XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

Ao nghiên ruộng chữ

Ao nghiên ruộng chữ (1)  ***
Phí Ngọc Hùng
 Dẫn nhập: Rất ngay tình, năm cùng tháng tận thu vén bài vở trong kho chữ. Tình cờ gặp bản thảo viết đã lâu có hơi hướng đốt lò hương cũ cho một thời đã qua và đang chìm vào quên lãng. Đọc lại, thấy những góp nhặt sỏi đá trong văn bài như những dữ kiện, niên lịch và giai thọai sao khó nhai quá thể: Vì bài viết bỏ quên cả một thời gian dài nên không nhớ tầm chương trích cú ở đâu với những tam sao thất bản. Ấy là chưa kể như duyên nghiệp theo ngòi bút đẩy đưa những giai thoại về...chó gì mà nhiều đến thế.
Thế nên chuyện cụ Nguyễn Du (1765-1820) đỗ Tam trường và ăn thịt chó từ đời Hậu Lê không dám mang vào bài tản bút qua bài Đường thi có tên Hành lạc từ:
Tội gì ngàn năm lo
Có chó cứ làm thịt
Có rượu cứ nghiêng bầu
Trên đời chưa dễ biết
(bản dịch của cụ Lê Thước)
Vì vậy, thêm một lần đắp chữ vá câu qua hai ba tác giả khác nữa. Chẳng phải là...ăn thịt chó,...chó chết, hay...cãi nhau như chó. Nói cho ngay, gà què ăn quẩn cối xay không ngoài chuyện một quan là sáu trăm đồng, chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi. Và làm như chữ nghĩa với ba vòng dây xích bước còn vương lôi kéo trở về một thời lều chõng xa xưa với ao nghiên ruộng chữ để...đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
***
Từ thời Đông Hán, người Tàu truyền bá Hán học sang nước ta. Lối dậy bấy giờ, trước là dậy chữ nghĩa cho một số người làm lại thuộc cho các quan Tàu. Sau là dậy dân ta làm lễ cưới vợ, gả chồng theo văn hóa Tàu. Sử không chép rõ, chỉ nói có dậy "Thi thư, lễ nghĩa". Theo tác giả Chu Thiên (Bút nghiên) và Trần Trọng Kim (Nho giáo) thì ở bên Tàu, khoa cử có từ thời Hán Vũ Đế, vua ra bài sách cho những người ứng thì bình giải. Sau đó họ mở trường dạy chữ Hán ở nước ta quy củ hơn, học sinh thi đỗ có bằng "Mậu tài" và "Hiếu liêm". Có mậu tài và hiếu liêm, một số người được làm quan trên đất Tàu như Đổng Trọng Thư, Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm. Đến đời nhà Tùy, khoa cử mới được tổ chức quy mô, nhưng nhà Đường hạn chế số sĩ tử nước ta sang thi khoa tiến sĩ là 8 người, thi khoa Minh kinh không quá 10 người.
Theo Đại Việt toàn thư, người Việt ta là Khương Công Phụng, người đỗ tiến sĩ đầu tiên vào thời nhà Đường.
***
Đời Lý (1009-1225)
Sau 1200 năm Bắc thuộc, đã có nhiều người biết chữ Nho, khoảng thời gian này đạo Khổng du nhập vào nước ta. Nhưng mãi đến năm 1070, Lý Thánh Tông mới lập Văn miếu thờ Khổng tử. Ngược về năm 1007, Lê Đại Hành cho người sang Tàu thỉnh Cửu kinh, và Đại tạng, chữ Hán mới thực sự phổ cập với đạo Nho ở nước ta. Vì vậy đời nhà Lý, Phật giáo được coi như quốc giáo, các nho sinh đều đã được thụ giáo trước ở các chùa do sư dậy. Lý Thánh Tông mất năm 1072. Tân vương Lý Nhân Tông còn nhỏ, bà Ỷ Lan (?) nhiếp chính. Năm 1075, bắt chước nhà Đường, bà ra lệnh mở kỳ thi Minh kinh bác học (giảng giải kinh sách) còn gọi là khoa Tam trường (thi Đại khoa gồm ba kỳ) để kén chọn nhân tài. Đây là kỳ thi mở đầu nền khoa cử ở nước ta, trong phép thi cử dùng cả tam giáo: Nho, Lão, Phật.
Lê Văn Thịnh, người Bắc Ninh, đỗ đầu trong kỳ thi này. Ngay năm sau 1076, trường Quốc tử giám được thiết lập, bổ những ngươi văn học vào dậy Tứ thư, Ngũ kinh (2) đào tạo nho sĩ. Sĩ tử là con của vua quan nên sĩ số chẳng là bao. Tuy nhiên có thể nói Quốc tử giám (3) hay Văn miếu là đại học tiên khởi của nước ta, và chỉ khi nào cần nhân tài mới mở khoa thi. Năm 1152, Lý Anh Tông mở kỳ thi Điện thí, thi ngay trong sân điện của vua, sau này gọi là thi Đình.
***
Đời Trần (1225-1400)
Thời này được chia làm hai thời kỳ: Nho giáo và Tống nho. Mặc dù đời Trần sùng bái Phật giáo, Lão giáo nhưng vẫn phát triển Nho giáo như đời Lý. Năm 1232, Trần Thái Tông cho mở kỳ thi Thái học sinh mà sau này gọi là tiến sĩ với giới hạn tiến sĩ chỉ có 3 cấp là Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp, Đệ tam giáp tiến sĩ. Năm 1247, cũng khoa thi Thái học sinh danh hiệu của 3 người đỗ cao nhất (tam khôi) được đổi lại là Trạng nguyên, Bảng nhãn (như Bảng nhãn là Lê Văn Hưu tác giả bộ Đại Việt sử ký toàn thư, sử gia đầu tiên của nước ta), Thám hoa và còn lại là tiến sĩ.
Trạng nguyên đầu tiên trong lịch sử khoa cử ta là Nguyễn Hiền, người Hà Đông. Chu văn An (1292-1370) đỗ Thái học sinh đời Trần Minh Tông, sau được bổ làm Tư nghiệp quốc tử giám để dậy thái tử Vượng tức vua Trần Hiển Tông và các con đại thần. Từ năm 1252, những học trò nghèo nhập học cùng với con quan vào học Quốc tử giám. Phép thi được định rõ ràng, đời Trần Thuận Tông, chỉ có hai khóa thi là thi Hương tổ chức ở các vùng để lấy cử nhân và thi Hội để lấy tiến sĩ.
Thi Hương cũng như thi Hội phải thi qua 3 trường. Trường nhất: thi kinh nghĩa. Trường nhì: thi một bài thơ thất ngôn, và một bài phú tám vần. Trường ba: thi văn sách. Lệ khoa cử ngày xưa được thay đổi theo thời, học trò thi Hương đậu hạng thứ là tú tài, đậu ưu và bình là cử nhân. Đời Trần Anh Tông quy định lại, thi Hương phải qua 4 trường. Ai đỗ cả 4 trường được gọi là cử nhân.
Đậu cử nhân mới được thi Hội. Thi Hội đậu được mới vào thi Đình để phân chia cấp bậc tiến sĩ. Trần Duệ Tông mở khoa thi tiến sĩ, học vị tiến sĩ bắt đầu có từ năm này.  Thi Đình được tổ chức tại hành cung Thiên Trường (phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Thứ bậc như sau: Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa). Đệ nhị giáp tiến sĩ cập đệ (Hoàng giáp). Đệ tam giáp đồng tiến sĩ (Tiến sĩ).
Thi Hương
(Trích Báo oán của Nguyễn Tuân)
Sớm tinh mơ các quan làm lễ tiến trường tại khu trường thi Nam Định khoa Mậu Ngọ(4). Hai chiếc lọng vàng phủ xuống lá cờ và tấm biển cỏ chữ "phụng chỉ" "khâm sai" và bốn chiếc lọng xanh ghé sát thấp tịt xuống đầu bạc của các ông đại khoa. Càng tiến gần lại trường, quan đang tế cáo trời đất vua thần thánh và xuýt xoa khai xong tên, tuổi, quê, quán. Ngài khấn : "... Báo oản giả, tiên nhập, báo ân giả, thứ nhập..."
Có lẽ đoạn khấn này là khoản chú trọng nhất của lễ tam sinh và đã được quỷ và thần chứng giám. Người lính tuần mặc ảo nẹp đỏ vừa được lệnh đổ chén rượu cúng xuống tàn lửa đống vàng đang hóa dở thì những đầu ngọn cỏ may im lìm nơi bãi trường thi đều rung lên u hiển thổi thốc mãi vào bãi trường, nghe lào sào như có tiếng người chen chúc và chạy vào choán chỗ. Trời sáng tỏ đã từ lâu. Cái hàng rào sĩ tử có dủ các hạng tuổi từ đầu xanh mặt trắng cho đến chòm tóc bạc. Ông Đầu Xứ Em lách mình qua rồi, nhưng lều chõng còn vưởng mắc nên lỗ thủng ấy chưa kịp hàn kín...Ông Đầu Xứ(5) Em dựng lều, dọn chỗ ngồi thi giữa sự dằn dỗi của trời đất. Mưa to gió lộng trên một trường thi. Sĩ tử khắp bốn vi giáp ất tả hữu, co ro trong lều dột, thật là coi tính mệnh mình không bằng một quyển thi chỉ luôn luôn muốn những chuyện tì ố. Chốc chốc cái loa đồng ngoài cửa trường lại kêu inh ỏi gọi ai có thùng gỗ thì cho đem vào trường bán cho học trò kê quyển viết và độn thêm lên chõng ngồi.
Cái bản giáp bài viết xong lâu rồi mà quái lạ, hễ cứ động đặt ngòi bút lên mặt quyển là ông Đầu Xứ Em lại thấy đau bụng, đau quằn quại tựa chứng hoắc loạn cứ như dùi vào từng miếng tì vị. Giữa hai cơn đau bụng, từ khu nhà thập đạo, vẳng về lều ông những tiếng kêu nài: "Lạy các quan, còn chỉ có một khoa thi này, xin các quan thương cho anh em đổi quyển. Trời mưa ướt lắm, anh em có muốn như thế làm gì..." Thấy ở một vài lều chung quanh có khói lửa và tàn vàng bay ra, ông Đầu Xứ Em sực nhớ đến đinh vàng cất trong tráp, bèn lấy ra gỡ từng tờ một, xếp ngay ở đầu mép chõng, tay châm mồi lửa bùi nhùi. Gió thổi vào đống lửa vàng hóa bùng bùng, lửa kêu vù vù, vụt bùng lên và tiếng cười lanh lảnh trở nên the thé, rồi nấc lên mãi. Ông Đầu Xứ Em cảm thấy bãi trường là thừa lạnh lẽo. Trường thi âm u và không quạnh. Gió thổi bay quyển thi xuống làn cỏ dầm nước. Ông Đầu Xứ Em gắng nhoài người ra, muốn vớ lấy quyển bị gió thổi bốc khỏi mặt tráp. Nhưng ông hụt tay, chỉ đủ giữ mình khỏi ngã...
Năm 1261, Trần Thánh Tông lập phân khoa y khoa gọi là Thái y. Sau đó tiếp tục 17 khoa thi nữa theo định kỳ. Vì vậy, Nho giáo đời Trần được xem là toàn thịnh. Tùy theo từng triều đại, đỗ đầu cả 3 kỳ thi Hương, Hội, Đình gọi là Tam nguyên. Theo Lược khảo về khoa cử Việt Nam của Trần văn Giáp, Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội 1941: Sau 845 năm, khởi thủy từ năm Ất Mão 1075 đến năm Kỷ Mùi 1919 có 185 khoa thi với 2998 vị đại khoa thì chỉ có 5 vị đỗ Tam nguyên đó là Đào sĩ Tích đời Trần Duệ Tông. Lê Qúy Đôn thời Lê Trung Hưng. Trần Bích San triều Tự Đức. Nguyễn Khuyến cũng triều Tự Đức. Vũ Phạm Hàm triều Thành Thái.
Đào Sĩ Tích, người Bắc Ninh là vị Tam nguyên đầu tiên trong lịch sử khoa cử.
Đời Trần có Mạc Đĩnh Chi (1280-1350), người Hải Dương, đỗ Trạng nguyên năm 1304 đời Trần Anh Tông, vua thấy xấu xí có ý chê, ông làm bài phú Ngọc tĩnh liên khiến vua khâm phục và cử đi sứ hai lần. Lần đầu tới ải Nam Quan trễ, ải quan ra câu đối để thử tài: "Quá quan trì, quan quan bế, thỉnh quá khách quá quan". Mạc Đĩnh Chi đối lại: "Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối". Đến kinh đô, vua Tàu thử tài qua bài văn tế công chúa Tàu vừa...chết, Mạc Đĩnh Chi khóc công chúa Tàu:"Y (ôi)! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết...". Vua Tàu khen ngợi phong Lưỡng quốc trạng nguyên. Sau Trạng được cử đi sứ lần thứ hai, bị giữ lại...dịch kinh thư. Sau thêm Lưỡng quốc trạng nguyên Tống Trân, cũng bị giữ 10 năm dịch thư kinh.
Nhưng cuối đời Trần thì Tống nho truyền sang nước ta. Tống nho là gì? Nguyên bền Tàu, Tần Thủy Hoàng dựa vào học thuyết của phái Pháp gia để cai trị, ra lệnh tiêu hủy hết sách vở của Nho giáo. Khi Hán Cao Tổ lên, cho thu thập lại các bộ Tứ thư, Ngũ kinh. Và phục hưng Nho giáo một cách độc tôn. Ứng thi phải theo sách nho giáo đời Tống soạn ra, như Tam tự kinh là quyển sách do Vương Ứng Lâm đời nhà Tống viết để dậy trẻ con học vỡ lòng chữ Hán. Mỗi câu có ba chữ. Tứ thư Ngũ kinh thu hẹp lại một thứ "tôn quân" để dễ bề cai trị. Sau khi nhà Trần bị suy, nhà Minh đem Tống nho cưỡng nhập vào nước ta.
Với chữ nho Ta và Tàu, không thể không nhắc đếngiai thọai Vương Bột qua bài Đằng vương các tự:. Chuyện là con của Cao Tông đời Sơ Đường, được cha phong là Đằng vương, nên xây một cái gác bên bến Tầm Dương để bằng hữu ngâm thơ tác phú. Vương Bột lúc ấy mới 15 hay 16 tuổi đến và thành danh với hai câu:"Lạc hà dữ cô lộ tề phi - Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc". Vậy mà có người chê là Vương Bột còn dốt nhưng không chỉ dốt ở đâu? Năm 29 tuổi, họ Vương đi thăm cha là Thái Sử ở Giao Chỉ và bị đắm thuyền chết ở xã Thổ Thành, Nghệ An.
Mỗi lần mưa gió lại hiện lên, níu áo văn nhân sĩ tử qua lại, ai oán hỏi thơ mình dốt ở chỗ nào xin chỉ giáo. Dân làng lập đàn cúng tế cũng không xong, sau phải nhờ đến Hồ Tôn Thốc người Hưng Yên, thi đỗ trạng nguyên thời Hậu Trần đời Trần Nghệ Tông. Ông làm quan đến chức Thẩm hình viện sử và là tác giả hai bộ Việt sử cương mục và Việt Nam thế chí. Khi nhà Hồ diệt nhà Trần, ông từ quan ngao du sơn thủy.
Hồ Tôn Thốc vào miếu thờ Vương Bột để cầu an cho trăm họ và thắp hương khấn Vương Bột tự Tử An, rằng cái tên như vận vào người nên "chết" vẫn chẳng..."an" thân: Vì rằng hai câu ấy chẳng hẳn là sai, nhưng nhà ngươi còn dốt thật, đã bao năm có tiếng là Tứ kiệt của Sơ Đường mà chẳng nhận ra điều ấy ư: Vậy thì mỗi câu bớt đi một chữ, như "tề phi"  là cùng bay thì không cần chữ "dữ" nghĩa là..."với". Câu thứ nhì vì rằng "nhất sắc" tức một màu thì không cần chữ "cộng"..."cùng" nữa.
***
Đời Hồ (1400-1407)
Chữ Nôm được Hồ Quý Ly là người đầu tiên đem ra dùng để dịch kinh sách Minh đạo từ thế kỷ thứ 14. Sách bàn về các nhân vật và kinh điển đạo Nho, chê các danh nho đời Đường, đời Tống chỉ biết chắp nhặt văn chương, học rộng mà viển vông. Sách dâng lên Trần Nghệ Tông và được khen nhưng bị học quan ở Quốc tử giám chống đối. Năm 1935, ông dịch Vô dật trong Kinh thi dậy vua. Năm 1396 dịch sách Thi nghĩa bằng chữ Nôm (giảng nghĩa Kinh thi). Mãi đến đời Mạc Hậu Hợp 1565 chữ Nôm mới dùng lần đầu trong một khoa thi tiến sĩ. Hồ Quý Ly thay đổi một chút là ai đỗ kỳ thi Hương, năm sau vào bộ Lễ thi lại, nếu đỗ mới được bổ đi làm quan. Sau đó mới được dự kỳ thi Hội. Hồ Hán Thương thêm phân khoa toán pháp với phép cửu chương tính. Minh sử chép rằng niên hiệu Vĩnh Lạc, Minh Thành Tổ ra lệnh lùng bắt những cử nhân Giao Chỉ giữ chức tri huyện hay tri phủ mang về. Ngoai ra cònbắt ta cống nộp sư sải và hoạn quan. Năm 1405, nhà Minh mưu đồ xâm lăng, sai bọn hoạn quan người Việt được mang về Tàu làm quan từ trước như Nguyễn Toán, Từ Cá, Ngô Tín đi sứ, dò xét địa hình nước ta. Bọn này dặn họ hàng hễ quân Minh tràn sang thì dựng cờ biên rõ là thân thuộc của nội quan nào thì sẽ thoát nạn. Hồ Hán Thương biết chuyện sai giết hết thân thuộc bọn này.Tuy nhiên, những người bị tiến cống cho Tàu không phải toàn bọn bán nước lập công mà còn có những người có biệt tài như Trần Vũ và Nguyễn An.
Giữa năm 1407, toàn bộ gia tộc họ Hồ, từ Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Hồ Nguyên Trừng đến con cháu đều bị bắt sống và giải về đế đô Kim Lăng (Nam kinh). Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận năm 1407 ngài Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo súng thần công để chống lại quân Minh xâm lược. Theo tài liệu của Tôn Lai Thần (Sun Laichen):Theo lệnh vua Minh, Hồ Nguyên Trừng chế tạo vũ khí như hỏa súng, đoạn tiễn, thần tiễn, thuốc súng cho Binh trượng cục (Cục chế tạo vũ khí) và được thăng chức Thượng thư bộ Công (tương đương bộ trưởng ngày nay).
Thành công nhất của ông là chế ra khẩu đại pháo có tên là "An Nam thần công". 73 tuổi, Hồ Nguyên Trừng mất. Theo Minh sử cảo, triều Minh khi tế thần súng An Nam thần công cũng thường cúng tế Hồ Nguyên Trừng. Lăng mộ ông hiện ở vùng núi phía tây Bắc Kinh, sườn núi Ngọc Đài, thôn Nam An Hà. Ngoài ra ông còn viết Nam Ông mộng lục lấy bút hiệu Nam Ông (ông già nước Nam). Ở lời nói đầu, Hồ Nguyên Trừng bảo: "Trong xóm mười nhà thể nào cũng có người tín nghĩa như Khổng Tử, huống hồ nhân vật nước Nam không kể hết". Trong đó có Nguyễn An.
Nguyễn An bị nhà Minh bắt về Tàu cùng với Hồ Nguyên Trừng. Theo Hoàng Minh thông ký thì Nguyễn An trải 5 đời vua Minh (Thái Tông, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông và Cảnh Tông). Ông là người trông coi việc tu tạo thành Bắc Kinh 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, v...v... Sách Thủy đông ký của Diệp Thịnh đời Minh ghi rằng: "Nguyễn An còn gọi là Á Lưu, người Giao Chỉ, thanh khiết, giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc..". Ông có tên trong sách Minh sử luận tùng ở thư viện Bắc Kinh ngày nay.
Đời Hồ và Lê có Nguyễn Trãi (1389-1442) đỗ Thái học sinh. Sau khi giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, ông viết Bình Ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta và cũng là tác giả nhiều thơ văn Hán Nôm hiện còn lưu truyền. (Nam quốc sơn hà, Nam đế cư của Lý Thường Kiệt thuộc đời Trần là bản tuyên ngôn thứ nhất).
***
Đời Lê (1428-1527)
Khi Lê Lợi thu hồi độc lập xong cho tái lập lại thi cử theo Tống nho để bảo vệ ngôi vua. Nho giáo đánh bật Phật và Lão giáo ra khỏi trường thi. Thi cử hạn hẹp trong vài quyển sách, xa rời thực tế, theo lề lối Tống nho. Và kéo dài trong 300 năm trị vì của nhà Lê qua đến đời Nguyễn thêm 150 năm nữa kể từ đời Gia Long.
Lê Thánh Tông lập ra hội "Tao đàn nhị thập bát tú", vua làm nguyên soái với 28 vị tiến sĩ cùng nhau làm thơ Hán và Nôm để ngâm vịnh. Đồng thời vua cũng làm chủ khảo các kỳ thi Đình, đặt ra lệ xướng danh, vinh quy bái tổ. Sau khi đăng khoa xướng danh được cờ quạt võng lọng do vua ban cho để vinh quy. Tiếp đến là bảng vàng bia đá, Năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia khắc tên các tiến sĩ ở trường Quốc tử giám. Tổng cộng có 82 bia đá có 1323 tên tiến sĩ đặt ở hai bên tả vu, hữu vu. Đời Lê mở mang việc học, lập thêm những trường Quốc tử giám ở các châu, phủ, huyện (trong dân gian gọi là Văn miếu như ở Hưng Yên). Năm 1429, cho phép các quan từ hàng Tứ phẩm trở xuống, các ẩn sĩ thông kinh sử, các võ tướng thi Hội. Quan văn thi kinh sử, quan võ thi võ kinh. Đời Lê, thi Hương 4 năm như đời Trần Anh Tông, ai đỗ cả 4 trường được gọi là hương cống, đỗ 3 trường gọi là sinh đồ.
Thi Đình thời Lê Trunh Hưng
(Trích Nghi thức thi Đình trong Lịch triều
hiến chương khoa mục chí của Phan Huy Chú)
Sáng sớm hôm ấy, Thượng-thiết-ty đặt ngai vua ở giữa điện Kính-thiên, đặt hương án và bàn ở trước ngự tọa của chúa ở bên tả ngự tọa của vua. Thừa-dụ-cục đặt bàn ở hai bên tả hữu sân rồng, để quyển thi, bút và nghiên mực ở trên bàn. Các quan Đề-điệu, Tri-cống-cử, Giám-thí chia nhau đứng ở hai bên các bàn để quyển thi. Nhân viên hai vệ Cẩm-y, Kim-ngô bầy lều thi và quyển thi ở hai bên sân rồng. Một viên Lễ quan (dùng quan Lễ bộ), một viên Tuyên-chế-sách (dùng quan Đông-các) đứng ở bên tả sân rồng (hướng về bên hữu), một viên Nghi-chế-ty đứng ở bên hữu sân rồng (hướng về bên tả), hai viên Tuần-xước (lâm thời được sai) đứng ở hai bên tả hữu sân rồng (hướng về phía bắc). Quân lính các ty vệ cắm cờ xí theo nghi thức.
Hồi trống nghiêm đầu, các đại thần văn võ tiến vào chầu, ai nấy đều mang phẩm phục đứng sắp hàng ở ngoài cửa Đoan-môn. Hồi trống nghiêm thứ hai, rước ngự giá vua đến điện Kính-thiên, rước chúa ngự lên điện (hơi về phía đông). Tự-ban (giữ việc bầy ban, xướng lễ khi thiết triều) dẫn các đại thần đầu ban và các quan văn võ vào đứng hầu ở hai bên sân rồng. Hai viên Tự-ban dẫn các sĩ nhân vào đứng ở cuối ban về bên hữu sân rồng (hướng về phía bắc). Vua đội mũ xung thiên, mặc áo bào vàng, đai ngọc, lên ngồi ngự tọa. Chúa đội mũ xung thiên, mặc áo bào tía, đai ngọc, lên ngồi ngự tọa. Vút roi (ra hiệu phải yên lặng). Cáp-môn xướng :"Bài ban ! Ban tề ! Cúc cung bái (5 lạy, 3 vái) ! Hưng ! Bình thân !". Các quan chia ban đứng hầu. Lễ quan vào giữa ngự đạo quỳ xuống. Hai viên Tự-ban dẫn các sĩ nhân vào giữa ngự đạo, đứng sắp hàng hai bên. Xướng :"Quỵ !". Các sĩ nhân đều quỳ. Lễ quan tâu rằng những sĩ nhân trúng thức kỳ thi Hội này là bao nhiêu người, tên là gì, vâng vào Điện thí. Tâu xong lui ra đứng chỗ cũ. Tự-ban xướng :"Khấu đầu (cúi đầu vái) !". Các quan Ðề-điệu, Tri-cống-cử, Giám-thí đưa quyển thi, bút, nghiên cho sĩ nhân xong, lại lui ra đứng chỗ cũ. Quan Tuyên-chế đến giữa ngự đạo quỳ tâu :"Tấu truyền chế". Rồi phủ phục, vẫn quỳ. Quan Tư-lễ-giám đem tờ chế sách giao cho quan Tuyên-chế, viên này nhận lấy chế sách rồi đứng dậy, lui ra đứng tựa về phía đông sân rồng. Ðọc xong quan Tuyên-chế lại đem chế sách đến giữa ngự đạo quỳ xuống dâng lại cho quan Tư-lễ-giám nhận lấy, rồi cho quan Tuyên-chế lui ra đứng chỗ cũ. Quan Tuần-xước dẫn các sĩ nhân ra ngồi ở lều thi. Nghi-chế-ty đến giữa ngự đạo quỳ tâu :"Lễ tất". Lại vút roi. Vua về cung. Chúa về nội phủ. Các đại thần văn võ đều lần lượt lui ra. Ðến buổi chiều bọn quan Đề-điệu đưa các quyển thi cho quan Độc quyển làm việc.
Ao nghiên ruộng bút với...thịt chó không ai ngoài Trạng nguyên Nguyễn Đăng Hạo người Hậu Duệ, Bắc Ninh. Ông đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ khoa Bính Tuất 1646, đời Lê Chân Tông. Năm Kỷ Mùi, vua nhà Thanh thấy sao văn khúc giáng ở phía Nam, cho sứ thần sang nước ta tìm nhân tài và gặp ông. Vua Tàu cho vế đối: Lão khuyển lạc mao do hướng đình tiền phệ nguyệt (chó già rụng lông, còn đứng trước sân, thấy trăng lên là sủa). Ông thấy họ chê mình hiểu biết kém cỏi, bèn đối lại: Tiểu oa đoản cảnh mạn cư tỉnh để quan thiên (ếch con ngắn cổ, dám ngồi đáy giếng, mà xem xét cả trời). Vua Tàu khâm phục phong là Lưỡng quốc trạng nguyên và phán: "Địa linh nhân kiệt đời nào cũng có, nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chỉ có một Đăng Hạo".
Năm 1659, ông được bổ làm Đông các đại học sĩ, nhưng làm quan 3 năm bị bãi chức vì cương trực nên không được trọng dụng. Ông lấy ngao du sơn thủy làm cái thú tiêu dao, vòng kiềm tỏa không ngòai "rượu Hòang Mơ, cờ Mộ Trạch" và...thịt cầy.
Một ngày ông gặp đạo sĩ núi Lan Kha và xin tu tiên, đạo sĩ trả lời: "Tu tiên có ba thứ phải ghét, năm thứ phải kiêng, trong những thứ ấy có thịt cầy". Ông gật đầu và chống gậy theo đạo sĩ lên núi học đạo, gần trưa qua một cái chợ, mùi thịt cầy trong quán bay ra sực nức. Ông thèm rỏ rãi, bèn xin đạo sĩ cho một bữa chót cho...chót đời trước khi thành tiên. Ăn xong lau mặt thì ông thấy đạo sĩ và chợ búa đều biến mất. Như Lưu Nguyễn lạc thiên thai về lại chốn trần ai, thì ra đây chính là chợ Cầu Lim làng Nội Duệ, chỉ cách núi Lan Kha non dặm đường mà thôi..."
Nếu như Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi và Lưỡng quốc trạng nguyên Tống Trân, cùng bị giữ ở Tàu dịch thư kinh mươi năm. Nguyễn Đăng Trừng, Nguyễn An bị lưu xứ ở Tàu đến suốt đời. Với giai thoại thì chẳng thể thiếu vắng Thám hoa Giang Văn Minh, người xã Đường Lâm, tỉnh Sơn Tây được cử đi sứ. Minh Tự Tông ra câu đối: "Đồng trụ chí kim đài dĩ lục" có ý nhắc đến Mã Viện dẹp cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng. Thám hoa Giang văn Minh không chần chừ, khẳng khái đối: "Đằng giang tự cổ huyết do hồng". Vua Minh biết ý ông dẫn việc Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên ở sông Bạch Đằng để đối lại. Bất chấp luật lệ bang giao, Minh Tự Tông thét bọn đao phủ trói ông lại, gắn trám đường vào miệng và mắt rồi cho người mổ bụng xem "sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu". Hôm đó nhằm ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Tính ra, ông mới 58 tuổi. Hòng uy hiếp dân Đại Việt, Minh Tự Tông còn cho ướp xác ông bằng bột thuỷ ngân và cho sứ bộ ta đem thi hài ông về nước.
Những vụ án nổi tiếng ở trường thi:
Mặc dù luật lệ trường thi rất nghiêm ngặt như thí sinh bị cấm suốt đời không được thi, khảo quan bị đi đày, hay tử hình. Nhưng chuyện gian lận không thể tránh khỏi như theo Vũ trung tùy bút, vì bị quan trường thù ghét nên Ngô Thì Sĩ bị đánh hỏng oan. Đại Nam thực lục ghi, chủ khảo Nguyễn Tú trường thi Ngệ An vì tráo quyển bị án tử hình. Sách Cương Mục viết Ngô Sách Tuân làm giám thị, giúp con bạn đưa quyển cho khảo quan bị xử giảo.
Nổi tiếng nhất là vụ án Tam nguyên Lê Quý Đôn: Khoa thi Hội 1775, Lê Quý Đôn làm chánh chủ khảp nói với học trò giỏi của mình là Đinh Thì Trung đổi quyển cho con mình Lê Quý Kiệt. Kết quả Lê Quý Kiệt đỗ thủ khoa. Khoa ấy vua Lê chúa Trịnh đánh cuộc, vua Lê cho là thủ khoa sẽ về tay Kiệt vì là con Lê Quý Đôn tất học giỏi. Chúa Trịnh vì đã biết Đinh Thì Trung nên đánh cuộc Trung sẽ đỗ đầu và định bụng hễ đỗ đầu là trọng dụng ngay. Chúa Trịnh thua cuộc, không chịu, duyệt lại văn bài, khám phá ra vụ đổi quyển. Đinh Thì Trung tố cáo Lê Quý Đôn. Vì Lê Quý Đôn làm quan to, Trịnh Sâm bỏ qua không phạt và Đinh Thì Trung bị đi đày ở An Quảng.
Thêm một vụ khác nổi danh không kém với "Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán": Năm 1841, Cao Bá Quát(6)làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, sửa bài hộ cho 24 quyển phạm trường quy. Nguyễn Văn Siêu(7)làm phân khảo lấy đỗ cho cháu của bạn mặc dù đã bị đánh hỏng. Mọi việc bị giám sát Hồ Trọng Tuấn đàn hạch: Cao Bá Quát bị tội tử hình. Thiệu Trị cho là Quát không gian lận mà chỉ muốn cứu vớt thí sinh có tài lỡ phạm trường quy, giảm án "giảo giam hậu" (đợi xử giảo, chết toàn thây, không bị chặt đầu). Sau lại đổi qua "xuất dương hiệu lực" cho theo phái đoàn đi Tân Gia Ba. Riêng Nguyễn Văn Siêu bị phạt đánh trượng và đi đày một thời gian.
Giai thoại làng nho toàn tập ghi chép những chuyện như sau:
Khóa thi 1825, có Đốc học Hồ Trọng Điển trường thi Nam Định cho học trò đi thi mặc giả làm người hầu vào lều khảo thí của ông. Khóa thi 1831 có Đề điệu Nguyễn Thọ Xuân trường thi Nghệ An cho hai thị nữ mặc giả lính hầu đem vào trường. Khoa thi 1840, Nguyễn Công Trứ làm chủ khảo trường thi Nam Định đem ả đào vào trường thi. Những việc trên bị phát giác, như chúa Trịnh không nỡ bắt tội nên ỉm đi.
Về người Việt và thi cử dưới mắt người ngoại quốc thế kỷ 17:
Giáo sĩ Baldinotti để lại bút tích vào năm 1626: "Người Việt tính tình ôn hòa, ít nóng nẩy. Nhưng ưa ganh tị, hay khoác lác. Họ nghèo nhưng khinh bỉ ngành giao thương. Họ không thích đi đây đi đó. không tin lời những người đi xa thấy cao học rộng. Họ hay tự cao tự đại cho rằng Việt Nam mình là nhất. Họ hiếu học chẳng phải vì ham hiểu biết mà chỉ vì muốn đạt mục đích ra làm quan".
Một người Hòa Lan mẹ là người Bắc sinh ở "Ca-cho" (Kẻ Chợ tức Thăng Long) tên Samuel Baron. Trong cuốn A Description of the Kingdom of Tonqueen  S. Baron nhận xét về người Việt ở thế kỷ 17: "Tính tình hiền hậu nhưng hèn yếu, ưa khoác lác, hiếu học nhưng chỉ để ra làm quan... ".
***
Đời Mạc (1527-1592) và Lê Trịnh (1600-1788)
Việc thi cử trong đời Mạc không có gì thay đổi nhiều. Chữ Nôm được Hồ Quý Ly là người đầu tiên đem ra dùng để dịch kinh sách từ thế kỷ thứ 14, mãi đến đời Mạc Hậu Hợp 1565 mới dùng chữ Nôm lần đầu trong một khoa thi tiến sĩ với đề mục kỳ đệ tứ phải là một bài phú Nôm.
Lề lối khoa trường đời Hậu Lê vẫn là Tam trường, thi Hương do địa phương tổ chức, đỗ cả 3 hay 4 kỳ gọi là Cử nhân hay Hương cống, Sinh đồ. Nếu đỗ 1 kỳ được gọi là Tú tài. Sau này gọi là tú đơn, tú kép (đỗ 2 khoa tú tài), tú mền (đỗ 3 khoa tú tài), tú đùn hay tú đụp (đỗ 4 khoa tú tài). Đỗ tú tài được làm Huấn đạo, Giáo thụ ở phủ, huyện. Đỗ thi tương gọi là Hương cống được bổ làm Tri phủ, Tri huyện. Cống sĩ đã đỗ thi Hội vào cung vua thi Đình. Nếu đỗ là tiến sĩ mà trong dân gian gọi là ông Nghè.
Tên này bắt nguồn sau khi đỗ, các tiến sĩ đứng dưới hành lang ngoài sân đình dẫn đến Đại Cung Môn đợi vào chầu vua ban thưởng. Mà mái hiên của hành lang tiếng địa phương người miền Trung gọi là "nghè". Đời Mạc và Hậu Lê vì thiếu tiền nên đặt lệ đi thi phải đóng tiền chi phí chấm thi. Vì vậy trường thi là chỗ mua bán, quan trường thông đồng. Nhà Mạc có tranh Đông Hồ...
Từ thầy đồ dậy ở trường làng đến Quốc tử giám vì thần phục văn hóa Tàu nên quanh đi quẩn lại chỉ có sách Nhất thiên tự (sách 1000 chữ), Tam thiên tự (sách 3000 chữ), v...v...đến Tứ thư Ngũ kinh. Tam nguyên Lê Quý Đôn (1726-1784) thâu tóm cái học của nhà Nho trong câu: "Thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi", nghĩa là chỉ cần học thuộc lòng 1000 bài thơ, 100 bài phú và 50 bài văn sách là đủ thi đỗ". Mặc dù nhà Mạc chỉ kéo dài 65 năm nhưng theo Đại Nam nhất thống chí chép một vị nữ trạng nguyên có một không hai của nước ta tên Nguyễn Thị Duệ, người Hải Dương. Bà theo cha lên Cao Bằng, đất của họ Mạc. Bà là người tuyệt sắc, lại rất thông minh, 10 tuổi đã biết làm văn bài. Ông thân bà tiếc tài con gái, cho cải nam trang đi học. Năm 17 tuổi, Mạc Kính Cung mở khoa thi Bính Thìn 1616, trong khi thầy dậy học bà đỗ thứ hai, bà lại đỗ thủ khoa. Tự xét về văn tài mình, bà viết: "Nữ nhi dù đặng cỏ thi - Ắt là tay thiếp kém gì trạng nguyên". Bà mất, dân làng làm tượng thờ bà, có bức hoành đề: "Giáp khoa tiên chiếm Cao Bằng bảng � Đại bút do truyền Bát cổ bi".
***
Đời Nguyễn Tây Sơn (1788-1802)
Quang Trung muốn gây dựng một nền quốc học nên chú trọng vào chữ Nôm. Trong các khoa thi, đề ra bằng chữ Nôm và thí sinh phải làm bằng bài chữ Nôm. Chữ Nôm được Hồ Quý Ly là người đầu tiên đem ra dùng để dịch kinh sách từ thế kỷ thứ 14, mãi đến đời Mạc Hậu Hợp 1565 mới dùng lần đầu trong một khoa thi tiến sĩ. Và phải đến đời Quang Trung mới dùng chữ Nôm trong khoa thi Hương ở Nghệ An mà Nguyễn Thiếp tức La Sơn phu tử là chánh chủ khảo. Việc dùng chữ Nôm đang dang dở nửa chừng vì ngài mất quá sớm nhưng nhờ vậy mà sau này chữ Nôm có tư thế và khởi sáng trong văn học nước ta. Theo sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép:
Ngô Thì Nhậm cầm đầu phái bộ đi sứ sang Tàu, lúc đến sứ quán thấy hàng chữ đề An Nam di sứ công quán (Công quán của sứ bộ xứ man di An Nam). Ông không vào và nói: "Ta không phải đại diện cho xứ man di nên không vào sứ quán này". Quan nhà Thanh nói chữa rằng đối với Trung Hoa thì tất cả đều là man di, mọi rợ hết. Ngô Thì Nhậm cười rằng: "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Phải chăng qúy quốc là mọi rợ hay sao mà lại tiếp xúc với nhiều nước mọi rợ khác?". Quan nhà Thanh phải sửa cái biển thành Nam quốc sứ quan công quán. Lúc đó Ngô Thì Nhậm mới chịu dẫn phái đoàn ngoại giao của nước ta vào.
Cũng với giai thoại đi sứ, trong Đề Từ của sách Bắc sứ thông lục, Lê Quý Đôn kể chuyện chính ông đi sứ năm 1760:
"Ta tới Nam Quan, liền gặp quan Tuần Kiêm đưa thơ thách họa. Dọc đường gặp các quan liêu đặt những câu hỏi hóc búa, họ bắt bẻ tranh luận như là kẻ địch. Vậy mới biết lòng người khác nhau. Lấy văn tự làm quen nhau thì người bốn bể đều là anh em cả. Vả chăng nếu mình rụt rè, ít nói năng thì bị người ta khinh bạc, mà dùng tiếng Di Ngôn Di Sứ (lời mọi, sứ mọi) mà chỉ chúng ta.
Chính vấn đề các viên chức Thanh ở quan ải vẫn luôn luôn dùng tiếng Di (mọi) để trỏ người mình, kể cả sứ thần, là một điều mỗi lúc sứ ta sang, đều phải tranh biện phản đối và đòi cải cách. Sứ bộ gửi tờ trình cho viên Tuần phủ Quảng Tây xin thôi dùng chữ Di. Đại ý tờ trình như sau: "Trong các công văn và khi tiếp đón sứ thần mọi nơi đều gọi hai tiếng An Nam. Thế mà ngày chúng tôi đến cửa quan ải, quan đạo chỉ hô: Di quan, Di mục, làm chúng tôi hổ thẹn rất sâu". Ấy vậy mà tờ khái này viết ngày 13 tháng Chạp năm Tân Mão 1761. Sứ bộ tưởng trước Tết sẽ về đến nhà, nhưng phải đợi gần một tháng, quan Thanh mới chịu mở cửa quan ải. Đến khi tới Nam Ninh, Yết quan Đạo Đài, giữa đám đông người mà vẫn dùng chữ "Di". Sứ thần xin theo lệ đời Ủng Chính thứ 9 (173l) giới thiệu các sứ thần bằng chức danh. Viên Bố Chánh biện luận một cách khôn khéo rồi cũng nhận lời. Tôi làm tờ trình của sứ bộ gửi về chúa Trịnh Doanh. Tờ trình nầy rất quí, vì được làm bằng tiếng Nôm, có lẽ để người Thanh không đọc được, nếu chúng tò mò".
***
Đời Nguyễn (1802-1945)
Gia Long bỏ chữ Nôm trong thi cử và trở về với Tống nho như đời nhà Lê. Vua cho mở trường Quốc tử giám ở Huế và các vị khoa mục thời Hậu Lê được gọi vào giảng dậy. Năm 1807 cho mở khoa thi Hương đầu tiên và phép thi cũng giống như thời Hậu Lê. Theo Dương Quảng Hàm, qua Việt Nam văn học sử yếu:
Đời Hậu Lê thi Hương lấy tú tài và cử nhân. Đời Gia Long vẫn giữ như vậy và chỉ đổi tên: thi Hương trúng cả 3 trường được gọi là Sinh đồ (ông Đồ), đỗ cả 4 trường gọi là Hương cống (ông Cống). Đời Minh Mạng đổi lại là tú tài, cử nhân như đời Hậu Lê.
Mãi năm 1822, Minh Mạng mới mở khoa thi Hội, thi Đình. Thi Hương 3 năm một lần thì thi Hội cũng thế, vì thi Hội bao giờ cũng diễn ra ngay năm sau có thi Hương. Đỗ thi Hội mới được thi Đình sau đó một tháng cùng năm. Thi Hội ở trường thi có lều và nằm trên chiếu thi, người đỗ thi Hội có bảng yết (gọi là Trúng cách). Thi Đình ở trong cung điện và ngồi trên bàn thi, người đỗ thi Đình có lễ xướng danh (lễ Truyền lô). Thi Đình, Minh Mạng bỏ Trạng nguyên, lấy 2 người đỗ đầu là Bảng nhãn và Thám hoa. Minh Mạng gần gũi với văn hóa Tây phương hơn qua chuyện Michel Đức là con đầu lòng của Jean Baptiste Chaigneau, tức Chúa Tầu Long, một trong hai người ở lại làm quan lâu dài với Gia Long sau khi giúp vua thắng nhà Tây Sơn. Chaigneau đã "vâng mệnh" Gia Long cưới vợ Việt. Là con quan nhất phẩm, thường được ra vào nơi cung cấm nên người sau có nhiều chi tiết do Michel Đức viếttrong cuốn Souvenirs de Huế, như:
Nhiều lần Michel Đức được Minh Mạng vời vào cung để hỏi chuyện nước Pháp và nhờ dịch những chữ ghi trên mấy bức họa vẽ cảnh nước Pháp. Trước hết, Michel Đức phải đọc to lên, sau dịch từng chữ, cuối cùng mới dịch nghĩa toàn câu. Để Michel Đức khỏi nhẩy những chữ khó, Minh Mạng chỉ từng chữ một. Mỗi khi dịch xong, viên quan ngồi cạnh phải ghi ngay lại bằng chữ Hán. Gặp chữ tên người hay tên tỉnh không dịch được, viên quan lúng túng thì chính Minh Mạng chỉ cho nên dùng chữ gì?.
Cũng trong cuốn Souvenirs de Huế Michel Đức Chaigneau viết: "Người Việt ở thế kỷ 19 tài giỏi thì cũng có đấy. Nhưng hay khoe khoang, khoác lác, lại...ở bẩn !!!".
Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872), người Cần Thơ, Minh Mạng thứ 16, đỗ thủ khoa thi Hương năm 28 tuổi tại trường thi Gia Định nên được gọi là Thủ khoa Nghĩa. Ông hay uống rượu và làm thơ Hán Nôm, trong lúc nhàn đàm với các quan, cầm tập thơ Đường thi tam bách thủ đọc bài Nhân gian tứ hỷ để bình văn luận nghĩa:
Cửu hàn phùng cam vũ
Tha hương ngộ cố tri
Động phòng hoa chúc dạ
Kim bảng quải danh thì
Nghĩa thơ thì một trong tứ khoái của con người là hạn lâu gặp mưa rào, xa quê gặp bạn cũ, đêm động phòng hoa chúc, bảng vàng đề tên. Mọi người gật gù tấm tắc khen, nhưng Thủ Khoa Nghĩa lắc đầu vì chỉ thường thôi. Nếu thêm mỗi câu đầu hai chữ:
Thập niên cửu hàn phùng cam vũ
Thiên lý tha hương ngộ cố tri
Hòa thượng động phòng hoa chúc dạ
Mộc nho kim bảng quải danh thì
Bùi Hữu Nghĩa dẫn giải: mười năm nắng hạn mới gặp mưa rào, ngàn dặm xa quê lạigặp bạn cũ, nhà sư có được đêm động phòng hoa chúc, học trò dốt đi thi thấy bảng vàng đề tên" thì chẳng...khoái hơn lắm ru.
Khoa cử đời Nguyễn kỳ thị Bắc Nam, năm 1825, sĩ tử Thừa Thiên, Quảng Nam không một ai đỗ. Minh Mạng sai Lục bộ lấy thêm Cao Xuân Dục ở Thừa Thiên lúc này chỉ là Hương cống. Ông này sau là chánh chủ khảo trường thi Nam Định, Tú Xương là sĩ tử khoa thi Hương năm ấy và làm bài thơ vịnh ông có câu:
Này này Hương thí đỗ khoa nào?
Nhân hậu thay lòng quan Thượng Cao
Người ta thi chữ, ông thi phúc
Dù dở, dù hay cũng được vào!
Năm 1826 thi Hội, sĩ tử trên 200 người, quan trường lấy đỗ 9, Minh Mạng bảo 9 người đỗ đều là người Bắc là sao thế? Nên cho người Thừa Thiên để cổ lễ sĩ phong mới phải? Thế là quan trường lấy thêm Phan Thanh Giản.
Kể từ khoa 1829 Minh Mạng định lệ sĩ tử ứng thí phải khai tên họ, lý lịch ông cha ba đời trên mặt quyển. Những ai có ông cha ba đời làm nghề xướng ca, hay can trộm cắp hoặc làm giặc đều không được đi thi (làm quan với nhà Tây Sơn hay với nhà Lê cũng bị coi là làm giặc mặc dù nhà Nguyễn áp dụng thi cử của nhà Lê). Năm 1831, tại trường thi Thừa Thiên, Lê Đức Quang, Phạm Huy có cha làm quan đời Nguyễn mà ghi lầm là làm quan với nhà Lê đều bị xóa tên trên bảng cử nhân. Làng Tức Mặc (sau là Xuân Trường) thuộc Nam Định, quê hương của các vua nhà Trần, bị cấm học văn để giữ tinh thần...thượng võ. Năm 1828, khi văn bài sĩ tử miền Bắc sút kém, Minh Mạng bảo chánh chủ khảo Bắc thành: "Bắc Hà vốn là nơi văn vật, hóa ra chỉ là hư danh!". Năm 1834, gần đến khoa thi hai trường Nam Định và Hà Nội, vua lại ra dụ: "Mỗi trường không được lấy quá 50 tú tài". Trong khi 4 trường Thừa Thiên, Nghệ An, Bình Định, Thanh Hóa sĩ số chuẩn định là 100. Ngoài ra còn biệt lệ khác cho phép một số tú tài được thi Hội: Tôn sinh (người trong hoàng tộc), ấm sinh (con quan). Huấn đạo, Gíao thụ (những người có tú tài được bổ vào chức vụ này ở phủ, huyện).
Nhà Nguyễn có tất cả 8 trường thi, sau rút lại còn 5 là: Gia Định, Thừa Thiên, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Nam (Năm 1886 thời Đồng Khánh hai trương thi Hà Nội (8) và Nam Định (9)nhập làm một. Vì trường thi Hà Nội bị Pháp đóng cửa năm 1882, khoa thi cuối cùng là khoa Kỷ Mão (1879). Khoa thi hương cuối cùng của trường thi Nam Định năm Ất Mão1915. Thời Đồng Khánh, thi hương cứ 1 cử nhân lấy 3 tú tài. Thời Thành Thái, thi Hương bỏ "kinh nghĩa" (giảng giải kinh sách), thơ phú, chỉ giữ văn sách (bàn phép trị nước) và luận. Thêm Quốc ngữ, địa lý, cách tri, toán pháp. Thời Duy Tân, thi Hương thêm phần Pháp văn.
Nguyễn Khuyến (1835-1910) người làng Yên Đổ, Hà Nam. Năm 1864, đỗ Giải nguyên trường Hà Nội, năm 1871 đổ Hội nguyên và Đình nguyên, tức là Tam nguyên. Vì vậy mọi người gọi là Tam nguyên Yên Đổ. Ông có câu đối viếng Tú Xương:
Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn
Tú Xương (1870-1907) lận đận với thi cử, ông làm bài thơ Phận hẩm duyên ôi:
Đỗ suốt hai trường, hỏng một tôi
"Tế" đổi ra "Cao" mà...chó thế!
Năm 1903, Tú Xương đổi chữ lót "Tế Xương" ra "Cao Xương" nhưng vẫn hỏng.
"Tế" đổi ra "Cao" mà...chó thế!
"Kiện" trông ra "Tiệp" hỡi trời ơi...
 
 
Trường thi Nam Định
Mà chó thật, vì từ câu "Đỗ suốt hai trường hỏng một tôi" cho thấy Tú Xương hỏng ngay từ trường hai vì nhầm chữ "Kiện" với chữ "Tiệp" vì cái nạn trường quy. Nhờ câu thơ trong bài Buồn vì hỏng thi: "Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy!", câu này cho thấy ít nhất khoa thứ 8, gần nửa đời người cho thi cử ở trường thi Nam Định, có đất Vị Xuyên quê ông, Tú Xương lại phạm trường quy một lần nữa, mà khoa thứ tám này là khoa Bính Ngọ (1906). Năm sau ông mất (1907). Tam nguyên Trần Bích San (1838-1877) cũng người Nam Định.  Năm 1864 ông đỗ Giải nguyên trường Nam Định lúc 26 tuổi. Năm sau, 1865 vào kinh thi đỗ luôn Hội nguyên và Đình nguyên.  Đỗ đầu ba kỳ thi liên tiếp nên có học vị Tam nguyên, vua Tự Đức ban tên hiệu cho ông là Hy Tăng để so sánh với Vương Tăng đời nhà Tống bên Tàu. Ông đảm nhiệm Lễ bộ sự vụ, sau được bổ làm Tuần phủ Hà Nội.
Trong chức vụ trên ông thường có dịp giao thiệp với người Pháp. Có lần Phó thủy sư Đô đốc Dupré ghé thăm xã giao ông. Dupré dắt theo một con chó. Chủ khách vừa an tọa thì con chó nhảy lên nằm trên ghế đối diện. Ông cho đó là dụng ý của Dupré muốn bỉ mặt mình nên phủi áo đứng dậy không tiếp Dupré nữa và sai lính đánh chết con chó. Năm 1877 có cuộc đấu xảo ở Ba Lê, Tự Đức ngỏ ý muốn cử một phái đoàn ngoại giao sang Pháp để tỏ tình hữu nghị. Dupré ưng thuận nhưng yêu cầu cử Trần Bích San làm chánh sứ. Vua Tự Đức triệu ông vào kinh để trao sứ mạng. Vì e rằng Dupré sẽ trả thù làm nhục lây đến quốc thể mà lệnh vua không thể trái, ông nuốt giấy bản tự vẫn. Thi hài ông được đưa về làng Vị Xuyên mai táng, lúc đó ông mới 39 tuổi.
Đời Tự Đức 1852, vẫn giữ 4 trường cho thi Hội, nhưng thi Hương rút lại còn 3 trường. Tự Đức tuyển những người khỏe mạnh ở phủ, huyện vào triều làm võ sinh và mở khoa thi Võ tiến sĩ. Vua là một thi nhân còn là một nhà học giả uyên thâm hơn cả các quan văn đã từng khoa trường xuất thân, trước mặt các quần thần, một lần vua nói: "Trẫm bất ứng thí, nhược ứng thí, tất trúng trạng nguyên". Bởi thế, vua cùng hai Bảng nhãn, hai Thám hoa, mỗi người làm một bài luận phú rồi rọc phách nhờ vua Tàu lập một ban giám khảo chấm giùm. Khi ống quyển trả lại, bài của Tự Đức có chữ son phê: "Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách không phải là một người thường, nhưng lại là môt người...không có tài chi mấy". Và Tự Đức đứng...đội bảng.
Ao nghiên ruộng chữ với mỗi sách mỗi giai thoại khác nhau như thời Tự Đức có Ông Ích Khiêm người Quảng Nam. Vốn dòng dõi người Cao nguyên, trước họ Ong, đến đời Tự Đức thi đỗ cử nhân, vua cho đổi thành họ Ông. Tự Đức mất, triều chính rối loạn, vua kế vị còn nhỏ, Tường Thuyết chuyên quyền, văn thần võ tướng chỉ là một lũ cầu an không ai lo đến việc nước. Ông bực dọc bèn đặt ra một tiệc mời khắp mặt đại thần tới dự. Các món ăn đều là...thịt chó. Lúc vào tiệc, nhiều người không ăn được thịt chó, ngập ngừng hỏi món ăn khác, ông trả lời: "Bẩm, bữa cơm hôm nay toàn chó cả thôi". Cơm xong, các quan gọi nước, mãi không thấy người nhà đưa lên vì ông đã dặn trước đừng đưa nên ai nấy đều khô cổ vì rượu. Một lúc sau, người nhà mang nước lên ông mắng: "Lũ chúng bay chỉ biết đứa lớn đứa nhỏ ngồi ăn hại, còn thì không biết việc nước...chó gì cả". Các quan đều tím mặt.
Với tam sao thất bản, giai thoại khác do Ông Ích Khiêm kể:
Một lần tại nơi Cao Bá Quát làm việc ở bộ Lễ, Quát chứng kiến một vụ cãi cọ giữa hai vị quan đồng sự, mới đầu hai người đấu khẩu nhau về một vụ gì đó, rồi sau tức giận quá đi đến ẩu đả. Bộ Lễ tâu lên vua để phân xử. Vua bắt lính dẫn cả hai bên và nhân chứng là Cao Bá Quát để xét hỏi. Từ xưa Quát vẫn ghét những quan đồng sự ở bộ, nên nhân dịp được vua truyền gọi đến làm chứng, Quát làm tờ khai sau đây, cốt để "chửi xỏ" tất cả bọn quan lại cùng làm việc ở bộ. Tờ khai bằng chữ nho như sau:
Tiền thần bất tri
Hậu thần bất tri
Trung gian thần tri
Đản kiến:
Thượng bàn hô cẩu!
Hạ bàn hô cẩu!
Thượng hạ giai cẩu.
Lưỡng tương đấu ẩu
Thần gián bất đắc
Thần kiến thế nguy
Thần hoảng thần tẩu.
Nghĩa là: "Trước ra sao, sau thế nào, thần không được biết. Thần đến lúc nửa chừng thấy bàn trên hô: "Chó!", bàn dưới cũng hô: "Chó!" Trên dưới đều là...chó. Rồi hai bên đánh nhau. Thần can không được. Thần thấy nguy, thần sợ thần chạy".
Tự Đức đọc tới câu: "Thượng hạ giai cẩu", biết Quát lợi dụng lời khai gọi tất cả là ...chó, nhưng vì lời khai đúng sự thực nên không làm gì được phải cho Quát ra về.
Thi Đình thời Nguyễn
(trích Lều Chõng của Ngô Tất Tố)
Bây giờ đến giờ làm văn, cống sĩ ai về chỗ nấy. Các quan văn võ đều phải ra hết ngoài viện Đãi lậu. Trong điện, tả vu cũng như hữu vu, mỗi bên có một tên lính đóng cửa đứng canh sân điện có viên tuần la và viên tuần sát đi lại tuần phòng, ở ngoài hai cửa túc môn thì có hai trăm biền binh của quan thị nội thống chế phái đến canh giữ.
Vân Hạc mới giở tập đầu bài đã thấy hoảng hồn. Làm sao mà nó dài thế ? Mười tờ giấy đặc, lỳ lịt những chữ là chữ. Coi qua một lượt thì thấy nửa trên hỏi về ý nghĩa các kinh truyện, tử sử của Tầu, nửa dưới hỏi về công việc hiện thời của nước nhà, tất cả đến gần trăm câu hỏi. Chàng liền gấp lại và chỉ để hở mấy dòng ở đầu cho lúc trông đến khỏi nóng ruột. Viết xong ba chữ "đối thần văn" và mấy câu chúc tụng nhà vua mà người ta gọi là đoạn "tụng thánh" chàng mới nhìn vào dòng chữ để hở ở đầu bài, rồi theo thứ tự từ trên xuống dưới lần lượt giả nhời từng câu hỏi một.
Cũng may, văn sách thi đình chỉ cần ý kiến, không cần văn chương mẹo luật như văn sách thi hương, thi hội, và quyển văn lại được viết thảo không cần phải viết chân phương, cho nên vừa nghĩ vừa viết cũng không lâu lắm. Chừng đến nửa buổi chàng đã trả lời được hai phần ba đầu bài. Vân Hạc viết lia viết lịa từ bấy giờ cho đến gần trưa, quyển văn đã hết già nửa, chàng suy nghĩ ba, bốn phút gì đó rồi lại cắm cổ mà viết. Quá trưa, bài làm đã xong chừng ba phần tư, vua lại ban đồ ăn nước uống, chàng và các cống sĩ lại phải ra sân quỳ nhận, rồi lại tạ ân năm lễ.
Trời nhá nhem tối, chàng viết vừa xong, các cống sĩ cũng đều xong cả, ai nấy đem quyển ra nộp cho quan tuần la. Bấy giờ biền binh ngoài cửa túc môn lại ngỏ cánh cửa cho các cống sĩ đi ra. Rồi quan giám thí đại thần và tất cả các viên quan khác đều phải trở lại trong điện. Ông thu quyển nhận quyển của ông tuần la giao lại, ông ấn quyển đóng dấu "Luân tài thịnh điển" vào các cuối quyển, ông di phong xếp quyển vào rương và dán niêm phong, rồi giao cho ông thu trưởng canh giữ. Các ông ấy đều phải ngủ ở triều phòng để ngày mai chầu chực nhà vua chấm văn.
Vân Hạc và các cống sĩ ra khỏi cửa điện thì trời tối mịt.
Thêm một giai thoại vào đời Tự Đức:
Kỳ Đồng vốn tên là Nguyễn Văn Cẩm, người Hưng Yên. Sinh cuối đời Tự Đức, thiên tư rất là đĩnh ngộ. Lúc bé, thân phụ là một nhà nho uyên bác bắt đầu dạy sách Tam tự kinh. Lên mười, Ngũ kinh, Tứ thư đều thông, vì ông chỉ trông qua là nhớ, mỗi ngày học đến trăm trang sách. Năm ấy, nhân có kỳ hạch ở tỉnh Hưng Yên, để năm sau thi Hương ở trường Nam Định. Khi các quan tỉnh và huấn đạo, giáo thụ, hội đồng ở Văn miếu, thấy ông còn nhỏ mà đã đi thi đều lấy làm lạ, cho gọi đến để ra câu đối:
"Khổng môn truyền đạo chư hiền, Tăng tử, Tử tư, Mạnh tử". Câu ra, khó và lắt léo; dùng ba chữ Tử, mà trong tên Tử tư chữ Tử ở trên. Còn tên Nhan tử, Mạnh tử hai chữ Tử đều ở dưới. Ông đối: "Chu thất khai cơ liệt thánh, Thái vương, Vương quý, Văn vương". Ông đối được hay, là có ba chữ Vương, Vương quý chữ Vương ở trên. Còn Thái vương, Văn vương, chữ Vương ở dưới.
Hồi ấy, nước ta trọng văn học, các quan thấy ông còn ít tuổi mà đã có kỳ tài, bèn làm sớ trong đó biên cả hai câu đối dâng về kinh. Tự Đức, xem thấy bèn sắc cho hai chữ KỳĐồng. Vì có chữ vua cho nên mọi người gọi ông là Kỳ Đồng.
Cách mấy năm sau, Pháp chiếm Bắc kỳ đặt cuộc bảo hộ. Ông lập đạo quân kéo lên khôi phục tỉnh thành. Người Pháp bắt ông, sau cho sang Pháp học. Học mấy năm thi đỗ Tú tài.
Ông Kỳ Đồng là người thi đỗ Tú tài Pháp trước nhất ở nước ta.
Về nước năm 1897, đời Thành Thái, ông lên Yên Thế liên lạc với Đề Thám. Pháp có ý lo ngại nên bắt ông đi đầy ở Tahiti. Ông lập gia đình với người bản xứ, theo nhà văn Nguyễn Tuân, sau thành bạn của họa sĩ Gauguin. Ông mất năm 1928 tại Tahiti.
Vị tam nguyên thứ năm là Vũ Phạm Hàm, người Hà Đông, đỗ Giải nguyên, Hội nguyên và Đình nguyên đời Thành Thái. Lý do là ông nổi tiếng có trí nhớ dai, nhưng không thấy ông để lại một tác phẩm nào cả về chữ Hán lẫn chữ Nôm ngoài...một số câu đối.
***
Sau Thành Thái, Duy Tân là Khải Định, vua nổi tiếng là giỏi chữ Hán và chữ Nôm, dưới đày là một câu đối trên rặt Nôm, dưới ròng Hán của vua:
"Xuân xanh tuổi ngoài đôi chục, chơi đục trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi năm canh ngồi nhà hát, khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tầu con đĩ xác, khi nằm rạp thuốc phiện tiêm, hoanh ra dáng rạng ra rồng, ngông ra phết, cóc biết chi tồi, miệng én đưa qua mùi gió thoảng". "Quốc gia lịch tứ thiên dư, do truyền nhân vật, như Tô như Duật, như Phật Tử Quân, như Trần Quốc Tuấn, như Phạm Công thượng tướng quân, như Bạch Vân phu tử, như ngự sử Lê Cảnh Tuân, như công thần Nguyễn Công Trứ, tài chi tuấn thời chi tuế, thế chi ư, khí nhưng nhiên phủ, thần long đắc vũ tiện vân đằng".
Thời Khải Định, Huỳnh Thúc Kháng phê bình lối học Tống nho: "Mình nhận với học khoa cử cùng lối học Tống nho là lối học tầm chương Khổng Mạnh. Chính là chỗ hỏng, chỗ dở của người Tàu mà minh bắt chước". Phan Chu Trinh xuất thân nho học, đỗ tiến sĩ, trong Văn tế sống các sĩ tử viết thêm: "Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc". Phan Bội Châu trong Việt Nam quốc sử khảo cho biết thêm "Triều Tiên bỏ thi cử theo Trung Hoa từ năm Giáp Ngọ 1894. Trung Hoa cũng bỏ khoa cử từ năm Canh Tý 1900. Đó là một việc nhơ nhớp duy chỉ nước ta còn có mà thôi". Và tiếp: "Người ta mửa ra thì mình nuốt vào, mở miệng ra chỉ biết chi, hồ, dã, giả mà thôi".
Báo trước cho sự cáo chung của nền khoa cử Nho học là nghị định ngày 21/12/1917 của Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut về việc cho ban hành Quy chế chung về ngành giáo dục ở Đông dương. Và phải đợi đến chấm dứt Chiến tranh đệ nhất thế chiến, nhà Nguyễn mới..."chấm dứt" kỳ thi Hương cuối cùng tại trường thi Nam Định vào năm 1915Nghệ An, Bình Định năm 1918. Và phải chờ đến khi Albert Sarraut ra lệnh đình chỉ khoa cử Tống Nho bằng vào khoa thi Hội. Ngày 01/3 năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ 4, ngày 01/4/1919 triều đình Huế mở khoa thi Hội cuối cùng được tổ chức dưới triều nhà Nguyễn và cũng là khoa thi cuối cùng của nền khoa cử nước ta.
Như vậy, kể từ khoa thi đầu tiên được tổ chức vào năm Ất Mão (1075) dưới đời Lý Nhân Tông đến khoa thi năm Kỷ Mùi (1919) dưới đời Nguyễn Bửu Đảo Khải Định, lịch sử nền khoa cử sau ngót 900 năm tồn tại đã có tất cả 188 khoa thi (đại khoa), lấy đỗ được 2898 vị, trong đó có 46 Trạng nguyên, 48 Bảng nhãn, 76 Thám hoa, 2462 Tiến sĩ và 266 Phó bảng.
Khải Định hạ chiếu chính thống hóa văn tự An Nam và ban cho tên mới là Quốc ngữ vào năm 1918. Bước sang một khúc quanh khác khởi đầu từ năm 1914, nhà nho Thương thư Lệ thần Trần Trọng Kim (1882-1953) viết những tác phẩm Việt Nam sử lược I & II (1928), Nho giáo I & II (1930),Đường thi (1944),với...4000 năm văn hiến.
***
Năm cùng tháng tận, theo bước chân đi cụ cuồng chữ Cao Bá Quát...nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ(10). Thôi thì năm hết Tết đến, thơ thơ thẩn thẩn học mót cụ cuồng chữ Cao Chu Thần với...nhai văn nhá chữ buồn ta, con giun còn biết đâu là cao sâu! (11) Bèn đốt lò hương cũ cảo mực đề văn với ao nghiên ruộng chữ tam sao thất bản cũng không ngoài...xếp tàn y lại để dành hơi.
 
Thạch trúc gia trang
Lập đông, Quý Tỵ 2013
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
Nguồn: Võ Thu Tịnh, Trần Bích San,
Nguyễn Thị Chân Quỳnh.. Phụ chú:
(1) - Trích thơ Cao Bá Nhạ (con Cao Bá Đạt, anh em sinh đôi với Cao Bá Quát):
Thú thôn ở ao nghiên ruộng chữ
Màu giang sơn cơm áo sử kinh
(2) - Tứ thư gồm có Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học và Trung Dung. Ngũ Kinh gồm Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch và Kinh Xuân Thu.
(3) - Khởi đầu có tên là Văn thánh miếu, dựng tháng 8 năm Canh Tuất 1070 đời Lý Thánh Tông, phía tây nam thành Thăng Long, thờ Khổng Tử và Chu Công tại chính điện, thêm Tứ phối là Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư va Mạnh tử. Lúc đầu dậy con vua, sau mở khoa thi tam trường, cho quan viên, văn chức vào học nên được gọi là Quốc tử giám, trong số những học quan đứng đầu là Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An. Gia Long mở trường Quốc tử giám ở xã Yên Ninh, phía tây thành nội Huế, chính điện thờ Khổng Tử, hai bên là thần vị Tứ phối, phía đông và tây thờ Thập nhị triết, trước sân là tả vu và hữu vu, thờ Thất thập nhị hiền, phía nam là khu dựng bia tiến sĩ triều Nguyễn.
(4) - Nguyễn Tuân đã nhầm lẫn ở hai khoa thi Hương: Khoa thi Ất Mão (1915) là khoa thi cuối cùng ở miền Bắc. Còn Khoa thi Mâu Ngọ (1918) là khoa thi cuối ở miền Trung.
(5) - Muốn thi Hương phải qua một kỳ thi Hạch được quan Đốc học ở tỉnh tổ chức mỗi năm một lần. Ai đỗ mới được thi Hương và gọi là khóa sinh, nhiêu sinh. Từ đó dân gian mới gọi là "anh nhiêu, anh khóa. Ai đỗ đầu kỳ thi Hạch được gọi là "Đầu Xứ".
(6) - Triều đình có thể lấy thêm người này bớt người kia hay thay đổi thứ bậc. Cao Bá Quát (1808-1854).đồ Á nguyên trường thi Hà Nội 1831, bị bộ Lễ xếp xuống cuối bảng.
(7) - Chữ đẹp được tăng điểm, chữ xấu có thể bị đánh hỏng như trường hợp Nguyễn Văn Siêu người Hà Nội (1796-1872). Thi Hương đỗ đầu, bị xếp xuống hàng thứ hai. Thi Hội khóa đỗ tiến sĩ bị xếp xuống hàng phó bảng chỉ vì chữ "như gà bới". Tự Đức trêu: "Thần đâu mà chữ xấu như ma - Lem lọ cho người ngó chẳng ra - Nếu phải họa bù trừ quỷ tặc - Khôn thiêng thì hãy hộ Hoàng gia". (Theo Giai thoại Thăng Long).
(8) - Sĩ tử trường thi Hà Nội gồm các tỉnh: Hà Nội, Hưng Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng.
(9) - Sĩ tử trương thi Nam Định gồm các tỉnh: Nam Định, Hải Dương và Quảng Yên.
(10)- Thời bấy giờ có ông Nguyễn Văn Siêu nổi tiếng là hay chữ. Được biết ông Siêu dạy học ở Hà Nội, ông Quát từ Bắc Ninh sang Hà Nội đến trường của ông Siêu dạy để nghe giảng bài. Ông Quát tới nơi, đứng cửa sổ dòm vào, thấy một ông đồ khoảng 25, 26 tuổi, ngồi trên một cái chõng cũ siêu vẹo, học trò thì ngồi lê la dưới đất, chứng tỏ là một lớp học nghèo. Thầy đồ Siêu nhìn thấy một anh chàng trẻ tuổi chừng mười lăm, mười sáu, thơ thẩn đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, thầy đồ hỏi: "Anh đi đâu mà đứng ở đây?". Ông Quát trả lời: "Tôi là học trò đi qua trường thấy thầy giảng văn muốn xin thầy cho vào nhập học". Ông Siêu muốn thử tài học của Quát, bèn nói: "Nếu thật anh là học trò, thì anh đối thử vế đối này":
- Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót két két.
(Ông thầy ngồi trên chõng, (chõng kêu) cót két, két cót, cót cót két két).
Ông Quát đối lại:
- Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ.
(Trò nhỏ vào sân trường, (đi) thẩn thơ, thơ thẩn, thẩn thẩn thơ thơ.
Nguyễn Văn Siêu nghe vế đối tài tình rất phục, mời vào trong ngồi, hỏi tên tuổi và lai lịch mới biết là Cao bá Quát ở Bắc Ninh, là người mà ông đã nghe tiếng đồn là "cuồng chữ". Về sau cả hai trở thành đôi bạn thân thiết mặc dầu tuổi tác chênh lệch, rồi hai ông nổi tiếng khắp nơi, được người đời khen tặng là "Thần Siêu thánh Quát".
(11) - Thơ Cao Bá Quát khi đi Tân Gia Ba 1843: "Nhai văn nhá chữ buồn ta - Con giun còn biết đâu là cao sâu! - Tân-gia từ biệt con tầu - Mới hay vũ trụ một bầu bao la".

Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015

Thông tư số 07/2014/TT-BNNPTNT

Ngày 10/2/2014, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 07/2014/TT-BNNPTNT, Hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

THÔNG TƯ
Hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng
trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn




Căn cứ Nghị định số 199/2013/NĐ-CP ngày 26/11/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Căn cứ Luật Thi đua khen thưởng ngày 26/11/2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng ngày 14/6/2005;
Căn cứ Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Nghị định 39/2012/NĐ-CP ngày 27/4/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP của Chính phủ;
Căn cứ Thông tư số 02/2011/TT-BNV ngày 24/01/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị  định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ;
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Chương I
QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Thông tư này hướng dẫn về công tác thi đua, khen thưởng, thủ tục khen thưởng và quỹ thi đua, khen thưởng trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
2. Thông tư này không áp dụng đối với việc xét tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Nông nghiệp và Phát triển nông thôn” và Giải thưởng Bông lúa vàng Việt Nam.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Thông tư này áp dụng đối với tập thể, cá nhân, cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ, Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam, Tổng công ty doanh nghiệp có vốn Nhà nước, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội, Hiệp hội hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, các cơ quan, tổ chức, cá nhân ngoài ngành và tổ chức, cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài có thành tích tham gia, đóng góp cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Điều 3. Mục tiêu công tác thi đua, khen thưởng
1. Mục tiêu công tác thi đua: khuyến khích, động viên tập thể, cá nhân tự giác tham gia các phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan, đơn vị phát động, tạo môi trường, động lực thi đua, phấn đấu  hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
2. Mục tiêu công tác khen thưởng: ghi nhận, vinh danh thành tích của tập thể, cá nhân tích cực tham gia các phong trào thi đua, đóng góp vào sự phát triển chung của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Điều 4. Nguyên tắc thi đua, khen thưởng
1. Nguyên tắc thi đua:
a) Thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, tự giác, công khai; đoàn kết, hợp tác và cùng phát triển;
b) Tập thể, cá nhân tham gia phong trào thi đua phải đăng ký thi đua, không đăng ký thi đua thì không được xem xét, công nhận các danh hiệu thi đua;
c) Phong trào thi đua phải được duy trì thường xuyên, xác định mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp tổ chức phong trào thi đua phải thiết thực, cụ thể, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
2. Nguyên tắc khen thưởng:
a) Khen thưởng phải được thực hiện chính xác, công khai, công bằng, kịp thời;
b) Khen thưởng phải đúng thành tích (thành tích đến đâu khen thưởng đến đó);
c) Một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng trong các lần thi đua khác nhau;
d) Kết hợp giữa động viên tinh thần với khuyến khích vật chất.

Chương II
CÔNG TÁC THI ĐUA

Điều 5. Các hình thức thi đua
1. Thi đua thường xuyên:
Là hình thức thi đua do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam, Tổng công ty doanh nghiệp có vốn Nhà nước, Hội, Hiệp hội, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (gọi chung là đơn vị) căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao tổ chức phát động phong trào thi đua và được tổ chức thực hiện hàng năm.
2. Thi đua theo đợt hoặc thi đua theo chuyên đề:
a) Là hình thức thi đua nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, đột xuất theo từng giai đoạn, thời gian được xác định; nội dung có tính chất chuyên môn, ngành nghề;
b) Thi đua theo đợt được phát động phải xác định rõ mục đích, yêu cầu, chỉ tiêu thi đua và thời gian hoàn thành; tổ chức thi đua theo quy mô ở một đơn vị, một công trình xây dựng, một lĩnh vực công tác, hoặc toàn ngành; nội dung thi đua phải thiết thực, cách làm sáng tạo, có sức lôi cuốn các tập thể, cá nhân tích cực tham gia.
Điều 6. Nội dung tổ chức phong trào thi đua
1. Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên hoặc đột xuất của ngành, lĩnh vực, địa phương, đơn vị trong từng giai đoạn để phát động phong trào thi đua.
2. Xác định rõ mục đích, yêu cầu, phạm vi, đối tượng và nội dung thi đua để xây dựng chỉ tiêu thi đua, thời gian và giải pháp tổ chức thực hiện; việc xác định, lựa chọn đặt tên phong trào thi đua phải ngắn gọn, dễ nhớ.
3. Căn cứ vào đặc điểm, tính chất công việc, đối tượng tham gia của các khối thi đua, các cơ quan, đơn vị, địa phương để tổ chức phát động phong trào thi đua cho phù hợp; tại lễ phát động, tổ chức đăng ký thi đua và ký giao ước thi đua.
4. Tổ chức tuyên truyền để duy trì và đẩy mạnh phong trào, nhằm khuyến khích, thu hút đông đảo cá nhân, tập thể tham gia, phát hiện và nhân rộng điển hình, nhân tố mới.
5. Lựa chọn tổ chức chỉ đạo điểm phong trào thi đua để rút kinh nghiệm, nhân rộng. Chú trọng công tác kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện phong trào thi đua.
 6. Tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả, tác dụng, những tồn tại, hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm để tiếp tục đẩy mạnh hoặc chuẩn bị nội dung và các điều kiện cần thiết để phát động phong trào thi đua mới.
7. Xét chọn tập thể, cá nhân tiêu biểu, xuất sắc để khen thưởng, đề nghị cấp trên khen thưởng và chú trọng công tác tổ chức tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến, nhân tố mới.
Điều 7. Tổ chức, hoạt động Khối thi đua
1. Tổ chức, hoạt động của Khối thi đua:
a) Tổ chức Khối thi đua: Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị trong các lĩnh vực công tác có tính chất công việc giống nhau hoặc tương đối giống nhau, có tính đến yếu tố địa lý, Bộ phân chia khối thi đua (Phụ lục 1 kèm theo Thông tư này), để tổ chức hoạt động liên kết khối, nhiệm vụ Khối trưởng, Khối phó khối thi đua thực hiện theo cơ chế luân phiên hoặc do các thành viên trong khối bình bầu.
b) Hoạt động của Khối thi đua:
Hàng năm, Khối trưởng khối thi đua chủ trì, phối hợp với Khối phó và các thành viên trong khối chuẩn bị nội dung giao ước thi đua, ban hành Quy chế hoạt động, Bảng chấm điểm về tổng hợp thành tích xét tặng Cờ thi đua của Khối.  
Bộ chỉ xem xét phê duyệt nội dung giao ước thi đua, Quy chế hoạt động, Bảng chấm điểm về tổng hợp thành tích xét tặng Cờ thi đua của khối do Khối trưởng trình trong năm 2014. Các năm tiếp theo, Bộ xem xét phê duyệt nội dung giao ước thi đua do khối trình.
Khối trưởng khối thi đua chịu trách nhiệm về kế hoạch kinh phí tổ chức các hoạt động chung của khối; chủ trì phối hợp tổ chức thực hiện công tác sơ kết, tổng kết phong trào thi đua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ tổ chức phong trào thi đua của khối; trao đổi kinh nghiệm, xây dựng các mô hình mới, các điển hình tiên tiến trong khối.
Tổ chức Hội nghị tổng kết năm của khối, bình chọn, suy tôn đơn vị có thành tích xuất sắc, tiêu biểu trong khối để đề nghị xét tặng Cờ thi đua của Chính phủ, Cờ thi đua của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông qua việc xem xét, đánh giá hiệu quả tổ chức, hoạt động các phong trào thi đua và tự đánh giá, chấm điểm theo quy định.
Thời gian Tổ chức Lễ ký kết giao ước thi đua vào đầu quý I hàng năm và tổng kết khối, trình Bộ xét tặng Cờ thi đua của Bộ trước ngày 30/11 hàng năm (hoặc kết hợp tổ chức một lần vào dịp tổng kết khối trước ngày 15/11). Riêng khối các Trường học tổ chức Lễ ký kết giao ước thi đua và tổng kết trình xét tặng Cờ thi đua trước ngày 30/7 hàng năm.
          2. Tỷ lệ bình bầu các Khối thi đua
a) Hàng năm, mỗi khối thi đua căn cứ vào kết quả thực hiện các phong trào thi đua xét chọn 01 đơn vị dẫn đầu (đối với khối có dưới  6  đơn vị), xét chọn  02 đơn vị dẫn đầu (đối với khối có từ 7 - 10 đơn vị) và xét chọn 03 đơn vị dẫn đầu (đối với khối có trên 10 đơn vị) đề nghị Bộ trưởng tặng Cờ thi đua của Bộ và lựa chọn 01 đơn vị xuất sắc nhất của mỗi khối trong số các đơn vị được tặng Cờ thi đua của Bộ để đề nghị tặng Cờ thi đua của Chính phủ (trừ khối Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn); 
b) Đối với khối Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xét chọn 02 đơn vị dẫn đầu (đối với khối có  dưới 7 đơn vị), xét chọn 03 đơn vị dẫn đầu (đối với khối từ 7-12 đơn vị), xét chọn 04 đơn vị dẫn đầu (đối với khối có từ 13 đơn vị trở lên) đề nghị Bộ trưởng tặng Cờ thi đua của Bộ; 
c) Bộ chỉ xét tặng Cờ thi đua của Bộ và đề nghị tặng Cờ thi đua của Chính phủ cho các đơn vị có tham gia hoạt động thi đua trong  khối và Tờ trình của Trưởng các khối thi đua.
          Điều 8. Tổ chức thi đua trong các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ
          1. Đối với tập thể, giao ước thi đua hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao, đạt danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc, Tập thể lao động tiên tiến và cờ thi đua. Phạm vi giao ước thi đua đối với tập thể được tổ chức giữa các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ và các tập thể trong cơ quan, đơn vị. 
          2. Đối với cá nhân, giao ước thi đua phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở, Chiến sỹ thi đua cấp Bộ, Chiến sỹ thi đua toàn quốc. Phạm vi giao ước thi đua đối với cá nhân được tổ chức trong nội bộ đơn vị cơ sở (từ cấp tổ, đội, phòng, khoa, phân xưởng…).
          Điều 9. Thẩm quyền phát động phong trào thi đua
1. Cấp Bộ: Bộ trưởng ban hành Chỉ thị, văn bản chỉ đạo hoặc trực tiếp phát động phong trào thi đua thường xuyên, thi đua theo đợt, theo chuyên đề.
2. Cấp cơ sở: Thủ trưởng đơn vị căn cứ Chỉ thị của Bộ trưởng và chức năng nhiệm vụ được giao, tổ chức phát động phong trào thi đua ở đơn vị mình, đề ra chỉ tiêu, biện pháp tổ chức thực hiện và thời gian hoàn thành cho từng phong trào, hướng vào việc giải quyết nhiệm vụ trọng tâm, đột xuất ở cơ sở.

Chương III
CÔNG TÁC KHEN THƯỞNG

Điều 10. Các loại hình khen thưởng
1. Khen thường xuyên: là hình thức khen thưởng được tiến hành hàng năm cho tập thể, cá nhân đã đạt được thành tích xuất sắc sau khi kết thúc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm hoặc nhiều năm.
2. Khen thưởng theo đợt (hoặc theo chuyên đề): là hình thức khen thưởng cho tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, tiêu biểu sau khi kết thúc thực hiện một đợt thi đua; thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, đột xuất từng thời kỳ; thực hiện một công trình, chương trình, dự án, hoặc một chuyên đề công tác do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị phát động thi đua và tổ chức thực hiện.
3. Khen thưởng đột xuất: là hình thức khen thưởng cho tập thể, cá nhân lập thành tích xuất sắc đột xuất (thành tích lập được trong hoàn cảnh không được dự báo trước, diễn ra ngoài dự kiến công việc bình thường mà tập thể, cá nhân phải đảm nhận), có hành động dũng cảm trong bảo vệ tài sản, cứu hộ, cứu nạn, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, phòng chống cháy rừng … trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.
4. Khen thưởng quá trình cống hiến: là hình thức khen thưởng cho cá nhân giữ chức vụ lãnh đạo từ Phó Vụ trưởng và tương đương trở lên có quá trình công tác, có công lao, thành tích đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của đảng và dân tộc; sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
         5. Khen thưởng đối ngoại: khen thưởng cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang công tác, lao động, học tập, sản xuất kinh doanh tại Việt Nam; tổ chức, cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có nhiều thành tích, đóng góp cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Điều 11. Quy định về công tác khen thưởng, tuyến trình khen thưởng,  tổ chức trao tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng
1. Quy định về công tác khen thưởng:
a) Cấp nào quản lý về tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, quỹ lương thì cấp đó có trách nhiệm khen thưởng và trình cấp trên xét khen thưởng;
b) Đối với các Hội, Hiệp hội hoạt động trong các lĩnh vực thuộc ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn do Bộ khen thưởng hoặc trình cấp trên xét khen thưởng;
c) Đối với các công ty cổ phần, kể cả công ty, tổng công ty đã chuyển giao phần vốn nhà nước về Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước quản lý, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Việc xét, trình khen thưởng theo nguyên tắc cấp nào quyết định cổ phần hóa, quyết định thành lập tổ chức thì cấp đó xem xét quyết định khen thưởng.
Đối với các công ty cổ phần (trước khi cổ phần hóa là doanh nghiệp thành viên của Tập đoàn, các Tổng công ty), công ty TNHH một thành viên việc bình xét các danh hiệu thi đua, các hình thức khen thưởng cho các tập thể, cá nhân của công ty (thuộc thẩm quyền của Bộ), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao cho Hội đồng Thi đua Khen thưởng của Tập đoàn, các Tổng công ty tổ chức bình xét, trình Bộ. Đối với các doanh nghiệp độc lập, cấp nào quyết định cấp giấy phép thành lập, cấp đó có trách nhiệm xét trình khen thưởng theo quy định;
d) Cấp nào chủ trì phát động các đợt thi đua theo đợt, theo chuyên đề, khi tổng kết đợt phát động thì cấp đó khen thưởng hoặc trình cấp trên xét khen thưởng. Việc khen thưởng chủ yếu là tự khen thưởng ở cấp mình, trường hợp thành tích đặc biệt xuất sắc, có tác dụng lớn thì đề nghị cấp trên xét khen thưởng. Các phong trào thi đua theo đợt, theo chuyên đề có thời gian từ 05 năm trở lên, có thành tích đặc biệt xuất sắc mới đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen hoặc Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba (chủ yếu khen thưởng cho đối tượng là tập thể nhỏ, người lao động trực tiếp);
đ) Trong một năm, không trình hai hình thức khen thưởng từ cấp Bộ trở lên cho một đối tượng, trừ các trường hợp khen thưởng thành tích đột xuất hoặc theo chuyên đề.
Ví dụ: đơn vị trình xét khen thưởng năm 2013 cho ông Nguyễn Văn A, chỉ được trình Bộ xét một trong ba hình thức là Bằng khen của Bộ trưởng hoặc Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ hoặc Huân chương Lao động;
e) Các trường hợp đề nghị tặng thưởng Huân chương có tiêu chuẩn liên quan đến Bằng khen Thủ tướng Chính phủ, thì sau 2 năm được tặng Bằng khen Thủ tướng Chính phủ mới đề nghị xét tặng Huân chương.
Ví dụ: Kết thúc năm 2012, ông Nguyễn Văn A được đề nghị xét khen thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và đến tháng 10/2013 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định tặng thưởng bằng khen đối với ông Nguyễn Văn A thì đến tháng 10/2015 ông Nguyễn Văn A mới đủ thời gian để xét trình khen thưởng Huân chương;
g) Quy định thời gian 05 năm hoặc 10 năm để làm mốc thời gian đề nghị khen thưởng cho lần tiếp theo: là thời gian tính từ khi ghi nhận kết quả khen thưởng lần trước, tính đến thời điểm khen thưởng lần sau phải đủ 05 năm hoặc 10 năm trở lên.
2. Tuyến trình khen thưởng:
          Tuyến trình khen thưởng được thực hiện theo nguyên tắc: cấp trên chỉ tổ chức xét khen thưởng hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng khi nhận được hồ sơ đề nghị khen thưởng của cấp dưới trực tiếp, không nhận hồ sơ gửi vượt cấp.
3. Tổ chức trao tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng:
Nghi thức tổ chức trao tặng, đón nhận hình thức khen thưởng và danh hiệu thi đua thực hiện theo Nghị định số 145/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 của Chính phủ và Hướng dẫn số 4422/HD-BNN-TCCB ngày 12/12/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về Hướng dẫn nghi thức tổ chức trao tặng, đón nhận hình thức khen thưởng và danh hiệu thi đua.
Điều 12.  Danh hiệu chiến sĩ thi đua
          1. Danh hiệu chiến sĩ thi đua:
Cá nhân đề nghị xét tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua phải có các giải pháp công tác, sáng kiến, đề tài nghiên cứu có ảnh hưởng quy mô cấp đơn vị, cấp Bộ, ngành hoặc cấp toàn quốc được Hội đồng sáng kiến các cấp xét công nhận; các giải pháp, sáng kiến, đề tài nghiên cứu phải có “tên”, “nội dung”, “tác dụng/hiệu quả” (theo mẫu được quy định tại phụ lục 3 của Thông tư này) trong 01 năm đối với danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở, 03 năm đối với danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, hoặc 6 năm với danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc.
2. Quy định tỷ lệ Chiến sĩ thi đua cơ sở:
Tỷ lệ xét công nhận danh hiệu Chiến sỹ thi đua cơ sở hàng năm tại khối các cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước trực thuộc Bộ không quá 20% trong tổng số cá nhân được công nhận danh hiệu Lao động tiên tiến của cơ quan, đơn vị, trong đó lãnh đạo (những người được hưởng phụ cấp trách nhiệm) chiếm không quá 50%. Đối với các khối khác, căn cứ vào số lượng công chức, viên chức, người lao động và điều kiện thực tế của đơn vị để tự quy định tỷ lệ cụ thể, nhưng không quá 20% tổng số công chức, viên chức, người lao động của đơn vị.
Điều 13. Bằng khen của Bộ trưởng
1. Khen thường xuyên:
a) Tập thể: Xét chọn những tập thể có thành tích xuất sắc nhất trong số những tập thể 02 năm liên tục đạt danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc.
b) Cá nhân: xét chọn những cá nhân xuất sắc nhất trong số những cá nhân 2 năm liên tục đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở. Khi trình Bộ, phải có quyết định tặng thưởng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở trong 02 năm;
         c) Đối với tập thể, cá nhân trong năm được tặng thưởng hình thức khen thưởng thường xuyên cấp Nhà nước hoặc cấp tỉnh, cấp bộ, ngành trung ương thì năm liền kề không trình khen thưởng Bằng khen của Bộ trưởng.
          Ví dụ: Trong năm 2013 đơn vị A nhận được quyết định tặng thưởng một trong các hình thức: Huân chương Lao động, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bằng khen của UBND tỉnh B, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ C…thì năm 2014 không trình Bộ xét khen thưởng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
d) Đối với các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Xét tặng thưởng Bằng khen của Bộ trưởng hàng năm cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc nhất trong số những tập thể, cá nhân “Có nhiều thành tích xuất sắc đóng góp vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn”.
2. Các loại hình khen thưởng khác: được thực hiện theo quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 10 của Thông tư này.
Điều 14. Thẩm quyền xét, đề nghị và quyết định khen thưởng của Bộ trưởng
          1. Xét trình Thủ tướng Chính phủ tặng Cờ thi đua của Chính phủ, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, danh hiệu Chiến sỹ thi đua toàn quốc; xét trình Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương các loại và danh hiệu Anh hùng Lao động.
          2. Quyết định:
          a) Tặng thưởng danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc cho các đơn vị trực thuộc Bộ (trừ  Tổng cục, Viện đặc biệt, Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam, Tổng công ty);
          b) Tặng Cờ thi đua của Bộ, danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp Bộ, Bằng khen của Bộ trưởng.
          3. Hiệp y khen thưởng theo đề nghị của Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương cho tập thể, cá nhân theo quy định.
4. Ủy quyền Thủ trưởng cơ  quan, đơn vị trực thuộc Bộ, Viện đặc biệt, Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam, Tổng công ty Nhà nước, Chủ tịch Hội, Hiệp hội quyết định khen thưởng danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc cho các đơn vị thành viên và đề nghị khen thưởng theo thẩm quyền được quy định tại Luật Thi đua, Khen thưởng.
Điều 15. Hội đồng Thi đua Khen thưởng
1. Hội đồng Thi đua Khen thưởng cấp Bộ:
Hội đồng Thi đua Khen cấp Bộ do Bộ trưởng quyết định thành lập với thành phần sau đây:
Chủ tịch: Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Các Phó chủ tịch: Thứ trưởng phụ trách công tác thi đua khen thưởng; Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Chủ tịch Công đoàn Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam;
Các thành viên Hội đồng: Phó Bí thư Đảng ủy Bộ, Chánh Văn phòng Bộ, Chánh Thanh tra Bộ, Phó vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ phụ trách lĩnh vực thi đua khen thưởng và lãnh đạo các cơ quan, đơn vị liên quan.  
Cơ quan chuyên môn giúp việc: Phòng Thi đua, khen thưởng thuộc Vụ Tổ chức cán bộ và Tổ thẩm định thành tích khen thưởng.
Thư ký: Trưởng Phòng Thi đua Khen thưởng, Vụ Tổ chức cán bộ.
Bộ trưởng quyết định ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng.
2. Hội đồng Thi đua Khen thưởng cấp cơ sở:
Hội đồng Thi đua khen thưởng cấp cơ sở do Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quyết định thành lập với thành phần sau đây:
Chủ tịch: Là Thủ trưởng cơ quan, đơn vị;
Thành phần Hội đồng Thi đua khen thưởng gồm: Bí thư (Phó bí thư) Đảng ủy, người đứng đầu các tổ chức đoàn thể, trưởng đơn vị (bộ phận) tham mưu công tác thi đua khen thưởng;
Căn cứ vào điều kiện cụ thể để cơ cấu thành phần Hội đồng cho phù hợp.
Thủ trưởng đơn vị quyết định ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng.
3. Nhiệm vụ của Hội đồng Thi đua Khen thưởng:
Hội đồng Thi đua Khen thưởng các cấp (cấp cơ sở và cấp Bộ) tham mưu, tư vấn cho Bộ trưởng (cấp Bộ), Thủ trưởng các đơn vị (cấp cơ sở) về công tác thi đua khen thưởng trong ngành nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc tại cơ quan, đơn vị. Hội đồng Thi đua Khen thưởng có nhiệm vụ:
Tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác thi đua khen thưởng, tổ chức các phong trào thi đua của ngành, đơn vị;
Đôn đốc, kiểm tra, giám sát và đề xuất sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách về công tác thi đua, khen thưởng của các đơn vị trong ngành;
Theo dõi và định kỳ đánh giá công tác thi đua khen thưởng; kiến nghị, đề xuất với Bộ, Thủ trưởng cơ quan đơn vị đề ra các chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phong trào thi đua (thường xuyên, theo đợt hoặc theo chuyên đề);
Xét chọn những tập thể, cá nhân trong và ngoài ngành có thành tích xuất sắc đóng góp cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn, đề nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan đơn vị  khen thưởng và trình cấp trên khen thưởng theo quy định.      
Điều 16. Hội đồng sáng kiến:
1. Hội đồng sáng kiến cấp Bộ:
Hội đồng sáng kiến cấp Bộ do Bộ trưởng quyết định thành lập với những thành viên sau đây:
Chủ tịch: Thứ trưởng phụ trách thi đua khen thưởng hoặc Thứ trưởng phụ trách khoa học của Bộ.
Phó chủ tịch: Phó chủ tịch Hội đồng Thi đua, Khen thưởng Bộ;
Các ủy viên: Lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị thuộc Bộ;
Thư ký: Trưởng Phòng Thi đua, khen thưởng, Vụ Tổ chức cán bộ.
Bộ trưởng quyết định ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng.
2. Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở:
Hội đồng sáng kiến cơ sở do Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quyết định thành lập gồm với thành phần sau đây:
Chủ tịch: Là Thủ trưởng cơ quan, đơn vị;
Thành phần Hội đồng gồm những người có trình độ quản lý chuyên môn, kỹ thuật, có năng lực đánh giá, thẩm định các sáng kiến cải tiến hoặc các giải pháp, đề tài trong quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Thủ trưởng đơn vị quyết định ban hành Quy chế làm việc của Hội đồng.
3. Nhiệm vụ của Hội đồng sáng kiến:
Hội đồng sáng kiến các cấp (cơ sở và cấp Bộ) có nhiệm vụ xem xét, đánh giá và quyết định công nhận các đề xuất trong đề tài nghiên cứu khoa học, các sáng kiến, giải pháp công tác của các cá nhân được đề nghị.
Quyết định công nhận của Hội đồng sáng kiến được đơn vị gửi trong hồ sơ đề nghị Hội đồng Thi đua, Khen thưởng cấp Bộ xét, trình Bộ trưởng công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, hoặc đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng thưởng danh hiệu Chiến sỹ thi đua toàn quốc.

Chương IV
THỦ TỤC KHEN THƯỞNG

Điều 17. Hồ sơ xét tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, Chiến sĩ thi đua toàn quốc
Hồ sơ trình Bộ xét khen thưởng: Đối với danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp Bộ gồm 01 bộ (bản chính); đối với danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc gồm 03 bộ (bản chính); gồm có:
1. Tờ trình đề nghị khen thưởng của Thủ trưởng đơn vị (theo mẫu số 1, phụ lục 2 của Thông tư này).
2. Biên bản họp Hội đồng Thi đua khen thưởng của đơn vị (theo mẫu số 2 phụ lục 2 của Thông tư này).
3. Báo cáo thành tích của cá nhân đề nghị tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp Bộ”, “Chiến sĩ thi đua toàn quốc” (theo mẫu số 4, phụ lục 2 của Thông tư này).
4. Báo cáo tóm tắt sáng kiến, giải pháp công tác, đề tài nghiên cứu khoa học của cá nhân (theo mẫu số 1, mẫu số 3 của phụ lục 3 Thông tư này).
5. Xác nhận của Cục thuế cấp tỉnh, thành phố đối với thủ trưởng các đơn vị thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước (Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc). Số năm xác nhận thuế tương ứng với số năm trong báo cáo thành tích.
Điều 18. Hồ sơ xét tặng Cờ thi đua Chính phủ, Cờ thi đua của Bộ, Tập thể Lao động xuất sắc
Hồ sơ trình Bộ xét khen thưởng: Đối với Cờ thi đua của Bộ, Tập thể Lao động xuất sắc gồm 01 bộ (bản chính); Cờ thi đua của Chính phủ gồm 03 bộ (bản chính), gồm có:
1. Tờ trình của Thủ trưởng đơn vị (theo mẫu số 1, phụ lục 2 của Thông tư này).
2. Biên bản họp Hội đồng Thi đua khen thưởng của đơn vị (theo mẫu số 2, phụ lục 2 của Thông tư này).
3. Báo cáo thành tích của tập thể đề nghị khen thưởng (theo mẫu số 3, phụ lục 2 của Thông tư này).
4. Xác nhận của Cục thuế cấp tỉnh, thành phố về thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước của đơn vị. Số năm xác nhận thuế tương ứng với số năm trong báo cáo thành tích.
Điều 19. Hồ sơ xét tặng Huân chương các loại, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Bộ trưởng
Hồ sơ trình Bộ đối với Huân chương các loại gồm 04 bộ (bản chính), Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ gồm 03 bộ (bản chính), Bằng khen của Bộ trưởng 01 bộ (bản chính), gồm có:
1. Tờ trình của Thủ trưởng đơn vị (theo mẫu số 1, phụ lục 2 của Thông tư này).
2. Biên bản họp Hội đồng Thi đua khen thưởng của đơn vị (theo mẫu số 2 phụ lục 2 của Thông tư này).
3. Báo cáo thành tích của tập thể, cá nhân đề nghị khen thưởng (theo mẫu số 3 và mẫu số 4 của phụ lục 2 Thông tư này). Báo cáo thành tích của cá nhân phải nêu rõ tên, nội dung, tác dụng, hiệu quả của giải pháp, sáng kiến trong công tác đã được Hội đồng xét duyệt sáng kiến của đơn vị công nhận; và phải gửi kèm quyết định công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở của đơn vị trong 02 năm.
4. Xác nhận của Cục thuế cấp tỉnh, thành phố đối với đơn vị, thủ trưởng các đơn vị thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước (Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc). Số năm xác nhận thuế tương ứng với số năm trong báo cáo thành tích.
Điều 20. Hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động”
Hồ sơ trình Bộ gồm 05 bộ (bản chính) và 20 bộ (bản sao chụp), gồm có:
1. Tờ trình của Thủ trưởng đơn vị (theo mẫu số 1, phụ lục 2 của  Thông tư này).
2. Biên bản họp Hội đồng Thi đua khen thưởng của đơn vị (theo mẫu số 2, phụ lục 2 của Thông tư này).
3. Báo cáo thành tích của tập thể, cá nhân đề nghị khen thưởng (theo mẫu số 6 và mẫu số 7 của phụ lục 2 Thông tư này).
4. Xác nhận của Cục thuế cấp tỉnh, thành phố đối với thủ trưởng các đơn vị thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước (Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc). Số năm xác nhận thuế tương ứng với số năm trong báo cáo thành tích.
          Điều 21. Hồ sơ đề nghị khen thưởng cống hiến
          Hồ sơ trình Bộ gồm 04 bộ (bản chính), gồm có:
          1. Tờ trình của Thủ trưởng đơn vị (theo mẫu số 1, phụ lục 2 của Thông tư này).
2. Biên bản họp Hội đồng Thi đua khen thưởng của đơn vị (theo mẫu số 2 của phụ lục 2 Thông tư này).
3. Báo cáo quá trình quá trình công tác của cá nhân (theo mẫu số 5, phụ lục 2 của Thông tư).
4. Bản sao xác nhận cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa (nếu có).
5. Bản chứng thực một số các loại văn bản: Quyết định bổ nhiệm chức danh lãnh đạo đề nghị khen thưởng; quyết định nâng lương; sổ bảo hiểm xã hội hoặc lý lịch đảng viên.
Điều 22. Hồ sơ đề nghị khen thưởng đột xuất, theo đợt, theo chuyên đề
Hồ sơ trình Bộ đối với đề nghị khen thưởng Bằng khen của Bộ trưởng gồm 01 bộ (bản chính), đối với đề nghị khen thưởng cấp Nhà nước là 04 bộ (bản chính), gồm có:
          1. Tờ trình của Thủ trưởng đơn vị (theo mẫu số 1 của phụ lục 2 Thông tư này).
2. Biên bản họp Hội đồng Thi đua khen thưởng của đơn vị (theo mẫu số 2, phụ lục 2 của Thông tư này).
3. Báo cáo tổng kết phong trào thi đua theo đợt, theo chuyên đề của đơn vị; Báo cáo thành tích của tập thể, cá nhân có thành tích trong phong trào thi đua đề nghị khen thưởng (theo mẫu số 9 của phụ lục 2 Thông tư này).
Báo cáo tóm tắt tổng hợp thành tích của đơn vị quản lý trực tiếp các trường hợp đề nghị khen thưởng đột xuất (theo mẫu số 8, phụ lục 2 của Thông tư này).
Điều 23. Hồ sơ đề nghị khen thưởng đối ngoại
Hồ sơ trình Bộ đối với đề nghị khen thưởng Bằng khen của Bộ trưởng gồm 01 bộ (bản chính) đối với đề nghị khen thưởng cấp Nhà nước gồm 04 bộ (bản chính), gồm có:
1. Tờ trình của Thủ trưởng đơn vị (theo mẫu số 1, phụ lục 2 của  Thông tư này).
2. Báo cáo thành tích của tập thể, cá nhân đề nghị khen thưởng (theo mẫu số 10, phụ lục 2 của Thông tư này).
Điều 24. Thời gian nhận hồ sơ, nơi nhận hồ sơ và thông báo kết quả
1. Thời gian nhận hồ sơ:
a) Đối với các trường hợp đề nghị xét tặng Cờ thi đua của Bộ, Cờ thi đua của Chính phủ, chậm nhất trước ngày 30/11 hàng năm (tính theo dấu bưu điện hoặc phiếu xử lý công văn);
b) Đối với các trường hợp đề nghị xét tặng Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, Chiến sĩ thi đua toàn quốc, các hình thức khen thưởng thường xuyên, chậm nhất ngày 30/3 hàng năm (tính theo dấu bưu điện hoặc phiếu xử lý công văn);
c) Đối với các hình thức khen thưởng đột xuất, khen thưởng theo đợt, theo chuyên đề: chậm nhất 15 ngày kể từ ngày lập được thành tích đột xuất hoặc kết thúc đợt thi đua (tính theo dấu bưu điện hoặc phiếu xử lý công văn);
d) Đối với hình thức khen thưởng đối ngoại: không quy định thời gian.
e) Đối với khen thưởng khối trường, chậm nhất ngày 30/7 hàng năm (tính theo dấu bưu điện hoặc phiếu xử lý công văn).
2. Nơi nhận hồ sơ:
Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 2 Ngọc Hà, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội. Ngoài việc gửi bằng văn bn theo các quy định tại các Điều 16 đến Điều 22, đồng thời gửi các file điện tử của hồ sơ trình khen (ở dạng file .doc) về địa chỉ email: tdkt@mard.gov.vn.
3. Thông báo kết quả:
a) Sau thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày ký Quyết định khen thưởng thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng và nhận được Quyết định khen thưởng của các cơ quan có thẩm quyền, Vụ Tổ chức cán bộ (Phòng Thi đua khen thưởng) phối hợp với các đơn vị có liên quan, có trách nhiệm thông báo Quyết định khen thưởng trên trang thông tin điện tử của Bộ;
b) Đối với các trường hợp không đủ điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng, Vụ Tổ chức cán bộ (Phòng Thi đua khen thưởng) thông báo bằng văn bản cho đơn vị đề nghị khen thưởng biết trong thời hạn 07 (bảy) ngày làm việc kể từ khi có kết luận của cấp có thẩm quyền;
          c) Bộ không xem xét đối với các trường hợp gửi hồ sơ trình khen thưởng không đúng tuyến trình.
Điều 25. Huỷ quyết định khen thưởng, thu hồi tiền và hiện vật khen thưởng
1. Tập thể, cá nhân vi phạm, khai không đúng thành tích để được khen thưởng thì tuỳ theo mức độ vi phạm để huỷ quyết định khen thưởng, thu hồi tiền và hiện vật khen thưởng và xử lý hành chính (hoặc truy cứu trách nhiệm);
2. Cơ quan trình khen cho tập thể, cá nhân có hành vi khai không đúng thành tích, có trách nhiệm trình Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Hội đồng Thi đua - Khen thưởng) để huỷ quyết định, thu hồi tiền và hiện vật khen thưởng hoặc trình cấp có thẩm quyền huỷ quyết định khen thưởng và thu hồi tiền và hiện vật khen thưởng theo thẩm quyền;
3. Sau khi có quyết định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc cấp có thẩm quyền, cơ quan trình khen thưởng có trách nhiệm thu hồi tiền và hiện vật theo quy định.

Chương V
QUỸ THI ĐUA KHEN THƯỞNG

          Điều 26. Nguồn và mức trích quỹ
          1. Nguồn hình thành Quỹ thi đua, khen thưởng: Từ dự toán chi ngân sách nhà nước đã được cấp có thẩm quyền giao hàng năm cho cơ quan, đơn vị; từ các khoản đóng góp để làm Kỷ niệm chương, in Giấy chứng nhận, in Bằng khen của các đơn vị; từ khoản đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho mục đích thi đua khen thưởng; từ các nguồn thu hợp pháp khác được phép trích lập quỹ thi đua khen thưởng.
2. Mức trích quỹ:
Đối với các đơn vị dự toán thuộc Bộ trích lập quỹ thi đua, khen thưởng chung của Bộ, bằng 0,6% quỹ tiền lương theo ngạch bậc của số cán bộ, công chức cơ quan Bộ trong biên chế và tiền công được duyệt cả năm (số biên chế do văn phòng trả lương) và mức trích nộp từ các đơn vị dự toán thuộc Bộ là 0,6% quỹ tiền lương và tiền công của công chức, viên chức tại các đơn vị.
Đối với Công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu: thực hiện theo Thông tư 138/2010/TT-BTC ngày 17/9/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
          Điều 27. Nguyên tắc quản lý, sử dụng quỹ thi đua, khen thưởng
          1. Đơn vị cơ sở nào trình khen thưởng, sau khi có quyết định khen thưởng của cơ quan có thẩm quyền, tự trích quỹ thi đua khen thưởng của đơn vị mình để trả tiền thưởng cho các tập thể, cá nhân của đơn vị đã được cấp trên khen thưởng.
          2. Quỹ  thi đua, khen thưởng phải được sử dụng đúng mục đích, công khai, minh bạch, hàng năm phải báo cáo quyết toán tình hình sử dụng quỹ theo quy định hiện hành.
          3. Số dư cuối năm chưa sử dụng hết của quỹ thi đua, khen thưởng được chuyển sang năm sau để tiếp tục sử dụng cho công tác thi đua, khen thưởng.
          Điều 28. Nội dung chi từ quỹ thi đua, khen thưởng
          1. Quỹ thi đua, khen thưởng chung của Bộ:
          a) Chi làm các hiện vật cho các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng của Bộ;
          b) Chi tiền thưởng, làm hiện vật hoặc tặng phẩm lưu niệm kèm theo các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cho các tập thể, cá nhân thuộc diện khen thưởng đột xuất và khen thưởng đặc biệt do Bộ trưởng quyết định;
          c) Chi tiền thưởng, làm hiện vật hoặc tặng phẩm lưu niệm kèm theo Kỷ niệm chương cho người Việt Nam ở  nước ngoài và người nước ngoài được Bộ trưởng ký quyết định;
          d) Trích 20% trong tổng quỹ thi đua, khen thưởng chung của Bộ để chi cho công tác tổ chức kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo công tác thi đua khen thưởng; chi tổ chức các hoạt động tập huấn, truyền thông về thi đua khen thưởng; chi đầu tư trang thiết bị phục vụ công tác thi đua khen thưởng;
          2. Quỹ thi đua, khen thưởng của các đơn vị dự toán thuộc Bộ:
          a) Chi tiền thưởng, làm hiện vật hoặc tặng phẩm lưu niệm kèm theo các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cho các tập thể, cá nhân thuộc thẩm quyền khen thưởng của thủ trưởng đơn vị;
          b) Chi tiền thưởng, làm hiện vật hoặc tặng phẩm lưu niệm kèm theo các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cho các tập thể, cá nhân do đơn vị trình khen thưởng, đã được cơ quan thẩm quyền cấp trên khen thưởng.

Chương VI
TỔ  CHỨC THỰC HIỆN

          Điều 29. Trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị
                   Kiện toàn, Quyết định thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng thi đua khen thưởng của đơn vị; phân công lãnh đạo phụ trách, bố trí cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm làm công tác Thi đua, khen thưởng;
          Thành lập Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở theo thẩm quyền được qui định tại Khoản 2 Điều 16 của Thông tư này.          
          Điều 30. Trách nhiệm Vụ Tổ chức cán bộ
1. Tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng trong toàn ngành theo quy định.
2. Tham mưu tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết phong trào thi đua và công tác khen thưởng, phát động các phong trào thi đua trong toàn ngành, theo đợt hoặc theo chuyên đề.
3. Đề xuất nội dung hoạt động của Hội đồng Thi đua Khen thưởng Bộ, Thường trực Hội đồng thi đua khen thưởng Bộ.
4. Tổ chức các hoạt động kiểm tra hướng dẫn, các hoạt động truyền thông và tổ chức tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ, các Tổng công ty Nhà nước; tổng hợp, theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện công tác thi đua, khen thưởng tại các cơ quan, đơn vị.
          Điều 31. Hiệu lực thi hành
          1. Thông tư này có hiệu lực từ ngày  27   tháng   3     năm 2014.
          2. Thông tư này thay thế Thông tư 63/2011/TT-BNN ngày 30/9/2011 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn công tác thi đua và khen thưởng trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 
3. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tổng công ty Nhà nước, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội, Hiệp hội có liên quan tổ chức thực hiện Thông tư này.
4. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân kịp thời phản ánh về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (qua Vụ Tổ chức cán bộ) để tổng hợp báo cáo Bộ trưởng, xem xét, quyết định./.

Nơi nhận:
- Ban TĐKT TW;

- Lãnh đạo Bộ NN và PTNT;

- Các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ (để t/h);

- Tập đoàn Công nghiệp Cao su VN (để t/h);

- Các Tổng công ty (để t/h);

- Các Hội, Hiệp hội liên quan (để t/h);

- Các Sở Nông nghiệp và PTNT (để t/h);

- Công đoàn NN và  PTNTVN (để t/h);

- Đảng uỷ Bộ, Đảng uỷ Khối cơ sở Bộ tại TP HCM;

- Công đoàn CQ Bộ, Đoàn Thanh niên Bộ;

- Hội đồng TĐKT Bộ;

- Công báo, Website Chính phủ, Văn phòng Chính phủ;

- Cục Kiểm tra Văn bản - Bộ  Tư pháp;

- Website Bộ NN và  PTNT;

- Lưu: VT, TCCB.   
     
 
BỘ TRƯỞNG
           (Đã ký)
Cao Đức Phát