Đọc
NHỮNG NGƯỜI LÍNH SINH VIÊN của Lê Anh Quốc
Tôi hoàn
toàn không quen biết người lính Lê Anh Quốc, càng không biết có nhà thơ tên là
Lê Anh Quốc. Vô tình đọc được thơ anh trên Facebook, tôi không thể làm được
việc gì khác ngoài việc viết cảm nhận về trường ca hơn 500 câu “Những người
lính sinh viên” của anh.
Tôi rất
ít khi bình thơ, phải xúc động lắm mới viết.
Được
biết anh nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên.
Một
người lính sinh viên, một nhà thơ lính. Một người trong số hơn 10.000 sinh viên
các trường đại học của Hà Nội lên đường vào Nam chiến đấu từ năm 1970 đến năm
1972. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận, nhưng nhiều hơn cả là hy sinh
tại chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị những tháng ngày đỏ lửa.
Tôi gõ
tên anh cùng tên bài trường ca của anh trong Google. Không thấy.
Nghĩa là
anh không nổi tiếng, thơ anh thuộc loại “chưa được xếp hạng” theo cách xếp hạng
của giới tự phong cho mình là chuyên nghiệp.
Thơ về
chiến tranh có hai giai đoạn. Giai đoạn trong chiến tranh và giai đoạn sau
chiến tranh.
Thơ
chiến tranh trong chiến tranh mang tính động viên ca ngợi với âm hưởng chủ đạo
là cảm hứng sử thi. Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!” hay Nam Hà
“Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!”.
Thời kì
hậu chiến, khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo
cho phép người viết được tái hiện chiến tranh thiên về chất trữ tình triết lí,
chiêm nghiệm. Cốt truyện không còn là điều quan trọng như trong trường ca
truyền thống mà mang yếu tố tự sự nhiều hơn.
Trường
ca Những người lính sinh viên nằm trong số đó.
Tác giả
không nhận mình là thi sĩ chuyên nghiệp:
“Chúng
tôi đi đánh giặc những tháng năm dài
Phút
khuây khỏa
Làm thơ
trên báng súng.
Đời
chẳng tĩnh
Nên câu
thơ quá động.
Lục bát
trèo
Lên võng
Đung
đưa…”
Lục bát
trèo lên võng đung đưa là thơ nó tự trèo lên người lính. Câu thơ thật hay,
chuyên nghiệp chắc gì nghĩ ra.
Thơ anh
tự sự nhưng không phải tự sự của “tôi” mà là của “chúng tôi”, những người người
lính có học mà anh gọi là lính sinh viên, từ ruột gan người lính. Những vần thơ
mộc mạc, tự nhiên như chính đời lính gian khổ, đói rét, hy sinh, ngời sáng tình
đồng đội thiêng liêng cao thượng.
Nói về
thế hệ mình, anh tự hào:
“Thế hệ
chúng tôi !
Ai cũng
dễ thương,
Thơm
thảo như hoa,
Ngọt
ngào như trái.
Tình
đồng đội lòng không cỏ dại,
Nghĩa
đồng bào - Bầu, Bí thương nhau.”
Anh nói
về sự hy sinh của các chị các em các mẹ mà anh cho là cao cả hơn sự hy sinh của
người đàn ông:
“Thế hệ
chúng tôi phụ nữ muộn chồng
Nhiều
đứa quá thì nên cầm lòng vậy
Đời con
gái chín dần trong cây gậy
Rụng
xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.”
Chỉ
người đàn ông đích thực mới nhìn thấy cái mất mát đáng sợ do chiến tranh mang
lại cho người đàn bà:
“Con dâu
nằm chung với mẹ chồng,
Tay bó
gối phòng lúc mình mê ngủ.
Hai cái
thiếu chẳng làm nên cái đủ.
Dưới mái
nghèo năm tháng vắng đàn ông.”
Hình ảnh
chiếc võng được lính liên tưởng như vầng trăng khuyết, như con thuyền chở lòng
căm thù giặc, như cánh cung mà mỗi người lính là một mũi tên.
Người
lính còn biết mơ mộng một ngày đỗ đạt vinh quy bái tổ ngồi trên võng. Thương
quá những chàng sinh viên gác bút nghiên đi đánh giặc!
Nói về
sự lạc quan của người lính, khó ai có thể nói hay hơn:
“Chúng
tôi cười
Cười
chật đất
Cười
chật sông
Cười
chật suối...”
Về cái
đói của lính, anh cũng có cách nói rất độc đáo đồng thời lại rất thật:
“Không
sợ giặc, không sợ đạn bom rơi,
Cái sợ
nhất lúc này là đói.
Đói vàng
mắt,
Đói long
đầu gối,
Đói phạc
phờ,
Đói thừa
cả chân tay...!
Mà lạ
chưa?
Vào
chính lúc này,
Chúng
tôi lại đánh lui quân giặc.”
Kết thúc
chiến tranh, anh không quá say sưa chiến thắng mà nói về làng quê, về đời sống
của người dân và đương nhiên là nói về mẹ:
“Bây giờ
mắt mẹ đã mờ,
Nhìn tôi
bằng “ngón tay rờ” run run”
Câu thơ
tuyệt hay. Cần gì phải nói bao năm chờ đợi mẹ khóc đến mù hai mắt, chỉ cần hình
ảnh nhìn bằng tay là đủ lay động lòng người.
Anh có
một “nỗi buồn chiến tranh” giống mọi người:
“Bao cô
gái
Bao
chàng trai
Lứa tuổi
đôi mươi
Đã nằm
xuống dưới bạt ngàn nấm mộ
Những
cái tên…
ngày nào
xanh nhãn vở
Giờ xếp
hàng
Đỏ rực
nghĩa trang.”
Không
phải rất nhiều nấm mộ mà là chỉ một nấm mộ thôi nhưng bạt ngàn. Thơ đấy chứ
đâu, nghệ thuật đấy chứ đâu nữa!
Và một
nỗi buồn rất khác. Các anh trở về với luống cày cây lúa. Thời trai trẻ đã qua
đi, không được học hành như mơ ước. Trong thời đại công nghệ, tiến bộ khoa học
kỹ thuật, các anh bị lạc hậu:
“Không
thể đem việc đổi xạ - bóp cò,
Làm công
nghiệp trong thời mở cửa.
Ta sẽ
chẳng vượt qua đói khổ,
Nếu chân
mình còn nặng đế cao su!”
Đau hơn
cả là cái tương lai tươi sáng mà vì nó các anh đã chiến đấu hy sinh vẫn còn xa
chưa đến:
“Ta đã
qua dài rộng rừng sâu,
Chân đã
thuộc những nẻo đường ngang dọc,
Mà bây
giờ trước đồng, trước ruộng
Sao ta
đi, đi mãi... chẳng đến bờ?
Vẫn chỉ
là muôn thuở: Đói hay No?
Mà lăn
lóc cả đời với đất
Từ mặt
trận,
mang Cái
còn - Cái mất
Trở về
làng đánh đổi Cái có - Cái không...”
*****
Tôi bỏ
cả ăn sáng, viết cho xong bài này.
Hãy cho
tôi một lần được làm người bình thơ, hãy cho tôi thắp nén tâm nhang cho anh,
người lính thơ, nhà thơ lính.
Có thể
anh không có danh xưng nhà thơ (tôi không rõ lắm) nhưng anh là nhà thơ trang
trọng trong tôi, trong những người bình thường và những người yêu thơ.
Chúng ta
căm ghét chiến tranh, chúng ta mong con cháu mình không bao giờ phải cầm súng,
không muốn rồi sẽ có những người lính sinh viên như anh. Nhưng để mong muốn đó
thành hiện thực, chúng ta phải trân quý những người như anh - người lính vô
danh, nhà thơ thầm lặng!
Bài thơ
rất dài nhưng tôi khuyên bạn nên đọc
KHOẢNG
TRỜI NGƯỜI LÍNH
Chương 1
: KHÚC DẠO ĐẦU
Thế hệ
chúng tôi!
Chưa kịp
lớn lên,
Bom đạn
Mỹ xé rách trời, nát đất.
Vừa
buông nách đứa em bé nhất,
Trên đầu
mình,
Già dặn
khoảng trời xanh.
Thế hệ
chúng tôi- Thế hệ chiến tranh.
Hoa lau
trắng những ngày tiễn biệt
Người
lên đường - Đất Nước là Tiền tuyến
Người ở
nhà – Tổ quốc hóa Hậu phương
Thế hệ
chúng tôi !
Ai cũng
dễ thương,
Thơm
thảo như hoa,
Ngọt
ngào như trái.
Tình
đồng đội lòng không cỏ dại,
Nghĩa
đồng bào - Bầu, Bí thương nhau.
Thế hệ
chúng tôi con gái cũng “mày râu”
Chẻ lạt
lợp nhà, đốn cây, bổ củi
Đêm
trăng lên nhoi nhói câu thầm hỏi:
- Mình
đàn bà sao bóng tựa đàn ông?
Thế hệ
chúng tôi phụ nữ muộn chồng
Nhiều
đứa quá thì nên cầm lòng vậy
Đời con
gái chín dần trong cây gậy
Rụng
xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.
Thế hệ
chúng tôi...
Meo mốc
bình vôi,
Mùa cau
lại vàng,
Mùa trầu
lại đỏ,
Mẹ cần
chổi gom những mùa lá đổ,
Đợi con
về …
Run rẩy
quét thời gian.
Ngôn ngữ
Tình Yêu
thời của
chúng tôi:
Một đôi
chim bay trên áo gối,
Một bông
hồng thả hương bối rối,
Một
khoảng tròn quanh những chiếc khung thêu.
Thế là
thương
Là nhớ
Là yêu
Là gánh
vác việc nhà người ra trận.
Dẫu
không hóa làm thân Núi Vọng,
Cũng một
đời chín đợi, mười trông.
Đêm.
Con dâu
nằm chung với mẹ chồng,
Tay bó
gối phòng lúc mình mê ngủ.
Hai cái
thiếu chẳng làm nên cái đủ.
Dưới mái
nghèo năm tháng vắng đàn ông.
Thệ
chúng tôi,
Ra ngõ
gặp Anh hùng.
Đâu cũng
thấy hy sinh cho Tổ quốc.
Người
trước ngã,
Người
sau không bỏ cuộc.
Trận
đánh này,
Phải
TOÀN THẮNG ngày mai …
Ngày mai
Ngày mai
Ngày
mai…
Có thể
là gần
Có thể
xa vời vợi...
Sẽ chẳng
tới nếu ta ngồi chờ đợi.
Chỉ con
đường duy nhất phải vượt lên !
Dù ngày
mai sẽ chẳng vẹn nguyên,
Những cô
gái, chàng trai tuổi xuân hơ hớ.
Dù ngày
mai sẽ bạt ngàn nấm mộ.
Những
con người của thế hệ chúng tôi.
Mặc gian
nan!
Mặc đạn
bom rơi!
Đích
phải đến là TỰ DO - ĐỘC LẬP.
Là Đất
Nước sạch bóng quân xâm lược.
Là Bắc –
Nam sum họp một nhà.
Mẹ sẽ
vui
Ngày mai
.
Khải
hoàn ca !
Chúng
con hát dọc đường về thăm mẹ.
Ta tưng
bừng,
Ta
thương người lặng lẽ.
Bởi
Mất -
Còn,
Cũng đến
một ngày mai…
Chương
hai: KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
1- ĐƯỜNG
VÀO
Đêm đầu
tiên,
Ngủ giữa
rừng cây
Chúng
tôi níu rừng vào hai đầu cánh võng.
Chống
chếnh thế,
Những
ngôi nhà của Lính,
Gió
hướng nào thổi đến cũng thông thênh.
Khoảng
trời vuông trên mỗi “mái tăng”
Không
che được hạt mưa xiên xối xả.
Đêm đầu
tiên nên ai cũng lạ,
Giấc ngủ
chập chờn như lá rừng rơi ...
Anh lính
gác hết đứng lại ngồi,
Nghe tí
tách mưa rơi trên áo bạt;
Cách dăm
nhà có ai khe khẽ hát.
Đêm bỗng
òa...
Một
thoáng nhớ xôn xao ...
Lại đằng
kia có tiếng rít thuốc lào,
Đêm vo
lại,
đỏ lừ
mắt điếu.
Ước gì
có chiếc Hồ lô Kì diệu,
Hút Đêm
vào cho Lính khỏi chờ lâu...
Đêm
không ngủ.
Là đêm
rất sâu,
Lính hóm
hỉnh nghĩ ra đủ chuyện.
Đứa thì
bảo,
Võng như
hình trăng khuyết
Treo
giữa rừng và thức với ngàn cây.
Đứa thì
bảo,
Võng như
con thuyền đầy,
Chở hờn
căm trên dòng sông cạn.
Dòng
sông ấy là Đường ra Mặt trận.
Bao Con
Thuyền mải miết vượt bằng chân...
Đứa lại
nói
Võng như
cánh cung.
Đêm để
ngửa,
bình
minh lên sẽ “úp”
Còn
Người Lính
là mũi
tên vun vút,
Phút
bình minh
là lao
thẳng ngực thù!
Có đứa
láu lỉnh đến lạ chưa?
Bảo,
Mái Tăng
giống như chiếc lọng,
Lính xếp
bằng ngồi trên cánh võng,
Chẳng
khác gì Quan Trạng ngày xưa.
Thì, bây
giờ nào có kém chi
Khoa
Đánh giặc,
đậu
nhiều Dũng sĩ.
Ngày bái
tổ,
Ngày Ta
thắng Mỹ,
Dũng sĩ
về còn hơn Trạng vinh qui...
Đêm va
vào xoong chảo đằng kia
Vỡ từng
tiếng.
Lanh
canh trên bếp lửa...
Chúng
tôi hiểu,
Bình
Minh về gọi cửa,
Chỉ tích
tắc thôi,
Nhà Lính
dỡ xong rồi.
Chúng
tôi lại đi...
Náo nức
những dòng người.
Bình
tông nước nối hai đầu Binh trạm.
Nắm cơm
vắt tòng teng trên lưng bạn,
Biết độ
đường còn mấy “đoạn dao quăng”.
Gửi Đại
Ngàn,
những
đêm phía sau.
Phía Nỗi
nhớ cứ dài vào vô tận.
Bao
gương mặt cỏ cây chưa kịp nhận.
Đã vội
ào đi trước lúc trời hừng.
Để lại
những địa danh
- Khắc
lên cây rừng.
Những
dấu thời gian còn tươi roi rói.
Hàng Lốc
lịch treo trên lưng chừng núi.
Dọc
đường vào
Năm
tháng cũng vào theo !
-----
2. TÂN
BINH
Thắc
thỏm quá.
Trận
đánh đầu tiên.
Những
tân binh chưa thạo bắn.
Giặc
tràn lên
sọc sằn
như đàn rắn.
Chúng
tôi rợn người!
Nhắm
mắt!
Ngồi
im...!
Bên
chiến hào, người Lính Cựu thản nhiên.
Anh thủ
thỉ,
” Lần
đầu, ai chả thế!”
Nói cho
biết,
” Tớ
chẳng bằng Cánh Trẻ.
Còn tệ
hơn. Tè cả ra quần!...”
Tôi
thoáng nhìn, những cựu quân nhân.
Gương
mặt các anh như tạc bằng đá núi.
Nét
phong trần, làn da xẫm lại.
Trước
chúng tôi. Các anh hóa thiên thần!
Bọn giặc
ào lên!
Mỗi lúc
một gần.
Lệnh
phát hỏa!
Chúng
tôi ào ào bắn!
Những
viên đạn xả nòng không cần ngắm ...
Phía bên
nào cũng có tiếng rên la ...
Nghe gằn
đầy âm thanh AK
Mà trận
đánh tưởng chừng còn rất dữ ...
Mãi sau
này chúng tôi mới rõ,
Cánh tân
binh,
đã bắn
phứa lên trời.
Rồi trận
đánh nào cũng kết thúc thôi.
Chỉ huy
bảo:
“ Chúng
ta đã thắng...”
Bãi
chiến trường ngổn ngang xác giặc.
Ta cũng
nhiều chiến sĩ hy sinh
Chúng
tôi đi tìm Đồng đội của mình.
Lóng
ngóng quá,
Những
vòng tay ôm bạn.
Người
Lính Cựu đã dạn dày bom đạn,
Bế đứa
này...
Rồi bồng
đứa kia ...
Chàng
lính ví mình như Quan Trạng xưa,
Một trận
thôi đã thành liệt sĩ.
Ngày trở
về,
Ngày Ta
thắng Mỹ
Anh
chẳng thể làm “Trạng vinh qui”
Trước mộ
các anh,
chúng
tôi lặng đi.
Nhớ
chuyện hôm xưa làm ai cũng khóc...
Hoàng
hôn xuống.
Đỏ mọng
từng con mắt.
Đêm nặng
đè lên mỗi “cánh cung” ...
-----
3. TIẾNG
CƯỜI CỦA LÍNH
Cuộc đời
lính.
Đạn
trước mặt.
Bom trên
đầu.
Mìn vùi
dưới đất ...
Sống và
chết đo bằng gang tấc.
Thắng và
thua đọ ở sức người.
Có phải
thế?
Chúng
tôi cười
Cười
chật đất
Cười
chật sông
Cười
chật suối...
Đường ra
trận nào ai tính tuổi ?
Nên
tiếng cười cứ lẫn cả vào nhau ...
Nếu gom
được
- Xin
giữ cho mai sau.
Phòng có
giặc hãy phát làm vũ khí,
Nếu còn
sống nhớ mang về quê tớ,
Những
trận cười rừng rực sức trai ...
Những nụ
cười
hình hoa
mơ, hoa mai
Rụng
trăng gốc
vẫn khát
ngày xây quả
Những nụ
cười thấm cả vào máu đổ
Chôn
dưới mồ
vẫn cứ
vút bay lên!
Những nụ
cười mang hình mũi tên
Làm thế
trận bủa vây quân giặc
Những nụ
cười nối phương Nam - Phương Bắc
Cứ trùng
trùng …
Theo
bước những đoàn quân
Những nụ
cười nuôi từ Lòng Dân
Thành
sức mạnh
Kẻ thù
nào thắng được?
Những nụ
cười của Bốn ngàn năm Dựng nước.
Hóa
thành đồng
Muôn
thuở
Việt Nam
ơi!
Những nụ
cười làm khô giọt lệ rơi.
Ngày
TOÀN THẮNG nếu con không về nữa
Mẹ lắng
nghe trong từng làn gió
Có tiếng
cười của đứa con yêu …
4. THI
SĨ
Chúng
tôi đi đánh giặc những tháng năm dài
Phút
khuây khỏa
Làm thơ
trên báng súng.
Đời
chẳng tĩnh
Nên câu
thơ quá động.
Lục bát
trèo
Lên võng
Đung
đưa…
Có phải
vì quen với nắng mưa
Nên câu
thơ biết xòe ô cho bạn?
Có phải
quanh mình ùng oàng bom đạn,
Nên
trong thơ
khao
khát một nụ hồng!
Có phải
vì thương,
vì nhớ
cháy lòng
Nên lửa
cứ bập bùng nơi ta viết?
Có phải
vì anh yêu da diết
Nên bài
nào cũng nói về em?
Chẳng
tài đâu!
Làm mãi
rồi quen
Như đánh
giặc lâu ngày thành lính cựu.
Trước
cuộc sống
Bao cái
Hùng tề tựu
Dẫu
chẳng là Thi Sĩ ...
Cũng
Thơ!
Ẫy là
nói những đứa ngu ngơ
Chứ thế
hệ thì thiếu gì đứa giỏi.
Đánh
giặc cừ
Làm thơ
cũng sõi,
Dũng Sĩ
và Thi Sĩ rất xứng danh.
Đêm bồi
hồi bên cánh rừng xanh
Náo nức
quá!
Nghe
Chương trình văn nghệ
“ Thơ
Chiến sĩ ”?
Sao nhạc
buồn đến thế?
Lính nhớ
nhà...
càng nhớ
nhà hơn!
Ơi!
Tiếng
đàn bầu
Nỉ non
Nỉ non…
Đem thân
phận thả vào đêm chiến trận
Này Cung
Nhớ!
Này Cung
Thương!
Này Cung
Hờn!
Này Cung
Hận!
Hỏi cung
nào Người Lính chẳng từng qua ???
------
5. ĐÓI
Trận
đánh này.
Chúng
tôi giữ điểm cao,
Quần cả
tháng,
lương ăn
không còn nữa!
Giặc vây
chốt đông như đàn kiến lửa
Phía
chúng tôi ...
Còn lại
mấy đứa thôi.
Không sợ
giặc, không sợ đạn bom rơi,
Cái sợ
nhất lúc này là đói.
Đói vàng
mắt,
Đói long
đầu gối,
Đói phạc
phờ,
Đói thừa
cả chân tay...!
Mà lạ
chưa?
Vào
chính lúc này,
Chúng
tôi lại đánh lui quân giặc.
Có lẽ vì
chẳng cách nào khác được!
Có lẽ
vì... Còn - Mất đó thôi...
Phía
chân đồi, giặc đã rút rồi.
Cái Đói
lại xông lên ngợp chốt.
Không
thể bắn,
Và cũng
không thể giết
Muốn cầm
hòa...
Cái Đói
Chẳng
buông tha !
Đồng đội
tôi gục xuống giữa chiều tà...
Gạo vừa
tới, cơm còn đang nấu dở
Boong
canh rừng lục bục sôi trên lửa
Bạn đi
rồi...
Chẳng
kip bữa cơm no !
Ôm xác
bạn chúng tôi khóc hu hu!
Người
đói chết trên tay người đói lả
Chôn bạn
xong... Đói tràn lên cỏ
Tôi cầm
cành cây,
đói lả
trước mồ ...
Chúng
tôi thường cúng bạn cả nồi to
Cơm đấy,
canh đấy...
Bạn ăn
đi khỏi đói !
Sống giữ
chốt
Chết
thành ma đói
Đêm đứt
rời ...
Bởi
những cơn đau....
6. TIẾN
VỀ THÀNH PHỐ
Từng
trận đánh,
cứ nối
tiếp nhau
Như mùa
lũ ngập dần đôi bờ đất
Từng
chiến dịch mở bung mặt trận
Như gió
ngàn ồ ạt thổi võng thung.
Mùa mưa
đi qua.
Khô khát
những cánh rừng.
Cây trút
lá bên đường tơi tả.
Đất như
choàng tấm chăn màu đỏ.
Những
nấm mồ đồng đội rực lên!
Tiến về
Sài gòn
Từ khắp
nẻo Trường Sơn.
Đại bác
Xe tăng
Chuyển
rung thành phố
Rầm rập
những Binh đoàn
Ào ào
thác đổ
Cả nước
dồn về
Trùng
điệp quân đi.
Các
hướng tấn công
Thần tốc
– diệu kỳ
Ngày mai
hiện dần
Bằng
xương
Bằng máu
Ngày mai
sẽ về
Gang tấc
nữa thôi!
Gang tấc
nữa thôi!
Cờ giải
phóng tung bay dinh Độc Lập
Tổ quốc
tưng bừng niềm vui thống nhất
Chúng
con sẽ về
Bên mẹ
Mẹ hiền
ơi!
Gang tấc
nữa thôi!
Ác liệt
lại ngàn lần ác liệt
Sào
huyệt cuối cùng
Sào
huyệt lửa bung ra.
Máu
Người Lính đã thấm rừng già,
Nay lại
đổ dọc đường vào Thành Phố !
Người
lính cựu,
Mang nửa
đời chữ thọ,
Có ai
ngờ!
Ngã
xuống,
Trước
ngày mai.
Chúng
tôi nghiêm trang
Đứng
trước thi hài
Người
Đồng đội,
Người
Anh,
Người
Thầy trong trận mạc.
Giữa Sài
Gòn - 30 THÁNG TƯ.
Chương
ba: SAU CHIẾN TRANH
1. LÀNG
XƯA
Giặc tan
rồi
Chúng
tôi trở về quê
Bồi hồi
quá!
Những
bàn chân lính
Chiếc ba
lô trên lưng nhẹ tếch
Chỉ nặng
nhiều là mấy búp bê.
Khao
khát gì mà bồng bế thế kia?
Hay ở
rừng lâu ngày không bóng trẻ?
Ngoài
mặt trận nào ai thành bố - mẹ
Tìm đâu
ra tiếng bé khóc chào đời.
Hay tuổi
xuân ta
trầm
bổng cuối trời?
Như hạt
mưa sa xuống vườn đồng đội
Hay vì
thương cây
tháng
năm ngóng đợi?
Mùa hoa
về
cho tươi
lại cành xanh.
Thôi!
Gác lại
một thời chiến tranh,
Ào về
nơi chôn nhau, cắt rốn.
Để ngắm
Mẹ
Cho hả
hê nỗi nhớ.
Để nhìn
Cha
Cho đã
buổi thương Người.
Để được
gặp,
Nàng mặc
áo nâu tươi
Khoe với
Em rằng: chỉ thêu vẫn thắm,
Rằng:
hai đứa chẳng còn xa ngàn dặm,
Rằng:
hôm nay thuyền đã cập bến rồi.
Đây mái
nhà tuổi thơ của tôi.
Đây bậu
cửa chắn ngang thời lẫm chẫm.
Đây hình
vẽ ngu ngơ thời chấy rận,
Màu than
đen còn nhánh đến bây giờ.
Đây hàng
cau cha trồng từ ngày xưa.
Rụng đỏ
đất...
Những
mùa đành để lỡ.
Đây vườn
trầu mẹ ươm hồi ta nhỏ,
Rơi vàng
trời
như thể
khát tìm cau.
Đây con
đường nối sang nhà nhau.
Bên ấy,
bên này
đi về
một ngõ.
Đêm.
Họp Đoàn
cùng chung đuốc tỏ,
Ta soi
cho Em về tới sân nhà.
Đây xóm
làng lam lũ của ta.
Những
bữa cơm còn đầy mâm rau má.
Người ra
trận vẫn mang manh áo vá.
Trẻ tới
trường,
quyển
sách đọc thay nhau.
Mùa đông
về chăn chưa đủ ấm đâu,
Mùa hạ
đến chẳng đủ màn ngăn muỗi.
Ta gặp
ai cũng già trước tuổi.
Biết: Hy
sinh đâu chỉ ở chiến trường!
Ơi! Xóm
làng mà ta gọi Quê hương,
Người ra
trận đông hơn người ở lại,
Đã kín
vách BẢNG VÀNG DANH DỰ,
Giờ lại
nhiều BẰNG TỔ QUỐC GHI CÔNG.
Bao hố
bom chằng chịt trên đồng,
Nghe
lành lạnh tiếng cá cờ búng nước.
Hiểu hạt
gạo nuôi quân ngày chiến cuộc,
Đã chan
hòa,
Máu với
Mồ hôi.
2. MẸ
Con về
với Mẹ hôm nay
Thật
đây! Sao Mẹ tưởng ngày…mình mơ.
Bây giờ
mắt mẹ đã mờ,
Nhìn tôi
bằng “ngón tay rờ” run run.
Như là
để thật tôi hơn
Mẹ rờ
vết sẹo vai con ngày nào.
Nhận ra,
mắt Mẹ lệ trào
Rưng
rưng...
vào
khoảng khát khao con về.
Và tôi
cứ thế lặng đi
Trước
pho Tượng Phật từ bi giữa nhà.
Mấy năm
đánh giặc đường xa
Chẳng
ngờ đâu
Mẹ tôi
già thế kia?
Hàm răng
đen nhánh ngày xưa
Đi đâu
vội,
để nắng
mưa cối trầu?
Hạt
sương kéo sợi trên đầu
Bảo tôi:
Đời Mẹ
dãi dầu đấy thôi.
Mắt
huyền xưa buộc Cha tôi
Bây giờ,
Mẹ buộc
lá rơi ngoài thềm.
Mỏng
manh chiếc áo vải mềm,
Tuổi thơ
tôi để trong nền yếm nâu.
Yếm
Người nào có rộng đâu.
Mà sao
như thửa đất giàu mênh mông…
Ở đây
cũng thể Thành đồng
Ở đây
nuôi những Anh hùng nước non.
Yếm
vuông cho giọt sữa tròn
Đọng
trong mỗi dấu chân con tháng ngày.
Con về
với Mẹ hôm nay
Thật
đây!
Sao Mẹ
tưởng ngày mình mơ!
Mẹ tôi
giờ, mắt đã lòa
Nhìn tôi
bằng ngón tay già…
rưng
rưng…
3. MẶT
TRẬN KHÔNG TIẾNG SÚNG
Chúng
tôi về với việc nhà nông,
Đông hơn
cả,
Vì đồng
rộng lắm
Những
người lính một thời chiến trận
Giờ lại
về cuốc bẫm cày sâu.
Ruộng có
bờ,
Việc
chẳng có bờ đâu
Buổi lật
cỏ đã lo ngày bắc mạ.
Gieo
trên đất những mầm vui hối hả,
Những lo
toan, thắc thỏm, trông chờ.
Tưởng đã
quen rồi, sao vẫn gặp bất ngờ?
Bất ngờ hạn
- mặt đồng khô như ngói.
Bất ngờ
úng - lúa chìm trong tê tái.
Bất ngờ
sâu - đau thắt ruột người trồng.
Cấy cây
lúa
Là cấy
phận nhà nông.
Xòe bàn
tay tính từng ngày, từng tháng.
Mặt trời
lên
đến thâu
đêm
lại
sáng.
Bóng
người còng,
mơ…
lúa tròn
bông.
Hạt gạo
dẻo thơm?
nào dễ
hiểu đồng,
Khi chưa
có một lần với lúa.
Khi cuộc
đời lượt là trong nhung lụa,
Đã chắc
gì hiểu nổi bát cơm bưng ?
Đã chắc
gì biết cái rét cuối đông?
Chân mẹ
nẻ ngậm bùn rét giá.
Đã chắc
gì biết những chiều nắng hạ?
Áo cha
dầy thêm mỗi bận mồ hôi.
Về với
đồng mới hiểu hết đồng ơi!
Bát cơm
chan mồ hôi - nước mắt
Lại có
chuyện... những người khuất tất
Lại bão
giông… rình rập trên đầu...
Ta đã
qua dài rộng rừng sâu,
Chân đã
thuộc những nẻo đường ngang dọc,
Mà bây
giờ trước đồng, trước ruộng
Sao ta
đi, đi mãi... chẳng đến bờ?
Vẫn chỉ
là muôn thuở: Đói hay No?
Mà lăn
lóc cả đời với đất
Từ mặt
trận,
mang Cái
còn - Cái mất
Trở về
làng đánh đổi Cái có - Cái không...
Phải
vượt lên thôi!
Mình tự
cứu mình.
Than
phận làm gì cho thêm yếu lính?
Đất Nước
chiến tranh ra đi đánh giặc.
Đất Nước
hòa bình, tất cả dựng xây.
Nào tập
đi!
Cho
thẳng những đường cày
Cho con
trâu khỏi nhắc người: vắt - diệt
Cho vụ
mùa gối tiếp nhau mải miết
Cho đồng
làng bông lúa gọi : đời no!
Nào học
đi!
Ta mới
chỉ i tờ.
Nghề nhà
nông còn bao điều mới lạ,
Muốn
xênh xang từ cọng rơm, gốc rạ.
Phải
hiểu đồng,
như hiểu
chiến trường xưa.
Ta đã
nghe !
Nhiều
đồng đội gần, xa
Bát ăn
đủ rồi, giờ thêm bát để.
Đã rộng
cửa nhà,
Đã yên
dâu - rể,
Đã ông -
bà…
còn rất
lính mà Em!
Ta lại
nghe.
Từ phía
mặt trời lên
Tiếng
tần tảo gõ vang đường xuống chợ
Những
mảnh vườn cho mùa chín đỏ
Thơm
chật gùi…Đồng đội địu trên lưng.
Và đằng
kia,
trên
khắp nẻo núi rừng,
Bao
trang trại mở đường vào giàu có.
Nhiều
người lính đã thành ông chủ.
Cũng
đình huỳnh xe máy hon đa.
Vườn-Ao-Chuồng
xây cất Vi la,
Ai bảo
lính không biết làm kinh tế?
Bao
doanh nghiệp tư nhân
Bao
nhiêu nhà tỷ phú
Cũng đều
từ những Cựu Chiến binh.
Ta dõi
theo vóc dáng những công trình.
Bao người
lính trở về xây thủy điện
Đời lại
thắp những NGỌN ĐÈN trước biển
Sóng gầm
gào…
Đèn vẫn
sáng lung linh.
Ấy là
khi
Ta tự
biết vượt mình
Trước
cuộc sống
Có bao
điều Cầu ước.
Nếu được
ước
Xin ước
cho tất cả
Đừng hóa
mình xa lạ với Nhân Dân.
Chương
4: HỒI TƯỞNG
Thế hệ
chúng tôi, Đi qua Chiến Tranh.
Đời mỗi
đứa là một thời để nhớ
Về đồng
đội,
Về những
ngày khói lửa
Về những
hy sinh,
… không
nói hết bằng lời.
Bao cô
gái
Bao
chàng trai
Lứa tuổi
đôi mươi
Đã nằm
xuống dưới bạt ngàn nấm mộ
Những cái
tên…
ngày nào
xanh nhãn vở
Giờ xếp
hàng
Đỏ rực
nghĩa trang.
Có những
hy sinh
Âm ỉ với
thời gian
Người
trở về trên mình đầy thương tích
Chiếc
nạng gỗ gõ dọc chiều cơn lốc
Hiểu con
đường đang chín giọt mồ hôi.
Có đứa
về lành lặn hẳn hoi
Nào ai
hay?
Chất độc
vùi trong bạn
Lúc làm
cha mới biết mình trúng đạn
Vết
thương
- Là con
anh.
“Vì Nhân
Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!”
Bài hát
gọi ta về quân ngũ.
Cuộc
sống Lính có khi nào đầy đủ?
Thiếu
thốn nhiều nên cũng phải quen đi!
Cũng
phải quen.
Như thể
chẳng thiếu gì
Vì khi
ấy chiến trường cần phải thế!
Ngày trở
về Ta không còn trai trẻ.
Giữa đời
thường cái thiếu lại thiếu thêm.
Những hy
sinh không thể bắc lên cân.
Càng
không thể quy thành tem phiếu.
Những
người lính có bao giờ định liệu
Cái giá
mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân!
“Vì Nhân
Dân quên mình!
Vì Nhân
Dân hy sinh!”
Lẽ sống
ấy làm nên Nhân cách Lính.
Ngay cả
khi mình không mang quân phục,
Nhưng
Lính thì chẳng lẫn với ai đâu?
Không
biết người ta sống mai sau,
Có đời
hơn thời chúng tôi đang sống?
Rồi đến
lúc phải quên đi tiếng súng,
Ta vẫn
tin!
Đồng đội
chẳng quên nhau!
Nhân Dân
mình sống có trước có sau.
Cứ nhìn
những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết.
Và cả
những Tượng đài thơm hương tha thiết,
Cho
người sống,
Cho
người còn
mà chết
tuổi thanh xuân.
Nếu Cuộc
đời biết vì Nhân Dân
Thì Nhân
Dân cũng vì ta năm tháng.
Như mặt
trời cho cỏ cây nguồn sáng,
Cỏ cây
nào chẳng cho đất những mùa hoa?
Bom đạn
tạnh đi rồi
Chiến
tranh đã lùi xa!
Cuộc
sống mới bảo chúng tôi đổi mới!
Không
thể đem những ngày lửa khói
Giữa thị
trường đánh đổi lấy ấm no!
Không
thể đem việc đổi xạ - bóp cò,
Làm công
nghiệp trong thời mở cửa.
Ta sẽ
chẳng vượt qua đói khổ,
Nếu chân
mình còn nặng đế cao su!
“Vì Nhân
Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!”
Bài ca
ấy đã trở thành lẽ sống!
Chúng
tôi hát từ buổi tò te lính.
Đến bây
giờ vẫn hát
- Những
Cựu binh.
Lê Anh
Quốc
Thị xã
Yên Bái - Tháng 1-2000
Tượng đài kỷ niệm những người lính sinh viên Đại học KTQD lên đường nhập ngũ bảo vệ tổ quốc