XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2024

Nhà Lê Trung hưng không dùng Thành nhà Hồ là nơi đóng đô hay đóng quân đồn trú

Sa thương trực lộ

Cuối nước đầu non


TẠI SAO NAM TRIỀU NGUYỄN KIM – TRỊNH KIỂM LẬP HÀNH CUNG CHỐNG NHÀ MẠC Ở LÀO 13 NĂM Ở THANH HOÁ 47 NĂM NHƯNG KHÔNG CHỌN ĐÓNG ĐÔ Ở THÀNH NHÀ HỒ MÀ LẠI ĐÓNG ĐÔ Ở SÁCH VẠN LẠI THỌ XUÂN – PHẢI CHĂNG LÀ DO PHONG THUỶ:

Nhà Lê Sau khi bị nhà Mạc cướp ngôi có Nguyễn Kim. Viên cựu thần triều Lê quê ở trang Gia Miêu ngoại, huyện Tống Sơn (Thanh Hoá). Năm 1530 Ông đã chọn vùng Sầm Châu (Ai Lao) làm căn cứ để tập hợp và gây dựng lực lượng, tôn phò Lê Duy Ninh lên ngôi ở Ai Lao vào năm 1533. Từ năm 1533 – 1545 Nhà Lê Nam Triều đóng đô ở Lào; Năm 1546 dời đô về Sách Vạn Lại – Thọ Xuân – Thanh Hoá, đến năm 1592 đánh đổ Nhà Nạc chiếm Lại Thăng Long; Trong suốt 60 năm chiến tranh với Nhà Mạc nhà Lê Trung Hưng đóng đô ở Thanh Hoá 47 nhưng tuyệt nhiên không đóng đô ở Thành Nhà Hồ có lẽ vì lý do phong thuỷ được người đời trước và sau triều Hồ Nhìn nhận:

+ Địa giới: Nằm trên địa phận xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến (Trước đây là đất của Động An Tôn) huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá, thành nhà Hồ là chứng tích về sự tồn tại của kinh đô nước Đại Ngu – quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ. Xung quanh tòa thành này có một giai thoại phong thủy được dân gian lưu truyền bấy lâu nay.

Theo sách "Thành nhà Hồ và những câu chuyện xây thành đắp lũy", khi chọn đất đóng đô, Hồ Quý Ly đã cho các thầy phong thủy tìm long mạch rất cẩn thận. Xem khắp các vùng trong nước, sau cùng ông lựa chọn động An Tôn làm nơi xây đô thành cho triều đại của mình.

Theo tính toán của Hồ Quý Ly, đất này là một vùng đất tốt có hình như quả ấn của trời, lại có long mạch dài hàng ngàn cây số là con sông Mã. Xung quanh lại có nhiều “tiểu long”chầu vào long mạch chủ.

Thực vậy, từ trên thành nhà Hồ mà ngắm nhìn phong cảnh xung quanh cũng dễ dàng nhận ra cảnh quan hùng vĩ, địa thế hiểm trở của vùng này. Bên ngoài có nhiều dãy núi vòng cung bao bọc vây kín bốn phương tám hướng.

Vòng trong có sông Mã, sông Bưởi lượn tròn như những chiến hào tự nhiên vây quanh. Ở trong cùng, một khu đất nổi lên như cái ấn của Trời đặt ở đó. Bên trên là vòm trời xanh được ví như chiếc lọng che cho cái ấn thật huyền

Sông Mã được xem như long mạch của thế đất này bắt nguồn từ vùng biên giới Việt - Lào. Uốn lượn như rồng, dòng sông này chảy qua địa phận tỉnh Sơn La rồi chảy sang nước bạn Lào và trở lại đất Việt ở Thanh Hóa.

Con sông này lại có nhiều chi giang đổ vào như sông Luồng, sông Lò, sông Âm, sông Chu, sông Bưởi… Mỗi chi giang này được xem như một chi long mạch hợp vào long tổ.

Hồ Quý Ly khi cho xây thành ở đất này đã rất tâm đắc, ông nói với các con mình rằng: "Đất này là đất Thạch bàn long xà lục thập niên ký". Nghĩa là “thế đất rồng chầu, rắn cuốn vững như bàn thạch có thể trụ được 60 năm”.

Tuy nhiên, con trai thứ của Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương lại có ý kiến khác. Tương truyền, lúc đó Hán Thương tuy còn trẻ tuổi nhưng đã khá am tường môn phong thủy, khi xem thế đất chọn xây thành đã nhận ra điều không ổn.

Hồ Hán Thương đã tâu với vua cha rằng: Quỹ đất này đúng là đất rồng chầu, rắn cuốn nhưng đất còn non nên chỉ gọi là “Long, xà ẩm thủy - Lục niên ký chủ”, nghĩa là “Nơi rồng rắn hút nước, ở được trên dưới 6 năm”.

Có lời kể rằng Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết cũng dâng thư can vua: “An Tôn là vùng đất hẻo lánh, cuối nước đầu non chỉ hợp với loạn mà không hợp với trị”. (Đầu Non là Tượng Sơn (Núi Voi ở phía Bắc Thành); Cuối nước là nơi hợp lưu sông Bưởi và sông Mã tại địa phận làng Hồ Nam xã Vĩnh Khang)

+ Về Sơn: Hồ Quý Ly đã phớt lờ tất cả những lời can gián. Cuối cùng, sự tồn tại ngắn ngủi của vương triều Hồ từ năm 1400–1407 đã ứng với lời “tiên tri” của Hồ Hán Thương và Nguyễn Nhữ Thuyết...

Khi chọn vị trí xây thành, Hồ Quý Ly đã chọn núi Đốn Sơn làm án (địa phương gọi là núi Đún). Núi Đún sơn nằm chính diện cửa Ngọ Môn, cách khoàng 2,5km. Hồ Quý Ly đã cho đắp 1 con đường chạy thẳng từ chính diện cửa Ngọ Môn lên Đốn Sơn, và trên núi đặt đàn tế Nam Giao. Tuy nhiên, núi Đốn sơn thế vốn nằm dọc, như một mũi tên nhọn chiếu thằng vào cửa Ngọ Môn. Trong địa lý, kỵ nhất là “thương sa, trực lộ”, tức là sa sơn như mũi thương đâm thẳng vào, đường đi xuyên thẳng vào trung tâm. Cả 2 điều đó Hồ Quý Ly đều vấp phải. Điều này tạo nên một thế xung sát rất mạnh, nguyên nhân của đại họa diệt vong sau này.

+ Về thủy, đây là chỗ hợp lưu của 2 con sông : Sông Mã và Sông Bưởi. Sông Mã bắt nguồn từ hệ thống chi lưu ở khu vực Vân Nam, hợp nhau tại bên Lào rồi đổ vào đất Việt từ địa phận tỉnh Sơn La. Sông Bưởi bắt nguồn từ khu vực Cao Phong Hòa Bình, hai dòng sông hộ tống thủy này khí thế đều mạnh mẽ, sông Mã nổi tiếng với khí thế hung hãn, nhiều vực sâu thác lớn. Khi về đến khu vực thành thì uốn lượn, bồi đắp nên một vùng đồng bằng trù phú.

Hồ Quý Ly cho rằng như thế mới có khí thế hùng mạnh. Nhưng trong địa lý, thì Thủy quý ở chỗ thanh kỳ khuất khúc mà hiền hòa chậm rãi, còn nếu quá cương mãnh thì mang hung khí đến, không phải cát địa. Và căn cứ vào vị trí hợp lưu của sông Mã và Sông Bưởi, Hồ Quý Ly cho rằng đó là nơi hợp thủy, khí mạch ắt sẽ tụ lại, và chọn đất ấy đặt thành là hợp cách.

Tuy nhiên, trên địa hình thực tế, dòng sông Mã tại đây 2 lần chuyển mình, lần thứ nhất tại khúc sông phía trên thành, chỗ đầu núi Voi. Sau khi chuyển mình, do khí thế còn quá sung mãn, nên tiếp tục lao xuống và chuyển mình uốn khúc lần thứ hai tại khu vực thị trấn Vĩnh Lộc ngày nay, đó là phía dưới chỗ đặt thành, và thành nằm giữa hai đoạn uốn khúc này. Như vậy, xét về mặt địa lý, thì vị trí đặt thành chưa phải là nơi đắc địa. Bởi lẽ, chỗ đặt thành hiện tại, khí mạch vẫn chưa dừng, chưa đáp ứng được yêu cầu “long đình, khí chỉ”, tức là thành vẫn nằm trên “hành long”. Nếu vậy, vị trí mà Hồ Quý Ly chọn thuộc thế Kỵ Long, là đất không thể định đô, vì thế Kỵ Long vốn là kỳ địa, rất hiếm khi ổn định, chỉ thích hợp với việc xây đền miếu, mà không thích hợp cho việc làm đô thị dương cơ.

+ Về sa, thì sa sơn ở đây tản mát, long hổ không chầu, không bao bọc được cho trung tâm. Quan sơn (trước huyệt trường) thì thấp nhỏ, mà Quỷ sơn (sau huyệt trường) thì lại cao lớn và quá nhiều sát khí.

Một vị trí mà thế mạch vốn dĩ đã khẩn yếu, lại thuộc thế Kỵ Long, sa sơn đã tản mát mà lại hung hãn lao vào chính huyệt, án sơn là núi Đốn cũng thấp nhỏ, hình thế như mũi thương lao thẳng vào Đoan môn. Cho nên, có thể kết luận một điều rằng, đất này không thể là cát địa, lại càng không thể là nơi đế đô muôn đời được. Lịch sử đã chứng minh, triều Hồ diệt vong chỉ trong vòng 7 năm sau khi lên ngôi và thiên đô vào đất này.

Một nhầm lẫn lớn trong cách nhìn nhận của Hồ Quý Ly về thế đất nơi đây. Đó là ông cho rằng vị trí hợp lưu của 2 con sông sẽ là nơi khí mạch tụ lại, bất chấp lời can gián của các học giả, thậm chí bỏ ngoài tai cả lời nhận xét của con trai mình. Thực tế thì cho thấy, khí mạch của nơi đây vốn phát tích từ Vân Nam, nếu cho rằng dòng sông Mã dẫn khí mạch xa ngàn dặm về, đóng vai trò hộ tống thủy thì đúng. Nhưng còn dòng sông Bưởi, là dòng sông nhỏ, chạy bên đất Hòa Bình đổ xuống, bản thân nó chỉ là một chi lưu cuối nguồn của sông Mã, mà nhất định không phải là hộ tống thủy. Bởi vậy, Nguyễn Nhữ Thuyết, Hồ Hán Thương đều là những người am tường địa lý mới nhận xét rằng đó chỉ là nơi “đầu non cuối nước”, không phải nơi thịnh vượng.

Sưu Tầm từ nhiều nguồn sử liệu

Thứ Hai, 15 tháng 1, 2024

Sấm Trạng Trình toàn tập

Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585)

Nguyễn Thiên Thụ sưu tập, chú giải

LỜI NÓI ĐẦU

          Theo thời gian và cũng vì thời đại, chúng ta đã mất nhiều tài liệu và không được tiếp cận với các tài liệu xưa. Vì vậy mà tôi lập Sơn Trung thư trang để làm một thư viện nhỏ với tinh thần vô vị lợi, tôi có thể giữ cho tôi và cống hiến cho moi người. Khi còn ở Việt Nam, tôi đã thu thập một số sách, một số tài liệu, trong đó có Sấm Trạng Trình. Xưa nay có rất nhiều bản khác nhau vì nhiều người sửa đổi. Không biết bản nào là bản chính, nên trước khi san định, nghiên cứu, chúng ta phải sưu tập tài liệu. Tại các thư viện Việt Nam nhất là tại Hà Nội có nhiều bản Sấm Trạng Trình chữ Nôm và các bản này cũng khác nhau.

         Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng Xuân và Thời Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản quốc ngữ Mai Lĩnh.`

         Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội. Trước 1975, tại miền Nam đã có khoảng 20 bản quốc ngữ, nay Hà Nội cũng in thêm vài bản. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 . Riêng tôi có một bản nôm.Từ lâu tôi đã có ý phổ biến nhưng chưa thực hiên được. Nay cơ duyên đã đến, ltôi cố gắng y sao chép dần để trình chư vị . Tôi tuyển chọn những bản xưa nhất và đáng tin cậy để tái bản trong thư trang của tôi. Tôi tập hợp các bản lại và gọi là Sấm Ký Toàn Tập.

          Năm 2010, tôi đã đăng tải vào Sơn Trung Thư Trang. Nay tìm thêm vài tài liệu, tôi phổ biến ấn bản 2011 để cống hiến quý độc giả.

Ottawa ngày 20 tháng 7 năm 2011

Nguyễn Thiên Thụ

TỔNG QUAN VỀ SẤM KÝ CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491-1585)

I. TIỂU SỬ NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 ( 1491–1585) được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.

Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lân, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số.

Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Vua Mạc cất ông lên làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ. Vì ông đỗ Trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.

Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542.

Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là “Tuyết giang Phu tử”. Bạn của ông là những tài danh lỗi lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên Nguyễn Thiến. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ- tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử,

Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính …

Ông mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc công.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tập và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời.

Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”.

Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”. Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được).

Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông.

Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu:

“Lê tồn Trịnh tại”.

Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: “Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.

La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài “Huyền cơ tham tạo hóa” (nắm được huyền vi xen vào công việc của tạo hóa).

Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng

Như núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu

Nghìn năm sau như vẫn một ngày

II. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI SẤM KÝ

Trong quan niệm của tôi, công việc của người sau là sưu tập, hiệu đính và chú thích tác phẩm của tiền nhân để bảo tồn văn hóa cũ. Việc này đòi hỏi người biên khảo, dịch thuật phải trung thực, khách quan, thấy sao nói vậy, biết gì nói nấy.

Tôi mong rằng sẽ có một nhóm người khảo cứu hết các bản nôm trong thư viện. Một nhóm người khảo cứu tất cả các bản quốc ngữ đã xuất bản. Riêng tôi chỉ phụ trách nghiên cứu một số bản quốc ngữ trong tầm tay.

Hôm nay tôi làm việc này thật ra là chưa được hoàn hảo vì kiến thức còn hạn chế. Hơn nữa không có trong tay các bản nôm và đầy đủ các bản quốc ngữ. Tôi chỉ làm được những gì trong khả năng hạn hẹp của mình.

Dẫu sao thì vạn vật vô thường, mục đích của tôi là cố lưu lại những vốn cũ của tiền nhân, và giúp bạn đọc một số tài liệu mà tôi đã thu thập và nghiền ngẫm hơn nửa thế kỷ. Làm được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Vì thích nghiên cứu cổ văn cho nên tôi đã tìm hiểu các tác tác phẩm cổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhân dân ta ca tụng vì khí tiết thanh cao và tài thơ văn. Thi văn của Ngài có thơ chữ Hán và thơ Quốc Âm. Thơ Quốc Âm gồm có thơ nôm và Sấm Ký. Câu chuyện Nguyễn Hoàng và con cháu họ Trịnh tìm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm là chuyện thực, liên hệ đến lịch sử chứ không phải là giai thoại.

Tại thư viện Viễn Đông Bác cổ Hà Nội và Viện Khảo Cổ Sai gon đều có vài bản Sấm Trạng Trình bản nôm chép tay. Trước 1945, chúng tôi thấy các bậc cha chú đọc các bản Sấm Ký Quốc Ngữ. Trong khi vào Nam, tôi cũng mượn bạn bè các sách Sấm ký rồi chép lại vì trong thời gian chiến tranh, sách xưa đã tuyệt bản nên rất hiếm hoi, chỉ cho mượn trong thân hữu chọn lọc..

Sau 1975, xem danh mục thư viện thì thấy có tên sách, nhưng tôi không dám mượn vì e ngại công an theo dõi, và kết tội dùng sấm để “yêu ngôn hoặc chúng”. Tôi chỉ âm thầm tìm kiếm, và thu thập được một số.

Tại miền Nam, Sấm Trạng Trình in bằng quốc ngữ từ sau 1945 cho đến 1975 cũng có gần hai chục quyển. Sau 1975, tại Hà Nội cũng có một vài quyển gọi là. Thư viện Viễn Đông Bác Cổ nay là thư viện khoa học Xã hội có gần 20 bản Sấm Ký nôm. Thỉnh thoảng có vài người giới thiệu sơ sài mà không trích dẫn câu nào. Nhà nghiên cứu không dám đi sâu vào sợ bị gán cho cái tội duy tâm thần bí, tuyên truyền phản động thì muôn kiếp phải sống trong lao tù.

Ông TrầnVăn Giáp chuyên về chữ Nôm, ông biên tập các nhan đề sách chữ Nôm và Hán thành bộ ” Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm 2 quyển”, nhưng ông không kê khai lấy danh hiệu một bản dù trong thư viện có hàng chục bản “Sấm Trạng Trình”. Theo nguyên tắc nghiên cứu, ông cứ ghi tên sách, số hiệu sách nhưng ông có thể nói là sách ghi vậy nhưng e không phải của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đỏ quá hay ông sợ cộng sản quá, không dám ghi lấy tên sách và số hiệu sách vì sợ dân chúng sẽ vào lục tìm. Ông muốn giấu sách nếu không nói là muốn đốt sách, chôn sách. Ông phủ nhận sự hiện hữu của Sấm Trạng Trình. Ông viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Ông là người nổi tiếng học rộng, nghiên cứu dịch kinh, chuyên về lý học, tinh thông khoa tính Thái Ất, cho nên người ta lợi dụng cái học của ông truyền tụng nhiều câu sấm nói là của ông, để tuyên truyền và mê hoặc mọi người.” (1)

Thiết tưởng con người ta trong xã hội có người không tin bói toán, không tin thần thánh, nhưng một số rất tin. Bói toán mà sai thì cũng đương nhiên vì đó là khoa học không chính xác, Ta cần xem thời tiết nhưng các bản tin thời tiết không phải lúc nào cũng đúng, nhưng không phải vì thế mà dẹp bỏ ngành thiên văn, khí tượng và nghiên cứu không gian. Đừng có theo tây phương vài năm, theo cộng sản vài giờ mà cho mình là có óc khoa học.

Karl Marx và các ông cộng sản đề cao khoa học, luôn làm ầm ỉ về thành tích khoa học trong khi bên tư bản người ta im lặng làm mà thành quả vượt Liên Xô, Trung Quốc! Marx tự hào là khoa học nhưng những tiên đoán, những ước vọng, những chính sách vĩ đại của Lenin, Stalin và Mao đã sụp đổ thảm thương! Ông thầy mu ruà ờ Lăng Ông Bà Chiểu, hay ông thầy tử vi ở chùa Trấn Quốc chỉ ăn vài ngàn bạc hay chục ngàn bạc Việt Nam mà không làm hại ai, còn lão tổ Karl Marx tiên đoán tầm bậy gây cho cái chết hàng trăm triệu người!

Ai bảo người Pháp mê tín? Tại Pháp có mấy ngàn hay mấy chục ngàn thầy bói, và hàng chục người viết về Nostradamus, có ai cấm đóan hay chê bai dân Pháp? Ai bảo nước Mỹ dị đoan lạc hậu? Nghe nói người Mỹ có lúc đã dùng “thiền” để liên lạc với tàu vũ trụ đó sao? Trong chiến tranh Việt Nam khoảng 1970, một người Mỹ có đến hỏi giáo sư Bửu Cầm ở Sài gon:

“Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng là gì” Có phải có thủy chiến ngoài các đảo không?

(Trong khoảng 70-90, tôi thường đến thăm GS Bửu Cầm được thầy thuật lại việc trên) và gần đây ông Nguyễn Văn Hiệp có thuật việc CIA lấy cắp bản ghi chép của thiếu tướng Nguyễn Văn Chức về tiên đoán của ông đạo Nhỏ.

Người ta khoa học văn minh như thế mà còn nghiên cứu huyền học, dùng chiêm tinh còn chúng ta được kiến thức khoa học bao lăm, nhất là cái khoa học xuyên tâm liên và bèo hoa dâu mà lên mặt khinh thế ngạo vật ư?

Ở đâu cũng có kẻ gian dối. Đâu có phải vì bọn bán thuốc ê, vì bọn lang băm lấy cơm khô trộn mật làm thuốc mà ta đốt sách y, bắt nhốt và giết tất cả người hành y? Ví như có kẻ làm giả sấm ký, sửa đổi vài chữ, vài câu, vài đoạn, ta không nên vội vơ đũa cả nắm bảo là là hàng mạo hóa mà quăng đi hoặc đốt hết sấm ký. Trái lại,người nghiên cứu lại càng phải gia công nghiên cứu hơn, tìm hiểu, phân biệt giả chân, tốt xấu. Không thể dễ dàng phủ nhận cũng không nên vội vàng tin tưởng trước khi suy nghĩ và xem xét.

Tôi nghiền ngẫm Sấm ký từ lâu, chỉ hiểu vài đoạn. Sau khi xem Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh của Bửu Sơn Kỳ Hương, tôi nhận thấy sức mạnh tâm linh của Phật giáo, của Lý học và Đạo học. Và quả là có phương pháp tu đạt đến cái nhìn xuyên suốt quá khứ vị lai và cũng có người có tài năng thấy trước. Tôi cũng đọc Toàn Thư trong đó có nhiều huyền bí và đúng. Tôi lại càng nghĩ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một bậc khải thánh chứ không phải là tầm thường cho nên tôi cố gắng tìm hiểu chứ không coi rẻ như các vị khác mang tâm sắt đá hoặc tâm dun dế.

Mình không hiểu vì mình bị vô minh che lấp chứ không phải ta thông minh mà sách nói vu vơ, và hiền thánh điên khùng. Trước khi khoa học tìm ra kính hiển vi và kính viễn vọng, đức Phật đã thấy những vật cực tiểu và những vật cực đại hay sao? Nay thì khoa học cho thấy ngoài Thái dương hệ của ta còn có nhiều Thái dương hệ khác. Mắt ta lòa chứ không phải thế giới đen tối, vạn vật hư vô như những ai đã kiêu căng chế nhạo. Sự thực các bạo chúa đã sợ khoa chiêm tinh và báo chí. Họ mượn danh khoa học để bịt miệng và che mắt nhân dân!

Một vài người phủ nhận Sấm Trạng Trình vì cho rằng những bản trên là do người sau chế tác. Người ta cho rằng văn chương trong đó rất mới, đời Mạc chưa có lối lục bát.

Nhận xét này khá đúng, có những bản Sấm ký, có những đoạn người sau ở triều Nguyễn chế tác hoặc thêm vào. Nhưng xem kỹ, các bản Sấm ký có đủ thể loại thi ca, có lục bát, song thất lục bát thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ thuyết, ngũ ngôn tứ tuyệt và ngũ ngôn tràng thiên.

Thể lục bát là thể xưa trong ca dao, và cũng đã thể hiện trong các truyện xưa như truyện Trinh Thử, hoặc Gia Huấn Ca, còn song thất lục bát cũng là một thể khá xưa như Lê Đức Mao (1462-1529) , với bài Nghĩ bát giáp thưởng đào văn:

Xuân nhật tảo khai gia cát hội,

Hạ đình thông xướng thái bình âm.

Tàng câu mở tiệc năm năm,

Miếu Chu đối việt, chăm chăm tấc thành.

Hương dâng ngào ngạt mùi thanh,

Loan bay khúc múa, hoa quanh tịch ngồi;”

Song thất lục bát tuyệt diệu như trên thì trước đó thơ lục bát tất cũng điêu luyện.

III. GIỚI THIỆU CÁC BẢN

Bản nôm hiện ở các thư viện có nhiều, chưa ai ra công khảo cứu đầy đủ. Còn bản quốc ngữ thì nhiều. Sớm nhất là bản của Sở Cuồng do Quốc Học tùng thư ấn hành năm 1930, và bản Nam Ký năm 1945 . Ông Phạm Đan Quế đã giới thiệu khá đầy đủ về các văn bản Sấm ký toàn chép tay

trong thư mục Hán Nôm lưu trữ tại thư viện Hà Nội Khoa Học Xã hội (Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc Gia Hà Nội thì hiện nay còn bảy tài liệu chữ nôm sau đây có Sấm Trạng Trình (2) :

(1)-Bạch Vân Nguyễn Trình Quốc công lục ký 25 trang, ký hiệu VNB3

(2)-Trạng Quốc công ký: -2 quyển: VHV 1453/b – 36 trang; VHV 102; 32 trang.

(3)-Trình Quốc công sấm ký : 34 trang: AB345

(4). Trình tiên sinh quốc ngữ : 22 trang: AB444.

(5). Sấm ký bí truyền 34 trang; VHV 2261.

(6). Thiên Nam ngữ lục ngoại ký có phụ chép một số câu sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng

Thượng thư; AB192.

(7). Nhất tích thiên văn gia truyền VHV 1382 có một bài sấm nói là của Trạng Trình.

Ông cũng cho biết các bản quốc ngữ sau:

(1)-Bản quốc ngữ đầu tiên của Sở Cuồng trong Quốc Học tùng thư, Nam Ký xuất bản tại Hà Nội 1930; 53 trang, in tại nhà in Trịnh Văn Bích. Trong quyển Thư Mục Đông Dương (Bibliographie en l’ Indochine ), quyển V, xuất bản ở Đông Dương năm 1935, ông Paul Boudet có ghi” Bạch

Vân Am Thi Tập, văn thơ sấm ký của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm , recueilli par Sở Cuồng, Nam Ký Thư quán, 1930, Impr Trịnh Văn Bích- Coll Quốc Học Tùng Thư.

(2)-Phụ trương Khoa Học huyền bí của Tiểu Thuyết Nhật Báo do Mai Lĩnh xuất bản năm 1939

(3)-Đông Tây Tiểu Thuyết phát hành ở Nam Định, số Xuân 1940.

(4)-Sấm Ký, nhà xuất bản Đại La, Hà Nội 1948.

(5)-Sấm Trạng Trình của cư sĩ Minh Điền, nhà in Thái Bình, Saigon 1948.

(6)-Sấm ký của Bùi Xuân Tiến, Nam Ký Hà Nội, 1952.

(7)-Sấm Trạng Trình của Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1952.

(7)-Sấm Trạng Trình của Chu Ngọc Chi, Hưng Long, Hà Nội, 1954.

(8)-Trạng Trình của Phạm Văn Giao, Phạm Văn Tươi, Saigon, 1956

(9)-Trạng Trình Nguyễn BỈnh Khiêm, Thái Bạch, Sống Mới, Saigon, 1957.

(10)-Đại chiến thứ ba với Sấm Trạng Trình, Thiệu Nghĩa Minh; Phương Thảo, Saigon, 1964.

(11)-Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nostradamus của Nguyễn Duy Hinh; Dân Trí, Saigon; 1963.

(12)-Sấm Trạng Trình; trong Thành Ngữ, Điển tích, Danh nhân từ điển của Trịnh Văn Thanh,

Saigon 1966.

(13)- Bạch Vân Quốc Ngữ Thi của Nguyễn Quân; Sống Mới, Saigon, 1974.

Chúng tôi đã sưu tập được một số Sấm Ký nôm và Quốc ngữ , tuy chưa đầy đủ, song từ số tài liệu tương đối này, chúng tôi có thể phân loại về xếp đặt thành các dòng. Chúng tôi cố gắng đi tìm ý nghĩa các bản sấm ký dù rằng việc đó là việc khó khăn, nhưng chúng tôi nghĩ với tâm thành và tinh thần khách quan là tạm đủ. Chúng tôi không chú ý lắm về các từ ngữ nôm Việt dịch khác nhau, đọc khác nhau hoặc đúng sai.

Như đã trình bày, cho đến hiện nay (2011) có lẽ đã có trên 20 bản Quốc ngữ khác nhau. Xét theo các câu trong các tập, chúng tôi tạm phân loại như sau:

1. Bản Sở Cuồng và bản Mai Lĩnh

Bản 1 Sơn Trung, do tôi phiên âm chú thích từ bản nôm trong thư viện cụ Nghè Bân, chép cùng Phùng Thượng Thư Ký cũng là bản trong Thiên Nam ngữ lục ngoại ký. Ông Nguyễn Văn Y, bạn tôi, một tay sưu tầm sách cổ, mất khoảng 1990, cho biết ông đã tặng một người bạn đi Canada quyển sấm trạng trình và Sấm Trạng Bùng. Như vậy bản này phiên âm từ bản nôm, và bản nôm cũng có gốc tích ở Thư Viện Hà Nội. Và nhiều bậc danh gia đã sao chép tài liệu này. Tài liệu này là thật, không giả mạo, nhưng không mới lạ vì bản này cũng chỉ là phần hai của bản của Sở Cuồng, chỉ khác một số chữ vì phiên âm khác hoặc đánh máy, hoặc xếp chữ sai chánh tả.

Nay tìm thấy tài liệu của tiến sĩ Nguyễn Khuê (3) , mới biết bản Mai Lĩnh mà tôi có rất giống với bản của Sở Cuồng, có lẽ xuất phát từ bản của Sở Cuồng.

Bản Sở Cuồng có gốc là bản AB.444 tại Viện Hán Nôm Hà Nội. Tôi may mắn có bản Mai Lĩnh là bản in sau bản Sở Cuồng. Bản mà chúng tôi có trong tay in năm 1939 tại tủ sách một bạn học thời Trung học Huế. Bản này có hai ưu điểm là:

-bản tương đối sớm nhất, có trước 1945, vì các bản sau này, người ta thêm vào mấy chữ, mấy câu, hoặc bóp méo, xuyên tạc để tuyên truyền.

-Bản này phổ biến nhất vì được nhiều người dùng hoặc in lại.

Bản này khởi đầu:

Vận lành mừng gặp tiết lành và kết thúc: Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia. Có một số câu bị mất, còn lại 487 câu.

Nhiều bản chung gốc này mặc dầu có vài chữ khác nhau vì cách đọc chữ nôm khác nhau và sai chính tả:

-Bản Nguyễn Khuê

-Bản Đông Nam Á, Saigon 1964.

-Bản Hùynh Tâm, Saigon ?

-Wikisource 2010. Bản này tham khảo bản Huỳnh Tâm, Saigon, không rõ in năm nào, có lẽ

khoảng thập niên 60.

Theo thiển kiến, đây là bản quốc ngữ xưa nhất, lại có bản nôm rõ rệt cho nên bản này đáng tin cậy nhất

2. Bản Anh Phương, Saigon 1960? do Hoàng Xuân sưu tập.

Bản này gốc ở bản Nôm A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”. Cảm đề : Thanh nhàn vô sự là tiên. . .

Mở đầu: Nước Nam từ họ Hồng Bàng/ Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần.

Kết: Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

Các bản sau đây chung gốc:

-Tạp chí Thời Tập (1973-1975, Viên Linh. )

-Wikisource 2010

Bản Trịnh Vân Thanh, 1966.

– Bản Phạm Đan Quế , 1992.

3. Bản HƯƠNG SƠN

Bản này do Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm sưu tập. Bản này vốn ở quyển Lục Nhâm Bát Sát, Độn Thái Ất, phụ thêm Sấm Trạng Trình, Hương Sơn, Hà NỘi xuất bản trước 1954, sách 70 trang, Sấm Trạng Trình từ trang 48-68.

Khởi đầu: Nước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng. . .

Kết thúc: Gió mây ta lại đi về gió mây.

-Bản Bạch Vân Ca của Nguyễn Quân, Sống Mới, Saigon, 1974 giống bản Hương Sơn.

-Theo một bạn đọc, bản này cũng giống bản Nam Ký phát hành năm 1948 , do Bùi Xuân Tiêu và

Nguyễn Can Mộng lấy từ bản VH-2261 của kho sách Viện Viễn Bác Cổ, mở đầu có câu :

“Nước nam thường có thánh tài

Sơn Hà vững đặt mấy ai rõ ràng

Kìa Nhị Thuỷ, nọ Đảo Sơn

Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho

Học cách vật mới dò tới chốn. . .”

Bản này có cấu trúc đặc biệt là có nhiều bài thơ theo nhiều loại khác nhau như ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt,thất ngôn bát cú, lục bát và song thất lục bát.

Bản này có lẽ do người sau ghi lại các câu sấm truyền tụng trong dân gian chứ không phải của Trạng Trình, hoặc xáo trộn các đoạn trong sấm trạng Trình mà tạo thành . Việc này do biên chép vô ý hoặc cố ý.

Bản nôm của Nguyễn Văn Sâm nhan đề khác với các bản: 古庵先生讖歌文 Cổ Am Tiên Sinh Sấm Ca Văn.Bản nôm này giống bản Hương

Sơn từ câu đầu:

Nước Nam thường có thánh tài,

Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng

đến bài thơ 14 của bản Hương Sơn.

Can qua việc nước bời bời

Trên thuân lòng trời dưới đẹp lòng dân.

Lục thất dư ngũ bách xuân

Bấy giờ trời mới xoay vần nơi nao.

Thấy sấm tự đấy chép vào

Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.

Câu kết của bản Hoàng Xuân cũng giống:

Thấy sấm tự đấy chép vào

Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.(247-48)

Đọc kỹ nội dung bản này, ta thấy bản này viết sau thời Tây Sơn và đầu thời Nguyễn Ánh vì trong bản này có những chữ như lời ngạn , phương ngôn ( Nguyễn Văn Sâm), nghĩa là những câu đó đã truyền tụng rất lâu trước khi tác giả cầm bút. và các câu Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong, và Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân/Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền/Phụ nguyên chính thống hẳn hoi…Đó là những sản phẩm của đời Nguyễn, không phải của Nguyễn BỈnh Khiêm.

4. BẢN WIKISOURCE 2010

Bản này chép bản Mai Lĩnh 1939 và bản Anh Phương (1960?)

Nói chung, dù trên 20 bản, chỉ có ba dị bản chính thức như đã so sánh và trình bày ở trên. sự khác biệt này có thể do nhiều người soạn chứ không phải riêng Trỉnh Quốc Công, vì chính tôi cũng có một bản sấm ký chữ nôm của Trạng Trình và một bản của Phùng Khắc Khoan sẽ trình bày sau. Có những bản cùng nguồn gốc nhưng có sửa đổi vài câu vài chữ.

Bản Minh Điền là một chêm dặm. Theo Phạm Đan Quế, bản này giống bản Anh Phương 22 câu, từ câu 374 đến câu 431, ngoài ra các câu khác hoàn toàn lạ lùng. Nhưng chính Phạm Đan Quế đã trích dẫn 50 câu đầu và 30 câu cuối của bản này thì thấy là hơn 120 câu giống chứ không phải chỉ 22 câu .

Nay chúng tôi công bố bản Phùng thương Thư Ký là một bản đã có từ lâu nhưng chưa ai phiên dịch. Đọc bản này thì cho thấy rằng ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có Phùng Khắc Khoan cũng soạn Sấm Ký. Còn có ai nữa không? Bản của Phùng Khắc Khoan có vài đoạn giống bản của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

IV.TÍNH CHẤT CỦA CÁC BẢN

Nhìn chung, các bản có chung một vài điểm sau:

1. Tính bí mật:

Sấm Ký mang tính cách bí mật thuộc phạm vi quốc cấm, phải cất kín cũng như Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh, chỉ bàn bạc với người thân mà thôi. Thái độ của nhân dân đối Sấm Ký khác với Lục Vân Tiên và truyện Kiều. Ấy cũng bởi ngày xưa các nho sĩ dùng Sấm ký để chống triều đình , chống Pháp, mà bọn tay sai cũng dùng sấm ký vu oan giá họa cho dân lành cho nên quan quân đã bắt bớ dân chúng, và người ta phải cất giấu các tài liệu này.

2. Tính thiếu chân thực:

Thói quen của ta là tự tiện sửa chữa, thêm bớt các bản chính cho nên truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương đã bị tam sao thất bản.. Nhiều người sau này sửa sấm ký hoặc bóp méo văn nghĩa cho vừa khuôn khổ quyền lợi của phe nhóm họ.

3.Tính không thống nhất:

Có thể một người viết mà chia ra nhiều đoạn, do viết nhiều thời gian khác nhau. Có thể là do nhiều bản của nhiều người khác nhau mà người sau chép chung làm một tập. Như bản Mai Lĩnh ít nhất là hai tập khác nhau.

Một số là thu thập nhiều bài sấm ký khác nhau cho vào một tập như bàn Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm do Hương Sơn xuất bản trước 1954, cho nên trong đó có nhiều bài thơ. Có thể do nhiều gốc khác nhau. Cũng có kẻ cắt vài đoạn bỏ vào cái khuôn của mình để mập mờ đánh lận con đen trong chính sách tuyên truyền dối trá của họ. cũng có thể do phương cách làm việc chưa khoa học, nghĩ đến đâu, viết đến đó, nhiều khi trùng hợp, cái trước nói sau, việc sau nói trước.

Cũng có thể người ta tráo đoạn trước ra sau, đoạn sau lên trước để giữ bí mật, như đoạn cuối bản Mai Lĩnh : “Đào Tiền xử sĩ… nam thành quốc gia” nhưng trong bản Hương Sơn lại nằm gần cuối, dưới câu kết còn có 24 câu nữa (Phân phân đông bắc khởi.. . Gió mây ta lại đi về gió mây). Sự kiện này gây khó khăn cho người nghiên cứu.

4. Tính mơ hồ:

Các bản có chỗ thần diệu nhưng cũng có chỗ mơ hồ, giống các bản của Sư Vải Bán Khoai, Huỳnh Giáo chủ và Thanh Sĩ. . . chỉ nói tí , sửu ,dần, mẹo. . . rất mơ hồ trong khi các bản Kim Cổ Kỳ Quan và Tứ Thánh thì rõ ràng hơn.

V. CÁC VẤN ĐỀ CẦN THẢO LUẬN

A. CÁC TỪ NGỮ

1. Quốc hiệu Việt Nam.

Bản Mai Lĩnh 1939 ở gần đoạn đầu có câu: Việt Nam khởi tổ gây nền,/ Lạc Long ra trị đương quyền một phương (câu 7-8). Đời Nguyễn nước ta có quốc hiệu Việt Nam. Sấm Trạng trình cách nhà Nguyễn mấy trăm năm sao lại ghi Việt Nam? Ai đó sửa lại hay ngày xưa cụ Trạng đã biết mấy trăm năm sau quốc hiệu là Việt Nam?

Tự điển Wikipedia giải thích về Quốc hiệu Việt Nam:

Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng “Nam” có ý nghĩa “An Nam” còn “Việt” có ý nghĩa “Việt Thường”. Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của lãnh thổ nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa; nhà Thanh đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804. Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn.

Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”. Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh… Đặc biệt bia Thủy

Có thể một người viết mà chia ra nhiều đoạn, do viết nhiều thời gian khác nhau. Có thể là do nhiều bản của nhiều người khác nhau mà người sau chép chung làm một tập. Như bản Mai Lĩnh ít nhất là hai tập khác nhau.

Một số là thu thập nhiều bài sấm ký khác nhau cho vào một tập như bàn Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm do Hương Sơn xuất bản trước 1954, cho nên trong đó có nhiều bài thơ. Có thể do nhiều gốc khác nhau. Cũng có kẻ cắt vài đoạn bỏ vào cái khuôn của mình để mập mờ đánh lận con đen trong chính sách tuyên truyền dối trá của họ. cũng có thể do phương cách làm việc chưa khoa học, nghĩ đến đâu, viết đến đó, nhiều khi trùng hợp, cái trước nói sau, việc sau nói trước.

Cũng có thể người ta tráo đoạn trước ra sau, đoạn sau lên trước để giữ bí mật, như đoạn cuối bản Mai Lĩnh : “Đào Tiền xử sĩ… nam thành quốc gia” nhưng trong bản Hương Sơn lại nằm gần cuối, dưới câu kết còn có 24 câu nữa (Phân phân đông bắc khởi.. . Gió mây ta lại đi về gió mây). Sự kiện này gây khó khăn cho người nghiên cứu.

B. CÁC CÂU, CÁC ĐOẠN

1. Các câu giống nhau:

(a).Hai bản Mai Lĩnh và Anh Phương :

-Hai bản thường khởi đầu bằng các câu sấm đời trước như của Vạn Hạnh, và các tác giả vô danh đời trước. Hòa đao mộc lạc.. ./ Thập bát tử thành.

– Tan tác Kiến kiều tan đất nước,/Xác xơ cổ thụ sạch an mây.

(AP 49; ML 381)

-Uy nghi dung mạo khác mình/ Thác cư một góc kim tinh phương đoài

(AP 125, ML 141)

(b). -Bản Anh Phương với bản Hương Sơn

Nước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.

(HS. 1; AP:105)

(c). Mai Lĩnh và Hương Sơn

Thủy trung tàng bảo cái…. Đông Tây vô sự nam thành quốc gia.

(ML 446-487; HS, 26)

-Phá điền đầu khỉ cuối thu. . . Tái binh mọi giống thập thò liền sang.

(HS.16;ML 199)

-Thủy binh cờ xí vừng hồng.. .Bắc binh sang có việc gì chăng?… Đã ngu dại Hoàn Linh đời

Hán…

(ML 83; HS 12)

-Bách tính khổ tai ương… Đông tây vô sự nam thành quốc gia.

(ML467-487; HS 26)

-Bắc phương chính khí sinh ra/ Có ông Bạch xỉ (sĩ) điều hòa hôm mai.

(ML 135; HS16 )

-Man mác một lĩnh Hoành Sơn/Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

( ML 195; HS 16)

-Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh/ Sông Bảo giang thiên định ai hay.

(ML 125, 257; HS 17 )

Bắc kinh mới thật đế kinh/ Giấu thân chưa dễ giấu danh đục nào.

(ML 238; HS 16)

Quần hùng binh kéo đầy khe/ Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời.. 

Thương những kẻ ăn rau, ăn giới.

(ML 103; HS 16 )

Canh tân ( niên) tàn phá/ Tuất hợi phục sinh

(ML 395; HS 18)

Ma vương sát đại quỷ/ Hoàng thiên tru ma vương/Kiền khôn phú tái khôn lường

Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết/ Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân.

(ML 475; HS 26 )

-Phân phân đông (tùng ) bắc khởi.. Bất chiến tự nhiên thành

( ML 443; HS 26)

-Tộ trường nhị thập ngũ/ Vận khải ngũ diên trường

(ML 462; HS 26)

-Nực cười những lũ bàng quan/Cờ tàn lại muốn toan đường đấu xe (AP 125; HS 26)

(d).Ba bản giống nhau:

-Bắc hữu kim thành tráng

Nam hữu ngọc bích thành

( AP,214; ML 426-427, HS, 25)

-Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh. . .kiến thái bình.

(ML 398; HS 24, AP 171)

-Cửu cửu càn khôn dĩ định. . . Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.

(AP151; ML 410; HS 21)

-Xem ý trời có lòng khải thánh/ Dốc sinh ra điểu đỉnh hộ mai.

(AP 131, ML 131, HS 16)

-Có thầy Nhân thập đi về/ Tả phù hữu trì cây cỏ thành binh.

AP 231, (ML 261; HS 17)

-Bảo giang thiên tử xuất/ Bất chiến tự nhiên thành

(AP 217; ML 415; HS 25 )

-Phú quý hồng trần mộng,

Bần cùng bạch phát sinh

(AP209, ML 430; HS 25)

-Thái nguyên cận Bắc đường xa

(AP 123; HS 14; HS 14)

2. Các câu được giải thích để tuyên truyền:

(1). Thấy đâu bò đái thất thanh/ Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng sai.(HS 14)

Một bản giải thích:

Ở Bắc Kạn có khe Bò Đái.

Một bản ghi:

Nghệ An Bò Đái thất thanh.

Một bản khác ghi:

Nam Đàn Bò Đái Thất thanh.

Trong quyển La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn có trích thơ Nguyễn Thiếp, bài Gặp người đánh cá ở sông PhùThạch, HXH nói đến câu ca dao Đụn sơn phân giái/ Bò Đái thất thanh/ Đông Thành sinh thánh. Huyện Đông Thành ở phủ Diễn châu, còn Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh ở huyện Nam Đàn, phủ Anh Đô. Chính trong bài thơ trên, Nguyễn Thiếp viết: “Núi Liệt lở, Song Ngư nước cạn, /Sấm người xưa đánh lẫn dân ngu (tr.62) Chữ Hán tên là Lao Tuyền, HXH nói tên tục là Bò Đái không biết có đúng không vì Lao Tuyền là Khe Bò mà thôi.

(2).Đầu can võ tướng ra binh/ Ắt là trăm họ thái bình âu ca (AP 197) Thái Bạch giải thích Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra binh năm giáp thân (1944).

(3). Thánh nhân hương Có người theo bản Hương Sơn giải thích

1.Thánh nhân hương

2- Thuỷ trung tàng bảo cái ( bài 19 và bài 26)

VI. KẾT LUẬN

Sau khi nghiền ngẫm khoảng 20 bản, tôi thấy quanh đi quẩn lại chỉ có ba phiên bản chính, được nhiều người sử dụng :

-Mai Lĩnh

-Anh Phương

-Hương Sơn.

Trong ba bản, theo thiển kiến, bản Mai Lĩnh tức bản Sở Cuồng là đáng tin cậy nhất. Hai bản kia có lẽ chỉ là ghi chép những câu sấm truyền trong dân gian. Đây cũng chỉ là giả thuyết chờ sau này ai đó nghiên cứu thêm nhiều bản nôm thì rõ hơn.

1. Mai Lĩnh:

Bản Mai Lĩnh chính là bản đầu tiên là bản Sở CUồng in năm 1930

2.Hương Sơn:

Đoạn kết giống Mai Lĩnh 2:Sau một thời gian sống với cộng sản ( Ta hồ vô phụ vô quân), nước ta sẽ thái

bình như thời hoàng kim.

3.Anh Phương:

Đoạn kết giống Mai Lĩnh 1: sau này có ” thầy Nhân Thập” về cứu nước.

Các bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh và Sơn TRung có liên quan đến Phùng Thượng Thư Ký. Bản này có chú thích của Tiền nhân trước 1937 là năm cụ Nghè Bân mất. Các bản khác cũng chỉ thêm thắt và xáo trộn bản chính. Theo quyển Phùng Thượng Thư Ký, chủ yếu sấm ngữ là nói về giai đoạn Lê Mạc cho đến Trịnh Nguyễn và qua nhà Nguyễn. Như vậy có lẽ sấm không đi vượt thời gian 1945 là năm nhà Nguyễn mất.

Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian

(Sơn Trung ,4)

Chữ rằng lục thất nguyệt gian

Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

Hễ nhân kiến đã dời đất cũ

Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) binh ra

Bốn phương chẳng động can qua

Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi

Bấy giờ mở rộng qui khôi

Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn.

(SC, 117-124)

Quyển vàng mở thấy sấm trời

Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian

(SC,483-84)

Hòa đao mộc lạc,

Thập bát tử thành,

Ðông A nhật xuất,

Dị mộc tái sinh.

Chấn cung xuất nhật,

Ðoài cung vẩn tinh.

Phụ nguyên chì thống,

Ðế phế vi đinh.

Thập niên dư chiến,

Thiên hạ cửu bình.

(Anh Phương, 7-16)

205.Kể từ đời Lạc Long Quân,

Ðắp đổi xoay vần đến lục thất gian.

(Anh Phương, 205-06)

Nói chung, đa số nói về các sự lịch sử cho đến cuối nhà Nguyễn năm 1945. Tuy nhiên, nhiều nhà biên khảo cho rằng Sấm Trạng Trình có giá trị lâu dài. Việc này cũng tùy văn bản, như bản Anh Phương:

” Ô hô thế sự tự bình bồng,

Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.

Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,

Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.

Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,

Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.

Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,

Tứ phương thiên hạ thái bình phong

“(95-102)

Bài này đưa ra nhiều vấn đề. Thời Lê mạt, Nguyễn sơ, nước ta chưa có đường sắt và xe lửa. Pháp khởi công làm đường sắt năm 1881 đầu tiên đi từ cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn dài 13 km. Chuyến tàu đầu tiên khởi hành ở Việt Nam là vào ngày 20 tháng 7 năm 1885. Trong chiến tranh từ 1945 cho đến 1975, cộng sản thực hiện tiêu thổ kháng chiến, phá cầu, phá đường, đắp mô, giật mìn gây trở ngại giao thông cho dân chúng. Thời chiến tranh, hai miền Nam Bắc phân ly, đường sắt đứt nối nhiều đoạn.

Năm 1975, Việt Nam thống nhất , năm 1986, Chính phủ Việt Nam tiến hành khôi phục lại các tuyến đường sắt chính và các ga lớn, đặc biệt là tuyến Đường sắt Bắc Nam. Tuy nhiên, vẫn có câu hỏi: Phải chăng là đường sắt cao tốc mà Trung Cộng muốn làm? Hồ ẩn sơn trung Mao tận bạch, phải chăng là đường sắt này sẽ thực hiện , hay thực hiện xong sau khi HỒ CẨm Đào về hưu? mao tận bạch là gì? Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng là gì? Là trận thủy chiến ngoài Trường Sa, Hoàng Sa năm 1974 giữa Trung Cộng và VNCH? Là cuộc chiến giữa Việt Cộng- Trung Cộng năm 1988? Và cuộc thế chiến ba ở biển Đông?

Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,

Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.

Câu này không rõ.

Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,

Tứ phương thiên hạ thái bình phong.

Chờ khi Hoa Kỳ( chim ưng) đánh vào Hoa lục ( sư tử) thì thiên hạ mới thái bình!

Chú thích

(1). Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm , quyển I, Thư viện Quốc Gia, Hà Nôi, 1970,tr. 87).

( 2). Phạm Đan Quế, Giai Thoại và Sấm Ký Trạng Trình; Văn Nghệ TP HoChi Minh, 1992; 78-79)

(3). Nguyễn Khuê. Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bạch Vân Am Thi Tập. Nhà xb.HochiMinh, 1997, 379-402

ĐIỂN SẤM TRẠNG TRÌNH

Sấm Trạng trình có nhiều bản khác nhau nhưng các bản này vẫn có những đoạn giống nhau. Trước đây, trong ấn bản Sơn Trung, chúng tôi đã chú thích các bản Sấm Trạng Trình. Như đã nói, chúng tôi đã có bản nôm Trình Quốc Công Ký và bản nôm Phùng Thượng Thư Ký mà bạn tôi, ông Trương Quang Gia đã phiên âm từ 1990. Nhưng người nghiên cứu vẫn để yên trong ngăn tủ, nay mới đem ra xem xét cẩn thận, thì thấy người xưa đã chú thích phần lớn. Nay đem cả chú thích mới và cũ tập họp lại theo dạng tự điển để độc giả tiện tra cứu.

Bạch sĩ : chưa rõ

Bảo Giang (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Sông Bảo Giang đã định ai hay): không rõ nghĩa

Bắc hữu kim thành tráng

Nam tạc ngọc bích thành

Hỏa thôn đa khuyển phệ

Mục giả dục nhân canh

(Sở Cuồng, 426-429; TVThanh,227-230)

Nói về kinh đô Thăng Long và kinh đô Phú Xuân hay thủ thủ đô Hà Nội và thủ đô Sàigòn?

Cưu, nhạn : chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân.

Cửu cửu càn khôn dĩ định,

Thanh minh thời tiết hoa tàn.

Trực đáo dương đầu mã vĩ,

Hồ binh bát vạn nhập Trường An.

(Bản Anh Phương, 151-154; bản Sở Cuồng, 410-413, Trịnh Vân Thanh, 165-168))

Bản Phùng Thượng Thư nói về quân Mãn Thanh sang Việt Nam kỷdậu 1789 còn các bản sau này nói Cộng sản vào Hà Nội năm giáp ngọ 1954.

Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh chữ Trịnh có chữ nhật.

Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.

Dư đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh.

Đao: Xem Hòa đao mộc lạc.

Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi trong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh làng xóm để xem xét kẻ gian phi.

Đỉnh Hoành sơn: ( Đỉnh Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.) nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễnvà Tây Sơn tại miền Trung.

Đông A :là nhà Trần . (Trong chữ Trần có chữ Đông và bộ phụ của chữ A ). Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.

Hòa đao mộc lạc chỉ họ Lê , .có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh.

Hoàng Giang: (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh Sông Bảo Giang đã (thiên) ai hay): không rõ nghĩa. Phải chăng chỉ dòng họ Nguyễn Hoàng ?

Kìa cơn gió thổi lá rung cây

Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây

Tan tác kiến kiều an đất nước

Xác xơ cổ thụ sạch am mây

Sơn lâm nổi sóng mù thao cát

Hưng địa tràng giang hóa nước đầy

Một gió một yên ai sùng bái

Cha con người Vĩnh Bảo cho hay

(Bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh, câu 379-386)

Các bản sau này giải thích việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa năm 1930, và việc Pháp dùng 5 máy bay ném bom triệt hạ làng Cổ Am, căn cứ của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo. Hải Dương.

Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.(Xem Hòa Đao mộc lạc ).

Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác ghi là hư.

Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,

Can qua xứ xứ khổ đao binh.

Mã đề dương cước anh hùng tận,

Thân Dậu niên lai kiến thái bình.

(Anh Phương 171-174; Trịnh VÂn Thanh, 185-188)

Bản Phùng Thượng Thư Ký và một số có đoạn này. Bản Phùng Thượng Thư không chú rõ. Các bản khác đều cho rằng đioạn này nói kỷ dậu 1945 chấm dứt thế chiến, nhưng điều này khiông đúng vì từ năm dậu 1945 nước ta bắt đầu với đại họa cộng sản chứ không được hưởng thái bình.

Lục thất , hay lục thất nguyệt gian ( hay niên gian):

Lục thất cho biết ngày dầy (rày)

(Ngôn Nguyễn thị sanh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ).

Phụ nguyên ấy thực ở miền (rày) Tào khê (SC. 260) Bản Phùng Thượng Thư Ký chú là họ Nguyễn ở Sơn Tây . Tuy nhiên Tào Khê ở tỉnh Quảng Đông, là nơi Lục tổ Huệ Năng truyền đạo.

Lục thất 六七 ám chỉ họ Nguyễn vì Lục Thất có đồng âm . Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Lục thất là nhà Nguyễn. Họ Nguyễn làm vua thì giòng Nguyễn Gia Miêu là ở Thanh Hóa. họ Nguyễn (hay Hồ) nhà Tây Sơn ở Bình Định, chưa có vua nào ở Sơn Tây.

Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn quê ngày xưa dùng báo hiệu. có đám cháy hay trộm cướp.

Nhân Doãn:  Nhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn) chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統 .Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn.

Nhân kiến : Chỉ Lê Chiêu Thống 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm trong có chữ Kiến , . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó thì Nguyễn HUệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.

Ô hô thế sự tự bình bồng,

Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.

Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,

Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.

Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,

100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.

Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,

Tứ phương thiên hạ thái bình phong ”

(Bản Anh Phương, Trịnh Vân Thanh , 109-116)

Các bản giải thích là sau 1945, cộng sản phá hoại đường giao thông, trong đó có đường sắt. Đường sắt nối lại sau 1975 là lúc Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đều chết. Sau đó là có chuiến tranh ở Hoàng Sa, Trường Sa…

Phá điền : quốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền giống chữ Quốc , cả hai chữ thuộc bộ vi

.Cũng có người giải là năm sửu vì chữ sửu giống nửa chữ điền

Rau, rới: có bản ghi “giới”. Rau, rới, giới, rưới đều có nghĩa là rau. Có lẽ do từ Giới là rau, là đồ hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi)

Tái binh: binh ngoài biên cương, binh ngoại quốc: Chỉ quân Mãn Thanh.

Tam hiểm ( Tìm nơi tam hiểm mà hầu lánh thân): Ba nơi hiểm trở có đủ yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Quyển Phùng Thượng Thư Ký cho biết ba nơi là vùng sơn động Thái Nguyên, Tản Viên (Sơn Tây), và Vị Khê ( không rõ ở đâu.

Thập bát tử: họ Lý . Chữ Lý chiếrt tự là Thập bát tử.

Thầy Nhân Thập : trước đây các vị đã giải đoán là chữ Tản vì có chữ Nhân và 4 chữ Nhân nhỏ với chữ Thập thành chữ Tản . Ba chữ Thầy Nhân Thập đọc và viết theo pháp âm chữ Nho là Thập Nhân Tử 人十子 (chữ Tử còn gọi là Thầy như Lão Tử, Trang tử, Khổng Tử …). Chữ Thập Nhân Tử còn có nghĩa là chữ Lí (họ Lý). Ông này tên Tản hay tên Lý? Hay tên gì?

Theo lời chú trong bản Phùng Thượng Thư Ký, ông này tuổi ngọ giúp vua trị vì dài lâu ( Chữ chiết tự thành nhân thập)

Trần công nãi thị phúc tâm

Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du.

(Sở Cuồng, 482-483)

Không rõ họ Trần nào, xuất hiện vào lúc nào? Nước ta từ Lê Lợi đên nay có Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm… . .làm vua, và các nhà chính trị nổi danh như Đào Duy Từ, Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim nhưng chưa có vua nào họ Trần.

BẢN I : SƠN TRUNG 2011

TRÌNH QUỐC CÔNG KÝ

tủ sách cụ Nghè Bân, Sơn Tây

LỜI NÓI ĐẦU

Đây là bản nôm tìm thấy trong thư viện cụ nghè Nguyễn Văn Bân ( 1868- 1937.) Cụ nghè Nguyễn Văn Bân , sinh năm mậu thìn (1868), quê làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, đậu cử nhân khoa đinh dậu (1897), đậu tiến sĩ khoa tân sửu, năm Thành Thái 13 (1901), đồng khoa với Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Huy tức Nguyễn Sinh Sắc, và Phan Chu Trinh, hàm Hồng Lô tự khanh, sung Bắc kỳ thượng nghị viện , Tổng Đốc Hải Dương.

Cụ Nghè Bân ở Sơn Tây , gần làng Phùng, cùng huyện Thạch Thất với Phùng Thượng Thư cho nên bản này rất đáng tin cậy vì ngày xưa các cụ thường mượn sách nhau sao chép, nghĩa là bản này có thể là sao chép từ tủ sách quan thượng Phùng Khắc Khoan.

Đại tá Nguyễn Sùng đậu cử nhân luật bên Pháp, người Chàng Thôn, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, làm việc tại bộ Tổng Tham mưu quân đội VNCH, là tế tử của cụ nghè.

Khoảng năm 1985, gia đình đại tá Nguyễn Sùng, sang định cư tai Pháp. Trước khi đi, hai ông bà tặng tôi một số sách cổ, trong có bản Trình Quốc công ký và Phùng Thượng thư ký. Tôi giữ từ đó đến nay, chỉ nhìn qua rồi cất kín vì lúc bấy giờ tôi đang tập trung tư tưởng và thời giờ viết bộ Văn Học Sử Việt Nam. Vả lại lúc bấy giờ việc nước tang thương, ai cũng lo việc y thực và tìm tự do. Nay có bạn đọc hỏi về Sấm Ký, tôi bèn đem tất cả Sấm Ký Quốc ngữ mà tôi đã sưu tập và bản Nôm này trình làng. Như vậy bản nôm chép tay đã có khoảng hơn một trăm năm, mà tôi cất giữ cũng đã 25 năm, nay mới ra mắt độc giả.

Hôm nay xem kỹ, và sau khi so sánh các bản Quốc ngữ, tôi xin thưa với các độc giả vài điều:

1. Sấm Trạng Trình là có thực. Bản này có gốc tích rõ ràng từ một bậc danh gia ở Sơn Tây, đồng hương với Trạng Bùng, mà trạng Bùng lại là đệ tử của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hơn nữa, hơn 20 bản nôm trong các thư viện cũng là một thực thể mạnh, không thua gì Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du, trong đó có những dị bản, nhưng không thể phủ nhận sự hiện hữu của Trình Quốc Công ký.

2.Bản này giống phần thứ hai của Mai Lĩnh. Tôi chưa xem bản nôm AB 444 của Viện Hán Nôm Hà Nội, song có thể nghĩ rằng hai bản nôm này cùng nguồn gốc. Tuy nhiên, đọc kỹ thì thấy bản quốc ngữ của Mai Lĩnh và bản nôm này tuy ý từng câu, từng đoạn giống nhau, mà trong mỗi câu it nhất là có một chữ bị sửa . Tuy nhiên phần cuối bản nôm này ( từ câu 101) khác hẳn bản Mai Lĩnh.

Tôi chỉ phiên âm, còn phần chú thích tôi đã chú thích trong bản Mai Lĩnh, nay chỉ chú một đôi dòng cần thiết mà thôi. Xin tha thứ những sai lầm trong bản này.

Ottawa ngày 6-10-2010

Nguyễn Thiên Thụ

phiên âm:

1.Vừa năm canh tý (1) xuân đầu

Thanh nhàn ngồi tựa long câu (2) nghĩ đời

Quyển vàng mở thấy sấm trời

Từ Ðinh đổi đời chí lục thất (3) gian

5.Mỗi đời có một tôi ngoan

Giúp chưng (4) giữ nước dân an thái bình

 

Kể từ Lạc Long đế kinh,

Thế cùng xem biết sự tình thấp cao.

Nhân vì biết được tơ hào

10. Truyền chưng chép vào chẳng tiếc làm chi.

Luận chung một tập kim thì (5)

Tướng tài coi gẫm, nam nhi học đòi

Trượng phu có chí thời coi

Những câu nhiệm nhặt đáng doi (6) cho cần

15. Già nay cũng đấng hiên ngang

 

Biết chưng đời trị biết đường đời suy

Kể từ nhân duẫn ( 7) mà đi

Sau thì chưa đến biết thì nói ra.

Tiếc thay hiền sĩ tuổi già

20. Phúc bằng Bành Tổ cùng là Thái Công

Thử cho tay thước ( 8) ra dùng

Tài này cùng hẹn anh hùng xem sao

 

Trên trời chỉn chín tầng cao

Tai nghe bằng một tơ hào (9) biết hay

25. Hiềm vì sinh phải thời này

Rấp thù lỗi kiếp tiếc thay chưng đời

 

Dẫu hay tấn chước (10) ngàn lời,

Sinh phải lỗi đời ắt cũng có dư.

Chẳng sinh phải kiếp người ta,

30. Sinh ra phải kiếp quỷ ma nhà trời.

Nói ra thì lộ sự đời,(11)

 

Che nghe (12) cho phải lụy này,

Nói ra ám chúa bội quân

Ðương thời đời trị xoay vần được đâu

35. Chờ cho nhân duẫn về sau

Ðến chừng đời ấy thật âu nhiều nàn

Trời sinh ra những kẻ gian,

Nhật dạ đạo kiếp suy tàn đông tây.

Quân nào thần ấy làm vày (13),

40. Thượng nhân bất chính hạ nay tác loàn.

Đua nhau bạo ngược làm càn,

Phá gia ba kẻ dân tàn khốn thay

Anh hùng gẫm được thời hay,

Xem chưng thời vận biết hay trong lòng.

45. Nam nhi có chí anh hùng,

Muốn làm tướng súy lập công chưng đời.

Thời xem tuần vận điềm trời,

Cơ mưu nhiệm nhặt nên trai anh hùng.

Đi tìm cho đến thánh công,

50. Để phù trợ trị nên công vẹn tuyền.

Trong ngoài cương kỷ cho bền,

Bốn phương điều vận cho yên trong ngoài.

Chờ khi chuyển đất động trời,

Bấy giờ mới biết mặt trai anh hùng.

55. Còn bận (14) thì náu chưa xong,

Nhân lực chẳng đoạt thiên công đâu là.

Ðời này những quỉ cùng ma

Chẳng phải người thế dân ta thiện hiền.

Trời cao đất rộng mông minh,

60. Ngu dân đâu biết chân tình đế vương.

Thế gian ai chẳng biết tường,

Thánh thời ở tại khảm phương tuần này.

Ấy là lục thất gian nay,

 

Tuần hoàn đã định đến ngày hưng vương.

65.Xem chưng tuần vận cho tường,

Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này.

Vua ngự thạch bàn xa thay,

Nhân (15) ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng

Chim kêu vượn hót vang lừng,

70. Ðường đi thỏ thẻ dặm chưng khôn ngờ.

Nhân gian vắng vẻ bằng tờ

Sơn lâm bát ngát đổ (16) nhờ khôn thay!

Vua còn cuốc nguyệt cày mây

Phong điều vũ thuận đợi ngày làm ăn

75. Phong đăng hoà cốc chứa chan

Vua ở trên ngàn có ngũ sắc vân.

Khảm cung thời tiết mở vần,

Thực là thiên tử thánh nhân ra đời.

Anh hùng ai có chí tài,

80. Công phu chẳng ngại tìm đòi ra đi.

Tìm đi đến Bàn thạch khê,

Đất sinh thánh đế bên kia cuối làng.

Nhìn đi nhìn lại cho tường,

Do nay phỏng có sinh vương đâu là.

85. Chẳng tin thì đến bản gia,

Đất sinh thiên tử xem qua địa hình.

Bốn bề phong cảnh cực thanh,

Tả long triều lại uốn vành vũ khai.

Hữu thời cửu khúc giang nay,

90. Minh Ðường thất diệu ra bày tay coi

Trông xa thấy một đầu voi

Đầu cúi cuốn lại phục triều nguyệt sơn .

Ứng điềm thiên tử về chầu,

Tượng trời thánh đế thật âu trị dài.

95. Song thiên nhật nguyệt sáng soi,(17)

Sinh được tuổi ấy thật ngôi chẳng cầu

Ðến tuần hưng vượng về sau,

Chờ đến tam hợp thúc nhau mới làm

Khuyên người Ðông Bắc Tây Nam

100. Muốn làm tướng súy thì xem sấm này

Anh hùng lượng được thời hay

Chép làm một quyển để ngay chẳng mòn.

Ai nên bia tạc biển son,

Nguyện đem phúc vận tử tôn ơn nhờ.

105.Nay nhờ truyền bảo sau xưa,

Những câu nhiệm nhặt nên sơ tỏ tường

Tìm đi cho đến khảm phương

Hình dung thánh đế khiêm nhường từ bi.

Chính trung diện mạo uy nghi,

110. Râu rồng tóc phượng thật thì đế vương.

Nhìn xem cho biết tỏ tường,

Để hòa (mà) giúp rập đế vương tuần này.

Quân thần hội họp rồng mây,

Đạo trời hay chứa bàn tay nhưng là.

 

115. Cõi tiên thế giới đất ta,

Mông lung bốn bể ắt là giao lân.

Trời xui thiên tử vạn dân,

Rắp hết xa gần triều lục thất gian.

Phò vua ra đến Tràng An,

220. Bao nhiêu ngụy đảng loài gian lại hiền.

Đời ấy những Phật cùng tiên,

Sinh những người hiền trợ giúp trị dân.

Lục thất dư ngũ vạn xuân,

Bây giờ trời lại xoay vần chốn nao.

225.Thấy sự thời để chép vào,

Lâu thời chẳng biết nói sao nên lời.

Ai mà độ lượng trí tài,

Công phu chẳng ngại tìm thôi đến này.

Phò vua vực trị trợ đời,

230. Ơn trên đức rộng cho trai ơn nhuần.

Vũ thời phong đại tướng quân,

Văn thời thất phẩm đại thần cao ngôi.

Trông ân đức rộng bằng trời,

Cả dung cho khắp thỏa người tôi con.

235. Chớ nề bạch ốc chu môn,

Nam nhi có chí khỏe khôn đều dùng,

Quân minh lại gặp thần trung,

Tướng vốn vô dùng điều dụng mới trai.

Trảo nha những đứng trí tài,

240. Bất văn thạch phụng nào ai biết gì.

Ai ai là chẳng nam nhi,

Sinh chẳng kịp thì nên muộn công danh.

Trông ơn đức rộng cao minh,

Tuất cập đến kẻ hết tình làm tôi.

245. Quân thần tướng tá giúp đời,

Quân minh thần hiệp mỗi điều cho tin,

Trợ phù nhà nước khoẻ bền.

Công phu kiếp trước hữu duyên cùng người.

Trời sinh lão tướng giúp đời,

250. Khai quốc cùng toại cho đòi khảm phương.

Khác nào thuở trước nhà Đường,

Quân minh lại gặp thần lương mới bền.

Đời xưa những đấng khá khen,

Đời nay những đấng tôi hiền ai so

255.Xưa trượng phu, nay cũng trượng phu,

Tài nay khá mượn tài xưa giúp đời.

Mong ơn trên trị chưng đời,

Chớ hề quên nghĩa phụ người công phu.

Sống thời ăn bổng lộc vua,

260.Thác thời ban cấp cho con thơ rày

Trận tiền hết sức, ra tay,

Cờ xây súng trỏ sắc rày ban cho.

Hoặc là tử trận đương cô,

Quan thời dân xã cấp cho bổng thờ.

265. Quân thời cấp ruộng điền tô,

 

Làm cho con cháu ơn vua đời đời.

Để cho nức lòng con trai.

Đến khi có giặc cho trai liều mình.

Thấy tặc nó hội phụng kinh

270. Anh hùng ai chẳng liều mình cướp nhau.

Sống thì chức trọng quyền cao,

Thác thì miêu duệ ân nhiều giàu sang.

Lập nên giềng mối kỷ cương.

Trong an ngoài cũng bốn phương thuận hòa,

275. Đâu đâu xướng thái bình ca,

Thiên thuận địa hòa, chủ quý thần vinh.

Tảo an thiên hạ thái bình,

Bây giờ sĩ mở lệ thư luật điều

Sĩ hiền biết bấy nhiêu điều,

280. Tiên bảo cùng sấm mỗi điều chép ra.

Khuyên người Nam Việt trai hiền,

Ai xem cho biết để mà làm công.

CHÚ THÍCH

(1). Các bản ghi giáp tí, nhâm tí nhưng bản này ghi canh tí. Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 sinh 1491 và mất năm 1585. Canh tí là năm 1540, nhâm tí là 1552; giáp tí là 1564. Năm canh tí là lúc ông 50 tuổi.

(2). Câu: câu là câu lơn, bao lơn, hành lang.

(3).Nguyên bản lục thất ( lục thất nguyệt gian, lục thất niên gian) có lẽ cổ nhân dùng để chỉ lục thất nhà Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn .

(4). Chưng: cũng như chi, sở là hư tự. Chưng ở đây là ở.

(5).Kim thời: thời nay.

(6). Doi: noi theo, theo dõi.

(7).Nhân duẫn 人允 : duẫn, doãn , chỉ Lê Chiêu Thống, vì trong chữ Thống có chữ Duẫn, Doãn; nói việc Lê Chiêu Thống theo quân Thanh trở về Thăng Long thì bị Nguyễn Huệ đem binh đánh tan, sau đó Nguyễn Ánh đem quân ra Bắc..

( 8). tay thước : Thước là thanh gỗ dài hơn một thước, rộng khoảng 3 hay bốn cm.Thước là vũ

khí của tuần phu ngày xưa.

(9). ti hào: ti là sợi tơ, hào là sợi lông, nói những điều nhỏ nhặt.

(10). Tấn chước: đưa ra mưu kế, kế hoạch.

(11).Đoạn này bị sót

(12).Che nghe : chẳng nghe.

(13).làm vày : làm tầm bậy, sai lầm. Vày trong nghĩa giày vò, vày vò, tà vạy.

(14). Bận: vướng bận, bận bịu; còn vướng bận, không thể ra cứu nước.

(15). Bản Mai Lĩnh ghi là Đại ngàn.

(16). Đỗ: ở đỗ, ở nhờ.

(17).Tuổi quý .

BẢN II : * SỞ CUỒNG 1930 & MAI LĨNH 1939

1. Vận lành mừng gặp tiết lành

Thấy trong quốc ngữ tập tành nên câu

Một câu là một nhiệm màu

Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

5. Trải vì sao mây che Thái Ất

Thủa cung tay xe nhật phù lên

Việt Nam khởi tổ gây nên

Lạc Long ra trị đương quyền một phương

Thịnh suy bĩ thái chẳng thường

10. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề.

Ðến Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngủ

Mở bản đồ rủ áo chắp tay

Ngự đao phút chốc đổi thay

Thập bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên

15. Ðông A âm vị nhi truyền

Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh

Chấn cung hiện nhật quang minh

Sóng lay khôn chống trường thành bền cho

Ðoài cung vẻ rạng trăng thu

20.Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn

Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật

Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen

Sửa sang muôn vật cầm quyền

Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho

25.Kìa liệt vương khí hủ đồ ủng

Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn.

Trời sinh ra những kẻ gian

Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài

Áo vàng ấm áp đà hay

30.Khi sai đắp núi khi sai xây thành

Lấy đạc điền làm công thiên hạ

Ðược mấy năm đất lở riếng ( giếng) mòn

Con yết ạch ạch tranh khôn

Vô già mở hội mộng tôn làm chùa

35.Cơ trời xem đã mê đồ

Ðã đô lại muốn mở đô cho người

Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn

Suốt vạn dân cưu giận nhạn than

Dưới trên dốc trí lo toan

40.Những đua bán tước bán quan làm giàu

Thống ru nhau làm mồi phú quí

Mấy trung thần có ý an dân

Ðua nhau làm sự bất nhân

Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non

45.Dư đồ chia rẽ càn khôn

Mối giường man mác khiếp mòn lòng nhau.

Vội sang giàu giết người lấy của

Sự có chăng mặc nọ ai đôi

Việc làm bất chính tơi bời

50.Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ

Xem tượng trời đã gia ( giơ) ra trước

Còn hung hăng bạc ngược quá xưa

Cuồng phong cả sớm liền trưa

Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề

55. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết

Ðể vạn dân dê lại giết dê

Luôn năm chật vật đi về

Âm binh ở giữa nào hề biết đâu

Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng

60. Cũng một lòng trời chống khác nào

Xem người dường vững chiêm bao

Nào đâu còn muốn ước ao thái bình

Một góc thành làm tám chúng quỷ

Ðua một lòng ích kỷ hại nhân

65. Bốn phương rỡ rỡ hồng trần

Làng khua mỏ cá , làng phân điếm tuần

Tiếc là những xuất dân làm bạo

Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau

Nhân danh trọn hết đâu đâu

70. Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

Hùm già lạc dấu khôn về

Mèo non chi chí tìm về cố hương

Chân dê móng khởi tiêu tường

Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình

75.Nội thành hoảng hốt hư kinh

Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang

Bở mồ hôi Bắc giang tái mã

Giữa hai xuân bỗng phá tổ long

Quốc trung kinh dụng cáo không

80.Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng

Gà đâu sớm gáy bên tường

Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

Thủy binh cờ phất vầng hồng

Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

85. Ðứng hiên ngang đố ai biết trước

Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?

Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi

Chưa từng thấy đời nào sự lạ

90. Bỗng khiến người giá họa cho dân

Muốn bình sao chẳng lấy nhân

Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán

Ðúc tiền ra bán tước cho dân

95.Xun xoe những rắp cậy quân

Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công

Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ

Lòng báo thù ai dễ đã nguôi

Thung thăng tưởng thấy đạo trời

100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra

Cát lầm bốn bể can qua

Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về

Quân hùng binh nhuệ đầy khe

Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời

105. Bấy giờ càng khốn ai ôi

Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?

Thương những kẻ ăn rau ăn rới

Gặp nước bung con cái ẩn đâu

Báo thù ấy chẳng sai đâu

110.Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn

Xin những kẻ hai lòng sự chúa

Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân

Cho nên phải báo trầm luân

Ai khôn mới được bảo thân đời này 

115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy

Chí anh hùng xem lấy mới ngoan

Chữ rằng lục thất nguyệt gian

Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

Hễ nhân kiến đã dời đất cũ

120. Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) binh ra

Bốn phương chẳng động can qua

Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi

Bấy giờ mở rộng qui khôi

Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

125. Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Hoàng phúc xưa đã định tây phong

Làu làu thế giới sáng trong

Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương

Rõ sinh tài lạ khác thường

130.Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài

Xem ý trời có lòng khải thánh

Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai

Chọn Đẩu, Thai những vì sao cả

Dùng ở tay phụ tá vương gia

135. Bắc phương chính khí sinh ra

Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai

Song thiên nhật rạng sáng soi

Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường

Ðời này thánh kế vi vương

140.Ðủ no đạo đức văn chương trong mình

Uy nghi trạng mạo khác hình

Thác cư một gốc kim tinh phương đoài

Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi

Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân

145. Binh thơ mấy quyển kinh luân

Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu

Ở đâu đó anh hùng hẳn biết

Xem sắc mây đã biết thánh long

Thánh nhân cư có thụy cung

150. Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

Lại dặn đấng tú nam chí cả

Chớ vội vàng tất tả chạy rông

Học cho biết lý kiết hung

Biết phương hướng hội có dùng lầm chi.

155. Hễ trời sinh xuống phải thì

Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông

Kìa những kẻ vội lòng phú quí

Xem trong mình một tí đều không

Ví dù có gặp ngư ông

160.Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng

Xin khuyên đấng thời trung quân tử

Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh.

Âm dương cơ ngẫu ngô sinh

Thái nhâm thái ất trong mình cho hay

165. Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng

Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh

Võ thông yên thủy, thần kinh

Ðược vào trận chiến mới rành biến cơ

Chớ vật vờ quen loài ong kiến

170. Biết ray tay miệng biến? nói không

Ngõ hay gặp hội mây rồng

Công danh choi chói chép trong vân đài

Bấy giờ phỉ sức chí trai

Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình

175.Nặng lòng thật có vĩ kinh

Cao tay mới gẩm biết tình năm nao

Trên trời có mấy vì sao

Ðủ no hiền tướng anh hào đôi nơi

Nước Nam thường có thánh tài

180.Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường

So mấy lời để tàng kim quỉ

Chờ hậu mai có chí sẽ cho

Trước là biết nẻo tôn phò

Sau là cao chí biết lo mặc lòng

185.Xem đoài cung đến thời bất tạo

Thấy vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau

Nguôi lòng tham tước tham giàu

Tìm nơi tham ( tam ?) hiểm mới hầu bảo thân

Trẻ con mang mệnh tướng quân

190.Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường

Ai lấy gương vua U thủa trước

Loạn ru vì tham ngược bất nhân.

Ðòi phương ong khởi lần lần

Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn

195.Man mác một đỉnh Hoành Sơn

Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

Ấy là những binh thù thái thái

Lòng trời xui ai nấy biết ru ?

Phá điền đầu khỉ cuối thu

200.Tái binh mới động thập thò liền sang

Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết

Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa

Lưu tinh hiện trước đôi thu

Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh

Loài bất bình tranh mạnh hung hăng

Thành câu cá, lửa tưng bừng

Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm

Chiến trường chốn chốn cát lầm

210. Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

Sang thu chín huyết hồng tứ giả

Noi đàn dê tranh phá đôi nơi

Ðua nhau đồ thán quần lê

Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương

215.Kẻ thì phải thửa hung hoang

Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan

Kẻ thì mắc thửa hung tàn

Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình

Muông vương dựng tổ cắn tranh

220.Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành

Bời bời đua mạnh tranh giành

Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày

Bể thanh cá phải ẩn cây

Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù

225,Nào ai đã dễ nhìn u

Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn

Cây bay lá lửa đôi ngàn

Một làng còn mấy chim đàn bay ra

Bốn phương cùng có can qua

230. Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân

Ðoài phương thực có chân nhân

Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người

Tìm cho được chốn được nơi

Thái nguyên một giải lần chơi trú đình

235.Bốn bề núi đá riễu quanh

Một đường tiểu mạch nương mình đấy an

Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tặc

Lánh cho xa kẻo mắc đao binh

Bắc kinh mới thật đế kinh

240. Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào

Chim hồng vỗ cánh bay cao

Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.

Ai dễ cứu con thơ sa giếng

Ðua một lòng tranh tiếng giục nhau.

245. Vạn dân chịu thửa âu sầu

Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho

Cấy cày thu đãi thời mùa

Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai

Nhân ra cận duyệt viễn lai

250.Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

Xem tượng trời biết đường đời trị

Gẫm về sau họ Lý xưa nên

Giòng nhà để thấy dấu truyền

Gẫm xem bốn báu còn in đời đời

255.Thần qui cơ nổ ở trời

Ðể làm thần khí thửa nơi trị trường

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh

Sông Bảo Giang thiên định ai hay

Lục thất cho biết ngày dầy (rày)

260.Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày) Tào khê

Có thầy Nhân thập đi về

Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh

Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp

Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời

265.Ra tay điều đỉnh hộ mai

Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân

Lọ là phải nhọc kéo quân

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng

270.Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh

Ân trên vũ thí vân hành

Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài

Bản đồ chảng sót cho ai

Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn

275.Vững nền vương cha truyền con nối

Dõi muôn đời một mối xa thư

Bể kình tăm lặng bằng tờ

Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân

Âu vàng khỏe đặt vững chân

280.Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

281. Vừa năm giáp tý xuân đầu

Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời

Quyển vàng mở thấy sấm trời

Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian

285.Một thời có một tôi ngoan

Giúp trong việc nước gặp an thái bình

… . . . . . . . . .

Luận chung một tập kim thời

Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi

Trượng phu có chí thời coi

290.Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng

Tài nầy nên đấng vẻ vang

Biết chừng đời trị biết đường đời suy

Kể từ nhân doãn mà đi

Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra

295.Tiếc thay hiền sĩ bao già

Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công

Thử cho tay giúp ra dùng

Tài này so cùng tài trước xem sao

Trên trời kể chín tầng cao

300. Tai nghe bằng một ti hào biết hay

Hiềm vì sinh phải thời này

Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời.

Hợp đà thay thánh nghìn tài

Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời

305.Nói ra thì lậu sự đời

Trái tai phải lụy tài trai khôn luần

Nói ra ám chúa bội quân

Ðương thời đời trị xoay vần đặng đâu.

Chờ cho nhân doãn hết sau ,

310.Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn

Trời xui những kẻ ắt (ác?) gian

Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay

Vua nào tôi ấy đã bày

Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn 

315. Ðua nhau bội bạn nghịch vi

Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay

Tiếc tài gẫm được thời hay

Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng

Tài trai có chí anh hùng

320.Muốn làm tướng súy lập công chưng đời

Khá xem nhiệm nhặt tộ trời

Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng

Ði tìm cho đến đế cung

Rấp phù xuất lực đế cung được toàn.

325. Bảo nhau cương kỷ cho tường

Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài

Chờ cho động đất chuyển trời

Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng 

Còn bên thì náu chưa xong

330. Nhân lực cướp lấy thiên công những là

Ðời ấy những quỉ cùng ma

Chẳng còn ở thật người ta đâu mà

Trời cao đất rộng bao xa

Làm sao cho biết cửa nhà đế vương

335.Dù trai ai chửa biết tường

Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này

Ý ra lục thất gian nay,

Thời vận đã định thời nầy hưng vương

Trí xem nhiệm nhặt cho tường

340.Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy

Vua ngự thạch bàn xa thay

Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng

Gà kêu vượn hót vang lừng

Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò

345.Nhân dân vắng mạt bằng tờ

Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay

Vua còn cuốc nguyệt cày mây

Phong điều vũ thuận thú rày an dân

Phong đăng hoà cốc chứa chang

350.Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây

Chính cung phương khảm vần mây

Thực thay thiên tử là nay trị đời

Anh hùng trí lượng thời coi

Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi

355.Tìm lên đến thạch bàn khê

Có đất sinh thánh bên kia cuối làng

Nhìn đi nhìn lại cho tường

Dường như chửa có sinh vương đâu là

Chảng tìm thì đến bình gia

360.Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình

Nhìn xem phong cảnh cũng xinh

Tả long triều lại có thành đợt vây

Hửu hổ uấn khúc giang này

Minh Ðường thất diệu trước bày mặt ta.

365.Ở xa thấy một con voi

Cúi đầu quen bụi trông hồ sau

Ấy điềm thiên tử về chầu

Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời

Song thiên nhật nguyệt sáng soi

370.Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu

Ðến thời thịnh vượng còn lâu

Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm

Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam

Muốn làm tướng súy thì xem trông này

375.Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn

Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn

Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn 

Kìa cơn gió thổi lá rung cây

380. Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây

Tan tác kiến kiều an đất nước

Xác xơ cổ thụ sạch am mây

Sơn lâm nổi sóng mù thao cát

Hưng địa tràng giang hóa nước đầy

385.Một gió một yên ai sùng bái

Cha con người Vĩnh Bảo cho hay

Con mừng búng tít con quay

Vù vù chong chóng gió bay trên đài

Nhà cha cửa đóng then cài

390. Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân

Tiếc tám lạng thương nửa cân

Biết rằng ai có dù phần như ai

Vắt tay nằm nghỉ dông dài

Thương người có một lo hai phận mình.

395.Canh niên tàn phá

Tuất hợi phục sinh

Nhị ngũ dư bình

Long hổ xà đầu khởi chiến tranh

Can qua tứ xứ khởi đao binh

400. Mã đề dương cước anh hùng tận

Thân dậu niên lai kiến thái bình.

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu

Có một đàn xà đánh lộn nhau

Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng

405.Lợn kia làm quái phải sai đầu

Chuột nọ lăm le mong cắn tổ

Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu

Hùm ở trên rừng gầm mới dậy

Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.

410.Cửu cửu kiền khôn dĩ định

Thanh minh thời tiết hoa tàn

Trực đáo dương đầu mã vĩ

Hồ binh bát vạn nhập trường an.

Bảo Giang thiên tử xuất

415. Bất chiến tự nhiên thành

Lê dân đào bão noãn

Tứ hải lạc âu ca

Dục thức thánh nhân hương

Qua kiều cư Bắc phương

420. Danh vi Nguyễn gia tử

Kim tịch sinh ngưu lang 

Thượng đại nhân bất nhân

Thánh ất dĩ vong ân

Bạch hổ kim đai ấn

425.Thất thập cổ lai xuân

Bắc hữu kim thành tráng

Nam tạc ngọc bích thành

Hỏa thôn đa khuyển phệ

Mục giả dục nhân canh

430.Phú quí hồng trần mộng

Bần cùng bạch phát sinh

Anh hùng vương kiếm kích

Man cổ đổ thái bình

Nam Việt hửu Ngưu tinh

Quá thất thân thủy sinh

Ðiạ giới sĩ vị bạch

Thủy trâm nhi bắc kinh

Ký mã xu dương tẩu

Phù kê thăng đại minh

440.Chư thử giai phong khởi

Thìn mão xuất thái bình

Phân phân tùng Bắc khởi

Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh

Bảo sơn thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

Thủy trung tàng bảo cái

Hứa cập thánh nhân hương

Mộc hạ châm châm khẩu

Danh thế xuất nan lường

450. Danh vi Nguyễn gia tử

Tinh bản tại Ngưu lang

Mại dữ lê viện dưỡng

Khởi nguyệt bộ đại giang

Hoặc kiều tam lộng ngạn

Hoặc ngụ kim lăng cương

Thiên dữ thần thực thụy

Thụy trình ngũ sắc quang

Kim kê khai lựu điệp

Hoàng cái xuất quí phương

460. Nhân nghĩa thùy vi địch.

Ðạo đức thùy dữ đương

Tộ truyền nhị thập ngũ

Vận khải ngũ viên trường

Vận đáo dương hầu ách

Chấn đoài cương bất trường

Quần gian đạo danh tự

Bách tính khổ tai ương

Can qua tranh đấu khởi

Phạm địch thán hung hoang.

470.Ma vương sát đại quỉ

Hoàng thiên tru ma vương

Kiền khôn phú tái vô lường

Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40)

Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết

Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân

Ta hồ vô phụ vô quân

Ðào viên tán lạc ngô dân thủ hành.

Ðoài phương phúc điạ giáng linh

Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân.

480. Phá điền thiên tử giáng trần

Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.

Trần công nãi thị phúc tâm

Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du

Tướng thần hệ xuất y chu

Thứ ky phục kiến Ðường ngu thi thành

Hiệu xưng thiên hạ thái bình

487.Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Sơn Trung chú thích:

Bản này là bản phổ biến nhất. Gốc là bản AB.444 tại viện Hán Nôm Hà Nội. BẢN ĐÔNG NAM Á, Saigon 1964 (1962?) cũng giống bản này chỉ khác vài chữ vì đánh máy sai hoặc đọc sai. Các bản khác cũng vậy. Thực ra, bản Mai Lĩnh phiên âm sai (sẽ nói rõ ở bản nôm Trình Quốc Công Ký trong thư viện của cụ nghè Nguyễn Văn Bân do Sơn Trung sưu tập, phiên âm và chú giải sau đây).

Ngày xưa chữ nôm không đánh số La mã, bản Sở Cuồng và Mai Linh có đánh số , chứng tỏ bản này là tập hợp hai bản khác nhau, không biết cùng của Trạng Trình hay của ai. Bản Trình Quốc CÔng ký tại nhà cụ Nghè Bân là đoạn thứ hai.

BẢN III * HƯƠNG SƠN 1950?

Bản này gồm nhiều nhiều bài thơ, khởi dầu ghi là có ngạn rằng, có thơ rằng. Để tiện việc nghiên cứu, Sơn Trung xin đánh số các đoạn theo phân đoạn của nhà xuất bản.

Nước Nam thường có thánh tài (tr.48)

Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng

Kia Nhị thủy nọ Đao sơn

Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho

Học cách vật mới dò tới chốn

Chép ghi làm một bản xem chơi

Muôn việc cũng bởi tại trời

Suy thông mới biết sự đời nhường bao

Khéo chẳng sai tơ hào cũng vậy

Truyền hậu thế ai nấy xem cho

Những lời nghiêm ngặt khôn lo

Ai mà biết được trượng phu nên người.

Nay xem chữ một nghĩa mười

Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên

Kể từ Lạc Long Quân dựng nước

Sang Hùng Vương được 18 đời

Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi

Cờ lau lập trận thay trời trị dân

Mão được 12 dư xuân (tr.49)

Lê Hoàn kế vị xa gần âu ca

Truyền đã được mười ba rằm lẻ

Đến Ngọa triều nào kể tài năng

(2) Ngôi trời truyền đến Lý nay

Long thành bát diệp đến ngày dực phân

Chiều Hoàng là ả nữ quân

(3) Mê về nhan sắc trào Trần thái tôn

………………………………………………..

Trăm bảy mươi in dấu thất niên

Đông A chốn ấy còn bền

Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam

Thái ngu được mười bốn năm

Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi 

Suy ra mới biết sự trời

Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia

Mười đời ngồi ngự ngai vàng

Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh su

Xưa làm lực sỹ đồ du

Trời cho nên trị làm vua một đời

Sáu mươi năm bất tái hồi

Tống Sơn chốn ấy có đời thạch công

Định mưu phù lập Trang Tôn

Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương

Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn

Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia

Tây Sơn sừng sực kéo ra

Nghiệm xem thế tục gọi là hiệu chi ?

II

Lại có ngạn rằng:

(tr.50) Đầu cha chắp lấy đầu con

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.

III

Có thơ rằng:

Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân

Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền

Phụ nguyên chính thống hẳn hoi

Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê

Nọ nào ngang dọc trong huê

Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn

Chó mừng chủ, gà cũng cục tác

Lợn ăn no tha rác, chuột chơi.

IV

Ngạn lại có câu rằng:


Gà bỏ con kêu cục tác

Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa

Lợn ăn no ủn ỉn nằm

Mới kể là đời thịnh thế

Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai

Bởi Tần Vương u mê chẳng biết

Rồi phen này dê lại giết dê

Tới khi thực tận binh bì

Âm binh ở giữa ai thì biết sao!

Trời cho ta giơ dao giết quỷ

Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư

Ai từng cứu con thơ sa giếng

Giốc một lòng chinh chiến đua nhau

Muôn dân chịu thuở âu sầu

Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho

Chốn đông nam là nơi khổ ải

Lánh cho xa kẻo phải đao binh

Bắc kinh mới thực đế kinh,

Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào

Vả mình là đấng anh hào

Đánh làm sao được ước ao đêm ngày

Bò men lên núi Vu Sơn

Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù

Ấy những quân phụ thù thui thủi

Lòng trời xui ai lại biết đâu…

V

Có thơ rằng:

Dần Mão chư dương giai vị cập (tr. 51)

Lai chiêu lục thất xuất minh quân

Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ

Hưng tộ diện trường ức vạn xuân.

VI

Có thơ rằng:

Hầu đáo kê lai khởi chiến qua

Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa

Anh hùng mai thảo mã

Tướng suý tận tiêu ma

Phá điền thiên tử xuất

Tràng vỹ tảo sơn hà

Gà kia bên tường khuya sớm gáy

Chẳng yêu ra áy náy bất bình.

VII

Có thơ rằng:

Một đám mây xanh đứng giữa trời

Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi

Thiên hạ mười phần còn có một

Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời

Thầy tăng mở nước trời không bảo.

Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau

Chớ có tham của tham giàu

Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân (tr. 52)

Đằng giang chốn ấy cũng gần

Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi.

VIII Thơ rằng: Ba thục riêng một góc trời

Thái Nguyên một giải là nơi trú đình

Bốn bề núi đá mọc xanh

Có đường tiểu mạch nương mình ai hay

Bốn mùa chim núi đá cây

Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào

Khuyên ai là đấng anh hào

Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay

Bốn bụt xuất thế đã chầy

Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân.

IX

Thơ rằng:

Ấy là điềm xuất thánh quân

Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường

Chữ rằng “Hữu xạ tự nhiên hương”

Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao

Nắng lâu ắt có mưa rào

Vội chi tát nước xôn xao cày bừa

Nắng rồi thì phải có mưa

Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn

Tuần này thánh xuất khảm phương

Sự thật đã tường chẳng lọ phải say

Tuần này thiên địa chuyển hồi

Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên

Trời sai quỷ sứ dọn đường

Để cho thánh xuất khảm phương sau này

Vội chi đua sức ra tay

Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi

Suy cho thấu biết sự đời

Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa.

 

X

 

Thơ rằng:

1- Tích nhất đương lang khởi bộ thuyền

2- Ưng tri hoàng thước tại thân biên (tr.53)

3- Tước bị lạm nhân cung đạn đả

4- Lạp nhân cách tự hổ lang huyên

5- Tuệ tinh xuất long xà

6- Thần xuất cửu cửu gia

7- Ngưu mã thiên hạ động

8- Đinh hạ nãi Đông A.

 

Rồi ra mới biết thánh minh

Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò

Nhị Hà một giải quanh co

Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào

 

Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao

Có bến mưa rào có thứ cùng chăng

Nói đến độ Thầy Tăng mở nước

Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu

Bấy lâu những cậy phép mầu

Bây giờ phép ấy để đâu không hào ?

Cũng có kẻ non trèo biển lội

Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề.

 

XI

 

Thơ rằng:

1- Di lặc giáng sinh

2- Sa phù dĩ chỉ

3- Lục thất dĩ thành

4- Kiến long sào kinh

5- Nhật xuất điện thượng (tr.54)

6- Thiên hạ thái bình

 

XII

 

Thơ rằng:

Giang Nam nổi trận mạt thù

Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời

Phùng trời nay gặp thái lai

Can qua chiến trận để người phong công

Trẻ già được hết sự lòng

Ghi làm một bản nội phòng mở xem

Rước vua về đến Tràng An

Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn

Đời ấy cùng thánh, cùng tiên

Sinh những người hiền giúp nước yên dân.

Này những lúc thánh nhân chưa ra đời

Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu

Lợn nằm cũng thấy lợn lo

Thái bình mới động thập thò liền sang

Ngang cung văn vũ khác thường

Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

Thuỷ binh cờ xí vừng hồng

 

Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn

Đứng hiên ngang nào ai biết trước

Bắc kinh sang có việc gì chăng?

Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi

Chưa từng thấy nay đời sự lạ

Bỗng khiến người vu vạ cho dân

Muốn bình sao chẳng lấy nhân

Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa

Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán

Đúc tiền ra bán tước cho dân

Xun xoe những cậy thánh thần

Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công

Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví

Xưa phục thù ai sửa ngôi cho (tr.55)

Mạc kia cũng muốn nên trò

Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay!

Kẻ thì tự xưng Lê nay

Tam phân rồi chẳng được gì cả ba.

Bốn phương cũng có can qua

Mạc thì chẳng được đã ra lại về

Quân hùng binh dấy giang khê

Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì…

 

XIII

 

Thơ rằng:

1- Hầu đáo kê lai vị chính kỳ

2- Quốc dân hãm nịch quốc dân di

3- Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống

4- Phong nghỉ tung hoàng thị mạc vi

XIV Thơ rằng (1) Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ

(2) Tài tận dân hao thế lực suy

(3) Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến

(4) Kham tiếu không huyền tiệm thất ky

Xem thấy những sương sam tuyết lạnh

Loài bất bình tranh cạnh hung hăng

Thành ao cá nước tưng bừng

Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm

 

Chiến trường chốn chốn cát lầm

Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông.

Sang thu chín huyết vừng hồng

Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần

Trẻ con mang lệnh tướng quân

Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường

Dùng uy bát là đường ngũ bá (tr.56)

Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan

Cỏ cây lá rụng đầy ngàn

Một làng còn mấy chim đàn bay ra

Bốn phương cùng có can qua

Làm sao còn biết có nhà Đà giang

Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường

Kiều môn án trước cao bành tựa sau

Thái nguyên cận bắc đường sau

Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ

Cùng nhau gặp mặt bây giờ

Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông

Vui mừng gặp mặt tam công

Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao

Mai kia cùng đấng anh hào

Ba người làm bạn ngôi cao lộc lành

Vậy nên một áng phong tình

Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng

Bõ khi chém lợn vẽ rồng

Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu

Bõ khi kẻ việt người Hồ

Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường

Ngày thường trông thấy quyển vàng

Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi.

Tinh thái ất giờ đời là thực

Sấm trời xem vô giá muôn phần

Kể từ đời Lạc Long Quân

Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian

Một đời có một tôi ngoan

Giúp chưng nhà nước dân an thái bình

Thấy đâu bò đái thất thanh

Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi

Phá điền than đến đàn dê

Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng

Dê đi dê lại tuôn buồn

Đàn ghi nó cũng một môn phù trì.

 

XV

 

Thơ rằng:

Ghê thay thau lẫn với vàng, (tr.57)

Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng

Thánh ra tuyết tán mây tan

Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi

Can qua việc nước bời bời. Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân

Lục thất dư ngũ bách xuân

Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao

Thấy sấm tự đấy chép vào

Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.

 

XVI

 

Thơ rằng:

Quân hùng binh kéo đầy khe

Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời

Bấy giờ càng khốn ai ơi

Quỷ ma chật vật biết trời là đâu ?

Thương những kẻ ăn rau, ăn muối.

Gặp nước buông con cái ẩn đâu ?

Báo thù ấy chẳng sai đâu

Đạo trời chẳng trước thì sau chẳng nhầm

Kia những kẻ hai lòng sự chủ

Thấy đâu hơn thì phụ sở ân

Cho nên phải kiếp trầm luân

Ai khôn mới giữ được thân đời này

Nói cho hay khảm cung ong dậy

Chí anh hùng chiếm lấy mới ngoan

Chữ rằng lục thất nguyệt gian

Ai mà nghĩ được mới nên anh tài

Hễ nhân kiến là đời đất cũ

Thì phụ nguyên mới trổ binh ra

Bốn phương chẳng động can qua

Quân hùng nổi dậy điều hoà làm tôi

 

Bấy giờ ruộng mở quy khôi

Thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn.

Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh

Hoàng phúc kia đã định tay phong

Lồng lộng thế giới rạng trong, (tr.58)

Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ Vương

Giời sinh tài lạ khác thường

Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

Xem ý trời có lòng khải thánh

Giốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai

Trên trời thấy những vì sao lạ

Dùng ở tay phụ tá vương gia

Bắc phương chính khí sinh ra

Có ông Bạch Sỷ điều hoà hôm mai

Song thiên nhật tượng sáng soi

Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường

Đời này thánh kế vi vương

Thu cả đạo đức văn chương trong mình

Uy nghi trạng mạo khác thường

Thác cư một góc kim tinh phương đoài

Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi

Chờ cơ sẻ mới ra đời cứu dân

Binh thư mấy quyển kinh luân

Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu.

Khắp đâu đâu anh hùng hẳn biết

Xem sắc mây vẽ rõ vẻ rồng

Thánh nhân cư có thuỷ cung

Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

Lại dặn đừng tú man chi cả

Chớ vội vàng tất tả chạy rông

Học cho biết nhẽ cát hung

Biết phương hướng đúng, chớ đừng lầm chi

Hễ trời sinh xuống phải thì

Bất kỳ nhi ngô tưởng gì đợi mong

Kìa những kẻ vội lòng phú quý

Xem trong mình một tý đều không

Ví dù có gặp Ngư Ông

Lưới chăng đầu sẵn nên công mà hòng

Xin khuyên đứng trời trung quân tử

Lòng trung nghĩa hãy chứa cho tinh

Âm dương cơ ngẫu ngộ sinh

Thái nhâm, thái ất trong mình cho hay

 

Văn thi luyện nghiên bài quyết thắng (tr.59)

Học Tử Phòng cùng với Khổng Minh

Võ thông yên thuỷ thần kinh

Được vào chiến trận mới lành biết cơ

Chớ vật vờ quen loài ong kiến

Biết trao tay miệng tiếng nói không

Ngộ may gặp hội mây rồng

Công danh rực rỡ chép trong vân đài

Bấy giờ phỉ sức chí tài

Lọ là đâu phải ngược xuôi nhọc mình

Vương lương thực có vĩ kinh

Cao tay mới biết ngẫm tình năm nao.

Trên trời có mấy vì sao

Đủ cả hiền tướng anh hào đôi nơi.

Nước Nam thường có thánh tài

Ai khôn học lấy hôm mai mới tường.

So mấy lề để tàng kim quỹ

Chờ sau này có chí mới cho.

Trước là biết nẻo tôn phù

Sau là cao trí biết lo mặc lòng

Xem đoài cung thiên thời bất tạo

Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau

Chớ có tham tước, tham giàu

Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân.

Đôi phen ong dấy rầm rầm

Muông sinh ba góc kéo quân dấy loàn

Man mác một lĩnh Hoành sơn

Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

Ấy là quân phục thù thai thải

Lòng trời xui ai lại biết chi

Phá điền đầu khỉ cuối thu

Tái binh mọi giống thập thò liền sang

Nọ chẳng thương trong nam khôn xiết

Vả lại thêm hung kiệt mất mùa

Lưu tinh hiện trước đôi thu

Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

Sang thu chín huyết hồng tứ giã

Nối đàn dê tranh phá đòi nơi (tr.60)

Đua nhau quần thán đồ lê

Bấy giờ thiên hạ khôn bề tựa nương

Kẻ thì phải thửa hung hoang

Kẻ thì binh lửa chiến tràng chết oan.

 

Kẻ thì mắc phải hung tàn,

Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình

Muông sinh giông tố cạnh tranh

Điêu thì làm trước xuất binh thủ thành

Bời bời đua mạnh tranh hành

Ra đâu đánh đấy xuất binh sớm ngày

Bể thành cá phải ẩn cây

Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù

Nào ai đã dễ nhìn ru

Thuỷ chiến bộ chiến mặc dầu đòi cơn.

Cây bay lá cháy đôi ngàn

Một làng còn thấy chim đàn bay ra.

Bốn phương cùng có can qua,

Làm sao còn biết nơi hoà bảo thân

Đoài phương thật có chân nhân

Quần tiên dĩ nghĩa chẳng phân hại người.

Hễ đông nam nhiều phen tàn tặc

Lánh cho xa kẻo mắc đao binh

Bắc kinh mới thật đế kinh,

Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào!

Chim hồng vỗ cánh bay cao

Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.

Cấy cày tu dãi thời mùa

Bây giờ cấy ruộng lo chờ mướn ai

Nhân ra cận duyệt viễn lai

Chẳng phiền binh nhọc chẳng phiền lương thêm.

Xem tượng trời biết đường đời trị

Ngẫm về sau họ lý xưa nên

Dòng nhà đã thấy dấu truyền

Ngẫm xem thế giới còn in đời đời

Thần quy có nó ở trời

Để làm thần khí sửa nơi trị trường.

 

XVII

 

DÂN BỊ KHỔ CHIẾN TRANH TRONG 10 NĂM

Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh, (tr.61)

Sông Bảo giang thiên định ai hay ?

Lục thất cho biết ngày rầy

(1) Phụ nguyên ấy thực ở dầy (rày) Tào khê

 

Có thầy nhân thập đi về

Tả hữu phù trì cây cỏ là quân

Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp

Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời

Ra tay điều đỉnh hộ mai

Bấy giờ mới biết rằng tài an dân

Nọ là phải nhọc kéo quân

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

 

XVIII

 

Những bài sấm ngắn

 

Trời sinh thiên tử ở hỏa thôn

Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn

Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

Hậu sinh thiên tử bảo giang môn

Canh tân tàn phá

Tuất hợi phục sinh

Nhị ngũ dư bình.

 

Nhân sinh ngọ tuế vi sư

Tị nhân vị tướng

Thìn tuất vị tôn sư

 

XIX

 

Thơ rằng

 

1- Thánh nhân hương

2- Thuỷ chung tàng bảo cái

3- Thánh nhân chu xứ (tr.62)

4- Tử bích hoàn nhiễu, long hổ chầu vào

5- Chỗ thánh nhân sinh ra

6- Cận bảo giang thuỷ

7- Thuỷ nhiễu chu toàn

8- Thánh nhân danh

9- Mộc hạ liên đinh khẩu

 

10- Thánh nhân diện bộ đạo đức

11- Nghi quảng tầm chương trích cú

12- Thánh nhân dĩ hữu niên

13- Thuỳ năng thức đắc yên

14- Dãn nhân bất chúc nhĩ

15- Nhập ba thục xuất thái nguyên

16- Thánh nhân sinh ư bách sỉ tự tối linh

17- Thử nhật thiên giáng ngũ sắc vân xích quang màn tự

18- Tự trung dị hương, tam nhật bất tán

19- Thầy tăng tu tại thử, dĩ vị thánh nhân thị

20- Toại chưởng dưỡng chi

21- Thánh mẫu diện xú như lam

22- Niên tam thập lục sinh thánh nhân (tr.63)

23- Hoài nhâm chi nhật

24- Tam nhật thực nhất lý ngư

25- Cư ư giang thượng

26- Quần ngư tranh dược

27- Mối trạch kỳ, mỗi tiểu chữ thục thực chi

28- Hậu thường tầm thực chi vu bạch sỉ.

29.Tự nhi sinh thánh nhân yên.

30- Nhược ấu thời, cư tại nam nhị thuỷ huyện

31- Cận gia quan thời cư ư Thái nguyên viên sơn

32- Thất thập nhị hiền diệc tại thử yên

 

DỊCH

1- Nơi sinh ra ông Thánh nhân

2- Trong làn nước biếc chứa tàn lọng quý

3- Chỗ trú ngụ của Thánh nhân

4- Long hổ bốn bên chầu cả vào

5- Nơi sinh ra Thánh nhân

6- Gần sông Bảo giang

7- Xung quanh đều có nước

8- Tên hiệu của Thánh nhân

9- Chữ mộc ở dưới chữ đinh là quẻ ly

10- Ông thánh nhân diện mão rất có đạo đức

11- Nên tìm rộng từng bài chọn từng câu

12- Thánh nhân sinh ra đã lâu năm

13- Ai đã dễ biết được

14- Vì người ta chẳng biết vậy

15- Vào Ba Thục, ra Thái Nguyên

16- Thánh nhân sinh ở chùa Bạch sỉ rất thiêng

17- Ngày ấy sinh ra ông thánh nhân trời có năm sắc mây

 

18- Đỏ sáng khắp cả chùa

19- Chùa trong có mùi thơm ba ngày không hết

20- Lúc bấy giờ có ông sư tu cho điềm lạ có thánh nhân.

21- Sư bản tự nuôi lớn cho đến trưởng thành

22- Mẹ ông thánh nhân mặt xấu như đổ chàm

23- Bà mẹ 36 tuổi sinh ông thánh nhân

24- Tính từ ngày có thai

25- Trong ba ngày lại ăn một con cá chép

26- Trú ở bên sông

27- Lũ cá tranh nhau nhảy vào

28- Chọn xem con nào bé thì nấu ăn

29- Sau thường đi kiếm ăn quanh chùa Bạch Sỉ

30- Rồi sinh ra ông thánh nhân

31- Lúc nhỏ sinh ở Nam nhị thuỷ huyện

32- Lúc lớn ở Thái Nguyên núi Viên Sơn.

 

XX

 

Thơ vận niên bằng tên các súc vật

 

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu

Có một đàn xà đánh lộn nhau

Vượn nọ leo cành cho hả dạ

Lợn kia làm quá phải xoay đầu

Chuột nọ lăm le mong cắn tổ

Ngựa kia đủng đỉnh chạy về tàu

Hùm ở trên rừng gầm mới dậy

Tìm về chốn cũ bắt vào tầu

Lợn nằm cũng thấy tên thù

Đại binh đã động phục thù nghênh ngang

Thánh chúa đang ở hang vàng

Khi nào chuột bắc cầu sang mới về.

 

XXI

 

Cửu cửu kiền khôn dĩ định

Thanh minh thời tiết hoa tân

Trực đáo dương đầu mã vĩ

Hồ binh bát vạn nhập Tràng An (tr.64)

 

XXII

 

Thục vị lai tại thực vi lai

Nam môn vị toả, bắc môn khai

Phong suy ngọc điện lai lai vãng

Nghĩ tụ kim thành khứ khứ hồi

Bách tính âu ca thiền vũ dạ

Cửu châu hoa thảo mả (?) liên đôi

Thử hồi nhị ngũ thiên chu tống

Hảo bá sơn đầu tửu nhất bôi.

 

XXIII

 

Thiên địa tuần hoàn âm phục dương

Tứ phương binh khởi tứ phương cường

Tây dương cảnh giới tây dương chủ

Nam quốc sơn hà, nam quốc vương

Lý đỉnh tương huyền, hiềm đỉnh trọng

Mạc thành dục chúc, khủng thành trường

Hoành sơn lộc tẩu nhân dân cộng

Thái lĩnh long phi thục cảm đương

 

XXIV

 

Có thơ rằng

1- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh (tr.65)

2- Can qua xứ xứ khởi đao binh

3- Mã đầu dương cước anh hùng tận

4- Thân dậu niên lai kiến thái bình .

 

XXV

 

Thơ rằng

1- Bảo giang thiên tử xuất

2- Bất chiến tự nhiên thành

 

3- Lê dân đào bảo noãn

4- Tứ hải lạc âu ca

5- Dục thức thánh nhân hương

6- Quá kiều cư bắc phương

7- Danh vị Nguyễn gia tử

8.Kim tịch sinh Ngưu lang

9- Bắc hữu kim thành tráng

10- Nam tạc ngọc bích thành

11- Hoả thôn đa khuyển phệ

12- Mục giã dục nhân canh

13- Phú quý hồng trần mộng

14- Bần cùng bạch phát sinh

15- Anh hùng vương kiếm kích

16- Minh cổ đổ thái bình .

 

XXVI

 

Thơ rằng:

1- Việt Nam hữu Ngưu tinh

2- Quá thất thân thuỷ sinh

3- Địa giới sỉ vị bạch

4- Thuỷ trầm nhĩ bất kinh

5- Kỵ mã khu dương tẩu

6- Phù kê thắng đại minh

7- Trư thử giai phong khởi

8- Thìn mão xuất thái bình

9- Thuỷ trung tàng bảo cái

10- Hứa cập thánh nhân hương

11- Mộc hạ trâm trâm khẩu

12- Danh thế xuất nan lường

13- Danh vị nguyễn gia tử

14- Tinh bản tại ngưu lang

15- Mại dữ liên viên dưỡng

16- Khởi nguyệt hộ đại giang

17- Hoặc kiều tam lộng ngạn

18- Hoặc ngụ kim lăng cương

19- Thiên dữ thần thực thuỵ

20- Thuỵ trình ngũ sắc vân

21- Kim kê khai lực diệp

22- Hoàng cái xuất quý phương

23- Nhân nghĩa thuỳ vi địch

24- Đạo đức thục dữ đương

 

25- Tô truyền nhi thập ngũ

26- Vận khải ngũ duyên trường

27- Vận đáo dương hầu cách

28- Chấn đoài cương bất chấn

29- Quần gian đạo danh tự

30- Bách tính khổ tai ương

31- Can qua tranh đấu khởi

32- Phạm địch thán hung hăng

33- Ma vương sát đại quỷ

34- Hoàng thiên chu ma vương

35- Kiến khôn phú tải khôn lường

36- Đào viên đỉnh phú quần dương tranh hùng

37- Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết

38- Nẻo Hoành sơn tam liệt ngũ phân

39- Ta hồ vô chủ vô quân

40- Đào viên tan tác ngô dân thủ thành

41- Đoài phương phúc địa giáng linh

42- Cửu trùng thuỵ ứng long thành ngũ vân

43- Phá điền thiên tử giáng trần

44- Dũng sỹ như hai mưu thần nhược lâm

45- Trần công nãi thị phúc tâm

46- Đào Tiềm, xử sỹ giang hồ xuất du

47- Tướng thần hệ xuất y chu

48- Chư cơ phục kiến, đường ngu thị thành

49- Hiệu xứng thiên hạ thái bình

50- Đông tây vô sự nam thành quốc gia

51- Phân phân đông bắc khởi

52- Nhiễu nhiễu xuất đông kinh

53- Bảo giang thiên tử xuất

54- Bất chiến tự nhiên thành

Tên treo ba mối phục thù (tr.68)

55- Khen thay Khắc Dụng bày trò cho con

Ngọn cờ nhô nhấp đầu non

56- Thạch thành mèo lại bon bon chạy về.

 

Dặm trường lai láng máu dê

Con quay ngã trắng ba que cuộc tàn

Trời nam giở lại đế vương

Thần nhân không phải là phường thầy tăng

Đồng giao đã có câu rằng

57- Non xanh mà mọc trắng răng mấy kỳ

Bấy giờ quét sạch thử ly

 

Xin ai nhớ lấy sấm ghi kẻo lầm

Đương khi sấm chớp ầm ầm

Chẳng qua khó số để găm trị bình

Thất phu giám chống thư sinh

Sông ô chấp cả mấy anh thuỷ hoàng

Nực cười những lũ bàng quan

59- Cờ tàn lại muốn toan đường đấm xe

Thôi thôi mặc lũ thằng hề

Gió mây ta lại đi về gió mây

 

BẢN IV * ANH PHƯƠNG 1960?

CẢM ĐỀ

1.Thanh nhàn vô sự là tiên,

Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi.

Cơ tạo hóa,

Phép đổi dời,

Ðầu non mây khói tỏa,

Mặt nước cánh buồm trôi.

Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,

Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời.

Tuổi già thua kém bạn,

Văn chương gởi lại đời.

Dở hay nên tự lòng người cả,

Bút nghiên soi hoa chép mấy lời.

 

Bí truyền cho con cháu,

14. Dành hậu thế xem chơi.

 

SẤM KÝ

 

1. Nước Nam từ họ Hồng Bàng,

Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần.

Tự Ðinh, Lê, Lý, Trần thưở trước.

Ðã bao lần ngôi nước đổi thay,

Núi sông thiên định đặt bày,

Ðồ thư một quyển xem nay mới rành.

 

Hòa đao mộc lạc,

Thập bát tử thành,

Ðông A nhật xuất,

10. Dị mộc tái sinh.

Chấn cung xuất nhật,

Ðoài cung vẩn tinh.

Phụ nguyên chì thống,

Ðế phế vi đinh.

15.Thập niên dư chiến,

Thiên hạ cửu bình.

 

Lời thần trước đã ứng linh,

Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.

Hòa đao mộc hồi dương sống lại,

20.Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.

Hà thời biện lại vi vương, (1)

Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.

Lê tồn Trịnh tại,

Trịnh bại Lê vong.

25.Bao giờ ngựa đá sang sông,

Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng.(2)

Hà thời thạch mã độ giang,

Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.

Chim bằng cất cánh về đâu ?

30.Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công (3)

Bao giờ trúc mọc qua sông, (4)

Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.

Ðoài cung một sớm đổi thay,

Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.

35.Ðầu cha lộn xuống thân con,(5)

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.

 

Phụ nguyên chính thống hẳn hoi, (6)

Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.

Dục lòng chinh chích u mê,

40.Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm.(7)

Ðể loài bạch quỷ Nam xâm,

Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly.

Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy.

Gia đình một ở ba đi dần dần.

45.Cho hay những gã công hầu,

Giầu sang biết gởi nơi đâu chuyến này.

Kìa kìa gió thổi lá rung cây, (8)

Rung Bắc rung Nam Ðông tới Tây.

Tan tác Kiến kiều An đất nước.

50.Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây.

Lâm giang nổi sóng mù Thao cát,

Hưng địa tràn dâng Hóa nước đầy.

Một ngựa một yên ai sùng bái ?

Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay.

 

55.Tiền ma bạc quỷ trao tay,

Ðồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua.(9)

Giữa năm hai bảy mười ba,

Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. (10)

Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,

60.Rắn mới hai đầu khó chịu thay.

 

Ngựa đã gác yên không người cỡi,

Dê khôn ăn lộc ngoảnh về Tây.

Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu,

Gà kia vỗ cánh trập trùng bay,

65.Chó nọ vẩy đuôi mừng thánh chúa

Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.

Nói cho hay khảm cung ong dậy,

Chí anh hào biết đấy mới ngoan,

Chữ rằng lục thất nguyệt gian,

70.Ai mà giữ được mới nên anh tài.

Ra tay điều đỉnh hộ mai,

Bấy giờ mới rõ là người an dân

Lọ là phải nhọc kéo quân,

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.

75.Phá điền than đến đàn dê,

Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng,

Dê đi dê lại tuồn luồn.

Ðàn đi nó cũng một môn phù trì.

 

Thương những kẻ nam nhi chí cả,

80.Chớ vội sang tất tả chạy rong,

Học cho biết chữ cát hung,

Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi.

Hể trời sinh xuống phải thì,

Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.

85.Kìa những kẻ vội lòng phú quí,

Xem trong mình một tí đều không.

Ví dù có gặp ngư ông,

Lưới giăng đâu dể nên công mà hòng.

Khuyên những đấng thời trung quân tử,

90.Lòng trung nghi nên giữ cho minh.

Âm dương cơ ngẩu hộ sinh,

Thái nhâm, thái ất mình cho hay..

Chớ vật vờ quen loài ong kiến,

Hư vô bàn miệng tiếng nói không.

 

95.” Ô hô thế sự tự bình bồng,(11)

Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.

Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,

Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.

Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,

100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.

Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,

Tứ phương thiên hạ thái bình phong ”

 

Ngõ may gặp hội mây rồng,

Công danh rạng rở chép trong vân đài

105.Nước Nam thường có thánh tài,

Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ?

So mấy lề để tàng kim quỹ,

Kể sau này ngu bỉ được coi,

Ðôi phen đất lở cát bồi,

110.Ðó đây ong kiến dậy trời quỷ ma.

Ba con đổi lấy một cha,

Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền.

Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên,

Ðợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần.

 

115.Hoành sơn nhất đái,(12)

Vạn đại dung thân.

Ðến thời thiên hạ vô quân,

Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành

Gà kêu cho khỉ dậy nhanh,

 

120.Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.

 

Thiên sinh hữu nhất anh hùng,

Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.

Thái Nguyên cận Bắc đường xa,

Ai mà tìm thấy mới là thần minh.

125.Uy nghi dung mạo khác hình,

Thác cư một góc kim tinh phương Ðoài.

Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi,

Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân.

Binh thư mấy quyển kinh luân,

130.Thiên văn, địa lý, nhân dân phép mầu.

Xem ý trời ngõ hầu khải thánh,

Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai.

Song thiên nhật nguyệt sáng soi,

Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường,

135.Thông minh kim cổ khác thường,

Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài.

Ðấng hiên ngang nào ai biết trước,

Tài thao lược yêm bác vũ văn.

Ai còn khoe trí khoe năng,

140.Cấm kia bắt nọ hung hăng với người,

Chưa từng thấy nay đời sự lạ,

Chốc lại mồng gá vạ cho dân.

Muốn bình sao chẳng lấy nhân,

Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình.

145.Ðã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán,

Lại đua nhau quần thán đồ lê.

Chức này quyền nọ say mê,

Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương.

Kẻ thì phải thưở hung hoang,

150.Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình.

Cửu cửu càn khôn dĩ định,

Thanh minh thời tiết hoa tàn.

Trực đáo dương đầu mã vĩ,

Hồ binh bát vạn nhập Trường An.

155.Nực cười những kẻ bàng quan,

Cờ tan lại muốn toan đường chống xe.

Lại còn áo mũ xum xoe,

Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.

Ghê thay thau lẫn với vàng,

160.Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng.

Thành ra tuyết tán mây tan,

Bấy giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.

 

Can qua việc nước tơi bời,

Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân.

165.Oai phong khấp quỷ kinh thần,

Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca.

Rừng xanh núi đỏ bao la,

Ðông tàn Tây bại sang gà mới yên.

Sửu, Dần thiên hạ đảo điên,

170.Ngày nay thiên số vận niên rành rành.

Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,

Can qua xứ xứ khổ đao binh.

Mã đề dương cước anh hùng tận,

Thân Dậu niên lai kiến thái bình.

175.Sự đời tính đã phân minh,

Thanh nhàn mới kể chuyện mình trước sau :

Ðầu thu gà gáy xôn xao,

Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.

Chó kêu ầm ỉ mùa Ðông,

180.Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi.

Lợn kêu tình thế lâm nguy.

Quỷ dương chết giữa đường đi trên trời..

Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi,

Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra.

185.Hùm gầm khắp nẻo gần xa.

Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời,

Rồng bay năm vẻ sáng ngời,

Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng,

Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng,

190.Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.

Chín con rồng lộn khắp nơi,

Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu.

Lời truyền để lại bấy nhiêu,

Phương Ðoài giặc đã đến chiều bại vong.

195.Hậu sinh thuộc lấy làm lòng,

Ðến khi ngộ biến đường trong giữ mình.

Ðầu can võ tướng ra binh,

Ắt là trăm họ thái bình âu ca.

Thần Kinh Thái Ất suy ra,

200.Ðể giành con cháu đem ra nghiệm bàn.

Ngày thường xem thấy quyển vàng,

Của thiên bảo ngọc để tàng xem chơi.

Bởi Thái Ất thấy lạ đời,

Ấy thưở sấm trời vô giá thập phân.

 

205.Kể từ đời Lạc Long Quân,

 

Ðắp đổi xoay vần đến lục thất gian.

Mỗi đời có một tội ngoan,

Giúp chung nhà nước dân an thái bình.

Phú quí hồng trần mộng,

210.Bần cùng bạch phát sinh.

Hoa thôn đa khuyển phệ,

Mục giả giục nhân canh.

 

Bắc hữu Kim thành tráng.

Nam hữu Ngọc bích thành,

215.Phân phân tùng bách khởi,

Nhiễu nhiễu xuất Ðông chinh,

Bảo giang thiên tử xuất,

Bất chiến tự nhiên thành.

Rồi đây mới biết thánh minh,

220.Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò.

Nhị hà một dải quanh co,

Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào.

Khắp hòa thiên hạ nao nao.

Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?

225.Nói đến độ thầy tăng ra mở nước,

Ðám quỷ kia xuôi ngược đến đâu ?

Bấy lâu những cậy phép mầu,

Bây giờ phép ấy để lâu không hào..

 

Cũng có kẻ non trèo biển lội,

230.Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề.

Có thầy Nhân Thập đi về,

Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh.

Những người phụ giúp thánh minh.

Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai.

 

235.Phùng thời nay hội thái lai,

Can qua chiến trận để người thưởng công.

Trẻ già được biết sự lòng,

Ghi làm một bản để hòng dở xem.

Ðời này những thánh cùng tiên,

240.Sinh những người hiền trị nước an dân.

Nầy những lúc thánh nhân chưa lại,

Chó còn nằm đầu khải cuối thu.

Khuyên ai sớm biết khuông phù,

Giúp cho thiên hạ Ðường, Ngu ngõ hầu

245.Cơ tạo hóa phép mầu khôn tỏ,

Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.

 

Thấy sấm từ đây chép vào,

248.Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

____

SƠN TRUNG

sưu tập, hiệu đính và chú thích,

 

Bài này được truyền tụng nhiều, là bản A của trường Viễn Đông Bác cổ nay là Thư Viện Khoa Học Xã Hội Hà Nội. Tôi chưa xem bản chữ nôm cho nên không rõ bản này có từ đời nào và so với bản quốc ngữ có khác nhau không. Và bản quốc có do ai bịa ra đọan nào. Tại Sài gòn có bản in của Hoàng Xuân sưu tập, Anh Phương xuất bản trong khoảng 1960, và Thời Tập. Không biết trước đó có bản quốc ngữ nào không?

 

Từ câu 1 đến 16 là nói tổng quát, sau đó là nói rõ từng thời kỳ. Bắt đầu nói về nhà hậu Lê của Lê Lợi. Đời Lê mạt, chiến tranh liên miên.

(1). Biện lại vi vương: Nguyễn Nhạc làm biện lại: Nhà Tậy Sơn nổi lên, chiến tranh liên miên.

(2). Lê tồn Trịnh tại,

Trịnh bại Lê vong.

..Bao giờ ngựa đá sang sông,

Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng.

Hà thời thạch mã độ giang,

Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.

 

Trịnh Khải bị Tây Sơn giết, họ Trịnh mất thì nhà Lê cũng mất theo. Khi Trịnh Khải xuất bôn, qua làng Vĩnh Lại, kêu gọi cần vương, những ai giúp công giúp của đều được ban quận công cho nên cả làng Vĩnh Lại được phong quận công.

 

(3).Chim bằng cất cánh về đâu ?

30.Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công .

Nói việc Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết.

(4). Bao giờ trúc mọc qua sông,

Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.

Chưa rõ là gì.

(5). .Ðầu cha lộn xuống thân con,

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.

 

Nói về nhà Tây Sơn vì vua Quang Trung , chữ Quang có ba nét trên đầu nhưng đến con là Cảnh Thịnh, chữ Cảnh có ba nét giống đầu chữ Quang mà lại nằm dưới. Nhà Tây Sơn tồn tại trong 14 năm kể từ 1788 là năm Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đến năm 1802 nhà Tây Sơn bị

diệt vong, Nguyễn Ánh lên ngôi. Nếu kể từ năm tân mão (1771), Tây Sơn khởi nghĩa cho đến1801 thì 31 năm.

 

(6).Phụ nguyên chính thống hẳn hoi, Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê. Nguyễn Ánh tin vào Pháp ( người Tây dương, dương là bể, dương cũng đồng âm với dương là dê , dê chỉ người Pháp) cho nên sau mất nước vào tay Pháp.

 

(7). Dục lòng chinh chích u mê,

Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm.

Ðể loài bạch quỷ Nam xâm,

Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly.

Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy.

Gia đình một ở ba đi dần dần.

 

Nói vua Tự Đức 嗣德 ( thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm là chữ chỉ vua Tự Đức) và sau đó Dục tông (Dục Đức 育德) để cho Pháp ( bạch quỷ) xâm chiếm Việt Nam. Sự thật thì ta yếu địch mạnh phải thua mặc dù vua quan đã hết sức chiến đấu. Gia đình một ở ba đi dần dần là nói việc sau khi vua Tự Đức băng, ba vị vua nói tiếp bị phế và bị giết là Dực Đức, Hiệp Hòa, và Kiến Phúc . Vua Hàm Nghi lên ngôi sau chống Pháp bị đày.

 

(8). Câu 47-54

 

Kìa kìa gió thổi lá rung cây,

Rung Bắc rung Nam Ðông tới Tây.

. . . . . . . . . .

Một ngựa một yên ai sùng bái ?

Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay.

Nói việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa và VNQĐ bị tàn sát.

 

(9).Tiền ma bạc quỷ trao tay,

Ðồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua..

Cộng sản nổi dậy năm 1930 tại Nghệ An ( Sô Viết Nghệ Tĩnh)

(10).Giữa năm hai bảy mười ba,

Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.

Đầu năm 1934, âm lịch có hai tháng bảy thành ra có 13 tháng, Toàn quyền Pasquier ( Bát Kê

:Tám Gà) bị cháy máy bay mà chết.

 

(11).” Ô hô thế sự tự bình bồng,

Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.

Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,

Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.

Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,

Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.

Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,

 

Tứ phương thiên hạ thái bình phong .

 

Bao giờ đường sắt được thông thương?

 

Sau 1945, cộng sản phá cầu đường, thiết lộ bị phá hủy. Sau 1954, miền Nam khôi phục xe lửa trong Nam. Mãi đến sau 1975, đường săt mới thông suốt. Lúc này thì Hồ Chí Minh (1890 – 1969) đã chết mà Mao Trạch Đông (1893 – 1976 ) cũng không còn (Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch).Lúc này cũng xảy ra cuộc hải chiến ở Trường Sa, Hoàng Sa giữa quân Trung Cộng và VNCH (Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng). Hoặc sắp tới có hải chiến tại biển Đông? Và Mỹ Trung Cộng sẽ đánh nhau ( Ưng lai sư tử thượng: Ưng là Mỹ, Sư tử: Trung Quốc), lúc đó Việt Nam và thế giới mới hòa bình.

 

Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,

Tứ phương thiên hạ thái bình phong .

 

(12).Hoành sơn nhất đái,

Vạn đại dung thân.

Ðến thời thiên hạ vô quân,

Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành

Gà kêu cho khỉ dậy nhanh,

Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.

Hoành sơn nhất đái nói về họ Nguyễn xưng vương xưng đế nhưng đến thời cộng sản ( vô quân) thì họ Nguyễn cáo chung. Thậy vậy, năm ất dậu (1945), vua Bảo Đại thoái vị.

 

BẢN V : TRỊNH VĂN THANH 1966

1- Thanh nhàn vô sự là tiên

Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi

Cơ tạo hoá

Phép đổi dời

Đầu non mây khói tỏa

Mặt nước cánh buồm trôi

Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi

Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời

Tuổi già thua kém bạn

Văn chương gửi lại đời

Dở hay nên tự lòng người cả

Nghiên bút soi hoa chép mấy lời

Bí truyền cho con cháu

Dành hậu thế xem chơi.

 

SẤM KÝ

 

15- Nước Nam từ họ Hồng Bàng

Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời

Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước

Đã bao lần ngôi nước đổi thay

Núi sông thiên định đặt bày

Đồ thư một quyển xem nay mới rành

 

21- Hoà đao mộc lạc,

Thập bát tử thành.

Đông A xuất nhập

 

Dị mộc tái sinh.

 

25- Chấn cung xuất nhật

Đoài cung vẫn tinh.

Phụ nguyên trì thống,

Phế đế vi đinh.

 

29- Thập niên dư chiến,

Thiên hạ cửu bình.

Lời thần trước đã ứng linh,

Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.

 

33- Hoà đao mộc hồi dương sống lại

Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.

Hà thời biện lại vi vương,

Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.

 

37- Lê tồn, Trịnh tại,

Lê bại, Trịnh vong.

Bao giờ ngựa đá sang sông,

Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng.

Hà thời thạch mã độ giang.

Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.

 

43- Chim bằng cất cánh về đâu?

Chết tại trên đầu hai chữ quận công.

Bao giờ trúc mọc qua sông,

Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.

 

47- Đoài cung một sớm đổi thay,

Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.

Đầu cha lộn xuống chân con,

Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.

 

51- Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,

Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.

Dục lòng chim chích u mê,

Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.

 

55- Để loại quỷ bạch Nam xâm,

Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly

Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy

 

Gia đình một ở ba đi dần dần.

Cho hay những gã công hầu,

Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này.

 

61- Kìa kìa gió thổi lá rung cây

Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây

Tan tác kiến kiều an đất nước

Xác xơ cổ thụ sạch am mây.

 

65- Lâm giang nổi sóng mù thao cát,

Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.

Một ngựa một yên ai sùng bái?

Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.

 

69- Tiền ma bạc quỷ trao tay

Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua,

Giữa năm hai bẩy mười ba,

Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.

 

73- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,

Rắn mới hai đầu khó chịu thay,

Ngựa đã gác yên không người cưỡi

Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây.

 

77- Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu

Gà kia vỗ cánh chập chùng bay

Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa

Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.

 

81- Nói cho hay khảm cung ong dậy,

Chí anh hùng biết đấy mới ngoan.

Chữ rằng lục, thất nguyệt gian

Ai mà giữ được mới nên anh tài.

 

85- Ra tay điều độ hộ mai

Bấy giờ mới rõ là người an dân

Lọ là phải nhọc kéo quân,

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.

 

89- Phá điền than đến đàn dê

Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng

Dê đi dê lại tuồn luồn

 

Đàn đi nó cũng một môn phù trì

 

93- Thương những kẻ nam nhi chí cả

Chớ vội sang tất tả chạy rong

Học cho biết chữ cát hung

Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi

Hễ trời sinh xuống phải thì

Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.

 

99- Kìa những kẻ vội lòng phú quý

Xem trong mình một tí đều không

Ví dù có gặp ngư ông

Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng.

 

103- Khuyên những đấng thời trung quân tử

Lòng trung nghi nên giữ cho mình

Âm dương cơ ngẫu hộ sinh

Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.

Chớ vật vờ quen loài ong kiến

Hư vô bàn miệng tiếng nói không.

 

109- Ô hô thế sự tự bình bồng

Nam Bắc hà thời thiết lộ thông

Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch

Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.

113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc

Ngưu xuất lam điền nhật chính đông

Nhược đãi ưng lai sư tử thượng

Tứ phương thiên hạ thái bình phong.

 

117- Ngỡ may gặp hội mây rồng

Công danh rạng rỡ chép trong vân đài

Nước Nam thường có thánh tài

Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường?

 

121- So mấy lề để tàng kim quỹ

Kể sau này ngu bỉ được coi

Đôi phen đất lở, cát bồi

Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma

 

125- Ba con đổi lấy một cha

Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền

 

Mão Thìn Tí Ngọ bất yên

Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần.

 

129- Hoành Sơn nhất đái

Vạn đại dung thân

Đến thời thiên hạ vô quân

Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.

 

133- Gà kêu cho khỉ dậy nhanh

Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung

Thiên sinh hữu nhất anh hùng

Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.

 

137- Thái Nguyên cận Bắc đường xa

Ai mà tìm thấy mới là thần minh

Uy nghi dung mạo khác hình

Thác cư một góc kim tinh non đoài

 

141- Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi

Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân

Binh thư mấy quyển kinh luân

Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu

 

145- Xem ý trời ngõ hầu khải thánh

Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai

Song thiên nhật nguyệt sáng soi

Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường

 

149- Thông minh kim cổ khác thường

Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài

Đấng hiên ngang nào ai biết trước

Tài lược thao uyên bác vũ văn

Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.

 

155- Chưa từng thấy nay đời sự lạ

Chốc lại mòng gá vạ cho dân

Muốn bình sao chẳng lấy nhân

Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?

 

159- Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán

Lại đua nhau quần thán đồ lê

 

Chức này quyền nọ say mê

Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương

Kẻ thì phải thuở hung hoang

Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình

 

165- Cửu cửu càn khôn dĩ định

Thanh minh thời tiết hoa tàn

Trực đáo dương đầu mã vĩ

Hồ binh bát vạn nhập Tràng An

 

169- Nực cười những kẻ bàng quang

Cờ tam lại muốn toan đường chống xe

Lại còn áo mũ xun xoe

Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.

 

173- Ghê thay thau lẫn với vàng

Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng

Thánh ra tuyết tán mây tan

Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.

 

177- Can qua, việc nước bời bời

Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân

Oai phong khấp quỷ kinh thần

Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca

 

181- Rừng xanh, núi đỏ bao la

Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên

Sửu Dần thiên hạ đảo điên

Ngày nay thiên số vận niên rành rành.

 

185- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh

Can qua xứ xứ khổ đao binh

Mã đề dương cước anh hùng tận

Thân dậu niên lai kiến thái bình

 

189- Sự đời tính đã phân minh

Thanh nhàn mới kể chyện mình trước sau

Đầu thu gà gáy xôn xao

Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.

 

193- Chó kêu ầm ỉ mùa đông

Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi

 

Lợn kêu tình thế lâm nguy

Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời

 

197- Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi

Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra

Hùm gầm khắp nẽo gần xa

Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.

 

201- Rồng bay năm vẻ sáng ngời

Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng

Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng

Cha con dòng họ thầy tăng hết thời

 

205- Chín con rồng lộn khắp nơi

Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu

Lời truyền để lại bấy nhiêu

Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong

Hậu sinh thuộc lấy làm lòng

Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.

211- Đầu can Võ tướng ra binh

Ắt là trăm họ thái bình âu ca

Thần Kinh Thái Ất suy ra

Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn

 

215- Ngày thường xem thấy quyển vàng

Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi

Bởi Thái Ất thấy lạ đời

Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân

 

219- Kể từ đời Lạc Long Quân

Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian

Mỗi đời có một tôi ngoan

Giúp chung nhà nước dân an thái bình

 

223- Phú quý hồng trần mộng

Bần cùng bạch phát sinh

Hoa thôn đa khuyển phệ

Mục giã giục nhân canh

Bắc hữu Kim thành tráng

Nam hữu Ngọc bích thành

Phân phân tùng bách khởi

Nhiễu nhiễu xuất đông chinh

 

Bảo giang thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành

 

233- Rồi ra mới biết thánh minh

Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò

Nhị Hà một dải quanh co

Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào

Khắp hoà thiên hạ nao nao

Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng?

 

239- Nói đến độ thầy tăng mở nước

Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu

Bấy lâu những cậy phép màu

Bây giờ phép ấy để lâu không hào

 

243- Cũng có kẻ non trèo biển lội

Lánh mình vào ở nội Ngô Tề

Có thầy Nhân Thập đi về

Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh

 

247- Những người phụ giúp thánh minh

Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai

Phùng thời nay hội thái lai

Can qua chiến trận để người thưởng công

 

251- Trẻ già được biết sự lòng

Ghi làm một bản để hòng giở xem

Đời này những thánh cùng tiên

Sinh những người hiền trị nước an dân

 

255- Này những lúc thánh nhân chưa lại

Chó còn nằm đầu khải cuối thu

Khuyên ai sớm biết khuông phù

Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu.

 

259- Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,

Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao.

Thấy sấm từ đây chép vào

Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

 

Trịnh Văn Thanh.Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển” (tập 2) – Sài Gòn – 1966

 

BẢN VI : MINH ĐIỀN 1948

LỜI NÓI ĐẦU

 

Vì sao có quyển sấm nầy ra đời ? – Không dám vọng ngữ , quyển sấm nầy cần phải ra đời vì nó quý báu bằng tất cả kho tàng của một nước Đại Việt và hơn nữa, đã đến giai đoạn cần thiết của thời cuộc hiện tại mà lời sấm đã ghi đúng đắn từng li từng tí mỗi một cuộc biến cố xảy ra trong nước.

 

Bắt đầu từ Cổ Am bị tàn phá cho đến ngày lịch sử cách mạng tháng 8, kế đến giai đoạn Hoàng Đế Bảo Đại về nước, mỗi mỗi đều nhốt tất cả trong 487 câu thơ mà Đức Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một bầu tâm sự đầy nhiệt huyết nhả ngọc phun châu cho vạn cổ anh hùng suy nghiệm.

 

Hởi các chí sĩ anh hùng trong thiên hạ ! Chớ nên quá ư căn cứ vào khoa học mà chê những truyện sấm giảng là hoang đường, vì có những sấm giảng và sấm giảng.Hoang đường là lời nói vu vơ, ảo mộng không biết bao giờ xuất hiện như lời đã nói. Còn quyển sấm nầy viết từ 400 năm nay mà mỗi mỗi đều ứng nghiệm ngoài đời thực tế cho đến những cái tên riêng của những người chủ trương trong mấy phong trào quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều ứng nghiệm ghi rõ .

 

Nó là môn khoa học huyền bí vì Trạng chuyên môn lý số nhờ ở bộ ” Thái Ất Thần Kinh ” mà ghi chép ra chứ nó đâu phải ngất ngưởng như bóng với đồng. Nếu không phải khoa học, sao cụ lại được tặng câu ” Annam lý học hữu học Trình truyền ” của Tàu là một nước bao giờ cũng tự hào rằng mình cao hơn hết về khoa lý số.

 

TỰU TRUNG :

Cũng vì lòng từ bi, bác ái mà đức Trạng có quyển sấm nầy ra cốt để cho các vị trượng phu anh hùng xem lấy mà tránh cái nạn cốt nhục tương tàn.

 

Cũng vì lòng yêu nước thiết tha mà Đức Trạng có quyển sấm nầy ra là cốt để cho trong tôn giáo, ngoài xã hội xem lấy biết nẻo tôn phò ” lòng trung nghì ai nhớ cho tinh ” và cũng vì lòng hiếu kỳ mà soạn giả khởi đọc quyển sấm nầy hồi 1930 sau cuộc biến động Cổ Am do Quốc Học Tùng San xuất bản. Soạn giả cũng không nệ hà tài hèn hiến cho bạn đọc những đoạn dịch chánh bản và phụ trương mong rằng thích đúng trong muôn một.

 

Viết ở Sài-Thành mùa đông năm Mậu Tí 1948.

Cư Sĩ MINH ĐIỀN

 

PHẦN THỨ NHẤT

 

Dục thức thánh nhân xứ

Đa xuất ứng Bảo giang

Dục thức thánh nhân hương

Thủy lam bảo trung tàng

Dục thức thánh nhân tính

Mộc hạ liên đinh khẩu

Dục thức thánh nhân diện

Tu tẩm trương cú kiến

Giang nam nhị thủy huyện

Tại sơn vô hổ lang

Thất thập nhị hiền tướng

Phụ tá thánh quân vương

 

Phá điền thiên tử xuất

Bất chiến tự nhiên thành.

 

…………………….

…………………….

 

Tư tâm dục thức thánh nhân diện

Lưỡng biên bàn ngạt tùy nhất khối

Thủ túc chánh vương tam lương tự.

 

PHẦN THỨ HAI

 

Cuộc đời ai dễ biết đâu

Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên

Quan làng ỷ thế ỷ quyền

Dân khôn giả dại mới yên phận mình

Mặc ai chia rẽ thị khinh

Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn

Ta tin ta mới đặng an

Luận bàn bè bạn chỉ đàng cho nhau

Việc người thì mặc người âu

Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ

Muốn yên mồn lặng như tờ

Luận bàn việc nước thì khô xác hình

Bởi đời quốc thể bù nhìn

Quan làng tàn bạo sanh linh tơi bời

Lương dân than khổ đòi nơi

Quốc hồn mờ ám hởi ôi thế quyền

Nước nhà nghiêng ngửa ngửa nghiêng

Tham quan hại nước lợi riêng cho mình

Biết chi là ám với minh

Sớm ưa trưa ghét dân tình đời ni

Kim tiền quyền thế tương tri

Không quyền không thế người khi ngu đần

Chớ hà hiếp nhớ siêng cần

Đến nơi Tiên Phật Thánh Thần mới an

Nghèo nàn bổng chốc giàu sang

Đứa ngu đội bạc ra đường dại khôn

 

Bởi đời toàn lũ vô hồn

Khinh khi nhân nghĩa trọng tôn bạc tiền

Dốt ngu đội lốt Thánh Hiền

Mở miệng thì rặc đồ điên một dòng

Chừng nào cây sắt trổ bông

Đường đen như mực Lạc Hồng tai phi

Trung thần ái quốc dễ khi

Phản thần mãi quốc nên ghi để đời

Thức thời quốc sử bỏ rơi

Ngay không nhầm lúc dĩ hơi hại mình

Vô quân vô tướng vô binh

Trung không cùng chúa cúng kinh ích gì

Chừng nào lú mọc trên chì

Voi đi trên giấy đến kỳ Đông Chu

Trí thời giả điếc giả ngu

Khôn thời giả dại mà tu lấy mình

Cầm quyền toàn lủ yêu tinh

Quan nhiều Mảng Tháo cùng sinh hại đời

Mua quan bán tước lấy lời

Hại dân hại nước coi trời như không

Bì trung cốt nịnh rặc ròng

Kết phe kết đảng giết giòng phải nguy

Nồi da xáo thịt ngộ thay

Miễn mình béo bở mặc ai ốm gầy

Cáo kia mượn thế hại cầy

Mẹ cha ưa nịnh ghét bầy con ngu

Động tâm Thượng Đế dạy ru

Xuống nhiều tai họa xuân thu sửa lần

Gió sầu mưa thảm cõi trần

Thiên luân địa chấn quân thần nó xem

Canh tân sực nức mùi hèm

Mhâm quý bằng lặng ngoại binh đem vào

Giáp thời thấy rõ binh đao

Ất niên chiến họa xâm vào tràn lan

Thiên tai chiến sự đa đoan

Quốc gia nghiêng ngửa tham quan hại đời

Phản thần bán nước khi trời

Gọi rằng trung trực hởi ôi thế quyền

 

Nhứt hữu liên sơn nhứt hữu bình

Tam giang khí địa nhụ giang kinh

Tu châu tai lạc thế châu khổ

Ngu lại hườn chung khổ hại mình

Xác dân xung tận cung đình

Thiên oai chấn nổ luật hình ban ra

Mười phần mất bảy còn ba

Mất hai còn một mới ra thái bình

Trục kia chọi với đồng minh

Hai sông khô cạn nhựt tinh tỏ ngời

Ra oai đánh dẹp mọi nơi

Năm châu bốn bể thây phơi chập chùng

Mùa xuân gió bấc lạnh lùng

Cua kình trở gọng về cùng lũ dê

Cuộc đời như thể trò hề

Nực cười lũ chó còn mê lợi quyền

Sình ương khó nướng xào chiên

Quốc gia nghiêng ngửa đảo điên bốn bề

Ra đi thì khó nỗi về

Xe kia hết bánh thả rề sông trôi

Chừng nào Chợ Lớn hết vôi

Bề Đông cá đặt cuộc đời lao đao

Lò rèn thiếu thép rèn dao

Hết đồng đúc đỉnh hết thau bán nồi

Chợ đen vốn một lời mười

Gạo châu củi quế lời người than van

Vải bô giá sánh bằng vàng

Kẻ đói người rách lan tràn chợ quê

 

Tiết trời đánh đổ bông huê

Nhân dân phải chịu thảm thê họa sầu

Theo Âu nên phải lo âu

Mấy ai hiểu nghĩa Bá Di-Thúc Tề

Khỉ đàn vừa gặp lũ dê

Bắc trung phải chịu thảm thê họa đầu

Đại bàng xung phá đài lầu

Ngạc ngư phóng toát thuyền cầu tan hoang

Rồi Nam cũng chịu lầm than

Phương đông ba tỉnh phải mang họa sầu

Trớ trêu cảnh sắp nhiệm mầu

Phồn hoa đô hội thảm sầu đớn đau

Cuộc đời gẫm thiệt cơ cầu

 

Trung thua quyền nịnh tiên hầu quỉ ma

Khỉ đàn gặp cặp mảng xà

Trăng tròn thiếu một thì ta xuống hầm

Yêu đương cũng phải lạc lầm

Sáu nơi khói lữa sấm gầm Sài môn

Nghèo nàn không có quách chôn

Gian tham quyền thế biết khôn lánh rồi

Nhưng mà họa có đâu thôi

Bồng con bế cái nổi trôi đầy đàng

Đến hồi quốc vận lâm nàn

Chi tiêu ăn mặc cường quan độc quyền

Càng ngày càng đảo càng điên

Dân ta như thể đàn chiên đánh vồn

Ô hô giống khéo giống khôn

Vay thời phải trả xác hồn lìa xa

Thịt rơi xương nát máu sa

Thầy tăng chẳng chịu ở nhà phù tang

 

Sưu cao thuế nặng ta mang

Đàng xa mới biết xa đàng nặng cân

Thân dậu lánh việc nương thân

Miên thành Sài trấn đến gần bỏ thây

Khỉ bầy bị một gà khi

Cuộc đời như vậy tham chi mà bòn

Gà mừng gặp lúa túc con

Miễn con no dạ mất còn kể chi

Cái năm chiến họa loạn ly

Mưa to gió họa hại gì tham quan

Nhơn dân khốn khổ đa đoan

Mọi điều khốn khổ lại càng bằng hai

Tu hành hiền hậu chết hoài

Sai ngoa gian trá sống dai chật đàng

Cơ trời định vậy chớ than

Tương vong yêu nghiệt hành tàng đấy ư !

Đầu xuân gà gáy hăm tư

Thầy tăng đến hạn họa trư tuyệt kỳ

 

Thiên cơ máy tạo huyền vi

Tuần hườn máy tạo ai thì có hay

Nực cười cho lủ vô tài

 

Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần

Xuân phân cho đến thu phân

Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi

Buồn buồn tủi tủi vui vui

Tiếng thì để tiếng muốn lui lắm lần

Rồi đây bày tỏ trung cang

Trời cho Tiên Phật xuống trần trị yêu

Văn minh cơ khí đủ điều

Cọp đồng gấu sắt phi phiêu thủy hành

Phong luân họa giáng lôi oanh

Kết phe lập đảng tranh giành thế ni

Năm châu nổi sóng một khi

Chuồn bay khói tỏa tử thi như bèo

Mưa dầu nắng lửa sấm reo

Hai loài xâu xé họa gieo dân lành

Đảng dân đại bại tan tành

Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiến cùng

Tu binh mãi mã chiêu hùng

Núp lưng đảng cộng trung hưng nước nhà

Rồi sau sanh sự bất hòa

Lại cùng đảng cộng can qua chiến trường

Non cao bể cả đôi đường

Phân ranh biên giới tỏ tường mới an

….

 

Đảng dân đại bại tan tành

Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiến cùng

Tu binh mãi mã chiêu hùng

Núp lưng đảng cộng trung hưng nước nhà

Rồi sau sanh sự bất hòa

Lại cùng đảng cộng can qua chiến trường

Non cao bể cả đôi đường

Phân ranh biên giới tỏ tường mới an

 

Vầng hồng rọi khắp bốn phang

Tây phang cuốn gió tìm đàng đào vong

Bập bồng Tần quốc bập bồng

Là nơi chiến địa huyết hồng tràn lan

Hải hồ rửa máu nghỉ an

Tiền Âu hậu Á Thiên Hoàng định thu

 

Thân gà dạ khỉ đấy chừ

Thì là ngọn lửa mới thu dịu lần

Kỳ phang thay đổi cuộc trần

Chó kia gặp chủ nó cần sủa tru

Quân minh dân sự ôn nhu

Heo kia thong thả ngao du đầy đàng

Chuột mừng gặp cảnh bình an

Trâu kia thong thà nghêng ngang đồn điền

Cọp rày làm chúa lâm điền

 

CHÓ kia GẶP CHỦ nó cần sủa tru

UÂN MINH dân sự ôn nhu

HEO kia THONG THẢ ngao du đầy đàng

CHUỘT mừng gặp cảnh BÌNH AN

TRÂU kia THONG THẢ nghênh ngang đồn điền

CỌP rày LÀM CHÚA lâm điền

QUÂN THẦN CỘNG LẠC MIÊN MIÊN CỬU TRƯỜNG.

 

TRẦN CÔNG nãi thị phúc tâm

GIANG HỒ SỬ SĨ đào tiềm XUẤT DU

Tướng thần hệ xuất Y CHU

Thứ ky PHỤC KIẾN ĐƯỜNG NGU thi thành

Hiệu xưng THIÊN HẠ THÁI BÌNH

487.ĐÔNG TÂY VÔ SỰ NAM THÀNH QUỐC GIA.

 

Thiên cơ máy tạo huyền vi

Tuần hườn máy tạo ai thì có hay

Nực cười cho lủ vô tài

Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần

Xuân phân cho đến thu phân

Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi

 

KHẢO DỊ

 

Ngày nay bản Minh Điền có khác vài điểm .

1. Một độc giả cho biết phần I và II của bản này là ở phần Phụ trương của Minh Điền.

Phần I .

Dục thức Thánh nhân xứ

Đa xuất ứng Bảo Giang, ……..

Phần 2:

Cuộc đời ai dễ biết dâu,

Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên,

Quan làng ỷ thế ỷ quyền,

Dân khôn giã dại mới yên phận mình,

Măc ai chia rẽ thị khinh,

Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn,

Ta tinh ta mới dặng an,

Luận bạn bè bạn chỉ đàng cho nhau,

Việc người thì mặc người âu,

Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ

Muốn yên mồm lặng như tờ,

Luận bàn việc nước thì khô xác hình . . .

 

Ông bạn cũng cho biết bản Minh Điền cũng tam sao thất bản, tôi không rõ là do chép tay hoặc in đi in lại mà ra thế!

Các bản đều có câu kết giống nhau:

Hiệu xưng THIÊN HẠ THÁI BÌNH

ĐÔNG TÂY VÔ SỰ NAM THÀNH QUỐC GIA.

 

Theo Phạm Đăng Quế, bản Minh Điền có 487 câu, chỉ có 22 câu giống bản Mai Lĩnh từ câu 374 đến 431, còn lại là khác hoàn toàn. Ông đã trích 50 câu đầu và 30 câu cuối của Mai Lĩnh thì thấy 80 câu này hai bản giống nhau. Tôi chỉ có bản sao của Minh Điền nhưng không có bản chính nên không rõ sự thực như thế nào.

 

BẢN NÔM NGUYỄN VĂN SÂM – SƠN TRUNG PHIÊN ÂM

1. Nước Nam thường có thánh tài

Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng

Kia Nhị thủy nọ Đảo sơn

Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho

5. Học cách vật mới dò tới chốn

Chép ghi làm một bản xem chơi

Muôn việc cũng bởi tại trời

Suy thông mới biết sự đời nhường bao

Khéo chẳng sai tơ hào cũng vậy

10. Truyền hậu thế ai nấy xem cho

 

Những lời nghiêm ngặt khôn lo

Ai mà biết được trượng phu nên người.

Nay xem chữ một nghĩa mười

Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên

15. Kể từ Lạc Long Quân dựng nước

Sang Hùng Vương được 18 đời

Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi

Cờ lau lập trận thay trời trị dân

Mão được 12 dư xuân

20. Lê Hành (1) kế vị xa gần âu ca.

 

Truyền đã được mười ba năm lẻ

Đến Ngọa triều nào kể tài năng

Ngôi trời truyền đến Lý nay

Long thành bát diệp đến ngày dực phân

25. Chiều Hoàng là ả nữ quân

Mê về nhan sắc trao Trần thái tôn

Mười hai đời một lòng nhân hậu.(2)

Trăm bảy mươi in dấu thất niên

Đông A chốn ấy còn bền

30. Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.

 

Thái ngu được mười bốn năm

Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi

Suy ra mới biết sự trời

Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia

35. Mười đời ngồi ngự ngai vàng

Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh sư.

Xưa làm lực sỹ đô du

Trời cho nên trị làm vua một đời.

Sáu mươi năm bất tái hồi

40. Tống Sơn chốn ấy có đời Thạch công (3)

 

Định mưu phù lập Trang Tôn

Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương

Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn

Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia

Tây Sơn sùng sục kéo ra

46. Nghiệm xem thế tục gọi là phương ngôn. (4)

 

Bài thơ số I

Thơ rằng:

Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.

Đầu cha chắp lấy đầu con

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.

Kẻ sau này ngu Trịnh được lâu

 

Bài thơ số II

Lại có thơ rằng:

 

Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân

Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền

Phụ nguyên chính thống hẳn hoi

Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê

Nọ nào ngang dọc trong (5) huê

Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn

Chó mừng chủ, gà cũng cục tác

Lợn ăn no tha rác, chuột chơi.

 

Bài thơ số III

 

Ngạn lại có câu rằng:

 

Gà bỏ con kêu cục tác

Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa

Lợn ăn no ủn ỉn nằm

Mới kể là đời thịnh thế

Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai

Bởi Tần Vương u mê chẳng biết

Rồi phen này dê lại giết dê

Tới khi thực tận binh bì

Âm binh ở giữa ai thì biết sao!

Trời cho ta giơ dao giết quỷ

Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư

Ai từng cứu con thơ sa giếng

Giốc một lòng chinh chiến đua nhau

Muôn dân chịu thuở âu sầu

Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho

Chốn đông nam là nơi khổ ải

Lánh cho xa kẻo phải đao binh

Bắc kinh mới thực đế kinh,

 

Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào

Vả mình là đấng anh hào

Đánh làm sao được ước ao đêm ngày

Bò men lên núi Vu Sơn

Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù

Ấy những quân phụ thù thui thủi

Lòng trời xui ai lại biết đâu…

 

Bài thơ số IV

 

Có thơ rằng:

 

Dần Mão chư dương giai vị cập

Lai chiêu lục thất xuất minh quân

Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ

Hưng tộ diện trường ức vạn xuân.

 

Bài thơ số V

 

Có thơ rằng:

 

Hầu đáo kê lai khởi chiến qua

Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa

Anh hùng mai thảo mã

Tướng suý tận tiêu ma

Phá điền thiên tử xuất

Tràng vỹ tảo sơn hà

Gà kia bên tường khuya sớm gáy

Chẳng yêu ra áy náy bất bình.

 

Bài thơ số VI

 

Có thơ rằng:

 

Một đám mây xanh đứng giữa trời

Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi

Thiên hạ mười phần còn có một

Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời

Thầy tăng mở nước trời không bảo.

Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau

 

Chớ có tham của tham giàu

Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân

Đằng giang chốn ấy cũng gần

Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi.

 

Bài thơ số VII

 

Thơ rằng: Ba thục riêng một góc trời

Thái Nguyên một giải là nơi trú đình

Bốn bề núi đá mọc xanh

Có đường tiểu mạch nương mình ai hay

Bốn mùa chim núi đá cây

Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào

Khuyên ai là đấng anh hào

Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay

Bốn bụt xuất thế đã chầy

Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân.

 

Bài thơ số VIII

 

Thơ rằng:

 

Ấy là điềm xuất thánh quân

Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường

Chữ rằng “Hữu xạ tự nhiên hương”

Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao

Nắng lâu ắt có mưa rào

Vội chi tát nước xôn xao cày bừa

Nắng rồi thì phải có mưa

Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn

Tuần này thánh xuất khảm phương

Sự thật đã tường chẳng lọ phải say

Tuần này thiên địa chuyển hồi

Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên

Trời sai quỷ sứ dọn đường

Để cho thánh xuất khảm phương sau này

Vội chi đua sức ra tay

Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi

Suy cho thấu biết sự đời

 

Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa.

 

Bài thơ số IX

 

Thơ rằng:

1- Tích nhất đương lang khởi bộ thuyền

2- Ưng tri hoàng thước tại thân biên

3- Tước bị lạm nhân cung đạn đả

4- Lạp nhân cách tự hổ lang huyên

5- Tuệ tinh xuất long xà

6- Thần xuất cửu cửu gia

7- Ngưu mã thiên hạ động

8- Đinh hạ nãi Đông A.

 

Rồi ra mới biết thánh minh

Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò

Nhị Hà một giải quanh co

Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào

Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao

Có bến mưa rào có thứ cùng chăng

Nói đến độ Thầy Tăng mở nước

Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu

Bấy lâu những cậy phép mầu

Bây giờ phép ấy để đâu không hào ?

Cũng có kẻ non trèo biển lội

Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề.

 

Bài thơ số X

 

Thơ rằng:

1- Di lặc giáng sinh

2- Sa phù dĩ chỉ

3- Lục thất dĩ thành

4- Kiến long sào kinh

5- Nhật xuất điện thượng

6- Thiên hạ thái bình

 

Bài thơ số XI

 

Thơ rằng:

 

Giang Nam nổi trận mạt thù

Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời

Phùng trời nay gặp thái lai

Can qua chiến trận để người phong công

Trẻ già được hết sự lòng

Ghi làm một bản nội phòng mở xem

Rước vua về đến Tràng An

Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn

Đời ấy cùng thánh, cùng tiên

Sinh những người hiền giúp nước yên dân.

Này những lúc thánh nhân chưa ra đời

Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu

Lợn nằm cũng thấy lợn lo

Thái bình mới động thập thò liền sang

Ngang cung văn vũ khác thường

Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

Thuỷ binh cờ xí vừng hồng

Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn

Đứng hiên ngang nào ai biết trước

Bắc kinh sang có việc gì chăng?

Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi

Chưa từng thấy nay đời sự lạ

Bỗng khiến người vu vạ cho dân

Muốn bình sao chẳng lấy nhân

Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa

Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán

Đúc tiền ra bán tước cho dân

Xun xoe những cậy thánh thần

Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công

Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví

Xưa phục thù ai sửa ngôi cho

Mạc kia cũng muốn nên trò

Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay!

Kẻ thì tự xưng Lê nay

Tam phân rồi chẳng được gì cả ba.

Bốn phương cũng có can qua

Mạc thì chẳng được đã ra lại về

Quân hùng binh dấy giang khê

Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì…

 

Bài thơ số XII

 

Thơ rằng:

1- Hầu đáo kê lai vị chính kỳ

2- Quốc dân hãm nịch quốc dân di

3- Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống

4- Phong nghỉ tung hoàng thị mạc vi

 

Bài thơ số XIII

 

Thơ rằng

Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ

Tài tận dân hao thế lực suy

Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến

Kham tiếu không huyền tiệm thất ky

Xem thấy những sương sam tuyết lạnh

Loài bất bình tranh cạnh hung hăng

Thành ao cá nước tưng bừng

Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm

Chiến trường chốn chốn cát lầm

Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông.

Sang thu chín huyết vừng hồng

Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần

Trẻ con mang lệnh tướng quân

Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường

Dùng uy bát là đường ngũ bá

Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan

Cỏ cây lá rụng đầy ngàn

Một làng còn mấy chim đàn bay ra

Bốn phương cùng có can qua

Làm sao còn biết có nhà Đà giang

Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường

Kiều môn án trước cao bành tựa sau

Thái nguyên cận bắc đường sau

Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ

Cùng nhau gặp mặt bây giờ

Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông

Vui mừng gặp mặt tam công

Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao

Mai kia cùng đấng anh hào

Ba người làm bạn ngôi cao lộc lành

Vậy nên một áng phong tình

Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng

Bõ khi chém lợn vẽ rồng

Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu

 

Bõ khi kẻ việt người Hồ

Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường

Ngày thường trông thấy quyển vàng

Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi.

Tinh thái ất giờ đời là thực

Sấm trời xem vô giá muôn phần

Kể từ đời Lạc Long Quân

Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian

Một đời có một tôi ngoan

Giúp chưng nhà nước dân an thái bình

Thấy đâu bò đái thất thanh

Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi

Phá điền than đến đàn dê

Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng

Dê đi dê lại tuôn buồn

Đàn ghi nó cũng một môn phù trì.

 

Bài thơ số XIV

 

Thơ rằng:

Ghê thay thau lẫn với vàng,

Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng

Thánh ra tuyết tán mây tan

Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi

Can qua việc nước bời bời.

Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân

Lục thất dư ngũ bách xuân

Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao

Thấy sấm tự đấy chép vào

Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa._____

CHÚ THÍCH:

(1). Nguyên bản viết Lê Hành, các bản phiên là Lê Hoàn

(2). Mười hai đời một lòng nhân hậu.Các bản thiếu câu này.

(3). Tống Sơn chốn ấy có đời Thạch công

Định mưu phù lập Trang Tôn: Nói việc Nguyễn Kim phò Lê Trang Tông.

(4). Các bản phiên là hiệu chi.

(5). Chữ nôm là trung. Phải chăng là tung huê?

Nguồn pdf  vietnamvanhien.net

Nguồn bài đăng