MỤC LỤC
TỰA 1 TỰA 2
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
KẾT
PHỤ LỤC I PHỤ LỤC II PHỤ LỤC III
SÁCH THAM KHẢO
TỰA
Chúng ta
thường tự hào là một dân tộc có bốn ngàn năm văn hiến. Bốn ngàn năm văn hiến và
giá có gom lại hết những sách vở tài liệu bằng chữ Hán, chữ Nôm trong bốn ngàn
năm văn hiến đó rồi để riêng ra những tài liệu về các ông vua bà chúa – tức
những tài liệu thường vô ích cho văn hóa - còn lại bao nhiêu, có chất lên một
chiếc xe cam nhông, cũng không đầy! Dù có chất đầy muời chiếc xe đi nữa thì so
với những tài liệu của Pháp cũng chẳng thấm vào đâu: chỉ riêng những tài liệu
về thi sĩ Victor Hugo đã chật cả một viện bảo tàng, tức viện Victor Hugo ở Paris rồi. Mà người Pháp
không có được bốn ngàn năm văn hiến như ta.
Chắc có
độc giả trách tôi là tự ti mặc cảm, mà quá tôn sùng người. Trách tôi tôi xin
nhận, nhưng làm sao tôi không tôn sùng người ta, khi người ta hơn mình xa quá
đi. Vả lại, tự nhận là mình kém rồi cố theo cho kịp người, hơn người, còn có
lợi hơn là tự cao tự đại mà chẳng chịu gắng sức để tiến tới.
Vâng, về
phương diện văn hóa, ta đã kém xa Trung Hoa mà cũng thua xa cả Pháp. Hai ngàn
rưỡi năm trước, Trung Hoa đã biết đặt ra một chức quan chuyên đi lượm những bài
ca, bài hát trong dân gian, nhờ vậy họ mới có được một tập thi vào hàng cổ nhất
thế giới. Tới thế kỷ 18, vua Càn Long cho chép lại hết các sách,
[1]lập
thành bộ "Tứ khố toàn thư" ( ) ,
một công việc sưu tầm tài liệu không tiền trong lịch sử nhân loại. Nước Pháp
thì chẳng những nhà cầm quyền mà đến thường dân cũng biết trọng tài liệu. Trong
cuộc cách mạng 1789, những anh thợ xay bột, những chú lính của họ, viết còn sai
be bét mà cũng chịu ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, rồi chính phủ trân tàng
tất cả những tài liệu đó. Nói chi tới những di bút của các danh nhân thì họ quý
hơn vàng.
Trong
Thư khố Quốc gia của Pháp, ta thấy cả những toa mua hàng, sổ chi tiêu của các
văn hào, nhạc sĩ.
Còn ở
nước mình, có được bao nhiêu nhà nho chép lại những tai biến cùng cảnh sinh
hoạt trong thời Nguyễn, Trịnh xung đột, hoặc trong chiến tranh giữa Nguyễn Ánh
và Tây Sơn? Mà thôi, hãy nói chuyện gần đây. Chúng ta có muốn chép tiểu sử của
Nguyễn Khuyến hoặc Chu Mạnh Trinh để dạy học sinh ban Tú tài, cũng không biết tra
cứu ở đâu, và nếu không tán hươu tán vượn thì may lắm về tiểu sử mỗi cụ, ta
viết được độ một trang.
Đổ trọn
lỗi cho tánh lười viết, không biết trọng tài liệu của cổ nhân thì cũng oan cho
các cụ. Thực ta, còn nhiều nguyên nhân khác: nghề in thời xưa không phát triển,
rồi cái nạn binh đao (thành Thăng Long biết mấy lần bị tàn phá), cái họa văn tự
(hễ sơ ý một chút mà nói phạm tới nhà cầm quyền thì có thể bị tru di tam tộc;
lại thêm triều đình chẳng khuyến khích những công việc sưu tầm khảo cứu; vua
chúa đều chỉ thích mỗi một món thơ, kẻ làm thơ mà có tài điêu trùng khắc triện
thì được thưởng, còn người cặm cụi tra khảo soạn sách thì cơ hồ
[2]không
vị vua chúa nào ngó tới ( ).
Cái tinh
thần không biết trọng tài liệu, xưa như vậy mà nay cũng không hơn gì mấy. Các
việc bác cổ và thư viện của mình ngày nay, mở ra cho có với đời vậy, chứ thực
ra đã làm được những việc gì quan trọng cho văn hóa? Trong bài "Bàn về vấn
đề dịch sách cổ của ta" tôi đã đề nghị một phương pháp làm việc tập thể để
dịch ra Việt ngữ hết thảy những văn thơ cổ, bất kể về loại gì, để những người
không biết chữ Hán có thể dùng những
[3]tài
liệu đó mà nghiên cứu về văn hóa thời xưa. ( )
Vấn đề đó, mười lăm năm trước, Vũ Ngọc Phan đã nghĩ tới, nhưng từ đó tới nay,
những cơ quan Văn hóa của chính phủ đã làm được gì chưa? Mà có bao giờ người ta
nghĩ tới cái việc thu thập tài liệu trong dân gian không? Chẳng hạn khi một
danh nhân trong nước qua đời, phái một người tìm thân nhân hoặc bè bạn của
người mất, để gom góp hoặc ghi chép những bút tích cùng dật sự về vị ấy, rồi
đem về giữ trong các thư khố làm tài liệu cho đời sau. Công việc có khó khăn
tốn kém gì đâu, mà lợi cho văn hóa biết bao. Có như vậy các người cầm bút mới
có tài liệu để soạn sách, còn như bây giờ đây thì một nhà văn Việt viết tiểu sử
Tản Đà còn khó hơn viết tiểu sử của Molière, của Shakespeare, của Tolstoi. Thực
là ngược đời, nhưng rất dễ hiểu. Vì tra cứu ở đâu bây giờ để viết về đời sống
của Tản Đà? Chỉ có cách đọc những báo mà cụ đã viết hoặc người khác viết về cụ.
Nhưng chính những số báo đó, kiếm được cũng là thiên nan, vạn nan. Ngay những
tạp chí có giá trị như Thanh Nghị, Tri Tân mà thư viện Nam Việt cũng không có
đủ, và những nhật báo Việt xuất bản ở Sài gòn trước 1945 cũng thiếu nữa. Chắc
nhiều độc giả không ngờ được nỗi khổ tâm đó của những người muốn khảo cứu về
văn hóa nước nhà.
Muốn
tránh những khó khăn ấy cho thế hệ mai sau, ai lưu tâm đến văn hóa cũng nên thu
thập hết những tài liệu về mỗi phong trào chính trị, kinh tế hoặc văn chương
ngay từ khi phong trào vừa tắt và như vậy, ta có thể có một khái niệm tổng quát
về nó được.
*
Trong
những năm 1949 - 1951, nhờ thời cơ thuận tiện, nhiều người đã chép lại lịch sử
cách mạng của ta từ đầu thế kỷ tới cuộc đại chiến vừa rồi. Trước sau được
khoảng hai chục cuốn, nhưng tiếc thay, không có cuốn nào nói rõ về phòng trào
Duy tân đầu tiên do cụ Lương [4]Văn Can ( )
làm chủ động năm 1907. Thành thử, tới bây giờ chúng ta chỉ mới có cuốn Đông
kinh nghĩa thục của Đào Trinh Nhất (Mai Lĩnh xuất bản năm [5]1938), mà trong
cuốn này có lẽ vì tị hiềm ( ) Đào quân
không nhắc gì tới cụ Lương cả, gần như chỉ chuyên kể tiểu sử của cụ Nguyễn
Quyền, một viên học giám, chứ không phải là thục trưởng của Nghĩa thục[6]như
hiểu người tưởng lầm ( )
Tôi may
mắn được vào hàng con cháu một vị lão nho đã hoạt động cho Nghĩa thục, thường
được nghe cụ kể lịch sử của Nghĩa thục nên được biết cuốn của Đào quân có nhiều
chỗ sơ sót và mười sáu, mười bảy năm trước, tôi đã có ý đợi cuốn của Đào quân
bán hết, sẽ viết một cuốn khác để bổ túc, song thời đó, sự "kị húy"
còn quá nghiêm, có viết xong, xuất bản cũng khó, nên mãi đến ngày nay mới thực
hành được ý muốn.
Tôi xin
thưa ngay, cuốn sách nhỏ độc giả đương đọc đây không phải là một cuốn lịch sử,
nó chỉ chứa những tài liệu về sử thôi. Tôi chưa dám chắc rằng những tài liệu tôi
đưa ra đã đúng hết, vì ba lẽ:
[7]Lẽ
thứ nhất, cụ lão nho ( ) đã kể chuyện
Nghĩa thục cho tôi nghe là người trong cuộc - chính cụ dạy học và soạn sách cho
trường, lại là con rể cụ Lương - nên sự nhận xét, phán đoán dù có công tâm tới
mấy, cũng không sao tránh được đôi chỗ thiên lệch.
Lẽ thứ
nhì là những việc cụ cho tôi biết đều do ký ức mà kể lại chứ không được ghi
chép ngay từ khi mới xảy ra. Cụ rất cường ký nhưng dù nhớ dai tới đâu thì cũng
phải quên nhiều chi tiết, nhất là những chi tiết về thời gian của những việc đã
qua trên bốn chục năm rồi.
Lẽ thứ
ba là tôi đã rán kiểm soát những lời của cụ, song chỉ kiểm soát được một phần
nào thôi. Trong công việc kiểm soát ấy tôi dùng cuốn Ngục trung thư của cụ Phao
Bội Châu (Đào Tính Nhất dịch và Tân Việt xuất bản năm 1950) làm căn bản vì tôi
nghĩ những tài liệu trong cuốn đó có phần đúng hơn cả. Trước hết, cụ Phan rất
thông minh và nhũn nhặn, tất nhớ nhiều và trọng sự thực, khi viết cuốn đó năm
1913, cụ mới 46[8]tuổi ( ), tinh thần còn
cường tráng, lại thêm, cụ chép những
việc mới xảy ra mười năm trước (từ 1903)
[9]thì
tất phải ít sai ( ). Ngoài ra, tôi
còn tham khảo
nhiều
sách khác của cụ Huỳnh Thúc Kháng, và các tác giả Thế Nguyên, Phương Hữu, Anh
Minh...(coi bản kê tên ở cuối sách), song những tài liệu trong các cuốn đó
nhiều khi mâu thuẫn nhau, và đáng tin hơn cả chỉ có cuối Thi tù tùng thoại của
cụ Huynh Thúc Kháng và những cuốn của ông Anh Minh viết theo di cảo của cụ Phan
Bội Châu.
Chủ ý
của tôi là chép về Đông Kinh nghĩa thục, nhưng tôi nghĩ không thể tách riêng
phong trào duy tân đó ra được mà phải đặt vào phong trào cách mạng của dân tộc
trong 25 năm đầu thế kỷ, nên tôi đã ghi thêm - nhưng chỉ vắn tắt thôi - những
vận động cách mạng trước và sau Đông Kinh nghĩa thục để độc giả hiểu rõ nguồn
gốc và ảnh hưởng của nó.
Ba nhân
vật quan trọng nhất trong lịch sử cách mạng hồi đầu thế kỷ là cụ Lương Văn Can
(cụ cao niên hơn cả) cụ Phan Bội Châu và cụ Phai Châu Trinh, nhưng sở dĩ tôi
chép tiểu sử cụ Lương nhiều hơn của hai cụ Phan chỉ vì tiểu sử của hai cụ này
trong nước không ai không biết, còn đời sống cụ Lương thì chưa sách vào nhắc
tới.
Lại có
nhiều nhân vật phụ mà tôi chép lại dật sự [10]
cũng kỹ
càng.( )
Như vậy
có hai lỗi, một là mang tiếng thiên lệch, hai là làm mất tính cách nhất trí của
sách, song tôi nghĩ đã không có ý viết một cuốn sử, chỉ có ghi chép tài liệu
thì tôi có thể - mà cũng nên - ghi càng nhiều càng tốt, biết đâu ghi đấy, nhất
là những tài liệu chưa ai nhắc tới mà có tính cách làm vui câu chuyện, lại giúp
độc giả rõ thêm tâm trạng cùng cách làm việc của các cụ thời đó. Dám mong độc
giả hiểu cho chỗ ấy mà lượng thứ.
Sài gòn
ngày 9 tháng 9 năm 1955.
TỰA
(in lần thứ nhì)
Các ông
bạn tôi đi xa về đều nói: có ra nước ngoài mới thấy dân tộc mình về sự thông
minh, nhanh nhẹn, kiên nhẫn, không kém một dân tộc nào khác. Đừng nói Ấn Độ, Mã
Lai, Thái Lan, Phi Luật Tân, đến ngay như Trung Hoa, Nhật Bản, Gia Nã Đại, Huê
Kỳ... cũng không hơn mình được". Những nhận xét đó thường có tính cách chủ
quan và hấp tấp, chỉ đáng tự một phần nào thôi. Nhưng ôn lại lịch sử của tổ
tiên thì nhiều khi chúng ta cũng đáng tự hào về nòi giống của mình lắm. Những
vũ công oanh liệt phá Nguyên, diệt Thanh thì ai cũng biết cả rồi, chúng tôi
không muốn nhắc lại, hôm nay chỉ xin so sánh công cuộc duy tân của ta với công
cuộc của Trung quốc.
Nước ta
chỉ nhỏ bằng một tỉnh của Trung Hoa, dân số của ta chỉ bằng một phần hai mươi
hay một phần ba mươi của họ, ta lại ở trong một hoàn cành khó khăn hơn họ nhiều
- ta hoàn toàn mất chủ quyền, chỉ là một bán thuộc địa - vậy mà cuộc vận động duy
tân của nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục oanh liệt và có ảnh hưởng không kém gì cuộc
duy tân của nhóm Khang, Lương thời cuối triều Mãn Thanh.
Phong
trào của ta phát động sau họ khoảng mươi năm - họ năm 1898, ta năm 1907 - nhưng
như vậy không nhất định có nghĩa rằng ta giác ngộ sau họ; có thể là vì cho tới
cuối thế kỷ trước, các nhà ái quốc của ta vẫn chua chịu bỏ khí giới, và nhất
quyết sống mái với quân xâm lăng; tới đầu thế kỷ này thấy con đuờng xả thân đó
khó thành công được, mới chuyển hướng qua một đường lối khác, mở mang dân trí,
bồi dưỡng dân khí, tức con đường duy tân.
Vì phát
động sau Trung Hoa tất nhiên chúng ta rút được kinh nghiệm của họ, chịu ảnh
hưởng ít nhiều của họ - những sách báo của Khang, Lương, các cụ trong Đông Kinh
Nghĩa Thục đều có đọc cả - nhưng chúng ta vẫn có những hoàn cảnh riêng, một chủ
truơng riêng.
Khang,
Lương còn cầu hợp tác với triều đình Mãn Thanh - vua Quang Tự ; các cụ trong
Nghĩa Thục không chịu hợp tác với nhà Nguyễn, cơ hồ như không biết đến triều
đình Huế nữa - các cụ Sào Nam, Tây Hồ, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng... đều chửi
thẳng vào mặt bọn vua quan "phường chèo" ở Huế - và tuy phải sống
dưới chế độ dã man của thực dân, các cụ cũng không khi nào hợp tác với thực
dân, giữ một thái độ bất khuất, làm cho chính thực dân cũng phải kính nể.
Khang,
Lương hô hào bãi bỏ khoa cử, bỏ lối văn tám vế trong các kỳ thi thôi, nhưng vẫn
giữ cổ văn, và mãi đến năm 1917, bọn Hồ Thích, Trần Độc Tú mới đề nghị dùng
bạch thoại; các cụ trong Nghĩa Thục ngay từ 1907 đã đề cao "quốc
ngữ", dùng nó làm phuơng tiện khai hóa quốc dân, dịch sách ra quốc ngữ,
làm thơ cảnh tỉnh đồng bào bằng quốc ngữ. Ta cứ nghĩ hiện nay sống[11]sau các
cụ sáu chục năm ( ) mà một bọn giáo sư Đại
học của ta còn nghi ngờ khả năng của Việt ngữ, ngăn cản bằng mọi sự phát triển
của nó thì ta sẽ phải khâm phục các cụ sáng suốt, nhiệt tâm yêu nuớc ra sao.
Người ta thường nhắc những câu bất hủ của Nguyễn Văn Vĩnh: "Tiếng nước ta
còn thì nước ta còn", hoặc của Phạm Quỳnh: "Truyện Kiều còn thì nước
ta còn", nhưng ít ai nhớ rằng hai ông đó chỉ lập lại chủ trương từ mươi
lăm hai mươi năm trước của các cụ trong Nghĩa Thục.
Khang,
Lương đề cao khoa học, cái học thực dụng của phương Tây, nhưng cả nhóm Khang,
Luơng không có một người nào đứng ra lo việc k ih doanh, như mở xưởng dệt, mở tiệm
buôn, khẩn ruộng, khai mỏ, hô hào dùng đồ nội hóa...như các cụ trong Nghĩa
Thục. Khang, Lương chỉ lý thuyết, các cụ mới thực hành.
Nhóm
Khang, Lương có khi đi quá xa, chẳng hạn Khang Hữu Vi đề nghị sự phân biệt quốc
gia, nhân biệt trai gái, phân biệt sản nghiệp..., còn Đàm Tự Đồng có hồi muốn
phá tung cái lưới luân thường , các cụ trong Nghĩa Thục không cuồng nhiệt như
vậy, chủ trương hấp thụ tân học, nhưng vẫn phát huy cổ học.
Từ đây
phải nhận cho tinh, Học Tây học Hán có rành mới hay.
Học đủ
cả, nhưng phải cho rành, để phục vụ quốc gia cho đắc lực, vẫn trọng luân
thường, vẫn phân biệt trai gái, nhưng nhận rằng gái bình đẳng với trai và cũng
có nhiệm vụ với xã hội, nhân quần như trai.
Xét về
đức hy sinh thì nhóm Khang, Lương có lục [12] quân tử ( ), còn chúng ta có hàng chục cụ bị đày ra Côn Đảo, và hằng chục
cụ khác bôn ba hải ngoại để rồi lén chở khí giới về nước mà chiến đấu với quân
xâm lăng cho tới chết.
Về ảnh
hướng của phong trào thì chúng ta có thể tin rằng khắp thế giới, không có cuộc
vận động nào trong những hoàn cảnh khó khăn mà chỉ có mấy tháng lan tràn khắp
trong nước, thành đề tài cho biết bao bài ca ái quốc được dân thuộc lòng như
công cuộc duy tân của Nghĩa Thục.
Như vậy
các cụ trong Nghĩa Thục có kém gì bọn Khang, Lương đâu, dân tộc chúng ta có kém
gì dân tộc Trung Hoa đâu. Tôi thấy rằng các cụ còn có phần sáng suốt, có nhiều
lương tri hơn các nhà cách mạng của họ nữa, mà dân tộc ta có tinh thần đoàn
kết, tiến bộ hơn họ nữa: các cụ khuyên dân cắt búi tóc, dân thấy phải nghe
liền, còn dân tộc Trung Hoa cả chục năm sau Cách mạng Tân Hợi vẫn còn giữ cái
đuôi sam. Điều đó làm cho tôi phấn khởi vô cùng. Mỗi lần ôn lại lịch sử là mỗi
lần vững thêm được niềm tin. Chiến tranh bi thảm hiện nay mà kết thúc, chủ
quyên mà đòi lại được hết, mọi người mà có tinh thần tự lập, hạng trí thức mà
biết noi gương các cụ trong Nghĩa Thục, hết lòng dắt díu khai hóa đồng bào, thì
không có lý gì tương lai của chúng ta không rực rỡ vào bậc nhất nhì ở Đông Á.
Nhân đến kỳ đệ lục thập chu niên của Đông Kinh
Nghĩa
Thục chúng tôi sửa chữa kỹ lưỡng cuốn này, thêm khá nhiều tài liệu để gây lại
niềm tự trong lòng độc giả, nhất là thanh niên, diệt cái tâm trạng hoang mang
nó làm suy nhụt chí khí của dân tộc. Hoàn cảnh, phương tiện của ta lúc này đều
hơn các cụ hồi xưa. Chúng ta chỉ thiếu sự đồng tâm và lòng hy sinh thôi. Mà
những đức này chỉ có thể tìm lại được bằng sự tự giác, bằng cách ôn lại hành
động của cổ nhân.
Chúng
tôi tự biết tài liệu còn thiếu nhiều lắm, cho nên dám mong độc giả mọi nơi hễ
biết thêm được tài liệu nào, nghe thêm được một chuyện nào liên quan tới Đông
Kinh Nghĩa Thục, thì xin vui lòng chỉ bảo cho, để chúng tôi bổ túc thêm vì công
việc phát huy văn hóa dân tộc phải tiếp tục hoài không lúc nào ngừng được.
Sài gòn
ngày 23- 2-1967 (Thượng nguyên năm Đinh Mùi ).
Chương 1
TÌNH HÌNH NƯỚC NHÀ Ở ĐẦU THẾ KỶ
Cơn mây
gió trời Nam bảng lảng Bước anh hùng nhiều chặng gian truân.
(Khuyết
danh) [13] Cuối thế kỷ trước là thời kỳ hắc ám nhất trong lịch sử cách mạng chống Pháp của ta: các cuộc khởi
nghĩa nối nhau tan rã gần hết.
Năm
1887, nghĩa quân ở Bình Định, Phú Yên bị Trần Bá Lộc dẹp, chủ tướng là Mai Xuân
Thưởng bị bắt và hành hình.
Tám năm
sau Phan Đình Phùng bị bệnh lị và mất ở miền Hà Tĩnh. Do Việt gian chỉ, Pháp
quân đào được thây của người, Nguyễn Thân đem hỏa thiêu, trộn tro vào thuốc
súng, bắn. Một số nghĩa quân tuẫn tiết hoặc trốn qua nước ngoài, còn thì phải
đầu thú, mong được yên thân lo cho gia đình, không ngờ bị người Pháp giết gần
hết.
Hai năm
sau (1897) , tiếng súng im hẳn ở Bãi Sậy,
Nguyễn
Thiện Thuật phải lẻn qua Trung Hoa.
Cũng
cuối năm nó, Đề Thám tạm giảng hòa với Pháp, lập ấp ở gần Nhã Namrồi năm sau bị
Pháp bắt ở Nhã Nam.
Thế là
khắp trong nước không còn cuộc phản kháng nào nữa. Người Pháp mừng rằng công
việc bình định đã kết liễu và bọn tay sai đắc lực của họ, tức Hoàng Cao Khải ở
Bắc, Nguyễn Thân ở Trung, Trần Bá Lộc ở Nam được ung dung hưởng những quyền lợi
xây dựng trên xương máu đồng bào. Chắc Khải, Thân và Lộc
[14]đều
nghĩ: "Từ nay thì ta được cao trảm vô ưu "( ) và
vận mạng
của Việt Nam đã quyết định: Pháp sẽ làm chủ giang sơn này ít nhất là vài thế
kỷ, kẻ nào muốn sống thì phải ngoan ngoãn phục tòng, càng vùng vẫy, càng mau
chết. Kìa như chú khổng lồ là Trung Quốc còn phải thua người phương Tây liểng
xiểng, ký hết điều ước Bắc Kinh đến điều ước Nam Kinh, rồi cắt đất tô giới,
nhường lợi kinh tế, thì xứ Việt Nam bé nhỏ này làm sao chống cự với người da
trắng cho nổi"?
Họ quên
rằng dân tộc ta có một tinh thần bất khuất, càng bị đè nén thì càng phản động
lại, không phản động được ở mặt này thì phản động ở mặt khác, nên tuy tiếng
súng có im ở khắp nơi mà tinh thần chống ngoại xâm vẫn bồng bột trong lòng dân
chúng. Và chỉ sáu năm sau khi Đề Thám trá hàng ở Nhã Nam, một cuộc vận động
khởi nghĩa quy mô khá lớn, đã manh nha, do cụ Phan Bội Châu chủ mưu.
Tiểu sử
của cụ, quốc dân ai mà không thuộc, chúng tôi xin miễn nhắc lại, e rườm, chỉ
xin kể những hoạt động của cụ có liên lạc ít nhiều với phong trào duy tân ở đầu
thế kỷ.
Năm
1903, cụ tìm kiếm cụ Tiểu la Nguyễn Thành (tức cụ ấm Hàm) ở quảng Nam. Cụ Nguyễn
Thành khuyên cụ định đường lối hoạt động như sau:
- Liên
kết dư đảng Cẩn vương.
Tôn phò
Kỳ ngoại hầu Cường Để, dòng dõi của Hoàng tử Cảnh làm minh chủ để đoàn kết nhân
tâm.
- Cầu
ngoại viện để có thêm lực lượng.
Cụ nghe
lời, ra Huế, lại yết kiến Kỳ Ngoại hầu, bày tỏ chí lớn. Hầu nhận làm hội chủ,
còn cụ thì nhận việc tổ chức đảng, tức thời ra Bắc, lặn lội vào miền Yên Thế,
thăm Hoàng Hoa Thám, rồi năm sau vô Nam, tìm thăm các hào kiệt cùng các nhà nho
tâm huyết từ Vĩnh Long tới Châu Đốc, Hà Tiên, tiếp xúc với cụ Nguyễn Thần Hiến,
một nhà ái quốc ở Cần Thơ.
Khi trở
về Huế, cụ soạn cuốn Lưu Cầu huyết lệ tân[15] thư ( ) để tả cái nhục mất nước và tuyên bố phải mở mang dân khí làm nền
tảng cứu quốc, rồi thành lập hội Duy Tân (1904).
Vậy chủ
trương của cụ đã hơi khác các nhà cách mạng trước: không tự lực hoạt động trong
một khu vực nhỏ mà muốn thống nhất các hoạt động rời rạc, gây nổi một phong
trào bao trùm khắp nước, cần sự hưởng ứng của toàn dân và sự viện trợ của ngoại
quốc để hành động cho đắc lực.
Cụ hăng
hái quá, song thiếu kinh nghiệm, tưởng đâu có thể tuyên truyền trong đám các
"cụ lớn" ở Huế, nên đưa cuốn Lưu Cầu huyết lệ tân thư cho họ coi. May
cho cụ là họ không tố cáo với người Pháp mà bắt giam cụ.
Tiếng
chuông Lưu Cầu mới vang trong giới nhà nho ở Huế thì một tiếng chuông khác cũng
nổi lên ở Bình Định.
Nguyên
cuối năm 1904, ba cụ Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp và Huỳnh Thúc Kháng rủ nhau
chu du mấy tỉnh miền nam Trung Việt, tới Bình Định nhằm lúc tại nơi đó đương có
kỳ thi hạch. Ba cụ mạo tên nộp quyển. Cụ Trần và cụ Huỳnh làm bài phú Lương
ngọc danh sơn, còn cụ Tây Hồ làm bài thơ Chí thành thông thánh. Bài sau này thể
Đường luật, ngắn hơn nên truyền tụng rất mau.
Nguyên
văn chữ Hán như sau:
Thế sự
hồi đầu dĩ nhất không,
[16]Giang
sơn hòa( ) lệ khấp anh hùng.
[17]Bách
quan( ) nô lệ cường quyền hạ,
Bát cổ
văn chương túy mộng trung.
[18]Trường
thử tích( ) niên cam thóa mạ,
Bất tri
hà nhật xuất lao lung.
[19]Chư
quân thùy thị( ) vô tâm huyết,
[20]Thí
bả( ) tư văn khán nhất thông.
Kìa coi
thế sự, hết trông mong, Vắng mặt anh hùng tủi núi sông.
Tám vế
văn chương mê mắt ngủ, Trăm quan tôi tớ uốn lưng cong. Thôi đừng lỳ quá camcười
khổ, Phải tính sao đây phá cũi lồng.
Thử hỏi
ai không gan ruột nhỉ? Câu này đọc tới cảm hay không?
(Phương
Sơn dịch)
Rời Bình
Định, ba cụ tiếp tục con đường vô Nam, ghé Cam Ranh rồi cập bến Bình Thuận. Hai
cụ Trần và Huỳnh sau khi khảo sát tình hình rồi, xuống ghe bầu trở về xứ Quảng,
cụ Phan đau, ở lại, tỏ nỗi buồn trong bài thơ Phan Thiết ngọa bệnh:
Hựu
hướng giang san tẩu nhất tao,
Tam Phan
phong vũ trệ chinh bào.
Thử
trung ý tự vô nhân thức,
Độc ngọa
tha hương thính hải đào.
Định đi
một vòng khắp nước non,
[21]Nhưng
mưa gió ba xứ Phan ( ) này cản áo
khách đi đường lại .
Nỗi lòng ta lúc này không ai biết đến,
Nằm một
mình ở chỗ quê người mà nghe sóng biển.
Nhờ phải
ở lại như vậy mà cụ kết thân với cụ Hồ Tá [22]
Bang ( ) lập một thư xã ở đình Phú Tài để
giảng
sách của
Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, trong vài tháng, rồi tháng chín cụ trở ra Quảng.
Nămsau
ông Nguyễn Trọng Lợi mở hội Thanh niên thể dục và tư thục Dục Anh để dạy học
theo tinh thần mới, đón ông Lương Thúc Kỳ (nhạc phụ của Phan Khôi) làm giáo
viên. Trường khá nổi tiếng, có một số thanh niên ở Nam kỳ ra học. Phí tổn đều
do công ti Liên Thành (cá nước mắm..) chu cấp mà công ti đó cũng do ông Nguyễn
Trọng Lợi thành lập.
"(Vậy)
nhờ cụ (Phan Chu Trinh) chủ xướng, khuyến khích giáo dục, công thương hội mà
phong trào truyền bá canh tân, mở mang thương nghiệp, chấn hưng công nghệ đã
được khởi phát và thực hiện tại ở Bình Thuận
[23]sớm
hơn ở Bắc phần và Namphần."( )
*
Tuy
nhiên, hai tiếng chuông Lưu Cầu huyết lệ tân thư và Chí thành thông thánh của
hai cụ Phan chưa ảnh hưởng lớn bằng những tiếng súng trong trận Nhật- Nga dội
vào nước ta cuối năm 1904 và đầu năm 1905. Các nhà nho vừa mới hay tin nước
Nhật bé nhỏ dám tuyên chiến với nước Nga khổng lồ, còn đương ngạc nhiên thì lại
tiếp được tin hạm đội Nga ở Thái Bình Dương thua to tại Lữ Thuận, rồi lục quân
Nga cũng tan tành, lần lượt Kim Châu, Liêu Dương, Lữ Thuận, Phụng Thiên đều bị
Nhật chiếm. Các cụ bàng hoàng như tỉnh một cơn mê, rồi tới khi có tin hạm đội
cứu viện của Nga mới phái qua lại bị tiêu diệt ở eo biển Đối Mã thì các cụ đều
vỗ tay reo, muốn nhảy muốn múa. Trận ấy, người Nhật dùng máy vô tuyến truyền
tin lần đầu tiên trong hải chiến, đã đánh đắm hoặc bắt được trọn hạm đội Nga
trừ ba chiếc chạy thoát; phía Nga tử trận 4000, bị cầm tù 7000, còn phía Nhật
tử trận có 16, bị thương có 538.
Lịch sử
Á Đông chưa ghi một thắng trận nào vẻ vang như vậy, một thắng trận đã đánh dấu
một khúc quanh trong hiện đại sử. Ảnh hưởng của nó đối với Á Đông quan trọng vô
cùng: Á Châu thức tỉnh rồi tự tín được là nhờ nó.
Các quốc
gia lớn nhỏ từ Ấn Độ tới Phi Luật Tân có cảm tình ngay với Nhật vì Nhật đã rửa
cái nhục chung cho giống da vàng và da đen. Trung Hoa mong lật đổ gấp nhà Thanh
để duy tân; Ấn, Miến, Mã Lai, Việt Namđều hăng hái hoạt động để giành lại độc
lập.
Riêng ở
nước ta, phong trào cách mạng phát lên bồng bột và tiến tới một hướng khác. Năm
1903, các nhà cách mạng của ta chỉ biết trông cậy ở sự giúp đỡ của Trung Hoa
mặc dầu có một vài nhà ngờ rằng sự giúp đỡ đó không được bao nhiêu vì chính
người Trung Hoa tự cứu họ chưa xong, đã chịu cho liệt cường cắt xẻo như một con
mồi vậy; từ 1905 trở đi, dân tộc ta hướng cả về Nhật, một mặt muốn cầu Nhật
giúp khí giới để đuổi Pháp, một mặt muốn noi gương duy tân của Nhật để cường
thịnh lên. Thì Nhật trước kia cũng phục tòng Trung quốc, hơn gì ta; chỉ nhờ
công cuộc duy tân của Minh Trị và Y Đằng Bác Văn, mà ba chục năm sau đã làm cho
Âu, Mỹ phải kiêng nể. Ta mà được duy tân như họ thì kém gì họ?
Sĩ phu
trong nước truyền tay nhau đọc những cuốn:
Nhật Bản
quốc chí, Nhật Bản duy tân khảng khái sử, Nhật Bản tam thập niên duy tân sử. Có
cụ soạn bài Đề tỉnh quốc dân ca, trong đó có những câu khen Nhật như:
Lòng ái
quốc ghê hồn Nhật Bản... Khen thay Nhật Bản anh tài. . .
Do đó,
phong trào Đông du và Duy tân nổi lên mạnh trong những năm 1906 - 1908.
Chương 2
PHONG TRÀO ĐÔNG DU
Đông hải
xông pha nương cánh gió. (Phan Bội Châu)
Người có
công đầu dẫn đường cho các nhà cách mạng qua Nhật là cụ Tăng Bạt Hổ. Cụ quê ở
Bình Định, lớn lên làm suất đội rồi lên cai cơ cùng với Phạm Toàn mộ dân quân
để chống Pháp, thua Nguyễn Thân nhiều trận, Thân biết cụ là người có tài, dụ
hàng, cụ không chịu, lẻn qua Xiêm, rồi qua Trung Quốc tìm Lưu Vĩnh Phúc, Phúc
chết, cụ xin làm thủy thủ một tàu buôn vừa để tự túc, vừa để quan sát tình hình
các nước, tìm thêm đồng chí. Nhờ nghề đó, cụ thường qua lại Hoành Tân, Trường
Kỳ, được ít năm, nói thông tiếng Nhật, sung vào đội thủy quân Nhật. Trong
Nga-Nhật chiến tranh, vì lòng căm hờn người Âu, cụ nguyện hy sinh giúp Nhật,
nổi tiếng là quả cảm, có công lớn trong những trận Đài Liên, Lữ Thuận, được
người Nhật khâm phục, thưởng huy chương quân công.
Ngày
khải hoàn, cụ được dự bữa đại yến do Nhật Hoàng đãi các tướng sĩ. Đỡ chén rượu
của vua Nhật ngự rót thưởng cụ, cụ uống một hơi cạn rồi khóc lớn ở giữa triều
đình. Nhật Hoàng hỏi, cụ giãi bày hết nỗi lòng:
- "Tôi
vốn không phải là người Nhật mà là một
[24]người
vong mạng ( ) Việt Nam. Sau khi thất bại
trong việc chống Pháp, tôi trốn qua Xiêm, qua Trung Hoa rồi tới đây, may được
Bệ hạ tin dùng. Nay thấy quý quốc thắng Nga, làm vẻ vang cho giống da vàng, tôi
nghĩ đến tình cảnh nước tôi mà không cầm được giọt lệ. Bao giờ dân nước tôi mới
được một bữa yến như
[25]bữa
này của quý quốc!"( )
Hết thảy
các người dự yến đều chăm chú nhìn vẻ mặt cương nghị, nghe lời khảng khái của
cụ. Nhật Hoàng khen cụ là chân ái quốc an ủi cụ mấy lời và từ đó các nhà cầm
quyền Nhật rất có cảm tình với cụ. Cụ làm quen với các nghị sĩ Nhật như Khuyển
Dưỡng Nghị, Đại Ôi Trọng Tín, tỏ ý muốn cầu viện Nhật để đuổi Pháp. Họ bảo phải
chờ cơ hội vì Nhật còn lo đánh Nga mà cũng chưa có hiềm khích gì với Pháp. Rồi
họ khuyên cụ: "Trước hết các ông phải lo phát triển phong trào duy tân
trong nước để nâng cao dân khí, dân trí cho đại sự dễ thành. Muốn duy tân,
không thể trông cậy ở Pháp được vì Pháp không thực tâm khai hóa, nên phải lựa
những thanh niên tuấn tú đưa qua đây, nước chúng tôi sẽ đào tạo cho".
Khuyến Dưỡng Nghị lại hứa tận lực giúp cho các học sinh Việt Nam được phép cư
[26] trú và được miễn học phí.( ) Cụ Tăng
xét lời khuyên đó hữu lý, nên xin phép chính phủ Nhật, tức tốc về nước, không
dự trận thủy chiến ở Đối Mã.
*
Cụ về
tới Hải Phòng cuối năm 1904, vô Quảng[27]Nam, do cụ Nguyễn Thành( ) giới thiệu mà hội họp với cụ Sào Nam và Kỳ
Ngoại Hầu, đầu năm sau đưa cụ Sào Namqua Nhật để cầu ngoại viện.
Lần đó
là lần đầu tiên cụ Sào Nam xuất dương, lúc xuống tàu ở Hải Phòng, cụ khẩu chiếm
một bài thơ từ giã đồng chí, ý cao lời đẹp:
Sinh vi
nam tử yếu hi kì,
Khẳng
hứa càn khôn tự chuyển di
Ư bách
niên trung tu hữu ngã,
Khởi
thiên tải hậu cánh vô thùy?
Giang
sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền
thánh liêu nhiên tụng diệc si,
Nguyện
trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên
trùng bạch lãng nhất tề phi.
Bài đó,
chính cụ dịch ra như sau:
Khác
thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng
chịu vần xoay mặc ý trời!
Trong
cuộc trăm năm đành có tớ,
Rồi sau
muôn thủa há không ai?
Non sông
đã mất, mình khôn sống,
Hiền
thánh đâu còn, học cũng hoài.
Đông hải
xông pha nương cánh gió,
Nghìn
làn sóng bạc múa ngoài khơi. Hai câu luận:
Giang
sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền
thánh liêu nhiên tụng diệc si.
được hết
thảy sĩ phu trong nước ngâm nga và làm cho nhiều người quyết tâm bỏ cổ học mà
theo tân học.
Đưa cụ
Sào Nam tới Nhật, giới thiệu cụ với cụ
Khuyển
Dương Nghị rồi, cụ Tăng lại trở về nước vận động, và trong hai năm 1905, 1906,
chắc đã có lần gặp[28]cụ Nguyễn Quyền( ) ở
Lạng Sơn, họp với cụ Nguyễn Thượng Hiền ở nhà cụ đốc Đinh Trạch([29]
tại Nam
Định.[30]Nghe tiếng cụ Lương Văn Can có nghĩa khí( ),
[31]được
nghĩa hội văn thân ở Bắc tín nhiệm( ),
cụ tìm
lại thăm
tại nhà ở số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội để bàn về tình hình trong nước và kế hoạch
lâu dài.
Cụ Lương
nói:
- Thập
niên chi kế mạc như thụ mộc, bách niên
[32]chi kế
mạc như thụ nhân( ). Chúng ta đã vào hàng
[33]lão
cả rồi( ) nên đặt hy vọng vào bọn
hậu tiến.
Cụ Tăng
đáp:
- Ý tiên
sinh thực hợp với ý tôi. Tôi về nước lần này chính có mục đích tìm thanh niên
đưa qua Nhật học.
Rồi cụ
kể lại những lời khuyên của Khuyển Dưỡng Nghị và Đại Ôi Trọng Tín, sau cùng nhờ
cụ Lương giới thiệu cho những thanh niên tuấn tú và nhiệt huyết.
Cụ Lương
đưa ý kiến:
- Tôi
nghe nói một giải Hồng Sơn đời đời sinh hào kiệt, dư đảng của cụ Phan Đình
Phùng chắc còn, tiên sinh thử đi tìm, chắc được như ý.
Lương
Trúc Đàm, con cả cụ Lương, đã đậu cử nhân, lúc đó ngồi hầu trà ở bên, cung kính
chắp tay đứng dậy thưa với cụ Tăng:
- Ở Bắc
Thành, thanh niên có tâm huyết cũng không thiếu nếu cụ cho phép, cháu xin đảm
nhiệm việc tìm anh tài ở ngoài này.
Cụ Tăng
cười:
[34]-
Phi thử phụ bất sinh thử tử ( ).
Do cuộc
hội đàm đó mà hai người con cụ Lương - Lương Ngọc Quyến (tức Lương Lập Nham) và
Lương Nghị Khanh thành những sinh viên Đông du đầu tiên của nước Việt.
*
Tới
Nhật, cụ Sào Nam lại thăm Lương Khải Siêu, Đại Ôi Trọng Tín và Khuyển Dưỡng
Nghị. Khuyển tận tâm giúp cụ và khuyên cụ rước Kỳ Ngoại Hầu qua. Cụ liền về
nước thu xếp việc đó rồi lại trở qua Nhật liền, mới vô tới nhà trọ cũ ở Hoành
Tân, đã gặp Lương Ngọc Quyến nằm đợi cụ ở đó rồi. Trong Ngục trung thư cụ viết:
"Tôi
xem ra người - tức Lương Ngọc quyến - có khí phách hăng hái, đầu tóc đang để
bờm xờm, dò hỏi mới biết ông ta bỏ nhà vượt biển trốn sang Nhật có một mình,
lúc lên bờ, trong túi chỉ còn vỏn vẹn có ba đồng xu.
Thấy vậy
tôi vừa mừng vừa chưng hửng. Vì bạn tuổi nhỏ ở nước nhà, một thân một bóng mà
đám liều mạng xông pha sóng gió muôn trùng, tới một nước thuở nay chưa nghe
thấy bao giờ, Lương quân chính là người thứ nhất vậy. Té ra Lương quân vốn là
người chứa sẵn kỳ khí, chỉ nghe nói tôi qua Đông Kinh mà thành ra mạnh bạo bỏ
nhà bỏ nước ra đi. Bạn thiếu niên anh tuấn của[35]ta sau này, có mấy người được
như Lương quân"( ).
Trong
cuốn Tự Phán (Anh Minh xuất bản) , cụ lại chép:
"Rất
đáng quý hóa là ông Lương Lập Nham, hành[36]động có cách bất kỳ, tình hình quẫn
bức ( ), khó thề ngồi yên, hăng hái
nói: "Lúc này không đi ăn mày, còn đợi lúc nào nữa? Sáng ngày nhịn đói, đi
từ Hoành Tân đến Đông Kinh một ngày một đêm. Đêm đâm vào Cảnh sát thự, nằm ngủ
giữa đất, quan cảnh sát hỏi, ông vì không hiểu tiếng Nhật, ngu ngơ không trả
lời; lục trong túi lại không có gì cả, nghi là người có tâm tật, đoạn rồi cảnh
sát nói chuyện bằng chữ viết mới biết ông là thiếu niên Ấn Độ China, cảnh sát
Nhật lấy làm lạ, cấp cho ông tiền phí hỏa xa về Hoành Tân. Ông được tiền cảnh
sát cho, đã đỡ đói trong vài ngày, nhưng không trở về quán ở, bèn đi thăm hết
chỗ lưu học sinh Trung Hoa ở Đông Kinh, tình cờ tìm được nhà Dân Báo báo quán.
Nhà báo ấy là cơ quan của đảng cách mạng Trung Hoa, chủ bút là Chương Thái Viêm
tiên sinh, quản lý là Trương Kế (...) . Hai người ấy là tay tiền phong đảng
cách mạng Tàu. Vào quán đem thực tình nói với Chương, Trương. Chương, Trương
thương lắm, cho ông làm việc tam đẳng thư ký và nói với ông trở về Hoành Tân
đem vài người đồng chí lại sẽ dung nạp cho. Lúc đó ông trở về ngụ quán, vừa mới
vào cửa thì cười òa và nói với tôi rằng: "Bác ơi! ăn mày được việc
rồi".
Lúc bấy
giờ để Nghị Khanh là người em ở với tôi, còn dắt hai người đồng hương từ biệt
tôi lên Đông Kinh, ăn nhờ ở Dân báo và học tiếng Nhật Bản.
" Ở
Nhật, Sào Nam viết bài Khuyên thanh niên du học giao cho cụ Tăng đem về nước
phát hành. Cụ Nguyễn Hải Thần cùng qua Nhật với Lương Ngọc tuyến, lúc đó cũng ở
Hoành Tân, tình nguyện gánh vác công việc quyên tiền để giúp du học sinh. Cụ
Hải Thần quê làng Đại Từ, Hà Đông có nhà ở phố hàng Bạc, Hà Nội, tính hay cười,
ít nói, không bao giờ phản đối ai cả. Có hồi cụ theo học cụ Lương, sau khi đậu
Tú tài, làm đôi câu đối tết dán ở cửa:
[37]Mẹ
chết dám đi thi,( ) Trời cũng chiều lòng
cho đỗ nhỏ.[38](. . . . . ) ( ) người mà
có chí ắt làm to.
Chí đó
là chí làm cách mạng, và sau này, trời cũng chiều lòng cụ một lần nữa, năm
1946, được về Hà Nội, được trông thấy cảnh nước nhà độc lập.
Thanh
niên trong nước hưởng ứng phong trào Đông du và đầu năm 1906, thêm được hai anh
tuấn nữa, tức Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Điển, cộng với Lương
[39]Nghị
Khanh( ), Lương Ngọc Quyến là bốn. Trừ Lương
Nghị Khanh vào học Đồng Văn thư viện, còn ba người kia vào học Chấn Võ học
hiệu. Vậy trong số bốn thiếu niên mở đường cho phong trào Đông du, họ Lương đã
chiếm tới một nửa. Từ đó, phong trào mỗi ngày một lên, hai năm sau số học sinh
tại Nhật có tới trên trăm, đủ Trung, Nam, Bắc, làm cho chính phủ Pháp lo ngại.
Ở Cần Thơ, cụ Nguyễn Thần Hiến là người gia nhập sớm nhất, lập Khuyến du học hội,
cho người con trai là Nguyễn Như Bích qua Nhật, sĩ phu trong Nam hưởng ứng rất
đông.
Đầu năm
1906, Kỳ Ngoại Hầu qua Nhật cùng với cụ Phan Sào Nam và cụ Phan Tây Hồ. Các nhà
cách mạng của ta thời đó qua Nhật rất thường - ấy là lén lút mà còn vậy - và Đông
Kinh thành nơi gặp gỡ của các nhà ái quốc ở Đông Á.
Trước
khi đi, cụ Tây Hồ có hội đàm với các cụ Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Võ Hoành
để bàn kế duy tân.
Ở Nhật
ba, bốn tháng, cụ khảo sát phương châm tự cường của người Nhật, lại thăm Khánh
Ứng nghĩa thục, nơi đào tạo các nhà tiền bối duy tân của Nhật, tiếp xúc với các
giáo sư trong trường, tìm hiểu cách huấn luyện đồng chí và phương pháp tổ chức
việc học. Khi khảo sát xong, chương trình hành động đã định, cụ sửa soạn về
nước, tìm gặp cụ Sào Nam, để phân công với nhau.
Trong
Ngục trung thư cụ Sào Nam nhắc lại việc đó, cụ viết:
"Ông
- tức cụ Tây Hồ - nói với tôi:
- Xem
dân trí Nhật Bản rồi đem dân trí ta ra so sánh thật không khác gì muốn đem con
gà con đọ với con chim cắt già. Giờ bác ở đây, nên chuyên tâm ra sức về việc
văn, thức tỉnh đồng bào cho khỏi tai điếc, mắt đui, còn việc mở mang dìu dắt ở
trong nước nhà thì tôi xin lãnh. Lưỡi tôi đang còn, người Pháp chẳng làm gì tôi
[40]được
mà lo ( ).
Rồi cụ
Sào Nam đưa tập Hải ngoại huyết thư mới viết xong cho cụ Tây Hồ mang về nước.
Tới Hà Nội cụ Tây Hồ lại thăm cụ Lương Văn Can, bày rõ tình hình
của Nhật
và hai cụ bàn với nhau sáng lập một nghĩa thục tựa như Khánh Ứng nghĩa thục để
mở mang dân trí và đào tạo đồng chí, mưu kế lâu dài.
Ít tháng
sau, cụ Sào Nam cũng ở Nhật về lần thứ nhì cốt ý gặp mặt Hoàng Hoa Thám, xin
Hoàng cắt đất lập đồn để thu dụng những đảng viên Nghệ, Tĩnh, chờ thời bạo
động.
Nhân cơ
hội đó, hai cụ Phan, cụ Lương, cụ Tăng họp nhau ở phố hàng Đào, và trong cuộc
hội họp ấy, Đông Kinh nghĩa thục được quyết định mở, gây nổi một phong trào duy
tân trong nước.
[41]Theo
nhà văn Nguyễn Văn Xuân( ), phong
trào
này thật
sự đã phát sinh ở Quảng Nam trước hết. Năm 1906 ba nhà ái quốc Phan Châu Trinh,
Trần quí Cáp và Huỳnh Thúc Kháng đã tổ chức các cuộc nói chuyện, các lớp tân
học để đả đảo khoa cử, bài trừ hủ tục, hô hào cắt tóc ngắn...; lại lập một cơ
sở kinh doanh lấy tên là Thương học công ti ở huyện Thăng Bình nơi cụ Trần Quí
Cáp đương giữ chức giáo thụ.
Phong
trào được nhân dân hưởng ứng: các trường học (hình như có cả một lớp riêng cho
nữ sinh) và các hội buôn mở ra khá nhiều, nhưng vì thiếu kinh nghiệm tổ chức,
hoặc vì Quảng Nam là một tỉnh nhỏ, nên không có tiếng vang lớn trong toàn quốc,
và đúng lúc phong trào bắt đầu xuống thì Đông Kinh Nghĩa thục nổi lên.
Nhưng có
người lại nói năm 1907, khi Đông Kinh Nghĩa thục đã thành lập ở Hà Nội rồi, cụ
Tây Hồ mới về Quảng Nam cổ động nhân dân mở các lớp học duy tân.
Chưa rõ
thuyết nào đúng.
Nguyễn
quân hiện đương sưu tầm về phong trào đó và trong bài Văn học miền Trung (Tân
Văn số 2, năm 1968) , ông mong sẽ có dịp công bố kết quả.
Chương 3
ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC THÀNH LẬP
Ngẫm xem
con Tạo xoay vần, Bày ra một cuộc duy tân cũng kỳ.
Tác giả
Hồi 1906, ở đầu phố hàng Đào, phía tay phải, từ chợ Đồng Xuân đi xuống có một
căn nhà rộng mang số 4, bề ngang khoảng 4,5 thước, tại giữa là một lối đi, hai
bên kê tủ và kệ chứa những tấm lụa Hà Đông, the La Cả, đũi Vân Xa, lãnh Bưởi và
ít nhiều cây gấm Thượng Hải. Cụ bà Lương Văn Can, và hai người con gái thay phiên
nhau trông nom cửa hàng đó.
Phía sau
cửa hàng là một phòng rộng, trên cao treo một bức hoành phi sơn son thếp vàng
khắc bốn chữ Hồn nhiên thiên thành. Ở cuối phòng có một cái thang đưa lên gác,
chính tại gác đó mà cụ Lương, cụ Tăng, hai cụ Phan và nhiều nhà cách mạng nhỏ
tuổi hơn như Nguyễn Quyền, Lương Trúc Đàm, Đỗ Chân Thiết, Phương Sơn...họp nhau
để bàn quốc sự.
Cụ Sào
Nam kể lai lịch cùng chí hướng của Kỳ
Ngoại
Hầu Cường Để, những lời hứa hẹn của các chính khách Nhật rồi bàn lẽ phải nhờ
sức viện trợ của Nhật thì việc lớn mới thành.
Cụ
Nguyễn Quyền đứng dậy nói:
- Theo
ngu ý, như vậy e sa vào cái lỗi "tiền môn cự[42]hổ, hậu hộ tiến
lang"( ) mất.
Cụ Sào
Nam bênh vực quan niệm của mình, đại ý nói, không nhờ ngoại viện thì gắng sức
cũng chỉ gây được thanh thế như cụ Phan Đình Phùng là cùng, không sao thắng nổi
Pháp.
Cụ Lương
đứng ra hòa giải:
- Tôi
nghĩ ngoại viện và tự cường phải đồng thời tiến hành mới nên.
Từ đó
đường lối cách mạng của các cụ, kể cả cụ Sào Nam, là một mặt tiến hành giải
phóng dân tộc bằng biện pháp võ trang, mặt khác đấu tranh công khai hợp pháp
nhằm tuyên truyền giáo dục quốc dân, cải cách kinh tế xã hội để phục vụ cho
cuộc đấu tranh võ trang.
Rốt
cuộc, một nhóm người đã xuất dương thì cứ tiếp tục cầu viện Nhật, Trung Hoa,
còn nhóm người ở tại trong nước thì lo duy tân, tự cường, liên lạc với các đồng
chí Trung, Nam, Bắc, cổ lệ dân khí để quyên tiền giúp người xuất dương.
Tinh
thần đó được một chí sĩ ghi lại trong mấy vần dưới đây:
[43]Quyết
vùng dậy ra tay tả đảng( )
Đứng đều
lên có bạn nhà Nho, Người trong thì trợ công phu,
Thừa cơ
diễn thuyết nói cho rõ ràng.
. . . .
. . . . . .
Người ở
lại liệu chiều vận động, Người đi thì biết rộng cơ mưu Trong ngoài giao hợp với
nhau, Đem tài lương đống làm đầu cho dân (Kính gởi đồng bào toàn quốc - Vô
danh)
Như vậy
ta không thể căn cứ vào Văn minh tân[44]học sách( ) để kết luận rằng Đông Kinh Nghĩa thục chỉ làm cách mạng
về văn hóa thuần túy. Sự thực là có một sự phân công giữa các nhà Nho thời đó
và hai phái Duy tân và Bạo động nhắm chung một đích, bổ túc lẫn nhau.
Các cụ
hẹn với nhau cứ sáu tháng lại khai hội ở Hà thành một lần, tại nhà cụ Lương;
nhưng một cụ đề nghị mỗi lần hội nên đổi chỗ, như tại chùa Trấn Quốc, chùa Hòa
Mã, chùa Liên Phái... cho người Pháp khỏi dòm ngó, đề nghị đó được tán thành.
Khi bàn
tới việc quyên tiền, cụ Tây Hồ tỏ vẻ hơi bi quan. Cụ nói:
- Chúng
ta có cái dũng khí độc lập cả ngàn năm rồi, trăm lần bẻ mà không gẫy. Tôi có
dịp chu du các nơi, những người hưởng ứng có tới số ngàn, chỉ tiếc một điều,
người có hằng sản thì không có hằng tâm, còn người có hằng tâm thì hầu hết là
bần sĩ, mỗi khi nghĩ tới việc đó, tôi thường thở dài, biết làm sao đây?
Cụ
Phương Sơn đứng lên nói:
- Phàm
đã có quyết tâm thì không nên kể thành bại mà cứ việc mạnh bạo làm. Tôn Dật
Tiên khi khởi sự ở Hương Cảng chỉ có sáu đồng chí, tức bọn Sử Kiện Như, Trần
Thiếu Bạch... mà bây giờ thanh thế gần như cướp mất hồn phách của nhà Thanh.
Vậy ta chỉ sợ không có chí, đừng sợ không có tiền, xin các cụ đừng ngại.
Kế đó,
cụ Tây Hồ kể rõ phương pháp của Khánh Ứng nghĩa thục và đề nghị lập tại Hà
Thành một nghĩa thục tương tự. Đề nghị được chấp thuận và sau một hồi
[45]bàn
xét, tên Đông Kinh nghĩa thục ( )được
lựa chọn, mục đích của nghĩa thục được vạch rõ: khai trí cho dân, phương tiện
được hoạch định: mở những lớp dạy học không lấy tiền (để đúng với cái tên là
nghĩa thục) và tổ chức những cuộc diễn thuyết để trao đổi tư tưởng cùng cổ động
trong dân chúng.
Trường
sẽ dạy cả Việt văn, Hán văn, Pháp văn. Ban Tiểu học chuyên dạy Việt văn, lên
Trung học và Đại học mới dạy Hán văn và Pháp văn. Chương trình thì bỏ lối học
từ chương khoa cử mà chú trọng vào thường
[46]thức
và thực nghiệp( ) .
Đại
cương đã vạch rồi, ít lâu sau, các cụ tái hội để tổ chức nghĩa thục và phân
phối công việc. Lần này vắng mặt cụ Tăng và cụ Sào Nam, nhưng thêm nhiều nhà
nho khác như Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Hải Thần... và vài nhà tân
học như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học...
Hết thảy
đều cử cụ Lương Văn Can làm thục trưởng, cụ Nguyễn Quyền làm học giám; cụ Tây
Hồ không lãnh chức gì cả vì cụ muốn về Trung gõ chuông thức tỉnh đồng bào trong
đó.
Cụ Lương
sở dĩ được bầu chức thục trưởng vì cụ lớn tuổi hơn cả và bản tính ôn nhu mà có
khí tiết. Cụ sinh năm 1854 ở làng Nhị Khê, tỉnh Hà Đông - tức quê của Nguyễn
Trãi - trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ có lần cụ phải làm thợ sơn trong vài
tháng. Năm 21 tuổi, cụ[47]đậu cử nhân, năm sau thi Hội, được phân số ( ), triều đình bổ làm giáo thụ Phủ Hoài,
cụ từ chối, sau chính phủ Pháp cử cụ làm Hội đồng thành phố Hà Nội, cụ cũng
không nhận, ở nhà dạy học mà môn đệ nổi danh nhất của cụ sau này là cụ Nguyễn
Hải Thần. Ngay từ hồi trẻ, cụ đã tỏ ra có khí phách. Khi một thầy cũ, làm cách
mạng bị chém, bêu đâu ở Phủ Hoài, môn đồ không ai dám xin thi hài về chôn cất
sợ lụy tới thân, duy có cụ khẳng khái dâng sớ xin, triều đình cho phép và khen
là người có nghĩa.
Năm lập
nghĩa thục, cụ mới trên 50 tuổi, nhưng râu tóc đã bạc nhiều, trông như người
ngoài sáu mươi.
Các cụ
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn tự đảm nhiệm việc xin giấy phép mở trường, và tức
thì thảo đơn gởi phủ Thống sứ.
Về tài
chánh, hội viên tự ý giúp bao nhiêu cũng được và quyên thêm trong những chỗ
quen thuộc hảo tâm. Tiền do cụ Lương xuất phát, nhưng sổ sách do cụ Nguyễn
Quyền giữ.
Chương
trình của hội là hãy lập một trưởng ở Hà Thành, rồi tuyên truyền về các vùng
lân cận bằng các cuộc diễn thuyết; khi nào công việc tấn triển khả quan sẽ lập
chi nhánh ở khắp nơi.
Nhiều
người bàn nên lập trường ở ngay nhà cụ [48]Lương vì nhà này có một cái gác tẩu
mã ( ) chứa được vài trăm học
sinh. Cụ Lương bằng lòng và đề nghị khi nào số học sinh đông, sẽ mướn thêm ngôi
nhà số 10 ở bên cạnh. Nhà này còn rộng hơn nhà cụ, vốn là của ông Hương cống
Sùng, một phú gia bậc nhất nhì Hà Thành hồi trước, lúc đó đã bán cho ông Phạm
Lẫm (thường gọi là ông Bố Vĩnh Lại vì ông làm Bố chánh và quê làng Vĩnh Lại -
Hưng Hóa) .
Nhà ăn
thông từ hàng Đào đến hàng Quạt, dài trên năm chục thước rộng có chỗ non ba
chục thước, cũng có gác tẩu mã rộng tám thước lại thêm một hoa viên, giữa xây
một con voi lớn, đào một giếng nước và trồng nhiều cây quý như anh đào, bích
đào, đặc biệt nhất là một cây lê tới mùa bông trắng xóa và một cây lựu bông kín
cả cành, đỏ rực, rũ xuống y như tràng pháo.
*
Đợi hơn
một tháng sau, phủ Thống sứ vẫn chưa cho phép. Chắc sở Liêm phóng (tức sở Mật
thám) còn điều tra kỹ lưỡng và cái tên nghĩa thục đã làm cho họ suy nghĩ: nghĩa
thục là trường dạy không lấy tiền, những nghĩa thục và nghĩa quân thì cùng là
một chữ nghĩa đó, vậy nghĩa thục còn nghĩa gì khác nữa chăng? Từ chối không cho
phép thì tỏ ra hẹp hòi vì người ta xin mở trường khai trí cho dân chứ có làm gì
đâu; mà cho phép thì sợ trường hoạt động cách mạng, sau này mất công đàn áp.
Trong
khi đó, tiếng đồn trường sẽ mở đã vang khắp Hà Thành, từ miệng người nọ truyền
qua miệng người kia. Ai cũng mong ngày khai trường để xem nghĩa thục đầu tiên
của nước nhà ra sao. Người ta bàn tán nhất về các vị giáo sư mà hầu hết là
những danh sĩ tâm huyết, người thì tú tài, cử nhân; mà không thèm áo mão cân đai,
kẻ thì văn hay chữ tốt mà chê cái vui bảng hổ danh đề.
Người ta
thì thầm với nhau:
- Các
ông ấy muốn tính đại sự đấy.
Phần
đông thán phục nhưng cũng có một số chê là bất trí:
- Nhà
nước làm còn chả xong, các ông ấy mà làm cái gì được?
Nhiều
nhà đã xin với các giáo sư cho em lại học mà trường vẫn chưa được phép. Đợi lâu
quá, một người trong phái tân học bàn với cụ Lương:
- Theo
lệ Tây, không cho phép mà cũng không bác bỏ, tức thị là mặc hứa. Mà chủ trương
của chúng ta chính đại quang minh, họ khó bề từ chối. Vậy chúng ta có thể mở
lớp ngay trước, nhưng hãy dạy Quốc ngữ thôi, kẻo nhiều người mong đợi quá. Quốc
ngữ là lợi khí thứ nhất để khai dân trí, vả lại dạy môn đó không đụng chạm gì
tới ai, người Pháp không có lý gì để cấmta.
Đề nghị
ấy được nhiều người tán thành. Người đó lại tiếp:
- Ta nên
mở ngay hai lớp, một lớp cho phe nam, một lớp cho phe nữ. Xin mượn gác nhà cụ
làm lớp học. Duy có điều khó là ai dạy ban nữ được bây giờ đây. Đợi một lúc
lâu, không thấy ai trả lời, Lương Trúc Đàm đứng lên nói:
- Nếu
không tìm được ai dạy thì tôi xin cử em Năm tôi. Cô ấy biết Quốc ngữ, tôi tưởng
dạy tạm lúc đầu cũng được.
Nhiều
người cười:
- Được
vậy thì may lắm. Trong nhà cụ thực không còn thiếu chức gì nữa, thục trưởng,
rồi nam giáo viên, lại nữ giáo viên.
Ít bữa
sau, (tháng ba d.l.), trong ngôi nhà số 4 phố Hàng Đào đã có hai lớp học: một
nam, một nữ; học sinh cộng được sáu bảy chục, phần đông là con cháu hội viên.
Thời đó
mở lớp cho nữ sinh như vậy quả là một cải cách lớn: các cụ chẳng những muốn bài
trừ tư tưởng nam tôn nữ ti của cổ nhân, mà còn muốn cho phụ nữ phải đóng một
vai trò trong xã hội, tạo cho họ một nhân sinh quan mới, một lối sống mới.
Vì chưa
đóng kịp bàn ghế riêng cho học sinh, trường đành dùng tạm án thư, tràng kỷ,
đôn. Cụ Lương Trúc Đàm dạy bên nam, cô Nămdạy bên nữ. Những cái đầu để chỏm ở
giữa hoặc hai trái đào hai bên, chen với những mớ tóc đen nhánh quấn trong vành
khăn nhiễu tam giang, phất phơ chiếc đuôi gà. Hết thảy đều cặm cụi, bặm môi tô
những chữ a, chữ o, chữ e trên giấy.
Vài
tháng sau, vào đầu hè năm Đinh mùi (tháng 5 d.l.1907) giấy phép tới. Tức thì trường
khuếch trương lớn.
Chương 4
KHAI TRÍ DẬY HỌC
Suốt
thân sĩ ba kỳ Nam Bắc. Bỗng giật mình, sực thức cơn mê.
Năm 1907
là năm phong trào duy tân lên mạnh nhất. Sau này cụ Tây Hồ nhớ lại thời đó, nói
với một đồng chí:
- Chúng
mình lúc ấy như bọn người ngủ mê, sực tỉnh dậy, thấy ai làm cái gì thì làm ngay
cái đó, làm hăng quá, cơ hồ như trong mắt không còn có người Pháp nữa.
Ta cứ
xét công việc của hội viên trong Nghĩa thục thì biết lời đó rất đúng.
Mục tiêu
chính của trường là khai trí. Từ khi có phép của phủ Thống sứ, số học sinh tăng
lên nhiều nhưng cũng không được như lời cụ Nguyễn Quyền nói với
[49]) là
bốn chục lớp và trên ngàn học
sinh, mà
chỉ được độ già nửa số đó.
Muốn mở
cả ba ban: tiểu, trung và đại học, trường phải mướn thêm nhà ông Cống Sùng. Tuy
chia ra ba ban như vậy, nhưng sự thực chương trình không được hoạch định rõ
ràng. Đại loại, tiểu học để dạy những người mới học quốc ngữ, trung học và đại
học dạy những người lớn đã thông chữ Hán hoặc muốn học chữ Pháp. Các môn học
thì có sử ký, địa lý của nước nhà, toán học, vẽ, một chút khoa học. Không chia
ra từng năm học như ngày nay, cứ tùy trình độ hiểu biết của học sinh mà sắp
thành từng lớp, trong một lớp tuổi học sinh cũng không đều.
Lớp
truyền bá quốc ngữ của ta ngày nay ra sao thì những lớp trong Đông Kinh nghĩa
thục hồi xưa cũng gần gần như vậy.
Lối dạy
cốt đào tạo những người có sáng kiến, có óc thực tế ngược hẳn với lối huấn hỗ,
lối 'Tử viết, Thi vân", bảo thủ của nhà Nho. Đoạn dưới đây trích trong Văn
minh tân học sách (một bài nghị luận viết bằng chữ Hán năm 1904, không rõ của
ai), có thể tóm tắt được đường lối của Nghĩa thục:
"Tưởng
nên đón thầy giỏi, mua đồ mẫu, chọn người khéo tay, nhanh trí khôn để cho vào
học, rồi triều đình thường săn sóc mà dạy dỗ họ. Lại hạ lệnh khắp nước hễ ai học
được kiểu mới, chế được đồ mới thì cũng theo lối Âu châu cấp cho bằng khen làm
lưu chiểu, thưởng cho phẩm hàm để ngợi khen họ, cấp lương bổng để khen thưởng
họ, cho giữ quyền sáng tạo để hậu đãi họ. Những ai giỏi về khoa cách tự, khí
học, hóa học thì làm cho họ được vẻ vang sang trọng hơn những người đỗ đại
khoa...[50]"( ) Muốn đào tạo
hạng người như vậy, lối thi cử tất
phải
khác trước:"...cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do, không phải
nề hà. Không cần thể cách gì hết. Rồi thêm vào đó, mấy bài về toán pháp, về chữ
quốc ngữ, để cho cái mà học sinh học và thi không trái với công việc thực tế họ
phải làm, như thế thì cũng đã là tàm tạm đúng vậy."
Tư tưởng
thực là cách mạng. Ngày nay, ở khắp thế giới, chưa chắc đã có nước nào theo
đúng được như vậy, còn riêng ở nước ta thì mặc dầu sau bao nhiêu lần hô hào
cách mạng này cách mạng nọ, tinh thần tôn sùng bằng cấp đại khoa vẫn y như thời
cũ, thời mà Nghĩa thục mạt sát.
*
[51]Phần
Hán văn giao cho cụ Kép( ) làng Hương Canh,
các cụ Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Quyền, Lương Trúc
Đàm; cụ Đào Nguyên Phổ tuy không dạy nhưng thường góp ý kiến.
Lối văn
khoa cử bỏ hẳn, Tứ thư, Ngũ kinh vẫn còn giảng, nhưng giảng theo một tinh thần
mới, những sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu được đem ra bàn nhiều nhất.
Dưới đây
tôi xin giới thiệu qua hai cụ Đào và Dương, còn các cụ khác, sau sẽ có dịp nhắc
tới.
Cụ Dương
Bá Trạc là con một cụ đồ ở làng Phú Thị (Hưng Yên), anh cụ Dương Quảng Hàm, rất
thông minh, mau nhớ, môn đệ của cụ Đinh Gia Trăn, văn tài rất mẫn tiệp sở
trường về kinh nghĩa, 17 tuổi đậu cử nhân, nhưng cũng như Lương Khải Siêu nhận
ngay thấy những cái hủ bại của cổ học, nên hô hào cái học thực nghiệp để cứu
quốc. Gặp bạn nào còn ham tập văn khoa cử, cụ cũng bảo: "Anh còn muốn cái
cử nhân ư ? Này, tôi bán cho anh, một xu thôi."
Cụ cũng
làm nhiều thơ hô hào quốc dân, hiện na chúng tôi mới tìm được bài: VÌ SAO GIẬN
ĐỜI
. . . .
. . . . . . . . . .
Ôi những
kẻ dân ta nghèo đói,
Có biết
rằng nông nỗi bởi ai.
Cả năm
đòn gánh trên vai,
Mồ hôi
nước nắt không tài kiếm ra.
Nào lĩnh
phái các tòa các sở,
Nào thu
tiền các chợ các ti
Mấy lần
thuế lại thuế đi ,
Kiếm
không đủ thuế lấy gì mà ăn ?
Con với
vợ mặt nhăn vì đói,
Mà thuế
sưu cứ trói lấy tiền.
. . . .
. . . . . . . . . . .
Cụ Đào
Nguyên Phổ, lúc đó làm chủ bút tờ Đại Việt tân báo, là người rất có chí khí. Cụ
lỡ mắc tật nghiện thuốc phiện, gặp phong trào mới, cụ khảng khái nói:
- Ai
cũng biết duy tân, sao tôi còn thủ cựu, chẳng khiếp nhược lắm ư ?
Rồi cụ
đập bàn đèn. Thuốc phiện hành cụ dữ, cụ đau ốmcả tháng. Nhiều người ái ngại cho
cụ, khuyên cụ hút lại, cụ giận:
Tử sinh
hữu mạng. Con đĩ phù dung dám làm ma bắt tôi sao ?
Ngừng
một chút, cụ rầu rầu nét mặt, giọng rất cảm động:
[52]-
Tôi chỉ vì lúc nhỏ đậu sớm( ), nên
đâm ra chơi bời hút xách, rượu chè đủ tật. Cổ nhân nói: thiếu niên cao khoa,
nhất bất hạnh[53]dã ( ) thật đúng vậy.
Cụ nghỉ
để lấy hơi - lúc đó cụ đau nặng, bạn bè tới thăm đông - rồi nhìn cụ Lương Văn
Can tiếp:
- Các
ông gắng hô hào bỏ được lối học cử nghiệp đi và giúp thanh niên xuất dương du
học, sau tất ích quốc. Tiếc rằng tôi già rồi sợ không thấy được ngày thành
công.
Nói xong
cụ ôm mặt khóc, cụ Lương cũng sa lệ.
Một lát
sau, cụ lại hổn hển dặn dò cụ Lương:
- Tôi
còn thằng nhỏ này - cụ chỉ Đào Trinh Nhất
- tư
chất nó cũng được, xin ông chỉ bảo dùm nó cho tôi.
Do đó,
Đào Trinh Nhất thành một học sinh của trường và sau cưới một người cháu cụ
Lương.
*
Phần
Việt văn và Pháp văn do sáu bảy nhà tân học đảm nhận: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy
Tốn, Nguyễn Bá Học, Trần Đình Đức, Bùi Đình Tá, Phạm Đình Đối...
Cụ Trần
Đình Đức, một nhân viên sở Địa lý lãnh môn dạy vẽ. Chính cụ vẽ cho trường một
bản đồ Việt Nam bằng vải trắng, cao độ thước rưỡi, ghi rõ tên núi, sông, châu
thành, thổ sản... bằng chữ Hán và chữ Việt. Chẳng những học sinh mà ngay tới
các giáo sư nhà nho cũng trầm trồ khen ngợi, đứng nhìn hoài rồi về nhà khoe với
bà con, bè bạn:
- Hôm
nay mình mới được biết rõ non sông của tổ tiên. Đây này - vừa nói, vừa chấm
ngón tay vào một chén nước vẽ lên mặt án thư - đây này, bờ biển cong cong như
hình chữ S, này Bắc, này Trung, này Nam, Tam Đảo là đây, Hồng Lĩnh là đây, Bạch
Đằng Giang đại phá quân Nguyên ở đây, Trường sơn nhất đái, vạn đại dung thân
của nhà Nguyễn ở đây, và cái mũi nhọn ở phía Nam này là hạ du sông Cửu Long
đấy, nơi mà xưa là của Miến, nay là của mình, nơi mà lúa chất thành núi, cá lội
đầy sông... Cái ông giáo Đức ấy có công với nghĩa thục quá, vẽ tuyệt khéo, thật
là có hoa tay. Muốn coi không, hôm nào tôi dắt lại?
Cụ Phạm
Đình Đối nhận môn toán. Cụ rất có khiếu môn ấy, tự học môn hình học trong cuốn
Kỷ hà tắc[54]cổ( ) của Trung Hoa dịch
trong sách Anh. Gặp nhà
nho nào
còn trẻ, cụ cũng khuyên:
- Toán
dễ học lắm ông ạ. Thông minh như các ông thì chỉ sáu tháng là giỏi. Cái học của
người Tây minh bạch và thiết thực khác cái học của mình xa quá. Tôi mò một mình
còn ra, huống hồ là các ông được tôi chỉ bảo cho.
Mà môn
học đó ích lợi lắm ông ạ: muốn đạc điền phải dùng nó, muốn cất nhà, xây cầu
phải dùng tới nó. Để tôi chỉ ông coi...
Nhưng
hầu hết các nhà nho chiều lòng mà coi qua loa chứ vẫn không thích. Cái nọc độc
thơ phú đã nhiễm từ sáu bảy thế kỷ rồi mà.
Sau khi
Nghĩa thục bị đóng cửa, cụ Phạm Đình Đối theo cụ Nguyễn Hải Thần qua Trung
Quốc, thi đậu vào trường Đại học Canh nông Nam Kinh, rồi mất tin.
Pháp văn
chỉ dạy buổi tối vì các giáo sư hầu hết là công chức. Ai muốn học, phải đóng
mỗi tháng năm hào (bên Việt và Hán thì miễn phí . Có hội viên phản đối, cho như
vậy không đúng với tên là Nghĩa thục, nhưng phản đông đều tán thành vì quỹ của
trường còn eo hẹp, mà những người muốn học Pháp văn đều đủ sức trả học phí.
Do đề
nghị của cụ Nguyễn Văn Vĩnh, trường lập một sân thể dục tại hoa viên, cũng sắm
được vài quả tạ, dựng được vài cây cột leo. Các nhà tân học lãnh dạy môn đó,
nhưng giáo sư đã không thạo mà học sinh cũng không ham, rốt cuộc môn thể dục
hữu danh mà vô thực.
Giáo sư
dạy đều không công, ai bận công việc, không tiện về nhà thì ở lại trường ăn bữa
trưa với một số học sinh bán ký túc. Riêng khoản đó, cũng là một món chi phí
lớn cho trường rồi.
Các giáo
sư tân học dạy có lẽ hơi có phương pháp, còn các nhà nho thì cứ tùy hứng, có
chương trình hàng
tháng
hàng năm gì đâu, mà cũng chẳng thi cử gì cả, nên ai muốn giảng gì thì giảng.
Chẳng
hạn, giảng về câu "Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy
thương" trong Hiếu kinh, thì các cụ cao thanh chỉ trích lối giải thích
kinh, thư một cách cau nệ:
- Đức
Khổng nói vậy thì ta phải hiểu là hồi nhỏ không nên chơi dao, leo cao cho ngã
mà sinh ra vết tích, lớn lên thì đừng làm việc sái phép cho bị hình phạt; còn
những chất dơ, chứa thừa trong mình bài tiết ra, như tóc như móng tay mà cũng
không cắt nữa, để làm cái tổ chấy, cái chỗ chứa ghét, thì không phải là hiếu,
mà là ngu, chí ngu. Anh em nghĩ tôi nói phải không?
Cả lớp
cười rộ lên, rồi các cụ thao thao bất tuyệt chê cái tục để búi tóc củ hành, đề
móng tay lá lan, và liên tưởng tới những hủ tục khác như nhuộm răng, chọn những
ngày tốt để tắm vân vân... Cứ như vậy ý nọ gợi ý kia, rốt cuộc tới cuối giờ, có
lẽ các cụ quên hẳn đầu giờ đã nói những gì nữa.
Hoặc
trong giờ Việt sử, muốn dạy về đời Trần, mới mở một cuốn sách cổ ra, thấy có
hai chữ thiên triều để chỉ Trung Hoa, thì một cụ giận dữ lấy bút chấm mực bôi kín
hai chữ đó rồi thuyết một thôi một hồi về tinh thần tự cao của Trung Quốc và
tinh thần tự ti của mình, rồi vạch cái nhục bị liệt cường xâu xé của nhà Thanh,
tán dương chí cương quyết, óc sáng suốt của người Nhật, và lần lần cụ không
đoái tưởng gì tới nhà Trần nữa mà vui miệng kể lại tỉ mỉ trận Nga Nhật, cuộc
đại chiến trên eo biển Đối Mã, để rồi kết luận rằng ta phải bỏ cái tinh thần tự
ti đối với Trung Hoa, mà cũng đừng nên có cái thói tự cao mù quáng như họ, chê
Âu Tây là mọi rợ, chỉ mình mới văn minh (nội hạ, ngoại di) .
Tóm lại
mỗi giờ học trong các ban Trung học và Đại học gần như một cuộc diễn thuyết,
bài làm chắc các cụ ít khi ra mà bài học cũng ít khi bắt trả. Lối dạy học đó
không hợp khoa sư phạm chút nào, nhưng có lẽ hợp với thời đó nhất, với mục đích
của trường nhất, vì các cụ không cần đào tạo các ông tú, ông cử, ông phán, ông
thông, mà chỉ muốn mở cái óc mê muội, muốn gõ những tiếng chuông duy tân, muốn
gây một thế hệ cách mạng trong quần chúng. "Bách niên chi kế mạc như thụ
nhân", các cụ muốn làm cái việc "thụ nhân" đó để lo cái "kế
bách niên" kia. Chính nhờ vậy mà học sinh mới hăng hái nghe và phong trào
mới có ảnh hưởng lớn.
Chương 5
SOẠN SÁCH VÀ BÀI CA
Cái hồn
ái quốc gọi về cũng mau. Muốn truyền bá tư tưởng mới, tất nhiên không thề dùng
các sách cũ , trường phải soạn lấy sách, nên lập ra một ban Tu thư chia làm hai
ngành: ngành soạn giao cho các cụ Phạm Tư Trực (Thủ khoa, người làng Hành
Thiện),
Dương Bá Trạc([55]
Phương
Sơn và ngành dịch giao cho các cụ: Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, ông cử
làng Đông Tác,
[56]
Hoàng
Tích Phụng ( ) .
Chương
trình hoạt động và tổ chức phân công chưa được vạch rõ. Đại loại giáo sư dạy
môn nào thường phải soạn bài cho môn đó, mỗi bài dài độ vài trang và xét về một
vấn đề. Dù viết bằng Hán văn hay Việt văn, các cụ vẫn theo thể biền ngẫu, trừ
một số đọc nhiều tân
[57]
thư thì
dùng thể nửa biền nửa tản( ), thể sở
trường
của
Lương Khải Siêu. Nội dung bài nào cũng hô hào lòng ái quốc, chí tự cường và
tinh thần duy tân.
Những
sách được dịch đầu tiên là những tân thư của Trung Hoa, như bộ Trung quốc tân
giáo khoa thư. Hai cụ Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Đôn Phục, nhờ rảnh việc dịch mà
luyện được cây bút, sau thành những nhà văn sắc sảo trong nhóm Nam Phong.
Cụ Phạm
Tư Trực chỉ giúp việc trong ít tháng và bị phủ Thống sứ vời làm trưởng ban Tu
thư Bắc Việt. Cụ không từ chối được, đành lãnh soạn những sách chữ
[58]
Hán( ). Mới viết đoạn đầu về Việt sử, cụ hạ ngay
những
câu này:
Ngô
chủng bản phi di Ngữ tộc diệc phi ti
Bạch
Đằng phá Nguyên binh,
[59]
Chi Lăng
tẩu Minh si( )
Phụ xà
giảo gia kê, Tích nhân sở thâm bỉ.
Giống ta
chẳng phải mọi, Dòng ta chẳng nhát hèn. Bạch Đằng phá quân Nguyên,
Chi Lăng
đuổi tướng Minh, Cõng rắn cắn gà nhà, Người xưa ắt khinh bỉ.
Nhờ hai
câu cuối, cụ được Pháp cho về nghỉ. Cụ không trở lại dạy ở nghĩa thục, sợ họ để
ý.
Sách
soạn xong, giao cho một ban khác và in ra hằng trăm bản để phát không cho học
sinh và các đồng chí ở khắp nơi. Đào Trinh Nhất nói trường có máy in. Nếu có
thì cũng không phải những máy đạp chân hay chạy điện in sách in báo bây giờ, mà
chỉ là những dụng cụ thô sơ để khắc tay, phết mực rồi đặt giấy lên. Về sau hình
như cụ Trần Đình Đức chỉ cách dùng hoạt bản, nghĩa là khắc rời những chữ cái
rồi ghép lại thành bài như hồi mới đầu thì các bài học đều in bằng xu xoa (rau
câu).
*
* *
Sách của
trường soạn hiện nay không còn di tích, nhưng các bài ca thì còn được truyền
lại ít nhiều, vài bài có sức cổ động quần chúng mãnh liệt. Người có tài đặt ca
nôm nhất là cụ Lê Đại, hiệu là Từ Long người làng
Thịnh
Hào, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (1875- 1952) . Cụ là môn đệ Vũ Phạm Hàm, văn
hai thầy trò cũng tươi đẹp, tình tứ như nhau.
Có lần
cụ được thầy vời lại, bảo:
- Đêm
qua, thầy mộng thấy anh bận áo lam lại chào thầy. Khoa sau chắc anh đậu. Tài
anh là tài thám, bảng. Từ đó cụ đổi tên là Mộng Lam, nhưng thi hoài vẫn rớt
hoài, chỉ vì cụ có tật làm văn chậm lắm, nên khoa nào cũng bị ngoại hàm. Để cho
cụ đủ thì giờ gọt đẽo thì đã mấy ai hơn cụ được?
Hồi
nghĩa thục mới mở, cuốn Hải ngoại huyết thư[60]của cụ Sào Nam đã lưu hành khắp
nước( ). Nhiều người dịch ra lục
bát hoặc song thất lục bát, bản dịch của cụ Lê Đại được thuộc nhiều hơn cả, có
những câu dẫn:
Lời huyết
lệ gởi về trong nước,
Kể tháng
ngày chưa được bao lâu. Liếc xem phong cảnh năm châu
Gió mây
phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ.
Phần đầu
(Sơ biên) vạch trần lòng thâm hiểm của thực dân:
Nó coi
mình như trâu như chó,
Nó coi
mình như cỏ như rơm.
Trâu
nuôi béo, cỏ bỏ rờm.
Cỏ moi
rễ cỏ, trâu làm thịt trâu.
Phần sau
(Tục biên) kể những nguyên nhân mất nước, tâmtrạng bỉ ổi của bọn quan lại vong
bản:
Ngày
mong mỏi vài con ấm tử,
Đêm vui
chơi một lũ hầu non.
Trang
hoàng gác tía đài son.
[61]Đã
hao mạch nước lại mòn xương dân. ( )
Lịch can
huyết dĩ điều canh, đế thiên diệc giám.
Chú tinh
thành ư nhất tiễn, kim thạch năng khai.
Hoặc:
Tứ thiên
niên phụ mẫu chi bang, hồn hề quy tá? Sổ vạn lý bô đào chi khách, mộng lý thê
nhiên! Dịch:
Vắt gan
huyết để nấu canh, trời cao cũng biết,
Đúc tinh
thành vào tên nhọn, đá vàng phải xuyên.
Bốn ngàn
năm trước của tổ tiên, về chưa hồn
hỡi?
Mấy vạn
dặm bôn đào đất khách, giấc mộng buồn thay.
Xét theo
văn biền ngẫu thì những câu này rất hay, hai câu trên hùng hồn, hai câu dưới
lâm ly.
Rồi hô
hào toàn dân đồng tâm, bất hợp tác với thực dân, như Gandhi sau này hộ hào dân
Ấn Độ. Cụ Sào Nam chưa nghiên cứu kỹ chiến thuật bất hợp tác như Gandhi, nhưng
giọng của cụ thực cảmđộng:
Hai mươi
triệu đồng bào đua sức,
Năm tươi
nghìn giống khác được bao,
Cùng
nhau bên ít bên nhiều,
Lọ là
gươm sắc súng kêu mới là.
Cốt
trong nước người ta một bụng,
Nghìn
muôn người cùng giống một người,
Phòng
khi sưu thuế đến nơi,
Bảo nhau
không đóng, nó đòi được chăng?
Gọi đến
lính không thằng nào chịu
Bắt một
người, ta kéo muôn người,
Bấy giờ
có lẽ giết ai,
Hẳn thôi
nó cũng chịu lui nước mình.
Những
lời nhắc nhở đồng tâm lặp đi lặp lại như một điệp khúc:
Thương
ôi! Trăm sự tại người,
Chữ
"đồng" ai dám ngăn rời chữ "tâm"
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Người
trong cho đến người ngoài Chữ " tâm" cốt phải ai ai cũng
"đồng" .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Gió
nhanh thì sóng cũng mau,
Chữ
"tâm" một chút đâu đâu cũng "đồng" .
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hòn máu
uất chất quanh đầy ruột, Anh em ơi xin tuốt gươm ra,
Có giời
có đất có ta,
Đồng tâm
như thế mới là đồng tâm!
Ta nhận
thấy cụ khác hằn Gandhi, bất hợp tác chứ không bất bạo động.
Cụ không
thuộc trong phái bạo động, chỉ vì mấy vẩn thơ đó mà chính phủ Pháp căm hờn, đầy
cụ ra Côn Đảo trên mười lăm năm (1908-1926), còn các cụ Nguyễn Quyền, Dương Bá
Trạc, Võ Hoành chỉ bị khoảng một năm. Cái họa của văn tự.
Theo Đào
Trinh Nhất, cụ Nguyễn Quyền (1869- 1941 người làng Thượng Trì - Bắc Ninh đậu Tú
tài, làm huấn đạo Lạng Sơn) cũng soạn một bài có tính cách ái quốc, giọng lưu
loát, tức bài:
CẮT TÓC
Phen này
cắt tóc đi tu,
Tụng
kinh Độc lập ở chùa Duy tân.
Đêm ngày
khấn vái chuyên cần,
Cầu cho
ích ước lợi dân mới là.
Cốt tu
sao cho mở trí dân nhà,
Tu sao
độ được nước ta phú cường.
Lòng
thành thắp một tuần nhang,
Nam mô
Phật tổ Hồng Bàng chứng minh.
Tu hành
một dạ đinh ninh,
Nắng mưa
dám quản, công trình một hai.
Chắp tay
lạy chín phương trời,
Kêu trời
phù hộ cho người nước tôi.
Tiểu tôi
trông đứng trong ngồi
Trông
sao cho đặng giống nòi vẻ vang.
Nào là
tín nữ thiện nam,
Nào là
con cái thập phương giúp cùng.
Giúp tôi
đúc quả chuông đồng,
Đúc
thành quả phúc, ta cùng hưởng chung.
Ai muốn
tu xin dốc một lòng, Nghìn thu tạc một chữ đồng đến xương.
Nam mô
Phật tổ Hồng Bàng.
Cụ còn
có bài Chiêu hồn nước, nhưng bài này không được truyền rộng bằng bài Chiêu hồn
nước của[62]Phạm Tất Đắc sau này.( )
Bài dưới
đây, chưa biết rõ là của một giáo sư trong Nghĩa thục hay của cụ Sào Nam, chúng
tôi cũng chép[63]lại để tồn nghi.( )
Á TẾ Á
Ngồi mà
ngẫm thêm sầu lại tủi
Nước Nam
ta gặp buổi truân chiên,
Dã man
quen thói ngu hèn,
Nhật Bản
Minh Trị dĩ tiền khác đâu?
Tự giống
khác mượn màu bảo hộ,
Mưu hùm
thiêng lo lũ cáo già,
Non sông
thẹn với nước nhà,
Vua là
tượng gỗ, dân là thân trâu.
Nỗi diệt
chủng vừa thương vừa sợ,
Nòi
giống ta chắc có còn không?
Nói ra,
ai chẳng đau lòng,
Cha con
tủi nhục, vợ chồng thở than.
Cũng có
lúc căm gan tím ruột,
Vạch
trời cao mà tuốt gươm ra.
Cũng
xương, cũng thịt, cũng da,
Cũng hòn
máu đỏ con nhà Lạc Long.
Thế mà chịu
trong vòng giam buộc,
Bốn mươi
năm nhơ nhuốc lầm than
Thương
ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh
đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê
mẩn, tỉnh chưa, chưa tỉnh
[64]Anh
em ta phải tính nhường sao? ( )
Chúng
tôi xin giới thiệu thêm hai bài ca khuyết danh cho phụ nữ học, mà tôi cho rằng
đã mở đường cho những bài hát Anh Khóa sau này của cụ Trần Tuấn Khải, mặc dù
thể thơ khác nhau:
VỢ
KHUYÊN CHỒNG
Tình
thân ái là tình trong phu phụ, Nợ anh hùng là nợ cũ non sông!
[65]Nghĩ
nguồn cơn, ngán với Âu phong( )
[66]Tưởng
nông nỗi than cùng Á vũ. ( )
Ai lăn
lóc chen trong đài múa
Trò diễn
ra: nào hiểm, nào ác, nào hoan , nào lạc, nào tráng nào bi.
Nực cười
thay! Mây nước tới kỳ,
Kìa hiệp
nữ, nọ kiện nhi đâu máu lạnh
[67]Tỉ
diện, Cách mi quân đối kính, ( )
[68]Qua
tình, La tứ thiếp lâm trang. ( )
Thiếp
tôi đây, đâu có nhi nữ chi thường,
Anh tai
mắt, mong nở nang trong vũ trụ.
Đường ưu
thắng, anh thênh thang vó ngựa,
Gánh văn
minh, em sớn sở lưng ong.
Đôi ta
vợ vợ chồng chồng,
Nước non
nhẹ gót tang bồng này chăng?
Xem
trong phu phụ ai bằng!
Hai câu
mở đột ngột, bi mà hùng. Điệu hát nói của ta thường chỉ để diễn cái vui hưởng
nhàn, ít có bài nào cổ động quốc dân mà giọng thiết tha như bài này.
KHUYÊN
CON
[69]Mẫu
dĩ tử quí ( )
Con ra
người thì mẹ đặng tiếng khen.
[70]Thôi
thôi đừng bạc trắng lòng đen,( )
Tham
danh lợi nỡ quên người một giống.
[71]Xưa mẹ ông
Vũ Mục( ) khuyên con giúp Tống,
Chữ
"tận trung báo quốc" để ngàn thu.
[72]Khuyên
con đừng "nhẫn sỉ sự thù" ( )
[73]Ngày
muôn kiếp ai khen đâu Phùng Đạo?( )
Thân trâu
ngựa mà cân đai áo mão, Vẻ vang này mẹ nghĩ càng đau!
Này này,
học chữ để đâu ?
*
Ngoài
những bài ca ái quốc ra, còn nhiều bài có tínhcách khai trí, như khuyên canh
nông, khuyên công nghệ, khuyên thương mại, dạy Sử ký, Địa lý..., đều dùng những
thể bình dân như lục bát, song thất, vè.. Các cụ đã chống lại quan niệm lạc hậu
"nôm na là cha mách qué" mà đề cao Việt ngữ:
"Phàm
người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên để cho
trong thời gian vài tháng đàn bà con trẻ cũng đều biết chữ và người ta có thể
dùng chữ quốc ngữ để ghi việc đời xưa và chép việc đời nay (….) Đó thực là bước
đầu tiên trong việc mở mang trí khôn vậy".
(Văn
minh tân học sách) Các cụ một mặt khai thác vốn cũ của dân tộc, một mặt tiếp
thu văn hóa phương Tây, mà dùng tiếng mẹ để
làm
chuyển ngữ.
Chữ Tàu
dịch lấy chữ ta.
Chữ Tây
cũng phải dịch ta chữ mình.
Ngày
nay, cách các cụ đã sáu mươi năm - ba thế hệ - mà một bọn "trí thức",
giáo sư Đại học, vì quyền lợi, mạt sát tiếng Việt, ngăn cản sự phát triển của
tiếng Việt, đọc tiểu sử của các cụ không biết có lấy làm thẹn không? Các cụ
liệng bỏ cái tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, hòa mình với dân chúng để dắt dẫn dân
chúng còn họ thì cầu cạnh chức thạc sĩ hay tiến sĩ, lấy làm vinh dự rằng được
ngoại nhân gọi là "những đứa con tinh thẩn", rồi cố bám lấy địa vị để
duy trì chính sách thực dân của bọn "cha mẹ tinh thần", làm hại dân
hại nước, điêu đứng cho cả một thế hệ thanh niên.
Dưới đây
chúng tôi xin trích đoạn đầu trong bài ca Địa lý do vài ba cụ hợp tác:
Năm châu
quanh mặt địa cầu,
Á châu
thứ nhất, Mỹ châu thứ nhì.
Châu Âu,
châu Úc, châu Phi.
Mỗi châu
mỗi giống sắc chia rành rành.
Giống
vàng, giống trắng tinh anh,
Giống
đen, giống đỏ, giống xanh(?) ngu hèn.
Cuộc đời
là cuộc đua chen,
[74]Giống
khôn thì sống, giống hèn thì sa. ( )
Lạc Hồng
là tổ nước ta,
Nước non
từ trước gọi là Đại Nam Lịch niên hơn bốn ngàn năm
[75]Hoàng
dân phỏng độ bốn trăm ức nguờì. ( )
Song có
ảnh hưởng lớn nhất đến thời cuộc, làm cho người Pháp căm gan nhất, là bài Thiết
tiền ca của cụ Nguyễn Phan Lăng, biệt hiệu là Đoàn Xuyên.
Cụ không
phải là hội viên của Nghĩa thục. Một hôm các giáo sư đương họp ở phòng Tu thư
thì thấy một thầy đồ nghèo, đen đúa, mặt rỗ, tay cầm chiếc nón tróc hết sơn,
chân đi đôi dép quai ngang, bận chiếc áo dài vải đen và chiếc quần trắng vải
thô, khép nép bước vào, lễ phép chào mọi người. Không ai để ý tới, tưởng là
người đến xin sách; sau một hội viên mời ngồi, hỏi chuyện. Thẩy đồ vén áo ghé
ngồi trên một chiếc đôn rồi móc túi lấy ra một tờ giấy đặc chữ nôm và nói:
- Thưa
các cụ và các ông, người Tây mới cho ra thứ tiền sắt, chúng tôi nghĩ hại cho
dân lắm, vì khi dân đã dùng tiền sắt thì họ sẽ thu lại tiền đồng và tiền kẽm,
nên chúng tôi đặt bài ca này, xin trình các cụ, các ông phủ chính cho.
Các giáo
sư ngạc nhiên, xúm lại đọc. Bài ca giọng nồng nàn, mạnh bạo, hô hào dân chúng
tẩy chay tiền sắt. Ai nấy đều khen, lúc đó mới niềm nở hỏi thăm thảy đồ thì
thầy chỉ nhũn nhặn thưa là quê làng Tây Tựu huyện Hoài Đức (Hà Đông) chứ không
cho biết tính danh. Nghĩa thục bèn xin bản đó, phiên âm ra quốc ngữ, cho in ba
trămbản gởi đi khắp nơi.
Một
người truyền cho mười, mười truyền cho trăm, từ kẻ chợ đến thôn quê, không ai
chịu dùng tiền sắt nữa. Chính phủ Pháp ra lệnh bắt giam một số, nhưng càng đàn
áp, dân chúng càng nghi kị, có nơi gần như bãi thị. Tiền phát cho quan lại, họ
miễn cưỡng nhận, mang về giao cho vợ con, vợ con đem ra chợ tiêu không được,
tình hình muốn nghiêm trọng, chính phủ phải chịu thua, thu tiền sắt về.
Công đó
là của cụ đồ Tây Tựu, một người chân thành ái quốc hoàn toàn không háo danh, vì
cụ chỉ tới Nghĩa thục lần đó và một lần nữa rồi thôi không ra mặt. Thực là một
người giúp sức kín đáo và đắc lực của trường. Khi Nghĩa thục bị đóng cửa, cụ
viết báo ở Hà Nội, năm 1925 những bài Tiếng cuốc kêu, Mơ tổ mắng, được nhiều
người chú ý.
Thi sĩ
Tản Đà phàn nàn, về cái việc kiếm tiền, bút[76]lông không "nhọn"( ) chút nào cả. Đúng vậy. Cụ Lê Đại, văn
hay chữ tốt nổi danh Hà Thành, mà khi ở Côn Đảo về viết câu đối thuê làm văn
mướn cũng chỉ đủ để chi tiêu về khoản trà thuốc, nếu không được bà vợ buôn
muối, mắm thì tất phải túng quẫn.
Nhưng
quét nổi một chế độ, làm cho kẻ thù mạnh gấp trăm mình phải tái mặt, có khi
thúc thủ, thì bút lông há nhường súng đạn, gươm sao? Trung Quốc có bài hịch của
Lạc Tân vương chống Võ Tắc Thiên, bài hịch của Trần Lâm chống Tào Tháo; nước ta
cũng có bài hịch chống Minh của Nguyễn Trãi và bài Thiết tiền ca của thầy đồ
Tây Tựu.
Bài dùng
thể song thất lục bát, dài non trăm câu (coi phụ lục I, đoạn đầu giọng rất chua
xót và phẫn uất:
Trời đất
hỡi! dân ta khốn khổ,
Đủ trăm
đường thuế nọ thuế kia,
Lưới vây
chài quét trăm bề
Róc
xương, róc thịt còn gì nữa đâu
Chợt lại
thấy bắt tiêu tiền sắt
Thoạt
tai nghe bần bật khúc lòng!
Trời ơi
có khổ hay không?
Khổ gì
bằng khổ mắc trong cường quyền
Họ khinh
lũ đầu đen không biết,
Lấy mẹo
lừa giết hết chúng ta
Bạc vào
đem sắt đổ ra,
Bạc kia
thu hết sắt mà làm chi?
. . . .
. . . . . . . . . . . . . .
Chương 6
DIỄN THUYẾT
Hồn đã
tỉnh, bảo nhau cùng dậy. Người Pháp rất ghét những bài ca ái quốc của Nghĩa
thục, mà cũng không ưa gì những cuộc diễn thuyết, nhưng các cụ cứ diễn thuyết
bừa đi, xem họ phản ứng ra sao.
Như trên
tôi đã nói, đợi lâu quá không được phép, các cụ mở trước những lớp dạy Quốc
ngữ. Vài tháng sau, phủ Thống sứ mới ký giấy cho mở trường, nhưng không phải
khi không họ ký đâu, mà phải nhờ một cuộc diễn thuyết làm vang động cả Hà
Thành, họ mới chịu nhượng bộ.
Cuộc
diễn thuyết đó do Dương Bá Trạc và Lương Trúc Đàm, hai thanh niên rất hăng hái,
đứng ra tổ chức ở đền Ngọc Sơn. Chắc nhiều độc giả đã biết đền này là một thắng
cảnh ở ngay trung tâm Hà Thành, cất trên một cù lao giữa hồ Hoàn Kiếm. Vài nhịp
cầu gỗ cong cong - cầu Thê Húc - nối đền vào bờ. Trong sân đền, ngay ở mí nước,
dựng lên một nhà thủy tạ, mỗi chiều rộng chừng tám thước, trên có nóc nhưng bốn
bên trống. Hồi đó đền có lệ cứ đến ngày Thượng nguyên, đón một vị Hòa thượng
đến thuyết pháp cho thiện nam[77]tín nữ nghe ( ).
Hai cụ Bá Trạc và Trúc Đàm lợi dụng ngay chỗ đó để diễn thuyết cho có đông
thính giả.
Tin
truyền miệng ra rất mau, nhiều người khuyên đừng làm e sẽ thất bại. Cụ Trúc
Đàmkhảng khái đáp:
- Mình
làm việc chính đại quang minh, họ không thể giết mình được.
Chiều
ngày rằm tháng giêng năm Đinh mùi (1907) hàng trăm người có cảm tình đợi sẵn ở
sân đền. Lại thêm những người đi lễ, thành thử chen chân không lọt, nhiều người
tới trễ phải đứng cả ở trên cầu và trên bờ ngó vào.
Vị Hòa
thượng sắp giảng kinh thì cụ Trúc Đàm lại xin nhường chỗ cho cuộc diễn thuyết.
Tức thì cụ Dương đăng đàn, giọng sang sảng hô hào đồng bào bỏ cái học cử nghiệp
đi mà noi gương duy tân của Nhật Bản.
Mọi
người đương chăm chú nghe, tới tiếng chuông, tiếng mõ cũng ngưng thì bỗng thiên
hạ ào ào, la hét: "Đội xếp đội xếp! Rồi tranh nhau chạy. Nhưng chạy đâu?
Đền chỉ có mỗi một lối ra là cầu Thê Húc thì cảnh binh đã chặn rồi. Chắc các cụ
lúc đó mới thấy rằng mình khờ, lựa ngay cái rọ mà đưa đầu vào. Đã đành chính
hai cụ đâu có sợ gì mật thám cùng cảnh binh, nhưng còn thính giả thì sao? Cảnh
hỗn độn không thể tả: người ta kêu khóc, quay cuồng, nhớn nhác, xô đẩy nhau,
giẫm lên nhau, nón bẹp, giầy văng, khăn xổ, áo toạc. Có kẻ hổn hển nằm rạp sau
hai bức tượng Châu Xương và Quan Bình; có kẻ chui xuống dưới gặm bàn thờ; quýnh
quá, một số nhảy ùm xuống hồ, chới với vì không biết lội.
Hai cụ
Bá Trạc và Trúc Đàm vẫn ngang nhiên đứng giữa nhà thủy tạ với vài chục người
bình tĩnh. Cụ Dương la:
- Xin
anh em chị em đừng sợ! Nhưng nào mấy ai chịu nghe?
Một cảnh
binh Pháp tiến từ cầu vô, vẻ mặt hầm hừ, xì xồ ít tiếng. Người thông ngôn dịch
ra, hỏi:
- Ai cầm
đầu? Hai cụ đồng thanh tự nhận:
- Tôi.
Tôi.
Tức thì
tiếng vỗ tay vang rền, tiếp theo là một loạt roi đập đômđốp lên lưng, lên đầu
quần chúng.
Cảnh
binh dẫn hai cụ về sở Cẩm Hàng Trống tra hỏi, tới tối mới thả ra.
Ít bữa
sau, hai cụ được giấy mời lên phủ Thống sứ.
Người
Pháp thời đó mới lập xong cơ sở ở nước mình, còn muốn thu phục nhân tâm, nhất
là bọn nhà nho được dân trọng vọng, nên thường có cử chỉ cũng khá nhã, không
như bọn thực dân hồi sau nay. Có lẽ một phần cũng nhờ ảnh hưởng của bức thư
chân thành do cụ Tây Hồ gởi mấy tháng trước cho họ. Nguyên sau khi từ biệt cụ
Lương Văn Can để về Quảng Nam, cụ Tây Hồ đã có định kiến, quyết tranh đấu ở
ngoài ánh sáng. Cụ thảo một bức thư chữ Hán dài hai chục trang, vạch ba cái tệ
của chính phủ: một là dung túng bọn quan lại thành ra cái tệ quan dân coi nhau
như mẹ chồng con dâu; hai là khinh dể kẻ sĩ, gây ra cái tệ xa cách giữa nhà cầm
quyền Pháp và các nhà trí thức Việt; do hai tệ đó mà gây ra cái tệ thứ ba là để
quan lại hà hiếp dân. Cuối thư, cụ yêu cầu chính phủ Bảo hộ tổ chức lại quan
trường, mở mang dân trí, khuếch trương thực nghiệp.
Người
Pháp trọng tinh thẩn ngay thẳng của cụ, thấy lời lẽ ôn hòa mà hữu lý nên nể các
nhà nho chân chính ái quốc và tiếp hai cụ Dương Bá Trạc, Lương Trúc Đàm một
cách có lễ độ.
Viên
Thống sứ Bắc Việt mời hai cụ ngồi rồi ôn tồn hỏi:
- Sao
các ông làm nhiễu loạn trị an của chính phủ như vậy? Các ông có nhận là có lỗi
không?
Cụ Dương
đáp:
- Nước
Pháp đặt nền Bảo hộ ở đây đã hai chục năm, tự nhận công việc khai hóa cho chúng
tôi mà tới nay chưa mở mang dân trí được chút nào, nên chúng tôi phải đứng ra
lãnh lấy nhiệm vụ, như vậy là chúng tôi thành tâm tiếp tay chính phủ, chứ sao
gọi là nhiễu loạn cuộc trị an được?
Chúng
tôi chỉ khuyên dân duy tân để theo kịp người Âu, chú trọng đến thực nghiệp để
nước được giàu, như vậy là lợi cho chính phủ, sao gọi là lỗi? Vả lại chúng tôi
đã xin phép chính phủ mở trường và diễn thuyết mà hai tháng rồi, thấy chính phủ
làm thinh, chúng tôi nghĩ là chính phủ đã mặc hứa, như vậy thì chúng tôi đâu
phải là không biết trọng phép của chính phủ?
Gục gặc
đầu suy nghĩ một chút, viên Thống sứ nhã nhặn phủ dụ:
Hai ông
có lòng yêu nước An Nam thì cũng như người Pháp chúng tôi yêu nước Pháp vậy,
nào tôi có muốn ngăn cản. Sở dĩ tôi chưa cho phép được là còn phải đợi ý kiến
quan Toàn quyền. Thôi hai ông về đi, tôi sẽ đem việc đó nhắc lại với ngài và
chắc ngài cũng không hẹp lượng gì đâu.
Viên
Thống sứ giữ lời hứa và khoảng hai tháng sau, Nghĩa thục được giấy phép.
*
Từ khi
trường có tính cách hợp pháp, những cuộc diễn thuyết được tổ chức thường hơn,
mới đầu ở Hà Thành rồi lần về các miền lân cận như làng Nhị Khê, làng Quang,
làng Mọc, làng Bưởi, tại những nơi có đình chùa rộng và hội viên sốt sắng. Cảnh
thực tưng bừng và phấn khởi: dưới những gốc đa, những tàng muỗm, các ông già bà
cả, các thanh niên trai gái chăm chú nghe các cụ, như nuốt từng lời của các cụ,
tìm trong đó cái hy vọng ở tương lai rực rỡ của non sông. Tình thân mật giữa
các sĩ phu và bình dân chưa bao giờ đậm đà như vậy: người trên thì biết lãnh
trách nhiệm, nêu gương cho người dưới, người dưới thì tin cậy, quí mến người
trên. Đẹp như lời trong Hải ngoại huyết thư:
Chữ tâm
một phút đâu đâu cũng đồng.
Trong
những buổi diễn thuyết ở Nghĩa thục, số thính giả lần nào cũng rất đông, có khi
thiếu ghế, phải kê mễ mà cũng không đủ chỗ ngồi. Cụ Lương chủ tọa, ngồi bên
cạnh diễn giả, rồi tới các giáo sư của trường và các nhà danh vọng Hà Thành.
Thính giả đàn ông ngồi một bên, đàn bà ngồi một bên, sau lưng phụ nữ là học
sinh. Nửa thế kỷ trước mà có những cuội hội họp nam nữ như vậy thật là
"duy tân" lắm.
Đầu đề
các cuộc diễn thuyết thường là bàn về phương sách tự cường, cứu quốc, một đôi
khi cũng xét về những vẩn đề văn hóa, kinh tế. Các giáo sư như Dương Bá Trạc,
Nguyễn Quyền, Nguyễn Văn Vĩnh thay phiên nhau đăng đàn, nhưng nhà hùng biện
nhất vẫn là cụ Tây Hồ. Mỗi lần ở Quảng Nam ra thì cụ đều lại Nghĩa thục để diễn
thuyết. Cụ hay nghiên cứu lẽ suy vi của dân tộc, tìm được nguyên nhân gì, cụ
hăng hái trình bày ngay.
Có lần
chuông mới rung, cụ vào đề ngay:
Nước Đại
Namchúng ta ngày nay sở dĩ yếu hèn là vì thiếu tinh thần tôn giáo. Tôn giáo
luyện cho ta đức hy sinh, coi nhẹ tính mạng, phá sản vì đạo; không có tinh thần
tôn giáo chúng ta không biết cương cường xả thân vì nghĩa, chỉ bo bo giữ cái
lợi riêng của mình. Này bà con thử xét đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng như
vậy; quân Nguyên thắng cả Á cả Âu, nuốt trọn Trung Hoa mà qua đến nước ta thì
bại tẩu, nào bị cướp sáo ở Chương Dương độ nào bị bắt trói ở Hàm Tử quan, rồi
ôm hận ở trận Vạn Kiếp, chịu nhục ở trận Bạch Đằng, như vậy chẳng phải là nhờ
đạo Phật ở ta thời đó rất thịnh ư, nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư?
Rồi cụ
thao thao dẫn thêm chứng, lấy trong cổ sử Đông Tây. Khi cụ mới tạm ngừng, cụ
Phương Sơn đứng đậy đưa tay xin phản đối:
- Thưa
cụ, chúng tôi e lời cụ chưa chắc đã đúng hẳn. Đọc sử vạn quốc, chúng tôi được
biết tinh thần tôn giáo không đâu mạnh bằng Ấn Độ, mà Ấn Độ cong lưng nô lệ Anh
Cát Lợi hơn hai thế kỷ nay. Cụ đã nói đến quân Nguyên thì chúng tôi cũng xin
xét về quân Nguyên. Cái lẽ bách chiến bách thắng của họ có nhờ tinh thần tôn
giáo của họ đâu, vậy thì ta đuổi họ ra khỏi cõi, cũng vị tất nhờ tinh thần Phật
giáo của ta. Vả lại, nói đời Trần thắng Nguyên nhờ Phật giáo thịnh, thì những
đời sau, Phật giáo còn thịnh nữa đâu mà ta cũng diệt được Minh, được Thanh?
Hai cụ
tranh biện với nhau khá lâu, sau cụ Lương đứng ra hòa giải:
- Cụ Tây
Hổ và ông Phương Sơn mỗi bên đều có lý hết. Hôm nay hội họp cũng đã lâu rồi,
xin để đến phiên sau.
Một lần
khác, cụ Tây Hồ cho chính cái nho học làm cho Việt Namsuy nhược. Cụ thảo một
bài nhan đề là:
[78]"Bất
phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc",( )
đem bao
nhiêu tội đổ lên chế độ khoa cử rồi kết luận là phải bỏ Hán tự.
Cụ đưa
bản nháp cho cụ Phương Sơn và nói:
- Kỳ
sau, tôi sẽ bàn về vấn đề này đây.
Vừa đọc
xong nhan đề, cụ Phương Sơn đã đặt tờ giấy xuống, đáp:
- Nếu cụ
diễn thuyết về đầu đề đó thì chúng tôi lại xin phép cụ phản đối cụ nữa. Chúng
tôi sẽ nói: "Bất[79]chấn Hán học, bất túc dĩ cứu Nam quốc"( ). Chế
độ khoa
cử hủ bại ta phải bỏ, chúng tôi đồng ý với cụ về điều ấy, còn Hán học đã đào
tạo biết bao anh hùng, liệt sĩ, thì sao lại phế nó đi?
Ngay lúc
đó, cụ Lương Trúc Đàm ở đâu lại, nghe rõ câu chuyện, cũng biểu đồng tình với cụ
Phương Sơn. Cụ Tây Hồ tinh thần quân tử, khoáng đạt, cười:
- Hai
tiên sinh đều phản đối thì tôi xin thôi, để tôi xét lại xem.
Mỗi khi
các diễn giả nhắc đến chuyện tiền bối xả thân cứu nước, thính giả, nhất là phái
nữ, đều rớt nước mắt.
Một tối,
cụ Tây Hồ hăng hái quá, nói:
- Người
ta sở dĩ sợ chết ham sống là vì có nhà cao, cửa rộng, vợ đẹp, con khôn, cho nên
cắt tình không được, còn bọn chúng ta đây, bất quá chỉ có "thượng xỉ hạ
đạn", còn sợ gì nữa mà không làm, còn quyến luyến gì nữa mà sợ chết?
Cụ
Nguyễn Hữu Tiến, ngồi bên nghe, cảm động, đọc ngay hai câu thơ của cụ Sào Nam:
Giang sơn tử hĩ, sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Rồi ôm
mặt khóc. Một hồi lâu, trong phòng chỉ còn nghe tiếng sụt sịt của thính giả. Có
những lúc khóc như vậy thì cũng có những lần thính giả ôm bụng mà cười. Làm cho
mọi người cười thì cũng vẫn là cụ Tây Hồ. Hô hào đồng bào theo người Âu, cắt búi
tóc đi, cụ nói:
- Mấy
ngàn năm trước, dân tộc ta đoạn phát văn[80]thân( ). Từ khi bị Triệu Đà cướp nước, mới nhiễm tục Trung Hoa, nhưng
chỉ một số người ở thành thị theo họ thôi. Tới khi nhà Minh chia nước ta thành
quận huyện, cưỡng bách toàn dân ăn mặc như họ, thì trai mới bới tóc, gái mới
mặc quần hai ống, và người mình thành người Tàu.
Ngày nay
- chỗ này cụ lớn tiếng - may mà Trời mở lòng người, một sớm thức tỉnh, cả nước
duy tân, anh em cát phăng cái búi tóc đi, khiến cho cái lũ xuẩn xuẩn
vi[81]trùng( ) không còn đất thực dân
trên đầu ta mà hút
máu ta
thì há chẳng phải là đại khoái ư? Sao, anh em mình sao?
Tiếng
cười, tiếng hoan hô vang cả phòng. Lần đó cụ thành công nhất.
Khoảng
nửa tháng sau, tại Hà Thành, đi đâu cũng nghe thấy có người hát bài “Húi hề” ,
không biết của ai.
Tay trái
cầm lược, Tay phải cầm kéo. Húi hề! Húi hề!
Thủng
thẳng cho khéo. Bỏ cái ngu này,
Bỏ cái
dại này
. . . .
. . . . . . . . . . .
. . . .
. . . . . . . . . . .
Ngày tây
ta cúp[82]Ngày mai ta cạo. ( ).
Rồi ở Hà
Tĩnh, một thanh niên hai mươi tuổi, mỗi buổi chợ phiên, cầm kéo ra chợ, gặp ai
còn bới tóc cũng năn nỉ:
“Lạy
anh, xin anh cho tôi cắt cục tóc bảo thủ này đi cho rồi".
Phong
trào lan rất nhanh ở Trung và Bắc, trong Nam có phần chậm hơn. Các cụ cắt tóc
ngắn không phải chỉ vì vấn đề tiện lợi, mà chính là để tỏ cái ý đoạn tuyệt với
hủ tục. Cắt tóc theo các cụ là duy tân, là ái quốc.
Chương 7
PHONG TRÀO DUY TÂN
Chưa học
bò, vội chạy đua theo.
Cụ Tây
Hồ là người mở đường cho phong trào duy tân ở nước nhà. Lập Nghĩa thục, một
phần công lớn là của cụ, gây tư tưởng mới ở Quảng Nam là cụ, đi khắp nơi diễn
thuyết là cụ, khuyên quốc dân cắt tóc là cụ, liệng cái phó bảng mà ra lập hiệu
buôn cũng là cụ, bỏ tục nhuộm răng, vận âu phục bằng nội hóa thì người đầu tiên
cũng lại là cụ.
Phong
trào cắt tóc lan mạnh nhất ở Hà Thành. Người thì nhờ bạn bè, người thì tự cầm
dao cứa đại cái búi tóc.
Có người
không muốn, nhưng bị thân hữu cưỡng bách rồi cũng chịu. Nhiều việc xảy ra hơi
vui vui, chúng tôi xin chép lại đây một chuyện để độc giả thấy lòng bồng bột
duy tân và tính nghịch ngợm của vài cụ thời đó. Ta cứ tưởng các nhà nho ái quốc
nửa thế kỷ trước phải nghiêm trang, đạo mạo lắm; nhưng không, các cụ nhỏ tuổi
cũng giỡn như chúng ta ngày nay và có khi cuộc vận động duy tân đối với các cụ
chỉ là một trò chơi hứng thú.
Một buổi
sáng cuối thu, cụ Phương Sơn, mới tung chăn ra, gọi giật người emtrai:
- Chú
Tư, tiết sắp qua đông rồi, cái loại "xuẩn xuẩn vi trùng” đó sắp được thuận
thiên thời mà sinh sản mãnh liệt. Ta phải diệt chúng giùm cho anh Hy Thanh chứ?
Cụ em vỗ
tay reo:
- Phải
lắm. Nhưng hai anh em mình sợ không đủ sức. Phải thêm ngoại viện, anh nghĩ sao?
- Ai bây
giờ?
- Thì
chú Ba Đỗ. (tức cụ Đỗ Chân Thiết) .
- Được.
Sửa soạn đi thôi.
Thế là
hai cụ thắng bộ âu phục đúng "mốt Tây Hồ", nghĩa là một cái áo bành
tô và một chiếc quần bằng vải nội hóa Quảng Nam nhuộm đen; thắt cái cà vạt cũng
[83] bằng
vải đen, đi đôi giày "dôn" ( )
mỏ vịt, và đội cái[84]nón “cát” ( )
trắng rồi khoác tay nhau, y như tây, bước ra cửa, mỗi cụ phì phèo một điếu
thuốc "Quả[85]đất".( ) Tới
hàng Bạc, hai cụ rẽ vào một hiệu kim hoàn, nện này cồmcộp, nói bô bô:
- Chú Ba
đâu? Còn ngủ ư? Dậy mau, dậy mau, việc trọng đại.
- Cụ
Chân Thiết vùng dậy, hỏi.
Khi đã
hiểu chuyện thì cười ha hả, bận áo dài, chít khăn rồi cả ba cụ cùng ra bến xe
điện ở Bờ Hồ.
Tới Ô
Chợ Dừa, ba cụ xuống xe, rẽ vào làng Thịnh Hào tìm nhà cụ Hy Thanh. Chủ nhân
chăm chú ngó bộ đồ tây mỉm cười.
Thấy
cuốn Tả Truyện đặt trên bàn, cụ Phương Sơn hỏi:
- Vẫn
còn thích vác lều chõng sao? À lúc này, anh còn tới trường cụ Thám nữa không?
Cụ Hy
Thanh bẽn lẽn, cười gượng:
- Chú
thì chỉ được cái thế.
- Chịu
khó tập được cái giọng thơ của cụ đi, tôi cam đoan với anh là nắm chắc cái thủ
khoa trong tay. Bài hát nói đó ra sao nhỉ. Có phải: "Ngô khởi hiếu biện
tai,[86]ngô bất đắc dĩ dã"( )
không?
Ai nấy
ômbụng cười, còn cụ Hy Thanh tái mặt:
- Đồ
quỷ. Nhắc lại làm gì chuyện đó? Thật là "Ngũ[87] kinh tảo địa"( ) rồi. Một cao đệ cửa Khổng sân Trình mà
như vậy, nhục cho nho lâm quá... ái, ái! Làm gì thế? Buông người ta ra!
Thì ra ba
cụ kia thừa lúc cụ Hy Thanh sơ ý, đè nghiến cụ ra, một người ôm mình, một người
khóa chặt hai tay, một người móc túi lấy ra cái kéo cắt búi tóc cụ. Búi tóc rớt
xuống đất, cụ được buông ra, chạy đi lấy gương coi, rồi phì cười, yêu cầu hớt
gọn hai bên cho dễ coi.
Cụ
Phương Sơn vỗ tay:
- Có thế
chứ! Lẽ nào thời nay mà còn nuôi hoài lũ thực dân ấy ở trên đầu trên cổ nữa.
*
Một lát
sau, cả bốn cụ bắc ghế ra ngồi dưới giàn hoa lý ở trước sân. Cụ Chân Thiết nói:
- Mấy
bữa trước, chủ hiệu Vĩnh Phong phố Hàng Bồ cho tôi coi một bài trong tờ Tân Dân
của Tàu. Thằng cha nào viết bài đó thực có giọng chua cay. Nó chửi khoa cử hết
điều, bảo khoa cử có lục tự (sáu cái giống) : khi lại trường thi, phải đeo lều,
chõng, bầu, tráp, có khác chi tù đeo gông đâu, thế là nhất tự tù (thứ nhất:
giống tù) ; lúc vào cửa, bị lính lục xét, y như xét ăn trộm, thế là nhị tự đạo
(thứ hai: giống quân ăn trộm) ; suốt ngày ngồi trong lều thỉnh thoảng ló đầu
ra, như con chuột trong hang, tam tự thủ nhé? (thứ ba: giống con chuột) ; lều
che kín, ngồi trong đó ăn uống, y như con mèo, thế là tứ tự miêu (thứ tư: giống
con mèo) ; khi coi bảng, người nào thấy tên mình thì sướng quýnh, nhẩy choi
nhoi như con tôm, vậy là ngũ tự hà (thứ năm: giống con tôm); còn kẻ nào không
thấy tên mình thì buồn hiu, co ro như con giun, lục tự dận (thứ sâu giống con
giun) .
Về hình
thức, khoa cử xấu xa như vậy mà về tinh thần thì làm cho nước yếu, dân hèn, anh
còn luyến tiếc nữa làm chi?
Cụ Hy
Thanh chỉ cười. Cụ Chân Thiết lại tiếp:
- Hôm
qua, tôi với nhiều anh em trong Nghĩa thục bàn với nhau thảo một lá đơn tỏ rõ
những lý do cần bãi bỏ khoa cử và yêu cầu chính phủ dùng chương trình thực học
của phương Tây. Đại ý như vầy: "Nước Nam chúng tôi có khoa cử đã gần một
ngàn năm là do bắt chước Trung Hoa. Gần đây chính các nhân sĩ Trung Hoa đã xin
Thanh triều bãi bỏ khoa cử và mở học đường theo Âu tây, nên chúng tôi nghĩ
không còn lẽ gì để giữ cái học từ chương vô ích cho nhân dân đó nữa. Vậy chúng
tôi xin chính phủ bãi bỏ khoa cử và mở ngay Cao đẳng học đường để đào tạo nhân
tài": Anh em ai cũng tán thành, nhưng khi đơn thảo xong, anh em bỏ về cả,
chỉ còn anh cử Dương, anh Trúc Đàm và tôi đứng[88]tên ký. Sĩ khí của mình kể ra
kém thật. (ngày mai tôi sẽ gửi. Anh Hy Thanh nghĩ sao? Cụ Hy Thanh trầm ngâm
một lát rồi đáp:) Đơn đó, Việc anh em làm đó được lắm. Tôi cũng không thích gì
khoa cử nữa. Chẳng qua tôi muốn làm vui lòng các cụ tôi một chút.
Cụ
Phương Sơn nói:
- Anh
nói vậy, làm tôi nhớ khoa trước, Trần Trọng Tuấn, học trò của thầy tôi, đậu cử
nhân, tôi mừng y đôi câu đối nầy: “Khoa đệ diệc tầm thường, kim nhật vị[89]vi
quân nhất hạ”.( )
Y mới
nghe tới đó, trợn mắt hỏi tôi: khoa đệ mà tầm thường thì cái gì mới quan
trọng?" Tôi không đáp, đọc nốt vế sau, để vuốt ve y: “Môn lư đa khí sắc,
cao
[90]đường
hỉ kiến tử chi thành”.( )
Miễn có
tinh thần coi khoa đệ là tầm thường, rồi vì[91]nhà mà có muốn thi thì cũng
được. ( ) Nhưng này, anh đã hạ búi tóc
rồi, phải có cái mũ Tây mà đội chứ? Để tôi lại Hàng Bông mua biếu anh một chiếc
nhé. Cụ Hy Thanh xua tay:
- Thôi,
Tây với Tàu gì? Để tôi đội cái nón dứa cũng được.
*
Đơn của
ba cụ Bá Trạc, Trúc Đàm và Chân Thiết gởi phủ Thống sứ được ít lâu thì cụ Đào
Nguyên Phổ chủ bút tờ Đại Việt tân báo chạy lại Nghĩa thục cho hay tin Toàn
quyền Beau sắp cho mở trường Đại học ở Hà Nội. Cụ nào cũng mừng rằng vận động
có kết quả, không ngờ chỉ là một đòn của người Pháp.
Cũng tại
các cụ còn khờ, chưa biết chút gì về nền giáo dục Âu tây cả. Hồi đó, Trung và
Bắc chỉ có những trường tiểu học, và hai trường thông ngôn, một ở Huế, một ở Hà
Nội, trung học chưa mở, mà các cụ đã đòi lập ngay Đại học thì người Pháp làm
sao thuận cho được. Toàn quyền Beau đọc đơn của ba cụ, chắc mỉm cười nghĩ:
- A, các
chú muốn mở đại học Tốt lắm. Để ta mở cho.
Trường
đại học mở thật, không rõ là văn khoa hay luật khoa, y khoa, chỉ biết hôm khai
trường, một số nhà tân học và cựu học Đông Kinh nghĩa thục lại nghe; nhưng may
lắm chỉ có cụ Tốn, cụ Vĩnh là hiểu lõm bõm được ít nhiều, còn thì ù ù cạc cạc
cả. Giáo sư Pháp đạo mạo chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trong phòng, xì xồ từ
đầu giờ đến cuối giờ, thỉnh thoảng lại mỉm cười, hỏi: "Các ông nghe ra
không?" Không một ai đáp, ai nấy ngó nhau lắc đầu.
Nhiều cụ
muốn bỏ ra về ngay, sợ bị chê và vô lễ, gắng ngồi cho đến hết giờ. Khi tan học,
một cụ tân học hỏi giáo sư: "Ông có bài, có sách cho chúng tôi đọc
không?"
Giáo sư
đáp gọn thon thỏn:
- Lại
Thư viện mà kiếm.
Thế là
các cụ bẽn lẽn, cụt hứng.
Không
đầy một tuần sau, trường đại học đầu tiên của Việt Nam đóng cửa vì thiếu sinh
viên. Thực dân được một phen cười ha hả, tự cho là đắc sách.
Chương 8
CHẤN HƯNG CÔNG THƯƠNG
[92]Hóa
hàng đủ cả Nam và Bắc ( ). Cụ Nguyễn
Quyền, trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục của Đào Trinh Nhất nói rằng đồng bào
quyên trợ cho trường rất nhiều, nên muốn hành động gì cũng dễ, và tới khi
trường đóng cửa, quỹ còn dư trên vạn đồng, một vạn đồng hồi đó bằng mấy triệu
bây giờ.
Lời ấy
chỉ đúng một phần. Hồi mới, dân khí đương lên, ai nghe thấy nói một số nhà cựu
học và tân học dắt tay nhau gây nên phong trào duy tân đầu tiên trong nước,
cũng hoan nghênh, hăm hở giúp, kẻ công, kẻ của, có kẻ cả của lẫn công. Những
nhà quyên nhiều nhất là hiệu kim hoàn Thế Xuân ở hàng Bạc, và hiệu
[93]hàng
tấm( ) Phúc Lợi ở hàng Ngang, chủ
nhân hiệu
này là
học trò cụ Lương.
Hai nhà
đó giúp mỗi lần hai, ba trăm đồng. Như tôi đã nói, cụ Lương giữ tiền, cụ Nguyễn
Quyền giữ sổ sách.
Nhà nho
mà biết công việc kế toán là gì đâu, làm toán nhân toán chia sợ còn sai, nhất
là lại bận nhiều việc khác trong trường, nên sổ sách tất có chỗ không được kỹ
lưỡng, rành mạch, và đã có lần vài hội viên xin cụ Lương giao việc kế toán cho
người khác, song cụ nhất định không nghe, bảo như vậy không có lợi cho tiếng
tămcủa trường. Nhiều người phục cụ ở chỗ đó.
Nghĩa
thục càng mở mang thì chi phí càng nhiều mà số người hằng tâm có hạn, quyên
nhiều lần quá, ai cũng ngán. Các cụ thiếu kinh nghiệm, thiếu tổ chức, không dự
tính số thu và số chi cho từng khoản, đã không bắt hội viên đóng nguyệt liễm,
học sinh đóng học phí, mà thấy việc gì nên làm cũng không từ nan, thành thử số
thu mỗi ngày một giảm mà số chi mỗi ngày một tăng, nào tiền mướn nhà, tiền đóng
bàn ghế, tiền giấy mực cho giáo sư và cả học sinh, tiền cơm buổi trưa cho mấy
chục người ăn, tiền khắc bản gỗ, in sách và tiền giúp thanh niên xuất dương
nữa. Như vậy nền tài chánh làm sao vững được, và sáu bảy tháng sau khi trường
mở cửa, quỹ đã gần cạn; cụ bà Lương Văn Can phải bán một hiệu buôn, hiệu Quảng
Bình An ở hàng Ngang, lấy số tiền 7000$ đưa cho cụ ông chi tiêu vào việc
trường.
Sau này,
kể lại việc đó với một người thân trong nhà, cụ bà nói:
- Tôi
cầm bút ký tờ đoạn mãi mà tay run lên. Từ nhỏ, có bao giờ dám động tới di sản
của tổ tiên đâu. Bán cửa hiệu đó xong, độ một tháng sau trường bị đóng cửa, nếu
không, tôi không biết trường sẽ phải dùng cách nào để kiếm tiền.
*
Khi soạn
các bài ca khuyến công, thương, hội cũng đã nghĩ đến việc mở các hiệu buôn và
các xưởng để kiếm lời giúp quỹ. Nhưng hội không đủ tiền đề tổ chức những cơ
quan đó nên chỉ khuyên hội viên ai có vốn thì đứng ra kinh doanh, rồi nếu có
lời, tùy ý giúp hội bao nhiêu cũng được. Giải pháp đó có tính cách tạm bợ, vì
sức lẻ loi của mỗi người khó cạnh tranh nổi với tổ chức của Hoa kiều. Nhất là
các nhà nho có tâm huyết đâu phải là con buôn, thiếu kinh nghiệm, thiếu cả thực
tế, mười phần thì thất bại chắc bảy, tám rồi; còn hạng con buôn thông thạo thì
chỉ nghĩ sao thu thật nhiều, xuất thật ít, mấy ai chịu chia cho Nghĩa thục? Rốt
cuộc, quỹ của hội không nhờ vậy mà đỡ nguy được phần nào. Nhưng về phương diện
tinh thần thì hội đã thành công: chính vì lối làm việc hăng hái tài tử của các
cụ mà quốc dân mới có nhiều cảm tình, phong trào mới có tiếng vang lớn, và
Nghĩa thục đã phá được cái tục khinh công, thương, từ mấy ngàn năm truyền lại
mà đề cao hàng nội hóa làm cho nhiều người không nhắm mắt khen hàng Tây là đẹp,
hàng Tàu là quí nữa.
*
Người
đầu tiên chấn hưng thực nghiệp ở Trung là cụ Phan Tây Hồ. Cụ mở Quảng Nam
thương hội mướn dệt những thứ vải dày, có thứ may âu phục được, rồi đích thân
cụ làm gương cho đồng bào, cắt một bộ đồ[94]tây bằng thứ vải nội hóa đó ( ).Cụ đã thực hiện đúng lời khuyên đồng bào
trong bài
Tỉnh
quốc hồn ca của cụ:
. . . .
. . . . . . . . . . . . .
Người
mình đã vụng về trăm thức, Lại khoe rằng “sĩ nhất tứ dân”, Người khanh tướng kẻ
tấn thân Trăm nghề hỏi có trong thân nghề nào? Chẳng qua là quơ quào ba chữ,
May ra
rồi ăn xớ của dân;
Khoe khoang
rộng áo dài quần, Tráp giày bệ vệ rần rần ngựa xe. Còn bực dưới ngo ngoe vô kể,
Học cúi luồn kiếm kế vơ quào, Thầy tú lại bác kỳ hào,
Gặm
xương mút đũa lao xao như ruồi. Lại có kẻ lôi thôi bực giữa,
Trên lỡ
quan, dưới nữa lỡ dân, Ấy là học sĩ văn nhân,
Ăn sung
mặc sướng mà thân không làm.
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . .
Loài
người đã không tài không nghiệp Phải sanh ra nhiều kiếp gian nan, Đua chen dối
trá muôn vàn, Gà bầy đá lẫn, cá đàn cắn nhau. Ngồi nghĩ lại càng đau tấc dạ,
Hỡi
những người chí cả thương quê, Mau sau đi học lấy nghề,
Học rồi
ta sẽ đem về dạy nhau.
Nhưng ở
Trung, dân thì nghèo mà tinh thần quan lại còn quá nặng, số người hưởng ứng lại
ít, nên công việc cụ không phát đạt và phong trào chấn hưng công nghệ không
tiến mạnh bằng ở Bắc.
*
Tại Bắc,
một trong những nhà nho cách mạng đầu tiên đứng ra khuếch trương thương nghiệp
có lẽ là cụ Đỗ Chân Thiết.
Cụ là
con một nhà gia thế ở làng Thịnh Hào (Hà Đông) , người phốp pháp, tinh thần
khoáng đạt, hào[95]phóng, làm biếng học mà có tài văn thơ( ). Hễ lại
thăm bạn
bè, thấy ai đương đọc sách, cụ cũng giật lấy, liệng đi nói: “Dũ học dũ ngu”
hoặc “Hiền thánh liêu nhiên, tụng diệc si”, rồi kéo người đó đi chơi.
Cụ bà
làm chủ một hiệu kim hoàn ở phố hàng Bạc, có phần phong túc, nên cụ được rảnh,
hoạt động cho Nghĩa thục và cho phái bạo động của cụ Sào Nam.
Cụ thi
một lần không đậu, bỏ luôn khoa cử, nhân dịp vua Thành Thái đi bái yết lăng
tẩmở làng Gia Miêu (Thanh Hóa) năm 1904 (?), cụ cùng cụ Phương Sơn thảo một bản
Hưng quốc sách xin vua Thành Thái xét lại hòa ước Giáp Thân (tức hòa ước
Patenôtre) mà đòi quyền tự trị về mình. Đại ý hai cụ viết:
“Trong
hòa ước đó, có nói rõ Trung, Bắc lưỡng kỳ là đất bảo hộ mà theo công pháp thì
trong một xứ bảo hộ, chính chủ địa phương được quyền tự trị, chánh quốc chỉ giữ
quyền binh bị và ngoại giao thôi. Nước Pháp không thi hành đúng những điều đã
cam kết vì thấy không có ai phản đối họ cả. Nếu Hoàng thượng cùng với bá quan,
nhân dân cương quyết yêu sách, cho sứ thần qua Ba lê thương thuyết thì chánh
chủ Pháp tất phải trả quyền tự trị cho ta mà có quyền đó ta mới dễ thực hành
những cải cách ích quốc lợi dân như các cụ Trần Bích San, Nguyễn Trường Tộ đã
đề nghị: bãi khoa cử, lập tân học đường, mở nghị viện, khuếch tương công
nghệ... "
Thảo
xong, hai cụ lên xe lửa vào Thanh Hóa, xin yết kiến viên Tổng đốc, trình bản
Hưng quốc sách và yêu cầu dưng lên vua Thành Thái khi xa giá tới. Viên Tổng đốc
chối từ:
- Việc
các thầy bàn đó là việc bang giao đại sự, chỉ khi nào bệ kiến mới nên dưng, ở
đây có tai mắt của người Pháp. Vả lại, bản chức không biết Pháp văn, không rõ
tờ hòa ước đó nói sao, nên không thể đảm nhận được việc. Hai cụ bèn trở về Hà
Nội. Ít năm sau, rủ nhau đi buôn, mướn thuyền về miền Hải Dương, Thái Bình mua
gạo chở về Hà Nội bán. Nhưng đi buôn mà các cụ vẫn giữ cái vẻ quan cách. Thuyền
về đậu ở bến cột Đồng Hồ. Mấy cô khách hàng xuống mua, lên tiếng hỏi: "Chú
lái, chuyến này có gạo tốt không?", rồi nhìn vào trong khoang, thấy nào là
tráp khảm, điếu khảm, lại thêm mấy pho sách và hai thư sinh áo xuyến, khăn lượt
chỉnh tề, các cô thẹn thùng, chạy một mạch lên bờ, tưởng là xuống nhầm thuyền
của các thầy cử, thầy tú. Hai nhà nho ta hết hơi gọi:
- Cứ
xuống mua. Chúng tôi là lái buôn đây mà.
Càng
gọi, các cô càng chạy, cho là các "ông ấy đùa". Thành thử thuyền đậu
mấy ngày mà bán không được, sau phải nhờ một bà xuống ngồi bán giùm, chỉ nửa
buổi đã hết. Thực các cụ không ngờ rằng đi buôn cũng phải học như học làm thơ,
làm phú, mà cứ nghĩ hễ văn hay chữ tốt thì việc gì làm cũng được.
Vụ đó
thất bại, cụ Chân Thiết xoay cách khác, hùn với vài đồng chí được độ ngàn rưỡi,
mở hiệu Đồng Lợi
Tế ở phố
Mã Mây. Cụ nghĩ: "Người Tàu vơ vét hết quyền lợi thương mại của ta. Bây
giờ ta ra tranh với họ , nhất định không bán sản phẩm của Trung Quốc, chỉ
chuyên bán thổ hóa". Và cụ chuyên bán gạo cho tù, số lời cũng khá, giúp
cho quỹ Nghĩa thục được đôi chút.
Ít lâu
sau, cụ mở thêm một hiệu thuốc Bắc, hiệu Tụy Phương ở gần ga Hàng Cỏ. Cụ và cụ
Phương Sơn thay phiên nhau làm ông lang, nhưng trò cười ở bên gạo lại tái diễn
trong hiệu thuốc. Thầy lang trẻ quá, mới trên hai chục tuổi, lại có vẻ sang
trọng đẹp trai, nên phe phụ nữ tới hốt thuốc, bẽn lẽn vội trở ra hết, gọi gì
cũng không quay cổ lại. Cụ Chân Thiết đành yêu cầu một cụ Tú đứng tuổi (cụ Tú
họ Phùng người làng Bưởi) và cụ Võ Hoành lại trông nom giùm.
*
Các đồng
chí trong Nghĩa thục đều tán thành công việc thực nghiệp đó. Cụ Hoàng Tăng Bí
mở hiệu Đông Thành Xương ở Hàng Gai, vừa buôn bán vừa làm công nghệ, lần đầu
tiên dùng những khung cửi rộng dệt thứ xuyến bông phù dung lớn (kêu là xuyến
bông đại đóa), rồi nhuộm đen, bán rất chạy. Cụ Hoàng còn chế ra các thứ trà
tàu, trà mạn, trà hột ướp sen và một thứ giấy hoa tiên để cạnh tranh với Hoa
kiều.
Hiệu Cát
Thành ở Hàng Gai và hiệu Hồng Tân Hưng ở Hàng Bồ, cũng mở vào lúc ấy.[96]Rồi do
cụ Tùng Hương ( ), phong trào lan
tới các
tỉnh
nhỏ. Hồi đó, tỉnh Phúc Yên mới thành lập, cụ lên đấy mở hiệu Phúc Lợi Tế; lại
xuống Hưng Yên mở hiệu Hưng Lợi Tế. Cụ thấy chuyên bán nội hóa thì ít hàng quá,
không mau khá được, nên cụ đổi phương sách, bán đủ mọi thứ tạp hóa, bất kỳ nội
hay ngoại.
Cũng năm
1907, một đồng chí khác, cụ Nguyễn Trác, mở một hiệu ở Việt Trì, đặt tên là Sơn
Thọ (tức Sơn Tây và Phú Thọ hợp lại) .
Hết thảy
những hiệu ấy tuy là của riêng từng người hoặc từng công ti, nhưng đều đeo đuổi
một mục đích: làm nơi tụ họp, liên lạc các đồng chí, tuyên truyền cho phong
trào duy tân, cổ động dùng nội hóa, khuếch trương công nghệ, và có lời thì bỏ
vào quỹ Nghĩa thục. Người làm trong hiệu chỉ được nuôi cơm, chứ không lãnh
công.
Hai hiệu
Đông Thành Xương và Sơn Thọ, vốn lớn nhất, trang hoàng đẹp, bán nhiều đồ nội
hóa như quạt lông, đồ tre đương tại làng Đại Đồng (Sơn-tây) , khay trúc ở Nghệ
An, giày Kinh, lãnh Bưởi, lãnh Sài Gòn.
Phong
trào kích thích đồng bào tới nỗi vài quan lớn đương thời cũng khảng khái xin
nghỉ việc để về nhà đi[97]buôn. Như cụ Nghiêm Xuân Quảng ( ) đương làm án sát Lạng Sơn, cáo quan về mở
hiệu buôn tơ ở Hàng Gai (hay Hàng quạt ?) và chính cụ ngồi cân tơ.
Và như
sau nay độc giả sẽ biết, phong trào lan cả vào tới Nam: tại Sài Gòn có Minh Tân
khách sạn của cụ Phủ Chiếu, có Chiêu Nam lầu của cụ Nguyễn An Khang; ở Bến Tre
có hiệu thuốc bắc Tư Bình Đường của một nhà nho (khuyết danh) quê ở Quảng Bình;
ở Chợ Thủ (Long Xuyên) có hiệu Tân Hợp Long (sau
[98]
đổi là
Tân Quảng Huệ) của cụ Hồ Nhựt Tân( ),
ở
Long
Xuyên có một tiệm của cụ Nguyễn Đình Chung.
*
Vậy ta
có thể nói kết quả về tinh thần rất đáng mừng.
Nhưng
kết quả về tài chánh cho Nghĩa thục thì không đáng kể, vì hai nguyên nhân:
Nguyên
nhân thứ nhất là các hiệu ấy, trừ hiệu Cát Thành, chỉ mở được ít năm, khi Nghĩa
thục bị rút giấy phép thì cũng lần lượt đóng cửa, mà trong một hai năm đầu lợi
chưa có mấy.
Nguyên
nhân thứ hai, quan trọng hơn là nhà nho buôn bán rất dở. Có cụ bệ vệ quá, khách
hàng không dám lại gần. Chẳng hạn, một lần cụ Phương Sơn có dịp lên Việt Trì,
lại thăm hiệu Sơn Thọ, tới cửa hiệu, thấy một đám tổng lý đương ngó tủ kính. Cụ
mời các ông ấy vào chơi trong hiệu, các ông ấy đáp:
- Chúng
tôi không dám ạ. Hiệu này là hiệu các quan lớn, chúng tôi không dám.
Cụ ngạc
nhiên, nhưng khi bước chân vào thì hiểu ngay: ông chủ có vẻ quan lớn thật, ăn
cơm mà có gia nhân cầm quạt lông đứng hầu, so với các ông chủ hiệu
[99]Hoa
Kiều, khác xa quá.( ) Có cụ lại đa tình,
không nỡ đòi tiền người đẹp. Khi cụ Chân Thiết bận việc về Nghĩa thục, cụ phải
mượn một đồng chí trông nom hiệu Đồng Lợi Tế. Được vài ba tháng, một hôm cụ này
nhất định xin thôi. Cụ Chân Thiết gạn hỏi mãi, cụ chỉ bẽn lẽn, ngập ngừng, hồi
lâu mới dámthú:
-Tiểu đệ
tự xét không đủ tư cách, lãnh việc đó nữa e có tội với tôn huynh. Tôn huynh còn
nhớ con mụ me Tây thầu gạo cho tù đó không? Nó cứ ỳ ra không chịu trả tiền. Nó
thiếu hai ba trăm đồng rồi, hỏi lần nào nó cũng bảo nhà nước chưa làm măng đa,
măng điếc gì đó, rồi hứa hết tuần này đến tuần khác.
- Sao
tôn huynh để cho nó thiếu nhiều như vậy? Bắt nó trả hết số cũ rồi mới bán thêm
chứ.
- Vâng,
thì tiểu đệ vẫn tự nhủ lần sau sẽ nhất định không bán chịu. Nhưng lẩn sau nó
tới, vừa mới ở trên xe bước xuống đã nhoẻn miệng cười, rồi lễ phép chắp tay
chào đệ, yểu điệu bước vào, vén tà áo xuyến ngồi ở đầu sập mở cái tráp nhỏ của
nó ra, hai bàn tay trắng nuốt như búp lan đỡ một miếng trầu thơm phức hoa bưởi,
đưa ra mời đệ, thì hồn phách đệ đi đâu mất hết, không thế nào mở miệng ra đòi
tiền nó được nữa; thế rồi nó xin khất đến kỳ sau, đệ cũng cho khất, nó lại xin
cân thêm gạo, đệ cũng cho cân. Và khi nó về rồi, đệ mới giận đệ là ngu, là dại.
Tôn huynh có thương đệ thì kiếm người khác thay đệ; chứ như vậy mãi đệ còn mặt
mũi nào trông thấy anh emđồng chí nữa.
Cụ Chân
Thiết rũ ra cười:
- Dại
gái như tôn huynh mới có một. Thôi để tôi kiếm người khác thay tôn huynh. Tôn
huynh kém Lương Khải Siêu xa. Lương, trong khi trôi nổi vì cách mạng, có lần
gặp một mỹ nhân quyến luyến ông ta lắm. Ông ta quyết dứt áo ra đi, sau khi tặng
nàng bốn câu này:
Hàm tình
khảng khái tạ thuyền quyên, Giang thượng phù dung các tự liên.
Biệt hữu
pháp môn di khuyết hám, Đỗ lăng huynh muội diệc nhân duyên. Ngậm tình khảng
khái tạ thuyền quyên. Sông bến phù dung cũng tự liên
Còn có
phép màu bổ chỗ khuyết,[100]Anh em họ Đỗ đẹp nhân duyên.( )
Chúa đa
tình là cái nòi cách mạng. Nhưng đa tình mà cắt được tình thì mới đáng là cách
mạng. Tôn huynh chỉ mới được có một nửa.
Chương 9
KHUẾCH TRƯƠNG NÔNG NGHIỆP, KHAI MỎ
Tư bản
coi ra riêng cũng chung. Nghĩa thục còn khuyến khích đồng chí lập đồn điền để khuếch trương nông nghiệp. Về khu vực hoạt
động
này,
công đầu về Độc tướng quân và cụ Bùi Đình Tá.
*
Không rõ
Độc tướng quân tên họ là gì, chỉ biết cụ là con nhà khoa bảng, học giỏi, nhưng
ghét thi cử, hưởng ứng phong trào duy tân, rời quê hương ở miền Nam (Hưng Yên
hay Phủ Lý ?) lên Yên Bái - mà hồi đó ai cũng sợ là nơi ma thiêng nước độc - để
mở một đồn điền tại Yên Lập.
Vì cụ
Phương Sơn cho hay trước, nên Độc tướng quân ra đón cụ tại một ga nhỏ, rồi hai
cụ cùng leo lên lưng một con ngựa, về đồn điền. Ngựa không có yên, mà cương thì
bằng dây thừng. Đường đồi lúc lên lúc xuống, ngồi ngựa rất xóc, cụ Phương Sơn
không quen, ôm cứng lấy bụng Độc tướng quân.
Ngựa
ngừng trước một trại nhỏ bằng lá cất trên bờ một con sông. Điền tốt độ mươi
người, người nào cũng đen thui và ở trần. Chủ nhân dắt khách đi thăm trại, chỉ
cho coi mấy chục mẫu rừng đương khai phá thành ruộng; rồi cả hai lại lên ngựa
tiến sâu vô rừng, cách trại độ năm trăm thước, tới một cái chòi bên cạnh một lò
hầm than.
Không
khí oi ả, hơi lửa của lò bốc ra hừng hực. Độc tướng quân xin lỗi khách, cởi áo,
chỉ bận một cái quần cụt ngồi kể công việc làm ăn cho khách nghe.
Đồn điền
được năm chục mẫu. Cây đốn xuống, chất nột nơi. Khi nào điền tốt rảnh công việc
ruộng nương thì đốt than. Có thuyền chở than và lúa ra Yên Bái bán. Vì nước độc
điền tốt ở miền xuôi lên, ở được ít tháng, ngã nước, xin về, nên rất khó kiếm
nhân công. Trong trại không có một người đàn bà nào cả. Tới bữa, điền tốt bưng
lên một phạn cơm gạo đỏ và một đĩa thịt muối. Vừa xẩm tối, muỗi đã bay mịt
trời, đưa tay ta quơ được cả chục con mỗi lần. Độc tướng quân phải hun khói,
rút thang rồi chủ và khách chui cả vào trong chòi, đóng cửa lại.
Không
quen chịu cực, sáng sớm hôm sau, cụ Phương Sơn cáo biệt, về tới Hà Nội, tả cảnh
cô độc của chủ đồn điền cho bạn bè nghe, và từ đó trong Nghĩa thục ai cũng gọi
chủ đồn điền là Độc tướng quân, riết rồi quên hẳn tên thật.
*
Sau Độc
tướng quân, là cụ Bùi Đình Tá ở ngõ Phất Lộc, cùng với một người bạn là cụ Phán
Tứ (người Nam Việt) hùn nhau khai phá một đồn điền ở Mỹ Đức, gần chùa Hương.
Hồi
người Pháp mới mở trường ở Bắc Việt, phát không sách vở giấy bút cho học trò mà
cũng rất ít gia đình chịu cho con đi học. Những nhà khá giả đều giữ lề lối cũ
ghét và khinh cái học “tây u” mà các cụ gọi là cái học vong bản. Chính phủ bắt
buộc quá, các quan phủ huyện phải ép các tổng lý cho con đi học. Cụ Bùi Đình Tá
chính là một trong những người bị bắt buộc học tiếng Pháp như vậy. Nhờ tư chất
thông minh, cụ đỗ đạt, được bổ thông phán rồi thăng tham tá.
Nhưng cụ
không vong bản như phần đông các quan tham quan phản thời đó, vẫn giữ tính tình
nho nhã, chung thân bận quốc phục, nhiệt tâm muốn khai hóa thanh niên, chẳng
những dạy giúp Nghĩa thục mà còn lập một cô nhi viện đầu tiên ở Việt Nam. Việc
mở đồn điền ở Mỹ Đức chính là đề có phương tiện nuôi trẻ mồ côi. Cứ buổi sáng
cụ dạy các em đó học vần Quốc ngữ, buổi chiều cho chúng tập công việc đồng áng,
tùy sức và tùy tuổi của mỗi em. Sáng kiến đó rất mới mẻ, chỉ tiếc cụ không đủ
vốn, thất mùa một hai vụ, phải bán cả đồng hồ, bàn ghế trong nhà để chi phí cho
cô nhi viện mà vẫn thiếu hụt, rốt cuộc công việc phải bãi bỏ.
Thời đó
biết bao nhiêu người có thiện chí, chỉ vì thiếu kinh nghiệm và hoạt động lẻ loi
mà thất bại.
Từ khi
đồn điền Yên Lập và Mỹ Đức phải dẹp vì lỗ vốn, chương trình khuếch trương nông
nghiệp của Nghĩa thục không được tiếp tục nữa. Một việc ít người biết mà không
ai ngờ, là nửa thế kỷ trước các cụ trong Nghĩa thục, ngoài kinh sử ra, có biết
chút gì về địa chất học đâu, mà cũng rủ nhau đi tìm mỏ ở miền thượng du Bắc
Việt, và đã tìm được nhiều mỏ: than, chì kẽm, lưu hoàng... Các cụ lên miền rừng
núi, hỏi dò thổ dân, thấy chỗ nào nghi là có quặng thì đem về ít cục đá đất
giao cho phòng thí nghiệm phân tích sau khi đóng tiền 5đ. mỗi lần. Nếu phòng
thí nghiệm bảo là có quặng, các cụ đóng thêm tiền đón kỹ sư tới tận nơi xét xem
mỏ sâu hay nông, nhiều quặng hay ít; sau cùng lại mướn người cắm mốc bốn bên,
vẽ bản đồ xin đóng thuế khai mỏ.
Công
việc mới bắt đầu thực hành thì phải dẹp vì Nghĩa thục đóng cửa; chỉ còn cụ Bùi
Xuân Phái, giáo học Ninh Bình, tiếp tục khai một mỏ than nhỏ ở Nho Quan.
Than nằm
ngay trên mặt đất, nhưng còn non, người Pháp chê, nên mỏ mới còn lại mà về tay
cụ. Cụ đem bán cho Huê kiều, được họ chia cho một phần hùn. Than rất nhẹ, bán
rất rẻ, nhưng mỗi tháng cụ cũng được chia lời chừng trăm bạc. Được vài năm cụ
mất, người trong nhà bán đứt cho Huê kiều, thì năm sau, họ đào sâu xuống, gặp
những lớp than cứng, tốt, rất được giá. Trong sự doanh nghiệp, Huê kiều quả
thực bền gan hơn mình nên thường thành công hơn.
Chương 10
PHÁI BẠO ĐỘNG
Khi lên
như gió thổi diều, Trong hò xin thuế, ngoài reo hãm thành.
Khi cụ
Lương Văn Can đứng ra hòa giải hai cụ Sào Nam và Nguyền Quyền mà nói:
"Theo ý tôi, ngoại viện và tự cường phải đồng thời tiến hành với nhau mới
được", cụ đã có ý cùng với cụ Tây Hồ và một số đồng chí trong nước chuyên
lo việc duy tân, tự cường; còn việc cầu ngoại viện và bạo động, để Kỳ Ngoại Hầu
với cụ Sào Namđảm nhận.
Cụ Sào
Nam hiểu như vậy nên từ đó về sau, ít liên lạc trực tiếp với cụ Lương và cụ Tây
Hồ, sợ trở ngại cho công việc hai cụ này. Tự nhiên, hai phái ôn hòa và bạo động
vẫn ngầm giúp nhau. Hồi đó tinh thần đảng phái ít hơn ngày nay, có thể nói là
gần như hoàn toàn không có.
Vậy
trong Đông Kinh nghĩa thục vẫn có một số đồng chí hoạt động ngầm cho phái bạo
động. Hoạt động ngầm thì không hại, nhưng nhiều cụ lại quá hăng
hái làm
cho người Pháp để ý, chỉ chờ cơ hội để đóng cửa Nghĩa thục.
*
Trong số
quá khích, ngay nhà cụ Lương cũng đã có ba người rồi.
Lương
Trúc Đàm, chắc độc giả còn nhớ, đã cùng với Dương Bá Trạc tổ chức cuộc diễn
thuyết ở đền Ngọc Sơn rồi lại cùng với Đỗ Chân Thiết đầu thư xin chính phủ Pháp
lập ngay nền đại học Việt Nam.
Lương
Ngọc Quyến thì một mình trốn qua Nhật (1905) học trường Chấn Võ khi thành tài
được cụ Sào Nam phái về nước hoạt động, do một tên phản đảng tố cáo, bị Pháp
bắt giam ở Thái Nguyên, tra khảo tới què chân, tháng 8 năm 1917 mưu với Đội Cấn
phá ngục và tấn công Thái Nguyên. Sau này, chúng tôi sẽ có dịp nhắc lại chuyện
đó.
Còn
Lương Nghị Khanh, cũng qua Nhật học, bị chứng tràng nhạc, chữa không hết, sợ
khí hậu lạnh bên đó, năm 1916 bèn qua Xiêm, lén về Nam Vang (cụ Lương Văn Can
đương bị an trí tại đây) rồi chết, hồi 30 101]tuổi( ).
Ngoài họ
Dương và ba anh em họ Lương, ta nên kể thêm cụ Võ Hoành, cụ Đỗ Chân Thiết và cụ
Nguyễn Tùng Hương.
Cụ Võ là
con cụ Tú ở làng Thịnh Liệt (Hà Đông). Nhà cụ có hai người làm cách mạng. Một
người chị của cụ - mà hồi đó đồng chí gọi là Chị Bảy - biết chữ Hán, gia nhập
nghĩa thục, làm liên lạc viên, thường đi từ Bắc vô Nam, từ Nam qua Tàu, mua bán
thổ sản mỗi nơi, kiếm tiền quyên trợ cho du học sinh.[102] ọn trành( ) thấy là đàn bà, vả lại quen mặt,
không
nghi ngờ gì cả.
Người
thứ hai là cụ. Cụ cao mà gầy, gân guốc, đặc biệt nhất là tiếng nói sang sảng và
lưng ngay như cây cột.
Hình như
cụ không khom lưng được, nên lúc về già, thường nói với người thân: "Chính
vì cái lưng tôi nó không cong được nên tôi mới bị Hoàng Trọng Phu nó sai lính
căng nọc tôi ra, nhưng rồi nó cũng chẳng làm gì[103]nổi tôi cả. Cụ thi vài
khoa, không đậu,( ) vào ghĩa thục
quyên tiền và tuyên truyền cho trường. Rất nóng nảy, khảng khái thường tự nhận
là "đầu gáo",
[104]( ) không sợ chết, rất thích ngâm bài
thơ dưới đây
của Tây
Hương Long Thành, một nhà ái quốc Nhật (coi phụ lục III) .
Tuy
nhiên, cụ chưa có cơ hội hoạt động thì năm 1909 đã bị Pháp đày ra Côn Đảo.
*
Hai cụ
ngấm ngầm mà hoạt động khá tích cực là cụ Đỗ Chân Thiết và cụ Nguyễn Tùng
Hương.
Cụ Đỗ
liên lạc với cụ Sào Nam, dùng ngôi nhà số 2 ở ngõ Phất Lộc của cụ Tùng Hương và
Phương Sơn [105] làm chỗ chứa súng lục và thuốc phiện lậu.( ) Ngôi nhà này rất tiện cho việc chứa
đồ quốc cấm. Nó ở trong một ngõ hẻm, lại tối omom, sâu hun hút, bề ngang không
đầy ba thước mà chiều dài non năm chục thước, có hai ba cái gác xếp, phải khòm
lưng, rờ từng bước mới leo lên được, phía sau cùng lại có một cái vườn nhỏ
thông qua ngôi nhà số 4, mà ngôi nhà này rất rộng, có tới hai ba lớp vừa mái lá
vừa mái ngói, mỗi lớp có bốn năm cái phòng mà nhiều chỗ ánh sáng mặt trời không
bao giờ lọt tới. Thật là ngoắt ngoéo như một mê thất. Lính kín mà có dò la ra,
mới vào được nhà số 2, còn mò mò từng bước để tiến thì chủ nhân đã có đủ thì
giờ chuyền những đồ quốc cấm qua nhà số 4 rồi đóng cánh cửa thông hai nhà lại
và từ nhà số 4 lại chuyền qua[106]
những
nhà khác một cách rất dễ dàng( ) .
Vì cụ
Sào Nam liên lạc với bọn Vân Nam du học sinh ở phố hàng Bún, và lập một hội tên
là Song Nam[107]
Đồng
Minh hội,( ) nên cụ Đỗ cũng quen biết
bọn đó. Lần đầu tiên lại thăm họ, cụ đi với cụ Phương Sơn. Vì Hán văn lưu lợi cụ
Phương Sơn được cử ra bút đàm.
[108] Hai
bên chào hỏi nhau xong, Hà Thiệu Tăng( )
thay mặt du học sinh, cầmbút hạ ngay câu:
"Đệ
dữ chư huynh giai vong quốc nhân dã" (Em và các anh đều là người mất nước)
rồi thao thao bất tuyệt, thảo một hơi hai trang giấy để bàn về tình hình Hoa,
Việt.
Cụ
Phương Sơn mới đọc câu đầu đã tấm tắc khen là vào đề gọn mà hùng, rồi càng coi
tiếp càng thán phục họ viết hơn mình xa. Mình chỉ quen gò đẽo thơ phú, còn
phóng bút bàn về thời sự, quốc tế thì họ viết được bốn, mình viết chỉ được một.
Sau này,
Tôn Văn có lần qua Hà Nội, Hải Phòng quyên tiền được mười vạn đồng, hình như có
hội đàm với cụ Đỗ Chân Thiết.
Cụ
Nguyễn Tùng Hương tính tình điềm đạm, nhưng rất cương nghị, hoạt động kín đáo
hơn. Cụ là con cụ Tú[109] họ Nguyễn làng Phương Khê (Sơn Tây) ( ) rất có
hiếu,
nghe lời cha, rán học hành cho tinh thông, nhưng không thích lối văn khoa cử,
cũng không ứng thí một lần nào, ngày tết dán đôi câu đối ở cửa ngõ:
Thực
hoạch ngã tâm hoa sắc hảo, Si cường nhân ý pháo thanh oanh.
(Tinh thần
tươi trẻ màu hoa đẹp Ý chí tung hoành tiếng pháo vang.)
Cụ sớm
nuôi cái chí lớn, lấy Tổ quốc làm vợ như [110]
Maz ini( ), nên người thân khuyên bảo rồi ép
buộc, cụ
cũng không chịu lập gia đình, trốn đi ở chùa. Biết vậy, không ai cưỡng ý cụ
nữa, và từ đó cụ chuyên lo quốc sự, lãnh chức giáo sư trong Nghĩa thục, làm
liên lạc viên cho phái Đông du. Mới đầu cụ hoạt động kín đáo, sợ liên lụy đến
cha già, sau Nghĩa Thục bị đóng cửa và cụ Tú đã mất, cụ qua Trung quốc, theo cụ
Sào Nam, và trong đại chiến thứ nhất, năm 1914 hay 1915, cụ cùng với cụ Huỳnh
Trọng Mậu (người Nghệ An tục gọi là Tú Mậu) , được Đức giúp tiền, mua ít khí
giới, trở về nước tấn công một vài đồn nhỏ ở miền Lạng Sơn. Việc thất bại, cụ
lẻn được qua Xiêm cải trang ở chùa ít lâu rồi cũng bị bắt. Còn cụ Huỳnh ở Trung
Hoa, sau Trung Hoa vào phe Pháp chống Đức, đội quân của cụ bị giải tán.
Vụ Thái
Nguyên nổ, cụ tập hợp được ít quân, lại đánh vào Lạng Sơn, nhưng lính tập không
hưởng ứng, cụ thua, định qua Xiêm, tới Hương Cảng bị Pháp bắt, đem về Hà Nội
bắn (1916). Khi sắp chết cụ ngâm đôi câu đối:
Ái quốc
hà cô, duy hữu tinh thần lưu bất tử, Xuất sư vị tiệp thả tương tâm sự thác lai
sinh. Yêu nước tội gì, chỉ có tính thần là còn mãi.
Ra quân
chửa được, nguyện đem tâm sự gởi đời sau.
Cụ Lương
Văn Can thấy nhiều đồng chí hoạt động mỗi ngày một kịch liệt, ra ngoài hẳn
đường lối của Nghĩa Thục (chẳng hạn mua và chở khí giới về Hà Thành, đưa thanh
niên lên Yên Thế với Đề Thám...) , sợ người Pháp ra lệnh đóng cửa trường mà tổ
chức tan tành mất, không biết bao giờ mới khôi phục lại được, nên trong một
cuộc hội họp, có đề nghị với hội viên tách ra làm hai phe, ai ôn hòa thì ở lại,
còn ai muốn bạo động thì biệt lập ra. Đề nghị đó ai cũng cho là phải, song chưa
kịp thi hành thì Nghĩa Thục đã bị thu giấy phép.
Chương 11
NGHĨA THỤC BỊ ĐÓNG CỬA
Cách
hoạt động người mình còn dại. Sức cường quyền ép lại càng mau.
Toàn
quyền Beau được hả dạ một chút sau cái vụ mở trường Đại học trong một tuần,
nhưng vẫn căm gan vì bài Thiết tiền ca đã phá tan kế hoạch kinh tế của ông.
Người
Pháp biết chắc rằng tác giả bài đó là một người trong Nghĩa thục, song chưa nắm
được bằng cớ rành rành, nên còn để ý dò la; tới khi thấy các nhà ái quốc của ta
hoạt động mỗi ngày mỗi hăng, mà ảnh hưởng tới gần mỗi ngày mỗi lớn, họ thẳng
tay đàn áp liền.
Đầu năm
1908 (tháng chạp năm Đinh Mùi) , họ thu giấy phép của Nghĩa thục, lấy cớ rằng
có thể làm cho lòng dân náo động. Tính ra trường hoạt động trước sau được
khoảng một năm, những tháng đầu không có giấy phép, chín tháng sau có giấy
phép.
Tin chưa
ra, các cụ đã đoán được trước, thủ tiêu hết những giấy tờ quan trọng, nhất là
bản in các bài ca ái quốc và những sách của cụ Sào Nam gởi về; còn một số sách
học nào có thể làm lụy cho hội viên thì giấu kỹ, nên khi nhân viên sở Liêm
phóng tới xét, không bắt được gì cả, và hội viên không ai bị giam cầm. Có lẽ
hồi đó họ xét không kỹ như hồi sau này và cũng còn đương bủa lưới, đợi lúc bắt
trọn một mẻ. Họ sai những tên trành rình hàng tháng ở chung quanh Nghĩa thục.
Bọn này thay phiên nhau đứng ở máy nước đầu phổ hàng Bạc, ngó qua nhà cụ Lương,
thấy ai khả nghi ra vào thì bắt đưa giấy thuế thân, ghi tên họ và địa chỉ liền.
Họ còn khờ, làm công khai như vậy, nên các nhà cách mạng biết mà đề phòng, rốt
cuộc không bắt được ai, họ chán và một tên trành phàn nàn với bạn đồng nghiệp:
"Có thấy gì đâu, mà chúng nó cũng bắt chúng mình ngồi rình suốt ngày, tới
nửa đêm như thế này. Mưa phùn lạnh buốt xương." Đợi lúc trường bớt bị dòm
ngó, cụ Lương sai người chuyển lần những sách của thư viện trong trường qua nhà
cụ Phương Sơn ở số 2 ngõ Phất Lộc.
Ngày nào
cụ Phương Sơn cũng nhận được những[111] quả( )
sơn son do các u già đội lại, nói là của cụ Tú này, cụ Phán nọ cho đembánh lại
biếu, mở ra thì toàn là sách. Cụ Phương Sơn phải đốt trọn ba đêm mới hết. Một
người bồi ở với tây, từ trên gác nhà bên cạnh, ngó xuống thấy ngọn lửa cháy
suốt đêm, phải hỏi: "Nhà bên đó nấu bánh chưng hay làm gì vậy?
*
Vậy công
việc dạy học và diễn thuyết phải dẹp, còn công việc chấn hưng công nghệ vẫn
tiến hành, nhưng ít lâu sau những hiệu buôn cũng lần lần phải đóng cửa vì nhiều
cụ tạm lánh mặt, nên thiếu người quản lý. Như ở Hà Thành, hàng hóa ở các hiệu
Đồng Lợi Tế, Tụy Phương...dồn cả về hiệu Hồng Tân Hưng ở hàng Bồ và giao cho cụ
Võ Hoành trông nom. Hiệu này có sáng kiến đón học sinh trường bách nghệ để đúc
các đồ đồng như bình bông, hoặc sơn những khay trà, làm cho nền tiểu công nghệ
nước nhà tiến được một bước.
Muốn
lung lạc các giáo sư trong Nghĩa Thục, viên Thống sứ ra nghị định bổ hai cụ
Hoàng Tích[112]Phụng( ) và Nguyễn Quyền
trong ti Giáo huấn. Cụ
Nguyễn
trước làm huấn đạo, nay thăng Giáo thụ, nhưng không được ở Lạng Sơn nữa mà phải
về một phủ nhỏ ở Phú Thọ.
Hai cụ
Lương Trúc Đàm và Dương Bá Trạc vì đậu cử nhân, được bổ tri huyện, song cả hai
đều từ chối.
*
Các nhà
nho tưởng như vậy đã yên, không ngờ mấy tháng sau, ba biến cố quan trọng xảy ra
trong nước làm cho các cụ bị lụy.
Trước
hết là vụ kháng thuế ở Quảng Nam. Vụ này ảnh hưởng lớn quá, mở đầu cho những
cuộc biểu tình vĩ đại về sau. Hàng vạn người, đều hớt tóc, kéo nhau lại vây tòa
sứ Quảng Nam để xin giảm thuế. Viên Công sứ không chấp đơn, ra lệnh giải tán,
vô hiệu, phải cho lính bắn vào đám biểu tình làm một số người chết. Phong trào
từ Quảng Nam lan vào các tỉnh miền Nam Trung Việt.
Chính
phủ Pháp đổ tội cho các cụ Sào Nam, Tây Hồ, Trần Quí Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đã
xúi dân nội loạn.
Cụ Sào
Nam lúc đó ở Nhật, chúng không làm gì được, cụ Trần Quí Cáp mà các quan lại
Việt ghét nhất vì tính khinh mạn của cụ, bị chém ở Nha Trang([113] cụ Huỳnh
Thúc Kháng bị bắt ở quê đem giam tại Hội An và cụ Tây Hồ đương ở Hà Nội, cũng
bị còng tay[114] giải về Huế ( ).
Sau vụ
xin sưu này, một nhà nho (khuyết danh) làm một bài văn tế ngày nay chỉ giữ được
một phần trong đó tả cảnh khốn đốn của dân quê khi chạy sưu:
Sưu chưa
kịp, phòng chánh đến, phòng phó đến mà phòng cai đến, buộc nhành thắt cổ, phút
xui nên nọc nọc vồ vồ. Thuế chưa có ra, bán gà đi, bán lợn đi, lại bán bò đi,
bán trốt lột xương, tay mới khỏi gông gông trói trói.
Cám cảnh
nhẽ tiền không gạo hết, lấy gì nuôi con trẻ thơ ngây, Xót thay thịt sát xương
mòn, lấy gì cấp mẹ cha yếu đuối?
Vụ thứ
nhì là âm mưu bạo động của Đề Thám. Khi người Pháp cho Đề Thám lập ấp ở Nhã
Nam, cả hai bên đều nghĩ đó chỉ là một giải pháp tạm bợ. Không lẽ nào trên lãnh
thổ Việt Nam lại có một khu vực tự trị ở Yên Thế, có quân đội riêng, hành chánh
riêng, tài chánh riêng được. Trước sau gì hai bên cũng phải một còn một mất.
Năm
1908, Pháp dò la, biết Đề Thám vẫn giao thiệp với Sào Nam, thu dụng thêm nghĩa
binh ở miền Thanh Nghệ, lập thêm đồn, mua thêm khí giới, bèn ra tay trước;
tháng sáu 1908, xử tử mười hai người hoạt động cho Đề Thám rồi đầu năm sau, tấn
công nghĩa quân. [115]( )
Vụ thứ
ba là vụ đầu độc quan binh Pháp ở Hà nội cũng năm 1908, có lẽ do đảng viên của
Đề Thám chủ mưu. Việc thất bại, Bếp Hiên và sáu người nữa trong cơ lính nhà bếp
bị xử tử.
Bài thơ
lục bát "Hà Thành đầu độc 1908" (khuyết danh) làm năm 1912 đã chép
lại ừng chi tiết của vụ này; nhưng chỉ ghi bốn nhà liệt sĩ: Nguyễn Chí Bình,
Nguyễn Cốc, Đặng Nhân, Nguyễn Đức A (tức cai Nga) , đều ở trong đội lính khố
đỏ, và bà hàng cơm, Nguyễn Thị Ba bị giết lây:
Ôi
thương thay! Ôi thương thay!
Kể sao
cho xiết chết lây những người.
Văn mình
thật đã lạ đời,
Đàn bà
giết cả đến người hàng cơm.
Thôi
thôi trâu béo cỏ rơm,
Trăm
nghìn phó một mũi gươm là rồi.
Khen cho
liệt sĩ bốn người,
Một lòng
vì nước, muôn đời tiếng thơm.
Trong
nước đã náo động và Pháp muốn trừ hậu họa, cho bắt hết thảy các nhà cách mạng
Nghĩa thục.
*
Một nhân
viên sở Liêm phóng tới mời cụ Lương vào trình Hoàng Trọng Phu ở Thái Hà ấp.
Trong nhà, nhiều người lo cho cụ, cụ cười và nói: tôi đã bảy chục tuổi rồi, họ
làm gì tôi?". Thực ra, cụ lúc đó mới 54, 55 tuổi, nhưng râu tóc bạc phơ,
người không biết đều tưởng cụ đã thất tuần. Có lẽ nhờ vậy mà Hoàng Trọng Phu
đối với cụ nhã nhặn, bảo cụ khai mọi việc, cụ chỉ ôn tồn đáp:
- Chúng
tôi mở Nghĩa thục để giúp chính phủ khai hóa dân trí, và chính phủ đã cho phép.
Từ khi chính phủ rút phép, thì chúng tôi thôi, không hoạt động gì cả.
Hoàng
Trọng Phu vỗ về cụ mấy câu rồi để cụ về, nhưng tới năm 1913, sau vụ ném tạc đạn
ngày 23-4, người Pháp cho là do nhóm Nghĩa thục cầm đầu, bắt giam cụ ít lâu rồi
đưa cụ đi an trí Nam Vang mười năm.
Cụ Võ
Hoành vì quá khảng khái, bị Hoàng Trọng Phu sai lính căng nọc nhưng chỉ dọa chứ
không đánh. Cụ Dương Bá Trạc hay tin, trốn được, người Pháp sai bắt cụ Khóa là
thân sinh của cụ để tra khảo.
Cụ Khóa
vẫn vui vẻ viết thư cho con, có câu: “Tổ
[116]quốc
khả dĩ vô ngã, bất khả dĩ vô nhi”( )
có ý khuyên con đào tẩu; nhưng vì lòng hiếu, cụ Dương ra mặt để cha được thả.
Cụ
Nguyễn Quyền lúc đó đương làm Giáo thụ ở Phù Ninh cũng bị bắt đưa về Hà Đông để
lấy khẩu cung.
Cụ Lê
Đại mà chính phủ rất ghét vì những bài ca của cụ bị buộc tội là đồ đảng của Đề
Thám và dự cuộc âm mưu đầu độc ở Hà Thành.
Hai cụ
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn bị bắt sau mấy ngày, cũng bị dẫn vào Hà Đông,
nhưng chỉ bị giam một ngày rồi được thả, có lẽ vì Hoàng Trọng Phu biết hai cụ
không hề bạo động.
Cụ Hoàng
Tăng Bí nhờ nhạc gia là cụ Cao Xuân[117] Dục ( )
đương làm Học bộ thượng thư bảo lãnh
nên được
thả và chỉ bị an trí ở Huế. Ở đó, nhân gặp một khoa thi Hội, cụ nộp quyển và
đậu phó bảng.
Còn
những cụ khác không bị để ý tới lắm, lén lút trốn được. Những cụ bị bắt đều
phải ra tòa Đề hình, và [118] bị kêu án trảm giam hậu,( ) sau đổi làm chung thân khổ sai mà đày ra Côn Đảo (1909).
Tới Côn
Lơn, các cụ gặp hai cụ Tây Hồ và Huỳnh Thúc Kháng. Cụ Tây Hồ bị Nam triều thâm
oán vì trong bức thư gởi lên Toàn quyền năm 1906, cụ mạt sát
[119] quan
lại quá dữ, phải mang cái án trảm quyết.( )
Nhưng
nhờ hồi ở Hà Nội, cụ chơi thân với Babut, chủ nhiệm tờ Đại Việt tân báo, và có
chân trong hội Nhân quyền, nên được Babut tận tâm can thiệp, lên thẳng phủ Toàn
quyền xin tái thẩm, phủ Toàn quyền ra lệnh cho Nam triều xử lại và Triều đình
đổi án trảm quyết ra án trảm giam hậu; Babut lại can thiệp nữa, Triều đình lại
bắt buộc phải đổi làm án "Côn Lôn ngộ xá bất nguyên", nghĩa là bị đày
Côn Đảo, dù gặp dịp ân xá cũng không được hưởng.
Khi bước
chân ra khỏi cửa lao Phủ Thừa cụ ngâm bốn câu bất hủ:
Luy luy
thiết tỏa xuất đô môn, Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn. Quốc thổ trầm luân,
dân tộc tụy, Nam nhi hà sự phạ Côn Lơn.
Mà Phan
Khôi dịch ra như sau: Mang xiềng nhẹ bước khỏi đô môn, Hăng hái cười reo lưỡi
vẫn còn.
Đất nước
hãm chìm dân tộc héo, Làm trai chi sá thứ Côn Lôn.
Từ khi
cụ Võ Hoành bị đày, cụ Hoàng Tăng Bí bị an trí, hiệu Hồng Tân Hưng và Đông
Thành Xương ở hàng Gai đóng cửa luôn. Rốt cuộc chỉ còn hiệu Cát Thành mà chủ
nhân là một nhà buôn chỉ có thiện cảm với Nghĩa thục chứ không phải là hội
viên, thì đứng vững hoài cho tới đầu thế chiến vừa rồi.
Những vụ
bắt bớ đó làm những nhà chí sĩ có cảm tình với Nghĩa thục hoặc liên lạc với cụ
Sào Nam cũng bị liên lụy. Trong số những nhà chí sĩ ấy, ta nên kể cụ Nguyễn
Thượng Hiền và cụ Ngô Đức Kế.
[120] Cụ
Nguyễn hiệu là Mai Sơn,( ) Người bé nhỏ,
trắng
trẻo, thanh nhã như con gái, tính tình điềm đạm, đã thông minh lại ham học,
ngay từ nhỏ đã khăn áo tề chỉnh như người lớn, 16 tuổi đậu cử nhân, năm sau thi
Hội, đỗ Đình nguyên, nhưng chưa kịp truyền lô thì kinh thành thất thủ (1885),
khoa đó xóa bỏ. Năm 1892 thi lại, đậu nhị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp) còn Vũ Phạm
Hàm đậu nhất giáp tiến sĩ, làm Toản tu ở Quốc sử quán.
Văn thơ
cụ rất lưu loát, thanh dật, có giọng xuất trần, khác hẳn giọng tình tứ, bóng
bảy của họ Vũ. Thi đậu ít lâu, cụ được bổ đốc học Ninh Bình, rồi đổi đốc học
Nam Định, năm 1907 chính phủ Bảo hộ phế vua Thành Thái, cụ đến tận phủ Toàn
quyền để kháng nghị, rồi bỏ quan về vườn. Pháp ghét cụ; nhưng vì lẽ này lẽ nọ
chưa hạ thủ, thì ít tháng sau biết ở nữa sẽ không yên, cụ bí mật ra đi, không cho
một ai hay, cả cụ bà cũng không biết. Cụ cải trang làm đàn bà, do đường Mông
Cái qua Quảng Đông tìm cụ Tôn Thất Thuyết là nhạc gia của cụ. Sau cụ liên lạc
với cụ Sào Nam, qua Nhật rồi lại về Trung quốc, cho tới khi chán ngán vì bọn
"trành" mà đồng chí sa lưới gần hết, cụ đầu cửa Phật ở Hàng Châu (tỉnh
Chiết Giang) , rồi mất ở đó (1925) .
Chúng
tôi xin giới thiệu dưới đây một bài thơ chữ Hán của cụ mà ít người biết:
LỮ NGÔ
Thặng
thủy tàn sơn lạc nhật dao,
Quốc hồn
diểu diểu cánh nan chiêu.
Sinh vi
độc hạc qui hà ích?
Tử hóa
ai quyên hận vị tiêu!
Hoàng
hải nộ đào thu phủ kiếm.
Ngô môn
hàn nguyệt dạ xuy tiêu.
Duy dư
tráng trí hồn như tạc,
Vạn
trượng hồng nghê quán tử tiêu.
Ở TRỌ
ĐÁT NGÔ
Nước
thẳm non xa, lặn đóng chiều,
Chơi vơi
hồn nước biết nơi nào
Sống làm
hạc lẻ về vô ích,
Thác hóa
quyên sầu hận chửa tiêu!
Hoàng
hải chống gươm, thu sóng réo,
[121]Ngô
môn thổi sáo( ) tối trăng treo.
Còn
chăng, tráng chí nguyên như cũ?
Lên vút
từng mây muôn trượng cao!
Đông
Xuyên dịch
Giọng
thơ của cụ vừa bi hùng, vừa phiêu diêu, nửa như tiếng hạc, nửa như tiếng quyên,
nửa như tiếng sóng, nửa như ánh trăng, thật đúng với đời của cụ.
Còn cụ
nghè Ngô Đức Kế (1878-1929) hiệu là Tập Xuyên bị đày Côn Đảo trên mười năm,
1921 mới được thả.
Cụ quê ở
làng Trảo Nha, Hà Tĩnh, con nhà thế gia ba đời đậu tiến sĩ. Khi được trả tự do,
cụ ra Hà Nội làm chủ bút tờ Hữu Thanh, rất ghét văn thơ lãng mạn, cực lực bài
xích Phạm Quỳnh trong việc hô hào kỷ niệm Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Thơ của
cụ có giọng chua cay, như thơ cụ Huỳnh Thúc Kháng, khác hẳn giọng cụ Mai Sơn.
Năm 1923, Khải Định làm lễ tứ tuần đại khánh, cụ làm bốn bài bát cú Đường luật
mà tôi xin chép lại hai bài đầu:
HỎI GIA
LONG
Ai về
địa phủ hỏi Gia Long,
Khải
Định thằng này phải cháu ông?
Một lễ
tứ tuần vui lũ trẻ,
[122]Trăm
gia ba chục( ) khổ nhà nông.
[123]Mới
rồi ngoài Bắc tai liền đến,( )
[124]Năm
ngoái qua Tây ỉa vãi vùng.
(Bảo hộ
trau dồi nên tượng gỗ
Vua thời
còn đó, nước thời không.
Nước
thời không có, có vua chi?
Có cũng
như không chả ích gì!)
[125]Người
vét đinh điền còn bạch địa ( )
[126]Ta
khoe dụ chỉ tự đan trì.( )
[127]Cấp
tiền nguyệt bổng vinh nào có?( )
Ăn của
quan trường tệ lắm ri! Thọ lắm lại càng thêm nhục lắm. Nhỏ cu li, lớn cũng cu
li.
Chương
12
SAU KHI
TAN RÃ
[128]Ngô
thân bất thành, kỳ chi ngô tử ( ) hính
phủ Pháp muốn tiêu diệt hẳn phong trào cách mạng, nên chẳng những đàn áp dữ ở
trong nước mà còn tìm cách trừ những nhà ái quốc hoạt động ở hải ngoại. Một mặt
họ tung ra một bọn trành qua Trung Hoa, Xiêm, Nhật để dò la tung tích các nghĩa
đảng, một mặt dựa vào hiệp ước Pháp-Nhật mà yêu cầu chính phủ Nhật bắt giao cho
họ những người đầu đảng và giải tán đoàn học sinh. Nhật còn muốn cầu thân với
Pháp, sá gì những thanh niên Việt Nam mà chẳng hy sinh cho Pháp vui lòng? Vì
vậy, sách vở, truyền đơn của đảng đều bị tịch thâu, hơn hai trăm du học sinh mà
non nửa là người Nam bị trục xuất, chính cụ Sào Nam và Kỳ
[129] Ngoại
Hầu cũng phải rời khỏi đất Nhật.( )
Nhắc lại
thời hắc ám ấy của lịch sử cách mạng Việt Nam, cụ Sào Nam than thở: "Cảnh
thất bại của tôi lúc này thật là đau đớn, hình như con người bị lột da xé thịt,
không còn chỗ nào lành lặn nữa!" Phong trào Đông Du do cụ chủ trương mà
nay hàng trăm thanh niên tuấn tú, nhiệt thành của quốc gia sa vào cảnh bơ vơ,
không biết nương tựa ở đâu, ruột nào mà không đứt? Hỡi ơi? Trời đất mênh mông
rộng, biết kiếm nơi nào để đặt chân. [130] ( )
Thế là phong trào Đông Du đương lúc thịnh thì bị dẹp.
Cụ đành
thu xếp cho một số thanh niên qua Trung quốc một số qua Xiêm; năm 1909 cụ cũng
qua Vọng Các còn Kỳ Ngoại Hầu cải trang làm bồi bàn về Nam Việt. Chuyến về nước
này cực kỳ mạo hiểm, nhờ sự tận tâm che chở của hai đồng chí trong Nghĩa thục ở
Sài gòn mà Kỳ Ngoại Hầu được bình an.
Như trên
chúng tôi đã nói, do những liên lạc viên mà ảnh hưởng của Nghĩa thục lan vào
tới Nam. Tại Sài gòn, hai nhà chí sĩ đầu tiên gia nhập phong trào là cụ Nguyễn
An Khang và Nguyễn An Cư, ở Hóc Môn, cụ Nguyễn Thần Hiển ở Cần Thơ. Trong
chương sau chúng tôi sẽ xét hoạt động của các nhà ái quốc thời đó ở Nam, ở đây
hãy xin kể tiếp truyện Kỳ Ngoại Hầu.
Khi tàu
tới Ô Cấp, Hầu bận áo trắng cụt, quần vải đen, đi giày tây, theo hai cụ Khang
và Cư lên bờ, về Sài gòn.
Cụ Khang
có hai người em gái cũng nhiệt tâm với quốc sự và đều có tên là cô Năm: cô Năm
ta em ruột của cụ, quản lý Chiêu Nam lầu ở đường Kinh lấp cũ, sau đổi là đường
Charner, bây giờ là đường Nguyễn Huệ; và cô Năm tây (chắc là em họ của cụ) có
tiệm may ở trường Espagne (Lê Thánh Tôn), chồng là ông Perrot, một người Pháp
có chân trong hội Tam điểm (Franc maçon erie).
Bà
Perrot lúc đó đã góa chồng, sống với hai người con trai đều có Pháp tịch. Bà
đón Kỳ Ngoại Hầu về ở Chiêu Nam lầu, rồi mướn ghe đưa Hầu xuống Mỹ Tho, lên Tân
Châu. Tới đâu bà cũng giới thiệu Hầu là bà con ở Huế vô chơi, lại sai hai cậu
con luôn luôn đi hộ vệ Hầu, không rời một bước, nhờ vậy lính tráng không nghi
ngờ tra xét và Hầu được yên ổn để tuyên truyền và quyên tiền cho đảng.
Số người
hưởng ứng rất nhiều, nhất là tại Cao Lãnh, vì đồng bào Nam Việt thời đó còn cảm
tình với nhà Nguyễn, thấy Hầu mà nhớ lại Nguyễn Ánh và Hoàng tử
Cảnh
những lúc phải bôn tẩu ở đất Đồng Nai, từ Biên Hòa tới Hà Tiên. Người ta còn
lấy lễ quân thần để đãi Hầu, cũng quy bái, một điều chúa công, hai điều chúa
công. Nhiều người ở Tân Châu kể rằng khi Hầu tới nơi đó, một ông Hội đồng và
một ông Hương chủ hết sức phụng dưỡng Hầu, đem cả con gái ra dâng Hầu, kiên từ
không được phải miễn cưỡng ưng. Cuộc tình duyên ghé bến đó không lâu, độ một
tháng sau Hầu phải xuất dương, sợ ở lâu tung tích tất bại lộ. Những thói
"quy bái" đó trước sau gì sao khỏi lọt mắt nhà cầmquyền?
Hầu rời
khỏi xứ năm trước thì năm sau Nam Việt lại được tiếp nhiều nhà cách mạng ở Côn
Đảo về. Trừ cụ Lê Đại bị giam tới mười lăm năm vì cái tài thơ nôm của cụ, còn
các cụ Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Võ Hoành đều được thả cho về làm ăn ở Nam
Việt: cụ Nguyễn ở Bến Tre, cụ Dương ở Long Xuyên, (trọ nhà ông Năm Khách, cũng
gọi là biện Khách ở Cái Sơn, ngoại ô châu thành), cụ Võ ở Sa Đéc.
Chánh
Tham biện các tỉnh đó đều vỗ về các cụ: "Các ông cứ yên ổn làm ăn, chính
phủ sẽ để cho
thong
thả và muốn gì thì chính phủ sẽ giúp. Đừng đi đâu xa mà nếu có việc thật cần
phải đi thì cho bổn chức hay trước. Khách xa lại, đừng nên tiếp là hơn."
Họ lại tặng mỗi cụ 8đ. hay 10đ. mỗi tháng, nhưng chỉ riêng cụ Nguyễn quyền
nhận. Số tiền đó sau rút xuống 4đ. rồi đến thời kinh tế khủng hoảng (1929 hay
1930) thì bỏ luôn.
Cũng
trong năm 1910 hay 191 , nhờ những vận động của Babut, hội Nhân quyền ở Paris
can thiệp với chính phủ Đông Pháp, cụ Tây Hồ được ân xá, nhưng phải an trí ở Mỹ
Tho. Cụ không chịu sống trong cảnh giam lỏng đó, đầu đơn lên phủ Toàn quyền,
đại ý nói:
“Nếu
chính phủ xét tôi là vô tội thì hãy trả tự do hoàn toàn cho tôi , còn nếu xét
tôi là có tội thì lại đưa tôi về Côn Đảo, chứ cái thái độ giam lỏng này là
nghĩa lý gì?”
Pháp lại
buộc lòng phải trả tự do hoàn toàn cho cụ, cụ bèn xin sang Pháp khảo cứu thêm
về chính trị và vận động với chính khách bên đó cho nước nhà được hưởng một chế
độ rộng rãi, dân chủ hơn, nhưng thất bại. Khi Khải Định qua Pháp, năm 1922, cụ
viết một bức thư nổi danh kể bảy tội của hắn. Năm 1925, cụ về Sài gòn, diễn
thuyết vài lần rồi đau nặng, mất ngày 24-
3-1926.
quốc dân làm lễ truy điệu cụ rất long trọng.
Thế là
một số Hội viên của Nghĩa Thục đã vô Trung [131] ( ) và Nam; những cụ còn ở lại Bắc không thể gây lại được phong trào
như cũ, hoặc hoạt động lén lút, hoặc trốn qua Tàu, qua Xiêm.
Một buổi
tối mùa đông năm Tân Hợi (191 ), cụ Phương Sơn đương nằm đọc sách thì cụ Chân
Thiết xồng xộc chạy vào, hỏi:
- Nằm
làm gì đó? Người ta thành công rồi đấy, có biết không? Người ta thành công rồi
mà mình cứ vẫn nằm chờ chết ở đây ư?
Nói
xong, cụ ôm mặt, khóc hu hu. Cụ Phương Sơn ngạc nhiên, hỏi:
- Chuyện
gì thế? Ai thành công?
- Tôn
Văn chứ còn ai nữa? Họ thành công trước mình rồi.
Cụ
Phương Sơn vẫn bình tĩnh:
- Tin
tức ở đâu thế? Sao trong báo Tàu không thấy nói?
- Đi với
tôi thì biết. Bọn Hoa Kiều đương mở hội ở hàng Buồm để kỷ niệm ngày mùng mười
tháng mười, ân quân thắng ở Vũ Xương. Lại mà xem.
- Thế
thì đi.
Một lát
sau, hai cụ vừa rẽ khỏi phố Mã Mây một chút, đã thấy người ta nô nức tiến về
phía Hội quán Quảng Đông. Không nhìn cảnh chưng đèn rực rỡ ở cửa, cũng không
nhận nét mặt hân hoan của Hoa Kiều, hai cụ len lỏi tới một chỗ dán những tờ báo
cáo, đọc những tin cuối cùng về trận Vũ Xương rồi trở ra, xuôi về phố hàng
Ngang.
Cụ Chân
Thiết nói trước:
- Ngẫm
người mà thẹn cho mình. Cụ Phương Sơn cười:
- Việc
gì mà thẹn? Người ta làm trước thì thành công trước, mình làm sau thì thành
công sau, chứ gì?
- Thành
công cách nào? Cứ nằm chết rí ở đó mà đòi thành công?
- Thế
chú có chương trình gì không?
- Tôi sẽ
qua bên đó. Chắc Tôn Văn và bọn Vân Nam du học sinh còn nhớ tôi. Thể nào họ
chẳng giúp mình?
Tối hôm
đó hai cụ đi lang thang hết những phố có Hoa kiều như hàng Ngang, hàng Bồ rồi
trở về hàng Gai, hàng Đào mà bùi ngùi nhớ lại thời hoạt động của Nghĩa thục.
Đồng chí nay đã mỗi người một nơi mà nước nhà thì biết bao giờ mới thay đổi!
Khi chia tay nhau, cụ Chân Thiết bảo:
- Thế
nào tôi cũng qua Trung Quốc. Càng sớm càng hay.
*
Hai
tháng sau, cụ tới rủ cụ Phương Sơn lại đền Bạch Mã ở hàng Buồm. Cụ Phương Sơn
hỏi:
- Chú
muốn xin thẻ về việc xuất hành chăng?
- âng.
Tôi đã trai giới mộc dục rồi, hôm nay thành tâm xin một quẻ. Một tuần nữa tôi
sẽ đi. Tới đền Bạch Mã, cụ Chân Thiết xóc được quẻ:
[132] “Tiểu
chu xuất hải chi triệu”( )
Cụ
Phương sơn nói:
- Quẻ
xấu. Thôi chú hãy hoãn lại, ít tháng nữa tính lại xem sao.
Cụ chân
Thiết vò nát lá xâm, liệng xuống đất, đáp:
[133]- Quỷ
thần an năng tri thử sự ( )? Không, tôi [134]cứ
đi. Đãi Hà chi thanh, nhân thọ kỷ hà! ( ).
Cụ
Phương sơn cười:
Hỏi
Thánh, Thánh dạy, lại không tin thì hỏi làm gì?
Cụ Chân
Thiết không đáp, lẳng lặng đi ra. Tới cửa đền, cụ nói:
- Tôi
mới nghĩ được hai câu thơ này, đọc anh nghe:
Anh hùng
tự cổ nan vi phụ [135] Hào kiệt hà nhân cách cố gia?( )
Cụ
Phương Sơn hiểu tâm trạng của bạn lúc đó đương nghĩ đến gia đình, chỉ gật đầu,
khen hay và để mặc bạn trầm ngâm.
Qua
Trung Quốc, cụ Chân Thiết gặp các cụ Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tùng Hương và
Nguyễn Thái Bạt [136] ( ) rồi liên
lạc với cụ Sào Nam, chở tạc đạn về nước để tổ chức vụ liệng bom vào nhà hàng
Coq d’or (hay nhà Café Métropole?) ở Hà Nội năm 1913. Cụ bị[137] Pháp bắt và xử
tử.( )
Hết
trông cậy được ở người Nhật, các nhà cách mạng của ta hướng về Trung Hoa và
Đức. Cuối năm 191 , cụ Sào Nam qua Tàu và năm sau Kỳ Ngoại Hầu qua Đức rồi về
Trung Quốc để cùng với cụ Sào Nam thành lập Việt Nam Quang Phục hội ở Quảng
Châu, phát hành thông dụng phiếu và quân dụng phiếu để mua khí giới, tính tấn
công Pháp.
Đại
chiến thứ nhất nổ, Đức giúp cho hội được một số tiền nhỏ. Các cụ vội vã hoạt
động liền. Hai cụ Huỳnh Trọng Mậu và Nguyễn Tùng Hương lãnh sứ mạng chở khí
giới vô biên cảnh, tấn công vài đồn nhỏ ở miền Lạng Sơn (1914). Việc thất bại.
Năm 1917
lại có cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên, do Lương Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn (tức
Đội Cấn) chỉ huy.
Lương
Ngọc Quyến là người con kiệt hiệt nhất của cụ Cử Lương. Theo cuốn Lương Ngọc
Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 của Đào Trinh [138] Nhất( ) - Tân Việt - 1957 - thì năm 191 ở Chấn
Võ học
hiệu ra, cụ qua Trung Hoa, nhằm lúc cuộc cách mạng Tân Hợi thành công, cụ giúp
Hồ Hán Dân rồi Lê Nguyên Hồng để có dịp thực hành những điều học được.
Năm
1914, thế chiến nổ, cụ thấy thời cơ sắp tới, về nước để hoạt động. Cụ về Sài
Gòn rồi xuống Long Xuyên tiếp xúc với bạn cũ, cụ Dương Bá Trạc, bị an trí ở
tỉnh đó và gặp cả Nguyễn Bá Trác bạn học ở Nhật, nay làm "trành" cho
Pháp để "lập công chuộc tội" [139]
( ). Hai cụ gặp nhau ở nhà cụ Nguyễn
Thượng
Khách
(tục gọi là cụ Năm Khách) ở Cái Sơn (ngoại ô châu thành) để bàn định kế hoạch:
cụ sẽ qua Xiêm khẩn ruộng và luyện quân, khi có thực lực rồi sẽ cử sự.
Trước
khi qua Xiêm, cụ ghé Nam Vang thăm cha (cụ cử Lương) mới được mấy ngày thì tung
tích bại lộ (do tên phản quốc là Nguyễn Bá Trác mật báo cho Pháp), không dám đi
thẳng qua Xiêm, vì đoán thế nào Pháp cũng tra xét rất kĩ ở biên giới Miên -
Xiêm, nên trở về Sài gòn rồi qua Xiêm bằng đường Hương Cảng, nhưng bị cảnh sát
Anh bắt ở Hương Cảng giao cho Pháp.
Năm 1915
cụ bị giải về Hà Nội, giam ở nhiều nơi, sau cùng ở Thái Nguyên. Tên công sứ
Thái Nguyên lúc đó là Darbes, đứng đầu trong "tứ hung", tức bốn công
sứ bạo
ngược nhất đất Bắc: nhất Đặc (Darbes) , nhì Ke (Ekert) , tam Ma (Delamarre) ,
tứ Bích (Bride) ; hắn sai dùi bàn chân của cụ để buộc xích sắt, nên cụ liệt hẳn
một chân.
Mặc dầu
vậy, có lẽ chính là vì vậy mà chí khí của cụ càng nung nấu tôi luyện; cụ liên
lạc được với viên đội khố xanh Trịnh Cấn, (tên thật là Trịnh Văn Đạt, người
làng Yên Nhiên phủ Vĩnh Tường) một phần lớn nhờ công bà vợ của Trịnh, con nhà
cách mạng Phùng Văn Nhuận ở Sơn Tây, có hai anh là Cả Thấu và Hai Vịnh - hoặc
Hai Vị (?) - cũng bị giam ở Thái Nguyên.
Đêm
30-8-1917, Trịnh Cấn kéo cờ khởi nghĩa phá ngục chiếm đồn. Người ta cõng cụ
Lương Ngọc Quyến từ trong ngục ra để cụ chỉ huy mọi việc. Nghĩa binh làm chủ
tỉnh lị Thái Ntuyên từ 30-8 đến 5-9, dùng lá cờ năm ngôi sao làm quốc kỳ, đặt
quốc hiệu là Đại Hùng đế quốc, công bố hai bài tuyên ngôn với quốc dân. Sau
không chống cự nổi với quân Pháp, phải rút lui. Đội Cấn xếp đặt võng cáng để
đưa cụ đi, nhưng cụ thấy như vậy chỉ thêm phiền cho anh em chiến sĩ, nên quyết
định chết ở Thái Nguyên, nhờ Đội Cấn bắn một phát vào giữa ngực mình (5-9). Hay
tin đó, cụ Dương Bá Trạc làm bài thơ khóc bạn như sau:
Đoạn
tuyệt gia đình với núi sông,
[140]Phất
cờ Đông học ( ) trẩy tiên phong.
Lục quân
Nhật Bản tinh thao luyện, Chiến địa Trung Hoa thỏa vẫy vùng.
[141]Bắc
Hải ( )ghi ơn lời thoại biệt,
Long
Xuyên bao xiết truyện trùng phùng.
[142] Thái
Nguyên độc lập năm ngày trọn,( )
Cho biết
tay đây cọp sổ lồng.
Cụ Lương
Ngọc Quyến lưu lại một bài Cảm tác
trước
khi mất:
Học hải
cầm thư lịch kỷ thu,
[143]Nam
quan( ) hồi thủ tứ du du
[144]Bách
niên tổ quốc qui Hồ lỗ,( )
Thất
xích tàn thu phó bích lưu
Từ thế
bất phùng minh thánh hữu,
Lai sinh
thả báo phụ huynh cừu
Thử hành
hoạch yết Lam Sơn đế.
Hoán
khởi trùng tiêm Pháp tặc đầu.
Đào
Trinh Nhất dịch
Cảm tác
Bể học
xông pha trải bấy lâu Thân tù ngoảnh lại nghĩ mà đau. Trăm năm đất tổ về quân
mọi Bảy thuớc thân tài mặc nước sâu. Bạn tốt đời nay sao vắng cả, Thù nhà kiếp khác dễ quên đâu! Hồn ta gặp
được Lam Sơn đế, Quyết mượn oai linh chém Pháp đầu.
Nghĩa
quân rút ra khỏi Thái Nguyên rồi, còn chống cự được tới cuối năm. Ngày
5-l-1918, Đội Cấn bị vây và bị thương ở Pháo Sơn, chung quanh chỉ còn 4 thủ hạ,
biết là mọi sự đã hỏng tự bắn vào bụng. Trong lịch sử cách mạng của dân tộc ta,
hai cái chết đó oanh liệt và cảmđộng vào bực nhất. Cụ Ngô Đức Kế lúc ấy đương ở
Côn Đảo, làm sáu bài thơ tứ tuyệt chữ Hán, nhan đề là Thái Nguyên thất nhật
Quang Phục ký mà tôi xin trích lại hai bài, bài IV và bài VI:
IV
Cự sưu
hoạt kịch tái vô văn,
Tạc đạn
thanh trầm, Đế đảng phân.
Hảo vị
hà sơn nhất thổ khí,
Cưỡng
nhân ý thị Thái Nguyên quân.
VI
Bút
thiệt vô công kiếm vị thành
Thập
niên cùng đảo ám thôn thanh.
Uất
thông giai khí hà sơn tại
Dạ dạ
phần hương chúc hậu sanh.
Cụ Huỳnh
Thúc Kháng (trong Thi tù tùng thoại) dịch ra như sau:
IV
Tấn kịch
xin xâu đã hạ màn,
Quả bom
ngòi tắt, đảng vua tan.
Non sông
còn có mùi sanh khí,
Tuồng
Thái Nguyên lưa một tiếng vang.
VI
Bị chả
xong, gươm cũng dở dang.
Mười năm
nín tiếng chốn cùng hoang.
Non sông
un đúc người sau đấy,
Câu
chuyện thường đêm cứ đốt hương.
Các nhà
cách mạng của ta trông mong ở Trung Hoa giúp sức, nhưng năm 1917, Trung Hoa lại
đứng về phe Pháp, tuyên chiến với Đức, thế là các cụ hết hy vọng.
Phong
trào cách mạng lại xuống. Không nhờ ở ngoại viện không được, mà nhờ thì phải
chịu những nông nỗi đó.
Chương 13
PHONG TRÀO Ở TRUNG VÀ NAM
Chúng
tôi chưa kiếm được nhiều tài liệu về phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ở Trung và
Nam.
Có thể
rằng công cuộc duy tân ở Trung xuất hiện sớm hơn ở Bắc nhờ cuộc Nam du của cụ
Phan Châu Trinh năm 1904. Khi ghé Phan Thiết, cụ đã mở một thư xã, diễn thuyết
nhiều lần (coi chương I); năm 1905 ông Nguyễn Trọng Lợi mở tư thục Dục Thanh để
dạy thanh niên theo một lối mới. Trường có tiếng vang vào trong Nam và một gia
đình ở Tân Thành (Đốc Vàng thượng) Long Xuyên, gởi một người con ra học, mặc
dầu thời đó phương tiện giao thông rất khó khăn, phải đi bằng ghe bầu. Người đó
hiện còn sống ở Bạc Liêu, họ Nguyễn tên Phán. Ông cho tôi hay rằng mỗi buổi
sáng có một giờ thể dục rồi mới học các môn về sử ký, địa lý, chính trị... bằng
Việt ngữ.
Các bài
ca ái quốc của các cụ Phan đều được học thuộc lòng; ngoài ra giáo sư, một cụ Tú
(có lẽ là cụ[145] Lương Thúc Kỳ( ))
giảng thêm về các sách của
Khang
Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Nhưng chỉ được mấy tháng rồi trường bị đóng cửa.
Sau khi
Đông Kinh Nghĩa thục bị rút giấy phép, phong trào mới lan vào Bình Thuận, do
một nhà cách mạng, cụ Nguyễn Hữu Hoàn, thân phụ nhà văn Nguyễn Hữu Ngư. Cụ sanh
năm 1887 ở xã Phụng Hoàng (Hà Tĩnh , thi hương một kỳ rồi bỏ luôn khoa cử, hồi
ở quê nhà đã chịu ảnh hưởng của cụ Tây Hồ, hoạt động ở Quảng Nam, Quảng Ngãi,
cho cả hai phong trào Đông du và Duy tân, liên lạc với cụ Thái Phiên ở Đà Nẵng,
cũng hô hào đồng bào cắt tóc, theo cái học mới... Khi phong trào chống sưu thuế
bị đàn áp dữ dội, cụ lại di cư xuống phía Nam, ghé Phan Thiết, gặp vài bạn đồng
tâm, như cụ Hồ Tá Bang, phụ thân bác sĩ Hồ Tá Khanh, cuối cùng cụ định cư ở
làng Tam Tân, huyện Hàm Tân, gần Kê Gà. Nơi này hồi đó rất hẻo lánh chỉ có một
vài xóm nhà dựa lưng vào rừng và nhìn ra biển, không có trường học mà thiếu cả
ông đồ. Cụ làm thuốc và mở lớp dạy học chữ Hán theo tinh thần Khang - Lương,
rồi dạy chữ Việt theo tinh thần Đông Kinh Nghĩa Thục, cổ động tình đoàn kết,
phổ biến những tư tưởng dân chủ, tự cường, bài trừ dị đoan... Được dân trong
miền kính mến, nên cụ chọn ngay nơi đó làm quê hương thứ nhì. Nhờ cụ mười lăm
năm sau những bài ca như Á Tế Á được thiếu phụ Hàm Tân dùng để ru con.
Năm
1917, cụ Nguyễn Đình Kiên tức Tú Kiên, một đồng chí mà cũng là đồng hương của
cụ vượt ngục Côn Đảo mà tấp vào Tam Tân, cụ bảo lãnh với dân làng rồi cho người
thân tín đưa lên ga Sông Phan trốn thoát. Vụ đó sau có người tố cáo, cụ Nguyễn
Hữu Hoàn bị đày ra Lao Bảo hai năm, được ân xá, phát hồi nguyên quán (Hà Tĩnh).
Ít năm sau cụ trốn về Tam Tân, lại bị tố cáo, lại bị phát hồi, cuối cùng cụ
phải cải danh, vào Nam. ở tại miền Cần Đước, Cần Giờ, tới khi Nhật đảo chánh,
mới trở về Tam Tân.
Trong
cuộc cách mạng của toàn dân năm 1945, cụ cùng con trai và môn đệ hoạt động cho
ủy ban trong miền, rồi ra Quảng Ngãi, Tuy Hòa, gặp lại bạn cũ là cụ Huỳnh Thúc
Kháng, nhưng thời đã khác mà lòng con người cũng khác, nên cụ hơi chán, lại trở
về Tam Tân, mất tại đó năm 1953.
Như vậy
thì ta có thể đoán rằng suốt giải Trường Sơn và bờ biển Trung Việt, còn nhiều
nơi lẻ tẻ chịu ảnh hưởng của Nghĩa Thục, chúng ta hiện nay chưa thu thập
được tài
liệu đấy thôi.
Người có
công nhất ở miền Trung là cụ Phan Châu Trinh. Ngoài những hoạt động năm 1905 ở
Phan Thiết, cụ còn hô hào thành lập nhiều trường và nhiều cơ sở thương mại,
tiểu công nghệ ở Quảng Nam. Chúng tôi mong rằng các nhà viết địa phương chí về
xứ Quảng sẽ ra công tìm thêm nhiều tài liệu về công cuộc duy tân của cụ.
Tại Nam,
như trong một chương trên tôi đã nói, ba chí sĩ đầu tiên hưởng ứng phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục là các cụ Nguyễn An Khang, Nguyễn An Cư và Nguyễn Thần
Hiến. Phải kể thêm cụ Trần Chánh Chiếu, tức Gilbert Chiếu.
[146])
là một nhà văn danh tiếng ở Sài gòn thời đó, viết giúp tờ Nông cổ mín đàm và
dịch nhiều truyện Tàu như Tam Quốc chí, Thấy hử, Phấn Trang lầu. . . Cụ lập một
khách sạn đặt tên là Chiêu Nam lầu để đưa rước các thanh niên xuất dương.
Cụ
Nguyễn Thần Hiến, quê ở Hà Tiên, lập nghiệp ở Cần Thơ, sau khi lập Khuyến du
học hội, bị người
Pháp dòm
ngó, biết không thể hoạt động trong nước được nữa, năm 1908 lén qua Trung Hoa,
Nhật Bản, Thái Lan, gặp cụ Phan Bội Châu ở Thái Lan, năm 1913 đem về nước một
số tạc đạn mua ở Hương Cảng bị bắt giam ở Hà Nội, tuyệt thực và mất đúng ngày
nguyên đán năm Giáp Dần (1914) .
Cụ Trần
Chánh Chiếu, tức Gilbert Chiếu, cũng gọi là Phủ Chiếu, vì cụ được chức phủ hàm,
quê ở Rạch Giá, làm chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn, có lần bí mật qua Hương Cảng
hội đàm với cụ Sào Nam, do con là Trần Văn Tiết (tức Jules Tiết mà có sách chép
là Jules Tuyết) du học ở Hương Cảng giới thiệu, rồi đem những bản hiệu triệu
bằng Hán văn của cụ Sào Nam về nước. Cụ cùng với cụ Nguyễn Thành Út lập Minh
Tân công nghệ xã để nấu xà bông ở Chợ Lớn và Minh Tân khách sạn ở trước ga xe
lửa Sài Gòn để đón tiếp các đồng chí.
Ngoài
ra, cụ Đặng Thúc Liêng ở Sa Đéc cũng hoạt động ít nhiều.
Nhờ các
cụ ấy mà các sách cách mạng của cụ Sào Nam, những bài ái quốc của Nghĩa Thục
được truyền vào Nam và một số đông thanh niên được đưa qua
Nhật,
như Trương Duy Toàn, Đỗ Văn Y, Nguyễn Háo [147]
Vĩnh...( ) Năm 1910, các cụ ở Đông Kinh trừ cụ
Lê Đại,
bị đưa từ Côn Đảo về an trí tại Nam Việt. Tuy bị dò xét kỹ, các cụ không hoạt
động được gì nữa, song nhờ tư cách cùng chí khí, các cụ cảm hóa được một số
đồng bào. Nhiều gia đình ở Long Xuyên, Sa Đéc, Bến Tre ngưỡng mộ các cụ, cho
con em lại học và một số đông nhà cách mạng lớp sau nay, nghĩa là từ 1925 trở
đi, tự hào rằng đã được các cụ dạy bảo hồi còn nhỏ. Người Pháp đâu có ngờ rằng
bắt các cụ biệt xứ lại là vô tình giúp các cụ cơ hội gieo mầm cách mạng ở những
nơi xa xôi.
Tính
tình ngang tàng của cụ Võ Hoành đã nhiều lần làm cho nhà cầm quyền ở Sa Đéc bực
mình mà cứ phải nhắm mắt làm lơ. Từ chối số tài trợ 10đ. chính phủ tặng mỗi
tháng, đó chỉ là việc thường, mặc dầu 10đ, hồi 1910 bằng vài ngàn đồng bây giờ;
không chịu đóng thuế thân, lính hỏi thì bảo lính: "Lại đòi quan Chánh Tham
biện, chính phủ thiếu tôi mỗi tháng 10đ, đã biết mấy năm rồi", cũng chỉ là
một việc thường nữa; đến như ngày lễ Cách mạng Pháp (14 tháng 7 d.l.) lính bảo treo
cờ tam tài, cụ ừ ừ rồi bảo con gái thượng ngay một chiếc quần móc trên đầu sào
ở gần cửa, thì quả thực đầu cụ là đầu "sọ gáo", (coi Phụ lục II) .
Thơ cụ
không hay, nhưng luôn luôn có cái giọng hằn học, phẫn uất của một nhà cách mạng
phải khoanh tay chờ thời. Gần sáu chục tuổi, cụ gởi cho bạn một bài:
Ngao
ngán lòng tôi tối lại mai, Lòng tôi, tôi biết giãi cùng ai? Ngàn năm cố quốc
hồn chưa tỉnh, Hai chữ đồng tâm nét cũng sai!
Mài lệ
chép thơ phơi trước mắt, Coi tiền như mạng bỏ ngoài tai. Thôi thôi biết nói chi
cho hết, Càng nói càng thêm nỗi thở dài.
Năm
1945, sau khi Nhật đầu hàng, tôi được gặp cụ tại một trụ sở thanh niên ở Sài
Gòn. Tóc đã bạc nhiều, chân đã chậm nhưng lưng cụ vẫn thẳng như một cây cột.
Nghe nói năm sau, cụ theo nghĩa quân vào Đồng Tháp Mười, bày mưu để tấn công
địch, người ta không theo kế hoạch của cụ đến nỗi đại bại, cụ uất quá, hộc máu
mà chết.
*
Cụ
Phương Sơn họa lại bài thơ trên của cụ Võ Hoành như sau:
Khí
phách thường như buổi sớm mai, Đường văn minh đó, hẹp chi ai?
Đạp vòng
tớì đất chân cho vững, Vẽ mặt giang san, bút dám sai?
[148] Cọp
bắt tay không đừng nói khoác,( )
[149] Rắn
theo tàn đuốc cũng công tai. ( )
Anh em
giữ lấy niềm hòa hảo, Nòi giống về sau phúc lộc dài.
Đọc hai
bài thơ đó, ta thấy tính tình hai cụ trái hẳn nhau: một cụ thì nóng nẩy, một cụ
thì ung dung, một cụ chỉ muốn vùng vẫy bứt xiềng, một cụ thì dưỡng tâm để đợi
vận.
Sau khi
cụ Chân Thiết qua Trung Hoa, cụ Phương Sơn vẫn ở lại Hà Nội hoạt động ngầm,
nhưng khi thấy cụ Chân Thiết cuồng nhiệt, táo bạo quá, cụ đoán trước việc liệng
tạc đạn vào nhà hàng Coq d'Or thế nào cũng có hậu quả tai hại cho nghĩa đảng,
khuyên bạn mà không được, cụ giả câm, nhờ một người bồi tàu là Lý[150]Tuệ( ) giấu cụ trong khoang chứa than của một
chiếc tàu tây, lén vô Sài Gòn, tính ở Nam ít tháng để liên lạc với đồng chí rồi
sẽ qua Xiêm, không ngờ tàu vô Vũng Tàu thì hay tin đêm trước Phan Xích Long một
công phá khám lớn Sài Gòn (1913) , mật thám đương canh gác, dò la rất gắt những
kẻ lạ mặt. Cụ phải trốn lánh ở Sài Gòn trong một thời gian, không dám đi tìm
thăm các cụ Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Dương Bá Trạc; sau lẻn về một miền hẻo lánh
ở ven Đồng Tháp Mười, một miền hồi đó chưa có đồn bót của Pháp, mà sự giao
thông với các nơi khác đều do ghe xuồng.
Tại đó
cụ gặp hai đồng chí là cụ Hồ Nhựt Tân và cụ Ba Điền (tự là Hiện Long) . Hồi mới
hay tin Đông Kinh Nghĩa Thục thành lập, hai cụ này mướn ghe bầu ra Hà Nội để
nhập hội, nhưng tới nơi thì Nghĩa Thục đã bị đóng cửa. Hai cụ lạ xứ, bơ vơ,
giọng nói làm cho mọi người để ý, sợ ở lại lâu tất bị bọn "trành"
bắt, hỏi giấy thông hành, rồi tra xét, giam cầm, nên đành lại do đường biển mà
về Nam. Năm 1915 cụ Phương Sơn khuyên cụ Hồ Nhựt Tân mở hiệu thuốc Tân Hợp Long
ở Chợ Thủ làm nơi liên lạc các đồng chí. Cụ Lương Văn Can lúc đó bị an trí ở
Nam Vang, hay tin, mừng một bài thơ trong đó có hai câu:
Hóa hàng
đủ cả Nam và Bắc, Tư bản coi ra riêng cũng chung.
Cụ
Phương Sơn lại liên lạc với cụ Nguyễn Quang Diêu (1880-1936) , người Cao Lãnh.
Cụ Nguyễn thông chữ Hán, có chí từ hồi trẻ, tiếp tay cụ Nguyễn Thần Hiến trong
Khuyến du học hội, tiếp xúc với các cụ Dương Bá Trạc, Võ Hoành và có ý chờ cơ
hội xuất dương. Năm 1913, cụ Huỳnh Hưng tên thực là Huỳnh Văn Nghị, người Tam
Bình - Vĩnh Long, đã qua Nhật từ 1906, được các cụ Cường Để, Phan Sào Nam phái
về nước đón các đồng chí, cụ Nguyễn Quang Diêu nhân dịp cùng với mươi người
nữa, lén qua Trung Hoa, tới Hương Cảng, chưa kịp đi Hàng Châu thì bị cảnh sát
bắt cùng với Nguyễn Thần Hiến, Đinh Hữu Thuật, Huỳnh Hưng, và giải về Hà Nội,
giam ở Hỏa Lò, tức Khám Lớn.
Cụ chép
lại lần bị giam đó trong bài Hà Thành lâm nạn, một bài có giá trị về phương
diện tài liệu lịch sử Cách mạng Việt Nam, mà dưới đây tôi xin trích vài đoạn:
Thương
ông Thần Hiến râu mày,
[151] Cùng
Đinh Hữu Thuật ( ) đều đày mười
năm.
Càng
thương kẻ thiếu niên Nguyễn Truyện
[152]( )Du học mà án biện chung thân.
Oan anh
Trần Ngọ (?) quá chừng,
Tám năm
tân khổ không phân lẽ nào.
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . .
[153]Còn
một bác tên Bùi Chi Nhuận, ( )
Xiêm
giải về án luận chung thân. Thảm cho Ba Phú (?) muôn phần,
Đi bồi
mà cũng phong trần năm năm.
. . .. .
. . . . . . . . . . . . . . .
Còn
ngoài Bắc hỏi ai chí sĩ,
Hiệp kể
ra hơn bảy mươi người
[154]Bảy
ông xử tủ đã rồi, ( )
Bao
nhiêu đều phải lưu đồ phương xa.
[155]Nghĩ
thương cụ Cử già( ) tuổi tác,
Vì non
sông phải bước tân toan
Trong
lao lại có cô Hoàng, (?)
Vẩn (?)
phường nhi nữ mà gan anh hùng.
Năm
1914, cụ Nguyễn Quang Diêu bị đày qua đảo Guyane, năm 1917 cụ vượt ngục, trốn
qua đảo Trinidad (tên Pháp là Trinité) của Anh, làm công cho một tiệm buôn
Trung Hoa, học thêm tiếng Trung Hoa và học tiếng Anh, rồi cuối 1920 trốn về
Hương Cảng, tìm gặp cụ Nguyễn Hải Thần, cuối 1926 mang quốc tịch Tàu, trở về
Sài Gòn sau mười năm lưu lạc. Từ Sài Gòn, cụ về thẳng Sa Đéc, thăm cụ Võ Hoành,
chỉ kịp giáp mặt vợ con một lần rồi lại hăng hái lo việc cách mạng, len lỏi ở
các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ, Tân An, tìm đồng chí lập đảng; sau bị Pháp
dò ra được tung tích và lùng bắt, cụ phải trốn ở làng Vĩnh Hòa, giáp biên giới
Miên Việt, rồi mất tại đó. Sức vùng vẫy và tính mạo hiểm của cụ, ít ai bì kịp.
Nhân một
dịp Tết, cụ ghé làng Đốc Vàng Thượng thăm cụ Phương Sơn, chán nản đọc cho bạn
nghe bài thơ dưới đây:
[156] Cày
mòn tấc lưỡi mấy năm trời( )
Tuy
chẳng giàu mà cũng đủ xơi. Chồng thẻ tháng ngày thoi giục tuổi, Đầy sân đào lý
gấm thêu chồi.
Cây nêu
tiếng pháo đâu như đấy, Chén rượu câu thi ai với tôi?
Người
khách cho hay xuân cũng khách,
[157] Thôi
ta cung hỉ lấy ta chơi !( )
Cụ
Phương Sơn họa lại:
Đã từng
vùng vẫy bốn phương trời, Năm mới về đây nhậu lại xơi.
Tuyết
trắng hao mòn gần hết lạnh, Mai vàng rực rỡ muốn đâm chồi. Gởi nhờ trời đất, ai
không khách, Mài miệt cầm thư thẹn cái tôi.
Gặp lúc
thái bình mây gió tốt, Nên chơi ta rủ bạn ta chơi.
Trong
bài đó hai câu thực ám chỉ sự suy vi của thực dân da trắng và sự cường thạnh sẽ
tới của giống da vàng; hai câu kết tiên đoán sẽ có cuộc đại chiến ở Thái Bình
Dương.
KẾT
Câu thơ Tín Quốc để về sau. (Nguyễn Thượng
Hiền)
Sau Thế
chiến thứ nhất, thế lực của Pháp lại có vẻ vững như bàn thạch, những nước lân
cận có thể giúp ta được như Trung Hoa, Nhật Bản đều là đồng minh của Pháp, nên
phong trào cách mạng Việt Nam phải tạm xuống, suốt mấy năm yên tĩnh, gần như
không có một cuộc bạo động nào. Dù tận lực bôn ba, cụ Sào Nam cũng chỉ tổ chức
được mỗi một cuộc ném bom ở Sa Diện để ám sát Toàn quyền Merlin. Merlin thoát
chết mà Phạm Hồng Thái thì lưu danh thiên cổ, tới dân tộc Trung Hoa cũng phải
ngưỡng mộ, đặt người nằm ở Hoàng Hoa Cương, bên cạnh 72 vị liệt sĩ của họ.
Pháp
càng mạnh thì bọn "trành" hoạt động càng dữ, nhiều nhà ái quốc bị sa
lưới, nên số đông ở hải ngoại phải tạm ngưng hoạt động, cụ thì làm ruộng chờ
thời, cụ thì kiếm chỗ dạy học; chán ngán thế cuộc nhất là cụ Nguyễn Thượng
Hiền, thấy con một nhà cách mạng mà đi làm mật thám cho Pháp, cụ nản chí, đầu
thiền gõ mõ ở Hàng Châu, sau khi gởi cho đồng chí bài thơ đầy:
Thôi
thôi càng nói lại càng rầu, Mảnh áo đêm khuya thấm hạt châu. Việc nước ai làm
ra đến thế?
Cơ trời
còn biết ngóng vào đâu? Hai bên gánh vác vai thêm nặng, Muôn dặm xa xôi bước
khó mau.
Giận
biển sầu non như chẳng chuyển,
[158]Câu
thơ Tín Quốc để về sau. ( )
Năm
1925, cụ Sào Nambị bắt ở Thượng Hải vì một tên trành điểm chỉ, mà tên đó lại là
cháu một nhà ái[159]quốc( ) cũng bôn ba
hải ngoại như cụ mới là đau
lòng cho
chứ. Tưởng là sẽ chết, cụ làm bài thơ tuyệt mệnh:
Nhất lạc
nhân hoàn lục thập niên, Hảo tòng kiến nhật liễu trần duyên. Sinh bình kỳ khí
qui hà hử?
Nguyệt
tại ba tâm, vân tại thiên. Sáu chục năm nay ở cõi đời, Trần duyên giờ hẳn giũ
xong rồi. Bình sinh chí lớn về đâu nhỉ?
Trăng
giọi lòng sông, mây ngất trời (Dịch giả: Khuyết danh)
Nhưng
khi cụ về tới nước thì đủ các giới trong quốc dân xin chính phủ Pháp ân xá cho
cụ, và cụ chỉ bị an trí ở Huế. Trong khi cụ còn bị giam ở Hà Nội, cụ Nguyễn
Thượng Hiền mất ở Hàng Châu; theo lời di chúc, nhà chùa hỏa táng cụ rồi đổ cốt
hôi xuống sông Tiền Đường.
Năm sau,
cụ Tây Hồ mới ở Pháp về được ít lâu, cũng qui tiên ở Sài Gòn. Hay tin, cụ Sào
Nam viết bài Văn tế khóc bạn:
Than ôi!
Tuồng
thiên diễn mưa Âu gió Mỹ, cuộc nọ kém thua hơn được, ngó non sông nên nhớ bậc
tiên tri;
Dấu địa
linh con Lạc cháu Hồng, nguời sao trước có sau không, kinh sấm sét hỡi đau lòng
hậu bối.
Vãn biết
tinh thần di tạo hóa, sống là còn mà thác cũng như còn;
Chỉ vì
thời thế khuất anh hùng, xua đã rủi mà nay càng thêm rủi.
Lấy ai
đây nối gót nghìn thu, Vậy ta phải kêu người chín suối Nhớ Tiên sinh xưa:
Tú dục
Nam châu, [160]Linh chung Đà hải( ).
Nghiệp
thừa gia cung kiếm cũng pha đường, Nền tác thánh thi thư từng thuộc lối
Gan to
tày bể, sức xông pha nào kể ức muôn người,
Mắt sáng
hơn đèn, tài linh lợi từ khi năm bảy tuổi.
Vận nước
gặp cơn dâu bể, đeo vai thân sĩ còn lòng đâu áo mũ xênh xang,
Thói nhà
chăm nghiệp bút nghiên, giấu mặt hào hùng, thì tạm cũng khoa truờng theo đuổi.
Bài văn
đó dài mà lâm li. Cụ lại điếu một đôi câu đối tuyệt hay, giọng trầm hùng:
Sương
hải vị điền, Tinh vệ hàm thạch, Chung Kỳ ký một, Bá Nha đoạn huyền.
[161] (Sương
hải chưa bồi, Tinh vệ ngậm đá,( )
Chung Kỳ
đã mất, Bá Nha đập đàn.
Lại năm
sau nữa (13-6-1927), cụ Lương Văn Can mất ở Hà Nội vì bệnh già. Cụ bị an trí ở
Nam Vang từ 1914 đến 1924, về Hà Nội lại mở trường dạy học - trường Ôn Như -
nhưng không còn hoạt động gì được nữa. Lời di chúc cuối cùng của cụ là:
“Bảo
quốc túy, tuyết quốc sỉ”
Đám táng
cụ Tây Hồ được cử hành long trọng. Nhiều nơi làm lễ truy điệu; học sinh bãi
khóa suốt từ Nam tới Bắc, gây tiếng vang rất lớn trong nước. Thấy vậy nên khi
cụ Lương mất, chính phủ Pháp lấy cớ là cụ bị bệnh thời khí bắt làm lễ an táng
rất gấp, ngay năm giờ rưỡi chiều hôm đó để khỏi náo động, thành thử di hài của
cụ không đưa về quê ở làng Nhị Khê được mà phải chôn ở Phúc Trang Hợp Thiện
(Bạch Mai) dưới ánh đuốc vì tới huyệt đã bảy giờ tối. Nhưng ở Hà Nội cũng có
hằng ngàn người, đông nhất là học sinh và thợ thuyền, đưa cụ tới huyệt. Hai cụ
Hoàng Tăng Bí và Ngô Đức Kế chấp phất bên cạnh linh xa (coi phụ lục II). Rồi
ngày chủ nhật 19-6, cả ngàn sinh viên và thợ thuyền định biểu tình ở Phúc Trang
Hợp Thiện, bị Pháp đàn áp (La Volonté indochinoise số 3-7- 1928).
Ở Sài
Gòn, ngày 26-6, một môn đệ cũ của cụ là Trần Huy Liệu, lúc đó làm chủ bút tờ
Đông Pháp thời báo, đứng ra làm lễ truy điệu, đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng. Cụ
Phương Sơn là đồng chí mà cũng là rể của cụ, điếu:
Bảy mươi
bốn tuổi già, chứa biết bao giận nước thù nhà, cười nói vẫn bền cùng sắt đá, Mười
lăm năm lưu lạc, kể sao xiết tình thầy nghĩa bạn, đền bồi xin hẹn có non sông.
Chính
phủ thực dân bắt giam ông Trần Huy Liệu, gần một tháng không hỏi tới, ông và
vài đồng chí tuyệt thực để phản đối, năm ngày sau, Pháp phải thả ông.
Ngày
29-10-1940 cụ Sào Nam mất ở Huế, lưu lại một bài từ giã bạn bè, lời buồn vô
hạn:
Từ giã
bạn bè lần cuối cùng.
Mạc sầu
tiền lộ vô tri kỉ,
[162]Thiên
hạ hà nhân bất thức quân?( )
Bảy mươi
tư tuổi trót phong trần,
[163]Nay
được bạn mới tinh thần hoạt hiện. ( )
Những
ước anh em đầy bốn biển,
Nào ngờ
trăng gió nhốt ba gian.
Sống xác
thừa, mà chết cũng xương tàn,
Câu tâm
sự gởi chim ngàn cá biển.
[164]Mừng
được đọc bài văn sinh vãn( )
Chữ đá
vàng in mấy đoạn tâm can...
Tiếc
mình nay sức mỏng, trí thêm khan,
Lấy gì
đáp khúc đàn tri kỷ?
Nga nga
hồ, chí tại cao sơn,
[165]Dương
dương hồ, chí tại lưu thuỷ!( )
Đàn Bá
Nha mấy kẻ thưởng âm?
Bỗng
nghe qua khóc trộm lại thương thầm:
Chung Kỳ
chết, e quăng cầm không gảy nữa! Nay đương lúc tử thần chờ trước của, Có vài
lời ghi nhớ về sau. Chúc phường hậu tử tiến mau!
Vì thời
cuộc không thuận, quốc dân không làm lễ truy điệu cụ được. Tiếp theo tới các cụ
Nguyễn Quyền lìa trần ở Bến Tre, cụ Dương Bá Trạc ở Tân Gia Ba, [166]
( ) cụ Võ Hoành ở Đồng Tháp Mười, cụ Huỳnh
Thúc
Kháng ở Quảng Ngãi (1947) . Gần đây lại có tin cụ Lê Đại mất ở Hà Nội (1951) và
cụ Nguyễn Hải Thần qui tiên năm ngoái ở Bắc Kinh.
Thế là
các nhà cách mạng lớp trước, ở đầu thế kỉ,[167]lần lượt theo nhau về cõi khác
hết,( ) hiện nay may lắm còn được một
hai cụ.
Từ khi
cụ Sào Nam bị bắt thì hoạt động của các vị đó gần như hoàn toàn ngưng hẳn.
Nhưng ngọn hồng kì lại chuyển qua tay những thanh niên và những đảng cách mạng
khác nối nhau xuất hiện ở trong nước cũng như ở ngoài nước, nào là Tâm tâm xã,
nào là Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, nào là Tân Việt cách mạng
đảng nào là Việt Nam quốc dân đảng, rồi hội kín này, hội kín nọ..., cứ đợt này
chưa xuống thì đợt khác đã lên, liên miên bất tuyệt, đập vào nền tảng của thực
dân Pháp ở Việt Nam, và ngày nay nền tảng đó đã hoàn toàn sụp đổ mặc dầu Pháp
đã đem hàng ức thanh niên của họ, huy động tất cả những khí giới tối tân nhất
để chống đỡ, và được cả Anh lẫn Mỹ giúp sức.
Cuốn
sách này tái bản đúng kỳ lục thập chu niên của [168]năm Đông Kinh Nghĩa Thục ra
mắt quốc dân.( )
Ngày nay
đã cách xa Nghĩa Thục đúng 60 năm, ta có thể xét Nghĩa Thục một cách bình tĩnh
và vô tư được.
Lấy phần
đông mà xét thì trong 25 năm đầu thế kỷ, phong trào cách mạng là do các nhà cựu
học chỉ huy, với một số ít nhà tân học giúp sức; trong 25 năm sau phong trào do
các nhà tân học tổ chức và được một số nhà cựu học làm cố vấn.
Trong
giai đoạn trên, các nhà cách mạng chia làm hai phe: một phe bạo động mưu cầu
ngoại viện mà cụ Sào Nam lãnh đạo, một phe ôn hòa chủ trương duy tân mà cụ
Lương Văn Can và cụ Tây Hồ cầm đầu. Tuy nhiên hai phe vẫn liên lạc, hợp tác mật
thiết với nhau, kính trọng, quý mến nhau chứ không hề khuynh loát, mạt sát
nhau.
Cả hai
phe, mà nhất là phe ôn hòa, hoạt động còn thiếu kinh nghiệm, thiếu phương pháp,
có vẻ những nhà cách mạng "tài tử" chứ không phải hạng cách mạng
chuyên môn thấu rõ đủ cả lý thuyết lẫn kỹ thuật như nhiều nhà cách mạng gần
đây. Có người lại chê các bực tiền bối đó làm thơ nhiều hơn làm cách mạng. Có
phần đúng, nhưng ta không thể trách các cụ điều đó được: các cụ làm thơ cũng
như ngày nay chúng ta chép nhật ký, mà chính nhiều bài thơ đó đã cảm hóa được
quốc [169]dân.( ) Trái lại, ta nên
phục các cụ là hoạt động
thiếu
phương tiện, thiếu tổ chức trong một thời gian ngắn như vậy mà đã có ảnh hưởng
vô cùng lớn tới quốc dân.
Ngày nay
nghe nói đến Đông Kinh Nghĩa Thục, người Việt nào cũng ngưỡng mộ, kính phục
những nhà cựu học đã gây nên phong trào duy tân đầu tiên ở nước nhà. Bị un đúc
trong cái lò thi phú mà các cụ có đầu óc mới mẻ như vậy quả thực là siêu quần.
Công của
các cụ rất lớn.
Nhờ
Nghĩa Thục mà sau những vụ thất bại ở cuối thế kỉ trước, chúng ta lấy lại được
lòng tự tin: không tự ti đối với Trung Hoa và Âu Tây mà cũng không tự cao đến
mù quáng. Chúng ta vẫn tôn trọng những giá trị tinh thần - hi sinh và bất khuất
- của cựu học mà đồng thời cũng biết nhận giá trị thực tế của tân học:
Học Tây
học Hán có rành mới hay.
Cởi bỏ
được những quan niệm lạc hậu rồi - nhất là quan niệm trung quân quá cố chấp -
tinh thần dân tộc của ta vững thêm. Các cụ một mặt khai thác cái vốn cũ của dân
tộc mà vốn quí nhất là ngôn ngữ, một mặt tiếp thu văn hóa Âu Tây bằng công việc
dịch thuật. Các cụ là người đầu tiên bỏ khoa cử và hô hào mọi người học tiếng
Việt, viết lách bằng tiếng Việt, do đó mở đường cho các nhóm Đông Dương tạp chí
và Nam Phong sau này.
Các cụ
lại dạy ta có một quan niệm mới về nhiệm vụ và khả năng của phụ nữ trong công
việc cứu quốc; dạy ta chú trọng tới kinh tế, hướng về các việc kinh doanh, sản
xuất và tiêu thụ các đồ nội hóa; dạy ta phải đồng tâm gây dựng cho xứ sở, và
đích thân nêu gương phục vụ đồng bào cho hạng trí thức trong xã hội.
Nhưng
công của các cụ không phải chỉ có bấy nhiêu.
Các cụ
còn trực tiếp hay gián tiếp đào tạo các nhà cách mạng và nhà văn lớp sau, trong
số này nhiều phần tử ưu tú tự nhận đã mang ơn nhiều của các cụ. Như tôi đã nói,
những cụ Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục nhờ dịch sách cho Nghĩa Thục mà luyện
được cây bút, sau thành những nhà văn xuất sắc trong nhóm Nam Phong. Lại thêm
một số học sinh của Nghĩa Thục, như Đào Trinh Nhất, một số con cháu các cụ sau
thành những nhà ngôn luận có danh trong nước, há không do ảnh hưởng của phong
trào?
Nghĩa
Thục chỉ thọ khoảng một năm mà tên Nghĩa Thục được ghi trên sử. Trong Nam thiên
phong vân ca một thi sĩ khuyết danh đã chép lại hoạt động của Nghĩa Thục trong
những vần lưu loát và nồng nàn mà chúng tôi đã trích dẫn trên đầu mỗi chương và
bây giờ xin gom lại:
Cơn mây
gió trời Nam bảng lảng,
Bước anh
hùng nhiều chặng gian truân.
Ngẫm xem
con Tạo xoay vần,
Bày ra
một cuộc duy tân cũng kỳ.
Suốt
thân sĩ lưỡng kỳ Nam, Bắc,
Bỗng
giật mình sực thức cơn mê.
Học
thương xoay đủ mọi nghề,
Cái hồn
ái quốc gọi về cũng mau.
Hồn đã
tỉnh, bảo nhau cùng dậy,
Chưa học
bò, vội chạy đua theo.
Khi lên
như gió thổi diều,
Trong hò
xin thuế, ngoài reo hãm thành.
Cách
hoạt động người mình còn dại.
Sức oai
quyền ép lại càng mau.
Tội
nguyên đổ đám nho lưu,
[170]Bắc
Kỳ thân sĩ đứng đầu năm tên ( )
"Mệnh
ấy yểu mà danh ấy thọ".
Mà danh
ấy thọ là nhờ đám nho lưu ấy, gồm hầu hết những bực tuấn tú, nhiệt tâm, chí khí
nhất trong nước tức cái tinh hoa của non sông đã tụ họp nhau ở nhà số 4 phố
hàng Đào của cụ Lương Văn Can để nắm tay nhau mà cải tạo non sông.
Thơ CẢM
KHÁI (của một cụ trong Đông Kinh Nghĩa Thục) . Tuổi xanh kết bạn xoay trời đất,
Nămchục năm nay thỏa ước mong. Độc lập xa gần cờ phấp phới, Anh hồn cố hữu
khoái hay không Phương Sơn (1882-1960) Mạnh đông Ất Mùi (19551).
PHỤ LỤC I
THIẾT TIỀN CA
Bài
Thiết tiền ca của cụ Nguyễn Phan Lăng có ảnh hưởng rất lớn ở đương thời, phá cả
một chính sách kinh tế của thực dân, bị thực dân cấm, nên rất ít người biết.
May mà có người nhớ được; chúng tôi theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam mà chép lại
đây trọn bài vì nghĩ tài liệu đó rất nên phổ biển, có thể trích giảng trong các
sách giáo khoa Tiểu học và Trung học được.
Tiền với
bạc đó là máu mủ, Không có tiền no đủ được sao? Một ngày là một tiêu hao, Máu
rơi của hết sống sao được mà! Trời đất hỡi! dân ta khốn khổ,
Đủ trăm
đường thuế họ thuế kia, Lưới vây chài quét trăm bề,
Róc
xương róc thịt, còn gì nữa đâu? Chợt lại thấy bắt tiêu tiền sắt, Thoạt tai nghe
bần bật khúc lòng.
Trời ơi
có khổ hay không?
Khổ gì
bằng khổ mắc trong cường quyền. Họ khinh lũ đầu đen không biết,
Lấy mẹo
lừa giết hết chúng ta. Bạc vào đem sắt đổ ra,
Bạc kia
thu hết sắt mà làm chi? Họ tính lại suy đi đã kiệt,
Trói
chân tay để chết người mình. Anh em thử nghĩ cho tinh,
Sẽ đem
soi xét tâm tình họ xem.
Họ không
muốn người Nam buôn bán, Để một ngày một cạn của đi,
Còn trơ
đống sắt đen sì,
Bạc kia
không có lấy gì thông thương. Dầu có muốn xuất dương thương mại, Đem sắt đi ai
dại với mình,
Rồi ra
luẩn quẩn loanh quanh,
Vốn kia
không có, lợi sinh được nào? Nó lại thấy lương cao muốn chiết,
Sợ người
mình thấy thiệt thì kêu, Nó đưa tiền sắt cho tiêu,
Tuy rằng
không chiết mà hao thiệt nhiều.
Ấy nó
nghĩ mưu cao dường thế, Chỉ tìm đường làm tệ nước ta, Làm cho kẻ xót người xa,
Làm cho
nhớn bé trẻ già bỏ nhau, Làm cho muốn cất đầu không được, Làm cho đi một bước
không xong, Thế mà ta vẫn ngay lòng,
Tưởng
làm như thế cũng không hề gì ! Rồi chỉ sợ đến khi hết cả,
Muốn làm
gì cũng chả làm xong. Muốn công cũng chả nên công,
Muốn
nông không vốn thì nông thế nào? Muốn buôn bán không dào lưng vốn, Muốn học
hành phí tổn lấy đâu?
Bấy giờ
ta mới biết đau,
Dại rồi
cắt rốn vật đầu được chi? Nếu họ có bụng gì ta nữa,
Sao họ
không mở cửa thông đồng Nhà Đoan Kho bạc tiêu chung, Lúc buôn lúc bán lúc cùng
vào ra. Sao nó chỉ bắt ta tiêu lẫn,
Mà nó
không chịu bận đến mình Chẳng qua giở thói ma tinh,
Sao
không cứ phép công minh mà làm? Người Pháp với người Nam như một, Bảo hộ thì
chỉ cốt thuận dân,
Nhẽ đâu
cậy thế cậy thần
Nhẽ đâu
trái lẽ cầm cân công bình Nào hiệp biện văn minh đâu đó? Nào thượng thư, đốc bộ
là ai?
Nào là
phủ huyện quan sai,
Hội viên
thông ký là người nước ta? Ai tách bạch cho ra lẽ phải,
Ai dám đem
lời cãi cho mình? Thị phi ai biện cho rành.
Búa rìu
chẳng nhụt, lôi đình chẳng kinh, Làm cho tiền trở lại mới nghe,
Bảo nhau
mạnh cánh, mạnh bè,
Cho
người lừa đảo hết nghề hết khôn. Tôi xin nhớ như chôn vào ruột,
Tôi xin
châm lửa đốt hương trầm, Tôi xin tạc chữ đồng tâm,
Dựng đài
kỷ niệm trăm năm phụng thờ. Thôi đừng giữ thói nhơ ô mị,
Bảo thế
nào, người ký cả tay, Ngại khi nhời nói hay hay,
Trăm
người trăm miệng đắng cay muôn phần. Này hỡi bạn quốc dân ta nữa,
Cơ sự
này nó sợ đến đâu? Bỗng như tiếng sét trên đầu,
Kinh
kinh hãi hãi biết đâu thế nào.
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . .
Ấy là
phúc nước Nam ta đó, Ấy là cơ máu mủ ta còn.
Đời đời
cháu cháu con con,
Còn non
còn nước vẫn còn Việt Nam.
Nguyễn
Phan Lăng.
PHỤ LỤC II
ÍT TÀI LIỆU VỀ CỤ
CỬ LƯƠNG và ĐÁM TÁNG của cụ.
Cháu
chắt cụ Cử Lương hiện ở Sài Gòn cũng khá đông, chúng tôi đã lại thăm vài vị để
sưu tầm bút tích, văn thơ của cụ, nhưng trong cơn binh lửa ở Hà Nội cuối năm
1946, nhà cụ ở phố Hàng Đào bị đốt phá, không còn gì cả, may mà còn giữ lại
được một bức ảnh bán thân của cụ, vài ba chục bức hình về đám táng của cụ ông
và cụ bà, và một số bài báo, cùng bản sao các đối trướng quốc dân phúng hai cụ.
Theo
thân nhân thì cụ trứ tác khá nhiều, có xuất bản cuốn Lương Ôn Như gia huấn
(1926 hay 1927). Chúng tôi nhớ hình như còn cuốn Luận ngữ cách ngôn nữa, một
tập độ trăm trang trích và dịch Luận ngữ.
Hồi cụ
bị giam ở Hoả lò Hà Nội, tụi Pháp nể cụ, không tra khảo gì nhiều. Cụ ông và cụ
bà rất quí mến nhau. Khi cụ ông sắp bị phát vãng, cụ bà tiễn biệt, dặn:
"Ông ơi, ông đợi tôi với".
[171Khi
cụ bà sắp mất,( ) cụ ông hứa:
"Tôi sẽ theo bà", và tới ngày trong nhà sửa soạn lễ thất thất, (49
ngày) thì sau một cơn bạo bệnh, cụ ông tắt nghỉ.
Cũng
theo thân nhân thì bình sinh cụ thường chế thuốc trị bệnh thời khí để phát
không cho người nghèo mà rồi lại qui tiên vì bệnh đó (chứ không phải vì bệnh
sốt rét như có báo thời ấy đăng) Có điều này rất buồn cho hai cụ khi về già:
hai cụ có được năm người con trai, mà người nào cũng tới ba mươi tuổi thì mất,
thành thử đi sau linh cữu của hai cụ, chỉ có cháu, chứ không có con, nhưng môn
sinh của cụ rất đông và đều coi cụ như cha, điều đó cũng an ủi hai cụ được
nhiều.
Dưới
đây, chúng tôi xin trích ít bài báo thời đó để độc giả thấy cảm tình của quốc
dân đối với gia đình họ Lương ra sao. Tôi xin cảm ơn ông Bà Cung Duy Độ, nhất
là Bà Nguyễn Công Tốn, con gái cụ Lương Trúc Đàm, đã cho chúng tôi mượn những
tài liệu đó và cho phép chụp lại tấm hình cụ Cử in ở đầu sách.
*
CẤT ĐÁM
CỤ CỬ LƯƠNG ÔN NHƯ
Hà Thành
Ngọ báo ngày 14/6/1927.
Trái lại
với tin bản quán đã đăng trước, thì ngay hồi 5 giờ rưỡi chiều hôm qua đã cất
đámcụ cử Lương.
Mới
thoạt nghe tin này thì ai cũng lấy làm lạ là vì cụ mới mất sáng hôm qua mà sao
công việc lại cử hành một cách hống tống như vậy. Người ta đồn rằng tòa Đốc lý
nhận được một lá thư nặc danh của một tên phi nhân loại nào gởi đến nói rằng cụ
mất vì bệnh thời khí, chớ thực ra thì cụ vì bệnh sốt rét (bệnh già) mà từ trần.
[172]( ) Cũng vì lá thư nặc danh
ấy, nên sở Vệ sinh tức
khắc bắt
phải cất đámđi ngay (...)
Tuy chưa
kịp cáo phó, các báo chương tuy chưa kịp đem tin buồn báo cáo khắp nơi mà người
đi đưa cũng không phải là ít (...) Lúc đám mới khởi hành, thê thảm nhất là vẳng
nghe trong nữ quyến đi đưa sau linh cữu có tiếng khóc rằng: "Ối, Cha ơi,
chỉ vì yêu nước thương dân nên người ta mới làm khổ thân cha đến nỗi nước
này..." (…) Lạ có một điều là người đi đưa đám lúc ban đầu ước chừng ba
bốn trăm người, rồi dần dần qua các phố, người theo đưa thêm đông dần, đến lúc
hạ huyệt thì có đến non nghìn người (. . .) .Lại có một điều lạ nữa là đám cụ
Cử tuy sơ sài mà có vẻ đặc sắc long trọng hơn, là các vị thám tử Tây Nam đi
theo gìn giữ trật tự rất nhiều, khiến cho đám đi [173]càng được thêm lắm vẻ oai
nghiêm (...) .( )
*
CẢM TÌNH ANH EM LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI CỤ CỬ LUƠNG
VĂN CAN
Hỡi đồng
bào!
Lương
chí sĩ nước nhà tạ thế, Cái buồn chung há dễ riêng ai. Tôi là lao động thiển
tài,
Lòng
thành tỏ dấu bi ai anh hùng. Hỡi đồng
bào Lạc Hồng Nam Việt, Cái buồn chung phải quyết cùng nhau, Thương nhà chí sĩ
công lao,
Vì dân
vì nước tiêu hao một đời. Mấy chục năm bên trời góc biển, Cụ Can cùng ông Quyến
lao đao, Cha con hết sức hô hào,Rung chuông thức tỉnh đồng bào ngủ mê. Dạ chí
sĩ không hề thay đổi,
Gan anh
hùng sôi sổi mấy phen. Cố công dìu dắt dân đen,
Tấm lòng
khảng khái chẳng phiền hiểm nguy, Thân chẳng ngại lưu li đất khách,
Ý không
buồn xa cách vợ con Kính thay lòng dạ sắt son,
Những
lời tâm huyết hãy còn đinh ninh. Phưởng phất nhớ Đông Kinh Nghĩa Thục, Cảm xúc
lòng kính phục Đại nhơn.
Một đời
tỉnh táo tinh thần,
Làm hết
nghĩa vụ người dân sanh thời. Khuyên đồng chủng học người Âu Mỹ,
[174]
. . . .
. . . . . . . . . . .( )
Tô điểm
lại non sông gấm vóc, Truyền bá thêm văn học cao xa. Lấy nước người sánh nước
ta,
Nước
người tấn bộ, nước ta thẹn thùng. Xưa ta lắm anh hùng hào kiệt,
Tên còn
ghi sử Việt Nam nhà, Biết bao nguy hiểm phong ba,
Vì dân
vì nước vì nhà quên thân. Nay sao cứ vững chân nô lệ, Phó mặc người hộ vệ cho
ta. [175]
. . . .
. . .. . . . . . . . .( )
Ai ơi!
ái chủng đừng quên
Dắt nhau
kéo riết tới đền văn minh. Lột bỏ hết thân danh nô lệ,
Cố kết
dây đoàn thể kim thời, Làm cho bền vững hơn lguời,
Ấy là
việc gốc của người nước ta. Đồng bào! Xin chớ bỏ qua.
Lao động
Chu. V. Tân.
Sài Gòn.
(Đông Pháp thời báo 24-6-27).
Đặc biệt
nhất là các thương gia ở Nam Việt chẳng những trọng tinh thần ái quốc của cụ mà
còn mang ơn cụ đã "chỉ đường cho đi buôn bán tại các xứ xa xôi nữa".
Đoạn
dưới đây trích trong bài Thương giới Việt Nam đối với lễ truy điệu Lương chí sĩ
của ông Trần Chi Cổ, thương gia tại đường d’Espagne, Sài Gòn, là cũng đăng
trong Đông Pháp thời báo ngày 24-6-27.
(…) Ấy,
đương trong vòng đày ải đó, không còn cách sanh kế gì nữa, cụ mới lập nhà buôn,
ở Côn[176]Nôn( ) buôn đồi mồi, các đồ
vặt, về Cao Man lại
buôn
lụa, buôn các vật dụng, làm thuốc, thế là cụ đã mở đường cho nhiều người Việt
Nam trước kia sợ Cao Man “ma thiêng nước độc” bây giờ cũng bắt chước sang buôn
bán, sau này trở nên rất giàu có. Coi đó thì biết công của cụ không riêng ở
phần gốc, mà có cả ở phần ngọn, không riêng ở chánh giới, mà có cả ở thương
giới nữa.
Vậy
trong nhà buôn ta, đối với Lương tiên sinh, không những kính mến cụ về lòng yêu
nước thương nòi của cụ mà lại phải biết ơn cụ đã chỉ đường cho ta đi buôn bán
tại các xứ xa xôi (...)".
Sau cùng
tác giả bài đó hô hào các bạn đồng nghiệp chẳng những dự buổi lễ truy điệu cụ
mà còn "đồng tình đóng cửa bữa chủ nhật tới đây để tỏ lòng thương mến đau
xót".
Đối
trướng rất nhiều, chúng tôi chỉ xin trích hai câu đối một Hán, một Nôm:
Khảng
khái do tồn, mẫn thế khởi ưng tiên yếm thế,
Thám tức
thử khí, bổ thiên vị liễu hoặc do thiên.
[177] Nguyễn
Hữu Tiếng( ) đại ý là:
Lòng
khẳng khái của cụ vẫn còn, cụ vốn lo cho đời mà sao vội lìa đời trước tôi.
Cụ ra
đi, tôi than thở, công việc vá trời chưa xong có lẽ do mệnh trời chăng?
Năm
ngoái khóc cụ Phan, năm nay khóc cụ Lương, non sông đẫm lệ
Chuyện
cha ở đất Miên, chuyện con ở đất Thái, sử sách sinh hương.
[178] Trần
Đăng Huyên, Ngô Văn Triện.( ).
PHỤ LỤC III
MỘT GIỜ VỚI CỤ VÕ HOÀNH
Hồi đó
tôi vào đây mới được hơn một năm. Nhờ một người anh họ giới thiệu, tôi lại thăm
cụ Võ Hoành ở Sa Đéc, tối ngày mùng ba Tết Bính Tý (1936).
Cụ sinh
năm 1867 (?), dòng dõi một thế gia ở làng Thịnh Liệt, tục gọi là làng Quang (Hà
Đông) , một làng cách Hà Nội mươi cây số và nổi tiếng về trái vải cùi dày, hột
nhỏ, hồi xưa dùng để tiến vua.
Cụ thi
một vài khoa, không đậu, rồi gia nhập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, đứng
trong nhóm bạo động; lãnh việc cổ động cho hội là liên lạc với các đồng chí.
Khi Nghĩa Thục bị đóng cửa, cụ cùng với cụ Nguyễn Quyền (cũng gọi là Huấn
Quyền, vì có hồi làm Huấn đạo Lạng Sơn) và cụ Dương Bá Trạc bị Nam triều kết án
chung thân khổ sai, đày ra Côn Đảo, sau được ân xá và an trí ở Nam Việt: cụ
Nguyễn ở Bến Tre, cụ Dương ở Long Xuyên, cụ Võ ở Sa Đéc.
Chính
quyền thực dân mới đầu còn bắt các cụ đúng kỳ hạn (nửa tháng hay một tháng)
trình diện một lần, sau để các cụ được thong thả, chỉ khi nào muốn đi chơi ra
khỏi tỉnh mới phải xin phép.
Người
anh em con ông bác tôi, thi sĩ Việt Châu, kể chuyện có lần viên chánh tham biện
Sa Đéc mời cụ lại đòi tòa bố hỏi cụ muốn xin gì không? Cụ đáp:
"Không". Lần khác lại ngỏ ý muốn trợ cấp cụ mỗi tháng mười đồng, cụ
cũng từ chối. Vì sự từ chối đó mà dân châu thành Sa Đéc đều kính nể cụ. Một
lần, một chú lính cảnh sát chắc ở nơi khác mới tới chưa biết cụ, gọi cụ lại xét
giấy thuế thân. Cụ nhìn chú ta, mỉm cười đáp:
- Chú
lên mà hỏi quan Chánh tham biện, Chánh phủ mười mấy năm nay còn thiếu tôi nhiều
tiền lắm. Mỗi tháng chánh phủ thiếu tôi mười đồng mà tôi không lấy, còn bắt tôi
đóng thuế thân nữa ư?
Chú lính
ngơ ngác không hiểu gì cả, nhưng thấy cử chỉ, ngôn ngữ của cụ ngang tàng, đành
làm thinh. Có lẽ trong thời Pháp thuộc, chỉ một mình cụ là khỏi phải đóng thuế
thân, mặc dầu không được miễn.
Hồi tôi
lại thăm, cụ làm thuốc để sinh nhai. Không mở tiệm thuốc. Bệnh nhơn tới nhà cụ
xin toa hoặc đón cụ tới nhà mình coi mạch. Họ đưa cụ bao nhiêu tiền xe thì cụ
cho hết cả phu xe bấy nhiêu. Có kẻ may mắn chỉ kéo cho cụ một cuốc mà được năm
cắc, một đồng. Vì vậy phu xe nào ở Sa Đéc cũng biết địa chỉ của cụ. Khách nơi
xa tới, cứ bảo họ kéo lại nhà "cụ Cử" chẳng cần phải hỏi thăm gì cả.
Như tôi đã nói, cụ không đỗ đạt, người Sa Đéc thấy cụ học giỏi mà trọng cụ, gọi
cụ như vậy.
Làm
thuốc theo cái kiểu cứu nhân độ thế đó, tất nhiên không khá được. Nhưng cụ sống
cũng tương đối phong lưu, phong lưu theo lối nhà Nho, nhờ có hai cô con gái lớn
bán tơ lụa Hà Đông ở chợ Sa Đéc. Tính cụ rất nghiêm khắc, chỉ muốn làm thông
gia với bạn đồng chí, nên các cô tuy đã lớn tuổi vẫn ở vậy để hầu hạ cha.
Qua một
cái cổng bằng gỗ, một khu vườn có nhiều chậu cảnh, anh emtôi bước vô một căn
nhà ba gian, lợp ngói, vách ván, bày biện sơ sài.
Cụ thân
mật tiếp chúng tôi. Năm đó cụ đã bảy mươi mà vẫn còn quắc thước, tóc chưa bạc,
người gầy, mắt sáng. Hai cái đặc biệt nhất trong con người của cụ là giọng nói
và cái lưng.
Giọng cụ
sang sảng, vang và ấm, còn lưng cụ thẳng như một cây cột. Cụ không bao giờ khòm
lưng và vẫn thường nói với các người thân:
- Chính
vì cái lưng tôi nó không cong được nên tôi mới bị Hoàng Cao Khải nó sai lính
quất tôi. Lính nó quất tôi thì tôi chửi lại nó, rồi nó cũng chẳng làm gì được
tôi.
Cụ ngồi
xếp bằng tròn trên một bộ ngựa, bên mặt án thư, hỏi tôi về tình hình ngoài Bắc,
bà con ngoài đó rồi tới công việc làm ăn của tôi.
Tôi hỏi
cụ:
- Thưa
cụ, năm mới cụ đã khai bút chưa? Cụ cười đáp:
- Bạn bè
mỗi người mỗi nơi, thành thử mấy năm nay tôi cũng chẳng làm gì được bài thơ
nào. Cậu muốn nghe thì để tôi đọc cho cậu một bài tôi làm cách đây sáu, bảy
năm, hồi cụ Phương Sơn lại thăm tôi tại đây.
Rồi cụ
đọc:
Ngao ngán
lòng tôi tối lại mai Lòng tôi, tôi biết giãi cùng ai? Ngàn năm cố quốc hồn chưa
tỉnh, Hai chữ đồng tâm nét cũng sai!
Mài lệ
chép thơ chơi nước mắt,
Coi tiền
như mạng bỏ ngoài tai Thôi thôi biết nói chi cho hết, Càng nói càng thêm nỗi
thở dài. Tôi hỏi:
- Thưa
cụ cụ Phương Sơn có họa lại không?
- Có.
- Xin cụ
cho cháu nghe cả bài họa nữa.
- Không
chắc tôi còn nhớ đủ... Cụ suy nghĩ một lát rồi bảo:
- May
quá, còn nhớ. Như vậy:
Khí
phách thường như buổi sớm mai Đường văn minh đó hẹp chi ai?
Đạp vòng
trời đất, chân cho vững, Vẽ mặt giang sơn, bút dám sai?
Cọp bắt
tay không đừng nói khoác, Rắn theo tàn thuốc cũng công tai. Anh em giữ lấy niềm
hòa hảo,
Nòi
giống về sau phúc lộc dài.
Tôi lấy
bút chép cả lại. Chí hướng của hai cụ hiện rõ trong thơ: cụ Võ đứng vào phe cụ
Sào Nam, cụ Phương Sơn đứng vào phe cụ Tây Hồ. Hai bài làm vào khoảng
1929-1930, mà lúc đó cụ Sào Nam đã ở trong cái cảnh "trăng gió nhốt ba
gian", còn cụ Tây Hồ thì đã qui tiên. Ở cái chốn tha hương này, hai cụ đều
mang một niềm u uất, đều tìm nguồn an ủi người trong dĩ vãng, người trong tương
lai để có thể quên được hiện tại.
Cụ mời
tôi uống trà rồi hỏi:
- À, cậu
biết chữ Hán không nhỉ? Thưa cụ cháu cũng đương học.
- Thế
thì cậu chép nốt bài này nữa, rồi lúc nào nhàn dịch cho tôi nghe.
- Cụ dạy
cháu xin vâng, nhưng cháu chỉ mới bập bẹ thôi ạ.
- Bài
này dễ mà, của Tây Hương Long Thạnh, một nhà ái quốc Nhật Bản. Này, cậu chép
nhé:
Đại
thanh hô tửu hướng cao lâu, Hùng khí dục thôn ngũ đại châu. Nhất phiến đan tâm
tam xích kiếm, Huy hoàng tiên trảm nịnh thần đầu.
Tôi hiểu
ý. Cụ muốn khuyên tôi đây. Cụ không muốn cho con cháu cụ, cả con cháu các đồng
chí cụ nữa đừng làm việc cho Pháp, nhưng đã vì chén cơm mà
phải làm
thì ít nhất cũng phải giữ lấy tư cách.
Chép
xong, ngồi hầu cụ một lát nữa rồi chúng tôi đứng dậy, xin cáo biệt. Cụ tiễn
chúng tôi ra tới cổng, lấy lòng chí thành dặn tôi câu này mà tôi ghi tâmtới bây
giờ:
- Này
cậu, nhà mình là nhà Nho thanh bạch, cậu có tính lập gia đình thì cũng nên tìm
chỗ nào thanh bạch ấy nhé.
Tôi gặp
cụ lần đó là lần đầu. Chỉ vì tình đồng chí giữa cụ và các bác tôi mà cụ coi tôi
như con cháu trong nhà, tấm lòng đó, chỉ nhà Nho mới có. Tôi cảm động. Những
hàng sao bên bờ rạch Sa Đéc, đưa vút lên một nền trời lấp lánh. Phảng phất có
hương nguyệt quế. Không hiểu sao tôi có cảm giác rằng những cây có hương đó,
ảnh hưởng đó, mặc dầu ở trước mắt tôi mà đã thuộc về một thời cách xa tôi khá
xa. Chiều hôm sau, mới bước chân xuống ghe đậu tại Ngã Bảy (Phụng Hiệp) , tôi
chép ngay lại bài dịch gửi về hầu cụ. Dịch rằng:
Lớn tiếng
lên lầu gọi “rượu đâu”? Khí hùng muốn nuốt cả năm châu. Lòng son một tấm, gươm
ba thước, Loang loáng vung lên, nịnh rớt đầu.
*
Lẩn sau
tôi gặp cụ đúng vào một lúc loạn nhất của lịch sử: cuối trung tuần tháng chín
dương lịch năm 1945. Cụ mới ở Sa Đéc lên Sài Gòn, tóc đã bạc nhiều, bước đã
chậm, nhưng lưng vẫn thẳng như thân sao.
Cụ lúc
ấy quá bận việc, một đoàn thanh niên bao vây cụ, tôi không dám làm mất thì giờ
của cụ, nhưng đinh ninh sẽ trở lại thăm cụ. Chưa kịp lại thăm thì đã mỗi người
một ngả. Sáu năm sau tôi mới hay tin cụ đã qui tiên, hình như trong Đồng Tháp
Mười, không rõ trong trường hợp nào. Có người nói nghĩa quân không nghe lời cụ
mà thất trận, cụ uất ức rồi sức già của cụ tiêu mòn lần vì năm đó chắc cụ đã
tới bát tuần. Phải vậy chăng? Nếu phải thì chắc có người còn nhớ mộ cụ. Và mộ
cụ ở đâu? Mà căn nhà của cụ ở Sa Đéc còn không? Tôi đã hỏi vài người ở Sa Đéc,
không ai biết cả. Giặc Pháp khi tái chiếm Sa Đéc đã phá rồi chăng?
(Bài này
đã đăng trên số Xuân Ất Mùi, nhật báo Mai, nay sửa lại).
SÁCH
THAM KHẢO
- Ngục
trung thư - Phan Bội Châu - Tân Việt 1950
- (Đào
Trinh Nhất dịch).
- Phan
Bội Châu. Thế Nguyên. Tân Việt 1950
- Phan
Châu Trinh. n.t.. n.t.
- Huỳnh
Thúc Kháng. n.t.. n.t.
- Phan
Tây Hồ tiên sinh. Báo Tân Dân số 3. 1949.
- Dật sự
Phan Sào Nam. Anh Minh.
- Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để. n.t., Nam Hưng 1951.
- Những
chí sĩ. n .t. . Tân Dân 1951.
- Cụ
Huỳnh Thúc Kháng. n.t.. n.t.
- Tự
phán Phan Bội Châu. Anh Minh, 1956.
- Thi tù
tùng thoại. Huỳnh Thúc Kháng, Nam Cường 1951.
- Sào
Nam văn tập. Thanh Thanh.
- Đông
Kinh Nghĩa Thục. Đào Trinh Nhất, Mai Lĩnh 1938.
- Phong
trào đại Đông du. Phương Hữu. Nam Việt 1950.
- Đề
Thám. Huyền Quang. Á Châu 1951.
- Phan
Bội Châu. Lưu Trần Thiện. Ngày Mai 1949.
- Bãi
Sậy. Vân Hà. Á Châu 1951.
- Khởi
nghĩa Thái Nguyên. Phương Hữu Nam Việt 1946 .
- Phan
hình Phùng. Đào Trinh Nhất, Tân Việt 1950.
- Lương
Ngọc Quyến. Đào Trinh Nhất Tân Việt 1957.
- Hợp
tuyển thơ văn Việt Nam. Văn Hóa 1963 .
- Nguyễn
Quang Diện. Nguyễn Văn Hầu, Xây dựng 1964.
[1] Coi
Đại cương Văn học sử Trung quốc cuốn III của tác giả.
[2] Phan
Huy Chú bỏ ra mười năm soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí, bộ Bách khoa
toàn thư đầu tiên của ta, gồm 49 quyển ( được vua Tự Đức thưởng cho 30 lạng
bạc, nhưng triều đình không hề nghĩ tới việc cho khắc và in bộ sách vĩ đại đó.
Xưa đã vậy mà nay cũng vậy; nhà cầm quyền không biết quí trọng những công trình
biên khảo lớn.
[3] Coi
"Nguyệt san Bông Lúa số 1" - Tháng bảy 1955, và "Mấy vấn đề xây
dựng văn hóa" - Tao Đàn 1968.
[4] Tên
cụ là Lương Văn Can chứ không phải Lương Ngọc Can như một số người nhớ lầm.
[5] Đào
quân là cháu rể cụ Lương.
[6] Hình
như trong năm 1945 hay 1946, ở Hà Nội có xuất bản một cuốn nữa về Đông Kinh
nghĩa thục, cuốn đó không thấy bán ở Nam Việt mà cũng không có tại Thư viện Nam
Việt.
[7] Cụ
lão nho, tác giả (NHL) viết như trên, tên thật là Nguyễn Côn (1882-1960) là bác
ruột tác giả. Sau năm 1908 ông ngụ ở Đồng Tháp Mười, sau dời qua Long Xuyên.
[8] Cụ
sinh năm 1867 (Đinh mão). Ta nên tính tuổi theo người Âu, hợp lý hơn, nên đến
năm 1913, cụ 46 tuổi.
[9] Tuy
nhiên, sách của cụ cũng chưa đáng tin hẳn, thì thỉnh thoảng có chỗ mâu thuẫn
chẳng hạn Ngục trung thư trang 15, cụ viết: "Đến năm tôi ngoài 30 tuổi,
đảng Cần vương khắp trong nước nối nhau vỡ lở tan tành, chỉ còn sót lại một
mình cụ Phan Đình Phùng. Nhưng năm Giáp ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 6, cụ
mất". Năm cụ ngoài 30 tuổi, dù tính theo tuổi ta như cụ, thì ít nhất cũng
là năm 1896 hay 1897. Cụ Phan Đình Phùng mất năm Giáp ngọ tức năm 1895 thì sao
năm 1896 lại còn "sót lại" ở La Sơn được Không biết có phải Đào quân
dịch sai không?
[10] Chúng
ta phân biệt chính và phụ cho dễ nói, chứ thực ra, trong công cuộc cách mạng,
lòng nhiệt thành và trong sạch ngang nhau thì có ai là phụ, ai là chính. Chẳng
qua mỗi cụ đều tùy khả năng của mình mà giúp nước, miễn thành công là vui, chứ
không hề nghĩ tới nhiệm vụ chính hay phụ.
[11] Tác
giả viết bài Tựa này năm 1967
[12] Sáu
nhà cách mạng, sau khi vụ biến pháp thất bại, bị Từ Hi Thái hậu lùng bắt, không
chịu trốn, nguyện đem máu ra tưới mầm cách mạng, trong sáu nhà đó có Đàm Tự
Đồng, Dương Thâm Tú, Khang Quảng Nhân (em Khang Hữu Vi) ...
[13] Hai
câu này cũng như những câu song thất hoặc lục bát dẫn ở đầu các chương sau đều
trích trong một bài ở cuốn Nam thiên phong vân ca.
[14] Lời
của Nguyễn Thân sau khi thiêu xác Phan Đình Phùng, nghĩa là gối cao (mà ngủ),
chẳng còn lo gì cả.
[15] Có
sách bảo cuốn này viết năm 1903, có sách bảo năm 1904.
[16] Có
bản chép là vô
[17] Có
bản chép là Vạn dân
[18] Có
bản chép là bách niên
[19] Có
bản chép là vị tất
[20] Có
bản chép là bằng hướng
[21] Tức
ba tỉnh Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết.
[22] Thân
phụ bác sĩ Hồ Tá Khanh, bộ trưởng Bộ Y tế trong nội các Trần Trọng Kim.
[23] Theo
Châu Hải Kỳ trong bài: Những hoạt động cách mạng của cụ Phan Châu Trinh tại
Bình Thuận. - Bách khoa ngày 15-3-1961.
[24] Tiếng
vong mạng thời đó còn dùng theo nghĩa gốc là kẻ phải trốn đi để giữ lấy mạng
mình; sau này, nghĩa đó đổi lần và bây giờ hạng người vong mạng là hạng người
liều lĩnh, làm càn.
[25] Chưa
rõ cụ Tăng sanh năm nào, có lẽ hồi 1905 cụ đã ngoài bốn chục tuổi, năm 1905 cụ
về nước, bị kiết lị, mất ở Huế (1906) . Vì vụ khóc lớn ở triều đình Nhật nên cụ
Sào Nam điếu cụ như vầy:
"Quân
khởi ký sinh tác hí ư thế da, dụng binh ngũ tải, khứ quốc trấp dư niên, ký khốc
vu Xiêm, ký khốc vu Thanh, hốt hốt nhiên đại khốc vu Đông, thùy linh tứ nhập
thu phong, hưởng ngã Thần châu mai cổ kiếm.(Vế sau nói về cụ Sào Nam, xin lược
bỏ). Bác há sống nhờ làm trò cho đời ư, năm năm làm tướng,bỏ tước lên hai chục
thu, đã khóc ở Xiêm, đã khóc ở Thanh, lại hốt nhiên khóc lớn ở Đông,ai khiến
gió vàng nổi lên, nhắm đất Thần châu chôn kiếm cổ."
Trong
cuốn Phong trào đại Đông du của Phương Hữu (NXB Nam Việt 1950) có trích một bài
lục bát (khuyết danh) nói về việc khóc ở triều đình Nhật đó:
Thân
phiêu bạt đã đành vô lại Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân. Chinh Nga nhân
buổi hoàn quân, Tủi mình bô bá theo chân khải hoàn. Nâng chén rượu ơn ban hạ
tiệp Gạt hàng châu khép nép quì tâu. Trời Nam mù mịt ngàn dâu,
Gió thu
như thổi dạ sầu năm canh.
[26] Sau
Khuyển Dưỡng Nghị giữ lời hứa, thành một bạn thiết của cụ Sào Nam, nên khi
Khuyển mất, cụ điếu một đôi câu đối chữ Hán mà chính cụ dịch ra như sau:
"Đời
chính trị hơn bảy mươi năm, một khối hùng tâm, Đông Á Tây Âu lừng lẫy sấm,
Thân bôn
đào ngoài muôn dặm, mấy ai tri kỷ, Biển Hoàng, Non Phú mịt mù tăm ."
[27] Cũng
có tên là Nguyễn Hàm, hiệu Tiểu La, người làng Thành Mỹ (Quảng Nam), vừa là
sáng lập viên Duy Tân hội, vừa là người phụ trách phong trào Đông du - Năm 1908
bị đày ra Côn Đảo, năm 1911 mất ngoài đảo.
[28] Lúc
đó cụ Nguyễn Quyền làm huấn đạo Lạng Sơn.
[29] Cụ
đốc Đinh Trạch đã từng giúp Tôn Thất Thuyết trong Phấn nghĩa quân.
[30] Coi
tiểu sử cụ Lương ở sau.
[31] Hội
này lập ở Bắc Kì ngay sau khi có tờ hịch Cần vương của vua Hàm Nghi.
[32] Một
thành ngữ, nghĩa là: Kế mười năm không gì bằng trồng cây, kế trăm năm không gì
bằng đào tạo người.
[33] Lúc
đó cụ Lương cũng đã trên ngũ tuần.
[34] Không
cha đó thì không sinh được con đó.
[35] Bản
dịch của Đào Trinh Nhất - Tân Việt xuất bản, NXB Văn Hóa TT tái bản, 2000 .
[36] Lúc
đó, mùa đông năm 1905, chín nhà ái quốc ở trong một phòng ở Hoành Tân, vừa đói
vừa rét.
[37] Xưa
có tang cha mẹ thì không được đi thi.
Lúc đó, cụ có tang mẹ nuôi nên được phép thi.
[38] Thiếu
năm chữ.
[39] Lương
Nghị Khanh là con thứ tư của cụ Lương Văn Can, rất thông minh, 17 tuổi đã đậu
Tú tài, người quen thường gọi là Tú con.
[40] Bản
dịch của Đào Trinh Nhất, NXB Văn Hóa-TT tái bản, năm 2000.
[41] Năm
1970 Nguyễn Văn Xuân có sách Phong trào Duy tân (NXB Lá Bối) viết rõ về năm ra
đời của phong trào Duy tân tại Quảng Nam từ trước năm 1905. Năm 1971 Nguyễn Q.
Thắng có trình bày rõ về năm ra đời phong trào này ở Quảng Nam trong các cuốn:
Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn (Phủ quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa XB,
1971) và Phan Châu Trinh con người và tác phẩm (NXB TP.HCM, 1986) thì phong
trào Duy tân ra đời ở Quảng Nam từ năm 1902-1904 chớ không phải từ năm
1906-1907 rất bề thế ở hai lĩnh vực giáo dục và kinh tế (thương mãi) (BT) .
[42] Cửa
trước cự được con hổ, của sau lại rước con chó sói vào.
[43] Điển
Chu Bột đời Hán, muốn giết họ hàng, bè phái Lữ Hậu để khôi phục họ Lưu (nhà
Hán), ra lệnh hễ ai theo họ Lưu thì vén tay áo bên tả (tả đảng) lên; quân lính
đều vén tay áo bên tả và sau khôi phục được nhà Hán.
[44] Văn
minh tân học sách viết năm 1904, không rõ tác giả là ai, năm 1907 được Đông
Kinh nghĩa thục in lại cùng với bài Cáo hủ lậu văn và Cao Li vong quốc chi thảm
trạng để làm tài liệu học tập, tuyên truyền .
[45] Đông
Kinh, tức Đông đô, tên thành Hà Nội về đời nhà Hồ.
[46] Chúng
ta nên nhớ hiện nay, sau 60 năm, chương trình của bộ Quốc gia Giáo dục vẫn chưa
chú trọng vào hai điểm đó.
[47] Nghĩa
là trong bốn kỳ thi Hội được một, hai kỳ.
[48] Gác
lớn mà các nhà Hà Nội thời xưa thường có. Sở dĩ gọi là gác tẩu mã, vì nó rộng
và dài, như có thể cho ngựa chạy trên đó được.
[49] Đông
Kinh nghĩa thục - Đào Trinh Nhất - Mai Lĩnh - 1938.
[50] Bản
dịch của Đặng Thái Mai. Tôi cho in ngả
- Đoạn
sau cũng vậy.
[51] Đậu
hai lần Tú tài thì gọi là Kép.
[52] 17
tuổi, cụ đậu cử nhân, vì người bé nhỏ, người nhà phải lên gấu áo thụng cho khỏi
quét đất. Sau cụ đậu đình nguyên. Cụ quê ở Thái Bình.
[53] Nhỏ
tuổi mà đậu cao là một điều bất hạnh. Lời của Trình Y Xuyên đời Tống chép trong
cuốn Lã Thị Đồng mông huấn.
[54] Hình
học, người Trung Hoa gọi là Kỷ hà học, mới đầu ta bắt chước họ, gần đây mới đổi
là Hình học. Hồi đó Bắc Việt còn một người nữa, cụ Hàn Toàn cũng có khiếu về
Khoa học, tự học mà chế được một chiếc tàu thủy nhỏ, dài độ năm tấc, đủ bộ
phận,chạy bằng dầu lửa trên một bể nước. Chiếc tàu ấy đem tiến trình vua Thành
Thái và triều đình ân tứ cho cụ chức Hàn lâm nên cụ có tên là Hàn Toản. Tiếc
thay triều đình chỉ thưởng cụ như vậy mà không giúp cụ qua nước ngoài học thêm.
Khi Nghĩa thục mở, cụ đã trên lục tuần nên không dạy giúp được.
[55] Từ
khi qua ban Tu thư, cụ Dương thôi dạy học.
[56] Thân
phụ của Hoàng Tích Chu, một ký giả có danh tiếng lớp trước.
[57] Trong
một bài có đoạn, có câu đối nhau, bằng trắc du dương, lại có đoạn có câu thì
viết theo lối tản văn như bây giờ.
[58] Cụ
Trần Văn Khánh em cụ Trần Văn Thông cũng ở ban đó, chuyên soạn sách Việt.
[59] Chữ
sư đọc là si cho có vần.
[60] Nhiều
câu trong cuốn đó, được nhà nho
đương
thời thuộc lòng.
[61] Chúng
tôi chưa tra được nguyên văn chữ Hán của những đoạn đó.
[62] Đề
tài chiêu hồn nước thời đó được các nhà ái quốc ưa dùng trong thi ca: ngoài hai
bài đó, còn Hồn cố quốc (khuyết danh), Tỉnh quốc hồn của Phan Chu Trinh. Có lẽ
đó là một đặc điểm của thơ ái quốc Việt Nam. Không rõ các cụ có chịu ảnh hưởng
của Khuất Nguyên không, mà bài nào cũng ai oán như Chiêu hồn của Khuất Nguyên.
[63] Người
đọc cho tôi chép bài này có thể nhớ sai, nếu không thì giọng văn còn có chỗ
non, chưa chắc là của cụ Sào Nam. Có thuyết bảo là của cụ Nguyễn Thiện Thuật,
lại có thuyết bảo là của cụ Nguyễn Thượng Hiền mà chỉ là một đoạn giữa rất ngắn
thiếu đầu và đuôi.
[64] Chắc
tới đây chưa hết.
[65] Nghĩa
là gió Âu mưa Á, tức biến chuyển dữ
dội ở
châu Âu, châu Á.
[66] Như
trên
[67] Soi
gương chàng không thẹn với mặt Tỉ Tư Mạch (Bismark, nhà chính trị thống nhất
nước Đức, sau khi thắng Nã Phá Luân đệ tam) và (lông) mày Cách Lan Tư Đốn
(Gladstone, nhà chính trị Anh đã duy trì được địa vị bá chủ của Anh ở cuối thế
kỷ trước)
[68] Tô
điểm thiếp không thẹn với Qua Đặc, (Jeanne D'Arc, nữ anh hùng Pháp, lãnh đạo
nhân dân chống quân Anh) và La Lan phu nhân (Madame Roland) , nhà nữ Cách mạng
Pháp sau cuộc cách mạng 1789.
[69] Mẹ
vì con mà được quí, nghĩa là con được vinh hiển, được tiếng thơm thì mẹ cũng
được hưởng lây.
[70] Đồng
bạc trắng làm mờ ám lòng người.
[71] Vũ
Mục tức Nhạc Phi, danh tướng đời Tống, hồi trẻ, mẹ xâm vào lưng bốn chữ: tận
trung báo quốc.
[72] Chịu
nhục mà thờ kẻ thù.
[73] Phùng
Đạo là một gian thần đời Ngũ Đại, trải bốn triều đại, thờ 13 vua. Nước ta lúc
này cũng không thiếu gì kẻ thờ liên tiếp bốn năm triều đại.
[74] Sa
là sa sút.
[75] Thực
ra lúc đó chỉ non hai trăm ức, nhưng các cụ thường phóng đại cho quốc dân tin ở
sự hùng cường của nước nhà: một lối tuyên truyền!
[76] Mất
chú thích.
[77] Người
mình không có óc cố chấp về tôn giáo, nên đền thờ Quan Công mà cũng đón rước
các Hòa thượng.
[78] Không
bỏ chữ Hán thì không cứu được nước Nam.
[79] Không
chấn hưng Hán học thì không cứu được nước Nam.
[80] Cắt
tóc, xâm mình.
[81] Cụ
muốn nói mấy con chấy mà ám chỉ thực dân.
[82] Tác
giả bài này là Phan Khôi (1887-1959) sáng tác vào các năm 1904-1905 ở Quảng Nam
(BT).
[83] Giày
đa vàng. Mốt “Tây Hồ" là mốt của cụ Phan Châu Trinh.
[84] Casque.
[85] Globe.
[86] Cụ
Thám Vũ Phạm Hàm người làng Đôn Thư (Hà Đông) , đậu thám hoa cùng khoa thi đình
với cụ Nguyễn Thượng Hiền, rất ưa thú ả đào, làm một bài hát nói trong đó cụ đã
láo xược đến cực điểm, dùng ngay một lời nghiêm trang nhất của Mạnh Tử (Ngô
khởi hiếu biện tai? Ngô bất đắc dĩ dã: Ta có thích biện thuyết đâu? Ta bắt đắc
dĩ vậy.) để chỉ cái việc mà nhà Nho cho là tục tằn nhất, việc hợp hoan. Bài hát
đó ở miệng mấy ả đào phố hàng Giấy truyền ra, nhiều nhà Nho chau mày và số môn
sinh của cụ Thám thưa lần.
Người ta
còn truyền hai câu thơ này cũng giúp ta hiểu thêm tính tình của nhà thơ lãng mạn
ấy:
Hà nhân
thọ ngã hoàng kim bách,
Khứ tác
tiên sinh hiệu Bạch Vân
(Nào ai
tặng tớ vàng trăm lạng, Để ẩn như ông hiệu Bạch Vân). Bạch Vân cư sĩ tức Trạng
Trình Nguyễn Bình Khiêm.
[87] Đem
Ngũ kinh ra quét đất.
[88] Ít
năm sau, cụ Trúc Đàm mất vì bệnh, cụ Phương Sơn điếu hai câu ám chỉ việc diễn
thuyết ở đền Ngọc Sơn và việc gửi thư cho người Pháp đó:
Ngọc Sơn
diễn thuyết, đồng bào dậy, Pháp thủ đầu thư, chí sĩ theo.
[89] Khoa
đệ cũng tầm thường, hôm nay tôi chưa vì anh mừng đâu.
[90] Cửa
nhà nhiều vui vẻ, cha mẹ già mừng thấy con thành danh.
[91] Cụ
Lê Đại cũng bỏ thi (nếu không, cụ có thể đậu đại khoa được) , và khi hay tin
một người cháu thi đỗ, cụ gởi "mừng" đôi câu đối:
“Có mây
không gió, lơ lửng giữa giờ chiều, một đôi khi nhắn đôi lời, thường hỏi thăm cả
làng cả xóm, cả thân thích họ hàng, gắng sức đua tài, còn vẫn mơ hồ trong cựu
giới; Chẳng lợn thì gà, qua loa xong buổi chợ, mười lăm tuổi học mươi lăm chữ,
nếu biết nghĩ đến nước đến nhà, đến ông cha chú bác, giỏng tai giương mắt, thôi
đừng tấp tểnh cái hư danh”. Lợn, gà, trong vế sau, do chữ Hán "kê
đồn", trỏ tú tài và cử nhân.
[92] Câu
thơ này và câu thơ ở đầu chương sau trích trong một bài thơ của cụ Lương Văn
Can mừng một hiệu thuốc bắc của một người trong Nghĩa thục.
[93] Tức
hàng tơ lụa vải.
[94] Sau,
bị đày ra Côn đảo, cụ học nghề làm đồi mồi, qua Pháp, học nghề sửa ảnh. Đậu phó
bảng mà làm thợ, nước nhà chắc chỉ có cụ.
[95] Hồi
cụ còn trẻ, trong một cuộc thi thơ, vịnh về Thất tình (Bảy tình của con người),
cụ có hai câu tả tình giận như sau:
Hạng Bá
nhân ca đầu bạo hổ.
Liễu Tây
thiếp mộng đả hoàng oanh.
Xét theo
quan niệm cổ về thơ thì hai câu đó rất hay. Câu trên nhắc tới tên một thiên
sách là Hạng Bá, trong đó nói có kẻ bị người ta ghét đến nỗi giận dữ trả lại
cho trời, trời không nhận, người ta phải liệng cho hổ dữ xé thây.
Câu dưới
mượn điển trong một bài thơ Đường tả nỗi giận của một chinh phụ đương nằm mê
thấy đến đất Liêu Tây thăm chồng thì con oanh bỗng hót lên làm tan mất mộng
đẹp.
Bài thơ
đó có bốn câu:
Đả khởi
hoàng oanh nhi, Mạc giao chi thượng đề. Đề thời kinh thiếp mộng, Bất đắc đáo
Liêu Tê.
(Chính
là Liêu tây mà đọc là Liêu Tê cho có vần)
Ném đuổi
con oanh vàng. Trên cành, đừng hót vang, Làm tan giấc mộng thiết,
Chẳng
đến Liêu thăm chàng.
[96] Anh
ruột cụ Phương Sơn, quê ở Phương Khê (Sơn Tây) nên trong Nghĩa thục thường gọi
là Đại Phương để phân biệt với cụ Phương Sơn là Tiểu Phương.
[97] Cụ
nhỏ tuổi mà đậu tam giáp tiến sĩ. Tại làng cụ có hai ông Tổng đốc già tranh
nhau chức tiên chỉ, không ai chịu nhường ai, ông thì cậy mình đậu phó bảng,
(nhưng chưa được thực thụ tổng đốc
, ông
thì cậy mình đã thực thụ tổng đốc (nhưng chỉ là ấm sinh, chứ không xuất thân
khoa mục) . Khi thanh niên họ Nghiêm vinh quy, hai ông già kia không dám tranh,
phải nhường ngay ghế tiên chỉ cho chàng. Vì vậy có người tặng họ Nghiêm đôi câu
đối:
Địa mạch
tam vương chung vượng khí, Quốc triều lưỡng chế nhượng anh niên, Mạch đất Ba
Vua đúc nên khí vượng,
Hai Tổng
đốc quốc triều phải nhường người trẻ tuổi. (Mạch đất Ba Vua là nói về khoa
phong thủy, giảng hơi dài giòng mà cũng vô ích, chúng tôi xin
miễn chú
thích)
[98] Chính
cụ sau này có lần tranh chức Tổng thống với Ngô Đình Diệm.
[99] Sau,
phải để cho một người khác quản lý. Ông này thực tận tâm, nhiệt thành với hội,
không mưu lợi riêng nên khi ông mất vì ra huyết quá nhiều lúc mổ tràng nhạc,
một đồng chí điếu ông đôi câu đối:
Dĩ
thương hợp quần, quốc khả danh thê, ninh vị lợi?
Lưu
huyết ư bệnh, hồn đương tác lệ, vị quan tình.
Buôn bán
để hợp quần, nước là người yêu, đâu vì lợi?
Huyết ra
đến nỗi chết, hồn thành quỷ dữ, vị tình thương.
[100] Hai câu sau có nghĩa là "đem tình cầm sắt đổi
ra cầm kỳ"
[101] Trước khi về Nam Vang, cụ cải trang làm Huê
Kiều, tìm lại thăm cụ Phương Sơn anh rể cụ, đương mai danh tại miền Đốc Vàng
Thượng ở đồng Tháp Mười. Gặp tết Nguyên đán, cụ khẩu chiếm một bài thơ Đường
luật:
Cái
duyên bèo nước gặp nhau đây, Mười một năm nay chém rượu này. Ý khí tung hoành
trong bốn biển, Tinh thần thông suốt ngoại ngàn mây. Vịt hầm chả nướng phong
lưu cũ, Kẻ Huế người Ngô nghĩa bạn dầy Năm mới hôm nay ngày cũng mới, Cùng nhau
chúc chén rượu cho say.
Trong
câu sau, kẻ Huế chỉ cụ Phương Sơn vì người nơi đó gọi cụ Phương Sơn là thầy
Huế, còn người Ngô là cụ Nghị Khanh tự chỉ mình.
[102] Tiếng lóng của các cụ thời đó chỉ bọn mật thám.
TRÀNH
vốn là chữ Hán, một bên chữ NHÂN đứng, một bên chữ TRÀNG là dài, nghĩa là ma
cọp. Theo mê tín thời xưa, hễ ai bị cọp ăn thịt thì hồn phải theo cọp để dắt
cọp đi ăn thịt kẻ khác như vậy hồn mới thoát. Bọn mật thám dắt Pháp bắt đồng
bào nên các cụ gọi là trành.
[103] Sau này,bị an trí ở Sa Đéc, nguời ta thấy cụ
hay chữ, nên gọi là cụ cử.
[104] Ngày xưa, những người bị chém và bêu đầu thì
thân nhân chỉ được xin thây về, rồi lấy sọ gáo dừa thay đầu mà chôn
[105] Từ hồi nào tới nay, ở nước ta mà có lê cũng ở
toàn cói Á đông nữa, đảng cách mạng nào cũng buôn thuốc phiện lậu để có tiền.
[106] Hai ngôi nhà đó đều của cụ Tú họ Lê ở Đan Loan
(Hải Dương), cụ ngoại của tác giả.
[107] Song Nam là Việt Nam và Vân Nam. Hội này chỉ có
danh chớ không có thực.
[108] Sau làm trong bộ Ngoại giao Ở Thượng Hải.
[109] Ông nội tác giả.
[110] Mazzini: các nhà nho đương thời phiên âm là Mã
Chí Nê, ông là nhà yêu nước lớn Ý, nguyện lấy tổ quốc làm vợ, suốt đời mặc y
phục màu đen để để tang cho tổ quốc. Cụ Phan Châu Trinh rất hâm mộ ông, nên
từng hi vọng làm được như ông, nên cụ Phan đặt biệt hiệu cho mình là Hi Mã (BT)
(theo cụ Huỳnh Thúc Kháng) .
[111] Tức những hộp lớn bằng cái mâm, cao độ một
gang, có nắp, làm bằng gỗ.
[112] Cụ là thân sinh của Hoàng Tích Chu, một nhà báo
nổi danh thời trước, đã có công dùng một lối văn gọn gàng, có khi gọn quá, để
viết, tờ Đông Tây.
[113] Cụ Trần quí Cáp hô hào cho tân học, muốn qua
Nhật, vì có mẹ già chưa đi được thì đã bị họa, nên cụ Huỳnh Thúc Kháng có điếu
cụ một bài thơ chữ Hán rồi lại tự dịch ra. Bốn câu bài đó như sau:
Quyết
đem học mới thay nô kiếp, Ai biết quyền dân nẩy họa nguyên?
Bồng Đảo
gió chưa đưa giấc mộng, Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng. (Bồng Đảo tức Nhựt
Bản)
[114] Cụ Tây Hồ không nhúng tay vào vụ này, vì cụ vẫn
tuyên bố: "Không trông người ngoài, trông người ngoài thì ngu; không bạo
động, bạo động thì chết; ai là kẻ đồng nhân đồng bào ta, ai là kẻ thật yêu tự
do, ta chỉ có một vật rất quý để tặng: chi bằng học!"
[115] Nghĩa quân tan rã và không bao lâu sau, (1913)
Đề Thám bị phản và hạ sát trong khi ngủ
[116] Tổ quốc không có cha không sao, không có con
thì không được.
[117] Cụ Cao Xuân Dục cũng khảng khái, hồi làm Tuần
phủ Sơn Tây, cự nhau với viên Công sứ về vấn đề thuế má, viên Công sứ giận, giơ
ba toong lên, cụ cũng xách ngay ghế định phang lại. Viên Công sứ nén giận, tỏ
vẻ hòa nhã, và xét lại vấn đề.
[118] Nghĩa là bị tội chém, nhưng chưa chém ngay.
[119] Nghĩa là chém ngay.
[120] Sinh năm 1868 ở làng Liên Bạt (Hà Đông).
[121] Ngũ Tử Tư đi trốn, đến Lăng Thủy, đói, vỗ bụng,
thổi sáo, xin Ngô thị cho ăn.
[122] Năm 1923, thực dân Pháp và triều đình Huế tăng
thuế 30%.
[123] Năm 1922-1923, Bắc Kỳ bị lụt.
[124] Năm 1922, Khải Định đi dự đấu xảo ở Paris, làm
nhiều việc nhục quốc thể, bị Phan Châu Trinh vạch tội bảy điều.
[125] Người (tức Pháp) đánh thuế nặng quá, nông dân
phải bỏ ruộng hoang.
[126] Ta (tức Khải Định) ban chỉ dụ từ thềm son (chỗ
vua ở).
[127] Khải Định được Pháp cấp cho mỗi tháng một vạn
đồng.
[128] Lời của một nhà cách mạng thời đó: thân ta
không thành thì mong ở con ta.
[129] Có sách chép một sinh viên, Trần Đông Phong,
uất ức quá, tự ải sau khi đề lại hai câu tuyệt mạng:
Thời dữ
thế dị, sự dữ tâm di,
Hư sinh
đồ nhuế, hà dĩ vi sinh?
(Thời
với thế đổi việc với lòng khác.
Sống
thừa vô ích, sống để làm gì?). Nhưng theo cụ Phan Sào Nam trong cuốn Tự phán
thì Trần Đông Phong tự tử vì cha mẹ giàu có mà không gởi tiền qua, chứ không
phải uất ức vì bị Nhật đuổi.
[130] Tôi nhớ mài mại hai câu thơ của Nguyễn Bính làm
khi ông tản cư, trời gần tối và chung quanh chỉ toàn rừng núi:
Hỡi ơi!
trời đất mênh mông rộng, Biết kiếm đâu ra một mái nhà.
[131] Tức Hoàng Tăng Bí.
[132] Cái triệu thuyền nhỏ ra biền.
[133] Câu đó trong bài Bốc Cư của Khuất Nguyên, nghĩa
là: quỷ thần sao biết được việc đó
[134] Cũng là một thành ngữ nghĩa là: “Đợi cho sóng
Hoàng Hà trong lại (thì đợi làm sao được), đời người thọ được bao?” Người Trung
Hoa nói rằng sông Hoàng Hà cứ ba trăm năm mới trong một lần.
[135] Từ xưa làm vợ anh hùng vẫn khó khăn, vì bực hào
kiệt có ai nghĩ tới nhà đâu?
[136] Cụ Tùng Hương là anh cụ Phương Sơn. Nguyễn Thái
Bạt là học trò cụ Lương, khi qua Trung Quốc, đổi tên là Lý Phục Hán, phải gánh
thuê đề kiếm ăn, nhờ có tài văn chương được cất nhắc lần lần làm Thiếu úy rồi
làm bí thư cho Tôn Văn, lấy một người con gái nuôi của Tôn, sau về nước, bị
Pháp bắt. Lúc dan díu với thiếu nữ đó, ông làm hai câu thơ:
Thiên vị
anh hùng tiểu muội khái Cố giao hồng phấn bạn dong công.
(Trời
muốn cho người anh hùng đỡ sầu muộn, nên cho người mặt phấn làm bạn với anh làm
mướn.)
[137] Một người con trai của cụ là Đỗ Bàng (bí danh
là Chu Văn Vận) và một người con gái là Đỗ Thị Tâm sau nay gia nhập Việt Nam
Quốc dân đảng. Sau vụ Yên Bái, Đỗ Thị Tâm bị Pháp bắt ở phố hàng Bột (Hà Nội),
giam ở Hỏa Lò. Muốn khỏi bị tra khảo, bà lấy dây lưng thồn vô họng cho nghẹt
thở mà chết. Đỗ Bàng cũng bị bắt và chết năm 1938.
[138] Họ Đào là con rể cụ Lương Ngọc Quyến.
[139] Cũng hồi đó Nguyễn Bá Trác cũng qua miền Đốc
Vàng Thượng (Long Xuyên) đề dò la và dụ dỗ cụ Phương Sơn, con rể cụ Lương.
[140] Đông học tức Đông du, qua Nhật học.
[141] Nhắc lại việc năm 1905, cụ Dương Bá Trạc đưa
bạn ra Mông Cái, rồi qua Đông Hưng để đón tàu từ Bắc Hải đi Hương Cảng.
[142] Tính ngày theo lối ta thì là bảy ngày, tính
theo giờ thì chỉ được năm ngày.
[143] Nam quan: do tích Chung Nghi người nước Sở bị
nhà Tấn bắt, đội cái mũ của Sở (Sở ở phương Nam, nên gọi là mũ phương Nam: Nam
quan). Vua
Tấn thấy
Chung Nghi, hỏi ai, bình thản trả lời là tên tù nước Sở; do đó Nam quan trỏ
người tù phương Nam.
[144] Rợ Hồ (Hồ lỗ) ở đây trỏ Pháp.
[145] Lương Thúc Kỳ (1873-1947) đậu cử nhân năm 1900
cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh... tham gia phong trào duy tân,
dạy tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết, bị bắt giam một thời gian ngắn. Sau về
Huế làm việc ở Cổ học viện (BT).
[146] Cụ là thân phụ nhà cách mạng Nguyễn An Ninh.
Khi Nguyễn An Ninh xin cụ qua Pháp học, cụ bảo: “Những người đi học bên Pháp về
thường chỉ lo vinh thân phì gia, ăn chơi thỏa thích, cha không muốn cho con như
vậy”. Nguyễn An Ninh xin thề rằng không bao giờ quên tổ quốc. Hai cha con bèn
dắt nhau lại Lăng Ông ở Bà Chiểu. Ninh thề xong, cụ mới cấp tiền cho du học.
Sau Ninh giữ trọn được tư cách một người yêu nước, Pháp dụ ra làm, ông từ chối,
chịu sống trong cảnh nghèo, có lúc phải bán dầu cù là và suốt đời hi sinh cho
chính nghĩa, mất ở Côn Đảo năm 1943, được toàn dân ngưỡng mộ.
[147] Tài liệu của Phương Hữu trong cuốn Phong trào
Đại Đông du Nam Việt.
[148] Chỉ phái bạo động.
[149] Chỉ phái thân Pháp.
[150] Cụ rất có công với phong trào cách mạng ở đầu
thế kỷ. Cụ tên họ là Nguyễn Hữu Tuệ, thấp bé, mắt sáng, người Hải Phòng làm bồi
tàu, nhiệt tâm ái quốc, che chở giúp đỡ các nhà cách mạng và các học sinh xuất
ngoại. Pháp có lần giam cụ, cụ nhịn đói chứ không chịu khai gì cả.
Cụ Sào
Nam rất trọng cụ, có viết:
"Nói
sùng bái anh hùng, nên sùng bái cụ Lý Tuệ trước hết các cụ khác, vì cụ Lý là
người không được cảnh may mắn học nhiều như các cụ mà được như thế, phỏng có
học như các cụ khác thì cụ Lý đến bực nào!" Và làm bài thơ này:
Ai ngờ
đầu bếp được như ngươi, Giữa mặt trần gian khó thấy người. Nô lệ xác nhưng thần
thánh óc, Hạ tầng đất vẫn thượng lưu Trời. Liều cùng mưa nắng thi gan sắt, Thề
với non sông trả nợ đời.
Tức tối
mình đây còn vậy vậy, Tượng đồng bia đá sẽ rồi ai .
(Tiếng
NGUƠI trong câu phá là dịch tiếng QUÂN của Tàu, có nghĩa: kính trọng, chứ không
có nghĩa như tiếng NGƯƠI ta thường dùng ngày nay.) Khi hay tin cụ Lý Tuệ mất
(1938) ở Hải Phòng,
cụ Sào
Nam làm một vế câu đối điếu:
Thoát
đời này sung sướng gì bằng, tức vì chú chẳng chờ mình, trơ trọi thân già ngồi
vác mặt, Không rõ vì lẽ gì cụ không làm nốt vế sau. (Những tài liệu về đoạn phụ
chú này đều của Anh Minh trong cuốn Dật sự của cụ Phan Sào Nam và cuốn Những
chí sĩ cùng học sinh du học Nhật Bản.
[151] Người ở Mỹ Xương.
[152] Người ở Tam Bình (Vĩnh Long) .
[153] Người tỉnh Tân An.
[154] Tức: Nguyễn Khắc Cần, Phan Văn Tráng, Phan Đệ
Quí, Vũ Ngọc Thụy, Phạm Hoằng Quế, Phạm Hoằng Triết, Phạm Văn Tiết bị khép tội
ám sát Tổng Đốc Hà Đông và Thiếu tá Chapuis.
[155] Tức cụ Lương Văn Can lúc đó bị giam, rồi qua
năm 1914 bị đày đi an trí ở Nam Vang.
[156] Cụ dạy học ở làng Vĩnh Hòa.
[157] Tài liệu về cụ Nguyễn Quang Diêu rút trong cuốn
Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu của Nguyễn Văn Hầu - Xây Dựng - 1964.
[158] Tín Quốc Công tức Văn Thiên Tường là một nhà ái
quốc đời Tống, chống với quân Minh xâm lăng, thất bại, bị giam, chịu chết chứ
không đầu hàng. Ông có làm hai câu thơ:
Nhân
sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thử
đan tâm chiếu hãn thanh.
(Tự cổ
làm người ai chẳng chết, Lòng son lưu lại miếng tre xanh) .
Hãn
thanh là tre chảy mồ hôi. Hồi cổ, chưa có giấy, phải khắc chữ lên tre. Muốn cho
tre mau khô, người ta đốt cho tre chảy bớt nước ra.
[159] Tương truyền cháu nhà ái quốc (tức cháu cụ
Nguyễn Thượng Hiền) tên là Nguyễn Thượng Huyền (BT).
[160] Ý nói: vẻ tốt đẹp cõi Nam (Quảng Nam), khí thiêng
liêng bể Đà (Đà Nẵng).
[161] Tích con gái vua Viêm Đế chết chìm ở biển, hóa
ra chim Tinh vệ ngậm đá ở núi Tây đề lấp biển Đông. Nghĩa bóng trỏ người căm
trả thù.
[162] Hai câu thơ trong bài Biệt Đổng Đài của Cao
Thích, nghĩa là:
Đừng
buồn lối trước không tri kỉ. Thiên hạ ai người chẳng biết ông?
[163] Thể hiện sức sống.
[164] Bài Tế sống của cụ Huỳnh điếu cụ Phan (BT).
[165] Hai câu trong sách Liệt Tử, lời của Chung Tử Kỳ
nhận xét tiếng đàn của Du Bá Nha, nghĩa là:
Tiếng
vút lên: chí hướng đặt vào nơi núi cao.
Tiếng
cuồn cuộn: chí hướng đặt vào nơi nước chảy.
Nhận xét
đó, Ba Nha khen là rất đúng và hai người từ đó thành cặp tri kỉ.
[166] Cụ được người Nhật đưa qua đó để Pháp khỏi bắt
cụ.
[167] Như ở một chương trên tôi đã nói, cụ Tăng Bạt
Hổ mất vì bệnh ở Huế, khoảng năm 1915.
[168] Vì thời cuộc ra trễ mất một năm.
[169] Nghĩ vậy, nên tôi đã chép lại trong tập này,
nhiều bài thơ, nhiều câu đối của các cụ. Bỏ những bài thơ văn đó tức là làm mất
một phần bản sắc của các cụ.
[170] Năm tên đó là năm cụ đã bị Pháp kêu án chung
thân khổ sai, tức: Dương Bá Trạc, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Võ Hoành và Hoàng Tăng
Bí, nhưng cụ Hoàng nhờ nhạc gia can thiệp, được an trí ở Huế như độc giả đã
biết.
[171] Cụ bà húy là Lê Thị Lễ, mất ngày 24-1927, hưởng
thọ 75 tuổi.
Vậy là
cụ bà cùng tuổi với cụ ông
[172] Như chúng tôi đã nói cụ mất vì bệnh thời khí,
nhưng chắc người trong nhà giấu, tuyên bố là vì bệnh già; rồi có kẻ "phi
nhân loại" nào đó tố cáo như vậy.
[173] Trong bài này cũng như trong mấy bài sau, chúng
tôi đã sửa vài lỗi chánh tả.
[174] Chắc là đã bị kiểm duyệt ba câu vì bỏ trắng
khoảng ba hàng.
[175] Chắc là đã bị kiểm duyệt một đoạn tám câu, vì
bỏ trắng khoảng tám hàng.
[176] Tác giả đã lầm: cụ không hề bị đày Côn Lôn. Ta
nhận thấy cụ Lương quả có tinh thần mới, trọng thực tế, biết kinh doanh. Các cụ
khác trong Nghĩa Thục bị an trí thì chỉ làm thuốc, dạy học hoặc làm ruộng, chứ
không ai mở tiệm buôn như cụ. Ta nên nhớ nhà nho vốn "ức thương".
[177] Có lẽ là cụ Đông Châu, tác giả những cuốn Giai
nhân di mặc, Luận ngữ quốc văn giải thích, Mạnh Tử quốc văn giải thích v.v...
Cụ sanh
năm 1874 mất năm 1941.
[178] Có lẽ là Trúc Khê, tác giả những cuốn danh nhân
truyện kí: Cao Bá Quát, Nguyễn Trãi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét