Đại Việt Thông Sử
Soạn giả: LÊ QUÝ
ĐÔN
Thế Kỷ 18
(1759)
Ghi chú:
Khi mới
bắt đầu công việc chuyển sang ấn bản điện tử, chúng tôi dùng bộ sách dịch bởi
cụ Lê Mạnh Liêu, nhưng khi đánh máy xong thì chúng tôi nhận ra rằng bộ của cụ
Lê Mạnh Liêu còn thiếu sót rất nhiều phần, vì thế để khỏi mất công đánh máy lại
từ đầu, chúng tôi chuyển sang đánh tiếp những phần còn thiếu sót dựa trên bản
Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn Toàn Tập do nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội Hà
Nội dịch và ấn hành năm 1977.
Để tạo
điều kiện cho quý vị biết rõ và dễ dàng trích dẫn, chúng tôi sẽ ghi rõ tên của
dịch giả trên đầu mỗi trang của từng chương.
(BD:LML):
Bản dịch Lê Mạnh Liêu Ủy Ban dịch thuật - Bộ Văn Hóa Giáo Dục & Thanh Niên
-Saigon 1973 (BD:VSH): Bản dịch Viện Sử Học -
Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội - Hà Nội 1977.
Tựa
sách: Đại Việt Thông Sử
Soạn
giả: Lê Quý Đôn 1759
Dịch
giả: Lê Mạnh Liêu - Tủ sách cổ văn -
Ủy ban dịch thuật
Viện Sử
Học - Hà Nội 1973
Nhà xuất
bản: Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh
Niên - Saigon
Nhà Xuất
Bản Khoa Học Xã Hội - Hà Nội 1973-1978
Chuyển
sang ấn bản điện tử bởi: Công Đệ, Lê
Bắc 2001
Điều
hợp: Lê Bắc - bacle@hotmail.com 2001
Đại Việt Thông Sử
QUYỂN I
Đế Kỷ Đệ Nhất
Thần Đôn soạn
[tờ 7a]
Vua Thái Tổ, thụy hiệu Thống Thiên khải vận thánh đức thần công duệ văn anh vũ
khoan minh dũng trí hoằng nghĩa chí nhân đại hiếu Cao Hoàng Đế. Vua họ Lê, tên
húy là Lợi, người làng Lam Giang, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoa. Cụ Tằng Tổ
của vua tên húy là Hối, sau truy tôn là "Cao thượng tổ Minh Hoàng
Đế". Tính cụ chất phát ngay thẳng, giữ mình như người ngu, nhưng hiểu biết
rất sâu xa, có thể biết trước những sự chưa thành hình. [tờ 7b] Nguyên trước ở
thôn Như Áng, một hôm, cụ đi chơi, thấy đàn chim liệng vòng quanh trên một khoảng
đất nơi dưới núi Lam sơn, trông hình như một đám người tụ hội. Cụ tự nghĩ:
"Chỗ này tất là nơi đất lành", bèn dời nhà đến ở đấy, rồi khai phá
ruộng vườn, tự chăm lo cày cấy, được 3 năm, trở thành một sản nghiệp, tự đấy,
đời đời đều là hùng trưởng một phương. Sau này vua dựng đô mở nước, thực cũng
căn cơ tự đấy vậy. Cụ Hoàng tổ, tôn phong là "Hiến tổ Trạch Hoàng
Đế", tên húy là Đinh, cụ nối được cơ nghiệp tiền nhân, tính khoan nhân, có
bụng yêu người, người các nơi gần xa đều qui phục, trong nhà có hàng nghìn người.
Lấy cụ bà "Hiền từ Gia thục Hoàng Thái Hậu" họ Nguyễn, tên húy là
Quách, sinh hạ 2 con trai, con trưởng tên là Tòng, con thứ tức là cụ Hoàng
Khảo, tôn phong "Tuyên tổ Phúc Hoàng Đế", [tờ 8a] tên húy là Khoáng,
cụ nuôi nhiều tân khách đúng lễ nghi, thương yên nhân dân, chu cấp người nghèo
cùng, giúp đỡ người bệnh tật, cả vùng đều phục cụ là có nghĩa, lấy cụ bà
"Trinh từ Ý văn Hoàng Thái Hậu" họ Trịnh tên húy là Ngọc, sinh hạ 3
con trai, con trưởng tên là Học, sau truy phong "Chiêu hiếu đại
vương", con thứ tên là Trừ, sau truy tặng "Hoằng dụ vương", con
trai út tức là Hoàng đế. Hoàng đế sinh giờ tý ngày mồng 6 tháng 8 năm Ất sửu
(1385), nhằm niên hiệu Xương phù thứ 9 nhà Trần, sanh tại làng Chủ sơn, huyện
Lôi dương. Nguyên trước, xứ Du sơn thôn Như áng hậu thuộc làng này (Chủ sơn),
có một cây quế, dưới cây quế này có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền
lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai. Tự khi Hoàng đế ra
đời, thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho là một sự lạ! Ngày Hoàng
đế sanh, thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực, và mùi thơm ngào ngạt
khắp làng. [tờ 8b] Khi lớn tuổi, ngài thông minh dũng lược, độ lượng hơn người,
vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng mồm rộng; sống mũi cao, xương mi mắt gồ
lên; bả vai bên tả có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ; tiếng nói vang vang
như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường.
Khi
Hoàng đế giúp việc ở Khả lam, được hồn sư ông Bạch Y hiển hiện chỉ cho ngôi
huyệt phát "đế vương" ở động Chiêm nghi.
Thời ấy,
người phường chài ở sách Mục sơn là Lê Thận, đêm nào cũng thấy khoảng sông Lam
Xuyên có luồng ánh sáng như bó đuốc cháy, rồi hơn một tháng sau, bỗng chài được
một thanh sắt dài hơn một thước, hình tựa thanh đao cũ, đem về để trong nhà,
ngay hôm ấy Hoàng đế đến nhà y, thấy trong nhà tối có một luồng ánh sáng, liền
tới chỗ đó lấy thanh đao đem về, về đến nhà, không phải mài mà sáng như đao
mới, nhận thấy có hàng chữ triện khắc trên thân đao, biết là một thanh bảo
kiếm. Đêm hôm sau, [tờ 9a] có trận mưa gió, sáng ra, thấy trong vườn rau có lốt
chân thần in trên lá rau, Hoàng đế sai người vẽ hình vết chân ấy. Ngày hôm sau,
Hoàng hậu ra vườn hái rau, đến chỗ cây rau có hình bàn chân, bỗng được một quả
ấn báu, bề dài bề rộng ngay ngắn, mặt quả ấn khắc mấy chữ lối triện. trên quả
ấn khắc đích họ tên Hoàng đế, nhận kỹ mới rõ. Hoàng đế biết rõ bảo vật của trời
đất ban cho, bèn cuối đầu lạy tạ. Ngày hôm sau, bỗng được cái chuôi thanh kiếm
ở cây đa, rửa sách đất cát đi, thấy có khắc hình con rồng và con hổ, và hiện ra
hai chữ "Thanh Thúy", đem lắp vào thanh kiếm đã bắt được hồi trước,
vừa vặn không sai tý nào, càng tin là vật thần cho.
Bấy giờ
là thời kỳ họ Hồ cướp ngôi vua nhà Trần, Hoàng đế ở quê hương đọc sách và
nghiên cứu binh pháp, giữ mình chờ thời vận.
Đến khi
nước Tàu dẫn quân sang đánh, bắt họ Hồ đem vầ kinh đô Kim lăng, rồi chia nước Nam ta
thành từng Quận từng Huyện. [tờ 9b] Hoàng đế ngầm có chí khôi phục non sông,
ngài hạ mình tôn người hiền, tung tiền của nuôi binh sĩ, chiêu nạp những người
mắc lỗi trốn lánh, được nhiều người qui phục.
Vua Hưng
Khánh và vua Trùng Quang nối tiếp khởi binh chống quân Tàu, lấy danh nghĩa là
khôi phục ngôi vua nhà Trần, được rất nhiều người hưởng ứng. Nhưng Hoàng đế
biết rõ thời thế, cho là tất không thành công. Bởi thế ngài không dự, và hết
sức ẩn kín hình tích, không lộ tiếng tăm.
Trịnh Đồ
tự nước Ai Lao lại yết kiến, hiến 1 con voi đực, Hoàng đế sai Trương Phấn đón
tiếp, sau Trịnh Đồ và Trịnh Khả đều được ngài tín nhiệm.
Những
hào kiệt thời ấy như: Lê Văn An, Lê Văn LInh, Bùi Khai Hưng, Nguyễn Truy, Lưu
Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu, và Lê Xa Lôi, đều nối tiếp qui phục, ngài
niềm nở đón tiếp, [tờ 10a] cùng bí mật mưu việc khởi nghĩa.
Có tên
Đỗ Phú người xã Hào lương, đến Ty Bố chánh kiện Hoàng đế về việc lấn ruộng đất,
nhưng y đuối lý, bị thua kiện, đem lòng oán giận, bèn cáo mét quan nhà Minh dẫn
quân bức bách Hoàng đế ở Lạc thủy (nay đổi là Cẩm thủy).
Từ khi
người Minh đô hộ nước ta, chánh sự phiền toái; thuế má nặng nề; quan tham lại
nhũng; cấm dân nấu muối trồng rau; bắt dân xuống biển tìm ngọc châu; phá núi
lấy vàng; những sản phẩm quý giá như: ngà voi, sừng tê, cánh chim chả, cùng các
thứ hương, chúng đều vơ vét hết. Sau lại bắt dân đắp 10 thành trong 10 Quận để
đóng quân; chúng lại khéo dụ dỗ các người hào kiệt, đưa vào triều đình Trung
Hoa làm quan, cốt là an tri ở nước Tàu vậy. Bởi vậy nhân dân nước ta không trừ
một ai, thấy đều sầu thảm oán giận! Hoàng đế vẫn giữ chí như trước, dù người
Minh đem quân tước cũng không dụ được, [tờ 10b] lấy thế lực cũng không hiếp
được, nhưng nhận thấy thế quân địch đang mạnh, nên ngài càng ẩn trong bóng tối,
không dám khinh động, thường đem bảo vật năn nỉ hối lộ cho bọn Trương Phụ, Trần
Trí, Sơn Thọ và Mã Kỳ, những mong được khỏi nạn, để nuôi thêm sức lực và chờ
đợi thời cơ. Chỉ vì tên Lương nhữ Hốt người huyện Cổ đẳng (nay đổi Hoằng hóa),
giữ chức Tham chánh là Thổ quan của người Minh, đem lòng ghen ghét, bèn mất cáo
với người Minh rằng:
"Người
chủ Lam Sơn chiêu nạp những kẽ vong mạng, và đãi ngộ sĩ tốt rất hậu, chí của
người ấy không phải là nhỏ. Nếu không sớm tính đi, để cho con rồng có lúc gặp
mây gặp mưa, thì khi ấy nó sẽ không còn là một con vật trong ao nữa đâu. Vậy
xin trừ ngay đi, đừng để lưu tai vạ về sau này".
Người
Minh tin lời tên Nhữ Hốt, cho nên càng bức bách ngài rất gấp. Bởi vậy ngài bèn
đại hội Tướng sĩ, bàn tính việc khởi binh.
Ngày
mồng 2 là ngày Canh Thân, tháng giêng năm Mậu Tuất (1418), nhằm niên hiệu Vĩnh
Lạc triều Minh thứ 16, [tờ 11a] Hoàng đế dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là
Bình Định Vương, phong chức Đại Tướng và chức Thừa Tướng cho: Lê Khang, Lê
Luân, Lê Sao, Lê Lễ, Lê Hiêu, Lê Nhữ Tri, Lê Cố, Trịnh Thác, Trịnh Hối, Lê Thỏ,
lê Lý, Lê Xa Lôi, Lê Khắc Phục, Lê Định, Lê Lãng, Lê Vấn, Lê Cuống, Lê Chiêm,
Lê Đệ, Lê Khiêm, Lê Trinh, Lưu Đàm, Lê Lâm, Lê Nghiệm, Lê Văn Giáo, Trần Đạt,
Trần Khai, Lê Cảnh Thọ, Phạm Lung, Phạm Quì, Lê Sát, Trương Lôi, Trịnh Khả, Bùi
Quốc Hưng, Lê Nỗ, Lê Liễu, Lê Nhữ Lãm, Lê Khả Lãng, Vũ Oai, Trịnh Vô, Lưu Hoạn,
Trần Hốt, Đỗ Bí, Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Lê Thận và Lê Văn An, [tờ 11b] chia
nhau đốc suất đội quân Thiết đột ra đối địch với quân Minh.
Lúc ấy
binh tướng của ta đương thời kỳ ban đầu, còn rất ít ỏi, thế mà quân Minh có tới
hơn 45.000, voi ngựa có hàng trăm con, bởi thế Hoàng đế không địch nổi, thua
trận phải chạy vào Mang Một, nay là (Mang Chánh), rồi lần đến Trịnh Cao, giáp
giới nước Ai Lao, nơi đây, dân thưa lương ít, trên đường không người đi lại.
Đóng ở Mang Cốc trong núi Linh sơn hơn 10 ngày, phải dùng mật ong trộn với vũ
dư lương (thứ phấn hồng trong đá) làm bữa ăn, rất là khốn đốn! Hoàng đế bèn hỏi
các tướng:
"Có
ai dám bắt chước việc Kỷ Tín thời xưa không1?".
Người ở
thôn Ðặng Tú là Lê Lai khẳng khái vâng mệnh, tự nguyện thay đổi mặc áo bào nhà
vua, xưng là vua Lê Lam Sơn, dẫn quân ra đánh nhau với quân Minh, quân Minh
mừng rỡ, liền dồn cả quân vây chặt Lê Lai, Lai chống cự đến kiệt sức thì bị
bắt, quân Minh dẫn Lai về thành Đông Quang giết chết, [tờ 12a] chúng bèn lui
binh, ta được thoát nạn.
Hoàng đế
được biết Trịnh Khả và Lê Lôi đã từng đi đón tiếp con voi tự nước Ai Lao về,
tất nhiên am hiểu tiếng nói và văn tự nước Ai Lao, bèn sai hai Tướng này mang
tờ thông điệp sang bảo Quốc Vương nước Ai Lao rằng:
"Quốc
gia tôi phụng tờ thông điệp của triều Đại Minh ban cho nhà vua. Vậy nhà vua hãy
đem số lương thực đủ quân sĩ dùng trong 5 tháng, và khí giới cùng voi trận tới
yết kiến, rồi nhận tờ điệp văn về thi hành, để khỏi phải bắt giải. Nếu không
tuân mệnh, lập tức sai nước Xa Lý và Lão Qua hợp quân 6 nước tiến đánh".
Vua nước
Ai Lao sợ hãi, xin tuân mệnh trên. Hoàng đế nhờ được lương thực và quân dụng
đó, nên thế quân lại trở nên phấn chấn.
Ngày
mồng 4 tháng 4 (năm Mậu Tuất), Hoàng đế kéo quân về Lam Sơn, trao rất nhiều
vàng bạc cho Tướng Trịnh Đồ, Trịnh Khả và Lê Lôi, đem đút lót cho Tướng nhà
Minh là Trần Trí, Sơn thọ và Mã Kỳ, [tờ 12b] để cầu được hoãn binh.
Ngày
mồng 9 (tháng 4 năm Mậu Tuất), người Minh cất quân đánh vào Lam Sơn, Hoàng đế
bỏ Lam Sơn lui quân và đóng tại Lạc Thủy, rồi đặt phục binh sẵn để đợi địch.
Ngày 13
(tháng 4 năm Mậu Tuất), quả nhiên quân địch kéo đến, phục binh nổi dậy xung
đột; 4 Tướng Lê Thạch, Đinh Bồ, Lê Ngân và Lê Lý xông lên trước hãm trận, chém
đầu hơn 2.000 tên địch, thu được hàng mấy nghìn chiến lợi phẩm.
Ngày 16
(tháng 4 năm Mậu Tuất), tên bầy tôi phản bội của ta là Thượng Ái, dẫn quân Minh
do đường tắt đánh úp vào sau quân ta, và bắt hết vợ con binh sĩ. Quân sĩ đâm
chán nản, mất hết tinh thần chiến đấu. Hoàng đế bèn thu quân cùng với Lê Lễ,
Phạm Hướng, Đỗ Bí, Nguyễn Xí và Lê Đạp, tạm náu ở núi Linh Sơn, hơn 3 tháng
trời, chỉ dùng võ măng tre và rễ cỏ làm bửa ăn khỏi đói.
Sau khi
địch đã lui binh, Hoàng đế lại trở về Lam Sơn, đắp đồn lũy và chiêu tập tàn
binh, được chừng trăm tên, dựng trại sách ở xứ Mang Khao. Ngài vỗ về tướng sĩ,
chỉnh đốn hàng ngũ và khí giới, quân nhu cũng khá đầy đủ, lúc ấy lòng quân lại
phấn khởi, đều xin tình nguyện thù tử chiến đấu. Hoàng đế biết là quân sĩ có
thể dùng được, bèn đặt phục binh ở Mang một, rồi sai độị khinh binh ra khiêu
chiến, quân địch tiến tới chỗ hiểm, phục binh liền dùng nỏ bắn tên tẩm thuốc độc
ra như mưa, quân địch thua chạy tán loạn. Hoàng đế lại tiến quân tới Mang Ninh,
ngày đêm tiến đánh, quân địch bị tổn hại, phải lui về giữ một xã Nga Lạc Hạ.
Năm Kỷ
Hợi (1419), niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 17, tháng 4, Hoàng đế tiến quân đóng tại
trại A Đả, đánh nhau với quân Minh ở xứ Nghĩa Canh, bắt được viên Chỉ huy là
Nguyễn Sao và chém đầu 300 tên địch.
Tháng 5,
Hoàng đế đóng dồn quân ở trại Đà Sơn, đặt phục binh ở Mang Chánh, đánh đuổi
đước quân địch, rồi dời quân đến đóng tại trại Lưu Sơn, [tờ 13b] được nước Ai
Lao đem quân lại giúp, lại dời tới Mang Thôi đóng đồn.
Mùa thu,
tháng 7, viên Tri phủ Phan Liêu là Thổ quan tỉnh Nghệ An phản nhà Minh, người
Minh dẫn quân vây thành Nghệ An, Tổng binh Phong thành hầu là Lý Bân cũng dẫn
quân lại cứu, Phan Liêu
1 Thời Hán, Hán- Cao- Tổ đóng
quân ở thành Vinh Dương, bị Hạng Võ dẫn quân Sở vây chặt mấy vòng. Tướng quân
Kỷ Tín thấy tình thế nguy cấp, dânng kế lừa Sở: Tín bèn vận mũ áo Đại Vương,
dùng cờ quạt xe ngựa Hoàng đế ra cửa Đông hô rằng: "Ta là Hán Vương, vì cạn
hết lương thực xin ra đầu hàng nước Sở". Quân Sở bèn xúm cả vào đấy. Hán
Vương thừa cơ hội lẻn ra cửa Tây trốn thoát. Sau Hạng Võ biết là giả, giết chết
Kỷ Tín.
thua
chạy sang nước Ai Lao, Lý Bân đuổi đến châu Ngọc Ma, không đuổi kịp dẫn quân
về. Thổ quan Lộ văn tú là Tướng tiền phong của Lý Bân lại phản, bỏ đi.
Tháng
11, các tướng giặc: Trịnh Công Chứng, Phạm Hỉ, Nguyễn Trì và Nguyễn Cấu ở các
hạt: Hạ Hồng, Tân Minh, Khoái Châu và Hàng Giang, đều khởi binh kéo đến sông
Nhị Hà đánh phá cầu nổi, Lý bân sai tướng sĩ đánh phá, giặc đều thua chạy tán
loạn. Lúc ấy, các lộ miền Bắc, nơi nào cũng có giặc nhiễu loạn, duy Tam giang,
Qui hóa và Tuyên quang được yên ổn thôi. Bởi thế, người Minh không có thì giờ
để ý đến Thanh Hóa.
[tờ 14a]
Năm Canh Tý (1420) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 18. Mùa xuân, tháng 2, Lý Bân dẫn
quân trở về Đông Quang.
Mùa hạ,
tháng 4, Lộ Văn Luật khởi binh ở huyện Thạch Thất, Lý Bân đánh tan, Văn Luật
chạy sang nước Ai Lao.
Tháng 6,
triều Minh sai Vĩnh Xương Bá là Trần Trí đóng giữ Đông Quan.
Người
đất Phụng Hóa là Trần Văn Xung và người đất Đồ Sơn là Phạm Ngọc Giai đều khởi
binh phản nhà Minh, Lý Bân đánh phá tan cả.
Người ở
Tràng Cảng thuộc huyện Thủy Đường là Lê Ngã đổi tên ra Dương Củng, trá xưng là
con cháu xa của vua Trần Duệ Tông, tự nước Lão Qua trở về, Bế Thuấn ở Đan Ba
thuộc núi Đan làm Phụ đạo, dựng Ngã làm chúa, đóng trại Hồng Doanh ở An Bang.
Dư đảng của Trịnh Công Chứng và Phạm Ngọc đều qui phụ, quân số có tới vài vạn.
Tự xưng là Thiên Thượng Hoàng Đế, đặt niên hiệu là Vĩnh Thiên, đặt đủ các chức
quan, rồi chia quân đánh đốt thành Xương Giang; cướp trại Bình Than. [tờ 14b].
Lý Bân dẫn đại binh tới đánh, Lê Ngã và Bế Thuấn thua chạy trốn đi lúc ban đêm.
Không biết đi đâu.
Người
hạt Kiến Xương là Nguyễn Thuật đánh quân Minh ở Hoàng Giang, giết viên Tham
chánh là Hầu Bảo.
Tháng
10, Tướng Minh lại kéo đại quân tới. Hoàng đế tính trước: Chúng sẽ đến Bổng Tân
vào khoảng giờ Tỵ (15 giờ), bèn đặt sẵn phục binh để chờ. Đúng giờ tỵ, quả
nhiên quân địch tràn tới đó, 4 mặt phục binh đều chỗi dậy xông đánh, quân địch
tan vỡ, ta giết chết và bắt sông vô kể, thu được hơn trăm con ngựa, và phóng
lửa đốt hết khí giới của chúng.
Ngày hôm
sau, Hoàng đế bảo các Tướng lãnh rằng: "Quân địch vừa mới thua trận, tất
nhiên chúng để tâm đề phòng cẩn mật. Vậy ta không nên giao chiến".
Nhưng
các Tướng đem lòng khinh địch, không tuân theo, cứ tiến đánh. Quả nhiên bị tổn
thương rất nhiều! Bèn lưu binh ở Nang Ninh, rồi lại lui binh về giữ Mang Thôi.
Phụ đạo
châu Quì là Cầm Lan hướng đạo cho [tờ 15a] Trấn Thủ nhà Minh là Lý Bân và đô
đốc là Phương Chánh, dẫn hơn mười vạn quân theo đường châu Quì vào đánh ta.
Hoàng đế sai Lê Hướng và Lê Lý đem mấy nghìn khinh binh đi trước tiên, để đón
đường chặn đánh, rồi đặt phục binh ở Bồ Mộng để đợi. Khi quân địch tới, ta đánh
phá đại thắng! Nhưng quân địch ỷ vào thế mạnh, vẫn cứ tiến quân, địch đánh
thẳng tới doanh trại của Hoàng đế. Hoàng đế tiên liệu, đã đặt sẵn phục binh ở
các lối hiểm yếu. Ngày hôm sau, quân giặc kéo tới, ta dồn quân đánh úp ở Thi
Lang, đại thắng! Chém đầu hơn ba nghìn tên địch, Lý Bân và Phương Chánh chỉ
chạy thoát thân lấy mình thôi. Ta thừa thắng đuổi dài suốt ba ngày đêm mới
ngừng, rồi tiến đóng trại Ba Lẫm ở Suối Giang, dẫn quân khiêu chiến. Các Tướng
nhà Minh tại đồn Tạ Phượng, đồn Hoàng Thành và trại Nga Lạc, đều giữ trại Quan
Du để phòng bị cho thành Tây Đô, cố thủ trong trại, không chịu ra đánh, [tờ
15b] Hoàng đế ngày đêm dồn quân vây đánh các đồn, chia tướng Lê Hào và Lê Sát
dẫn quân đánh úp trại Quan Du, phá tan quân địch, chém đầu hơn vạn tên, thu
được rất nhiều khí giới. Tự đấy, thế địch một ngày một suy. Nhân dân các xứ
trong nước, không nơi nào là không hưởng ứng Hoàng đế.
Năm Tân
Sửu (1421) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 19, ngày 20 tháng 11. Tham Tướng nhà Minh là
Trần Trí, đem hơn mười vạn vệ quân ở Giao Châu, đánh trại Ba Lãm ở ải Kình Lộng
Hoàng đế bàn với các Tướng rằng:
"Hiện
tình, bên địch nhiều quân, bên ta thì ít, bên địch hành quân vất vả, mà bên ta
thì quân sĩ được thảnh thơi. Binh pháp có câu rằng: "Sự thắng địch cốt ở
Tướng giỏi, chứ không quan hệ ở số quân nhiều hay ít". Nay chúng ta tuy
nhiều quân, nhưng ta dùng quân được thảnh thơi đánh quân vất vả, nhọc mệt, thì
tất phá được".
[tờ 16a]
Tối hôm ấy ta chia quân đánh úp các ngả, quân sĩ hò la vang động, đánh phá được
4 trại, chém đầu hơn nghìn quân địch, thu được rất nhiều chiến lợi phẩm.
Thần Trí
lại phá núi mở đường tiến quân đánh ta, Hoàng đế ngầm đặt phục binh các nơi
hiểm yếu ở xứ Úng Ải để đợi. Đến giữa trưa, quả nhiên Thần Trí dẫn quân do
đường núi tới, bị hai cánh quân ta đánh vào hai bên, Thần Trí thua trận dẫn
quân lui.
Thời ấy,
nước Ai Lao cường thịnh, Hoàng đế giao thiệp thân thiện, thỉnh thoảng có đưa
quân sang giúp ta. Chỉ vì thổ quan Lê Văn Luật trốn chạy sang đấy, đem lời gièm
pha, nên vua Ai Lao sinh lòng oán giận. Đến đây, ta đang chống cự với quân
Minh, chưa phân thua được, thì bổng Ai Lao đem 50.000
quân và 100 con voi đến đóng tại phía trước trại Hoàng đế, nói là lại giúp ta.
Hoàng đế yên chí vẫn thân thiện, không ngờ là khi trá, bèn ước hẹn cùng hợp
đánh quân Tàu. [tờ 16b] Đến nửa đêm, ta bị quân Ai Lao đánh úp! Hoàng đế thân
tự đốc chiến, đánh rất hăng hái, tự giờ tý (1 giờ sáng) đến giờ mão (5 giờ
sáng), đánh tan quân Ai Lao, chém đầu hơn vạn tên, thu 14 con voi và hàng vạn
chiến lợi phẩm. Ta thừa thắng đánh đuổi bốn ngày đêm, đến tận sào huyệt chúng.
Tù trưởng là Man Sát xin hòa, ta không nghe. Bình chương là Lê Thạch Kinh tiến
đánh trước, trúng phải chông nhọn, chết.
Năm Nhâm
Dần (1422) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 20, tháng 2, quan tổng binh nhà Minh là lý
Bân chết. lui.
Ngày 21,
tháng 12, Ai Lao đem quân đến Kiệt Mang dựng trại kết trận, Thiếu úy là Lê
Chích đánh Mã Kỳ ước hẹn với Ai Lao cùng đánh ta ở Quan gia, quan quân giao
chiến mấy trận, thường bị tổn thất [tờ 17a] bèn lui quân về đóng tại Khối Sách,
ủy lạo quân sĩ, tu sữa khí giời, được 7 ngày thì quân Minh kéo đến, Hoàng đế
bảo Tướng sĩ rằng:
"Hiện
giờ bị quân địch bao vây bốn mặt, ta không còn lối thoát đi đâu được! Đó tức
binh pháp gọi là "tử địa" Vậy, phải đánh chớp nhoáng mới sống, nếu
chậm trễ sẽ chết".
Nói
xong, ngài sa hai hàng lệ, mọi người đều cảm khích, tranh đua thù tử chiến đấu!
Các Tướng Lê Lĩnh, Lê Hướng, Lê Hào và Lê Triện, đích thân xông ra hãm trận,
chém đầu tham tướng là Phùng Quí và hơn nghìn quân, thu được hơn trăm con ngựa,
Mã Kỳ và Trần Trí chạy về Đông Quan, quân Ai Lao cũng trốn về. Hoàng đế bèn thu
quân về núi Chí Linh. Ở đây thiếu lương thực, trong 2 tháng trời, quân sĩ toàn
ăn rau cỏ và măng tre, phải giết bốn con voi và một số ngựa để quân sĩ ăn.
Thường có quân bỏ trốn, [tờ 17b] Hoàng đế kiểm soát rất nghiêm nhặt, bắt được
viên Tướng bỏ trốn là Thượng Khanh, đem chém đầu để làm gương, tự đấy quân sĩ
lại nghiêm chỉnh như trước. Lúc này, ta từng trải nhiều phen nguy nạn, Tướng sĩ
mỏi mệt, muốn được nghĩ ngơi, đều khuyên Hoàng đế hòa với người Minh, ngài bèn
sai thân thần là Lê Vận và Lê Trăn đưa thư đến Mã Kỳ và Sơn Thọ để cầu hòa, bọn
Mã Kỳ ưng thuận.
Năm Quí
Mão (1423) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 21, ngày mồng 10 tháng 4, Hoàng đế trở về Lam
Sơn, Trần Trí và Sơn Thọ thường đem tặng trâu, bò, muối, cá, nông cụ và thóc
giống, ngài cũng sai bọn Lê Trăn đem vàng bạc tặng đáp. Nhưng Trần Trí ngờ ta
chỉ giả vờ giao hảo bề ngoài, mà bề trong có ý thực đánh úp, nên bắt giữ Lê
Trăn không cho về. Hoàng đế bèn tuyệt giao.
[tờ 18a]
Năm Giáp Thìn (1424) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 22, mùa thu, tháng 7, vua Thái Tông
nhà Minh chết, Thái tử lên nối ngôi Thiên Tử, đổi niên hiệu là Hồng Hưng. Lúc
này mới có tờ chiếu đình chỉ việc kiếm vàng bạc và các thứ hương ở Giao Chỉ ta,
triệt hồi các viên Giám đốc về công tác trên.
Ngày 20,
tháng 9. Hoàng đế hỏi các bầy tôi rằng: "Nay chúng ta nên tới xứ nào để
mưu đồ việc nước" Thiếu úy Lê Chích đáp:
"Hạ
thần thường qua lại tỉnh Nghệ An nhiều lần, nên có biết những nơi hiểm yếu
trong tỉnh ấy. Nay xin dẫn quân vào trại của Cầm Bành tỉnh Nghệ An, hễ ai hàng
thì ta phủ dụ, nếu không hàng thì ta đánh lấy trại ấy làm căn bản, rồi từ từ
tính việc lấy lại Đông Đô. Như vậy việc nước có thể sẽ thành".
Hoàng đế
cho lời bàn của Lê Chích là phải, bèn chia quân đến đánh úp phá thành Đa Căng,
số quân địch bị giết và bị chết đuối có tới hơn một ngàn, ngụy Tham chánh là
Lương Nhữ Hốt chỉ kịp chạy thoát lấy một mình, ta thu được chiến lợi phẩm vô
kể, rồi đốt hết trại thành. Tướng của Cầm Bành là Hoa Anh [tờ 18b] dẫn quân lại
cứu, ta lại đánh tan. Hoa Anh thua chạy vào Tây Đô.
Sau khi
thắng trận, Hoàng đế sai thả hết các phụ nữ đã bắt được, rồi ở đấy tuyển mộ
binh sĩ, seo sửa khí giới, chỉnh đốn hàng ngũ, chứa đủ lương thực, dẫn quân
thẳng tới tỉnh Nghệ An, do đường châu Trà Long, vượt qua núi Bồ Lạp thuộc châu
Quì.
Đồng Tri
là Sư Hựu tướng chỉ huy quân Minh, cùng với tri phủ châu Trà Long là Cầm Bành
dẫn 5.000
quân đón đánh vào mắt tiền quân ta; các Tướng Minh là Trần Trí, Lý An, Phương
Chánh và Thái Phúc dẫn quân đánh vào mặt hậu quân ta, quân ta bị địch áp bức cả
mặt tiền mặt hậu! Hôm ấy, trời sắp tối, Hoàng đế đặt phục binh các ngả rồi ung
dung chờ quân địch. Một lát thì Trần Trí dẫn quân đến, quân phục binh ta nổi
dậy xông đánh, quân địch tan vỡ, ta chém đầu Đô ty là Trần Quí và hơn hai ngàn
sĩ tốt, thu hơn trăm con ngựa, Trần Trí và Phương Chánh bị thua chạy.
Ngày hôm
sau [tờ 19a] quân ta đi đến trang Trịnh sơn, gặp cánh quân của Tướng Sư Hựu, ta
xông thẳng tới đánh phá, chém đầu Thiên hộ là Trương Bản và hơn nghìn quân sĩ.
Sư Hựu chỉ kịp chạy thoát lấy một mình. Hoàng đế bèn đóng quân ở Mộc Sách, còn
Trần Trí thì thu vét tàn quân, đuổi ta đến sông Trạm Hoàng, nhưng sợ không dám
tiến, trở về giữ thành Nghệ An.
Tháng
11, Hoàng đế sai Sứ Giả chiêu hàng Cầm Bành, Bành không chịu hàng, đem hơn
nghìn quân lập doanh trại trên đỉnh núi, để chờ viện binh. Quan quân vây chặt
nơi đây.
Tháng
12, Sơn Thọ sai Nguyễn Sĩ đưa Lê Trăn trả về ta để cầu hòa. Số là Trần Thọ và
Đức Chính đóng ở Nghệ An, thấy Cầm Bành bị vây, vẫn muốn cứu lắm, nhưng sợ
không dám tiến, bèn sai Sứ giả đem thư cầu hòa, xin giải vây. Sau khi tiếp sứ
giả, Hoàng đế triệu các Tướng bàn rằng:
"Hiện
Cầm Bành bị vây khốn đốn, lẽ ra bọn tên Chánh phải cấp cứu ngay mới phải, thế
mà đến nay vẫn còn dùng dằng quanh co. Đó tất là có ý nhát sợ. [tờ 19b] Chi
bằng ta hãy cứ vờ bằng lòng hòa, để xem tình thế. Trong khi thư từ qua lại độ
một tháng, thì ta đã bắt được Cầm Bành rồi".
Bàn
xong, cho viết bức thư, để lên trên một cái bè, thả cho xuôi dòng, trong thư
nói: "Chúng tôi muốn trở về Thanh Hóa, nhưng bị Cầm Bành ngăn chặn. Vậy
ông cho người tới giải hòa để thông lối về, rất mong". Chánh nhận được
thư, tin là thật, bèn sai Trần Đức Nhị đưa thư đến Cầm Bành bảo nên hòa giải.
Cầm Bành được thư, biết là viện binh không đến, bèn mở cửa thành ra hàng. Sau
khi bình định châu Trà Long, Hoàng đế ra lệnh các quân sĩ không ai được xâm
phạm một mảy may của dân, còn các quân địch đều được xá tội hết, không giết một
người nào. Ngài thưởng lạo các bộ trưởng và tù trưởng, tuyển được 5.000 trai
tráng sung vào ngạch binh. Thanh thế trở nên lừng lẫy! (Sau Cầm Bành mưu toan
trốn đi, bị giết). Người Minh nghe thanh thế ta phấn chấn, lại tới đánh sơn
trại ta, Hoàng đế đánh lui, rồi tiến quân đóng tại cửa ải Khả Lưu, định đánh
thành Nghệ An, [tờ 20a] nhưng chưa biết rõ tình thế, nhân gặp hồi vua Nhân Tông
nhà Minh mới lên ngôi, sai Sơn Thọ đến phủ dụ Hoàng đế hàng. Ngài rằng:
"Đó
chỉ là kế của quân địch lừa dối ta. Nhưng ta hãy nhân đó để thi hành kế sách
của mình".
Ngài bèn
cho sứ giả qua lại, để dò hư thực. Sau Sơn Thọ biết là kế của y không ăn thua
gì, lại tuyệt hòa nghị. Hoàng đế bèn phát binh đánh Nghệ An. Sắp hành quân thì
có tin báo: "Người Minh phái rất nhiều binh mã và thuyền bè, cả thủy binh
và bộ binh đều tiến, và sắp tới. Hoàng đế bèn hội các Tướng mà bảo rằng:
"Hiện
bên địch rất nhiều quân, mà ta thì ít. Bên ít quân mà muốn địch nổi bên nhiều
quân, chỉ có cách giữ lấy cái chỗ hiểm yếu trước, thì mới thành công. Binh pháp
có câu: "Thiện chiến giã trí nhân nhi bất tri ư nhân". Những Tướng
tài giỏi, thường bắt buộc đối phương phải đến chỗ mình đã chỉ định, chứ không
bao giờ đến chỗ đối phương định.
Nói
xong, ngài chia hơn nghìn quân cho Đinh Liệt dẫn đi trước, theo con đường tắt
chiếm lấy huyện Đỗ Gia, tranh cướp lấy nơi địa lợi, rồi ngài thân đốc đại quân
chiếm đóng ở các chỗ hiểm yếu, để chờ quân địch. Vừa sắp đặt xong đô 3, 4 ngày,
quả nhiên địch dẫn đại quân [tờ 20b] đến cửa ải Lậu Thư và Khả Lưu, chúng đóng
trại ở phía dưới dòng nước, Hoàng đế thì đóng ở phía trên dòng nước, ban ngày
dựng cờ và thúc trống ầm ầm, ban đêm thì đốt đèn đuốc sáng choang trong trại,
rồi ngầm sai binh mã qua sông phục nơi hiểm yếu. Trời sắp sáng, địch dẫn quân
đánh vào trại ta, Hoàng đế vờ thua chạy lui, dẫn địch vào ổ phục binh, bốn mặt
phục binh đều dhỗi dậy xông phá, có hàng vạn quân địch bị giết và chết đuối!
Thua trận này, chúng bèn lập trại tựa vào thế núi để đóng quân, mà không chịu
ra giao chiến nữa.
Lúc này,
bên địch lương thực dồi dào, mà lương thực bên ta thì chưa đủ để quân sĩ dùng
trong 10 ngày. Hoàng đế bảo các tướng sĩ rằng:
"Giặc
cậy nhiều lương, nên cứ cố thủ trong trại, không chịu ra đánh. Đó là chúng định
lập cái kế lâu dài vậy. Ta ít lương thực, không có thể cầm cự lâu dài với chúng
được".
Ngài bèn
sai tự đốt hết các doanh trại, vờ như trốn lánh, rồi đi ngầm ra lối tắt. Quân
địch thấy vậy rất mừng, liền tiến quân đóng vào doanh trại cũ của ta, và đắp
thêm đồn lũy lên trên núi.
Ngày hôm
sau, Hoàng đế [tờ 21a] ngầm đặt phục binh ở Bồ Ải, rồi sai đội khinh kỵ đến
khiêu chiến. Địch không hay biết, liền dẫn hết quân ra ứng chiến, đến Bồ Ải trúng
ổ phục binh, quân phục binh liền chỗi cả dậy, các viên dũng Tướng: Phạm Vấn, Lê
Sát, Lê Ngân, Đinh lễ, Lê Xý, Lê Đạp, Lê Triện, Lê Bôi, Lê Nhân Chú, Lê Chiến,
Lê Tông Kiều và Lê Khôi đều tranh đua xông trận trước, đánh phá quân địch chém
đầu vô kể, thây địch lấp sông, khí giời đầy đường, thuyền bè trôi ngang. Bắt
sống Đô ty là Chu Kiệt, chém Tướng Tiền phong là Hoàng Thành, bắt sống chừng
nghìn quân. Trần Trí và Sơn Thọ chạy về tỉnh Nghệ An, cố thủ trong thành.
Năm Ất
Tỵ (1425) niên hiệu Hồng Hưng thứ nhất (tự tháng 11 năm này trờ xuống, là niên
hiệu Thiên Khánh thứ nhất vua Trần Cao thời Hậu Trần). Mùa xuân, Hoàng đế tiến
quân đóng tại làng Mỹ Lôi huyện Thổ Du (nay là huyện Thiên Lộc) tỉnh Nghệ An
[tờ 21b] các người già trẻ trong làng, đều mang rượu thịt ra đón mừng tướng sĩ,
và cùng bảo nhau rằng:
"Không
ngờ ngày nay chúng ta lại được trông thấy uy nghi nước nhà".
Viên tri
phủ châu Ngọc Ma là Cầm Quí, dẫn hơn 8 nghìn quân và 10 con voi về hàng Hoàng
đế, được ngài phong cho chức Thái úy. Hoàng đế hạ lệnh rằng:
"Nhân
dân ta lâu nay đã khốn khổ về chánh trị bạo tàn của người Minh! Vậy quân sĩ đến
châu huyện nào, cũng không được xâm phạm của dân một mảy may. nếu không phải là
trâu bò thóc gạo của ngụy quan, thì dù có thiếu thốn cũng không được lấy".
Lúc ấy,
quân sĩ có người ba ngày chưa được một bữa ăn, mà không ai dám phạm lệnh trên!
Về phần nhân dân, thì ai nấy cũng đem những trâu bò thóc gạo của người Minh đã
chứa tích ra để tiếp tế quân sĩ ta. Hoàng đế chia quân đi thu phục các châu
huyện, quân ta đến châu huyện nào, chúng cũng ra hàng tức khắc, ngài bèn vây
thành Nghệ An, địch cố thủ trong thành, không dám ra giao chiến.
[tờ 22a]
Hoàng đế huấn luyện Tướng sĩ, tu sửa khí giới, trong một tuần chiến cụ đầy đủ,
ngài bèn duyệt vũ nghệ, dạy quân sĩ biết các phép: Ngồi, đi, đánh và đâm; chỉ
cho biết các thế: Kỳ, chính, chia và hợp; lại cho biết các hiệu lệnh về chiêng,
trống, và lá cờ để biết lệnh tiến lệnh lui. Đội ngũ nghiêm chỉnh, thưởng phạt
công minh, quân sĩ đều hăng hái, nhân dân cả vùng dắt díu qui phục đông như
người về chợ. Hoàng đế ủy lạo vỗ về, ai ai đều hoan hỉ.
ngày 15,
tháng 4, tham Tướng nhà Minh là Lý An tước An bình bá, dẫn thủy quân tự Đông
Quan lại cứu thành Nghệ An. Hoàng đế tính: Trần Trí bị vây khốn đã nhiều ngày,
bây giờ có viện binh tới, y tất nhiên ra đánh. Ngài bèn dời quân đến tại cửa
sông Quật Giang thuộc huyện Đỗ Gia, sai Lê Ninh dẫn binh phục nơi bờ sông.
Ngày 17,
địch dẫn hết quân trong thành ra [tờ 22b] đánh trại Lê Thiệt của ta, chúng mới
qua sông được nửa số quân, bị phục binh chỗi dậy đánh phá, chém hơn mười thủ
cấp. quân địch bị chết đuối rất nhiều. Trần Trí chạy vào trong thành.
Tháng 5,
Hoàng đế sau Tư Không là Đinh Lễ đến châu Diễn, đặt phục binh đón đánh cướp
những thuyền lương của Đô Tư là Trương Hùng, ta vừa đuổi vừa đánh cho đến thành
Tây Đô. Hoàng đế lại tuyển 2.000 tinh binh sai các Tướng Lê Sát, Lê Nhân Chú,
Lê Triện và Bùi Bị dẫn tiếp theo làm hậu viên cho Đinh Lễ, đánh úp thành Tây
Đô, chém hơn năm trăm đầu quân địch, thu rất nhiều chiến lợi phẩm. Tướng nhà
Minh đóng chặt cửa thành cố thủ, Đinh lễ và Lê Triện chiếu tập nhân dân, hợp
binh vây thành. Người tỉnh Thanh Hóa đều đua nhau đến cửa quân xin hàng.
Tháng
này, vua Nhân Tông nhà Minh chết, Thái tử lên nối ngôi, đổi niên hiệu là Tuyên
Đức. Mùa thu, tháng 7, [tờ 23a] Hoàng đế hội các Tướng mà bảo rằng:
"Các
vị Tướng giỏi thời xưa, thường bỏ chỗ kiên cố mà đánh vào nơi nứt rạn; lánh chỗ
xung đột mà đánh vào nơi trống không. Như vậy thì chỉ dùng nửa phần sức lực, mà
thu lượm được thành công gấp đôi. Nay hai xứ Thuận Hóa và Tân Bình, mất liên
lạc với Nghệ An và Đông Đô đã lâu rồi. Vậy ta nên thừa thời thế tiến đánh hai
xứ đó".
Ngài bèn
sai Tư Đồ và Trần Nguyên Hãn, Thượng Tướng quân là Doãn Nỗ, và Chấp lệnh là Lê
Đa Bồ, dẫn hơn nghìn quân đi kinh lược xứ Thuận Hóa và Tân Bình, để chiêu phủ
nhân dân, bọn Trần Nguyên Hãn đánh phá tướng nhà Minh là Nhiệm Năng ở sông Bố
Chánh. Hoàng đế lại sai Lê Ngân, Phạm Bôi và Lê Văn An dẫn thuyền chiến ra
ngoài biển, để làm đội quân kế tiếp, liền phá được thành này, quân dân hai phủ
trên thảy đều qui thuận, ta thu lọc được vài vạn quân tinh nhuệ, để sung thêm
vào binh số, thanh thế rất lừng lẫy! Các Tướng bèn suy tôn Hoàng đế là [tờ 23b]
"Đại thiên hành hóa". Tự đây, trong những tờ Bảng hoặc những tờ Dụ
đều nêu bốn chữ này.
Mùa
đông, tháng 11, dựng Trần Cao làm vua, đặt niên hiệu là Thiên Khánh. Trần Cao
chính tên là Hồ Ông, lánh nạn đến châu Ngọc Ma, mà thổ quan là Cầm Quí đã giả
mạo xưng Ông là dòng dõi vua họ Trần. Vì vua triều Minh cho là quốc dân nước ta
vẫn còn nhớ họ Trần, cho nên đón Trần Cao dựng nên làm vua, để mượn việc đó trả
lời cho triều Minh và sai viên Tả Bọc Xạ là Bùi Quốc Hưng truyền tin này, còn
Hoàng đế thì tự xưng một cách khiêm tốn là: "Kiểm hiệu Thái sư bình chương
quân quốc trọng sự, đại thiên hành hóa, tứ kim ngư đại kim hổ phù trang võ vệ
quốc công". Ngày 30 tháng 12, là ngày Mậu Tý, làm lễ tâu cáo với các vị
Vua và Hoàng hậu thời trước của nhà Trần về việc dựng vua này.
[tờ 24a]
Niên hiệu Tuyên Đức (triều Minh) thứ 1, nhằm niên hiệu Thiên Khánh vua Trần năm
thứ 2 (1427), thuộc năm Mậu Ngọ. Mùa hạ, tháng 5, vua triều Minh ban tờ chiếu
tha tội bạn nghịch cho các quan lại và quân dân nước Giao Chỉ ta; và bãi bỏ hết
thẩy các thứ thuế trưng thầu buôn bán các loại: vàng, bạc, đồng, thiếc, sắt,
muối, hương và cá. Những loại này để cho người bản xứ tự do mua bán, các quan
không được cấm. Tưởng cũng nên biết, trước đây, pháp luật nhà Minh rất hà khắc
nghiêm nhặt! Nhân tình không ưa, cho nên mới ban tờ chiếu mệnh này. Nhưng lòng
dân oán ghét đã lâu, phần nhiều điều phụ về với quân ta, đại thế không thể kéo
trở lại được nữa.
Mùa thu,
tháng 8 (năm Bính Ngọ), Hoàng đế tính: Bao nhiêu quân tinh nhuệ của nhà Minh
đều đóng ở thành Nghệ An, còn các xứ thuộc Đông Đô, thẩy đều chỉ có một số quân
yếu kém. Ngài bèn sai các Tướng thi hành kế sách: Sai Cơ mật đại sứ là Phạm Văn
Sảo, Thiếu úy là Lê Triện, Thái giám [tờ 24b] là Lê Khả, Á hầu là Đỗ Bí, Lê Như
Thận, dẫn 3.000 quân và một con voi đi chiêu phủ nhân dân các xứ: Thiên Quang,
Quảng Oai, Quốc Oai, Gia Hưng, Qui Hóa, Đà Giang, Tam Đới và Tuyên Quang, để
ngăn chặn quân cứu viện tự tỉnh Vân Nam (thuộc Trung Hoa) tới; Thông hầu là Lưu
Nhân Chú, Thiếu úy là Bùi Bị, Thái giám là Lê Văn, Lê Ninh, dẫn 2.000 quân và 1
con voi đến các xứ: Thiên Trường, Tân Hưng,và Kiến Xương, để chặn con đường chạy
trở về của Đức Chính và Lý An khi thua trận. Hai đạo binh này sau khi đã chiếm
được đất, liền chia quân đóng giữ các nơi; Nhân Chú, Bùi Bị cùng với Lê Bồi, Lê
Vị Tẩu, dẫn 2.000 quân Thanh Hóa và một con voi, đi chiêu mộ nhân dân các xứ:
Khoái Châu, Bắc Giang và Lạng Giang, rồi đóng quân giữ các nơi hiểm yếu, để
ngăn chặn quân cứu viện do tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (thuộc Trung Hoa) tới;
Tư Không là Đinh Lễ Nguyễn Sí và Lê Bì, [tờ 25a] dồn quân tinh nhuệ tiến đánh
Đông Đô, để biểu dương thanh thế. Ra lệnh cho các Tướng: Đến đâu đều không được
lấy của dân một
mảy may. Bởi thế quân đi qua mà chợ vẫn hợp như thường. Các Trấn ở các Lộ thẩy
đều hoan nghênh, thi đua đem thịt trâu thịt dê cơm rượu ra khao lạo quân sĩ.
Ngày 12,
Lê Triện dẫn 3.000 quân tiến sát Đông Đô, tham Tướng nhà Minh là Trần Trí, thấy
quân ta kéo đến một cách bất thình lình! Sợ quá! Bèn dẫn quân ra ứng chiến ở
Ninh Kiều thuộc phủ Ứng Thiên, Lê Triện, Lê Khả và Đỗ Bí hết sức chiến đấu.
Quân Minh thua, ta chém đầu 2.000 quân địch, rồi tiến quân đến bờ phía tây sông
Ninh. Trần Trí thấy thành Đông Quang cô lập nguy cấp, bèn đào hào đắp lũy thêm,
để làm kế "cố thủ", rồi phi một tờ cáo cấp, để vào trong hộp bằng
thiếc gởi tới Nghệ An, bảo Lý An và Phương Chánh dẫn quân về cứu nơi cỗi rễ.
Ngày 17
tháng 9, Lý An và Phương Chánh [tờ 25b] để chỉ huy là Thái Phúc ở lại giữ thành
Nghệ An, rồi xuống thuyền lẻn ra biển lúc ban đêm. Quan quân ta đã phục sẵn các
nơi yếu hại, để chặn đường về của chúng, bởi thế bọn Phương Chánh chỉ loanh
quanh ở trong biển, không lên bờ được. Về phần quân ta, lúc ấy hãy còn ít
thuyền, khó bề đuổi đánh, nên bọn Phương Chánh chạy thoát. Hoàng đế bèn để Lê
Ngân, Lê Văn An, Phạm Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh và Bùi Quốc Hưng ở lại vây
thành Nghệ An, ngài thì đích thân đốc suất cả thủy quân và lục quân, tiến theoo
sau Lý An và Phương Chánh. Khi quân tới Tây Đô, ngài đóng doanh trại tại Lỗi
Giang, uý lạo Tướng sĩ; ban thưởng cho các vị phụ lão trong làng và các người
thân thuộc trong họ, tùy theo từng hạng. Nhiều người trong các Quận, các Huyện
tỉnh Thanh Hóa nghe thấy Hoàng đế tới, đều đến cửa viên tình nguyện theo ngài
xông pha ra trận, ngài đều cho dẫn vào bệ kiến, [tờ 26a] rồi tùy tài cho ghép
vào các đội binh.
Ngày 20,
viên Đô tư tỉnh Vân nam nhà Minh là Vương An Lão dẫn hơn vạn quân tới cứu viện,
đi đến cầu Xa Lộc thuộc Tam Giang, Văn Sảo đón đánh phá tan. Địch bị giết và
chết đuối tới hơn một nghìn quân, còn
thì chạy vào thành Tam Giang.
Lê Triện
đánh nhau với Ty Đô nhà Minh là Vi Lượng ở cầu Nhân Mục, đại thắng bắt được Vi Lượng.
Mùa
đông, tháng 10, vua nhà Minh sai tổng binh là Thành Sơn Dật và Vương Thông, giữ
chức Tham tán việc quân, cùng với Thượng thư bộ binh là Trần Hợp, và Tham Tướng
là Mã Anh dẫn 50.000 quân và 5.000 kỵ binh tới cứu viện. Khi chúng tới Đông Đô,
thì hơn vạn quân đạo binh Vân Nam
đã đến Tam Giang rồi, và đang xuôi dòng thẳng tiến. Bọn Lê Khả được tin này,
lập tức tự Ninh Kiều vội vã tới gấp, đón đánh ngay ở cầu Xa Lộc. [tờ 26b] phá
tan được đạo quân Minh này.
Ngày
mồng 6, Vương Thông ỷ vào thế mạnh lúc mới đến, bèn suất tất cả 1.000.000 quân,
cùng với bọn Trần Hợp, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Lý An, Trần Trí và Phương Chánh, chia
làm 3 đạo quân kéo ra ngoài thành, đánh vào trại của Lê Triện và Lê Bí ở bến đò
Cổ...1, Lê Triện bèn cấp báo cho lê Lễ và Lê Sí biết, bọn Lê Lễ dẫn quân tự
Thanh Đàm lại cứu, rồi cùng nhau bàn kế dụ lừa quân địch, và cùng hăng say
chiến đấu, phá tan quân Vương Thông ở Ninh Kiều Túy Động (việc này có chép ở
truyện tiểu sử Lê Triện). Trần Hợp và Lý Lương nhà Minh cùng 50.000 quân chết
đuối rất nhiều, ta bắt sống được hơn vạn quân địch, và thu được khí giới, ngựa
trâu, vàng bạc của cải rất nhiều, bọn Vương Thông chỉ chạy thoát lấy thân về
Đông Quan đóng thành cố thủ. Lê Lễ và Lê Triện [tờ 27a] thừa thắng thẩng tiến
vây thành, quân uy lừng lẫy sấm vang! Lúc này Hoàng đế đang hội các Tướng Hải
Tây đóng ở Thanh Hóa, nhận được thư báo thắng trận, ngài bèn thân xuất đại quân
và 20 con voi thẳng tiến, ngày 11 tới Lũng Giang, các Tướng đón mừng.
Tri Châu
châu Bình Chánh là Hà Hoạn bị quân ta bắt, nhưng y chịu chết không hàng.
Vương
Thông tự sau khi thua trận, khí giời gần hết, phải phá quả chuông Qui Điền và
cái đỉnh Phổ Minh để đúc đạn súng.
Ngày 22,
Hoàng đế tiến quân đến Phù Liệt, ngày hôm sau, ngài sai Trần Hãn, Bùi Bị lĩnh
100 thuyền chiến tự sông Đại Lũng bơi ra cửa sông Hác Giang, rồi xuôi dòng
thẳng xuống; Đinh Lễ dẫn hơn vạn quân bản bộ đánh vào cầu Tây Dương, ngài thì
đích thân cầm quân đánh vào cửa Nam Thành Đại
1 Đây là tên một bến đò, có 2
chữ, nhưng bản chính chỉ chép có 1 chữ "cổ", còn phần dưới bỏ trắng
khoảng một chữ. Vậy không thể biết là bến đò cổ gì?.
La. Đến
trống canh ba đêm hôm ấy, quân ta đánh cả bốn mặt, rồi phóng lửa đốt những nhà
của dân ở bên ngoài thành, binh Tướng của Phương Chánh ở doanh ngoài, [tờ 27b]
vội tranh nhau chạy vào trong thành, bị chết ngổn ngang! Ta giải phóng hết
những người Việt ta từng bị chúng ức hiếp phải theo, và thu được hơn trăm chiếc
thuyền chiến, cùng rất nhiều khí giới đồ đạc. Quân dân vùng này thảy đều qui
phụ quân ta. Bọn Vương Thông và các quan 3 Ty đều cố chết giữ thành, để đợi
quân cứu viện. Hoàng đế bèn đóng dinh tại Đông Phù Liệt gần đó để uy hiếp.
Sau khi
Hoàng đế tới thành Đông Đô 3 ngày, các vị hào kiệt các Lộ; nhân dân các Phủ
Huyện; và Tù Trưởng các Trấn kéo nhau đến cửa dinh đông nghịt, thẩy đều tình
nguyện giúp sức đánh phá các thành, Hoàng đế cho dẫn các người vào bệ kiến,
ngài phủ dụ an ủi và giảng cho biết lẽ lui tới; các sĩ phu và thứ dân đến yết
kiến ngài đều niềm nở tiếp đãi đúng lễ, rồi tùy tài cao thấp của từng người,
cho liệt vào các chức; ban hành cả thưởng và phạt, để cho mọi người biết sự
khuyên răn. [tờ 28a] Ai nấy đều cảm khích.
Chia các
lộ và các Trấn ở Đông Đô làm thành 4 Đạo; đặt các quan văn võ trong Triều và
ngoài Đạo; đặt chức tuần kiểm ở các cửa biển, để khám xét ngưởi qua lại, và bắt
những kẻ phản đảng đã làm quan với nhà Minh, cùng những kẻ ngoan dân có lòng
phản bội định đem thư về Trung Hoa.
Lại ban
lời dụ rằng:
"Các
bậc văn nhân tài tử nào chưa ra làm quan, mà có thể viết thư đưa vào thành Đông
Đô, khuyên được Tướng Tá trong đó mở cửa thành ra hàng, hoặc giảng hòa để về
nước. Sẽ đặt cách trọng dụng ngay".
Ban lệnh
tịch thu sản nghiệp, vợ con, tôi tớ của bọn ngụy quan (làm quan với triều
Minh), lấy thóc lúa sung vào kho dự trữ, để cung cấp quân nhu.
Tháng
12, ra lệnh cấm quân sĩ không được chặt phá cây cối hoa quả, cướp bóc tài sản
của nhân dân.
Quan
quân ta vây thành Đông Đô rất gấp. Vương Thông bị cùng quẩn quá! Bèn gởi thư
giảng hòa, xin cho được đem hết quân sĩ về Trung Hoa. Hoàng đế rằng:
[tờ 28b]
"Binh pháp có câu: "Không cần đánh mà đối phương phải khuất phục. Đó
là thượng sách của nhà binh vậy".
Ngài bèn
bằng lòng cho hòa, và hẹn Vương Thông phải dồn tất cả người và lính ở các thành
khác, về hội cả Đông Đô, càng sớm càng hay. Nhưng mới qua một thời gian, có bọn
cận thân qua lại với Vương Thông là bọn ngụy Đô ty Trần Phong, Tham chánh Lương
Nhữ Hốt, và Đô chỉ huy Trần An Vinh bảo Vương Thông rằng: "Thời xưa, Ô Mã
Nhi thua trận ở sông Bạch Đằng, phải đem quân lại hàng, Hưng Đạo Vương bằng
lòng cho hàng, rồi sai đem các thuyền lớn chở đưa về nước, nhưng lại dùng các
người tài lặn làm thủy thủ. Khi thuyền ra tới ngoài biển, chờ khi ban đêm, các
người trong thuyền ngủ say, lúc ấy thủy thủ lặn xuống nước, khoan thủng đáy
thuyền, làm cho binh Tướng Tàu đều chết đuối hết trơn, không còn một
mống".
Bởi thế,
Vương Thông đâm ngờ, lại đắp thêm lũy, đào thêm hào, và gài chông nhọn để làm
kế cố thủ [tờ 29a] rồi ngầm sai mấy chục người đem bức thư bọc ngoài bằng sáp
ong, lén đi lối tắt để cầu viện binh. Quan quân ta bắt được bọn này, nên Hoàng
đế phát ghét về thói tráo trở, ngài bèn sai đặt phục binh khắp bốn mặt bên
ngoài thành, để bắt các người trong thành ra vào, tổng số bắt được đã tới hơn
3.000 lính và 5 con ngựa, thì tự đấy Vương Thông đóng thành không ra, sứ giả
qua lại cũng chấm dứt.
Hoàng đế
sai các Tướng dẫn quân đi đánh các Phủ Huyện: Bùi Quốc Công đánh Đao Kê Thị
Kiều; Lê Khả và Lê Văn đánh Tam Giang; Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lý và Lê Lãnh đánh
Xương Giang; Lê Lưu và Phạm Bôi đánh Khâu Ôn.
Ngày 20,
đặt chức An Phủ Sứ vào các Lộ, dùng Đào Công Soạn và Nguyễn Dực cả thảy 24
người sung chức này; đặt chức Viên ngoại lang vào 6 đạo quân, dùng Nguyễn Tông
Vỹ cả thảy 6 người sung chức này. Bọn Công Soạn hết thảy đều là [tờ 29b] sĩ tử
mới trúng tuyển.
Năm Đinh
Tỵ, niên hiệu Thiên Đức thứ 211, Mùa xuân, tháng giêng, Hoàng đế tiến quân đóng
tại bờ phía Bắc sông Lô, rồi chia quân vây thành Đông Đô: Lê Hướng giữ vây cửa
Đông thành, Đinh Lễ giữ vây cửa Nam thành, Thái giám Lê Chửng giữ vây cửa Tây
thành, Lê Triện giữ vây cửa Bắc thành. Sơn Thọ sai Thông Sự là bọn Nguyễn Nhiệm
gồm 3 người, lại thông tin tức với ta.
Hoàng đế
ban chức Hỏa thủ quân trong các Lộ, tùy theo từng hạng; bổ 515 người vào thuộc
lại trong Viện Hàn Lâm, và thuộc lại trong bốn Đạo; sai Dương Thái Nhất tu sửa
đền thờ Trần Hưng Đạo, cấm không được chặt phá cây cối nơi đây; ra lệnh cho Lộ
An Bang nộp gỗ sung và tên bắn bằng tre; ra mệnh lệnh cho các Lộ các Trấn
chuyển vận lương hướng tới Xương Giang và Tam Giang, để cung cấp quân lính; ra
lệnh cho các Tướng và quan chức các Lộ, phải dò hỏi [tờ 30a] tìm tòi người có
tài ba trí dũng, có thể làm chức Thượng Tướng Tư Mã, mỗi viện phải tiến cử một
người; ra lệnh cho nhân dân, người nào dâng thóc để cấp phát cho quân, sẽ được
phong tước, tùy theo từng hạng.
Viên chỉ
huy tỉnh Nghệ An là Thái Phúc đầu hàng ta. Thành Diễn Châu cũng hàng.
Phạm Cự
Luyện ở huyện Đường Hào, và Đoàn Lộ ở huyện Cổ Phí, đều dâng kế sách đánh phá
thành trì; và cách thức làm phên chiến đấu, xe phá thành và xe ngựa bay. Hoàng
đế khen hay, bèn sai các Tướng y theo kiểu mẫu đó để làm các thứ trên.
Ra lệnh
cho các xứ phải tôn thờ miếu thờ các vị Công thần thời trước.
Sai
người đã đầu hàng là viên Bách Hộ Hà Vượng, mang thư vào thành Đông Quan dụ
Vương Thông ra hàng. Sai Tư Mã Tuyên Quang là Lương Thế Vinh và Đề Đốc Phụ Đạo
là Ma Tông Kế coi việc đóng thuyền chiến.
Sai Nhập
nội Thiếu bảo là Lê Lưu tổng quản việc quân dân các xứ Lạng Sơn và An Bang, [tờ
30b] xuất quân đánh thành Khâu Ôn, rồi chia quân đóng giữ các chỗ hiểm yếu nơi
ấy, và cho Lê Lưu được quyền "tiên trảm hậu văn" (mỗi khi kẻ nào phạm
pháp, được quyền chém đầu kẻ ấy ngay, rồi sau mới tâu lên vua).
Mời viên
Nhập nội thiếu phủ là Lê Chích ở Nghệ An về Đông Đô.
Phong
cho viên Hàn Lâm Viện Thừa chỉ học sĩ là Nguyễn Trãi chức "Triều liệt đại
phu nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm Cơ Mật viện". Hoàng đế
sai dựng một cái lầu mấy tầng trong dinh Bồ Đề, hằng ngày ngài ngự tại từng lầu
trên cùng, để trông vào thành bên địch, cho Nguyễn Trãi ngồi ở tầng lầu dưới,
để bàn luận cơ mưu hầu ngài, và thảo những thư từ gởi đi, xét những thư từ gởi
tới.
Ngày 13,
Lê Lưu và Phạm Bôi đánh chiếm được thành Khâu Ôn, người Minh bỏ thành chạy trốn
vào lúc ban đêm.
Viên Tư
mã là Lê...2 cậy có chiến công [tờ 31a] thường thốt ra những lời khinh nhờn.
Hoàng đế sai giết chết, và tịch thu gia sản. Viên Thiên hộ là Lý Vân, và Tòng
nhân là Bùi Vĩnh, lấy trộm muối chở vào thành Chí Linh, ngài cũng sai giết cả.
và đều bị tịch thu gia sản.
Ra lệnh
kiểm điểm khí giới của binh sĩ, kẻ nào thiếu, sẽ trị theo quân luật.
Ra lệnh
cho tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Lạng Sơn nộp vỏ cây gai, để dùng vào việc quân. Ra
lệnh cho huyện Tân Phúc mở lò rèn sắt.
Sai viên
Tư mã Tổng đốc Trấn Thiên quan là Cao Ngự dẫn quân vây thành Cổ Lộng, và cho
ông được
quyền "tiên trị hậu văn" (mỗi khi kẻ nào phạm pháp, được quyền trị
tội ngay, rồi sau mới tâu lên
1 Năm trước đây là năm Bính
Ngọ niên hiện Tuyên Đức thứ nhất, nhằm niên hiệu Thiên Khánh triều Trần thứ 2.
Năm này là năm ĐinhTỵ, liền sát ngay với năm trước, sao lại chép niên hiệu thứ
21? Hoặc chép lầm chăng ?.
2 Đây là tên người, nhưng
chính bản chỉ chép một chữ "Lê" (họ Lê) mà bên dưới bỏ trắng khoảng
một chữ. Vậy không biết viên này tên là gì ?.
vua),
rồi sai các Tướng đóng đồn giữ nơi đây: Lê Vấn đóng đồn tại cửa Đông thành Đông
Quan; Đinh Lễ, Lê Sát, Lê Lý và Lê Chích đóng đồn tại cửa Nam; Lê Bị đóng đồn
tại cửa Tây; Lê Triện và Lê Văn An đóng đồn tại cửa Bắc.
Ra lệnh
cho các xứ : Tam Giang, Tam Đới, Tuyên Quang và Qui Hóa nộp thứ tre [tờ 31b]
nứa, dựng bức thành ở dưới nước, vào phía bờ bên Bắc sông Nhĩ Hà.
Lê Chích
đánh chiếm được thành Đao Kê, viên Chỉ huy là Trương Lân và viên Tri phủ là
Trần Vân ra đầu hàng.
Chế tạo
súng Tương dương, để dùng vào việc đánh phá thành trì.
Ra lệnh
cho người trong nước: Người nào có cha mẹ vợ con, anh em, tôi tớ hoặc họ hàng,
đã trót theo quân địch ở trong thành, cho phép tự nguyện đến ghi tên1, chờ sau
khi phá được thành, sẽ chiếu đó giao cho đưa về gia đình. Nếu không khai, đến
khi thành phá, lại tư túi tranh nhận xin về chung sống, sẽ trị tội theo quân
luật.
Ban cho
các viên Phụ đạo ở các Xứ chức Thủ ngự đoàn luyện, phẩm tước tùy theo từng
hạng. Ngày 7, tháng 2, Thiếu úy là Lê Triện, đánh nhau với Tướng nhà Minh là
Phương Chánh ở Khỏa
Động,
Triện bị tử trận, Đỗ Bí thì bị giặc bắt.
Ngày 19,
quân Minh đánh đồn Bài Sa Đôi thuộc huyện Từ Liêm, quan quân đóng vững cửa
thành và cố sức chống cự, tới khi hết tên đạn [tờ 32a] phải lấy cả vò lọ và
gạch nấu bếp liệng ra, quân địch không tiến nổi, sau phải giỡ nhà của dân chất
đống lại, phóng lửa đốt theo chiều gió, rồi kéo nhau bơi lội qua sông, bị chết
đuối khá nhiều. Duy đạo quân Thiên quan không biết bơi lội, ở lại thù tử chiến
đấu, quân địch phải thua chạy.
Lê Chích
dẫn quân vây đánh thành Thị Kiều, Tướng nhà Minh là Vương Đường và Bảo Trinh ra
hàng.
Hoàng đế
sai Nguyễn Trãi đi cùng với người đã hàng là viên chỉ huy họ Tăng đến thành Tam
Giang chiêu dụ (khuyên hàng).
Sứ thần
nước Chiêm Thành lại nước ta dâng cống hiến, Hoàng đế đãi yến, khi trở về ngài
lại ban cho lụa vải và con ngựa, và sai Thiêm tri khu mật là Hà Lật đi cùng với
sứ giả tới Chiêm Thành để tuyên bố ủy lạo.
Ra lệnh
các Tướng Tá lại bắt đầu lập công mới. Tự các vị đại thần tới chức Thái úy, ai
có công lớn được thưởng "kim phù", thì được hưởng thuế một Quận; các
viên Chấp lệnh có công được hưởng một Ấp; các viên Đốc Tướng và quân nhân có
công [tờ 32b] cũng được hưởng một Quận hoặc một Ấp, tùy theo từng hạng. Những
vị nào không có công thưởng, thẩy đều giáng xuống hạng dân thường.
Ban tờ
chiếu cho các điạ phương, nơi nào có Lăng Miếu của các vị vua thời trước, mà bị
người Minh phá hủy, thì quan chức nơi ấy phải tu sửa lại, và phái người trông
coi; mỗi Lăng mấy người, tùy theo từng hạng.
Tháng 3,
duyệt binh ở Vĩnh Động, hàng ngũ đội binh của viên Chánh đốc là Nguyễn Liên
Khiếm Khuyết, khí giới lại không tề chỉnh, liền chém đầu Nguyễn Liên để làm
gương.
Phong
chức Thượng thư bộ lễ, và Kiêm Tư đông đạo quân dân bạ tịch cho Bùi Ư Đài.
Ra lệnh
cho ba quân: Kẻ nào có chí hi sinh về việc nước, mà tinh thông võ nghệ, có sức
mạnh, tính quả cảm, đều được tự đến tiến thân, sẽ tuyển vào đội thị vệ nơi Nội
phủ.
1 Câu này bản chính chép:
"Hứa tự nguyện đăng thành" (cho phép được tự nguyện lên trên thành).
Hai chữ "đăng thành" (lên trên thành) đáng ngờ. Vì đang lúc hai bên
đánh nhau, mặt thành là nơi canh phòng cẩn mật, người thường đâu có thể lên
được. Vả lại trèo lên thành để làm gì ?như vậy đũ rõ hai chữ "đăng
thành" là không hợp văn lý. hoặc do chữ "đăng ký" (ghi tên vào
quyển sổ) chép lộn ra chăng ? Vậy xin dịch theo nghĩa chử "đăng ký".
Ngày
mồng sáu , viên chỉ huy sứ nhà Minh là Lưu Thanh tại thành Tam Giang ra hàng.
Lưu Thanh vẫn sẵn có chí qui phụ ta. Nguyên hồi trước, người Tam Giang theo
viên tổng binh nhà Minh [tờ 33a] đi đánh Thanh Hóa, bị thua trở về, bọn người
bản xứ có những kẻ nói những lời hỗi xược, Lưu Thanh liền mắng rằng:
"Thằng
mán vô lễ! Người ấy sẽ là vị Hoàng đế của chúng mày đấy".
Đến đây
Lưu Thanh ra hàng. Cách đây một thời gian ngắn, hơn vạn hàng binh các thành
khác hợp nhau làm phản, việc vỡ lỡ, đều bị giết hết, chỉ có binh sĩ thành Tam
Giang không dự việc này.
Ngày
mồng 8, viên Tư Không là Đinh Lễ và Thượng Tướng quân là Nguyễn Sí, đánh nhau
với Tướng nhà Minh là Vương Thông ở Mỵ Động, bị thua, Đinh Lễ tử trận, Nguyễn
Sí bị địch bắt.
Phong
chức Hành quân quản đốc nhập nội đại tư mã cho Thông hầu là Lưu Nhân Chú, và
được quản lĩnh 4 Vệ: Tiền, Hậu, Tả, Hữu, lại được biết tới các việc quân trong
Tân Vệ.
Ra lệnh
cho Tướng Tá và quân nhân trong hạt Quốc Oai, Tam Đới: Người nào bắt được tờ
thư của giặc, nội dung toàn những lời lừa dối dụ dỗ, cốt để mê hoặc lòng người,
mà chỉ đem thư ấy trình riêng [tờ 33b] lên viên Tướng trong bộ mình, sẽ bị chém
đầu. Viên Đốc Tướng trong các đội ấy, mà không xét tới việc ấy, cũng bị đồng
tội. Kẻ nào phao lời mê hoặc tại các Châu Huyện, thì bắt ngay dẫn giải tới cửa
quân, chém đầu.
Bố trí
những quan nhà Minh đã đầu hàng vào các Xứ: Thanh Hóa, Nghệ An, Lam Ấp, và Tân Bình.
Ra mệnh
lệnh cho các Lộ, phải tiến cử những người anh tuấn hiền tài có trí dũng và ngay
thẳng, sẽ vời vào triều đình đối đáp xử dụng. Nếu trong hạt có người hiền trên,
mà các quan ẩn giấu không tiến cử, sẽ bị giáng chức hoặc cách chức.
Ra lệnh
cho chức Thiếu úy giữ lệnh giám sát trong quân ngũ: Lúc ngày thường, có tên
lính nào phạm pháp, không được tự ý giết ngay. nhưng khi lâm trận, tên lính nào
trái lệnh, được quyền chém đầu ngay, rồi sẽ tâu lên vua.
Ngày 19,
thành Thị Kiều đầu hàng. Vua ra lệnh:
"người
trong nước, ai có vợ con hoặc anh em đã bị quân giặc ở các thành cướp bắt làm
vợ, làm thiếp, hoặc làm tôi tớ, nay đã ra hàng, mà có thể cùng nhau đánh vào
thành Đông Quan, [tờ 34a] kẻ nào chém được đầu giặc, hoặc bắt được giặc, sẽ tra
hỏi người thân thích giao cho về nhà, và vẫn được thưởng cấp bậc, tùy theo từng
hạng".
Cấm các
người đồng cốt không được hành nghề tả đạo, giả xưng tà ma quỷ thần, đem những
lời phù phiếm cổ động, mê hoặc lòng người.
Ra lệnh
cho những nhân dân lưu tán được về nguyên quán, kẻ nào chăm chỉ cày cấy ruộng
nương, đều cho được giao dịch mua bán, kẻ nào hoang phế việc nông, sẽ trị tội
nặng.
Sai
người Minh đã đầu hàng là Châu Sài đem 340 con ngựa đến Hóa Châu chăn nuôi. Ra
mệnh lệnh cho các đạo quân, luyện tập thủy chiến.
Ra mệnh
lệnh cho các viên Thiếu úy, chọn những con nhà giàu, lấy hạng thân thể to lớn;
tinh thông nghề võ; có sức mạnh, lại có chí quả quyết, mỗi viên hãy chọn 200
như trên, để sung vào đội Thị vệ.
Vì Đào
Lý Khánh tư thông với giặc1.
Cấm viên
chức coi kho muối, [tờ 34b] không được tự ý đem muối thông dụng.
1 Câu này chưa đủ ý nghĩa.
Hoặc bên dưới còn hai chữ "sát chi" (giết chết) mà người chép đã bỏ
sót chăng ?.
Tháng
này (tháng 5 Đinh Tỵ), nhà Minh sai viên Thái Tử Thái Phó, tước An viễn hầu là
Liễu Thăng, mang quả ấn Chinh lỗ phó tướng quân, và Thượng thư hộ Binh là Lý
Khánh giữ chức Tham tán quân vụ, dẫn 70.000 quân trong các tỉnh Kinh Hồ, Tích
Giang và Phúc Kiến, do đường tỉnh Quảng Tây tới đánh ta; viên Thái phó tước
Kiềm quốc công là Mộc Thạnh, mang quả ấn Chinh nam tướng quân, đem 50.00 quân Vân Nam ,
do đường tỉnh Vân Nam
tới đánh ta.
Mùa hạ,
tháng 4. sai viên Phòng ngự là Trần Ban quản đốc công tác tu sửa cửa ải Lê Hoa,
để phòng ngăn quân Vân Nam .
Hoàng đế
hạ lệnh rằng:
"Ta
không có tài dũng và trí tuệ, thế mà một mình giữ trách nhiện trọng đại này, sợ
không đương nổi. Bởi thế, nên ta vẫn thường khoanh tay cầu người hiền, nghiêng
lòng tôn kẻ sĩ, để cùng mưu toan việc lớn, cứu vớt dân này. Vậy ai tiến cử
những bậc có cơ mưu võ dũng hơn người, [tờ 35a] hoặc đích thân tự tiến, ta sẽ
phong cho tước Thượng Khanh".
Ghi chép
công các người đã khó nhọc về việc nước: Phong chức Thái úy cho em trai Lê Lễ
là Đinh Liệt ; phong chức Quan sát sứ cho thân phụ Lê Triện là Lê Ba Lao; phong
chức Phòng ngự sứ cho con Lê Triện là Lăng1.
Sai bam
lời dụ khuyến khích các Tướng sĩ trong 14 Vệ Thiết đột, phải đồng lòng đánh
quân giặc; lại sai ban lời dụ cho các Tướng sĩ trong 3 Lộ; Nghệ An, Tân Bình và
Thuận Hóa, phải gắng sức dẹp giặc.
Hoàng đế
hạ lệnh cho các Tướng các quân rằng:
"Người
Minh tàn hại dân ta đã hơn 20 năm nay. Buổi đầu số quân của ta có hơn trăm vạn,
sai để 35 vạn chờ đánh phá thành Đông Quan, cho 25 vạn về làm ruộng, lưu vài
chục vạn làm quân phòng ngự việc nước. bây giờ phải lấy thêm quân, cứ nhà nào
có 3 người thì lấy 1 người làm lính. Còn các thứ thuế và tạp dịch đều miễn cho
3 năm. [tờ 35b] Lại tuyên bố 10 điều quân luật cho quân sĩ biết.
Cho viên
Thiếu bảo là Lê Văn An được quyền tổng tri việc quân trong 4 Lộ: Quốc Oai,
Thượng Trung, Tam Đối, và Quảng Oai.
Ban 3
điều răn cho các quan văn và võ:
1. Không
được vô tình.
2. Không
được dối trá, khinh nhờn.
3. Không
được gian tham.
Sai ban
lời dụ cho các hào kiệt trong thiên hạ rằng:
"Hiện
nay đã phá được nhiều thành quân địch, duy còn thành Đông Quan vẫn chưa hạ
được. Bởi thế, ta ngũ không yên giấc, ăn không biết ngon,đêm ngày lo nghĩ, Vã
lại ta chưa được người hiền tài phụ tá. Ta tuy là chủ Tướng nhưng tự xét:
1. Già
yếu không có tài năng;
2. Học
thức nông hẹp;
3. Trách
nhiệm nặng nề khó đương nổi.
"Thế
mà các vị đại thần giúp đỡ, chưa có người đặt vào chức Tướng Quốc, chức Thái
phó và Thái bảo; chức Thái úy, chức Đô nguyên soái cũng còn thiếu; các chức
Hành khiển [tờ 36a] và các quan khác, mười phần mới có một hai. Thế cho nên ta
thành thực khuyên mong các vị hào kiệt gắng sức giúp ta, để cứu vãn nhân dân,
không nên ẩn mình giấu bóng, để cho thiên hạ phải chịu cảnh khổ lầm than
1 Lê Lễ và Lê Triện là hai vị
kiện Tướng, đã từng lập nhiều chiến công, và đều đã tử trận. Triều đình nghĩ
tới công lao, nên phong quan chức cho thân nhân của ông.
này mãi.
Hoặc có vị nào muốn giữ tiết tháo cao siêu như tứ hạo1; trốn lánh công danh như
Tử Phòng2, cũng nên vì dân, hãy ra cứu nạn, chờ sau khi thành công mà muốn toại
chí nguyện, lúc ấy sẽ về ẩn nơi rừng núi, ta không cưỡng ép".
Ra mệnh
lệnh cho các Tướng giữ đồn ải, phải xét hỏi gắt những người qua lại vận sắt
phục lạ, và xét những thư từ các biên thùy đưa về, xem thực hay giả.
Tháng 5,
ra mệnh cho mọi người tục nạp văn bằng của người Minh đã phong cho, và xét kỷ
dấu ấn trong văn bằng đó có đúng không.
người ở
hạt Bố chánh là Nguyễn Tử Hoan hiến kế sách, Hoàng đế vừa ý, ngài bèn phong cho
ông chức Quân sư.
Ra mệnh
cho các viên Thiếu úy và quan các Lộ, phải tìm tòi hết văn bằng của các ngụy
quan, (làm quan với giặc) và tịch thu tài sản trâu bò vợ con đầy tớ của các
ngụy thổ quan và ngụy thổ quân [tờ 36b] để nộp, cho phép được nộp tiền chuộc
tội, để lấy tiền cấp cho quân sĩ.
Sai
tuyển nhân đinh, chọn lấy những người khỏe mạnh, để bổ thêm vào hàng ngũ quân
đội. Bọn Vi Báo tại châu Tư Lăng thuộc phủ Tư Minh ra đầu hàng ta.
Các
Tướng đánh nhau với quân Minh ở Từ Liêm và Cơ Xá, đều thắng trận, đều được ban
thưởng tùy từng hạng.
Ra lệnh
cho các quan lại tại 4 Lộ: Thiên Trường, Kiến Xương, Lý Nhân và Tân Hưng, phải
cấp dưỡng những người ở các thành đã ra hàng, cả đàn ông và đàn bà gồm hơn
6.000 người, không được để cho chúng phải lưu ly thất sở.
Thổ tù ở
Mộc mang thuộc trấn Gia Hưng là Xa Khả Tham qui thuận, Hoàng đế phong cho chức
Ty không bình chương sự, Tri thượng Phán thuộc trấn Đà Giang, và cho túi Kim
ngư áo mũ tước Hầu, trao cho con ông là Xa Lộc chức Thượng Tướng quân vệ kim
ngô; trao chức Đại Tướng quân vệ Ngọc kiềm cho Xa Khát, Xa Bàn, Xa Điểm, đều
cho [tờ 37a] được đổi ra họ nhà vua (họ Lê).
Ngày
mồng 10, tháng 6, Tước Trấn viễn hầu nhà Minh đóng ở tỉnh Quảng Tây là Cố Hưng
Tổ, dẫn 50.000 quân và 5.000 con ngựa sang cứu thành Đông Đô, khi đi đến cửa ải
Pha Lũy, bị các Tướng đóng giữ ở đây là Lê Lưu và Lê Bôi đánh phá tan, Hưng Tổ
phải chạy về Quì Châu.
Phụ đạo
là Cầm Lan qui thuận.
Phong
thêm chức Tư đồ Tư mã cho Nguyên tử thị trung là Tư Tể, và chức Tư không cho
Nhân Chú. Bổ các viên Thiếu úy là Lê Vấn, Lê Sát vào chức Tư mã Thượng Tướng;
Lê Bôi vào chức Thiếu úy.
Ta đắp
một đồn nhỏ ở châu Cơ Xá, bị quân nhà Minh đánh phá tan! Hoàng đế ra lệnh không
được cứu, để cho chúng yên chí là quân ta nhát.
Tháng 7,
ra mệnh lệnh cho quan các Lộ, và quan văn Môn hạ tỉnh hành khiển, cùng với
Tướng Tá các đạo quân, hợp đồng lập hộ tịch (sổ đinh).
Sứ thần
nước Chiêm Thành tới dâng phẩm vật bản xứ.
Ra lệnh
ban tờ dụ cho các vị Tướng quân: [tờ 37b] "Tướng nào giữ việc binh, phải
chăm lo về việc chiến trận, Tướng giữ việc vận tải, phải chăm lo về việc tiếp
tế lương thực, việc đốn cũi, việc nấu muối, và ngăn chặn các lối đường thủy,
đường bộ, để bắt những kẻ gian. Các ngươi nên hi sinh bản
1 Tứ hạo: 4 ông già ngoại 80
tuổi: 1. Đông Viên Công, 2. Hạ Hoàng Công, 3.- ỷ Lý Công, 4.-Giác Lý Tiên Sinh,
cùng nhau ở ẩn tại núi Thương Sơn, vua Hán Cao tổ cho sứ vời, đều không chịu
tới. Sau vua Cao Tổ định bỏ Thái tử Doanh, dựng em Doanh là Như Ý lên thay,
Trương Lương bèn lập mưu mời đón được 4 ông già này đến phụ Tá Thái tử. Vua Cao
Tổ thấy vậy, cho là Thái tử được người hiền giúp, bèn bỏ ý thay Thái tử.
2 Tử Phòng tức Trương Lương,
được Hoàng Thạch Công trao cho quyển "Thái công binh pháp", học tập
trở nên đại tài thao lược, chức quân sư giúp vua Hán Cao Tổ bình định thiên hạ. Sau khi thành
công, ông không chịu nhận chức làm quan, rồi giong thuyền tiêu dao nơi Ngũ Hồ.
thân,
chăm lo công vụ, sát cánh cùng nhau giết hết quân thù. Ta là cha mẹ của dân, há
ta không biết như thế là vất vã, mà còn buộc các ngươi vào những việc cực khổ
đó chăng ? đó chỉ là sự chẳng được đừng vậy. Các ngươi hãy cố gắng lên, để lập
công lớn".
Các
Tướng đánh nhau với quân Minh ở thành Đông Quan và hạt Thổ khối, đều thắng
trận, được thưởng ngân bài và tiền lụa, tùy theo từng hạng.
Nước Ai
Lao sai sứ sứ thần đến hiến phẩm vật bản xứ. Tháng 8, ra lệnh ban tờ dụ khắp
thiên hạ rằng:
"Hiện
nay quân giặc ở trong nước ta, dân ta chưa được bình định, thì các ngươi có yên
lòng chăng ? Xưa vì họ Hồ vô đạo, cho nên giặc Minh nhân đó mà cướp nước ta,
[tờ 38a] những sự chúng tàn ngược nhân dân ta, tưởng các ngươi cũng đã đều thấy
cả . Bây giờ hãy dùng sức gian lao trong một năm, để hưởng cơ nghiệp thái bình
muông thuở. Các ngươi nên nghĩ cho kỹ, đừng để lưu mối họa về sau".
Sai bọn
Lê Khắc Hài sang sứ nước Chiêm Thành.
Lê Khả
Tham hiến 3 con voi. Hoàng đế ban thưởng ngựa và lụa cho Khả Tham.
Ra lệnh
nhân dân các Lộ tới cả dinh Bồ Đề, để tuyển lấy hạng khỏe mạnh, ghép thêm vào
hàng ngũ quân đội.
Ra lệnh
ban lời dụ cho Tướng Tá quân nhân lộ Tân Bình và Lộ Thuận Hóa rằng:
"Thời
xưa nước Chiêm Thành phản nghịch, xâm lấn nơi biên thùy nước ta, lúc ấy, chính
Tổ Tiên ông cha các ngươi, đã tận trung với nước, góp sức đánh bại quân thù,
lấy lại đất đai do chúng đã lấn cướp. Những công trạng hiển hách đó, hiện đã
chép vào sử sách, lưu truyền đời sau. Hiện nay, người Minh vô đạo, trái nghịch
lòng trời, hiếu chiến dùng binh, để mở thêm đất đai, khiến cho nhân dân ta đã
chịu lầm than khốn khổ hơn 20 năm, thế mà trong các Lộ ta, chưa thấy có kẻ nào
đem lòng trung nghĩa, chưa gắng sức lập công. Các ngươi là bầy tôi nơi biên
thùy, nên nghĩ đến công của Tổ Tiên ông cha các ngươi ngày trước, phải tận
trung với nhà vua, cố sức đánh giặc lập công. Những sự trung thành đó, rất đáng
khen, và sẽ đặt cách phong tước vào hàng quan cao. Các ngươi nên cố gắng".
Ngày
mồng 8, tháng 9 viên Thái úy Trần Hãn, Tư Mã Lê Sát, và Thiếu úy Lê Lý, dẫn
quân đánh phá được thành Xương Giang, quan Tri phủ Lưu Tử Phụ và chỉ huy dân Lý
Nhiệm nhà Minh đều bị tử trận, ta thu chiến lợi phẩm, khao cho quân sĩ, Hoàng
đế bèn sai các Tướng dẫn quân qua sông, cướp lấy đê Vạn Xuân, đắp bức lũy lên,
để uy hiếp thành Đông Đô.
Quan
tổng quản nhà Minh tước An viễn hầu là Liễu Thăng, dẫn 10 vạn quân tự tỉnh
Quảng Tây [tờ 39a] tới nước ta; tước Kiềm quốc công nhà Minh là Mộc Thạnh, dẫn
5 vạn quân tự tỉnh Vân Nam tới nước ta. tin này tự biên thùy báo về rất gấp!
Hoàng đế bèn sai Trần Hãn, Lê Sát và Lê Nhân Chú dẫn binh tượng (voi) tới phục
tại ải Chi Lăng, để đợi chống đạo viện binh tự Quảng Tây tới; sai Phạm Văn Sảo
và Lê Khả, dẫn binh tượng đóng giữ ải Lê Hoa thuộc Mông Tự, để đợi chống đạo
viện binh tự Vân Nam tới.
Lúc này,
được tin đại binh nhà Minh sắp ồ ạt kéo đến, các Tướng phần nhiều xin Hoàng
thượng đánh gấp ngay các thành nơi Đông Đô, để tuyệt quân nội ứng của chúng.
Nhưng Hoàng đế phán rằng:
"Việc
đánh thành lúc này là kế sách kém nhất. Là vì nếu ta đánh vào thành kiên cố đó,
phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta tất phải mỏi
mệt chán nản. Đang khi ấy, viện binh của địch lại kéo đến sau lưng, thế là ta
bị địch đánh cả vào đằng trước và đằng sau, rất là nguy lắm. Chi bằng ta hãy
dưỡng sức, để chờ đánh viện binh , một khi viện binh đã bị phá, tất nhiên Tướng
trong thành phải ra hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen, mà thu được hai mối
lợi. [tờ 39b] Đó là kế sách vạn toàn vậy".
Sau đấy,
ngài sai canh gác cẩn thận, tuần phòng ngày đêm, và ra lệnh cho các Lộ: Lạng
Sơn, Bắc Giang, Tam Đới, Tuyên Quang và Qui Hóa, phải dời vợ con của quân dân
đi nới khác, để lánh viện binh của địch tới, rồi hợp các Tướng thảo luận, Hoàng
đế bàn rằng:
"Quân
giặc (Trung Hoa) sẵn lòng khing rẻ ta, cho là quốc dân ta nhát, vốn sợ oai
chúng, nay nghe tin mấy chục vạn quân chúng kéo đến, tất là phải kinh sợ. Và
cái sự khỏe lấn yếu, nhiều thắng ít, là sự thông thường. Nhưng chúng không tính
đến hình thế được thua của mình và của người, lại không biết tới cơ trời đi lại
của thời vận. Còn như sự dẫn quân đi cứu nguy, thường cần mau lẹ. Vậy tất nhiên
chúng đang đi một cách vội vàng. Binh pháp có câu: "Dẫn quân đi gấp khoảng
đường 500 dặm để tới đích, sẽ quệ viên thượng tướng". Nay Liễu thăng dẫn
viện binh đi gấp, binh sĩ tất mỏi mệt [tờ 40a] ta đem đạo quân được thảnh thơi
đánh quân mệt nhọc, còn lẽ già là không thắng".
Ngài
liền ra lệnh cho Trần Hãn và Lê Sát, dẫn quân đi đóng giữ nơi hiểm yếu, hễ viện
binh đến, lập tức đón đánh ngay tại nơi biên cảnh, đừng để cho chúng vào được
Bình Dương.
Ngày 18,
đạo quân của Liễu Thăng tới cửa Quan Pha Lũy, viên Tướng giữ Quan là Lê Lưu kéo
quân lui, về đóng tại Ải Lưu, rồi lui về giữ Chi Lăng.
Ngày 20,
Liễu Thăng thân tự đốc đạo quân tiền phong tiến tới, Trần Hãn và Lê Sát liền
đem quân phục binh ra đánh, phá tan, chém đầu Liễu Thăng tại núi Mã Yên!
Ngày 25,
Hoàng đế sai Lê Lý và Lê Văn An dẫn thêm quân đến, hiệp cùng với bọn Lê Sát
đánh phá quân Minh, chém đầu tước Bảo Định Bá là Lương Minh.
Ngày 28,
viên Tham tán quân vụ nhà Minh, chức binh bộ Thượng thư Là Lý Khánh chết bệnh
tại trong quân, Phó Tướng là Thôi Tụ và Công bộ Thượng thư là Hoàng Phúc, thu
thập tàn quân, miễn cưỡng tiến vào, bọn Lê Sát mở đường [tờ 40b] cho tiến, cho
đến chỗ phục binh, mới tung quân đón đánh, chúng bị thua. Bọn Lê Sát liền chia
quân ngăn chặn các đường hẻm nơi Mã Yên, Chi Lăng và Pha Lũy.
Thôi Tụ
xin hòa, Hoàng đế không cho, ngài bèn sai Trần Hãn dẫn quân đánh úp vào quân
vận lương thực của địch; Lê Vấn và Lê Khôi đem thêm quân tiến đánh, đánh trong
15 ngày, phá tan quân Minh, chém chết 5 vạn quân, bắt sống Tướng Thôi Tụ và
Hoàng Phúc cùng hơn 5 vạn quân, thu chiến lợi phẩm rất nhiều vô kể.
Khi đạo
quân của Mộc Thạnh đến cửa quan Lê Hoa, Hoàng đế tính: Mộc Thạnh là viên tướng
nhiều tuổi, từng trải, tất không dám tiến bừa. Ngài bèn mật báo cho Phạm Văn
Sảo và Trịnh Khả phải cố thủ, chớ có giao chiến.
Sau khi
Liễu Thăng thua trận, Hoàng đế sai đêm 4 tên Chỉ huy Thiên hộ đã bắt được, và
bằng sắc ấn tính của Liễu Thăng, đưa đến cho Mộc Thạnh, quân sĩ của Thạnh quá
kinh hãi, tự tan rã, [tờ 41a] bọn Văn Sảo liền tung quân đánh vào, phá tan đạo
quân đó ở nơi Lãnh Thủy Đan Xá, chém đần hơn vạn tên, thu rất nhiều chiến lợi
phẩm.
Hoàng đế
sai Thông sự là Đặng Hiếu Lộc, dẫn Tướng Thôi Tụ và Hoàng Phúc do ta bắt, cùng
với ấn tính cờ trống của chúng, đến thành Đông Đô hiểu thị. Bọn Vương Thông
trong thành trông thấy, xiết đỗi kinh hoàng! Ngài bèn sai các Tướng sắm các
chiến cụ phá thành, dẫn quân tiến sát thành Đông Đô, Vương Thông mấy lần giao
chiến đều thất lợi, lại bị ta vây hết đường hái củi và cỏ ngựa.
Tháng
11, Hoàng đế ra lệnh cho các Tướng Tá dâng kế sách về thời sự, kế nào có thể
dùng sẽ được thưởng hậu.
Hoàng đế
sai Đại Tướng Nguyễn Lôi, đem thư đến thành Cổ Lộng và thành Tây Đô dụ hàng,
binh tướng hai thành này đều nghe theo ra hàng.
Vương
Thông và Sơn Thọ sai viên Thiên hộ đem thư giảng hòa tới, xin mở con đường cho
chúng về nước. Hoàng đế ưng cho.
Vương
Thông lại dẫn quân trong thành ra đánh ta, các quân Tướng đặt phục binh rồi vờ
thua chạy, quân Minh đuổi theo, tới ổ phục binh [tờ 41b] quân ta vùng lên đánh
cho tơi bời! Vương Thông ngã ngựa, suýt nữa bị bắt, may sao chạy vào thành được
thoát, quan quân liền tiến thẳng đến cửa Nam Thành, rồi đắp bờ lũy để chống cự.
Hoàng đế thì thân đốc các Tướng, đem quân đắp bờ lũy tự phường An Hoa thẳng tới
cửa Bắc thành, chỉ trong một buổi chiều đã đắp xong. Tự đây quân Minh chỉ ở
trong thành, không dám ra nữa.
Ghi
chiến công của Tướng Tá vây cữa Nam Thành Đông Đô, ban thưởng tùy theo từng
hạng.
Vương
Thông và Sơn Thọ bị bao vây khốn đốn, lại xin giảng hòa. Quốc dân ta đã bị cực
khổ về chính sách tàn bạo của người Minh
lâu năm, nên phần nhiều kéo nhau đến xin Hoàng đế đánh gấp và giết cho bằng hết
để hả giận. Ngài phán rằng:
"Việc
dụng binh, lấy sự toàn quân1 (không chết một mạng nào) là hơn cả. nay hãy để
cho lũ Vương Thông về nói với vua nhà Minh, trả lại đất nước ta, không còn xâm
lấn, thì ta còn cần gì hơn nữa, hà tất phải giết hết, để kết mối thù với nước
lớn".
Ngài bèn
ưng cho hòa và ra lệnh cho Lộ Bắc Giang và Lạng Giang, tu sửa lại cầu cống
đường xá, sắm đủ ghe thuyền, để chờ đưa quân Minh về nước. [tờ 42a] Lại sai
Hành khiển là Nguyễn Trãi soạn tờ biểu, viết lời Trần Cao dòng dõi họ Trần xin
được dựng làm vua, đưa tờ biểu này nhờ Tướng ở Vân Nam là Mộc Thạnh và Tướng ở
Quảng Tây là Cố Hưng Tổ chuyển tâu với triều Minh.
Trước ta
đã bắt được hai Tướng nhà Minh là Thôi Tụ và Hoàng Phúc, nhưng Thôi Tụ đã chết
bệnh, bèn sai lính hộ tống Hoàng Phúc về tỉnh Quảng Tây.
Ta đưa
thư trả lời Vương Thông dùng Lê Quốc Trinh và Lê Như Trì làm con tin.
Thái
Giám nhà Minh là Sơn Thọ và Mã Kỳ đến dinh Bồ Đề làm con tin. Hoàng đế cũng sai
con là Tư Tề và cháu họ là Nhân Chú vào thành Đông Đô làm con tin, để định hòa
ước.
Hoàng đế
ra lệnh ban lời dụ 6 điều cho Tướng Tá vá quân sĩ:
1. Phàm
những bề tôi phải hết lòng trung, không được làm những việc khi trá.
2. Những
dân chúng nên chuộng sự ngay thẳng, chớ làm những sự gian tà trái phép.
3. Những
người ra trận đánh giặc, khi chém giết hay bắt được quân địch, không được nhận
hão
để tranh
công.
4. Trong
quân dân có kẻ nào gian ngược trái phép, thì quân dân khác [tờ 42b] nên báo bắt
trị tội, và các ngươi cũng nên lấy kẻ ấy làm gương, đừng để chính mình cũng sẽ
bị phạt như vậy.
5. Những
cẫn thần thị vệ, chớ nên cậy quyền quý mà ngược ngạo mọi người.
6. Những
bầy tôi có bổn phận xông pha công việc, nên tự mình làm trước, để cho kẻ dưới
bắt chước.
Ngày 22,
Hoàng đế cùng với các Tướng nhà Minh: Tổng binh thành sơn hầu là Vương Thông,
Tham tướng Mã Anh, Thái giám Sơn Thọ và Mã Kỳ, Vinh xương hầu Trần Trí, An binh
hầu Lý An, Đô tư Phương Chánh, Chưởng đô tư sự Trần Tuyền, và Trần Tá, Giám sát
ngự sử Chu Kỳ Hậu, Cấp sự trung Quách Vĩnh Thanh, Hữu bố chánh sứ Dặc Kiêm, Tả
hữu tham chánh Hồng Bỉnh Lương, Lục Trinh và Lục Quảng Bình, Án sát sứ Dương
Thời Tập, và Thiêm sự Quách Đoan, hội ở cửa Nam thành Đông Đô. [tờ 43a] Ngài ra
lệnh cho các Tướng giải vây thành này, kéo quân lui về, lại sai giải vây cho 3
thành: Tây đô, Cổ lộng và Chí linh, truyền cho quân ta hộ tống các Tướng trong
3 thành trên dẫn quân về cả thành Đông Đô, để sẽ cùng trở về Trung Hoa.
Ngày 29,
Hoàng đế sai Lê Thiếu Dĩnh và Lê Cảnh Quang, đem tờ biểu cầu phong của Trần
Cao, cùng các phẩm vật cống hiến, theo viên chỉ huy do Vương Thông sai, đi sang
triều Minh.
Tháng
12, Hoàng đế ra lệnh cho các Tướng coi đường thủy, cấp 500 cái thuyền cho người
Minh, giao cho Phương Chánh và Mã Kỳ Lĩnh; các Tướng coi đường bộ thì cấp lương
thảo, giao cho Sơn Thọ và Hoàng Phúc nhận lãnh; đưa về hơn 2 vạn quân cả đều
đầu hàng và bị bắt, cùng hai vạn con ngựa, giao Mã Kỳ nhận lãnh; Chinh Man
Tướng quân là Trần Tuyền thì dẫn quân Trấn thủ đi hộ tống.
1 Câu này chỉnh bản chép toàn
quốc, có lẽ chép lầm. Xin dịch theo nghĩa chữ toàn quân.
Ngày 12,
Phương Chánh và Mã Kỳ tới dinh Bồ Đề cáo biệt Hoàng đế, tại đây suốt một buổi
chiều, hai Tướng mới ra về. Hoàng đế sai sắm [tờ 43b] trâu dê mùn màng và lể
phẫm hậu tặng. Lúc ấy, các Tướng sĩ và nhân dân ta, đều thâm thù sự tàn bạo của
người Minh, nên đều mật khuyên Hoàng đế nhân dịp giết chết cả đi. nhưng ngài dụ
rằng:
"Việc
phục thù trả oán, là tình thường của mọi người, nhưng không ưa giết người, là
bản tâm của người nhân. Huống chi người ta đã hàng, mà mình lại giết chết, thì
còn gì bất tường hơn nữa. Ví bằng giết đi cho hả giận một lúc, để gánh lấy
tiếng xấu giết kẻ hàng mãi tới đời sau, chi bằng hãy cho sống ức vạn mạng
người, để dứt mối chiến tranh tới muôn thuở, công việc sẽ chép vào sử sách,
tiếng thơm sẽ truyền tới ngàn thu, há chẳng đẹp lắm ru ?".
Các bầy
tôi đều bái phục độ lượng khoan hồng của Hoàng đế.
Khi Mộc
Thạnh dâng tờ biểu cầu phong của Trần Cao lên vua Minh, thì lúc ấy vua Minh vẫn
chưa biết việc Vương Thông đã ký hòa ước với ta, ngài bèn ban lời dụ cho quần
thần rằng:
[tờ 44a]
"Những kẻ bàn tán, không hiểu ý muốn dứt việc can qua, tất cho là nghe
theo thỉnh cầu của An Nam là không oai hùng. Nhưng nếu được nhân dân yên lành,
thì trẫm không e ngại những lời đó".
Ngài bèn
sai Công bộ Thượng thư là La Nhữ Kinh và Từ Vĩnh Viễn đem tờ sắc sang nước ta,
phong Trần Cao làm "An nam quốc vương", liền bãi đạo binh chinh nam;
triệu bọn Vương Thông về nước. Tự đấy dứt nạn binh đao, thiên hạ thái bình.
Đại Việt Thông Sử
QUYỂN II
Đế Kỷ Đệ Nhị
Năm Mậu
Thân niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1428), nhằm niên hiệu Thiên Đức thứ 3 nhà
Minh, ngày mồng 10, tháng giêng, mùa xuân, vua Trần Cao ngự tại thành Cổ Lộng,
tự cho mình không có công gì với thiên hạ, mà giữ ngôi vua, thường ái náy không
yên, bèn cỡi thuyền ra biển, lén vào châu Ngọc Ma. Khi Trần Cao đến bến Ma
Cảng, quan quân đuổi kịp dẫn trở về, cho uống thuốc độc chết. Hoàng đế sai làm
lễ táng tế rất hậu.
Hoàng đế
sai các quan: Tư Đồ, Tư Mã, Thiếu úy và Hành khiển, cùng hợp bàn định phép cai
trị muôn dân, để cho người làm Tướng [tờ 45b] biết phép trị quân, người làm
quan các Lộ biết phép trị dân, và sự răn dạy quân dân, cũng nên cho biết có
phép, để những người giữ việc gì, biết phép của việc ấy mà làm.
Hoàng đế
ra lệnh cho Tướng Tá và quần thần rằng:
"Tự
xưa đến nay, việc cai trị trong nước, tất phải có phép, nếu không sẽ loạn. Bởi
thế nên bắt chước đời xưa mà dựng phép, để dạy Tướng Tá quân dân, khiến cho đều
biết điều thiện ác. Vậy đều thiện thì làm, điều bất thiện thì lánh, chớ có phạm
pháp".
Tháng 2,
định phong chức tước cho các công thần: Gồm 121 quân nhân có công cao về sự
xông pha vất vả ngoài mặt trận nơi núi đồi, đều được thưởng; hạng công đệ nhất
được cho đồi sang họ vua, là bọn Lê Qui, Lê Nhượng gồm 52 người, phong chức
"Vinh lộc đại phu [tờ 46a] tả kim ngô vệ đại tướng quân" tước
"Thượng trí tự"; hạng công thứ 2 được cho đổi sang họ vua, là bọn Lê
Bồ, Lê Liệt, Lê Khảo gồm 72 người, phong chức "Trung lượng tả phụng thần
vệ quân" tước "Đại trí tự"; hạng công thứ 3 được cho đổi sang họ
vua, là bọn Lê Lễ, Lê Hiến gồm 94 người, phong chức "Trung vũ đại phu câu linh
vệ tướng quân" tước "trí tự"; bổ Đào công soạn chức Hoàng Môn
thị Lang.
Ngày 8
tháng 3, Chánh sứ nhà Minh là Lý Kỳ, La Nhữ Kính, cùng phó sứ là Hoàng Ký Từ
Vĩnh Đạt mang tờ sắc tới Đông kinh, sách phong Trần Cao làm vua, Hoàng đế sai
bọn Ông Khí mang tờ biểu đi theo Lý Kỳ sang triều Minh tạ ơn.
Phong
con trai thứ là Nguyên Long tước Lương quận công.
Hoàng đế
họp tất cả các tướng văn võ và quần thần [tờ 46b] để định công ban thưởng, tùy
theo người có công cao công thấp, để phong cấp bậc trên dưới: Phong thừa chỉ
Nguyễn Trãi tước quan phục hầu; Tư đồ Trần Hãn chức Tả tướng quân; cơ mật đại
sứ Phạm Văn Sảo chức Thái bảo, đều được cho đôỉ ra họ vua.
Chia
trong nước làm 5 đạo, mỗi đạo đặt một vệ quân, mỗi Vệ đặt một viên tổng quản,
để cho cấp lớn cấp nhỏ, cấp trên cấp dưới, đều có sự liên hệ ràng buộc nhau.
Lại đặt chức hành khiển vào các Đạo, để giữ sổ sách, ghi tên quân dân. Sai quan
tế thần sông núi miếu xã các nơi, và tế lăng phẩm các vị vua triều trước. Truy
tôn tên thụy cụ Tổ Khảo đời thứ hai.
Tháng 4,
Hoàng thượng tới thành Đông Kinh, bèn đóng kinh đô tại đây. Quần thần dâng tờ
biểu tôn ngài lên ngôi Hoàng đế, ngài khiêm nhường không nhận, ban lời dụ rằng:
"Những
vị vua có công đức lớn, như các vua Vũ Thang, [tờ 47a] Văn và Võ thời Tam đại,
mà cũng chỉ tước Vương thôi. Huống chi đức lượng mỏng manh như Trẫm, đâu dám
nói đến hiệu Hoàng đế, Nay chỉ xưng tước Vương cũng đã quá vậy".
Ngày 15,
Hoàng thượng lên ngôi vua tại điện Kinh Thiên, xưng là "Thuận Thiên thừa
vận, Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương", đặt tên nước là Đại Việt, đổi niên hiệu
đại xá thiên hạ, ban lời cáo rằng:
"Việc
làm nhân nghĩa, cốt yếu nhân dân, đạo quân điếu phạt, trước trừ kẻ bạo. Nước
Đại Việt ta, là một nước văn hiến, đối với Trung Hoa, non sông bờ cõi đã khác
nhau, phong tục Bắc Nam cũng không giống. Tự họ triệu họ Đinh họ Lý họ Trần,
dựng nền độc lập nước ta, cùng triều Hán triều Đường triều Tống triều Nguyên,
đều xưng Hoàng đế một nước. Tuy nước mạnh nước yếu không đồng đều, nhưng hào
kiệt nước nhà vẫn chẳng thiếu. Thế cho nên [tờ 47b] Lưu Cung Triệu Tiết đánh
nước ta, đều phải gánh lấy họa thảm bại; Toa Đô thì bị bắt tại quan Hàm Tử; Ô
Mã thì bị giết ở sông Bạch Đằng. Xét vào việc trước, đủ có chứng minh.
"Hồi
trước đây, vì chánh sự họ Hồ hà khắc, khiến lòng nhân dân oán thù, người Minh1
nhân giày xéo dân ta, bọn ác lại mưu toan bán nước. khắc nghiệt tự đốt dân đen,
thảm họa như chôn con đỏ. Kế lừa lương dân, kể có hàng ngàn vạn, đem binh gây
chiến, đã hơn 20 năm, thương nhân bại nghĩa, trời đất tối om, thuế nặng sưu
cao, non sông vét sạch. Bắt dân kiếm vàng, dầm lam chướng mà phá non đãi cát;
bắt dân kiếm ngọc [tờ 48a] đụng thuồng luồng mà lặn biển lội sông. Lại sai đặt
bầy nhử hươu đen, chăng lưới bắt chim biếc. Sâu bọ cỏ cây, cũng hết đường sống,
điên liên quan, quả2, thẩy đều không yên. Hút máu sinh linh, cho béo mồm quan
lại; hao công hồ mộc, để xây cất thự dinh. Phục dịch nhân công khốn khổ, làng
xóm canh cửi bỏ hoang. những tội ác đó, dù gánh cạn nước biển, rửa chẳng hết
nhơ; hoặc chẻ hết trúc rừng, chép không hết lỗi. Thần dân đều giận, trời đất
không tha.
"Ta
đây khởi nghĩa tự núi Lam Sơn, nương mình nơi nội vắng. Tự Nghĩ: Kẻ thế thù đâu
thể đội trời chung, phường nghịch tặc quyết thề [tờ 48b] không cùng sống. Đau
lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm thừa; nếm mật nằm gai, đâu chỉ một ngày nào
nọ. Nổi giận quên ăn, đem sách lược thao nghiên cứu; suy kiêm ngẫm cổ, thấy đời
hưng phế đổi thay. Quyết tâm phục quốc, chẳng lúc nào quên. Khi ta mới khởi
nghĩa binh, đúng lúc quân thù đang mạnh".
"Ngặt
vì, nhân tài như lá mùa thu, tuấn kiệt tựa sao buổi sớm, thiếu kẻ bôn tẩu trước
sau, thiếu người mưu mô màn trướng. Chỉ vì, một niệm cứu dân, thường mong thành
Đông thẳng tới: cỗ xe cầu Tướng, vẫn trơ bên tả bỏ không. Nhưng, hiền tài chưa
thấy, mịt mù như trông cõi trùng dương; thành thực tự mình, gấp bách như vớt
người chết đuối. [tờ 49a] Giận chưa giết được bạo tàn; ngán vận suy của nhà
nước. Khi ở Linh Sơn, lương thiếu hàng tuần, khi ở Côi Huyện, lính chưa đủ đội.
Áng chừng trời bắt khốn cùng, để trao trách nhiệm, cho nên ta càng cố gắng,
mong vượt gian lao. Dựng cờ khởi nghĩa, nhân dân đâu đấy sum vầy; mở tiệc khao
quân, binh sĩ cha con một dạ. Dùng kế sách "nhược chế cường" (nước
yếu đánh nước mạnh), đánh vào chỗ hở; theo chiến lược "quả địch
chúng" (ít quân đánh nhiều quân), phục đạo kỳ binh".
"Kết
quả: Đại nghĩa đã thắng được hung tàn; chí nhân đã thay phường bạo ngược. Trận
Bồ Đằng chớp nhoáng sấm vang; trận Trà Lân chẻ tre khói tỏa! Sĩ khí càng hăng,
binh uy lừng lẩy! Trần Trí Sơn Thọ, nghe hơi đã tán phách kinh hồn; Phương
Chánh Lý An, nín thở mà [tờ 49b] tìm đường thoát chết. Thừa thắng ruổi dài, Tây
kinh ta đã thu được; chỉ gươm thẳng tiến. Đông Đô thẩy lại về ta. Ninh Kiều máu
chảy thành sông, hôi tanh muôn dặm; Tuy động thây nằm đầy nội, lưu xú ngàn thu.
Trần Hợp bị chém đầu, Lý Lượng lại phơi xác,, Vương Thông mưu tính không xong,
Mã Anh cứu nguy không nổi. Chúng sức đã cùng, đành khoanh tay mà chết; ta mưu
lòng phục, không cần đánh địch tự hàng, Tưởng chúng tất thay lòng mà lui tới,
nào ngờ lại gây nghiệt để mua oan: chỉ cố chấp ý kiến của mình, để gây tai vạ
cho người khác; tham công trong một thời, mua cười khắp thiên hạ [tờ 50a] Đến
nổi vua Tuyên Đức hiếu chiến không ngừng, lại sai Thạnh Thăng đem dầu chữa lửa.
Tháng 9, năm Đinh tỵ, Liễu Thăng
1 Câu này chính bản chép
cuồng Hồ. Có lẽ chép lộn. Xin dịch theo nghĩa chữ "cuồng Minh".
2 Điên liên: Những người cùng
quẩn, không có thân thích, không biết trông cậy vào đầu được. Quan: Người đàn
ông góa vợ. Quả: Người đàn bà góa chồng.
dẫn quân
do Khâu Ôn tiến, cũng tháng này Mộc Thạnh chia đường tự Vân Nam sang. Ta điều binh giữ hiểm, bẻ
gảy nhuệ phong; lại sai lính chặn đánh ngang, tuyệt đường lương thảo. Ngày 18,
trận Chi Lăng Liễu Thăng bị thua, ngày 20, trận Mã Yên Liễu Thăng bị giết, ngày
25, Định Bá Lương Minh tử trận, ngày 28, thượng thư Lý Khánh quyên sinh. [tờ 50b]
Ta thừa thế lia đao chẻ trúc, chúng vội vàng ngả giáo vào thành. Liền thêm lính
vây thành bốn mặt, hẹn giết giặc vào giữa tháng mười. Bèn tuyển quân tùy hổ, ra
lệnh Tướng trảo nha, gươm mài mòn đá núi, voi uống cạn nước sông, đánh một trận
quét quân kình ngạc, trận thứ hai tan lũ chim muông. Tổ kiến hỏng phá toang đê
lớn, qua cơn dông rụng hết lá khô. Đô đốc Thôi Tụ quì chân xin lỗi, Thượng thư
Hoàng Phúc tự trói ra hàng. Thây chất đầy đường hai tỉnh Lạng, máu trôi nhuộm
đỏ nước Xương Bình! Khiến cho gió mây thay đổi sắc, nhật nguyệt kém hào quang!
Quân Vân Nam
bị ta ách ở Lê Hoa, [tờ 51a] quá sợ hãi mà vỡ toang mật; quân Mộc Thạnh nghe
tin Thăng thua ở Cần Trạm, dẫm lên nhau để chạy thoát thân! Lãnh câu máu chảy
trôi cây, nước sông rền rĩ; Đan xá thây chồng như núi, cỏ nội đượm hồng! Hai
đạo viện binh, thua trận chưa hề trở gót; các thành cùng khốn, ra hàng đều phải
bó gươm. Bắt tên đầu đảng, chúng van lơn như hổ đói múa đuôi; không giết là
oai, ta thể tất tấm lòng nhân Thượng đế. Cấp năm trăm thuyền cho Mã Kỳ Phương
Chánh, ra ngoài biển mà còn phách lạc hồn bay; cấp mấy nghìn ngựa cho Vương
Thông Mã Anh [tờ 51b] về tới Tàu mà vẫn tim rung gân giựt! Chúng đã sợ chết mà
cầu hòa, tỏ lòng thành thực; ta muốn toàn quân là Thượng Sách, dân được nghĩ
ngơi. Đó là mưu kế rất sâu xa, việc này xưa nay chưa từng có".
"Xã
tắc tự đây vững bền, non sông tự đây đổi sắc, kiền khôn đang bĩ lại thành hanh,
nhật nguyệt đã mờ bừng sáng chói. Dựng nền thái bình muôn thuở, rửa sách ô nhục
ngàn thu. Đó là nhờ trời đất tổ tiên phù hộ độ trì, mới được như vậy".
"Than
ôi! Một mảnh áo nhung, dựng nên huy hoàng công nghiệp, bốn phương phẳng lặng,
ban bố tờ cáo duy tân. Truyền khắp gần xa, thẩy đều nghe biết".
Ban tờ
chiếu khắp thiên hạ: Các [tờ 52a] thứ thuế ruộng đất, đầm trì, bãi dâu, và
trưng thâu vàng bạc, đều được miễn thuế trong 2 năm; trong các Lộ, ai tự 70b
tuổi trở lên, được miễn sai dịch; có người con hiếu, hoặc người vợ thủ tiết;
thì quan đầu Lộ tâu lên triều đình dể ban khen thưởng; nhà nào có 3 người tòng
quân, thì cho được miễn 1 người; Huyện nào có lăng mộ hoặc miếu thờ các vị Đế
Vương hoặc Công Thần thời trước, thì quan đầu huyện tâu lên triều đình, để cấp
lương cho người phu trông coi nơi đó.
Ngày 20,
ban tên húy hiệu cho các Thần thờ tại các Miếu.
Tháng
này sông Nhĩ Hà bổng sản xuất vàng, quần thần bèn dâng tờ biểu tâu mừng về việc
này.
Tặng
hiệu Trung Vũ Đại Thần cho Bình Chương Sự là Lê Thạch; dùng Lê Tri Vận vào Ban
tri tả hữu; phong chức Tổng tri vệ Xa Kỵ cho Liệt hầu Nguyễn Lỗ.
Hoàng đế
ra lệnh sai trị tội các ngụy quan đã theo giặc Tàu. Sứ thần Lê Thiếu Dĩnh sang
sứ triều Minh trở về.
Tháng 4
nhuận, [tờ 52b] Hoàng đế sai các đại thần, lại bàn định thể thức bổ các quan Lộ
quan Huyện và quan giữ các nơi cửa biển quan trọng, chọn những hạng tinh thông
và có đức thanh liêm chính trực, thì các quan tiến cử, để sung bổ các chức
trên.
Đúc quả
ấn "Thuận thiên bảo tỷ".
Ngày 12,
tháng 5, Hoàng đế triệu các đại thần vào triều, bàn định luật lệnh về các chức
quan Lộ quan Trấn và đồng ban, cùng điều lệ về tước trật.
Tháng 6,
Hoàng đế sai khảo hạch các quan trong triều ngoài quận, chia làm ba bậc. Lại ra
mệnh cho các quan văn quan võ đại thần, tiến cử người hiền tài, sẽ được thưởng,
nếu vì tiền của hoặc vì thân thích, mà tiến cử người không xứng, sẽ bị tội.
Ngày 26,
Hoàng đế ban chỉ hỏi các đại thần văn võ rằng:
"Trẫm
là người thế nào, mà mệnh trời trao cho chức Đế Vương ? Và trẩm nhờ ở điểm nào
mà dựng nên được công nghiệp lớn này ? Hiện nay, [tờ 53a] công việc nơi triều
đình rất phức tạp, việc gì nên làm trước, việc già nên làm sau ? Hiện các Tướng
trong triều, ai là người đảm nhiệm được nhiệm vụ trọng đại, có thể ủy thác được
mệnh lệnh ngoài nghìn dặm ? Và ai có thể phụ đạo cho Thái tử ?".
Tháng 8,
dùng ngày sinh nhật của Hoàng đế làm tiết "Vạn thọ" hàng năm.
Tháng
10, định số ngạch cho mỗi đạo quân bao nhiêu cờ quạt, nghi trượng khí giới và
thuyền ghe; đổi chức Hỏa đầu ra Chánh đội trưởng và Phó đội trưởng.
Tháng 9,
ban chiếu định phẩm trật chức tước các quan văn võ; cho các vị công thần được
đổi sang họ nhà vua (họ Lê).
Ngày 19,
sứ thần nhà Minh là La Nhữ Kính sang nước ta, đòi ta tìm dòng dõi họ vua Trần,
để dựng làm vua; và xét số quan lại quân nhân Tàu còn lại nước ta bao nhiêu,
đưa trả hết thẩy về Tàu. Hoàng đế sai Hà Lật dẫn sứ bộ sang triều Minh.
Tháng
10, Hoàng đế ban mệnh cho Hà Công Soạn được tham bàn việc chánh trị. Ngày 1,
tháng 11, Hoàng đế sai Đỗ Như Hùng sang sứ triều Minh.
Ngày 24,
giết hết đảng phản nghịch là bọn: Trần Phong, [tờ 53b], Lương Nhữ Hốt, An Vinh,
Đỗ Duy Trung, tên Tồn, tên Sĩ Văn, tên Sùng Lễ và tên Xác. Ban tờ chiếu khắp
nơi, cho biết tội của bọn này là: Trước đã làm quan với giặc Minh, khi đã hàng
triều ta, lại âm mưu định phản nghịch.
ngày 25,
lập sổ điền và sổ đinh.
ngày 28,
ban mệnh cho quan viên và quân nhân khắp thiên hạ, cho biết đến tháng 5 sang
năm, tới Đông kinh dự thi: Ban văn thì thi về Kinh sử, ban võ thì thi về Võ
kinh và Pháp lệnh kỳ thư.
Tháng
12, xây cất điện Vạn Thọ; dựng hai điện Tả và Hữu; dựng điện Cần Chánh và điện
Kính Thiên. Tạo binh khí và ghe thuyền. Đúc tiền "Thuận thiên thông
bảo".
Năm Kỷ
Dậu niên hiệu Thuận Thiên thứ 2 (1429), mùa xuân, tháng giêng, cấm không được
đánh cờ bạc, [tờ 54a] sẽ bị phạt tội chặt tay, nhữnh kẻ tụ tập uống rượu, sẽ bị
phạt tội đánh 100 roi. Nhưng trong đám rượu trà đó, có kẻ nào còn giữ được thái
độ đứng đắn, sẽ giảm tội cho một bậc.
Ngày 7,
Hoàng đế sai Nội kiểm hiệu Bình chương sự là Lê Vấn, Đại tư mã Lê Ngân và Thiếu
phó Lê Văn Linh truyền tờ kim sách dựng con trưởng Hữu tướng Khai quốc quận
công là Tư Tề làm Quốc vương, được tạm coi việc trong nước; lại sai Tư khấu Lê
Sát, Tư không Lê Nhân Chú, Tư mã Lê Lý, và Thiếu úy Lê Quốc Hưng tuyên tờ kim
sách lập con thứ Lương quận công là Nguyên Long làm Hoàng Thái Tử.
Tháng 9,
Hoàng đế ban mệnh cho các quan: Ban võ tự chức Tổng quản trở lên, ban văn tự
chức hành khiển trở lên, vị nào có con trai tự 9 tuổi trở lên, 15 tuổi trở
xuống, được vào hầu Thái tử; ban võ tự chức Đồng tri trở xuống; ban văn tự chức
Thượng thư trở xuống, vị nào có con trai tự 9 tuổi trở lên, 17 tuổi trở xuống,
được vào trường Quốc giám học tập.
[tờ 54b]
Ngày 22, Hoàng đế họp các đại thần văn võ bàn việc quốc gia:
Có những
con em của các chiến sĩ, đã từng chiến đấu ngoài trận, hiện không có một thước
đất để ở. Thế mà những phường du thủ du thực, không làm một việc gì ích lợi cho
nước, lại có rất nhiều ruộng đất; cả đến bọn trộm cướp cũng vậy. Bởi thế ai
cũng ham chuộng làm giàu, mà không có người tận tâm với nước. Vậy ban sắc chỉ
cho các đại thần, bàn định số ruộng cấp phát cho quân dân; Từ hạng đại thần trở
xuống, cho tới hạng già yếu, mồ côi, góa chồng, goá vợ, hạng nào đáng được cấp
bao nhiêu ruộng đất, kê rõ tâu trẫm xét.
Ngày 21,
tháng 2, ban mệnh lệnh cho các Tướng Tá quân sĩ các Vệ trong 5 Đạo, đến ngày 27
tập trận cả thủy binh và bộ binh. Sau khi tập trận, chia số quân sĩ làm 5 Phiên,
lưu lại 4 Phiên, còn cho về theo nghiệp nông.
[tờ 55a]
ngày 26, Hoàng dế ban chỉ dụ cho các đại thần và các quan hành khiển rằng:
"Các
khanh như thấy mệnh lệnh của trẫm, hoặc có điều nào bất tiện trong việc quân
việc nước; hoặc vô cớ bắt dân phục dịch; hoặc đánh thuế nặng, hoặc tà dâm; hoặc
bạo ngược, lập tức phải tâu xin sửa chữa, không được theo xuôi.
"Các
Ngôn quan (các chức Ngự sử), như trẫm có chính sách hà khắc, đánh thuế nặng,
bạo ngược dân lành; hoặc thưởng công phạt tội không công minh, không theo phép
cổ , phải tâu ngay; thấy các đại thần, các Tướng Tá, các công chức, có ai không
tôn trọng pháp luật; nhận hối lộ, nhiễu hại dân lành, hoặc thiên vị kẻ trái,
phải đàn hạch ngay. Nếu thấy ai phạm những đều trên, mà dung túng không nói,
lại còn khen những việc nhỏ mọn, và nói những câu không căn cứ, sẽ bị phạt theo
luật pháp. Còn lỗi của các quan khi vào sân điện, như có ai vận aó mũ giày dép
không trúng phép, hoặc đi đứng ngang dọc không đúng lễ độ, những lỗi này đã có
các Tổng quản đạo quân Thiết độ [tờ 55b] chỉ huy viện Nội mật xét hỏi. Các ngôn
quan không được đàn hạch".
Ban tờ
chiếu bắt giam Thái úy Hữu Tướng quốc là Trần Nguyên Hãn, Hãn liền tự sát.
Định lệ
thổ trạch cho các quan và dân.
Tháng 5,
phong chức công thần cho 93 viên; thứ đến phong tước Huyện thượng hầu, Á hầu,
Khanh hầu, và Đinh hầu, tùy theo từng hạng.
Hoàng đế
ban mệnh rằng:
"Những
bậc hào kiệt có tài văn võ, mà còn bỏ sót chưa người tiến cử, hoặc bị kẻ thù
kiềm hãm, hãy tới ngay sở Thiếu phó Lê Văn Linh, tại đây xét thực về tài đức,
sẽ tâu trình bổ dụng. Chỉ cốt được người có tài có đức, chứ không câu nệ về sự
đã ra làm quan với Minh, hoặc kẻ sĩ thường".
Ngày 26,
Hoàng đế ban mệnh cho quân nhân các Phủ các Lộ, và những kẻ sĩ ẩn dật nơi sơn
lâm, [tờ 56a] có kẻ nào thông kinh sử văn nghệ, thẩy đều tới Sảnh đường dự thi
vào ngày 28 tháng này. Kẻ nào trúng tuyển sẻ được bổ dụng.
Ngày 28,
Hoàng đế ban mệnh cho các quan văn võ trong triều ngoài quận, có ai tinh thông
Kinh sử, thẩy đều tới Sảnh đường dự thi vào ngày 29 tháng này.
Ngày 20
tháng 6 khảo thi các vị tăng đạo tại sảnh đường.
Tháng 7,
Hoàng đế họp các vị đại thần và các quan trong triều ngoài quận, bàn về tiền
tệ, ngài ban chiếu rằng:
"Tiền
là một thứ rất cần thiết, như huyết mạch của nhân dân, không thể thiếu được.
Nước ta đút tiền ít ỏi, lại vì số tiền đồng cũ của ta, đã bị người Minh1 tiêu
hủy rất nhiều, chỉ còn chừng một phần trăm thôi. Hiện nay sự tiêu dùng về việc
quân việc nước thiếu thốn. Muốn cho sự lưu thông tiền tệ dồi dào, lại được
thuận lòng dân, há chẳng khó lắm ru ?. [tờ 56b] Ngày nọ, có kẻ dâng thư, xin
tiêu dùng bằng phép "sao"2, để thay cương vị đồng tiền. Nhưng trẫm
nghĩ kỹ, như vậy chưa thỏa đáng. Nghĩa là "sao" là một thứ vô dụng,
mà đem thi hành vào những sự hữu dụng trong dân gian, thực không phải là cách
dùng tiền có ý thương yêu dân, như thời xưa coi vàng bạc tiền và
"sao" không quan hệ, không đằng nào hơn. Nay các đại thần, các quan,
và các kẻ sĩ thông hiểu thời vụ, hãy đều bàn về lệ đồng tiền, thế nào cho thuận
dân tình, ngỏ hầu khỏi tiếng: đem ý muốn của một người, cưỡng ép ý muốn muôn
nghìn người. Cần được một qui chế tiền tệ rất đúng, không thể không sớm bàn
định tâu lên, trẫm sẻ lựa chọn thi hành".
Ngày 16,
tháng 9 Hoàng đế chỉ huy đại thần và các quan rằng:
1 Câu này chính bản chép
"Hồ Nhân" (người họ Hồ). Nhưng xét nếu là họ Hồ thì chép "Hồ
thị" chứ không phải "Hồ nhân". Như vậy đũ rõ là chép lầm. hoặc
do chữ "Minh nhân" (người nhà Minh) chép lộn ra chăng ? Vậy xin dịch
theo nghĩa chữ "Minh nhân".
2 Sao: là tiền giấy. Thời kim
(Trung Hoa) có đặt ra thứ tiền giấy để tiêu dùng, cùng với tiền thực: Có 5 hạng
tự một quan tiền đến 5 quan tiền gọi là "đại sao" và 5 hạng tự 100
đồng tiền đến 700 đồng tiền, gọi là "tiểu sao".
[tờ 57a]
"Tự nay trở đi quan nào nói công việc, nên lấy việc quân việc dân làm cần
thiết, không được vị tư tình, cần phải hợp lý. Trẫm thường nghiệm về tình lý
các việc, như việc tiến cử, hoặc xử kiện, cùng các việc công tư, thẩy đều có sự
ẩn giấu thay đổi, đủ biết các quan chức ít người trong sạch, phiền nhiều nhơ
đục. Nay trẫm xét thấy 2 việc xử tù phạm Mông Vân và tù phạm Lương Châm, mới
biết tình trạng thực hay giả của các quan, cho nên nói lời này. Vậy các bầy tôi
nên tận thành để thờ vua, chớ có vị tư hại công, sẽ hối không kịp! Nay ban
chiếu thị, cho thẩy đều nghe biết".
Ngày 27,
Hoàng đế chỉ huy ban huấn thị cho đại thần và các quan: Phải lưu ý về nghề nông
của dân; về quân sự, cần chỉnh đốn hàng ngũ, tu sửa khí giới ghe thuyền.
[tờ 57b]
Ngày 1, tháng 10, Hoàng đế ban tờ chiếu rằng:
"Trẫm
nghĩ: Trị nước cần ở được người hiền, mà sự được người hiền tất do người tiến
cử. Thế cho nên các vị Đế Vương đều lấy việc đó làm cần thiết ưu tiên. Thời
thịnh đời xưa các quan tại triều, thường có ý nhường người hiền tài lên cấp
trên mình, cho nên dưới dân gian không có người hiền nào bỏ sót, công việc quốc
gia không việc nào bỏ bê, trở nên một nền thái bình thịnh trị. Đến như các bầy
tôi nhà Hán nhà Đường, thẩy đều biết suy nhường kẻ hiền tài, người nọ dẫn tiến
người kia, như Tiêu Hà tiến cử Tàu Tham, Ngụy Vô Tri tiến cử Trần Bình, Địch
Nhân Kiệt tiến cử Trương Cửu Linh, và Tiêu Tung tiến cử Hàn Hưu. Tuy tài của
các người này, có cao thấp không đều, nhưng thẩy đều là được hiền tài và xứng
chức.
[tờ 58a]
nay trẫm đảm nhiệm trọng trách này, lúc nào cũng lo sợ, như người tới đầm sâu,
chỉ vì một nổi chưa được hiền tài phụ tá. Vậy các khanh văn võ đại thần, công
hầu đại phu tự tam phẩm trở lên, mỗi vị phải tiến cử một người, bất luận người
đã làm quan tại triều, người chưa làm quan còn ở thôn dã, hễ có tài văn võ trí
thức, có thể cai trị nhân dân, trẫm sẽ tùy tài bổ dụng.
Sự tiến
cử hiền tài được trọng thưởng, đó là đạo thông thường tự thời xưa. Vậy vị nào
tiến cử người hiền trung bình, sẽ được thăng tước hai cấp. Nếu cử được người
tài đức tuyệt đối, sẽ được thưởng rất hậu.
Đã đành
rằng vậy. Nhân tài trên đời vốn không phải hiếm, nhưng cách cầu tài đâu phải
chỉ một lối nào. Hoặc có người có tài kinh luân thao lược, [tờ 58b] mà vẫn phải
làm quan cấp dưới, không người tiến cử, và những bậc hào kiệt, vẫn còn ẩn phục
ở nơi thảo dã, hoặc lẫn trong hàng ngũ quân nhân. Những hạng này nếu không tự
tiến, làm sao trẫm biết được. Vậy tự nay các bậc hiền tài, như muốn theo giúp
ta, hãy cứ tự tiến. Thời xưa Mao Toại tự tiến theo Bình Nguyên Quân, Ninh Thích
tự tiến giúp Tề Hoàn Công, mà đều không cậu nệ về điểm vụn vặt đó.
Từ ngày
ban tờ chiếu này, các quan chức đều nên lưu tâm thành thực tiến cử hiền tài;
các bậc hiền tài hãy còn hàn vi ở nơi thôn xóm, hãy nên tự tiến, đừng lấy sự
đem ngọc bán rau làm hổ thẹn, khiến trẫm phải than thở về nổi thiếu nhân tài.
Ngày 13,
nhà Minh sai Lý Kỳ và Từ Vĩnh Đạt cùng đi với Hà Lật sang nước ta, lại đòi tìm
dòng dõi vua Trần để dựng làm vua, và đòi binh sĩ cùng khí giới do ta đã bắt mà
chưa trả về hết.
Ngày 18,
Hoàng đế chỉ huy [tờ 59a] các đại thần và các cấp tổng quản hành khiển trở xuống
rằng:
"Cố
nhân có câu: "Quân bất trạch tướng, dĩ kỳ quốc dữ địch dã" (nếu vua
không tuyển được tướng giỏi, tất sẽ đem toàn quốc dâng cho bên địch). Trẫm
thường nghĩ vào câu này, không lúc nào quên, cho nên đem quân sự chánh trị
trọng đại, giao phó các khanh, thế mà các khanh cứ nghiễm nhiên không hề để ý.
Như vậy, đối với trên, phụ ý triều đình đã phó thác; đối với dưới không hề
thương xót quân dân! Sao mà trể nải bổn phận quá như vậy ?.
Nay ban
tờ chiếu này răn bảo, nếu các khanh không đỗi lỗi, vẫn cứ lơ đãng như thế, thì
nước ta đã có pháp luật đấy. Lúc ấy đừng bảo trẫm phụ những bầy tôi đã từng có
công lao.
Ngày 29,
Hoàng đế sai bọn Đào Công Soạn, theo bọn Lý Kỳ đi sang nhà Minh (Trung Hoa).
Tháng 11, Hoàng đế đi thăm Tây Kinh, ngài lễ yết lăng tiên tổ ở trên núi, và
ban thưởng cho các
Tướng sĩ
hộ tùng, mỗi viên được thăng tước một cấp; các tước "thượng trí tự",
[tờ 59b] "đại trí tự" đều được thăng tước một tự. Những vị con cháu
đã được phong tước Hầu, và những vị không có công lao, đều
không được dự lệ này. ngày 19, tháng 12, Hoàng đế ra mệnh cho các quan Phủ Lộ
Châu Huyện Xã:
"Xã
nào có nhiều ruộng ít người, có ruộng bỏ hoang, thì quan bản hạt cấp số ruộng
ấy, cho những người xã khác hiện không có ruộng, đến cày cấy, những chủ điền xã
ấy không được chiếm giữ. Nếu kẻ nào trái mệnh này, sẽ phạt về tội "cưỡng
chiếm".
Năm Canh
Tuất, niên hiệu Thuận Thiên thứ 3 (1430), ngày 10, tháng 6, định ngạch các thứ
thuế; ban các luật lệ; đổi Đông Đô gọi là Đông Kinh; Tây Đô gọi là Tây Kinh.
Ngày 24,
Hoàng đế ban tờ chiếu rằng:
"Chuộng
nhà cửa cung đài cao đẹp, tất gây nên thói kêu sa; theo ý mình mà trái lòng
người, sẽ vời mọi người oán ghét. Trẫm rất lo về điểm này, [tờ 60a] cho nên tự
nghĩ, những cung điện huy hoàng tráng lệ đây, đều là sức lao động của quân dân,
trẫm được ngự yên, vẫn còn lo không xứng. Thế mà các quan văn võ, còn thường
sắm lễ dâng mừng, thực là trái ý trẫm. Vậy từ nay, dù gặp ngày khánh tiết, các
quan không được dâng biểu xưng tụng công đức, và không được bày ra tiệc mừng
yến ẩm xa hoa".
Sai Hành
quân Tổng quản là Lê Khôi đóng quân tại Hoá Châu, để trấn nước Chiêm Thành.
Ngày 17, tháng 11, Hoàng đế ban tờ chiếu rằng:
"Trẫm
nghe có câu: "Chánh sách nước nào theo đạo trị, thì nước ấy rất hưng
thịnh, nếu theo đạo loạn, sẽ diệt vong". Thế cho nên những bậc biết làm
chánh trị, thường chọn đều thiện để theo, điều bất thiện thì đổi. Truyện có câu
rằng: "Điều thiện là thày của người ta, điều bất thiện là thù của người
ta"; Kinh thi có câu: "Cái gương để nhà Ân soi, phải tìm đâu xa, ở
ngay đời vua nhà Hạ". Vua tôi chúng ta, [tờ 60b] nên lấy câu này làm qui
thức. Họ Trình1 xưa, cậy sự giàu có của mình, không nghĩ đến sự khốn cùng của
dân, chuộng vẽ trang hoàng, ham bề tửu sắc, lúc nào cũng bày những trò chơi vô
ích: Đánh bạc đánh cờ, chọi gà thả cáp, bồn nuôi cá vàng, chuồng nuôi bách thú,
khoe khoang mẹo khôn, để tranh thua được; quên cả thiên hạ, chẳng hề để tâm.
Những tội oan uổng, bị quan lại câu lưu, hàng 2,3 năm chưa hỏi đến; những bậc
thân sơ, bị kẻ hầu ngăn trở, hoặc 2,3 tháng không tâu trình. Các Tướng lập
thành bè đảng, triều đình không kẻ can ngăn. Đến nỗi, con cháu chí thân, hãm
hại bởi kế bầy tôi gian xảo; toàn quyền trong nước, chuyển dời xuống tay [tờ
61a] trá nịnh nhân gian. Lòng dân oán than mà không biết, đạo trời khiển trách
cũng không hay, chánh giáo suy đồi, kẻ cương rối loạn. Tuy rằng họ Hồ làm việc
bất trung, nhưng cũng bởi lòng trời ghét những đức xấu đó, cho nên mượn tay
người khác vậy.
Sau khi
họ Hồ đã dùng trí gian để cướp nước, lại đem trí gian ức hiếp dân. Đặt ra lệnh
bảo sao2, thì dân đều oán là thiệt thòi nguồn sống; ban ra lệnh di dân, thì dân
đều oán vì phải bỏ quê hương. Thêm vào đấy sưu cao thuế nặng, luật ngặt hình
nghiêm, chỉ chăm ích mình, không lo hại nước Hơi ho họ mạc, đều phong cho chức
quan cao; nịnh nọt tiểu nhân, thẩy đều ơn vinh trọng dụng. Hể mừng thì thưởng,
nhân giận bắt tù, trung trực ngậm tăm, ngay lành oan uổng, [tờ 61b] Thế mà vẫn
kêu ngạo tự tôn, không sợ mệnh trời ra tai nạn. Tuy rằng giặc Ngô tham tàn,
nhưng cũng do lòng trời ghét kẻ nghịch đó, cho nên mượn tay người Ngô vậy.
Sau khi
người Ngô đã lấy được nước ta, không dùng khoan thay ngược, lại càng tàn bạo
hơn. Ham giết người để thị oai, coi mệnh người như cỏ rác, bắt vợ con dân nước
ta, đào lăng tẩm vua nước ta. Cấm nấu muối khiến dân khốn vì ăn, đòi vải vóc để
dân khổ vì mặt, bắt dân tìm vàng ngọc, bắt dân cống voi tê, hình chánh phiền hà
dân hết đường sống. Kẻ mắc tội oan chỉ vạch trời kêu mới thấu; những người
trung nghĩa, thẩy đều nghiến lợi căm hờn! Ai ai cũng nguyện liều chết giết giặc
thù. Thế cho nên ta vừa dựng cờ khởi nghĩa, tức thì hào kiệt bốn phương nổi dậy
như ong, cùng đánh cho người Ngô tan rã. [tờ 62a] Đó là người Ngô chỉ biết dùng
bạo lực để lấy nước, mà không biết đem ân huệ để an dân.
1 Chữ "họ Trình"
hoặc chép lộn chăng ?
2 Bảo sao: là loại tiền giấy,
xem số 2 trang 91.
Tuy vì
trẫm có đại nghĩa mới được lòng dân, nhưng cũng do trời ghét sự tàn bạo đó, nên
mượn tay trẫm vậy.
Những sự
kể trên, đều bởi các quan chức không biết thể lòng vua, thi hành chánh trị tốt.
Trong thì che giấu nhầm lỗi đối với vua, ngoài thì lập thành đảng phái đối với
chúng, không có lòng trung tuẫn quốc, chỉ chăm lo kế vinh thân. Đến nổi nước
mất nhà tan, vua tôi đều nhục! Chúng ta há chẳng lấy đó làm gương ru ?
Buổi sớm
ban tối, trẫm chưa hề giây phút nào quên những nỗi niềm đó, là vì rất sợ như
cái xe trước, đã bị lọt hố đổ kềnh, mà cái xe sau lại hãm luôn vào vết ấy. Cho
nên luôn luôn nói đi nói lại, răn dạy các khanh, đã nói hàng nghìn vạn lời, [tờ
62b] đã ban hàng chín mười dụ, thế mà các khanh vẫn coi như mớ văn suông, không
hề tuân theo lời dạy, không hề thay đổi lỗi xưa, vẫn cứ làm điều trái phép,
ngược dưới nhờn trên.
Những
bầy tôi cũ, đã từng dự phần khó nhọc, cậy công mà kêu hoạnh, có phạm vào những
sự nhầm lỗi, còn có thể tùy theo việc nặng nhẹ mà châm chước, hoặc tha hoặc
không tha1. Còn như hạng tân tiến, bởi thấy thế quân đã mạnh, việc nước đã xong
mới di tuyên mưu đồ công danh, đó là hạng theo việc đã thành. Thế mà phạm việc
nhầm lỗi, há có thể trái luật pháp mà tha được ru ?
Nay đã
ban lời ngăn cấm răn dạy này, mà kẻ nào vẫn không nghe không đổi, thì chính kẻ
ấy tự mang lấy tai vạ, chứ không phải là lỗi không khuyên răn của trẫm.
[tờ 63a]
Tự nay, từ các đại thần Tổng quản, cho tới các cấp đội trưởng, cùng các quan
Tỉnh Viện cục, có chức trách quản quân trị dân, thẩy đều nên dụng tâm công
bằng, làm việc cần mẫn thờ vua thì tận trung, với bạn thì hòa nhã, bỏ thói tham
ô, trừ nết ngạo mạn, dứt lối riêng tư bằng đảng, đừng theo thói cũ lỗi lầm. Coi
công việc của quốc gia là công việc của mình; mối lo của dân chúng tức mối lo
của mình, tận trung hết sức phù trì nhà vua. Khiến cho xã tắc yên như núi Thái
Sơn; cơ đồ vững như bàn bằng đá! Sẽ cùng hưởng tước lộc với trẫm đời nay; sẽ
cùng truyền thanh danh về hậu thế. Đại nghĩa vua tôi, trước sau trọn vẹn. Như
vậy há chẳng đẹp ru ?
[tờ 63a]
Ôi nếu đàn gảy không êm, thì đổi dây tơ cho đúng điệu; hoặc xe trước đã đổ, thì
đi lối khác kiếm đường bằng. Các quan chức ta hãy soi vào đấy.
Nay bố
cáo quần thần trong triều ngoài quận, đều nên biết rõ.
Mồng 1,
tháng 8, vì có tai dị, nên Hoàng đế ban tờ chiếu tự nhận lỗi. Ra lệnh quần thần
dâng thư đựng trong phong bì kín.
Tháng
10, bổ Đào Công Soạn kiêm chức Thượng thư bộ Hộ, và chức Tham tri đông đạo quân
dân bạ tịch.
Tháng
11, vì Thổ tù ở châu Thạch Lâm tỉnh Thái Nguyên là Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc
Thái ở châu Thượng Lãng, liên kết với Trần Hãn làm phản, Hoàng đế bèn hạ chiếu
thân chinh, và tuyển bộ binh ở bãi Bồ Đề.
[tờ 64a]
Năm Tân Hợi, niên hiệu Thuận Thiên thứ 4 (1431), mồng 1, tháng giêng, Hoàng đế
sai Lê Như Lãm và Hà Lật sang sứ nhà Minh cầu phong Vương.
Hoàng đế
ban tờ chiếu rằng:
"Đạo
kinh luân thiên hạ, phải tính ban đầu để yên lúc cuối, phải lập pháp luật để
lưu về sau. Thế cho nên, cha làm con nối, đạo nhà tất hanh thông; anh truyền em
tiếp, nền nước sẽ bền vững. Các bậc Đế Vương thời xưa, lo tính công việc rất
sâu và xa.
Trẫm
thân mặc áo giáp, dầu dãi tuyết sương đã 13 năm nay, kể cũng khó nhọc, nay trí
nhớ hơi kém, tuổi cũng đã cao mà việc nước rất nhiều, khó lòng một mình liệu
lý.
1 Câu này chính bản chép:
"hoặc khả nộ, hoặc bất khả nộ" (hoặc đáng giận, hoặc không đáng
giận). Xét không hợp văn lý. Hoặc 2 chữ "nộ" (giận) trong câu, đều do
hai chữ " thứ " (tha) chép lộn ra chăng ? Xin dịch theo nghĩa chữ
" thứ ".
Xét thấy
thời xưa, cũng có khi dùng quyền thay kinh, mà hợp với đạo thánh hiền, dựng anh
truyền em, mà ngôi vua dài vững. Vậy châm chước tùy thời, dựng làm phép tắc.vvv
[tờ 64b]
Như Tư Tề (con trưởng) hiện đã lớn tuổi, vào hạng thành nhân. Tuy liệu việc
chưa được kín đáo tinh vi cho lắm, nhưng mắt thấy tai nghe, cũng đã từng trải
qua nhiều việc. Hãy cho tạm coi việc nước, để giúp đỡ trẫm. Nguyên Long (con
thứ), tính tuy minh mẫn nhưng tuổi còn non, hãy nên nuôi dưỡng dự trữ trong
Thanh Cung, chờ ngày đức tính đầy đủ. Khi nào Tư Tề lên ngôi chấp chánh, thì lúc
ấy Nguyên Long lại coi việc nước việc quân. Đó là theo việc đã làm của thời
Triệu tống xưa. Con cháu đời sau, cũng nên theo nghĩa truyền ngôi như vầy mãi
mãi. Sau đây hoặc có kẻ nào không theo lời trẫm, bàn luận trái lại, viện dẫn
lời chê Triệu Phổ nhầm lẫn1, để thay đổi phép nhất định trong tờ chiếu này, thì
kẻ ấy chỉ là phường siểm nịnh, chực đem
mưu gian để tính kế [tờ 65a] sẽ được như Vương Mãng và Tào Tháo2, chứ không
phải tận trung với nước, pháp luật tất không tha.
Nay ban
tờ chiếu này cho quần thần văn võ, để được biết ý nghĩa truyền ngôi đã định, và
giải điểm nghi hoặc về bàn luận bất nhất, Các ngươi đều nên hiểu rõ.
Hoàng đế
soạn bài "Hậu tự huấn", để răn Quốc Vương (Tư Tề) và Thái tử (Nguyên
Long) rằng: "Ta thường nghe: Đế Vương nhường ngôi, tất truyền lại cả phép
hay và phép trị; đời vua truyền nối, thường lưu lại cả lời dạy và lời răn. Tuy
cảnh ngộ mỗi thời một khác, nhưng việc làm thẩy đều giống nhau.
Ta đích
thân phát hết gai góc, bừa phẳng bạo tàn, thường lấy áo giáp làm đồ mặc, nội cỏ
làm cửa nhà, trải bao nơi nguy hiểm, xông pha trước giáo gươm, mới quét sạch
phong trần (giặc), [tờ 65b] dựng nên cơ nghiệp, công cuộc kinh doanh, đã từng
vất vả.
Nay
chúng mày không có công lao như ta, mà được hưởng cơ nghiệp của ta. Vậy những
yếu điểm về việc nước, việc quân, đều phải để tâm say nghĩ, cố gằng mà làm đừng
nên trể nải. Đối với họ Thân, nên hết tấm lòng thân ái; đối với nhân chúng nên
ban chánh sách khoan nhân. Đừng vì ơn riêng mà lạm thưởng; đừng vì cơn giận mà
ra hình; đừng mưu sinh lợi để xa hoa; đừng gần con hát sinh dâm đãng. Đối với
quần thần cần nghe can gián. Một chánh lệnh một việc làm, đều noi lẽ chính, để
làm phép thường. Như vậy mới có thể hợp lòng trời và đủ tin cho dân chúng [tờ
66a] Quốc gia sẽ được bình yên lâu dài. Nếu tự cậy thông minh, dùng kẻ thân
cận. Truất bầy tôi của ta, đổi chính sách của ta, biến cải gia pháp, sơ khoáng
họ thân, xa người thẳng ngay, gần kẻ nịnh nọt. Chỉ làm những việc vui đùa; chỉ
ham những vật đẹp mắt. Không theo thói cần kiệm; không nghĩ công gian lao. Có
khác gì cổ nhân đã nói: "Cha dựng ngôi nhà mà con không biết sửa sang; cha
đã gieo mạ mà con không biết cấy gặt ". Như vậy sao có thể nối được chí
ta, hưởng được nghiệp ta, để truyền ngôi lâu dài được.
Vả lại,
người dân thường mến phục vua nhân đạo, mà chính người dân cũng có thể lật đổ
vua. Ví như nước thường chở thuyền, mà thuyền đắm cũng vì nước; trời thường
giúp người có đức, mà thay đổi bất thường cũng chính là trời vậy.
Tuy
thánh như 4 vua Thuấn Vũ Thang Văn, mà vẫn nơm nớp lo sợ, kính trời chăm dân,
không phút nào ngừng, huống chi hạng tài đức kém các vua trên ru ?
Phàm
những vua nối ngôi, chỉ sinh dưỡng trong cung điện, thường được yên vui, không
biết lập chí. Nếu không răn dạy ngay lúc ban đầu, cho biết sợ hãi cảm khích,
thì đâu có biết hết đạo nối ngôi, mà ban phúc cho thiên hạ. Bởi thế, không thể
dừng được mà ban lời răn dạy này.
Ôi! vua
Khải vua Vũ thời xưa, đều làm trọn đạo nối ngôi, cho nên vua Khải tại vị lâu
dài, [tờ 67a] vua Vũ lừng danh con hiếu.
Chúng
mày nên ghi nhớ lời nói ta đây, và theo đời thánh hiền thời trước.
1 Khi Đỗ Thái hậu nhà tống
bệnh nặng, vời Triệu Phổ vào nhận di mệnh, dặn vua Tống Thái Tổ sẽ truyền ngôi
cho em trai là Quang Nghĩa, bảo Triệu Phổ ghi nhớ lời đó. Triệu Phổ xin tuân
mệnh, bèn lập tờ ước thệ, rồi ký tên vào. Việc này Trịnh Bá Kiền chê Triệu Phổ
không biết giảng giải can ngăn, đến nổi về sau sinh loạn. Như vậy không phải là
bậc đại thần có tài kinh quốc.
2 Vương Mãng là gian thần,
cướp ngôi nhà Tiền Hán. Tào Tháo là gian thần nhà Hậu Hán.
Nay ban
lời dạy.
Giết
Thái úy Phạm Văn Sảo.
Hoàng
thượng thân chinh đạo Thái Nguyên, tháng 2 đánh được Lâm Châu. Bế Khắc Thiệu
thua chạy, rồi chết; bắt được Nông An Thái, bèn kéo quân trở về.
Ngày 12,
tháng này, ban tờ chiếu kể tội trạng của Bế Khắc Thiệu cho trong triều ngoài
quân đều biết.
Tháng 3,
Hoàng thượng trở về kinh đô.
Đặt Ty
xá nhân trong Nội giám và Ngoại giám, do theo đề nghị của Ngô Văn Thông. Ngày
4, tháng 8, ban tờ chiếu kể tội trạng Nông An Thái khắp trong triều ngoài quận.
Mồng 1, tháng 11, nhà Minh sai Chương Kính và Từ Kỳ mang tờ sắc sang ban mệnh
cho Hoàng đế tạm quyền coi việc nước. Hoàng đế bèn sai nguyễn Văn Huyến và
Nguyễn Văn Chí, làm sứ thần theo bọn tên Sưởng sang nhà Minh tạ ơn, tặng 5 vạn
lạng bạc.
Tháng
12, Hoàng đế sai các vị nho thần [tờ 67b] soạn bài tựa quyển "Lam sơn thực
lục" do ngài chế.
Vì Đao
Cát Hãn ở Triệu Lễ, thông đồng với Phạm Văn Sảo làm loạn, lại liên kết với
nghịch thần nước Ai Lao là Kha Đốn, xâm lấn đất Mang Mỗi, Hoàng đế bèn sai Tư
Đồ Lê Sát và Quốc Vương Tư Tề dẫn quân đánh Triệu Lễ, rồi ngài lại thân chinh.
Năm Nhâm
Tý niên hiệu Thuận Thiên thứ 5 (1452), mùa xuân, tháng giêng, quan quân đánh
được Mang Lễ Kha Đốn bị giết, Đao Cát Hãn chạy trốn, quan quân bắt hết dư đảng,
bèn đổi Mang Lễ làm châu Phục Lễ.
Ngày 3,
tháng 3, Hoàng đế kéo quân trở về, bèn ban tờ chiếu rằng:
"Thời
xưa, rợ miêu trái mệnh, vua Vũ nhà Hạ phát binh, nước Mật không kính, vua Thái
Vương nổi giận".
Triệu lễ
vốn là một xứ lệ thuộc của nước ta tự xưa. Chỉ vì thời vua vừa đây, triều đình
suy bại chính trị tồi tàn, nhà vua mất kỷ cương, [tờ 68a] biên thùy bỏ sơ
khoáng. Bởi thế xứ ấy mới dám cậy hiểm cậy xa, không nộp thuế nữa, lại cướp lấn
biên thùy, tàn hại dân ta. Những nơi bị chúng tàn hại nhất, là các trấn: Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Qui Hóavà Gia Hưng.
Trẫm tự
khi lên ngôi tới giờ, vẫn muốn tu đức để nước xa tự phục, không hề kỳ thị. Tuy
Tù trưởng xứ ấy là Đao Cát Hãn vẫn quen thói cũ, không lại triều cống, trẫm đã
nhiều lần đem lời tín nghĩa, giảng dụ ân cần, lại hứa sẽ phong cho tước cao,
được hưởng lộc hậu. Nhưng y vốn lòng lang dạ thú, vẫn giữ chí xưa quên ân bội
nghĩa, trở mặt thành thù, hiệp cùng tên phản nghịch Thượng Hối Khanh và lũ
Thượng Đinh Quế, dụ dỗ dân biên thùy, mưu làm việc trái phép, tụ tập phường
vong mạng, kể đã khá đông, lại kết đảng với nghịch thần nước Ai Lao là bọn
Thượng Kha Đốn, [tờ 68b] cùng nhau đánh vào đất nước Chiêm và nước Ai Lao cho
tới các xứ Mang Mỗi, nhân dân các sách đó đều bị chúng nhiễu hại. Bàn Nhự nước
Ai Lao bèn sai sứ thần đến nước ta, cần xin cứu viện.
Trẫm là
cha mẹ dân, thay trời nuôi dân, nhân dân nơi nào thẩy đều coi như con cả, đâu
nở để cho dân một phương nào bị tai hại. Bèn sai Tướng dẫn quân đánh giặc cứu
dân, Cát Hãn liền xuất toàn quân chống lại quân ta, giao chiến một trận ở Mang
Kiệt, Kha Đốn bị thua, đầu mục của Cát Hãn là bọn Lãm Cương kinh hãi chạy trốn.
Thế mà Cát Hãn còn sai bọn đầu mục khác hô hào Tù Trưởng Mang Bồ là bọn Đinh
Quế, hiệp cùng bọn phản nghịch Thượng Hối Khanh, kéo quân thẳng vào xứ Gia Hưng
và Đà Giang nước ta, hiếp dụ dân ngu, dám gây nổi loạn.
[tờ 69a]
Trẫm xét, kẻ loạn thần tặc tử, thì ai ai cũng có thể giết chết. Năm ngoái,
Thượng Khắc Thiệu, ở Thái Nguyên mưu làm phản, đích là do tên Thượng Hãn xui
nên, năm nay Cát Hãn nổi loạn, lại do âm mưu của Thượng Sảo. Vì cần tiêu diệt
hết mầm mống họa loạn, Trẫm bèn sai Tư Đồ Lê Sát, dẫn quân do đường Đà Lãng
tiến đánh trước, lại sai Quốc Vương thống binh, do đường Bắc Quan tiến chặn phía
sau, trẫm thì đích thân đốc 6 quân, do đường Gia Hưng kế tiến, bọn phản nghịch
Thượng Đinh Quế liền hoảng sợ tan rã, quân ta đuổi thẳng tới dinh tướng Mang
Bồ, Man Xá, bắt giết bọn phản nghịch Thượng Hối Khanh, đem thủ cấp hiến trước
cửa viên, quan quân bắt sống Đinh Quế cùng vợ con, lại bắt và giết rất nhiều
đảng chúng. [tờ 69b] Ta bèn chia quân tiến cả đường thủy đường bộ, ngày 20
tháng giêng năm nay, tiến thẳng vào sào huyệt Cát Hãn.
Trước
đây, nghịch thần nước Ai Lao là Kha Đốn, vẫn nương thân ở Mang Lự nghe tin quân
ta đến, liền giết Kha Đốn, đem thủ cấp ra đón hàng, Cát Hãn cũng bỏ vợ con lại,
chỉ chạy trốn thoát thân. Trẫm bèn sai Tư Đồ dẫn quân tiến vào Mang Cồ, Quốc
vương thì đóng tại Mang tô, cho quân vào rừng lùng bắt, lại sai các Tướng cho
quân vào các nơi mang hiểm lục soát, bắt được vợ con Cát Hãn cùng đồ đảng của
y, tất cả trai gái hơn 3 vạn người; hơn 100 con voi; khí giới thuyền bè đồ vật
rất nhiều vô kể. Bèn đặt đất đó thành từng Châu từng Huyện, ghi vào đồ bản nước
nhà.
[tờ 70a]
Nay dẫn quân khải hoàn, làm lễ hiến phù nhà Thái Miếu. Vậy ban cáo thị cho thần
dân thiên hạ:
Phàm bầy
tôi, nên lấy tên Hãn, tên Sảo làm răn; người giữ chức nơi Phiên Trấn, nên lấy
Khắc Thiệu, Cát Hãn làm răn. Như vậy thì thần dân ta đều được hưởng phúc thái
bình, và có tiếng tới đời sau.
Tháng
11, Cát Hãn và con là Mạnh Vượng xin hàng, Hoàng đế tha tội cho. Khi Cát Hãn tới
Kinh tạ tội, được phong chức Tư Mã.
Phong
Trịnh Lỗi Nhập nội hành khiển tả bộc xạ; Lê Liệt và Lê Bôi đều chức Nhập nội tư
mã, được tham dự triều chánh.
Năm Quý
Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1433) (nhằm niên hiệu Tuyên Đức thứ 9 nhà
Minh), mùa xuân, tháng giêng tuyển con em các quan, và học sinh tuấn tú trong 3
Lộ Quốc Oai; [tờ 70b] 2 Lộ Bắc Giang vào học trường Quốc Tử Giám.
Tháng 4,
sai Trần Thuấn Du, Nguyễn Khả Chi và Bùi Cầm Hổ sang cống nhà Minh theo lệ
thường niên.
Hoàng đế
đi Lam Kinh, làm lễ bái yết Lăng trên núi. Tháng 8, Hoàng đế trở về Đông Kinh.
Tháng
10, ban tờ săc cho thiên hạ, đại thần, bá quan, văn võ và quân dân:
"Làm
tôi phải trung, làm con phải hiếu, thế mà con trẫm là Tư Tề không trung hiếu
với cha mẹ, ngược đãi quần thần, khinh nhờn trời đất, không theo đạo của các
đấng tiên vương. Nay giáng Tư Tề xuống chức Quận Vương. Vậy bố cáo thiên hạ
".
Ngày 26
ban tờ chiếu rằng:
"Trẫm
tư chất bạc nhược, vâng giữ mệnh trời đã 6 năm nay, già nua mỏi mệt. Thiên hạ
rất rộng công việc rất nhiều, bởi thế lo âu tích thành bệnh tật [tờ 71a] cố
gắng sớm hôm sợ không đương nổi.
Hoàng
Thái tử, tuy hãy còn trẻ tuổi, nhưng nổi tiếng hiếu nhân, ai ai đều tin cậy,
ngôi báu đáng về tay. Vậy trao cho ấn kiếm, để trông coi việc nước thay
trẫm".
Hoàng đế
lại ban tờ sắc cho Thái tử rằng:
"Việc
truyền ngôi báu là đại sự của quốc gia, lời cha dạy con, là chí tình trong
thiên hạ. Bởi đại sự quốc gia, cho nên khi trao nhận không thể không nói; bởi
chí tình phụ tử, cho nên lời răn dạy không thể không tường.
Trẫm gặp
thời tao loạn, dựng nghiệp gian nan hơn 20 năm, mới nên nghiệp lớn. Những đau
khổ của nhân dân, thẩy đều hiểu biết; những đường khốn nạn trong thế sự, thẩy
đều trải qua. Thế mà đến khi lên ngôi, những người thực giả, cũng chưa dễ gì
biết tường; những việc nghi ngờ, [tờ 71b] cũng chưa dễ gì phán đoán. Như vậy,
đạo làm vua há không là không khó ru ?
Huống
chi mày, đương thời tuổi trẻ, nối nghiệp gian nan nghe biết còn nông tư lường
chưa thấu. Vậy nên dốc lòng kính cẩn, như qua ván mỏng vực sâu, thờ trời đất nên
hết lòng cung phụng tôn miếu nên trọn đạo hiếu, thân ái anh em, hòa mục tôn
tộc, cho tới đối với trăm quan và muôn dân, thẩy đều nghĩ sao cho phải đạo. Chớ
đổi phép cũ của Tiên Vương; chớ bỏ cách ngôn của tiên triết; chớ gần thanh sắc
mà chuộng tiền tài; chớ thích đi săn mà sinh dâm đãng; chớ nghe lời gièm mà xa
can thẳng; chớ dùng tân tiến mà bỏ cựu thần. Trời khó tin, mệnh không thường,
phải nghĩ phép [tờ 72a] trị khi chưa loạn; công khó thành, việc dễ hỏng, phải
nghĩ giữ nước lúc chưa nguy. Khi mày được vui thú, phải nghĩ tới cơ nghiệp khó
nhọc của ta; khi mày hưởng cao sang, phải nghĩ tới công đức tích lũy của Tổ.
Phải cẩn thận trước để toan sau, phải làm sự lớn trước sự nhỏ, phải theo chí
trước mới có thể giữ được nghiệp trước, phải thuận lòng trời mới có thể hợp
được lòng người. Một giây một phút , chớ trễ chớ quên.
Trao cho
mày ngọc tỷ, coi việc nước thay ta, để bền vững Quốc gia, để yên lòng dân
chúng.
Ôi!
Truyền ngôi giữa vua Nghiêu vua Thuấn, ở giữ được phép trung, đạo lớn của vua
Vũ vua Văn, cần nối chí không bỏ".
Tháng 8
nhuận, có sao tuệ tinh xuất hiện ở phương Tây.
Ngày 22,
Hoàng đế băng hà [tờ 72b] ở nơi Tẩm Điện, ngài hưởng thọ 49 tuổi.
Ngày 24,
Hoàng Thái tử ban lệnh chỉ cho các quan trong ngoài, đều vận áo để tang xổ gấu,
sau khi làm lễ tốt khốc (100 ngày), đều vận áo trắng làm việc; quân dân khắp
thiên hạ, đều vận áo trắng 3 ngày; cấm chỉ âm nhạc và yến ẩm trong 3 năm.
Ngày 8
tháng 9 Thái tử lên ngôi.
Ngày 21,
làm lễ đặt tên thụy Hoàng đế, rồi an táng ngài tại Vĩnh Lăng núi Lam. Ban lời
dụ rằng:
"Thời
xưa, Trọng Hủy xưng vua Thang rằng: "Trời ban cho vua đức trí dũng, để làm
tiêu biểu cho muôn nước". Đó là nói các bậc Đế Vương đều có mệnh trời vậy.
Vua Thái
Tổ ta, có tài dùng binh, khi ngày mới dựng cờ khởi nghĩa, chỉ vỏn vẹn có 200
quân thiết đột; 200 dũng sĩ, và 300 nghĩa binh. Thế mà phía Tây Ai Lao phải
thần phục, phía Bắc dẹp hết giặc Ngô. Xét về Kế bí mưu kỳ, phần nhiều là do tài
thao lược. Ngài lại tinh tường việc chính trị: [tờ 73a] Khi mới đến hành doanh
Bồ Đề, ngài đã tuyển dụng hiền tài, đặt quan chia chức, trừ tàn cấm bạo, thương
yêu quân dân, thu hút các bộ lạc, phòng bị nơi biên cương. Thực đã có ngay một
qui mô đại định thiên hạ.
Đến khi
thống nhất non sông, ngài phong công thần, phong nho giáo, chế lễ nhạc, định
luật lệnh, đặt quân kỷ, lập hộ tịch, chỉnh đốn các ngành thuế, bỏ phép tiêu
tiền giấy. Thi hành chánh sự rất là rộng lớn chu đáo. Cứ xem ngay những bài
Chiếu bài Sắc ban ra thời ấy, đủ thấy lời răn dạy và phép trị bình rất là tường
tận.
Ngài
khôi phục non sông, đem lại thái bình, công đức ban khắp đương thời, cơ nghiệp
truyền cho hậu thế. Rực rỡ lắm thay".
Đại Việt Thông sử
QUYỂN
LIỆT TRUYỆN
Thần Đôn soạn
NGHỊCH THẦN TRUYỆN
[tờ 1a]
Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương. Cụ Tổ 7 đời tên là Đĩnh
Chi, ở làng Đông Cao, huyện Bình Hà, tức làng Long Động, huyện Chí Linh bây
giờ, đậu trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) thời vua Anh Tông nhà Trần, làm
quan đến chức Nhập nội hành khiển Thượng thư môn hạ Tả bộc xạ, kiêm Trung thư
lệnh, tri quân dân trọng sự. Rất thanh liêm thận trọng, tiếng tăm lừng lẫy cả 2
nước (nước ta và nước Trung Hoa).
Đĩnh Chi
sinh ông Dao [tờ 1b] quan Ty hình viên đại phu. Ông Dao sinh 4 con trai là:
Địch, Thuấn, Thúy và Viễn, người nào cũng có tài năng sức lực, cuối thời Nhuận
Hồ, vì bất đắc chí, đều đem con em đón hàng nhà Minh. Lúc ấy quân họ Hồ đóng
giữ phía Bắc sông Phù Lương, tướng nhà Minh là Trương Phụ không biết hư thực
thế nào, nên không dám qua sông. Thúy bèn tự phủ Nam Sách cùng với Tri Châu
châu Tam Đới Đặng Nguyên vẽ bản địa hình, xin làm hướng đạo dẫn quân Trương Phụ
qua sông đánh úp phá thành Đông Kinh; Thúy lại sai thủ hạ bọn đầu mục Nguyễn
Như Khanh bắt Hán Thương ở núi Cao Vọng. Người Minh thưởng công, phong cho Thúy
chức Giao chỉ bố chánh ty tham chánh, Địch chức chỉ huy sứ, Viễn chức Diêm
thiết sứ. Sau Thúy dẫn quân vào tỉnh Lạng Sơn đánh Nùng Phản Lịch, [tờ 2a] bị trúng tên độc chết.
Thúy
sinh ra Tung, di cư đến làng Lang Khê, huyện Thanh Hà. Khi ấy vua Thái Tổ Cao
Hoàng Đế đã bình định thiên hạ, nghiêm trị bọn ngụy quan, cho nên Tung không
dám ra làm quan, chỉ ẩn náu nơi thôn xóm.
Tung
sinh ra Bình, lại di cư đến làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương. Bình sinh ra Hịch,
3 đời này không hiển đạt.
Hịch lấy
con gái Đặng Xuân, người cùng làng, tên là Đặng Thị Hiếu, sinh 3 con trai con
trưởng tức là Đăng Dung, con thứ là Đốc, tước Trào quận công, sau Đặng Dung
tiếm ngôi, ngụy phong cho tước Từ Vương, con thứ 3 là Quyết, tước Đông quận
công, ngụy phong tước Tín Vương, sau khi chết Ngụy truy phong Uy tín đại vương.
Đặng
Dung sinh giờ Ngọ, ngày 23 (Nhâm Tý) tháng 11, năm Qúy Mão, nhằm niên hiệu Hồng
Đức thứ
14 (1483). Ít tuổi đã dũng hãn, nhà nghèo, làm nghề đánh cá. [tờ 2b].
Thời vua
Uy Mục, cầu dũng sĩ, Dung dự thi nghề Giao chật (đánh vật), trúng Đô lực sĩ
xuất thân, được sung vào Túc vệ, giữ việc cầm dù theo xe vua. Khoảng thời Thụy
Khánh, thăng bổ chức Đô chỉ huy sứ vệ Thiên vũ. Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511),
tiến phong tước Vũ xuyên bá, năm này Dung 29 tuổi. Năm Hồng Đức thứ 7 (1476),
cha là Hịch chết. Thời Quang Thiệu, triều đình sai trấn thủ Sơn Nam , gia phong
chức phó Tướng Tả đô đốc.
Đăng
Dung là người rất gian trá, nhưng bề ngoài làm ra vẽ thật thà ngay thẳng, để
mua danh dự. Thời ấy có Cù Khắc Xương và Trần Công Vụ, mượn đạo Thiên vũ, Thiên
bồng, để mê hoặc ngu dân. Đăng Dung dâng sớ xin trị tội, lại hạch luôn cả quan
Thừa Hiến Lê Tích và Đỗ Thao về tội mê tín tà thuyết. tờ sớ lược rằng:
[tờ 3a]
"Hạ thần thiết nghĩ: Nhân, nghĩa, trung, tín, làm bốn điều thánh nhân
thường làm luôn; quái, lực, loạn, thần, là bốn điều thánh nhân không nói tới.
Xét việc đời xưa, đủ có chứng minh. Vua Hoàng đế định thời khắc để phân ngày
đêm, vua Cao Dương dựng Thái Cực để thông trời đất. Đã dựng cái nêu cho thời
bấy giờ, và để đời sau làm gương soi vào đấy.
Hoàng
thượng là bậc thánh nhân, mở nền trung hưng rực rỡ! Vừa là vua vừa là thầy, đủ
trách nhiệm chăn nuôi, dạy bảo; hoá bằng đạo, hoá bằng đức, mong được tới hòa
mục thái bình. Cả trong thiên hạ điều được ấm no.
Nay quân
nhân Thiên thí nhân vũ là Cù Khắc Xương và quân nhân Gia phúc Phạm tùng là Trần
Công Vụ, vốn là lính thường, cũng như dân vậy. Đáng lẽ phải noi Vương đạo Vương
Lộ, [tờ 3b] và tuân theo gia huấn, lại đi mượn Thiên vũ, Thiên bồng, để dụ dỗ
ngu dân. Mượng chùa thờ Phật làm chợ khí trá; mượn đền thờ Thần làm ổ chứa
gian. Thuật nghiền than làm thuốc, khiến già trẻ bôn ba, phép phun nước phi
bùa, làm ngả nghiêng làng xóm.
Bọn yêu
quái đã làm như vậy, các quan trên đáng phải bài trừ. Các quan Thừa hiến, đã
từng đọc sách thánh hiền, đều là chức trách sư tướng. Đáng lẽ phải như Địch
Nhân Kiệt phá đền dâm ở tỉnh Hà Nam, để trừ mê hoặc; như Hồ Dĩnh đánh nhà sư ở
tỉnh Quảng Đông, để bài dị đoan. Thế mà các quan này lại như bọn phàm phu,
không hiểu lẽ phải, Lê Tích Văn Vận mê tin đều xằng bậy [tờ 4a]; Tử Ký Đỗ Thao
phụ họa vào thuyết tà. Cùng nhau theo tả đạo, mê đắm thói cốt đồng. Đã mê hoặc
thần quái, huống còn làm thói hung cuồng. Xin thi hành hình pháp, nghiêm trị để
tỏ điều trừng giới".
Hoàng đế
nghe theo lời sớ trên, ra lệnh giết Khắc Xương và Công Vụ.
Thiêu
Quốc công Lê Quảng Độ hàng giặc Cao, Trấn tướng quân bắt được, điệu về Kinh Sư.
Đăng Dung lại dâng biểu đàn hạch, xin giết Quảng Độ về tội bất trung. Bài biểu
lược rằng:
"Ba
cương1 năm thường2, là rường cột chống đỡ trời đất, là bàn đá3 yên vững nhân
dân. Nếu nước mà không có điều, thì tuy là nước trung hạ, nhưng chính là nước
man di; người mà không có những điều đó, thì tuy thường vận áo xiêm, nhưng
chính là loài cầm thú. [tờ 4b] Tự xưa tới nay, chưa từng có ai bỏ các điều đó
mà có thể đứng trong khoảng trời đất.
Nay Lê
Quảng Độ, nhờ phúc Tổ phụ, đội ơn triều đình thờ qua bốn triều, ngôi tới nhất
phẩm, mà vẫn đận đờ, chỉ toan nhòm ngó. chiều vua thì trăm kế phùng nghinh;
chuyên chánh thì múa may nhiều quẻ. tội ác chứa chấp đã lâu, đâu có phải một
sớm một chiều, mà gây nên họa Thụy Khánh Hồng Thuận.
Mấy năm
nay giặc Cao khởi binh, tiếm xưng bảo hiệu. Thế mà Quảng Độ tham sống sợ chết,
nhẫn nhục thờ kẻ thù, mượn danh vị đi cổ động dân ngu cho giặc Cao, làm đầu mục
đi nước ngoài cầu phong cho giặc Cao, hạnh kiểm như chó lợn, lòng dạ tựa cưu
cánh4. [tờ 5a] Người người đều mắng nhiếc, Quảng Độ vẫn trơ trơ! Y không nghĩ
đến hậu ân của quân phụ, đại nghĩa về cương thường. Y mang tội với trời đất,
mang tội với tổ tông và thiên hạ, tội y không thể tha thứ được".
Hoàng đế
bèn ra lệnh giết Quảng Độ. Tự đây ngài tin Đăng Dung là trung trực, càng thêm
ân sủng.
1 Ba cương - là 3 đạo: Vua
tôi, cha con và vợ chồng.
2 Năm thường - là 5 điều:
Nhân, nghĩa, lễ, trí và tín.
3 Câu này, chính bản chép
chữ: "trụ thạch" (cột đá), có lẽ do chữ: "bàn thạch" (bàn
đá) chép lộn ra chăng ? Xin dịch theo nghĩa chữ "bàn thạch".
4 Cưu là tên con ác điểu.
Loài chim này thường ăn thịt cha nó. Cánh là tên con ác thú. Giống thú này
thường ăn thịt mẹ nó.
Lúc bấy
giờ Vĩnh Hưng Bá Trịnh Tuy là cháu họ Duy sản, tranh quyền với An Hòa Hầu
Nguyễn Hoằng Dụ, kéo quân đánh nhau.
Họ Thủy
chú (Trịnh) và họ Tống sơn (Nguyễn) đều là họ Công thần hạng nhất, danh vọng
trên đời, thế mà bổng gây hiềm khích, Hoàng đế hòa giải cũng không yên. Hoằng
Dụ cử binh đánh Trịnh Tuy, Tuy chạy về Lôi Dương. Trần Chân là con nuôi Duy
Sản, nên bênh Trịnh Tuy, bèn cử binh đánh Hoằng Dụ, Hoằng Dụ chạy [tờ 5b] về Tống Sơn. Thế là chỉ còn một mình Trần
Chân lưu lại triều đình phụ chánh.
Hoàng đế
thấy hai họ đánh nhau, chưa phân đằng nào phải trái, lại nghe theo lời Trần
Chân, sai Đăng Dung dẫn thủy quân đuổi đánh Hoằng Dụ ở Thanh Hoa. Hoằng Dụ đưa
tờ thư và bài thơ cho Đăng Dung, Đăng Dung bèn án binh bất động, nên Hoằng Dụ
được chạy thoát.
Năm
Quang Thiệu thứ 3 (1518), Đăng Dung thăng tước Vũ Xuyên Hầu, ra trấn thủ Hải
Dương.
Tại đây
Đăng Dung thu thập dân quân, chỉnh đốn đội ngũ, binh số ngày thêm nhiều.
Lúc này,
chỉ có một mình Thiết Sơn Bá Trần Chân nắm quyền binh trong Kinh Sư, Đăng Dung
sợ Chân, bèn cưới con gái Chân cho con trai mình là Đăng Doanh, để làm vây cánh.
Vua
Chiêu Tông nghe lời gièm pha, giết Trần Chân. Đồ đệ Trần Chân là bọn Nguyễn
Kính, đều thuộc hạng tướng mạnh vùng Sơn Tây, liền cử binh đánh vào Kinh Đô,
Hoàng thượng chạy sang nhà Xúc ý huyện Gia Lâm, [tờ 6a] Trịnh Tuy đóng đồn ở
Sơn Nam, có chừng hơn vạn quân, được tin trên dẫn binh về cứu. Hoàng thượng
triệu Hoằng Dụ để dẹp giặc cứu nhà vua, nhưng Dụ không chịu đến; các tôn thất
và đại thần chạy theo vua cũng không có bao người; lính cấm vệ quá ít, không
biết cậy vào Tướng nào, vua bèn sai Hà Văn Chính và Lê Đại Đỗ đi triệu Đăng
Dung. ý ngài muốn cậy binh lực của Đăng Dung để khôi phục lại Kinh Sư. Nhưng
Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, bèn nẩy ra mưu đồ khác.
Sau khi
vào yết kiến Hoàng đế, Đăng Dung đóng thủy quân ở sông Nhị Hà, và cho là Xúc ý đường
hơi xa, bèn tâu xin Hoàng thượng dời về Thuần Mỹ Đường Bồ Đề, để tiện theo hầu.
Đăng
Dung muốn mượn thế giặc để giết hại đại thần, cho hết vây cánh nhà vua, bèn lập
ra kế: Vờ cho người đi dụ bọn Kính, Áng hàng rồi mạo lời chúng yêu sách, liền
ức hiếp triều đình [tờ 6b] giết Đoan quận công Ngô Bính, Thọ quận công Trịnh
Hựu, và bọn Trử Khải để vừa lòng giặc.
Đăng
Dung cho là Hoàng đế ở điện Thuần Mỹ, hơi gần với nơi thủy quân của bọn con em
Trần Chân, định xin Hoàng thượng dời đến Bảo Châu, nhưng Đô ngự sử Đỗ Nhạc, và
Phó đô ngự sử Nguyễn Dự tranh luận, không đồng ý. Đăng Dung bèn sai người trong
đảng là Đinh Mông bắt Đỗ Nhạc1 và Nguyễn Dự, đem giết tại vườn dâu phía cửa Bắc
hành doanh Xuân Xã. Quần thần đều rung sợ! Bèn rước Hoàng đế tới Bảo Châu. Tự đây,
đại quyền trong triều ngoài quận đều thuộc về tay Đăng Dung.
Sau đấy
một thời gian ngắn, Nguyễn Hoằng Dụ đem quân về cứu nạn giặc, Hoàng đế bèn sai
Đăng Dung và Hoằng Dụ, đều dẫn quân đánh bọn Kính và Áng ở Sơn Tây. Hoằng Dụ
dẫn quân bản bộ tiến đánh trước, bị thua trận. Đăng Dung thì án binh không
tiến, [tờ 7a] nên vẫn được toàn quân, rồi Hoằng dụ dẫn quân về, Đăng Dung bèn
giữ hết binh quyền một mình. Ít lâu, Hoằng Dụ chết ở Thanh Hoa, Đăng Dung lại
càng tung hoành, không còn phải sợ một ai. Mùa đông năm này, Hoàng thượng cho
Đăng Dung chức Đề thống các doanh thủy quân và bộ binh.
Năm
Quang Thiệu thứ 4 (1519), Hoàng thượng sai Đăng Dung thống lĩnh các quân đánh
phá giặc Lê Tiếu ở Từ Liêm, bắt được Lê Tiếu, lại chiêu dụ đảng giặc Nguyễn
Kính và Hoàng Duy Nhạc đầu hàng. Bộ đội ngày càng nhiều, công danh ngày càng
thịnh, triều đình ai cũng phục.
Sau khi
Hoàng thượng trở về Kinh Đô, tiến phong Đăng Dung tước Minh Quận Công.
Niên
hiệu Quang Thiệu thứ 5 (1520), Đăng Dung bàn với nhân gia Lễ bộ Thượng thư Phạm
Gia Mô, tính kế được nắm trọn binh quyền, để đánh dẹp cướp giặc. Bọn Gia Mô
cũng nghĩ: Tự xưa, quyền tại 5 phủ, các văn thần kỳ cựu cũng không được dự. Chi
bằng bây giờ để cho [tờ 7b] Đăng Dung làm quan
1 Chữ này chính bản chép chữ
"binh", có lẽ do chữ "nhạc" viết lộn ra chăng ? xin dịch
theo chữ "nhạc".
Tiết
chế, thì việc gì chúng mình cũng co thể làm được. Bèn cùng nhau ký tên vào tờ
bảo cử. Hoàng đế ưng theo, cho Đăng Dung chức Tiết chế 13 Đạo thủy lục quân;
Gia Mô chức Tán lý quân vụ. Thế là tất cả binh mã trong thiên hạ, đều thuộc
quyền Đăng Dung.
Niên
Hiệu Quang Thiệu thứ 6 (1521), Đăng Dung tự phong lên tước Nhân quốc công, Tiết
chế 13
Đạo thủy
lục quân.
Đăng
Dung giữ binh quyền đã lâu, Tướng Tá đều quy phụ. Hoàng đế cũng biết y chuyên
quyền, nhưng còn mong lòng trung nghĩa của y, hy vọng thu công sau này, ngài
thân đến phủ Đăng Dung và phong thêm cho chức Thái phó. Mùa đông năm này, Hoàng
đế đến viện Quỳnh Vân úy lạo Đăng Dung, và sai dẫn quân đi Bắc Giang đánh giặc
Trần Thăng, sau khi Đăng Dung đã đi, ngài lại ban cho tờ sắc rằng:
"Trẫm
thường nghe: [tờ 8a] Vì nước trừ bạo tàn, xông pha nơi nguy hiểm. Đó là chức
trách của người làm Tướng. Cho nên Điền Đan nước Tề, xông pha nơi tên đạn mà
nước địch hàng; Lý Tố nước Đường, xông pha gió sương, mà bình Quán Sái, các
Tướng ấy đều bảo vệ xã tắc, và có công lớn với thiên hạ.
Khanh là
người trẫm trông cậy. Nay giặc Thăng tụ tập chúng đảng, đóng vùng Thái Nguyên
Lạng Sơn, triều đình phong cho khanh làm Đô Tướng, dẫn thủy lục quân trong
thiên hạ đi đánh dẹp, vượt sông núi, gội gió mưa, phá quân giặc ở huyện phượng
nhỡn và Bảo Lộc, những nơi khanh dẫn quân đi qua, binh sĩ không hề xâm phạm của
dân một mảy may, các dân xã đó đều mến phục. Đã mấy lần nhận được thư tâu thắng
trận, trẫm rất khen ngợi.
Nay sai
Thiếu bảo Binh bộ Thượng thư Cẩm sơn hầu Lê thúc Hựu, [tờ 8b] Tư lễ giám Tổng
thái giám kiêm Tài dụng khố sự Lê Khoái, và Tả thị lang Đông các Đại học sĩ
Nguyễn Quýnh, đem tờ sắc chỉ này úy lạo khanh cùng tướng sĩ các doanh, và 100
lạng bạc để khanh thưởng kẻ có công.
Khi nhận
tờ sắc này, khanh nên thể theo ý trẫm; Lấy điều trung nghĩa khích lễ tướng sĩ,
đồng tâm hiệp lực, lập kế bắt giặc. Chỉ cốt bắt cho bằng được chính tên giặc
Thăng, còn những kẻ a tòng, đều tha hết thẩy. Quét sạch vào sào huyệt của giặc
ẩn núp đã lâu năm; cứu vớt dân một phương khỏi lầm than, được an cư lạc nghiệp,
để thông đường sứ sự, để trọn vẹn chiến công. Như vậy thì công danh của khanh
vang lừng vũ trụ, tước lộc của khanh sẽ lưu truyền mãi mãi tới con cháu đời
sau".
[tờ 9a]
Đăng Dung tiến quân đến Lạng Nguyên, Trần Thăng thua chạy, quan quân đuổi bắt được,
bèn kéo quân trở về.
Niên
hiệu Quang Thiệu thứ 7 (1522, Lê Bá Hiếu nổi loạn ở Đông Ngàn, Đăng Dung dẫn
các tướng đánh dẹp, nhưng không được. Đợt sau lại dẫn quân đánh phá, bắt được
Bá Hiếu.
Sau khi
Đăng Dung một mình giữ binh quyền, từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày
càng thịnh, mà đạo quân nhà vua thì yếu ớt, lòng người ai cũng hướng về Đăng
Dung, nên y càng lưu tâm mưu việc phản nghịch.
Nhân Gia
với Đăng Dung và Phạm Gia Mô, chức Lễ bộ Thượng thư, giữ chánh quyền trong
triều; em rể là Vũ Hộ, chức Tả đô đốc trấn Sơn Tây, đều là bè đảng thông đồng.
Thượng thư Trịnh Chí Lâm, Nguyễn Thời Ung đều phụ họa thêm. Y lại tiến vua một
mỹ nhân, giả danh là con gái của y, vào làm cung tần để dò la tin tức Hoàng đế;
sai em là Đông quận công Mạc Quyết giữ đạo binh túc vệ; sai con trai là Đăng
Doanh Dục mỹ hầu [tờ 9b] giữ điện Kim Quang.
Khi Đăng
Dung đi đường bộ, thì dùng lọng phượng bông vàng; khi đi đường thủy thì dùng
thuyền rồng dây lụa1. Tự do ra vào nơi cung cấm, không hề nể sợ. Lại giết hết
những người tâm phúc của vua là bọn: Thị vệ Nguyễn Cấu, Đô lực sĩ Minh sơn bá
Nguyễn Thọ và Đàm Cử.
1 Lọng phượng và thuyền rồng,
đều là nghi trượng của vua Thiên tử. Đây chép Đăng Dung tiếm dụng.
Hoàng đế
thấy tình thế ngày một bức bách, bèn ngầm bàn với Nguyễn Hiến và Phạm Thứ, định
dời Kinh đô đi ra ngoài, để hiệu triệu các Tướng 4 phương hỏi tội Đăng Dung.
Bàn xong, sai người đi trước, mang tờ mật chiếu tới Tây kinh, dụ viên cựu thần
Trịnh Tuy đem binh đến đón Hoàng đế.
Mùa thu
năm này, hồi trống canh hai đêm 27 tháng 7, Nguyễn Hiến và Phạm Thứ vào cung dự
hầu yến, rồi đón Hoàng đế ra đi tới Ốc sơn huyện Minh Nghĩa. Trong lúc vội
vàng, không kịp báo Thái hậu và Hoàng đệ.
Ngày hôm
sau, Đăng Dung mới biết, [tờ 10a] bèn sai quân ngăn chặn các nẻo đường cốt yếu,
rồi dựng cờ điểm binh; ra lệnh các phố phường không được náo động; sai người
trong đảng là Hoàng Duy Nhạc dẫn quân đuổi kịp Hoàng đế ở huyện Thạch Thất,
Hoàng thượng dùng quân Thạch Thất chống đánh, bắt chém Duy Nhạc.
Ngày
này, Đăng Dung vào Kinh đô, thả ngay Thượng thư Trình Chí Lâm và Nguyễn Thời
Ung do vua bắt giam, rồi mưu với đại thần Lê Phụ, Lê Điêu, lập Hoàng đệ Xuân
lên ngôi vua.
Hoàng
thượng triệu Vũ Hộ dẫn quân đến Cần Vương. Nhưng Hộ lại phản, dẫn 3.000 quân
qui phụ Đăng Dung, Đăng Dung rất hả, sai Hộ đóng quân ở Giang Bắc, rồi sai Lê
Điêu và Nguyễn Như Quế phụng nghinh Xuân tới Hồng Thị, làm nơi hành điện; sai
quân dân đắp gấp lũy Cẩm Giang để phòng thủ.
Lúc này,
Hà Phi Hổ chống nhau với Đăng Dung, [tờ 10b] dụ Phạm Tại làm hướng đạo, còn bọn
Bá Ký đều chạy về Bắc.
Tháng 8,
Đăng Dung suy tôn Hoàng đế xưng đế hiệu, nhưng vì sợ vua Chiêu Tông ở ngoài
hiệu triệu binh thiên hạ, nên không dám đóng tại Kinh thành, đón Xuân về Gia
Phúc, và vận tải hết bảo vật trong thành về, rồi phong quan tiến tước cho các
quan, văn thần là bọn Vũ Cán, Nguyễn Văn Thái, đều được phong làm Chánh doanh
đề sát thủy bộ quân vụ.
Sau đấy
không lâu vua Chiêu Tông trưng tập được khá nhiều binh, dẫn quân tự Mông Sơn về,
ngự tại hành điện Thụy Quang, trăm quan tới triều, bốn phương hưởng ứng, ngài
sai bọn nguyễn Kính cả thẩy 4 viên Tướng, chia làm 4 đạo quân tiến đánh Đăng
Dung, đóng quân tại các huyện: Gia Lâm, Văn Giang, Đường Hào, Cẩm Giang, Lương
Tài, và Gia Định, hai bên chống nhau đã một tháng, chưa phân được thua.
[tờ 11a]
Lúc này, các xứ về 3 mặt Tây, Nam và Bắc, đều đã thuộc về vua Chiêu Tông, còn
Đăng Dung, tuy mượn tiếng dựng Hoàng đệ, nhưng chỉ giữ được một góc về xứ Hải
Dương thôi.
Sau đây,
Đăng Dung chia quân hai đường thủy bộ, tiến đánh các xứ Đông Hà, Hoàng đế sai
các Tướng: Lại Thúc Mậu, Nguyễn Dư Hoan, Nguyễn Định và Đàm Khắc Nhượng, chia
đóng các doanh trấn giữ. Hai bên đang cầm cự, thì Đăng Dung dùng thủy quân đánh
úp vào ban đêm, phá được các doanh liền dẫn quân qua sông, Thúc Mậu và Dư Hoan1
thua chạy. Có 4 tên lính giặc vào khiêng mác, tự phường Phục Cổ xông vào điện
Thụy Quang, nhưng lính hộ vệ cự được, Hoàng đế hoảng hốt chạy lánh đến đình cũ
làng Nhân mục Tây hà! Trăm quan tan rã, mấy ngày mới tụ tập lại.
Tháng 9,
Hoàng đế lại đốc quân về Kinh đô, Đăng Dung vì còn vướng với các Tướng ở miền
Bắc giang [tờ 11b] cho nên không dám ngó tới Đô thành.
Mùa đông
năm này, Trịnh Tuy đem toàn bộ quân Tam phủ, tự Thanh Hoá về cứu giá. Nhưng vì
nghe lời ly gián, đem lòng nghi ngờ thành ra ngăn trở, rồi ép Hoàng đế bỏ Đông
Kinh về Thanh Hoa, giải tán hết các đạo binh. Tự đây, không còn chiếu lệnh nhà
vua nữa, thiên hạ thất vọng, các Tướng khởi nghĩa đều giải tán. Việc nước hết
nói vậy.
Sau khi
Hoàng đế bôn ba, kinh thành trống không, quân Đăng Dung ngày càng mạnh, bình
định Kinh Bắc, rồi sai tỳ tướng đánh phá Giang Văn Dụ ở Thanh Oai, đuổi tận đến
chân núi. Bèn đón vua Cung đế về ngự tại Bồ Đề, để hiệu lệnh 4 phương, quan lại
quân dân đều qui phụ theo.
1 Chữ "Hoan" này do
viết sai, cho nên khác mặt chữ nhưng chính là "Nguyễn Dư Hoan" ngay
dòng trên. Không phải là tên một người khác.
Niên
hiệu Thống Nguyên thứ 2 (1523), Đăng Dung sai em là Đông Sơn Hầu Mạc Quyết, [tờ
12a] cùng Vũ Hộ, Vũ Như Quế, phát quân đánh Trịnh Tuy ở Thanh Hoa.
Tháng 7,
Đăng Dung mạo tờ chiếu của vua Cung đế, bỏ Hoàng đế Chiêu Tông, xuống tước Đà
dương vương.
Niên
hiệu Thống Nguyên thứ 3 (1524), Đăng Dung tự thăng lên tước Bình chương quân
quốc trọng sự thái phó Nhân Quốc công. Sai em là Mạc quyết dẫn quân đánh Trịnh
Tuy ở Nguyên Đầu, chiếm hết các Quận Huyện ở Tây đô. Trịnh Tuy chết bệnh.
Niên
hiệu Thống Nguyên thứ 4 (1525), tháng 10 Đăng Dung tự làm Đô Tướng, dẫn tất cả
thủy quân và bộ binh các doanh trong thiên hạ vào Thanh Hoa, Hoàng đế bức bách,
chạy vào động An Nhân núi Cao Trĩ châu Lương Chánh, Đăng Dung đến ép vua đưa về
Kinh Sư. Tướng đóng ở Bắc Giang là bọn Hà Phi Ổ đều tan rã và bị giết cả. Đăng
Dung lại giết hết thẩy các quan văn võ nào theo vua Chiêu Tông mà không theo
mình. Tiến quận [tờ 12b] công Nguyễn Lĩnh lấy em gái Đăng Dung tên là Huệ, lại
lấy thêm 10 thiếp, Thị Huệ ghen, tố cáo là Lĩnh lập đảng phái, Đăng Dung cũng
giết luôn Nguyễn Lĩnh. Đăng Dung giữ hết quyền thưởng phạt hoặc thăng giáng,
các quan lại cùng Tướng sĩ, vua chỉ là hư vị mà thôi. Đăng Dung lại giả bộ làm
lánh quyền hành, lui về ở Cổ Trai, nhưng thực vẫn chế ngự chánh trị trong
triều.
Tháng
12, niên hiệu Thống Nguyên thứ 5 (1526), Đăng Dung sai Bái khê bá Phạm kim Bảng
mật giết vua Chiêu Tông ở Hàng sở.
Niên
hiệu Thống Nguyên thứ 6 (1527), Đăng Dung tự thăng lên tước Thái sư An quốc
vương, gia cửu tích.
Hoàng đế
sai Tùng dương hầu Vũ Hữu, Lan xuyên hầu Phan đình Tá, và Trung xứ Đỗ hiếu Đễ
cầm cờ tiết đem kim sách; áo mạo thiêu rồng đen, đai dát ngọc; kiệu tía, quạt
vẽ; và lọng tía. đến Cổ Trai tuyên mệnh vua ban cho Đăng Dung, Đăng Dung đón
tiếp tại bến đò An sáp hạt Tiên minh.
[tờ 13a]
Tháng 5, ngày mồng 5, Đăng Dung tự Cổ Trai tới Kinh bái yết Hoàng thượng, rồi
tự cửa Đông Hoa ra cửa Đại Hưng trở về Cổ Trai.
Tháng 6,
Đăng Dung về Kinh sư ép vua nhường ngôi cho y. Lúc này thần dân phần nhiều xu
hướng về Đăng Dung. Mạc Đăng Dung đón cả vào cung.
Ngày 15,
thuộc ngày canh thân, sau khi các quan yên vị trong triều, bèn tuyên tờ chiếu
của Hoàng đế rằng:
"Vua
Thái Tổ ta thừa thời cách mệnh, bèn có bốn phương, các thánh truyền ngôi, đã
nhiều lịch số. Đó là lòng người hợp với ý trời xui nên vậy.
Tự cuối
thời Hồng Thuận, gặp lúc quốc gia nhiều nạn, Trần Cao bắt đầu gây loạn; Trịnh
Tuy lập kẻ nghịch lên ngôi, lòng người lìa tan, trời cũng không giúp. Lúc ấy
thiên hạ đã không phải của nhà ta vậy.
Ta bạc
đức nối ngôi, không thể gánh nổi mệnh trời và lòng người, [tờ 13b] hướng về
người có đức. Vậy nay Thái sư An quốc vương Mạc Đăng Dung, là người tư chất
thông minh, đủ tài văn võ bên ngoài đánh dẹp, bốn phương đều phục, bên trong
trị nước, trăm họ yên vui, công đức rất lớn lao, trời người đều qui phụ.
Nay
nhường ngôi báu cho người có đức, để hợp mệnh trời, để yên nhân dân. Kính vậy
thay". Bài chiếu này là lời của nguyễn Văn Thái.
Sau khi
tuyên chiếu, Đăng Dung bèn xưng Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, dùng ngay
năm này làm niên hiệu Minh Đức thứ nhất, bỏ Hoàng đế xuống tước Cung vương, rồi
giam cùng với Thái hậu ở cung Tây nội. Sau giết chết.
Tháng
này Đăng Dung vào Kinh thành, ngự nơi chính điện, tế yết Nam giao, đặt tỉnh Hải
Dương là Dương Kinh, [tờ 14a] lập cung điện ở Cổ Trai, truy tôn Tổ 7 đời Đĩnh
Chi làm "Kiến thủy Khâm minh Văn Hoàng đế ".
(Đăng
Dung lại dựng ngôi điện gọi là Sùng Đức vào nền nhà cũ của Đĩnh Chi ở xã Lũng
Động. Phần mộ thân phụ ở Tây Lăng, cho nên nay trong làng gọi nơi ấy là xứ Ổ
Lăng. Lại đắp một gò lớn tại bờ sông phía Bắc mặt tiền điện Sùng Đức, để làm
nơi lễ bái, các quan nhà ngụy Mạc ai đi qua nơi đây, đều lễ vọng vào điện Sùng
Đức. Nay nền điện và gò này hãy còn, điện thì ở xã Lũng Động nơi gần sông, gò
thì ở bờ sông xã Đông đôi, gọi là gò Mã thảo. Nhà giảng học cũ của Đĩnh Chi:
một ở nền Huyện trị cũ xã Cao Đôi; một ở chùa Quất lâm xã Tống xá. Những di
tích này vẫn hãy còn rành rành, có thể khảo sát ); Tổ 6 đời Giao làm
"Hoằng cơ đốc thiện Tuyên hưu Hoàng đế "; Cao Tổ thúy làm "Dụ tổ
thiệu phúc hoằng đạo tích đức Hoàng đế "; Tằng Tổ Cao làm "Ý tổ hồng
khánh uyên triết anh duệ Hoàng đế "; Tổ Bình làm "Hoằng tổ thuần hiến
tuy hưu đốc cung Hoàng đế "; các bà Tổ trên đều là Hoàng hậu; thân phụ
Hịch làm "Chiêu tổ quang liệt cơ mệnh Hoàng đế " [tờ 14b] thân mẫu
Đặng Thị làm Hoàng Thái Hậu.
Dựng
thêm một ngôi điện để ở, gọi là điện Phúc Ý, tại phía Tây điện Hưng Quốc Dương
Kinh. Lập con trai Đăng Doanh làm Thái tử, phong em tri Quyết làm Tín vương,
truy phong em trai
Đốc làm
Từ Vương, 3 am gái đều phong Công chúa: em gái trưởng Ngọc phong làm
"Trang hoà Trưởng
Công
chúa " em gái thứ Ngọc Huệ phong làm "Khánh diệm Công chúa ", em
gái út Ngọc Anh phong làm "Tú hoa Công chúa ". Phong Vũ Hộ làm Tĩnh
Quốc Công, cho đỗi sang họ Mạc; phong Trung quan Nguyễn Thế Ân người làng Ngọc
Lâm huyện Tứ Kỳ làm Lý Quốc Công.
Dùng
ngày sinh nhật của Đăng Dung làm ngày "càn ninh thánh tiết".
Lúc này,
thần dân thất vọng, thiên hạ nôn nao, Đăng Dung sợ lòng người còn nhớ vua cũ,
có thể sẽ sinh biến, bèn phải tuân theo [tờ 15a] pháp độ triều Lê, phủ dụ quần
thần trấn áp nhân dân. Để che mắt thế gian, trưng cầu con cháu các vị công thần
thế gia, giả danh là trưng dụng, nhưng kỳ thực cốt để kiềm chế như là quản thúc
vậy. Bởi thế nhiều người trốn vào rừng núi, hoặc ẩn giấu tên tuổi không chịu
ra, hoặc tụ họp nhau làm đảng cướp, hoặc bỏ đi ra ngoại quốc để cầu yên. Đăng
Dung lại muốn thu nhân tâm, bèn phong tất cả các vị tiết nghĩa cựu thần như bọn
Vũ Duệ; Đàm Thận Huy; sai quân tu sửa lâu điện ở Lam Kinh, mỗi năm hai lần tế
lễ vào mùa xuân và mùa thu; lại bốn kỳ tế lễ nơi lăng Mỹ Xá. Đó là giả nhân
nghĩa để thuận lòng dân vậy.
Năm Mậu
Tý (1525), mùa xuân, tháng giêng. Đăng Dung muốn thay cũ lập chánh mới, bèn sai
đúc loại tiền Thông bảo [tờ15b] hình tròn ngày trước, nhưng phần nhiều không
thành, cho nên lại phải đúc loại tiền "gián" mới bằng kẽm, để ban bố
cho các xứ tiêu dùng.
Tháng 2,
Đăng Dung phong cho bầy tôi Nguyễn Quốc Hiến làm Phò mã đô úy Thái bảo Lâm quốc
công, và cho đổi là họ Mạc; Mạc Quốc Trinh làm Thái sư Lân quốc công; Mạc Đình
Khoa làm Tả đô đốc Khiêm quốc công; Mạc Bang Hộ làm Thái bảo Tĩnh Quốc công;
Nguyễn Thời Ung làm Thiếu bảo Thông quốc công; Khuất Quỳnh Cửu tước Thuần khê
hầu; Nguyễn Bỉnh Đức tước Khánh khê hầu; Phạm Gia Mô tước Hoằng lễ hầu; Phan
Đình Tá tước Lan xuyên bá; Nguyễn Văn Thái tước Đạo xuyên hầu; Nguyễn Mậu tước
Văn đại bá; Hà Cảnh Đạo tước Sùng lễ bá; Mạc Ích Trưng tước Tố xuyên bá; [tờ
16a] Nguyễn Tuệ tước Hưng giáo bá; Nguyễn Địch tước Lộc hiến hầu; Phạm Chánh
nghị tước Văn tràng bá; Nguyễn Chuyên Mỹ
tước Văn đẩu hầu; Nguyễn Độ tước Hà ngưng bá; Lê Quang Bí tước Tô xuyên
hầu; Nguyễn Điển Kính tước Văn minh hầu; và bọn Nguyễn Hậu Liêm chức Trung quan
trưởng giám. Tất cả có 56 người được thăng trật và phong tước tùy từng hạng.
Đăng
Dung do sự cướp ngôi mà được nước, cho nên sợ nhà Minh hỏi tội, bèn sai Sứ thần
sang Yên Kinh dâng biểu nói: Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự. cho nên chúc
thác đại thần họ Mạc tạm quản việc nước, để yên nhân dân. người Minh biết đó là
giả dối, không tin, ,bèn mật sai người sang thăm dò tin tức, gạn hỏi căn do.
Đăng Dung cùng bọn bầy tôi thường bày đặt lời lẽ để đối đáp, lại dùng vàng bạc
đút lót những viên Tướng nhà Minh giữ biên thùy, để nhờ che chở.
[tờ 16b]
Tháng 2, Bích khê hầu Lê Công Uyên người huyện Lôi Dương, là cháu viên công
thần cũ Lê Văn Linh, cùng với Nguyễn Ngã, Nguyễn Thọ Trường, cùng khởi nghĩa
binh đánh vào cửa Chu Tước, bị thua, chạy vào Thanh Hoa, rồi chiêu tập dân
chúng, dựng cờ chiêu an, nhưng binh không có niên hiệu. Đăng Dung sai quân đến
đánh. Dực nghĩa hầu Lê Thiệu người châu Thúy thuần, sai thủ hạ ngầm giết Công
Uyên, các Tướng Văn Thông Bá và Thái Sơn Bá đều tan vỡ. Xứ Thanh Hoa và xứ Nghệ
An bị nạn binh hỏa liền liền mấy năm,
nhân dân lưu tán, ruộng vườn bỏ hoang.
Mùa
đông, tháng 10 sau khi đã được bình định, Đăng Dung cho là pháp luật lỏng lẻo,
bèn sai bọn Quốc Hiến họp bàn đổi định phép binh, phép điền, phép lộc; [tờ 17a]
đặt 4 vệ: Quốc Hưng, Chiêu Vũ, Cẩm Y, Kim Ngô; các vệ nội ngoại trong 5 phủ;
tên các Ty; tên quan chức công chức trong các nha môn, theo như quan chế triều
trước, y lệ biên phép đủ. Lấy trấn binh xứ Hải Dương thuộc vào vệ Cẩm Y, trấn
binh xứ Kinh Bắc thuộc vào vệ Kim Ngô. Mỗi Ty đặt 1 viên Chỉ huy sứ, 1 viên Chỉ
huy đồng tri, một viên Chỉ huy thiêm sự, 10 viên Trung hiệu, 1100 binh sĩ Trung
sĩ. Số lính này chia làm 22 phiên, thay phiên túc trực. Như Trung sĩ nào có
công lao thì được thăng bổ các chức: Thiên hộ, Thống chế, Quản lĩnh và Trung
úy. Mỗi vệ đặt 1 viên Thư ký, dùng hạng kí lục xuất thân, sẽ được bổ các chức
thủ lãnh. [tờ 17b] Lính Trung sĩ chiếu theo lệ chia thành phiên, mỗi phiên chia
làm 5 giáp, mỗi giáp đặt một viên giáp trưởng, quan đầu Ty chọn trong hàng
Trung hiệu, lấy người xứng đáng bổ vào chức này.
Năm Kỷ
Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529), hai anh em Trịnh Ngung và Trịnh Ngang, là
cựu thần nhà Lê, chạy sang triều Minh báo cáo Đăng Dung cướp nước, và xin binh
để dẹp. Vì Đăng Dung hối lộ bầy tôi nhà Minh ở nơi biên thùy để cầu ngăn trở,
nên việc không thành công, 2 ông đều chết già ở đất Trung Hoa.
Hữu vệ
Điện tiền Tướng quân An thanh hầu Nguyễn Cam ở Thanh Hoa, là em Nguyễn Hoằng
Dụ, một vị vốn có danh vọng, đem con em chạy sang nưới Ai Lao, có chí mưu đồ
khôi phục.
Tháng 3,
Đăng Dung mở khoa thi Cử nhân, [tờ 18a] lấy bọn Đỗ Tông, cộng 27 tên trúng
tuyển. Tháng 12, Đăng Dung thấy nhân tâm trong nước chưa yên, bèn truyền ngôi
cho con là Đăng
Doanh,
rồi tự xưng là Thái thượng hoàng, ra điện Tường Quan ở.
Năm Canh
Dần (1530), tháng giêng, ngày Đinh Hợi, mồng 1, Đăng Doanh tiếm hiệu Hoàng đế,
ban lệnh đại xá thiên hạ, đổi năm ấy là niên hiệu Đại Chánh thứ nhất, ngụy tôn
Đăng Dung làm Thái thượng hoàng, dựng điện nguy nga để Đăng Dung ở, mỗi tháng
vào ngày mồng 8 và ngày 22, Đăng Doanh dẫn quần thần đến điện triều yến.
Đăng
Dung về Cổ Trai ở, là để trấn vững nơi căn bản, và làm ngoại viện cho Đăng
Doanh, nhưng vẫn định đoạt các việc trọng đại quốc gia.
Soạn 59
điều cáo ban hành.
Chưa bao
lâu, Lê Ý là con Công chuá An Thái, khởi binh ở châu Gia, lại xưng niên hiệu
Quang Thiệu, nhân dân đều hưởng ứng.
[tờ 18b]
Tháng 4, Đăng Dung đích thân đốc mấy vãn thủy lục quân đánh Lê Ý ở Mã Giang,
mấy trận đều bị thua, bèn lui quân về Đông Kinh.
Đăng
Doanh lại dẫn binh vào Thanh Hoa, đánh Lê Ý ở Động hàng, bị thua to, bèn kéo
quân về, lưu Mạc Quốc Trinh ở lại chống cự với Lê Ý. Quốc Trinh biết Lê Ý cậy
thắng trận luôn, không có phòng bị, bèn tuyển quân đánh úp, phá tan doanh trại,
bắt được Lê Ý, đem về Đông Kinh giết chết.
Mùa xuân
năm Tân Mão (1531), An Thanh Hầu Nguyễn Cam dẫn quân tự nước Ai Lao về Thanh
Hoa, Đăng Dung sai binh đánh , bị thua to.
Mùa
xuân, năm Quý Tỵ (1533), các vị cựu thần nhà Lê: Lý Quốc Công; Trịnh Duy Noãn,
Phúc Hưng Hầu; Trịnh Duy Duyệt, và Tả đô đốc Trịnh Duy Liệu, dựng vua Trang
Tông lên ngôi vua tại nước Ai Lao, [tờ 19a] đặt niên hiệu là Nguyên Hòa. Quốc
thống phân minh, danh nghĩa chính đáng. Sau khi phong các Tướng, vua sai Duy
Liệu vượt biển sang nhà Minh, tâu cáo tội trạng của Đăng Dung, và xin nhà Minh
đánh dẹp. Duy Liệu là người có tiết tháo, giỏi văn chương, soạn tờ tâu kể hết
tội tiếm nghịch của Đăng Dung. Ông lại tự ví như Thân Tư, Dự Nhượng vàTrương
Lương1, lời lẽ rất lâm ly bi đát! Vua nhà Minh nhận tờ tấu, giao xuống đình
nghị, định cất quân sang hỏi tội Đăng Dung.
Đăng
Dung được tin trên, liền sai người trong đảng là Phạm Chánh Nghị mang tờ thư
đến tỉnh Vân Nam
trình quan đầu tỉnh. Trong thư đại ý nói:
Trước
kia, Quốc vương tôi Lê Điêu bị tên
nghịch thần Trần Cao giết, không có con trai, Đăng Dung cùng người trong nước
dựng em Điêu là Huệ lên ngôi vua, Huệ lại bị gian thần Đỗ Ôn và Thịnh Tuy dụ dỗ
đưa vào Thanh Hoa, [tờ 19b] Đăng Dung bèn dựng em Huệ là Khoáng lên ngôi, rồi
vào Thanh Hoa đón Huệ về. Sau Huệ và Khoáng đều chết bệnh, họ Lê không có con nối.
Khi Khoáng sắp chết, có bàn với quần thần rằng: "Đăng Dung và con trai,
đều có công với nước, vậy giao ấn tín cho y để giữ nước". Bởi thế cả nước
suy tôn Đăng Dung lên ngôi vua. Sở dĩ không dâng biểu xưng thần và nộp cống
hiến, là vì: Buổi trước thì bị Trần Thăng chiếm cứ tỉnh Lạng Sơn, nghẻn đường
không qua được; Về sau lại bị các quan giữ cửa ải của thượng quốc, đóng cửa
quan không cho qua. Còn như Lê Ninh, là con của tên loạn thần Nguyễn Cam, chứ
không phải là con trai của Huệ.
Viên Thủ
Tướng nhà Minh chuyển đạt lời trên lên vua, triều đình đều cho lời đó là hoang
vu, không đúng sự thực. Còn đạo quân của Tướng Cừu Loan, tuy đã kéo đến lãnh
thổ nước ta, nhưng vẫn do dự chưa tiến.
[tờ 20a]
Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 7 (1539), tháng 5 ngày Canh Ngọ, thân mẫu
Đăng Dung Đặng Thị chết, thọ 82 tuổi. Sùng An Vương Trí Nhân giữ việc hộ lễ,
Đăng Dung để tang 3 năm, Đăng Doanh và quần thần để tang 1 năm, người trong
Kinh thành và trong ấp Thang mộc đều để tang 100 ngày, toàn dân thiên hạ để
tang 27 ngày. Đó là theo phép đời xưa vậy. Ngụy tôn tên thụy bà là "Chiêu
từ sùng hựu hiến Hoàng thái hậu ", ngày Bính Ngọ tháng 9 làm lễ an táng,
phần mộ gọi là Thụy Lăng.
Năm Canh
Tý, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 8 (1540), nhằm niên hiệu Đại Chánh thứ 11 ngụy
Mạc, ngày Mậu Ngọ tháng giêng. Đăng Doanh chết, Đăng Dung lại trở về Đông Kinh,
dựng cháu nội là Phúc Hải lên nối ngôi vua.
Sợ nhà
Minh đem quân đánh. Đăng Dung mật sai người hối lộ viên tướng giữ châu Liêm là
Trương Nhạc, yêu cầu xin cắt đất nộp nhà Minh và tự bỏ Đế hiệu.
Viên
Tham chánh nhà Minh Ông Vạn Đạt [tờ 20b] sai Lương Ngọc Phụ đem tờ đem tờ sức
Đăng Dung phải đích thân đến cửa quân, nộp đất dựng mốc; bỏ Đế hiệu đã tiếm
xưng, và vâng lĩnh lịnh theo ngày tháng của Trung Quốc.
Tháng
11, Đăng Dung vận áo trắng, tự quấn dây sợi vào cổ, dẫn cháu họ là Văn Minh
cùng bầy tôi là: Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khánh, Đặng Văn Trị, Lê Thuyên, Nguyễn
Tông, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, và Bùi Trí Vĩnh (các người
này cũng đều quấn tua sợi vào cổ), đến chực ở cửa Nam Quan. Vạn Đạt đã dựng
sẵn một mạc phủ ở gần đấy, truyền lệnh mở cửa quan, Đăng Dung do cửa quan bên
Tả bước ra, quì gối hướng mặt về phía Bắc, dâng tờ hàng biểu, và bạ ghi chép
thổ địa
1 Thân bao tư bày tôi nước Sở
thời Chiến quốc. Khi nước Sở bị Tử Tư dẫn quân nước Ngô đánh phá thành đô, vua
Sở phải chạy vạn phần nguy ngập, có thể mất nước đến nơi. Bao Tư bèn sang Tần
cầu cứu, vua Ai Công nước Tần do dự không muốn xuất quân, Bao Tư bèn quì tại
sân triều, gào khóc thảm thiết, ròng rã 7 ngày không hề ăn uống. Vua Tần cảm
động sai Tướng dẫn quân cứu nước Sở, nước Ngô phải lui quân.
Dự Nhượng, gia thần Trí Dao,
tước Bá nước Tấn thời chiến quốc. Sau khi Trí Dao bị Triệu Vô Tuất giết chết
luôn cả 3 hô Dự Nhượng bèn thay đổi họ tên, thủ một con mủi nhọn, trà trộn vào
đám quân hầu trong dinh họ Triệu, ẩn trong phòng vệ sinh, định giết Vô Tuất. Vô
Tuất bắt được vặn hỏi, Dự Nhượng nói thật là định trả thù cho Trí Dao. Vô Tuất
cho là nghĩa sĩ, tha cho về. Nhưng Dự Nhượng vẫn chưa thoái chí, lại cạo đầu,
bôi sơn vào mình, làm hình dạng người cùi; nhai nuốt than cho khỏi nhận ra
tiếng quen thuộc, rồi đến phục trong cầu Xích Kiều. Khi Vô Tuất đến khánh thành
cầu, lại bắt được hình dạng tuy biến đổi, Vô Tuất vẫn nhận ra được, sai lính
chém đầu.
Trương Lương, Tổ phụ 5 đời
làm Tướng nước Hàn. Sau khi nước Hàn bị nước Tần diệt, Trương Lương bán hết gia
tài để mộ lực sĩ, đón giết vua Tần Thủy Hoàng trong khi đi qua đất Bát Lãng.
Nhưng lực sĩ chỉ đập tan cái xe giả dạng, vua Tần thoát nạn. Trương Lương lại
theo Hán Cao Tổ, bày mưu đánh phá nước Tần, báo thù cho vua nước Hàn.
quân dân
trong nước, tình nguyện nộp các động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm và Liễu Cát trong
châu Yên Quảng và châu Vĩnh yên, [tờ 21a] để lệ thuộc vào Khâm châu; xin ban
cho niên lịch và ấn tín.
Sau khi
Tướng nhà Minh nhận hàng, bèn sai Văn Minh, Nguyễn Giản Thanh, và Hứa Tam Tỉnh đem
tờ hàng biểu tới Yên Kinh dâng vua Minh.
Năm Tân
Sửu (1541) tháng 8 ngày Nhâm Tuất, Đăng Dung bị bệnh, Phúc Hải sai Thái Bảo Bàn
quốc công Đặng Văn Trị, Thái Bảo Dương quốc công Đặng Đôn, và Thiếu Bảo Liêm
quốc công Mạc ninh Bang tới Cổ Trai hầu bệnh, rồi Phúc Hải cũng đích thân vào
thăm.
Khi Đăng
Dung bệnh nặng, truyền mệnh Phúc Hải phải kíp về Kinh sư, để trấn an nhân tâm,
và coi xã tắc là trọng. Phúc Hải bèn trở về Kinh sư. Ngày 27 thuộc ngày Ất Hợi,
Đăng Dung chết, tiếm ngôi vua 3 năm, truyền ngôi rồi ra ở ngoài 12 năm, thọ 59
tuổi. Có di chúc: Dựng đàn chay cúng phật.
Ngày Mậu
Dần, Kinh Sư nhận được báo tang [tờ 21b] Phúc Hải dẫn quần thần đến điện Quảng
Đức, sai Sùng An Vương Mạc nhân trí làm Tổng đốc sứ, Tả đô đốc Kỳ quận công Mạc
ninh Ngội làm phó, Lương quận công Phạm kim Bảng làm Sơn lăng sứ, Tổng thái
giám Vũ cảnh hành làm Phó.
Tháng 9,
ngày Mậu Thân, Phúc Hải sai Thái úy Trung quốc công Mạc Nhứ Quế, Thái bảo Dương
quốc công Đặng Đôn Tín vào phụ chánh. Đông các Đại học sĩ Thiếu bảo Liêm quận
công Mạc ninh bang dâng tờ sách đặt ngụy thụy Đăng Dung là "Nhân minh Cao
Hoàng đế ", miếu hiệu Thái tổ. Tháng 10 ngày Canh Thân an táng tại Long
Sơn, mộ hiệu là An Lăng.
Mạc Ninh
Ngội và Mạc Như Quế đều là Tướng của vua Chiêu Tông, vì thờ Đăng Dung nên đều
đổi ra họ Mạc. Còn Mạc Ninh Bang tức là nguyễn Bỉnh Đức, đỗ khoa Giáp Tuất thời
Hồng Thuận. Khi thiếu thời, Bỉnh Đức chơi với Đăng Dung rất thân, đến khi làm
chính trị, ngầm giúp nhiều mưu kế về việc thoán nghịch cho Đăng Dung, nên Đăng
Dung rất sủng ái tín dụng. Sau bị quyền thần giết.
Bọn Miễn
Thiệu soạn văn bia, nhiều câu xưng tụng quá đáng.
Sau Bình
An Vương giúp vua Thế Tông Nghị Hoàng đế khôi phục Kinh sư, giết hết bọn ngụy đảng;
đem quân phá hết cung điện ở Cổ Trai; hủy bia đá mộ; chặt hết cây trồng trong
lăng. Đó là tỏ sự truy khiển vậy.
Đăng
Dung có 10 con trai, con trưởng tức là Đăng Doanh, con thứ 2 là Trung Chánh,
ngụy phong Hoằng vương, thứ 3 Phục Sơn [tờ 22b], ngụy phong Định vương, thứ 4
Nhân Phủ phong Khang vương, thứ 5 Quang Khải phong Quảng Vương, thứ 6 Nhân
Quảng, thứ 7 Đại Khánh, mấy người này đều còn nhỏ tuổi, chưa được phong tước.
Con gái Ngọc Thọ tiếm phong Thụy ninh Công chúa, Ngọc Châu tiếm phong Thái an
Công chúa, còn Ngọc Quang và Ngọc Tư đều còn nhỏ tuổi chưa được phong tước. Còn
con trai là Gia Vương, Đại Dung, cùng con gái là Hồng Ngọc, Đoan Túc, và Ngọc
Lan thẩy đều chết non.
Đại Việt Thông Sử
LIỆT TRUYỆN
Thần Đôn soạn
NGHỊCH THẦN TRUYỆN
[tờ 23a]
Đăng Doanh là con trưởng Đăng Dung, buổi đầu thời Quang Thiệu, được phong tước
Dục mỹ hầu, giữ điện Kim Quang, khi Đăng Dung cướp ngôi vua, được dựng làm Thái
tử. Sau khi Đăng Dung tiếm ngôi được 3 năm, vì sợ nhân tâm chưa ổn định, bèn
truyền ngôi cho. năm Canh Dần (1580) mồng một tháng giêng thuộc ngày Đinh Hợi,
Đăng Doanh tiếm ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Chánh, tôn bà nội Đặng Thị làm
Thái hoàng Thái; Đăng Dung làm Thái Thượng hoàng.
Lúc này,
Lê Ý [tờ 23b] con trai An Thái Công chúa, khởi binh ở Na Châu, lại xưng niên
hiệu Quang Thiệu, hiệu triệu Tướng sĩ trong các xứ Thanh Hoa Nghệ An, hợp binh
đánh giặc (Đăng Doanh). Đăng Dung đích thân cầm quân đánh Lê Ý ở Mã Giang, mấy
trận đều thua, phải kéo quân trở về.
Ngày 23,
tháng 8 Đăng Doanh vào Thanh Hoa, hội binh ở sông Hoằng Hóa, rồi chia làm hai
đạo, sai Mạc Quốc Trinh lãnh đạo chiến thuyền tiến trước, bị Lê Ý đánh phá,
Đăng Doanh lại đốc thúc Tôn Thất Kỳ tiến binh tới Động Hàng, Lê Ý đón đánh phá
tan, bắt được rất nhiều. Đăng Doanh bèn lui binh cố thủ.
Mùa
đông, tháng 11, Đăng Doanh để Quốc Trinh ở lại cầm cự với Lê Ý, rồi trở về Kinh
Sư. Lê Ý cậy thắng trận luôn, không đặt phòng bị, lui về Na Châu [tờ 24a] bị
Quốc Trinh bắt được, giải về Kinh Sư giết chết.
Tháng
12, cựu thần của Hoàng triều An Thanh Hầu Nguyễn Cam, nhân lánh loạn sang ở
châu Sầm Thượng, Sầm Hạ bên nước Ai Lao, chiêu tập các người trung nghĩa, có số
binh Tướng hơn nghìn người, 30 con voi và 300 con ngựa. Đến đây theo thỉnh cầu
của các Tướng, bèn dẫn quân về Kinh Lược xứ Thanh Hoa, đóng ở Lôi Dương, gặp
phục binh của Ngọc Trục Hầu tướng Đăng Doanh đón đánh phá tan.
Thời ấy,
cha con Đăng Doanh do thoán nghịch cướp nước, cho nên hào kiệt phần nhiều không
phục, rất nhiều thổ tù các nơi khởi binh, Nguyễn Cam đóng ở nước Ai Lao; Trịnh
Ngung, Trịnh Nghêu chiếm cứ xứ Thái Nguyên; Vũ Văn Uyên chiếm cứ xứ Tuyên
Quang, các Tướng này đều nêu danh nghĩa phục quốc [tờ 24b] Suốc các xứ Thanh
Hoa, Nghệ An và Tuyên Hưng, đều không theo hiệu lệnh của họ Mạc.
Mùa xuân
năm Tân Mão (1531), Đăng Doanh sai Tướng Đặng Quốc Công Nguyễn Kính vào đánh
Nguyễn Cam ở xứ Thanh Hoa, Nguyễn Cam đón đánh phá tan quân Nguyễn Kính, rồi
chia Tướng sĩ đóng các Huyện. Nguyễn Kính lại đánh vào Đông Sơn, Nguyễn Cam lại
đánh phá được, vừa chém giết vừa bắt sống được mấy trăm tên, rồi dẫn quân ra
Gia Viễn, chiêu dụ và chiếm đất.
Mùa thu,
tháng 7 năm này, trời đổ mưa nhiều, nước sông đầy dẫy; họ Mạc dùng chiến thuyền
tiến đánh, quân dân tán loạn, thế không thể cố thủ, Nguyễn Cam lại phải trở về
Ai Lao, để dưỡng sức đợi thời, Đăng Doanh cũng không dám tiến sâu vào nữa. Lúc
này xứ Thanh Hoa bị nạn đói kém, một đấu gạo phải mua với giá một tiền (60 đồng
tiền kẽm).
Có người
ở Sơn Đông là Hùng Sơn hậu, lại đem mấy trăm con em vào xứ Thanh Hoa, [tờ 25a]
dựng doanh trại chiếm đóng, được mấy tháng thì Đăng Doanh sai Tướng vào đánh,
nhà ở núi Ngọc Huân. Hùng Sơn Hậu chết bệnh, quân đều tan rã.
Mùa xuân
năm Nhâm Thìn (1532), Đăng Doanh mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Nguyễn Thiến, gồm
27 người trúng tuyển.
Đăng
Doanh thấy trong nước còn nhiều trộm cướp, bèn ra lệnh cấm nhân dân các xứ,
không được mang gươm giáo đao nhọn, và các đồ binh khí hoành hành ngoài đường.
Nếu kẻ nào trái lệnh, cho pháp ty bắt trị. Tự đấy, những người đi buôn bán chỉ
đi tay không, không phải đem khí giới tự
vệ, trong khoảng mấy năm, trộm cướp biệt tăm, súc vật chăn nuôi, tối đến không
phải dồn vào chuồng, cứ mỗi ngày một lần kiểm điểm thôi. Lại trúng mùa luôn
luôn, nhân dân bốn trấn đều được yên ổn.
Mùa
đông, tháng 10, Đăng Doanh dùng Trung quan Trung hậu hầu làm Đại tướng quân, lãnh
binh thống quản tất cả binh [tờ 25b] dân 3 Phủ và quan 3 Ty trong xứ Thanh Hoa,
toàn quyền tổng trấn một phương. Tây An Bá Lê Phỉ Thừa gièm rằng:
"Châu
Ái (Thanh Hoa) là một nơi núi sông hiểm trở, ruộng đất phì nhiêu, binh lương
đầy đủ. Quyền hành không nên để một người nắm giữ. Nếu người bầy tôi được
chuyên quyền, tất sẽ tới sự họa loạn. Nay đem nơi trọng địa đó trao phó cho một
người tổng quản, nếu xảy ra biến cố, sợ khó bề chế ngự, mà nơi đó sẽ không còn
là của triều đình nữa. Xin xét kỹ lại, đừng để hối hận về sau ".
Đăng
Doanh bèn chia xứ Thanh Hoa làm đôi, giao 7 Huyện: Thụy Nguyên, An Định, Vĩnh
Phúc, Đông Sơn, Thạch Thành, Cẩm Thủy và Quang Bình cho Thừa Phỉ quản thống,
cùng với Trung hậu hầu cùng khống chế lẫn nhau. Sai khi Thừa Phỉ được binh quyền,
lại càng kêu căng phóng túng.
Tháng
này có tuệ tinh hiện ở Phương Đông.
[tờ 26a]
Đăng Doanh dùng An Bang Thừa chánh sứ Trần Phỉ làm Lại bộ Tả thị lang.
Tháng
12, An Thanh hầu Nguyễn Cam, và cựu thần triều Lê là Lý quốc công Trịnh Duy
Thoan, Phúc hưng hầu Trịnh duy liệu, dựng con trưởng vua Chiêu Tông lên ngôi
vua ở nưới Ai Lao.
Mùa
xuân, năm Quý Tỵ (1533), vua Trang Tông lên ngôi Hoàng đế ở Sách Thúy thuần,
đặt niên hiệu Kiến Hòa năm thứ nhất, phong tước cho các Tướng, luyện binh để
mưu đồ khôi phục. Sai Trịnh Duy Liệu sang xin quân nhà Minh.
Năm này
hiệu úy Nguyễn Nhân Tỵ khởi binh ở Thuận Hóa, Đăng Doanh sai Tướng đánh, nhưng
không được.
Năm Giáp
Ngọ, niên hiệu Nguyên hòa thứ 2 (1534), nhà Minh sai Hàm Ninh Hầu Bí Loan, và
Binh Bộ Thượng thư Mao Bá Ôn, dẫn quân đến cảnh thổ nước ta, tuyên bố là đến
đánh họ Mạc. [tờ 26b] Đăng Doanh xiết đổi sợ hãi! Liền tu sửa trại sách, luyện
tập thủy quân; trưng cầu hết thẩy các cựu thần lão tướng để cùng bàn việc nước;
phục chức cho Thái Bảo Vũ Hộ làm Tây quân Tả đô đốc chưởng phủ sự, để tới triều
đình bàn luận chánh sự. Tháng 9 năm này, Vũ Hộ bị bệnh chết.
Mùa xuân
năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 3 (1535), Đăng Doanh mở khoa thi Cử nhân,
lấy bọn Nguyễn Bỉnh Khiêm cộng 32 người trúng tuyển.
Mùa xuân
năm Bính Thân, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 5 (1536) Đăng Doanh sai Đông quân Tả đô
đốc Khiêm quận công Mạc Đình Khoa tu sửa lại trường Quốc tử giám.
Tháng
giêng, mùa xuân năm Đinh Dậu niên hiệu Nguyên Hòa thứ 5 (1537) Đăng Doanh đến
trường Thái học làm lễ Thích điện (tế tiên thánh tiên sư).
Mùa hạ,
tháng 4 có trận gió bão, làm đổ gẫy cây, tốc mái nhà, nước bể dâng lên giàn
giụa, rất nhiều người và súc vật chết đuối.
Trấn thủ
Thanh Hoa Tây An Hầu [tờ 27a] Lê Phỉ thừa đánh phá Tam Ty, rồi sang Ai Lao qui
thuận Hoàng đế, được thăng tước Quận công.
Mùa
xuân, năm Mậu Tuất, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 6 (1538) Đăng Doanh mở khoa thi Cử
nhân, lấy bọn Giáp Hải cộng 36 người trúng tuyển. Bỗ Trần Phỉ chức Thượng thư,
làm Thừa tuyên sứ đạo Hưng Hóa. Tuyển trai tráng sung vào ngạch quân.
Lúc bây
giờ, triều Minh tuy có hạ chiếu sai Tướng sang hỏi tội họ Mạc, nhưng vẫn còn di
duyên chưa phát binh, chỉ hư trương thanh thế để hống hách thôi. Cha con Đăng
Doanh xiết đổi kinh hoàng! Sai Nguyễn Văn Thái đem tờ biểu đến tỉnh Quảng Tây
xin hàng, tình nguyện tuân theo lệnh triều Minh phân xử, lời lẽ rất thảm thiết!
Lại hối lộ rất hậu các quan 3 Ty tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và các Tướng Tá
châu Khâm, châu Liêm. Các quan này nhận hối lộ [tờ 27b] hứa sẽ chuyển tâu về
triều đình xin tha cho. Bởi thế thời kỳ tiến quân được tạm hoãn.
Mùa
xuân, năm Kỷ Hợi, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 7 (1539), vua Trang Tông phong Đại
Tướng quân Dực nghĩa hầu Trịnh Kiểm tước Dực quận công. Dực nghĩa hầu người
làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc, theo Thái sư Nguyễn Cam
đi đánh dẹp, lập được nhiều chiến công. Nguyễn Cam thấy ông có tài, bèn gả con
gái cho. Đến đây Hoàng đế phong cho tước Công, coi là một Đại Tướng tâm phúc.
Công nghiệp trung hưng bắt đầu tại đây.
Hoàng đế
lại phong tước cho các Tướng: Phong Tuyên quận công cho Trịnh Công Năng, Hòa
quận công cho Lại Thế Vinh, Thụy sơn hầu cho Hà Nhân Chánh. Ngoài ra như; Hiệp
quận công, Tường quận công, Từ quận công, Trấn quận công, Tây quận công, Dương
quận công, và Bảo quận công, đều được ban cho mỗi vị một quả ấn Tướng quân [tờ
28a], để dẫn binh bản bộ chia đường tiến quân, thanh thế rất lừng lẫy! Đánh vào
vùng Lôi Dương, nơi nào quân Đăng Doanh cũng bị thua.
Vua Thế
Tông nhà Minh tiếp tờ biểu xin hàng của Đăng Doanh, bèn ban sắc cho Mao Bá Ôn
rằng:
"Trước
đây, cháu vua nước An Nam có tây rằng: "Vì tặc thần Mạc Đăng Dung làm
loạn, cướp chiếm thành đô, đường xá nghẽn lối, cho nên thiếu sự cống hiến
". Trẫm đã sai quan tra xét, biết đúng sự thực, đang định sai đem quân hỏi
tội, thì lại tiếp tờ tấu của các quan Trấn thủ tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và
Vân Nam tâu rằng: "Cha con Mạc Đăng Dung nghe tin thiên triều định hỏi
tội, rất là sợ hãi, và đã hối tỉnh, dâng biểu xin hàng, tình nguyện dâng tất cả
thổ địa nhân dân nước ấy, để thuộc quyền thiên triều thẩm định ". Lời cầu
xin cũng đáng thương, bèn giao xuống đình thần hội nghị, nhưng thẩy đều cho là:
Di tình khó lường, [tờ 28b] lời kêu vang tuy khẩn thiết, nhưng ý rất có thể quỉ
quyệt. Bởi thế cần phải chính pháp tỏ nghĩa. Nay mệnh người hãy cùng Tổng đốc
quân vụ Hàm minh hầu Cừu Loan, đến tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam, hội
đồng với các Đề đốc và các quan Tướng Phó tham tam ty, điều động thổ binh thổ
quan trong 3 tỉnh ấy đi hỏi tội Đăng Dung. Các cơ nghi chiến lược, cho người
được tiện nghi định đoạt. Như cha con tên tặc thần quả đã hối tội, tự đem mình
lại xin hàng, thì ngươi xét đích thực tình trạng, rồi tâu gấp ngay về triều
đình. Nếu nó vẫn ngoan cố không đổi lỗi, thì phải giết chết không tha [tờ 29a]
Trong việc chiến trận, các ngươi nên tùy nghi châm chước, cần dùng kế vạn toàn,
cốt là dẹp sự tiếm loạn, bắt được tội nhân, để tỏ nghĩa chinh phạt của thiên
triều, để yên nhân dân nươc phiên thuộc.
Nay ủy
trọng nhiệm này cho nhà ngươi ".
Bá Ôn
bèn đi Quảng Tây, phái viên Tri phủ Thái bình Giang Nhất Quế, và chỉ huy Vương
Lương Phụ đến đặt dinh tại Băng Tường, thẩm nghiệm xem cha con Đăng Doanh có
quả thực dốc lòng qui hàng, thì nhận cho hàng. Như tình còn tráo trở không
lường1, thì được tùy nghi định đoạt. Nhất Quế bèn truyền tờ lệnh cho Đăng Dung,
phải khai đích thực nguyên do về sự xin hàng, và sẽ phát nguyện để quyền thiên
triều xử trí thế nào ? phải khaii rõ ràng hết thẩy. Đăng Dung lại trình tờ phúc
đáp đầy đủ. Giang Nhất Quế lại truyền tờ hịch cho các kỳ lão nhân sĩ nước ta
rằng:
[tờ 29b]
"Hoàng thượng ta, trung hưng giữ vận, thống nhất hoa di, các phương xa
vời, không đâu là không thần phục. Duy nước các ngươi, đã lâu không tới triều
đình, bèn sai Quân môn vâng mệnh khám hỏi. Được biết nước ngươi có cha con Mạc
Đăng Dung, Đăng Doanh, thừa cơ rông dữ, cướp đoạt
1 Câu này chính bản chép:
"cự trắc " (lớn lên). Khó hiểu. Hoặc do chữ "phả trắc "
(không thể lường) chép lộn ra chăng ? Xin dịch theo nghĩa chữ "phả trắc
".
ngôi
vua, gây nên mầm loạn, liên tiếp binh đao, khiến cho nước các ngươi nhân dân
lầm than, làng xóm ly tán. Tội trạng đã rõ pháp luật khôn tha. Thiên tử là chũ
cả hao di, tất trọng điều nhân khôi phục cho nước bị tiệt diệt; thánh nhân rất
mực đạo cương thường, ắt tỏ cái nghĩa đánh dẹp để trừ kẻ phản nghịch. Nay con
cháu nhà Lê chưa tiệt, mà tội ác họ Mạc đã đầy, mệnh trời lòng người, rất là rõ
ràng, [tờ 30a] không thể che giấu. Phàm những kẻ loạn thần tặc tử, thì ai ai
cũng có quyền giết chết. Nước An Nam các ngươi, tuy ở nơi hẻo lánh
nhưng đã từng thấm nhuần thanh giáo của thiên triều, há không có kẻ sĩ tôn sùng
trung nghĩa; những tài dẹp loạn an bang. Như có thể cùng dựng nghĩa binh, để
giết tên đại ác, thì ta sẽ treo phần thưởng, để giúp cho chóng thành công. Các
ngươi nên kính lòng họa dâm phúc thiện của Hoàng thiên; thể ý vấn tội chánh
danh của Thánh thượng. Nghĩ nghĩa họ Lê là vua cũ, họ Mạc là kẻ thù. Đều nên
huy động lòng trung dũng, sắp đặt các kế mưu, một người xướng trăm người họa,
chẳng hẹn mà cùng; người gần vui người xa lại, không ước mà nên. Nổi đoàn nghĩa
sĩ, [tờ 30b] giết kẻ cừ khôi; tuyên bố nhân thanh, yên dân làng xóm. Kẻ nào
chém được đầu cha con Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, sẽ được thưởng 20.000 lạng
bạc, và tâu triều đình thăng chức quan cao. Kẻ nào tình nguyện dâng một Phủ qui
phụ, sẽ được cho làm quan cai trị Phủ ấy. Kẻ nào dâng một Châu hoặc một Huyện
qui phụ, cũng được cho làm quan cai trị Châu hoặc Huyện ấy, và đều được thưởng
5.000 lạng bạc.
"Ta
lại được biết Mạc Đăng Dung lấy Đô ấp làm nơi sinh sống; dùng Cửu công phủ làm
Đô đốc hộ vệ. Ôi! các vị Cửu công đâu có phải không có lương tâm, chẳng qua chỉ
sợ quy thế đó thôi. Nay các vị Cửu công nếu có thể bắt chém cha con Mạc Đăng
Dung, Mạc Đăng Doanh [tờ 31a] sẽ thưởng đồng đều, mỗi vị 20.000 lạng bạc, và
tâu triều đình thăng tước trật cao; hoặc muốn dâng một Phủ, môt Châu hoặc một
Huyện qui phụ, sẽ cho được chức cai trị Phủ Châu Huyện đó, và cũng ban bạc
thưởng như trên.
Như vậy
thì, dân vô tội nước An Nam, sẽ khỏi cái nạn chém giết; kẻ chí sĩ nước An Nam,
sẽ được tỏ cái danh trung nghĩa. Trên thuận đạo trời, dưới yên lòng người, há
không phải là một sự đại hạnh cho nước An Nam ru ?
Nếu
không thế, binh thiên triều sẽ tấp nập đến ngay, lúc ấy ngọc cũng như đá, đều
sẽ cháy tiêu, dù có những kẻ sĩ trung nghĩa, cũng không phân biệt, tất đều phải
đưa đầu chịu giết! Hối còn sao kịp. Cũng như người muốn tự cắn vào rốn mình, có
thể kịp đâu.
Vậy cấp
phát 14.000 tờ điệp văn của bản phủ [tờ 31b] cho các Phủ: Trường Khánh, Lạng
Sơn, và các châu Vĩnh An, Văn Uyên. Dân sĩ phụ lão các ngươi, nên tính mau mau!
".
Đăng
Doanh và Trần Phỉ làm Thượng thư bộ lễ; phong cho Lê Bá Ly tước Khiêm quận
công. Bá Ly nguyên quán xã Cổ phạm hạt Đông sơn, đến ở tại làng Thịnh Liệt,
huyện Thanh trì, nổi tiếng là người tài dũng, khi làm quan thời vua Chiêu Tông,
được phong tước Mai xuyên bá, bạn thân cũ của Đăng Dung, khi Đăng Dung tiếm
ngôi, sai Bá Ly giữ vệ Kim Ngô, tiến phong tước Hầu, lại gả em gái là Lương
thượng Công chúa cho. Đến đây Đăng Doanh càng thêm tín nhiệm Bá Ly, thăng cho
chức Đông quân đô đốc, tước Quận công.
Mùa hạ,
bị nạn đại hạn. Mùa đông, tháng 10 động đất.
Năm Canh
Tý, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 8 (1540), nhằm niên hiệu Gia Tĩnh thứ 19 triều
Minh, [tờ 32a] mùa xuân, tháng giêng, ngày 25 thuộc ngày Mậu Ngọ, Đăng Doanh
chết, tiếm vị 11 năm, dựng con là Phúc Hải lên ngôi, ngụy đặt tên thụy là
"Thái tông Khâm triết Văn Hoàng đế ". Có 7 con trai, con trưởng là
Phúc Hải, thứ 2 Phúc Tư, ngụy phong Ninh Vương, thứ 3 Kính Điển, ngụy phong
Khiêm Vương, thứ 4 Lý Thiền, thứ 5 Lý Hòa, thứ 6 Hiệp Thái, thứ 7 Đôn Nhượng,
ngụy phong Ứng Vương
Phúc Hải
là con trưởng Đăng Doanh, trước tên là Đức Nguyên, ngụy lập làm Hoàng Thái tử,
tiếm ngôi vào tháng 2 năm Nguyên Hòa thứ 8 (1540), đổi năm Tân Sửu làm năm
Quảng Hòa thứ nhất (1541), phong Lê Bá Ly làm Phụng quốc công.
Trung
Quốc có sự cảnh cấp, nên triệu Tổng binh Cừu Loan về, để trấn thủ 2 tỉnh Quảng,
[tờ 32b] mà cho An viễn hầu Liễu Tuân thay Cừu Loan. Mao Bá Ôn dẫn binh thẳng
tới tỉnh Nam Ninh. Đăng Dung trước đã có lời hứa với Bá Ôn, nên vội vàng xin ra
biên cảnh hàng phục, lời lẽ và lễ nghi rất là cung kính.
Ngày 28,
tháng 10, Đăng Dung sai Thượng thư Trần Phỉ tới doanh Niệm nhai bày tỏ các
khoảng. Bá Ôn ra lệnh chuẩn định ngày tới hàng vào ngày 3 tháng 11. Bọn Giang
Nhất Quế nhà Minh dựng sẵn Tướng đài tại nơi Mạc phủ trấn Nam quan. Đúng kỳ hẹn trên, Đăng
Dung lưu Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi tự dẫn tiểu mục và kỳ nhân là bọn Nguyễn
Như Quế, đến cửa Nam Quan ứng chực, thảy đều dùng thước vãi tự quấn vào cổ.
Trên Tướng đài đã đặt sẵn cái long đình, các quan Phó giám Tam ty trong hai
tỉnh Quảng nhà Minh, đều ngồi đợi trên đài. [tờ 33a] Đến khi truyền lệnh mở cửa
quan, Đăng Dung do cửa bên Tả bước ra, bỏ giầy đi chân không, quỳ gối quay mắt
về phương Bắc, quan nhà Minh sai sinh viên Tạ Thiên Túng cởi những vải quấn ở
cổ cho bọn Đăng Dung, và nhận tờ hàng biểu. Đăng Dung phủ phục lễ 5 lễ, và cúi
đầu 3 vái, cháu họ Đăng Dung là bọn Mạc Văn Minh cũng lần lượt lễ theo. Quan
nhà Minh truyền rằng: "Hãy dong cho đới tội về nước, chờ đây chuyển tâu
lên triều đình, xin cho được khỏi tội chết ". Sau khi Đăng Dung lạy tạ rập
đầu xuống đất, tướng nhà Minh truyền lệnh đóng cửa quan, rồi thu binh về. Đăng
Dung cũng về nước, sai cháu họ là Mạc Văn Minh cùng với tiểu mục tòng nhân là
bọn Hứa Tam Tỉnh cả thảy 28 người, theo tùy viên của Tướng nhà Minh tới Yên Kinh, Văn Minh đem
một tờ hàng biểu. Bài biểu rằng:
[tờ 33b]
"Hạ thần là kẻ mọn nơi biên cương, hiểu biết thấp kém, thế mà mỗi khi xa
trông phương Bắc, thấy sáng rực tới nước Nam, lại trời đất thanh bình, bể sông
yên lặng, hạ thần biết ngay là Trung Quốc có bậc Thánh nhân. Huống chi thiên
huy chấn động, mà vẫn có lòng nhân như khi mùa xuân, hạ thần vừa sợ vừa cảm, kể
sao cho xiết.
Cuối
thời họ Lê chũ nước hạ thần, gặp vận truân chuyên, kế tiếp qua đời, truyền đến
Lê Khoáng, chưa được bao lâu, lại lâm bệnh nặng, trong khi thảng thốt, theo tục
nước mọn, tạm giao phó việc nước cho hạ thần, rồi hạ thần lại giao phó cho con
trai Đăng Doanh, nhưng đều chưa kịp tâu trình, như vậy là thiện quyền. Tuy
thiên triều xa cách, khó tới trình tâu, nhưng tội lỗi tầy trời, đâu dám tự dấu.
[tờ 34a]
Niên hiệu Gia Tĩnh thứ 17, hạ thần đã kính cẩn sai Nguyễn Văn Thái dâng biểu
xin hàng, và tình nguyện tuân theo thiên triều định đoạt. Đó là do tự lòng
thành, không hề vờ dối. Chỉ vị chí thành đó chưa được thấu tới thánh hoàng, cho
nên hạ thần sớm tối lo sợ không yên.
Niên
hiệu Gia Tĩnh thứ 19, ngày 25, tháng giêng, Đăng Doanh không may bị bệnh chết,
người trong nước chực noi theo tục cũ, định dựng con trưởng Đăng Doanh là Phúc
Hải thay ngôi. Nhưng hạ thần tự nghĩ: Mấy lần trước truyền ngôi, chưa kịp tâu
xin, đã là lầm lỗi, thường ái náy không yên, nếu giờ lại theo ý người trong
nước, sẽ nặng thêm tội, hết đường kêu van. Cho nên hạ thần và Phúc Hải vẫn kính
cẩn chờ mệnh thiên triều.
Vừa đây,
đại tướng chuyên chinh, dẫn quân tới cõi, hạ thần ví như con heo trong chuồng,
đâu dám kháng cự.[tờ 34b] May được Tướng quân truyền hịch đòi hạ thần đến cửa
quan gạn hỏi, được nghe truyền những lời nhân từ của thánh thượng, hạ thần cảm
động đến giàn giụa nước mắt! Bao nhiêu tội lỗi, thần xin nhận hết, còn lũ dân
đen, đều là vô tội. Bệ hạ khoan hồng, tha cho kẻ tội thần này còn chút hơi tàn,
hạ thần xiết đổi cảm khích, đã hướng về phương Bắc mà tung hô.
Ngày 3
tháng 11, niên hiệu Gia Tĩnh thứ 19, hạ thần đã cùng bọn tiểu mục Nguyễn Như
Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị, Kỳ Nhân Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, sĩ
nhân Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Tri Vĩnh, tự quấn tua vào cổ, thân tới
biên thùy, cúi đầu trước Mạc Phủ Tướng quân, dâng các khoản đầu hàng.
Đăng
Dung thần, vẫn muốn đích thân tới kinh đô, chiêm bái long nhan, xin nhận tội
chết. Chỉ vì tuổi già mình yếu, đi lại khó khăn; [tờ 35a] cháu trưởng Phúc Hải
thì đang cư tang. Bởi thế đã kính cẩn sai cháu họ Mạc Văn Minh thay hạ thần tới
cửa khuyết, phủ phục đợi tội. Như vậy đũ tỏ cha con hạ thần sai bọn Nguyễn Văn
Thái dâng hàng biểu hồi trước, chính là do sự sợ uy mến đức, chứ không có lòng
trang sức dối trá gì.
Cúi mong
thánh thượng nhân từ, nhủ lòng tha thứ cho hạ thần được đổi lỗi cũ. Còn như thổ
địa nhân dân hạ quốc, đều thuộc quyền sở hữu của thiên triều, xin bệ hạ đoái
tình nước mọn, tùy nghi định đoạt, cho hạ thần được nội thuộc, đời đời xưng là
phiên quốc; mỗi năm lĩnh những quyền lịch "Đại Minh nhất thống ", đem
ban phát khắp nước, để phụng theo ngày tháng. Đó là một đại hạnh cho hạ thần
vậy.
Tuy tiên
triều hạ quốc, họ Đinh họ Trần và họ Lê, đều kế tiếp xưng tôn hiệu và đặt niên
hiệu riêng. Đến hạ thần sau khi cải hối, tự biết việc đó là không đáng [tờ
35b], cho nên đã nghiêm cấm trong nước, cải cách lối đó, chỉ khuyên chờ theo
mệnh mới, đâu dám lại theo lỗi xưa, để đắc tội với thiên triều.
Thủ thần
Khâm châu tỉnh Quảng đông tâu
xưng: 2 đô
Như tích, Chiêm
Lãng, và 4 động Tư Phiêu, La Phù, Cổ Lâm, Liễu Cát, là
đất cũ của Khâm Châu tỉnh Quảng Đông. Nếu quả như vậy thì những đất ấy do triều
nước họ Lê mạo nhận. Nay hạ thần xin tình nguyện dâng các xứ ấy lệ thuộc vào
Khâm châu.
Còn như
Lê Ninh mà Duy Liệu xưng là con cháu họ Lê, thì người trong nước đều tương
truyền là con của Nguyễn Cam. Dòng dõi họ Lê đích thật không còn ai, cho nên hạ
thần đã lập hương hỏa trong quốc đô để thờ phụng họ Lê.
Nay ở
Vân Nam, lại có người cho Lê Ninh là dòng dõi họ Lê, [tờ 36a] hiện ở nước Lão
Qua, và đã tâu lên thánh thượng, hạ thần đâu dám biện bạch. Duy tình nguyện cắt
trại Thất châu, trại Hồng Y ở Quảng Lăng, và mấy xứ phụ thuộc gần đó, để cho y
quản hạt. Những xứ này thuộc tỉnh Vân Nam . Cúi xin thánh hoàng sai người
một vài viên sứ thần thẳng tới hạ quốc, dò hỏi khắp các người cố lão, như có
biết ai là con cháu họ Lê, thì hạ thần xin dẫn quần thần đón hàng, và trao trả
hết thẩy đất đai toàn quốc, há chi cắt mấy xứ kể trên thôi đâu. Nếu quốc nhân
đều công nhận họ Lê đích thực không còn ai, thì xin bệ hạ đoái thương đến nhân
dân, cho hạ thần tạm coi việc nước.
Về việc
hạ quốc còn thiếu cống hiến trong mấy năm trước đây, tất nhiên sẽ xin nộp bù,
và từ nay mỗi năm xin theo lệ cống hiến đầy đũ, cái đó hạ thần không dám kêu
này, [tờ 36b] là vì hạ thần hiện là kẻ có tội, đang cầu xin khỏi chết còn sợ
chưa được.
Hạ thần
lại muốn chiếu theo lệ cũ triều trước của hạ quốc, định mỗi năm cống hiến một
người bằng vàng để thế mạng, nhưng còn sợ đường đột nên chưa dám. Nay nhân tâu
sớ đầu hàng, xin bệ hạ định đoạt, và xin cho hạ thần được tạm dùng quả ấn, lọng
vàng, do thiên triều đã cho hạ quốc từ trước. Vì những thứ ấy hạ thần vẫn cẩn
thận giữ đấy, mà không dám tự ý đem dùng. Nhưng không có, thì không lấy gì làm
chứng nhiệm. Cúi mong thánh triều soi xét ".
Lại bọn
tiểu mục Nguyễn Như Quế, kỳ nhân Lê Thuyên, và sĩ nhân Nguyễn Kinh Tế dâng tờ
biểu tâu vua Minh rằng:
"Bọn
quốc nhân chúng tôi, tuy ở nơi hoang vắng, song vẫn được nhờ ơn thiên triều,
mới được sinh sống. Duy cách thiên triều quá xa, mà nuớc chúng tôi luôn luôn
gặp nạn; [tờ 37a] Khoảng năm Chánh Đức Gia Tĩnh, bọn nghịch thần Trần Cao, Trần
Thăng, Trịnh Tuy và Đỗ Ôn Nhuận, nối tiếp nhau làm loạn, bức hiếp giết quốc chủ
Lê Điêu, Lê Huệ phải bỏ thành đô chạy, hoàng tộc gần hết người, chỉ còn mỗi một
Lê Khoáng giữ việc nước, nhưng chưa được bao lâu lại bị bệnh chết! khiến các
nơi nhiễu loạn, nhân dân lầm than đến cực độ! Lúc ây, Đăng Dung dẹp hết bọn
tiếm nghịch, quả là một người có công. Tuy nhiên, thổ địa nhân dân đều do thiên
triều ban cho, thế mà Lê Khoáng đem trao cho Đăng Dung, Đăng Dung nhận rồi lại
tự trao cho con, mà chưa thỉnh mệnh, tội đó không thể chối được.
Bọn quốc
nhân chúng tôi, cũng nhân sau cuộc loạn lạc, sợ tụi ngông cuồng lại nổi dậy như
Trần Cao hồi trước, [tờ 37b] thì tai vạ biết bao giờ hết. Trong lúc thảng thốt,
kiếm kế cầu xin, tự chọn người chủ, suy đới Đăng Dung. Đó là do sự ngu muội,
tội cũng như Đăng Dung vậy. Sau đây, vì đường sá xa xôi, cửa quan đóng kín, tuy
mấy lần dâng sớ khẩn cầu, nhưng không sao tới đến thiên nhan. Bởi vậy tội càng
thêm nặng, đến nổi oai trời nổi giận, sai Tướng xuất quân, năm trước, quân môn
truyền hịch tới bản quốc, cha con Đăng Doanh sợ hãi không yên, đã kính cẩn dâng
biểu xin hàng, chưa được chấp nhận.
Nay đại
Tướng lại động binh, oai như sấm sét, vang động núi sông! Chúng tôi cầm chắc
phen này sẽ thành mẳn cám hết trơn, không còn một mống nào sống sót! Nào ngờ
lại được ơn trời tha thứ, dong cho đầu hàng. [tờ 38a] Khi viên Giám thống tới
tuyên dụ, thì nhân dân toàn quốc trông nhau mà giàn giụa nước mắt, cùng nhau
dắt già cõng trẻ, đều đến cửa quân, tình nguyện cùng Đăng Dung bó thân hàng
phục. Được khỏi sự chết, là nhờ ơn cha mẹ trời đất ban cho, cảm khích hân hoan,
không biết đâu là cùng cực!
Quốc
nhân chúng tôi lại trộm nghĩ: Dân không thể tự trị, việc tất phải chánh danh.
Nếu danh không chánh thì việc không có ai thống quản; việc không người thống
quản thì dân sẽ tự tranh giành nhau, rồi tan rã mà không ai cấm. Như vậy muốn
khỏi loạn vong, có thể được chăng ?
Nay bệ
hạ đã cho Đăng Dung và quốc nhân được sống lại, thế mà lại bị chết vì cuộc rối
loạn, thì chắc bệ hạ cũng không nỡ lòng. [tờ 38b] Bởi vậy chúng tôi kính tỏ nỗi
niềm riêng, cúi mong bệ hạ ban bố ân đức, cho chúng tôi trước sau đều được
hưởng cảnh sinh sống.
Muôn tâu
bệ hạ, Đăng Dung tự khi giữ việc nước tới nay, chưa làm điều gì bạo ngược, chỉ
chăm lo sự ích lợi cho dân, cho nên dân đều cảm đức. Nay đã sợ uy hối tội, cùng
với cháu trưởng Phúc Hải đều đợi mệnh thiên triều, không dám tự tiện nhận giữ
việc nước như trước, và cũng đã sức toàn quốc, không dám theo triều trước mà
xưng tôn hiệu.
Chúng
tôi trộm nghĩ, ông cháu Đăng Dung tự ý làm Di mục, quả là có tội, đâu còn dám
mong đến thịnh điển. nhưng nghĩ cho cùng, họ Mạc tuy có tội thực, song đều bởi
quốc dân đều qui phục, cho nên mới thành tội trạng đó. bây giờ nếu không nhờ ơn
thánh thượng ban cấp cho một danh sắc, thì lấy gì cai trị người trong nước, để
cho khỏi làm loạn. [tờ 39a] Bởi vậy cúi mong bệ hạ thương dân phương xa, thuận
tình nước mọn, ban cho họ Mạc một mệnh mới, tra theo việc cũ các triều trước,
hoặc cho làm Tổng quản, hoặc cho làm Đô hộ, để cai quản việc nước, đời đời xưng
là phiên thần, lũ chúng tôi cũng được giữ chút sống thừa, đời đời xưng làm
phiên dân, thì ơn tái tạo của bệ hạ sáng ngang với trời đất, không bao giờ cùng
vậy ".
Bá Ôn
sai người đưa bọn Văn Minh đi Bắc Kinh, và dâng tờ sớ bàn về việc này:
"Tuân
theo thánh chỉ y cho bàn xử về việc Đăng Dung xin nội thuộc xưng phiên; mỗi năm
lĩnh nhật lịch Đại thống; và xin nộp bù cống phẩm còn thiếu các năm trước. Vậy
xin kính tâu:
Hạ thần
xét về nước An Nam, tự thời Hán thời Tống đến nay, [tờ 39b] tuy xưng là nội
phụ, nhưng vì thói tục di liêu, khí độc lam chướng, vốn không thích nghi với
Trung Quốc. Vả chăng nước ấy cứ vài năm lại một lần loạn, mà đã loạn thì, kéo
bè kết đảng, đánh giết lẫn nhau. thế tất lại qua mấy năm mới yên. Thời xưa,
Trương Phụ dùng hơn mười vạn người đánh dẹp nước ấy, mà cũng chỉ Quận Huyện
được mấy năm, chúng lại liên tiếp phản bạn, rốt cuộc quyền cai trị lại thuộc về
người Di. Đó là một chứng nghiệm rất rõ vậy.
Nay châm
chước sự lợi hại về thời trước, không gì bằng cứ để nước ấy là nước ngoài, mà
không sáp nhập Trung Quốc, chỉ dùng người Di trị người Di, mới được ổn tiện.
Như cho
là Đăng Dung có tội, đầu hàng, nên chưa vội trao cho tước phẩm đất đai. Còn cháu
y là Mạc Phúc Hải đượng chờ mệnh. Nếu được bệ hạ lượng thương tha thứ, ban cho
danh sắc, hoặc làm Đô hộ, hoặc Tổng quản, chiếu theo lệ thời Hán thời Đường.
[tờ 40a] Mỗi năm đến Ty Bố chánh tỉnh Quảng Tây nhận ban cấp lịch Đại Thống.
Nay thì tới lĩnh tại trấn Nam Quan; tra số cống hiến còn thiếu về mấy năm
trước, nay phải nộp đủ; tự đây về sau, cứ hàng năm theo lệ nộp cống một lần.
Các chức
hành lệnh ở 4 động: Tự Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát và La Phù thuộc Khâm Châu, nguyên
là tước hầu tước An Nam, lại có chú thêm là chức quan Tham chánh phó sứ. Vậy
xin chiếu nguyên ngạch biên vào hạ tịch Khâm Châu, và ưu đãi như hiện nay, chờ
3 năm1 sau, sẽ cấp lương theo cấp bậc hết thẩy.
1 Chữ này bản chính chép chữ
"thiên" (nghìn) hoặc do chữ "niên" (năm) chép lộn ra chăng ?
Xin dịch theo chữ "niên ".
thảy.
Các Sứ
sự của nước ấy đã sai tới, tự trước tới nay, sau khi xong công việc, xin cho về
nước hết
Đó chính
là phép dùng người Di trị người Di vậy.
Còn như
Lê Ninh, tuy tự xưng là con cháu họ Lê, nhưng hạ thần căn cứ vào lời đã tra xét
của các Ty trước, thì tung tích y đích thực không rõ. Duy liệu một mặt ẩn náu
[tờ 40b] ở trại trong động Lãng Thạch Lâm Châu. Nơi phụ cận với địa phương Thổ
quan tỉnh Quảng Tây, cũng không biết diện mạo Lê Ninh ra thế nào, cho nên hoặc
xưng là Lê Ninh, hoặc xưng là Lê Hiến, hoặc xưng là Quang Chiếu, hoặc xưng là
Nguyên Hòa, hoặc lại cho là con trai Nguyễn Cam, hoặc lại cho là do họ Trịnh
bịa đặt ra. Gần đây, Ty Bố chánh tỉnh Vân Nam có mở cuộc hội thẩm, người Di là
Trịnh Viên khai rằng: Động Tất mã giang tuy có tên Lê Ninh, nhưng lai lịch về
tông phái không tường, diện mạo và tuổi của y, so với nguyên báo của Trịnh Duy
Liệu lại khác xa. Như vậy đều không gì làm bằng cứ. Nay nên giao các quan Trấn
thủ tỉnh Vân Nam khám tra, như quả đủ bằng cứ, mà không gì mâu thuẫn, thì cho y
cứ ở ngay nơi Tất mã giang đó [tờ 41a] và những địa phương chung quanh nơi ấy,
đều cho y quản lĩnh, hoặc cho y một chức vị gì thuộc tỉnh Vân Nam. Nếu không
phải là con cháu họ Lê, thì xin bỏ qua khỏi bàn tới.
Còn
Trịnh Duy Liệu, xin an sáp trong tỉnh Quảng Đông, tùy theo nơi thuận tiện, và
lượng cấp ruộng đất cho y khỏi phải lưu ly thất sở.
Phân xử
như vậy mới chu đáo mọi lẽ. Kính xin bệ hạ sắc cho Bộ này họp bàn, rồi tâu lên
thánh thượng tài định, dứt quyết mối ngờ, định đoạt việc lớn. Tự đấy, Hoa Di
nội ngoại, thẩy được yên vui vô sự ".
Sau đây,
quân Tàu kéo về hết. Trần Phỉ tự Bắc Quan trở về Kinh Sư, Phúc Hải phong cho
chức Thượng thư bộ lễ, coi việc Thừa tuyên sứ tỉnh Hải Dương.
Năm này,
vua Trang Tông sai Nguyễn Cam, xuất quân đánh vào các huyện trong tỉnh Nghệ An,
rất nhiều hào kiệt hưởng ứng qui phụ, [tờ 41b] quân của Phúc Hải bị thua trận
luôn luôn.
Năm Tân
Sửu, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 9 (1541), mùa xuân, Phúc Hải mở khoa thi Cử nhân,
lấy bọn Nguyễn Kỳ gồm 30 người trúng tuyển.
Mùa thu,
tháng 8, ngày Ất Hợi, Đăng Dung chết ở Cổ Trai. Phúc Hải đưa linh cữu an táng
tại Long Sơn, ngụy xưng là An Lăng.
Cùng
ngày này, vua Thế Tông nhà Minh ban tờ chiếu:
Xá tội
cho cha con Đăng Dung; đổi "An nam quốc " làm "An nam Đô thống
sứ "; trao cho Đăng Dung chức Đô thống sứ, cho hàm nhị phẩm và quả ấn bằng
bạc, và được đời truyền nối; 13 Lộ thì cứ theo nguyên tên cũ, mội Lộ đặt một
viên Tuyên phủ, một viên Đồng tri, một viên Phó sứ, và một viên Thiêm sự, dưới
quyền Đô thống sứ quản hạt và sai khiến triều cống; ngoài ra, các chức quan lớn
nhỏ trong toàn cõi, đều thuộc quyền Đô thống sứ tùy nghi cất đặt; [tờ 42a] nhân
dân địa phương trong bốn động do y dâng trả, nguyên là dân biên thùy nước ta,
vậy cho thu cả vào bản đồ; sức nha môn Tuần phù 2 tỉnh Quảng phải đối đãi các
người đầu hàng một cách hậu tình thương xót. Sau khi đã xá tội, chuẩn thưởng
cho Mạc Văn Minh 1 áo đơn bằng nhiễu trắng, và 2 áo kép bằng đoạn màu, thưởng
cho Nguyễn Văn Thái 1 áo kép đoạn màu, thưởng cho Hứa Tam Tỉnh 1 áo nhiễu, và
cho trở về nước ngay ngày hôm ấy; các lễ phẫm cống hiến, đều chiếu theo lệ cũ;
các hộ khẩu tiền lương của nước ấy, không cần phải biên chép tâu về.
Bộ Lễ
sai chủ sự Ngô Ứng Khuê đi Lưỡng Quảng cấp phát bạc thưởng và áo, còn một đạo
sắc phong Mạc Đăng Dung làm An Nam Đô thống sứ, và 1 quả ấn An Nam Đô thống sứ
ty, thì quan tỉnh ấy phụng đem chuyển giao cho Đăng Dung thủ Lĩnh. Nhưng lúc ấy
Đăng Dung đã chết, phao truyền là bị bầy tôi là Nguyễn kính giết. Phúc Hải sai
người đến cửa quân lưỡng Quảng báo cáo an tín, và xin tập phong.
Vua Thế
Tông nhà Minh thấy Đăng Dung chưa được nhận chức mà đã chết, cũng tỏ ý thương
xót, bèn sai Thái Kinh hội đồng với các quan Tổng đốc, tra khám xem Đăng Dung
chết bệnh hay có vì cớ gì khác không, và Phúc Hải có đích thực là cháu đích tôn
của Đăng Dung không ? Kỳ mục bọn Như Quế xin bảo đảm là không có gì dối trá.
Bọn Mao Bá Ôn xin cho Phúc Hải lĩnh chế mệnh. Vua Thế Tông ưng cho.
Năm
Nguyên Hòa thứ 10 (1542), nhằm niên hiệu thứ 21 nhà Minh, mùa xuân, tháng 2,
vua Trang Tông tự cầm quân đi kinh lược tỉnh Thanh Hoa, [tờ 43a] sai Nguyễn Cam
dẫn quân đánh vào tỉnh Nghệ An, Phúc Hải sai quân chống cự.
Phúc Hải
ngụy phong tước vương cho các em là bọn Kính Điển; đổi Trần Phỉ sang chức
Thượng thư bộ hình.
Hàn lâm
viện Thị độc Nguyễn Đức Lượng soạn dâng bài châm "bảo nghiệp ", có
ngụ ý khuyên răn, Phúc Hải rất tán thưởng.
Tháng 3,
Phúc Hải thân dẫn bầy tôi là bọn Nguyễn Kính, Nguyễn Ninh Ngũ đến cửa quan Trấn
An, lĩnh tờ sắc, quả ấn, vá 1.000 quyển lịch.
Vua nhà
Minh ban tờ sắc dụ cho Phúc Hải rằng:
"Trẫm
là Đế vương coi thiên hạ như một nhà, muốn cho muôn dân đều được yên ổn. Nơi
nào cũng coi như vậy, không kỳ thị gần xa.
Nước An
Nam mày, ở phương Nam
xa, đời đời giữ chức cống hiến. Mấy năm trước đây không đến triều cống, xét về
duyên cớ, chính là tội của Đăng Dung ông Tổ của mày, [tờ 43b], trẫm đã sai quan
dẫn quân hỏi tội, ông tổ mầy biết hối cải, dâng biểu xin hàng, kể hết duyên cớ
về tội tự tiện trao ngôi nhận ngôi, tình nguyện hiến thổ địa nhân dân, theo
quyền triều đình xử định. Mao Bá Ôn dâng tờ tâu đó, triều đình giao bộ binh họp
bàn, rồi đề nghị xin rằng: "Ông tổ mày Đăng Dung sợ oai đầu hàng, là rất
thành thực đợi tội ". Trẫm vì thể đức "hiếu sinh " của Thượng
đế, muốn thuận tình "an lạc " của hạ dân, cho nên tha cho hết thẩy
tội lỗi, rồi đổi quốc hiệu bỏ phong vương, trao cho chức Đô thống sứ, hàm tòng
nhị phẩm nha môn, dùng quả ấn bằng bạc, được theo ngày tháng và triều cống, cho
con cháu được nối ngôi, đời đời giữ đất nước. Đó là một sự lợi ích rất lâu dài
của dòng họ mày vậy.
Nay quan
Trấn thủ tâu rằng: [tờ 44a] "Đăng Dung ông tổ mầy đã chết bệnh, mày là
cháu đích tôn. Và mày đã bày tỏ hết nổi chí thành về sự đầu hàng của tổ mầy,
lại thuật hết những lời di chúc của tổ mầy ". Như vậy cũng có thể gọi là
noi được chí ông tổ vậy.
Vậy ban
sắc dụ này, cho tổ mầy chức Đô thống sứ. mày nên tuân theo hết lòng trung
thành, kính giữ chức cống; cai trị dân chúng, yên tĩnh địa phương, để xứng với
ý thương mến của triều đình, và hợp với lòng thành kính của ông tổ, sẽ hưởng
nhiều phúc, há chẳng đẹp ru ?
Phàm các
công việc, đều phải chiếu theo các lẽ trong tờ sắc dụ đã ban cho Tổ mầy mà làm.
Kính đấy! ".
Phúc Hải
nhận lĩnh các khoản, rồi trở về kinh đô.
Mùa thu,
ngày 3 tháng 8, Phúc Hải sai Giao bắc Tuyên phủ [tờ 44b] Đồng tri Nguyễn Kính
Điển,
Thiêm sự
Nguyễn Công Nghi và Lương Giản sang nhà Minh tạ ơn về sự được sắc phong, tiến
dâng lễ phẩm bản xứ: 4 lô hương và bình cắm hoa bằng vàng (nặng 190 lạng ); 1
rùa bằng vàng (nặng 19 lạng
); 2 lô
hương và bình cắm hoa bằng bạc (nặng 151 lạng ); 12 mâm bằng bạc (nặng 641 lạng
); 60 cân trầm hương; 148 cân thương; cố 30 cây giáng chân hương; 20 tòa tê
giác; 30 cái ngà voi, cùng các thứ hương thơm tơ lụa khác.
Lại sai
Nguyễn Chiêu Huấn, Vũ Tuân, và Tạ Đình Quang. dâng các phương vật về lễ cống hiến
hàng năm, cũng như các thứ kể trên. Sau bèn thành lệ.
Tờ biểu
tạ ân rằng:
"Phủ
phục kính thưa: Trung Quốc có Thánh nhân, trưng điềm sông trong biển lặng;
ngoại di lại triều cận [tờ 45a] thấm nhuần phúc lớn ân sâu. Giờ Ngọ khí dương
hồi, bắc thần mọi sao chiếu.
Hạ thần
Phúc Hải trộm nghĩ: Lòng trời đất thể theo muôn vật, ý sinh ban bố đồng đều,
không vì tươi khô mà phân biệt; đức Đế vương thường chỉ yêu người, kẻ nào cũng
đều thương xót, không vì còn mất mà sai thù. Đó là bởi lẽ công bằng, cho nên
ban ra rất rộng.
Hạ thần
Phúc Hải trộm nghĩ: Tổ hạ thần Mạc Đăng Dung, sớm do đời loạn, gặp phải thời
gian. Nhân dân lưu ly tán loạn, giữ được bình an; quen thói cha truyền con nối,
tự chuyên vẫn sợ. Mấy năm thiếu cống Bắc triều, một sớm bổng nghe nổi giận. Đợi
tội Nam Quan, những sợ nương thân không đất; tới hàng Bắc Quyết, [tờ 45b] may
sao bộc bạch có trời. Bèn dẹp cơn lôi đình, mà ban ân vũ lộ. Ơn sâu tắm gội,
mong được toại nguyện trung thành; di chúc đinh ninh, không dám quên lòng sự
thượng.
Hạ thần
Phúc Hải. đương tuổi trẻ thơ, lạm nối ngành trưởng. Theo lời kính trung tổ phụ,
việc nước chăm lo; nhờ nhân thương rộng triều đình, những mong tới dưới, đội ơn
thể tuất, bèn được vinh quang. Cho được vâng lĩnh ấn tín, nêu cao danh khí. Ân
sâu thắm khắp, quá đổi trời cao. Tổ hạ thần đợi mệnh lúc hơi tàn, tuy chết mà
vinh dự; chính hạ thần đang ở kỳ tang thứ. [tờ 46a] nước mắt theo lại giàn. Tất
cả nhân dân toàn cõi, đều biết thánh thượng vô tư.
Kính duy
Hoàng đế bệ hạ, ngài gồm các đức: cương kiện tụy tinh, thông minh duệ trí. Kính
nhường sáng khắp bốn phương. Nghêu văn rực rỡ; tài đức ban yên mọi nước. Vũ
liệt nguy nga. Hòa thuận thái bình, hoàng gia ban bố. Coi ấp hạ thần ngàn dặm
xa xăm, muốn đồng thanh giáo; thương Tổ hạ thần một lòng kính thuận, ơn khắp
thủy chung. Sắc dụ đã ban, khúc thành tỏ đạo. Hạ thần kính cẩn thay tiên tổ bái
lĩnh, để biểu dương cùng dân chúng.
Chánh
lệnh đức trạch dồi dào, [tờ 46b] đều nung đức do nơi thánh hóa; thổ địa thuế
sưu cống hiến, thường thành thực ở mức chính cung ".
Bài biểu
này, do Thượng thư Nghĩa Trang Bá Nguyễn Bạt Tụy soạn.
Tháng 9,
Lại bộ Tả thị lang Trình Xuyên Hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm xin trí sĩ, đi về làng
hưu dưỡng điều viên. Phúc Hải ưng cho.
Niên
hiệu Nguyên Hòa thứ 11 (1543), mùa xuân, vua Trang Tông thân chinh đánh Phúc
Hải, lấy được Tây Đô, phá tan quân Chánh Trung của Ngụy Hoằng Vương, Tổng trấn
tỉnh Thanh Hoa Đại Tướng quân Trung hậu hầu dẫn quân đầu hàng.
Mùa hạ,
tháng 5, Phúc Hải bổ nhiệm Trần Phỉ chức Thượng thư Bộ Lễ. Thiếu sư Mạc Ninh
Bang xin bàn định phép cấp lộc điền cho Hiệu sĩ:
"Niên
hiệu Quảng Hòa thứ 3, ra lệnh; Xã nào ngoài số ruộng đất tư, mà có ruộng quan
và ruộng chùa, [tờ 47a] thì tùy theo số ruộng đó, chiếu cấp cho: Nhất hạng
trung hiệu mỗi người 2 phần rưỡi; nhất hạng trung sĩ mỗi người 2 phần rưỡi. Xã
nào không có ruộng thì mỗi người một phần. Như xã nào tuy số ruộng nhiều đáng
được 2 phần, thì 2 phần ấy cũng không được quá số 2 mẫu, rồi tùy theo cấp bậc
giảm dần, còn bao nhiêu ruộng sẽ theo nhân số trong xã mà chia đồng đều.
Như vậy
đủ thấy triều đình ưu đãi Trung hiệu, Trung sĩ rất hậu. Nhưng hạ thần thiết
nghĩ: Trong bọn Trung hiệu, Trung sĩ, tất nhiên có kẻ khỏe mạnh, có kẻ lười
biếng, đâu có nhất luật như nhau, thế mà cấp phát ruộng đất một cách đồng đều
không phân biệt, thì sao có thể khuyến khích lòng người được.
Vậy xin
cho các quan Tướng bản doanh, ra lệnh cho các quan bản huyện, lựa chọn bảo cử
người nào tinh tráng khỏe mạnh và thiện chiến, làm nhất hạng, [tờ 47b] rồi biên
cả vào sổ cấp điền, các quan Phủ Huyện Xã Trưởng chiếu theo sổ cấp điền trước,
đem ruộng nhất đẳng cấp cho hạng này trước, để khuyến khích chiến sĩ ".
Phúc Hải nghe theo.
Niên
hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (1544), mùa xuân, Phúc Hải mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn
Vũ Kính 17 người trúng tuyển.
Niên
hiệu Nguyên Hòa thứ 13 (1545), thưởng công đi sứ nhà Minh, phong Trần Phỉ tước
Vinh dự tử, các người khác trong phái Bộ sứ thần này, cũng đều được phong.
Lúc này,
vua Trang Tông tự làm Tướng cầm quân đánh Phúc Hải, đóng quân tại hạt Yên Mô.
Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Cam bị hàng tướng trung hậu hầu bỏ thuốc độc
chết. Trung hậu hầu liền trốn đi, rồi lại trở về với Phúc Hải.
Tháng 8,
Phúc Hải sai tướng là Thái tể Ninh quốc công, xuất quân ngũ phủ vào các trấn,
thừa cơ vào đánh cướp doanh trại Hoàng đế. Khi chúng đến bến sông Phù Chẩn. Hoàng
đế bèn thân chinh. Đề thống ngự doanh [tờ 48a] Dực quận công Trịnh Kiểm đốc
quân tiên phong ra đánh phá tan, Ninh quốc công trốn về, quân Mạc chết vô kể.
Hoàng thượng
bổ nhiệm Dực
quận công Trịnh
Kiểm làm chức
"Tiết chế các
xứ thủy bộ chư
doanh ", phong tước Lương quận công1, được độc quyền giữ việc binh, và
tổng tài chánh sự; trị dân dạy người, tuyên bố uy đức. Quốc thế ngày thêm thịnh
vượng, châu Ái tạm yên, các vị hào trưởng trong 4 châu: Hoan, Diễn, Ô và Quảng
đều đua nhau đến cửa quân xin hiệu lực. Cơ nghiệp Hoàng gia, bắt đầu tiến tự
đây. Còn thế của Phúc Hải thì càng ngày càng xuống.
Năm Bính
Ngọ, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 14 (1546), ngày 8, thuộc ngày Quý Hợi, Phúc Hải
chết, tiếm ngôi được 6 năm, ngụy đặt thụy là "Hiến tôn Hiển Hoàng đế
", con là Phúc Nguyên nối ngôi.
1 Chữ "quận công " có lẽ lầm, vì Trịnh
Kiểm hiện đã tước quận công, đâu có phong thêm tước quận công nữa. Hoặc do chữ
"quốc công" chép lộn ra chăng ?
Đại Việt Thông Sử
LIỆT TRUYỆN
Thần Đôn soạn
NGHỊCH THẦN TRUYỆN
[tờ 49a]
Phúc Nguyên là con trai trưởng Phúc Hải, tiếm ngôi vào tháng 5 niên hiệu Nguyên
hòa thứ 14 (1546), đổi năm Đinh Tỵ sau (1547) làm niên hiệu Vĩnh Định thứ nhất.
Lúc này
Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi, chưa biết quyết đoán việc gì, bao nhiêu công việc lớn
nhỏ,
đều ủy
cả vào thúc phụ là Khiêm Vương Kính Điển phân xử.
Ngụy tôn
tổ mẫu họ Phạm làm "Thái hoàng Thái hậu ".
Khi Phúc
Hải chết, Tướng là Tứ Dương Hầu Phạm Tử Nghi bàn rằng:
"Hiện
trong nước đương lúc nhiều nạn, nên lập [tờ 49b] vua lớn tuổi. Con Đăng Dung
ngụy Hằng Vương Chánh Trung đã nhiều phen cầm quân, và thường thắng trận. Vậy
xin dựng lên nối ngôi ".
Nhưng
các tôn vương họ Mạc, và đại thần là bọn Kính Điển, Nguyễn Kính đều không theo,
bàn định dựng Phúc Nguyên lên ngôi. Bởi thế Tử Nghi không toại nguyện, bèn ngầm
sinh lòng khác, bí mất tụ hợp các Tướng Bộ khúc, rồi cùng với Thành quốc công
khởi loạn. Phúc Nguyên phải qua sông chạy về Đông vào ban đêm, bọn Kính Điển,
Nguyễn Kính và Trần Phỉ xuất quân đón cứu Phúc Nguyên.
Tử Nghi
bèn đem Chánh Trung chiếm cứ Ngự Thiên ở Hoa Dương, rồi tiếm xưng tôn hiệu,
ngụy lập triều đình. Các bầy tôi văn võ nhiều người theo.
Phúc
Nguyên sai Kính Điển và Nguyễn Kính phát binh đánh Tử Nghi, nhưng Tử Nghi vốn
là một kiện tướng, lại thêm quân sĩ đều gắng sức, bởi thế Kính Điển đánh mấy
trận đều bị thua.
[tờ 50a]
Tử Nghi đưa tờ bố cáo cho các Trấn, kể
tội phản nghịch của Nguyễn Kính, lại kể cả chiến công nơi sông1... và bến Lục.
Tuyên ngôn là sẽ đánh thẳng vào Đông Kinh. Làm cho phương Đông Nam
rung động! tờ bố cáo rằng:
"Thuận
đức thì thịnh, đó là lẽ của trời; vì nghĩa động binh, để dương oai vô địch. Tội
kẻ nghịch tặc không thể dong tha, người trong thiên hạ ai cũng được hỏi. Giết
Hàn Trác để thờ tôn miếu họ Hạ. Tướng
binh nhờ kế
Thần mỹ2, diệt
giặc Hồ để
phục kinh đô
nhà Đường, xuất
Tướng nhờ sức
Phần dương3. Hội đồng không sai, xưa nay cùng hợp.
Vua Thái
Tổ mở nền, thực trời cao sinh đức, được danh, được vị và được lộc, lịch số ưng
truyền; cùng văn cùng lối lại cùng hàng, xuân thu tổng quát. Kẻ nào không phục,
[tờ 50b] liền đánh dẹp ngay;
1 Chữ này là tên con sông,
nhưng chính bản bỏ trắng khoảng một chữ, vậy không biết là sông gì ? Xét văn
dưới, chép
đến khi tiến quân tới con
sông này, cũng bỏ trắng khoảng một chữ như đây.
2 Hàn Trác bầy tôi vua Hậu
Nghệ, giết Nghệ tự lập làm vua. Thiếu Khang giết Hàn Trác khôi phục nhà Hạ.
3 Quách Tử Nghi Tướng nhà
Đường, phong tước Phần dương vương, dẹp giặc Hồ khôi phục nhà Đường.
Giặc Như
Bích dong ruỗi phương Nam ,
quan quân kéo đến, thế như sét đánh; giặc Văn Uyên xưng hùng phương Bắc, thần
vũ dương oai, mạnh tựa sấm vang. Các châu Khâm Liêm, sợ hải không dám liên can;
các nước Đồ Bàn, xưng thần mà tới cống hiến. Việc định công thành sự, được nước
tựa ba đời trước; thánh truyền thần nối, hưởng ngôi tôn hơn hai mươi năm. Mưu
mô không thiếu, quốc gia thái bình. Triều đình tôn thế chẳng can liên, bầy tôi
sợ thẩy đều tuân mệnh.
Tên
nghịch Kính kia, vốn là Tướng giặc. Nhờ vua Thái Tổ, lòng nhân trời che đất
chở, coi như đứa con; được các vua sau, tỏ đức bể bọc xuân nuôi, [tờ 51a] ân
thêm cố kết. Nào là cho đổi họ lại cho ruộng vườn; phong tước cho con trai lại
phong con gái.
Đáng lẽ
y phải ghi dạ khắc xương, tỏ tình khuyển mã; thế mà y lại tạo ra hung ác, như
hổ vào nhà. Lật lọng trái nghĩa bầy tôi, ngấm ngầm rặt lòng phản nghịch. Hấn
khích rõ ràng, khi vua quá đáng. Đánh vào Kinh Quyết, ngầm manh dạ Lộc Sơn1; hộ
giá tuyên ngôn, vờ theo thói Châu Tỵ2. Chúng khoe công lại hung hãn, đương báo
oán trả thù riêng. Triều đình đáng tôn, mà y chuyên quyền như bỡn; lão thần
đáng trọng, mà y lại dám khinh nhờn. Mũ giày đảo lộn, [tờ 51b] phép tắc đổi
thay. Những việc y làm, không lòng sợ hãi. Giặc Khải Khang chưa ráo máu đầu, y
tựa làm tay tả hữu; giặc Hữu mệnh mồm có hơi sửa, y dùng làm binh cha con. Hữu
Trảo một tên thất phu, y đồng đảng cho giữ nơi xung yếu; Tử Nha như kẻ thất
phụ, y viện binh để làm thế phô trương. Thậm chí hành quân vô kỷ luật, chỉ tàn
bạo để dương oai; Coi người như cỏ rác, quân kéo qua dân chết hết trơn; bạo
ngược hơn nước lửa, quân đến đâu nhà đốt hết sạch. Những việc đó y nỡ lòng làm,
thì ai cũng có quyền đánh.
Hiện nay
Thánh thượng lòng hưng, chính ngôi nam diện, [tờ 52a] mưu mô hùng đoán, quyết
kế tây chinh.
Tôi, tự
thẹn tài ngu, nhờ ơn vua mến. Vì nước bỏ nhà, tỏ chút lòng trung Tướng Hán; tập
binh nhiều trí. thẹn với tài giỏi tôiTề. Kế mưu đều theo thành toán, hiên ngang
xin nhận tiền phong. Thủy bộ tiếp liên, bày ra trận đường chính; can qua thẳng
chỉ, dương oai vũ huy hoàng. Ba quân như
tự trời xuống thắng trận tựa cuốn chiếu đi. Thuyền binh tới bến Lục,
quân giặc vỡ tan; binh sĩ tới sông... quân giặc hãi sợ. Chúng tuy nhiều quân và
dũng mãnh, thẩy đều nghiêng giáo xin đầu hàng. Đã bắt Kình (giặc) dựng quán,
[tờ 52b] dân trở lại vui tươi. Đó là, trời giúp thì nên, đúng với kỳ thịnh trị;
binh hòa thì thắng, đã định
kế vạn toàn.
Sẽ thấy nhật
nguyệt sáng choang,
giáp binh rữa
sạch, nước nhà
thịnh vượng, cơ nghiệp vững bền ".
Mạc Kính
Điển hợp binh đánh Tữ Nghi, hẹn với Phụng quốc công Lê Bá Ly giúp sức. Bá Ly
bèn sai con trai giữ việc trong Phủ, sai Phổ quận công Khắc Thận truyền hịch
cho Quảng quận công Nguyễn Khải Khang, và Phú quận công Mạc hữu mệnh ở phương
Tây; Khổng toàn hầu và Khang phụ hầu ở phương Bắc, hợp các đạo quân, cả thủy bộ
đều tiến, đánh phá tàn quân của Chính Trung ở Ngự thiên.
Hữu Mệnh
là con trai Nguyễn Kính. [tờ 53a] và là anh Ngọc Liễn.
Tử Nghi
đem Văn Minh, Chánh Trung, và Ngụy Định vương Phúc Sơn chạy, chiếm cứ An Quảng.
Phúc Nguyên lại trở về Đông Kinh.
Lúc này,
xứ Hải Dương bị nạn binh hỏa luôn luôn, rất nhiều người phải lưư vong.
Mùa
xuân, năm Nguyên Hòa thứ 15 (1547) mở khoa thi cử nhân, lấy bọn Dương Phúc Tư
cộng 30 người trúng tuyển.
Phúc
Nguyên thưởng văn thần có công trong việc Cần vương, thăng cho Trần Phỉ lên
tước Đông lai hầu.
Mùa hạ,
tháp Báo Thiên không vì cớ gì tự nhiên đổ lở.
Mùa thu,
tháng 7, Trần Phỉ xin về trí sĩ, Phúc Nguyên không ưng, bèn thăng cho chức
Thiếu phó.
1 Lộc Sơn bầy tôi vua Huyền
Tông nhà Đường, cướp ngôi, tự xưng Đại yên Hoàng đế.
2 Châu Tỵ bầy tôi vua Đức
Tông nhà Đường, nhân gặp loạn, loạn quân suy tôn làm chủ, rồi xưng Đế.
Sau khi
Mạc Chánh Trung thất thế, bèn cùng Văn Minh và Phúc Sơn đem các gia quyến chừng
hơn trăm người chạy sang Khâm châu, vào cửa quân lưỡng Quảng tố cáo; Kể hết tội
trạng Nguyễn kính chuyên quyền và ruồng đuổi các vị cựu thần quốc thích. Đề đốc
quân vụ Trương Nhạc, [tờ 53b] bèn tâu về triều Minh, xin cứu trợ cho bọn Chánh
Trung, vua nhà Minh bèn ra lệnh quan phủ Thiều châu và Thiệu Khánh thu xếp cho
bọn Chánh Trung an cư vào xứ Thanh Viễn, và hàng năm phát gạo cho, chiếu theo
cấp bậc.
Niên
hiệu Nguyên Hòa thứ 16 (1548), vua Trang Tông dụ Hoàng đế thăng hà, vua Trung
Tông lên nối ngôi ở xứ Thanh Hoa, đổi năm sau1.
Sau khi
Tử Nghi đã chạy, giữ xứ Yên Quảng, y lại vào đaị phận nước Tàu, khua dụ các dân
Man ở ven biển nổi loạn cướp phá, làm tao nhiễu Khâm châu và tỉnh Quảng Đông,
nhà Minh không chịu nổi, bèn truyền thư cho Phúc Nguyên rằng:
"Nhà
ngươi vô lễ! Dong túng cho đảng nghịch cướp phá nơi biên thùy thượng quốc,
ngươi phải đem quân dẹp ngay. Nếu không thì đại quân sẽ đến hỏi tội ngươi
".
Phúc
Nguyên nhận thư trên, xiết đổi sợ hãi, bèn sai Kính Điển dẫn quân đến An Quảng
đánh Tử Nghi. Kính Điển mật sai tên tiểu tốt dụ bắt được Tử Nghi, [tờ 54a] đem
chém, rồi đưa thủ cấp tới tỉnh Quảng Đông.
Phúc
Nguyên phong Trần Phỉ chức Binh bộ Thượng thư Đô ngự sử. Tháng 4, lại gia thêm
cho Trần Phỉ Tri quán cục, tham dự triều chính. Sau thăng tước Lai quận công.
Phong
Phạm Quỳnh tước Vinh quận công, phong con trai Quỳnh là Dao tước Phú xuyên hầu.
Phạm Quỳnh nguyên quán ở làng ở làng Đặng Xá, huyện Thanh Lâm, đến ngụ cư tại
Thôn Bùi
Tây xã
Thịnh Liệt, nhà nghèo làm nghề bán trà. Khi Kính Điển lên 2 tuổi, thường đau ốm
quặt quẹo luôn, muốn tìm người vú nuôi, Lê Bá Ly bèn sai vợ Phạm Quỳnh vào cung
làm vú sữa nuôi Kính Điển. Đến đây, Kính Điển giữ chính quyền, nghĩ tới nghĩa
bảo dưỡng của vợ Quỳnh, cho nên trọng dụng cả hai cha con Phạm Quỳnh: Sai Phạm
Quỳnh giữ quyền tiết chế đông đạo; cho Phạm Dao trấn thủ xứ Sơn Nam ,
rồi thăng đến tước Văn quận công.
Mùa thu,
Phúc Nguyên sai bầy tôi, bọn Lê Quang Bí [tờ 54b] sang nhà Minh dâng cống hiến
thường niên.
Thời vua
Trung Tông, niên hiệu Thuận Bình thứ nhất (1549), nhằm niên hiệu Gia Tĩnh thứ
28 triều Minh, Mạc Chính Trung đã chạy vào nước Tàu, bèn đến viện Đốc phủ nhà
Minh, tố cáo tội trạng Nguyễn Kính chuyên quyền, bức hiếp đuổi bọn Chính Trung.
Người nhà Minh ngờ Phúc Nguyên không phải là dòng dõi Đăng Dung, bèn truyền văn
thư tra khám. Lúc này là thời kỳ Kính Điển vừa dẹp dư đảng của Tử Nghi xong,
nên xứ Hải Dương và xứ Sơn Nam
được tạm yên. Kính Điển bèn hộ vệ Phúc Nguyên đến cửa quan Trấn nam, bảo Phúc
Nguyên giả tên Hoằng Dực làm tờ trạng cam kết không có giả dối, xin được tập
phong chức Đô thống sứ. Lại sai kỳ mục bọn Lê Bá Ly đi theo cùng, và cùng làm
tờ văn biện bạch rõ rệt, xin chiếu theo lệ trước, tâu đạt lên triều đình, cho
Phúc Nguyên được tập phong. Quan quân môn Lưỡng Quảng [tờ 55a] bằng lòng nhận.
Mùa hạ,
ngày 11, tháng 4, giờ tỵ, các Phủ: Nam Sách, Thượng hạ tầng, Lý Nhân, Khoái
Châu và Trường An, đương lúc ban ngày, trời bỗng tối sầm, không gian liền nổi
tiếng ầm ầm, rồi mưa đá đổ xuống sầm sập! Có hạt mưa to bằng hòn đạn, có hạt to
bằng cái hột gà, cũng có hạt to bằng cái đấu hoặc hộc đá, làm hư hại lúa ngoài
đồng; cây dâu trong vườn; phá hoại nhà ở; chết chim ngoài đồng; người và súc
vật bị thương rất nhiều.
Thượng
thư Văn dương bá Tạ Đình Quang dâng tờ sớ rằng:
"Kính
xét sách "Xuân thu khảo dị "và sách "Văn hiến thông khảo ",
điều nói rằng: "Mưa đá là cái tượng khí âm hiếp khí dương ". Đó là
ứng về sự bầy tôi có thế lực chuyên quyền, và cũng bởi những sự;
1 Câu này chính bản chép
"cải minh niên" (đổi năm sau ". Như vậy chưa đủ nghĩa. Hoặc chép
sót mấy chữ "vi thuận bình nguyên niên " (làm niên hiệu Thuận bình
thứ nhất) chăng ?
Người
hiền bị che kín; chỉ dùng người gian; nghe lời gièm, sưu cao thuế nặng; pháp
lệnh đổi thay, cho nên mới có tai dị đó.
Nay bệ
hạ tuy đã lớn tuổi, [tờ 55b] nhưng chưa đích thân điều khiển chánh sự, thì cái
tai dị mưa đá kia, chưa có thể đổ cả vì lỗi của vua. Vị Hoàng thúc thân vương, không
thể coi viêc này làm thường được, và các vị đại thần cùng bá quan văn võ, há
không tự nhận lỗi m à tìm phương cứu chữa ru
? Kính
mong bệ hạ, ngày ngày chăm học thánh để tiến công thánh; lúc nào cũng tôn mệnh
trời và sợ oai trời.
Về phần
Khiêm Vương, nên tận thành tự xét mình. 1. Đừng lấy thiên hạ tạm định tạm yên
làm đáng mừng; nên lấy công việc khó thành dể bại làm đáng sợ. Xử quyết công
việc, thăng giáng các quan liêu, đừng sợ mếch lòng người mà không quyết đoán;
chọn lọc cấm binh, nén hãm kẻ quyền quý, đừng cho là việc khó mà chỉ thờ ơ. [tờ
56a] Những kẻ gièm pha có hại đến người hiền tài, và những kẻ siểm nịnh, chỉ
chực cầu ơn, đều nên ruồng bỏ hết thẩy, để cho tà không can chính, âm khỏi xâm
dương. Sẽ co thể chuyển tai họa thành điềm lành ".
Phúc Nguyên
nhận tờ sớ này, nhưng không theo nổi.
Mùa thu,
Phúc Nguyên phong tước Quốc công cho viên Tướng Đông đạo mỗ; đổi phong tước
Khiên quốc công của Mạc Đình Khoa ra tước Gia Quốc Công; bổ chức Thái úy cho
hai Tướng Tây đạo Tây quốc công Nguyễn Kính và Đoan quốc côngNguyễn Khải Khang,
đều cho đổi sang họ Mạc; thăng tước Nam đạo Phụng quốc công Lê Bá Ly lên chức
Thái tể; ra lệnh duyệt tuyển quân 4 Vệ nội ngoại.
Bá Ly là
một vị lão tướng trọng thần, chuyên giữ binh quyền, tham dự triều chính ai cũng
tôn phục. Sau khi đánh phá Phạm Tử Nghi, uy danh càng thêm lừng lẫy! [tờ 56b]
Con trai là Phổ quận công Khắc Thận, lấy trưởng công chúa Cẩm Hương, lại giữ
quyền Tiết chế Lộ Sơn Nam, và giữ việc trong phủ; con rể là Văn phái hầu Nguyễn
Quyện giữ vệ Cẩm y; con trai thứ là Thuần Lương Hầu cũng quản đốc đội cấm binh;
nhân gia là, Thư quận công thiến, chức Thượng thư Bộ lại, Đổng giang hầu Bùi
Trụ chức Tán lý quân vụ. Thân đảng kết liên, khí thế rực rỡ, bao nhiêu hùng
binh các Trấn, đều nắm trong tay, bao nhiêu bầy tôi văn võ, đều ra bởi cửa.
Phạm Quỳnh, và Phạm Dao, nguyên trước xuất thân trong hàng đầy tớ nhà Bá Ly,
bây giờ chúng được hiển đạt, lại đem lòng oán ghen, muốn tính sự hãm hại Bá Ly.
Mùa
xuân, niên hiệu Thuận Bình thứ 2 (1550), Phúc Nguyên mở khoa thi Cử nhân, [tờ
57a] lấy bọn Trần Văn Bảo cộng 25 người trúng tuyển.
Tháng
10, Trần Phỉ xin trí sĩ, Phúc Nguyên phong cho hàm Thiếu sư, cho về làng.
Năm Tân
Hợi, niên hiệu Thuận Bình thứ 3 (1551), lúa này con trai Thái tể Bá Ly là Khắc
Thận trấn thủ xứ Sơn Nam, đóng Đồn ở Văn Sàng, Thận đương tuổi thanh niên, chỉ
ham chơi bời ca hát, ít khi làm việc, lại cất nhà cửa lộng lẫy, sắm kiệu son,
lộng vàng. Phạm Quỳnh và Phạm Dao bèn gièm với Kính Điển, bảo Khắc Thận có dị
mưu (phản nghịch ). kính Điển ngạc nhiên mà rằng:
"Quốc
gia trông cậy vào Tướng phụ (Bá Ly ) như quả núi cao, các ông không nên nói
những lời như vậy ".
Phạm
Quỳnh, Phạm Dao lại đem ý trên gièm pha với Phúc Nguyên.
Ngày 12,
tháng 2, Phạm Quỳnh, Phạm Dao tự ý sai quân vây Bá Ly ở trại Giang mai vào lúc
nửa đêm, lại ngờ là nhân gia Đô ngự sử Nguyễn Thiến đồng mưu, bèn sai quân bắt
úp. Nhưng lúc ấy Thiến đương đi dự họp, Bá Ly thì ở trong trại quân, cho nên
đều không bắt được. [tờ 57b] Đến lúc gà gáy sáng, người đầy tớ nhà Bá Lý ra
ngoài, thấy có quân vây, vội trở vào báo, Bá Ly bèn thu thập người nhà và các
quân sĩ, đóng cửa cố thủ, để chờ con em đến cứu viện. Một lát, Vạn an hầu, Văn
phái hầu, và Tả vệ hầu, mỗi người mang 3.000 cấm binh tới hộ vệ, giao chiến ác
liệt với quân Quỳnh , Dao. Quỳnh, Dao thua chạy, Vạn an hầu bèn đem quân đón Bá
Ly về đóng tại Thịnh Liệt, rồi Khắc Thận cũng tự đồng Văn Sàng tới hội.
1 Câu chữ Hán này gồm 5 chữ, nhưng chép bõ
trắng, mỗi khoảng một chữ, chỉ có 3 chữ cách quãng nhau. Như vậy không đủ nghĩa
dịch.
Bá Ly
cùng các tộc thuộc bèn dẫn quân chiếm giữ cửa quan Châu tước, Kinh thành cựa kỳ
náo loạn! Phúc Nguyên thấy thế bức bách, hoảng sợ, bỏ thành chạy qua sông, di
cư đến Bồ Đề, rồi sai sứ thần dụ Bá Ly bãi binh, Bá Ly không nghe, bảo phải bắt
cha con Quỳnh, Dao, giải đến đây sẽ bãi binh.
[tờ 58a]
Phúc Nguyên bèn sai Tướng Sơn Tây: Vạn đôn hầu, Anh duệ hầu, Phù long hầu, và
Văn giáp hầu, hợp binh tiến đánh Bá Ly. Bá Ly chia quân chống cự, cố thủ, rồi
sai tướng dưới trướng Văn tế bá đem thư cầu Thụy quốc công Nguyễn Khải Khang
cứu viện. Thụy quốc công nhận lời, liền sai gia thần Đông Khang Hầu dẫn quân
giúp Bá Ly, Bá Ly bèn đánh Phúc Nguyên, quân Phúc Nguyên thua chạy, Bá Ly bèn
tiến quân đến Cấu Hà, rồi lạy vọng sang và tuyên ngôn rằng:
"Cha
con hạ thần thực không dám mưu tính sự gì, chẳng qua chỉ vì kẻ gian thần bức
bách, ghép hạ thần là phản nghịch, chúng định hãm hại, cho nên hạ thần phải
dùng binh tự vệ. Xin bệ hạ bắt cha con Quỳnh, Dao, giải đến để úy dụ ba quân,
hạ thần xin bãi binh ngay ".
Phúc
Nguyên không nghe lời yêu cầu của Bá Ly, liền dẫn quân đi về Phương Đông, Bá Ly
nổi giận, mắng nhiếc Phúc Nguyên, [tờ 58b] rồi trở về kinh thành. Bảo các Tướng
rằng:
"Ta
chút tài mọn, nguyên thờ Quang thiệu Hoàng đế, nhân bất đắc dĩ bèn làm bầy tôi
họ Mạc, chính tay dựng 4 đời vua, hao phí biết bao tâm lực. Nay gặp hôn quân,
không biết minh đoán, chỉ nghe lời kẻ gièm pha, khiến cho bao nhiêu nghĩa biển
tình non, đều thành băng tang ngói trút! sự thế đã như vậy, thôi lại còn nói
gì.
Ta nghe
vua Lê, chính vị ở xứ Thanh Hoa, có Thái sư họ Trịnh là một vị anh hùng tài
lược, chuyên y tá phò, ra quân có danh, 4 phương quy phụ. Đó thực là vị chúa
trung hưng vậy.
Nay ta
muốn dẫn quân quy thuận, tiễu trừ giặc nghịch tán trợ triều Lê, dựng nên nghiệp
lớn, để rửa tội lội trước, mà cũng không mất sự giàu sang. Các ông nghĩ thế nào
? " Tất cả các Tướng đồng thanh thưa:
"Kính
theo tôn mệnh! ".
Bá Ly
được các Tướng đồng ý, rất là mừng rỡ. [tờ 59a] Lúc ấy đang thời kỳ hiếm gạo,
bèn mở kho thóc phát chẩn cho dân nghèo, rồi sai nội thần Văn ấp hầu cùng với
Tán Lý Đông giang hầu Bùi Trụ, đem văn thư đến hành điện Ngạc Khê xin hàng, kèm
theo bức họa địa hình tiến dâng. Vua Lê nhận rồi ban tờ sắc khen ngợi Bá Ly. Tháng
2, Bá Ly xuất 14.000 quân các đạo Tây Nam cùng với Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện
và con trai là Khắc Đôn, Khắc Thận tới bái kiến nơi cửa quyết, rồi đón vua Lê
tới đóng tại sách Vạn Lại.
Hoàng đế
xiết đổi mừng rỡ! Úy lạo và nhận cho hàng, thăng Bá Ly chức Thái tể tước Diễn
quốc công.
Lúc này,
Bá Ly đã 70 tuổi, một vị kỳ lão trọng thần, bày tôi trong triều, ai cũng tôn
kính. Khi vào yết kiến Thái sư Lương quốc công Trịnh Kiểm, Bá Ly giữ hết lễ,
rất cung kính, [tờ 59b] Thái sư tiếp đãi cũng rất là kính cẩn tận lễ.
Sau khi
Bá Ly quy thuận, thì bao nhiêu mưu thần mãnh tướng đều ùa theo, kéo cả vào Phương
Tây, cháu rể Bá Ly là Khổng Lý và Đặng Huấn, người xã Lương Xá huyện Chương
Đức, cũng theo vào bái yết Thái sư ở cửa quân, Thái sư đều hậu đãi; tướng Tây
đạo Đại úy Đoan quốc công Nguyễn Khải Khang, khi trước sai tướng đem quân giúp
Bá Ly, đến đây cũng xuất 3.000 quân dưới trướng quy thuận, tới yết Hoàng đế ở
hành điện Vạn Lại. Hoàng đế úy lạo ban thưởng, cho nhưng theo chức tước cũ.
Khi Khải
Khang tới bái yết Thái sư, Thái sư kính nể tước vị cao, nên tiếp đãi rất nồng
hậu.
Con trai
người cậu Khải Khang là Nguyễn Hữu Liêu, quán làng Tây đam phủ Từ Liêm, là một
người tài dũng siêu quần, Hoàng đế triệu kiến, và đem cho binh lệ vào doanh
chánh, theo Thái sư đánh giặc.
[tờ 60a]
Tự đây, thanh thế quân nhà vua rất là lừng lẫy! Phúc Nguyên thấy vậy, lấy làm
lo sợ, bao nhiêu binh quyền ủy cả cho Kính Điển, để tính kế bảo thủ Trường An
cho tới các xứ miền Đông.
Tháng 4,
Hoàng đế cho là Phúc Nguyên hiện bị bầy tôi lìa bỏ, ngoài phản bạn trong tan
rã, bèn bàn nên thừa lúc địch suy, xuất quân tiến đánh liền ban tờ chiếu đốc
các tướng đánh Phúc Nguyên: Sai Phụng quốc công Lê Bá Ly xuất đường Sơn Nam;
Đoan quốc công Nguyễn Khải Khang xuất đường Sơn Tây; Gia quốc công Vũ Văn Mật
tại Tuyên Quang xuống, hội đồng tại Đông Kinh. Bá Ly làm tờ quốc thư (bằng quốc
âm ) để chiêu dụ các tướng nhà Mạc rằng:
"Các
chức văn võ ở Sơn Nam ,
Sơn Tây, kính đạt tới dưới cờ các Tướng quân Kinh Bắc:
Từng
mảng rằng: Rất trị có loạn, xét cổ kim biết thửa phế hưng; trở nguy làm yên,
hay thời thế [tờ 60b] bởi chưng tuấn kiệt. Lý Thông chẳng mất, gương để khá
soi. Vua nhà ta, tự Đinh Lê Lý Trần dựng có phong cương, cùng Hán Đường Tống
Nguyên đều làm quân trưởng. Đến nhìn Nhuận Hồ mạt vận, 13 thu ngược chánh phiền
hà; cho nên ngoại quốc cất binh, hơn 2 kỷ châu thành chiếm cứ. Nước Sa phải mỗi
khi truân bĩ, trời đốc sinh có chúa thánh minh. Vua Thái Tổ dấy nghì dẹp loạn,
dân được thoát cơn đồ thán; vua Liệt Tổ lấy nhân ra đức, người đều nhuận ở cơ
phu. Số truyền ước quá lịch Chu , gặp biến phúc
nhân ách Hán. Thác thiện nhường mà lấy thiên hạ, sự chẳng bình tai mặt khôn
che; còn duy trì bởi đức tiên vương, dân đoái cảm tơ hào nỡ phụ. [tờ 61a] Xem
nhân tâm khá hay thiên ý, suy thiên ý thực ở nhân tâm.
Chúng ta
nay, chịu vóc trượng phu, tắm ơn Đại Việt. Có kẻ tự tài tướng súy, lảu lộc thao
cầm; có người dựng nghiệp thi thư, ra đường khoa mục. Văn vũ tài dùng há mượn,
kinh quyền đạo phải chẳng nề. Hoặc đẹp duyên gặp phải Lê Triều, có quan có lộc;
hoặc đội nghĩa phò nhà Mạc thị, chịu tước chịu ơn. Hướng minh tuy nhẫn chẳng
cùng, xử biến cho hay có khác. Như thuở trước, thầy tớ Tử Nghi làm dữ, ta đã
cùng lòng cùng sức dẹp yên; đến khi giờ, cha con Phạm Quỳnh mọc gian, nó lại
đổi sách đổi lèo gây loạn. Làm uy phúc muốn [tờ 61b] về ở nghĩ, kết tội danh
hòa hãm ép người. Sai ác đảng luôn thổi phù ngôn, vu chưởng phả mong lòng tự
lập. Đô dài làm quan nhĩ mục, ở doanh thành mà đón bắt làm sao; Thái tể bàn
việc miếu đường, về kẻ chợ nỡ khua vây mà dám. Phiêu vị sự làm nhẫn bế, đày
triều ai có tỏng đâu. Chúa Cảnh Lịch luống giữ giống hư, chước nào khả chế; vua
Khiêm Vương dể nghe lời siểm, trách ấy khôn từ. Phép quốc gia chưa sáng hình
chương, loài gian ác càng dông bạo ngược. Kinh ấp hai phường phố xá, đốt hết
lâng lâng; quan cư mọi chốn nha môn, cướp không thảy thảy. Hàm đồ tịch đày vơi
hoại hết, của kho hàng [tờ 62a] nhiều ít chở đi. Nữ phù không dãy quế buồng
tiêu, nào kinh danh phận; tư dời hiếp xe rồng liễn phượng, bỏ lẽ thành trì.
Thống tốt đồ dấy việc can qua, để sinh linh tới nàn thủy hỏa. Những thói chuột
quen nương xã, xã đã mất khôn nương; nào cốc nước đày lấp thuyền, thuyền chẳng
ngự dễ lấp. Ếch dưới giếng ngo ngoe xưng lớn, yến trên lương lọc lạch còn
ăn...1 nó lấy làm chơi, biến cả ai hầu chịu thác. Âu cây nát ắt là bỏ rễ,
thương vay tệ Mạc mau đời; đến vận lành thực hệ ở trời, mừng lấy chúa Lê lại
dấy. Vua Thuận Bình thực dòng Đế Trụ, dưỡng đức Lam Sơn. Nối dấu Thiếu Khang,
bởi Luân ấp Ngu ấp [tờ 62b] đặng đồ tái tạo; ắt nghe thần mỹ, có Lương quốc Gia
quốc phò vận trung hưng. Được thời được chúa được tôi, có đất có người có của.
Cõi Hoan châu cõi Ô Lý, trông đức giáo thuyền bể vượt thông; trấn Thuận Hóa,
trấn Tuyên Quang, mang ngọc bạch qua non sum hợp. Binh ứng viện đã dẹp tan Ninh
Sóc, thư qui phụ này ngày thấy Lạng Sơn, Quận Huyện đòi chốn khua trừ, thủy bộ
hẹn ngày thẳng tới. Ngựa làm cơ, voi làm trận, sáu quân đua khí mãnh hơn hơn;
bầu đem nước, giỏ đem cơm, muôn họ dốc lòng về thố thố. Quan nghi cũ người đều
mừng thấy, anh hùng nhiều ai chẳng phục đòi. Đây đã biết sở hướng minh, đấy khá
toan bề qui thuận. [tờ 63a] Chớ cậy trường giang, có phân nam bắc, mà lấy làm
ràng; dù mất đông ngu, còn thu tang du, nào rằng đã muộn. Gặp cơ hội đã đành
chẳng lỡ, luận công danh chỉn thực phải thâu. Nhược lo nghĩa cả tòng quân, bao
chẳng tòng quân, noi thuở Quang Thiệu, thuở Thống Nguyên cho phải nghĩa; tu ắt
học xưa trạch chúa, bao chẳng trạch chúa, bằng ngươi Lý Thông ngươi Mã Viện mới
nên hiền. Khuyên chớ hồ nghi, kíp nên quyết đoán. Kìa Trương Lương làm tôi Cao
Tổ, bút lại thần tay chép còn khen; nọ Phạm Chất lại thờ Nghệ Tổ, nhân Cơ tử ai
rằng có kém. Nhìn thư diển chẳng toan noi trước, dù việc nào ai trách chưng
sao. Oai sấm dậy bởi trời, binh khỏe nỡ hùng bi ai địch; ngọn lửa lan [tờ 63b]
khắp núi, thế cháy âu ngọc thạch đâu phân. Nhớ nghĩa xưa cũng muốn về lành, ngỏ
lòng thực xá tin nhắn bảo "2.
1 Khoảng này chính bản bỏ
trắng chừng 3 chữ.
2 Bài văn này, bắt đầu tự câu
"từng mảng rằng ", đến câu "ngỏ lòng thực xá tin nhắn bảo
"này, chính bản chép bằng chữ Nôm. Đây là phiên âm, chứ không phải dịch
vănn chữ Hán.
Tháng 5,
Thái sư xuất quân tự Hưng Hóa qua đò sông Thao đến An Lạc, cùng với Vân Mật
tiến đóng tại núi...1, rồi đánh phá quân Kính Điển, bèn thẳng tới Xuân canh Lâm
hạ, thắng luôn mấy trận nữa. Bá Ly, Khải Khang2 và Văn Mật chia làm ba đường
tiến đánh, cũng đều phá được các Tướng họ Mạc khác. Thế quân rất mạnh, Phúc
Nguyên sợ hãi, đang đêm bỏ Kinh chạy tới Kim Thành, gọi nơi trụ sở là Biện Đăng
Long, chỉ Lưu Kính Điển ở lại làm Tướng Đô đốc, chống giữ bờ Bắc sông Bồ Đề.
Quân vua Lê bèn khôi phục Đông Kinh, sĩ dân hào kiệt nối tiếp qui phụ. Thái sư
cùng các Tướng hội cả ở Kinh Sư, [tờ 64a] mở đại yến khao thưởng Tướng Tá, tùy
theo cấp bậc.
Lúc này
vương sư thắng trận luôn luôn, một dãy núi phía Tây Nam , và các Phủ: Thường ứng, Lý
quốc và Quảng Oai, đều đã thuộc về bên ta. Về bên giặc Mạc chỉ có 2 đạo Đông Bắc, chúng bắt dân các làng lệ
thuộc vào các doanh trai, tự sông Bồ Đề trở lên phía Bắc, chúng đắp lũy đất,
đặt thuyền chiến, quân thủy quân bộ đóng xen kẻ nhau, phòng thủ rất nghiêm
nhặt!
Bọn Bá
Ly và Nguyễn Khải Khang tính rằng: Hiện Phúc Nguyên đã chạy lên Kim Thành, thì
khí thế đã xuống lắm, dù có lưu quân phòng thủ, cũng không đáng làm lo ngại cho
ta. Nến bây giờ đón Hoàng thượng tiến ngự tại Kinh thành, thì nhân tâm rất
hưởng ứng, hào kiệt sẽ đều qui phụ, nhân giữ trung châu mà hiệu lệnh bốn
phương, để quét hết bọn giặc tàn, [tờ 64b] thì công khôi phục, sẽ có thể tính
từng ngày. Bèn sai người tâu báo thắng trận, và dâng tờ biểu đón Hoàng đế ra
ngự Đông Kinh.
Thái sư
thì tính rằng: Hiện đảng giặc hãy còn khá nhiều, chúng có thể kêu viện binh các
nơi đến đông đảo. nếu quân ta vào sâu nơi trọng địa, ngộ chúng đón đánh chặn
ngang, thì dù có lấy được Đông Kinh, cũng khó lòng giữ nổi. Vả chăng lúc này
nhân tâm cũng chưa hết thẩy hướng về mình. Chi bằng hãy giữ vững nơi căn bản
đã, chưa nên khinh động. Bởi thế Thái sư không ký tên vào tờ biểu trên.
Khi
Hoàng thượng xem tờ biểu của các Tướng, không thấy tên ký của Thái sư, ngài
biết ngay Thái sư tất có ý kiến khác, bèn hạ tờ chiếu cho các Tướng kéo quân
về.
Trước
khi ta lui binh, Phúc Nguyên đã sai tướng Khánh quốc công, dẫn thủy quân tự
Đông Nam ngược dòng tiến lên, đóng sẵn tại núi Công, định đánh ngang vào hậu
quân ta. Nhưng Thái sư hồi binh tiến đánh, phá tan rồi cùng bọn Bá Ly trở về
Thanh Hoa, Văn Mật công thì trở về Tuyên Quang.
[tờ 65a]
Sau khi ta đã lui binh, Phúc Nguyên lại chiếm thành Đông Kinh, nhưng còn ở Bồ
Lộc. Kính Điển sai bộ binh đóng đồn tại Yên Mô, thủy binh đóng đồn ở Thần Phù.
Các xứ Sơn Nam Sơn Tây lại thuộc về họ Mạc.
Mùa
xuân, năm Thuận Bình thứ 5 (1553), Thái sư lập hành tại ở An Trường.
Phúc
Nguyên mở khoa thu Cử nhân, lấy bọn Nguyễn Lượng Thái cộng 20 người trúng
tuyển. Tháng 6 năm này, bày tôi Phúc Nguyên: Trấn thảo doanh Tổng đốc Hưng quận
công Nguyễn
Quý
Liêm, và Hùng tiệp doanh Hiệu Lý Nguyễn Ngạn Hoằng dâng tờ sớ rằng:
"Quốc
gia phải có kỷ cương, kỷ cương có nghiêm thì thiên hạ mới định. Thời xưa, vua
nhà Chu chấn chỉnh kỷ cương mà nên danh trung
hưng, vua nhà Đường chấn cử kỷ cương mà nên nghiệp trung thiên. Đó là do trên
vua giữ kỷ luật, cho nên bầy tôi không dám chuyên quyền vậy.
[tờ 65b]
"Gần đây , gặp lúc quốc gia có biến, Tướng ngạo binh kêu, không tuân hiệu
lệnh, triều đình hờ hững, chẳng chịu hỏi tra. Nay kỷ cương đã phấn chấn, như
việc binh việc ngục tụng, là việc lớn đều có thống giữ, nếu người không phải
phận sự, thì không được thiện tiện. Thế mà hạ thần thấy: Các Phủ Huyện lấy
lính, tuy đã chiếu đủ số, mà mỗi khi sai làm việc gì, thì người nọ lừa cho
người kia, cố ý lánh việc, Tướng quân không cấm nổi, để cho cái tệ quấy nhiễu
càng ngày càng nhiều. Đến như việc ngục tụng, là trách nhiệm của quan Hữu Ty,
thế mà các Nha Phủ, các quan trong doanh trại, và các quan Đô Ty vệ sở, đều lập
sở hỏi kiện trong nhà, có người kiện về việc hộ, việc giá thú, điền sản và các
việc khác, [tờ 66a] các nơi trên đều tự tiện nhận đơn, rồi bắt tới tra khảo,
hạch sách tiền của, tự ý phân xử,
1 Chữ này là tên quả núi.
Nhưng chính bản bỏ trắng. Vậy không biết là núi gì ?
2 Chữ này chính bản chép
"khải hoàn " (dẫn quân thắng trận trở về). Xét không hợp nghĩa câu
văn. Hoặc do chữ "khải khang" chép lộn ra chăng ? Khải Khang là tên
người, tức Đoan quốc công Nguyễn Khải Khang. Xin dịch theo chữ "khải khang
".
mà các
quan Hữu Ty cũng không can thiệp. Thậm chí có viên đích thân đem thuyền đi bắt
con gái lương dân! Những tệ đoan như vậy, mà bỏ qua không hỏi tới, thì còn lấy
gì để đè nén người quyền quý, chấn chỉnh kỷ cương triều đình.
Hạ thần
Quý Liêm, lạm giữ việc binh, tuy không phải chức ngôn quan. Nhưng nếu biết mà
không nói, sợ thiếu nghĩa kẻ bầy tôi.
Vậy xin
giao triều thần họp bàn, rồi thông sức cho các quan Phủ Doanh và Đô Tư, không
được nhiễu dân như trước, để cho trên dưới được yên, kỷ cương lại chỉnh ".
Phúc
Nguyên cho sớ này là phải.
Bọn Thái
bảo Hồng quốc công Nguyễn Phú Xuân, và Chung mỹ hầu Đoàn duy hưu xin sao tờ sớ
của Quý Liêm trên, gửi cho các Doanh, truyền lệnh: Nếu kẻ nào vẫn dám [tờ 66b]
làm bậy như trước thì; cho các viên Tán lý, Ký lục và bản đạo Thừa hiến doanh
ấy, được xét tâu để trị tội. Lại truyền lệnh cho toàn dân thiên hạ; Như có ai
đến Doanh môn, nộp đơn kiện, mà nhân viên không phải là người có trách nhiệm về
ngục tụng của nha môn, lại thiện tiện đòi hỏi tra xét thì, nên xét tâu để trị
tội.
Niên
hiệu Thuận Bình thứ 6 (1554) Phúc Nguyên đổi niên hiệu Cảnh Lịch thứ 7 làm niên
hiệu Quang Bảo thứ nhất.
Thái sư
Trịnh Kiểm lập hành danh tại Biện thượng. Lúc này khí thế quân sĩ đang lên, bèn
sai các Tướng kinh lược Hóa châu, Đàm Bá và Hoàng Bôi, chiếm cứ đầu nguồn nước,
chống cự cố thủ. Quan quân bình định các Huyện, các thổ hào và các quan tự Đông
Kinh bổ nhiệm, tới đâu đều hàng phục, cả Hương dương bá Nguyễn Đức Trung cũng
qui thuận, liền thêm binh đánh gấp, phá tan quân chống cự, [tờ 67a] giết chết
Phạm Bôi, bình định cả hai xứ Thuận, Quảng. Tham Tướng Phạm Khắc Khoan lại xuất
quân chống cự quân ta, nhưng cũng bị thua và chết trận. Sau khi bình định hai
xứ này, Thái sư thu nhập các hào mục và sinh viên trong xứ, bổ nhiệm vào các
công chức. Phương này được yên.
Hoàng đế
bắt đầu mở khoa thi, cho Đinh Bạt Tụy trúng tuyển hạng "xuất thân ".
Tự đấy nhân tài các phương, không ngại đường xa ngàn dặm, đều đua nhau vào
Thanh Hoa ứng thi, mong để hiệu dụng Hoàng đế bèn tùy tài từng người, bổ nhiệm
các chức. Quốc gia càng trở nên thịnh vượng.
Tháng 6,
Thiếu sư trí sĩ Trần Phỉ chết, thọ 76 tuổi. Vì lúc này quốc gia đang nhiều biến
cố, cho nên Phúc Nguyên không sắm lễ nghi đầy đủ, chỉ cấp tiền phúng điếu 20
quan, và 57 mẫu ruộng "thế nghiệp ".
Niên
hiệu Thuận Bình thứ 7 (1555), Lúc này Phúc Nguyên đã dàn đủ Tướng sĩ [tờ 67b]
chống cự quân ta, phòng thủ các nơi yếu hại, trong nước tạm yên, bèn khiến thúc
phụ Kính Điển đem quân vào đánh cướp Thanh Hoa, sai Thọ quận công tiết chế quân
Nam Đạo dẫn 300 chiến thuyền làm quân tiền phong, thẳng tới cửa biển Thần Phú.
Ngày hôm sau, Kính Điển hội quân ở sông Đại Nại, sai Thọ quân công tiến quân
đóng tại Kim Sơn.
Bên ta,
Thái sư đã đặt phục binh trước ở núi Bạch Thạch phía Bắc sông, lại tuyển binh
tượng hùng mạnh mai phục dưới Kim Sơn; sai Trung quan Thái úy Đinh Công, Thượng
tể Lê Bá Ly, và Thái úy Nguyễn Khải Khang, phục binh ở phía Nam sông; còn tự
núi An Định cho tới núi Quân An, thì sai Phạm Đốc và Nguyễn Quyện, dẫn thủy
quân chiếm cứ thượng lưu sông Hữu Chấp đến sông Kim Bôi, để làm thế "ỷ
giác " [tờ 68a] Khi binh thuyền họ Mạc đi qua Kim Sơn, đến chợ Ông Tập, tự
thị hùng mạnh, không đề phòng, trong quân nổi tiếng đàn sáo ca hát, như vào chỗ
không có người.
Đinh
Công và Bá Ly đem quân và voi ngựa tự hạ lưu qua sông, đánh chặn ngang vào hậu
quân bên địch; quân ở thượng lưu thì đánh vào mặt tiền; rồi 4 mặt quân dồn đánh
ập cả vào, phá tan quân Mạc, Thọ quận công phải nhảy xuống sông, bị quân ta bắt
được, còn Vạn đồn hầu và hơn mười Tướng Tá khác, đều bị chết đuối. Kính Điển
thu thập tàn binh chạy về Kinh Sư.
Mùa
xuân, niên hiệu Thuận Bình thứ 8 (1556) Phúc Nguyên mở khoa thi Cử nhân, lấy
bọn Phạm Trấn cộng 14 người trúng tuyển.
Năm này,
vua Trung Tông Hoàng đế thăng hà, Thái sư đón cháu huyền tôn của Giám quốc công
là Thự nhàn sự Mai Sơn Hầu Duy Bang, ở làng Bố vệ xứ Đông Sơn vào lên ngôi vua.
Đó là vua Anh Tông.
[tờ 68b]
Năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiên Hựu thứ nhất (1557), nhằm niên hiệu Quang Bảo thứ
4 triều Phúc Nguyên, mùa xuân, Phúc Nguyên dùng Kính Điển kiêm chức Tông nhân
lệnh.
Lê Bá Ly
sau khi đem con em họ hàng về Thanh Hoa qui thuận, lần thăng tới chức
"Khai phủ bình chương quân quốc trọng sự, chưởng triều đường chánh ",
đến ngày 1, tháng 4 năm này chết, hưởng thọ 82 tuổi, triều đình ban tờ chiếu
tặng tước Nghĩa huân công, và ban tên thụy là Trung Hựu.
Mùa thu,
tháng 7, Phúc Nguyên sai Kính Điển vào đánh cướp Thanh Hoa; Phạm Quỳnh và Phạm
Dao đánh cướp Nghệ An. Kính Điển đến địa phương Tống Sơn, Nga Sơn nơi sông Thần
Phù, đốt phá hết cầu nổi của ta. Thái sư sai thuộc tướng Thanh quận công đóng
đồn quân tại Nga Sơn; Thụy quân công Hà Thọ Tường đóng đồn quân tại Tống Sơn để
chống cự, nên quân giặc không dám tiến. Thái sư đích thân đốc xuất binh tượng,
[tờ 69a] đi ngầm theo chân núi Yên Mô thẳng tới cửa biển, phóng quân đánh vào
sau lưng quân địch, lại sai thuộc tướng Vũ lăng hầu Phạm Đức Kỳ người ở Hoằng
Hóa, vượt thuyền xung kích trước, Đức Kỳ gặp thuyền Kính Điển, liền nhảy vọt
sang, tuốt gươm chém tên vác dù đứt làm hai đoạn, rơi xuống sông! Kính Điển
không kịp trở tay, liền nhảy xuống sông trốn. Quân đều tan rã chạy vào rừng
núi, quan quân ta bắt được rất nhiều thuyền và khí giới.
Sau khi
Kính Điển nhảy xuống sông, trốn vào ẩn núp tại hang núi Dân sơn xã Trị nội,
trong 3 tháng rất đói khát. Một đêm, nhân thấy cây chuối trôi qua cửa lạch, bèn
ôm vào cây chuối tìm lối bơi về, mấy tháng mới tới bến Trinh nữ hạt Yên Mô, gặp
người đánh cá ở xã Tràn Tu, dùng thuyền chở cho được thoát nạn. [tờ 69b] Khi
Kính Điển về tới Kinh, bảo cử người đánh cá lên tước Phù nghĩa hầu.
Sau khi
Thái sư đã đánh phá quân Kính Điển, liền dùng ngay chiến thuyền của Kính Điển
chở tinh binh, cắm cờ hiệu của bên địch trên thuyền, rồi sai Phạm Đốc dẫn chiến
thuyền tới cửa biển Đan Giai. Phạm Quỳnh và Phạm Dao đang đóng đồn ở Tả Ao hạt
Nghi Xuân, trông thấy chiến thuyền, tưởng là quân tiếp ứng của mình, nên không
đề phòng, Phạm Đốc thẳng tới đánh úp, phá tan quân địch! Bọn Phạm Quỳnh bỏ
thuyền chạy về.
Tháng 8,
Thượng thư bộ Lại Thư quận công Nguyễn Thiến chết ở Thanh Hoa, con trai là
Quyện và Miễn đều trốn đi, trở về hàng Phúc Nguyên, Phúc Nguyên úy lạo, phục
tước Văn phái hầu cũ cho Nguyễn Quyện; tước Phù hưng hầu cho Nguyễn Miễn và gả
con gái tôn thất cho. Sai hai anh em xuất binh chống cự quân vua ta.
Tháng 9,
Thái sư đem 50.000 thủy lục quân đánh họ Mạc, [tờ 70a] ra trung lộ xứ Sơn Tây,
đến sông Phượng Sí, tạo cầu nổi để quân qua sông, rồi tiến đánh phá tan quân
giặc, bắt được Tướng là Khánh Quốc Công, quân giặc tan vỡ, ta thu được khá
nhiều chiến thuyền.
Sau khi
Khánh Quốc Công bị bắt, Thái sư cho ngồi lên lưng voi để theo quân hiến kế.
Nhưng y lại mưu phản, bị tiết lộ, bèn đem giết chết.
Quan
quân lược định hạ lộ xứ Sơn Nam, đến hạt Cao Thủy, thì họ Mạc sai Nguyễn Quyện
xuất quân chống cự ở sông Hổ Trì.
Nguyễn
Quyện nguyên là hàng tướng, ở Thanh Hoa đã lâu, nên biết rõ tình hình binh
tướng, và sự thực hư về sức mạnh yếu của ta, vả chăng y lại mới hàng họ Mạc,
muốn lập công để chuộc tội, cho nên đánh rất hăng. Thái sư nghe biết tên Quyện
ở trong trận này, thì giận lắm! Liền đích thân cầm quân, sai bọn Phạm Đốc quản
đốc thủy binh; sai Vũ Lăng Hầu [tờ 70b] tiến đánh Nguyễn Quyện. Đang khi Nguyễn
Quyện và Đức Kỳ ác chiến kịch liệt, Đức Kỳ vươn mình nhảy sang thuyền Nguyễn
Quyện1, chém người vác dù hầu, rồi quát lớn rằng:
"Có
Vũ lăng hầu ta đây! Chúng mày đâu có địch nổi ta ". Quân giặc nghe đều tan
vỡ, bỏ thuyền chạy cả lên bờ.
1 Chữ này chính bản chép
"Đức kỳ thuyền " (thuyền Đức Kỳ ). Có lẽ lầm, vì Đức Kỳ đang ở trong
thuyền của mình, sao lại còn nhảy sang thuyền Đức Kỳ để giết giặc. Hoặc do chữ
"Nguyễn Quyện thuyền " (thuyền Nguyễn Quyện ) chép lộn ra chăng ? Xin
dịch theo chữ "Nguyễn Quyện ".
Thái sư
vội ra lệnh thu quân trở về, sai Hoàng Đình Ái cầm đạo quân "điến hậu
". Nhưng bị quân giặc đánh chặn lối đường về, quan quân phải hết sức chiến
đấu, mới qua được, bị chết mất hơn chục Tướng Tá, bao nhiêu thuyền mảng khí
giới phải bỏ hết! Tự đây, các huyện xứ Sơn Nam lại thuộc về họ Mạc. Phúc Nguyên
bèn phong tước Thạch quận công cho Nguyễn Quyện.
Năm Mậu
Ngọ niên hiệu Chánh trị thứ nhất (1558), Thái sư dẫn quân ra trung lộ xứ Sơn
Nam, đánh bất thình lình khi quân địch không để ý, bắt được Tướng bên địch Anh
nhuệ hầu, giết chết.
Tháng 9,
Thái sư lại xuất quân đánh thượng lộ xứ Sơn Nam [tờ 71a] lược định vài Huyện,
rồi về, Lưu Thái úy Nguyễn Khải Khang trấn thủ các Huyện, để chiêu tập dân địa
phương.
Ngụy Đà
quận công Mạc Ngọc Liễn là con trai Nguyễn Kính, và là cháu gọi Khải Khang bằng
cậu, sai thổ dân Mỹ Lương trá hàng Khải Khang, rồi lừa bắt Khải Khang giải về
triều Mạc, Phúc Nguyên bèn xử tử Khải Khang bằng cực hình: dùng xe kéo xé xác.
Triều đình ta nghe được tin này, Thái sư thương Khải Khang là người có nhiều
công lao, bèn tâu xin truy tặng cho tước Hiến trung công, và bổ dùng cháu nội
họ ông là bọn Hữu Liêu.
Tháng
10, Thái sư triều Hoàng đế ở nơi hành tại, bàn về kế sách đánh giặc Mạc, phát
biểu ý kiến rằng:
"Xứ
Thuận Hóa là một kho tinh binh trong thiên hạ, thời xưa, quốc triều ta bắt đầu
gây dựng cơ nghiệp, cũng đã dùng dân xứ ấy để dẹp giặc Ngô. Xứ ấy, địa hình
hiểm trở, dân khí cương cường, lại có rất nhiều nguồn lợi trên rừng núi và dưới
bể sông. Về phương diện trọng yếu [tờ 71b] không có xứ nào có thể hơn. Gần đây,
quan quân kinh lược hàng mấy chục năm mới lấy được. Vậy nên hết sức bảo thủ, để
làm như một bức bình phong vững chắc.
"Còn
như lối đường tự xứ Nghệ An vào, thì vì đường thủy đường bộ xa cách, có thể
khỏi phải để ý lo ngại.
Duy tự
Hải Dương và xứ Quảng Yên, khi nhân thuận chiều gió Nam, giặc phóng thuyền ra
biển, thì chỉ vài ngày có thể đến địa phận ta, sợ binh giặc dễ thừa cơ xâm lược
ta bằng nẻo đường này.
Hạ thần
xét thấy con trai thứ của Chiêu huân Tĩnh công là Nguyễn Hoàng, một người trầm
tĩnh cương nghị, lại có mưu lược, đối với quân sĩ có độ lượng, khoan dung giản
dị. Vậy xin bổ ông làm Trấn thủ, để trị an nơi biên thùy và chống giặc phương
Đông; và lại cùng với Trấn quận công ở xứ Quảng Nam , cùng làm binh cứu viện lẫn
nhau. Hết thẩy các việc to nhỏ ở địa phương ấy, xin đều để cho ông được tùy
nghi định đoạt; lại xin ủy ông thu các sắc thuế, nộp về triều đình đúng kỳ hạn,
để thêm vào sự chi tiêu trong nước. [tờ 72a] Như vậy, thì một khoảng xứ Ô Châu,
khỏi phải để ý lo tới, hạ thần sẽ khỏi phải phân tâm, mà chỉ dốc hết ý chí về việc
đông chinh; Bắt đầu kinh lý xứ Sơn Nam và xứ Sơn Tây, rồi thứ đến khôi phục
Kinh đô cũ, tiễu trừ thoán nghịch. Nghiệp trung hưng sẽ có thể sớm thành công
".
Vua Anh
Tông thi hành theo ý kiến này, tự đấy Phúc Nguyên không dám nhòm ngó tới 2 xứ
Thuận, Quảng.
Mùa
xuân, niên hiệu Chánh Trị thứ 2 (1559), Phúc Nguyên mở khoa thi Cử nhân, lấy
bọn Đặng Thời Thố cộng 19 người trúng tuyển.
Lúc này,
quân vua ta ra đánh liên miên, năm này qua năm khác, quân họ Mạc bị thua luôn,
bởi thế Phúc Nguyên sợ, không dám ở trong kinh thành, bèn tự Bồ đề di cư vào
phía ngoài cửa Nam kinh thành, dựng điện lợp tranh để triều quần thần.
Cũng
thời kỳ này, Thái sư đã trị an nhân dân, luyện tập quân sĩ, thu dụng nhân tài,
tích trữ đầy đủ khí giới lương thực, muốn mở một trận tấn công đại qui mô ra
Đông, để khôi phục cơ đồ, bèn mật bàn với các Tướng rằng:
[tờ 72b]
"Con đường xứ Sơn Nam ,
mỗi khi quan quân ta đông chinh, đều đi lối này, cho nên Phúc Nguyên đem nhiều
tinh binh, cả thủy lục quân bố trí các chỗ hiểm yếu. Ta khó bề tung hoành.
Chỉ có
thượng lộ xứ Sơn Tây, và các xứ Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, vùng này
phần nhiều rừng rậm bao la, đường hẻm quanh quất, chúng không để ý phòng bị. Vả
nơi đó có Tướng doanh
An bắc
Gia quận công Trấn thủ Đại Đồng, vẫn hết lòng trung thành với vua ta. Một khi
ta tới đấy hội hợp với Quận công, thì khi tiến quân có thể đánh phá, khi lui
quân sẽ có lối về.
Vậy nay
nên xuất quân lối Thiên Quan, đi qua xứ Hưng Hóa; qua đò sông Thao, hội hợp với
Gia quốc công1, thu dụng các Phiên mục Thổ tù nơi đó, để tăng cường tế quân,
rồi đi theo đường chân núi, lược định 2 xứ Thái Nguyên và Lạng Sơn, phủ dụ dân
biên thùy, chiêu tập các hào kiệt, để cắt vây cánh quân giặc, [tờ 73a], rồi sau
mới dẫn quân xuống xứ Kinh Bắc, chia quân đánh vào Hải Dương, Sơn Nam, làm cho
rung cành lá vá lay cỗi rễ quân địch, thì thiên hạ sẽ dao động, thế giặc sẽ
xuống ngay. Lúc ấy Phúc Nguyên chỉ còn giữ 4 bức tường kinh thành mà thôi, ta
sẽ đem đại quân đánh vào 3 mặt, còn lo gì không thắng ".
Trong
Tướng Tá có vị thưa rằng:
"Xuất
quân con đường ấy, thì sự vận tải lương thực sẽ chậm trễ, vả lại cách với nội
địa quá xa, nếu bị chúng đánh chặn, thì sự lui quân cũng rất khó khăn ".
Thái sư
rằng:
"Đâu
phải thế! Nơi đó 4 xứ: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên và Lạng Sơn, nhân dân
giàu có, tiền thóc dư thừa, ta đến đâu sẽ có lương thực ngay nơi đó, còn lo hì
về sự thiếu ăn. Vả đấy có dãy núi quanh co dài hàng ngàn dặm, ta đem tinh binh
và voi ngựa hùng mạnh, rải vào những khoảng rừng rậm đó, thì còn ai có thể
lường được là nhiều ít hư thực thế nào. Một khi ta đánh chiếm được một xứ nào,
thì ta lưu một viên mãnh tướng lại, rồi dùng thêm phiên thần cùng trấn thủ các
nơi yếu hại. Như vậy thì đầu đuôi liên lạc, cứu viện tiếp liên, tức là cái thế
"Thương sơn xà " (con rắn núi Thương sơn ) đó. Nếu chúng đánh chặn,
chỉ tổ cho ta bắt hết.
Ta chỉ
lo về xứ Thanh Hoa, các cửa biển đều là cái then khóa cốt yếu của nội kỳ, cần
phải canh phòng rất cẩn mật, để quân giặc khỏi nhòm ngó. Chỉ cốt giữ cho nội kỳ
vô sự, thì đại sự sẽ thành ".
Bàn định
xong, bèn dâng biểu lên Hoàng đế, xin xuất quân đông chinh. Bảo cử viên Tướng
trong họ Phong quận công Trịnh Quang làm Đề thống ngự doanh, Phù quận công Lê
Chủng làm Trấn thủ đạo Thanh Hoa, Trào quận công Vũ sư thước và An quận công
Lại thế khanh, cùng lãnh tinh binh trấn thủ cửa biển. Dặn 2 viên Tướng này;
Phải kiên cố đập lũy; cẩn thận dọ thám, liên lạc mau chóng, để phòng quân giặc
đến đánh.
[tờ 74a]
Mùa đông, ngày Giáp Tuất tháng 10, Thái sư cùng Tướng sĩ thân xuất 60.000 đạo
quân bắc phạt, trương thanh thế là 120.000 quân, dùng Hoàng Đình Ái làm Tướng
đạo quân tiên phong, do Thiên Quan tiến ra các huyện Sơn Tây, Mỹ Lương và Bất
Bại, quân đi qua nơi nào đều không lấy của dân một mảy may, nhân dân các nơi ấy
đều được yên ổn như thường. Khi quân tới Hưng Hóa, thì Tướng Tây đạo Định quận
công dẫn binh lại hội, các đồn quân giặc đều bị phá và đều ra hàng. Khi lược
địa đến địa giới Tuyên Quang, thì Vũ Văn Mật ra đón, Thái sư nhân bàn tiến binh
qua sông, để lược định các đạo Thái Nguyên, Lạng Sơn và Kinh Bắc, bèn sai Văn
Mật trấn thủ Đại Đồng như cũ, Định quận công thì trấn thủ An Tây, để giữ nơi
xung yếu, rồi đem dân phu nơi dọc đường đi theo, để khai phá đường lối, tự
Thiên Quan liền tới [tờ 74b] Kinh Bắc, để tiện vận tải lương thảo; sai các
Tướng chia đi đánh các Phủ: Phú Bình, Trường Khánh. Châu Huyện nào cũng tan vỡ
ra hàng. Thái sư bèn đích thân xuất đại binh tự Lạng Sơn xuống, đóng quân tại
Doanh Thuận, cùng cầm cự với quân Phúc Nguyên. Sau lại đóng đồn quân trên núi
Tiên Du.
Tháng
11, Thái sư đem quân đánh các Phủ: Siêu Loại, Văn Giang và Khoái Hồng, binh kéo
đến đâu quân giặc đều tan chạy.
Tháng
12, Thái sư sai Tướng khác đánh phá các Phủ Huyện hạt Khoái Châu và Nam Sách,
quân địch trông thấy bóng quân ta đều thua chạy.
1 Cũng là một người và chỉ
trong một thời gian ngắn, mà văn trên chép "Gia quận công ", đây chép
"Gia quận công ". Vậy không biết văn trên hay văn dưới chép lộn.
Niên
hiệu Chánh Trị thứ 3 (1560), tháng giêng, Thái sư lại chia quân do Khoái hồng
tiến về Nam, đánh phá hạt Tiên hưng, một đạo do Nam sách tiến về Đông, đánh phá
hạt Kinh Môn, hạ hết các Huyện: Đông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, và An Dương.
Phúc Nguyên kinh sợ, bèn khiến thúc phụ [tờ 75a] Kính Điển đóng đồn tại Kinh
Bắc, để chống cự đại quân ta; sai các Tướng chia giữ Đông Kinh, đóng đồn binh
khắp phía ngoài thành. Một dãy sông về phía Tây, trên tự Bạch hạc, dưới xuống
đến Nam sang, đều đóng doanh trại liền liền, thuyền mỏng san sát, trại nọ liên
lạc với trại kia, ban ngày thì bằng ngọn cờ tiếng trống, về ban đêm thì bằng bó
đuốc cây đèn. Phúc Nguyên thì di cư về huyện Thanh Trì.
Tháng 3,
Thái sư sai Hoàng Đình Ái trấn thủ Lạng Sơn, Lê Khắc Thận trấn thủ Thái Nguyên,
Vũ Văn Mật trấn thủ Tuyên Quang, 3 trấn này liên lạc để đều làm binh cứu viện
lẫn nhau, ngày đêm đánh phá các Châu Huyện chưa hạ được ở hạt Phú Bình và Văn
lan; lại sai Định quận công trấn thủ Hưng Hóa, để chiêu tập nhân dân các châu
Mai mộc và Hoa việt, cung cấp lương thực cho quân lính. Tự Thiên Quan tới Kinh
Bắc, ta đóng rất nhiều đồn trại liên tiếp. Binh uy lừng lẫy!
[tờ 75a]
Tháng 4, Thái sư đóng quân tại Phía Nam Lãm Sơn, sai các Tướng chia nhau tiến
về phía Đông, đánh phá các Huyện: Đường an, Đường hào, Thanh miện và Gia cốc,
các đồn binh ở các nơi đây đều tan vỡ.
Tháng
10, Kính Điển dẫn quân qua sông, tiến tới huyện Vũ Ninh, để chống đại quân ta.
Có viên Tướng khác của Thái sư sai là Đặng Huấn, thừa tiện lẻn tiến đánh quân
kính Điển, bị Kính Điển đánh cho bại trận, dưới cờ chỉ còn lại chừng hơn hai
trăm quân, Đặng Huấn thu thập tàn quân, dẫn lên đồi cao nghĩ ngơi, sai quân sĩ
bỏ yên ngựa và tắm cho voi, tỏ ra vẽ nhàn hạ ung dung. Quân giặc kéo vây khắp
cả đồi dày 3 vòng, Đặng Huấn truyền lệnh quân sĩ; không được huyên náo! Chờ đến
khi thấy quân địch vó vẻ trể nải, lúc ấy mới dồn quân ùa xuống, hết thẩy đều
hết sức chiến, chạy lọt ra ngoài mấy vòng vây, [tờ 76a] quân giặc đều tơi bời
rạt cả ra, không tên nào dám gần, Đặng Huấn bèn dẫn quân về Lãm Sơn, hội với
đại quân Thái sư.
Năm này,
gặp vụ lúa trúng mùa, Thái sư sai thổ dân đã qui thuận ở các Huyện, cung cấp
lúa mùa để thêm quân nhu.
Tháng 3,
niên hiệu Chánh Trị thứ 4 (1561), có người hiến kế với Phúc Nguyên rằng:
"Vương
sư xâm lấn ta rất gắt! Ta sở dĩ kiên thành cố thủ, để cầm cự lâu dài, là có ý
muốn chờ khi Vương sư thiếu lương sẽ bại. Nhưng hiện nay đường vận tải của Vương
sư rất thuận tiện, tiếp tế lương thảo liên tiếp đầy đủ, bàn cứ đã 2 năm nay,
thanh thế rất mạnh. Thì còn chờ đến lúc nào để thừa cơ đánh phá. Chi bằng đánh
xuất kỳ bất ý, ngầm dẫn quân đánh thẳng vào Thanh Hoa, đánh ngay vào nơi tâm
phúc, thì đạo quân vây nơi Kinh Bắc và Hải Dương, ta không cần đánh cũng sẽ tự
giải. Đó là cái kế "đánh nước Ngụy để cứu nước Hàn "1 của Tôn Tử vậy
".
Phúc
Nguyên nghe theo lời trên, bèn sai viên Tướng khác thay Kính Điển trấn thủ Kinh
Bắc, rồi ngầm vời Kính Điển về Kinh Sư.
[tờ 76b]
Tháng 7, Kính Điển dùng chiến thuyền vào cướp Thanh Hoa, đánh vào các cửa biển.
Các Tướng trấn thủ cửa biển là Vũ Sư Thước và Lại Thế Khanh không có phòng bị,
trong khi hoảng hốt, vội lui quân về giữ sách Vạn Lại. Thái sư được tin trên,
bèn gấp truyền lệnh cho Hoàng Đình Ái ngầm dẫn quân về trấn thủ Thanh Hoa.
Tháng 9,
Kính Điển đánh vào cửa quan An Tràng, tiến tới sách Vạn Lại, sách sắp bị hãm,
thì phục binh của Sư Thước chỗi dậy, cố sức chiến đấu, đánh bại đạo quân tiền
phong của địch, chém đầu hơn trăm tên. Kính Điển lại được tin viện binh của
Đình Ái sắp đến, bèn lui quân về Kinh ấp.
1 Câu này chính bản chép
"công Hàn cứu Hàn " (đánh nước Hàn để cứu nước Hàn ). Đó là do chữ
"công Ngụy cứu Hàn " chép lộn ra . Điển này như sau:
Thời chiến quốc, vua nước
Ngụy sai Bàng Quyên dẫn quân đánh nước Hàn, Hàn bị nguy cấp, cầu nước Tề cứu,
nước Tề sai Tôn Tẫn làm quân sư dẫn quân cứu nước Hàn. Nhưng Tôn Tẫn không đến
nước Hàn để giải vây, hạ lệnh quân sĩ tiến thẳng vào đường tới nước Ngụy, tuyên
ngôn sẽ đánh vào kinh đô nước Ngụy. Bàng Quyên được tin cấp báo, vội vàng kéo
quân về cứu bản quốc. Thế là nước Hàn được thoát nạn
Thái sư
cũng triệt hết quân ở các doanh, lui về Thanh Hoa, dâng công chiến thắng lên
Hoàng đế ở nơi hành tại, rồi dừng quân tại phía Nam thành Tây đô, thăng thưởng
cho các Tướng sĩ có công chiến thắng, lại dùng mưu thần là Phùng Khắc Khoan [tờ
77a] làm Ngự doanh ký lục tri tứ vệ.
Tháng
12, Phúc Nguyên sai Thái bảo Nguyễn Phú Xuân và Lại bộ Tả thị lang Giáp Trưng,
dẫn quân đánh xứ Lạng Sơn. Lúc này, Tướng giữ thành Lạng Sơn Hoàng Đình Ái, đã
theo đường núi trở về Thanh Hoa trước rồi, viên Tướng do Đình Ái lưu lại giữ
thành bị thua trận, tan vỡ. Phú Xuân bèn chiếm cứ thành, rồi đưa thư sang nhà
Minh, tiếp lĩnh người qua Bắc về. Nhà Minh hỏi: Quân chiếm thành Lạng Sơn vừa
rồi, là quân họ Mạc hay quân họ Lê ? Giáp Trưng phúc đáp: quân chiếm thành Lạng
Sơn vừa rồi là quân giặc.
Năm Nhâm
Tuất1, niên hiệu Chánh Trị thứ 5 (1562), Phúc Nguyên mở khoa thi Cử nhân, lấy
bọn Phạm Duy Quyết cộng 18 người trúng tuyển.
Tháng 2,
vua Anh Tông sai Lộc quận công, Nhân khê hầu đem quân lược định 10 châu xứ Hưng
Hóa.
Tháng 3,
Phúc Nguyên bổ Giáp Trưng chức Thượng thư bộ lại [tờ 77b] phong tước Tô khê
hầu. Tháng 9, Thái sư xuất binh ra Sơn Nam, đi tuần các địa phương hạt Thanh
Trì và Thượng Phúc, lập đại doanh tại Sơn Minh.
Tháng
11, Vương sư trở về.
Tháng 2,
niên hiệu Chánh Trị thứ 6 (1563), vợ Phúc Nguyên là Bùi Thị sinh hạ Mậu Hợp.
Ngày mồng... tháng 2 niên hiệu Chánh Trị thứ 7 (1564)2.
1 Chữ
"Nhâm tuất " chính bản chép lộn ra chữ "Nhâm mậu ".
2 Đoạn
văn này chính bản chép tới đây là hết, như vậy chưa đủ nghĩa. Xét văn dưới
chép: "Mậu Hợp tiếm ngôi tháng 2 năm Giáp Tý niên hiệu Chánh Trị thứ 7
". Vậy có thể phỏng đoán là chính bản chép sót mấy chữ "Phúc Nguyên tử
" (Phúc Nguyên chết) chăng ?
Đại Việt Thông Sử
LIỆT TRUYỆN
Thần Đôn soạn
NGHỊCH THẦN TRUYỆN
Mạc Mậu
Hợp, con trai trưởng Phúc Nguyên, tiếm ngôi tháng 2 năm Giáp Tý, niên hiệu
Chánh Trị thứ 7 (1564), lúc này Mậu Hợp mới lên 2 tuổi, các việc đều do ông chú
bọn Kính Điển và Đôn Nhượng phụ tá, đổi năm sau làm niên hiệu Thuần Phúc thứ
nhất.
Thái sư
sai biệt Tướng Đặng Huấn ra núi Hoài An, năm sau1 sai Đặng Huấn thôi đốc các
dân đã hàng trong hạt Trường An và Thiên Quan, tu sửa con đường tự Phố Cát tới
Bình Lương, để tiện sự vận tải lương thảo. [tờ 79b] Tự đây, các huyện về phía
Tây hạ lưu sông Xương Giang trong xứ Sơn Nam đều bình.
Tháng 9,
Thái sư xuất quân ra trung lộ xứ Sơn Nam , đánh các Huyện thuộc Phủ
Trường An, đến tháng 11 mới dẫn quân về.
Niên hiệu
Chánh Trị thứ 8 (1565), Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Phạm Quang Tiến,
cộng 16 người trúng tuyển.
Tháng 4,
Thái sư xuất quân đánh phủ Trường An, phá hết các Huyện trong Phủ.
Mùa thu,
tháng 9, Thái sư lại đốc đại binh đánh thượng lộ xứ Sơn Nam , đánh nơi
nào thẩy đều thắng trận.
Kính
Điển bảo các Tướng dưới quyền rằng:
"Lúc
này binh sĩ của chúng (chỉ Thái sư Kiểm ) rất tinh nhuệ, khó lòng đối địch, nếu
đánh nhau với chúng, sợ không thắng nổi. Hiện chúng đang thân đốc đại binh đến
đây đánh phá vùng Sơn Nam ,
nhưng chưa dể gì đã qua được sông mà thẳng tiến đâu. Thanh Hoa là nơi căn bản
của chúng, dù có lưu binh ở lại chia giữ các nơi, chẳng qua cũng chỉ một vài
Tướng Tá thôi. [tờ 80b] Vậy ta nên sai một vài đại Tướng, đem binh cầm cự với
chúng ở đây, để cầm chân chúng, rồi sai đem vài vạn quân, do đường thủy ngày
đêm tiến gấp tới địa phận Thanh Hoa, xuất kỳ binh bắt lấy những Tướng phòng thủ
nơi đấy. Đó là kế "xã kiên công hà, xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị "
(bỏ nơi kiên cố đánh vào nơi sơ hở; đánh bất thình lình vào nơi đối phương
không phòng bị ), mà là yếu điểm tất thắng đấy ".
Tháng
11, Kính Điển bèn xuất chiến thuyền vượt biển vào cửa biển Linh Tràng, đánh phá
các Huyện Thuần Hựu và Hoằng Hóa. Tướng phòng thủ nơi đây là bọn Vũ Sư Thước
cấp báo với Thái sư, Thái sư bèn sai Lộc quận công đem binh về cứu, hợp sức với
binh Tướng phòng thủ, đánh nhau với quân Kính Điển ở Du Tràng. Kính Điển đặt
phục binh vào nơi hiểm yếu, rồi xuất đạo kỳ binh khiêu chiến, vờ
1 Câu này chính bản chép
"minh linh thôi đốc" người chấm sách cho nghĩa là "nhà Minh sai
thôi đốc". Có lẽ lầm, vì đây không phải là việc của triều đình nhà Minh.
Hoặc chép sót một chữ "niên" (năm) chăng ? Xin dịch theo nghĩa
"minh niên linh thôi đốc".
thua
chạy, quan quân đuổi theo,gặp ổ phục binh chổi dậy, bị thua tơi bời! bọn Sư
Thước chạy thoát, Lộc quận công [tờ 80b] thì tử trận.
Thái sư
được tin báo bại trận, bèn dẫn quân về, khi đến Thạch thành, Kính Điển nghe
tin, cũng dẫn quân lui về Đông Kinh.
Mùa
xuân, niên hiệu Chánh Trị thứ thứ 9 (1556)1, vua Thế Tông nhà Minh thăng hà,
vua Mục Tông lên ngôi Hoàng đế.
Mậu Hợp
đổi năm Thuần Phúc thứ 2 (1566) làm năm Sùng Khang thứ nhất. Năm này, Mậu Hợp
di cư vào quán Bồ Đề, sai Giáp Hải cùng Đông Cát Hiệu thư Phạm Duy Quyết đi đến
biên giới tỉnh Lạng Sơn, đón tiếp sứ thần Lê Quang Bí về.
Quang Bí
đi sứ sang nhà Minh về việc cống hiến thường niên, tự năm Mậu Thân, niên hiệu
Gia Tĩnh thứ 27 (1548), khi đến Nam Ninh, triều Minh ngờ là quan giả mạo, bắt
phải chờ để tra xét minh bạch đã, mới cho dâng lễ phẩm. Thế rồi gởi văn thư đi
tra xét, nhưng chẳng có hồi âm, Quang Bí cứ phải lưu tại sứ quán chờ mệnh lệnh
Phúc Nguyên thì, vì lúc ấy trong nước nhiều nạn, bỏ khiếm khuyết việc cống hiến
đã mấy năm liền, nên cũng không dám tâu xin. [tờ 81a] Đến năm Quý Hợi, niên
hiệu Gia Tĩnh thứ 42 (1563), quan quân Lưỡng Quảng nhà Minh mới sai người đưa
Quang Bí tới Bắc Kinh. Nhân dịp Phúc Nguyên cũng sai hầu mệnh gửi cho Quang Bí
25 lạng bạc để thưởng lạo. Khi Quang Bí tới Kinh Đô, lại bị lưu ở sứ quán. Đến
lúc này, viên Đại học sĩ triều Minh Lý Xuân Phương thương hại Quang Bí ở trong
nước nhà Minh đã 18 năm2. Quang Bí lúc ra đi tóc mây xanh mướt, khi trở về râu
tuyết bạc phơ! Người Tàu ví ông như ông Tô Vũ đi sứ đến lúc bạc đều mới được
trở về3.
Khi
Quang Bí trở về tới Đông Kinh, Phúc Nguyên tỏ lời an ủi, thấy sứ sự của ông
giống hệt Tô Vũ, bèn phong cho tước Tô quận công.
Tháng 9,
Thái sư lại ra đánh xứ Sơn Nam ,
đánh đến hạt Gia Viễn và Phụng Hóa, thì dẫn quân về. năm Đinh Mão, niên hiệu
Chánh Trị thứ 10 (1567) [tờ 81b] nhằm niên hiệu Long Khánh thứ
nhất
triều vua Mục Tông nhà Minh, lúc này Thái sư xuất quân bình định phương Tây
Nam, quân Mậu Hợp bị thua luôn luôn.
Mùa
xuân, niên hiệu Chánh Trị thứ 11 (1568), Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn
Vũ Hữu Chánh cộng 17 người trúng tuyển.
Tháng 3,
Quận công trấn thủ xứ Quảng Nam
chết, Hoàng đế bổ nhiệm Nguyên Súy Công Nguyễn Bá Quýnh thay.
Tháng 4,
Thái sư gấp rút xuất quân ra đánh xứ Sơn Nam, phá các Huyện: An Mô, An Khang,
Gia Viễn và Phụng Hóa, thu lúa thóc các nơi này, rồi dẫn quân về.
Tháng 2,
niên hiệu Chánh Trị thứ 12 (1569), Hoàng đế gia phong Thái sư lên tước
"Thượng phụ Thượng tướng Thái quốc công ".
Tháng
10, ngày Giáp Tý, ban đêm có động đất, làm cho núi lở.
Lúc này,
Thượng tướng Thái quốc công Trịnh Kiểm đau bệnh đã lâu, bèn xin trao lại binh
quyền, Hoàng đế ưng cho, ngài bèn hạ chiếu mệnh con trai Thượng tướng là Tuấn
đức hầu [tờ 82a] Trịnh Cối đốc lĩnh quân thủy bộ các doanh; Phúc lương hầu
Trịnh Tùng chức Bình đông Đại tướng quân, nối trọng nhiệm Thái quốc công, để đánh
dẹp Mậu Hợp.
1 Câu này chính bản chép
"cửu nguyệt xuân " (chín tháng xuân ". Hoặc do chữ "cửu
niên xuân " chép lộn ra chăng ? Xin dịch theo chữ "cửu niên xuân
".
2 Đoạn văn này chép như vầy
chưa đủ nghĩa, hoặc chép sót câu gì, đại khái nói: bèn tâu xin v.v... chăng ?
3 Tô Vũ tên tự Tử Khanh, chức
Trung Lang Tướng thời vua Hán Vũ Đế, phụng mệnh đi sứ sang nước Hung Nô, bị lưu
lại phải đi chăn dê, 19 năm mới được về nước.
Năm
Chánh Trị thứ 13 (1570), Hoàng đế triệu Nguyễn Bá Quýnh về giữ chức Trấn thủ xứ
Nghệ An, và sai Nguyễn Hoàng kiêm chức Trấn thủ cả 2 xứ Thuận và Quảng.
Tháng 2,
Thượng tướng Thái quốc công chết. Con trai trưởng của Quốc công là Tuấn đức hầu
Trịnh Kiểm1, làm nhiều sự thất nhân tâm, Phúc Lương hầu cùng các Tướng bèn tới
cửa quyết tâu tội trên của Trịnh Cối. Khi Hoàng đế dời tới quan ải Vạn Lại, thì
Trịnh Cối đem binh đánh vào cửa Quyết, Phúc lương hầu dẫn quân chống cự, vài
ngày sau, Trịnh Cối lui quân về Biện Thượng, và đóng doanh tại Bố Chính.
Tương
lập quận công thấy tình thế bên ta Tướng sĩ không hòa, bèn dẫn con em đầu hàng
họ Mạc, và đem hết tình hình quân sự bên ta báo cáo cho họ Mạc biết. Kính Điển
rất lấy làm mừng, bèn phong tước Tiên quận công cho Tương lập quận công, [tờ
82b] và sai lĩnh quân đi trước, làm đạo quân hướng đạo, rồi Kính Điển khởi
100.000 binh trong 4 trấn và 700 chiến thuyền. Ngày 16 tháng 8, Kính Điển đốc
các vị tôn thân, và Tướng Tá sĩ tốt các Đạo, vượt biển vào đánh cướp xứ Thanh
Hoa, khi tới cảnh thổ Thanh Hoa, Kính Điển chia quân: Sai Mạc đôn Nhượng cùng với
Tướng đạo bắc là Thái bảo Gia quốc công Mạc Đình Khoa, và Phó tướng Mậu quận
công lĩnh quân giữ các bể Thần Phù, còn các đạo quân khác tiến theo thứ tự:
Tướng Bắc đạo Hoằng quận công làm đội quân thứ nhất; Tướng Nam đạo Thạch quận
công Nguyễn Quyện làm đội quân thứ nhì; Tướng Tây đạo Sầm quận công Mạc Ngọc
Liễn làm đội quân thứ ba; Tướng Đông đạo Hoa quận công làm đội quân thứ bốn;
Kính Điển thân tự đốc quân Trung doanh [tờ 83a] làm đội quân thứ năm; các vị
Tôn vương thống lĩnh quân vệ Triều đông và quân các đội Nội vệ làm đội thứ sáu,
chia ra các ngả, vào các cửa bể Linh Tràng, Chi Long và Hội Triều, cùng hội
đồng ở nơi Bút cương, rồi đóng doanh trại tại 2 bên bờ sông Hà Trung, khói lửa
trong các trại bốc lên nghi ngút khắp mười dặm hơn. Trịnh Kiểm2 tự liệu không
thể đương nổi, bèn dẫn hơn vạn quân cùng các bộ Tướng: Lại Thế Mỹ, Nguyễn Sư
Doãn, Trương Quốc Hoa, Vương Trân và Vũ Sư Thước cùng gia quyến ra hàng họ Mạc,
Kính Điển thu nạp, phong tước Trung lương hầu cho Trịnh Cối, phong tước Hương
quận công cho Thế Mỹ, phong tước Lý quận công cho Sư Doãn, phong tước Sơn quận
công cho Vương Trân, Phong tước Thủy quận công cho Sư Thước, và sai các ông đều
dẫn quân thuộc bộ của mình tiến đánh.
Ngày 25,
Kính Điển tổng động binh, các Đạo đều tiến [tờ 83b] con sông Mã Giang tự bến
Úng trở xuống; sông Lam Giang tự bến Bổng trở xuống, khói bốc ngất trời, bóng
cờ rợp đất! Nhân dân xứ Thanh Hoa cõng già dắt trẻ, chạy trốn lưu ly, ngoài
đường vang tiếng kêu khóc! Kính Điển đánh vào lũy An Tràng rất gấp, ngày đêm
không ngừng.
Lúc này
vua Anh Tông đã phong tước Trưởng quận công cho Phúc lương hầu, trọn quyền điều
khiển tất cả các doanh. Trưởng quận công đặt yến thiết đãi các Tướng, và úy lạo
quân dân. Võ thần thì có Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Tấn quận công Trịnh Mô,
Nghĩa quận công Trịnh Huấn và Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu, tất cả 30 viên.
Văn thần thì có bọn Thượng thư bộ Lại Hưng lễ hầu Nguyễn Đĩnh gồm 12 viên. Các
quan văn võ dung hòa sum họp, ngày đêm bàn định kế sách, chia quân giữ các đồn
trại, đào hào đắp lũy, làm kế cố thủ. [tờ 84a] Bọn ông Lê Cập Đệ dùng kế sách,
sai quân lính đắp thêm một bức thành giả, tại vòng đai ngoài bức thành chính,
vào lúc ban đêm, bao quanh hơn mười dặm: Dùng thanh tre kên thành hình bức
thành, rồi tô bùn đất bên ngoài, trên mặt thành thì cắm chông bằng tre vót
nhọn, chỉ trong một đêm mà hoàn thành một cái thành giả. Ngày hôm sau, Kính
Điển trông thấy, ngở là bức thành thực, xiết đổi kinh ngạc! Không dám tới gần.
Bảo các Tướng rằng:
"Không
ngờ binh sĩ nhà Lê, ngày nay vẫn còn có kỷ luật, pháp lệnh rất nghiêm minh! Chỉ
đắp trong một đêm, mà hoàn tất một bức thành đồ sộ! Tất là còn có nhiều binh sĩ
thù tử hiệu lực, cho nên công tác mới mau chóng như vậy, khiến lòng ta không
yên. Chuyến này mà không thành công, thì sau đây chưa dể gì bình định được. Nếu
không đánh gấp, quyết kế tiễu trừ, tất sẽ lưu lại một mối lo về sau ".
1 Chữ "Trịnh Kiểm"
"Trịnh Cối" mới phải, nguyên bản đã chép lộn ? Thái quốc công Trịnh
Kiểm đã chết, đây Tuấn đức hầu Trịnh Cối là con trai trưởng của Trịnh Kiểm.
2 Chữ "Trịnh kiểm"
này hoặc do chữ "Trịnh cối" chép lộn ra chăng ?
Kính
Điển bèn thân tự đốc Tướng sĩ ngày đêm tiến đánh. Miền Giang tả tự [tờ 84b]
châu Gia, châu Tàm trở xuống; miền Giang hữu tự đầu nguồn huyện Lôi Dương huyện
Nông Cống, đều thành chiến trường. Nhân dân các huyện trong xứ Thanh Hoa đều
chạy trốn, rất nhiều người chết đói.
Tháng
10, Kính Điển xuất quân tiếp chiến với quân nhà vua ta, hai bên chống nhau ở
sông Long Sùng hạt Bảo Lạc. Các Tướng bên ta dùng kỳ binh: Ban ngày thì cố thủ
trong thành, ban đêm thì dẫn quân cướp trại, làm cho quân giặc không được yên
nghĩ. Phủ Tiết chế ra lệnh: Người nào chém đầu một tên giặc, sẽ được thưởng một
hốt bạc. Bởi thế binh sĩ phần nhiều xả thân chiến đấu! Quân giặc nôn nao sợ
hãi, bỏ trốn rất nhiều.
Kính Điển
thấy đánh mãi mà không thắng lợi, bèn lui quân đóng doanh tại Hà Trung, và cấm
các người buôn muối, không được chở muối lên mạn đầu sông để bán. Đó là có ý
định chống cự cầm chừng, dằng dai lâu ngày, để cho quân ta phải mỏi mệt.
Lúc này
nhân có viên Tướng cũ của ta là Vũ Sư Thước, nguyên đã hàng họ Mạc, ngầm sai
người tâu xin trở về triều đình qui chính, [tờ 85a] vua Anh Tông bèn đại hội
các Tướng, quyết kế tiến binh, chia quân làm 3 đạo: Lại Thế Khanh xuất quân ra
đường bên tả, tiến về huyện An Định, đánh vào huyện Tống Sơn; Hoàng Đình Ái
xuất quân ra đường bên hữu, tiến về huyện Lôi Dương, đánh vào huyện Quảng
Xương; phong Trưởng quận công Trịnh Tùng chức Tả Tướng, có quyền điều khiển tất
cả các Tướng sĩ thủy quân và lục quân
các xứ; Hoàng đế tự làm chức Đô tướng, thống lĩnh đại quân ra trung lộ, tiến về
huyện Thụy Nguyên, huyện An Định.
Khi
Hoàng đế tiến quân đến đóng tại huyện Đông Sơn, thì Vũ Sư Thước dẫn 500 quân
bản bộ tới hàng, quân ta lại trở nên hùng mạnh. Kính Điển bèn lui quân về giữ
sông Bút Cương. Hoàng đế bèn sai tạo cầu nổi, rồi cùng với Tả Tướng vượt qua
sông An Lưu, đến huyện Kim Tử, qua huyện Thuần Hựu, đánh vào các đồn họ Mạc.
Ngài sai Vũ Sư Thước dẫn hơn nghìn quân bản bộ1 làm đạo quân tiên phong, [tờ
85b] giao chiến với binh họ Mạc ở huyện Lôi Trạch, thu được chút ít thắng lợi.
Lại Thế Khanh và Lê Cập Đệ, đánh lấy được huyện Tống Sơn và huyện Nga Sơn. Quan
quân kéo đến đâu, quân giặc đều bỏ chạy tán loạn.
Tháng
12, Kính Điển thấy đánh mãi không được, bèn bảo các Tướng rằng:
"Chúng
ta đánh dẹp bọn giặc mạnh, đã trải qua 9 tháng trời, mà không thu được thành
công. Hiện nay là mùa đông, khí trời rét lạnh, nước sông cạn nông, lại thêm
những khí độc lam chướng sắp bốc lên, mà lương thực cho binh sĩ của ta không
được đầy đủ, lòng người mất tin tưởng, thì còn ai đồng tâm hết sức cùng ta đánh
giặc. Binh sĩ ta đã trễ nải rời rạc. Chi bằng hãy tạm lui quân, để sẽ tính
chuyến sau ".
Kính
Điển bèn bỏ các trại sách, dẫn quân về. Trịnh Cối nghiệp dĩ đã đầu hàng họ Mạc,
nên cùng với Lại Thế Mỹ, Trương Quốc Hoa, dẫn hơn nghìn quân bản bộ cùng các
gia quyến, theo Kính Điển tới Đông Kinh. Nguyễn Sư Doãn cũng đầu hàng với Mậu
Hợp.
[tờ 86a]
Niên hiệu Chánh Trị thứ 14 (1571), Hoàng đế thăng Tả Tướng Trưởng quận công
Trịnh Tùng lên chức Thái úy, hàm Trưởng quốc công, các Tướng khác cũng đều được
thăng thưởng theo thứ tự, để cùng dốc lòng đánh giặc.
Hoàng đế
sai Phùng Khắc Khoan đi các nơi chiêu tập những nhân dân lưu tán. Mậu Hợp mở
khoa thi Cử nhân, lấy bọn Nguyễn Miễn gồm 17 người trúng tuyển.
Tháng
10, Mậu Hợp sai Kính Điển dẫn quân đánh cướp xứ Nghệ An, quan quân bên ta vì xa
cách nên không cứu được, bởi thế những khu từ sông Đại hà trở về phương Nam , đều thuộc
về quân giặc chiếm cứ. Viên Thổ tướng là Nguyên Quận công Nguyễn Bá Quýnh, vừa
nghe tin quân giặc kéo đến, đã vội vàng chạy trốn trước. Xứ Thuận Hóa và xứ
Quảng Nam
cũng dao động. Nhưng viên tướng trấn thủ 2 xứ này là Nguyễn Hoàng, sẵn có danh
vọng uy tín, lại nhiều mưu lược quyền biến, khống chế trong hạt,
1 Chữ này chính bản chép
"bản huyện quân " hoặc do chữ "bản bộ quân " chép lộn ra
chăng ? Xin dịch theo chữ "bản bộ
quân ".
quân
luật rất nghiêm nhặt, có viên Bộ tướng nào định hàng giặc, ông đều bắt giết
hết. [tờ 86b] Bởi thế quân họ Mạc không thể phạm tới 2 xứ này.
Tháng 9,
Tấn quận công Trịnh Mô và Lại quận công Phan Công Tích, dẫn quân đến cứu viện
xứ Nghệ An. Kính Điển phải lui quân, xứ Nghệ An lại bình định.
Niên
hiệu Hồng Phúc thứ nhất (1572), mùa thu, tháng 7 Kính Điển lại xuất quân đánh
cướp xứ Thanh Hoa và xứ Nghệ An, cướp phá các Huyện ven sông, nhân dân các nơi
này phải lưu tán, làng xóm trống không.
Tướng xứ
Hải Dương là ngụy Lập quận công, xuất thủy quân hơn 7 nghìn chiến thuyền, dùng
ngụy Cửu quận công làm hướng đạo, do đường biển vào đánh cướp xứ Thuận Hóa và
xứ Quảng Nam, thổ dân nhiều người ra hàng. Viên trấn thủ là Nguyễn Hoàng, lập
kế dụ Lập quận công tới, ông liền chém đầu y ngay giữa sông, quân họ Mạc liền
tan vỡ, theo đường biển chạy trở về, đều bị chết đuối. Tiên quận công thì trốn
chạy về châu Bố Chánh, rồi lại trở vvề với Mậu Hợp.
[tờ 87a]
Tự đây, quân họ Mạc không dám nhòm ngó tới 2 xứ Thuận và Quảng. Thái phó Vị
quận công Lê Khắc Thận, lại vượt lũy ra đầu hàng Mậu Hợp.
Tháng 9,
Lại Thế Khanh, Lê Mô, và Phan Công Tích, dẫn binh ra giữ xứ nghệ An, binh họ
Mạc bèn rút về.
Vua Anh
Tông thăng hà, vua Thế Tông lên ngôi Thiên tử.
Năm Quí
Dậu, niên hiệu Gia Thái thứ nhất (1573), Hoàng đế phong Tả Tướng Trưởng Quốc
công chức "Đô tướng tiết chế các xứ thủy lục chư doanh, kiêm tổng nội
ngoại bình chương quân quốc trọng sự ", phong Nhân quốc công Vũ Văn Kỷ là
con trai Gia quận công Vũ Văn Mật chức Hữu tướng; các vị công thần và các Tướng
khác đều được thăng cấp theo thứ tự, trên dưới đồng tâm hiệp lực, để vấn tội
quân tiếm nghịch, và tu sửa thành quách hào lũy, để phòng quân Mậu Hợp nhòm ngó.
Tháng 7,
Kính Điển lại dẩn quân đánh cướp xứ Thanh Hoa, khi chúng đánh vào doanh An
Tràng, [tờ 87b] thì quan quân ta rút cả vào bên trong lũy, để tỏ cho chúng
tưởng là binh lực ta kém yếu. Chúng lại tiến vào lũy Phúc Bồi, đang sắp qua
sông Đoạn Trạch, thì quan Tiết chế đốc suất thủy quân cỡi chiến thuyền chia
đánh các ngả, phá tan quân giặc. Kính Điển bèn dẫn quân rút lui.
Mùa đông
năm này, Hoàng đế bàn với quan Tiết chế, sai Vũ Văn Kỷvề trấn thủ đồn Đại Đồng
ở xứ Tuyên Quang, để vững phên giậu phương Tây và đề phòng quân của Mậu Hợp.
Tháng
10, lúc này Mậu Hợp 12 tuổi, bèn tự bến Bồ Đề qua sông về Đông Kinh, đắp bức
thành ở phía bên ngoài cửa Nam, rồi dựng ngôi điện lợp tranh để ở.
Niên
hiệu Gia Thái thứ 2 (1574), Mùa xuân, Mậu Hợp mở khoa thu Cử nhân, lấy bọn Vũ
Khắc Khuê gồm 24 người trúng tuyển.
Tháng 6,
Mậu Hợp sai Nguyễn Quyện dẫn quân vào đánh cướp xứ Nghệ An, các thành bên ta từ
sông Đại Hà trở về Bắc, đều bị chúng hạ. Chúng bắt được viên Tướng trấn thủ là
Hoằng quận công.
Tháng 7,
Phan Công Tích và Trịnh Mô, dẫn quân cứu viện xứ Nghệ An, Nguyễn Quyện chống cự
với các Tướng này vài tháng, rồi thu quân trở về.
[tờ 88a]
Mậu Hợp phong tước Hưng lễ vương cho Mạc Kỳ là con trai Lý vương Mạc Lý Tốn.
Niên
hiệu Gia Thái thứ 3 (1575), ngày 6 tháng giêng, Kính Điển đem quân đánh cướp xứ
Thanh Hoa; Nguyễn Quyện đem quân đánh cướp xứ Nghệ An. Lúc này, họ Mạc quân
nhiều thế mạnh, cho nên chúng kéo đến đâu, nhân dân ta đều như cỏ lướt.
Khi Kính
Điển đánh đồn Thụy Nguyên huyện An Đình, chia quân cho Mạc Ngọc Liễn đánh núi
Đông Sơn
huyện Lôi Dương.
Tháng 8,
phủ Tiết chế sai Hoàng Đình Ái dẫn quân cứu đồn Lôi Dương, núi Mộc Sơn, quan
Tiết chế thì đích thân thống lĩnh đại quân, đóng tại núi Chiêu Sơn, chống cự
với quân Kính Điển.
Khi Kính
Điển giao chiến với quan quân ta ở Đông Lý hạt An Đình, thì bọn Vũ Sư Thước và
Nguyễn Hữu Liêu, xuất các đạo kỳ binh đánh cho Kính Điển phải bỏ chạy.
Bọn Lại
Thế Khanh, Trịnh Mô và Phan Công Tích, dẫn quân cứu các xứ Nghệ An, cùng với
quân Nguyễn Quyện cầm cự chừng vài tháng [tờ 88b] Nguyễn Quyện đặt phục binh
trước, rồi dẫn quân ra đánh, thắng luôn mấy trận, bắt được Phan Công Tích giải
về Kinh Sư, bị giết chết.
Mùa
đông, Kính Điển kéo quân trở về.
Niên
hiệu Gia Thái thứ 4 (1576), tháng 7, Kính Điển lại dẫn quân vào đánh cướp xứ
Thanh Hoa, đánh vào núi Lam Sơn thuộc huyện Thụy Nguyên, sai Ngọc Liễn đánh vào
sông Đồng Cổ thuộc huyện An Định, lại chia quân cho Nguyễn Quyện đi đánh cướp
xứ Nghệ An. Nguyễn Quyện đánh nhau với quân Trịnh Mô ở đây chừng vài tháng,
Trịnh Mô thua luôn mấy trận, trốn về xứ Thanh Hoa, trong khi ấy, Nguyễn Quyện
tự nghĩ rằng:
"Trịnh
Mô thua trận, phải kéo quân trở về, thì đang khi "quân hồi vô lệnh ",
ta quyết bắt cho bằng được ".
Bèn dẫn
quân đuổi theo, đuổi theo tới núi Ngọc Sơnm, bắt được Trịnh Mô giải về Kinh Sư.
Tự đây, uy danh của Nguyễn Quyện càng thêm lừng lẫy! Thời xưng là một vị danh
Tướng.
Niên
hiệu Gia Thái thứ 5 (1577), mùa xuân, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Vũ
Giới gồm 18 người trúng tuyển.
Tháng 4,
Mậu Hợp sai thu binh các Huyện, tất cả hạng nhất hạng nhì và hạng ba, người nào
cũng phải dự đủ lương thực đủ ăn trong 3 tháng, để dự bị vào xâm lược xứ Thanh
Hoa.
[tờ 89a]
Về phần phủ Tiết chế ta, cũng tính rằng: Mậu Hợp thường cậy sở trường về thủy
quân, mà nay là mùa thu, nước sông dâng cao đầy dẫy, tất nhiên chúng sẽ tới xâm
lược. Cho nên cũng dự tản cư các nhân dân ở nơi ven sông, bắt dem theo hết cả
tài vật đã tích trữ vào các nơi rừng núi, để chờ nghinh chiến quân Mậu Hợp.
Tháng 7,
Kính Điển dẫn quân vào cướp.
Tháng 8,
Kính Điển đánh vào hạt Đồng Cổ, quan Tiết chế đích thân xuất đại quân ra cửa
lũy Khoái Lạc chống cự.
Kính
Điển đánh phá doanh Thượng hội, Hoàng Đình Ái xuất đạo kỳ binh khiêu chiến;
Nguyễn Hữu Liêu dẫn quân đánh chặn ngang, quân Kính Điển phải chạy lui.
Kính
Điển lại tiến quân đến sông Hà Đô, sai Nguyễn Quyện phục binh ở bên ngoài đê bờ
sông, rồi sai Hoằng quận công, cùng với viên hàng tướng Lại Thế Mỹ làm đội quân
tiên phong ra khiêu chiến, đánh sát tới cửa lũy Khoái Lạc. Quan quân bên ta
dùng súng bắn chết Lại Thế Mỹ trước mặt trận, các quân ta trong trận đều lấy
làm hả, tiếng hoan hô vang lừng dậy đất! [tờ 89b] quân họ Mạc bèn tan vỡ.
Tháng 9,
Kính Điển dẫn quân trở về.
Tháng
này có tuệ tinh hiện ở tọa độ sao Cơ, sao Ngưu và sao Nữ, xuất hiện trong 10
ngày mới
tắt.
Viên
Thượng thư Bộ hộ giữ việc Đô ngự sử là Giáp Trưng, bèn dâng tờ sớ lên Mậu Hợp
rằng: "Hạ thần xét trong truyện có chép rằng:
Tuệ tinh
là một loại sao yêu quái! Khi nó xuất hiện vừa to vừa dài, thì trong nước sẽ có
tai biến nặng nề mà thời kỳ ứng nghiệm còn xa ngày, trái lại, nếu hình nó nhỏ
và ngắn, thì trong nước sẽ có sự tai biến xoàng thôi, mà thời kỳ ứng nghiệm rất
gần ".
"Hiện
nay chánh sự càng ngày càng suy đồi, mà suy đồi không phải một điểm mà thôi.
Kinh thư có câu rằng: "Dĩ thừa Thượng đế thần kỳ, võng bất chí túc "
(Lễ vật dùng dâng tế Thượng đế, các Thần nơi Xã Tắc, Tổ Tông nhà Tôn Miếu,
không nơi nào là không thành kính rất mực ). Thế mà những lễ phẩm dùng để tế lễ
ngày nay, thì con lợn cỗ xôi quá đơn giản, đồ lễ cẩu thả không kính. Đó là điểm
đáng sợ thứ nhất vậy.
Sách
Mạch Tử có câu: "Quân nhân mạc bất nhân " (nếu vua có lòng nhân, thì
bề dưới không kẻ nào không nhân ). Nay những kẻ cận thần ở bên nhà vua, chỉ
toàn nịnh nọt, dẫn sự chơi bời, [tờ 90a] mong thỏa chí vua. Trong cung là nơi
rất nghiêm nhặt, thế mà chúng thường ra vào tự do không cấm; tuyên nạp là việc
thận trọng, thế mà chúng làm bế tắc trên dưới không thông. Đó là điểm đáng sợ
thứ 2 vậy.
Sách
Mạnh Tử lại có câu: "Thượng hạ giao chinh lợi, tắc quốc nguy hĩ "
(nước nào, tất cả vua tôi trên dưới, đều xu hướng về mối lợi, thì nước ấy sẽ
nguy vong ). Nay các quan cấp trên cũng như cấp dưới, những người không ham
lợi, chỉ chừng 2, 3 phần 10, ngoài ra hết thẩy đều đăm đăm về lợi, quan tước
nhũng lạm, Phiên Trấn trưng cầu, những sự đặt quan bán tước, không việc gì là
không làm. Đó là điểm đáng sợ thứ 3 vậy.
Tả
truyện có câu: "Quốc gia chi bại do quan tà dã " (Quốc gia mà đến suy
bại, là do các quan chức đều quắt quéo vậy ). Nay các bầy tôi trong triều đình
cùng ngoài Quận Huyện, những người ngay thẳng chỉ độ 1, 2 phần 10 mà thôi,
ngoài ra đều là hạng tà tâm quắt quéo. Sắc chỉ tống đạt cho các Ty quan; quan
lại trưng tiến cấp lớn nhỏ. Việc từ tụng sách nhiễu hối lộ, không cách nào là
không dùng. Đó là điểm đáng sợ thứ 4 vậy.
[tờ 90b]
"Đường sử có câu: "Quốc y ư dân " (nước nương tựa vào dân ). Nay
việc công việc tư, sách nhiễu dân phụ, làm cho nhân dân vất vả khốn khổ về sự
sống, thì nước còn nương tựa vào đâu ? Đó là điểm đáng sợ thứ 5 vậy.
Truyện
có câu rằng: "Sư khắc tại hòa " (Việc quân mà được thắng trận là bởi
có điềm hòa ). Nay Tướng Súy ngang trái với nhau, cùng nhau tranh giành, thì
quân sự còn lấy gì để thắng. Đó là điểm đáng sợ thứ 6 vậy.
Ngoài ra
còn rất nhiều điều trái lẽ và phương hại đến nền đạo đức, không thể kể xiết.
Bởi thế cho nên trời ra tai biến, có tuệ tinh hiện, không phải là sự ngẫu
nhiên.
Vậy kính
mong bệ hạ, tự răn mình lo sợ, thay đổi hết thẩy chánh sự thối nát. Một khi
lòng người đã hòa, thì ý trời sẽ hợp. Nếu cứ vui thỏa theo ý muốn, mà không hối
cải, thì thời kỳ nguy vong chưa dễ gì lánh được ".
Mậu Hợp
không thể làm theo ý tờ sớ này.
Niên
hiệu Quang Hưng thứ nhất (1578) triều ta, nhằm niên hiệu Sùng Khang thứ 13
triều Mậu Hợp. Lúc này, quan Tiết chế Trưởng quốc công [tờ 91a] giúp chính
thống giữ binh quyền, chăm lo tiến thủ, Vua tôi hòa thuận, chánh sự chỉnh đốn,
quân sĩ tinh nhuệ, khí thế đang lên, mà Mậu Hợp thì chỉ ham chơi bời, say đắm
tửu sắc, không để ý tới việc nước.
Ngày 21
tháng 2, Mậu Hợp ở trong cung, bị sét đánh vào cung, thành chứng "bán thân
bất toại ", sau chữa thuốc lại khỏi, bèn đổi niên hiệu năm này làm niên
hiệu Duyên Thánh thứ nhất, và phong thêm hàm Thiếu bảo cho Thượng thư bộ Lại
Luân quận công Giáp Trưng, Giáp Trưng cố từ không nhận, nhưng Mậu Hợp không cho
từ.
Tháng 7,
Mậu Hợp sai Kính Điển lĩnh quân vào đánh cướp các Huyện men sông trong xứ Thanh
Hoa. Khi giao chiến với quan quân ta ở cầu Phụng Công, gặp ổ phục binh, bị thua
trận, bèn kéo quân trở về Kinh ấp.
Tháng
10, Tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn dẫn quân đánh vào châu Thu Vật trong tỉnh Tuyên
Quang [tờ 91b] cũng bị viên trấn thủ châu này là Nhân quốc công Vũ Công Kỷ đánh
bại.
Niên
hiệu Quang Hưng thứ 2 (1579), tháng 3 Mậu Hợp tiến Giáp Trưng lên chức Binh bộ
Thượng thư, có quyền giữ tất cả các việc trong 6 Bộ.
Tháng 7,
Mậu Hợp sai Kính Điển dẫn quân vào đánh cướp xứ Thanh Hoa, phá nhiễu các Huyện
ở
men
sông, khi chúng đến sông Tống Sơn, đánh vào cửa Chương Quyết, thì Phủ Tiết chế
sai Đặng Huấn dẫn quân chống cự. Đặng Huấn sai Diễn quận công Trịnh Văn Hải
xuất quân giao chiến với chúng tại núi Kim Âu, Đặng Huấn thì dẫn quân tự Tống
Sơn đi tới Hòa Bình Mục Sơn, đánh tập hậu, phá tan quân Kính Điển. Kính Điển
bèn dẫn quân trở về.
Niên
hiệu Quang Hưng thứ 3 (1580), mùa xuân, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Đỗ
Củng gồm 24 người trúng tuyển.
Tháng 7,
Mậu Hợp lại sai Nguyễn Quyện Mạc Ngọc Liễn và hàng tướng là Hoành quận công dẫn
quân vào đánh xứ Thanh Hoa, chúng cướp bóc tài sản của nhân dân các miền ven
sông, rồi kéo quân trở về.
[tờ 92a]
tháng 10 Kính Điển chết.
Kính
Điển là ông chú Mậu Hợp, tước vị gồm cả chức Tướng văn và Tướng võ, giữ binh
quyền trong hơn 20 năm. Ông tiếp đãi quan liêu có lễ độ, đối với quân sĩ có ân
nghĩa, từng trải qua biết bao sự gian hiểm, mà vẫn cần lao trung thành, thời
bấy giờ tựa vào ông làm trọng. khi ông chết, lòng người trong nước đều dao
động!
Mậu Hợp
bèn dùng ông chú là Ứng vương Đôn Nhượng thay Kính Điển làm chức "Trung
doanh đốc súy ".
Tháng
12, ngày mồng 3, Mậu Hợp sai Lương Phùng Thời, Nguyễn Nhân An, Nguyễn Uyên,
Nguyễn khắc Tuy, Trần Đạo Vịnh, Nguyễn Kính, Đỗ Uông, Vũ Hoàng, Nhữ Tống, Lê
Đĩnh Tú, Vũ Cẩn và Vũ Tĩnh, chia làm 4 Bộ đi sang sứ triều Minh, để nộp bổ túc
cống phẩm còn thiếu trong mấy năm qua.
Niên
hiệu Quang Hưng thứ 4 (1581), ngày 27 tháng 6, Đô cấp sự trung trong 6 khoa bên
ngụy là: [tờ 92b] Nguyễn Phong, Nguyễn Tự Cường, Phạm Như Giao, Nguyễn Ích
Trạch, Lê Viết Thảng và Nguyễn Quang Lượng, cùng ký tên vào tờ sớ dâng lên Mậu
Hợp rằng:
"Hiện
nay thời sự gian nguy, có nhiều điểm đáng lo: Kỷ cương rối loạn, chánh sự hững
hờ; hình ngục oan uổng; pháp lệnh sai lầm; Tướng chưa hòa thuận; binh chưa
chỉnh nghiêm, khi quân địch hùng mạnh kéo đến đánh phá phương Tây Nam, nhân dân
địa phương bị khốn khổ, tao nhiễu cả đến Kinh thành. Thế mà lúc ấy, triều đình
không đặt một phương lược hoặc một kế hoạch gì để chống địch, mặc cho chúng tự
do tiến tự do lui, tha hồ thi thố hết các cách tính hại ta, khiến cho nhân dân
ta ở miền chân núi rất là khốn đốn, không được yên ổn. Lại thêm trời ra tai
biến luôn luôn. Ôi! Thời sự như vậy, thiên ý như vậy, thật là quá đổi nguy
ngập! [tờ 93a] Nếu ngay bây giờ biết nghĩ phương để cải cách tệ chánh, biết sợ
cơn giận của trời, chỉnh đốn binh bị để chinh phạt giặc thù, cũng chưa muộn,
vẫn có thể kịp. Khốn nổi vua tôi trên dưới, cứ vui chơi ngạo nghễ, vẫn hơn hớn
tự cho là thái bình vô sự. Về phần bệ hạ, hiện nay chưa thân xét đến các chánh
sự, các bản tấu chương của đình thần, hết thẩy đều ủy cho Phụ chánh Ứng vương
quyết đoán, mà Ứng vương lại thường về Dương kinh luôn. Bởi thế các chánh sự
trong triều đều bỏ bê bối, quân sự cũng theo đà đó mà trễ nải; quan bản doanh
có việc đến yết kiến thường không được gặp, vị tướng các doanh không biết bẩm
lệnh vào đâu. Bậc công bảo đại thần như Lễ quận công Trần Thời Thầm thì e sợ
hiềm nghi, thường né lánh không chịuu quyết đoán; Luân quận công Giáp Trưng,
thì lấy sự quá thịnh làm răn, [tờ 93b] thường luôn luôn xin giải chức; Đốc phủ
trưởng quan Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn, và Thạch quận công Nguyễn Quyện, thì
hoặc thoái thác không tới công đường, hoặc từ tốn không chịu bàn việc, cho nên
các quan tả hữu không dám bàn nói; văn thần trọng trách như Nghĩa sơn bá Trần
Văn Tuyên, Vịnh kiều bá Hoàng Sĩ Khải, An khê bá Mai Công Đam và Xuyên bá
Nguyễn Triệt, thì đều giữ vẻ trọng hầu, không cần nghĩ tới việc sâu xa. Bởi thế
các liêu thuộc nhân đó mà trễ nải, hoặc có viên về thăm quê hương đến hàng
tuần, hoặc có cuộc bàn luận mà chỉ có một viên họp, hoặc có viên hiện có mặt ở
Kinh mà không tới họp, hoặc có viên dự họp mà không phát biểu ý kiến. Ngày nay
thảo luận, ngày mai bàn tán, chỉ toàn những việc lặt vặt ở các nha môn [tờ 94a]
còn việc chánh trị trọng đại của triều đình, không hề nói tới. Như vậy, việc
nước sẽ một ngày một suy đồi, đó là cái cơ nguy loạn không thể không cấp cứu.
Những người giữ việc nước, biết mà không chịu nói, hoặc nói mà không hết lời,
một khi triều đình đã thất kế, thì thiên hạ quốc gia sẽ như thế nào ? "
Mậu Hợp
khen những lời này rất thiết đáng. Nhưng rốt cuộc vẫn không thay đổi được những
tệ
chánh. ngày
mồng 9 tháng 7, Đô ngự sử Đặng Vô Cạnh xin từ chức, Mậu Hợp không cho.
Đêm hôm
21, có trận mưa bảo rất dữ! mà tại kinh đô càng mạnh hơn, tự cung điện trong
triều, đến giao đàn, thái miếu và đàn Xã Tắc, cả đến nhà cửa cùng dinh thự,
thẩy đều đổ nát gần hết! Về hương thôn các xứ thì, cây bốc rễ, lúa ngả rạp, nhà
đổ thuyền đắm, người chết rất nhiều!
[tờ 94b]
Ngày 27 Mậu Hợp triệu Trần Văn Tuyên làm Thượng thư bộ Lại vào hầu kinh diên.
Lúc này Giáp Trưng vào triều yết kiến xin hoàn sư.
Thiêm đô
Ngự sử Lại Mẫn dâng tờ sớ lên Mậu Hợp, cực lực nói về thời sự tệ hại, lược
rằng:
"Sự
thế hiện nay, chính là thời tiết cực bĩ! Kỷ cương bỏ bê mà không chấn hưng,
chánh sự thối nát mà không tu sửa; trộm cướp hoành hành, giặc ngoài xâm lấn;
lòng người nao núng, thế nước lung lay. Như muốn chuyển bĩ làm thái, thì phải
trên dưới hợp chí đồng tâm, mới có thể được. Thế mà nay chỉ trang sức hư văn,
mà không vụ thực sự, trên dưới trong ngoài đều nhưng theo thói cũ, các sớ tấu
của triều thần, hoặc chỉ phê như trước. như thế không có thể gọi là ngăn được
con đường tư tình vậy [tờ 95a] Các Điện Phủ giám môn, Bộ Tự Khoa Đạo nội vệ tam
ty, Đô Thừa Hiến tam ty, hết thẩy các tệ đoan chưa cải cách hết. ngoài ra còn
nhiều việc trái lẽ hại đạo, khác thường loạn tục, không thể kể xiết.
Hạ thần
thiết nghĩ: Lúc này bệ hạ chính nên thân cận người hiền, đồng tâm phụ tá, tu
sửa cải cách các chính trị, ngỏ hầu có thể cứu vãn cơ nguy loạn trước khi phát
xuất.
Tại sao
Phụ chánh Ứng vương vẫn yên vui ngạo nghễ, nhân nhu trễ nải, không cứu sửa
chánh sự thiên tư, không chỉnh đốn quân sự phân tán, đến nổi các vị đại thần
đều muốn trốn lánh, không chịu quyết đoán lẽ phải, các vị trọng thần, nối tiếp
xin từ chức, triều đình trễ nải như vậy, việc nước nhân thế mà bề bộn, trăm
việc rối ren, [tờ 95b] lòng dân tan rã, một khi họa loạn xẩy tới còn có thể cứu
được ru?
Thời xưa
Y Doãn dạy vua Thái Giáp có câu: "Vô an quyết vị duy nguy ": (Đừng
ngồi yên ngôi vua, phải nên nghĩ tới sự nguy ). Ôi! Cổ nhân đang lúc thịnh trị,
mà còn tha thiết lấy điều nghĩ tới sự nguy làm răn. Huống chi hiện nay là thời
kỳ rất nguy, mà không biết nghĩ tới sự nguy, hạ thần sợ nguy vong sẽ tới ngay
vậy.
Kinh Thi
có câu: "Thiên chi giáng nạn, vô nhiên hiến hiến " (gặp khi trời
giáng tai nạn, đừng nên hơn hớn yên vui ).
Kinh Thi
lại có câu: "Đa tương cao cao, bất khả cứu dược " (Vui chơi nồng
nhiệt như lửa, không còn phương thuốc cứu chữa ). Há không lấy đó làm răn ru ?
Kính
mong bệ hạ, chăm lo chính trị, săn sóc thời cơ, ban sắc lệnh cho Ứng vương
phải: Để ý về nền tôn xã, đảm nhiệm lấy việc thiên hạ, về việc tu chính trị bên
trong, tất phải xử công bằng, các đạo tán chiếu như: Quyền ban tước lộc, truất
phế hay bổ nhiệm, cho được sống hay giết chết, [tờ 96a] cần phải biết rõ người
chánh kẻ tà, phân biệt người có công kẻ có lỗi, khiến cho thưởng phạt đúng mức,
thì còn công việc gì mà không làm nổi. Về quân sự bên ngoài, tất phải có tiết
chế, sai bản doanh và các doanh Đông Tây Nam Bắc, phải tuyển dụng những người
dũng cảm, luyện tập chiến đấu đều đều, khiến cho binh sĩ hùng mạnh, thì còn lo
gì về đánh dẹp không thắng trận.
Trách cứ
Thiếu bảo Lễ quận công Trần Thời Thầm phải: Kính theo đoán xét cũ, chủ trương
về công luận trong nước, chấn cử kỷ cương, đừng có hiềm nghi mà lánh quyền sợ
việc.
Lại ban
chỉ dụ cho Thiếu bảo Luân quận công Giáp Trưng, phải tham bàn chánh sự trong
triều, giúp quyết cơ mưu quân sự, cần để ý tới việc yêu nước quên nhà.
Lại ban
sắc dụ cho Hộ bộ Thượng thư, Đô ngự sử Miện dương bá Đặng Vô Cạnh. [tờ 96b]
phải tuân theo chức vụ, duy trì công luận, kính cẩn mọi việc, để cho phong thái
triều đình được tôn nghiêm. Đó đều do vài ba vị chấp chánh đại thần cùng các
quan công bảo, ngày đêm bàn tính ở trên triều đình, hiệp sức cùng mưu, để cải
cách tệ chánh, khiến cho các nha môn trong ngoài, có chỗ tuân theo làm qui
thức, ai ai đều làm tròn chức vụ, thì mới có thể mong tới trị bình thiên hạ.
Nếu đang
thời kỳ nguy ngập, mà vẫn cho là bình yên, đang lúc có tai biến, mà vẫn ung
dung, chỉ thỏa thích những cuộc vui có thể đem đến sự bại vong. Hạ thần sợ một
khi biến loạn xảy tới ngoài sự tưởng tượng, lúc ấy thì dù có bậc trí giả cũng
không có thể vãn hồi được ".
Trong
bài sớ có tới ngàn câu, Mậu Hợp xem xong phê rằng:
"Những
lời này rất thiết đáng, đáng được thi hành ". Nhưng vẫn không làm theo.
[tờ 97a]
Thiếu bảo Giáp Trưng dâng tờ sớ lên Mậu Hợp rằng:
"Trận
mưa bảo vừa rồi, là một tai biến lạ thường! Ôi! Tai biến xảy ra, đều do nhân sự
xui nên. Hiện nay giặc giả chưa yên, quân dịch nặng nề, cả đến việc thu thuế và
cho dân vay thóc cũng rất phiền phức, nay phóng mai đã thôi thúc, suốt năm
không ngày nào yên, cứ điếm đầu người mà thu, rồi lại tính lời từng phân từng
ly. Tự niên hiệu Sùng Khang tới nay, trong khoảng 9 năm đó, những nơi thu vét
sưu thuế, chỉ đòi hỏi lũ dân nghèo; cả đến trong Điện cũng chỉ đòi hỏi đám dân
ấy. Ngoài ra còn có khi tăng gấp đôi số thuế đã định, làm cho dân phải phá sản.
Dân tình ngao ngán, không còn muốn sống !
Kinh Thi
có câu: "Vô viết cao cao tại thượng, trắc giáng quyết thổ " (Đừng
tưởng trời quá cao xa.
Vẫn
thường lên xuống soi xét dưới đất ). Dưới đất tức là nhân sự vậy.
Kinh Thư
có câu: "Thiên thông minh tự ngã dân thông minh, thiên minh uy tự ngã dân
minh uy " (thông minh của trời cũng là thông minh của dân, uy sách của
trời cũng là uy sách của dân ). Đó là nói: Lòng dân xu hướng vào đâu, tức đấy
là lẽ trời vậy.
[tờ 97b]
Nay nhân sự đã suy đồi đến như thế, nhân dân đã khốn đốn đến như thế, cho nên
trời ra tai biến trận bảo để cảnh cáo vậy.
Kinh
Dịch có câu: "Chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn ách ách. Cát "
(Động tới ngầm ngập run sợ, rồi sau nói cười sằng sặc. Tốt ). Lời tiểu tượng
trong quẻ Chấn này giải rằng: Đó là lo sợ mà được phúc vậy.
Nay muốn
dẹp tai biến, mà không lo sợ tu tỉnh, thì làm sao có thể được phúc.
Vậy kính
mong bệ hạ, coi thiên tai là điểm tất phải sợ, coi nhân sự là điểm tất phải
sửa. Kính cơn giận của trời, không nên vui vhơi, kính cơn biến của trời, không
nên dong ruỗi; không nghe kẻ hầu nịnh, không mưu cầu tài lợi. Dạy bảo trăm
quan, chấn hưng trăm việc, ban sắc cho triều thần nghị luận ban hành những điều
luật thương dân, rộng ban ân đức, tha thứ kẻ vô tội oan uổng. Những dân bị nạn
lụt, thì ra lệnh cho quan sở tại nâng đỡ vỗ về, [tờ 98a] ngõ hầu ân huệ nhà
vua, thấm nhuần xuống dưới. Một khi lòng người đã vui thỏa, thì thiên tai tự
dẹp hết.
Hạ thần
lại nghe có câu: "Thiên hạ tuy an, vong chiến tắn nguy ": (Mặc dù
trong thiên hạ bình an mà quên lãng về quân sự chiến trận, tất sẽ nguy vong ).
Huống chi hiện nay là lúc nguy cập, thế mà không có vũ bị, thì sao có thể giữ
nước được.
Hiện
nay, những lính mới tuyển vào doanh, phần nhiều khí giới chưa tinh nhuệ, kỹ
nghệ chưa thuần thục, thuyền bè chưa chỉnh đốn, lại gặp thiên tai cảnh cáo,
chính là lúc đáng lo sợ nhất. Cho nên những chánh sách trị an và tu chỉnh,
không thể không rất cẩn thận. Nên nghiêm minh pháp lệnh, thu vén kỷ cương, giữ
vững nơi bờ cõi, tu sửa các thành quách, luyện tập binh mã, chỉnh bị khí giới,
đóng thuyền dựng trại, định phiên canh gác, đúng mức kỳ hẹn, ban hiệu lệnh,
hằng ngày tập luyện [tờ 98b] chờ thời sẽ phát động. Lại cần đôn sùng căn bản
quốc gia, cố kết nhân tâm, hậu đãi dân mà không bắt dân khốn, giúp đỡ dân mà
không bắt dân mệt, không nên dùng hết nhân dân, nên giảm bớt sức phục dịch của
nhân dân. Đó là kế sách trị bình vậy ".
Mậu Hợp
xem xong tờ sớ này, liền ban lời úy dụ Giáp Trưng, và triệu tới kinh sư để làm
việc triều ường.
Ngày 3
tháng 8, Hộ bộ Thượng thư Miện dương bá Đặng Vô Cạnh dâng tờ sớ lên Mậu Hợp
rằng:
"Hạ
thần là một kẻ hèn, mong ơn nhà nước, lạm dự cấp bậc quan cao, lại được bồi hầu
kinh diên. Tự xét gí nông tài mọn, không đủ xứng chức, cho nên đã hai lần khẩn
thiết xin được giải chức vụ nặng nề, mà vẫn chưa được bệ hạ ưng cho.
Hiện
nay, đạo trời chưa thuận, gió bão ra tai, chính là lúc trên dưới hợp chí tu
tỉnh, để đáp phúc trời, [tờ 99a] cho nên hạ thần không dám lánh né, kính xin
vâng giữ chức cũ. Hạ thần thiết nghĩ; Nhân sự sai lầm ở bên dưới, thì trên trời
thiên biến phát hiện. Năm ngoái có những thiên biến như: Núi tự nhiên lở, sắc
nước hóa đỏ; tuệ tinh phát hiện; và thường mưa đá. Năm nay cũng núi tự nhiên
lỡ, mưa xuống nước như tro than, và sấm động trái mùa. Bao nhiêu tai biến xảy
ra luôn luôn, đó là nhân sự sai lầm, cho nên hoàng thiên đem lòng nhân ái mà ân
cần cảnh cáo vậy. Bệ hạ thấy thế, lấy làm sợ hãi tu tỉnh, đốc thúc quần thần
cùng bàn luận, để cải cách những kỷ cương không hợp lý. Hạ thần không biết lòng
quả cảm đã thực thi chưa ? Hay chỉ là mớ văn suông thôi. Tại sao những tờ sớ
tâu các điều trước đây, hoặc có điều bệ hạ cho là phải mà vẫn không làm theo,
hoặc có điều bệ hạ nghe theo mà vẫn không cải cách, hoặc có sớ bệ hạ cự không
nạp. Các vị đại thần cùng các quan Công Khanh, đều chưa thể tất ý bệ hạ, không
tu chỉnh chức nghiệp, không cải cách tệ chánh, không giữ đạo trung bình [tờ
99b] Bởi thế trời lại cảnh báo bằng trận gió bảo vừa rồi. Cái đó không gì là lạ
vậy.
Cúi mong
bệ hạ, trên kính mệnh trời, trong sửa đức vua, quyền binh tất phải tự trên ban,
chánh lệnh chớ để trong cung phát; quyết nghe lời can gián trung trực, ngăn lấp
mọi đường tà vẹo, ban sắc lệnh cho Tổng sư phụ chánh Ứng vương, phải hằng ngày
tới triều, để cùng các vị đại thần và công khanh đại phu cùng bàn chánh trị, tu
chỉnh việc quân. Biết việc gì là trái, nên bỏ ngay đi, đừng bảo rằng cái đó
cũng không hại gì1; biết việc gì la phải, nên làm tức khắc, đừng cho rằng điều
đó rất là nhỏ mọn. Mỗi khi bàn luận tất phải sửa sai, đừng tự cho mình phải cả;
mỗi khi can ngăn tất phải theo lẽ, đừng cam chịu là nịnh thần. Như vậy trên giữ
đạo ngay, dưới giữ pháp luật, tự nhiên tai qua phúc lại, sẽ chuyển loạn thành
trị, chuyển nguy làm yên. Nếu trên dưới vẫn cứ nhân tuần cẩu thả [100a] tự cho
việc thiên hạ là không thể làm gì được nửa; không thể cứu vãn được nữa, thì nguy
vong sẽ tới ngay tức khắc.
Kinh
Dịch có câu: "Kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang " (Lời hào cửu ngũ quẻ
"thiên địa bĩ " vừa đắc trung (vì ở chính giữa quẻ trên ) vừa đắc
chính (hào dương ở ngôi dương ), cho nên bậc đại nhân quân tử, mặc dầu gặp vận
bĩ vẫn được tốt lành (đại nhân cát ), duy vẫn giữ vững đức trung chinh, như thể
bám chặt lấy rễ cây dâu (hệ vu bào tang ), kẻo thất bại đấy (kỳ vong kỳ vong ).
"Hạ
thần xin lấy câu kinh dịch này làm gương cho ngày nay ".
Mậu Hợp
ngợi khen những lời trong sớ này, nhưng vẫn không thể dùng theo.
Ngày...
Lại bộ Thượng thư Nghĩa sơn bá Trần Văn Tuyên, tới triều yết cáo xin về cố
hương, cũng dâng tờ sớ lên Mậu Hợp để tự hạch mình và từ mệnh mới2, đại lược tờ
sớ rằng:
"Trong
khoảng trời với người giao cảm, đều ứng vào cùng loại với nhau, như nhân sự hay
thì trời ng điềm lành, nhân sự dở thì trời ứng điềm dữ.
Chánh sự
thời nay, rất nhiều việc hại đạo trái lẽ, không thể kể xiết.
Những tờ
sớ của các vị đình thần trước sau đã tâu bày, đều nói thẳng những sự sai lầm,
có thể như những liều thuốc hay, rất đáng cứu xét để tu tỉnh. Bệ hạ tuy đã ban
chỉ dụ khen ngợi, [tờ 100b] mà vẫn chưa thấy mở rộng lượng theo lời can gián,
như bệ hạ dạy rằng: Lời này có thể làm theo, mà vẫn chưa thấy thi hành thực sự;
như việc mỗ, kinh luân rất nên châm chước thi hành, mà vẫn không thi hành; như
bản mỗ lưu ở trong cung, rất nên truyền ra, mà vẫn chưa phát ra. Không biết có
phải tự ý định của bệ hạ, hay là hoặc có kẻ làm ám tế thông minh của bệ hạ
chăng ?
Những
việc như thế, rất trái với thể làm chánh trị. Cho nên thể thống triều đình,
ngày càng rối loạn, những lời công luận, ngày càng bế tắc. Trong nước không có
chánh trị hay, cho nên trời ứng điềm hồ hại". này.
1 Câu này chính bản chép
"vô nhật hồ hại " (không ngày sao hại ). Xét không hợp văn lý. Xin
dịch theo nghĩa câu "vô viết
2 Ngày 23 tháng này, Mậu Hợp
với Trần Văn Tuyên làm Lại bộ Thượng thư, và bồi hầu kinh diên. Mệnh mới tức là
mệnh dữ để
cảnh tỉnh, như là tuệ tinh xuất hiện; núi tự nhiên lở, cùng là nhật thực nguyệt
thực. Nay lại phạt bằng trận mưa bão dữ dội ngay tại Kinh sư, đó là tai dị rất
lớn.
[tờ
101a] Thời xưa vua Cảnh Tông chỉ nói một lời thiện, mà tuệ tinh phải lui; nước
Trịnh vì có chánh trị hay, mà khỏi tai họa về sau. Đó điều là điểm đã nghiệm về
người thắng trời, đức khỏi tai, mà cũng đủ làm tấm gương soi tỏ cho ngày nay.
Kính
mong bệ hạ, sợ oai trời, sửa đức minh, ban sắc lệnh cho phụ chánh Ứng vương
phải hết sức tu tỉnh, giúp việc triều đình, để tâm vào việc giữ yên Hoàng gia,
nằm gai nếm mật, lấy việc diệt quốc thù làm trách nhiệm của mình. Lại cần trách
nhiện các vị đại thần, tín dụng các người trung trực; cải cách các điều lỗi,
sắp đặt hết mọi việc. Như vậy là nhân sự đã hoàn thiện, thì thiên ý tự khắc vãn
hồi, và thiên hạ quốc gia sẽ một ngày một thịnh vượng thái bình. Nếu không thì
thời kỳ bại vong, chưa dễ gì lánh khỏi.
Hạ thần
không xứng chức, tự hạch xin miễn chức, và tới trước cửa quyết để đợi tội, hoặc
biếm hoặc truất, kính theo mệnh bệ hạ ".
[tờ
101b]Mậu Hợp xét xong tờ sớ này, liền ban sắc lệnh úy dụ Trần Văn Tuyên, và
buộc phải nhận chức.
Ngày 16,
Đông các học sĩ Đạo phái bá Nguyễn Năng Nhuận, dâng tờ sớ bày tỏ rằng:
"Hiện
nay khí âm khí dương không hòa, cho nên phát sinh tai dị. Trận gió bão tháng
trước, Kinh sư bị tai hại nhất, mà nơi triều điện lại càng hại hơn. Đó không
phải là một tai dị tầm thường.
Ngôi
điện lợp tranh dựng lên, là để hành lễ vào ngày rằm và ngày mồng một hàng
tháng, nay bị trời mưa bão, làm cho trong triều ban ướt át, đó là cái triệu
chứng khí âm cực thịnh đã phát hiện vậy. Vậy nên định ngay nơi Ngự sở, không
nên cố chấp theo những ý kiến tầm thường, và theo những lời bàn nông cạn. Vua
tôi trên dưới nên cùng nhau hết sức tu tỉnh, nghĩ phương pháp dẹp tai biến.
Hiên nay
các việc bỏ bê, trăm tệ phát sinh. Nói ngay như trách nhiệm bộ Lại của hạ thần,
mỗi khi thăng chức cho quan lại, [tờ 102a] trừ những người được lệnh chỉ nhà
vua truyền cho, ngoài ra chỉ toàn những người có thân tính và có thế lực, còn
những kẻ hàn sĩ viễn thần, thì chỉ độ một hai phần trăm được dự mà thôi. Việc
này cả thiên hạ ai ai cũng biết, không thể bưng được công luận. Chức nhiệm của
hạ thần, biết là bậy đấy, mà vẫn cứ làm, đã cam chịu tội không xứng chức vụ.
Xin trình bày mấy điểm rất quan hệ và chiêm vọng thiên hạ.
Thiếu
bảo Phong quận công Trần Thời Thầm, là một vị Chưởng phủ đại thần, có bổn phận
quyết đoán mệnh lệnh đã bao năm. Thế mà gần đây, những lời ông tấu đối bệ hạ,
thường cứ dụt dè từ tốn hai ba lần. Như vậy không phải vị thể quốc đại thần
được né lánh. Ôi! Chức phận vị đại thần, là cầm đầu các thuộc hạ, đem sự chinh
trực can ngăn Vua. Nếu chính mình né lánh không chịu nhận việc, thì còn sau có
thể đôn đốc các quan hạ cấp tới đức ngay thẳng ru ?
Luân
quận công Giáp Trưng, là một vị văn thần trọng trách, tiên triều cũng đã trọng
dụng. [tờ 102b] Thế mà gần đây, chỉ vì có sự trắc trở của con cái trong gia
đình, mà mấy lần ông dâng sớ xin ở nhà. Như vậy là không phải là một vị đại
thần lịch duyệt thế sự đáng làm. Ôi! Các vị lão thần thường chung vui chung lo
với quốc gia, nước còn thì thân còn, nước nguy thì thân nguy. Đâu có thể cứ ở
nhà mà không biết tới việc triều đình ru ?
Nghĩa
sơn bá Trần Văn Tuyên, nguyên là chức Bộ trưởng, mới được mệnh triều vào Kinh
diên.
Thế mà
khi nhận được mệnh lệnh, không chịu tới nhận chức, lại còn dâng sớ tự hạch.
Miện
dương bá Đặng Vô Cạnh, được cất đặt lên đầu hàng đài các, đã từng tham dự phòng
kinh sách. Thế mà thường từ tạ là không tài, hàng tháng không chịu đến giảng
kinh sách hầu Vua.
Sự thế
hiện nay như vậy. Các vị ấy đều có ngôi tước, mà không chịu làm tròn nhiệm vụ.
Hay là bảo thời nay không thể làm gì được chăng ?
Hạ thần
dại nghĩ: Việc thờ trời chỉ cần thực, chứ không dùng văn; [tờ 103a] việc can
vua cũng cần thực không dùng văn; việc động người cũng cần thực không dùng văn.
Nếu mọi việc, việc gì cũng không có một sứ thực, mà chỉ chuộng hư văn, hạ thần
sợ việc trong thiên hạ sẽ dồn cả tới số không hết thẩy, mà không còn cứu vãn
được nữa.
Cúi mong
bệ hạ kính sợ mệnh trời, không nên yên vui, dong nạp lời can ngay thẳng, ngăn
lấp mọi đường tà tắt.
Về phần
phụ chánh Ứng vương, nên đốc suất các vị công bảo đại thần, Đô đốc 5 Phủ,
Thượng thư sáu Bộ, cùng các vị Ngự sử trọng thần, nhận lời can gián của mọi
người để can gián Vua; ngay thẳng mình trước để làm gương cho kẻ khác, cùng
nhau cứu giúp việc nước, cho hết chức phận bầy tôi. Như vậy nhân sự ở dưới đã
hoàn hảo, sẽ vãn hồi được tai biến tự trời ra.
Hạ thần
lại nghĩ: Một đạo Thanh Hoa, thế bên địch rất mạnh, mà chúng rất giỏi về môn bộ
binh. Hiện nay là thời gian tháng 7 tháng 8, quân ta vẫn im lặng, dưỡng uy sức
[tờ 103b] để chờ thời sẽ động, cái đó cũng là phải. Nhưng hạ thần nghe tình báo
cho biết; Bên địch trồng cọc gỗ vào các lòng sông cửa sông, đã tập thủy chiến,
lại luyện bộ binh. Đó là chúng phòng bị bên ta vậy. Không biết về phần bên ta
phòng bị chúng, thì quân sĩ đã chỉnh tề chưa ? Khí giới đã tinh nhuệ chưa ? Hai
đạo Tây Nam
xung yếu, đã lập thêm giậu lũy để phòng thủ chưa ?
Cúi mong
bệ hạ trách nhiệm các Tướng Tổng soái, phải chú ý về việc binh, ban hiệu lệnh
không tuyển nhiều những binh lính non yếu, các cấp quan không được dùng những
người không xứng đáng. Bệ hạ lại ra lệnh cho 2 vị Đại tướng 2 Đạo Tây Nam, là
Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn và Thạch quận công Nguyễn Quyện, phải xét những
phương pháp chiến thủ, để làm dụng cụ đánh phá, khiến cho quân địch không vượt
tới đuợc, mà bên ta đánh sẽ thắng. Lúc ấy mới đại cử hùng binh [tờ 104a] thẳng
tiến thành lũy bên địch, xuất đạo kỳ binh tiến đánh, sẽ thu được thành công
chiến thắng vạn toàn ".
Mậu Hợp
cho lời sớ này là phải.
Tháng 9,
thự Cẩm y vệ Mạc Kính Trực thự Kim ngô vệ Đinh quận công Vũ Nhân Hậu cho là
nhũng lời trình bày về tệ đoan trong tờ sớ của Lại Mẫn tâu hồi trước, có ý chỉ
trích các ông, bèn cùng nhau làm tờ trạng tự biện bạch dâng lên Mậu Hợp.
Binh
khoa Cấp sự trung Nguyễn Tự Cường, thấy Lại Mẫu tâu bày tệ đoan về sự tuyển
dụng quan lại, cũng làm tờ tâu lên Mậu Hợp để tự giải.
Lại Mẫn
thấy các người nghị luận huyên đằng, nên cũng làm tờ sớ trình bày lý do tâu lên
Mậu Hợp đại lược rằng:
"Hồi
trước hạ thần có dâng lên bệ hạ một bản sớ "tự nguy ", nói về đức nhà
vua và chánh sự hiện thời, trình bày hết thẩy mọi tệ đoan của các nha môn trong
triều cũng như ngoài quận, là có ý muốn các vị quan liêu đồng tâm hiệp lực,
cùng làm việc nước, để cải cách hết sạch các tệ đoan ngày trước. [tờ 104b]
Không ngờ nghị luận đình thần quá nghiêm, phỉ báng sôi nổi! Nếu bây giờ hạ thần
chỉ rõ tên các viên nhũng lạm ở các Ty đã kê trình trước, và nói rõ viên nào ở
Vệ nào, đã nhận của người nào bao nhiêu tiền, để làm bằng chứng cụ thể, sẽ lụy
đến những viên đã nhận biếu, và các viên phụng mệnh tra xét, lại liên lụy cả
đến người đã nói cho biết. Như vậy không phải là đạo trung hậu của người bầy
tôi trong triều đình. Bởi vậy, hạ thần đành cam chịu cái lỗi nói không hết lời.
Nay xin bày tỏ ý nghĩa về tờ sớ của hạ thần tâu bày tệ đoan hồi trước ".
Mậu Hợp
trao tờ sớ này xuống các vị trong triều. Không khiển trách Lại Mẫn, cũng không
cứu xét về việc của bọn Kính Trực có sự thực hay không. Ấy đại để hàm hồ không
quyết đoán, đều như vậy cả.
Ngày 10,
tháng 9, Mậu Hợp sai phụ chánh Ứng vương Mạc Đôn Nhượng, hợp quân các đạo vào
đánh xứ Thanh Hoam [tờ 105a] dẫn quân vượt biển tiến tới núi Đường Nang, giao
chiến với Hoàng Đình Ái, bị thua nặng, trốn về. Trận này Đôn Nhượng tổn thất
rất nhiều Tướng sĩ.
Năm này,
Mậu Hợp bị chứng "thanh mai ", mắt mờ không trông rõ, cầu các thầy
danh y thiên hạ, chữa thuốc, trong khoảng thời gian vài năm, con mắt lại được
bình phục như thường.
Niên
hiệu Quang Hưng thứ 5 (1582), ngày 29, tháng giêng, Mậu Hợp dựng một ngôi điện
thường gọi là điện giảng học, nhưng kỳ thực là để làm nơi yến tiệc chơi bời.
Vừa mới hoàn thành, thì tối hôm ấy bị hỏa hoạn cháy tiêu! Trần Văn Tuyên bèn
dâng tờ sớ rằng:
"Kinh
Thư có câu: "Duy cát hung bất tiếm tại nhân, duy thiên giáng tai tường tại
đức " (Sự lành dữ xảy ra không lộn, tại người, trời giáng tai ương hay
điềm lành, đều bởi đức ).
Nay bệ
hạ mới ngự ngôi điện mới dựng, đáng lẽ là lúc bắt đầu ban bố chánh sự và giáo
hóa, thế mà lại tới đấy để thỏa vui yến tiệc, không có đề phòng, đến nổi ngôi
điện bị cháy, việc này không thể đổ cả cho trời được, đó chính là bởi nhân sự
xui nên vậy. Nếu người không có sơ hở, thì tai biến đâu có xảy ra. [tờ 105b] Ý
trời răn bảo đã rõ ràng như vậy, chính là lúc bệ hạ nên lo sợ cần cù. Kính mong
bệ hạ kính cẩn oai trời, nghĩ tới vương đạo, đừng cho lời nói của hạ thần là
viễn vong .
Đến như
sự sửa sang lại kinh thàh, trù hoạch qui cũ, dự định dựng ngôi điện, để bệ hạ
tới ngự, cũng là một cơ hội trung hưng thứ nhất. Vậy nên mong bệ hạ quyết đoán;
giữa mong Ứng vương tán trợ; dưới mong tất cả văn võ bá quan hòa mục, để cùng
bàn tính kinh doanh, dựng lên một ngôi điện nguy nga giữa trời ".
Mậu Hợp
khen lời này là thiết đáng, và phán rằng:
"Trẫm
đang suy nghĩ ".
Tháng 2,
Mậu Hợp thăng Giáp Trưng lên tước Sách quốc công. Giáp Trưng kháng sớ hết sức
từ rằng:
"Hạ
thần là một kẽ thư sinh, chưa từng có công lao đời này đời khác, thế mà lạm dự
tước Quận công, cũng đã là quá vọng, [tờ 106a] trong lòng lúc nào cũng tự lấy
làm bẽn lẽn, huống chi là tước Quận công to lớn, hạ thần đâu có thể kham nổi
".
Mậu Hợp
cố khuyên dụ Giáp Trưng, không nghe lời thỉnh cầu từ chối.
Ngày 26,
Mậu Hợp sai Hộ bộ Thượng thư, kiêm Quốc tử giám Tế Tửu, Vịnh Kiều Bá, Hoàng Sĩ
Khải, cùng với bọn Nguyễn Năng Nhuận, Nguyễn Phong và Vũ Văn Khuê, đi ra biên
giới xứ Lạng Sơn để đón mệnh thiên triều, và nghinh tiếp Sứ thần là bọn Lương
Phùng Thời tự Trung Hoa trở về nước.
Ngày 5
tháng 3, Trần Văn Tuyên xin từ chức Lại bộ Thượng thư, để nhường cho các vị Sứ
thần vừa đi Sứ nước Trung Hoa trở về. Mậu Hợp không cho từ.
Tháng 4,
Đặng Vô Cạnh viện lý do đau yếu, xin đình 2 nhiệm vụ Ngự sử và Kinh diên. Mậu
Hợp cũng không cho.
Ngày 6
tháng 5, Đề điệu Quốc tử Thiếu bảo Thao quận công Trần Thời Thầm tâu rằng:
[tờ
106b] "Quốc gia lấy nhân tài làm trọng, mà cầu nhân tài lấy khoa mục làm
vinh. Nước Việt Nam
ta, tự khi dựng nước tới nay, thường yêu chuộng nhân tài, và long trọng khoa
mục. Các triều đại trước đây, mỗi khi mở khoa thi xong, đem tên các vị trúng
tuyển khắc vào bia đá, dựng tại Hấn cung, lại ghi chép vào Quế lục, để lưu
truyền phương danh lâu dài về sau. Đó là một phép tốt của quốc gia vậy.
Đến bản
triều ta, cũng theo cổ điển, phô diễn phép hay, niên hiệu Minh Đức thứ 3
(1529), sau khoa thi tuyển, khắc tên các vị trúng tuyển vào bia đá, dựng ở cửa
nhà Thái Học. Pháp hay chỉ thấy có môt lần này thôi, mà cũng chưa có chép tên
vào Quế lục.
Tự thời
Đại chánh Quảng hòa, cho tới thời Vĩnh lịch Cảnh lịch, tuy là thời kỳ lắm việc,
mà vẫn thường thường mở khoa thi tuyển nhân tài. Nhưng 2 thịnh điển kể trên,
cũng đều chưa tính tới.
[tờ
107a] Hiện nay, chính là thời kỳ đáng nên khôi phục thịnh điển ấy, và sửa sang
cho tốt đẹp thêm. Vậy xin bệ hạ, ra lệnh cho các vị triều thần bàn định, bắt
đầu tự năm nay trở đi, mỗi khi mở khoa thi xong, liền sai bộ Công tạo bia đá,
khắc tên các vị trúng tuyển; các vị văn thần thì soạn bài Ký ca tụng, khắc luôn
vào bia đó. Lại chiếu xét những khoa thi trước, khoa nào chưa có bia thì lập
bia, hoặc còn thiếu sót thì điền bổ cho đầy đủ. Lại sai các vị văn thần biên
chép tất cả tên trúng tuyển các vị trúng tuyển vào quế tịch. Như vậy không
những mỹ quan một thời, mà còn để đời sau xem xét, những tên các vị khoa mục,
sẽ lưu thơm tới ức nghìn vạn năm! Không phải chỉ là thịnh sự của các vị tấn
thân, mà thực là một sự hiển vinh của quốc gia vậy. Văn hóa thịnh vượng; thế
đạo thịnh vượng; thiên hạ thịnh vượng. Hạ thần rất hân hạnh được đích thân
trông thấy ".
Mậu Hợp
cho là hiện lúc này trong nước đang thời kỳ lắm việc, nên chưa thi hành.
Triều
nhà Minh đưa tờ công văn tới, nói về ranh giới nước ta và Trung Hoa tại địa
phận xứ Lạng Sơn. [tờ 107b] Mậu hợp sai Đô ngự sử Đặng Vô Cạnh tới đó hội khám
định đoạt.
Ngày 26,
Mậu Hợp sai sứ tới nhà Giáp Trưng, triệu Giáp Trưng đi phúc định lại ranh giới.
Giáp Trưng trước đây đã hết sức xin từ chức để về hưu, mà chưa được y cho. Nay
lại dâng sớ xưng bệnh, cố từ không đi.
Tháng 6,
Tướng của Mậu Hợp là Phù nghĩa hầu Nguyễn Đình Luân qui thuận triều ta, vua Thế
Tông phong cho Tướng này tước Trù quận công.
Ngày 18,
Đặng Vô Cạnh dâng sớ viện lý do tật bệnh, xin từ chức. Mậu Hợp khuyên dụ không
cho từ.
Tháng 8,
Giáp Trưng lại dâng sớ bày tỏ gia sự, xin vẫn giữ chức hàm như cũ, nhưng được ở
nhà, khi nào có nghị luận về chánh sự trọng đại, sẽ phụng chỉ dụ tới triều
đình, ngoài ra xin được tự do lúc tới lúc lui. Mậu Hợp không nghe, vời tới Kinh
sư làm việc tại dinh thự.
Niên hiệu
Quang Hưng thứ 6 (1583), mùa xuân, ngụy triều Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, [tờ
108a] lấy bọn Nguyễn Tuấn Ngạn cộng 18 người trúng tuyển.
Tháng 7,
Mậu Hợp sai Tướng dẫn quân xâm lược các Huyện ven sông thuộc xứ Thanh Hoa. Phủ
Tiết chế điều binh đánh phá ở nơi cửa biển, quân Mậu Hợp thua chạy. Tự đây Mậu
Hợp mới dẹp ý Tây xâm, nhân dân các xứ Thanh Hoa, Nghệ An được thảnh thơi yên
ổn.
Tháng
10, Phủ Tiết chế xuất quân ra xứ Sơn Nam đánh vào các Huyện An mô và An
khang, thu thóc lúa nơi đây, rồi kéo quân về.
Tướng Đông
đạo của Mậu
Hợp là Kỳ
quận công Nguyễn
Nhật Kính qui
thuận triều ta,
được Hoàng đế ban cho tước Đông quận công.
Niên
hiệu Quang Hưng thứ 7 (1584), tháng giêng, Phủ Tiết chế lại xuất quân đánh vào
Phủ Trường An, và các xứ Thiên Quan, Thuận Hóa rồi dẫn quân về.
Ngày 4,
tháng 9 Trịnh Cối chết.
Trịnh
Cối tự khi ra hàng họ Mạc, bắt đầu được trao tước Trung lương hầu, sau tiến lên
chứ Trung quận công, đến đây chết. Mậu Hợp sai người tới phúng tế, [tờ 108b] và
sai quân hộ tống linh cữu, cho thân mẫu là Thái vương phu nhân và vợ con được
đưa linh cữu về xứ Thanh Hoa an táng. Đó là muốn tỏ thiện ý để thông hảo. Về
phần phủ Tiết chế, cũng dâng biểu lên xin Hoàng đế tha tội cho ông, và truy
tặng tước Thái phó Trung quận công, rồi sai người tới núi Nga Sơn tiếp đón linh
cữu, đưa về an táng tại núi Quân An.
Mậu Hợp
thăng tước An quốc công cho Trung quan Hào quận công, thăng tước Thường quốc
công cho Thạch quận công Nguyễn Quyện, thăng tước Hoằng quận công, và chức Tây
quân Tả đô đốc cho Miện quận công Nguyễn thông.
Tháng
10, Tướng Nam đại của Mậu
Hợp là Nam
dương hầu Trần Mỗ qui thuận triều ta, Hoàng đế phong cho tước Bàn quận công.
Mậu Hợp
sai bầy tôi là bọn Nguyễn Doãn Khám, Nguyễn Vĩnh Thác, Đặng Hiển, Nguyễn Năng
Nhuận, Vũ Sư Thước, Nguyễn Phong sang triều Minh cống hiến thường lệ hàng năm.
[tờ
109a] Niên hiệu Quang Hưng thứ 8 (1585), tháng giêng, phủ Tiết chế xuất quân ra
Thiên quan, đánh phá các Huyện Mỹ Lương, Thạch thất, và An Sơn, dẫn quân tới
núi Sài Sơn rồi trở về, để viên Tỳ tướng là Chiêu quận công lưu lại, đóng quân
ở chợ Hoàng xa. Quân Mậu Hợp đuổi kịp, bắt Chiêu quận công và một con voi.
Tháng 3,
ngụy triều Mậu Hợp dùng Vũ Đảng làm chức Tả thị lang bộ hình. Vũ Đảng từ không nhận.
Tự tháng
2 tới tháng 6, không có trận mưa nào, làm cho lúa đồng héo khô, nhân dân đói
kém. Viên Đề hình Nguyễn Thọ Xuân, bèn dâng tờ sớ trình bày các việc hại tới
nhân dân, và xin thi hành chánh trị thương dân.
Lại Mẫu
cũng dâng sớ cực lực trình bày về hình ngục oan lạm, và sưu thuế nặng nề. Xin
cải cách các tệ đoan cũ, và săn sóc tới sự đau khổ của dân.
Mậu Hợp
đều khen những lời này là thiết đáng. Nhưng chánh sự hết thẩy vẫn như cũ.
Lúc này,
Mậu Hợp muốn vào ở tại kinh thành, [tờ 109b] bèn bàn việc tu sửa Kinh thành,
kiến trúc công tác vĩ đại. Nung gạch ngói, sai hạt An Bang và hạt Ninh sóc vận
tải tre gỗ về. Bắt đầu khởi công từ năm Quang Hưng thứ 7, đến đây mới hoàn
thành.
Ngày 19,
tháng 6, Tả đô đốc Đông quân là Đàm quận công Nguyễn Nghi Lộc xin về hưư trí,
Mậu Hợp cố khuyên lưu lại.
Ngày 28,
Mậu Hợp chỉnh đốn xe ngựa vào Đông Kinh, tiếm ngự nơi chánh điện, mở ban triều
các ban văn võ, đổi năm sau làm niên hiệu Thụy Thái thứ nhất. Thăng Giáp Trưng,
Mạc Ngọc Liễn, và Nguyễn Quyện lên chức Thái Bảo; thăng Nguyễn Thông lên chức
Tả đô đốc Nam quân. Ngọc Liễn xin từ, không nhận chức.
Tả thị
lang bộ Lại Tây khê bá Vũ Tĩnh, và Thượng thư bộ Lễ Đạm châu hầu Nguyễn Triệt,
đều dâng sớ xin từ chức. [tờ 110a] Mậu Hợp cho Vũ Tĩnh từ, không cho Nguyễn
Triệt từ..
Tháng
12, Phủ Tiết chế xuất quân ra xứ Sơn Nam, đánh các huyện Gia Viễn và Phụng Hóa,
rồi dẫn quân về.
Niên
hiệu Quang Hưng thứ 9 (1586), Mùa xuân, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn
Nguyễn Giáo Phương cộng 27 người trúng tuyển.
Mùa thu,
ngày 27 tháng 7, Thái bảo Thao quốc công Trần Thời Thầm viện lý do đã 70 tuổi,
xin về hưu trí. Mậu Hợp khuyên dụ lưu lại.
Ứng
vương Mạc Đôn Nhượng dâng sớ lên Mậu Hợp nói rằng:
"Hạ
thần vâng mệnh phụ chánh đã lâu ngày, mà không có công hiệu gì. Vậy xin giải
nhiệm chánh trị trong triều. Về chức phiên thần, giữ nguyên một việc binh, dốc
toàn lực vào quân sự, để báo ơn nước ".
Mậu Hợp
úy dụ Ứng Vương, không theo lời thỉnh cầu.
Đôn
Nhượng lại dâng tờ sớ rằng:
"Cầu
công giúp đỡ của bầy tôi, đó là lòng mong trị bình tha thiết của đấng vương
giả; giúp việc không thành công thì nghĩ, đó là lòng thờ vua chí thành của kẻ
bầy tôi.
[tờ
110b] Hạ thần miễn cưỡng theo việc, tới nay cũng đã lâu năm. Thế mà chưa chấn
chỉnh được kỷ cương trong nước, chưa dẹp hết được giặc thù bên ngoài. Đó là bởi
tài của hạ thần không đũ làm chánh trở nên hay; vũ của hạ thần không đũ ra oai
cho địch sợ. Nếu sức không đũ mà cứ miễn cưỡng làm mãi, sợ sẽ đắc tội thêm với
thiên hạ nhiều lần.
Vậy kính
xin bệ hạ, tha thứ điểm bất lực bất tài của hạ thần, cho hạ thần được giải
nhiệm chánh trị, về chức phiên thần, ngỏ hầu khỏi tội lệ.
Mong bệ
hạ giữ vững quyền trên, trị an trong cung, còn như về chánh sự thì giao phó cho
các vị đại thần trong triều, cần cải cách gấp các tệ chánh, việc quân sự thì
giao phó cho các vị Tướng soái, cùng hiệp lực về sự dẹp giặc làm cần. Hạ thần tuy
không có tài năng, cũng xin tới chỗ hành doanh, đốc chiến cùng với các Tướng
tiến quân đánh quân địch, để khôi phục lãnh thổ có hạn, [tờ 111a] giữ vững cơ
nghiệp vô cùng ".
Mậu Hợp
đáp rằng:
"Xem
tờ biển này, lời rất khẩn thiết! tiểu tử đem lòng kính phục.
Hiện
nay, kỷ cương nhà nước chưa phấn chấn, cơ nghiệp tổ tông chưa vững bền, mà tiểu
tử thì chưa có nhiều từng trải, chính là lúc cần nhờ đến sức cần lao của thúc
phụ, sớm hôm cứu giúp, trong thì sửa sang kỷ cương nhà nước, ngoài thì đánh dẹp
giặc thù, để sáng tỏ trị công đấng Tiên vương; khôi phục cảnh thổ tiên triều.
Thúc phụ
đối với tiểu tử, nghĩa tuy là vua tôi, nhưng ân như cha con. Việc quốc gia
trọng đại, rất cần ỷ lại vào thúc phụ, kính mong thúc phụ cố gắng giữ trách
nhiệm, cho thỏa lòng chí thành của tiểu tử ".
Đôn
Nhượng lại tổng quát triều chánh.
Thái bảo
Giáp Trưng dâng tờ sớ lên Mậu Hợp rằng:
"Thời
xưa nước An Nam ta, họ Triệu dựng nước [tờ 111b] triều Hán phong cho tước
Vương, sau đó đến họ Đinh, họ Lê, họ Lý, họ Trần dựng nước, thì các triều Tống,
triều Nguyên và triều Minh bên Tàu, cũng đều phong tước Vương cho cả.
Đến bản
triều ta, cách mệnh thành công, thì nước Minh lại đặt nước ta là Ty đô thống
sứ, mà phong cho vua ta chức Chưởng ty với quan hàm nhị phẩm.
Tự đấy
tới đây, đã 44 năm qua, vẫn giữ hiệu ấy, nhân tuần việc cũ, xưng hô quá hèn, mà
vẫn chưa xin phong phục quốc hiệu. Mỗi khi đến dưới cửa quân nước Minh, hoặc
nha môn Ty Bố chánh Án sát và Thủ tuần nước MInh có văn thư tới nước ta, đều
phê chữ "chuẩn thư ". Như vậy là nhục quốc thể không gì bằng.
Kính
mong bệ hạ, ra lệnh các triều thần hợp bàn, quan Đông các thì soạn tờ quốc thư
xin phong, và tờ công văn xin phong của các kỳ lão quan thuộc trong nước , đệ
sửa sang cửa quân lưỡng Quảng, [tờ 112a] chiếu xét rồi chuyển dâng lên vua Minh.
Còn phẩm vật nghi lễ về cầu phong, thì tra xét đúng lệ, và chỉnh bị một vài Sứ
thần, chờ khi có mệnh thiên triều, lập tức tiến hành.
Quốc thể
sẽ long trọng; nhân dân và nhà nước sẽ vinh quang, đều là tự việc này vậy
".
Mậu Hợp
cho lời này là phải. Nhưng vì lúc này đang bối rối về quân sự, mà tài nguyên
cũng còn thiếu kém, cho nên chưa thi hành.
Ngày 2,
tháng 8, Giáp Trưng dâng tờ sớ rằng:
"Cổ
nhân lấy câu: "tri túc bất nhục" (Biết đũ sẽ không nhục ) làm răn;
tiên hiền thường tự xử theo câu: "Niên chí tiện qui " (Đến tuổi già
thì về hưu ).
Nay hạ
thần đã 70 tuổi, đáng nên về hưu, môt niềm mong muốn, không nói gì khác, kính
mong bệ hạ, xét lòng chí thành của hạ thần, cho hạ thần trí sĩ, để toàn tiết
muộn, và giữ hơi tàn của hạ thần. Đó là hạ thần rất mong vậy.
Hiện
nay, các quan trong triều đình, thẩy đều là các bậc hiền tài, thi thố việc
nước, đã có thành toán. [tờ 112b] Nhưng hạ thần lo ngại về điều; Đang lúc thịnh
trị cũng nên nghĩ tới sự nguy vong. Đó là lòng chí thành của bầy tôi già này
cần bầy tỏ.
Kính
mong bệ hạ, tính việc trị an, cung kính phép trước, chuyên về chính học, thân
cận người ngay, thực ý ngay lòng, phòng sai ngăn dục, không gần sắc đẹp hát
hay, không gây lợi về tiền của, không ham rượu, không mê nhạc, ngăn kẻ nịnh
nọt, răn sự dong chơi. Khiến cho chánh trị giáo hóa trở nên hay, nhân dân nhà
nước đều yên vui, để tiến tới môt nền thịnh trị.
Hạ thần
lại nghĩ. Việc dụng binh là một việc rất cần thiết hiện nay. Kính mong bệ hạ,
sùng thượng kiệm ước, giảm sự tiêu bừa, tích của để dùng vào việc binh. Ủy cho
phụ chánh Ứng vương phải nghiêm hiệu lệnh, đặt Tướng Tá trong các doanh, phải
chọn bậc anh dũng; quân sĩ phải tuyển hạng tinh nhuệ; sắm thuyền bè, duyệt thủy
quân, luyện voi ngựa, khí giới, súng ống, và cung nỏ, [tờ 113a] để làm kế sách
đánh quân địch.
Về
phương Tây Nam ,
những chỗ xung yếu giáp giới bên địch, thì nên đắp lũy cao, đào hào sâu, đặt
bẫy nỏ, nghiêm phòng bị, và đặt thêm đồn trại, chia quân giữ nơi yếu hại.
Thành
Đại La tự cửa Nam Ông Mạc đến Nhật Chiêu, những lũy đất nên đắp cao thêm, và
khai sâu thêm những con hào ở đây.
Thành
Thượng hoàng, tự cửa Nam đến cửa Bắc, nên tu sửa những bức tường "bễ nghễ
" trên mặt Thành cho thật cao, để bảo hiểm trong Thành.
Môt khi
chiến cụ đã đầy đũ, phòng vệ trong ngoài đã chu đáo, thì giữ sẽ vững, đánh sẽ
thắng. Giặc ngoài đã dẹp, trong nước tự yên. Hạ thần tuy hưu dưỡng tại nơi điền
viên, cũng được dự hưởng phúc thái bình ".
Mậu Hợp
đáp rằng:
"Ông
lá bầy tôi kỳ cựu, đã từng khó nhọc, [tờ 113b] đối với lễ, đáng nên về hưu.
Nhưng hiện nay đang cần hiền tài giúp việc nước, ông là bậc lão thành am luyện,
đối với nghĩa chưa nên đi vội. Vậy phiền ông hãy ngồi lại làm việc tại dinh,
giữ công luận, tán thành chánh trị, chính lại quốc phong. Đến lúc ấy sẽ về hưu
cũng không muộn ".
Ngày 9
tháng 9, Giáp Trưng lại dâng biểu xin về hưu trí. Mậu Hợp vẫn cố lưu, không cho
hưu. Viên Trung quân Tả đô đốc, chưởng phủ sự, tham dự triều chánh là Thái bảo
Thao quận công
Trần
Thời Thầm lại xin trí sĩ. Mậu Hợp ưng cho.
Tháng
11, Giáp Trưng lại dâng sớ xin trí sĩ, lời lẽ rất là khẫn thiết. Mậu Hợp bất
đắc dĩ nghe theo. Khi Giáp Trưng đã về quê nhà làng Kế hương, Mậu Hợp tưởng
nhớ, lại triệu về kinh sư, nhưng Giáp Trưng tạm đến liền xin về ngay, rồi qua
đời.
[tờ
114a] Lại bộ Thượng thư Nghĩa sơn hầu Trần Văn Tuyên xin tu sửa trường Quốc
học, 2 giải vũ ở điện Đại Thành, và nghi môn, tiền nghi môn ở các giảng đường.
Định lễ nhạc để tỏ sự tôn thầy trọng đạo, và rộng nền văn hóa thành nhân. Mậu
Hợp không dùng.
Ngày 11,
tháng 11, Mậu Hợp gia thêm chức Trung quân Tả đô đốc Chưởng phủ sự, hàm Thái
bảo cho Thiếu bảo Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn.
Niên
hiệu Quang Hưng thứ 10 (1587), tháng giêng, Mậu Hợp sai tu sửa ngoại thành
Thăng Long, và chỉnh trang các đường phố.
Tháng 2,
Mậu Hợp sai xứ Tây và xứ Nam đắp bức lũy bằng đất, trồng cây gai lên trên, tự
sông Hát giang xuống tới sông Hoa đình thuộc xứ Sơn Minh, dài chừng vài trăm
dặm, để phòng ngoại binh.
Tháng 9,
ngày mồng một thuộc ngày Đinh Hợi có nhựt thực.
[tờ
114b] Tháng 10, phủ Tiết chế xuất quân đánh phá các Phủ: Trường An, và Thiên
Quan. Khi đi đến chợ Đế, sai quân tạo cầu nổi qua sông, đánh phá tan doanh của
Tướng bên địch là Tân quận công.
Tháng
11, phủ Tiết chế xuất quân ra biên giới Tây Nam, khi đi đến hạt Mỹ lương, thì
Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn dẫn quân ra hạt Ninh Sơn, để đánh vào cánh quân bên
Tả của ta; Nguyễn Quyện dẫn quân ra hạt Chương đức, rồi qua sông Do lễ, để đánh
vào cánh quân bên hữu của ta.
Khi
Nguyễn Quyện dẫn quân đến sông Xú Giang, chia một đạo binh mai phục ở dưới con
đường nhỏ nơi chân núi, định để đánh chặn đạo quân vận tải lương thảo của ta.
Quan Tiết chế biết được, dự phòng bị trước, bèn sai Hà Thọ Lộc và Ngô Cảnh Hựu,
dẫn quân bảo vệ đạo quân lương; sai Hoàng Đình Ái dẫn quân về xứ Thanh hoa; sai
bọn Nguyễn Hữu Liêu xuất quân cầm cự với Mạc Ngọc Liễn, để chia thế quân địch.
Quan Tiết chế thì đích thân đốc xuất đạo binh, giao chiến với Nguyễn Quyện.
Quan quân bên ta hăng hái xung đột, quân Nguyễn Quyện không đương nổi [tờ 115a]
tan vỡ chạy trốn, đạo quân mai phục của chúng cũng phải bỏ chạy, thảy đều tranh
nhau qua sông, bị chết đuối vô kể! Quan quân chém được mấy trăm đầu quân địch,
rồi đánh đuổi theo đến nửa ngày mới dừng quân.
Tự đấy,
Nguyễn Quyện rất sợ binh uy phủ Tiết chế, mỗi khi gặp trận, thường né lánh
không dám xung phong.
Mạc Ngọc
Liễn được tin Nguyễn Quyện bại trận, cũng dẫn quân trốn xa. Quan Tiết chế bèn
tiến quân đóng doanh tại núi Hoàng Sơn, đánh phá các hạt; An Sơn và Thạch Thất,
bắt sống rất nhiều quân địch. Đến tháng 12 mới dẫn quân về.
Năm này,
Mậu Hợp đổi niên hiệu Minh Đức làm niên hiệu Hưng Trị thứ nhất.
Niên
hiệu Quang Hưng thứ 11 (1588), tháng 2, Mậu Hợp thấy quân bên ta ngày càng
cường thịnh, mới nghĩ tới kế sách chiến thủ của Giáp Trưng tâu bày hồi trước,
bèn sai dân quân các Huyện trong 4 Trấn, đắp thêm 3 bức lũy đất ở bên ngoài
thành Đại La, tự Nhật Chiêu qua Tây Hồ, và Cầu Gia Cầu Giền, đến thành Thanh
Trì [tờ 115b] bề cao hơn thành Thăng Long cũ là 2 trượng, bề rộng 25 trượng,
lại đào 3 lần hào, trồng chông gai, dài chừng vài chục dặm, bao la bên ngoài
thành, rất là hiếm cố.
Tháng 5,
phủ Tiết chế xuất quân đánh các Huyện: An Mô và An Khang, lược định nhân dân
các nơi đây, rồi dẫn quân về.
Tháng
11, phủ Tiết chế lại xuất quân ra lối Phố Cát đánh các Huyện: Trường An và
Thiên Quan, thu được rất nhiều tài vật, rồi dẫn quân qua sông Chánh Đại, đóng
doanh trại ở Dương vũ. Đóng tại đây một tuần, giả bộ kéo quân về, nhưng mai
phục đạo kỳ binh và voi ngựa ở đằng sau doanh, phóng lửa đốt nhà cửa ở đấy để
dụ quân địch.
Tướng
của Mậu Hợp là bọn Tân quận công và Quỳnh quận công thấy vậy, tưởng là Tiết chế
kéo quân về thật, liền tranh nhau đuổi đánh, gặp ổ phục binh nổi dậy, đánh cho
thua trận tơi bời! Chém giết hàng mấy trăm tên, bọn Tân quận công chỉ chạy
thoát thân lấy mình, không còn tưởng đến binh sĩ. Vương sư bèn trở về.
[tờ
116a] Niên hiệu Hưng thứ 12 (1589), ngày 16, tháng 7 có nguyệt thực.
Tháng
10, phủ Tiết chế lại xuất quân đánh Huyện An Khang. Mậu Hợp định cử đại binh để
đánh một trận quyết liệt, bèn sai Ứng vương Đôn Nhượng, thống lĩnh quân 4 Vệ,
và binh mã 4 Trấn đều tiến. Khi chúng tiến tới giới phận Huyện An Mô, thì phủ
tiết chế bàn với các Tướng rằng:
"Hãy
lui binh để dụ địch, mà ngầm đặt phục binh để đánh tập hậu ".
Bèn sai
Nguyễn Hữu Liêu phục đạo quân tinh nhuệ vào trong chân núi trước, rồi sai Ngô
Cảnh Hựu lĩnh binh hộ vệ đạo quân vận lương lui vào núi Tam Điệp, quan Tiết chế
thì đích thân thống dẫn đại binh từ từ kéo lui.
Đôn
Nhượng sai quân lên trên núi xem xét, được báo tình hình như trên, bèn cười mà
rằng: "Chúng thấy quân ta tiến tới, tự biết là ít quân không thể địch nổi
với nhiều quân, cho nên phải lui binh trước, mà tất là lưu Hoàng Đình Ái làm
đội quân đoạn hậu.
[tờ
116b] "Hỡi các Tướng sĩ ta! Có kẻ nào vươn mình cố sức đuổi kịp quân địch,
bắt được một Tướng Tá, hoặc một con voi, ta sẽ phong cho chức Thượng tướng, rồi
khi trở về nước, sẽ tâu xin Hoàng thượng thăng trật và hậu thưởng ".
Các
Tướng Tá được lệnh trên, đều vui vẻ hớn hở tranh nhau đuổi đánh. Khi chúng đã
lọt vào vùng hiểm địa, phục binh đều trỗi dậy, cả đại quân cũng thúc trống quay
cờ trở lại, 4 mặt đều hăng say đánh ập cả vào, phá tan quân địch, chém đầu hơn
nghìn tên, bắt sống hơn 600 người. Đôn Nhượng thu thập tàn quân, chạy về Đông
kinh, quan quân cũng trở về Thanh Hoa.
Tháng
này, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Phạm Y Toàn cộng 17 người trúng
tuyển.
Niên
hiệu Quang Hưng
thứ 13 (1590)1, vợ của ngụy triều Đường an vương Mạc Kính Chỉ, tư thông
với viên Tướng dưới trướng là Hoằng quận công, rồi ẩn trốn tại nhà Quận công,
việc vỡ lở, đều bị giết chết.
Mồng một
tháng 7 có nhật thực, và sao Thái bạch phạm vào mặt trăng.
[tờ
117a] Niên hiệu Quang Hưng thứ 14 (1591), mùa xuân, Mậu Hợp đổi năm này làm
niên hiệu Hồng Ninh thứ nhất.
Tháng 3
có tuệ tinh hiện ở phương Đông.
Ngày 13,
tháng 3 nhuận, có cầu vòng đỏ bắc ngang trời; mặt trời quầng, có 2 vòng khí
trắng vòng quanh bên ngoài vầng quầng.
Ngày 15,
tháng 5 là ngày Bính Tuất, có nguyệt thực, mặt trăng bị đen gần hết.
Lúc này,
chính trị của triều đình Mậu Hợp nát bét, binh lực thì suy yếu, lại tai dị luôn
luôn, nhân tâm đều lấy làm nguy ngập.
Tháng
12, quan Tiết chế Trưởng quốc công cử đại binh đánh Mậu Hợp, điều động 60.000
quân. Nguyễn Hữu Liêu điều khiển đội quân thứ nhất, Hoàng Đình Ái điều khiển
đội quân thứ nhì, Trịnh Đỗ điều khiển đội quân thứ ba, Hà Thọ Lộc điều khiển
đội quân thứ tư, phát xuất tự Tây Đô ra miền Quảng Bình, đi qua Thiên Quan, đến
giới phận Tây núi Mã Yên, [tờ 117b] dừng quân đóng doanh trại tại đây, rồi tiến
quân qua núi Mang Mộng thuộc hạt Thanh Châu lược định các Huyện: An Sơn, Thạch
thất, Phúc Lộc và Tân Phong. Lại đóng quân tại đất Tốt lâm.
Mậu Hợp
được tin quân nhà vua ta tiến đánh bức bách đến nơi, cũng muốn đại cử binh mã
đánh một trận quyết liệt, để định được thua. Bèn đốc thúc điều động binh mã
trong 4 Trấn 4 Vệ và 5 Phủ, cộng 10 vạn quân. Ra lệnh ngày 16 tháng này, tất cả
binh sĩ kể trên, phải tề tựu tại Hiệp thượng, Hiệp hạ, để tiến đánh. Sai Mạc
Ngọc Liễn đốc binh mã Tướng sĩ Tây đạo; Nguyễn Quyện đốc binh mã Tướng sĩ Nam
đạo; Ngạn quận công và Thủy quận công lĩnh binh mã Tướng sĩ Đông đạo; Phú quận
công và Xuyên quận công lĩnh binh mã Tướng sĩ Bắc đạo; Khuông quận công và Tân
quận công lĩnh binh mã Tướng sĩ 4 Vệ. Mậu Hợp đích thân đốc binh mã Chánh
doanh; [tờ 118a] các vị tôn vương và các tướng Túc vệ Đông đạo đốc quân hậu
đội. Chia đường cùng tiến.
Ngày 27,
quân Mậu Hợp đi đến Phấn thượng, dàn thành mặt trận, đối diện với mặt trận quan
quân bên ta. Mậu Hợp sai Khuông quận công2 và Tân quận công đốc binh 4 Vệ, làm
đội quân tiên phong; Mạc Ngọc Liễn làm đội quân Hữu dực; Nguyễn Quyện làm đội
quân Tả dực; binh mã 2 đạo Đông và Bắc kế tiếp theo sau, tất cả 4 Đội đều tiến.
Mậu Hợp thì đích thân đốc chiến.
Phủ Tiết
chế được tin trên, lập tức chia công; Sai các viên danh tướng hữu khu là bọn
Nguyễn Hữu Liêu, đều dẫn quân bản bộ tiến lên trước để khiêu chiến; lại tuyển
400 tên lính kỵ mã vượt lên để trợ chiến. Ra lệnh: Các doanh các Cơ đều phải y
theo Tiết chế mà chiến đấu. Các binh sĩ đều hăng hái xông đánh, chém đầu Khuông
quận công và Tân quận công ngay trước mặt trận [tờ 118b] Tỳ Tướng là Hoàng
Nghĩa Cước cũng chết tại mặt trận. Mậu Hợp thấy thế không địch nổi, bèn ra lệnh
ngừng chiến, án binh bất động.
Đến lúc
mặt trời đứng bóng, vào khoảng giữa trưa, phủ Tiết chế nhân thấy quân địch có
vẻ uể oải, bèn đích thân đốc thúc ba quân thừa thế tiến đánh. Phát ba tiếng
pháo lệnh, các Tướng sĩ đều xung đột vào trận địch, khiến cho quân Mậu Hợp
hoảng sợ chạy lùi, cánh quân bên tả không kịp chiếu cố tới cánh quân bên hữu;
đạo quân sau không kịp chiếu cố tới đạo quân trước, cờ trận sai lạc; hàng ngũ
rối loạn, xô nhau mà chạy. Quân bên ta thừa thắng đuổi dài, đuổi đến đất Giang
Cao, chém đầu hơn vạn giặc.
1 Xét thứ tự, thì năm này là
niên hiệu Quang Hưng thứ 13, vì trên năm này có chép niên hiệu Quang Hưng thứ
12, và dưới năm này có chép năm thứ 14. Thế mà chính bản chỉ chép hai chữ "tam niên " (năm thứ 3 ). Có lẽ
chép sót một chữ "+ thập " (mười ) chăng ? Xin dịch theo nghĩa chữ
"+ thập tam niên ".
2 Câu này chính bản chép
"Khuông định công ". Có lẽ chép lộn chữ "quận " ra chữ
"định " chăng ? Xét trang trên chép "khuông quận công ".
quân
địch, máu chảy khắp nội, thây chất thành non! Bắt được lừa ngựa và khí giới
không kể xiết. Mậu Hợp chỉ một
mình một ngựa
chạy xuống thuyền,
rồi chạy về
Kinh ấp. Bọn
tàn quân tranh
nhau lên thuyền, người trong
thuyền sợ quá đông người sẽ đắm thuyền, [tờ 119a] nên dùng gươm chém bừa vào
cánh tay, làm cho bọn tàn quân rơi xuống nước mà chết đến quá nữa, ngoài ra đều
tự chạy trốn thoát thân. Riêng có đạo quân của Nguyễn Quyện đã xa lánh, cho nên
được toàn vẹn không mất tên nào.
Ngày
này, phủ Tiết chế tiến quân đóng tại Hiển Sơn.
Ngày 30,
phủ Tiết chế tiến quân đóng tại hoàng xá, rồi qua đò Sông cầu, phá hủy bức lũy
bên
Đến đêm
hôm ấy, phủ Tiết chế sai Nguyễn Hữu Liêu, dẫn 5.000 quân tinh nhuệ, và quân voi
ngựa đánh thẳng vào đại phường cầu Giác cao phía Tây Bắc Kinh thành. Bắn 7 phát
súng lửa, đốt cháy nhà cửa nơi đây, khói lửa bốc mù trời, trong thành hổn loạn.
Mậu Hợp sợ hãi, bỏ thành chạy trốn, qua đò sông Bồ Đề. Nhân dân trong thành,
già trẻ gái trai, tranh nhau xuống thuyền để qua sông, bị chết đuối chừng hơn
nghìn người. Đến khi trời đã sáng rõ, tức là sáng ngày hôm sau, Hữu Liêu lại
dẫn quân về nơi hành doanh.
[tờ
119b] Năm Nhâm Thìn, niên hiệu Quang Hưng thứ 15 (1592), mùa xuân, tháng giêng,
ngày mồng 3 thuộc ngày Giáp tý, phủ Tiết chế tiến quân đóng tại Ninh Giang,
ngày mồng 5, tiến tới chùa Thiên Xuân. Khi quân ta sắp tiến tới cầu Nhân mục,
thì Mậu Hợp đã quá sợ! Bỏ kinh đô trốn về quán Thổ khối ở, lưu các đại Tướng ở
lại giữ Kinh thành; Mạc Ngọc Liễn lĩnh quân bản bộ giữ tự cửa Bảo khánh trở về
phía Tây cho tới cửa Nhật chiêu; Bùi Văn Khuê và Trần Bách Niên lĩnh quân 4 Vệ,
giữ tự Cầu gia đến cầu mộng thẳng tới cầu giền. Chia quân đóng từng doanh, đóng
cửa thành chống giữ; Nguyễn Quyện lĩnh quân giữ tự Mạc xá trở về phía Đông, và
làm quân cứu viện cho các đạo binh khi nguy cấp. Binh sĩ 2 đạo Đông và Bắc đều
thuộc quyền Nguyễn Quyện. Mậu Hợp thì giữ thủy quân ở sông Nhĩ hà, dàn hàng
trăm chiến thuyền, để làm thanh thế cứu viện.
[tờ
120a] Khi Nguyễn Quyện đến doanh liền đặt phục binh ở bên ngoài cửa Cầu Giền,
để nhữ quân ta, lại dàn hàng trăm cổ súng lớn, để phòng quân bên ta.
Ngày
mồng 6, phủ Tiết chế tiến quân tới sông Tô Lịch, rồi tới cầu Nhân mục, đóng
quân tại Xạ đôi, bày trận chia công, ra lệnh: Hạn trong một ngày hôm nay, phải
đánh phá thành thăng long cho bằng được! Sai Nguyễn Hữu Liêu đánh vào Cầu gia,
thẳng tiến cửa Tây; Hoàng Đình Ái đánh vào Cầu Giền thẳng tiến cửa Nam ; Trịnh Đỗ
đánh vào cầu Mộng thẳng tiến cửa Mộc Kiều. Quan Tiết chế thì đích thân đốc đại
quân kế tiếp đằng sau, đóng đồn tại làng Hồng Mai.
Các
Tướng tiến đánh, tự giờ Tỵ (khoảng 11 giờ ) cho tới giờ Vị (khoảng 15 giờ chiều
), chưa phân được thua, quan Tiết chế bèn đích thân cầm cờ lệnh, phất cờ chỉ
huy. Tự đây khí dũng cảm của Tướng sĩ trổi lên gấp trăm lần, hăng say xung đột,
tranh nhau vượt lên trước làn tên đạn, xuyên qua bức lũy, nhảy lên mặt thành,
liền phá cửa lũy [tờ 120b] Bùi Văn Khuê và Trần Bách Niên, không đủ sức chống
cự, quân sĩ tan vỡ bỏ chạy tán loạn, Ngọc Liễn cũng bỏ lũy chạy trốn. Quan quân
thừa thắng đuổi dài, phóng lửa đốt các cung điện và nhà của dân gian, khói lửa
mù trời. Quân phòng thủ 4 mặt đều tan vỡ. Quan Tiết chế dẫn binh tự Cầu Giền
tiến thẳng vào, phục binh của Nguyễn Quyện đã đặt trước không kịp trỗi dậy, đều
bị loạn quân giết chết, Nguyễn Quyện kế cùng sức kiệt, trong ngoài đều vướng
quan quân; cửa lũy bị lấp; con trai y là Bảo Trung và Nghĩa Trạch cùng lính thủ
hạ cũng đều tử trận. Quyện bèn chạy trở về bản doanh, liền bị quan quân bắt
được, đem nộp vào cửa doanh. Trong kinh thành xác chất chồng lên nhau, Tướng Tá
chết chừng vài chục viên, sĩ tốt chết đến hơn nghìn người, [tờ 121a] khí giới
bỏ ngổn ngang cao như quả núi, lâu đài cung điện nhà cửa sạch không!
Mậu Hợp
sợ hãi, bèn thu thập tàn quân, chiếm cứ dãi sông dài để tự bảo vệ.
Quan
Tiết chế dẫn quân tới bên sông, toan qua sông tiến đánh. Nhưng lại bảo các
Tướng rằng: "Căn bản của Mậu Hợp ở phương Đông Bắc. Nay tuy bại trận ở
đây, nhưng viện binh tại các nơi hãy còn nhiều. Quân ta thì thuyền bè chưa đủ,
âu là hãy để chuyến sau, Cổ nhân có câu rằng: "Thắng địch chi dư, nhuệ khí
bách bội, bại quân chi khí, một thế bất chấn " (sau khi thắng trận, thì
nhuệ khí tăng gấp trăm lần, một khi bại trận, thì khí thế quân sĩ suốt đời
không thể trỗi ). Nay ta hãy kéo quân về, để sĩ tốt được nghĩ ngơi, chờ thời
cơ, sẽ tự Trường An xuất quân, cả thủy quân lẫn bộ binh, đều tiến như cuốn
chiếu, lúc ấy mạn sông đại hà trở về Bắc, sẽ không còn thành trì nào kiên cố
nữa ".
Quan
Tiết chế bàn đóng quân lại tại chánh doanh, sai sang phẳng các bức lũy bằng đất
chung quanh thành Đại La, và lấp các hào rãnh, san thành bình địa.
Tháng 3,
phủ Tiết chế hạ lệnh kéo quân trở về, [tờ 121b] đi đến hạt Chương Đức, tạm đóng
quân lại, sai tạo cầu nổi, để quân qua sông Lễ giang, rồi chia quân đi tuần các
Huyện: Thanh Hà, Thượng Phúc và Phú Xuyên; lược định các Huyện: Từ Liêm, Đan
Phượng, Ma Nghĩa, An Sơn và Thạch Thất. Rồi do đường Thanh quan trở về Thanh
Hoa.
Mậu Hợp
thấy quân nhà vua ta đã trở về, bèn trở lại thu thập tro tàn, sai các Tướng
chia giữ những nơi xung yếu.
Mùa hạ
năm này, Mậu Hợp mở khoa thi Cử nhân ở bến Bồ Đề, lấy bọn Phạm Hữu Năng cộng 17
người trúng tuyển.
Mồng một
tháng 8 thuộc ngày Mậu Tý, có sao sa xuống, sắc đỏ, dài chừng 5 trượng, loè
sáng như luồng điện, chiếu sáng rực vào nóc nhà, rơi xuống đất có tiếng ầm ầm
như tiếng sấm! Mậu Hợp không biết lấy đó làm đáng sợ, vẫn hoang dâm chơi bời,
ngoài thì các thế gia chuyên chánh, trong thì hoạn quan chuyên quyền. [tờ 122a]
Vợ viên Trấn thủ Nam đạo Sơn quận công Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên, tức là
con gái Nguyễn Quyện, mà người chị gái của Thị Niên là Hoàng hậu của Mậu Hợp,
vì thế Thị Niên thường được ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên, đem lòng
yêu mến, bèn ngầm tính kế giết Văn Khuê để cướp vợ y. Văn Khuê biết tình, bèn
dẫn quân bản bộ về giữ hạt Gia Viễn, không theo mệnh lệnh của triều đình. Mậu
Hợp mấy lần vời cũng không tới, bèn sai Tướng dẫn quân tới hỏi tội Văn Khuê.
Tháng
10, Văn Khuê trưng binh chống giữ, và sai con trai chạy tới hành doanh, yết
kiến phủ Tiết chế, khóc lóc cáo tố sự tình, xin đầu hàng và xin cho quân cứu
viện. Phủ Tiết chế rất mừng, bèn họp các Tướng mà rằng:
"Quân
địch lập đồn binh ở Gia Viễn, chặn đường tiến binh của ta, đã mấy lần ta đánh
đồn này, mà chưa phá được. Năm trước đấy, ta xuất quân do đường Thiên quan, ra
hạt Mỹ lương Thạch Thất, đánh phá Đông kinh, [tờ 122b] mà phải kéo quân về
ngay, là vì sợ thủy quân đạo Đông và Nam của địch, hoặc vượt biển vào
đánh, hoặc ngược dòng sông lên phía Bắc, đều có thể làm nguy hại cho ta. Nay là
mùa đông rét lạnh, nước sông cạn nông, ta đang tính động binh để trừ giặc ấy,
thế mà Tướng biên thùy của giặc lại qui hàng ta. Đó là trời giúp cho ta thành
công vậy.
Trước
đây ta thường thắng trận bằng bộ binh, đó chỉ có thể dùng về phía Tây Bắc thôi.
Nếu muốn đánh về phương Đông Nam ,
phi thủy quân không thể dẹp nổi. Nay được thủy quân của Văn Khuê, ta sẽ dùng
ngay, do đường Trường An ra mạn Duy Tân Phú Xuyên, rồi tiến binh theo đại lộ,
thì không còn lẽ gì là không thắng. Sẽ có thể định ngày khôi phục đất đai vậy
".
Phủ Tiết
chế lập tức tâu Hoàng đế xin khởi binh, và sai Hoàng Đình Ái dẫn một đạo quân
đi trước, để cứu Văn Khuê.
Khi quân
ta tới Bái Đinh, Văn Khuê ra nghinh tiếp, phủ Tiết chế sai đem quân bản bộ giữ
sông Đàm Giang, [tờ 123a] thì quân Mậu Hợp lui về giữ sông Thiên Phái. Sau khi
úy lạo Văn Khuê, phủ Tiết chế sai Văn Khuê lĩnh thủy quân bản bộ làm đạo quân
tiền bộ. Mậu Hợp sai tôn thất là Nghĩa quốc công giữ quyền Tiết chế Nam đạo, dẫn
quân tới sông Thiên
Phái
thuộc hạt Đàm xá, chia đóng từng Đồn, giữ bến đò Đoan Vĩ, bắt dân đinh huyện
Đại An và huyện Ý Yên đắp lũy đất chạy theo bờ sông, trồng chông gai lên trên
mặt lũy, để chống quân ta.
Phủ Tiết
chế sai Văn Khuê đem thủy quân ra cửa sông, đánh vào thượng lưu; cơ súng Tả Hữu
bắn theo dọc sông, đánh vào hạ lưu; phủ Tiết chế đích thân sang đò qua sông,
đánh vào trung lưu. Quân Mậu Hợp thua chạy, ta thu được 70 chiến thuyền, và rất
nhiều khí giới, Nghĩa Quốc Công lui quân về giữ châu Tự nhiên, quan quân ta thì
tiến đóng tại Cầu Tái.
[tờ
123b] Tướng của Mậu Hợp là Định quận công Trần Bách Niên sang hàng bên ta, phủ
Tiết chế sai Bách Niên làm Tướng doanh Tiền thủy quân; Văn Khuê làm Tướng doanh
Tả thủy quân. Tiếp đây có hơn 10 Tướng Nam đạo sang hàng bên ta.
Phủ Tiết
chế bảo các Tướng Tá rằng:
"Thủy
quân ngoi ngược dòng sông, thì lui dể mà tiến rất khó. Sông Đại hà rộng mênh
mông, không có cứ điểm. Vậy thủy quân ta nên do con sông Kim bảng nhỏ hẹp mà
tiến, kèm theo bộ binh vào 2 bên bờ sông, tất cả thủy quân bộ binh đều tiến,
đầy khắp dưới sông trên cạn, trên liền dưới tiếp, theo con sông Ninh Giang đến
sông Xương Giang, rồi buông thuyền mà xuôi, thì còn kẻ nào đương nổi ".
Ngày 4
tháng 12 quân ta tiến đóng tại châu Tinh Thần, đến ngày 14, do cửa sông Xương
Giang, cả thủy quân lục quân đều tiến.
Mạc Ngọc
Liễn dàn chiến thuyền chống cự, trồng cột gỗ dưới sông, và đắp lũy đất trên bở
để cố thủ, đều bị quan quân ta phá hủy. Ngọc Liễn phải bỏ thuyền [tờ 124a] chạy
về dưới núi Tam Đảo, quân sĩ đều tan vỡ.
Phủ Tiết
chế đích thân đốc bộ binh, thừa thế đuổi dài, thủy quân cũng thuận dòng xuôi
xuống, tới cửa Nam Kinh thành, đóng tại bến Sa thảo, bắt được hơn nghìn chiến
thuyền, kể cả lớn nhỏ.
Đêm hôm
này, Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn, các tôn tộc cũng tìm đường trốn lánh.
Tướng sĩ thì nối tiếp ra hàng. Tự đây, quân của Mậu Hợp hết phần chiến đấu, tự
sông Nhĩ hà trở về Bắc, quân sĩ kéo nhau ra qui thuận.
Ngày 15
phủ Tiết chế tiến quân lên xứ Hải Dương, để đuổi dẹp cho hết quân địch, đóng
quân tại Phù dung liễu kính, sai Tướng doanh Tả thủy là Thái quận công Nguyễn
Thất Lý đốc bọn Văn Khuê và Bách Niên, đem 300 chiến thuyền cùng quân các Cơ
Nội thủy, đánh vào huyện Kim thành. Mậu Hợp trốn chạy, quan quân thu được rất
nhiều [tờ 124b] vàng bạc của cải, đồ dùng và con gái, bắt Thái hậu giải về Kinh
sư, khi đến sông Bồ Đề, Thái hậu vì quá sợ mà chết.
Mậu Hợp
dựng con trai là Toàn làm vua, để giữ việc nước, đổi niên hiệu là Vũ An thứ
nhất. Tháng 12, phủ Tiết chế chia quân đánh các ngả, phá tan quân của Kính Chỉ
ở Tân Mỹ thuộc xứ Thanh Hà, thu được 50 chiến thuyền, và rất nhiều khí giới lừa
ngựa. Nhà cửa tại các Phủ Hạ Hồng, Nam Sách và Kinh Môn, đều bị đốt cháy gần
hết. Dư đảng là bọn Phố quận công, Hào quận công, Thụy quận công, Lương quận
công, Nghĩa quận công, và Lại bộ Thượng thư Phúc quận công Đỗ Uông, Lễ bộ
Thượng thư Hồng khê hầu Nhữ Tống, Công bộ Thượng thư Đồng Hãng, Lại bộ Tả thị
lang Ngô Tháo, [tờ 125a] Đông các học sĩ Ngô Củng, Tự khanh Nguyễn Cận, Sơn nam
Thừa chánh sứ Đàm Văn Tiết, và Hải dương Thừa chánh sứ Phạm Như Giao, đều đến cửa quân xin hàng,
quan Tiết chế Trịnh Tùng đều ngỏ lời an ủi, và viết tờ biểu đưa về nơi hành tại
tâu Hoàng đế, xin cho các người kể trên được giữ nguyên chức tước cũ.
Khi quan
Tiết chế tự sông Tranh về Kinh thành, nghe có người báo: "Mậu Hợp ẩn ở
chùa Mô Khuê hạt Phượng Nhỡn ". Bèn sai Trà quận công Nguyễn Đình Luận, và
Liêm quận công Lưu Chản, dẫn quân đi tìm bắt. Dân địa phương cho biết:
"Hôm nọ Mậu Hợp giả làm ông sư, đến ẩn ở đây, đến nay đã 11 ngày ".
Sĩ tốt bèn đến chùa, thấy Mậu Hợp nghiễm nhiên ngồi xếp bằng bằng, gạn hỏi thì
Mậu Hợp ấm ớ đáp rằng:
"Bần
tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây này [tờ 125b] chén muối, đĩa rau hàng
ngày trai dưỡng; thắp hương thờ phật, công đức chuyên làm ".
Quân sĩ
thấy nhà sư nói hoạt bát khiêm tốn, biết là Mậu Hợp, bèn bắt giữ. Mậu Hợp tự
liệu không thể thoát được, bèn thú thực và nói rằng:
"Mấy
ngày trước đây, tôi chạy trốn ẩn núp trong rừng rậm, đã quá đói khát, dám xin
cho một bình rượu uống cho đã ".
Quân sĩ
bèn cho bình rượu. Sau khi Mậu Hợp uống thỏa thích, ngậm ngùi than rằng:
"Nghiệp
chướng quá sâu! Nay cầu làm một người dân thường, cũng không thể được. Tội lỗi
chỉ vì tổ tiên đã làm sự giết vua cướp ngôi, đến nổi con cháu ngày nay phải mắc
tội nặng như vầy. Mong Tướng sĩ dẫn tôi đến trước Hoàng đế, để bầy tỏ thực
tình. Đó là lòng tôi rất mong muốn ".
Các
Tướng sĩ bèn sai dùng voi chở Mậu Hợp và 2 tên kỹ nữ, giải về Kinh sư.
Khi Mậu
Hợp hiến trước hành doanh, phủ Tiết chế sai dành binh mã cực kỳ uy nghiêm, rồi
mới cho dẫn Mậu Hợp vào yết kiến. Mậu Hợp lễ dập đầu phủ phục ở ngoài sân, phủ
Tiết chế truyền hỏi tới 3 lần, mà Mậu Hợp vì quá sợ, cứ ấm ớ không thể đáp
được, phủ Tiết chế bèn sai dẫn ra ngoài cửa quân, giam tù tại đây.
Tất cả
các quan văn võ đều bàn:
"Chiếu
điều luật, những kẻ phạm tội thoán thí (giết vua cướp ngôi ), thì xử theo luật
"lăng trì" (tùng xẻo), để làm gương cho mọi người, và đúng phép nước;
lại đem thủ cấp tế cáo nhà Tôn miếu, để rửa sỉ nhục của Tiên vương, và bớt cơn
giận của thần nhân ".
Quan
Tiết chế không nỡ gia cực hình, bèn sai đem treo sống Mậu Hợp 3 ngày, rồi chém
đầu tại bãi cát Bồ Đề, đem thủ cấp hiến Hoàng đế tại hành tại Vạn Lại xứ Thanh
Hoa, đem đóng đinh vào 2 con mắt, rồi bêu ra ngoài chợ.
Con trai
Mậu Hợp là Toàn tiếm hiệu xưng là Vũ An, nhưng nhân tâm không qui phụ, thế cô
ngầm trốn, cũng bị quan quân bắt được, đem chém đầu tại bến Thảo Tân.
Mậu Hợp chiếm
ngôi vua cộng 29 năm.
Mạc Kính
Điển là con trai Đăng Doanh và em trai Phúc Hải, tính nhân hậu, linh mẫn, dũng
cảm có thừa. Ngụy triều phong tước Khiêm vương.
Khi Phạm
Tử Nghi khởi loạn, Phúc Nguyên phải bỏ Kinh thành chạy lánh. Kính Điển xuất
tướng sĩ rước về, rồi đem quân dẹp hết các đồ đảng giặc.
Khi 2
đại tướng Lê Bá Ly và Nguyễn Khải Khang, đem toàn đạo binh Tây Nam về
qui thuận bản triều ta, Phúc Nguyên phải bỏ Kinh thành chạy đến Kim thành, nhân
tâm trong nước lìa tan. Độc một mình Kính Điển thu thập quân dân vùng Đông Bắc,
giữ sông Nhĩ hà trở về Bắc, chống cự quân bên ta, trong nước lại bình định trở
lại.
Ông giữ
chức Tổng soái Trung doanh, cầm quyền chánh trị khắp trong triều ngoài quận.
Mậu Hợp tiến phong tước Khiêm đại vương.
Sau khi
ông qua đời,có 9 con trai: Con trưởng là Kính Chỉ, ngụy triều [tờ 126a] phong
tước Đường an vương, chức Phó đức soái; con thứ là Kính Trực, được phong tước
Trung cẩn công, chức Cẩm y vệ Chưởng vệ sự; Kính Phu được phong tước Đoan lượng
công, chức Hưng quốc vệ Chưởng vệ sự; Kính Giản được phong tước Huệ thành công,
chức Chiêu vũ vệ Chưởng vệ sự; Kính Tuân được phong tước Đạt lễ công ; Kính
Cung được phong tước Đôn hậu công; Kính Lễ được phong tước Khuông phụ công;
Kính Bang chưa được phong tước. Và 9 con gái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét