Biên khảo/ Hồ Bạch Thảo I. Quân Thái Bình Thiên Quốc nổi dậy [1850-1854]
1.Bối cảnh lịch sử sau chiến tranh nha phiến :
Dân cùng, tài lực tận,
nguyên nhân không xẩy ra trong sớm tối ; nhưng chiến tranh nha phiến là
giai đoạn tột cùng sức chịu đựng. Quảng Ðông, Chiết Giang, Giang Tô là
những chiến trường chủ yếu. Tại Quảng Ðông, quyên lương hướng từ thương
nhân, quan lại bắt lính, đòi lương, ngày ngày cấp bách ; dân chúng Chiết
Giang nửa số lưu ly, không cung cấp nổi lương và nhân lực ; tỉnh Giang
Tô phải gánh vác nặng nề. Sau chiến tranh cứ nạp 1 thạch lương, phụ thu
thêm 3 thạch ; thuế đinh, thuế điền, 1 lạng bạc thu thêm 4,5 ngàn đồng
tiền. Sự đóng góp nặng nề của dân đương nhiên do bởi khoản tiền bồi
thường cho người Anh, lần thứ nhất 600 vạn nguyên, lấy từ ngân khố các
tỉnh Giang Tô, Chiết Giang ; số còn lại 1.500 vạn nguyên, thì 8/10 lấy
từ các tỉnh.
Về phương diện chính
trị, sau chiến tranh nha phiến uy tín chính phủ hoàn toàn táng thất,
nhưng dân lại vùng lên. Tổng đốc Lưỡng Quảng Kỳ Anh nhận định rằng
“ Quan sợ ngoại Di, ngoại Di sợ trăm họ ” “ Dân có thể làm sợ cái người
mà quan sợ, thì dần dần dân sẽ coi thường nắm quan trong tay ; ngoại
hoạn tuy bớt nhưng nội hoạn sẽ dấy lên.”
Rõ ràng sau chiến tranh
nha phiến nội loạn đã xẩy ra không ngớt. Năm 1843 đặc biệt xẩy ra tại
các tỉnh Quảng Ðông [Guangdong], Quảng Tây [Guangxi], Hồ Nam [Hunan] ;
như Thiên Ðịa hội tại huyện Hương Sơn, Quảng Ðông ; dân đói nổi dậy tại
Vũ Xương [Wugang], Hồ Nam. Kế đó các mối loạn khác xẩy ra liên tục hàng
năm, như vụ dân bị mất mùa đói khát nổi loạn tại Quảng Tây ; Lý Nguyên
Phát, Lôi Tái Hạo nổi dậy tại Tân Ninh [Xinning, Hồ Nam] ; tại Quảng
Đông, bọn Trương Gia Phúc mang đồ đảng mấy ngàn cướp phá bốn phương. Đến
năm 1850 Thiên Ðịa hội hoạt động mạnh tại tỉnh Quảng Ðông, vây thành
Triệu Khánh, đánh bại quan quân tại lộ phía bắc, xâm nhập tỉnh Quảng Tây
; trong 11 phủ của tỉnh này có 8 phủ bị Thiên Ðịa hội chiếm cứ, đó cũng
là lúc Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn chính thức cử sự.
2. Cuộc vận động phản Thanh của Hồng Tú Toàn và đồ đảng :
Hồng Tú Toàn
[1814-1864] là dân ngụ cư tại huyện Hoa [huado], tỉnh Quảng Ðông, lúc
nhỏ học 9 năm trường tư, tương đối có tài ; năm 18 tuổi mở lớp dạy học.
Là một phần tử trí thức lúc bấy giờ, chỉ muốn thi đậu để được công danh
phú quý ; Hồng 2 lần đến Quảng Châu ứng thí, nhưng không đậu ; năm 1843
lại thi rớt thêm một lần nữa. Lúc bấy giờ có Chu Cửu Trù đề xướng Thượng
Đế hội, còn gọi là Tam điểm hội, Tú Toàn và người cùng làng theo ; Cửu
Trù mất, Hồng Tú Toàn được tôn lên làm Giáo chủ. Nhân bị bệnh nặng hơn
30 ngày ; sau cơn bệnh kể rằng Thiên sứ đưa lên trời, Thiên phụ Thượng
đế sai chém trừ yêu ma, cứu vớt người đời ; có Thiên huynh Cơ Ðốc ra sức
phù trợ. Trước thời gian đó, Hồng tại Quảng Châu tìm đọc một quyển sách
nhan đề Khuyến thế lương ngôn do Giáo đồ Cơ Ðốc Lương Phát Tiết soạn,
nội dung dẫn dụng thánh kinh Cơ Ðốc, cùng ý nghĩa của đạo. Luôn 3 lần
thi rớt, đầy phẫn khích, trong lòng ôm chí hướng khác ; lại đọc qua quan
niệm mới của tôn giáo, thấy có thể lợi dụng được, bèn tạo ra việc lên
trời vv… Tuy nhiên trong vòng 7 năm sau, chưa thấy Hồng có hành động
thực tế nào, lại còn đi thi thêm 2 lần nữa.
Huyện Hoa vốn gần Quảng
Châu, trong thời kỳ chiến tranh nha phiến các quan văn võ tại Quảng Châu
sợ hãi thất thố, quân binh khiếp nhược không dám đánh ; chỉ một vài
ngàn quân Anh phụng thờ Thượng đế, ra uy như chỗ không người, dày xéo
duyên hải, sông Trường Giang ; triều đình nhà Thanh phải cúi đầu khuất
phục. Những sự kiện nêu trên, nếu Hồng Tú Toàn không thấy, thì cũng đã
từng nghe, nhận ra thời cơ tốt đã tới. Năm 1843, tức sau chiến tranh 2
năm, đọc kỹ lại Khuyến thế lương ngôn, cảm thấy những điều trong sách và
cái mà Hồng hư cấu về thần thoại lên trời phù hợp ; Hồng xác nhận rằng
đã nhận mệnh Thượng đế làm Thiên tử, Khuyến thế Lương ngôn là Thiên
thư được Thượng đế ban cho, bèn tôn phù Bái Thượng đế hội. Ðồng chí đầu
tiên của Hồng là Phùng Vân Sơn, cũng dân ngụ cư cùng làng và bạn học
chung trường. Vì hủy hoại bài vị Khổng Tử, khiến hương lý không dung, họ
phải rời huyện Hoa. Năm 1844 Hồng và Phùng chu du các huyện chung quanh
Quảng Châu, rồi đến huyện Quý [Quigang] tỉnh Quảng Tây để tuyên truyền.
Nhưng số tín đồ không đông, Hồng lại trở về huyện Hoa, riêng Phùng đến
Quế Bình [Guiping, Quảng Tây] thuộc phía đông bắc huyện Quý.
Hồng sống tại nhà trong 2
năm, lo việc trước thuật tôn giáo và chính trị ; thuyết rằng người
trong cõi phàm là một nhà, tất cả đàn ông là anh em, đàn bà là chị em ;
Thượng đế sinh dưỡng bao bọc, ơn tự đó ra, ai trái với trời chịu tội
lớn. Ngày nay “ loạn cực sẽ trị, tối cực sẽ sáng, đó là đạo trời, đêm
tan dần, mặt trời sẽ mọc.” Theo đạo của Thượng đế khiến loạn thế biến
thành công bình chính trực, cộng hưởng thái bình “ Trước lúc sinh Thượng
đế chăm lo, lúc chết lên thiên đường, vĩnh viễn tại trời hưởng phúc.”
nếu không sẽ biến thành yêu ma “ lúc sống bị quỷ trói, lúc chết bị quỷ
đánh, vĩnh viễn tại ngục chịu khổ.” Lại chế ra Thập thiên điều, khuyên :
kính bái Thượng đế, không kính bái tà thần, không kêu tên Thượng đế vô
cớ, lễ bái trong 7 ngày, hiếu thuận cha mẹ, không giết người hại người,
không gian tà dâm loạn, không trộm cướp, không nói hoang ngôn, không
động lòng tham.
Luận về thời sự, thì
khẳng khái ngang tàng “ Với 18 tỉnh lớn bị chế ngự bởi 3 tỉnh Mãn Châu,
với 5 vạn vạn người Hoa bị chế ngự bởi vài trăm vạn giặc Thát, thực đáng
sỉ, đáng nhục. Lại mỗi năm tiền bạc hàng hóa Trung Quốc biến thành khói
thuốc, hút máu mỡ của dân ; một năm nặng nề như vậy, thì 200 năm triền
miên, dân Trung quốc kẻ giàu biến thành nghèo, kẻ nghèo không khỏi phạm
pháp ” Năm 1847, Hồng đến Quảng Châu sống khắc khổ với Giáo sĩ Mỹ I. J.
Robert [La Hiếu Toàn] để đọc Cựu Ước, rồi quay lại Quảng Tây.
Lúc này Phùng Vân Sơn
tại núi Tử Kinh, huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây đạt thành tựu lớn. Tử
Kinh là chốn núi rừng rậm rạp, nằm giữa giao lộ các huyện Quế Bình, Bình
Nam [Pingnan], Vũ Tuyên [Wuxuan], Tượng Châu [Xiangzhou] ; nơi này tụ
tập nhiều dân khai khẩn. Tại vùng đất thuận lợi này, trong 3 năm Phùng
Vân Sơn tổ chức được lực lượng cơ bản Bái thượng đế hội. Tín đồ tại Quế
Bình khoảng 2.000, các huyện phụ cận đều có đông đồ đảng. Bọn cốt cán
như Dương Tú Thanh, Vi Chính, Tiêu Triều Quí, Thạch Ðạt Khai, Tần Nhật
Cương, Hồ Dĩ Quang đều nằm trong đó.
Lúc Hồng Tú Toàn đến,
các nơi tại Quảng Tây bừng lên, khi tan là dân, khi tụ thành giặc ; mỗi
nhóm đều có Ðầu mục, hoạt động rất mạnh, truyền ngôn rằng “ Kiếp vận sắp
dấy lên, Bái thượng đế sẽ được miễn ” “ Trong 10 nhà có 5, 3 hoặc 8
người theo, cũng có những người đọc sách rõ ràng thì không theo ; người
theo phần nhiều thuộc nhà bần khổ.” Hồng Tú Toàn phá tượng thần, dán
thiếp “ Thiên điều ” người xem đông đúc, châu huyện không dám can thiệp.
Rồi “ xa gần truyền miệng, tín đồ càng đông ” dẫn đến việc sĩ tử thân
hào địa phương cùng Bái Thượng đế hội xung đột. Lợi dụng địa phương này
lắm loạn lạc, Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh lập Bảo lương công phỉ
hội [hội bảo vệ lương dân đánh thổ phỉ], luyện quân, dự trù lương thực,
người theo rất đông. Tri huyện Quế Bình dụ đến và bắt được, cùng tịch
thu 17 danh sách người theo, nhưng Tuần phủ Trịnh Tổ Thâm không quyết
định tội, rồi tha. Từ năm 1847 đến 1848, Phùng Vân Sơn hai lần bị đoàn
luyện bắt, nhưng viên Tri huyện Quế Bình ăn hối lộ, cho trả về nguyên
tịch Quảng Ðông, rồi giữa đường tìm cách thoát. Hồng nhân Phùng bị bắt,
đích thân về Quảng Ðông tìm cách cứu nhưng không thành, rồi cả hai đều
quay trở lại Quảng Tây.
Lúc Phùng bị bắt, rồi
Phùng và Hồng đi Quảng Ðông, Bái Thượng đế hội trải qua cơn dao động ;
Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quý giả danh Thiên phụ, Thiên huynh xuống
trần để trấn tĩnh nhân tâm ; Dương là kẻ đốt than trong núi, có nhiều
trí mưu ; Tiêu là nông dân tự canh 1,
dõng cảm giỏi đánh nhau. Năm 1849, Hồng Tú Toàn từ Quảng Ðông đến, tự
cho rằng biết tiếng nói của trời, gọi trời là Gia Hòa Hoa, Gia Tô là anh
cả, Hồng là em thứ hai. Rồi nằm trong nhà riêng, không cho ai dòm ngó,
không đưa cơm nước ; vài ngày sau ra khỏi nhà, bảo rằng đã bàn luận với
Thượng Đế, nên ai cũng sợ. Lại chứng thực việc Dương và Tiêu là Thiên
phụ, Thiên huynh hạ phàm, vì khi y lên trời đã từng thấy. Kể từ đó Dương
trở thành phát ngôn nhân của Thượng đế, Tiêu thành phát ngôn nhân của
Cơ Ðốc. Dương rất gian hùng, thỉnh thoảng mượn danh Thiên phụ hạ phàm để
đề cao bản thân, quyền ngang ngửa với Hồng Tú Toàn.
3. Hồng Tú Toàn sáng lập Vương triều mới
Lúc bấy giờ tình hình
Quảng Tây sôi sục, quan quân không có tháng nào không tổn quân mất tướng
; dân chúng có lời đồn rằng năm Tân Hợi [1852] “ Thanh tận, Minh
phục ”. Vào năm 1852, Ðạo Quang mất, lời đồn lại càng mạnh ; Bái Thượng
đế hội mê hoặc càng lớn, một người vào hội, cả nhà cùng theo. Người vào
hội đưa gia tài điền sản hiến vào của công, không cho giữ riêng ; tổ
chức theo lối quân sự, 5 người 1 ngũ, 5 ngũ 1 lưỡng, 4 lưỡng 1 tốt, 5
tốt 1 lữ, 5 lữ 1 sư, 5 sư 1 quân ; mỗi đơn vị đặt Ngũ trưởng, Lưỡng tư
mã, Tốt trưởng, Lữ soái, Sư soái, Quân soái ; trên Quân soái có Giám
quân, Tổng chế, Tướng quân, Chỉ huy, Kiểm điểm, Thừa tướng, Chủ tướng,
Quân sư.
Tháng 7/1850 Bái Thượng
đế hội hiệu triệu các đồ đảng đến “ đoàn doanh ” tại Kim Ðiền
[Jintianzhen], huyện Quế Bình. Ðể quan quân bớt chú ý, Hồng Tú Toàn,
Phùng Vân Sơn trú tại Bình Nam, Dương Tú Thanh giả làm người câm điếc.
Tổng bộ của Bái Thiên địa hội đặt tại nhà Vi Chính ở Kim Ðiền, đơn vị
đến đầu tiên từ châu Quý, dưới quyền Thạch Ðạt Khai. Tháng 11 các địa
phương đến tương đối đông, Dương Tú Thanh đầu tiên mang đồ đảng đánh
thắng quan quân tại Bình Nam ; rồi phối hợp với Hồng Tú Toàn, Phùng Vân
Sơn quay lại đánh Kim Ðiền, lại hoạch thắng lợi. Vào ngày 11/1/1851 [10
tháng 12 năm Ðạo Quang thứ 20] Hồng Tú Toàn đặt niên hiệu Thái bình
thiên quốc, tự xưng là Thiên vương, vợ Lại thị làm Hoàng hậu ; phong cho
Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quý, Phùng Vân Sơn, Vi Chính, Thạch Ðạt
Khai, chia giữ Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu, Quân chủ tướng. Quân số ước 1
vạn, đánh giỏi khoảng 2,3 ngàn, có cả nữ doanh.
Bái Thượng đế hội và
Thiên địa hội có điểm tương thông, đó là phản Thanh ; nên Hồng Tú Toàn
hy vọng có thể thu hút được thế lực này. Số Thiên địa hội theo Hồng
không ít, nhưng số chống lại cũng nhiều. Thứ nhất họ không thích quy
luật nghiêm khắc của Bái Thượng đế hội ; thứ hai là hai bên chủ trương
về tôn giáo, chính trị bất đồng. Thiên địa hội thờ 5 vị tổ 2,
Bái Thượng đế hội chỉ thờ Thượng đế, Thiên phụ, Thiên huynh. Thiên địa
hội hiệu triệu khôi phục nhà Minh, Hồng Tú Toàn thì muốn tự thiết lập
vương triều.
Tóm tắt về thành viên
Thái bình thiên quốc, gồm kẻ sĩ bất mãn như Hồng Tú Toàn, Phùng Vân Sơn ;
nông, công gặp nghịch cảnh như Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quý ; Thân sĩ
địa chủ hiểu chút ít thơ văn như Vi Chính, Thạch Ðạt Khai, Hồ Dĩ Quang ;
chỉ huy hương dõng như Tần Nhật Cương. Lớp dưới thì ngoài nông dân,
công nhân ; có kẻ gánh thuê, chèo thuyền thuê, buôn bán, lính đào ngũ,
du đãng, cướp bóc. Nói về quê quán thì hầu hết là Lưỡng Quảng, nhưng
phần lớn là Quảng Tây ; cũng có một vài người tại tỉnh khác giữ chức
trọng yếu.
Triều đình Bắc Kinh đối
với tình hình tỉnh Quảng Tây không hiểu một cách rõ ràng. Khởi đầu qua
tấu báo, Tuần phủ Quảng Tây chưa đề cập đến Bái Thượng đế hội. Tháng
9/1850 Thiên Ðịa hội đánh đến gần tỉnh thành Quế Lâm [Guilin], mới sai
Tổng đốc Lưỡng Quảng Từ Quảng Thiệu đến liệu biện, điều Hướng Vinh làm
Ðề đốc Quảng Tây. Từ lo dẹp loạn tại Quảng Ðông, không rảnh để ứng phó
hai bên, lại đưa Lâm Tắc Từ lên làm Khâm sai đại thần. Lâm mất trên
đường đi, bèn cải dùng viên Tổng đốc Lưỡng Giang 3 Lý
Tinh Trầm thay thế và cử Tổng đốc Hồ Quảng, Chu Thiên Tước, làm Tuần
phủ Quảng Tây. Trong văn thư chỉ đề cập đến Thiên địa hội, mãi đến tháng
11/1850 mới bắt đầu chú ý đến Bái thượng đế hội. Vào tháng 1/1851 Hồng
Tú Toàn, Dương Tú Thanh đại phá quân Quý Châu [Guizhou] tại Quế Bình,
tiến đánh cửa Hoàng Giang tại Bình Nam ; Lý Tinh Trầm biết rằng đây là
chốn trọng yếu, bèn tập hợp trọng binh trong vòng hơn một tháng, nhưng
chỉ qua một trận, lại bị thua.
Thái bình quân có niềm
tin tôn giáo, hành quân không xâm phạm vật nhỏ của dân, lâm trận chịu sự
ước thúc, trở thành một đạo quân mạnh ý chí kiên cường, lại được nhân
dân ủng hộ. Chiến lược “ lấy cố thủ làm chính, mài mũi nhọn, dưỡng nhuệ
khí, không giao chiến với quan quân ngay ; tương trì nhiều ngày, đợi lúc
quan binh lơ là, thình lình đột xuất, như dời núi triều dâng, không có
gì cự nổi.” Quân Thanh thì tướng soái bất hòa, suy uỷ kèn cựa ; quân
tiếp viện không được tập luyện, hiệu lệnh bất nhất, sợ co lại không dám
tiến. Tuần phủ Chu Thiên Tước từng đem thế lực hai bên ra so sánh “Giặc
càng đánh càng thêm nhiều, nhưng ta càng đánh càng khiếp ; giặc hung hãn
nỗ lực không phải là đám ô hợp, bọn chúng kỷ luật nghiêm minh, nhưng
quân ta thì không có chút kỷ luật nào, thoái dễ mà tiến rất khó.” “ Giặc
dùng thuốc mê, bị thương cũng không màng, đánh đến chết thôi ”. Quan
quân cho rằng “ giặc có tà thuật ” hoặc “ Giặc dụng binh toàn theo phép
Tây Dương ”. Ngoài chỗ quan binh đóng quân, thôn xóm đều theo Bái Thượng
đế hội ; cái gọi là tà thuật chỉ là niềm tin tôn giáo, còn cái gọi là
dụng binh theo phép Tây phương chỉ là nỗi lo sợ của chiến tranh nha
phiến còn sót lại. Khâm sai đại thần Lý Tinh Trầm thấy tình thế không
kham nổi, tấu xin chọn thống soái và điều thêm quân, nếu không toàn cuộc
không cứu vãn được.
Tháng 3/1851 quân Thái
bỉnh thiên quốc từ cửa Hoàng Giang quay trở về Vũ Tuyên, Tượng Châu rồi
hướng lên Quế Lâm phía bắc, bị đánh thua ; lại quay về trấn Kim Ðiền
[Jintianzhen], bị quân Thanh bao vây. Tháng 8 phá vòng vây rồi theo
đường tắt lên phía bắc ; ngày 25/9 chiếm được thành trì đầu tiên là châu
lỵ Vĩnh An 4.
Tại Vĩnh An dừng chân 6 tháng, củng cố lực lượng ; lúc bấy giờ khoảng
hơn 3 vạn, 5.000 có khả năng chiến đấu. Phong Dương Tú Thanh làm Ðông
vương, Tiêu Triều Quí Tây vương, Phùng Vân Sơn Nam vương, Vi Chính Bắc
vương ; phân biệt coi đông, tây, nam, bắc các quốc ; Thạch Ðạt Khai là
Dực vương, làm vây cánh cho triều đình. Thiên vương xưng Vạn tuế ; các
Vương khác theo thứ tự xưng Cửu thiên tuế, Bát thiên tuế vv… Thiên vương
là vạn quốc chân chúa, các vương khác dưới quyền tiết chế của Ðông
vương, quyền lực không kém Thiên vương. Trong quân chia ra các trại nam,
nữ ; Nữ vương, Nữ binh phần nhiều là dân bộ lạc Giao, đi chân trần, xõa
tóc, mang khí giới, khỏe mạnh hơn cả đàn ông ; nam, nữ phân biệt
nghiêm, không cho sống chung.
Ngoài tổ chức quân sự,
vấn đề kinh tế cũng được họ chú trọng. Lúc khởi đầu kẻ gia nhập Bái
Thượng đế hội, cố nhiên phải đem tài sản sung công ; sau khi cử sự,
những kẻ bị ép gia nhập, ngoài việc nạp tài vật, phải đem nhà cửa thiêu
hủy, để tuyệt đường lưu luyến, một lòng theo hàng quân. Khi mới chiếm
Vĩnh An, Thiên vương hiệu triệu các binh tướng “ Phàm giết yêu tặc,
chiếm thành, tịch thu được vàng bạc, gấm lụa, bảo vật, phải nạp vào
Thiên triều thánh khố, kẻ nào trái lệnh bị xử chém.”
Về chế lịch, Thái bình
thiên quốc có “ Thiên lịch ”. Lịch mỗi năm 365 ngày, tháng 31 ngày gọi
là đơn nguyệt, tháng 30 ngày gọi là song nguyệt ; không có ngày tốt, xấu
; lịch này không hẳn Trung hay Tây, đây là sự kết hợp giữa Âm và Dương
lịch. Lịch cũng chia 7 ngày 1 tuần, nhưng ngày Chủ nhật trước Dương lịch
1 ngày ; cũng chấp nhận can chi 5 để ghi ngày, nhưng trước lịch Trung Quốc 1 ngày.
Ðại biểu cho tinh thần
lý luận của Thái bình thiên quốc là 3 thiên cáo văn của Dương Tú Thanh
và Tiêu Triều Quý ban bố vào tháng 6/1852 ; sở dĩ lấy tên 2 người này,
vì bọn họ là đại diện cho Thiên phụ, Thiên huynh. Cáo văn có đoạn
“ Thiên hạ của Thượng đế, bọn Mãn Châu là rợ Hồ yêu quái, gây độc hỗn
loạn, cải biến trung châu hình tượng, y phục, ngôn ngữ ; làm nhục phụ nữ
Trung Quốc, ức hiếp nam nhân ; thủy tai hạn hán không chu cấp, tham ô
tước lột. Với 5 ngàn vạn dân chúng Trung Quốc lại bị chế ngự bởi 10 vạn
Mãn Châu, thực đáng nhục. Hiện tại Hoàng thiên giận dữ, mệnh Thiên vương
giúp quét sạch yêu nghiệt, khuyếch thanh thiên hạ, hưng phục đất nước
bị trầm luân, thiết lập cương thường ; hy vọng toàn thể đồng tâm đồng
lực quét sạch rợ Hồ.”
4. Quân Thái bình trên đà chiến thắng chiếm Nam Kinh rồi khai triển lên phía bắc và quay ngược về hướng tây
Thái bình thiên quốc
chiếm Vĩnh An chưa được bao lâu thì bị vây ; lúc bấy giờ quân Thanh vũ
khí tương đối tốt, quân Thái bình thiếu tiếp tế nên gặp khó khăn. Vào
tháng 3/1852, lực lượng phu mỏ tại huyện Quý đến tiếp viện ; Hồng Tú
Toàn ra lệnh đột vây, đại phá quân Thanh tại doanh Thọ Xuân, tiến chiếm
Cổ Thúc Xung, Tiểu Lộ Quan, tại Quảng Tây. Thừa tướng quân Thái bình Tần
Nhật Cương đóng tại Tiên Hồi Lãnh [Xianhuixiang, Quảng Tây] bị quân của
Phó đô thống Ô Lan Thái đánh thua, chết hàng ngàn, bắt được Thiên đức
vương Hồng Đại Toàn, sau đó quân Lan Thái bị phục kích tại rừng thua to.
Lúc bấy giờ Hồng Tú Toàn theo mưu của Dương Tú Thanh dùng đường tắt Mã
Lãnh [Malingzhen, Quảng Tây] tập kích tỉnh lỵ Quế Lâm, Ô Lan Thái mang
bại quân về cứu, bị tử thương tại cầu Tướng Quân phía nam thành. Tháng
4, Hướng Vinh mang quân đi vòng đến tăng viện, nhờ vậy giữ được thành.
Quân Thái bình đánh Quế Lâm không hạ được, bèn tiến quân lên phía bắc.
Nam vương Phùng Vân Sơn từ Toàn Châu [Quanzhou, Quảng Tây] mang quân
theo hướng Trường Sa [Changsha, Hồ Nam], đến bến Xuy Y [Quảng Tây] bị
phục kích tử thương, đó là một tổn thương lớn. Tháng 6 vào tỉnh Hồ Nam,
bị binh dõng của Giang Trung Nguyên đánh thua ; bèn mang quân xuống phía
nam chiếm Ðạo Châu [Daoxian, Hồ Nam], dừng lại trong 2 tháng. Tại đây
đồ đảng được 2 vạn người, bèn bổ sung quân ngũ, tu tạo chiến cụ, thế
quân tăng nhanh. Tháng 7 chiếm được các huyện Giang Hoa [Jianghua, Hồ
Nam], Ninh Viễn [Ningyuan, Hồ Nam], Gia Hòa [Jiahe, Hồ Nam]. Tháng 8
chiếm Quế Dương [Guiyang, Hồ Nam] bị quân Giang Trung Nguyên đánh đuổi,
bèn xua quân sang hướng đông chiếm Lâm Châu [Chenzhou, Hồ Nam] số người
theo lên đến 3 vạn. Tháng 9, Tây vương Tiêu Triều Quí cho rằng Trường Sa
đơn độc, có thể hành quân gấp chiếm lấy ; bèn đốc suất Lý Khai Phương,
Lâm Phượng Tường theo hướng Trà Lăng [Chalinh, Hồ Nam], Lễ Lăng [Liling,
Hồ Nam] đánh vào phía nam thành Trường Sa [Changsha, Hồ Nam], bị trúng
pháo chết ; đây là một tổn thất lớn của quân Thái bình. Tháng 10 Hồng,
Dương mang quân chủ lực đến đánh Trường Sa, nhưng chưa hạ được. Cuối
tháng 11, quân Thái bình ban đêm vượt sông Tương Giang sang phía tây,
lấy được hàng 1.000 chiếc thuyền tại Ích Dương [Yiyang, Hồ Nam], bèn
theo hồ Ðộng Ðình [Dongting lake, Hồ Nam] vượt sang phía đông chiếm Nhạc
Dương [Yueyang, Hồ Nam]. Tại đây, chỉ trong một tuần tịch thu được 5000
chiếc thuyền, chở đầy chiến lợi phẩm ; thuyền rồng của Hồng Tú Toàn, hộ
vệ bởi đại pháo, ban đêm trương 36 ngọn đèn xung quanh, các thuyền khác
đều bắt chước, khiến ánh lửa sáng như ban ngày, suốt hàng chục dặm. Hai
đạo quân thủy lục theo hướng xuôi dòng sông Trường Giang [Dương Tử,
Changjiang] nhắm Vũ Xương [Wuchang, Hồ Bắc] tiến phát. Trước đó 5 tháng
Thái bình thiên quốc đã sai người ngầm dán bố cáo tại Vũ Xương, chứng tỏ
sức thâm nhập nhanh. Ngày 22/12, gặp mùa đông nước cạn, quân Thái bình
dùng thuyền xiềng dây sắt, làm thành đường băng qua 2 sông, đến ngay
dưới chân thành Vũ Xương, có đến 15 vạn người. Trước tiên chiếm Hán
Dương [Hanyang, Hồ Bắc], sau đến Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] ; ngày
12/1/1853 hạ thành Vũ Xương, đây là tỉnh thành thứ nhất bị chiếm ; quân
Thái bình chỉ giết quan binh, không giết dân chúng. Tại Vũ Xương đóng
hơn 20 ngày, tuyên truyền dân chúng rằng những người theo Bái Thượng đế
hội tài sản sung công, nam vào quân doanh, nữ vào nữ quán, những người
không theo, có thể đem vàng, ngọc, tiền, gạo đến “ Tiến cống sở ”, rồi
làm dân như cũ.
Sau khi Trường Sa bị
vây, Từ Quảng Tấn được giao chức Thống soái ; đến lúc tỉnh Hồ Bắc bị
hãm, triều đình nhà Thanh sai Tổng đốc Lưỡng Giang Lục Kiến Doanh, và
Tuần phủ Hà Nam Kỳ Thiện làm Khâm sai đại thần chia phòng thủ tại các
tỉnh Giang [Chiết Giang, Giang Tô], Hoán [An Huy], Dự [Hà Nam] ; nhắm
ngăn quân Thái bình tiến sang phía đông và bắc. Sau khi Vũ Xương thất
thủ, Từ Quảng Tấn bị cách chức điều tra, cử Hướng Vinh thay thế. Ngày
9/2/1853 quân Thái bình từ các trấn Vũ, Hán, dùng trên 1 vạn chiếc
thuyền xuôi dòng tiến về phía đông, xưng rằng quân 50 vạn. Quân Thanh “
văn võ bỏ thành chạy trốn, quân lính rã ngũ trước ” ; lần lượt phá các
thành Cửu Giang [Jiujang, Giang Tây], An Khánh [Anquing, An Huy], Vu Hồ
[Wuhu, An Huy] dọc sông Trường Giang ; đến ngày 19/3 đánh chiếm Nam
Kinh, 2 vạn quân bát kỳ bị tiêu diệt !
Kể từ khi quân Thái bình mới ra khỏi tỉnh Quảng Tây cho đến nay, trong vòng 9 tháng, hành quân trên 3.000 dặm, quét qua 5 tỉnh 6 dọc
sông Trường Giang, binh lực tăng đến 30 vạn ; tuy có kẻ bị ép, nhưng số
người tình nguyện cũng không ít. Nguyên nhân chính do niềm tin tôn giáo
và tuyên truyền, nhưng yếu tố kinh tế, quân sự cũng đóng vai trò quan
trọng. Từ khi vào đến tỉnh Hồ Nam “ chuyên cướp phá thành thị, không
những không cướp bóc tại nông thôn, lại còn lấy y phục tại thành thị
chia cho các dân nghèo ” và truyền ngôn rằng sẽ miễn thuế 3 năm, nên dân
quê “ mong muốn giặc đến ”. Người nghèo thường ghét hận người giàu, còn
quân Thái bình đến không hại đến họ, lại còn có lợi, nên “ giặc chưa
đến tâm lòng đã xa lìa, giặc đến thì trở nên vui vẻ ” tranh nhau nghênh
đón. Quân Thái bình hiệu lệnh nghiêm, kỷ luật vững, không tao nhiễu ;
lúc mới đến ra vẻ lễ phép với người hiền, rồi sau đó uy hiếp, nên dân
đều sợ phục. Quân Thanh thì cướp bóc gian dâm, thấy giặc thì tan vỡ,
nhìn ngó bồi hồi ; bởi vậy quân Thái bình ở thế chẻ tre, hướng về đâu
đánh tan nơi đó.
Quân Thái bình đã có dự
định chiếm Nam Kinh từ trước, khi chưa ra khỏi Quảng Tây mỗi lần đánh
nhau với quan quân thường nói “ Ta sẽ đánh Giang Nam, đâu có sợ gì quan
quân các ngươi.” Dương Tú Thanh từng nói “ Thượng sách ngày nay là bỏ
Quảng Tây không ngó đến, tiến thẳng theo Trường Giang mà đánh các đồn
ải, bỏ nơi lợi hại, lấy cho được Kim Lăng [Nam Kinh] để làm nơi căn cứ ;
sau đó sai tướng đi bốn phương, phân đánh nam bắc, tuy chưa hoàn toàn
thành công, thì ta cũng có được phia nam sông Hoàng Hà.” Lại xưng Kim
Lăng là tiểu thiên đường, là nơi Minh Thái Tổ đánh dẹp rợ Hồ quang phục
đất Hoa Hạ, có ý nghĩa lịch sử. Đầu tiên sau khi chiếm được, Hồng Tú
Toàn yết kiến lăng Minh Thái Tổ, cử hành lễ điển, đọc chúc từ có đoạn
“ Con cháu hèn kém là Hồng Tú Toàn thu phục được đất phía nam của tiên
Đế, bèn lên ngôi tại Nam Kinh, nhất nhất tuân theo hiến chế của tổ vào
năm Hồng Vũ thứ nhất.” Dương Tú Thanh chủ trương tiến chiếm Nam Kinh
xong cải tên là Thiên Kinh, thực hiện kế hoạch ngăn trở vận lương nam
bắc, chiếm Trấn Giang [Zhenjiang, Giang Tô], Dương Châu [Yangzhou, Giang
Tô] Thiên Kinh làm 3 chân vạc. Lý do không tiếp tục tiến chiếm phía
đông phía biển, vì ý muốn tiến lên phía bắc và quay lại sang phía tây,
ngược theo dòng sông Trường Giang.
Vào đầu tháng 5/1853,
mệnh Thiên quan phó Thừa tướng Lâm Phượng Tường, Ðịa quan chánh Thừa
tướng Lý Khai Phương đánh phía bắc ; Xuân quan chánh Thừa tướng Hồ Dĩ
Quang, Hạ quan chánh Thừa tướng Lại Hán Anh mang quân quay trở lại đánh
phía tây. Quân bắc phạt vẫn theo chiến lược xung kích như cũ “ Quân đi
theo đường tắt, đến Yên đô [Bắc Kinh] gấp, không tham đánh thành lấy
đất, phí thời gian.” Ðạo quân phía tây với nhiệm vụ thu phục phía tây
sông Trường Giang, khống chế phía nam sông Hoàng Hà.
Thuyết đáng tin cậy cho
rằng Hồng, Dương đã phạm sai lầm vì mang quân lên phía bắc quá ít. Lực
lượng của Lâm, Lý có thuyết cho rằng chỉ 3 ngàn, có thuyết 2 vạn ; nói
tóm lại không đủ. Quân khởi hành từ phía bắc tỉnh An Huy, lên đến phía
đông tỉnh Hà Nam [Henan], định vượt qua sông Hoàng Hà [Yellow River]. Vì
quân Thanh đã dự phòng, kéo hết thuyền sang phía bắc, nên quân Thái
bình bất đắc dĩ phải chuyển theo hướng tây. Sau khi đánh thành Khai
Phong [Kaifeng, Hà Nam] không hạ được, phải đi tiếp đến phía tây Trịnh
Châu [Zhengzhou, Hà Nam] rồi qua sông đến tỉnh Sơn Tây [Shanxi]. Tiếp
tục tiến sang đông đến tỉnh Trực Lệ 7,
đại phá quân của Tổng đốc Trực Lệ, rồi thừa thắng đến Bảo Ðịnh
[Baoding] ; bấy giờ Bắc Kinh giới nghiêm, quan dân chạy trốn đến mấy vạn
người. Lúc đó quân viện tại kinh kỳ đến, tập trung chống cự, nên quân
Thái Bình tổn thất, phải chuyển sang phía đông, rồi lại theo Vận Hà tiến
lên phía bắc. Ngày 20/12 quân Thái Bình 3 vạn người, tấn công mạnh
Thiên Tân [Tianjin] ; quân Thanh phải cho tháo đê Vận Hà để ngăn, nên
hai bên ở thế tương trì. Kể từ khi xuất phát tại Nam Kinh cho đến Thiên
Tân [cách Bắc Kinh 240 dặm] ; quân hành 4.000 dặm, thời gian 5 tháng.
Tháng 2/1854 quân bắc
phạt lương hết, thời tiết trở nên lạnh, tay chân tê cóng, chết không ít ;
lại bị kỵ binh của Tăng Cách Lâm Thấm đánh bại, đành phải rút lui phía
nam. Lúc này Thiên kinh phái viện quân lên phía bắc, vào trung tuần
tháng 4 đến phía tây bắc tỉnh Sơn Ðông [Shandong], cuối cùng không gặp
được quân bắc phạt rút về phía nam. Vào tháng 5/1855 quân bắc phạt hoàn
toàn bị tiêu diệt.
Nguyên nhân bắc phạt
thất bại, thứ nhất do binh lực không đủ, lại còn do bộ binh không địch
được kỵ binh của Tăng Cách Lâm Thấm trong trận chiến tại đất bằng. Thứ
hai do ngôn ngữ bất đồng, người phương bắc cẩn trọng, theo quân Thái
bình không nhiều. Từ đó trở về sau, quân Thái bình không vượt được sông
Hoàng Hà, nhờ đó nhà Thanh giữ gìn được vùng đất căn bản.
Quân Thái bình tiến công
tại Hoa bắc thất bại, cuộc chiến miền tây cũng không được đắc ý. Quân
tây chinh có trên 1000 chiến thuyền, quân số cũng vượt trội quân đánh
miền bắc. Tháng 8/1853 tái chiếm An Khánh, Hồ Dĩ Quang lưu lại giữ,
riêng Lại Hán Anh xua quân sang phía tây vào tỉnh Giang Tây bao vây Nam
Xương [Nanchang], Giang Trung Nguyên đốc quân cố thủ, quân Thái bình
phản công nhưng không thắng. Tháng 9 bỏ vây Nam Xương, tiến chiếm Cửu
Giang ; vào tỉnh Hồ Bắc, tái chiếm Hán Dương và Hán Khẩu, rồi rút về
phía đông tỉnh. Cánh quân của Hồ Dĩ Quang tại An Khánh, vào tháng 1/1854
tiến chiếm tỉnh lỵ lâm thời An Huy tại Lô Môn [Hefei, Hợp Phì], Tuần
phủ Giang Trung Nguyên thua chết, hơn 20 châu thuộc tỉnh An Huy đều bị
quân Thái bình chiếm.
Tháng 2/1854 quân Thái
Bình thắng lợi tại phía đông tỉnh Hồ Bắc, chiếm Hán Dương, Hán Khẩu lần
thứ ba. Một mặt vây thành Vũ Xương, một mặt tiến xuống Hồ Nam chiếm Nhạc
Dương, rồi vòng qua Trường Sa, đánh chiếm Tương Ðàm [Xiangtan, Hồ Nam].
Lúc này Tương quân tại Hồ Nam mới huấn luyện xong, bắt đầu ra tay ;
quân Thái Bình đụng phải đối thủ mạnh ; từ nay trở về sau, hai bên tranh
đoạt vùng đất phần lớn dọc theo sông Trường Giang.
5. Các nước Tây phương tiếp xúc với Thái bình thiên quốc
Từ khi các nước Tây
phương vào tranh giành buôn bán tại Trung Quốc, thì sự biến loạn tại
Trung Quốc không còn là vấn đề nội bộ của nước này. Các giáo sĩ và
thương nhân ngoại quốc nhận thấy Thái bình thiên quốc là thế lực mới
trong công cuộc vận động cách mạng, đối với tôn giáo này họ cảm thấy
hứng thú ; nếu Trung Quốc là một quốc gia theo đạo Cơ Ðốc thì sẽ có ích
lợi trong việc buôn bán và truyền giáo ; báo chí của họ đều biểu đồng
tình. Về các quan chức ngoại giao muốn nhân lúc này, thu nhiều quyền lợi
từ triều Thanh hoặc quân Thái bình.
Sau khi quân Thái bình
chiếm Nam Kinh, Tổng đốc Thượng Hải kiêm Công sứ Anh, S.J. Bonham [Văn
Hàn], phái viên Thông dịch Thomas Taylor Meadows [Mật Ðịch Lạc] theo
đường Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], Thường Châu [Changzhou, Giang Tô] tìm
cách liên lạc ngoại giao. Ngày 27/4/1853 S.J Boham đến Nam Kinh, sai Hạm
trưởng E. G. Fishbourne [Phí Sĩ Ban] đưa thư cho quan chức Thái bình
thiên quốc, nội dung “ đến đây có việc muốn thương lượng, chứ không phải
giúp quân Thanh đánh nhau.” Thomas Taylor Meadows lên thành, gặp Bắc
vương Vi Chính, Dực vương Thạch Ðạt Khai ; nói rõ nước Anh đứng trung
lập và muốn biết lập trường đối ngoại của quân Thái bình có định tấn
công Thượng Hải hoặc tiếp sứ Anh hay không. Bắc vương đề cao Thiên vương
và quyền lực tôn giáo, nếu người Anh giúp quân Thanh cũng không đáng
sợ. Lại bảo Thiên vương nói Trung Quốc có chân chúa thì cũng là chân
chúa của vạn nước, từ nay trở về sau hai bên cùng an tâm, trở thành bạn
tốt. Ngày hôm sau S.J. Bonham nhận được “ dụ ” phúc đáp của Ðông vương
Dương Tú Thanh với lời lẽ kiêu ngạo, bèn đem tất cả văn kiện trả lại,
kèm theo Nam Kinh điều ước để biểu thị quyền lợi nước Anh tại Trung
Quốc. Lại gửi chiếu hội thanh minh nước Anh không bang trợ cho quan quân
Mãn Châu thuyền máy, lại không chuẩn cho mướn thương thuyền người Anh
“ đối với quý Quốc vương và Mãn Châu đối địch, nước Anh tình nguyện
không can dự vào hai bên ”. Sau đó bảo rằng “ Nghe tin quân của quý Quốc
vương định đến Tô [Suzhou, Chiết Giang], Tùng [Songjiang], sau đó đến
Thượng Hải. Lúc đó quý Quốc vương định cư xử với nước Anh như thế nào,
xin nguyện nghe biết ”. Qua những lời này, biết được nước Anh rất chú ý
đến hành động của Thái bình thiên quốc đối với Thượng Hải. Ðông vương
phúc đáp rằng “ Thiên hạ vốn một nhà, bốn biển là anh em ” “ Các ngươi
là người xa xôi nguyện đến làm phiên thuộc, thiên hạ hoan lạc ; Thiên
phụ, Thiên huynh cũng hoan lạc. Ðã có lòng trung quy thuận, giáng chỉ
cho Ðầu mục các ngươi cùng các huynh, đệ có thể đến Thiên kinh ; hoặc
hiệu lực, hoặc thông thương, ra vào cửa thành, đều không cấm chỉ, đó là ý
trời. Lại cấp cho vài loại Thánh thư, muốn hiểu chân đạo có thể dùng để
tu tập.” S.J. Bonham dùng lời lẽ nghiêm khắc bác bỏ “ Thư đến lời lẽ
thiếu rõ ràng không hiểu nổi. Trung Quốc đã chuẩn cho chúng tôi thông
thương, thì vô luận người nào làm tổn thương sự buôn bán, nước tôi chỉ
biết dùng binh.” Rồi khi thuyền nước Anh theo hướng đông ra khỏi Trấn
Giang, lại nhận được thư của viên tướng Thái bình Lại Ðại Cương, nội
dung nguyện đối xử hữu hảo, khuyên người Anh đừng trợ giúp quân Thanh,
đừng buôn nha phiến. S.J. Bonham đáp lời, xác định đứng trung lập, nhưng
không đề cập đến vấn đề nha phiến. La Ðại Cương là người Lưỡng Quảng,
được cho là “ người có khả năng trong đám giặc ”, ứng đối đắc thể hơn
Ðông vương và Bắc vương.
Qua lần đi này S.J.
Bonham thấy được thế lực quân Thái bình lớn mạnh, tất sẽ thành công,
trong tương lai nước Anh có thể thay đổi chính sách ; trước mắt nên giữ
thế trung lập. Riêng Thomas Taylor Meadows có nhiều cảm tình với quân
Thái bình, cho rằng nếu như họ thành công thì không những có thể khuếch
trương việc truyền giáo và giao thương, riêng Trung Quốc cũng có thể
bước lên con đường tiến bộ. Tuần phủ Giang Tô [Jiangsu] đối với việc
S.J. Bonham đến Nam Kinh, tỏ vẻ hết sức không an lòng, bèn gửi chiếu hội
cho Lãnh sự Anh, Mỹ “ Nghĩ rằng hai nước thông thương hòa hảo đã lâu,
nay việc buôn bán bị quấy nhiễu, mậu dịch ngưng trệ, vả lại giặc phỉ cấm
nha phiến rất nghiêm, gặp một người nước tôi hút thuốc là bị sát hại ;
hy vọng sẽ mang thuyền máy vào sông Trường giang đánh dẹp giúp.”
Vào tháng 6/1854 người
kế nhiệm S.J. Bonham là John Bowring [Bao Lệnh] sai viên Thông dịch
Walter H. Medhurst Jr. [Mạch Hoa Ðà] đến Nam Kinh quan sát. Nhà đương
cục Thái bình thiên quốc tuy vẫn nói rằng “ Vạn quốc thông thương, trong
thiên hạ đều là anh em ”, nhưng vẫn giữ thái độ muốn “ Thiên hạ ngoại
quốc đến đầu hàng ”, nếu không là yêu ma. Tháng 1/1855 John Bowring thấy
rằng thế lực quân Thái bình không thể khinh thường, vả lại lúc bấy giờ
nước Anh đang có tranh chấp quân sự với Nga không rảnh tại Viễn Đông,
nên bố cáo rằng nước Anh nghiêm giữ trung lập.
Người Pháp theo Thiên
chúa giáo, đối với tân giáo của Thái bình thiên quốc lúc đầu có cảm tình
tốt. Tháng 12/1853, Sứ giả Pháp Bố Nhĩ Bố Long đến Nam Kinh, sai người
vào thành trước, gặp vị thừa tướng họ Lại [Hán Anh?], hai bên tỏ vẻ hy
vọng hòa hảo. Vài ngày sau Bố Nhĩ Bố Long gặp Ðỉnh thiên hầu Tần Nhật
Cương, biểu thị trung lập và lưu tâm đến Thiên chúa giáo tại Hoa. Chuyến
đi của viên Sứ giả có ấn tượng tốt, thừa nhận quân Thái bình kỷ luật
nghiêm, trật tự tại Nam Kinh yên ổn.
Tháng 5/1853 Giáo sĩ
người Mỹ, I. J. Robert [La Hiếu Toàn], từng quen biết với Hồng Tú Toàn,
từ Quảng Ðông lên Thượng Hải, rồi trên đường đi Nam Kinh, nhưng đường
ngăn trở nên không đến được. Lại có Giáo sĩ Mỹ, Charles Taylor [Ðái Tác
Sĩ], gặp La Ðại Cương tại Trấn Giang, hai bên có cảm tình. Số đông
thương nhân Mỹ đều muốn Thái bình thiên quốc thành công, Sứ giả Mỹ tại
Hoa, Humphrey Marshall [Mã Sa Lợi], cũng cho rằng triều Thanh sắp sụp
đổ, có ý thừa nhận Thái bình thiên quốc.
Chính phủ Mỹ ban huấn
lệnh cho người kế nhiệm Humphrey Marshall là Robert McLane [Mạch Liên]
rằng : đối với nội loạn tại Trung Quốc nghiêm giữ chính sách trung lập ;
nếu nhà Thanh không chịu sửa đổi điều ước, sẽ đàm phán với Thái bình
thiên quốc. Vào tháng 5/1854 Robert McLane đến Thượng Hải, ngày 27 đáp
quân hạm đến Nam Kinh, ngày 28 Hạm trưởng F. L. Buchanan [Bố Gia Nam]
gửi chiếu hội xưng rằng Toàn quyền nước Mỹ muốn chiếu hội với Thừa
tướng, Nguyên soái Thái bình thiên quốc, cùng xưng ngày hôm sau người Mỹ
muốn thăm tháp chùa Báo Ân tại cửa phía nam thành. Ðầu tiên một viên
Kiểm điểm Thái bình thiên quốc gửi “ trát dụ ” đòi phải cho biết ý tại
sao muốn đến, và phải tuân thủ quy định, mới được vào xem. Kế đó có
“ trát dụ ” của hai vị Thừa tướng, mệnh “ Tuân chiếu lễ tiết, bẩm tấu
Ðông vương. Thiên vương là chân chúa của vạn quốc, chuẩn cho hàng năm
đến cống.” Ngày 30/5 F. L. Buchanan phúc đáp, trách “ Lời phúc đáp không
có tình hữu nghị, lại không tôn trọng nước Mỹ, nên không thể không tạm
ngưng chiếu hội.” Robert McLane cho rằng quân Thái bình kiêu mạn, nếu
như thành công, cũng không có ích cho người nước ngoài ; ông ta báo cáo
với bộ Ngoại giao rằng Thái bình thiên quốc không có năng lực thống trị ;
muốn cải biến chính sách tại Trung Quốc, nên duy trì áp lực triều đình
nhà Thanh trong vòng trật tự, nhắm khuếch trương thương vụ và giữ quyền
lợi điều ước. Robert McLane báo cho Tổng đốc Lưỡng Giang, Di Lương, biết
rằng nếu như hứa sửa điều ước về việc thông thương trên sông Trường
Giang thì sẽ giúp dẹp loạn, nhưng bị triều đình Bắc Kinh bác.
Qua việc tiếp xúc với 3
nước Anh, Pháp, Mỹ ; thấy được đường lối đối ngoại của Thái bình thiên
quốc đầy vụng về, tự cao, thiếu hiểu biết ; còn quá tệ hơn cả triều
Thanh trước thời chiến tranh nha phiến. Tuy thuyết giảng “ Thiên hạ một
nhà, bốn biển là anh em ” nhưng chỉ thừa nhận độc tôn địa vị và tôn giáo
của Thiên vương.
Chú thích
1 Tự canh : người cày ruộng nhà, không cày mướn.
2 Năm vị tổ tức ngũ tổ đều thuộc phái Thiếu Lâm, bí mật khai triển tổ chức phản Thanh phục Minh.
3 Lưỡng Giang : gồm Giang Tô, An Huy, Giang Tây.
4 Châu Vĩnh An : năm 1914, đổi thành huyện Mông Sơn [Mengsan].
5 Can chi : Âm lịch có 10 can, 12 chi ; can như giáp, ất vv… ; chi như tý, sửu vv..
6 Năm tỉnh : Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy, Giang Tô.
7 Trực Lệ : thuộc tỉnh Hà Bắc [Hebei] ngày nay.
II. Những nét đặc trưng về Thái bình thiên quốc
Ðối với Thái bình thiên quốc, tôn giáo ảnh hưởng không gì lớn bằng. Hồng Tú Toàn tự xưng được Thiên phụ thượng đế phong làm chân chúa, địa vị và quyền lực do trời ban. Nhưng tôn giáo của Hồng không phải chân chính Cơ Ðốc Tây phương, có thể gọi đây là một loại Thượng đế giáo, hoặc “ Hồng giáo ”. Từ năm 24 tuổi trở về trước, sách đọc của Hồng chỉ là kinh, sử, những tín ngưỡng nghe biết là Phật, Ðạo, Thần tiên ; kiến thức sơ đẳng về Cơ Ðốc giáo cùng quan niệm về Thượng đế chỉ lấy từ quyển sách Khuyến thế lương ngôn cạn hẹp. Từ những điều lượm lặt được, Hồng tự lý luận ; lợi dụng tôn giáo để đạt mục đích chính trị. Nói tóm lại Hồng không phải là tín đồ của tôn giáo nào, Hồng là Giáo chủ.
Lúc đầu Hồng cho rằng Thiên phụ Thượng đế có hai con, con trưởng là Thiên huynh Gia Tô, con thứ là Hồng Tú Toàn. Thiên huynh Gia Tô tại Tây phương, xả thân cứu đời, nối theo đại đạo. Tại Trung quốc sau đời Tần, mở đường cho thần tiên quỷ quái ; Mãn Thanh vào chiếm cứ “ dụ người tin quỷ thần càng sâu, thì yêu ma tác quái càng dữ ”, nên Thiên phụ sai con thứ, Hồng Tú Toàn, xuống trần, cứu vớt kẻ trầm luân. Từ năm 1848 trở về sau lại xưng Thiên phụ có con thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 6 là Phùng Vân Sơn, Dương Tú Thanh, Vi Chính, Thạch Ðạt Khai ; riêng Tiêu Triều Quý lấy em gái Hồng Tú Toàn, thì được gọi là Thiên tế, tức con rể trời. Dương Tú Thanh được cho là hóa thân của Thiên phụ xuống thế gian để chuộc bệnh, nên còn gọi là “ Thục bệnh vương ”. Hồng còn có sáng kiến dùng các hiện tượng của tạo hóa : gió, mưa, mây, sấm, chớp, sương v v… để ban phong ; như : Dương là Phong sư, Tiêu là Vũ sư, Phùng là Vân sư, Vi là Lôi sư, Thạch là Ðiện sư, Tần Nhật Cương là Sương sư, Hồ Dĩ Quang là Lộ sư.
Thượng đế giáo quy điều nghiêm khắc dị thường, nghi thức chi tiết vụn vặt. Kẻ bái Thượng đế phải hướng Thượng đế hối tội, học thuộc Thập thiên điều ; vi phạm bị xử tội chết. Ngày thường sáng tối tụng niệm, mỗi bữa ăn cảm tạ Thượng đế ; gặp tai nạn, bệnh tật, sinh nhật, cuối tháng, cưới xin, xây bếp, làm nhà, động thổ, đều cầu đảo tế cáo. Cứ 7 ngày lễ bái một lần, trước đó 1 ngày đánh phèng la cao hô “ Ngày mai lễ bái, mọi người tuân kính, không được lười chậm ”. Lần đầu không đến bị đóng gông, đánh 1.000 roi ; lần thứ 2 bị xử chém. Trong khi lễ bái, tụng Thượng đế ân đức, đọc thơ xưng tán Thiên vương, Ðông vương, cho đến Dực vương ; sau đó đọc Thánh kinh, Thiên điều, một lời xướng trăm lời họa ; lại tụng tấu chương hối tội, sau đó cao hô “ tận giết ma quỷ ”. Cứ 25 nhà có một lễ bái đường, khi hành quân, chọn phòng ốc khoáng đãng làm chỗ lễ bái. Các nơi thờ thần, các bài vị, thần chủ đều bị thiêu hủy. Việc giáo dục hoàn toàn tôn giáo hóa, các sách cho sĩ tử học như Tam thiên tự, Ấu học thi, Cựu ước, Tân ước đều nặng màu tôn giáo, văn nghĩa thông tục ; khi quân Thanh tịch thu được, phải dùng xe bò chở, chất hàng đống, chứng tỏ đã in ra rất nhiều.
Tư tưởng Nho gia đối với giáo lý của Thượng đế giáo không tương dung. Giáo lý kể rằng Hồng Tú Toàn lúc lên trời, Thượng đế từng bảo “ Khổng tử di truyền sách thư, phần lớn sai lầm… dạy người việc hồ đồ ”. Gia Tô cũng bảo sách này làm hỏng người. Khổng Khâu chạy trốn, bị Thiên sứ bắt về trói, dùng roi đánh đau, không cho phép xuống trần.
Năm 1853 tuyên bố “ Phàm các sách Khổng, Mạnh, Bách gia, yêu thư tà thuyết, phải đốt sạch, không được buôn bán tàng trữ ”. Các sách có đóng dấu ấn “ cái tỷ ” của Thái bình thiên quốc mới được lưu hành “ Thế gian có sách không tâu lên, sách không đóng dấu cái tỷ mà đọc, đều bị tội ”. Lại thiết lập “ San thư nha ”, đem những lời “ yêu thoại ” trong Tứ thư, Ngũ Kinh, để Thiên vương ngự phê cải chính.
Ðối với phần tử trí thức, Thái bình thiên quốc ra sức tranh thủ ; quân đến nơi, dán bảng chiêu hiền “ Tự cống sở trường… Lượng tài lục dụng ”. Năm 1853 mở khoa thi, cũng có Tú tài, Cử nhân, Tiến sĩ ; đề thi thuộc loại như, soạn “ Thiên mệnh chiếu chỉ thư ”. Nhưng đối với quan lại, Nho sinh bị bắt thì đối xử lăng nhục ngược đãi “ Hoặc giam cấm đến chết, hoặc chia cho các quán để chép các tấu chương, cáo dụ, cáo thị, hoặc soạn sách riêng cho các nhà.”
2. Binh dân hợp nhất
Lúc mới cử sự, Thái bình thiên quốc định quân chế, được ghi lại trong sách Thái bình quân mục. Ðơn vị lớn nhất là quân, đặt Quân soái ; dưới Quân soái có Sư soái, Lữ soái, Tốt trưởng, Lưỡng tư mã, Ngũ trưởng. Sau khi vào tỉnh Hồ Nam, đặt thêm Thổ doanh, Thủy doanh ; Thổ doanh là đơn vị đặc biệt chuyên đào địa đạo đánh thành, Thủy doanh đảm đang thủy chiến cùng chuyên chở hàng hóa. Lại có các doanh lo về kỹ năng chế tạo hậu cần, không trực tiếp tác chiến như Mộc doanh, Kim doanh, Chức doanh, Hài doanh ; gọi chung là Tượng doanh. Lúc đầu đặt Nữ doanh, mỗi doanh 2500 người, nữ binh vào khoảng ¼ số quân ; sau khi hành quân đến sông Trường Giang, vì phụ nữ vùng này yếu đuối không tòng quân tác chiến được, nên lập Nữ quán. Lại còn lập quân thiếu niên gọi là Ðồng tử quân, lâm trận dõng cảm, tín ngưỡng một chiều, trở thành cán bộ trung kiên.
Sau khi chiếm Nam Kinh, tổng kê toàn thể quân binh nam, nữ hơn 30 vạn. Phân chia thành các quân, do Quân soái chỉ huy, phụ tá có Tổng chế và Giám quân ; mỗi quân 12.500 người, gồm 5 sư. Mỗi sư gồm 2.500 người, đứng đầu là Sư soái, chia thành 5 lữ ; mỗi lữ 500 người, đứng đầu là Lữ soái, chia thành 5 tốt ; mỗi tốt 100 người, đứng đầu là Tốt trưởng, chia thành 4 Lưỡng tư mã ; mỗi Lưỡng tư mã chia thành 5 ngũ, mỗi ngũ 5 người, đứng đầu là Ngũ trưởng.
Về trận pháp có 4, gồm : Khiên chế pháp, chủ tiến thoái có trật tự, không loạn trận ; Bàng giải trận, chủ biến hóa như chân cua, xòe ra nhiều ít do nhu cầu ; Bách điểu trận, trận này ứng dụng tại đất bằng, chủ tụ tán như chim bầy, lúc chia nhỏ ra để dụ địch, lúc tập trung lại để đánh ; Phục địa trận, chủ chuyển bại thành thắng, bằng cách giả thua rút đến nơi có địa hình thích hợp để phục kích, rồi theo hiệu lệnh cờ mai phục, đợi địch đến thì xông ra.
Về quân luật, huấn luyện, được ôn tập thường xuyên ; điểm chính là nghiêm đội ngũ, thưởng phạt phân minh, không xâm phạm cho đến các vật nhỏ, không được tao nhiễu dân chúng. Trời tạnh thao luyện binh sĩ, trời mưa thì học tập Thiên thư “ Người người đều hiểu lòng trời, vĩnh tuân chân đạo ; nếu gặp yêu ma đến, một tiếng trống cất lên, tập trung nghe lệnh, hăng hái hướng tiền, một lòng một dạ ”.
Sách Tặc tình hối toản cũng khen quy chế quân Thái bình, chiến thuật tốt, quân kỷ nghiêm “ Nghịch tặc hoang đản bạo ngược, duy quân chế có phép tắc ”. Lại có nhận xét “ Giặc lớn mạnh mau, nhờ vào hành quân có phép tắc, kỷ luật nghiêm. Kẻ chiến trận thất lợi đi đến chỗ bại, trái lệnh, tiêu dùng riêng tài vật ; nặng tức xử chém, nhẹ thì trách giáng, chứ không tha thứ. Có công thì phá lệ thăng nhanh ; mới buổi sáng là tên lính, buổi chiều đã thăng làm tướng ngụy.”
Thái bình thiên quốc chủ trương binh dân hợp nhất “ Mỗi nhà trang bị nhung phục, người người cầm khí giới ”. “ Có báo động thì Thủ lãnh dùng làm lính, giết địch bắt giặc ; vô sự thì Thủ lãnh điều đi làm nông, cày ruộng sản xuất ”. Trên lý thuyết theo quy chế “ 5 người thành 1 ngũ, 4 ngũ 1 lưỡng, 5 lưỡng 1 tốt, 5 tốt 1 lữ, 5 lữ 1 sư, 5 sư 1 quân ; tạo nên quân lữ, hoặc dùng canh tác ruộng đất…”, nhưng thực tế thì chưa thi hành được triệt để, phần lớn nguồn binh lực đều cung cấp bởi cưỡng bách uy hiếp.
3. Chế độ quan lại và chính sự
Chính thể của Thái bình thiên quốc được quân sự hóa, đại lược chia thành : triều nội quan, quân trung quan, thủ thổ quan, hương quan ; từ trung ương đến địa phương đều theo quân hàm. Triều nội quan tại trung ương, trong đó có Thiên vương cung, Ðông điện tức Ðông vương phủ, Bắc điện tức Bắc vương phủ, Dực điện tức Dực vương phủ ; Ðông điện quy mô lớn hơn cả Thiên vương cung. Quân trung quan có Tổng chế, Giám quân, Quân soái trở xuống. Thủ thổ quan tức địa phương quân, cũng có riêng Tổng chế, Giám quân ; mỗi quận đặt Tổng chế, các châu đặt Giám quân. Hương quan đặt viên chức từ Quân soái cho đến Lưỡng tư mã, căn cứ nhân khẩu nhiều ít, phần lớn dùng người địa phương. Ngoài việc quân sự Hương quan còn phụ trách các vấn đề tôn giáo, giáo dục, tư pháp, chính trị, kinh tế. Mỗi ngày Lưỡng tư mã phụ trách dạy học các trẻ em trong 25 nhà, vào ngày Chủ nhật trai gái đến học giáo lý, tụng niệm Thượng đế. Cứ 7 tuần có Sư soái, Lữ soái, Tốt trưởng thay phiên đến giảng thánh kinh, và kiểm soát mọi việc ; nếu địa phương không giải quyết được thì đào đạt lên trên.
Sau khi định đô tại Nam Kinh, Thiên vương Hồng Tú Toàn sống kiêu xa trong cung, ít xuất hiện, gặp đại khánh mới thiết triều hội ; Ðông vương thường đến triều kiến lãnh chiếu chỉ. Việc chính trị do các Hầu, Thừa tướng bàn định ổn thỏa bẩm lên Dực vương, Dực vương xét có thể thi hành được bèn thay mặt Ðông vương soạn cáo dụ, rồi gửi sang Ðông vương xin dấu ấn, gửi sang Bắc vương ghi vào sổ bạ. Ðiều gì cũng sử dụng giấy tờ, nên bị ứ đọng “ Lệnh cấm thì lập khoa điều, quân vụ đều dựa vào văn cáo, khí mạch không thông, trở thành tê liệt ”.
Ngoài ra lãnh tụ cao cấp của Thái bình thiên quốc sống xa hoa. Thiên vương dùng dinh cũ của Tổng đốc Lưỡng Giang làm cung điện, cho phá các nhà nhỏ xung quanh, dùng hàng vạn nhân công trai, gái xây cất trong vòng nửa năm trời, chu vi hơn chục dặm, tường cao mấy trượng, trong ngoài hai lớp, trang sức bằng màu vàng, kim thạch huy hoàng ; tại các cửa trang sức bằng lụa đoạn màu vàng, thay đổi hàng tháng. Các phủ từ Ðông vương trở xuống đều tranh nhau trang hoàng tráng lệ, y phục xa hoa, đẳng cấp nghiêm nhặt. Cấp thấp như Lưỡng tư mã cũng có 4 phu kiệu ; riêng Ðông vương mỗi lần ra ngoài, hộ tống có hàng trăm người, các quan viên to nhỏ đều tránh ra khỏi đường đi, nếu không kịp phải quỳ bái.
Thái bình thiên quốc dùng tôn giáo để trị nước, nên địa vị của Ðông vương Dương Tú Thanh, là hóa thân của Thiên phụ, lại cao hơn một bực. Bởi vậy những tấu chương khẩn yếu chưa có dấu ấn của Ðông vương thì Thiên vương không duyệt ; tuy Dực vương, Bắc vương cũng không được gửi thẳng đến Thiên vương ; ngoại trừ Ðông vương không ai được gặp Thiên vương.
4. Thánh khố và điền mẫu chế độ
Sách Thiên triều điền mẫu chế độ ban hành, bao quát kinh tế, giáo dục, tiến cử, khảo hạch ; nhưng chỉ mới hình thành trên lý thuyết, chưa kịp thực thi. Nguyên tắc của điền mẫu chế độ gồm : Thứ nhất, đất đai của công, chiếu theo sản lượng chia ruộng đất thành 9 hạng. Thứ hai, không luận trai gái, căn cứ nhân khẩu mà nhận ruộng đất ; trong 9 hạng, nhận một nửa tốt một nửa xấu. Thứ ba, lấy chỗ được mùa bù cho chỗ mất mùa “ Rưộng đất trong thiên hạ, người trong thiên hạ cùng cày ; nơi này không no đủ thì mang nơi khác đến…”. Thứ tư, cứ 25 nhà đặt một quốc khố, trừ số lúa gạo ăn đủ đến mùa sau, kỳ dư sung vào quốc khố. Lễ cưới, lễ đầy tháng, đều theo quy chế lấy từ quốc khố. Thứ năm, tự cung tự cấp ; mỗi nhà lo trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, nuôi gà, hết mùa lúa thì làm thêm đồ gốm, đồ gỗ.
Thánh khố chế độ từng được nghiêm khắc thi hành. Thời gian tiến quân từ Quảng Tây đến Hồ Nam, thì đối tượng phải nạp là những phú hộ tại nông thôn ; lúc đến sông Trường Giang thì đối tượng chính là nhà giàu tại thành thị ; sau khi đến Nam Kinh phạm vi kiểm soát rộng, thì chú ý đến toàn cõi “lấy nhà giàu trong thiên hạ làm kho, lấy những nhà chứa lúa làm kho lương, tùy nơi mà thu cấp ”. Chính sách “ tát cạn ao để bắt cá ” được thi thố, chứng tỏ hữu hiệu trong đoản kỳ, nhưng quyết không thể là đường lối kinh tế tốt đẹp có thể tồn tại lâu dài.
Thực thi chế độ điền mẫu cần có thời gian ổn định để điều tra hộ khẩu, điền địa ; không thể thực hiện cấp tốc trong thời binh đao. Bởi vậy quan chức địa phương đành theo cách thu tô, chỉ khác trước là người nông dân thay vì nạp lúa cho chủ ruộng, thì nạp vào Thánh khố.
5. Ðịa vị phụ nữ
Nói một cách tổng quát, ý thức phong kiến của Thái bình thiên quốc còn nặng hơn các Vương triều trước. Cũng giống như lệ cũ, tước Vương con được thế tập ; nhưng ngoài ra con các chức Thừa tướng, Kiểm điểm, Chỉ huy, Tướng quân cũng đều được thế tập. Các cấp phân biệt phục sức, dân gian không được dùng màu hồng, màu vàng. Chức vị cao thấp, trên dưới xưng hô một cách rõ ràng chi tiết ; đối với kẻ địch khắc chữ “ yêu ” vào nón ; các vua chúa đời trước trong lịch sử đổi thành Hầu, riêng Hồng Tú Toàn thì xưng là Thiên vương. Một số chữ viết, tên người, tên đất cũng thay đổi. Các tục bất lương như đánh bạc, đồng bóng nhất luật cấm chỉ. Không được hút ngửi mua bán thuốc phiện, yên thảo ; không tuân bị xử chém “ Thuốc phiện Tây phương là thứ yêu ma di hại người đời, hút vào thành nghiện, bệnh vào xương cốt, không có thuốc cứu…”
Tăng Quốc Phiên [1811-1872] người đất Tương Hương [Xiangxiang], tỉnh Hồ Nam ; lớn hơn Hồng Tú Toàn 3 tuổi, cả hai đều xuất thân từ thành phần học trò nhà nông. Ðường công danh thời tuổi trẻ của Tăng thuận lợi hơn Hồng Tú Toàn, năm 28 tuổi đậu Tiến sĩ, giữ chức Hàn lâm, năm 34 tuổi thăng chức Thị lang bộ Lễ. Bình sinh chuyên nghiên cứu về nghĩa lý và đường thực dụng kinh bang tế thế ; ủng hộ nền đạo thống, danh giáo. Tăng cũng bất mãn với thời cuộc, mong có sự cải cách.
Tương quân của Tăng Quốc Phiên lúc khởi đầu lấy Tương dõng của Sinh viên La Trạch Nam làm cơ sở, lại thêm bộ phận chiêu mộ thêm từ Hồ Bắc ; tất cả khoảng 4 000 người. Tháng 9/1853 Tăng di chuyển quân đến Hoành Dương [Hengyang, Hồ Nam] để dẹp giặc tại phương nam và lo chế tạo thuyền. Rút kinh nghiệm về lực lượng Thái bình xua binh dọc theo sông Trường Giang, thuyền to nhỏ có đến hàng vạn chiếc, các châu ấp gần sông không cần đánh cũng lấy được ; riêng quân Thanh không có thuyền, không có phương tiện truy kích, đành chịu bó tay. Bởi vậy Tăng Quốc Phiên bắt đầu lo việc chế tạo thuyền pháo ; quân binh từ tỉnh Hồ Nam, thợ mộc lấy từ Quảng Tây, súng pháo chuyển từ Quảng Ðông, phần lớn là vũ khí Tây dương. Thuyền pháo sau này là yếu tố quan trọng giúp Tương quân đoạt quyền khống chế sông Trường Giang, ngăn trở quân Thái bình giao thông bằng đường thuỷ và đánh chiếm các thành trì dọc hai bên bờ sông.
Năm 1858, đại quân Giang Nam của Khâm sai đại thần Hòa Xuân cùng Trương Ngọc Lương lại đến sát Thiên kinh, xây đại doanh đối bờ tại Phố Khẩu [Pukou, Giang Tô], Thiên kinh lại một lần nữa bị khốn. Phía thượng du, Tương quân do Lý Tục Tân chỉ huy đánh chặn Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây], nơi yết hầu trên sông Trường Giang ; các thành tại tỉnh Giang Tây phần nhiều bị Tương quân chiếm. Lý Tục Tân thừa thắng tiến quân phía bắc An Huy, bị liên quân Trần Ngọc Thành và Lý Tú Thành đánh kẹp, trước hết phá trại lớn tại phía bắc Trường Giang, sau đó đánh bại Tương quân tại trấn Tam Hà [Sanhezhen, An Huy], khiến lực lượng của Lý Tục Tân bị sụp đổ ; đây là bước ngoặt, quân Thái bình từ thế suy đồi gặt hái được chiến thắng lớn. Sau đó Trần Ngọc Thành đảm đương thượng du sông Trường Giang, giữ An Khánh [Anquing, An Huy], chế ngự Tương quân xuống phía đông ; riêng Lý Tú Thành bảo vệ Thiên kinh chống lại doanh lớn Giang Nam.
Sau khi đoạt lại Vũ Hán vào tháng 12/1856, Tương quân không thừa lúc nội bộ quân Thái Bình biến loạn, mang toàn lực tiến thẳng ; lý do không hẳn lực bất tòng tâm, nhưng do Mãn Thanh thiếu tín nhiệm người Hán. Thời Tương quân đầu tiên chiến thắng tại tỉnh Hồ Bắc, có viên Ðại thần tâu rằng Tăng Quốc Phiên chỉ là một dân thường quật khởi, người theo có đến hành vạn ; sợ không phải là điều phúc cho Vương triều, vua Hàm Phong nghe qua biến sắc. Bởi vậy trách nhiệm của Tăng được giao rất nặng, nhưng quyền lực bị hạn chế, chỉ có hư hàm “ Khâm sai Binh bộ hữu thị lang ”.
1. Triệu chứng nước Anh thay đổi chính sách
Sau khi Thái Bình Thiên Quốc định đô tại Nam Kinh [Nanjing, Giang Tô] ; các nước Anh, Pháp, Mỹ vẫn thừa nhận triều đình Bắc Kinh [Beijing] ; họ hy vọng giành được sự nhượng bộ từ triều đình này, nên tiếp tục duy trì. Ðối với họ, Hồng Tú Toàn luôn luôn tự coi là Thiên vương, “ chân chúa của vạn nước ”, nếu thắng cũng không dễ cư xử.
1 Tương Hoài quân : đạo quân đoàn luyện do Lý Hồng Chương thành lập tại Hợp Phì [bắc An Huy], vùng lưu vực sông Hoài. Sau đó gia nhập vào Tương quân của Tăng Quốc Phiên, rồi được phát triển thêm, nên gọi là Tương Hoài quân hay Hoài quân.
1 Kỷ cương bại hoại
II. Những nét đặc trưng về Thái bình thiên quốc
Regaining the Provincial Capital of Ruizhou
1. Ngự trị bởi tín ngưỡngÐối với Thái bình thiên quốc, tôn giáo ảnh hưởng không gì lớn bằng. Hồng Tú Toàn tự xưng được Thiên phụ thượng đế phong làm chân chúa, địa vị và quyền lực do trời ban. Nhưng tôn giáo của Hồng không phải chân chính Cơ Ðốc Tây phương, có thể gọi đây là một loại Thượng đế giáo, hoặc “ Hồng giáo ”. Từ năm 24 tuổi trở về trước, sách đọc của Hồng chỉ là kinh, sử, những tín ngưỡng nghe biết là Phật, Ðạo, Thần tiên ; kiến thức sơ đẳng về Cơ Ðốc giáo cùng quan niệm về Thượng đế chỉ lấy từ quyển sách Khuyến thế lương ngôn cạn hẹp. Từ những điều lượm lặt được, Hồng tự lý luận ; lợi dụng tôn giáo để đạt mục đích chính trị. Nói tóm lại Hồng không phải là tín đồ của tôn giáo nào, Hồng là Giáo chủ.
Lúc đầu Hồng cho rằng Thiên phụ Thượng đế có hai con, con trưởng là Thiên huynh Gia Tô, con thứ là Hồng Tú Toàn. Thiên huynh Gia Tô tại Tây phương, xả thân cứu đời, nối theo đại đạo. Tại Trung quốc sau đời Tần, mở đường cho thần tiên quỷ quái ; Mãn Thanh vào chiếm cứ “ dụ người tin quỷ thần càng sâu, thì yêu ma tác quái càng dữ ”, nên Thiên phụ sai con thứ, Hồng Tú Toàn, xuống trần, cứu vớt kẻ trầm luân. Từ năm 1848 trở về sau lại xưng Thiên phụ có con thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 6 là Phùng Vân Sơn, Dương Tú Thanh, Vi Chính, Thạch Ðạt Khai ; riêng Tiêu Triều Quý lấy em gái Hồng Tú Toàn, thì được gọi là Thiên tế, tức con rể trời. Dương Tú Thanh được cho là hóa thân của Thiên phụ xuống thế gian để chuộc bệnh, nên còn gọi là “ Thục bệnh vương ”. Hồng còn có sáng kiến dùng các hiện tượng của tạo hóa : gió, mưa, mây, sấm, chớp, sương v v… để ban phong ; như : Dương là Phong sư, Tiêu là Vũ sư, Phùng là Vân sư, Vi là Lôi sư, Thạch là Ðiện sư, Tần Nhật Cương là Sương sư, Hồ Dĩ Quang là Lộ sư.
Thượng đế giáo quy điều nghiêm khắc dị thường, nghi thức chi tiết vụn vặt. Kẻ bái Thượng đế phải hướng Thượng đế hối tội, học thuộc Thập thiên điều ; vi phạm bị xử tội chết. Ngày thường sáng tối tụng niệm, mỗi bữa ăn cảm tạ Thượng đế ; gặp tai nạn, bệnh tật, sinh nhật, cuối tháng, cưới xin, xây bếp, làm nhà, động thổ, đều cầu đảo tế cáo. Cứ 7 ngày lễ bái một lần, trước đó 1 ngày đánh phèng la cao hô “ Ngày mai lễ bái, mọi người tuân kính, không được lười chậm ”. Lần đầu không đến bị đóng gông, đánh 1.000 roi ; lần thứ 2 bị xử chém. Trong khi lễ bái, tụng Thượng đế ân đức, đọc thơ xưng tán Thiên vương, Ðông vương, cho đến Dực vương ; sau đó đọc Thánh kinh, Thiên điều, một lời xướng trăm lời họa ; lại tụng tấu chương hối tội, sau đó cao hô “ tận giết ma quỷ ”. Cứ 25 nhà có một lễ bái đường, khi hành quân, chọn phòng ốc khoáng đãng làm chỗ lễ bái. Các nơi thờ thần, các bài vị, thần chủ đều bị thiêu hủy. Việc giáo dục hoàn toàn tôn giáo hóa, các sách cho sĩ tử học như Tam thiên tự, Ấu học thi, Cựu ước, Tân ước đều nặng màu tôn giáo, văn nghĩa thông tục ; khi quân Thanh tịch thu được, phải dùng xe bò chở, chất hàng đống, chứng tỏ đã in ra rất nhiều.
Tư tưởng Nho gia đối với giáo lý của Thượng đế giáo không tương dung. Giáo lý kể rằng Hồng Tú Toàn lúc lên trời, Thượng đế từng bảo “ Khổng tử di truyền sách thư, phần lớn sai lầm… dạy người việc hồ đồ ”. Gia Tô cũng bảo sách này làm hỏng người. Khổng Khâu chạy trốn, bị Thiên sứ bắt về trói, dùng roi đánh đau, không cho phép xuống trần.
Năm 1853 tuyên bố “ Phàm các sách Khổng, Mạnh, Bách gia, yêu thư tà thuyết, phải đốt sạch, không được buôn bán tàng trữ ”. Các sách có đóng dấu ấn “ cái tỷ ” của Thái bình thiên quốc mới được lưu hành “ Thế gian có sách không tâu lên, sách không đóng dấu cái tỷ mà đọc, đều bị tội ”. Lại thiết lập “ San thư nha ”, đem những lời “ yêu thoại ” trong Tứ thư, Ngũ Kinh, để Thiên vương ngự phê cải chính.
Ðối với phần tử trí thức, Thái bình thiên quốc ra sức tranh thủ ; quân đến nơi, dán bảng chiêu hiền “ Tự cống sở trường… Lượng tài lục dụng ”. Năm 1853 mở khoa thi, cũng có Tú tài, Cử nhân, Tiến sĩ ; đề thi thuộc loại như, soạn “ Thiên mệnh chiếu chỉ thư ”. Nhưng đối với quan lại, Nho sinh bị bắt thì đối xử lăng nhục ngược đãi “ Hoặc giam cấm đến chết, hoặc chia cho các quán để chép các tấu chương, cáo dụ, cáo thị, hoặc soạn sách riêng cho các nhà.”
2. Binh dân hợp nhất
Lúc mới cử sự, Thái bình thiên quốc định quân chế, được ghi lại trong sách Thái bình quân mục. Ðơn vị lớn nhất là quân, đặt Quân soái ; dưới Quân soái có Sư soái, Lữ soái, Tốt trưởng, Lưỡng tư mã, Ngũ trưởng. Sau khi vào tỉnh Hồ Nam, đặt thêm Thổ doanh, Thủy doanh ; Thổ doanh là đơn vị đặc biệt chuyên đào địa đạo đánh thành, Thủy doanh đảm đang thủy chiến cùng chuyên chở hàng hóa. Lại có các doanh lo về kỹ năng chế tạo hậu cần, không trực tiếp tác chiến như Mộc doanh, Kim doanh, Chức doanh, Hài doanh ; gọi chung là Tượng doanh. Lúc đầu đặt Nữ doanh, mỗi doanh 2500 người, nữ binh vào khoảng ¼ số quân ; sau khi hành quân đến sông Trường Giang, vì phụ nữ vùng này yếu đuối không tòng quân tác chiến được, nên lập Nữ quán. Lại còn lập quân thiếu niên gọi là Ðồng tử quân, lâm trận dõng cảm, tín ngưỡng một chiều, trở thành cán bộ trung kiên.
Sau khi chiếm Nam Kinh, tổng kê toàn thể quân binh nam, nữ hơn 30 vạn. Phân chia thành các quân, do Quân soái chỉ huy, phụ tá có Tổng chế và Giám quân ; mỗi quân 12.500 người, gồm 5 sư. Mỗi sư gồm 2.500 người, đứng đầu là Sư soái, chia thành 5 lữ ; mỗi lữ 500 người, đứng đầu là Lữ soái, chia thành 5 tốt ; mỗi tốt 100 người, đứng đầu là Tốt trưởng, chia thành 4 Lưỡng tư mã ; mỗi Lưỡng tư mã chia thành 5 ngũ, mỗi ngũ 5 người, đứng đầu là Ngũ trưởng.
Về trận pháp có 4, gồm : Khiên chế pháp, chủ tiến thoái có trật tự, không loạn trận ; Bàng giải trận, chủ biến hóa như chân cua, xòe ra nhiều ít do nhu cầu ; Bách điểu trận, trận này ứng dụng tại đất bằng, chủ tụ tán như chim bầy, lúc chia nhỏ ra để dụ địch, lúc tập trung lại để đánh ; Phục địa trận, chủ chuyển bại thành thắng, bằng cách giả thua rút đến nơi có địa hình thích hợp để phục kích, rồi theo hiệu lệnh cờ mai phục, đợi địch đến thì xông ra.
Về quân luật, huấn luyện, được ôn tập thường xuyên ; điểm chính là nghiêm đội ngũ, thưởng phạt phân minh, không xâm phạm cho đến các vật nhỏ, không được tao nhiễu dân chúng. Trời tạnh thao luyện binh sĩ, trời mưa thì học tập Thiên thư “ Người người đều hiểu lòng trời, vĩnh tuân chân đạo ; nếu gặp yêu ma đến, một tiếng trống cất lên, tập trung nghe lệnh, hăng hái hướng tiền, một lòng một dạ ”.
Sách Tặc tình hối toản cũng khen quy chế quân Thái bình, chiến thuật tốt, quân kỷ nghiêm “ Nghịch tặc hoang đản bạo ngược, duy quân chế có phép tắc ”. Lại có nhận xét “ Giặc lớn mạnh mau, nhờ vào hành quân có phép tắc, kỷ luật nghiêm. Kẻ chiến trận thất lợi đi đến chỗ bại, trái lệnh, tiêu dùng riêng tài vật ; nặng tức xử chém, nhẹ thì trách giáng, chứ không tha thứ. Có công thì phá lệ thăng nhanh ; mới buổi sáng là tên lính, buổi chiều đã thăng làm tướng ngụy.”
Thái bình thiên quốc chủ trương binh dân hợp nhất “ Mỗi nhà trang bị nhung phục, người người cầm khí giới ”. “ Có báo động thì Thủ lãnh dùng làm lính, giết địch bắt giặc ; vô sự thì Thủ lãnh điều đi làm nông, cày ruộng sản xuất ”. Trên lý thuyết theo quy chế “ 5 người thành 1 ngũ, 4 ngũ 1 lưỡng, 5 lưỡng 1 tốt, 5 tốt 1 lữ, 5 lữ 1 sư, 5 sư 1 quân ; tạo nên quân lữ, hoặc dùng canh tác ruộng đất…”, nhưng thực tế thì chưa thi hành được triệt để, phần lớn nguồn binh lực đều cung cấp bởi cưỡng bách uy hiếp.
3. Chế độ quan lại và chính sự
Chính thể của Thái bình thiên quốc được quân sự hóa, đại lược chia thành : triều nội quan, quân trung quan, thủ thổ quan, hương quan ; từ trung ương đến địa phương đều theo quân hàm. Triều nội quan tại trung ương, trong đó có Thiên vương cung, Ðông điện tức Ðông vương phủ, Bắc điện tức Bắc vương phủ, Dực điện tức Dực vương phủ ; Ðông điện quy mô lớn hơn cả Thiên vương cung. Quân trung quan có Tổng chế, Giám quân, Quân soái trở xuống. Thủ thổ quan tức địa phương quân, cũng có riêng Tổng chế, Giám quân ; mỗi quận đặt Tổng chế, các châu đặt Giám quân. Hương quan đặt viên chức từ Quân soái cho đến Lưỡng tư mã, căn cứ nhân khẩu nhiều ít, phần lớn dùng người địa phương. Ngoài việc quân sự Hương quan còn phụ trách các vấn đề tôn giáo, giáo dục, tư pháp, chính trị, kinh tế. Mỗi ngày Lưỡng tư mã phụ trách dạy học các trẻ em trong 25 nhà, vào ngày Chủ nhật trai gái đến học giáo lý, tụng niệm Thượng đế. Cứ 7 tuần có Sư soái, Lữ soái, Tốt trưởng thay phiên đến giảng thánh kinh, và kiểm soát mọi việc ; nếu địa phương không giải quyết được thì đào đạt lên trên.
Sau khi định đô tại Nam Kinh, Thiên vương Hồng Tú Toàn sống kiêu xa trong cung, ít xuất hiện, gặp đại khánh mới thiết triều hội ; Ðông vương thường đến triều kiến lãnh chiếu chỉ. Việc chính trị do các Hầu, Thừa tướng bàn định ổn thỏa bẩm lên Dực vương, Dực vương xét có thể thi hành được bèn thay mặt Ðông vương soạn cáo dụ, rồi gửi sang Ðông vương xin dấu ấn, gửi sang Bắc vương ghi vào sổ bạ. Ðiều gì cũng sử dụng giấy tờ, nên bị ứ đọng “ Lệnh cấm thì lập khoa điều, quân vụ đều dựa vào văn cáo, khí mạch không thông, trở thành tê liệt ”.
Ngoài ra lãnh tụ cao cấp của Thái bình thiên quốc sống xa hoa. Thiên vương dùng dinh cũ của Tổng đốc Lưỡng Giang làm cung điện, cho phá các nhà nhỏ xung quanh, dùng hàng vạn nhân công trai, gái xây cất trong vòng nửa năm trời, chu vi hơn chục dặm, tường cao mấy trượng, trong ngoài hai lớp, trang sức bằng màu vàng, kim thạch huy hoàng ; tại các cửa trang sức bằng lụa đoạn màu vàng, thay đổi hàng tháng. Các phủ từ Ðông vương trở xuống đều tranh nhau trang hoàng tráng lệ, y phục xa hoa, đẳng cấp nghiêm nhặt. Cấp thấp như Lưỡng tư mã cũng có 4 phu kiệu ; riêng Ðông vương mỗi lần ra ngoài, hộ tống có hàng trăm người, các quan viên to nhỏ đều tránh ra khỏi đường đi, nếu không kịp phải quỳ bái.
Thái bình thiên quốc dùng tôn giáo để trị nước, nên địa vị của Ðông vương Dương Tú Thanh, là hóa thân của Thiên phụ, lại cao hơn một bực. Bởi vậy những tấu chương khẩn yếu chưa có dấu ấn của Ðông vương thì Thiên vương không duyệt ; tuy Dực vương, Bắc vương cũng không được gửi thẳng đến Thiên vương ; ngoại trừ Ðông vương không ai được gặp Thiên vương.
4. Thánh khố và điền mẫu chế độ
Cùng
hưởng chung là chính sách căn bản của Thái bình thiên quốc ; “ nhắm cho
thiên hạ cùng hưởng đại phúc của Thiên phụ Hoàng đế, không có ai không
được no ấm ”. Nhu cầu hàng ngày của quân dân đều do chính phủ trù tính
cung cấp, với lý tưởng một xã hội giàu không có tài sản riêng, khống chế
được bè đảng, ngăn tuyệt tham ô. Ðể thực hiện lý tưởng này, Thánh khố
và điền mẫu chế độ được đặt ra.
Thánh khố
là kho quản lý mọi tài vật, kể từ thời khởi sự tại Kim Ðiền
[Jintianzhen] Quảng Tây, đã được đặt ra. Sau đó đánh chiếm các nơi, tịch
thu được vàng, bạc, y phục đều nạp vào Thánh khố. Trên đường hành quân,
nông dân các nơi giao nạp lúa gạo, chỉ để lại mỗi năm 1 thạch cho người
lớn, 5 đấu cho trẻ nhỏ. Sau khi đến Nam Kinh, chia ra Thánh khố quán,
và Thánh lương quán ; đặt Tổng điển Thánh khố quán và Tổng điển Thánh
lương quán ; Thánh khố quán chủ yếu giữ tiền, Thánh lương quán chủ yếu
giữ gạo. Lại còn có kho cho các nhu yếu phẩm đặc biệt như dầu, muối ;
hoặc kho cho các nghề chuyên môn như “ tượng doanh ”. Các quan chức lớn
nhỏ không có lương hàng tháng, được phát gạo, dầu, muối, tiền mua rau
theo quy chế ; cứ 7 ngày do Ðiển quan cấp ; riêng thịt thì chỉ phát cho
từng lớp trên, từ Thiên vương đến Tổng chế. Còn đối với nhân gian thì
nguyên tắc tương đồng, nhưng phải phối hợp với điền mẫu chế độ.Sách Thiên triều điền mẫu chế độ ban hành, bao quát kinh tế, giáo dục, tiến cử, khảo hạch ; nhưng chỉ mới hình thành trên lý thuyết, chưa kịp thực thi. Nguyên tắc của điền mẫu chế độ gồm : Thứ nhất, đất đai của công, chiếu theo sản lượng chia ruộng đất thành 9 hạng. Thứ hai, không luận trai gái, căn cứ nhân khẩu mà nhận ruộng đất ; trong 9 hạng, nhận một nửa tốt một nửa xấu. Thứ ba, lấy chỗ được mùa bù cho chỗ mất mùa “ Rưộng đất trong thiên hạ, người trong thiên hạ cùng cày ; nơi này không no đủ thì mang nơi khác đến…”. Thứ tư, cứ 25 nhà đặt một quốc khố, trừ số lúa gạo ăn đủ đến mùa sau, kỳ dư sung vào quốc khố. Lễ cưới, lễ đầy tháng, đều theo quy chế lấy từ quốc khố. Thứ năm, tự cung tự cấp ; mỗi nhà lo trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, nuôi gà, hết mùa lúa thì làm thêm đồ gốm, đồ gỗ.
Thánh khố chế độ từng được nghiêm khắc thi hành. Thời gian tiến quân từ Quảng Tây đến Hồ Nam, thì đối tượng phải nạp là những phú hộ tại nông thôn ; lúc đến sông Trường Giang thì đối tượng chính là nhà giàu tại thành thị ; sau khi đến Nam Kinh phạm vi kiểm soát rộng, thì chú ý đến toàn cõi “lấy nhà giàu trong thiên hạ làm kho, lấy những nhà chứa lúa làm kho lương, tùy nơi mà thu cấp ”. Chính sách “ tát cạn ao để bắt cá ” được thi thố, chứng tỏ hữu hiệu trong đoản kỳ, nhưng quyết không thể là đường lối kinh tế tốt đẹp có thể tồn tại lâu dài.
Thực thi chế độ điền mẫu cần có thời gian ổn định để điều tra hộ khẩu, điền địa ; không thể thực hiện cấp tốc trong thời binh đao. Bởi vậy quan chức địa phương đành theo cách thu tô, chỉ khác trước là người nông dân thay vì nạp lúa cho chủ ruộng, thì nạp vào Thánh khố.
5. Ðịa vị phụ nữ
Thái bình thiên quốc
đối xử với phụ nữ khác xưa. Ðứng về phương diện tôn giáo quan niệm nam
đều anh em, nữ đều chị em. Về phương diện chính trị phụ nữ cũng có thể
làm quan, phần lớn làm việc tại Thiên vương cung hoặc các Vương phủ
“ đều mặc áo gấm, ăn đồ ngon, ra vào rung chiêng trống cưỡi ngựa, che
lọng vàng, thị tỳ theo hầu mấy người.” Về kinh tế, được cấp ruộng đất
như nam giới. Về phương diện tục lễ, hôn nhân không luận tiền bạc, cấm
đa thê, không phải bó chân, không được phép làm con hát, cấm tà dâm ;
trai gái không hỗn tạp, phụ nữ đều ở riêng trong nữ quán.
Tuy nhiên
đem thực tế so sánh với những lý thuyết nêu trên thì có những chỗ mâu
thuẫn ; phụ nữ vẫn chưa được chân chính giải phóng bình đẳng. Thứ nhất,
tuy nam nữ phân biệt, nhưng đối với các Vương thì vợ chồng sống chung,
còn có nhiều tỳ thiếp ; Chấp sự, Nữ quan có hàng trăm, hàng ngàn. Thứ
hai, phụ nữ đối với nam giới vẫn phải phục tòng ; nam lo việc bên ngoài,
nữ lo việc trong nhà, kính chồng như kính trời, kính chúa, như vậy mới
được hưởng vinh hoa phú quý, được lên trời ; quan niệm này đối với luân
lý truyền thống cũng không khác mấy.Nói một cách tổng quát, ý thức phong kiến của Thái bình thiên quốc còn nặng hơn các Vương triều trước. Cũng giống như lệ cũ, tước Vương con được thế tập ; nhưng ngoài ra con các chức Thừa tướng, Kiểm điểm, Chỉ huy, Tướng quân cũng đều được thế tập. Các cấp phân biệt phục sức, dân gian không được dùng màu hồng, màu vàng. Chức vị cao thấp, trên dưới xưng hô một cách rõ ràng chi tiết ; đối với kẻ địch khắc chữ “ yêu ” vào nón ; các vua chúa đời trước trong lịch sử đổi thành Hầu, riêng Hồng Tú Toàn thì xưng là Thiên vương. Một số chữ viết, tên người, tên đất cũng thay đổi. Các tục bất lương như đánh bạc, đồng bóng nhất luật cấm chỉ. Không được hút ngửi mua bán thuốc phiện, yên thảo ; không tuân bị xử chém “ Thuốc phiện Tây phương là thứ yêu ma di hại người đời, hút vào thành nghiện, bệnh vào xương cốt, không có thuốc cứu…”
Hồng Tú Toàn thi hành
thay đổi lớn tại Trung Quốc, muốn cải tạo Trung Quốc và thậm chí cả lịch
sử thế giới. Hồng muốn phá trừ mọi tín ngưỡng có sẵn, thiết lập tín
ngưỡng riêng ; khống chế để sử dụng mọi tài nguyên nhân lực vật lực.
Hồng ôm tư tưởng đại đồng không tưởng, tự cho mình độc quyền, “ bất cận
nhân tình ”, chỉ cầu cho được việc.
III. Sự đối kháng của thế lực truyền thống[1853-1860]
Vanquishing of Wuchang city
1. Tăng Quốc Phiên lãnh đạo :Tăng Quốc Phiên [1811-1872] người đất Tương Hương [Xiangxiang], tỉnh Hồ Nam ; lớn hơn Hồng Tú Toàn 3 tuổi, cả hai đều xuất thân từ thành phần học trò nhà nông. Ðường công danh thời tuổi trẻ của Tăng thuận lợi hơn Hồng Tú Toàn, năm 28 tuổi đậu Tiến sĩ, giữ chức Hàn lâm, năm 34 tuổi thăng chức Thị lang bộ Lễ. Bình sinh chuyên nghiên cứu về nghĩa lý và đường thực dụng kinh bang tế thế ; ủng hộ nền đạo thống, danh giáo. Tăng cũng bất mãn với thời cuộc, mong có sự cải cách.
Vào giai đoạn vua Ðạo
Quang mất, Hàm Phong lên ngôi [1851], loạn nổi lên tại Hồ Nam, Quảng Tây
; Cử nhân Giang Trung Nguyên lập dân quân Sở dõng, giúp quan quân dẹp
loạn tại Tân Ninh [Xinning, Hồ Nam], năm 1852 đánh quân Thái Bình tại
vùng Tương Ðàm [Xiangtang, Hồ Nam], rồi giúp bảo vệ tỉnh thành Trường Sa
[Changsa, Hồ Nam]. Tại Tương Hương, Sinh viên La Trạch Nam noi theo,
lập Tương dõng. Ðầu năm 1853 quân Thái Bình tiến vào Hồ Bắc, ngọn lửa
bùng lên như bó đuốc ; lúc này Tăng Quốc Phiên cư tang mẹ tại quê nhà
Tương Hương, được triều đình chính thức giao chức giúp đỡ cho Tuần phủ
Hồ Nam tổ chức đoàn luyện, sưu tra thổ phỉ, trợ giúp quân chính qui
không đủ sức. Tăng ưu tư cho tình thế, thấy Hồ Bắc không giữ được quan
hệ rất lớn, mới bắt đầu đến Trường Sa để trù hoạch.
Sau khi bàn luận thống
nhất, Tăng tổ chức một đạo tân quân, đối kháng với quân Thái bình ; sự
việc được vua Hàm Phong phê đúng và khuyến khích “ đem hết sức lo liệu, để phòng tiễu hữu hiệu.” Tân quân không những răn đe những mối tệ trạng bạc nhược của quân Lục kỳ 1, mà lại còn noi theo tinh thần đoàn kết kiên cường của quân Thái Bình. Tăng Quốc Phiên nhận định “ ngày hôm nay muốn diệt giặc, thì chư tướng phải nhất tâm, vạn người một bụng ”, “ hít
thở cùng nhau, đau ngứa liên quan, nhảy vào lửa đồng hành, nhảy qua
nước sôi cùng tiến ; thắng thì bưng chén rượu nhường công, bại sẽ liều
mình cùng cứu. Giặc có lời thề không bỏ tử thi đồng đảng, ta cũng thề
không bỏ tử thi đồng đảng ; hãy huyết chiến một hai lần, để đổi mới cách
nhìn của dân chúng.” Tân quân còn được gọi là Tương quân, có những đặc điểm sau đây :
- Về quân lính chọn
thanh niên nông thôn, thực thà chất phác ; không chọn bọn vô lại tại
thành thị. Tướng thì chọn những Nho sinh trung nghĩa hiểu quân sự, chí
đồng đạo hợp.
- Biên chế : 10 người
thành một đội, 8 đội thành một tiêu, 4 tiêu thành một doanh, họp vài
doanh hoặc 10 doanh thành một Thống lãnh. Toàn quân từ trên xuống dưới,
nếu không là bà con quen biết, thì cũng là người cùng làng xóm “ tướng soái cùng đem hết khả năng, binh tướng cùng tập luyện ”
- Tập luyện : quân lính “ khổ công tinh luyện ”, hàng ngày tập tành trận pháp, tác chiến ; tinh thần kỹ luật cũng được chú ý. Lại soạn các bài ca để học, như : “ Chớ đào tẩu ”, “ Cần một lòng ”, “ Thao luyện vũ nghệ ” ; nhắm phấn khích tướng sĩ, trung nghĩa một lòng.
- Ðãi ngộ : Tăng cho
rằng lương hướng không đủ, không thể tạo được đạo quân liêm khiết, hết
lòng. Nên qui định Tương quân mỗi người lính lãnh lương 4 lượng 2 tiền,
so với quân Lục kỳ lương cao gấp bội ; nguồn lương do từ quyên góp, sau
đó là tiền phụ thu từ thuế hàng hóa.
Cả hai phe đều cố tranh thủ dân tâm, quân Thái bình lúc khởi sự truyền bá Phụng Thiên thảo Hồ hịch 2, thì Tương quân cũng soạn Thảo Việt phỉ hịch 3 để thuyết minh lập trường.
Mở đầu hịch văn đả kích
quân Thái bình tàn ác, trong nội bộ phân biệt đối xử ; người gốc Quảng
Tây thì được đãi ngộ, các tỉnh khác thì bị khinh rẽ đọa đày “ Thuyền
bè không kể lớn nhỏ, nhân dân không kể giàu nghèo đều vị cướp sạch, trai
gái bị bắt ; bọn giặc Quảng Tây thì được tôn vinh, dân Lưỡng Hồ 4, Tam giang 5 thì bị bức hiếp.” Tiếp đến thống kích quân Thái bình phá hoại luân lý trật tự “ Trung
Quốc mấy ngàn năm lễ nghĩa nhân luân, thi thư điển tắc, một sáng quét
sạch… Khổng Tử, Mạnh Tử của ta phải thống khóc nơi cửu tuyền, phàm kẻ
đọc sách biết chữ há có thể buông tay áo ngồi nhìn ? ”. Lại đả kích
quân Thái bình phá hủy điện thờ thần, Khổng Tử, và các bực anh hùng như
Quan Công, Nhạc Phi. Cuối cùng thân minh sứ mệnh của Tương quân là cứu
dân bảo vệ đạo, giúp vua, phục hồi nhân luân, báo thù cho sinh linh, làm
nguôi lửa giận của thần minh ; hy vọng trung nghĩa nhân dân, cộng đồng
phấn khởi ; những kể bị hiếp bị bắt, trở về với nẻo chính.
2. Tương quân khởi sựTương quân của Tăng Quốc Phiên lúc khởi đầu lấy Tương dõng của Sinh viên La Trạch Nam làm cơ sở, lại thêm bộ phận chiêu mộ thêm từ Hồ Bắc ; tất cả khoảng 4 000 người. Tháng 9/1853 Tăng di chuyển quân đến Hoành Dương [Hengyang, Hồ Nam] để dẹp giặc tại phương nam và lo chế tạo thuyền. Rút kinh nghiệm về lực lượng Thái bình xua binh dọc theo sông Trường Giang, thuyền to nhỏ có đến hàng vạn chiếc, các châu ấp gần sông không cần đánh cũng lấy được ; riêng quân Thanh không có thuyền, không có phương tiện truy kích, đành chịu bó tay. Bởi vậy Tăng Quốc Phiên bắt đầu lo việc chế tạo thuyền pháo ; quân binh từ tỉnh Hồ Nam, thợ mộc lấy từ Quảng Tây, súng pháo chuyển từ Quảng Ðông, phần lớn là vũ khí Tây dương. Thuyền pháo sau này là yếu tố quan trọng giúp Tương quân đoạt quyền khống chế sông Trường Giang, ngăn trở quân Thái bình giao thông bằng đường thuỷ và đánh chiếm các thành trì dọc hai bên bờ sông.
Vào tháng 1/1854, thất
thủ Hợp Phì [Hefei, An Huy] Tuần phủ Giang Trung Nguyên tử trận. Tháng 2
Tổng đốc Hồ Quảng Ngô Văn Dung thua chết, quân Thái bình chiếm Hán
Dương [Hanyang, Hồ Bắc], Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] lần thứ 3, cùng vây
đánh Vũ Xương [Wugang, Hồ Bắc]. Lúc này thuỷ sư của Tương quân đã thành,
thuyền lớn nhỏ hơn 300 chiếc, lính thuỷ hơn 5000 người, hợp với lục
quân binh dõng hơn 15 000 người, với 500 cỗ pháo, cùng thuyền tiếp tế
gạo, dầu, muối của dân. Ngày 25/2 xuất chinh, toàn quân tiền lương 8 vạn
lượng, do các tỉnh Hồ Nam, Quảng Ðông, Giang Tây, Tứ Xuyên [Sichuan]
cung ứng. Bắt đầu dằng co với quân Thái bình tại phía bắc tỉnh Hồ Nam,
quân bộ thua tại Nhạc Dương [Yueyang,Hồ Nam], quân thuỷ thua tại Tĩnh
Cảng phía bắc Trường Sa [Changsa, Hồ Nam] ; nhưng có một đạo quân đại
thắng tại Tương Ðàm [Xiangtan, Hồ Nam], không những lòng quân được hưng
phấn, mà Trường sa miễn bị giáp công. Sau khi chấn chỉnh và biên chế,
tháng 7 xuất kích lần thứ 2, tảo thanh xong tỉnh Hồ Nam, Lúc này thành
Vũ Xương đã bị tái chiếm 6 tháng ; vào tháng 10/1854 Tăng Quốc Phiên
đích thân mang quân thuỷ lục từ Nhạc Dương tiến sang đông, bọn Dương Tái
Phúc đốc suất thuỷ quân, La Trạch Nam đốc xuất lục quân khắc phục được
Vũ Xương, tịch thu hàng ngàn chiếc thuyền, lại chiếm luôn các thành Hán
Dương, Hán Khẩu gần đó ; thắng lợi lớn được Thanh đình đánh giá cao. Vào
các tháng 11, 12, lại thắng tiếp tại trấn Ðiền Gia, núi Bình Bích tại
phía đông tỉnh Hồ Bắc ; thuỷ quân tiến đến Cửu Giang [Jiujiang, Giang
Tây], quân Thái bình bị tổn thất rất lớn.
Vào đầu năm 1855, quân
Thái bình dưới quyền Dực vương Thạch Ðạt Khai tăng viện cho miền tây,
Tương quân bị tổn thất. Hán Dương, Hán Khẩu, Vũ Xương lại không giữ được
; từ Vũ Xương đến Thiên Kinh [Nam Kinh] nằm trong tay quân Thái bình.
Tăng Quốc Phiên rút về Nam Xương [Nanchang, Giang Tây], lực lượng Tương
quân đầu, đuôi không tiếp xúc với nhau được ; quyết định cho Tuần phủ Hồ
Bắc Hồ Lâm Dực và La Trạch Nam chiếm lại Vũ Hán nhưng không thành công.
Thạch Đạt Khai đa mưu, chủ trương xây dựng cơ sở tại nông thôn, làm
nguồn cung cấp nhân lực và lương thực ; năm 1856, hợp với quân Thiên địa
hội từ Quảng Tây đến, cùng với Bắc vương Vi Chính liên tiếp chiếm hơn
50 huyện, 8 phủ tại Giang Tây, Nam Xương cơ hồ không giữ được.
3. Nội biến tại Thiên Kinh
Thái
bình thiên quốc định đô tại Nam Kinh [Nanjing, Giang Tô] không lâu,
Khâm sai đại thần Hướng Vinh theo bén gót truy kích, đồn trú tại vùng
ngoại ô đông nam thành, gọi là đại doanh Giang Nam ; kiêm chỉ huy quân
tại Trấn Giang [Zhenjiang, Giang Tô], che chở cho vùng đất Tô Châu
[Suzhou, Giang Tô], Thường Châu [Changzhou, Giang Tô] nhiều lúa gạo ;
lại có đạo quân đồn trú tại vùng ngoại ô phía bắc Dương Châu, làm bình
phong cho vùng sản xuất muối, tại duyên hải sông Hoài [Huaihe river].
Mùa đông năm 1853, quân Thái bình rút ra khỏi Dương Châu [Yangzhou,
Giang Tô], nhưng vẫn đóng tại Qua Châu [Guazhouzhen, Giang Tô], nơi cửa
Vận Hà. Tuy đánh Thiên Kinh không thành công, nhưng thanh thế đại doanh
Giang Nam vẫn mạnh, là mối lo ngay tại nách vai của quân Thái bình. Năm
1856, Dương Tú Thanh thừa lúc quân Thái bình thắng tại phía tây sông
Trường Giang, bèn mang quân đánh Trấn Giang và Dương Châu, tấn công mạnh
vào Ðại doanh Giang Nam, Hướng Vinh thua, tử trận ; Thiên kinh được
giải vây ; thượng lưu, hạ lưu sông Trường Giang chỗ nào cũng thắng lợi.
Giặc Niệm 6 tại
phía bắc An Huy cũng bùng lên, cướp phá tại lưu vực sông Hoài và sông
Trường Giang. Trong lúc này tại Thiên Kinh [Nam Kinh] xẩy ra nội biến,
tàn sát lẫn nhau, nhờ vậy Tương quân có cơ hội nghỉ ngơi dưỡng sức.
Do bởi Dương Tú Thanh
giả thác Thiên phụ xuống cõi trần, nắm mọi quyền lực về tôn giáo, quân
sự, chính trị ; tự tiện chuyên chế, coi Hồng Tú Toàn như phế vật, thường
lăng nhục la mắng. Ðối với Vi Chính, Thạch Ðạt Khai, Tần Nhật Cương thì
chỉ tay sai khiến ; Vi Chính, Tần Nhật Cương thường bị phạt đánh trượng
; mối oán kết sâu không chỉ một ngày ; nhưng giặc mạnh còn nằm bên
hông, nên chưa lộ ra hành động. Trước đó vào năm 1855, tác gỉả Tặc tình
hối toản cũng đã đề cập đến việc này, cho rằng “ Dương Tú Thanh với
tâm gian giảo, đưa Hồng Tú Toàn lên hư vị, nhưng thực sự nắm quyền lớn,
bắt chước những gian thần đời trước, sẽ giết Hồng để nắm chức.” Lại bảo “ giặc họ Dương và Vi Chính nghi kỵ, chẳng bao lâu sẽ manh tâm nuốt nhau.”
Sau khi Thiên kinh được
giải vây, lại chiến thắng tại miền thượng du sông Trường Giang ; lúc này
dã tâm của Dương Tú Thanh bộc lộ càng mạnh, giả thác Thiên phụ xuống
trần, bức bách Thiên vương, từ Cửu thiên tuế tự phong thành Vạn tuế! Vào
tháng 9/1856, Vi Chính, Tần Nhật Cương trong một hành động chớp nhoáng,
như sấm không kịp bịt lỗ tai, giết Dương Tú Thanh.
Nguyên Vi Chính bị thua,
từ Giang Tây trở về, bị Dương Tú Thanh quở trách không cho vào thành ;
sau đó Vi tiếp tục xin, nên được chấp nhận. Vi âm mưu với Hồng Tú Toàn,
Tần Nhật Cương trước ; rồi một hôm đến phủ Đông vương yết kiến Dương Tú
Thanh, quỳ xuống tung hô vạn tuế, Tú Thanh lưu lại ăn yến ; trong bữa
tiệc bất thình lình dùng dao giấu trong người đâm chết Dương Tú Thanh,
rồi tuyên bố “ Đông vương mưu phản, ta nhận mệnh Thiên vương giết nó.”
Sau đó cho đóng cửa thành, truy lùng đồ đảng của Đông vương ; nội bộ
xẩy ra cuộc hỗn chiến một tháng trời, đồ đảng Đông vương vẫn còn trốn
tránh. Lại thị vợ của Hồng tú Toàn bảo rằng “ Đảng giặc không giết hết sẽ lưu hậu họa ”, nhân bàn mưu với Tú Toàn giả phạt Vi Chính tội đánh trượng 7 rồi
kêu gọi đồ đảng Tây vương đến xem, lúc đến nơi bèn cho giết sạch ; tổng
kết phe Dương Tú Thanh bị giết đến 2 vạn. Ðây là cuộc nội biến thứ nhất
tại Thiên kinh.
Tháng 10, Thạch Ðạt khai
từ Hồ Bắc trở về Nam Kinh gấp, trách Vi Chính giết quá nhiều. Vi Chính,
đã lỡ ra tay đành phải tiếp tục, định đem những người khác ý ra thanh
trừng. Thạch Ðạt Khai phải dùng giây thừng leo qua thành chạy trốn ; đó
là nội biến lần thứ hai.
Từ đó Vi Chính không
phân biệt trắng đen, giết người không ngớt, treo giải thưởng cho ai bắt
được Thạch Ðạt Khai và giết mẹ, vợ, con trai, con gái của Đạt Khai.
Tháng 11, Thạch Ðạt Khai từ phía tây sông Trường Giang mang quân trở về,
cùng lúc Hồng Tú Toàn hợp các quan văn võ tại Thiên kinh giết được Vi
Chính, Tần Nhật Cương ; đó là nội biến thứ ba.
Vào tháng 12, Hồ Lâm Dực
thừa cơ khắc phục Vũ Hán, bình định Hồ Bắc ; Tương quân ổn định miền
hậu phương, lương hướng quân giới thu thập đầy đủ, thương bệnh binh được
bảo dưỡng.
Thạch Ðạt Khai là nhân vật kiết xuất về chính trị trong quân Thái bình. Tăng Quốc Phiên mấy lần nhận xét, “ y tối hung hãn, quỷ quyệt ” “ dùng ngụy trá để khiến người, giả nhân nghĩa lôi cuốn dân.” Tả Tông Ðường cũng cho rằng “ iảo
hoạt hơn người, vốn được lòng bọn giặc ; tài trí hơn cả đồng bọn. Xem
cách làm của y, có phần cố kết được lòng người, cầu nhân tài, không xu
phụ vào lý thuyết tà giáo ; là một tông chúa của giặc, đáng cho ta úy kỵ.”
Sau khi Vi Chính chết, Thạch Ðạt Khai quản lý chính sự, kiêm thi hành
công thủ, trọng dụng các tướng lãnh thanh niên như Trần Ngọc Thành, cùng
Lý Tú Thành, một tài năng mới lộ ra. Lại liên kết với giặc Niệm tại
phía bắc sông Trường Giang, ổn định được cục diện Thái bình thiên quốc.
Nhưng Hồng Tú Toàn thì đã quá no bởi sự ức hiếp của Dương Tú Thanh, Vi
Chính, nên không tin người ngoài ; chỉ tin dùng những anh ruột không tài
năng là bọn Hồng Nhân Hữu, Hồng Nhân Ðạt.
Vào tháng 6/1857, Thạch
Ðạt Khai bị anh em Nhân Hữu, Nhân Ðạt nghi kỵ, cảm thấy lo lắng không
yên tâm. Đồ đảng Trương Toại khuyên rằng “ Vương được lòng dân, tại
sao lại chịu ở dưới tay người, nếu trung nguyên không dễ mưu, sao không
đến Tứ Xuyên, lập thế đỉnh vạc như Lưu Bị trước kia ? ”. Đạt Khai
theo, mưu với Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành, nhưng hai người không theo ;
bèn đến An Khánh, rồi chuyển đến Giang Tây để phát triển riêng. Thực tế
đã ly khai khỏi Hồng Tú Toàn, tự dựng riêng lá cờ ; đó là biến cố thứ
tư của Thái bình thiên quốc.
Sau khi Thạch Ðạt Khai
bỏ đi, Trấn Giang không giữ được, anh em họ Hồng chuyên quyền phóng
túng, khiến nhân tâm không phục, chán nản. Tăng Quốc Phiên cho rằng
trong vòng một năm có thể đánh chiếm được Nam Kinh, nhưng thực tế lực
lượng Hồng Tú Toàn còn kéo dài được vì những lý do sau đây : Thứ nhất,
do lời đồn rằng quân Thanh đối với những người gốc Quảng Tây nếu bắt
được thì không tha, nên bọn này chỉ biết tử chiến, đánh đến cùng. Thứ
hai, do Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành trung dũng thiện chiến, nên uy thế
quân Thái bình lại được phấn chấn. Thứ ba, triều đình nhà Thanh vẫn còn
phân biệt Hán, Mãn ; đối với Tăng Quốc Phiên chưa hoàn toàn tin, không
giao cho toàn quyền, nên Tương quân chưa vươn lên được.
4. Quân Thái bình thiên quốc phấn chấn trở lạiNăm 1858, đại quân Giang Nam của Khâm sai đại thần Hòa Xuân cùng Trương Ngọc Lương lại đến sát Thiên kinh, xây đại doanh đối bờ tại Phố Khẩu [Pukou, Giang Tô], Thiên kinh lại một lần nữa bị khốn. Phía thượng du, Tương quân do Lý Tục Tân chỉ huy đánh chặn Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây], nơi yết hầu trên sông Trường Giang ; các thành tại tỉnh Giang Tây phần nhiều bị Tương quân chiếm. Lý Tục Tân thừa thắng tiến quân phía bắc An Huy, bị liên quân Trần Ngọc Thành và Lý Tú Thành đánh kẹp, trước hết phá trại lớn tại phía bắc Trường Giang, sau đó đánh bại Tương quân tại trấn Tam Hà [Sanhezhen, An Huy], khiến lực lượng của Lý Tục Tân bị sụp đổ ; đây là bước ngoặt, quân Thái bình từ thế suy đồi gặt hái được chiến thắng lớn. Sau đó Trần Ngọc Thành đảm đương thượng du sông Trường Giang, giữ An Khánh [Anquing, An Huy], chế ngự Tương quân xuống phía đông ; riêng Lý Tú Thành bảo vệ Thiên kinh chống lại doanh lớn Giang Nam.
Năm 1859, một người anh
em của Thiên vương là Hồng Nhân Can từ Hương Cảng đến, được trọng dụng,
phong tước Can vương, nắm quân cơ ; Trần, Lý cũng được phong tước Anh
vương, Trung vương. Hồng Nhân Can tương đối có trí thức, định sách lược
cải cách, trước tác Tư chính tân biên, luận về phương sách giáo dục
chính trị, đại thể thế giới ; chủ trương thu thái chế độ mới cùng khoa
học kỹ thuật. Hồng kiến nghị tập trung quyền về một mối, cải cách phong
tục, thực hành theo Tây phương với những điều cụ thể như: đặt thư tín
quán [bưu chính], tân văn quán [báo chí], y viện, thị trấn công sở,
hương binh [cảnh sát], đặt đường sắt, ngân hàng, công nghệ, khai khoáng
sản. Ngoại trừ tân văn quán, các điều khác đều được Thiên vương chấp
nhận, nhưng chỉ mới bàn suông trên giấy tờ mà thôi.
Năm sau [1860] có một người tốt nghiệp từ Mỹ tên là Dung Hoành 8 kiến
nghị cải thiện tổ chức quân đội, thiết lập học hiệu lục quân, hải quân ;
trường thực nghiệp, định chế độ giáo dục, thiết lập chính phủ lương
hảo, dùng nhân tài để cố vấn, mở ngân hàng ; nhưng cũng không thấy thực
hành. Dung Hoành lưu tại Thiên kinh hơn một tháng trời, nhận thấy Hồng
Tú Toàn không có năng lực để xây dựng một nước Trung Quốc mới.
Lúc này quân Thanh chia
làm 2 tập đoàn lớn : thứ nhất là đại doanh Giang Nam tại hạ du sông
Trường Giang do Hòa Xuân và Trương Quốc Lương chỉ huy ; thứ hai chủ yếu
là Tương quân, dưới quyền Tăng Quốc Phiên và Hồ Lâm Dực, tại miền thượng
du. Ðại doanh Giang Nam tại Phố Khẩu [Pukou, Giang Tô] xưng là 5 vạn,
nhưng sự thực chỉ nửa số, dùng hào lớn để vây Thiên Kinh, tự cho rằng
sớm muộn công lớn có thể thành ; nhưng thực chất thì “ tướng kiêu
binh lười, suốt ngày say sưa không để ý đến giặc, hoặc ưa chuyện trai
gái, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc tụ họp ca hát, hoặc cờ bạc nghiền
hút. Cứ 45 ngày phát lương tháng 1 lần, nên quân lính nguyền rủa mong
cho giặc đến.”
Trung vương Lý Tú Thành,
Can vương Hồng Nhân Can muốn phá vây khốn, bèn sử dụng kỵ binh cơ động
đánh phía bắc An Huy rồi xuống Giang Tô, Chiết Giang phía nam, nhắm bọc
sau lưng đại doanh Giang Nam, cắt đường tiếp tế, chia binh lực. Lúc bấy
giờ quân Thái bình đã tấn chiếm được các thành xung quanh tại Cao Lương
[Gulou, Giang Tô], Cú Dung [Rujong, Giang Tô] ; hoặc giả quan quân chiếm
đột kích Phiêu Dương [Liyang, Giang Tô]. Tháng 3/1860, Lý Tú Thành tập
kích Hàng Châu [Hangzhou, Chiết Giang], rồi ngày đêm hành quân phía tây
phối hợp với Trần Ngọc Thành đánh mạnh vào đại doanh Giang Nam. Qua 10
ngày kịch chiến, vào đầu tháng 5 quân của Hòa Xuân, Trương Quốc Lương bị
đánh tan, Thiên kinh được giải vây ; từ đó trở về sau trong vòng 2 năm,
không có dấu vết quân Thanh ngoài thành.
Trong vòng 7 năm, trọng
yếu chiến lược của quân Thái bình chủ trương thế công tại thượng du sông
Trường Giang, thủ tại hạ du ; về hạ du sông Trường Giang, chưa bao giờ
vượt quá Ðan Dương [Dan yang, Giang Tô]. Sau lần thứ hai giải vây Thiên
kinh, bèn quyết định đánh Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], Hàng Châu
[Hangzhou, Chiết Giang], Thượng Hải [Shanghai] ; sau đó liệu biện thuyền
máy, ngược dòng Trường Giang đánh phía tây. Vào ngày 19/5 Lý Tú Thành
đuổi dài sang phía đông, Hòa Xuân và Trương Quốc Lương thua chết, nhân
dân tranh giết quân Thanh để đón. Lúc này ngoại trừ vùng chu vi Thượng
Hải, Trấn Giang [Zhenjiang, Giang Tô] ; phần còn lại đều bị quân Thái
bình đánh cuốn chiếu, chiếm sạch. Vào tháng 8 đánh Thượng Hải không hạ
được, đồng thời tại miền thượng du chiến sự gấp, quân Thái bình phải
phân đánh từ hai tuyến.
5. Tăng Quốc Phiên thống lãnh miền đông namSau khi đoạt lại Vũ Hán vào tháng 12/1856, Tương quân không thừa lúc nội bộ quân Thái Bình biến loạn, mang toàn lực tiến thẳng ; lý do không hẳn lực bất tòng tâm, nhưng do Mãn Thanh thiếu tín nhiệm người Hán. Thời Tương quân đầu tiên chiến thắng tại tỉnh Hồ Bắc, có viên Ðại thần tâu rằng Tăng Quốc Phiên chỉ là một dân thường quật khởi, người theo có đến hành vạn ; sợ không phải là điều phúc cho Vương triều, vua Hàm Phong nghe qua biến sắc. Bởi vậy trách nhiệm của Tăng được giao rất nặng, nhưng quyền lực bị hạn chế, chỉ có hư hàm “ Khâm sai Binh bộ hữu thị lang ”.
Vào
tháng 3/1857 nhân cha mất, xin nghĩ để chịu tang, trong lòng đã có ý
muốn rút lui. Tháng 7 xin từ chức, trình bày mấy năm qua làm việc gặp
nhiều khó khăn : thứ nhất, các quan chức dưới quyền lập công phải trình
lên để xin chức, chứ không được bổ ngay chức ; thứ hai, việc trù hoạch
điều động nằm trong tay Tổng đốc, Tuần phủ, đối với các viên chức này
Tương quân chỉ là khách ; thứ ba, lệnh phụng mệnh chỉ huy quân không
được minh bạch, có lời dị nghị, ấn tín thường bị thay đổi, nên các châu
huyện nghi ngờ cho là giả tạo.
Tăng Quốc Phiên nghỉ tại
nhà hơn một năm, vào năm 1858 Thạch Ðạt Khai mang quân tiến về phía
đông, mới được gọi trở lại chức. Trước hết mệnh tăng viện Chiết Giang,
rồi lại mệnh đến Tứ Xuyên ; cuối cùng mệnh tăng cường quân An Huy, khiên
chế quân Thái bình, để cho Hòa Xuân [người Mãn] một mình lập công đánh
Thiên Kinh. Trong vòng 3 tháng, giữa các năm 1859-1860, Tương quân của
Tăng Quốc Phiên giao tranh với quân Thái bình của Trần Ngọc Thành tại
vùng phụ cận An Huy, lúc này chỉ nhận được sự trợ giúp của Tuần phủ Hồ
Bắc Hồ Lâm Dực.
Lúc đại doanh Giang Nam
bị đánh, chính là lúc Tăng Quốc Phiên, Hồ Lâm Dực, và Tả Tông Ðường họp
bàn tại Túc Tùng [Susong, An Huy]. Tả Tông Ðường nói : “ Ý trời muốn thay đổi chăng ? Ðại doanh Giang Nam tướng kém quân mệt làm sao đương thuỷ giặc ! ”. Hồ Lâm Dực nói “ Bĩ cực thái lai ”
và liệu tính rằng thời đã đến, triều đình sẽ trọng dụng Tương quân. Ðến
lúc Tô Châu thất thủ, triều Thanh xem lại trong nước, chỉ có Tương quân
tướng lãnh có khả năng, quân lính mạnh ; ngoại trừ lực lượng này thì
không biết dựa vào đâu. Nên tháng 6/1860 mệnh Tăng Quốc Phiên quyền Tổng
đốc Lưỡng Giang, hai tháng sau thăng thực thụ, lại giao chức Khâm sai
đại thần biện lý quân vụ Giang Nam, tiết chế các quân thuỷ bộ hai bên
nam, bắc sông Trường Giang. Kể từ đó, Tăng được “ phá lệ thăng tướng, thêm binh ” Tương quân danh xứng với thực, thay thế quân Lục kỳ.
Nhắm tấn công vùng đông
nam để tương lai thu phục Nam Kinh, Tăng Quốc Phiên di chuyển đến Kỳ Môn
[Qimen, An Huy] và lưu quân công kích An Khánh. Chẳng bao lâu quân Anh,
Pháp đánh Bắc Kinh, triều đình gọi tăng viện, đối với Tăng có phần nan
giải. Trước đó Tăng tự nguyện đi, nhưng do thế bắt buộc chứ không phải
phát xuất tự lòng thành, Tăng từng nói với em, Tăng Quốc Thuyên, rằng “ viện
trợ Bắc Kinh không cần nhiều quân, Hồ Lâm Dực hoặc ta, sẽ có một người
đi ; đến chốn hành tại để làm rõ nghĩa vua tôi, tròn chức phận của tướng
soái ; còn ổn thỏa hay không, thì chỉ biết nghe lệnh mà thôi.” Lại nói với Hồ Lâm Dực rằng : “ Trong
thiên hạ có lý và thế, giữ 3 tỉnh Giang Tây , Lưỡng Hồ là thuộc về thế ;
chức vụ chúng ta trước mắt cầu khỏi vi phạm vào thế, nhưng cũng không
phản lại lý ”. Xem qua lời nói, Tăng nặng lòng củng cố lưu vực sông Trường Giang để sớm dẹp quân Thái bình.
Chú thích
1 Lục kỳ : dưới thời nhà Thanh, lính gốc Mãn Châu biên chế thành Bát kỳ, lính Hán biên chế thành Lục kỳ, hiệu cờ màu xanh.
2 Phụng thiên thảo Hồ hịch : phụng mệnh trời dẹp giặc Hồ, tức Mãn Thanh.
3 Thảo
Việt hịch : Việt tức Quảng Tây, Quảng Ðông ; ý chỉ dẹp giặc Quảng Tây,
Quảng Ðông, vì Thái bình thiên quốc phát xuất từ nơi này.
4 Lưỡng Hồ : các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam.
5 Tam giang : Chỉ 3 sông Tương giang, Hán thuỷ, Trường Giang.
6 Niệm :
nguyên nghĩa là một nhóm, một bọn. Ðây là lực lượng nông dân dấy lên
[1853-1868] tại phía bắc An Huy, cùng các tỉnh Giang Tô, Sơn Ðông, Hà
Nam.
7 Phạt đánh trượng : phạt đánh bằng gậy.
8 Dung
Hoành : [1828-1912] người huyện Hương Sơn, Quảng Ðông, lúc nhỏ học
trường Tây dương tại Áo Môn, Hương Cảng ; năm 1854 tốt nghiệp tại Mỹ, Yale University
IV. Nhà Thanh giành được ngoại viện, Tăng Quốc Phiên trù hoạch chiến đấu
1. Triệu chứng nước Anh thay đổi chính sách
Sau khi Thái Bình Thiên Quốc định đô tại Nam Kinh [Nanjing, Giang Tô] ; các nước Anh, Pháp, Mỹ vẫn thừa nhận triều đình Bắc Kinh [Beijing] ; họ hy vọng giành được sự nhượng bộ từ triều đình này, nên tiếp tục duy trì. Ðối với họ, Hồng Tú Toàn luôn luôn tự coi là Thiên vương, “ chân chúa của vạn nước ”, nếu thắng cũng không dễ cư xử.
Từ năm 1856 đến 1858,
giới lãnh đạo Anh, đứng đầu phe Tây phương, cho rằng chẳng bao lâu quân
Thái Bình sẽ thua, nên càng gấp giành quyền lợi từ Bắc Kinh. Qua điều
ước Thiên Tân [Tianjin], lòng mong muốn của các nước được thỏa mãn, kiên
định mối quan hệ giữa họ với Bắc Kinh ; vấn đề từ đó trở đi, là làm sao
thực thi mọi khoản trong điều ước. Sau khi chương trình thông thương
được ký kết tại Thượng Hải [Shanghai, Giang Tô] vào tháng 11/1858, Công
sứ Lord Elgin cấp tốc điều quân hạm ngược sông Trường giang
[Changjiang], để khảo sát cảng khẩu, chiếu theo điều ước Thiên Tân dự
định mở. Khi quân hạm qua Nam Kinh, An Khánh [Anqing, An Huy] ; bị quân
Thái Bình pháo kích. Sau đó quân Thái Bình gửi thư có ý xin lỗi ; chiếu
chỉ của Thiên vương gọi Lord Elgin là “ Tây dương phiên đệ ”,
hoan nghênh đến, sẽ đãi theo lễ. Khi Lord Elgin từ Hán Khẩu [Hankou, Hồ
Bắc] xuôi dòng, chủ tướng quân Thái Bình tại An Khánh ân cần xin lỗi vì
sự lầm lỡ. Thống đốc thủy quân Thái Bình trên sông Trường Giang yêu cầu
nhường cho súng đạn Tây dương, nói rằng hai bên tình như anh em. Khi đến
Nam Kinh, Lý Xuân Phát, Phó thủ tướng quân Thái Bình khoản đãi rượu
những viên chức Anh do Lord Elgin sai đến như Thomas Wade [Uy Thỏa Mã],
H.N. Lay [Lý Thái Quốc] ; và căn dặn từ nay trở về sau khi thuyền Anh đi
qua, xin báo trước để mang quân hộ tống.
Lord Elgin rất ác cảm với quân Thái Bình, cho rằng chẳng bao lâu sẽ bại. H.N. Lay nói với Quế Lương tại Thượng Hải rằng “ Bọn
này thực vô kỷ luật, hành động như đạo tặc. Miệng thì nói thuộc Gia Tô
giáo, nhưng đem nhưng điều Gia Tô ra hỏi thì đáp không đúng.” Quân
Thái Bình biểu thị thiện cảm với Anh, vì thấy quân Anh mạnh nên không
thể không làm như vậy. Tháng 5/1860 quân Thái Bình đánh chiếm các đại
doanh tại Giang Nam, đuổi dài sang phía đông ; Công sứ Anh, Pháp lập tức
tuyên bố bảo vệ Thượng Hải. Sau khi Trung vương Lý Tú Thành chiếm cứ Tô
Châu [Suzhou, Giang Tô], bèn gửi thư cho sứ Anh trình bày việc tất yếu
phải lấy Thượng Hải, Tùng Giang [Songjiang, Giang Tô] ; muốn đến thương
lượng để giữ hòa hảo. Kế tiếp lại gửi thư khuyên đừng giúp quân Thanh,
để khỏi tổn thương hòa khí ; nhưng đều không có hồi âm. Sau đó Can vương
Hồng Nhân Can vốn có giao tình với người nước ngoài đến Tô Châu
[Suzhou, Giang Tô], cùng với Lý Tú Thành gửi thư mời Giáo sĩ Ngãi Ước
Sắt đến gặp ; viên Giáo sĩ thỉnh ý viên Công sứ Frederick W. A. Bruce
[Bốc Lỗ Tư] thì viên này cho biết lập trường của Anh không nghiêng về
bên nào.
Vào tháng 6, Tuần phủ
Giang Tô, Tiết Hoán, cùng hàng thương khuyến khích tổ chức Dương thương
đội do người Mỹ tên là F. T.Ward [Hoa Nhĩ] chỉ huy. F. T. Ward, một tay
mạo hiểm về quân sự ; nhân nước Trung Quốc rối ren, là nơi có nhiều cơ
hội đối với y ; nhỏ thì có thể dựa vào lửa chiến tranh để cướp bóc, lớn
thì tạo lập chính quyền. Y cùng các bạn đồng hương chiêu mộ được khoảng
200 quân, gồm lính ngoại quốc đào ngũ, thủy thủ, cùng những tay vong
mệnh ; lương hướng do quan đặc trách thương vụ tại Thượng Hải cung cấp.
Tháng 7, chiếm đoạt Tùng Giang, cướp được nhiều, lại được thưởng 3 vạn
lượng bạc, danh lợi kiêm thu ; bèn tiếp tục tiến công quân Thái Bình, bị
Lý Tú Thành đánh bại.
Giáo sĩ Ngãi Ước Sắt đến
Tô Châu đem những lời của Công sứ Frederick chuyển cho Hồng Nhân Can và
Lý Tú Thành, cả hai đều tin Anh đứng trung lập. Gặp lúc Anh, Pháp điều
binh lên Thiên Tân, lưu binh tại Thượng Hải không nhiều, lại vừa đánh
thắng Dương thương đội, nên tin rằng một tiếng trống cất lên có thể
chiến thắng, bèn mang quân tiến thẳng. Frederick chuyển lời cảnh cáo
rằng quân Anh, Pháp hiện trú đóng tại huyện thành và Thượng Hải, nếu
xông vào sẽ đánh trả lại. Lý Tú Thành thanh minh cùng Công sứ Anh, Mỹ,
Pháp rằng không quấy nhiễu người ngoại quốc ; vào ngày 18/8 bắt đầu đánh
thành, ngày 21 bị liên quân Anh Pháp đánh bại ; sự kiện này cũng tình
cờ trùng ngày với liên quân Anh, Pháp chiến thắng quân Thanh tại Ðại Cô
[Dagu, Thiên Tân]. Ðây là lần đầu tiên quân Thái Bình giao tranh với Tây
dương, chứng tỏ thái độ Anh, Pháp đối với quân Thái Bình đã chuyển biến
một cách cụ thể.
Tháng 2/1861 Harry
Parkes đến Nam Kinh. Ngày 1/3 cùng Hạm trưởng Aplin [Nhã Linh] nói với
đại diện quân Thái Bình, Mông Thời Ung và Chương vương Lâm Thiệu Chương
rằng nước Anh có quyền thông thương trên sông Trường Giang, nay qua lại,
nếu tuân theo pháp lệnh của Thái bình thiên quốc thì không được trở
nhiễu ; quân Thái Bình đánh Hán Khẩu, Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây],
nếu như không xâm phạm tính mệnh tài sản của người Anh, thì quân hạm Anh
đậu tại đấy cũng không gây khó khăn. Ðược Thiên vương đồng ý, xuống
chiếu tuyên bố rằng phàm những ai chưa giúp “ yêu quái ” (Mãn Thanh) đều
được khoan miễn, thương nhân ngoại quốc coi như huynh đệ, mọi việc do
Tổng lý La Hiếu Toàn thu xếp ; lại trả về những lính đào ngũ người Anh.
Tháng 5 cũng gửi cho Tư lệnh hải quân Mỹ Commodore Stribling [Tư Bách
Linh] chiếu thư giống như vậy.
Ngày 22/3 khi Harry
Parkes từ Hán Khẩu trở về đông, qua Hoàng Châu [Huangzhou, Hồ Bắc] cảnh
cáo Anh vương Trần Ngọc Thành đừng đánh Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc], Hán
Dương [Hanyang, Hồ Bắc] ; lập luận này hiển nhiên trái với cam kết trước
kia. Ngày 28 Ðề đốc James Hope [Hà Bá] sai Hạm trưởng Aplin báo cho
quân Thái Bình rằng không được tiến binh cách Thượng Hải dưới 100 dặm,
ngược lại Anh sẽ không cho quân Thanh từ Thượng Hải đánh quân Thái Bình.
Harry Parkes cùng Aplin đàm phán với quân Thái Bình 5 ngày, tuyên bố
nếu như phá hoại cửa khẩu, thương vụ, thì sự quan hệ hai bên không có
cách gì cải thiện. Thiên vương lúc đầu cho rằng không làm tổn hại đến
người nước ngoài, nhưng không dừng việc đánh Thượng Hải ; đến ngày 2/4
Harry Parkes và Aplin đích thân đến phủ Thiên vương gửi thư ; Thiên
vương hứa trong vòng năm đó không đánh Thượng Hải và vùng phụ cận. Những
điều yêu cầu của bọn Harry Parkes không phải là chủ trương của Luân
Ðôn, Ngoại trưởng John Russell [La Tố] từng ra chỉ thị không can thiệp
vào nội chiến Trung Quốc, chỉ lo giữ an toàn nhân sự và thương nghiệp.
Tuy nhiên những báo cáo của các viên chức ngoại giao, quân sự tại chỗ,
cũng ảnh hưởng rất nhiều đến chính sách.
Tháng 5/1861 James Hope
bắt F. T.Ward về tội dụ dỗ lính Anh đào ngũ rồi trả cho Lãnh sự Mỹ ;
nhưng Mỹ lấy cớ F. T. Ward đã nhập quốc tịch Hoa nên thả ra. F. T. Ward
hứa không tiếp tục thu lính Anh đảo ngũ ; được James Hope giúp đỡ để
chiêu tập đạo quân người Hoa, cùng được các sĩ quan Âu, Mỹ cấp cho trang
bị. Nhờ vậy Dương thương đội của F.T. Ward quân số tăng lên trên 2.000 ;
James Hope đích thân đến duyệt binh ; đây là hành động tích cực chuẩn
bị chống quân Thái Bình. Ðạo quân của F.T. Ward trên đầu chít khăn xanh,
nên được gọi quen là Lục đầu dõng, quân Thái Bình miệt thị là “ Giả Dương quỷ tử ”.
Lý Tú Thành nói người Tây dương đưa lời uy hiếp, đề nghị hợp tác rồi chia đôi, chúng nói “ Thiên
vương các ngươi tuy đông nhưng không bằng 1 vạn quân của chúng ta… Ta
có mấy vạn và binh thuyền, một tiếng trống dấy lên, có thể bình định.
Quân ta hơn 1 vạn người đánh vào Bắc Kinh, khiến phải xin hòa. Các người
không hợp tác, thì hãy xem ta hành động.” Hồng Tú Toàn không dao động, bảo rằng “Ta
tranh giành Trung Quốc, muốn tự lo lấy ; nếu hợp tác với Dương quỷ,
việc thành chia đôi, thì thiên hạ sẽ chê cười ; nếu không thành thì mang
tội đưa quỷ vào nước.” Lý Tú Thành cũng nói “ Ðể một ngàn quân Tây dương, chèn ép hàng vạn quân ta ; vậy ai mà phục !
”. Những lời trên, chứng tỏ Hồng Tú Toàn, Lý Tú Thành kiên định lập
trường quốc gia ; tuy họ từng dùng người và vũ khí Tây phương, nhưng làm
chủ được mình.
2. Tranh đoạt thành An Khánh
Sau
khi Tương quân chiếm được Vũ Hán [Wuhan, Hồ Bắc], Cửu Giang [Jiujiang,
Giang Tây] ; An Khánh trở thành chiến trường tại thượng du sông Trường
Giang. An Khánh không chỉ là bình phong cho Thiên Kinh, nó còn giữ vị
trí bảo hộ Sào Hồ [Chaohu, An Huy], vùng cung cấp lương thực cho Thiên
Kinh. Từ tháng 12/1859 Tăng Quốc Phiên, Hồ Lâm Dực mưu đoạt An Khánh ;
giao tranh nhiều lần với Anh vương Trần Ngọc Thành. Năm 1860 các đại
doanh tại Giang Nam thất thủ, triều đình nhà Thanh mấy lần mệnh Tăng dời
quân về phía đông ; Tăng có chủ kiến cho rằng đạo quân đánh dẹp An
Khánh rất quan trọng, với những lý do sau đây : Thứ nhất từ xưa tới nay
sách lược bình Giang Nam, nhờ thế thượng du từ trên đánh xuống mới mong
thành công. Thứ hai, Tương quân đến gần tới chân thành ; nay rút đi thì
thế địch tăng thêm, còn khí thế quân ta tiêu trầm. Thứ ba, thủy sư nếu
chiếm được thành này “thì dựa vào đó làm thế căn bản, để ngăn nguồn lương cung cấp cho bọn giặc tại Kim Lăng (Nam Kinh) ; phá thế ỷ dốc từ Giang, Hoài.”
Họ Tăng đo lường toàn cuộc, thâm tư viễn lự, có tầm nhìn chiến lược xác
đáng. Nhưng triều đình vẫn muốn Tăng thu phục Tô Châu [Suzhou, Giang
Tô], Thường Châu [Changzhou, Giang Tô] ; để bảo hộ cho Thượng Hải, Hàng
Châu [Hangzhou]. Bất đắc dĩ Tăng tự cầm 8.000 quân đến Kỳ Môn [Qimen, An
Huy] ; lưu Tăng Quốc Thuyên với 1 vạn 5.000 quân tiếp tục vây An Khánh.
Ngoài ra còn có sự yểm trợ của các đạo lục quân Ða Long A, Lý Tục Nghi,
Hồ Lâm Dực, cùng thủy quân của Dương Tái Phúc ; cộng ước 4 vạn quân.
Về phía đối phương, Thái Bình Thiên Quốc cũng đánh giá cao vị trí quan trọng của An Khánh. Hồng Nhân Can nói “ Từ
xưa đến nay giành giang sơn, trước hết lấy tây bắc rồi xuống đông nam ;
do từ trên xuống dưới, thế đã thuận mà dễ… Sông Trường Giang giống như
con rắn dài, đầu là Hồ Bắc, An Khánh là lưng, Giang Nam là đuôi ; nếu để
mất An Khánh, như lưng rắn bị cắt, thì cái đuôi tuy ngoe ngoảy cũng
không được bao lâu.” Lúc bấy giờ Lý Tú Thành đánh Thượng Hải bất
lợi, quay sang mở mang vùng Chiết Giang ; Thiên vương ra lệnh ngược sông
Trường Giang, giải vây cho An Khánh ; rồi thừa lúc liên quân Anh Pháp
đánh Bắc Kinh thì tiến lên phía bắc chiếm trung nguyên. Sau khi Lý Tú
Thành và Trần Ngọc Thành hội bàn tại Giang Tô, phân công Trần hoạt động
tại phía bắc tỉnh An Huy [Anquing] phụ trách bờ phía bắc sông Trường
Giang ; Lý theo hướng Thiên Kinh [Nam Kinh] đương đầu phía nam tỉnh An
Huy, tức bờ phía nam sông Trường Giang. Lại còn có Phụ vương Dương Phụ
Thanh tiến đánh quân Tăng Quốc Phiên tại Kỳ Môn, Thị vương Lý Thế Hiền
tiến vào phía đông tỉnh Giang Tây, đánh phía sau lưng Kỳ Môn [Qimen, An
Huy] ; như vậy thì tự nhiên An Khánh sẽ được giải vây.
Ðạo quân của Trần Tú
Thành di chuyển nhanh, lúc đầu đánh vào quân Ða Long A, hạ không được ;
tiếp tục tiến đến Hồ Bắc [Hubei] với thế chẻ tre, trong 5 ngày đánh
chiếm Hoàng Châu [Huangzhou, Hồ Bắc]. Qua lời cảnh cáo của Harry Parkes,
nhắm tránh đối địch với quân Anh, bèn mang quân đánh các thành phía bắc
tỉnh An Huy. Cuối cùng sai hẹn với Lý Tú Thành, hai đạo quân không liên
hệ được với nhau, bèn dẫn quân về phía đông, tình hình An Khánh lại trở
nên nguy cấp. Về các đạo quân Thái bình tại phía nam, từ tháng 12/1860
lại bức bách Kỳ Môn, Tăng Quốc Phiên cơ hồ không trụ nổi ; may nhờ đạo
quân của Tả Tông Ðường từ phía đông tỉnh Giang Tây [Jiangxi] đánh chặn
nguồn tiếp tế của Lý Thế Hiền, mới bắt đầu chuyển nguy thành yên. Lần
tây chinh của Lý Tú Thành kỳ này, không được tích cực lại quá cẩn trọng,
vào tháng 2/1961 vào Giang Tây, đánh vòng từ nam sang tây, đến tháng 6
vào tỉnh Hồ Bắc, gần thành Vũ Xương [Wugang, Hồ Bắc], biết được Trần
Ngọc Thành, Lý Thế Hiền đã quay về phía đông, Bảo Siêu thuộc Tương quân
tiến vào Giang Tây, Lý sợ đường về cản trở, Lãnh sự Anh tại Hán Khẩu
cũng có lời khuyên ngăn ; bèn theo hướng phía nam Hồ Bắc quay trở về
Chiết Giang.
Quân Thái bình tây chinh
không lập được công, từ tháng 4 đến tháng 8/1861 Trần Ngọc Thành thu
thập các đạo quân tại các miền bắc nam An Huy, cùng Thiên kinh gồm trên 3
vạn ; bốn lần đến cứu viện An Khánh. Tương quân ra sức chống cự ; đại
doanh của Tăng Quốc Thuyên từ Kỳ Môn chuyển đến phía đối bờ với thành An
Khánh, quân Hồ Lâm Dực từ Hồ Bắc xuống tương trợ, chiến đấu rất kịch
liệt. Tương quân chỉ huy thống nhất, thủy bộ giữ thế ỷ dốc, lương thảo
sung túc ; quân Thái bình chí không đồng, đội ngũ không chỉnh, bổ sung
khó khăn. Tăng Quốc Thuyên mệnh các doanh lung lạc các tư thương không
bán lương thực, Harry Parks cũng cấm thuyền Anh, An Khánh không được
cung cấp gạo ; ngày 5/9/1861 lương hết, thành phá, toàn bộ quân Thái
Bình hơn 1 vạn 6.000 người chiến tử ; An Khánh vào tay Tương quân, đây
là chìa khóa mất còn của quân Thái Bình. Hồng Nhân Can nói rằng “ Tổn
thất tối lớn của quân ta là khi An Khánh vào tay quân Thanh. Thành này
là chìa khóa cửa của Thiên kinh, bảo vệ sự an toàn tại đông nam, một khi
rơi vào tay bọn yêu, chúng có thể đánh vào cơ sở ta.”
An Khánh thất thủ, Trần
Ngọc Thành chuyển sang Lô Châu [Luzhou, Hợp Phì, An Huy], bị cách chức.
Mùa xuân năm 1862, quân Thanh vây Lô Châu, Trần Ngọc Thành chạy lên Thọ
Châu [Shouzhou, Hợp Phì, An Huy], rồi bị đồng đảng giết lúc 26 tuổi.
Trần chết, lực lượng quân Thái Bình tại phía bắc An Huy tan rã.
Khi Lý Tú Thành từ Hồ
Bắc rút về phía đông, đã biết An Khánh khó giữ, nên vẫn theo kế hoạch
trước khi tây chinh, nhắm đoạt lấy Hàng Châu, củng cố làm đất căn bản.
Cuối năm 1861, quân Lý lấy được Hàng Châu, Thiệu Hưng [Shaoxing, Chiết
Giang], Ninh Ba [Ningpo, Chiết Giang]. Tăng Quốc Phiên cảm thấy tình thế
nghiêm trọng, báo động rằng “ Hiện nay vùng đất màu mỡ tại hai tỉnh
Chiết Giang, Giang Tô đều vào trong tay giặc, sào huyệt đã thành, gốc rễ
kiên cố… Binh lính tại tỉnh Chiết toàn nhờ vào lương thực tại Ninh,
Thiệu ; nay bị giặc chiếm, cả tỉnh tiêu điều, không có cách trù hoạch ”.
Nếu xét về phương diện kinh tế, quân Thái Bình chiếm được Hàng Châu,
Chiết Giang ; so với việc mất An Khánh và miền bắc An Huy thì tương
đương ; nhưng đứng về phương diện quân sự thì Hàng Châu, Chiết Giang
không thể so sánh với An Khánh và phía bắc An Huy được. Thực vậy, đây là
thắng lợi cuối cùng của quân Thái Bình, sau đó không còn có sự phát
triển nào khác.
3. Ðánh giữ tại các cửa khẩu thông thương
Chiến
lược của Lý Tú Thành là chiếm trọn Giang Nam, Chiết Giang ; thời gian
tây chinh tuy chưa lấy được Thượng Hải, nhưng vùng Chiết Giang thì vẫn
không buông tay. Tháng 4/1861, sau khi rút từ miền tây, quân Thái Bình
chiếm Sạ Phố [Zhapazhen, Chiết Giang], nếu như vượt Hàng Châu loan có
thể chiếm Ninh Ba [Ninhbo, Chiết Giang]. Tháng 5 James Hope phái Hạm
trưởng Roderick Dew [Lạc Ðức Khắc] đến Ninh Ba, cảnh cáo quân Thái Bình
không được tiến binh xâm phạm, lại giúp quân Thanh bố phòng, Thái Bình
đáp rằng nguyện cùng quân Anh hòa hảo thông thương. Tháng 6, Frederick
W. A. Bruce thông tư cho James Hope rằng bảo vệ cảng khẩu tức bảo vệ lợi
ích buôn bán của người Anh, nhà Thanh đã đồng ý nước Anh thay giữ Ninh
Ba, cùng bàn luận sách lược đánh chiếm Nam Kinh. Frederick cũng báo cáo
với Ngoại trưởng John Russell rằng nếu quân Thái Bình chiếm cửa khẩu thì
thương vụ bị phá hoại, quan thuế giảm, tiền bồi thường của nhà Thanh
không được giao phó. Riêng James Hope không đồng ý đánh Nam Kinh, sợ
việc buôn bán từ Thượng Hải vào nội địa bị đình chỉ. Ngoại trưởng John
Russell không đồng ý chủ động, chỉ muốn các cửa khẩu giữ trung lập ;
riêng kế hoạch sai Roderick Dew giúp bảo vệ Ninh Ba thì được chấp nhận.
Qua 80 ngày vây khốn,
ngày 31/12/1861 quân Lý Tú Thành hạ được Hàng Châu, lực lượng trú phòng
từ Tuần phủ Chiết Giang trở xuống, hơn 10.000 tử trận. Mười hai ngày
trước đó, bộ hạ Thị vương Lý Thế Hiền đánh chiếm Ninh Ba, đây là cửa
khẩu duy nhất quân Thái Bình chiếm giữ. Thái Bình quân kỷ luật nghiêm
chỉnh, thương vụ vẫn hoạt động bình thường, được miễn thuế 3 tháng,
người ngoại quốc tương đối yên ổn. Ðầu năm sau [1862] James Hope cùng
Công sứ Mỹ Anson Burlingame [Bồ An Thần] đến Ninh Ba, cùng Lãnh sự Anh,
Pháp hoạch định người ngoại quốc trú tại bờ phía bắc sông, không được
quấy nhiễu. Sau đó đưa lời rằng pháo đài tại Ninh Ba bắn quấy nhiễu, yêu
cầu dẹp bỏ, nhưng bị bác. Tháng 5/1862 chiến hạm Anh, Pháp giúp quân
Thanh chiếm lại Ninh Ba.
Người Anh rất quan tâm
đến Thượng Hải và các cửa khẩu trên sông Trường Giang ; Thiên vương chỉ
hứa trong năm 1861 quân Thái Bình không xâm nhập Thượng Hải và vùng phụ
cận. Khi Hàng Châu bị vây, James Hope dự liệu rằng nếu như thành này mất
thì tất nhiên Thượng Hải bị uy hiếp. Vào ngày 27/12/1861 Harry Parkes
lại đến Nam Kinh, sai Hạm trưởng Henry M. Bingham [Bình An] tiếp xúc, đề
xuất 4 điều yêu cầu với Thái Bình Thiên Quốc : Thứ nhất, bồi thường cho
người Anh bị cướp hoặc tổn thất tại khu vực quân Thái Bình. Thứ hai,
quân Anh được tự do hàng hành trong khu vực nội hà quân Thái Bình chiếm.
Thứ ba, nghiêm cấm quân Thái Bình xâm nhập khu vực Thượng hải và chung
quanh 100 dặm. Thứ tư, không được tiến binh trong vòng 100 dặm tại các
cửa khẩu Hán Khẩu, Cửu Giang và quấy nhiễu lãnh sự quán tại Trấn Giang.
Kết quả bị bác, Thái Bình tuyên bố rằng sẽ tuỳ cơ thi thố.
Nước
Anh quan tâm đến Thượng Hải, nhưng Lý Tú Thành cũng muốn lấy bằng được
nơi này. Sau khi chiếm Hàng Châu bảy ngày, bèn mang quân lên phía bắc,
hiểu dụ thương nhân ngoại quốc rằng “ Mỗi bên yên tâm, không quấy nhiễu lẫn nhau… Nếu trợ nghịch làm điều ác, đối địch với quân ta, thì tự rước lấy diệt vong ! ”. Vào
tháng 1/1862 quân Thái Bình tiến chiếm các huyện chung quanh Thượng
Hải, nắm giữ các vùng đất màu mỡ tại các tỉnh Chiết Giang, Giang Tô ;
riêng tỉnh Chiết Giang quân triều đình nhà Thanh chỉ còn giữ được hai
thành Hồ Châu [Huzhou], Hải Ninh [Haining] và Cù Châu [Quzhou]. Tăng
Quốc Phiên bèn tiến cử Lý Hồng Chương làm quyền Tuần phủ Giang Tô, lập
riêng cánh quân từ Thượng Hải mưu khống chế tỉnh Giang Tô. Riêng giao
việc vây đánh Nam Kinh cho Tăng Quốc Thuyên ; dùng Tả Tông Đường làm
Tuần phủ Chiết Giang ; nhờ vậy thế lực quân Thái bình tại miền đông nam
yếu dần. Tháng 2 bị liên quân Anh, Pháp và Dương thương đội của F.T.Ward
đánh bại tại Phố Ðông [Pudong,Thượng Hải]. Tháng 3, F.T. Ward được hạm
đội Anh yểm trợ, lại hoạch thắng tại tây nam Thượng Hải ; Dương thương
đội bèn đổi tên là Thường thắng quân. Tháng 4, Mạc vương Ðàm Thiệu Quang
giao tranh với quân Anh Pháp và Thường thắng quân tại Tùng Giang bất
lợi nên rút lui ; trên đây là giai đoạn một của chiến tranh tại Thượng
Hải.
Quân Anh, Pháp muốn tảo
thanh xung quanh Thượng Hải 100 dặm, bèn chuyển sang thế công, chiếm
được thành trì giao cho Thường thắng quân giữ, tài vật chia đôi. Tháng
5, chiếm Gia Ðịnh [Jiading, Thượng Hải], Thanh Phố [Quingpu, Thượng
Hải]. Lý Tú Thành phản công, thắng lớn tại Thái Thương [Taicang, Thượng
Hải], lấy lại Gia Ðịnh, Ðề đốc Anh C. W. Staveley [Ðịch Phật Lập] đốt
thành bỏ chạy ; Ðề đốc Pháp A. Protet [La Ðức] tử trận tại cầu Hiền Nam
[Phố Ðông, Thượng Hải]. Tháng 6, Ðàm Thiệu Quang lấy lại Thanh Phố, bức
bách huyện thành Thượng Hải ; quân Anh, Pháp mấy lần bại, không dám ra
đánh. Lúc này Lý Hồng Chương mang quân Tương Hoài 1 đến,
đánh trong ba ngày, quân Thái Bình mới rút. Tháng 8, Lý Tú Thành nhận
cấp báo từ Thiên kinh, mang quân về phia tây, để Ðàm Thiệu Quang chủ trì
tuyến phía đông. Tháng 11 quân Thái Bình lại bức bách Thượng Hải, bị
quân Tương Hoài và Thường thắng quân đánh lui.
Lúc Thượng Hải sắp chiến
tranh, các quan địa phương cùng với Anh, Pháp thành lập Trung ngoại hội
phòng cục. James Hope, Frederick W. A. Bruce, và Lãnh sự Thượng Hài
Walter H. Medhurst Jr. [Mạch Hoa Ðà] đều là những người Anh cực lực chủ
trương tham chiến. Walter báo cáo bộ ngoại giao rằng quân Thanh không đủ
sức bảo vệ Thượng Hải ; Frederick nhấn mạnh nếu không muốn buông bỏ lợi
ích tại Trung Quốc thì phải duy trì triều Thanh, Công sứ Mỹ Anson
Burlingame cũng cho rằng nhà Thanh là chính quyền hợp pháp, theo lẽ phải
đáng yểm trợ. Lúc này Cung thân vương có quyền tại Bắc Kinh, cùng
Frederick liên hợp tác chiến ; thực hiện các công việc cụ thể như nhà
Thanh mướn thuyền máy giữ Ninh Ba ; quân Anh, Pháp bảo vệ Thượng Hải,
Thường thắng quân phát triển đến 4.500 quân.
Khi Lý Tú Thành đánh
Thượng Hải, Hồng Nhân Can không cho là đúng ; gừi thư bàn về việc An
Khánh thất thủ Thiên kinh sẽ gặp nguy, cần phải ưu tiên cho miền tây
bắc, sau đó mới đến đông nam. Lý Tú Thành cho rằng lấy được đông nam, có
thể yên gối không lo, thế Tương quân chưa bại được, cần chờ cơ hội để
mưu đồ. Sau đó Hồng Nhân Can nhận định rằng nguyên nhân mối họa của Thái
Bình Thiên Quốc là “ Dương nhân trợ yêu ” 2.Nhận
định này cũng nói lên một phần thực trạng, vì miền hạ du quân Anh, Pháp
công khai chi trì Thanh triều, thượng du thì Tương quân đánh xuống,
quân Thái Bình ở thế bị giáp công, đầu đuôi không khắc phục được.
4. Tương quân chia đường tiến, cùng sự trợ giúp của quân ngoại quốc
Năm
1860 Tăng Quốc Phiên đã có kế hoạch đánh chiếm Nam Kinh và Tô Châu,
Thường Châu ; quân chia làm 2 đạo, nam và bắc ; nam quân từ Chiết Giang
đánh vào, bắc quân từ hai bên bờ sông Trường Giang đánh xuống. Tại Túc
Tùng [Susong, An Huy], tỉnh An Huy, Tăng cùng Hồ Lâm Dực, Tả Tông Ðường
bàn định, cử Tả Tông Ðường kinh dinh vùng Chiết Giang. Tả Tông Ðường
[1812-1885] người cùng tỉnh Hồ Nam với Tăng, Cử nhân xuất thân, có nhiều
tài lược. Từ năm 1852 làm tham mưu cho Tuần phủ Hồ Nam Lạc Bỉnh Chương,
Hồ Nam là hậu phương của Tương quân ; về quân lương, quân viện, chiến
lược đều do Tả trù tính, uy quyền một thời. Vì danh vọng lớn, nên bị
nhiều đố kỵ, khiến bị tội ; nhờ bọn Hồ Lâm Dực bảo lãnh mới được vô sự.
Rồi qua sự tiến cử của Tăng Quốc Phiên, được chỉ huy một đạo quân đóng
tại phía đông tỉnh Giang Tây, giữ mặt sau cho đại doanh Kỳ Môn. Sau khi
Hàng Châu thất thủ, do lời tâu của Tăng, Tả Tông Ðường lãnh chức Tuần
phủ Chiết Giang, đảm nhiệm chủ soái đạo quân phía nam. Năm 1862 tiến vào
phía tây tỉnh Chiết Giang, trong vòng 8 tháng tương trì với quân của Lý
Thế Hiền. Ðợi đến lúc Lý phải tăng viện Thiên kinh tại phía bắc, lực
lượng của Tả bắt đầu tiến triển ; năm 1863 hạ được mấy thành, chiếm Phú
Dương [Fuyang, Chiết Giang] gần Hàng Châu, được thăng chức Tổng đốc Mân
Chiết.
Tại phía đông Chiết
Giang có quân hỗn hợp người Hoa và ngoại quốc do Anh, Pháp tổ chức, hợp
tác với quân Tả Tông Ðường. Trước tiên Lãnh sự Anh tại Ninh Ba mộ 300
quân, gọi là Lục đầu dõng. Sau khi chiếm được Ninh Ba, Hạm trưởng
Roderick Dew [Lạc Ðức Khắc] bắt chước Thường thắng quân tại Thượng Hải,
khuếch đại Lục đầu dõng lên 1.000, và chia thành Thường an quân và Ðịnh
thắng quân. Người Pháp tên là Prosper Giquel [Nhật Ý Cách] thuộc ty quan
thuế tại Chiết Giang, cùng với Tham tướng A. E. Le Brethon de Caligny
[Lặc Bá Lặc Ðông] mộ 1.500 người gọi là Thường tiệp quân, cùng với quân
Anh hoành hành. Năm 1862, Roderick Dew hội các quân Thường an, Ðịnh
thắng, Thường tiệp, cùng Thường thắng quân tại Thượng Hải xuống, đánh
chiếm được 4 huyện xung quanh Ninh Ba ; trong chiến dịch này chỉ huy
Thường thắng quân, F.T. Ward, bị thương chết. Năm sau Thường an, Ðịnh
thắng, Thường tiệp đánh Thiệu Hưng, mấy lần bị quân Thái Bình đánh thua.
Các chỉ huy Thường tiệp quân hai lần tử trận, sau đó Paul D’Aiguebelle
[Ðức Khắc Bi] tiếp tục chỉ huy, lấy được Thiệu Hưng [Shaoxing, Chiết
Giang], quân số khuyếch trương lên đến 3.500 người. Riêng Thường an
quân, và Ðịnh thắng quân, do Roderick Dew trở về nước, nên bị giải tán.
Loạn lớn tại Chiết Giang, Giang Tô ; các đại gia phú hộ đều tụ tập tại Thượng Hải, dân số từ 30 vạn lên đến 1 triệu. “ Buôn
bán thịnh vượng, thuế má ngày một tăng, hơn một năm trưng binh đến 5
vạn 5 ngàn người ; nhưng phần lớn là bọn vô lại thành thị và bọn cướp ;
nên giặc dòm ngó càng nhiều ”. Lúc này Tương quân chiếm được An
Khánh, các thân sĩ Thượng Hải, Giang Tô muốn cầu viện Tăng Quốc Phiên,
Tuần phủ Tiết Hoán cũng phụ họa theo. Tháng 11/1861 Hàng Châu bị vây,
Thượng Hải bị đe dọa, bèn cử thân sĩ Tiền Ðỉnh Minh đến An Huy xin quân.
Tăng Quốc Phiên nêu lên sự khó khăn về lương hướng không biết lấy ra từ
đâu. Tiền Ðình Minh nói Thượng Hải là nơi hàng hóa ngoại quốc tụ tập,
mỗi tháng thu được 60 vạn lượng, nay hứa cấp 10 vạn lượng ; Tăng Quốc
Phiên rất mừng, định cử em là Tăng Quốc Thuyên đến chốn màu mỡ này.
Nhưng Tăng Quốc Thuyên
ôm chí đánh chiếm Nam Kinh, nên không đến Giang Tô, Tăng Quốc Phiên bèn
giao nhiệm vụ cho học trò là Lý Hồng Chương (1823-1901). Lý quê tại Hợp
Phì [Hefei], An Huy, xuất thân Tiến sĩ ; từng giữ chức Hàn Lâm, phụ
trách về đoàn luyện trong 5 năm, bị gò bó không toại chí bèn theo Tăng
Quốc Phiên. Qua bốn năm rèn luyện, Tăng rất ưng ý, cho rằng “ tài lớn, sâu sắc ”,
có thể độc lập đương đầu một mặt. Lý chiêu mộ đoàn luyện tại phía nam
sông Hoài, Tăng cho biên chế thành doanh, lại đem bộ hạ Tương quân giao
cho tiết chế. Năm 1862 tổ chức thành quân, gọi là Hoài dõng, lại được
giao chức Tuần phủ Giang Tô. Tăng định sai Lý trú quân tại Trấn Giang.
Lý cho rằng “ Thượng Hải là trục giao thông buôn bán, cần bố trí tại đó, nhiên hậu sau đó ra Trấn Giang, để ứng chiến với miền thượng du ”.
Quyết định này không những quan hệ đến tiền đồ của Lý Hồng Chương, mà
còn cải biến cả kế hoạch kinh lược Giang Nam của Tăng Quốc Phiên. Chiết
Giang tơi tả, Hàng Châu thất thủ ; Tả Tông Ðường không rảnh để dòm ngó
đến Tô Châu, Thường Châu ; Lý Hồng Chương chuyển quân đến, trở thành lực
lượng chủ lực nơi này.
Ðối với quân Thanh, việc
Anh, Pháp bố phòng Thượng Hải ; không những bảo toàn được nguồn lương
hướng từ việc đánh thuế thông thương, mà còn là cơ sở giúp phản công
Giang Nam. Vào tháng 3/1862, Thượng Hải Trung ngoại hội phòng cục mướn 7
chiếc thuyền máy của Anh, chở quân Lý Hồng Chương tới Thượng Hải ;
James Hope phái quân hạm hộ tống. Ðầu tháng 4, Lý Hồng Chương mang quân
Tương Hoài gồm 6.500, đáp thuyền máy xuôi dòng Trường Giang, xuyên qua
vùng đất quân Thái Bình đóng “ gõ mạn thuyền hướng về phía đông,
xuyên qua đất giặc hơn 1000 dặm ; vì thuyền đi nhanh, lại sợ người Tây
dương, nên giặc chỉ đứng xa mà nhìn, không dám đến gần chặn hỏi.”
Sự nghiệp cuộc đời của
Lý, phần lớn liên quan đến Tây phương ; lúc mới phát tích đã được ngoại
nhân giúp đỡ. Ðến Thượng Hải khoảng một tháng, nhận chức Tuần phủ Giang
Tô, thăng chức nhanh, giống như Tả Tông Ðường. Lúc bây giờ chiến tranh
lớn mạnh, đến nơi quân Tương Hoài lập tức tham gia. Lý Hồng Chương biết
ngoại quốc đánh giá cao sự hiện diện của đoàn quân, nên tăng gia liên
lạc, “ muốn dùng Di biến đổi Hạ ” 3. Lý chú ý đến cách tác chiến Tây phương, nên bàn luận với James Hope giao 3000 quân nhờ sĩ quan Anh huấn luyện dùm ; nhân “ việc phòng thủ tại Thượng Hải phải tự cường, không thể chuyên dựa vào Tây dương ”,
nhưng thời thế trước mắt không thể không nhờ sức lực họ. Ðến tháng 11
thì việc huấn luyện và trang bị vũ khí Tây phương hoàn tất. Lại cho rằng
Thường thắng quân của “ F. T. Ward trang bị vũ khí tốt, nên tìm cách liên lạc, đoàn kết nhân tâm, liên kết với phần tử tốt các nước ”. F.T. Ward giúp tìm công nhân ngoại quốc chế đạn dược, cùng mua dùm súng ống ; nhờ vậy thực lực càng lớn mạnh.
Sau khi F. T. Ward mất,
Lý Hồng Chương theo lời yêu cầu của Ðề đốc Anh, cho một người Mỹ khác là
H.A. Burgevine [Bạch Tề Văn] chỉ huy Thường thắng quân. Tháng 10/1862,
Tương Hoài quân, Thường thắng quân, cùng quân Anh, Pháp tái chiếm Gia
Ðịnh. Quân Thái bình của Ðàm Thiệu Quang đem toàn lực phản công, bị đánh
thua ; vùng phụ cận Thượng Hải được tảo thanh. Ðây là chiến thắng lớn
của đạo quân Tương Hoài. Lúc bấy giờ Lý Tú Thành vây đánh Tương quân
ngoài thành Nam Kinh, Lý Hồng Chương sai Thường thắng quân tiếp viện,
H.A. Burgevine lấy cớ thiếu lương nên lần lữa không chịu đi. Lại ẩu đả
với Ðạo viên Dương Phường, đoạt 4 vạn nguyên, nên bị Lý Hồng Chương cách
chức. Sau đó Thường thắng quân được chính thức giao cho người Anh quản
lý, do Thiếu tá Charles George Gordon [Qua Ðăng] chỉ huy.
Tăng Quốc Phiên cho rằng “ quân
Thái Bình kết oán với Tây dương đã sâu, khiến người Tây dương phẫn
giận, đây là cơ hội hiếm có của Trung Quốc…Thừa lúc Tây dương cử đại
binh, quân ta các đạo cùng tiến ; quân giặc giao chiến không nhàn, tám
phương mê loạn, đây là cơ hội trời diệt bọn phản nghịch Quảng Tây 4 ”.
Ðầu năm 1862, Tăng phái 3 lộ đại quân : Thứ nhất, quân Tả Tông Ðường
tiến đánh Chiết Giang, thứ hai, quân Lý Hồng Chương tăng viện Thượng
Hải, Lộ thứ ba, đạo quân Tăng Quốc Thuyên đánh thẳng vào Nam Kinh ; kết
quả Tăng lập đại công khắc phục thủ đô Thái Bình Thiên Quốc.
Tăng Quốc Thuyên bắt đầu
cầm quân từ năm 1856, đánh thắng tại Cát An [Jian, Giang Tây] vào năm
1858 nên nổi tiếng ; sau khi khắc phục An Khánh, danh vọng càng cao.
Tháng 3/1862 cùng người em út là Tăng Trinh Can từ An Khánh theo hai bờ
sông Trường Giang đánh xuống phía đông. Quốc Thuyên theo bờ bắc, Trinh
Can theo bờ nam ; ở giữa Bành Ngọc Lân dùng thủy quân sách ứng ; lại có
Ða Long A đánh phía bắc An Huy, Bảo Siêu phía nam An Huy để bảo vệ cạnh
sườn cho các đạo quân của hai Tăng. Từ tháng 4 đến tháng 5, quân phía
bắc sông khắc phục được huyện Sào [Chaohu, An Huy], Hòa Châu [Hexian, An
Huy] ; quân phía nam sông và thủy quân khắc phục được Vu Hồ [Wuhu, An
Huy], Ðường Dư [Dangtu, Nam Kinh] đến gần Vũ Hoa đài tại phía nam thành
Nam Kinh. Từ tuyến xuất phát An Khánh, đến nơi chỉ mất 60 ngày, hai Tăng
hành quân tương đối nhanh vì những lý do sau đây : Thứ nhất, Trần Ngọc
Thành sau khi thất bại tại An Khánh, thực lực suy sụp, lại bị kiềm chế
bởi Ða Long A. Thứ hai, quân của các Vương tại phía nam An Huy như Ðổ
vương Hoàng Văn Kim, Phụ vương Dương Phụ Thanh mấy lần bại bởi Tương
quân dưới quyền Bảo Siêu, nên hai Tăng không bị quấy nhiễu đằng sau. Thứ
ba, lực lượng của Thị vương Lý Thế Hiền bị Tả Tông Ðường khiên chế ;
riêng Trung vương Lý Tú Thành phải giao tranh với quân Anh, Pháp và
Thường thắng quân tại vùng chung quanh Thượng Hải, nên nhất thời không
chuyển sang phía tây kịp. Lúc này Thiên Kinh ba lần bị vây, Tương quân ở
ngoài thành có thủy sư liên lạc, nên không bị lâm vào cảnh quân cô thâm
nhập.
Lý Tú Thành từng tiên
liệu việc Tương quân vây khốn Thiên Kinh, nên chủ trương trữ lương ;
nhưng Thiên vương không nghe, anh em họ Hồng lại thao túng vơ vét tiền
bạc, đến lúc vùng Sào Hồ bị Tương quân chiếm, nguồn lương đứt đoạn.
Trong vòng 2 năm Thiên Kinh không có bóng quân địch, đến lúc Tương quân
đột ngột đến, Thiên vương trong ngày ba lần gọi Lý Tú Thành về tiếp
viện, Lý đành phải bỏ dở thế công tại Thượng Hải. Lý nhận định rằng “ Tương
quân từ trên đánh xuống, thủy quân có lợi thế, ta mệt họ an dật, ta khó
tranh được thủy đạo, quân họ thường thắng, thế càng thêm hùng ; vậy
không nên đánh ngay. Cần chuyền lương về kinh thật nhiều, đợi 24 tháng
sau sẽ giao chiến, quân họ đóng lâu, tất không có lòng chiến đấu ”. Thiên vương lại gửi nghiêm mệnh đến, bảo rằng “ Nếu không tuân chiếu, phép nước khó dung ”. Lý đành phải miễn cưỡng tuân mệnh. Tháng 10, quân Lý Tú Thành đến phía nam thành Nam Kinh, đánh Vũ Hoa đài suốt đêm “ súng pháo Tây dương, đạn bay như đom đóm ”. Lý Thế Hiền cũng mang quân từ Chiết Giang đến, khai quật địa đạo tác chiến.
Lúc bấy giờ mùa thu,
dịch phát lớn ; Tương quân bị bệnh quá nửa, Tăng Quốc Thuyên giữ vững
lương thực, liều chết không rút. Qua 4 tháng trời chiến đấu, quân Thái
Bình lương thực không tiếp tế đủ, áo mùa đông không có, số quân có nhiệm
vụ chặn nguồn lương của Tương quân bị thủy quân đánh bại. Chiến dịch
này kể từ khi khắc phục An Khánh, là một cuộc đại chiến mang tính quyết
định ; Tăng Quốc Phiên ngũ tạng như đốt “ sức đã dùng hết, mật như muốn phá ”
lo cho công việc, trải qua mấy năm gian khổ chiến đấu, khỏi bị thình
lình sụp đổ ; kết cục chuyển nguy thành an. Hồng Tú Toàn động viên toàn
lực cũng không lay động nổi Tương quân ; số mệnh của Thiên Kinh nằm
trong vòng quyết định sẵn.
Chú thích1 Tương Hoài quân : đạo quân đoàn luyện do Lý Hồng Chương thành lập tại Hợp Phì [bắc An Huy], vùng lưu vực sông Hoài. Sau đó gia nhập vào Tương quân của Tăng Quốc Phiên, rồi được phát triển thêm, nên gọi là Tương Hoài quân hay Hoài quân.
2 Dương nhân trợ yêu : ý nói người Tây phương trợ giúp yêu quái, tức Mãn Thanh.
3 Dùng Di biến đổi Hạ : người Trung Quốc lúc bấy giờ vẫn tự cao, cho người Tây phương là Dương Di, tự xưng là Hoa Hạ.
4 Thái Bình Thiên Quốc phát xuất từ Quảng Tây, nên gọi là giặc Quảng Tây.
V. Thái Bình Thiên Quốc cùng đường
1 Kỷ cương bại hoại
Sách
lược của Thái Bình Thiên Quốc về tín ngưỡng, chính trị, kinh tế, xã hội
từng thi thố, cho dù bị bài xích rằng xảo trá quỉ quyệt ; nhưng buổi
biến loạn cũng thu được một số hiệu quả trong việc mê hoặc lòng người.
Lúc mới khởi sự, trên dưới một lòng, đồng cam cộng khổ, những người lãnh
đạo vào tuổi thanh niên 1,
dõng khí bồng bột, chiếm vào đa số. Kể từ giữa thời kỳ cho đến giai
đoạn cuối, lắm điều sai trái xẩy ra, rồi đi đến bại vong. Ðương nhiên
thời thế đóng góp một phần, nhưng nội bộ hủ hóa, ác hóa, đánh mất tinh
thần phấn đấu vẫn là nguyên nhân chính.
Ðối với
quân Thái Bình tôn giáo có ảnh hưởng lớn, nhưng cũng gây di lụy không
ít. Tôn giáo giúp cho Hồng Tú Toàn thu phục không ít tín đồ một lòng
trung thành hy sinh ; nhưng cũng khích động sự phản kháng của phe truyền
thống danh giáo, đi đến chỗ cừu địch, thế hai bên không cùng tồn tại.
Hồng vốn dựa vào tôn giáo để lừa người, nhưng nó lại là dao hai lưỡi,
đâm ngược vào chính mình. Thuyết “ Thiên phụ hạ phàm ” lúc khởi đầu,
chấp nhận Dương Tú Thanh quyền lực ngang ngữa với Hồng, để rồi gây nên
một loạt nội biến tại Thiên Kinh, tổn thương phần lớn sinh lực. Dùng tôn
giáo mê người, rồi ngược lại mê đến chính mình ; Hồng một mực tin ở
trời, không tin sức người. Sau khi An Khánh thất thủ, Lý Tú Thành khuyên
nên phòng bị Tương quân vây Thiên Kinh, Hồng mắng rằng “ Ngươi sợ
chết ! Ta vốn mệnh là chân chúa, không cần dùng binh cũng định thái bình
nhất thống ” !
Sau cuộc
nội loạn tại Thiên kinh, Hồng Tú Toàn chỉ tin người trong họ ; dù bất
tài cũng sủng hạnh, để cho bọn chúng làm quấy làm xằng, khiến lòng người
chia lìa. Lý Tú Thành từng khuyên “ chọn người tài mà dùng, theo chế độ
cấp tuất cho dân, thân nghiêm pháp lệnh, nghiêm túc kỷ cương triều
đình ”, nhưng Hồng không nghe. Những người trong họ, chỉ riêng Hồng Nhân
Can có kiến thức, nhưng thiếu công trạng, đến Thiên Kinh chỉ mới nửa
năm được phong làm quân sư, từ khi chấp chính “ các tướng dưới quyền
không phục, thế giặc trở nên suy, đều do tại đó ”. Năm 1961, Hồng Nhân
Can điều động viện binh cứu An Khánh thất bại, bị cách chức. Bèn tin
dùng hai người khác cùng họ là Hồng Nhân Phát, Hồng Nhân Ðạt, thì tình
hình càng trở nên bại hoại, Lý Tú Thành lại đem lời tâu, lần này Thiên
vương không những không nghe, lại còn giận dữ bảo “ việc chính sự không
can dự gì đến ngươi…”.
Lạm phong
chức tước cũng là một đòn chí mệnh đánh vào quân Thái Bình. Thời kỳ
đầu, ngoại trừ Ðông, Tây, Nam, Bắc, Dực, 5 vương, còn có Yên vương Tần
Nhật Cương, Dự vương Hồ Dĩ Quang. Sau cuộc nội biến tại Thiên kinh ngoài
Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành, anh em nhà họ Hồng cũng được phong vương.
Sau đó vì nghi kỵ nên dưới các tướng chỉ huy lại có thêm vương để chia
bớt quyền. Trước kia chủ tướng có một vài người, sau đó tăng thêm đến số
trăm ; ngoài ra còn có Thiên tướng, Triều tướng, Tá tướng thì không kể
hết hết được. Nói tóm lại bộ máy chỉ huy cồng kềnh, tiêu phí ; nhưng
nghi kỵ lẫn nhau, hoạt động không hiệu quả.
Các vương
có quyền thế sống xa hoa, xây dinh thự lớn ; Lý Tú Thành cũng nằm trong
số đó. Phó Lãnh sự Anh R. J. Forrest [Phúc Lễ Tứ] kể rằng dinh thự
Trung vương có hàng ngàn thợ xây cất, tráng lệ không thua gì phủ Thiên
vương, nón của vương đúc bằng vàng, nạm bởi châu báu. Lý Hồng Chương mô
tả Trung vương phủ tại Tô Châu [Shuzhou, Giang Tô] do 700 thợ tu tạo, 3
năm trời chưa xong, có lầu quỳnh gác ngọc, lan can quanh co, đẹp như
chốn thần tiên. Một người Anh nói triều đình Nam Kinh [Nanjing] không lo
cho dân, chỉ cướp bóc mà sống, lại hủ hóa rượu chè, hút nha phiến, cờ
bạc thịnh hành.
2. Toàn cục sụp đổ
Năm
1857, Dực vương Thạch Ðạt Khai bỏ đi, liên quan đến vận mệnh của Thái
Bình Thiên Quốc rất lớn, vì không những mất đi một tướng tài, lại còn bị
tước mất số lượng lớn quân. Vùng phụ cận An Khánh [Anquing, An Huy]
sáu, bảy vạn quân bỏ đi theo, tại Giang Tây [Jiangxi] lại càng đông ;
tính ra quân Thái Bình thiệt mất khoảng một nửa. Vào năm 1859, Thạch Ðạt
Khai hành quân từ phía đông Giang Tây qua phía tây Chiết Giang
[Zhejiang], rồi vòng sang phía nam Giang Tây [Jiangxi], đến phía tây Hồ
Nam [Hunan] ; có ý định tiến sang Tứ Xuyên [Sichuan], nhưng bị lực lượng
Tương quân của Lưu Trường Hữu, Lý Tục Nghi đánh bại tại Bảo Khánh
[Baoquing, Hồ Nam], đành chuyển đường sang Quảng Tây [Guangxi].
Bộ hạ của
Thạch khoảng 20 vạn quân, phần đông là dân thuộc lưu vực sông Trường
Giang [Changjiang] và Quảng Ðông [Guangdong] Thiên Ðịa hội ; sau thất
bại tại Bảo Khánh, lòng quân tan rã, bỏ đi rất đông. Sau khi vào đến
Quảng Tây, thiếu lương thực, tiền đồ mờ mịt, sĩ khí táng thất ; hoặc bỏ
đi về phía đông, hoặc bị thua bại, suy sụp đến cực độ. Năm 1861, Thạch
mang tàn quân khoảng 1 vạn trở lại tỉnh Hồ Nam, tại vùng biên địa các
tỉnh Hồ Nam [Hunan], Hồ Bắc [Hubei] ; năm sau di chuyển đến đông nam
tỉnh Tứ Xuyên.
Tứ Xuyên
là tỉnh đất hiểm, dân giàu ; một trong những nguồn lương thực chính của
nhà Thanh. Năm 1859, Lam Ðại Thuận, Lý Vĩnh Hòa khởi binh tại vùng giáp
giới các tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam, chiếm cứ Lương Sơn [Liangshan, Tứ
Xuyên], gần tỉnh lỵ Thành Ðô [Chengdu, Tứ Xuyên], thanh thế phấn chấn;
Thạch Ðạt Khai mưu tìm cách liên lạc. Tổng đốc Lý Bỉnh Chương mang Tương
quân đến đánh ; Lam, Lý bị thua, chẳng bao lâu Lý tử trận. Năm 1863
Thạch Ðạt Khai đi vòng qua biên giới tỉnh Vân Nam [Yunnan], vượt qua
thượng du sông Trường Giang, đến sông Ðại Ðộ Hà [Daduhe, Tứ Xuyên] bị
ngăn trở ; rồi gặp quân Thanh và Thổ ty giáp công, toàn quân tiêu diệt,
Thạch Ðạt Khai bị bắt.
Năm 1862 đánh
nhau tại ngoại thành Nam Kinh [Nanjing], Lý Tú Thành không giải vây
được. Năm sau, Lý vượt sông Trường Giang tiến về phía tây, mưu liên hợp
với bộ hạ cũ của Trần Ngọc Thành, cùng quân Niệm ; nhắm chiếm cứ phía
bắc tỉnh An Huy, lay động đại doanh Tương quân tại An Khánh cùng đả
thông nguồn lương thực đất Sào Hồ [Chaohu, An Huy] ; nhưng bộ hạ đánh
không hăng, không lập được công, đành phải rút lui. Lúc này vào mùa giáp
hột 2,
quân chết đói không ít. Tháng 6, từ Phố Khẩu [Pukou, Nam Kinh] đạo quân
Lý lại vượt sông Trường Giang ; bị Tương quân thủy, bộ đánh chẹn, chết
mất hàng chục vạn, đây là trận đại thảm bại. Lúc này quân Thái Bình chỉ
còn khống chế bờ phía nam sông Trường giang, vùng Tô Châu, Hàng Châu
[Hangzhou, Giang Tô] và Nam Kinh.
Tháng 7
năm 1863, Tương Hoài quân của Lý Hồng Chương và Thường thắng quân tiến
đánh Tô Châu ; các tướng chủ lực có Trình Học Khải, Charles George
Gordon [Qua Ðăng], cùng quân hạm và Dương thương đội do người Pháp huấn
luyện. Lúc này H.A. Burgevine [Bạch Tề Văn] đã bị cách chức, ôm hận nên
theo quân Thái Bình tại Tô Châu, nhưng không được vừa ý. Tháng 9, Lý Tú
Thành mang quân từ Thiên Kinh đến Tô Châu tiếp viện, cùng với Mạc vương
Ðàm Thiệu Quang phản công bất lợi, dịp này H. A. Burgevine hàng Charles
George Gordon. Tháng 11, Thái Bình Thiên Quốc có nội biến, Lý Tú Thành
cho rằng tình thế không thể làm gì hơn, bèn bỏ thành hướng về phía tây.
Tháng 12, Nạp vương Cáo Vĩnh Khoan giết Ðàm Thiệu Quang mở cửa thành xin
hàng, Trình Học Khải vào thành giết bọn Cáo Vĩnh Khoan. Charles George
Gordon, chỉ huy Thường thắng quân, kịch liệt chống đối Lý Hồng Chương,
không chịu sự tiết chế của Lý ; vì trước đây Charles từng bắt giây liên
lạc với Cáo Vĩnh Khoan, việc giết Cáo làm hỏng chính sách chiêu hàng của
y. Bộ hạ Lý Hồng Chương đánh chiếm Vô Tích [Woxi, Giang Tô], rồi lên
phía bắc tấn công Thường Châu [Changzhou, Giang Tô]. Quân Thái Bình tại
nơi này, sợ hàng sẽ bị giết như tại Tô Châu, nên liều mình cố thủ. Tháng
2/1864 Charles Georges Gordon tuân lệnh Công sứ Anh Frederick W. A.
Bruce [Bốc Lỗ Tư] điều Thường thắng quân tham chiến ; tháng 5 quân
Thường thắng giúp quân Tương Hoài đánh chiếm được Thường Châu. Lúc này
chiến sự đến hồi cuối, Thường thắng quân giải tán ; trong vòng gần 4
năm, Thường thắng quân dùng lương đến ngàn vạn nguyên ; có công giúp Lý
Hồng Chương bình định Giang Nam tương đối lớn.
Bộ phận
Chiết Giang [Zhejiang] của Tả Tông Ðường từ tháng 4/1863 vây Phúc Dương
[Fuyang, Chiết Giang], lâu ngày không hạ được ; đến tháng 9, Paul
d’Aiguebelle [Ðức Khắc Bi] chỉ huy Thường tiệp quân từ phía đông Chiết
Giang đến tăng cường mới chiếm được. Rồi trải qua 6 tháng trời khổ
chiến, đến tháng 3/1884 quân Thái Bình bỏ thành Hàng Châu chạy ; quân
của Tả cùng Thường tiệp quân xông vào cướp bóc. Cùng tháng, đạo quân của
Lý Hồng Chương chiếm được Gia Hưng [Jiaxing, Chiết Giang], các thành
phụ cận đều xin hàng.
Mùa đông
năm 1863, quân Tăng Quốc Thuyên đã chiếm hết các vị trí quan trọng xung
quanh thành Nam Kinh. Sau khi thành Tô Châu thất thủ, Lý Tú Thành thấy
tình hình hết phương cứu vãn, Nam Kinh không có lương, binh lực chỉ còn
hơn 1 vạn, khuyên Hồng Tú Toàn bỏ thành chạy, để cầu con đường khác.
Hồng không nghe, nói rằng “ Trẫm phụng Thượng đế cùng Thiên huynh Gia Tô
thánh chỉ xuống trần, là chân chúa độc nhất cho cả nước, thì có sợ gì
ai ? Trẫm là thùng sắt của giang sơn, nếu ngươi không phò thì cũng có kẻ
khác phò. Ngươi nói không có binh, ta có thiên binh dưới nước, lại còn
sợ tên yêu họ Tăng ư ! ”. Trong thành cướp bóc nổi như ong, “ Tăng quân
ngày đêm bức bách, trong ngoài kinh hoàng, giữ doanh giữ thành không
biết dựa vào đâu ” ; không ít chỉ huy cao cấp ngầm thông với địch, trong
đó có cả Lý Tú Thành. Ðến lúc thất thủ Thường Châu, Hồng Tú Toàn cảm
thấy tuyệt vọng ; ngày 30/5/1884 lệnh đại chúng an tâm “ Trẫm lên thiên
đường ngay, xin Thiên phụ, Thiên huynh sai Thiên binh bảo vệ Thiên kinh ”
; có thể thấy đến lúc chết Hồng vẫn chưa tỉnh ngộ, còn tự lừa mình, lừa
người. Sau hai ngày, Hồng uống thuốc độc tự tử, thọ 52 tuổi. Con nhỏ
gọi là ấu chúa Hồng Thiên Quý Phúc kế vị.
Kể từ
tháng 4, khoảng 5 vạn Tương quân vây thành, dùng trăm cách đánh phá
thành, thương vong đến 1/10. Hoài quân đã chiếm được Thường Châu, triều
đình nhà Thanh muốn chiếm gấp Nam Kinh, mệnh Lý Hồng Chương đưa pháo đội
đến cùng đánh. Lý biết rằng Tăng Quốc Phiên muốn Tăng Quốc Thuyên lập
đại công, nên kiếm lời từ chối. Tăng Quốc Thuyên báo cáo thiếu lương chứ
không thiếu quân ; rồi khai quật thêm địa đạo, dùng tạc đạn phá đổ
thành ; ngày 19/7/1864 tức ngày 16/6 năm Ðồng Trị thứ ba, Tương quân đột
nhập thành. Lúc này bốn phía lửa dấy lên, quân Thái Bình tung lời “
Không để lại một miếng vải thừa cho bọn yêu hưởng ”. Trong 3 ngày “ giặc
đốt 3 phần, thì quân binh đốt 7 phần, khói tỏa ngút lên mấy chục chỗ,
kết tụ trên không trung, bao phủ đồi núi bởi màu tím ”. Tương quân ham
cướp đoạt, lấy hết vàng bạc, bảo vật, rồi phóng hỏa đốt để diệt tung
tích. Ngoài quân Thái Bình ra, dân chúng cũng bị tàn sát ; số người chết
ước hai, ba chục vạn.
Lý Tú
Thành mang ấu chúa đột kích ra khỏi thành, giữa đường thua bại, Lý bị
bắt. Sau đó Tăng Quốc Phiên đến, ra lệnh tự viết cung từ, viết xong thì
giết, tuổi 40 ; nhờ vậy lưu lại bộ sử liệu giá trị về Thái Bình Thiên
Quốc. Riêng ấu chúa được đưa đến Hồ Châu [Huzhou, Chiết Giang] ; vào
tháng 8/1864 quân của Lý Hồng Chương, Tả Tông Ðường đánh đuổi quân Thái
Bình tại thành Hồ Châu và phụ cận. Bọn Hồng Nhân Can đưa ấu chúa đến
Giang Tây hội với Thị vương Lý Thế Hiền và Khang vương Uông Hải Dương.
Tháng 11, Ấu chúa bị bắt tại phía đông tỉnh Giang Tây ; riêng Lý Thế
Hiền chạy sang Quảng Ðông [Guangdong], đến Phúc Kiến, rồi chiếm lãnh
Chương Châu [zhangzhou] và các thành phía nam Phúc Kiến [Fujian]. Tả
Tông Ðường, Lý Hồng Chương cho quân đến đánh, tháng 5/1865 khắc phục
Chương Châu ; sau đó Lý Thế Hiền bị Uông Hải Dương giết. Rồi quân Uông
ra vào tại vùng biên giới các tỉnh Quảng Ðông, Phúc Kiến, Giang Tây,
chiếm cứ vùng Gia Ứng [Jiaying], tỉnh Quảng Ðông, đến năm 1866 bị quân
Tả Tông Ðường tiêu diệt.
Do Lý Tú
Thành sai phái đi miền tây mộ quân về cứu Thiên kinh, năm 1862 Phù vương
Trần Ðắc Tài và Tuân vương Lại Văn Quang xuất phát từ phía bắc tỉnh An
Huy [Anquing], qua Hà Nam, đến miền Hán Trung [Hanzhong] Thiểm Tây
[Shaanxi]. Năm 1864 chia đường trở lại phía đông, hợp với quân Niệm vào
tỉnh Hồ Bắc, thì hay tin Nam Kinh đã mất, chần chừ tại Hồ Bắc, An Huy ;
bị quân Tăng Cách Lâm Thấm đánh thua, Trần Ðắc Tài tự tử. Riêng Lại văn
Quang hợp tác với Niệm, trở thành cục diện mới.
3. Quân Niệm lớn mạnh và công cuộc bình định
Hoạt
động quân sự của Thái Bình Thiên Quốc thời hậu kỳ hạn chế tại phía nam
sông Trường Giang có liên quan nhiều đến quân Niệm tại vùng Giang Hoài ;
nửa số quân của Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành thời đó đều là quân Niệm.
Căn cứ địa của quân Niệm nguyên tại phía bắc sông Hoài, vào năm 1858
tiến vào tỉnh Hà Nam [Henan] và phía tây tỉnh Sơn Ðông [Shandong] ; tuy
chuyên tâm cướp bóc, nhưng cũng làm thế thanh viện cho quân Thái Bình.
Năm sau chia đường tung ra bốn phương, phía đông đến miền đông tỉnh Sơn
Ðông, phía tây đến miền tây tỉnh Hà Nam ; đi về vãng lai, đánh vào những
nơi sơ hở. Năm 1860, cánh phía tây cướp phá Khai Phong [Kaifeng], tỉnh
Hà Nam, tung hoành trên 30 châu huyện ; cánh phía đông quấy nhiễu Tế
Ninh [Jining], Thái An [Taian] tỉnh Sơn Ðông, kinh qua 20 châu huyện.
Rồi quay lại phía bắc An Huy, trên đường “ chở hàng trăm xe lương, súc
vật đến mấy vạn, vừa đi vừa ca hát.”
Năm 1961, quân Niệm càng lớn mạnh, cánh
phía tây phối hợp với quân Thái Bình của Trần Ngọc Thành đánh phía tây,
từ tháng 2 đến tháng 5, một nhánh vào phía nam tỉnh Hà Nam, một nhánh
vào miền đông, miền trung, kinh qua các vùng Nam Dương [Nanyang, Hà
Nam], Trịnh Châu [Zhengzhou, Hà Nam], phá Lão Hà Khẩu [Laohekou] tỉnh Hồ
Bắc, rồi quay trở lại Hào Châu [Bozhou, An Huy]. Vào tháng 11, lại sang
phía tây, một nhánh đánh Khai Phong, Trịnh Châu, Lạc Dương [Luoyang, Hà
Nam] ; một nhánh đánh Tương Dương [Xianyang], Phan Thành [Fancheng]
thuộc tỉnh Hồ Bắc. Cánh phía đông vào tỉnh Sơn Ðông, mấy lần đánh bại
quân Tăng Cách Lâm Thấm từ kinh đô đến, hai lần bức bách Tế Nam [Jinan,
Sơn Ðông]. Quân của Tăng Cách “ bôn tẩu mệt mỏi, lương thảo không liên
tục ” nên chỉ giữ sông Hoàng Hà làm vững cho tỉnh Trực Lệ [Hebei]. Quân
Niệm xua đến phía đông, tiến đến Yên Ðài [Yantai], bị quân Anh, Pháp
đánh lui. Cũng vào năm 1861, Bạch Liên giáo tại Sơn Ðông nổi lên như
ong, tại phía nam có Tống Kế Bằng, sau đó có Trương Tích Châu ; miền
trung có Lưu Ðức Bồi.
Từ năm
1861 đến 1863, Tăng Cách Lâm Thấm bôn ba đánh dẹp trong 4 tỉnh : Trực
Lệ, Sơn Ðông, Hà Nam, An Huy ; sau khi quân Thái Bình thất bại tại miền
bắc An Huy, thế lực quân Niệm suy vi. Năm 1863 Tăng Cách Lâm Thấm đánh
bại Trĩ Hà Tập, bắt sống Trương Lạc Hành, kế đó lại dẹp Miêu Bái Lâm. Bộ
phận còn lại của Trương Lạc Hành do người cháu là Lương vương Trương
Tông Vũ, cùng Lỗ vương Nhậm Hoa Bang thống suất, di chuyển chiếm cứ vùng
Hà Nam, sau đó hợp với Tuân vương Lại Văn Quang. Lại Văn Quang mưu
lược, Trương Tông Vũ cơ trí, Nhậm Hoa Bang rất thiện chiến; chuyên áp
dụng chiến thuật di chuyển nhanh đánh bất chợt.
Từ năm
1861 trở đi, triều đình nhà Thanh dựa vào chủ soái Tăng Cách Lâm Thấm
ngăn chặn vùng lưu vực các sông Hoàng, Hoài ; cùng với Tăng Quốc Phiên
tại lưu vực sông Trường Giang nghiễm nhiên trở thành hai cột trụ ; tuy
nhiên cả hai không dung hợp với nhau. Bộ hạ của Tăng sau khi bị liên
quân Anh Pháp đánh bại, gom góp thành quân, tinh thần chiến đấu so trước
thua xa, lại vô kỷ luật, đi đến đâu thì giết nhiều người, nên dân chúng
rất ghét hận. Từ tháng 9 đến tháng 12/1864, quân Niệm mấy lần đánh bại
quân Tăng Cách tại phía nam tỉnh Hà Nam, phía đông tỉnh Hồ Bắc, cùng
vùng biên giới hai tỉnh này. Năm sau 1/1865 lại đánh bại tại huyện Lô
Sơn [Lushan] phía tây tỉnh Hà Nam ; tháng 5 quân Niệm di chuyển nhanh
đến vùng biên giới các tỉnh Sơn Ðông, Giang Tô ; Tăng Cách truy đuổi đến
cùng không tha. Ngày 18/5 toàn quân của Tăng Cách bị tiêu diệt tại Tào
Châu [Caozhou] tỉnh Sơn Ðông. Quân Niệm sở trường về di chuyển nhanh,
đánh nhanh ; mỗi lần đánh cho kỵ binh tỏa ra bốn phía “ Trinh sát quan
quân đến, nếu mạnh thì tránh ; được thế thì truy kích suốt đêm, dương cờ
đánh, dùng kỵ binh đánh ép hai bên, ngựa hý người reo nhanh như vũ bão,
quan quân thường bị vây không ra được ” ; đến nay lại lấy được toàn số
ngựa của quân Mông Cổ dưới quyền Tăng Cách, thì như hổ thêm cánh.
Sau khi
Tăng Cách Lâm Thấm mất, miền Hoa bắc chấn động, kinh sư giới nghiêm.
Chiếu chỉ mệnh Tăng Quốc Phiên đốc biện quân vụ 3 tỉnh : Trực Lệ, Sơn
Ðông, Hà Nam. Lại mệnh Tổng đốc Trực Lệ Lưu Trường Hữu, Thiên Tân thông
thương Ðại thần Sùng Hậu thống lãnh Dương thương đội chặn giữ phía nam
tỉnh Trực Lệ ; Lý Hồng Chương cũng mang quân từ Thượng Hải lên tăng
phòng Thiên Tân. Tăng Quốc Phiên cho rằng Tương quân phần lớn người
phương nam, không hợp thủy thổ, nên giải tán một nửa ; cho mộ thêm quân
tại lưu vực Hoàng, Hoài ; lại mua ngựa chiến, chuẩn bị pháo thuyền, đến
hơn một tháng mới lên phía bắc. Chiến lược của Tăng đổi truy kích thành
chặn đánh, lấy tĩnh chế động. Tăng chia thành 4 trấn, đóng trọng binh
chứa nhiều lương thảo, gồm : Chu Gia Khẩu tại tỉnh Hà Nam, Tế Ninh
[Jining] Sơn Ðông, Từ Châu [Xuzhou] Giang Tô, và Lâm Hoài quan
[Linhuaiguan] An Huy. Cứ một nơi có khẩn cấp, thì 3 nơi khác đến tiếp
cứu ; để bao vây quân Niệm tại biên giới 3 tỉnh An Huy, Giang Tô, Hà
Nam. Ngoài ra nhắm khống chế vùng đất căn bản của Niệm như Hào Châu
[Bozhou, An Huy], Mông Thành [Mengcheng, An Huy], Túc Châu [Suzhou, An
Huy], thì cho đặt bảo giáp, kiểm tra hộ khẩu cùng lương thực tiếp tế.
Binh lực 4 trấn khoảng 8 vạn, 3 trấn do Hoài quân đảm trách, riêng trấn
Lâm Hoài Quan do Tương quân chịu trách nhiệm ; lý do Hoài quân phần lớn
người phương bắc, hợp với thủy thổ.
Sau khi
tiêu diệt quân Tăng Cách Lâm Thấm, quân Niệm trở về phía bắc sông Hoài,
dưỡng quân và bổ sung. Nhắm đột phá kế hoạch bao vây của Hoài và Tương
quân, Niệm hành quân xuyên qua tỉnh Hà Nam, đến Hồ Bắc gần Hán Khẩu
[Hankou] ; mùa xuân năm 1866, trở lại Sơn Ðông. Chiến lược chặn đánh từ 4
trấn của Tăng Quốc Phiên chứng tỏ vô hiệu.
Tăng bèn
đổi chiến lược, cho đắp đê tường dọc sông. Phía bắc từ vùng phụ cận phủ
Khai Phong theo sông Giả Lỗ Hà đến Chu Gia Khẩu, từ Chu Gia Khẩu theo Sa
Hà đến Hòe Trạm, Dương Quan ; đó là tuyến phía tây, Từ Dương Quan theo
sông Hoài đến Lâm Hà Quan thuộc tuyến phía nam. Tuyến phía đông giữ Vận
Hà [Yunhe], tuyến phía bắc giữ Hoàng Hà ; nhắm đưa quân Niệm vào vùng
nhiều núi để chế ngự kỵ binh. Vào mùa đông năm đó quân Niệm đột phá
phòng tuyến vùng Khai Phong tiến đến Sơn Ðông ; chiến lược phòng thủ bờ
sông của Tăng Quốc Thuyên cũng thất bại. Quân Niệm tuy vượt qua tuyến
phía bắc, nhưng bị ngăn chặn tại tuyến phía đông, Vận Hà ; nên đành phải
quay về phía nam tỉnh Hà Nam.
Trong
vòng 3 năm, quân Niệm mấy lần đánh thắng, nhưng Lại Văn Quang cảm thấy
cô quân khó chi trì, nên sai Trương Tông Vũ tây tiến đến Thiểm Tây, Cam
Túc [Gansu] liên hiệp với quân Hồi để làm thế ỷ dốc. Lại và Nhậm Hóa
Bang lưu lại Trung Nguyên, do vậy có tên là Ðông Niệm, Tây Niệm. Tăng
Quốc Phiên đốc quân mấy năm không có kết quả, lại bị Ngôn quan 3 đàn
hặc, nên xin từ chức ; chiếu chỉ sai Lý Hồng Chương thay thế giữ chức
Khâm sai đại thần. Lại Văn Quang điều quân Ðông Niệm trở lại Hồ Bắc, từ
tháng 1 đến tháng 3/1867 mấy lần đánh bại Hoài quân, Tương quân tại phía
bắc và đông tỉnh Hồ Bắc. Thời đương quyền, Tăng Quốc Phiên cũng cảm
thấy khó khăn chỉ huy Hoài quân ; đến Lý Hồng Chương kế vị, quân Tương,
Hoài lại càng chia rẽ. Tháng 6, Ðông Niệm từ Hồ Bắc tiến quân nhanh
trong vòng 8 ngày đến Sơn Ðông, giao chiến với quân Lý Hồng Chương tại
Giao Lại hà [Jiaolai river, Sơn Ðông] bị thua, mất phần lớn quân tinh
nhuệ. Tháng 1/1868, Lại Văn Quang bị bắt, dẹp xong toàn bộ Ðông Niệm.
Sau
khi Tây Niệm Trương Tông Vũ vào tỉnh Thiểm Tây, đại phá quân Thanh tại
vùng phụ cận Tây An [Xian, Thiểm Tây]. Nhân bị áp lực của Lưu Tùng Sơn,
Tương quân, cùng Tổng đốc mới đáo nhiệm Tả Tông Ðường ; bèn di chuyển
lên phía bắc Thiểm Tây. Rồi Tây Niệm tìm cách liên lạc với Hồi nhưng
không thành, bèn vượt sông Hoàng Hà về phía đông đến tỉnh Sơn Tây, Trực
Lệ, mưu tăng viện cho Ðông Niệm. Tháng 2/1868 đến gần Bảo Ðịnh [Baoding,
Hà Bắc], kinh sư chấn động. Quan binh hơn 10 vạn, không chặn được quân
Niệm thoán vượt, các tướng lãnh nhìn ngó nhau không hành động kịp thời,
quân lính nhiễu dân, “ dân thù quan binh hơn thù giặc ”. Hơn nữa hiệu
lệnh bất nhất, Tả Tông Ðường thống binh Trực Lệ, ngoài Tả ra còn có hai
viên Quân cơ đại thần ; Lý Hồng Chương tiết chế quân Sơn Ðông, ngoài Lý
ra còn có 2 vị Tuần phủ ; riêng Tả, Lý cũng không hòa hợp. Niệm tiến đến
ngoài thành Thiên Tân, rồi quay xuống Sơn Ðông, mấy lần đánh Vận Hà.
Vào tháng 7/1868 đến biên giới hai tỉnh Trực Lệ, Sơn Tây, trời mưa mấy
ngày như trút nước, cả vùng biến thành biển hồ, quân kỵ không hoạt động
được ; bị Hoài quân vây khốn tại vùng tây bắc tỉnh Sơn Ðông, Trương Tông
Vũ nhảy xuống sông chết, bình định được Tây Niệm.
Từ năm 1864 đến 1868,
quân Niệm rong ruổi trong 8 tỉnh : An Huy, Hà Nam, Giang Tô, Sơn Ðông,
Hồ Bắc, Thiểm Tây, Sơn Tây, Trực Lệ ; sau khi làm tổn thất Tương, Hoài
cùng quân các tỉnh, mới được đãng bình. Tuy quân Niệm thiện chiến, thực
do quan binh khí lực suy vi. Hoài quân là lực lượng chủ lực đánh Niệm,
thì kiêu căng buông thả, chỗ dựa chính nhờ pháo Tây đương. Niệm loạn
bình, đảng Thái bình Thiên quốc mới được cho là hoàn toàn bị tiêu diệt;
kể từ thời cử sự tại Quảng Tây cho đến lúc này là 19 năm.
Chú thích
1 Lúc
mới khởi sự tại Kim Ðiền, Hồng Tú Toàn 37 tuổi, Phùng Vân Sơn bạn học
cùng trang lứa ; Lý Tú Thanh, Tiêu Triều Quý, Vi Chính đều trên dưới 20
tuổi ; Tần Nhật Cương trên 20 tuổi.
2 Giáp hột (hạt) : thời gian nằm giữa hai mùa lúa, thời điểm thiếu lương thực trong năm.
3 Ngôn quan : quan chuyên về thanh tra để tâu lên triều đình, còn gọi là Ngự sử.
nguồn: diendan.org