). Ông sinh ở xã Ninh Thái, huyện Thanh
Liêm, tỉnh Hà Nam. Vừa lên ngôi xong, ông hiểu manh tâm của Bắc triều liền mở
ngay cuộc ngoại giao để lựa xem tình ý. Ông sai sứ mang thư sang Tống nói dối
là của Đinh Tuệ xin phong, không ngoài mục đích hòa hoãn với kẻ mạnh. Tống
triều không những đã không nghe còn trách Lê Hoàn dám xưng đế, và nói: nhà Đinh
nối tiếp nhau đã 3 đời rồi, vậy phong cho Đinh Tuệ làm Thống Soái, Lê Hoàn làm
phó. Nếu vì nhỏ tuổi không làm nổi chức vụ thì Lê Hoàn phải đưa mẹ con Đinh Tuệ
sang chầu Bắc Triều rồi sẽ được phong quan tước.27
Biết nhà
Tống có ý lừa gạt, Lê Hoàn liền sửa soạn việc quân. Quân Tống sang đất Việt có
2 đường: đường bộ là Lạng Sơn, đường thủy do sông Bạch Đằng.
Tháng ba
năm Tân Tỵ (981), Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng dẫn lục quân và bọn Lưu Trừng
dẫn thủy quân, do hai nẻo trên tiến vào nội địa Giao Chỉ.
Lê Đại
Hành đem binh thuyền giữ mặt thủy ở Bạch Đằng Giang. Hai bên xô xát. Quân Tống
thế mạnh, quân ta phải lui. Hầu Nhân Bảo đến Chi Lăng (thuộc Ôn Châu Lạng Sơn).
Lê Đại Hành lập kế trá hàng dụ Tống tướng đến chỗ hiểm. Hầu Nhân Bảo bị bắt và
bị chém. Quân Tống bị thiệt hại quá nửa và hai bộ tướng của họ Hầu cũng bị bắt
làm tù binh còn lại bao nhiêu đều tan vỡ hết. Lưu Trừng giữ thủy quân nghe tin
mất vía
27 Ý của triều Tống đòi mẹ
con Đinh Tuệ sang chầu không ngoài mục đích nắm giữ lấy dòng chính thống rồi
diệt Lê Hoàn sau. Dân Mất dòng chính thống thì đế quốc xâm lăng mới tránh được
chướng ngại vật lớn nhất là chính nghĩa.
liền rút
lui. Riêng có một chạm trán tại Lạng Sơn, Lê Hoàn thắng Tống một cách oanh
liệt, kể cũng là một vinh dự lớn cho dân tộc chúng ta.28
2- Việc Ngoại Giao Dưới Đời Tiền Lê (980-1005)
Quân xâm
lăng đã xa bờ cõi, nhưng Lê Hoàn hiểu rằng dù sao lực lượng của nhà Tống vẫn
mạnh hơn lực lượng của mình, chước cầu hòa vẫn là thượng sách.
Năm 982,
Lê Hoàn sai sứ sang Bắc triều đem trả 2 viên tướng của Tống bị bắt làm tù binh
ở Chi Lăng (Lạng Sơn) trước đây là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huấn, và báo
tin đánh được Chiêm Thành cùng xin chịu lễ tiến cống. Bấy giờ, Tống đang lo vào
cuộc quấy phá miền Bắc của quân Khiết Đan (Hung Nô) nên hoàn cảnh trở nên rất
thuận tiện cho Giao Châu. Tống triều phong cho Lê Đại Hành chức Tiết Độ Sứ.
Nhưng
theo Nguyễn Tường Phượng, sau khi nhận được chế sách, Lê Đại Hành mới đem trả
lại 2 viên bộ tướng kể trên.
Mới
nghe, ta tưởng như nhà chép sử đã xuyên tạc sự thật để nâng cao phong thể quốc
gia, nhưng quả vua Tiền Lê đã có những cử chỉ rất hiên ngang đó với Bắc quốc.
Ta xem cách Ngài tiếp sứ sau này thì rõ (Có nên khen Ngài vừa mới dựng nước,
quốc gia tuy chưa hùng mạnh lắm mà đã lưu tâm ngay đến vấn đề quốc thể chăng?).
Năm 985,
(Thiên Phúc thứ 6), có sứ Tàu qua, khi về Lê Đại Hành đưa rùa vàng, ngà voi
sang biếu để xin lĩnh tiết trấn. Tháng 10 năm sau, Bắc triều phái chức Tả Cổ
Khuyết là Lý Nhược Chuyết và Quốc tử giám bác sĩ là Lý Giác mang chế sách sang
phong cho Lê Hoàn "Kim sử quang lộc Đại phu, kiểm hiệu Thái Úy An Nam Đô
hộ Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ, Kinh Triệu Quân Khai Quốc Hầu".
Trong
chế sách, Bắc triều có nhắc lại vài trang lịch sử giữa Trung Quốc và phương
Nam. "Sĩ Nhiếp là người thông minh khai hóa cho dân tộc đất Việt được yên
ổn. Triệu Úy Đà là người kính thuận theo chiếu chỉ của nhà Hán mà không trái,
vỗ về dân di lạc để tỏ rõ đức hóa của Trung triều".
Các việc
giao dịch giữa Giao Châu với Bắc triều dưới đời Tống có thể tóm tắt như sau:
Cùng năm
986, có Lý Giác sang sứ nước ta, vua Lê Đại Hành sai Ngô Quốc Ấn đem phương vật
sang biếu nhà Tống và nói có người Chiêm là Bồ La Át đem họ hàng hơn trăm người
sang xin nội phụ.
Tháng 10
năm ấy, nhà Tống ban chế sách phong Lê Hoàn làm chức "Kiểm hiệu Thái bảo,
An Nam Đô hộ sung Tĩnh Hải quận Tiết độ sứ Giao Châu Quản Nội Quán Sát Xử Trí
Đẳng sứ, Phong Kinh Triệu Quân hầu".
28 Sau việc đánh Tống, giữ yên bờ cõi Đại
Việt, các quần thần dân lên Lê Hoàn tôn hiệu là "Minh càn ứng vận thần vũ
thăng bình chí nhân, Quảng hiếu Hoàng Đế" -- Khâm Định Việt Sử 9.1 tờ 18a.
Đến năm
thứ nhất hiệu Đoan Củng (988), Lê Hoàn được gia phong "Kiểm Hiệu Thái Úy
Đô hộ bộ". Viên Ngoại Lang là Ngụy Tường, Trức sứ quân là Lý Bộ đem chế
sách tiến phong.
Năm 990,
Vua Tống sai Tả Chính Ngôn là Tống Cảo, Hữu Chính Ngôn là Vương Thế Tắc đem chế
sách phong cho vua Lê Đại Hành "Đặc Tiến" là chức quan đặt từ đời nhà
Hán. Các chư hầu, vương, công, tướng quân, người công cao đức trọng, triều đình
kính phục mới được ngôi này.
Sau khi
Tống Cảo trở về, Lê Hoàn sai Đào Cân đem phương vật sang biếu. Việc này vào
tháng hai năm Tân Mão (991).
Năm 993,
vua Tống cho Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản đem chiếu sách phong Lê Hoàn làm
"Tỉnh hải quận Tiết Độ sứ Giao Chỉ Quận Vương".
Bấy giờ,
Hoàn sai sứ sang cống và gửi tờ biểu của Đinh Tuệ nhường ngôi. Vì nhà Tống bại
trận nên vua Tống không dám hạch sách lôi thôi như trước.
Năm 994,
Lê Hoàn sai Nha hiệu Phi Sùng Đức sang biếu quý vật.
Năm 995,
Lê Hoàn lại cho cống phương vật nữa nhưng cũng năm này, Lê Hoàn cậy có rừng rậm
núi cao, địa thế hiểm trở thả bọn dân ở biên cương sang ăn cướp các vùng lân
cận đất Tàu. Chuyển Vận Sứ ở Quảng Tây là Trương Quan và chức Binh Mã Giám Ấp ở
trấn Như Hồng (thuộc Khâm Châu) là Vệ Chiêu Mỹ dâng sớ tấu về triều rằng Giao
Chỉ có hơn trăm thuyền chiến vào cướp trấn, hiếp dân, tước đoạt kho tàng rồi bỏ
đi.
Mùa hè
năm ấy, Tô Mậu của ta đem 5.000 hương binh vào lấn Châu Ung, nhưng bị chức Đô
Tuần Kiểm là Dương Văn Kiệt đánh đuổi được. Nhà Tống cũng lờ đi vì không muốn
có việc động binh.
Trước
đây ở Trào Dương (nay là Quảng Yên) có bọn Văn Dũng làm loạn giết người trốn
sang trấn Như Tích ở Khâm Châu. Trấn Trướng là Hoàng Lệnh Đức chứa bọn ấy. Trấn
tướng của Giao Chỉ ở Trào Dương là Hoàng Thành Nhã đuổi bắt, Lệnh Đức không
trả. Khi Trần Nghiêu Tẩn đến thay bọn Trương Quan liền đem giao lại hết thẩy là
113 người vừa nam phụ lão ấu.
Lê Hoàn
sai sứ sang cảm tạ và bắt được 27 người Đản (dân chài) không hiểu tiếng Tàu đem
nộp cho chức Chuyển Vận Sứ Quảng Tây nói là giặc bể xin trả lại.
Cùng năm
ấy, Lý Nhược Chuyết đem chiếu thư và đai ngọc sang phong cho Lê Hoàn.
Họ Lê
thong thả bảo Nhược Chuyết:
"Ngày
xưa cướp ở Như Hồng là giặc bể ở ngoài cõi, Hoàng đế đã biết không phải là quân
Giao Châu chưa? Giả sử phải quân Giao Châu thì trước đánh Phiên Ngung, sau đánh
Mân Việt, há chỉ trấn Như Hồng mà thôi!" (thật là luận điệu hào hùng của
kẻ chiến thắng).
Đến năm
Đinh Dậu (997) Tống Thái Tông mất. Chân Tông lên ngôi. Lê Hoàn lại được gia
phong Nam Bình Vương. Năm ấy quân Chiêm quấy rối ngoài biên, Lê Hoàn đánh đuổi
được lại đem phương vật sang biếu nhà Tống và gửi tờ biểu thuật chuyện dẹp
Chiêm Thành, nhưng kết luận rằng việc thắng trận là nhờ "đức hóa của Triều
đình".
Vua Tống
ưu đãi sứ giả và ban cho đai ngọc cùng ngựa và áo giáp (Khâm Định Việt Sử,
Quyển 1 tờ 33a).
Đến năm
Giáp Thìn (1004) Lê Hoàn sai Hành Quận Vương là Minh Để xưng Nhiếp Hoan Châu
Thứ sử sang chầu vua Tống. Vua Tống vời vào tiền điện, yên ủi hỏi han, ban cho
rất hậu rồi phong Minh Để làm Kim Tự Vinh Lộc đại phu, Kiểm hiệu thái úy Hoan
Châu thứ sử.
Tóm lại
vua Đại Hành về mặt ngoại giao đã nâng cao được địa vị nước nhà vì bên trong đã
gây nổi được an ninh, trật tự, bên ngoài biết dùng sức mạnh để làm Trung Quốc
phải kiêng nể. Nếu không làm nổi việc trị loạn và trị bình thì đâu có thể nhìn
thẳng mặt người Hán tộc.
3- Việc Đánh Chiêm Thành
Năm 981,
Lê Đại Hành sai Từ Mục và Ngô Tử Cảnh sang sứ Chiêm Thành, người Chiêm đã cự
tuyệt lại bắt giam sứ giả, Lê Đại Hành tức giận, nên sau khi đã yên ổn với Bắc
triều (982) liền huy động quân đội mở cuộc Nam chinh. Quân Chiêm đại bại, tướng
Chiêm là Tỳ My Thuế chết tại trận, quân Chiêm bị bắt làm tù binh rất nhiều cùng
100 cung nữ Chiêm và một nhà sư Thiên Trúc. Vàng bạc, châu báu bị tịch thu
không kể xiết.
Năm 989,
Dương Tiến Lộc là quản giác vâng mệnh đi thu thuế châu Hoan và châu Ái, dụ dân
hai châu làm loạn và liên lạc với Chiêm Thành; Lê Đại Hành đem quân đi đánh bắt
được Dương Tấn Lộc giết chết cùng một số đông dân ở địa hạt này.
Năm Giáp
Ngọ (994), vua Chiêm sai Chế Đông sang dân phương vật. Lê Đại Hành trách Chiêm
vô lễ; vua Chiêm lo sợ liền sai cháu là Chế Cai sang chầu.
4- Việc Mở Mang Trong Nước
Sau khi
bờ cõi trong ngoài yên ổn, Lê Đại Hành nghĩ đến việc đúc tiền. Trước thời Tiền
Lê, dân chỉ lấy đồ đạc, vật liệu đổi chác cho nhau, có thứ tiền bên Tàu đem
sang nhưng chưa lưu thông, nên mọi việc công, tư đều không tiện. Năm 984, vua
Lê Đại Hành cho đúc tiền Thiên Phúc (Khâm Định Việt Sử, quyển 2 - tờ 1-20a).
Năm 986,
Lê Đại Hành chọn những người khoẻ mạnh sung vào quân túc vệ gọi là thân quân,
có khắc ở trán ba chữ "Thiên tử quân".
Năm Giáp
Thân (984), Đại Hành cho dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Văn trong thành
Hoa Lư (nay là núi Trường Yên).
Năm
1002, Lê Đại Hành tăng cường quân sự, tổ chức các đội, các ngũ, chia tướng hiệu
làm 2 ban.
Cùng năm
ấy, định lại luật pháp để trị dân, mở mang nông nghiệp, khuyên dân cày ruộng
tịch điền, đổi 10 đạo làm lộ, phủ và châu; đào cảng (ngòi, kinh) và sai Ngô Tử
Yên đem 3 vạn quân mở đường đi bộ từ bể Nam giới đến châu Đại Lý.
Trước
công cuộc bành trướng đất đai để giải quyết nạn nhân mãn ở đồng bằng sông Nhị,
và bảo vệ nền nội an của quốc gia mà dân Chiêm Thành hay phạm đến, ta phải tán
thưởng cái công lao và sáng kiến của nhà Tiền Lê vậy (Khâm Định Việt Sử, quyển
2- tờ 20a).
Vua Lê
Đại Hành mất năm Ất Tỵ (1005), làm vua được 24 năm, thọ được 65 tuổi. Tiếc rằng
sau khi Ngài qua đời, mọi việc đang mở mang bị ngừng lại.
Cái Án
Lê Hoàn và Dương Hậu
Bàn về
Lê Hoàn cũng như xét công, luận tội nhiều nhân vật khác trên Lịch sử sau này
(Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Mạc Đăng Dung, v.v...) các sử nho hay nêu ra cái án
giết Vua, thoán quốc, lộng thần, theo tư tưởng và chủ nghĩa tôn quân của thời
phong kiến.
Sự thật,
quả Lê Hoàn cùng bè đảng là Phạm Cự Lượng và Dương Hậu, đã đồng tình với nhau
phế bỏ Đinh Tuệ, một ông vua nhỏ tuổi nhất của dân tộc Việt Nam bấy giờ mới lên
sáu. Họ đã làm một cuộc đảo chánh giữa lúc chính tình nước ta do cái chết bất
thình lình của vua Đinh và con cả của Ngài là Nam Việt Vương Liễn đang đi vào
chỗ bế tắc: vua còn quá thơ ấu, các đại thần tướng lĩnh mỗi người một bụng một
dạ. Bên ngoài nhà Tống đã lợi dụng cơ hội này để đem quân xâm lăng vào cõi như
thói thường của các vương triều Trung Quốc trước và sau. Chính việc xâm lăng
này đã thành một động lực nó thúc đẩy các triều đình đang khủng hoảng này phải
dứt khoát trong vấn đề lập vị nguyên thủ: Vua nhỏ thì việc nước phải vào tay
các đại thần, và các đại thần trong giai đoạn nền độc lập của quốc gia còn non
nớt thì làm sao đã có ngay sự nhất trí được. Tất nhiên mạnh ai, người nấy làm,
chia rẽ nhiều sớm muộn phải thành loạn, cuộc biến động chỉ là vấn đề đầu hôm,
sớm mai mà thôi.
Lê Hoàn
đã mạnh dạn bước ra lĩnh trách nhiệm với quốc dân và Lịch sử. Việc phải đến đã
đến. Nó là một nhu cầu của thời thế, nó là một sự kiện tất nhiên của Lịch sử.
Rồi Thái hậu họ Dương đã khoác hoàng bào lên cho Thập Đạo tướng quân họ Lê
trước sự hoan hô nhiệt liệt của số đông triều thần. Sau đó Lê Hoàn đã mang quân
ra đọ tài, thử sức với đám binh sĩ viễn chinh của nhà Tống, lập nên một triều
đại được Bắc phương kính nể, được quốc dân hoan nghinh. Chính việc chiến thắng
hết sức vẻ vang này đã gỡ cho Lê Hoàn khá nhiều về cái tội cướp ngôi, lấy Hậu.
Nói cách khác, cuộc chiến thắng của họ Lê đã làm mờ cái án trên đây mà các sử
thần đời xua đã buộc cho ông.
Ngày nay
chúng ta nghĩ khác: Trên bình diện quốc gia chính quyền không thể ở trong tay
một trẻ nhỏ, một người đàn bà xưa nay chỉ có quanh quẩn ở chốn buồng the. Ai
tài giỏi thì cứ việc ra lĩnh đạo việc nước, miễn đảm đương nỗi sứ mạng. Vai trò
nguyên thủ của quốc gia chẳng là địa vị độc quyền của một dòng họ nào hết. Như
vậy việc âm mưu cướp ngôi nhà Đinh không thành vấn đề, đến cả cái án Dương Hậu
cũng chẳng là một điều đáng để quốc dân thắc mắc. Trái lại người ta có thể khen
Dương thị có mắt tinh đời, biết lẽ tới lui, nếu cố chấp biết đâu một cuộc đảo
chính sẽ chẳng xảy ra với một phương pháp khốc liệt thì Hoàng gia sẽ khó lòng
thoát được chuyện đổ máu và nhiều nhân vật quan trọng đời bấy giờ cũng sẽ là
những nạn nhân bi thảm. Bề tôi lấy vợ vua, đối với quan niệm đạo thời xưa tất
nhiên là có tội, nhưng ở đời phải biết lẽ kinh quyền mới khỏi lỡ nhiều sự việc.
Tóm lại, những biến cố xảy ra từ trong hoàng cung của vua Đinh ra đến biên thùy
Hoa Việt được kết thúc một ách êm đẹp thì nhà làm sử thiết tưởng chẳng nên rườm
lời kia khác.
Phần 3 - Chương 4
Các Vua Kế Tiếp Lê Đại Hành
I. Lê
Trung Tông
II. Lê
Ngọa Triều
- Việc
ngoại giao với Bắc Triều
- Sự tàn
ác của Long Đĩnh
- Vụ âm
mưu cướp ngôi nhà Tiền Lê
1- Lê Trung Tông
Năm 1005
Lê Hoàn qua đời và vua Đại Hành đã lầm như nhà Đinh là bỏ trưởng lập ấu (lấy
con thứ ba là Long Việt lên làm thái tử, đáng lẽ địa vị này thuộc về Ngân
Tích). Lúc này Long Đĩnh là con thứ năm cũng xin được tôn lập. Xét ra các ông
hoàng, ai nấy đều muốn giành ngai vàng cho mình cả, nhưng khi vua Đại Hành còn
sống, không ai dám có thái độ gì chống đối.
Rồi mùa
xuân năm Giáp Thìn (1004) Long Việt được tấn phong, đến tháng 3 năm Ất Tý
(1005) thì vua Đại Hành qua đời.
Đông
Thành Vương Ngân Tích, Trung Quốc Vương Long Kính, Khai Minh Vương Long Đĩnh
nổi loạn luôn 8 tháng ròng, đến mùa đông tháng 10 năm ấy Long Việt mới thực sự
lên ngôi. Ngân Tích bỏ trốn rồi bị người ở Thạch Hà giết.
Long
Việt bước lên ngai vàng chưa quá ba ngày thì Long Đĩnh thuê người trèo tường
vào cung hạ sát, sau đó lên ngôi xưng là Khai Thiên Ứng Vận Thánh Văn, Thần Vũ,
Tắc Thiên Sùng Đạo Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế. Sau Long Việt được truy
đặt tên Thụy là Trung Tông Hoàng đế. Long Việt bị ám sát, cung đình rối loạn và
bị khủng khiếp khiến các quân quan phải bỏ chạy hết, duy có Lý Công Uẩn là Điện
tiền quan ở lại ôm thây ông vua xấu số mà khóc. Vua Trung Tông mất bấy giờ mới
23 tuổi.
Long
Đĩnh khen Công Uẩn là người có nghĩa nên thăng làm Tứ Xương quân Phó Chỉ huy
sứ.
2- Lê Ngọa Triều (1005-1009)
Long
Đĩnh lên ngôi, trong lúc này Ngũ Bắc vương là Long Ngân, Trung Quốc vương là
Long Kính chiếm cứ trại Phù Lan thuộc xã Phù Vệ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải
Dương chống lại. Long Đĩnh phải đem quân đi dẹp. Bên ngoài lại có giặc Cử Long
vào cướp phá ở huyện Cẩm Thủy thuộc Thanh Hóa. Long Đĩnh ngự vào Ái Châu. Việc
bình định có kết qủa. Sang năm sau (Bính Ngọ) 1006 là năm Ứng Thiên (vẫn theo
niên hiệu của Lê Đại Hành) Long Đĩnh lập con là Xạ làm Khai Phong vương, con
nuôi là Thiệu Ly làm Sở vương, Thiệu Hưng làm Hán vương.
Long
Đĩnh vì quá hoang dâm, tửu sắc bị mắc bệnh trĩ phải nằm mà coi triều. Người đời
bấy giờ gọi là "Ngọa Triều đế". Tuy vậy Long Đĩnh cũng muốn làm nhiều
việc mới: sửa đổi quan chế văn vũ, tăng đạo và triều phục hết thảy bắt chước
kiểu mẫu của nhà Tống. Theo triều phục của nhà Tống thì mũ có ba hạng:
1) Mũ
tiên hiền là phẩm phục các quan nhất, nhị phẩm.
2) Mũ
điêu thuyền là phẩm phục các quan tam phẩm ở các ty, các Ngự sử đài và chức ngũ
phẩm ở hai sảnh.
3) Mũ
giai sai là phẩm phục tử tứ phẩm đến lục phẩm.
Còn phục
sức từ công khanh trở lênmặc áo mầu tía, ngũ phẩm mặc áo mầu đỏ, thất phẩm trở
lên mặc áo mầu lục, cửu phẩm trở lên mặc áo mầu xanh.
Việc Ngoại Giao Với Bắc Triều
Long
Đĩnh cử em là Long Xưởng với Chưởng thư ký là Hoàng Thanh Nhã đem bạch tê sang
cống nhà Tống và xin 9 kinh (3 bộ sách Tàu: tôn làm kinh thuyết thứ nhất, xếp
chữ Lệ, Nghi Lễ, Lễ Ký, Tả truyện, Công Dương, Cốc Lương, Dịch, Thi và Thư làm
9 kinh thuyết thứ hai, xếp Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ,
Mạnh Tử và Chu Lễ làm 9 kinh. Chín Kinh của ta xin của Tàu có lẽ là kinh thuyết
thứ 2) và kinh Đại Tạng (kinh phật chữ Phạn gọi là Xripitaka) vua Tống ưng
thuận.
Vua Long
Đĩnh xin dùng áo giáp, mũ trụ có giát vàng và thông thương với Ung Châu. Các
điều này cũng được như ý, duy về việc buôn bán đổi chác, vua Tống chỉ cho thi
hành ở các chợ Châu Liêm và trấn Thư Hồng, có lẽ e dè sự đi lại của người Giao
Châu quá sâu trong nội địa của họ chăng?
Năm Đinh
Ngọ (1006) nghe nước ta rối loạn sau khi Lê Hoàn mất, vua Tống sai Lang Sách là
tri châu và Thiệu Việp là Điện Biên An phủ sứ sang kinh lý Giao Châu. Bọn này
trở về tâu rằng các con Nam Bình Vương Lê Hoàn chia bè đảng, lập thành trại,
sách mỗi người chiếm cứ mỗi nơi, nhân dân lo sợ, xin đem quân sang đánh dẹp.
Vua Tống
trả lời: "Họ Lê thường sai con sang chầu, nơi góc bể yên ổn, không bỏ lòng
trung thuận, nay nghe Nam Bình vương mất, chưa có lễ điếu, lại đánh người trong
khi có tang, đấng vương giả không làm những việc như thế". Rồi vua Tống
phái Lang Sách đem thư sang phủ dụ các con Lê Hoàn không nên cốt nhục tương
tàn.
Ngay sau
đó, bọn Thiệp Việp lại đem bản đồ thủy lục từ châu Ung đến Giao Châu, trình lên
vua Tống để đề nghị Nam chinh. Vua Tống cũng không thuận (cử chỉ này thật là ít
có ở những vương triều Trung Quốc).
Tháng 8
năm sau là năm Đinh Tỵ (1007) nhà Tống sang sách phong cho Long Đĩnh làm Giao
Chỉ Quận Vương, lĩnh chức Tiết Độ Sứ ở Tĩnh Hải quận, cho tên là Chí Trung.
Tháng 6 vua Tống cho đúc ấn Giao Chỉ quận vương do chức chuyển vận sứ Quảng Tây
đem sang. Nguyên xưa Bắc Triều phong cho Giao Châu chỉ có Tiết Việt (Tiết là
thẻ tre khắc tên họ và chức tước sứ giả, Việt là lưỡi vót, vua giao cho võ
tướng đi đánh giặc nơi xa có quyền thay vua sinh sát để làm uy), chứ chưa có
phong vương. Nay Tống Chân Tông cho rằng Giao Châu là nơi biên viễn cần có
"ấn mệnh của triều đình" mới trấn phục được nhân dân.
Sự Tàn Ác Của Lê Long Đĩnh
Long
Đĩnh là một ông vua nổi tiếng hiếu sát trong lịch sử nước ta. Hễ làm thịt các
gia súc như trâu, bò, dê, gà, lợn bao giờ cũng tự tay chọc tiết rồi mới giao
cho nhà bếp. Kết tội tử hình ai thì Long Đĩnh tìm ra những cách nào tàn ác hơn
hết như sai lấy rơm quấn vào tội nhân rồi châm lửa đốt. Kẻ xấu số gần chết,
Long Đĩnh cho phường chèo người Tàu như Liêu Thư Tâm cầm dao cắt những mối rơm
để tội nhân không chết được ngay.
Long
Đĩnh lấy làm thú lắm.
Khi đi
đánh dẹp, bắt được giặc, Long Đĩnh đem ra bờ sông sai người làm thủy lao nhốt
tù vào đấy để nước thủy triều dâng lên làm cho họ chết sặc, hoặc có khi bắt họ
leo cây rồi cho người đẵn gốc.
Năm 1008
đi dẹp Man Động, Long Đĩnh bắt được quân Mán sai người đánh. Quân Mán đau quá
kêu gào và thường phạm vào tên húy của Đại Hành. Long Đĩnh lấy làm thích ý do
lòng oán vua Lê Đại Hành đã không muốn cho mình nối ngôi trước đây.
Có lần
Long Đĩnh đem nhốt phạm nhân vào một cái quây rồi chất củi xung quanh để đốt.
Nghe Ninh Giang có nhiều rắn, Long Đĩnh bắt trói người vào cạnh thuyền rồi cho
thuyền bơi qua bơi lại để cho rắn cắn chết. Lại có khi Long Đĩnh cho róc mía
trên đầu nhà sư (nạn nhân thuở đó là Quách Ngang) , giả lỡ tay hạ dao vào đầu
cho chảy máu.
Trong
những buổi chầu, hễ các quan có điều gì nói thì có tên hề đứng bên pha trò hay
nhại để làm rối các việc tấu đối. Triều đình bấy giờ là một cái sân khấu, không
hơn không kém.
Long
Đĩnh làm vua được 4 năm, đổi niên hiệu là Cảnh Thụy (1005 1009) qua năm sau thì
mất, thọ 24 tuổi và làm vua vừa đúng được 4 năm.
3- Vụ Âm Mưu Cướp Ngôi Nhà Tiền Lê
Vua Long
Đĩnh nằm xuống, con còn nhỏ. Triều đại của Long Đĩnh như ta thấy do sự tàn ác
đã làm mất lòng dân chúng rất nhiều tuy Long Đĩnh trong 4 năm ở ngôi cũng đã
làm được một vài việc đáng kể (dẹp giặc Cử Long, ngoại giao với Bắc triều,...)
Đáng chú ý một điều là người dân Việt của chúng ta vốn rất không ưa việc chém
giết một cách độc ác, dã man và bao giờ cũng có phản ứng rất mãnh liệt đối với
những chính sách tàn bạo dầu theo hình thức nào. Huống hồ vua Long Đĩnh trong 4
năm trị vì chưa hề thi ân, thi đức đối với nhân dân. Lịch sử sau này còn dẫn
chứng cho lời nói trên đây khi các vua chúa quá coi thường sinh mệnh của nhân
dân trong lúc cầm quyền.
Triều
đình nhà Tiền Lê trong giờ phút Long Đĩnh tạ thế bắt đầu sinh biến. Việc phải
đến dã đến. Trong triều bấy giờ Lý Công Uẩn giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ là
người có tư cách và năng lực hơn cả. Ông có tư chất thông minh, thọ giáo nhà sư
Vạn Hạnh từ thuở nhỏ, lại thêm đức tính khẳng khái và có chí lớn.
Vạn Hạnh
là nhân vật thế nào?
Đạo Phật
du nhập vào Việt Nam từ đệ tam thế kỷ và mỗi ngày một thịnh đạt. Các sư nhờ chỗ
uyên thâm Hán học đã được các vua chúa trọng dụng và có rất nhiều ảnh hưởng đối
với dân chúng. Hai vị sư đầu tiên tham gia chính sự giúp vua Đinh và Tiền Lê là
Khuông Việt và Ngô Chân Lưu. Người thứ ba là sư Vạn Hạnh bấy giờ cũng nổi danh
chẳng kém và có lẽ sư đã hiểu rõ thời cuộc, thấu đáo việc tương lai nên muốn
chấm dứt triều đại Lê Long Đĩnh (nhất là Long Đĩnh lại ngược đãi cả tăng giới)
cho hợp với nguyện vọng của nhân dân và canh cải lại xã hội đang đi tới chỗ rối
loạn.
Một hôm
trời mưa to, sét dánh ngã một cây bông lớn ở làng Diên Hồng là nơi quê quán của
Lý Công Uẩn, ở vỏ cây lộ ra một bài sấm như sau:
Gốc cây
trăng trắng Vỏ cây xanh xanh Hoa đao một ngã Thập bát tử thành Đông A nhập địa
Cây khác lại xanh
Cung
Chấn vầng nhật Cung Đoài ẩn tinh Khoảng sáu bảy năm Thiên hạ thái bình
Vạn Hạnh
nói riêng với Công Uẩn: "Hoa đao mộc là chữ Lê, Thập bát tử là chữ Lý,
Đông A là họ Trần, Nhập địa là phương Bắc sang xâm lấn. Cây khác lại xanh là họ
Lê sống lại, đó là nói họ Lê mạt, họ Lý nổi lên, sau sáu bẩy năm sau thiên hạ
lại thái bình".
Lại còn
chuyện một bữa vua Ngoạ triều ăn trái khế thấy hột lý trong ruột nhớ đến lời
sấm liền cho người tìm những ai họ Lý để giết mà quên Lý Công Uẩn ở ngay cạnh
nách.
Trong
hai chuyện kể trên, vai chủ động dĩ nhiên không ai khác hơn là sư Vạn Hạnh đã
làm ra lời sấm và ngầm cho tuyên truyền trong dân gian, cả chuyện vua Long Đĩnh
ăn phải trái khế có hột lý. Mục đích của Vạn Hạnh là lợi dụng lòng mê tín dị
đoan của dân chúng và của các người có học vấn đương thời nhưng đầu óc còn tin
chuyện quỷ thần, trời đất thuở ấy. Nhà sư thật đã khéo lung lạc nhân tâm và dọn
đường cho học trò của mình bước lên ngôi cửu ngũ. Ta lại nên chú ý một điều nữa
là các tác dụng chính trị trên đây đã thi hành ngay khi vua Ngọa triều còn tại
vị. Nếu vua Ngọa triều không yểu vong tất cũng vẫn sẽ xẩy ra một cuộc giết vua
cướp ngôi chớ chẳng không. May mà Ngọa triều chết sớm nên Công Uẩn đã không
phải thi hành việc thoán đoạt bằng sắt máu như Mạc Đăng Dung và Hồ Quý Ly bốn
năm thế kỷ sau.
Người
thứ ba đồng lõa trong vụ âm mưu chính trị này là Đào Cam Mộc. Sử chép họ Đào
khuyên Công Uẩn: "Hồi trước đức vua tối tăm bạc ác, trời chán ghét ngài mà
con ngài thì còn nhỏ tuổi chưa thể đảm đương buổi đa nạn này, dân chúng đang
khao khát chân chúa ra đời như đại hạn mong mưa. Vậy Thân vệ nên thừa cơ hội
cương quyết theo dấu vua Thang, vua Võ. Xem việc của họ Lê (chỉ việc vua Lê Đại
Hành cướp ngôi nhà Đinh) trước đây cũng là chính đáng, thuận lòng trời và lòng
dân, sao lại khư khư giữ cái tiết mọn? ..."
Đến hôm
sau, Cam Mộc lại nói: "Lời sấm đã rõ ràng, người trong nước ai cũng tin họ
Lý sẽ chổi dậy, việc đổi họa ra phúc cho đất nước chỉ ở đầu hôm sớm mai, Thân
Vệ còn ngại ngùng gì nữa?"
Công Uẩn
xiêu lòng nói: "Ý ông cũng như ý sư Vạn Hạnh nhưng phải làm thế nào cho
được êm ấm trong ngoài?"
Thân Vệ
công bình, khoan thứ, hẳn là dân vui lòng theo. Hiện nay nhân dân đói khổ, ta
dùng ân đức vỗ về ắt sẽ thành công.
Sau việc
bàn soạn này Đào Cam Mộc liền họp ngay trăm quan tuyên bố cuộc đảo chính. Việc
đảo chính thành tựu một phần vì quân đội trong tay họ Lý, một phần vì Lý Công
Uẩn quả có xứng đáng hơn ai hết trong thời bấy giờ. Ngoài ra Đào Cam Mộc cùng
Lý Công Uẩn trước đó đã có sẵn vây cánh mạnh trong đám triều thần. Những người
này cũng mong có cơ hôị thay thầy đổi chủ để bước cao trên bậc thang phú quý.
Chính Đào Cam Mộc đã tuyên ngôn trắng trợn như sau: "Nay ức triệu khác
lòng, thần dân lìa đức nếu không thừa dịp tôn ngài Thân Vệ lên ngôi, rủi có
quốc biến thì chúng ta đâu còn giữ được địa vị!"
Nếu ta
để ý, ta thấy sau cuộc thoán đoạt, Lý Công Uẩn lên làm vua, Vạn Hạnh làm Quốc
sư, Đào Cam Mộc được làm phò mã và phong hầu thì có thể tin rằng sư Vạn Hạnh là
người chủ trương thay đổi thời thế thuở ấy. Đào Cam Mộc là kẻ thi hành và sửa
soạn cuộc đảo chính. Còn Lý Công Uẩn có lẽ chỉ là kẻ thụ động trong vụ này.
Ngay khi Long Đĩnh hạ sát Long Việt (vua Trung Tông) trong lúc các triều thần
hoảng hốt bỏ chạy hết, ông là người duy nhất dám ở lại ôm thây vua mà khóc thì
đủ hiểu con người giàu thiện lương ấy không có manh tâm cướp ngôi của nhà Tiền
Lê. Nhưng sau này Ngọa triều mất, con còn nhỏ, cơ hội thuận tiện ấy mới tạo nên
một lý do, một sức mạnh nó thúc đẩy ông rời bỏ chữ Trung, chứ việc sấm ký mà sư
Vạn Hạnh đưa ra để sửa soạn việc thoán đoạt chưa nên coi là điều đã quyết định
ở nơi ông để tranh vương đồ bá.
Phần 3 - Chương 5 Nhà Hậu Lý (1010-1225)
1) Lý
Thái Tổ (1010-1028)
2) Lý
Thái Tông (1028-1054)
3) Lý
Thánh Tông(1054-1072)
4) Lý
Nhân Tông (1072-1127)
5) Lý
Thần Tông(1128-1138)
6) Lý
Anh Tông (1138-1175)
7) Lý
Cao Tông(1176-1210)
8) Lý
Huệ Tông(1211-1225)
9) Lý
Chiêu Hoàng (1224-1225)
I. Vua Lý Thái Tổ
Nhà Tiền
Lê cáo chung sau 29 năm ở ngôi. Ta nhớ nhà Đinh, nhà Ngô, hai vương triều đầu tiên
Việt Nam chỉ dài khoảng 20 năm. Tại sao có tình trạng này? Rồi khi nhà Lý lên
đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc Việt Nam, đây là một triều đại đáng
kể về đủ phương diện vì nó thọ được trên hai thế kỷ và ta thấy nền tảng của
chính thể quân chủ bắt đầu vững chắc.
Đặt câu
hỏi trên đây trước khi xét các sự kiện lịch sử về đời nhà Lý là để tìm hiểu sự
phôi thai của xã hội Việt Nam. Chúng ta hẳn còn nhớ tình trạng nước ta dưới
thời Bắc thuộc dài 1146 năm. Trong giai đoạn này dân Việt hấp thụ và lĩnh hội
văn minh Trung Quốc nhờ đó chúng ta đã phát triển được nhiều khả năng dân tộc.
Nhưng trong khoảng trên 10 thế kỷ chúng ta vẫn loanh quanh trong cái bệnh thiếu
thời. Đáng lẽ chúng ta tiến bộ sớm sủa hơn nữa, nhưng những biến cố chính trị
luôn luôn xẩy đến, khi thì ở ngoài biên đưa vào, khi thì phát xuất ngay trong
nội bộ quốc gia ta đã ngăn trở chúng ta rất nhiều.
Về phía
các vương triều đầu tiên cũng bị cái bệnh kể trên bởi giai cấp lãnh đạo và
phong kiến nằm trong nội bộ chỉ đoàn kết ở những trường hợp đặc biệt mà thôi,
vì xâm lăng là cái nạn chung. Xong việc nó lại trở về với cái căn bệnh nguyên
thủy hay có tật là phức tạp và chia rẽ. Ông vua bấy giờ chưa là hiện thân của
nền dân chủ, chưa đi đến mức có uy quyền thần thánh tuyệt đối, chưa trấn ngự
nhân tâm nhứt là những người quanh mình vì thế Kiều Công Tiễn giết Dương Đình
Nghệ, Dương Tam Kha bất tuân lời ủy ký của Ngô Quyền, là Sứ quân chống lại
vương quyền của nhà Hậu Ngô, Lê Hoàn mưu mô lật đổ nhà Đinh bằng những tổ chức
và âm mưu khôn ngoan khéo léo.
Lại nữa,
trong giai đoạn nhà Ngô, nhà Đinh cầm vận mệnh của dân tộc Việt Nam, giai đoạn
này là giai đoạn quá độ. Các lực lượng phong kiến và cát cứ vẫn còn đầy rẫy ở
khắp mọi nơi, mỗi lực lượng nắm một phần kinh tế địa phương. Nông nghiệp tuy
phát đạt nhưng chưa lan tràn khắp trong xứ vì luôn luôn có những biến cố chính
trị ngăn trở. Các dân cư sơn cước vẫn sống theo nền kinh tế cổ thời (săn bắn,
trồng trọt, hái lượm) hầu không có mối liên quan gì với các dân miền đồng bằng.
Vậy nếu ta hợp các yếu tố chính trị, kinh tế thời bây giờ vào với nhau, ta thấy
giai đoạn lịch sử này đã bị mầm loạn ngự trị, nó chỉ chờ có cơ hội thuận tiện
là bùng lên. Những vương triều đầu tiên chưa được ràng buộc vào một nền tảng
vững bền, hay chưa có thực lực nào đáng kể. Nó còn phải kiêng nể ít nhiều các
chính quyền địa phương gần như tự trị, nó bồng bềnh như nhà xây trên cát nên
luôn luôn bị sụp đổ, huống hồ các người kế vị các tiên đế lại bất tài, bất lực
hay thiếu đạo đức, càng như thúc đẩy xã hội Việt Nam vào những cuộc đảo lộn
liên miên.
Đến Lý
triều tình trạng quá độ này chấm dứt. Từ Lý Thái Tổ đến triều đình đã rút được
nhiều kinh nghiệm chính trị của các tiền triều. Người ta đã hòa hoãn được các
mâu thuẫn nội tại. Các lực lượng phong kiến yếu dần. Vương triều có dần thêm nhiều
uy thế. Sức bành trướng của dân tộc ở miền Trung Châu tiến mạnh. Kết quả tốt
đẹp này đều do các phương pháp tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội đúng lề lối,
nguyên tắc. Lại tới các triều đại sau này đã nhờ ở các khuôn nếp do Lý triều
tạo ra nên đưa dân tộc chúng ta mỗi ngày đi một xa trên con đường tiến hóa. Đó
là điều thiết yếu cho mọi sự tiến triển của xã hội ...
Lý Công
Uẩn, vua Thái Tổ nhà Lý đã có một tiểu sử khá ly kỳ bí mật. Người ta chỉ biết
ông là người làng Cổ Pháp, thuộc về huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Người ta không biết cha ông là ai. Tục truyền mẹ ông là Phạm Thị đi chơi chùa
Tiêu Sơn (thuộc phủ Từ Sơn) nằm mộng gặp gỡ thần nhân rồi thụ thai đẻ ra ông.
(Đối với thời khoa học ngày nay, điều này không thể tin được). Khi ông lên ba,
mẹ ông đem ông cho làm con nuôi nhà sư Lý Khánh Vân trụ trì chùa Cổ Pháp, do đó
ông được đặt tên là Lý Công Uẩn. Xét vậy ta có thể hiểu buổi thiếu thời ông đã
sống một cuộc đời bình dân và khổ hạnh.
Đến tuổi
trưởng thành ông vào phụng sự nhà Tiền Lê ở Hoa Lư lên dần tới chức Tả Thân Vệ
Điện Tiền Chỉ Huy Sứ giữa lúc nhà Lê đến buổi suy vong. Trong thời kỳ còn làm
quan với nhà Tiền Lê ông đã tỏ ra là người có tài năng và đức độ nên được mọi
người quý mến. Khi vua Ngọa triều mất, Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh lập mưu đưa
ông lên ngôi. Lúc đó ông đã 35 tuổi.
Lý Thái
Tổ lên làm vua vội mở mang, canh cải ngay nhiều việc: Ông dời kinh đô về La
Thành, xét Hoa Lư quá chật hẹp.
Sau khi
dời đến kinh đô mới, Lý Công Uẩn đổi thành Hoa Lư làm phủ Trưởng Yên (tức là
Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình bây giờ) đổi châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức (huyện
Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay) đổi sông Bắc Giang làm sông Thiên Đức và con
sông nầy chảy về sông Lục Đầu vốn là một chi lưu của sông Nhị Hà đi qua huyện
Đông Ngạn và Quế Dương. Việc triều nghi, quan lại cũng định lại. Nông nghiệp
được chấn hưng và khuếch trương do đó có việc đấp đê Cơ Xá để tránh thủy tai
hàng năm làm hại mùa màng và gây sự thiệt hại cho quốc gia.
Lý Công
Uẩn cũng rất săn sóc đến việc văn học. Ông cho lập nhà Văn Miếu để tôn sùng Nho
học và mở khoa thi Tam Giáo (Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo). Vì nhà vua xuất
thân ở cửa Phật nên Phật giáo kể từ nhà Lý rất được trọng đãi và khuyến khích.
Ông cho sưu tầm kinh Tam Tạng để truyền bá đạo Phật trong dân gian. Luật pháp
cũng được quy định.
Ngài
xuất hai vạn quan tiền để dựng 8 ngôi chùa ở trong phủ Thiên Đức, và tại Thăng
Long lập chùa Thiên Ngự, chùa Vạn Tuế, cung Thái Thanh. Ngoài thành Thăng Long
ngài cho xây chùa Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thổ, Thiên
Quang, Thiên Đức. Ở các địa hạt khác các chùa bị đổ nát đều được tu bổ.
Tháng
chạp năm thứ nhất hiệu Thuận Thiên (1010) cung Thúy Hoa dựng xong, có lễ khánh
thành và ban chiếu đại xá. Mọi việc thuế má đều được miễn trong ba năm. Dân
chúng vì thiếu thuế mà phải lẩn trốn và siêu bạt đều được trở về sinh quán làm
ăn. (Xét việc này ta thấy dân chúng bấy giờ cơ khổ nhiều lắm). Một số phạm nhân
dưới đời Lê Ngọa Triều cũng được phóng thích và cho đủ quần áo, thuốc men để
trở về xứ sở.
Lý Thái
Tổ chia nước ra làm 24 lộ (cùng năm ấy) Hoan Châu và Ái Châu đổi làm Trại, thêm
vào đó một trại mới ở phía Nam Châu Hoan gọi là trại Định Phiên.
Năm thứ
7 hiệu Thuận Thiên (1016) trong nước được mùa, vua Lý Thái Tổ lại tha thuế 3
năm nữa, năm thứ 9 tức là 2 năm sau lại có việc tha thuế ruộng một lần nữa.
Về binh
chế, năm thứ mười sáu hiệu Thuận Thiên, Lý Thái Tổ định ngạch lính có từng
giáp. Mỗi giáp có 15 người, có một Quản giáp đứng đầu. Có nhiều ngạch Quản giáp
được đặt ra và chức Hỏa đầu được đổi ra chức chính thủ. Theo Lê Quý Đôn trong
Kiến Văn Lục chức Hỏa đầu cũng như chức Đội trưởng nhà Hậu Lê (1428-1789) sau
này.
Phái bộ
ngoại giao đầu tiên của nhà Lý đã do Viên ngoại lang Lương Nhâm Văn và Lê Tài
Văn cầm đầu sau khi vua Thái Tổ lên ngôi (1010). Các đình thần triều Tống có ý
không tán thành việc Lý thay Lê nhưng vua Tống vẫn ưng thuận.
Tháng
chạp năm ấy (1010) sứ Tống đem sắc phong cho Lý Thái Tổ làm Giao Chỉ Quận
Vương. Ta thấy từ Đinh, Lê, nhà Tống bắt đầu phong cho các vua ta chức Kiểm
Hiệu Thái Úy, qua chức Tiết Độ, Đô Hộ rồi mới đến Quận Vương. Nay vua Lý Thái
Tổ được phong Quận Vương ngay, dĩ nhiên là do dân ta đã được Bắc triều khi đó
kiêng nể hơn bao giờ hết thảy.
Năm sau
tháng tư Viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa và Đào Khánh Vân đi kỳ sứ bộ thứ hai đem
phương vật sang biếu vua Tống. Khánh Vân xong việc trốn ở Tàu không về nước.
Người Tàu bắt trả vua Lý. Khánh Vân bị đánh chết.
Năm thứ
ba (1012) tháng chạp, Thái bảo Đào Thác Phụ và Viên ngoại lang Ngô Nhưỡng lại
qua Tàu thông hiếu.
Năm
Thuận Thiên thứ năm (1014) Man tướng ở Hạc Thác (cũng là Nam Chiếu) là Dương
Trưởng Huê và Đoàn Kinh đem 20 vạn quân vào cướp đất nước ta ở thượng du đặt
doanh trại gọi là trại Ngũ Hoa. Viên Châu Mục ở châu Bình Lâm (tức huyện Quảng
Nguyên tỉnh Cao Bằng ngày nay) tâu về triều. Dực Thánh vương được cử đi chinh
phạt, thắng trận giết được hàng vạn quân giặc và bắt được rất nhiều người ngựa.
Bình định xong miền Thượng du, vua Thái Tổ cho Viên ngoại lang là Phùng Châu và
Lý Thác đem một trăm ngựa bắt được của quân Man sang biếu nhà Tống.
Năm thứ
bảy hiệu Thuận Thiên (1016) vua Tống sai sứ sang gia phong cho Lý chức Nam Bình
vương.
Năm Mậu
Ngọ tháng sáu (1018) sứ bộ của ta là Viên ngoại lang Lý Đạo Thành và Phạm Hạc
sang Tống xin kinh Tam Tạng (chữ Phạn gọi là Tripitaka). Tháng 9 năm Canh Thân
(1020) sứ bộ mới về; Tăng Thống là Phi Trí được lệnh sang Quảng Tây đón kinh về
để tại nhà Đại Hưng là kho chứa Kinh.
Năm Tân
Dậu (1021) Viên ngoại lang Nguyên Khoan Thái, Nguyễn Thủ Cương sang Tống dựng
kinh tạng, nhà chứa kinh kiểu bát giác.
Tóm lại
việc giao dịch Lý Tống thuở bấy giờ rất là êm đẹp và có được vậy vua Thái Tổ
mới có đủ thì giờ để đánh dẹp các mối loạn trong nước ở các miền sơn cước và
man động thời nào cũng xảy ra. Thái Tổ tự làm tướng đem quân đi tiễu phạt (Khâm
Định Việt Sử q.2 tờ 13a).
Rợ Cử
Long cậy có địa thế rừng núi hiểm trở đã từng dấy động trước đây dưới thời Lê
Đại Hành đến năm 1011 lại nổi lên. Vua Thái Tổ bắt được bọn thủ lĩnh. Từ đó rợ
Cử Long mới bị diệt.
Năm Nhâm
Tý (1013) Thái Tổ lại xuất chinh đánh dẹp các quân phản nghịch ở Diễn Châu,
quân Màn Hạc Thái, có sự đồng lõa của Châu Mục Hà Trắc Tuấn, Tháng 2 năm Ất
Mão, Hà Trắc Tuấn lại chiếm các châu Vi Long (tức là Chiêm Hóa bây giờ), Đô
Kim, huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang, Thường Tân (không rõ ở đâu) Bình Nguyên
(tức châu Vị Xuyên, thuộc tỉnh Tuyên Quang bây giờ). Dực Thánh vương và Vũ Đức
vương đi đánh bắt được Hà Trắc Tuấn đem về kinh làm tội.
Tháng
chạp năm Canh Thân (1020) Lý Thái Tổ sai Khai Thiên vương và Đào Thác Phụ đi
đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính (thuộc Quảng Bình gồm ba huyện Bình Chính,
Minh Chính và Bố Trạch) chém được tướng Chiêm là Bồ Linh. Quân Chiêm đại bại.
Năm 1022
Mán Đại Nguyên Lịch (ở khoảnh giữa trại Như Hồng và trấn Trào Dương) quấy
nhiễu. Dực Thành vương đi dẹp vượt sang đất Tống đốt cả kho tàng rồi về.
Năm 1024
Khai Thiên vương Phật Mã và Khai Quốc vương Bồ đi đánh châu Phong và châu Đô
Kim.
Năm 1026
tháng 10 Khai Thiên vương đi đánh Diễn Châu.
Năm 1027
Phật Mã đi đánh châu Thất Nguyên (tức Thất Khê bây giờ). Đông Chinh vương tiễu
phạt châu Văn Uyên thuộc tỉnh Lạng Sơn.
Xét trên
đây, dưới thời vua Lý Thái Tổ tuy không có những võ công lớn lao nhưng những
việc đánh dẹp kể cũng khá nhiều. Vì hiểu tình trạng nước ta mấy triều trước
luôn luôn có việc nhiễu loạn nên đến lượt Ngài cầm vận mệnh dân tộc, Ngài sửa
soạn và tổ chức ráo riết việc quân. Các hoàng tử đều phải luyện tập quân cơ,
các hoàng thân quốc thích được phép tuyển mộ binh đội nên đã giúp một phần quan
trọng vào việc an ninh và uy thế quốc gia thuở đó.
Tóm lại
chính sách của vua Thái Tổ là thương dân, yêu nước giao hảo với Bắc triều, gây
thực lực cho quốc gia từ trong ra đến ngoài. Chính sách này đã thành công trong
19 năm Ngài ở tại ngôi.
Vua Thái
Tổ mất năm Thiên Thành (1028) thọ 55 tuổi. Trong thời vua Thái Tổ nước ở xa như
Chân Lạp tức Cao Mên bấy giờ có 4 lần sang cống (Khâm Định Việt Sử quyển 2 tờ
15a)
II. Lý Thái Tông (1028-1054)
1) Việc
chính trị
2) Việc
quân sự
3) Dẹp
Chiêm Thành
Vua Lý
Thái Tổ vừa nằm xuống thì Lý Triều là nơi xẩy ra cuộc tranh giành vương vị giữa
bốn vị hoàng tử. Theo ý Lý Thái Tổ thì Thái Tử Phật Mã được lên ngôi nhưng mấy
anh em là Võ Đức vương, Dực Thánh vương và Đông Chinh vương không chịu. Ai cũng
muốn ngôi cửu ngũ vể phần mình, rồi sẵn quân đội riêng các ông hoàng đem quân
vây thành. Thật là một cuộc đại náo kinh thành thời bấy giờ.
Trong
các triều thần có bọn Lý Nhân Nghĩa bàn cùng thái tử không còn chước nào hơn
nữa là dùng giải pháp võ lực để quyết định tình thế. Mặt trận đã dàn xong, về
phía thái tử, Võ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu rút gươm chỉ Võ Đức vương và bảo:
"Các người dòm ngó ngôi cao, khi dễ tự quân, trên quên ơn tiên đế, dưới
trái nghĩa quân thần, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm nầy". Nói dứt lời
Phụng Hiểu xông vào chém Võ Đức vương. Dực Thánh vương và Đông Chinh vương
khiếp uy bỏ chạy. Việc loạn chấm dứt. Thái tử lên ngôi tức là vua Thái Tông.
Còn lại Đông Chinh vương và Dực Thánh vương xin về chịu tội. Vua Thái Tông nghĩ
tình cốt nhục tha tội cho cả hai người và cho khôi phục chức vị như cũ. Nhưng
vì còn thắc mắc về tâm thuật của những người chung quanh, từ các thân vương đến
các bề tôi, từ đây vua Thái Tông buộc các quan hằng năm thi hành lễ tuyên thệ
tại đền Đồng Cổ (xã Yên Thái, giáp Tây Hồ, cạnh thành Hà nội ngày nay):
"Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung xin quỷ thần
làm tội". Ai mà không tới làm lễ tuyên thệ phải phạt 50 trượng.
1- Việc Chính Trị
Thái
Tông là một ông vua thông minh, rất am hiểu việc quân sự và chính trị. Ngài rất
lưu tâm về mọi vấn đề dân sự vì lòng thương dân. Gặp những năm mất mùa hay có
nhiều bịnh dịch, ngài xá thuế cho dân hàng hai ba năm. Về luật pháp ngài cũng
sửa đổi lại cho bớt sự gắt gao (ta hẳn nhớ luật pháp của mấy tiền triều có bề
quá nghiệt ngã). Đại khái ngài đặt cách tra hỏi phạm nhân, xác định các trường
hợp giảm khinh cho các người già hay vị thành niên và cho lấy tiền để chuộc tội
nếu không phạm vào thập ác. Ngài đặt niên hiệu là Minh Đạo (1042) trong khi ban
bố các chính sách nhân đạo của Ngài. Với hai chữ Minh Đạo, hẳn ngài muốn tỏ
lòng thương dân, thương nước và lo sửa sang đức độ của nền quân chủ coi trăm họ
như con. Năm sau ngài ra lệnh bãi bỏ tục mua hoàng nam để làm tôi tớ (hoàng nam
là người từ 18 tuổi trở lên). Ngài cho đúc tiền Minh Đạo để tiện việc buôn bán
trong dân gian và Ngài đặt ra nhà trạm để chạy công văn, chia đường quan lộ ra
từng cung cho thuận tiện mọi việc giao thông.
Trông cung
Thái Tông đặt
hậu và phi
13 người, ngự
nữ 18 người,
nhạc kỹ 100 người. Các cung nữ ngoài việc hầu hạ phải
tập nghề dệt vóc gấm.
2- Việc Quân Sự.
Dưới
thời vua Thái Tông cũng có nhiều việc đánh dẹp vì sự rối loạn vẫn còn là một
tình trạng thường trực từ các thời trước, ngoại trừ phái phong kiến đã bắt đầu
vào dần khuôn khổ. Điều thất sách là nhà vua không đặt các quan Triết trấn hay
Trấn thủ ở các miền sơn cước hay các miền lân cận thượng du nên quyền cai trị
và binh bị đều giao hết cho các Châu mục hay Tù trưởng, do đó quyền hành của
những người này rộng quá, họ dễ sinh phản nghịch. Vua Thái Tông luôn luôn phải
thân chinh đi đánh dẹp.
Năm Mậu
Dần (1038) người Nùng ở Quảng Nguyên (Lạng Sơn) thường hay nổi loạn.
Đây là
một thời đáng kể oanh liệt nhất của người Nùng.
Lĩnh tụ
của họ là Nùng Tồn Phúc người đất Tương Can, thuộc độn hay châu Thạch An, cát
cứ tại châu Đảng Ro gồm Cao Bằng và Lạng Sơn bây giờ. Vây cánh của Phúc là Nùng
Tồn Lộc (em ruột Phúc) thủ lĩnh châu Vũ Lạc (thuộc Cao Bằng, Lạng Sơn). Tất cả
các đất đai trên đây hợp thành châu Quảng Nguyên về đời nhà Lý. Sau này Tồn
Phúc giết cả hai em để chiếm hết ảnh hưởng vật chất và tinh thần tại Quảng
Nguyên rồi xưng là Chiêu Thánh hoàng đế, phong cho vợ làm Minh Đức hoàng hậu,
con là Nùng Trí Thông làm Nam Nha đại vương rồi đổi châu Quảng Nguyên làm nước
Tràng Sinh. Họ Nùng lại sửa sang bờ cõi, binh bị và xây thành trì, đồn ải cùng
tuyệt giao với Lý (tức là không xưng thần nạp cống) từ năm 1038.
Hồi
tháng giêng năm sau (1039), Hà Văn Trinh là thủ lĩnh Tây Nông (tức huyện Tư
Nông ngày nay thuộc tỉnh Thái Nguyên), làm báo cáo về triều Lý.
Năm Kỷ
Mão (1039) vua
Thái Tông phải thân đi đánh. Nùng Tồn Phúc và con là
Nùng Trí Thông bị bắt đem về kinh xử tội còn vợ và một con trai nữa là Nùng Trí
Cao chạy thoát. Nùng Trí Cao cũng là một kẻ có tài và có tinh thần quật cường
nên hai năm sau lại lập được quân đội cùng mẹ trở về chiếm châu Đảng Ro, sát
châu Quảng Nguyên, đạt nơi này là Đại Lịch quốc. Nhà Lý lại thêm một phen khó
nhọc và đến lượt
Nùng Trí
Cao bị bắt nhưng vua Thái Tông nghĩ đã giết cha và anh Trí Cao rồi không nỡ hại
Trí Cao nữa, cho trở về làm Quảng Nguyên Mục, sau gia phong hàm Thái Bảo.
Năm Mậu
Tí (1048) Nùng Trí Cao lại làm phản, tự xưng phen nữa là Nhân Huệ hoàng đế lấy
quốc hiệu là Đại Nam. Quan Thái Úy của triều Lý là Quách Thịnh Dật đem quân lên
đánh không có kết quả. Nùng Trí Cao tính chuyện nương dựa vào Tống triều và xin
phụ thuộc. Tống triều không thuận. Kể ra họ Nùng cũng rất khôn ngoan trong ý
định lợi dụng sự mâu thuẫn giữa Bắc phương và Nam phương đả có từ ngàn năm
trước để xây dựng cho "quốc gia Nùng" một địa vị trung gian ở giữa
hai lực lượng. Còn Tống triều không chấp thuận lời thỉnh cầu của họ Nùng hẳn là
thấy từ nhà Ngô dấy nghiệp qua tới mấy triều đại sau dân phương Nam đã thành
một khối chặt chẽ, đã tiến hóa và có một thực lực đáng kiêng nể, việc thừa nhận
quốc gia Nùng có thể phát sinh ra sự thù oán với Lý triều không khỏi là điều
bất lợi.
Vào
khoảng tháng 10 năm 1052 quân Nùng hãm Tân Châu và Ung Châu, chiếm được 8 châu
(Các châu: Hoành, Quí, Cung, Tàm, Đằng, Ngô, Khang, Đoan) thuộc Quảng Đông và
Quảng Tây làm cho Tống triều phải xúc động. Vua nhà Tống toan nhờ nhà Lý đánh
dẹp hộ nhưng tướng nhà Tống là Địch Thanh can ngăn lấy lẽ có một mình Trí Cao
mà lực lượng lưỡng Quảng không thể chế ngự được phải nhờ ngoại quốc thanh trừ
sẽ là một điều quốc sỉ. Việc này còn có ảnh hưởng khác không kém phần tai hại
là sẽ sinh mối biến loạn khác nữa hoặc trong nội bộ của Tống triều, hoặc ở
ngoài biên. Vua Tống cho là phải rồi cử bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện đem quân đi
đánh Trí Cao. Bọn này làm không nổi việc, vua Tống và triều đình càng thêm lo.
Trước sự lúng túng của Tống triều, Nùng Trí Cao dâng biểu xin phong làm Tiết Độ
Sứ châu Ung và châu Quý. Vậy mà vua Tống đã ưng thuận cho êm. Lại một phen nữa
Địch Thanh phản đối và tình nguyện xin đi đánh. Ông được phong làm Quảng Nam
Tuyên phủ sứ.
Bấy giờ
quân của Dư Tĩnh và Tôn Miện đang đóng ở Liễu Châu, địa hạt Tân Châu thuộc
Quảng Tây. Tháng chạp năm 1052 quân Địch Thanh đến Quảng Nam hợp với quân của
bọn Dư Tĩnh, Tôn Miện. Dịch Thanh hạ lệnh bất động để xem xét tình thế và định
kế hoạch. Trong lúc này quan Kiểm hạt Quảng Tây là Trần Thự không tuân tướng
lệnh cứ đem quân đi đánh Trí Cao và bị bại. Địch Thanh đem chém Trần Thự và cho
quân nghỉ 10 ngày. Trí Cao thắng trận nhiều lần sinh khinh địch và không lo đề
phòng bất ngờ bị Địch Thanh tấn công tại cửa Côn Lôn (thuộc Phủ Nam Ninh).
Trong khi chiến cuộc đang diễn hành, Địch Thanh dùng quân kỵ đánh vào hai bên
sườn quân Trí Cao. Bọn tướng tá Nùng là Hoàng sư mật Nùng Kiên Trung chết tới
157 người, còn quân bị hại tới hàng vạn và tan vỡ hết. Trí Cao thả lữa đốt
thành rồi chạy trốn qua sông Hợp Giang sang nước Đại Lý (thuộc Vân Nam) bị
người Đại Lý bắt được chém đầu đem nộp cho nhà Tống.
Theo Đại
Nam dật sự, Nguyễn Văn Tố nói: hai năm sau Dư Tĩnh được phong làm Kinh Chế
Quảng Tây có nhiệm vụ đi bắt Trí Cao. Dư Tĩnh phái Tiêu Chú là Đô Giám qua
đường Đặc Ma đi tìm họ Nùng và dư đảng chỉ có bắt được mẹ Trí Cao, em là Trí
Quang, con là Kê Tông và Kê Phụng; lại cử người sang Đại Lý theo dõi Trí Cao
đem về kinh sư. Thân nhân của Trí Cao sau cũng bị giết hết. Từ đó tại biên giới
Hoa Việt không có sự quấy nhiễu của người Nùng nữa.
3- Dẹp Chiêm Thành
Nhà Lý
dấy nghiệp đã được 10 năm, dân Chiêm nhân dịp bên Giao Châu thay đổi ngôi vua
liền bỏ việc tiến cống và thông sứ. Hơn thế nữa, quân Chiêm lại còn luôn luôn
quấy nhiễu các vùng duyên hải của chúng ta. Năm Giáp Thân (1044) sau khi sửa
soạn được binh thuyền, lương thực vua Lý Thái Tông ngự giá đánh Chiêm Thành.
Hai quân gặp nhau ở phía Nam sông Ngũ Bồ. Quân Giao Châu đánh tràn sang, khí
thế hăng hái quá quân Chiêm bỏ chạy, 5000 quân Chiêm và 30 con voi bị bắt. Ngay
khi đó trong nội bộ của Chiêm xảy ra việc bội phản: tướng Chiêm là Quách Gia Dĩ
hạ sát quốc vương Xạ Đẩu rồi xin hàng. Thắng trận, quân ta chém giết dân Chiêm
rất nhiều, vua Thái Tông phải thiết quân luật mới dứt được cuộc tàn sát này.
Thái
Tông tiến đến thành Phật Thệ bấy giờ là quốc đô của Chiêm Thành (thuộc làng
Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên) bắt được vương phi Mị Ê và một
số cung nữ Chàm đem về nước. Thuyền ngự về tới hạt Hà Nam, Thái Tông đòi Mị Ê
sang chầu nhưng tuyệt vọng về tình nhà nỗi nước, người đẹp của dân Hời đã quấn
chiên lăn xuống sông tự vẫn. Ngày nay bên bờ sông Châu Giang, cạnh tỉnh lỵ dân
chúng địa phương có dựng một ngôi đền để thờ tiết phụ đó.
Số 5000
người bị bắt về Giao Châu sau được triều đình nhà Lý cấp ruộng đất để lập ấp
sinh sống.
III. Lý Thánh Tông (1054-1072)
- Việc
mở mang Phật giáo và Nho giáo
- Vua Lý
Thánh Tông đánh Chiêm Thành
Kế
nghiệp vua Thái Tông là thái tử Nhật Tông, tức vua Thánh Tông lấy niên hiệu lần
đầu là Long Thụy Thái Bình (1054-1058) đặt quốc hiệu là Đại Việt. Nước ta ngót
một trăm năm đến bây giờ vẫn gọi là Đại Cồ Việt.
Vua Thái
Tông nổi tiếng là một vị anh quân và có nhiều đức độ. Chính trị của ngài lấy sự
thương dân như con làm căn bản.
Tháng tư
năm Bính Thân (1056) ngài ban chiếu khuyên dân làm ruộng. Tháng tám năm Kỷ Hợi
(1059) ngài cho chế triều phục. Các quan phải đội khăn bịt đầu, đi hài có bí
tất vào chầu cho có vẻ trang nghiêm. Ngài lập điện Thủy Tinh, điện Thiên Quang.
Quan chức thì có chức Phụ quốc Thái Úy, Gián nghị đại phu, Tả hữu lang trung
viên ngoại lang, Khu mật sứ, Kim ngô, Lĩnh binh. Triều đại của ngài kể ra đến
bấy giờ là văn vật hơn cả và tiến dần đến chỗ vẻ vang. (Khâm định Việt sử 9.3
tờ 23b).
Tháng tư
năm Canh Tuất (1070) trời làm đại hạn, ngài cho lấy tiền của và thóc trong kho
chẩn cấp cho dân (Khâm định Việt sử 9.5 tờ 29). Ngài đặt ra tiền dưỡng liêm để tránh
sự sa ngã cho quan lại. Năm Đinh Mùi (1067) ngài cho Nguyễn Trọng Hòa và Đặng
Thê Tư làm Đô hộ phủ sĩ sư, đổi 10 người thủ gia làm lại án ngục. Ngài ban cho
Trọng Hòa và Thế Tư mỗi năm mỗi người 50 quan tiền và 100 bó thóc, cá và muối
tùy tiện đủ dùng. Mỗi người ngục lại mỗi năm được 20 quan tiền và 100 bó thóc
để nuôi tính trong sạch cho các hình quan).
Về việc
dưỡng liêm, Ngô Ngọ Phong, tức Ngô Thời Sĩ nói: Dưới đời nhà Lý các quan trong
ngoài đều không có cấp bổng. Quan trong thì thỉnh thoảng được ban thưởng. Quan
ngoài được dân mỗi địa phương tùy tiện đặt người thu những thuế điền thổ, bờ,
đập mà cung cấp. Quan phải dạy dân cày cấy, thả cá để cùng hưởng lợi. Đến bấy
giờ bình quan mới có lương bổng.
Đối với
các phạm nhân, ngài cũng mở lượng khoan hồng, cho ăn mặc đầy đủ. Năm Tân Hợi
(1071) ngài định lệ chuộc tội bằng tiền tùy theo nặng nhẹ. Về vấn đề này (năm
1028 - 1054) trong đời vua Lý Thái Tông đã lập thành lệ, vua Thánh Tông sau này
chỉ sửa đổi lại mà thôi.
Về võ
bị, tuy nước được thái bình, ngài cũng rất lưu ý đến. Năm Kỷ Hợi (1059) ngài
định các hiệu quân là: Ngũ Long, Võ Thắng, Long Đức, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo
Thắng, Hùng Lược và Vạn Tiệp. Bốn bộ hợp lại thành 100 đội. Mỗi đội có lính kỵ
mã và lính bắn đá. Do sự bổ xung này số cấm quân đến đời vua Thánh Tông gần
tăng gấp đôi; còn thứ binh sĩ để giữ an ninh, trật tự trong nước và đề phòng
xâm lăng không có nhất định. Người dân đến tuổi phải đi lính một thời gian ngắn
và có lẽ như dưới đời nhà Đinh, họ được luân phiên để vừa làm bổn phận với Nhà
nước, vừa làm việc với gia đình, tức là vừa là lính vừa là nông dân. Việc này
gọi là "đi phen". Trong khi đi phen, họ đóng ở các phủ, huyện, châu
để phòng khi động dụng. Hạng lính này dĩ nhiên nhiều hơn lính cấm vệ, nhưng tập
luyện ít ỏi hơn.
Ngoài ra
quân lính đều có khắc trên trán ba chữ "Thiên Tử Quân" như dưới đời
Tiền Lê. Binh chế nhà Lý nổi tiếng đời bấy giờ khiến nhà Tống phải bắt chước.
Chúng tôi tiếc rằng không thấy có sử liệu nói nhiều về các tổ chức quân sự dưới
triều vua Thánh Tông để bày tỏ đầy đủ hơn, chỉ biết theo Vân Đài Loại Ngữ của
Lê Quý Đôn, quyển IV, tờ 42a,: Thái Diên Khánh là quan nhà Tống làm Tri châu ở
Hoạt Châu (một châu của Tàu ở gần biên giới ta) có dâng lên vua Tống Thần Tông
(1068 - 1085) cuốn An nam hành quân pháp bắt được của nhà Lý. Trong sách này có
ghi chép việc tổ chức binh đội như sau đây, và chúng tôi ngờ rằng việc tăng
cường binh đội này đã phát xuất dưới hai triều TháiTông và Thánh Tông đã có nhiều
đặc biệt nên binh đội của ta đã khá mạnh khiến Trung Quốc phải chú ý:
Chính
binh là các đơn vị sử dụng cung tên và kỵ mã do 9 phủ tướng thống xuất. Các
đơn vị
này có 100 đội. Mỗi đội có 4 bộ: tả, hữu, tiền, hậu.
- Quân
trú chiến tức là quân đội vừa đóng giữ vừa chiến đấu tại chỗ.
- Quân
thác chiến dùng vào cuộc tấn công và lưu động (Mỗi tướng đều có kỵ binh và vũ
khí như nhau).
- Phiên
binh thì đặt từng đội riêng để đề phòng sự bất chắc. (Đây là hạng lính gìa yếu
để giữ thành).
Do tài
liệu này ta thấy binh chế đời Lý có một đặc sắc nhất là biết sử dụng kỵ binh nó
có giá trị hay không thì coi cuộc phạt Tống bình Chiêm liên tiếp sau này đủ rõ.
Ngoài ra nhà Tống phải bắt chước nhà Lý về binh chế thì càng có thể tin binh
chế của chúng ta thuở đó đã khá hoàn bị. Tóm lại vào hạ bán thế kỷ thứ XI nước
ta đã khá mạnh về quân sự tại Đông Nam Á châu.
1- Việc Mở Mang Phật Giáo và Nho Giáo.
Vua
Thánh Tông làm vua được hai tháng, năm Ất Vị (1055) tháng giêng ngài cho sửa
các miếu trong Đại nội. Mùa đông năm Đinh Dậu (1058) ngài cho sửa cửa Tường Phù
(tức là cửa Đông thành Thăng Long) dựng lên từ năm thứ nhất hiệu Thuận Thiên
(1010). Tháng tám năm Canh Tý (1060) ngài cho làm Hành cung ở bên cạnh Dâm Đậm
hồ (Tây Hồ) để thỉnh thoảng ngự ra xem đánh cá. Tháng chín năm Bính Ngọ (1066)
ngài sai Lang tướng Quách Mậu dựng một cái tháp ở núi Tiên Du (Bắc Ninh). Năm
Canh Tuất (1070) ngài cho dựng điện Tử Thần. Tháng giêng năm Tân Hợi (1071)
ngài viết chữ Phật vào tấm bia dài một trượng 6 thước ở chùa Tiên Du. Tháng tám
năm Canh Tuất (1070), hiệu Thần Vũ thứ hai, ngài cho xây miếu thờ Khổng Tử là
ông tổ đạo Nho tại phía Nam thành Thăng Long (Hà Nội) cho tô tượng Chu Công,
Khổng Tử và tượng tứ phối (bốn vị phối hưởng là Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh
Tử) vẽ tượng Thất Thập Nhị Hiền (72 người học trò giỏi của đức Khổng). Xét ra
việc xây dựng văn miếu và đúc tượng này là lần đầu tiên có ở nước ta. Để cổ súy
Nho giáo được mãnh liệt, xuân thu nhị kỳ triều đình cho cúng tế Khổng Tử và chư
hiền rất long trọng. Nhà vua lấy ngày thượng đình tế ở Văn miếu. Các quan theo
ngày trung đình tế ở Văn chỉ hàng tỉnh. Dân vào ngày hạ đình tế ở Văn chỉ hàng
xã. Văn miếu lại còn là nơi học tập của các hoàng tử.
Theo sự
nhận xét của chúng tôi thì nhà Lý mở nước năm 1010, sáu mươi năm sau mới có
việc tôn thờ Khổng Tử và sùng bái chư hiền. Như vậy đạo Nho đã đi sau đạo Phật,
nhưng bắt đầu có đà tiến triển từ bấy giờ.
Một việc
cứng cõi về ngoại giao dưới đời Lý Thánh Tông: mùa xuân năm Canh Tí (1060) chức
Mục ở Lang Châu (Lạng Sơn) là Thân Thiệu Thái đuổi theo bắt những quân trốn
tránh sang cõi Tống, bắt được chức chỉ huy sứ của nhà Tống là Dương Bảo Tài và
sĩ tốt, trâu ngựa đem về. Đến tháng bảy, quân Tống sang xâm lấn không được, bèn
sai Lại Bộ thị lang là Dữ Tĩnh đến châu Ung mở cuộc hội nghị với nhà Lý. Vua Lý
sai Phi Gia Hữu đi dự. Dư Tĩnh tặng cho Gia Hữu rất hậu và đưa thư xin trả lại
Bảo Tài, vua ta không chịu (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 2.3 tờ 25b).
2- Vua Lý Thánh Tông Đánh Chiêm Thành
Từ khi
nước ta giành được độc lập (thế kỷ thứ X) việc đánh Chiêm Thành đã là một việc
thường xuyên. Như ta biết, dân Chiêm quen cậy hùng mạnh hay quấy nhiễu nước ta
từ thế kỷ thứ hai dưới đời vua Hòa Đế (102 sau C.L.) nhà Đông Hán. Chiêm quốc
dưới con mắt của các vua chúa ta là một cái nhọt bọc rất khó trị và nguy hiểm,
nên từ nhà Tiền Lê đã quan niệm rằng không đánh Chiêm thì Chiêm cũng đánh mình,
rồi từ đây, triều đại nào hầu yên nội bộ đều mang quân Nam chinh.
Xin lược
qua việc đánh Chiêm đả khởi từ đời Tiền Lê, qua nhà Đinh là triều đại vừa thực
hiện xong nền thống nhất thì Ngô Nhật Khánh là một trong 12 sứ quân bị bại chạy
qua Chiêm Thành xui Chiêm đem quân tấn công vào đất Việt. Năm Kỷ Mão (979) hơn
một ngàn chiếc thuyền Chiêm tiến đến cửa Đại An tức là cửa sông Đáy thuộc hải
phận Ninh Bình - Nam Định chẳng may bị bão đánh chìm. Nhật Khánh cùng một phần
lớn quân Chiêm làm mồi cho cá. Quân Chiêm không bị đánh mà tan, đáng tiếc cho
kinh đô Hoa Lư mất cơ hội ghi một vài chiến công oanh liệt của giống nòi Việt
Nam vào lịch sử.
Đến Lê
Hoàn lên ngôi, sứ giả Đại Việt là Từ Mục và Ngô Tử Canh sang giao hiếu bị Chiêm
giữ lại. Vua Tiền Lê nổi giận, rồi thành trì, tông miếu của vua Chiêm một phen
bị san phẳng, đồng thời một số con dân Chiêm phải theo ngọn cờ chiến thắng về
làm lưu dân dùng vào việc khẩn hoang ở các đồn điền của ta.
Đó là
cuộc Nam chinh
đầu tiên của
chúng ta và
cũng là dịp
đầu tiên dân
Chiêm Thành kiệt hiệt, phú cường từ đầu Tây lịch kỷ nguyên biết mùi
chiến bại với Việt tộc.
Vua Thái
Tông nhà Lý lên ngôi, Chiêm Thành chịu xưng thần nộp cống, rồi Chiêm bị nội
loạn, con cháu vua Chiêm giành nhau địa vị nên Nam Thùy của ta bớt được sự quấy
đảo trong một thời gian. Nhưng sau ít lâu, Chiêm bỏ cống luôn 16 năm và lại
tiếp tục gây rối ở ven biển của ta. Năm 1044, vua Thái Tông thân chinh vào
Chiêm quốc, giết chúa Sạ Đẩu, bắt 30 con voi, 5000 dân và giết gần ba vạn người
không kể số cung nhân, nhạc nữ đem về nước.
Dĩ nhiên
Chiêm lại hàng, nhưng sự hành phục của Chiêm bao giờ cũng ngắn ngủi, bởi họ là
một dân tộc có óc quật cường rất mạnh và chí phục thù rất bền bỉ !
Năm 1065
- 1069, Chiêm bỏ cống, vua Thánh Tông nối nghiệp phụ vương lại đem quân Nam
Chinh. Nhưng một vài sử gia cho rằng tới giai đoạn lịch sử này cuộc bình Chiêm
chẳng phải riêng vì việc đoạn tuyệt giao hiếu, mà vì Đại Việt bắt đầu thi hành
chính sách đế quốc, dựa vào chỗ Chiêm có tinh thần bất khuất đối với Đại Việt
và lại lén lút thần phục nhà Tống. Cùng một nhịp với các vua kế tiếp sau này,
ta thấy dân tộc Việt Nam cố gắng cựa quậy chẳng những về miền Nam lại còn lo
bành trướng cả về phương Bắc. (xin coi bài nói về chánh sách Bắc thùy của nhà
Lý dưới đây).
Từ Chiêm
vương Chế Cũ (Rudravarman III) được vua Tống nâng đỡ, ban cho ngựa trắng và cho
phép mua lúa ở Quảng Châu, Chiêm không tiếp tục nạp cống nữa. Mọi hành động của
Chiêm đều lọt hết vào con mắt của dân Việt một cách khiêu khích.
Cũng lúc
này (1068) vua Lý Thánh Tông sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao thông từ
thành Phật Thệ tới Giao Chỉ bằng đường núi theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống
phải mất 40 ngày. Vua Tiền Lê trước đây có đào tân cảng và sửa chữa đường sá.
Nhưng xem vậy, dùng thủy đạo vẫn dễ dàng cho việc chuyển quân hơn). Lực lượng
quân sự của Lý triều có chừng 5 vạn, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên
phong, em Thường Kiệt là Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Vũ úy. Mỗi chiến hạm chở
250 tên quân và lương thực, tất cả có 200 chiếc.
Ở triều
bấy giờ có _ Lan Thái Phi và Thái sư Lý Đạo Thành trông coi việc nước. Bảy ngày
sau khi rời khỏi Thăng Long các đạo quân Việt đã có mặt ở Nghệ An, ba ngày sau
tới cử Nam giới, phía Nam núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), hải phận Chiêm Thành từ đó
đã hiện ra trước mắt. (Sử chép ngày Canh Thân tới Nam giới, rồng nổi lên ở đầu
thuyền Kim Phượng như lúc xuất chinh, Lý triều vốn tin nhiều dị đoan cho là
điềm tốt. Điểm này có tính cách hoang đường. Có lẽ sử thần bịa đặt ra để tô
điểm cho bản triều thuở đó). Năm ngày sau quân ta đến cửa Nhật Lệ là nơi tập
trung của thủy quân Chiêm, bởi Chiêm có những giẫy núi "xương sườn"
cao ngất ngăn cản đường bộ từ Giao Chỉ vào cõi Chiêm. Ngoài núi Hoành Sơn ở Cực
Bắc, có núi Hải Vân ở phía Nam Thuận Hóa, núi Đại Lãnh ở phía Nam Phú Yên, giữa
các giẫy núi này có đồng bằng của dân Chiêm. Hình như sự giao thông của dân
Chiêm từ nơi này qua nơi khác cũng bằng đường thủy và về phương diện quân sự,
Chiêm chỉ cần giữ mặt biển hơn cả vì tin tưởng vào các đèo núi là những bức
tường thành thiên nhiên.
Tại Nhật
Lệ, thủy quân Chiêm xông ra cản đường. Tướng của ta là Hoảng Kiệt đánh tan rồi
quân ta thẳng tiến về phía Nam không bị ngăn trở, mục đích của ta là tiến thẳng
tới thành Phật Thệ phá kinh đô và bắt Quốc Vương. Bốn ngày sau nữa ta đến cửa
Tư Dung nay gọi là Tư Hiền là cửa sông vào các phá và sông thuộc Quy Nhơn ta
mất ba ngày nữa, tính tất cả là 26 ngày từ Thăng Long đến đấy.
Thành
Phật Thệ (sau gọi là Chà Bàn mà ta thường chép lẫn ra là Đồ Bàn) ở vào địa phận
tỉnh Bình Định ngày nay, ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp bể.
Thủy quân của ta đổ bộ ở đây. Tướng Chiêm là Bố Bì Đà La giàn trận trên bờ sông
Tu Mao chặn đánh. Quân ta xông lên giết được Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ.
(Trận này được lịch sử gọi là trận Tu Mao).
Lý
Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới tới kinh đô
Chiêm. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở Tu Mao, Chế Củ mang vợ con
chạy trốn. Dân trong thành thấy quân Đại Việt đến đều ra hàng.
Lý
Thường Kiệt đem quân truy tầm theo phía Nam. Tháng tư quân ta tiến đến biên
giới Chân Lạp, qua các vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay mà Chàm gọi là
Pandurango.
Vua
Chiêm vốn có cựu thù với Chân Lạp nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả Chế
Củ và năm vạn quân bị cầm tù. Cuộc đuổi bắt vua Chiêm mất ngót một tháng. Người
có công trong cuộc đại thắng này là Lý Thường Kiệt.
Tháng 5
vua ra lệnh sửa soạn lên đường.
Ngày 19
tháng 6 Quý Tỵ, thuyền về đến cửa Tư Minh, có lẽ là Tư Dung. Ngày 17 tháng 7
Tân Dậu, đạo quân Nam chinh về tới Thăng Long. Cuộc đón rước rất là long trọng.
Các quan hữu tư sắp đặt binh lính nghiêm trang, nghi vệ rực rỡ. Vua lên bộ ngự
trên báu xa (xe nạm ngọc) quân thần cưỡi ngựa theo sau. Vua Chiêm mình mặc áo
vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai, tay bị trói sau lưng do 5 tên lính Vũ
đô dắt. Quyến thuộc đi sau cũng bị trói.
Chế Củ
xin dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý để chuộc tội được tha về. Đáng chú
ý từ Lê Đại Hành đến Lý Thánh Tông tuy có việc đánh Chiêm nhưng chỉ là việc bắt
người lấy của nhưng chưa hề có việc bành trướng đất đai. Và nói đến vấn đề mở
mang bờ cõi, ta nên để ý đến Lý Thường Kiệt là người rất ráo riết về ý chí này
hơn hết, có lẽ bấy giờ (dưới đời Lý) nguồn sống ở miền đồng bằng Bắc Việt bắt đầu
đã thiếu hụt.
Công
cuộc này tới các triều đại sau được theo đuổi thế nào, những trang dưới đây sẽ
nói đầy đủ hơn.
IV. Lý
Nhân Tông (1072 - 1127)
1) Vụ
tranh giành quyền vị
2) Việc
chính trị
3) iệc
đánh Tống
4) ý
đánh Chiêm Thành
1- Một Vụ Tranh Giành Quyền Vị
Đời vua
Nhân Tông đáng kể là một triều đại rất lớn vì dưới đời Nhân Tông văn trị, võ
công rất là hiển hách. Ngoài ra triều đại này đã ghi trong lịch sử hai chiến
công hết sức oanh liệt là đánh Tống và bình Chiêm.
Vua Nhân
Tông tức thái tử Càn Đức lên ngôi lúc 7 tuổi. Quan thái sư là Lý Đạo Thành làm
phụ chính, nhưng bên trong mẹ là _ Lan Thái phi và Dương Thái hậu buông mành
nghe việc triều chính.
_ Lan
thái phi là một nhân vật đặc biệt của thời đại bên cạnh Lý Đạo Thành và Lý
Thường Kiệt, hai vị tướng văn, võ có uy tín và thao lược nhất thời bấy giờ. Bà
đã đóng một vai trò chính trị rất đáng kể dưới đời Lý Nhân Tông.
Thân thế
của bà thế nào?
Vua Lý
Thánh Tông (1054 1072) bấy giờ đã 40 tuổi mà chưa có con trai lấy làm lo lắng
nên hay đi cầu tự ở các đình chùa danh tiếng. Một hôm ngài ngự giá về chùa làng
Thổ Lội cho phép dân chúng tự do chiêm bái long nhan. Dân chúng già trẻ, trai
gái nô nức đi xem nhà vua như nước chảy. Trong khi đạo ngự đi qua, một cô gái
cứ bình tĩnh hái dâu bên đường và dựa mình vào bụi cỏ lan. Nhà vua ngạc nhiên
liền đòi đến hầu thì thấy cô gái đó tuy quê mùa nhưng có nhan sắc đoan trang,
cử chỉ lại đường hoàng, nói năng thanh nhã, ngài liền vời về cung. Thiếu nữ ấy
là Yến cô nương, tục danh là cô Cám, thôn nữ làng Thổ Lội (sau đổi là Siêu
Loại, rồi lại đổi ra Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Về cung nhà vua cử một nữ
giáo viên dạy Yến cô nương học tập. Nhờ sự thông minh chẳng bao lâu Yến cô
nương lầu thông kinh sử và được phong làm _ Lan phu nhân (lấy tên cung _ Lan là
nơi phu nhân luyện tập văn bài, lại có ý là người con gái tựa bụi lan).
Rồi phu
nhân sinh ra Hoàng tử, đặt tên là Càn Đức từ đó được phong làm Thái Phi.
Theo
thần tích làng Siêu Loại thì khi vua Thánh Tông đi quân thứ Chiêm Thành, ở nhà
bà Dương hậu biết _ Lan phu nhân có thai sợ sau này mất địa vị nên hư truyền rằng
mình cũng tắt kinh. Khi _ Lan phu nhân sinh con trai thì Dương hậu chiếm đứa
con trai đó và giam _ Lan phu nhân vào lãnh cung nói rằng _ Lan sanh ra quái
thai. Đứa con trai đó tức là thái tử Càn Đức và lên bảy tuổi thì vua Thánh Tông
băng hà. Càn Đức được lên ngôi tức là vua Nhân Tông. Việc này vỡ lỡ ra. Nguyên
phi bấy giờ được tôn là Hoàng thái phi liền báo thù xưa, giết Dương hậu và chôn
sống 72 người cung nữ đã a tòng với Dương hậu trong việc hãm hại Thái phi thuở
trước.
Sau việc
tàn ác kể trên, khi trở về già, _ Lan Thái phi quá hối hận nên rất sùng đạo
Phật, làm rất nhiều điều thiện, như việc xuất tiền kho để chuộc con gái nhà
nghèo bị cầm bán, rồi cho gả chồng vào những nơi tử tế, chẩn cấp cho dân chúng
khi bị tai trời ách nước, làm tới 70 ngôi chùa trong vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh)
và thi hành nhiều nhân chánh.
Xét về
chính trị _ Lan thái phi đã làm giám quốc rất đắc lực cho việc trị dân trong
khi chồng đi viễn chinh (theo giáo sư Hoàng Lê trong tuần báo Đời Mới số 20 thì
Dương hậu coi triều khi vua Thánh Tông đi quân thứ. Theo Tri Tân thì có cả bà
Nguyên Phi tức
_ Lan
phu nhân đã buông rèm nghe việc triều chính trong giai đoạn này. Có thể tin
chắc _ Lan Nguyên Phi đã được sủng ái ngay buổi đầu nên được dự chính sự vì bà
là người thông minh, quảng bác. Theo Việt Nam Sử Lược chỉ có bà Nguyên Phi mà
thôi. Điều chắc chắn là sau khi vua Nhân Tông lên cầm quyền, _ Lan Thái Phi
hoàn toàn trực tiếp tham gia quốc sự. Bà có công dạy dỗ con để thành một vị anh
quân. Nước nhà bấy giờ được yên trị, việc học hành thi cử được mở mang. Việc
đánh Tống, bình Chiêm là những việc trọng đại cũng có thể do sự thẩm xét và
quyết định của bà bên cạnh thiếu quân. Điều này rõ rệt vì vua Nhân Tông lên
ngôi năm 1072 nhưng mấy năm sau thì Lý Đạo Thành đi trấn thủ Nghệ An, không còn
làm phụ chính nữa vì chính kiến bất đồng về việc đánh Tống bình Chiêm đã xảy ra
năm 1075 1078 với Lý Thường Kiệt và các đại thần; do đó chúng tôi nghĩ rằng _
Lan Thái phi đã từng đóng một vai trò quan trọng trong mọi việc chính trị đời
bấy giờ. Vậy xét công các đại thần thuở ấy mà không nhắc nhở đến bà tưởng cũng
là một điều bất công.
Lại xin
nói thêm rằng _ Lan Thái phi xuất thân ở chỗ thảo dã, cơm rau áo vải, nhờ sự
may mắn bước vào chốn hoàng cung, ăn học ít năm rồi trở nên một nhà chính trị
lỗi lạc thì ta phải công nhận rằng phụ nữ Việt Nam sau các bà Trưng, Triệu đều
luôn luôn biểu dương được tinh hoa của nòi giống chẳng kém gì tu mi nam tử.
2- Việc Chính Trị
Triều
đại Lý Nhân Tông rất hoạt động. Việc đánh dẹp tuy nhiều, nhưng những việc chính
trị cũng không bị ngưng trệ. Đời bấy giờ mới khởi đầu việc đắp đê Cơ Xá để giữ
kinh thành và tránh cho dân nạn ngập lụt hàng năm rất tai hại cho mùa màng.
Năm Ất
Mão 1075 hiệu Thái Ninh thứ tư, đời vua Lý Nhân Tông, bắt đầu có các kỳ thi tam
trường tức là thi ba bậc khác nhau để tuyển nhân tài ra giúp nước, (những người
thông nghĩa sách minh kinh). Đây là kỳ thi đầu tiên ở nước ta, chọn được 10
người. Lê Văn Thịnh đỗ đầu được vào hầu vua học; sau này Lê Văn Thịnh làm đến
Thái sư, rồi bị đầy lên Thao Giang (Phú Thọ) vị bị ngờ có ý phản nghịch. Khoa
cử nước ta có từ thuở đó.
Năm Bính
Thìn (1076) tháng tư, hiệu Anh Vũ chiến thắng, Nhân Tông đặt nhà Quốc Tử giám
để kén chọn các nhân tài cho hai ngành văn võ.
Năm Đinh
Tỵ (1077) tháng hai, hiệu Anh Vũ chiến htắng thứ hai, có kỳ thi lại viên, hình
luật để lấy người vào làm quan.
Năm Bính
Dần (1086) tháng tám, hiệu Quang Hựu thứ hai, vua tuyển người vào Hàn Lâm Viện
(Mạc Hiển Tích là người xã Long Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương đỗ đầu
được bổ vào Hàn Lâm Viện học sĩ).
Năm Đinh
Sửu (1097) hiệu Hội Phong thứ 6, Lý Nhân Tông xuống chiếu làm sách hội điển là
cuốn sách kiểm soát so sánh các điều lệ trong điển cũ, chép lại rồi cho thi
hành.
Vì Nho
học bắt đầu được sùng thượng nên mới có các việc mở mang trên đây, cũng là nhờ
thời đó có nhiều người hiền lương hết lòng lo lắng quyền lợi của nhân dân.
Đáng kể
Thái sư Lý Đạo Thành trước hết là gương mẫu cho sự đoan chính và tận tâm phục
vụ với quốc gia. Cứ xét việc bình Chiêm phá Tống thì hiểu nhân tài thời đó rất
là đáng kính.
Năm Kỷ
Tị (1089) quan chế định thành các cấp bậc sau đây: Văn ban có:
- Đại
thần: Thái sư, Thái phó, Thái úy, Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu úy.
- Dưới
đại thần: Thượng thư, Tả Hữu Tham tri, Tả Hữu Gián nghị đại phu, Trung thư thị
lang, Bộ thị lang v.v...
Võ ban
có:
- Đô
thống, Nguyên súy, Tổng quản khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Kim Ngô thượng
tướng, Đại tướng, Đô tướng, Chủ vệ tướng quân v.v...
Văn quan
ở các tỉnh có:
Quan cai
trị: Tri phủ, Phán phủ ở các châu quận, Tri châu. Võ quan có: chư lộ trấn trại
quan
3- Việc Đánh Tống
Đến đời
vua Tống Thần tông (1068 1078) Vương An Thạch là một đại chính tri gia có ý cải
tổ rất nhiều về chính sự của Trung Quốc và mở rộng đế quốc.
Họ Vương
đặt:
1) Phép
thanh miêu lấy tiền của nhà nước cho nông dân vay khi lúa còn xanh. Dân có lúa
sẽ trả lại số tiền được vay và trả lãi theo quốc lệ (?).
2) Phép
miễn dịch: Ai phải việc sưu dịch thì được nộp tiền để nhà nước lấy tiền thuê
người khác làm thay cho mình.
3) Phép
thị dịch: Đặt sở buôn bán ở chốn kinh sư để tiêu thụ các thứ hàng hóa của dân
bị ế đọng. Nhà nước đứng lên thu, đem bán và cấp vốn hay cho vay vốn rồi dân
theo quốc lệ mà trả.
4) Phép
bảo giáp để tăng cường quân sự, họ Vương chia 10 nhà lập thành một Bảo. Năm
trăm nhà hợp thành một Đô Bảo. Mỗi Bảo có hai người chỉ huy và dạy dân luyện
tập quân sự.
5) Phép
bảo mã có quân lính nhiều cũng phải có nhiều ngựa. Vương giao ngựa cho các Bảo
nuôi. Nếu ngựa chết thì liệu theo giá mà bồi thường hay mua ngựa khác thay vào.
Vương An
Thạch rất chú ý đến phương Nam và muốn lập công to ở ngoài biên, tâu lên vua
Tống rằng: Giao Chỉ vừa đánh Chiêm Thành bị thất bại, quân không còn nổi một
vạn, có thể lấy quân Ung Châu sang chiếm Giao Chỉ.
Tri châu
Tiêu Phú ở Phiên Ngu (Ung Châu) trông thấy rõ sở vọng này của Tống triều đã có
lần dân sớ về triều xin đánh Đại Việt (bấy giờ nhà Lý lấy quốc hiệu là Đại
Việt) kẻo sau có đại họa. Rồi Tiêu Chú
bị lỗi phải huyền chức . Khi họ Vương lên cầm quyền, Tiêu Chú được phục chức vì
là người am hiểu mọi vấn đề Đại Việt đang nằm trong cái dự án xâm lăng của
Vương tể tướng. Dự án ấy không riêng lo khuếch trương về phương Nam mà còn mở
rộng cương vực cho Trung Nguyên về phương Bắc nữa (đánh Liêu và Hạ).
Nhưng
khi Tống để ý đến thái độ của Lý triều thì thấy Lý có vẻ ngang ngạnh nên sinh
nghi. Sự thật Lý triều đã nhân cuộc dánh phá của Nùng Trí Cao năm 1054 mà bành
trướng ngầm lĩnh thổ của mình bằng cách xui dục biên dân lấn đất và sinh sự.
Trong một thời gian khá dài. Tống triều nén giận, giữ tình hòa hảo nhưng vẫn đợi
dịp thuận tiện để xâm lăng Đại Việt mà từ lâu Tống coi như miếng mồi béo. Mười
năm qua Tống triều đẵ ở trong thái độ chờ đợi đó. Tiêu Chú sau khi được phục
hồi liền tới Quế Châu giao dịch với các tù trưởng từ đạo Đặc Ma đến châu Điền
Đống được hiểu lúc này Lý triều thắng Chiêm Thành, bờ cõi mở rộng về phương
Nam, dân sinh quốc kế rất thịnh đạt. Tiêu Chú có ý trù trừ. Nhưng đến năm 1072
vua Thánh Tông qua đời, Dương Hậu và _ Lan Thái phi giành nhau quyền vị. Vua
Nhân Tông là thái tử Càn Đức mới 7 tuổi; trong triều hai đại thần văn võ là Lý
Đạo Thành và Lý Thường Kiệt chính kiến bất đồng. Tống triều tưởng như cơ hội đã
đến, nhưng khi hỏi Tiêu chú thì Tiêu Chú vẫn không giám tán thành cuộc Nam
chinh (Tiêu Chú xuất thân là một tiến sĩ, làm việc có tính cẩn trọng, có tinh
thần trách nhiệm). Trái lại, Binh bộ Thị lang Thẩm Khởi lại rất sốt sắng đánh
Đại Việt. Vua Tống liền phái Thẩm Khởi thay Tiêu Chú lo việc xuất quân.
Việc thứ
nhất của Thẩm Khởi là đặt các doanh trại, sửa đường tiếp tế. Việc thứ hai là
động viên 52 động thuộc Ung Châu sung công các thuyền chở muối để tập thủy
chiến. Sợ Đại Việt biết, y cấm hẳn mọi việc buôn bán, giao dịch giữa các biên
dân Việt Hoa. Nhân dân Trung Quốc ta thán vô cùng từ các miền Tây Bắc Quảng
Châu đến Ung Châu. Việc thứ ba của Thẩm Khởi là dụ dỗ các tù trưởng lệ thuộc về
Lý triều theo Tống được Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Nùng Thiện Mỹ ở Ân Tình thuộc
BắcCạn, giáp Thất Khê hưởng ứng. Theo Nguyễn Văn Tố, họ Thẩm chứa chấp Nùng
Thiện Mỹ và việc này đã đến tai người Việt.
Công
việc đang tiến thì tháng ba năm 1074, Chuyển vận sứ Quảng Tây tỏ ý phản đối
Thẩm Khởi về các hoạt động kể trên. Thêm nữa, Thẩm Khởi đã lầm lỗi trong nhiều
việc nên bị đổi đi Đàm Châu và chính Vương An Thạch cũng không tin rằng Thẩm
giải quyết nổi vấn đề Đại Việt.
Ngoài
ra, lúc này Tống đang mắc míu vào chuyện binh đao với Liêu, Hạ chưa ngã ngũ bề
nào, việc đánh Đại Việt phải ngừng lại.
Lý triều
lên tiếng đòi Nùng Thiện Mỹ, thủ lĩnh châu Ân Tình và 700 thuộc hạ để sửa trị.
Tống triều không chịu và về phần Tống còn chiêu dụ cả Trí Hội là con Nùng Trí
Cao ở châu Quy Hóa và hạ lệnh cho Ty kinh lược Quảng Tây mộ các dân đinh các
khê động làm thanh viện cho Trí Hội.
Cuộc
xung đột hầu đã được hoàn toàn quyết định.
Lý triều
xét đánh trước có lợi hơn và tính rằng quân Tống có vào Đại Việt tất phải qua
Ung Châu, đó là đường bộ. Còn về đường thủy, Tống phải qua các cửa bể Khâm và
Liêm. Lý Thường Kiệt liền tập trung thủy quân Đại Việt ở Đồ Sơn (vịnh Hạ Long)
theo lối sau các núi đá mà tiến vào Khâm Châu; còn đánh Ung châu (Nam Ninh) lục
quân của Lý cũng chia nhiều đường:
a) Từ
Quảng Nguyên theo bờ sông Tả tiến đánh trại Thái Bình.
b) Từ
hai châu Tô, Mậu vượt núi qua Lộc Châu, Cổ Vạn, Tư Lăng, Thượng Tứ.
c) Từ
châu Quảng Lăng tiến qua Thái Bình, Bằng Tường, Tư Minh và trại Vĩnh Bình.
Đại quân
đi đường này.
Theo kế
hoạch, nếu thủy quân chiếm được Khâm Châu thì tiến thẳng lên Ung châu. Đề phòng
Tống xâm nhập vào nội địa của mình, quân Đại Việt đóng ở nhiều căn cứ theo dọc
đường biên giới, các địa điểm cổng ngõ. Đại khái quân hạ du của Lý thì đóng ở
Vĩnh An và thượng du thì theo dọc biên thùy từ các châu Quảng Nguyên, Quảng
lăng, Tô Mậu. Tổng số quân Đại Việt có từ 6 đến 10 vạn.
Cuộc tấn
công khai diễn như thế nào?
Lý
Thường Kiệt đem thủy quân đánh vào căn cứ quân sự của Tống ở ven bờ bể Quảng
Đông. Cùng một lúc Tôn Đản phụ trách lục quân chia ba đường kể trên đánh vào
Quảng Tây, quấy rối các trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn trên tiền
tuyến của Ung Châu. Hàng rào này bị đổ mặc dầu quân Tống xuất toàn lực cứu cấp
nhau và
chống đỡ các
miền Tây và
Tây Nam. Nhiều
chúa trại bị
tử trận (chúa
trại Hoành Sơn, Vĩnh bình, Thái Bình v.v...) Mặt Đông Nam thiếu sự phòng
bị. Quân Tống bị đánh bất ngờ ở địa điểm này và tất nhiên quân Đại Việt phải
dánh mạnh vào đây hơn hết.
Về phía
Khâm Châu và Liêm Châu quân Lý cũng tiến ào ạt như gió bão rồi tiến thẳng lên
Ung Châu không gặp một sức kháng cự nào đáng kể. Chỉ có 7 ngày quân Đại Việt đã
có mặt ở chung thành Ung Châu.
Ngày 10
tháng chạp, Tôn Đản kéo thẳng một đại đội đến Ung Châu. Đại quân ở Liêm và Khâm
cùng tiến nhằm phía Bắc tức là hai đạo quân đã đổ bộ ở Khâm Châu và Liêm Châu.
Cánh quân chiếm được Khâm Châu tiến lên Ung Châu29. Cánh chiếm được Liêm Châu
tiến sang miền Đông Bắc chiếm châu Bạch.
Nửa
tháng sau Ty kinh lược Quảng Tây mới hay tin về cuộc biến cố này để thông báo
về triều. Vua tôi nhà Tống hết sức bối rối. Rồi nhiều nơi khác bị mất lại được
cáo cấp về, Tống triều lại càng hoang mang thêm, sau đó có lệnh của Tống Thần
tông cho Quảng Châu, Quảng Tây phải cố thủ ở các nơi hiểm yếu nhất, vận- chuyển
tiền, vải, lương thực để khỏi lọt vào tay Lý quân, cách chức Lưu di, cử Thạch
Giám thay coi Quế Châu và đưa viện binh tới các thị trấn đang bị uy hiếp.
Trong
lúc này các đạo quân thủy bộ của Lý kể trên đây còn có nhiệm vụ chẹn đường các
đoàn quân tiếp ứng của Tống từ phía Đông lại.
Ngày 10
tháng chạp (18.1.1076) đại quân nhà Lý cũng tới thành Ung và vây chặt lấy thành
này. Tướng giữ thành là Tô Giàm (Việt Nam sử lược chép là Tô Đam) giỏi cả về
quân sự lẫn chính trị, thấy thế quân Đại Việt mạnh nên đã áp dụng triệt để
chính sách cố thủ để chờ viện quân, tính chỉ hai tuần lễ có thể đến nơi. Tô đem
hết công nhu (tiền công) phát hết cho dân khích lệ mọi người vững lòng, kiên
trí. Kẻ nào bỏ trốn phải tội theo
quân lệnh (Địch
Tích là một
nhân viên dưới
trướng của họ
Tô bị chém
trong trường hợp này). Tô phao đồn viện quân không còn xa thành là bao
nhiêu.
Nếu
không có sự khôn ngoan khéo léo này, có lẽ quân dân trong thành Ung đã đào tẩu
hết.
Lúc này
Lưu Di tướng giữ Quế Châu nghe tin thành Ung bị nguy liền phái Trương Thủ Tiết
đem quân đi cứu. Đạo quân này không dám tiến thẳng đến Ung châu, đi vòng theo
đường Quí Châu tới Tân Châu rồi nghe ngóng.
Thành
Ung mỗi ngày mỗi giờ thêm nguy ngập. Vòng vây của Nam quân cứ thắt chặt dần.
Sau Trương Thủ Tiết bất đắc dĩ phải tiến. Đoàn quân này đến phía Đông Bắc huyện
Tuyên Hóa cách Ung Châu 40 cây số thì bị Lý quân chẹn đánh. Quân Tống đại bại.
Thủ Tiết bỏ mạng. Việc này vào ngày 4 tháng giêng năm Bính Thìn.
Ngày 23
tháng giêng năm Bính Thìn (1.3.1076), Ung Châu bắt dầu nao núng. Quân Đại Việt
dùng kế thổ công và hỏa công30 lọt được vào. Tô Giàm còn cố gắng cùng bọn tàn
quân chiến đấu đến phút cuối cùng. Khi đã kiệt sức Tô cho 36 thân nhân tự sát
rồi tự thiêu mà chết. Dân trong thành không chịu hàng và bị Lý quân giết hết.
Xét trong việc đánh Liêm
Châu, Khâm Châu
và Ung châu,
quân dân Trung
Quốc bị hại
vào khoảng 7 vạn người, và có trên 200 người bị bắt đem về Đại Việt cùng
nhiều của cải nữa.
Việc
đánh Ung Châu trước sau mất hơn một tháng. Quân Đại Việt cũng có phần mệt mỏi.
Lý Thường Kiệt hạ lệnh rút binh vì mục đích của Lý triều bấy giờ chỉ có ý đánh
một đòn tinh thần vào Tống triều để phá chương trình xâm lăng của Tống triều mà
thôi.
29 Từ Khâm Châu lên Ung Châu đường dài khoảng
120 cây số.
30 kế thổ công là cho đất vào bao rồi xếp bao
cao thành đống làm thang leo vào thành; Hoả công là bắn tên nhựa có lửa cháy
vào thành, biết rằng trong thành đang bị khô cạn.
Một điều
đáng chú ý: việc đánh Tống của Lý triều rất sáng suốt bởi nếu không tránh được
cuộc xung đột thì nên lợi dụng sự bất ngờ mà đánh trước là hơn.
Tháng ba
năm Bính Thìn (1076) quân Lý rút ra khỏi đất Tống vì cần đề phòng sự phục thù
của Tống triều có thể đánh lén vào hậu phương của mình.
4- Cuộc Phục Thù Của Nhà Tống
Việc Lý
triều đánh phá ba châu Khâm, Ung, Liêm khiến Tống giận hết sức. Tháng hai năm
Bính Thìn (1076) quân Tống lên đường Nam chinh. Triệu Tiết là Thiên chưởng các
đại chế được cử làm Chiệu thảo sứ, Quách Quỳ làm phó đem 9 tướng hợp với quân
Chiêm Thành, Chân Lạp chia đường đánh vào nước ta.
Cuộc gặp
gỡ đầu tiên giữa Lý Tống đã xẩy ra bên bờ sông Như Nguyệt, tức là khúc
dưới sông Cầu
thuộc tỉnh Bắc
Ninh bây giờ.
Tống thua trận
này chết hại
hơn 1000 người. Quách Quỳ tiến về
phía sông Nhị Hà và sông Khúc Táo thuộc địa hạt Nam Định cũng bị quân Lý Thường
Kiệt án ngữ. Quân Tống dùng gỗ làm máy bắn đá sang như mưa. Thủy quân của ta bị
hại khá nhiều, mấy ngàn binh lính tử trận, thuyền thủng nát một số lớn. Khí thế
quân Tống rất mạnh. Và dưới quyền điều khiển của Thường Kiệt, Nam quân cũng
chiến đấu hăng hái. Để phấn khởi tinh thần quân đội, Lý Thường Kiệt đã áp dụng
một thuật tâm lý là làm bốn câu thơ, cho người lén vào đền Trương Hát bên sông
thét ra:
Nam quốc
sơn hà Nam đế cư
Tiệt
nhiên định phân tại thiên thư
Như hà
nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đảng
hành khan thủ bại hư
Có ý
rằng: Đất nước của người Nam phải do người Nam (vua nước Nam) cai trị. Điều đó
đã do ý trời định. Kẻ nghịch kia dám xâm phạm đất ta, chỉ là mua lấy sự thất bại
mà thôi.
Bốn câu
thơ này làm phấn khởi tinh thần kháng chiến và quân Tống bị chặn đứng không sao
tiến được.
Những
đoàn quân của Chiêm Thành và Chân Lạp cũng bị cản đường nên không giúp được
quân Tống. Thế của đôi bên không phân thắng bại. Lý triều e đánh lâu không lợi
vì nước ta quân ít của hiếm, theo đuổi một cuộc trường chiến át phải hao tổn
nhiều mà cuộc hành quân lúc này của Bắc triều chi do vấn đề sĩ diện hơn là do ý
chí xâm lược. Lý triều liền cử sứ bộ sang điều đình hoãn chiến. Thật là đúng
điều mong mỏi của Tống triều, nay lại được gặp dịp thuận tiện bởi quân Tống lúc
này bị hại quá nửa vừa do chiến tranh và cũng do chỗ bất phục thủy thổ. Quân số
của họ trước đây là 8 vạn. Tống triều
chấp thuận ngay
lời thương nghị
của nhà Lý
rồi rút binh
nhưng khi trở
về họ chiếm giữ mấy châu Quảng
Nguyên (ngày nay là Quảng Uyên thuộc tỉnh Cao Bằng), Tư Lang (tức Thượng Lang
và Hạ Lang cũng thuộc Cao Bằng), châu Tô Mậu (giữa hai tỉnh Cao Bằng và Lạng
Sơn) và huyện Quảng Lang (tức Ôn Châu thuộc Lạng Sơn).
Năm Mậu
Ngọ (1078) vua Lý Nhân Tông mở cuộc giao hảo với Bắc triều. Sứ thần Đại Việt là
Đào Tôn Nguyên đưa 5 con voi đã thuần sang cống vua Tống và đòi lại những châu,
huyện ở miền Cao Bằng (quân Tống chiếm được đất đai miền này đổi tên Quảng Nguyên
ra là Thuận Châu đặt 3000 quân để giữ).
Tống
triều ưng thuận với điều kiện là Lý triều phải trả lại cho Tống những người dân
các châu Khâm, Liêm, Ung do Lý quân bắt trong năm Ấ Mão (1075). Tất cả 221
người31. Trước khi cho bọn này về, Lý triều cho thích vào trán con trai từ 15
tuổi trở lên ba chữ "Thiên tử binh", đàn ông từ 20 tuổi trở lên thích
chữ "Đầu Nam Triều" và vào cánh tay trái đàn bà con gái hai chữ
"Quan Khách".
Sau khi
quân Tống rút khỏi Quảng Nguyên, vì châu này có mỏ vàng, người Tống tiếc của có
làm hai câu thơ sau đây:
Nhân
tham Giao Chỉ tượng Khước thất Quảng Nguyên kim.
Mùa hạ
năm Giáp Tý (1084) Lý triều lại phái Binh bộ Thị lang Lê Văn Thịnh (vị thủ
tuyển khoa thi đầu tiên của nước ta) sang yêu cầu Tống triều phân chia lại địa
giới và trả nốt mấy huyện Tống còn giữ lại. Viết đến đây chúng tôi có cảm tưởng
rằng việc ngoại giao của nhà lý bấy giờ rất là khéo léo và rất sành về mặt tâm
lý. Lý triều đã áp dụng chính sách đòi dần để tình thế giữa hai nước vừa xung
đột với nhau bớt găng. Nếu yêu sách quá nhiều trong một buổi có thể Tống sẽ
không chịu vì như thế sẽ mất thể diện. Lý triều tiến dần, quả nhiên việc thương
thuyết đem lại được đầy đủ kết quả như ý muốn.
Vấn đề
phân chia địa giới đối với thời bấy giờ đáng kể là một việc quan trong vì đến
đời Lý, cương thổ Việt Nam chỉ mới rõ rệt về phương Nam vào khoảng Thanh Hoá,
cách biệt với đất Chàm do dẫy Hoành Sơn, và về phương Bắc từ Cao Bằng sang
Đông. Địa phận Đông Khê so sánh với ngày xưa không khác lắm. Từ nơi này ra
biển, Bắc ngạn sông Kỳ Cùng thuộc về Tống gồm có châu Tây Bình, Lộc Châu và
huyện Thanh Viễn rồi tới chỗ gần bể, lĩnh thổ Việt Nam còn ăn vào tới tỉnh
Quảng Đông đến gần vịnh Khâm Châu. Các cư dân tại Cao Bằng gồm Mán, Nùng, Thổ,
Mường không thuộc hẳn về bên nào. Biên giới về phiá này, tới vùng Bảo Lạc và
Yên Báy ngày nay có thể nói bấy giờ chưa có ảnh hưởng của Lý triều. (Đây là
theo lời bàn của Hoàng Xuân Hãn tác giả cuốn Lý Thường Kiệt quyển thượng). Theo
ý chúng tôi thì trái lại, tức là Lý triều đã đạt được một phần nào ảnh hưởng
phần nào tới các cư dân thượng du ở địa hạt Cao Bằng. Tỉ dụ như họ Nùng oanh
liệt bậc nhất trong đám tù trưởng Thượng du, tuy hùng cứ miền Quảng Nguyên (Cao
Bằng) đã chẳng có thời quy phục Lý triều đó sao? Ngoài ra các vùng Hải Ninh,
Móng Cáy đến Khâm Châu từ huyện Quảng Lang đến Ôn Châu ở phía Nam tỉnh Lạng Sơn
đến Ung Châu (Nam Định) hai bên Lý Tống cùng kiểm soát, còn về phía Tây các bộ
lạc gần như hoàn toàn độc lập. Còn người Việt dưới đời Lý thì tập trung hết ở
Trung Châu cho tới Thanh Hoá. Địa thế của Việt Nam hồi đó như ôm đất Ung Châu
và do biên giới Lý Tống chưa được phân định rõ rệt nên hay có những
31 Bọn dân bị bắt làm tù binh được trở về Tàu
năm 1079.
cuộc rắc
rối giữa hai nước và cũng do Lý - Tống đều có óc quật cường, khuynh loát như
nhau.
5- Việc đánh Chiêm Thành
Năm 1075
tức là năm Ất Mão trước khi có việc đánh Tống, Lý Thường Kiệt đã xuất quân đánh
Chiêm Thành, vì Chiêm luôn luôn quấy rối bờ cõi Đại Việt. Lần này chưa thành
công, nhưng Lý Thuờng Kiệt đã vẽ được đồ bản ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố
Chính do Chế Củ nhường cho chúng ta năm Kỷ Dậu(1069) dưới thời vua Thánh Tông.
Ở đấy Lý triều đã di dân sang để khai khẩn làm ăn. Việc này có hai mục đích:
1) Giải
quyết vấn đề nhân mãn do mật độ nhân dân ở miền Trung Châu bắt đầu lên cao.
2) Chiếm
đóng ba châu này để đặt ảnh hưởng chánh trị của Đại Việt, thực hiện chủ quyền
của dân tộc chúng ta trên các địa hạt Chiêm đã nhượng.
Năm Quý
Mùi (1103) Lý Giác làm phản ở Diễn Châu (Nghệ An) Lý Thường Kiệt lại thân hành
đi dẹp, Lý Giác thua chạy qua Chiêm Thành dụ Chiêm vương Chế Ma Na đem quân
đánh lấy lại ba châu trên đấy. Quân Chiêm đại bại và xin tôn trọng tình trạng
cũ. Từ khi việc bình Chiêm có kết quả, các nước ở phía Nam đều xin thần phục và
tiến cống nước ta rất chu đáo.
Tháng
sáu năm thứ 5 hiệu Long Phù (1105) Lý Thường Kiệt mất. Vua Lý Nhân Tông ban
chiếu truy tặng chức Nhập Nội Đô Tri Kiểm hiệu Thái úy Bình chương Quân quốc
Trọng sự, Việt Quốc Công, được thực ấp vạn hộ.
Lý
Thường Kiệt trước sau thờ ba đời vua đều được trọng dụng và mến yêu không ai
bằng. Sau khi ông mất, dân bản phường (phường Thái Hoà, huyện Thọ Xương) thờ
làm thần, được các triều sau nầy phong tặng.
Về việc
dân Đại Việt đem quân đánh phá miền Hoa Nam là một việc vẻ vang nhất trong lịch
sử của chúng ta nên có câu phong dao dưới đây:
Nực cười
châu chấu đá xe
Tưởng
rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.
V. Lý Thần Tông (1128 - 1138)
Vua Lý
Nhân Tông mất vào ngày Đinh Mão tháng chạp năm Đinh Mùi tức 15 tháng giêng năm
1128 không có người kế tự. Ngày Ất Dậu (2.2.1128) triều thần lập con nuôi của
ngài là Dương Hoán lên ngôi. Dương Hoán là con Hoàng đệ Sùng Hiền Hầu sinh năm
Bính Thân (1116) thông minh, tuấn tú trước đã được vua Nhân tông đem vào cung
làm con nuôi. Tháng 10 năm Đinh Dậu (1117) Dương Hoán được sách lập làm hoàng
tử; và lên ngôi năm đó mới 11 tuổi.
Năm Ất
Dậu vua Thần Tông ngự tại điện Thiên An coi chầu rồi xuống chiếu cho quần thần
trừ phục (bỏ khăn tang) và dự vào việc cung nữ lên hỏa đàn tuẫn táng theo vua
Nhân Tông. (Xét việc Dương Hậu và 72 cung nhân chết theo Lý Thánh Tông có người
có người cho rằng ta đã theo phong tục Tàu và cả phong tục Ấn Độ, Mã Lai
(Indonésien) nữa. Xưa Tần Mục Công chết vào thế kỷ thứ 13 trước C.L. ba con của
họ Tử Xa phải chết theo; Tần Thủy Hoàng chết, phong tục này cũng được thi hành,
ở nước ta có lẽ việc tuẫn táng các vợ vua và cung nhân chỉ hti hành ở dưới
triều Lý Thánh tông và Thần Tông mà thôi, bởi sau này không thấy phong tục đó
được liên tiếp áp dụng)
Mồng một
tháng giêng năm Mậu Thân 1128, vua Thần Tông đổi niên hiệu là Thiên Thuận, đại
xá thiên hạ, trả lại ruộng đất cho dân đã bị lấy làm công điền. Những người bị
tịch thâu làm điền nhi được về hết. Sáu quân được thay phiên về làm ruộng, lại
có việc ngự kinh diên tức là vua học.
Cùng năm
ấy (1128) Thần Tông thả những tội nhân ở phủ Đô Hộ từ tội biếm (đi đầy, bị
giáng) tội truất (cũng như bị giáng) trở xuống 130 người (Khâm Định Việt Sử
quyển 4, tờ 21a).
Năm sau
là năm thứ hai hiệu Thiên Thuận (1129) trời đại hạn vua đích thân cầu đảo không
nghiệm. Sau vua xuống chiếu tha những tội nhân vì e có việc oan, lạm trong
thiên hạ. Đầu tháng tư được mưa.
Tháng 9
năm sau lại mưa quá nhiều. Nhà vua lại thả tất cả tù ở phủ Đô Hộ cũng do ý làm
việc ân đức để tránh thiên tai cho nhân dân.
Tháng 10
năm thứ 3 hiệu Thiên Thuận (Canh Tuất 1130) sứ nhà Tống sang phong vua Thần
Tông làm Giao Chỉ Quận Vương. Hai năm sau sứ Tàu lại sang gia phong cho Thần
Tông làm Nam Bình Vương.
Tháng
giêng năm thứ nhất hiệu Thiên Thuận (1128) ngày Giáp Dần nước Chân Lạp (Cao
Miên) đem 2 vạn binh vào cướp ở bộ Ba Đậu, châu Nghệ An. Vua phái Nhập Nội Thái
phó là Lý Công Bình đem tướng sĩ và người Nghệ An đi đánh. Ngày Quí Hợi tháng
hai, Lý Công Bình thắng trận bắt được chủ súy và sĩ tốt Chân Lạp. Tháng ba Lý
Công Bình đem quân về kinh và dâng nộp 169 tù binh.
Tháng 8
cùng năm, người Chân Lạp lại vào cướp phá ở làng Đỗ Gia, châu Nghệ An có hơn
700 chiến thuyền. Nguyễn Hà Viêm ở phủ Thanh Hoá và Dương Ổ ở châu Nghệ An được
lệnh đi đánh, Chân Lạp lại thua.
Tháng 3
năm thứ ba hiệu Thiên Thuận, Chiêm Thành cử Ung Ma, Ung Câu đến xin nội phụ.
Tháng 8
năm thứ 5 hiệu Thiên Thuận (1132) Chân Lạp và Chiêm Thành vào cướp châu Nghệ
An. Thần Tông cho Dương Anh Nhị làm Thái úy đem quân Thanh Nghệ đi tiểu trừ
được đắc thắng.
Sau đó
Chân Lạp và Chiêm Thành đều lại cống. Hai năm sau Chân Lạp lại đến cướp châu
Nghệ An. Lý Công Bình lại đánh dẹp được.
Vua Thần
Tông ở ngôi được 10 năm thì qua đời thọ 23 tuổi.
VI. Lý Anh Tông (1138 - 1175)
- Đỗ Anh
Vũ và Tô Hiến Thành
- Việc
ngoại giao
1- Đỗ Anh Vũ và Tô Hiến Thành
Vua Anh
Tông tức là Thái tử Thiên Tộ mới lên ba khi vua Thần tông qua đời. Thái hậu là
Lê thị cầm quyền nhiếp chính. Vì Thái hậu tư thông với Đỗ Anh Vũ là một cận
thần nên mọi việc triều chính đều do một tay Anh Vũ quyết đoán. Anh Vũ từ đó ra
vào cung cấm và trở nên lộng quyền, coi rẻ các đình thần. Không khí triều trung
ngày một nặng nề rồi sinh rối loạn: bọn các quan Vũ Đại, Nguyễn Dương, Nguyễn
Quốc, Dương Tự Minh bàn nhau trừ Anh Vũ nhưng việc thất bại, đèu bị giết hại
cả.
May
trong hàng đại thần còn lại các người có uy tín như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa
Hiền, Lý Công Tín nên Đỗ Anh Vũ không dám đi xa hơn nữa.
Thời vua
Anh Tông không có việc trọng đại xẩy ra và được tương đối bình yên là nhờ có
đại thần họ Tô có tài chính trị và biết điều khiển việc quân sự. Binh chế triều
Lý Anh Tông có thể gọi là thịnh đạt vì ông Tô Hiến Thành biết chọn người làm
tướng, biết luyện tập quân đội, nên giặc dã các nơi đều dẹp được cả, đáng kể
hơn cả là các bọn giặc Thân Lợi, Ngưu Hồng và giặc Lào quấy rối nhiều nơi sau
khi vua Anh Tông lên ngôi được hai năm. Thân Lợi tự xưng là con riêng của vua
Nhân Tông có phen đã xuất gia sau họp được một bọn lưu manh trên 1000 người tại
Thái Nguyên, tự xưng vương và phong chức tước. Triều đình phải tốn rất nhiều
công phu. Năm Tân Dậu (1141) Anh Vũ cầm quân đuổi được Thân Lợi tại phủ Phú
Lương khi quân Thân Lợi về vây phủ lỵ. Thân Lợi chạy lên Lạng Sơn bị quân của
ông Tô Hiến Thành đuổi theo bắt được đem về kinh trị tội. Nhờ lập được nhiều
công trạng vua Anh Tông phong ông Tô làm Thái úy coi cả việc văn lẫn việc võ.
Tô Hiến Thành
cũng lo cả việc khai hóa dân trí, mở mang Nho học, xây dựng miếu thờ đức Khổng
Tử ở phía Nam thành Thăng Long. Năm Ất Dậu (1165) hiệu Chính Long Bảo ứng năm
thứ 3 có mở khoa thi học sinh.
Năm Tân
Mão và năm Nhâm Thìn (1171 1172) vua Anh tông vi hành khắp mọi nơi trong nước
để xem xét sự sinh sống của dân chúng và địa thế sông núi, đường lối giao thông
xa gần, sau ngài cho người làm quyển địa đồ nước nhà, tiếc rằng ngày nay cuốn
sách này bị mất tích.
Năm Ất
Mùi (1175) do nhiều công trạng lớn lao nữa, ông Tô Hiến Thành được gia phong
chức Thái phó Bình chương Quân quốc Trọng sự và thêm vương tước.
2- Việc Ngoại Giao
Năm Giáp
Thân (1164) nhà Tống đổi Giao Chỉ quận làm An Nam quốc, phong cho vua Anh Tông
làm An Nam quốc vương. Hẳn chúng ta ai nấy đều nhớ rằng xưa kia người Tàu
đặt tên nước
ta là Giao
Chỉ quận, sau đổi là Giao Châu
(do đề nghị của Trương Tân và Sĩ Nhiếp dưới đời Hán Hiến Đế năm thứ ba tức năm
Quí Mùi (203) sau đến Đường triều lại có sự thay tên nữa: Đường gọi ta là An
Nam đô hộ phủ. Đến đời nhà Đinh, nền tự chủ thành hình, vua Đinh Tiên Hoàng
khởi nghiệp xong liền đặt lại quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Ba chữ Đại Cồ Việt ngụ
ý rằng nước ta là một nước lớn và mạnh bởi chữ Đại Cồ, còn chữ Việt là để ghi
danh tín của dân tộc chúng ta là người Việt. Đến vua Thánh Tông nhà Lý thấy chữ
Đại Cồ không được văn vẻ nên đổi ra là Đại Việt dễ nghe hơn và vẫn giữ được ý
nghĩa cũ (một nhà sử học cho rằng căn cứ vào chữ Đại Cồ Việt ta có thể hiểu
thời đó trình độ văn tự nước ta còn kém cỏi quá. Điều này rất đúng vì trải qua
3 triều Ngô, Đinh, Lê vua quan đều là võ tướng. Nhưng trong các sắc phong Bắc
triều vẫn giữ hai chữ Giao Chỉ đến bấy giờ mới đổi ra An Nam. Sử gia Trần Trọng
Kim nói: Nước ta thành nước An Nam khởi đầu từ đấy. Theo chúng tôi dưới thời
Bắc thuộc (nhà Đường) nước ta chỉ đuợc coi là một "phủ" và tiếng
"An Nam" đã có từ bấy giờ rồi, duy có điều khác là sau nầy nhà Tống
thấy dân tộc ta đã cứng cát, mạnh mẽ và có đủ quy mô một quốc gia độc lập nên
Tống triều lúc đó phải nhận nước ta là một nước (do đó hoàng đế nhà Tống mới
phong cho vua ta là An Nam quốc vương). Trước kia với Lê Đại Hành và mấy triều
vua sau nhà Lý, Bắc triều vẫn phong các vua ta là Giao Chỉ quận vương hay Nam
Bình vương (vua Lê Đại Hành, vua Lý Thái Tổ, vua Lý Nhân Tông).32 Các triều vua
thời đó không đòi cải chính chẳng ngoài ý không muốn gây mâu thuẫn vô ích với
Bắc triều miễn họ đừng xâm phạm đến chủ quyền nước ta.
Năm Ất
Mùi (1175) vua Anh Tông đau. Ngài ủy ông Tô Hiến Thành lập thái tử Long Cán lên
làm vua rồi ngài mất sau khi ở ngôi được 37 năm, thọ 40 tuổi đúng.
VII. Lý Cao Tông (1176 - 1210)
Thái tử
Long Cán lên ngôi mới 3 tuổi theo di chúc của tiên đế. Bà Chiêu Linh Thái hậu
trái lại muốn lập Long Xưởng lên làm vua. Long Xưởng đáng lẽ được giữ ngôi cửu
ngũ vì
đã được phong
làm thái tử
nhưng trước đây
phạm tội nên bị truất.
Tô Hiến Thành bấy giờ là một vị
đại thần và trung thần cương quyết thi hành lời ủy thác của tiên đế không ham
vàng bạc của Thái hậu đem đút lót. Năm Kỷ Hợi (1179) ông mất và trước khi gần
chết ông cử Gián Nghị đại phu Trần Trung Tá thay mình nhưng sau này triều đình
đã trái ý ông, cử Đỗ Yên Di làm phụ chính và Lý Kinh Tu làm đế sư. Bà Chiêu
Linh Thái hậu tuy vẫn nuôi ý lập Long Xưởng nhưng trong triều còn nhiều người
đứng đắn nên việc mưu toan phế lập không thi hành nổi.
32 Với chữ "Giao Chỉ" người Tàu còn
quan niệm ta vẫn ở trong vòng lệ thuộc của họ.
Lý Cao
Tông lớn lên thiếu hết đức tính cao cả của một ông vua, chỉ ham chơi bời săn
bắn, xây dựng cung điện khiến nhân dân phải phục dịch khổ sở. Ngoài ra lại còn
những việc mua quan, bán tước, hà hiếp nhũng lạm để lấy tiền tiêu vào các
chuyện xa xỉ. Năm Trinh Phù thứ 9 (1184) miền Đông có cuộc nổi loạn của dân các
trại Tư và Mông. Năm thứ 10 có cuộc nổi loạn của dân Mán trại Viêm. Năm Thiên
tư Gia thụy thứ 7 (1192) có cuộc nổi loạn của người giáp Cổ Hoàng ở Thanh Hoá.
Chiêm Thành cũng luôn luôn cướp phá.
Vua quan
tỏ ra bất lực và không ai lo việc nước. Các lương thần già yếu chết dần hoặc bị
bọn gian nịnh lấn áp, cho tới năm Bính Thìn (1208) tại Nghệ An, Phạm Du nổi
lên, chiêu nạp bọn vong mạng mưu đồ đại sự. Quan Phụng Ngự là Phạm Bỉnh Gi được
phái đi đánh dẹp, thắng được quân nghịch, tịch thu của cải và đốt phá hết doanh
trại cùng cơ sở của chúng. Biết trong triều chỉ còn những tham quan, ô lại,
Phạm Du cho người về kinh mang vàng bạc đút lót vu cho Bỉnh Gi đã làm những
điều hung bạo, giết hại lương dân, Phạm Du lại còn xin về triều khiếu oan.
Vua Cao
Tông ưng thuận
đồng thời cho
triệu Bỉnh Gi về kinh
giam lại. Thấy
chủ tướng lập được công mà mắc tội, bộ hạ của Bỉnh Gi phẫn uất đem quân
vây hãm kinh sư. Cầm đầu quân sĩ của Bỉnh Gi là Quách Bốc. Mục đích của họ là
phá thành cứu chủ tướng. Trước việc biến động này vua Cao Tông cho giết luôn
Bỉnh Gi rồi cùng thái tử Sam bỏ kinh thành chạy lên sông Thao (Phú Thọ). Sau
thái tử Sam chạy về Hải Ấp vào nương náu ở nhà Trần Lý người làng Tức Mặc,
huyện Mỹ Lộc, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định.
Trần Lý
là một nhà hào phú ở đây khởi nghiệp bằng nghề đánh cá và có uy thế tại địa
phương. Họ Trần thấy trong nước biến loạn, có ý lo toan việc lớn nên thu thập
những kẻ đã đi đánh cướp nhiều nơi. Được thái tử về trú ngụ ở nhà mình, Trần
rất lấy làm mừng rỡ. Thái tử thấy Trần thị con gái Trần Lý có nhan sắc bèn lấy
làm vợ rồi phong cho Trần Lý tước Minh Tự, cậu Trần thị là Tô Trung Từ người
làng Lưu Xá làm Điện Tiền chỉ huy sứ. Thanh thế của họ Trần nhân đấy nổi lên
rồi họ đem quân về dẹp loạn ở kinh sư. Loạn quân thất bại, họ Trần cho người
lên Qui Hoá (Phú Thọ) rước Cao Tông trở về cung. Sau Cao Tông cho quân về đón
Thái tử ở Lưu Xá.
Vua Cao
Tông sau năm biến loạn thì mất vào tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), trị vì được 35
năm, thọ 38 tuổi. Nhà Lý từ đời Cao Tông bắt đầu suy yếu rõ rệt.
VIII. Lý Huệ Tông (1211 - 1225)
Thái Tử
Sam trở về kinh đô
lên ngôi tức
là Huệ Tông,
Trần Thị được
phong là Nguyên Phi. Lúc này Trần
Lý bị giặc cướp giết nhưng con thứ là Tự Khánh vẫn nắm giữ được binh quyền. Huệ
Tông phong cho Tự Khánh làm Trung Tín Hầu, cậu Tự Khánh là Tô Trung Tử làm Thái
Úy Thuận Lưu Bá, Trần Thừa làm Nội Thị Phán Thử. Huệ Tông là một ông vua nhu
nhược luôn bệnh hoạn, lại không am hiểu chính trị, mọi việc trong triều đều
giao cho anh em chú bác họ Trần quyết định. Vì vậy ảnh hưởng của họ Trần trong
triều mỗi ngày một lớn khiến bà Thái Hậu sinh nghi. Năm Quí Dậu (1213) bà Thái
Hậu thường dày vò Trần Thị luôn. Tự Khánh đem quân đến kinh đô xin rước vua đi.
Vua cũng ngờ Tự Khánh làm phản rồi giáng Trần Thị xuống làm Ngự Nữ. Tự Khánh
thân đến xin lỗi. Vua và Thái Hậu bỏ đi Lạng Sơn để đề phòng sự bất trắc. Lần
nữa Tự Khánh đến xin rước vua, vua lại đưa Thái Hậu di cư sang huyện Bình Hợp.
Sau này Thái Hậu lại đòi vua bỏ Trần Thị, Huệ Tông không nghe. Thái Hậu định bỏ thuốc độc cho Trần Thị, Huệ
Tông phải san xẻ bữa cơm của mình cho Trần Thị và không xa Trần Thị một bước.
Sau này Thái Hậu bức bách quá, Huệ Tông và Trần Thị lẻn trốn Thái Hậu về trú ở
nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên rồi cho tìm Tự Khánh vào chầu. Từ đấy
thế lực họ Trần lại mạnh hơn trước. Năm Kiến Gia thứ 6 Trần Thị được phong làm
Thuận Trinh Phu Nhân, sau được tôn làm hoàng hậu. Tự Khánh làm Thái Úy Phụ
Chính cùng Phan Lân tổ chức quân sự luyện tập quân đội, sửa sang võ bị. Tháng
Chạp năm Quý Mùi (1223) Tự Khánh mất, Trần Thừa đặc cách thăng Phụ Quốc Thái Úy
và em họ Trần Hậu là Trần Thủ Độ được lĩnh chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, một địa
vị quan trọng bậc nhất thời bấy giờ.
Huệ Tông
thường ốm đau, điên dại, rượu say liên miên suốt ngày. Trần Thủ Độ xét định mọi
việc triều chính. Ngôi sao của Thủ Độ mỗi ngày một thêm sáng. Vương quyền của
họ Lý mỗi ngày một lu mờ, nhất là Trần Thủ Độ dụ được Huệ Tông khoác áo hòa
thượng vào tụng kinh, niệm kệ trong chùa Chân Giáo.
Huệ Tông
chỉ sinh được hai gái. Người chị là Thuận Thiên Công Chúa đã gả cho Trần Liễu,
con trưởng của Trần Thừa. Em là Chiêu Thánh Công Chúa (tên chính là Phật Kim)
mới lên 7 tuổi, được Huệ Tông yêu dấu hết sức. Tháng 10 năm Giáp Thân, Huệ Tông
truyền ngôi cho Chiêu Thánh Công Chúa.
IX. Lý Chiêu Hoàng (1225)
Chiêu
Thánh Công Chúa lên ngôi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Quyền hành của nhà Lý giờ phút
này nằm gọn trong tay Trần Thủ Độ, vì Huệ Tông bị gạt hẳn ra ngoài chính quyền.
Chiêu Hoàng là gái thơ ngây bấy giờ không còn là điều đáng kể cho thời cuộc
nữa.
Chương
trình đem họ Trần thay họ Lý đã thi hành được một phần quan trọng; nay chỉ còn
lấy hẳn cái ngai vàng của họ Lý là xong. Thủ Độ vốn đã tư thông với Thái Hậu
Trần Thị liền bày cách cho con các quan vào cung hầu Chiêu Hoàng. Đó là dịp mở
lối cho Trần Cảnh là con Trần Thừa vào nội điện làm chức Chính Thủ, một vị quan
mới lên 8 tuổi, nhỏ nhất triều đình bấy giờ. Trần Hậu làm nội công nên Thủ Độ
tính đến đâu xong đến đó.
Tháng
Chạp năm Ất Dậu (1225) Trần Hậu và Thủ Độ đứng ra làm chủ hôn cho Chiêu Hoàng
lấy Trần Cảnh, rồi chiếu hạ giá do tay Thủ Độ ban bố ra.
Ngày 21
tháng 10 năm Ất Dậu (1225) Trần Cảnh lên ngôi sau khi bản tuyên ngôn của hoàng
triều bay ra khắp thiên hạ. Các quan lớn nhỏ đều tỏ lòng công phẫn nhưng vì thế
lực họ Trần quá mạnh nên họ đành thúc thủ.
Quần
chúng lưu luyến tiền triều trong dịp này có lời khẩu chiếm dưới đây:
Trống
chùa ai đánh thùng thùng
Của
chung ai khéo vẫy vùng nên riêng.
Phần 3 -
Chương 6
Khái Luận Về Phật Giáo và Văn Học Dưới Đời Nhà
Lý
Nhà Lý
cầm vận mệnh dân tộc Việt Nam trong 216 năm nối tiếp nhau 9 đời, sự nghiệp đáng
kể là vĩ đại. Từ Khúc Hạo dấy nghiệp đến Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn, Ngô
Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, nền tự chủ của dân tộc Việt Nam mới thành
hình nên mọi quy mô chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa còn phôi thai, ấu trĩ.
Nhưng đến Lý triều đời sống của dân tộc ta bành trướng mỗi ngày một mạnh. Nền
tảng đã vững chắc, các vương triều sau đã thúc đẩy dân tộc đi khá xa trên con
đường tiến hóa. Chúng tôi xin kể đây những công việc mở mang Phật Giáo và văn
hóa của Lý triều để các bạn đọc có một ý niệm tổng quát về một giai- đoạn
trưởng thành của nước nhà trước đây ngót 10 thế kỷ.
A) Ai ai
cũng hiểu rằng Lý Thái Tổ xuất thân ở chốn khói hương, rồi từ chỗ Phật Đài Ngài
bước lên sân khấu chính trị. Việc trước nhất của Ngài là mở mang và đặc biệt ưu
đãi đạo Phật. Ngài bỏ ra 2 vạn quan tiền để dựng 8 ngôi chùa ở phủ Thiên Đức
thuộc tỉnh Bắc Ninh, là trú quán xưa kia của Ngài. Trong và ngoài thành Thăng
Long lần lượt nổi lên 9 ngôi chùa (trong 2 ngoài 7) không kể là chùa Chân Giáo
mà Ngài thường mời sư đến tụng niệm. Ngài phái Nguyễn Đạo Thành sang Tống xin
kinh Tam Tạng. Ngài lại đặt phục sắc cho tăng đạo, độ cho chư tăng trong nước.
Các triều đại sau vẫn tiếp tục việc tôn sùng Phật Giáo.
Vua Thái
Tông cho lập chùa Diên Hựu (tức chùa Một Cột) ở thôn Thanh Hảo. Chùa này theo
một lối kiến trúc đặc biệt là xây trên một chiếc cột lớn ở giữa một chiếc hồ
nhỏ luôn luôn có nước bên cạnh sở Canh Nông và vườn Bách Thảo Hà Nội. Nhưng
chùa này đã bị phá hủy trước việc thay đổi chính quyền tại Bắc Việt cuối năm
1954.
Vua
Thánh Tông xây tháp Bảo Thiên cao 12 tầng, tốn 12000 cân đồng để đúc một chiếc
chuông lớn (Hồng Chung).
Vua Nhân
Tông lại xúc tiến phong trào Phật Giáo mạnh hơn nữa. Ngài đã cho dựng riêng về
phần Ngài hơn 100 ngôi chùa khắp trong nước, ở những nơi danh lam thắng cảnh,
và chia làm ba hạng đại, trung, tiểu. Ngài cho đất ruộng tam bảo để nuôi sư,
lấy hoa lợi cung ứng vào việc đèn nhang. Ngài phong cho ông Khô Đầu là một vị
cao tăng đời bấy giờ chức Quốc Sư. Mỗi khi có việc quan hệ, Ngài thường lui tới
để bàn hỏi.
Xem trên
đây chúng ta cảm thấy hai nhà Đinh, Lê mới chỉ có nghiêng về Thích Đạo, nhưng
với Lý triều không khí Phật Giáo đã tràn ngập từ cung điện ra tới dân dã. Rồi
cái không khí thiền môn lan cả vào khu vực văn học nữa.
Vua Nhân
Tông đặt ra phép thi tam trường để kén những người minh kinh, bác học. Những ai
là nho sĩ đều phải nghiên cứu và đi sâu vào Phật học trước khi bước ra hoạn lộ.
Năm 1070
vua Thánh Tông đã lập Văn Miếu ở thành Thăng Long (tức Giám ở bên thành Hà Nội
bây giờ) để thờ đức Khổng Tử và các tiên hiền, vì nhà vua, ngoài Phật Giáo cũng
rất tôn sùng Nho Giáo. Tất nhiên về thuở đó, ai đã lo khai hóa dân trí đều phải
mở mang, cổ động cho Nho Giáo là căn bản của nền văn học bấy giờ. Phật Giáo và
Nho Giáo đần dần đã chen vai thích cánh với nhau. Lão Giáo cũng xuất hiện và
giành phần ảnh hưởng cho nên đến năm 1311 dưới trời Việt Nam, Nho - Phật - Lão
đã thành thế "ba chân vạc" nhưng không có sự xung đột giữa các giáo
thuyết này. Điều kể trên đã được minh chứng do chương trình khoa cử dưới đời
vua Lý Anh Tông. Ngay từ bấy giờ, người ta đã gọi là thi tam giáo, nghĩa là
những nhân tài của ba giới đều được bản triều trọng dụng ngang nhau (đến đời Lê
Thánh Tông thì Nho Giáo có ảnh hưởng nhiều hơn cả, và Phật, Lão dường như đã
đứng ngừng lại).
Văn học
đời Lý đến đời vua Thái Tông nhập cảng được một thứ mới lạ. Đó là môn ca và
điệu múa Chiêm Thành. Nguyên năm 1044 vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành
thắng trận trở về đem được một số cung nhân Chiêm là những kỹ nữ chuyên ca điệu
Tây Thiên Khúc. Các cung nhân Việt Nam ít lâu sau cũng được học tập điệu múa và
lời ca đó.
Tháng 8
năm Chương Thánh Gia Khánh (1060) vua Lý Thánh Tông cho truyền bá khúc nhạc và
âm điệu theo nhịp gõ, nhịp trống của Chiêm Thành cho nhạc công hát theo.
Với thời
gian khúc ca Chiêm
Thành bị Việt
hóa tuy vẫn
đứng riêng một
lối, giữ nguyên vẹn bản sắc. Năm
Trinh Phù thứ 17 (1193) Lý Cao Tông sai nhạc công chế khúc nhạc gọi là Chiêm
Thành Âm. Đến nay lời ca thế nào không thấy có ghi chép chỉ thấy sử nói rằng
khúc nhạc này ai oán, não nùng, khiến người nghe phải ngậm ngùi sa lệ. Điệu Nam
Ai, Nam Bình mà người Huế của chúng ta hay ca có lẽ đã thoát thai ở khúc nhạc
Chiêm Thành.33
Những
tác phẩm văn học dưới Lý Triều cũng sản xuất khá nhiều. Năm 1027 đời Lý Thái Tổ
năm thứ 17 có soạn được cuốn "Hoàng Triều Ngọc Điệp" là một bộ sách
chép các mệnh lệnh, từ cáo và niên phả của hoàng gia.
Năm 1412
vua Lý Thánh Tông sai quan Trung Thư lựa theo thời thế và dân trí đặt ra bộ
"Hình Thư" chia ra từng môn, từng loại, từng điều và từng khoản.
Khoảng
năm Thiên Thành (1028 1033) đời Lý Thái Tông có cuốn " Bí Thư " định
rõ các thẻ lệ truất trác trong ngạch quan lại.
Năm 1148
vua Lý Anh Tông muốn biết dân tình đau khổ thế nào và đường lối gần xa trong
nước bèn đi tuần thủy bộ rồi cho vẽ thế núi, sông, đồng, bãi, ghi chép phong
33 Theo ý chúng tôi, khúc ca Chiêm Thành đầy
ai oán là vì mối hờn bại trận nhiều phen với người Việt và trước đây với người
Hán.
cảnh và
phẩm vật. Vì vậy có cuốn "Nam Bắc phiên giới địa đồ" ra đời, và việc
trị dân cũng canh cải được nhiều điều đáng kể.
Ngoài
các cuốn sách trên đây ta còn thấy những bài minh ký, khắc vào chuông đồng, bia
đá rất mạnh mẽ, cứng cáp.
B) Về
Việt văn không thấy sử sách ghi chép gì, nhưng đã thấy lối ca trù phôi thai từ
đời nhà Lý. Tháng 8 năm Thuận Thiên thứ 16 đời Lý Thái Tổ (1025) con nhà xướng
ca gọi là quản giáp, sau này kêu là đào nương, do đó một cô gái họ Đào đã nổi
danh thuở đó. Như vậy ta có thể chắc rằng lối hát Ả đào xuất hiện từ triều Lý
và bài hát đã do các văn nhân đời bấy giờ đặt ra để tiêu khiển một cách thanh
tao. Tiếc rằng những bài hát Ả đào đến nay cũng thất tán, ta không còn để làm
sử liệu. Thêm vào lối hát Ả đào có lối văn "lục bát và lục bát gián
thất" cũng là một đặc điểm của văn chương Việt Nam.
Bấy giờ
lại xuất hiện cả những câu ca dao. Đại khái mấy câu dưới đây được người ta coi
thuộc về triều Lý:
"Đem
chuông đi đánh nước người Chẳng kêu cũng đánh vài hồi lấy danh"
là câu
khen Lý Thường Kiệt đem quân đánh ba châu Khâm, Liêm, Ung của Tàu. "Mở
mang34, mang chạy lên rừng,
Ta hay
mang chạy ta đừng mở mang"
Câu này
có ý chế nhạo Lý Thái Tông thả Nùng Trí Cao về rừng. Ngoài ra quốc văn đời Lý
không thấy chiếu thêm ánh sáng nào nữa. Phải chăng vì thuở đó người ta mê say
đạo Phật, nên chỉ nghiên cứu các môn cao thâm, huyền diệu của ngoại giới mà
thôi?
Đến đời
vua Lý Thái Tông lối hát xướng dần dần thịnh hành. Năm Kiến Phù Hữu Đạo thứ 3
(1041), 100 người nhạc kỹ được tuyển vào cung đủ rõ bấy giờ đã có nhiều người
làm nghề xướng ca.
Và nghề
hát xướng bấy giờ tuy chẳng là động lực chính của quốc văn nhưng ít nhất nó
cũng đã dọn đường cho lối thi, phú, nôm từ đời Trần đến các triều đại sau này.
Để kết
luận chúng ta có thể công nhận vào đời Lý văn học bắt đầu khả quan. Tính cách
văn chương bấy giờ có vẻ điềm đạm, ung dung, phóng khoáng và hùng mạnh do ảnh
hưởng một thời gian độc lập khá dài và cũng do nhiều giai đoạn thắng cường lân,
bại ngoại địch. Thêm vào đó là cái không khí thiền môn bởi Phật giáo bấy giờ
phát đạt nhất, Nho giáo và thi cử chưa thịnh. Có điều đáng chú ý là các nhà văn
học thường là những vị cao tăng hoặc bị ảnh hưởng của Phật Giáo nên ưa đứng
ngoài vòng gió bụi. Tóm lại văn học đời Lý đượm hai màu sắc: màu sắc quốc gia
và màu sắc Phật Giáo. Thật là một trạng thái hết sức đặc biệt.
34 Mang là con hươu, con hoãng
Phần 3 - Chương 7
Nhà Trần
(1225-1413)
Nước
Việt Nam Dưới Đời Trần Sơ
Nhà Tiền Trần
Trần
Thái Tông (1225-1258)
Trần
Thánh Tông (1258-1278)
Trần
Nhân Tông (1279-1293)
Trần Anh
Tông (1293-1314)
Trần
Minh Tông (1314-1329)
Trần
Hiến Tông (1329-1341)
Trần Dụ
Tông (1341-1369)
Trần
Nghệ Tông (1370-1372)
Trần Duệ
Tông (1372-1377)
Trần Phế
Đế (1377-1388)
Trần
Thuận Tông (1388-1398)
Nhà Hậu Trần
Giản
Định Đế (1407-1409)
Trần Quý
Khoách (1409-1413)
I. Trần Thái Tông (1225-1258)
1- Tàn Sát Họ Lý.
Lý Huệ Tông
và Chiêu Hoàng tuy bị gạt ra ngoài lề sân khấu chính trị thuở đó và mặc dầu
Trần Cảnh đã lên ngôi. Thủ Độ vẫn còn thắc mắc. Muốn cho địa vị của dòng họ
mình hoàn toàn vững chắc, Thủ Độ liền lo tiêu diệt hết thảy dòng giống của nhà
Lý. Trần Thái Tông mới lên 8 tuổi nên giờ đây Thủ Độ đóng vai chúa tể trong
nước với chức Thái Sư Thống quốc Hành quân chinh Thảo sứ. Mặc dầu xuất thân
không phải là kẻ có căn bản học thức uyên bác, nhưng Thủ Độ thông minh lỗi lạc
phi thường, Thủ Độ lại có tính rất cương quyết để làm những việc tàn ác kinh
thiên động địa nếu cần.
Một hôm
Thủ Độ đi qua chùa Chân Giáo thấy Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ liền nói một câu:
"nhổ cỏ phải nhổ cả rễ cái của nó đi!"
Huệ Tông
liền đứng dậy đáp: "Nhà ngươi nói thế ta đủ hiểu lắm rồi". Sau mấy hôm
Thủ Độ cho mời Huệ Tông. Huệ Tông biết ý liền vào nhà trong thắt cổ. Thủ Độ
được tin đem các quan triều thần vào tế khóc rồi đem hỏa táng và chôn tại tháp
Bảo Quang.
Năm Nhâm
Thìn (1232) trong dịp các tông thất nhà Lý làm lễ tế tiên hậu nhà Lý ở thôn Thái
Đường (làng Hòa Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh) Thủ Độ cho đào hầm làm nhà
lá ở trên. Khi các tông thất nhà Lý vào lễ, Thủ Độ cho đánh sập cả xuống hố.
Thủ Độ cho chôn sống hết. Sau đó nhân ông tổ họ Trần tên là Lý, Thủ Độ hạ lệnh
trong nước ai họ Lý đều phải cả ra họ Nguyễn, mục đích xóa hẳn họ Lý trong ký
ức của dân chúng và hậu thế.
2- Đảo Lộn Nhân Luân
Chiêu
Thánh lấy Trần Thái Tông 12 năm vẫn không có con, Thủ Độ liền bắt Thái Tông bỏ,
giáng xuống làm công chúa rồi đem chị bà Chiêu Thánh tức là vợ Trần Liễu vào
cung làm hoàng hậu vì bà này đang có mang ba tháng do ý muốn giữ vững cái ngai
vàng vừa cướp được.
Thủ Độ
xa hơn nữa nên xướng thuyết: Trai gái họ Trần lấy lẫn nhau. Rồi Thủ Độ thi hành
ý tưởng này trước nhất, bằng sự kết duyên với Thái hậu Trần Thị, vợ Lý Huệ
Tông, chị họ của Thủ Độ khi đó đã giáng xuống làm Thiên Cực công chúa. Đây là
một việc loạn luân từ cổ đến kim chưa hề có, nhưng nó có một cái lợi chắc chắn
(tương đối) là tránh được cái nạn thoán nghịch của ngoại thích. Trần Liễu uất
ức không chịu được đem quân làm loạn nhưng không nổi, rồi nhân khi Thái Tông
ngự thuyền đi chơi, Trần Liễu giả làm người đánh cá lén đến thuyền ngự tạ tội.
Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ rút gươm định chém Trần Liễu. Vua Thái Tông
hết sức cản ngăn mới xong. Sau Thái Tông cắt đất Yên Phụ, Yên Dương, Yên Sơn,
Yên Bằng (thuộc Đông Triều, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) làm thái ấp cho Trần
Liễu và phong làm An Sinh vương.
Về phần
vua Thái Tông đối với sự áp chế của Trần Thủ Độ cũng đau khổ. Một đêm ngài bỏ
kinh thành trốn đi ở chùa Phù Vân, trên núi Yên Tử (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng
Yên). Thủ Độ đem các quan đi đón về triều, Thái Tông không chịu về tuyên bố
rằng mình còn ít tuổi không kham được việc lớn và yêu cầu triều đình tìm người
xứng đáng thay Ngài.
Thủ Độ
liền bảo các quan: Hoàng thượng ở đâu thì triều đình ở đó rồi truyền lo liệu
xây dựng cung điện. Thượng Tọa chùa Phú Vân phải vào kêu nài Thái Tông mới chịu
xa giá về kinh.
3- Việc Đánh Dẹp Trong Nước
Việc họ
Trần cướp ngai vàng của họ Lý, giết tróc con cháu nhà Lý, thay bậc đổi ngôi một
dòng họ đã trị vì 216 năm và đã làm nhiều công ơn cho đất nước, đảo lôn nhân
luân phong hóa không khỏi gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị lớn trong giai
đoạn đầu tiên. Sĩ phu trong nước có một phản ứng khá mạnh và ở các nơi dân dã
cũng có nhiều sự xôn xao. Rồi nhiều cuộc phiến loạn đã bùng ra. Nhưng phải công
bằng mà nhận rằng nhân tâm bắt đầu rối ren kể từ mấy ông vua bất lực cuối cùng
của họ Lý, (đời vua Cao Tông trở đi). Giặc cướp nổi lên bốn phương. Tại Quốc Oai
thuộc tỉnh Sơn Tây có quân Mường, tại Hồng Châu có Đoàn Thượng chiếm đất Đường
Hào, ở Bắc Giang có Nguyễn Nộn. Cả hai đều là cựu thần của nhà Lý cũng xưng
vương chống lại tân triều, hùng cứ mỗi người một nơi và thu hút được một phần
đáng kể nhân tâm trong nước; nên thế lực của họ đã làm cho Trần triều phải lo
lắng.
Thủ Độ
đem quân dẹp bọn Mường xong liền mở cuộc giảnh hòa chia đất cho Đoàn Thượng và
Nguyễn Nộn. Tất nhiên đây chỉ là một giải pháp tạm thời trong khi Thủ Độ xét
chưa nên hoặc chưa thể lấy võ lực để đàn áp hai vị thủ lĩnh đối lập hoặc lúc ấy
tình thế chưa được thuận tiện. Chúng ta có thể tin như vậy vì con người dám
cương quyết chống quân Mông Cổ sau này lại nắm phần toàn thắng như Trần Thủ Độ
và con cháu họ Trần có hùng tài đảm lược đâu có thể cùng đứng chung mãi một cõi
với Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Hoặc giả Thủ Độ e dè cái tiêu bài chính nghĩa
"Phù Lý diệt Trần" của hai người này đang có hiệu lực thao túng nhân
tâm thì việc chia đất giảng hòa cũng là một kế sách đánh đổ cái chiêu bài trên đây
của hai họ Đoàn, Nguyễn?
Năm Mậu
Tí (1228) giữa Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn có sự xung đột. Nguyễn Nộn đánh bại
Đoàn Thượng chiếm đất Đườn Hào nhưng mấy tháng sau Nguyễn Nộn vắn số, thế là
cái đinh cắm vào mắt họ Trần tự nhiên rớt xuống. Việc thống nhất và an ninh mấy
tháng sau lại được như trước.
Trừ được
mọi mối loạn, Thủ Độ cũng theo tục nhà Lý hằng năm có cuộc hội thề tại đền Đông
Cổ vào ngày mùng 3 tháng 4.
4- Những Công Cuộc Cải Cách
Năm Nhâm
Dần (1242) muốn thi hành chính sách cận dân và thân dân, nhà vua và các quan
phải cần tiếp xúc luôn luôn với đại chúng và phải sống một đời sống hoàn toàn
như họ; Thủ Độ nghĩ vậy liền tổ chức mỗi làng thành một nước nhỏ để tiện việc
cai trị. Ở mỗi làng có quan của nhà vua bổ về cai trị, nên có công đường để làm
việc. Vì thế làng nào cũng thể theo Công quán bên Tàu xây dựng một nóc đình.
Đình phải lập bên các lộ chia ra đoản đình (5 dậm có một cái) và tràng đình (10
dậm có một cái) cùng một kiểu hình vuông, nóc có 4 mái uốn cong, góc kiến thiết
chắc chắn, tường gạch mái ngói, các người dân sở tại cắt ra phục dịch. Những
khi vua quan hay quý khách vãng lai hoặc lưu trú, người trông nom là đình
trưởng có phận sự canh phòng ngăn ngừa trộm cướp, lo liệu việc ăn uống dầu đèn.
Để đền bù vào công khó nhọc, đình
trưởng được quyền
sai phái, trừng
trị dân đình trong vòng 10 dậm,
cầy ruộng công hay hưởng lương bổng và phẩm trật.
Thủ Độ
chia nước Nam làm 12 lộ (tỉnh). Mỗi lộ có nhiều xã. Các quan tứ ngũ phẩm trở
lên xung chức Đại tư xã, ngũ phẩm trở xuống xung chức Tiểu tư xã có nhiệm vụ
luôn luôn trực tiếp với dân chúng. (Chức này có thể ví như tri phủ, tri huyện
bấy giờ). Các quan Đại, Tiểu tư xã đều ở dưới quyền Chánh phó An phủ sứ. Mỗi xã
có xã quan cai trị là xã chánh hay xã giám (lý, phó trưởng hay xã ủy hiện thời).
Để kiểm
tra dân số toàn quốc, Trần Thủ Độ đặt ra sổ trướng tịch mà đời Lý đã làm. Phàm
mỗi làng có bao nhiêu người đi làm quan văn, võ, thư lại, lính tráng, hoàng
nam, lung lão, tàn tật, người đến ngụ cư hay xiêu bạt tới làng. Dân gian phân
ra từng hạng con trai từ 18 tuổi thuộc tiểu hoàng nam, từ 20 tuổi thuộc đại
hoàng nam, người từ 60 tuổi thì vào lão hạng hết thẩy đều vào danh sách trong
sổ trướng tịch. Phép này thi hành từ năm 1228 do vua Thái Tông sai quan vào
Thanh Hóa làm lại sổ trướng tịch.
Sổ trướng
tịch lại còn một công dụng bậc nhất trong những dịp mở mang quân sự hoặc tổng
động viên dân chúng khi có xâm lăng ngoài việc kiểm soát nhân dân về mặt chính
trị và thuế khóa ở mỗi Lộ.
Mười hai
lộ dưới đời nhà Trần là: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải
Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoát, Thanh Hóa, Hoàng Giang và Diễn Châu.
Trừ các
lộ ra còn có một số phủ, châu, trấn ở ngoài khu vực Trung Châu như Tân Bình,
Nghệ An, Thái Nguyên và Lạng Giang (Lạng Sơn). Ở các nơi biên viễn thì có Trại.
Đơn vị dưới cùng là xã và sách (sách tức là thôn theo Cương Mục, tưởng phải nên
giải thích rõ sách là làng Mọi thì đúng hơn do trình độ tiến hóa còn thấp kém).
Chính
thể dưới đời Trần có tính cách phong kiến triệt để. Đứng đầu thang giai cấp
trong xã hội là Thiên Tử. Dưới là các vương hầu, quan lại rồi đến thứ dân. Cùng
tốt là nô, tì và hoành. Hoành là hạng người bị tội đồ, bị liệt làm nô lệ.
Khi Thái
Tử đã có năng lực làm việc thì được vua cha nhường ngôi. Vua cha lên làm Thượng
hoàng. Đây là một sự khôn ngoan vì Thái Tử cần phải trải qua một giai đoạn tập
sự việc quân quốc cho quen, nhưng Thượng hoàng vẫn đóng vai thẩm định hay quyết
định những việc trọng đại. Còn một điều lợi nữa là việc nhường ngôi khi vua cha
còn sống tránh được sự tranh giành giữa các hoàng tử thường đã sinh ra nhiều
mối loạn rất là tai hại. Thượng hoàng gọi vua con là quan gia. Nhân dân gọi vua
là quốc gia.
Tước
phong thì có Đại vương, Vương, Quốc công, Công và Hầu... phần nhiều là các tông
thất.
Thái ấp
thì có An phụ, An dương, An sinh, An bang.
Việc
quan chế nước ta qua đời Trần cũng sửa đổi lại. Văn võ đại thần có: Tam Công,
Tam Thiếu, Thái Úy, Tư Mã, Tư Đồ, Tư Không. Tể Tướng thì có Tả hữu tướng quốc,
Thủ tướng, Tham tri.Văn giai nội chức các bộ thì có: Thượng thư, Thị lang, Lang
trung, Viên ngoại, Ngự sử v.v... Ngoại chức (quan các lộ) có An phủ sứ, Tri
phủ, Thông phán, Thiêm phán v.v...
Võ giai
nội chức có: Phiêu kỵ thượng tướng quân, Cấm vệ thượng tướng quân, Kim ngô đại
tướng quân, Võ vệ đại tướng quân, Phó đô tướng quân v.v... Ngoại chức có: Kinh
lược sứ, Phòng ngự sứ, Thủ ngự sứ, Quan sát sứ, Đô hộ, Đô thống, Tổng quản
v.v...
Việc
thăng chức theo niên hạn sau đây: Mười năm lên một hàm, Mười lăm năm lên một
chức.
Đáng chú
ý một điều là về đời Trần quan lại rất nhiều, nhưng vua quan rất thân mật với
nhau. Những lúc có tiệc vui, uống rượu xong vua quan dắt tay nhau múa hát, nằm
ngủ chung giường gác chân lên nhau không giữ lễ phép như các đời sau.
Người có
quan tước mà con cháu được thừa ấm thì con cháu mới được làm quan. Người giàu
có mà không có quan tước thì đời ấy qua đời khác cứ phải làm lính. Chế độ này
(con nhà lính không bao giờ được vào sĩ đồ) tồn tại mãi đến đời Đế Hiển (1377-
1388).
5. Việc Binh Chế và Lực Lượng Quân Đội Đời
Trần Sơ
Nhà Trần
để lại trong sử sách chẳng những của nước nhà mà của Thế giới nữa, một chiến
công vô cùng oanh liệt đầu thế kỷ thứ 13, vậy tổ chức quân sự của Trần triều
thế nào ta cần phải tìm hiểu rõ rệt.
Theo
Toàn Thư quyển 5, Cương Mục quyển 6, tháng ba năm Kỷ Hợi (1245) có việc tuyển
trai tráng làm binh lính chia làm ba hạng: thượng, trung, hạ. Tháng hai năm
Bính Ngọ (1246) chọn người cho vào quân Tứ Thiên, quân Tứ Thánh, quân Tứ Thần,
các quân này đều là Túc vệ binh gồm quân Thiên thuộc, quânThánh đức và quân
Thần sách. Chữ Tứ (4) chắc là mỗi quân chia ra 4 vệ. Vệ là thế nào sử cũ không
chép rõ. Tháng hai năm Tân Sửu (1247) triều đình lấy người khỏe mạnh và biết võ
nghệ sung vào Thượng đô túc vệ.
Tại các
lộ Thiên Trường (nay là phủ Xuân Trường thuộc Nam Định, quê hương họ Trần) và
Long Hưng có lập quân Nội thiên thuộc, quân Thiên Cương, quân Chương Thánh,
quân Củng thần. Các lộ Hồng (nay là Hải Dương), Khoái (Hưng Yên) có lập quân Tả
Thánh đức và Hữu Thánh đức bằng trai tráng địa phương. Các lộ Trường Yên (nay
thuộc Ninh Bình) Kiến Xương (nay thuộc Thái Bình), đặt làm quân Thánh Đức, quân
Thần Sách. Còn thì sung làm quân Cấm Vệ chia ra ba bậc nhập vào đội trạo nhi
(thủy quân).
Tháng
hai năm Tân Dậu (1261) có việc tuyển binh ở các lộ. Người khỏe cho làm lính,
còn thì sung vào làm sắc dịch ở các sảnh, viên, cục và làm đội tuyển phong ở
các lộ, phủ, huyện (Cương mục quyển 7, tờ 1b).
Tháng
tám, năm Đinh Mão (1267) quân lính chia ra như sau:
Quân có
30 Đô. Mỗi Đô có 80 người tuyển trong họ tông thất lấy người hiểu binh pháp, võ
nghệ chỉ huy.
Lại có
quân Tứ Xương là những lính chuyên canh gác bốn cửa thành thay đổi nhau.
Thứ quân
này đối với các quân trên kia không quan hệ bằng.
Các
ngạch quân chia làm thân quân, du quân và vương hầu gia đồng.
Thân
quân có: 1) Thánh dực đô. 2) Thần dực đô. 3) Long dực đô. 4) Hổ dực đô. 5)
Phụng nha quan chức lang. (Từ đây trở lên đều có tả hữu có nghĩa là bốn Đô và
mỗI Lang đều có tả hữu. Ví dụ: Tả thánh dực đô, hữu thánh dực đô v.v...)
Du quân
có: 1) Thiết lâm đô. 2) Thiết hạm đô. 3) Hùng hổ đô. 4) Vũ an đô. Vương hầu gia
đồng có: 1) Toàn hầu đô. 2) Dược đông đô. 3) Sơn liêu đô v.v...
Số lượng
quân nhà Trần lúc thường không có tới 10 vạn, nhưng khoảng niên hiệu Thiệu Bảo
(1279-1284) vì có cuộc chiến tranh tự vệ nên quân số lên tới hai mươi vạn (200000).
Đây là số quân động viên ở các lộ Đông, Nam. Quân Thanh Nghệ chưa hề tuyển dụng
đến.35
Binh
phục thời bấy giờ thế nào không thấy sử chép chỉ biết rằng quân sĩ đương thời đều
có đội nón, căn cứ vào đạo quân của Trần Khánh Dư ở Vân Đồn có đội nón Ma lôi.
Đáng chú
ý một điều là trong thời nhà Trần các vương hầu được phép mộ dân gian làm lính
nên năm Quý Mùi (1283) các vương Quốc Hiến, Quốc Tảng ... đã huy động các dân
Bằng Hà (thuộc tỉnh Hải Dương), Na Sầm (thuộc Lạng Sơn), An Sinh, Long Nhãn
(đời Lê đổi là Phượng Nhãn) đến họp ở Vạn Kiếp.
Đứng đầu
bộ chỉ huy là "Tiết chế" cũng chức như Tổng tư lệnh ngày này, toàn
quyền điều động thủy lục chư quân. Cấp tướng chỉ huy các Quân và Đô phải là
người trong họ Trần và tinh thông võ nghệm chiến lược. Các tướng quân thì có
Phiêu kỵ tướng quân là chức riêng phong cho các hoàng tử.
Kỷ luật
rất nghiêm: Kẻ nào đào ngũ sẽ phải chặt ngón chân. Nếu tái phạm kẻ đó sẽ bị voi
giày.
Về tuế
bổng chỉ có quân túc vệ được hưởng, còn quân các đạo khác thì khi yên ổn chia
phiên về làm ruộng cho đỡ tốn công quỹ.
6- Kinh Tế và Xã Hội
Kinh tế
dưới đời nhà Trần vẫn là kinh tế nông nghiệp và ngư nghiệp làm căn bản. Từ Trần
Thái Tông đến Trần Nhân Tông suốt 70 năm mọi việc mở mang đều nhằm vào nông
nghiệp và ngư nghiệp và dân gian không bị đói khổ. Nhưng đến tháng tám năm Canh
Dần hiệu Trùng Hưng thứ sáu đời vua Nhân Tông có xẩy ra nạn đói to. Ba thưng
gạo giá một quan tiền. Dân chúng cực quá phải bán ruộng đất và con cái cho
người ta làm nô tì. Giá mỗi người chỉ có một quan (Toàn thư quyển 5, tờ 59b;
Cương mục quyển 8, tờ 16b). Tình trạng này đã do ba phen loạn ly gây nên, mọi
việc cầy cấy đều bị ngừng trệ. Để khai khẩn và làm lợi công quỹ những người bị
tội đồ phải liệt làm "cảo điền hoành" tức là nô lệ hay tù nhân dùng
vào việc cầy cấy ruộng công của Nhà nước (xã Nhật Tảo xưa kia là Cao Xã). Mỗi
người phải phụ trách ba mẫu mỗi năm nộp ba trăm thưng thóc.
Nhân dân
hàng năm phải nộp tiền "thân dịch", quà tết tháng giêng và tháng bảy
thì dùng sam cá lẫn gạo.
35 Theo
ý chúng tôi nhà Trần có dự bị tổng động viên nhưng chưa hề làm việc này cho nên
Trần Nhân Tông đã có câu:
Cối kê cưu sự, quân tư ký,
Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh
nghĩa là Câu Tiễn xưa kia thua Ngô còn lại năm
ngàn giáp, thuẫn trú đầu ở Cối Kê, thế mà sau còn khôi phục được giang sơn,
tiêu diệt được địch quốc, huống hồ ta còn mười vạn quân Thanh Nghệ chưa gọi
tới.
Theo
Annam Chí Lược "Nông, thương bất trưng lương thuế "không phải nộp
thuế" để nhân dân bớt khổ nhưng có lẽ chỉ trong lúc nước nhà vô sự chăng,
chứ từ hồi có loạn Mông Cổ do mấy cuộc chiến tranh tự vệ nếu Trần triều không
thu thuế các ruộng công tư thì lấy gì mà tiêu dùng và nuôi binh đội.
Sử chép:
Thuế thân căn cứ vào ruộng đất mà đánh (có lẽ đây là tiền thân dịch đã nói ở
trên?). Người vô sản được miễn.
Người có
một hay hai mẫu phải nộp một quan tiền. Người có ba hay bốn mẫu phải nộp hai
quan.
Người có
năm mẫu trở lên phải ba quan.
Thuế
điền nộp bằng thóc, theo tỷ lệ: mỗi mẫu phải nộp 100 thăng thóc. Thăng là đơn
vị đong lường ngày xưa, mười hợp là một thăng. Mỗi thăng bằng 316 tấc khối tức
là 10305688 công thăng. Lối đong lường của xưa kia bắt chước người Tàu. Ruộng
công có hai thứ, mỗi thứ phân làm ba hạng. A- Một thứ gọi là quốc khố: hạng
nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc, hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch, hạng ba
mỗi mẫu 3 thạch. B- Một thứ gọi là thác điền: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế một
thạch thóc; hạng nhì ba mẫu lấy một thạch; hạng ba bốn mẫu lấy một thạch.
Ruộng ao
của công dân thì mỗi mẫu lấy ba thăng thóc thuế. Ruộng muối thì phải nộp tiền.
Ngoài
các thứ thuế trọng yếu trên đây, còn có các thứ thuế lặt vặt đánh vào trầu cau,
hoa quả, tôm cá. Nhà Trần cho đúc vàng bạc thành phân, lượng để tiện việc chi
tiêu và có dấu hiệu của hoàng triều. Nộp thuế cho nhà vua bằng tiền thì mỗi
tiền là 70 đồng. Tiền này gọi là "thượng cung tiền". Dân tiêu với
nhau thì một tiền ăn 69 đồng. Tiền này gọi là "tỉnh mạch tiền".
Bàn đến
nông nghiệp dưới đời Trần chúng ta đã thấy có sự mở mang và tiến bộ mỗi ngày
một rõ rệt, vì vậy sau này có chiến tranh ba phen với Mông Cổ nước ta mới có
nổi thực lực can bản để đương đầu với một đế quốc thuở đó đã hùng cường tột bực
trên Thế giới. Đáng chú ý ở chỗ nhà Trần huy động ráo riết các quân dân ở hai
bên bờ sông Hồng Hà chăm nom cẩn thận việc đê. Con đê chạy dọc theo sông Hồng
Hà bấy giờ gọi là Đỉnh nhĩ đê do hai quan Hà đê Chánh phó sứ, trông coi và cho
đắp rộng thêm ra. Nếu nơi nào bị thiệt hại vì đê đắp lấn vào ruộng đất thì
triều đình chiếu theo giá ruộng đất bồi thường cho chủ ruộng đất chỗ đó.
Về công
nghiệp sinh hoạt hay thương nghiệp sinh hoạt chúng ta thấy hai ngành này hảy
còn manh nha. Thương nghiệp bấy giờ mới nhóm ở các miền duyên giang hay duyên
hải nhờ ở sự giao thông tiện lợi. Về công nghệ, ta nên hiểu thuở đó mới chỉ có
thủ công mà thôi, nghĩa là mới có chế độ tiểu công nghệ hay công nghệ gia đình
như ta thấy các nghề này còn tồn tại tới ngày nay ở nhiều làng mạc tại xứ Bắc.
Chế độ bán sức lao động của các thợ thuyền trong các xưởng máy dĩ nhiên ngày
nay mới có.
Nhà Trần
bảo vệ nhiệt liệt chế độ tư hữu của dân gian. Việc dân bán công điền làm tư điền,
việc trộm, cắp bị trừng phạt rất ngặt, kẻ phạm tội lần thứ ba sẽ bị giết. Năm Giáp
Dần (1254) Nhà nước bán ruộng quan (ruộng công) cho dân. Mỗi "diện"
tức mỗi mẫu là năm quan tiền. Sau đó ruộng quan điền thành tư điền vĩnh viễn.
Theo
trên đây, chúng ta biết dưới Trần triều chế độ phong kiến rất là thịnh đạt. Dân
chúng các hạng bần dân không được nâng đỡ nên chế độ gia nô gia đồn, mua bán nô
lệ mà tiền triều (Lý triều) đã hủy bỏ, nay lại tái sinh. Do chế độ này xảy ra
nhiều việc bán vợ đợ con: tỉ dụ, kẻ mắc nợ có thể bị chủ nợ tự ý giam cầm cho
tới khi nào trả sạch vốn mới được phóng thích. Nếu không trả được nợ thì phải
đợ mình cho chủ nợ tức là xin làm nô lệ để chuộc nợ.36 (Toàn Thư quyển 5 tờ 3,
Cương Mục quyển 6 tờ 4b).
Những kẻ
vô sản vào làm nô (tớ trai) tì (tớ gái) cho các nhà vương hầu, công chúa, đế cơ
(vợ lẽ của vua). Công việc của họ là khai khẩn ruộng đất, xây dựng điền trang
(các vương hầu nhà Trần có "trang" bắt đầu từ tháng 10 năm Bính Dần
1266 theo Toàn Thư quyển 5 tờ 30b). Tuy vậy họ được lấy vợ, lấy chồng và sinh
sống ở các nơi họ cầy cấy. Họ đã khai thác được rất nhiều ruộng đất ở miền nước
mặn do cách đắp đê ngăn nước biển tràn vào các bãi. Sau hai ba năm nơi này
thuần thục và thành ruộng để trồng lúa như các vùng ở sâu trong đất. Tình trạng
này kéo dài hơn một trăm năm sau nữa, kể từ năm Bính Dần (1266) đến năm Quang
Thái thứ 10 (1397) là đời Trần Thuận Tông.
Một tính
cách phong kiến nữa dưới Trần triều là chế độ tập ấm, nghĩa là nhà nào có quan
tước, các con cháu được thừa ấm rồi sau ra làm quan. Người giàu có nhưng không
có quan tước thì cứ tiếp nhau đời này qua đời khác làm binh lính (Chế độ này
kéo dài đến đời Đế Hiển 1377-1388) do đó lòng dân chúng có sự phẫn uất diễn tả
trong câu ca tục ngữ: "con vua thì lại làm vua - con sãi ở chùa lại quét
lá đa".
Hàng năm
triều đình cho xã quan khai báo nhân khẩu gọi là "dân số" và nhờ ở sổ
sách của triều Trần ta biết có từng này hạng người trong xã hội đời bấy giờ:
Văn vũ
quan giai (quan chánh văn võ) Tùng quan (quan lại phó phụ)
Quân
nhân, tạp, lưu, hoàng nam (trai tráng) Lung lão (hạng người tàn tật)
Phụ tịch
(người ngụ cư) Phiêu tán, vô sản nhân (những người xiêu bạt) v.v...
7- Phong Tục
Phong
tục của dân Việt Nam vào triều đại nhà Trần tức đầu thế kỷ thứ mười ba còn rất
thuần phác. Không khí Phật giáo cũng như dưới triều Lý, bao trùm từ triều đình
đến dân gian. Khắp các nơi đều có cảnh an cư lạc nghiệp. Nho giáo đã thấm nhuần
vào đại
36 Nguyên văn "Cùng dân bất cập giá hứa
diện túc ư nhân".
chúng.
Tới 30 Tết dân đốt pháo (ống lệnh đặt ở đầu cổng hay ngõ) và sửa soạn cổ bàn để
cúng bái tổ tiên.
Mồng 5
Tết trong cung vua có ban tiệc khai hạ. Từ quan đến dân, ai ai cũng đi lễ chùa,
viếng các phong cảnh, các vườn hoa, đền đài.
Tháng
hai người ta dựng xuân đài. Phường chèo ca múa trên đài mua vui cho dân chúng,
ngoài ra lại còn có những cuộc đấu võ, đánh vật lấy giải thưởng, chọi gà và đá
cầu. (Quả cầu lớn bằng nắm tay trẻ em khi kết bằng vải, khi kết bằng gấm tung
qua tung lại. Bên đối thủ không bắt được là thua). An nam chí lược.
Đúng
ngày lập xuân, vua cắt người tông trưởng cầm roi vụt vào con trâu đất (thổ
ngưu), sau việc này nhà Vua và bách quan vào nội điện ăn yến. Cử chỉ này chỉ có
mục đích khuyến Nông.
Ngày
mồng ba tháng ba, dân ta cũng theo Tàu ăn Tết "Hàn thực" (làm bánh
trôi để biếu nhau) rất là rộn rịp.
Mồng 4
tháng 4 là ngày hội thề ở đền Đồng Cổ (Ngày này cũng được coi như một ngày vui
công cộng). Dân gian rủ nhau đi xem đông như nước chảy.
Ngày
mồng 5 tháng 5 dân ăn Tết Đoan Ngọ (Tết nầy ta cũng bắt chước Tàu). Nhà Vua cho
làm chòi ở giữa sông coi thi bơi thuyền.
Việc
cưới xin thường hay chọn vào tháng xuân để làm lễ vấn danh (người mối và nhà
trai đem trầu cau có khi dẫn cả tiền và vàng cùng quần áo đến nhà gái. Theo
Cương Mục quyển 6 tờ 34a. Khi Trần Quốc Tuấn lấy Thiên Thành công chúa, mẹ ngài
là Thụy Bà công chúa phải nộp đến 10 mâm vàng làm sính lễ). Các nhà trọng Thi
Thư lễ nghĩa thì không để ý đến các đồ sính lễ này, nghĩa là ưa sự đơn giản
miễn có sự tốt đẹp về tinh thần. Do đó ta có câu: Giá thú bất luận tài. Còn ở
những người nghèo dĩ nhiên việc hôn nhân rất giản tiện. Nếu có dẫn tiền cưới
thì đem đến nhà gái một trăm. Nếu đôi bên cùng nghèo thì một ít trầu cau chia
cho bà con trong họ và dân làng là đủ hợp thức hóa việc vợ chồng. Hằng năm mồng
1 tháng 10 có tết "cơm mới" hoặc "xôi mới" từ vua quan đến
dân chúng đều có sự cúng tế tổ tiên. Vua và các quan đi thăm ruộng, gặt lúa,
săn bắn để mua vui (An nam chí lược quyển 1 tờ 12a).
Y phục
đời bấy giờ như sau đây: vương hầu và thứ dân thường mặc áo cổ tròn (viên lĩnh)
quần thâm (huyền thường) hay lượt trắng (bạch là) thắt lưng lụa (hoàn khố).
Giày dép ưng làm bằng da.
Vương
hầu vào chầu vua (tư yết) được miễn không phải đội khăn, đó là do tình thân.
Thứ dân
không được đến hầu gần (An nam chí lược quyển 14, tờ 5a).
Đồ mặc
thường của vua thì quý mầu trắng. Dân không được dùng mầu này duy phụ nữ không
bị cấm. Con gái bị tuyển vào cung được lập làm thứ phi rồi nhưng muốn trở về
nhà mình cũng được.
Về hình
phạt của Trần triều xét ra nghiêm ngặt hơn Lý triều. Sử chép năm Giáp Thìn
(1244) vua Thái
Tông sửa lại
luật pháp. Theo
Phan Huy Chú
trong "Lịch triều
hiến chương" thì dưới đời Trần những kẻ phạm tội trộm cắp bị thích
vào trán hai chữ "phạm đạo" và phải bồi thường 9/10 giá trị đồ vật đã
lấy. Kẻ nào không bồi thường được sẽ bị tịch thu vợ con. Vào trường hợp tái
phạm, sẽ bị chặt chân tay hay bị voi giày. Tái phạm đến lần thứ ba sẽ bị giết.
Đàn bà có chồng phạm tội ngoại tình, sẽ bị xử làm tì (đầy tớ gái) cho chồng và
chồng có quyền đem đợ hay bán.
8- Văn Hóa
Cùng một
nhịp với các ngành chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa đầu đời Trần cũng được
đà tiến triển. Đáng chú ý là chữ Nôm được xuất hiện và đắc dụng là nhờ đời Trần
có sáng kiến, có tinh thần độc lập, tự lập, nên xu hướng văn Nôm mới có dịp
bành trướng sau nghìn năm học nhờ viết mướn của Trung Quốc. Tiếng Việt được
dùng làm thi ca, khúc ngâm. Hàn Thuyên quê ở huyện Thanh Lâm tỉnh Hải Dương là
người rất giỏi thơ phú Nôm. Toàn Thư quyển 5, tờ 41 chép rằng dưới triền Trần
Nhân Tông, Thuyên làm Hình bộ thượng thư có cá sấu đến sông Lô giết hại dân
chúng. Vua sai Thuyên làm văn ném xuống sông. Cá sấu tự rời đi nơi khác. Vua
cho việc này giống chuyện Hàn Dũ đời Đường liền đổi họ Nguyễn ra họ Hàn do mục
đích khen thưởng nhân tài. Nước ta dùng quốc ngữ trong thi phú bắt đầu từ đó.
Nói vậy
không phải là nhà Trần đã triệt để dùng chữ Nôm. Các chiếu chỉ của nhà Vua vẫn
còn biết bằng chữ Hán. Mỗi khi lệnh vua ban bố ra ngoài, ty Hành khiển phải
giảng cả âm lẫn nghĩa ra tiếng Việt cho dân hiểu (phàm thư) và dự biết mọi việc
triều đình định làm. Tóm lại chữ Hán vẫn được dùng vào các công văn, từ lệnh,
biểu chương, sớ tấu. Chữ Nôm được địa vị đặc biệt hẳn hoi là về sau này với nhà
Nguyễn Tây Sơn cuối thế kỷ thứ 18, nhưng trong khi chữ Nôm phát triển mạnh để
đi tới chỗ đại chúng, một số nho gia trung thành với Hán tự vẫn còn luyến tiếc
và đã bài xích nó kịch liệt.
Để tỏ sự
tiến triển của văn hóa đời Trần, trong mục phong tục cuốn An nam chí lược có kể
đến các khúc hát: Nam Thiên Nhạc, Ngọc Lâu Xuân, Đạp thanh du, Mộng du tiên,
Canh lậu trường và nhiều thi ca tiếng Việt.
Văn hóa
đời Trần cũng dành cho Sử ký một địa vị quan trọng hay nói cách khác nhà Trần
là một triều đại trước nhất của chúng ta đã nghĩ đến việc biên soạn cuốn quốc
sử, điều rất đáng tiếc là các tiền triều nhất là nhà Lý cầm quyền ở nước ta
trên hai thế kỷ có quá đầy đủ điều kiện mà không lo liệu đến vấn đề này. Trần
Tấn giữ chức Tả tàng thăng Hàn trưởng làm được cuốn Việt chí tức Việt Sử sau
này được Lê Văn Hưu sửa lại tức bộ Đại Việt Sử Ký chép từ đời Triệu Vũ Đế đến
Lý Chiêu Hoàng gồm 30 quyển.
Nhà Trần
xuất hiện trên sân khấu chính trị Việt Nam được 2 năm thì mở khoa thi, mục đích
khuếch trương văn học và chiêu mộ nhân tài. Năm 1227 khoa thi tam giáo được mở
(Nho, Lão, Thích) rồi liên tiếp các triều vua sau việc khoa cử mở đều lấy tam
khôi (Trạng Nguyên, Thám Hoa, Bảng Nhỡn) và thiết lập cả Quốc học viện, Quốc tử
viện, Giảng vũ đường là những nơi đào luyện anh tài.
Có nên
nói rằng ngay trong thời Trần Sơ, Hán văn đã lên tới một trình độ khá cao và
theo với trình độ của văn học tinh thần dân tộc cũng trở nên mỗi ngày một thêm
kiện cường không? Các thư, biểu và văn kiện ngoại giao với Mông Cổ tuy có sự
nhũn nhặn nhưng ý kiến vẫn đanh thép. Lời văn thì gọn gàng, đại khái tờ biểu
năm Bính Dần (1266) Trần triều xin nhà Nguyên miễn việc gửi các Nho sinh (tú
tài), các thợ thuyền và các kỹ thuật gia. Tờ Thư năm Tân Mùi (1271) gửi cho
Trung Thư sảnh nhà Nguyên biện bạch vì sao không lạy chiếu thư và không biếu
voi Nguyên chủ (xin coi các trang dưới đây sẽ thấy các công văn ngoại giao và
bài hịch của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trước khi chống Nguyên).
Nhà Trần
lại cho nghiên cứu và học tập cả tiếng Mán, tiếng Thổ, tiếng Phiên. Các người
đương thời như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật rất thông hiểu các thứ tiếng
này.
Tôn giáo
được tôn sùng nhất là đạo Phật, đạo này giữ địa vị đặc biệt ưu đãi, dĩ nhiên
việc này phải do các nhà cầm quyền thử thời mà đáng kể là vua Thái Tông và Nhân
Tông trước hết. Vua Thái Tông là tác giả kinh Khóa Hư. Vua Nhân Tông soạn được
nhiều câu kệ trong tập Trần triều thượng sĩ ngũ lục, bao hàm những tư tưởng
nhân từ, bác ái, giác tha, độ tha rất mạnh.
Những
người cầm đầu dân tộc có tư tưởng xả thân cứu thế và cúc cung tận tụy, coi cái
chết là siêu thoát, là "thành nhân" (theo lời Hoa Bằng) thì tinh thần
tranh đấu dĩ nhiên rất cao và phải có, không là điều đáng lạ. Ngoài ra có lẽ
tôn giáo đã có ảnh hưởng rất nhiều đến trí não các vua nhà Trần, cho nên từ
cung cấm, triều đường ra tới ngoài dân đã có rõ rệt một sự gần gũi, và thân mật
thành thực trong những khi thái bình
thịnh trị cũng
như khi gặp
nạn ngoại xâm.
Đại để tháng
giêng năm Mậu
Thìn (1268) vua Thái Tông và các vương hầu trong họ Tông thất tan chầu
cùng vào nội điện và nhà Lan đình ăn uống vui vẻ.37 Đêm tối cùng nhau đặt gối
dài, chăn rộng, liền giường ngủ chung để tỏ tình thân ái. Khi đại yến, các quan
uống rượu xong rồi dắt tay nhau mà múa hát.
Đối với
chúng nhân, câu "Dân vi quý" của Mạnh Tử được thi hành triệt để nên
khi chống Mông Cổ mới có hội nghị Diên Hồng. Như vậy chính sách dân chủ hay
chính thể lập hiến có thể nói là đã thực hiện ở nước ta từ thế kỷ 13 trong thực
tế, tuy về hình thức chưa có sự rõ rệt như ngày nay ở một ít nước tân tiến. Nói
như vậy chúng ta có thể nghĩ rằng chế độ phong kiến dưới đời Trần chặt chẽ hay
gắt gao chỉ là do ý muốn củng cố địa vị của một giòng họ hơn là có ý thống trị
nhân dân với bàn tay sắt. Kết quả của cuộc chống Mông Cổ ba phen đã chứng minh
một cách hùng biện cái trạng thái "quân dân nhất trí" và tinh thần
hữu ái trong dân tộc lên cao tột bực ở nước ta dưới đời Trần. Trạng thái ấy lại
càng rõ rệt giữa khi chống Nguyên, ngay cả dân Mán (ở trại Quy Hóa năm Đinh Tị
1257) và nhiều hào trưởng tự động (trường hợp Hà Bổng, Nguyễn Khả Lập và NguyễN
Truyền) đem dân binh tập kích quân giặc khi quân địch vào sâu nội địa, thủ đô
bị phá. Tài chiến trận và huy động mọi lực lượng quốc gia của Hưng Đạo vương
tất nhiên là đã đến chỗ tuyệt kỹ, nhưng một phần lớn sự tham gia kháng chiến đã
do tinh thần đoàn kết của dân tộc qua các tầng lớp nhân dân. Tinh thần đoàn kết
không nói ai cũng hiểu phát nguyên ở chỗ tương thân tương ái mà triều Trần đã
gây dựng được một cách khôn khéo nhưng không kém phần chân thành ở bên trong.
37 Vua Trần Thánh Tông thường nói cùng anh em
bà con trong họ: "chỗ đồng bào máu mủ, lo thì cùng lo, vui thì cùng
vui".
Cuộc Chiến Tranh Tự Vệ
Vô Cùng Anh Dũng Của Việt Nam
- Mông
Cổ là giống người thế nào?
- Thành
tích chiến đấu của quân Mông Cổ
- Cuộc
xâm lăng thứ nhất của quân Mông Cổ
1- Mông Cổ Là Giống Người Thế Nào?
Để hiểu
công cuộc chống xâm lăng của dân tộc chúng ta khắc khổ, gian lao và phải hy
sinh đến bậc nào cho tới cái kết quả của nó có đáng gọi là rực rỡ oanh liệt bậc
nhất suốt thế kỷ XIII - không phải riêng trong lịch sử Việt Nam mà cả trong
lịch sử thế giới thuở đó - chúng tôi thấy cần phải trình bày qua nguồn gốc và
những chiến công anh dũng phi thường của người Mông Cổ.
Dân số
Mông Cổ có gần 3 triệu, đa số là dân du mục. Nhà cửa của họ là những túp lều
quây tròn bằng da thú trên nóc có lỗ thông hơi. Thực phẩm của họ gồm có sữa,
thịt cừu, pho mát. Những người nghèo ăn cả đến xác những thú vật chết từ lâu.
Người Mông Cổ không thích làm việc, mỗi năm làm việc chừng một tháng mà thôi. Y
phục thường bằng da thú và lông cừu. Từ đời Đường (618-904) ở khoảng thượng lưu
Hắc long giang (Amour) suốt một giải Tây Bắc tỉnh Hắc long giang rải rác về
phía Bắc Xa. Thần Hàn thuộc miền Bắc nước Trung Hoa, diện tích vào khoảng 3
triệu cây số vuông giống người này đã sinh trưởng trong trạng thái các bộ lạc
kiếm ăn bằng nghề chài lưới, săn bắn như nhiều dân tộc khác về cổ thời. Và
tương đối với các dân tộc Á Châu bấy giờ, họ là đám người hậu tiến nhất. Họ rất
hung tợn và hiếu chiến, có tài đặc biệt là bắn cung, cưỡi ngựa nên tổ chức kỵ
binh của họ có thể nói là rất lợi hại. Họ sắp đặt cơ nào đội ấy rất có thứ tự,
sành việc tổ chức và huấn luyện quân đội giầu mưu chước, kinh nghiệm và chuyển
vận binh sĩ hết sức mau lẹ.
Đối với
kẻ địch, họ áp dụng nguyên tắc: hàng thì đãi có độ lượng, chống thì tàn sát tới
ngọn cỏ lá cây.
Đối với
cấp trên, họ hoàn toàn phục tùng, chỉ biết có một thứ luật: luật của lĩnh tụ.
Được lệnh tiến, dù tiến để mà chết. Như vậy thì nghề chinh chiến của họ lại hơn
cả các dân tộc tiền tiến đời bấy giờ. Đó là một điều trái ngược hẳn.
Tổ tiên
của họ là giống Hung Nô. Tài nguyên của họ là những bầy súc vật mà họ đưa chăn
nuôi ở những miền đồng cỏ xa xôi. Đời sống họ rất cực khổ vất vả vì khi nóng
thì nóng, thiêu đốt cả cỏ cây, giết hại cả súc vật (38 độ 2) khi lạnh thì buốt
đến xương tủy, người và vật chịu không nổi (45 độ 5 dưới 0 độ). Họ không biết
nghề nông, không biết viết chữ, rất tin tưởng khoa phù thủy. Phật giáo được coi
gần như là tôn giáo chính của Mông
Cổ. Họ theo
đạo Phật nhưng
không hiểu nổi
triết lý của
Phật giáo nên
chỉ là những kẻ mê tín không hơn
không kém. Binh chế của Mông Cổ tổ chức như sau đây:
1) Bộ
trong gồm các quân Túc vệ.
2) Bộ
ngoài là các quân Trấn thủ.
Quân túc
vệ chia làm quân Khiếp tiết, theo tiếng Mông Cổ có ý nghĩa là những kẻ được
nhiều ân sủng của Thiên tử, tức là thân binh của nhà vua và quân các vệ: Tả,
hữu, trung, tiền, hậu và Đường Ngột vệ, Quý Xích vệ, Vũ vệ; Tả , Hữu, Đô úy vệ
v.v... Quân các vệ thì Thân quân chỉ huy sứ cầm đầu cùng với các quân Trấn thủ
đều thuộc quyền Khu mật viện. Quân Khiếp tiết và các vệ tuy đều là quân Túc vệ
hợp lại gọi là thân quân nhưng nhiệm vụ khác nhau: Khiếp tiết dùng vào việc bảo
vệ Thiên tử, là thân quân trong các thân quân. Quân túc vệ chuyên việc giữ
hoàng thành, kinh sư, phòng thủ việc doanh thiện và việc đồn điền v.v... Đội
quân này cũng có khi dùng vào việc viễn chinh.
Quân
Trấn thủ: các bộ thì lập Vạn hộ phủ, các huyện thì lập Thiên hộ sở đều thuộc
Khu mật viện, tùy chỗ quan trọng, hiểm yếu mà chia đi chiếm đóng. Đại khái các
nơi biên cương then chốt thì có thân vương, tông thất cầm quyền. Tỷ dụ: Hà Lạc
và Sơn Đông thì có quân bản tộc Mông Cổ trấn thủ. Từ Giang, Hoài trở xuống Nam
Hải có Hán binh và quân tân phụ là những quân lính người Trung Quốc được tuyển
mộ sau khi diệt được nhà Kim.
Lối đánh
của Mông Cổ là khi lâm trận, đạo kỵ binh lưu động của họ tiến nhanh như chớp
nhoáng rồi biến mất để lại xuất hiện ngay liền đó sau lưng địch khiến đối
phương bị điên đảo, trở mình không kịp, bị rối loạn cả chiến lược, chiến thuật.
2- Thành Tích Chiến Đấu Của Quân Mông Cổ
Đây
những thành tích vĩ đại của Đế quốc Mông Cổ!
Năm
1206, Thiết Mộc Chân sau này tự hiệu là Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khan) tức năm
thứ hai đời Lý Cao Tông, năm Trị Bình Long Ứng, đã đánh bại quân đội Thổ Nhĩ Kỳ
vì đã muốn giành nhau đất Mông Cổ với ông ta. Sau đó chúa Mông Cổ quay binh về
Trung Quốc.
Lúc này
Trung Quốc chia làm ba khu vực thuộc quyền ba vương triều: Hoa Bắc do nhà Kim
dòng dõi Mãn Châu chiếm giữ, kinh đô đóng ở Bắc Kinh; Hoa Nam thuộc nhà Tống,
kinh độ tọa lạc ở Hàng Châu, Tây Bắc nằm dưới quyền nước Tây Hạ. Cuộc chiến
tranh ở đây vô cùng khốc liệt: Mông Cổ phải mất hai năm mới vượt được Vạn Lý
Trường Thành và năm 1213, Mông Cổ vào phong tảo Bắc Kinh. Năm 1215 thành này bị
thất thủ, lửa cháy ngất trời luôn một tháng không ngớt. Chín năm sau du khách
qua vùng này còn thấy đầy dấu tích của hoang tàn và các đống xương khô của muôn
ngàn tử sĩ.
Thắng
Kim xong, Thành Cát Tư Hãn quay sang Tây phương tấn công Tân Cương và Ba Tư.
Cuộc
viễn chinh kéo dài 5 năm. Chiếm được đâu, Mông Cổ giết chóc, phá hủy sạch tới
đó, thực hiện đúng câu: "Nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cỏ cây cũng hết
sống" của chúa Attila bảy thế kỷ trước cũng dòng giống Mông Cổ (Pháp gọi
là Les Huns).
Tại Hung
Gia Lợi, giáo chủ và giai cấp phong kiến xung đột với nhau vừa tạm yên thì Mông
Cổ như trận cuồng phong ào tới. Vua Bela tử trận năm 1241 ở Pest. Từ Breslau
đến Cracovie máu người Hung chảy như nước suối. Mông Cổ hoành hành xong liền bỏ
ra đi, sau khi 500 ngàn quân dân Hung chết không còn một mống.
Đầu thế
kỷ thứ XIII, Hồi quốc đang thịnh đạt và là đế quốc khá lớn gồm Ba Tư, Tiểu Á Tế
Á và Cận Đông, bề ngang kéo dài từ Ấn Độ đến Bagdad, dọc từ bời biển Aral tới
vịnh Ba Tư.
Mông Cổ
tới, bốn chục vạn binh của Mohamed tan tành và kinh đô cũng ra tro bụi.
Đế quốc
Hồi tan vỡ từ thuở ấy.
Tháng
chạp năm 1237 tới tháng năm 1238 bốn phần năm lĩnh thổ Nga Xô cũng lọt vào tay
Mông Cổ.
Các quốc
gia Tây Âu nghe tin này cũng vô cùng khủng khiếp coi như ngày tận thế đã tới.
Giáo hoàng Innocent IV và vua thánh Louis nước Pháp cử người sang cầu hòa với
Mông Cổ.
Về phía
Á Đông, trong khoảng thời gian đánh Đông dẹp Tây thì mùa Thu năm 1226, Tây Hạ
cũng bị lâm vào cảnh núi xương sông máu với đoàn quân kiêu hùng của Thành Cát
Tư Hãn trong hạ tuần tháng 8 năm sau, Tây Hạ đầu hàng và bị sáp nhập vào đế
quốc Mông Cổ từ đó.
Trong
khi chinh phục Tây Hạ thì chúa Mông Cổ mất, con là A Loa Đài (Ogotai) lên thay
tức là Nguyên Thái Tông. Nguyên Thái Tông không sống lâu (3 năm sau) Nguyên
Định Tông kế nghiệp cũng yểu vong. Ngôi vua truyền sang chi khác. Em con nhà
chú là Mông Kha (Mong ké) được tôn lập, tức là Nguyên Hiến Tông.
Hiến
Tông phái hai em là Hạt Lô (Houlagen) đi kinh lý Ba Tư và Hốt Tất Liệt xuống
đánh nhà Nam Tống. Trong khi Mông Tống đánh nhau thì Hiến Tông qua đời. Hốt Tất
Liệt trở về lên xưng là Nguyên Thế Tổ, lấy quốc hiệu là Nguyên. Xong việc này,
Hốt Tất Liệt lại tiếp tục Nam chinh và diệt được nhà Tống. Trung Quốc giờ phút
này hoàn toàn mất về nhà Nguyên. Tới năm 1280, nhà Nguyên hoàn thành sự nghiệp
đế quốc. Xét ra về diện tích đế quốc này gần già nửa phần thế giới làm chủ được
40 quốc gia từ Á qua Âu. Thật là một đế quốc lớn nhất từ khi có loài người và
lịch sử. Thành tích của Mông Cổ làm mờ cả sự nghiệp của Á Lịch Sơn và Nã Phá
Luân trước và sau.
3- Cuộc Xâm Lăng Thứ Nhất Của Mông Cổ
Khi Mông
Kha còn sống, Hốt Tất Liệt đem quân sang đánh Tống có sai một đạo quân đi đánh
nước Đại Lý (thuộc tỉnh Vân Nam) tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai
(Wouleangotai) sai sứ sang bảo vua Trần Thái Tông thần phục về Mông Cổ.
Vua và
dân Việt Nam đã có những cử chỉ gì?
Trần
Thái Tông không những phản đối yêu sách của Mông Cổ lại còn giam sứ Mông Cổ
lại. Biết rằng Mông Cổ thế nào cũng có phản ứng. Thái Tông liền phái Trần Quốc
Tuấn động binh trấn giữ các nơi về miền Bắc là nơi cổng ngõ của chúng ta đối
với Trung Quốc (năm Đinh Tị 1257).
Mông Cổ
theo đường Vân Nam tiến xuống sông Thao, Hưng Hóa và Thăng Long. Quân số của họ
có 2000 ấy là chưa kể đạo quân của Á Châu là con vua Nguyên đi hậu tập và tiếp
viện. Ngoài ra đạo quân Ô Lạp Cáp Đạt tức là Ngột Lương Hợp Thai tiến sang nội
địa Việt Nam định vào đánh phá thành Thăng Long.
Cuộc gặp
gỡ của hai quân có lẽ đã xảy ra trên một quãng sông Thao, hoặc tại Hưng Hóa
hoặc từ Hưng Hóa về tới Sơn Tây. Chỗ này sử không chép rõ, chỉ biết rằng đối
với ta quân Mông Cổ khi đó rất mạnh. Trần Quốc Tuấn chống không nổi phải lui về
Sơn Tây. Vua Thái Tông cũng ngự giá thân chinh rồi cùng thoái lui về đóng ở
sông Cầu. Ở nơi đây quân ta núng thế lại bị dồn về Đông Bộ Đầu (phía Đông sông
Nhị Hà thuộc địa hạt huyện Thượng Phúc). Tình thế lại bi quan thêm, vua Thái
Tông phải bỏ thành Thăng Long về giữ ở sông Thiên Mạc (huyện Đông An tỉnh Hưng
Yên).
Thành
Thăng Long bỏ ngỏ. Quân Mông Cổ vào thấy ba người sứ của họ còn bị trói giam ở
trong ngục. Khi cởi trói thì một người chết, chúng giận hết sức, liền tàn sát
hết cả nhân dân trong thành không trừ người già và con trẻ. Một sự xúc động
tràn ngập tâm hồn đa số nhân vật của Trần triều. Vua Thái Tông ngự thuyền đi
hỏi ý kiến Thái Úy Trần Nhật Hiệu. Trần Nhật Hiệu cầm sào vạch xuống nước chữ
"Nhập Tống". Đến lượt Thái sư Trần Thủ Độ. Thái Tông thấy cả một sự
cương quyết.
- Đầu
tôi chưa rơi xuống đất thì xin bệ hạ đừng lo! Đó là câu trả lời của Thủ Độ và
ta phải nhận rằng lời khẳng khải này đã quyết định chiến tình thuở ấy và cả vận
mệnh cùng danh dự dân tộc chúng ta nữa. (Nhất ngôn hưng quốc, nhất ngôn táng
quốc là vậy).
Được ít
lâu quân Mông Cổ mỏi mệt vì không chịu được thủy thổ. Quân ta dò xét được tình
trạng này mới mở cuộc tấn công. Thái Tông tiến quân lên đánh giặc ở Đông Bộ
đầu. Giặc chạy lên trại Qui Hóa bị thổ dân ở đây chận đánh rất là điêu đứng.
Tinh thần của giặc
bị khủng hoảng
vì thấy khí
thế của Nam
quân mạnh mẽ
và đã chiến thắng họ ở nhiều nơi. Giặc lại do đường
cũ theo dọc sông Thao rút về Tàu, tinh thần mỏi mệt không còn sức đánh nhau và
cướp phá dân gian nữa. Dân gian gọi chúng là giặc Phật.
Mùa xuân
năm Mậu Ngọ (1258) vua Thái Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Khoán
(Việt Nam Sử Lược chép là Hoảng) lấy hiệu là Thánh Tông. Ngài lên làm Thái
Thượng Hoàng để cùng trông coi việc nước.
Thái
Tông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng Hoàng được 19 năm thì mất, thọ 60
tuổi.
Mục Lục
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét