ĐÀO KHIÊM TRUYỆN
Đào
Khiêm tự Cung Tổ, người quận Đan Dương.
Ngô thư
viết: "Cha Khiêm trước làm Dư Diêu Trưởng. Khiêm thuở nhỏ cô(1), bất đầu
không chịu gò bó ở trong huyện. Năm mười bốn tuổi, vẫn buộc lụa làm khăn, cưỡi
ngựa tre mà chơi, trẻ con trong ấp đều đi theo. Thương Ngô Thái thú Cam Công
ngày trước là người cùng quận ra đường gặp Khiêm, thấy dáng vẻ ấy mà cho là lạ
rồi kêu lại, dừng xe nói chuyện, rất vui, nhân đó hứa gả con gái cho. Phu nhân
của Cam Công nghe tin, giận nói: 'Thiếp nghe nói đứa trẻ nhà họ Đào vui chơi
không ngừng, sao lại hứa gả con gái cho hắn'? Cam Công nói: 'Hắn có dáng vẻ kì
lạ, lớn lên tất làm được công lớn'. Bèn gả con gái cho".
Thuở nhỏ
ham học, làm học trò, nhận lời châu gọi, cử Mậu tài(2), làm Lư Lệnh, Ngô thư
viết: "Tính Khiêm thẳng thắn, có tiết tháo cao đẹp, thuở nhỏ xét Hiếu
liêm(3), bái làm Thượng thư lang, làm Thư Lệnh, Quận thú(4) Trương Bàn là người
bậc trên cùng quận, làm bạn với cha Khiêm, muốn nhận Khiêm làm người thân nhưng
Khiêm xấu hổ vì chịu cúi thân, cùng quân sĩ về thành, nhân đó lấy việc công mà
đến gặp, có lỗi bãi quan, nhưng Bàn thường cho mời riêng vào gặp, cùng Khiêm ăn
yến, có người ngăn không cho ở lại. Thường cùng múa(5) với Khiêm, Khiêm không
đứng dậy, cố ép Khiêm, lúc múa lại không chuyển. Bàn nói: 'Không chuyển được
sao'? Đáp nói: 'Không chuyển được, chuyển thì hơn người'. Do đó không vui, rút
cuộc hiềm khích. Khiêm làm quan trong sạch, không bị xét hỏi, tế sao Linh, có
được năm trăm tiền, muốn đem dấu đi. Khiêm trao lại chức rồi bỏ đi".
chuyển
làm U Châu Thứ sử, gọi về bái làm Nghị lang, làm Tham quân sự của Xa kị Tướng
quân Trương Ôn, đến miền tây đánh Hàn Toại.
Ngô thư
viết: "Gặp lúc người Khương miền tây cướp biên, Hoàng Phủ Tung làm Chinh
tây Tướng quân, dâng biểu xin cấp cho tướng võ. Gọi bái Khiêm làm Dương vũ Đô
úy cùng Tung đánh người Khương, đại phá chúng. Sau có Biên Chương, Hà Toại làm
loạn, Tư không Trương Ôn nhận lệnh đánh dẹp; lại xin Khiêm làm Tham quân sự,
đối đãi rất hậu nhưng Khiêm coi thường cách làm việc của Ôn, trong lòng không
phục. Đến lúc quân rút về, trăm quan mở hội lớn, Ôn cùng Khiêm uống rượu, người
của Khiêm làm nhục Ôn. Ôn giận, đày Khiêm đến ở biên giới. Có kẻ khuyên Ôn nói:
'Đào Cung Tổ vốn vì có mưu lược mà được ông kính trọng, một sớm uống rượu mắc
lỗi, không được tha thứ, đày đến chỗ bất mao, đức dày không trọn, kẻ sĩ trong
bốn phương há còn chỗ trông mong! Không bằng giải oán bỏ giận, lập lại phận
trước, do đó đức tốt mới truyền xa'. Ôn khen lời ấy, bèn sai người đến đưa
Khiêm về. Khiêm đến, có người lại bảo Khiêm nói: 'Túc hạ khinh thường Tam công,
tội do mình làm, nay được tha miễn, chẳng ai có đức dày hơn thế; nên dùng lời
nhún nhường để tạ lỗi'. Khiêm nói: 'Được'. Lại bảo Ôn nói: 'Đào Cung Tổ nay tự
xét kĩ lỗi mình. Ta lỗi với Thiên tử xong sẽ đến cửa nhà ông. Ôn theo ý đó để
an ủi Khiêm'. Bấy giờ Ôn ở cửa cung gặp Khiêm, Khiêm ngẩng nói: 'Khiêm tự tạ
lỗi với triều đình, há vì ông sao'? Ôn nói: 'Tật xấu của Cung Tổ vẫn chưa bỏ
chăng'? Bèn bày rượu mời Khiêm, đãi Khiêm như trước".
Gặp lúc
quân Khăn vàng(6) Từ Châu nổi dậy, lấy Khiêm làm Từ Châu Thứ sử, đánh quân Khăn
vàng, đánh đuổi chúng. Thời loạn Đổng Trác, châu quận dấy binh, Thiên tử đóng
đô ở Trường An, bốn phương cắt đứt, Khiêm sai sứ đi lẻn đến cống nạp, chuyển
làm An đông Tướng quân, Từ Châu Mục, phong Lật Dương Hầu. Bấy giờ trăm họ vùng
Từ Châu giàu có, thóc lúa đầy đủ, nhiều dân phiêu dạt theo đến đó. Nhưng Khiêm
lại làm trái đạo dùng người; Quảng Lăng Thái thú Triệu Dục người quận Lang Nha
là danh sĩ của Từ Châu, vì thẳng thắn mà bị đuổi;
Hậu Hán
thư của Tạ Thừa viết: "Lúc Dục ba mươi tuổi, mẹ có bệnh, trải qua ba
tháng, Dục buồn rầu tiều tụy, đến nỗi không chợp mắt, cầm thóc ra đốt, cầu đảo
khóc ra máu, người làng khen là hiếu. Đến chỗ kẻ sĩ ở ẩn người huyện Đông Hoàn
là Kì Quán Quân xin đọc sách Công Dương truyện, học hết các nghề. Qua nhiều năm
ẩn chí, không nhìn ra khỏi ruộng vườn, người thân người xa ít khi gặp mặt. Bấy
giờ vào thăm hỏi cha mẹ, chốc lại lại về. Cao thượng ngay thẳng, giữ lễ mà lập
thân, cung kính trong sạch, chẳng ai bằng chí ấy; làm việc tốt để giáo hóa, trừ
việc ác để sửa tục. Châu quân mời gọi, thường xưng bệnh không theo Tướng quốc
Đàn Mô, Trần Tôn cùng gọi, cũng không đến; có người cả giận, nhưng rút cuộc
cũng không đổi ý. Cử làm Hiếu liêm, làm Cử Trưởng, tuyên dương ngũ giáo, sửa
chữa chính trị. Gặp lúc giặc Khăn vàng làm loạn, cứng cỏi cả năm
quận, châu huyện phát binh, do đó sửa soạn trước. Từ Châu Thứ sử Ba Kì xét công
hàng đầu, đáng được thưởng thêm. Dục xét cho là thẹn trả chức về nhà. Từ Châu
Mục Đào Khiêm bắt đầu gọi làm Biệt giá Tòng sự, xưng bệnh trốn tránh. Khiêm
nhiều lần sai Dương Châu Tòng sự Phạm Tuyên người quận Cối Kê đến gọi, Dục giữ
ý không chuyển; mốn dùng hình phạt để ra oai, sau đó mới đến. Cử làm Mậu tài,
chuyển làm Quảng Lăng Thái thú. Bọn giặc Trách Dung từ Lâm Hoài bị đánh, chạy
vào đất quận, Dục đem quân đánh chống, thua vỡ bị giết".
bọn Tào
Hoành là kẻ tiểu nhân gian ác mà Khiêm lại tin dùng. Hình pháp không yên, nhiều
người hiền lương bị hại, do đó dần loạn. Người huyện Hạ Bì là Khuyết Nghi tự
xưng Thiên tử, lúc đầu Khiêm cùng chúng liên hợp cướp bóc, sau bèn giết Nghi,
thu lấy quân của hắn.
Năm Sơ Bình
thứ tư(7), Thái Tổ đánh Khiêm, đánh lấy hơn mười thành, đến đánh lớn ở Bành
Thành. Quân Khiêm thua chạy, chết đến mấy vạn quân, nước sông Tứ vì thế mà
không chảy được. Khiêm lui về giữ huyện Đàm. Thái Tổ vì lương thiếu mà dẫn quân
về.
Ngô thư
viết: "Cha Tào Công bị giết ở quận Thái Sơn, đổ lỗi cho Khiêm. Muốn đánh
Khiêm nhưng sợ cái mạnh của Khiêm, bàn ra lệnh châu quận bãi binh một lúc.
Chiếu nói: 'Nay trong nước rối loạn, châu quận dấy binh, quân dân mệt mỏi, nạn
giặc chưa thôi, tướng lại có kẻ không tốt, nhân đó đánh bắt, ức hiếp dân đen,
nhiều người bị hại; tiếng đồn lan xa, rúng động thành ấp,trong tường vách sợ bị
gây bạo, kẻ hiền lành trở thành bọn xấu, đấy có khác gì lấy củi dập cháy, quạt
lửa ngăn nước sôi đâu! Nay dân bốn phương lưu tán, gửi thân xứ lạ, phơi xương
trắng nơi đồng núi, bỏ con trẻ nơi rãnh ao, ngoảnh về quê cũ mà than thở, hướng
về đồng ruộng mà khóc lóc, đói rét khốn khó, cũng đã nhiều lắm rồi! Dẫu tiếc
cái sai lầm trước đây, lo nghĩ giáo hóa ở ngày nay, nhưng liên tiếp điều binh,
chĩa mũi nhọn nơi đồng bằng, sợ nếu một sớm cởi bỏ, đến chiều lại gặp giặc, do
đó chia quân đóng đồn, muốn dừng mà không dám bỏ vậy. Nay hạ chiếu đến, các chỗ
bãi quân giáp, sai trở về trồng trọt, chỉ giữ các quan chức ở lại để cung cấp
cho sở quan, tỏ rõ an ủi gần xa, đều khiến nghe biết'. Khiêm nhận thư, bèn dâng
thư nói: 'Thần nghe nói vỗ về kẻ phương xa, không dùng đức không làm được; dẹp
nạn trừ loạn, không dùng binh không giúp được. Cho nên đồng Trác Lộc, Phản
Tuyền, Tam Miêu có quân của Ngũ Đế(8), có trận đánh các nước Hỗ, Quỷ Phương,
Thương, Yểm của bậc Vương(9), vào thời xa xưa, chưa có ai không dương oai để
dẹp loạn, dùng võ để ngăn bạo vậy. Thần trước đây vì giặc Khăn vàng làm loạn,
chịu mệnh ruổi dài, không kịp nghỉ ngơi. Dẫu có lệnh răn giới, cậy vào uy linh,
kính theo ý trời, hễ đánh là thắng, nhưng giặc ác đông đảo, lại không sợ chết,
cha anh ngã mất, con em lại nổi, gây binh nhiều năm, đến nay còn hại. Nếu vâng
mệnh cởi giáp, nước yếu tự hỏng, bỏ võ bị là giúp loạn, làm tổn uy mà lợi cho
giặc. Nếu ngày nay bãi binh, ngày sau nạn tất đến, trên vốn là vâng mệnh giao
phó của triều đình, nhưng dưới lại làm cho bọn xấu thêm sinh sôi qua ngày
tháng, đấy không phải là việc cứu giúp kẻ yếu ngăn chặn kẻ xấu vậy. Thần dẫu
ngu dốt, lòng rộng rãi không rõ, nhưng mang ơn lo nghĩ báo đền, không nỡ làm
thế. Liền lĩnh bộ khúc, ra lệnh phòng bị. Ra cắt trừ giặc, chỉ tỏ rõ sức, ban
bố ân đức, vâng theo chức phận, đã lập công nhỏ để chuộc tội lỗi'. Lại nói:
'Hoa Hạ sôi sục, đến nay chưa ngừng, bao mao(10) chẳng vào, cống nạp thiếu ít,
ngủ dậy lo lắng, không có ngày yên. Nghĩ rằng phải đến cống nạp, lễ vật được
thông, rồi mới vứt đao cởi giáp, đấy là ý muốn của thần vậy. Thần trước đây
phát trăm vạn học thóc đã vùi dưới nước sông, nay lại sai quân chở đến'. Tào Công
nhận được thư dâng, biết không bãi binh, bèn đến đánh ở Bành Thành, giết nhiều
dân chúng. Khiêm đem quân đến đánh, Thanh Châu Thứ sử Điền Khải cũng đưa quân
cứu Khiêm. Công dẫn quân về".
Thần là
Tùng Chi xét: Thời ấy Thiên tử ở tại Trường An, Tào Công còn chưa nắm chinh
trị. Chiếu thư bãi bkinh, không phải do họ Tào ban ra.
Năm Hưng
Bình thứ nhất(11), lại đánh miền đông, lấy được các huyện của quận Lang Nha,
Đông Hải. Khiêm sợ, muốn chạy về quận Đan Dương. Gặp lúc Trương Mạo phản đón Lữ
Bố, Thái Tổ về đánh Bố. Năm đó, Khiêm bệnh chết.
Ngô thư
viết: "Khiêm chết lúc sau mươi ba tuổi, bọn Trương Chiêu làm văn điếu cho
Khiêm nói: 'Tốt thay sứ quân, (12) ông hầu Tướng quân(13), tỏ rõ đức dày, giỏi
võ giỏi văn, tính vốn thẳng thắn. Coi Thư và Lư(14), thân ái với dân; trông U
và Từ(15), để lại cam đường(16). Dạy dỗ Di, Mạch(17), nhờ ông mới lành. Giặc
cướp ngu xuẩn, không ông chẳng yên. Được vua ngợi khen, ban cho tước mệnh, làm
Mục làm Hầu, mở đất Lật Dương. Rồi làm Thượng tướng, nhận hiệu An đông, trừ nạn
dẹp loạn, xã tắc tôn sùng. Tuổi thọ không dài, bỗng chốc đã hoăng, kẻ yếu mất
dựa, dân biết khốn cùng. Chưa được tuần ngày, năm quận vỡ tan, người ta buồn
đau, còn ai ngóng trông? Nghĩ theo chẳng kịp, ngẩng than khoảng không. Than ôi
thương thay'!
Hai con
của Khiêm là Thương, Ứng đều không làm quan".
Chú thích:
(1) Cô: thuở nhỏ mất cha mẹ.
(2) Mậu tài: tức Tú tài, một hình thức chọn
người tài làm ra làm quan có từ thời Hán.
(3) Hiếu liêm: một hình thức chọn người hiếu
thuận và ngay thẳng ra làm quan có từ thời Hán.
(4) Quận thú: tức quan Thái thú đứng đầu quận.
(5) Múa: thời Hán có lễ nghi múa giao lưu. Lúc
ăn yến, chủ yến múa rồi khách mời múa lại.
(6) Quân Khăn vàng: quân nổi dậy đội khăn vàng
cuối thời Hán.
(7) Năm Sơ Bình thứ tư: tức năm 193 Công
nguyên thời Hán Hiến Đế.
(8) Ngũ Đế: năm vị Đế thời cổ. Ý nói Hiên Viên
đánh Xi Vưu ở đồng Trác Lộc, đánh Du Võng ở dồng Phản Tuyền. Vua Thuấn đánh Tam
Miêu ở vùng hồ Động Đình, hồ Bà Dương.
(9) Bậc Vương: ý nói vua Vũ Đinh của nhà Ân
đánh Quỷ Phương, và các vua của nhà Chu đánh
vua Trụ nhà Ân và các nước Yểm, Hỗ.
(10) Bao mao: cỏ tinh mao bỏ vào cái bao để
cúng tế.
(11) Năm Hưng Bình thứ nhất: tức năm 194 Công
nguyên thời Hán Hiến Đế.
(12) Sứ quân: tên gọi tôn kính với người đứng
đầu châu quận, ý chỉ Từ Châu Thứ sử Đào Khiêm.
(13) Tướng quân: tướng cầm quân, ý chỉ Xa kị
Tướng quân Trương Ôn.
(14) Thư và Lư: hai huyện Thư và huyện Lư là
nơi Khiêm làm quan Lệnh.
(15) U và Từ : hai châu U Châu và Từ Châu là
nơi Khiêm làm quan Mục và Thứ sử.
(16) Cam
đường: là cây cam đường. Xưa Thiệu Bá thời Chu xử tội ở dưới cây cam đường, đều
đâu vào đấy, người đời sau ghi nhớ, ý chỉ ân đức của quan lại đối với dân.
(17) Di, Mạch: Di là tên gọi chỉ người phương
đông và người ngoài Trung Quốc. Mạch là tên gọi một nhóm người phía đông bắc Trung
Quốc.
TRƯƠNG DƯƠNG TRUYỆN
Trương
Dương tự Trĩ Thúc, người quận Vân Trung. Vì có vũ dũng mà cấp cho Tinh Châu,
làm Vũ mãnh Tòng sự. Cuối thời Linh Đế, thiên hạ loạn, Đế lấy quan Tiểu Hoàng
môn Cảnh Thạc mà mình sủng ái làm Tây viên Thượng quân Hiệu úy, đóng quân ở
kinh đô, muốn để ngăn chống bốn phương, mời bọn hào kiệt trong thiên hạ làm tì
tướng. Thái Tổ cùng bọn Viên Thiệu đều làm Hiệu úy, thuộc vào Thạc.
Linh Đế
kỉ viết: "Lấy Hổ bôn Trung lang tướng Viên Thiệu làm Trung quân Hiệu úy;
Đồn kị Hiệu úy Bao Hồng làm Hạ quân Hiệu úy; Nghị lang Tào Tháo làm Điển quân
Hiệu úy; Triệu Dung, Phùng Chi làm Trợ quân Hiệu úy; Hạ Mâu, Thuần Vu Quỳnh làm
Tả hữu Hiệu úy".
Tinh
Châu Thứ sử Đinh Nguyên sai Dương đem quân đến chỗ Thạc, làm Giả Tư mã. Linh Đế
băng, Thạc bị Hà Tiến giết. Dương lại được Tiến sai khiến, về châu cũ mộ quân,
được hơn nghìn người, nhân đó ở lại quận Thượng Đảng, đánh giặc trên núi. Tiến
thua, Đổng Trác làm loạn, Dương bèn sai thuộc tướng đánh Thượng Đảng Thái thú ở
cửa Hồ Quan, không thắng, liền cướp lấy các huyện, quân đến mấy nghìn người.
Quân miền Sơn Đông(1) nổi dậy, muốn đánh Trác. Viên Thiệu đến Hà Nội, Dương hợp
quân với Thiệu, lại cùng Thiền vu của người Hung Nô là Ư Phù La đóng đồn ở sông
Chương. Thiền vu muốn phản, Thiệu, Dương không theo. Thiền vu bắt Dương cùng bỏ
đi, Thiệu sai tướng là Cúc Nghĩa đuổi đánh ở phía nam huyện Nghiệp, phá chúng.
Thiền vu lại bắt Dương đến Lê Dương, đánh phá quân của Độ liêu Tướng quân Cảnh
Chỉ, quân lại hăng, Trác lấy Dương làm Kiến nghĩa Tướng quân, Hà Nội Thái thú.
Thiên tử đến ở tại quận Hà Đông, Dương đem quân đến huyện An Ấp, bái làm An
quốc Tướng quân, phong làm Tấn Dương Hầu. Dương muốn đón Thiên tử về Lạc Dương,
các tướng không nghe; Dương về huyện Dã Vương. Năm Kiến An thứ nhất, Dương
Phụng, Đổng Thừa, Hàn Tiêm ép Thiên tử về kinh cũ(2), lương thiếu. Dương đem
lương đón ở trên đường, bèn đến Lạc Dương, bảo các tướng nói: "Nay Thiên
tử làm việc cùng thiên hạ, may có Công khanh đại thần, Dương mới ngăn được nạn
bên ngoài, sao lại coi việc ở kinh đô"? Bèn về Dã Vương, liền bái làm Đại
Tư mã.
Anh hùng
kí viết: "Tính Dương nhân hòa, không dùng uy phạt. Kẻ dưới mưu phản, phát
lộ, đối mặt mà khóc lóc, liền tha không hỏi".
Dương
vốn thân với Lữ Bố. Thái Tổ đến vây Bố, Dương muốn cứu hắn, không được, bèn đem
quân đến ở huyện Đông Thị làm thế cứu giúp từ xa. Tướng của Dương là Dương Sửu
giết Dương để theo về Thái Tổ. Tướng của Dương là Khuê Cố lại giết Sửu, lĩnh
hết quân của Sửu, muốn lên phía bắc hợp với Viên Thiệu. Thái Tổ sai Sử Hoán
chặn đánh, phá quân Cố ở thành Khuyển, chém Cố, thu hết quân ấy vậy. Điển lược
viết: "Cố tự Bạch Thố, đã giết Dương Sửu, đem quân đóng đồn ở huyện Xạ
Khuyển. Bấy giờ có người khuyên răn Cố nói: 'Tên chữ của Tướng quân là Thố mà
tên huyện ấy là Khuyển, thỏ gặp chó thì tất kinh hãi, nên nhanh dời đi'. Cố
không nghe, bèn chết trận".
Chú thích:
(1) Miền Sơn Đông: tức miền phía đông của núi
Thái Hàng.
(2) Kinh cũ: tức thành Lạc Dương.
TRƯƠNG YÊN TRUYỆN
Trương
Yến, người huyện Chân Định quận Thường Sơn. Vốn họ Trữ. Quân Khăn vàng nổi dậy,
Yến tụ họp người trẻ làm bọn cướp, đánh phá ở giữa vùng đầm núi, lại về Chân
Định, có đến hơn vạn người. Người huyện Bác Lăng là Trương Ngưu Giác cũng dấy
binh, tự xưng là Tướng quân Tòng sự, hợp với Yến. Yến tôn Ngưu Giác làm súy,
cùng đánh huyện Anh Đào, Ngưu Giác bị tên lạc đâm trúng, bị thương sắp chết,
sai quân theo Yến, lệnh nói: "Phải lấy Yến làm súy". Ngưu Giác chết,
quân theo Yến, do đó đổi thành họ Trương. Yến dũng mãnh nhanh nhẹn hơn người,
cho nên trong quân gọi là 'Yến bay'. Sau đó quân sĩ thêm đông, bọn cướp vùng
quận Thường Sơn, Triệu Quận, Trung Sơn, Thượng Đảng, Hà Nội đều qua lại, bọn
súy nhỏ của chúng là Tôn Khinh, Vệ Đương đều đem quân của mình theo Yến, có đến
trăm vạn người, hiệu là Hắc Sơn. Linh Đế không dẹp được, các quận phía bắc sông
Hà bị chúng gây hại. Yến sai người đến kinh đô xin hàng, bái Yến làm Bình nạn
Trung lang tướng.
Cửu châu
Xuân thu viết: "Lúc Trương Giác làm phản, bọn giặc Hắc Sơn, Bạch Ba, Hoàng
Long, Tá Hiệu, Ngưu Giác, Ngũ Lộc, Đê Căn, Khổ Tù. Lưu Thạch, Bình Hán, Đại
Hồng, Tư Lệ, Duyên Thành, La Thị, Lôi Công, Phù Vân, Phi Yến, Bạch Tước, Dương
Phượng, Vu Độc đều dấy binh, kẻ lớn thì hai, ba vạn người, kẻ nhỏ thì không
dưới vài nghìn người. Linh Đế không đánh được, bèn sai sứ giả đến bái Dương
Phượng làm Hắc Sơn Hiệu úy, lĩnh hết bọn giặc của các núi, được cử Hiếu liêm,
Kế lại. Sau lại thêm đông, không thể kể hết".
Điển
lược viết: "Bọn tướng súy của giặc Khăn vàng, Hắc Sơn vốn là những kẻ
không đội mũ lọng, tự gọi tên nhau, nói người cưỡi ngựa trắng là Trương Bạch
Kị, nói người nhanh nhẹn là Trương Phi Yến., nói kẻ nói tiếng lớn là Trương Lôi
Công, còn người râu rậm thì tự xưng là Vu Đê Căn, người mắt to tự xưng là Lí
Đại Mục".
Hán kỉ
của Trương Phan viết: "Lại có ba bộ là Tá hiệu, Quách Đại điền, Tá tì
trượng bát".
Sau đó,
Đổng Trác dời Thiên tử đến Trường An, quân thiên hạ nhiều lần nổi dậy, Yến bèn
đem quân mình liên kết với bọn hào kiệt. Viên Thiệu tranh Kí Châu với Công Tôn
Toản, Yến sai tướng là bọn Đỗ Trưởng giúp Toản, đánh với Thiệu, bị Thiệu đánh
thua, quân sĩ dần dần lìa tan. Thái Tổ đến định Kí Châu, Yến sai sứ đến xin
giúp quân của Nhà vua, bái làm Bình bắc Tướng quân, đem quân đến huyện Nghiệp,
phong làm An Quốc Đình Hầu, thực ấp năm trăm hộ. Yến hoăng, con là Phương thay.
Phương hoăng, con là Dung thay.
Tấn Huệ
Đế khởi cư chú của Lục Khải viết: "Môn hạ Thông sự Lệnh sử Trương Lâm là
cháu mấy đời của Phi Yến. Lâm cùng Triệu Vương là Luân làm loạn, chưa đến một
năm, làm đến Thượng thư lệnh, Vệ Tướng quân, phong tước Quận Công. Rồi bị Luân
giết".
TRƯƠNG TÚ TRUYỆN
Trương
Tú, người huyện Tổ Lệ quận Vũ Uy, là con trong họ của Phiếu kị Tướng quân Tế
vậy. Bọn Biên Chương, Hàn Toại làm loạn ở Lương Châu, người quận Kim Thành là
Cúc Thắng đánh úp giết Tổ Lệ Trưởng là Lưu Tuấn. Tú làm quan trong huyện ấy,
ngầm đợi giết Thắng, người trong quân khen
là có
nghĩa. Rồi gọi họp bọn tuổi trẻ làm hào kiệt trong ấp. Đổng Trác thua, Tế cùng
bọn Lí Thôi đánh Lữ Bố, trả thù cho Trác. Lời này tại truyện Đổng Trác. Tú theo
Tế, vì có công mà dần dần chuyển làm Kiến trung Tướng quân, phong Tuyên Uy Hầu.
Tế đóng đồn ở quận Hoằng Nông, quân sĩ đói khổ, xuống phía nam đánh huyện
Nhưỡng, bị tên lạc đâm chết. Tú lĩnh quân của Tế, đóng đồn ở huyện Uyển, hợp
với Lưu Biểu. Thái Tổ đánh miền nam, bọn Tú đem quân hàng. Thái Tổ lấy vợ của
Tế, Tú hận việc này. Thái Tổ nghe nói Tú không vui. Ngầm bày kế giết Tú. Kế lộ,
Tú ngầm đánh úp Thái Tổ. Quân Thái Tổ thua, hai con(1) chết. Tú về giữ huyện
Nhưỡng.
Phó Tử
viết: "Tú có người thân là Hồ Xa Nhi, dũng mãnh đứng đầu quân. Thái Tổ
thích sự dũng mãnh ấy, tự tay tặng cho vàng. Tú nghe tin liền ngờ Thái Tổ muốn
dùng tả hữu giết mình, bèn phản".
Ngô thư
viết: "Tú hàng, dùng kế của Giả Hủ, xin dời quân đến chỗ đường cao, đường
đi qua giữa trại của Thái Tổ. Tú lại nói: 'Xe ít mà nặng, xin được sai quân đều
mặc giáp'. Thái Tổ tin Tú, đều nghe theo. Tú bèn sửa quân vào trại, đánh Thái
Tổ. Thái Tổ không phòng bị, cho nên thua".
Năm đó
Thái Tổ đánh Tú, không thắng. Thái Tổ chống Viên Thiệu ở Quan Độ, Tú theo kế
của Giả Hủ, lại đem quân hàng. Lời này tại truyện Giả Hủ. Tú đến, Thái Tổ cầm
tay Tú cùng vui ăn yến, cho con trai là Quân lấy con gái của Tú, bái làm Dương
vũ Tướng quân. Ở trận Quan Độ, Tú gắng đánh có công, chuyển làm Phá Khương
Tướng quân. Đi theo phá Viên Đàm ở Nam Bì, lại tăng thực ấp lên hai nghìn hộ.
Bấy giờ hộ khẩu trong thiên hạ giảm sút, mười giảm còn một, các tướng được
phong chưa có ai được nghìn hộ, mà chỉ có Tú nhiều. Theo đi đánh người Ô Hoàn ở
Liễu Thành, chưa đến, hoăng, thụy là Định Hầu.
Ngụy
lược viết: "Ngũ quan tướng(2) nhiều lần nhân đó xin gặp, nổi giận nói:
'Ông giết anh ta, còn đem mặt nào mà nhìn người ta nữa'! Lòng Tú không tự yên,
bèn tự sát.
Con là
Tuyền thay, có tội mưu phản với Ngụy Phúng, giết, nước bỏ.
Chú thích:
(1) Hai con: tức con trai cả là Tào Ngang và
con của chú là Tào An Dân.
(2) Ngũ quan tướng: tức Tào Phi lúc chưa lên
ngôi được bái làm Ngũ quan Trung lang tướng, nói gọi là Ngũ quan tướng.
TRƯƠNG LỖ TRUYỆN
Trương
Lỗ tự Công Kì, người huyện Phong nước Bái. Ông nội là Lăng, làm khách ở quận
Thục, học đạo ở trong núi Hộc Minh, viết thành sách đạo để mê hoặc trăm họ,
người theo học đạo phải đem năm đấu gạo, cho nên người đời gọi là 'giặc gạo'.
Lăng chết, con là Hành truyền đạo của Lăng. Hành chết, Lỗ lại truyền đạo ấy.
Ích Châu Mục là Lưu Yên lấy Lỗ làm Đốc nghĩa Tư mã, cùng Biệt giá Tư mã Trương
Tu đem quân đánh Hán Trung Thái thú Tô Cố, Lỗ bèn đánh úp giết Tu, lấy quân của
Tu. Yên chết, con là Chương thay lập, thấy Lỗ không theo, giết hết người nhà
của mẹ Lỗ. Lỗ bèn ở tại Hán Trung, lấy đạo quỷ để dạy dân, tự xưng là 'Sư
quân'. Người đến theo học Lỗ, lúc đầu đều đặt tên là 'Quỷ tốt', truyền đạo ấy
cho người tin mình, gọi là 'Tế tửu', đều được lĩnh quân, nhiều kẻ làm Duyên đầu
Đại Tế tửu. Đều dạy thành tín không được lừa dối, người có bệnh phải tự nói ra
lỗi của mình, đại khái giống với quân Khăn vàng. Các 'Tế tửu' đều làm nhà nghĩa
giống trạm dịch của ngày nay. Lại đặt cơm thịt nghĩa treo ở nhà nghĩa, người đi
đường thu lấy dùng đủ; nếu nhiều quá, đạo quỷ liền khiến người đó mắc bệnh. Kẻ
phạm pháp thì ba lần tha, sau có lỗi mới xử phạt. Không đặt ra Trưởng lại, đều
lấy 'tế tửu' trông coi, dân yên ổn lại vui vẻ. Chiếm giữ miền Ba, Hán(1) gần ba
mươi năm.
Điển
lược viết: "Giữa năm Hi Bình, giặc quái nổi dậy, quan Tam phụ(2) có Lạc
Diệu. Giữa năm Quang Hòa, phương đông có Trương Giác, quận Hán Trung có Trương
Tu. Lạc Diệu dạy dân biết làm phép 'ẩn thân', Giác dạy đạo 'thái bình', Tu dạy
đạo 'năm đấu gạo'. Đạo 'thái bình' là thầy đạo cầm gậy chín đốt làm phép chúc,
dạy người bệnh gõ đầu mà suy nghĩ lỗi lầm, nhân đó đem nước bùa cho uống, người
bị bệnh trọn ngày mà tự khỏi thì nói người đấy tin đạo, có người không khỏi thì
nói là không tin đạo. Đạo của Tu đại khái giống với đạo của Giác, lại có thêm
'nhà lặng', sai người bệnh ở trong đó mà suy nghĩ lỗi lầm của mình. Lại sai người
làm 'Gian lệnh Tế tửu'. Tế tửu coi việc dùng năm nghìn chữ của Lão Tử, sai đều
tập đọc, gọi là 'Gian lệnh'. Lập ra 'Quỷ lại', làm chủ việc xin cầu đảo cho
người bệnh. Cách cầu đảo là, là viết họ tên của người bệnh lên giấy, nói rõ tội
lỗi, làm ra ba bản, một bản trong đó ném lên trời, rớt trên núi, một bản chôn
dưới đất, một bản bỏ chìm dưới sông, gọi là chữ viết tay của ba quan. Sai người
nhà của người bệnh đem ra năm đấu gạo để trả, cho nên gọi là giặc năm đấu gạo.
Thực là không có ích cho chữa bệnh, nhưng là say mê, mà dân thường ngu dốt,
thay nhau thờ nó. Sau đó Giác bị giết, Tu cũng chết. Lúc Lỗ ở tại Hán Trung,
nhân có dân tin mà truyền đạo của Tu, lại sửa thêm đạo ấy. Thầy đạo làm 'nhà
nghĩa', lấy gạo thịt đặt ở trong ấy mà níu chân người đi đường; lại dạy cách tự
ẩn thân, có kẻ mắc lỗi nhỏ, nếu đi đường được trăm bước thì tha tội; lại dựa
vào nguyệt lệnh(3), mùa xuân mùa hạ thì cấm giết, lại cấm uống rượu. Người ở
trọ đi lại ở đất ất, không ai dám không theo".
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Trương Tu phải là Trương Hành, nếu không phải là cái sai của
Điển lược thì là cái lầm của truyện này.
Cuối
thời Hán, sức chẳng đánh được, bèn ban ân bái Lỗ làm Trấn dân Trung lang tướng,
lĩnh chức Hán Trung Thái thú, dâng cống mà thôi. Dân rong quận có kẻ lấy được
cái ấn ngọc, bầy tôi muốn tôn Lỗ làm Hán Trung Vương. Viên Công tào của Lỗ là
Diêm Phố người quận Ba Tây can Lỗ nói: "Dân vùng Hán Xuyên có đến mười vạn
nhà, của nhiều đất tốt, bốn mặt hiểm vững; trên giúp Thiên tử thì được như
Hoàn, Văn(4) thứ nữa cũng được như Đậu Dung(5) cũng chẳng làm mất vinh hoa. Nay
nếu thừa lệnh sắp đặt, cái chân bị chặt, chẳng trở ngại cho sự thịnh vượng sao?
Xin đừng xưng Vương, chớ lại chước họa trước đấy"! Lỗ nghe theo. Hàn Toại,
Mã Siêu làm loạn, hàng vạn nhà dân của miền Quan Tây(6) từ hang Tí Ngọ trốn đến
đấy.
Năm Kiến
An thứ hai mươi(7), Thái Tổ lại từ cửa Tán Quan ra quận Vũ Đô đánh Lỗ, đến cửa
Dương Bình. Lỗ muốn đem cả quận Hán Trung hàng, em Lỗ là Vệ không chịu, đem mấy
vạn quân giữ cửa cố giữ. Thái Tổ đánh phá Vệ, rồi vào đất Thục.
Ngụy
danh thần tấu chép biểu của Đổng Chiêu nói: "Vũ Hoàng Đế nghe lời bàn của
Lương Châu Tòng sự và những kẻ hàng trong quận Hán Trung nói rằng Trương Lỗ dễ
đánh, mặt núi nam bắc dưới thành Dương Bình xa nhau, không nên giữ. Tin cho là
đúng. Lúc đặt chân đến, không như lời mà mình nghe nói, mới than rằng: 'Người
khác suy đoán, chẳng bẳng ý người ta'. Đánh các đồn trên núi Dương Bình, đã
không lấy được ngay, mà quân sĩ chết thương rất nhiều. Ý của Vũ Hoàng Đế chán
nản, lại muốn sai quân chặn núi rồi về, sai Đại Tướng quân Hạ Hầu Đôn, Tướng
quân Hứa Chử gọi quân trên núi rút về. Gặp lúc tiền quân chưa về, buổi đêm tối
tăm, vào nhầm trại giặc, giặc lại tan chạy. Bọn Thị trung Tân Bì, Lưu Diệp ở
sau quân, bảo bọn Đôn, Chử nói: 'Quan quân đã chiếm được đồn hiểm của giặc,
giặc đã tan chạy'. Vẫn chưa tin theo. Đôn đi xem trước, rồi về báo cho Vũ Hoàng
Đế, tiến quân đến đánh dẹp, may mà thắng được. Việc gần đây là việc mà quan
quân biết". Lại có biểu của Dương Kị nói: "Vũ Hoàng Đế bắt đầu đánh
Trương Lỗ, đem mười vạn quân đi, tự thân đến xem, bày đặt kế sách, nhân đó gặt
lúa của dân để làm lương cho quân. Trương Vệ đến giữ, không đủ để nói đến. Đất
hiểm dễ giữ, dẫu có quân mạnh tướng khỏe nhưng khó dùng được. Đối trận ba ngày,
muốn đem quân về, nói: 'Ta dùng quân ba mươi năm, một sớm chống giữ với người
ta, thế nào'? Kế ấy đã định, trời ban lộc cho Đại Ngụy, quân giữa của Lỗ tự vỡ,
nhân đó bình đất ấy".
Thế ngữ
viết: "Lỗ sai Ngũ quan duyện đến xin hàng, em là Vệ lên núi đắp thành
Dương Bình để chống, quân của Nhà vua không lên được. Lỗ chạy đến Ba Trung.
Lương quân hết, Thái Tổ sắp về. Tây tào duyện Quách Kham người Đông Quận nói:
'Không nên. Lỗ đã hàng, giữ sứ giả ở lại không về. Vệ dẫu không cùng ý, nhưng
cũng đánh được. Xua quân vào sâu, đã đi phải thắng, lui sẽ khó thoát'. Thái Tổ
do dự. Buổi đêm có mấy nghìn con nai hoang bỗng nhiên xông vào làm vỡ trại Vệ,
quân cả kinh, buổi đêm bọn Dương Tộ gặp nhầm với quân Vệ, bọn Tộ bèn thổi tù và
đánh trống tụ quân. Vệ sợ, cho rằng đại quân bị đánh lén, bèn hàng".
Lỗ nghe
tin thành Dương Bình đã vỡ, muốn cúi đầu xin hàng, Phố lại nói: "Nay bị ép
đến, công tất nhỏ; không bằng nhờ vào Đỗ Quán(8) đến chỗ của Phác Hồ(9) chống
nhau, rồi mới trao thân, công tất lớn". Do đó bèn đến miền núi phương nam
mà vào giữa đất Ba. Tả hữu muốn đốt hết kho lúa vật bảo, Lỗ nói: "Ta vốn
muốn theo về nhà nước, nhưng ý chưa được. Nay lại chạy tránh mũi nhọn là không
có ý xấu vậy. Kho lúa vật bảo nên để cho nhà nước". Bèn đóng kín rồi đi.
Thái Tổ vào Nam Trịnh, rất khen Lỗ. Lại vì Lỗ vốn có ý tốt, sai người khuyên
dụ. Lỗ đem hết người nhà ra hàng, Thái Tổ đón bái Lỗ làm Trấn nam Tướng quân,
dùng lễ khách mà đối đãi, phong Lãng Trung Hầu, thực ấp có vạn hộ. Phong năm
con của Lỗ và bọn Diêm Phố đều làm Liệt hầu.
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Trương Lỗ dẫu có ý tốt, nhưng bị thua rồi mới hàng, nay lại
sủng ái phong cho vạn hộ, năm con đều làm Liệt hầu, thế là quá rồi.
Tập Tạc
Xỉ nói: "Lỗ muốn xưng Vương, nhưng Diêm Phố can ngăn mới thôi, nay phong
Phố làm Liệt hầu. Thưởng phạt là để ngăn chặn cái xấu và khuyến khích cái tốt
vậy. Nếu việc ấy để làm làm rõ được muôn vật thì không cần xét gần xa hay sáng
tối rồi. Nay Diêm Phố can Lỗ chớ xưng Vương, mà Thái Tổ truy phong Phố, người
đời sau ai không nhớ theo! Chặn đầu nguồn thì dòng cuối tự ngừng. Điều này nói
về việc đó vậy! Nếu lại không làm rõ như thế mà lại coi trọng công lao sáng
chói, tặng thưởng hậu hĩnh cho kẻ sĩ chết trận thì dân ham lợi vào lúc có loạn,
tục lại tranh nhau đánh giết, lúc đó can qua không ngừng vậy. Thái Tổ phong như
thế, có thể nói là biết được cái gốc của thưởng phạt, dẫu Thang, Vũ(10) ở tình
huống ấy, cũng không hơn được".
Ngụy
lược viết: "Giữa năm Hoàng Sơ, tăng tước ấp cho Phố, đúng với lễ nghi. Hơn
mười năm sau bệnh chết". Tấn thư viết: "Tây Nhung Tư mã Diêm Toản là
cháu của Phố vậy".
Cho con
là Bành Tổ lấy con gái của Lỗ. Lỗ hoăng, thụy là Nguyên Hầu. Con là Phú thay.
Ngụy
lược viết: "Lưu Hùng Minh là người huyện Lam Điền. Thuở nhỏ làm nghề hái
thuốc săn bắn, thường ở dưới núi Phục Xa, hễ đến sớm tối, đi lại giữ sương mây,
vì biết đạo không lầm, mà người thời ấy nói rằng Hùng Minh biết làm ra sương
mây. Quách, Lí làm loạn, nhiều người theo Hùng Minh. Giữa năm Kiến An, nương
dựa châu quận, châu quận tiến cử làm Tiểu tướng. Bọn Mã Siêu phản,
không
chịu theo, Siêu phá Hùng Minh. Sau lại đến chỗ Thái Tổ, Thái Tổ cầm tay mà nói:
'Ta đang vào cửa ải, nằm mộng gặp người thần, là khanh chăng'! Bèn đãi hậu
hĩnh, tiến cử làm Tướng quân, sai khiến đón đồ đảng của Hùng Minh. Đồ đảng
không muốn hàng, bèn cướp để phản, bọn trốn tránh đều đến nương dựa, có đến mấy
nghìn quân, chiếm giữ cửa đường ải Vũ Quan. Thái Tổ sai Hạ Hầu Uyên đánh phá
chúng, Hùng Minh chạy về phía nam đến Hán Trung. Hán Trung phá, khốn cùng không
có chỗ chạy, mới lại ra hàng. Thái Tổ nắm râu Hùng Minh nói: 'Giặc già, bắt được
ngươi thật rồi'! Trao lại chức, dời đến quận Bột Hải. Bấy giờ lại có Trình
Ngân, Hầu Tuyển, Lí Kham đều là người quận Hà Nội, vào thời loạn năm Hưng Bình
đều có hơn nghìn nhà dân. Năm Kiến An thứ mười sáu, cùng hợp với Mã Siêu. Siêu
thua chạy, Kham chết giữa trận, Ngân, Tuyển về phía nam vào Hán Trung, đến chỗ
Thái Tổ hàng, đều trao lại chức".
Bình
nói: Công Tôn Toản giữ thành, ngồi đợi diệt vong. Độ tàn bạo không có tiết
tháo, Uyên thay nghiệp mà gánh họa, đấy là gốc rễ làm con cháu đổ vỡ vậy. Đào
Khiêm thời loạn lo buồn mà chết. Trương Dương cúi đầu làm bầy tôi, đều chiếm
giữ châu quận, chẳng qua cũng là kẻ thất phu, vốn không có gì để bàn vậy. Yến,
Tú, Lỗ rời bọn cướp, làm Liệt hầu, bỏ vứt nguy vong, giữ được miếu thờ, thì như
thế cũng tốt hơn rồi.
Chú thích:
(1) Miền Ba, Hán: tức quận Ba và quận Hán
Trung.
(2) Tam phụ: là ba viên quan trông coi vùng
xunh quanh của kinh đô.
(3) Nguyệt lệnh: tức lịch ghi chép từng đặc
điểm khí hậu, muôn vật trong từng tháng.
(4): Hoàn, Văn: Hoàn là Tề Hoàn Công, Văn là
Tấn Văn Công, đều là nổi tiếng chư hầu thời Xuân thu.
(5) Đậu Dung: bầy tôi nhà Đông Hán. Thời loạn
Vương Mãng, chiếm giữ miền phía tây sông Hoàng Hà, sau đó theo về Hán Quang Vũ
Đế.
(6) Miền Quan Tây: miền phía tây của cửa Hàm
Cốc.
(7) Năm Kiến An thứ hai mươi: tức năm 215 Công
nguyên thời Hán Hiến Đế.
(8) Đỗ Quán: Đỗ Quán là thủ lĩnh của người
Khương.
(9) Phác Hồ: là thủ lĩnh của người Khương.
(10) Thang, Vũ: Thang là Thành Thang của nhà
Ân; Vũ là Vũ Vương của nhà Chu .
TRƯƠNG TÚ TRUYỆN
Trương
Tú, người quận Võ Uy huyện Tổ Lệ, là cháu của Phiêu kỵ tướng quân Trương Tế.
Biên Chương-Hàn Toại làm loạn ở Lương châu, người ở Kim Thành là Khúc Thắng
đánh úp giết trưởng huyện Tổ Lệ là Lưu Tuyển. Tú làm Huyện lại, rình lúc sơ hở
giết Thắng, người trong quận cho là người nghĩa hiệp. Về sau Tú chiêu mộ tập
hợp những người trẻ tuổi, làm hào kiệt ở trong ấp. Đổng Trác bại vong, Tế cùng
bọn Lý Thôi đánh Lã Bố, vì Trác báo thù. Đã nói ở Đổng Trác truyện. Tú đi theo
Tế, làm Quân công, ít lâu được thăng làm Kiến trung tướng quân, tước Tuyên Uy
hầu. Tế đóng quân ở Hoằng Nông, sĩ tốt đói quá, xuôi nam đánh đất Nhưỡng, bị
trúng tên chết. Tú lĩnh quân ấy, đóng ở huyện Uyển, cùng với Lưu Biểu hợp binh.
Thái tổ nam chinh, quân đến Dục Thuỷ, bọn Tú đem binh ra hàng. Thái tổ thu nạp
vợ Tế, Tú hận vì việc ấy. Thái tổ nghe nói Tú không hài lòng, bí mật tính kế
giết Tú. Mưu kế bị lộ, Tú ngầm tập kích Thái tổ. Thái tổ thua quân, hai con bị
chết(1). Tú lui về giữ đất Nhưỡng, Thái tổ vây đánh gần một năm, không đánh
nổi.
Phó tử
chép: Tú có người thân là Hồ Xa Nhi, dũng mãnh đứng đầu trong quân. Thái tổ yêu
mến những kẻ mạnh tợn như thế, tự tay lấy vàng bạc cấp cho họ. Tú nghe nói bèn
ngờ rằng Thái tổ muốn nhân việc ấy cho tả hữu đâm chết mình, liền phản.
Ngô thư
chép: Tú ra hàng, dùng kế của Giả Hủ, xin dời quân của mình vào trung quân, khu
vực ấy là do Thái tổ đóng giữ. Tú lại nói: "Xe cộ của ta thiếu mà nặng nề,
xin hãy bắt binh sĩ đều phải mặc áo giáp." Thái tổ tin tưởng Tú, đều nghe
theo. Tù liền sai binh sĩ chuẩn bị hành trang tiến vào trại, đánh úp Thái tổ.
Thái tổ chẳng phòng bị gì, cho nên bị thất bại.
Thái tổ
cự Viên Thiệu ở Quan Độ, Tú theo kế của Giả Hủ, lại đem mọi người tới hàng. Đã
nói ở Giả Hủ truyện. Tú đến nơi, Thái tổ cầm tay Tú, cùng vui vẻ yến tiệc, cho
con là Quân lấy con gái Tú, bái Tú làm Dương vũ tướng quân. Chiến dịch Quan Độ,
Tú ra sức chiến đấu có công, được thăng làm Phá Khương tướng quân. Theo đi đánh
Viên Đàm ở Nam Bì, lại được tăng thực ấp cả thảy là hai nghìn hộ. Thời ấy, số
hộ khẩu trong thiên hạ giảm sút, mười nhà chỉ còn có một, các tướng được phong
thường không đầy một nghìn hộ, mà riêng một mình Tú được nhiều. Tú theo đi đánh
Ô Hoàn ở Liễu thành, chưa đến nơi thì chết, được ban thuỵ hiệu là Định hầu.
Nguỵ
lược chép: Ngũ quan tướng(4) mấy lần nhân vì Tú xin gặp, nổi giận nói:
"Ngươi giết anh trai ta, làm sao ta kiên trì nhẫn nại nhìn vào mặt ngươi
được đây!" Tú trong lòng bất an, bèn tự sát.
Con Tú
là Tuyền nối tự, bị buộc tội cùng với Nguỵ Phúng mưu phản bị tru diệt, đất
phong bị tước bỏ.
Chú thích:
(1) Chỗ này có lẽ Trần Thọ chép nhầm? Trận này
Tào Tháo chết một con trưởng là Tào Ngang và cháu là Tào An Dân.
(2) Chữ Trương này có một nghĩa nói đến sự
thay đổi, cái này mất thì lấy cái khác để thay vào. Ở đây có ý nghĩa như là
Ngưu Giác chết thì Yên thay Ngưu Giác cầm đầu sĩ chúng.
(3) Nhanh như chim yến bay.
(4) Tức
là Tào Phi, lúc chưa được lập làm Thái tử, Tào Phi nhận chức ấy.
CÔNG TÔN TOẢN TRUYỆN
Công Tôn
Toản tự Bá Khuê, người huyện Lệnh Chi quận Liêu Tây. Lệnh âm lang định phiên.
Chi âm kì nhi phiên. Làm Môn hạ Thư tá trong quận. Có dáng vẻ đẹp, tiếng nói
lớn, Hầu Thái thú kính trọng, gả con gái cho Toản, Điển lược viết: "Tính
Toản nhanh nhẹn, hễ bàn việc gì không chịu nói trước, thường tổng kết các việc
lại sau cùng, không có chỗ sai sót, quan Thái thú khen tài của Toản".
Sai đến
nhà Lư Thực ở Trác Quận đọc sách kinh, rồi làm quan trong quận ấy. Lưu Thái thú
làm việc mắc lỗi bị gọi đến phủ Đình úy, Toản làm người đánh xe, tự thân chăm
sóc. Đến lúc Lưu Thái thú dời đến quận Nhật Nam ,
Toản sắm sửa gạo thịt, ở tại huyện Bắc Mang cúng tế người trước, nâng chén rượu
chúc nói: "Trước làm người con, nay làm bầy tôi, nay đến quận Nhật Nam . Quận Nhật Nam khí chướng,
chỉ sợ không về được, nay cùng người quen từ biệt ở đây". Lại bái lạy rùm
rụp rồi đứng dậy, bấy giờ người ta thấy vậy chẳng ai không than thở. Lưu lại
được tha về. Toản vì cử Hiếu liêm mà làm quan Lang, bái làm Liêu Đông thuộc
quốc Trưởng sử. Thường dẫn mấy chục quân kị đi ra biên giới, thấy mấy trăm quân
kị người Tiên Ti, (1) Toản bèn lùi về giữa ngôi đình trống, hẹn quân kị đi theo
nói: "Nay nếu không xông ra tất chết hết vậy". Toản liền tự cầm mâu,
đao có hai lưỡi nhảy ra đâm quân Hồ, (2) giết chết mấy chục người, cũng giết
được nửa quân kị đi theo trong bọn chúng, bèn thoát được. Người Tiên Ti sợ hãi,
sau không dám vào lại biên giới. Chuyển làm Trác Lệnh. Giữa năm Quang Hòa, giặc
vùng Lương Châu nổi dậy, phát ba nghìn quân đột kị của vùng U Châu, lấy Toản
làm Đô đốc trông coi, sai đem quân đi. Quân đến giữa huyện Kế, người quận Ngư
Dương là Trương Thuần dụ người Ô Hoàn (3) ở quận Liêu Tây là bọn Khâu Lực Cư
làm phản, cướp bóc giữa huyện Kế, tự xưng Tướng quân, Cửu châu Xuân thu viết:
"Thuần tự hiệu Di thiên Tướng quân, An Định Vương". bắt quan dân,
đánh các thành của quận Hữu Bắc Bình, thuộc quốc Liêu Đông, chỗ đi qua đều phá
hoại. Toản dẫn bộ tướng đuổi đánh bọn Thuần có công, chuyển làm Kị Đô úy. Người
Ô Hoàn của thuộc quốc là Tham Chí Vương đem dân chúng đến chỗ Toản hàng. Chuyển
làm Trung lang tướng, phong Đô Đình Hầu, đến đóng đồn ở thuộc quốc, đánh phá
nhau với người Hồ năm, sáu năm. Bọn Khâu Lực Cư cướp bóc bốn châu Thanh, Từ, U,
Kí, bốn quận bị gây hại nhưng Toản không ngăn được.
Triều
đình bàn bạc thấy người quận Đông Hải là Tông chính Lưu Bá An vốn có đức nghĩa,
trước làm U Châu Thứ sử, ân tín sáng rõ, người Nhung Địch nương dựa, nếu được
sai đến vỗ về thì không cần đem quân đánh mà định được, bèn lấy Lưu Ngu làm U
Châu Mục.
Ngô thư
viết: "Ngu là dòng dõi của Cung Vương quận Đông Hải. Gặp thời nhiễu loạn,
lại đang lúc vua rời xa, làm quan ở huyện làm Hộ tào lại. Có tài tu thân coi
vệc, gọi làm quan của quận, cử Hiếu liêm làm quan Lang, làm đến U Châu Thứ sử,
chuyển làm Cam Lâm Tướng, rất được lòng người Nhung Địch ở miền đông. Sau có
bệnh xin về nhà, thường cúi mình ẩn thân, vui vẻ cùng bạn bè phe nhóm trong
châu huyện cứu giúp người không có tiền của, không vì chức vị mà tự phân biệt,
người làng xóm đều cùng theo về. Bấy giờ người làng xóm có kẻ kiện tụng, không
đến phủ quan, tự đến nhờ Ngu phân giải; Ngu lấy tình lí mà xét xử, người lớn bé
đều kính trọng, không cho là tiếc. Từng có kẻ bị mất trâu
mà màu
lông thân thể giống nhau với trâu của Ngu, nhân đó cho là của mình, Ngu bèn đem
cho kẻ đó; sau đó người chủ trâu kia tìm được trâu của mình mới đem trả tạ lỗi.
Gặp lúc nước Cam Lăng bị loạn, quan dân chọn làm Cam Lăng Tướng. Nước Cam Lăng
được dẹp yên. Gọi đến bái làm Thượng thư lệnh, Quang lộc huân, lại vì là họ
hàng của vua mà có lễ nghĩ, đổi làm Tông chính". Anh hùng kí viết:
"Ngu làm Bác Bình Lệnh, xét việc công bằng, ngay thẳng cao thượng, trong huyện
không có giặc cướp, không gây tai hại. Bấy giờ huyện bên gần cõi có châu chấu
gây hại, lan đến huyện Bác Bình, bây qua nhưng chẳng vào ruộng". Ngụy thư
viết: "Ngu ở tại U Châu, tiết kiệm trong sạch, lấy lễ nghĩa mà dạy dân.
Thời Linh Đế, cung phía nam bị đổ, những quan lại của các châu quận đều đem
tiền đến giúp sửa cung, có kẻ đem đến một vạn một nghìn tiền, có kẻ có đến hai
nghìn, hai vạn tiền. Nhà giàu lấy tiền riêng mà góp giúp, có kẻ đem tiền của
dân mà sắm sửa đóng góp, những kẻ nghèo mà trong sạch thì không có đem góp, có
kẻ phải tự sát. Linh Đế thấy Ngu trong sạch, hạ lệnh tha cho không cần góp
tiền".
Ngu đến,
sai sứ đến giữa người Hồ, nói rõ lợi hại, sai đòi chém đem đầu Thuần đến. Bọn
Khâu Lực Cư nghe tin Ngu đến, vui mừng, đều sai người đến xưng tự thần phục.
Toản lo Ngu lập công bèn ngầm sai người giết chết sứ giả của người Hồ. Người Hồ
biết được, ngầm đến bảo cho Ngu biết. Ngu dâng sớ xin bãi các quân đang đóng
ồn, vẫn giữ Toản đem vạn quân kị bộ đóng đồn ở quận Hữu Bắc Bình. Thuần liền bỏ
vợ con, chạy vào chỗ của người Tiên Ti, bị môn khách là Vương Chính giết, đem
đầu đến chỗ Ngu. Phong Chính làm Liệt Hầu. Ngu vì công liền được bái làm Thái
úy, phong làm Tương Phần Hầu.
Anh hùng
kí viết: "Ngu nhường chức Thái úy, nhân đó tiến cử Vệ úy Triệu Mô, Ích
Châu Mục Lưu Yên, Dự Châu Mục Hoàng Uyển, Nam Dương Thái thú Dương Độc, đều
dùng làm Công". Gặp lúc Đổng Trác đến Lạc Dương, chuyển Ngu làm Đại Tư mã,
bái Toản làm Phấn vũ Tướng quân, phong làm Kế Hầu.
Quân
nghĩa miền Quân Đông nổi dậy, Trác bèn cướp Đế đến miền tây, mời Ngu làm Thái
phó, đường lối chăn cách, tín lệnh không đến được. Viên Thiệu, Hàn Phức bàn cho
rằng vua nhỏ bị gian thần ngăn chặn, thiên hạ không có lòng theo về. Ngu là họ
hàng nhà vua có tiếng tăm, dân chúng trông mông, bèn tôn Ngu làm Đế. Sai sứ đến
báo cho Ngu, Ngu rút cuộc không chịu nhận. Bọn Thiệu lại khuyên Ngu lĩnh chức
Thượng thư, thừa lệnh phong bái, Ngu lại không nghe, nhưng vẫn liên hòa với bọn
Thiệu.
Cửu châu
Xuân thu viết: "Bọn Thiệu, Phức sai Lạc Lãng Thái thú Trương Kì người
huyện Cam Lâm trước kia đem lời bàn đến chỗ Ngu, sai phải xưng hiệu. Ngu lớn
tiếng mắng Kì nói: 'Ngươi dám nói lời này ra sao! Cái đạo trung hiếu đã không
thông. Ta nhận ân nước, thiên hạ nhiễu làm mà chưa được nhận lệnh để trừ bỏ nỗi
xỉ nhục nhà nước, mong có các kẻ sĩ trung liệt của các châu quận đều hợp sức về
phía tây, đón nghênh vua nhỏ, vậy mà dám tự tiện bày mưu phản nghịch, dám chuốc
nhơ bẩn cho trung thần chăng'!". Ngô thư viết: "Phức gửi thư cho Viên
Thuật nói rằng Đế không phải là con của Linh Đế, muốn noi theo việc cũ của
Giáng, Quán (4) giết bỏ vua nhỏ, đón lập Đại Vương; khen Ngu có công đức sửa
trị, vùng Hoa Hạ không có hai người như thế, họ hàng nhà vua đều chẳng ai sánh
bằng. Lại nói: 'Xưa Quang Vũ Đế là dòng dõi đời thứ năm của Định Vương, làm Đại
Tư mã trông coi miền Hà Bắc, bọn Cảnh Yểm, Phùng Dị đều khuyên nên lên ngôi vị,
rút cuộc thay Cánh Thủy Đế. Nay Lưu Công là dòng dõi của Cung Vương, cũng trải
qua năm đời, lấy Đại Tư mã trông coi miền U Châu, việc này cũng giống với Quang
Vũ Đế'. Bấy giờ có bốn ngôi sao hội ở sao Cơ, sao Vĩ, Phức nói đấy là điềm báo
trước có người thần sắp dựng nghiệp ở tại đất Yên. Lại nói rằng có người đàn
ông quận Tế Âm lấy được cái ấn ngọc, trên đó có khắc chữ rằng: 'Ngu làm Thiên
tử'. Lại thấy hai Mặt trời xuất hiện ở tại quận Đại, cho rằng Ngu nên thay
ngôi. Thiệu lại gửi thư riêng cho Thuật. Bấy giờ Thuật trong lòng có ý không
thần phục, cho rằng nhà nước có vua lớn tuổi sẽ không có lợi, bèn ngoài mặt
mượn cớ là việc công để đáp chống lại ý ấy. Thiệu cũng sai người báo riêng cho
Ngu biết, Ngu cho rằng nước có chính thống, là bây tôi không nên nói lời ấy, cố
từ chối không theo; lại muốn mưu trốn vào chỗ người Hung Nô để tự cắt đứt, bọn
Thiệu mới thôi. Do đó Ngu làm theo chức phận, càng thêm cung kính; các đồ cống
nạp mà người Hồ, người Khương đem đến nhưng vì đường lối không thông, bèn đều
chuyển chở đến ở kinh sư".
Con Ngu
là Hòa làm Thị trung ở tại Trường An. Thiên tử muốn về miền đông, sai Hòa lừa
trốn Trác, ngầm ra khỏi cửa Vũ Quan đến chỗ Ngu, sai Ngu đem quân đến đón. Hòa
đi thẳng đến chỗ Viên Thuật, nói rõ ý của Thiên tử. Thuật cho rằng Ngu có thể
vin dựa có lợi, liền giữ Hòa lại không cho đi, hứa sẽ đem quân cùng đi đến miền
tây, lệnh Hòa gửi thư cho Ngu. Ngu nhận được thư của Hòa, bèn sai mấy nghìn
quân kị đến chỗ Hòa. Toản biết Thuật có chí khác, không muốn sai quân đi, can
ngăn Ngu, Ngu không nghe. Toản sợ Thuật nghe tin mà giận mình, bèn sai em họ
của mình là Việt đem nghìn quân kị đến chỗ Thuật để tự kết thân, lại ngầm xui
Thuật bắt giữ Hòa, cướp quân của hắn. Do đó Ngu, Toản thêm hiềm khích. Hòa trốn
Thuật đến miền bắc, lại bị Thiệu giữ lại.
Bấy giờ
Thuật sai Tôn Kiên đóng đồn ở Dương Thành chống Trác, Thiệu sai Chu Ngang đánh
lấy đất ấy. Thuật sai Việt cùng Kiên đánh Ngang, không thắng, Việt bị tên lạc
đâm trúng mà chết. Toản giận nói: "Em ta chết, họa này do ở Thiệu".
Bèn đem quân ra đóng ở bên sông Bàn Hà, sắp đến trả thù Thiệu. Thiệu sợ, lấy ấn
thao Bột Hải Thái thú của mình đeo trao cho em họ là Phạm, sai đến quận, muốn
dựa giúp nhau. Phạm bèn đem quân Bột Hải giúp Toản, phá quân Khăn vàng vùng
Thanh Châu, Từ Châu, thế quân thêm mạnh; đem quân đến Giới Kiều.
Điển
lược chép biểu của Toản kể tội lỗi của Thệu nói: "Thần nghe nói từ thời
Hoàng Hi (5) đến nay bắt đầu có việc vua trên tôi dưới, đem giáo hóa để dạy
dân, dùng hình pháp để ngăn cấm cái ác. Nay Xa kị Tướng quân Viên Thiệu mượn cớ
vết xe ngày trước, cướp đoạt chức của người khác, có ý gây loạn, làm việc nhơ
bản. Trước làm Tư lệ Hiệu úy, gặp lúc nhà nước vỡ lở, Thái hậu thừa lệnh, họ hà
phụ chính, Thiệu lại chuyên làm việc xấu, không làm việc ngay thẳng, rồi sai
Đinh Nguyên đốt cháy bến Mạnh Tân, mời gọi Đổng Trác đến, tạo thành cái gốc của
họa loạn. Đấy là tội thứ nhất của Thiệu vậy. Trác đã vào Lạc Dương thì vua bị
bắt làm tin, Thiệu lại không quyết đoán để giúp vua trên, mà lại bỏ mất tiết
tháo, rút chạy bỏ trốn, làm nhục tước mệnh, phản vua bất trung, đấy là tội thứ
hai của Thiệu vậy. Thiệu làm Bột Hải Thái thú, kén chọn quân mã, lúc đánh Đổng
Trác, không báo cho vua trên, mà sai sứ đến cửa nhà quan Thái phó, khiến cho mẹ
con của Thái bộc một sớm mà chết, vậy là bất nhân bất hiếu, đấy là tội thứ ba
của Thiệu vậy. Thiệu đã dấy binh, trải qua ba năm, không cứu nạn nước, tự tiện
đặt phong, lại nhiều lần chuyển lương thảo không kịp lúc, cướp cắt làm giàu,
thu lấy tiền của, trăm họ kêu than, chẳng ai không giận, đấy là tội thứ bốn của
Thiệu vậy. Hàn Phức bức ép, lập ra ngôi rỗng, làm trái ân chiếu, khắc vàng chạm
ấn ngọc, hễ gửi văn thư, đựng kín trong túi đen, viết nói: 'Một tờ chiếu thư, ấn
của Kháng Hương Hầu'. Kháng khẩu lãng phiên. Xưa vừa gặp loạn, rồi lại lên
ngôi, nay cái mà Thiệu làm, vẫn như lúc trước, đấy là tội thứ năm của Thiệu
vậy. Thiệu sai Thôi Cự Nghiệp ngóng xem trăng sao, đưa tiền hối lộ, cùng nhau
ăn uống, hẹn kì hội hợp, đánh cướp quận huyện, đấy há phải là việc mà bậc đại
thần nên làm sao? Đấy là tội thứ sáu của Thiệu vậy. Thiệu cùng Hổ nha Đô úy Lưu
Huân trước cùng dấy binh, Huân vẫn tự chuộc lỗi, lại hàng phục Trương Dương,
vậy mà vì cái giận nhỏ mà gây hại cho Huân, tin dùng lời nịnh bợ, giết hại
người có công, đấy là tội thứ bảy của Thiệu vậy.
Thiệu
lại dùng Thượng Cốc Thái thú Cao Yên, Cam Lăng Tướng Diêu Cống ngày trước, đòi
hỏi tiền của họ, tiền không góp đủ, hai đều bị lấy mạng, đấy là tội thứ tám của
Thiệu vậy. Theo nghĩa của sách Xuân thu, con phải quý mẹ, mẹ Thiệu thân làm vợ
lẽ, Thiệu thực là hèn kém, không đáng làm dòng dõi của người ta, về nghĩa là
không hợp, vậy mà lại giữ chức cao vị to, làm xấu tước Vương, chước nhục họ
Viên, đấy là tội thứ chín của Thiệu vậy. Lại nữa Trường Sa Thái thú Tôn Kiên
ngày trước lĩnh chức Dự Châu Thứ sử, xua đuổi Đổng Trác, tẩy rửa lăng miếu,
công chẳng ai lớn bằng; vậy mà Thiệu sai Chu Ngang cướp lấy chức của người ta,
cắt đứt đường vận lương của Kiên, sai không được vào, khiến cho Trác không bị
giết, đấy là tội thứ mười của Thiệu vậy. Thần lại thường nhận được thư của Hậu
Tướng quân Viên Thuật, nói rằng Thiệu không phải là anh em của Thuật. Tội lỗi
của Thiệu, dẫu tre của núi Nam
cũng không ghi hết. Xưa nhà Chu của họ Cơ suy kém, Thiên từ dời đô, chư hầu
phản loạn, do đó Tề Hoàn Công lập hội thề Kha Đình, Tấn Văn Công mở hội ở Tiễn
Thổ, đánh Kinh Sở để tỏ tinh hoa, phạt Tào, Vệ để kể rõ tội vô lễ của họ. Thần
dẫu hèn kém, tiếng tăm không bằng người hiền thời trước, nhưng chịu nhận ân đức
của triều đình, gánh vác việc lớn, chức vụ ở tại chốn can qua, nhận lệnh đánh
kẻ có tội, sẽ cùng các tướng đem quân của châu quận đánh bọn Thiệu. Nếu việc
thắng lợi, kẻ có tội bị phạt, nối tiếp cái trung thành của Hoàn Công, Văn Công,
tình thế đánh trận thế nào xin trước sau báo lên". Bèn đến đến đánh với
Thiệu, Thiệu không thắng. Lấy Nghiêm Cương làm Kí Châu Mục, Điền Khải làm Thanh
Châu Mục, Đan Kinh làm Duyện Châu Mục, đặt các quận huyện. Thiệu đem quân đến
huyện Quảng Xuyên, lệnh tướng là Cúc Nghĩa lên trước đánh với Toản, bắt sống
Cương. Quân Toản thua chạy đến quận Bột Hải, cùng Phạm về huyện Kế, ở phía đông
nam thành lớn đắp thành nhỏ, gần nhau với Ngu, càng căm giận nhau.
Ngu sợ
Toản gây loạn, bèn đem quân đánh úp Toản. Ngu bị Toản đánh thua, chạy ra huyện
Cư Dung. Toản đánh chiếm huyện Cư Dung, bắt sống Ngu, đem Ngu về huyện Kế. Lúc
Trác chết, Thiên tử sai sứ giả là Đoàn Huấn đến tăng thực ấp cho Ngu, sai trông
coi sáu châu; Toản chuyển làm Tiền Tướng quân, phong làm Dịch Hầu. Toản vu cho
Ngu muốn xưng tôn hiệu, ép Huấn chém Ngu.
Ngụy thị
Xuân thu viết: "Trước đây, Lưu Ngu liên hòa với người Nhung Địch, Toản cho
rằng người Hồ Di khó ngăn chặn, nhân lúc chúng không thần phục mà đánh, nay
thưởng thêm tiền, tất càng thêm coi thường nhà Hán, được tiếng tăm một thời mà
để lại nỗi lo lắng lâu dài. Do đó cái mà Ngu ban thưởng thì Toản liền cướp lấy.
Ngu nhiều lần xin gặp, Toản xưng bệnh không đến. Đến lúc thua trận, Ngu muốn
đánh Toản, báo cho Đông Tào duyện Ngụy Du người quận Hữu Bắc Bình. Du nói: 'Nay
thiên hạ dẫn dắt theo về chỗ ông. Mưu thần là móng vuốt, không thể không có.
Toản có tài cả văn vũ đủ để nương ựa, dãu có ít lỗi xấu nhưng cũng nên dung
chứa hắn'. Bèn thôi. Một năm sau, Du bệnh chết. Ngu lại bàn với quan thuộc,
ngầm lệnh đem quân đánh úp Toản. Bộ tướng của Toản phân tán ở ngoài, Toản sợ
thua, đào cửa đông thành muốn chạy. Quân của Ngu không có đội ngũ lại không
luyện tập đánh trận, lại yêu dân chúng, bèn ra lệnh không được đốt phá. Do đó
Toản bèn đốt lửa, nhân đó đem quân tinh nhuệ xông xáo, quân của Ngu tan vỡ,
chạy đến thành Cư Dung. Toản đến đem người nhà để về, giết hại người trong châu
phủ, bọn kẻ sĩ đội mũ tài giỏi đều bị giết hết". Điển lược viết:
"Toản phơi Ngu ở cợ mà khấn rằng: 'Nếu là người ứng mệnh trời thì ngày nay
có mưa xuống cứu ngươi'. Bấy giờ đang giữa mùa hạ, cả ngày không mưa, bèn giết
Ngu". Anh hùng kí viết: "Lúc Ngu bị giết, Thường Sơn Tướng là Tôn
Cẩn, quan Duyện là bọn Trương Dật, Trương Toản cảm kích lòng trung nghĩa của
Ngu, cùng nhau đến chỗ Ngu, liên mồm mắng Toản, sau đó cùng chết". Toản cử
Huấn làm U Châu Thứ sử. Toản bèn kiêu ngạo, làm việc lỗi quên việc hay, phần
nhiều gây hại.
Anh hùng
kí viết: "Toản lĩnh hết trong ngoài, trong bọn con em đang tuổi đội mũ có
kẻ tuấn tú bèn sai đến đất khốn khó, có người hỏi nguyên nhân, đáp nói: 'Nay để
cho con em trong nhà đang tuổi đội mũ và bọn kẻ sĩ tài giỏi được giàu có thì
đều phải tự mình làm lấy công việc, không cần người khác ban tặng vậy'. Những
kẻ buông thả được yêu quý phần nhiều là những kẻ yếu kém, như ba người bọn thầy
bói số là Lưu Vĩ Đài, người bán lụa là Lí Di Tử, nhà buôn là Lạc Hà Đương, cùng
họ thề làm anh em, tự gọi mình là Bá, gọi ba người là Trọng, Thúc, Quý, giàu có
đều đến hàng ức tiền, hoặc lấy con gái của họ mà gả cho con trai của mình,
thường khen bọn Khúc Chu, Quán Anh để thề".
Tòng sự
của Ngu là bọn Tiên Vu Phụ, Tề Chu, Kị Đô úy Tiên Vu Ngân là người quận Ngư
Dương đem quân của châu muốn trả thù Toản, lấy người nước Yên là Diêm Nhu vốn
có ân tín, cùng tôn Nhu làm Ô Hoàn Tư mã. Nhu chiêu dụ người Ô Hoàn, người Tiên
Ti, thu được mấy vạn người Hồ, người Hán, đánh nhau với bộ tướng của Toản là
Trâu Đan ở phía bắc huyện Lộ, đại phá được, chém Đan. Viên Thiệu lại sai Cúc
Nghĩa và con của Ngu là Hòa đem quân cùng Phụ hợp đánh Toản. Quân Toản nhiều
lần thua, bèn chạy về huyện Dịch giữ chắc.
Anh hùng
kí viết: "Trước đó có câu hát của bọn trẻ con rằng: 'Cõi phía nam nước
Yên, vùng phía bắc nước Triệu, miền giữa không lớn bằng đá mài, chỉ có ở giữa
đó mới tránh loạn được'. Toản lấy quân ở huyện Dịch mà chống đỡ, lại đắp thành
giữ vững. Bộ tướng khác của Toản bị địch vây, không cứu được. Nói với bộ tướng
ấy rằng: 'Cứu một người, khiến cho sau này các tướng chỉ dựa vào quân cứu mà
không gắng sức đánh; nay không cứu chỗ ấy thì sau này các tướng sẽ ghi nhớ phải
tự gắng sức'. Do đó lúc Viên Thiệu bắt đầu đánh miền bắc, các trại ở đất miền
nam của Toản tự lo chống giữ không thể giữ vững, lại biết Toản sẽ không đến
cứu, cho nên các tướng có kẻ tự giết thuộc hạ của mình, hoặc có người bị quân
Thiệu phá, khiến cho quân Thiệu đánh thẳng đến cửa mình". Thần là Tùng Chi
cho rằng: Lời mà bọn trẻ con hát không có gì là không ứng nghiệm; đến như lời
văn này, tựa như không có chỗ sai, như lời văn hát, có lẽ là Toản trước sau cố
giữ huyện Dịch, không nghĩ mưu xa. Mà Toản nhân cái uy phá quân Khăn vàng, ý
chí vươn xa, bèn đặt Thứ sử của ba châu, mưu diệt họ Viên, do đó mà thua vậy.
Đắp lũy bao quanh mười vòng, ở trong lũy đắp thành, đều cao năm, sáu trượng,
làm lầu ở trên đó; giữa lũy đắp thành, có thành cao mười trượng, tự ở đó, chứa
ba trăm vạn hộc lúa. Anh hùng kí viết: "Các tướng của Toản ai ai cũng làm
lầu cao, có đến nghìn cái lầu. Toản làm cửa sắt, trú ở trên lầu, rời xa tả hữu,
để vợ lẽ hầu bên trao dẫn văn thư".
Toản
nói: "Người xưa nói việc thiên hạ nên vẫy cờ mà yên định, ngày nay xem ra
không bằng ta xét việc, không bằng dừng binh đi, chăm làm ruộng cất chứa thóc
lúa thôi. Theo binh pháp thì trăm tòa lầu đã không đánh được, nay ta có lầu cao
nghìn tầng, ăn hiết thóc lúa ở đây cũng đủ biết hết việc thiên hạ rồi". Muốn
dựa vào đấy để làm quân Thiệu mỏi mệt. Thiệu sai tướng đánh chỗ ấy, nhiều năm
không thắng được.
Hán Tấn
Xuân thu viết: "Viên Thiệu gửi thư cho Toản nói: 'Ta với túc hạ đã có ước
thề trước kia, tự mình thề dẹp loạn, thân ái hơn cả Di, Thúc, chức phận rõ như
màu xanh màu đỏ, gọi là sức kéo cùng bánh xe, cùng gót chân như Tề, Tấn, nên
cởi ấn bỏ dây thao, lấy miền bắc nối vào miền nam, chia sẻ màu mỡ để cùng làm
việc, đấy không phải là thể hiện tấm lòng son đỏ của ta chăng? Há để túc hạ vứt
nghĩa lớn của kẻ sĩ mà chuốc lấy vết chân của tai vạ? Dừng mà nghĩ lại, đã gây
oán dễ, ngầm sai quân mã cướp bóc Dự Châu. Lúc trước nghe nói quân mã ở tại
miền nam, tự thân đánh trận, sợ bị tên lạc đâm trúng, đao loạn dọc ngang, đắp
thêm cái họa của túc hạ, lại tăng thêm cái lỗi của ta vậy. Cho nên gửit thư tha
thiết, mong đã sửa lỗi. Vậy mà túc hạ vẫn tự buông thả, ra oai lừa dối, nói là
có thể thu được lưới trời, diệt được bọn anh hùng, do đó khiến cho em họ mất
mạng ở chốn can qua. Lời ấy vẫn còn văng vẳng bên tai. Mà túc hạ từng không
đánh cái gốc của tai họa, xét lỗi của mình, tạm muốn tỏ cái giận không cùng của
mình mà không nghĩ đến cái ranh giới của nghịch thuận, giữ oán mà gây hại cho
dân, hại lây đến cả thân ta. Lại ruổi ngựa căng cung đến đánh đất đai của ta,
giết hại dân chúng, xương trắng phanh phơi. Ta thật bất đắc dĩ phải dàn trận ở
Giới Kiều. Bấy giờ thế quân của túc hạ lẫy lừng, ngựa khỏe hí vang, mà quân ta
vừa hợp lại, khí giới không bén, khỏe yếu lẫn lộn, quân ít ý nhiều, may nhờ
trời giúp, đánh nhỏ mà thắng lớn, bèn rút chạy lên miền bắc, nhân đó đắp lũy
chứa thóc, đấy chẳng phải oai trời giúp đỡ, tỏ rõ đức dày có lễ nghi sao? Chí
của túc hạ còn chưa thỏa, lại mưu lập lại chút tro tàn, đem cái sâu hại của
mình để đốt cháy quận Bột Hải. Ta lại không được yên, phải sai quân đến sông
Long. Đem quân dụ trước, đại quân chưa qua sông mà gan mật túc hạ đã tan rã,
không đánh mà thua, quân sĩ rối loạn, tướng sĩ cùng trốn. Đấy lại là việc làm
của túc hạ khiến cho ta mắc lỗi vậy. Từ đó về sau, oán ghét thêm sâu, không
dừng được mối hận, mới dẫn đến chất thây thành gò, đầu cổ đầy đồng, ta thương
xót cho kẻ không có tội, chưa từng không cảm khái rơi nước mắt vậy. Từ khi nhận
được thư của túc hạ, ý tứ nhún nhường, có lời sửa lỗi trước lo việc sau này. Ta
đã vui vì được kết thân trở lại, vả lại thương cho triệu dân không được yên, hễ
thường dẫn quân xuôi phía nam cũng kính theo ý thư.
Một lúc
không hay mà văn vũ hịch chưa từng không qua lại. Ta do đó mà đau lòng nhức óc,
không được yên thân. Như việc chọn tướng của ba quân, dùng được các tướng, nên
ra lệnh lạnh lùng như sương giá, vui vẻ như trời mưa, thì việc tốt xấu được mất
có thể yên lòng mà ngồi xem. Vậy mà túc hạ giữ hai ba ý, mưu tính mạnh yếu, gấp
gáp thì cúi thân, thong dong thì buông thả, làm thì không có đầu mối, nói không
có chứng lí, là kẻ sĩ mà làm như thế sao! Do đó đã giết hại kẻ già yếu, cõi U
Châu căm giận, quân sĩ phản loạn mà người thân rời bỏ, lẻ loi không có phe
đảng. Lại nữa người Ô Hoàn, người Uế Mạch đều là cùng châu của túc hạ, họ khác
tục với ta, đều hăng hái cứng cỏi, tranh làm tiên phong cho ta; lại có người
Tiên Ti khắp tây đông, nhấc gót đến nương dựa ta. Đấy chẳng phải đức của ta có
thể vẫy gọi họ, là túc hạ đuổi họp đến chỗ ta sao? Nay đang lúc nguy khó, ở chỗ
hiểm của can quan, vậy mà trong thì làm trái lời thề đồng minh, ngoài thì làm
mất lòng của người Nhung Địch, dấy binh trong châu, muốn làm Bá một vùng, tai
họa đã ở trước cửa, cũng chẳng khó sao! Trước lấy quân cứng khỏe của núi tây mà
đem đi đánh dẹp, hội quân thừa của Cúc Nghĩa, chỉ là quân sợ đánh mà trốn lệnh
mà thôi, cho nên dừng đại quân, chia quân càn quét, quân này là quân đi trước
của ta thôi vậy, lại ở Giới Kiều nhổ cờ phá lũy, đấy quân đi trước chống địch
thôi vậy. Mới nghe nói túc hạ khắc vàng đeo thao đỏ, tự xưng là nguyên súy,
phải càng thêm hăng hái để trả nỗi nhục của Mạnh Minh, (6) cho nên chiến sĩ dẫn
lĩnh, nghển cổ mà nhìn cờ tinh, sao lại ẩn hình dấu bóng, lặng yên không động
để đợi bị tiêu diệt, cùng nhau tham tiếc? Như có chí muốn bình thiên hạ, lập
công ít có trên đời, sai khiến quân sĩ, sửa sắm quân mã,mà không đánh kẻ phản,
không thu kẻ phục, uy phong đều vỡ, lấy gì lập công? Nay kinh cũ đã lấy lại,
lưới trời vừa vá, kẻ có tội đã chết, kẻ trung liệt coi việc, vùng Hoa Hạ sửa
sang, mong ở việc hòa thân, sắp bỏ can quan, thả tán trâu ngựa, vậy mà túc hạ
còn giữ một đất cỏn con, giữ cái mái nhà giữa quân, vui lòng để lại tiếng xấu
vỡ mục, làm mất cái đức đẹp lâu dài? Hăng hái mà mưu tính như thế không phải là
kế hay vậy. Nay cởi bỏ thù hận, sửa lại kết thân. Như lời hèn này, mong trời
cao nghe được'. Toản không đáp, lại thêm phòng bị. Bảo Quan Tĩnh nói: 'Ngay nay
thiên hạ tranh giành, rõ là không có ai giữ nhau nhiều năm được dưới thành của
ta đâu. Viên Bản Sơ muốn như ta sao'!".
Năm Kiến
An thứ tư, (7) Thiệu đem hết quân vây Toản. Toản sai con xin cứu với giặc núi
Hắc Sơn, lại muốn tự đem quân kị xông thẳng ra ngoài, dựa vào núi phía tây nam,
thu lấy quân của núi Hắc Sơn, quân cứng khỏe ở Kí Châu, chặn ngang đường sau
của Thiệu. Trưởng sử Quan Tĩnh khuyên Toản nói:
"Nay
tướng sĩ của Tướng quân đã như đất lở vỡ vụn, những kẻ còn chống giữ nhau được,
trông lại chỉ thấy người già yêu ở đấy, cũng vì Tướng quân là chủ thôi. Tướng
quân giữ vững lâu ngày, Viên Thiệu tất phải tự lui; sau khi tự lui, quân của
bốn phương tất thu lại được. Nay nếu Tướng quân bỏ chỗ này mà đi, quân không
còn chỗ giữ thì đất Dịch nguy cấp chỉ ngồi đợi nữa mà thôi. Tướng quân làm mất
gốc rễ, lẻ loi nơi đồng cỏ, sao thành công được"! Toại bèn thôi không ra.
Anh hùng
kí viết: "Quan Tĩnh tự Sĩ Khởi, người quận Thái Nguyên. Vốn là quan lại
khắc nghiệt, nịnh nọt mà không có mưu lớn, rất được Toản tin yêu". Quân
cứu đến, muốn trong ngoài đánh Thiệu. Sai người gửi thư cho con, hẹn đem quân
đến, đốt lửa làm hiệu.
Điển
lược viết: "Toản sai Hành nhân là Văn Tắc đem thư đến báo cho con là Độc
nói: 'Mưu của họ Viên giống như quỷ thần, trống kèn kêu ở giữa đất thì bắc
thang treo lên lầu ta. ngày cùng tháng tận, không được yên ổn. Ngưu nên phá
quân Trương Yến trước, sau đó đem quân kị đến nhanh, quân đến phải đốt lửa hiệu
lên phía bắc, lúc đó ta từ trong đánh ra. Nếu không, sau khi ta chết, thiên hạ
rộng lớn, ngươi muốn tìm đất yên chân, còn có được sao'!". Hiến Đế Xuân
thu viết: "Toản nằm mơ thấy thành Kế vỡ, biết tất thua, bèn ngầm sai người
gửi thư cho Độc. Quân dò rình của Thiệu lấy được, sai Trần Lâm đổi thư viết:
'Nghe nói thời xưa vào lúc nhà Chu suy, thây phơi máu chảy, cho rằng là không
hay, há đúng ngày nay thân ta đang ở buổi ấy sao'!". Lời khác trong đó
giống với lời mà Điển lược chép. Quân dò rình của Thiệu lấy được thư ấy, theo
như hẹn đốt lửa. Toản cho là quân cứu đến, bèn ra sắp đánh. Thiệu đặt quân
phục, đánh phá quân Toản, lại về giữ. Thiệu đào đường hầm, đục phá lầu thành,
dần dần vào thành giữa. Anh hùng kí viết: "Viên Thiệu chia bộ tướng đào
đất làm đường, đào hang xuyên dưới lầu thành của Toản, Toản dần dần đưa gỗ đến
đóng cọc, cắm chân hơn nửa, lại đốt cột mà Toản đóng, lầu liền nghiêng
đổ".
Toản tự
biết sẽ thua, giết hết vợ con của mình rồi tự sát. Hán Tấn Xuân thu viết:
"Quan Tĩnh nói: 'Ta nghe nói quân tử vùi thân vào chỗ nguy, phải cùng gánh
nạn, há chỉ sống một mình sao'! Bèn ruổi ngựa xông vào quân Thiệu mà chết.
Thiệu đem hết đầu họ đến đất Hứa".
Tiên Vu
Phụ đem quân mình vâng mệnh vua. Lấy Phụ làm Kiến trung Tướng quân, trông coi
sáu quận của U Châu. Thái Tổ chống nhau với Viên Thiệu ở Quan Độ, Diêm Nhu sai
sứ đến chỗ Thái Tổ nhận việc, chuyển làm Hộ Ô Hoàn Hiệu úy. Mà Phụ tự đến chỗ
Thái Tổ, bái làm Tá độ liêu Tướng quân, phong Đình Hầu, sai về giữ gìn châu cũ.
Ngụy
lược viết: "Phụ theo Thái Tổ đến ở Quan Độ. Viên Thiệu thua chạy, Thái Tổ
mừng, ngoảnh bảo Phụ nói: 'Nếu năm trước Bản Sơ đưa đầu Công Tôn Toản đến, ta
tự thấy giật mình, mà nay đánh thắng hắn, đấy là ý trời, cũng là sức của hai ba
ông'". Thái Tổ phá huyện Nam Bì, Nhu đem bộ khúc cùng ngựa khỏe của người
Tiên Ti đến cấp cho quân, theo đi đánh người Ô Hoàn ở ba quận, có công phong
làm Quan Nội Hầu.
Ngụy
lược viết: "Thái Tổ rất yêu Diêm Nhu, thường bảo Nhu nói: 'Ta xem khanh
như con, cũng muốn khanh xem ta như cha vậy'. Nhu do đó tự gửi thân ở các quan
tướng, coi như anh em". Phụ cũng đem quân mình đi theo. Văn Đế lên ngôi,
bái Phụ làm Hổ nha Tướng quân, Nhu làm Độ liêu Tướng quân, đều tiến phong làm
Huyện hầu, (8) chức Đặc tiến. (9)
Chú thích:
(1) Người Tiên Ti: một nhóm người miền bắc
Trung Quốc thời xưa.
(2) Người Hồ: tên gọi chung của người di mục
thảo nguyên miền bắc Trung Quốc thời xưa.
(3) Người Ô Hoàn: một nhóm người miền bắc
Trung Quốc thời xưa.
(4) Giáng, Quán: Giáng là Giáng Hầu Chu Bột, Anh là Quán Anh hai bầy tôi thời Hán diệt họ Lữ đón
Đại Vương lên ngôi.
(5) Hoàng Hi: họ Phục Hi thời cổ.
(6) Mạnh Minh: tức Mạnh Minh Thị, tướng của
nước Tần thời Xuân thu, nhiều lần thua quân Tấn, rồi quyết chí đánh thắng quân
Tấn, rửa nỗi nhục thua trận.
(7) Năm Kiến An thứ tư: tức năm 199 Công nguyên,
thời Hán Hiến Đế.
(8) Huyện hầu: tước hầu có thực ấp một huyện.
(9) Đặc tiến: chức quan thời Hán, trao cho
người có địa vị đặc biệt tronh các Liệt hầu, chức dưới hàng Tam công.
NGỤY THƯ QUYỂN 9 - Chư
Hạ Hầu Tào truyện
Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng,
Tào Hưu, Tào Chân, Hạ Hầu Thượng
HẠ HẦU ĐÔN TRUYỆN
Hạ Hầu
Đôn tự Nguyên Nhượng, người Tiêu huyện nước Bái, là con cháu dòng dõi của Hạ
Hầu Anh(1). Năm mười bốn tuổi, theo học thầy, có người làm nhục thầy, Đôn giết
kẻ ấy, bởi thế có tiếng là người cứng cỏi. Lúc Thái Tổ mới khởi sự, Đôn thường
làm Tỳ tướng, theo đi chinh phạt. Khi Thái Tổ làm Hành Phấn vũ tướng quân, lấy
Đôn làm Tư mã, được giữ riêng một cánh quân ở đóng Bạch Mã, sau được thăng làm
Chiết xung Hiệu uý, lĩnh chức Thái thú Đông Quận.
Thái Tổ
đi đánh Đào Khiêm, lưu Đôn trấn thủ Bộc Dương. Trương Mạc làm phản nghênh đón
Lã Bố, gia quyến Thái Tổ ở Quyên Thành, Đôn đem số ít quân vận tư trang nhẹ tới
đó, vừa hay gặp Bố, cùng giao chiến. Bố lui về, vào thành Bộc Dương, tập kích
quân chở đồ truy trọng của Đôn. Rồi phái tướng đến trá hàng, chung sức bắt giữ
Đôn, đòi của cải, trung quân của Đôn kinh hoàng chấn động. Tướng của Đôn là Hàn
Hạo lập tức thống suất số binh lính trong doanh trại của Đôn, triệu quan lại
cùng chư tướng đến, bắt thuộc hạ đều phải mặc nguyên áo giáp không được kinh
động, các doanh trại mới được yên. Sau đó Hạo đến dinh sở của Đôn, thét gọi kẻ
bắt con tin ra chất vấn rằng: "Bọn hung nghịch chúng bay, dám bắt giữ bức
hiếp Đại tướng quân, có còn muốn sống nữa chăng! Ta vâng mệnh đi đánh dẹp bọn
phản tặc, có thể đảm nhiệm công việc của một vị tướng quân, đâu có buông tha
cho chúng mày được?" Rồi khóc hỏi Đôn rằng: "Ta nên thực thi quốc
pháp thế nào đây?" Xong lập tức triệu binh sĩ tới đánh bọn bắt con tin.
Bọn chúng sợ hãi vội vã rập đầu xuống, nói "Tôi chỉ muốn xin lấy ít đồ tư
trang rồi bỏ đi thôi!" Hạo trách mắng mấy đứa, đều đem chém cả. Đôn được
thoát, Thái tổ nghe chuyện, bảo Hạo rằng: "Khanh làm thế là để khuôn phép
cho vạn đời vậy." Rồi xuống lệnh, từ nay về sau kẻ nào bắt giữ con tin,
mọi người phải hợp sức mà đánh, không phải hỏi han gì. Bởi thế việc bắt bớ con
tin dứt tuyệt hẳn.
[Tôn
Thịnh nói: Xét Quang Vũ bản kỷ, năm Kiến Vũ thứ chín, bọn cướp bắt mẹ và em của
Âm quý nhân, quan lại vì không tiếp cận được bọn cướp bắt con tin, bọn cướp bèn
giết con tin. Thế thì cái việc hợp sức đánh bọn cướp, là phép từ xưa vậy. Từ
đời Thuận đế, An đế đã bỏ phép ấy, chính giáo trì trệ hủ bại, bọn bắt con tin
chẳng kiêng kỵ gì bậc vương công, mà Hữu ti cũng chẳng ai tuân theo phép nước, Hạo
mới khôi phục lại việc chém bọn ấy, cho nên Nguỵ Vũ mới khen ngợi.]
Thái tổ
từ Từ Châu về, Đôn đi theo đánh Lã Bố, bị lạc tên bắn trúng, bị thương ở mắt
trái.
[Nguỵ
lược chép: Bấy giờ Hạ Hầu Uyên và Uyên và Đôn đều làm tướng quân, trong quân
gọi Đôn là manh Hạ Hầu(2). Đôn ghét bọn ấy, cứ soi gương là tức giận, lập tức
đập gương xuống đất.]
Đôn được
lĩnh chức Thái thú Trần Lưu, Tế Âm, gia thêm chức Kiến vũ tướng quân, phong
tước Cao An hương hầu. Bấy giờ trời đại hạn, nạn hoàng trùng(3) nổi lên, Đôn
liền cho chặn sông Thái Thọ làm thành hồ chứa, tự thân đi vác đất, làm gương
cho tướng sĩ, khuyến khích trồng lúa, dân được nhờ cái lợi ấy. Sau Đôn được
chuyển sang giữ chức Hà Nam
doãn. Thái tổ bình Hà Bắc, Đôn làm Đại tướng quân(4) dàn quân ở phía sau. Phá xong
huyện Nghiệp, Đôn được thăng làm Phục Ba tướng quân, cai quản Hà Nam như trước,
cho được tuỳ cơ ứng biến xử lý công việc, không phải câu nệ khuôn phép.
Năm Kiến
An thứ mười hai, Thái tổ xem xét công lao trước sau của Đôn, tăng thêm thực ấp
cho Đôn một ngàn tám trăm hộ, cộng cả trước đấy là hai nghìn năm trăm hộ. Năm
thứ hai mươi mốt, lúc theo đi đánh Tôn Quyền ở Hợp Phì, Thái tổ sai Đôn đốc
xuất hai mươi sáu đội quân, đóng ở Cư Sào. Đôn được Thái tổ tặng cho một đội kỹ
nhạc ca xướng, có lệnh rằng: "Nguỵ Giáng vì cái công hoà với rợ Nhung, mà
còn được nhận một đội nhạc Kim Thạch(5), huống chi là là tướng quân của
ta!". Năm thứ hai mươi bốn, Thái tổ đóng quân ở Ma Pha(6), triệu Đôn đến
cho ngồi cùng xe, tỏ ra đặc biệt coi trọng, được ra vào tận chỗ Thái tổ nằm,
chư tướng chẳng có ai sánh được. Đôn được bái làm Tiền tướng quân, đốc trách
chư quân từ Thọ Xuân trở về, cho dời đến đóng binh ở Triệu Lăng.
[Nguỵ
thư chép: Bấy giờ chư tướng đều nhận chức quan của Nguỵ, riêng mình Đôn là quan
của nhà Hán, Đôn bèn dâng sớ trần tình rằng mình chẳng thích hợp với cái lễ của
kẻ không phải là thần tử nhà Nguỵ. Thái tổ nói: "Ta nghe nói Thái thượng
là tấm gương của kẻ bầy tôi, chúng ta đều giữ chức phận thần tử. Làm thần tử
của chúa thượng, là bậc cao quý, chức quan mỏn mọn của nhà Nguỵ, sao đủ để
ngươi phải khuất thân nhỉ?" Đôn cố xin, Thái tổ bèn bái Đôn làm Tiền tướng
quân(7).]
Đôn tuy
ở trong quân lữ, vẫn đi đón thầy về dạy dỗ. Bản tính Đôn thanh bạch cần kiệm,
những của cải dư thừa thường đem chia cho mọi người, không đủ thì lấy ở cửa
quan, chẳng vun vén sản nghiệp riêng. Khi chết được ban thuỵ là Trung hầu. Con
của Đôn là Sung nối tự, lúc Đế đoái nghĩ đến công lao của Đôn, muốn cho tất cả
con cháu của Đôn nhận tước hầu, chia cho Đôn thực ấp một ngàn hộ, ban cho bảy con
và hai cháu của Đôn đều được làm Quan nội hầu. Em của Đôn là Liêm cùng với một
người con của Đôn là Mậu lúc trước đã được phong là Liệt hầu. Khi trước, Thái
tổ đem con gái mình gả cho Mậu, tức là Thanh Hà công chúa vậy. Mậu trải các
chức vụ Thị trung thượng thư, An Đông Trấn Tây tướng quân, được ban Giả tiết.
[Nguỵ
lược chép: Mậu tự Tử Lâm, là con thứ của Đôn. Văn Đế lúc còn nhỏ chơi thân với
Mậu, khi tức vị, cho Mậu làm An Tây tướng quân, được cầm cờ tiết, nối chức Hạ
Hầu Uyên làm Đô đốc Quan Trung. Mậu vốn không có vũ lược, nhưng khéo chơi bời.
Đến năm Thái Hoà thứ hai, Minh đế Tây chinh, có người bẩm bạch chuyện về Mậu,
Đế triệu gọi Mậu về triều làm Thượng thư. Thời Mậu ở Quan Trung, có nuôi rất
nhiều ca kỹ nàng hầu, công chúa bởi thế bất hoà với Mậu. Sau này các em của Mậu
không lễ phép, Mậu mấy lần quở trách nghiêm ngặt, mấy người em sợ bị trừng trị,
bèn cùng vu hãm Mậu tội phỉ báng, khiến công chúa phải tấu lên, lập tức có
chiếu bắt Mậu. Đế có ý muốn giết đi, đem ra hỏi quan Trường Thuỷ Hiệu uý quận Kinh
Triệu là Đoạn Mặc, Mặc cho rằng "đấy hẳn là công chúa Thanh Hà và Mậu bất
hoà, nên mới nảy ra lời gièm pha vu vạ, hy vọng là Bệ hạ chẳng nên tìm thêm sự
thật nữa. Vả lại Phục Ba(8) có công cùng với tiên đế yên định thiên hạ, việc
này nên nghĩ đi nghĩ lại cho kỹ." Đế hiểu ra, nói: "Ta cũng cho là
thế." Rồi phát chiếu tra hỏi kẻ làm tờ biểu cho công chúa, quả nhiên là do
các em của Mậu là Tử Tang và Tử Giang vu vạ.]
Sung
chết, con Sung là Dị nối tự, Dị chết, con là Thiệu nối tự.
[Tấn
Dương thu chép: Năm Thái Thuỷ nhị niên, Cao An hương hầu là Hạ Hầu Tá chết, Tá
là cháu của Đôn vậy, tuyệt tự. Chiếu viết: "Đôn, là nguyên công của nhà
Nguỵ(9), công lao được ghi vào tre lụa. Xưa kia Đình Kiên(10) không có người tế
tự, còn có người thương cảm ông ấy, huống chi trẫm vâng mệnh trời lên ngôi ở
nước Nguỵ, mà có thể quên được công thần của mình ru? Nên chọn người họ hàng
của Thiệu gần gũi với Đôn mà phong tước cho họ.]
Hàn Hạo,
là người quận Hà Nội. Người ở nước Bái là Sử Hoán cùng với Hạo đều hiển danh là
trung dũng. Hạo làm đến chức Trung hộ quân, Hoán làm đến chức Trung lĩnh quân,
đều được cai quản quân cấm binh, phong làm Liệt hầu.
[Nguỵ
thư chép: Hàn Hạo tự Nguyên Tự. Thời Hán mạt binh lính nổi dậy, các huyện ở gần
rừng núi, có nhiều giặc cướp, Hạo tụ tập quân lính phòng giữ trong huyện. Thái
thú Vương Khuông cho Hạo làm Tòng sự, đem binh đi cự Đổng Trác ở Minh Tân. Thời
ấy cậu của Hạo là Đỗ Dương làm Hà Âm lệnh, bị Trác bắt giữ, sai đi chiêu dụ
Hạo, Hạo không theo. Viên Thuật nghe chuyện ấy, khen Hạo, cho làm Kỵ Đô uý. Hạ
Hầu Đôn nghe tiếng Hạo, xin được cùng tương kiến, rất lấy làm lạ, cho lĩnh binh
theo đi chinh phạt. Bấy giờ có cuộc họp lớn nghị bàn chuyện hơn thiệt, Hạo cho
rằng phải gấp rút làm đồn điền. Thái tổ khen ngợi, thăng Hạo lên làm Hộ quân.
Thái tổ muốn đi đánh Liễu Thành, Lĩnh quân Sử Hoán cho rằng thâm nhập vào nơi
xa xôi, không phải là kế vẹn toàn, muốn cùng với Hạo cùng đưa lời can. Hạo nói:
"Nay ta binh thế cường thịnh, uy danh vang động bốn bể, giao chiến là
thắng, đánh là lấy được, chẳng đâu là không đến được, không làm như thế thì
việc trừ tai hoạ trong thiên hạ, sẽ là mối lo sau này. Vả lại Công là bậc thần
vũ, khi hành động kế sách không hề sai sót, ta với ông là trung quân của chúa,
không nên ngăn trở mọi người." Rồi theo đi phá Liễu Thành, được đổi chức
quan là Trung hộ quân, đặt ra chức Trưởng sử, Tư Mã. Lại theo đi đánh Trương
Lỗ, Lỗ ra hàng. Kẻ bàn luận thấy Hạo trí dũng mưu lược đủ để phủ dụ người ở
biên ải, muốn lưu lại làm Đô đốc chư quân, trấn thủ Hán Trung. Thái tổ nói:
"Ta sao có thể không có Hộ quân được?" Rồi cho cùng theo về. Hạo thân
gần và được tin tưởng như thế. Lúc Hạo chết, Thái tổ rất thương xót. Hạo không
có con nối, Thái tổ cho con nuôi của Hạo là Vinh được nối tự.]
[Sử Hoán
tự Công Hưu, lúc trẻ tự mình làm việc nghĩa hiệp, rất có hùng khí. Lúc Thái tổ
mới nổi dậy, cho làm tân khách đi theo, rồi làm Trung quân Hiệu uý, theo đi
chinh phạt, thường giám sát chư tướng, rất thân tín, sau chuyển sang làm Trung
lĩnh quân. Năm Kiến An thứ mười bốn chết.
Con Hoán
là Tĩnh nối tự.]
Ghi chú:
(1) Là võ tướng, công thần của Hán Cao Tổ.
(2) Hạ Hầu mù.
(3) Châu chấu phá hại mùa màng.
(4) Đây không phải là hàm Đại tướng quân của
triều đình, chỉ là Đại tướng cầm một cánh quân do Tào Tháo phong cho.
(5) Rợ Nhung quấy rối biên ải nước Tấn, Nguỵ
Giáng làm tướng, ký hoà ước với rợ Nhung, hai bên không xâm phạm bờ cõi của
nhau, vua Tấn thưởng cho Nguỵ Giáng một đội quân nhạc.
(6) Trong nguyên tác chữ Hán, chỗ này, sau chữ
'Thái tổ đóng quân', Trần Thọ có thêm mấy chữ 'kích phá Lã Bố quân', để trong
dấu ngoặc tròn, chẳng hiểu hàm ý ra sao, có phải chăng là những quân sĩ này là
đám quân sĩ tham gia khi đánh Lã Bố ngày trước? Xin không dịch vì thấy chẳng có
nghĩa gì.
(7) Chỗ này, thực ý của Đôn là muốn làm quan
nhà Nguỵ để bày tỏ lòng trung với Tào Tháo mà thôi, xem ra Đôn thật sự là kẻ
tầm thường.
(8) Đôn từng giữ chức Phục Ba tướng quân.
(9) Nguyên công tức là công thần đời đầu tiên,
khai quốc công thần.
(10) Không biết tích này là thế nào?
HẠ HẦU UYÊN TRUYỆN
Hạ Hầu
Uyên tự Diệu Tài, là em họ Đôn. Thời Thái tổ còn ở nhà, từng vướng vào chuyện
quan sự ở huyện, Uyên nhận trọng tội thay cho, Thái tổ tính kế cứu Uyên, Uyên
được thoát tội.
Nguỵ
lược chép: Bấy giờ vùng Duyện, Dự đại loạn, Uyên vì túng thiếu, đem bỏ đứa con
trai nhỏ của mình, mà nuôi nấng đứa con gái nhỏ côi cút của người em đã
chết(1). Thái tổ khởi binh, lấy Uyên làm Biệt bộ tư mã, Kỵ đô uý đi theo bên
mình, sau thăng làm Thái thú Trần Lưu, Dĩnh Xuyên. Lúc Thái tổ và Viên Thiệu
giao chiến ở Quan Độ, Uyên làm Hành Đốc quân Hiệu uý. Thiệu bị phá, Thái tổ sai
Uyên đôn đốc việc quân lương ở các châu Duyện, Dự, Từ; Thời ấy quân lương thiếu
thốn, Uyên đem quân lương tiếp tế, binh lính nhờ đó mà phấn chấn lên được.
Xương Hi làm phản, Thái tổ phái Vu Cấm đến đánh, chưa thắng được, Thái tổ lại
phái Uyên và Cấm cùng hợp sức, sau đánh được Hi, thu hàng hơn một chục đồn
binh, Hi đến chỗ Cấm đầu hàng. Uyên quay về, được bái làm Điển quân Hiệu uý.
Nguỵ thư
chép: Uyên làm tướng, tức tốc xông vào nơi gian khó, thường ra chỗ địch không
phòng bị, cho nên trong quân có câu rằng: "Điển quân Hiệu uý Hạ Hầu Uyên,
ba ngày đi năm trăm dặm, sáu ngày đi ngàn dặm."
Giặc
Hoàng Cân ở Tế Nam, Lạc An là bọn Từ Hoà, Tư Mã Câu tấn công thành trì, giết
hại trưởng lại, Uyên dẫn quân lính ở các quận Thái Sơn, Tề, Bình Nguyên ra đánh,
đại phá giặc, chém Hoà, bình định các huyện, thu lấy lương thảo ở các huyện ấy
để cấp cho quân sĩ. Năm Kiến An thứ mười bốn, Thái tổ lấy Uyên làm Hành lĩnh
quân. Thái tổ đi đánh Tôn Quyền trở về, sai Uyên đốc xuất chư tướng đánh kẻ làm
phản ở Lưu Giang là Lôi Tự, Tự bị phá, Uyên lại làm Hành chinh tây Hộ quân, đốc
xuất Từ Hoảng đánh giặc ở Thái Nguyên, tấn công hạ được hơn hai mươi đồn luỹ,
chém đầu lĩnh của giặc là Thương Diệu, giết sạch quân ở trong thành. Rồi theo
đi đánh bọn Hàn Toại, tác chiến ở Vị Nam, lại đốc xuất Chu Linh bình định Du
Mi, Khiên Đê. Lại cùng với Thái tổ hội quân ở An Định, Dương Thu quy hàng.
Năm thứ
mười bảy, Thái tổ quay về huyện Nghiệp, dùng Uyên làm Hộ quân tướng quân, thống
suất bọn Chu Linh, Lộ Chiêu đóng quân ở Trường An, đánh phá sơn tặc là Lưu
Hùng, thu hàng quân đội của Hùng. Lại vây dư đảng của của Toại, Siêu là bọn
Lương Hưng ở huyện Hộ, dẹp xong, chém Hưng, được phong tước Bác Xương đình hầu.
Mã Siêu vây Thứ sử Lương Châu là Vi Khang ở huyện Ký, Uyên tới cứu Khang, chưa
đến nơi, Khang đã thua trận. Uyên còn cách Ký huyện hơn hai trăm dặm, Siêu đến
nghênh chiến, quân của Uyên bất lợi. Khiên Đê làm phản, Uyên dẫn quân quay về.
Năm thứ
mười chín, bọn Triệu Cù, Doãn Phụng mưu tính đánh Siêu, Khương Tự khởi binh ở
Lỗ Thành để hưởng ứng. Bọn Cù quỷ quyệt lừa Siêu, khiến Siêu xuất binh đánh Tự,
rồi ở hậu phương giết sạch vợ con Siêu. Siêu vội chạy vào Hán Trung, rồi quay
lại vây Kỳ Sơn. Bọn Tự cáo cấp cầu cứu Uyên, chư tướng nghị bàn nên đợi Thái tổ
tiết chế. Uyên nói: "Công ở huyện Nghiệp, đi rồi quay về là bốn ngàn dặm,
nhận được hồi báo, bọn Tự tất đã bại, chẳng bằng ta đánh gấp đi." Rồi hành
quân, sai Trương Cáp đốc xuất năm nghìn quân bộ kỵ ở phía trước, theo đường hẻm
Trần Thương tiến vào, Uyên tự mình đốc lương ở phía sau. Cáp đến gần Vị Thuỷ,
Siêu dẫn mấy nghìn quân Đê, Khương đón đánh Cáp. Chưa giao chiến, Siêu bỏ chạy,
Cáp tiến quân thu lấy khí giới của quân Siêu. Uyên đến nơi, các huyện đều đã ra
hàng. Hàn Toại ở Hiển Thân, Uyên quay ra tập kích Toại, Toại bỏ chạy. Uyên thu
lấy quân lương của Toại, rồi truy kích dến tận thành Lược Dương, còn cách Toại
hơn hai mươi dặm, chư tướng muốn tấn công, có người nói rằng nên tấn công rợ Đê
ở Hưng Quốc. Uyên cho rằng binh của Toại tinh nhuệ, thành Hưng Quốc bền vững,
đánh không thể lấy ngay được, chẳng bằng đánh các tộc Khương ở Trường Li. Những
người Khương ở Trường Li đa phần ở trong quân của Toại, tất sẽ quay về cứu gia
tộc mình. Nếu Toại để người Khương độc thủ thì cô thế, đi cứu Trường Li thì
quan binh phải giao chiến ở ngoài đồng, như thế hẳn ta có thể bắt sống được.
Uyên bèn lưu bộ tướng giữ đồ truy trọng, đem khinh binh bộ kỵ đến Trường Li,
tấn công đốt doanh trại của rợ Khương, chém và bắt sống được rất nhiều địch.
Những người Khương ở trong quân của Toại, đều quay về bộ lạc. Toại quả nhiên
đến cứu Trường Li, cùng với quân của Uyên đối trận. Chư
tướng thấy quân của Toại đông, sợ lắm, muốn làm hào luỹ liên kết các doanh trại
rồi mới giao chiến. Uyên nói: "Quân ta di chuyển cả ngàn dặm, nay lại làm
công sự, thì sĩ chúng sẽ mỏi mệt, chẳng thể giữ được lâu. Giặc tuy đông, cũng
dễ đối phó thôi." Bèn thúc trống xuất binh, đại phá quân của Toại, đoạt
được cờ chỉ huy của địch, rồi quay về Lược Dương, tiến quân vây Hưng Quốc. Đê
vương là Thiên Vạn chạy trốn đến chỗ Mã Siêu, dư đảng tộc Khương ra hàng. Uyên
quay sang đánh các huyện Cao Bình, Đồ Các, binh sĩ các nơi ấy đều bỏ chạy tán
loạn, Uyên thu được lương thảo trâu ngựa của họ. Uyên được ban Giả tiết.
Khi
trước, Tống Kiến ở Phu Hãn nhân lúc Lương Châu loạn lạc, tự xưng là Hà thủ bình
Hán vương. Thái tổ sai Uyên thống suất chư tướng thảo phạt Kiến. Uyên đến nơi,
vây Phu Hãn, hơn một tháng hạ được, chém Kiến và các quan lại từ Thừa tướng trở
xuống. Uyên biệt phái bọn Trương Cáp đi bình định Hà Quan, qua Hoàng Hà xâm
nhập Tiểu Hoàng Trung, các tộc Khương ở Hà Tây ra hàng cả, vùng Lũng Hữu bình
định. Thái tổ xuống lệnh rằng: "Tống Kiến tác loạn hung nghich hơn ba mươi
năm, Uyên một lần cất binh mà diệt được, là hổ bộ ở vùng Quan Hữu, đi đến đâu
không có ai là đối thủ. Trọng Ni có câu rằng: 'Ta chẳng so sánh với ngươi
được(2).' Năm thứ hai mươi, tăng thêm thực ấp cho Uyên ba trăm hộ, gồm cả lúc
trước là tám trăm hộ. Sau Uyên quay về đánh rợ Khương, Đê ở Vũ Đô, Hạ Biện, thu
được hơn vạn hộc lương của người Đê. Thái tổ Tây chinh Trương Lỗ, bọn Uyên dẫn
chư tướng, vương hầu ở Lương Châu đến chúc hạ, cùng với Thái tổ hội họp ở Hưu
Đình. Thái tổ mỗi lần hội kiến các vua người Khương, Hồ, lại lấy Uyên ra doạ
họ. Khi Lỗ ra hàng, Hán Trung bình định, Thái tổ cho Uyên giữ chức Hành Đô hộ
tướng quân, thống suất bọn Trương Cáp, Từ Hoảng bình định Ba Quận. Thái tổ về
huyện Nghiệp, lưu Uyên trấn thủ Hán Trung, lại bái Uyên làm Chinh tây tướng
quân. Năm thứ hai mươi ba, Lưu Bị đóng quân ở ải Dương Bình, uyên thống suất
chư tướng chống cự Bị, cầm giữ nhau liền năm. Năm thứ hai mươi bốn tháng giêng,
Bị trong đêm nổi lửa quanh công sự phòng ngự của Uyên(3). Uyên sai Trương Cáp
che chắn vòng vây ở phía Đông, tự mình dẫn khinh binh chống đỡ ở phía Nam . Bị quay
sang khiêu chiến Cáp, quân của Cáp bất lợi. Uyên phân một nửa binh của mình
tương trợ Cáp, vì bị Lưu Bị tập kích, Uyên ra giao chiến bị chết. Uyên được ban
thuỵ hiệu là Mẫn hầu.
Trước
đó, Uyên dù mấy lần chiến thắng, Thái tổ thường răn rằng: "Làm tướng thì
phải có lúc khiếp sợ, chẳng thể chỉ cậy vào cái dũng. Tướng phải lấy dũng làm
gốc, hành sự phải dùng trí mưu; chỉ biết dùng cái dũng, thì địch nổi một kẻ
thất phu mà thôi."
Vợ của
Uyên, là em vợ Thái tổ. Con trưởng của Uyên là Hành, lấy con gái của em trai
Thái tổ là Hải Dương Ai hầu, ân sủng cực trọng. Hành được tập tước, sau đổi
phong tước An Ninh đình hầu. Năm Hoàng Sơ trung, ban tước cho con thứ của Uyên
là Bá, năm Thái Hoà trung, ban cho bốn em của Bá, đều được nhận tước Quan nội
hầu. Bá, năm Chính Thuỷ trung làm Thảo thục hộ quân Hữu tướng quân, được tấn
phong tước Bác Xương đình hầu, vốn nhận sự hậu đãi của Tào Sảng. Nghe tin Sảng
bị tru diệt, Bá nghi ngờ, bỏ trốn vào Thục. Vì Uyên là cựu huân(4) nên xá tội
cho con của Bá, dời đến ở quận Lạc Lãng.
Nguỵ
lược chép: Bá tự Trọng Quyền. Uyên vì bị người Thục giết hại, nên Bá thường
nghiến răng căm giận, có ý muốn báo thù Thục. Năm Hoàng Sơ trung Bá làm Thiên
tương quân. Chiến dịch Tý Ngọ, Bá được gọi đến làm tiên phong, tiến vào vòng
vây ở Hưng Thế, hạ trại ở Khúc Cốc Trung. Người Thục trông xa biết đó là Bá,
coi thường phát binh tấn công. Bá thủ chiến ở trong trại, chờ quân cứu đến, rồi
sau được giải vây. Về sau Bá làm Hữu tướng quân, đóng quân ở Lũng Tây, ở đó
nuôi dưỡng sĩ tốt, hoà với rợ Nhung, được họ vui vẻ giúp đỡ. Đến năm Chính Thuỷ
trung, Bá thay Hạ Hầu Nho làm Chinh Thục hộ quân, thống suất thuộc hạ đi đánh
phương Tây. Bấy giờ Chinh tây tướng quân Hạ Hầu Huyền, đối với Bá là chú cháu,
nhưng Huyền với Tào Sảng là em bên họ ngoại. Lúc Tư mã Tuyên vương giết Tào
Sảng, bèn cho triệu gọi Huyền, Huyền đi về Đông. Bá nghe tin Tào Sảng bị giết
mà Huyền lại bị trưng tập, cho rằng hoạ tất tới với mình, trong lòng đã lo sợ;
lại vì trước đây Bá và Thứ sử Ung Châu là Quách Hoài bất hoà, nhưng Hoài được
thay Huyền làm Chinh tây, Bá càng thấy bất an, nên chạy trốn vào Thục. Rảo bước
xuôi Nam tới Âm Bình thì
lạc đường, vào tận Cốc Trung, lương hết, giết ngựa ăn rồi đi bộ, bàn chân bị
tróc thịt, nằm dưới phiến đá, cầu cạnh người đi đường chỉ lối, song không ai
mách cho. Người Thục hay tin, bèn sai người đến nghênh đón Bá. Ngày trước, năm
Kiến An thứ năm, thời người em họ của Bá được mười ba, mười bốn tuổi, ở bản
quận, đi ra ngoài kiếm củi, bị Trương Phi bắt được. Phi biết người ấy là con
gái nhà lương thiện, bèn lấy làm vợ, sinh được một người con gái, làm Hoàng hậu
của Lưu Thiện. Cho nên lúc Uyên mới mất, vợ của Phi xin an táng cho Uyên. Lúc
Bá vào Thục, Thiện cùng tương kiến, vui vẻ bảo rằng: "Phụ thân của khanh
bị hại trong lúc hành quân thôi, không phải là tự tay tiền nhân(5) của ta đâm
chết đâu." Rồi trỏ vào đứa con nhỏ của mình bảo Bá rằng: "Đây là cháu
ngoại của họ Hạ Hầu đấy." Bá được ban tước rất hậu.
Em của
Bá là Uy, làm quan đến Thứ sử Duyện châu.
Thế ngữ
chép: Uy tự Quý Quyền, dốc lòng làm việc nghĩa. Trải chức Thứ sử ở hai châu
Kinh, Dự, rất quý hiển. Con là Tuấn, làm Thứ sử Tinh Châu. Con thứ là Trang,
làm Thái thú Hoài Nam .
Con của Trang là Trạm, tự là Hiếu Nhã, uyên bác về văn chương, làm quan đến Nam
Dương tướng, Tán kỵ thường thị. Trang, là anh rể của Cảnh Dương hoàng hậu nhà
Tấn. Bởi thế cả nhà được thịnh vượng một thời.
Em Uy là
Huệ, làm Thái thú Lạc An.
Văn
chương tự lục chép: Huệ tự Trĩ Quyền, lúc ấu thơ vì tài học được xưng tụng,
khéo chắp nối tấu chương. Trải qua chức Tán kỵ hoàng môn thị lang, cùng với
Chung Dục(6) mấy lần biện bác, việc được nhiều người biết. Huệ được thăng làm
Yên tướng(7), Thái thú Lạc An.
Em Huệ
là Hoà, làm Hà Nam
doãn.
Thế Ngữ
chép: Hoà tự Nghĩa Quyền, biện bác rành mạch, có tài thảo luận. Trải các chức
Hà Nam
doãn, Thái thường. Con thứ ba của Uyển là Xứng, con thứ năm là Vinh.
Theo Tôn
Trạm vi kỳ tự chép: "Xứng tự Thúc Quyền. Từ lúc còn là đứa trẻ ranh đã
thích tập hợp bọn trẻ con, tự mình làm thủ lĩnh, đùa bỡn làm trò quân lữ bầy
chiến trận, đứa nào kháng cự liền dùng roi nghiêm trị, bọn chúng chẳng đứa nào
dám phản kháng. Uyên ngầm cho nó là lạ, cho nó đọc Hạng Vũ truyện và binh thư,
nó không chịu, nói: 'Tài năng thì tự có được thôi, sao có thể học người khác
được?' Năm Xứng mười sáu tuổi, Uyên với nó đi săn, thấy một con hổ đang chạy,
Xứng ruổi ngựa đuổi theo, cấm không nổi, nó bắn một mũi tên mà con hổ ngã.
Tiếng đến tai Thái tổ, Thái tổ cầm tay nó mừng rỡ nói: 'Ta dùng được mày rồi.'
Hoà cùng với Văn Đế giao du từ khi áo vải, mỗi khi yến hội, khí thế lấn át cử
toạ, kẻ biện sĩ chẳng thể khuất phục được. Những người cao danh đương thế đa
phần tự nguyện theo. Năm mười tám tuổi Huệ chết. Em của Xứng là Vinh, tự Ấu
Quyền. Thuở ấu thơ đã thông tuệ, bảy tuổi có thể chắp nối văn tự, đọc sách ngày
mỗi nghìn chữ, liếc mắt qua lập tức nhớ được ngay. Văn Đế nghe tiếng cho mời
Vinh đến. Tân khách có hơn trăm người, mọi người viết danh thiếp, các danh
thiếp ghi quê quán và danh tính của họ, người đời gọi đó là 'tước lí thứ',
khách bảo cho Vinh biết, Vinh liếc mắt một lần, nói được hết tên tuổi và danh
tính của họ, chẳng sai trật một người nào. Đế rất lấy làm lạ. Trận thua quân ở
Hán Trung, Vinh mới mười ba tuổi, tả hữu kéo Vinh chạy trốn, Vinh không chịu,
nói: 'Vua đang ở chỗ gian khó, sao lại trốn cái chết được!' Rồi vung kiếm chiến
đấu, sau chết trong trận."
Hành
chết, con là Tích nối tự, làm Hổ bôn trung lang tướng. Tích chết, con là Bao
nối tự.
Chú thích:
(1) Thiên hạ đại loạn, mất mùa đói kém, Uyên
đem vứt bỏ con mình, để có đủ lương thực nuôi con côi của người em, nghĩa khí
ít người bằng.
(2) Trọng Ni tức thầy Khổng Tử. Khổng Tử được
Nhan Hồi, khen Hồi rằng mình chẳng bằng Nhan Hồi được, Tào Tháo khen như thế là
tán tụng cái tài của Uyên vậy.
(3) Câu này nguyên văn là 'Bị dạ thiêu vi lộc
giác'. Cái chữ 'lộc giác' nghĩa đen là cái sừng hươu, có thể tạm hiểu là, ngày
xưa, khi lập doanh trại, người ta dùng cây gỗ vót nhọn cắm xuống đất để cản trở
quân địch tấn công.
(4) Cựu huân tức là cựu thần có công lao.
(5) Tiền nhân tức là cách gọi kính trọng người
cha đã chết của mình.
(6) Chung Dục, là con Chung Do, anh Chung Hội.
(7) Tướng ở đất Yên, tướng ở đây là kiểu như
chức Thừa tướng.
TÀO NHÂN TRUYỆN
Tào Nhân
tự Tử Hiếu, là em họ của Thái tổ vậy.
[Nguỵ
thư chép: Tổ phụ của Nhân là Bao, làm Thái tú Dĩnh Xuyên. Cha là Sí, làm Thị
trung, Trường Thuỷ hiệu uý.]
Nhân
thời trẻ thích cung ngựa, săn bắn. Sau khi hào kiệt các nơi nổi dậy, Nhân cũng
ngầm tụ tập với những người trẻ tuổi, được hơn nghìn người, đi khắp vùng Hoài,
Tứ, sau đi theo Thái tổ làm Biệt bộ Tư mã, Hành Lệ phong Hiệu uý. Thái tổ phá
viên Thuật, Nhân chém được khá nhiều giặc. Rồi theo đi đánh Từ Châu, Nhân
thường đốc xuất kỵ binh, làm quân tiên phong. Được biệt phái đi đánh tướng của
Đào Khiêm là Lã Do, phá được, quay về cùng với đại quân họp ở Bành Thành, đại
phá quân của Khiêm. Sau theo đi đánh các huyện Phí, Hoa, Tức Mặc, Khai Dương, Khiêm
phái biệt tướng đến cứu các huyện, Nhân dùng kỵ binh đánh phá được. Thái tổ đi
đánh Lã Bố, Nhân được biệt phái đi đánh Câu Dương, hạ được thành, bắt sống
tướng của Bố là Lưu Hà. Thái tổ bình định Hoàng Cân, nghênh đón Thiên tử định
đô ở huyện Hứa, Nhân mấy lần lập công, được bái làm Thái thú Quảng Dương. Thái
tổ quý trọng sự dũng lược của Nhân, không để giữ ở quận, cho làm Nghị lang đốc
quân kỵ(1). Thái tổ đi đánh Trương Tú, Nhân được biệt phái đi đánh chiếm huyện
Bàng, bắt sống được hơn ba nghìn dân nam nữ huyện ấy. Quân của Thái tổ quay về,
bị Tú truy đuổi, quân bất lợi, sĩ tốt mất chí khí, Nhân động viên khích lệ
khiến tướng sĩ rất phấn chấn, Thái tổ khen ngợi Nhân, sau phá được Tú.
Thái tổ
cùng Viên Thiệu cầm giữ nhau ở Quan Độ đã lâu, Thiệu phái Lưu Bị đánh chiếm các
huyện Thuỷ Ẩn, Cường, dân chúng các huyện nổi dậy hưởng ứng Bị. Từ huyện Hứa về
phía Nam, quan dân bất an, Thái tổ rất lo lắng. Nhân nói: "Phương nam thấy
đại quân ta đang có nguy cấp trước mắt, về tình thế chẳng thể cứu ứng được nơi
này, Lưu Bị đem binh mạnh áp sát, họ phản bội lại là đương nhiên. Song Bị mới
thống lĩnh binh của Thiệu, chưa thể dùng bọn họ ngay được, đánh là có thể phá
được vậy." Thái tổ khen lời ấy, bèn sai Nhân dẫn quân kỵ đánh Bị, quân Bị
tan vỡ phải bỏ chạy, Nhân thu lại được hết các huyện làm phản rồi quay về.
Thiệu phái biệt tướng là Hàn Tuân cướp bóc cắt đứt Tây lộ,
Nhân tập kích Tuân ở núi Kê Lạc, đại phá Tuân. Bởi thế Thiệu không dám chia
quân ra nơi đó nữa. Nhân lại cùng bọn Sử Hoán cướp xe tải lương của Thiệu,
thiêu sạch lương thảo.
Hà Bắc
đã định, Nhân theo đi vây Hồ Quan. Thái tổ xuống lệnh rằng: "Lấy được
thành trì, ta cho khanh được diệt hết địch quân." Liền một tháng trời
không hạ được. Nhân nói với Thái tổ rằng: "Vây thành phải để cho họ lối
thoát, thế nên phải mở cho họ đường sống. Nay Công tuyên cáo họ phải chết cả,
người ta sẽ cố giữ. Vả lại thành vững mà lương nhiều, đánh thì sĩ tốt thương
vong, giữ thì dằng dai lâu ngày; bây giờ dồn binh dưới chân toà thành vững,
đánh bắt cái kẻ tử thủ, chẳng phải là kế hay vậy." Thái tổ theo lời, thành
ra hàng. Vì thế lúc biên xét công lao trước sau của Nhân, phong cho Nhân tước
Đô đình hầu.
Lúc theo
đi bình Kinh Châu, Thái tổ cho nhân làm Hành Chinh nam tướng quân, lưu lại đóng
quân ở Giang Lăng, cự tướng Ngô là Chu Du. Du dẫn mấy vạn người đến đánh, mấy
nghìn quân tiên phong vừa đến, Nhân trèo lên thành trông ra, lập tức tuyển ba
trăm người, phái bộ tướng là Ngưu Kim đón đánh. Giặc đông, quân của Kim ít, vì
thế bị vây hãm. Quan Trưởng sử là Trần Kiều cùng ở trên thành, trông xa thấy
bọn Kim sắp nguy cấp, tả hữu đều thất sắc. Nhân chí khí rất phẫn nộ, bảo tả hữu
mang ngựa đến, bọn Kiểu cùng níu giữ Nhân lại. Rồi bảo Nhân rằng: "Giặc
đông thế thịnh, chẳng thể đương nổi. Ví như bỏ mất mất mấy trăm người có gì là
cay đắng, mà tướng quân phải đem thân đến đó!" Nhân không chịu, rồi mặc áo
giáp lên ngựa, dẫn mấy chục quân kỵ mang cờ chỉ huy ra khỏi thành. Còn cách
quân giặc hơn trăm bước, gần sát chiến hào, bọn Kiều cho rằng Nhân phải chống
giữ bên hào, tạo hình thế ứng cứu Kim, song Nhân lại vượt qua hào tiến thẳng về
phía trước, xông vào vòng vây của địch, bọn Kim được giải thoát. Số binh sĩ còn
lại chưa ra được, Nhân bèn quay trở lại đột phá, đưa hết binh của Kim ra, giết
được mấy chục người, quân giặc phải lui về. Bọn Kiểu mới thấy Nhân ra, đều sợ
hãi, lúc thấy Nhân trở về, bèn than rằng: "Tướng quân thật là người nhà
trời vậy!" Ba quân đều phục cái dũng của Nhân. Thái tổ càng khen ngợi Nhân
hơn, đổi phong cho Nhân tước An Bình đình hầu.
Thái tổ
đánh dẹp Mã Siêu, lấy Nhân làm Hành An tây tướng quân, đốc xuất chư tướng cự
thủ ở Đồng Quan, phá Mã Siêu ở Vị Nam . Tô Bá, Điền Ngân làm phản,
Thái tổ lấy Nhân làm Hành Kiệu kỵ tướng quân, đô đốc bảy cánh quân đánh dẹp bọn
Ngân, phá được. Lại lấy Nhân làm Hành Chinh nam tướng quân, ban cho Giả tiết,
đóng quân ở Phàn Thành, trấn giữ Kinh Châu. Hầu Âm làm phản ở Phàn Thành, mấy
nghìn người cướp bóc dân chúng ở huyện Bàng, Nhân thống suất chư quân đánh phá
Âm, chém đầu Âm, rồi quay lại đóng quân ở Phàn Thành, Nhân lập tức được bái làm
Chinh nam tướng quân. Quan Vũ đánh Phàn Thành, bấy giờ nước sông Hán mênh mông,
bảy cánh quân của bọn Vu Cấm bị chìm đắm, Cấm hàng Vũ. Nhân có mấy nghìn nhân
mã giữ thành, một số đoạn tường thành mỏng bị nước tràn ngập. Vũ cưỡi thuyền
đến sát thành, vây chặt mấy vòng, liên lạc trong ngoài bị cắt đứt, lương thực
sắp hết, cứu binh không đến. Nhân khích lệ tướng sĩ, thề giữ đến chết, tướng sĩ
đều cảm động không ai hai lòng. Từ Hoảng đến cứu, nước cũng đã giảm chút ít,
Hoảng từ phía ngoài tập kích Vũ, Nhân được dịp ra khỏi vòng vây.Vũ phải lui
binh.
Nhân
thời còn trẻ không sửa đổi hạnh kiểm, khi trưởng thành làm tướng, nghiêm chỉnh
vâng theo pháp lệnh, thường đặt điều lệnh cho tả hữu, chiếu theo đó mà làm
việc. Yển Lăng hầu là Chương bắc chinh ô Hoàn, Văn đế ở Đông cung, viết thư răn
bảo Chương rằng: "Làm tướng vâng theo phép nước, chẳng phải là giống như
Chinh nam(2) đó sao?" Lúc lên tức vương vị, bái Nhân làm Xa kỵ tướng quân,
đô đốc các việc quân sự ở các châu Kinh, Dương, Ích, được tấn phong tước Trần
hầu, thêm thực ấp hai nghìn hộ, gồm cả trước đó là ba nghìn năm trăm hộ. Lại
truy tặng cho cha của Nhân là Sí thuỵ là Trần mục hầu, để cho mười nhà canh giữ
mộ. Sau cho triệu Nhân về đóng ở huyện Uyển.
Tôn
Quyền phái tướng là Trần Thiệu đánh lấy Tương Dương, triều đình hạ chiếu cho
Nhân đánh dẹp. Nhân cùng với Từ Hoảng công phá Thiệu, rồi tiến vào Tương Dương,
sai tướng quân Cao Thiên Đẳng dời dân chúng nương náu ở phía nam sông Hán về
bắc sông Hán, Văn Đế phái sứ giả đến lập tức bái Nhân làm Đại tướng quân. Lại hạ
chiếu cho Nhân dời đến đóng quân ở Lâm Dĩnh, thăng làm Đại tư mã, cho thống
lĩnh chư quân giữ Ô Giang, rồi về đóng quân ở Hợp Phì. Năm Hoàng Sơ thứ tư
chết, được ban thuỵ hiệu là Trung hầu.
[Nguỵ
thư chép: Bấy giờ Nhân được năm mươi sáu tuổi.]
[Phó Tử
nói: Cái dũng Tào Đại tư mã, Bôn, Dục(3) chẳng hơn được. Trương Liêu cũng được
kể vào hàng ấy.]
Con của
Nhân là Thái nối tự, làm quan đến chức Trấn đông tướng quân, được ban Giả tiết,
rồi chuyển phong tước Ninh Lăng hầu. Thái chết, con là Sơ nối tự. Lại phân phong
cho em của Thái là Giai và Phạm, đều làm Liệt hầu, còn Ngưu Kim làm quan đến
chức Hậu tướng quân.
Em của
Nhân là Thuần, ban đầu làm Nghị lang tham dự việc quân giúp Tư Không.
[Anh
hùng ký chép: Thuần tự Tử Hoà. Năm mười bốn tuổi cha mất, cùng với người anh
sinh đôi là Nhân ở riêng. Thuần nối nghiệp cha, giàu có nhiều tiền của, đầy tớ
người hầu có mấy trăm, Thuần ra kỷ cương quản lý nghiêm khắc, chẳng mất đạo lý,
người làng đều cho là có tài. Thuần thích học vấn, kính ái kẻ kẻ sĩ có học, học
sĩ nhiều người theo về, bởi thế xa gần đều xưng tụng. Năm mười tám tuổi, làm
Hoàng môn thị lang. Năm hai mươi tuổi, theo Thái tổ đến Tương Ấp mộ binh, sau
thường theo đi chinh chiến.]
Thuần
đốc xuất quân kỵ hổ báo theo đi vây Nam Bì. Viên Đàm ra đánh, sĩ tốt chết rất
nhiều. Thái tổ định đình chỉ tấn công, Thuần nói: "Nay đi nghìn dặm đánh
địch, tiến chẳng thể thắng được, lui tất mất uy thế; vả lại quân cô lập thâm
nhập đất địch, khó cầm giữ được lâu. Bên kia thắng mà kiêu căng, ta bại mà cảnh
giác, lấy cái cảnh giác đối phó với cái kiêu căng, hẳn có thể thắng được."
Thái tổ khen lời ấy, liền gấp rút đánh, Đàm bại trận. Thuần chỉ huy quân kỵ thủ
hạ chém được thủ cấp của Đàm. Lúc bắc chinh ba quận, quân bộ kỵ của Thuần bắt
được Thiền Vu(4) là Đạp Đốn. Vì có công lao trước sau, Nhân được phong tước Cao
Lăng đình hầu, hưởng thực ấp ba trăm hộ. Khi theo đi đánh Kinh Châu, truy đuổi
Lưu Bị ở Trường Bản, bắt được xe truy trọng và hai con gái của Bị, thu gom được
binh tốt tản mát của Bị. Lại tiến đến thu hàng Giang Lăng, rồi theo về Tiêu
huyện. Năm Kiến An thứ mười lăm chết. Văn Đế lên tức vị, truy thuỵ cho Thuần là
Uy hầu.
[Nguỵ
thư chép: Quân kỵ hổ báo do Thuần đốc xuất, đều là những kẻ kiêu dũng trong
thiên hạ, hoặc là lấy từ chỗ trăm người bù bổ vào, Thái tổ cho là khó chọn được
người thống lĩnh. Thuần được tuyển làm người đốc trách, vỗ về phủ dụ rất được
lòng người. Lúc xong việc, hữu ti bẩm bạch tuyển người thay thế, Thái tổ nói:
"Thuần được chọn rồi, sao có thể chọn lại được! Ta không tin Đốc quân của
mình sao?" Rồi không tuyển lại.]
Con
Thuần là Diễn nối tự, làm quan đến chức Lĩnh quân tướng quân, năm Chính Nguyên
trung được tấn phong tước Bình Lạc hương hầu. Diễn chết, con là Lượng nối tự.
Chú thích:
(1) Thiên tử phong cho Nhân chức quận thú, Tào
Tháo quý tài của Nhân, nghĩ rằng để làm quận thú thì lãng phí tài năng.
(2) Tào Nhân làm Chinh Nam tướng quân,
làm việc theo pháp lệnh, Tào Phi khuyên Tào Chương rất nên làm giống như Tào
Nhân.
(3) Mạnh Bôn, Hạ Dục, đều là những dũng tướng
nổi danh thời Xuân Thu.
(4) Thiền vu là chúa một bộ tộc Hung Nô.
TÀO CHÂN TRUYỆN
Tào Chân
tự Tử Đan, là con cháu trong họ tộc của Thái tổ. Thái tổ khởi binh, cha của
Chân là Thiệu chiêu mộ binh lính, bị châu quận giết hại.
Nguỵ
lược chép: Chân gốc họ Tần, được họ Tào nuôi dưỡng. Có người nói rằng cha của
Chân là Bá Nam
ngày trước có giao hiếu với Thái tổ. Năm Hưng Bình mạt, bè lũ bộ đảng của Viên
Thuật đánh cướp nhà Thái tổ, Thái tổ chạy ra, bị bọn cướp đuổi theo, liền trốn
vào nhà họ Tần, Bá Nam
mở cửa chứa chấp. Bọn cướp hỏi Thái tổ ở đâu, đáp rằng: "Chính là ta
đây." Liền bị hại. Vì thế Thái tổ nghĩ đến công lao, cho Chân đổi sang họ
của mình.
Nguỵ thư
chép: Thiệu vì rất một lòng trung thành mà có tài trí, được Thái tổ tin tưởng
thân gần. Năm Sơ Bình trung, Thái tổ hưng nghĩa binh, Thiệu chiêu mộ binh lính,
theo Thái tổ đi khắp nơi. Bấy giờ Thứ sử Dự Châu là Hoàng Uyển muốn hại Thái
tổ, Thái tổ tránh được nhưng riêng Thiệu bị hại Thái tổ thương Chân mồ côi sớm,
đem về nuôi dưỡng cùng với các con mình, cho ở cùng với Văn Đế. Chân có lần đi
săn, bị con hổ đuổi, Chân ngoảnh lại bắn hổ, nghe tiếng dây cung thì hổ đã ngã
ngửa. Thái tổ khen Chân là bậc chí dũng, sai nắm quân kỵ hổ báo. Chân đánh dẹp
giặc Linh Khâu, hạ được, được phong tước Linh Thọ đình hầu(1). Sau lấy Chân làm
Thiên tướng quân dẫn binh tập kích biệt tướng của Lưu Bị ở Hạ Biện, phá được,
Chân được bái làm Trung kiên tướng quân. Chân theo đến Trường An, lĩnh chức
Trung lĩnh quân. Bấy giờ, Hạ Hầu Uyên chết ở Dương Bình, Thái tổ lo lắng. Lập
tức dùng Chân làm Chinh Thục hộ quân, đốc xuất bọn Từ Hoảng đánh phá Biệt tướng
của Lưu Bị là Cao Tường ở Dương Bình. Thái tổ thân đến Hán Trung, triệt quân
trở về, sai Chân đến Vũ Đô nghênh đón bọn Tào Hồng về đóng đồn ở Trần Thương.
Văn Đế tức vương vị, lấy Chân làm Trấn tây tướng quân, ban cho Giả tiết, đô đốc
các việc quân sự ở hai châu Ung, Lương. Xét công lao trước sau, tấn phong Chân
làm Đông hương hầu.
Bọn
Trương Tiến làm phản ở Tửu Tuyền, Chân phái Phí Diệu đến đánh dẹp phá xong,
chém được bọn Tiến. Năm Hoàng Sơ thứ ba về kinh đô, dùng Chân làm Thượng quân
Đại tướng quân, thống lĩnh các việc quân sự trong ngoài, ban cho Giả tiết việt.
Chân cùng với bọn Hạ Hầu Thượng đi đánh Tôn Quyền, đánh đồn Ngưu Chử, phá được.
Chân được đối phong làm Trung quân Đại tướng quân, gia thêm chức Cấp sự trung.
Năm Hoàng Sơ thứ bảy, Văn Đế ốm nặng, Chân cùng với bọn Trần Quần, Tư mã Tuyên
vương nhận di chiếu phụ chính. Minh Đế lên tức vị, tấn phong Chân làm Thiệu
Lăng hầu, thăng lên làm Đại tướng quân.
Thần
Tùng Chi xét: Cha của Chân tên Thiệu. Phong cho tước Thiệu Lăng hầu, nếu chẳng
phải là sách chép lầm, thì là việc chẳng thể nào luận nổi.
Gia Cát
Lượng vây Kỳ Sơn, ba quận Nam An, Thiên Thuỷ, An Định làm phản hưởng ứng Lượng.
Đế phái Chân đốc chư quân đóng ở huyện Mi, phái Trương Cáp đánh tướng của Lượng
là Mã Tắc, đại phá Tắc. Bọn Dương Điều ở An Định bức hiếp quan lại dân chúng
chiếm cứ thành một tháng trời, Chân tiến quân vây thành. Điều bảo mọi người
rằng: "Đại tướng quân tự đến, ta xin hàng sớm cho xong." Bèn tự trói
mình ra thành. Ba quận đều bình. Chân thấy Lượng đã bị trừng trị ở Kỳ Sơn, lần
ra xuất quân thất theo lối Trần Thương, bèn sai tướng quân Hác Chiêu, Vương
Sanh(2) thủ giữ Trần Thương, tu sửa thành ấy. Mùa xuân năm sau, quả nhiên Lượng
vây Trần Thương, vì đã có phòng bị nên địch không thể thắng nổi. Chân được tăng
thực ấp, cộng cả lúc trước là hai nghìn chín trăm hộ. Năm thứ tư, Chân được
triệu về Lạc Dương, thăng chức Đại tư mã, cho được mang kiếm lên thượng điện,
vào triều không phải rảo bước. Chân cho rằng "Thục liên tục xuất quân xâm
phạm biên cảnh, nên lập tức thảo phạt. Cho mấy đạo quân cùng tiến vào, có thể
thắng được." Đế theo kế ấy. Chân đem binh tiến sang Tây đánh dẹp, Đế thân
đến tiến đưa. Chân vào tháng tám xuất phát từ Trường An, theo đường Tý Ngọ ở
phía Nam
tiến vào. Tư Mmã Tuyên vương ngược sông Hán, hẹn hội quân ở Nam Trịnh. Chư quân
hoặc từ đường Tà Cốc, hoặc từ Vũ Uy tiến vào. Gặp lúc mưa dầm hơn ba mươi ngày,
ngờ rằng đường sạn đạo bị đứt tuyệt, có chiếu cho Chân kéo quân về.
Chân
thời trẻ cùng với người trong họ là Tào Tuân, người làng là Chu Tán đều thờ
Thái tổ. Tuân, Tán chết sớm, Chân thương xót họ, xin chia thực ấp của mình
phong cho con của Tuân và Tán. Có chiếu rằng: "Quan Đại tư mã trước đây là
Thúc Hướng nhân từ phủ dụ con côi, nhất định chia phần cho Án Bình theo ước hẹn
ngày trước(3). Bậc quân tử phải là người cao thượng, trẫm đồng ý chia thực ấp
của Chân cho con của Tuân và Tán, ban cho tước Quan nội hầu, mỗi người được
phân một trăm hộ." Chân mỗi khi xuất chinh, cùng tướng sĩ chung lao khổ,
đồ ban thưởng trong quân không đủ, Chân liền đem gia tài ra chia cho quân sĩ,
sĩ tốt đều nguyện theo mệnh. Chân bị bệnh quay về Lạc Dương, Đế thân hành đến
tận nhà thăm bệnh. Chân chết, được ban thuỵ hiệu là Nguyên hầu. Con Chân là
Sảng nối tự. Đế đoái nghĩ đến công lao của Chân, xuống chiếu rằng: "Đại tư
mã hành vi trung trinh tiết tháo, phò tá chính sự cho nhị tổ(4), trong chẳng
cậy ân sủng của kẻ thân thích, ngoài chẳng kiêu căng với kẻ sĩ nghèo hèn, có
thể gọi là người có tài giữ vững được địa vị, có công mà khiêm nhường, ấy là đức
tốt vậy. Vì thế phong cho tất cả năm con của Chân là Hi, Huấn, Tắc, Ngạn, Ngai
đều được làm Liệt hầu." Khi trước Văn Đế chia thực ấp của Chân hai trăm
hộ, ban cho em của Chân là Bân là Liệt hầu.
Chú thích:
(1) Không biết giặc Linh Khâu là giặc gì? Ít
thấy Tam Quốc nhắc đến tên thứ giặc này. Hay là bọn giặc trú ở gò Khâu, vì sau
khi đánh hạ quân giặc, Chân được phong tước Linh Thọ đình hầu?
(2) Trần Thọ bất nhất trong ghi chép hoặc lầm
lẫn tên người, hay người chép sách chép lầm, theo nhiều sử liệu ghi chép về đoạn
này thì viên tướng ở Trần Thương với Hác Chiêu chính là Vương Song.
(3) Thúc Hướng là quan đại phu nước Tấn; Án
Bình tức Án Bình Trọng, là quan đại phu nước Tề, không hiểu sự tích này ra sao?
(4) Tào Tháo, Tào Phi.
NGỤY THƯ QUYỂN 10 - Tuân Úc Tuân Du Giả Hủ
truyện
Tuân Úc, Tuân Du, Giả Hủ
TUÂN ÚC TRUYỆN
Tuân Úc
tự Văn Nhược, người quận Dĩnh Xuyên huyện Dĩnh Âm. Tổ phụ là Thục, tự Quý Hoà,
làm Lãng Lăng lệnh. Thời nhà Hán khoảng những năm đời Thuận-Hoàn(1), nổi danh
đương thời. Có tám người con, hiệu là Bát Long. Cha Úc là Cổn, làm tướng ở Tế Nam . Chú là
Sảng, làm Tư không.
Tục Hán
thư chép: Thục có tài cao, Vương Sướng-Lý Ưng(2) đều coi là thầy, là hầu tướng
ở Lãng Lăng, có danh hiệu là Thần Quân.
Hán kỷ
của Trương Phan chép: Thục học rộng cao siêu khôn lường, cùng với Lý Cố-Lý Ưng
có cùng chí hướng kết giao thân thiết, đề bạt Lý Chiêu làm tiểu lại, là bạn
người chú của Vua là Độ từ thuở ấu thơ, được Hiền lương phương chính cho vời
đến, xét hỏi đến các việc cấp thiết về Lương thị, rồi bổ nhiệm ra ngoài làm hầu
tướng ở Lãng Lăng, chết khi làm quan. Có tám người con là: Kiệm, Cổn, Tĩnh,
Đảo, Sân, Sảng, Túc, Phu. Sảng tự Từ Minh, lúc nhỏ đã hiếu học, năm mười hai
tuổi, lầu thông kinh Xuân Thu-Luận Ngữ, rất thích nghiền ngẫm kinh sách điển
cố, chẳng chịu vâng mệnh làm quan, đến tận năm ba mươi tuổi. Đổng Trác nắm
chính sự, lại cho vời Sảng, Sảng định bỏ trốn, quan địa phương liền giữ lại.
Chiếu xuống đến quận, lập tức bái làm Bình Nguyên tướng. Khi đi đến Uyển Lăng,
lại cho người đuổi theo bái làm Quang Lộc huân. Coi xét việc được ba ngày, có
sách mệnh bái làm Tư Không. Sảng phát lên từ kẻ áo vải, sau chín mươi lăm ngày
mà ngôi vị đến chức Tam công. Trước đây Thục ở phía tây làng Hào, huyện lệnh
Uyển Khang nói rằng ngày xưa họ Cao Dương có tám người con tài giỏi, nên gọi
làng ấy là làng Cao Dương. Tĩnh tự Thúc Từ, cũng là người rất có đức, danh vọng
gần như Sảng, chung thân đi ở ẩn.
Dật sĩ
truyện của Hoàng Phủ Mật kể: Có người hỏi Hứa Tử Tương(3), rằng Tĩnh với Sảng
ai hiền hơn? Tử Tương nói: "Hai người đều là ngọc báu vậy, Từ Minh sáng
rọi ở ngoài, Thúc Từ thấm nhuận ở bên trong."
Thời Úc
còn niên thiếu, Hà Ngung ở Nam Dương cho là người khác thường, nói rằng:
"Đây là người có tài vương tá vậy."
Điển
lược chép: Trung thường thị Đường Hành muốn đem con gái người vợ cả phó thác
cho người ở Nhữ Nam
là Công Minh, Công Minh không lấy, mới chuyển qua cho Úc. Cha Úc là Cổn hâm mộ
gia thế Hành, cho Úc lấy người ấy làm vợ. Úc bàn luận và chê việc ấy.
Thần
Tùng Chi xét: Hán kỷ nói rằng Đường Hành chết năm Diên Hi thứ bảy thời Hoàn Đế,
tính ra Úc lúc đó mới có hai tuổi, tất cái ngày hôn sự của Úc, Hành chết đã lâu
rồi. Nói rằng Cổn hâm mộ gia thế Hành là chẳng đúng vậy. Thần Tùng Chi lại cho
rằng Cổn là một người trong Bát Long, tất chẳng thể cẩu thả được, mà có gì bức
bách nhau đâu, sao nói rằng Úc hâm mộ gia thế Đằng vậy? Xưa kia Trịnh Hốt khước
từ Tề hầu bị khuyên trách, Tuấn Sinh cự tuyệt Hoắc hầu được ngợi khen(4), trách
ở chỗ đánh mất nước viện trợ, khen ở chỗ biết lo xa, đã không có cái hại từ
việc đoạn tuyệt thâm giao, cho nên mỗi bên cứ theo chí mình mà làm. Đến chuyện
yêm thụ lộng hành, bốn bể nín thở; Tả Quán-Đường Hành, cái sống cái chết ở
miệng. Thế nên bấy giờ ngạn ngữ có câu rằng "Tả hồi thiên, Đường độc
toạ(5)", là nói đến cái uy quyền tuyệt đối có một không hai vậy. Thuận
theo thì lục thân(6) an lành, ngỗ ngược tất đại hoạ đến ngay; thật là lấy sinh
tồn đổi diệt vong, đội sỉ nhục để mong một ngày an toàn. Xưa Tưởng Hủ(7) gả con
gái cho họ Vương(8), không hề tổn hại đến tiết tháo thanh cao, Cổn chấp thuận
cuộc hôn nhân ấy, có hại gì đâu!
Năm Vĩnh
Hán nguyên niên, Úc được tiến cử làm Hiếu Liêm, bái làm Thủ cung lệnh(9). Đổng
Trác làm loạn, tìm người ra ngoài bổ nhiệm làm lại. Phong cho Úc làm Kháng Phụ
lệnh, Úc liền bỏ quan về quê, bảo với các vị phụ lão rằng: "Dĩnh Xuyên, là
đất tứ bề thụ địch, khi thiên hạ có biến, thường là chỗ binh đao tranh giành,
nên kíp bỏ mà đi, không ở lại lâu được." Người trong làng đa phần nhớ đất
cũ còn do dự, gặp lúc người đồng quận là Ký châu mục Hàn Phức sai quân kỵ đến
đón Úc, tuyệt chẳng có ai đi theo, một mình Úc dẫn người trong họ đến Ký Châu.
Nhưng Viên Thiệu đã cướp được ngôi vị của Phức, lấy lễ thượng tân đối đãi Úc.
Em trai Úc là Kham cùng người đồng quận là Tân Bình-Quách Đồ, đều nhậm chức ở
chỗ Thiệu. Úc liệu rằng Thiệu sau này chẳng thể thành đại sự, thời ấy Thái Tổ
làm Phấn vũ Tướng quân, ở Đông Quận, năm Sơ Bình thứ hai, Úc bỏ Thiệu theo Thái
Tổ. Thái Tổ rất hài lòng nói: "Ngươi là Tử Phòng(10) của ta vậy."
Liền lấy làm Tư mã, năm ấy Úc hai mươi chín tuổi. Bấy giờ, Đổng Trác oai lấn
thiên hạ, Thái Tổ đem việc ấy hỏi Úc, Úc nói: "Trác bạo ngược quá lắm, ắt
hẳn sau sẽ loạn, không thể giúp y được." Trác sai bọn Lý Thôi ra khỏi cửa
Đông, cướp giết suốt dọc đường, đến tận Dĩnh Xuyên-Trần Lưu mới quay về. Những
người làng của Úc ở lại khi trước đa phần bị cướp bóc giết hại.
Năm sau,
Thái Tổ lĩnh chức Duyện châu mục, sau làm Trấn đông Tướng quân, Úc thường làm
Tư mã đi theo. Năm Hưng Bình nguyên niên, Thái Tổ đi đánh Đào Khiêm, Úc ở lại
gánh vác công việc. Lúc Trương Mạc-Trần Cung cướp lấy Duyện châu tạo phản, ngầm
nghênh đón Lã Bố. Bố đến nơi, Mạc bèn sai Lưu Dực đến bảo Úc rằng: "Lã
tướng quân lại giúp Tào sứ quân(11) đánh Đào Khiêm, nên mau chóng cung cấp
lương thực cho quân lính." Chúng đều nghi hoặc. Úc đoán Mạc làm loạn, lập
tức chỉnh đốn quân binh cắt đặt sẵn sàng, rồi cho người đi gấp đến triệu Thái
thú Đông quận là Hạ Hầu Đôn, mà các thành ở Duyện châu đều hưởng ứng Lã Bố.
Thời ấy tất cả quân của Thái Tổ đang đánh Đào Khiêm, binh giữ nhà ít ỏi, mà
tướng lĩnh quan lại đa phần cùng với Mạc-Cung thông mưu. Đôn đến, ngay đêm ấy
giết những kẻ mưu phản liền mấy chục người, bụng chúng mới yên. Thứ sử Dự Châu
là Quách Cống dẫn binh chúng mấy vạn người đến dưới thành, có người nói Cống
cùng với Lã Bố đồng mưu, chúng đều sợ. Cống xin gặp Úc, Úc muốn đi. Bọn Đôn
nói: "Tướng quân, cả châu chì còn chỗ này yên ổn, đi tất nguy, không
nên." Úc nói: "Cống cùng với bọn Mạc, chẳng phải có kết giao từ trước
vậy, nay họ thốt nhiên đến, mưu kế hẳn chưa định; nhân lúc họ chưa định kế ta
đến thuyết họ, dù họ chẳng để ta sử dụng, cũng có thể khiến họ ở trung lập, nếu
ta nghi ngờ họ trước, họ sẽ tức giận mà định kế vậy." Cống thấy Úc không
có ý sợ hãi, mới bảo rằng Quyên thành chưa bị vây đánh, rồi dẫn binh quay về.
Úc lại cùng Trình Dục bày kế, sai người đi thuyết Phạm huyện và Đông A, sau giữ
toàn vẹn được ba thành, để đợi Thái Tổ. Thái Tổ từ Từ Châu quay về đánh Lã Bố ở
Bộc Dương, Bố chạy về phía đông. Năm thứ hai mùa hạ, Thái Tổ đóng quân ở Thừa
Thị, năm ấy đói lớn, người phải ăn thịt lẫn nhau.
Đào Khiêm
chết, Thái Tổ muốn đoạt lấy Từ Châu, toan quay về dẹp Bố. Úc nói: "Xưa Cao
Tổ(12) giữ Quan Trung, Quang Vũ(13) chiếm cứ Hà Nội, đều là rễ sâu bền gốc để
khắc chế thiên hạ, tiến đủ để thắng địch, lui đủ để giữ vững, cho nên dẫu có
nguy khốn bại trận mà về sau nên đại nghiệp. Tướng quân vốn lấy Duyện châu để
khởi sự, khó nhọc bình định đất Sơn Đông, trăm họ chẳng ai không quy tâm bội
phục. Vả lại vùng Hà-Tế(14), là yếu địa trong thiên hạ, nay tuy hoang tàn tan
lở, cũng đủ yên ổn để tự giữ mình, nơi ấy cũng là Quan Trung-Hà Nội của tướng
quân vậy, chẳng thể bỏ mà không bình định trước vậy. Nay hãy phá Lý Phong-Tiết
Lan, nếu chia binh về đông đánh Trần Cung, Cung tất chẳng dám ngoảnh về tây, ta
nhân lúc địch sơ hở đưa binh đến thu lấy lúa mạch đã chín, tiết kiệm lương ăn
tích trữ thóc gạo, một lần cử sự mà Bố có thể phá được vậy. Bố đã bị phá, về
sau liên kết với Dương châu ở phía Nam(15),cùng đánh Viên Thuật, chiếm lấy vùng
Hoài-Tứ(16). Nếu bỏ Bố mà sang đông, lưu nhiều binh ở lại thì chẳng đủ binh để
dùng, lưu ít binh ở lại tất toàn dân phải giữ thành, chẳng có người kiếm củi
cắt cỏ. Bố thừa hư đến cướp, dân tâm nguy khốn, chỉ có Quyên thành, Phạm huyện,
Vệ huyện có thể an toàn, ngoài ra chẳng thể tự giữ được, thế là không có Duyện
châu nữa vậy. Nếu Từ châu không bình định được, tướng quân sẽ về đâu? Vả lại
Đào Khiêm dẫu đã chết, Từ châu cũng không dễ gì mất được. Bên kia thua trận năm
trước bị trừng trị, vì sợ hãi mà câu kết với nhau, trong ngoài kết hợp. Nay
phương đông đã vào mua thu lúa mạch, ắt hẳn họ sẽ chắc thành bền luỹ để đợi
tướng quân, tướng quân đánh chẳng hạ được thành, đánh cướp mà không có lương
thảo, bất quá chừng mươi ngày, tất mười vạn quân chưa bị đánh mà tự nguy khốn
vậy. Trước kia đánh Từ châu, quân uy hình phạt rất nặng, con em họ nhớ đến cái
nhục của cha anh, tất người ta sẽ cố tự thủ, không có ý hàng, nên có thể phá
được họ, nhưng chẳng thể lấy được cả Từ châu vậy. Làm cái việc ấy là bỏ chỗ này
đi lấy chỗ kia, đem cái lớn đổi lấy cái nhỏ, đem yên đổi lấy nguy vậy, cái thế
quyền biến nhất thời, không lo đến gốc chẳng thể bền chắc được. Nay ba phương
chẳng ai là không tư lợi, xin tướng quân nghĩ kỹ cho." Thái tổ mới thôi.
Thu lúa mạch xong, lại cùng với Bố giao chiến, lại chia binh đi bình định các
huyện. Bố thua trận bỏ chạy, Duyện châu mới bình được.
Thần
Tùng Chi cho rằng vào thời ấy Từ châu chưa bình định, người Duyện châu lại làm
phản, mà nói rằng binh chúng đông mười vạn, dẫu chỉ là lời bàn ước phỏng, song
ở chiến dịch Quan Độ, chẳng đã kể rằng binh không đủ một vạn đấy thôi.
Tào Man truyện
kể rằng: Bởi kinh sư gặp loạn Đổng Trác, nhân dân phiêu dạt về đông, đa phần
nương náu ở quanh vùng Bành Thành. Gặp lúc Thái tổ đến, chôn sống giết chóc mấy
vạn nam nữ ở cửa sông Tứ, khiến nước chẳng chảy được. Đào Khiêm thống suất mọi
người ở đấy đóng giữ Vũ Nguyên, Thái tổ không tiến được. Bèn dẫn quân theo phía
nam sông Tứ tấn công các huyện Thủ Lự-Tuy Lăng-Hạ Khâu, đều đánh giết sạch cả;
đến con gà con chó cũng diệt hết, nơi thôn ấp không còn bóng người qua lại.
TUÂN DU TRUYỆN
Tuân Du
tự Công Đạt, là cháu của Úc. Tổ phụ là Đàm, là Thái thú Quảng Lăng.
Tuân thị
gia truyện(1) chép: Đàm tự Nguyên Trí. Anh là Dục, tự Bá Tu.
Hán kỷ
của Trương Phan khen Dục, Đàm đều có tài hơn người. Dục cùng với bọn Lý Ưng,
Vương Sướng, Đỗ Mật có danh hiệu là Bát tuấn, ngôi vị đến Bái tướng. Cha của Du
là Di, làm Tòng sự trong châu. Di với Úc là anh em con chú con bác ba đời.
Du mồ
côi từ nhỏ. Khi Đàm chết, có kẻ lại cũ là Trương Quyền xin coi giữ mộ phần của
Đàm. Năm Du mười ba tuổi, hoài nghi việc ấy, bảo với người chú là Cù rằng:
"Kẻ lại ấy có sắc diện phi thường, ngờ rằng là kẻ gian tà!" Cù ngộ
ra, bèn tìm cách tra hỏi, quả nhiên là tên giết người bỏ trốn. Bởi thế lấy làm
lạ về Du.
Nguỵ thư
chép: Năm Du được bảy, tám tuổi, Cù từng say rượu, hiểu lầm Du; về sau Du ra ngoài
rong chơi, thường lánh mặt không muốn cùng với Cù tương kiến. Sau này Cù nghe
chuyện ấy, mới kinh sợ vì Du sớm hiểu biết đến như thế.
Tuân thị
gia truyện chép: Con của Cù là Kỳ, tự Bá Kỳ, cùng với người chú họ là Âm đều
nổi danh. Những lời Kỳ cùng với Khổng Dung luận về nhục hình(2), lời Âm cùng
với Khổng Dung luận về những điều hơn kém của thánh nhân, đều chép ở Dung
tập(3). Kỳ làm quan đến Thái thú Tế Âm; Âm về sau được vời làm Hữu đạo, rồi làm
đến chức Thừa tướng Tế tửu.
Hà Tiến
cầm quyền chính, cho vời những người có danh ở trong nước ra làm quan như bọn
Tuân Du được hơn hai mươi người. Du đến nơi, được bái làm Hoàng môn Thị lang.
Loạn Đổng Trác, binh Quan Đông nổi dậy, Trác dời đô về Trường An. Du cùng với
bọn Nghị lang là Trịnh Thái, Hà Ngung, Thị trung là Chủng Tập, Việt kỵ Hiệu uý
là Ngũ Quỳnh bàn tính rằng: "Đổng Trác vô đạo, còn hơn cả Kiệt, Trụ(4),
thiên hạ đều oán hận, dẫu rằng có binh mạnh, thật ra chỉ là kẻ thất phu mà
thôi. Nay chúng ta trực tiếp đâm chết y để tạ tội với trăm họ, rồi sau đó chiếm
cứ vùng Hào, Hàm(5), phù tá quân vương, lấy đó để hiệu triệu thiên hạ, ấy là
việc làm của Hoàn, Văn(6) vậy." Việc sắp nên thì bị phát giác, Ngung, Du
bị bắt hạ ngục, Ngung lo sợ tự sát. Còn Du vẫn nói năng ăn uống tự nhiên, khi
Trác chết, Du được thoát.
Nguỵ thư
nói rằng Du sai người đến thuyết phục Trác nên được thoát, điều ấy với bổn
truyện bất đồng.
Hán kỷ
của Trương Phan chép: Ngung tự Bá Cầu, thời trẻ cùng với bọn Quách Thái, Giả
Bưu du học ở Lạc Dương, bọn Thái đều thích phong cách của Ngung. Ngung nổi danh
ở nhà Thái học, vì thế các danh thần ở trong triều là bọn Thái phó Trần Phồn,
Tư lệ Lý Ưng đều rất muốn giao kết với Ngung. Lúc tai hoạ bè đảng nổ ra, Ngung
cũng có tên trong danh sách, bởi thế phải đổi danh tính trốn tránh ở vùng Nhữ Nam , giao kết
với các hào kiệt ở đất ấy. Ngung đã cho Thái tổ là người kỳ lạ, lại nhận biết
được Tuân Úc, Viên Thiệu rất hâm mộ Ngung, giúp cho chạy trốn đến chỗ bạn bè.
Bấy giờ sĩ đại phu trong thiên hạ đa phần gặp cái hoạ bè đảng, mỗi năm Ngung
một mình tới Lạc Dương vài ba bận, cùng với Thiệu mưu tính, cứu giúp những kẻ
sĩ cùng quẫn thoát khỏi hoạ hoạn. Nhưng Viên Thuật cũng là kẻ hào hiệp, cùng
với Thiệu tranh dành danh vọng. Ngung chưa lần nào đến chỗ Thuật, Thuật rất căm
giận Ngung.
Hán mạt
danh sĩ lục chép: Thuật từng ngồi với mọi người kể ra ba tội của Ngung, rằng:
"Vương Đức Di trước đây là người hiểu biết, tài tuấn lão luyện, danh vọng
đức độ thanh cao, mà Bá Cầu xem thường ông ấy, đó là một tội. Hứa Tử Viễn là kẻ
hung dâm, tính hạnh bất thuần, mà Bá Cầu thân gần với hắn, đó là hai tội.
Quách, Giả là bọn nghèo hèn khốn khổ, không có tiền nong sản nghiệp gì, mà Bá
Cầu cưỡi ngựa béo, mặc áo cừu nhẹ, sáng choang ở trên đường, đó là ba tội
vậy(7)."Đào
Khâu Hồng(8) nói: "Vương Đức Di là người đại hiền nhưng ít khi cứu giúp
người ta, Hứa Tử Viễn dẫu bất thuần nhưng lăn lộn cứu người trong hoạn loạn
chẳng chút chậm chân. Bá Cầu tiến cử việc thiện thì lấy Đức Di làm đầu, nói đến
việc cứu giúp người ta thì cho Tử Viễn là nhất. Vả lại Bá Cầu từng vì Ngu Vĩ
Cao mà tự tay báo cừu, làm việc nghĩa mà thanh danh rung động(9). Mà kẻ thù gia
tài cự vạn, ngựa hay trăm con, lại muốn sai Bá Cầu mang trâu ốm, ngựa còi, nằm
phục kích nơi đạo lộ, như thế khác nào vạch trần ngực ra mà đón ngọn dao sắc
của kẻ thù vậy." Thuật vẫn có ý bất bình. Sau cùng với người ở Nam Dương
là Tôn Thừa gặp nhau ở dưới cửa khuyết, Thuật nổi giận nói: "Hà Bá Cầu, là
kẻ ác đức, ta phải giết nó đi." Thừa nói: "Hà sinh là kẻ sĩ anh tuấn,
túc hạ khéo đãi ngộ hắn, sẽ được nổi danh là biết dùng kẻ sĩ trong thiên
hạ." Thuật mới thôi. Về sau lệnh cấm họp bè đảng được cởi bỏ, Ngung được
vời vào phủ làm Tư không. Mỗi khi thuộc hạ ở Tam phủ(10) họp bàn, sách lược mưu
kế của Ngung đều hơn người khác, kẻ bàn luận đều tự cho là mình không bằng
được. Ngung được thăng làm Bắc quân Trung hậu, Đổng Trác lấy làm Trưởng sử. Sau
này Tuân Úc làm Thượng thư lệnh, phái người đi đưa tang thúc phụ mình là Tư
không Sảng, cho đặt thi thể Ngung vào đó, đem táng bên cạnh mộ Sảng.
Du bỏ
chức quan về quê, lại được vời vào Công phủ, tiến cử làm Cao đệ, rồi đổi ra làm
Nhâm Thành tướng, Du không chịu đi nhậm chức. Nhân vì thấy đất Thục Hán hiểm
trở mà yên ổn, nhân dân phong thịnh, Du bèn xin làm Thái thú Thục Quận, bởi
đường đất cách tuyệt không đến được, mới lưu trú lại đất Kinh Châu.
Thái tổ
đón Thiên tử về huyện Hứa, gửi thư cho Du rằng: "Hiện nay thiên hạ đại
loạn, ấy là lúc bậc trí sĩ phải lao tâm vậy, mà ngươi lại vào Thục Hán ngóng
đợi thiện hạ có biến, chẳng là bỏ phí mất thời gian hay sao?" Lập tức cho
triệu Du tới làm Thái thú Nhữ Nam ,
rồi về triều làm Thượng thư. Thái tổ nghe nói Du là người có danh vọng, cùng
nhau nói chuyện rất hợp ý, bảo với Tuân Úc, Chung Do rằng: "Công Đạt, là
người phi thường vậy, ta có được ông ấy để cùng bàn kế sách, việc thiên hạ có
gì phải lo nữa đây!" Rối lấy Du làm Quân sư. Năm Kiến An thứ ba, theo Thái
tổ đi đánh Trương Tú. Du nói với Thái tổ rằng: "Tú liên hoà với Lưu Biểu,
hai kẻ nương dựa vào nhau tự cho mình là cường mạnh, mà quân đội của Tú trông
đợi vào lương thảo của Biểu, Biểu không thể cung cấp nổi, thế tất phải chia lìa
nhau. Chi bằng ta dụng kế hoãn binh chờ đợi, có thể dụ dỗ chúng mà yên được
vậy; nếu ta đánh gấp, thế tất chúng phải cứu giúp lẫn nhau." Thái tổ không
nghe, rồi tiến binh đến đất Nhưỡng, giao chiến với Tú. Tú nguy cấp, Biểu quả
nhiên đến cứu. Việc quân gặp bất lợi. Thái tổ bảo Du rằng: "Ta chẳng nghe
lời ngươi mới đến nỗi thế này." Lại sắp đặt kỳ binh giao chiến tiếp, đại
phá được quân của Tú.
Năm ấy,
Thái tổ từ huyện Uyển đi đánh Lã Bố, đến Hạ Bi, Bố thua trận lui về cố thủ, Thái
tổ vây đánh không thắng nổi, giao chiến liên miên, sĩ tốt mỏi mệt, Thái tổ muốn
dẫn quân về.
Nguỵ thư
chép: Kẻ bàn luận nói rằng Biểu, Tú còn ở phía sau mà quay về đánh Lã Bố, thì
sẽ rất nguy hiểm. Du cho rằng Biểu, Tú mới bị phá, thế tất chẳng dám vọng động.
Bố là kẻ kiêu mãnh, lại nương cậy vào Viên Thuật, nếu để hắn tung hoành ở vùng
Hoài, Tứ, bọn hào kiệt tất hưởng ứng hắn. Nay thừa lúc hắn mới làm phản, mọi
người chưa cùng một bụng, đến đánh có thể phá được. Thái tổ nói:
"Hay." Lập tức hành quân, Bố bị Lưu Bị đánh bại, bọn Tang Bá liền
hưởng ứng Thái tổ.
Du cùng
Quách Gia thuyết Thái tổ rằng: "Lã Bố là kẻ hữu dũng vô mưu, nay giao
chiến ba trận đều thua cả, nhuệ khí đã suy rồi vậy. Ba quân lấy tướng soái làm
đầu não, tướng đã suy thì quân thì quân không có ý chí phấn đấu. Trần Cung có
trí mưu nhưng chậm chạp, nay chí khí của Bố chưa hồi phục, mưu kế của Cung chưa
định, ta tiến đánh gấp, có thể bắt được Bố vậy." Thái tổ bèn khơi nước
sông Nghi, sông Tứ rót vào thành, thành tan lở, bắt sống được Bố.
Sau theo
đi cứu Lưu Diên ở Bạch Mã, Du hoạch định kế sách chém Nhan Lương. Chuyện đã nói
ở Vũ kỷ. Thái tổ lấy được thành Bạch Mã rồi quay về, đưa các xe truy trọng men
sông Hoàng Hà về phía Tây. Viên Thiệu vượt Hoàng Hà truy kích, thốt nhiên gặp
Thái tổ. Chư tướng đều kinh hoảng, khuyên Thái
tổ quay về bảo vệ doanh trại, Du nói: "Đây là cơ hội để bắt địch, sao lại
bỏ đi nhỉ!" Thái tổ liếc nhìn Du cười. Rồi đem đồ truy trọng ra nhử bọn
giặc, giặc tranh nhau chạy đến lấy, vỡ trận. Thái tổ liền tung quân bộ kỵ ra
đánh, đại phá được giặc, chém được tướng quân kỵ của địch là Văn Xú, Thái tổ
sau cùng với Thiệu cầm cự nhau ở Quan Độ. Lương nuôi quân sắp hết, Du nói với
Thái tổ rằng: "Thiệu cho vận lương sớm tối đến đây, tướng của Thiệu là Hàn
(Tuân Thái) dũng mãnh nhưng khinh địch, ta đánh có thể phá được vậy." Thái
tổ hỏi: "Có thể sai ai đi được?" Du đáp: "Tử Hoảng có thể đi
được."
Thần
Tùng Chi xem mọi thư tịch, Hàn (Tuân Thái) hoặc chép là Hàn Mãnh, hoặc gọi là
Hàn Nhược, chưa rõ người đấy là ai
Thái tổ
lập tức sai Hoảng cùng Sử Hoán đón đánh phá tan quân giặc, thiêu huỷ đồ truy
trọng của địch. Vừa hay gặp Hứa Du đến hàng, nói rằng Thiệu phái bọn Thuần Vu
Quỳnh dẫn hơn vạn binh đến tiếp ứng cho quân vận lương, tướng kiêu căng quân sĩ
biếng nhác, có thể chặn đánh được. Mọi người đều nghi ngờ. Duy có Du và Giả Hủ
khuyến khích Thái tổ. Thái tổ bèn lưu Du và Tào Hồng ở lại phòng giữ. Thái tổ
thân chinh dẫn quân đi phá địch, chém hết được bọn Quỳnh. Tướng của Thiệu là
Trương Cáp, Cao Lãm thiêu huỷ thuyền bè xe cộ đến hàng, Thiệu rút cục phải vứt
bỏ quân đội chạy trốn. Trương Cáp đến hàng, Hồng nghi ngờ không dám tiếp nhận,
Du bảo Hồng rằng: "Mưu kế của Cáp chẳng được dùng, mới phẫn nộ mà tới
hàng, ngài còn nghi ngờ gì nữa?" Hồng bèn thu nhận Cáp.
Năm thứ
bảy, Du theo đi đánh Viên Đàm, Viên Thượng ở Lê Dương. Năm sau, Thái tổ đi
chinh phạt Lưu Biểu, Đàm và Thượng tranh đoạt Ký Châu. Đàm phái Tân Bì tới xin
hàng cầu cứu, Thái tổ định đồng ý, đem việc ấy ra hỏi thuộc hạ. Thuộc hạ đa
phần cho rằng Biểu cường mạnh, nên đánh dẹp trước đi, Đàm, Thượng chẳng đáng
phải lo lắng. Du nói: "Giờ đang là lúc thiên hạ có nhiều việc, mà Lưu Biểu
ngồi yên giữ lấy vùng Giang, Hán, như thế có thể biết được y không có chí khí
tiến thủ bốn phương vậy. Họ Viên chiếm giữ đất đai bốn châu, binh sĩ mặc giáp
chục vạn, Thiệu lấy khoan hoà hậu đãi mọi người thu được nhân tâm, ví thử hai
con của Thiệu hoà mục với nhau giữ lấy Nghiệp Thành, thì việc thiên hạ khó mà
yên ngay được. Nay anh em họ ghét nhau, thế hẳn là cả hai chẳng thể vẹn toàn
được. Nếu như để cho họ hợp sức với nhau làm một, binh lực của họ hợp lại thì
chúng ta khó mà mưu đồ được. Nhân lúc họ loạn ta đánh lấy, việc thiên hạ có thể
định được vậy, cơ hội này không thể để lỡ được." Thái tổ nói:
"Hay." Vì thế mới đồng ý hoà với Đàm, rồi quay về đánh tan Thượng.
Sau này Đàm làm phản, Du theo Thái tổ đi chém Đàm ở Nam Bì. Ký châu bình định,
Thái tổ dâng biểu lên Hoàng đế khen ngợi Du rằng: "Quân sư Tuân Du, phụ tá
thần từ thuở ban đầu, không lần chinh chiến nào không đi theo, công lao thắng địch
trước nay, đều là mưu của Du vậy." Đế liền phong Du làm Lăng Thụ đình hầu.
Năm thứ mười hai, Đế hạ lệnh xét công lao khi trước để tiến hành phong thưởng,
Thái tổ nói: "Người trung trinh chính trực có kế sách bí mật, phủ dụ kẻ
trong người ngoài, ấy là Văn Nhược(11). Công Đạt là người thứ hai vậy." Đế
tăng thêm thực ấp cho Du bốn trăm hộ, cộng cả trước đó là bảy trăm hộ, thăng
chức Du lên Trung quân sư. Nước Nguỵ mới kiến lập, lấy Du làm Thượng thư lệnh. Nguỵ
thư chép: Thái tổ từ Liễu Thành trở về, đi qua nhà Du, kể lại những mưu kế và
công lao trước nay của Du, rằng: "Ngày mà thiên hạ được an định rồi, Cô
nguyện sẽ cùng với các bậc hiền sĩ đại phu cùng chung hưởng yên vui. Xưa kia
Cao tổ cho Trương Tử Phòng được tự chọn lấy ba vạn hộ làm thực ấp(12), nay Cô
cũng muốn ban cho ngươi được tự chọn đất phong của mình.
Du là
người rất kín đáo lại khéo phòng hoạ hoạn, từ khi theo Thái tổ đi chinh phạt,
thường ở trong màn trướng bày mưu tính kế, người đương thời kể cả con em của Du
tuyệt chẳng ai biết hai người bàn tính những gì.
Nguỵ thư
chép: Con trai của cô ruột Du là Tân Thao từng hỏi Du về việc Du khuyên Thái tổ
lấy Ký Châu. Du nói: "Tá Trị(13)vì Viên Đàm mà xin hàng, vương sư vì vậy
mà bình định được đất ấy, ta có biết gì đâu?" Từ đấy Thao cùng họ hàng nội
ngoại chẳng ai dám lần nữa hỏi Du về việc quân quốc đại sự nữa.
Thái tổ
thường khen Du rằng: "Công Đạt ngoài mặt tỏ ra là mình ngu dốt mà bên
trong có nhiều mưu kế, vẻ ngoài hèn nhát mà trong tâm dũng mãnh, bên ngoài tỏ
vẻ yếu đuối mà trong bụng cương cường, chẳng hề khoa trương, không khoe công
lao, bậc trí nhân mới có thể sánh cùng, người ngu chẳng thể nào theo kịp được,
dẫu Nhan Tử, Ninh Vũ(14)cũng không sao hơn được vậy." Thời Văn Đế thời còn
làm Đông cung Thái tử, Thái tổ bảo rằng: "Tuân Công Đạt, chính là người
đáng bậc sư biểu, mày phải hết lòng kính lễ người ấy." Du có lần bị ốm,
Thế tử đến thăm bệnh, một mình quỳ lạy trước giường, Du được kính trọng khác
thường đến như thế. Du và Chung Do có quan hệ thân thiết, Do nói: "Ta mỗi
khi có hành động gì khó, nghĩ đi nghĩ lại, tự nhận thấy mình không có cách gì
làm nổi; đem ra bàn tính với Công Đạt, lập tức thu được những ý kiến khác
thường." Trước sau Công Đạt vạch ra mười hai kế sách lạ kỳ, chỉ có mình Do
biết được. Do biên soạn thành sách, còn chưa xong, thì chết, cho nên người đời
chẳng ai thấy được những kế sách kỳ lạ ấy Thần Tùng Chi xét: Sau khi Du mất
mười sáu năm, Chung Do mới chết, chép lại những kế sách lạ của Du, nào có khó
gì? mà tuổi đến tám mươi rồi, còn nói là chưa soạn xong, khiến cho kỳ mưu kế
sách tòng chinh của Du chẳng được truyền lại ở đời, đáng tiếc thay!
Du theo
Thái tổ đi đánh Tôn Quyền, mất ở giữa đường. Thái tổ mỗi khi nhắc đến Du lại
rơi nước mắt.
Nguỵ thư
viết: Bấy giờ là năm Kiến An thứ mười chín, Du được năm mươi tám tuổi. Xét về
tuổi tác thì Du hơn Úc sáu tuổi.
Nguỵ thư
chép lại lời của Thái tổ rằng: "Cô cùng với Tuân Công Đạt ruổi rong hơn
hai mươi năm trời, tuyệt đối không hề thấy có chút lỗi lầm nào." Lại nói:
"Tuân Công Đạt thực sự là hiền nhân vậy, có thể nói là đã 'đạt đến mức ôn
lương cung kiệm nhượng được(15).' Khổng tử từng khen rằng 'Án Bình Trọng(16)
khéo giao kết với người khác, ta kính trọng ông ấy đã lâu'. Công Đạt gần được
như người ấy vậy.
Phó Tử
nói: Có người hỏi ta về các bậc quân tử đại hiền gần đây, ta đáp rằng:
"Tuân lệnh quân là bậc nhân đức, Tuân quân sư là bậc trí mưu(17), những
người ấy có thể gọi là bậc quân tử đại hiền gần đây vậy. Tuân lệnh quân lấy
nhân để lập đức, sáng suốt tiến cử hiền tài, khi thi hành không hề
siểm
nịnh ai, mưu việc thì tuỳ cơ ứng biến. Mạnh Kha nói rằng 'Cứ năm trăm năm lại
có bậc vương giả nổi lên, khi ấy tất sinh ra bậc danh tiếng giúp đời', người ấy
là Tuân lệnh quân đó chăng(18)! Thái tổ từng khen 'Tuân lệnh quân tiến việc
thiện, chưa tiến cử được không chịu thôi, Tuân quân sư trừ ác, chưa trừ bỏ xong
không chịu dừng'.
Con
trưởng Du là Tập, có phong độ của Du, chết sớm. Con thứ Du là Thích nối tự,
không có con, tuyệt tự. Năm Hoàng Sơ trung, phong cho cháu của Du là Tôn Bưu
làm Lăng thụ Đình hầu, hưởng thực ấp ba trăm hộ, sau chuyển phong làm Khâu
Dương đình hầu. Năm Chính Thuỷ trung, truỵ thuỵ hiệu cho Du là Kính hầu.
Chú thích:
(1) Truyện nhà họ Tuân.
(2) Những hình phạt phạm đến da thịt người ta.
(3) Dung tập là những sách vở, thư từ do Khổng
Dung làm ra, người đời sau thống kê, ghi chép lại, gom thành một tập sách.
(4) Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương đều là
những vị vua tàn bạo nổi danh trong lịch sử Trung Hoa.
(5) Tức là núi Hào và cửa Hàm Cốc.
(6) Tề Hoàn Công và Tấn Văn Công, những người
làm bá chủ chư hầu đời Xuân Thu.
(7) Vương Đức Di không rõ là ai? Còn Hứa Tử
Viễn tức Hứa Du, người hiến kế đốt lương ở Ô Sào trong trận Quan Độ giúp Tào
Tháo đánh bại Thiệu; Quách, Giả ở đây là chỉ Quách Thái, Giả Bưu, là những
người bạn học với Hà Ngung. Viên Thuật ở đây cho rằng mấy người ấy là bạn học,
nhưng Quách, Giả nghèo túng đói rét, còn Ngung lại ăn no mặc ấm không san sẻ
với bạn bè, đó là tội.
(8) Đào Khâu Hồng, tự Tử Lâm, người Bình
Nguyên rất giỏi biện bác, nổi danh cùng với Khổng Dung ở Bắc Hải, Trần Lưu ở
Biên Nhượng.
(9) Người bạn của Ngung là Ngu Vĩ Cao có thù
cha chưa báo được, Ngung đến thăm, Vĩ Cao khóc lóc kể sự tình. Ngủng cảm nghĩa
khí, vì Vĩ Cao báo thù, tự tay giết kẻ kia, đem đầu đến tế trước mộ cha của Vĩ
Cao.
(10) Tức là ba phủ, Tư Không, Tư Đồ, Tư Mã.
(11) Là Tuân Úc vậy.
(12) Hán Cao tổ đánh thắng Hạng Vũ, cho phép
đệ nhất mưu sĩ của mình là Trương Lương tự chọn lấy ba ngàn hộ làm thực ấp.
Trương Lương không nhận, bỏ đi ở ẩn.
(13) Tá Trị là tên tự của Tân Bì, bản Tam quốc
diễn nghĩa của cụ Phan Kế Bính dịch tên nhân vật này là Tân Tỷ.
(14) Nhan Tử là Nhan Hồi, một trong mười hai
đại đệ tử của Khổng Tử, nổi tiếng là bậc tài hoa; còn Ninh Vũ, chưa rõ là ai.
(15) Có đủ các đức tính tốt đẹp, đó là ôn hoà,
thuần hậu, khiêm cung, cần kiệm, nhún nhường.
(16) Bình Trọng là tên tự của Án Anh. Án Anh
là tể tướng nổi danh nước Tề thời Chiến Quốc, nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa
với rất nhiều điển tích hay, một trong số đó là câu chuyện Hai quả đào giết ba
dũng sĩ.
(17) Tuân lệnh quân là trỏ vào Tuân Úc, Tuân
quân sư là trỏ vào Tuân Du. Úc lo việc triều chính, hết lòng tìm kiếm đề bạt
những kẻ hiền tài phụng sự quốc gia; Du theo đi tòng chinh, vạch mưu định kế,
quyết thắng kẻ địch, đều là hiền tài rường cột của đất nước.
(18) Mạnh Kha tức là thầy Mạnh Tử, từng đưa ra
chứng lý rằng: Từ đời Nghiêu, Thuấn đến vua Thành Thang nhà Thương là trên năm
trăm năm; từ Thành Thang đến vua Văn Vương nhà Chu là
trên năm trăm năm; Từ Văn Vương đến thầy Khổng
Tử lại chừng năm trăm năm. Thế tức là cứ trong khoảng năm trăm năm thế gian lại
sinh ra bậc hiền tài.
GIẢ HỦ TRUYỆN
Giả Hủ
tự Văn Hoà, người quận Vũ Uy huyện Cô Tang. Thuở nhỏ người đời chẳng ai biết
đến, chỉ người ở Hán Dương là Diêm Trung cho là người khác thường, nói rằng Hủ
có cái tài lạ của Lương-Bình(1).
Đến kỳ
xét Hiếu liêm Hủ được làm chức Lang, vì bị ốm nặng bèn từ quan, quay về phía
tây tới đất Khiên, trên đường đi gặp lúc rợ Đê làm phản, mấy chục người đi cùng
đều bị bắt giữ ở đó. Hủ nói: "Ta là của cháu ngoại Đoàn công, mày đem giấu
ta đi, gia đình ta tất đem tiền chuộc đến cho mày." Bấy giờ Thái uý Đoàn
Quýnh, trước đó ít lâu là tướng ở biên ải, uy chân tây thổ, Giả Hủ mượn danh để
doạ rợ Đê. Rợ Đê quả nhiên không dám hại, cho người đưa đi, những người khác
đều chết cả. Hủ quả thật chẳng phải là cháu ngoại của Đoàn, quyền biến để xong việc,
hết thảy đại loại như thế.
Đổng
Trác vào Lạc Dương, Hủ được lấy làm Thái uý duyện rồi Bình tây Đô uý, lại thăng
lên làm Thảo lỗ Hiệu uý. Con rể của Trác là Trung lang tướng Ngưu Phụ đóng quân
ở Thiểm tây, Hủ ở đó giúp việc quân. Trác bại vong, Phụ cũng chết, mọi người
rất sợ hãi, bọn Hiệu uý Lý Thôi-Quách Dĩ-Trương Tế muốn giải tán, sắp sửa quay
về quê. Hủ nói: "Nghe nói người trong thành Trường An bàn định muốn giết
hết người Lương Châu, mà các ông bỏ mọi người ra đi một mình, thì một người đình
trưởng cũng có thể bắt được các ông vậy. Chẳng bằng thống lĩnh mọi người ở
phương tây, thu nhặt binh sĩ ở đó, vây đánh Tràng An, vì Đổng công mà báo hận,
may mà nên việc, phụng sự quốc gia để chinh phạt thiên hạ, nếu chẳng xong việc,
bỏ chạy cũng chưa muộn vậy." Chúng cho là phải. Thôi bèn ở phía tây đánh
Trường An. Việc này có ở truyện về Trác.
Thần là
Tùng Chi cho rằng trong truyện có lời khen ngợi rằng: "Hành động nhân
nghĩa, lợi khắp thiên hạ!" Đương nhiên là lời nói bất nhân, tác dụng tương
phản. Nhân nghĩa, công đức rất khó thực hiện mà mầm loạn dễ thành, do đó mối
họa một khi đã phát động thì gây hại trăm đời vậy. Vào lúc đó kẻ cầm đầu phát
động họa loạn đã ra tay thì rất khó chế phục. Chiến loạn tứ phương, quốc gia
phân liệt, tai ương xuất hiện liên tục. Bang quốc có nguy cơ bị diệt vong, lê
dân chịu muôn điều oan khốc. Há chẳng vì lời nói suông của Giả Hủ chăng? Tội ác
của Hủ, không gì to hơn! Những trận động loạn từ xưa đến nay, chưa từng thảm
liệt như loạn Đổng Trác vậy!
Về sau
Hủở Tả Phùng Dực, bọn Thôi định xét công cho tước hầu, Hủ nói: "Cái kế cứu
mệnh ấy, có chi đáng kể!" Rồi cố từ không nhận. Chúng lại cho làm Thượng
thư Bộc xạ, Hủ nói: "Thượng thư Bộc xạ, là chức trưởng trong quân, thiên
hạ đều mong mỏi, tiếng tăm của Hủ chẳng đủ nặng, không thể khiến người ta phục.
Thả kẻ ám muội như Hủ vào chốn vinh lợi, sao mà ra quốc triều được!" Chúng
bèn đổi bái Hủ làm Thượng thư, giữ việc tuyển cử, Hủ nhiều lần giúp đỡ cho, bọn
Thôi vừa quý mến mà kiêng sợ.
Hiến Đế
kỷ chép: Quách Dĩ-Phàn Trù cùng với Thôi lìa bỏ nhau, mấy lần muốn đánh nhau.
Hủ liền lấy đạo lý trách cứ, chúng đều nghe lời Hủ.
Nguỵ thư
chép: Hủ giữ việc tuyển cử, nhiều lần chọn người trước đây có danh tiếng cho
làm lệnh phó, kẻ bàn luận việc ấy đều khen Hủ.
Lúc mẹ
mất Hủ từ quan, được bái làm Quang lộc đại phu. Bọn Thôi-Dĩ đánh nhau ở trong
thành Tràng An.
Hiến Đế
kỷ chép: Bọn Thôi cùng với Hủ bàn định, đón Thiên tử vào trong doanh trại. Hủ
nói: "Không nên. Bức hiếp Thiên tử, là việc phi nghĩa vậy." Thôi
không nghe. Trương Tú bảo Hủ rằng: "Chốn ấy chẳng nên ở lâu, sai ngài
chẳng bỏ đi?" Hủ nói: "Ta đã nhận quốc ân, nghĩa chẳng thể phản bội.
Ngài hãy tự đi, ta chẳng thể đi vậy."
Thôi lại
mời Hủ làm Tuyên Nghĩa tướng quân.
Hiến Đế
kỷ chép: Lúc bấy giờ Thôi triệu mấy nghìn người Khương-Hồ tới, trước tiên lấy
lụa màu của vua cấp cho chúng, lại hứa ban cho đàn bà con gái ở trong cung,
muốn sai chúng đánh Quách Dĩ. Người Khương-Hồ liền kéo lại chọc tường nhòm vào
cửa của nhà vua, nói: "Thiên tửở trong đó sao! Lý tướng quân hứa cho ta
cung nhân mĩ nữ, nay đều ở đây ư?" Đế lo lắm, sai Hủ tính kế giúp cho. Hủ
bèn ngầm gọi các đầu lĩnh người Khương-Hồ đến cho ăn uống, hứa sẽ phong tước
lớn, vì thế chúng đều bỏ đi. Bởi thế mà thế lực của Thôi suy yếu đi.
Bọn Thôi
lại dàn hoà, Thiên tử thoát được ra ngoài, đại thần theo giúp đỡ, ấy là nhờ vào
công sức của Hủ.
Hiến Đế
kỷ chép: Thiên tử đã về phía đông, nhưng Lý Thôi lại đuổi theo, vương sư đổ
nát. Quan Tư đồ là Triệu Ôn, Thái thường Vương Vĩ, Vệ uý Chu Trung, Tư lệ Vinh
Thiệu đều làm Thôi không vừa ý, Thôi muốn giết đi. Hủ bảo Thôi rằng: "Đấy
đều là những đại thần của Thiên tử, sao ngài lại muốn hại họ?" Thôi mới
dừng việc ấy.
Thiên tử
đi rồi, Hủ dâng trảấn thụ. Bấy giờ tướng quân Đoàn Ổi đóng ở Hoa Âm,Ổi với Hủ
là người đồng quận, Hủ bỏ Thôi đi theo Ổi.
Điển lược
nói lúc bấy giờỔi ở Hoa Âm, làm ruộng, chẳng phải là giặc cướp. Thiên tử về
đông, Ổi đón ở trên đường dâng cống chu cấp quà cáp.
Hiến Đế
kỷ chép: Sau này Đế lấy Ổi làm Đại hồng lư Quang lộc đại phu, năm Kiến An thứ
mười bốn, được chết lành.
Hủ có
tiếng là người trong sạch, quân lính của Ổi rất ngưỡng vọng. Ổi trong bụng sợ
bị Hủ đoạt quyền, mà bề ngoài lại cung phụng Hủ lễ nghĩa rất đầy đủ, Hủ càng
thấy bất an hơn.
Chú thích:
(1) Trương Lương, Trần Bình, đều là những mưu
sĩ nổi danh của Hán Cao Tổ.
NGỤY THƯ QUYỂN 12 - Thôi Mao Từ Hà Hình Bảo Tư
Mã truyện Thôi Diễm, Mao Giới, Từ Dịch, Hà Quỳ, Hình
Ngung, Bảo Huân, Tư Mã Chi
MAO GIỚI TRUYỆN
Mao Giới
tự Hiếu Tiên, người quận Trần Lưu huyện Bình Khâu. Thời trẻ làm huyện lại, vì
thanh liêm công chính nên được ngợi khen. Lúc đi tránh loạn ở Kinh Châu, chưa
đến nơi, nghe nói Lưu Biểu chính lệnh không nghiêm, bèn qua huyện Lỗ Dương.
Thái tổ đến Duyện châu, cho vời Giới đến làm Trị trung tòng sự. Giới nói với
Thái tổ rằng: "Nay thiên hạ tan lở chia lìa, quốc chủ bị di dời, sinh dân
bỏ nghiệp, mất mùa đói kém lưu vong, Công gia(1) không năm nào có của tích trữ,
trăm họ không có chí an cư, khó mà giữ được lâu. Nay Viên Thiệu, Lưu Biểu, tuy
sĩ dân đông đảo cường thịnh, đều không lo tính đường xa, chưa gây dựng được cái
gốc rễ nền móng vậy. Kẻ dấy binh có chính nghĩa thì thắng, giữ được địa vị bởi
có tài lực, nên phụng mệnh thiên tử để ra lệnh cho kẻ không làm thần tử, chấn
chỉnh việc canh tác lương thực, tích trữ quân nhu của cải, như thế thì cái
nghiệp bá vương có thể thành vậy." Thái tổ cung kính thu nhận lời ấy,
chuyển Giới làm Mạc phủ Công tào.
Thái tổ
làm Tư không Thừa tướng, Giới từng làm Đông tào duyện, cùng với Thôi Diễm đều
chủ trì việc tuyển cử. Những người được họ tuyển cử, đều là kẻ sĩ trong sạch
chính trực, còn dù là kẻ có danh lớn mà phẩm hạnh không đoan chính giữ bổn
phận, nhất định không được tiến cử. Diễm lấy sự cần kiệm để mọi người noi theo,
bởi thế kẻ sĩ trong thiên hạ tuyệt chẳng ai không lấy tiết tháo và liêm khiết
để tự cố gắng, dẫu là kẻ bầy tôi địa vị tôn quý được ân sủng, thì xe ngựa y
phục chẳng dám vượt khuôn phép. Thái tổ than rằng: "Dùng người như thế,
khiến cho người trong thiên hạ tự sửa mình, ta sao làm được như vậy!" Lúc
Văn đế làm Ngũ quan tướng, đích thân đến chỗ Giới, phó thác thân quyến của mình
nhờ Giới giúp. Giới đáp rằng: "Lão thần nhờ năng lực giữ chức phận, may
mắn được miễn trách tội, nay lại nói giúp để thăng quan cho người ta là có lỗi,
thế nên thần chẳng dám vâng mệnh." Đại quân về huyện Nghiệp, kẻ bàn luận
muốn hợp nhất cơ cấu hành chính(2). Giới xin yết kiến nói không nên thi hành,
người bấy giờ đều sợ Giới, đều muốn giảm bớt chức Đông tào. Bèn cùng bẩm bạch
rằng: "Từ trước đây chức Tây tào là trên, chức Đông tào là dưới, nên giảm
bớt Đông tào." Thái tổ hiểu rõ nội tình, xuống lệnh rằng: "Mặt trời
mọc ở phương đông, mặt trăng tròn đầy ở phương đông, phàm khi người ta nói đến
phương vị, cũng lại nói đến phương đông trước, vì sao lại triệt tiêu chức Đông
tào?" Bèn giảm bớt chức Tây tào. Khi trước, Thái tổ bình Liễu Thành, ban
phát các đồ vật lấy được ở đó, đặc biệt đem tấm bình phong sắc trắng không thuê
thùa và ghế tựa bằng gỗ mộc không chạm khắc ban cho Giới, nói: "Ngài có
phong độ của cổ nhân, cho nên ta ban cho ngài vật dụng của cổ nhân." Giới
giữ ngôi vị quý hiển, thường mặc áo vải ăn cơm rau, vỗ về nuôi nấng con côi của
anh rất hậu, những đồ được ban thưởng đem phát chẩn giúp đỡ người nghèo khó
trong họ tộc, trong nhà không có đồ đạc của cải dư thừa. Giới được thăng làm
Quân sư. Nước Nguỵ mới kiến lập, Giới làm Thượng thư bộc xạ, lại chủ trì việc
tuyển cử.
Tiên
hiền hành trạng chép: Giới chính trực thành thực, công bằng liêm chính, ở ngôi
quan trong sạch kính cẩn. Lúc chủ trì việc tuyển cử, đề bạt người thanh liêm
thật thà, bài xích kẻ phù phiếm rỗng tuếch và giả dối, tiến cử người khiêm tốn
đức hạnh, đè nén kẻ a dua bè đảng. Các trưởng quan cai trị dân mà công tích
chẳng rõ ràng nhưng của riêng giàu có đủ đầy, thì đều bị cách truất phế bỏ đình
chỉ chức vụ, rất lâu sau không được tuyển dụng. Vì thế bốn bể tập hợp về, tuyệt
chẳng có ai không cố gắng rèn phẩm hạnh. Thậm chí có Trưởng quan về nhà, mặt
mũi lấm lem y phục xộc xệch, thường đi xe nhỏ xấu không che trướng. Quan lại
cấp thấp vào phủ, mặc triều phục của lính bộ binh. Người người bắt chước nhau
về sự thanh liêm, ăn cơm chan với nước sôi, nhà nhà noi gương nhau về tiết
tháo, dùng nước rửa giặt giải mũ, người tôn quý thì không luỵ vào việc dơ bẩn,
kẻ bần tiện tuyệt không tìm cách gian dối về tiền của, quan lại thanh liêm ở
trên, tục dân rộng rãi ở dưới, dân chúng đến nay còn khen ngợi Giới.
Bấy giờ
ngôi Thái tử chưa định, nhưng Lâm Tri hầu Thực được sủng ái, Giới ngầm can
rằng: "Gần đây Viên Thiệu vì đích thứ bất phân, dòng tộc bị chết nước bị
diệt. Phế lập là việc lớn, đó chẳng phải là việc làm thích hợp." Lúc quần
thần hội họp, Giới đứng lên thay áo, Thái tổ trố mắt nhìn rồi hiểu ý nói:
"Thời xưa bảo kẻ làm việc này là người giữ chức quan Ti trực(3) của quốc
gia, thế là Chu Xương(4) của ta vậy."
Thôi
Diễm đã chết, Giới trong bụng không hài lòng. Sau có kẻ mách việc của Giới nói:
"Giới ra ngoài gặp một kẻ tạo phản bị thích chữ vào mặt, vợ con người ấy
bị tất cả bị bắt làm nô tì ở nhà quan, Giới nói rằng: 'Khiến cho trời không mưa
là việc đó vậy'." Thái tổ cả giận, bắt Giới giao cho nhà ngục. Quan Đại lý
là Chung Do cật vấn Giới rằng: "Các bậc đế vương từ xưa là thánh minh, cứ
kẻ có tội là liên luỵ đến vợ con. Kinh Thượng thư nói rằng: 'Binh sĩ ở bên trái
xe binh nếu như không dùng cung tên bắn giết quân địch, binh sĩ ở bên hữu xe
binh nếu như không dùng giáo mác đâm giết địch nhân, sẽ bị giết đến cả vợ
con(5).' Kẻ giữ chức Tư khấu, sẽ bắt bớ tới gia thuộc, con trai phải vào chỗ
tội nhân làm đứa ở, con gái phải vào nơi giã gạo thổi cơm. Theo pháp luật nhà
Hán, tất cả vợ con của tội nhân phải làm nô tì, bị thích chữ vào mặt. Phép của
nhà Hán cho thi hành hình phạt thích chữ bôi mực vào mặt, là bảo tồn pháp điển
thời cổ đại. Nay kẻ ấy đúng thực là nô tì vì tổ tiên có tội, dẫu trải trăm đời,
còn bị thích chữ vào mặt làm sai dịch ở phủ quan, thứ nhất là để khoan thứ cho
sinh mệnh của dân lành, thứ hai là để tha thứ cho các lỗi lầm của kẻ có tội.
Thế thì vì sao lại chống lại với ý của thần minh, mà vời đại hạn đến được? Xét
theo lẽ thường, chính sự hà khắc thì thiên khí lạnh lẽo, chính sự hoà hoãn thì
thiên khí ấm nóng, chính sự khoan hoà thì dương khí cực thịnh, đó là lý do sinh
ra hạn hán(6). Ngài nói ra lời ấy, thì cho rằng hình pháp là hà khắc, hay là
khoan hoà vậy? Nếu là hà khắc thì đang là lúc có mưa dầm, vì sao lúc này trái
lại có hạn hán? Vua Thành Thang là bậc thánh ở đời, mà đồng ruộng có lúc cỏ
không mọc, Chu Tuyên là vị vua giỏi, có lúc gặp đại hạn tai ác(7). Đại hạn kéo
đến, đã ba mươi năm nay, mà quy lỗi cho việc có hình phạt thích chữ vào mặt, là
vì việc cai trị chăng? Người nước Vệ đánh nước Hình, hưng binh mà có mưa, tội
ác không có gì là chứng nghiệm cả, lấy gì để ứng lòng trời? Ngài đưa lời trách
chê phỉ báng, lưu truyền chốn dân gian, tiếng tăm không hay, truyền đến tai
thánh thượng. Lời ngài nói ra ấy, về tình thế chẳng phải là nói một mình, lúc
ngài gặp người bị khắc chữ vào mặt, tất cả là có mấy người thấy? Kẻ nô tì bị
khắc chữ vào mặt kia, ngài có quen biết họ chăng? Ngài gặp họ vì duyên cớ gì,
mà đưa lời cảm thán đối với họ? Lúc ấy vì ai mà ngài nói lời cảm thán? Kẻ nghe
được lời ngài cảm thán đáp lời thế nào? Hôm ấy là ngày tháng nào? Ở chỗ nào?
Việc đã phát lộ, ngài không được giấu diếm lừa dối, hãy kể đủ sự thực để đối
chứng với cáo trạng(8)." Giới nói: "Thần nghe nói Tiêu Sinh phải tự
ải, vì bị khốn với Thạch Hiển(9); Giả Tử bị đuổi ra ngoài cõi, vì Giáng, Quán dèm
pha(10); Bạch Khởi được ban kiếm phải tự sát ở Đỗ Bưu(11); Triều Thác bị giết ở
Đông Thị(12); Ngũ Viên tuyệt mệnh ở Ngô Đô(13): Đối với mấy người ấy, hoặc bị
người trước đố kỵ, hoặc bị người sau làm hại. Thần từ thời trẻ giữ chức tuyển
cử, chuyên cần với chức quan, giữ chức vụ cơ mật thiết yếu, nắm đại quyền xắp
xếp nhân sự. Người ta đem việc riêng phó thác cho thần, thần không vì quyền thế
mà không còn tiết tháo, người vì có oan ức nói với thần, không vì việc nhỏ mà
không suy xét rõ ràng. Nhân tình thì hám lợi, ta dùng pháp luật cấm chỉ, hành
vi hám lợi bị cấm chỉ, thì kẻ có quyền thế phá hoại phép tắc. Sinh ra việc đổi
trắng thay đen, nói rằng thần làm ra lời báng bổ triều đình, người nói thần
báng bổ triều đình, thế tất chẳng phải vì nguyên nhân gì khác. Trước kia Vương
Thúc, Trần Sinh tranh giành quyền chính ở chốn vương đình, Phạm Tuyên Tử xử trí
công bằng(14). Đã yêu cầu cả hai người đưa ra chứng cứ, phải trái đều thích
hợp, đúng sai có đủ, kinh Xuân Thu khen ngợi việc ấy, vì thế chép lại. Thần chẳng
nói ra lời ấy, không có thời gian và nhân chứng gì. Nói rằng thần nói lời ấy,
tất phải có chứng cớ. Xin hãy lấy lời tranh biện của Tuyên Tử,
mà tìm
lấy Vương Thúc để đối chất. Nếu thần mà có lời quanh co, ngay trong ngày xin
lập tức chịu hình, lúc xử hình là khi ban tặng; ban kiếm đến, ấy là cái ân huệ
được ban thưởng. Xin được cẩn trọng để đối đáp cáo trạng." Bấy giờ Hoàn
Giai, Hoà Hiệp dâng lời cứu Giới. Giới cuối cùng bị cách chức, chết ở nhà.
Tôn
Thịnh nói: Nguỵ Vũ vì dùng hình mà mất chính vậy. Dịch nói "Việc tố tụng
hình ngục phải sáng suốt", truyện nói "Đề bạt người chính trực phế bỏ
kẻ ác", việc tố tụng hình ngục sáng suốt thì trong nước không có dân oán,
đối xử với kẻ gian người ngay thích đáng thì dân chúng không có ai không phục,
không trừng trị kẻ sàm ngôn nói lời phù phiếm, thì lời dèm pha ton hót như nước
ngấm dần, có thể sửa sang được bốn bể, thì chỉ có sự trong sạch và sáng sủa mà
thôi. Xưa kia Hán Cao hạ ngục Tiêu Hà, khi tha ra lại tin dùng, Giới một lần bị
trách tội, vĩnh viễn bị ruồng bỏ, sự độ lượng của hai vị nhân chủ, há chẳng
khác nhau sao(15)!
Thái tổ
ban cho áo quan, tiền, lụa, phong cho con của Giới là Cơ làm Lang trung.
Chú thích:
(1) Công gia ở đây là nói 'nhà của Minh công',
tức nói đến vùng Dự Châu nơi Tào Tháo đang cai quản.
(2) Nguyên văn câu này là 'nghị sở tịnh tỉnh',
chữ 'tỉnh' ở đây là danh từ, chỉ một cơ cấu hành chính thời cổ, lúc đó Mao Giới
làm Đông tào duyện, Thôi Diễm là Tây tào duyện, mọi người bàn định muốn hợp
nhất hai chức này, tức là giảm đi một cơ quan hành chính.
(3) Cầm đầu việc can gián vì lợi ích quốc gia.
(4) Chu Văn Vương Cơ Xương, người đặt nền móng
cho Vũ Vương lập nên nhà Chu, Chu Xương từng
can gián vua Trụ nhà Ân.
(5) Nguyên văn cả câu này là 'Tả bất cộng tả,
hữu bất cộng hữu, dư tắc nô lục nữ.' Theo phép xưa, khi ra trận xe binh đi
trước, quân bên tả cầm cung nỏ, quân bên hữu cầm giáo mác dài, khi xung phong,
bên tả bắn tên, bên hữu đâm chém kẻ địch. Câu này quá khó, xin tạm hiểu nghĩa
mà dịch như vậy.
(6) Câu này có nguồn gốc từ kinh Thượng thư,
đại ý nói rằng chính trị hà khắc thì trời đất lạnh lẽo, chính trị khoan hoãn
thì đất trời ấm nóng, dương khí cực thịnh. Chung Do đưa lí luận này để nói rằng
việc lời nói về hình pháp nặng nhẹ kia theo lý là chẳng đúng, ngầm có ý như kết
tội Mao Giới.
(7) Thành Thang là vua sáng nghiệp nhà Thương,
là đấng minh quân, Chu Tuyên vương là vị vua giỏi thời nhà Chu ,
dưới thời cai trị của hai vua này đều từng bị những đợt hạn hán nặng nề. Chung
Do đưa ra lập luận này để chứng minh rằng hình pháp nặng hay nhẹ chẳng liên
quan gì đến chuyện nắng hạn cả.
(8) Rút cục là bảy câu hỏi của Chung Do với
Mao Giới thực chất là lời mớm cung, chỉ đường cho Giới thoát tội. Thực chất thì
Mao Giới, Thôi Diễm và Chung Do là những người bạn rất tốt với nhau.
(9) Tiêu sinh tức Tiêu Vọng Chi, cháu sáu đời
của Tiêu Hà, sống ở nửa cuối thời Tây Hán, người quạn Đông Hải huyện Lan Lăng,
sau chuyển về ở Đỗ Lăng. Ông là đại thần dưới hai triều vua Tuyên Đế và Nguyên
Đế, nổi danh là Kinh học gia. Vì không hợp với Đại tướng quân Hoắc Quang nên
không được trọng dụng. Sau khi Hoắc Quang chết một thời gian, ông được thay
chức của Bính Cát làm Ngự sử đại phu. Hoắc thị mắc tội bị diệt tộc, ông càng
được trọng dụng. Lúc Hung Nô làm loạn, ông can gián vua, chủ hoà. Đế xuất
chinh, thắng trận, ông bị giáng chức làm Thái tử Thái
phó. Tuyên Đế lên ngôi, ông lại được trọng
dụng, nắm quyền lớn trong triều, làm đến chức Thừa tướng. Ông xung khắc với bọn
hoạn quan, bị hai tên hoạn quan là Hoằng Cung và Thạch Hiển bức hại, vu cáo ông
là 'xưng tụng người thuộc bè đảng, gièm pha tố cáo đại thần, huỷ hoại tình
thân, có ý chuyên quyền.' Ông bị bắt, hạ ngục, sau phải uống thuốc độc tự vẫn,
lúc ấy sáu mươi tuổi.
(10) Giả tử tức Giả Nghị, sống vào đầu thời
Tây Hán, người Lạc Dương, là chính luận gia, văn học gia, nổi danh từ năm mười
tám tuổi, được Ngô Công tiến cử, năm hai mươi tuổi làm Bác Sĩ, chưa đầy một năm
được đặc cách thăng làm Thái trung đại phu. Ông đề xuất cải cách chính trị, kế
thừa pháp chế thời Tần, nhưng phế bỏ các bại tục, cách tân chế độ, bị các đại
thần là Giáng hầu Chu Bột, Dĩnh Âm hầu Quán Anh, Đông Dương hầu Trương Tương
Như, Ngự sử đại phu Phùng Kính căm ghét. Năm hai mươi ba tuổi, ông bị biếm chức
làm Thái phó cho Trường Sa Vương. Sau bị triệu về Trường An làm Thái phó cho
Lương Hoài Vương. Lương Hoài Vương bị ngã ngựa chết, ông lo lắng thành bệnh,
năm ba mươi ba tuổi chết.
(11) Bạch Khởi là danh tướng của Tần Chiêu
Vương, công lao trùm cả nước Tần, đánh Triệu thắng trận ở Trường Bình, giết
Triệu Quát chôn sống bốn mươi vạn quân Triệu, đã kiến nghị vây đánh Hàm Đan,
Thừa tướng là Phạm Thư ghen ghét với Khởi can vua Tần, vua Tần không nghe kế
của Khởi. Sau nước Triệu dùng Liêm Pha làm tướng, đánh lại nước Tần, tướng Tần
là Vương Lăng không đánh được. Vua Tần cử Khởi làm đại tướng ra trận, Khởi từ
chối cho rằng lúc ấy không thể đánh được nữa, vua Tần cố ép, Khởi nhất định từ
chối, vua Tần giận, cử Vương Hạt làm tướng, bị thua, Khởi nói với tân khách là
'đã biết trước như thế mà', Phạm Thư nhân đó gièm pha Khởi với vua Tần, vua Tần
nổi giận, tước quan lộc và thực ấp của Khởi, đầy ra Âm Mật, khi đến Đỗ Bưu, vua
Tần ban cho kiếm tự sát mà chết.
(12) Triều Thác là người thời Tây Hán, quê ở
quận Dĩnh Xuyên, sống vào đời vua Hán Văn Đế. Ông có văn tài xuất chúng, từng
nhận các chức vụ là Thái tử xá nhân, Bác sĩ, Thái tử gia lệnh, được Thái tử là
Lưu Khải tôn xưng là 'túi khôn'. Thời Hán Cảnh Đế, ông làm Ngự sử đại phu, từng
nhiều lần chủ trương tăng cường quyền lực của chính quyền trung ương, giảm thế
lực của chư hầu đại phương, trọng nghề nông, quý thóc lúa. Nhân vì cái loạn
thất quốc, ông bị giết bằng hình phạt chém ngang lưng ở Đông Thị, Tây An.
Truyện về ông thấy ở các thiên sách trong Hán thư là 'Hoá thực chí', 'Viên Áng,
Triều Thác truyện'.
(13) Ngũ Viên tức Ngũ Tử Tư, người nước Sở
cuối thời Xuân Thu, văn võ toàn tài, cha là Ngũ Xa có tiếng chính trực, bị Sở
Bình Vương giết, ông trốn qua nước Ngô, giúp Thế tử Quang lên ngôi, tức vua Hạp
Lư. Sau khi góp công xây dựng nước Ngô thành cường quốc, ông đem quân về diệt
nước Sở, đào mả Sở Bình Vương, dùng roi đồng đánh mấy trăm cái vào thi thể Sở
Bình vương khiến xương tan thịt nát. Hạp Lư chết, Phù Sai lên thay, tin dùng
gian thần Bá Hi, không trọng dụng Ngũ Viên, lại tha cho vua Việt là Câu Tiễn.
Nước Việt hùng mạnh, Phù Sai cứ vui chơi với người đẹp là Tây Thi, quên cả
chính sự. Ngũ Viên can gián nhiều lần, làm Phù Sai giận, liền ban cho Ngũ Viên
thanh kiếm, Ngũ Viên tự sát ở Ngô Đô. Sau này nước Ngô bị vua nước Việt là Câu
Tiễn diệt, Phù Sai phải tự vẫn.
(14) Vương Thúc, Trần Sinh, Phạm Tuyên Tử là
bầy tôi của Chu Linh Vương (Cơ Tiết Tâm) nhà Chu thời Xuân Thu, ND chưa tra cứu
được điển tích này.
(15) Tiêu Hà là công thần bậc nhất của Lưu
Bang, sau khi kiến lập nhà Hán, Lưu Bang giết các công thần, Tiêu Hà vốn là vị
quan thanh liêm đầu triều, Lưu Bang rất nghi kỵ. Có người khuyên Lưu Bang nên
tỏ ra tham lam để làm hại đến thanh danh liêm khiết của mình để Hán vương yên
lòng, Tiêu Hà không nghe. Có lần Tiêu Hà đã đề đạt nguyện vọng của dân lên Lưu
Bang về việc dùng đất hoang trong vườn thượng uyển để khai khẩn, trồng lúa. Lưu
Bang nghe nói tức giận, cho rằng Tiêu Hà ăn hối lộ của dân nên mới nghĩ ra việc
phá vườn thượng uyển, bèn ra lệnh bắt giam ông, sau được các quan ngăn lại,
Tiêu Hà được tha. Sau khi Lưu Bang chết, Tiêu Hà phục vụ con của Lưu Bang, được
thăng tước Hầu. Ở đây Tôn Thịnh so sánh Hán Vương và Nguỵ Vũ, có ý mỉa mai Nguỵ
Vũ là thiếu chính đạo và hẹp hòi.
TƯ MÃ CHI TRUYỆN
Tư Mã
Chi tự Tử Hoa, người quận Hà Nội huyện Ôn. Thời trẻ là học trò, đi tránh loạn ở
Kinh Châu, thốt nhiên gặp bọn giặc ở núi Lỗ Dương, những kẻ đi cùng đều bỏ
người già yếu mà chạy, Chi còn một mình ở lại che chở cho mẹ già. Giặc đến nơi,
chĩa mũi dao nhọn vào người, Chi lạy rập đầu nói: "Mẹ già tôi, chỉ còn nhờ
ở các ông!" Giặc nói: "Kẻ này là hiếu tử vậy, ta giết là bất nghĩa."
Vì thế thoát bị hại, Chi lấy xe hươu đẩy mẹ đi. Ở phương nam hơn chục năm, tự
mình cầy ruộng giữ khí tiết.
Thái tổ
bình Kinh Châu, cho Chi làm trưởng huyện Gian. Bấy giờ thiên hạ mới gây dựng,
nhiều kẻ không vâng theo vương pháp. Lưu Tiết là Chủ bộ ở quận, đại tộc cũ, là
kẻ hào kiệt hiệp khách, có hơn nghìn tân khách, ra ngoài thì làm đạo tặc, về
quận lại nhiễu loạn sở trị. Được ít lâu, Chi phái khách của Tiết là bọn Vương
Đồng tòng binh, quan duyện sứ ngăn cản bẩm: "Nhà Tiết trước nay chưa từng
cung cấp kẻ lao dịch nào, nếu đến lúc có kẻ trốn tránh, tất làm đình trệ công
việc." Chi không nghe, gửi thư cho Tiết nói: "Ngài là Đại tông(1),
hơn nữa lại là chân tay của quận, nhưng tân khách thường không giúp việc lao
dịch, đã có nhiều người oán vọng, ngờ là tiếng tăm sẽ truyền lên trên. Nay tôi
sai bọn Đồng tòng binh, mong ngài phát lệnh phái họ đi đúng lúc." Quân
binh đã tập hợp ở quận, nhưng Tiết che giấu đồng bọn, nhân đó ra lệnh cho Đốc
bưu nói dối là điều động quân binh đi làm nhạc khí, quan Duyện sử cùng khốn,
xin đi thay Đồng. Chi bèn truyền hịch đến Tế Nam, trình bầy đầy đủ tội của
Tiết. Thái thú Hác Quang vốn kính trọng và tin tưởng Chi, lập tức dùng Tiết
thay Đồng tòng binh. Dân Thanh châu gọi Chi là người "cho Chủ bộ đi tòng
binh." Chi được thăng làm Quảng Bình lệnh. Chinh lỗ tướng quân Lưu Huân,
vì được quý hiển nhận ân sủng mà kiêu căng ngang tàng, Chi lại là tướng cũ ở
quận, tân khách đệ tử trong địa giới mấy lần phạm pháp. Huân gửi thư cho Chi,
không ghi rõ danh tính, nhưng phó thác công việc nhờ vả nhiều người ở đấy, Chi
không đáp thư của Huân, nhất nhất đều xử theo phép. Về sau Huân vì không tuân
phép tắc bị kể tội rồi giết, những kẻ giao du với Huân đều bị bắt tội, nên Chi
vì thế được khen ngợi.
Nguỵ
lược chép: Huân tự Tử Đài, người quận Lang Nha. Năm Trung Bình mạt, làm trưởng
huyện Kiến Bình nước Bái, cùng với Thái tổ là bạn cũ. Sau làm Thái thú Lư
Giang, vì bị Tôn Sách đánh phá, tự quy phục Thái tổ, được phong tước Liệt hầu,
sau làm Tán ngũ nghị trung. Anh của Huân làm Thứ sử Dự Châu, bị bệnh chết. Con của
anh trai là Uy, lại lên thay làm chức ấy. Huân vì cậy là cùng với Thái tổ có
giao hảo cũ, ngày càng kiêu căng ngạo mạn, mấy lần phạm pháp, lại phỉ báng
người ta. Vì có người ở địa phương bẩm bạch nỗi oan, Huân bị bắt trị tội, uy
danh quan tước đều mất hết.
Chi được
thăng làm Đại lí chính. Có người lấy trộm tấm lụa sóng của quan phủ đem giấu ở
nóc nhà xí công cộng, viên lại ngờ là nữ thợ dệt lấy, liền bắt giao cho nhà
ngục. Chi nói: "Kẻ thi hành hình phạt mà nhầm lẫn, thì cái nhầm lẫn ấy là
hà khắc và tàn bạo. Nay hãy có tang vật trước rồi sau tra hỏi để lấy cung, như
thế chẳng hơn là đánh đòn người ta, sợ là người ta không có tội mà bị phạt vậy.
Kẻ không có
tội vì bị phạt mà nhận, thì chẳng thể lấy đó để phán quyết tội trạng được. Vả
lại đơn giản thì người ta dễ theo, là sự giáo hoá lớn nhất với người ta. Chẳng
bỏ qua kẻ có tội, là cách để trị lý người đời vậy. Nay ta tha thứ cho kẻ hiềm
nghi, là dùng sự rộng rãi để người ta phục tùng đạo nghĩa, chẳng cũng nên
sao!" Thái tổ theo lời bàn ấy.
Chi lần
lượt làm Thái thú các huyện Cam Lăng, Bái, Dương Bình, ở đâu cũng có thành
tích. Năm Hoàng Sơ trung, được về triều làm Hà Nam doãn, đè nèn kẻ mạnh nâng đỡ
kẻ yếu, kẻ có việc riêng cầu kiến thì không làm. Gặp lúc có người trong sở quan
định đem việc nhờ vả Chi, song không dám nói ra, lại nhờ bác vợ của Chi là Đổng
Chiêu. Chiêu cũng sợ Chi, chẳng đưa lời. Chi truyền dạy quần hạ rằng: "Bậc
quân vương có thể đặt ra pháp lệnh, cũng chẳng thể khiến cho quan lại nhất định
không vi phạm được. Quan lại có thể vi phạm giáo lệnh, nhưng chẳng thể để cho
quân vương nhất định không biết. Quân vương đặt ra pháp lệnh mà vi phạm, thì là
bậc quân vương kém cỏi; quan lại phạm giáo lệnh mà bậc quân vương biết, thì là
cái hoạ quan lại vậy. Quân vương kém cỏi ở trên, cái hoạ quan lại ở dưới, đó là
nguyên do việc chính sự chẳng có đạo lý. Thế nên hai bên đều phải cố gắng
vậy!" Vì thế quan lại dưới trướng của Chi tuyệt chẳng có ai không gắng
gỏi. Môn hạ của viên Tuần hành từng nghi ngờ người nhà phạm tội ăn trộm cái
trâm, can phạm nói là không đúng, Tào duyện bắt kẻ ấy vào ngục. Chi dạy rằng:
"Phàm là đồ vật giống nhau thì khó phân biệt, bởi nó chẳng phải là vật
điêu khắc trang trí, lại ít khi làm cho người ta bị mê hoặc. Nếu quả thật người
ấy phạm tội, Tuần hành sao nỡ quá tiếc một cái trâm, mà coi rẻ cái tình thương
đồng loại thế ru! Nên thôi đi, chớ thẩm vấn người ta nữa."
Minh đế
lên tức vị, ban cho Chi tước Quan nội hầu. Được ít lâu, nhũ mẫu của Đặc tiến
Tào Hồng làm việc xấu, cùng với kẻ hầu của Lâm Phần công chúa đi tế tự thần
linh ở Vô Giản, bị hạ ngục.
Thần
Tùng Chi xét: Vô Giản, là tên núi, ở phía đông bắc Lạc Dương Biện
Thái hậu phái Hoàng môn đến phủ quan truyền lệnh, Chi không tiếp lệnh, lập tức
ra lệnh cho cai ngục ở Lạc Dương tra khảo hai người đến chết, rồi dâng sớ rằng:
"Phàm là phán xử tử hình tội phạm, đều phải trước tiên dâng biểu tấu rồi
đợi tin báo lại. Trước đây có chế thư cấm tuyệt việc tế tự gian tà để đoan
chính phong tục, nay kẻ phạm tội đang đợi yêu hình(2), lời cung khai mới định,
quan Hoàng môn là Ngô Đạt đến chỗ thần, truyền lệnh của Thái hoàng thái hậu.
Thần chẳng dám thông qua, sợ có kẻ cứu hộ, vội vã truyền tin lên thánh thượng,
như thế là bất đắc dĩ, vì phải bảo hộ cho phạm nhân. Bởi sự việc chẳng kết thúc
sớm được, ấy là cái tội của thần, thế nên thần mạo phạm quy tắc chế độ thông
thường, lập tức ra lệnh cho quan huyện tra khảo tội nhân đến chết, vì thiện
tiện thi hành hình phạt giết người, thần kính cẩn đợi thánh thượng trừng
trị." Đế tự tay phê đáp thư rằng: "Ta coi biểu tấu, đã rõ được chân
tâm của khanh, là muốn vâng theo chiếu thư, lấy sự quyền biến mà hành sự, thực
đúng đắn vậy. Như thế là khanh vâng theo thành ý chiếu thư, sao lại phải tạ tội
nữa? Sau này Hoàng môn quan có qua, chớ được tiếp kiến." Chi giữ chức quan
mười một năm, mấy lần nghị bàn về những điều bất tiện của quy tắc và pháp chế.
Ở giữa chốn công khanh, cứ chiểu đạo lý mà thi hành. Gặp lúc các vương vào
chầu, Chi cùng với người khác ở kinh đô giao kết, bị bãi chức quan.
Về sau
Chi nhận chức Đại tư nông. Trước đó các thuộc hạ của Điển nông cùng quan lại và
thứ dân làm hỗn loạn việc buôn bán để mưu sinh, cầu lấy cái lợi. Chi tấu rằng:
"Phương pháp cai trị của bậc đế vương, là chuộng cái nghiệp cơ bản mà đè
nén nghề buôn, chuyên chú nghề nông trọng thị lương thực. Theo vương chế thì:
'Không có của cải tích trữ ba năm, quốc gia không phải là quốc gia vậy.' Quản
tử khu ngôn(3) cho rằng tích luỹ lương thực là việc cần kíp. Hiện nay hai kẻ
địch(4) chưa bị diệt, việc quân không ngừng nghỉ, cái thiết yếu của quốc gia,
chỉ ở lương thực và lụa vậy. Vũ hoàng đế đặc biệt đặt ra chức quan coi đồn
điền, chuyên chú vào việc nông tang. Năm Kiến An trung, kho đụn trong thiên hạ
sung túc đầy tràn, trăm họ nhà nhà giàu có đủ đầy. Từ năm Hoàng Sơ đến nay,
nghe nói các Điển nông tự mưu sinh, đều mưu tính cho thuộc hạ của mình, thật
không phải là điều thích hợp với đại thể quốc gia vậy. Bậc đế vương lấy bốn bể
làm nhà, đó là lý do mà kinh truyện nói rằng: 'Trăm họ chẳng giàu có, đức vua
giàu có với ai!' Giàu có là ở ruộng đất, ở cái chỗ chẳng mất thiên thời mà dùng
hết được cái sức của đất. Nay thương lữ kinh doanh mưu cầu cái lợi, tuy có được
cái lợi gấp bội một cách rõ ràng, nhưng về đại kế nhất thống, đó là cái tổn
thất không lường được, chẳng bằng khai khẩn thêm một mẫu ruộng để thu thêm lợi.
Người nông dân theo việc cấy cầy, từ tháng giêng gieo trồng, bừa đất làm cỏ hái
lá dâu, gắng sức đốt lửa khai hoang gieo mạ, phát cỏ san đất trồng lúa, tháng
mười mới xong. Rồi sửa sang kho đụn, làm xe đòn, chuyển nộp tô thuế, sửa sang
đường đất cầu cống, dùng bùn trát kín ngăn phòng ốc, thế là hết một năm, không
có ngày nào chẳng làm việc nhà nông vậy. Nay các quan Điển nông đều nói 'Người
ở lại làm ruộng kẻ ra ngoài buôn bán là cái kế căn bản của nghề nông, thu dụng
được hết các lực lượng, tình thế không thể không làm như vậy. Vừa chẳng để
hoang phế ruộng vườn, mà chúng ta không dư thừa lực lượng.' Thần ngu muội cho
rằng chẳng nên dùng lại việc buôn bán tạp nham làm nhiễu loạn nông nghiệp,
chuyên chú vào việc nông tang là điều cốt yếu, đó là cái kế làm lợi cho quốc
gia vậy." Minh đế nghe theo.
Mỗi khi
quan trên cho triệu kiến hỏi han, Chi thường hội kiến với Duyện sử trước, để
phán đoán nguyên cớ và ý tứ của quan trên, cứ theo hiện trạng mà đối đáp kín
kẽ, đều như những điều đã tính lúc trước. Chi bản tính thành thật chính trực, chẳng
kiêu căng khoe khoang phẩm giá. Lúc cùng với tân khách đàm luận, có lần chẳng
vừa ý, liền đối diện phê bình cái kém của họ, rồi lui về không nói gì khác nữa.
Chi chết khi đương chức, trong nhà không có tài sản thừa, những người nhận chức
Hà Nam
doãn từ khi nước Nguỵ kiến lập đến nay chưa có ai bằng được Chi.
Chi
chết, con là Kỳ nối tự, từ chức Hà Nam thừa chuyển sang chức Đình uý
chính, rồi thăng làm Trần Lưu tướng. Ở quận Lương có kẻ bị bắt làm tù phạm giam
trong ngục, có rất nhiều người liên quan án đó, mấy năm không xử được. Có chiếu
thư dời nhà ngục đến vùng thuộc huyện của Kỳ, huyện xin Kỳ chuẩn bị hình cụ ở
trong nhà ngục. Kỳ nói: "Nay tù phạm có mấy chục, đã cung từ xảo trá khó
lường, vả lại đã quá mỏi mệt về độc hình, tình trạng ấy dễ hiểu vậy. Há nên để
chúng ở mãi trong nhà ngục nữa!" Lúc Kỳ đến nhà tù, cật vấn xong xuôi,
tuyệt chẳng ai dám giấu diếm man trá gì, một buổi mà xử xong, vì thế được thăng
vượt cấp làm Đình uý. Thời ấy Đại tướng quân Tào Sảng chuyên quyền, bọn Thượng
thư Hà Yến, Đặng Dương làm vây cánh phụ tá. Người ở Nam Dương là Khuê Thái từng
dùng ngôn từ ngỗ ngược biểu thị ý kiến, bị bắt trói giam ở chỗ Đình uý. Dương
thẩm vấn tù phạm, sắp buộc Thái vào trọng hình. Kỳ trách Dương rằng:
"Người là đại thần cơ mật trọng yếu, phò tá cho vương thất, đã chẳng thể
giúp đỡ giáo hoá để hình thành đức chính, sánh với cái cao đẹp của cổ nhân, mà
lại buông thả lòng căm phẫn theo ý riêng của mình, xử oan cho người vô tội.
Khiến cho trăm họ ghê sợ trong lòng, chẳng phải là thế sao?" Dương vì thế
hổ thẹn giận dữ mà lui về. Kỳ e sợ rằng về sau sẽ bị bắt tội, liền xưng có bệnh
từ quan. Ở nhà chưa đến một năm thì chết, năm ấy ba mươi lăm tuổi. Con là Triệu
nối tự.
Triệu,
năm Thái Khang thời nhà Tấn làm Thứ sử Ký châu, Thượng thư, thấy nói ở Bách quan
chí (Bách quan danh).
NGỤY THƯ QUYỂN 13 - Chung Do Hoa Hâm Vương
Lãng truyện Chung Do, Hoa Hâm, Vương Lãng
CHUNG DO TRUYỆN
Chung Do
tự Nguyên Thường, người huyện Trưởng Xã quận Dĩnh Xuyên vậy. [1] Từng cùng cha
họ là Du cùng đến Lạc Dương, trên đường được người giúp, nói: "Đứa trẻ này
có tướng quý, nhưng bị khổ vì nước, phải gắng cận thận"! Đi chưa đến mười
dặm, qua cầu, ngựa sợ, rơi xuống nước suýt chết. Du ngẫm lời người giúp lúc
trước, càng quý Do, lại cung cấp tiền của, sai phải chăm học. Cử làm Hiếu liêm.
[2] Bổ làm Thượng thư lang, Âm Lăng Lệnh, lấy cớ bệnh xin bỏ. Từ chối Tam phủ,
làm Đình úy chính, Hoàng môn Thị lang. Bấy giờ, Hán Đế ở tại kinh sư miền tây,
bọn Lí Thôi, Quách Dĩ làm loạn trong thành Trường An, cắt dứt với miền Quan
Đông. Thái Tổ lĩnh chức Duyện Châu Mục, bắt đầu sai sứ dâng thư. [3] Bọn Thôi,
Dĩ cho rằng người miền Quan Đông muốn tự lập Thiên tử, nay Tào Tháo dẫu có lệnh
sai, không phải là thật vậy. Bàn giữ sứ giả của Thái Tổ lại, chống lại ý ấy. Do
khuyên bọn Thôi, Dĩ nói: "Nay anh hùng đang cùng nổi dậy, đều ra lệnh
chuyên chế, chỉ có Tào Duyện Châu là có lòng với nhà vua, mà làm trái ý tốt của
người ta thì không phải là điều mà người muốn đến giúp trông mong vậy".
Bọn Thôi, Dĩ theo lời Do, báo đáp nồng hậu, do đó lệnh sai của Thái Tổ mới được
thông. Thái Tổ đã nhiều lần nghe Tuân Úc khen Do, lại nghe nói Do khuyên bọn
Thôi, Dĩ như thế, càng thêm nghĩ đến. Sau đó Thôi hiếp Thiên tử, Do và Thượng
thư Hàn Bân cùng mưu tính. Thiên tử ra khỏi Trường An, Do có công vậy. Bái làm
Ngự sử Trung thừa, chuyển làm Thị trung Thượng thư Bộc xạ, lại xét công trước
phong làm Đông Vũ Đình Hầu.
[1] Tiên
hiền hành trạng viết: "Chung Hạo tự Quý Minh, hiền lành cẩn thận, học rộng
luật thơ, dạy hơn nghìn học trò, làm quan Công tào trong quận. Bấy giờ Thái
Khâu Trưởng là Trần Thực làm Tây Môn Đình trưởng, chỉ có Hạo rất kính trọng.
Thực ít hơn Hạo mười bảy tuổi, thường dùng lễ đối đãi người cùng chức phận. Lúc
từ quan ở phủ công, sắp đi, Thái thú hỏi nói: 'Ai thay được ông?' Hạo nói: 'Ông
phủ muốn có được người mình chọn thì Tây Môn Đình trưởng là dùng được'. Thực
nói: 'Ông Chung thường không có ý xét cử người khác, không biết sao chỉ biết
ta'? Hạo làm Tư đồ duyện, có việc công đi ra, trên đường gặp bùn lầy, người dẫn
đường ghét Hạo cầu cạnh, bỏ cách xa xe công, Hạo gắng tựa vào đòn xe nói: 'Ngày
nay quan Tư đồ chỉ làm một mình mà thôi'! Trở về lên gác, rung chuông cũng
không giúp, bèn lệnh họp các quan thuộc, Hạo dương tay cũng không ngoảnh theo.
Bấy giờ các quan thuộc trong phủ đều hạch tội mình xin ra ngoài, Hạo làm Tây
tào duyện, liền mở cửa phủ bố cáo cho bọn đã ra ngoài hiểu nói: 'Kẻ dưới không
thể nói thẳng với vua thì như quan Tư lệ coi việc nảy mực mà làm mất lễ với
quan Tể tướng, lại không được tin dùng, các ông cả đời còn dùng ở chỗ nào nữa'?
Các quan thuộc do đó đều thôi. Đô quan đến phủ Tây tào duyện, hỏi qua việc bỏ
phủ, Hạo mời Đô quan ra gặp các quan thuộc để cho họ hiểu, mới thôi. Trước sau
chín lần từ chối ba phủ, gọi chuyền làm Nam Hương, Lâm Lư Trưởng, không đến
nhận chức. Bầy giờ những kẻ quan trước đây trong quận được người trong nước
theo về, có Thương Ngô Thái thú người Định Lăng là Trần Trĩ Thúc, Lê Dương Lệnh
người Dĩnh Âm là Tuân Thục và Hạo. Thiếu phủ Lí Ưng thường trọng ba người này,
nói: 'Ông Tuân trong sạch hiểu biết nhưng khó làm nên, chỉ có ông Trần, ông
Chung đức cao là có thể làm thầy'. Cô của Ưng là vợ của em Hạo, sinh con là
Cận, cùng tuổi với Ưng, đều có tiếng tăm. Cận lại ham học theo người xưa, có
đức hạnh nhún nhường. Thuở còn nhỏ bé, cha Ưng là Thái úy Du nói: 'Cận giống tính
con nhà ta, nước có đạo thì không bỏ, nước không có đạo thì bị hình pháp bãi bỏ
vậy'. Lại đem em gái của Ưng gả cho Cận. Cận từ chối làm quan trong châu, chưa
từng chịu đến nhận chức. Ưng bảo Cận nói: 'Mạnh Kha cho rằng người ta không ưa
làm điều ác là không phải trong lòng người ta, đấy không phải người vậy. Vả lại
người ta há thường không có trắng đen sao'! Cận từng đem lời Ưng nói với Hạo,
Hạo nói: "Cha của Nguyên Lễ đang giữ chức, các quan lớn đang mạnh, cháu
của Hàn Công do đó mà được nhờ vậy. Quốc Vũ Tử ưa mời người có lỗi, cho rẳng
đấy là gốc của oán thù, ngày nay tựa như thời ấy! Giữ thân giữ nhà là đạo của
ngươi vậy'. Cận chết sớm, Ưng dẫu lập được công lao, chức chỉ đến hàng Khanh
tá, mà rút cuộc gặp họa tổn thân. Hạo lúc sáu mươi tuổi thì chết tại nhà. Hai
con Hạo là Địch, Phu, đều giữ người nhà không làm quan. Do là cháu của Địch
vậy".
[2] Hậu
Hán thư của Tạ Thừa viết: "Người quận Nam Dương là Âm Tu làm Dĩnh Xuyên
Thái thú, lấy người hiền chọn kẻ giỏi làm việc, chọn Ngũ quan duyện Trương Trọng
là người thẳng thắn, xét Công tào Chung Do, Chủ bạ Tuân Úc, Chủ kí duyện Trương
Lễ, Phú tào duyện Đỗ Hữu, Hiếu liêm Tuân Du, Kế lại Quách Đồ làm quan để làm
rạng rõ triều đình".
[3] Thế
ngữ viết: "Thái Tổ sai Tòng sự Vương Tất đến xin Thiên tử ban lệnh".
Bấy giờ
các tướng miền Quan Trung là bọn Mã Đằng, Hàn Toại đem quân mạnh tranh với
nhau. Thái Tổ đang theo việc ở miền Sơn Đông, cho rằng miền Quan Hữu đáng lo.
Bèn dâng biểu cử Do làm Thị trung giữ chức Tư lệ Hiệu úy, cầm cờ tiết trông coi
các quân miền Quan Trung, giao cho Do việc sau này, sai riêng không phải gò bó
theo phép chế. Do đến Trường An, gửi thư cho bọn Đằng, Toại, kể rõ họa phúc,
bọn Đằng, Toại đều sai con vào hầu. Thái Tổ ở tại Quan Độ chống nhau với Viên
Thiệu, Do đem hơn hai nghìn con ngựa cấp cho quân. Thái Tổ gửi thư cho Do nói:
"Lấy được ngựa mà ông gửi đến, rất hợp lúc nguy cấp. Miền Quan Hữu yên ổn,
triều đình không phải ngoảnh về mối lo ở miền tây là công của túc hạ vậy. Xưa
Tiêu Hà giữ vững miền Quan Trung, lương đủ cấp quân, cũng chỉ như ngươi".
Sau đó Thiền vu của Hung Nô làm loạn ở Bình Dương, Do đem các quân vây hắn,
chưa thắng; mà quan mà Viên Thượng đặt là Hà Đông Thái thú Quách Viện lại đến
quận Hà Đông, quân rất đông. Các tướng bàn muốn bỏ chỗ này đi, Do nói: "Họ
Viên đang mạnh, mà Viện đến thì người miền Quan Trung tất ngầm qua lại với hắn,
nay họ chưa phản hết cũng vì uy danh của ta thôi. Nếu bỏ chỗ này đi thì tỏ rõ
cái yếu trước họ, thì dân chỗ này ai chẳng cướp đoạt? Nếu ta muốn về, đến được
nữa sao! Đấy là chưa đánh mà thua trước vậy. Vả lại Viện cứng rắn ham thắng,
tất dễ cho quân ta, nếu vượt sông Phần làm trại, đến chỗ hắn chưa vượt sông mà
đánh, có thể thắng lớn vậy". Trương Kí khuyên Mã Đằng hội đánh Viện, Đằng
sai con là Siêu đem quân tinh nhuệ đón đánh. Viện đến, quả nhiên coi thường
vượt sông Phần, quân can ngăn, không theo. Vượt sông chưa quá nửa, Siêu đánh,
đại phá quân Viện, [4] chém Viện, bắt Thiền vu hàng. Lời tại truyện Trương Kí.
Sau đó người quận Hà Đông là Vệ Cố làm loạn, cùng bọn Trương Thịnh, Trương Diễm
và Cao Hàn đều cướp bóc, Do lại đem các tướng đánh phá chúng. [5] Từ lúc Thiên
tử dời đến phương tây, người Lạc Dương ít ỏi, Do dời dân miền Quan Trung đến,
lại thu nạp bọn trốn tránh phản loạn để đưa vào, trong mấy năm nhà dân dần dần
đông đủ. Thái Tổ đánh miền Quan Trung, lấy được đồ dùng, cử Do làm Tiền quân
sư.
[4]
Chiến lược của Tư Mã Bưu viết: "Viên Thượng sai Cao Hàn, Quách Viện đem
mấy vạn quân đến, cùng Thiền vu Hung Nô cướp quận Hà Đông, sai sứ đến mưu cùng
bọn Mã Đằng, Hàn Toại liên hòa, bọn Đằng ngầm hứa theo, Phó Hàn khuyên Đằng
nói: 'Người xưa có nói rằng: Người thuận đạo thì lành, trái đức thì chết. Tào
Công theo lệnh Thiên tử đánh kẻ bạo loạn, hình pháp rõ ràng, nhà nước sửa trị,
trên dưới nghe lệnh, có nghĩa tất thưởng, không có nghĩa tất phạt, có thể nói
là người thuận đạo vậy. Họ Viên làm trái lệnh vua, xua rợ Hồ vào lấn Trung
Quốc, dẫu rộng rãi nhưng lắm nghi ngờ, có lòng nhân mà không quyết đoán, quân
dẫu mạnh mà làm mất lòng thiên hạ, có thể nói là kẻ trái đức vậy. Nay Tướng
quân đã thờ người có đạo, nếu không đem hết sức mình, ngầm trông hai bên, muốn
ngồi xem được thua, ta sợ rằng được thua đã định thì bị lời trách tội, Tướng
quân là người bị trách tội trước vậy'. Do đó Đằng sợ. Hàn nói: 'Người có trí
thì chuyển họa thành phúc. Nay Tào Công tranh với Viên Thiệu, mà Cao Hàn, Quách
Viện chỉ giữ được quận Hà Đông, Tào Công dẫu có kế vạn toàn cũng không thể ngăn
được quận Hà Đông không bị nguy cấp vậy. Tướng quân nên dẫn quân đánh Viện,
trong ngoài đánh hắn, thế quân ta tất nổi. Tướng quân đánh một trận là cắt đứt
cánh tay của họ Viên, giải nguy cho một vùng. Tào Công tất kính trọng Tướng
quân, công lao của Tướng quân dẫu thẻ trúc dải lụa cũng không thể chép hết. Xin
Tướng quân xét lời này'! Đằng nói: 'Xin theo lời dạy'. Do đó sai con là Siêu đem
hơn vạn quân tinh nhuệ, lại đem quân của bọn Toại cùng Do hội đánh bọn Viện,
đại phá quân Viện".
[5] Ngụy
lược viết: "Chiếu gọi Hà Đông Thái thú Vương Ấp, Ấp vì thiên hạ chưa định,
lòng không muốn được gọi đến, mà quan dân cũng vương vấn Ấp, bọn quan thuộc
trong quận là Vệ Cố cùng Trung lang tướng Phạm Tiên đều đến chỗ Do cầu xin cho
Ấp. Lại có chiếu đã bái Đỗ Kì làm Thái thú, Kì đã vào quận. Do không nghe lời
bọn Tiên, dục Ấp trao ấn phù. Ấp đeo ấn thao, đi tắt từ miền Hà Bắc đến đất Hứa
mà về. Bấy giờ Do ở tại Lạc Dương, tự cho rằng uy cấm bị mất phép trông coi,
bèn dâng thư tự hạch tội mình nói: 'Thần lúc trước dâng thư nói là Trấn bắc
Tướng quân lĩnh chức Hà Đông Thái thú tước An Dương Đình Hầu Vương Ấp ngày
trước khéo bác bỏ việc thống trị, làm trái việc công, việc nên hạch tội, xét rõ
đúng sai. Nhận chiếu thư đòi hỏi. Đã xét đúng tội rồi, lại được tha thứ. Thần
lại nói rằng quan dân lớn nhỏ đều ngoảnh mặt trông mong, nói là Ấp nên về chống
Thái thú Đỗ Kì, nay lại đều hối tiếc, cùng đón Kì nhận chức. Xét kĩ lời văn,
thần cho là sáo rỗng, được mời cất nhắc vào hầu gần vua, xét thao phép tắc là
nên kính nhận chức vụ, trông coi miền xa. Đã không có đức thẳng để ban ơn cho
muôn dân, lại không có uy cao để xét kẻ không cung kính, sứ giả đến mà Ấp làm
trái chiếu thư, quan thuộc trong quận là Vệ Cố bức ép quan dân, dùng lời kêu
kiện, rải khắp đường trạm, làm mất lễ nghi, không theo lệnh vua. Nay dẫu đã hối
tiếc nhưng tiếng xấu còn lưu, đấy đều là vì Do dùng hình pháp không nghiêm.
Thần lại bệnh tật, qua năm trước sau, sức khỏe càng yếu, không làm hết sức mà
hưởng lộc dày, ngày dài nhận chức, tội rõ đáng phạt. Xét kĩ Thị trung giữ chức
Tư lệ Hiệu úy, tước Đông Vũ Đình Hầu thần là Chung Do, may nhờ ân lớn, dùng cái
tài nhỏ lẻ mà vẫn được cất nhắc, theo làm người gần gũi, mang lệnh trông coi.
Biết rõ chiếu thư lo lắng các trưởng lại làm việc yếu kém, vậy mà xét kẻ dưới
không đúng tội, bệnh lâu ngày lắng đọng, chức phận hư hỏng, hình pháp không
làm. Ấp dẫu trái việc, nên theo hình pháp đúng đắn, đã gửi văn thư hạch tội
không hợp lí, dẫn đến làm cho Ấp phải đi xa đến cửa khuyết. Làm lỡ lệnh vua,
làm hại đến nanh vuốt. Mà Cố bức ép quan dân, chống Kì hơn tháng. Nay đã hối
tiếc, phạm pháp làm lỡ chính sự, trong cõi giận dữ, tội cũng vì Do dùng hình
pháp tối tăm. Lại nữa Do bệnh lâu, không đáng giữ chức này nữa, không phải Do
là đại thần nên làm chức này. Do khinh thường phép tắc, không sợ chiếu lệnh,
không cùng lòng với nhà nước, làm bầy tôi không dốc lòng trung, không sợ hãi
cái gì, thật là không cung kính. Lại không vâng theo chiếu thư, vâng chiếu lại
không cẩn thận. Lại che lấp sự sáng suốt của các quan thuộc cấp dưới. Liền đem
văn thư theo lời bàn của Công tào Tòng sự Mã Thích đến, xin bỏ mũ đi chân trần,
nép mình chịu tội'. Hạ chiếu không nghe".
Nước
Ngụy mới dựng, làm Đại lí, chuyển làm Tướng quốc. Văn Đế ở tại Đông Cung, ban
chõ ngũ thục cho Do, khắc chữ lên đó là: "Lẫy lừng ở Ngụy, làm tôi giúp
Hán, ấy Chung Tướng quốc, thực là tim bụng, ngày đêm cung kính, chẳng khi nào
yên, làm thầy trăm quan, khuôn mẫu phép tắc". [6] Được mấy năm, vì liên
lụy với việc Tây tào duyện Ngụy Phúng mưu phản, hạ chiếu bãi quan. [7] Văn Đế
lên ngôi Vương, lại làm Đại lí. Đến lúc lên ngôi vị, đổi làm Đình úy, tiến
phong Sùng Cao Hương Hầu. Chuyển làm Thái úy. Bấy giờ cùng Tư đồ Hoa Hâm, Tư
không Vương Lãng đều là danh thần đời trước. Văn Đế bãi chầu, bảo tả hữu nói:
"Ba ông này là người lớn của một thời, người đời sau khó mà theo kịp
vậy"! [8] Minh Đế lên ngôi vị, tiến phong làm Định Lăng Hầu, tặng thêm ấp
có năm trăm năm trăm hộ, cùng một nghìn tám trăm hộ trước kia, chuyển làm Thái
phó. Do có bệnh đầu gối, đứng bái không tiện. Bấy giờ Hoa Hâm cũng tuổi cao
bệnh tật, chầu gặp đều dùng xe kiệu chở, quân hổ bôn khiêng lên điện rồi ngồi.
Từ đó Tam công có bệnh bèn theo việc cũ này.
[6] Ngụy
lược viết: "Do làm Tướng quốc, đem khuôn đúc đỉnh chõ ngũ thục cho Thái tử
đúc nên, chõ thành, Thái tử gửi thư cho Do nói: 'Xưa có ba cái vạc của Hoàng
Đế, có chín vật bảo của nhà Chu, đều lấy một cái đựng món ăn, năm món ăn sao
ngon bằng chõ này? Nấu chín món ăn trong cái vạc là để cúng tế Thượng Đế, để
nuôi bậc thánh hiền, làm rõ đức xin phúc, không phải vì cái đẹp của nó. Cho nên
không phải là người hiền thì không ai làm được; cho nên không có vật này thì
chẳng ai có đức dày. Cái chõ đẹp thời nay, lại càng thêm đẹp. Thi Thần nhà Chu,
Khảo Phụ của nước Tống, Khổng Khôi của nước Vệ, Ngụy Khỏa của nước Tấn, đấy là
bốn bầy tôi đều có công đức được khắc trên chuông vạc. Nay giữ việc coi xét
nước Đại Ngụy để truyền giáo hóa thánh hiền, đức hạnh lớn lớn, nước ấy đầy
nhiều. Thực là điều mà quan Thái thường nên ghi lại, là cái chén đựng đồ tế nên
khắc lên. Cho nên khắc chữ lên đấy, ghi lại ở miệng chõ để khen ngợi cái tốt
đẹp, khiến cho không mục". Thần Tùng Chi xét Hán thư Giao tự chí viết:
"Thời Hiếu Tuyên Đế, người huyện Mĩ Dương đào được cái vạc, Kinh Triệu
Doãn Trương Xưởng dâng lời bàn nói: 'Xét vạc có khắc văn nói là: 'Vương lệnh
cho Thi thần làm quan ở Tuần Ấp này. ban cờ chuông, qua ngọc, áo thêu cho
ngươi. Thi thần chắp tay cúi đầu nói: 'Dám không theo Thiên tử để tỏ rõ lệnh
tốt sao'. Đấy là cái mà nhà Chu khen tặng cho
đại thần, con cháu của đại thần khắc ghi công lao của tổ tiên, cất nó ở miếu
quan vậy'". Văn khắc Khảo Phụ thấy ở Tả thị truyện, văn khắc Khổng Khôi
thấy ở Lễ kí, việc này rõ nên không chép. Quốc ngữ viết: "Trận đánh thắng
nước Lộ ngày xưa, quân Tần đến mưu đánh bại nguời Tấn, Ngụy Khỏa đem thân mình
đuổi quân Tần ở ấp Phụ Thị, tự thân ngăn được Đỗ Hồi; công lao được khắc ghi
trên chuông của Cảnh Công, đến ngày nay không truyền cho dòng dõi, con cháu
không thể không hưng vậy". Đấy là bốn người mà Thái tử nói đến. Ngụy lược
viết: "Sau Thái Tổ đánh quận Hán Trung, Thái tử ở tại bến Mạnh Tân, nghe
nói Do có ngọc quyết, muốn lấy để nói can ngăn Tào Công. Ngầm sai sai Lâm Truy
Hầu sai người đến khuyên Do. Do liền đưa ngọc quyết đến. Thái tử gửi thư cho Do
nói: 'Ngọc để sánh với đức của quân tử, cho người làm thơ thêm đẹp. Ngọc thùy
cức của nước Tấn, ngọc hưng phan của nước Lỗ, ngọc kết lục của Tống, ngọc hòa
phác của nước Sở, giá hơn nghìn vàng, quý trọng như đô thành, có tiếng từ xưa,
còn tiếng đến mai sau. Cho nên ngọc thùy cức có ở nước Tấn thì bắt được vua hai
nước Ngu, Quắc; ngọc hòa bích vào nước Tần thì Tương Như giữ khí tiết. Trộm
thấy sách ngọc đúng là ngọc đẹp trắng như cắt mỡ, ngọc đen thì như sơn bóng,
ngọc đỏ thì như mào gà, màu vàng thì như lúa chín. Lại nghe nói về ngọc, nhưng
chưa thấy hình. Dẫu đức không phải quân tử, nghĩa không bằng người làm thơ, đức
hạnh núi cao là chỗ ngưỡng mộ. Nhưng bốn vật bảo ở xa, từ thời Tần, Hán chưa
nghe nói có cái tốt. Cho nên tìm nó nhiều năm, chưa gặp được cái thật, muốn có
riêng nhưng không được, đói khát chẳng màng. Gần đây được người quận Nam Dương
là Tông Huệ Thúc nói ông trước đây có ngọc quyết. Nghe nói mà mừng rỡ, cười
cùng vỗ tay. Nay tự gửi thư đến nói, sợ lời nói chưa xét, cho nên lệnh em trong
phủ là Tử Kiến nhờ Tuân Trọng Mậu đưa thư này đến cõi biên. Lại không nỡ lấy,
được thấy thư đến, liền từ đất Nghiệp cưỡi ngựa đến. Ngọc quyết vừa đến, bưng
đặt vào cái tráp, sáng rõ lóa mắt. Thẹn vì thân mình thô lậu mà được thấy vật
bảo hiếm có trên đời, không phiền phải đi sứ một lần, không mất cái giá đi khắp
các thành vậy, đã thấy được Chương Đài của Tần Chiêu Vương, lại không tiếc vì
dùng lời nói dối mà lấy được, vật đẹp thêm nhiều, dám không nhận lấy'! Do đáp
thư nói: 'Ngày trước kính nhận chức cùng được ban ngọc quyết, nay đã già cả,
vẫn biết vật cũ. Tên nó là phù thái, tất về chỗ của nó. Cho rằng nắm việc có
vật bảo này, cho nên bị coi thường, dùng chưa dâng nạp. May có ý muốn đeo, thực
là vui mừng. Vào thời họ Hòa ngày xưa, ân cần trung hậu, cho nên Do đợi lệnh,
vẫn mang lòng thẹn'".
[7] Ngụy
lược viết: "Tôn Quyền xưng thần, chém đưa đầu Quan Vũ đến, Thái tử gửi thư
cho Do, Do đáp thư nói: 'Người cùng quận với thần là Tư không Tuân Sảng ngày
trước nói rằng người ta nên theo tình lí, người yêu ta thế mà yêu được! Người
ghét ta thế mà ghét! Nghĩ về Tôn Quyền, lại đã tốt đẹp'. Thái tử lại gửi thư
nói: 'Được thư, biết miền nam có việc vui. Đến như lời bàn hay của Tuân Công về
cái tốt đẹp của Tôn Quyền, cầm thư mà cười vui, không thể rời tay. Nếu Quyền
lại sáng suốt, nên dùng lời bàn nguyệt đán của Hứa Thiệu để bắt bí. Quyền dạo
chơi hai nước, trông mong vào Tuân, Hứa cũng đã đủ rồi'".
[8] Dị
lâm của họ Lục viết: "Do có lúc mấy tháng không hội chầu, ý nghĩ khác
thường, có người hỏi nguyên nhân, nói: 'Thường có người đàn bà đến, xinh đẹp
khác thường'. Người hỏi nói: 'Tất là vật quỷ, nên giết đi'. Sau người đàn bà
lại đến, không như trước nữa, đứng ở ngoài cửa. Do hỏi vì sao, nói: 'Ông có ý
giết ta'. Do nói: 'Không đâu'. Lại ân cần mời, mới vào. Ý Do tiếc, có lòng
không nỡ giết, nhưng vẫn đánh người đàn bà ấy thương ở đùi. Người đàn bà liền
đi ra, lấy bông mềm lau máu suốt đường. Ngày sau sai người đi tìm dấu vết, đến
một ngôi mộ lớn, trong cây có một người đàn bà đẹp, hình dáng như người sống,
mặc áo lụa trắng, áo cánh gấm đỏ, bị thương ở đùi trái, lấy bông trong áo cánh
lau máu. Chú ta là Thanh Hà Thái thú nói như thế. Thanh Hà là họ Lục nói
vậy".
Trước
đây, Thái Tổ hạ lệnh sai bàn kẻ bị tội chết nên xử cắt xẻo không. Do cho rằng:
"Xử tội xẻo thịt thời xưa, thánh nhân đã nói, nên dùng trở lại để thay cho
tội chết". Người bàn cho rằng không phải là cái đạo làm cho dân vui, bèn
thôi. Đến lúc Văn Đế ban thưởng bầy tôi, chiếu nói: "Đại lí muốn lập lại
tội xẻo thịt, đấy thật là hình pháp của thánh nhân. Các công khanh nên cùng bàn
xem". Bàn chưa xong, vừa lúc có việc quân, lại thôi. Giữa năm Thái Hòa, Do
dâng sớ nói: "Đại Ngụy nhận lệnh, nối dõi Ngu, Hạ. Hiếu Văn Để thay hình
pháp, không hợp đạo xưa. Tiên Đế đức cao cho nên được trời giúp, dựng nên điển
chế, chỉ thông suốt một phần. Cho nên đời sau vẫn nên sửa mới, nghĩ lập phép
xưa, thành phép thời nay. Nhiều năm dùng quân, vẫn chưa được dùng. Bệ hạ suy
nghĩ ý của hai Tiên đế, chỉ chém chân để có thể cấm làm ác, ghét bắt người
không có tội phải chết, khiến cho luật hình được làm rõ, cùng bầy tôi bàn bạc.
Trước đây người đáng chặt chân phải là bị xét vào tội chết, nên lập lại tội
này. Kinh Thư viết: 'Hoàng Đế xét hỏi dân chúng, người góa bụa xét tội người
Miêu'. Đấy là nói vua Nghiêu nên đánh dẹp Xi Vưu, cái tội của người Miêu, trước
đã được người bàn trong dân chúng xét hỏi vậy. Như việc bắt vào ngục thời nay,
đến hỏi các quan Tam hòe, Cửu cức, bầy tôi, muôn dân, đều nói dùng hình pháp
thời Hiếu Cảnh Đế, kẻ có tội phải nên vứt ở chợ, muốn chém chân phải thì ưng
cho. Kẻ bị tội thích chữ, cắt mũi, chém chân trái, thiến, cũng như hình pháp
của thời Hiếu Văn Đế, tội nhẹ thì cắt tóc, đánh đòn. Kẻ phạm pháp thường từ hai
mươi tuổi đến bốn, năm mươi tuổi, dẫu chém chân của chúng thì vẫn được nuôi
sống. Nay người phạm pháp trong thiên hạ ít hơn thời Hiếu Văn Đế, tính ra mỗi
năm cả thảy có ba nghìn người. Trương Thương bỏ xử xẻo thịt cho nên mỗi năm
phải giết đến vạn người. Thần muốn lập lại tội xẻo thịt để mỗi năm cứu sống ba nghìn
người. Tử Cống hỏi rằng có thể giúp dân thế nào để được gọi là có lòng nhân?
Khổng Tử nói: 'Sao phải chỉ ở lòng nhân, vậy cũng là thánh sao, như vua Nghiêu,
vua Thuấn vẫn có chỗ kém đấy'! Lại nói: 'Lòng nhân xa sao? Ta muốn lòng nhân,
lòng nhân đến vậy'. Nếu làm theo lòng nhân, dân sẽ yên mãi". Thư tấu xong,
hạ chiếu nói: "Thái phó học rộng tài cao, dốc lòng coi việc, lại xét hình
pháp sâu xa. Việc lớn này, nên cùng công khanh trăm quan bàn bạc". Tư đồ
Vương Lãng bàn cho rằng: "Do muốn dễ giảm các tội chết để tăng thêm hình
phạt chặt đứt chân, đấy là ngồi nằm mà dựng lên, hóa thay chết thành người sống
vậy. Theo ý ngu của thần, vẫn chưa họp ý nhỏ khác. Năm cách xử tội đã ghi vào
hình luật, tự nó có cách giảm một bậc tội chết rồi, không xử chết thì giảm.
Dùng được đã lâu, không đợi phải mượn búa đục xa xôi ở hình pháp xẻo thịt, sau
đó có các bậc tội vậy. Người có lòng nhân thời trước không nỡ dùng cách xử xẻo
thịt đau đớn, cho nên bỏ mà không dùng. Từng dùng đến nay, đã qua mấy trăm năm.
Nay lại dùng nó, sợ rằng giảm hình pháp chưa thành văn trong mắt muôn dân thì
lời xét hỏi về tội xẻo thịt đã lan ra trước rồi, đấy không phải là cách kêu gọi
người xa đến vậy. Nay xét cái mà Do muốn giảm bớt tội chết, khiến cho giảm tội
chết bằng các tội cắt tóc, chặt chân, e rằng là dễ dãi, quay lại với nhiều năm
soạn lập. Trong dẫu có ân cho sống thay chết không kể hết, nhưng ngoài không có
tiếng chặt chân thay cho tiếng gào sợ thôi". Hơn trăm người bàn, phần
nhiều giống với Lãng. Đế cho là Ngô, Thục chưa bình, lại thôi. [9]
[9] Viên
Hoành nói: "Lòng dân vui cả thì không thể vẹn cả, đấy là vật dùng có lợi
thì treo ở ngoài mà lòng ham muốn động ở trong vậy. Cho nên có hành động tranh
giành đến lấy, mong tìm việc dễ dãi. Đến lấy không thôi, không đủ được lòng ham
muốn, là cái lòng tìm cầu may mắn sinh ra thế. Mong tìm cái không may, không
phải là cái mà người ta muốn, là cái tính gian trá giận dữ gây nên vậy. Các bậc
Đế Vương ngày trước biết như thế, nếu muốn dẹp cái xấu, có người phải dùng đức
hóa trước để dạy bảo lòng chúng; nếu lòng chúng không đổi thì mới dùng hình
phạt. Kinh Thư viết: 'Trăm họ không thân, năm đức không được kính, ngươi phải
giữ chức Tư đồ để sửa sang năm lễ nghi. Người Man Di phạm người Hạ, làm ác gây
oán, ngươi phải làm kẻ sĩ, dùng năm loại hình phạt'. Vậy thì có đức, đặt hình
phạt, xem xét mà dùng được. Thời Tam đại thay nhau, nghĩa đã rõ rồi. Chu lễ viết: 'Kẻ bị thích chữ thì sai giữ cửa, kẻ bị cắt
mũi thì giữ ải, kẻ bị thiến thì giữ trong cung, kẻ bị chặt chân thì giữ vườn'.
Phép dùng xử xẻo thịt có thể bàn vậy. Tuân Khanh cũng nói rằng kẻ giết người
thì xử chết, kẻ làm thương người thì xử phạt. Là phép giống nhau Đế Vương xưa
nay, chưa biết nó có thời nào. Kẻ giết người thì xử chết, mà kẻ giết nhau thì
không, tội chết có thể phạt không giết, không thể khiến cho thiên hạ không giết
vậy. Kẻ làm thương người thì phạt, kẻ làm hại muôn vật không ngừng, là đáng tội
thích chữ, cắt mũi, nếu sợ thì không phạt, nếu thả ra mà không đổi thì bắt xử
chết. Cho nên làm ra hình pháp ở tại vùng thay đổi được. Lễ giáo thì không
phải, làm rõ thiện ác, cho nên có ý ngầm khuyến khích, cốt ở việc chưa giết
vậy; làm rõ cái nhục nhã là để khiến cho lòng chúng thấy thẹn, trị tội cốt ở
việc chưa làm bị thương vậy. Cho nên lỗi nhỏ thì không cần ghi vào, tội nhẹ thì
không cần xử phạt. Kẻ bị xét tội chết là không thể dùng giáo hóa được nữa, cho
nên dẫu giết một người sống, xử phạt một người nhưng là trừ cái hại của thiên
hạ, há có tổn hại sao! Nếu theo cái đạo này thì phong hóa mới dần dần tốt được,
hình phạt mới dần dần ít, lí lẽ đúng thế. Nếu không thay được ý của chúng lại
dùng hình phạt, dân làm mất tiết nghĩa, rơi vào võng hình lưới phạt, làm cho
đời yên ổn, há làm được sao? Vua Thành, Khang của nhà Chu
há dựa vào hình pháp ba nghìn chữ mà làm đẹp cái hình pháp lầm lẫn sao? Cho nên
đức hóa dần dần đổ vỡ, dẫn đến như thế cũng có nguyên nhân vậy. Đầu thời Hán bỏ
cái xấu của hình phạt tàn khốc, dùng hình pháp nới lỏng, các công khanh đại phu
được cùng nhau nói chửi cái lỗi của người khác. Văn Đế lên ngôi, lại thêm hình
phạt thích mực đen. Trương Vũ nhận hối lộ,
ban vàng
để làm hắn biết thẹn; Ngô Vương không thần phục, dùng lễ để răn bảo cái lỗi của
hắn. Cho nên quan dân vui vẻ theo nghiệp của mình, phong hóa chất phác, dứt
hình ngục bốn trăm năm. Những kẻ sau khi được tha chết, không quá năm năm, đã
cởi gông cùm, lại được người đời bàn khen. Cho nên dân không cho làm ác là thẹn
thì nhiều dối cướp, do đó bọn phạm cấm càng nhiều mà loạn lại không dẹp được
vậy. Nếu kẻ nào bỏ lễ giáo, phạt đúng tội đó, làm sai một điều cũng bị đao
chém, bị diệt thân không được sống đến già, người xunh quanh vẫn chửi rủa kẻ
đó, huống chi là người cùng làng ấp? Huống chi là triều đình? Nếu thế thì bọn
Túc Sa, Triệu Cao không làm được điều ác của chúng vậy. Người xưa xét lời nói,
xem việc làm mà kể rõ thiện ác. Vậy thì phép tắc của quân tử là dùng hình phạt
xử chết đã có từ lâu rồi. Nếu chẳng may lỗi lầm thì tám lần bàn mới tha thứ
vậy. Như nỗi oan của Biện Hòa, Thái sử Tư Mã Thiên là do hình pháp lỗi lầm dẫn
đến vậy. Nếu bỏ đạo ấy thì không bỏ được hình phạt nặng nề, huống chi là hình
phạt xẻo thịt? Hán thư viết: 'Phạt chém chân trái và giết chết phải tự báo
trước, quan lại phạm tội nhận hối lộ, giữ của công mà trộm lấy nó thì đều vứt ở
chợ'. Đấy là Ban Cố nói về kẻ đáng sống mà chuố lấy cái chết vậy. Nay không nỡ
làm cái thảm khốc của việc khắc chém, lại làm yên dịu cái đau đớn của việc giết
chóc, đấy là việc sửa trị trước tiên nên làm, cũng là cái mà nhà nước nên thay
đổi vậy".
Năm Thái
Hòa thứ tư, Do hoăng. Đế mặc áo trắng đến điếu, đặt thụy là Thành Hầu. [10] Con
là Dục thay. Trước đây, Văn Đế phân ấp hộ cho Dục, phong em Dục là Diễn và con
là Thiệu, cháu là Dự làm Liệt hầu.
[10]
Ngụy thư viết: "Quan Hữu ti bàn đặt thụy, cho rằng Do trước kia làm Đình
úy, giảng giải hình pháp, làm rõ nghi ngờ, dân không than oán, như Vu, Trương ở
thời Hán vậy. Chiếu nói: 'Thái phó công cao đức dày, làm đến Sư, Bảo, bàn nên
tặng thụy, thường dựa vào đấy trước, đức sánh với Đình úy Vu, Trương'. Bèn tặng
thụy là Thành Hầu".
Dục tự
Trĩ Thúc. Mười bốn tuổi làm Tán kị Thị lang, nói cười nhanh nhẹn, có phong độ
của cha. Đầu năm Thái Hòa, Thừa tướng của Thục là Gia Cát Lượng vây huyện Kì
Sơn. Minh Đế muốn đánh phương tây, Dục dâng sớ nói: "Bày kế cốt ở chỗ
triều đình, đánh trận cốt ở chỗ màn trướng, không nên hạ thấp cái oai trên của
cung điện mà cố ham thắng ở ngoài chỗ nghìn dặm, xe vua nên giữ gìn ở Trung
Quốc để làm thế oai cứu giúp bốn phương. Nay đại quân đánh phương tây, dẫu có
cái oai gấp đôi, nhưng cái tốn phí của miền Quan Trung không phải chỉ có một
phần. Vả lại đang buổi nắng to mà đem quân đi, người đi thêm mệt, thực không
phải là lúc bậc tôn quý ngồi xe đi vậy". Chuyển làm Hoàng môn Thị lang.
Bấy giờ dựng cung thất lớn ở Lạc Dương, xe vua lại đến ở thành Hứa Xương, thiên
hạ phải về chầu ở thành Hứa Xương. Mà thành Hứa Xương chật hẹp, bèn dựng điện
da len ở phía nam thành, sắp đặt đủ cá rồng liên tiếp, dân mệt vì lao dịch. Do
can, cho rằng: "Nước cạn cũng có lúc, kho tàng trống rỗng, nếu đều như
thế, phải chờ năm đầy đủ". Lại dâng sớ nói: "Nên lập lại việc mở mang
đất hoang miền Quan Nội, khiến cho dân được gắng sức làm nông". Việc bèn
được làm. Giữa năm Chính Thủy, làm Tán kị Thị lang Thường thị. Đại Tướng quân
Tào Sảng lúc giữa mùa hạ đem quân đánh Thục, quân Thục chống giữ, quân không đi
được. Sảng đang muốn thêm quân, Do gửi thư nói: "Trộm nghĩ rằng, bày kế ở
triều đình thì không cần đến tên đạn; quân của Đế vương đi mà không cần đánh.
Cho nên dùng can qua để chinh phục người Miêu, lui chân về để gthu nạp tướng
giặc, không nên phải như Ngô Hán đến ở cửa Giang Quan, đuổi Hàn Tín ở đấy Tỉnh
Hình vậy. Thấy được thì đi, biết khó thì lui là phép tắc thời xưa. Mong ông
hiểu rõ"! Sảng không có công mà về. Sau vì trái ý Sảng, chuyển chức Thị
trung, ra làm Ngụy Quận Thái thú. Sảng đã bị giết, vào làm Ngự sử Trung thừa,
Thị trung Đình úy. Mặc cho cha, vua đã chết thì con, tôi vẫn được nói lời chê
bai, được nối làm tước Hầu thì vợ của mình không được lấy chồng nữa, đấy là
việc mà Do làm trước vậy.
Giữa năm
Chính Nguyên, Vô Khâu Kiệm, Văn Khâm phản, Dục cầm cờ tiết đến miền Dương Châu,
Dự Châu ban bố chiếu lệnh, khuyên dụ quân dân, trở về làm Thượng thư. Gia Cát
Đản phản, Đại Tướng quân Tư Mã Văn Vương bàn tự đến huyện Thọ Xuân đánh Đản.
Gặp lúc Đại tướng của Ngô là Tôn Nhất đem quân đến hàng, có kẻ cho rằng:
"Nước Ngô mới có người phản, tất không thể đem quân đi. Quân miền đông đã
nhiều, nên xét hỏi kĩ". Dục cho rằng: "Bàn việc đánh địch, nên lấy ta
mà xét người. Nay Đản đem đất Hoài Nam dâng cho nước Ngô, mà quân mà
Tôn Nhất dẫn đi không đến nghìn người, nay không quá ba trăm người. Quân mà
nước Ngô làm mấ không có bao nhiêu. Nếu chưa giải vây cho huyện Thọ Xuân thì
trong nước Ngô chuyển thành yên, không nên không đi vậy". Đại Tướng quân
nói: "Hay". Bèn đem Dục đi. [11] Đất Hoài Nam đã bình, làm Thanh Châu Thứ sử,
thêm chức Hậu Tướng quân, chuyển làm Đô đốc Từ Châu chư quân sự, Giả tiết, lại
chuyển làm Đô đốc Kinh Châu. Năm Cảnh Nguyên thứ tư, hoăng, truy tặng chức Xa
kị Tướng quân, thụy là Huệ Hầu. Con là Tuấn thay. Em Dục là Hội, tự có truyện
viết.
[11]
Thần Tùng Chi cho rằng Gia Cát Đản đem đất Hoài Nam dâng cho Ngô, Tôn Nhất đem
ba trăm người đến hàng Ngụy, nói là Ngô có phản, lời này không có lí. Lời bàn
của Dục, há đủ hay sao!
HOA HÂM TRUYỆN
Hoa Hâm
tự Tử Ngư, người huyện Cao Đường quận Bình Nguyên. Cao Đường là nơi đô hội nổi
tiếng của đất Tề, các đồ mũ áo không có cái gì là không có trong chợ. Hâm làm
quan, xong việc công lại ra phủ về nhà đóng cửa lại. Bàn luận giữ công bằng,
không làm tổn thương người khác. [12] Người cùng quận là Đào Khâu Hồng cũng
được người đời biết đến, tự cho rằng mình sáng suốt hơn Hâm. Bấy giờ Vương Phân
cùng bọn hào kiệt mưu bỏ Hiến Đế. Lời này chép tại Vũ Đế kỉ. [13] Phân ngầm gọi
Hâm, Hồng cùng đặt kế, Hồng muốn đi, Hâm ngăn Hồng nói: "Bỏ hay lập là
việc lớn, là cái mà Y, Hoắc cho là khó làm. Vả lại tính Phân mềm yếu không được
mạnh mẽ, việc này tất chẳng xong mà họa sẽ ập đến họ hàng. Ông đừng nên
đến"! Hồng nghe lời Hâm mà thôi. Sau này Phân quả đúng thua, Hồng mới chịu
phục. Cử làm Hiếu liêm, làm chức Lang trung, có bệnh, bỏ chức. Linh Đế băng, Hà
Tiến phụ chính, gọi người quận Hà Nam là Trịnh Thái, người quận Dĩnh
Xuyên là Tuân Du và bọn Hâm đến. Hâm đến, làm Thượng thư lang. Đổng Trác dời
Thiên tử đến ở Trường An, Hâm xin ra làm Hạ Khuê Lệnh, có bệnh lại không đi,
bèn từ huyện Lam Điền đến quận Nam Dương. [14] Bấy giờ Viên Thuật ở tại đất
Nhưỡng, giữ Hâm lại. Hâm khuyên Thuật đem quân đánh Trác, Thuật không nghe
theo. Hâm muốn bỏ đi, gặp lúc Thiên tử sai Thái phó Mã Nhật Đê đi vỗ về vùng
Quan Đông, Nhật Đê cho Hâm làm quan Duyện. Đi về miền đông đến Từ Châu, rồi hạ
chiếu bái Hâm làm Dự Chương Thái thú, làm việc trong sạch không phiền nhiễu,
quan dân cảm kích mà yêu mến Hâm. [15] Tôn Sách lấy đất Giang Đông, Hâm biết
Sách giỏi dùng binh, bèn buộc khăn chờ đón. Sách cho Hâm là bậc trên, dùng lễ
khách trên đãi Hâm. [16] Sau đó Sách chết. Thái Tổ ở tại Quan Độ, dâng biểu xin
Thiên tử gọi Hâm. Tôn Quyền không muốn sai đi, Hâm bảo Quyền nói: "Tướng
quân nhận lệnh vua, mới giao kết với Tào Công, chức phận chưa vững, sai kẻ hèn
này đến để tỏ rõ làm lòng thành của Tướng quân, há không có ích sao? Nay giữ kẻ
hèn này lại rỗi rãi, đấy là giữa một vật không dùng được, không phải là kế hay
của Tướng quân vậy"! Quyền ưng, bèn sai Hâm đi. Bọn bạn bè, tân khách tiễn
Hâm đến hơn nghìn người, tặng cho mấy trăm lạng tiền, Hâm đều không cầm lấy của
ai, ngầm đều ghi nhớ, đến lúc sắp đi, đều tụ các vật lại, bảo các tân khách
nói: "Ta vốn không từ chối lòng thành của các ông, mà nhận lại nhiều. Nghĩ
rằng ngồi xe một mình đi xa sẽ mang lấy tội lấy nhiều ngọc, mong tân khách nghĩ
kĩ". Mọi người đều giữ vật mà mình tặng lại mà phục đức của Hâm.
[12]
Ngụy lược viết: "Hâm cùng người quận Bắc Hải là Bính Nguyên, Quản Ninh đều
du học, ba người thân nhau, bấy giờ người đời gọi ba người là 'một con rồng',
Hâm là đầu rồng, Nguyên là bụng rồng, Ninh là đuôi rồng". Thần là Tùng Chi
cho rằng: Bính Căn Củ có tiếng tốt đạo hay, không phải thẹn với Hoa Công, Quản
Ấu An lại có đức ở ẩn, lại e rằng không đáng là đuôi rồng. Ngụy lược viết như
thế, chưa phải là đúng trước sau vậy.
[13]
Ngụy thư viết là Phân có tiếng cao ở thiên hạ.
[14] Hoa
kiệu phả tự viết: "Hâm thuở trẻ có đức cao tiếng tốt. Tránh loạn kinh tây,
cùng kẻ chung chí hướng là sáu người bọn Trịnh Thái, lén đi ra khỏi cửa Vũ
Quan, trên đường gặp một ông già đi một mình, xin cùng đi, đều thương cảm ưng
cho. Chỉ có Hâm nói: 'Không nên. Nay đang ở trong lúc nguy hiểm, họa phúc hoạn
hại không chỉ có một. Không quen mà nhận người ta, không biết người ta thế nào.
Nếu đã nhận người ta, nhỡ có lúc tiến hoặc lui, bỏ người ta được sao'. Mọi
người không nỡ, rút cuộc cùng đi. Ông già ấy đi trên đường rơi xuống giếng, đều
muốn bỏ người này. Hâm lại nói: 'Đã cùng đi rồi, nếu bỏ người ta là bất nghĩa'.
Cùng nhau đem người này lên rồi mới chia tay. Mọi người đều khen ngợi
Hâm".
[15]
Ngụy lược viết: "Dương Châu Thứ sử Lưu Do chết, dân trong châu muốn bầu
Hâm làm chủ.
Hâm cho
là vì thời thế mà tự ý ra lệnh là không hợp đạo của bây tôi. Dân giữ ý nhiều
tháng, cố ý bắt làm, nhưng cũng không theo".
[16] Ngô
lịch của Hồ Xung viết: "Tôn Sách đánh quận Dự Chương, sai Ngu Phiên dụ Hâm
trước. Hâm đáp nói: 'Hâm ở lâu tại miền Giang Biểu, thường muốn về miền bắc;
nay Tôn Cối Kê đến, tại lại được đi vậy'. Phiên về báo Sách, Sách bèn đem quân
đến. Hâm đội khăn vải đón Sách, Sách bảo Hâm nói: 'Ông phủ đức lành tiếng cao,
xa gần đều nghe; Sách tuổi thơ dại, nên dùng lễ của bậc con em'. Bèn cúi bái
Hâm". Hoa kiệu phả tự viết: "Tôn Sách lấy được Dương Châu, quân đông
đến gần quận Dự Chương, cả quận sợ hãi. Quan thuộc xin ra ngoài thành đón, Hâm
nói: 'Không được'. Sách bèn đến, lại xin đem quân ra, lại không nghe. Vừa lúc
Sách đến, cả phủ đều làm gác, xin đi tránh Sách. Lại cười nói: 'Nay tự đem quân
đến, sao lại vội tránh'? Chốc lát, thuộc hạ báo nói: 'Tôn Tướng quân đến'. Xin
gặp, bèn đến cùng ngồi với Hâm, nói chuyên hồi lâu đến đêm mới đi. Kẻ sĩ nghe
nói đều thở dài và lòng mới tự yên vậy. Sách bèn giữ lễ con em, dùng lễ khách
trên. Bấy giờ kẻ sĩ, đại phu tránh loạn đến tại miền Giang Nam rất đông,
đều đến dưới chỗ Hâm, người người trông mong. Hễ Sách hội họp, người ngồi trên
chẳng ai dám nói ra trước, Hâm bấy giờ đứng dậy thay áo, rồi bàn luận sôi nổi.
Hâm uống rượu tốt, đến hơn một thạch mà không say, mọi người dòm xét, thường
thấy Hâm sửa mũ áo là cho là lạ, người Giang Nam gọi Hâm là 'ông Hoa ngồi một
mình'". Giang Biểu truyện của Ngu Phổ viết: "Tôn Sách ở tại huyện
Tiêu Khâu, sai Ngu Phiên dụ Hâm. Phiên đã đi, Hâm mời Công tào Lưu Nhất vào
bàn. Nhất khuyên Hâm giữ ở thành, sai người đem hịch đón quân. Hâm nói: 'Ta dẫu
là được Lưu Thứ sử sắp đặt, tin dùng, vẫn là quan cầm phù tiết vậy. Nay theo
lời ông, sợ rằng lúc chết vẫn còn bị trách tội'. Nhất nói: 'Vươgn Cảnh Hưng đã
được nhà Hán dùng, vả lại thời nay quân dân Cối Kê đông mạnh, vẫn được tha thứ,
ông phủ còn lo gì'? Do đó buổi đêm viết hịch đón, sáng sớm ra thành, sai quan lại
đến đón. Sách bèn đem quân đến, gặp nhau với Hâm, dùng lễ khách trên mà đãi,
dùng lễ bạn bè mà tiếp". Tôn Thịnh
nói: Ôi
cách làm việc hay là nên xét lời hẹn tối hay rõ trước để định chức phận, thời
xấu thì bao bọc để giữ thân mình, thời tốt thì làm viêc nghĩa để đạt cái đạo
của mình. Hâm đã không bị giết, không tỏ rõ phong thái rời xa, lại làm mất cái
tiết tháo trung thành của bầy tôi, cho nên lòng ngả theo lời của bọn Nho xấu,
giao kết với bọn xằng bậy, bị một thằng trẻ con cướp chức, làm giảm tiết tháo ở
thời ấy. Xưa Hứa, Thái mất chức vị, không được liệt làm chư hầu; việc của Châu
Công, Thực Lai xưa, đến nay người đất Lỗ vẫn cho là nhục nhã. Huống chi là Hâm,
lỗi nào lớn hơn!
Hâm đến,
bái làm Nghị lang, tham mưu việc quân cho quan Tư không, vào làm Thượng thư,
chuyển làm Thị trung, thay Tuân Úc làm Thượng thư lệnh. Thái Tổ đánh Tôn Quyền,
cho Hâm làm Quân sư. Nước Ngụy đã dựng, làm Ngự sử Đại phu. Văn Đế lên ngôi
Vương, bái làm Tướng quốc, phong An Lạc Hương Hầu. Lúc lên ngôi Đế, đổi làm Tư
đồ. [16] Hâm vốn tính khắc khổ, bổng lộc được ban tặng đều đem cấp cho bạn cũ,
họ hàng, trong nhà không chứa đủ một thạch, một đảm gạo. Công khanh thường đều
được ban thì cho vào miệng ăn, chỉ có Hâm đem ra cho người khác. Đế than thở.
[17] Hạ chiếu nói: "Quan Tư đồ là bậc già cả của nhà nước, là người trông
coi các điều hòa âm dương. Nay các quan lớn ăn món ngon, mà quan Tư đồ ăn món
nhạt, thật không còn gì nói". Ban riêng cho áo của vua, cùng làm quần áo
cho vợ con trai gái của Hâm. [18] Tam phủ bàn rằng: "Cử làm Hiếu liêm, cốt
ở đức hạnh, không bó buộc ở việc thử kinh truyện". Hâm cho rằng: "Từ
thời nhiễu loạn đế nay, sáu cõi đổ vỡ, nay đang lúc dựng lại để sửa lại đạo lí.
Kẻ làm trái phép chế dẫn đến thịnh thành suy. Nay nghe nói cử Hiếu liên không
dùng cách thử kinh truyện, sợ rằng nghề học do đó mà bị bỏ. Nếu có kẻ tài lạ,
nên gọi đến dùng. Chỉ lo không có người như thế, lo gì không tìm được người như
thế"? Đế theo lời này.
[16]
Ngụy thư viết: "Văn Đế nhận ngôi, Hâm lên đàn cùng bàn, nhận ấn thao của
Hoàng đế để làm xong lễ nhận lệnh". Hoa kiệu phả tự viết: "Văn Đế
nhận ngôi, bầy tôi từ bậc Tam công trở xuống đều nhận tước vị; Hâm bấy giờ tỏ
sắc mặt trái ngược, chuyển làm Tư đồ mà không thêm tước vị. Ngụy Văn Đế lâu
ngày không vui, đem việc này hỏi Thượng thư lệnh Trần Quần nói: 'Ta theo mệnh
trời nhận ngôi, trăm quan bầy tôi chẳng ai không vui mừng, lộ vẻ trên mặt, vậy
mà Tướng quốc và ông không vui, sao thế'? Quần đứng dậy rời chiếu quỳ lạy nói:
'Thần cùng Tướng quốc từng thờ nhà Hán, lòng dẫu vui mừng, nếu tỏ ra mặt thì
cũng sợ Bệ hạ tặng đúng tước vị lại bị ghét vậy'. Đế cả mừng, bèn thêm kính
trọng".
[17] Tôn
Thịnh nói: "Thịnh nghe nói thưởng dùng vật tốt, phạt nên dùng oai, phải
cốt ở người chủ, quyền bính nên rộng thứ, gốc từ người làm vua. Tử Lộ biếu
riêng, Trọng Ni đập vỡ bát ăn; họ Điền làm cướp, sách Xuân thu chê cười. Trở
thành lời khen hay chê ấy, đã đúng rõ nghĩa vậy. Kẻ bị phạt tội thì hình pháp
chờ sẵn, nhà được ban tặng thì vật ban tặng được ban cho, nếu có thương xót thì
cũng không nên đối đãi lệch lạc. Hâm giữ phận đùi tay, cùng chức quan đứng đầu
thì nên nói rõ với triều đình để biểu dương lộc trời, vậy mà yên lặng nhận ban
tặng, chỉ mình làm quân tử, đã phạm vào điều cấm của việc ban phúc, lại trái
với cái nghĩa của việc phải từ chối, có thể nói đấy là cái lòng nhân của kẻ
thất phu, không phải là đạo thẳng vậy". Ngụy thư viết: "Tính Hâm tỉ
mỉ, làm việc cẩn thận, thường cho rằng bầy tôi khi bàn việc, các việc như can
gián phải hợp đạo mới quý, lúc có lời bàn cũng không dám nói rõ ra, cho nên
việc của Hâm phần nhiều không được chép". Hoa kiệu phả tự viết: "Hâm
thờ ơ với tiền của, các vật được ban tặng trước sau dẫu các quan được ban tặng
cũng không ai sánh kịp, nhưng cuối cùng không có tiền của dư thừa. Trần Quần
thường than nói: 'Như Hoa Công có thể nói là thông thoáng mà không tốt, trong
sạch mà ngay thẳng vậy'". Phó Tử nói: "'Dám hỏi quân tử của thời nay
là ai'? Đáp nói: 'Viên Lang trung
tích đức
tiết kiệm, Hoa Thái úy tích đức giữ thuận, theo kịp được cái trí của họ nhưng
không theo kịp sự trong sạch của họ vậy. Đem lòng trung thờ vua, lấy lòng nhân
giúp kẻ dưới, Án Anh, Hành Phỉ lấy gì hơn được'"?
[18]
Ngụy thư viết: "Lại ban cho năm mươi nô tì".
Giữa năm
Hoàng Sơ, hạ chiếu công khanh cử người quân tử đức hạnh, Hâm cử Quản Ninh, Đế
dùng xe đến đón về. Minh Đế lên ngôi, tiến phong Bác Bình Hầu, thêm ấp năm trăm
hộ cùng một nghìn ba trăm hộ lúc trước, lại bái làm Thái úy. [19] Hâm xưng bệnh
xin lui, nhường chức cho Ninh. Đế không nghe. Sắp đến hội chầu, bèn sai Tán kị
Thường thị Mậu Tập đem chiếu dụ đến nói: "Trẫm vừa coi xét việc, mỗi ngày
có vạn việc, sợ rằng xét đoán không rõ. Nhờ vào bầy tôi có đức, giúp đỡ cho
trẫm, mà ông thường xưng bệnh từ chức. Vua xét chủ chọn, không chỉ ở lúc hội
chầu, trao vinh bỏ lộc, không xét đến chức vị, là cái mà người xưa có rồi. Xem
thấy Chu Công, Y Doãn thì không như thế. Giữ tiết trong sạch, người ta thường
làm thế, không mong ông làm thế. Ông nên gắng đến hội chầu để ban ân cho một
người. Sẽ đặt mấy cái chiếu, lệnh trăm quan đến ngồi để đợi ông đến, sau đó
trẫm mới ngồi". Lại hạ chiếu cho Tập nói: "Đợi Hâm dậy rồi mới
về". Hâm bất đắc dĩ phải dậy.
[19]
Liệt dị truyện viết: "Thời Hâm còn đi học, từng ở trọ ngoài nhà người ta.
Vợ của chủ nhà buổi đêm sinh con. Chốc lát, có hai viên quan đến cửa, lại thay
nhau gõ cửa, bảo nhau nói: 'Công ở đây'. Chờ đợi hồi lâu, một viên quan nói:
'Sổ sách phải ch, sao lại đứng đây'? Bèn đi đến hỏi Hâm, cùng đi vào. Cũng cùng
ra, cùng nói: 'Nên cho mấy tuổi'? Một người nói: 'Cho ba tuổi'. Ngày sau, Hâm
đi. Sau đó muốn xét lại việc này, đến ba năm, bèn đến xem tin tức của đứa bé,
quả đã chết. Hâm lại tự biết mình làm Công". Thần là Tùng Chi cho rằng:
Xét sách Tấn Dương thu cũng nói về việc Ngụy Thư thuở nhỏ có ở trọ cũng như
thế. Cho rằng về lí không có hai người đều có việc này, cũng vì người bảo nhau
không giống nhau. Sao tin Liệt dị truyện?
Giữa năm
Thái Hòa, sai Tào Chân từ hang Tí Ngọ đi đánh Thục, xe vua về phía đông đến Hứa
Xương. Hâm dâng sớ nói: "Thời binh loạn đến nay, trải qua hai đời. Đại
Ngụy theo trời nhận lệnh, Bệ hạ có đức cao rộng rãi, nên mở rộng cơ nghiệp một
thời, nối theo vết tích của Tam vương. Nay dẫu có hai tên giặc dựa vào chỗ hiểm
mà chống lệnh, nhưng giáo hóa ngày càng sửa tốt thì người phương xa trông mong,
sẽ cõng địu nhau mà đến. Binh bất đắc dĩ mới dùng, nên dừng lại mà điều động
tùy lúc. Thần thực mong Bệ hạ dốc lòng sửa đạo việc trước, đánh dẹp là việc
sau. Vả lại nghìn dặm vận lương, không phải là cái lợi của việc dùng binh; vào
sâu chỗ hiểm, không chỉ có cái công đánh trận. Nghe nói việc kêu gọi lao dịch năm
nay có phần làm lỡ việc cày cấy. Người trị nước lấy dân làm nền, dân lấy việc
cày cấy làm gốc. Nếu Trung Quốc không có nỗi lo đói rét, trăm họ không có lòng
rời đất đai, thì thiên hạ may lắm, cái xấu của hai kẻ địch có thể ngồi mà đợi
vậy. Thần nắm chức Tể tướng, bệnh già lâu ngày, mệnh chó ngựa sắp hết, sợ không
còn được bái gặp dưới ô lọng, không dám không dóc hết lòng của bầy tôi, mong Bệ
hạ xét kĩ"! Đế báo nói: "Ông nghĩ kế sâu xa cho nhà nước, trẫm rất
khen ngợi. Giặc dựa vào sông núi, hai vị tổ tiên khó nhọc ở đời trước vẫn không
đánh dẹp được, trẫm há dám tự cao, quyết diệt được giặc sao! Các tướng cho rằng
không thể lấy được trong một chốc, không phải vì tự làm khó giặc, đấy là đem
quân để dò xét cái xấu của giặc thôi. Nếu thời cơ chưa đến thì đem quân lính
về, cũng để soi xét việc trước, là điều răn dạy mà trẫm kính theo không
quên". Bấy giờ mùa thu mưa to, hạ chiếu Chân dẫn quân về. Năm Thái Hòa thứ
năm, Hâm hoăng, thụy là Kính Hầu. [20] Con là Biểu thay. Trước đây, Văn Đế phân
ấp hộ cho Hâm, phong em Hâm là Tập làm Liệt hầu. Biểu giữa năm Hàm Hi làm
Thượng Thư. [21]
[20]
Ngụy thư viết: "Hâm bấy giờ bảy mươi lăm tuổi".
[21] Hoa
kiệu phả tự viết: "Hâm có ba người con. Biểu tự Vĩ Dung, hơn hai mươi tuổi
làm Tán kị Thị lang. Bấy giờ các quan Lang cùng bàn việc Thượng thư. Việc
Thượng thư đến, có chỗ không thuận, cho nên bỏ sót không xem, đến lúc người đưa
thư đi, liền vào bàn bạc sâu xa. Chỉ có Biểu không cho là đúng, việc đến có chỗ
không thuận, liền cùng Thượng thư bàn hết các ý, người chủ việc cố giữ ý mình,
bất đắc dĩ sau đó cùng dâng tấu bàn bạc. Bọn Tư không Trần Thái, Trần Quần do
đó khen Biểu. Làm quan cho nhà Tấn, trải qua các chức Thái tử Thiếu phó, Thái
thường. Xưng bệnh về nghỉ, bái làm Quang lộc Đại phu. Tính thanh đạm, thường lo
đạo lí của thiên hạ suy kém. Bọn Tư đồ Lí Dận, Tư lệ Vương Mật, Vương Hoằng
thường khen nói: 'Như người này, không thể quý trọng được, không thể coi thường
được, không thể gần gũi được, không thể xa lánh được'. Con giữa là Bác, làm qua
chức Nội sử của ba huyện, làm việc có tiếng tăm. Con út là Chu ,
làm Hoàng môn Thị lang, Thường Sơn Thái thú, học rộng có văn vẻ. Tuổi trung
niên mắc bệnh, chết tại nhà. Biểu có ba người con. Con cả là Dực, tự Trưởng
Tuấn". Tấn chư công tán viết: "Dực có văn vẻ, làm qua các chức Thượng
thư lệnh, Thái tử Thiếu phó, truy tặng chữ Quang lộc Đại phu Khai phủ. Kiệu tự
Thúc Tuấn, có học giỏi, soạn sách Hậu Hán thư, người đời khen là quan tốt. Làm
Bí thư giám, Thượng thư. Đạm tự Huyền Tuấn, được biết tên tuổi nhất, làm Hà Nam
Doãn. Dực có ba người con. Côn tự Kính Luân, trong sạch tiết kiệm, làm Thượng
thư. Hội tự Kính Thúc. Người đời khen ngợi Hội ngay thẳng. Hằng tự Kính Tắc,
thông suốt sánh với Côn, làm Thượng thư; Hội làm Hà Nam Doãn; Hằng làm Tả Quang
lộc Đại phu Khai phủ; con Đạm là Dật, tự Ngạn Hạ, có tài chí ở thời ấy, làm
Giang Châu Thứ sử".
VƯƠNG LÃNG TRUYỆN
Vương
Lãng tự Cảnh Hưng, người quận Đông Hải. Vì học thông kinh truyện được bái làm
Lang trung, làm chức Tri Khâu Trưởng. Thầy là Thái úy Dương Tứ, Tứ hoăng, bỏ
việc quan đến chịu tang. Cử làm Hiếu liêm, tránh phủ của Tam Công, không đến.
Từ Châu Thứ sử Đào Khiêm xét Lãng làm Mậu tài. Bấy giờ Hán Đế ở tại Trường An,
quân Quan Đông nổi dậy, Lãng làm quan Trị trung của Khiêm, cùng bọn Biệt giá
Triệu Hiển khuyên Khiêm nói: "Nghĩa của sách Xuân thu là giúp chư hầu
chẳng bằng giúp nhà vua. Nay Thiên tử qua ở kinh tây, nên sai sứ giả đến nghe
lệnh của nhà vua". Khiêm bèn sai Hiển đem thư đến Trường An. Thiên tử khen
ý ấy, bái Khiêm làm An đông Tướng quân, lấy Hiển làm Quảng Lăng Thái thú, Lãng
làm Cối Kê Thái thú. [22] Tôn Sách qua sông Giang chiếm đất. Quan Công tào của
Lãng là Ngu Phiên cho rằng sức mình không chống được, không bằng tránh đi. Lãng
tự cho thân mình là quan của nhà Hán, nên giữ thành ấp, bèn đem quân đánh với
Sách, thua vỡ, vượt biển đến huyện Đông Dã. Sách lại đuổi đánh, đại phá quân
Lãng. Lãng bèn đến chỗ Sách. Sách cho là người nho nhã, nhún nhường mà không
làm hại. [23] Dẫu rơi vào cảnh khốn khó, sớm chẳng mong đến tối, lại thu nạp
người thân, bạn bè, chia của nhiều cắt cho kẻ ít, làm việc nghĩa rất sáng rõ.
[22]
Lãng gia truyện viết: "Quận Cối Kê trước đây tế Tần Thủy Hoàng, đẽo gỗ làm
tượng, cùng đặt trong miếu với Hạ Vũ. Lãng đến làm quan, cho rằng là vua không
có đức, không nên được tế, do đó bỏ tế. Ở tại quận bốn năm, có ân với
dân".
[23]
Hiến Đế Xuân thu viết: "Tôn Sách đem quân đến đất Mân Việt đánh Lãng. Lãng
lên thuyền vượt biển, muốn chạy đến Giao Châu, bị quân đuổi riết, bèn đến chỗ
quân để hàng. Sách lệnh sứ giả báo cho Lãng nói: 'Hỏi giặc phản Cối Kê Thái thú
Vương Lãng trước đây rằng: Lãng nhận ơn nhà nước làm quan, sao lại không làm
việc đền đáp ân đức mà lại đem quân ngăn chặn? Đại quân đanh dẹp, đến trừ bọn
xấu, vậy mà không tự giúp đỡ, lại tụ đảng quân, đóng giữ trong quận. Quân ta đi
đánh, lại không thuận theo. Đuổi bắt lại hàng, có lẽ giả lừa để giữ vẹn đầu cổ,
ngươi phải đến nếu không đem hết tình trạng báo lên'. Lãng nói là thân bị bắt
giữ, đáp sứ giả nói: 'Lãng vì tài lẻ, làm lỡ ân vua, nhận chức không nhường,
gây nên tội trói. Trước bị đánh dẹp, sợ chết nên tránh. Nhân đấy sửa quân, gửi
mạng qua ngày. Đại quân theo đuổi, sợ hãi đến hàng. Người theo bệnh tật, chết
mất gần hết. Đi cùng mẹ già, cưỡi một thuyền nhỏ. Tên lạc vừa bắn, bỏ thuyền
chịu bắt, cúi đầu trán tự chui vào ở nơi trận đánh. Lãng sợ hãi không thôi, tự
xưng là kẻ giặc hàng. Trước đây mê lầm, vừa thẹn vừa sợ. Lãng ngu dốt hèn kém,
sợ oai tự hãi. Lại không ngay thẳng, không sớm theo về. Cho nên bị phá vỡ, sau
đó trao mạng làm kẻ lệ thuộc. Thân mang tội lớn, chết vẫn còn tội. Lấy dây buộc
cổ, xỏ chân vào gông, gào thét thành lời, báo khắp đông tây'".
Thái Tổ
gửi thư gọi, Lãng từ huyện Khúc A men theo sông mà đi, nhiều năm mới đến. [24]
Bái làm Gián nghị Đại phu, tham dự việc quân của quan Tư không. [25] Nước Ngụy
vừa dựng, làm Quân tế tửu, lĩnh chức Ngụy Quận Thái thú, chuyển làm Thiếu phủ,
Phụng thường, Đại lí. Làm việc khoan thứ, hình phạt giảm nhẹ. Chung Do xét rõ
hình pháp lúc ấy, đều được khen là giỏi xét ngục. [26]
[24]
Lãng được gọi mà chưa đến. Khổng Dung gửi thư cho Lãng nói: "Đường đời ngăn
trở, tình người cắt đứt, nhớ mong ân lớn. Trước thấy biểu thư, biết được bắt
chước vết tích Thành Thang, Vũ Vương kể tội mình, tự ném mình nơi miền ông như
hình phạt của Cổn, xem chưa xong hết, nước mắt đầm đìa. Vua trên nhân từ rộng
rãi, quý người có đức, tha thứ người mắc lỗi, Tào Công phụ chính, người hiền
được đứng vững. Gửi thư cho thuộc hạ, ân cần nồng hậu. Biết ông chèo thuyền
vượt biển, đậu tại Quảng Lăng, không ngờ gấu vàng xông khỏi vực Vũ. Cười nói có
lúc, hãy yêu thân mình". Hán Tấn Xuân thu viết: "Tôn Sách vừa bắt
được Lãng, nhún nhường Lãng. Sai Trương Chiêu hỏi riêng Lãng, Lãng thề không
chịu cúi, Sách giận nhưng không dám làm hải, giữ lại tại Khúc A. Năm Kiến An
thứ ba, Thái Tổ gửi thư gọi Lãng về, Sách sai Lãng đi. Thái Tổ hỏi nói: 'Tôn
Sách lấy gì để có được như thế'? Lãng nói: 'Sách dũng cảm đứng đầu trên đời, có
hùng tài chí lớn. Trương Tử Bố là người mong mỏi của dân, ngoảnh mặt về phía
bắc làm Tướng quốc. Chu Công Cẩn là hào kiệt cùa vùng Giang Hoài, dương tay mà
làm Tướng quân của Sách. Một khi thành công, cái mà hắn mưu tính không nhỏ,
cuối cùng trở thành giặc lớn của thiên hạ, không chỉ là bọn trộm cướp mà
thôi".
[25]
Lãng gia truyện viết: "Lãng thuở nhỏ kết bạn với danh sĩ nước Bái là Lưu
Dương. Dương làm Cử Lệnh, ba mươi tuổi thì chết, cho nên người đời sau ít nghe
nói. Trước đây, Dương vì nhà Hán suy yếu, biết Thái Tổ có hùng tài, sợ liên lụy
cho nhà Hán, ý muốn trừ Thái Tổ nhưng việc chẳng xong. Đến lúc Thái Tổ lên ngôi
quý, tìm người nối dõi của Dương rất gấp, con của Dương sợ hãi, không có chỗ
náu. Họ hàng của Dương dẫu nhiều nhưng chẳng ai dám giấu. Lãng bèn nhận nuôi
nhiều năm, đến lúc từ Cối Kê về, lại nhiều giải thích. Thái Tổ lâu ngày bèn tha
cho. Người nhà của Dương do đó được trọn vẹn".
[26]
Ngụy lược viết: "Thái Tổ hỏi mọi người, cợt Lãng nói: 'Không bắt chước
được ông xưa kia ở tại Cối Kê cắt lúa mà ăn'. Lãng ngẩng mặt mà than nói: 'Làm
được thật khó'! Thái Tổ hỏi: 'Là sao'? Lãng nói: 'Như Lãng ngày trước, không
nhún mà nhún; như minh công ngày nay, có thể nhún mà không nhún vậy'. Thái Tổ
vì Tôn Quyền xưng thần bèn hỏi Lãng, Lãng đáp nói: 'Tôn Quyền trước đây gửi thư
vờ cúi mình xin đánh giặc để chuộc lỗi cũ, sau lại xưng thần là để tỏ rõ mình
không có hai lòng. Nha thú cúi gối, ton hót làm vui, tất đem ngọc châu, vàng bạc,
vật lạ đến. Tình thấy ở lời nói, chuộc lỗi thấy ở việc làm. Nếu vùng Tam Giang
Ngũ Hồ được nước Ngụy thống trị, dân miền Tây Ngô Đông Việt trở thành dân của
nhà nước. Nếu miền Yển, Dĩnh đã nhổ, cử Kinh Môn tự mở, thu lấy miền Ba, Thục
thì hình thế đã thành thì được nghỉ ngơi vui vẻ sẽ theo nhau đến dồn dập vậy.
Có ngày nhận lệnh, vỗ tay khen ngợi. Cái giấu trong tình, lời nói không thể tỏ
ra được".
Văn Đế
lên ngôi Vương, chuyển làm Ngự sử Đại phu, phong An Lăng Đình Hầu. Dâng sớ dạy
dân giảm hình phạt nói: "Dấy bình đến nay hơn ba mươi năm, bốn cõi nghiêng
ngả, vạn nước mệt mỏi. Nhờ vào tiên vương tiễu trừ giặc mạnh, giúp đỡ kẻ yếu
lẻ, bèn khiến cho Hoa Hạ lại có rường mối. Tụ tập triệu dân theo về nước Ngụy,
khiến cho trong cõi biên giới mà gà gáy chó sủa cũng vang khắp bốn cõi, dân
chúng hớn hở, vui được thời yên ổn. Nay giặc phương xa chưa phục, trận can qua
chưa thôi, nên lệnh bù đắp để vỗ về người phương xa, chọn nhiều quan lại tốt để
truyền bá ân đức, bờ ruộng phải sửa, bốn dân hăng hái sẽ vượt qua thời xưa mà
làm giàu có thời nay. Kinh Dịch chép phép tắc, kinh Thư chép hình pháp, một
người có việc tốt thì triệu dân được vui, đấy là nói về hình pháp cẩn thận vậy.
Xưa Tào Tướng quốc cho rằng hình ngục là dùng tạm, là quan coi ngục rộng rãi
vậy. Người bị ngục có được cái tình của họ thì kẻ trong tù không bị chết oan;
đinh tráng được gắng sức làm ruộng thì dân không bị mất mùa đói kém; người già
bệnh được trông vào kho lẫm thì không có kẻ bị chết đói; cưới hỏi chọn lúc thì
trai gái không cái giận chờ đợi; nuôi thai trọn vẹn thì người mang chưa không
lo bị thương; học trò được học thì bọn trẻ con không lo không được dạy; tráng
đinh mà không bị lao dịch thì trẻ con không có cái lo bỏ nhà; ngườ tóc bạc
không đi lính thì người già không lo bị mỏi mệt. Thuốc hay để chữa bệnh, nới
lỏng lao dịch để dân vui vẻ theo nghề nghiệp, dùng hình oai để ngăn bọn cứng
đầu, dùng ân đức để giúp kẻ yếu , cấp phát để giúp người nghèo. Sau mười năm
người đến tuổi cài trâm tất đầy ngõ. Sau hai mươi năm người đến tuổi đi lính tất
đầy đồng vậy".
Lúc Văn
Đế lên lên ngôi, đổi làm Tư không, tiến phong Lạc Bình Hương Hầu. [27] Bấy giờ
Đế hay ra đi săn, có hôm đến chiều tối mới về cung. Lãng dâng sớ nói: "Chỗ
của vua ở thì ngoài có quân bảo vệ xung quanh, trong thì có cửa cấm liên tiếp,
sắp đi thì sắp đặt quân rồi mới ra cung, đề phòng trước sau rồi mới xuống thềm,
bày cửa vòng rồi mới lên kiệu, dẹp đường rồi mới dẫn di, che trùm rồi mới kéo
xe, có chỗ nghỉ yên rồi mới dừng xe, đấy đều là để tỏ rõ sự tôn nghiêm, làm
việc cẩn thận, kính theo giáo hóa vậy. Gần đây xe vua đi ră bắt hổ, xé bóng mới
đi, đến chiều mới về, đấy là làm trái phép thường của việc đề phòng, không phải
là sự cận thận của bậc Đế vương có vạn cỗ xe vậy". Đế báo nói: "Xem
sớ, dẫu Ngụy Giáng nói lời trong chương Ngu châm để ngầm can Tấn Trác Công,
Tương Như kể việc thú dữ để khuyên Hán Vũ Đế vẫn chưa đủ để sánh. Nay đang lúc
hai tên giặc chưa trừ, tướng súy đánh chỗ xa, cho nên vào chỗ đồng ruộng để tập
luyện võ bị. Đến như lời răn bảo đến tối mới về, trẫm đã hạ chiếu quan Hữu tư
làm theo". [28]
[27]
Ngụy danh thần tấu chép tấu giảm bớt của Lãng nói: "Có chiếu hỏi cái được
và mất là nói về việc ở kinh đông vậy. Như việc cúng tế ở Phần Dương, Vân Dương
thuộc kinh tây đã có năm trăm trong một nghìn người, tế ở đài Thông Thiên, vào
cung A Phòng phải trai giới trăm ngày, nuôi vật tế năm năm, phải có ba nghìn
con trâu, có bảy nghìn thanh ngọc; lấy gấm để thêu chiếu tế, chọn
gái trẻ
để múa hát; rót rượu phải ba qua ba giờ mới xong, phải có ba nghìn bốn trăm
người hát nhạc chuẩn bị ở sau, số người đẹp trong cung phải có gần nghìn người,
các con em học sĩ sâu rộng phải có hơn bảy nghìn người; trong chuồng phải có
hơn sáu vạn con ngựa kéo xe, ngoài đồng thì có ba vạn người chăn ba vạn con
ngựa và mỗi người chăn mười con; có sáu trăm quan Chấp kim ngô cưỡi ngựa, lính
chạy bộ theo sau; quan Thái thường đi theo nghìn cỗ xe, quan Thái quan được bạn
cho sáu nghìn nô tì; có ba nghìn quan trị dân trong thành Trường An, trong bọn
quan được cấp bổng hai nghìn thạch gạo thì có hai mươi lăm quan xử tội xét
phạt. Cho vào coi việc, uy nghi lẫm liệt, truyền lộc đến ba đời, là quá cả lễ
nghi. Nguyên nhân xa xỉ là đại khái phần nhiều bắt chước nhà Tần. Đã trái với
gốc chân thật kính cẩn, lại tô vẽ lên các thứ giản dị, lại làm mất vẻ cái chất
vốn có mà lảm tổn văn phong, tránh cái hay mà theo cái ham muốn riêng. Nay là
thời rực rỡ hưng thịnh, nên noi theo thời vua Nghiêu, vua Thuấn, giảm bớt các
việc xa xỉ mà làm tiết kiệm, bỏ các hiệu lệnh rườm rà, làm rõ hình pháp cẩn
thận, nên đáng mong chờ chăng? Như việc tế bằng vật thái lao một ngày ở tông
miếu, các quận đều lập ra phép cúng tế ở tông miếu, các bọn quan Thừa tướng,
Ngự sử, Đại phu cùng quan thuộc đều phải như thế, đã nhiều lần đổi vào trước
thời Ai Đế, Bình Đế rồi, đã không làm từ sau thời Quang Vũ Đế. Thần xét kĩ cái
mà nên sửa trong tấu văn, tế trời đất cho đến tế Ngũ Đế, Lục tông, tông miếu,
xã tắc, đã noi theo các nước thời trước. Như tế trời đất thì quét đất mà tế,
còn lại thì đều lập đàn và làm rào xung quanh. Nhà Minh Đường là chỗ để tế Thượng
Đế, đài Linh Đài là chỗ để xem thiên văn, vườn Tích Ung là để sửa âm nhạc, nhà
Thái Học là để tụ tập học sĩ, miếu Cao Môi là để xin điềm lành, lại là chỗ để
xem xét công việc, biểu dương giáo hóa. Xét dân thời xưa, các việc tế lễ chúc
mừng đều làm ở phía nam của nước, đều làm cột nhà cao như nhà Hạ, đủ để làm lễ
bắn tên cúng tế, nhìn khắp cảnh vật. Tế tại bảy chỗ ngoài thành dẫu trọng ở
chất phác nhưng vẫn đều có cửa miếu đứng ngồi, đủ để tránh mưa gió. Hãy nên bãi
quân năm đầy đủ để dần dân sửa việc chính trị. Thời xưa quân của năm doanh,
quân Hổ bôn, quân Vũ lâm cho đến các quân Vệ binh cùng tụ họp, dẫu gần vạn
người, trong đó có kẻ là con em lười biếng của nhà buôn, có người lại là người
đần độn của nhà cày ruộng; dẫu có chỗ được tự ý ra lệnh, không cần giảng quân
trận, đã không luyện tập những điều sơ qua, lại ít ganh đua, dẫu là có tên tuổi
nhưng thực là không xứng, khó để đề phòng những lúc nguy cấp. Có tin nguy cấp
rồi sau mới mộ quân, quân đi rồi mới chở lương, hoặc là quân đã đóng đồn lâu
ngày mà không làm việc trồng trọt, không sửa khí giới, không có cất chứa, nếu
một vùng có việc nguy cấp thì ba mặt đều nhiễu loạn, đấy cũng là cái mất gần
đây của nhà Hán và là việ có thể xét thấy được vậy. Ngày nay Chư Hạ đã yên mà
vùng Ba Thục vẫn ở ngoài bản đồ. Dẫu chưa được tan trận và cởi giáp, buộc ngựa
mà xếp quân, nên làm cho nhiều năm được mùa, đem quân gửi vào làm việc cày cấy.
Quan quân lớn nhỏ đều chăm chỉ trồng trọt, dừng thì lập làng ấp ở đồng rộng, đi
thì lập đội ngũ ở sáu quân, giảm bớt lao dịch nặng nề, tăng thêm áo cơm. Kinh
Dịch nói: 'Dùng khen thưởng để sai dân thì dân quên mệt; dùng khen thưởng để
sai dân đi vào chỗ khó khăn thì dân quên cái chết' là nói về ngày nay vậy. Cất
chứa lương thực, nuôi dưỡng thế lực, tuy ngồi chỗ sáng sủa mà không điều quân
nhưng người Man cõi ngoài tất cúi đầu đến cầu xin được sai khiến vậy. Nếu có
hiệu quả chúng sợ oai thì không đánh mà định được thì còn hơn là đem quân đánh
nhau mà lại lập được uy danh, vừa tiếp mũi đao mà đã lập công ở phương xa vậy.
Nếu bọn gian ác không đổi, vẫn mê lầm không theo, vẫn muốn gây ác cho dân thì
đợi Đại Ngụy ra lệnh báo cho quân đã được nuôi biết rồi mới thong thả đem quân
hát trước múa sau mà đánh dẹp, xông vào bọn giặc cầm ngược cây giáo bỏ mũi tên
chịu hàng như chặt cành khô củi mục, không đủ để làm sao"!
[28]
Vương Lãng tập chép vào thời Lãng làm Đại lí dâng sớ khen Chủ bạ Trương Đăng
người Triệu Quận nói: "Xưa làm Chủ bạ của huyện ấy, gặp giặc Hắc Sơn vây
quận, Đăng cùng huyện trưởng là Vương Tuấn đem bảy mươi hai quan quân đi nhanh
đến cứu, đánh nhau với giặc, quan quân tan chạy, Tuấn sắp bị hại, Đăng bèn lấy
tay ngăn một tên giặc để giữ mạng Tuấn. Lại có quan Thú trưởng là Hạ Dật, bị
quan Đốc bưu xử oan, Đăng tự mình xét xử, giải oan tội của Dật. Có nghĩa giúp
hai người kia, nên khen thưởng hơn". Thái Tổ vì có nhiều việc gấp, chưa
rỗi cất nhắc. Đến đầu năm Hoàng Sơ, Lãng lại cùng Thái úy Chung Do thay nhau
tiến cử, đều nói Đăng làm việc chăm chỉ. Hạ chiếu nói: 'Đăng có lòng trung
nghĩa rõ ràng, làm việc chăm chỉ. Chức vị dẫu nhỏ nhưng làm việc ngay thẳng.
Mời đến cùng ăn với trẫm phải là những quan lại này. Nay lấy Đăng làm Thái quan
lệnh'".
Trước
đây vào cuối năm Kiến An, Tôn Quyền bắt đầu sai sứ đến xưng thần, lại đem quân
đánh với Lưu Bị. Hạ chiếu bàn: "Có nên đem quân giúp Ngô đánh lấy Thục
không"? Lãng bàn nói: "Quân của Thiên tử ở tại vùng núi Hoa, núi Đại,
thực nên ngồi chỗ sáng mà chiếu oai trời, không động như núi. Nếu sai Quyền tự
mình chống nhau với giặc Thục, đánh nhau lâu ngày, trí sức ngang nhau, quân
không đánh nhanh, lúc đó đem quân để giúp thế oai rồi mới nên chọn tướng giữ
chỗ trọng yếu, đánh vào chỗ yếu của giặc, chọn lúc mới điều quân, chọn đất rồi
mới đi thì một trận là không có lo gì khác. Nay quân của Quyền chưa động thì
đem quân giúp Ngô không băng gọi họ trước. Vả lại nước mưa đang nhiều, không
phải là lúc điều quân đem đi". Đế theo kế này. Giữa năm Hoàng Sơ, chim bồ
nông đậu ở đầm Linh Chi, hạ chiếu Công khanh tiến cử người quân tử đức hạnh.
Lãng cử Quang lộc Đại phu Dương Bưu, rồi xưng bệnh, nhường chức cho Bưu. Đế bèn
cho Bưu sắp đặt quan quân, chức đến bậc Tam công. Hạ chiếu nói: "Trẫm tìm
người hiền với ông mà chưa được, ông lại bỗng nhiên xưng bệnh, không đi thì
không tìm người hiền được, lại làm mất con đường tiến thân của người hiền, tăng
thêm việc ngả theo Tam công. Không những thế lại có kẻ ở chỗ Tam công nói lời
không tốt, làm trái với đạo quân tử vậy! Ông chớ có từ chối nữa"! Lãng bèn
dậy.
Tôn
Quyền muốn sai con là Đăng vào hầu, lại không đến. Bấy giờ xe vua dời đến thành
Hứa Xương, đóng quân làm ruộng, muốn đem quân đánh phía đông. Lãng dâng sớ nói:
"Xưa người Nam Việt giữ tính thiện, Anh Tề vào hầu, trở thành người nối
dõi, trở về làm vua của nước mình, người Khang Cư kiêu ngạo, tính chẳng nhún
nhường, quan Đô hộ tấu bàn cho rằng nên sai con đến hầu để bỏ cái không có lễ
nghi. Vả lại cái họa của Ngô Vương Tị là có mầm từ việc sai con vào hầu, Ngôi
Hiêu làm phản cũng không ngoái trông con mình. Vừa rồi nghe nói Quyền có nói
sai con đến mà chưa đến. Nay sáu quân phòng nghiêm, thần e rằng người kia không
theo chiếu chỉ, nay làm nhà nước giận việc ở lại của Đăng, cho nên vì việc này
mà dấy quân. Đem quân đi thì Đăng mới đến, đấy là cách điều động lớn nhất, là
cách gọi đến nhỏ nhất, vẫn chưa đủ để cho là hay. Nếu bên ấy kiêu ngạo, quyết
không có ý đem con vào hầu thì sợ rằng bên ấy bàn bạc chưa thông, đều đang lo
lắng. Thần ngu cho rằng nên lệnh gọi các tướng về để sai giữ các trại của từng
người. Ngoài thì tỏ rõ oai phong, trong thì mở rộng việc trồng trọt, làm cho
chắc chắn như núi, lặng lẽ như ao sâu, thế vững không lay được, kế hay không
thể đoán được". Bấy giờ Đế đã phát quân rồi đem đi, con của Quyền không
đến, xe vua đến sông Giang rồi về. [29]
[29]
Ngụy thư viết: "Xe vua đã về, hạ chiếu Tam công nói: "Ba đời làm
tướng là điều mà nhà có đạo kiêng kị. Dùng quân bừa bãi, thời trước đã có gương
răn. Huống chi năm nay nước cạn, quân dân tổn hao, lại có việc nhiều ở trước
mắt, lao dịch hơn ngày trước, đến không diệt được giặc, lui về không an ủi dân.
Nhà dột ở trên, người dưới biết được, vẫn mê lầm không tỉnh ngộ, đấy là thế mất
đạo không con xa nữa, là có lỗi mà không sửa, nói thế chẳng sai vậy. Nay nên
nghỉ ngơi, đứng vững như núi cao, ẩn giấu như chín vực sâu, dẹp trừ vứt bỏ ở
ngoài cõi. Xe vua nay hẹn đến giữa tuần tháng này đến đất Tiêu, các quân của
đất Hoài, đất Hán đều phải quay về, không đến tháng chạp phải về phía
tây".
Minh Đế
lên ngôi, tiến phong Lan Lăng Hầu, thêm năm trăm ấp, cùng một nghìn hai trăm ấp
trước đây. Sai đến đất Nghiệp xem xét lăng của Văn Chiêu Hoàng hậu, thấy trăm
họ có kẻ không được no đủ. Bấy giờ đang xây dựng cung điện, Lãng dâng sớ nói:
"Từ khi Bệ hạ lên ngôi đến nay, thường hạ chiếu ban ân, trăm họ chẳng ai
không hớn hở. Thần cúi nhận lệnh đi lên phía bắc, qua lại trên đường, nghe nói
dân phải lao dịch, những người nên được tha bỏ và giảm bớt lao dịch rất nhiều.
Mong Bệ hạ sáng chiều luôn ghi nhớ để mưu tính ngăn giặc. Xưa Đại Vũ sắp muốn
dẹp trừ cái họa lớn của thiên hạ, cho nên trước tiên lam cung điện nhỏ, tiết
kiệm cơm áo, do đó có hết chín châu, giúp đỡ năm cõi. Câu Tiễn muốn mở rộng đất
Ngự Nhi, [30] giết Phù Sai ở thành Cô Tô, cũng vì bó buộc thân mình cùng người
nhà, tiết kiệm tiền nhà để giúp nước, do đó bao bọc cả miền Ngũ Hồ, cuốn trọn
miền Tam Giang, ra oai với Trung Quốc, làm Bá với Hoa Hạ. Văn Đế, Cảnh Đế của
nhà Hán cũng muốn mở mang nghiệp lớn của tổ tiên, tăng thêm công trạng, cho nên
giảm bớt xây đài trăm vàng, tiết kiệm may áo lụa dày, trong thì giảm Thái quan
và không nhận đồ cống nạp, ngoài thì bớt lao dịch và chăm lo việc cày cấy, cho
nên người đời được yên ổn, ít phải dùng hình phạt. Vũ Đế có thể phát dương thế
quân, chiếm đất ngoài nước, thực là nhờ vào cái đầy đủ cất chứa của tổ tiên,
cho nên mới lập nên công lớn. Hoắc Khứ Bệnh là tướng tài bậc trung, vẫn vì Hung
Nô chưa diệt, không xây nhà cửa, tỏ rõ vỗ về người xa giúp kẻ gần, lo việc
ngoài và giảm việc trong. Từ đầu thời Hán cho đến thời trung hưng, đều là sau
khi nghỉ ngơi can qua rồi mới xây cung Phượng Khuyết lo lớn, biểu dương công
đức. Nay đang ở trước điện Kiến Thủy đủ để bày hội chầu, sau cung Sùng Hoa cđủ
để sắp đặt nội quan, các vườn Hoa Lâm, đầm Thiên Uyên đủ để mở dạo chơi, nếu
hãy làm nên các cửa ngoài cung cũng đủ để người phương xa đến hội chầu, sửa
thành ao cũng đủ để ngăn vượt qua, tạo thành chỗ hiểm của đất nước, còn các
việc khác hãy đợi đến năm đầy đủ. Phải chăm chỉ trồng trọ cày cấy, lo việc tập
luyện võ bị thì nước không có cái lo lâu dài, dân chúng nghỉ ngơi, dân khỏe
quân mạnh, quân giặc không thần phục, chưa đủ để bắt buộc, chưa có được
vậy". Chuyển làm Tư đồ.
[30] Ngự
Nhi là tên đất biên giới của nước Ngô.
Bấy giờ
thường mất Hoàng tử, mà người ở hậu cung quán xá lại ít. Lãng dâng sớ nói:
"Xưa Chu Văn Vương mười lăm tuổi sinh ra Vũ Vương, rồi sinh được mười
người con để mở rộng dòng dõi của họ Cơ. Vũ Vương đã già mới sinh ra Thành Vương,
do đó Thành Vương có ít anh em. Hai bậc Vương kia đều có đức thánh, không làm
việc lỗi, còn như con cháu của họ thì không được nhiều. Có lẽ nuôi dưỡng có sớm
muộn, sinh đẻ có ít nhiều vậy. Bệ hạ đã có đức sánh với hai vị thánh ấy, vào
thời Xuân thu Văn Vương nuôi Vũ Vương, mà con là Phát chưa cử lên ở phòng kín
của chốn hậu cung, các phiên vương chưa sinh ra ở phòng rộng chốn dịch đình. Ví
như Thành Vương vẫn chưa là muộn, ví như Bá Ấp thì vẫn không là sớm. Theo lễ
nhà Chu có hai mươi nội quan ở trong cung,
nhưng các kinh truyện thường nói là đều có không quá hai mươi người. Đến vào
thời Tần, thời Hán, đều có đến hàng trăm, hàng nghìn người rồi. Dẫu có thêm vào
thì bấy giờ vợ mang bầu cũng rất ít, rõ ràng gốc của 'trăm con trai' thực là
một ý, không những ở tại việc rộng vậy. Lão thần kính cẩn mong nhà nước phải
làm có được như hai lăm người con của Hiên Viên, nếu không cũng phải có như
mười con của Chu Văn Vương, coi đó là điều lo nghĩ. Vả lại con nhỏ thường được
trùm chăn ấm áp, ấm áp thì không cđược hợp cho thân thể yếu ớt, do đó khó giữ
gìn, lại dễ bị ho cảm. Nếu thường khiến cho con nhỏ mặc áo mỏng, không mặc áo
quá dày thì tất làm cho thân thể vững như vàng đá, thì tuổi thọ lâu như núi Nam
Sơn
vậy". Đế báo nói: "Lời lẽ trung trinh thẳng thắn, chứa tình yêu sâu
xa. Ông đã nghĩ ngợi lo lắng, lại tự tay cầm bút viết, tỏ rõ âm đức, trẫm vui
vẻ không kể hết. Con nối dõi trẫm chưa lập, do đó ông lo lắng, nói lời rất khẩn
thiết, thật là hợp lẽ". Lãng viết sách Dịch, Xuân thu, Hiếu kinh, Chu quan truyện, Tấu nghị kí luận, đều truyền cho đời. [
31] Năm Thái Hòa thứ hai hoăng, thụy là Thành Hầu. Còn là Túc thay. Trước đây,
Văn Đế phân ấp hộ cho Lãng, phong một người con làm Liệt hầu, nhưng Lãng xin
phong cho con của anh là Tường.
[31]
Ngụy lược viết: "Lãng vốn tên là Nghiêm, sau đổi tên là Lãng". Ngụy
thư viết: "Lãng có tài cao học rộng mà tính nghiêm túc khảng khái, có uy
nghi, nhún nhường tiết kiệm, từ cưới hỏi đễn nghi lễ không nhận lễ vật gì.
Thường mỉa mai người đời thích khoe tên tuổi mà không cứu giúp người nghèo hèn,
cho nên dùng tiền của trước tiên là cấp chẩn".
Túc tự
Tử Ung. Mười tám tuổi theo Tống Trung đọc sách Thái huyền, rồi lại chú giải
sách ấy. [32] Giữa năm Hoàng Sơ làm Tán kị Hoàng môn Thị lang. Năm Thái Hòa thứ
ba, cho làm Tán kị Thường thị. Năm thứ tư, Đại Tư mã Tào Chân đánh Thục, Túc
dâng sớ nói: "Sách trước có chép rằng: 'Cấp lương nghìn dặm, lính có vẻ
đói, hái củi nấu ăn, quân không đủ no'. Đấy là nói lúc hành quân trên đường
bằng vậy. Lại huống chi là vào sâu nơi hiểm trở, đục đường mà đi, thì vất vả
phải đến trăm lần. Nay lại có thêm mưa dầm, dốc núi gập ghềnh, quân vội mà
không lên được, lương xa mà khó chở, thực là cái kị lớn của lúc hành quân vậy.
Nghe nói Tào Chân đem quân đi đã hơn một tháng mà đi vừa nửa hang núi, dân phu
sửa đường, quân sĩ cùng sửa. Đấy là giặc gặp thế ẩn nấp để đợi quân mỏi mệt, là
cái sợ của nhà binh vậy. Nói về thời trước thì có Vũ Vương đánh Trụ, ra cửa ải
rồi lại về; bàn về thời nay thì có Vũ Đế, Văn Đế đánh Tôn Quyền, đến sông Giang
không qua được. Đấy há không phải là người biết rõ quyền biến, thuận trời, biết
thời sao! Triệu dân vì biết Hoàng thượng vì mưa dầm khó đi, dừng mà nghỉ ngơi,
ngày sau có việc, rồi mới dùng họ, đấy gọi là dùng an ủi để sai dân vào chỗ khó
khăn, dân quên cái chết vậy". Do đó bèn bãi binh. Lại dâng sớ nói:
"Nên theo lễ cũ, phát tang vì đại thần, dâng quả ở tông miếu". Việc
đều được làm. Lại dâng sớ bày việc sửa chính trị nói: "Trừ chức quan không
có việc làm, giảm bổng lộc của chức quan làm việc không nhanh nhẹn, dừng cái
phí tổn của cấp lương, thu các chức quan nhàn rỗi; khiến cho quan lại phải có
nhiệm vụ, làm đúng việc của mình, làm việc mới được nhận bổng lộc, muốn có lộc
phải gắng sức làm, đấy là phép thường thời xưa, ngày nay nên làm theo. Quan ít
mà lộc dày thì tiền phí của công ít, chí làm quan được khuyến khích, đều phát
huy tài sức, chẳng ai dựa dẫm nhau. Xét lời tấu mà nói, lấy công để thử, xem họ
có tài hay không, đều xét ở trong lòng của Đế. Cho nên thời Đường, Ngu đặt quan
phân chức, ra lệnh Công khanh đều theo đúng việc của mình rồi mới chọn người
giỏi làm quan Nạp ngôn, nay còn chép trong sách Thượng thư, đấy là để đề ra và
thu nhận lệnh của Đế mà thôi. Thời Hạ, Ân không thể rõ hết. Chương Cam thệ
viết: 'Người coi sáu việc', đấy là nói Lục khanh cũng là người coi việc. Quan
chức của nhà Chu thì đầy đủ rồi, năm ngày đợi
chầu, các Công khanh Đại phu đều đến, quan Tư sĩ xét chức vị của họ. Ghi chép
về họ nói: 'Ngồi mà bàn việc, gọi là Vương công; đề ra mà làm, gọi là Sĩ Đại
phu'. Đến đầu thời Hán, dựa theo thời trước, Công khanh đều tự mình lên chầu
bàn việc, cho nên Cao Tổ tự thân thu nạp Chu Xương phản loạn, Vũ Đế có thể nghe
Cấp Ảm dâng tấu. Tuyên Đế sai Công khanh năm ngày chầu một lần, Thành Đế bắt
đầu đặt năm quan Thượng thư. Từ đó suy kém, lễ chầu bèn bỏ sót. Nên lập lại lễ
nghi năm ngày đợi chầu, khiến cho Công khanh, Thượng thư đều để ra công việc.
Khiến cho lễ đã bỏ được lập lại, tỏ rõ nghiệp thánh, đấy thực gọi là tiếng đẹp
mà tốt lành vậy".
[32] Cha
Túc là Lãng gửi thư cho Hứa Tĩnh nói: "Túc sinh ở quận Cối Kê".
Giữa năm
Thanh Long, Sơn Âm Công hoăng, là vua Hán vậy. Túc dâng sớ nói: "Xưa nhà
Đường nhường ngôi cho nhà Ngu, nhà Ngu nhường ngôi cho nhà Hạ, đều để tang ba
năm rồi mới lên ngôi Thiên tử. Do đó hiệu Đế không xấu, lễ vua vẫn còn. Nay Sơn
Âm Công kính nhận mệnh trời, thuận theo lòng mong mỏi của dân, truyền ngôi cho
nhà Đại Ngụy, lui giữ ngôi khách. Công vâng lệnh nhà Ngụy, không dám không dốc
hết lòng. Nhà Ngụy đối đãi Công kính trọng nhưng không thần phục. Nay đến lúc
hoăng, theo phép mặc áo liệm phải có các đồ xe ngựa chở đi, đều giống với bậc
Vương, cho nên người gần xa trông mong, cho là tốt đẹp. Vả lại nhà Hán dùng
hiệu của Đế hoàng, hiệu là Hoàng đế, có tên gọi khác là Đế, không có tên gọi
khác là Hoàng, vậy thì Hoàng lè tên gọi có vẻ khinh thường vậy. Cho nên vào
thời Cao Tổ, mỗi đất không có hai Vương, cha của Cao Tổ vẫn sống mà vẫn gọi là
Hoàng, nói rõ không phải là cái kị của hai Vương. Huống chi ngày nay để tặng
hiệu lúc chết, nên gọi là Hoàng để ghép với tên thụy". Minh Đế không ưng
gọi là Hoàng, bèn truy tặng thụy là Hán Hiếu Hiến Hoàng Đế. [33]
[33] Tôn
Thịnh nói: "Người hóa hợp với thần gọi là Hoàng, người đức hợp với trời
gọi là Đế. Cho nên Tam Hoàng đặt hiệu, Ngũ Đế nối theo. Vậy thì xưng gọi là
Hoàng là cao đẹp hơn Đế vậy. Túc cho là khinh thường, cũng chẳng lầm sao"!
Thần là Tùng Cho cho rằng: Thời xa xưa nói là Hoàng Hoàng Hậu Đế, sau đó nói về
Tam, Ngũ, Tiên Hoàng Hậu Đế, đúng như lời Thịnh. Nhưng các vị Đế của nhà Hán,
dẫu tôn cha là Hoàng, nhưng thực là tôn quý nhưng không có ngôi vị thực, ngôi
cao mà không có dân, nếu sánh với ngôi Đế, há chẳng phải là coi thường sao! Nhà
Ngụy noi theo lễ của nhà Hán, tên hiệu không đổi. Hiếu Hiến Đế băng, há không
xét kĩ lễ nghi thời xưa? Lời mà Túc nói có lẽ là theo phép chế nhà Hán mà nói
thôi. Nói Túc là lầm, là cợt nhà Hán, không phải là trách Túc vậy.
Sau đó
Túc làm Thường thị, lĩnh chức Bí thư giám, kiêm chức Sùng văn quan Tế tửu. Giữa
năm Cảnh Sơ, xây nhiều cung điện, dân bỏ việc cày cấy, chẳng theo tín ước, giết
chóc vội vã. Túc dâng sớ nói: "Đại Ngụy nhận ngôi cao của trăm Vương, dân
sống chẳng mấy, can qua chưa dừng, nay đúng là lúc nên cho dân nghỉ ngơi để làm
yên lòng gần xa vậy. Việc cất chứa và cho dân nghỉ ngơi là cốt ở việc giảm lao
dịch và chăm trồng trọt. Nay cung điện chưa thành, công nghiệp chưa xong, mở
phát vận chuyển, thay nhau cung ứng, cho nên đinh phu mệt mỏi vì gắng sức làm,
người cày cấy rời khỏi ruộng đồng, người trồng lúa ít ỏi, người ăn lúa lại
nhiều, lúa cũ đã hết, lúa mới lại chẳng có, đấy là cái họa lớn của nhà nước,
không phải là kế lớn của việc dự bị vậy. Nay có ba, bốn vạn người làm thì điện
Cửu Long đủ để yên thân, trong đó đủ để đặt sáu cung. Điện Hiển Dương lại sắp
dựng xong, chỉ có điện Thái Cực về phía trước là việc còn lớn, nay lại đang
buổi rét đậm. Mong Bệ hạ ban ân đức, hạ chiếu hiền, thương xót cái khó nhọc của
dân phu, nghĩ đến việc không được cung cấp của triệu dân, làm cho quân sĩ được
ăn nhờ vào kho lúa, không phải dùng lúc gấp gáp, chọn ra đinh tráng, lựa giữ
vạn người, lệnh hẹn một kì mà thay nhau, đều biết lúc nghỉ có ngày thì chẳng ai
không vui lòng làm việc, khó nhọc cũng không oán vậy. Tính ra một năm có ba
trăm sáu mươi vạn phu, cũng không cho là ít. Những việc đáng phải một năm làm
xong, phải gần ba năm. Chia sai người còn lại, khiến cho họ đều cày cấy, đấy là
lế không ép đến đường cùng vậy. Kho có thóc dư, dân có sức thừa; lấy đó để xây
dựng, công nào chẳng xong? Lấy đó giáo hóa, giáo hóa nào chẳng nên? Giữ tín với
dân là điều quý lớn của nhà nước vậy. Trọng Ni nói: 'Từ xưa đều có cái chết,
dân không tin thì không xong'. Một nước Tấn nho nhỏ, một Trùng Nhĩ cỏn con,
muốn dùng dân của mình, trước phải giữ tín, cho nên dân nguyện giúp đỡ, tin
tưởng mà theo về, có thể đánh một trận mà làm Bá, đến nay vẫn được khen. Trước
đây xe vua đang đến Lạc Dương, phát dân làm doanh, quan Hữu tư lệnh làm doanh
xong thì bãi. Đã xong, lại tiện sai dân làm, không lệnh như hẹn. Đấy là quan
Hữu tư ham cái lợi trước mắt mà không lo nghĩ cho thể diện
của nhà
nước vậy. Thần ngu cho rằng từ nay về sau, dẫu là sai khiến dân, phải tỏ rõ
lệnh, khiến cho đúng hẹn. Nếu có việc đến nữa, vẫn phải sai lại thì không được
lỗi tín. Còn các hình phạt mà Bệ hạ tự xử đoán, đều là quan có tội, kẻ đáng
chết vậy. Nhưng dân chúng không biết, đấy gọi là vội vã vậy. Cho nên mong Bệ hạ
hạ lệnh đó cho quan lại mà làm rõ tội của họ, cân nhắc tội chết của họ, khiến
cho không có vết nhơ ở cung cấm và không có nỗi nghi ngờ ở gần xa. Vả lại mạng
người là rất quý, sinh thì khó mà giết thì dễ, khí hết thì không sống được, cho
nên bậc thánh hiền quý mạng người. Mạnh Kha nói: 'Giết một người không có tội
để lấy thiên hạ là việc người có lòng nhân không làm'. Thời Hán có kẻ phạm vào
xe ngựa của nhà vua khiến cho mọi người sợ hãi, Đình úy Trương Thích Chi tấu
xét tội phạt trả tiền, Văn Đế cho là cách xét tội ấy quái lạ dễ dãi, nhưng
Thích Chi nói: 'Đang lúc này, Nhà vua sai giết kẻ đó là xong. Nay giao cho Đình
úy. Đình úy là cái cân bằng của thiên hạ. Nếu chỉ để lệch một bên, mà thiên hạ
dùng hình pháp đều là cân nhắc nặng nhẹ, thì dân có chỗ nào để đặt chân tay'? Thần
cho rằng làm mất lẽ phải không phải là cái mà bậc trung thần nên bày tỏ vậy.
Đình úy là quan của Thiên tử, vẫn không nên làm mất cân bằng, vậy mà thân của
Thiên tử, há lại để sai lầm sao? Cái trọng ấy là vì mình, nhưng lại coi thường
vua, đấy là rất bất trung vậy. Chu Công nói: 'Thiên tử không bừa; nói thì có
sách sử chép lại, người thợ đọc lại, kẻ sĩ nói lại'. Nói mà không bừa, huống
chi là làm? Cho nên lời nói của Thích Chi không nên không xét, điều răn của Chu
Công không nên không theo". Lại nói: "Các loài chim thú không dùng
được, các đồ tổn phí của người lao dịch, rơm lúa, đều nên bãi bỏ".
Đế từng
hỏi nói: "Thời Hán Hoàn Đế, Bạch Mã Lệnh là Lí Vân dâng thư nói: 'Đế là lẽ
phải vậy. Nhưng Đế không muốn lẽ phải' Nay sao không chết được"? Túc đáp
nói: "Đấy chỉ là nói tiết tháo nghịch hay thuận. Ý gốc của nó là đều muốn
dốc hết lòng, mong sửa vá đất nước. Vả lại cái uy của Đế hơn cả sấm sét, giết
một kẻ thất phu không khác giết một con kiến, lấy gì để tỏ rõ là nghe theo lời
nói thẳng, mở rộng ân đức ra thiên hạ? Cho nên thần cho rằng giết kẻ đó không
phải là đúng vậy". Đế lại hỏi nói: "Nguyên nhân Tư Mã Thiên bị hình
phạt là trong lòng có ý oán giận, viết Sử kí không chê bai Hiếu Vũ Đế, khiến
cho người ta phải nghiến răng?". Đáp nói: "Tư Mã Thiên chép sử, không
chép cái đẹp trống rỗng, không che dấu cái xấu. Lưu Hướng, Dương Hùng kính phục
Tư Mã Thiên giỏi viết lách, khen là có cái tài của viên quan tốt, gọi là chép
thật. Hán Vũ Đế nghe nói Tư Mã Thiên chép Sử kí, lấy quyển Hiếu Cảnh bản kỉ và
bản kỉ về minh để xem, do đó cả giận, đẽo mà vứt đi. Đến nay hai Bản kỉ ấy
không còn chép thật nữa. Sau lại gặp việc của Lí Lăng mới bắt Thiên vào ngục
thiến. Đấy là người ta oán giận Vũ Đế, mà không oán giận Thái sử Tư Mã Thiên
vậy".
Năm
Chính Thủy thứ nhất, ra làm Quảng Bình Thái thú. Có việc lại gọi về, bái làm
Nghị lang. Chốc lát, làm Thị trung, chuyển làm Thái thường. Bấy giờ Đại Tướng
quân Tào Sảng chuyên quyền, tin dùng bọn Hà Yến, Đặng Dương. Túc cùng Thái úy
Tưởng Tế, Tư nông Hoàn Phạm bàn về chính trị thời này, Túc nghiêm mặt nói:
"Bọn này là bọn Hoằng Cung, Thạch Hiển, lại nói lời gian dối"! Sảng
nghe nói, răn bảo bọn Hà Yến nói: "Nay nên cùng cẩn thận! Công khanh đã
sánh các ông là kẻ xấu thời nay rồi". Vì bị bắt lỗi ở tông miếu mà bãi chức.
Sau làm Quang lộc huân. Bấy giờ có hai con cá dài một thước tụ ở nhà kho chứa
khí giới, quan Hữu tư cho là điềm lành. Túc nói: "Cá sống ở vực mà nhảy
lên nhà kho, các loài có vảy mất chỗ ở vậy. Tướng ngoài biên sắp có biến loạn
bỏ áo giáp chăng"? Sau đó quả đúng có trận thua miền Quan Đông. Dời đến
làm Hà Nam Doãn. Năm Gia Bình thứ sáu, giữ cờ tiết, kiêm chức Thái thường, vâng
lệnh hộ xe vua, đón Cao Quý Hương Công ở Nguyên Thành. Năm đó có khí trắng rợp
trời, Đại Tướng quân Tư Mã Cảnh Vương hỏi nguyên nhân với Túc, Túc đáp nói:
"Đấy là cờ của Xi Vưu vậy, miền đông nam có loạn chăng? Ông nên tu thân để
làm yên trăm họ thì thiên hạ vui vẻ theo về người có đức, kẻ gây loạn tất diệt
vậy". Mùa xuân năm sau, Trấn đông Tướng
quân Vô
Khâu Kiệm, Dương Châu Thứ sử Văn Khâm phản, Cảnh Vương hỏi Túc nói: "Hoắc
Quang cảm kích lời nói của Hạ Hầu Thắng, bắt đầu trọng kẻ sĩ học đạo Nho, có vẻ
tốt vậy. Giữ nước yên vua, kế sách ở đó sao"? Túc nói: "Xưa Quan Vũ
đem quân của Kinh Châu bức hàng Vu Cấm ở bến sông Hán, bèn có chí lên phía bắc
tranh thiên hạ. Sau đó Tôn Quyền đánh úp bắt được tướng sĩ người nhà của Quan
Vũ, quân sĩ của Vũ một sớm tan vỡ. Nay cha mẹ vợ con của tướng sĩ vùng Hoài Nam đều ở tại
Trung Châu, nếu nhanh đem quân giữ gìn, khiến cho chúng không đi được thì tất
có cái thế vỡ lở của Quan Vũ vậy". Cảnh Vương nghe theo, bèn phá Kiệm,
Khâm. Sau chuyển làm Trung lĩnh quân, thêm chức Tán kị Thường thị, tăng thêm ba
trăm họ, cùng hai nghìn hai trăm hộ trước. Năm Cam Lộ thứ nhất hoăng, học trò
đến điếu tang đến mấy trăm người. Truy tặng chức Vệ Tướng quân, thụy là Cảnh
Hầu. Con là Uẩn thay. Uẩn hoăng, không có con trai, nước dứt. Năm Cảnh Nguyên
thứ tư, phong con của Túc là Tuân làm Lan Lăng Hầu. Giữa năm Hàm Hi, lập ra năm
thứ bậc, vì Túc công lớn ở triều trước, đổi phong Tuân làm Thừa Tử. [34]
[34] Thế
ngữ viết: "Tuân tự Lương Đại, có hiểu biết, tại triều đình ngay thẳng. Làm
qua các chức Hà Nam Doãn, Thị trung, chỗ nào cũng được khen. Lại có lòng vì
việc công, có tiết tháo kính cẩn. Lịch Lệnh là Viên Nghị lấy ngựa khỏe tặng,
biết Nghị tham tiền, không nhận. Nghị cuối cùng vì tham tiền mà vỡ nghiệp. Lập
đạo học của hai nhà, tôn sùng năm sách kinh, đều do Tuân dựng nên. Chết vào lúc
hơn bốn mươi tuổi, tặng chức Xa kị Tướng quân. Con gái của Túc gả cho Tư Mã Văn
Vương, tức Văn Minh Hoàng hậu, sinh ra Tấn Vũ Đế, Tề Hiến Vương Du". Tấn
chư công tán viết: "Anh em Tuân có tám người. Những người thành đạt có:
Kiền tự Cung Tổ, có công lao được khen, làm đến Thượng thư. Em là Khải tự Quân
Phu, thuở nhỏ có tài sức nhưng không tiết kiệm, kết giao với Vệ úy Thạch Sùng,
đều xa xỉ có tiếng trên đời, cuối cùng làm Hậu Tướng quân. Con của Kiền là
Khang, Long làm quan cũng thành đạt, được người đời sau kính trọng".
Trước
đây, Túc thích cái học của họ Giả, họ Mã mà không ưa cái học của họ Trịnh, chọn
tụ các sách khác nhau mà giải thích các sách Thượng thư, Thi, Luận ngữ, Tam lễ,
Tả thị và soạn định Dịch truyện của cha là Lãng viết, đều đặt ở nhà học. Các
sách mà Túc viết bàn về điển chế, giao tế, tông miếu, úy kỉ, khinh trọng, cả
thảy hơn trăm chương. Bấy giờ người huyện Lạc An là Tôn Thúc Nhiên [35] chịu
học ở nhà của Trịnh Huyền, người đời khen là bậc Nho lớn của miền đông. Gọi làm
Bí thư giám, không đến. Túc tụ luận chứng của thánh nhân để hỏi vặn Huyền, Thúc
Nhiên bèn bác bỏ mà giải thích cho Túc hiểu, cùng viết Chu dịch, Xuân thu liệt,
ba truyện Mao thi, Lễ kí, Xuân thu, các chú giải Quốc ngữ, Nhĩ nhã, lại có sách
chú giải hơn mười chương. Từ thời đầu nhà Ngụy gọi kẻ sĩ người quận Đôn Hoàng
là Chu Sinh Liệt, [36] bọn Đại Tư nông người quận Hoằng Nông là Đổng Ngộ thời
Minh Đế cũng thay nhau chú giải kinh truyện, đều truyền cho đời. [37]
[35]
Thần Tùng Chi xét: Thúc Nhiên giống tên của Tấn Vũ Đế, cho nên chỉ nói tên chữ.
[36]
Thần Tùng Chi xét: Người này họ Chu Sinh, tên Liệt. Luận ngữ tập giải của Hà
Yến có nói các chú gi ải khác của Liệt thấy ở sách Trung kinh bạ thời Tấn Vũ
Đế.
[37]
Ngụy lược viết: "Ngộ tự Quý Trực, tính chất phác mà hiếu học. Giữa năm
Hưng Bình, vùng Quan Trung nhiễu loạn, cùng anh là Quý Trung nương dựa Tướng
quân Đoàn Ổi, chọn lúa vác đi bán, lại thường mang giữ sách kinh, lúc rỗi thì
tập đọc. Anh Ngộ cười nhưng Ngộ không đổi. Đến đầu năm Kiến An, rường mối vừa
lập lại, quận cử làm Hiếu liêm, rồi chuyển làm Hoàng môn thị lang. Bấy giờ Hán
Đế giao chính trị cho Thái Tổ, Ngộ ngày đêm hầu giảng, được Thiên tử tin yêu.
Đến năm thứ hai mươi hai, trăm quan trong đất Hứa làm trái chế lệnh, Ngộ dẫu
không cùng mưu
nhưng
vẫn bị chọn đến đất Nghiệp, chuyển làm quan nhũng tán. Thường theo Thái Tổ đánh
phương tây, đi đường từ bến Mạnh Tân qua mộ của Hoằng Nông Vương. Thái Tổ do dự
muốn vào thăm, ngoảnh hỏi tả hữu, tả hữu chẳng đáp, Ngộ bèn đem chương Việt
sách ra giảng nói: 'Nghĩa của sách Xuân thu là vua của một nước lên ngôi chưa
được một năm mà chết thì chưa thành vua. Hoằng Nông Vương lên ngôi đã ngắn, lại
bị bầy tôi bạo ngược ngăn chế, bị giáng đến nước phiên, không nên đến thăm'.
Thái Tổ bèn qua. Giữa năm Hoàng Sơ, ra làm Quận thú. Thời Minh Đế, vào làm Thị
trung, Đại Tư nông. Được mấy năm thì bệnh chết. Trước đây, Ngộ thích đọc sách
Lão Tử, viết chú giải sách Lão Tử. Lại thích đọc Tả thị truyện, lại chép bằng
mực đỏ để phân biệt cái khác. Người đời có kẻ theo học, Ngộ không chịu dạy mà
nói: 'Nay phải đọc trăm chương trước'. Lại nói: 'Đọc trăm chương sách thì tự
thấy nghĩa của nó'. Người theo học nói: 'Khó nỗi không có nhiều ngày'. Ngộ nói:
'Nên chọn lúc tam dư'. Có người hỏi ý của tam dư, Ngộ nói: 'Mùa đông hằng năm
có ngày rỗi, buổi đêm hằng ngày có giờ rỗi, lúc mưa dầm có giờ rỗi vậy'. Do đó
ít học trò theo học Ngộ, không có ai được truyền cho chữ mực đỏ". Thế ngữ
viết: "Con của Ngộ là Tuy, làm đến Bí thư giám, cũng có tài học. Công thần
của Tề Vương Quýnh là Đổng Ngải, tức con của Tuy vậy". Ngụy lược cho rằng
bảy người bọn Ngộ và Giả Hồng, Hàm Đan Thuần, Tiết Hạ, Ngôi Hi, Nhạc Tường là
nhà Nho, lời đề tựa nói: "Từ đầu năm Sơ Bình đến cuối năm Kiến An, thiên
hạ vỡ lở, lòng người lìa tan, rường mối đã suy, đạo Nho càng suy hơn. Đến từ
sau năm Hoàng Sơ thứ nhất, vua mới lập lại, bắt đầu xóa tẩy bụi bẩn của đạo
học, đắp vá cái tổn khuyết của bia đá, sắm sửa quan chép sách trong hàng quan
Bác sĩ, dựa vào lịch giáp ất của nhà Hán để xem xét. Báo rõ cho châu quận biết,
người muốn theo học đều sai đến nhà Thái học. Nhà Thái học bắt đầu mở, có hàng
trăm học trò, đến giữa năm Thái Hòa, năm Thanh Long, trong ngoài nhiều việc,
lòng người tránh đến. Dẫu tính không giải thích cái đạo học nhưng nhiều người
xin đến nhà Thái học. Bọn học trò đến nhà Thái học có đến hàng nghìn người, mà
tài học của bọn Bác sĩ đều là sơ sài, không có gì dạy học trò. Học trò vốn cũng
bị gọi đi lao dịch, lại không thể học tập. Đông đến xuân qua, hàng năm như thế.
Lại dẫu có kẻ giỏi nhưng ở trong đài gác rất cao, lại thêm không nghĩ đến nghĩa
lớn, mà hỏi cách viết chữ chấm mực sơ qua mà thôi, trăm người học cùng mà người
hiểu biết chưa đến mười người. Do đó kẻ sĩ có chí học bèn ngày càng suy kém, mà
kẻ học tìm cái hư rỗng đều hùa theo nhau. Giữa năm Chính Thủy có chiếu bàn ở
đài Viên Khâu, mời gọi học sĩ. Bấy giờ quan Lang cùng quan Tư đồ lĩnh hơn hai
vạn quan lại, dẫu đã chia ra nhưng gặp ở kinh sư chỉ còn gần vạn người, mà
người đem sách và bàn bạc không có mấy người. Lại bấy giờ các quan Công khanh
trở xuống trong triều đình có hơn bốn trăm người, trong đó người biết cầm bút
viết chưa đến mười người, phần nhiều theo nhau ăn no rồi lui về. Ô hô! Nghề học
rơi rụng lại đến nước ấy. Cho nên trong lòng thường canh cánh quý trọng mấy vị
ấy, ở các chỗ ngoài vùng hoang phục mà vẫn giữ chí thật thà vậy". Giả Hồng
tự Thúc Nghiệp, người huyện Tân Phong quận Kinh Triệu. Ham học có tài, mà đặc
biệt giỏi đọc Xuân thu Tả truyện. Đầu năm Kiến An, làm quan ở quận, cử làm Kế
duyện, theo lời châu gọi. Bấy giờ trong châu các quan từ hàng Tham quân trở
xuống có hơn trăm người, chỉ có Hồng cùng người quận Phùng Dực là Nghiêm Bao là
có tài học cao nhất. Hồng qua làm quan Lệnh của ba huyện, chỗ đến liền dỡ bỏ
chuồng ngựa, tự thân dạy học trò. Sau đó Mã Siêu phản, Siêu bắt được Hồng, đem
đến huyện Hoa Âm, sai viết hịch bố cáo. Hồng bất đắc dĩ phải viết hịch. Tư đồ
Chung Do ở tại miền đông, biết lời hịch này, nói: 'Đấy là Giả Hồng viết vậy'.
Sau Siêu thua chạy, Thái Tổ mời Hồng làm Quân mưu duyện. Vẫn vì trước đây giúp
Siêu viết hịch bố cáo cho nên không theo về. Cuối cùng mới ra làm Âm Tuyền
Trưởng. Giữa năm Diên Khang, chuyển làm Tướng quốc của Bạch Mã Vương. Ưa nói
cười đùa. Vương Bưu cũng yêu thích văn học, thường kinh trọng Hồng hơn cả Tam
khanh. Được mấy năm thì bệnh chết, chết lúc hơn năm mươi tuổi. Người đời tiếc
Hồng không làm quan có lươgn đến hai nghìn thạch. Và Nghiêm Bao cũng làm quan
qua hai huyện, giữa năm Hoàng Sơ, vì có tài cao mà được làm Bí thư thừa, nhiều
lần tấu văn phú, Văn Đế cho là lạ. Ra làm Tây Bình Thái thú, chết lúc làm quan.
Tiết Hạ tự Tuyên Thanh, người quận Thiên Thủy. Học rộng có tài. Quận Thiên Thủy
trước đây có bốn họ là Khương, Diêm, Nhậm, Triệu thường được bầu chọn ở trong
quận, mà Hạ là con nhà họ lẻ, không chịu giáng phục. Bốn họ muốn cùng trị tội
Hạ, Hạ bèn trốn tránh, đi về phía đông đến kinh sư. Thái Tổ vốn biết tiếng Hạ,
gặp đãi Hạ rất có lễ. Sau bốn họ lại sai người bắt Hạ về, đi qua quận Dĩnh
Xuyên, bắt lấy trói vào ngục. Bấy giờ Thái Tổ đã ở tại Kí Châu, nghe nói Hạ bị
quận ấy bắt làm tin, vỗ tay nói: 'Hạ không có tội. Bọn trẻ con vùng Hán Dương
chắc muốn giết hắn thôi'! Bèn báo cho quận Dĩnh Xuyên sai phải thả Hạ ra, gọi đến
làm Quân mưu duyện. Văn Đế lại khen tài của Hạ, giữa năm Hoàng Sơ làm Bí thư
thừa. Đế hễ cùng Hạ bàn luận sách truyện, chưa từng không hết ngày vậy. Hễ gọi
mà không nói tên, chỉ gọi là Tiết Quân. Nhà của Hạ rất nghèo, Đế lại thấy áo Hạ
mỏng, cởi áo bào mà mình mặc ban cho Hạ. Sau đó Chinh đông Tướng quân Tào Hưu
đến chầu, bấy giờ Đế đang cùng Hạ bàn luận, mà ở ngoài phòng Hưu đã đến, Đế dẫn
vào. Ngồi yên, Đế ngoảnh nhìn Hạ mà nói với Hưu nói: "Ông này là Bí thư
thừa Tiết Tuyên Thanh người quận Thiên Thủy, nên cùng nói chuyện". Hạ được
đãi như thế. Rồi muốn dùng Hạ, gặp lúc Văn Đế băng. Đến giữa năm Thái Hòa, từng
vì việc công mà dời Lan Đài. Lan Đài là đài tự làm vậy, là sở của Bí thư thừa,
nói là Hạ không thể dời vậy, nếu dời thì bị tội. Hạ báo nói: "Lan Đài là
đài ở ngoài, Bí thư là gác trong, đài và gác là một vậy, sao lại không dời cho
nhau được"? Lan Đà dời mà không có cách gì bắt bẻ được. Từ đó về sau, bèn
cho là thường. Mấy năm sau bệnh chết, lệnh con của Hạ không về quận Thiên Thủy.
Ngôi Hi tự Tử Nha, người quận Kinh Triệu. Thuở nhỏ ham học. Giữa năm Sơ Bình,
Tam phụ loạn, Hi đến phía nam làm khách ở Kinh Châu, không vì nhiễu loạn, mang
giữ sách kinh, hễ lúc rỗi chọn lúa thì đem ra tập đọc. Thái Tổ định Kinh Châu,
gọi làm Quân mưu duyện. Giữa năm Hoàng Sơ, làm Lang trung của Tiêu Vương. Vương
vốn nghe nói Hi là nhà Nho, thường để lòng theo học. Hi cũng cung kính để dạy
Vương, do đó được ban tặng hậu. Xưng bệnh về, bái làm Lang trung. Hơn tám mươi
tuổi, xưgn già về nhà, người đến học Hi rất đông. Hi đã rõ kinh, lại giỏi xem
sao, thường ngưỡng xem thiên văn, than thả bảo Ngư Hoạn nói: "Can quan
trong thiên hạ vẫn còn chưa dứt như thế sao"? Hoạn lại thường theo hỏi Tả
thị truyện, Hi đáp nói: "Muốn biết cái tinh vi chẳng gì bằng đọc kinh Dịch,
phép tắc của người đời chẳng gì bằng đọc kinh Lễ, biết nhiều cây cỏ sông núi
chẳng gì bằng đọc kinh Thi, sách Tả thị chẳng qua là sách đánh nhau thôi, không
đủ gọi là ý hay". Hoạn nhân đó theo hỏi kinh Thi, Hi giảng nghĩa của bốn
nhà Tề, Hàn, Lỗ, Mao, không ràng buộc với câu văn, có chỗ như đọc qua. Lại soạn
ra phần chú giải các kinh có mấy chục vạn chữ; chưa kịp sửa chữa thì bị điếc,
mấy năm sau bệnh chết vậy. Việc về Hàm Đan Thuần chép tại truyện Vương Xán,
việc về Tô Lâm chép tại truyện Lưu Thiệu, Cao Đường Long, việc về Nhạc Tường
chép tại truyện Đỗ Kì. Ngư Hoạn nói: "Việc học vốn do ở người, tựa như
nhuộm màu xanh vào tơ trắng sao! Cho nên dẫu là Trọng Ni vẫn nói: 'Ta không
phải sống mà biết hết được'. Huống chi là bọn có phẩm hạnh tầm thường! Vả lại
người đời có kẻ không quý ở việc học cũng vì có nguời thấy nói 'nhẩm đọc ba
trăm kinh Thi nhưng không đối đáp được ở bốn phương' vậy. Ta cho rằng đấy là
hạng dưới thôi, không đáng bằng sách Trung dung trở lên, là những sách vốn có
chất hay, lại thêm có văn nữa! Mấy người hiền ngày nay, ta cũng biết qua vậy.
Xét tài làm việc của họ, thực là không có nhiều. Nhưng giữ việc học không ngừng
thì trên được Đế Vương khen, dưới là nhà Nho nổi tiếng của nhà nước, đấy không
phải là do học sao? Do đó thấy rằng, việc học là lâu dài há có ngừng nghỉ
sao"?
Bàn nói:
Chung Do thông đạt lí lẽ, Hoa Hâm trong sạch đức thuần, Vương Lãng văn học dồi
dào, thực đều là bậc anh hoa của một thời vậy. Nhà Ngụy vừa lập, bắt đầu từ ba
vị này mới hưng thịnh đấy! Vương Túc thẳng thắn nghe nhiều, có thể kế thừa cha!
[38]
[38] Lưu
Thực cho rằng: Túc thẳng thắn thời kẻ trên mà ưa kẻ dưới nịnh bợ mình, đấy là
một cái trái ngược. Tính thích vinh quý mà không tìm cái tùy tiện, đấy là hai
cái trái ngược. Tham tiếc tài vật mà tu thân không nhơ bẩn, đấy là ba cái trái
ngược.
NGỤY THƯ QUYỂN 14 - Trình Quách Đổng Lưu Tưởng
Lưu truyện Trình Dục, Quách Gia, Đổng Chiêu, Lưu Diệp,
Tưởng Tế, Lưu Phóng
LƯU DIỆP TRUYỆN
Lưu Diệp
(Hoa) tự Tử Dương, người ở huyện Hoài Nam quận Thành Đức. Là dòng dõi Lăng
Vương đời Hán Vũ Đế. Cha là Phổ, mẹ là Tu, sinh được Hoán và Diệp. Năm Hoán lên
chín tuổi, Diệp được bảy tuổi, thì mẹ ốm nặng. Lúc lâm chung, trối trăng lại
với Hoán và Diệp rằng: "Người hầu của cha các ngươi, hay nói lời sàm nịnh
làm hại đến tính mệnh. Sau khi ta chết, sợ rằng trong nhà có loạn mất. Mai sau
chúng mày có thể trừ bỏ nó đi, thì ta ắt không phải hối hận vậy."
Năm Diệp
được 13 tuổi, bảo với anh là Hoán rằng: "Lúc mẹ mất đã có lời dăn dạy, rất
nên nghe theo." Hoán nói: "Sao có thể làm vậy." Diệp liền vào
nhà lấy dao giết chết người hầu nọ, rồi đi thẳng tới bái lạy trước mộ mẫu thân.
Khi đại giá của Phổ trở về, người nhà đem chuyện bẩm với Phổ. Phổ giận, sai
người đuổi theo Diệp. Diệp về nhà lạy tạ rằng: "Lúc mất mẫu thân đã có lời
dăn dạy, đã vâng mệnh mà chẳng hỏi ý của cha cứ tự tiện thi hành, xin được chịu
phạt" Phổ trong lòng lấy làm lạ, bèn không trách cứ gì nữa. Hứa Thiệu ở
Nhữ Nam
có tiếng là biết người, đang tránh loạn ở đất Dương Châu, khen rằng Diệp là
người có tài giúp đời.
Kẻ sĩ ở
Dương Châu đa phần là những kẻ ít có lòng hào hiệp mà lại giảo quyệt, như bọn
Trịnh Bảo, Trương Đa, Hứa Kiền đều là hạng người ấy. Bảo rất kiêu căng mà quả
quyết, tài lực quá người thường, khắp vùng ấy đều kinh sợ. Bảo tính đốc xuất cả
trăm họ người Việt (1) đến Giang Biểu, nhân thấy Diệp có danh tiếng là bậc cao
môn, muốn cưỡng bức Diệp đến để bàn định mưu ấy. Diệp bất giờ mới hơn hai mươi
tuổi, trong lòng lấy làm lo lắng, lại chưa có nơi để nương cậy. Gặp lúc Thái tổ
sai sứ đến Dương châu, hỏi xét nhân tài xứ ấy. Diệp lại diện kiến, bàn luận
chuyện thế sự, lưu lại ở đó mấy ngày. Bảo quả nhiên đem mấy trăm người dắt trâu
khiêng rượu đến dò xét ý tứ sứ giả, Diệp lệnh cho tiểu đồng cùng với người nhà
ngồi đợi ở ngoài cửa, cho bày sẵn cơm rượu; cùng với Bảo ở trong nhà yến ẩm.
Lại ngầm chọn những người khoẻ mạnh, định lấy tiếng ném chén làm hiệu để chém
Bảo. Bảo vốn không ham rượu, lại rất tinh ý, không thể ném chén làm hiệu được.
Diệp liền tự rút bội đao (2) chém chết Bảo, cắt lấy thủ cấp rồi bảo với đám
quân đi theo, rằng: "Thái tổ đã có lệnh, ai dám động thủ, cũng xử đồng tội
với Bảo." Chúng đều kinh hoảng, chạy trốn về quân doanh. Trong doanh trại
của Bảo có đến mấy ngàn tinh binh, Diệp sợ chúng làm loạn, bèn cưỡi ngựa của
Bảo, đem theo mấy đứa tiểu đồng, đến thẳng doanh trại của Bảo, gọi mấy người
đứng đầu đến, bảo rõ những điều hoạ phúc, chúng đều khấu đầu mở cửa trại đón
Diệp. Diệp phủ dụ yên uỷ đâu vào đấy, tất cả đều bội phục, tiến cử Diệp lên làm
chủ soái.
Diệp
thấy Hán thất đã suy vi, chỉ riêng đám binh thuộc của mình, chẳng giúp được gì
về binh lực, bèn đem đám thuộc hạ ấy theo về với Thái thú Lư Giang là Lưu Huân.
Huân lấy làm lạ về việc ấy, Diệp nói: "Bảo không tuân theo phép nước, mọi
người tố cáo rằng Bảo chỉ lấy việc cướp bóc làm lợi, kẻ hèn này vốn vô tư, chỉ
muốn chỉnh đốn lại vương pháp, nhân vì có lòng oán giận đã lâu, việc chỉ có như
thế mà thôi".
Bấy giờ
Huân nắm giữ binh cường ở khắp vùng Giang Hoài. Tôn Sách ghét lắm, nhưng lại tỏ
vẻ nhún nhường sai sứ đến tặng cho vàng lụa rất hậu, còn gửi thư cho Huân
thuyết rằng: "Bọn tông dân ở Thượng Liễu, đã mấy lần lừa dối hạ quốc, tôi
hận việc ấy đã mấy năm nay. Muốn đến đánh, nhưng đường đất chẳng tiện, có ý nhờ
nước lớn đánh dẹp nơi ấy. Thượng Liễu là vùng rất giàu có, lấy được đất ấy có
thể khiến trong nước thêm giàu có vậy, xin được xuất binh làm ngoại viện."
Huân tin lời, lại được Sách tặng cho vàng bạc vải lụa, rất lấy làm vui thích.
Người khắp trong ngoài đều đến mừng, chỉ riêng có Diệp là không. Huân hỏi việc
ấy thế nào, Diệp đáp rằng: "Đất Thượng Liễu tuy nhỏ, nhưng thành trì rất
kiên cố vững chắc, đánh khó mà lay chuyển, chẳng thể trong vòng một tuần (3) mà
lấy ngay được, như thế ắt binh ở ngoài mệt mỏi, mà trong nước lại hư tổn. Ví
như Sách thừa cơ tập kích ta, tất hậu phương chẳng thể giữ được. Tướng quân đã
tiến vào đất địch, chẳng thể quay về ngay. Nếu tướng quân xuất binh, hoạ ắt đến
ngay đó." Huân không nghe. Rồi hưng binh đánh Thượng Liễu, Sách quả nhiên
tập kích phía sau, Huân cùng đường, liền bỏ chạy đến chỗ Thái tổ.
Thái tổ
đến Thọ Xuân, bấy giờ ở vùng biên cảnh đất Lư Giang có bọn sơn tặc là Trần
Sách, quân lính đông đến mấy vạn người, cậy hiểm mà giữ. Trước đấy Thái tổ sai
thiên tướng đến đánh dẹp, không thắng được. Thái tổ hỏi thuộc hạ xem có thể
đánh được không, chúng đều thưa rằng: "Núi cao chót vót, vực sâu hiểm trở,
là những nơi dễ giữ mà khó đánh; dẫu có đánh thắng thì cái được chẳng đủ bù cái
mất, lấy được chỗ ấy cũng chẳng có ích gì." Diệp nói: "Bọn Sách chỉ
là lũ giặc cỏ, nhân lúc loạn lạc mà chiếm cứ nơi hiểm trở, ương ngạnh không
chịu khuất phục, nếu không phải người có tước mệnh đủ để thị uy khó mà thu phục
được. Ngày trước bởi thiên tướng binh lực ít, mà Trung Quốc còn chưa được yên,
cho nên Sách dám nương náu ở nơi hiểm mà cố thủ. Nay thiên hạ đã tạm yên ổn,
phủ dụ là việc sau, trừ địch là việc phải làm gấp. Kẻ sợ chết thường chạy theo
mối lợi, kẻ ngu dốt cũng làm như vậy. Xưa Quảng Vũ quân giúp Hàn Tín vạch kế
sách, ấy là uy danh đã đủ để trước hư trương thanh thế sau mới đánh dẹp mà thu
phục được nước lân bang. Huống chi với đức lớn của minh công, đánh dẹp phía
Đông thì phía Tây kinh sợ, đại binh đến nơi, lệnh truyền ra chỉ trong ngày,
quân doanh chỉ cần mở cửa là quân địch tự tan lở." Thái tổ cười nói:
"Lời khanh nói cũng giống với ý của ta vậy!". Rồi sai mãnh tướng đi
trước, đại quân theo sau, đến nơi đánh ngay được Sách, quả đúng như điều Diệp
đã tính. Thái tổ quay về, lấy Diệp làm Tư không Thương tào duyện.
Phó Tử
chép: Thái tổ cho triệu gọi Diệp cùng với Tưởng Tế, Hồ Chất ... tất cả là năm
người, đều là danh sỹ ở Dương Châu tới. Qua mỗi nơi xá đình (4) mấy người ấy
lại bàn chuyện, chưa từng bỏ sót buổi nào, đều bàn những chuyện quan trọng cả;
bên trong nhắc đến chuyện các bậc tiên hiền ở nước mình (5), việc chống giặc
giữ đất, việc tiến lui trong lúc hành quân thế nào, bên ngoài liệu địch mà biến
hoá, liệu lường hình thế quân địch thật giả ra sao, học thuật chiến tranh thế
nào, sớm tối thao thao bất tận. Duy có Diệp một mình nằm trong xe, thuỷ chung
không nói một lời. Tế lấy làm lạ bèn hỏi Diệp, Diệp đáp rằng: "Đối với bậc
minh chủ chẳng phải là người không thông thạo những việc ấy, cái sự sáng suốt
có thể học mà được hay sao?" Lúc diện kiến Thái tổ, Thái tổ quả nhiên hỏi
đến những bậc tiên hiền ở Dương Châu, hình thế giặc giã trong cõi. Bốn người
kia tranh nhau thưa, lần lượt nói những điều đã bàn lúc trước, lại kiến giải
đúng như thế, Thái tổ với mỗi người đều rất hài lòng, còn Diệp trước sau vẫn
không nói lời nào cả. Bốn người kia đều cười. Sau cùng thấy Thái tổ thôi không
hỏi gì nữa, Diệp bèn ví von những lời xa xôi để Thái tổ động tâm, Thái tổ hiểu
ngay được ý tứ. Diệp nói đến ba lần. Thái tổ có vẻ thích thú với những lời nói
xa xôi nên mới hỏi đến Diệp về các việc cần sự suy xét tinh tế, mỗi lời Diệp
đáp đều thấy ở đó sự khéo léo, chẳng phải là những lời tạp nhạp lúc ngồi bàn
chuyện phiếm. Thái tổ dò xét kỹ càng hết cả, rồi mới đi nghỉ, cho dùng bốn
người kia làm lệnh, riêng Diệp thì lấy làm tâm phúc tin dùng; mỗi khi có việc,
thường hỏi đến Diệp, có lúc một đêm gọi đến Diệp tới cả chục lần.
Thái tổ
đánh Trương Lỗ, chuyển Diệp sang làm Chủ bộ. Lúc đến được Hán Trung, gặp núi
cao khó vượt, quân lương lại thiếu thốn. Thái tổ nói: "Xứ này quả là nơi
hiểm ác của quốc gia, sao có thể đánh lấy được đây? Quân ta lương thảo không
đủ, chẳng bằng nên mau chóng lui binh." Muốn dẫn quân quay về, lệnh cho
Diệp đốc suất hậu quân, sai các đạo quân lần lượt rút lui. Diệp tính rằng Lỗ có
thể đánh được, lại thấy đường vận lương không thông, dẫu bỏ đi, quân lính chẳng
thể toàn vẹn được hết cả, liền thưa rõ ý ấy với Thái tổ rồi bẩm rằng:
"Chẳng bằng ta đánh đến cùng." Thái tổ bèn tiến binh, sai quân lính
bắn cung loạn xạ vào doanh trại của Lỗ. Lỗ bỏ chạy, Hán Trung bình định (6).
Diệp lại
tiến lên nói rằng: "Khi trước Minh công chỉ có 5.000 bộ tốt, mà bắt giết
Đổng Trác, phía Bắc phá Viên Thiệu, phía Nam dẹp Lưu Biểu, thu được chín châu
trăm quận, tám hướng mười phương, uy chấn thiên hạ, người ở cõi ngoài phải kinh
sợ. Nay lại lấy được Hán Trung, người Thục nghe tiếng gió mà kinh hoàng, sợ đến
vỡ mật, quân ta thuận thế tiến lên, xứ Thục có thể truyền hịch mà định được.
Lưu Bị vốn là bậc nhân kiệt trên đời, dùng mưu mẹo cướp lấy đất Thục, mới được
ít ngày, người Thục còn chưa phục. Ta mới phá xong Hán Trung, lòng người Thục
rung động, thế lực ắt suy giảm. Minh công là bậc sáng suốt, nhân lúc này hãy
thuận thế dẫn binh đánh dấn lên không thể không thành công. Nếu chúng ta trì
hoãn ít bữa, Gia Cát Lượng sáng suốt giúp việc trị quốc, Quan Vũ-Trương Phi
dũng trùm ba quân làm tướng, lòng dân xứ Thục đã yên, chiếm lấy nơi hiểm giữ
chắc chỗ trọng yếu, lúc ấy sẽ chẳng thể đánh lấy được nữa vậy. Việc hôm nay
không làm, ắt để mối lo về sau vậy." Thái tổ không nghe, dẫn đại quân quay
về.
Phó Tử
chép rằng: "Bảy ngày sau, có người Thục đến hàng thưa rằng: "Người
trong đất Thục một ngày mấy chục lần kinh sợ. Lưu Bị dẫu đã chém một số người
mà vẫn không thể dẹp yên được." Thái tổ mới gọi Diệp vào hỏi rằng:
"Nay còn có thể đánh được chăng?" Diệp thưa: "Nay xứ Thục đã tạm
yên, chưa thể đánh được."
Diệp từ
Hán Trung trở về, được làm Hành quân Trưởng sử, kiêm đốc trách quân đội. Năm
Diên Khang nguyên niên, Thục tướng Mạnh Đạt dẫn binh đến hàng. Đạt có phong tư
tài mạo, Văn Đế rất yêu mến, lấy Đạt làm Thái thú Tân Thành, thêm chức Tán kỵ
Thường thị. Diệp cho rằng "Đạt vốn không có lòng lo việc chu toàn, chỉ cậy
tài hay thuật giỏi, hẳn chẳng biết đến việc cảm kích ân huệ mà lo việc nghĩa.
Tân Thành tiếp giáp với hai xứ Ngô-Thục, ví như có biến, sẽ là mối lo cho quốc
gia vậy." Văn Đế thuỷ chung không chịu đổi ý, kết cục về sau Đạt làm phản
gây hại cho nước.
Phó Tử
chép: Khi trước, lúc Thái tổ còn sống, Nguỵ Phúng là người có danh vọng lớn, tứ
bậc khanh tướng đến người dưới đều khuynh tâm giao kết. Sau khi Mạnh Đạt bỏ Lưu
Bị theo về với Văn Đế, mọi người bàn luận phần nhiều xưng tụng rằng hai người
ấy liệu việc sánh được với Nhạc Nghị thuở trước. Diệp một lần diện kiến Phúng,
Đạt rồi bảo mọi người rằng Đạt ắt sẽ làm phản, rút cục quả như lời ấy.
Năm
Hoàng Sơ nguyên niên, lấy Diệp làm Thị trung, ban cho tước Quan nội hầu. Đế
xuống chiếu hỏi quần thần xem liệu Lưu Bị có vì Quan Vũ mà xuất binh báo thù
nước Ngô chăng. Mọi người bàn luận đều nói rằng: "Thục là tiểu quốc, danh
tướng chỉ có mỗi Vũ, Vũ chết quân tan, người trong nước lo sợ, tất không dám
xuất quân báo thù." Riêng Diệp nói rằng: "Nước Thục tuy nhỏ hẹp, nếu
Bị muốn dấy binh lực mạnh để đánh, thế tất sẽ dùng nhiều quân binh để lấy số
đông bù lại. Vả lại Quan Vũ cùng với Bị, nghĩa là quân thần, ân tình còn hơn cả
anh em (7); Vũ chết đi Bị chẳng thể không hưng binh báo thù, cái tình chung
thuỷ ấy chẳng thể nào chia cắt nổi." Về sau Bị quả nhiên xuất binh đánh
Ngô. Ngô mang cả nước theo về Nguỵ, phái sứ giả đến xưng thần. Triều thần đều
đến chúc mừng, duy chỉ có Diệp cho rằng: "Nước Ngô cách biệt bởi Giang-Hán
giữ lấy cõi ngoài, vốn không có lòng thần phục đã lâu. Bệ hạ tuy đức sánh được với
Hữu Ngu, nhưng mới chỉ khiến họ sợ, mà cái tình chưa đủ để cảm động đến họ. Kẻ
gặp lúc khó mới chịu thần phục người, ắt chẳng phải là thật bụng vậy. Thế tất
bên kia đang bị bên ngoài bức bách mà bên trong khốn quẫn, mới phải phái sứ giả
đến đây, ấy cũng là bởi vì cái thế đã cùng, mới phải làm như thế. Người ta nói
rằng 'một ngày thả địch, tai hoạ mấy đời', chẳng nên không suy xét kỹ càng
vậy."
Bị thua
quân lui về, Ngô không chịu sai người đưa lễ vật đến, Đế muốn hưng binh thảo
phạt, Diệp cho rằng "Họ mới đắc chí, trên dưới một lòng, lại cách trở sông
hồ, khó mà đánh được." Đế không nghe.
Phó Tử
chép: Tôn Quyền sai sứ đến xin hàng, Đế nhân thế hỏi Diệp. Diệp thưa rằng:
"Quyền vô cớ đầu hàng, ắt trong nước có việc nguy cấp. Năm trước Quyền tập
kích giết chết Quan Vũ, lấy mất bốn quận Kinh Châu, Bị căm giận, ắt hưng đại
binh đến đánh. Bên ngoài có kẻ địch mạnh, nội bộ tất bất an, lại sợ Trung Quốc
nhân cơ hội này đến đánh, nên mới cúi mình đến xin hàng, một là mong rằng Trung
Quốc đừng khởi binh, hai là bày tỏ với Bị rằng họ có Trung Quốc là ngoại viện,
khiến cho kẻ địch mạnh kia phải nghi ngờ. Quyền vốn khéo việc dùng binh, biết
cơ mưu quyền biến, thế tất chẳng ở bên ngoài lẽ ấy. Nay thiên hạ chia ba, Trung
Quốc mười phần ta đã có tám. Ngô-Thục mỗi phe giữ lấy một châu, cậy vào núi cao
sông lớn mà cố thủ, gặp nguy cấp thì cứu giúp lẫn nhau, ấy là cái lợi của tiểu
quốc vậy. Lúc này họ lại đánh lẫn nhau, đấy là trời làm họ mất nước. Chúng ta
nên khởi đại binh, vượt sông lớn tập kích vào nước họ. Thục đánh ở bên ngoài,
ta đánh bên trong, nước Ngô bất quá chỉ độ mười ngày sẽ mất. Ngô mất rồi tất
Thục cô thế. Ví bằng chúng ta chỉ lấy được nửa nước Ngô, Thục cũng chẳng thể
bền lâu được, huống hồ Thục chỉ lấy được nơi biên ngoại, ta lấy được cả vùng
đất ở phía trong!" (8) Đế nói: "Người ta đã xưng thần chịu hàng mà ta
lại đánh họ, tất sẽ ngăn trở lòng muốn hàng của thiên hạ sau này, họ tất lấy
thế làm sợ hãi, việc ấy chẳng nên làm! Chẳng bằng cô nhận cho Ngô hàng, nhân đó
tập kích phía sau quân Thục thì hơn?" Diệp thưa: "Thục ở xa mà Ngô ở
gần, nếu Thục hay tin Trung Quốc đến đánh, họ tất rút quân về, chẳng thể khác
được. Nay Bị đang thịnh nộ, cố sức hưng binh đánh Ngô, nếu hay tin ta cũng phạt
Ngô, tính rằng Ngô ắt phải mất, tất sẽ hoan hỉ tiến binh cùng với ta tranh
giành đất đai nước Ngô, hẳn không đổi ý dẹp bỏ nỗi tức giận mà cứu giúp Ngô,
cái thế tất nhiên phải xảy ra như vậy." Đế không nghe, cứ nhận cho Ngô
hàng, rồi bái Quyền làm Ngô vương. Diệp lại tiến lên nói: "Chớ nên. Tiên
đế xưa chinh phạt, lấy được tám phần thiên hạ, uy chấn hải nội, Bệ hạ vâng mệnh
trời lên nối ngôi, về đức hợp với lẽ trời đất, tiếng thơm lan toả bốn phương,
việc ấy hiển nhiên là thật, nào phải kẻ hèn thần này nói lời xưng tụng đâu.
Quyền dẫu có hùng tài, thời Hán mạt cũng chỉ làm chức Phiêu kỵ Tướng quân Nam
Xương hầu mà thôi, chức quan nhỏ thì thế yếu. Làm kẻ sĩ dân thì trong bụng vẫn
còn uý kỵ Trung Quốc chúng ta, không dám cưỡng lại hòng toan mưu việc lớn. Thế
mà vì bất đắc dĩ mới chịu nhận hàng, lại ban cho tước vương, phong thập vạn hộ
hầu (9), thiết nghĩ Bệ hạ chẳng thể ban cho y tước vương được. Bởi kẻ ở ngôi
vương, chỉ ở dưới thiên tử một bậc, phẩm trật lễ phục gần như nhau. Nếu như
Quyền chỉ có tước hầu, hẳn sĩ dân Giang Nam với Quyền chưa thể có được cái
nghĩa quân thần. Nay ta tin lời trá hàng, phong cho chức lớn, ở ngôi vị tôn
hào, nghĩa quân thần của họ đã định, ấy chính là giúp hổ thêm cánh vậy. Quyền
đã nhận ngôi vương, sau này đánh được quân Thục, bên ngoài vẫn tỏ ra thần phục
Trung Quốc, để cho người trong nước đều biết thế, còn bên trong họ lại không
tuân mệnh Bệ hạ khiến Bệ hạ phải tức giận. Bệ hạ đùng đùng nổi giận, tất sẽ
hưng binh đến đánh, bấy giờ họ mới bố cáo với dân chúng ở đấy rằng: 'Ta đem
lòng thờ phụng Trung Quốc, chẳng phải vì yêu đồ trân quý của họ trọng vọng ngôi
cao mà họ ban cho, vẫn định kỳ tiến cống đều đặn, chẳng dám làm mất cái lễ của
kẻ bầy tôi, nay họ vô cớ tới đánh, tất muốn diệt nước ta, bắt hết con trai con
gái nước ta về bên ấy làm kẻ hầu người hạ.' Người dân nước Ngô không thể không
tin những lời ấy. Họ đã tin lời thì sẽ cảm kích và oán giận, trên dưới một
lòng, sự hăng hái sẽ nhân lên gấp bội phần vậy." Đế vẫn không nghe. Tức
thì bái Quyền làm Ngô vương. Về sau Quyền cùng với Lục Tốn bàn định đánh cho
Lưu Bị đại bại, giết chết binh lính Thục hơn tám vạn người (10), Bị bỏ chạy
thoát thân. Quyền bên ngoài tỏ vẻ nhún nhường hơn, mà bên trong lại tỏ ý bất
thuận, quả như lời Diệp đã nói.
Năm
Hoàng Sơ thứ năm, Đế muốn đánh quân Ngô ở Nghiễm Lăng nơi cửa sông Tứ, lệnh cho
chư quân ở hai châu Kinh-Dương cùng tiến. Lại hội cả quần thần, hỏi:
"Quyền sẽ tự dẫn binh đến chăng?" Chúng đều nói: "Bệ hạ thân
chinh, Quyền lo sợ cuống quýt, tất sẽ cất quân nghiêng nước đến ứng phó. Lại
không dám uỷ thác đại quân cho kẻ dưới, thế tất sẽ phải thân chinh đem quân
đến." Diệp nói: "Họ cho rằng Bệ hạ đem muôn vạn chiến thuyền đến, ắt
sẽ phải vượt qua sông hồ nơi ấy, ắt hẳn họ sẽ kìm binh một chỗ đón đợi chúng
ta, chưa chắc đã chịu tiến lui gì." Đại giá (11) đi được nửa đường thì
đóng lại mấy ngày, Quyền quả nhiên không đến, Đế bèn ban sư. Nói rằng:
"Khanh liệu việc đúng lắm. Ta đang nghĩ cách diệt hai kẻ địch kia, chẳng
thể chỉ biết đến mình mà thôi."
Minh đế lên
tức vị, Diệp được tiến tước làm Đông Đình hầu, ăn lộc 300 hộ. Chiếu viết rằng:
"Tôn kính tổ tiên, ấy là làm tròn đạo hiếu; nhớ về cội nguồn để cung kính
đối với người sau, ấy là tuân theo mệnh dạy của người xưa. Như Thành
Thang-Văn-Vũ thuở trước gây dựng nên nhà Thương-nhà Chu ,
lấy Thi-Thư làm nghĩa, truy tôn Tắc, Tiết (12) ca tụng Hữu Ngu - Khương Nguyên
(13), làm sáng tỏ đức lớn còn truyền lại đến ngày nay, ấy là chịu mệnh để hưng
vượng đạo xưa. Vương thất nhà Nguỵ ta vâng theo mệnh trời, đã phát tích từ Cao
hoàng đế, Thái hoàng đế (14), mà công lao của Vũ hoàng đế, Văn hoàng đế thật
cao vời. Trước kia Cao hoàng đế hoà mục với người, nhún nhường sửa đức, hành
động sáng suốt, thế nên được trời đất cho hưởng phúc lớn, khi mất vẫn để lại
cái vẻ vang cho con cháu về sau. Sáng suốt là ở chỗ nhìn xa, sao cho tiếng khen
còn truyền mãi, chẳng phải là luận việc trọn đạo hiếu để coi trọng cội nguồn
vậy. Nay lệnh cho công khanh ở dưới, cùng bàn bạc về thuỵ hiệu."
Diệp bàn
rằng: "Thánh đế nhún nhường hiếu thảo muốn tỏ rõ sự sùng kính với tổ tiên,
ấy là lòng thành thực chẳng phải cân nhắc làm gì. Nhưng thân sơ có mấy lối, xa
gần cũng có mấy bậc, sự kính lễ phải có kỷ cương, thế nên tư tình phải rõ ràng,
sao cho khuôn phép đã hình thành, là khuôn mẫu cho vạn đời sau vậy. Chu vương sở dĩ truy tôn thượng tổ là Hậu Tắc, bởi đã có
công phò tá họ Đường (15), tên tuổi đã được ghi vào điển cố. Đến khi Hán thị
mới lên, lấy việc truy thuỵ hiệu là nghĩa, chẳng qua là vì cha mình mà thôi.
Bên trên so với nhà Chu , thì Đại Nguỵ ta phát
tích từ Cao Hoàng ngày trước; dưới bàn đến Hán thị, thì việc truy thuỵ hiệu ấy
là kính lễ chẳng đến được tổ tiên. Thế nên cần phải đổi thay để lập ra khuôn
phép, giờ đây chính là lúc nêu tỏ đạo nghĩa vậy. Lòng trung hiếu Bệ hạ đã nêu,
sự chí thành thì không có gì là quá, lời đã nói ra sở dĩ phải cẩn trọng bởi đó
là lễ chế (16) vậy. Đã lấy việc truy tôn là nghĩa, nên bắt đầu từ Cao hoàng đế
vậy." Thượng thư Vệ Trăn cùng với Diệp bàn luận, việc ấy được thi hành.
Thái thú
Liêu Đông là Công Tôn Uyên cướp ngôi của chú (17), chuyên quyền tự lập, phái sứ
giả đến dâng biểu trạng. Diệp thấy họ Công Tôn từ thời Hán mạt vẫn giữ riêng
một cõi, nối đời làm quan tướng, bởi đến được chỗ đó thì đường thuỷ cách bể,
đường bộ cách núi non, mà rợ Hồ ở nơi xa xôi rất khó khống chế, vả lại họ đã
giao tiếp với Quyền rất lâu ngày. Nay ví bằng không diệt đi, sau này tất sẽ
sinh hoạ. Nếu như đem hai đạo binh vượt nơi hiểm trở, tiến hành thảo phạt, là
việc rất khó làm. Chẳng bằng nhân lúc Uyên mới tự lập, có nhiều bè đảng thù nghịch,
thừa lúc họ không để ý, mang số ít quân binh đến, bày tiệc khen thưởng và chiêu
mộ quân binh làm tay chân, như thế có thể chẳng cần khó nhọc mà định được cả.
Sau này Uyên làm phản bị giết.
Diệp ở
triều đình, rất ít giao tiếp với mọi người. Có người hỏi việc ấy, Diệp nói:
"Nguỵ thất cho tôi ở ngôi thượng tân, bậc trí giả cần biết mệnh, để kẻ tục
nhân khỏi ngờ vực. Lúc nhà Hán còn tôi chỉ là kẻ hèn mọn (18), đến khi nhà Nguỵ
lên cho tôi là tâm phúc, ít người được bằng vai với mình, không nên đánh mất
mình đi vậy."
Năm Thái
Hoà thứ sáu, lúc Diệp bị ốm được bái làm Thái trung Đại phu. Một thời gian sau,
được làm Đại hồng lư, ở ngôi vị ấy được hai năm thì tự nhường cho người khác,
lại làm Thái trung Đại phu cho đến lúc chết. Được ban thuỵ hiệu là Cảnh hầu. Con
là Nhật nối tự.
Phó Tử
chép: Diệp phụng sự Minh hoàng đế, rất được coi trọng. Đế tính chuyện đem quân
đánh Thục, triều thần trong ngoài đều nói 'không nên'. Diệp cùng với Đế bàn
định, nói rằng 'nên đánh'; khi ra nói việc ấy với triều thần, lại nói rằng 'không
nên đánh'. Diệp là người kín đáo, mỗi lời nói ra đều có sự cân nhắc cả.
Trung
lĩnh quân Dương Kỵ, được Đế lấy làm bề tôi thân cận, cũng rất kính trọng Diệp,
kiên định chủ trương không nên đánh Thục, lúc Diệp ở trong cung ra, Kỵ hỏi
Diệp, Diệp giảng giải cái ý không nên đánh. Sau Kỵ theo hầu bên giá, Đế bàn đến
chuyện đánh Thục, Kỵ liền can gián. Đế nói: "Khanh là thư
sinh,
sao biết được việc binh!" Kỵ nhún nhường tạ rằng: "Thần xuất thân là
hạng nho sinh hèn mạt, Bệ hạ đã quá rõ, song việc hợp sức với quần thần ở
trong, gây dựng sáu quân cho chúa thượng, thần quả có lòng, chẳng dám không nói
hết lời. Thần nói quả chẳng đủ để Bệ hạ tin, song Thị trung Lưu Diệp trước từng
bàn mưu với thần, thường nói rằng Thục không nên đánh." Đế nói: "Diệp
nói với ta rằng Thục có thể đánh được kia mà." Kỵ nói: "Nên gọi Diệp
đến để đối chất." Liền hạ chiếu triệu Diệp đến, Đế hỏi Diệp, Diệp thuỷ
chung không chịu nói. Sau thấy còn có một mình, Diệp trách Đế rằng: "Đánh
nước người, đó là mưu lớn, khi thần bàn tính việc lớn với Đại vương, vẫn thường
sợ rằng lúc mộng mị mà tiết lậu việc ấy ra ngoài thần sẽ mắc tội lớn, sao dám
nói với người khác việc ấy. Dụng binh, là việc trá nguỵ, việc binh lúc chưa
làm, chẳng phải kín đáo ru. Bệ hạ đã để lộ rõ việc ấy, thần sợ rằng địch quốc
đã hay tin rồi vậy." Đế liền tạ lỗi với Diệp, Diệp ra ngoài, trách Kỵ
rằng: "Kẻ đi câu định bắt được con cá lớn, tất phải buông dây cho nó chạy,
không biết đợi để giữ lấy nó về sau, ắt chẳng thể bắt được nó. Người chủ xướng
cần vững vàng, cũng như tính chuyện bắt con cá lớn! Ta tin rằng ngươi là bầy
tôi thẳng thắn, song mưu việc chưa đủ để khiến người khác nghe, chẳng thể không
suy nghĩ chín chắn vậy." Kỵ cũng tạ lỗi với Diệp. Đại khái Diệp có thể
liệu tính mọi việc chu toàn như vậy.
Có kẻ
nói xấu Diệp với Đế rằng: "Diệp chẳng hết lời trung, chỉ khéo dò xét ý của
chúa thượng để nói trước cho hợp ý mà thôi. Bệ hạ thử cùng ngồi nói chuyện với
Diệp, cứ lật lại ý của Diệp mà cật vấn, nếu như Bệ hạ nói những ý đó là trái,
nhất định Diệp sẽ lựa lời cho hợp với thánh ý. Lại mỗi lần đều hỏi những việc
giống nhau, Diệp chẳng có chủ ý riêng ắt không bỏ đi vậy." Đế đem lời ấy
ra chứng nghiệm, Diệp quả quyết bày tỏ đúng ý riêng của mình, Đế cứ theo thế mà
làm. Diệp liền phát cuồng lên, bỏ ra khỏi Đại hồng lư, lo lắng muốn chết. Đế
đến thăm nói: "Lời xảo trá chẳng bằng lời nói thực vụng về, ta tin ngươi
rồi."
Diệp là
người có mưu kế quyền biến sáng suốt, lúc nhàn tản thì làm việc đức nghĩa, khi
có việc lấy sự trung tín làm đầu, các bậc hiền tài cổ xưa cũng không hơn được.
Một bụng tài trí, mà chẳng tranh giành với kẻ sĩ cùng thời, bên trong không mở
lòng mình với người trên, bên ngoài mệt mỏi với tục nhân, lúc chết vẫn chẳng
thấy được thiên hạ an bình, há chẳng thương thay! (19)
Con nhỏ
của Diệp là Đào, cũng có tài cao mà bạc mệnh, làm quan đến chức Bình Nguyên
Thái Thú.
Vương
Bật truyện chép rằng: Người ở Hoài Nam là Lưu Đào, khéo bàn luận
chuyện thiên hạ, lúc đương thời làm Sở thôi (20).
Phó Tử
chép: Đào tên tự là Quý Dã, được khen là người khéo, có tài biện bác. Vào thời
Tào Sảng nắm quyền đã được tuyển vào Bộ Lang, có người đồ đệ của Đặng Dương
được khen là có tài Y, Lã. Lúc bấy giờ người ấy có ý đến Thanh Vân, bảo với một
người tên là Huyền rằng: "Trọng Ni chẳng phải là thánh. Làm sao biết được
như thế? Bởi vì bậc trí giả mưu toan việc nước; mà phần lớn người trong thiên
hạ là những kẻ mê muội, mọi việc đều nằm cả trong lòng bàn tay, thế mà chẳng
thể có được thiên hạ." Huyền rất ngờ lời ấy, không chịu phục mới căn vặn
lại. Người ấy bảo Huyền rằng: "Muốn có thiên hạ thì về tư chất, phải biết
biến đổi vô thường. Nay như thế xem ra ông ấy cũng chỉ là kẻ khanh tướng khốn
cùng mà thôi!" Sảng thất bại, người ấy lui về làng ở, sau đến tạ rằng lời
nói ấy là quá. Sách Tấn kỷ của Kiền Bảo chép rằng: Quán Khâu Kiệm nổi dậy, Đại
tướng quân hỏi Đào việc ấy, Đào đáp rằng mình không đoán biết được. Đại tướng
quân giận nói: "Khanh bình sinh cùng với ta bàn luận chuyện thiên hạ, đến
hôm nay có việc lại chẳng hết lòng ư?" Bèn đuổi ra ngoài làm Bình nguyên
Thái thú, rồi sai người đuổi theo giết chết.
Chú thích:
1) Người Việt ở đất Giang, Triết, Mân, Việt.
(2) Thanh đao quý đeo ở bên mình.
(3) Một tuần xưa ở Trung Quốc là 10 ngày.
(4) Ngày xưa, quãng đường quân đi một ngày
hoặc một đêm (chừng 30 dặm) gọi là xá. Như thế tức là ý rằng cứ 30 dặm lại có
một trạm nghỉ để đưa đón khách. Bọn Diệp đi một ngày lại đến một nhà trạm nghỉ
qua đêm.
(5) Nguyên văn là 'tiên hiền quốc ấp'. Những
người này ở Dương Châu, quốc ấp ở đây là những bậc hiền tài đời trước ở đất
Dương Châu vậy.
(6) Đoạn này rất khác với những điều chép
trong Vũ đế kỷ, Trương Lỗ truyện.
(7) Nguyên văn là 'ân do phụ tử' nghĩa là 'ân
tình hơn cả cha con', xét thấy Vũ với Bị tình là anh em kết nghĩa nên dịch là
'ân tình còn hơn cả anh em', như thế hợp nghĩa hơn.
(8) Cái trong, ngoài mà Diệp nói ở đây tỏ ý
rằng Thục lấy được đất giáp với Thục, Ngô lấy được vùng đất gần Kinh đô nước
Ngô, nơi ấy là hạ lưu Trường Giang, đất đai trù phú hơn, giàu có hơn.
(9) Ăn lộc mười vạn hộ.
(10) Chỗ này có vẻ hơi phóng đại lên, vì theo
nhiều đoạn liên quan đến các nhân vật khác được kể trong sách này đều nói số
quân Thục chinh phạt Ngô không có đến 8 vạn người.
(11) Vua xuất hành gọi là giá, có đại giá và
pháp giá. Đại giá tức là vua đi ra ngoài có nhiều xe theo hầu, pháp giá là có
ít xe theo hầu.
(12) Tắc là Hậu Tắc, bầy tôi vua Thuấn, Tiết
là bầy tôi vua Thuấn, thuỷ tổ của nhà Thương.
(13) Khương Nguyên là mẹ của ông Hậu Tắc.
(14) Minh đế Tào Duệ muốn nhắc đến tổ phụ
mình. Cao Hoàng đế, Thái Hoàng đế là Tào Đằng, Tào Tung.
(15) Vua Nghiêu có họ là Đào Đường, Tắc trước
giúp vua Nghiêu, sau này là bầy tôi rất nổi tiếng của vua Thuấn.
(16) Lễ chế là điển lễ của vua, cần phải xem
xét cẩn trọng.
(17) Công Tôn Khang chết đi lập em là Công Tôn
Cung kế vị, Công Tôn Uyên khi ấy còn nhỏ.
Đến năm Thái Hoà thứ hai, đời Minh đế nhà
Nguỵ, Uyên giết chú mình cướp ngôi tự lập.
(19) Một đời lo việc nước, gian khổ giữ cho
mình, chết vẫn không thấy thiên hạ yên bình, Bùi Tùng Chi bình chú Tam Quốc
dành lời cảm thán cho Lưu Diệp vậy.
(20) Không rõ là chức gì.
TRÌNH DỤC TRUYỆN
Trình
Dục tự Trọng Đức, người Đông quận huyện Đông A. Mình cao tám thước ba tấc, có
bộ râu rất đẹp. Lúc Hoàng Cân nổi dậy, viên Huyện thừa là Vương Độ làm phản
hưởng ứng giặc, thiêu đốt kho lương. Huyện lệnh trèo tường thành bỏ trốn, quan
lại và dân chúng già trẻ nhằm hướng Đông chạy về núi Cừ Khâu. Dục sai người dò
xét Độ, thấy bọn Độ lấy được toà thành trống rỗng không thể giữ nổi, đã ra khỏi
thành đi về phía Tây năm sáu chục dặm rồi dừng lại đóng binh ở đó. Dục bảo một
người có danh tiếng trong huyện là Tiết Phòng rằng: "Nay bọn Độ chiếm được
thành mà chẳng giữ lấy, cứ xem tình thế thì biết, bất quá chúng chỉ cướp bóc
tài vật, chứ chẳng có giáp bền khí giới sắc chú tâm đánh giữ vậy. Nay sao bọn
ta không thống suất mọi người quay về thành mà cố thủ? Vả lại tường thành cao
mà dầy, lương thực rất nhiều, lúc này nếu tìm được huyện lệnh về, cùng nhau giữ
chắc, Độ hẳn chẳng thể ở lâu, đánh có thể phá được vậy." Bọn Phòng cho là
đúng. Nhưng đám lại dân không nghe theo, nói: "Giặc ở phía Tây, chúng ta
chỉ ở phía Đông được thôi." Dục bảo bọn Phòng: "Đám ngu dân chẳng thể
bàn việc được." Rồi ngầm phái mấy người cưỡi ngựa cầm cờ đi về phía đông
Thượng Sơn, lệnh cho bọn Phòng đứng ở đằng xa, kêu lớn rằng: "Giặc đã
đến", rồi xuống núi nhanh chân chạy chạy vào thành, đám dân chúng vội vàng
chạy theo, sau tìm được huyện lệnh về, bèn cùng nhau giữ thành. Bọn Độ kéo đến
đánh thành, không hạ được, liền bỏ đi. Dục thống suất dân chúng mở cửa thành
đuổi đánh rất gấp, bọn Độ tan vỡ bỏ chạy. Đông A vì thế được bảo toàn.
Năm Sơ
Bình trung, Thứ sử Duyện châu là Lưu Đại cho vời Dục, Dục không đáp ứng. Thời
ấy Đại cùng với Viên Thiệu và Công Tôn Toản liên hoà, Thiệu lệnh cho vợ con đến
ở chỗ Đại, Toản cũng phái Tòng sự là Phạm Phương đưa kỵ binh đến giúp Đại. Về
sau Thiệu và Toản có hiềm khích. Toản đánh phá quân Thiệu, rồi phái sứ giả đến
mách với Đại, xui đuổi vợ con Thiệu về, cùng với Thiệu tuyệt giao. Lại lệnh
riêng cho Phạm Phương rằng: "Nếu như Đại không đuổi gia quyến Thiệu, ngươi
cứ dẫn quân kỵ về. Ta dẹp xong Thiệu, sẽ đem thêm binh đến chỗ Đại." Đại
nghị bàn suốt ngày không quyết được, quan Biệt giá là Vương Úc bạch với Đại:
"Trình Dục là người có mưu kế, có thể quyết đoán được đại sự." Đại
bèn cho triệu kiến Dục, hỏi kế, Dục nói: "Nếu bỏ sự viện trợ ở gần của
Thiệu mà cầu lấy sự cứu giúp ở xa của Toản, cũng ví như cầu người ở nước Việt
đi cứu người chết chìm ngoài bể vậy. Người như Công Tôn Toản, chẳng phải là đối
thủ của Viên Thiệu vậy. Nay dẫu phá được quân của Thiệu, nhưng sau cùng sẽ bị
Thiệu bắt được. Nếu bám lấy cái quyền thế nhất thời mà chẳng lo mưu tính xa
xôi, tướng quân sau cùng sẽ thất bại." Đại nghe theo. Phạm Phương dẫn quân
kỵ đi, chưa đến nơi, Toản đã bị Thiệu đánh tan tành. Đại dâng biểu xin cho Dục
làm Kỵ đô uý, Dục xưng có bệnh từ chối.
Lưu Đại
bị quân Hoàng Cân giết hại. Thái tổ đến Duyện châu, cho vời Dục. Dục muốn đi
ngay, có người làng hỏi rằng: "Sao ý ngài trước sau lại trái ngược nhau
vậy!" Dục cười không đáp lời. Thái tổ cùng Dục nói chuyện riêng, rất vui
lòng, cho Dục giữ chức Thọ Trương lệnh. Thái tổ đi đánh Từ châu, sai Dục cùng
Tuân Úc giữ Quyên Thành. Bọn Trương Mạc làm phản nghênh đón Lã Bố, các quận
huyện hưởng ứng, chỉ có Quyên Thành, Phạm huyện, Đông A là không lay động. Hàng
quân của Lã Bố, nói là Trần Cung tự dẫn binh đến lấy Đông A, lại phái Phiếm
Nghi đến lấy Phạm huyện, dân chúng đều sợ hãi. Úc bảo Dục rằng: "Nay Duyện
châu làm phản, chỉ còn có ba thành này. Bọn Cung đem trọng binh đến, nếu không
đoàn kết nhân tâm, ba thành này tất nổi loạn. Ngài, là người được dân chúng
ngưỡng vọng, nên quay về giải thích cho họ, có thể được vậy!" Dục bèn quay
về, đi qua Phạm huyện, nói với huyện lệnh là Cận Doãn rằng: "Nghe nói Lã
Bố bắt giam mẹ, em trai và vợ con ngài, nếu thực là kẻ hiếu tử thì chẳng thể
yên tâm được! Nay thiên hạ đại loạn, kẻ anh hùng đều nổi dậy, tất phải có kẻ kỳ
tài hơn đời, mới có thể dẹp loạn trong thiên hạ, bậc trí giả như thế cần phân
biệt cho rõ ràng vậy. Được minh chủ thì thịnh, mất minh chủ thì bại vong. Trần
Cung làm phản đón Lã Bố mà cả trăm thành đều hưởng ứng, tựa như quy thuận,
nhưng ngài hãy xem, Bố sao bằng người ta được! Kẻ như Bố, thô lỗ mà thiếu tình
thân, cương gàn mà vô lễ, là kẻ anh hùng thất phu mà thôi. Bọn Cung mượn thế
lực ấy mà tụ họp, chẳng thể giúp ngài được. Binh dẫu đông, rút cục không nên
việc. Tào sứ quân trí mưu hơn đời ai sánh kịp, ngờ là trời đã ban cho ta! Ngài
tất giữ được Phạm huyện, ta phòng thủ Đông A, thì cái công của Điền Đan có thể
lập được vậy(1). Có ai lìa bỏ lòng trung tín theo kẻ ác mà mẫu tử được đồng
vong bao giờ? Chỉ có ngài mới lo toan tường tận được thôi!" Doãn chảy nước
mắt nói: "Chẳng dám hai lòng." Lúc ấy Phiếm Nghi đã ở trong huyện,
Doãn bèn tiếp kiến Nghi, đặt phục binh đâm chết Nghi, rồi quay về chỉnh trang
binh lính phòng thủ.
Từ Chúng
bình rằng: Doãn và Tào công, chưa nên nghĩa quân thần. Mẹ, là người chí thân
vậy, cái nghĩa kia nên bỏ. Xưa kia mẹ Vương Lăng bị Hạng Vũ bắt, người mẹ cho
rằng Cao tổ tất lấy được thiên hạ, nên tự sát để bền cái chí của Lăng(2). Trong
lòng sáng suốt không có gì ràng buộc, rồi sau mới thành sự tích người chết vì
tiết tháo. Công tử Khai Phương nước Vệ làm quan ở Tề, lâu năm chẳng về nước,
Quản Trọng cho là chẳng có tình thân, chỉ biết yêu vua, không thể cho làm
tướng(3). Thế nên tìm kẻ trung thần tất phải là kẻ hiếu tử trong nhà, Doãn nên
cứu lấy người chí thân trước đã. Mẹ Từ Thứ bị Tào công bắt được, Lưu Bị liền
sai Thứ quay về, Dục vì thiên hạ phải thứ lỗi cho cái tình của người con vậy.
Tào công cũng nên trách phạt Doãn vậy.
Dục lại
phái quân biệt kỵ chẹn bến Thương Bình, Trần Cung đến, không qua sông được. Dục
đến Đông A, Đông A lệnh là Tảo Chi đã đốc suất khuyến khích dân, giữ chắc huyện
thành kháng cự. Lại có quan Tòng sự ở Duyện châu là Tiết Đễ cùng Dục hợp mưu,
bảo toàn được ba thành, để đợi Thái tổ. Thái tổ về, nắm tay Dục nói:
"Không có tâm lực của tiên sinh, ta đã không còn nơi để về rồi." Rồi
dâng biểu tiến cử Dục làm Đông Bình tướng, đóng ở Phạm huyện.
Nguỵ thư
chép: Dục thời trẻ tường mộng trèo lên Thái Sơn, hai tay bưng mặt trời. Dục tự
nghĩ lấy làm lạ, đem nói với Tuân Úc. Đến lúc Duyện châu làm phản, nhờ Dục giữ
vẹn được ba thành. Vì thế Úc đem chuyện Dục nằm mộng bạch với Thái tổ. Thái tổ
nói: "Khanh đáng là người tâm phúc nhất của ta." Dục vốn có tên là
Lập, Thái tổ bèn thêm cho chữ 'thượng' ở bên trên, đổi tên thành Dục vậy(4).
Thái tổ
cùng Lã Bố giao chiến ở Bộc Dương, mấy lần gặp bất lợi. Nạn hoàng trùng(5) nổi
lên, hai bên đều dẫn quân về. Lúc ấy Thiệu sai người đến nói với Thái tổ muốn
cùng liên hoà, định mời Thái tổ dời gia quyến đến cư trú ở huyện Nghiệp. Thái
tổ mới mất Duyện châu, quân lương hết nhắn, bèn nghe theo. Lúc đó Dục đi sứ vừa
mới về, liền vào yết kiến, nhân đó nói rằng: "Tôi trộm nghe nói tướng quân
muốn đưa gia quyến sang huyện Nghiệp, cùng với Thiệu liên hoà, có thực thế
chăng?" Thái tổ nói: "Đúng thế." Dục nói: "Cái ý của tướng
quân tôi nghĩ đến mà sợ, không như thế thì sao lại suy tính chẳng thấu đáo như
vậy! Viên Thiệu chiếm cứ đất Yên-Triệu, có tâm địa thâu gồm thiên hạ, mà trí
lực chưa đủ để nên việc. Tướng quân tự liệu mình có thể ở dưới người ta chăng?
Tướng quân có uy như rồng như hổ, có thể làm cái việc của Hàn-Bành chăng(6)?
Nay Duyện châu tuy hoang tàn, chỉ còn có ba thành. Nhưng quân sĩ có thể chiến
đấu, chẳng dưới vạn người. Tướng quân là bậc thần vũ, có Văn Nhược, có Dục này,
thu lấy mà dùng, cái nghiệp bá vương có thể thành được vậy. Xin tướng quân hãy
nghĩ kỹ lại xem!" Thái tổ bèn thôi.
Nguỵ
lược chép lại lời khuyên của Thiệu với Thái tổ rằng: "Khi xưa Điền Hoành,
là thế tộc ở nước Tề, anh em có ba người từng làm vương, chiếm cứ đất đai nghìn
dặm, nắm giữ trăm vạn chúng dân, cùng với chư hầu đều ngoảnh mặt về nam xưng
Cô. Cao tổ đã thu được thiên hạ, mà Hoành cố ý không hàng. Đương lúc bấy giờ,
Hoành há có thể làm trái với lương tâm sao!" Thái tổ nói: "Phải rồi.
Ta tin rằng kẻ trượng phu như thế sao chịu nhục được." Dục nói: "Dục
này ngu ngốc, chẳng biết nói ngọt, vẫn cho rằng cái chí của tướng quân, chẳng
bằng được Điền Hoành. Điền Hoành, chỉ là một tráng sĩ nước Tề thôi, còn xấu hổ
vì làm bầy tôi của Cao tổ. Nay nghe nói tướng quân muốn đưa gia quyến đến huyện
Nghiệp,
sắp ngoảnh mặt về Bắc mà thờ Viên Thiệu. Người thông minh thần vũ như tướng
quân, mà lại chẳng xấu hổ vì là kẻ dưới của Thiệu, tôi trộm vì tướng quân mà
xấu hổ vậy." Những lời sau này cùng với bổn truyện cũng từa tựa vậy.
Chú thích:
(1) Tướng nước Yên là Nhạc Nghị đánh Tề, hạ
được bảy mươi hai thành, chỉ còn có hai thành Lâm Tri và Tức Mặc là giữ được,
sau Điền Đan lập kế đánh đuổi được quân Yên lấy lại nước Tề.
(2) Vương Lăng là tướng của Hán Cao tổ, Cao tổ
tranh thiên hạ với Hạng Vũ, Vũ bắt mẹ của Lăng để Lăng thoái chí ra hàng, mẹ
Lăng tự vẫn để con trung với Hán, sau này việc làm của mẹ Lăng được lưu danh
thiên cổ.
(3) Công tử Khai Phương là người nước Vệ, sang
làm quan ở Tề, mấy chục năm không về, Quan Trọng cho là người không có tình
thân, quyết không dùng làm tướng.
(4) Chữ Dục vốn là do chữ Lập và chữ Nhật xếp
chồng lên nhau mà thành.
(5) Nạn châu chấu phá hoại mùa màng.
(6) Tức Hàn Tín và Bành Việt, đều theo về với
Hán Cao tổ chống lại Hạng Vũ. Sau này Cao tổ thống nhất thiên hạ, lần lượt giết
hai người này.
QUÁCH GIA TRUYỆN
Quách
Gia tự Phụng Hiếu, người huyện Dương Địch quận Dĩnh Xuyên. Phó Tử chép:
"Gia từ thủa nhỏ đã có tầm nhìn xa. Thời Hán mạt thiên hạ nhiễu loạn. Lúc
hai mươi tuổi mai danh ẩn tích, bí mật kết giao với những người tuấn kiệt,
không giao tiếp với tục nhân, cho nên phần lớn những người cùng thời chẳng mấy
ai biết đến, chỉ có những bậc thức giả mới biết được. Năm Gia hai mươi mốt
tuổi, được vời vào phủ Tư đồ.
Khi
trước, Gia đi về Bắc yết kiến Viên Thiệu, thời gian sau có nói với mưu thần của
Thiệu là Tân Bình, Quách Đồ rằng: "Bậc trí giả nên chọn chúa mà thờ, sao
cho trăm lần mưu việc là trăm lần toàn vẹn mà lại có thể gây dựng được công
danh. Viên công đồ muốn bắt chước Chu Công nhún mình cầu kẻ sỹ, mà lại chẳng
biết dụng nhân tài. Đòi hỏi nhiều nhưng lại ít chú trọng đến cái thiết yếu, có
mưu hay mà không quyết, muốn cùng chung sức để cứu giúp đại nạn cho thiên hạ,
yên định bá nghiệp, khó lắm thay!" Rồi bỏ đi.
Trước
đó, người ở Dĩnh Xuyên là Hí Chí Tài, là mưu sỹ trù hoạch mọi kế sách dưới
trướng, Thái tổ rất tin dùng, song chết sớm. Thái tổ gửi thư cho Tuân Úc nói
rằng: "Từ lúc Chí Tài chết đi, ta chẳng có ai để bàn tính mọi việc nữa.
Nhữ Nam
, Dĩnh Xuyên là nơi có nhiều bậc kỳ sỹ, liệu có ai có thể cùng bàn định những
việc ấy cùng ta nhỉ?" Úc tiến cử Gia. Thái tổ cho triệu kiến, luận bàn
chuyện thiên hạ. Thái tổ nói: "Kẻ khiến ta thành đại nghiệp, ắt hẳn là
người này đây." Khi Gia trở ra, cũng vui mừng nói: "Đúng là chân chúa
của ta vậy". Thái tổ dâng biểu lên cho Gia làm Tư không Quân tế tửu (1).
Phó Tử
chép: Thái tổ bảo Gia rằng: "Bản Sơ giữ Ký Châu nhân dân đông đúc, Thanh
Châu-Tinh Châu cũng gồm vào đó, đất rộng binh cường, người theo giúp cũng chẳng
phải là những kẻ kém cỏi. Ta muốn đánh dẹp, e rằng binh lực chẳng thể đối địch,
biết làm sao đây?" Gia thưa: "Ngày trước Lưu Bang, Hạng Võ về quân
lực chẳng thể đối địch nhau, minh công hẳn đã biết. Hán Cao Tổ chỉ nhờ trí mưu
mà thắng; Hạng Võ tuy mạnh, rút cục vẫn bị đánh bại. Cứ như ý Gia tôi tính thì,
Thiệu có 10 điều bại, minh công có 10 điều thắng, binh Thiệu tuy mạnh, nhưng
cũng không đáng ngại. Đó là:
Thiệu ưa
lễ nghi phiền phức rườm rà; minh công lại thuận theo lẽ tự nhiên, ấy là thắng
về đạo là lẽ thứ nhất.
Thiệu
hành động trái lẽ; minh công thuận theo lẽ phải để chỉ huy thiên hạ, thế là
thắng về nghĩa là lẽ thứ hai.
Thời Hán
mạt chính sự trễ nải vì khoan nhu, Thiệu lại lấy khoan hoà mà trị, thế nên
chẳng thay đổi được gì; minh công cương quyết lấy sự nghiêm ngặt mà ràng buộc
đưa người ta vào khuôn phép, thế là thắng về trị là lẽ thứ ba.
Thiệu bề
ngoài thì khoan hoà song bên trong lại nghi kỵ, dùng người mà trong lòng đầy
ngờ vực, chỉ tin dùng con em thân thích; minh công bề ngoài giản dị dễ gần mà
bên trong thì sáng suốt khéo léo, dùng người thì không chút ngờ vực, chỉ cần có
tài là được dùng, chẳng kể gì đến thân sơ, ấy là thắng về độ là lẽ thứ tư.
Thiệu
nhiều mưu kế mà thiếu quyết đoán, thường để lỡ mất cơ hội; minh công thì cứ có
kế sách hay là thi hành, ứng biến đến vô cùng, đó là thắng về mưu là lẽ thứ
năm.
Thiệu nương
cậy vào gia thế và địa vị, thích bàn bạc những chuyện cao siêu để thu lấy lời
khen, khiến những kẻ sĩ thích nói những lời tán tụng suông theo về rất đông;
minh công lấy sự chí tâm đãi người, cứ theo lẽ chân thực mà thi hành, không làm
những việc phô trương, lấy sự cần kiệm làm gương cho kẻ dưới, đối với người có
công thì không hề bủn xỉn, khiến cho những kẻ sĩ trung chính có tầm nhìn xa và
thực tài ở khắp nơi tin tưởng đến dưới cờ, ấy là thắng về đức là lẽ thứ sáu.
Thiệu
nhìn thấy người khác cơ hàn, vẻ thương xót lộ ra nét mặt, nhưng nếu như chẳng
nhìn thấy, thì cũng chẳng hề nghĩ đến, đó chính là lòng nhân của đàn bà; minh
công thì đối với những việc nhỏ trước mắt, có lúc bỏ qua, nhưng khi gặp việc
lớn, lại lo liệu chu đáo được hết cả (2), ban ân huệ cho người ta, còn quá cả
kỳ vọng, dẫu có việc không nhìn thấy, nhưng vẫn suy tính được chu toàn, chẳng
hề thiếu sót, đó là thắng về nhân là lẽ thứ bảy.
Đại thần
của Thiệu tranh giành quyền bính, những lời sàm nịnh mê hoặc không dứt; minh
công dùng đạo lý cai quản thuộc hạ, lời dèm pha ton hót không nghe, đó là thắng
về minh là lẽ thứ tám.
Thiệu
chẳng biết phân biệt phải trái; minh công đối với người chân chính thì dùng lễ
đãi ngộ, với người bất chính thì dùng phép để trị, ấy là thắng về văn là lẽ thứ
chín.
Thiệu
thích phô trương thanh thế, không hiểu điều cốt yếu của binh cơ; minh công lấy
ít thắng nhiều, dụng binh như thần, quân nhân được nương nhờ, mà địch nhân phải
sợ hãi, ấy là thắng về võ là lẽ thứ mười."
Thái tổ
cười nói: "Cứ như lời khanh nói, cô sao được như vậy." Gia lại thưa:
"Thiệu đang đánh Công Tôn Toản ở phía Bắc, ta có thể nhân cơ hội này để
viễn chinh, tiến sang Đông đánh Lã Bố. Không đánh Lã Bố trước, nếu như Thiệu
đến đánh cướp, Bố sẽ dẫn binh chi viện, ấy sẽ là mối nguy hại vô cùng."
Thái tổ nói: "Đúng vậy."
Rồi đem
quân đánh Lã Bố, đánh ba trận đều phá được, Bố lui binh cố thủ. Bấy giờ sĩ tốt
đã mỏi mệt lắm, Thái tổ muốn dẫn quân quay về, Gia khuyên Thái tổ nên đánh gấp,
nhân thế bắt được Bố. Lời lẽ như đã chép ở Tuân Du truyện.
Phó Tử
chép: Thái tổ muốn dẫn quân quay về, Gia nói rằng: "Xưa kia Hạng Tịch (3)
đánh nhau hơn bảy mươi trận, chưa từng thua một trận nào, một ngày thất thế mà
thân chết nước mất, ấy là hữu dũng vô mưu vậy. Nay Bố thua trận liên tiếp, khí
suy lực tực, trong ngoài thất thủ. Mà uy lực của Bố chẳng bằng được Hạng Võ,
song nỗi khốn quẫn lại trầm trọng hơn nhiều, nếu chúng ta thừa thắng tấn công,
thế tất có thể bắt được Bố". Thái tổ nói: "Hay".
Nguỵ thư
chép: Lưu Bị thua trận đến nương nhờ, Thái tổ lấy làm Dự châu mục. Có người bảo
Thái tổ rằng: "Bị có tư thế kiêu hùng, nay không sớm trừ đi, tất di hoạ về
sau". Thái tổ đem việc ấy hỏi Gia, Gia thưa: "Không nên. Minh công
cầm kiếm nghĩa khởi binh, vì trăm họ trừ quân cường bạo, nêu cao tín nghĩa để
chiêu dụ tuấn kiệt, còn lo rằng người thiên hạ chưa tìm đến. Nay Bị có danh
tiếng là kẻ anh hùng, nhân vì khốn cùng mới theo về mà lại muốn giết đi, thế là
mang tiếng hại người hiền, tất những kẻ trí sĩ trong thiên hạ sẽ lấy thế làm
ngờ, còn ai tìm đến nữa, minh công sẽ cùng ai yên định thiên hạ? Dứt được mối
lo một người, mà tuyệt lòng mong ngóng khắp bốn bể, cái lẽ an nguy là thế,
chẳng thể không xét kỹ được!" Thái tổ cười nói: "Khanh nói thật đúng
ý ta vậy".
Phó Tử
chép: Khi trước, Lưu Bị đến hàng, Thái tổ lấy lễ thượng khách đối đãi, cho làm
Dự châu mục. Gia nói với Thái tổ rằng: "Bị có hùng tài mà rất được lòng
người. Trương Phi-Quan Vũ, đều là những kẻ có sức địch muôn người, mà sẵn lòng
chết vì Bị. Gia tôi xét thấy rằng, sau này Bị tất không chịu ở dưới người khác,
toan tính trong lòng y khó có thể lường được vậy. Cổ nhân có câu 'Một ngày thả
địch, hậu hoạn muôn đời'. Nên sớm lo liệu trước đi". Bấy giờ, Thái tổ vâng
mệnh Thiên tử sai khiến thiên hạ, đang muốn chiêu dụ những kẻ anh hùng nêu cao
tín nghĩa, không chịu dùng mưu của Gia. Đến lúc Thái tổ sai Bị đi đánh Viên
Thuật, Gia cùng với Trình Dục vội đến nắm lấy cương ngựa can Thái tổ rằng:
"Thả Bị, ấy là mối hoạ lớn vậy!" Khi ấy Bị đã đi xa rồi, sau này cất
binh làm phản. Thái tổ hận rằng đã không nghe lời Gia lúc trước.
Xét những
điều Nguỵ thư chép về việc ấy, cùng với những lời Phó Tử chép ở đây thấy trái
ngược nhau vậy.
Tôn Sách
chiếm được đất đai ngàn dặm, thâu tóm hết cả xứ Giang Đông, nghe tin Thái tổ
cùng với Viên Thiệu đương cầm giữ nhau ở Quan Độ, muốn qua sông vượt Giang Bắc
tập kích vào Hứa Đô. Quân sỹ của Thái tổ hay tin đều lấy làm kinh sợ. Gia suy
đoán rằng: "Tôn Sách mới bình định được Giang Đông, những kẻ bị Sách giết
đều là những bậc anh hùng hào kiệt, mà dưới trướng họ có nhiều người sẵn sàng
lấy cái chết để báo thù cho chủ. Thế mà Sách lại rất coi thường không chịu
phòng bị. Dẫu dưới tay Sách có trăm vạn quân, cũng chẳng khác gì một mình đi
giữa Trung nguyên. Ví như có kẻ thích khách mai phục đánh lén, cũng chỉ là một
người đánh một người. Thế nên tôi cho rằng, Sách tất sẽ chết bởi tay của một kẻ
thất phu mà thôi." Sách ở Giang Đông chưa được bao lâu, quả nhiên bị môn
khách của Hứa Cống giết chết.
Phó Tử
chép: Thái tổ muốn mau chóng đánh dẹp Lưu Bị, lại sợ rằng nếu xuất quân, bị
Viên Thiệu tập kích phía sau, tiến lên thì khó đánh được mà lui thì gặp bất
lợi. Việc này đã chép ở Vũ đế kỷ. Thái tổ còn ngờ, đem ý ấy hỏi Gia. Gia khuyên
Thái tổ rằng: "Thiệu vốn chậm chạp mà đa nghi, có đến cũng chẳng thể nhanh
chóng được. Bị mới cất binh, nhân tâm chưa phục, nếu đánh gấp ắt sẽ khắc chế
được. Cái lẽ được mất là vậy, chớ nên bỏ lỡ." Thái tổ nói:
"Hay." Rồi Đông chinh đánh Lưu Bị. Bị thua trận chạy sang chỗ Viên
Thiệu, Thiệu quả nhiên không xuất binh.
Thần
Tùng Chi xét Vũ đế kỷ thấy rằng, việc quyết kế đánh Bị, đều bởi Thái tổ tự
quyết định. Nói rằng Thái tổ dùng kế của Gia, thế là chẳng đúng. Lại xét truyện
này nói rằng Gia liệu được Tôn Sách coi rẻ tính mạng mình, ắt sẽ chết vì tay kẻ
thất phu, rõ ràng là sáng suốt liệu việc. Nhưng đó cũng không hẳn là bậc thượng
trí, bởi Gia chẳng biết chắc rằng Sách sẽ chết vào năm nào. Nay Tôn Sách chết
đúng vào năm định tập kích vào Hứa Đô, ấy cũng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên
vậy.
Sau Thái
tổ phá được Viên Thiệu, Thiệu chết, Thái tổ lại đuổi đánh Đàm-Thượng ở Lê
Dương, thắng liền mấy trận. Chư tướng muốn
thừa thắng tấn công, Gia nói: "Viên Thiệu vốn rất yêu quý hai đứa con này,
không quyết được nên lập đứa nào. Lại có Quách Đồ, Phùng Kỷ là mưu thần giúp
hai người, thế tất hai bên sẽ giao đấu với nhau, rồi đường ai nấy đi. Ta mà
đánh gấp, ắt họ sẽ cùng hợp sức chống giữ, còn nếu ta trì hoãn tấn công thì họ
sẽ tranh giành kèn cựa lẫn nhau. Chẳng bằng ta quay về Nam nhằm hướng
Kinh Châu làm bộ đánh Lưu Biểu, đợi nội bộ họ sinh biến; họ đã có biến rồi ta
sẽ xuất kích sau, như thế có thể chỉ một trận là đánh được." Thái tổ nói:
"Hay." Bèn quay về đánh phương
Phó Tử
chép: Hà Bắc đã bình, Thái tổ nhiều lần cho triệu gọi các bậc danh sỹ có tên
tuổi ở các châu Thanh-Ký-U-Tinh đến, lấy họ làm các chức Duyện coi sóc việc ở
vùng đó. Ấy đều là mưu lược của Gia vậy.
Khi Thái
tổ đuổi đánh Viên Thượng đến ba quận ở xứ Ô Hoàn, chư tướng môn hạ đều sợ rằng
Lưu Biểu sẽ sai Lưu Bị tập kích Hứa Xương đánh Thái tổ, Gia nói: "Minh công
tuy uy chấn thiên hạ, song rợ Hồ ỷ rằng mình ở nơi xa xôi, ắt chẳng có sự đề
phòng. Ta nhân lúc họ không phòng bị, bất ngờ công kích, có thể phá tan được.
Vả lại Viên Thiệu vốn có ân huệ với người Di, lại để cho anh em Thượng sống ở
đó. Mà nay bách tính ở bốn châu (4) chỉ vì sợ uy của ta mà theo, chứ ân đức của
chúng ta chưa rủ đến họ, nếu chúng ta quay về đánh phương Nam, Thượng sẽ dựa
vào sự giúp đỡ của người Ô Hoàn, kêu gọi những kẻ tôi trung sẵn sàng chết vì
chủ, một khi người Hồ nổi dậy, người Di cũng hưởng ứng theo, khiến cho Đạp Đốn
(5) cũng nảy sinh mưu toan dòm dỏ, sợ rằng đất Ký châu, Thanh châu không còn là
của chúng ta nữa. Còn như Biểu, chỉ ngồi bàn chuyện suông với khách mà thôi, tự
biết rằng chẳng đủ tài để dùng Bị, nếu trọng dụng ắt sợ rằng không thể chế ngự
được Bị, nếu dùng Bị vào việc nhỏ ắt Bị không chịu làm, thế dẫu có bỏ trống
nước mà đi chinh phạt nơi xa, minh công cũng không cần gì phải lo lắng
cả." Thái tổ bèn nghe theo.
Đến đất
Dịch, Gia nói rằng: "Việc binh quý ở chỗ thần tốc. Nay đi xa ngàn dặm đánh
người ta, thế mà lại mang theo nhiều đồ quá nặng nề, khó mà đi nhanh được, vả
lại để cho quân kia biết được, tất có phòng bị; chi bằng bỏ hết những xe chở
nặng ở lại, kén chọn khinh binh cùng người hướng đạo để mau chóng tiến quân, bất
ngờ đánh úp là hơn." Thái tổ nghe theo ngầm tiến binh vượt Lô Long Tắc,
nhằm thẳng đến sào huyệt của chúa Thiền Vu. Binh rợ nghe tin Thái tổ đến, sợ
hãi cuống quýt cả lên hợp nhau lại ứng chiến. Thái tổ phá được quân ấy, chém
chết Đạp Đốn cùng đám thủ hạ. Thượng cùng với anh trai là Hy chạy trốn sang đất
Liêu Đông.
Gia học
vấn tinh thông lại có mưu lược, thấu hiểu sự việc. Thái tổ nói: "Duy chỉ
có Phụng Hiếu biết được ý của cô." Năm Gia 38 tuổi, ở Liễu Thành trở về,
bị ốm nặng, Thái tổ hỏi thăm bệnh tình. Lúc Gia chết, Thái tổ đến viếng tang,
rất thương cảm, bảo bọn Tuân Du rằng: "Các ngươi tuổi tác đều suýt soát
với cô, chỉ có Phụng Hiếu là nhỏ tuổi nhất. Ta tính rằng việc thiên hạ định
xong, sẽ giao phó việc sau cho, thế mà đang lúc tráng niên rờ rỡ lại chết sớm,
chẳng hay đó là số mệnh đã định hay sao!" Bèn viết biểu rằng: "Quân
sư Tế tửu Quách Gia, từ lúc theo thần đi chinh phạt, đến nay đã được mười một
năm. Mỗi khi có việc, liệu địch ứng biến. Có lúc kế sách của thần còn chưa
định, Gia đã quyết ý xong rồi. Việc bình định thiên hạ, công của Gia rất cao.
Nay Gia bất hạnh đoản thọ, sự nghiệp chưa trọn. Nhớ đến công lao của Gia, thật
chẳng thể quên. Nên tăng thêm thực ấp cho Gia từ 800 hộ trước đây lên 1.000
hộ."
Nguỵ thư
chép lại tờ biểu của Thái tổ viết: "Thần nghe rằng việc khen kẻ trung kính
người hiền, không hẳn ấy là người thân, nghĩ đến công lao của người ta mà khen
thưởng, ấy là ân điển để lại cho đời sau. Như việc Công Tôn Thúc nước Sở, vẻ
vang đến đời con cháu; như Sầm Bành dù đã chết, tước lộc đến tận ngành chi thứ.
Quân sư Tế tửu Quách Gia, là bậc uyên bác trung lương trinh thục, thấu tình đạt
lý.
Mỗi khi
có việc, một lời nói ra ở chốn doanh đình (6), đủ để giải quyết mọi việc, kế
sách chẳng hề sai sót. Từ ngày theo trong quân ngũ, nay đã được mười một năm,
đi thì cùng xe, ngồi cùng chung chiếu, ở phía Đông bắt sống Lã Bố, ở phía Tây
lấy được Tuy Cố, chém được thủ cấp Viên Đàm, yên định Sóc thổ (7) đất rộng dân
đông, lại vượt qua nơi đất hiểm, bình định xong xứ Ô Hoàn, oai danh rung động
cả đất Liêu Đông, tiêu diệt cả Viên Thượng. Dẫu đó là nhờ thiên uy của Bệ hạ,
nhưng ở đất Dịch làm chỉ huy, đến lúc lâm địch, truyền lệnh răn bảo ba quân, đủ
để đánh được kẻ hung nghịch, đó thực sự là công lao của Gia vậy. Đang lúc chuẩn
bị biểu dương công lao, song Gia đoản mệnh mà chết sớm. Người trên ở nơi triều
đường thương tiếc mà truy điệu bậc lương thần, kẻ dưới tiếc hận phải để tang
cho người tài đã khuất. Nay nên truy tặng cho Gia, tăng thêm lộc đủ 1.000 hộ,
khen tặng người đã chết, cũng là để cổ suý cho người sau vậy."
Ban cho
Gia thuỵ hiệu là Trinh hầu. Con là Dịch nối tự. Dịch tự là Bá Ích.. Sách Nguỵ
thư khen rằng Dịch thông minh thấu tỏ đạo lý.
Sau này
lúc Thái tổ chinh phạt Kinh Châu trở về, đến Ba Khâu gặp bệnh dịch, thuyền bè
bị đốt cả, than thở rằng: "Nếu Quách Phụng Hiếu còn sống, chẳng thể khiến
cô đến nông nỗi này."
Phó Tử
chép: Thái tổ khóc mà rằng: "Thương thay Phụng Hiếu! Đau đớn thay Phụng
Hiếu! Tiếc thay Phụng Hiếu!"
Lúc
trước, Trần Quần nói với Thái tổ rằng Gia không chịu sửa đổi hạnh kiểm, mấy lần
chê bai Gia ngay ở chốn triều đường, Gia không để ý mà vẫn hành sự tự nhiên
theo ý mình, Thái tổ càng quý trọng Gia hơn, khiến cho Quần phải thuận theo,
rồi sau cũng rất hài lòng với Gia.
Phó Tử
chép: Thái tổ gửi thư cho Tuân Úc, nhớ đến Quách Gia thương cảm nói:
"Quách Phụng Hiếu tuổi chưa đến 40, cùng lo việc với ta đã mười một năm,
vượt mọi trở ngại gian lao, cùng chung lo lắng. Lại là người rất thấu hiểu lý
lẽ, biết rõ thế sự khiến mọi việc không bị ngưng trệ, ta muốn phó thác việc hậu
sự cho, đâu ngờ chết sớm, khiến ta đau xót thương cảm khôn cùng. Nay ta dâng
biểu lên trên xin tăng thêm thực ấp cho con cháu Gia đủ 1.000 hộ, ấy là để giúp
thêm cho người đã chết, mong sao lòng đoái niệm ấy cảm kích sâu sắc đến người
khác. Vả lại Phụng Hiếu là người hiểu cô hơn ai hết; Người trong thiên hạ hiểu
được nhau cũng chẳng có nhiều, vì thế lại khiến ta đau tiếc hơn nữa. Sao mà đau
tiếc đến vậy được!" Lại gửi cho Úc một bức thư nữa rằng: "Ta nhớ tiếc
Phụng Hiếu, chẳng thể quên được. Người ấy hiểu biết việc binh nhung, hơn hẳn
mọi người. Có nhiều người lo lắng rằng phương Nam
đương có bệnh dịch, thường nói rằng: 'Ta đến phương Nam , tất chẳng sống để trở về'.
Nhưng Gia cùng với ta bàn định kế sách, Gia cho rằng nên định Kinh châu trước.
Thế là chẳng những chỉ biết đến kế sách mà còn trung hậu nữa, luôn muốn lập
công lao, chẳng kể gì đến tính mệnh. Việc ấy người ta sao có thể quên được, làm
sao ta có thể quên người đã khuất được."
Con Gia
là Dịch là Thái tử Văn học, chết sớm. Con là Thâm nối tự. Thâm chết, con là
Liệp kế tự.
Sách Thế
ngữ chép: Gia là cháu Sưởng, Sưởng tự là Thái Trung, có tài cán, làm Tán kỵ
Thường thị.
Chú thích:
(1) Chức Quân sư tế tửu ở phủ Tư không.
(2) Nguyên văn: dĩ tứ hải tiếp, nghĩa là nghĩ
xa khắp bốn bể, dịch thoát ý.
(3) Hạng Võ.
(4) Chỉ bốn châu xứ Bắc Hà.
(5) Đạp Đốn tức là thủ lĩnh quân Ô Hoàn.
(6) Nơi bàn bạc việc quân ở doanh trại chốn sa
trường.
(7) Trỏ đất Bắc Hà của Thiệu.
NGỤY THƯ QUYỂN 15 - Lưu Tư Mã Lương Trương Ôn
Giả truyện Lưu Phức, Tư Mã Lãng, Lương Tập, Trương Ký, Ôn
Khôi, Giả Quỳ
TRUYỆN LƯU PHỨC
Lưu Phức
tự Nguyên Dĩnh, người ấp Tương nước Bái. Tránh loạn đến Dương Châu, đầu năm
Kiến An, khuyên dụ tướng của Viên Thuật là Thích Kí, Tần Dực đem quân cùng đến
chỗ Thái Tổ. Thái Tổ vui mừng, quan Tư đồ(1) gọi làm quan Duyện. Sau có viên Lư
Giang Thái thú Lí Thuật mà Tôn Sách sắp đặt đánh giết Dương Châu Thứ sử Nghiêm
Tượng; người quận Lư Giang là bọn Mai Càn, Lôi Tự, Trần Lan tụ tập mấy vạn
người tại vùng Giang Hoài, phá hại quận huyện; Thái Tổ đang có cái nạn của Viên
Thiệu, sai Phức coi việc ở miền đông nam, bèn cho làm Dương Châu Thứ sử.
Phức đã
nhận lệnh, đi một ngựa vào sửa thành trống Hợp Phì, lập làm sở trị của châu, vỗ
về bọn Tự ở phía nam, đều an ủi chúng, thay nhau cống nạp. Trong mấy năm, ban
bố ân tín, trăm họ vui vì việc của Phức, dân phiêu tán trèo núi vượt sông đến
theo về đến hàng vạn người. Do đó tụ tập học trò, dựng trường học, mở đồn làm
ruộng, đắp sửa bờ đê Thược Bi cùng các bờ đê Như Bi, Thất Môn, Ngô Đường để rót
nước vào ruộng lúa, do đó quan dân được cất chứa. Lại đắp thành lũy cao, chất
nhiều gỗ đá, lại kết hàng nghìn vạn tấm rơm cỏ, chứa thêm mấy nghìn hộc dầu cá
để phòng bị chiến đấu.
Năm Kiến
An thứ mười ba thì chết. Tôn Quyền đem mười vạn quân vây đánh thành Hợp Phì hơn
trăm ngày, bấy giờ trời mưa liên miên, thành sắp lở, do đó lấy rơm cỏ mà che
lấp, đuổi đêm lại đốt dầu cá sáng quắc cả ngoài thành để xem giặc đánh thế nào
mà phòng bị, giặc vì thế mà thua chạy. Quân dân Dương Châu thêm ghi nhớ ân của
Phức, cho rằng dẫu Đổng An Vu giữ đất Tấn Dương cũng không hơn được vậy. Còn
cái lợi của bờ đê, đến nay vẫn dùng.
Con Phức
là Tĩnh, giữa năm Hoàng Sơ làm Hoàng môn Thị lang, chuyển làm Lư Giang Thái
thú, hạ chiếu nói: "Cha khanh xưa giúp châu ấy, nay khanh lại đến coi quận
này, có thể nói là đã gánh lại vác(2) vậy". Chuyển về Hà Nội, đổi làm
Thượng thư, ban tước Quan Nội Hầu, lại ra làm Hà Nam Doãn. Tán kị Thường thị
Ứng Cừ gửi thư khen Tĩnh nói: "Vào triều thì giúp bày kế sách, ra ngoài
thì gánh việc biên thùy. Ngày dài tháng rộng nghĩ thuật giúp dân, bọn rợ phiên
dữ tợn cũng phải bỏ ý dòm ngó. Cúng tế năm vị thần(3), dứt được cái hại của
nước lụt lửa cháy. Đồ dùng trồng trọt đủ cả, không cái thiếu đói của năm mất
mùa. Cái cái dùng của tơ tằm, rơm cỏ, không có cái lo lắng về mưa ngập, điềm
lành hẹn đến. Không có quan lại nhũng nhiễu. Nguời góa bụa cô đơn được cấp chẩn
đầy đủ. Lại thêm suy nghĩ sáng suốt kín kẽ, coi trọng pháp luật mà không uốn
gối; có lòng cùng vâng theo lệnh vua, các nơi xa trăm dặm rủ lòng trông mong.
Dẫu Triệu, Trương, ba Vương(4) giúp vua ngày xưa cũng không đủ sánh vậy".
Tĩnh làm việc đại khái như thế. Lúc đầu việc làm dẫu có rắc rối, nhưng rút cuộc
lại có lợi cho trăm họ, có phong thái của Phức. Vì có tang mẹ mà bỏ chức, sau
làm Đại Tư nông Vệ úy. Tiến phong Quảng Lục Đình Hầu, thực ấp ba trăm hộ. Dâng
sớ bày tỏ cái gốc của đạo Nho rằng: "Việc học là phép tắc của việc dẹp
loạn, là đạo lớn của thánh nhân vậy. Từ năm Hoàng Sơ đến nay, tôn lập đạo học
hơn đã hơn hai mươi năm, vậy mà ít có người thành công, đại khái là do quan Bác
sĩ
(5) coi nhẹ
việc chọn lựa, học trò chỉ lo tránh việc lao dịch, các con em nhà cao lại không
biết xấu hổ cho đức hạnh của mình, cho nên không có người học. Dẫu có tiếng là
tôn đạo học mà không có người tôn đạo học, dẫu có đạo ấy mà không có ai hiểu
được cái đạo ấy. Vậy nên chọn quan Bác sĩ có khí tiết cao thượng, dùng người có
đức hạnh mà làm tấm gương, cho dạy dỗ người khác, trông coi việc dạy dỗ con em
của công khanh. Dựa theo phép cũ, sai các con cháu của các quan lại có bổng lộc
từ hai nghìn thạch trở lên, đủ từ mười lăm tuổi đều phải vào trường học. Làm rõ
thế nào là vinh hay nhục, bày cách cất nhắc và phế truất; những người kính đạo
tu hạnh thì cất nhắc để tôn đức; những kẻ phá đạo hủy nghiệp thì phế truất để
trừ ác; nêu việc thiện mà không dạy được thì khuyên bảo, không cấm xa hoa cầu
cạnh thì đạo sẽ bị bỏ ngừng vậy. Mở mang đạo lớn để vỗ về kẻ chưa thần phục,
khiến cho sáu cõi ngưỡng theo, người phương xa đến chầu, đấy là cái đạo của
thánh nhân, cái gốc của chính trị vậy". Sau lại chuyển làm Trấn bắc Tướng
quân, ban Giả tiết, trông coi việc quân miền Hà Bắc. Tĩnh cho rằng: "Phép
hay thường gặp, chẳng gì hay hơn phòng bị, khiến cho người rợ chia rẽ".
Bèn mở rộng việc phòng bị biên giới, đóng giữ nơi hiểm yếu. Lại sửa gò cao, đào
kênh dài, đắp đê lớn, dẫn nước rót tưới vào phía nam bắc của huyện Kế; khiến
cho việc trồng lúa được dễ dàng, người biên giới được nhờ cái lợi ấy. Năm Gia
Bình thứ sáu thì hoăng, truy tặng chức Chinh bắc Tướng quân, tiến phong Kiến
Thành Hương Hầu, thụy là Cảnh Hầu. Con là Hi nối tự.
Tấn Dương
thu viết: Lưu Hoằng tự Thúc Hòa, là em của Hi vậy. Hoằng cùng tuổi với Tấn Thế
Tổ, ở cùng làng, vì có ân bạn cũ mà thường được rạng rỡ. Từ thời Tĩnh đến đời
Hoằng, không làm giảm danh tiếng trên đời, lại có tài chính trị. Cuối thời nhà
Tây Tấn, Hoằng làm Xa kị Đại Tướng quân Khai phủ, Kinh Châu Thứ sử, ban Giả
tiết, trông coi việc quân của các châu Kinh, Giao, Quảng, phong Tân Thành Quận
Công. Lúc ở tại miền Giang Hán, gặp buổi tông thất của Nhà vua gặp nhiều nạn,
bèn được lệnh trông coi một vùng, dốc hết tài chí. Cảm hóa thuộc hạ, khuyến
khích lễ nghĩa, giảm bớt hình phạt, chăm chỉ cấy cày. Hễ có việc quân, tự tay
viết hịch trao cho quận huyện, ung dung chậm rãi, cho nên chẳng ai không cảm
phục, rong ruổi ngược xuôi, đều nói: "Thấy một bức thư của Lưu Công, người
hiền đã mười phần đã nghe theo rồi". Bấy giờ Nhà vua ở tại Trường An, lệnh
Hoằng được chọn dùng quan lại. Gọi kẻ sĩ quận Vũ Lăng là Ngũ Triều có đức hạnh
cao thượng coi việc, Nha môn tướng Bì Sơ có công ở miền Giang Hán, Hoằng dâng
thư tiến cử Triều làm Linh Lăng Thái thú, Sơ làm Tương Dương Thái thú. Hạ chiếu
cho rằng Tương Dương là quận lớn, mà tiếng tăm của Sơ lại thấp kém, lấy con rể
của Hoằng là Hạ Hầu Trắc làm Tương Dương Thái thú. Hoằng nói: "Người trông
coi thiên hạ nên cùng lòng với thiên hạ, người trông coi một nước nên cùng gắng
sức với một nước. Ta trông coi mười quận của Kinh Châu, há có mười con rể mới
trông coi được sao"? Bèn dâng biểu nói rằng: "Trắc là con rể, theo
phép cũ không được coi xét việc này, mà Sơ có công, nên được tin dùng". Hạ
chiếu nghe theo, dân thêm phục cách làm ấy. Quảng Hán Thái thú Tân Nhiễm thấy
Thiên tử yếu kém, bốn phương rối loạn, đến theo bày kế phản nghịch cho Hoằng,
Hoằng giận mà chém đi, người thời ấy chẳng ai không khen ngợi. Tấn chư công tán
viết: Bấy giờ thiên hạ dẫu loạn, nhưng Kinh Châu vẫn yên ổn. Hoằng có chí như
Lưu Cảnh Thăng giữ gìn miền Giang Hán, không theo dựa Thái phó Tư Mã Việt, Việt
rất kính nể Hoằng. Sau đó Hoằng bệnh chết. Con là Phan, làm Bắc trung lang
tướng.
Chú thích
(1) Quan Tư đồ: chỉ Vương Doãn, bấy giờ làm Tư
đồ của Hán Hiến Đế.
(2) Đã gánh lại vác: ý nói hai cha con Lưu
Phức, Lưu Tĩnh thay nhau gánh vách việc quan ở miền Dương Châu.
(3) Năm vị thần: tức năm vị thần trông coi ngũ
hành là mộc, hỏa, kim, thủy, thổ.
(4) Triệu, Trương, ba Vương: Triệu, Trương là
Triệu Quảng Hán và Trương Xưởng, ba Vương là Vương Tôn, Vương Chương, Vương
Tuấn, đều là những quan lại có tài chính trị thời Hán.
(5) Bác sĩ: chức quan trông coi việc dạy học
thời Hán, Tam quốc.
TRUYỆN TƯ MÃ LANG
Tư Mã
Lang tự Bá Đạt, người huyện Ôn quận Hà Nội.
Lời tựa
của Tư Mã Bưu viết: Ông nội Lang là Tuấn, tự Nguyên Dị, học rộng ưa việc xưa,
tài giỏi lại rộng lượng. Thân dài tám thước ba tấc, buộc dây eo đến mười vòng,
dáng vẻ hùng vĩ, khác với mọi người, người làng họ hàng đều nương dựa vậy. Làm
đến Thái thú Dĩnh Xuyên. Cha là Phòng, tự Kiến Công, tính thật thà thẳng thắn,
dẫu ở nơi xa lánh nhưng uy nghi không đổi. Ưa đọc truyện các danh thần trong
Hán thư, có viết lời bàn đến mấy vạn chữ, làm quan ở châu quận, trải các chức
Lạc Dương Lệnh, Kinh Triệu Doãn, vì tuổi già mà chuyển làm Kị Đô úy, nuôi chí
nơi thôn ấp, tự giữ nhà cửa. Các con dẫu đã thành người lớn nhưng không sai đi
thì không dám đi, không sai ngồi thì không dám ngôi, không chỉ tay gọi đến hỏi
thì không dám nói, giữa cha con nghiêm túc đến như thế. Năm bảy mươi mốt tuổi
thì chết, tức năm Kiến An thứ hai mươi tư. Có tám con trai. Lang là lớn nhất,
thứ là Tuyên Hoàng Đế của nhà Tấn vậy.
Năm chín
tuổi, có người khách nói thẳng tên chữ của cha Lang, Lang nói: "Coi khinh
người thân của người khác là không kính người thân của mình vậy". Người
khách tạ lỗi. Năm mười hai tuổi, thi kinh làm Đồng tử lang, người coi thi vì
thân thể mình to lớn, ngờ Lang nhỏ tuổi, gạn hỏi, Lang nói: "Anh em nội
ngoại của Lang nhiều đời đều to lớn, Lang dẫu nhỏ yếu nhưng không có ý nhìn lên
cao, nếu nói dối tuổi nhỏ để cầu tiếng sớm thành danh, đấy không phải là chí
của ta vậy". Người coi thi cho là lạ. Sau đó quân miền Quan Đông nổi dậy,
người nhà của Thứ sử Kí Châu Lí Thiệu ngày trước ở tại huyện Dã Vương, gần núi
hiểm, muốn dời đến ở huyện Ôn. Lang khuyên Thiệu nói: "Như răng với môi,
há chỉ có nước Ngu với nước Quắc(1), còn có huyện Ôn và huyện Dã Vương; nay bỏ
chỗ ấy mà đến ở đây, đấy là mong tránh cái nạn một sớm mà thôi. Vả lại ông là người
có danh vọng của nhà nước, nay giặc chưa đến mà dời đi trước, các huyện ven núi
tất kinh hãi, đấy là cái gốc làm dao động lòng dân và mời bọn gian làm loạn,
nên lo cho người trong quận". Thiệu không nghe theo. Quả nhiên dân ven núi
làm loạn, có kẻ dời vào thành, có người cướp bóc.
Bấy giờ
Đổng Trác chuyển Thiên tử đóng đô ở Trường An, Trác nhân đó ở lại tại Lạc
Dương. Cha Lang là Phòng làm Trị thư Ngự sử, muốn dời về phía tây, vì bốn
phương rối loạn, bèn sai Lang đem người nhà về huyện cũ. Có người nói Lang muốn
chạy trốn, bắt đem đến chỗ Trác, Trác bảo Lang nói: "Ngươi cùng tuổi với
đứa con đã chết của ta, sao lại làm trái nhau quá thế"? Lang nhân đó nói:
"Minh công có đức cao trên đời, gặp thời loạn lạc, xóa trừ bọn xấu, cất
nhắc hiền sĩ, nếu ngày nay dốc lòng suy nghĩ sẽ phục hưng chính trị vậy. Uy đức
đã lớn, công lao đã rõ, nhưng binh nạn ngày càng nổi lên, châu quận sôi sục, ở
vùng ngoài thành, dân chẳng an nghiệp, vứt bỏ của cải, chạy trốn ẩn nấp, dẫu
ngăn cấm bốn ải, tăng thêm hình phạt, cũng không yên ổn, đấy là nguyên nhân
Lang dời về quê vậy. Mong minh công soi xét việc cũ, ban phát ân trạch, như vậy
sẽ rạng danh cùng với nhật nguyệt, dẫu Y, Chu (2)
cũng không hơn được vậy". Trác nói: "Ta cũng biết rồi, khanh nói có
lí"!
Thần là
Tùng Chi xét: Lời đáp của Lang chỉ là kể khen công đức của Trác, không phải
khuyên răn mà thôi. Trác không tự xét kĩ mà lại nói: "Ta cũng biết rồi,
khanh nói có lí"! Lời khách và chủ như là không không đối đáp nhau vậy.
Lang
biết Trác tất thua, sợ bị giữ lại, liền đem tiền của để hối lộ những người coi
việc của Trác, xin về quê nhà. Lại bảo người già cả rằng: "Đổng Trác ác
nghịch, bị thiên hạ ghét, nay là lúc trung thần nghĩa sĩ chuẩn bị nổi dậy. Quận
này liền kề nhau với kinh đô, phía đông Lạc Dương có huyện Thành Cao, phía bắc
là sông lớn, nếu người dấy binh trong thiên hạ chưa tiến được tất dừng lại ở
đấy. Đấy là đất tranh chiếm chưa năm xẻ bốn, khó mà ở yên, không bằng nhân lúc
đường đi còn thông mà đem họ hàng đi về phía đông đến ở huyện Lê Dương. Ở Lê
Dương có quân đồn đóng, là quê nhà vợ của Triệu Uy Tôn, làm chức Giám doanh Yết
giả, lĩnh quân mã, đủ để làm chủ. Nếu sau này có biến, thong thả đứng xem cũng
chưa muộn". Người già cả vương vấn chỗ cũ, chẳng ai nghe theo, chỉ có
người cùng huyện là Triệu Tư cùng đem người nhà với Lang đến đấy. Mấy tháng
sau, các châu quận miền Quan Đông dấy binh đến mấy chục vạn người, đều tụ ở
Huỳnh Dương và Hà Nội. Các tướng không cùng thống nhất, thả quân ra cướp bóc,
dân chúng chết đến gần nửa. Lâu sau, quân miền Quan Đông tan rã, Thái Tổ chống
với Lữ Bố ở Bộc Dương, Lang bèn đem người nhà về huyện Ôn. Năm đó đói to, người
dân ăn thịt nhau, Lang cứu chẩn họ hàng, dạy bảo các em, không vì thời loạn mà
bỏ nghiệp.
Năm ba
mươi hai tuổi, Thái Tổ gọi đến làm Tư không Duyện thuộc, cho làm Thành Cao
Lệnh, lại vì mắc bệnh mà bỏ chức, chuyển làm Đường Dương Trưởng. Lang làm quan
khoan hòa, không dùng roi gậy mà dân không phạm cấm. Lúc trước, có người dân
dời vào trong kinh đô, sau huyện lại sai làm thuyền, người dân sợ Lang không
làm nổi, bèn cùng nhau góp tiền riêng về giúp Lang, Lang được yêu mến như thế.
Chuyển làm Nguyên Thành Lệnh, vào làm Thừa tướng Chủ bạ. Lang cho rằng thế của thiên
hạ vỡ lở là do từ thời nhà Tần bỏ chế độ năm bậc tước, mà quận huyện lại không
gom góp chuẩn bị luyện tập chiến đấu. Nay dẫu chưa lập lại được năm bậc tước
nhưng có thể sai châu quận cùng sắp đặt quân sĩ, ngoài phòng bị người rợ, trong
uy hiếp kẻ không nghe lệnh, đấy là kế hơn cả. Lại cho rằng nên lập lại phép
'tỉnh điền'(3). Ngày xưa dân đều nối đời có ruộng, nay vì thời loạn mà cướp
đoạt ruộng ấy, như thế đến nay. Nay nhân lúc sau cơn loạn lạc, dân chúng tản
mát, ruộng đất không có chủ, đều làm thành ruộng công, nên mượn cơ hội này mà
lập lại phép ấy. Lời bàn này dẫu không được làm theo nhưng châu quận được lĩnh
quân là do ý của Lang vậy. Chuyển làm Thứ sử Duyện Châu, ban hành đạo chính,
trăm họ khen ngợi. Dẫu ở trong quân đội nhưng thường mặc áo cũ ăn cơm thô, tiết
kiệm để làm gương cho kẻ dưới. Ưa bàn luận sách kinh việc người, người cùng
làng là bọn Lí Địch có tiếng tăm nổi rõ, Lang thường nhún nhường đứng dưới họ.
Sau bọn Địch thua bại, người đời mới chịu phục Lang. Chung Do, Vương Xán bàn
luận rằng: "Không có thánh nhân thì không thể dẫn đến thái bình".
Lang cho rằng: "Bọn Y, Nhan(4) dẫu không phải là thánh nhân nhưng được
nhiều đời sau truyền tụng, vẫn dẫn đến thái bình".
Ngụy thư
viết: Văn Đế khen lời bàn của Lang, sai Bí thư ghi lại lời ấy.
Tôn
Thịnh nói: "Do đã không có ý hay, Lang cũng chẳng có ý đẹp vậy. Ngày xưa
vua Thang dùng Y Doãn thì người bất nhân phải xa rời. KinhDịch nói: 'Thầy họ
Nhan là người đại hiền chăng! Chưa từng không biết cái không tốt, biết rồi chưa
từng làm trái'. Theo đó mà nói, thánh nhân so với người đại hiền, đức hạnh như
nhau, ý chí giống nhau, giúp đời dạy đạo, lí lẽ chẳng khác, dẫn đến thái bình,
há đợi nhiều đời sao? Người giỏi giúp nước được trăm năm, cũng có thể bỏ ác vứt
xấu. Lại nói: 'Không học theo người hiền xưa thì không thể giỏi được'. Bàn về
việc nhiều đời trước, phải như thế chăng! Như người đại hiền ngày nay, vẫn noi
theo vậy".
Năm Kiến
An thứ hai mươi hai, cùng bọn Hạ Hầu Đôn, Tang Bá đánh Ngô. Đến Cư Sào, quân sĩ
mắc bệnh dịch lớn, Lang tự đi xem xét, cấp phát thuốc chữa, bị bệnh chết, bấy
giờ bốn mươi bảy tuổi. Truyền lệnh lại phải lấy bằng áo vải khăn lụa, áo thường
mà liệm, người trong châu ghi nhớ.
Ngụy thư
viết: Lang sắp chết, bảo tướng sĩ nói: "Thứ sử ta nhận ân dày của nhà
nước, coi việc ngoài nơi vạn dặm, chưa báo được công nhỏ mà mắc phải bệnh dịch
này, đã không tự cứu được mình, lại phụ lại ân của nhà nước. Sau khi thân chết,
phải lấy áo vải khăn lụa, áo thường mà liệm, chớ làm trái ý ta".
Minh Đế
lên ngôi, phong con Lang là Di làm Xương Vũ Đình Hầu, thực ấp trăm hộ. Em Lang
là Phu lại lấy con là Vọng làm dòng dõi của Lang. Di hoăng, con Vọng là Hồng
nối tự.
Tấn chư
công tán viết: Vọng tự Tử Sơ, là con cả của Phu. Có tài học, sớm nổi tiếng.
Giữa năm Hàm Hi làm đến Tư đồ, vào thời nhà Tấn phong làm Nghĩa Dương Vương,
chuyển làm Thái úy, Đại Tư mã. Bấy giờ Phu làm Thừa tướng, cha con ở ngôi cao
trọng, từ thời giữa đến nay chưa từng có. Hồng tự Khổng Nghiệp, được phong làm
Hà Gian Vương.
Lúc
trước Triệu Tư cùng dời đi với Lang, làm quan đến Thái thường, là kẻ sĩ giỏi
thời ấy.
Tư tự
Quân Sơ, con là Phong, tự Tử Trọng, thời Tấn làm Phiếu kị Tướng quân, phong
Đông Bình Lăng Công, đều được chép trong Bách quan danh chí.
Chú thích
(1) Nước Ngu với nước Quắc: nước Ngu và nước
Quắc là hai nước nhỏ thời Xuân thu, có địa thế hiểm yếu, cùng bảo vệ nhau. Vua
nước Tấn là Hiến Công mượn đường của nước Ngu để diệt nước Quắc, rồi diệt nốt
nước Ngu.
(2) Y, Chu: tức Y Doãn và Chu
Công. Y Doãn giúp vua Thang nhà Thương diệt nhà Hạ. Chu Công phụ chính cho
Thành Vương của nhà Chu .
(3) Phép 'tỉnh điền': phép chia ruộng đất thời
xưa, chia thành chín khoảnh như hình chữ tỉnh, khoảnh giữa là ruộng công, tám
khoảnh xung quanh là ruộng riêng.
(4) Nhan: tức Nhan Uyên, một học trò giỏi của
Khổng Tử.
TRUYỆN LƯƠNG TẬP
Lương
Tập tự Tử Ngu, người huyện Chá quận Trần, làm quan Cương kỉ(1) trong quận. Thái
Tổ làm Tư không, gọi đến làm Chương Trưởng, chuyển qua các chức Thặng Chi, Hải
Tây, Hạ Bì Lệnh, chỗ trị có tiếng tăm. Về làm Tây tào Lệnh sử, lại chuyển làm
Tây tào thuộc. Tinh Châu vừa theo về, Tập làm Biệt bộ Tư mã, lĩnh chức Tinh
Châu Thứ sử. Bấy giờ sau cuộc nổi loạn của Cao Hàn, người Hồ Địch vào cõi,
ngang ngược bướng bỉnh, quan dân lại trốn theo làm phản, vào ở trong bộ lạc của
chúng, các nhà đều dấy binh gây việc cướp hại, lại ganh chống lẫn nhau, đóng
giữ các nơi. Tập đến nhận chức, vỗ về chiêu nạp, đều lấy lễ kêu gọi bọn cường
hào, lại tiến cử họ, sai đến phủ quan; bọn cường hào đã hết, sau đó lấy bọn
đinh tráng làm quân 'nghĩa tòng'(2); lại nhân đó phát đại quân đi đánh dẹp,
chia ra làm dũng sĩ. Sau khi đại quân đã đi, rồi trước sau dời người nhà của họ
đến đất Nghiệp, cả thảy mấy vạn người; những kẻ không nghe lệnh thì đem quân
đến đánh, chém mấy nghìn đầu, kẻ hàng phục đến vạn người. Thiền vu kính thuận,
các phiên vương đều cúi đầu, bọn bộ khúc phải theo chức vụ, cùng ghi tên vào sổ
hộ. Do đó biên giới yên ổn, trăm họ ra đồng, chăm chỉ trồng trọt, vâng theo
phép cấm. Lại chọn kẻ sĩ, đều là bọn nổi tiếng ở trên đời, lời nói tại truyện
về Thường Lâm. Thái Tổ vui mừng, ban tước Quan nội hầu, lại bái chức như cũ.
Bậc già cả khen ngợi, cho rằng từ trước đến nay chưa có ai làm Thứ sử tốt bằng
Tập.
Năm Kiến
An thứ mười tám, gộp Tinh Châu vào Kí Châu, lại bái làm Nghị lang, Tây bộ Đô
đốc Tòng sự, coi việc Kí Châu, tổng lĩnh bộ khúc cũ. Lại sai người đến quận
Thượng Đảng lấy gỗ lớn đem về làm cung điện ở đất Nghiệp. Tập xin đặt hai người
nắm chức Đồn điền Đô úy, đều lĩnh sáu trăm người cày, trồng trọt cây túc(3),
đậu ở bên đường để cấp các đồ dùng cho người và trâu. Sau đó Thiền vu vào chầu,
miền tây bắc không có lo lắng, đấy là công của Tập vậy.
Ngụy
lược viết: Quan Đại phu của người Tiên Ti là Dục Diên thường gây lo lắng cho
người trong châu, lại một sớm đem hơn năm nghìn quân kị trong bộ lạc của mình
đến chỗ Tập, xin được mua bán, Tập nghĩ nếu không nghe theo thì sợ hắn giận,
nếu nghe theo cho hắn vào châu lại sợ hắn cướp bóc, rồi bèn hứa theo cho hắn
đến và hẹn mua bán ở trong thành trống. Lại lệnh cho quận huyện, từ quan Trị
trung trở xuống phải đến đó. Mua bán chưa xong, quan trông coi việc mua bán bắt
trói một thằng người Hồ. Quân kị của Diên đều kinh ngạc, bèn lên ngựa giương
cung vây Tập đến mấy vòng, quan dân lo sợ không biết làm sao. Tập liền thong
thả gọi quan trông coi việc mua bán lại, hỏi vì sao bắt trói người Hồ thì đúng
là người Hồ xâm phạm người khác. Tập lại sai người dịch tiếng đến gọi Diên,
Diên đến, Tập trách Diên nói: "Người Hồ các ngươi tự phạm phép cấm, quan
lại không xâm lấn các ngươi, các ngươi sao lại sai quân kị gây kinh sợ
vậy"? Bèn chém Diên, bọn người Hồ còn lại vỡ mật không dám động. Từ đó
không còn cướp bóc. Đến năm thứ hai mươi hai, Thái Tổ đánh lấy Hán Trung, các
quân về đến Trường An, nhân đó giữ viên Đô đốc quận Thái Nguyên kiêm phiên
vương của người Ô Hoàn là Lỗ Tích ở lại, sai đóng quân ở Trì Dương để phòng giữ
huyện Lô Thủy. Tích có người vợ yêu ở tại Tấn Dương. Tích đã nhớ vợ, lại sợ
không được quay về, bèn đem năm trăm quân kị của bộ lạc mình làm phản chạy về
Tinh Châu, giữ số quân kị còn lại ở giữa hang núi, rồi một mình cưỡi ngựa vào
thành Tấn Dương, cướp lấy vợ yêu. Đã ra thành, người trong châu quận biết được,
nhưng quan dân lại sợ cái tài bắn tên của Tích, không dám đuổi theo. Tập bèn
sai Tòng sự Trương Cảnh chọn người Tiên Ti đuổi theo Tích. Tích cõng vợ trên
ngựa, bọn quân kị theo nhau cũng rút lui, chưa kịp hội với quân mình, liền bị
người Tiên Ti bắn chết. Lúc đầu Thái Tổ nghe tin Tích làm phản, sợ hắn gây loạn
ở miền bắc; kịp lúc nghe tin đã giết hắn, rất mừng, cho rằng đấy là kế sách
trước sau của Tập, phong làm Quan nội hầu.
Văn Đế
lên ngôi, đặt lại Tinh Châu, phục chức Thứ sử, tiến phong Thân Môn Đình Hầu,
phụng ấp có trăm hộ, coi việc thường được thiên hạ khen. Năm Thái Hòa thứ hai,
gọi về bái làm Đại Tư nông. Tập ở tại châu hơn hai mươi năm nhưng ăn ở nghèo
khổ, không có ngọc báu vật đẹp, Minh Đế khen là lạ, đối đáp rất hậu. Năm thứ tư
thì hoăng, con là Thi nối tự.
Trước
đây, người huyện Tế Âm là Vương Tư cùng làm Tây tào Lệnh sử với Tập. Tư vào
ngày trực báo việc, làm trái ý Thái Tổ. Thái Tổ cả giận, gọi quan chủ việc đến,
muốn xử tội nặng. Bấy giờ Tư ra ngoài, Tập thay đến ứng đáp, sau khi đã bị bắt
giữ, Tư bèn đi nhanh về, tự kể tội của mình, tội đáng phải chết. Thái Tổ than
Tập không nói cho mình, Tư tự biết tội lỗi, nói: "Sao lại có hai nghĩa sĩ
trong quân ta chăng"?
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Tập với Vương Tư chỉ là cùng làm quan mà thôi, không có tình
thân cốt nhục, chẳng có nghĩa 'đâm cổ', vậy mà đem thân đỡ thay Tư, chịu nhận
cái họa không lường. Thái Tổ cho là có nghĩa, chẳng phải là làm trái phép tắc
của bậc thánh triết thời xưa sao! Thái sử Thiên nói: "Có cái chết nặng như
núi Thái, có cái nhẹ như lông hồng", cho nên quân tử không sống ẩu, cũng chẳng
chết bừa. Nếu Tư không tự gây tội thì chủ chẳng giận, đấy gọi là tự sát ở rãnh
nước mà chẳng ai biết vậy. Tập thà chết vì nghĩa, há đúng vậy sao!
Sau đó
cùng lúc cử làm Thứ sử, Tư làm Dự Châu Thứ sử. Tư cũng là quan lại tài năng
nhưng khắc nghiệt không biết toàn cuộc, làm đến bậc cửu khanh, phong Liệt hầu.
Ngụy
lược - Hà lại truyện viết: Tư và Tiết Đễ, Khích Gia cùng theo lời gọi, làm quan
bậc nhỏ. Trong ba người, Đễ hơi biết đạo Nho, ở chỗ làm quan nổi tiếng là tiết
kiệm. Gia với Tư làm việc cũng giống như thế. Văn Đế hạ chiếu nói: "Tiết
Đễ là quan lại biết rộng, Vương Tư, Khích Gia là quan lại trong sạch, đều ban
tước Quan nội hầu để báo đền công của các vị". Tư là người rườm rà nhưng
thông thuộc văn thư, kính hiền trọng sĩ, dốc lòng mưu việc, cũng vì thế mà nổi
tiếng. Giữa năm Chính Thủy làm Đại Tư nông, tuổi già mắt mờ, nổi giận vô cớ,
quan thuộc ngao ngán chẳng biết vì sao. Tính lại ít tin cậy, bấy giờ có cha của
viên quan thuộc bệnh nặng, ở gần ngoài phủ quan, tự xin nghỉ tạm. Tư ngờ là
không thật, phát cáu nói: "Trên đời có người nhớ vợ muốn về quê mà nói dối
là mẹ bị bệnh, chẳng lẽ là như thế"! Bèn không cho nghỉ. Ngày sau cha của
quan thuộc chết, Tư cũng chẳng tiếc nuối. Người này khắc nghiệt đại loại như
thế. Tư lại có tỉnh nóng nảy, từng cầm bút viết chữ, có con ruồi đậu trên cán
bút, xua đi lại bay lại, cứ như thế ba lần. Tư giận dữ, tự đứng dậy bắt con
ruồi nhưng không được, liền lấy bút ném xuống đất, dẫm nát bút. Bấy giờ có
người quận Đan Dương là Thi Úy, người quận Lỗ là Nghê Nghĩ, người quận Nam
Dương là Hồ Nghiệp cũng làm Thứ sử, Quận thú, người thời ấy gọi là quan lại
khắc nghiệt. Lại có người huyện Cao Dương là Lưu Loại, trải qua các chức mục
thú, nổi tiếng ác nghiệt, nhưng chăm chỉ làm việc, không bị bỏ chức. Giữa năm
Gia Bình làm Hoằng Nông Thái thú, có hơn hai trăm quan thuộc, không cho nghỉ
ngơi, chuyên sai làm những việc không cần thiết. Mắc lỗi không kể nặng hay nhẹ,
liền nắm lấy đầu họ, lại dùng gậy đánh túi bụi, lôi ra kéo vào, cứ như thế đến
mấy lần. Lại sai người bới đất tìm tiền, ở trong phố phủ đều có hang hố. Lại bề
ngoài mượn cớ là tiết kiệm, hễ đi ra liền hạ lệnh quan Đốc bưu không được sai
quan thuộc làm sai lễ kính, lại ngầm biết những kẻ không đến chào hỏi liền
trong lúc phát giận mà đánh thương họ. Tính lại ít tin cậy, hễ sai quan to đi
liền sai quan nhỏ đi theo xem xét, ban ngày thường tự ở giữa vách tường lén xem
bọn ngồi tù, buổi đêm lại sai người dò xét các quan thuộc, cũng không cho là đủ
tin, lại sai lính hầu và nô tì tự xét hỏi lẫn nhau. Từng đi xem xét, nghỉ tại nhà
dân. Nhà dân có hai con chó đuổi một con heo, con heo sợ chạy, chui đầu vào bờ
rào, kêu thé hồi lâu. Loại cho là quan lại ở ngoài tự ý ăn uống, không xem xét
nữa, liền sai lính hầu kéo Ngũ quan duyện Tôn Bật đi vào, nắm đầu mà trách. Bật
nói sự thật, Loại tự hổ thẹn không nói rõ được, nhân đó mượn cớ hỏi sang việc
khác. Có người dân là Doãn Xương, đã gần trăm tuổi, nghe tin Loại đi ra, sắp đi
qua chỗ mình, bảo cháu nhỏ rằng: "Đỡ ta đón phủ quân, ta muốn bày tỏ ân
đức". Cháu nhỏ đỡ Xương ở bên trái đường, Loại nhìn thấy, quát đứa nhỏ
nói: "Đỡ người sắp chết ấy mà đòi gặp ta sao"? Loại đối đãi người
khác không có lễ độ, đều đại khái như thế. Tục cũ, dân giễu cợt quan trưởng có
ba điều không chịu, gọi là 'chuyển', 'bỏ', 'chết' vậy. Loại ở tại Hoằng Nông,
quan dân lo sợ, bèn đề chữ ở cửa phủ rằng: "Lưu phủ quân có ba điều không
chịu". Loại dẫu nghe nói nhưng không chịu tự sửa đổi. Sau đó An đông Tướng
quân Tư Mã Văn Vương đánh miền tây, đi qua Hoằng Nông, người Hoằng Nông nói là
Loại già cả không nên giữ chức mục thú nữa, bèn gọi về làm Ngũ quan Trung lang
tướng.
Chú thích
(1) Cương kỉ: tên gọi chung cho những quan lại
cấp cao trong châu quận thời Hán, Tam quốc.
(2) Quân 'nghĩa tòng':quân theo nghĩa.
(3) Cây túc: là một loài cây lương thực, còn
gọi là cây lúa tắc hoặc cây kê, giống cây lúa nước, hạt nhỏ, hợp ở vùng ôn đới,
đất khô.
TRUYỆN TRƯƠNG KÝ
Trương
Kí tự Đức Dung, người huyện Cao Lăng quận Phùng Dực. Năm mười sáu tuổi làm chức
quan nhỏ trong quận.
Ngụy
lược viết: Nhà Kí đơn lẻ, nhưng là người có uy nghi. Thuở nhỏ có luyện viết qua
tấu sớ, làm một chức quan nhỏ ở trong quận, vì thế nhà được giàu có. Tự nghĩ
nhà nghèo, cho rằng không biết lấy gì để thành công, bèn thường gắng sức viết
chữ và bản tấu, chờ các quan lớn có thiếu sót thì liền trao cho họ, do đó mà
được biết đến vậy.
Sau làm
qua các chức, cử Hiếu liêm, không đến nhận chức. Thái Tổ làm Tư không, gọi
nhưng không đến. Cử Mậu tài, bái làm Tân Phong Lệnh, là quan coi việc tốt nhất
trong các huyện Tam phụ. Viên Thượng
chống Thái Tổ ở Lê Dương, sai quan lại mà mình đặt là Hà Đông Thái thú Quách
Viện, Tinh Châu Thứ sử Cao Hàn cùng Thiền vu của người Hung Nô đánh lấy huyện
Bình Dương, sai sứ giả về phía tây liên kết với các tướng miền Quan Trung. Tư
lệ Hiệu úy Chung Do sai Kí dụ bọn Tướng quân Mã Đằng, Kí nói rõ lợi hại, bọn
Đằng nghe theo. Đằng sai con là Siêu đem hơn vạn quân cùng Chung Do hợp đánh
Hàn, Viện, đại phá chúng, chém đầu Viện. Hàn và Thiền vu đều hàng. Sau đó Hàn
đem quân Tinh Châu làm phản. Người quận Hà Nội là Trương Thịnh đem hơn vạn quân
chẳng theo ai, cướp bóc giữa vùng núi Hào, sông Mẫn, người quận Hà Đông là bọn
Vệ Cố, Trương Nông, Trương Diễm đều đem quân đến theo hắn. Thái Tổ lấy Kí làm
Nghị lang, giúp việc quân cho Do, sai về phía tây gọi các tướng là bọn Mã Đằng
đều dẫn quân hợp đánh bọn Thịnh, phá chúng. Chém đầu Cố, Diễm; Hàn trốn đến
Kinh Châu. Phong Kí làm Vũ Thủy Đình Hầu. Thái Tổ sắp đánh Kinh Châu, nhưng bọn
Đằng chia nhau chiếm miền Quan Trung. Thái Tổ lại sai Kí đi dụ bọn Đằng, sai
phải bỏ bộ khúc mà thần phục. Đằng đã hứa theo nhưng lại do dự, Kí sợ gây biến,
bèn sai các huyện sắm đủ lương thực, đem hai nghìn thạch lương ra ngoài thành
trao cho quân. Đằng bất đắc dĩ phải về phía đông. Thái Tổ cho Đằng làm Vệ úy,
con là Siêu làm Tướng quân, lĩnh quân của mình. Sau đó Siêu làm phản, Kí theo
Thái Tổ phá Siêu ở Hoa Âm, đến phía tây định miền Quan Hữu. Lấy Kí làm Kinh
Triệu Doãn, chiêu tập dân li tán, dựng lại thôn ấp, trăm họ nhớ ơn Kí. Nước
Ngụy đã lập, làm Thượng thư, ra làm Ung Châu Thứ sử. Thái Tổ bảo Kí nói:
"Cho ông về châu cũ, có thể nói là 'mặc áo gấm đi vào ban ngày' vậy".
Theo đi đánh Trương Lỗ, đi riêng từ Tản Quan vào đánh người Đê phản loạn, gặt
lúa mạch(1) của chúng để cấp lương cho quân. Lỗ hàng, Kí khuyên Thái Tổ dời mấy
vạn hộ dân quận Hán Trung đến ở tại Trường An và các huyện Tam phụ. Sau đó cùng
Tào Hồng phá Ngô Lan ở Hạ Biện, lại cùng Hạ Hầu Uyên đánh Tống Kiến, đi riêng
đánh các huyện Lâm Thao, Địch Đạo, bình được các huyện này. Bấy giờ Thái Tổ dời
dân đến ở miền Hà Bắc, dân quận Lũng Tây, Thiên Thủy, Nam An cùng nhau lo sợ,
thấp thỏm không yên, Kí dùng người của ba quân làm quan tướng đi xem xét, sai
làm nhà cửa, đào rãnh nước, lòng người bèn yên. Thái Tổ muốn rút quân rời Hán
Trung, sợ Lưu Bị lên phía bắc vỗ về người Đê quận Vũ Đô để uy hiếp miền Quan
Trung, hỏi Kí, Kí nói: "Nên khuyên họ lên phía bắc đến chỗ nhiều lúa gạo
để tránh giặc, ai đến trước sẽ thưởng lớn, kẻ đến trước được lợi thì kẻ sau tất
nghe theo". Thái Tổ theo kế ấy, bèn tự đến Hán Trung dẫn dắt các cánh
quân, sai Kí đến Vũ Đô, dời hơn năm vạn người Đê đến ở tại quận Phù Phong,
Thiên Thủy.
Tam phụ
quyết lục chú viết: Kí thuở còn trẻ nhỏ được viên Công tào trong quận là Du Ân
xem xét mà khen lạ, dẫn Kí qua nhà, Kí vâng theo. Ân về trước, sai người nhà
sắm sửa đồ ăn đãi khách. Lúc Kí đến, vợ Ân cười rằng: "Ông đã lầm chăng!
Trương Đức Dung là đứa trẻ nhỏ dại, sao lại coi là khách vậy"! Ân nói:
"Nàng đừng cho là lạ, hắn là người tài của vùng này vậy". Ân bèn cùng
Kí bàn luận kế sách của bậc Bá vương. Ăn xong, đem con là Sở gửi gắm cho Kí; Kí
từ chối không nhận, Ân cố gửi gắm nhưng Kí đã được Ân dốc lòng trông mong, khó
làm trái ý Ân, bèn nghe theo. Lúc trước Ân có hiềm khích với Tư lệ Hiệu úy Hồ
Chẩn, Chẩn vu khống giết Ân. Ân chết vừa hơn một tháng, Chẩn cũng mắc bệnh
nặng, tự nói với mình rằng: "Đáng tội, đáng tội, đấy là Du Công tào hiện
quỷ về báo thù". Do đó bèn chết. Bấy giờ người miền Quan Trung khen rằng:
"Sống có cái sáng suốt của người thông minh, chết có cái hồn phách của vị
thần linh". Con Ân là Sở, tự Trọng Doãn, làm Bồ Bản Lệnh. Lúc Thái Tổ bình
Quan Trung, quận Hán Hưng thiếu quan, Thái Tổ đem việc này hỏi Kí, Kí khen Sở
có tài cả văn võ, bèn dùng làm Hán Hưng Thái thú. Sau chuyển làm Lũng Tây Thái
thú. Ngụy lược viết: Sở là người khảng khái, làm qua các chức mục thú, chỗ làm
quan đều dùng ân đức để trị, không ưa hình phạt. Giữa năm Thái Hòa, Gia Cát
Lượng ra miền Lũng Hữu, quan dân rối loạn. Các quan Thiên Thủy, Nam An Thái thú
đều bỏ quận về phía đông, chỉ riêng Sở giữ quận Lũng Tây, kêu gọi quan dân, bảo
họ nói: "Thái thú ta không có ân đức, nay quân Thục đến, quan dân các quận
đều đã ứng theo chúng, đây là buổi các ông được lập công mà được tặng giàu có
vậy. Thái thú là người giữ quận cho nhà nước, về nghĩa đáng nên chết cùng quận,
các ông hãy lấy đầu Thái thú ta mà chống giữ". Quan dân đều khóc lóc, nói:
"Xin cùng sống chết với ngài phủ quân, không có hai lòng". Sở lại
nói: "Nếu các ông khônng muốn, ta bày một kế cho các ông. Nay người hai
quận phía đông đã bỏ đi, tất sẽ có giặc đến, nhưng nên cùng giữ vững. Nếu nhà
nước phát binh đến cứu, giặc tất bỏ đi, đấy là giữ nghĩa một quận mà người được
được khen tặng vậy. Nếu quan quân không đến cứu, quân Thục đánh càng gấp, lúc
đó các người hãy bắt Thái thú ta đến hàng cũng chưa muộn vậy". Quan dân
bèn giữ thành. Nhưng người quận Nam
An giúp quân Thục đến quận Lũng Tây. Sở nghe tin giặc đến, liền sai Trưởng sử
Mã Ngung ra cửa thành bày trận, rồi tự treo lên lầu thành dụ tướng Thục nói:
"Các ông có thể chặn đường Lũng Hữu, khiến cho quân miền đông không qua
được, trong vòng một tháng thì quan dân Lũng Tây không đánh mà tự chịu phục;
nếu các ông không chặn được thì tự mệt mỏi mà thôi". Sai Ngung gõ trống
xua quân đánh, quân Thục bèn rút. Hơn mười ngày sau, quan quân đến Lũng Tây,
Gia Cát Lượng thua chạy. Người quận Nam An, Thiên Thủy đều vì theo Lượng mà bị
phá vỡ, hai Thái thú đều bị xử tội nặng, mà Sở có công được phong làm Liệt hầu,
các quan thuộc Trưởng sử đều được tặng thưởng. Đế khen chính trị của Sở, hạ
chiếu gọi vào chầu, dẫn lên điện. Sở là người thấp bé mà tiếng nói vang, từ lúc
làm quan đến nay, mới đầu không lễ nghi của triều đình, lúc vâng lệnh lên thềm,
không biết nghi lễ thế nào, Đế liền sai Thị trung dẫn lên, gọi rằng: "Lũng
Tây Thái thú lên điện"! Sở đáng đáp là: "Dạ", nhưng lại nói to
là: "Ừ". Đế ngoảnh nhìn mà cười, rồi an ủi Sở. Bãi hội, tự xin ở lại
làm Túc vệ, liền bái làm Phụ mã Đô úy. Sở không có học thức nhưng tính ưa âm
nhạc, thích rong chơi. Lại nuôi những thầy hát, thầy đánh đàn cầm, đàn tranh,
thầy thổi sáo, hễ đi đâu lại đem họ đi theo. Tại sở quan thường đổ xúc xắc, ném
quả bầu, đùa giỡn làm vui. Mấy năm sau lại ra làm Bắc Địa Thái thú, hơn bảy
mươi tuổi thì chết.
Bấy giờ,
người quận Vũ Uy là Nhan Tuấn, người quận Trương Dịch là Hòa Loan, người quận
Tửu Tuyền là Hoàng Hoa, người quận Tây Bình là Cúc Diễn cùng đem quân trong
quận làm phản, tự gọi là Tướng quân, lại đánh chống lẫn nhau. Tuấn sai sứ giả
đem mẹ và con đến chỗ Thái Tổ làm tin, xin giúp. Thái Tổ hỏi Kí, Kí nói:
"Bọn Tuấn ngoài mượn oai của nhà nước, trong mang ý gây loạn, đợi thế lực
vững vàng rồi tất làm phản thôi. Nay đang hướng việc vào đất Thục, nên để cho
hai bên còn mà đánh nhau, như Biện Trang Tử đi bắt hổ(2), đứng xem mà thu lợi
vậy". Thái Tổ nói: "Hay". Hơn một năm, Loan bèn giết Tuấn. Người
quận Vũ Uy là Vương Bí lại giết Loan. Bấy giờ không đặt Lương Châu, từ các
huyện Tam phụ đến miền tây đều thuộc Ung Châu.
Văn Đế
lên ngôi, vừa lập Lương Châu, lấy An Định Thái thú Trâu Kì làm Thứ sử. Người
quận Trương Dịch là Trương Tiến bắt giữ Quận thú đem quân chống Kì, bọn Hoàng
Hoa, Cúc Diễn đều đuổi Thái thú cũ, đem quân ứng theo hắn. Kí đem quân giúp oai
thế cho Hộ Khương Hiệu úy Tô Tắc, cho nên Tắc vì thế mà lập công. Tiến phong Kí
làm Đô Hương Hầu. Người Hồ huyện Lô Thủy thuộc Lương Châu là bọn Y Kiện Kĩ
Thiếp, Trị Nguyên Đa làm phản, miền Hà Tây lo lắng. Đế cũng lo, nói:
"Không phải Kí thì chẳng bình được Lương Châu". Liền gọi Trâu Kì về,
lấy Kí đến thay. Hạ chiếu nói: "Ngày xưa Giả Phục(3) xin đánh giặc Yển(4),
vua Quang Vũ cười rằng: 'Chấp kim ngô đánh giặc Yển, Ta còn lo gì'? Khanh có
mưu lược hơn người, nay là lúc như thế. Cho khanh được tùy việc mà làm, không
cần xin lệnh trước". Sai bọn Hộ quân Hạ Hầu Nho, Tướng quân Phí Diệu đi
theo sau. Kí đến Kim Thành, muốn vượt sông, các tướng giữ ý cho rằng:
"Quân ít đường hiểm, không nên vào sâu". Kí nói: "Đường dẫu hiểm
nhưng không có cái ngăn trở của núi cao, vả lại người Di Địch rời rạc, không có
kế dùng xe để đi, nay Vũ Uy nguy cấp, phải đến nhanh mới được". Bèn vượt
sông. Hơn bảy nghìn quân kị của giặc chống giữ ở cửa Chiêm Ân, Kí phao tin là
đem quân theo lối Chiêm Ân, lại ngầm từ bến Thư Thứ ra đến Vũ
Uy. Người Hồ cho là thần, dẫn quân về Hiển Mĩ. Kí đã chiếm Vũ Uy, Diệu cũng
đến, nhưng bọn Nho vẫn chưa đến. Kí vỗ về tướng sĩ, muốn tiến quân đánh người
Hồ, các tướng đều nói: "Quân sĩ mỏi mệt, quân giặc cứng nhọn, khó cùng
giao tranh". Kí nói: "Nay quân ta không thấy lương thực đến, phải
trông dựa vào lương ăn của địch. Nếu giặc thấy quân ta hợp binh, tất lui vào
giữ núi thẳm, đuổi theo thì đường hiểm khốn cùng, rút quân về thì giặc đi ra
cướp phá. Như thế quân không được lợi, đấy gọi là: 'Một ngày tha địch, lo đến
mấy đời' vậy". Rồi đem quân đến Hiển Mĩ, mấy nghìn quân kị người Hồ nhân
gió lớn muốn phóng lửa đốt trại, tướng sĩ đều sợ. Kí buổi đêm đặt ba nghìn quân
tinh nhuệ ẩn nấp, sai Tham quân Thành Công Anh đem hơn nghìn quân kị ra dụ
đánh, sai phải rút về phía nam, quả nhiên người Hồ tranh nhau đuổi theo, liền
phát quân chặn ở sau, đầu đuôi đến đánh, đại phá giặc, chém đầu bắt sống đến
mấy vạn người.
Ngụy
lược viết: Thành Công Anh là người quận Kim Thành. Cuối năm Trung Bình theo làm
người tim bụng của Hàn Ước. Giữa năm Kiến An, Ước thua chạy theo đường Hoa Âm,
về Hoàng Trung, bộ khúc tan rã, chỉ còn Anh đi theo. Điển lược viết: Hàn Toại ở
tại Hoàng Trung, con rể là Diêm Hành muốn giết Toại để hàng, nhân buổi đêm đánh
Toại, không thắng. Toại than thở rằng: "Bậc trượng phu nguy khốn, họa từ
con rể chăng"? Bảo Anh nói: "Nay người thân làm phản, quân sĩ càng
ít, nên đi từ Khương Trung về phía tây nam đến đất Thục thôi". Anh nói:
"Dấy binh mấy chục năm, nay dẫu thua vỡ, sao lại bỏ nhà mình mà đến nương
dựa vào người khác được"! Toại nói: "Ta tuổi già rồi, ông muốn làm
gì"? Anh nói: "Tào Công không thể đi xa đến, chỉ có họ Hạ Hầu thôi.
Nhưng quân của họ Hạ Hầu cũng không đủ để đuổi được ta, lại không thể ở lâu;
nên nghỉ ngơi ở Khương Trung để đợi họ rút đi. Kêu gọi người Địch, vỗ về người
Khương, Hồ, cũng có thể làm nên được việc vậy". Toại theo kế ấy. Bấy giờ
trai gái đi theo còn mấy nghìn người. Toại vốn có ân với người Khương, người
Khương bèn giúp đỡ Toại. Lúc Hạ Hầu Uyên về, sai Diêm Hành ở lại phía sau. Bèn
tụ mấy vạn quân người Khương, Hồ đến đánh Hành. Hành sắp chạy, vừa lúc đó thì
Toại chết, Anh đến hàng Thái Tổ. Thái Tổ gặp Anh rất mừng, cho làm Quân sư,
phong Liệt hầu. Đi theo săn bắn, có ba con hươu chạy phía trước, Tào Công sai
Anh bắn chúng, ba phát trúng cả ba, đều sau tiếng cung liền ngã xuống. Tào Công
vỗ tay khen rằng: "Chỉ vì Hàn Văn Ước mà dốc hết lòng, nhưng không thể dốc
hết lòng vì ta chăng"? Anh bèn xuống ngựa quỳ nói: "Không dám lừa
minh công, nếu chủ cũ của Anh vẫn còn thì thần không đến đây vậy". Lại
khóc lóc nức nở. Tào Công khen lòng thành với người cũ của Anh, bèn lại kính
trọng. Vào năm Diên Khanh, Hoàng Sơ, người quận Hà Tây có kẻ mưu phản, hạ chiếu
sai Anh giúp quan quân Lương Châu bình miền Lũng Hữu, lúc ấy bệnh chết.
Điển
lược viết: Diêm Hành là người quận Kim Thành, sau lấy tên là Diễm, tự Ngạn
Minh, thủa trẻ có tiếng tăm, lúc đầu làm một viên tướng nhỏ, đi theo Hàn Ước.
Đầu năm Kiến An, Ước đánh chống nhau với Mã Đằng. Con Đằng là Siêu cũng có
tiếng tăm. Hành từng đi giết Siêu nhưng mâu gãy, nhân đó lấy mâu gãy đâm cổ
Siêu, suýt giết được Siêu. Đến năm thứ mười bốn, được Ước sai đến chỗ Thái Tổ.
Thái Tổ đối đãi hậu, cho làm Kiền Vi Thái thú. Hành nhân đó xin cho cha mình
vào làm Túc vệ, rồi đi về phía tây gặp Ước, truyền lệnh của Thái Tổ rằng:
"Kính tạ Văn Ước: Lúc khanh mới dấy binh, là vì bị bức ép, ta cũng biết rõ
vậy. Nên đến sớm, cùng giúp đỡ nhà nước". Hành nhân đó khuyên Ước nói:
"Hành cũng làm Tướng quân, dấy binh đã hơn ba mươi năm rồi, quân dân mệt
mỏi, chỗ này lại hẹp, nên sớm đến nương dựa. Cho nên lúc trước tại đất Nghiệp
tự xin đem cha già đến ở kinh sư, xin khuyên Tướng quân cũng nên sai một người
con đến để tỏ rõ lòng son". Ước nói: "Nên đứng xem xét mấy trong mấy
năm nữa"! Sau bèn sai con đi, cùng cha Hành về phía đông. Vừa lúc Ước đến
phía tây đánh Trương Mãnh, để Hành ở lại giữ trại cũ, nhưng bọn Mã Siêu hợp mưu
làm phản, cử Ước làm Đô đốc. Lúc Ước về, Siêu bảo Ước nói: "Lúc trước
Chung Tư lệ dùng Siêu để bắt Tướng quân, người miền Quan Đông không tin là đúng
như vậy. Nay Siêu mất cha, xem Tướng quân như cha. Tướng quân cũng đã mất con,
xem Siêu như con". Hành can Ước, không nêm hợp mưu với Siêu. Ước bảo Hành
nói: "Nay các tướng không mưu mà giống ý, đấy là số trời". Bèn về
phía đông đến Hoa Âm. Lúc Thái Tổ ngồi trên ngựa nói chuyện với Ước, Hành đi ở
sau, Thái Tổ nhìn bảo Hành rằng: "Đang nghĩ làm người con có hiếu
sao"? Lúc bọn Siêu thua chạy, Hành theo Ước về Kim Thành. Thái Tổ nghe tin
Hành có ý trước, nên chỉ giết con cháu của Ước tại kinh sư. Lại tự tay viết thư
gửi Hành rằng: "Xem việc mà Văn Ước làm khiến người ta chê cười. Ta trước
sau gửi thư, không không gì không khuyên răn. Như thế mà con nỡ làm sao! Cha
khanh can ngăn, tự được yên ổn vậy. Dẫu vậy trong chốn ngục tù, không phải là
chỗ nuôi người thân, vả lại quan lại cũng không thể nuôi người già được lâu
vậy". Ước nghe tin cha Hành ở lại, lại sắp cùng bị hại, để lấy lòng Hành,
bèn gắng đem con gái út gả cho Hành, Hành bất đắc dĩ phải lấy. Thái Tổ quả nhiên
ngờ Hành. Lúc Ước sai riêng Hành coi quận Tây Bình, bèn đem bộ khúc của mình
đánh chống với Ước. Hành không thắng, liền đem người nhà về phía đông đến chỗ
Thái Tổ. Thái Tổ bái làm Liệt hầu.
Đế rất
mừng, hạ chiếu nói: "Khanh qua sông lội hiểm, lấy quân mỏi đánh giặc nhàn,
lấy quân ít thắng quân nhiều, công lao hơn Nam Trọng(5), chăm chỉ hơn Cát
Phủ(6). Công lao này không chỉ phá quân Hồ, mà còn khiến cho miền Hà Hữu mãi
yên, ta không còn lo lắng ngoảnh về phía tây nữa". Chuyển phong làm Tây
Hương Hầu, tăng ấp hai trăm hộ, cùng bốn trăm hộ trước đấy.
Người
huyện Tửu Tuyền là Tô Hành làm phản, cùng tù trưởng người Khương là Lân Đái và
hơn vạn quân kị người Hồ ở Đinh Linh đánh các huyện biên giới. Kí cùng Hạ Hầu
Nho đánh phá chúng, Hành và bọn Lân Đái đều hàng. Bèn dâng sớ xin cùng Nho sửa
chữa thành, đắp lũy ngăn, đặt đài lửa, gác canh để phòng bị người Hồ.
Ngụy
lược viết: Nho tự Tuấn Lâm, là em họ của Hạ Hầu Thượng. Lúc đầu làm Kiêu kị Tư
mã của Yên Lăng Hầu Chương. Tuyên Vương làm Chinh nam Tướng quân, đô đốc việc quân
Kinh Châu, Dự Châu. Năm Chính Thủy thứ hai, Chu Nhiên vây thành Phàn, tướng giữ
thành là bọn Ất Tu xin cứu rất gấp, Nho đến đóng đồn ở Đặng Tái, vì quân ít nên
không dám tiến, chỉ gõ trống thổi kèn, đặt quân dẫn đường đi trước, cách Nhiên
sáu, bảy dặm, chỉ diễu oai rồi về, bọn Tu đứng thấy từ xa, nhiều lần cũng như
thế. Hơn một tháng, vừa lúc Thái phó đến, bèn cùng tiến, bọn Nhiên chạy. Người
thời ấy nói Nhu khiếp sợ, có người cho là lấy quân ít tỏ vẻ là quân nhiều, được
tiếng là đến cứu. Nho như thế vẫn được gọi về, cho làm Thái bộc.
Người
Khương miền tây sợ, đem hơn hai vạn người đến hàng. Sau đó người quận Tây Bình
là Cúc Quang giết Quận thú của mình, các tướng muốn đánh chúng, Kí nói:
"Chỉ có bọn Quang làm phản, người trong quận không hẳn là cùng phản hết.
Nếu tự ý đem quân đến đánh, quan dân và người Khương, Hồ tất cho là nhà nước
không phân biệt đúng sai, tất sẽ cùng chống giữ nhau, đấy là hổ mọc thêm cánh
vậy. Bọn Quang muốn lấy người Khương, Hồ làm quân giúp, nay nên sai người
Khương, Hồ đánh phá chúng trước, lại thưởng nhiều cho họ, người nào bắt được
giặc đều ban thưởng. Ngoài ngăn chặn thế của chúng, trong chia rẽ người của
chúng, tất không cần đánh mà định được". Rồi phát hịnh khuyên dụ người
Khương, người bị bọn Quang lừa dối thì tha cho; ai chém đem đầu tướng giặc đến
thì được phong thưởng. Do đó bộ khúc của Quang chém đem đầu Quang đến, bọn còn
lại đều được ở yên như cũ.
Kí trông
coi hai châu hơn mười năm, ân đức nổi rõ, những người được Kí tiến cử như người
quận Phù Phong là Bàng Diên, người quận Thiên Thủy là Dương Phụ, người huyện An
Định là Hồ Tôn, người quận Tửu Tuyền là Bàng Dục, người quận Đôn Hoàng là
Trương Cung, Chu Sinh Liệt, rút cuộc đều có danh tiếng.
Ngụy
lược viết: Lúc trước, Kí làm chức quan nhỏ trong quận, viên Công tào Từ Anh
từng tự đánh Kí ba mươi roi. Anh tự Bá Tế, là người thuộc họ lớn ở quận Phùng
Dực, đầu năm Kiến An làm Bồ Bản Lệnh. Tính Anh kiêu ngạo, tự thấy dòng họ mình
hơn Kí, có tiếng tăm đứng đầu ở thôn ấp, do đó làm nhục Kí, dẫu biết Kí quý
hiển, nhưng rút cuộc không chịu cầu cạnh với Kí. Kí dẫu đạt chí, cũng không
vướng bận việc cũ, vẫn muốn thân với Anh. Từng nhân lúc say mà gần gũi Anh, Anh
cố ý chống không chịu. Anh do đó bèn không được chọn dùng nữa. Cho nên người
thời ấy khen Kí không chấp oán cũ, cũng khen Anh thẳng thắn không chịu cúi
mình.
Năm
Hoàng Sơ thứ tư thì hoăng. Hạ chiếu nói: "Ngày xưa Tuân Hoàn Tử(7) lập
công ở đất Địch, Tấn Hầu đem ấp nghìn nhà phong cho; Phùng Dị(8) dốc sức giúp
nhà Hán, vua Quang Vũ phong tước cho hai con của Dị. Cho nên Lương Châu Thứ sử
Trương Kí giỏi trị dân nuôi quân, khiến cho người Khương theo về, có thể nói là
quan giỏi của nhà nước. Không may mất đi, trẫm rất thương tiếc. Nay ban tước
Quan nội hầu cũ cho con nhỏ là Ông". Minh Đế lên ngôi, tặng thụy là Túc
Hầu, con là Tập nối tự.
Tập làm
Trung thư lang, dần chuyển làm Đông Hoàn Thái thú. Giữa năm Gia Bình, con gái
làm Hoàng hậu, gọi về bái làm Quang lộc Đại phu, vị Đặc tiến, phong vợ là Hướng
làm An Thành Hương Quân. Tập cùng mưu với Trung thư lệnh Lí Phong, bị giết. Lời
nói tại Hạ Hầu Huyền truyện.
Điển
lược viết: Tập tự Kính Trọng, giữa năm Thái Hòa làm Ôn Lệnh, có tiếng là tài
năng. Gặp lúc Gia Cát Lượng ra đánh, Tập dâng kế hay, hạ chiếu đến hỏi Trung
thư lệnh Tôn Tư, Tư cho là có mưu lược, bèn gọi đến bái làm Kị Đô úy, sai đi
đánh quân Thục. Quân rút, vào làm Thượng thư lang, vì làm quan giỏi mà được
Minh Đế biết đến. Đế cho rằng tài năng của Tập gánh vác được nhiều việc, thử
gọi thầy xem tướng đến xem tướng Tập. Thầy xem tướng nói: "Làm không quá
chức hai nghìn thạch". Đế nói: "Sao lại tài như thế mà chỉ làm đến
chức hai nghìn thạch"? Lúc tại quận Đông Hoàn, lĩnh mấy nghìn quân sĩ.
Tính Tập tham tiền của lại tiếc quyền thế, một ngày vì con gái bị gọi đi rời
khỏi quận, về ngồi trong phủ xá, lo lắng cuống cuồng. Nhiều lần giúp nhà nước
bày mưu kế đánh Ngô, Thục, lại từng đáp Tư Mã Đại Tướng quân(9) cho rằng Gia
Cát Khác dẫu thắng được ở biên giới, nhưng bị giết không lâu nữa. Đại Tướng
quân hỏi vì sao, Tập nói: "Oai lấn cả chủ, công trùm một nước, muốn không
chết mà được chăng"? Đến lúc Khác từ Hợp Phì về, người Ngô quả nhiên giết
Khác. Đại Tướng quân nghe tin Khác chết, bảo mọi người rằng: "Gia Cát Khác
có nhiều kẻ phản thay! Gần đây Trương Kính Trọng bàn luận về Khác, cho rằng tất
bị giết. Nay quả nhiên đúng thế. Cái trí của Kính Trọng là hơn Khác vậy".
Tập thông gia với Lí Phong, lại ở gần bên với nhau. Bấy giờ Phong có ý phản,
con Tập là Mạc đến gặp Phong, có chỗ bàn mưu. Lúc Phong bị bắt, việc liên lụy
với Tập, bèn bắt đem đến chỗ quan Đình úy, ban chết trong ngục, các con Tập đều
bị giết. Cháu Tập là Ân, giữa năm Vĩnh Ninh thời Tấn làm Lương Châu Thứ sử, xem
ở Tấn thư.
Chú thích
(1) Lúa mạch: một loài cây lương thực, con gọi
là lúa mì, hợp với đất khô, vùng ôn đới.
(2) Biện Trang Tử đi bắt hổ: Biện Trang Tử là
quan Đại phu của nước Lỗ, có sức khỏe. Có hai con hổ đang sắp ăn thịt một con
trâu, tranh cắn lẫn nhau, con nhỏ bị chết, con lớn bị thương. Biện Trang Tử đi
theo con lớn bị thương mà bắt, cuối cùng bắt được cả hai con hổ.
(3) Giả Phục: tự Quân Văn, người quận Nam Dương.
Thời vua Quang Vũ được bái làm Chấp kim ngô, đi đánh Yển Vương là Doãn Tôn và
các tướng ở miền nam chưa thần phục.
(4) Giặc Yển: tức Doãn Tôn, thời vua Cánh Thủy
được phong làm Yển Vương, trông coi huyện Yển thuộc quận Dĩnh Xuyên.
(5) Nam Trọng: là tướng súy thời Văn Vương của
nhà Chu, đem quân lên miền bắc đắp thành đánh dẹp người Nhung.
(6) Cát Phủ: là quan giỏi thời Tuyên Vương của
nhà Chu, từng đem quân đánh người rợ Hiểm Duẫn ở phía bắc.
(7) Tuân Hoàn Tử: là tướng giỏi của nước Tấn
thời Xuân thu.
(8) Phùng Dị: là tướng giỏi của vua Quang Vũ
nhà Hán.
(9) Tư Mã Đại Tướng quân: tức Tư Mã Chiêu, bấy
giờ làm Đại Tướng quân của nước Ngụy.
TRUYỆN ÔN KHÔI
Ôn Khôi
tự Mạn Cơ, người huyện Kì quận Thái Nguyên. Cha là Thứ, làm Trác Quận Thái thú,
chết, Khôi bấy giờ mười lăm tuổi, đem tang trở về quê nhà. Nhà có nhiều tiền
của, Khôi nói: "Nay thời loạn, giàu để làm gì"? Một sớm chia ra hết,
cấp cho họ hàng. Người trong châu khen là cao thượng, sánh với Tuân Việt(1). Cử
Hiếu liêm, làm Lẫm Khâu Trưởng, Quảng Xuyên Lệnh, Bành Thành Tướng, Lỗ Tướng,
làm quan ở đâu cũng được khen. Vào làm Thừa tướng Chủ bạ, ra làm Dương Châu Thứ
sử. Thái Tổ nói: "Rất muốn cho khanh ở nơi gần gũi, nhưng cho rằng không
bằng cho khanh làm việc lớn của châu ấy. Cho nên kinh Thư viết: 'Người đùi tay
giỏi thay! Làm các việc tốt thay'! Như thế há không nên cho Tưởng Tế làm Trị
trung sao"? Bấy giờ Tế được làm Đan Dương Thái thú, bèn sai Tế về làm việc
ở châu, lại bảo bọn Trương Liêu, Nhạc Tiến rằng: "Dương Châu Thứ sử hiểu
thấu việc quân, động tĩnh thế nào phải cùng bàn luận".
Năm Kiến
An thứ hai mươi tư, Tôn Quyền đánh Hợp Phì. Bấy giờ đều đóng đồn ở các châu,
Khôi bảo Duyện Châu Thứ sử Bùi Tiềm rằng: "Vùng này dẫu có giặc nhưng
không đáng lo, chỉ sợ Chinh nam(2) đang có biến. Nay nước sông lên cao mà Tử
Hiếu để quân ở đấy, không có phòng bị từ xa. Quan Vũ kêu hùng, được lợi mà đến,
tất sẽ gây hại". Do đó có việc ở thành Phàn. Hạ chiếu gọi bọn Tiềm và Dự
Châu Thứ sử Lữ Công dẫn quân đi, nhưng bọn Tiềm chậm trễ. Khôi ngầm bảo Tiềm
nói: "Việc gấp ở Tương Dương tất được báo lên vậy. Triều đình không vội
sai tụ quận là vì không muốn làm cho quân ở phương xa dao động. Một hai ngày
nữa tất có thư kín thúc dục các ông lên đường, bọn Trương Liêu lại sắp nhận
lệnh. Bọn Liêu vốn biết ý của Ngụy Vương, sau khi nhận lệnh tất đến trước, các
ông tất chịu trách phạt vậy"! Tiềm nghe lời ấy, để đồ nặng ở lại, rồi sắm
sửa đồ nhẹ đi ngay, quả nhiên có lệnh thúc dục. Bọn Liêu đều vâng theo lệnh
gọi, đúng như lời mà Khôi nói.
Văn Đế
lên ngôi, lấy Khôi làm Thị trung, ra làm Ngụy Quận Thái thú. Được mấy năm,
chuyển làm Lương Châu Thứ sử, Trì tiết, lĩnh chức Hộ Khương Hiệu úy. Trên đường
đi mắc bệnh chết, bấy giờ bốn mươi lăm tuổi. Hạ chiếu nói: "Khôi có khí
chất của cột đá(3), theo giúp Tiên đế(4), công lao nổi rõ. Lúc trẫm lên nắm
việc, lại trung với nhà vua, vậy nên cho nắm việc nơi vạn dặm, sai đi coi việc
của một vùng. Vậy mà việc chưa xong, trẫm rất thương tiếc"! Ban tước Quan
nội hầu cho con Khôi là Sinh. Sinh chết sớm, tước mất.
Sau khi
Khôi chết, người quận Nhữ Nam là Mạnh Kiến làm Lương Châu Thứ sử, có tiếng tăm,
làm đến Chinh đông Tướng quân.
Ngụy
lược viết: Kiến tự Công Uy, thủa nhỏ cùng du học với Gia Cát Lượng. Sau đó
Lượng ra Kì Sơn, đáp thư Tư Mã Tuyên Vương, sai Đỗ Tử Tự(5) truyền ý thăm hỏi
Công Uy vậy.
Chú thích
(1) Tuân Việt: tự Thần Trọng, người quận Thái
Nguyên thời Tây Hán, từng chia tiền của cấp phát cho họ hàng.
(2) Chinh nam: tức Chinh nam Tướng quân Tào
Nhân, tự Tử Hiếu, em họ của Tào Tháo, bấy giờ đóng quân ở Tương Dương.
(3) Cột đá: ý nói người có chức cao của nhà
nước, như cột chống giữ cho nhà nước được vững vàng.
(4) Tiên đế: tức Ngụy Vũ Đế Tào Tháo.
(5) Đỗ Tử Tự: tức Đỗ Tập tự Tử Tự, người huyện
Định Lăng quận Dĩnh Xuyên, xem ở Tam quốc chí - Ngụy thư - Đỗ Tập truyện.
TRUYỆN GIẢ QUỲ
Giả Quỳ
tự Lương Đạo, người huyện Tương Lăng quận Hà Đông. Từ thời trẻ nhỏ, chơi đùa
thường sắp đặt đội ngũ, ông nội là Tập cho là lạ, nói: "Ngươi lớn lên tất
làm tướng súy". Bèn truyền miệng cho mấy vạn chữ trong sách binh pháp.
Ngụy
lược viết: Nhà Quỳ là họ lớn, thuở nhỏ thì cô, nhà nghèo, mùa đông thường không
có quần mặc, qua ở nhờ nhà anh vợ là Liễu Phu, chưa đến trời sáng, mặc quần của
Phu mà đi, cho nên người thời ấy cho là người cởi mở.
Lúc đầu
làm quan trong quận, giữ chức Giáng Ấp Trưởng. Quách Viện đánh quận Hà Đông,
các thành ấp đi qua đều chiếm được, Quỳ giữ vững, Viện đánh không thắng được,
bèn gọi Thiền vu(1) đem quân đến cùng đánh gấp. Thành sắp vỡ, người già cả
trong thành huyện Giáng giao ước với Viện là không được làm hại Quỳ. Lúc người
thành huyện Giáng đã tan vỡ, Viện nghe danh tiếng của Quỳ, muốn dùng làm tướng,
đem quân ép buộc Quỳ, Quỳ không chịu theo. Tả hữu dẫn Quỳ đến ép cúi đầu, Quỳ
mắng chúng rằng: "Há làm trưởng lại của nhà nước mà lại cúi đầu trước quân
giặc"! Viện giận, muốn chém Quỳ. Quan dân thành Giáng nghe tin sắp giết
Quỳ, đều lên thành gọi rằng: "Chớ được giết người hiền của bọn ta, nếu
không thì bọn ta cùng chết"! Tả hữu khen Quỳ, nhiều người xin tha Quỳ, do
đó được tha.
Ngụy
lược viết: Viện bắt được Quỳ, Quỳ không chịu lạy, bảo Viện nói: "Vương phủ
quân(2) coi quận nhiều năm, không biết túc hạ là người nào nữa"? Viện giận
nói: "Ta phải nhanh chém ngươi". Các tướng che chở, bèn bắt giam ở Hồ
Quan, đóng cũi trong hố đất, lấy bánh xe trùm lên, sai người giữ vững. Sắp muốn
giết đi, Quỳ ở trong hố đất bảo người giữ cũi rằng: "Trong này không có
tráng sĩ sao mà lại khiến cho nghĩa sĩ phải chết ở trong này vậy"? Bấy giờ
có người tên là Chúc Công Đạo, không phải là người quen với Quỳ, nhưng vừa lúc
nghe lời ấy, thương cảm Quỳ vì thẳng thắn mà bị mang vạ, bèn buổi đêm lẻn đến
dẫn ra, bẻ gông cho thoát, không nói họ tên của mình.
Lúc
trước, Quỳ qua huyện Bì Chi, nói: "Người nào chiếm được đất này trước thì
thắng". Lúc bị vây gấp, biết khó thoát, bèn sai người lẻn ra đem ấn thao
về quận, lại nói: "Mau chiếm huyện Bì Chi". Viện đã thu được quân của
huyện Giáng, muốn tiến quân. Quỳ sợ Viện chiếm Bì Chi trước, liền bày kế khác
để lung lạc mưu sĩ của Viện là Chúc Áo, do đó Viện ở lại bảy ngày. Người trong
quận theo lời Quỳ cho nên không bị thua.
Tôn Tư
biệt truyện viết: Tư được cử làm viên Kế lại của quận Hà Đông, đến đất Hứa,
tiến cử ở phủ Thừa tướng rằng: "Quỳ tại Giáng Ấp, khuyến khích quan dân
không giao tranh với giặc Quách Viện, sức kiệt mà thua, bị giặc bắt giữ, nhưng
giữ chí thẳng, từ chối không cúi phục; nói lời trung với dân chúng, ngày nay
nổi tiếng là trung liệt, dẫu những người nắm chức cao, tóc thẳng thời xưa cũng
không hơn được. Người này tài cả văn võ, nên chọn dùng người này".
Ngụy
lược viết: Sau khi Quách Viện thua, Quỳ mới biết người đã thả mình ra là Chúc
Công Đạo. Công Đạo là người quận Hà Nam. Sau đó làm việc mắc lỗi, tội đáng chịu
phạt. Quỳ xin giúp, sức chẳng giúp thoát nhưng được giảm tội vậy.
Sau cử
Mậu tài, làm Mẫn Trì Lệnh. Cao Hàn làm phản, Trương Diễm muốn đem quân đén ứng
theo. Quỳ không biết mưu ấy, đến gặp Diễm. Nghe tin nổi loạn, muốn về nhưng sợ
bị bắt, bèn bày kế cho Diễm như là người cùng mưu, Diễm tin theo. Bấy giờ sở
trị của huyện ở thành Lễ, thành lũy không vững, Quỳ đem quân của Diễm sửa
thành. Những người muốn làm loạn đều không giấu mưu của mình, cho nên Quỳ bắt
giết hết chúng. Rồi sửa thành chống Diễm. Diễm thua, Quỳ vì có tang ông nội mà
bỏ chức, quan Tư đồ gọi đến làm Duyện thuộc, bái làm Nghị lang, Tham Tư lệ quân
sự. Thái Tổ đánh Mã Siêu, đến quận Hoằng Nông, nói: "Đấy là chỗ trọng yếu
của miền tây". Cho Quỳ làm Hoằng Nông Thái thú. Gọi đến hỏi mưu kế, rất
vui mừng, bảo tả hữu nói: "Nếu những quan lại có bổng hai nghìn thạch đều
như Quỳ, ta còn lo gì"? Sau đó phát binh, Quỳ ngờ quan Đồn điền Đô úy che
giấu dân trốn tránh. Quan Đô úy cho rằng mình không thuộc quận, nói lời không
thuận. Quỳ giận, bắt giữ, mắng kể tội, đánh gãy chân hắn, rồi tha tội. Nhưng
lòng Thái Tổ vẫn khen Quỳ, cho làm Thừa tướng Chủ bạ.
Ngụy
lược viết: Thái Tổ muốn đánh Ngô nhưng gặp lúc mưa dầm lớn, ba quân phần nhiều
không muốn đi. Thái Tổ biết như thế, sợ ngoài có người can ngăn, bèn hạ lệnh
rằng: "Nay ta cảnh giác nghiêm ngặt, chưa biết làm gì, ai can ngăn thì
giết chết". Quỳ nghe lệnh, bảo người cùng làm quan là ba viên Chủ bạ nói: "Nay
thật là không nên nói ra, nhưng lệnh như thế, không thể không can ngăn".
Bèn bày lời can ngăn cho ba người biết, ba người bất đắc dĩ phải cùng đề tên,
vào bẩm việc. Thái Tổ giận, bắt giữ bọn Quỳ. Sắp đem vào ngục, nắm lấy người
báo ý, Quỳ liền nói: "Ta có ý báo". Rồi chạy đến nhà ngục. Quan coi
ngục biết Quỳ làm Chủ bạ, không vội đóng gông. Bảo quan coi ngục nói: "Mau
đóng gông ta. Nếu không người tôn quý lại nghi ngờ ta là người gần gũi mà xin
ông hoãn chậm. Nay sắp sai người đến dò xét ta đấy". Quỳ đeo gông vừa
xong, đúng lúc Thái Tổ sai người trong nhà đến nhà ngục xem xét Quỳ. Rồi lại hạ
lệnh nói: "Quỳ không có ý xấu, nay cho phục chức cũ". Lúc đầu, Quỳ
làm học trò, đọc qua những truyện nói về người có nghĩa lớn, chọn lấy những
gương đáng học. Ưa đọc Xuân thu Tả truyện nhất, đến lúc làm mục thú, thường tự
tay đọc sách ấy, mỗi tháng thường đọc một thiên. Lúc trước Quỳ ở tại Hoằng
Nông, tranh việc công với quan Điển nông Hiệu úy, không được lẽ, bèn phát giận
mọc khối u, sau bệnh ngày càng nặng, tự báo muốn xin sai thầy thuốc cắt đi.
Thái Tổ tiếc lòng trung của Quỳ, sợ Quỳ không sống được, hạ lệnh nói: "Báo
cho quan Chủ bạ biết, ta nghe nói mười người cắt khối u thì có đến chín người
chết". Quỳ vẫn theo ý mình, nhưng khối u ngày càng lớn. Quỳ vốn có tên là
Cù, sau đổi tên là Quỳ.
Thái Tổ
đánh Lưu Bị, sai Quỳ đến hang Tà Cốc xem hình thế trước, trên đường gặp quan
Thủy hành Đô úy đang chở mấy chục xe người tù, Quỳ vì việc quân gấp, liền xử
tội chết một người, còn lại đều thả a. Thái Tổ khen việc này, bái làm Gián nghị
Đại phu, nắm giữ việc quân với Hạ Hầu Thượng. Thái Tổ băng ở Lạc Dương, Quỳ coi
việc tang.
Ngụy
lược viết: Bấy giờ Thái tử ở tại đất Nghiệp, Yên Lăng Hầu chưa đến, quan dân có
vẻ khổ vì lao dịch, lại có bệnh dịch, do đó trong quân náo động. Bầy tôi sợ
thiên hạ có biến, không muốn phát tang. Quỳ bàn rằng khồng nên giữ kín, bèn
phát tang, lệnh người trong ngoài vào viếng, viếng xong, đều phải về chỗ cũ
không được nhao động. Mà quân Thanh Châu tự ý đánh trống dẫn nhau đi về. Mọi
người cho là nên ngăn cấm chúng, kẻ không nghe thì đến đánh. Quỳ cho rằng:
"Nay tang lớn vẫn còn chờ táng, Vương nối tự chưa lập, nên nhân lúc này mà
vỗ về chúng". Bèn tự viết hịch văn, báo cho quan lại địa phương cấp lương
thực cho họ.
Bấy giờ
Yên Lăng Hầu Chương làm Việt kị Tướng quân, từ Trường An đến viếng tang, hỏi ấn
thao của Tiên vương ở đâu. Quỳ nghiêm mặt nói: "Thái tử ở tại đất Nghiệp,
nước có người nối nghiệp. Ấn thao của Tiên vương, không phải là cái mà quân hầu
nên hỏi vậy". Bèn đưa quan tang về đất Nghiệp.
Văn Đế
lên ngôi Vương, thấy mấy vạn hộ của đất Nghiệp ở dưới kinh đô, phần nhiều không
vâng phép cấm, bèn lấy Quỳ làm Nghiệp Lệnh. Hơn một tháng, chuyển làm Ngụy Quận
Thái thú.
Ngụy
lược viết: Lúc trước, quan thuộc của Ngụy Quận gặp lúc việc quan có phần gấp rút,
lúc nghe tin Quỳ sắp đến quận, đều rời phủ quan đến ngoài cửa phủ quận. Lúc
chuyển thư đến, Quỳ ra cửa, lại các quan thuộc của quận đều đứng ngoài cửa, gặp
Quỳ ở dưới xe, Quỳ chắp tay nói: "Đến sở trị để xem nên làm sao"!
Đại quân
ra đánh, lại làm Thừa tướng Chủ bạ Tế tửu. Quỳ từng bị người khác kể tội, Vương
nói: "Thúc Hướng có công, dòng dõi mười đời sau mắc lỗi còn được tha,
huống chi Quỳ có công đức mà thân vẫn còn"? Đi theo đến Lê Dương, trong
quân có kẻ vượt sông lộn xộn, Quỳ chém người đó, bèn nghiêm chỉnh. Đến huyện
Tiêu, lấy Quỳ làm Dự Châu Thứ sử.
Ngụy
lược viết: Quỳ làm Dự Châu Thứ sử. Tiến lên nói: "Thần giữ việc ở triều
đình, ra vào sáu năm, triều đình vừa mở mà thần phải ra ngoài. Mong Điện hạ
nghĩ kế cho triệu dân, chớ làm trái lòng trông mong của thiên hạ".
Bấy giờ
thiên hạ mới lập lại, châu quận phần nhiều chưa được nắn sửa. Quỳ nói:
"Châu vốn lấy quan Ngự sử ra xem xét các quận, dựa vào sáu điều của chiếu
lệnh mà xem xét trưởng lại có bổng hai nghìn thạch trở xuống, cho nên họ đều
nói là mình có tài xem xét người tài năng, không nói là mình không có đức kinh
thuận nhân ái trong sạch vậy. Nay trưởng lại coi thường phép cấm, giặc cướp làm
bừa, trong châu biết nhưng không ngăn được, thiên hạ làm sao mà ngay thẳng
được"? Quan Binh tào Tòng sự được Thứ sử cũ cho về nghỉ, Quỳ đến nhận chức
mấy tháng mới quay lại; xét hỏi trưởng lại có bổng hai nghìn thạch trở xuống
phóng túng không vâng phép cấm, đều dâng tấu tha cho họ. Đế nói: "Quỳ là
quan Thứ sử thật vậy". Bố cáo thiên hạ, nên học theo phép tắc của Dự Châu.
Ban tước Quan nội hầu.
Phía nam
Dự Châu tiếp với đất Ngô, Quỳ dò xét rõ, luyện binh giáp, sắp đặt thế trận
phòng bị, do đó giặc không dám lấn. Ngoài sửa quân đội, trong coi việc dân,
ngăn sông Yên, sông Nhữ, làm ao chứa nước mới, lại xẻ núi khơi dẫn nước suối,
làm ao nhỏ ở Dặc Dương, lại đào thông kênh vận chuyển dài hơn hai trăm dặm, gọi
là 'kênh Giả Hầu' vậy. Giữa năm Hoàng Sơ, cùng với các tướng đánh Ngô, phá quân
Lữ Phạm ở Động Phố, tiến phong Dương Lí Đình Hầu, thêm chức Kiến uy Tướng quân.
Minh Đế lên ngôi, tăng ấp hai trăm hộ, cùng bốn trăm hộ trước đấy. Bấy giờ Tôn
Quyền ở tại Đông Quan, sắp đến phía nam Dự Châu, cách sông hơn bốn trăm dặm, hễ
đem quân ra cướp, đến phía tây từ Giang Hạ ra, đến phía đông Lư Giang phát. Nhà
nước đánh dẹp, cũng theo đường sông Hoài, sông Miện. Bấy giờ quân của châu ở
tại các quận Dĩnh Xuyên, Nhữ Nam, Dặc Dương chỉ giữ đất mà thôi. Quyền không có
nỗi lo miền bắc, lúc đông tây có việc gấp, đem quân cứu nhau, cho nên thường ít
thua. Quỳ cho rằng nên đi thẳng đến gần sông Giang, nếu Quyền tự giữ thì hai
miền không có quân cứu; nếu hai miền không có quân cứu thì lấy được Đông Quan.
Bèn chuyển đến đóng quân ở Liêu Khẩu, bày đặt kế đánh giữ, Đế khen là hay.
Tướng
Ngô là Trương Yến, Vương Sùng đem quân hàng. Năm Thái Hòa thứ hai, Đế sai Quỳ
lĩnh bốn cánh quân của bọn Tiền Tướng quân Mãn Sủng, Đông Hoàn Thái thú Hồ
Chất, từ Tây Dương đến thẳng Đông Quan; Tào Hưu đến huyện Hoản, Tư Mã Tuyên
Vương đến Giang Lăng. Quỳ đến núi Ngũ Tướng, Hưu lại nói là giặc có kẻ đến xin
hàng, xin vào sâu giúp chúng. Hạ chiếu sai Tuyên Vương đóng quân lại, Quỳ về
phía đông cùng đi với Hưu. Quỳ nghĩ giặc không phòng bị Quan Đông mà sẽ đem
quân đến huyện Hoản; Hưu vào sâu đánh với giặc, liền thua. Quỳ bèn sắp đặt các
tướng, thủy bộ cùng đi, đi được hai trăm dặm, bắt sống được giặc, chúng nói là
Hưu thua trận, Quyền sai quân chặn ở Giáp Thạch. Các tướng không biết làm sao,
có người muốn đợi hậu quân. Quỳ nói: "Quân Hưu thua ở ngoài, đường nghẽ ở
trong, đi không đánh được, lui về chẳng xong, thế trận an nguy, không kịp qua
ngày. Giặc vì biết quân ta không có hậu quân, cho nên đến đây; nay đi nhanh, ra
chỗ không ngờ, đấy gọi là đánh trước để phá lòng giặc vậy. Giặc thấy quân ta
tất chạy. Nếu đợi hậu quân, giặc đã chặn chỗ hiểm, lúc đó quân mạnh còn ích
gì"! Bèn hợp quân các đường cùng đi, đặt nhiều cờ trống làm nghi binh,
giặc thấy quân của Quỳ, bèn rút. Quỳ chiếm Giáp Thạch, đem lương quân cấp cho
Hưu, quân của Hưu lại hăng. Lúc đầu, Quỳ không hợp với Hưu. Giữa năm Hoàng Sơ,
Văn Đế trao Giả tiết cho Quỳ, Hưu nói: "Tính Quỳ cứng cỏi, vốn dễ lấn áp
các tướng, không nên cho làm Đô đốc". Đế bèn thôi. Lúc thua ở Giáp Thạch,
đã gọi Quỳ về, cho nên quân của Hưu không được cứu vậy.
Ngụy
lược viết: Hưu giận Quỳ đi chậm, bèn trách mắng Quỳ, rồi sai Chủ bạ lệnh cho Dự
Châu Thứ sử đến thu nhặt khí giới. Tính Quỳ thẳng thắn, bảo Hưu nói: "Ta
giúp nhà nước làm Dự Châu Thứ sử, không thể đi giúp thu nhặt khí giới".
Bèn dẫn quân về. Rồi cùng Hưu thay nhau dâng biểu, triều đình dẫu biết Quỳ
thẳng thắn, nhưng vẫn nghĩ Hưu là tông thất được tin dùng, hai người không có
gì sai vậy. Ngụy thư viết: Hưu vẫn giữ ý trước, muốn đến lúc sau kể tội Quỳ,
Quỳ cũng không nói, người thời ấy càng thêm khen Quỳ.
Tập Tạc
Xỉ nói: "Là người hiền tài, ngoài thì chịu nhún, trong tự hạ thấp, cái
tiếng ganh tị, do đâu mà có vậy? Người có tiếng ganh tị, tất tranh cãi với
người khác, tự mình có ý tranh được thua vậy. Nếu vì tình riêng mà hại nước
diệt dân, người ấy dẫu nghiêng lật, có ích gì với ta? Với ta dẫu không có ích,
theo ý người ấy làm gì? Do đó nói rằng, đấy là ý thấp kém thôi. Nay chịu nỗi
giận riêng lại gánh nỗi lo ấy, xông xáo nguy khốn mà trừ được tai hại, lập nên
công lớn với vua hiền, ban ân cho trăm họ, thân vào gần cạnh với Thiên tử, có
nghĩa làm lòng kẻ địch hổ thẹn, dẫu hùm sói vẫn còn không biết báo thù, huống
chi là với Tào Hưu sao? Vậy thì cứu cái nạn ấy là giúp đỡ cho mình, không vướng
bận oán cũ, cũng là làm cho lngười ta chịu phục, nghĩa công đã thành, lợi riêng
cũng xong, có thể nói là giỏi vậy. Đối với bọn không biết giúp đỡ, không phải
do đó mà giúp đỡ được, chưa có được như vậy".
Lúc bệnh
nặng, bảo tả hữu nói: "Nhận ân dày của nhà nước, chỉ hận không chém được
Tôn Quyền để xuống gặp Tiên đế. Việc tang không được làm có chỗ rườm rà".
Hoăng, thụy là Túc Hầu.
Ngụy thư
viết: Bấy giờ Quỳ năm mươi lăm tuổi.
Con là
Sung nối tự. Quan dân Dự Châu nhớ ơn Quỳ, khắc đá mà dựng miếu thờ. Giữa năm
Thanh Long, Đế đánh phía đông, đi xe vào tế Quỳ, hạ chiếu nói: "Buổi chiều
qua huyện Hạng, thấy tượng đá Giả Quỳ, nghĩ mà thương xót. Người xưa có nói:
'Lo gì không lập được công danh, chỉ sợ tuổi thọ không được dài mà thôi'. Quỳ
có tiếng trung liệt, chết vẫn được ghi nhớ, có thể nói là chết mà thân không
mục vậy. Nay báo cho thiên hạ biết để khuyến khích mai sau".
Ngụy
lược viết: Năm Cam Lộ thứ hai, Nhà vua đánh miền đông, đóng quân ở huyện Hạng,
lại vào dưới
miếu thờ Quỳ, hạ chiếu nói: "Quỳ chết còn để lại đức, nhiều đời được thờ.
Được nghe tiếng trung, trẫm rất khen ngợi. Ngày xưa Tiên đế đánh miền đông,
cũng đến ở đây, tự ban âm đức, khen ý đẹp của Quỳ, trong lòng bồi hồi, càng
thêm cảm khái! Cái nghĩa trọng người hiền là phải nhổ cỏ phần mộ của họ, sửa
sang nhà cửa của họ, quét dọn miếu thờ của họ, có chỗ hoen mục thì phải đắp vá
lại".
Sung vào
giữa năm Hàm Hi làm Trung hộ quân.
Tấn chư
công tán viết: Sung tự Công Lư, giữa năm Cam Lộ làm Đại Tướng quân Trưởng sử.
Lúc loạn Cao Quý Hương Công, Tư Mã Văn Vương dựa vào Sung mà được thoát. Là bầy
tôi có công đầu của nhà Tấn, làm đến Thừa tướng, phong Lỗ Công, thụy là Vũ
Công.
Ngụy
lược liệt truyện xếp ba người Quỳ và Lí Phu, Dương Phái làm một quyển, nay xếp
hai người Phu, Phái kế sau Quỳ vậy. Phu tự Tử Hiến, người quận Cự Lộc. Giữ năm
Hưng Bình, người trong quận đói khổ. Bấy giờ Phu là học trò, đang trồng rau
giới, muốn lấy đó làm kế sinh sống. Có người đòi lấy, cũng không cho một cây,
cũng không tự ăn, cho nên người thời ấy khen là có ý tốt. Sau đó làm quan. Giữa
năm Kiến An, Viên Thượng chiếm Kí Châu, lấy Phu làm Chủ bạ, sau Thượng tranh
giành với anh mình là Đàm, Thượng đem quân đến Bình Nguyên, giữ Biệt giá Thẩm
Phối ở lại giữ thành Nghiệp, Phu đi theo Thượng. Lúc Thái Tổ vây thành Nghiệp,
Thượng muốn về cứu thành Nghiệp, đi chưa đến, Thượng ngờ trong thành Nghiệp ít
quân phòng giữ, lại muốn sai Phối phải biết động tĩnh ở ngoài, bàn với Phu nên
làm sao. Phu đáp Thượng nói: "Nay sai tiểu nhân đến, sợ không đủ để biết
việc trong ngoài, lại lo không thể làm được. Phu xin tự đến giữ". Thượng
hỏi Phu rằng: "Nên làm thế nào"? Phu nói: "Nghe nói thành Nghiệp
rất vững, nhiều người đều biết, ta cho rằng chỉ cần dùng ba quân kị là đủ
rồi". Thượng theo kế ấy. Phu tự chọn ba người tin cậy, không nói đi đâu,
đều sai phải sắm lương khô, không được cầm khí khới, đều cấp cho ngựa khỏe. Rồi
từ biệt Thượng đến phía nam, đi qua đâu lại dừng ở trạm dịch. Lúc đến Lương Kì,
sai người đi theo chặt lấy ba mươi cây gậy, đeo buộc bên ngựa, tự đội khăn bình
thượng, dẫn ba quân kị, sắp tối đến dưới thành Nghiệp. Bấy giờ Đại Tướng quân
dẫu có lệnh cấm nhưng có nhiều người thả trâu ăn cỏ, cho nên Phu nhân buổi đêm
đi vào, đánh một hồi trống, tự xưng là Đô đốc, qua vòng vây phía bắc, men theo
về phía đông, lại từ phía đông đi vòng quanh, lại men theo về phía nam, mỗi
bước đi đều trách mắng tướng sĩ giữ vây, tùy tội nặng nhẹ mà xử phạt. Rồi đến
trước doanh trại của Thái Tổ, đi thẳng về phía nam, từ góc vây phía nam đi về
phía tây, đến cửa ngăn, lại trách mắng người giữ vây, bắt trói người ấy. Nhân
đó phá vòng vây, đi nhanh đến dưới thành, gọi người trên thành, người trên
thành dùng dây kéo lên, Phu được vào. Bọn Phối cả mừng, gõ trống xưng:
"Vạn tuế". Người giữ vây kể tình trạng, Thái Tổ cười nói: "Người
này không chỉ vào được mà thôi, lại còn ra được nữa". Phu làm xong lại
muốn về, nhưng nghĩ ngoài thành tất vây gấp, không thể đi liều, bèn sai người
đi theo nên quay về nhanh, lại ngầm mưu kế, bảo Phối nói: "Trong thành ít
lương, không nên dùng người già yếu vậy, không bằng đuổi ta ngoài để tiết kiệm
lương thực". Phối theo kế này, bèn nhân buổi đêm giảm bớt mấy nghìn người,
đều sai cầm cờ trắng, từ ba cửa thành cùng ra hàng. Lại sai người người đốt
lửa, Phu không lâu lại đem người đi theo mặc áo người hàng, theo bọn buổi đêm
đi ra. Bấy giờ tướng sĩ giữ vây, nghe tin trong thành ra hàng cả, lửa sáng rừng
rực. Chỉ cùng đứng xem lửa cháy, không chịu xem vòng vây. Phu ra cửa bắc, rồi
từ góc tây bắc phá vây mà thoát ra được. Đến sáng, Thái Tổ nghe tin Phu đã
thoát ra, vỗ tay cười nói: "Đúng như lời ta vậy". Phu về gặp Thượng,
Thượng rất vui mừng. Lúc Thượng không cứu được thành Nghiệp, thua chạy đến
Trung Sơn, mà Viên Đàm lại đuổi đánh Thượng, Thượng chạy. Phu và Thượng lạc
nhau, bèn đến gặp Đàm, lại làm Chủ bạ của Đàm, về phía đông đến Bình Nguyên.
Thái Tổ đến đánh Đàm, Đàm chết trận. Phu trao thành, người trong thành hàng cả.
Thượng
lo loạn chưa yên. Phu nắm quyền muốn đến gặp Thái Tổ, bèn cưỡi ngựa đến cửa
phủ, nói là Chủ bạ của Kí Châu là Lí Phu muối bàn việc kín. Thái Tổ gặp Phu,
Phu rập đầu tạ. Thái Tổ hỏi muốn bàn việc gì, Phu nói: "Nay người trong
thành khỏe yếu đánh nhau, lòng đều không yên, Phu cho rằng nên sai những người
mới hàng vào làm tin để tuyên bố pháp lệnh". Tào Công bảo Phu nói:
"Ông nên về tuyên bố cho họ biết". Phu quỳ xin bày mưu, Tào Công nói:
"Theo ý ông mà tuyên bố". Phu về vào thành, truyền lệnh rằng:
"Phải đều ở yên, không được xâm lấn nhau". Trong thành được yên, lại
ra báo tin. Tào Công thấy Phu là người tài giỏi dùng được. Nhưng bị gièm pha,
cho làm quan nhàn rỗi. Lại ra làm Giải Trưởng, nổi tiếng là nghiêm túc. Dần làm
đến Tư lệ Hiệu úy, bấy giờ hơn bảy mươi tuổi rồi, nhưng tinh thần không yếu,
mưu lược không kém hơn trước. Cuối cùng làm Bình Dương Thái thú. Phu vốn là họ
Phùng, sau đổi thành họ Lí. Dương Phái tự Khổng Cừ, người huyện Vạn Niên quận
Phùng Dực. Giữa năm Sơ Bình làm Công phủ Lệnh sử, vì giỏi viết văn nên cho làm
Tân Trịnh Trưởng. Cuối năm Hưng Bình, người dân phần lớn đói khổ, Phái sai dân
cất chứa thêm quả dâu khô, thu lấy đậu tươi, lấy phần thừa để cấp cho người
không đủ ăn, cứ như thế chứa được hơn nghìn hộc, cất giấu ở kho nhỏ. Lúc Thái
Tổ làm Duyện Châu Thứ sử, đi về phía tây đón Thiên tử, đem theo hơn nghìn quân
đều không có lương ăn, qua Tân Trịnh, Phái đến gặp, liền cấp cho quả dâu khô.
Thái Tổ rất mừng. Lúc Thái Tổ phụ chính, chuyển Phái làm Trưởng Xã Lệnh. Bấy
giờ tân khách của Tào Hồng ở trong huyện, sai gọi nhưng không chịu vâng lệnh,
Phái đánh gãy chân họ trước, rồi đem giết. Do đó Thái Tổ cho là có năng lực,
chuyển làm Cửu Giang, Đông Bình, Lạc An Thái thú, đều có công tích. Sau có tội
tranh giành với quan Đốc quân, bị phạt xén tóc năm năm. Chịu phạt chưa xong,
gặp lúc Thái Tổ đi đánh đến huyện Tiêu, nghe nói người huyện Nghiệp có vẻ không
vâng phép cấm, liền lệnh chọn người làm Nghiệp Lệnh, nên chọn người nghiêm túc
như Dương Phái, do đó Phái trong số đó được làm Nghiệp Lệnh. Đã nhận chức, Thái
Tổ gặp Phái, hỏi rằng: "Làm gì để trị huyện Nghiệp"? Phái nói:
"Dốc hết lòng sức, ban bố phép cấm". Thái Tổ nói: "Tốt".
Ngoảng bảo mọi người đang ngồi rằng: "Các ông nên sợ phép cấm". Ban
cho mười người giúp việc, trăm thất gấm để khuyến khích Phái, lại để báo đền vì
Phái đã cấp cho quả dâu khô vậy. Phái đi ngay, chưa đến huyện Nghiệp, lúc đó
quý tộc trong quân là bọn Tào Hồng, Lưu Huân sợ tiếng oai của Phái, sai người
nhà đi nhanh báo cho con em biết, sai phải tự vâng lệnh. Phái làm Nghiệp Lệnh
được mấy năm, vì có công nên được chuyển làm Hộ Khương Đô úy. Năm thứ mười sáu,
Mã Siêu làm phản, sáu quân đi về phía tây đánh dẹp, Phái theo quân, trông coi
việc vượt bến Mạnh Tân. Thái Tổ đã qua bờ nam, quân còn lại chưa qua hết, nhưng
quan hoàng môn trong đó qua trước, quên đưa xe đi, lại đi riêng về phía bắc lấy
xe, quan lại đi theo xin lấy thuyền nhỏ, lại muốn một mình vượt sông trước,
quan lại kêu không chịu, quan Hoàng môn tranh cãi với quan lại, Phái hỏi quan
Hoàng môn rằng: "Có lỗi không"? Quan Hoàng môn nói: "Không có
lỗi". Phái giận nói: "Sao biết ngươi không muốn bỏ trốn"? Rồi
sai người nắm lắm đầu quan Hoàng môn, cầm gậy muốn đánh, nhưng giằng co chạy
thoát được, áo khăn đều rách tơi, tự báo với Thái Tổ. Thái Tổ nói: "Ngươi
không chết là may rồi". Do đó tiếng oai thêm lừng. Lúc Quan Trung bị phá,
thay Trương Kí lĩnh chức Kinh Triệu Doãn. Giữa năm Hoàng Sơ, chọn dùng đạo Nho,
mà Phái vốn có tài mà được dùng, bèn làm Nghị lang, về nhàn rỗi ở quê nhà. Phái
trước sau làm các chức giữ thành, không làm việc tự ý mưu riêng, lại không chịu
cầu cạnh người tôn quý, cho nên sau khi từ quan về nghỉ, nhà không có của thừa.
Chữa bệnh ở nhà, thả hết đứa ở ra, cũng không có nô tì. Sau chọn lấy hai khoảnh
ruộng hoang ở huyện Tịch Dương quận Hà Nam, dựng một ngôi nhà nhỏ, sống ở trong
đấy, vợ con bị đói rét. Lúc Phái bệnh chết, người làng họ hàng anh bạn bè và
quan dân giúp chôn táng.
Bình
rằng: Từ cuối thời nhà Hán về sau, quan Thứ sử trông coi các quận, thu thuế ở
ngoài, không như thời xưa chỉ xem xét các quận mà thôi. Thái Tổ dựng nền, cuối
cùng lập nên nhà Ngụy, đấy đều là người được khen ngợi có danh tiếng vậy. Lại
đều thấu đạt việc công, cho nên sửa nắn được nơi dặm dặm, truyền lại cho đời
sau vậy.
Chú thích
(1) Thiền vu: tức vua của người Hung Nô là Hô
Trù Tuyền, bấy giờ đóng đô ở Bình Dương.
(2) Vương phủ quân: tức Hà Đông Thái thú Vương
Ấp.
NGỤY THƯ QUYỂN 16 - Nhâm Tô Đỗ Trịnh Thương
truyện
Nhâm Tuấn, Tô Tắc, Đỗ Kỳ, Trịnh Hồn, Thương Từ
TRUYỆN ĐỖ KỲ
Đỗ Kì tự
Bá Hầu, người huyện Đỗ Lăng quận Kinh Triệu.
Phó Tử
chép: Kì là dòng dõi của Ngự sử Đại phu Đỗ Diên Niên thời nhà Hán(1). Cha của
Diên Niên là Chu, từ quận Nam Dương dời đến huyện Mậu Lăng, đến thời Diên Niên
lại chuyển đến huyện Đỗ Lăng, con cháu nối theo ở đó.
Thủa nhỏ
cô, bị mẹ kế làm khổ, nhưng vẫn giữ đạo hiếu mà nổi tiếng. Năm hai mươi tuổi,
làm quan Công tào trong quận, giữ chức Trịnh Huyện Lệnh. Trong huyện có mấy
trăm người tù, Kì tự thân đến ngục, cân nhắc nặng nhẹ, thả ra hết mà sai khiến,
dẫu chưa đúng cả nhưng người trong quận khen Kì tuổi trẻ mà có ý rộng lượng
vậy. Cử Hiếu liêm, bái làm Hán Trung Phủ thừa.
Gặp lúc
thiên hạ loạn, bèn bỏ quan làm khách ở Kinh Châu, đến giữa năm Kiến An lại về.
Tuân Úc tiến cử Kì cho Thái Tổ, Phó Tử chép: Kì từ Kinh Châu về quê, sau đó đến
đất Hứa, gặp Thị trung Cảnh Kỉ, nói chuyện cả đêm. Thượng thư lệnh Tuân Úc ở
phòng bên với Kỉ, buổi đêm nghe Kì nói, khen lạ, đến sáng sai người bảo Kỉ nói:
"Có kẻ sĩ hay mà không tiến cử, lấy gì mà coi việc"? Rồi gặp Kì, thân
Kì như người quen biết cũ, liền tiến cử Kì với triều đình.
Thái Tổ
lấy Kì làm Tư không Tư trực, chuyển làm Hộ Khương Hiệu úy, Sứ trì tiết, lĩnh
chức Tây Bình Thái thú.
Ngụy
lược chép: Thủa trẻ Kì có chí lớn. Ở tại Kinh Châu vài năm, sau khi mẹ kế chết,
thấy vùng Tam phụ thông suốt, đem tang mẹ kế về phía bắc, trên đường đi bị giặc
bắt cướp, mọi người bỏ chạy, chỉ Quỳ không chạy, giặc xét cướp, Kì xin giặc
nói: "Các ngươi muốn lấy tiền mà thôi. Nay ta không có tiền, xét cướp ta
làm gì được"? Giặc bèn thôi. Kì đến quê nhà, Kinh Triệu Doãn người quận Hà
Đông là Trương Thì, có quen biết Kì, cho làm Công tào. Từng hiềm vì Kì rộng
rãi, không chú ý giúp làm các việc, nói là người này xuềnh xoàng, không hợp làm
Công tào. Kì nói kín rằng: "Không hợp làm Công tào, nhưng hợp làm Hà Đông
Thái thú vậy".
Thái Tổ
đã định miền Hà Bắc, mà Cao Cán lại lĩnh quân Tinh Châu làm phản. Bấy giờ Hà
Đông Thái thú Vương Ấp bị gọi về, người quận Hà Đông là Vệ Cố, Phạm Tiên ngoài
mặt thì lấy danh xin ý của Ấp, nhưng trong lòng thì thực là thông mưu với Cán.
Thái Tổ bảo Tuân Úc rằng: "Các tướng miền Quan Tây cậy vào chỗ hiểm và quân
mã, tất sẽ gây loạn. Vươn ra cướp miền Hào, Mẫn(2), phía nam qua lại với Lưu
Biểu, nếu bọn Cố nhân thế ấy thì ta sợ chúng gây hại lớn, quận Hà Đông có sông
bao núi bọc, bốn bề nhiều biến, là chỗ trọng yếu của thiên hạ thời nay vậy. Ông
hãy giúp ta cử người như bọn Tiêu Hà, Khấu Tuân để giữ đất ấy". Úc nói:
"Đỗ Kì là người ấy vậy".
Phó Tử
chép: Úc khen Kì có dũng đủ để trừ nạn lớn, có trí có thể ứng biến, người này
nên được dùng thử.
Do đó
liền bái Kì làm Hà Đông Thái thú. Bọn Cố sai mấy nghìn quân chặn ở bờ sông
huyện Thiểm, Kì đến không qua được, Thái Tổ sai Hạ Hầu Đôn đánh chỗ ấy. Chưa
đến, có người bảo Kì rằng: "Nên lĩnh đại quân đi ngay". Kì nói:
"Quận Hà Đông có ba vạn hộ không phải đều muốn làm loạn. Nay quan quân
đuổi đánh gấp, đấy là muốn làm việc tốt nhưng không có chủ, tất sợ mà nghe theo
Cố. Khi đó bọn Cố được thế, tất liều chết mà đánh. Nếu đánh không thắng chúng
thì bốn bề ứng theo chúng, cái thế biến của thiên hạ chưa dừng được vậy; nếu
đánh thắng chúng thì cũng chỉ trừ được dân của một quận mà thôi. Vả lại bọn Cố
chưa rõ ý cắt đứt mệnh vua, ngoài mặt thì lấy danh là xin ý của chủ cũ, tất
không hại chủ mới. Ta nên đi xe đến thẳng, ra chỗ chúng không ngờ tới. Cố là
người nhiều mưu kế mà không quyết đoán, tất bị ta lừa. Ta được ở quận một
tháng, đem kế mà vỗ về chúng, cũng đủ vậy". Bèn vờ đi đường theo lối qua
bến Đậu Tân.
Đậu, đọc là 'đậu'.
Ngụy
lược chép: Lúc trước, thủa trẻ Kì lấn ép nhau với Vệ Cố, Cố từng coi khinh Kì.
Kì từng đánh cờ và tranh nước cờ với Cố, Kì từng bảo Cố rằng: "Trọng Kiên,
ta sắp làm quan của quận Hà Đông vậy". Cố vén áo mắng Kì. Đến lúc Kì nhận
chức, mà Cố làm quan Công tào trong quận. Trương Thì ngày trước làm quan ở quận
Kinh Triệu, Kì đón quan Tư lệ, hội với Thì ở Hoa Âm. Lúc Thì, Kì gặp nhau, theo
phép tắc đều đi ngang. Thì than rằng: "Ngày trước làm Công tào, ngày nay
lại làm Quận thú rồi"! Phạm Tiên muốn giết Kì để ra oai với quân.
Phó Tử
chép: Tiên nói: "Đã muốn làm hổ mà lại ghét ăn thịt người, đấy chẳng phải
là làm hổ vậy. Nay không giết, tất để nỗi lo về sau".
Lại xem
Kì đi lại, chém hơn ba mươi người từ quan Chủ bạ trở xuống ở dưới cửa thành, Kì
vẫn cử động tự nhiên. Do đó Cố nói: "Giết hắn chẳng tổn hại gì, chỉ có để
tiếng xấu; vả lại quyền ngăn chế ở tay ta rồi". Bèn vâng lập Kì làm Thái
thú. Kì bảo Vệ Cố, Phạm Tiên rằng: "Vệ, Phạm là họ nổi tiếng của quận Hà
Đông, ta trông vào họ mà thôi. Nhưng trên dưới có phép tắc, cùng chung thành
bại, nên cùng bàn bạc việc lớn". Lấy Cố làm Đô đốc, làm việc Quận thừa,
giữ chức Công tào; có hơn ba nghìn quan quân tướng lĩnh, đều cho Phạm Tiên
trông coi. Do đó bọn Cố mừng, dẫu vâng giúp Kì, nhưng không chú ý. Cố muốn phát
đại quân, Kì lo lắng, khuyên Cố rằng: "Muốn làm việc khác thường, không
nên làm động lòng người. Nay phát đại quân, lòng người tất loạn, không bằng
thong thả để chiêu mộ quân sĩ". Cố cho là phải, nghe theo, rồi ra lệnh kêu
gọi, mấy chục ngày sau mới yên, trong các tướng có nhiều người vâng theo nhưng
ít người sai quân đến, lại vào bảo bọn Cố rằng: "Lòng người hướng về nhà,
các quan tướng trong quận nên sai về nghỉ ngơi, mau hoãn kêu gọi họ để tránh bị
họa". Bọn Cố ghét việc làm trái ý mọi người, lại nghe theo. Do đó người
tốt ở ngoài ngầm giúp thân mình, kẻ ác tản mát, đều về nhà mình, quân sĩ lìa
tan. Gặp lúc giặc Bạch kị(3) đánh huyện Đông Hoàn, Cao Cán vào huyện Hoạch
Trạch, người các huyện của quận Thượng Đảng giết trưởng lại, người quận Hoằng
Nông bắt giữ quan Thái thú, bọn Cố ngầm điều binh sắp đến. Kì biết người các
huyện theo mình, nhân đó đi ra, đem riêng mấy chục quân kị, đến chỗ hẻo lánh
chống giữ, quan dân đều đem người trong thành ra giúp Kì, gần mấy chục ngày thu
được hơn bốn nghìn người. Bọn Cố cùng với Cán, Thịnh đánh Kì, không thắng, lại
cướp các huyện, cũng không được. Vừa lúc đại quân đến(4), Cán, Thịnh thua, bọn
Cố bị giết, phe đảng còn lại đều cho thả ra, sai về làm nghiệp cũ.
Bấy giờ,
quận huyện trong thiên hạ đều bị đổ vỡ, quận Hà Đông được định sớm nhất, ít tổn
hại. Kì trị quận, ưa dùng ân huệ, không gây khó với dân. Có người dân từng kiện
tụng, có kẻ đến báo, Kì tự gặp kể rõ nghĩa lớn, sai về nhà suy nghĩa việc ấy,
nếu chưa suy nghĩ hết ý nghĩa thì lại đến phủ hỏi. Các bậc già cả trong thôn ấp
tự trách tha lẫn nhau nói: "Có ông như thế, sao lại không vâng giáo
hóa"? Từ đấy ít có kiện tụng. Hạ lệnh các huyện, cử người con có hiếu, đàn
bà trinh tiết, người cháu kính thuận, tha cho lao dịch, tùy lúc mà an ủi họ.
Lại sai dân nuôi trâu cái, ngựa cái, cho đến các loài heo con, gà, lợn, chó,
đều có phép tắc. Trăm họ chăm chỉ, nhà nhà no đủ. Kì lại nói: "Dân đã giàu
đủ thì không thể không giảng dạy". Do đó suốt tháng sửa giáp giảng võ, lại
dựng nhà học, tự thân cầm sách giảng dạy, do đó trong quận sửa hóa.
Ngụy
lược chép: Kẻ sĩ học rộng là Nhạc Tường, do Kì dạy mà nổi danh. Đến nay quận Hà
Đông có nhiều nhà Nho là do từ Kì vậy.
Hàn
Toại, Mã Siêu làm phản, trong quận Hoằng Nông, Phùng Dực có nhiều người đem
quân trong huyện ấp để ứng theo chúng. Quận Hà Đông dẫu liền kề với giặc nhưng
dân không có lòng khác. Thái Tổ sang miền tây đánh dẹp đến huyện Bồ Bản, cách
sông Vị đối trận với giặc, lương thực cho quân đều trông vào quận Hà Đông. Đến
lúc giặc bị phá, còn chứa được hơn hai mươi vạn hộc. Thái Tổ hạ lệnh rằng:
"Hà Đông Thái thú Đỗ Kì, Khổng Tử từng nói rằng: 'Đối với vua Vũ, ta chẳng
có gì bàn nữa vậy'(5). Nay tăng lộc hai nghìn thạch". Thái Tổ đánh quận
Hán Trung, sai năm nghìn người vận lương, người vận lương tự khích lệ nhau
rằng: "Người ta sống có một lần chết, không nên phụ phủ quân của chúng
ta". Rút cuộc chẳng một người bỏ trốn, Kì được lòng người như thế.
Đỗ thị
Tân thư chép: Bình lỗ Tướng quân Lưu Huân được Thái Tổ tin dùng, quý hiển lừng
triều đình, từng đến chỗ Kì xin quả táo lớn, Kì lấy việc khác từ chối. Sau đó
Huân bị tội, Thái Tổ lấy được thư của Huân, than rằng: "Đỗ Kì có thể gọi
là người 'không a dua theo kẻ quyền thế' vậy". Khen đức sáng của Kì, hạ
lệnh châu quận, nói: "Ngày xưa Trọng Ni đối với Nhan Tử, hễ nói không thể
không than, khen đã dạt dào tình cảm, lại như con ngựa khỏe đầu đàn ngựa. Nay
ta cũng mong mọi người ngưỡng núi cao, trông đường lớn vậy".
Nước
Ngụy đã dựng, lấy Kì làm Thượng thư. Việc yên, lại có lệnh rằng: "Ngày xưa
Tiêu Hà định miền Quan Trung, Khấu Tuân bình quận Hà Nội, khanh có cái công ấy,
từng muốn trao chức quan can gián cho khanh, nhưng xét thấy quận Hà Đông là
quận đùi tay của nước ta, là chỗ giàu có, đủ để ngăn chế thiên hạ, cho nên
phiền khanh ở lại giữ lấy quận ấy". Kì ở tại quận Hà Đông mười sáu năm,
thường là quan giỏi đứng đầu thiên hạ.
Văn Đế
lên ngôi Vương, ban tước Quan nội hầu, gọi về làm Thượng thư. Đến lúc lên ngôi,
tiến phong Phong Lạc Đình Hầu, thực ấp trăm hộ, Ngụy
lược chép: Lúc trước Kì ở tại quận, nhận thư bắt gọi đàn bà. Bấy giờ tại quận
khác có nơi cho tự lấy chồng lần nữa, dựa vào thư mà bắt chở đi, do đó tiếng
kêu khóc vang rộ đường đi. Kì chỉ bắt chở kẻ góa, cho nên ít người bị chở đi;
đến lúc Triệu Nghiễm thay Kì thì bắt chở nhiều người đi. Văn Đế hỏi Kì rằng:
"Lúc trước sao ít người bị chở đi, nay sao lại nhiều"? Kì đáp nói:
"Người mà bị thần chở đi lúc trước đều là vợ của người chồng đã mất, nay
Nghiễm chở vợ của người chồng còn sống vậy". Đế và tả hữu nhìn nhau mà mặt
biến sắc.
giữ chức
Tư lệ Hiệu úy. Đế đánh nước Ngô, lấy Kì làm Thượng thư Bộc xạ, ở lại coi việc.
Sau đó Đế đến Hứa Xương, Kì cũng ở lại giữ. Vâng chiếu làm thuyền lầu cho vua,
thử thuyền ở sông Đào, gặp gió chìm chết. Đế vì thế rơi nước mắt.
Ngụy thị
Xuân thu chép: Lúc trước, Kì từng gặp một đứa trẻ bảo Kì rằng: "Thần Tư
mệnh(6) sai ta đến gọi ngài". Kì cố xin đứa trẻ, đứa trẻ nói: "Nay sẽ
giúp ngài tìm chọn người nối thay". Nói xong, chợt không thấy nữa. Đến đây
là hai mươi năm rồi, Kì mới nói ra. Hôm ấy thì chết, bấy giờ sáu mươi hai tuổi.
Hạ chiếu
nói: "Ngày xưa Minh chăm làm việc quan mà chết dưới sông, Tắc chăm trồng
lúa mà chết trên núi.
Vi Chiêu
chú giải sách Quốc ngữ có dẫn Mao thi truyện chép: Minh là cháu đời thứ sáu của
Tiết(7) vậy, làm chức quan trông coi về sông nước thời nhà Hạ, chăm làm việc
quan mà chết ở dưới sông. Tắc là Khí(8) của nhà Chu vậy, chăm chỉ trông lúa,
chết ở trên núi bên sông Hắc.
Thượng
thư Bộc xạ Đỗ Kì ngày trước thử thuyền ở bến Mạnh Tân, bèn bị chìm đắm, thật là
trung vậy. Trẫm rất thương xót". Truy tặng chức Thái bộc, thụy là Đái Hầu.
Con là Thứ nối tự.
Phó tử
chép: Kì thân thiện với Thái bộc Lí Khôi, An Lạc Thái thú Quách Trí. Con Khôi
là Phong giao kết với bọn anh hào, có tài trí nổi danh thiên hạ. Con Trí là
Xung trong có tài cán mà ngoài chẳng có phong thái, người trong châu chẳng
khen. Kì làm Thượng thư Bộc xạ, hai người đều đem con cháu đến gặp Kì. Rồi về,
Kì than rằng: "Hiếu Ý(9) không có con, không chỉ không có con mà thôi, mà
còn không có nhà nữa. Quân Mưu(10) là không chết vậy, con đủ để nối nghiệp
được". Người thời ấy đều cho rằng Kì xét lầm. Nhưng sau khi Khôi chết,
Phong làm Trung thư lệnh, cha con anh em đều bị giết, Xung làm Đại Quận Thái
thú, rút cuốc nối được nghiệp của cha; người đời lúc ấy mới phục tàu biết nhìn
người của Kì. Ngụy lược chép tên cha của Lí Phong là Nghĩa, so với sách này
không giống, có lẽ tên Nghĩa là tên khác của Khôi vậy.
Thứ tự
Vụ Bá, giữa năm Thái Hòa làm Tán kị Hoàng môn Thị lang.
Đỗ thị
Tân thư chép: Thủa trẻ Thứ cùng với người quận Phùng Dực là Lí Phong cùng nối
nghiệp của cha, lại cùng thân thiện. Đến lúc thành người lớn, Phong có gắng tu
sửa đức hạnh để mong được nổi tiếng, mà Thứ lại xông xênh thẳng thắn, khác biệt
với Phong. Phong bèn nổi tiếng một thời, bọn kẻ sĩ ở kinh đô phần nhiều đến
chơi với Phong. Nhưng có người quyền quý rằng danh tiếng của Phong quá xa so
với thực tế, lại cho rằng Thứ mặc áo sơ đeo ngọc vậy. Do đó mà không Phong ưa
thích. Thứ cũng cho là tự nhiên, không gắng tu hạnh để theo thời. Phong đã làm
cao ở triều đình, mà Thứ vẫn ở nhà tự vui. Minh Đế thấy Thứ là con của đại
thần, gọi đến bái làm Tán kị Thị lang. Được mấy tháng, chuyển làm Hoàng môn Thị
lang.
Thứ lấy
thành thật làm tính, không trau chuốt vẻ ngoài, thủa nhỏ không được nổi tiếng.
Đến lúc vào triều đình, cũng không giao kết riêng, dốc lòng làm việc công. Hễ
có việc được mất, thường dẫn phép tắc để nói thẳng, do đó được Thị trung Tân Bì
kính trọng.
Bấy giờ
từ bậc công khanh trở xuống bàn luận việc tổn ích, Thứ cho rằng: "Quan Thứ
sử thời xưa đã vâng theo sáu điều(11), giữ tiếng trong sạch, nêu rõ uy phong.
Ngày nay chớ cho lĩnh quân để chuyên chú vào việc trị dân".
Ra làm
Hoằng Nông Thái thú, được mấy năm lại chuyển làm Triệu Tướng,
Ngụy
lược chép: Thứ ở tại quận Hoằng Nông, khoan hòa có đức độ. Đến lúc chuyển, lấy
Mạnh Khang thay Thứ làm Hoằng Nông Thái thú. Khang tự Công Hưu, người quận An
Bình. Giữa năm Hoàng Sơ, vì có quan hệ họ ngoại với Quách Hậu, do đó được ban
bái lễ thân thích, bèn chuyển làm Tán kị Thị lang. Bấy giờ, quan Tán kị đều là
người có đạo Nho anh tài mà được chọn, mà riêng Khang vì là họ hàng mà được ở
trong đó, cho nên người thời ấy đều cùng coi thường Khang, gọi là A Cửu. Khang
vốn không có tài cán, nhân lúc chờ đợi làm quan, chuyên đọc rộng sách truyện,
sau đó bèn có người xét hỏi, văn nghĩa hay đẹp lại trọng yếu, mọi người liền
mới vừa lòng. Giữa năm Chính Thủy, ta làm Hoằng Nông Thái thú, lĩnh chức Điển
nông Hiệu úy. Khang đến làm quan, trong sạch theo phép, khen kẻ thiện nhưng lại
thương kẻ không có năng lực, giảm bớt tù ngục, theo điều mà dân muốn, nhân đó
mà lợi cho dân. Quận lĩnh hơn hai trăm quan lại, bèn giảm cho về nghỉ, thường
có bốn người thì sai một người về. Việc không ứ động, lúc ra xét án đều răn bảo
quan Đốc bưu phải công bằng, không được cho quan thuộc sai người dò xét, sửa
nắn lễ kính. Lại không muốn làm phiễn nhiều quan dân, thường răn bảo quan quân,
khi đi đều cầm liềm, đến đâu cũng cắt cỏ cho ngựa, không ngừng chuyển chở, chất
đầy dưới cây, lại đem người đi theo thường không quá mười người. Quận liền
đường đi, các tân khách đi qua, nếu không theo phép chung thì không được cấp
phát; nếu là người quen cũ thì cho, tự dẫn vào nhà. Khang mới được bái quan,
mọi người dẫu biết Khang có chí khí, nhưng cho rằng chưa từng làm chức mục thú,
e rằng không trổ được tài năng vậy. Nhưng tài năng công tích trị dân lại được
như thế, quan dân đều khen ngợi. Cuối năm Gia Bình, từ chức Bột Hải Thái thú
được gọi về làm Trung thư lệnh, sau lại chuyển làm Trung thư giám. vì bệnh mà
bỏ chức.
Đỗ thị
Tân thư chép: Thứ bèn về kinh sư, lập một cái lũy bên suối ở huyện Nghi Dương,
nhân đó đắp thêm cao, người lớn nhỏ đều ở đấy. Vào lúc Minh Đế băng, nhiều
người vì Thứ mà nói giúp.
Rời nhà
làm Hà Đông Thái thú, hơn một năm, chuyển làm Hoài Bắc Đô đốc Hộ quân, lại vì
bệnh mà bỏ. Thứ ở đấy, làm việc sơ qua mà thôi, gieo rắc ân huệ, rất được lòng
trăm họ vui mừng, nhưng không bằng Kì. Vụt chốc, bái làm Ngự sử Trung thừa. Thứ
tại triều đình, vì không được hòa hợp với người thời ấy, cho nên thường làm
quan ở ngoài. Lại ra làm U Châu Thứ sử, thêm chức Kiến uy Tướng quân, Sứ trì
tiết, Hộ Ô Hoàn Hiệu úy. Bấy giờ Chinh bắc Tướng quân Trình Hỉ đóng đồn ở thành
Kế, bọn Thượng thư Viên Khản khuyên Thứ rằng: "Trình Giáp Bá(12) làm quan
từ thời Tiên đế, chức cao hơn Điền Quốc Nhượng ở Thanh Châu(13). Ngày nay làm
việc với túc hạ, cùng đóng đồn ở một thành, nên đối chú ý đối đãi người
ấy". Nhưng Thứ không chú ý đến. Đến làm quan chưa được lâu, có thủ lĩnh
của người Tiên Ti đi vào mà không qua quan ải, đem mấy chục quân kị đến thẳng
phủ châu, người trong phủ châu chém một đứa con nhỏ đi theo của người đó, không
dâng biểu tấu lên. Do đó Hỉ kể tội Thứ, giao cho quan Đình úy, đáng tội chết,
nhưng vì cha là Kì chăm chỉ làm việc mà chết dưới sông, tha cho làm dân thường,
đày đến quận Chương Vũ, bấy giờ là năm Gia Bình thứ nhất. Thứ làm theo ý mình,
dẫu trung trinh nhưng không biết phòng họa, rút cuộc dẫn đến nỗi ấy.
Lúc
trước, Thứ từ Triệu Quận quay về, người quận Trần Lưu là Nguyễn Vũ cũng từ chức
Thanh Hà Thái thú được gọi về, cùng tự bắt sở quan Đình úy, bảo Thứ nói:
"Xét thấy ngài có tài giúp được phép vua nhưng lại không chịu cố gắng, có
chí làm được quan lớn mà lại không chịu thuận kẻ trên, tài học hiểu được việc
xưa nay nhưng ý chẳng chuyên nhất, đấy gọi là có tài ấy mà không dùng được cái tài
ấy. Nay nhân lúc nhàn rỗi, nên thử nghĩ sâu xa, lập nên một học thuyết". Ở
tại quận Chương Vũ, bèn chép sách Thể luận có tám chương.
Đỗ thị
Tân thư chép: Cho rằng phép lớn của người ta, chẳng gì lớn bằng đạo vua tôi;
gốc rễ của việc lập thân, chẳng gì lớn bằng biết ăn nói và tu đức; giúp vua trị
dân, chẳng gì bằng vâng phép đúng; trừ nạn bỏ hại, chẳng gì hay bằng dùng binh.
Lễ là sao? Lễ là thể diện của vạn vật, nếu vạn vật đều có được thể diện thì
không gì là không hay, cho nên gọi tên sách là Thể luận. Lại chép một thiên
Hưng tính luận, đại khái là giúp cho thân mình vậy.
Năm thứ
tư, chết ở chỗ mà mình bị đày.
Năm Cam
Lộ thứ hai, người quận Hà Đông là Nhạc Tường đã hơn chín mươi tuổi, dâng thư
khen công tích của Kì, triều đình cảm kích, hạ chiếu phong con Thứ là Dự làm
Phong Lạc Đình Hầu, thực ấp trăm hộ.
Ngụy
lược chép: Nhạc Tường tự Văn Tái. Thủa trẻ ham học. Đầu năm Kiến An, Tường nghe
nói Công xa Tư mã lệnh người Nam Quận là Tạ Cai giỏi đọc sách Tả thị truyện,
bèn đi bộ từ quận Nam Dương đến gặp Cai học qua các điều cốt yếu, ngày nay có
đến bảy mươi hai việc trong sách Tả thị Nhạc thị là do Tường soạn vậy. Học hỏi
xong lại về quê cũ. Bấy giờ Đỗ Kì làm Thái thú, cũng rất ham học, cho Tường làm
quan Văn học Tế tửu, sai đi giảng dạy, do đó nghiệp học của quận Hà
Đông nổi rõ. Đến giữa năm Hoàng Sơ, gọi về bái làm Bác sĩ. Bấy giờ mới dựng nhà
Thái học, có hơn mười vị Bác sĩ, phần nhiều tài học thấp kém, lại không thành
thạo, không quen giảng giải, dẫn vào cho có người mà thôi. Riêng có Tường thạo
cả các môn, có người khó dạy hoặc không dạy được nhưng Tường không tỏ vẻ chán
ghét, lấy gậy vẽ trên đất, giảng rõ cho họ, đến nỗi quên ăn quên ngủ, do đó
được nổi danh khắp xa gần. Tường học tinh thông, lại giỏi suy xét tính đếm,
riêng được nhận lệnh cùng quan Thái sử chế định lịch pháp. Giữa năm Thái Hòa,
chuyển bái làm Kị Đô úy. Tường học giỏi nhưng ít tài trị dân, cho nên qua ba
đời vua đều không ra làm quan mục thú. Đến giữa năm Chính Thủy, vì tuổi già mà
nghỉ về ở nhà, họ hàng trong nước theo về học trò có đến mấy nghìn người.
Các sớ
biểu tấu nghị biện bác của Thứ đều đáng xem, có chọn các việc cần thiết với đời
chép vào trong truyện(14).
Đỗ thị
Tân thư chép: Em Thứ là Lí, tự Vụ Trọng. Thủa nhỏ mà xem học tinh thông, Kì lấy
làm lạ, cho nên đặt tên là Lí, được hai mươi mốt tuổi thì chết. Em là Khoan, tự
Vụ Thúc, trong sạch tĩnh lặng, thông minh lại ưa việc xưa. Vì là con nhà danh
thần, thủa nhỏ lớn lên ở kinh sư, nhưng dốc chí học rộng, hơn hẳn người đời, có
ý muốn xét rõ các việc huyền bí, do đó mà nổi danh, nhiều kẻ sĩ làm quan đến
giao kết. Cử Hiếu liêm, bái làm Lang trung, được bốn mươi hai tuổi thì chết.
Với ý nghĩa của kinh truyện, đều chép bài biện bác, nhưng chép soạn chưa xong,
chỉ có phần chú giải san định Lễ kí và Xuân thu Tả thị truyện đã xong, đến nay
còn truyền cho đời. Dự tự Nguyên Khải, là con rể của Tư Mã Tuyên Vương. Tấn thư
của Vương Ẩn khen Dự có mưu trí sâu rộng, giỏi ở việc trị loạn, thường nói:
"Người tu đức thì không ai theo kịp, người mong lập công lập danh chỉ là
thứ sau vậy". Xem qua các sách, nói rằng nghĩa trong sách Công dương
truyện, Cốc lương truyện chỉ là lời biện bác dối trá. Lại cho rằng nhà Nho đời
trước đã chưa nghiên cứu rõ ý Tả Khâu Minh trong Tả thị truyện, lại làm cho hai
truyện thêm rối. Lại thêm bớt lời lẽ, chép lời chú giải Xuân thu Tả thị truyện,
lại xét qua các nhà, gọi tên sách là Thích liệt. Lại chép sách Minh hội đồ,
Xuân thu trường lịch, tạo thành một phái học riêng, đến lúc già mời xong.
Thượng thư lang Chí Ngu rất coi trọng phái học ấy, nói: "Tả Khâu Minh vốn
chép truyện thời Xuân thu, nhưng sách Tả truyện bèn tự được lưu truyền riêng
biệt; Thích liệt vốn là truyện tự đặt, nhưng ý mới mẻ sánh được với Tả truyện,
cho nên cũng được lưu truyền riêng biệt". Dự có công lớn với nhà Tấn, làm
đến chức Chinh nam Đại tướng quân, Khai phủ, phong Đương Dương Hầu, thực ấp tám
nghìn hộ. Con là Tích, tự Thế Hỗ, làm Thượng thư Tả thừa. Tấn chư công tán
chép: Hỗ có tài năng. Anh họ Dự là Bân, tự Thế Tương, cũng có tài năng, làm
Hoàng môn lang, bị Triệu Vương là Luân giết oan. Con Hỗ là Nghệ, tự Hồng Trị.
Thủa trẻ có tiếng tăm, làm Đan Dương Thừa, chết sớm. Nguyễn Vũ cũng là người có
tài năng rộng lớn vậy. Xét Nguyễn thị phả chép: Cha Vũ là Kham, tự Sĩ Tín, được
mời gọi nhưng chẳng đến, chép sách Tam lễ đồ truyền cho đời.
Đỗ thị
Tân thư chép: Vũ tự Văn Nghiệp, rộng rãi thông tuệ, là kẻ sĩ nhã nhặn, chỉ làm
đến Thanh Hà Thái thú. Em Vũ là Bỉnh, tự Thúc Văn, làm Hà Nam Doãn. Tinh thông
thuật chữa bệnh, chép một sách về thuốc. Con Bỉnh là Thản, tự Hoằng Thư, thời
nhà Tấn làm Thái tử Thiếu bảo, Bình đông Tướng quân. Em Thản là Kha, tự Sĩ Độ.
Duyện Châu kí của Tuân Xước chép: Thản ra làm mục thú, lúc chết, anh thứ đáng
được thay tước, nhưng cha ưa Kha hơn, nói lời truyền cho, bèn nhận tước phong.
Bấy giờ còn nhỏ bé, không thể từ chối, đến lúc lớn lên mới hối tiếc, bèn buộc
khăn mà ở nhà, sau đó có ra làm quan nhưng chưa từng cởi khăn vậy. Tính thật
thà nhã nhặn, ưa lễ nghĩa không làm trái, dốc ý đọc kinh truyện, nổi tiếng học
rộng. Chọn làm Bộc Dương Vương
Văn học,
chuyển làm Lĩnh quân Trưởng sử, chết ở sở quan. Bấy giờ Vương Diễn làm Lĩnh
quân, khóc Kha rất thảm thiết.
Chú thích
(1) Ngự sử Đại phu Đỗ Diên Niên thời nhà Hán:
chỉ Đỗ Diên Niên tự Ấu Công, người quận Nam Dương, thời Chiêu Đế nhà Hán làm
Ngự sử Đại phu. Tính khoan hòa, cẩn thận.
(2) Miền Hào, Mẫn: miền giữa chỗ có núi Hào và
đầm Mẫn.
(3) Giặc Bạch kị: chỉ tướng giặc ở núi Hắc là
Trương Bạch Kị.
(4) Đại quân đến: chỉ đại quân của Hạ Hầu Đôn
đến đánh.
(5) Hà Đông Thái thú Đỗ Kì, Khổng Tử từng nói
rằng: 'Đối với vua Vũ, ta chẳng có gì bàn nữa vậy'.: ý nói công lao của Đỗ Kì
đã rõ không có gì bàn nữa như vua Vũ thời xưa có công trị thủy vậy.
(6) Thần Tư mệnh: Tư mệnh, theo truyền thuyết
xưa là thần coi việc sống hay chết của con người.
(7) Tiết: Tiết là bầy tôi của vua Thuấn, từng
giúp Vũ trị thủy có công, được phong ở ấp Thương, là tổ tiên của nhà Thương.
Minh là cháu đời thứ sáu của Tiết.
(8) Khí: Khí còn gọi là Tắc hoặc Hậu Tắc, là
bầy tôi của vua Thuấn, có công dạy dân trồng trọt, được phong ở ấp Thai, là tổ
tiên của nhà Chu.
(9) Hiếu Ý: chỉ Lí Khôi tự Hiếu Ý.
(10) Quân Mưu: chỉ Quách Trí tự Quân Mưu.
(11) Quan Thứ sử thời xưa đã vâng theo sáu
điều: thời Vũ Đế nhà Hán, lập mười ba châu, mỗi châu đặt một quan Thứ sử để
trông coi, hạ chiếu kể sáu điều rằng: "Điều một, đối với cường hào quý tộc
mà giữ ruộng đất trái phép, lấy mạnh hiếp yếu, nên lấy đông chế ít. Điều hai,
đối với quan lại có bổng hai nghìn thạch (chỉ quan Thái thú đứng đầu quận)
không vâng chiếu lệnh, nên theo phép chế, trị tội kẻ xén công lợi thu riêng,
dựa vào chiếu lệnh mà tìm lợi, xâm lấn trăm họ, tụ tập làm việc xấu. Điều ba,
trị tội quan lại có bổng hai nghìn thạch mà không xét rõ hình án, tự tiện giết
người, giận thì dùng hình, vui thì ban thưởng, phiền nhiễu hà khắc, ép bức dân
chúng, bị trăm họ ghét bỏ, núi lở đá vỡ, tỏ điềm ngoa xấu. Điều bốn, trị tội
quan lại có bổng hai nghìn thạch mà chọn lựa không công bằng, ưa kẻ a dua, bỏ
hiền sủng ác. Điều năm, trị tội con em của quan lại có bổng hai nghìn thạch cậy
dựa quyền thế, xin làm việc riêng. Điều sáu, trị tội quan lại có bổng hai nghìn
thạch mà trái việc công, hùa theo cường hào, qua lại hối lộ, tổn hại phép
lệnh".
(12) Trình Giáp Bá: chỉ Trình Hỉ tự Giáp Bá.
(13) Điền Quốc Nhượng ở Thanh Châu: chỉ Điền
Dự tự Quốc Nhượng, bấy giờ trông coi các quân ở Thanh Châu.
(14) Chọn các việc cần thiết với đời chép vào
trong truyện: trong truyện có chép hai bài sớ của Đỗ Thứ, nhưng người dịch lược
bỏ không dịch.
TRUYỆN TRỊNH HỒN
Trịnh
Hồn tự Văn Công, người huyện Khai Phong quận Hà Nam. Ông tổ là Chúng, cha Chúng
là Hưng, đều là nhà Nho có tiếng.
Tục Hán
thư chép: Hưng tự Công Cống, làm Gián nghị Đại phu. Chúng tự Tử Sư, làm Đại Tư
nông.
Anh Hồn
là Thái, cùng bọn Tuân Du mưu giết Đổng Trác, làm Dương Châu Thứ sử, chết.
Hán kỉ
của Trương Phan chép: Thái tự Công Nghiệp. Thủa trẻ có tài lược, nhiều mưu kế,
biết thiên hạ sắp loạn, bèn ngầm giao kết hào kiệt. Nhà giàu tiền của, có bốn
trăm khoảnh ruộng mà thường không đủ ăn(1), nổi danh miền Sơn Đông. Cử Hiếu
liêm, ba phủ(2) mời, xe công(3) đến gọi, đều không đến. Vào lúc Hà Tiến phụ
chính, gọi dùng kẻ sĩ nổi tiếng, lấy Thái làm Thượng thư Thị lang, thêm chức
Phụng xa Đô úy. Tiến sắp giết bọn quan Hoàng môn,(4) muốn gọi Đổng Trác về
giúp, Thái bảo Tiến rằng: "Đổng Trác cường bạo ít nghĩa, chí không muốn
đủ, nếu mượn hắn giúp triều đình, trao cho việc lớn, đấy là khiến cho hắn thỏa
lòng làm hại triều đình vậy. Lấy oai đức của minh công, dựa vào chức cao của
quan A hành(5), tự ý xét việc, giết kẻ có tội, thực là không cần đợi Trác giúp
đỡ vậy. Vả lại việc có biến, tấm gương không xa". Lại bày kể việc quan
trọng thời ấy, Tiến không nghe theo, bèn bỏ chức mà đi. Bảo người quận Dĩnh
Xuyên là Tuân Du rằng: "Hà Công không dễ phụ chính được vậy". Sau đó
Tiến bị hại, quả nhiên Trác chuyên quyền, phế vua. Quân nghĩa miền Quan Đông
nổi dậy, Trác mở hội nghị phát đại quân, quan lại đều sợ Trác, chẳng ai dám làm
trái. Thái sợ thế mạnh của Trác, lo càng khó ngăn, bèn nói: "Trị nước tại
đức, không tại dùng quân". Trác không vui nói: "Nếu thế, quân không
có ích sao"? Mọi người chẳng ai không biến sắc mặt, vì Thái mà run rẩy.
Thái bèn giả nói lí đáp rằng: "Không phải là không có ích, vì miền Sơn
Đông không đáng để phát binh vậy. Ngày nay người miền Sơn Đông bàn nhau muốn
dấy binh, châu quận liên kết với nhau, dân chúng kéo theo, chẳng ai không nổi
lên vậy. Nhưng Trung Quốc từ thời vua Quang Vũ đến nay, không còn nghe được
tiếng gà gáy chó sủa, trăm họ lâu ngày quên đánh trận. Trọng Ni(6) có nói:
'Đừng dạy dân đánh trận, dạy đánh trận là dạy cho dân bỏ chạy vậy'. Dẫu quân
đông nhưng không thể gây hại, đấy là một điều. Minh công nổi lên ở miền tây,
thủa trẻ làm tướng của nhà nước, quen thuộc việc quân, nhiều lần xông trận, nổi
danh thời nay; lấy đó mà uy hiếp dân chúng, dân chúng tất theo phục, đấy là hai
điều. Viên Bản Sơ(7) là con em nhà công khanh, sinh ở kinh sư, thân như đàn bà;
Trương Mạnh Trác(8) làm quan trưởng ở huyện Đông Bình, ngôi chẳng vững vàng;
Khổng Công Tự(9) bàn luận hay tốt, chỉ biết nói suông, không có tài giúp quân,
không có sức dãi dầu sương gió; nếu xông vào đao nhọn, quyết tranh thắng bại,
đều không phải là đối địch của minh công, đấy là ba điều. Xét quân sĩ miền Sơn
Đông, không có kẻ sức kìm được ngựa căng được dây cung, không có kẻ dũng cảm
như Mạnh Bôn(10), không có kẻ khỏe sánh với Khánh Kị(11), không có kẻ có cái
tín ở trận thành Liêu(12), không có kẻ bày kế sách như Lương, Bình(13); chẳng
dùng được quân mạnh, chẳng lập công được, đấy là bốn điều. Lại như quân ấy,
chẳng bầu chọn nhau, ngôi vị không lập, đều dựa vào quân đông, người người nhốn
nháo, đến xem thành bại, không chịu cùng lòng hợp sức, đi đứng lộn xộn, đấy là
năm điều. Các quận miền Quan Tây, phía bắc liền quận Thượng Đảng, Phùng Dực,
Phù Phong, An Định, từ xưa đến nay, nhiều lần đánh với rợ Hồ, trai gái đều quen
cầm kích nắm mâu, kéo cung lắp tên, nếu dùng quân khỏe ấy để đánh quân dân bỏ
quên việc đánh trận của miền Sơn Đông, cũng như xua bầy dê vào hổ sói, quân ấy
tất thắng, đấy là sáu điều. Vả lại quân mạnh trong thiên hạ, ngày nay đều không
hơn được quân của miền Tinh, Lương, Hung Nô, Đồ Các, Hoàng Trung, Nghĩa Tòng,
tám bộ rợ Khương miền tây, đều là quân mà trăm họ sợ phục, mà minh công lấy họ
làm nanh vuốt thì kẻ dũng mãnh còn run sợ, huống chi là kẻ yếu đuối đây! Đấy là
bảy điều. Lại nữa tướng súy của minh công đều là người tim bụng, lĩnh quân lâu
ngày, từ thời đánh trận Tam Nguyên, Giáp Khẩu đến nay, ân tín sáng rõ, kẻ trung
thành có thể dùng ở nơi xa, người mưu trí có thể sai đi làm sứ giả, lấy đó mà
đánh quân lộn xộn ô hợp của miền Quan Đông, thực là chẳng ngang nhau. Đấy là
tám điều. Nếu bên ấy đánh thì có ba điều thua: Đem quân loạn đánh quân trị là
thua, đem quân tà đánh quân chính là thua, đem quân nghịch đánh quân thuận là
thua. Ngày nay minh nắn sửa việc nước, diệt trừ hoạn quan ác nghịch, giúp đỡ kẻ
trung nghĩa; lấy ba điều đức ấy để chống với ba điều thua ấy, vâng lệnh đánh kẻ
có tội, còn ai dám chống? Đấy là chín điều. Miền đông có Trịnh Khang Thành(14),
học rộng xưa nay, do đó bọn nhà Nho đến tụ tập; người quận Bắc Hải là Bính Căn
Củ(15), trong sạch thẳng thắn, là tấm gương của kẻ sĩ. Nếu các tướng bên ấy noi
theo kế sách của hai người ấy, xét rõ cái thế yếu mạnh, các nước Yên, Triệu,
Tề, Lương không phải là không mạnh nhưng cuối cùng bị nhà Tần diệt, bảy nước
Ngô, Sở(16) không phải là không có quân đông nhưng dám qua đất Huỳnh Dương,
huống chi ngày nay minh công có đức chính rõ ràng, có kẻ làm đùi tay giúp đỡ,
vậy mà bên kia muốn làm loạn để tìm lấy cái tiếng bất nghĩa, tất không khen
ngợi nhau, không bày mưu ác. Đấy là mười điều. Nếu chọn nghe mười việc ấy thì
không có việc đem quân để làm kinh động thiên hạ, khiến cho dân chúng không bị
nạn binh đao, không phải tụ tập. Nếu bỏ đức mà chỉ dựa vào quân đội, đấy là
khinh cái oai trọng vậy". Trác bèn vui, lấy Thái làm Tướng quân, lĩnh các
quân đánh miền Quan Đông. Có kẻ bảo Trác rằng: "Trịnh Thái mưu lược hơn
người, lại có ý muốn kết mưu với người miền Sơn Đông, nay trao quân mã cho hắn,
lại cho đến chỗ phe đảng của hắn, sợ rằng gây lo lắng cho minh công". Trác
lại thu quân mã của Thái, giữ lại làm Nghị lang. Sau lại mưu với Vương Doãn
giết Trác, Thái chạy từ cửa Vũ Quan mà thoát được, quay về miền đông. Sau đó
Tướng quân Viên Thuật lấy làm Dương Châu Thứ sử, chưa đến sở quan, trên đường
chết, bấy giờ bốn mươi mốt tuổi.
Hồn đem
con nhỏ của Thái là Mậu tránh nạn đến miền Hoài Nam, được Viên Thuật lấy lễ
khách đãi rất hậu. Hồn biết Thuật tất thua. Bấy giờ Hoa Hâm làm Dự Chương Thái
thú, vốn thân thiện với Thái, Hồn bèn vượt sông đến nương dựa Hâm. Thái Tổ nghe
nói Hồn tu đức, gọi về làm Duyện thuộc, lại chuyển làm Hạ Sái Trưởng, Thiệu
Lăng Lệnh. Bấy giờ thiên hạ chưa định, dân điều phiêu tán, không lo trồng trọt;
sinh con không biết làm gì mà sinh sống, do đó đều không đủ nạp thuế. Hồn ở đấy
thu lấy các đồ sắn bắt, bắt phải trồng trọt, lại mở màn ruộng lúa, theo cách
geo hạt. Lúc đầu dân sợ bị tội, sau đó dần dần được đầy đủ, không ai không no
đủ; sinh con trai gái, phần nhiều đặt tên chữ là Trịnh. Gọi về làm Thặng tướng
Duyện thuộc, chuyển làm Tả Phùng Dực.
Bấy giờ
bọn Lương Hưng(17) bắt hơn năm nghìn người dân làm giặc cướp, các huyện không
chống được, đều lo sợ, ở nhờ trong quận. Người bàn đều cho rằng nên dời đến chỗ
hiểm, Hồn nói: "Bọn Hưng cướp phá, gây hại nơi núi hiểm. Dẫu có kẻ đi theo
nhưng đại khái là bị bắt ép mà thôi. Ngày nay nên mở rộng đường lối, ban bố ân
tín. Nếu vào chỗ hiểm tự giữ, đấy là tỏ cái yếu kém vậy". Bèn thu tập quan
dân, sửa thành quách, làm các đồ phòng giữ. Rồi phát quân đuổi giặc, làm rõ
thưởng phạt, cùng nhau giao hẹn, các điều giao hẹn, bảy phần mười là ban
thưởng. Do đó trăm họ vui mừng, đều tự muốn đi bắt giặc, bắt được nhiều đàn bà,
tiền của. Bọn giặc có kẻ mất vợ con, đều về xin hàng. Hồn trách phạt người bắt
lấy đàn bà của họ rồi trả vợ con về cho chúng, do đó giặc tự cướp giật lẫn
nhau, phe đảng tan lở. Lại sai quan dân có kẻ đáng tin, chia ra các hang núi
chiêu dụ, do đó giặc theo nhau ra hàng, lại sai quan lại của các huyện đều đem
về huyện mình để an tập chúng. Bọn Hưng sợ, đem người còn lại tụ ở Phu Thành.
Thái Tổ sai Hạ Hầu Uyên đến giúp quận huyện đánh chúng, Hồn lĩnh quan dân đi
trước, chém được Hưng cùng phe đảng của hắn. Lại có giặc là bọn Cận Phú, bắt
đem Hạ Dương Trưởng, Thiệu Lăng Lệnh cùng quan dân vào núi hiểm, Hồn lại đánh
phá bọn Phú, bắt lại quan trưởng của hai huyện ấy, lấy các đồ mà bọn giặc cướp
được đem về. Vừa lúc có người là Triệu Thanh Long giết Tả Nội Sử là Trình Hưu,
Hồn nghe tin, sai tráng sĩ đến chém bêu đầu hắn. Trước sau có hơn bốn nghìn nhà
theo phục. Do đó bọn giặc trong núi đều bình, dân yên ổn làm việc. Chuyển làm
Thượng Đảng Thái thú.
Thái Tổ
đánh quận Hán Trung, lấy Hồn làm Kinh Triệu Doãn. Hồn thấy trăm họ mới tụ tập,
lập phép dời chỗ ở, sai kẻ mặc áo dày đui cùng nhóm với người áo mỏng, người
tin cầy đi cùng với người già cả, sai chăm chỉ trồng trọt, nêu rõ phép cấm,
vạch rõ kẻ gian. Do đó dân yên ổn trồng trọt, giặc cướp cũng ngừng nghỉ. Lúc
đại quân vào Hán Trung, việc chuyển chở lương thực cho quân là quan trọng nhất.
Lại sai dân làm ruộng ở Hán Trung, không ai bỏ trốn. Thái Tổ thêm khen ngợi,
lại gọi về làm Thặng tướng Duyện thuộc. Văn Đế lên ngôi, làm Thị ngự sử, bái
thêm Phụ mã Đô úy, chuyển làm hai chức Bình Dương Thái thú, Bái Quận Thái thú.
Quận ấy ẩm thấp, nước ngập lụt, trăm họ đói thiếu. Hồn ở tại giữa hai huyện
Tiêu, Tương, đào kênh rạch, mở ruộng nước, người trong quận đều cho là không
tiện, Hồn nói: "Địa thế thấp trũng, nên khơi dòng nước, mưu cái lợi nuôi
cá trồng lúa làm kế lâu dài, đấy là cái gốc làm dân no đủ vậy". Rồi tự
thân lĩnh quan dân, tạo lập công việc, trong một mùa đông đều làm xong. Năm đó
được mùa to, ruộng lúa đều tăng, thường nạp tô thuế, dân được cái lợi ấy, khắc
bia đá khen công, gọi là 'Trịnh Bi'(18). Chuyển làm Sơn Dương Thái thú, Ngụy
Quận Thái thú, cách trị như cũ. Lại thấy trăm họ trong quận khổ vì thiếu cây
gỗ, lại dạy dân trồng cây du(19) làm rào, cùng trồng thêm năm loại quả(20), cây
du đều mọc thành bờ rào, năm loại quả sum suê. Vào đất Ngụy Quận, thôn ấp ngay
ngắn như một, dân có được đồ dùng đầy đủ. Minh Đế nghe tin, hạ chiếu khen ngợi,
bố cáo thiên hạ, chuyển làm Tướng tác Đại tượng. Hồn trong sạch làm việc công,
vợ con không tránh khỏi cảnh đói rét. Lúc chết, lấy con là Sùng làm Lang trung.
Tấn
Dương thu chép: Con Thái là Mậu, tự Lâm Thúc. Thái thân thiên với Hoa Hâm, Tuân
Du. Lúc gặp Mậu, nói: "Trịnh Công Nghiệp chẳng mất dòng dõi vậy". Lúc
đầu làm Lâm Truy Hầu Văn học, dần dần chuyển làm Quang lộc Đại phu. Năm Thái
Thủy thứ bảy, lấy Mậu làm Tư không, cố từ chối không nhận, chết ở nhà. Con là
Mặc, tự Tư Huyền. Tấn chư công tán chép: Mặc nối giữ nghiệp nhà, vì thật thà mà
được khen, làm đến Thái thường. Em Mặc là Chất, Thư, Hủ, đều làm quan. Con Mặc
là Cầu, thẳng thắn có hiểu biết, làm Thượng thư Hữu bộc xạ, Lĩnh tuyển. Em Cầu
là Dự, làm Thượng thư.
Chú thích
(1) Nhà giàu tiền của, có bốn trăm khoảnh
ruộng mà thường không đủ ăn: ý nói nhà giàu tiền, có bốn trăm khoảnh ruộng của
nhưng giao kết hào kiệt, ban phát cung cấp, cho nên thường không đủ ăn.
(2) Ba phủ: Ba phủ chỉ ba phủ của quan Thái
úy, Tư đồ, Tư không.
(3) Xe công: Xe công chỉ xe ngựa của nhà vua
đi đón người khác về kinh sư làm quan.
(4) Hoàng môn: Hoàng môn chỉ hoạn quan ở trong
cung. Bấy giờ thời Linh Đế nhà Hán, bọn hoạn quan chuyên quyền làm bậy, do đó
Tướng quân Hà Tiến mưu giết bọn này.
(5) A hành: A hành chỉ chức Tể tướng đứng đầu
trăm quan.
(6) Trọng Ni: tức Khổng Khâu tự Trọng Ni, chỉ
Khổng Tử.
(7) Viên Bản Sơ: tức Viên Thiệu tự Bản Sơ.
(8) Trương Mạnh Trác: tức Trương Mạc tự Mạnh
Trác.
(9) Khổng Công Tự: tức Khổng Trụ tự Công Tự.
(10) Mạnh Bôn: Mạnh Bôn là dũng sĩ nước Tề
thời Chiến quốc, có sức khỏe hơn người
(11) Khánh Kị: Khánh Kị là con của vua Ngô là
Liêu thời Xuân thu, sức khỏe hơn người.
(12) Cái tín ở trận thành Liêu: theo Chiến
quốc sách chép rằng: "Lúc trước, tướng nước Yên đánh thành Liêu, có người
gièm vu, tướng nước Yên sợ bị giết, bèn giữ vững thành Liêu, không dám về nước.
Điền Đan đánh thành ấy hơn một năm, nhiều quân sĩ bị chết, nhưng không hạ được
thành Liêu. Lỗ Liên bèn viết một bức thư buộc vào mũi tên rồi bắn vào trong
thành, khuyên tướng nước
Yên rút quân, tướng nước Yên tin phục, rút
quân mà về, giải vây nước Tề.
(13) Lương, Bình: chỉ Trương Lương, Trần Bình
là mưu thần giúp Hán Cao Tổ dựng nghiệp.
(14) Trịnh Khang Thành: tức Trịnh Huyền tự
Khanh Thành.
(15) Bính Căn Củ: tức Bính Nguyên tự Căn Củ.
(16) Bảy nước Ngô, Sở: chỉ bảy nước chư hầu
thời vua Cảnh Đế của nhà Hán là Ngô, Sở (楚), Triệu, Tế Nam, Truy Xuyên, Giao
Tây, Giao Đông. Năm thứ ba thời vua Cảnh Đế, vua Ngô là Lưu Tị mưu phản, liên
kết với vua các nước Sở, Triệu, Tế Nam, Truy Xuyên, Giao Tây, Giao Đông ở phía
đông, phát hai mươi vạn quân vượt sông Hoài đi về phía tây, lại liên kết với
người Hung Nô ở phía bắc, người Đông Việt ở phía nam. Cảnh Đế sai Thái úy Chu Á
Phu đi đánh, đóng quân ở Huỳnh Dương, tạm xem động tĩnh, rồi sai chặn đường vận
lương của quân Ngô, Sở, cuối cùng phá được, người Đông Việt giết vua Ngô là Lưu
Tị, vua sáu nước kia phải tự sát, bảy nước đều bình.
(17) Lương Hưng: Lương Hưng là tướng súy miền
Quan Trung, từng liên kết với Mã Siêu, Hàn Toại chống Tào Tháo.
(18) 'Trịnh Bi': Trịnh Bi nghĩa là ao do Trịnh
Hồn đào.
(19) Cây du: du là một loài cây cao lớn, gỗ
chắc, thường mọc ở vùng có khí hậu ôn hòa như ở miền bắc Trung Quốc, Triều
Tiên.
(20) Năm loại quả: thời xưa chỉ năm loại cây
quả thường được trồng ở miền bắc Trung Quốc là đào, hạnh, mận, táo, giẻ.
TRUYỆN THƯƠNG TỪ
Thương
Từ tự Hiếu Nhân, người quận Hoài Nam. Lúc đầu làm quan trong quận. Giữa năm
Kiến An, Thái Tổ chiêu dân đóng đồn làm ruộng ở quận Hoài Nam, lấy Từ làm Tuy
tập Đô úy. Cuối năm Hoàng Sơ, làm Trường An Lệnh, trong sạch có tài, quan dân
sợ mà yêu Từ. Giữa năm Thái Hòa, chuyển làm Đôn Hoàng Thái thú, quận ở tại miền
tây, gặp thời loạn mà ngăn cách, hai mươi năm không có quan Thái thú, các họ
lớn xưng hùng, bèn lấy đó làm tục. Các quan Thái thú trước kia là bọn Doãn
Phụng cũng chỉ theo tục cũ mà thôi, không có sửa đổi. Từ đến, ràng buộc kẻ
quyền thế, cứu giúp kẻ nghèo khó, rất có lĩ lẽ. Các họ lớn cũ có nhiều ruộng
đất thừa mà dân thường lại không có đất cày bừa; Từ theo số người mà giảm thuế,
dần dần khiến cho họ được trồng trọt trên đất của mình. Trước đây việc kiện
tụng tù ngục ở các huyện rất nhiều mà các quan huyện không xử được, phần nhiều
dồn đọng; Từ tự mình xem xét, cân nhắc nặng nhẹ, nếu không đáng tội chết thì
phạt đánh đòn, mỗi năm chỉ có không quá mười người bị xử phạt. Lại nữa thường
ngày người Hồ ở Tây Vực(1) muốn đến dâng nạp, mà bọn cường hào nhiều lần ngăn
chặn, lại lấy làm của riêng, lừa dối lấn áp, phần nhiều không được rõ ràng. Do
đó người Hồ oán giận, Từ đều vỗ về họ, những người muốn đến Lạc Dương đều cho
đi qua quận, những người muốn ở lại quận, sai quan lại xét công bằng, thường
đem tiền của đến sở xin gặp và cùng trao đổi, sai quan dân hộ tống trên đường,
do đó người Hồ vui mừng khen ân đức của Từ. Được mấy năm thì chết ở sở quan,
quan dân thương cảm như có tang người thân, vẽ hình của Từ để nhớ hình dáng.
Lúc người Hồ ở Tây Vực nghe tin Từ chết, đều cùng tụ hội ở dưới sở quan Mậu kỉ
Hiệu úy và Trưởng lại để phát tang, có người còn lấy dao rạch lên mặt để nêu rõ
lòng thành, lại lập miếu thờ cùng cúng tế Từ.
Ngụy
lược chép: Người quận Thiên Thủy là Vương Thiên nối thay Từ, dẫu noi theo vết
cũ nhưng không bằng được vậy. Sau đó người quận Kim Thành là Triệu Cơ thay
Thiên, lại không bằng Thiên. Đến giữa năm Gia Bình, người huyện An Định là
Hoàng Phủ Long thay Cơ làm Thái thú. Lúc trước, người quận Đôn Hoàng rất không
biết cách làm ruộng, thường dẫn nước vào ngập úng, làm cho rất ướt thấm rồi mới
cày. Lại không hiểu rõ cách cày bừa, chỉ dẫn nước vào rồi trồng, công sức của
người trâu đã phí mà thu gặt lúa lại ít. Long đến, dạy họ cách cày bừa, lại dạy
cách dẫn nước, do đó vụ mùa đầy đủ, giảm được hơn nửa công sức mà gặt lúa được
hơn gấp năm lần. Lại nữa tục của người quận Đôn Hoàng là đàn bà mặc váy, buộc
dây như ruột dê, dùng một tấm vải. Long lại cấm mặc mà sửa lại, nhưng sửa lại
quá mức. Do đó người quận Đôn Hoàng cho rằng Long nghiêm nghị cứng cỏi không
bằng Từ, còn như chăm chỉ ban ân, mưu lợi cho dân thì cũng chỉ đứng sau Từ.
Từ thời
Thái Tổ cho đến năm Hàm Hi, Ngụy Quận Thái thú người nước Trần là Ngô Quán,
Thanh Hà Thái thú người huyện Lạc An là Nhâm Úc, Kinh Triệu Thái thú người quận
Tế Bắc là Nhan Phỉ, Hoằng Nông Thái thú người quận Thái Nguyên là Lệnh Hồ
Thiệu, Tế Nam Tướng người nước Lỗ là Khổng Nghệ, có kẻ thương xót tù ngục, có
kẻ chăm chỉ ban ân, có kẻ giữ thân trong sạch, có kẻ vạch rõ kẻ gian, đều là
quan lại ăn lộc hai nghìn thạch(2) tài giỏi.
Hành
trạng của Quán, Úc không được thấy.
Ngụy
lược chép: Nhan Phỉ tử Văn Lâm, có tài học. Thặng tướng gọi làm Thái tử Tẩy mã.
Đầu năm Hoàng Sơ, chuyển làm Hoàng môn Thị lang, sau đó làm Kinh Triệu Thái
thú. Lúc trước, dân quận Kinh Triệu từ sau khi Mã Siêu bị phá, nhiều người dân
không chuyên việc trồng trọt, lại qua mấy vị quan ăn lộc hai nghìn thạch đến,
chỉ lo việc trước mắt, không lo giúp dân bày kế lâu dài. Phỉ đến làm quan, liền
sai các huyện thuộc sửa sang bờ ruộng, trồng cây dâu. Bấy giờ nhiều người dân
không có xe, trâu, Phỉ lại dạy dân nhân lúc nhàn rỗi mà đi chặt cây gỗ, sai
chuyển đến cho thợ đẽo làm xe. Lại dạy người dân không có trâu, sai nuôi heo
chó rồi bán để mua trâu. Lúc đầu dân cho là rườm rà, nhưng trong một vài năm,
nhà nhà đều có xe đi, trâu lớn. Lại dựng trường học, chọn dùng quan dân muốn
đọc sách, tha cho lao dịch. Lại nữa ở trong phủ mở vườn rau, sai quan lại lúc
nhàn rỗi thì vun xới. Lại dạy dân lúc chuyển tô thuế, lấy hai bó rơm đều đặt ở
chỗ thuận tiện trên xe trâu, vào mùa đông băng giá thì đốt bó rơm để làm mực
viết. Do đó giáo hóa trỗi dậy, quan chẳng lấn dân, dân cũng chẳng cầu quan.
Quận Kinh Triệu liền tiếp với các quận Phùng Dực, Phù Phong, đường đi của hai
quận đã xấu trở, ruộng đất lại cỏ mọc hoang, người dân đói rét, nhưng ở quận
Kinh Triệu lại ngay ngắn sáng sủa, giàu đủ thường đứng đầu vùng Ung Châu. Phỉ
lại giữ thân trong sạch, chỉ trông vào tiền lương mà thôi, do đó quan dân sợ
Phỉ bị chuyển đi vậy. Đến giữa năm Thanh Long, Tư Mã Tuyên Vương lập chợ
quân(3) ở Trường An, nhưng quan lại trong quân nhiều lần xâm lấn dân trong
huyện, Phỉ đem việc báo cho Tuyên Vương. Tuyên Vương bèn cả giận gọi quan trông
coi chợ quân đến, sai đánh một trăm gậy ở trước mặt Phỉ. Bấy giờ Trường An Điển
nông cùng ngồi với Phỉ, cho rằng Phỉ nên tạ ân, bèn tự đùn đẩy Phỉ. Phỉ không
chịu tạ, hồi lâu mới nói: "Phỉ đứng xem minh công làm quan ở địa phương,
lại muốn nắn sử quân dân, tất không được bao che vậy. Vậy mà quan Điển nông tự
ý đùn đẩy, muốn sai Phỉ tạ minh công, đấy là không phải ý của minh công
vậy". Tuyên Vương bèn trị nghiêm quan quân. Từ đó về sau, trại quân, quận
huyện đều đâu vào đấy. Mấy năm sau, chuyển làm Bình Nguyên Thái thú, quan dân
khóc lóc chặn đường, xe không đi được, chậm chạp trễ nải, hơn mười này mới ra
được khỏi quận, đi về phía đông đến núi Hào thì mắc bệnh nặng. Lòng của Phỉ vốn
vương vấn quận Kinh Triệu, người nhà đi theo thấy Phỉ bệnh nặng, khuyên Phỉ
rằng: "Bình Nguyên nên tự cố gắng giữ sức". Phỉ nói: "Ý ta không
muốn đến Bình Nguyên, các ngươi gọi ta, sao lại không nói là Kinh Triệu vậy"?
Rồi chết, đưa tang về Bình Nguyên. Người quận Kinh Triệu nghe tin, đều tự khóc
lóc, lập bia ghi công, đến nay vẫn khen Phỉ. Lệnh Hồ Thiệu tự Khổng Thúc. Cha
làm quan thời nhà Hán, làm Ô Hoàn Hiệu úy. Đầu năm Kiến An, họ Viên ở tại Kí
Châu, Thiệu bỏ quận cũ đem người nhà đến huyện Nghiệp. Năm thứ chín, lại ra đến
ấp Mao Thành huyện Vũ An. Gặp lúc Thái Tổ phá huyện Nghiệp, thấy áo mũ của
Thiệu mà nghi ngờ, hỏi rõ tổ tiên mà biết được cha của Thiệu, bèn cởi trói, cho
làm Quân mưu duyện. Vẫn làm tể thú(4). Sau lại chuyển làm Thặng tướng Chủ bạ,
ra làm Hoằng Nông Thái thú. Ở đấy trong sạch như băng tuyết, vợ con ít khi được
đến phủ quan; làm việc thiện mà dạy, khoan thứ mà đối đãi, không ưa bắt giam,
chẳng ghen ghét kẻ dưới. Bấy giờ, trong quận không có người hiểu kinh truyện,
bèn hỏi qua các quan, có người muốn đi xa tìm thầy, liền sai đi, lệnh đến quận
Hà Đông gặp Nhạc Tường học kinh truyện, hiểu rõ mới về, nhân đó lập trường học.
Do đó việc học ở quận Hoằng Nông dấy lên. Đến đầu năm Hoàng Sơ, gọi về làm Vũ
lâm lang, chuyển làm Hổ bôn Trung lang tướng, được ba năm thì bệnh chết. Lúc
trước, có người trong họ của Thiệu là Ngu, vào thời còn mặc áo trắng thường có
chí lớn, mọi người bảo là Ngu tất làm cho họ Lệnh Hồ được vinh dự, nhưng riêng
Thiệu lại cho rằng: "Tính Ngu phóng túng, không lo tu đức mà lại muốn làm
cao, tất diệt họ ta". Ngu nghe được lời Thiệu, trong lòng không vui. Đến
lúc Thiệu làm Hổ bôn Trung lang tướng, mà Ngu đã làm qua nhiều chức quan, ở đấy
có danh tiếng. Ngu gặp Thiệu, nhân đó ung dung nói đến việc cũ, nói khích Thiệu
rằng: "Lúc trước nghe nói đại nhân bảo rằng Ngu không có ích, ngày nay gặp
Ngu lại nói thế nào"? Thiệu nhìn kĩ mà không đáp. Nhưng bảo riêng với vợ
con mình rằng: "Xem chừng tính hắn vẫn như cũ. Ta xem thấy được, rút cuộc
tất thua diệt. Nhưngkhông biết ta còn sống lâu để ngăn ngừa được không? Chỉ nhờ
vào các ngươi vậy"! Sau khi Thiệu chết, hơn mười năm sau, Ngu làm Duyện
Châu Thứ sử, quả nhiên mưu phế lập với Vương Lăng, người nhà bị di diệt. Con
Thiệu là Hoa, bấy giờ làm Hoằng Nông Quận thừa, vì là họ hàng xa nên không bị
khép tội. Xét Khổng thị phả chép: Khổng Nghệ tự Nguyên Tuấn, là dòng dõi của
Khổng Tử vậy. Ông nội là Trù, tự Nguyên Củ, làm Trần Tướng. Vào thời Hoàn Đế
của nhà Hán dựng miếu thờ Lão Tử ở ấp Lại huyện Khổ, vẽ hình Khổng Tử trên
vách; Trù làm Trần Tướng, dựng bia Khổng Tử ở trước tranh, nay vẫn còn. Tổ tiên
của Nghệ đều làm quan ăn lộc hai nghìn thạch, Nghệ làm Tán kị Thường thị, dâng
sớ can gián, lời nói tại Tam thiếu đế kỉ. Làm đến chức Đại hồng lư. Con là Tuân,
tự Sĩ Tín, thời nhà Tấn làm Bình đông Tướng quân Vệ úy.
Bình
rằng: Nhâm Tuấn lúc trước dấy quân nghĩa để theo về Thái Tổ, mở đất trồng lúa,
kho tàng thêm đầy, lập nên công lao vậy. Tô Tắc ra oai để dẹp loạn, đã có cái
tài của việc trị dân, lại thẳn thắn ngang ngang, tráng liệt đáng khen. Đỗ Kì
khoan hòa coi việc, ban ân cho dân. Trịnh Hồn, Thương Từ có cách giúp đỡ trăm
họ. Trông xem đều là các quan Thái thú tài giỏi của nhà Ngụy đấy! Thứ thường
nêu rõ việc chính trị thời ấy, luận biện kinh truyện, đại khái đáng xem vậy.
Chú thích
(1) Tây Vực: chỉ vùng đất phía tây Trung Quốc,
thuộc vùng Tân Cương, Trung Á ngày nay vậy.
(2) Quan lại ăn lộc hai nghìn thạch: chỉ quan
Thái thú, hằng năm được cấp bổng hai nghìn thạch lúa.
(3) Chợ quân: chỉ chợ mua bán trong quân đội,
do quân đội lập ra để mua bán và trao đổi hàng hóa với dân thường.
(4) Tể
thú: chỉ quan lại ở địa phương thời xưa như quan Thái thú, Thứ sử.
TÔ TẮC TRUYỆN
Tô Tắc
tự Văn Sư, người quận Phù Phong huyện Vũ Công. Thời trẻ vì có học vấn và phẩm
hạnh nên có tiếng tăm, được đề cử Hiếu liêm và Mậu tài, công phủ cho vời, đều
không tới. Sau bắt đầu làm Thái thú Tửu Tuyền, rồi chuyển đến An Định, Vũ Đô, ở
đâu cũng có uy danh.
Ngụy thư
chép: Tắc là người cương trực, ghét kẻ ác, thường muốn bắt chước làm người như
Cấp Ảm(1).
Ngụy
lược chép: Tắc trước đó mang họ Trữ, năm Hưng Bình trung, Tam Phụ có loạn, đói
khát cô cùng, đi tránh nạn ở đất bắc. Làm khách trọ ở An Định, nương nhờ kẻ nhà
giàu là Sư Lượng. Lượng đãi ngộ Tắc không xứng, Tắc bùi ngùi than rằng:
"Cái thời thiên hạ yên định, sẽ chẳng còn lâu nữa, tất ta về làm chức quận
thú, sẽ nhún mình tiếp đãi bọn học trò." Về sau Tắc cùng với bọn Cát Mậu ở
Phùng Dực trốn ở trong núi Thái Bạch phía nam quận. Lúc Tắc ra làm Thái thú An
Định, thì bọn Sư Lượng đều muốn chạy trốn, Tắc nghe tin, sớm sai người đến phân
tích rõ ràng, và dùng lễ báo đáp lại Lượng.
Thái tổ
chinh phạt Trương Lỗ, đi qua quận ấy, gặp Tắc rất hài lòng, sai Tắc làm quân
hướng đạo. Lỗ bị phá, Tắc phủ dụ yên định được các rợ Đê ở Hạ Biện, thông đường
đi Hà Tây, được chuyển sang làm Thái thú Kim Thành. Bấy giờ sau cơn tang loạn,
dân chúng lưu li tan tác đói khát cùng cực, số hộ khẩu hao tổn, Tắc vỗ về rất
cẩn trọng. Bên ngoài chiêu mộ phủ dụ rợ Khương Hồ, thu được trâu và dê của họ,
nuôi dưỡng kẻ bần cùng người già lão, trong vòng tuần trăng, dân lưu tán đều
quay về, thu được mấy nghìn nhà. Tắc bèn ban rõ lệnh cấm, kẻ nào phạm phải lập
tức giết ngay, người theo lệnh tất có thưởng. Tắc tự mình dạy dân cấy trồng,
năm ấy mùa màng bội thu, bởi thế người theo về nương cậy ngày một đông. Lý Việt
ở Lũng tây làm phản, Tắc thống suất người Khương Hồ vây đánh Việt, Việt lập tức
xin quy phục. Thái tổ băng hà, người ở Tây Bình là Khúc Diễn làm phản, xưng là
Hộ Khương hiệu úy. Tắc thống suất quân binh thảo phạt, Diễn sợ, xin hàng. Văn
Đế vì cái công ấy, gia thêm cho Tắc chức Hộ Khương hiệu úy, ban cho tước Quan
nội hầu.
Ngụy
danh thần tấu chép tờ lệnh của Văn Đế hỏi Thứ sử Ung châu là Trương Ký rằng:
"Tô Tắc trước đây đảm nhiệm chức vụ Thái thú Kim Thành một thời gian ngắn,
đã có công vỗ về bình trị dân Di, nghe nói lại xuất quân sang tây yên định vùng
sông Hoàng, gây dựng thanh thế cho Hà Tây, ta rất khen ngợi. Cái công lao của
Tắc, có thể ban thêm tước vị và thực ấp được hay chăng? Phong tước là việc quan
trọng, cho nên ta đem ra hỏi khanh. Khanh hãy bí mật trình bày ý của mình, và
chớ có tuyên bố lộ tin tức ra bên ngoài." Ký đáp rằng: "Quận Kim
Thành, trước đây bị Hàn Toạn giết chóc áp bức, người bị chết kẻ lưu vong, hoặc
chạy trốn sang chỗ Nhung Địch, hoặc bị hãm hại trong vòng cướp bóc, số hộ còn
lại chẳng đầy năm trăm. Tắc đến nhận chức, bên trong phủ dụ chỗ điêu tàn, bên
ngoài tụ họp kẻ ly tán, đến nay số hộ đã có hơn nghìn. Lại có các chủng tộc rợ
Khương ở Lương Thiêu, trước đây giúp Toại cùng làm ác, sau khi Toại chết gục,
đã vượt ra khỏi thành luỹ. Tắc trước sau chiêu dụ vỗ yên, hơn ba nghìn bộ lạc
theo đến quận, Tắc đều cấp chẩn tỏ ân uy, phát huy được hiệu dụng của chức
quan. Bọn Khúc Diễn ở Tây Bình khởi xướng tạo gian mưu, Tắc lại xuất quân, soi
xét chỗ yếu hại của chúng, Diễn lập tức theo mệnh đưa người đến làm con tin,
giặc Lương phá sạch. Tắc đã có công lao cứu giúp dân, lại có tài hoà Nhung
Địch, hết sức tiết tháo trung trinh. Gặp được bậc chân chúa thánh minh, kẻ có
công lao tất được biên chép lại. Nếu Tắc được ban thêm tước ấp, thực đủ để
khuyến khích kẻ trung thần, đã hết lòng gắng sức vì phong tục vậy."
Về sau
Diễn lại câu kết với các quận lân bang làm loạn, Trương Tiến ở Trương Dịch bắt
Thái thú Đỗ Thông, Hoàng Hoa ở Tửu Tuyền không vâng lệnh Thái thú Tân Cơ, Tiến
và Hoa đều tự xưng là Thái thú để hưởng ứng quân phản loạn. Lại có ba tộc người
Hồ ở Vũ Uy cùng hợp nhau vào cướp bóc, giao thông bị cắt đứt. Thái thú Vũ Uy là
Quán Khâu Hưng cáo cấp với Tắc. Bấy giờ các hào kiệt ở Ung, Lương đều nổi lên
cướp bóc ở xứ Khương Hồ theo bọn Tiến, người trong quận đều cho rằng Tiến mạnh
chẳng thể đương nổi. Lại thêm tướng quân Hác Chiêu, Ngụy Bình trước đấy đều
đóng đồn ở Kim Thành, cũng nhận chiếu đánh giặc nhưng không sang phía tây được.
Tắc bèn triệu kiến các quan lại đứng đầu trong quận và bọn Hác Chiêu cùng với
các đầu lĩnh người Khương Hồ bàn tính rằng: "Nay giặc tuy đông đảo, nhưng
đều mới tập hợp, hoặc bị cưỡng bức phải theo, vị tất đã đồng lòng; ta nhân sơ
hở mà đánh chúng, người thiện kẻ ác tất chia lìa nhau, chia lìa thì tất quy
phục ta, ta thêm quân mà bên kia hao tổn vậy. Khi quân ta đã thật đông, thì khí
thế lực tăng gấp bội, ta thống suất quân tiến lên đánh dẹp, phá chúng tất xong
vậy. Nếu đợi đại quân đến, cầm giữ nhau lâu ngày, người thiện không quy phục
ta, tất hợp tác với kẻ ác, thiện ác đã kết hợp, hình thế khó mà bỗng chốc chia
lìa. Dẫu đã có chiếu mệnh, ta làm trái mà hợp lẽ quyền biến, chuyên quyền cũng
có thể được vậy." Vì thế bọn Chiêu nghe theo, bèn phát binh cứu Vũ Uy, thu
hàng ba tộc người Hồ ở đó, rồi cùng với Hưng đánh Tiến ở Trương Dịch. Diễn nghe
tin, đem ba nghìn quân bộ kỵ nghênh đón Tắc, Từ lại đến giúp quân đội, nhưng
thật ra muốn làm kế quyền biến. Tắc dụ dỗ cùng tương kiến, nhân đó chém hắn,
rồi ra quát mắng quân lính, đảng giặc đều tan chạy. Tắc bèn cùng với chư quân
vây Trương Dịch, phá được, chém Tiến và dư đảng của hắn, chúng đều ra hàng.
Diễn thua quân, Hoa sợ, buông thả những kẻ bị bắt và xin hàng, Hà Tây binh
định. Tắc liền quay về Kim Thành. Được tiến phong tước Đô đình hầu, hưởng thực
ấp ba trăm hộ.
Tắc được
trưng triệu về bái làm Thị trung, cùng với Đổng Chiêu là đồng liêu. Chiêu từng
gối đầu lên đầu gối Tắc mà ngủ, Tắc đẩy đầu Chiêu ra, nói: "Đầu gối của Tô
Tắc, chẳng phải nịnh cái đầu của người ta vậy." Khi trước, Tắc cùng với
Lâm Tri hầu là Thực nghe nói Ngụy thị thay nhà Hán, đều phanh áo ra đau lòng mà
khóc, Văn đế nghe nói Thực như thế, nhưng không nghe nói đến Tắc. Khi đế ở Lạc
Dương, từng ung dung nói rằng: "Ta ứng vận trời mà thụ thiện, nhưng nghe
nói có kẻ khóc lóc, sao vậy?" Tắc cho là mình bị hỏi, râu ria đều vểnh cả
lên, toan dùng chính luận để đối đáp. Quan Thị trung là Phó Tốn bấm móng tay
vào Tắc nói: "Chẳng phải là nói ngài vậy." Vì thế Tắc liền dừng lại.
Nguỵ
lược chép: Theo lễ xưa, quan Thị trung là kẻ thân cận được coi xét việc sinh
hoạt hàng ngày của vua, cho nên tục gọi là 'Chấp hổ tử'. Ban đầu có người đồng
quận với Tắc là Cát Mậu, bấy giờ làm ra làm huyện lệnh huyện Phủ Lịch, được
thăng làm Nhũng tán. Mậu gặp Tắc, giễu cợt rằng: "Đường tiến thủ của sĩ đồ
chẳng phải dừng lại ở chức Chấp hổ tử." Tắc cười nói: "Ta chẳng thể
bắt chước ngươi cung kính thong thả ruổi xe hươu được vậy." Khi trước, Tắc
ở Kim Thành, nghe nói Hán đế truyền ngôi vị, cho là vua đã băng hà, bèn phát
tang; sau nghe nói vua còn sống, bởi vì không xét được rõ ràng, mới có ý lặng
yên. Lâm Tri hầu Thực tự thương cảm là có lỗi với ý muốn của Tiên đế, cũng oán
giận cảm kích mà khóc. Sau này Văn đế xuất du, nghĩ lại hận Lâm Tri, cho nên
bảo tả hữu rằng: "Nhân tâm không hoà, nên lúc ta lên ngôi, trong thiên hạ
có kẻ khóc to." Lúc ấy kẻ bầy tôi đi theo biết được lời Đế nói, có người
phát ngôn ra, nên Tắc cho là nói mình. Tắc muốn xuống ngựa tạ lỗi. Thị trung
Phó Tốn trố mắt nhìn Tắc, Tắc bèn tình ngộ.
Một đoạn
dưới chưa thể dịch nổi (có bác nào giúp được chăng?)
孙盛曰:夫士不事其所非,不非其所 ,趣舍出处,而岂徒哉!则既策名新,委质异代,而方怀二心生忿,欲奋
爽言,岂大雅君子去就之分哉?诗云"士也罔极,二三其德。"士之二三 犹丧妃偶,况人臣乎?
Văn đế
hỏi Tắc rằng: "Trước kia ngươi phá Tửu Tuyền, Trương Dịch, thông sứ với
Tây Vực, quận Đôn Hoàng dâng biếu một viên ngọc châu lớn dài một tấc, ngươi có
thể xin thêm được không?" Tắc đáp rằng: "Nếu bệ hạ làm cho giáo hoá
thấm khắp Trung Quốc, ân đức truyền tới nơi sa mạc, dù chẳng cầu thì châu báu
cũng tự đến, chẳng đáng quý lắm sao." Đế lặng yên. Về sau Tắc theo Đế đi
săn, chốt chuồng thú bị mở ra, mất một con hươu, Đế cả giận, ngồi trên hồ
sàng(2) rút đao ra, cho bắt hết bọn đốc lại, sắp đem chém chúng. Tắc khấu đầu
nói: "Thần nghe rằng bậc thánh vương đời xưa chẳng vì cầm thú mà hại người
ta, nay bệ hạ đang hưng thịnh cái giáo hoá của Đường Nghiêu(3), mà vì việc săn
bắn làm vui mà sát hại nhiều quan lại, ngu thần cho rằng không nên. Thần bạo
dạn lấy cái chết để cầu xin!" Đế nói: "Khanh, là kẻ bầy tôi thẳng
thắn vậy." Rồi xá tội hết cho bọn ấy. Nhưng vì thế mà bị Đế kiêng sợ. Năm
Hoàng Sơ thứ tư, Tắc bị giáng chức làm Đông Bình tướng. Chưa đến nhận chức, bị
bệnh chết ở trên đường, được ban thuỵ là Cương hầu. Con Tắc là Di nối tự, không
có con nối, em là Du được tập tước. Du, năm Hàm Hi trung làm quan Thượng thư.
Du tự
Hưu Dự, từng trải qua chức vị Thái thường Quang lộc đại phu, thấy nói ở Tấn
bách danh quan. Sơn Đào khải sự(4) khen Du là người thực sự trung hậu và có trí
mưu.
Thần
Tùng Chi xét con của Du là Thiệu, tự Thế Tự, làm thầy của Ngô vương. Vợ của
Thạch Sùng(5), là con gái của anh trai Thiệu. Thiệu có thơ ở Kim Cốc tập. Em
của Thiệu là Thận, làm tả Vệ tướng quân.
Chú thích:
(1) Cấp Ảm tự Trường Nhụ, người quận Bộc Dương
(nay thuộc tỉnh Hà Nam), là danh thần đầu thời Tây Hán, xuất thân từ gia tộc
thuộc hàng danh môn, bảy đời làm công khanh đại phu, bản thân từng trải nhiều
chức vụ, như Thái tử tẩy mã, Yết giả, Huỳnh Dương lệnh, Thái thú Đông Hải, sau
dự vào hàng Cửu Khanh; là người nghĩa hiệp nổi tiếng, nhân dân rất quý mến.
(2) Hồ sàng là dụng cụ giống như cái ghế xích
đu vừa nằm vừa ngồi, có thể gấp lại được.
(3) Thời thịnh trị của vua Nghiêu, vua Thuấn.
(4) Sơn Đào, tự Cự Nguyên, là một người trong
Trúc Lâm thất hiền, người thời Tây Tấn, quê ở quận Hà Nội huyện Hoài, rất giỏi
học thuyết Lão, Trang, giao du với Kê Khang, Nguyễn Tịch. Khi Tư Mã Ý và Tào
Sảng tranh quyền, ông giấu mình không tham gia vào vụ việc. Tư Mã Ý chấp chính,
cử ông làm Tú tài, Lang Trung, rồi thăng làm Thượng thư bộ Lang. Thời Tư Mã
Viêm, làm Đại hồng lư, rồi Thị trung, Lại bộ Thượng thư, Thái tử Thiếu phó, tả
Bộc xạ. Rất có tài bình luận, nên được người đời gọi là 'Sơn Đào khải sự'.
(5) Thạch Sùng, tự Quý Luân, làm văn học gia
thời nhà Tấn, nổi tiếng là người đẹp trai, thời nhỏ có tên là Tề Nô. Năm Nguyên
Khang nguyên niên, làm chức Thứ sử Kinh châu, giầu có không ai lường được. Năm
Vĩnh Khang nguyên niên, bị vu là đồng đảng của Tư Mã Doãn, bị giết, gia sản bị
tịch thu. Lại có một sách khác nói rằng Sùng trải các chức Thái phó, Chinh lỗ
tướng quân, Giám quân Từ Châu, trấn thủ Hạ Bi, rồi làm Vệ uý, Sùng siểm nịnh
tên quý thích là Giả Mật. Lúc Giả Mật bị bãi miễn chức quan, Sùng cũng bị bãi
chức, của cải mất hết.
NHÂM TUẤN TRUYỆN
Nhâm
Tuấn tự Bá Đạt, người quận Hà Nam huyện Trung Mâu. Thời Hán mạt nhiễu loạn, xứ
Quan Đông đều chấn động. Trung Mâu lệnh là Dương Nguyên lo lắng sợ hãi, muốn bỏ
chức quan mà chạy. Tuấn thuyết Nguyên rằng: "Đổng Trác là kẻ đầu sỏ làm
loạn, thiên hạ tuyệt chẳng ai dám nhìn thẳng, nhưng chưa có ai nổi dậy trước,
không phải là họ không có lòng, mà về hình thế là chưa dám đó thôi. Minh phủ
nếu có thể khởi xướng việc này, tất có người hoà nhịp vậy." Nguyên nói:
"Phải tính thế nào?" Tuấn nói: "Nay vùng Quan Đông có hơn mười
huyện, có thể lấy được số binh chẳng ít hơn vạn người, nếu quyền nghi làm công
việc của Hà Nam doãn, tổng hợp hết các lực lượng mà dùng, không ai không giúp
ta vậy." Nguyên theo kế ấy, lấy Tuấn làm Chủ bộ. Tuấn bèn vì Nguyên dâng
biểu xin tạm làm công việc của phủ doãn, sai các huyện giữ vững, rồi phát binh.
Vừa đúng lúc Thái tổ khởi sự ở Quan Đông, vào địa giới Trung Mâu, mọi người chẳng
biết theo ai, Tuấn một mình cùng với người đồng quận là Trương Phấn nghị bàn,
đem cả quận quy phục với Thái tổ. Tuấn lại thu nhặt riêng mấy trăm người trong
tông tộc cùng gia binh của tân khách, xin theo Thái tổ. Thái tổ rất hài lòng,
dâng biểu xin cho Tuấn làm Kỵ đô uý, đem em họ gả cho Tuấn, rất thân mật và tín
nhiệm.
Thái tổ
mỗi khi chinh phạt, Tuấn thường ở lại để chu cấp cho quân đội. Thời ấy hạn hán
mất mùa, lương ăn cho quân chẳng đủ, Vũ Lâm giám là Tảo Chi người Dĩnh Xuyên
kiến nghị lập đồn điền, Thái tổ dùng Tuấn làm Điển nông Trung lang tướng, chiêu
mộ bách tính tụ tập làm ruộng ở Hứa Hạ, được trăm vạn hộc lúa, các quận trong
nước lần lượt đặt chức Điền quan(1), trong mấy năm ở địa phương thóc lúa chất
chồng, kho đụn đều đầy tràn. Chiến dịch Quan Độ, Thái tổ sai Tuấn chủ trì vận
chuyển quân dụng khí giới lương thảo. Giặc mấy lần cướp bóc cắt đứt đường vận
lương, vì thế Tuấn lệnh cứ một nghìn xe là một bộ, mười đạo cùng tiến song
song, lại bầy trận nhiều tầng lớp để bảo vệ lương thực, giặc không dám tiếp
cận. Quân lương được đủ đầy, việc bắt đầu ở Tảo Chi mà thành công ở Tuấn.
[Nguỵ vũ
cố sự chép lại tờ lệnh rằng: "Cố Thái thú Trần Lưu là Tảo Chi, thiên tính
trung thực tài năng. Ban đầu cùng dấy nghĩa binh, đi đánh dẹp khắp nơi. Sau
Viên Thiệu ở Ký châu, cũng thích Chi, muốn có được ông ta. Chi thác thân nương
cậy vào ta đã lâu, ta sai lĩnh chức Đông A lệnh. Loạn Lã Bố, Duyện Châu đều làm
phản, duy có huyện Phạm và Đông A còn vẹn toàn, bởi chi dùng binh lính hết sức
giữ thành. Sau này đại quân thiếu lương, được Đông A dùng kế, đó là cái công
của Chi vậy. Đến lúc phá Hoàng Cân yên định huyện Hứa, lấy được cơ nghiệp của
giặc. Chi gánh vác việc gây dựng kiến lập đồn điền, bấy giờ kẻ nghị bàn đều nói
nên tính trâu thu thóc, luật lệ ruộng đất đã định. Sau khi thi hành, Chi bẩm
bạch rằng cho thuê trâu và thu thóc, số thu lớn mà lương thực chẳng tăng, lúc
có lũ lụt hạn hán thiên tai lại giảm, rất không tiện lợi. Lại đưa ra ngôn luận,
Cô cũng cho rằng nên như cũ, thu được nhiều chẳng nên thay đổi lại. Chi cũng
giữ ý mình, Cô chẳng biết theo ai, sai Chi cùng với Tuân lệnh quân(2) nghị bàn
việc ấy. Bấy giờ cố quân Tế tửu Hầu Thanh nói: 'Luật lệ lấy quan trâu, để tính
quan điền. Như lời Chi bàn, với quan thì tiện, với khách thì bất tiện.' Thanh
nói rông dài, để lung lạc Lệnh quân. Chi cũng tự tin, cứ đúng kế hoạch mà bẩm
bạch, giữ phương pháp phân ruộng. Cô liền cho là đúng, sai Chi làm Đồn điền Đô
uý, thi hành việc thiết lập điền nghiệp. Đến lúc mùa màng thì thu hoạch lớn,
sau này nhân vì có ruộng lớn, đồ quân dụng được phong túc, từ đó diệt sạch bè
lũ phản nghịch, yên định thiên hạ, để hưng thịnh vương thất. Chi gây dựng kỳ
công, bất hạnh chết sớm, truy tặng cho một quận, còn chưa xứng với công lao.
Nay ta suy nghĩ nhiều về việc ấy, Chi nên được thụ phong, để dằng dai đến nay,
đó là lỗi lầm của Cô vậy. Con của Chi ở trong, nên gia phong cho quan tước, để
tế tự Chi khiến cho việc ấy không hủ nát.]
[Văn sĩ
truyện chép: Chi vốn họ Cức, vì tiền nhân đi tránh loạn, mới đổi thành họ Tảo.
Cháu của Chi là Cứ, tự Đạo Ngạn, thời nhà Tấn làm Thứ sử Ký châu. Con của Cứ là
Tung, tự là Đài Sản, làm Tán kỵ Thường thị. Đều có tài danh, biên soạn ra nhiều
sách vở. Anh của Tung là Điến, tự Huyền Phương, làm Thái thú Tương Dương, cũng
là người có văn tài.]
Thái tổ
thấy công lớn của Tuấn, bèn dâng biểu phong Tuấn làm Đô đình hầu, thực ấp ba
trăm hộ, lại thăng làm Trường Thuỷ hiệu uý.
Tuấn
khoan hậu có độ lượng mà hiểu sự tình, mỗi lần bày tỏ sự việc, Thái tổ phần
nhiều cho là phải. Vào giữa lúc mất mùa, Tuấn đi thu thập con côi bị bỏ rơi của
bằng hữu về, những kẻ bần khốn trong ngoài họ hàng, chu cấp tiếp giúp cho, tín
nghĩa được người đời xưng tụng. Năm Kiến An thứ chín thì chết, Thái tổ sa nước
mắt rất lâu. Con Tuấn là Tiên nối tự. Tiên chết, không có con, nước bị trừ bỏ.
Văn Đế truy xét công lao của bầy tôi, ban cho Tuấn thuỵ là Thành hầu. Lại người
con giữa của Tuấn là Lãm làm Quan nội hầu.
Chú thích:
(1) Quan coi việc trồng trọt.
(2) Tức Tuân Úc, xem quyển 10 (Tuân Du truyện)
\NGỤY THƯ QUYỂN 17 - Trương Nhạc Vu Trương Từ
truyện
Trương Liêu, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Trương Cáp, Từ
Hoảng
NHẠC TIẾN TRUYỆN
Nhạc
Tiến tự Văn Khiêm, là người huyện Dương Bình nước Vệ. Dáng vóc thấp bé, rất có
đởm lược, đi theo Thái tổ làm Trướng hạ lại(1). Thái Tổ phái Tiến về bản quận
mộ binh, được hơn một nghìn người, lúc trở về được làm Quân giả Tư mã, Hãm trận
Đô uý(2). Từng theo đánh Lã Bố ở Bộc Dương, Trương Siêu ở Ung Khâu, Kiều Lông ở
đất Khổ, đều xông pha lên phía trước lập được công lao, được phong làm Quảng
Xương Đình hầu. Lại theo đi đánh Trương Tú ở An Chúng, vây Lã Bố ở Hạ Bi, đánh
Tuy Cố ở Xạ Khuyển, tấn công Lưu Bị ở đất Bái, được bái làm Thảo khấu Hiệu uý.
Rồi qua sông Hoàng Hà vây đánh Hoạch Gia, khi trở về, lại theo đánh Viên Thiệu
ở Quan Độ, gắng sức chiến đấu, chém được tướng của Thiệu là Thuần Vu Quỳnh. Lúc
đi theo đánh Đàm-Thượng ở Lê Dương, chém được Đại tướng của bọn họ là Nghiêm
Kính, được làm Du kích Tướng quân. Rồi được biệt phái đi đánh Hoàng Cân, phá
được, yên định quận Nhạc An. Đi theo vây huyện Nghiệp, huyện Nghiệp đã định,
lại theo đi đánh Viên Đàm ở Nam Bì, xông pha lên trước, xâm nhập cửa Đông của
quân Đàm. Đàm bại, Tiến lại được biệt phái đi đánh Hung Nô, lại phá được.
Năm Kiến
An thứ mười một, Thái tổ dâng biểu lên Hán Hiến đế, khen Tiến cùng với Vu Cấm,
Trương Liêu rằng: "Võ lực trùm đời, mưu lược đủ cả, tư chất trung hậu tính
tình thuần nhất, biết giữ tiết nghĩa, mỗi khi lâm trận, thường làm tiên phong,
ráng sức xông vào nơi gian khó, không chỗ kiên cố nào không hạ được, tự thân
thúc trống, tay chẳng được nghỉ ngơi. Mỗi khi được sai phái đi chinh chiến,
thống lĩnh toàn quân, vỗ về ba quân được thuận hoà, vâng mệnh không phạm tội,
giờ đương là lúc dẹp địch cần phải cương quyết, không thể để sót công lao. Nay
theo phép nước luận công xét thưởng, nên ban cho họ ân huệ vẻ vang." Liền đó,
Cấm được làm Hổ Uy; Tiến được làm Chiết Xung; Liêu được làm Đãng khấu Tướng
quân.
Tiến
được biệt phái đi chinh phạt Cao Cán, theo đạo lộ phía bắc xâm nhập Thượng
Đảng, rồi đi vòng ra phía sau bọn Cán. Bọn Cán về giữ Hồ Quan, Tiến đánh liên
tục chém được nhiều địch. Cán cố sức giữ không hạ được, sau Thái Tổ phải thân
đến đánh, mới hạ được.
Thái Tổ
đi đánh Quản Thừa, binh xa đến nơi, Thái Tổ sai Tiến cùng Lý Điển công kích.
Thừa thua to bỏ chạy, trốn đến hải đảo, vùng ven biển mới yên, còn Kinh Châu
chưa chịu phục, Thái Tổ sai Tiến đóng quân ở Dương Địch. Sau Tiến đi theo bình
Kinh Châu, đóng quân ở Tương Dương, đánh bọn Quan Vũ-Tô Phi, bọn ấy đều phải
chạy cả, người Man Di ở vùng sơn cốc các quận thuộc Nam Quận đều đến chỗ Tiến
xin hàng. Tiến lại đánh dẹp trưởng huyện Lâm Tự là Đỗ Phổ, trưởng huyện Tinh
Dương là Lương Đại của Lưu Bị, đều đại phá được cả. Sau đi theo đánh Tôn Quyền,
được ban Giả tiết.
Thái Tổ
quay về, lưu Tiến cùng với Trương Liêu-Lý Điển đóng quân ở Hợp Phì, được tăng
ấp năm trăm hộ, cộng với lúc trước cả thảy là hai nghìn hộ. Bởi Tiến mấy lần
lập công, được thêm năm trăm hộ nữa, phong cho một con trai tước Liệt hầu; Tiến
được thăng lên làm Hữu tướng quân.
Năm Kiến
An thứ hai mươi ba chết, ban cho thuỵ hiệu là Uy hầu. Con Tiến là Lâm nối tự,
Lâm là người quả quyết, có phong độ của cha mình, làm quan đến Thứ sử Dương
Châu. Gia Cát Đản làm phản, ngầm đánh úp giết Lâm, Đế hạ chiếu truy điệu rất
thương tiếc, truy tặng cho chức Vệ Uý, ban thuỵ hiệu là Mẫn hầu. Con Lâm là
Triệu nối tự.
Chú thích:
(1) Một
chức quan nhỏ kiểu như Đội trưởng vệ binh.
(2) Giữ
quyền của Tư mã, cũng là một chức quan nhỏ trong doanh trại. Đô uý nguyên là
chức quan, còn hai chữ Hãm trận kia không hiểu là phẩm hàm kiểu gì.
TRƯƠNG CÁP TRUYỆN
Trương
Cáp tự Tuấn Nghệ, người quận Hà Gian huyện Mạo. Thời Hán mạt ra ứng mộ đánh dẹp
Hoàng Cân, làm Quân tư mã, là thuộc hạ của Hàn Phức. Phức bại, Cáp dẫn binh quy
hàng Viên Thiệu. Thiệu lấy Cáp làm Hiệu uý, sai chống cự Công Tôn Toản. Toản bị
phá, phần nhiều là công lao của Cáp, Cáp được thăng làm Ninh quốc Trung lang
tướng.
Thái Tổ
cùng với Viên Thiệu cự nhau ở Quan Độ,
Hán Tấn
xuân thu chép: Cáp thuyết Thiệu rằng: "Chúa công tuy liên tục thắng, nhưng
chớ cùng với Tào công chiến đấu, nên mật sai quân khinh kỵ đánh úp tuyệt đường
ở phía nam, tất quân kia tự bại vậy." Thiệu không theo kế ấy.
Thiệu
sai tướng là bọn Thuần Vu Quỳnh đôn đốc việc vận lương ở Ô Sào, Thái tổ tự mình
tới đánh gấp. Cáp khuyên Thiệu rằng: "Binh của Tào công tinh nhuệ, hẳn sẽ
đánh tan bọn Quỳnh; bọn Quỳnh bị phá, tất việc của tướng quân phải bỏ đi vậy,
nên cấp tốc dẫn binh đến cứu ngay." Quách Đồ nói: "Kế của Cáp không
hay. Chẳng bằng đánh vào bản doanh của họ, thế tất họ phải quay về, thế là
chẳng cần cứu mà tự giải vây được vậy." Cáp nói: "Tào công doanh trại
kiên cố, có đánh hẳn cũng chẳng lấy được, nếu như bọn Quỳnh bị bắt, lũ thuộc hạ
chúng ta cũng bị bắt hết cả." Thiệu chỉ phái quân khinh kỵ đi cứu Quỳnh,
mà để trọng binh đánh doanh trại Thái Tổ, không hạ được. Thái Tổ quả nhiên phá
được bọn Quỳnh, quân của Thiệu tan vỡ. Đồ hổ thẹn, lại dèm pha Cáp rằng:
"Cáp mừng vì quân ta bại, lời nói không khiêm tốn." Cáp sợ, bèn quy
hàng Thái Tổ.
Thần
Tùng Chi xét Vũ đế kỷ cùng Viên Thiệu truyện đều nói rằng Viên Thiệu sai Trương
Cáp-Cao Lãm đánh doanh trại Thái Tổ, bọn Cáp nghe tin Thuần Vu Quỳnh bị phá,
bèn đến hàng, sĩ chúng của Thiệu đại hội sau đó. Thế tất là bọn Cáp ra hàng sau
đó quân Thiệu tan vỡ. Đến như truyện này, nói là quân Thiệu hội họp trước, sợ
lời dèm của Quách Đồ, rồi sau mới quy hàng Thái Tổ, ấy là ba truyện có lầm lẫn
bất đồng vậy.
Thái Tổ
được Cáp rất mừng, bảo rằng: "Xưa Tử Tư chẳng sớm tỉnh ngộ, bởi thế khiến
thân bị nguy, há được như Vi Tử bỏ nhà Ân, Hàn Tín quy nhà Hán đó sao?"
Rồi bái Cáp làm Thiên tướng quân, phong tước Đô Đình hầu.
Cáp được
trao nắm binh sĩ, theo đánh huyện Nghiệp, lấy được. Lại theo đánh Viên Đàm ở
Bột Hải, riêng cầm quân vây Ung Nô, đại phá được. Rồi theo đánh Liễu Thành,
cùng với Trương Liêu đều được làm tiên phong, bởi có công được thăng làm Bình
định tướng quân. Lại biệt phái đi đánh Đông Lai, dẹp Quản Thừa, lại cùng Trương
Liêu đánh dẹp bọn Trần Lan-Mai Thành, phá được. Rồi theo phá Mã Siêu-Hàn Toại ở
Vị Nam. Vây huyện An Định, thu hàng Dương Thu. Cùng với Hạ Hầu Uyên đánh dẹp
phu tặc Lương Hưng cùng rợ Đê ở Vũ Đô. Lại phá được Mã Siêu, bình Tống Kiến.
Thái Tổ
chinh phạt Trương Lỗ, trước tiên sai Cáp đốc suất ba quân đánh dẹp Đê Vương ở
Hưng Hoà là Đậu Mậu. Thái Tổ tới Tán Quan vào Hán Trung, lại sai Trương Cáp đốc
suất năm nghìn bộ tốt đi trước mở đường. Tới Dương Bình, Lỗ hàng, Thái Tổ quay
về, lưu Cáp cùng với bọn Hạ Hầu Uyên trấn thủ Hán Trung, cự Lưu Bị. Cáp đốc
xuất ba quân, thu hàng hai quận Ba Đông-Ba Tây, dời dân ở đó vào Hán Trung.
Tiến quân đến Đãng Cừ, bị tướng của Bị là Trương Phi chống cự ở đó, phải rút về
Nam Trịnh. Cáp được bái làm Đãng khấu tướng quân.
Lưu Bị
đóng quân ở Dương Bình, Cáp đóng quân ở Quảng Thạch. Bị có hơn vạn quân tinh
nhuệ, chia làm mười lộ, nhân đên tối gấp rút tấn công Cáp. Cáp đốc suất thân
binh đánh lộn, Bị không thể thắng nổi. Sau đấy Bị tới lũng Tẩu Mã đốt đô ấp ở
vùng ngoại vi, Uyên tới cứu hoả, đi được nửa đường gặp quân của Bị, giao chiến,
binh khí ngắn phải đánh gần. Uyên bị giết, Cáp quay về Dương Bình.
Nguỵ
lược chép: Uyên tuy làm Đô đốc, Lưu Bị sợ Cáp mà coi thường Uyên. Lúc giết
Uyên, Bị nói: "Kẻ ấy đáng được làm đầu sỏ, dùng người như thế sao làm gì
được ta!"
Đang lúc
bấy giờ, nguyên soái mới mất, sợ Bị thừa cơ đánh, ba quân đều thất sắc. Tư mã
của Uyên là Quách Hoài bèn lệnh cho chúng rằng: "Trương tướng quân, là
danh tướng quốc gia, Lưu Bị phải kiêng sợ; hôm nay việc nguy cấp, phi Trương
tướng quân chẳng ai có thể vỗ yên được." Bèn suy tôn Cáp lên làm chủ trong
quân. Cáp nhận trách nhiệm, ém binh giữ yên trận địa, chư tướng đều vâng theo
sự điều dụng của Cáp, bụng chúng mới yên. Thái Tổ đến Trường An, phái sứ giả
đến ban cho Cáp phù tiết. Thái Tổ thân đến Hán Trung, Lưu Bị giữ trên núi cao
không dám đánh. Thái Tổ rút lui toàn quân khỏi Hán Trung, Cáp quay về đóng binh
ở Trần Thương.
Văn Đế
lên tức vương vị, lấy Cáp làm Tả tướng quân, tiến tước Đô Hương hầu. Khi lên
ngôi Đế, tiến phong Cáp là Mạo hầu(2). Rồi hạ chiếu cho Cáp và Tào Chân đánh rợ
Hồ ở Lô Thuỷ thuộc An Định cùng rợ Khương ở phía Đông, cho triệu Cáp và Tào
Chân cùng vào chầu ở cunh điện Hứa Xương, phái Cáp về nam cùng Hạ Hầu Thượng
đánh Giang Lăng. Cáp đốc xuất chư quân vượt sông, chiếm cồn cát ở trên sông lập
doanh luỹ.
Minh Đế
lên tức vị, phái Cáp về nam đóng ở Kinh Châu, cùng Tư mã Tuyên Vương đánh biệt
tướng của Tôn Quyền là bọn Lưu A, truy đuổi đến Kỳ Khẩu, giao chiến, phá được.
Gia Cát
Lượng ra Kỳ Sơn. Triều đình đặc tiến tước vị cho Cáp, phái tới đốc xuất chư
quân, chống cự tướng của Lượng là Mã Tắc ở Nhai Đình. Tắc cậy hiểm ở phía nam
núi, không xuống đóng thành lũy. Cáp cắt đứt đường cấp nước, công kích, đại phá
được. Các quận Nam An-Thiên Thuỷ-An Định làm phản hưởng ứng Lượng, Cáp đều đánh
phá bình được cả. Chiếu viết rằng: "Tên giặc là Lượng dụng quân sĩ Ba
Thục, quân binh như cọp gầm hổ rống. Tướng quân đến chỗ binh giặc cứng mạnh vào
chốn đao gươm, thắng được kẻ địch ở nơi ấy, trẫm rất ngợi khen. Nay ban thêm
cho thực ấp một nghìn hộ, cộng cả trước đây là bốn nghìn ba trăm hộ."
Tư Mã
Tuyên Vương nắm giữ thuỷ quân ở Kinh Châu, muốn theo sông Miện tới Trường Giang
đánh Ngô, triều đình hạ chiếu cho Cáp đốc chư quân ở Quan Trung tới nhận mệnh
điều dụng. Tới Kinh Châu, lúc ấy là mùa đông nước cạn, thuyền lớn không đi
được, bèn quay về đóng quân ở Phương Thành.
Gia Cát
Lượng lại ra quân, tấn công Trần Thương rất gấp, Đế sai ngựa trạm tới triệu Cáp
về kinh đô. Đế thân giá lâm thành Hà Nam, bày tiệc rượu tiễn đưa Cáp, phái ba
vạn quân sĩ ở các miền nam bắc giao cho Cáp, lại chia quân Vũ vệ-Hổ bôn đi theo
bảo vệ Cáp, nhân đó hỏi Cáp rằng: "Khi tướng quân đến nơi, Lượng đã lấy
được Trần Thương hay chưa!" Cáp biết Lượng ít quân không có lương thực,
chẳng thể đánh lâu, thưa rằng: "Bỉ thần chưa tới nơi, Lượng đã chạy rồi
vậy; Tính ra thì lương thảo của Lượng chẳng còn đủ đến mười ngày." Cáp
tiến quân đêm ngày đến Nam Trịnh, Lượng đã lui binh. Triều đình lại hạ chiếu
lệnh cho Cáp về kinh đô, bái làm Chinh tây Xa kỵ tướng quân.
Cáp là
người hiểu biết quyền biến, khéo việc bầy binh bố trận, liệu địa hình chiến
cuộc, không kế gì không tỏ, từ Gia Cát Lượng trở đi đều phải kiêng sợ. Cáp tuy
là võ tướng mà yêu thích những bậc nho sĩ, từng tiến cử người đồng hương là Ti
Trạm làm Kinh Minh Hành Tu, chiếu viết rằng: "Xưa Tuân Tế làm tướng, tấu
xin lập ra Ngũ kinh đại phu, ở trong quân doanh, cho các nho sinh tấu nhạc ném
thẻ vào hồ. Nay tướng quân bên ngoài thống quản quân lữ, bên trong an định quốc
triều. Trẫm khen ngợi ý chí của tướng quân, nay cất nhắc Trạm lên làm Bác
sĩ."
Gia Cát
Lượng lại ra Kỳ Sơn, triều đình chiếu mệnh cho Cáp đốc xuất chư tướng ở phía
Tây đến Lược Dương, Lượng quay về giữ Kỳ Sơn, Cáp đuổi theo đến Mộc Môn, cùng
với quân của Lượng giao chiến, bị loạn tên bắn trúng đầu gối, chết, được ban
thuỵ hiệu là Tráng hầu.
Nguỵ
lược viết: Quân Lượng lui về, Tư Mã Tuyên Vương sai Cáp đuổi theo, Cáp nói:
"Quân pháp dạy, vây thành tất phải mở lối thoát cho giặc, quân địch chạy
chớ nên đuổi theo". Tuyên vương không nghe. Cáp bất đắc dĩ, phải tiến
binh. Vì quân Thục bố trí mai phục trên núi cao, cung nỏ bắn loạn xạ, Cáp bị
trúng tên vào bắp đùi."
Con Cáp
là Hùng nối tự. Cáp trước sau chinh phạt có công, Minh Đế chia ấp cho Cáp,
phong cho bốn con của Cáp làm Liệt hầu. Bốn người con nhỏ khác được ban tước
Quan nội hầu.
Ghi chú:
(1) Huyện Mạo quê hương Cáp, như vậy tước của
Cáp lúc này đã là Huyện hầu.
TRƯƠNG LIÊU TRUYỆN
Trương
Liêu tự Văn Viễn, người huyện Mã Ấp quận Nhạn Môn. Nguyên gốc họ Niếp, vì trốn
tránh kẻ thù mới phải đổi họ. Thời trẻ Liêu làm quận lại(1). Thời Hán mạt, Tinh
châu Thứ sử là Đinh Nguyên nhân thấy Liêu có võ công hơn người, bèn cho vời đến
làm Tòng sự, lại sai cầm quân tới kinh đô. Hà Tiến phái Liêu đến Hà Bắc mộ
binh, được hơn một ngàn người. Lúc quay về, Tiến đã bại trận, Liêu đem số binh
ấy theo về Đổng Trác. Trác thua trận, Liêu lại đem quân theo Lã Bố, được thăng
lên làm Kỵ Đô uý(2). Bố vì bị Lý Thôi đánh bại(3), Liêu theo Bố nhằm hướng Đông
chạy đến Từ châu, được lĩnh chức Lỗ tướng(4), năm ấy Liêu 28 tuổi.
Thái tổ
phá Lã Bố ở Hạ Phì, Liêu dẫn mọi người ra hàng, được bái làm Trung lang
tướng(5), ban cho tước Quan nội hầu. Liêu mấy lần lập chiến công, được thăng
lên làm Bì tướng quân(6). Viên Thiệu bị phá, Liêu được biệt phái tới yên định
các huyện ở đất Lỗ. Lại cùng với Hạ Hầu Uyên vây Xương Hy ở Đông Hải, vây mấy
tháng thì hết lương, đã bàn việc dẫn quân về, Liêu bảo Uyên rằng: "Mấy hôm
nay, mỗi lần đi xét vòng vây, thường thấy Hi chăm chú nhìn theo tôi. Lại thấy
tên bắn ra ít đi, như thế hẳn Hi có ý do dự, nên chẳng cố sức đánh nhau. Liêu
này muốn đến nói chuyện riêng với y, hoặc giả có thể dụ được chăng?" Bèn
sai người đến bảo Hi rằng: "Chúa công có mệnh, sai Liêu đến truyền
bảo." Hy quả nhiên xuống cùng với Liêu nói chuyện, Liêu bèn thuyết:
"Thái tổ là bậc thần vũ, người ở bốn phương đều mến đức, sớm biết quy phục
sẽ được hậu thưởng." Hi mới đồng ý ra hàng. Liêu lại một mình trèo lên núi
Tam Công, vào nhà Xương Hi, lạy vợ con Hi. Hi rất mừng, theo đến chỗ Thái Tổ.
Thái Tổ sai Hi trở về, lại trách Liêu rằng: "Thế chẳng phải là khuôn phép
của bậc đại tướng vậy." Liêu tạ rằng: "Uy tín của Minh công sáng rõ
bốn bể, Liêu đã vâng theo thánh chỉ, Hi tất chẳng dám làm hại Liêu vậy."
Liêu
theo Thái Tổ đánh Viên Đàm-Viên Thượng ở Lê Dương, có công, được làm Hành Trung
kiên Tướng quân. Rồi theo đi đánh Thượng ở huyện Nghiệp, Thượng hết sức cố thủ
không sao hạ được, Thái tổ về Hứa huyện, sai Liêu cùng với Nhạc Tiến đánh lấy
thành Âm An, dời dân ở đó tới phía nam Hoàng Hà.
Thái tổ lại
vây đánh huyện Nghiệp, huyện Nghiệp bị phá, Liêu được biệt phái đến Triệu
Quốc-Thường Sơn, chiêu hàng bọn sơn tặc ở ven núi cùng Tôn Khinh ở Hắc Sơn. Rồi
tới đánh Viên Đàm, phá được Đàm, lại được phái đi Hải Tân, phá được giặc ở Liêu
Đông là bọn Liễu Nghị. Khi về huyện Nghiệp, Thái Tổ thân ra đón Liêu, dắt lên
ngồi cùng xe, rồi lấy Liêu làm Đãng khấu Tướng quân.
Liêu
được biệt phái đi đánh Kinh Châu, bình định các huyện ở Giang Hạ, rồi về đóng
quân ở Lâm Dĩnh, được phong làm Đô Đình hầu. Lại theo đánh Viên Thượng ở Liễu
Thành, thốt nhiên gặp quân Hồ Lỗ, Liêu khuyên Thái Tổ đánh gấp, chí khí rất
phấn khích, Thái Tổ thấy Liêu hăng hái, vì thế trao cờ chỉ huy cho Liêu. Liêu
liền tiến đánh, đại phá địch, chém chết vua Hung Nô là Đạp Đốn.
Phó Tử
chép: Thái Tổ dẫn quân đánh Liễu Thành, Liêu can rằng: "Hứa Xương, là nơi
đô hội của Thiên tử. Nay Thiên tử ở Hứa Đô, chúa công Bắc chinh nơi xa, ví như
Lưu Biểu phái Lưu Bị tập kích Hứa Đô, nắm lấy Thiên tử hiệu lệnh bốn phương, vị
thế của chúa công sẽ mất." Thái Tổ bàn rằng Biểu ắt không dùng được Bị,
rồi cứ đi.
Bấy giờ
chưa định được Kinh Châu, Thái Tổ sai Liêu đóng binh ở Trường Xã. Lúc sắp đi,
trong quân có người mưu phản, trong đêm lửa bốc cháy tứ tung, toàn quân rối
loạn. Liêu bảo tả hữu rằng: "Chớ nên kinh động. Đây không phải là toàn
doanh trại đều làm phản, tất có kẻ gây loạn đó thôi, ắt muốn làm rối loạn nhân
tâm vậy." Bèn lệnh cho trong quân, kẻ nào không làm phản phải ngồi yên.
Liêu thân dẫn mấy chục quân lính, đứng giữa hàng quân. Chốc lát đã ổn định
được, lập tức bắt được kẻ thủ mưu đem giết đi.
Trần
Lan-Mai Thành kích động rợ Đê ở sáu huyện làm phản, Thái Tổ phái bọn Vu
Cấm-Tang Bá đến đánh Thành, Liêu thúc Trương Cáp-Ngưu Cái tới đánh Lan. Thành
vờ hàng Cấm, Cấm trở về. Thành bèn dẫn binh đến chỗ Lan, quay vào Tiềm Sơn.
Trong vùng Tiềm Sơn có núi Thiên Trụ, dốc cao hơn hai mươi dặm, đường hẹp lại
hiểm trở, chỉ có mỗi cách đi bộ lên, bọn Lan giữ ở trên sườn núi. Liêu muốn
tiến binh, chư tướng nói: "Binh ta ít mà đường núi lại hiểm trở, khó mà
thâm nhập được." Liêu nói: "Đây là lúc một sống một chết, phải người
dũng mãnh mới tiến lên được." Rồi tiến đến chân núi hạ đóng doanh trại,
vây đánh, chém được thủ cấp Lan-Thành, bắt sống được hết bộ hạ. Thái Tổ luận
công của chư tướng, nói: "Trèo lên thiên sơn, xông pha vào nơi hiểm trở,
dẹp được Lan và Thành, là công lao của Đãng khấu vậy." Rồi tăng thực ấp
cho Liêu, ban cho Giả tiết.
Thái Tổ
đi chinh phạt Tôn Quyền trở về, sai Liêu cùng với bọn Nhạc Tiến-Lý Điển cầm bảy
ngàn binh đóng ở Hợp Phì. Thái Tổ đi đánh Trương Lỗ, giao cho Hộ quân Tiết Đễ
mang đến cho Liêu đến một phong thư dán kín viết: "Giặc đến hãy mở."
Được ít lâu, Quyền đốc xuất mười vạn quân đến vây Hợp Phì, chúng bèn cùng mở
thư ra xem, thấy dạy rằng: "Nếu như Tôn Quyền đến, Hai tướng quân
Trương-Lý ra đánh; Nhạc tướng quân giữ thành, chớ có tham chiến." Chư
tướng đều nghi ngại. Liêu nói: "Chúa công viễn chinh ở bên ngoài, đợi cứu
binh đến, bên kia hẳn đã đánh tan chúng ta, cứ theo như ý chỉ ở thư này thì bên
kia chưa kịp hợp binh để đánh ta, ta hãy bẻ gẫy thế mạnh của họ, để an lòng
quân, rồi sau mới có thể giữ được. Cái cơ thành bại, chính ở một trận này đây,
chư quân sao còn phải hồ nghi nữa?" Lý Điển cũng đồng ý với Liêu. Vì thế
Liêu trong đêm tuyển mộ quân cảm tử đem theo, được tám trăm người, cho giết
trâu thết đãi tướng sĩ, chờ hôm sau đại chiến. Mới sáng ra, Liêu mặc giáp cầm
kích, xông lên phía trước hãm trận, giết chết mấy chục mạng, chém được hai
tướng, miệng hô lớn danh tự, vọt vào trong luỹ, đến dưới cờ chỉ huy của Quyền.
Quyền kinh hoảng, quân lính chẳng hiểu thế nào, bỏ chạy lên gò đất cao, dùng
trường kích tự thủ. Liêu quát gọi Quyền xuống đánh nhau, Quyền không dám xuống,
nhưng trông xa thấy binh tướng của Liêu ít, bèn xúm lại vây quanh Liêu đến mấy
tầng. Liêu chỉ huy quân tả xung hữu đột giữa trùng vây, đánh thẳng về phía
trước, vòng vây mở ra, Liêu dẫn mấy chục thủ hạ thoát ra được, một số binh sĩ
còn ở trong kêu to lên rằng: "Tướng quân bỏ chúng tôi ư!" Liêu quay
lại đột phá vòng vây, đến cứu bọn chúng. Quân mã của Quyền đều dạt cả ra, không
ai dám đương. Đánh nhau từ sớm đến tận giữa trưa, người Ngô mất vía, Liêu quay
về thủ thành, bụng chúng bấy giờ mới an, chư tướng đều khâm phục. Quyền giữ ở
Hợp Phì hơn chục ngày, không lấy được thành, bèn dẫn quân lui về. Liêu đốc xuất
ba quân truy kích, suýt nữa bắt được Quyền. Thái Tổ rất ca ngợi Liêu, phong cho
Làm Chinh đông tướng quân.
Tôn
Thịnh chép: Dối trá cố nhiên là cái đạo của kẻ dùng binh, chính kỳ đắp đổi, nếu
như đã sai tướng xuất chinh, phải trao thực quyền, hoặc nhờ vào cái thế đầu
đuôi tương ứng, hay dựa vào cái thế ỷ giốc, nếu tướng soái bất hòa, tức là đánh
mất tác dụng của tướng soái vậy. Đến như việc thủ giữ Hợp Phì, binh yếu lại
không tiếp viện, nếu dùng người dũng mãnh làm tướng tất hiếu chiến gây hoạ,
dùng người nhút
nhát tất trong lòng sợ hãi khó giữ thành. Thế mà bên kia đông bên ta ít, tất kẻ
địch mang lòng coi thường, trễ nải; lấy quân quyết tử bất ngờ đánh cái quân bê
trễ, là thế tất thắng vậy; thắng rồi mới thủ, thế tất vững bền. Cho nên Ngụy
Vũ(6) đã chọn tướng lĩnh tính tình tâm chí khác nhau, giao cho mật thư, dậy họ
sử dụng cẩn trọng và đúng lúc, việc đến đem ra ứng phó, đúng hợp với phù
ước(7). Khéo lắm thay!
Năm Kiến
An thứ hai mươi mốt, Thái Tổ lại đi đánh Tôn Quyền, đến Hợp Phì, tuần hành đến
nơi chiến trường xưa của Liêu, than thở hồi lâu. Rồi thêm binh cho Liêu, lưu
nhiều quân ở lại, dời đến đóng ở Cư Sào.
Quan Vũ
vây Tào Nhân ở Phàn Thành, lúc ấy Tôn Quyền thần phục, Thái tổ cho vời Liêu
cùng ba quân đều quay về cứu Tào Nhân. Liêu chưa đến, Từ Hoảng đã phá được Quan
Vũ, Nhân được giải vây. Liêu cùng Thái Tổ hẹn hợp quân ở Ma Pha. Quân của Liêu
đến, Thái Tổ cưỡi xe ra uý lạo, Liêu về đóng quân ở Trần Quận. Văn Đế lên tức
vương vị, chuyển Liêu làm Tiền tướng quân. Phong cho anh Liêu là Phiếm cùng một
người con của Liêu làm Liệt hầu.
Nguỵ thư
chép: Vương ban cho Liêu bảy ngàn tấm lụa, bảy vạn hộc lúa.
Tôn
Quyền lại làm phản, Vương sai Liêu quay về đóng binh ở Hợp Phì, lại thăng cho
Liêu tước Đô hương hầu. Rồi cấp cho mẹ Liêu một chiếc xe, đến lúc binh mã đưa
gia quyến Liêu đến họp mặt, Vương ra sắc mệnh đưa mẹ Liêu tới, lại cho người ra
nghênh đón. Chư quân tướng lại ở đó đều xúm vào lạy ở bên đường, xem chừng vinh
dự lắm.
Văn Đế
lên ngôi, phong Liêu làm Tấn Dương hầu, tăng cho thực ấp một ngàn hộ, cộng cả
lúc trước là hai ngàn hộ.
Năm
Hoàng Sư thứ hai, Liêu về chầu ở cung Lạc Dương, Văn Đế cho người đưa Liêu đến
hội kiến ở trước điện, đích thân hỏi han việc phá Ngô. Sau Đế than thở với
người ở xung quanh rằng: "Người ấy cũng như Triệu Hổ(8) ngày xưa
vậy." Rồi dựng nhà cho Liêu, lại đặc cách xây lầu cho mẹ Liêu ở, những
binh sĩ được Liêu ứng mộ đi đánh Ngô, đều được phong là quân hổ bôn.
Tôn
Quyền xưng thần. Liêu quay về đóng binh ở Ung Khâu, bị ốm. Đế sai Thị trung Lưu
Diệp cùng qua thái y đến xem bệnh, quân hổ bôn hỏi thăm tin tức, chen chúc ở
trên đường. Bệnh chưa khỏi, Đế cho người đón Liêu tới hành cung, xa giá tới
thăm, Đế cầm tay Liêu, cho ngự y tới săn sóc, hàng ngày trưởng quan đưa đồ ăn
của vua tới. Bệnh bớt được một chút, Liêu lại về nơi đóng quân.
Tôn
Quyền lại làm phản, Đế sai Liêu ngồi thuyền, cùng với Tào Hưu đến Hải Lăng, tới
Đại Giang. Quyền rất sợ hãi, sắc mệnh cho các tướng rằng: "Trương Liêu dù
có bệnh, cũng chẳng thể đối đầu vậy, nên cẩn thận!" Năm ấy, Liêu cùng chư
tướng đánh bại tướng của Quyền là Lã Phạm. Liêu bị bệnh nặng, rồi chết ở Giang
Đô. Đế sa nước mắt, ban cho thuỵ hiệu là Cương hầu. Con Liêu là Hổ nối tự.
Năm thứ
sáu, Đế nhớ đến công lao của Liêu-Điển ở Hợp Phì, hạ chiếu rằng: "Chiến
dịch Hợp Phì, Liêu-Điển dùng tám trăm bộ tốt, đánh tan mười vạn quân địch, tự
cổ dùng binh, chưa ai được như vậy. Kẻ địch đến nay vẫn còn mất vía, nên nói
rằng họ là nanh vuốt của quốc gia vậy." Vì thế cho Liêu-Điển đều được ăn
thực ấp tám trăm hộ, ban cho một con trai tước Quan nội hầu."
Hổ được
làm Thiên tướng quân, chết. Con là Thống nối tự.
Chú thích:
(1) Quận lại là chức quan nhỏ giúp việc ở
trong quận, kiểu như thư lại (văn thư), đề lại (chỉ huy mấy anh dân phòng, cờ
đỏ)... đại loại như vậy.
(2) Đô uý là một chức quan võ nói chung, Kỵ đô
uý là riêng chỉ huy đám quân kỵ (mã).
(3) Việc này xảy ra ngay sau khi Lã Bố giết
Đổng Trác, rồi Bố bị quân Lương châu do Lý Thôi, Quách Tỵ cầm đầu đánh cho đại
bại phải bỏ chạy.
(4) Chức này có lẽ chỉ là một chức võ tướng
trong quân, không biết rõ là quyền hạn thế nào.
(5) Chức Trung lang tướng này về quan hàm thì
cao hơn chức Hiệu uý, Đô uý một chút, thấp hơn chức tướng quân.
(6) Tức Tào Tháo.
(7) Đúng như lệnh ở trong thư thì thắng trận.
(8) Có sách nói là Triệu Mục Công.
TỪ HOÀNG TRUYỆN
Từ Hoảng
tự Công Minh, người quận Hà Đông huyện Dương, từng làm Quận lại, theo Xa kỵ
tướng quân Dương Phụng đánh dẹp giặc có công, được bái làm Kỵ Đô uý. Lý
Thôi-Quách Dĩ làm loạn ở Trường An, Hoảng thuyết Phụng, lệnh cho người đưa
thiên tử về Lạc Dương, Phụng theo kế ấy. Thiên tử qua sông Hoàng Hà tới An Ấp,
phong Hoảng làm Đô Đình hầu. Lúc đến Lạc Dương, Hàn Tiêm-Đổng Thừa hàng ngày
tranh đấu, Hoảng thuyết Phụng nên quy hàng Thái Tổ; Phụng muốn nghe theo, sau
lại hối. Thái Tổ đánh Phụng ở huyện Lương, Hoảng bèn quy hàng Thái Tổ.
Thái Tổ
trao binh quyền cho Hoảng, sai đánh bọn giặc ở huyện Quyển và huyện Nguyên Vũ,
phá được, được bái làm Bì tướng quân. Rồi theo đi đánh Lã Bố, thu hàng tướng
của Bố là bọn Triệu Thứ-Lý Trâu. Cùng với Sử Hoán chém được Tuy Cố ở Hà Nội.
Lại theo đi đánh Lưu Bị, rồi theo đi phá Nhan Lương, vây đánh Bạch Mã, tiến đến
Diên Tân, đánh tan Văn Xú, được bái làm Thiên tướng quân. Rồi giúp Tào Hồng
đánh cường tặc là Chúc Tí ở Thuỷ Ẩn, phá được, lại cùng với Sử Hoán đánh quân
vận lương của Viên Thiệu ở Cố Thị, có công rất lớn, được phong là Đô đình hầu.
Thái tổ
vây huyện Nghiệp, phá Hàm Đan, Dịch Dương lệnh là Hàn Phạm vờ dâng thành hàng
rồi lại chống cự, Thái Tổ sai Hoảng tấn công. Hoảng đến, buộc thư vào tên bắn
vào trong thành, bày tỏ chuyện được mất. Phạm hối, Hoảng tức thì thu hàng. Xong
đến nói với Thái Tổ rằng: "Hai người họ Viên(1) chưa phá được, các thành
chưa bị hạ còn nghiêng tai mà nghe ngóng, hôm nay diệt sạch người Dịch Dương,
hôm sau bọn họ đều tử thủ, sợ rằng Hà Bắc không yên định ngay được. Xin chúa
công nhận cho thành Dịch Dương đầu hàng để các thành khác biết được, tất chẳng
còn ai không theo gió mà quy thuận." Thái Tổ khen lời ấy.
Hoảng
được biệt phái đánh Mao Thành, liền cho đặt phục binh ngầm đánh úp, phá được ba
đồn binh. Rồi theo phá Viên Đàm ở Nam Bì, đánh bọn phản tặc ở Bình Nguyên,
thắng được. Lại theo đi chinh phạt Đạp Đốn, được bái làm Hoàng dã tướng quân.
Hoảng lại theo đi đánh Kinh Châu, riêng cầm quân
đóng ở
Phàn Thành, đánh dẹp giặc ở các huyện Trung Lư-Lâm Tự-Nghi Thành. Lại cùng với
Mán Sủng đánh Quan Vũ ở Hán Tân, giúp Tào Nhân đánh Chu Du ở Giang Lăng.
Năm thứ
mười lăm, đánh dẹp quân làm phản ở Thái Nguyên, vây Đại Lăng, lấy được, chém
đầu lĩnh của giặc là Thương Diệu.
Hàn
Toại-Mã Siêu làm phản ở vùng Quan Hữu, Thái Tổ sai Hoảng đóng binh ở Phần Âm để
phủ dụ xứ Hà Đông, ban cho thịt bò và rượu, lệnh dâng lên mộ của tiền nhân.
Thái Tổ đến Đồng Quan, sợ không sang sông được, cho triệu Hoảng đến hỏi, Hoảng
nói: "Binh của minh công ở cả đây, mà giặc chẳng phục một cánh quân giữ Bồ
Phản, rõ là chúng vô mưu vậy. Ta nên qua bến Bồ Phản, xắp xếp quân trước, để
cắt đứt đường về, giặc có thể bắt được." Thái Tổ nói: "Hay." Rồi
sai Hoảng lấy bốn nghìn quân bộ kỵ vượt sông. Đào hào còn chưa xong, trong đêm
tên giặc là Lương Hưng dẫn hơn năm nghìn quân bộ kỵ tới vây đánh Hoảng, Hoảng
đánh chúng bỏ chạy, quân Thái Tổ qua được sông. Vì thế phá được bọn Mã Siêu,
Thái Tổ lại sai Hoảng giúp Hạ Hầu Uyên bình định rợ Đê ở Du Mi-Khiên Chư, cùng
với Thái Tổ hội quân ở An Định. Thái Tổ về huyện Nghiệp, sai Hoảng cùng với Hạ
Hầu Uyên bình định dư đảng giặc ở huyện Phu và huyện Hạ Dương, chém Lương Hưng,
thu hàng hơn ba nghìn nhà. Sau lại theo Thái Tổ đánh Trương Lỗ. Thái Tổ biệt
phái Hoảng đến đánh dẹp rợ Đê ở vùng núi Độc-Cừu Di, đều thu hàng được. Hoảng
được thăng là Bình khấu tướng quân. Sau Hoảng giải vây cho tướng quân Trương
Thuận. Lại đánh hơn ba chục đồn binh của bọn giặc là Trần Phúc, đều phá được.
Thái Tổ
về huyện Nghiệp, lưu Hoảng cùng Hạ Hầu Uyên cự Lưu Bị ở Dương Bình. Bị sai bọn
Trần Thức lập hơn mười doanh trại cắt đứt đường Mã Minh Các, Hoảng chia quân
đánh phá, giặc tự gieo mình xuống sơn cốc, chết rất nhiều. Thái Tổ được tin,
rất mừng, ban cho Hoảng được cầm Giả tiết, khen rằng: "Đạo lộ ấy, là nơi
hiểm yếu của Hán Trung như yết hầu vậy. Lưu Bị muốn cắt đứt đường thông trong
ngoài, để thủ giữ Hán Trung. Tướng quân một lần vọng động, phá kế của địch,
thật là khéo lắm vậy."
Thái Tổ
thân đến Dương Bình, rút toàn quân khỏi Hán Trung. Lại sai Hoảng trợ giúp Tào
Nhân đánh Quan Vũ, đóng binh ở Uyển Thành. Gặp lúc sông Hán nước lên to, bọn Vu
Cấm bị dìm. Vũ vây Nhân ở Phàn Thành, lại vây tướng quân Lã Thường ở Tương
Dương. Quân sĩ của Hoảng đa phần là tân binh, khó tranh phong cùng với Quan Vũ,
bèn tiến đến Dương Lăng Pha đóng quân.
Thái Tổ
trở về, phái tướng quân Từ Thương-Lã Kiền đến chỗ Hoảng, lệnh rằng: "Phải
đợi binh mã đến đủ, rồi cùng tiến." Quân giặc đóng ở Yển thành. Hoảng đến
nơi, giả vờ đào hào xung quanh, ý chừng muốn cắt đứt hậu quân của địch, giặc
đốt đồn bỏ chạy. Hoảng lấy được Yển thành, hai mặt quân doanh nối liền nhau,
Hoảng tiến về phía trước, bọn giặc kéo lại vây vùng Tam Trượng. Còn chưa đánh,
Thái Tổ trước sau sai bọn Ân Thự-Chu Cái đem hai mươi doanh quân(2) đến chỗ
Hoảng. Giặc đóng trại ở Vi Đầu, lại chia quân đóng đồn ở Tứ Trủng. Hoảng đánh
tiếng là tấn công vào trại Vi Đầu, nhưng ngầm tấn công Tứ Trủng. Vũ thấy trại
Tứ Trủng sắp vỡ, thân dẫn năm nghìn quân bộ kỵ ra đánh, Hoảng đánh lại, địch
chạy lui, Hoảng đuổi theo phá vòng vây, đánh tan quân địch, giặc lao đầu xuống
sông Miện mà chết. Thái Tổ khen rằng: "Giặc đào hào kín mít rải chông chà
mười phần trầm trọng, tướng quân hết sức đánh thu được toàn thắng, lại phá vòng
vây của địch, chém được nhiều đầu giặc. Ta dụng binh ba hơn mươi năm, cũng có
nghe đến cái khéo dùng binh của người xưa, mà chưa thấy có ai xông thẳng vào
vòng vây của địch như vậy. Vả lại vòng vây ở Phàn Thành-Tương Dương, còn hơn
vòng vây ở Thành Cử-Tức Mặc, công lao của tướng quân, còn hơn cả Tôn Vũ-Nhương
Tư."
Hoảng
chỉnh đốn quân quay về Ma Pha, Thái Tổ nghênh đón Hoảng cách đó bảy dặm, bày
tiệc rượu mở đại hội. Thái Tổ nâng chén mời Hoảng, lại yên uỷ rằng: "Giữ
vẹn được Phàn Thành-Tương Dương, là công lao của tướng quân vậy." Bấy giờ
chư quân đều tụ tập ở đó, Thái Tổ đi lần lượt các doanh trại, sĩ tốt đều li tán
hàng trận, mà quân doanh của Hoảng chỉnh tề, tướng sĩ xắp hàng bất động. Thái
Tổ khen rằng: "Từ tướng quân có thể nói là có phong độ của Chu Á Phu
vậy."
Văn Đế
lên tức vương vị, lấy Hoảng làm Hữu tướng quân, tiến phong tước Lục Hương hầu.
Lúc lên ngôi Đế, tiến phong Hoảng tước Dương hầu. Để Hoảng cùng với Hạ Hầu
Thượng đánh Lưu Bị ở Thượng Dung, phá được. Lại lấy Hoảng trấn thủ Dương Bình,
đổi phong tước Dương Bình hầu. Minh Đế lên tức vị, sai Hoảng cự tướng Ngô là
Gia Cát Cẩn ở Tương Dương. Tăng thực ấp cho Hoảng hai trăm hộ, cộng cả số trước
đây là ba ngàn một trăm hộ. Sau bị bệnh nặng, di mệnh rằng khi mất chỉ dùng
thường phục an táng.
Hoảng có
tính tiết tiện giản dị mà cẩn thận, khi dẫn quân đi thường cho người dò xét ở
đằng xa, lúc trước đánh không thắng, lúc sau lại gắng đánh tiếp, truy đuổi quân
địch giành thắng lợi, quân sĩ chẳng được nhàn hạ ngồi ăn. Hoảng thường than
rằng: "Cổ nhân thường lo chẳng gặp được đấng minh quân, nay ta may mắn gặp
được, phải lấy việc lập công để báo đáp, đâu vì danh dự cá nhân!" Hoảng trọn
đời chẳng chịu nhún mình giao kết cùng người khác.
Năm Thái
Hoà nguyên niên Hoảng chết, được ban thuỵ hiệu là Tráng hầu. Con Hoảng là Cái
nối tự. Cái chết, con là Phách nối tự. Minh Đế chia ấp riêng cho Hoảng, phong
hai người cháu của Hoảng làm Liệt hầu.
Khi
trước, người ở Thanh Hà là Chu Linh là tướng của Viên Thiệu. Thái Tổ đi đánh
Đào Khiêm, Thiệu sai Linh đốc xuất ba doanh quân trợ giúp Thái Tổ, đánh nhau
lập được công. Thiệu gọi các tướng ấy bãi binh quay về, Linh nói: "Linh
này xét người đã nhiều, không thấy ai được như Tào công, người ấy mới là minh
chủ vậy. Nay đã gặp, sao lại bỏ?" Rồi ở lại không chịu về. Tướng sĩ ở đấy
ái mộ Linh, đều theo Linh ở lại. Sau này Linh là tướng giỏi của Thái Tổ, tiếng
tăm kém Hoảng một chút, làm quan đến Hậu tướng quân, được phong Cao Đường Đình
hầu.
Sách Cửu
châu xuân thu chép: Khi trước, người ở Thanh Hà là Quý Ung làm phản Viên Thiệu
ở đất Du theo hàng Công Tôn Toản, Toản phái binh bảo vệ Ung. Thiệu sai Linh
đánh Toản. Gia quyến Linh ở trong thành, Toản mang mẹ và em Linh đặt trên mặt
thành, kêu gọi dụ dỗ Linh. Linh hướng vào thành chảy nước mắt khóc không ra
tiếng nói: "Kẻ trượng phu đã bỏ thân mình theo người ta, há lại nghĩ đến
gia đình ư!" Rồi hết sức đánh lấy được thành, bắt sống được Ung nhưng gia quyến
đều chết cả.
Nguỵ thư
chép: Linh tự Văn Bác. Thái Tổ bình Kinh Châu, sai Linh dẫn năm nghìn tân binh
và một nghìn quân kỵ trấn thủ phía nam huyện Hứa. Thái Tổ răn rằng: "Tân
binh ở Ký Châu, chớ nên đối xử nghiệt ngã, không lâu sẽ tề chỉnh, dù ý còn tấm
tức. Khanh trước đây có tiếng là uy nghiêm, nên khéo dùng đạo lý khoan hoà,
chẳng được như thế tất có biến." Linh đến Dương Địch, Trung lang tướng
Trình Ngang quả nhiên làm phản, Linh lập tức chém Ngang, báo rõ tội trạng. Thái
Tổ tự tay viết thư cho Linh rằng: "Ở trong quân vốn là chỗ nguy hiểm, bên
ngoài phải đối phó với địch quốc, bên trong phòng gian mưu sinh biến khó lường.
Xưa kia Đặng Vũ chia quân cùng Quang Vũ hành quân về Tây, gặp cái hoạ Tông
Hâm-Phùng Âm, về sau chỉ đem được hai mươi bốn quân kỵ về Lạc Dương,
uy vũ há vì thế mà giảm bớt? Lại gửi thư khẩn cầu ngươi có lòng trắc ẩn, sợ
rằng làm quá sẽ đem đến nhiều điều tai hại hơn, vị tất đã như lời nói."
Văn Đế lên tức vị, phong cho Linh tước Du hầu, tăng thêm thực ấp. Chiếu viết:
"Tướng quân phò giúp Tiên đế, giữ việc binh nhiều năm, uy quá
Phương-Thiệu, công vượt Giáng-Quán. Việc hay đã ghi, khen sao cho đủ? Trẫm vâng
mệnh trời, làm vua bốn bể, tướng quân công cao, là bầy tôi xã tắc, được cùng
trẫm hưởng phúc chung vui, mãi đến muôn đời. Nay phong cho ngươi làm Du hầu.
Nhưng được phú quý mà chẳng về cố hương, cũng như mặc áo gấm đi đêm vậy. Bằng
như ngươi có chí nguyện ở nơi nào khác, chớ có nói khó là được." Linh tạ
rằng: "Là Cao Đường, thần xin ở chỗ đó." Vì thế Linh được đổi phong
làm Cao Đường hầu, khi chết, được ban thuỵ hiệu là Uy hầu Bình
rằng: Thái Tổ gây dựng công nghiệp, mà lương tướng lúc đương thời, có năm người
đứng đầu. Vu Cấm rất cương nghị trịnh trọng, nhưng chẳng được vẹn toàn. Trương
Cáp vì khéo quyền biến được người đời khen, Nhạc Tiến vì kiêu dũng quả cảm mà
nổi danh, mà ta xem việc làm của mấy người ấy, không xứng với danh vọng. Ngờ
rằng những ghi chép còn bỏ sót, không như Trương Liêu-Từ Hoảng rất đầy đủ rõ
ràng vậy.
Chú thích:
(1) Đàm và Thượng.
(2) Mỗi doanh quân là năm trăm binh sĩ, như
thế tức là một vạn binh.
VU CẤM TRUYỆN
Vu Cấm
tự Văn Tắc, là người quận Thái Sơn huyện Cự Bình. Hoàng Cân nổi dậy, Bão Tín
chiêu tập binh lính, Cấm đi theo. Khi Thái Tổ cai quản Duyện Châu, Cấm cùng
thuộc hạ đều đến theo, được làm Đô Bá, thuộc quyền tướng quân Vương Lãng. Lãng
thấy Cấm kỳ lạ, tiến cử rằng tài của Cấm gánh vác được việc Đại tướng quân.
Thái Tổ triệu kiến và nói chuyện riêng, rồi bái làm Quân tư mã, sai dẫn binh
đến Từ Châu, đánh huyện Quảng Uy, lấy được, được bái làm Hãm trận Đô uý. Lại theo
đi đánh Lã Bố ở Bộc Dương, cầm riêng quân đánh tan hai doanh trại của Bố ở
Thành Nam, lại biệt phái dẫn quân đi đánh Cao Nhã ở Tu Xương. Sau theo đi đánh
Thọ Trương-Định Đào-Li Hồ, vây Trương Siêu ở Ung Khâu, đều đánh lấy được cả.
Lại theo đi đánh dư đảng Hoàng Cân là bọn Lưu Tích-Hoàng Thiệu, đóng quân ở Bản
Lương , bọn Thiệu đang đêm tập kích vào doanh trại của Thái Tổ, Cấm chỉ huy
quân đánh tan bọn giặc, chém được bọn Thiệu, thu hàng hết được quân lính. Cấm
được thăng làm Bình lỗ Hiệu úy. Rồi tới vây Kiều Nhuy ở đất Khổ, chém được bọn
Nhuy cả thảy bốn tướng.
Cấm lại
theo đến Uyển thành, thu hàng Trương Tú. Tú lại làm phản, Thái Tổ tham chiến
bất lợi, quân bại, lui về Vũ Âm. Bấy giờ lòng quân rối loạn, hết thảy đều oán
trách Thái Tổ, Cấm một mình dẫn theo mấy trăm người, vừa đánh vừa lui, dẫu tử
thương cũng không lìa bỏ nhau. Quân giặc từ từ đuổi theo, Cấm thong thả chỉnh
đốn đội ngũ, đánh trống mà lui. Chưa đến chỗ Thái Tổ, thấy ở trên đường có hơn
chục người bị thương trần truồng bỏ chạy, Cấm hỏi nguyên cớ, họ đáp: "Vì
bị binh Thanh Châu cướp bóc." Nguyên trước đây, Hoàng Cân hàng, gọi là
binh Thanh Châu, Thái Tổ tha cho, vì thế mới dám nhân cơ hội làm giặc cướp. Cấm
nổi giận, hạ lệnh cho mọi người rằng: "Binh Thanh Châu đã về làm thuộc hạ
Tào Công, mà còn quay lại làm giặc ư!" Bèn cho đánh bắt, hạch tội. Binh
Thanh Châu vội chạy đến chỗ Thái Tổ tố cáo. Cấm về đến nơi, trước tiên cho lập
doanh luỹ, không vào yết kiến Thái Tổ ngay. Có người hỏi Cấm: "Binh Thanh
Châu đã tố cáo ngài, ngài nên mau chóng đến chỗ chúa công biện bạch đi."
Cấm nói: "Nay kẻ địch đã ở phía sau, sắp đuổi đến không chừng, chẳng sớm
phòng bị, lấy gì đánh địch? Vả lại chúa công thông minh, lời gièm pha tố cáo
sao lọt được?" Rồi cứ thong thả đào hào an định doanh luỹ xong, mới vào
bái yết, bày giải rõ sự tình. Thái Tổ hài lòng, bảo Cấm rằng: "Việc nguy
nan ở Vị Thuỷ, ta thì vội vã, tướng quân ở chỗ loạn lạc lại có thể chỉnh tề,
đánh kẻ tàn bạo bền doanh luỹ, làm việc có thứ tự chẳng bị động, dẫu danh tướng
ngày xưa, đâu đã hơn được!" Vì thế ghi công trước sau cho Cấm cả, phong
Cấm làm Ích Thọ Đình hầu.
Cấm lại
theo đi đánh Trương Tú ở đất Nhưỡng, cầm giữ Lã Bố ở Hạ Bi, rồi biệt phái cùng
với Sử Hoán-Tào Nhân đi vây đánh Tuy Cố ở Xạ Khuyển, đánh tan bọn giặc chém
được Cố.
Thái Tổ
mới đi đánh Viên Thiệu, binh Thiệu đông, Cấm tình nguyện làm tiên phong. Thái
Tổ cho là hùng tráng, bèn chia cho hai ngàn bộ tốt, sai Cấm làm tướng, giữ Diên
Tân để cự Viên Thiệu, Thái Tổ dẫn quân về Quan Độ.
Lưu Bị
chiếm lấy Từ Châu làm phản, Thái Tổ đông chinh Bị. Thiệu tấn công Cấm, Cấm giữ
chặt, Thiệu không đánh được. Cấm lại cùng bọn Nhạc Tiến dẫn năm ngàn quân bộ
kỵ, đánh vào biệt doanh của Thiệu, theo phía tây nam Diên Tân men sông đến hai
huyện Cấp và Hoạch Gia, đốt rụi hơn ba chục đồn trại, mỗi người đều chém và bắt
được mấy nghìn người, thu hàng tướng của Thiệu là bọn Hà Mậu-Vương Ma hơn hai
chục người. Thái Tổ lại sai Cấm cầm riêng cánh quân đóng ở Nguyên Vũ, đánh vào
biệt doanh của Thiệu ở bến Đỗ Thị, phá được. Cấm được thăng làm Bì tướng quân,
sau theo về Quan Độ.
Thái Tổ
cùng với Thiệu doanh luỹ liền kề, mới đắp toà thổ sơn(1) cùng đối trận. Quân
của Thiệu bắn vào trong doanh trại của Thái Tổ, sĩ tốt bị thương rất nhiều,
quân ở trong kinh hãi. Cấm đốc quân giữ thổ sơn, hết sức chiến đấu, chí khí
càng phấn chấn. Thiệu bị phá, Cấm được thăng làm Thiên tướng quân.
Ký Châu
bình định. Xương Hi lại làm phản, Thái Tổ phái Cấm đến chinh phạt. Cấm gấp rút
tấn công Hi; Hi cùng với Cấm là người quen cũ, đến chỗ Cấm xin hàng. Chư tướng
đều cho rằng Hi đã hàng, nên đưa ngay đến chỗ Thái Tổ, Cấm nói: "Chư quân
không biết thường lệnh của chúa công sao! Bị vây mới ra hàng chẳng tha được. Kẻ
đã vâng mệnh cứ theo phép mà làm, ta phải cân nhắc việc ở trên vậy. Hi tuy là
người quyen cũ, Cấm có thể thất tiết sao!" Rồi tự đến tham dự hành quyết
Hi, sa nước mắt mà chém." Bấy giờ xe quân của Thái Tổ tới, hay được tin ấy
mới than rằng: "Hi hàng chẳng đến chỗ ta lại hàng Cấm, há chẳng phải là số
mệnh sao!" Lại càng tôn trọng Cấm hơn.
Thần
Tùng Chi cho rằng bị vây mới ra hàng, phép dẫu chẳng tha; bắt giam mà đưa đi,
là chưa làm trái mệnh. Cấm từng chẳng vì Hi là bạn cũ vạn nhất mới cầu xin, mà
mặc lòng giết người quen, bỏ qua lời bàn của chúng nhân, sau bị bắt mà hàng,
chết thêm tiếng xấu, thích đáng làm sao.
Đông Hải
đã bình, Cấm được bái làm Hổ oai tướng quân. Sau Cấm cùng với Tang Bá tấn công
Mai Thành, bọn Trương Liêu-Trương Cáp đến đánh dẹp Trần Lan. Cấm đến nơi, Thành
dẫn binh lính hơn ba ngàn người ra hàng. Đã hàng xong lại phản, bọn chúng chạy
đến chỗ Lan. Bọn Liêu cùng với Lan cầm giữ nhau, quân lương thiếu thốn, Cấm vận
lương đến xe trước sau chen chúc, Liêu mới chém được Lan-Thành. Cấm được tăng
thêm thực ấp hai trăm hộ, cộng cả trước đây là hai ngàn hộ. Bấy giờ Cấm cùng
với Trương Liêu-Nhạc Tiến-Trương Cáp-Từ Hoảng đều là danh tướng, Thái Tổ mỗi
khi
chinh
phạt, đều lúc đi cho làm quân tiên phong, quay về cho đi đoạn hậu; mà Cấm trị
quân rất nghiêm chỉnh, lấy được tài vật của địch, vô tư đem nộp, bởi thế được
ban thưởng rất hậu. Nhưng bởi lấy phép chế ngự kẻ dưới, nên rất không được lòng
quân sĩ.
Thái Tổ
thường hận Chu Linh, muốn tước quyền ở quân doanh. Bởi Cấm có uy lớn, Thái Tổ
sai Cấm dẫn mấy chục quân kỵ, mang lệnh thư, đến thẳng doanh trại của Linh đoạt
lấy quân đội, Linh cùng với bộ tướng chẳng ai dám động đậy; Thái Tổ cho Linh
làm bộ hạ dưới trướng Cấm, chúng đều kinh hãi bội phục, mới thấy Cấm đáng sợ
như thế nào. Cấm được thăng lên làm Tả tướng quân, ban cho Giả tiết việt, được
chia thêm thực ấp năm trăm hộ, phong cho một con trai là Liệt hầu.
Năm Kiến
An thứ hai mươi bốn, Thái Tổ ở Trường An, sai Tào Nhân đánh Quan Vũ ở Phàn
Thành, lại phái Cấm giúp đỡ Nhân. Mùa thu, có mưa lớn, Hán thuỷ mênh mông, đất
bằng nước cao mấy trượng, bảy cánh quân của bọn Cấm đều chìm nghỉm. Cấm cùng
với chư tướng trèo lên cao trông ra ngọn nước, không có chỗ trốn tránh, Vũ cưỡi
thuyền lớn tới đánh bọn Cấm, Cấm bèn hàng, chỉ có Bàng Đức chẳng chịu thất tiết
phải chết. Thái Tổ hay tin ấy, thương cảm than thở mãi, nói: "Ta biết Cấm
đã ba mươi năm, sao ngờ lúc lâm nguy gặp nạn, lại chẳng được như Bàng Đưc
ư!" Lúc Tôn Quyền cầm giữ Vũ, bắt hết được binh sĩ, Cấm lại bị bắt về Ngô.
Văn Đế lên ngôi, Quyền xưng thần, sai người đem trả Cấm về. Đế sai dẫn Cấm đến
gặp, thấy râu tóc bạc trắng, hình dung tiều tuỵ, dập đầu chảy nước mắt khóc. Đế
uý lạo hiểu dụ rằng cũng như việc của Tuân Lâm Phụ-Mạnh Minh(2), rồi phong Cấm
làm An Viễn tướng quân.
Nguỵ thư
chép lại bài chế rằng: "Xưa Tuân Lâm Phụ thua bại ở đất Bật, Mạnh Minh mất
quân ở đất Hào, Tần-Tấn chẳng hề bỏ, cho phục hồi tước vị. Về sau Tấn lấy được đất
địch, Tần làm bá ở Tây Nhung, tiểu quốc mỏn mọn, còn làm được như thế, huống
chi nước vạn thặng không được thế sao? Việc thua quân ở Phàn Thành, là thuỷ tai
ập đến, chẳng phải lỗi đánh trận, nay phục hồi tất cả chức quan của Cấm."
Lại phái
đi sứ Ngô, trước tiên lệnh đi lên Bắc đến huyện Nghiệp yết kiến Cao Lăng(3). Đế
sai người sớm vẽ ở trên tường lăng mộ bức hoạ Quan Vũ thắng trận, Bàng Đức phẫn
nộ, Cấm trong bộ dạng hàng phục. Cấm xem rồi, hổ thẹn mang lòng tức giận phát
bệnh mà chết. Con Cấm là Khuê nối tự được phong Ích Thọ Đình hầu. Cấm được ban
thuỵ hiệu là Lệ hầu.
Chú thích
(1) Núi đất.
(2) Hai người này là dũng tướng của hai nước
Tần, Tấn thời Xuân Thu, đi đánh trận bị thua, vẫn được dùng, sau này lập nên
công trạng hiển hách.
(3) Tào Tháo chết, Tào Phi lên thay, lúc xưng
đế, an táng cha ở Cao Lăng.
NGỤY THƯ QUYỂN 18 - Nhị Lý Tang Văn Lã Hứa
Điển nhị Bàng Diêm truyện
Lý Điển, Lý Thông, Tang Bá, Tôn Quan, Văn
Sính, Lã Kiền, Hứa Chử, Điển Vi, Bàng Đức, Bàng Dục, Diêm Ôn
BÀNG ĐỨC TRUYỆN
Bàng Đức
tự Lệnh Minh, người quận Nam An huyện Hoàn Đạo. Thời trẻ làm lại ở châu quận,
chức Tòng sự. Năm Sơ Bình trung, theo Mã Đằng đánh dẹp các tộc Khương-Đê làm
phản. Mấy lần lập được chiến công, ít lâu được thăng lên chức Hiệu uý. Năm Kiến
An trung, Thái tổ đánh dẹp Đàm-Thượng ở Lê Dương, Đàm phái bọn Quách Viên-Cao
Cán cướp lấy vùng Hà Đông, Thái tổ sai Chung Do đốc suất các chư tướng ở Quan
Trung đánh dẹp bọn ấy. Đức đi theo con của Đằng là Siêu chống cự Viên-Cán ở
Bình Dương, Đức làm tiên phong, tiến đánh Viên-Cán, đại phá quân địch, đích
thân chém đầu Viên.
Nguỵ
lược chép: Đức chém được một thủ cấp, không biết đó là Viên. Sau khi tan cuộc
chiến, chúng nhân đều nói Viên đã chết mà không tìm được thủ cấp. Viên, là cháu
ngoại của Chung Do. Về sau Đức từ từ bỏ cái túi xuống thì bên trong có một cái
đầu rơi ra, Do nhìn thấy cái đầu ấy liền khóc. Đức tạ lỗi với Do, Do nói:
"Viên tuy là cháu ta, nhưng là kẻ quốc tặc. Khanh hà cớ gì mà tạ ta?"
Đức được
bái làm Trung lang tướng, tước Đô đình hầu. Sau này Trương Bạch Kỵ làm phản ở
Hoằng Nông, Đức lại theo Đằng đi chinh phạt, phá Bạch Kỵ ở vùng Lưỡng Hào. Mỗi
khi xuất chiến, thường xung phong hãm trận đánh lui quân địch, dũng khí trùm ba
quân. Sau Đằng được vời về làm Vệ Uý, Đức ở lại làm thuộc hạ của Siêu. Thái tổ
phá Siêu ở Vị Nam, Đức theo Siêu trốn vào vùng Hán Dương, giữ Ký thành. Sau lại
theo Siêu chạy vào Hán Trung, nương nhờ Trương Lỗ. Thái tổ bình định Hán Trung,
Đức theo chúng nhân ra hàng. Thái tổ thấy Đức kiêu dũng, lập tức bái làm Nghĩa
tướng quân, phong tước Quan Môn Đình hầu, ăn lộc ba trăm hộ.
Bọn Hầu
Âm-Vệ Khai làm phản ở huyện Uyển, Đức dẫn quân bản bộ hợp với Tào Nhân cùng vây
đánh huyện Uyển, chém Âm-Khai, rồi xuôi Nam đóng quân ở Phàn thành, đánh Quan
Vũ. Các tướng ở Phàn thành thấy anh họ của Đức ở Hán Trung, đều nghi ngờ.
Nguỵ
lược chép: Anh họ của Đức tên Nhu, bấy giờ ở đất Thục.
Đức
thường nói rằng: "Ta đã chịu quốc ân, về nghĩa phải lấy cái chết để báo
đáp. Ta muốn thân chinh đi đánh Quan Vũ. Năm nay nếu ta không giết được Vũ, tất
Vũ sẽ giết ta." Sau thân chinh cùng với Quan Vũ giao chiến, bắn trúng vào
trán Vũ. Bấy giờ Đức thường cưỡi ngựa trắng, quân của Vũ gọi Đức là Bạch mã
tướng quân, mọi người đều kiêng sợ. Nhân sai Đức đóng quân cách phía bắc Phàn
Thành mười dặm, gặp lúc trời đổ mưa lớn hơn mười ngày, nước sông Hán mênh mông,
dưới chân Phàn Thành đất bằng sâu năm sáu trượng, Đức cùng chư tướng tránh nước
ngập ở trên đê. Vũ cưỡi thuyền đến đánh, lính ở trên thuyền lớn bốn bề cùng bắn
tên lên trên đê. Đức không mặc áo giáp che tên, nhưng tên không bắn trúng.
Tướng quân Đổng Hành và bộ tướng là Đổng Siêu muốn hàng, đều bị Đức chém chết.
Giao chiến từ sáng sớm đến quá trưa, Vũ càng đánh mạnh, tên hết nhắn, lại dùng
đoản binh đánh tiếp. Đức bảo Đốc tướng là Thành Hà rằng: "Ta nghe bậc
lương tướng chẳng sợ cái chết để cẩu thả thoát thân, kẻ sĩ cứng cỏi chẳng huỷ
danh tiết để cầu sống, hôm nay, là ngày ta chết đây." Rồi càng đánh càng
hăng, khí thế càng mạnh mẽ, nhưng nước dần dâng cao, tướng sĩ đều ra hàng. Đức
cùng một viên tướng cầm cờ chỉ huy, là hai người khoẻ nhất, cùng giương cung
đặt tên, cưỡi một chiếc thuyền nhỏ định quay về doanh trại của Nhân. Nước lớn
thuyền bị lật, cung tên rơi mất, chỉ đành bám vào chiếc thuyền trôi trong làn
nước, lúc bị Vũ bắt được, Đức đứng thẳng không chịu quỳ. Vũ bảo rằng: "Anh
ngươi ở Hán Trung, ta muốn dùng ngươi làm tướng, sao chẳng sớm hàng đi?"
Đức chửi Vũ rằng: "Thằng ranh con, sao dám bảo ta hàng! Nguỵ vương có trăm
vạn giáp binh, uy chấn thiên hạ. Lưu Bị nhà mày chỉ là kẻ tầm thường thôi, há
có thể địch nổi sao! Ta thà làm con ma ở nước Nguỵ, chẳng thèm làm tướng của lũ
nghịch tặc vậy." Sau cùng Đức bị Quan Vũ giết hại. Thái tổ nghe tin rất
đau xót, khóc rỏ nước mắt, rồi phong cho hai con làm Liệt hầu. Văn đế lên tức
vương vị, liền sai người tới mộ Bàng Đức ban cho thuỵ hiệu, có chiếu sách rằng:
"Trước kia Tiên Chẩn bị giết mất đầu, Vương Trục đâm cổ tự vẫn, bỏ thân
tuẫn tiết, đời xưa đã ngợi khen(1). Nghĩ rằng sự quả cảm cương nghị của quân
hầu đã sáng rõ, việc vong thân vì quốc nạn đã thành danh, nổi tiếng đương thời,
nghĩa cao sánh với tiền nhân, quả nhân thương xót lắm, nay ban cho thuỵ là
Tráng hầu(2)." Lại ban cho bốn người bọn Hội(3) tước Quan nội hầu, đều
được thực ấp trăm hộ. Hội có phong độ dũng liệt của cha, làm quan đến chức
Trung uý tướng quân, tước Liệt hầu.
Thục ký
của Vương Ẩn chép: Chung Hội bình Thục, đem theo một đội quan nhạc, rước thi
hài Đức về an táng ở huyện Nghiệp, trong mộ đầy đủ thân thủ như lúc sinh tiền.
Thần
Tùng Chi xét rằng Đức chết ở Phàn thành, Văn đế lên tức vị, lại phái sứ giả đến
chỗ mộ của Đức, thì thi thể của Đức chẳng thể ở Thục được. Thế thì cái thuyết
của Vương Ẩn là hão huyền vậy.
Chú thích:
(1) Tiên Chẩn là nguyên soái nước Tấn, ra trận
bị giặc bắt, không hàng, giặc cắt lấy đầu; Vương Trục là tướng nước Tề, đi đánh
trận, bị giặc bắt, không chịu hàng, đâm cổ tự vẫn. Hai người đều nổi danh, được
đời sau ca ngợi.
(2) Tráng là mạnh mẽ vậy.
(3) Tức Bàng Hội.
ĐIỂN VI TRUYỆN
Điển Vi,
người quận Trần Lưu huyện Di Ngô (1). Tướng mạo khôi ngô, sức lực hơn người, có
chí lớn và khí tiết, thường hành hiệp trượng nghĩa. Lưu thị ở Tương ấp (2) có
thù oán với Lý Vĩnh ở Tuy Dương (3), nhờ Vi báo thù giúp. Trước Vĩnh từng làm
huyện trưởng huyện Phú Xuân (4), canh cổng rất nghiêm ngặt. Vi ngồi xe mang gà
rượu tới, giả làm khách, cửa mở ra, đem theo chủy thủ vào giết Vĩnh, còn giết
cả vợ y, sau đó từ từ đi ra, lấy đôi kích trên xe, bỏ đi. Gần nơi Vĩnh ở, tất
cả đều vô cùng sợ hãi. Người đuổi theo có mấy trăm, đều không dám đến gần. Đi
được bốn năm dặm, gặp được đồng bạn, nhờ thế không phải đánh nhau nữa mà thoát
được đi. Qua việc này hào kiệt khắp nơi đều biết tiếng.
Giữa năm
Sơ Bình (5), Trang Mạc dấy binh khởi nghĩa, Vi theo làm lính, ở dưới trướng của
Tư mã Triệu Sủng. Cờ trong nha môn vừa dài vừa to, không ai nâng lên được, Vi
một tay nhấc lên, Sủng kinh ngạc vì sức mạnh đó. Sau này đi theo Hạ Hầu Đôn,
mấy lần chém đầu giặc lập công, được phong làm Tư mã.
Thái Tổ thảo phạt Lữ Bố ở Bộc Dương (6). Bố có một nhánh quân khác đồn trú ở
phía tây Bộc Dương, cách Bộc Dương chừng bốn năm mươi dặm, Thái Tổ nhân đêm
đánh úp, đến khi trời sáng thì phá được. Chưa kịp trở về, gặp cứu binh của Bố
phái tới, ba mặt vây công. Lúc đó Bố đích thân dẫn quân đến đánh, từ sáng sớm
cho tới lúc mặt trời lặn, đánh nhau mấy chục lần, giằng co quyết liệt. Thái Tổ
chiêu mộ người xông lên hãm trận, Vi dẫn đầu, đem theo mấy chục người ứng mộ,
tất cả đều mặc hai lớp giáp nặng, vứt bỏ thuẫn, chỉ cầm trường mâu trường kích.
Lúc đó phía tây lại khẩn cấp, Vi lao vào, cung nỏ của giặc bắn bừa ra, tên bay
tới như mưa, Vi coi như không thấy, bảo với mấy người thủ hạ của mình rằng:
"Khi nào giặc còn cách mười bước thì bảo ta." Mấy thủ hạ nói:
"Mười bước rồi." Vi lại nói: "Năm bước thì gọi." Mọi người
đều sợ, vội vã nói: "Địch đến rồi!" Vi tay cầm hơn mười chiếc kích,
hô lớn mà lao lên, những người ngăn cản đều không ai không bị đánh ngã. Quân
của Bố cuối cùng cũng lui, lúc đó trời cũng vừa tối. Thái Tổ bèn dẫn quân về.
Sau chuyện này được phong làm Đô úy, làm tả hữu bên cạnh Thái Tổ. Vi mang theo
thân binh mấy trăm người, thường xuyên đi vòng quanh đại trướng. Vi khỏe mạnh
giỏi võ, các tướng sĩ dưới quyền cũng đều là được tuyển lựa, mỗi lần chiến đấu
thường đi đầu hãm trận. Vì thế được thăng làm Hiệu úy. Tính tình trung thành
cẩn thận, thường hầu hạ bên Thái Tổ cả ngày, đêm ngủ ở trướng bên cạnh, hiếm
khi về nhà riêng. Thích uống rượu, tửu lượng hơn người, mỗi lần được tham gia
yến tiệc đều ăn mạnh uống khỏe, bên cạnh phải có mấy người cung ứng không ngừng
mới đủ, Thái Tổ cho là tráng sĩ. Vi thích dùng những loại vũ khí như song kích
lớn và trường đao, trong quân đều thường nói với nhau rằng: "Tráng sĩ dưới
trướng có Điển quân, nâng đôi song kích tám mươi cân."
Thái Tổ
chinh thảo Kinh Châu, đển Uyển thành (7), Trương Tú tới đầu hàng. Thái Tổ vô
cùng mừng rỡ, khoản đãi Tú và các tướng soái, bày tiệc rượu thịnh soạn. Khi
Thái Tổ mời rượu, Vi cầm búa lớn đứng sau, lưỡi búa dài tới cả thước, Thái Tổ
tới trước mặt ai, Vi liền giơ búa nhìn chăm chăm vào người đó. Tiệc rượu tàn,
Tú và các tướng soái vẫn không dám ngẩng lên nhìn. Mười mấy ngày sau Tú làm
phản, đánh úp doanh trại của Thái Tổ, Thái Tổ xuất chiến bất lợi, được khinh kỵ
dẫn đi. Vi đứng đánh ở giữa cửa, giặc không thể vào trong, chỉ có thể chia ra
theo các cửa khác mà vào. Lúc đó bên Vi còn có hơn mười người, đều liều mình tử
chiến, không ai không phải là một địch mười. Giặc ở trước sau đều đến khá
nhiều, Vi dùng trường kích đánh phải đánh trái, đâm vào một cái, mười mấy người
liền đổ gục. Người bên cạnh đã tử thương gần hết, Vi cũng bị mấy chục vết
thương, vẫn dùng binh khí ngắn tiếp chiến, vật lộn với quân địch. Vi kẹp chết
hai tên giặc, giặc không dám tiến đến nữa. Vi lại lao lên phía trước đánh giết
quân giặc, giết được mấy người, vết thương nặng thêm, cuối cùng trợn trừng mắt
mắng lớn rồi chết. Lúc này giặc mới dám tiến đến phía trước, cắt lấy đầu Vi,
đưa cho nhau xem, còn tranh nhau tới gần xem thân thể Vi. Thái Tổ lùi đến Vũ Âm
(8), nghe tin Vi chết, rơi nước mắt, chiêu mộ dũng sĩ nhân lúc địch không phòng
bị lấy xác Vi về, phát tang cho Vi. Thái Tổ còn đích thân đến trước linh cữu
bái tế, phái người đưa linh cữu về Tương ấp chôn, phong con là Mãn làm Lang
trung. Mỗi lần xa giá đi qua thường dừng lại bái tế. Thái Tổ nhớ đến Vi, phong
Mãn làm Tư mã, cho ở bên cạnh mình. Văn Đế kế thừa vương vị, phong Mãn làm Đô
úy, ban cho tước Quan nội hầu.
Chú thích:
(1): Phía tây nam huyện Ninh Lăng tỉnh Hà Nam
ngày nay. (2): Phía tây huyện Tuy tỉnh Hà Nam nay.
(3): Phía nam huyện Thương Khâu tỉnh Hà Nam
nay. (4): Huyện Phú Dương tỉnh Triết Giang ngày nay. (5): Niên hiệu của Hán
Hiến Đế.
(6): Phía nam huyện Bộc Dương tỉnh Hà Bắc ngày
nay.
(7): Thành phố Nam Dương tỉnh Hà Nam ngày nay.
(8): Phía tây bắc huyện Tất Dương tỉnh Hà Nam
ngày nay.
HỨA CHỬ TRUYỆN
Hứa Chử
tự Trọng Khang, người huyện Tiếu nước Tiếu (1). Người cao hơn tám thước, eo
rộng mười vi (2), dung mạo hùng vĩ, dũng lực hơn người. Cuối đời Hán, tụ tập
thiếu niên và người trong tông tộc mấy ngàn nhà, cùng xây thành vững chống giặc
cỏ. Khi hơn vạn quân giặc của Cát Pha ở Nhữ Nam(3) tới đánh thành của Chử, Chử
ít người không địch nổi, sức lực cạn kiệt. Tên cũng dùng hết, bèn lệnh cho nam
nữ trong thành đi tìm những hòn đá to bằng cái đầu chày về đặt ở bốn góc. Chử
lấy đá ném ra, kẻ bị trúng đều chết ngay. Giặc không dám tiến nữa. Chử thiếu
lương, bèn giàn hòa với giặc, lấy bò đổi lấy lương thực của giặc, giặc tới lấy
bò đi, bò lại chạy trở về. Chử lao ra trước trận, một tay kéo ngược đuôi bồ, đi
hơn trăm bước. Giặc đều sợ hãi, không dám lấy bò mà rút đi luôn. Từ đó giặc ở
các vùng Hoài(4), Nhữ(5), Trần(6), Lương(7) đều nghe danh mà sợ hãi.
Khi Thái
Tổ đi đánh Hoài, Nhữ, Chử dẫn quân đi theo Thái Tổ. Thái Tổ thấy Chử khỏe mạnh
liền nói: "Ngươi thực là Phàn Khoái(8) của ta." Lập tức phong làm Đô
úy, cho làm phụ tá. Các hiệp khách đi theo Chữ cùng đều được phong làm Hổ sĩ.
Từng theo đi đánh Trương Tú, đi đầu, chém được hơn vạn thủ cấp, được thăng lên
làm Hiệu úy. Từng theo đi đánh Viên Thiệu ở Quan Độ(9). Lúc đó, bọn Từ Tha
thường theo hầu (Thái Tổ) có ý làm phản, thấy Chử thường ở bên hầu hạ, sợ không
dám phát. Đợi đến ngày nghỉ của Chử, chúng giấu đao vào ngực mà đi vào. Chử về
đến nhà thì trong lòng cảm thấy kinh sợ, lập tức quay lại hầu hạ. Bọn Tha không
biết, vào trướng thấy Chử thì đều rất kinh ngạc, sắc mặt biến đổi, Chử phát
giác ra, lập tức giết chết bọn Tha. Từ đó Thái Tổ liền coi như thân tín, ra vào
cùng đi, không rời nửa bước. Từng vây đất Nghiệp, lập được công lao, được ban
tước quan Nội hầu. Từng theo đánh Hàn Toại, Mã Siêu ở Đồng Quan(10). Thái Tổ
sắp vượt sông lên phía bắc, đến bờ sông, binh qua trước, một mình cùng Chử và
hơn trăm Hổ sĩ lưu lại bờ nam đoạn hậu. Siêu dẫn hơn vạn quân bộ kỵ, lao thẳng
tới quân của Thái Tổ, tên bắn tới như mưa. Chử nói với Thái Tổ : "Giặc đến
nhiều, giờ quân đã qua sông hết, nên đi!" Giặc đánh gấp, quân sĩ tranh
nhau qua sông, thuyền nặng sắp chìm. Chử chém kẻ bám vào thuyền, tay trái đưa
cái yên ngựa lên che cho Thái Tổ. Người chèo thuyền bị trúng tên chết, Chử lấy
tay phải đẩy thuyền, nhờ đó mới qua sông được. Ngày đó, nếu không có Chử thì đã
nguy hiểm rồi. Sau này Thái Tổ và Toại, Siêu hội đàm riêng, tả hữu đều không
được đi theo, duy chỉ mang Chử. Siêu cậy sức mạnh, muốn lao lên trước đánh Thái
Tổ, nghe tiếng Chử khỏe, nghi tùy tùng kia là Chử, bèn hỏi Thái Tổ: "Hổ
Hầu của ngài có ở đây chăng?" Thái Tổ chỉ vào Chử, Chử bèn trợn trừng mắt
nhìn Siêu. Siêu không dám động, hai bên lại trở về trại của mình. Mấy ngày sau
chiến đấu, đại phá bọn Siêu, Chử chém được nhiều thủ cấp, được phong làm Võ vệ
trung lang tướng. Danh hiệu Võ Vệ chính là có được từ đây. Trong quân thấy Chử
sức mạnh như hổ mà lại chất phác, liền gọi là Hổ Si; bởi vì Siêu từng hỏi Hổ
Hầu, cho đến giờ khi thiên hạ gọi đến danh hiệu này, đều cho rằng đó là tên của
Chử.
Chử tính
tình cẩn trọng tuân thủ pháp luật, không thích nói nhiều. Tào Nhân từ Kinh Châu
tới triều yết, Thái Tổ chưa ra, đi vào thì gặp Chử ở ngoài điện. Nhân gọi Chử
ngồi xuống nói chuyện. Chử nói: "Vương sắp ra rồi." Lập tức đi vào
trong điện, Nhân rất căm hận. Có người trách cứ Chử: "Chinh Nam(11) là
tông thất trọng thần, ông ấy chịu hạ mình gọi ngài, sao ngài lại từ chối?"
Chử nói: "Ông ấy tuy là vừa là trọng thần vừa là người thân của Vương,
nhưng lại thủ ở bên ngoài. Chử là nội thần, nói chuyện trước đông người thì
được, sao có thể nói chuyện tiêng?" Thái Tổ nghe vậy thì càng thêm yêu
mến, thăng làm Trung kiên tướng quân. Thái Tổ băng hà, Chử khóc ra cả máu. Văn
Đế lên ngôi, tiến phong Vạn tuế đình hầu, thăng làm Võ vệ tướng quân, đô đốc
trung quân túc vệ cấm binh, cực kỳ sủng ái. Trước đây, những người đi theo Chử
được phong làm Hổ sĩ, Thái Tổ cho rằng đều là tráng sĩ, phong hết làm tướng,
sau này có tới mấy chục người lập công được thăng làm tướng quân và được phong
hầu, được phong làm Đô úy, Hiệu úy có hơn trăm người, đều là kiếm khách. Minh
Đế lên ngôi, (Chử) được thăng làm Mâu hương hầu, thưởng cho bảy trăm hộ làm ấp
phong, lại phong cho một người con của Chử làm quan Nội hầu. Chử chết, được ban
thụy hiệu Tráng hầu. Con là Nghĩa kế thừa chức vị. Anh Chử là Định, cũng lập
được quân công và được phong là Chấn uy tướng quân, đô đốc quân Hổ Bôn. Năm
Thái Hòa(12), vua nghĩ đến lòng trung hiếu của Chử, hạ chiếu biểu dương, lại
phong cho hai người con và cháu của Chử tước quan Nội hầu. Đầu năm Thái
Thủy(13), Nghi bị Chung Hội giết, con là Tông kế chức.
Chú thích:
(1) Huyện Tiêu đất Tiếu: Huyện Bạc tỉnh An Huy
ngày nay.
(2) Vi: Đơn vị đo độ dài, một vi bằng độ dài
của vòng khép kín khi hai ngón tay trỏ và ngón tay cái khép vào nhau.
(3) Phía đông nam huyện Nhữ Nam tỉnh Hà Nam
ngày nay.
(4) Hoài: Phía nam huyện Nam Lăng tỉnh An Huy
ngày nay.
(5) Nhữ: Huyện Nhữ Thành tỉnh Hồ Nam ngày nay.
(6) Trần: Phía đông huyện Khai Phong tỉnh Hà
Nam, phía bắc huyện Bạc tỉnh An Huy ngày nay.
(7) Lương: Phía nam huyện Hàn Thành tỉnh Thiểm
Tây ngày nay.
(8) Phàn Khoái: Danh tướng của Hán Cao Tổ.
(9) Quan Độ: Phía đông bắc huyện Trung Mậu
tỉnh Hà Nam ngày nay.
(10) Đồng Quan: Phía đông nam huyện Đồng Quan
tỉnh Thiểm Tây ngày nay.
(11) Chinh Nam: Tào Nhân được phong Chinh Nam
tướng quân.
(12) Thái Hòa: Niên hiệu của Ngụy Minh Đế.
(13) Thái Thủy: Niên hiệu của Tấn Vũ Đế.
LÝ THÔNG TRUYỆN
Lý Thông
tự Văn Đạt, người quận Giang Hạ huyện Bình Xuân. Nguỵ lược chép: Thông có tiểu
tự là Vạn Ức.
Thông có
tiếng là hào hiệp ở vùng Giang-Nhữ(1). Cùng với người trong quận là Trần Cung
cùng khởi binh ở Lãng Lăng, dân chúng đều quy phục. Bấy giờ có người tên là Chu
Trực, bộ thuộc có hơn hai nghìn nhà, đối với Cung-Thông ngoài mặt thì hoà mục
mà trong bụng lại đối địch. Thông có ý đồ giết Trực nhưng Cung lại ngần ngại.
Thông biết Cung không dứt khoát, bèn một mình định kế, hẹn gặp Trực, mời uống
rượu rồi giết Trực. Chúng nhân nhiễu loạn, Thông dẫn Cung đi tru diệt bè đảng
của chúng, thâu tóm hết quân ở các doanh trại. Về sau em vợ Cung là Trần Cáp,
giết Cung chiếm lấy binh ấy. Thông đánh tan quân của Cáp, chém đầu Cáp để tế
trước mộ Cung. Lại bắt sống đại soái quân Hoàng Cân là Ngô Bá rồi thu hàng đám
thuộc hạ ấy. Gặp năm mất mùa lớn, Thông dốc hết gia tài để cứu giúp mọi người,
cùng với quân sĩ chia cả cám bã, tranh nhau dùng, bởi thế đạo tặc chẳng dám xâm
phạm.
Năm Kiến
An sơ, Thông đem binh đến chỗ Thái tổ ở Hứa huyện. Thái tổ bái Thông làm Chấn
uy Trung lang tướng, đóng binh ở phía tây địa giới Nhữ Nam . Thái tổ đánh
Trương Tú, Lưu Biểu phái binh đến trợ giúp Tú, quân Thái tổ gặp bất lợi. Thông
dẫn binh đi thâu đêm đến chỗ Thái tổ, Thái tổ được quân ấy lại đánh tiếp, Thông
xông xáo lên trước, đại phá quân Tú. Nhân đó được bái làm Bì tướng quân, phong
tước Kiến công hầu. Thái tổ chia Nhữ Nam thành hai huyện, lấy Thông làm Đô uý
huyện Dương An.
Bác vợ
của Thông phạm pháp, trưởng huyện lãng Lăng là Triệu Nghiễm bắt lấy trừng trị,
khép tội tử hình. Bấy giờ quyền sinh quyền sát do mục thú(2) quyết định, vợ con
Thông gào khóc xin cứu mạng, Thông nói: "Nay ta cùng với Tào công chung
sức, về nghĩa thì chẳng thể vì việc riêng mà phế bỏ việc công được." Lại
khen Nghiễm chấp pháp đúng đắn không a dua bè phái, bèn cùng kết làm thân giao.
Thái tổ
cùng Viên Thiệu đang cự nhau ở Quan Độ. Thiệu phái sứ giả đến phong cho Thông
làm Chinh nam tướng quân, Lưu Biểu cũng ngầm chiêu dụ, Thông đều cự tuyệt.
Thuộc hạ thân thích của Thông khóc nói: "Nay chúng ta trơ trọi một mình ở
chỗ nguy, đã mất sự viện trợ lớn, không thể đứng mà đợi được, chẳng bằng theo
ngay Thiệu." Thông vỗ gươm mắng chúng rằng: "Tào công là bậc minh
triết, tất yên định được thiên hạ. Thiệu tuy cường thịnh, nhưng dùng người
không chính đáng, kết cục sẽ bị bắt sống thôi. Ta có chết cũng không hai
lòng." Lập tức chém sứ của Thiệu, đem ấn thụ đến chỗ Thái tổ. Lại đánh
quân giặc ở trong quận là bọn Cù Cung-Giang Cung-Trầm Thành, đều phá tan quân
địch, chém thủ cấp đưa đi. Sau bình định được đất Hoài-Nhữ. Được đổi phong tước
Đô đình hầu, bái làm Thái thú Nhữ Nam .
Thời ấy
bọn giặc là Trương Xích có hơn năm nghìn nhà tụ họp ở Đào Sơn, Thông vây đánh
phá được.
Lưu Bị
và Chu Du vây Tào Nhân ở Giang Lăng, biệt phái Quan Vũ cắt đứt đường lên bắc. Thông
dẫn binh đánh Vũ, lại xuống ngựa nhổ hết chông chà(3) xông vào vòng vây, vừa
đánh vừa tiến lên, nghênh đón quân của Nhân, dũng mãnh đứng đầu chư tướng.
Thông bị
ốm chết ở trên đường, bấy giờ mới có bốn mươi hai tuổi. Được truy tặng thực ấp
hai trăm hộ, gồm cả trước đó là bốn trăm hộ. Văn đế lên ngôi, ban cho thuỵ hiệu
là Cương hầu. Chiếu viết: "Trước kia gặp cái nạn Viên Thiệu, từ đất Hứa,
đất Thái(4) về Nam, người người đều có dị tâm. Thông giữ nghĩa chẳng chút đoái
hoài, khiến những kẻ hai lòng phải phục tùng, trẫm rất ngợi khen. Song bất hạnh
mà chết sớm, con là Cơ dù đã được tập tước(5), vẫn chưa đủ đền đáp công lao.
Anh của Cơ là Tự, trước đóng quân ở Phàn thành, vừa lập được công. Cả đời dốc
lòng lao khó, nay cho Cơ làm Phụng nghĩa Trung lang tướng, Tự làm Bình lỗ Trung
lang tướng, cho hưởng ân huệ khác thường."
Tấn thư
của Vương Ẩn chép: Con Tự là Bỉnh, tự Huyền Trụ, có tài trí, thời bấy giờ rất
quý hiển, làm quan đến chức Thứ sử Tần châu. Bỉnh thường được nói chuyện với Tư
Mã Văn Vương, nhân đó răn bảo người nhà rằng: "Có lần ta đang ngồi hầu ở
chỗ Tiên đế, thì có ba vị trưởng lại đến cầu kiến. Ta toan từ tạ lui ra, bề
trên bảo: 'Làm trưởng quan phải trong sạch, phải cẩn thận, phải chuyên cần, tu
được ba điều ấy, sao phải lo chẳng cai trị được dân?' Rồi họ đều được thụ
chiếu. Họ đã ra ngoài rồi, bề trên ngoảnh sang chỗ bọn ta nói: 'Điều ta vừa dạy
các ngươi thấy có chính đáng không?' Đám người hầu ngồi đó, chẳng ai không tán
dương. Bề trên lại hỏi rằng: 'Ắt hẳn không đúng lắm, ở chỗ ba điều ấy thì điều
nào trước tiên.' Có kẻ nói rằng: 'Trong sạch cố nhiên là gốc rễ.' Ngài lại quay
sang hỏi đến ta, ta thưa rằng: 'Cái đạo của sự trong sạch cẩn thận, là nhờ tu
dưỡng mà có được, đó là cái bất đắc dĩ, cẩn thận phải đứng đầu. Kẻ trong sạch
không hẳn đã cẩn thận, kẻ cẩn thận tất là trong sạch, cũng như bậc nhân giả hẳn
có dũng khí, kẻ có dũng khí chưa hẳn đã có lòng nhân, thế nên Dịch nói bao quát
mà không sai lầm, cái chiếu để nằm phải dùng bằng lá cọ trắng, đều là cẩn thận
đến cùng cực vậy.' Bề trên nói: 'Lời khanh nói rất lọt tai. Ngươi có thể kể ra
xem gần đây có ai là người cẩn thận chăng?' Mọi người đều chưa biết đối đáp ra
sao, ta bèn nói rằng cố Thái uý Tuân Cảnh Thiến, Thượng thư Đổng Trọng Liên,
Bộc xạ Vương Công Trọng(6) đều có thể nói là những người cẩn thận. Bề trên nói:
'Những bậc nhân giả ấy, sớm tối khiêm cung ôn hoà, coi việc thì kính cẩn, cũng
đều là những người cẩn thận cả. Nhưng người cẩn thận trong thiên hạ, ta nghĩ là
chỉ có Nguyễn Tự Tông(7) vậy! Mỗi lời của người ấy, toàn đề cập đến những điều
huyền bí xa xôi, mà chưa từng bình luận về việc đương thời, hay xét đến các
nhân vật, chân thực thì có thể bảo là cẩn thận đến cùng cực vậy.' Ta thường
nghĩ đến những lời ấy, cũng đủ thấy đó là những lời răn bảo sáng suốt. Phàm con
người ta hành sự, niên thiếu thì lập thân, chẳng thể cẩn thận được, chớ coi rẻ
chuyện luận nhân, chớ khinh thường chuyện nói về công việc, như thế thì hối hận
sao có lí do để sinh ra, hoạ hoạn không thể từ đâu mà đến được vậy." Con
Bỉnh là Trọng, tự Mậu Tằng. Thuở nhỏ nổi danh, từng làm Lại ở Bộ lang, Thái thú
Bình Dương.
Tấn chư
công tán chép: Trọng vì trong sạch được Chúa thượng khen. Tướng quốc Triệu
Vương Luân thấy Trọng được ngưỡng vọng mới lấy làm Hữu tư mã. Trọng thấy Luân
có tướng làm loạn, từ chối có bệnh không nhận chức. Luân bức bách không thôi,
Trọng bèn không chịu đi lại, đến nỗi đổ bệnh, phải cho người đỡ dậy nhận thụ
phong, mấy ngày sau chết, được phong tặng chức Tán kỵ thường thị. Trọng có hai
em, Thượng tự Mậu Trọng, Củ tự Mậu Ước, năm Vĩnh Gia trung đều làm Điển quận;
Củ làm đến chức Thứ sử Giang Châu. Con Trọng là Thức, tự Cảnh Tắc, làm quan đến
chức Thị trung.
Chú thích:
(1) Quanh vùng Trường Giang và Nhữ Nam .
(2) Châu mục, quận thú.
(3) Nguyên văn 'hạ mã bạt lộc giác', nghĩa đen
là xuống ngựa nhổ sừng hươu, tạm luận nghĩa mà dịch.
(4) Tức Hứa Xương và đất thuộc nước Thái thời
chư hầu nhà Chu .
(5) Con được thừa kế nối theo tước của cha.
(6) Không biết là những người nào?
(7) Cũng không biết là ai?
VĂN SÍNH TRUYỆN
Văn Sính
tự Trọng Nghiệp, người quận Nam Dương huyện Uyển, là đại tướng của Lưu Biểu,
được sai chống giữ phương Bắc. Biểu chết, con là Tông kế nghiệp. Thái tổ đi
đánh Kinh châu, Tông dâng cả châu ra hàng, gọi Sính đến với mình, Sính nói:
"Sính này chẳng có tài giữ vẹn toàn châu quận, chỉ là kẻ đang chờ bắt tội
mà thôi." Thái tổ qua sông Hán, Sính bèn đến thẳng chỗ Thái tổ, Thái tổ
hỏi rằng: "Sao ngươi đến chậm thế?" Sính nói: "Ngày trước Sính
chẳng thể giúp được Lưu Kinh châu phụng sự quốc gia, Lưu Kinh châu tuy đã mất,
Sính vẫn còn giữ đất Hán Xuyên, là để bảo toàn địa giới, sống chẳng phụ lại con
côi thơ dại, chết không thẹn với người ở dưới đất, nhưng mưu tính bất thành, để
đến nỗi như thế này. Thật đau lòng hổ thẹn, không mặt mũi nào mà đến sớm
được." Rồi sụt sùi chảy nước mắt. Thái tổ lấy làm thương cảm bèn nói:
"Trọng Nghiệp, ngươi thật là trung thần vậy." Sau lấy lễ mà đối đãi.
Lại trao trả Sính binh Quyền, sai cùng với Tào Thuần đuổi đánh Lưu Bị ở Trường
Bản. Thái tổ muốn
yên định Kinh châu, song quận Giang Hạ tiếp giáp với đất Ngô, lòng dân chưa yên
định, bèn cho Sính làm Thái thú Giang Hạ, sai coi giữ quân phương Bắc, uỷ thác
các việc nơi biên cảnh, ban cho tước Quan nội hầu.
Tôn
Thịnh nói: Phụng dưỡng cha mẹ hay thờ vua, cái đạo trung hiếu chỉ có một mà
thôi. Tang Bá thuở nhỏ được khen là hiếu thuận cứng cỏi, Văn Sính trung thành
mà rơi lệ, thế nên Ngụy Vũ chỉ một lần gặp mặt, đã uỷ thác việc quân chính cho
hai người, chẳng phải là trong nháy mắt đã thấy được cái hùng tráng vũ dũng của
họ hay sao?
Sính
cùng với Nhạc Tiến đánh Quan Vũ ở Tầm Khẩu, có công, được tấn phong tước Diên
Thọ Đình hầu, thêm chức Thảo nghịch tướng quân. Lại đánh quân truy trọng của Vũ
ở Hán Tân, thiêu đốt thuyền lương ở Kinh châu. Văn Đế lên ngôi, thăng cho Sính
tước Trường An Hương hầu, ban cho Giả tiết. Lại giúp Hạ Hầu Thượng vây Giang
Lăng, Thượng sai Sính cầm riêng một cánh quân đóng ở Miện Khẩu, chống giữ Thạch
Phạm, Sính tự gánh vác một đội quân, ngăn giặc lập công, được thăng làm Hậu
tướng quân, tước Tân Dã hầu. Tôn Quyền thân chinh đem năm vạn quân đến vây Sính
ở Thạch Dương rất gấp, Sính giữ vững không manh động, Quyền đóng giữ hơn hai
mươi ngày phải lui về. Sính truy kích đánh tan quân địch. Vì thế được tăng thêm
thực ấp năm trăm hộ, gồm cả trước đây là một nghìn chín trăm hộ.
Nguỵ
lược chép: Tôn Quyền từng thân chinh dẫn năm vạn sĩ tốt kéo đến. Thời ấy đang
có mưa lớn, tường rào trong thành sụt lở, dân chúng còn tản mát ở ngoài đồng,
không kịp tu sửa. Sính nghe tin Quyền đến, không biết tính sao, bèn nghĩ chẳng
bằng cứ ngầm lặng im để quân địch ngờ sợ. Rồi lệnh cho người ở trong thành
không ai được đến gặp, lại tự nằm ở trong nhà không dậy. Quyền quả nhiên nghi
ngờ, nói nhỏ với đám thuộc hạ rằng: "Phương bắc có kẻ trung thần như thế,
cho nên mới uỷ thác cho giữ quận này, nay thấy ta đến mà chẳng hành động, nếu
chẳng có mưu đồ gì, hẳn là họ đã có quân ngoại viện." Bèn không dám đánh
mà bỏ đi. Nguỵ lược nói như thế, là trái với bổn truyện(1) vậy.
Sính ở
Giang Hạ mấy chục năm, rất có ân uy, danh chấn địch quốc, quân giặc không dám
xâm phạm. Triều đình chia thực ấp của Sính và phong cho con của Sính là Đại làm
Liệt hầu(2), lại ban cho cháu họ của Sính là Hậu tước Quan nội hầu. Sính chết,
được ban thuỵ là Tráng hầu. Đại chết trước Sính, con nuôi của Sính là Hưu nối
tự. Hưu chết, con là Vũ nối tự.
Năm Gia
Bình trung, người ở Tiêu Quận là Hoàn Ngu làm Thái thú Giang Hạ, thanh bạch cần
kiệm rất có ân uy, danh tiếng cũng gần được như Sính.
Chú thích:
(1) Là Văn Sính truyện do Trần Thọ chép.
(2) Chức hầu không gắn liền với địa danh.
Mục lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét