GIỚI THIỆU
Tam quốc
chí là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc
từ năm 189 đến năm 280, do Trần Thọ biên soạn vào thế kỉ thứ 3. Tác phẩm này
hình thành từ các mẩu chuyện nhỏ kể về các nước Ngụy, Thục và Ngô của thời đại
này, đồng thời là nền tảng cho cuốn tiểu thuyết lịch sử rất phổ biến là Tam
quốc diễn nghĩa được viết vào thế kỉ 14.
Trần Thọ
từng làm quan cho nhà Thục Hán, sau khi Thục Hán diệt vong đến Lạc Dương làm
quan cho nhà Tây Tấn. Trần Thọ đã dựa vào các sử liệu cơ bản như Ngụy thư của
Vương Thẩm, Ngụy lược của Ngư Hoạn, Ngô thư của Vi Chiêu... để viết Tam quốc
chí, thuật lại lịch sử Trung Quốc từ khởi nghĩa Khăn Vàng vào cuối thời Đông
Hán đến khi Tây Tấn thống nhất Trung Quốc, tức từ năm Trung Bình thứ nhất đời Hán
Linh Đế (184) đến năm Thái Khang thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (280). Tam quốc chí
được chia làm 4 phần gồm 66 quyển: Ngụy quốc chí 30 quyển, Thục quốc chí 15
quyển, Ngô quốc chí 20 quyển, ngoài ra còn có 1 quyển Tự lục (lời tựa) nhưng
đến nay đã bị thất truyền. Lúc đầu ba tác phẩm Ngụy chí, Thục chí và Ngô chí
tồn tại riêng rẽ, đến năm Hàm Bình thứ 6 thời Bắc Tống (1003) hợp nhất đổi tên
thành Tam quốc chí.
Trần Thọ
là quan nhà Tấn, do đó phải lấy triều đại đã nhường ngôi cho Tấn là Tào Ngụy
làm chính thống.
Ngụy chí
xếp các Hoàng đế nhà Ngụy vào bản kỷ, Tào Tháo tuy chỉ xưng vương, chưa lên
ngôi Hoàng đế nhưng cũng được xếp vào bản kỷ. Có 4 quyển bản kỷ là Vũ Đế kỷ
(Tào Tháo), Văn Đế kỷ (Tào Phi), Minh Đế kỷ (Tào Duệ) và Tam Thiếu Đế kỷ (Tào
Phương, Tào Mao và Tào Hoán). Các văn thư nói về việc các vua Ngụy xưng vương,
xưng đế, trị nước và việc tang đều không chép (ngoại trừ chiếu nhường ngôi của
Hán Hiến Đế - Hán Hiến Đế thiện nhượng sách văn, các văn thư khác chỉ do Bùi
Tùng Chi chú thích).
Thục chí
xếp Lưu Bị vào liệt truyện tức Tiên chủ truyện (mặc dù Lưu Bị xưng đế), không
gọi trực tiếp tên húy, khi chết dùng chữ băng ngang địa vị với chữ tồ. Các văn
thư nói về việc Lưu Bị xưng vương, xưng đế, trị nước và việc tang đều chép đầy
đủ (có thể do tình lưu luyến với cố quốc). Hoàng đế thứ hai nhà Thục Hán là Lưu
Thiện được xếp vào Hậu chủ truyện.
Ngô chí
trong nguyên bản gọi thẳng tên húy các vua Đông Ngô như Tôn Quyền truyện, Tôn
Lượng Tôn Hưu Tôn Hạo truyện; cách gọi hiện nay Ngô chủ truyện, Tam tự chủ
truyện là do người đời sau sửa lại. Trong phần Ngô chủ truyện có chép Nam giao tức
Hoàng đế vị nói về việc Tôn Quyền tuyên bố xưng đế, còn văn thư đăng đàn tế cáo
trời đất thì không chép, chỉ có trong phần chú thích của Bùi Tùng Chi.
Đồng
thời để tôn trọng sự thống trị của nhà Tấn, Tam quốc chí không viết liệt truyện
về các nhân vật Tư Mã Ý, Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu (do được Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm
truy đặt thụy hiệu). Ngoài ra, tác giả cũng lược bỏ nguyên nhân Tào Tháo xử tử
nhân vật Khổng Dung.
Vào thời
Đông Hán, sử học tiếp nhận ảnh hưởng từ trào lưu đơn giản hóa của kinh học nên
xuất hiện trào lưu giản lược hóa các tài liệu lịch sử. Trong bối cảnh đó, đã
xuất hiện Tam quốc chí của Trần Thọ với nội dung giản lược về thời đại Tam
quốc. Sau khi Trần Thọ mất hơn trăm năm, nhiều sử liệu về thời Tam quốc xuất
hiện, Tống Văn Đế thời Nam-Bắc triều thấy nội dung của Tam quốc chí quá sơ lược
nên đã ra lệnh cho Bùi Tùng Chi chú thích. Bùi Tùng Chi đã tập hợp các sử liệu
để bổ sung các phần mà Tam quốc chí không chép hoặc chép thiếu bằng 6 phương
pháp:
1. Dẫn
lời bàn luận của nhiều tác gia khác nhau để phân định phải trái.
2. Tham
khảo ý kiến của nhiều tác gia khác nhau để xét chân giả, thực hư.
3. Sự
việc trong các truyện đều kể rõ mọi đầu đuôi, uẩn khúc.
4. Bổ
sung các sự việc còn thiếu cho các truyện.
5. Kể rõ
cuộc đời của các nhân vật trong các truyện.
6. Phụ
thêm các nhân vật còn thiếu cho các truyện.
Theo
thống kê của một số học giả, thì số tư liệu mà Bùi Tùng Chi dùng để chú giải
Tam quốc chí là khoảng 240 loại, gấp 3 lần so với nguyên bản Tam quốc chí. Mã
Niệm Tổ trong tác phẩm Thủy kinh chú đẳng bát chủng cổ tịch dẫn dụng thư mục vị
biên cho rằng số tư liệu mà Bùi Tùng Chi sử dụng là 203 loại. Hiện nay, theo
thống kê bản hiệu đính Tam quốc chí tại Trung Hoa thư cục đã phát hiện phần
chính văn của Trần Thọ có 366657 chữ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi có
320799 chữ. Tống Văn Đế đương thời gọi công việc chú thích của Bùi Tùng Chi là
"bất hủ". Các sử gia đời sau như Tư Mã Quang (thời Bắc Tống) khi biên
soạn Tư trị thông giám đã tổng hợp các truyện ký trong Tam quốc chí của Trần
Thọ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi để miêu tả trận chiến Xích Bích.
Bản Tam
quốc chí do Bùi Tùng Chi chú thích là bản thông dụng nhất hiện nay, còn gọi là Trần chí, Bùi chú.
Không
thể phủ nhận được rằng, những sự kiện lịch sử thời Tam Quốc cùng với các nhân
vật của nó trở nên sống động, lưu truyền rộng rãi và có ảnh hưởng sâu đậm ở khu
vực châu Á một phần là nhờ ở bộ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán
Trung. Tuy nhiên cũng phải công nhận là thời đại Tam Quốc với những biến cố
long trời lở đất giống như một cái bản lề, xoay chuyển xã hội Trung Quốc từ
thịnh trị của đời Hán sang hỗn loạn của những Bát vương chi loạn, Ngũ Hồ loạn
Hoa, Thập Lục quốc. Rất nhiều nguyên nhân của cả thịnh trị lẫn loạn lạc này để
lại dấu vết trong thời đại Tam Quốc và được ghi lại trong Tam Quốc chí chú. Như
vậy có thể nói Tam Quốc chí chú là một sử liệu hiếm hoi có cả sức cuốn hút lẫn
giá trị khảo cứu cao.
DANH SÁCH CÁC TRUYỆN CỦA TAM QUỐC CHÍ
NGỤY THƯ
1. Vũ Đế
kỷ: Tào Tháo.
2. Văn
Đế kỷ: Tào Phi.
3. Minh
Đế kỷ: Tào Duệ.
4. Tam
Thiếu Đế kỷ: Tào Phương, Tào Mao, Tào Hoán.
5. Hậu
phi truyện: Vũ Tuyên Biện Hoàng hậu, Văn Chiêu Chân Hoàng hậu, Văn Đức Quách
Hoàng hậu, Minh Điệu Mao Hoàng hậu, Minh Nguyên Quách Hoàng hậu.
6. Đổng
nhị Viên Lưu truyện: Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ, Viên Thiệu, Viên Thuật, Lưu
Biểu.
7. Lã
Bố(Trương Mạc, Trần Đăng), Tang Hồng truyện: Lã Bố, (Trương Mạc, Trần Đăng)
Tang Hồng.
8. Nhị
Công Tôn Đào tứ Trương truyện: Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Trương Dương, Công Tôn
Độ, Trương Yên, Trương Tú, Trương Lỗ.
9. Chư
Hạ Hầu Tào truyện: Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng, Tào Hưu, Tào
Chân, Hạ Hầu Thượng.
10. Tuân
Úc Tuân Du Giả Hủ truyện: Tuân Úc, Tuân Du, Giả Hủ.
11. Viên
Trương Lương Quốc Điền Vương Bỉnh Quản truyện: Viên Hoán, Trương Phạm, Trương
Thừa, Lương Mậu, Quốc Uyên, Điền Trù, Vương Tu, Bỉnh Nguyên, Quản Ninh.
12. Thôi
Mao Từ Hà Hình Bảo Tư Mã truyện: Thôi Diễm, Mao Giới, Từ Dịch, Hà Quỳ, Hình
Ngung, Bảo Huân, Tư Mã Chi.
13.
Chung Do Hoa Hâm Vương Lãng truyện: Chung Do, Hoa Hâm, Vương Lãng.
14.
Trình Quách Đổng Lưu Tưởng Lưu truyện: Trình Dục, Quách Gia, Đổng Chiêu, Lưu
Diệp, Tưởng Tế, Lưu Phóng.
15. Lưu
Tư Mã Lương Trương Ôn Giả truyện: Lưu Phức, Tư Mã Lãng, Lương Tập, Trương Ký,
Ôn Khôi, Giả Quỳ.
16. Nhâm
Tô Đỗ Trịnh Thương truyện: Nhâm Tuấn, Tô Tắc, Đỗ Kỳ, Trịnh Hồn, Thương Từ.
17.
Trương Nhạc Vu Trương Từ truyện: Trương Liêu, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Trương Cáp, Từ
Hoảng.
18. Nhị
Lý Tang Văn Lã Hứa Điển nhị Bàng Diêm truyện: Lý Điển, Lý Thông, Tang Bá, Tôn
Quan, Văn Sính, Lã Kiền, Hứa Chử, Điển Vi, Bàng Đức, Bàng Dục, Diêm Ôn.
19. Nhâm
Thành Trần Tiêu Vương truyện: Tào Chương, Tào Thực, Tào Hùng.
20. Vũ
Văn thế Vương Công truyện: Tào Ngang, Tào Thước, Tào Xung, Tào Cứ, Tào Vũ, Tào
Lâm, Tào Cổn, Tào Huyền, Tào Tuấn, Tào Củ, Tào Cán, Tào Thượng, Tào Bưu, Tào
Cần, Tào Thừa, Tào Chỉnh, Tào Kinh, Tào Quân, Tào Cấc, Tào Huy, Tào Mậu, Tào
Hiệp, Tào Nhuy, Tào Giám, Tào Lâm, Tào Lễ, Tào Ung, Tào Cống, Tào Nghiễm.
21.
Vương Vệ nhị Lưu Phó truyện: Vương Xán, Vệ Ký, Lưu Dị, Lưu Thiệu, Phó Hỗ.
22. Hoàn
nhị Trần Từ Vệ Lư truyện: Hoàn Giai, Trần Quần, Trần Thái, Từ Tuyên, Vệ Trăn,
Lư Dục.
23. Hòa
Thường Dương Đỗ Triệu Bùi truyện: Hòa Hợp, Thường Lâm, Dương Tuấn, Đỗ Tập,
Triệu Nghiễm, Bùi Tiềm.
24. Hàn
Thôi Cao Tôn Vương truyện: Hàn Kỵ, Thôi Lâm, Cao Nhu, Tôn Lễ, Vương Quán.
25. Tân
Bì Dương Phụ Cao Đường Long truyện: Tân Bì, Dương Phụ, Cao Đường Long.
26. Mãn
Điền Khiên Quách truyện: Mãn Sủng, Điền Dự, Khiên Chiêu, Quách Hoài.
27. Từ
Hồ nhị Vương truyện: Từ Mạc, Hồ Chất, Vương Sưởng, Vương Cơ.
28.
Vương Vô Khâu Gia Cát Đặng Chung truyện: Vương Lăng, Vô Khâu Kiệm, Gia Cát Đản,
Đường Tư, Đặng Ngải, Chung Hội.
29.
Phương kỹ truyện: Hoa Đà, Đỗ Quỳ, Chu Kiến Bình, Chu Tuyên, Quản Lộ.
30. Ô
Hoàn Tiên Ti Đông Di truyện: Ô Hoàn, Tiên Ti, Phù Dư, Cao Câu Ly, Ốc Trở, Ấp
Lâu, Uế, Hàn, Nụy.
THỤC THƯ
1. Lưu
nhị mục truyện: Lưu Yên, Lưu Chương.
2. Tiên
chủ truyện: Lưu Bị.
3. Hậu
chủ truyện: Lưu Thiện.
4. Nhị
chủ phi tử truyện: Cam Hoàng hậu, Mục Hoàng hậu, Kính Ai Hoàng hậu, Trương
Hoàng hậu, Lưu Vĩnh, Lưu Lý, Lưu Tuyền.
5. Gia
Cát Lượng truyện: Gia Cát Lượng.
6. Quan
Trương Mã Hoàng Triệu truyện: Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung, Triệu
Vân.
7. Bàng
Thống Pháp Chính truyện: Bàng Thống, Pháp Chính.
8. Hứa
My Tôn Giản Y Tần truyện: Hứa Tĩnh, My Chúc, Tôn Càn, Giản Ung, Y Tịch, Tần
Bật.
9. Đổng
Lưu Mã Trần Đổng Lã truyện: Đổng Hòa, Lưu Ba, Mã Lương, Trần Chấn, Đổng Doãn,
Lã Nghệ.
1 0. Lưu
Bành Liêu Lý Lưu Ngụy Dương truyện: Lưu Phong, Bành Dạng, Liêu Lập, Lý Nghiêm,
Lưu Diễm, Ngụy Diên, Dương Nghi.
1 1.
Hoắc Vương Hướng Trương Dương Phí truyện: Hoắc Tuấn, Vương Liên, Hướng Lãng,
Trương Duệ, Dương Hồng, Phí Thi.
1 2. Đỗ
Chu Đỗ Hứa Mạnh Lai Doãn Lý Tiều Khước truyện: Đỗ Vi, Chu Quần, Đỗ Quỳnh, Hứa
Từ, Mạnh Quang, Lai Mẫn, Doãn Mặc, Lý Soạn, Tiều Chu, Khước Chính.
1 3.
Hoàng Lý Lã Mã Vương Trương truyện: Hoàng Quyền, Lý Khôi, Lã Khải, Mã Trung,
Vương Bình, Trương Nghi.
1 4.
Tưởng Uyển Phí Y Khương Duy truyện: Tưởng Uyển, Phí Y, Khương Duy.
1 5.
Đặng Trương Tông Dương truyện: Đặng Chi, Trương Dực, Tông Dự, Dương Hý.
NGÔ THƯ
1. Tôn
phá lỗ thảo nghịch truyện: Tôn Kiên, Tôn Sách. 2 . Ngô chủ truyện: Tôn Quyền.
3. Tam
tự chủ truyện: Tôn Lượng, Tôn Hưu, Tôn Hạo.
4. Lưu
Do Thái Sử Từ Sĩ Nhiếp truyện: Lưu Do, Thái Sử Từ, Sĩ Nhiếp.
5. Phi
tần truyện: Ngô phu nhân, Tạ phu nhân, Từ phu nhân, Vương phu nhân (hai người),
Phan phu nhân, Toàn phu nhân, Chu phu nhân, Hà
Cơ, Đằng phu nhân.
6. Tông
thất truyện: Tôn Tĩnh, Tôn Bí, Tôn Phụ, Tôn Dực, Tôn Khuông, Tôn Thiều, Tôn
Hoàn. 7 . Trương Cố Gia Cát Bộ truyện: Trương Chiêu, Cố Ung, Gia Cát Cẩn, Bộ
Chất.
8.
Trương Nghiêm Trình Hám Tiết truyện: Trương Hoành, Nghiêm Tuấn, Trình Bỉnh, Hám
Trạch, Tiết Tống.
9. Chu
Du Lỗ Túc Lã Mông truyện: Chu Du, Lỗ Túc, Lã Mông.
10.
Trình Hoàng Hàn Tưởng Chu Trần Đổng Cam Lăng Từ Phan Đinh truyện: Trình Phổ,
Hoàng Cái, Hàn Đương, Tưởng Khâm, Chu Thái, Trần Vũ, Đổng Tập, Cam Ninh, Lăng
Thống, Từ Thịnh, Phan Chương, Đinh Phụng.
11. Chu
Trị Chu Nhiên Lã Phạm Chu Hoàn truyện: Chu Trị, Chu Nhiên, Lã Phạm, Chu Hoàn.
12. Ngu
Lục Trương Lạc Lục Ngô Chu truyện: Ngu Phiên, Lục Tích, Trương Ôn, Lạc Thống,
Lục Mạo, Ngô Xán, Chu Cứ.
13. Lục
Tốn truyện: Lục Tốn.
14. Ngô
chủ ngũ tử truyện: Tôn Đăng, Tôn Lự, Tôn Hòa, Tôn Bá, Tôn Phấn.
15. Hạ
Toàn Lã Chu Chung Ly truyện: Hạ Tề, Toàn Tông, Lã Đại, Chu Phường, Chung Ly
Mục.
16. Phan
Tuấn Lục Khải truyện: Phan Tuấn, Lục Khải. 17 . Thị Nghi Hồ Tống truyện: Thị
Nghi, Hồ Tống.
18. Ngô
Phạm Lưu Đôn Triệu Đạt truyện: Ngô Phạm, Lưu Đôn, Triệu Đạt.
19. Gia
Cát Đằng nhị Tôn Bộc Dương truyện: Gia Cát Khác, Đằng Dận, Tôn Tuấn, Tôn Lâm,
Bộc Dương Hưng.
20.
Vương Lâu Hạ Vi Hoa truyện: Vương Phồn, Lâu Huyền, Hạ Thiệu, Vi Chiêu, Hoa
Hạch.
BẢN ĐỒ TAM QUỐC
NGỤY THƯ QUYỂN 1 – Vũ Đế Kỷ
TÀO THÁO TRUYỆN
Thái Tổ
Vũ Hoàng Đế người Tiêu Quận nước Bái. Họ Tào, húy Tháo, tự Mạnh Đức, vốn dòng
dõi Tướng Quốc nhà Hán là Tào Tham. Tào Man
truyện chép: Thái Tổ có tên sơ sinh là Cát Lợi, tên khi bé là A Man. Ngụy Thư
của Vương Trầm chép: (họ Tào) vốn gốc Hoàng Đế. Vào đời Cao Dương, người con
của Lục Chung tên là An được ban họ Tào. Khi Châu Vũ Vương đánh Ân, bắt đầu
triều Châu, phong cho Tào Hiệp đất Chu . Vào
thời Xuân Thu, có tham dự minh hội(1), đến thời Chiến Quốc, bị nước Sở diệt.
Con cháu ly tán, vài người dời nhà đến đất Bái. Khi Hán Cao Tổ nổi lên, Tào
Tham nhờ công được phong Bình Dương Hầu, con cháu tập tước, vài lần bị dứt
nhưng đều được tái lập cho đến ngày nay(2) ngôi vị tại Dong thành.
Thời
Hoàn Đế, Tào Đằng được dùng làm Trung Thường Thị Đại Trường Thu, phong Phí Đình
Hầu.
Tục Hán
Thư của Tư-mã Bưu chép: cha Đằng là Tiết, tự Nguyên Vĩ, có tiết hạnh nhiều
người khen. Có lần người hàng xóm mất lợn giống như con lợn của Tiết. Hắn bèn
đoạt lấy nhưng Tiết không giận. Sau đó, con lợn của hắn tự về nhà, người hàng
xóm xấu hổ đem lợn trả và tạ Tiết, Tiết chỉ cười nhận lại lợn. Vì thế, được mọi
người khen ngợi. Người con trưởng tự Bá Hưng, kế Trọng Hưng, rồi Thúc Hưng.
Đằng, tự Quý Hưng(3), từ bé vào cung làm Hoàng Môn Lang. Năm đầu Vĩnh Ninh,
Đặng Thái Hậu xuống chiếu sai quan Hoàng Môn Lệnh tuyển trong số Hoàng Môn
người nào tuổi tác, tính tình thích hợp để cùng học với Thái Tử. Qua đó, Đằng
được chọn. Thái Tử yêu thích Đằng và thường ban Đằng quà rượu hơn hẳn kẻ khác.
Đến khi Thái Tử lên ngôi, tức Thuận Đế, cho Đằng làm Tiểu Hoàng Môn, rồi thăng
đến Trung Thường Thị Đại Trường Thu. Đằng giữ chức này hơn 30 năm, trãi 4 đời
vua, trước nay chưa ai được vậy. Đằng thích tiến cử hiền tài và không bôi nhọ
ai. Trong số được Đằng tiến cử, từ Trần Lưu có Ngu Phóng, Biện Thiều, Nam Dương
có Diên Cố, Trương Ôn, Hoằng Nông có Trương Hoán, Dĩnh Xuyên có Đường Khê, thảy
đều cầm chức lớn. Đằng cũng không vì thế khoe khoang. Sau, Thái-thú Thục Quận
gởi thư riêng cho Đằng bị Thứ-sử Ích Châu Thứ sử Chủng Cảo bắt được. Cảo dâng
biểu xin bãi chức Đằng vì Đằng có liên lạc với các quan bên ngoài. Hoàng Đế
đáp: "Thư ấy từ bên ngoài gởi vào, có phải do Đằng thảo đâu? Đằng vô
tội." Nên biểu của Cảo bị bỏ qua. Đằng cũng không vì chuyện ấy kết thù
oán, vẫn khen ngợi tiết hạnh Cảo như thường. Sau Cảo làm đến Tư Đồ, có nói với
mọi người rằng: "Tôi được ngày hôm nay nhờ Tào Thường thị". Những
việc khác Đằng làm cũng tương tự thế. Khi Hoàn đế lên ngôi, vì Đằng là tôi tiên
triều, lòng trung hiếu của Đằng được tôn vinh, rồi phong làm Phí Đình Hầu. Năm
Thái Hòa thứ 3(4), truy tôn Đằng làm Cao Hoàng Đế.
Con Đằng
là Tung nối tước, làm đến Thái Úy, nhưng không ai biết nguồn tích của Tung ra
sao(5). Tung sinh ra Thái Tổ.
Tục Hán
Thư: Tung tự Cự Cao, tính đôn hậu, ai cũng tường lòng trung hiếu. Ban đầu làm
Tư Lệ Hiệu Úy, rồi Linh Đế thăng lên làm Đại Tư Nông, Đại Hồng Lô, rồi thay
Thôi Liệt làm Thái Úy(6). Hoàng Sơ năm đầu, truy tôn Tung làm Thái Hoàng Đế.
Tào Man truyện của người Ngô và Thế Ngữ của Quách Ban cùng chép: Tung là con
dòng họ Hạ Hầu và là em bố Hạ Hầu Đôn. Nên Thái Tổ và Đôn là anh em họ.
Thái Tổ
khi bé tuy nhanh trí, nhưng ham chơi, lêu lổng, không màng đến sự nghiệp. Mọi
người vì thế không cho Thái Tổ sẽ nên tích sự gì.
Tào Man
truyện chép: Thái Tổ khi bé chỉ thích đua chó, săn chim, lêu lổng tối ngày, hay
bị người chú đến mách bố. Thái Tổ bị răn trách. Sau nhân gặp người chú trên
đường, giả lên cơn động kinh sùi bọt mép. Người chú hoảng hốt hỏi thăm. Thái Tổ
đáp "Trúng phải gió độc rồi!". Người chú vội vàng chạy đến báo với
Tung. Tung kinh hãi, gọi Thái Tổ đến, thấy Thái Tổ vẫn bình thường. Tung hỏi:
"Chú nói mày trúng gió. Có không?" Thái Tổ đáp: "Con có gì đâu.
Chú không thích con, nên chỉ thấy những chuyện xấu". Tung do vậy đâm ra
nghi ngờ. Từ đó trở đi, Tung không tin những gì người chú nói về Thái Tổ nữa,
Thái Tổ lại càng táo tợn hơn.
Duy có
người nước Lương là Kiều Huyền, người Nam Dương là Hà Ngung lại cho là khác.
Huyền bảo Thái Tổ rằng: "Thiên Hạ sắp loạn to, không phải người có tài
'mệnh thế' tất không cứu được. Ông chính là người đó!".
Ngụy Thư
viết: Thái Úy Kiều Huyền, vốn nổi tiếng biết coi người, cho Thái Tổ khác
thường, nói: "Tôi biết hầu hết danh sĩ thiên hạ, nhưng chưa thấy ai được
như ông! Ông ráng giữ lấy mình. Tôi già quá! Vợ con gởi gấm nơi ông đấy!"
Thanh danh Thái Tổ nhờ đó càng nổi.
Tục Hán
Thư viết: Huyền, tự Công Tổ, nghiêm minh và có tài lược, giỏi coi người.
Hán Kỷ
của Trương Phan chép: Huyền khi ở ngôi cao trong ngoài tỏ tư cách, khiêm nhượng
với kẻ dưới. Lại không vì quyền quý vương khanh mà kết thân. Vào năm Quảng Hòa
Huyền làm Thái Úy, được một thời gian vì bệnh nên thôi, được phong Thái Trung
Đại Phu, rồi mất. Nhà nghèo không sản nghiệp, linh cửu không đồ 'táng khí' chôn
theo. Người đương thời cho là danh thần.
Thế Ngữ
chép: Huyền bảo Thái Tổ: "Ông vẫn ít người biết, nên làm quen với Hứa Tử
Tương" Thái Tổ đến làm quen, Tử Tương chịu cho, nhờ vậy người ta biết
tiếng.
Sách Dị
Đồng Tạp Ngữ của Tôn Thịnh chép: Thái Tổ một lần lẻn vào nhà Trung Thường Thị
Trương Nhượng. Nhượng cảm được, Thái Tổ bèn cầm thủ kích vẫn trưng ngoài sân
rồi nhảy qua tường bỏ đi. Tài vũ Thái Tổ lại hơn hết mọi người, không ai hại
được. Sách nào cũng biết, đặc biệt là binh thư. Gom gộp binh pháp mọi nhà viết
lại rõ ràng -- gọi là 'Tiếp Yếu', còn ghi chú cả 13 chương binh pháp của Tôn
Tử, thảy đều còn truyền. Thường hỏi Hứa Tử Tương: "Tôi là người thế
nào?" Tử Tương không đáp. Cố hỏi, Tử Tương rằng: "Thời bình ngươi là
năng thần, thời loạn ngươi là gian hùng". Thái Tổ cười to.
Năm hai
mươi tuổi, được đề cử Hiếu Liêm, làm chức Úy một bộ ở Bắc Lạc Dương, rồi đổi
qua làm Huyện Lệnh Đốn Khâu.
Tào Man
truyện: Ban đầu mới giữ chức Úy, Thái Tổ sửa sang trị sự. Làm roi 5 màu, dựng
hai bên cổng tất cả 10 cây. Ai phạm phải điều cấm, bất kể có là cường hào, đều
bị nọc ra đánh đến chết. Được vài
tháng, hôm ấy người chú của Tiểu Hoàng Môn Kiển Thạc, sủng thần của vua Linh
Đế, đi đêm bị bắt, Thái Tổ sai đập đến chết. Kinh Đô nhờ vậy yên ổn, không ai
dám phạm luật. Bọn sủng thần do đó đều ghét, nhưng không ai làm gì được. bèn
cùng nhau tiến cử cho đổi qua làm Huyện Lệnh ở Đốn Khâu.
Sau đó
làm Nghị Lang.
Ngụy Thư
chép: Chồng em họ Thái Tổ là cường hào Tống Kỳ bị giết, phàm thân thích đều bị
giải quan. Sau, vì Thái Tổ giỏi cổ học, được mời ra làm Nghị Lang. Đại Tướng
Quân Đậu Vũ cùng Thái Phó Trần Phiền mưu diệt hoạn quan, nhưng ngược lại cùng
bị giết. Thái Tổ dâng thư nói: do Trần, Vũ cùng những người chính trực bị hãm
hại, gian tà đầy triều, kẻ thiện bị chèn ép, lời lẽ thống thiết; nhưng Linh Đế
không màng đến. Sau lại có chiếu truyền xuống cả 3 phủ, sắc rằng: Những ai lên
tiếng đòi sửa sang chính trị của châu huyện đều bị coi là tung tin nhảm và đáng
cách chức. Từ đó các quan Tam Công thích làm những việc sai quấy không còn là
chuyện hiếm, hối lộ lại càng thịnh hành. Lời oán về đám cường bạo đã không ai
tâu lên, kẻ yếu ráng giữ mình lại đa phần bị hãm hại. Thái Tổ tức lắm. Nhằm năm
nhiều chuyện thiên tai khác thường, bèn dâng thư can gián, giải thích (nguyên
nhân thiên tai do) các quan Tam Công rặt tâu lên những chuyện tránh đụng chạm
đến bọn quý thích(7). Tâu lên, nhà vua ngộ ra, bèn bãi chức cả tam phủ, những
người 'tung tin nhảm' được phong làm Nghị Lang. Nhưng từ đó về sau việc chính
trị ngày càng loạn, cường hạo lộng hành làm nhiều người bị hãm diệt. Thái Tổ
biết mình không thay đổi được gì nên không tâu điều gì nữa.
Cuối
thời Quảng Hòa, Hoàng Cân nổi dậy. Bèn được phong làm Kỵ Đô Úy, dẹp giặc ở Dĩnh
Xuyên. Sau đổi làm Tế Nam Tướng. Nước này gồm 10 huyện , vì các quan Trưởng Sử
đa phần dựa vào bọn quý thích, tham ô hối lộ lộng hành. Bèn tâu lên xin đuổi 8
người như thế. Lại cấm ngặt các hành vi tà vạy, bọn gian quỹ vì thế trốn đi,
trong quận được yên ổn.
Ngụy
Thư: Trưởng Sử nhận hối lộ, dựa vào thế quý thích, những quan Tướng trước không
dám động đến. Nghe tin Thái Tổ đến, xin miễn chức cả đám, lớn nhỏ sợ điếng
người, bọn gian quỹ bèn chạy sang quận khác. Việc chính trị nhờ thế củng cố, cả
quận thanh bình. Trước đây, Thành Dương Cảnh Vương Lưu Chương có công lớn với
nhà Hán, được phong quốc (Thành Dương) lập nhà từ, các quận khác của Thanh Châu
đều bắt chước theo. Ở Tế Nam
lại càng thịnh hành, xây đến hơn 600 nhà từ. Có tên thương gia giả chiếc kiệu
'nhị thiên thạch' cho chúng khuân trên đường, ca hát xênh xang, xa xỉ vô cùng,
trong khi dân tình thì nghèo túng. Quan Trưởng Sử lại không dám cấm các hành vi
như thế. Thái Tổ đến, lệnh phá hết các nhà từ, cấm tuyệt cả quan cả dân đến tế
ở nhà từ. Đến khi nắm quyền chính, bèn diện trừ nạn thờ cúng quỷ thần gian tà,
việc thờ cúng huyễn hoặc từ ấy mới dứt.
Ít lâu,
được vời làm Thái Thú Đông-quận, nhưng không nhận, xưng bệnh về làng.
Ngụy
Thư: Khi bọn quyền thần nắm triều chính, quýthích lộng hành. Thái Tổ không thể
thay đổi tính nết che chở cho bọn này. Nhiều lần trái lệnh, sợ họa đến nhà, bèn
lui gót giữ mình. Tuy làm Nghị Lang, nhưng thường cáo bệnh, xin về làng. Lại
cho xây nhà ngoài thành, Xuân Hạ đọc sách, Thu Đông săn bắn, lấy thế làm vui
Được ít
lâu, Thứ-sử Ký Châu Vương Phân, cùng Hứa Du người Nam Dương, Châu Tinh người
Bái Quốc liên kết hào kiệt, mưu phế Linh Đế, lập Hợp Phì Hầu, tiết lộ với Thái
Tổ nhưng Thái Tổ không theo.
Việc sau cũng không thành.
Cửu Châu
Xuân Thu của Tư-mã Bưu: Khi con Trần Phiền là Dật cùng Thuật sĩ người Bình
Nguyên là Tương Giai hội bàn với Phân, Giai nói: "Thiên văn (có điềm) bất
lợi cho bọn Hoạn quan. Bọn Hoàng Môn, Thường Thị thảy sẽ bị diệt tộc". Dật
rất vừa lòng. Phân nói: "Nếu thế, tôi nguyện trừ bọn này". Bèn cùng
Du kết mưu. Khi Linh Đế muốn về thăm nhà cũ ở Hà Gian, Phân nhân đấy lập kế,
gởi thư cho cướp Hắc Sơn bảo đánh cướp quận huyện để có dịp khởi binh. Bấy giờ
ở phía Bắc xuất hiện làn khí đỏ trãi suốt từ Đông sang Tây, quan Thái Sử tâu
lên : "Đương có âm mưu, không nên bắc hành". Vua bèn dừng lại, hạ
lệnh cho Phân bãi binh, sai gọi đến. Phân sợ, tự sát. Ngụy Thư có thuật lời
Thái Tổ cự Phân rằng: "Phế lập là chuyện bất tường cho cả thiên hạ. Người
xưa phải nắm hết quyền bính trong tay, tính hết các lẽ nặng nhẹ, như Y Doãn,
Hoắc Quang mới dám nghĩ đến chuyện đó. Y Doãn đã tỏ được lòng trung, lại có thế
là Tể Tướng, trên hết các quan, nắm mọi đường tiến thoái -- việc mới thành. Lại
đến Hoắc Quang, nhận lời ủy thác gửi nước, ngồi ở ngôi tông thần. Bên trong nhờ
có Thái Hậu nắm hết việc chính trị trọng yếu, bên ngoài lại có sự ủng hộ của
các quan. Xương Ấp mới lên ngôi, chưa lấy được lòng quý thích, trong triều cũng
không có ai ho he để có thể cùng bàn tính riêng. Nếu không gồm hết những yếu tố
này, việc há đã thành. Nay các ông chỉ thấy những thành công đời xưa mà không
nhận ra khó khăn hiện tại. Các ông thử tính xem, cộng tất cả các ông lại, có
đông bằng 'thất quốc' không? Cái quý phái của Hợp Phì Hầu, liệu có bằng Ngô, Sở
không(8)? Phàm làm chuyện phi thường, khắc kỵ dục vọng, sao các ông tránh được
tai họa!"
Người
Kim Thành là Biện Chương, Hàn Toại giết Thứ Sử, Thái Thú làm phản, đông đến hơn
10 vạn người. Thiên hạ tao động. Thái Tổ được vời làm Điển Quân Hiệu Úy. Rồi
Linh Đế mất, Thái Tử lên ngôi. Đại Tướng Quân Hà Tiến cùng Viên Thiệu mưu diệt
Hoạn quan, Thái Tổ không theo. Tiến muốn vời Đổng Trác, nhằm tạo thế uy hiếp
Thái Hậu.
Ngụy
Thư: Tin đến tai, Thái Tổ cười rằng "Quan hoạn xưa nay có bao giờ không
có. Chẳng qua gần đây các vua cho chúng nhiều quyền hành, ân huệ quá mới nên
nổi. Muốn trị bọn này, cứ giết mấy tên đầu sỏ, chỉ cần một viên ngục quan là
đủ, cần gì phải gọi đến các tướng bên ngoài! Bằng như muốn diệt sạch bọn này,
việc thể nào cũng lộ ra, tôi nghĩ là sẽ thất bại"
Trác chưa
đến, Tiến đã bị giết.
Trác đến
rồi, bèn phế vua làm Hoàng Nông Vương và lập Hiến Đế, Kinh Đô đại loạn. Trác
xin cho Thái Tổ làm Kiêu Kỵ Hiệu Úy, muốn dùng. Thái Tổ bèn đổi tên họ, bỏ trốn
về Đông.
Ngụy
Thư: Thái Tổ ngẫm Trác cuối cùng sẽ thất bại, không đến gặp mà trốn về quê nhà.
Chạy được vài ngày, đến nhà quen cũ là Lữ Bá Xa tại Thành Cao. Xa không có nhà,
con cháu và tân khách hợp muốn cướp đoạt cả ngựa và vật dụng. Thái Tổ cầm dao
giết sạch cả nhà.
Theo Thế
Ngữ: Thái Tổ ghé ngang, nhưng Bá Xa không có nhà, chỉ có 5 người con bèn chuẩn
bị lễ 'tân khách'. Thái Tổ đang trốn Đổng Trác, đâm ra nghi ngờ, đang đêm cầm
kiếm giết 8 người.
Theo Tạp
Ký của Tôn Thịnh: Thái Tổ nghe tiếng dao chặt thịt, nghĩ bọn này âm mưu hại
mình, nên trong đêm giết người. Việc lỡ rồi không tỏ ra hối hận gì, nói:
"Tôi thà phụ người, không để người phụ mình!", rồi đi.
Trốn
được ra ngoài quan ải, đến Trung Mâu, bị viên Đình-trưởng nghi ngờ, bắt giải
lên huyện. Trong
xóm có
người biết mặt, xin giúp nên được thả.
Thế Ngữ:
(Thái Tổ đến) Trung Mâu bị nghi là kẻ bỏ trốn, bắt giải lên huyện. Viên Duyện
vốn đã nhận được trát từ Trác, nhưng viên Công Tào biết lòng Thái Tổ, lại nghĩ
đương khi loạn, không nên bắt kẻ hùng tuấn, bèn thả ra.
Rồi Trác
giết Thái Hậu và Hoằng Nông Vương. Thái Tổ đến Trần Lưu, bán gia sản, mộ nghĩa
binh đánh Trác. Mùa Đông, tháng chạp, bắt đầu khởi quân tại Kỷ Ngô. Đó là nhằm
vào năm Trung Bình thứ 6.
Thế Ngữ:
Vệ Tư là Hiếu Liêm của Trần Lưu đem gia tài ra giúp Thái Tổ mộ quân, mộ được
5000 người.
Mùa xuân
Năm Sơ Bình nguyên niên tháng giêng, Hậu tướng quân Viên Thuật; Ký châu mục Hàn
Phức;
Anh hùng
ký chép rằng: Phức tự Văn Tiết, người ở quận Dĩnh Xuyên. Làm Ngự sử Trung thừa.
Đổng Trác tiến cử làm Ký châu mục. Lúc bấy giờ ở Ký châu nhân dân giàu có, binh
lương đầy đủ. Viên Thiệu đang ở Bột Hải, Phức sợ Thiệu dấy binh ở đấy, liền
phái mấy viên Tòng sự đến phòng giữ, không được manh động. Đông quận Thái thú
Kiều Mạo giả danh Tam công ở Kinh sư gửi thư cho các châu quận, kể ra tội ác
của Trác, nói rằng "bị bức bách, không thể tự cứu nổi, ngóng đợi nghĩa
binh, cứu quốc gia qua cơn hoạn nạn". Phức được thư, họp đám Tòng sự của
mình hỏi rằng: "Bây giờ ta nên cứu trợ Viên Thiệu, hay giúp đỡ Đổng Trác
đây?". Viên Trị trung Tòng sự là Lưu Tử Huệ nói: "Nay ta hưng binh là
vì quốc gia, sao lại nói là vì Viên-Đổng!" Phức tự biết mình nói hớ nên hổ
thẹn ra mặt. Tử Huệ lại nói: "Việc binh là chuyện hung hiểm, chớ nên cầm
đầu, nay hãy nghe ngóng ở các châu khác xem thế nào, chờ họ phát động trước, ta
sẽ phụ hoạ với họ sau. Ký châu so với các châu khác cũng chẳng vì thế mà yếu đi
vậy, người khác có công cũng không bảo là Ký châu không giúp đỡ vậy." Phức
theo lời ấy. Bèn gửi thư cho Thiệu, nói Trác là kẻ ác, mong bên ấy khởi binh.
Dự châu thứ sử Khổng Du;
Anh hùng
ký chép: Du tự là Công Tự, người ở quận Trần Lưu.
Sách Hán
kỷ của Trương Phan chép lời Trịnh Thái thuyết Trác rằng: "Khổng Công Tự là
kẻ chỉ thanh đàm cao luận(9), mà hơi thở dật dờ như người sắp chết vậy."
Duyện
châu Thứ sử Lưu Đại;
Đại là
anh em với Lưu Do, chuyện này thấy chép ở Ngô chí.
Hà nội
Thái thú Vương Khuông;
Anh hùng
ký chép: "Khuông tự Công Tiết, người ở quận Thái Sơn. Vốn coi nhẹ tiền tài
hay giúp đỡ người, dốc lòng làm việc nghĩa. Đại tướng quân Hà Tiến vời vào làm
Phù sứ, Khuông đang ở Từ Châu dẫn 500 quân cung thủ theo hướng Tây thẳng tới
kinh sư. Đúng lúc Tiến chết, Khuông lại trở về quê. Khi khởi sự, được phong là
Thái thú Hà Nội.
Sách Hậu
Hán thư của Tạ Thừa chép: Khuông thủa nhỏ chơi thân với Sái Ung. Đến năm bị
quân của Trác đánh bại, bỏ chạy về Thái Sơn, tụ họp được mấy nghìn quân dũng
mãnh, bèn cùng với Trương Mạc hợp binh. Khuông trước tiên giết chết Chấp kim
ngô Hồ Mẫu Ban. Đám thuộc hạ của Ban không đánh lại được hết sức phẫn nộ, bèn
dựa vào thế lực của Thái tổ, hợp sức giết Khuông.
Bột hải
Thái thú Viên Thiệu; Trần Lưu Thái thú Trương Mạc; Đông quận Thái thú Kiều Mạo;
Anh hùng
ký chép: Mạo tự Nguyên Vĩ, cùng dòng dõi với Kiều Huyền. Trước làm Duyện châu
Thứ sử, rất có ân uy.
Sơn
dương Thái thú Viên Di;
Di tự Bá
Nghiệp, Thiệu coi như anh. Làm chức lệnh ở Trường An. Trương Siêu ở Hà Gian
từng tiến cử Di với Thái uý Chu Tuấn, khen Di là "Viên quan mẫu mực ở đời,
mẫn cán mà độ lượng. Trung thực sáng suốt mà ngay thẳng, rộng lòng tha thứ; cai
quản trăm họ, dân được phong túc, có tài nhìn vật biết đượctên, nay được người
ấy, người ở nơi xa sẽ theo về cả." Điều này thấy ghi chép ở Siêu tập.
Anh hùng
ký chép: Thiệu sau dùng Di làm Dương châu Thứ sử, bị Viên Thuật đánh bại.
Thái tổ
khen "Đã cao tuổi vẫn miệt mài học tập, chỉ có ta và Viên Bá Nghiệp
vậy." Câu này thấy ghi ở sách Điển luận của Văn Đế.
Tế bắc
quốc tướng Bão Tín,
việc có
Tín tham dự thấy nói ở Tử Huân truyện.
Bấy giờ
đồng thời cùng khởi binh(10), sĩ tốt mỗi đạo đều có mấy vạn người, suy tôn
Thiệu làm Minh chủ. Thái tổ làm Phấn Vũ tướng quân.
Tháng
hai, Trác hay tin binh mã nổi dậy, bèn dời Thiên tử từ kinh đô đến Tràng An.
Binh của Trác đóng ở Lạc Dương, đốt cháy cung thất. Bấy giờ Thiệu đóng binh ở
Hà Nội, Mạc-Đại-Mạo-Di đóng quân ở Toan Tảo, Thuật đóng binh ở Nam Dương, Du
đóng quân ở Dĩnh Xuyên, Phức vẫn ở huyện Nghiệp. Binh lực của Trác rất mạnh,
Bọn Thiệu chẳng ai dám tiến đánh trước. Thái tổ nói: "Chúng ta cất nghĩa
binh giết kẻ bạo tàn, đại quân đã hội họp, chư quân sao còn phải hồ nghi nữa?
Bọn Đổng Trác nghe tin ở Sơn Đông khởi binh, ỷ vào vương thất làm trọng, chiếm
cứ hai kinh(11) hiểm yếu, ngoảnh về phía Đông xem việc thiên hạ; dẫu chúng ta
hành động vô đạo, chỉ bởi chúng gây ra hoạ vậy. Nay chúng thiêu rụi cung thất,
bức thiên tử dời đô, hải nội chấn động, sĩ dân chẳng biết hướng về đâu, ấy là
lúc trời hại chúng nó vậy. Đánh một trận mà yên định được thiên hạ, cơ hội
chẳng nên bỏ lỡ vậy."
Thái tổ
dẫn binh về phía Tây, chiếm cứ Thành Cao. Mạo sai tướng của mình là Vệ Tư cầm
một cánh quân đi theo Thái tổ. Đến sông Biện Hà ở Huỳnh Dương(12), gặp tướng
của Trác là Từ Vinh, đánh nhau gặp bất lợi, sĩ tốt chết và bị thương rất nhiều.
Thái tổ bị trúng tên, con ngựa đang cưỡi bị thương, người em họ Thái tổ là Hồng
nhường ngựa của mình cho Thái tổ, đêm ấy Thái tổ trốn thoát được. Vinh thấy
Thái tổ binh lực ít, nhưng đã đánh nhau trọn ngày, lại cho rằng Toan Tảo chưa
thể đánh được, cũng dẫn binh quay về.
Thái tổ
về đến Toan Tảo, thấy chư quân binh lực đông đến hơn chục vạn người, ngày ngày
tụ họp uống rượu, chẳng có ý đồ tiến thủ gì. Thái tổ trách mắng bọn họ, nhân đó
bầy mưu rằng: "Chư quân hãy nghe kế của ta, để Bột Hải(13) dẫn binh sỹ từ
Hà Nội đến Mạnh Tân, các tướng ở Toan Tảo tiến lấy Thành Cao, chiếm cứ Ngao
Thương, đóng giữ Hoàn Viên-Thái Cốc, chẹn hết chỗ hiểm yếu; phái Viên tướng
quân(14) xuất lĩnh quân đội ở Nam Dương và quân Đan-Tích(15) tiến vào Vũ Quan,
khiến Tam Phụ(16) chấn động. Nay mọi người lại tường cao luỹ sâu, không tiến
đánh, khiến binh sỹ ngờ vực, việc trong thiên hạ là thế, theo lẽ thuận đánh kẻ
nghịch tặc, có thể yên định được vậy. Nay cất binh làm việc nghĩa, lại ôm mối
ngờ vực chẳng chịu tiến lên, thật mất cả lòng trông ngóng của thiên hạ, thiết
tưởng ba quân đều phải xấu hổ vậy!" Bọn Mạc chẳng chịu nghe kế ấy.
Thái tổ
binh ít, bèn cùng với bọn Hạ Hầu Đôn đến Dương Châu mộ binh, Thứ sử Trần ôn,
Đan dương Thái thú Chu Hân giúp cho số quân hơn bốn ngàn người. Thái tổ quay về
đến Long Kháng(17), số đông sĩ tốt làm phản.
Nguỵ thư
chép: Binh sỹ toan tính làm phản, đang đêm đốt trướng của Thái tổ, Thái tổ vung
kiếm giết chết mấy
chục người, đám còn lại đều bỏ chạy nháo nhào(18), trốn khỏi quân doanh; đám
quân sỹ không làm phản chỉ có 500 người.
Về đến
Kiến Bình, lại thu được số binh lính hơn 1.000 người, bèn tiến lên đóng quân ở
Hà Nội.
Lưu Đại
cùng với Kiều Mạo đánh nhau, Đại giết chết Mạo, lấy Vương Lăng lĩnh chức Đông
quận Thái thú.
Viên
Thiệu cùng với Hàn Phức âm mưu lập U châu mục Lưu Ngu làm Hoàng đế, Thái tổ cự
tuyệt việc ấy.
Nguỵ thư
chép lời Thái tổ đáp lại Viên Thiệu rằng: "Đổng Trác gây nên tội ác, sự
tàn bạo vang bốn bể, chúng ta tụ hợp mọi người, hưng nghĩa binh, xa gần chẳng
ai không hưởng ứng, ấy là việc nghĩa khiến thiên hạ cảm động vậy. Nay ấu chủ
thơ dại, quyền hành ở cả trong tay gian thần, cũng chưa bằng Xương Ấp vong quốc
vì biến loạn, một sớm làm việc phế lập(19), ai sẽ là người vỗ yên thiên hạ đây?
Các ông cứ ngoảnh về Bắc, ta xin hướng về Tây (20).
Thiệu
từng bắt được một cái ấn ngọc, ngồi cạnh Thái tổ mở tay cho xem, Thái tổ bởi
thế cứ cười thầm.
Nguỵ thư
chép: Thái tổ cả cười nói: "Ta không nghe lời ông đâu." Thiệu lại sai
người đến thuyết Thái tổ rằng: "Nay Viên công thế thịnh binh cường, có hai
con hùng tráng, là anh hào trong thiên hạ, ai có thể hơn được?" Thái tổ
không đáp. Bởi thế cho là Thiệu không ngay thẳng, có mưu đồ diệt đi.
Năm thứ
nhì, mùa Xuân, Thiệu, Phúc bèn lập Ngu lên làm Hoàng Đế, rốt cuộc Ngu cũng
không dám nhận.
Tháng 4,
mùa Hạ, Trác về đến Tràng An.
Tháng 7,
mùa Thu, Viên Thiệu hiếp Hàn Phức, chiếm lấy Ký Châu.
Giặc Hắc
Sơn là Vu Độc, Bạch Nhiễu, Tuy Cố cùng bộ hạ hơn 10 vạn nổi dậy đánh phá Ngụy
Quận, Đông Quận, Vương Lăng(21) không chống cự nổi. Thái Tổ dẫn quân đến Đông
Quận phá quân Bạch Nhiễu ở Bộc Dương. Viên Thiệu bèn dâng biểu xin Thái Tổ làm
Đông Quận Thái Thú, giữ Đông Vũ Dương.
Năm thứ
3, mùa Xuân, nhân lúc Thái Tổ đóng quân ở Đốn Khâu, [Vu] Độc đánh Đông Vũ
Dương. Thái Tổ bèn dẫn quân về phía tây tiến đánh thẳng vào căn cứ của Độc trên
núi.
Ngụy Thư
chép: Chư tướng cùng muốn kéo quân về cứu
(Đông Vũ Dương). Thái Tổ nói: "Tôn Tẫn cứu Triệu bằng cách đánh Ngụy, Cảnh
Yểm muốn chạy về Tây An lại đánh Lâm Truy. Nếu giặc nghe ta tiến về hướng tây
mà lui, Vũ Dương tự giải vây; bằng không, ta dẹp sào quyệt thì đám cướp này
cũng không lấy được Vũ Dương." Chúng bèn cùng đi.
Độc nghe
tin, bè bỏ Vũ Dương quay về. Thái Tố đánh bắt Tuy Cố, sau lại đánh Ô Phù La
người Hung Nô ở Nội Hoàng, đều thắng lớn.
Ngụy Thư
chép: Ô Phù La là con Thiền Vu Nam Hung Nô. Vào giữa thời Trung Bình(22), cho Ô
Phù La dẫn quân đến giúp nhà Hán. Nhằm lúc trong nước có loạn, Thiền Vu bị
giết, Ô Phù La cùng binh chúng bèn ở lại Trung Quốc. Nhân lúc thiên hạ loạn
lạc, bèn hợp với bọn cướp Bạch Ba của Tây Hà, phá được Thái Nguyên, Hà Nội,
cướp phá các quận lân cận.
Tháng 4.
mùa Hạ. Tư Đồ Vương Doãn cùng Lữ Bố giết Đổng Trác. Tướng của Trác là Lý Thôi,
Quách Dĩ giết Doãn và đánh Bố. Bố thua, theo lối Vũ Quan bỏ chạy về phía Đông.
Bọn Thôi chiếm hết việc triều chính.
Hơn trăm
vạn quân Hoàng Cân của Thanh Châu tiến vào Duyện Châu, giết Nhiệm Thành Tướng
Trịnh Toại. Lại tiến đến Đông Bình. Lưu Đại muốn đánh, Bào Tín can rằng:
"Hiện tại giặc hơn trăm vạn, ai ai cũng khiếp đảm, sĩ tốt không có chí
chiến đấu, không thể đối địch. Tôi thấy quân giặc có cả gia đình theo, lại
không mang đồ tiếp tế, toàn phải dựa vào cướp bóc để sinh sống. Nay chi bằng
nuôi sức quân sĩ, lo cố thủ từ trước. Giặc muốn giàn trận đánh nhau không được,
đánh thành lại không đủ sức, thế ắt ly tán. Rồi ta tuyển quân tinh nhuệ, nhắm
vào chổ hiểm mà đánh thể nào cũng phá được." Đại không nghe, cùng giặc
đánh nhau, quả nhiên bị giết.
Thế Ngữ
chép: Đại chết rồi, Trần Cung bèn bảo Thái Tổ: "Châu ngày nay không có
chủ, mà vương mệnh lại đoạn tuyệt, Cung xin thuyết phục bọn người trong châu
cho ông thế làm quan Mục. Rồi ta có thể dựa vào đó lấy thiên hạ, lập nghiệp bá
vương." Cung bèn nói với các quan Biệt Giả, Trị Trung rằng: "Ngày nay
thiên hạ phân chia, Châu không có chủ. Tào Đông Quận có tài mệnh thế, nếu đón
về làm quan Mục có để giúp dân được yên ổn." Bào Tín và mọi người đồng ý.
Thế rồi,
Tín cùng Vạn Tiềm cùng đến Đông Quận mời Thái Tổ làm Duyện Châu Mục. Rồi tiến
quân đánh Khăn Vàng ở phía Đông Thọ Trương. Tín hết sức đánh nhau, đến chết,
nhờ thế mới thắng.
Ngụy Thư
chép: Thái Tổ dẫn hơn ngàn quân kỵ, bộ đến xem xét chiến trường, tiến vào trại
giặc đánh nhau thất lợi, chết hơn trăm người bèn lui về. Giặc lại tiến quân.
Khăn Vàng nổi lên đã lâu, cứ thắng luôn, binh lính tinh nhuệ, hung hãn. Thái Tổ
chỉ còn ít binh lính cũ, lính mới chưa thao luyện, trong quân ai nấy đều hoảng
sợ. Thái Tổ mặc giáp đội mũ sắt đích thân tuần tra tướng sĩ, khuyên nhủ, thưởng
phạt công minh; quân chúng nhờ thế phấn chấn lên, theo lệnh tấn công, đẩy lùi
quân giặc. Giặc bèn gởi thư cho Thái Tổ rằng: "Trước đây ở Tế Nam , ông hủy
hoại đàn tế thần, đó là cùng đúng theo kinh sách của chúng tôi(23). Trước đây
sáng suốt, thế mà ngày nay ông lại u mê. Số Hán đã hết, nhà 'Hoàng' lên thay.
Mệnh trời định thế, ông há có thể chỉ cậy tài cán mà làm trái được sao?"
Thái Tổ đọc xong, mắng nhiếc, khuyên hàng. Rồi đặt phục binh, ngày đêm hợp
đánh, bắt được nhiều giặc. Giặc bèn bỏ chạy.
Rồi cho
tìm thi thể (Bào) Tín nhưng không được bèn khắc hình hài Tín bằng gỗ, lập đàn
khóc tế. Truy đuổi Hoàng Cân đến tận Tế Bắc, giặc túng quá xin hàng. Mùa Đông,
thu hàng được hơn 30 vạn quân, nam nữ hơn trăm vạn người, lại chọn lấy những
quân tinh nhuệ, gọi là Thanh Châu binh.
Viên Thuật
cùng Viên Thiệu có hiềm khích, Thuật cầu viện Công-tôn Toản, Toản phái Lưu Bị
đóng ở Cao Đường, Thiền Kinh đóng ở Bình Nguyên, Đào Khiêm đóng ở Phát Cán,
cùng bức Thiệu. Thái Tổ cùng Thiệu đánh, đều phá được(24).
Năm thứ
4, mùa Xuân, đóng quân ở Quyên Thành. Quan Mục Kinh Châu Lưu Biểu cắt đường
tiếp vận
của
Thuật, Thuật dẫn binh đến Trần Lưu đóng ở Phong Khâu. Dư đảng Hắc Sơn và Ô Phù
La cùng đến trợ tá. Thuật sai tướng là Lưu Tường đóng ở Khuông Đình. Thái Tổ
đánh Tường, Thuật đến cứu. Đôi bên giáp trận, Thuật thua to, mới lui về giữ
Phong Khâu. Sau bị vây, vòng vây chưa nối, Thuật chạy về Tương Ấp, bị đuổi đến
Thái Thọ, bị (Thái Tổ) mở đê cho nước ngập thành, lại chạy đến Ninh Lăng, lại
bị đuổi, bèn chạy về Cửu Giang. Mùa Hạ. Thái Tổ lui quân về Định Đào(25).
Người Hạ
Bì là Khuyết Tuyên tụ chúng hơn ngàn người tự xưng Thiên Tử, Từ Châu Mục Đào
Khiêm khởi quân hợp tác, chiếm các huyện Hoa, Phí quận Thái Sơn và đánh Nhiệm
Thành. Mùa Thu, Thái Tổ đánh Đào Khiêm, hạ hơn 10 thành. Khiêm giữ thành không
dám ra.
Năm ấy,
Tôn Sách theo lệnh Viên Thuật vượt sông (Trường Giang). Trong vài năm, Sách
chiếm được Giang Đông.
Hưng
Bình nguyên niên (194), mùa Xuân, Thái Tổ tự tiến đến Từ Châu. Trước đây, cha
Thái Tổ là Tung sau khi từ quan lui về ở đất Tiêu(26). Đến lúc loạn Đổng Trác,
(Tung) bèn đến quận Lang Da lánh nạn -- lại bị Đào Khiêm hại. Do vậy, Thái Tổ
quyết đánh báo thù.
Thế Ngữ
chép: Lúc Tung còn ở huyện Hoa, quận Thái Sơn, Thái Tổ lệnh Thái Thú Thái Sơn
Ung Thiệu hộ tống về Duyện Châu. Quân Thiệu chưa đến. Đào Khiêm mật sai hơn
ngàn quân kỵ đến bắt. Người nhà Tung đang đợi Thiệu, không phòng bị. Quân Khiêm
đến, giết em Thái Tổ là Đức ngay tại cửa. Tung sợ, cho đục tường sau trốn đi,
cho người thiếp ra trước. Người thiếp béo quá, chui không lọt. Tung bèn trốn
vào nhà xí, rốt cuộc chết cùng người thiếp, cả nhà bị giết. Thiệu sợ, bỏ quan
chạy đến với Viên Thiệu. Sau này khi Thái Tổ bình định Ký Châu thì Thiệu chết
đã lâu.
Sách Ngô
Thư của Vi Diệu chép: Thái Tổ cho đón Tung, đồ tri trọng hơn trăm xe, Đào Khiêm
sai Đô Úy Trương Khải dẫn hơn 200 kỵ binh hộ tống. Đến huyện Hoa, Phí ở Thái
Sơn, Khải giết Tung cướp tài vật trốn về Hoài Nam . Thái Tổ đổ tội cho Đào Khiêm,
cất quân đánh.
Mùa Hạ,
sai Tuân Úc, Trình Dục thủ Quyên Thành, rồi kéo quân đánh Đào Khiêm, diệt được
5 thành, đất chiếm đến Đông Hải. Tiến quân đến Đàm(27), Khiêm phái Tào Báo, Lưu
Bị đồn binh ở phía Đông thành, muốn bắt Thái Tổ. Thái Tổ tấn công thắng lợi,
lại đánh chiếm Tương Bôn. Đi đến đâu đánh giết hoang tàn đến đấy.
Tôn
Thịnh chép: Phạt kẻ có tội nhưng phải thương dân, đó là lối người xưa; tội ấy
là nơi Khiêm mà tàn sát đến bộ thuôc thì thật là quá đáng.
Nhằm lúc
Trương Mạc, Trần Cung đón Lữ Bố cùng làm phản, quận huyện đều theo, duy Tuân
Úc, Trình Dục giữ Quyên Thành, Phạm huyện, Đông A cố thủ. Thái Tổ bèn dẫn quân
về. Bố kéo quân đánh Quyên Thành nhưng không hạ được, bèn kéo quân về phía tây
đóng ở Bộc Dương. Thái Tổi nói: "Trong một ngày Bố chiếm được cả một Châu,
thế nhưng không biết giữ Đông Bình, cắt đường Cang Phụ, Thái Sơn chiếm lấy những
nơi hiểm yếu ngăn ta, lại đóng đồn ở Bộc Dương, ta đủ biết hắn chẳng có tài cán
gì."(28) Bèn tiến quân tấn công. Bố dẫn binh ra đánh, dẫn đầu kỵ binh đánh
vào quân Thanh Châu. Quân Thanh Châu bỏ chạy, trận quân cả loạn, lại chợt có
lửa nổi lên, Thái Tổ té ngựa, bị bỏng bàn tay trái. Quan Tư Mã là Lâu Dị phải
giúp Thái Tổ leo lại lên ngựa, rồi dẫn đi.
Sách
Hiến Đế Xuân Thu của Viên Ung chép: Thái Tổ vây Bộc Dương, nhờ dòng họ lớn
trong thành là họ Điền là phản gian, Thái Tổ vào được thành. Sai đốt cửa Đông,
mới nghe trong thành không có ý làm phản. Đến lúc đánh nhau, bại trận. Vài tên
quân kỵ của Bố bắt được Thái Tổ nhưng không nhận ra, hỏi: "Tào Tháo ở
đâu?" Thái Tổ đáp: "Hắn cưỡi ngựa vàng chạy kia kìa" Bọn kỵ binh
bèn thả Thái Tổ đuổi theo người cưỡi ngựa vàng. Cửa thành cháy to, Thái Tổ băng
lửa mà chạy.
Khi quân
rút về chưa đến trại, vì các tướng chưa thấy mặt Thái Tổ, ai nấy đều sợ. Thái
Tổ tự an ủi quân sĩ, lệnh sai dựng công cụ phá thành, rồi lại tấn công, cùng Bố
chống chỏi nhau hơn trăm ngày. Nhằm nạn dịch châu chấu, bách tính đều đói, Bố
lương thảo cũng hết, bèn kéo quân đi.
Thánh 9,
mùa Thu, Thái Tổ về lại Quyên Thành, Bố đến Thừa Thị, bị người trong huyện là
Lý Tiến đánh bại, bèn kéo về phía Đông đóng đồn ở Sơn Dương. Khi ấy, Viên Thiệu
sai sứ giả đến thuyết phục Thái Tổ, muốn cùng"liên hòa"(29). Thái Tổ
vừa mất Duyện Châu, lương thực cạn, muốn thuận ý. Trình Dục can ngăn, Thái Tổ
nghe theo. Tháng 10, mùa Đông, Thái Tổ kéo đến Đông A.
Năm ấy
một hộc lúa giá hơn 5 vạn tiền, người phải ăn thịt lẫn nhau, (Thái Tổ) bèn bãi
việc tuyển mộ tân binh. Đào Khiêm mất, Lưu Bị lên thay.
Năm thứ
nhì (195), mùa Xuân, đánh Định Đào. Thái Thú Tế Âm là Ngô Tư giữ Nam Thành,
chưa bị phá. Lữ Bố đến, đánh chiếm lấy. Mùa Hạ, Bố phái Tiết Lan, Lý Phong đồn
binh ở Cự Dã. Thái Tổ tiến đánh, Bố đến cứu Lan, Lan bại, Bố bỏ chạy, bọn Lan
bị chém. Bố từ Đông Mân với Trần Cung dẫn hơn vạn quân đến muốn đánh nhau, khi
ấy Thái Tổ binh ít, bèn phục binh, tung kỳ đánh thình lình nên thắng to.
Ngụy Thư
chép: Khi ấy quân chúng đa phần lo gặt lúa, còn chưa đến ngàn quân giữ trại,
phòng thủ yếu kém. Thái Tổ bèn sai phụ nữ đứng canh bên bờ thành theo dõi
(địch) để biết đường chống đỡ. Phía tây trại là bờ đê lớn, phía nam là cánh
rừng rậm. Bố nghi có phục binh, thuộc hạ lại nói: "Tào Tháo quỷ quyệt, chớ
để lọt vào ổ phục kích của hắn." Bèn dẫn quân về phía Nam hơn 10 dặm
đóng đồn. Hôm sau Bố lại đến, Thái Tổ phục một nữa quân sau bờ đê, bày môt nữa
quân trước bờ đê. Bố tiến lên, lệnh khinh binh tiến đánh. Đôi bên giáp trận,
phục binh từ sau bờ đê tiến ra, bộ, kỵ cùng đánh, thắng to, bắt được cả trống
trận, đuổi quân Bố đến tận doanh trại mới lui.
Bố nhân
đêm bỏ trốn, Thái Tổ bèn tấn công, chiếm được Định Đào, chia quân bình các
huyện. Bố bỏ chạy về phía Đông, nương náu với Lưu Bị. Trương Mạc chạy theo Bố,
sai em là Siêu bảo vệ gia quyến giữ Ung Khâu. Tháng 8 mùa Thu, vây Ung Khâu.
Tháng 10 mùa Đông, Thiên Tử phong Thái Tổ làm Duyện Châu Mục. Tháng 12, Ung
Khâu vỡ, Siêu tự sát. Thái Tổ giết cả 3 họ nhà Mạc, Mạc chạy đến Viên Thuật cầu
cứu, bị thuộc hạ giết. Duyện Châu bình định, bèn quay về phía đông thôn tính
đất Trần.
Năm ấy,
Tràng An loạn Thiên Tử chạy về phía Đông, bại trận ở Tào Dương, vượt Hoàng Hà
đến An Ấp.
Kiến An
năm đầu, tháng giêng mùa Xuân, quân Thái Tổ đến Vũ Bình. Trần Tướng của Viên
Thuật là Viên Tự đầu hàng.
Thái Tổ
muốn đón Thiên Tử, chư tướng nghi ngại, riêng Tuân Úc, Trình Dục khuyến khích,
bèn sai Tào Hồng
dẫn quân đi đón. Vệ Tướng Quân Đổng Thừa cùng tướng của Viên Thuật là Trường Nô
dựa thế hiểm chống cự. Hồng không tiến được.
Ở Nhữ
Nam, Dĩnh Xuyên có bọn giặc Khăn vàng là lũ Hà Nghi, Lưu Tích, Hoàng Thiệu, Hà
Mạn, binh chúng mỗi đám có đến mấy vạn, ban đầu hưởng ứng Viên Thuật, sau lại
phụ giúp Tôn Kiên. Tháng hai, Thái tổ tiến quân đánh dẹp, chém chết bọn
Tích-Thiệu, Nghi cùng binh sĩ ra hàng. Thiên tử bái Thái tổ làm Kiến Đức tướng
quân, mùa hạ tháng sáu, lại thăng lên Trấn Đông tướng quân, phong cho làm Phí
Đình hầu. Mùa thu tháng bảy, Dương Phụng-Hàn Tiêm đưa Thiên tử về Lạc Dương,
Phụng ra đóng quân ở huyện Lương(30).
Hiến đế
Xuân Thu chép: Thiên tử mới đến Lạc Dương, ở tạm trong nhà viên Thường thị là
Triệu Trung ở phía tây thành. Sai Trương Dương sửa sang cung thất, đặt tên là
Dương An điện, tháng tám, Đế dời đến đó ở.
Thái tổ
đến Lạc Dương, phòng vệ Kinh đô, Tiêm bỏ trốn. Thiên tử ban cho Thái tổ được
giả tiết việt(31), Lục thượng thư sự.
Hiến đế
kỷ chép: Lại lĩnh chức Tư lệ Hiệu uý.
Bởi Lạc
Dương bị tàn phá, Bọn Đổng Chiêu khuyên Thái tổ dời đô về đất Hứa. Tháng chín,
xa giá ra lối Hoàn Viên đi về phía đông, lấy Thái tổ làm Đại tướng quân, phong
là Vũ Bình hầu. Từ lúc Thiên tử bị dời phía Tây, triều đình ngày càng loạn, đến
lúc ấy tông miếu xã tắc chế độ mới gây dựng lại.
Sách Hán
kỷ của Trương Phan chép: Ban đầu, Thiên tử khốn cùng ở Tào Dương, muốn xuôi
sông Hà chạy về Hà Đông. Quan Thị trung Thái sử lệnh là Vương Lập nói: "Từ
mùa xuân năm ngoái sao Thái Bạch xâm phạm vào sao Trấn ở vị trí Ngưu Đẩu, vượt
quá dải Thiên tân, sao Huỳnh Hoặc lại đi ngược về địa phận Bắc Hà, chớ nên mạo
phạm(32)." Bởi thế Thiên tử không vượt sông về Bắc nữa, mà theo lối Chỉ
Quan đi về phía đông. Lập lại nói với quan Tông chánh là Lưu Ngải rằng:
"Trước đây Thái Bạch đóng ở Thiên Quan, cùng với Huỳnh Hoặc gặp nhau;
Kim-Hoả giao nhau, tượng trời ắt thay đổi. Vận Hán đã hết, ở đất Tấn-Nguỵ hẳn
sẽ có người nổi lên vậy." Sau Lập lại mấy lần nói với Đế rằng: "Mệnh
trời có lúc khứ tựu(33), ngũ hành thịnh suy bất thường, thay Hoả là Thổ, kế
thừa Hán chính là Nguỵ vậy, người có thể yên thiên hạ, chính là Tào thị, thiết
nghĩ nên uỷ thác cho Tào công gánh vác công việc." Công nghe được lời ấy,
sai người đến nói nhỏ với Lập rằng: "Ta biết ông trung với triều đình,
nhưng đạo trời huyền diệu(34) lắm, ông chớ nên nhiều lời."
Thiên tử
dời về đông, Phụng từ huyện Lương đón muốn bắt lại, không kịp. Mùa đông tháng
mười, Công đánh Phụng, Phụng chạy về phương Nam đến chỗ Viên Thuật, Công đánh
doanh trại ở huyện Lương, lấy được. Thái tổ phong cho Viên Thiệu chức Thái
uý(35), Thiệu xấu hổ vì ngôi thứ của mình ở dưới Công, không chịu nhận. Công
bèn cố nài, nhượng chức Đại tướng quân của mình cho Thiệu. Thiên tử bái Công
làm Tư không, hành Xa kỵ tướng quân(36). Năm ấy sai bọn Tảo Chi-Hàn Hạo cùng
luận bàn, bắt đầu gây dựng việc đồn điền.
Nguỵ thư
chép: Từ lúc xảy ra chiến loạn, ruộng đất bỏ hoang, lương thực thiếu thốn. Chư
quân nổi dậy khắp nơi, chẳng có ai tính việc lâu dài, đói thì đi cướp bóc, no
thì phung phí lương thực, lòng người ly tán(37), địch không đánh phá cũng tự
tan vỡ chẳng thể thắng được. Viên Thiệu ở Hà Bắc, quân dân
ngẩng
mặt ăn lá dâu. Viên Thuật ở Giang Hoài, lấy bồ loả(38) để dùng. Người phải ăn
thịt lẫn nhau, làng xóm tiêu điều. Công nói: "Cái thuật định quốc là, binh
muốn mạnh cần có đủ lương, người Tần bởi thúc đẩy nghề nông mà thâu tóm được
thiên hạ, Hiếu Vũ lấy việc khai khẩn đồn điền mà bình định được Tây Vực, đó là
sớm ý thức được việc ấy vậy." Ngay năm ấy Thái tổ chiêu mộ dân khai khẩn ở
đất Hứa, thu được hơn trăm vạn hộc lương. Trong các châu quận đặt chức quan
trông coi việc đồn điền, tích trữ lương thực tại chỗ. Khi chi phạt tứ phương, không
phải khó nhọc về việc vận chuyển lương thảo, lại kiêm quản được việc diệt trừ
đám đạo tặc, người trong thiên hạ được yên bình.
Lã Bố
tập kích Lưu Bị, chiếm Hạ Bi, Bị chạy lại chỗ Công. Trình Dục thuyết Công rằng:
"Tôi xem Lưu Bị có hùng tài mà rất được lòng người, sau này chẳng chịu ở
dưới người khác, chẳng bằng sớm liệu đi." Công nói: "Nay đang là lúc
thu dụng kẻ anh hùng, giết một người mà làm mất lòng thiên hạ, chẳng nên."
Trương
Tế từ Quan Trung chạy về Nam Dương. Tế chết, người cháu là Tú thống lĩnh số binh
ấy. Năm thứ hai mùa xuân rằm tháng giêng, Công về đến Uyển thành. Trương Tú đến
hàng, sau lấy làm hối, lại phản. Công tới đánh, thua trận, bị tên bắn trúng,
con trưởng là Ngang, cháu con của em trai Công là An Dân bị hại.
Nguỵ thư
chép: Công cưỡi con ngựa có tên là Tuyệt Ảnh(39), tên bắn trúng vẫn không dừng,
bị thương ở ở má và chân, Công bị bắn vào cánh tay.
Sách Thế
ngữ chép: Ngang không cưỡi ngựa, dâng ngựa của mình cho Công, cho nên Công
thoát, mà Ngang bị hại.
Công dẫn
binh về Vũ Âm, Tú dẫn quân kỵ lại đánh úp, Công tập kích đánh tan. Tú chạy đến
đất Nhưỡng, cùng với Lưu Biểu hợp quân. Công bảo chư tướng rằng: "Ta cho
bọn Trương Tú hàng, đã bỏ qua không giữ chúng làm con tin, mới để đến nỗi như
thế. Ta đã hiểu được vì sao thất bại. Các khanh hãy lấy đó làm gương, từ nay về
sau không để thất bại nào như thế nữa." Rồi kéo quân về Hứa huyện.
Sách Thế
ngữ chép: Theo phép cũ, khi Tam công nắm binh quyền vào triều kiến, đều phải bỏ
kích bắt chéo tay ở đằng trước. Lúc trước, khi Công đánh Trương Tú, vào hầu
Thiên tử, bấy giờ mới khôi phục phép ấy. Từ đó Công không vào triều kiến nữa.
Viên
Thuật muốn xưng đế ở Hoài Nam ,
sai người đến bảo với Lã Bố. Bố bắt giữ sứ giả, gửi thư về triều. Thuật nổi
giận, đánh Bố, bị Bố đánh tan. Mùa thu tháng chín, Thuật xâm phạm đất Trần,
Công đông chinh đánh Thuật. Thuật nghe tin Công đích thân đến, bỏ trại chạy, để
các tướng của mình là Kiều Nhuy, Lý Phong, Lương Cương, Nhạc Tựu ở lại; Công
đến, đánh tan bọn Nhuy, chém được cả. Thuật vượt sông Hoài. Công quay về Hứa
huyện.
Công từ
Vũ Âm trở về, các huyện Nam Dương-Chương Lăng lại làm phản vì Tú, Công sai Tào
Hồng đến đánh, bất lợi, phải lui về đất Diệp, đã mấy lần Tú-Biểu xâm phạm chỗ
ấy. Mùa đông tháng mười một, Công thân nam chinh, đến Uyển thành.
Nguỵ thư
chép: Đến Dục Thuỷ, cúng tế vong hồn tướng sỹ(40), sụt sùi chảy nước mắt, sĩ
chúng đều thương cảm.
Tướng
của Biểu là Đặng Tể chiếm cứ Hồ Dương. Công vây đánh phá được, bắt sống Tể,
quân ở Hồ Dương
theo hàng. Lại đánh Vũ Âm, cũng hạ được.
Năm Kiến
An thứ ba mùa xuân rằm giáng giêng, Công về Hứa huyện, mới đặt ra chức Quân sư
Tế tửu. Tháng ba, Công vây Trương Tú ở huyện Nhưỡng. Mùa hạ tháng năm, Lưu Biểu
phái binh cứu Tú, định cắt đứt đường rút quân.
Hiến đế
Xuân Thu chép: Phản quân của Viên Thiệu đến nói với Công rằng: "Điền Phong
xui Thiệu tập kích đất Hứa, khống chế Thiên Tử để ra lệnh cho chư hầu, bốn bể
có thể trỏ tay mà lấy được." Công bèn giải vây cho Tú.
Công dẫn
quân về, binh của Tú kéo lại, quân của Công không tiến được, doanh trại của
giặc đóng chặn phía trước. Công gửi thư cho Tuân Úc nói: "Giặc đuổi theo
ta, tuy mỗi ngày ta chỉ đi được mấy dặm, song ta đã có kế, đến An Chúng, tất
phá được Tú." Đến An Chúng, Tú cùng với Biểu hợp quân giữ chỗ hiểm, quân
của Công trước sau đều thụ địch. Công bèn nhân đêm tối cho đào địa đạo, chuyển
hết các đồ tri trọng qua, rồi đặt kỳ binh. Sáng hôm sau, giặc cho là Công đã bỏ
trốn, dem hết quân đuổi theo. Công bèn tung kỳ binh và quân bộ kỵ giáp công,
đại phá được. Mùa thu tháng bảy, Công về đất Hứa. Tuân Úc hỏi Công: "Khi
trước minh công nói có đã kế sách phá tan quân giặc, sao biết như vậy?"
Công nói: "Giặc chặn đường về của ta, giao chiến với quân ta ở nơi tử địa,
vì thế ta biết chắc là thắng."
Lữ Bố
lại giúp Viên Thuật sai Cao Thuận đánh Lưu Bị, Công sai Hạ Hầu Đôn đến cứu, gặp
bất lợi. Bị bị Thuận đánh bại. Tháng chín, Công đông chinh đánh Bố. Mùa đông
tháng mười, chiếm Bành Thành giết rất nhiều dân ở đó, bắt sống tướng ở đấy là
Hầu Hài. Tiến quân đến Hạ Bi, Bố thân dẫn quân kỵ đón đánh. Công đánh tan quân
ấy, bắt sống viên kiêu tướng là Thành Liêm. Đuổi đến chân thành, Bố sợ, muốn
hàng. Bọn Trần Cung can ngăn, dâng kế cầu cứu Viên Thuật, khuyên Bố ra đánh, Bố
lại thua, bèn vào thành cố thủ, Công không hạ được thành. Bấy giờ đánh nhau
liên miên, sĩ tốt mỏi mệt, muốn quay về, Công dùng kế của Tuân Du-Quách Gia,
khơi nước ở hai sông Tứ-Nghi tràn vào thành. Hơn một tháng, bọn tướng của Bố là
Tống Hiến, Ngụy Tục bắt Trần Cung, mở cửa thành ra hàng, Bố-Cung bị bắt sống,
đều bị giết cả.Ở Thái Sơn có bọn Tang Bá, Tôn Quan, Ngô Đôn, Duẫn Lễ, Xương Hi
đều tụ tập binh chúng. Khi Bố phá Lưu Bị, bọn Bá đều theo Bố. Lúc Bố bại trận,
bọn Bá đều bị bắt, Công thu hàng và hậu đãi, chia một phần đất đai ở hai châu
Thanh, Từ kéo dài đến tận biển ủy thác cho bọn họ, lại chia các vùng Lang Nha,
Đông Hải, Bắc Hải ra thành các quận Thành Dương, Lợi Thành, Xương Lự.
Khi
trước, khi Công làm Duyện châu mục, dùng Tất Kham ở Đông Bình làm Biệt giá.
Trương Mạc làm phản, bắt hết mẹ già cùng với anh em vợ con Kham; Công nói với
Kham, rằng: "Mẹ già khanh ở bên đấy, khanh có thể đi." Kham dập đầu
lạy quyết không hai lòng, Công khen ngợi, mà chảy nước mắt. Công trở ra, Kham
trốn về. Đến khi Bố bị diệt, Kham bị bắt sống, chúng đều sợ cho Kham, Công nói:
"Người có hiếu với cha mẹ như thế, há chẳng trung với vua ư! Ta cần những
người như thế." Bèn lấy Kham làm Lỗ Tướng(41).
Ngụy Thư
chép: Viên Thiệu vốn có hiềm khích với cố Thái úy Dương Bưu, quan Đại trường
thu Lương Thiệu, quan Thiếu phủ Khổng Dung, muốn Công kể tội họ mà giết đi.
Công nói: "Ngày nay thiên hạ tan lở chia lìa, anh hùng hào kiệt đều nổi
dậy, đụng đến quân sự, ai cũng tấm tức trong bụng, đều tự lo cho bản thân mình,
ấy là lúc kẻ trên người dưới ngờ vực lẫn nhau, dẫu người không đáng bị hiềm nghi,
cũng sợ không được tin tưởng; ví như trừ bỏ những người này đi, thì ai không lo
sợ nữa? Vả lại những kẻ áo vải làm nên, ở thế gian bụi bặm này, kể cả những kẻ
tầm thường có lắm nhược điểm, vẫn có thể tha thứ được! Xưa Cao Tổ tha tội cho
Úng Xỉ mà mọi người an lòng, ông đã quên rồi sao?" Thiệu bên ngoài cho lời
ông là đúng, bên trong lại nghĩ khác, thầm oán vọng. Thần là Tùng Chi cho rằng
Dương Bưu cũng từng vì Ngụy Vũ mà khốn cùng, suýt chết, Khổng Dung cuối cùng
cũng chẳng tránh được bị tru diệt, sao lời nói lúc trước với việc làm sau này
chẳng như nhau vậy! Biết chẳng phải là khó, khó là ở việc làm, tin chắc rằng
như vậy.
Năm thứ
tư mùa xuân tháng hai, Công về đến Xương Ấp. Tướng của Trương Dương là Dương
Sửu giết Dương, Tuy Cố lại giết Sửu, đem lũ quân ấy theo Viên Thiệu, đóng quân
ở Xa Khuyển. Mùa hạ tháng tư, tiến quân đến Hoàng Hà, sai Sử Hoán-Tào Nhân vượt
sông đánh Cố. Cố sai quan Trưởng sử cũ của Dương là Tiết Hồng và Thái thú Hà
Nội là Mâu Thượng chống giữ, còn mình thân dẫn binh về Bắc đón Thiệu cầu cứu
giúp, cùng với Hoán-Nhân gặp nhau ở Khuyển Thành. Giao chiến, đại phá Cố. Công
qua sông, vây Xạ Khuyển. Hồng-Thượng dẫn chúng ra hàng, được phong tước Liệt
hầu(42), Công hồi binh về Ngao Thương. Lấy Nguỵ Chủng làm Thái thú Hà Nội, phó
thác các việc ở Hà Bắc.
Khi
trước, Công tiến cử Chủng làm Hiếu Liêm. Lúc Duyện Châu làm phản, Công nói:
"Chỉ có Nguỵ Chủng là chẳng bỏ Cô vậy." Đến khi hay tin Chủng bỏ
trốn, Công giận nói: "Chủng chẳng thể trốn về nam đến đất Việt, trốn về
bắc đến đất Hồ, ta chẳng để yên cho mày!" Khi hạ được Xạ Khuyển, bắt sống
được Chủng, Công nói: "Chỉ vì Chủng có tài nên dùng vậy!" Rồi cho cởi
trói mà dùng người ấy.
Thời ấy
Viên Thiệu đã thôn tính xong Công Tôn Toản, kiêm quản đất đai bốn châu, binh
lính hơn mười vạn, sắp tiến quân đánh Hứa huyện, chư tướng cho rằng chẳng thể
địch nổi, Công nói: "Ta biết Thiệu là người chí lớn mà ít mưu, ngoài mặt
mạnh bạo mà bé mật, hay ghen ghét người mà thiếu uy lực, đông quân mà tổ chức
chỉ huy chẳng rõ ràng, tướng kiêu mà chính lệnh bất nhất, đất đai tuy rộng,
lương thực dẫu phong túc, chỉ đủ để làm tế vật cho ta vậy." Mùa thu tháng
tám, Công tiến quân đến Lê Dương, sai bọn Tang Bá thâm nhập Thanh Châu, đánh
phá đất Tề-Bắc Hải-Đông An, để Vu Cấm đóng binh ở mé trên Hoàng Hà. Tháng chín,
Công về Hứa huyện, chia binh giữ Quan Độ. Mùa đông tháng mười một, Trương Tú
dẫn binh đến hàng, được phong là Liệt hầu. Tháng mười hai, Công đóng quân ở
Quan Độ.
Viên
Thuật từ lúc thua trận ở đất Trần, đã khốn quẫn. Viên Đàm từ Thanh Châu phái
người đến đón Thuật. Thuật muốn vượt qua phía bắc Hạ Bi, Công sai Lưu Bị-Chu
Linh đón bắt Thuật. Đúng lúc Thuật bị bệnh chết. Trình Dục-Quách Gia nghe tin
Công phái Bị đi, bèn nói với Công rằng: "Không nên thả Lưu Bị." Công
hối, cho người đuổi theo không kịp. Lúc Bị còn chưa đi về Đông, đã ngầm cùng
với bọn Đổng Thừa mưu phản, đến Hạ Bi, bèn giết Thứ sử Từ Châu là Xa Trụ, rồi
cất binh đóng ở Bái huyện. Công sai Lưu Đại-Vương Trung đến đánh Bị, không
thắng được.
Hiến đế
xuân thu chép: Bị bảo bọn Đại rằng: "Có sai cả trăm kẻ như chúng bay tới
đây, không làm gì nổi ta; Tào Công có đích thân đến, chưa chắc đã làm gì."
Nguỵ Vũ
cố sự chép: Đại tự Công Sơn, người nước Bái. Làm Tư không Trưởng sử theo đi
chinh phạt có công, được phong tước Liệt hầu.
Nguỵ
lược chép: Vương Trung, người ở Phù Phong, lúc trẻ là Đình trưởng(43). Loạn Tam
Phụ, Trung đói quá phải ăn thịt người, rồi theo đoàn xe đi về phía Nam hướng tới
Vũ Quan. Gặp lúc Lâu Tử Bá ở Kinh Châu phái người đi đón khách ở phương bắc;
Trung không muốn đi theo, bèn thống suất những kẻ ngỗ ngược đánh bọn kia, cướp
lấy số quân ấy, tụ họp được hơn ngàn người
đến hàng
Công. Được bái làm Trung lang tướng, theo đi đánh dẹp. Ngũ quan tướng(44) biết
Trung từng ăn thịt người, mỗi khi xuất hành lại cho theo hầu cạnh giá, sai Bài
thủ(45) xếp chồng đống những đầu lâu của kẻ gian treo dưới cổ ngựa của Trung,
lấy đó làm trò cười Thái thú
Lư Giang là Lưu Huân dẫn quân đến hàng Công, Công phong làm Liệt hầu.
Năm thứ
năm mùa xuân rằm tháng riêng, mưu của bọn Đổng Thừa bị tiết lộ, đều bị tru
diệt. Công thân dẫn quân đông chinh Bị, chư tướng đều nói: "Kẻ cùng với
Công tranh thiên hạ, là Viên Thiệu. Nay Thiệu sắp tới mà ta lại kéo quân về
đông, nếu Thiệu thừa hư đánh úp phía sau ta, biết làm sao?" Công nói:
"Kẻ như Lưu Bị, là nhân kiệt vậy, nay chẳng đánh đi, hẳn là mối hoạ về sau
vậy. Viên Thiệu dẫu có chí lớn, nhưng lộ rõ vẻ trì trệ, hẳn sẽ chẳng động binh
vậy." Quách Gia cũng khuyên Công như vậy, Công bèn sang đông đánh Bị, phá
được, bắt sống bộ tướng của Bị là Hạ Hầu Bác. Lưu Bị chạy đến chỗ Thiệu, vợ con
bị Công bắt được cả. Tướng của Bị là Quan Vũ đóng binh ở Hạ Bi, Công lại tiến
công Hạ Bi, Vũ hàng. Xương Hi theo Bị làm phản, Công lại đánh phá được. Rồi
Công trở về Quan Độ, rút cục Thiệu chẳng xuất binh.
Sách
Nguỵ thị xuân thu của Tôn Thịnh chép: Công nói với chư tướng rằng: "Lưu
Bị, là kẻ nhân kiệt vậy, để cho sống sẽ là mối lo lắng cho quả nhân."
Thần
Tùng Chi cho rằng lời của sử quan ghi chép, đã tô vẽ thêm nhiều, vì những điều
thuật lại lúc trước trái với sự thật vậy, tác giả sau này lại nảy ý cải biến
đi, làm mất tính chân thực, chẳng là càng sai lạc đi nữa ư! Kẻ như Tôn Thịnh
làm sách, đa phần dùng Tả thị(46) để thay đổi lời văn lúc trước, như thế hết
sức sai lầm. Than ôi, học giả đời sau sẽ tin vào đâu đây? Vả lại Nguỵ Vũ đương
cố gắng khuyến khích người trong thiên hạ, mà dùng những kẻ nói năng sai nhầm,
quả là điều lầm lỗi đến lạ lùng.
Tháng
hai, Thiệu phái Quách Đồ-Thuần Vu Quỳnh-Nhan Lương vây đánh Thái thú Đông Quận
là Lưu Diên ở Bạch Mã, Thiệu dẫn binh đến Lê Dương, chuẩn bị vượt sông. Mùa hạ
tháng tư, Công lên Bắc cứu Diên. Tuân Du khuyên Công rằng: "Nay quân ta ít
chẳng thể đối địch, nếu chia bớt được thế lực của họ thì nên làm. Công hãy đến
Diên Tân, làm ra vẻ dẫn binh vượt sông đánh vào hậu phương của họ, Thiệu tất
quay sang phía tây cứu ứng, rồi sau ta đưa khinh binh tập kích Bạch Mã, đánh úp
lúc họ không phòng bị, có thể bắt được Nhan Lương vậy." Công theo kế ấy.
Thiệu nghe tin quân bê kia vượt sông, lập tức chia binh kéo sang phía tây đối
phó. Công bèn dẫn hết quân đội mau chóng hành quân đến Bạch Mã, chưa đến nơi,
còn cách chừng hơn chục dặm, Lương cả kinh, tới đón đánh. Công sai Trương
Liêu-Quan Vũ làm tiên phong, đánh tan, chém được Lương. Bạch Mã được giải vây,
Công dời hết dân ở đó, dẫn họ men sông đi về phía Tây(47). Thiệu vì thế liền
vượt sông đuổi theo quân của Công, đến phía nam Diên Tân. Công kìm binh đóng
lại ở phía Nam
sườn núi, sai người lên mặt luỹ ngắm xem quân Viên, nói người ấy nói: "Có
chừng năm sáu trăm quân kỵ." Lát sau, lại bẩm rằng: "Quân kỵ khá
đông, bộ binh thì chẳng thể đếm xuể." Công nói: "Không phải báo lại
nữa." Rồi lệnh cho quân kỵ cởi yên thả ngựa. Lúc ấy, xe chở đồ nặng từ
Bạch Mã đang trên đường chuyển đến. Chư tướng
cho rằng quân kỵ của địch quá nhiều, chẳng bằng quay về bảo vệ doanh trại. Tuân
Du nói: "Đấy là để nhử địch, sao lại bỏ đi!" Tướng kỵ binh của Thiệu
là Văn Xú và Lưu Bị dẫn năm sáu nghìn quân kỵ trước sau ào tới. Chư tướng lại bẩm: "Hãy lên ngựa thôi." Công
nói: "Chưa cần." Lát sau, kỵ binh kéo đến khá đông, chúng tranh nhau
chạy tới chỗ các xe truy trọng. Công nói: "Lên ngựa được rồi." Chúng
mới cùng lên ngựa. Bấy giờ quân kỵ của Công chẳng đến sáu trăm, xông thẳng vào
đám địch mà đánh, phá tan địch, chém chết Xú. Lương-Xú đều là danh tướng của
Thiệu, hai phen giao chiến, đều bị giết, quân
Thiệu chấn động. Công kéo quân về Quan Độ. Thiệu tiến lê giữ Dương Vũ. Quan Vũ
bỏ trốn theo Lưu Bị.
Tháng
tám, Thiệu lập ba doanh trại ở phía trước, đắp gò đất làm nơi đóng binh lâu
dài, đông tây kéo dài mấy chục dặm. Công cũng chia binh lập quân doanh đối
địch, cùng giao chiến gặp bất lợi.
Hán Tấn
xuân thu của Vũ Tạc Xỉ(48) chép: Hứa Du khuyên Thiệu rằng: "Công không nên
cùng với Tháo giao tranh vội. Hãy kíp chia binh để cầm chân họ, rồi theo lối
khác đến nghênh đón Thiên tử, thì việc gây dựng cơ đồ sẽ xong vậy." Thiệu
không nghe, nói: "Ta đang muốn tiến quân vây hãm chúng." Du giận.
Bấy giờ
quân của Công chẳng đầy một vạn, bị thương đến hai ba phần mười.
Thần
Tùng Chi cho rằng Nguỵ Vũ lúc mới khởi binh, đã có năm ngàn quân, từ đấy về sau
bách chiến bách thắng, số mất mát chỉ hai ba phần mười mà thôi. Chỉ một lần phá
giặc khăn vàng, quân lính thu hàng hơn ba chục vạn, ngoài ra còn thôn tínhđất
đai, chẳng thể kể hết được; dẫu chinh chiến bị tổn thương, không thể nói ít ỏi
như thế được. Sao có thể lập quân doanh chống giữ nhau, bẻ gãy mũi nhọn của
địch mà quyết chiến. Bản kỷ nói rằng: "Quân Thiệu hơn chục vạn, đóng doanh
trại đông tây kéo dài mấy chục dặm." Nguỵ Thái Tổ dẫu có tài biến trá khôn
lường, mưu lược ở đời chẳng ai hơn được, mà chỉ có mấy nghìn binh, thì kháng cự
làm sao đây? Nói về lý lẽ, thiết nghĩ là chẳng đúng. Thiệu đóng quân kéo dài
mấy chục dặm, Công có thể chia doanh trại đối địch, thế thì binh kia chẳng thể
quá ít được, đó là một. Thiệu nếu có quân đội đông gấp mười lần, về lý nên phải
hết sức vây hãm, khiến cho đường xuất nhập bị cắt đứt, vậy mà Công vẫn sai bọn
Từ Hoảng công kích các xe chở lương, Công lại thân xuất kích đánh bọn Thuần Vu
Quỳnh, giương cao cờ kéo quân trở về, chừng như không có ai ngăn chặn, rõ ràng
binh lực của Thiệu chẳng thể cầm giữ được, thế thì binh kia chẳng thể quá ít
được, đó là hai. Các sách đều nói rằng Công chôn sống tám vạn quân của Thiệu,
hoặc có chỗ nói là bảy vạn. Tám vạn người chạy tản mát, chẳng phải là tám nghìn
người có thể trói được, mà đại binh của Thiệu đều chắp tay chịu chết, duyên cớ
gì có thể chế ngự được họ? Thế thì binh kia chẳng thể quá ít được, đó là ba.
Những điều ghi chép ở chỗ này thấy có chút lạ kỳ, không đúng với sự thật. Xét
Chung Do truyện kể rằng: "Công cùng với Thiệu cầm giữ nhau, Do ở khu Tư
lệ, đưa hơn hai nghìn con ngựa đến cấp thêm cho quân lính." Bản kỷ cùng
với Thế Ngữ đều nói rằng bấy giờ Công có hơn sáu trăm kỵ mã, ngựa của Do mang
đến để làm chi?
Thiệu
lại tiến binh đến Quan Độ, đắp núi đất, đào địa đạo. Công ở trong luỹ cũng làm
như vậy, để đối phó lại. Thiệu sai bắn tên vào doanh trại của Công, tên bay như
mưa rào mùa hạ, quân của Công đi lại đều phải dùng thuẫn che thân, chúng sợ
lắm. Bấy giờ Công thiếu lương, gửi thư cho Tuân Úc, bàn rằng muốn quay về Hứa
huyện. Úc cho rằng: "Quân của Thiệu đều tụ tập ở Quan Độ, muốn cùng Công
quyết thắng bại. Công lấy quân mỏi mệt chống giữ quân cường mạnh, nếu chẳng thể
khắc chế họ, tất bị họ đè bẹp, đó là cơ hội lớn trong thiên hạ vậy. Vả lại
Thiệu, chỉ như kẻ anh hùng áo vải mà thôi, có thể tụ tập người ta mà chẳng thể
dùng. Với tài thần vũ minh triết của chúa công lại được mọi người thuận theo
phù giúp, sao việc lại chẳng nên!" Công nghe theo.
Tôn Sách
hay tin Công cùng với Thiệu cầm giữ nhau, mưu toan tập kích Hứa huyện, còn chưa
khởi hành, thì bị thích khách ở đó giết.
Bọn hàng
tặc ở Nhữ Nam
là Lưu Tích làm phản hưởng ứng Thiệu, đánh cướp huyện Hứa. Thiệu sai Lưu Bị
đến trợ giúp Tích, Công sai Tào Nhân đánh phá được Bị. Bị bỏ chạy, binh của Lưu
Tích ở đấy bị đánh tan.
Viên
Thiệu vận chuyển mấy ngàn xe lương tới, Công dùng kế của Tuân Du, sai Từ
Hoảng-Sử Hoán đón đánh, đại phá quân ấy, đốt sạch các xe lương thảo. Công cùng
với Thiệu cầm cự nhau mấy tháng liền, dẫu khi giao chiến liên tục chém được
tướng địch, nhưng binh sĩ ít ỏi lương thảo cạn sạch, sĩ tốt mỏi mệt. Công bảo
quan vận lương rằng: "Chừng mười lăm ngày nữa là ta phá được Thiệu, các
ngươi chẳng phải khó nhọc nữa." Mùa đông tháng mười, Thiệu điều các xe
chuyển lương, sai năm người bọn Thuần Vu Quỳnh dẫn hơn vạn binh hộ tống, ban
đêm nghỉ lại ở cách phía bắc doanh trại của Thiệu bốn chục dặm. Mưu thần của Thiệu
là Hứa Du hám tiền, Thiệu không đáp ứng nổi, Du bèn bỏ đi, nhân đó khuyên Công
đánh bọn Quỳnh. Tả hữu ngờ vực, Tuân Du-Giả Hủ khuyên Công nên đánh. Công bèn
lưu Tào Hồng giữ trại, thân dẫn năm ngàn quân bộ kỵ đi ngay trong đêm, đến sáng
thì tới nơi. Bọn Quỳnh trông xa thấy binh của Công ít, liền ra ngoài cửa doanh
bầy trận. Công tiến đánh gấp, Quỳnh lui vào bảo vệ doanh trại, Công đánh mạnh.
Thiệu phái kỵ binh tới cứu Quỳnh. Tả hữu có kẻ nói: "Quân kỵ của địch đã
gần lắm rồi, xin chia binh chống cự." Công giận nói: "Lúc giặc đến
sau lưng ta, hãy bẩm." Sĩ tốt đều hết sức tử chiến, đánh tan bọn Quỳnh,
chém được cả.
Tào Man
truyện chép: Công nghe tin Du tới, đi chân không ra đón, vỗ tay cười nói:
"Tử Viễn, khanh tới đây, việc của ta xong rồi vậy!" An toạ xong, Du
bảo Công rằng: "Quân họ Viên cường thịnh, ngài còn chờ gì nữa? Nay lương
thảo của ngài có được bao nhiêu?" Công nói: "Còn đủ dùng một
năm." Du cười: "E không được thế, ngài nói lại xem!" Công lại
nói: "Có thể được nửa năm." Du nói: "Túc hạ chẳng muốn phá họ
Viên ư, sao chẳng nói thật lòng!" Công nói: "Trước là ta nói đùa thấy
thôi. Kỳ thật lương chỉ đủ cho một tháng, biết làm sao đây?" Du nói:
"Ngài binh cô giữ một chỗ lẻ loi, bên ngoài không quân cứu viện mà lương
thảo cạn sạch, ấy là nguy cấp trong ngày vậy. Nay họ Viên đồ truy trọng có hơn
vạn xe, đóng ở Cố Thị-Ô Sào, quân canh giữ không đủ nghiêm ngặt; nay ta dùng
khinh binh tập kích họ, đến vào lúc bất ngờ, đốt hết kho lương ấy, bất quá ba
ngày, quân họ Viên tự bại vậy." Công rất mừng, liền tuyển quân bộ kỵ tinh
nhuệ, đều dùng cờ xí của quân Viên, người ngậm tăm ngựa buộc mõm, đi ngay lúc
nửa đêm, sai mỗi người mang theo một bó củi, khi đi trên đường có người hỏi,
chúng nói nhỏ rằng: "Viên công sợ Tào Tháo đánh cướp hậu quân, phái binh
đến tăng cường phòng bị." Quân kia nghe thế tin là thật, cho là việc đương
nhiên. Khi đến nơi, quân của Công thiết lập vòng vây, nổi lửa dữ dội, trong
doanh đại loạn. Quân Viên bị đánh tan tác, lương thảo của cải đều bị thiêu
sạch, chém được thủ cấp bọn Đốc tướng là Lục Nguyên Tiến, Đốc quân kỵ Hàn Cử
Tử, Lã Uy Hoàng, Triệu Duệ, cắt mũi tướng quân Thuần Vu Trọng Giản, nhưng Giản
không chết, lại bắt được hơn một ngàn sĩ tốt, đều cắt lấy mũi, rồi cắt môi cắt
lưỡi trâu ngựa, đem đến chỗ quân của Thiệu. Tướng sĩ họ Viên đều khiếp sợ. Ngay
đêm ấy có người bắt lấy Trọng Giản, đưa đến chỗ Công, Công hỏi Giản rằng:
"Sao đến nỗi thế này?" Trọng Giản đáp: "Việc thua thắng là bởi ý
trời, sao còn phải hỏi han gì nữa?" Công tỏ ý không muốn giết. Hứa Du nói:
"Ngày mai hắn soi gương, thế tất sẽ không bao giờ quên được nỗi nhục ngày
hôm nay." Công bèn đem giết đi.
Thiệu
mới hay tin Công đánh Quỳnh, bảo với con trưởng là Đàm rằng: "Quân kia tới
đánh bọn Quỳnh, ta đánh lấy doanh trại của chúng, bọn họ cố nhiên chẳng có chỗ
về vậy." Bèn sai Trương Cáp-Cao Lãm đánh Tào Hồng. Bọn Cáp nghe tin Quỳnh
bị đánh tan, bèn đến hàng Công. Quân của Thiệu vì thế tan vỡ, Thiệu cùng với
Đàm bỏ cả quân lính mà chạy, trốn qua sông Hoàng Hà. Quân của Công đuổi theo
không kịp, bèn thu sạch các đồ truy trọng, giấy má và đồ trân quý, bắt lấy tù
binh.
Hiến Đế
khởi cư chú chép: Công dâng lời lên bề trên rằng: "Đại tướng quân Nghiệp
hầu Viên Thiệu trước kia cùng với Ký châu mục Hàn Phức ủng hộ lập nguyên Đại tư
mã Lưu Ngu lên ngôi, khắc ấn thiên tử, phái nguyên trưởng huyện là Tất Du đến
chỗ Ngu, giảng giải chuyện thiên mệnh. Thiệu lại gửi thư cho thần nói rằng:
'Quyên Thành có thể đóng đô, nên gây dựng cơ sở.' Lại thiện tiện đúc tiền khắc
ấn, những kẻ Hiếu Liêm và Kế Lại(49), đều quy về chỗ Thiệu cả. Em con chú của
Thiệu là Tự làm Thái thú Tế Âm từng gửi thư cho Thiệu nói rằng: 'Nay khắp bốn
cõi nghiêng ngửa tang thương, thiên ý thực ở tại nhà ta, thần linh ứng nghiệm,
đều ở nơi tôn huynh. Kẻ dưới của Nam huynh muốn Nam huynh tức vị, nhưng Nam
huynh có nói, xét về niên kỷ thì Bắc huynh lớn, luận vể địa vị thì Bắc huynh
cũng hơn. Do đó muốn dâng ngọc tỷ, nào ngờ Tào Tháo chẹn đường(50).' Tông tộc
nhà Thiệu nối đời chịu trọng ân của quốc gia, mà hung nghịch vô đạo đến mức như
thế. Thần lập tức sửa soạn binh mã, cùng giao chiến ở Quan Độ, nhờ cậy thiên uy
của thánh triều, chém được đầu bọn Đại tướng của Thiệu là Thuần Vu Quỳnh tám
người, quân địch tan vỡ. Thiệu cùng với con là Đàm vứt bỏ khôi giáp mà chạy. Số
đầu giặc bị chém đến hơn bảy vạn, đồ truy trọng cùng tài vật thu được không đếm
xuể."
Công bắt
được các thư từ trong doanh của Thiệu, có cả thư từ của bộ hạ ở đất Hứa cùng
thư của những người ở trong quân, đều đem đốt bỏ cả. Các quận ở Ký Châu đa phần
đều dâng thành ấp đầu hàng.
Nguỵ thị
xuân thu chép: Công nói: "Đương lúc Thiệu cường mạnh, Cô còn chẳng thể tự
bảo vệ mình, phương chi là chúng nhân!"
Khi
trước, thời Hoàn Đế thấy có Hoàng tinh hiện ra ở địa phận đất Sở-Tống, người ở
Liêu Đông là Ân Quỳ giỏi nghề thiên văn, nói là sau năm mươi năm sẽ só bậc chân
nhân nổi dậy ở giữa khoảng Lương-Bái, khí thế chẳng thể đương nổi. Đến lúc ấy
vừa năm mươi năm, mà Công phá được Thiệu, thiên hạ chẳng ai đối địch được vậy.
Năm thứ
sáu mùa hạ tháng tư, Công cất binh ở thượng lưu Hoàng Hà, đánh quân Thiệu ở
Thương Đình, phá được. Thiệu quay về, thu thập sĩ tốt li tán, Công bình định
các quận huyện làm phản. Tháng chín, Công về Hứa huyện. Lúc Thiệu còn chưa bị
triệt phá, sai Lưu Bị đánh cướp ở Nhữ Nam, bọn giặc ở Nhữ Nam là Cung Đô hưởng
ứng Bị. Công phái Sái Dương đánh Đô, gặp bất lợi, bị Đô đánh tan ở đấy. Công
nam chinh Lưu Bị. Bị hay tin Công đến, chạy trốn đến chỗ Lưu Biểu, bọn Đô đều
tan lở.
Năm thứ
bảy mùa xuân rằm tháng giêng, Công đóng quân ở Tiêu huyện, lệnh rằng: "Ta
khởi nghĩa binh, vì thiên hạ trừ bạo loạn. Người dân ở cố hương của ta, trải
qua cảnh chết chóc, ta đi lại hết ngày ở nơi đây, chẳng gặp được người quen
nào, khiến ta thấy lòng mình quạnh quẽ thê lương. Từ khi ta khởi binh đến nay,
có những tướng sĩ vì chiến chinh ngã xuống không có người kế tự, phải tìm lấy kẻ
thân thích làm người nối dõi, ta cấp cho đất đai ruộng rẫy, cấp cho trâu cày,
đặt ra trường học để dạy dỗ họ. Cho lập đền miếu, để họ được tế tự tiền nhân,
hồn thiêng có linh, trăm năm về sau sao còn phải oán hận gì nữa!" Bèn sắm
đồ lễ, khơi một con kênh ở phía bắc sông Tuy, sai người làm cỗ thái lao để tế
Kiều Huyền. Rồi tiến quân đến Quan Độ.
Viên
lệnh ở huyện Bao Thưởng chép lại bài văn tế như sau: "Nhớ Thái uý Kiều
công, chí đức rạng ngời, rộng rãi với người có bụng bao dung. Người trong nước
nhớ lời minh huấn, kẻ sĩ ngẫm chính lệnh mưu sâu. Dù thân thể không còn hiển
hiện, anh linh phảng phất vẫn còn. Bao la thay, rạng rỡ thay! Ta còn nhỏ tuổi,
kịp được ngài dạy dỗ chu toàn(51), ta thiên bẩm tăm tối ương gàn, nhờ được bậc
quân tử thu nạp bao dung. Mỗi khi ta tiến bộ, đều được ngài ngợi khen, như
Trọng Ni thẹn mình không bằng được
Nhan Uyên(52), hay Giả Phục từng xưng tụng Lý Sinh(53) ngày trước. Kẻ sĩ chết
vì người tri kỷ, ta nhớ mãi lời ấy không quên. Lại nhớ lời ngài thong dong ước
hẹn rằng: 'Sau khi ngài chết, về lại lối xưa, không có con gà, chén rượu tưới
đất, để tế lễ ta, xe qua ba bước, đau bụng chớ trách!' Dẫu lúc bấy giờ là lời
nói đùa, nếu chẳng phải tình thầy bạn chí thân, ai lại dùng lời ấy từ nhau? Nếu
chẳng có lời ngài dặn dò, làm sao ta có thể tự sửa được những thiếu sót của ta?
Tấm lòng thê thảm, nhớ lại việc xưa. Nay phụng mệnh đông chinh, đóng quân nơi
làng cũ, ngoảnh nhìn về mảnh đất cũ mến yêu phương bắc, tâm tưởng hướng về nơi
lăng mộ của ngài. Sắm sửa lễ bạc, mong ngài hưởng dụng!(54)"
Thiệu từ
sau khi bại quân, phát bệnh thổ huyết, đến mùa hạ tháng năm thì chết. Con nhỏ
là Thượng lên thay, Đàm tự xưng là Xa kỵ tướng quân, đóng binh ở Lê Dương. Mùa
thu tháng chín, Công đi đánh Đàm, giao chiến liên tục. Đàm-Thượng mấy lần bại
trận phải lui binh, cố thủ.
Năm thứ
tám mùa xuân tháng ba, Công đánh thành, quân họ Viên xuất chiến, Công tiến
đánh, phá tan quân ấy, Đàm-Thượng nhân đêm tối bỏ chạy. Mùa hạ tháng tư, Công
tiến quân đến Nghiệp huyện. Tháng năm trở về đất Hứa, lưu Giả Tín đóng binh ở
Lê Dương.
Năm Kỷ
Dậu, xuống lệnh rằng: "Binh pháp Tư mã nói 'Tướng quân tử tuy(55)', Nguỵ
thư nói rằng: tuy, là lui quân vậy.
đã tiến
lên một thước, thì không lui về được một tấc. Khi xưa mẹ của Triệu Quát, xin
không phải chịu tội với Quát(56). Thời xưa đã biết rằng kẻ làm tướng, mà quân
bị phá ở bên ngoài, thì gia quyến chịu tội ở trong nước. Ta tự mình dẫn quân đi
đánh dẹp các nơi, chỉ thưởng công mà không phạt tội, là trái với pháp điển của
quốc gia vậy. Nay có lệnh rằng nếu chư tướng xuất chinh, thua quân là đáng phải
tội, thất lợi là miễn quan tước."
Nguỵ thư
chép lại tờ lệnh năm Canh Thân rằng: "Kẻ bàn luận nói rằng người dụng binh
dẫu có tài năng, đức hạnh chẳng đủ để kham nổi trách nhiệm tuyển chọn nhân tài
trong quận quốc, lẽ ấy gọi là 'có thể hợp đạo lý, chưa thể là quyền nghi được.'
Quản Trọng(57) nói: 'Khiến cho bậc hiền giả có tài được ăn lộc thì kẻ ấy phải
là bậc tôn quý, cho kẻ sĩ dũng mãnh có công được ăn lộc thì kẻ ấy phải biết coi
khinh cái chết, trong nước có được hai điều ấy thì thiên hạ trị.' Ta chưa hề
nghe thấy việc người không có tài, kẻ sĩ chẳng phải là dũng, đều được hưởng
lộc, mà có thể lập công hưng vượng quốc gia vậy. Cho nên bậc minh quân chẳng
phong quan cho kẻ bầy tôi không có công lao, chẳng thưởng cho quân sĩ không ra
trận; thời bình trị chuộng đức hạnh, có việc thì thưởng công. Lời bàn luận ấy,
tựa như lấy gậy mà chọc con hổ dữ vậy."
Mùa thu
tháng bảy, lệnh rằng: "Từ khi tang loạn đến nay, đã mười lăm năm, những kẻ
hậu sinh chẳng thấy được cái cảnh tượng nhân nghĩa lễ nhượng, ta rất lấy làm
thương tâm. Nay lệnh cho các quận trong nước đều phải sửa sang trường học,
những huyện có năm trăm hộ được đặt chức quan lo việc học hành, tuyển chọn
những kẻ tài tuấn trong vùng làm người dạy dỗ học trò, sao cho đạo tiên vương
chẳng vị phế bỏ, mà lại có ích cho thiên hạ."
Tháng
tám, Công đi đánh Lưu Biểu, quân tới Tây Bình. Công rời huyện Nghiệp đi về Nam,
Đàm-Thượng tranh giành Ký Châu, Đàm bị Thượng đánh bại ở đó, chạy đến giữ huyện
Bình Nguyên. Thượng vây đánh rất gấp, Đàm sai Tân Bì tới chỗ Công xin hàng cầu
cứu. Chư tướng đều nghi ngờ, Tuân Du khuyên
Công ưng cho, Công bèn dẫn quân về.
Nguỵ thư
chép: Công nói rằng: "Ta đánh Lã Bố, Biểu chẳng vào cướp, chiến dịch Quan
Độ, Biểu cũng chẳng cứu Viên Thiệu, ấy là tên giặc chỉ biết tự giữ mình, nên
trừ diệt sau. Đàm-Thượng là lũ gian trá, nhân vì chúng tranh giành nhau. Bởi
túng thế Đàm mới trá hàng ta, chẳng qua thế cùng phải bó tay vậy, giả sử ta phá
được Thượng, thu lấy đất đai ấy, cũng có lợi nhiều lắm." Bèn hứa giúp Đàm.
Mùa đông
tháng mười, Công về đến Lê Dương, cho con trai mình là Chỉnh kết hôn với con
gái Đàm.
Thần
Tùng Chi xét: Thiệu chết đến lúc ấy, tính ra cũng chỉ hơn năm tháng mà thôi.
Đàm dẫu về sau bị mất tước, chẳng vì Thiệu chịu tang ba năm, mà cưới gả con gái
thi hành cát lễ(58), là trái lẽ vậy. Nguỵ Vũ hoặc vì quyền nghi mà nói lời ước
hẹn; nay nói rằng kết hôn, chưa hẳn là năm ấy đã thành lễ vậy.
Thượng
nghe tin Công về Bắc, bèn bỏ Bình Nguyên trở về huyện Nghiệp. Lã Khoáng-Lã
Tường ở huyện Đông Bình làm phản Thượng, đóng quân ở Dương Bình, dẫn quân sĩ
đến hàng Công, được phong làm Liệt hầu.
Nguỵ thư
chép: Đàm được giải vây, ngầm lấy ấn thụ Tướng quân đưa cho Khoáng. Khoáng nhận
ấn đưa cho Công, Công nói: "Ta cố nhiên biết Đàm có toan tính nhỏ mọn vậy.
Ý chừng nếu ta đi đánh Thượng, trong thời gian ấy y sẽ cướp lấy dân tụ tập binh
chúng, Thượng bị phá, y có thể được tự cường để thừa cơ làm khó ta vậy. Nhưng
Thượng bị phá thì ta mạnh, có thể lấy đó làm khó ta được sao?"
Năm thứ
chín mùa xuân rằm tháng giêng, Công vượt Hoàng Hà, ngăn nước sông chảy vào Bạch
Câu để thông đường vận lương. Tháng hai, Thượng lại vây đánh Đàm, lưu Tô
Do-Thẩm Phối giữ huyện Nghiệp. Công tiến quân đến Hoàn Thuỷ(59), Do ra hàng.
Đến huyện Nghiệp, Công tiến đánh, đắp thổ sơn, đào địa đạo. Trưởng huyện Vũ An
là Doãn Giai đóng binh ở Mao thành, để kiểm soát đường vận lương ở Thượng Đảng.
Mùa hạ
tháng tư, Công để Tào Hồng đánh huyện Nghiệp, Công thân cầm quân đánh Giai, phá
xong lại trở về. Tướng của Thượng là Tự Hộc giữ Hàm Đan, Công vây đánh lấy
được.
Tự đọc
là Thư, vùng Hà Sóc nay còn có họ này. Hộc, là con của Thư Thụ vậy.
Dịch
Dương lệnh là Hàn Phạm, trưởng huyện Thiệp là Lương Kỳ đem cả huyện ra hàng,
được ban tước Quan nội hầu.
Tháng
năm, phá huỷ thổ sơn, địa đạo, đào hào xung quanh, khơi nước sông Chương rót
vào trong thành; người trong thành chết đói quá nửa. Mùa thu tháng bảy, Thượng
quay về cứu huyện Nghiệp, chư tướng đều cho rằng "Binh bên kia quay về,
người người đều tử chiến, chẳng bằng nên né tránh họ." Công nói:
"Thượng theo đường lớn mà đến, nên phải tránh họ; nếu họ men theo phía tây
núi mà tới, ta sẽ bắt được vậy." Thượng quả nhiên men theo phía tây núi mà
lại, tới Phũ thuỷ lập doanh trại.
Tào Man
truyện chép: Công sai quân do thám mấy lần đi dò xét Thượng, chúng đều nói:
"Địch đi theo đường phía tây, đã ở Hàm Đan". Công mừng lắm, hội chư
tướng lại bảo: "Cô đã lấy được Ký Châu rồi, các ngươi có biết vì sao
chăng?" Chúng đều nói: "Không biết." Công nói: "Chẳng bao
lâu nữa các ngươi sẽ thấy việc này vậy."
Ban đêm
Thượng phái binh xâm phạm vòng vây, Công đón đánh phá tan, chúng phải bỏ chạy,
Công bèn cho vây chặt doanh trại. Không hợp binh được, Thượng sợ, bèn phái cố
Thứ sử Dự Châu là Âm Quỳ cùng Trần Lâm đến xin hàng, Công không cho, vòng vây
càng xiết chặt. Thượng bỏ trốn ngay trong đêm, tới giữ Kỳ Sơn, Công truy kích.
Bọn tướng của Thượng là Mã Diên-Trương Ý lúc lâm trận đầu hàng, quân Thượng tan
vỡ, Thượng chạy trốn vào Trung Sơn. Công thu được hết đồ truy trọng, bắt được
cả ấn thụ tiết việt của Thượng, sai bộ hạ của Thượng đã ra hàng đem ra cho
người nhà Thượng xem, lòng người trong thành tan lở cả. Tháng tám, con của anh
trai Thẩm Phối là Vinh đang đêm mở cửa thành Đông Môn rước quân ngoài vào. Phối
đón đánh, thua trận, Phối bị bắt sống, đem chém, huyện Nghiệp bình định. Công
thân đến tế ở mộ Thiệu, khóc rơi nước mắt; uý lạo vợ Thiệu, trả lại những bảo
vật cho gia nhân Thiệu, lại ban tặng các đồ vải lụa bông mềm, cấp cho lương
thực.
Khi
trước, Thiệu với Công cùng khởi binh, Thiệu hỏi Công rằng: "Nếu như việc
chẳng xong, thì nên chiếm cứ mặt nào?" Công hỏi: "Ý của túc hạ thì
sao?" Thiệu nói: "Ở phía nam ta giữ lấy Hoàng Hà, phía bắc ngăn các
xứ Yên- Đại, kiêm gồm dân chúng Nhung-Địch, ngoảnh về nam để tranh thiên hạ,
như vậy có thể nên việc chăng?" Công nói: "Ta dùng trí lực của người
trong thiên hạ, lấy đạo lý chế ngự họ, chẳng chỗ nào là không ở được."
Phó Tử
chép: Thái Tổ nói rằng: "Thang-Vũ làm vua, há đều nhờ thế đất hay sao? Nếu
nương cậy ở nơi hiểm trở kiên cố, tất chẳng thể thuận theo thời cơ mà biến hoá
được vậy."
Tôn
Thịnh nói: Xưa kia bậc tiên vương thi hành thưởng phạt, theo đó mà trừng trị kẻ
ác khuyến khích việc thiện, là gương sáng để răn dạy đời sau. Thiệu nhân lúc
thế gian nguy biến, bèn nảy mưu đồ phản nghịch, trên bàn đến chuyện thần khí,
dưới can thiệp vào cương kỷ quốc gia. Điếu tang cư tang, là pháp chế thời xưa
vậy, nhưng thương khóc trước mộ kẻ nghịch thần, ban ân vào gia thất kẻ tham
tàn, theo đạo lý chính đáng, việc ấy là điên đảo vậy. Giấu oán hận trong lòng
để làm thân với người, ấy là điều các bậc hiền trí xưa chê cười, khóc than nơi
tang lễ người quen, tình nghĩa không thể giả dối, kẻ ác vi phạm đạo nghĩa, sao
có thể than khóc được! Xưa Hán Cao sai lầm khóc than cho họ Hạng, nay Nguỵ Vũ
lại theo cái sai lầm ấy, há chẳng phải là nghĩ thấu trăm điều mà hỏng mất một
hay không?
Tháng
chín, có lệnh rằng: "Hà Bắc mắc cái nạn họ Viên, nên lệnh cho năm nay
không phải nộp thuế khoá nữa!" Lại trừng phạt nặng những kẻ cường hào
ngang ngược, bách tính hoan hỉ vui mừng. Thiên tử để Công lĩnh chức Ký Châu
mục, Công khiêm nhượng trả lại Duyện Châu.
Nguỵ thư
chép lại tờ lệnh của Công rằng: "Có nước thì có nhà, không lo có ít mà lo
chẳng được đều, không lo nghèo túng mà lo chẳng được yên. Sự cai trị của họ
Viên, khiến cho kẻ cường hào được chuyên quyền phóng túng, kẻ thân thích được
nắm giữ đất đai; kẻ hạ dân bần hàn khiếp nhược, đời đời chịu nộp thuế khoá,
phải bán mình vào nơi giàu có, chẳng bằng đồ vật để người ta sai khiến; tông
tộc nhà Thẩm Phối, là nơi tàng chứa những kẻ tội nhân, kẻ mắc nợ trốn chủ.
Những muốn cho trăm họ phải nương cậy vào mình, giáp binh cường thịnh, há có
thể được sao! Nay chỉ thu thuế ruộng một mẫu bốn thưng, mỗi hộ chỉ bỏ ra hai
xấp lụa, bông loại tốt hai cân mà thôi, kẻ khác chẳng được thiện tiện xướng
lệnh. Giao cho thủ tướng trong quận quốc tra xét việc ấy, không để kẻ cho kẻ
cường hào ở nơi ấy được thu nhặt giấu giếm, mà những dân nghèo được tự quản
việc thuế khoá của mình vậy."
Lúc Công
vây huyện Nghiệp, Đàm cướp lấy các xứ Cam Lăng, An Bình, Bột Hải, Hà Gian.
Thượng bại, chạy về Trung Sơn. Đàm đánh Trung Sơn, Thượng chạy đến Cố An, Đàm
thu lấy binh của Thượng. Công gửi thư cho Đàm, trách đã phụ ước, rồi tuyệt hôn,
cho đưa con gái họ Viên về, sau mới tiến binh.
Đàm sợ,
Công liền đánh lấy Bình Nguyên, Đàm chạy tới giữ Nam Bì. Tháng mười hai, Công
tới Bình Nguyên, bình định các huyện.
Năm thứ
mười mùa xuân rằm tháng giêng, vây đánh Đàm, phá được, chém Đàm, tru diệt hết
vợ con, Ký châu bình định.
Nguỵ thư
chép: Công vây đánh Đàm, từ sớm đến giữa trưa không phá được; Công bèn thân cầm
dùi thúc trống, sĩ tốt phấn chấn, bấy giờ mới phá được thành.
Công hạ
lệnh rằng: "Những lẻ hùa theo họ Viên làm điều ác, cho phép hối cải và
thay đổi." Lệnh cho dân chúng không được báo thù riêng, cấm chỉ việc hậu
táng, hết thảy phải theo phép nước. Tháng ấy, bọn Đại tướng của Viên Hi là Tiêu
Xúc-Trương Nam làm phản đánh Hi-Thượng,
Hi-Thượng chạy đến Tam Quận xứ Ô Hoàn. Bọn Xúc dâng cả huyện đầu hàng, được
phong làm Liệt hầu. Ban đầu lúc Công mới đánh Đàm, dân bỏ trốn việc đào băng,
Thần
Tùng Chi cho rằng lúc Công đánh Đàm, nước ở kênh ngòi đóng băng, Công sai dân
đập băng để lưu thông thuyền bè, dân sợ việc sai dịch mới bỏ trốn.
Công
lệnh gọi, chúng không chịu đến hàng. Được ít lâu, dân bỏ trốn lại đến tận cửa
quan rập đầu lạy. Công bảo rằng: "Ta nghe nói chúng bay trái mệnh, giết chúng
bay thì chỉ chém kẻ cầm đầu, chúng bay nên trốn đi, đừng để quan lại bắt
được." Dân nhỏ nước mắt khóc rồi trốn đi; sau thoát được hết.
Mùa hạ
tháng tư, bọn giặc ở Hắc Sơn là Trương Yến dẫn hơn vạn binh lính đến hàng, được
phong làm Liệt hầu. Bọn người ở Cố An là Triệu Độc-Hắc Nô giết Thứ sử U châu và
Thái thú Trác quận. Tam quận Ô Hoàn vây đánh Tiển Vu Phụ ở Quánh Bình.
Tục Hán
thư Quận quốc chí chép: Quánh Bình, là tên huyện, thuộc quận Ngư Dương.
Mùa thu
tháng tám, Công đi đánh dẹp, chém bọn Độc, rồi qua sông Lộ Hà cứu Quánh Bình, Ô
Hoàn chạy trốn ra nơi đất hiểm.
Tháng
chín, có lệnh rằng: "Kết đảng để mưu việc riêng, thánh nhân cực ghét. Ta
nghe phong tục Ký Châu, cha con ở cùng một nơi mà bất đồng, thì bêu diếu lẫn
nhau. Xưa kia huynh trưởng của Trực Bất Nghi chết, người đời nói rằng ông ấy
bức hiếp chị dâu; môn đệ của Ngũ Bá Ngư ba lần lấy vợ mà vợ đều bị chết, người
ta bảo bố ông vụng trộm với con dâu; Vương Phượng thiện tiện quyền nghi, Cốc
Vĩnh chê bai là dựa thế anh chồng, Vương Thương nói lời trung thực, Trương
Khuông cho là lời nói dối lừa: Ấy đều là việc đổi trắng thay đen, dối trời lừa
vua vậy. Nay ta muốn chỉnh đốn phong tục, mà bốn tục xấu kia chẳng bỏ đi được,
ta lấy làm xấu hổ lắm.(60)" Mùa đông tháng mười, Công trở về huyện Nghiệp.
Khi trước,
Viên Thiệu cho con rể là Cao Cán lĩnh chức Kinh Châu mục, Công hạ được huyện
Nghiệp, Cán đầu hàng, Công cho làm Thứ sử. Cán nghe tin Công đi đánh dẹp Ô
Hoàn, bèn làm phản ở trong châu, bắt giữ Thái thú Thượng Đảng, cử binh giữ ải
Hồ Quan. Công sai Nhạc Tiến-Lý Điển đánh Cán, Cán lui về giữ thành Hồ Quan. Năm
thứ mười một mùa xuân rằm tháng giêng, Công thân đi đánh Cán. Cán hay tin ấy,
bèn để biệt tướng của mình giữ thành, chạy vào xứ Hung Nô, cầu cứu Thiền
Vu(61), Thiền Vu không chịu cứu. Công vây Hồ Quan ba tháng, lấy được. Cán bèn
chạy trốn đến Kinh Châu, bị Đô uý Thượng Lạc là Vương Diễm lùng bắt được đem
chém đi.
Mùa thu
tháng tám, Công đông chinh hải tặc là Quản Thừa, đến Thuần Vu, sai Nhạc Tiến-Lý
Điển đánh Thừa, Thừa bỏ chạy ra vùng hải đảo. Công cắt các vùng Tương
Bí-Đàm-Thích ở Đông Hải nhập vào quận Lang Nha, xoá bỏ quận Xương Lự.
Nguỵ thư
chép lại tờ lệnh tháng mười năm Ất Hợi rằng: "Kẻ cai trị ở đời chế ngự
chúng sinh, phải gây dựng giúp dân, răn bảo ngoài mặt cho họ biết sợ, Kinh Thi
nói 'Thuận theo mưu tính của ta, số đông không có gì phải hối hận', ấy thật là
điều mà bậc quân thần khẩn khoản cầu mong vậy. Ta gánh vác trách nhiệm nặng nề,
thường sợ bỏ qua mất lời trung, mấy năm gần đây, chẳng được nghe kế hay, sao ta
có thể mở tiệc mừng mà chẳng kể đến cái xấu nữa ru? Từ nay về sau, những kẻ
Duyện phụ thuộc các chức Trị trung-Biệt giá, vào mỗi ngày rằm mọi người đều
phải kể ra những lỗi lầm của mình, ta sẽ xem xét cho."
Ba quận
xứ Ô Hoàn thừa lúc thiên hạ loạn lạc, đánh phá U châu, cướp được số Hán dân đến
hơn vạn hộ. Viên Thiệu cho lập tù trưởng xứ ấy làm Thiền Vu, lại lấy con gái
của gia nhân làm con mình, gả cho Thiền Vu làm vợ. Thiền Vu ở Liêu Tây là Đạp
Đốn rất cường thịnh, được Thiệu hậu đãi, vì thế anh em Thượng đến quy hàng, mấy
lần xâm nhập nơi đất hiểm gây hoạ. Công sắp sửa thân chinh đi tiễu phạt, cho
đào một con kênh, từ Hô Đà dẫn nước tới Cô Thuỷ, gọi là kênh Bình Lỗ; lại từ
cửa Đê Hà đào một con kênh xuyên Lộ Hà, gọi là kênh Tuyền Châu, để thông ra bể.
Năm thứ
mười hai mùa xuân tháng hai, Công từ Thuần Vu về huyện Nghiệp. Năm Đinh
Dậu(62), có lệnh rằng: "Ta khởi nghĩa binh dẹp trừ bạo loạn, đến nay là
mười chín năm, đánh đâu được đó, há có phải là công lao của mình ta đâu? Mà là
công sức của các bậc hiền sĩ đại phu vậy. Nay thiên hạ còn chưa yên định được
cả, ta đang muốn cùng các bậc hiền sĩ đại phu chung sức yên định thiên hạ; mà
mình ta được hưởng công lao, ta sao có thể yên lòng? Nên gấp rút xét định công
của những người ấy để tiến hành phong thưởng." Bởi thế phong thưởng rất lớn
cho hơn hai mươi công thần, đều được làm Liệt hầu. Những người khác cũng được
theo thứ tự mà thụ phong, đến cả con côi của những người đã chết vì công việc,
nặng nhẹ chẳng hề sơ sót.
Nguỵ thư
chép lại tờ lệnh của Công rằng: "Xưa Triệu Xa-Đậu Anh(63) làm tướng, được
ban thưởng nghìn vàng, một sớm đem chia hết cho người, cho nên có thể lập được
đại công, thế gian mãi còn lưu tiếng. Ta đọc truyện ấy, chưa từng không ái mộ
những người đó. Nay ta cùng với chư tướng và sĩ đại phu cùng theo việc binh
nhung, may được cậy nhờ những bậc hiền nhân chẳng ai tiếc mưu hay, quần sĩ
chẳng ai tiếc sức lực, mạo hiểm vào xứ Di bình loạn, mà riêng ta được thưởng
công to, hộ ấp ba vạn. Đoái nghĩ đến việc Đậu Anh vì nghĩa chia vàng, nay ta
chia số thuế má được thưởng cho chư tướng bộ thuộc cùng các lĩnh thú cũ ở đất
Trần-Thái, ấy là để báo đáp sự khó nhọc của mọi người, ta chẳng dám thiện tiện
nhận ân huệ lớn. Còn con côi của những người ốm chết vì việc nước, nên lấy thuế
má thóc lúa để chu cấp cho họ. Năm nào thịnh vượng sung túc, thuế má đã thu
xong, tướng sĩ cùng với chúng nhân đều được hưởng chung."
Công sắp
bắc chinh ba quận xứ Ô Hoàn, chư tướng đều nói: "Viên Thượng, chỉ là thằng
tù bỏ trốn mà thôi, Di Địch(64) tham lam mà chẳng có tình thân, há có thể để
cho Thượng sai khiến? Nay thâm nhập vào chinh phạt ở đất ấy, Lưu Bị ắt hẳn sẽ
khuyên Lưu Biểu tập kích Hứa huyện. Vạn nhất có biến, việc chẳng thể hối
được." Duy chỉ có Quách Gia liệu rằng Biểu tất chẳng thể tin Bị, khuyên
Công bắc chinh. Mùa hạ tháng năm(65), đến Vô Chung. Mùa thu tháng bảy, có mưa
lớn, đường ven biển không đi được,
Điền Trù
xin làm hướng đạo, Công theo lời. Rồi dẫn quân ra ải Lô Long, đường bên ngoài
quan ải bị cắt đứt không thông. Công bèn cho đào núi lấp lũng kéo dài hơn năm
trăm dặm, xuyên qua Bạch Đàn, vượt Bình Cương, lội qua sông Tiên Ti Đình, nhằm
tới phía đông Liễu Thành. Còn cách hai trăm dặm, quân rợ biết được. Thượng-Hi
và Đạp Đốn, cùng với bọn Thiền Vu ở Liêu Tây là Lâu Ban, Thiền vu ở Hữu Bắc
Bình là Năng Thần Để dẫn mấy vạn quân kỵ đón đánh. Tháng tám, quân của Công lên
núi Bạch Lang, cùng với quân rợ gặp nhau, bọn chúng rất đông. Xe chở đồ nặng
của Công ở phía sau, áo giáp của quân lính thiếu thốn, tả hữu đều sợ hãi. Công
trèo lên cao, trông xa thấy quân rợ hàng trận không tề chỉnh, bèn xua binh xuất
kích, sai Trương Liêu làm tiên phong, quân rợ tan vỡ, Đạp Đốn cùng bộ hạ bị
chém cả, lại thu hàng được hơn hai mươi vạn người Hán và Hồ. Thiền Vu Liêu Đông
là Tốc Bộc Hoàn cùng với các hào mục ở Liêu Tây-Bắc Bình, đều bỏ người đồng
tộc, cùng với Thượng-Hi chạy trốn qua Liêu Đông, binh lính của Thượng còn có
mấy nghìn quân kỵ.
Trước
đây, Thái thú Liêu Đông là Côn Tôn Khang cậy mình ở xa không quy phục. Lúc Công
phá Ô Hoàn, có người khuyên Công nên chinh phạt, có thể bắt được anh em Thượng.
Công nói: "Ta có cách khiến cho Khang chém đầu Thượng-Hi, chẳng phiền đến
binh sĩ vậy." Tháng chín, Công dẫn binh từ Liễu Thành quay về, Khang lập
tức chém bọn Thượng-Hi cùng Tốc Bộc Hoàn, đem thủ cấp đến chỗ Công. Chư tướng ngờ vực hỏi: "Công quay về mà Khang chém đầu
Thượng-Hi mang tới, sao vậy?" Công nói: "Bên kia vốn sợ bọn Thượng,
ta đánh gấp thì họ hợp sức chống, ta thong thả thì họ tàn sát lẫn nhau, ấy là
cái thế tự nhiên vậy." Tháng mười một về đến Dịch Thuỷ, Thiền Vu Phổ Phú
Lô ở đại quận Ô Hoàn, Thiền Vu Na Lâu ở thượng quận Ô Hoàn dẫn các vương tôn
đến chúc mừng.
Tào Man
truyện chép: Bấy giờ trời rất lạnh lại hạn hán, suốt hai trăm dặm không có nước
uống, quân lính lại thiếu lương, phải giết mấy nghìn con ngựa để làm lương ăn,
đào sâu xuống đất hơn ba mươi trượng mới có nước. Công về đến nơi, tìm gọi
những người đã can gián mình lúc trước, mọi người chẳng ai biết có việc gì,
người người đều sợ hãi. Công đều hậu thưởng cho, nói: "Cô đi lúc trước,
thừa nguy để cầu may, dẫu đắc thắng, cũng là trời giúp cho vậy. Lời can gián
của các ngươi, ấy là kế vạn toàn, vì thế đáng được khen thưởng, sau này cứ nói
chớ có e ngại gì cả."
Năm thứ
mười ba mùa xuân rằm tháng giêng, Công trở về huyện Nghiệp, cho đào ao Huyền Vũ
để luyện tập thuỷ quân. Nhà Hán bãi chức quan Tam Công, đặt ra chức Thừa tướng,
Ngự sử Đại phu. Mùa hạ tháng sáu, lấy Công làm Thừa tướng.
Hiến Đế
khởi cư chú chép: Sai quan Thái thường là Từ Cầu trao cho ấn thụ. Ngự sử Đại
phu không được quản ngôi Trung thừa, để một người giữ chức Trưởng sử.
Tiên
hiền hành trạng chép: Cầu tự Mạnh Bình (Mạnh Ngọc), người Quảng Lăng. Tuổi trẻ
đã thông đạt đạo lý, gây dựng được khí sắc triều chính. Trải các chức lệnh ở ba
quận Nhâm Thành-Nhữ Nam -Đông
Hải, ở đâu đều làm phong khí nơi ấy được thay đổi. Cầu bị nhà cầm quyền ở đấy triệu
gọi, lúc ấy Viên Thuật cướp phá ở đó. Thuật tiếm xưng, muốn trao cho Cầu ngôi
vị Thượng công, Cầu nhất định không chịu khuất. Sau khi Thuật chết, Cầu được
ngọc tỉ của Thuật, đem về trả cho triều Hán, được bái làm Vệ uý Thái thường;
Công làm Thừa tướng, nhượng ngôi vị ấy cho Cầu.
Mùa thu
tháng bảy, Công nam chinh Lưu Biểu. Tháng tám, Biểu chết, con là Tông lên thay,
đóng ở Tương Dương, Lưu Bị đóng ở Phàn Thành. Tháng chín, Công đến Tân Dã, Tông
bèn ra hàng, Bị chạy ra Hạ Khẩu. Công tiến quân đến Giang Lăng, hạ lệnh tha cho
dân chúng và quan lại cấp thấp ở Kinh châu, cho phép hối cải và thay đổi. Rồi
luận xét công lao những kẻ ở Kinh Châu theo hàng, phong tước hầu cho
mười lăm người, để Đại tướng của Lưu Biểu là Văn Sính làm Thái thú Giang Hạ,
sai thống lĩnh binh cũ. Lại dẫn dụ thu dùng được bọn danh sĩ ở Kinh Châu là Hàn
Tung-Đặng Nghĩa.
Bài tự ở
sách Tứ thể thư thế của Vệ Hằng chép: Người ở Thượng Cốc là Vương Thứ Trọng
khéo viết chữ Lệ, là người đặt ra lối viết chữ Khải(66). Đến đời Linh Đế chuộng
thư pháp, thế gian có nhiều người khéo viết, nhưng chữ viết của Sư Nghi Quan là
đẹp nhất, ông rất kiêu ngạo về khả năng này, sau khi viết chữ, ông đều thiêu
hủy bản nháp. Lương Hộc vì tham muốn sở hữu bản nháp nên tìm cách chuốc rượu
Nghi Quan, sau khi ông ta say Hộc ăn cắp bản nháp, rồi chăm chỉ bắt chước thư
pháp ấy, sau này Hộc làm quan đến Thượng thư bộ Tuyển(67). Lúc đó Công muốn làm
Lạc Dương lệnh, Hộc lại phái Công làm Bắc bộ úy. Sau Hộc nương nhờ Lưu Biểu.
Khi Kinh châu bình định, Công ra sức tìm kiếm Hộc. Hộc sợ, tự trói mình đến
cửa, Công phong làm Quân giá Tư mã, lo việc văn thư, để khuyến khích lối viết
chữ giản, lấy công chuộc tội. Công thường treo chữ viết của Hộc trong doanh
trướng, hoặc ghim trên tường vách để thưởng ngoạn, Công cho rằng phép viết chữ
của Hộc còn cao hơn Nghi Quan. Hộc tự Mạnh Hoàng, người An Định. Những đề tự ở
cung điện nhà Nguỵ, đều do Hộc viết ra cả.
Dật sĩ
truyện của Hoàng Phủ Mật chép: Người ở Nhữ Nam là Vương Tuấn, tự là Tử Văn,
thời trẻ được Phạm Bàng và Hứa Chương(68) biết đến, rất thân với người ở Nam
Dương là Sầm Thuật. Công cho là kẻ áo vải, đặc biệt yêu mến Tuấn, Tuấn cũng
xưng tụng Công có đủ tài để trị đời. Cho đến khi Viên Thiệu cùng với em là
Thuật để tang mẫu thân, đem về an táng ở Nhữ Nam , Tuấn cùng với Công đến dự, hội
họp ở đó có ba nghìn người. Công ở bên ngoài ngầm nói nhỏ với Tuấn rằng:
"Thiên hạ sắp loạn, kẻ đầu sỏ gây loạn hẳn là hai kẻ này. Muốn cứu giúp
thiên hạ, vì trăm họ mà thỉnh mệnh, chẳng tru diệt hai kẻ này trước đi, cái
loạn ngày nay sẽ phát tác vậy." Tuấn nói: "Như lời ngươi nói, để cứu
vớt thiên hạ, là ngươi chứ còn ai nữa?" Hai người cùng cười. Tuấn là người
có vẻ ngoài điềm tĩnh mà trong bụng sáng suốt, chẳng theo mệnh ra làm quan phủ
ở châu quận. Công xa cho vời, không chịu đến, lánh đời ở đất Vũ Lăng, hơn một
trăm nhà đi theo Tuấn. Đế dời đô về Hứa huyện, lại cho với Tuấn làm Thượng thư,
vẫn không chịu đến. Lưu Biểu thấy Thiệu mạnh, ngầm cùng với Thiệu thông đồng,
Tuấn bảo Biểu rằng: "Tào công, là kẻ anh hùng trong thiên hạ vậy, tất sẽ gây
dựng được bá nghiệp, theo được công nghiệp của Hoàn-Văn(69). Nay ông bỏ chỗ gần
tìm chỗ xa, ví như một sớm có việc nguy cấp, mong kẻ ở nơi mạc bắc xa xôi đến
cứu, chẳng cũng khó lắm sao!" Biểu không nghe. Năm Tuấn sáu mươi tư tuổi,
được chết lành ở Vũ Lăng, Công nghe tin thương cảm lắm. Lúc bình định Kinh
Châu, Công thân tới bờ sông viếng tang, đem cải táng ở Giang Lăng, dâng biểu
xin cho là bậc tiên hiền.
Ích châu
mục Lưu Chương ban đầu vâng mệnh trưng tập lính thú, phái binh cung cấp quân
lương. Tháng mười hai, Tôn Quyền giúp Bị vây đánh Hợp Phì. Công từ Giang Lăng
đi đánh Bị, đến Ba Khâu, phái Trương Hí đến cứu Hợp Phì. Quyền nghe tin Hí đến,
bèn bỏ chạy.
Sách Dị
đồng của Tôn Thịnh bình rằng: Xét Ngô chí, Lưu Bị phá quân của Công trước, rồi
sau Quyền mới vây đánh Hợp Phì, mà chỗ này chép rằng Quyền đánh Hợp Phì trước,
sau mới có việc ở Xích Bích. Hai sách bất đồng, Ngô chí chép đúng.
Công đến
Xích Bích, cùng Bị giao chiến, gặp bất lợi. Lúc ấy trong quân có đại dịch, quân
sĩ bị chết rất nhiều, Công bèn dẫn quân về. Bị bèn chiếm lấy Kinh Châu(70) và
các quận phía nam sông Trường Giang.
Sơn
dương công tái ký chép: Chiến thuyền của Công bị thiêu đốt ở đó, Công bèn dẫn
quân theo đường Hoa Dung trở về, gặp bùn lầy, đường không đi được, trời lại có
gió lớn, Công sai tất cả binh lính gầy yếu phải vác cỏ lấp những chỗ lầy lội,
quân kỵ mới đi qua được. Đám quân sĩ gầy yếu bị người ngựa giầy xéo, bị vùi lấp
trong bùn lầy, chết rất nhiều. Quân đã qua được, Công rất mừng, chư tướng hỏi
việc ấy, Công nói: "Lưu Bị, xứng đáng là đối thủ của ta, chỉ hiềm hành
động hơi chậm chạp, nếu y phóng hoả sớm hơn một chút, chúng ta đã chết rồi
vậy." Bị có cũng có phóng hoả nhưng không kịp.
Năm thứ
mười bốn mùa xuân tháng ba, đưa quân đến Tiêu huyện, đóng thuyền nhẹ, thao
luyện thuỷ quân. Mùa thu tháng bảy, từ sông Qua tiến vào sông Hoài, ra Phì
thuỷ, đóng quân ở Hợp Phì. Hai mươi ba ngày sau, có lệnh rằng: "Gần đây,
quân ta mấy lần đi chinh phạt, hoặc gặp dịch bệnh, quân sĩ tử vong chẳng thể
trở về, gia thất oán hận xót thương, trăm họ lưu li, bậc nhân giả há vui được
hay sao? ấy là bất đắc dĩ vậy. Nay lệnh cho gia thuộc người đã chết những ai
không có sản nghiệp chẳng thể tự mưu sinh, quan huyện không được cắt lương, các
trưởng lại phải chiếu cố phủ dụ, sao cho tỏ rõ được ý nguyện của ta." Lại
đặt các chức trưởng lại ở các quận huyện thuộc Dương Châu, cho trồng hoa thược
dược xen lẫn ruộng cấy. Tháng mười hai, quân quay về Tiêu huyện.
Mùa xuân
năm thứ mười lăm, hạ lệnh nói: "Từ xưa vua nhận mệnh và nghiệp trung hưng,
có vua từng chưa cùng người hiền quân tử trị thiên hạ sao! Lúc có được người
hiền, từng không ra khỏi cổng nhà, há không đến gặp nhau sao? Chỉ e người làm
vua không tìm họ mà thôi. Nay thiên hạ chưa định, đây là buổi phải nhanh tìm
người hiền. 'Mạnh Công Xước giúp họ Triệu, họ Ngụy thì tỏ tài năng, không làm
Đại phu của nước Đằng, nước Tiết'. Nếu xét chọn kẻ sĩ nhưng dùng sau, vậy thì
Tề Hoàn Công lấy gì mà xưng Bá ở đời! Nay thiên hạ không có kẻ mặc áo thô mà
mang ngọc và người ngồi câu cá ở bến sông Vị sao? Lại không có kẻ hiếp chị dâu
nhận vàng và chưa gặp Vô Tri sao? Các ông hãy giúp ta xét tìm những người trong
bọn thấp hèn, nếu có tài thì chọn, ta có được thì tất dùng họ". Mùa đông,
làm đài Đồng Tước.
Ngụy Vũ
cố sự chép lệnh ngày kỉ hợi tháng mười hai của Công rằng: "Ta lúc đầu cử
hiếu liêm, thủa trẻ tự thấy mình không phải là kẻ sĩ nổi danh nơi hang núi, sợ
bị người trong nước thấy cái ngu hèn của mình, muốn làm một chức Quận thú, ưa
sửa nắn giáo hóa để lập tiếng tốt, khiến cho người đời biết rõ ta; cho nên ngày
trước ở tại nước Tế Nam, bắt đầu trừ tàn diệt xấu, tuyển chọn công bằng, trái ý
các quan Thường thị. Cho nên bị bọn cường hào giận, ta sợ gây họa cho người
nhà, do đó xưng bệnh về quê. Sau khi bỏ quan, tuổi vẫn đang trẻ, ngoảnh xem
trong bọn cùng làm quan thì có kẻ tuổi đã năm mươi, còn chưa cho là già. Do vậy
tự xét tính, từ khi đó trở về trước đã hai mươi năm, đợi thiên hạ yên, mới cùng
bọn cùng làm quan so sánh mà thôi. Cho nên bỏ về quê nhà, ở phía đông huyện
Tiêu năm mươi dặm đắp ngôi nhà nhỏ, muốn mùa xuân mùa hạ thì đọc sách, mùa đông
mùa xuân thì săn bắn, tìm địa vị ở dưới đáy, muốn lấy nước bùn tự che thân, dứt
ý qua lại với tân khách, nhưng không được như ý. Sau bị gọi làm Đô úy, chuyển
làm Điển quân hiệu úy, muốn vì nhà nước mà đánh giặc lập công, mong được phong
Hầu làm Chinh tây tướng quân, rồi đó đề chữ trên bia mộ là: 'Mộ của Chinh tây
tướng quân của nhà Hán là Tào Hầu'. Đấy là chí của ta vậy. Nhưng lại gặp nạn
Đổng Trác, bèn dấy nghĩa binh. Bấy giờ tụ quân được nhiều, nhưng thường tự giảm
bớt, không muốn có nhiều; vì sao như thế? Là vì quân nhiều thì ý nhiều, nếu
tranh với địch mạnh thì chỉ chuốc lấy mầm họa, cho nên đánh mấy nghìn trận ở
sông Biện, sau đó về đến Dương Châu tuyển quân, cũng không quá ba nghìn người,
đấy là chí ta có hạn vậy. Sau lĩnh chức ở Duyện Châu, phá hàng hơn ba mươi vạn
quân Khăn vàng. Lại gặp lúc Viên Thuật tiếm hiệu ở quận Cửu Giang, kẻ dưới đều
xưng thần, đặt tên cửa là cửa Kiến Hiệu, áo mặc đều là loại của thiên tử, hai
người vợ cùng tranh làm Hoàng hậu. Mưu chí đã định, có người
khuyên
Thuật lên ngôi Đế, bố cáo thiên hạ, đáp nói: 'Tào Công vẫn còn, không nên'. Sau
ta đánh bắt được bốn tướng của Thuật, bắt được nhiều người của Thuật, bèn khiến
cho Thuật thua chạy tan vỡ, phát bệnh mà chết. Kịp lúc Viên Thiệu chiếm miền Hà
Bắc, thế quân mạnh mẽ, ta tự biết sức, thực không địch nổi, nhưng nghĩ rằng
nhảy vào chỗ chết là vì nước, vì nghĩa mà diệt thân, cũng đủ truyền danh tiếng
cho người sau. May mà phá được Thiệu, treo đầu hai con của hắn. Lại nữa Lưu
Biểu tự cho là họ hàng của nhà vua, mang giữ lòng gian, chợt tiến chợt lùi để
xem sử biến, chiếm được bản châu, ta lại định được, cuối cùng bình thiên hạ.
Thân làm Tể tướng, thế là tôn quý tột cùng của tôi thần rồi, còn mong gì hơn.
Nay ta nói lời này, như là tự đại, nhưng muốn nói hết, không gì né tránh. Nếu
nhà nước không có ta, thì không biết sẽ có mấy người xưng Đế, mấy người xưng
Vương? Có kẻ thấy ta thế mạnh, tính vốn không tin vào mệnh trời, ta sợ họ bàn
riêng với nhau cho rằng ta có chí không khiêm tốn, mưu kế xằng bậy, ta thường đau
đáu. Tề Hoàn, Tấn Văn lưu tiếng tốt đến nay là vì thế quân của họ rộng lớn mà
vẫn tôn thờ nhà Chu vậy. Luận ngữ chép 'Thiên
hạ chia ba phần thì nhà Chu có đến hai phần trong đó, vậy mà còn thờ nhà Ân,
thế thì đức của nhà Chu có thể nói là lớn
lắm'. Đấy là có thể lấy nước lớn mà thờ nước nhỏ vậy. Xưa kia Nhạc Nghị chạy
đến nước Triệu, vua Triệu muốn cùng Nhạc Nghị đánh nước Yên, Nhạc Nghị cúi
xuống mà khóc, đáp rằng: 'Thần thờ Chiêu Vương, cũng thờ Đại vương; nếu thần có
lỗi, xin đày đến nước khác, đến chết là cùng, vẫn không nỡ hại lây đến dân
chúng của nước Triệu, huống chi người nối tự của nước Yên'! Vào lúc Hồ Hợi giết
Mông Điềm, Điềm nói: 'Từ thời tổ tiên ta cho đến đời con cháu, được ba đời vua
Tần tin cậy; nay thần lĩnh hơn ba mươi vạn quân, sức này đủ để làm phản, nhưng
tự biết rằng chết mà giữ nghĩa, không dám làm nhục cái đạo của tổ tiên mà quên
ân của Tiên vương vậy'. Ta hễ đọc sách về hai người này, chưa từng không thương
cảm rơi lệ vậy. Từ ông nội ta cho đến ta, đều tự thân nhận chức trọng, có thể
nói là được tin cậy vậy, cho đến con ta là anh em bọn Thực, Hoàn là hơn ba đời
rồi. Ta không chỉ đối với với các ông mà nói thế, mà còn nói với vợ con, đều
sai phải nhớ kĩ lời này. Ta bảo họ rằng: 'Đợi sau khi ta muôn tuổi, các ngươi
đều được xuất giá, mong hãy theo ý ta, khiến cho người khác đều biết'. Lời này
của ta đều là từ gan ruột. Ta dốc lời thành thật từ gan ruột là vì thấy Chu
Công có sách Đằng kim để tự bày tỏ tấm lòng, cũng lo người khác không biết được
nguyên nhân. Nhưng muốn ta giảm bớt quân sĩ và quyền bính mà ta nắm giữ, trả
lại tước Vũ Bình Hầu quốc, thực là không được vậy. Vì sao? Là vì nếu ta bỏ binh
quyền thì sẽ bị người khác gây họa. Ta chỉ vì nghĩ kế cho con cháu, lại nữa nếu
ta thua thì nhà nước cũng sẽ nghiêng đổ, cho nên không được cầu cái danh hão mà
chuốc phải họa lớn. Đấy là điều không nên làm vậy. Ngày trước triều đình phong
tước Hầu cho ba người con của ta, ta cố nhường không nhận, nay lại muốn nhận
lấy, không phải là muốn được vinh hiển, chỉ là muốn để làm phên dậu giúp đỡ ở bên
ngoài, định kế vẹn toàn vậy. Ta nghe nói Giới Thôi đẩy tránh tước phong của
nước Tấn, Thân Tư trốn né ban thưởng của nước Sở, chưa từng không vứt sách mà
than, lấy đó tự răn mình vậy. Nhận lệnh của nhà nước, cầm lưỡi rìu đi đánh dẹp,
lấy yếu để thắng mạnh, dùng nhỏ mà bắt lớn; mưu mà ta nghĩ làm chẳng sai lầm,
điều mà ta mưu, việc gì chẳng thành? Rút cuộc dẹp bằng thiên hạ, không làm nhục
thân mình, có thể nói là trời giúp nhà Hán, không phải là sức của người vậy.
Nhưng được phong cả bốn huyện, thực ấp vạn hộ, có đức gì mà được nhận! Nhưng
bốn cõi chưa yên, không thể nhường chức; còn như đất phong thì có thể nhường.
Nay dâng trả hai vạn hộ ở ba huyện Dương Hạ, Chá, Khổ, chỉ ăn lộc vạn hộ ở
huyện Vũ Bình, tạm mong chia xẻ lời chê giễu, giảm bớt lời trách oán ta
vậy".
Tháng
giêng mùa xuân năm thứ mười sáu, Ngụy thư
chép: Ngày canh thìn, thiên tử hạ lệnh giảm năm nghìn hộ, chia một vạn năm
nghìn hộ của ba huyện mà Công nhường để phong cho ba người con, phong Thực làm
Bình Nguyên Hầu, Cứ làm Phạm Dương Hầu, Báo làm Nghiêu Dương Hầu, đều có thực
ấp năm nghìn hộ.
Thiên tử
bái Thế tử của Công là Phi làm Ngũ quan trung lang tướng, đặt quan thuộc, làm
Thừa tướng phó. Người quận Thái Nguyên là bọn Cao Diệu đem huyện Đại Lăng làm
phản, sai Hạ Hầu Uyên, Từ Hoảng vây phá chúng. Trương Lỗ chiếm Hán Trung; tháng
ba, sai Chung Do đánh hắn. Công sai bọn Uyên ra quận Hà Đông hội quân với Do.
Bấy giờ
các tướng ở miền Quan Trung ngờ Do muốn tự đánh úp, Mã Siêu bèn cùng bọn Hàn
Toại, Dương Thu, Lí Kham, Thành Nghi làm phản. Sai Tào Nhân đánh chúng, bọn
Siêu đóng quân ở Đồng Quan, Công lệnh các tướng rằng: "Quân sĩ miền Quan
Tây cứng mạnh, phải giữ chắc lũy, chớ đánh với chúng". Tháng bảy mùa thu,
Công đánh phương tây, Ngụy thư
chép: Người bàn phần nhiều nói: "Quân miền Quan Tây mạnh, tập mâu dài, nếu
không chọn kĩ quân tiên phong thì không thể địch nổi". Công bảo các tướng
rằng: "Đánh là tại ta, không phải tại giặc. Giặc dẫu tập mâu dài, ta sắp
làm cho chúng không đâm được, các ông chỉ đứng xem mà thôi".
đối cửa
quan với bọn Siêu mà đóng quân. Công gấp chống giữ, lại ngầm sai bọn Từ Hoảng,
Chu Linh buổi đêm vượt bến Bồ Bản, chiếm phía tây sông mà lập trại. Công từ
phía bắc Đồng Quan vượt sông, chưa qua, Siêu cưỡi thuyền đánh gấp. Hiệu úy Đinh
Phỉ nhân đó thả trâu ngựa để dụ giặc, giặc đến lấy trâu ngựa, Công bèn vượt
được, Tào Man truyện chép: Công sắp qua sông, tiền quân vượt trước, bọn Siêu
chợt đến, Công vẫn ngồi ở ghế Hồ không đứng dậy. Bọn Trương Cáp thấy việc gấp,
cùng dẫn Công vào thuyền, nước sông chảy xiết, lúc vượt, bị trôi bốn năm, dặm,
quân kị của bọn Siêu đuổi bắn, tên bay như mưa. Các tướng thấy quân vỡ, không
biết Công chỗ nào, đều sợ hãi, đến lúc gặp mới vui mừng, có kẻ rơi lệ. Công
cười to nói: "Hôm nay suýt bị giặc nhỏ gây khốn"!
men sông
để mở đường về phía nam. Giặc rút về giữa ở cửa sông Vị, Công bèn đặt nhiều
nghi binh, lẻn lấy thuyền chở quân vào sông Vị, làm cầu nổi, buổi đêm chia quân
làm trại ở phía bờ nam sông Vị. Giặc buổi đêm đến đánh trại, bèn ém quân đánh
phá chúng. Bọn Siêu đóng quân ở phía nam sông Vị, sai sứ giả làm tin cắt đất từ
sông bờ đến phía tây để xin hòa, Công không theo. Tháng chín, đem quân vượt
sông Vị.
Tào Man
truyện chép: Bấy giờ quân Công hễ vượt sông Vị thì liền bị quân kị của Siêu đến
đánh, không lập được trại, đất lại nhiều cát, không đắp được lũy. Lâu Tử Bá
khuyên Công rằng: "Nay trời lạnh, có thể lấy cát đắp thành, dẫn nước rót
vào, có thể một đêm thì xong". Công theo lời, bèn làm nhiều túi lụa để
chứa nước, buổi đêm đem quân vượt sông đắp thành, thành vững, do đó quân của
Công đều vượt sông Vị hết. Có người ngờ rằng bấy giờ đang tháng chín, nước chưa
đóng băng.
Thần là
Tùng Chi xét Ngụy thư chép: Công vào tháng chín đến Đồng Quan, tháng nhuận thì
lên phía bắc vượt sông, thì lúc đó là tháng sáu nhuận vậy, đến đây có thể có
rét đậm chăng!
Bọn Siêu
nhiều lần dụ đánh, lại không ứng; cố xin cắt đất, xin đem con đến làm tin, Công
dùng kế của Gỉả Hủ, vờ ưng theo. Hàn Toại xin cùng gặp nhau với Công. Công cử
hiếu liêm cùng năm với Toại, lại cùng bằng tuổi với Toại, do đó ngồi ngựa nói
chuyện, không màng đến việc quân. Chỉ nói về việc cũ ở kinh đô, vỗ tay vui
cười. Đã xong, bọn Siêu hỏi Toại rằng: "Tào Công nói gì"? Toại nói:
"Không có nói nói gì ". Bọn Siêu nghi Toại.
Ngụy thư
chép: Hôm sau Công lại gặp nói chuyện với bọn Toại, các tướng nói: "Công
nói chuyện với giặc, không nên coi thường, nên lấy gỗ làm ngựa để phòng
bị". Công cho là phải, tướng giặc gặp Công, đều lên ngựa mà bái, người
Tần, người Hồ xem, trước sau chen chúc, Công cười bảo giặc rằng: "Các
ngươi muốn xem Tào Công chăng? Cũng giống người vậy, không có bốn mắt hai
miệng, chỉ có nhiều mưu trí thôi"! Người Hồ trước sau đến xem. Lại bày hơn
năm nghìn quân kị giáp sắt làm mười nhóm liền nhau, khí thế hăng hái, giặc thêm
sợ hãi.
Hôm
khác, Công gửi thư cho Toại, nhiều chỗ xóa bỏ, nhìn như Toại sửa lại; bọn Siêu
thêm nghi Toại. Công bèn hẹn ngày hội đánh, trước đem quân nhỏ dụ chúng, đánh
hồi lâu, rồi tung quân kị mạnh kẹp đánh, đại phá chúng, chém bọn Thành Nghi, Lí
Kham; bọn Toại, Siêu chạy đến Lương Châu; Dương Thu trốn đến quận An Định; miền
Quan Trung bình. Các tướng hỏi Công rằng: " Lúc đầu giặc giữ Đồng Quan,
đường phía bắc sông Vị để trống, sáo không từ Hà Đông đánh quận Phùng Dực mà
lại giữ Đồng Quan, sao phải dài ngày vượt lên phía bắc, sao vậy"? Công
nói: "Giặc giữ Đồng Quan, nếu ta vào vùng phía đông sông, giặc tất đến giữ
các bến sông, vậy thì phía tây sông không vượt được; ta đem nhiều quân đến Đồng
Quan, giặc tất đem quân về phía nam, như thế vùng phía tây sông để trống, cho
nên hai tướng mới chiếm được phía tây sông; sau đó dẫn quân vượt sông lên phía
bắc, giặc không tranh được phía tây sông với ta, là vì có quân của hai tướng ở
đấy vậy. Bày xe liên tiếp làm rào, mở đường xuống phía nam, Thần là Tùng Chi
xét: Năm thứ hai thời Cao Tổ, đánh với quân Sở ở vùng Huỳnh Dương, Kinh Sách,
đắp đường lối nối liền sông để đến lấy thóc ở Ngao Thương. Ứng Thiệu nói:
"Sợ địch cướp xe đồ, cho nên đắp bờ tường thấy như ngõ phố". Nay Ngụy
Vũ Đế không đắp bờ tường, nhưng bày xe liên tiếp làm rào để ngăn hai bên.
đã tỏ
thế không thắng được, lại tỏ vẻ yếu kém. Vượt sông Vị làm lũy chắc, giặc đến
đánh cũng không ra, do đó làm cho quân giặc kiêu căng; cho nên giặc không lập
lũy trại mà xin cắt đất. Ta thuận mà hứa theo. Theo ý của chúng, khiến chúng
yên lòng mà không phòng bị, nhân đó nuôi sức quân sĩ, một sớm đánh chúng, đấy
gọi là sấm đánh không kịp bịt tai, dùng binh biến hóa, không chỉ một đường
vậy". Lúc đầu, giặc thường đem một cánh quân đến, Công liền có vẻ mừng.
Sau khi giặc phá, các tướng hỏi nguyên nhân. Công đáp rằng: "Quan Trung xa
xôi, nếu giặc đều giữ chỗ hiểm, nếu đánh chúng thì không phải một hai năm thì
không không định được. Nay đều tụ đến, quân chúng tuy đông, nhưng chẳng theo
phục nhau, quân không có chủ lớn, vậy nên một trận là diệt được, lập công nhận
thưởng, do đó ta mừng".
Tháng
mười mùa đông, đem quân từ Tràng An lên phía bắc đánh Dương Thu, vây quận An
Định. Thu hàng, phong lại chức tước, sai vỗ về dân chúng.
Ngụy
lược chép: Dương Thu vào giữa năm Hoàng Sơ chuyển làm Thảo khấu tướng quân, vị
Đặc tiến, phong Lâm Kinh Hầu, được trọn đời.
Tháng
mười hai, từ An Định về, để Hạ Hầu Uyên đóng quân ở Tràng An.
Tháng
giêng mùa xuân năm thứ mười bảy, Công về đất Nghiệp. Thiên tử lệnh Công bái
không xưng tên, vào chầu không phải đi nhanh, đeo kiếm lên điện, như Tiêu Hà
ngày trước. Quân còn lại của Mã Siêu là bọn Lương Hưng đóng quân ở huyện Lam
Điềm, sai Hạ Hầu Uyên đánh dẹp chúng. Cắt các huyện Thang Âm, Triều Ca, Lâm Lự
của quận Hà Nội, các huyện Vệ Quốc, Đốn Khâu, Đông Vũ Dương, Phát Can của Đông
Quận, các huyện Anh Đào, Khúc Chu, Nam Hoa của quận Cự Lộc, huyện Nhâm Thành
của quận Quảng Bình, huyện Tương Quốc, Hàm Đan, Dịch Dương của đất Triệu nhập
vào quận Ngụy.
Tháng
mười mùa đông, Công đánh Tôn Quyền.
Tháng
giêng mùa xuân năm thứ mười tám, đem quân đến Nhu Tu, đánh phá trại phía tây sông
của Quyền, bắt được Đô đốc Công Tôn Dương của Quyền, rồi dẫn quân về. Hạ chiếu
gộp nhập mười bốn
châu,
lập lại thành chín châu. Tháng tư mùa hạ, đến đất Nghiệp.
Ngày
bính thân tháng năm, thiên tử sai Ngự sử đại phu Si Lự cầm cờ tiết phong Công
làm Ngụy ông, Tục Hán thư chép: Lự tự Hồng Dự, người huyện Cao Bình quận Sơn
Dương. Lúc nhỏ được Trịnh Huyền dạy bảo. Đầu năm Kiến An làm Thị trung.
Giang
Biểu truyện của Ngu Phổ viết: Hiến Đế từng gặp riêng Lự và Thiếu phủ Khổng
Dung, hỏi Dung rằng: "Hồng Dự có tài gì"? Dung nói: "Nên bảo
chính đạo, không nên trao quyền". Lự cầm hốt nói: "Dung ngày xưa
trông coi quận Bắc Hải, chính sự tan nát, dân chúng vỡ lở, quyền của Dung chỗ
nào"! Rồi cùng Dung ganh đau hơn kém, dẫn đến không hòa. Công gửi thư hòa
giải họ. Lự từ chức Quang lộc đại phu chuyển làm Đại phu.
chiếu
nói: "Trẫm vì không có đức, lúc nhỏ gặp tai họa, chạy qua phương tây, dời
đến miền Đường, Vệ. Vào lúc bấy giờ, rối như tơ vò vậy, Công
Dương truyện chép: "Ông rối như tua cờ" Hà Hưu nói: "Tua cờ
giống tơ vò. Nói sánh với tua cờ, nói là bị kẻ dưới bắt đi đông đi tây".
ít tế
tông miếu, xã tắc không có chủ, bọn ác nhòm ngó, chia cắt Hoa Hạ, dân trong cả
nước, trẫm không trị được, liền muốn theo mệnh Cao Tổ mà muốn vùi xuống đất,
trẫm sớm dậy tối ngủ, tim gan đau xót, nói: 'Tổ ơi, cha ơi, các bậc tiên chính
ơi, Lệnh của Văn Hầu chép: "Cũng là tiên chính".
Trịnh
Huyền nói: "Tiên chính cũng là bầy tôi thời trước. Nói về công khanh, Đại
phu vậy". người nào giúp được thân trẫm'? Bèn mặc cho trời, gửi gắm Thừa
tướng giữ gìn xã tắc ta, cứu giúp lúc gian khó, trẫm thật nhờ vào ông. Nay sắp
trao điển lễ cho ông, ông nên kính nghe lệnh của trẫm. Xưa kia Đổng Trác vừa gây
nạn nước, chư hầu bỏ vị để mưu giúp nhà vua, Tả thị
truyện chép: "Chư hầu bỏ vị để giúp
vua".
Phục Kiền
nói: "Nói là chư hầu bỏ vị riêng của mình để giúp Nhà vua".
ông lại
đến giúp, bắt đầu dấy binh, đấy là lòng trung của ông đối với triều đình. Sau
giặc Khăn vàng thay đổi lẽ trời, lấn ba châu của ta, gây loạn đến dân đen, ông
lại cắt trừ chúng để dẹp yên miền đông của Hoa Hạ, đấy lại là công của ông. Hàn
Tiêm, Dương Phụng chuyên quyền ra oai, ông lại đến đánh, dẹp bỏ nạn ấy, rồi dời
đô đến đất Hứa, đặt quan cúng tế, không trái phép cũ, trời đất quỷ thần do đó
cũng giữ lẽ phải, đấy cũng là công của ông. Viên Thuật tiếm nghịch, phóng túng
ở miền Hoài Nam, sợ hãi uy của ông, ông bày mưu hay, trong trận Kì Dương, treo
đầu Kiều Nhuy, oai trùm nam bắc, Thuật vì thế tan vỡ, đấy cũng là công của ông.
Lại trở giáo đánh phương đông, Lữ Bố bị giết, quay xe đánh lại, Trương Dương
gục chết, Khuê Cố chịu tội, Trương Tú cúi phục, đấy cũng là công của ông. Viên
Thiệu làm loạn lẽ trời, mưu đổi xã tắc, cậy quân của mình, oai lừng cả nước,
vào lúc bấy giờ, quân vua nhỏ yếu, thiên hạ run sợ, chẳng ai vững chí, ông lại
cầm cờ tiết, sáng trùm Mặt trời, hăng hái lĩnh quân, dùng kế thần vũ, đến cùng
bến Quan Độ, giết hết bọn xấu, Kinh Thi chép: "Đến chỗ cùng trời, đến đồng
Mục Dã". Trịnh Huyền nói: "Giới là chỗ cùng".
Hồng
phạm viết: "Cổn bị giết chết". nhà nước tránh khỏi nguy khốn, đấy
cũng là công của ông. Đem quân vượt sông, dẹp yên bốn châu, Viên Đàm, Cao Cán
đều phải treo đầu, giặc biển trốn chạy, giặc Hắc Sơn theo lệnh, đó cũng là công
của ông. Người Ô Hoàn ở ba quân, gây loạn suốt hai đời, Viên Thượng dựa theo
chúng, chiếm giữ cõi bắc, ông lại buộc ngựa kéo xe, một trận là diệt, đấy cũng
là công của ông. Lưu Biểu phản nghịch, không nạp cống vật, đem quân đi đánh, uy
phong lấn lướt, tám quận ở đất Bách Việt trói tay quỳ gối, đấy cũng là công của
ông. Mã Siêu, Thành Nghi đều cùng giúp nhau, chiếm lấy vùng Hà, Đồng, buông thả tự
ý, ông lại tiễu trừ chúng ở phía nam sông Vị, dâng vạn cái tai, bèn định vùng
biên, vỗ về người Nhung, Địch, đấy cũng là công của ông. Người Tiên Ti, Đinh
Linh rong ruổi mà đến, người Tiên Vu, Bạch Ốc xin quan nhận chức, đấy cũng là
công của ông. Ông có công định thiên hạ, thêm có đức sáng, tuôn ra khắp nước,
làm đẹp phong tục, chăm dạy lễ giáo, cẩn thận xét ngục, quan lại không dám làm
càn, dân không mang lòng ác; tôn thờ nhhà vua, nối lại nước đã dứt, đức cũ công
trước, không công không thưởng; dẫu Y Doãn lay động trời cao, Chu Công sáng
khắp bốn cõi, cũng không được như thế. Trẫm nghe nói bậc vua thời trước đều nêu
đức sáng, lấy đất phong để đền đáp, trao dân để phân phong, yêu thích phép cũ,
sắm đủ vật lễ là để làm phên dậu của nhà vua, cứu giúp thời loạn. Vào thời Chu
Thành Vương, Quản, Sái không yên, đánh kẻ gây nạn, thưởng người lập công, mới
sai Thiệu Khang Công ban lộc cho Tề Thái Công, phía đông đến bờ biển, phía tây
đến sông Hà, phía nam đến Mục Lăng, phía bắc đến đất Vô Lệ, bọn Ngũ hầu, Cửu
bá, đều được đánh họ, ở đời nắm ngôi Thái sư, để trông coi miền đông; rồi đến
thời Tương Vương, người nước Sở không theo cống chức, lại lệnh Tấn Văn Công lên
làm Hầu bá, ban cho hai cỗ xe to, áo hổ, rìu búa, rượu nếp, cung tên, dấy lên ở
miền Nam Dương, cả đời làm minh chủ. Nhà Chu ngày trước không vỡ lở, thực là
nhờ vào hai vị ấy. Nay đức của ông sáng rõ, cúi mình thờ trẫm, vâng theo mệnh
trời, dương mở uy liệt, nới rộng chín cõi, chẳng ai không phục, Bàn Canh nói:
"Vỗ về dân chúng".
Trịnh
Huyền nói: "Tuy, ư vậy, vỗ về dân chúng".
Quân
Thích nói: "Đến tại bờ biển nơi Mặt trời mọc, chẳng ai không phục".
Suất là
theo. Tỉ là sai khiến. Nơi xa bốn cõi, nơi mà Mặt trời chiếu đến, không ai
không theo phép tắc và sai được công cao hơn cả Y, Chu ,
mà thưởng ít hơn Tề, Tấn, trẫm rất hổ thẹn. Trẫm là kẻ yếu kém, chịu nhận ngôi
đứng đầu muôn dân, làm việc khó này như lội vực sâu, nếu ông không giúp, trẫm
không làm được. Nay đem các quận Hà Đông, Hà Nội, Ngụy Quận, Triệu Quốc, Trung
Sơn, Thường Sơn, Cự Lộc, An Bình, Cam Lăng, Bình Nguyên của Kí Châu phong ông
làm Ngụy Công. Ban cho ông đất đen, tặng ông cờ trắng, đốt bói mai rùa, đắp
dựng xã tắc. Xưa vào thời nhà Chu, Tất Công, Mao Công vào làm Ngự tá, Chu,
Thiệu làm Sư bảo, ra làm Mục bá, coi việc trong ngoài, ông thực xứng như vậy,
vẫn bái làm Thừa tướng lĩnh chức Kí Châu Mục như cũ. Lại ban thêm cho ông lễ
'cửu tích', ông hãy kính nghe lệnh trẫm. Dùng ông sắp đặt phép tắc, dạy dân noi
theo, sai yên chức nghiệp, không ai đổi chí. Ban cho ông cỗ xe lớn, một cỗ xe
binh, hai con ngựa đực đen. Ông khuyến khích chức phận, nhà nông gắng cày, Bàn
Canh nói: "Bỏ nghề nông để yên, không gắng làm việc".
Trịnh
Huyền nói: "Hôn là gắng".
thóc vải
chất đầy, nghiệp lớn trỗi dậy, do đó ban ông áo miện cổn, giày đỏ. Ông chất
phác khiêm nhường, dân đen làm theo, lớn nhỏ có lễ, trên dưới hòa thuận, cho
nên ban ông khúc nhạc 'hiên huyền', điệu múa 'lục dật'. Ông sửa nắn phong tục,
truyền khắp bốn cõi, phương xa ngưỡng phục, Hoa Hạ sung túc, do đó ban ông ở
nhà đỏ. Ông xét nghĩ sâu xa, biết Đế gặp nạn, trao chức cho người tài, dùng
người hiền, đều cử bọn tốt, cho nên ban ông được lên thềm 'nạp bệ'. Ông nắm
quyền bính, chính lệnh đúng đắn, tội dù nhỏ nhất, chẳng gì không chặn. Cho nên
ban ông ba trăm quân hổ bôn. Ông kính theo lẽ trời, nêu rõ hình pháp, Lời
"kiểu kiền thiên hình" xuất từ Quốc ngữ, Vi Chiêu
chú nói: "Kiểu là tế vậy, kiền là kính vậy, hình là pháp vậy".
kẻ phạm
pháp trái luật, chẳng ai không bị trừng phạt, cho nên ban ông một cái búa rìu.
Ông như rồng bay hổ cuộn, nhìn rõ tám hướng, đánh dẹp phản nghịch, vỗ về bốn
cõi, cho nên ban ông một cây cung đỏ, trăm mũi tên đỏ, mười cây cung đen, trăm
mũi tên đen. Ông lấy sự cung kính làm tính, lòng hiếu kính làm đức, nghiêm minh
thành thật, làm trẫm cảm động, cho nên ban ông một hũ rượu nếp, cùng muôi ngọc
khuê. Nước Ngụy được đặt trăm quan công khanh dưới quan Thừa tướng, đều như chế
độ chư hầu Vương thời đầu nhà Hán. Mong thay, kính theo lệnh trẫm! Chăm lo dân
của ngươi, nêu lập công lao, giữ trọn đức sáng của ngươi để nêu rõ mệnh lệnh
của Cao Tổ ta"!
Lời viết
trên này là của Thượng thư hữu thừa Phan Úc nhà Hậu Hán. Úc tự Nguyên Mậu,
người huyện Trung Mâu quận Trần Lưu.
Ngụy thư
chép lệnh của Công rằng: "Việc nhận cửu tích, dựng lập xã tắc, Chu Công là
người như thế. Tám vị Vương khác họ của nhà Hán là người áo vải cùng nổi dậy
với Cao Tổ, lập nên nghiệp vương, công của họ rất lớn, ta sao sánh được"?
Trước
sau nhường ba lần, do đó bọn Trung quân sư Lục Thụ Đình Hầu là Tuân Du, Tiền
quân sư Đông Vũ Đình Hầu là Chung Do, Tả quân sư Lương Mậu, Hữu quân sư Mao
Giới, Bình lỗ tướng quân Hoa Hương Hầu là Lưu Huân, Kiến vũ tướng quân Thanh
Uyển Hầu là Lưu Nhược, Phục ba tướng quân Cao An Hầu là Hạ Hầu Đôn, Dương vũ
tướng quân Đô đình hầu là Vương Trung, Phấn uy tướng quân Đông Hương Hầu là Lưu
Triển, Kiến trung tướng quân Xương Hương Hầu là Tiên Vu Phụ, Phấn vũ tướng quân
An Quốc Đình Hầu là Trình Dục, Thái trung đại phu Đô Hương Hầu là Giả Hủ, Quân
sư tế tửu Thiên Thu Đình Hầu là Đổng Chiêu, Đô đình hầu Tiết Hồng, Nam Hương
Đình Hầu là Đổng Mông, Quan nội hầu Vương Xán, Phó Tốn, Tế tửu Vương Tuyển,
Viên Hoán, Vương Lang, Trương Thừa, Nhâm Phan, Đỗ Tập, Trung hộ quân Quốc Minh
Đình Hầu là Tào Hồng, Trung lĩnh quân Vạn Tuế Đình Hầu là Hàn Hạo, Kiêu kị
tướng quân An Bình Hầu là Tào Nhân, Lĩnh hộ quân tướng quân Vương Đồ, Trưởng sử
Vạn Tiềm, Tạ Hoán, Viên Lộ tấu khuyên rằng: "Ngày xưa từ thời Tam đại, lấy
đất phong cho bầy tôi, chịu mệnh trung hưng, ban thưởng cho phụ tá, đều khen
công tụng đức, làm phiên dậu cho nhà nước. Vừa rồi thiên hạ vỡ lở, bọn anh hào
nổi dậy, làm việc bạo ngược sa đọa. Minh công dấn thân nhận lệnh để trừ nạn,
giết hai họ Viên tiếm nghịch, diệt bọn giặc Khăn vàng làm loạn, giết sạch kẻ
đứng đầu, gột rửa nhơ bẩn, dãi dầu sương tuyết hơn hai mươi năm, từ khi có sách
vở đến nay, chưa có ai lập công như thế. Xưa kia Chu Công nối nghiệp của Văn
Vương, Vũ Vương, do đó tạo nên nghiệp lớn, gối đầu nắm bút, trông coi chư hầu,
trừ hại Thương, Yểm, không quá hai năm, Lữ Vọng nhân hình thế chiếm hai phần
ba, dựa vào sức của tám trăm chư hầu, cầm cờ mao tiết việt, một lúc lướt rạp,
sau đó lập dựng xã tắc, thu đất lập nước. Tám con của Chu Công đều làm Hầu, Bá,
dùng trâu trắng lông đỏ mà cúng tế trời đất, sắp đặt điển chương, đắp dựng cung
phủ, vẻ vang lừng lẫy như thế. Rồi đến nhà Hán nổi lên, bầy tôi giúp sức,
Trương Nhĩ, Ngô Nhuế, công của họ rất nhỏ nhưng cũng được mở đất xây thành,
ngoảnh mặt phía nam xưng Vương. Đấy đều là vua sáng chúa giỏi ở trên, tôi hiền
tể thánh giúp ở dưới, do đó có chính lệnh của Tam đại, phép điển của nhà Hán.
Nay sánh công thì Chu, Lữ nép bỏ, kể công thì Trương, Ngô ẩn náu, bàn phép tắc
thì trọng hơn Tề, Lỗ, nói về đất thì nhiều hơn Trường Sa; vậy thì tước phong
của nước Ngụy phải được cái vẻ vang của lễ cửu tích, huống chi còn có tặng
thưởng ngày trước, vẫn được đeo ngọc mà mặc áo thô vậy. Vả lại các bọn Hầu,
tướng được nhờ đế vương, cũng được thưởng công, đeo dây thao tím mặc áo màu
vàng, có đến hàng trăm, cũng do đó mà truyền cho vạn đời, mà chỉ có minh công
từ chối ngồi ngôi cao, sẽ khiến cho kẻ dưới không tự yên lòng, trên trái lòng
vui của nhà vua, dưới làm mất lòng mong mỏi của kẻ đội mũ đai, bỏ quên nghiệp
lớn của người phụ tá, đấy là việc nhỏ của kẻ tầm thường, là cái mà bọn Tuân Du
rất sợ hãi". Do đó Công hạ lệnh ra ngoài, nhưng chỉ nhận đất Ngụy Quận.
Bọn Tuân Du lại nói: "Xét thấy vừa phong nước Ngụy, triều đình sinh lo,
nên hỏi kế trăm quan, rồi mới hạ lệnh. Mà minh công trái ý của nhà vua lâu ngày
như vậy là không phải là có lễ lớn. Nay đã kính nhận chiếu lệnh, theo lòng mong
mỏi của dân chúng, lại muốn từ chối nhiều lần, nhường chín nhận một, là như
tước thưởng của nhà Hán không được ban phong, là điều mà bọn Du xin không được
nghe theo vậy. Xưa Tề, Lỗ được phong, thu lấy miền đông, đất đai thu thuế có
đến bốn trăm vạn nhà, nền to móng rộng, để lấy đó mà lập công, cho nên lập công
giúp đỡ, dựng công phụ tá. Nay nước Ngụy dẫu có tiếng là mười quận, nhưng ít
hơn thành Khúc Phụ, tính về số hộ, không bằng một nửa, để làm phiên dậu cho nhà
vua, dựng cắm rào che, như vậy vẫn chưa đủ vậy. Vả lại nhà vua xét nhà Tần mất
vì cái họa không có người giúp đỡ, trách cái nạn nhiễu loạn của ngày trước,
chọn dùng trung hiền, đắp sửa nền móng, mong minh công kính theo lệnh vua, chớ
do dự làm trái". Công mới nhận lệnh.
Ngụy
lược chép thư tạ của Công rằng: "Thần chịu ơn dày của Tiên đế, làm đến
chức Lang, bản tính lười biếng nhưng mong vẹn toàn, không dám mong ngồi ngôi
cao, coi vẻ vang là thứ yếu. Gặp lúc Đổng Trác làm loạn, lẽ ra nên liều chết vì
nạn nước, cho nên dám nhận lệnh dẫn thân, đi đầu lĩnh quân sĩ, bèn nắm được dịp
may nghìn năm mới có, được sắp đặt quan thuộc. Vào thời hai họ Viên sôi sục xâm
hại, bệ hạ và thần cùng lo lắng, ngưỡng về kinh sư, đánh chống giặc mạnh,
thường sợ vua tôi sa vào miệng hổ, thực là không tự nghĩ là giữ được đầu cổ.
Cậy vào anh linh của tổ tiên, bọn xấu bị diệt trừ, khiến cho kẻ bầy tôi hèn mọn
được vang dang nơi ấy. Bệ hạ ban thêm ân sủng, trao chức Thừa tướng, phong tước
cấp lộc, nhiều lớn trọng hậu. Ước muốn lúc bình sinh thực là không dám mong thế.
Miệng nói với lòng rằng được yêu thích là tự mình đợi bị phạt tội, chỉ muốn giữ
tước Liệt hầu, truyền cho con cháu mà thôi, như thế tự gửi gắm cho đời, mãi
không phải lo lắng. Không ngờ bệ hạ dãi bày ý tốt, phong đất ban hưởng cho kẻ
bầy tôi hèn kém này, đất sánh với Tề, Lỗ, lễ ngang hàng phiên vương, nếu không
phải tôi thần có công thì không được nhận lấy. Thần tấu lên bệ hạ, không chịu
nghe theo, mà bệ hạ lại gấp hạ chiếu đến, thực là khiến cho thần cúi xuống
ngẩng lên đều bị bức ép. Thần cúi tự xét mình đã nắm vị đại thần, mà làm ngôi
Vương nữa thì thần không nên nhận, há dám tự ý? Ý của kẻ ngu này là từ chối,
xin được giữ chức lúc đầu. Nay phải nhận đất đai, sắp đặt làm phên dậu, thần
không dám trái lệnh, truyền cho đời sau; cha con thần cùng thề trọn đời, đem
thân tan mạng hết để đền đáp ơn dày. Oai trời trước mặt, sợ hãi nhận
chiếu".
Tháng
bảy mùa thu, bắt đầu dựng tông miếu xã tắc của nước Ngụy. Thiên tử hỏi ba con
gái của Công làm quý nhân, ngưởi còn nhỏ phải đợi lớn lên ở nước Ngụy.
Hiến Đế
khởi cư chú chép: Sai sứ cầm cờ tiết theo Thái thường Đại tư nông An Dương Đình
Hầu là Vương Ấp đem các đồ ngọc, năm vạn thất lụa, lụa đen nhạt, lụa sống đến
đất Nghiệp làm lễ hỏi, năm người làm mối, đều lấy làm Nghị lang, làm việc Đại
phu, một người làm Phó giới.
Tháng
chín, xây đài Kim Hổ, đào kênh dẫn nước sông Chương vào rãnh Bạch Câu để thông
vào sông. Tháng mười mùa đông, chia quận Ngụy làm bộ Đông, Tây, đặt quan Đô úy.
Tháng mười một, bắt đầu đặt quan Thượng thư, Thị trung, Lục khanh.
Ngụy thị
Xuân thu chép: Lấy Tuân Du làm Thượng thư lệnh, Lương Mậu làm Bộc xạ, Mao Giới,
Thôi Diễm, Thường Lâm, Từ Dịch, Hà Quỳ làm Thượng thư, Vương Xán, Đỗ Tập, Vệ
Kí, Hòa Trị làm Thị trung.
Mã Siêu
tại huyện Hán Dương lại dựa vào người Khương, Hồ gây hại, vua của người Đê là Thiên
Vạn làm phản theo Siêu, đóng quân ở huyện Hưng Quốc. Sai Hạ Hầu Uyên đánh
chúng.
Tháng
giêng mùa xuân năm thứ mười chín, bắt đầu cày ruộng tịch điền. Người quận Nam An là Triệu
Cù, người huyện Hán Dương là Doãn Phụng đánh Siêu, chém bêu đầu vợ con của
Siêu, Siêu trốn đến Hán Trung. Hàn Toại chạy đến quận Kim Thành, vào làm bộ
tướng của vua của người Đê là Thiên Vạn, đem hơn vạn quân kị Khương, Hồ đánh
với Hạ Hầu Uyên, đánh phá được chúng, Toại chạy đến quận Tây Bình. Uyên cùng
các tướng đánh huyện Hưng Quốc, làm cỏ huyện này. Bỏ các quận An Đông, Vĩnh
Dương.
An Định
Thái thú Quán Khâu Hưng sắp đến làm quan, Công răn nói: "Người Khương, Hồ
qua lại với Trung Quốc, nên tự làm cho người ta đến theo, cẩn thận chớ khiến
người ta bỏ đi. Có được người tốt thì khó, phải khuyên bảo người Khương, Hồ làm
điều xằng bậy nhân đó để mưu lợi, không nên tự ý làm trái thói tục của họ, nếu
tự ý làm thì không có ích". Hưng đến, sai Hiệu úy Phạm Lăng đến miền
Khương Trung, Lăng quả nhiên dạy người Khương, sai họ tự xin làm Thuộc quốc đô
úy. Công nói: "Ta biết trước như thế, dẫu chẳng phải thánh, nhưng phần lớn
đúng thế".
Hiến Đế
khởi cư chú chép: Sai quan Thái thường sự Đại tư nông An Đình Hầu là Vương Ấp
cùng Tông chính Lưu Ngải đều cầm cờ tiết, năm người môi giới, đem xe nghựa lụa
bó, cùng quan Cấp sự, Hoàng môn Thị lang, hai viên Dịch đình thừa, Trung thường
thị đón hai quý nhân ở nước Ngụy. Ngày quý hợi tháng hai, lại ở tông miếu của
Ngụy Công trao ấn thao cho hai quý nhân. Ngày giáp tí, đến cửa Diên Thu thuộc
cung của Ngụy Công, đón quý nhân lên xe. Ngụy Công sai Lang trung lệnh, Thiếu
phủ, Bác sĩ, Ngự sử thừa Hoàng cứu lệnh, Thừa tướng duyện thuộc theo hầu hộ
tống quý nhân. Ngày quý dậu, hai quý nhân đến giữa đình Vị Thương, sai Thị
trung Đan Tương Nhũng dẫn quân hổ bôn trước sau đi ngựa trạm đến đón. Ngày ất
hợi, hai quý nhân vào cung, Ngự sử đại phu, quan hai nghìn thạch đem các Đại
phu, Nghị lang hội ở giữa điện, hai quan khanh và hai viên Thị trung, Trung
lang của nước Ngụy cùng với các công khanh của nhà Hán lên điện dự yến.
Tháng
ba, thiên tử sai Ngụy Công giữ ngôi trên các Vương, Hầu, đổi trao cho ấn vàng,
thao đỏ, mũ dải dài.
Hiến Đế
khởi cư chú chép: Sai Tả trung lang tướng Dương Tuyên, Đình hầu Bùi Mậu câm cờ
tiến đến trao ấn thao cho Ngụy Công.
Tháng
bảy mùa thu, Công đánh Tôn Quyền.
Cửu châu
xuân thu chép: Tham quân Phó Cán can rằng: "Việc lớn trị thiên hạ có hai,
đấy là văn và võ; dùng võ thì ra uy trước, dùng văn thì tỏ đức trước, uy đức đủ
để giúp nhau, đo đó phép vua mới vững. Ngày trước thiên hạ loạn lạc, trên dưới
trật bậc, minh công dùng võ mà dẹp trừ. Mười phần yên đến chín. Nay kẻ chưa
theo lệnh vua là Ngô và Thục. Ngô có cái hiểm của sông dài, Thục có cái trở của
núi cao, khó dùng uy mà ép phục được, chỉ dễ dùng đức mà mà vỗ về. Kẻ ngu này
cho rằng nên cất giáp nghỉ quân, nuôi quân dưỡng dân, chia đất ban phong, luận
công tặng thưởng, như thế thì trong ngoài vững lòng, khuyến khích lập công, thế
thì thiên hạ sẽ biết phép tắc vậy. Rồi sau dần mở mang trường học để dạy bảo
đức hạnh mà nuôi dưỡng người có tiết nghĩa. Công có uy vũ vang lừng bốn cõi,
nếu sửa văn để mưu đồ thì khắp dưới vòm trời, không ai không thần phục vậy. Nay
đem mười vạn quân đóng ở bến sông lớn, nếu giặc dựa chỗ chắc nấp chỗ sâu, thì
quân mã không thể trổ hết sức lực, mưu lạ kì không có chỗ dùng được, lúc ấy làm
mất uy lớn lại làm cho lòng địch không phục. Mong minh công nghĩ đến nghĩa Ngu
Thuấn múa khiên kích, giữ uy nuôi đức, lấy đạo mà đánh thắng". Công không
theo, quân bèn chẳng lập công. Cán tự Ngạn Tài, người quận Bắc Địa, cuối cùng làm
Thừa tướng thương tào thuộc. Có con là Huyền.
Lúc
trước, người quận Lũng Tây là Tống Kiến tự xưng là Hà Thủ Bình Hán Vương, tụ
quân ở huyện Bao Hãn, đổi niên hiệu, đặt trăm quan, được hơn ba mươi năm. Sai
Hạ Hầu Uyên từ huyện Hưng Quốc đánh Tống Kiến. Tháng mười mùa đông, làm cỏ
huyện Bao Hãn, chém Kiến, miền Lương Châu được bình.
Tháng
mười một, Hoàng hậu của nhà Hán là Phục Thị buổi đêm gửi thư cho cha là Đồn kị
hiệu úy Hoàn, nói là Đế từ khi Đổng Trác bị giết đến nay có ý oán giận Công,
lời rất xấu xa, nghe tin, phế Hoàng hậu bắt chết, anh em đều bị khép tội.
Tào Man
truyện chép: Công sai Hoa Hâm đem quân vào cung bắt Hậu, Hậu đóng cửa náu trong
vách. Hâm phá cửa đập vách, bắt Hậu ra. Đế bấy giờ cùng ngồi với Ngự sử đại phu
Si Lự, Hậu bị bắt đi chân trần qua, cầm tay Đế nói: "Không được sống cùng
sao"? Đế nói: "Ta cũng không biết tính mạng ra sao". Đế bảo Lự
nói: "Si Công, thiên hạ há có việc như thế chăng"! Bèn đem Hậu ra
giết. Hoàn cùng họ hàng bị giết chết đến mấy trăm người.
Tháng
mười hai, Công đến bến Mạnh Tân. Thiên tử sai Công đặt cờ mao đầu, cung điện
treo dàn chuông khánh. Ngày ất mùi, lệnh rằng: "Kẻ sĩ có đức hạnh chưa hẳn
được chọn dùng, kẻ sĩ được chọn dùng chưa hẳn đã có đức hạnh. Trần Bình há có
đức hạnh, Tô Tần há giữ tín sao? Thế nhưng Trần Bình dựng nghiệp nhà Hán, Tô
Tần giúp nước Yên yếu; do đó nói rằng, kẻ sĩ có cái tốt cái xấu, há bỏ được
sao! Quan coi việc phải xét rõ ý này thì kẻ sĩ không bị ngăn chặn, quan lại
không bỏ nghiệp vậy". Lại lệnh rằng: "Hình pháp là tính mạng của trăm
họ, vậy mà có quan coi ngục trong quân không cho là như thế; lại nắm giữ sinh
mạng của ba quân, ta rất lo lắng. Nay phải chọn rõ kẻ thông hiểu lí lẽ, sai nắm
việc hình pháp". Do đó đặt quan Lí tào duyện thuộc.
Tháng
giêng mùa xuân năm thứ hai mươi, thiên tử lập con gái giữa của Công làm Hoàng
hậu. Cắt các quận Vân Trung, Định Tương, Ngũ Nguyên, Sóc Phương, mỗi quận cắt
một huyện để lĩnh dân, hợp lại lập thành quận Tân Hưng.
Tháng
ba, Công đến phương tây đánh Trương Lỗ, đến ải Trần Thương, sắp từ quận Vũ Đô vào
đất của người Đê, người Đê chặn đường, bèn sai bọn Trương Cáp, Chu Linh đi
trước đánh phá chúng. Tháng tư mùa hạ, Công từ Trần Thương để ra Tản Quan, đến
Hà Trì. Vua người của Đê đem hơn mười vạn quân mạnh dựa chỗ hiểm không phục;
tháng năm, Công đánh giết chúng. Các tướng ở quận Tây Bình, Kim Thành là bọn
Khúc Diễn, Tưởng Thạch cùng chém đem đầu Toại đến.
Điển
lược chép: Toại tự Văn Ước, lúc trước cùng với người cùng quận là Biên Chương
nổi danh ở miền tây. Chương làm Đốc quân tòng sự. Toại nghe lệnh đến kinh sư,
Hà Tiến vốn nghe tên tuổi, cùng gặp riêng, Toại khuyên Tiến nên bắt giết bọn
hoạn quan, Tiến không nghe theo, bèn xin về. Lúc người Lương Châu là bọn Tống
Dương, Bắc Cung Ngọc làm phản, bầu Chương, Toại làm chủ, Chương chốc lát bệnh
chết, Toại bị bọn Dương bắt, Toại bất đắc dĩ bèn đem quân làm loạn, đã ba mươi
hai năm, đến đây thì chết, thọ hơn bảy mươi tuổi.
Linh Đế
kỉ của Lưu Ngải chép: Chương còn có tên là Doãn.
Tháng
bảy mùa thu, Công đến ải Dương Bình. Trương Lỗ sai em là Vệ cùng tướng là bọn
Dương Ngang dựa vào giữ Dương Bình, chặn ngang núi đắp thành hơn mười dặm, đánh
mà không chiếm được, bèn dẫn quân về. Giặc thấy đại quân rút, quân phòng bị trễ
nải. Công lại ngầm sai bọn Giải Phiếu, Cao Tộ từ chỗ hiểm buổi đêm đánh úp, đại
phá chúng, chém tướng chúng là Dương Nhâm, rồi đến đánh bọn Vệ, bọn Vệ buổi đêm
chạy trốn. Lô tan chạy vào miền Ba Trung. Công đem quân vào huyện Nam Trịnh,
thu hết vật báu, kho tàng của Lỗ.
Ngụy thư
chép: Quân từ núi Vũ Đô đi nghìn dặm, trèo lên chỗ cao hiểm, quân sĩ mệt mỏi;
Công do đó bày hội ăn lớn, quân chẳng ai không quên mệt.
Người
vùng Ba, Hán đều hàng. Lại lấy quận Hán Ninh nhập vào quận Hán Trung; chia các
huyện An Dương, Tây Thành của quận Hán Trung lập ra quận Tây Thành, đặt quan
Thái thú; chia huyện Tích, quận Thượng Dung, đặt quan Đô úy.
Tháng
tám, Tôn Quyền vây Hợp Phì, bọn Trương Liêu, Lí Điển đánh phá Tôn Quyền.
Tháng
chín, bảy họ lớn của quận Ba là vua người Di tên là Phác Hồ, viên ấp hầu của
người Tung là Đỗ Hoạch đem người Di, Tung ở quận Ba đến nội thuộc.
Tôn
Thịnh nói: "Phác âm 'phu', Hoạch âm 'hộ'".
Do đó
chia quận Ba, lấy Hồ làm Ba Đông Thái thú, Hoạch làm Ba Tây Thái thú, đều phong
Liệt hầu. Thiên tử lệnh Công thừa lệnh phân phong quan Thái thú, Tướng quốc của
chư hầu.
Hán Ngụy
xuân thu của Khổng Diễn chép: Thiên tử dùng Công coi xét ở ngoài, thưởng người
có công, bái người nhanh nhẹn, lại lệnh Công được phân phong Mục thú, Tướng
quốc của chư hầu, chiếu nói: "Việc lớn của quân đội là việc thưởng phạt,
khuyến thiện trừ ác, không nên để lâu, cho nên Tư mã pháp chép: 'Thưởng không
để lâu ngày', muốn cho dân nhanh thấy được lợi của việc thiện vậy. Xưa vào thời
trung hưng, Đặng Vũ vào cửa quan, thừa lệnh bái Quân tế tửu Lí Văn làm Hà Đông
Thái thú, Lai Thiệp lại thừa lệnh phong Cao Tuấn làm Thông lộ tướng quân, xét
truyện về những người ấy, đều không xin lệnh trước, xét rõ việc mà phong bái,
đấy là Thế Tổ thần minh, biết rõ tổn ích, đại khái là nêu bày uy phong mà ghi
rõ công lớn vậy. Theo nghĩa Xuân thu, Đại phu ra khỏi nước, việc tự ý truyền
lệnh, chỉ là tạm làm lợi xã tắc nhà nước mà thôi. Huống chi ông chuyên dùng
lệnh của Tể bá, sửa trị chín cõi, dẹp yên Di, Hạ, lại đem quân ra nơi xa xôi,
được thua chỉ trong chốc lát, nếu dừng thưởng để đợi chiếu lệnh thì làm lỡ
việc, là cái mà trẫm không nỡ làm. Từ nay về sau, lúc làm việc tuyển chọn, cho
được ý bái phong, được khắc ấn chương ban lệnh, khiến cho người trung nghĩa
được khen thưởng, ông chớ nghi ngờ".
Tháng
mười mùa đông, bắt đầu đặt danh hiệu của tước Hầu đến năm chức Đại phu, cùng
tước Liệt hầu, Quan nội hầu lúc trước để thưởng người có công.
Ngụy thư
chép: Đặt danh hiệu của tước Hầu có mười tám cấp, tước Quan trung hầu có mười
bảy cấp, đều đeo ấn vàng thao tía; lại dặt tước Quan nội ngoại hầu có mười sáu
cấp, đeo ấn đồng thao đen; năm chức Đại phu có mười lăm cấp, cũng đeo thao đen,
đều không nhận tô thuế, cùng cảy thảy sáu bậc các Liệt hầu, Quan nội hầu trước
kia.
Thần
Tùng Chi cho rằng: Việc phong hão có lẽ có từ lúc này.
Tháng
mười một, Lỗ từ miền Ba Trung đem quân còn lại đến hàng. Phong Lỗ và năm người
con đều làm Liệt hầu. Lưu Bị đánh úp Lưu Chương, lấy Ích Châu, bèn chiếm miền
Ba Trung; sai Trương Cáp đánh hắn.
Tháng
mười hai, Công từ Nam Trịnh về, lưu Hạ Hầu Uyên giữ Hán Trung.
Lần đi
này, Thị trung Vương Xán làm thơ năm tiếng để khen việc này nói: "Theo
quân có vui khổ, hỏi rằng dựa vào gì? Dựa theo oai thần vũ, há để quân mệt lâu?
Thừa tướng đánh Quan Hữu, lẫy lừng mà trổ oai, một trận diệt giặc xấu, lại áp
phục Khương, Di, thu miền tây của giặc, dễ như cúi xuống nhặt, bày thưởng quá
núi cao, rượu thịt tràn khe suối, trong quân đều no nê, người ngựa đều béo tốt,
ngồi đi lại cưỡi về, ra vào có của thừa. Mở đất ba nghìn dặm, qua lại nhanh như
bay, múa hát vào thành Nghiệp, chiếm được chẳng sai đâu"!
Tháng
hai mùa xuân năm thứ hai mươi mốt, Công về đất Nghiệp, Ngụy thư chép: Ngày tân
mùi, quan coi việ đem đồ thái lao đến, cúng tế ở tông miếu, ngày giáp ngọ bắt
đầu tế mùa xuân, lệnh nói: "Người bàn cho rằng lúc tế tông miếu lên điện
phải cời giày. Ta nhận mệnh phong, mang kiếm không cởi giày mà lên điện. Nay có
việc ở tông miếu mà cởi giày là trọng Tiên công nhưng tiếm mệnh vua, kính phụ
tổ nhưng khinh nhờn nhà vua, cho nên ta không dám cởi dày lên điện vậy. Lại lúc
tế thì tắm rửa, lấy tay tưới nước mà không rửa, rửa cho sạch là kính, chưa nghe
nói đến lễ không rửa, lại có câu 'Tế thần như thần đang ở đấy', cho nên ta tự
mình lấy nước mà rửa vậy, lại cúi mình làm tế thần xong, kẻ dưới đều đứng dậy,
chốc lát tấu nhạc cả buổi, có vẻ không mắc lỗi với liệt tổ, đợi tế không xong
nhanh, cho nên ta ngồi đợi tấu nhạc tế thần xong mới đứng dậy. Nhận thịt tế
thần, đem cho Thị trung, đấy là cung kính không ăn hết, ngày xưa tự mình coi
việc cúng tế, cho nên ta ta tự thân tế thần, đem hết mang về. Trọng Ni nói:
'Dẫu trái ý mọi ngươi nhưng ta theo lễ cúi đầu dưới từ đường'. Lời này thành
thật thay".
Ngày
nhâm dần tháng ba, Công tự cày ruộng tịch điền.
Ngụy thư
chép: Quan coi việc tấu nói: "Bốn mùa giảng võ cho nhà nông. Phép Hán luật
Tần là ba mùa không giảng võ, chỉ có tháng mười là thử xe ngựa, đến phía nam
cửa Trường Thủy, hội quân sĩ của năm trại mà bày bát trận tiến lui, gọi là
'thặng chi'. Nay binh đao chưa xếp, quân dân vẫn tập, từ nay về sau, có thể
không giảng võ khắp bốn mùa, nhưng đến ngày lập thu thì chọn ngày lành mà hội
xe ngựa, gọi là luyện quân, trên hợp với lễ, dưới đúng phép của nhà Hán".
Hạ chiếu cho làm.
Tháng
năm mùa hạ, thiên tử phong tước Ngụy Vương cho Công.
Hiến Đế
truyện chép chiếu viết: "Đế vương từ xưa, dẫu hiệu xưng thay đổi nhau, các
tước bậc không giống, đến như khen thưởng công lao, lập nên công đức, vực sáng
dân chúng, truyền cho con cháu, họ khác cùng gần gũi, há có khác sao? Xưa thánh
tổ ta chịu mệnh, dựng lập nền móng, tạo Khu Hạ ta, soi phép xưa nay, lập các
bậc chức tước, phong hết sông núi để làm phên dậu, khiến họ khác được gần gũi,
cùng chia đất đai, giữ nước mà làm vương, do đó giữ gìn được mệnh trời, yên ổn
vạn dòng. Trải mấy đời được yên, vua tôi không rối. Thế Tổ trung hưng mà bấy
giờ có khó có dễ, do đó giữ được mấy trăm năm, không phong tước cho chư hầu
khác họ. Trẫm là kẻ không có đức, kế thừa nghiệp lớn, gặp lúc đất nước vỡ lở,
bọn xấu gây hại, từ tây sang đông, cay đắng khổ sở. Thời bấy giờ, chỉ sợ chìm
vào nơi gian khó thì làm nhục thánh đức của Tiên đế. Cậy anh linh của trời
xanh, khiến ông giữ nghĩa giúp thân, oai động thần vũ, giữ trẫm nơi gian khó,
giữ vững tông miếu, dân chúng Hoa Hạ giữ khí tiết, chẳng ai không chịu ơn. Ông
chăm quá Tắc, Vũ, trung sánh Y, Chu, mà cúi mình tự khiêm nhường, giữ lễ cung
kính, cho nên lúc trước mới phong ở nước Ngụy, ban cho ông tông miếu, sợ ông
cho là trái mệnh, nghĩ rằng ông cố từ, cho nên mang chí âm thầm, phong ông làm
Thượng công, muốn để thuận theo nghĩa lớn, chốc lát đợi thưởng lớn. Hàn Toại,
Tống Kiến phía nam kết Ba, Thục, bọn phản nghịch tụ tập, mưu làm hại xã tắc,
ông lại làm tướng, rồng bay hổ vồ, treo đầu tướng giặc, làm cỏ hang ổ của
chúng. Lại đến đánh phương tây, trong trận Âm Bình, tự mình mặc giáp trụ, vào
sâu nơi hiểm trở, diệt trừ giặc bọ, cắt bỏ hung ác, dẹp bằng miền tây, cờ tinh
dài vạn dặm, thanh giáo lan xa, làm yên Khu Hạ ta. Hơn hẳn cái thịnh của thời
Đường Ngu, công lớn của thời Tam đại, thế mạnh của Văn, Vũ, sự giúp đỡ của Đán,
Thích, cơ nghiệp của Nhị tổ, công giúp đỡ của bọn anh hào; ôi bậc vua thánh
hiền, làm tròn trách nhiệm của mình vẫn ban đất đai để báo đáp công thần, há
như trẫm ít đức, dựa vào sự giúp đỡ của ông, mà khen thưởng không đủ, lấy gì để
báo đáp thần minh, an ủi vạn cõi? Nay phong ông tước Ngụy Vương, sai dùng cờ
tiết làm việc quan Ngự sử Đại phu, Tông chính Lưu Ngải đem ấn chiếu phong xã tắc
tông miếu, ban cho bạch mao, hổ vàng từ bậc một đến năm, gậy tre có một đến
mười đốt. Ông nhận ngôi vương, được làm Thừa tướng, lĩnh chức Kí Châu Mục như
cũ. Mong dâng lại ấn chiếu dây thao Ngụy Công. Kính theo lệnh trẫm, thương yêu
dân ngươi, lập nên công lớn, để nêu mệnh tốt của tổ tông ta". Ngụy Vương
dâng thư ba lần từ chối, hạ chiếu ba lần không cho. Lại tự tay viết chiếu nói:
"Bậc đại thành lấy công đức làm cao đẹp, lấy trung hòa làm giáo huấn, cho
nên dựng nghiệp mà tên tuổi lẫy lừng, khiến cho trăm đời được mong, dựng đạo
lập nghĩa, khiến cho công lao nên bắt chước, do đó công lao không cùng, tiếng
tốt lan xa. Tắc, Khế mang cái thông minh của vua, Chu, Thiệu dựa cái trí lự của
Văn, Vũ, dẫu nắm chức thứ yếu, ngẩng than cúi nghĩ, họ há bằng ông sao? Trẫm
nghĩ công của người xưa, cao đẹp như thế, xét ông có công trung cần, nhiều lớn
như thế, cho nên thường đem búa chẻ phù chặt ngọc, bày lễ ban lệnh, thức ngủ
trằn trọc. Tự bỏ quên giữ văn lại không tu đức. Nay ông nhiều lần trái lệnh
trẫm, thành khẩn cố từ, đấy không phải làm đẹp lòng trẫm mà giáo huấn cho đời
sau vậy. Nên đè chí nén tiết, chớ lại cố từ".
Tứ hưu
thư thế tự chép: Lương Hộc thay Công làm Bắc bộ úy.
Tào Man
truyện chép: Công được Thượng thư Hữu thừa Tư Mã Kiến Công tiến cử. Lúc Công
làm vương, gọi Kiến Công đến đất Nghiệp, cùng ăn uống, bảo Kiến Công nói:
"Ta ngày nay có nên làm quan Úy nữa không"? Kiến Công nói: "Xưa
kia Đại vương được cử, chỉ nên làm Úy thôi". Vương cười lớn. Kiến Công tên
là Phòng, là cha của Tư Mã Tuyên Vương.
Thần
Tùng Chi xét Tự truyện của Tư Mã Bưu chép rằng Kiến Công không làm Hữu thừa,
ngờ là điều này không đúng, lại nữa Tấn thư của Vương Ẩn chép rằng Triệu Vương
tiếm lập, muốn tôn tổ làm Đế, Bác sĩ Mã Bình bàn khen Kinh Triệu phủ quân xưa
tiến cử Ngụy Vũ Đế làm Bắc bộ úy, giặc không vào cõi, như thế là có lầm.
Thiền vu
của người Ô Hoàn ở quận Đại là Phổ Phú Lư cùng hầu vương của mình đến chầu.
Thiên tử sai con gái của Vương làm Công chúa, ban cho thực ấp. Tháng bảy mùa
thu, Thiền vu của Nam Hung Nô là Hô Trù Tuyền đem vương hầu của mình đến chầu,
dùng lễ khách mà đãi, rồi lưu lại nước Ngụy, sai Hữu hiền vương là Khứ Ti về
coi nước mình. Tháng tám, lấy Đại lí Chung Do làm Tướng quốc.
Ngụy
thưchép: Bắt đầu đặt chức Phụng thường Tông chính. Tháng mười mùa đông, luyện
binh, Ngụy thư chép: Vương tự thân cầm trống vàng để lệnh tiến lui. rồi đánh
Tôn Quyền. Tháng mười một, đến huyện Tiêu.
Tháng
giêng mùa xuân năm thứ hai mươi hai, Vương đem quân đến Cư Sào, tháng hai, đem
quân đến Hách Khê phía tây sông. Quyền đắp thành tại Nhu Tu chống giữ, bèn đánh
ép Quyền, Quyền rút chạy. Tháng ba, Vương dẫn quân về, để bọn Hạ Hầu Đôn, Tào
Nhân, Trương Liêu ở lại đóng quân ở Cư Sào.
Tháng tư
mùa hạ, Thiên tử lệnh Vương bày cờ tinh, ra vào sai người dẹp đường. Tháng năm,
làm cung Phán. Tháng sáu, lấy Quân sư Hoa Hâm làm Ngự sử Đại phu.
Ngụy thư
chép: Bắt đầu đặt quan Vệ úy. Tháng tám mùa thu, lệnh nói: "Xưa Y Chí, Phó
Thuyết xuất từ người hèn kém, Quản Trọng là giặc của Hoàn Công, đều dùng họ mà
dựng nghiệp. Tiêu Hà, Tào Tham là chức quan huyện, Hàn Tín, Trần Bình mang
tiếng nhục nhã, người ta đều cười họ, nhưng đều làm nên nghiệp vương, tiếng lưu
nghìn năm. Ngô Khởi là tướng tham, giết vợ tự làm tin, đem vàng cầu quan, mẹ
chết không về, nhưng tại nước Ngụy làm cho người Tần không dám ngó đến phương
đông, tại nước Sở thì Tam Tấn không dám đánh phương nam. Nay thiên hạ không có
người đức hạnh ở trong dân, và người dũng cảm quay mặt, gặp địch thì gắng đánh;
như bọn quan văn phàm tục, tài cao nhưng đổi chí khác, có kẻ nhận làm tướng giữ
thành, mang tiếng nhục nhã, người ta cười đức hạnh của họ, có người không có
nhân, không hiếu mà có thuật trị quốc dùng binh, tên họ phải được biết đến, chớ
có làm mất".
Tháng
mười mùa đông, Thiên tử lệnh Vương đội mũ miện mười hai dải, ngồi xe vàng bạc,
sáu ngựa kéo, đặt ngũ thời phó xa, dùng Ngũ quan Trung lang tướng Phi làm Thái
tử của nước Ngụy.
Lưu Bị
sai bọn Trương Phi, Mã Siêu, Ngô Lan đóng quân ở Hạ Biện; sai Tào Hồng chống
chúng.
Tháng
giêng mùa xuân năm thứ hai mươi ba, Thái y lệnh của nhà Hán là Cát Bản cùng bọn
Thiếu phủ Cảnh Kỉ, Tư trực Vi Hoảng làm phản, đánh đất Hứa, đốt doanh của Thừa
tướng Trưởng sử Vương Tất, Ngụy Vũ cố sự chép lệnh nói: "Trưởng sử Vương
Tất là quan lại từ thời ta chiếm miền Kinh Cức, trung hậu chăm chỉ, lòng như
sắt đá, là quan lại tốt của nhà nước vậy; trải qua lâu ngày mà không được mời
đến, bỏ ngựa kì kí mà không cưỡi, há lúc gấp gáp lại cầu mời sao? Cho nên vời
đến, cho làm chức vừa hợp, bái làm việc quan Trưởng sử như trước".
Tất cùng
Dĩnh Xuyên Điển nông Trung lang tướng Nghiêm Khuông đánh chém chúng.
Tam phụ
quyết lục chú chép: Bấy giờ có người quận Kinh Triệu là Kim Y, tự Đức Y, tự cho
là nhiều đời là bầy tôi của nhà Hán, từ ngày Nhật Đê đánh Mông Hà La, trung
thành nổi rõ, khí tiết nhiều đời. Thấy nhà Hán sắp đổi, nói là cuối có thể dấy
lên, lại nói là nên gắng gỏi, bèn cùng bọn Cảnh Kỉ, Vi Hoảng, Cát Bản, con Bản
là Mạc, em Mạc là Mục kết mưu. Kỉ tự Quý Hành, lúc nhỏ có tiếng tốt, làm Thừa
tướng duyện, Vương rất kính trọng, chuyển làm Thị trung, giữ Thiếu phủ. Mạc tự
Văn Nhiên, Mặc tự Trung Nhiên, thấy Y khảng khái có phong thái của Nhật Đê, lại
gần gũi với Vương Tất, dó đó li gián họ, nếu giết được Tất, sẽ cậy thiên tử để
đánh Ngụy Vương, phía nam giúp Lưu Bị. Bấy giờ thế Quan Vũ mạnh, mà Vương tại
đất Nghiệp, để Tất coi binh xét việc ở đất Hứa. Bọn Văn Nhiên đem bọn người
khác cùng hơn nghìn người trẻ của nhà mình buổi đêm đốt cửa đánh Tất, Y sai
người làm nội ứng, bắn tên trúng vai Tất. Tất không biết kẻ đánh là ai, vì vốn
gần gũi với Y, chạy đến nhờ Y, buổi đêm gọi Đức Y, người nhà Y không biết là
Tất, nói là bọn Văn Nhiên, đáp lại nói: "Vương Trưởng sử đã chết sao? Việc
các ngươi xong rồi"! Tất bèn đi đường khác chạy trốn. Có người nói: Tất
muốn đến nhờ Y, người dưới trướng bảo Tất nói: "Nay việc rút cuộc biết ai
đâu mà vào nhờ vậy"? Giúp Tất trốn đến phía nam thành. Vừa trời sáng, Tất
vẫn sống, quân của bọn Văn Nhiêu tản ra, cho nên thua. Hơn mười ngày sau, Tất
rút cuộc bị thương mà chết.
Hiến Đế
Xuân thu viết: Bắt được bọn Kỉ, Hoảng, đem chém chúng, Kỉ gọi tên Ngụy Vương nói:
"Chỉ hận ta không tự mưu nghĩ, rút cuộc bị bọn trẻ con làm sai"!
Hoảng cúi đầu tát má, cho đến lúc chết. Sơn Dương Công tái kí chép: Vương nghe
tin Vương Tất chết, giận lắm, gọi trăm quan của nhà Hán đến đất Nghiệp, lệnh
rằng người dập lửa đứng bên trái, người không dập lửa đứng bên phải. Mọi người
cho rằng người dập lửa đều không có tội, đều ở bên trái; Vương cho rằng:
"Người không dập lửa là mới là người không giúp kẻ làm loạn, người dập lửa
mới là giặc". Đều giết chúng.
Tào Hồng
phá Ngô Lan, chém tướng của hắn là bọn Nhâm Quỳ. Tháng ba, Trương Phi, Mã Siêu
chạy đến Hán Trung, người Đê ở huyện Âm Bình là Cường Đoan chém Ngô Lan, đem
đầu đến.
Tháng tư
mùa hạ, người Ô Hoàn ở các quận Đại, Thượng Cốc là bọn Vô Thần Đê phản, sai Yên
Lăng Hầu là Chương đánh phá chúng.
Ngụy thư
chép lệnh của Vương rằng: "Mùa đông năm ngoái trời có chướng lệ nhiều, dân
có tang thương, quân dấy ở ngoài, người cày ruộng thiếu, ta rất thương xót. Nay
lệnh trai gái quan dân rằng: gái tuổi mười bảy trở lên mà chưa có chồng con,
nếu mười hai tuổi trở xuống mà không có cha mẹ anh em, tay không làm được việc,
chân không đi được, và người không có vợ con anh em của cải thì được cấp ăn cả
đời. Trẻ nhỏ thì được nuôi đến mười hai tuổi thì thôi; người nghèo khổ không tự
làm ăn được thì tùy miệng ăn mà cấp phát. Người già cả chờ nuôi dưỡng từ tuổi
chín mươi trở lên, nếu không làm việc được, nếu không làm việc thì ban cho một
người giúp nuôi".
Tháng
chín, lệnh nói: "Việc táng thời xưa, đều chọn đất cằn cỗi. Ta xem miếu thờ
Tây Môn Báo ở trên ở cánh đồng phía tây là Thọ Lăng, dựa vào chỗ cao làm nền,
không cắm rào không trồng cây. Theo Chu lễ, quan Trủng nhân coi giữ đất của mộ
vua, mộ chư hầu ở bên trái phải, hướng phía trước, mộ khanh đại phu ở bên sau,
phép tắc của nhà Hán cũng gọi là Bồi Lăng. Nay những công khanh đại thần liệt
tướng có công, được táng theo bên Thọ Lăng, lấy chỗ rộng làm vành mộ, đủ để vừa
nhau".
Tháng
bảy mùa thu, luyện binh, rồi đến phía tây đánh Lưu Bị. Tháng chín, đến Tràng
An.
Tháng
mười mùa đông, tướng giữ huyện Uyển là bọn Hầu Âm phản, bắt Nam Dương Thái thú,
cướp chiếm quan dân, chiếm huyện Uyển. Lúc trước, Tào Nhân đánh Quan Vũ, đóng
quân ở Phàn Thành, tháng đó sai Nhân vây huyện Uyển.
Tháng
giêng mùa xuân năm thứ tư, Nhân làm cỏ đất Uyển, chém Âm.
Tào Man
truyện chép: Bấy giờ người quận Nam Dương khổ vì lao dịch, Âm do đó bắt Thái
thú Đông Lí Bao, cùng quan dân làm phản, liên hòa với Quan Vũ. Nam Dương Công
tào là Tông Tử Khanh khuyên Âm nói: "Túc hạ được lòng dân, làm việc lớn,
gần xa chẳng ai không trông mong; nhưng bắt giữ tướng trong quận, mang tiếng
phản nghịch lại vô ích, sao không thả ra. Ta với ông cùng gắng sức, nếu quân
của Tào Công đến, quân của Quan Vũ cũng đến vậy". Âm theo lời, liền thả
quan Thái thú. Tử Khanh nhân buổi đêm trèo thành ra ngoài, rồi cùng Thái thú
thu dân còn sót vây Âm, lúc quân của Tào Nhân đến, cùng diệt Âm.
Hạ Hầu
Uyên đánh với Lưu Bị ở Âm Bình, bị Bị giết. Tháng ba, Vương từ Tràng An ra Tà
Cốc, đem quân thong thả đến gần Hán Trung, rồi đến Âm Bình. Bị dựa vào chỗ hiểm
chống giữ.
Cửu châu
xuân thu chép: Bấy giờ Vương muốn về, ra lệnh nói: "Gân gà". Quan
thuộc không biết nói gì. Chủ bạ Dương Tu lại tự sắm sửa hành trang, mọi người
kinh ngạc hỏi Tu nói: "Sao lại biết được"? Tu nói: "Gân gà, vứt
nó đi thì đáng tiếc, ăn nó không được, để sánh với đất Hán Trung, biết là Vương
muốn về vậy".
Tháng tư
mùa hạ, dẫn quân về Tràng An.
Tháng
bảy mùa thu, lấy phu nhân Biện thị làm Vương hậu. Sai Vu Cấm giúp Tào Nhân đánh
Quan Vũ. Tháng tám, nước sông Hán tràn, vùi quân của Cấm, quân chìm, Vũ bắt
Cấm, rồi vây Nhân. Sai Từ Hoàng cứu Nhân.
Tháng
chín, Tướng quốc Chung Do vì Tây tào duyện Ngụy Phúng phản mà bị bãi chức.
Thế ngữ
chép: Phúng tự Tử Kinh, người nước Bái, có tài mê hoặc dân chúng, gây động đất
Nghiệp, Chung Do do đó mời gọi. Đại quân chưa về, Phúng ngầm kết đồ đảng. Lại
cùng Trường Lạc Vệ úy Trần Y mưu đánh úp đất Nghiệp. Chưa đến hẹn, Y sợ mà báo
cho Thái tử, bèn giết Phúng, kẻ chịu tội chết đến mấy chục người.
Gia giới
của Vương Sưởng chép: "Người huyện Tế Âm là Ngụy Phúng". Mà đây chép
là người nước Bái, không rõ.
Tháng
mười mùa đông, đem quân về Lạc Dương.
Tào Man
truyện chép: Vương sửa chữa lại sở Bắc bộ úy, lệnh phải lớn hơn lúc trước.
Tôn
Quyền sau sứ gửi thư, xin đánh Quan Vũ đệ tự chuộc tội. Vương từ Lạc Dương
xuống phía nam đánh Quan Vũ. Chưa đến, Hoảng đánh Quan Vũ, phá Vũ, Vũ chạy,
Nhân được giải vây. Vương đem quân đến Ma Bản.
Ngụy
lược chép: Tôn Quyền gửi thư xưng thần, khen ngợi mệnh trời, Vương đem thư của
Quyền ra ngoài cho mọi người biết nói: "Thằng này muốn bắt ta ngồi trên
miệng lò chăng"! Thị trung Trần Quần, Thượng thư Hoàn Giai tấu nói:
"Nhà Hán từ thời An Đế đến nay, chính sự gửi cho nhà Công, quốc thống mấy
lần dứt, đến thời ngày nay, chỉ có tên gọi, một thước đất một người dân đều
không phải của nhà Hán nữa, vận kì lâu ngày đã hết, lịch số cũng đã cùng, không
chỉ đến ngày nay. Cho nên giữa thời Hoàn, Linh, những người mưu trí sáng suốt
đều nói: 'Nhà Hán đã hết, nhà Hoàng nổi lên'. Điện hạ ứng hẹn, thiên hạ mười
phần mà có đến chín, theo giúp nhà Hán, dân chúng mong ngóng, xa gần khen ngợi,
cho nên Tôn Quyền ở xa xưng thần, hợp với trời người, cùng nhau cất tiếng. Kẻ
ngu này cho rằng nhà Ngu, Hạ không từ chối ngôi vị, nhà Ân, Chu
không tiếc nối thay, sợ trời biết mệnh, không cớ gì phải nhường nhau".
Ngụy thị
xuân thu chép: Hạ Hầu Đôn khuyên Vương nói: "Thiên hạ đều biết lộc nhà Hán
đã hết, nhà khác đang nổi lên. Từ xưa đến nay, người trừ hại cho dân thì được
trăm họ theo về, đấy là vua của dân vậy. Nay Điện hạ dùng binh hơn ba mươi năm,
công đức sáng rõ với dân chúng, được thiên hạ nương dựa, theo mệnh trời thuận
lòng dân, còn nghi gì nữa"! Vương nói: "Có câu nói: 'Ở nhà ban chính
đạo, đấy cũng là chính đạo'. Nay mệnh trời tại ta, ta là Chu Văn Vương
vậy".
Tào Man
truyện và Thế ngữ đều chép Hoàn Giai khuyên Vương lên ngôi, Hạ Hầu Đôn cho rằng
nên diệt Thục trước, Thục mất thì Ngô phục, nếu hai phương đã định thì sau đó
theo vết xe của Thuấn, Vũ. Vương nghe theo. Lúc Vương hoăng, Đôn tiếc lời
trước, phát bệnh chết.
Tôn
Thịnh bình rằng: "Hạ Hầu Đôn thật là làm nhục quan lại nhà Hán, xin nhận
ấn cho nước Ngụy, Hoàn Giai thật thà, có khí tiết thẳng thắn;
xét
truyện chép việc này, Thế ngữ chép nhầm vậy".
Tháng
giêng mùa xuân năm thứ ba mười lăm, đến Lạc Dương. Quyền chém Vũ, đem đầu đến.
Ngày
canh tí, Vương băng ở Lạc Dương, thọ sáu mươi sáu tuổi.
Thế ngữ
chép: Thái Tổ từ Hán Trung đến Lạc Dương, dựng điện Kiến Thủy, cặt cây ở miếu
Trạc Long thì máu cây chảy ra.
Tào Man
truyện chép: Vương sai thợ gỗ là Tô Việt dời cây lê đẹp, đào lên, gốc bị thương
đều chảy máu. Việt bẩm lên, Vương tự đến xem mà sợ hãi, cho là không phải điềm
hay, trở về bèn sinh bệnh. Truyền lệnh lại rằng: "Thiên hạ còn chưa định
yên, tạm không nên theo phép xưa. Táng xong phải đều bỏ áo tang. Các quân tướng
đóng giữ đều không được rời khỏi doanh trại. Các quan lại đều theo chức phận.
Liệm dùng áo thường mặc, không chứa vàng ngọc vật báu".
Thụy là
Vũ Vương. Ngày đinh mão tháng hai, táng ở Cao Lăng.
Ngụy thư
chép: "Thái Tổ tự thống lĩnh cả nước, diệt trừ bọn xấu, coi quân dùng
binh, đại khái giống phép tắc của Tôn, Ngô, lại tùy việc mà bày kế lạ, lừa địch
mà thắng, biến hóa như thần. Tự soạn sách binh pháp hơn mười vạn chữ, các tướng
đánh dẹp đều đọc sách xét việc. Làm việc thì tự tay coi xét, kẻ vâng lệnh thì
đánh thắng, kẻ làm trái phép thì bị thua. Đối trận với giặc, phong thái thong
thả như chẳng muốn đánh, nhưng gặp đến thời cơ thì gắng sức thừa thắng, khí thế
mạnh mẽ, cho nên hễ đánh là thắng. Giỏi biết nhìn người, khó ai che mắt, đánh
Vu Cấm, Nhạc Tiến ở giữa trận, thu nạp Trương Liêu, Từ Hoảng trong đám thua
chạy, họ đều giúp sức lập công, xếp vào hàng tướng giỏi; còn lại những kẻ xuất
thân hèn kém mà cử làm Mục thú, không thể kể hết. Do đó lập nên nghiệp lớn, văn
vũ đều đủ, cầm quân hơn ba mươi năm, tay không rời sách, ngày thì giảng sách
võ, đêm thì đọc kinh truyện, trèo núi thì làm phú, làm thể thơ mới, mang theo
đàn sáo, đều thành khúc nhạc. Tài sức hơn người, tự tay bắn chim bay, tự thân
bắt thú dữ, từng một ngày ở huyện Nam Bì bắn bắt được ba mươi sáu con chim trĩ.
Lúc dựng cung thất, sửa chữa khí giới, chẳng cái gì không theo phép tắc, đều
dốc hết suy nghĩ. Tính hay tiết kiệm, không ưa xa xỉ, người trong cung không
mặc áo gấm thêu, người hầu không đi dày hai màu, dùng trướng đủ để che gió,
rách thì may vá, đệm chiếu mềm mại, không thêu thêm viền. Đánh thành chiếm ấp,
thu được vật đẹp, thì đem ban hết cho người có công, thưởng cho người gắng sức,
không tham nghìn vàng; nếu không có công mà mong ban thưởng, một tơ hào cũng
không cho; bốn phương tiến dâng vật gì, đều cùng bầy tôi chung hưởng. Thường
theo phép tắc tống tang, mặc áo liệm thây, có chỗ phiền nhiễu mà không có ích,
phong tục lại làm sai, do đó tự làm áo quan cho lúc chết, chỉ có bốn cái tráp
mà thôi.
Phó Tử
chép: Thái Tổ xót cái xa xỉ việc lấy chồng, do đó con gái của Công gả cho người
khác đều dùng màn đen, người hầu gái đi theo không quá mười người.
Bác vật
chí của Trương Hoa chép: Thời Hán, người huyện An Bình là Thôi Viện, con của
Viện là Thực, người quận Hoằng Nông là Trương Chi, em của Chi là Sưởng đều giỏi
viết chữ thảo, mà Thái Tổ đứng sau họ. Hoàn Đàm, Thái Ung giỏi âm nhạc, người
quận Phùng Dực là bọn Sơn Tử Đạo, Vương Cửu Chân, Quách Khải giỏi đánh cờ vây,
Thái Tổ đều sánh ngang họ. Lại thích phép 'dưỡng tính', cũng hiểu phương dược,
mời dẫn kẻ sĩ biết phương thuật, người quận Lư Giang là Tả Từ, người huyện Tiêu
là Hoa Đà, người huyện Cam Lăng là Cam Thủy, người huyện Dương Thành là Khích
Kiệm chẳng ai không đến, lại quen ăn củ dã cát dài đến một thước, cũng được ít
nhiều uống rượu trậm.
Phó Tử
chép: Các Vương, Công cuối thời Hán phần nhiều bắt chước áo của nhà vua, buộc
khăn lụa làm đẹp, do đó bọn Viên Thiệu, Thôi Báo dẫu là tướng súy mà đều đội
khăn lụa. Ngụy Thái Tổ thấy thiên hạ đổ nát, tài vật thiếu thốn, bắt chước mũ
da xưa, cắt lụa gấm để làm mũ kháp, hợp với nghĩa giản dị theo thời nay, lấy màu
để phân biệt sang hèn, đến nay vẫn dùng, có thể nói là hình dạng của q đô, tài
vật thiếu thốn, bắt chước mũ da xưa, giảm lụa gấm để làm mũ kháp, hợp với phong
cách giản dị từng lúc, lấy màu để phân biệt sang hèn, đến nay vẫn dùng, có thể
nói là hình dạng của quân dân không phải là hình dạng của vua quan vậy.
Tào Man
truyện chép: Thái Tổ là người giản dị không trọng uy nghi, thích âm nhạc, ca kĩ
ở bên cạnh, thường từ sáng đến tối. Áo mặc sờn bạc, thân tự đeo túi lớn để đựng
vật nhỏ, khăn tay, có lúc đội mũ kháp để gặp tân khách, hễ nói chuyện với người
khác thì đùa bỡn nói cười, đều không giấu diếm, lúc thì vui cười hớn hở, đến
nỗi chạm đầu vào giữa bàn mân, món ăn dính vấy vào khăn đội, đại khái thoải mái
như thế. Nhưng giữ phép tắc nghiêm túc, các tướng có người làm sai lệnh của
mình thì theo hình pháp mà phạt tội, đến kả kẻ thù oán cũ cũng đều không đổi
khác. Người bị tội giết, liền đối mặt khóc thương nhưng cũng không được tha
sống. Lúc trước, Viên Trung làm Bái Tướng, từng muốn dùng hình pháp trị tội Thái
Tổ, người nước Bái là Hoàn Thiệu cũng coi thường Thái Tổ; lúc tại Duyện Châu,
người quận Trần Lưu là Biên Nhượng nói bàn có vẻ xúc phạm Thái Tổ, Thái Tổ bèn
giết Nhượng, giết người nhà hắn, bọn Trung, Thiệu đều tránh nạn đến Giao Châu,
Thái Tổ sai sứ giả đến chỗ Thái thú Sĩ Tiếp bắt giết họ. Hoàn, Thiệu ra đầu
thú, quỳ tạ ở giữa đình, Thái Tổ bảo nói: "Quỳ mà tha chết được sao"!
Rồi giết họ. Thường đem quân đi, qua ruộng lúa mạch, lệnh nói: "Quân sĩ
không được phá lúa mạch, kẻ phạm cấm thì tội chết". Quân kị đều xuống
ngựa, nắm lúa mạch để lôi giữ nhau, do đó Thái Tổ cưỡi ngựa vào giữa ruộng lúa
mạch, sai quan Chủ bạ bàn tội; Chủ bạ theo phép Xuân thu, không phạt lây vào
người trên. Thái Tổ nói: "Lập hình pháp mà tự phạm vào, làm sao sai được
kẻ dưới? Nhưng ta là tướng quân, không thể tự sát, xin tự phạt". Do đó cầm
kiếm cắt tóc vứt xuống đất. Lại có người thiếp yêu buổi ngày thường theo nằm
nghỉ, dặn người thiếp rằng: "Chốc lát gọi ta dậy". Người thiếp thấy
Thái Tổ nghỉ yên, không gọi dậy, lúc tự dậy, liền đánh chết người thiếp đó.
Thường đánh giặc, thóc gạo không đủ, bảo riêng Chủ bạ rằng: "Làm thế
nào"? Chủ bạ nói: "Nên lấy hộc nhỏ mới đủ". Thái Tổ nói:
"Được". Sau trong quân nói là Thái Tổ dối quân, Thái Tổ bảo quan Chủ bạ
nói: "Phải mượn cái chết của ông để làm yên lòng quân, không thế thì việc
chẳng xong". Bèn chém Chủ bạ, đem đầu ra cho quân biết, nói: "Dùng
hộc nhỏ, cướp gạo công, chém hắn ở cửa quân". Cái tàn ngược biến trá của
Thái Tổ, đều đại loại như thế.
Bình
rằng: Cuối thời Hán, thiên hạ đại loạn, anh hào cùng nổi dậy, mà Viên Thiệu như
hổ vồ bốn châu, mạnh mẽ chẳng ai chống nổi. Thái Tổ tính kế bày mưu, đánh dẹp
trong nước, tỏ phép hay của Thân, Thương, bày kế lạ của Hàn, Bạch, chọn dùng
người hiền tùy vào tài năng, quyền biến ngang dọc, không hiềm thù cũ, rút cuộc
nắm giữ mệnh vua, làm nên nghiệp lớn, riêng Thái Tổ có mưu lược sáng suốt hơn
cả . Hoặc có thể nói là người khác thường, bậc hào kiệt hơn đời vậy.
Chú thích:
(1) Hội
nghị chư hầu cùng phò nhà Châu, do Quản Trọng cố vấn cho Tề Hoàn Công khởi
xướng.
(2) Tức
ngày cuốn Tào Man truyện được viết ra.
(3) Quý
nghĩa là cuối, Đằng là con út
(4) Đời
Minh Đế Tào Duệ - 299
(5) Vì
Đằng làm Hoạn quan từ bé, Tung phải là con nuôi.
(6) Toàn
chức quan to, chứng tỏ thế lực Đằng lớn lắm.
(7) Quý
thích chỉ chung đám cường hào, nhưng trong ngữ cảnh (sau loạn Đảng Cố) nói đến
vây cánh của quan Hoạn và con cháu phe này.
(8) Loạn
"7 nước" đời Hán Cảnh Đế.
(9) Bàn
những lời cao luận suông.
(10) Về
các chức vụ ở trên thì có thể hiểu sơ bộ thế này. Thời nhà Hán có tất cả là 12
châu và khu Tư Lệ (kinh đô), mỗi châu do một viên thứ sử cầm đầu, chức Mục là
chức mới đặt ra, quyền lực
còn lớn
hơn Thứ sử một chút. Còn các chức Thái thú là quản lý một quận (thuộc châu).
Riêng chức tướng quốc cũng chỉ tương đương với quận mà thôi. Quốc ở đây hiểu
như một đặc khu hành chính nhỏ.
(11) Cư
nhị Chu chi hiểm, nhị Chu là hai kinh đô của
Tây và Đông Hán.
(12)
Trên bản đồ thì chỗ này ghi là Vinh Dương, có lẽ cũng đọc là Huỳnh.
(13) Tức
Viên Thiệu.
(14) Tức
Viên Thuật.
(15)
Không rõ là tên người hay địa danh (?)
(16) Tức
ba quận là Kinh Triệu (thủ phủ là Tràng An), quận Phù Phong phía bên phải Tràng
An tức Hữu Phù Phong (thủ phủ là Hàm Dương) và quận Phùng Dực ở bên trái Tràng
An tức Tả Phùng Dực (trung tâm là Đại Lệ).
(17) Một
địa danh ở gần Lạc Dương.
(18)
Nguyên văn là 'phi mỹ', chạy lướt, chạy vội.
(19)
Nguyên văn là 'nhất đán cải dịch', tức là một mai việc biến đổi. Ở đây Thiệu
bàn việc lập Lưu Ngu
lên làm đế, tức là bàn chuyện phế lập vậy.
(20) Tào
Tháo bày tỏ dứt khoát, bọn Thiệu cứ việc ngoảnh về Bắc (Lưu Ngu ở U châu), Tháo
cứ hướng về Tây (Vua Hán lúc ấy ở Tràng An).
(21)
Thái Thú Đông Quận do Lưu Đại đặt.
(22) Đời
Linh Đế.
(23)
Nguyên văn: "kỳ đạo nãi dữ trung Hoàng đại ất đồng". Hoàng đại ất có
nghĩa là "Kinh Vàng", tức kinh sách của Khăn Vàng.
(24) Đào
Khiêm khi ấy trong vòng ảnh hưởng của Viên Thuật chứ không phải dưới quyền
Công-tôn Toản. Đoạn này mập mờ để giải thích thêm sau.
(25)
Trước đó trong liên minh đánh Đổng Trác, Viên Thuật tiến quân theo ngã Kinh
Châu đánh Lạc Dương từ hướng Nam ,
đóng quân ở Lỗ Dương và tiến quân theo lối ải Hoàn Viên. Tướng của Viên Thuật
là Tôn Kiên đánh thắng quân Đổng Trác tiến vào Lạc Dương, nhưng vì các sứ quân
không có chiến lược đồng bộ, phải lui quân về Dương Nhân (phía nam ải Hoàn Viên).
Vì lý do nào đấy, Viên Thiệu xúi Châu Ngang bất ngờ cướp trại Tôn Kiên. Liên
minh Quan Đông từ đấy tan vỡ. Đổng Trác lại bổ nhiệm Lưu Biểu làm Thứ Sử Kinh
Châu thay Vương Tường (vốn bị Tôn Kiên giết). Lưu Biểu đóng ở Tương Dương dần
tụ được uy quyền riêng. Viên Thuật sai Tôn Kiên đánh Lưu Biểu, không giờ Kiên
bị giết, Viên Thuật cô thế bèn dẫn quân về phía Đông vào Duyện Châu, lại bị Tào
Tháo đánh đuổi phải chạy về Dương Châu là thế.
(26) Quê
hương họ Tào
(27) Đàm
Thành, thủ phủ quận Đông Hải
(28) Câu
này đúng hay không đúng, cũng đạt được mục đích là nâng lòng quân sĩ. Lữ Bố
quân thế chỉ đủ giữ Bộc Dương, đến nổi thắng trận vẫn không truy đuổi được thì
sao làm được những điều Tháo nói.
(29) Lúc
này TàoTháo và Viên Thiệu còn là đồng minh, Thiệu lại muốn "liên hòa"
với Tháo là sao? Thật ra lúc này Tháo kiệt quệ, Thiệu muốn chiêu hàng, tức muốn
kéo Tháo về làm tay chân dưới trướng mình.
(30)
Khai Phong bây giờ.
(31) Tạm
được dùng cờ tiết, búa tầm sét, có quân hổ bôn bên mình, đây là những nghi thức
rất cao quý của triều đình.
(32) Chỗ
này nói đến thiên văn, sao Thái Bạch là sao Kim (Hôm, Mai), sao Huỳnh hoặc là
sao Hoả, Ngưa-Đẩu là cặp Ngưu Lang-Chức Nữ, bến Thiên Tân là chỗ đầu của chòm
sao Thiên Nga,
nằm trên
dải Ngân Hà. Đây nói đến toàn những điều nghịch theo quan niệm của quan Thái sử
xưa, ý nói điềm dữ.
(33)
Mệnh trời có lúc đến có lúc đi.
(34)
Nguyên văn là 'thiên đạo thâm viễn' tức là đạo trời sâu xa, dịch thoát.
(35) Có
lẽ là Tào Tháo phải tâu lên Hiến đế xin phong chức cho Thiệu. Ý tứ là giảm sự
tức tối của Thiệu (binh lực mạnh hơn cả) vì việc mình đón Thiên tử, đó là cái
đích ngắm của các chư hầu.
(36)
Tháo rất cao tay nhương chức của mình cho Thiệu, tự giáng cấp của mình xuống
mấy cấp thành Hành Xa kỵ tướng quân (chỉ coi việc của Xa kỵ tướng quân, thấp
hơn Thiệu đến mấy bực).
(37)
Nguyên văn là 'ngoã giải lưu li' có nghĩa như gạch ngói tan tác.
(38) Bồ
loả là cỏ bồ, ốc hến.
(39)
Tuyệt ảnh tức là không bóng, nghĩa là ngựa chạy rất nhanh.
(40) Đám
binh sỹ chết khi đánh nhau với Trương Tú khi trước.
(41)
Tướng ở đất Lỗ.
(42)
Tước hầu này không được cấp đất, chỉ có bổng lộc mà thôi.
(43)
Đình trưởng tương đương chức Trưởng thôn.
(44) Là
một chức quan.
(45) Là
quân lính vác cờ, cầm chiêng trống, theo hầu bên xe ngựa.
(46) Tức
là Tả Khâu Minh, tác giả sách Tả thị xuân thu nổi tiếng.
(47) Chỗ
này cũng tương tự như Lưu Bị dẫn dân ở Tân Dã, Phàn Thành đi tránh quân Tào sau
này. Trong số quần hùng thời Tam Quốc chỉ có Tào Tháo và Lưu Bị biết lo nghĩ
cho dân. Xem ra lời bàn của Tháo trong bữa rượu Thanh mai cũng không hẳn là lơi
vu vơ vậy.
(48) Chỗ
này người dịch ngờ rằng nguyên tác chép lầm. Nguyên là chữ Vũ là hai chữ Tập
ghép với nhau, mà chữ Vũ này không phải là chữ chỉ họ Vũ, vả lại chỉ thấy tác
giả Tập Tạc Xỉ chứ chưa thấy Vũ Tạc Xỉ bao giờ.
(49) Kế
lại là chức quan nhỏ ở châu quận chuyên lo về sổ bộ, văn thư.
(50)
Viên Tự là người nhà họ Viên, là em của Thuật và Thiệu. Nam huynh ở đây là chỉ vào Viên Thuật (Thuật
chiếm cứ vùng Hoài Nam ),
Bắc huynh là trỏ vào Viên Thiệu (Thiệu chiếm cứ vùng Hà Bắc). Tam Quốc diễn
nghĩa nói rằng Thuật là em Thiệu, song theo gia pháp thì Thuật mới là anh
(Thuật là con vợ đích từng, Thiệu là con của nàng hầu), tuy nhiên về tuổi tác
và địa vị thì Thiệu lớn hơn. Thuật từng lấy ngọc tỉ của Tôn Sách rồi xưng đế,
sau khi cùng quẫn mới định dâng ngọc tỉ cho Thiệu để nương nhờ, bị Tháo sai Lưu
Bị chẹn đường, sau Thuật cùng quẫn phát bệnh chết.
(51)
Nguyên văn câu này là 'đãi thăng đường thất'. Theo sách Luận ngữ là câu 'thăng
đường nhập thất', 'thăng đường' là học được cái cơ bản, 'nhập thất là học được
cái tinh tuý'. Dịch thoát ý câu văn là 'được ngài dạy dỗ chu toàn.'
(52)
Nhan Uyên là trò giỏi của Khổng Tử, Khổng Tử vẫn thường khen Uyên, than rằng
mình chẳng bằng được Uyên.
(53)
Xưa, Lý Sinh cùng Giả Phục theo học kinh Thượng Thư, Giả Phục khen ngợi Lý Sinh
hết lời, tiên đoán sau này Sinh sẽ là rường cột của quốc sau, quả nhiên ứng
nghiệm.
(54)
Kiều Huyền đây là người được nhắc đến từ đầu truyện, từng đoán rằng Tào Tháo sẽ
là người yên định được thiên hạ. Tào Tháo về qua đất cũ, nhớ đến Kiều Huyền vào
tế lễ, tỏ ý rằng nhờ những lời của Kiều Huyền mà ông cố gắng có được vinh quang
như hiện tại.
(55)
Tướng chết thì lui quân.
(56)
Triệu Quát là con của Triệu Xa, tướng nước Triệu. Tần đánh Triệu, Liêm Pha là
tướng Triệu cự Tần, Tần không thắng được, tướng Tần lập kế nói rằng người Tần
chỉ sợ Triệu Quát chứ không sợ Pha, vua Tần lấy Quát thay Pha làm tướng, mẹ
Quát can, vua Triệu không nghe, mẹ Quát xin rằng nếu
Quát thua quân sẽ không phải chịu tội cùng với Quát, vua Triệu ưng, sau quả
nhiên Quát bị tướng Tần là Bạch Khởi đánh tan, giết hết bốn mươi vạn quân
Triệu, nước Triệu rung động, mẹ Quát đã có lời từ trước, không phải tội.
(57)
Quản Trọng là bầy tôi của Tề Hoàn Công, danh tiếng lẫy lừng khắp Trung Hoa cổ
đại thời Xuân Thu, giúp cho nước Tề cường mạnh, làm bá chư hầu.
(58) Lễ
tốt lành, hỉ sự.
(59) Tức
sông An Dương, con sông này chảy từ vùng Sơn Tây xuyên qua vùng Hà Nam .
(60) Chỗ
này nhắc đến rất nhiều điển tích cổ, ND chưa tra cứu được.
(61)
Thiền Vu là vua xứ Hung Nô. Nguyên xứ Hung Nô có nhiều bộ lạc, mỗi bộ lạc đều
có một vị Thiền Vu, Thiền Vu đại loại cũng chỉ là tù trưởng của một bộ lạc mà
thôi.
(62)
Nguyên văn chỗ này là chữ 'Đinh tù', mà chữ Đinh là chỉ Thiên Can theo lịch âm,
vậy chữ 'tù' chả có nghĩa gì. Lại chiếu theo sự kiện xảy ra thì năm ấy phải là
năm Đinh Dậu. Vậy nên tạm dịch là 'Năm Đinh Dậu.'
(63)
Triệu Xa là danh tướng nước Triệu thời Chiến Quốc, Đậu Anh là tướng giỏi thời
Tây Hán, được vua ban thưởng cho của cải, đem chia hết cho quân sĩ, vì thế quân
sĩ phấn khởi tin phục, sau ra sức đánh giặc lập nổi công to.
(64)
Người Trung Quốc xưa ở vùng Hoa Hạ, gọi các dân tộc thiểu số ở bốn phía xung
quanh là Bắc Địch, Tây Nhung, Đông Di, Nam Man.
(65)
Nguyên văn câu này là "Hạ ngũ dụng'. Xem ra chữ 'dụng' ở đây chả có nghĩa
gì, có lẽ nguyên bản chép sai, vì chữ dụng với chữ 'nguyệt' chỉ khác nhau có
một nét bút. Vậy nên dịch theo câu văn là 'Mùa hạ tháng năm'.
(66) Lệ
và Khải là hai lối viết chữ Hán. Vương Thứ Trọng là người đặt ra lối chữ Khải,
chân phương, rõ ràng vuông vắn, là sự kết hợp của chữ Lệ và chữ Thảo.
(67) Bộ
Tuyển là tiền thân của bộ Lại sau này, Bộ này chủ quản việc bổ nhiệm, bãi miễn,
thăng giáng các quan lại trong toàn quốc.
(68)
Phạm Bàng và Hứa Chương là những danh sĩ nổi danh cuối thời Linh Đế.
(69)
Hoàn Văn tức là Tề Hoàn Công và Tấn Văn Công, đều làm bá các nước chư hầu đời
Xuân Thu.
(70) Chỗ
này nói Kinh Châu có lẽ là trị sở của Châu Kinh chứ không phải toàn bộ đất đai
châu này.
NGỤY THƯ QUYỂN 3 - Minh Đế kỷ
TÀO DUỆ TRUYỆN
Minh
Hoàng Đế huý Duệ(1), tự Nguyên Trọng, là Thái Tử con của Văn Đế(2). Thái Tổ (3)
lúc sinh thời rất yêu thương, thường gọi đến bên cạnh.
Nguỵ Thư
chép(4): Đế sinh ra được hơn một năm đã có khí chất hơn người. Vũ Hoàng Đế(5)
lấy làm lạ, nói rằng: ''Mày là căn bản ở đời thứ ba của ta đây.'' Mỗi lần hội
họp bày yến tiệc trong triều đều cho Đế ngồi cùng hàng Thị Trung cận thần trong
trướng. Đế học rộng biết nhiều, đặc biệt chăm chú vào việc sửa sang hinh luật.
Năm mười
lăm tuổi, được phong Vũ Đức Hầu. Đến năm Hoàng Sơ(6) thứ hai làm Tề Công, năm
Hoàng Sơ thứ ba làm Bình Nguyên Vương. Bởi vì mẹ bị giáng tội cho nên chưa được
lập làm người kế thừa.
Nguỵ
Lược(7) chép: Văn Đế thấy Quách Hậu không có con, ra chiếu sai chăm sóc nuôi
dưỡng Đế. Đế vì mẹ không được chết lành, trong lòng rất bất bình, sau không bị
bãi chức, liền cung kính mà thờ Quách Hậu, sớm tối thường luôn nương tựa thăm
hỏi. Quách Hậu cũng thấy mình chẳng có con, bèn càng thêm từ ái. Văn Đế lúc đầu
không yêu Đế, có ý muốn lấy người con của Từ Cơ là Kinh Triệu Vương làm người
thừa kế, vì vậy rất lâu không lập Thái Tử.
Nguỵ Mạt
Truyện(8) chép: Đế thường theo Văn Đế đi săn, (có lần) thấy mẹ con con hươu.
Văn Đế bắn chết con hươu mẹ, sai Đế bắn hươu con. Đế không tuân lời nói: ''Bệ
Hạ đã giết mẹ, thần không nhẫn tâm lại giết cả con.'' Rồi rơi lệ khóc. Văn Đế
liền ném cung tên, lấy đó là điều cực thiện mà có ý lập làm người kế nghiệp.
Năm
Hoàng Sơ thứ bảy, mùa hạ, tháng năm, Văn Đế bệnh nặng bèn lập Đế làm Hoàng Thái
Tử. Đến ngày Đinh Tỵ thì lên ngôi hoàng đế, đại xá thiên hạ, Tôn Hoàng Thái Hậu
làm Thái Hoàng Thái Hậu, tôn Hoàng Hậu làm Hoàng Thái Hậu. Mọi thần tử đều được
gia phong theo thứ bậc.
Thế
Ngữ(9) chép: Đế cùng kẻ sĩ trong triều vốn không có qua lại. Sau khi Đế kế vị,
quần thần mong muốn được thấy phong thái. Được vài ngày, Đế chỉ tiếp kiến riêng
Thị Trung Lưu Diệp, bàn luận hết cả ngày. Mọi người ở bên ngoài lắng nghe. Đến
khi Diệp ra hỏi: ''Thế nào?'' Diệp nói: ''Hàng như Tần Thuỷ Hoàng, Hán Hiếu
Vũ(10) tài sợ rằng cũng không bằng được.''
Sau khi
Đế lên ngôi, truy thuỵ mẹ là Chân Thị Phu Nhân là Văn Chiêu Hoàng Hậu. Ngày
Nhân Thìn, lập hoàng đẹ là Nhuỵ làm Dương Bình Vương.
Tháng
tám (năm ấy), Tôn Quyền đánh quận Giang Hạ. Thái Thú Văn Sính kiên cường phòng
thủ. Triều đình bàn luận muốn phát quân cứu viện. Đế nói: ''Quyền thạo thuỷ
chiến, sở dĩ dám bỏ thuyền lên bộ tấn công, là chỉ trông mong đánh úp lúc không
phòng bị mà thôi. Nay cùng với Sính giằng co, hình thế công thủ càng khó khăn
hơn, cuối cùng chẳng dám ở lâu đâu.'' Trước hết sai Trị Thủ Thị Ngự Sử Tuân Vũ
ra uý lạo quân dân biên giới. Vũ đến nơi, ở Giang Hạ dẫn quân sở tại cùng binh
sĩ bộ kỵ đi theo hơn nghìn người lên núi đốt lửa. Quyền lui quân bỏ chạy.
Ngày Tân
Tỵ (tháng ấy), lập Hoàng Tử Duật làm Thanh Hà Vương. Bọn tướng Ngô là Gia Cát
Cẩn, Trương Bá quấy phá Tương Dương. Phủ Quân Đại Tướng Quân Tư Mã Tuyên
Vương(11) đánh dẹp phá được, chém đầu Bá. Chinh Đông Đại Tướng Quân Tào Hưu lại
phá được cánh quân phụ (của Ngô) ở Tầm Dương. Luận công ban thưởng các tướng
theo thứ tự. Mùa đông, tháng mười, Thanh Hà Vương Duật băng. Tháng mười hai lấy
Thái Uý Chung Dao làm Thái Phó, Chinh Đông Đại Tướng Quân Tào Hưu làm Đại Tư
Mã, Trung Quân Đại Tướng Quân Tào Chân làm Đại Tướng Quân, Tư Đồ Hoa Hâm làm
Thái Uý, Tư Không Vương Lãng làm Tư Đồ, Trấn Quân Đại Tướng Quân Trần Quần làm
Tư Không, Phủ Quân Đại Tướng Quân Tư Mã Tuyên Vương làm Phiêu Kỵ Đại Tướng
Quân.
Năm Thái
Hoà(12) nguyên niên, mùa xuân, tháng giêng, hợp tế Vũ Hoàng Đếvà Trời ở đàn
Giao, hợp tế Văn Hoàng Đế và thượng đế ở miếu tổ tông. Phân chia Giang Hạ Nam
Bộ, đặt chức Đô Uý ở nam bộ Giang Hạ. Người ở Tây Bình là Khúc Anhs làm phản,
giết chết quan Lệnh ở Lâm Khương và quan Trưởng ở Tẩy Đô. Sai tướng quân Hác
Chiêu, Lộc Bàn đánh dẹp chém được. Tháng hai năm ấy, ngày Tân Mùi, Đế cày ruộng
tịch điền. Ngày Tân Tỵ, lập miếu thờ Văn Chiêu Hoàng Hậu ở Nghiệp Quận. Ngày
Đinh Hơi, tế thần mặt trời ở Đông Giao. Mùa Hạ, tháng tư, ngày Ất Hợi, làm ra
đồng tiền Ngũ Thù(13). Ngày Giáp Thân bát đầu kiến thiết tông miếu. Mùa thu,
tháng tám tế mặt trăng ở Tây Giao. Mùa đông, tháng mười sửa soạn duyệt binh ở
Đông Giao. Tháng mười một, lập Mao Thị làm Hoàng Hậu. Gia phong cho đàn ông có
chức tưổctng thiên hạ thêm hai cấp, lại ban gạo cho người goá vợ, kẻ goá chồng
cô độc không thể tự nuôi sống. Tháng mười hai, phong thêm cho cha của Mao Hậu làm
Liệt Hầu. Thái Thú Tân Thành là Mạnh Đạt làm phản. Ban chiếu sai Phiêu Kỵ Tướng
Quân Tư Mã Tuyên Vương đi đánh dẹp.
Tam Phụ
Lục Quyết(14) chép: Bá Lang người Lương Châu, tiếng tăm chẳng được tốt lành.
Sách ấy lại chú rằng: Bá Lang họ Mạnh tên Tha, người ở Phù Phong. Thời Linh Đế,
Trung Thường Thị Trương Nhượng một mình nắm giữ triều chính. Bọn Giám Nô của
Nhượng quản lý việc nhà cho Nhượng. Tha đường công danh không thành đạt, bèn
tận hết gia tài đút lót cho bọn Giám Nô này, cùng với chúng kết thân. Gia nghiệp
lâu năm vì thế mà huỵ hoại hết. Bon Giám Nô đều hổ thẹn, hỏi xem Tha muốn gì.
Tha nói: ''Chỉ muốn được các ngài bái chào thôi.'' Bọn Giám Nô chịu ơn Tha đã
lâu, đều hứa đồng ý. Đương thời tân khách đến cầu kiến Nhượng xuống xe trước
cổng thường đến hàng trăm, có khi đợi cả ngày chưa được qua cửa. Tha đến sau
cùng. Bọn Giám Nô chờ lúc Tha đến, đều ra đón xe bái chào, đưa thẳng một mình
xe Tha vào trong. Mọi người tất thảy đều giật mình, cho rằng Tha Thân thiết với
Nhượng nên tranh nhau đem đồ trân bảo đến tặng cho Tha. Tha được những thứ ấy,
đem hối lộ Nhượng hết. Nhượng rất mừng. Tha lại tặng Nhượng một bầu rượu bồ
đào, liền được bái làm Thứ Sử ở Lương Châu. Tha sinh ra Đạt, từ nhỏ đã vào
Thục. Sự tích của Đạt ở Thục được chép trong Lưu Phong truyện. Nguỵ Lược chép:
Vào năm Diên Khang(15) nguyên niên, Đạt dẫn bộ thuộc hơn bốn nghìn nhà quy
thuận Nguỵ. Văn Đế lúc bấy giờ mới lên ngôi Nguỵ Vương nhưng từ trước đã biết
tiếng Đạt, nghe tin Đạt đến rất mừng, bèn sai trọng thần có kiến thức ra quan
sát kiểm tra. Những người ấy trở về nói: ''Có tài năng làm tướng hiệu'' hoặc
''Có khí chất bậc công khanh''.Vương lại càng thêm kính trọng Đạt, viết thư
nghêng đón Đạt rằng: ''Gần với mặt trời cũng là có số mạng, chưa đủ để nói là
đặc biệt hiển vinh. Sao lại thế? Xưa Y Chí bội Thương mà theo Chu, Bách Lý rời
Ngu mà đến Tần, Nhạc Nghị thương túi da(16) mà thành xác ve, Vương Tuân(17)
biết phải trái mà xét đi về đều là những người hiểu rõ việc hưng phế mà cống
hiến đúng nơi, phân biệt được lẽ tất nhiên của chuyện thành bại. Vì vậy nét đan
thanh
chép lại hinh dung, sử chính đáng ghi lại sự nghiệp. Nghe noi khanh tư chất
phong thái tài giỏi thuần hậu, khí chất độ lượng siêu việt trác tuyệt, có thể
đảm đương xiên dương thời thế sáng tỏ, cất giữ tên tuổi trong sách vở truyền
đời. Nay ngươi chuyển biến hoàn toàn theo đường lối minh bạch mà về dong trong,
sẽ được rất an lành vui vẻ. Lòng không cho là đủ hướng về góc tây, ấy là lưu
luyến chốn cũ đó, nên mau hạ bút nối lời văn, tỏ lòng vui vẻ thuận tòng. Xưa
Ngu Khanh(18) sang Triệu, gặp gỡ hai lần đã được phong làm tướng, Trần Bình về
Hán, một lần thân cận đã lên hàng tham mưu. Cô nay với khanh tình còn quá người
xưa vậy nên ban cho ngự mã để tỏ lòng yêu thương.'' Lại viết: ''Nay trong nước
thanh bình yên định, vạn nhà theo về một mối, ba mặt biên thuỳ không có khói
bụi bốc lên, ngoài sân nhà chẳng vang tiếng chó sủa nghi ngờ, vì thế mà giềng
lưới buông lơi, cấm chế nới lỏng, với tình thế không chút đề phòng, công việc
bảo vệ chỉ là giả hoã, vốn không đảm đương nhờ cậy được. Khanh chọn lựa đến
đây, tất minh bạch ý của Cô. Chớ có sai khiến gia nhân tạo ra hỗn loạn lên
đường, làm cho người thân phải chấn động phân tán. Còn nếu khanh muốn gấp đến
gặp ta, trước tiên hãy ổn định bộ khúc, giữ cho họ có chốn gánh gánh vác vững
vàng rồi sau mới thong dong cưỡi ngựa sang đông.'' Đạt đi đến Tiếu(20), lúc yết
kiến thái độ văn nhã, tài năng biện bác hơn đời, mọi người không ai không chú
ý. Lại thêm Vương rời cung, cưỡi trên xe nhỏ ra đón, nắm tay vỗ lưng Đạt mà đùa
rằng: ''Khanh không phải thích khách của Lưu Bị chứ!'' rồi cho ngồi cùng xe.
Đạt được thăng làm Tán Kỵ Thường Thị, lĩnh chức Thái Thú ở Tân Thành, giao phó
trách nhiệm mặt tây nam. Bấy giờ các quan có người cho rằng đối đãi như thế là
quá, Đạt không thích hợp để uỷ thác công việc một phương. Vương nghe được nói:
''Ta đảm bảo nó không có lòng nào khác. Lại ví như có thì chỉ tốn ít cung tên,
hao tổn chút lòng trung mà thoi.'' Đạt được Văn Đế ưu ái, lại thân thiết với
Hoàn Giai và Hạ Hầu Thượng. Đến khi Văn Đế băng, Hoàn và Thượng cũng đã chết
cả, Đạt tự nghĩ mình chỉ như khách trọ lâu ngày ở chốn biên cương, trong lòng
cảm thấy không yên. Gia Cát Lượng nghe biết, muốn ngầm dụ dỗ Đạt, mấy lần gửi
thư chiêu mộ. Đạt có viết thư báo đáp Lượng. Thái Thú Nguỵ Hưng là Thân Nghi có
hiềm khích với Đạt, mật dâng biểu tố cáo Đạt tư thông với Thục. Đế vẫn không
tin. Tư Mã Tuyên Vương sai Tham Quân Lương Kỷ đến dò xét, lại khuyên Đạt nên
vào chầu. Đạt kinh hoảng sợ hãi, bèn làm phản Can Bảo Tấn Kỷ(21) chép: Đạt lúc
mới đến Tân Thành, lên ải Bạch Mã than rằng: ''Lưu Phong, Thân Đam giữ thành
chắc nghìn nhà thế này mà để mất.''
Năm Thái
Hoà thứ hai, mùa xuân, tháng giêng, Tuyên Vương công phá Tân Thành, chém chết
Đạt đem đầu về.
Nguỵ
Lược chép: Tuyên Vương chiêu dụ tướng của Đạt là Lý Phụ và cháu của Đạt là Đặng
Hiền. Bọn Hiền mở cổng thành dẫn quân vào. Đạt bị vây mười sáu ngày thì bại,
đầu bị đốt đem tro rắc trên bốn con đường lớn ở Lạc Dương.
Cắt các
huyện Thượng Dong, Vũ Lăng, Vu của quân Tân Thành để lập quân Thương Dong, ban
cho tên huyện như tên quận.
Đại
tướng nước Thục là Gia Cát Lượng quấy phá ở biên giới. Kẻ lại thứ dân ba quân
Thiên Thuỷ, Nam An, An Định làm phản phụ hoạ với Lượng.
Nguỵ Thư
chép: Lúc bấy giờ triều thần chưa biết đưa ra sách lược gì. Đế nói: ''Lượng vân
dựa vào núi non cách trở, nay lại tự đến, đã hợp với kế sách trong binh thư của
bậc trí giả. Vả chăng Lượng tham ba quận, chỉ biết tiến mà không biết thoái,
nay nhân cơ hội này tất sẽ phá được.'' Bèn bố trí binh mã bộ kỵ năm vạn thống
lĩnh ra chống Lượng.
Sai Đại
Tướng Quân Tào Chân giám sát toàn bộ Quan Hữu, cùng nhau tiến binh. Hữ Tướng
Quân Trương Cáp công kích Lượng ở Nhai Đình, đại thắng. Lượng thua trận bỏ
chạy, ba quận được bình định. Ngày Tân Mùi, tổ chức ăn mừng ở Trường An.
Nguỵ
Lược chép lộ bố thiên hạ cũng là công cáo ban xuống Ích Châu của Đế rằng: ''Lưu
Bị bội ân, tự trốn vào Ba Thục. Gia Cát Lượng quên bỏ đất ông cha(22), vào hùa
với bọn giặc còn xót lại, thần người cùng giận, để mang tiếng xấu làm hại chính
mình. Lương ngoài thì mong lập được tiếng làm Cô(23), trong thi mong riếng
chiếm đoạt thực quyền. Anh em Lưu Thăng(24) chỉ ngồi mà giữ thành không. Vì thé
Lợi Lang, Đãng Cừ, Cao Định, Thanh Khương không chỗ nào là không tan lở, cừu
địch với Lượng. Mà Lượng mặc ngược áo cừu đi vác củi(25), da bên trong mòn hết
thì lông cũng tiệt, chặt chân cho vừa giầy, đã khắc vào da lại hại đến xương.
Nói ngược mà xưng luận thuyết, lại tự coi mình là bậc tài hoa. Mưu việc quân ở
nơi đáy giếng, bước chân đi trong vết chân trâu. Từ khi trẫm lên nối ngôi, biên
giới ba vùng cùng vô sự mà vẫn còn thương thiên hạ mấy lần gặp việc binh đao.
Hơn nữa muốn săn sóc những người già ở trong bốn biển, nuôi lớn trẻ mồ coi mới
được sinh ra. Trước đổi thay phong tục ở lễ nhạc, sau tính toán sức mạnh bằng
khuyến nông. Tha cho Lượng làm hại ở cõi ngoài chưa lo liệu sửa trị tới. Nhưng
Lượng mang cái suy nghĩ táo bạo dốt nát của Lý Hùng(26), không nghĩ đến lời
khuyên đo lường Đức độ của Kinh Hàm(27), truy đuổi quan nhỏ dân đen, nhanh nhảu
ra cướp ở Kỳ Sơn. Vương sư vừa mới ra cứu thì giặc đã vỡ mật hết hơi. Mã Tắc,
Cao Tường nhìn thấy đã thua trận bỏ chạy. Hổ tướng thần binh của trẫm đuổi quân
bại trận, dẫm lên thây, lội qua máu. Lượng như đứa trẻ, khiếp sợ hùng sư. Quan
ta manh mẽ tinh nhuệ, phấn chấn hăng hái, ái nấy một lòng muốn ruổi dài truy
đuổi. Trẫm một mình thống lĩnh đất đai, nghĩ không ai không phải là thần tử của
vương thất. Dù vương sư đã đến xứ chỉ có cỏ gai mọc được cũng không muốn khiến
cho đất đai nghìn hộ của trung tín lương thần phải chịu lầm than cùng phường
ngu tối tà vạy. Cho nên trước tiên bố cáo dạy bảo, để làm rõ thành ý của quốc
gia khuyến khích mọi người dời đổi tâm tình, không cản trở việc đánh dẹp giặc
dã trong nước. Binh tướng quan lại, kẻ sĩ thứ dân trong Thục bị Lượng áp bức
bắt ép, cùng công khanh thụ chức đều nghe mà chịu bó tay.''
Mùa hạ,
tháng tư, trở về cung ở Lạc Dương. Nguỵ Lược chép: Đương thời có lời đồn rằng
Đế đã băng, các đại thần tuỳ giá đón Ung Khâu Vương Thực lập làm vua. Ở kinh sư
từ Biện Thái Hậu đến các công khanh tất thảy đều sợ hãi. Đến khi Đế trở về, mọi
người đều ngầm dò xét nét mặt Đế. Biện Thái Hậu vừa mừng vừa thương, muốn tìn
người đầu tiên tung ra tin đồn. Đế nói: ''Cả thiên hạ cùng nói, làm sao mà tìm
được?''
Tha cho
tội nhân không đáng tội chết chém trở xuống. Ngày Ất Tỵ, bàn luận công lao thảo
phạt Lượng, phong tước tăng ấp cho mọi người. Tháng năm, đại hạn. Tháng sáu,
ban chiếu rằng: ''Tôn kính đạo Nho, cọi trọng sự học, ấy là cái gốc của vương
hoá vậy. Tự làm nghiêng lệch các bậc Nho quan hoặc không có những người ấy, sẽ
lấy ai làm rõ truyền rộng đạo thánh hiền? Nay sẽ tuyển chọn các bậc Bác Sĩ, Mậu
Tài để giao trách nhiệm Thị Trung, Thường Thị. Lại sắc cho các quận trong nước
lấy việc tiến cử người tài mà sửa sang việc học làm trọng.'' Mùa thu, tháng
chín, Tào Hưu thống lĩnh chư quân tiến vào đất Hoàn, giao chiến với tướng Ngô
là Lục Nghị(28) ở Thạch Đình, thất bại. Ngày Ất Dậu, lập Hoàng Tử Mục làm Phồn
Dương Vương. Ngày Canh Tý, Đại Tư Mã Tào Hưu hoăng. Mùa đông, tháng mười, ban
chiếu cho công khanh cận thần mỗi người phải đề cử một người lương tướng. Tháng
mười một, Tư Đồ Vương Lãng hoăng. Tháng mười hai, Gia Cát Lượng vây Trần
Thương. Tào Chân sai bọn tướng quân Phí Diệu ra chống cự.
Nguỵ
Lược chép: Trước lúc đó đã sai Tướng Quân Hác Chiêu xây thành Trần Thương. Gặp
lúc Lượng tới, vây Chiêu, nhưng không thể chiếm thành. Chiêu tự Bá Đạo, người
Thái Nguyên, con người hùng tráng, từ nhỏ đã vào trong quân làm Bộ Khúc Đốc,
mấy lần lập được chiến công nên được thăng vào hàng Tạp Hào Tướng Quân. Về sau
trấn thủ Hà Tây hơn mườinăm, người Di sợ mà phục. Lươịng vây Trần Thương, sai
người cùng làng với Chiêu là Cận Tường đứng ngoài thành thuyết phục. Chiêu ở
trên thành đáp lời Tường rằng: ''Điều mục luật pháp nước Nguỵ, ông đã từng
quen. Tôi là người thế nào, ông cũng đã biết. Tôi nhận ơn lớn của quốc gia mà
lại coi trọng môn hộ. Ông có lời nào có thể nói được đây, mà dù ông có lời để
nói thì tất chỉ có chết rồi tôi mới chịu nghe. Ông về nói cho Gia Cát Lượng
biết, có thể mau đánh thành đi.'' Tường lấy lời Chiêu về báo với Lượng. Lượng
lại sai Tường ra thuyết phục Chiêu lần nữa. Bảo rằng quân số không bằng, chưa
vây chỗ trống rỗng thì đã tự thua.Chiêu bảo Tường rằng: ''Lời tôi nói trước đây
không thay đổi được. Tôi nhận ra ông nhưng mũi tên không không biết ông đâu.''
Tường bèn bỏ đi. Lượng tự nghĩ có quân tính đến hàng vạn mà Chiêu binh lực chỉ
hơn nghìn, hơn nữa tính rằng quân ở phía đông đi cứu chưa thể mau chóng đến nơi
được, bèn tiến binh đánh Chiêu. Lượng đưa xe nặng chở thang mây đến gần thành.
Chiêu ở trên thành lấy tên lửa bắn xuống thang mây đón đánh. Thang cháy, người
ở trên thang đều bị chết thiêu. Chiêu lại lấy dây buộc đá ném ra quăng vào xe
nặng, xe gẫy. Lượng bèn cho quân đứng trên Tỉnh Lan (29) cao trăm thước bắn vào
trong thành, lấy đất lấp hào, muốn trèo thẳng vào trong thành. Chiêu ở trong thành
xây tường lớn để chặn. Lượng lại sai đào đát nền, muốn đi lên phía trong tường
thành. Chiêu lại đào một đường hào cắt ngang ở trong để ngăn chặn.Hai bên ngày
đêm công thủ hơn hai mươi hôm, Lượng không dùng được cách nào thì cứu binh đã
tới nơi nên đành phải rút. Có chiếu khen Chiêu giỏi phòng thủ, ban cho tước
Liệt Hầu. Đến khi Chiêu trở về, Đế sai đưa đến gặp mặt mà khen ngợi. Vì thế lại
bảo Trung Thư Lệnh Tôn Tư rằng: ''Quê hương khanh có người sảng khoái nhường
này, làm tướng rực rỡ đến vậy, trẫm còn gì phải lo nữa. Chiêu mắc bệnh chết để
lại di mệnh dạy con là Khải rằng: ''Ta làm tướng mới biết tướng không thể
làm.Ta mấy lần đào mộ người lấy gỗ làm chiến cụ cho nhà nước nên lại biết rằng
hậu táng chẳng có ích gì cho người đã chết. Con nhất định phải liệm ta bằng
quần áo bình thường. Vả chăng người sông còn có chỗ ở, người chết ở tại chỗ
nào? Nay đưa mộ ta đi xa, đông tây nam bắc, tùy ở con cả đấy.''
Con của
anh Thái Thú Liêu Đông Công Tôn Cung là Uyên cướp đoạt địa vị của Cung. Nhân đó
lấy Uyên làm Thái Thú Liêu Đông.
Chú thích:
(1) Duệ: Trong các bản dịch Tam Quốc Diễn
Nghĩa của những dịch giả tiền bối Phan Kế Bính, Mộng Bình Sơn nhân vật này được
gọi là Tào Tuấn, không rõ tại sao.
(2) Văn Đế: Tào Phi miếu hiệu là Nguỵ Văn Đế.
(3) Thái Tổ: Tào Tháo được truy tôn Thái Tổ Vũ
Hoàng Đế.
(4) Nguỵ Thư: Do Vương Thẩm, Tuân Kỷ, Nguyễn
Tịch biên soạn, hoàn thành vào cuối thời Tào Nguỵ.
(5) Vũ Hoàng Đế: Tào Tháo.
(6) Hoàng Sơ: Niên hiệu của Tào Phi, bắt đầu
từ năm 220 đến năm 226.
(7) Nguỵ Lược: Do Ngư Hoạn soạn.
(8) Nguỵ Mạt Truyện: Tác phẩm khuyết danh ghi
chép sự kiện thời Nguỵ.
(9) Thế Ngữ: Là sách Nguỵ Tấn Thế Ngữ do Quách
Tấn Ban soạn, chép sự tích danh nhân thời
Nguỵ Tấn.
(10) Hán Hiếu Vũ: Hán Vũ Đế.
(11) Tư Mã Tuyên Vương: Tư Mã Ý.
(12) Thái Hoà: Niên hiệu của Nguỵ Minh Đế Tào
Duệ, bát đầu từ năm 227 đến năm 233.
(13) Thù: Đơn vị trọng lượng thời cổ, sáu Thù
là một Truy, hai mươi tư Thù là một Lượng.
(14) Tam Phụ Lục Quyết: Là sách Tam Chú Phụ
Lục Quyết do Triệu Kỳ soạn vào thời Tam Quốc.
(15) Diên Khang: Niên hiệu thứ sáu và cuối
cùng của Hán Hiến Đế, từ tháng ba đến tháng bảy năm 220.
(16) Túi da: Nhạc nghị làm Đại Tướng dưới
triều Yên Chiêu Vương, cầm quân đánh Tề. Yên Chiêu Vương chết. Con là Yên Huệ
Vương lên ngôi, mắc mưu phản gián của người Tề, thay Nhạc Nghi bằng tướng khác.
Nhạc Nghị bỏ Yên theo Triệu. Yên Hụê Vương sợ nhạc nghị có tài lại biết rõ tình
hình nước mình sẽ gây hoạ hại, viết thư trách. Nhạc Nghị trả lời có đoạn rằng:
''...Thần nghe kẻ mở đầu tốt chưa chắc đã có kết quả tốt. Ngày xưa Ngũ Tử Tư
nói được Hạp Lư nghe nên dấu chân vua Ngô đi xa đến tận thành Sính. Phù Sai thì
không thế, cho xác ông ta vào cái túi da ngựa và thả trôi trên sông Giang. Vua
Ngô không hiểu theo lời bàn của Tử Tư có thể lập được công, nên dìm xác Tử Tư
mà không hối hận. Tử Tư không biết nhìn trước nhà vua không cùng bàn bạc với
mình để đến nỗi vào sông Giang mà không được giải thoát.Thần khỏi tội, lập nên
công trạng để làm sáng cái dấu vết của tiên vương, đó là cái kế cao nhất của
thần. Mắc phải việc gièm pha, nhục nhã làm hỏng mất cái danh của tiên vương đó
điều thần rất sợ. Đã chịu cái tội không thể lường được, may được lợi mà thoát
khỏi, nhưng thần mang nặng ân nghĩa của tiên vương, thần tuy ở nước ngoài mà
lòng vẫn không rời bỏ nước Yên.''
(17) Vương Tuân: Bộ tướng của Ngỗi Hiêu,
khuyên Ngỗi Hiêu không nên xưng đế sẽ gây chuyện đối đầu trực tiếp với Hán
Quang Vũ.
(18) Ngu Khanh: Danh sĩ thời Chiến Quốc, người
Hàm Đan, sau hai lần yết kiến quốc quân được bái làm Thượng Khanh.
(19) Trần Bình: Mưu sĩ của Hán Cao Tổ.
(20) Tiếu: Tiêu Quận quê gốc của Tào Tháo.
(21) Can Bảo Tấn Kỷ: Do Can Bảo người Giản
Giới đời Tấn soạn.
(22) Quê gốc Gia Cát Lượng ở huyện Dương Đô,
quận Lang Nha lúc bấy giờ thuộc quyền quản hạt của nước Nguỵ.
(23) Ý nói Lượng muốn xưng vương cát cứ độc lập,
khuynh loát triều đình Thục Hán.
(24) Lưu Thăng: Đây phải là anh em Lưu Thiện
mới hợp lý.
(25) Mặc ngược áo cừu: Người xưa mặc áo lông
thú thường xoay mắt lông ra ngoài. Vì vậy có thành ngữ ''mặc ngược áo cừu đi
vác củi'' chỉ người ngu dốt làm việc bỏ gốc tìm ngọn.
(26) Lý Hùng: Tâm phúc của Công Tôn Thuật.
Thuyết phục Thuật xưng đế ở Ba Thục đối chọi với Hán Quang Vũ. Lập luận của
Hùng rất giống Long Trung Sách của Lượng.
(27) Kim Hàm: Gĩư chức Kỵ Đô Uý dưới trướng
Công Tôn Thuật, khuyên Thuật nghĩ đến đức độ của mình chưa đủ thì chưa nên nghĩ
đến việc xưng đế.
(28) Lục Nghị: Lục Tốn.
NGỤY THƯ QUYỂN 4 - Tam Thiếu Đế kỷ
TÀO PHƯƠNG TRUYỆN
Tề Vương
là Phương, tự Lan Khanh. Minh Đế không có con, bèn nuôi Vương và Tần Vương là
Tuân; việc trong cung kín đáo, chẳng ai biết là do ai sinh ra.
Ngụy thị
Xuân thu chép: Có người nói là con của Nhâm Thành Vương là Khải.
Năm
Thanh Long thứ ba, lập làm Tề Vương.
Năm Cảnh
Sơ thứ ba, tháng giêng đầu ngày đinh hợi, Minh Đế bệnh nặng, bèn lập làm Hoàng
thái tử. Hôm đó, lên ngôi Hoàng đế, đại xá. Tôn Hoàng hậu làm Hoàng thái hậu.
Đại tướng quân Tào Sảng, Thái úy Tư Mã Tuyên Vương(1) phụ chính. Hạ chiếu nói:
"Trẫm còn nhỏ dại, nối thay nghiệp lớn, đau buồn để tang, không coi được
việc. Nay Đại tướng quân, Thái úy vâng theo chiếu lệnh, đến giúp đỡ trẫm, quan
Tư đồ, Tư không, Trủng tể, Nguyên phụ thống lĩnh trăm quan để giữ yên xã tắc,
các ngươi phải cùng công khanh đại phu dốc lòng dốc sức để nêu rõ ý trẫm. Còn
các chỗ đang xây dựng cung điện, hạ chiếu sai đều bãi bỏ, những nô tì của quan
lại từ sáu mươi tuổi trở lên đều được thả cho ra làm dân thường". Tháng
hai, người Tây Vực đến dâng tặng vải chống lửa(2), hạ chiếu sai Đại tướng quân,
Thái úy mặc thử để nêu rõ cho trăm quan.
Dị vật
chí chép: Nước Tư Điệu có núi lửa tại giữa biển phía nam, trên ấy có lửa trên
bãi, mùa xuân mùa hạ tự cháy, mùa thu mùa đông tự tắt. Có cây mọc ở giữa ấy mà
không héo, vỏ cây vẫn tươi, vào mùa thu mùa đông lửa tắt thì đều khô héo. Tục
người nước này thường vào mùa đông thì lấy vỏ cây ấy để làm vải, màu hơi xanh
đen; nếu có bụi bẩn bám vào thì ngâm vào nước lại sạch đẹp vậy.
Phó Tử
chép: Vào thời Hoàn Đế của nhà Hán, Đại tướng quân Lương Kí lấy vải chống lửa
làm áo cộc, thường lúc hội tân khách, Kí giương tay tranh chén rượu, làm rơi
chén mà làm bẩn áo, vờ giận, cởi áo ra nói: "Đốt nó đi". Áo bắt lửa,
cháy sáng rừng rực như đốt áo thường, vết bẩn mất và lửa tắt, áo lại rực rỡ
tươi sáng như than lửa đỏ vậy.
Sưu thần
kí chép: Tại gò núi Côn Lôn có núi lửa cháy, trên núi có cây cỏ chim thú, đều
sống trên lửa cháy, do đó có vải chống lửa, nếu không phải làm từ vỏ cây trên
núi ấy thì cũng là từ lông của chim thú trên núi ấy vậy.
Trước
đây vào thời nhà Hán, người Tây Vực tặng loại vải ấy, sau đó lâu ngày ngừng
dứt, đến đầu thời nhà Ngụy, người thời ấy ngờ rằng không có loại vải ấy. Văn Đế
cho rằng lửa cháy khốc liệt, không có vật gì sống nổi trong lửa, bèn viết bài
luận nói rõ là không có việc ấy, gạt bỏ lời của bậc thức trí. Đến lúc Minh Đế
lên ngôi, hạ chiếu cho Tam công nói: "Ngày xưa Tiên đế viết bài luận, lời
văn đúng không sai, nay khắc lên bia đá ở ngoài cửa tông miếu và nhà Thái học,
cùng đặt ngang với kinh khắc trên bia đá để mãi tỏ rõ cho người đời sau".
Đến đây sứ giả Tây Vực đến mà tặng vải chống lửa ấy, do đó đục bỏ bài luận ấy,
cho nên thiên hạ chê cười.
Thần là
Tùng Chi trước đây đi về phía tây đến Lạc Dương, qua xem vật cũ, thấy bia đá
khắc bài luận tại nhà Thái học vẫn còn, nhưng ở ngoài cửa tông miếu thì không
có. Hỏi những người già, họ nói rằng vào lúc trước nhà Tấn nhận ngôi, liền dùng
lại tông miếu của nhà Ngụy, dời bia đá ấy sang nhà Thái học, không phải là dựng
bia đá ở hai nơi vậy. Trộm nghĩ lời văn trên bia đá là không đúng.
Lại có
Thần dị kinh của Đông Phương Sóc chép: Tại ngoài cõi hoang miền nam có núi lửa,
dài ba mươi dặm, rộng năm mươi dặm, trong ấy đều mọc cây không héo, ngày đêm
lửa cháy, gặp gió lớn mà không bùng, gặp mưa to mà không tắt. Trong lửa có con
chuột, nặng đến trăm cân, lông dài hơn hai thước, sợi lông nhỏ như tơ, dùng làm
vải được. Loài ấy sống ở trong lửa, màu đỏ sẫm, lúc ra ngoài thì màu
trắng, nếu lấy nước mà tưới lên thì chết ngay, vặt lông của nó, dệt để làm vải.
Ngày
đinh sửu, hạ chiếu rằng: "Thái úy đạo đức ngay thẳng, dốc lòng trung suốt
ba đời, phía nam bắt Mạnh Đạt, phía tây phá giặc Thục, phía đông diệt Công Tôn
Uyên, công trùm cả nước. Ngày xưa Chu Thành Vương lập ra quan Bảo phó, gần đây
nhà Hán tỏ rõ ân sủng cho Đặng Vũ, đấy là để đề cao bậc tuấn nghĩa, tất được
tôn sùng vậy. Nay lấy Thái úy làm Thái phó, Trì tiết, lĩnh binh trông coi việc
quân như cũ". Tháng ba, lấy Chinh đông Tướng quân Mãn Sủng làm Thái úy.
Mùa hạ tháng sáu, đem quan dân huyện Đông Đạp quận Liêu Đông vượt biển đến định
cư ở quận Tề, lấy huyện Tung Thành cũ lập thành huyện Tân Đạp để dân ấy ở. Mùa
thu tháng bảy, vua bắt đầu lên triều, nghe các công khanh tấu việc. Tháng tám,
đại xá. Mùa đông tháng mười, lấy Trấn nam Tướng quân Hoàng Quyền làm Xa kị
Tướng quân. Tháng mười hai, hạ chiếu nói: "Liệt Tổ Minh Hoàng Đế vào tháng
giêng rời bỏ thiên hạ, khiến cho bầy tôi mãi nghĩ nhớ ngày đau buồn ấy, nay
dùng lại lịch của nhà Hạ; dẫu trái nghĩa thông lịch Tam thống(3) của Tiên đế,
nhưng lễ chế ấy cũng thay đổi từ lịch cũ vậy. Lại nữa lịch nhà Hạ đối với lịch
số lại đúng với số trời, nay lấy tháng kiến dần làm tháng giêng năm Chính Thủy
thứ nhất, lấy tháng kiến sửu làm tháng mười hai sau cùng".
Năm
Chính Thủy thứ nhất, mùa xuân tháng hai ngày ất sửu, bái Thị trung Trung thư
giám Lưu Phóng, Thị trung Trung thư lệnh Tôn Tư làm Tả, Hữu Quang lộc Đại phu.
Ngày bính tuất, đem dân của huyện Vấn, huyện Bắc Phong của quận Liêu Đông vượt
biển chuyển đến các huyện Xương Quốc, Lâm Truy, Tây An của quận Tề, lập các
huyện Tân Vấn, Nam Phong để dân ấy ở đấy.
Từ mùa
đông tháng mười hai năm ngoái đến tháng này không mưa. Ngày bính dần, hạ chiếu
sai quan coi ngục gấp xét xử công bằng cho người bị oan uổng, phải cẩn thận xem
xét, các công khanh quan lại nói lời thẳng dâng mưu hay, phải dốc hết lòng. Mùa
hạ tháng tư, Xa kị Tướng quân Hoàng Quyền hoăng. Mùa thu tháng bảy, hạ chiếu
nói: "Kinh Dịch chép: 'Tổn trên ích dưới, giảm bớt ham muốn thì không tốn
tiền của, không gây hại dân chúng'. Ngày nay trăm họ không no đủ mà phủ quan
lại có nhiều vàng bạc vật lạ, dùng để làm gì? Nay đem năm mươi loại, hơn một
nghìn tám trăm cân vàng bạc vật ấy ra hủy đúc để làm các đồ dùng cho quân
sĩ". Tháng tám, xa giá đi coi xét vụ trồng lúa ở Lạc Dương, đều ban phu
cày trồng khỏe mạnh cho người cao tuổi.
Năm thứ
hai, mùa xuân tháng hai, Đế vừa học thông Luận ngữ, sai quan Thái thường đem cỗ
thái lao tế Khổng Tử ở miếu Tích Ung, tế phối cùng Nhan Uyên. Mùa hạ tháng năm,
tướng Ngô là bọn Chu Nhiên vây Phàn Thành quận Tương Dương, Thái phó Tư Mã
Tuyên Vương đem quân chống chúng. .
Tấn kỉ
của Can Bảo chép: Tướng Ngô là Toàn Tông cướp Thược Bi, Chu Nhiên, Tôn Luân đem
năm vạn quân vây Phàn Thành, Gia Cát Cẩn, Bộ Chất cướp Tổ Trung; Tông đã thua
chạy nhưng Phàn Thành bị vây gấp. Tuyên Vương nói: "Mười vạn dân chúng ở
Tổ Trung cách tại phía nam sông, xao động không có chủ, Phàn Thành lại bị đánh,
nhiều tháng không giải được vây, đấy là việc nguy gấp vậy, xin tự đánh
cứu". Người bàn đều nói: "Giặc từ xa đến vây Phàn Thành mà không phá
được, bị đè ở dưới thành vững, có cái thế tự vỡ, nên dùng kế lâu dài mà ngăn
giặc". Tuyên Vương nói: "Sách binh pháp có nói: 'Có sức mà chỉ ngăn
giữ địch, đấy là tự trói buộc mình; không có sức mà ngăn giữ địch, đấy là tự
làm úp lật mình'. Nay bờ cõi dao động, lòng dân nghi hoặc, đấy là nỗi lo lớn
của xã tắc vậy". Tháng sáu, đem các quân đánh miền nam, nhà vua đi xe ra
tiễn ở ngoài cửa thành Tân Dương. Tuyên Vương cho rằng miền nam nóng ẩm, không
nên giữ lâu, sai quân kị nhẹ dụ địch, nhưng không đánh bừa. Do đó lại sai các
quân nghỉ ngơi tắm rửa, chọn kẻ khỏe mạnh, buổi đêm đi trước, tự thân rõ hiệu
lệnh, tỏ ý dốc hết sức đánh. Bọn Nhiên nghe tin, bèn buổi đêm chạy trốn. Đuổi
đến cửa Tam Châu, bắt giết rất nhiều.
Tháng
sáu ngày tân sửu, rút quân. Ngày kỉ mão, lấy Chinh đông Tướng quân Vương Lăng
làm Xa kị Tướng quân. Mùa đông tháng mười hai, quận Nam An động đất.
Năm thứ
tư, mùa xuân tháng giêng, đế ban áo rộng cho bầy tôi theo cấp bậc. Mùa hạ tháng
tư ngày ất mão, lập Hoàng hậu Chân thị, đại xá. Đầu tháng năm, Mặt trời có chỗ
khuyết(4) trong chốc lát. Mùa thu tháng bảy, hạ chiếu cúng tế các vị Đại tư mã
Tào Chân, Tào Hưu, Chinh nam Đại tướng quân Hạ Hầu Thượng, Thái thường Hoàn
Giai, Tư không Trần Quần, Thái phó Chung Do, Xa kị Tướng quân Trương Cáp, Tả
tướng quân Từ Hoảng, Tiền tướng quân Trương Liêu, Hữu tướng quân Nhạc Tiến,
Thái úy Hoa Hâm, Tư đồ Vương Lang, Phiếu kị Tướng quân Tào Hồng, Chinh tây
Tướng quân Hạ Hầu Uyên, Hậu tướng quân Chu Linh, Văn Sính, Chấp kim ngô Tang
Bá, Phá lỗ Tướng quân Lí Điển, Lập nghĩa Tướng quân Bàng Đức, Vũ mãnh Hiệu úy
Điển Vi ở miếu đình Thái Tổ. Mùa đông tháng mười hai, nữ vương của nước Oa là
Tỉ Di Hô sai sứ dâng tặng.
Năm thứ
năm, mùa xuân tháng hai, hạ chiếu sai Đại tướng quân Tào Sảng đem quân đánh
Thục. Mùa hạ đầu tháng tư, Mặt trời có chỗ khuyết. Tháng năm ngày quý tị, giảng
kinh Thượng thư thuộc xong, sai quan Thái thường lấy đồ thái lao tế Khổng Tử ở
miếu Tích Ung, tế cùng Nhan Uyên; ban sách Đại truyện cho Đại tướng quân và
người hầu giảng theo cấp bậc. Ngày bính ngọ, Đại tướng quân Tào Sảng dẫn quân
về. Mùa thu tháng tám, Tần Vương là Tuân hoăng. Tháng chín, người Tiên Ti xin
nội thuộc, đặt Liêu Đông thuộc quốc, lập huyện Xương Lê để người Tiên Ti ở đấy.
Mùa đông tháng mười một ngày quý mão, hạ chiếu cúng tế Thượng thư Tuân Du ngày
trước ở miếu đình Thái Tổ.
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Lúc trước nhà Ngụy cúng tế mà không màng đến Tuân Úc, có lẽ
là những năm cuối của người này có người bàn khác, lại vì chức vị không phải là
đại thần của nhà Ngụy vậy. Đến như đề cao Trình Dục mà hạ thấp Quách Gia, đặt
Chung Do trước mà sắp Tuân Du sau thì chưa rõ cái ý ấy. Từ Tha mưu phản thì Hứa
Chử cảnh giác, rất là trung thành sánh với Nhật Đê thời xưa, vả lại ở trận Đồng
Quan, nếu không có Chử giúp thì không thắng được, công lao của Chử hơn cả Điển
Vi, nay tế Vi mà không màng đến Chử, đấy lại có chỗ chưa đạt vậy.
Ngày kỉ
dậu, đặt lại nước Tần thành quận Kinh Triệu. Tháng mười hai, Tư không Thôi Lâm
hoăng.
Năm thứ
sáu, mùa xuân tháng hai ngày đinh mão, quận Nam An động đất. Ngày bính tí, lấy
Phiếu kị Tướng quân Triệu Nghiễm làm Tư không; mùa hạ tháng sáu, Nghiễm hoăng.
Tháng sáu ngày đinh mão, lấy Thái thường Cao Nhu làm Tư không. Ngày quý tị, lấy
Tả quang lộc Đại phu Lưu Phóng làm Phiếu kị Tướng quân, Hữu quang lộc Đại phu
Tôn Tư làm Vệ tướng quân. Mùa đông tháng mười một, hợp tế ở miếu Thái Tổ, bắt
đầu tế mười một tôi thần giúp vua mà ngày trước bàn luận. Tháng mười hai ngày
tân mão, hạ chiếu sai các bậc học giả học thử Dịch truyện mà quan Tư đồ Vương
Lang ngày trước soạn. Ngày ất hợi, hạ chiếu nói: "Hôm sau hội họp bầy tôi,
cho quan Thái phó được ngồi kiệu lên điện".
Năm thứ
bảy, mùa xuân tháng hai, U Châu Thứ sử Quán Khâu Kiệm đánh nước Cao Câu Li. Mùa
hạ tháng năm, đánh rợ Uế, Mạch, đều phá chúng, mấy chục nước rợ Hàn, Na Khê đều
đem bộ lạc xin hàng. Mùa thu tháng tám ngày mậu thân, hạ chiếu nói: "Ta
đến chợ thấy những kẻ bị bán làm nô tì cho quan lại, đều bảy mươi tuổi, có kẻ
bị bệnh tật tàn tụy, đấy gọi là nỗi khổ cực của dân thường vậy. Lại nữa quan
lại thấy họ sức kiệt mà bán họ lần nữa, tiến lùi chẳng được, nay sai hết về làm
dân thường. Nếu có kẻ không tự mưu sống được thì quận huyện phải cấp phát cho
họ".
Thần là
Tùng Chi xét: Đế vừa lên ngôi, có chiếu rằng: "Những nô tì của quan lại từ
sáu mươi tuổi trở lên đều được thả cho ra làm dân thường". Đã có chiếu ấy,
thì nên theo phép thường. Trong khoảng bảy, tám mươi tuổi mà lại bán kẻ bảy
mươi tuổi, vả lại những nô tì bảy mươi tuổi cùng người ốm yếu bệnh tật, đều
không phải là người nên bán, vậy mà vẫn bán ở chợ, đấy đều là việc khó giải
thích.
Ngày kỉ
dậu, hạ chiếu nói: "Ta đáng đến ngày mười chín sẽ tự đi cúng tế, nhưng
buổi chiều đi ra đã thấy đang sửa đường, gặp mưa mà vẫn sửa, lại sai dân phu
làm. Ta thường nghĩ trăm họ sức ít mà làm nhiều, ngày đêm lo lắng. Đường đi chỉ
nên hẹn lúc mà sửa thông, vậy mà ta nghe nói lại sai bắt cả già trẻ đi làm, làm
việc nhiều lắm, vất vả lưu li, dẫn đến than oán. Ta há ngồi yên trên xe mà đi
cúng tế ở tông miếu được chăng? Từ nay về sau, xét rõ đổi việc này". Tháng
mười hai mùa đông, giảng Lễ kí xong, sai quan Thái thường lấy đồ thái lao tế
Khổng Tử ở miếu Tích Ung, tế cùng Nhan Uyên.
Hán Tấn
xuân thu của Tập Tạc Xỉ chép: Năm đó, tướng Ngô là Chu Nhiên vào Tổ Trung, bắt
chém mấy nghìn người; hơn vạn nhà quan dân ở Tổ Trung vượt sông Miện. Tư Mã
Tuyên Vương bảo Tào Sảng rằng: "Nếu sai quân về, giặc tất lại đến cướp,
nên giữ quân ở lại". Sảng nói: "Nay không lo giữ mé nam sông Miện mà
chỉ giữ dân ở lại mé bắc sông Miện, đấy không phải là kế hay vậy". Tuyên
Vương nói: "Không đúng. Vật gì hễ đặt ở chỗ yên thì được yên, đặt ở chỗ
nguy thì nguy, cho nên sách binh pháp nói: 'Thành bại là do hình đất, an nguy
là thế đất, hình thế đất là cái cốt yếu để phòng giữ, không thể không xét kĩ'.
Nếu để cho hai vạn quân giặc chắn ngang sông Miện, hai vạn quân chống nhau với
các quân ta ở phía nam sông Miện, một vạn quân lại đi cướp Tổ Trung thì quân sẽ
làm gì để cứu"? Sảng không nghe, bèn sai về. Sau đó Nhiên đánh úp phá chỗ
ấy. Viên Hoài nói với Sảng rằng: "Dân miền Ngô Sở yếu kém lại ít sức, bậc
anh tài hiền năng không sinh ra ở chỗ ấy, sánh về sức thì không đủ để chống
nhau với người Trung Quốc, nhưng từ đời trước đến nay vẫn thường gây hại cho
Trung Quốc, đại khái là lấy Giang Hán làm ao, lấy thuyền chèo làm vũ khí, thấy
lợi thì lên bộ cướp bóc, không lợi thì vào sông, đánh chúng thì đường xa, do đó
Trung Quốc nhiều đời không đánh được họ vậy. Tôn Quyền từ mấy chục năm trước
đến nay thường đánh cướp mé bắc sông Giang, luyện tập quân giáp, sửa sang phòng
bị, nhiều lần ra đánh lén, dám đi xa khỏi sông, đến nơi đất bằng, đấy là điều
mà người Trung Quốc từng nghe thấy vậy. Người dùng binh quý ở việc quân no
chống quân đói, lấy quân nhàn thắng quân mỏi, đem quân không muốn đánh lâu, đi
không muốn đến nơi xa, giữ thì chọn nơi vững, gắng sức thì thích mạnh. Ngày nay
nên bỏ miền sông Hoài, sông Hán về phía nam, rút lui mà tránh giặc. Nếu giặc
vào được miền giữa, đến lấn biên giới thì theo điểm yếu của chúng mà dùng điểm
mạnh của người Trung Quốc mà đánh vậy. Nếu giặc không dám đến thì biên giới
được yên, không có nỗi lo bị cướp phá vậy. Khiến cho nước giàu quân mạnh, lòng
người hợp nhất thì đánh được nước giặc không còn xa nữa vậy. Nay thành Tương
Dương lẻ loi ở phía nam sông Hán, nếu giặc men sông Hán mà đi lên thì ta chặn
ngang mà làm cho đường lối chẳng thông, lúc ấy một trận là thắng, không cần
đánh mà giặc tự chịu phục, cho nên đặt quân ở đấy thì không ích cho nước, bỏ
chỗ ấy cũng không bị lấn. Từ quận Giang Hạ về phía đông, các quận miền Hoài
Nam, từ thời ba vị Tiên đế đến nay, có khi nào bỏ chỗ ấy mà khiến cho giặc dễ
đến gần bờ cõi để cướp bóc chăng? Nếu dời dân về miền Hoài Bắc, rời xa chỗ ấy
thì dân chúng an vui, há bị kinh sợ sao"? Rút cuộc không dời.
Năm thứ
tám, mùa xuân đầu tháng hai, Mặt trời có chỗ khuyết. Mùa hạ tháng năm, chia
mười huyện phía bắc sông Phần của quận Hà Đông lập ra quận Bình Dương. Mùa thu
tháng bảy, Thượng thư Hà Yến tấu rằng: "Người giỏi trị nước tất phải tu thân mình trước, người tu thân phải
cẩn thận hành động. Hành động đúng thì thân mình đúng, thân mình đúng thì không
sai khiến thì kẻ dưới tự làm đúng; hành động không đúng thì thân mình không
đúng, thân mình không đúng thì dẫu sai khiến thù kẻ dưới cũng không theo. Cho
nên làm bậc quân tử, làm việc với người tất phải chọn người đúng đắn, coi xét
phải nhìn rõ sự việc, bỏ tiếng nhạc dâm dật mà không nghe, xa kẻ nịnh nọt mà
chẳng gần, do đó lòng ác không sinh thì đạo chính mới được mở rộng vậy. Vua kém
thời suy, không biết lợi hại, rời xa quân tử, gần gũi tiểu nhân, trung thần bỏ
đi, kẻ ác theo gần, loạn sinh nơi gần, như chuột trong vách; xét rõ sáng tối,
lẽ ấy đúng đắn, cho nên bậc thánh hiền lắm lời cho là nỗi lo lớn nhất. Thuấn
răn Vũ nói: 'Gần lắm, gần lắm'!, ý nói cẩn thận chọn kẻ gần gũi vậy. Chu Công
răn Thành Vương rằng: 'Bạn sao, bạn sao'?, ý nói cận thận kết bạn với nhau vậy.
Kinh Thi chép: 'Một người có vui, triệu dân được nhờ'. Cho nên từ nay về sau,
những người chầu hầu ở điện lớn và dạo chơi nơi vườn sau đều là đại thần đi
theo, nên nhân lúc ăn chơi mà xem nghĩ lời lẽ, xét hỏi chính trị, giảng dạy
kinh nghĩa, làm phép tắc cho muôn đời". Mùa đông tháng mười hai, Tán kị
Thường thị Gián nghị Đại phu Khổng Nghệ tấu rằng: "Lễ như cung điện của
Thiên tử, có cái phép tắc phải mài giũa, không nên tô trát màu mè, do đó nên
noi theo lễ xưa. Nay thiên hạ đã yên, vua tôi phận rõ, Bệ hạ không nên lười
nhác, nên tỏ lòng công bằng, xét rõ thưởng phạt để sai khiến trăm quan. Nên cắt
bỏ việc cưỡi ngựa ở nơi vườn sau, ra ngoài phải ngồi kiệu cưỡi xe, đấy là cái
phúc của thiên hạ, cũng là lòng mong mỏi của tôi thần vậy". Yến, Nghệ đều
vì chính trị thiếu sót nên dâng tấu can gián.
Năm thứ
chín, mùa xuân tháng hai, bái chức Vệ tướng quân cho Trung thư lệnh Tôn Tư;
ngày quý tị, bái chức Phiếu kị Tướng quân cho Trung thư giám Lưu Phóng. Tháng
ba ngày giáp ngọ, bọn Tư đồ Vệ Trăn đều từ chức, ban tước Hầu cho về nhà, bái
vị Đặc tiến. Tháng tư, lấy Tư không Cao Nhu làm Tư đồ, lấy Quang lộc Đại phu Từ
Mạc làm Tư không, đều cố từ không nhận. Mùa thu tháng chín, lấy Xa kị Tướng quân
Vương Lăng làm Tư không. Mùa đông tháng mười, gió lớn nhổ cây xốc nhà.
Năm Gia
Bình thứ nhất, mùa xuân tháng giêng ngày giáp ngọ, xa giá đến lăng Cao Bình.
Ngụy thế
phả của Tôn Thịnh chép: Lăng Cao Bình tại núi Đại Thạch phía nam sông Lạc, cách
thành Lạc Dương chín mươi dặm.
Thái phó
Tư Mã Tuyên Vương tấu xin bãi chức Đại tướng quân Tào Sảng, em Sảng là Trung
lĩnh quân Hi, Vũ vệ tướng quân Huấn, Tán kị Thường thị Ngạn, ban tước Hầu cho
về nhà. Ngày mậu tuất, quan coi việc tấu xin bắt Hoàng môn Trương Đương giao
cho sở quan Đình úy, xét thật lời khai, vì cùng mưu với Sảng lại không theo
phép tắc. Lại nữa bọn Thượng thư Đinh Mật, Đặng Dương, Hà Yến, Tư lệ Hiệu úy
Tất Chấp, Kinh Châu Thứ sử Lí Thắng, Đại tư nông Hoàn Phạm đều mưu gian qua lại
với Sảng, giết ba họ. Chép tại Tào Sảng truyện. Ngày mậu ngọ, đại xá. Ngày đinh
mùi, lấy Thái phó Tư Mã Tuyên Vương làm Thừa tướng, cố từ lại thôi.
Hán Ngụy
xuân thu của Khổng Diễn chép: Hạ chiếu sai Thái thường Vương Túc lệnh bái Thái
phó làm Thừa tướng, tăng ấp vạn hộ, bầy tôi tấu việc không được xưng tên, nên
theo việc cũ của Hoắc Quang. Thái phó dâng thư từ chối rằng: "Thần vâng
mệnh gửi gắm, lo nghĩ chức nặng, cậy nhờ oai trời, bẻ gãy hung gian, chuộc tội
là may, công không đáng bàn. Lại nữa Tam công là bậc mà vua thánh xưa lập ra,
chép rõ ở lễ thường. Đến như quan Thừa tướng, bắt đầu từ thời Tần Chính, nhà
Hán noi theo, chẳng đổi thay nữa. Nay vị Tam công đều đủ, nếu bái cho sủng thần
là trái với phép cũ, đổi phép tắc của bậc thánh nhân, noi theo con đường của
nhà Tần nhà Hán. Dẫu ở người khác, thần cũng phải đúng đắn, huống chi thần ngay
nay lại không cố tranh giành, người bàn khắp bốn phương sẽ nói thần thế
nào"!
Gửi thư
lên hơn mười lần, bèn hạ chiếu thôi, lại ban lễ cửu tích. Thái phó lại nói:
"Thái Tổ có đức cao công to, được nhà Hán coi trọng, cho nên ban lễ cửu
tích, đấy là việc lạ qua các đời, không phải là điều mà vua tôi đời sau nên bàn
vậy". Lại cố từ không nhận.
Mùa hạ
tháng tư ngày ất sửu, đổi niên hiệu. Ngày bính tí, Thái úy Tưởng Tế hoăng. Mùa
đông tháng mười hai ngày tân mão, lấy Tư không Vương Lăng làm Thái úy. Ngày
canh tí, lấy Tư lệ Hiệu úy Tôn Lễ làm Tư Không.
Năm thứ
hai, mùa hạ tháng năm, lấy Chinh tây Tướng quân Quách Hoài làm Xa kị Tướng
quân. Mùa đông tháng mười, lấy Đặc tiến Tôn Tư làm Phiếu kị Tướng quân. Tháng
mười một, Tư không Tôn Lễ hoăng. Tháng mười hai ngày giáp thìn, Đông Hải Vương
là Lâm hoăng. Ngày ất mùi, Chinh nam Tướng quân Vương Sưởng vượt sông Giang,
đánh úp quân Ngô, phá chúng.
Năm thứ
ba, mùa xuân tháng giêng, Kinh Châu Thứ sử Vương Cơ, Tân Thành Thái thú Trần
Thái đánh quân Ngô, phá chúng, bắt hàng mấy nghìn người. Tháng hai, đặt huyện
Di Lăng thuộc Nam Quận để đưa người hàng phục đến ở. Tháng ba, lấy Thượng thư
lệnh Tư Mã Phu làm Tư không. Tháng tư ngày giáp thân, lấy Chinh nam Tướng quân
Vương Sưởng làm Chinh nam Đại tướng quân. Ngày nhâm thìn, đại xá. Ngày mậu ngọ,
nghe tin Thái úy Vương Lăng mưu phế Đế, muốn lập Sở Vương là Bưu, Thái phó Tư
Mã Tuyên Vương bèn sang đông đánh Lăng. Tháng năm ngày giáp dần, Lăng tự sát.
Tháng sáu, ban Bưu tự sát. Mùa thu tháng bảy ngày nhâm tuất, Hoàng hậu Chân thị
băng. Ngày tân mùi, lấy Tư không Tư Mã Phu làm Thái úy. Ngày mậu dần, Thái úy
Tư Mã Tuyên Vương hoăng, lấy Vệ tướng quân Tư Mã Cảnh Vương(5) làm Phủ quân Đại
tướng quân, Lục thượng thư sự. Ngày ất mùi, táng Hoài Chân hậu ở lăng Thái
Thanh. Ngày canh tí, Phiếu kị Tướng quân Tôn Tư hoăng. Tháng mười một, quan coi
việc tấu xin các công thần cúng tế ở miếu Thái Tổ, lại theo cấp bậc, Thái phó
Tư Mã Tuyên Vương tước cao, ở hàng nhất. Tháng mười hai, lấy Quang lộc huân
Trịnh Xung làm Tư không.
Năm thứ
tư, mùa xuân tháng giêng ngày quý mão, lấy Phủ quân Đại tướng quân Tư Mã Cảnh
Vương làm Đại tướng quân làm Đại tướng quân. Tháng hai, lập Hoàng hậu Trương
thị, đại xá. Mùa hạ tháng năm, thấy hai con cá ở trên kho vũ khí. Hán Tấn xuân
thu chép: Lúc trước, Tôn Quyền đắp đê Đông Hưng để ngăn nước hồ Sào. Sau đó
đánh miền Hoài Nam ,
đê vỡ không sửa lại. Năm đó Gia Cát Khác đem quân đến bờ phải trái trên đê đắp
ụ, hai bên đắp hai tòa thành, sai Toàn Đoan, Lưu Lược giữ thành rồi dẫn quân
về. Gia Cát Đản nói với Tư Mã Cảnh Vương rằng: "Dẫn dắt người mà không để
cho người dẫn dắt, đấy là nói về bên ấy vậy. Nay nhân lúc bên ấy có rối loạn ở
trong, sai Văn Thư đến gần Giang Lăng, sai Trọng Cung hướng đến Vũ Xương để
ngăn giữ dòng trên của nước Ngô, sau đó chọn quân khỏe đánh hai thành, bên ấy
tất đến cứu, lúc ấy mới đánh bắt lớn được". Cảnh Vương nghe theo.
Mùa đông
tháng mười một, hạ chiếu sai bọn Chinh nam Đại tướng quân Vương Sưởng, Chinh
đông Tướng quân Hồ Tuân, Trấn nam Tướng quân Quán Khâu Kiệm đánh quân Ngô.
Tháng mười hai, Đại tướng quân của nước Ngô là Gia Cát Khác đánh chống, đại phá
quân ấy ở Đông Quan. Không lợi mà về.
Hán Tấn
Xuân thu chép: Quán Khâu Kiệm, Vương Sưởng nghe tin quân phía đông thua, đều đốt
trại mà chạy. Triều đình bàn muốn bãi giáng các tướng, Cảnh Vương nói: "Ta
không nghe lời Công Hưu mới dẫn đến thế. Đấy là lỗi của ta vậy, các tướng tội
gì"? Đều tha cho. Bấy giờ Tư Mã Văn Vương làm Giám quân, lĩnh các quân,
chỉ giảm tước của Văn Vương mà thôi. Năm đó, Ung Châu Thứ sử Trần Thái xin sai
quan dân Tinh Châu dốc sức đánh rợ Hồ, Cảnh Vương nghe theo. Chưa tụ quân mà
người hai quận Nhạn Môn, Tân Hưng cho rằng sắp đi đánh xa, bèn lo sợ mà làm
phản. Cảnh Vương lại tạ lỗi triều đình rằng: "Là lỗi của ta, không phải
tội của Huyền Bá"! Do đó người Ngụy vừa mừng vừa thẹn, mọi người nghĩ lời
đáp ấy.
Tập Tạc
Xỉ nói: "Tư Mã Đại tướng quân đổ lỗi thua hai trận cho mình, vậy mà xóa
lỗi lại nghiệp vững, có thể nói là có trí vậy. Khiến cho dân quên trận thua ấy
lại cúi nghĩ lời đáp, dẫu muốn không theo mà làm được sao? Nếu mà giấu thua
khen công, đổ lỗi cho mọi người, thường nắm công lao về mình mà giấu lỗi sai
thì trên dưới mất lòng, hiền ngu chán nản, lúc ấy Sở lại thua mà Tấn lại thắng
vậy, lỗi càng nhiều vậy! Người làm chủ dân, nếu theo cái lí ấy mà trị nước thì
triều đình không có yếu kém, thân mình chẳng mang xấu, dẫu công mất nhưng vẫn
nổi danh, quân thua mà vẫn thắng trận, dẫu trăm trận thua mà vẫn đứng vững.
Huống chi là nặng hơn"!
Năm thứ
năm, mùa hạ tháng tư, đại xá. Tháng năm, Thái phó của nước Ngô là Gia Cát Khác
vây huyện Tân Thành quận Hợp Phì, hạ chiếu sai Thái úy Tư Mã Phu chống lại.
Hán Tấn
xuân thu chép: Bấy giờ Khương Duy cũng ra vây huyện Địch Đạo. Tư Mã Cảnh Vương
hỏi Ngu Tùng rằng: "Nay đông tây có việc, hai miền đều gấp, mà ý các tướng
ngăn chặn, làm thế nào"? Tùng nói: "Ngày xưa Chu Á Phu giữ vững ở
Xương Ấp mà quân Ngô Sở tự vỡ, việc có thế yếu mà mạnh, hoặc có thế mạnh mà
yếu, không thể không xét kĩ. Nay Khác đem hết quân mạnh đi, đủ để gây ác, lại
đóng giữ ở Tân Thành là muốn đánh một trận mà thôi. Nếu đánh thành không được,
dụ đánh chẳng xong, quân sĩ mỏi mệt, thế tất tự chạy, lúc ấy các tướng không
cần đi thẳng, đấy là cái lợi của ngài vậy. Khương Duy có quân mạnh mà cũng chỉ
giữ quân ứng theo Khác, đang mong ăn lúa mạch của nước ta, không phải là giặc
có cái rễ sâu vậy. Vả lại nếu ta dốc sức ở phía đông thì phía tây tất để trống,
cho nên đến thẳng chỗ ấy hơn. Nay nếu sai quân miền Quan Trung đi gấp mà đến,
ra chỗ không ngờ thì giặc phải chạy vậy". Cảnh Vương nói: "Hay"!
Bèn sai Quách Hoài, Trần Thái đem hết quân miền Quan Trung đến giải vây huyện
Địch Đạo; lệnh bọn Quán Khâu Kiệm ém quân tự giữ, bỏ Tân Thành cho quân Ngô.
Khương Duy nghe tin Hoài đem quân đến, lương quân mình thiếu, bèn rút về đóng ở
quận Lũng Tây.
Mùa thu
tháng bảy, Khác rút về.
Bấy giờ
Trương Đặc giữ Tân Thành.
Ngụy
lược chép: Đặc tự Tử Sản, người Trác Quận. Lúc đầu làm Nha môn tướng, theo giúp
Trấn đông Tướng quân Gia Cát Đản, Đản không cho là tài vậy, muốn sai về làm Hộ
quân. Gặp lúc Quán Khâu Kiệm đánh Đản, bèn sai Đặc đóng giữ huyện Tân Thành
quận Hợp Phì. Đến lúc Gia Cát Khác vây thành, Đặc cùng bọn Tướng quân Nhạc
Phương lĩnh ba quân có ba nghìn người, quan binh bệnh tật và bị chết quá nửa,
mà Khác đắp ụ đất đánh gấp, thành sắp vỡ, khó giữ được. Đặc bèn bảo quân Ngô
rằng: "Nay ta chẳng còn lòng dạ đánh nữa rồi. Nhưng theo phép tắc của quân
Ngụy thì bị đánh hơn trăm ngày mà không có quân đến cứu, dẫu hàng, người nhà
không bị tội vậy. Từ khi gặp địch đến nay, đã hơn chín mươi ngày rồi. Trong
thành này vốn có hơn bốn nghìn người, mà kẻ chết trận đã qua nửa, thành dẫu vỡ
nhưng còn có nửa không muốn hàng. Ta sẽ về bảo với chúng, kể tên chia kẻ thiện
ác, sáng hôm sau sẽ đem tên đến, ta lại đem ấn thao để làm tin". Bèn ném
ấn thao của mình cho quân Ngô. Quân Ngô nghe lời mà không dám nhận ấn thao.
Cũng chẳng đánh.
Chốc lát, Đặc về, bèn buổi đêm lấy gỗ ván trong nhà để vá sửa các chỗ thiếu
trên thành làm hai lớp. Hôm sau, bảo quân Ngô rằng: "Ta chỉ còn cách liều
chết mà đánh thôi"! Quân Ngô cả giận, vào đánh thành, không hạ được, bèn
dẫn về. Triều đình khen công, bái thêm chức Tạp hiệu Tướng quân, phong Liệt
hầu, lại chuyển làm An Phong Thái thú.
Tháng
tám, hạ chiếu nói: "Trung lang tướng người quận Tây Bình là Quách Tu trước
kia, giữ tiết tỏ đức, dốc lòng không đổi. Lúc đầu tướng Thục là Khương Duy cướp
chiếm quận Tây Bình, thân bị bắt giữ. Năm ngoái Đại tướng quân Phí Y của giặc
xua lĩnh quân sĩ, ngầm mưu đánh phá, đi qua Hán Thọ, mời gọi tân khách, Tu ở
trong hội cầm đao đâm Y, dũng hơn Nhiếp Chính(6), công quá Giới Tử(7), có thể
nói là diệt thân lập nhân, bỏ sống lấy nghĩa vậy. Do đó truy tặng ban sủng để
nêu rõ lòng trung nghĩa, ban lộc cho dòng dõi, cũng để khuyến khích mai sau.
Nay truy phong Tu làm Trường Lạc Hương Hầu, thực ấp nghìn hộ, thụy là Uy Hầu,
con được nối tước, bái thêm chức Phụng xa Đô úy, ban nghìn nén bạc, nghìn thất
gấm để tỏ rõ ân sủng, truyền mãi cho đời sau".
Ngụy thị
xuân thu chép: Tu tự Hiếu Tiên, vốn có đức hạnh, nổi danh miền tây. Khương Duy
bắt được Tu, Tu chẳng chịu phục. Lưu Thiện lấy làm Tả tướng quân, Tu muốn đâm
Thiện nhưng không được ở gần gũi, thường nhân lúc chúc mừng mà đến bái chầu, bị
tả hữu của Thiền ngăn cấm, việc bèn chẳng xong, cho nên chỉ giết được Y vậy.
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Những kẻ bỏ mạng sống mà giữ tiếng nghĩa tất phải có lí vậy.
Có kẻ cảm ân nhớ đức, bỏ mạng chẳng tiếc, có kẻ vì mưu lợi hại mà gắng sức để
hẹn ứng. Vậy mà chiếu này khen như Nhiếp Chính, Giới Tử, e rằng chẳng giống,
chỉ là làm điều xằng bậy mà thôi. Nhà Ngụy đối với nước Thục, dẫu là nước địch
nhưng không có mối thù Triệu Tương Tử giết Trí Bá, không có mối nguy của Yên
Đan; vả lại Lưu Thiện là vua tầm thường, Phí Y là Tướng quốc bậc trung, sự còn
mất của hai người kia vốn chẳng quan hệ đến sự hưng vong. Quách Tu tại nước
Ngụy là đàn ông của miền tây, lúc đầu bị quân Thục bắt, đã không thể giữ tiết
không chịu nhục, lại với nhà Ngụy chẳng có cái trách nhiệm bổng lộc, không phải
gặp thời được vua sai khiến, cũng chẳng có cớ gì mà bỏ thân vì người khác. Về nghĩa
chẳng đáng khen, về công cũng chẳng có, đấy là: "Bẻ cành liễu mà rào vườn
rau", cho là xằng bậy để nói về việc này vậy.
Từ khi
Đế lên ngôi cho đến năm đó, quận, quốc, huyện, ấp phần nhiều giảm bỏ, chốc lát
lập lại, tính ra không thể kể hết.
Năm thứ
sáu, mùa xuân tháng hai ngày kỉ sửu, Trấn đông Tướng quân Quán Khâu Kiệm dâng
thư nói: "Ngày trước Gia Cát Khác vây huyện Tân Thành quận Hợp Phì, trong
thành sai tên quân là Lưu Chỉnh ra thành truyền tin tức, bị giặc bắt được, xét
hỏi tin truyền, bảo Chỉnh rằng: 'Gia Cát Công muốn giúp mi, mi nên nói rõ'.
Chỉnh mắng rằng: 'Chó chết, thế đáng tin sao! Ta nếu chết tất làm quỷ của nước
Ngụy, không cần cứu sống, đuổi cút mi đi vậy. Nếu muốn giết ta thì nhanh giết
đi'. Rút cuộc chẳng nói lời khác. Lại sai tên quân là Trịnh Tượng ra thành
truyền tin tức, có kẻ bảo với Khác, Khác sai quân kị men theo dấu vết, bèn bắt
được Tượng đem về. Bốn, năm người trói đầu Tượng lại, đem ra ngoài thành, sai
bảo Tương hô lớn rằng: 'Đại quân đã về Lạc Dương, không bằng sớm hàng'. Tượng
không theo lời ấy, lại hô lớn hướng vào trong thành rằng: "Đại quân ở gần
ngoài vòng vây, tráng sĩ gắng sức'! Giặc lấy dao đâm miệng Tượng, khiến chẳng
nói được, Tượng bèn hô lớn, khiến cho người trong thành nghe biết. Chỉnh, Tượng
là tên quân mà giữ nghĩa lập tiết được như thế, con em nên được ban
thưởng". Hạ chiếu nói: "Ban tước cao để nêu rõ khen công to, thưởng
lớn để sủng ái tráng sĩ. Chỉnh, Tượng vâng mệnh thông sứ, qua vòng vây kín,
xông vào đao nhọn, quên thân giữ tín, không may bị bắt, vẫn giữ chí cứng cỏi,
nêu rõ thế lớn của sáu quân, làm yên lòng quân giữ thành, gặp nạn chẳng sợ, dốc
lòng truyền lệnh. Ngày xưa giải Dương bắt Sở(8), dẫu chết chẳng đổi lòng, Lộ
Trung đại phu của nước Tề(9) lấy cái chết để thành nghiệp, ngày nay Chỉnh,
Tượng, không đáng khen sao? Nay truy tặng Chỉnh, Tượng tước Quan nội hầu, đều
bỏ làm lính, sai con nối tước như việc bộ khúc chết thì lo liệu".
Ngày
canh tuất, bọn Trung thư lệnh Lí Phong cùng cha của Hoàng hậu là Quang lộc Đại
phu Trương Tập mưu phế đổi đại thần, muốn lấy Thái thường Hạ Hầu Huyền làm Đại
tướng quân. Việc lộ, những người liên quan đều bị kể tội giết. Ngày tân hợi,
đại xá. Tháng ba, phế Hoàng hậu Trương thị. Mùa hạ tháng tư, lập Hoàng hậu
Vương thị, đại xá. Tháng năm, phong cha của Hoàng hậu là Phụng xa Đô úy Vương
Quỳ làm Quảng Minh Hương Hầu, bái Quang lộc Đại phu, vị Đặc tiến, phong vợ là
Điền thị làm Tuyên Dương Hương Quân. Mùa thu tháng chín, Đại tướng quân Tư Mã
Cảnh Vương mưu muốn phế Đế, báo cho Hoàng thái hậu.
Thế ngữ
và Ngụy thị xuân thu đều chép: Mùa thu ấy, Khương Duy cướp miền Lũng Hữu. Bấy
giờ An đông Tướng quân Tư Mã Văn Vương(10) giữ ở Hứa Xương, gọi về đánh Duy,
đến kinh sư, Đế ở quán Bình Lạc để đón quân đi qua. Trung lĩnh quân Hứa Doãn
cùng tả hữu cận thần mưu nhân lúc gọi Văn Vương về mà giết đi, dùng quân mình
để đánh lui Đại tướng quân. Đã gửi chiếu thư ở trước. Văn Vương vào, Đế đang ăn
hạt giẻ, ca kĩ là bọn Vân Ngọ hát rằng: "Gà đầu xanh, gà đầu xanh".
Gà đầu xanh là con vịt vậy. Đế sợ không dám phát. Văn Vương dẫn quân vào thành,
Cảnh Vương nhân đó mưu phế Đế.
Thần là
Tùng Chi xét: Hạ Hầu Huyền truyện và Ngụy lược chép là mùa xuân năm đó Hứa Doãn
liên quan với Lí Phong. Phong đã bị giết, liền giáng Doãn làm Trấn bắc Tướng
quân, chưa bái, đem thu hết tài vật giao cho quan Đình úy, đày đi quận Lạc
Lãng, lại đuổi theo giết đi. Do đó mùa thu ấy Doãn không còn làm Trung lĩnh
quân mà bày mưu kia.
Ngày
giáp tuất, Thái hậu lệnh nói: "Hoàng đế là Phương tuổi đời đã lớn, không
mưu vạn việc, say mê gái đẹp, chìm đắm nữ sắc, ngày càng càn rỡ, phóng túng bừa
bãi; đón người nhà sáu cung giữ ở phòng trong, bỏ bậc luân lường, loạn tiết
trai gái; hiếu thuận kém xấu, lỗi lầm thêm nặng, không đáng nối theo mệnh trời
cúng tế tông miếu. Sai quan Thái úy Cao Nhu vâng chiếu, dùng lễ vật to lớn tế ở
tông miếu, sai Phương về làm vua phiên ở đất Tề để nhường ngôi quý".
Ngụy thư
chép: Hôm đó, Cảnh Vương vâng lệnh của Hoàng thái hậu, hạ chiếu sai công khanh
đại thần lên triều bàn nghị, bầy tôi biến sắc. Cảnh Vương rơi lệ nói:
"Hoàng thái hậu lệnh như thế, các ngài há theo nhà vua sao"! Đều nói:
"Ngày xưa Y Doãn đuổi Thái Giáp để yên nhà Ân, Hoắc Quang bỏ Xương Ấp để
định nhà Hán(11), sắp đặt xã tắc để giúp bốn cõi, hai người ấy ở thời xưa, minh
công là ở thời nay, việc của ngày nay, xin theo lệnh của minh công". Cảnh
Vương nói: "Các ngài trông chờ Sư này nhiều thế, Sư há né tránh sao"?
Do đó bèn cùng với bầy tôi gửi tấu ở cung Vĩnh Ninh rằng: "Giữ chức Thượng
thư lệnh Thái úy Trưởng Xã Hầu thần là Phu, Đại tướng quân Vũ Dương Hầu thần là
Sư, Tư đồ Vạn Tuế Đình Hầu thần là Nhu, Tư không Văn Dương Đình Hầu thần là
Xung, Chinh tây An đông Tướng quân Tân Thành Hầu thần là Chiêu, Quang lộc Đại
phu Quan nội hầu thần là Ung, Thái thường thần là Yến, Vệ úy Xương Ấp Hầu thần
là Vĩ, Thái phó thần là Ngực, Đình úy Định Lăng Hầu thần là Phồn, Đại hồng lư
thần là Chi, Đại tư nông thần là Tường, Thiếu phủ thần là Bao, Vĩnh Ninh Vệ úy
thần là Trinh, Vĩnh Ninh Thái bộc thần là Hoành, Đại trưởng thu thần là Mô, Tư
lệ Hiệu úy Dĩnh Xương Hầu thần là Tăng, Hà Nam Doãn Lan Lăng Hầu thần là Túc,
Thành môn Hiệu úy thần là Lự, Trung hộ quân Vĩnh An Hầu thần là Vọng, Vũ vệ
Tướng quân An Thọ Hầu thần là Diễn, Trung kiên Tướng quân Bình Nguyên Hầu thần
là Đức, Trung mâu Tướng quân Xương Vũ Đình Hầu thần là Dực, Đồn kị Hiệu úy Quan
nội hầu thần là Cai, Bộ binh Hiệu úy Lâm Tấn Hầu thần là Kiến, Xạ thanh Hiệu úy
An Dương Hương Hầu thần là Ôn, Việt kị Hiệu úy Tuy Dương Hầu thần là Sơ, Trường
thủy Hiệu úy thần là Siêu, Thị trung thần là Tiểu Đồng, thần là Nghĩ, thần là
Phong, Bác Bình Hầu thần là Biểu, Thị trung Trung thư giám An Dương Đình Hầu
thần là Đản, Tán kị Thường thị thần là Khiết, thần là Nghi, Quan nội hầu thần
là Chi, Thượng thư Bộc xạ Quang lộc Đại phu Cao Lạc Đình Hầu thần là Dục,
Thượng thư Quan nội hầu thần là Quán, thần là Hỗ, Trưởng Cáp Hương Hầu thần là
Lượng, thần là Tán, thần Khiên, Trung thư lệnh thần là Khang, Ngự sử Trung thừa
thần là Kiềm, Bác sĩ thần là Phạm, thần là Tuấn cúi đầu nói: 'Bọn thần nghe nói
rằng Thiên tử là người bao bọc chúng vật, vỗ yên vạn nước, ngày xưa ba vị tổ(12)
oanh liệt, sáng trùm sáu cõi. Từ khi Hoàng đế lên ngôi, nối thay nghiệp lớn,
tuổi đời đã lớn, nhưng chẳng mưu vạn việc, say mê gái đẹp, chìm đắm nữ sắc, bỏ
bê học tập, vứt bỏ kẻ sĩ, hằng ngày cùng ca kĩ là bọn Quách Hoài, Viên Tín ở
điện Kiến Thủy, Phù Dung cởi áo vui chơi, sai cùng bọn quan Bảo lâm(13) gây
loạn, tự đem cung nữ đứng xem. Lại ở trên quán Quảng Vọng, sai bọn Hoài, Tín ở
dưới quán bày trò yêu phụ của người Liêu Đông, vui chơi quá mức, người đi trên
đường liếc mắt, Đế ở trên quán lấy làm làm cười vui. Ở đài Lăng Vân sai bọn ca
kĩ bày màn trướng, đưa gái đẹp trong cung ra, Đế lại đến ngồi xem, gọi Hoài,
Tín sai vào trướng cùng uống rượu. Bọn Hoài, Tín bèn uống rượu, gái đẹp đều
say, lộn xộn chẳng phân. Sai quan Bảo lâm là bọn Lí Hoa, Lưu Huân cùng bọn
Hoài, Tín làm trò, lúc ấy Thanh Thương Lệnh là Lệnh Hồ Cảnh quát Hoa, Huân nói:
'Cung nữ các người, tả hữu trên dưới đều có chức vị, sao lại làm thế'? Hoa,
Huân liền gièm vu Cảnh. Đế thường thích lấy roi đánh người, cho đó giận Cảnh,
đánh Cảnh không tránh đánh đầu mắt, Cảnh bảo Đế rằng: 'Tiên đế trị nhà rất
nghiêm, nay Bệ hạ hằng ngày đem cung nữ vui chơi vô độ, lại cùng bọn ca kĩ làm
trò cởi áo làm loạn, không nên để cho Hoàng thái hậu nghe biết. Cảnh không sợ
chết, chỉ bày kế cho Bệ hạ thôi'. Đế nói: 'Ta làm Thiên tử, không được tự ý
sao? Thái hậu sao ngăn ta được'! Sai lấy sắt nung đốt Cảnh, thân Cảnh bị bỏng.
Sau khi Chân hậu băng, Đế lập Vương quý nhân làm Hoàng hậu. Thái hậu lại muốn
tìm người ngoài giúp, Đế giận bảo bọn Cảnh rằng: 'Nhà Ngụy trước sau lập Hoàng
hậu, đều theo ý mình thích thôi, Thái hậu tất trái ý ta, biết ta sẽ vâng theo
không vậy'? Sau đó rút cuộc đãi Trương Hoàng hậu nhạt nhẽo. Thái hậu gặp lúc
Cáp Dương Quân chết, Đế hằng ngày ở vườn sau, sai bọn ca kĩ hát nhạc làm vui, không
ai đến can ngăn. Thanh Thương Thừa là Bàng Hi can Đế rằng: 'Hoàng thái hậu là
người rất có hiếu, nay gặp nỗi lo nhiều, nước loãng cũng chẳng nuốt được vào
miệng, Bệ hạ nên đi đến an ủi, không nên làm trò vui ở đây'. Đế nói: 'Ta tự ở
đây, ai ngăn được ta sao'? Do đó Hoàng thái hậu về cung phía bắc, giết Trương
mĩ nhân và Ngu Uyển, khiến cho Đế oán giận, bảo bọn Cảnh rằng: 'Thái hậu giết
bừa người mà ta yêu thích, đấy chẳng còn ân tình mẹ con nữa'. Đi đến chỗ cũ
khóc lóc, sai người đi riêng vội đi thu liệm thây táng rất hậu, không cho Thái
hậu biết việc ấy. Hễ thấy cung nữ trong hậu cung có sắc đẹp thì giữ lại giao
cho Thanh Khương Lệnh, rồi Đế đến bụi tre ở vườn sau bày trò vui, hoặc cùng nội
quan cầm tay cùng đi dạo. Hi bẩm rằng: 'Nội quan không nên cùng cầm tay với vua
như thế'. Đế giận, lại lấy roi đánh Hi. Hằng ngày dạo chơi ở vườn sau, hễ có
thư từ ở ngoài đưa vào, Đế không đọc xem, tả hữu nói: 'Đưa ra'. Đế cũng chẳng
muốn xem. Thái hậu sai Đế thường thử giảng học ở trên điện lớn, Đế không muốn,
lại ép bắt đi, Đế bỏ ra; lúc Thái hậu đến hỏi, liền vờ sai quan Hoàng môn đáp
rằng: 'Đang học'. Bọn Cảnh, Hi sợ hãi, không dám can ngăn, lại cùng nịnh nọt.
Đế buông thả bừa bãi, làm hỏng luân thường, loạn tiết trai gái, thuận hiếu càng
kém, đức xấu thêm sâu. Bọn thần lo lắng thiên hạ nghiêng lật, xã tắc vỡ đổ, lúc
ấy dẫu diệt thân bỏ mạng cũng chẳng đền hết tội. Nay Đế không nên nối theo mệnh
trời, bọn thần xin noi theo việc cũ của Hoắc Quang, thu ấy ấn thao của Đế. Đế
vốn là Tề Vương mà được nhận ngôi lớn, nên cho về làm vua phiên ở đất Tề. Sai
quan Tư đồ thần là Nhu cầm cờ tiết cùng quan coi việc đem đồ thái lao tế cáo ở
tông miếu. Bọn thần liều chết báo lên". Tấu cho làm.
Hôm đó
chuyển sang ở cung riêng, bấy giờ mới hai mươi ba tuổi. Sứ giả cầm cờ tiết đi
hộ tống, dựng cung Tề Vương ở cửa Trùng Môn thuộc quận Hà Nội, phép chế đều
theo lễ của nước phiên.
Ngụy
lược chép: Cảnh Vương sắp phế Đế, sai Quách Chi vào bẩm Thái hậu, Thái hậu ngồi
đối mặt với Đế. Chi bảo Đế rằng: "Đại tướng quân muốn bỏ Bệ hạ, lập Bành Thành
Vương là Cứ". Đế bèn đứng dậy bỏ ra. Thái hậu không vui, Chi nói:
"Thái hậu có con mà không dạy dỗ được, nay ý Đại tướng quân đã quyết, lại
xua quân ở ngoài phòng bị khác thường, chỉ chờ chiếu lệnh, còn nói gì
nữa"! Thái hậu nói: "Ta muốn gặp Đại tướng quân, tự miệng ta
nói". Chi nói: "Sao lại gặp được? Chỉ nên nhanh lấy ấn thao đi".
Thái hậu chùng ý, bèn sai Nội quan bênh cạnh đưa cho. Chi ra báo cho Cảnh
Vương, Cảnh Vương rất mừng. Lại sai sứ giả trao ấn thao Tề Vương cho Đế, sắp đi
đến cung phía tây. Đế vâng mệnh, bèn ngồi xe Tề Vương, từ biệt với Thái hậu,
rơi lệ, bắt đầu từ điện Thái Cực ra phía nam, bầy tôi ra tiễn có mấy chục
người, Thái úy Tư Mã Phu chẳng tự kìm được bùi ngùi, người khác cũng đều rơi
lệ. Sau khi Tề Vương ra, Cảnh Vương lại sai sứ giả hỏi ấn thao, Thái hậu nói:
"Bành Thành Vương là chú út của ta vậy, nay đến lập, ta biết làm sao! Nên
để Minh Hoàng Đế dứt người nối tự sao? Ta thấy Cao Quý Hương Công là cháu cả
của Văn Hoàng Đế, con em của Minh Hoàng Đế, với lễ thì dòng út có cái nghĩa lớn
của dòng lớn, nên bàn rõ ngay đi". Cảnh Vương lại sai gọi bầy tôi, đem
lệnh của Thái hậu báo cho biết, bèn định đón Cao Quý Hương Công. Bấy giờ quan
Thái thường đã phát chiếu ra hai ngày, đợi ấn thao ở huyện Ôn. Việc đã định,
lại hỏi ấn thao, Thái hậu nói: "Ta gặp Cao Quý Hương Công, thủa nhỏ đã
biết, ngày nay ta rự muốn đem ấn thao trao cho người ấy".
Ngày
đinh sửu, lệnh nói: "Đông Hải Vương là Lâm, là con của Cao Tổ Văn Hoàng
Đế. Trong các con của Lâm, có tình thân với nhà nước, Cao Quý Hương Công là Mao
có khí độ lớn lao, nay lấy làm người nối tự của Minh Hoàng Đế".
Ngụy thư
chép: Cảnh Vương lại cùng tấu với bầy tôi ở cung Vĩnh Ninh rằng: "Bọn thần
nghe nói rằng đạo làm người là gần gũi người thân thì tôn kính tổ tiên, tôn
kính tổ tiên thì tôn kính họ hàng. Theo lễ, nếu dòng cả không có người nối tự
thì chọn người hiền của dòng thứ; làm dòng dõi cho người, làm con cho người
vậy. Con của Đông Hải Định Vương là Cao Quý Hương Công, là cháu của Văn Hoàng
Đế, nên được nối dòng lớn để nối tự làm dòng dõi của Liệt Tổ Minh Hoàng Đế. Cả
nước được nhờ, muôn cõi may lắm! Bọn thần xin gọi ngài đến cung Lạc
Dương". Tấu cho làm. Sai bọn Trung hộ quân Vọng, Thái thường Hà Nam Doãn
là Túc cầm cờ tiết cùng Thiếu phủ Bao, Thượng thư Lượng, Thị trung Biểu vâng
lệnh đem xe đến đón Công ở Nguyên Thành.
Ngụy thế
phả chép: Vào lúc nhà Tấn nhận ngôi, phong Tề Vương làm Thiệu Lăng Huyện Công.
Năm Thái Thủy thứ mười thì hoăng, bấy giờ bốn mươi ba tuổi, thụy là Lệ Công.
Chú thích
(1) Tư Mã Tuyên Vương: chỉ Tư Mã Ý, được phong
làm Tuyên Vương. Các sách thời Tấn kị húy cho nên gọi là Tư Mã Tuyên Vương.
(2) Vải chống lửa: vải chống lửa tức vải không
bị lửa đốt cháy rụi, xuất từ miền Tây Vực. Theo Liệt Tử chép: Thời Mục Vương
của nhà Chu đánh rợ Tây Nhung, rợ Tây Nhung
cũng dâng vải này.
(3) Lịch Tam thống: chỉ lịch dùng qua ba đời
nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu thời xưa.
(4) Mặt trời có chỗ khuyết: tức hiện tượng
nhật thực, Mặt trăng che lấp một phần hay toàn phần
của Mặt trời.
(5) Tư Mã Cảnh Vương: chỉ Tư Mã Sư, được phong
làm Cảnh Vương. Các sách thời Tấn kị húy cho nên gọi là Tư Mã Cảnh Vương.
(6) Nhiếp Chính: Nhiếp Chính, người ấp Chỉ
nước Hàn thời Chiến quốc, là hiệp khách nổi tiếng. Có chép ở Sử kí - Thích
khách liệt truyện.
(7) Giới Tử: Giới Tử tức Phó Giới Tử, người
quận Bắc Địa thời Tây Hán. Theo Hán thư - Phó Giới Tử truyện chép: Vào thời Vũ
Đế, các nước ở Tây Vực là Quy Từ, Lâu Lan giúp người Hung Nô giết sứ giả của
nhà Hán, đến giữa năm Nguyên Phong, sai Giới Tử đi sứ đến các nước ấy, trách
mắng họ, chịu nhận lỗi, lại đem quan quân giết sứ giả của người Hung Nô đang
trên đường từ nước Ô Tôn. Về báo việc được bái làm Trung lang. Lần sau, xin đi
giết vua các nước ấy, rồi đem quân sĩ cùng vàng bạc, gấm lụa đến, vào uống rượu
cùng vua của nước Lâu Lan, nhân lúc say rượu, đâm chết vua của nước ấy, đem đầu
về cửa khuyết. Do đó được Vũ Đế phong tước Hầu, thực ấp bảy trăm hộ.
(8) Giải Dương bắt Sở: chỉ việc thời Hán Cảnh
Đế có loạn bảy nước miền Ngô Sở, sai Thái úy Chu Á Phu đi đánh dẹp, giải vây
vùng Dương Châu, phá quân của vua nước Sở vậy.
(9) Lộ Trung đại phu của nước Tề: Lộ Trung đại
phu, họ Lộ, làm Trung đại phu của Tề Vương. Theo Sử kí - Tề Trác Huệ Vương thế
gia chép: Bấy giờ Ngô Vương là Lưu Tị, Sở Vương là Lưu Mậu làm phản kéo quân về
phía tây, vua các bước Giao Tây, Giao Đông, Truy Xuyên, Tế Nam đều ứng theo,
riêng Tề Vương giữ thành không theo, quân ba nước Giao Tây, Giao Đông, Truy
Xuyên vây thành, Tề Vương sai Lộ Trung đại phu báo cho Thiên tử, Thiên tử bảo
là: "Cố giữ thành, quân ta đã phá được quân Ngô, Sở rồi". Bèn về báo
cho Tề Vương, vòng vây gấp, không vào thành được, tướng của ba nước cùng thề
ước với Lộ Trung đại phu nói: "Nếu nói quân Hán bị phá, nước Tề nên theo
ba nước thì không bị giết". Nhưng đến dưới thành, Lộ Trung đại phu từ xa
thấy Tề Vương, bèn nói: "Quân Hán đã phát trăm vạn quân, sai Thái úy Chu Á
Phu đã phá quân Ngô Sở, đang dẫn quân đến cứu nước Tề, nên giữ vững đừng
hàng"! Tướng của ba nước bèn giết Lộ Trung đại phu.
(10) Tư Mã Văn Vương: chỉ Tư Mã Chiêu từng
được phong làm Văn Vương. Các sách thời Tấn kị húy cho nên gọi là Tư Mã Văn
Vương.
(11) Y Doãn đuổi Thái Giáp để yên nhà Ân, Hoắc
Quang bỏ Xương Ấp để định nhà Hán: Y Doãn giúp nhà Ân, sau khi vua Thang chết,
cháu nội là Thái Giáp nối ngôi nhưng yếu kém, Y Doãn bèn đày Thái Giáp đến ấp
Đồng cho tự sửa mình, ba năm sau lại đón về làm vua. Hoắc Quang là đại thần của
Chiêu Đế của nhà Hán, Chiêu Đế chết, lập Xương Ấp Vương lên thay, Xương Ấp dâm
loạn, lại phế đi mà lập Tuyên Đế.
(12) Ba vị tổ: chỉ Thái Tổ là Tào Tháo, Văn Đế
là Tào Phi, Minh Đế là Tào Duệ.
(13) Bảo lâm: Bảo lâm là chức nữ quan trông
coi các cung nữ trong cung.
TÀO MAN TRUYỆN
Cao Quý
Hương Công tên là Mao, tự Ngạn Sĩ, là cháu của Văn Đế, con của Đông Hải Định
Vương là Lâm vậy.
Năm
Chính Thủy thứ năm, được phong tước Cao Quý Hương Công ở huyện Đàm. Thủa nhỏ
ham học, sớm khôn lớn. Vào lúc Tề Vương bị phế, công khanh bàn đón lập công.
Tháng mười ngày kỉ sửu, công đến ở
quán Huyền Vũ, bầy tôi tấu xin đến ở điện trước, công cho là chỗ cũ của Tiên
đế, bèn tránh sang vách phía tây; bầy tôi lại xin theo phép lấy xe mà đón, công
không nghe. Ngày canh dần, công vào đến thành Lạc Dương, bầy tôi đón bái ở phía
nam cửa cung phía tây, công xuống kiệu muốn đáp bái lại, quan đón khách xin
nói: "Theo lễ không cần bái đáp lại". Công nói: "Ta là bầy tôi
vậy". Bèn đáp bái lại. Đến cửa dừng xe, xuống kiệu. Tả hữu nói: "Theo
phép cũ thì ngồi kiệu mà vào". Công nói: "Ta được Hoàng thái hậu gọi,
chưa biết làm sao"! Bèn đi bộ đến sảnh phía đông của điện Thái Cực, gặp
với Thái hậu. Hôm đó lên ngôi Hoàng đế ở điện trước Thái Cực, trăm quan đứng
theo hàng đều vui mừng.
Ngụy thị
xuân thu chép: Công thông minh tài giỏi, đức hạnh sáng rõ. Bãi chầu xong, Cảnh
Vương hỏi người khác rằng: "Nhà vua là chúa thế nào"? Chung Hội đáp
nói: "Văn như Trần Tư Vương, võ tựa Thái Tổ". Cảnh Vương nói:
"Nếu như lời khanh thì đấy là phúc của xã tắc vậy".
Hạ chiếu
nói: "Ngày xưa ba vị tổ đức thánh võ thần, vâng mệnh trời mà nhận ngôi.
Vào lúc Tề Vương nối vị, phóng túng vô độ, đức hạnh đảo ngược. Hoàng thái hậu
mưu nghĩ xã tắc làm trọng, thu nạp mưu kế của quan Tể tướng, chọn người thay
ngôi trống, trỏ mệnh lớn vào một mình ta. Ta thân còn nhỏ dại mà được đứng trên
hàng Vương công, ngày đêm vẫn lo lắng, sợ không nối giữ được phép lớn của tổ
tiên, e không mở mang được sự nghiệp trung hưng, run run rẩy rẩy như sắp vào
hang hốc. Nay bầy tôi công khanh làm kẻ giúp đỡ đùi tay, làm người vươn sức giữ
vững bốn phương, đều tích đức lập công, trung với nhà vua; nay xin nhờ vào bầy
tôi có đức từ thời tổ tiên ngày trước, thân cận tả hữu, dùng để giữ gìn nhà
vua, giúp trẫm còn non kém, cùng giúp coi việc. Trẫm nghe nói cái đạo của nhà
vua là đức phải ngang với trời đất, thấm nhuầm khắp bốn cỗi, phải dùng lòng
nhân ái trước để phân rõ tốt xấu rồi mới ở trên truyền giáo hóa, ở dưới triệu
dân nghe theo. Trẫm dẫu không có đức, đường lớn còn mờ, nhưng vẫn mong nghĩ
cùng được đi đến con đường ấy. Kinh Thư chẳng nói: 'Yên dân phải ban ân, dân
đen tất ghi nhớ' sao"? Đại xá, đổi niên hiệu. Giảm xe kiệu áo quần, lệnh
người của hậu cung phải theo phép tắc, lại bỏ các đồ vật hoa lệ tinh xảo không
có ích và các thợ đẽo, ca kĩ ở trong phủ Thượng phương.
Năm
Chính Nguyên thứ nhất, mùa đông tháng mười ngày nhâm thìn, sai quan Thị trung
cầm cờ tiết chia ra khắp bốn phương, xem xét phong tục, vỗ về quân dân, xét hỏi
những kẻ bị oan uổng hoặc làm trái việc quan. Ngày quý tị, ban búa vàng cho Đại
tướng quân Tư Mã Cảnh Vương, vào chầu không cần đi nhanh, tấu việc không xưng
tên, được đeo kiếm lên điện. Ngày mậu tuất, rồng vàng hiện ở trong giếng ở đất
Nghiệp. Ngày giáp thìn, sai quan coi việc bàn luận công lao của việc phế lập,
phong tước, tăng ấp, bái quan, ban thưởng đều theo cấp bậc.
Năm thứ
hai, mùa xuân tháng giêng ngày ất sửu, Trấn đông Tướng quân Quán Khâu Kiệm,
Dương Châu Thứ sử Văn Khâm phản. Ngày mậu tuất, Đại tướng quân Tư Mã Cảnh Vương
đánh chúng. Ngày quý mùi, Xa kị Tướng quân Quách Hoài hoăng. Tháng nhuận ngày
kỉ hợi, phá Khâm ở huyện Lạc Gia. Khâm chạy trốn, bèn sang Ngô. Ngày giáp thìn,
An Phong Hoài tân Đô úy chém Kiệm, chuyển đầu đến kinh đô.
Thế ngữ
chép: Đại tướng quân đem Thiên tử đi đánh Kiệm, đến huyện Hạng; Kiệm đã bị phá,
Thiên tử về trước.
Thần là
Tùng Chi xét các sách đều không thấy chép việc này. Đến lúc Gia Cát Đản phản,
Tư Mã Văn Vương mới ép Thái hậu và Đế cùng đi mà thôi. Lúc trước phát chiếu dẫn
việc hai vị tổ của nhà Hán và Minh Đế tự thân đi đánh để mà so sánh với lúc
trước, biết rằng từ thời Minh Đế về sau mới có việc ấy vậy. Xét thấy Trương
Phan, Ngu Phổ, Quách Ban đều là quan chép sử của nhà Tấn, riêng Phan, Ban xuất
thân là trưởng quan, Phổ lại làm Bà Dương Nội sử. Phan soạn sách Hậu Hán kỉ,
dẫu còn chưa xong nhưng thấy lời văn đáng xem. Phổ chép sách Giang Biểu truyện,
xem qua cũng thấu suốt. Riêng Ban soạn Ngụy Tấn Thế ngữ lại thiếu sót chẳng
theo phép tắc, là thô sơ nhất, vì bấy giờ việc lạ cho nên được ban hành ở đời.
Bọn Can Bảo, Tôn Thịnh phần nhiều chọn lấy lời văn trong đấy để chép sách Tấn
thư, do đó có sai sót như thế, các chỗ đều có sai lầm.
Ngày
nhâm tí, lại hạ lệnh tha tội cho quân dân miền Hoài Nam bị Kiệm, Khâm dụ dỗ. Lấy Trấn
nam Tướng quân Gia Cát Đản làm Trấn đông Đại tướng quân. Tư Mã Cảnh Vương hoăng
ở Hứa Xương. Tháng hai ngày đinh tị, lấy Vệ tướng quân Tư Mã Văn Vương làm Đại
tướng quân, Lục thượng thư sự.
Ngày
giáp tí, bọn Đại tướng Tôn Tuấn của nước Ngô đem quân phao tin là có chục vạn
đến Thọ Xuân, Gia Cát Đản đánh chống phá được chúng, chém Tả tướng quân Lưu Tán
của nước Ngô, bao tin thắng trận đến kinh đô. Tháng ba, lập Hoàng hậu Biện thị,
đại xá. Mùa hạ tháng tư ngày giáp dần, phong cha của Hoàng hậu là Biện Long làm
Liệt hầu. Ngày giáp tuất, lấy Chinh nam Đại tướng quân Vương Sưởng làm Phiếu kị
Tướng quân. Mùa thu tháng bảy, lấy Chinh đông Đại tướng quân Hồ Tuân làm Vệ
tướng quân, Trấn đông Đại tướng quân Gia Cát Đản làm Chinh đông Đại tướng quân.
Tháng
tám ngày tân hợi, Đại tướng quân Khương Duy của nước Thục ra cướp huyện Địch
Đạo, Ung Châu Thứ sử Vương Kinh đánh với Duy ở Thao Tây, Kinh thua to, về giữ
thành Địch Đạo. Ngày tân mùi, lấy Trường thủy Hiệu úy Đặng Ngải làm An tây
Tướng quân, hợp sức với Chinh tây Tướng quân Trần Thái cùng chống Duy. Ngày mậu
thìn, lại sai Thái úy Tư Mã Phu đi sau. Tháng chín ngày canh tí, nghe giảng
kinh Thượng thư vừa xong, ban thưởng cho người giảng kinh là bọn Tư không Trịnh
Xung, Thị trung Trịnh Tiểu Đồng đều theo cấp bậc. Ngày giáp thìn, Khương Duy
rút về. Mùa đông tháng mười, hạ chiếu nói: "Trẫm vì đức mỏng, không ngăn
chặn được giặc cướp mới khiến cho giặc Thục hung hăng vào biên thùy. Ở trận
Thao Tây dẫn đến thua vỡ, tướng sĩ chết chóc kể đến hàng nghìn, có người bỏ
mạng trên chiến trường, hồn oan chẳng về, có kẻ bị tay giặc bắt giữ, lưu lạc
nơi xứ lạ, ta thật là thương xót, vì thế mà đau lòng. Nay sai các quan Điển
nông, An phủ Di Hộ quân và quan lại quận ấy cứu giúp người nhà của tướng sĩ,
không thu thuế lao dịch một năm; những người gắng sức chết trận đều theo phép
cũ mà truy tặng, chớ có bỏ sót".
Tháng
mười một ngày giáp ngọ, thấy bốn quận miền Lũng Hữu và quận Kim Thành nhiều năm
gặp địch, có kẻ trốn phản theo giặc, người thân thích còn ở lại quê cũ chẳng
yên lòng, đều tha thứ cho. Ngày quý sửu, hạ chiếu nói: "Lúc trước ở trận
phía tây sông Thao, tướng lại quân dân có kẻ chết ở trong trận, có người bị
chìm dưới sông Thao, chẳng nhặt được xương cốt, vứt ở đồng rẫy, ta vẫn đau xót.
Nay báo cho Chinh tây, An tây Tướng quân đều sai quân bản bộ đến chỗ cũ cùng bờ
sông thu nhặt thây tang, liệm mà chôn cất để an ủi người con sống".
Năm Cam
Lộ thứ nhất, mùa xuân tháng giêng ngày tân sửu, rồng xanh hiện trong giếng nước
ở huyện Chỉ. Ngày ất tị, Bái Vương là Lâm hoăng.
Ngụy thị
xuân thu chép: Tháng hai ngày bính thìn, Đế bày tiệc mời bầy tôi ở phía đông
điện Thái Cực, cùng bọn Thị trung Tuân Nghĩ, Thượng thư Thôi Tán, Viên Lượng,
Chung Dục, Cấp sự trung Trung thư lệnh Ngu Tùng giảng giải điển lễ, bèn nói về
các việc hay của bậc Đế vương. Đế ngưỡng mộ vua
Thiếu
Khang của nhà Hạ, nhân đó hỏi bọn Nghĩ rằng: "Vào thời nhà Hạ đã suy, sắp
sửa nguy diệt, Thiếu Khang thu tập dân Hạ, lập lại công của vua Vũ. Sau này Hán
Cao Tổ nổi dậy ở miền Lũng Thục, thống lĩnh hào kiệt, phá diệt Tần, Hạng, bao
trùm cả nước, hai vị vua ấy có thể nói là tài hạ mưu hay, là bậc hiền tài hơn
đời vậy. Xét công đức của họ, ai đáng đứng đầu"? Bọn Nghĩ đáp nói:
"Người làm vua nhận ngôi quý của thiên hạ là người được trời trao cho,
phải là bậc thánh đức ứng vận, rồi mới vâng mệnh dựng nghiệp. Đến như noi theo
người xưa, trung hưng nghiệp cũ, nguyên nhân tạo nền, khó dễ cũng khác nhau.
Công đức của Thiếu Khang dẫu hay đẹp nhưng chỉ là vị vua trung hưng cùng dòng
như Thế Tổ thôi vậy. Còn như Cao Tổ, bọn thần cho là hơn". Đế nói: "Đế
vương thời xưa, công đức ngôn hạnh đều có cao thấp, không hẳn người dựng nghiệp
đều hay hơn, người nối thay đềub giỏi vậy. Thang, Vũ, Cao Tổ dẫu đều vâng mệnh
trời, dùng người thánh hiền, vâng theo chức phận. Thiếu Khang, Ân Tông là những
vị vua giỏi trung hưng, Hạ Khải, Chu Thành dựng thời văn thịnh, luận về đức
hạnh, so với Hán Cao Tổ thì ta thấy cái hay mà chưa nghe được việc tốt; vì gặp
thời khác nhau nên công danh cũng khác nhau mà thôi. Thiếu Khang sinh vào thời
sau khi diệt vong, bị giáng làm nô lệ của chư hầu, tránh nạn nơi núi cao, chỉ
mong thoát thân, vậy mà có thể ban đức mà tỏ mưu, rút cuộc diệt được nước Quá,
nước Qua, dựng lại được cơ nghiệp của vua Vũ, tế nhà Hạ cùng trời xanh, không
làm mất vật cũ, nếu không phải nhân đức lớn lắm thì há lập được công ấy? Hán
Cao Tổ nhân thế cả nước vỡ lở, nắm lấy cơ hội một thời, trổ bày trí lực để lập
thành công nghiệp, như việc động tĩnh lại phần nhiều làm trái phép của thánh
nhân; làm con thì mấy lần làm nguy hại cha mẹ, làm vua thì bắt trói tướng giỏi,
làm cha thì không bảo vệ được con; sau khi thân chết thì xã tắc nghiêng ngả,
nếu gặp thời khác vào thời của Thiếu Khang mà xét thì chưa hẳn đã dựng lại được
cơ nghiệp của vua Vũ vậy. Do đó mà nói, đáng lấy vua Thiếu Khang của nhà Hạ
đứng đầu mà Hán Cao Tổ đứng sau vậy". Ngày đinh tị hôm sau, giảng giải đã
xong, bọn Nghĩ, Lượng tấu bàn rằng: "Tam đại dựng nước, chia đất mà trị,
cho nên vào lúc suy kém không có thế cả nước vỡ lở, do đó ban đức mà vỗ về, khó
dùng sức mà ép buộc được. Kịp đến thời Chiến quốc, lớn bé xâm chiếm lẫn nhau,
bỏ đức hạnh mà dùng trí lực, cho nên nhà Tần kém đức mà dùng sức tranh giành.
Thiếu Khang vua giỏi ban nhân đức vậy. Hán Cao Tổ là bậc tài dùng trí lực vậy.
Nhân và trí khác nhau, hai vua khác nhau. Thi, Thư kể về vua Trung Tông, Cao
Tông của nhà Ân, xếp vào bậc đại nhã, công đức của Thiếu Khang hay đẹp hơn cả
hai vị kia, là bậc đại nhã đã rõ ràng vậy. Thiếu Khang là hơn, đúng như ý
vua". Bọn Tán, Dục, Tùng tấu bàn rằng: "Thiếu Khang dẫu tích đức chứa
nhân nhưng trên nối cái ân trạch truyền lại của vua Vũ, trong có sức đỡ của
Ngu, Nhưng, ngoài có sức giúp của Mi, Nghệ. Lại nữa Hàn Trác siểm nịnh, không
tích đức với dân; Kiêu, Ế chẳng hiền, bị trong ngoài ruồng bỏ, do đó mà có
nước, cũng có nguyên nhân ấy. Đến như Hán Cao Tổ, nổi lên từ phận áo vải, thống
lĩnh quân dân ô hợp mà lập nên nghiệp Đế vương. Luận về đức thì Thiếu Khang
hơn, bàn về công thì Cao Tổ hơn, nói về Thiếu Khang thì dễ mà bình về Cao Tổ
lại khó".
Mùa hạ
tháng tư ngày canh tuất, ban áo mũ cổn miện, sau đó là giày đỏ cho Đại tướng
quân Tư Mã Văn Vương.
Ngày
bính thìn, Đế đến nhà Thái học, hỏi các nhà Nho rằng: "Thánh nhân nghĩ
điềm của thần minh, ngưỡng nhìn xem xét, bắt đầu lập ra tám quẻ, sau lại chồng
lên lập thành sáu mươi tư quẻ, lập từng hào để đoán số, như ý nghĩa của nó,
không gì không đầy đủ. Vậy mà nhà Hạ có kinh Liên sơn, nhà Ân có kinh Quy tàng,
nhà Chu có kinh Chu dịch, các sách dịch kia có nguyên cớ làm sao"? Bác sĩ
Thuần Vu Tuấn nghiên cứu về kinh dịch đáp rằng: "Bào Hi noi theo bản đồ
của Toại Hoàng mà lập ra tám quẻ, Thần Nông suy thành sáu mươi tư quẻ, Hoàng
Đế, Nghiêu, Thuấn đều hiểu cái biến dịch của nó, Tam đại tùy thời mà bàn rõ lời
bói các quẻ. Cho nên dịch là biến chuyển vậy, đặt tên là Liên sơn như khí
sinh ở
trong núi, nối liền trời đất vậy; Quy tàng là vạn vật chẳng gì không náu ở
trong dịch vậy". Đế lại nói: "Nếu đúng Bào Hi noi theo Toại Hoàng mà
tạo ta kinh Dịch, cớ sao Khổng Tử không nói là Toại Nhân thị diệt thì Bào Hi
thị lên thay"? Tuấn không đáp được. Đế lại hỏi rằng: "Khổng Tử chép
lời thoán, tượng; Trịnh Huyền chép lời chú, dẫu thánh hiền chẳng giống nhưng
lời mà họ giải thích kinh nghĩa cùng là một vậy. Nay lời thoán, tượng không
liên quan với lời văn của kinh mà lời chú lại liên quan, sao vậy"? Tuấn
đáp nói: "Trịnh Huyền hợp lời thoán, tượng và lời văn của kinh, muốn khiến
cho người học dễ tìm xét thôi vậy". Đế nói: "Nếu Trịnh Huyền hợp lại,
đối với người học thì tiện lợi, vậy thì Khổng Tử sao không hợp lại cho người
học được dễ hơn"? Tuấn đáp nói: "Khổng Tử sợ lời văn của mình lẫn lộn
với lời của Văn Vương, cho nên không hợp lại, thánh nhân không hợp lại là vì
khiêm nhường vậy". Đế nói: "Nếu thánh nhân không hợp lại là vì khiêm
nhường, vậy thì chỉ riêng Trịnh Huyền không khiêm nhường sao"? Tuấn đáp
nói: "Nghĩa của lời kinh sâu rộng, ý của thánh nhân xa kín, thần không thể
hiểu rõ hết được". Đế lại hỏi rằng: "Hệ từ chép: 'Hoàng Đế, Nghiêu,
Thuấn bỏ áo quần mà thiên hạ yên ổn'. Đấy là vào thời Bào Hi, Thần Nông không
có áo quần vậy. Nhưng thánh nhân giáo hóa thiên hạ, sao lại khác lạ với thời
ấy"? Tuấn đáp nói: "Vào thời Tam hoàng, người ít mà cầm thú nhiều,
cho nên chỉ lấy lông da của cầm thú thì thiên hạ cũng đủ dùng. Đến thời Hoàng
Đế, người đông mà cầm thú thưa, cho nên làm ra quần áo để hợp với thời buổi
thay đổi vậy". Đế lại hỏi: "Càn là trời, mà lại chọn các vật bằng kim
loại, ngọc, ngựa già, vật nhỏ cùng một nhóm là sao"? Tuấn đáp nói:
"Thánh nhân chọn lấy hình tượng, hoặc gần hoặc xa, gần thì chọn ở các vật,
xa thì chọn ở trời đất".
Giảng
kinh Dịch xong, lại sai giảng kinh Thượng thư. Đế hỏi rằng: "Trịnh Huyền
nói: 'Theo phép cũ là theo đạo trời, ý nói phép tắc của vua Nghiêu giống với
đạo trời vậy'. Vương Túc nói: 'Vua Nghiêu xét kĩ phép cũ mà làm theo'. Hai
người giải không giống nhau, người nào là đúng"? Bác sĩ Dữu Tuấn đáp nói:
"Bậc nhà Nho ngày trước giải theo ý mình, đều có khác nhau, thần không đủ
tài để phân định. Nhưng theo sách Hồng phạm chép: 'Ba người tranh luận thì theo
lời của hai người cùng ý'. Giả, Mã cùng Túc đều cho rằng: 'Xét kĩ phép cũ'. Do
đó theo sách Hồng phạm thì lời của Túc là hơn". Đế nói: "Trọng Ni
nói: 'Riêng đạo trời là lớn, chỉ Nghiêu noi theo'. Nghiêu là bậc đại hiền noi
theo đạo trời, xét kĩ phép cũ, mình chẳng phải thế vậy. Nay đọc sách giải nghĩa
để làm rõ đức thánh, lại bỏ ý lớn mà khen ý nhỏ, đấy há phải là ý của người
soạn sách sao"? Tuấn đáp nói: "Thần học theo lời thầy, chưa hiểu ý
lớn, đến như chọn lựa, xin theo ý của thánh nhân". Sau đó giảng đến việc
tứ nhạc tiến cử Cổn, Đế lại hỏi rằng: "Bậc đại trượng phu thì đức hợp với trời
đất, ý sáng sánh cùng nhật nguyệt, suy nghĩ không gì là không trọn vẹn, ý sáng
không nơi nào không rõ. Vậy mà nay Vương Túc nói: 'Ý của Nghiêu không hiểu rõ
được Cổn, cho nên chỉ dùng thử'. Như thế thánh nhân chưa sáng suốt hết thảy
sao"? Tuấn đáp rằng: "Dẫu thánh nhân hiểu rộng nhưng vẫn có chỗ chưa
thấu cả, cho nên Vũ nói: 'Biết người là sáng suốt, riêng biết vua thì khó'.
Nhưng cuối cùng vẫn đổi dùng bậc thánh hiền, tỏ rõ công tích, cũng trở thành
thánh nhân vậy". Đế nói: "Người biết được trước sau, đấy là thánh
nhân. Nếu không biết trước, sao đáng gọi là thánh nhân? Vũ nói: 'Riêng biết vua
thì khó', nhưng cuối cùng vẫn đổi dùng bậc thánh hiền, có thể nói là biết
người, cái mà thánh nhân khó biết, không phải là không nói hết. Trong kinh
chép: 'Biết người là sáng, có thể trao chức'. Nếu vua Nghiêu ngờ Cổn, mà dùng
thử chín năm, làm quan sai sót, sao đáng gọi là sáng suốt"? Tuấn đáp nói:
"Thần đọc xem kinh truyện, thấy rằng thánh nhân dẫu làm việc cũng không
thể không sai sót, cho nên vua Nghiêu sai sót mới có loạn 'tứ hung', Chu Công
sai sót mới có loạn 'nhị thúc', Trọng Ni sai sót mới có việc của Tể Dư".
Đế nói: "Nghiêu thử dùng Cổn, chín năm chẳng xong, nước sông tràn ngập,
dân chúng chìm đắm. Đến như Trọng Ni sai sót mới có việc của Tể Dư, trong đức
ngôn hạnh, nặng nhẹ không giống vậy. Còn như Chu Công có loạn của Quản, Thái,
kinh Thượng thư cũng chép, đều là việc mà Bác sĩ thông hiểu vậy". Tuấn đáp
nói: "Đấy đều là điều mà bậc thánh hiền thời trước nghi ngờ, thần học ít
không xét kĩ được". Rồi giảng đến việc "có người góa vợ ở trong dân
tên là Ngu Thuấn", Đế hỏi rằng: "Vào thời vua Nghiêu, nước ngập gây
hại, 'tứ hung' ở triều đình, đấy là lúc nên nhanh chọn bậc hiền thánh để giúp
dân vậy. Thuấn vào lúc đã lên ngôi vua, đức thánh chói sáng, nhưng lâu ngày
trước kia không được chọn dùng, sao vậy"? Tuấn đáp rằng: "Nghiêu than
thở tìm người hiền, muốn nhường ngôi của mình, tứ nhạc nói: 'Nếu dùng người đức
kém thì chỉ làm nhục ngôi vị'. Do đó Nghiêu sai tứ nhạc chọn tìm người quê mùa,
sau đó tiến cử Thuấn. Nguồn gốc của việc tiến cử Thuấn thực là do từ Nghiêu,
đấy là thánh nhân muốn dân chúng dốc hết lòng vậy". Đế nói: "Nghiêu
đã nghe nói về Thuấn mà không dùng ngay, lại nữa bấy giờ trung thần cũng chẳng
tiến cử, bèn sai người đi tìm kiếm trong thôn ấp rồi mới tiến cử, đấy gọi là
chẳng nhanh chóng dùng người hiền để giúp dân vậy". Tuấn đáp rằng:
"Thần kém cỏi không thể hiểu kịp được".
Do đó
lại sai giảng sách Lễ kí, Đế hỏi rằng: "Trong sách nói: 'Vua trên lập đức,
coi việc đền đáp là thứ yếu'. Trị nước sao lại có giáo hóa đều khác, sao lại
đều sửa chính trị mà lo lập đức, làm mà chẳng cần báo đáp sao"? Bác sĩ Mã
Chiếu đáp nói: "Vua trên lập đức là nói về thời Tam hoàng, Ngũ đế dùng đức
mà dạy dân, đền báo là thứ yếu, đấy là nói về thời Tam vương dùng lễ mà trị dân
vậy". Đế nói: "Hai thời ban bố giáo hóa dày mỏng không giống nhau,
vua trên có chỗ hay đẹp sao? Thời thế khiến nên như thế chăng"? Chiếu đáp
rằng: "Thực là do thời có lợi cho nghiệp văn đức, cho nên giáo hóa có thời
dày mỏng không giống vậy".
Tấn chư
công tán của Phó Sướng chép: Đế thường cùng bọn Trung hộ quân Tư Mã Vọng, Thị
trung Vương Vương Thẩm, Tán kị Thường thị Bùi Tú, Hoàng môn Thị lang Chung Hội
ngồi bàn ở phía đông điện, cùng luận về văn nghĩa. Đặt hiệu Tú là 'Nho lâm
trượng nhân', Thẩm là 'Văn tịch tiên sinh', Vọng, Hội cũng có hiệu. Tính Đế
nóng vội, mời gọi là muốn đến nhanh. Bọn Tú làm quan trong cung, cho nên đến
đúng lúc, còn Vọng ở ngoài, sai riêng quan Cấp sự đi xe nhẹ, đem năm lính hổ
bôn, mỗi khi có hội họp, Vọng liền rong ruổi mà đến.
Tháng
năm, đất Nghiệp và quận Thượng Cốc, thành Lạc Dương đều nói là có sương ngọt sa
xuống. Mùa hạ tháng sáu ngày bính ngọ, đổi niên hiệu là Cam Lộ. Ngày ất sửu,
rồng xanh hiện ở trong giếng ở vùng huyện Nguyên Thành. Mùa thu tháng bảy ngày
kỉ mão, Vệ tướng quân Hồ Tuân hoăng. Ngày quý mùi, An tây Tướng quân Đặng Ngải
đại phá Đại tướng Khương Duy của nước Thục ở huyện Thượng Quy, hạ chiếu nói:
"Quân chưa trổ hết sức mà giặc xấu bị bẻ gãy, chém đầu bắt sống đến hàng
vạn, gần đây thắng trận chẳng bằng trận này. Nay sai sứ giả ban thưởng cho
tướng sĩ, mở hội yến lớn, ăn uống cả ngày để nêu rõ ý trẫm".
Tháng
tám ngày canh ngọ, bái Đại tướng quân Tư Mã Văn Vương thêm chức Đại đô đốc, tấu
việc không nói tên, trao búa vàng. Ngày quý dậu, lấy Thái úy Tư Mã Phu làm Thái
phó. Tháng chín, lấy Tư đồ Cao Nhu làm Thái úy. Mùa đông tháng mười, lấy Tư
không Trịnh Xung làm Tư đồ, Thượng thư Bộc xạ Lô Dục làm Tư không.
Năm thứ
hai, mùa xuân tháng hai, rồng xanh hiện trong giếng ở huyện Ôn. Tháng ba, Tư
không Lô Dục hoăng.
Mùa hạ
tháng tư ngày quý mão, hạ chiếu nói: "Quan dân huyện Cao Hiển quận Huyền
Thố phản loạn, quan Huyện trưởng là Trịnh Chiếu bị giặc giết. Người dân trong
huyện là Vương Giản vác cõng tang của Chiếu vào buổi sáng sao còn trên trời, đi
xa đến sở phủ của châu, trung tiết đáng khen. Nay bái Giản làm
Trung nghĩa Đô úy để tỏ rõ đức hạnh".
Ngày
giáp tí, lấy Chinh đông Đại tướng quân Gia Cát Đản làm Tư không.
Tháng
năm ngày tân mùi, Đế đến miếu Tích Ung, mở hội sai bầy tôi làm thơ phú. Bọn Thị
trung Hòa Du, Thượng thư Trần Khiên làm thơ thô xấu, quan chủ việc tấu xin bãi
chức, hạ chiếu nói: "Ta dẫu kém tối, vẫn ưa văn chương, nghe rộng thơ phú
để biết được mất, nhưng lại còn rườm tà, lời lẽ thô kém. Nay tha cho bọn Du.
Quan coi việc phải ra lệnh từ nay về sau, bầy tôi đều phải học theo phép cũ,
xét rõ kinh truyện, nên theo ý trẫm".
Ngày ất
hợi, Gia Cát Đản không chịu vâng mệnh, phát binh phản, giết Dương Châu Thứ sử
Nhạc Sâm. Ngày bính tí, hạ lệnh tha tội cho quân dân quan tướng miền Hoài Nam bị Đản lừa
dụ. Ngày đinh sửu, hạ chiếu nói: "Gia Cát Đản tạo việc hung loạn, khiến
cho miền Dương Châu vỡ lật. Ngày xưa Kình Bố phản bội thì Hán Cao Tổ tự đi
đánh, Ngôi Hiêu trái mệnh thì Hán Quang Vũ đến đánh miền tây, cho đến lúc Liệt
Tổ Minh Hoàng đế tự thân đánh Ngô, Thục, đều là vì nêu cao thế lớn, tỏ rõ oai
vũ vậy. Nay nên đem Hoàng thái hậu cùng trẫm tạm đi đánh giặc, nhanh phá giặc
ác để dẹp yên miền đông". Ngày kỉ mão, hạ chiếu nói: "Gia Cát Đản
liên kết phản nghịch, ép bức người trung nghĩa, Bình khấu Tướng quân Lâm Vị Hầu
là Bàng Hội, Kị đốc Thiên tướng quân Lộ Phiên cùng các tướng tả hữu phá cửa ra
ngoài, trung tráng dũng liệt, nên đáng khen ngợi. Nay phong Hội tước Hương hầu,
phong Phiên tước Đình hầu".
Tháng
sáu ngày ất tị, hạ chiếu nói: "Sứ trì tiết, Đô đốc các quân miền Hạ Khẩu,
Trấn quân Tướng quân Sa Tiện Hầu là Tôn Nhất của nước Ngô là họ hàng của giặc,
làm đến bậc Thượng tướng nhưng sợ oai trời biết phận mình, xét kĩ họa phúc, sửa
lỗi đem binh đi xa theo về nước lớn, dẫu Vi Tử bỏ nhà Ân, Nhạc Nghị trốn nước
Yên cũng không hơn được. Nay lấy Nhất làm Thị trung, Xa kị Tướng quân, Giả
tiết, Giao Châu Mục, Ngô Hầu, Khai phủ tịch chiêu Nghi đồng tam ti, theo lễ
'bát mệnh' đối với Hầu bá thời xưa mà ban cho mũ áo cổn miện, giày đỏ để tỏ rõ
ý nồng hậu".
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Nhất sợ bị ép mà theo hàng, việc này không đáng khen, đấy là
người noi theo phép cũ, đại khái là muốn được nổi danh vậy. Vào thời bấy giờ,
chưa thấu cái lí ngưỡng mộ phép xưa, chưa rõ cái phép tùy tài năng mà ban
thưởng, đáng chỉ để đền cái tình theo hàng mà thôi. Đến như ban lễ 'bát mệnh'
nồng hậu, lễ ngang với bậc Tể tướng, cũng chẳng quá sao? Đối với việc chiêu dụ
kẻ xa, cũng chẳng hợp lí vậy. Vì sao? Nếu khiến cho tướng lại bên ấy không có ý
nghi hoặc, rút cuộc chẳng vui với ân sủng, sinh lòng phản bội, vì phản mà thẹn,
có cái nhục nào hơn? Nếu bên ấy lo họa sắp đến, nếu chẳng trốn thì chẳng thoát
được, thì tất phải tránh cái chết để mong được sống, lúc ấy chẳng mong gì vào
vinh lợi nữa. Vậy thì chức cao lộc dày mà làm gì? Đầu thời nhà Ngụy có Mạnh
Đạt, Hoàng Quyền, vào thời nhà Tấn có Tôn Tú, Tôn Khải; Đạt, Quyền được ban
tước, còn thấp hơn Nhất, Tú, Khải lại khác lễ, thật là khác lạ! Đến lúc bình
Ngô xong lại bãi giáng mấy bậc, không cho quyền cao, đấy há chẳng phải do cái
lỗi sai lúc trước sao?
Ngày
giáp tí, hạ chiếu nói: "Nay xa giá đến ở huyện Hạng, lệnh Đại tướng quân
vâng mệnh phạt kẻ có tội, đi trước đến bến sông Hoài. Ngày xưa Tướng quốc Đại
tư mã đánh dẹp đều đem quan Thượng thư cùng đi, nay nên theo phép cũ".
Liền sai Tán kị Thường thị Bùi Tú, Cấp sự Hoàng môn Thị lang Chung Hội đều đi
cùng Đại tướng quân. Mùa thu tháng tám, hạ chiếu nói: "Ngày xưa Yên Thích
Vương mưu phản, bọn Hàn Nghị can gián mà chết, nhà Hán cất nhắc con của họ.
Ngày nay Gia Cát Đản tạo việc
hung
loạn, Chủ bạ Tuyên Long, Bộ khúc đốc Tần Khiết giữ vững tiết nghĩa, cố vào can
ngăn, bị Đản giết chết, đấy gọi là chẳng có thân thích như Tỉ Can mà bị giết
chóc vậy. Nay lấy con của Long, Khiết làm Kị đô úy, lại thêm ban thưởng, nêu rõ
gần xa để đề tiếng trung nghĩa".
Tháng
chín, đại xá. Mùa đông tháng mười hai, bọn Đại tướng Toàn Đoan, Toàn Dịch của
nước Ngô đem quân đến hàng.
Năm thứ
ba mùa xuân tháng hai, Đại tướng quân Tư Mã Văn Vương hãm thành Thọ Xuân, chém
Gia Cát Đản. Tháng ba, hạ chiếu nói: "Ngày xưa thắng giặc thì thu nhặt
thây mà đắp thành gò đống là để phạt kẻ phản và nêu rõ võ công vậy. Giữa năm
Nguyên Đỉnh thời Hán Hiếu Vũ, đổi huyện Đồng Hương thành huyện Văn Hỉ, huyện
Tân Hương thành huyện Hoạch Gia là để ghi nhớ lúc nước Nam Việt bị diệt. Đại
tướng quân tự thân lĩnh sáu quân, đóng giữ ở Khâu Đầu, trong trừ bọn xấu, ngoài
phá giặc cướp, công trùm triệu dân, tiếng lừng bốn cõi. Chiếm đất của địch, nên
có tên mới, nay đổi tên Khâu Đầu thành Vũ Khâu để nêu rõ oai vũ dẹp loạn, để
đời sau không quên, cũng đắp hai gò đống để tỏ nghĩa vậy".
Mùa hạ
tháng năm, bái Đại tướng quân Tư Mã Văn Vương làm Tướng quốc, phong Tấn Công,
thực ấp tám quận, lại tặng lễ 'cửu tích', Văn Vương trước sau nhường chín lần
lại thôi.
Tháng
sáu ngày bính tí, hạ chiếu nói: "Ngày xưa bọn giặc trên núi ở quận Nam Dương
gây rối, muốn bắt giữ Thái thú Đông Lí Bao làm con tin, quan Công tào là Ứng Dư
tự thân giằng lại Bao, bèn thoát được nạn. Dư khốn cùng bỏ mạng, bỏ thân cứu
chủ. Nay sai quan Tư đồ bái cháu của Dư là Luân làm quan, sai phải báo đền khí
tiết".
Sở quốc
tiên hiền truyện chép: Dư tự Tử Chính, bản tính thẳng thắn, chí ưa nhân nghĩa.
Năm Kiến An thứ hai mươi ba làm quan Công tào trong quận. Bấy giờ Ngô, Thục
không phục, bờ cõi nhiễu loạn. Tướng giữ thành Uyển là Hầu Âm vỗ về dân trong
núi, giữ thành làm phản. Dư cùng quan Thái thú Đông Lí Bao đang ở vào buổi rối
ren, chạy loạn mà ra. Âm liền sai quân kị đuổi bắt, cách thành mười dặm sắp
đuổi kịp, giặc liền bắn Bao, tên bay hỗn loạn. Dư vươn thân phía trước để hứng
mũi tên, bị thương bảy chỗ, nhân đó bảo bọn giặc đuổi theo rằng: "Hầu Âm
cuồng trá, làm việc hung nghịch, đại quân sắp đến, sẽ bị đánh diệt. Các anh vốn
là người tốt, chẳng có ý ác, hãy mau theo thiện, sao lại chịu để cho hắn sai
khiến? Ta đem thân để thay chủ, đã bị thương nặng, nếu ta chết mà chủ được
sống, chết cũng chẳng tiếc". Rồi ngẩng mặt lên trời khóc lóc, máu lệ chứa
chan. Giặc thấy người này trung nghĩa, liền tha cho Bao mà không giết. Sau khi
giặc đi, Dư cũng bỏ mạng. Chinh nam Tướng quân Tào Nhân đánh dẹp Âm, kể công
trạng của Dư, cùng lấy rượu rảy xuống đất mà cúng tế. Thái Tổ nghe tin, than
thở hồi lâu, hạ lệnh Kinh Châu kể rõ tình cảnh của người nhà lên, ban cho nghìn
hộc lúa. Bao sau đó làm quan Tư mã của Vu Cấm, được chép trong Ngụy lược - Du
thuyết truyện.
Ngày tân
mão, bàn luận công lao đánh dẹp miền Hoài Nam , phong tước ban thưởng đều theo
cấp bậc.
Mùa thu
tháng tám ngày giáp tuất, lấy Phiếu kị Tướng quân Vương Sưởng làm Tư không.
Ngày bính dần, hạ chiếu nói: "Chăm sóc người già, nêu cao giáo hóa là
nguyên nhân phong tục thời Tam đại truyền mãi không mất vậy. Phải có quan Tam
lão, Ngũ canh để chăm lo kính thuận cho họ, nghe lời răn
dạy của
họ mà chép vào sử xanh, lúc ấy thì sáu cõi mới liền nối, thiên hạ ngưỡng theo
giáo hóa vậy. Nên xem xét người có đức hạnh để chọn làm quan ấy. Quan nội hầu
Vương Tường tu nhân giữ nghĩa, thật thà nhã nhặn, Quan nội hầu Trịnh Tiểu Đồng
ôn hòa hiếu thuận, giữ lễ không đổi. Nay lấy Tường làm Tam lão, Tiểu Đồng làm
Ngũ canh". Xa giá đem trăm quan đi, theo phép cũ.
Hán Tấn
xuân thu chép: Đế xin hỏi với Tường, Tường đáp nói: "Thời xưa vua sáng thì
sắm đủ lễ nhạc, lại tỏ rõ lòng thành thật, lòng thành thật tỏ rõ thì phát ra ở
lời nói việc làm. Là người quân tử thì làm việc hợp với trời đất; trời cũng
chẳng làm trái, huống chi là đối với người"? Việc về Tường thấy chép ở Lữ
Kiền truyện.
Tiểu
Đồng là cháu của Trịnh Huyền vậy. Huyền biệt truyện chép: Huyền có người con
làm quan thuộc của Khổng Dung, cử Hiếu liêm. Vào lúc Dung bị vây, đi đến, bị
giặc giết hại. Có con nhỏ đang trong bụng mẹ, vào năm đinh mão thì sinh; mà
Huyền cũng sinh vào năm đinh mão cho nên đặt tên là Tiểu Đồng.
Ngụy thị
xuân thu chép: Tiểu Đồng đến chỗ Tư Mã Văn Vương, Văn Vương có tờ sớ kín nhưng
chưa che giấu.Vừa đi nhà xí về, bảo Tiểu Đồng rằng: "Khanh thấy tờ sớ của
ta không"? Đáp nói: "Không". Văn Vương nghi ngờ mà bỏ rượu độc
giết, bèn chết.
Trịnh
Huyền chú Văn Vương thế tử chép: Quan Tam lão, Ngũ canh đều có một người, đều
là người già đã đã từ quan về nghỉ vậy.
Chú Nhạc
kí chép: Đều là người già hiểu biết 'tam đức', 'ngũ sự' vậy. Minh đường luận
của Sái Ung chép: Chữ 'canh' đáng lẽ chép là chữ 'sưu'. Chữ 'sưu' là chữ nói về
bậc già cả, chữ này giống với chữ 'canh', người viết chữ chép nhầm thành chữ
'canh'. Chữ 'tẩu' có chữ 'nữ' bên chữ 'sưu', người ngày nay cũng cho là chữ
'canh', do đó biết rằng phải là chữ 'sưu' vậy.
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Sái Ung nói rằng chữ 'canh' phải là chữ 'sưu', thật là có
lí, vậy mà các nhà Nho chẳng ai tin theo, chưa biết ai đúng.
Năm đó,
rồng xanh, rồng vàng vẫn hiện trong giếng ở các huyện Đốn Khâu, Quán Quân,
Dương Hạ.
Năm thứ
tư, mùa xuân tháng giêng, rồng vàng hai lần hiện trong giếng ở đất huyện Ninh
Lăng.
Hán Tấn
xuân thu chép: Bấy giờ rồng vẫn hiện, mọi người cho là điềm lành. Đế nói:
"Rồng là đức của vua vậy. Trên chẳng hiện ở trời, dưới chẳng hiện ở ruộng
mà lại nhiều lần hiện ở giếng, đấy chẳng phải là điềm lành vậy". Lại làm
bài thơ Tiềm long để tự chê giễu, Tư Mã Văn Vương xem mà ghét Đế.
Mùa hạ
tháng sáu, Tư không Vương Sưởng hoăng. Mùa thu tháng bảy, Trần Lưu Vương là
Tuấn hoăng. Mùa đông tháng mười ngày bính dần, chia quận Tân Thành lập lại quận
Thượng Dung. Tháng mười một ngày quý mão, Xa kị Tướng quân Tôn Nhân bị người
hầu gái giết.
Năm thứ
năm, mùa xuân đầu tháng giêng, Mặt trời có chỗ khuyết. Mùa hạ tháng tư, hạ
chiếu quan coi việc theo phép cũ, lại bái Đại tướng quân Tư Mã Văn Vương làm
Tướng quốc, phong Tấn Công, thêm lễ 'cửu tích'.
Tháng
năm ngày kỉ sửu, Cao Quý Hương Công chết, bấy giờ hai mươi tuổi.
Hán Tấn
xuân thu chép: Đế thấy oai quyền ngày càng rời, không kìm nổi giận. Bèn gọi Thị
trung Vương Thẩm, Thương thư Vương Kinh, Tán kị Thường thị Vương Nghiệp đến bảo
rằng: "Lòng dạ của Tư Mã Chiêu, người đi ngoài đường còn biết. Ta không
thể ngồi mà chịu nhục nữa, ngày nay sẽ cùng các khanh tự ra đánh hắn".
Vương Kinh nói: "Ngày xưa Lỗ Chiêu Công không nhịn được họ Quý mà thua
chạy mất nước, bị thiên hạ chê cười. Nay quyền thế của họ ở trước cửa, cũng đã
lâu ngày. Ở bốn phương và triều đình đều vì họ mà liều chết, không màng đến cái
lí thuận hay nghịch, đấy chẳng phải là do ở một ngày vậy. Vả lại quân vệ thiếu
vắng, binh giáp yếu kém, Bệ hạ làm sao dùng được? Vả lại nếu một sớm như thế,
chẳng phải muốn trừ bệnh mà bệnh càng nặng sao! Họa nạn khó lường, chỉ nên giữ
điều lành thôi". Đế bèn đem tấm lệnh trong người ra ném xuống đất, nói: "Ta
quyết làm rồi. Dẫu bị chết, há sợ gì? Huống chi không hẳn là tất chết"! Do
đó vào bẩm Thái hậu. Thẩm, Nghiệp chạy trốn báo cho Văn Vương, Văn Vương sắp
đặt phòng giữ. Đế bèn đem mấy trăm lính hầu gõ trống mà ra. Em họ của Văn Vương
là Đồn kị Hiệu úy Trụ vào, gặp Đế ở cửa Chỉ Xa phía đông, tả hữu mắng Trụ, quân
của Trụ bỏ chạy. Trung hộ quân Giả Sung lại chặn đánh Đế ở dưới cửa khuyết phía
nam, Đế tự cầm kiếm. Quân muốn rút, Thái tử Xá nhân Thành Tế hỏi Sung rằng:
"Việc gấp rồi, nên làm sao"? Sung nói: Nuôi chứa các ngươi, làm ở
ngày nay. Việc ở ngày nay, còn hỏi gì nữa"? Tế liền đến đâm Đế, mũi đao
thâu qua lưng. Văn Vương nghe tin, cả kinh, tự lăn xuống đất nói: "Thiên
hạ sẽ nói ta thế nào"! Thái phó Phu chạy đến, ôm thây Đế mà khóc rất thảm
thương, nói: "Giết Bệ hạ là tội của thần vậy".
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Sách của Tập Tạc Xỉ dẫu soạn sau cùng nhưng chép việc này có
chỗ sai khác, cho nên dẫn lời của Tập trước để tỏ rõ cái khác khác với các sách
còn lại ở sau.
Thế ngữ
chép: Vương Thẩm, Vương Nghiệp ruổi đi báo cho Văn Vương, vì Thượng thư Vương
Kinh thẳng thắn chẳng nói ra, do đó Thẩm, Nghiệp đến báo ý.
Tấn chư
công tán chép: Thẩm, Nghiệp sắp ra, gọi Vương Kinh. Kinh không theo, nói:
"Các ngươi tự làm đi"!
Tấn kỉ
của Can Bảo chép: Thành Tế hỏi Giả Sung rằng: "Việc gấp rồi, làm thế
nào"? Sung nói: "Công nuôi chứa các ngươi là để làm việc ngày nay
vậy. Còn ngờ gì"! Tế nói: "Được". Bèn cầm kích đến đâm.
Ngụy thị
xuân thu chép: Buổi đêm ngày mậu tí, Đế tự đem bọn Nhũng tòng Bộc xạ Lí Chiêu,
Hoàng môn Tòng quan Tiêu Bá xuống đài Lăng Vân, mặc giáp lĩnh quân, muốn nhân
lúc hội họp mà tự ra đánh Văn Vương. Gặp lúc trời mưa, quan coi việc tấu xin
lùi đến hôm sau, rồi gặp bọn Vương Kinh, đem tờ chiếu làm bằng lụa màu vàng
trong người ra nói: "Ai sẽ chịu nhục, sai sẽ không chịu nhục vậy! Ngày nay
sẽ quyết làm việc này". Vào bẩm Thái hậu, bèn cầm kiếm lên xe, lĩnh lính
hầu trong cung Thương Đầu và lính túc vệ trong điện gõ trống, ra từ cửa Vân
Long. Giả Sung từ ngoài đi vào, quân của Đế tan vỡ nhưng Đế vẫn xưng là Thiên
tử, cầm kiếm vung đánh, quân sĩ chẳng ai dám đến gần. Sung khích lệ tướng sĩ,
em của Đốc kị Thành Tốt là Thành Tế cầm mâu đến đâm, Đế băng ở trong quân. Bấy
giờ trời tối sầm, mưa to sấm sét.
Ngụy mạt
truyện chép: Giả Sung gọi viên Đốc kị Thành Tế dưới trướng đến bảo rằng:
"Nếu việc của họ Tư Mã thua vỡ thì các ngươi còn được trọn vẹn không? Sao
không ra đánh"! Hai anh em Tốt bèn đem quân dưới trướng đi ra, ngoảnh bảo
rằng: "Nên giết không? Hay nên bắt"? Sung nói: "Giết đi".
Quân
giao tranh, Đế nói: "Bỏ giáo xuống"! Quân sĩ của Đại tướng quân đều
bỏ giáo. Anh em Tế nhân đó đến đâm Đế, Đế ngã xuống xe.
Hoàng
thái hậu lệnh nói: "Ta chẳng có đức, chẳng giúp được nhà. Ngày xưa đón lập
con của Đông Hải Vương là Mao, cho làm người nối tự của Minh Đế, thấy hắn ưa văn
chương thơ phú, mong có thể thành tài, nào ngờ tính tình bạo ngược, ngày càng
thêm sâu. Ta nhiều lần trách mắng, hắn bèn sinh oán giận, bày lời ác xấu vô đạo
để gièm vu ta, rút cuộc ngăn đứt hai cung. Lời mà hắn nói, không đáng nghe
theo, chẳng được trời đất che chở vậy. Ta đã hạ lệnh ngầm sai Đại tướng quân là
không nên cho hắn cúng tế tông miếu, đấy là sợ xã tắc nghiêng lật, chết rồi
chẳng còn mặt mũi mà gặp Tiên đế vậy. Đại tướng quân thấy hắn còn nhỏ, bảo là
nên thay lòng theo thiên, ân cần kĩ càng. Nhưng thằng ấy vẫn ngang ngược, làm
việc thêm xấu, lấy nỏ từ xa bắn vào cung của ta, ta đang chúc mừng thì trúng
vào cổ, mũi tên rơi trước mặt. Ta bảo cho Đại tướng quân là không thể không phế
hắn, trước sau nói mấy chục lần. Thắng ấy nghe tin, tự biết tội nặng, bèn mưu
phản nghịch, hối lộ cho tả hữu của ta, khiến cho ta uống thuốc độc, lại ngầm
bày rượu độc, cùng nhau bày kế. Việc bị phát lộ, liền muốn nhân hội họp mà đem
quân vào cung phía tây để giết ta, ra bắt Đại tướng quân, gọi Thị trung Vương
Thẩm, Tán kị Thường thị Vương Nghiệp,
Thế ngữ
chép: Nghiệp là người quận Quảng Lăng, sau này làm Trung hộ quân của nhà Tấn.
Thượng
thư Vương Kinh đến, đem tờ chiếu bằng lụa màu vàng trong người ra cho họ xem,
nói là hôm nay sẽ làm việc ấy. Ta bị nguy hại hơn cả trứng treo dây. Ta đã già
góa, há tiếc mấy tuổi thừa nữa sao? Chỉ thương cho ý muốn của Tiên đế chẳng
thành, xã tắc nghiêng lật mà đau lòng vậy. Cậy vào oai linh của tổ tiên, Thẩm,
Nghiệp liền báo cho Đại tướng quân, do đó phòng giữ nghiêm ngặt trước. Nhưng
thằng ấy lại đem tả hữu ra khỏi cửa Vân Long, gõ trống như sấm, tự thân cầm
kiếm cùng tả hữu túc vệ xông vào trong trận, bị đao nhọn dâm chết. Thằng ấy đã
làm việc trái nghịch bất đạo mà lại tự hãm vào họa lớn, cũng khiến cho ta đau
long không nói nên lời. Ngày xưa Xương Ấp Vương của nhà Hán bị tội phế làm dân
thường, nay thằng ấy cũng nên đem lễ dân thường mà táng hắn. Nay báo cho người
trong ngoài đều biết được việc làm của thằng ấy. Lại nữa Thượng thư Vương Kinh
thấy việc ác nghịch mà không bẩm báo, nay bắt Kinh cùng người nhà đến sở quan
Đình úy xét tội".
Ngày
canh dần, Thái phó Phu, Đại tướng quân Văn Vương, Thái úy Nhu, Tư đồ Xung cúi
đầu nói: "Xét thấy mới đây Cao Quý Hương Công bạo ngược vô đạo, tự chuốc
họa lớn, noi theo việc cũ xét tội Xương Ấp Vương của nhà Hán mà dùng lễ dân
thường để táng. Bọn thần giữ chức mà không thể cứu trừ được loạn hoạ, không
ngăn được gian nghịch, vâng lệnh mà lo lắng, ruột gan đau nhói. Theo nghĩa Xuân
thu thì bậc làm vua không nên cho ra ngoài, mà kinh Thư lại nói: 'Tương Vương
ra ở tại nước Trịnh', không thể thờ mẹ, cho nên bị phế ngôi vua vậy. Ngày nay
Cao Quý Hương Công phóng túng vô độ, suýt làm đổ xã tắc, tự chuốc lấy vỡ lật,
bị thần người ruồng bỏ, nay táng theo lễ dân thường, đấy thực phép cũ vậy.
Nhưng bọn thần xét thấy Điện hạ rất là nhân từ, dẫu theo phép tắc nhưng vẫn nên
thương xót. Lòng dạ bọn thần thật không nỡ làm thế. Cho rằng nên đem lễ bậc
Vương mà táng". Thái hậu nghe theo.
Hán Tấn
xuân thu chép: Ngày đinh mão, táng Cao Quý Hương Công ở bến bãi sông Triền cách
phía tây bắc thành Lạc Dương ba mươi dặm. Đem mấy cỗ xe đi, không bày cờ thêu,
trăm họ tụ nhau mà
đứng
xem, nói: "Đấy là Thiên tử lúc trước bị người ta giết vậy". Có kẻ ôm
mặt mà khóc, không nén được thương cảm.
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Nếu chỉ đem mấy cỗ xe, không bày cờ thêu, sao lại là theo lễ
bậc Vương mà táng được? Đấy đại khái là sai lầm, gọi là rất không đúng lễ nghi
vậy.
Sai Sứ
trì tiết, Trung hộ quân, Trung mâu Tướng quân Tư Mã Viêm lên phía bắc đón người
nối tự của Thường Đạo Hương Công tên là Hoàng làm dòng dõi của Minh Đế. Ngày
tân mão, bầy tôi tấu bẩm Thái hậu rằng: "Điện hạ đức thánh chói sáng, vỗ
yên sáu cõi mà vẫn xưng 'lệnh' giống với nước phiên. Xin từ nay về sau các thư
lệnh của Điện hạ đều xưng là 'chế', 'chiếu' như việc cũ thời trước".
Ngày quý
mão, Đại tướng quân cố từ chức Tướng quốc, tước Tấn Công, lễ 'cửu tích'. Thái
hậu hạ chiếu rằng: "Có công thì không giấu, đấy là phép lớn theo sách Chu dịch vậy. Cái hay của người tài là điều mà bậc hiền
thánh xưa ưa thích. Nay nghe theo lời ấy, hạ chiếu tỏ ra ngoài để nêu rõ cái
đức khiêm nhường của ngài".
Ngày mậu
thân, Đại tướng quân Văn Vương dâng sớ nói: "Cao Quý Hương Công đem lĩnh
quân sĩ đi theo xe, cầm đao gõ trống hướng đến chỗ thần ở; thần sợ binh đao
giao tiếp, liền sai tướng sĩ không được tự làm thương hại, nếu ai trái lệnh thì
theo quân pháp mà xử. Em của Kị đốc Thành Tốt là Thái tử Xá nhân Tế tự ý xông
vào trận làm hại công, bèn dẫn đến mất mạng; liền bắt Tế xử theo quân pháp.
Thần nghe nói rằng tiết tháo của bấy tôi là dẫu chết cũng chẳng hai lòng, giữ
nghĩa thờ vua, không dám trốn nạn. Lúc trước việc xấu chợt đến, họa cùng phát
dẫn, thần thực là dám dẫn thân đến chết, dẫu thân bị giết vậy. Nhưng nghĩ nếu
thân mình mất thì Hoàng thái hậu nguy nan, xã tắc nghiêng ngả. Thần lạm giữ
quyền lớn, phận tại giúp nước, sợ rằng thân chết thì tội trạng càng nặng. Muốn
noi theo cái quyền của Y, Chu để dẹp nạn của xã tắc, liền sai ngựa chạy nhanh
báo lệnh, không được ép gần xe kiệu, nhưng Tế vội xông vào trận, dẫn đến biến
loạn. Thần vẫn đau xót tiếc nuối, ruột gan rã rời, không biết có mảnh đất nào
mà tự chui xuống? Xét theo luật kẻ phản nghịch vô đạo thì cha mẹ vợ con đều bị
chém. Tế hung ác ngang ngược, phạm loạn phép cấm, tội chẳng dung tha. Liền sai
quan Thị ngự sử bắt người nhà của Tế giao cho quan Đình úy, xét xử tội
trạng".
Ngụy thị
xuân thu chép: Anh em Thành Tế không trị tội ngay, lúc bị cởi trần lên điện,
nói lời khinh nhờn; (Đại tướng quân Văn Vương) liền tự lấy cung bắn, bèn chết.
Thái hậu
hạ chiếu nói: "Trong năm loại tội, chẳng gì lớn bằng tội bất hiếu. Người
có con bất hiếu, vẫn dạy mà trị tội. Thằng ấy há còn được làm vua của muôn
người sao? Ta là đàn bà không đạt được nghĩa lớn ấy để cho Tế không được sửa
lỗi phản nghịch vậy. Nhưng ý Đại tướng quân rõ ràng, nói lời đau xót, cho nên
nghe theo lời tấu. Nên bố cáo gần xa khiến cho đều được biết gốc ngọn".
Thế ngữ
chép: Lúc trước vào giữa năm Thanh Long, Thạch Bao bán sắt ở Trường An, được
gặp Tư Mã Tuyên Vương, Tuyên Vương biết người này. Sau đó chọn làm Thượng thư
lang, làm Thanh Châu Thứ sử, Trấn đông Tướng quân. Giữa năm Cam Lộ vào chầu,
sắp về, vào từ biệt Cao Quý Hương Công, ở lại cả ngày. Văn Vương sai người xin
lệnh đi qua. Văn Vương hỏi Bao rằng: "Sao ở lại lâu"? Bao nói:
"Là vì không phải người tầm thường vậy". Hôm sau đi đến Huỳnh Dương,
mấy ngày sau thì xảy ra biến loạn.
Tháng
sáu ngày quý sửu, hạ chiếu nói: "Thời xưa vua đặt tên chữ, khó phạm mà đổi
tên. Ngày nay tên húy của Thường Đạo Hương Công rất khó tránh, triều đình bàn
bạc nên đổi sửa, tấu lên".
TRUYỆN TÀO HOÁN
Trần Lưu
Vương tên là Hoán(1), tự Cảnh Minh, là cháu của Vũ Đế, con của Yên Vương là Vũ
vậy.
Năm Cam
Lộ thứ ba, phong Thường Đạo Hương Công ở huyện An Thứ. Cao Quý Hương Công chết,
công khanh bàn đón lập công. Tháng sáu ngày giáp dần, vào đến Lạc Dương, gặp
Hoàng thái hậu, hôm đó lên ngôi Hoàng đế ở điện trước Thái Cực, đại xá, đổi
niên hiệu, ban tước và lụa gạo cho mọi người theo thứ bậc
Năm Cảnh
Nguyên thứ nhất, mùa hạ tháng sáu ngày bính thìn, bái Đại tướng quân Tư Mã Văn
Vương làm Tướng quốc, phong Tấn Công, tăng thực ấp hai quận, cùng thực ấp lúc
trước là đầy mười quận, ban lễ 'cửu tích' như chiếu lệnh lúc trước; trong các
con em những ai chưa phong Đình hầu thì ban cho nghìn vạn xâu tiền, vạn thất
gấm, Văn Vương cố từ, lại thôi. Ngày kỉ mùi, phu nhân của Hán Hiến Đế ngày xưa
là Tiết(2) hoăng, Đế đến tại vườn Hoa Lâm, sai sứ giả cầm cờ tiết truy thụy cho
phu nhân là Hiến Mục Hoàng hậu. Lúc táng, đem xe áo theo như phép chế ngày
trước của nhà Hán. Ngày quý hợi, lấy Thượng thư Hữu bộc xạ Vương Quán làm Tư
không; mùa đông tháng mười, Quán hoăng.
Tháng
mười một, Yên Vương dâng biểu chúc mừng ngày đông chí, xưng thần.
Tháng
mười hai ngày giáp thân, rồng vàng hiện trong giếng ở huyện Hoa Âm. Ngày giáp
ngọ, lấy Tư lệ Hiệu úy Vương Tường làm Tư không.
Năm thứ
hai, mùa hạ đầu tháng năm, Mặt trời có chỗ khuyết. Mùa thu tháng bảy, người rợ
Hàn, Uế, Mạch ở ngoài quận Lạc Lãng đều đem thân thuộc đến chầu cống. Tháng tám
ngày mậu dần, Triệu Vương là Cán hoăng. Ngày giáp dần, lại phong Đại tướng quân
lĩnh tước Tấn Công, thêm chức Tướng quốc, sắm lễ 'cửu tích' như chiếu lúc
trước; lại cố từ, bèn thôi.
Năm thứ
ba, mùa xuân tháng hai, rồng xanh hiện trong giếng ở huyện Chỉ. Mùa hạ tháng
tư, người quận Liêu Đông báo là vua của nước Túc Thận sai sứ giả phiên dịch vào
cống, dâng ba mươi cây cung dài ba thước năm tấc, cây tên làm bằng gỗ cây hộ
dài một thước tám tấc, ba trăm cây tên đá, hai mươi bộ áo giáp làm bằng xương
da và sắt tạp, bốn trăm tấm da chồn. Mùa đông tháng mười, Đại tướng quân Khương
Duy của nước Thục vào cướp miền Thao Dương, bị Trấn tây Tướng quân Đặng Ngải
chống lại, phá Duy ở huyện Hầu Hòa, Duy trốn chạy. Năm đó, hạ chiếu tế Quân sư
tế tửu Quách Gia ngày xưa ở miếu đình Thái Tổ.
Năm thứ
tư, mùa xuân tháng hai, lại phong Đại tướng quân lĩnh tước, vị như chiếu lúc
trước, lại cố từ bèn thôi.
Mùa hạ
tháng năm, hạ chiếu nói: "Thục là nước bé tí, đất hẹp dân ít, vậy mà
Khương Duy ngỗ ngược điều dùng quân dân nước ấy, chưa từng bỏ chí; năm ngoái
sau khi phá được quân giặc, nay vẫn trồng trọt ở Đạp Trung, cắt xén rợ Khương,
lao dịch không nghỉ, dân chẳng chịu nổi. Đánh yếu phá kém là cách hay
của việc quân, dắt người mà không bị người dắt là phép đầu của nhà binh vậy. Kẻ
mà người Thục dựa cậy là chỉ có Duy mà thôi, nhân lúc hắn rời xa khỏi hang ổ mà
đem quân đánh thì dễ. Nay sai Chinh tây Tướng quân Đặng Ngải đốc lĩnh các quân
đến các xứ Cam Tùng, Đạp Trung để bắt lấy Duy, sai Ung Châu Thứ sử Gia Cát Tự
đốc lĩnh các quân đến các xứ Vũ Đô, Cao Lâu, đầu đuôi đánh dẹp. Nếu bắt Duy thì
nên cùng đi hai phía đông tây, tất quét dẹp được đất Ba Thục vậy". Lại sai
Trấn tây Tướng quân Chung Hội theo đường Lạc Cốc đi đánh Thục.
Mùa thu
tháng chín, Thái úy Cao Nhu hoăng. Mùa đông tháng mười ngày giáp dần, lại lệnh
Đại tướng quân nhận tước vị như chiếu lúc trước. Ngày quý mão, lập Hoàng hậu
Biện thị. Tháng mười một, đại xá.
Từ khi
Đặng Ngải, Chung Hội đem quân đánh Thục, đến đâu thắng đó. Tháng ấy, vua Thục
là Lưu Thiện đến chỗ Ngải hàng, đất Ba Thục đều bình. Tháng mười hai ngày canh
tuất, lấy Tư đồ Trịnh Xung làm Thái bảo. Ngày nhâm tí, chia Ích Châu lập ra
Lương Châu. Ngày quý sửu, tha tội cho quân dân Ích Châu, lại miễn nửa tô thuế
trong năm năm.
Ngày ất
mão, lấy Chinh tây Tướng quân Đặng Ngải làm Thái úy, Trấn tây Tướng quân Chung
Hội làm Tư đồ. Hoàng thái hậu băng.
Năm Hàm
Hi thứ nhất, mùa xuân tháng giêng ngày nhâm tuất, đem xe cũi đến bắt Đặng Ngải.
Ngày giáp ti, đi đến Trường An. Ngày nhâm thân, sai sứ giả đem tiền ngọc tế ở
núi Hoa Sơn. Tháng ấy, Chung Hội phản ở đất Thục, bị quân sĩ đánh; Đặng Ngải
cũng bị giết. Tháng hai ngày tân mão, tha tội cho quân sĩ ở Ích Châu. Ngày canh
thân, táng Minh Nguyên hoàng hậu. Tháng ba ngày đinh sửu, lấy Tư không Vương
Tường làm Thái úy, Chinh bắc Tướng quân Hà Tăng làm Tư đồ, Thượng thư Tả bộc xạ
Tuân Nghĩ làm Tư không. Ngày kỉ mão, phong tước Vương cho Tấn Công, thực ấp
mười quận, cùng lúc trước là hai mươi quận.
Ngày
đinh hợi, phong Lưu Thiện làm An Lạc Công. Mùa hạ tháng năm ngày canh thân,
Tướng quốc Tấn Vương tấu xin đẳt lại tước 'ngũ đẳng'. Ngày giáp tuất, đổi niên
hiệu. Ngày quý mùi, truy phong Vũ Dương Tuyên Văn Hầu làm Tấn Tuyên Vương, Vũ
Dương Trung Vũ Hầu làm Tấn Cảnh Vương. Tháng sáu, Trấn tây Tướng quân Vệ Quán
dâng tấu nói quân Ung Châu ở huyện Thành Đô thu được một cái ấn ngọc bích, có
khắc chữ 'thành tín', noi theo nghĩa 'tặng cây lúa' của Chu Thành Vương(3), đem
cho trăm quan xem, rồi cất ở phủ Tướng quốc.
Tôn
Thịnh nói: "Ngày xưa Công Tôn Thuật tự thấy nổi lên ở Thành Đô, bèn đặt
hiệu là Thành. Hai chữ trên cái ấn ngọc có lẽ là do Thuật khắc vậy".
Lúc đầu,
từ lúc sau khi bình Thục, giặc Ngô đóng đồn ép gần Vĩnh An, bèn sai các quân
miền Kinh, Dự hai đầu đến cứu. Tháng bảy, giặc đều rút lui. Tháng tám ngày canh
dần, sai Trung phủ quân Tư Mã Viêm giúp làm việc Tướng quốc, theo nghĩa phong
tước Lỗ Công cho dòng dõi(4).
Ngày quý
tị, hạ chiếu nói: "Tên phản nghịch là Chung Hội ngày trước liên kết phản
loạn, tụ tập kêu gọi tướng sĩ, dùng oai quân cướp phá, bắt đầu bày mưu gian,
nói lời ngang ngược, ép bức quân sĩ, đều sai bàn nghị, trong bọn quân lính
chẳng ai không sợ hãi. bấy giờ Tướng quốc Tả tư mã Hạ Hầu Hòa, Kị sĩ
tào
thuộc Chu Phủ đi sứ tại Thành Đô, Trung lĩnh quân Tư mã Giả Phụ, Lang trung
Dương Tú đều bàn việc quân của Hội; nhưng Hòa, Tú, Phủ đều giữ tiết chẳng phục,
chống lời ác của Hội, gặp nạn không lùi, lời lẽ trung liệt. Phụ bảo tướng rời
Hội là Vương Khởi rằng: 'Hội gian nghịch hung bạo, muốn giết hết tướng sĩ', lại
nói: 'Tướng quốc đã đem ba mươi vạn sang tây đánh Hội', muốn để phô trương
thanh thế, kích động lòng quân. Khởi ra, đem lời Phụ mà tuyên cáo cho các quân,
do đó tướng sĩ thêm mang lòng hăng hái. Ban tặng vinh sủng là để nêu rõ kẻ
trung nghĩa vậy. Nay phong Hoà, Phụ tước Hương hầu, Tú, Phủ tước Quan nội hầu.
Khởi tuyên truyền lời của Phụ, cáo lệnh tướng sĩ, nên được thưởng lớn. Nay lấy
Khởi làm Bộ khúc tướng".
Ngày quý
mão, lấy Vệ tướng quân Tư Mã Vọng làm Phiếu kị Tướng quân. Tháng chín ngày mậu
ngọ, lấy Trung phủ quân Tư Mã Viêm làm Phủ quân Đại tướng quân.
Ngày tân
mùi, hạ chiếu nói: "Giặc Ngô chính trị bạo ngược, tô thuế chẳng cùng. Tôn
Hưu sai sứ là Đặng Câu đến lệnh Giao Chỉ Thái thu điều động dân trong quận ấy,
phát để làm lính. Do đó tướng Ngô là Lữ Hưng nhân lòng dân oán giận, lại thừa
cơ quân ta đã dẹp bằng Ba Thục, liền liên kết hào kiệt, giết trừ bọn Câu, xua
đuổi quan Thái thú, trưởng lại, vỗ về quân dân để đợi lệnh của nhà nước. Các
quận Cửu Chân, Nhật Nam nghe tin Hưng bỏ nghịch theo thuận, cũng dốc lòng ứng
theo, hợp sức với Hưng. Hưng gửi thư đến các châu quận miền nam, tỏ bày kế lớn,
đem quân đến quận Hợp Phố, báo rõ họa phúc; sai bọn Đô úy Đường Phổ đến huyện
Tiến Thặng, dâng thư cho Nam Trung Đô hộ quân Hoắc Dặc tự bày tỏ. Lại nữa quan
lại quận Giao Chỉ đều dâng tấu nói là 'Hưng gây dựng sự nghiệp, lớn nhỏ đều
vâng mệnh. Trong quận có giặc trên núi, dẫu ra vào các quận nhưng đều sợ kế lạ
của Hưng, đều có ý rời bỏ. Nay tùy thời mà làm, chọn Hưng đốc lĩnh các quân của
quận Giao Chỉ, Thượng đại tướng quân, An Định Huyện Hầu, xin ban tặng khen
thưởng để vỗ về miền biên giới'. Lại có lòng thành thật, tỏ rõ ở lời nói. Ngày
xưa Nghi Phủ theo nước Lỗ, được kinh Xuân thu khen hay; Đậu Dung theo nhà Hán,
được đãi lễ lớn. Nay oai nước lừng xa, vỗ về sáu cõi, đang cất nhắc xứ lạ,
thống nhất bốn miền. Hưng ngoảnh đầu theo giáo hóa, đem quân cúi phục, dốc
nghĩa nơi vạn dặm, sẽ đến bái chức, ban cho vinh sủng, phong tước vị cao. Nếu
khiến cho Hưng vui mừng cảm kích thì người phương xa nghe tin ấy tất càng hăng
hái. Nay lấy Hưng làm Sứ trì tiết, đốc lĩnh các quân của Giao Châu, Nam trung
Đại tướng quân, phong An Định Huyện Hầu, được tùy lúc thích hợp mà làm việc, làm
trước tấu sau". Chiếu lệnh chưa đến thì Hưng đã bị kẻ dưới giết.
Mùa đông
tháng mười ngày đinh hợi, hạ chiếu nói: "Ngày xưa vua hiền chúa sáng dẹp
loạn giúp đời, định công phong thưởng, văn võ khác hàng nhưng cùng chung oanh
liệt. Cho nên có vua chỉ múa khiên để dạy dỗ kẻ không phục, có vua chỉ bày quân
lữ để uy hiếp kẻ bạo ngược. Còn như việc yêu dân giữ nước, ban ân chúng dân,
phải tu sửa văn giáo trước, tỏ rõ phép tắc, bất đắc dĩ mới dùng binh, đấy là
điều giống nhau của bậc có đức dày vậy. Lúc trước vỗ yên Hoa Hạ, nay không rảnh
rỗi, bèn khiến cho giặc gây gổ nhiều đời. May nhỏ oai linh của tổ tiên, tể phụ
trung vũ, trùm khắp bốn phương, dẹp định miền Dung, Thục mà chẳng cần đánh lâu,
một trận là thắng. Mới rồi miền Giang Biểu suy kém, chính trị tối tăm. Nay miền
Ba Hán đã định, khiến cho bên ấy lẻ loi không có cứu giúp, các miền Giao, Kinh,
Dương, Việt lướt theo hướng về. Nay tướng ngụy ở quận Giao Chỉ là Lữ Hưng đã
lĩnh ba quận, ở nơi vạn dặm mà theo lệnh; hầu tướng ở quận Vũ Lăng là bọn Tương
Nghiêm liên kết năm huyện xin làm tôi thần; dân miền núi ở các quận Dự Chương,
Lư Lăng đều dấy binh phản Ngô, lấy danh là Trợ bắc Tướng quân. Lại còn Tôn Hưu
bệnh chết, ngôi vua chuyển đổi, trong nước phản nghịch, đều có lòng riêng.
Tướng ngụy là Thi Tích, là danh thần của giặc vẫn nghi ngờ mà tự chán ghét, bị
kẻ khác ghét hiềm. Quân phản thân rời, chẳng ai có chí vững, từ xưa đến nay
chưa có điềm nguy diệt như thế. Nếu sáu quân
rầm rộ, sang nam vượt Giang, Hán thì miền Ngô Cối tất cõng già dắt trẻ để đón
quân ta, đấy là cái lí chắc chắn vậy. Nhưng phát động quân lớn vẫn có tổn hao,
chỉ nên dụ cáo oai đức, tỏ rõ nhân tín, báo cho biết cái lợi của việc theo phục
hòa thuận. Ngày xưa Tướng quốc Tham quân Từ Thiệu, Thủy tào duyện Tôn Úc ở tại
Thọ Xuân đều bị quân ta bắt giữ. Thiệu vốn là quan Nam Lăng Đốc của ngụy, tài
năng cứng cỏi, Úc vốn là họ hàng của Tôn Quyền, trung lương được khen. Nay sai
Thiệu về miền nam, lấy Úc làm phó để nêu rõ lệnh vua, đều đem việc thực mà
khuyên dụ người Ngô, tuyên cáo khắp chốn. Nếu bên ấy hiểu biết thì không cần
tổn kế đánh dẹp, đấy là kế hơn cả, là phép cũ thời xưa vậy. Nay lấy Thiệu làm
Tán kị Thường thị, bái Phụng xa Đô úy, phong Đô đình hầu; lấy Úc làm Cấp sự
Hoàng môn thị lang, ban tước Quan nội hầu. Những người nhà trai gái và vợ ban
cho bọn Thiệu ở đấy, đều cho tự đi theo để nêu rõ ân đức của nhà nước, không
cần sai về để tỏ lòng thành tín".
Ngày mậu
ngọ, sai Phủ quân Đại tướng quân Tân Hương Hầu là Viêm làm Thế tử của Tấn
Vương. Năm đó, bãi quan Đồn điền để cân bằng việc lao dịch, các quan Điển nông
đều được làm Thái thú, quan Đô úy đều được làm Lệnh trưởng; chiêu mộ người Thục
dời vào Trung Quốc, cấp cho thóc lúa dùng trong hai năm, lại miễn thuế hai mươi
năm. Các huyện An Du, Phúc Lộc đều nói có cây lúa tốt mọc.
Năm thứ
hai, mùa xuân tháng hai ngày giáp thìn, người huyện Câu Nhẫn bắt được rùa thần
đến dâng, đem vào ở phủ Tướng quốc. Ngày canh tuất, vì lính hổ bôn là Trương Tu
ngày xưa ở tại Thành Đô ruổi ngựa đến các trại cáo dụ Chung Hội phản nghịch,
dẫn đến bỏ mạng, bèn ban cho em Tu là Kì lĩnh tước Quan nội hầu. Mùa hạ tháng
tư, huyện Nam Thâm Trạch nói là có sương ngọt sa xuống. Nước Ngô sai sứ là Kỉ
Trắc, Hoằng Cầu đến xin hòa.
Tháng
năm, hạ chiếu nói: "Tướng quốc Tấn Vương bày đặt mưu thần, đức bọc bốn
cõi, võ công lẫy lừng thì oai trùm xứ lạ, lan truyền giáo hóa thì các nước bên
cạnh chẳng rời bỏ. Vỗ về miền Giang Biểu, vẫn nghĩ giúp đỡ, bỏ võ chuộng nhân,
nêu bảo oai đức. Văn dức truyền đến đâu thì đều ngưỡng theo hướng về, sai sứ
dâng nạp để tỏ rõ ý thuận, đem vật báu đồ lạ đến mà tỏ lòng vui mừng. Vậy mà
Vương vẫn khiêm nhường như thế, đều sai trả về, chẳng phải là vì vỗ về mà khiến
cho người ta theo phục, mà là theo mộ lòng thành thật vậy. Nay các đồ mà Tôn
Hạo dâng đến mà Vương chở về thì đều đem đến chỗ vương để hợp với phép
cổ". Vương cố từ lại thôi. Lại sai Tấn Vương đội mũ miện có mười hai dải,
dùng cờ tinh của Thiên tử, ra thì có quân phòng vệ, vào thì sai quân dẹp đường,
ngồi xe nạm vàng bạc, có sáu con ngựa kéo, sắm năm cỗ xe đi bảo vệ, đặt cờ mao
cờ xí, tám đội nhạc múa, treo chuông khánh ở trong cung. Lại phong phi của
vương làm Vương hậu, Thế tử làm Thái tử, các con trai, con gái, cháu của vương
đều được ban tước như phép cũ. Ngày quý mùi, đại xá. Mùa thu tháng tám ngày tân
mão, Tướng quốc Tấn Vương hoăng. Ngày nhâm thìn, Thái tử Viêm của Tấn Vương
được phong nối tước, trông coi trăm quan, sắm sửa chiếu lệnh, đều như lúc cũ.
Tháng đó, huyện Tương Vũ tấu có người lớn hiện, cao hơn ba trượng, vết dân dài
ba thước hai tấc, tóc trắng, mặc áo cộc vàng, khăn vàng, cầm gậy, gọi người dân
là Vương Thủy đến bảo rằng: "Thời nay yên bình". Tháng chín ngày ất
mùi, đại xá. Ngày mậu ngọ, lấy Tư đồ Hà Tăng làm Thừa tướng của Tấn Vương. Ngày
quý hợi, lấy Phiếu kị Tướng quân Tư Mã Vọng làm Tư đồ, Chinh đông Đại tướng
quân Thạch Bao làm Phiếu kị Tướng quân, Chinh nam tướng quân Trần Khiên làm Xa
kị Tướng quân. Ngày ất hợi, táng Tấn Văn Vương. Tháng nhuận ngày canh thìn, các
nước Khang Cư, Đại Uyển sai sứ đến dâng ngựa tốt, đem vào phủ Tướng quốc để tỏ
rõ công lao vỗ về vạn nước phương xa.
Tháng
mười hai ngày nhâm thìn, lộc trời mãi dứt, lịch số chuyển sang nhà Tấn. Hạ
chiếu công khanh bầy tôi
sắm bày lễ nghi đắp đàn ở chỗ ngoài phía nam thành, sai sứ giả dâng ấn thao của
Hoàng đế, truyền ngôi cho Vương nối tự của nhà Tấn, theo như việc cũ của nhà
Hán truyền ngôi cho nhà Ngụy. Ngày giáp tí, sai sứ giả đem chiếu đến. Bèn đổi
phong ở huyện Kim Dung, rồi lại dựng quán ở đất Nghiệp, bấy giờ hai mươi tuổi.
Ngụy thế
phả chép: Phong Đế làm Trần Lưu Vương. Đến năm Đại An thứ nhất, vào lúc năm mươi
tám tuổi thì băng, thụy là Nguyên Hoàng Đế.
Bình
rằng: Ngày xưa vì thiên hạ lập người nối tự, chỉ có người hiền mới được lập.
Đời sau nối ngôi, lập con cả để thay; nếu con cả không được nối ngôi thì nên
chọn người có đức sáng trong họ hàng gần gũi như thời Văn, Tuyên của nhà Hán
vậy, đấy là phép chuẩn thường không đổi. Vậy mà Minh Hoàng Đế không theo phép
ấy, chỉ theo tình ý riêng, nuôi nấng trẻ con, trao cho ngôi cao, chẳng có người
đỡ giúp, tất làm loạn họ tộc, rút cuộc Tào Sảng bị giết, Tề Vương nối ngôi. Cao
Quý Hương Công thông minh sớm lớn, ưa hỏi kinh truyện, đại khái cũng có phong
thái của Văn Đế vậy, nhưng vội vàng phóng túng, tự dẫm vào họa lớn. Trần Lưu
Vương cung kính ngoảnh mặt về phía nam để cho tể phụ coi việc, làm theo phép
cũ, nhường mà truyền ngôi, bèn được phong ở nước lớn, được nhà Tấn xem như
khách, sánh với Sơn Dương(5) lại còn được ban sủng vậy.
Chú thích
(1) Trần Lưu Vương tên là Hoán: tức Thường Đạo
Hương Công tên là Hoàng, đổi tên là Hoán, sau khi truyền ngôi cho nhà Tấn, được
phong làm Trần Lưu Vương.
(2) Phu nhân của Hán Hiến Đế ngày xưa là Tiết:
chỉ con gái của Thái Tổ Tào Tháo là Tào Tiết, từ thời Tháo làm Thừa tướng, gả
Tiết cho Hiến Đế của nhà Hán.
(3) Nghĩa 'tặng cây lúa' của Chu Thành Vương:
vào thời Chu Thành Vương có cây lúa lạ mọc lên ở bờ ruộng, hợp thành một bó,
cho rằng lúa tốt biểu thị thiên hạ yên ổn, là do đức của Chu Công dẫn đến vậy.
Do đó Chu Thành Vương đem tặng cho Chu Công.
(4) Nghĩa phong tước Lỗ Công cho dòng dõi: Chu
Công là em của Vũ Vương của nhà Chu. Vào lúc giúp Vũ Vương đánh vua Trụ, được
phong làm Lỗ Công nhưng chưa đến nước. Sau này phụ chính cho Thành Vương, bái
con của Chu Công làm Lỗ Vương.
(5) Sơn Dương: chỉ vua Hiến Đế của nhà Hán,
sau khi truyền ngôi cho nhà Ngụy, được phong làm Sơn Dương Công.
NGỤY THƯ QUYỂN 05 – Hậu Phi truyện
Vũ Tuyên Biện Hoàng hậu, Văn Chiêu Chân Hoàng
hậu, Văn Đức Quách Hoàng hậu, Minh Điệu Mao Hoàng hậu, Minh Nguyên Quách Hoàng
hậu.
HẬU PHI TRUYỆN
Kinh
Dịch chép: "Trai giữ vị ở ngoài, gái giữ vị ở trong; trai-gái giữ vị là nghĩa
lớn của trời đất vậy". Những bậc vua hiền ngày xưa, chẳng ai không định rõ
phép tắc trông coi Hậu phi, thuận theo đức của trời đất, cho nên hai vị phi tần
gả đến bến Quy(1) thì đạo của nhà Ngu được thịnh, Nhâm-Tự kết theo họ Cơ(2) thì
nhà Chu yên ổn, việc hưng phế được mất, đều bởi nguyên nhân ấy. Kinh Xuân thư
chép rằng thiên tử được lấy mười hai vợ, chư hầu được lấy chín vợ, xét về tình
lý, đấy là phép tắc chẳng đổi vậy. Nhưng đời cuối phóng túng, mặc ý xa xỉ,
khiến cho trai-gái kết oán, nhiễu động khí hòa, riêng sắc đẹp được tôn sùng,
không chuộng tính hiền thục, cho nên giáo hoá đổ nát mà phép tắc huỷ hoại, há
chẳng tiếc sao! Than ôi, bậc có nước có nhà, nên lấy đó làm tấm gương lâu dài
vậy!
Theo
phép chế của nhà Hán, bà nội của Đế gọi là Thái hoàng thái hậu, mẹ của Đế gọi
là Hoàng thái hậu, phi của Đế gọi là Hoàng hậu, ngoài ra ở nội cung có hơn mười
bốn bậc. Nhà Nguỵ dựa theo pháp chế nhà Hán, danh hiệu của mẫu hậu, đều như
phép cũ, từ phu nhân xuống dưới, mỗi đời lại có thêm bớt. Thái Tổ dựng nước,
bắt đầu mệnh đặt ra Vương hậu, dưới có năm bậc: có Phu nhân, có Chiêu nghi, có
Tiệp dư, có Dung hoa, có Mĩ nhân. Văn Đế thêm Quý tần, Thục viện, Tu dung,
Thuận thành, Lương nhân. Minh Đế tăng thêm Thục phi, Chiêu hoa, Tu nghi; bỏ
chức Thuận thành. Giữa năm Thái Hoà mới lập lại Phu nhân, tăng ngôi vị ở trên
bậc Thục phi. Từ bậc Phu nhân trở xuống có cả thảy mười hai bậc: Quý tần, Phu
nhân, ngôi vị đứng sau Hoàng hậu, tước không ai sánh được; ngôi Thục phi ngang
quan Tướng quốc, tước sánh Vương chư hầu; Thục viện ngang quan Ngự sử đại phu,
bằng tước Huyện công; Chiêu nghi ngang tước Huyện hầu; Chiêu hoa ngang tước
Hương hầu; Tu dung ngang tước Đình hầu; Tu nghi ngang tước Quan nội hầu; Tiệp
dư ngang quan 'bổng hai nghìn thạch'; Dung hoa ngang quan "bổng hai nghìn
thạch'; Mĩ nhân sánh ngang quan 'có bổng hai nghìn thạch'; Lương nhân ngang
quan 'bổng nghìn thạch'.
Vũ Tuyên
Biện hoàng hậu, người huyện Khai Dương quận Lang Da, là mẹ của Văn Đế vậy. Vốn
là con nhà ca xướng,Ngụy thư chép: Hậu sinh vào ngày kỉ tị tháng mười hai năm Diên Hi thứ ba (năm 161
Công nguyên) thời nhà Hán ở huyện Bạch Đình quận Tề, khi sinh ra có đám khí màu
vàng che mái nhà cả ngày. Cha của Hậu là Kính Hầu thấy lấy làm lạ, đem việc này
hỏi thầy bói là Vương Đán, Đán nói: "Đấy là điềm lành vậy."
năm hai
mươi tuổi, Thái Tổ ở huyện Tiêu lấy làm thiếp. Sau đó theo Thái Tổ đến Lạc
Dương. Kịp lúc Đổng Trác làm loạn, Thái Tổ ẩn náu sang miền đông tránh nạn.
Viên Thuật truyền tin xấu về Thái Tổ, bấy giờ tả hữu đến Lạc Dương của Thái Tổ
đều muốn quay về, Hậu ngăn họ lại nói: "Việc lành dữ của Tào Công chưa
biết được, hôm nay về nhà, nếu ngày mai lại đến thì còn mặt mũi nào gặp lại
nhau nữa? Nếu đúng là hoạ đến, chết cùng khổ chi!" Bèn nghe lời Hậu. Thái
Tổ nghe chuyện liền khen Hậu. Đầu năm Kiến An, Đinh phu nhân bị phế, liền lấy
Hậu làm vợ cả. Những người con không có mẹ, Thái Tổ đều cho Hậu nuôi dưỡng.
Ngụy
lược chép: Thái Tổ lúc đầu lấy Đinh phu nhân, lại có Lưu phu nhân sinh ra Tử Tu
và Thanh Hà trưởng công chúa(3). Lưu thị chết sớm, Đinh thị nuôi dưỡng Tử Tu.
Sau khi Tử Tu chết ở huyện Nhưỡng(4), Đinh thị thường nói: "Ông làm chết
con ta, không nghĩ ngợi ư?" Rồi khóc lóc không kìm nén được. Thái Tổ giận
phu nhân, đuổi về nhà, muốn phu nhân phải nhún mình. Về sau Thái Tổ đến gặp phu
nhân, phu nhân đang dệt vải, người ngoài truyền tin rằng: "Công đến".
Phu nhân vẫn đạp khung cửi như cũ. Thái Tổ đến nơi, vỗ lưng phu nhân nói:
"Theo ta cùng lên xe về thôi!" Phu nhân chẳng ngoảnh lại, cũng không
đáp. Thái Tổ lùi ra, đứng ở ngoài cửa, lại nói: "Không còn gì nữa
sao!" Cũng không đáp, Thái Tổ nói: "Đã quyết thật rồi!" Bèn cùng
dứt tình, Thái Tổ muốn người nhà gả chồng cho phu nhân, người nhà không dám.
Khi trước, Đinh phu nhân đã làm vợ chính, có thêm Tử Tu, Đinh thị xem mẹ con
Hậu chẳng ra gì. Đến lúc Hậu lên làm vợ cả, chẳng nghĩ đến cái xấu cũ, nhân lúc
Thái Tổ ra ngoài, thường bốn mùa sai người cấp tiền của, lại đi riêng đón phu
nhân, mời vào ngồi ở ghế giữa còn mình ở dưới, đón đến đưa đi như việc ngày
xưa. Đinh thị tạ rằng: "Người bỏ đi như ta, phu nhân sao xem như thường
được vậy?" Về sau Định thị mất, Hậu xin Thái Tổ liệm táng, hứa theo, rồi
táng ở phía nam thành huyện Hứa. Sau này Thái Tổ bệnh nặng, tự nghĩ chẳng khỏi,
than rằng: "Ta trước sau làm việc theo ý mình, trong lòng chưa từng có gì
đáng trách. Nhưng nếu chết rồi mà có linh, Tử Tu nếu có hỏi rằng: 'Mẹ ta ở
đâu'? Ta nói sao để đáp lời đây"!
Ngụy thư
chép: Hậu tính tiết kiệm, chẳng chuộng hoa lệ, không dùng châu ngọc gấm thêu,
đồ dùng đều sơn đen. Thái Tổ từng thu được mấy viên ngọc đẹp, cho Hậu tự chọn
lấy một viên, Hậu chọn lấy một viên hạng trung, Thái Tổ hỏi nguyên cớ, đáp
rằng: "Lấy vật hạng trên là tham, lấy vật hạng dưới là dối, cho nên lấy
vật hạng trung vậy".
Văn Đế
làm Thái tử, quan trưởng tả hữu mừng Hậu rằng: "Tướng quân được bái làm
Thái tử, thiên hạ chẳng ai không vui mừng, Hậu nên dốc hết kho tàng ban
thưởng." Hậu nói: "Vương tự cho là Phi tuổi lớn, cho nên lập người
nối tự, ta chỉ thoát khỏi cái lỗi không dạy dỗ được là may lắm rồi, sao lại nên
thưởng lớn cho mọi người đây!" Quan trưởng quay về, đem nói hết với Thái
Tổ: Thái tổ mừng nói: "Giận không biến sắc, mừng chẳng thất tiết, việc ấy
rất khó làm vậy".
Năm
(Kiến An) thứ hai mươi bốn, (năm 219 Công nguyên) bái làm Vương hậu, sách rằng:
"Phu nhân Biện thị, nuôi nấng các con, có đức của bậc mẫu nghi. Nay bái vị
Vương hậu, các Thái tử chư hầu đứng quanh, các quan chúc thọ, các tử tội ở
trong nước được giảm tội một bậc". Năm (Kiến An) thứ hai mươi lăm, (năm
220 Công nguyên) Thái Tổ băng, Văn Đế lên ngôi Vương, tôn Hậu làm Vương thái
hậu, lúc lên ngôi Đế, tôn Hậu làm Hoàng thái hậu, gọi là Vĩnh Thọ Cung.
Ngụy thư
chép: Hậu vì đồ dùng chẳng đủ, giảm bớt thức ăn, các đồ vật vàng bạc tài vật
đều bỏ đi. Đông A Vương là Thực, là con út của Thái hậu, Hậu yêu mến nhất. Về
sau Thực phạm pháp, bị quan coi việc tấu lên, Văn Đế sai con của em trai Thái
hậu là Phụng xa đô úy Biện Lan cùng công khanh bẩm với Thái hậu, Thái hậu nói:
"Ta không ngờ thằng ấy lại làm ra như thế, mi về nói với Đế, chẳng nên vì
ta mà cố tình phá hỏng phép nước". Lúc tự đến gặp Đế, cũng chẳng nói xin
tha.
Thần là
Tùng Chi xét: Văn Đế nằm mơ mình mài đồng tiền, muốn xóa chữ trên tiền nhưng nó
lại càng sáng, đem ra hỏi Chu Tuyên. Tuyên đáp rằng: "Ấy là việc nhà của
bệ hạ, dù ý muốn như vậy, nhưng Thái hậu không nghe." Thế thì Thái hậu có
ý rồi, chẳng đúng như lời nói mà sách này chép vậy.
Ngụy thư
lại chép: Thái hậu hễ theo quân đi đánh, thấy các bậc tuổi cao đầu bạc, liền
dừng xe gọi hỏi, ban cho vải lụa, đối mặt nhỏ lệ nói: "Ta hận rằng cha mẹ
ta chẳng còn bên ta lúc này." Thái hậu hễ gặp người thân bên ngoại, chẳng
dùng đồ trang sức, thường nói: "Ta ở chỗ phải tiết kiệm, chớ nên mong ta
ban thưởng cho, chỉ nghĩ là đủ rồi. Nhà ngoại lấy làm lạ cho rằng ta đối đãi họ
quá bạc bẽo, nhưng ta tự có phép thường ấy rồi. Ta thờ Vũ Đế bốn, năm mươi năm
nay, làm việc tiết kiệm lâu ngày, chẳng tự biến thành xa xỉ được, ai phạm vào
tội đã cấm, ta sẽ tăng thêm tội trạng lên một bậc nữa, chớ mong ban tặng tiền
gạo." Đế dựng nhà cho người em của Thái hậu là Biện Bỉnh, dựng nhà xong, Thái
hậu
đến nhà
mời người thân thích bên ngoại, làm cỗ ở dưới bếp, không có đồ ăn ngọn khác. Tả
hữu của Thái hậu ăn cơm rau, không có thịt cá. Hậu tiết kiệm như thế.
Minh Đế
lên ngôi, tôn Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu.
Giữa năm
Hoàng Sơ, Văn Đế muốn truy phong cho cha mẹ của Thái hậu, Thượng thư Trần Quần
tấu rằng: "Bệ hạ lấy thánh đức ứng thời vận nhận mệnh trời, dựng nghiệp
thay pháp, phải làm khuôn mẫu lâu dài cho đời sau. Xét các lời văn trong sách
cũ, không có phép tắc nào cho đàn bàn được nhận tước chia đất. Theo phép
thường, đàn bà theo theo tước của chồng. Nhà Tần làm trái với phép thường, nhà
Hán cũng theo phép đó, chẳng phải là phép cũ của của bậc Đế vương ngày xưa
vậy". Đế nói: "Lời bàn này là đúng, việc ấy chớ có thi hành. Hãy soạn
chiếu lệnh cất giấu vào nơi đài gác, làm khuôn mẫu mãi mãi cho đời sau".
Đến mùa xuân năm Thái Hòa thứ tư, (năm 230 Công nguyên) Minh Đế mới truy thụy
cho ông nội của Thái hậu là Quảng là Khai Dương Cung Hầu, cha là Viễn hiệu là
Kính Hầu, bà nội của Thái hậu là Chu thị được phong làm Dương Đô Quân và Cung
Hầu phu nhân, đều tặng ấn thao. Tháng năm năm ấy, Hậu băng. Tháng bảy, hợp táng
ở Cao Lăng.
Khi
trước, em trai của Thái hậu là Bỉnh vì có công được phong làm Đô hương hầu, năm
Hoàng Sơ thứ bảy được tiến phong làm Khai Dương Hầu, thực ấp hai trăm hộ, bái
Chiêu liệt tướng quân.
Ngụy
lược chép: Lúc đầu, người em trai của Biện Hậu là Bỉnh, vào năm Kiến An được
làm Biệt bộ tư mã, sau thường đối mặt Thái Tổ nói lời oán thán, Thái Tổ đáp
rằng: "Được làm em vợ của ta, chẳng phải là nhiều rồi sao?" Về sau
lại muốn Thái Tổ cấp cho tiền lụa, Thái Tổ lại nói: "Những gì mi trộm
được, chẳng phải đủ rồi sao?" Cho nên đến lúc Thái Tổ băng, chức quan của
Bỉnh không đổi, tiền cũng chẳng thêm.
Bỉnh
chết, con là Lan nối tự. Lan thời trẻ có tài học, làm Phụng xa đô úy, Du kích
tướng quân, bái thêm chức Tán kị thường thị.
Ngụy
lược chép: Lan dâng một bài phú khen Thái tử có đức đẹp, Thái tử bảo rằng:
"Phú, là phụ giúp cho những lời nói và sự việc, tụng, là hình dung về cái
đức cao đẹp tràn đầy, cho nên tác giả không dùng những câu từ sáo rỗng, kẻ nhận
nó tất phải xứng đáng thực sự. Bài phú này của Lan, há ta được thế thật sao?
Trước kia Ngô Khâu Thọ Vương làm phú về Bảo đỉnh, bọn học trò của Hà Vũ ngợi
ca, bởi thế mới ban cho vàng bạc, việc Lan nói tuy ta không tin, nhưng về nghĩa
cũng đủ để khen. Nay ban cho một cái đầu trâu." Bởi thế sau này cũng được
kính trọng thân thiết. Lan chết, con là Huy nối tự.
Ngụy
lược chép: Vào thời Minh Đế, Lan thấy bên ngoại có hai điều khó, mà Đế lưu ý
đến cung thất, nên thường nhân việc đó đi theo hầu hạ, mấy lần tha thiết can
gián. Đế tuy không theo lời, nhưng cũng vui lòng với lời khẩn khoản thành thật
ấy. Về sau Lan khổ về rượu mắc bệnh giải khát, lúc ấy Đế tin nữ đồng cốt dùng
nước phép chữa bệnh, sai người mang nước ban cho Lan, Lan không chịu uống. Đế
hạ chiếu hỏi Lan có ý gì? Lan nói trị bệnh của mình phải dùng phương thuốc, sao
lại tin vào đồng cốt như thế? Đế biến sắc, nhưng Lan rút cuộc không chịu phục.
Sau cơn khát nặng dần cho đến chết. Bởi thế người đương thời thấy Lan hay nói
thẳng, bảo rằng vì đã trách lỗi Đế trước mặt nên Lan phải tự sát, nhưng thật là
chẳng đúng.
Lại chia
tước của Bỉnh, phong em của Lan là Lâm làm Liệt hầu, làm đến Bộ binh hiệu úy.
Con của Lan là Long có con gái làm Hoàng hậu của Cao Quý Hương Công, Long vì là
cha của Hậu mà được làm Quang lộc đại phu, vị Đặc tiến, phong Tuy Dương Hương
Hầu, vợ của Long là Vương thị làm Hiển Dương Hương Quân. Truy phong cho vợ
trước của Long là Lưu thị làm Thuận Dương Hương Quân, tức mẹ ruột của Hậu vậy.
Con gái của Lâm lại làm Hoàng hậu của Trần Lưu Vương, lúc ấy Lâm đã chết, phong
cho vợ của Lâm là Lưu thị làm Quảng Dương Hương Quân.
Văn
Chiêu Chân Hoàng hậu, người huyện Vô Cực quận Trung Sơn, là mẹ của Minh Đế, hậu
duệ của quan Thái bảo Chân Hàm thời nhà Hán, nhà nhiều đời làm quan ăn lộc hai
nghìn thạch. Cha là Dật, làm Thượng Sái Lệnh. Năm Hậu lên ba tuổi thì mất cha.
Ngụy thư
chép: Dật lấy người quận Thường Sơn là Trương thị, sinh ba con trai năm con
gái: con trai cả là Dự, chết sớm; con thứ là Nghiễm, cử hiếu liêm, làm Đại
tướng quân duyện, Khúc Lương Trưởng; con thứ nữa là Nghiêu, cử hiếu liêm; con
gái cả là Khương, con gái thứ nữa là Thoát, rồi đến Đạo, đến Vinh, con út là
Hậu. Hậu sinh vào ngày đinh dậu tháng mười hai năm Quang Hòa thứ năm thời nhà
Hán. Hễ ngủ say, người trong nhà thấy phảng phất như có người trùm cái áo ngọc
lên người Hậu, thường cùng lấy làm lạ. Dật chết, ban hiệu là Mộ, họ hàng nội
ngoại càng cho là lạ. Về sau, thầy tướng là Lưu Lương xem tướng Hậu và các con,
Lương chỉ vào Hậu nói: "Người con gái này quý hiển chẳng nói hết
được." Hậu từ nhỏ đến lớn, không thích đùa bỡn. Năm lên tám tuổi, ở ngoài
nhà có kẻ đứng trên ngựa diễn trò, người nhà và các chị gái lên lầu ngắm xem,
riêng Hậu không đi. Các chị lấy làm lạ mới hỏi, Hậu đáp rằng: "Đó há phải
điều mà con gái xem sao"? Năm Hậu chín tuổi, thích viết chữ, nhìn chữ liền
biết, nhiều lần dùng nghiên bút của các anh, các anh bảo Hậu rằng: "Mi nên
tập việc của con gái. Đụng vào sách vở học tập, muốn làm Bác sĩ nữ chăng?"
Hậu đáp rằng: "Nghe nói các vị đàn bà thời xưa, không có ai không học
những việc thành bại của đời trước, lấy đó để răn mình. Chẳng biết chữ, làm sao
biết được việc ấy".Về sau thiên hạ binh loạn, thêm cảnh thiếu đói, trăm họ
đều bán vật báu châu ngọc vàng bạc, bấy giờ nhà Hậu cất trữ rất nhiều lúa, cũng
có mua thứ đó.
Năm Hậu
hơn mười tuổi, bẩm mẹ rằng: "Nay đang thời loạn mà lại mua nhiều vật báu,
làm kẻ thất phu thì vô tội, người đeo ngọc là có tội. Lại nữa tả hữu đều đói
thiếu, chẳng bằng đem lúa phát chẩn cho họ hàng làng xóm, để mở mang ân
huệ." Cả nhà khen hay, liền theo lời Hậu.
Ngụy
lược chép: Năm Hậu mười bốn tuổi, anh giữa là Nghiễm mất, để tang qua kì, thờ
chị dâu rất cung kính, chăm chỉ các việc, chăm sóc con của Nghiễm, thương yêu
hết mực. Mẹ của Hậu bản tính nghiêm khắc, đối đãi các nàng dâu như đạo thường,
Hậu mấy lần can mẹ rằng: "Anh con không may chết sớm, chị dâu còn ít tuổi
mà vẫn giữ tiết, ngoảnh có một đứa con, theo nghĩa lớn mà nói, việc đối đãi
phải như nàng dâu, yêu mến nên coi như con gái." Mẹ cảm lời Hậu mà rơi lệ,
liền sai Hậu và chị dâu cùng ở, ngủ nghỉ đứng ngồi cùng theo nhau, tình cảm
càng thân thiết.
Giữa năm
Kiến An, Viên Thiệu cho con giữa là Hi lấy Hậu. Hi ra quản U Châu, Hậu ở lại
chăm sóc mẹ chồng. Kịp lúc Kí Châu bình, Văn Đế thu nạp Hậu ở huyện Nghiệp, Hậu
được sủng ái, sinh ra Minh Đế và Đông Hương công chúa.
Nguỵ
lược chép: Hi ra quản U Châu, Hậu ở lại chăm sóc mẹ chồng. Kịp lúc thành Nghiệp
bị phá, vợ của Thiệu và Hậu cùng ngồi ở trên nhà lớn. Văn Đế vào nhà Thiệu,
thấy vợ của Thiệu và Hậu, Hậu sợ,
nép đầu
trên đầu gối mẹ chồng, vợ của Thiệu tự trói hai tay. Văn Đế bảo rằng: "Lưu
phu nhân sao lại làm như thế? Để cho người đàn bà mới ngẩng đầu lên"!
Người mẹ bèn nâng mặt Hậu ngẩng lên, Văn Đế tới xem, thấy vẻ mặt phi phàm, khen
ngợi Hậu. Thái Tổ nghe được ý ấy, bèn cho đón lấy.
Thế ngữ
chép: Thái Tổ hạ huyện Nghiệp, Văn Đế vào phủ của Viên Thượng trước, thấy có
người đàn bà tóc xoã mặt lấm, đứng khóc bên cạnh vợ của Thiệu là Lưu hậu, Văn
Đế hỏi về người ấy, Lưu thị đáp rằng: "Là vợ của Hi". Rồi ngoảnh sang
vén búi tóc, lấy khăn lau mặt cho, vẻ mặt tuyệt trần. Việc đã qua, Lưu thị bảo
Hậu rằng: "Chẳng lo chết nữa rồi"! Rồi được nạp, sủng ái.
Ngụy thư
chép: Hậu càng được sủng ái lại càng tự khiêm tốn, ở hậu cung có ai được sủng
ái thì Hậu lại khuyến khích, người không được sủng ái thì Hậu an ủi, hễ nhân
lúc nhàn rỗi, thường khuyên Đế, nói "Ngày xưa Hoàng Đế con cháu đầy đàn,
đó là bởi vợ lẽ đông đảo, mới có được cái lộc ấy vậy. Xin tìm rộng ở bậc Thục
viên để có nhiều dòng nối tự". Ý Đế khen lời ấy. Về sau Đế muốn đuổi Nhâm
thị, Hậu xin với Đế rằng: "Nhâm thị đã là họ lớn ở quê nhà, đức độ sắc đẹp
bọn thiếp chẳng bằng được, sao lại đuổi đi"? Đế nói: "Nhậm thị tín
hẹp hòi, chẳng hoà thuận, trước sau giận ta không chỉ một lần, thế nên đuổi đi
thôi." Hậu rơi lệ cố xin rằng: "Thiếp nhận cái ân tri ngộ, điều mà
mọi người đều biết, hẳn sẽ cho rằng Nhâm thị bị đuổi là do thiếp vậy. Sợ rằng
người trên bị chê cợt là vì tình riêng, kẻ dưới mắc cái tội vì được sủng ái,
xin hãy lưu ý cho!" Đế không nghe, bèn đuổi ra. Tháng bảy năm thứ mười
sáu, Thái Tổ đi đánh miền Quan Trung, Vũ Tuyên Hoàng hậu đi theo, lưu lại ở bến
Mạnh Tân, Đế ở lại giữ huyện Nghiệp. Bấy giờ Vũ Tuyên Hoàng hậu thân thể có
chút không khỏe, Hậu không đến thăm hỏi được, lo lắng, đêm ngày khóc lóc; tả
hữu ruổi ngựa đến hỏi rồi về báo, Hậu vẫn chưa tin, nói: "Phu nhân ở nhà,
bệnh cũ hễ phát thì qua nhiều ngày. Nay bảo là bệnh đỡ, sao mau vậy? Đó là muốn
an ủi ý ta thôi!" Vẫn lo lắm. Sau khi nhận được thư của Vũ Tuyên Hoàng hậu
gửi về, nói là bệnh đã khỏi lại, Hậu mới vui vẻ. Tháng giêng năm thứ mười bảy,
đại quân về huyện Nghiệp, Hậu vào hầu Vũ Tuyên Hoàng hậu, từ xa thấy người ngồi
trong màn thì mừng rỡ, tả hữu cảm động. Vũ Tuyên Hoàng hậu thấy Hậu như thế,
cũng khóc, liền bảo Hậu rằng: "Cô vợ mới nói là bệnh ta nặng như lúc trước
sao? Ta chỉ bệnh nhẹ chút thôi, hơn chục ngày là khỏi, không tin hãy coi sắc
mặt ta!" Rồi than rằng: "Đấy mới thực là nàng dâu hiếu thuận
vậy!" Năm thứ hai mươi mốt, Thái Tổ đánh miền đông, Vũ Tuyên Hoàng hậu,
Văn Đế cùng Minh Đế, Đông Hương công chúa đều đi theo, bấy giờ Hậu bị bệnh ở
lại huyện Nghiệp. Tháng chín năm thứ hai mươi hai, đại quân về, tả hữu hầu bên
Vũ Tuyên Hoàng hậu thấy vẻ mặt của Hậu rất đày đặn, lấy làm lạ hỏi Hậu rằng:
"Hậu chia biệt với hai con đã lâu, cái tình với con cái, không nghĩ đến
sao, nhưng vẻ mặt của Hậu lại càng đầy đặn, sao vậy"? Hậu cười đáp chúng
rằng: "Bọn chúng đi theo phu nhân, ta hám lo sao!" Hậu sáng suốt lấy
lễ tự giữ như thế.
Tháng
giêng năm Diên Khang thứ nhất, (năm 220 Công nguyên) Văn Đế lên ngôi Vương;
tháng sáu, đánh miền nam, Hậu ở lại huyện Nghiệp. Tháng mười năm Hoàng Sơ thứ
nhất, (năm 220 Công nguyên) Đế lên ngôi. Sau khi lên ngôi, Sơn Dương Công dâng
hai người con gái cho nhà Ngụy; Quách Hậu, Lý quý nhân, Âm quý nhân đều được
sủng ái, Hậu càng thất ý, có lời oán. Đế cả giận, tháng sáu năm thứ hai, sai sứ
giả bắt Hậu phải chết, táng ở huyện Nghiệp.
Ngụy thư
chép: Con coi việc tấu xin dựng cung Trường Thu, Đế có ấn thư đón Hậu, chiếu
đến tại phủ, Hậu dâng biểu rằng: "Thiếp nghe nói các triều đại trước hưng
thịnh, được hưởng nước lâu dài, truyền lộc cho dòng dõi, không gì là không do
từ Hậu phi. Cho nên phải xét tuyển kĩ người ấy, để sửa dựng chính giáo ở bên
trong. Bệ hạ mới lên ngôi, thực là nên tiến cử người hiền thục để thống quản
sáu cung. Thiếp tự thấy mình ngu lậu, chẳng gánh vác nổi việc cúng tế, lại thêm
bệnh tật, sao dám giữ ngôi vị ấy." Ấn thư ba lần gửi đến nhưng Hậu ba lần
từ chối, lời lẽ khẩn thiết. Bấy giờ tiết trời nóng nực, Đế muốn đợi sang thu
trời mát mẻ lại đón Hậu. Vừa lúc Hậu bị ốm nặng, ngày đinh mão tháng sáu mùa
hạ, băng
ở huyện Nghiệp. Đế đau xót than thở, sách tặng ấn thao Hoàng hậu.
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Theo nghĩa Xuân thu, trong nhà có việc ác lớn thì tránh, có
việc ác nhỏ thì không chép. Việc Văn Đế không lập Chân thị, lại còn giết hại,
đã có xét rõ. Người chép sử nhà Ngụy nếu cho đó là việc ác lớn thì nên giấu đi
mà không chép, nếu cho đó là việc ác nhỏ thì chẳng nên dùng lời văn giả dối,
vậy mà dùng lời văn rỗng tuếch đến như thế, khác với những điều mà ta thấy ở sử
cũ. Do đó mà nói, sách khen điều hay của các vị Hoàng hậu Biện thị, Chân thị
đều khó mà xét được sự thật. Họ Trần gạt bỏ, chọn việc đáng tin vậy.
Minh Đế
lên ngôi, quan coi việc tấu xin truy thụy cho Hậu, Đế sai Tư không Vương Lãng
cầm cờ tiết đem sách mệnh làm cỗ thái lao cúng tế ở lăng, lại dựng lập miếu
riêng.
Nguỵ thư
chép bản tấu của Tam công rằng: "Cái đạo của hiếu kính là dốc lòng với
người thân, do đó bốn cõi theo giáo hoá, trời đất cũng xét rõ, đấy gọi là người
sinh ra thì phải dốc sức nuôi dưỡng họ, chết thì phải làm cho linh hồn được vẻ
vang, khen tụng để tỏ hết đức cao đẹp, nêu lên tên tuổi rạng rỡ. Nay bệ hạ có
đức sáng của bậc thánh nhân, nối thay nghiệp lớn, lòng hiếu ngời ngời, thấu cả
thần minh, gặp cảnh đau buồn, thường vẫn khiêm nhường. Tiên đế dời táng ở lăng
gò, lễ nghi đã sắm, còn với Tiên hậu, thụy chưa vẻ vang. Cúi nghĩ Tiên hậu
khiêm cung chiếu sáng cả chỗ u tối, phẩm hạnh sáng tỏ đến mức không cần nói mà
giáo hoá lan truyền khắp nước, đức xứng với những lời khen ở bài Nhị nam(5),
cho nên mới được thần linh báo điềm lành, đời đời làm Hậu của nhà Đại Ngụy. Dù
đã sớm đi xa, sau vạn năm nữa, vẫn mãi rạng rỡ, công lao của Hậu không nêu mà
còn. Xét phép đặt thụy: thông đạt sáng suốt gọi là 'Chiêu', đức sáng có công
cũng gọi là 'Chiêu'. 'Chiêu' là sáng nhất, sáng mãi không mờ vậy. Nên tôn hiệu
là Văn Chiêu Hoàng hậu". Tháng ấy, Tam công lại tấu: "Từ đời xưa tổ
tiên của nhà Chu là Hậu Tắc, lại dựng miếu
riêng để tế Khương Nguyên. Ngày nay Văn Chiêu Hoàng hậu là Hoàng hậu của muôn
đời, đức thánh đạo hay, há đếm được chăng! Hậu coi việc tế tự của nhà vua, lại
dốc lòng khiêm cung, cố từ ngôi cao, đến lúc hóa thần mà chẳng có miếu thờ để
hưởng lễ, đấy chẳng phải là báo đền đức cao, tỏ rõ đạo hiếu kính vậy. Xét theo phép
cổ, nên theo như Chu lễ, lập riêng miếu thờ
cho Hậu". Đều được cho làm.
Tháng ba
năm Thái Hòa thứ nhất, (năm 227 Công nguyên) lấy một nghìn hộ dân ở làng An
Thành huyện Ngụy Xương quận Trung Sơn để truy phong cho Dật, thụy là Kính Hầu.
Cháu cả là Tượng nối tước. Tháng tư, mới dựng tông miếu, đào đất được cái ấn
ngọc, vuông một tấc chín phân, có khắc chữ là "Thiên tử thương nhớ mẹ
hiền". Minh Đế vì thế động lòng, lấy cỗ thái lao tế ở miếu. Lại thường nằm
mơ gặp Hậu, do đó phân rõ cao thấp những người thân thích bên họ ngoại đều theo
thứ bậc, ban thưởng đến hàng vạn; lấy Tượng làm Hổ bôn trung lang tướng. Tháng
ấy, mẹ của Hậu mất, Đế mặc áo tang đến viếng, trăm quan đứng quanh. Tháng mười
một năm thứ tư, vì lăng cũ của Hậu ở chỗ thấp, Đế sai Tượng làm Thái úy cầm cờ
tiết đến huyện Nghiệp, bẩm cáo hậu thổ(6); tháng mười hai, đổi táng ở lăng
Triều Dương. Tượng về, chuyển làm Tán kị thường thị. Mùa xuân năm Thanh Long
thứ hai, (năm 234 Công nguyên) truy thụy cho anh của Hậu là Nghiễm làm An Thành
hương Mục Hầu. Mùa hạ, giặc Ngô cướp Dương Châu, lấy Tượng làm Phục ba tướng
quân, Trì tiết, coi xét các tướng đánh miền đông, về, lại làm Xạ thanh hiệu úy.
Năm thứ ba thì chết, truy tặng chức Vệ tướng quân, đổi phong ở huyện Ngụy
Xương, thụy là Trinh Hầu; con là Sướng nối tự. Lại phong cho em của Sướng là
Ôn, Vĩ, Diễm đều làm Liệt hầu. Năm thứ tư, đổi phong tước cũ của Dật, Nghiễm
đều là Ngụy Xương Hầu, thụy như cũ. Phong vợ cả của Nghiễm là Lưu thị là Đông
Hương Quân, lại truy phong cho vợ cả của Dật là Trương thị là An Hỉ Quân.
Mùa hạ
năm Cảnh Sơ thứ nhất, (năm 237 Công nguyên) quan coi việc bàn định bảy miếu.
Mùa đông, lại tấu rằng: "Đế vương dựng nghiệp, đã có vua vâng mệnh trời,
lại có Hậu phi hiền thục hợp với thần linh, do đó tạo thời hưng thịnh để thành
nghiệp lớn. Xưa kia họ Cao Tân bói biết rằng con của bốn người phi đều có được
thiên hạ, thế rồi Đế Chí, Đào Đường, Thương, Chu thay nhau(7). Người nhà Chu
truy tôn Hậu Tắc, thờ cùng trời cao, xét kĩ nguồn gốc của nhà vua, vốn có từ
Khương Nguyên, lập riêng cung miếu, đời đời dâng tế, Chu lễ chép rằng: 'Tấu
nhạc có phép tắc, ca hát có vần điệu, múa như sóng cuộn, để dâng lên bà tổ'.
Nhà thơ ca tụng việc ấy rằng: 'Dân chúng thủa trước là từ bà Khương Nguyên'. Ấy
là nói đến cái gốc của phép vua, gốc của sinh dân. Lại chép: 'Miếu thờ thanh
tĩnh, rộng rộng cao cao, Khương Nguyên hiển hách, đức chẳng che mờ". Kinh
Thi, kinh Lễ khen cái thịnh của họ Cơ, lời lẽ hay đẹp như thế. Đại Ngụy ứng
vận, nối theo nhà Ngu, vẫn tôn sùng phép vua, ba đời nổi hưng, kể số miếu thờ
sánh với nhà Chu . Ngày nay Vũ Tuyên Hoàng hậu,
Văn Đức Hoàng hậu đều được thờ cúng đến muôn đời, còn như Văn Chiêu Hoàng hậu
nhận điềm lành của thần linh, nuôi dưỡng vua hiền, cứu giúp dân lành, đức trùm
đất trời, mở mang dòng dõi, là gốc mà đạo hóa hưng thịnh vậy. Nên dựng miếu thờ
cũng như miếu lớn thờ Khương Nguyên vậy. Thế mà chưa nêu lên được phép tắc bất
hủ, sợ là cái nghĩa luận công báo đức, vạn đời có thiếu sót, đấy là không phải
nêu rõ cái đạo hiếu cho đời sau vậy. Miếu của Văn Chiêu đáng được đời đời dâng
tế tấu nhạc, giống như miếu tổ, soạn sách lễ mãi không mục để truyền phong tục
thánh thiện". Vì thế lời bàn định về bảy miếu đều được khắc vào sách vàng,
cất ở rương vàng.
Đế nghĩ
đến họ ngoại không thôi. Sướng còn nhỏ, cuối năm Cảnh Sơ, lấy Sướng làm Xạ
thanh hiệu úy, thêm chức Tán kị thường thị, lại dựng riêng một toà nhà lớn, xa
giá tự đến thăm nhà. Lại nữa ở vườn sau ngôi nhà ấy dựng miếu thờ mẹ của Tượng,
gọi cái làng có miếu thờ ấy là làng Vị Dương, để tưởng nhớ đến họ ngoại. Tháng
giêng năm Gia Bình thứ ba, (năm 251 Công nguyên) Sướng chết, truy tặng chức Xa
kị tướng quân, thụy là Cung Hầu; con là Thiệu nối tự. Năm Thái Hoà thứ sáu,
(năm 232 Công nguyên) con gái yêu của Minh Đế là Thục chết, truy phong thụy cho
Thục là Bình Nguyên Ý công chúa, cho lập miếu thờ. Đem người cháu họ đã chết
của Hậu là Hoàng cùng hợp táng, truy phong cho Hoàng tước Liệt hầu, lấy em họ
của phu nhân Quách thị là Đức làm con nối tự, nối dòng dõi họ Chân, phong Đức
làm Bình Nguyên Hầu, nối tước của công chúa.
Tôn
Thịnh nói: "Về lễ, đàn bà đã không có phép tắc phong tước, huống chi là
trẻ con, vậy mà phong cho ấp lớn sao? Đức từ họ khác thì thay nối họ khác,
chẳng có công lao không phải thân thích mà cho nối tước của mẹ mình, đấy là
trái tình sai phép, như thế quá lắm vậy. Trần Quần dẫu nói lời chống đối, Dương
Phụ nêu việc cũng thế, nhưng đều chẳng nêu được đến tận cùng cái lễ của bậc vua
thời xưa, chẳng tỏ được phép tắc phong ấp nối tước, chẳng có lời trung trinh,
cũng là thiếu sót vậy! Kinh Thi chép: 'Sư doãn(8) hiển hách, dân đều trông
vào'. Giữ chức Tể tướng mà qua loa vậy sao"!
Tấn chư
công tán chép: Đức tự Ngạn Tôn. Tư Mã Cảnh Vương làm phụ chính, gả con gái cho
Đức. Vợ chết sớm, Văn Vương lại gả con gái cho Đức làm vợ cả, tức Kinh Triệu
trưởng công chúa vậy. Hai vị Cảnh Vương-Văn Vương muốn tự liên kết với Quách
Hậu, cho nên cho kết hôn nhiều. Đức dẫu không có tài học nhưng cung kính hoà
mục. Chân Ôn tự Trọng Thư, cùng Quách Kiến và bọn Đức đều là họ hàng của Hậu,
vì thế mà được sủng ái. Đầu năm Hàm Hi, phong Quách Kiến làm Lâm Vị huyện công,
Đức làm Quảng An huyện công, thực ấp đều là một nghìn tám trăm hộ. Ôn vốn phong
tước Hầu, bái làm Phụ quốc đại tướng quân, thêm chức Thị trung, lĩnh chức Xạ
thanh hiệu uý; Đức làm Trấn quân Đại tướng quân. Năm Thái Thủy thứ nhất, nhà Tấn
nhận ngôi trời, bái thêm cho ba người Kiến, Đức, Ôn vị Đặc tiến. Đức là người
thật thà, lại là anh rể của Thế Tổ, vì thế được
quý hiển ở đời. Đức tuổi già đổi sang làm quan Tông chính, chuyển làm Thị
trung. Giữa năm Thái Khang, Đại tư mã Tề Vương là Du phải đi xa làm phiên
vương, Đức và Tả vệ tướng quân Vương Tế cùng can gián, người bấy giờ đều khen
họ. Thế Tổ vì thế trọng Đức, do đó cử Đức làm Đại hồng lư, bái thêm chức Thị
trung, Quang lộc đại phu, rồi bệnh mất, tặng chức Trung quân đại tướng quân, Khai
phủ, Thị trung như cũ, thụy là Cung Công, con là Hỉ nối tự. Hỉ là trong sạch có
đức đẹp, làm qua chức Trung thư lang, Hữu vệ tướng quân, Thị trung, vị đến chức
Phụ quốc đại tướng quân, bái thêm chức Tán kị thường thị. Hỉ thân thiện với
thân thích của nhà vua, nhưng qua sự biến của Triệu Vương là Luân và Tề Vương
là Quýnh, không tham dự hội mưu, cũng do mình tài kém, nhưng cũng vì lặng im mà
bị bãi quan.
Giữa năm
Thanh Long, lại phong cho con của anh họ Hậu là Nghị và ba người em của Tượng
đều được Liệt hầu. Nghị nhiều lần dâng sớ bầy tỏ chính sự lúc bấy giờ, làm đến
chức Việt kị hiệu úy. Giữa năm Gia Bình, lại phong cho hai người con của Sướng
làm Liệt hầu. Cháu gái của anh Nghiễm của Hậu làm Hoàng hậu của Tề Vương; cha
của Hậu đã mất, phong cho mẹ của Hậu làm Quảng Lạc Hương Quân.
Văn Đức
Quách Hoàng hậu, người huyện Quảng Tông quận An Bình. Tổ tiên nhiều đời làm
trưởng lại.
Ngụy thư
chép: Cha là Vĩnh, làm đến Nam Quận Thái thú, thụy là Kính Hầu. Mẹ là Đổng thị,
tức Đường Dương Quân, sinh ba con trai hai con gái: con trai cả là Phù, làm Cao
Đường Lệnh; con gái thứ là Dục; con gái thứ nữa là Hậu; em trai của hậu là Đô,
em trai là Thành. Hậu sinh vào ngày ất mão tháng ba năm Trung Bình thứ nhất
thời nhà Hán, sinh ra có tướng khác thường.
Hậu thủa
trẻ thì cha là Vĩnh cho là lạ, nói: "Đấy là vua của đám đàn bà vậy".
Bèn lấy tên 'Nữ Vương' làm tên tự. Sớm mất cha mẹ, tang loạn li tán, vào ở nhà
của Đồng Đê Hầu. Vào thời Thái Tổ làm Ngụy Công, được vào Đông cung. Hậu có trí
xảo, nhiều lần có bày kế sách. Văn Đế được nối tự, Hậu có mưu vậy. Thái tử lên
ngôi Vương, Hậu làm phu nhân; kịp lúc lên ngôi Đế, làm quý phi. Cái chết của
Chân Hậu là do Hậu được sủng ái vậy. Năm Hoàng Sơ thứ ba, (năm 222 Công nguyên)
sắp lên ngôi Hậu, Văn Đế muốn lập làm Hậu, Trung lang Sạn Tiềm dâng sớ nói:
"Vào thời xưa bậc Đế vương thống trị thiên hạ, không chỉ nhờ bên ngoài
giúp, mà cũng cậy bên trong đỡ, yên hay loạn do từ đó, thịnh hay suy cũng bắt
nguồn từ đấy. Cho nên Tây Lăng(9) kết hôn Hoàng Đế, Anh-Nga đến bến Quy, đều vì
hiền minh mà lưu tiếng thơm thời trước. Kiệt bị đày đến Nam Sào, họa từ Mạt Hỉ;
Trụ bày hình cột dầu để làm vui lòng Đát Kỉ. Cho nên nên bậc thánh triết cẩn
thận lập vợ cả, phải chọn nhà quyền quý thời trước, lựa người hiền thục để
trông coi sáu cung, cúng tế tông miếu, dạy bảo lễ giáo. Kinh Dịch chép: 'Đạo
nhà chính thì thiên hạ định'. Đấy là phép hay của bậc Đế vương thời trước, nêu
gương cho trong và ngoài vậy. Kinh Xuân thư chép tông nhân Hấn Hạ nói rằng:
'Không dùng lễ lập nàng hầu làm phu nhân'. Tề Hoàn Công thề lệnh ở Quỳ Khâu
cũng nói: 'Không lấy nàng hầu làm vợ'. Nay hậu cung được sủng ái, thường theo
xe ngựa; nếu vì được yêu mà lên ngôi Hậu, khiến kẻ thấp hèn thành tôn quý, thì
thần sợ rằng đời sau 'dưới lấn trên suy', mở dẫn vô phép, loạn từ trên nổi lên vậy".
Văn Đế không nghe, bèn lập làm Hoàng hậu.
Ngụy thư
chép: Hậu dâng biểu tạ rằng: "Thiếp không có tiết nhún nhường của
Hoàng-Anh, lại chẳng có cái đạo sửa trị của Khương-Nhâm, thực là không đáng để
trao ngôi cao trông coi các phu nhân, gánh việc lớn ở hậu cung". Hậu tự ở
Đông cung, đến lúc lên ngôi vị, dẫu có quý sủng nhưng ý càng cung
kính,
chăm sóc Vĩnh Thọ Cung, nổi tiếng có hiếu. Bấy giờ những quý nhân khác cũng
được sủng ái, Hậu dạy bảo khích lệ họ. Các quý nhân ở hậu cung có lúc mắc lỗi
lầm, thường xét kĩ họ, nếu đáng trách phạt thì liền kể rõ góc ngọn cho Đế biết,
Đế có lúc vì thế cả giận, lại vì họ mà cúi đầu xin tha tội, cho nên sáu cung
không oán. Tính tiết kiệm, không ưa âm nhạc, thường ngưỡng mộ cách làm người
của Minh Đức Mã Hoàng hậu thời nhà Hán.
Hậu sớm
mất anh em, lấy anh họ là Biểu nối thay nghiệp của Vĩnh, bái làm Phụng xa đô
úy. Người thân bên họ ngoại của Hậu là Lưu Bùi kết hôn với người nước khác, Hậu
nghe tin, răn rằng: "Những người thân thích lấy vợ, nên chọn người ngang
hàng với quê quán nhà cửa, không được cậy thế mà bắt ép người khác kết
hôn". Con của chị Hậu là Mạnh Vũ về quê nhà lấy vợ bé, Hậu ngăn lại. Bèn
lệnh các nhà rằng: "Ngày nay đàn bà ít, phải gả cho tướng sĩ, không được
nhân cơ hội mà lấy làm vợ bé. Nên đều tự cẩn thận, không được làm sai".
Ngụy thư
chép: Hậu thường răn bảo Biểu, bọn Biểu nói: "Người thân thích của nhà Hán
ít kẻ tự trọn vẹn, đều do kiêu căng, nay ta không nên cẩn thận sao"!
Năm
(Hoàng Sơ) thứ năm, (năm 224 Công nguyên) Đế đánh miền đông, Hậu lưu lại tại đài
Vĩnh Thủy thành Hứa Xương. Bấy giờ mưa dầm hơn trăm ngày, nhiều thành lầu bị
đổ, quan coi việc tấu xin dời chuyển. Hậu nói: "Ngày xưa Sở Chiêu Vương ra
chơi, Trinh Khương lưu lại ở Tiệm Đài, nước sông dâng, sứ giả đến đón mà không
có tín phù, bèn không đi mà chết chìm. Nay Đế ở nơi xa, ta chưa có cái nạn ấy
mà lại dời chuyển, sao được"? Bầy tôi chẳng ai dám nói nữa. Năm thứ sáu,
Đế lại sang đông đánh Ngô, đến quận Quảng Lăng, Hậu lưu lại ở Tiêu cung; bấy
giờ Biểu ở lại bảo vệ, muốn ngăn nước bắt cá. Hậu nói: "Nước để thông
đường vận chuyển, lại đang thiếu cây gỗ, bọn nô bộc không ở trước mắt, lại muốn
lấy riêng tre gỗ của công để ngăn mương rạch. Nay làm Phụng xa còn chưa xong,
há bắt cá được sao"?
Minh Đế
lên ngôi, tôn Hậu làm Hoàng thái hậu, gọi là Vĩnh An Cung. Năm Thái Hòa thứ tư,
(năm 230 Công nguyên) chiếu phong Biểu làm An Dương Đình Hầu, lại ban tước
Hương hầu, tăng ấp cả năm trăm hộ lúc trước, chuyển làm Trung lũy tướng quân.
Lấy con của Biểu là Tường làm Kị đô úy. Năm đó, Đế truy thụy cha của Thái hậu
là Vĩnh làm An Dương hương Kính Hầu, mẹ là Đổng thị làm Đô Hương Quân. Chuyển
Biểu làm Chiêu đức tướng quân, ban thao tía vàng, vị Đặc tiến; bái con thứ hai
của Biểu là Huấn làm Kị đô úy. Kịp lúc mẹ của Mạnh Vũ chết, muốn táng rộ, dựng
miếu thờ, Thái hậu ngăn lại, nói: "Từ thời tang loạn đến nay, phần mộ
không đâu không bị đào bới, đều là do táng rộ vậy. Lăng Thú Dương nên lấy làm
phép chuẩn". Mùa xuân năm Thanh Long thứ ba, (năm 235 Công nguyên) Hậu
băng ở Hứa Xương, dựng lăng theo chế lệnh; ngày canh dần tháng ba, táng ở phía
tây lăng Thú Dương.
Ngụy
lược chép: Minh Đế đã thay lập, suy xét cái chết của Chân Hậu, cho nên Thái hậu
lo lắng mà băng. Vào lúc Chân Hậu sắp mất, đem Đế gửi cho Lí phu nhân. Kịp lúc
Thái hậu băng, Lí phu nhân bèn nói là Chân Hậu bị vu họa, không được thu liệm,
xén tóc trùm mặt, Đế đau xót rơi lệ, sai liệm táng Thái hậu, đều như việc cũ
của Chân Hậu.
Hán Tấn
xuân thu chép: Lúc trước Chân Hậu bị giết là do Quách Hậu được sủng ái, đến lúc
liệm, sai xén tóc trùm mặt, lấy vỏ trấu nhét vào miệng, rồi lập Quách Hậu, sai
nuôi Minh Đế. Minh Đế biết, lòng thường mang hận, nhiều lần khóc hỏi cái chết
của Chân Hậu. Quách Hậu nói: "Tiên đế tự bắt giết, sao lại trách hỏi ta?
Vả lại mi là người con, đáng căm thù người cha đã mất, vì mẹ cũ mà giết uổng mẫu hậu
sao"? Minh Đế giận, bèn ép giết Hậu, sai người liệm như việc cũ của Chân
Hậu.
Ngụy thư
chép sách lệnh điếu ai rằng: "Nghĩ về ngày nhâm thân tháng ba năm Thanh
Long thứ ba, Hoàng thái hậu tể cung bắt đầu được liệm, đem táng ở lănh phía tây
lăng Thú Dương. Kẻ làm con chịu tang Hoàng đế là Duệ cầm sách thư đưa tiễn tổ
tiên, tự mình cúng tế, gõ đầu đấm ngực, kêu khóc ngẩng than, đau vì linh hồn
bay về trời, buồn theo xe trên đường, ánh 'tam quang' cũng che lấp, đưa hậu về
nơi suối vàng yên nghỉ. Than ôi thương thay! Ngày xưa hai vị phi gả cho họ Ngu
vì thế mà phép vua sáng rõ, ba người mẹ gả cho nhà Chu
thì nêu cao tiếng tốt, đã nhận nhiều phúc lành, lại hưởng lộc lâu dài. Thương
ôi mẹ hiền, sửa dựng giáo hóa, rồng bay cực đỉnh, hóa hợp thánh hoàng, không lo
tuổi đời, bệnh nặng thân băng. Con nhỏ xót xa, côi cút tự buồn, hồn dẫu rời xa,
ngẫm nghĩ nhớ mong! Than ôi thương thay"!
Đế phong
Biểu làm Quan Tân Hầu, tăng năm trăm hộ, gồm cả nghìn hộ lúc trước. Chuyển Biểu
làm Phụ mã đô úy. Năm thứ tư, xét đổi phong Vĩnh làm Quan Tân Hầu, vợ là Đổng
thị làm Đường Dương Quân. Truy phong thụy anh của hậu là Phù làm Lương Lí đình
Đái Hầu; Đô làm Vũ Thành đình Hiếu Hầu; Thành làm Tân Nhạc đình Định Hầu, đều
sai sứ giả đem sách lệnh đến, dùng đồ thái lao cúng tế. Biểu hoăng, con là
Tường nối tự, lại chia tước của Biểu phong cho em của Tường là Thuật làm Liệt
hầu. Tường hoăng, con là Chiêu nối tự.
Minh
Trác Mao Hoàng hậu, người quận Hà Nội. Giữa năm Hoàng Sơ được tuyển vào Đông
cung, bấy giờ Minh Đế làm Bình Nguyên Vương, tiến dâng được sủng ái, ra vào
cùng ngồi xe kiệu. Kịp lúc lên ngôi Đế, lấy làm quý phi. Năm Thái Hòa thứ nhất,
lập làm Hoàng hậu. Cha của Hậu là Gia, bái làm Kị đô úy, em của Hậu là Tăng,
bái làm Lang trung.
Trước
đây, Minh Đế làm Vương, mới lấy người quận Hà Nội là Ngu thị làm phi, lúc Đế
lên ngôi, Ngu thị không được lập làm Hậu, Thái hoàng hậu là Biện Thái hậu vỗ về
Ngu thị, Ngu thị nói: "Họ Tào ưa tự lập kẻ thấp hèn, không có ai có nghĩa
mà được chọn vậy. Nhưng Hậu coi việc ở trong, vua nghe chính sự ở ngoài, cái
đạo ấy dựa vào nhau mà thành; nếu không sửa nắn được thì chưa có ai được trọn
vẹn cả. Cũng vì thế mà mất nước diệt tự thôi"! Ngu thị bèn bị đuổi về
Nghiệp cung. Bái Gia làm Phụng xa đô úy, bái Tăng làm Kị đô úy, ban sủng hậu
hĩnh. Chốc lát, phong Gia làm Bác Bình Đình Hầu, chuyển làm Quang lộc đại phu,
chuyển Tăng làm Phụ mã đô úy. Gia vốn là thợ làm xe, chợt được tôn quý, Minh Đế
sai bầy tôi hội người nhà ăn yến, dáng vẻ cử chỉ của họ rất thô kệch, nói liền
tự bảo là 'Hầu thân', người thấy cho là đáng cười.
Tôn
Thịnh nói: "Bậc Đế vương thời xưa đều phải tìm vợ hiền để nêu cao đức tốt,
nắn phép vua như trong bài Quan thư(10), sửa phong tục như ở bài Lân chỉ(11).
Kịp đến thời ba vị vua cuối, làm loạn nối tự, nghĩa tình chìm đắm, quyền rơi
vào kẻ được sủng ái, quý và hèn không phân rõ, dưới lấn trên suy, hưng suy
thịnh phế, đều do ở đó. Nhà Ngụy từ thời Vũ Vương cho đến thời Liệt Tổ(12), lập
ba Hoàng hậu đều xuất thân từ nhà hèn kém; gốc đã thấp kém, sao mà lâu dài
được? Kinh Thi chép: 'Vải thưa vải mỏng, gió thổi lạnh ghê'(13). Là nói về việc
ấy chăng"!
Sau lại
bái Gia vị Đặc tiến, bái Tăng chuyển làm Tán kị thị lang. Năm Thanh Long thứ
ba, Gia hoăng, truy tặng chức Quang lộc đại phu, đổi phong An Quốc Hầu, tăng ấp
năm trăm hộ, gồm cả nghìn hộ lúc trước, thụy là Tiết Hầu. Năm thứ tư, truy
phong mẹ của Hậu là Hạ thị làm Dã Vương Quân.
Vào lúc
Đế sủng ái Quách Nguyên hậu, càng ít sủng ái Hậu. Năm Cảnh Sơ thứ nhất, (năm
237 Công nguyên) Đế chơi ở vườn sau, gọi từ bậc Tài nhân trở lên dự yến bày
nhạc, Nguyên Hậu nói: "Nên mời Hoàng hậu". Đế không nghe, bèn cấm tả
hữu, sai không được nói ra. Hậu biết được, hôm sau Đế gặp Hậu, Hậu nói:
"Hôm qua ăn chơi ở vườn bắc có vui không"? Đế cho là tả hữu tiết lộ
việc này, giết mất hơn mười người, lại bắt Hậu phải chết, nhưng vẫn ban thụy,
táng ở Mẫn Lăng. Chuyển Tăng làm Tán kị thường thị, sau lại chuyển làm Vũ lâm
hổ bôn trung lang tướng, Nguyên Vũ điển nông.
Minh
Nguyên Quách Hoàng hậu, người quận Tây Bình, nhà nhiều đời là hào tộc ở miền Hà
Hữu. Giữa năm Hoàng Sơ, bản quận phản loạn, bèn bắt vào cung. Minh Đế lên ngôi,
rất được sủng ái, bái làm phu nhân. Chú ruột là Lập làm Kị đô úy, chú họ là Chi
làm Hổ bôn trung lang tướng. Đế bệnh nặng, bèn lập làm Hoàng hậu. Tề Vương lên
ngôi, tôn Hậu làm Hoàng thái hậu, gọi là Vĩnh Ninh Cung, truy phong thụy cha
của Thái hậu là Mãn làm Tây đô Định Hầu, lấy con của Lập là Kiến thay tước ấy.
Phong mẹ của Thái hậu là Đỗ thị làm Cáp Dương Quân. Chuyển Chi làm Tán kị
thường thị, Trường thủy hiệu úy, Ngụy
lược chép: Trong những người họ Quách, Chi là người thẳng thắn nhất. Lúc trước
tự có công khác mà được phong Hầu. chuyển
Lập làm Tuyên đức tướng quân, đều phong Liệt hầu. Anh của Kiến là Đức ra chăm
sóc Chân thị. Đức và Kiến đều làm Trấn hộ tướng quân, đều phong Liệt hầu, cùng
nắm quân Túc vệ. Gặp lúc ba vị vua nhỏ dại(14), tể tướng nắm quyền, tranh cướp
quyền lớn, đều bẩm báo với Thái hậu trước rồi mới làm việc. Vào lúc bọn Quán
Khâu Kiệm, Chung Hội làm loạn, đều mượn lệnh của Hậu để làm lời lẽ vậy. Tháng
mười hai năm Cảnh Nguyên thứ tư (năm 263 Công nguyên) thì băng; tháng hai năm
thứ năm, táng ở phía tây lăng Cao Bình.
Tấn chư
công tán chép: Kiến tự Thúc Thủy, có tài năng mà cứng cỏi, giữa năm Thái Thủy
thì bệnh hoăng; con là Hỗ nối tự, làm Cấp sự trung.
Bình
rằng: Người nhà của Hậu phi nhà Ngụy, dẫu nói là tôn quý nhưng không có cơ hội
nắm quyền như thời nhà Hán suy kém, do tể tướng chuyên quyền cả. Soi xét phép
cũ, như thế là tốt rồi. Lại nhớ lời bàn của Trần Quần, lời luận của Sạn Tiềm
cũng đủ để làm tấm gương cho các vị vua, truyền phép tắc cho đời sau vậy.
Chú thích
(1) Hai vị phi tần gả cho họ Quy: chỉ hai con
gái của vua Nghiêu là Nga Hoàng và Nữ Anh gả cho vua Thuấn họ Ngu ở bến Quy.
(2) Nhâm-Tự kết theo họ Cơ: Nhâm tức Thái
Nhâm, con gái của họ Chí Nhâm, Tây Bá là Cơ Quý Lịch lấy làm phi, sinh ra Chu
Văn Vương; Tự tức Thái Tự, con gái của họ Hữu Sân, Chu Văn Vương lấy làm phi,
sinh ra Chu Vũ Vương.
(3) Tử Tu và Thanh Hà trưởng công chúa: Tử Tu
tức Tào Ngang tự Tử Tu cùng với Thanh Hà trưởng công chúa là anh em cùng cha mẹ
là Vũ Đế Tào Tháo và Lưu phu nhân. Thanh Hà trưởng công chúa không rõ tên, gả
cho Hạ Hầu Mậu.
(4) Tử Tu chết ở huyện Nhưỡng: theo Vũ Đế kỉ,
Tử Tu chết trận ở thành huyện Uyển.
(5) Nhị nam: chỉ hai bài thơ Chu nam và Thiệu
nam trong kinh Thi.
(6) Hậu thổ: chỉ thần đất.
(7) Xưa kia họ Cao Tân bói biết rằng con của
bốn người phi đều có được thiên hạ, thế rồi Đế Chí, Đào Đường, Thương, Chu thay
nhau: Đế Khốc họ Cao Tân bói cho con của bốn người vợ rằng: vợ cả là bà Khương
Nguyên sinh ra Hậu Tắc là tổ của nhà Chu; vợ thứ hai là bà Giản Địch sinh ra
Tiết, là tổ của nhà Thương; vợ thứ ba là bà Trần Phong sinh ra Đế Nghiêu nhà
Đào Đường; vợ thứ tư là bà Tu Tí, sinh ra Đế Chí.
(8) Sư doãn: chỉ quan Tể tướng, còn gọi là Sư
phó, Thái sư.
(9) Tây Lăng: chỉ bà Luy Tổ, là con gái của họ
Tây Lăng, gả cho Hoàng Đế.
(10) Quan thư: một bài thơ trong kinh Thi.
(11) Lân chỉ: một bài thơ trong kinh Thi.
(12) Liệt Tổ: chỉ Ngụy Minh Đế, thụy là Liệt
Tổ Minh Hoàng Đế.
(13) Kinh Thi chép: 'Vải thưa vải mỏng, gió
thổi lạnh ghê': ý nói vợ kẻ hèn kém thì nhà cũng suy kém như vải thưa thì gió
thổi vào thì lạnh.
(14) Ba vị vua nhỏ dại: chỉ ba vị vua cuối của
nhà Ngụy là Tào Phương, Tào Mao, Tào Hoán.
NGỤY THƯ QUYỂN 6 - Đổng nhị Viên Lưu truyện
Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ, Viên Thiệu, Viên
Thuật, Lưu Biểu.
ĐỔNG TRÁC TRUYỆN
Đổng
Trác tự Trọng Dĩnh, người quận Lũng Tây huyện Lâm Thao.
Anh hùng
ký chép: Cha Trác là Quân Nhã, làm chức quan nhỏ là Huyện uý ở huyện Luân Thị
quận Dĩnh Xuyên. Có ba người con trai: Con trưởng là Tử Trạc, tự Mạnh Cao, chết
sớm; con thứ là Trác; em Trác là Mân tự Thúc Dĩnh Trác
thuở nhỏ thích làm hiệp khách, thường du ngoạn ở Khương Trung, kết giao với hết
thảy những kẻ hào kiệt ở đó. Sau này Trác về cầy ruộng, mà những kẻ hào kiệt
vẫn đến chơi, Trác dẫn về cùng, giết trâu cầy cùng nhau ăn uống vui vẻ. Bọn hào
kiệt cảm cái tình ấy, quay về thu gom, được hơn nghìn đầu súc vật các loại đem
tặng Trác.
Ngô thư
chép: Quận triệu Trác đến làm Lại, sai giám sát đám đạo tặc. Rợ Hồ thường kéo
ra cướp bóc, nhiều lần bắt bớ dân lành, Thứ sử Lương châu quyết định vời Trác
đến cho làm Tòng sự, sai lĩnh quân kỵ lùng bắt thảo phạt chúng, đại phá giặc,
chém được mấy nghìn tên. Thứ sử Tinh châu là Đoàn Quýnh tiến cử Trác vào công
phủ, Tư đồ Viên Ngỗi vời Trác đến làm Duyện.
Năm cuối
đời Hoàn Đế nhà Hán, vì Trác là con nhà lành ở sáu quận Lương Châu nên được cử
làm Vũ Lâm lang. Trác có vũ lực, sức khoẻ ít ai bì, hai vai đeo hai túi tên,
bắn cung cả hai tay. Được làm Quân tư mã, theo Trung lang tướng Trương Hoán
chinh chiến ở Tinh châu có công, được bái làm Lang trung, ban cho chín nghìn
xấp lụa, Trác đem chia hết cả cho quân sĩ. Rồi được thăng làm Quảng Vũ lệnh,
Bắc bộ Đô uý Thục quận, Mậu kỷ Hiệu uý Tây Vực, rồi bị bãi chức. Sau lại được
vời đến bái làm Thứ sử Tinh châu, Thái thú Hà Đông, rồi thăng làm Trung lang
tướng, đánh dẹp Hoàng Cân, thua quân đáng tội.
Anh hùng
ký chép: Trác mấy lần đánh dẹp người Khương-Hồ, trước sau hơn trăm trận.
Bọn Hàn
Toại khởi sự ở Lương Châu, Trác được phục chức Trung Lang tướng, chống cự Toại
ở phía Tây. Ở Vọng Viên Hiệp Bắc, Trác bị mấy vạn người Khương-Hồ vây hãm,
lương thực thiếu thốn. Trác vờ làm ra vẻ muốn bắt cá, cho đắp một cái đập để
ngăn nước lại thành cái ao, khiến nước đọng đầy mấy chục dặm, lại lẳng lặng lần
theo đập đất ấy vượt qua quân bên kia rồi tháo đập nước. Lúc quân Khương Hồ hay
tin liền đuổi theo, nước quá sâu, không qua được. Bấy giờ sáu cánh quân ở trên
Lũng Tây, thì năm cánh quân bại trận, mình quân của Trác được toàn vẹn trở về,
đóng ở Phù Phong. Trác được bái làm Tiền tướng quân, phong tước Hương hầu, rồi
được vời về làm Tinh châu mục.
Linh Đế
kỷ chép: Năm Trung bình thứ năm, cho vời Trác vào làm Thiếu phủ, sắc mệnh cho
quan lại tướng sĩ trong quân doanh của Trác đều thuộc quyền Tả tướng quân Hoàng
Phủ Tung, đến làm việc ở dinh sở. Trác dâng lời rằng: "Lương châu nhiễu
loạn, kình nghê(1) chưa bị diệt, ấy là lúc kẻ bầy tôi phải gắng hết sức mình để
báo đền. Nay quan binh đang hăng hái, mến ân nghĩa nghĩ cách mà báo đáp, mọi
người đều níu giữ xe của thần lại, bày tỏ những lời khẩn khoản xót xa, thần
chưa thể lập tức lên đường. Thần xin được tạm coi việc Hành Tiền tướng quân,
hết lòng yên uỷ sĩ tốt, gắng sức ra trận." Năm thứ sáu, lấy Trác làm Tinh
châu mục, lại mệnh cho quan binh làm thuộc hạ Hoàng Phủ Tung. Trác lại dâng
lời: "Thần chấp chưởng việc binh nhung đã mười năm, sĩ tốt lớn nhỏ, quen
nhau đã lâu, quyến luyến cái ân nuôi dạy của thần, một mai có mệnh, thần nguyện
vì quốc gia mà gắng sức, nay xin được làm tướng ở trong châu, ra sức ở nơi biên
thuỳ." Trác lại trái chiếu mệnh, vừa đúng lúc Hà Tiến triệu Trác về.
Linh Đế
băng hà, Thiếu Đế lên tức vị. Đại tướng quân Hà Tiến cùng với Tư lệ Hiệu uý
Viên Thiệu mưu tru diệt bọn yêm hoạn, Thái hậu không nghe. Tiến bèn cho triệu
Trác sai dẫn binh tới kinh sư, lại mật lệnh cho quan Thượng thư rằng: "Bọn
Trung thường thị Trương Nhượng trộm cầu được ân sủng, gây loạn làm vẩn đục khắp
bốn cõi. Xưa kia Triệu Ưởng phát động quân đội ở Tấn Dương, để đánh đuổi kẻ ác
ở cạnh quân vương. Thần xin được khua triêng gióng trống kéo đến Lạc Dương, lập
tức đánh dẹp bọn Nhượng." Ý Thiệu muốn lấy việc đó để uy hiếp bức bách
Thái hậu. Song Trác chưa đến nơi, Tiến đã chết.
Tục Hán
thư chép: Tiến tự Toại Cao, người Nam Dương, là anh em khác mẹ với Thái hậu.
Tiến vốn là con nhà đồ tể, cha là Chân, sau khi Chân chết, Tiến đem em gái cậy
nhờ Hoàng môn được vào chốn dịch đình, được ân sủng, năm Quang Hoà thứ ba được
lập làm Hoàng hậu, Tiến bởi thế được quý hiển. Năm Trung bình nguyên niên,
Hoàng cân nổi dậy, triều đình bái Tiến làm Đại tướng quân.
Điển
lược chép lại bài biểu của Trác rằng: "Thần cúi xuống nghĩ rằng thiên hạ
sở dĩ có kẻ ngỗ nghịch không ngừng, đều là do bọn Hoàng môn Thường thị Trương
Nhượng khinh mạn đạo trời, thao túng vương mệnh, cha con anh em hắn đều chiếm
châu giữ quận, mọi thư tín ra khỏi cửa, bạc vàng gửi đến, mấy trăm vạn mảnh đất
mầu mỡ ở các quận ở kinh kỳ đều thuộc về bọn Nhượng, khiến cho oán khí bốc cao,
yêu tặc bùng lên. Thần trước đây phụng chiếu đánh dẹp Vu Phu La, tướng sĩ đói
khát, chẳng thể vượt sông, chúng đều nói muốn đến kinh sư trước tiên tru diệt
bọn yêm hoạn để trừ cái hại cho dân, sau tới nơi phú quý cầu lấy của cải. Thần
tuỳ cơ an uỷ phủ dụ, mãi mới được yên. Thần nghe nói muốn nước ngừng sôi, chẳng
gì bằng dập lửa rút củi, ung nhọt vỡ dù đau, còn hơn nuôi nó trong bắp thịt, lúc
chết đuối mới gọi thuyền, hối sao cho kịp."
Bọn
Trung Thường thị Đoàn Khuê đoạt lấy Đế dẫn chạy ra bến đò Tiểu Bình, Trác liền
dẫn binh đi đón Đế ở Bắc Mang, rồi hồi giá về cung.
Hán kỷ
của Trương Phan chép: Đế bị bọn Hoàng môn cướp đi vào ngày Canh Ngọ tháng tám,
phải đi bộ ra Cốc môn, rồi chạy tới thượng lưu Hoàng Hà. Bọn Hoàng môn phải lao
đầu xuống sông chết cả. Bấy giờ Đế được mười bốn tuổi, Trần Lưu Vương mới chín
tuổi, anh em đi bộ một mình trong đêm lần về cung, đến tờ mờ sáng, cứ theo ánh
đom đóm mà đi, qua mấy dặm, được một nhà dân dùng xe chở đi. Nỗi cay đắng kể
sao cho hết, các công khanh thuộc hạ và Trác cùng đón được Đế ở dưới sườn núi
Bắc Mang.
Hiến Đế
xuân thu chép: Trước đó có câu đồng dao rằng: "Hầu chẳng ra hầu, vương
chẳng ra vương, nghìn xe vạn kỵ chạy ra Bắc Mang". Trác bấy giờ vừa mới
đến, đóng quân ở Dương Uyển. Nghe nói Đế đang về, bèn dẫn binh sĩ đi đón Đế.
Điển
lược chép: Đế trông xa thấy quân của Trác thì chảy nước mắt. Các quan bảo Trác
rằng: "Có chiếu lui binh." Trác nói: "Các quan là đại thần của
quốc gia, chẳng thể phù giúp được vương thất, đến nỗi khiến cho quốc gia phải
chao đảo ngả nghiêng, sao lại có chuyện lui binh được!" Bèn cùng kéo hết
cả vào trong thành.
Hiến đế
kỷ chép: Trác và Đế nói chuyện, Đế chẳng nói được câu nào, Trác bèn đổi sang
nói chuyện với Trần Lưu Vương, hỏi hoạ loạn do đâu mà nổi lên; Vương đáp, từ
đời xưa đến giờ, chẳng có điều gì là còn mất cả. Trác cả mừng, bèn có ý phế
lập.
Anh hùng
ký chép: Trung bộ duyện Hà Nam
là Mẫn Cống giúp Đế cùng Trần Lưu Vương thượng lộ đến trấn Lạc Xá thì dừng lại.
Đế một mình một ngựa, Trần Lưu Vương cùng với Cống ngồi chung một ngựa, từ trấn
Lạc Xá đi về phía Nam
. Công khanh trăm quan phụng đón ở dưới sườn núi Bắc Mang, cố Thái uý Thôi Liệt
đi trước dẫn đường. Trác dẫn mấy nghìn quân bộ kỵ đến nghênh đón, Liệt cho
người ra bắt tránh đi, Trác chửi Liệt rằng: "Ta đi sớm tối ba trăm dặm đến
đây, sao nói rằng tránh ra, ta chẳng thể chặt được đầu ngươi hay sao?" Rồi
tiến lên diện kiến Đế nói rằng: "Bệ hạ đã lệnh cho bọn Thường thị tiểu
hoàng môn tác loạn như vậy, phải nhận lấy cái hoạ bại vong, mối lo ấy chẳng nhỏ
đâu?" Lại đi tới chỗ Trần Lưu Vương, nói: "Ta là Đổng Trác đây, để ta
bế xuống nào." Bèn bế vương từ trong lòng Cống.
Anh hùng
ký lại chép: Một bản khác ghi rằng Vương không cho Trác bế, Trác và vương mỗt
người một ngựa mà đi.
Bấy giờ
em của Tiến là Xa kỵ tướng quân Hà Miêu đã bị quân sĩ của Tiến giết, thuộc hạ
của Tiến và Miêu không biết theo ai, đều đến cả chỗ Trác.
Anh hùng
ký nói rằng: Miêu, là anh cùng mẹ với Thái hậu, mẹ Miêu trước kia xuất giá lấy
con trai họ Chu . Tướng thuộc hạ của Tiến là
Ngô Khuông, tố cáo là Miêu cùng với Tiến không đồng tâm, lại ngờ là Miêu cùng
với hoạn quan có âm mưu thông đồng, bèn ra lệnh trong quân rằng: "Kẻ giết
Đại tướng quân, chính là Xa kỵ vậy." Rồi dẫn binh cùng với em của Trác là
Mân chung sức vây đánh giết chết Miêu ở dưới cửa khuyết Chu
tước.
Trác lại
sai Lã Bố giết chết Chấp kim ngô Đinh Nguyên, thâu gồm binh sĩ ấy, cho nên binh
quyền ở kinh đô chỉ ở tay Trác.
Cửu châu
xuân thu chép: Trác mới vào Lạc Dương, quân bộ kỵ chẳng quá ba nghìn người, tự
hiềm rằng binh ít ỏi, chẳng khiến cho xa gần phục; được chừng bốn năm ngày,
Trác bèn cứ đến đêm thì sai binh ra khỏi cửa thành, sáng hôm sau lại xếp thành
hàng trận gõ trống đi vào, báo với mọi người rằng "binh phía tây lại vào
đến Lạc Trung". Mọi người chẳng hề hay biết, cho rằng không thể thắng nổi
binh của Trác.
Trước
đó, Tiến phái Kỵ đô uý ở Thái Sơn là Bảo Tín đi mộ binh ở các vùng phụ cận, vừa
về đến nơi, Tín bảo Thiệu rằng: "Trác nắm giữ đám binh mạnh, có chí khác,
nay ta chẳng sớm lo toan đi, sau này sẽ khó kiềm chế được; Lúc Trác mới đến đây
hãy còn mỏi mệt, ta tập kích có thể bắt được." Thiệu sợ Trác, không dám
phát động binh lính, Tín bèn quay về quê.
Dạo ấy
đã lâu trời không mưa, Đế xuống chiếu bãi miễn chức Tư không của Lưu Hoằng cho
Trác lên thay, không lâu lại thăng Trác làm Thái uý, ban cho Giả tiết việt và
quân hổ bôn. Sau Trác phế Đế làm Hoằng Nông vương. Lại cho tìm giết Vương và Hà
thái hậu. Lập con nhỏ của Linh đế là Trần Lưu Vương, đó là Hán Hiến Đế.
Hiến đế
kỷ chép: Trác mưu toan phế Đế, hội quần thần ở chốn triều đường, bàn rằng:
"Trên hết là đạo trời đất, thứ đến đạo quân thần, đó gọi là trị. Nay hoàng
đế ám nhược, chẳng thể phụng thừa tông miếu, làm chủ
thiên hạ được. Ta muốn chiếu theo việc của Y-Hoắc ngày trước(2), lập Trần Lưu
Vương, ý ấy thế nào?" Thượng thư Lư Thực nói: "Xét kinh Thượng thư
khi Thái Giáp lên ngôi đã bất minh, Y Doãn mới đuổi ra Đồng Cung. Xương Ấp lên
ngôi vương có hai mươi bảy ngày, mắc hơn nghìn tội, cho nên Hoắc Quang mới phế
bỏ đi. Nay Kim thượng đang còn trẻ tuổi, hành vi chưa có gì sơ thất, chẳng thể
so với việc ngày trước được." Trác giận, rời khỏi chỗ ngồi, muốn giết
Thực, quan Thị Trung là Sái Ung khuyên giải, Thực được thoát. Tháng chín ngày
Giáp Tuất, Trác lại mở đại hội quần thần nói: "Hà thái hậu bức bách Vĩnh
lạc thái hậu(3), khiến người lo lắng mà chết, làm rối loạn cái lễ mẹ chồng nàng
dâu, không có đức hiếu thuận. Thiên tử còn thơ ấu, yếu mềm chẳng thể làm vua.
Xưa kia Y Doãn đuổi Thái Giáp, Hoắc Quang phế Xương Ấp, việc đã nêu rõ trong
điển tịch, mọi người cho rằng thế là đúng. Nay Thái hậu nên như Thái Giáp,
Hoàng đế nên như Xương Ấp. Trần Lưu vương là bậc nhân hiếu, nên lập tức tôn lên
làm Hoàng đế."
Hiến đế
khởi cư chú chép lại tờ sách mệnh ấy rằng: "Đức Hiếu Linh hoàng đế chẳng
thọ lâu dài ở ngôi cao tông, sớm lìa bỏ thần dân. Hoàng đế lên nối nghiệp cha,
hải nội nghiêng mắt ngóng trông, nhưng Đế thiên tư khinh bạc, uy nghi chẳng
kính cẩn, lúc cư tang lười biếng khinh nhờn, ác đức đã rõ, nét xấu vang danh,
tổn nhục thần khí, vấy bẩn tông miếu. Hoàng thái hậu không đáng bậc mẫu nghi,
thống quản làm chính sự rối loạn. Việc Vĩnh Lạc thái hậu đột ngột băng hà, mọi
người còn ngờ hoặc. Đạo tam cương, giềng mối trời đất, đã bị khiếm khuyết, đó
là tội lớn vậy. Trần Lưu Vương tên Hiệp, thánh đức cao đẹp lạ thường, khuôn
phép đúng mực, rộng lòng với kẻ dưới thẳng thắn với người trên, có dáng vẻ của
vua Nghiêu; cư tang xót thương, nói năng chính đáng; còn nhỏ mà rất có khí
phách, thành ý đủ đầy. Danh thơm tiếng tốt, thiên hạ nơi nơi đều biết rõ, xứng
đáng kế thừa hồng nghiệp, làm rạng rỡ truyền thống vạn đời, có thể lên kế thừa
tông miếu. Nay phế Đế làm Hoằng Nông Vương. Hoàng thái hậu phải trao trả quyền
chính." Thượng thư đọc sách mệnh xong, quần thần chẳng ai nói năng gì,
Thượng thư Đinh Cung nói: "Trời gây hoạ cho nhà Hán, tang tóc loạn lạc
ngày càng nhiều. Xưa kia Sái Trọng phế Hốt lập Đột(5), việc quyền biến ấy thời
Xuân Thu đã có. Nay các đại thần cân nhắc nên vì xã tắc, thực hợp lòng trời
thuận ý người, xin hô vạn tuế." Trác thấy Thái hậu bị phế, cho công khanh
lôi xuống dưới cởi bỏ y phục, đến lúc chết, Thái hậu chỉ mặc áo trắng mà thôi.
Trác
được phong là Tướng quốc, tước My hầu, khi vào triều lạy không phải xưng danh,
được mang kiếm lên thượng điện, tiếp đó lại phong mẹ Trác làm Trì dương quân,
thiện tiện bầy trí quan nha, phủ thừa. Trác lĩnh binh kéo đến, đúng lúc hoàng
thất đại loạn, được chuyên quyền phế lập, nắm giữ quốc khố giáp binh, những đồ
quốc gia trân bảo, uy chấn thiên hạ. Trác sinh tính tàn nhẫn bất nhân, dùng đến
nghiêm hình bức hiếp mọi người, những ai nhếch mắt lườm nguýt hay có hiềm khích
tất bị báo thù, mọi người chẳng ai đứng ra gánh đỡ.
Nguỵ thư
chép: Trác đòi hỏi không cùng, nói với tân khách rằng: "Ta làm tướng, quý
hiển không thể hơn được."
Anh hùng
ký chép: Trác đang muốn ra oai, lúc quan Thị ngự sử thấy long tông nhiễu nhương
đến chỗ Trác bẩm bạch, không cởi bỏ kiếm ra, Trác bèn đứng ngay dậy đánh rồi
giết đi, kinh sư chấn động. Trác cho đào áo quan của Hà Miêu, vứt thi thể ra
ngoài, băm xác vứt bỏ ở ven đường. Lại bắt mẹ Miêu là Vũ Dương quân đem giết
đi, vứt thi thể vào trong vườn thú Chỉ Lạc, chẳng ai dám thu nhặt.
Trác
từng phái quân đến Dương thành. Bấy giờ vừa đến ngày xã tháng hai(3), dân các
nơi kéo về miếu thổ địa, tất cả nam nhân đều bị lính của Trác bắt đem ra chặt
đầu, đóng lên xe trâu, lại cho chở hết phụ
nữ cùng
với tài vật về, đem các đầu bị chặt ấy buộc ở càng và trục xe, các xe nối càng
nhau quay về Lạc Dương, kêu rằng đánh giặc đại thắng, mọi người hô vang vạn
tuế. Rồi cho mở cổng thành, thiêu đốt hết các đầu ấy, đem phụ nữ cho binh lính
làm tì thiếp. Đến như việc gian loạn với cung nhân công chúa Trác cũng làm. Sự
hung nghịch đến mức như thế.
Ban đầu,
Trác tin dùng bọn Thượng thư Chu Bí, Thành môn Hiệu uý Ngũ Quỳnh, trọng dụng
tiến cử bọn Hàn Phức, Lưu Đại, Khổng Trụ, Trương Tư, Trương Mạc cho họ ra ngoài
làm tướng cai quản các châu quận. Nhưng khi bọn Phức đến nhận chức, đều tập hợp
binh tướng để đánh lại Trác. Trác nghe tin, cho rằng bọn Bí, Quỳnh nhất ý thông
đồng nhau có ý đồ hại mình, đều đem ra chém đi
Anh hùng
ký chép: Bí tự Trọng Viễn, người ở Võ Uy. Quỳnh tự Đức Du, người ở Nhữ Nam .
Hậu Hán
thư của Tạ Thừa chép: Ngũ Phu tự Đức Du, còn trẻ đã có khí tiết lớn lao, làm
Môn hạ Thư tá ở quận. Viên trưởng ấp của Phu có tội, quan Thái thú sai Phu tới
truyền mệnh, ra lệnh cho bọn thủ hạ là Đốc bưu bắt lấy. Phu không chịu vâng
mệnh, nằm phục xuống đất ngẩng mặt lên can rằng: "Vua dù không ra vua, bầy
tôi không thể không là bầy tôi được, minh phủ sao lại bắt cho Phu phải vâng
lời, để ra lệnh cho người ngoài đến bắt ấp trưởng của mình được? Xin hãy trao
việc ấy cho người khác." Thái thú ngạc nhiên nhưng chấp thuận lời ấy. Về
sau Đại tướng quân Hà Tiến cho với Phu vào làm Đông tào chúc, ít lâu lại thăng
làm Thị trung, Hà Nam
doãn, Việt kỵ Hiệu uý. Đổng Trác gây loạn, trăm quan run sợ. Phu mặc chiếc áo
giáp nhỏ, lúc vào triều giấu bội đao trong mình đến gặp Trác, muốn dò xét để
thừa dịp đâm chết Trác. Lúc nói chuyện xong Phu cáo từ ra về, Trác đưa ra đến
giữa cửa nách, Phu nhân đó rút đao đâm Trác. Trác rất khoẻ, lùi lại không bị
trúng đao, lập tức bắt lấy Phu. Trác hỏi: "Ngươi muốn làm phản sao?"
Phu kêu to rằng: "Mày chẳng phải là vua của tao, tao không phải bầy tôi
của mày, sao nói là làm phản? Mày làm loạn nước cướp quyền của chủ, tội ác ngập
đầu, hôm nay là ngày ta chết, cho nên đến giết thằng gian tặc đi vậy, hận là
chẳng xé xác được mày ở chốn triều đường để tạ thiên hạ." Trác bèn giết
Phu.
Tạ Thừa
chép Phu sinh ở bản quận, thì là ở cùng chỗ với Quỳnh, mà xem ra cái việc chết
lại khác với cái chết của Phu, chẳng biết Phu là tên khác của Quỳnh, hay Ngũ
Phu là một người khác? Điều ấy chưa được rõ ràng vậy(6).
Ghi chú:
(1) Kình nghê tức là cá voi và cá kình, những
con cá lớn rất mạnh mẽ ở ngoài biển xa. Ý Trác muốn nói là những kẻ cầm đầu nổi
dậy ở phương xa chưa diệt được.
(2) Y Doãn và Hoắc Quang đều là những đại hiền
thần đời Thương Chu , nổi danh trong lịch sử
Trung Hoa.
(3) Trỏ việc Đổng thái hậu bị Hà thái hậu bức
chết.
(4) Ngày xã tháng hai còn gọi là ngày xuân xã,
theo tục lệ xưa Trung Hoa là ngày Mậu sau ngày lập xuân năm ngày. Mùa thu cuãng
có ngày thu xã, tức là ngày Mậu sau ngày lập thu năm ngày.
(5) Việc này xảy ra ở nước Trịnh, thời Xuân
Thu.
(6) Chỗ này Bùi Tùng Chi trích dẫn một việc
xảy ra vào cùng thời gian, ở hai cuốn sách khác nhau, về hai cái chết rất khác
nhau của cái người có tên tự là Đức Du, ở cùng quê, một người có tên là Ngũ
Phu, một người có tên là Ngũ Quỳnh, và hhông hiểu được đó là một người hay là
hai người khác nhau.
TRUYỆN VIÊN THUẬT
Viên
Thuật tự Công Lộ, là con của Tư không Phùng, em họ của Thiệu vậy. Vì hào hiệp
mà nổi tiếng. Cử hiếu liêm, bái làm Lang trung, làm qua các chức ở trong ngoài,
sau đó làm Chiết xung hiệu úy, Hổ bôn trung lang tướng. Vào lúc Đổng Trác muốn
phế đế, lấy Thuật làm Hậu tướng quân; Thuật cũng sợ cái họa từ Trác, chạy ra
quận Nam Dương. Kịp lúc Trường Sa Thái thú Tôn Kiên giết Nam Dương Thái thú
Trương Tư, Thuật chiếm được quận ấy. Nam Dương có mấy trăm vạn dân hộ, nhưng
Thuật xa xỉ phóng túng, trưng thu vô độ, trăm họ bị khổ. Rồi gây hiềm với
Thiệu, lại không bằng lòng với Lưu Biểu mà liên kết với Công Tôn Toản ở phía
bắc; Thiệu cũng không hòa với Toản mà liên kết với Lưu Biểu ở phía nam. Anh em
họ trắc trở, bỏ gần theo xa như thế.
Ngô thư
chép: Bấy giờ người bàn cho là Linh Đế vô đạo khiến cho thiên hạ phản loạn, vua
nhỏ trẻ dại, bị tặc thần dựng lập, lại không biết là do bà mẹ nào sinh ra. U
châu mục là Lưu Ngu vốn có đức trọng, bọn Thiệu muốn lập Ngu để làm yên thời
cuộc, sai người báo cho Thuật. Thuật thấy nhà Hán suy kém, ngầm mang chí khác,
cho nên ngoài mặt mượn lời bàn của mọi người để chống lại ý của Thiệu. Thiệu
lại gửi thư cho Thuật rằng: "Trước đây cùng với Hàn Văn Ước mưu dựng đạo
lâu dài, muốn cả nước được thấy lại bậc chúa trung hưng. Nay miền tây mượn
tiếng là có vua nhỏ nhưng không phải là dòng dõi chính thống, công khanh trở
xuống đều hùa theo Trác, sao đáng tin được! Chỉ cần sai quân đến đóng giữ nơi
quan ải, tất khiến cho chúng đều tự chết khốn ở miền tây thôi. Ta lập vua mới ở
miền đông, mới mong thái bình, sao còn ngờ chi! Lại nữa người nhà bị giết, há
chẳng nên nghĩ đến mối thù của Ngũ Tử Tư mà ngoảnh mặt về phía bắc (1) sao?
Trái mệnh trời là không hay, mong hãy nghĩ kĩ". Thuật đáp nói: "Vua
nhỏ thông minh, có khí chất của Chu Thành Vương. Tên giặc Trác nhân buổi nguy
loạn mà ép buộc trăm quan, đấy là môi nguy nhỏ của nhà Hán mà thôi. Nay loạn
vẫn chưa dứt mà lại dấy loạn nữa? Lại nói là 'không phải là dòng dõi chính
thống', há chẳng xằng bậy sao! Từ thời tổ tiên đến nay, dẫu thời loạn nối nhau
nhưng vẫn lấy trung nghĩa làm đầu. Thái phó nhân từ rộng lượng, dẫu biết giặc
Trác tất gây họa hại nhưng vì tỏ tín nghĩa mà không nỡ bỏ đi vậy. Người nhà bị
diệt, chết chóc lưu li, ta may được người gần xa đến cứu giúp, nếu không nhân
lúc này, trên đánh giặc ác, dưới báo thù nhà mà lại mưu việc ấy, là điều không
nên vậy. Lại nói: 'Người nhà bị giết, nên ngoảnh mặt về phía bắc', đấy là việc
mà Trác làm, há vì nhà nước sao? Mệnh vua là trời vậy, không nên thù trời,
huống chi là mệnh vua đây! Ta chỉ giữ lòng son, có chí diệt Trác, không biết ý
khác".
Dẫn quân
vào quận Trần Lưu; Thái Tổ cùng Thiệu hợp sức đánh, đại phá quân của Thuật,
Thuật đem quân còn sót chạy đến quận Cửu Giang, giết Dương Châu Thứ sử Trần Ôn,
lĩnh châu ấy;
Thần là
Tùng Chi xét: Anh hùng kí chép: "Trần Ôn tự Nguyên Đễ, người quận Nhữ Nam .
Lúc trước làm Dương châu Thứ sử, tự bệnh chết. Viên Thiệu sai Viên Di lĩnh
châu, nhưng thua chạy đến nước Bái, bị quân sĩ giết. Viên Thuật lại dùng Trần
Vũ làm Dương châu Thứ sử. Vũ tự Công Vĩ, người quận Hạ Bì. Vũ đã lĩnh châu thì
Thuật thua ở Phong Khâu, xuống phía nam đến huyện Thọ Xuân; Vũ chống Thuật mà
không thu nạp. Thuật lui về giữ huyện Âm Lăng, rồi hợp quân đánh Vũ, Vũ sợ chạy
về Hạ Bì". Như thế thì Ôn không bị Thuật giết, không giống với truyện gốc.
lấy bọn
Trương Huân-Kiều Nhuy làm Đại tướng quân. Lí Thôi vào Tràng An, muốn kết Thuật
làm ngoại viện, lấy Thuật làm Tả tướng quân, phong Dương Trạch Hầu, Giả tiết,
sai Thái phó Mã Nhật Đê nhân đi tuần mà bái phong; Thuật đoạt cờ tiết của Nhật
Đê, giữ lại không cho đi.
Tam phụ
quyết lục chú chép: Nhật Đê tự Ông Thúc, là con trong họ của Mã Dung. Thủa trẻ
chăm theo nghiệp của Dung, vì có tài học mà được tiến cử, cùng bọn Dương Bưu-Lô
Thực-Sái Ung làm Điển hiệu trung thư, làm đến vị Cửu khanh, bèn nắm vị Tam
công. Hiến Đế xuân thu chép: Thuật đến chỗ Nhật Đê mượn cờ tiết để xem, nhân đó
cướp không trả, chuẩn bị hơn nghìn người trong quân, sai đốc thúc mọi người.
Nhật Đê bảo Thuật rằng: "Các vị tổ tiên nhà khanh đời trước mời gọi kẻ sĩ
như thế sao mà thúc dục như thế? Cho là quan lại của phủ quan sẽ đến sao"!
Xin Thuật cho đi, nhưng Thuật giữ lại không thả; bèn cho là làm mất cờ tiết mà
mang nhục, căm giận mà chết.
Bấy giờ
có Bái Tướng người quận Hạ Bì là Trần Khuê, là con em của Thái úy Cầu trước kia
vậy. Thuật cùng với Khuê là con cháu của Tam công, thủa trẻ có giao du, gửi thư
cho Khuê rằng: "Ngày xưa nhà Tần làm lỡ chính sự, do đó anh hùng trong
thiên hạ tranh giành mà chiếm lấy, kẻ đủ cả trí dũng rút cuộc được theo phục.
Nay việc đời nhiễu loạn, lại có thế vỡ lở vậy, thực là buổi bậc anh tài ra tay
cứu vớt. Ta thân quen với túc hạ, há chịu làm tả hữu cho họ sao? Nếu làm việc
lớn, ông thực là tim bụng của ta vậy". Bấy giờ con giữa của Khuê là Ứng ở
tại Hạ Bì, Thuật liền bắt Ứng làm con tin, mưu muốn Khuê theo về. Khuê đáp thư
nói: "Ngày xưa thời vua cuối của nhà Tần, phóng túng hung bạo, gây hại
thiên hạ, truyền độc dân đen, kẻ dưới không chịu nổi, cho nên vỡ lở. Nay dẫu là
thời cuối nhưng chưa có cái loạn hà khắc mà mất nước của nhà Tần vậy. Tào tướng
quân thần vũ hợp thời, dựng lại hình pháp, sắp dẹp bằng hung nghịch, quét sạch
cả nước, đúng có điềm ứng vậy. Ta cho là túc hạ nên gắng sức cùng lòng, giúp đỡ
nhà Hán. Vậy mà ngầm mưu không theo, chỉ là tự thân chuốc họa thôi, há chẳng
đau lòng sao! Nếu mê lầm mà biết chuyển ý thì vẫn tránh được. Ta vốn là người
quen cũ cho nên nói hết sự tình, dẫu nghịch với tai nhưng như có tình cốt nhục.
Còn nếu muốn ta riêng ý hùa theo thì dẫu chết cũng không làm vậy".
Mùa đông
năm Hưng Bình thứ hai, (năm 195 Công nguyên) thiên tử thua ở Tào Dương. Thuật
hội quan thuộc bảo rằng: "Nay họ Lưu suy yếu, cả nước loạn lạc. Nhà ta bốn
đời làm Công phụ, được trăm họ theo về, ứng mệnh trời thuận ý dân, các khanh có
ý thế nào"? Mọi người chẳng ai dám đáp. Chủ bạ Diêm Tượng bước lên nói:
"Ngày xưa nhà Chu từ thời Hậu Tắc đến thời Văn Vương, tích đức chứa công,
thiên hạ chia ba phần mà có hai phần, nhưng vẫn thờ nhà Ân. Nhà minh công dẫu
nhiều đời rạng rỡ nhưng chưa có cái thịnh của nhà Chu .
Nhà Hán dẫu suy nhưng chưa có việc bạo ngược như vua Trụ của nhà Ân vậy".
Thuật im ỉm không vui; theo lời điềm báo của người quận Hà Nội là Truơng Phủ,
bèn tiếm hiệu,
Điển
lược chép: Thuật vì họ Viên xuất từ họ Trần, mà họ Trần lại là dòng dõi của vua
Thuấn, cho là hành thổ thay hành hỏa, là ứng vận nối thay. Lại thấy có lời sấm
rằng: "Thay nhà Hán là Đồ Cao vậy". Tự cho là tên tự ứng với chữ ấy,
bèn đặt hiệu xưng là họ Trọng.
lấy Cửu
Giang Thái thú làm Hoài Nam Doãn, đặt công khanh, cúng tế ở ngoài phía nam bắc
thành, rất là xa xỉ. Hậu cung có mấy trăm người đều mặc gấm lụa, thức ăn ngon
dư thừa, Cửu châu
xuân thu chép: Con gái của Tư lệ Phùng Phương là người đẹp trong nước, tránh
loạn đến Dương châu, Thuật lên thành thấy mà vui lòng, bèn lấy làm vợ, rất sủng
ái. Các vợ ganh sủng của thị, bảo thị rằng: "Tướng quân thích người có chí
tiết, nên lúc nào cũng khóc lóc buồn rầu, tất được kính trọng lâu dài".
Phùng thị cho là phải, sau đó gặp Thuật liền rơi lệ, Thuật cho là có ý chí,
thêm thương thị. Các bà vợ khác nhân đó cùng thắt cổ giết thị, treo ở cột nhà
xí. Thuật cho thị không vừa ý mà chết, bèn liệm táng rất hậu.
mà quân
sĩ đói rét, miền Giang-Hoài trống rỗng, người dân ăn thịt nhau. Trước kia Thuật
bị Lữ Bố phá, sau lại bị Thái Tổ đánh bại, bỏ bộ khúc của mình là bọn Lôi
Bạc-Trần Lan ở núi Tiềm, lại bị họ chống lại, lo sợ không biết làm thế nào. Mưu
trao hiệu đế cho Thiệu, muốn đến Thanh châu theo Viên Đàm, trên đường bệnh
chết.
Ngụy thư
chép: Thuật trao hiệu đế cho Thiệu nói: "Nhà Hán làm mất thiên hạ lâu rồi,
thiên tử bị bắt ép, chính sự vào tay nhà khác. Bọn anh hùng tranh đuổi, chia
cắt đất đai, đấy chẳng khác gì thế bảy nước cuối thời nhà Chu ,
rút cuộc bị kẻ mạnh chiếm lấy vậy. Lại nữa họ Viên ta vâng mện đáng được làm
vua, điềm báo hiện rõ. Nay ông nắm cả bốn châu, (2) có trăm vạn dân hộ, bàn về
sức mạnh thì chẳng ai sánh được, luận về đức thì chẳng ai cao bằng. Tào Tháo
muốn cứu suy giúp yếu, há cứu nối lại được mệnh đã diệt sao"? Thiệu ngầm
cho là đúng. Ngô thư chép: Thuật đã bị bọn Lôi Bạc chống lại, ở lại ba ngày,
quân sĩ hết lương, bèn về đến Giang Đình, cách Thọ Xuân tám mươi dặm. Hỏi thuộc
hạ, còn có ba mươi đấu lúa mạch. Bấy giờ trời nóng, muốn có tương mật, lại
không có mật. Ngồi trên gường lầu, than thở hồi lâu, lại quát lớn rằng:
"Viên Thuật mà đến nỗi này sao"! Do đó đảo ngã xuống giường, thổ ra
hơn đấu máu mà chết.
Vợ con
dựa vào quan thuộc cũ của Thuật là Lư Giang Thái thú Lưu Huân; kịp lúc Tôn Sách
phá Huân, bèn bị bắt giữ; con gái của Thuật vào cung của Tôn Quyền, con trai là
Diệu được bái làm Lang trung. Con gái của Diệu lại gả cho con trai của Quyền là
Phấn.
Chú thích
(1) Nên nghĩ đến mối thù của Ngũ Tử Tư mà
ngoảnh mặt về phía bắc: ý nói chú của Thuật là Thái phó Viên Ngôi bị Đổng Trác
giết hại, Thiệu khuyên Thuật nên báo thù, ngoảnh mặt về phía bắc theo mình để
đánh Đổng Trác.
(2) Bốn châu: chỉ bốn châu mà Viên Thiệu chiếm
lấy là: U châu, Kí châu, Tinh châu, Thanh châu.
TRUYỆN VIÊN THIỆU
Viên
Thiệu tự Bản Sơ, người huyện Nhữ Dương quận Nhữ Nam . Ông tổ là An, làm quan Tư đồ
của nhà Hán. Từ đời An đến bốn đời sau đều nắm vị Tam công, do đó thế nghiêng
thiên hạ.
Hán thư
của Hoa Kiệu chép: An tự Thiệu Công, ham học lại có oai danh. Vào thời Minh Đế
làm Sở quận Thái thú, trị tội của Sở Vương, tự xét xử hơn bốn trăm nhà, đều
được cứu giúp, An bèn trở thành danh thần. Vào thời Chương Đế làm đến quan Tư
đồ, sinh Thục quận Thái thú là Kinh. Em của Kinh là Xưởng làm Tư không. Con của
Kinh là Thang, làm Thái úy. Thang có bốn con trai: con cả là Bình, em của Bình
là Thành, làm Tả trung lang tướng, đều chết sớm; em của Thành là Phùng, em của
Phùng là Ngôi, đều giữ vị Tam công. Ngụy thư chép: Từ đời An về sau đều rộng
lượng thương yêu mọi người, không có kén chọn; tân khách vào nhà mình, không kể
hiền ngu đều được như ý mình, cho nên được thiên hạ theo về. Thiệu là con thứ
của Phùng, và là anh khác mẹ của Thuật, ra làm con nối dõi của Thành. Anh hùng
kí chép: Thành tự Văn Khai, khỏe mạnh có khí hiệp, bọn quý thích cường hào từ
Đại tướng quân Lương Kí trở xuống đều kết bạn với Thành, nói ra thì không gì
không theo. Cho nên người kinh sư làm câu ngạn là: "Việc chẳng tày, hỏi
Văn Khai".
Thiệu có
dáng vẻ oai phong, biết nhún nhường kẻ sĩ, cho nên nhiều kẻ sĩ nương về, Thái
Tổ thủa trẻ cũng giao du với Thiệu. Từ chức Đại tướng quân duyện làm Thị ngự
sử,
Anh hùng
kí chép: Thiệu sinh thì vừa lúc cha chết, hai người chú thương Thiệu. Thủa trẻ
cho làm Lang, đến tuổi 'nhược quán' thì cử làm Bộc Dương Trưởng, có tiếng tốt.
Gặp lúc mẹ mất, để tang xong, lại nghĩ để tang cha, ở tại nhà mồ cả thảy sáu
năm. Lễ tang xong, ẩn cư ở Lạc Dương, không tùy tiện qua lại với tân khách, nếu
không phải là kẻ nổi danh cả nước thì không gặp nhau. Lại ưa du hiệp, làm bạn
rong ruổi với bọn Trương Mạnh Trác, Hà Bá Cầu, Ngô Tử Khanh, Hứa Tử Viễn, Ngũ
Đức Du. Không vâng lệnh quan gọi. Trung thường thị Triệu Trung bảo các Hoàng
môn rằng: "Viên Bản Sơ ngồi nơi hay đẹp, vậy mà không vâng lệnh gọi lại
nuôi dưỡng kẻ đáng tội chết, không biết thằng này muốn làm điều gì đây"?
Chú ruột của Thiệu là Ngôi nghe tin, trách mắng Thiệu nói: "Mi sẽ phá nhà
ta thôi"! Do đó Thiệu bèn đến vâng lệnh của Đại tướng quân.
Thần là
Tùng Chi xét: Ngụy thư chép: "Thiệu là con thứ của Phùng, ra làm dòng dõi
cho bác ruột là Thành". Như lời mà sách này chép thì như đúng là con mà
Thành sinh. Người ta để tang người sinh ra mình, Lễ kí thì không có chép, huống
chi là con nuôi mà lại làm lễ như thế! Hai sách chép không rõ ai đúng.
dần dần
chuyển làm Trung quân hiệu úy, làm đến Tư lệ hiệu úy.
Linh Đế
băng, anh của Thái hậu là Đại tướng quân Hà Tiến cùng Thiệu mưu đánh bọn hoạn
quan, Tục Hán thư chép: Thiệu sai khách là Trương Tân khuyên Tiến rằng:
"Bọn quan Hoàng môn-Thường thị nắm quyền lâu ngày, lại nữa Vĩnh Lạc Thái
hậu cùng bọn Thường thị chuyên qua lại mưu lợi, tướng quân nên chỉnh đốn thiên
hạ, trừ hại giúp đất nước". Tiến cho là phải, bèn kết mưu với Thiệu.
Thái hậu
không theo. Tiến bèn gọi Đổng Trác, muốn để ép Thái hậu. Bọn quan Thường
thị-Hoàng môn nghe tin, đều đến chỗ Tiến tạ tội, xin vâng theo sắp đặt. Bấy giờ
Thiệu khuyên Tiến nên nhân đó mà quyết làm đi, nhưng đến ba lần mà Tiến không
nghe, sai Thiệu lệnh những quan võ có mưu lược coi xét bọn hoạn quan. Lại sai
em của Thiệu là Hổ bôn trung lang tướng Thuật chọn hai trăm quân hổ bôn ôn hòa
vào trong cung, thay các quan Hoàng môn cầm quân giữ nhà cửa. Bọn Trung thường
thị Đoàn Khuê giả truyền lệnh của Thái hậu, gọi Tiến vào bàn nghị, rồi giết
Tiến, trong cung bèn loạn.
Cửu châu
xuân thu chép: Lúc trước Thiệu khuyên Tiến rằng: "Hoàng môn-Thường thị
nhiều đời lớn mạnh, oai trùm cả nước, khi trước Đậu Vũ muốn giết chúng mà trái
lại bị chúng hại, chỉ là vì nhân lời nói bị tiết lộ mà đem quân của năm doanh
gây biến vậy. Quân của năm doanh sinh trưởng ở kinh sư, sợ phục người trong
cung, vậy mà họ Đậu trái lại dùng sức mạnh của họ, rút cuộc họ phản chạy theo
bọn Hoàng môn, cho nên tự chuốc lấy thua diệt. Nay tướng quân dựa vào sự tôn
quý của cậu vua, hai phủ đều nắm quân khỏe, quan tướng bộ khúc của mình đều là
kẻ sĩ anh hùng, vui lòng dốc hết sức, việc ở trong lòng bàn tay, cũng là trời
cho gặp thời vậy. Nay vì thiên hạ mà trừ diệt tham ô, công lao hiển hách, lưu
danh đời sau, dẫu Thân Bá của nhà Chu há đủ để
sánh được? Nay nhà vua ở điện trước, tướng quân nên mượn chiếu thư mà lĩnh quân
giữ gìn, nhưng chớ vào cung". Tiến nghe lời ấy, sau lại nghi ngờ; Thiệu sợ
Tiến đổi ý, ép Tiếp nói: "Nay giao kết đã xong, hình thế đã lộ, tướng quân
sao lại không sớm quyết đi? Việc dừng thì sinh biến, họa sẽ đến sau đấy"!
Tiến không theo, rút cuộc thua bại.
Thuật
đem quân hổ bôn đốt cửa Thanh Tỏa ở điện Gia Đức thuộc nam cung, muốn để ép bọn
Khuê chạy ra; bọn Khuê không ra, bắt đế và em của đế là Trần Lưu Vương chạy đến
bến Tiểu Bình. Thiệu bèn chém viên Tư lệ hiệu úy là Hứa Tương mà bọn hoạn quan
sắp đặt, rồi xua quân bắt bọn hoạn quan, không kể lớn bé đều giết cả. Có kẻ
không có râu mà bắt lầm sắp giết, đến lúc tự cởi lộ thân thể mới được tha. Hoạn
quan có kẻ tự giữ làm việc thiện mà vẫn bị họa. Thiệu bừa bãi như thế, đến hơn
hai nghìn người bị giết. Gấp đuổi bọn Khuê, bọn Khuê đều nhảy xuống sông mà
chết. Đế được về cung.
Đổng
Trác gọi Thiệu, bàn muốn phế đế, lập Trần Lưu Vương. Bấy giờ chú ruột của Thiệu
là Ngôi làm Thái phó, Thiệu bèn giả hứa theo, nói: "Việc lớn này nên ra
bàn với Thái phó". Trác nói: "Tông thất họ Lưu không đáng để lập
lại". Thiệu không đáp, cầm đao vái chào rồi đi.
Hiến Đế
xuân thu chép: Trác muốn phế đế, bảo Thiệu rằng: "Hoàng đế tối tăm, không
phải là vua của nước có vạn cỗ xe. Trần Lưu Vương vẫn hơn, nay ta muốn lập hắn.
Người ta đã ít khôn thì lớn lên vẫn ngu, cũng biết được ra sao, chỉ biết tạm
như thế; khanh không thấy Linh Đế sao? Nghĩ đến thế cũng khiến cho người ta
tiếc giận"! Thiệu nói: "Nhà Hán trị thiên hạ hơn bốn trăm năm, ân
trạch thấm nhuần, triệu dân theo phục đã lâu. Nay đế dẫu nhỏ dại nhưng chưa có
điều không tốt truyền ra thiên hạ. Ngài muốn phế trưởng lập thứ, sợ rằng mọi người
không theo lời ngài vậy". Trác bảo Thiệu nói: "Trẻ con! Việc của
thiên hạ há chẳng do ta quyết? Nay ta làm việc, ai dám không theo? Ngươi bảo
sức của Đổng Trác ta không mạnh sao"! Thiệu nói: "Kẻ mạnh trong thiên
hạ, há chỉ có Đổng Công"? Rồi dẫn đao ngang chào mà đi ra. Thần là Tùng
Chi cho rằng: Bấy giờ Thiệu chưa gây hiềm khích với Trác nên mới bàn mưu với
Trác. Nếu chỉ vì bàn nghị không cùng ý mà bị mắng là 'trẻ con', lại cầm đao vái
chào đi ra? Lại nữa lúc Thiệu đáp lại, rất là ngang bướng, vậy mà Trác há nhẫn
nhịn mà không gây hại sao? Vả lại như lời ấy của Thiệu, tiến đã chẳng chính
đáng, lùi lại trái với đạo khiêm tốn, lại tỏ rõ ý hào sảng để chạm vào răng
nhọn của hổ rống, nếu có chí lập công nghiệp thì lí nào như thế? Như lời chép
này, rất là xằng bậy vậy.
Thiệu đã
ra, rồi trốn đến Kí châu. Bọn Thị trung Chu Bí, Thành môn hiệu úy Ngũ Quỳnh,
Nghị lang Hà Ngung đều là kẻ sĩ nổi danh, Trác tin họ nhưng họ ngầm giúp Thiệu,
bèn khuyên Trác rằng: "Phế lập là việc lớn, không phải là việc người
thường bàn đến. Thiệu không biết việc lớn, sợ hãi mà chạy ra, đấy là chẳng có
chí khác vậy. Nay nếu vội bắt hắn thì hắn tất gây biến. Họ Viên tạo ân bốn đời,
quan lại tân khách quen biết có khắp ở thiên hạ, nếu họ thu hào kệt để tụ dân
chúng thì anh hùng nhân đó mà nổi lên, lúc ấy ngài chẳng có miền Sơn Đông nữa.
Không bằng tha cho hắn, bái làm một viên Quận thú, vậy thì Thiệu mừng vì được
tha tội, tất chẳng lo nữa". Trác cho là phải, bèn bái Thiệu làm Bột Hải
Thái thú, phong làm Kháng hương hầu.
Thiệu
liền dấy binh ở quận Bột Hải, sắp đến đánh Trác. Chép tại Vũ Đế kỉ. Thiệu tự
hiệu làm Xa kị tướng quân, chủ minh, (1) cùng Kí châu mục là Hàn Phức lập U
châu mục là Lưu Ngu làm đế, sai sứ giả đem thư đến chỗ Ngu, Ngu không dám nhận.
Sau đó Phức đem quân đến huyện An Bình, bị Công Tôn Toản đánh bại. Toản bèn dẫn
quân vào Kí châu, mượn danh là đánh Trác, nhưng trong là muốn đánh úp Phức, do
đó Phức mang lòng không tự yên.
Anh hùng
kí chép: Phùng Kỉ khuyên Thiệu rằng: "Tướng quân làm việc lớn mà phải
trông người ta cấp lương, nếu không chiếm một châu thì không tự giữ được".
Thiệu đáp nói: "Kí châu quân mạnh, quân ta lại đói
thiếu, nếu chẳng đánh được thì chẳng còn chỗ đứng". Kỉ nói: "Nên qua
lại với Công Tôn Toản, sai hắn xuống phía nam đánh lấy Kí châu. Công Tôn Toản
đến thì Phức tất sợ, nhân đó nói lợi hại, bày kể họa phúc, Phức tất trao
nhường. Ở vào lúc ấy, tất chiếm được chức". Thiệu theo lời ấy, vừa lúc
Toản đến.
Gặp lúc
Trác sang phía tây vào cửa quan, (2) Thiệu đem quân về Diên Tân, nhân lúc Phức
kinh hoảng, bèn sai người quận Trần Lưu là Cao Cán, người quận Dĩnh Xuyên là
Tuân Kham đến khuyên Phức rằng: "Công Tôn Toản thừa thắng xuống phía nam
mà các quận ứng theo hắn; Viên Xa kị dẫn quân về hướng đông, không biết được ý
ngài ra sao? Trộm nghĩ đấy là mối nguy của tướng quân". Phức nói:
"Phải làm thế nào"? Kham nói: "Công Tôn Toản dẫn quân Yên-Đại,
khí mạnh của hắn khó mà chống nổi. Họ Viên là hào kiệt một thời, tất chẳng chịu
đứng dưới tướng quân. Kí châu là nơi của cải đầy nhiều của thiên hạ, nếu hai kẻ
kia hợp sức đem quân đánh đến ở dưới thành, lúc ấy chỉ đứng đợi nguy vong vậy.
Họ Viên là người quen của tướng quân, lại là đồng minh. Nay bọn ta muốn bày kế
giúp tướng quân, chẳng bằng đem Kí châu nhường cho họ Viên. Họ Viên được Kí
châu thì Toản không tranh được với họ Viên nữa, họ Viên tất khen đức của tướng
quân. Kí châu vào tay người thân quen, lúc ấy tướng quân có tiếng là nhường
người hiền, thân mình cũng yên vững như núi Thái Sơn vậy. Mong tướng quân chớ
nghi"! Phức vốn khiếp sợ, bèn theo kế ấy. Trưởng sử Cảnh Vũ, Biệt giá Mẫn
Thuần, Trị trung Lí Lịch can Phức rằng: "Kí châu dẫu là nơi biên giới,
nhưng có trăm vạn quân mặc giáp, thóc đủ cấp mười năm. Viên Thiệu quân cùng thế
lẻ, trông vào ta cung cấp, như trẻ con ở trên lòng bàn tay, nếu ngăn dứt mớm bú
mà đứng lên giết đi cũng được, sao lại muốn đem cả châu này trao cho hắn"?
Phức nói: "Ta là quan thuộc cũ của họ Viên, vả lại tài không bằng Bản Sơ,
lượng đức mình mà nhường người, đấy là điều mà người xưa quý trọng, các ông sao
còn ngăn trở"! Tòng sự Triệu Phù-Trình Hoán xin đem quân chống Thiệu, Phức
lại không nghe. Rồi nhường cho Thiệu, Cửu châu
xuân thu chép: Phức sai Bộ đốc tòng sự Triệu Phù-Trình Hoán đem vạn cây nỏ cứng
đi đóng đồn ở bờ bắc sông Hoàng Hà; bọn Phù nghe tin Phức muốn đem Kí châu cho
Thiệu, bèn từ bến Mạnh Tân đi nhanh xuống phía đông. Bấy giờ Thiệu còn ở cửa
sông Thanh thuộc huyện Triều Ca, bọn Phù từ phía sau đến, đem mấy trăm chiếc
thuyền, hơn vạn quân, buổi đêm diễu binh gõ trống đi qua trại của Thiệu, Thiệu
rất ghét họ. Bọn Phù đến, bảo Phức rằng: "Viên Bản Sơ quân chẳng còn một
đấu lương, đều đã tan rã, dẫu có Trương Dương-Ư Phù La mới theo nhưng chưa chịu
giúp sức, không đáng đối địch vậy. Bọn Tòng sự ta xin tự đem quân chống hắn,
trong vòng một tuần tất phá vỡ được hắn; tướng quân chỉ cần vào phòng nằm cao
gối thôi, sao phải lo sợ"! Phức không theo, bèn nhường chức, ra ở tại nhà
cũ của Triệu Trung, sai con đem ấn thao Kí châu mục đến Lê Dương cho Thiệu.
Thiệu
bèn lĩnh chức Kí châu mục.
Tòng sự
Thư Viện Thư, đọc là 'tư'. khuyên Thiệu rằng: "Tướng quân vào tuổi nhược
quán vào chầu, đến nay nêu danh khắp cả nước; kịp đến buổi phế lập thì tỏ rõ
trung nghĩa; một ngựa chạy ra thì Đổng Trác lo sợ; vượt sông Hoàng Hà lên phía
bắc thì quận Bột Hải cúi đầu; dấy quân của một quận mà nắm được binh của Kí
châu, oai lừng miền bắc sông Hoàng Hà, danh lừng ở thiên hạ. Dẫu giặc Khăn vàng
gây loạn, giặc Hắc Sơn bạo ngược nhưng nếu xua quân về phía đông thì Thanh châu
tất định; lại về đánh giặc Hắc Sơn thì Trương Yến cũng diệt được; rồi dẫn quân
lên phía bắc, Công Tôn Toản chắc thua; uy hiếp rợ Nhung-Địch thì người Hung Nô
tất theo. Lúc ấy bao trùm miền bắc sông Hoàng Hà, hợp lấy đất của bốn châu, thu
nạp bọn anh hùng, phát trăm vạn quân sĩ mà đón nhà vua ở tây kinh, dựng lại
tông miếu ở Lạc Dương, hiệu lệnh thiên hạ để đánh kẻ chưa phục; lấy đó mà tranh
giành, ai còn chống nổi? Như thế đến mấy năm, lập công không khó". Thiệu
mừng nói: "Đấy là ý ta vậy". Liền cử Viện làm Giám quân, Phấn uy
tướng quân.
Hiến Đế
kỉ chép: Thư Viện là người quận Quảng Bình. Thủa trẻ có chí lớn, nhiều mưu
lược; làm Biệt giá trong châu, cử mậu tài, làm quan Lệnh qua ba huyện, lại làm
Biệt giá của Hàn Phức, cử bái làm Kị đô úy. Viên Thiệu lấy được Kí châu, lại
gọi đến. Anh hùng kí chép: Bấy giờ là vào năm Sơ Bình, mà Thiệu tự Bản Sơ, tự
cho là năm hợp với tên tự của mình, tất dẹp trừ được họa loạn vậy.
Trác sai
Chấp kim ngô Hồ Mẫu Ban, Tướng tác đại tượng Ngô Tu đem chiếu thư dụ Thiệu,
Thiệu sai Hà Nội Thái thú Vương Khuông giết họ.
Hán mạt
danh sĩ lục chép: Ban tự Quý Bì, người quận Thái Sơn. Thủa trẻ cùng với tám kẻ
là người huyện Sơn Âm là Độ Thượng, người huyện Đông Bình là Trương Mạc đều
khinh tiền trọng nghĩa, cứu giúp kẻ sĩ, người đời gọi là 'bát trù'. Hậu Hán thư
của Tạ Thừa chép: Ban là em rể của Vương Khuông. Đổng Trác sai Ban đem chiếu
thư đến quận Hà Nội khuyên cởi bỏ nghĩa quân. Khuông vâng lệnh của Viên Thiệu,
bắt Ban vào ngục, muốn giết Ban để răn chúng. Ban gửi thư cho Khuông nói:
"Từ xưa đến nay, chưa có chư hầu nước nhỏ đem quân hướng đến kinh sư. Lưu
Hướng truyện chép: 'Đánh chuột còn sợ hỏng đồ'. Huống chi Trác ở trong cung
cấm, lấy thiên tử làm tấm che; vua nhỏ ở trong cung mà nên đánh sao? Ta với
Thái phó Mã Công, Thái bộc Triệu Kì, Thiếu phủ Âm Tu đều nhận chiếu lệnh. Các
quận miền Quan Đông dẫu thực là ghét Trác nhưng vẫn phải vâng phép vua, không
nên làm nhục. Vậy mà túc hạ lại bắt ta vào ngục, muốn để tế cờ, đấy là việc làm
của kẻ rất hung bạo vô đạo vậy. Ta với Đổng Trác nào có thân thích chi để cùng
gây xấu mà túc hạ mở lời hổ sói, tuôn xả nọc rắn, ghét Trác mà giận sang ta, sao
lại tàn khốc như thế! Chết là điều mà người khó tránh, chỉ nhục vì bị thằng
cuồng gây hại. Nếu người chết có linh, sẽ tố cáo túc hạ với trời xanh vậy. Ôi,
hôn nhân là then chốt của họa phúc, hôm nay đã rõ là thế. Trước kia một lòng,
hôm nay gây thù. Kẻ sắp chết này có hai người con, là cháu rể của ông, sau khi
thân ta chết đi, chớ cho chúng đến bên xác cốt của ta". Khuông nhận được
thư, ôm hai con của Ban mà khóc. Ban bèn chết ở trong ngục. Ban từng gặp Thái
Sơn Thái thú và hà bá, (3) việc này chép tại sách Sưu thần kí, lời văn nhiều
nên không chép ở đây.
Trác
nghe tin Thiệu có được miền Quan Đông, bèn giết hết họ hàng của Thiệu là bọn
Thái phó Viên Ngôi; lúc bấy giờ, nhiều kẻ hào hiệp theo Thiệu, đều muốn vì
Thiệu mà báo thù ấy; châu quận nội dậy, chẳng ai không mượn danh của Thiệu;
Phức lo sợ, từ chỗ Thiệu bỏ đi, đến nương dựa Trương Mạc.
Anh hùng
kí chép: Thiệu lấy người quận Hà Nội là Chu Hán làm Đô quan tòng sự. Lúc trước
Hán bị Phức không giữ lễ, cho nên mang lòng oán hận, bèn có muốn mời đón Thiệu,
tự phát binh trong thành quách giữ nhà Phức, xách đao lên phòng, Phức chạy lên
lầu, bắt được con lớn của Phức, đánh gãy hai chân; Thiệu cũng bèn bắt Hán, giết
đi. Phức vẫn lo sợ, cho nên từ chỗ Thiệu mà bỏ đi.
Sau đó
Thiệu sai sứ đến chỗ Mạc, có việc bàn nghị, nói bên tai với Mạc; Phức đang ngồi
ở trên, cho là bị họ mưu hại, không lâu sau đó đi đến nhà xí mà tự sát.
Anh hùng
kí chép: Công Tôn Toản đánh giặc Khăn vàng ở Thanh châu, đại phá chúng, về đóng
quân ở huyện Quảng Tông, thay đổi quan Thú-lệnh, bọn quan lại ở Kí Châu không
ai không trông mong ứng theo, mở cửa đón nghênh. Thiệu tự đến đánh Toản, gặp
đánh ở phía nam Giới Kiều hai mươi dặm. Quân bộ của Toản có hơn ba vạn người
bày trận hình vuông, quân kị ở hai bên, tả hữu đều có hơn năm nghìn quân kị; quân
'bạch mã nghĩa tòng' (4) làm trung quân, cũng chia làm hai cánh, tả sang hữu,
hữu sang tả, cờ xí mũ giáp sáng rợp trời đất. Thiệu sai Khúc Nghĩa đem tám trăm
quân làm tiền phong, lấy nghìn cây nỏ cứng lướt theo, Thiệu tự dẫn mấy vạn quân
bộ bày trận ở sau. Nghĩa lâu ngày ở Lương châu, hiểu quen cách đánh trận của
người Khương, quân sĩ đều kiêu dũng. Toản thấy quân địch ít, liền xua quân kị
muốn vào dày xéo; quân của Nghĩa đều nép dưới khiên không động, chưa đến mấy
chục bước thì cùng lúc đều đứng dậy, tung bụi hô lớn, đi lên xông xáo, lúc ấy
nỏ lớn cũng bắn, trúng liền tất ngã, vào trận chém hơn nghìn thủ cấp là quân
của viên Kí châu Thứ sử Nghiêm Cương mà Toản sắp đặt; quân của Toản tan vỡ, bộ
kị bỏ chạy, không còn về trại được. Nghĩa đuổi đến Giới Kiều, hậu quân của Toản
quay lại đánh ở trên cầu, Nghĩa lại phá chúng, rồi đến trại của Toản, nhổ phá
cửa trại, quân còn lại trong trại đều tan chạy. Thiệu ở phía sau, chưa đến cầu
mấy chục dặm, xuống ngựa cởi yên, thấy Toản đã vỡ, không thèm phòng bị, chỉ đặt
mấy chục cây nỏ cứng ở dưới trướng, hơn trăm quân cầm kích lớn đi theo. Chợt có
hơn hai nghìn quân kị của Toản chạy đến, liền vây Thiệu mấy vòng, tên bắn như
mưa; Biệt giá tòng sự Điền Phong đỡ Thiệu muốn lui vào tường trống, Thiệu cởi
mũ trụ ném xuống đất nói: "Đại trượng phu nên đánh đến chết, vậy mà vào
giữa tường vách, há cũng sống được"? Nỏ cứng lại bắn loạn, giết thương rất
nhiều. Quân kị của Toản không biết đấy là Thiệu, cũng từ từ rút lui; kịp lúc
Khúc Nghĩa đến đón, bèn tan chạy. Toản hễ đánh với địch thường cưỡi ngựa trắng,
đã đuổi theo là khó thoát, nhiều lần bắt được giặc mạnh, giặc tự bảo nhau rằng:
"Nên tránh quân cưỡi ngựa trắng". Vì quân địch kiêng dè, bèn chọn mấy
nghìn con ngựa trắng, lựa quân cưỡi ngựa bắn tên, gọi là quân 'bạch mã nghĩa tòng'.
Có người nói rằng những người rợ Hồ khỏe mạnh thường cưỡi ngựa trắng, Toản có
mấy nghìn quân kị khỏe, phần nhiều cưỡi ngựa trắng, cho nên gọi thế. Thiệu đã
phá Toản, dẫn quân xuống phía nam đến bến Bạc Lạc; đang cùng hội họp với các
tướng tân khách, nghe tin quân ở quận Ngụy làm phản, cùng với giặc Hắc Sơn là
bọn Vu Độc đánh thành Nghiệp, giết chết Thái thú Lật Thành, Giặc có hơn mười
đội, có đến mấy vạn quân, tụ hội ở trong thành Nghiệp. Những tân khách đang
ngồi có người nhà ở thành Nghiệp đều sợ hãi thất sắc, có kẻ đứng dậy kêu khóc,
Thiệu vẻ mặt không đổi, vẫn tự yên. Có tên giặc là Đào Thăng vốn là viên quan
nhỏ ở huyện Nội Hoàng, có ý tốt, đem riêng quân bản bộ qua thành phía tây đi
vào, đóng giữ cửa châu, không cho quân giặc khác đi vào, lấy xe chở người nhà
của Thiệu và các đồ mũa áo ở trong châu, tự mình hộ vệ, đưa đến huyện Xích Khâu
mới về. Thiệu đến, bèn đóng quân ở Xích Khâu, lấy Đào Thăng làm Kiến nghĩa
trung lang tướng. Lại dẫn quân vào hang Thương Nham ở núi Lộc Tràng thuộc huyện
Triều Ca để đánh Vu Độc, vây đánh năm ngày, phá hắn, chém Độc và viên Kí châu
mục mà triều đình ở Tràng An sắp đặt là Hồ Thọ. Rồi men theo núi đi lên phía
bắc, đánh phá bọn giặc Tả phát trượng bát, đều chém chúng. Lại đánh bọn giặc
Lưu Thạch-Thanh ngưu giác-Hoàng long-Tả hiệu- Quách Đại Hiền-Lí Đại Mục-Vu Để
Căn, đều giết cả đồn lũy, kẻ chạy trốn mới thoát, chém mấy vạn thủ cấp. Thiệu
lại về đóng quân ở thành Nghiệp. Năm Sơ Bình thứ tư, thiên tử sai Thái phó Mã
Nhật Đê, Thái bộc Triệu Kì hòa giải miền Quan Đông. Kì đi riêng đến miền bắc
sông Hoàng Hà, Thiệu ra đón ở ngoài trăm dặm, vâng nhận lệnh vua. Kì ở trại của
Thiệu, gửi thư báo cho Toản, Toản sai sứ gửi thư cho Thiệu rằng: "Triệu
Thái bộc lấy đức của Chu Thiệu, nhận lệnh sang đông, tuyên dương ân trạch, tỏ ý
hòa mục, sáng như vén mây thấy mặt trời, còn gì vui như thế? Ngày xưa Giả
Phục-Khấu Tuân cũng tranh quân sĩ, muốn gây hại nhau, gặp ý rộng lượng của vua
Quang Vũ, tự cùng bái gặp, cùng kiệu cùng đi, người thời ấy cho là vinh. Ta tự
xét là kẻ nơi biên giới, được hòa cùng với tướng quân là điều phúc. Đấy thực là
lòng chú ý của tướng quân, là điều may của Toản vậy". Khúc Nghĩa sau đó
cậy công mà kiêu căng, Thiệu bèn giết đi.
Trước
đây, thiên tử được lập vốn không phải là ý của Thiệu; lúc ở tại miền Hà Đông,
Thiệu sai người quận Dĩnh Xuyên là Quách Đồ đi sứ. Đồ về khuyên Thiệu đón thiên
tử đóng đô ở thành Nghiệp, Thiệu không nghe.
Hiến Đế
truyện chép: Thư Viện khuyên Thiệu rằng: "Nhà tướng quân nhiều đời làm
tướng quốc, trung nghĩa giúp đời. Nay triều đình chao đảo, tông miếu vỡ đổ. Xem
châu quận, ngoài mượn việc dấy nghĩa binh, trong đánh diệt nhau, chưa có ai có
ý cứu dân. Vả lại ngày thành châu mới định, nên đón nhà vua đến dựng đô ở thành
Nghiệp, kẹp thiên tử mà lệnh chư hầu, nuôi quân mã để đánh kẻ không phục; lúc
đấy còn ai chống được"! Thiệu mừng, muốn nghe theo. Quách Đồ-Thuần Vu
Quỳnh nói: "Nhà Hán suy bại đã lâu ngày rồi, nay nếu dựng lại, cũng chẳng
khó sao? Lại nữa ngày nay anh hùng chiếm lấy châu quận, trăm họ dao động, đấy
gọi là nhà Tần làm mất con hươu, kẻ bắt được trước tất làm vua. Nếu đón thiên
tử để tự thân cận thì có việc thì phải dâng biểu, phải vâng lệnh thì quyền ít,
nếu trái ý thì chống lệnh; đấy chẳng phải là kế hay". Viện nói: "Nay
đón triều đình là rất có nghĩa, lại là kế lớn hợp với thời vậy. Nếu không sớm
làm đi thì tất có người làm trước. Nắm quyền chớ để mất cơ hội, lập công cốt
tại nhanh nhạy, tướng quân hãy làm đi"! Thiệu không làm được. Xét sách này
nói là kế của Thư Viện, đấy là trái với truyện gốc.
Kịp lúc
Thái Tổ đón thiên tử đóng đô ở đất Hứa, thu đất Hà Nam , miền Quan Trung đều theo phục;
Thiệu tiếc, muốn sai Thái Tổ dời thiên tử đóng đô ở huyện Quyên Thành để tự
thân cận, Thái Tổ chống lại. Thiên tử lấy Thiệu làm Thái úy, phong tước Nghiệp
Hầu;
Hiến Đế
xuân thu chép: Thiệu nhục vì thứ bậc ở dưới Thái Tổ, giận nói: "Tào Tháo
mấy lần suýt chết, ta liền cứu mới sống. Nay lại phản ân, kẹp thiên tử để sai
ta chăng"! Thái Tổ nghe tin, liền đem chức Đại tướng quân nhường cho
Thiệu.
Thiệu
nhường tước Hầu không nhận. Chốc lát, Thiệu đánh phá Toản ở thành Dịch, thu
quân của Toản. Điển lược chép: Từ đấy Thiệu ít dâng cống cho thiên tử, sai
riêng Chủ bạ Cảnh Bao bẩm kín rằng: "Vận hỏa suy kiệt, họ Viên là dòng dõi
của vận thổ, (5) nên theo ý trời". Thiệu vì Bao bẩm kín việc này cho quan
thuộc trong phủ quân. Người bàn đều cho là Bao xằng bậy, đáng giết; Thiệu bèn
giết Bao để tự giải thích. Cửu châu xuân thu chép: Thiệu mời gọi người quận Bắc
Hải là Trịnh Huyền mà không có lễ, Triệu Dung nghe tin, nói: "Người hiền
là người quân tử mong gặp. Người làm vua còn không dám làm mất ý vui của vạn
dân, huống chi là đối với quân tử đây? Nếu làm mất ý mong của quân tử thì khó
mà có được quân tử vậy". Anh hùng kí chép bài hát Đổng Trác ca, lời rằng:
"Đức hạnh không sót thiếu, biến cố khó xem thường, Trịnh Khang Thành uống
rượu mà ngã xuống đất tắt thở, Quách Cảnh Đồ cũng mất mạng ở vườn dâu".
Như lời văn này thì Huyền không bị bệnh mà chết. Các sách khác không thấy chép,
cho nên chép bài này ra đây.
Lấy con
cả là Đàm ra làm Thanh châu Thứ sử, Thư Viện can Thiệu rằng: "Tất gây mầm
họa". Thiệu không nghe, nói: "Ta muốn sai các con đều giữ một châu
vậy".
Cửu châu
xuân thu chép lời can gián của Thư Viện rằng: "Người đời nói rằng một con
thỏ chạy trên đường mà vạn người đuổi bắt, nếu một người bắt được nó thì những
người tranh bắt đều dừng lại, đã phân định vậy. Vả lại tuổi thọ do ở hiền năng,
đức hạnh do ở bói đoán, đấy là phép cũ vậy. Mong trên nghĩ lời răn thành bại
của đời trước, dưới xét cái nghĩa bắt thỏ phân định". Thiệu nói: "Ta
muốn sai bốn đứa con đều giữ lấy một châu để xem tài của chúng". Viện lui
ra, nói: "Họa bắt nguồn từ đấy sao"! Đàm mới đến Thanh châu, làm Đô
đốc, chưa làm Thứ sử; châu ấy từ sông Hoàng Hà về phía tây, đại khái chỉ đến
chỗ không quá quận Bình Nguyên mà thôi. Bèn lên phía bắc diệt Điền Khải, sang
phía đông đánh Khổng Dung, giễu binh đến bờ biển. Bấy giờ trăm họ không có ai
làm chủ, mừng rỡ đi theo. Nhưng tin dùng bọn tiểu nhân, ưa nghe lời ngon ngọt,
xa xỉ phóng túng, không biết rằng việc trồng lúa vất vả. Hoa Ngạn-Khổng Thuận
là bọn tiểu nhân gian nịnh mà tin dùng làm tim bụng; bọn Vương Tu chỉ làm quan
nhỏ mà thôi. Nhưng lại biết đối đãi tân khách, kính trọng kẻ sĩ. Sai em vợ lĩnh
quân ở trong, để cho cướp bóc, ngoài chốn phố chợ còn cướp lấy ở chốn đồng
ruộng; sai riêng hai tướng quân mộ binh ở các huyện, kẻ hối lộ thì được tha,
không thì bị lấy. Nhiều người nghèo yếu, đến nỗi phải chui nấp trong đồng gò,
bèn xua quân bắt trói như bắt cầm thú. Ấp có vạn hộ dân mà chép vào sổ bạ không
đầy mấy trăm hộ, thu thuế nạp tô không đến một phần ba. Sai gọi người hiền, nếu
họ không đến hay không đến hẹn quân dịch mà ở yên nơi thôn ấp cũng không bị
phạt tội thêm.
Lại lấy
con giữa là Hi làm U châu Thứ sử, con rể là Cao Cán làm Tinh châu Thứ sử. Thiệu
có mấy chục vạn quân, lấy Thẩm Phối-Phùng Kỉ coi việc quân, Điền Phong-Tuân
Kham-Hứa Du làm mưu sĩ, Nhan Lương-Văn Sửu làm tướng súy, chọn mười vạn quân,
một vạn quân kị khỏe, mưu đánh đất Hứa.
Thế ngữ
chép: Thiệu có năm vạn quân bộ, tám nghìn quân kị. Tôn Thịnh bình rằng:
"Xét Ngụy Vũ Đế bảo Thôi Diễm rằng: 'Vừa xét sổ hộ của châu này, có thể
thu đến ba mươi vạn quân'. Do đó mà suy, riêng quân của Kí châu đã như thế,
huống chi cả U châu-Tinh châu và Thanh châu đây? Thiệu phát đại binh, tất gom
hết quân mà dùng, phải đến mười vạn quân vậy". Hiến Đế truyện chép: Thiệu
muốn đem quân đánh miền nam, Thư Viện-Điền Phong can rằng: "Phát quân
nhiều năm, trăm họ mỏi mệt, kho tàng không chứa, tô thuế càng nhiều, đấy là nỗi
lo sâu nặng của nhà nước vậy. Nên sai người báo tin vui cho thiên tử trước, rồi
chăm chỉ trồng trọt mà cho dân nghỉ ngơi, nếu chẳng làm được thì dâng biểu tấu
họ Tào chặn đường thờ vua của ta rồi mới tiến quân đến Lê Dương, dần dần chiếm
miền Hà Nam, làm thêm thuyền bè, sửa sang khí giới, chia sai quân kị khỏe đi
đánh lấy nơi biên giới, khiến cho nên ấy không được yên mà ta lại được ổn. Như
thế trong ba năm thì ngồi mà định được vậy". Thẩm Phối-Quách Đồ nói:
"Theo phép dùng binh, 'thập vây ngũ công' (6) thì mới đánh địch được. Nay
dựa vào thần vũ của minh công, xua quân mạnh của miền Hà Bắc để đánh họ Tào thì
dễ như trở bàn tay. Nay không lấy thì sau khó đánh được". Viện nói:
"Cứu nạn dẹp bạo gọi là quân nghĩa; cậy đông dựa mạnh, gọi là quân kiêu.
Quân nghĩa thì không ai địch, quân kiêu tất diệt trước. Họ Tào đón thiên tử
đóng đô ở đất Hứa; nay ta phát quân xuống phía nam, về nghĩa là trái. Vả lại kế
hay hơn cả là không tại ở hiếp yếu. Họ Tào đã đặt pháp lệnh, quân sĩ thành
thạo, không phải như Công Tôn Toản ngồi chịu vây đâu. Nay bỏ kế vẹn toàn mà dấy
quân không có danh nghĩa, thần trộm lo cho minh công"! Bọn Đồ nói:
"Vũ Vương đánh Trụ, không gọi là không có nghĩa, huống chi đem quân đánh
họ Tào mà gọi là không có danh nghĩa sao? Vả lại minh công tỏ sức thần võ,
tướng sĩ hăng hái, người ta tự theo, vậy mà không sớm hợp thời định nghiệp lớn,
đấy là ý lầm vậy. Nếu trời cho mà không lấy thì chỉ chước lấy họa, đấy là
nguyên nhân vua Việt làm bá vương mà Ngô mất nước vậy. Kế của quan Giám quân
chỉ như giữ lấy tù ngục mà không phải là cái quyền biến của người biết thời
cơ". Thiệu nghe theo. Bọn Đồ nhân đó gièm Viện với Thiệu rằng: "Viện
coi xét trong ngoài, oai lừng ba quân. Nếu bên ấy cường thịnh thì lấy gì mà
ngăn được? Tôi không nắm quyền ngang với vua thì hưng, vua nắm quyền ngang tôi
thì vong, đấy là điều mà sách Hoàng thạch kị vậy. Vả lại nắm quân ở ngoài thì
không nên coi việc ở trong". Thiệu nghi ngờ, bèn chia quan chủ việc quân
làm ba vị Đô đốc, sai Viện và Quách Đồ-Thuần Vu Quỳnh đều nắm một cánh quân,
rồi hợp mà xuống đánh miền nam.
Lúc
trước, Thái Tổ sai Lưu Bị đến Từ châu chống Viên Thuật; kịp lúc Thuật chết, Bị
giết Thứ sử Xa Trụ, dẫn quân đóng đồn ở nước Bái. Thiệu sai quân kị giúp Bị.
Thái Tổ sai Lưu Đại- Vương Trung đánh Bị, không thắng. Năm Kiến An thứ năm,
(năm 200 Công nguyên) Thái Tổ tự sang phía đông đánh Bị. Điền Phong khuyên
Thiệu đánh úp mặt sau của Thái Tổ nhưng Thiệu vì con bệnh mà không theo; Phong
ném gậy xuống đất nói: "Đây là thời cơ khó gặp, vì con nhỏ bệnh mà làm mất
cơ hội, tiếc thay"!
Thái Tổ
đến, đánh phá Bị, Bị sang chỗ Thiệu.
Ngụy thị
xuân thu chép văn của Thiệu hịch gọi châu quận rằng: "Thường nghe vua sáng
mưu cứu nguy để dẹp loạn, tôi trung mưu trừ nạn để lập quyền. Ngày xưa nhà Tần
cường bạo mà vua lại yếu kém, Triệu Cao nắm quyền, chuyên chế triều đình, tự
gây oai phúc, rút cuộc có mối họa ở cung Vọng Di, để tiếng xấu nhục đến nay.
Kịp đến thời Lữ Hậu-Lộc-Sản chuyên chính, nắm giữ quyền lệnh, coi xét hình
pháp, lấn trên hiếp dưới, người cả nước đau lòng. Do đó Giáng Hầu-Chu Hư tỏ oai
trổ giận, diệt trừ nghịch loạn, tôn lập Thái Tông, thế nên mới nêu dậy đạo hóa,
sáng rõ rạng rỡ; đấy là tấm gương sáng của bậc đại thần lập quyền vậy. Ngày nay
Tư không Tào Tháo, ông nội là Đằng vốn làm Trung thường thị, cùng với bọn Tả
Quán-Từ Hoàng gây tai nghiệt, phóng túng hung ác, tàn ngược dân chúng. Cha là
Tung, xin làm con nuôi, nhân đó mua chức, xe vàng bánh ngọc chở tiền vào nhà
bọn quyền quý, cướp vị Tam công, đảo lộn triều đình. Tháo nối tính xấu, không
có đức lành, cậy mạnh hiếp yếu, ưa loạn gây họa. Khi trước mạc phủ (7) thống
lĩnh bọn anh hùng quét trừ bọn hung nghịch, kế đó gặp buổi Đổng Trác hiếp quan
hại nước, do đó vung kiếm gõ trống, phát lệnh ở miền đông, thu nạp bọn anh
hùng, bỏ xấu chọn dùng. (8) Cho nên cùng bày mưu với Tháo, cho rằng hắn có tài
ưng khuyển, nên dùng làm nanh vuốt. Thế nhưng hắn lại ngu dốt nghĩ kém, khinh
thường hiệu lệnh, dẫn đến thua vỡ, nhiều lần mất quân. Mạc phủ liền lại chia
quân khỏe bù đắp sửa sắm cho hắn, cử làm Đông Quận Thái thú, Duyện châu Thứ sử,
cho mặc da hổ, cho lĩnh quân mạnh, trao gửi quyền oai, mong rằng sẽ thắng quân
Tần một trận. Vậy mà Tháo lại thừa cơ giày xéo, phóng túng hung bạo, giết chóc
dân chúng, tàn hại người hiền. Cửu Giang Thái thú Biên Nhượng trước kia là bậc
anh tài hơn đời, nổi danh thiên hạ, vì nói thẳng cứng cỏi, bàn chẳng a dua, thế
mà thân bị giết treo đầu, vợ con cũng bị họa di diệt. Từ đấy kẻ sĩ tức giận,
dân oán càng nhiều, một người giương tay thì cả châu ứng lời, cho nên Tháo bị
người Từ châu đánh phá, bị Lữ Bố đoạt lấy đất, vất vưởng ở miền đông, không có
chỗ đứng chân. Mạc phủ nghĩ đến cái nghĩa gốc mạnh cành yếu, lại không khép hắn
vào bọn phản loạn, cho nên lại trao cờ cấp quân, ra lệnh đánh dẹp, gõ trống
vang lừng, quân Bố thua vỡ, cứu hắn khỏi cái họa chết người, lập lại chức quan
cho hắn; đấy là mạc phủ không có đức với dân ở Duyện châu mà lại có công giúp
Tháo vậy. Sau kịp lúc nhà vua về lại miền đông, bọn giặc gây loạn. Bấy giờ Kí
châu đang có việc ở biên ải phía bắc, ta chưa ra khỏi châu được, cho nên sai
Tòng sự trung lang Từ Huân đến dụ lệnh Tháo, sai phải đắp sửa tông miếu, giúp
đỡ vua nhỏ. Nhưng hắn lại tự ý chuyên quyền, ép vua dời đô, ức hiếp trăm quan,
làm loạn kỉ cương, ngồi trên tam đài, nắm giữ chính sự, phong tước tùy ý, xử
phạt tùy miệng. Kẻ mà mình thích thì cho năm họ rạng rỡ, kẻ mà mình ghét thì
bắt ba họ diệt cả. Bọn nào dám bàn luận thì bị giết trước mặt, bọn nào bàn nghị
để trong lòng thì bị giết ngấm ngầm, do đó người đi đường chỉ liếc mắt, trăm
quan ngậm miệng, các quan Thượng thư đến chầu hội, công khanh làm quan chỉ có
chỗ đứng mà thôi. Thái úy Dương Bưu từng nắm vị Tam công, chức cao cả nước, do
đó Tháo ganh hiềm, khép cho tội lỗi, kéo ra đánh đập, đủ năm hình phạt, tự ý
càn rỡ, không theo phép tắc. Lại nữa Nghị lang Triệu Ngạn, nói thẳng can gián,
lời bàn đáng làm, cho nên triều đình nghe theo, vui lòng ban thưởng, nhưng Tháo
muốn cướp đoạt quyền bính, cấm ngăn bàn nghị, liền bắt giết đi, không cần báo
lên. Lại nữa Lương Hiếu Vương là em ruột của tiên đế, lăng mộ tôn quý, tùng
bách trên đó còn phải kính nghiêm, thế mà Tháo tự đem quan tướng quân sĩ đến
đào bới, phá quan lộ thây, cướp lấy vàng ngọc, khiến cho triều đình rơi lệ,
quân dân đau xót. Lại nữa đặt quan Phát khâu trung lang tướng, Mô kim hiệu úy,
(9) qua đâu bới đó, không xương cốt nào không phơi lộ. Thân tự nắm vị Tam công
mà lại làm việc bạo ngược, phá dân hại nước, tuôn độc thần người như thế. Lại
thêm chính sự phiền hà, (10) bày cách ngăn ngừa, như giăng lưới chặn đường, đào
hố ngăn lối, giương tay thì mắc lưới, động chân thì vướng bẫy, cho nên miền
Duyện-Dự không có dân yên vui, miền kinh đô có tiếng oán than thở. Xem qua sách
vở xưa nay chép về những bầy tôi vô đạo tàn ngược, như Tháo là quá lắm. Mạc phủ
đang phạt tội kẻ gian ngoài cõi, chưa kịp dạy hắn, có ý rộng lượng, mong hãy
sửa lỗi. Thế nhưng Tháo mang lòng lang sói, ngầm mưu gây họa, lại muốn bẻ gãy
cột trụ, làm cho nhà Hán suy yếu, diệt trừ người trung lương, chuyên làm việc
kiêu hùng. Năm ngoái ta gióng trống lên miền bắc đánh Công Tôn Toản, ngăn quân
hung nghịch, chống giữ một năm; Tháo nhân lúc quân ta chưa phá được giặc, ngầm
gửi thư qua lại, muốn mượn cớ giúp quân ta để đến đánh úp, cho nên dẫn quân đến
sông Hoàng Hà. Đang chèo thuyền sang bờ bắc thì gặp lúc người đi đường tiết lộ,
lúc ấy Toản cũng bị diệt, cho nên mũi nhọn cùn nhụt, mưu kế không thành. Hắn
giữ Ngao Thương, dựa sông Hoàng Hà làm chỗ vững, lại muốn lấy cánh tay bọ ngựa
để chặn bánh xe lớn. Mạc phủ vâng oai linh của nhà Hán, chiếu rọi vũ trụ, mang
trăm vạn cây kích dài, phát tướng khỏe như Trung Hoàng-Dục-Hoạch, (11) tỏ thế
nỏ cứng cung bền, từ Tinh châu qua núi Thái Hàng, từ Thanh châu vượt sông Tế-Lũy,
đại quân bơi sông Hoàng Hà đến đánh trước, từ Kinh châu xuống thành Uyển-Diệp
mà đánh mặt sau, sấm động hổ vồ, cùng đến hang giặc như phóng lửa bừng để đốt
cỏ khô, múc nước biển lớn mà dập than cháy, có gì chẳng tiêu diệt được đây?
Ngày nay nhà Hán suy yếu, kỉ cương đứt gãy. Tháo đem trăm vạn quân khỏe vây giữ
cung cấm, ngoài xưng là bảo vệ, nhưng trong thực là bắt giữ. Ta sợ hắn gây họa
tiếm nghịch từ đó mà ra. Đây là buổi trung thần phải gan óc lấy đất, là thời
tráng sĩ nên lập công vậy. Chẳng đáng gắng sao"! Đây là lời văn của Trần
Lâm.
Thiệu
đem quân đến Lê Dương, sai Nhan Lương đánh Lưu Diên ở huyện Bạch Mã. Thư Viện
lại can Thiệu rằng: "Lương tính nóng vội, dẫu kiêu dũng nhưng không nên
dùng một mình". Thiệu không nghe. Thái Tổ cứu Diên, đánh với Lương, phá
chém Lương.
Hiến Đế
truyện chép: Thiệu sắp đi đánh, Thư Viện họp họ hàng của mình, chia của cải để
cho họ, nói: "Quyền còn thì oai không nơi nào không đến, quyền mất thì
không giữ được một tấm thân. Thương thay"! Em là Tông nói: "Quân mã
của Tào Công khó địch được quân ta, anh sao lại sợ"! Viện nói: "Dựa
vào cái mưu sáng của Tào Duyện châu, lại kẹp thiên tử để làm thế riêng, quân ta
dẫu đã thắng Công Tôn Toản nhưng quân thực là yếu kém, lại nữa tướng kiêu chủ
căng thì quân thua bại, là do ở đấy. Dương Hùng có nói: 'Sáu nước ngu si, giúp
họ Doanh diệt họ Cơ', là nói về ngày nay vậy".
Thiệu
vượt sông Hoàng Hà, đóng lũy ở phía nam Diên Tân, sai Lưu Bị-Văn Sửu dụ
đánh,Thái Tổ đánh phá chúng, chém Sửu; đánh nữa, bắt được đại tướng của Thiệu,
quân của Thiệu cả kinh.
Hiến Đế
truyện chép: Thiệu sắp vượt sông, Thư Viện can rằng: "Thắng thua biến hóa,
không thể không rõ. Nay nên đóng đồn ở bến Diên Tân, lại chia quân đến Quan Độ.
Nếu thắng được thì trở về không muộn. Nếu đánh gặp khó thì quân chẳng về được".
Thiệu không nghe. Viện sắp vượt sông, than rằng: "Trên thì tỏ chí lớn,
dưới thì ham lập công, sông Hoàng Hà mênh mông, ta không quay về được
chăng"! Bèn lấy cớ bệnh từ chối, Thiệu giận, liền cắt quân bản bộ của Viện
trao cho Quách Đồ.
Thái Tổ
về Quan Độ. Thư Viện lại nói: "Quân bắc dẫu đông nhưng không khỏe mạnh
bằng quân nam; nhưng quân nam lương thiếu ít mà đồ dùng lại không bằng quân
bắc; quân nam lợi lở đánh nhanh, quân bắc lợi ở đánh lâu. Nên thong thả chờ đợi
để ngày tháng dây dưa". Thiệu không theo, các đội liên tiếp tiến lên, đến
gần Quan Độ, gặp đánh, quân của Thái Tổ không được lợi, rút về giữ lũy. Thiệu
làm khiên lớn, đắp gò đất, bắn tên vào trong lũy, quân trong lũy đều che khiên,
quân Thái Tổ cả sợ. Thái Tổ bèn làm xe bắn đá, bắn lầu của Thiệu, đều phá được,
quân của Thiệu gọi là 'xe sấm sét'.
Ngụy thị
xuân thu chép: Vì thời xưa có bắn đá, lại nữa kinh truyện có chép: "Quái
động thì đánh trống". Giải thích rằng: "Quái là bắn đá vậy". Do
đó làm xe bắn đá.
Thiệu
đào hầm đất, muốn đánh úp trại của Thái Tổ. Thái Tổ liền dựng lũy dài ở trong
để chống lại, lại sai quân mạnh đánh úp xe vận lương của Thiệu, đại phá chúng,
đốt sạch lương thóc. Thái Tổ chống nhau với Thiệu lâu ngày, trăm họ thiếu đói,
nhiều người phản theo Thiệu, quân sĩ thiếu lương. Kịp lúc Thiệu sai bọn Thuần
Vu Quỳnh đem hơn vạn quân lên phía bắc chở lương, Thư Viện khuyên Thiệu rằng:
"Nên sai tướng là Tưởng Kì đi riêng làm một đội để chặn Tào Công đi
cướp". Thiệu lại không theo. Quỳnh đóng quân ở Ô Sào, cách chỗ quân của Thiệu
bốn mươi dặm. Thái Tổ bèn để Tào Hồng ở lại giữ, buổi đêm tự đem năm nghìn quân
bộ kị lẻn đi đến đánh Quỳnh; Thiệu sai quân kị cứu Quỳnh, nhưng thua chạy. Thái
Tổ phá bọn Quỳnh, chém hết chúng. Thái Tổ về, chưa đến trại, tướng của Thiệu là
bọn Cao Lãm-Trương Cáp đem quân bản bộ đến hàng. Quân của Thiệu vỡ lở, Thiệu
cùng Đàm cưỡi ngựa rút qua sông. Quân còn lại giả hàng, Thái Tổ chôn sống hết
chúng.
Hán kỉ
của Trương Phan chép: Giết quân của Thiệu cả thảy tám vạn người.
Thư Viện
không kịp qua sông, bị quân bắt được, đưa đến chỗ Thái Tổ.
Hiến Đế
truyện chép: Viện kêu to rằng: "Viện này không hàng, để quân địch bắt
thôi". Thái Tổ có quen với Viện, đón bảo Viện rằng: "Thân phận khác
biệt, cho nên ngăn cách. Không ngờ hôm nay lại bắt nhau thế này"! Viện đáp
nói: "Kí châu không có sách lược mà chuốc lấy thua vỡ. Viện trí lực đều
khốn nên mới bị bắt vậy". Thái Tổ nói: "Bản Sơ không có mưu, không
dùng kế của ông. Nay tang loạn nhiều năm, nhà nước chưa yên, ta nên cùng cứu
giúp". Viện nói: "Chú ruột, mẹ, em treo mạng ở nhà họ Viên. Nếu được
ngài mở ân, dẫu chết cũng là phúc". Thái Tổ than rằng: "Ta sớm có
được ông thì thiên hạ chẳng đáng lo".
Thái Tổ
đãi hậu Viện, sau lại mưu về chỗ họ Viên, bị giết.
Lúc
trước, Thiệu xuống phía nam, Điền Phong khuyên Thiệu rằng: "Tào Công giỏi
dùng binh, biến hóa không lường. Quân dẫu ít nhưng không nên khinh thường.
Không bằng chống giữ lâu ngày. Tướng quân dựa vào cái vững của sông núi, nắm
quân của bốn châu, ngoài kết anh hùng, trong sửa việc nông, rồi kén chọn quân
tinh nhuệ, chia làm quân lạ, chọn chỗ hở mà ra đánh để lấy miền Hà Nam, cứu hữu
thì đánh bên tả, cứu tả thì đánh bên hữu, khiến cho quân địch mệt mỏi vì rong
ruổi, dân không được ở yên; lúc ấy ta chưa mệt mà địch đã khốn, chưa đến hai
năm thì có thể ngồi mà đánh thắng vậy. Nay bỏ kế chắc thắng mà lại quyết được
thua ở một trận, nếu chẳng như ý thì hối chẳng kịp nữa". Thiệu không theo.
Phong cố can, Thiệu giận lắm, cho là ngăn trở quân sĩ, bắt trói lại. Quân của
Thiệu đã thua, có người bảo Phong rằng: "Ông tất được coi trọng". Phong
nói: "Nếu quân có lợi thì ta được sống. Nay quân thua, ta tất chết
thôi". Thiệu về, bảo tả hữu nói: "Ta không nghe lời Điền Phong, quả
nhiên bị chê cười". Bèn giết Phong.
Tiên
hiền hành trạng chép: Phong tự Nguyên Hạo, người quận Cự Lộc, có kẻ nói là người
quận Bột Hải. Phong bản tính kiệt hiệt, quyền biến nhiều mưu. Thủa trẻ mất
người thân, để tang rất đau buồn. Kì tang dẫu qua nhưng vẫn không cười. Học
rộng biết nhiều, nổi danh trong châu. Lúc đầu được mời đến phủ Thái úy, cử mậu
tài, chuyển làm Thị ngự sử. Bọn hoạn quan chuyên quyền, kẻ anh hiền bị hại,
Phong bèn bỏ quan về nhà. Kịp lúc Viên Thiệu khởi nghĩa, nói lời nhún nhường
tặng tiền nhiều để mời Phong đến, Phong vì nhà vua nhiều nạn, có chí cứu giúp,
liền vâng lệnh của Thiệu, cho làm Biệt giá. Khuyên Thiệu đón thiên tử, Thiệu
không nghe, sau Thiệu dùng mưu của Phong mà dẹp Công Tôn Toản.
Phùng Kỉ
ngại tính thẳng thắn của Phong, nhiều lần gièm Phong với Thiệu, Thiệu bèn ngờ
Phong. Vào lúc quân của Thiệu thua, vỡ lở trốn về phương bắc, quân sĩ mất cả,
quân đều đấm ngực mà khóc nói: "Nếu để Điền Phong ở đấy thì không đến nỗi
thế này". Thiệu bảo Phùng Kỉ nói: "Người Kí châu nghe tin quân ta
thua đều đang giận ta, riêng Điền Biệt giá lúc trước can ngăn ta, không giống
với mọi người, nếu ta gặp hắn cũng thẹn". Kỉ lại nói: "Phong nghe tin
tướng quân rút về, liền vỗ tay cười lớn, vui vì lời mình đúng". Do đó
Thiệu có ý giết Phong. Trước đây, Thái Tổ nghe nói Phong không theo quân, mừng
nói: "Thiệu tất thua thôi". Kịp lúc Thiệu chạy trốn, lại nói:
"Nếu mà Thiệu dùng kế của Điền Biệt giá thì còn chưa biết thế nào"!
Tôn Thịnh nói: "Ta xem mưu của Điền Phong-Thư Viện, dẫu là Lương-Bình há
hơn được thế? Cho nên vua quý phải người tài, tôi phải chọn vua; vua dùng người
trung lương thì nghiệp bá vương mới lập được. Tôi thờ vua ngu tối thì chỉ chuốc
họa nguy vong. Được mất vinh nhục thường do ở đấy. Phong biết Thiệu sắp thua,
thua thì mình tất chết, vui lòng xông vào miệng hổ để tỏ hết lòng trung, tráng
sĩ đối với việc ấy, chẳng nghĩ thân mình được sống vậy. Đối với bầy tôi của chư
hầu, về nghĩa thì có thể bỏ đi hoặc theo về, huống chi là Phong không phải là
bầy tôi thân cận của Thiệu đây! Kinh Thi chép: 'Ta từ bỏ người, đến chỗ yên
vui', ý nói bỏ nơi loạn là cũng phải đạo vậy".
Thiệu
ngoài thì rộng rãi, có khí độ, vui buồn không lộ ra mặt nhưng trong lại nghi
kị, đều đại loại như thế.
Nhiều
thành ấp ở Kí châu làm phản, Thiệu lại đánh dẹp được. Từ sau khi quân thua bèn
sinh bệnh. Năm (Kiến An) thứ bảy, (năm 202 Công nguyên) lo lắng mà chết.
Thiệu
sủng ái con nhỏ là Thượng, có vẻ đẹp, muốn lấy làm nối tự mà chưa nói ra.
Điển
lược chép: Đàm là con cả lại có ân huệ, Thượng là con út mà có dáng đẹp. Vợ của
Thiệu là Lưu thị yêu Thượng, nhiều lần khen tài của Thượng, Thiệu cũng khen
dáng vẻ của Thượng, muốn cho nối dõi, chưa kịp nói ra thì Thiệu chết. Lưu thị
tính ganh kị, Thiệu chết, thây liệm chưa xong thì năm người thiếp được Thiệu
sủng ái đã bị Lưu thị giết cả. Cho là người chết cũng biết, sẽ lại gặp Thiệu ở
dưới đất, liền cắt tóc bôi mực lên mặt để hủy dáng vẻ của họ. Thượng lại giết
sạch người nhà của những người đã chết kia.
Thẩm
Phối-Phùng Kỉ tranh quyền với Tân Bình-Quách Đồ, Phối-Kỉ kết với Thượng,
Bình-Đồ kết với Đàm. Mọi người vì Đàm là con cả, muốn lập Đàm. Bọn Phối sợ Đàm
lập thì bọn Bình sẽ hại mình, bèn theo ý cũ của Thiệu, rồi lấy Thượng thay vị
của Thiệu. Đàm đến, không được lập, tự hiệu làm Xa kị tướng quân. Do đó
Đàm-Thượng hiềm khích. Thái Tổ lên phía bắc đánh Đàm-Thượng. Đàm dẫn quân đến
Lê Dương; Thượng cấp cho Đàm ít quân, lại sai Phùng Kỉ đến chỗ Đàm; Đàm xin
thêm quân, bọn Phối bàn không cho, Đàm giận, giết Kỉ.
Anh hùng
kí chép: Kỉ tự Nguyên Đồ. Trước đây, Thiệu bỏ Đổng Trác chạy ra, cùng với Hứa
Du và Kỉ đến Kí châu. Thiệu vì Kỉ thông đạt có kế sách, rất tin dùng Kỉ, cùng
Kỉ dấy binh. Sau đó lại dùng Thẩm Phối, Phối không hòa với Kỉ. Có kẻ gièm Phối
với Thiệu, Thiệu hỏi Kỉ, Kỉ nói: "Phối bản tính cứng cỏi, có khí tiết của
người xưa, không nên nghi ngờ hắn". Thiệu nói: "Ông chẳng ghét hắn
sao"? Kỉ đáp nói: "Ngày trước tranh giành là vì tình riêng, nay thần
nói là vì việc nước". Thiệu khen lời, rút cuộc không bỏ Phối. Do đó Phối
càng thân thiện với Thiệu.
Thái Tổ
vượt sông Hoàng Hà đánh Đàm, Đàm gấp báo cho Thượng. Thượng muốn chia quân cứu
Đàm, nhưng sợ Đàm chiếm lấy quân của mình, bèn sai Thẩm Phối giữ thành Nghiệp,
còn Thượng tự đem quân
giúp Đàm, chống nhau với Thái Tổ ở Lê Dương. Từ tháng hai đến tháng chín, (năm
Kiến An thứ tám) đánh lớn ở dưới thành, Đàm-Thượng thua chạy vào giữ thành.
Thái Tổ lại vây thành, Đàm-Thượng bèn buổi đêm chạy trốn. Đuổi đến thành
Nghiệp, thu gặt lúa mạch ở đấy, lại phá thành Âm An, rồi dẫn quân về đất Hứa.
Kịp lúc Thái Tổ xuống phía nam đánh Kinh châu, dẫn quân đến quận Tây Bình;
Đàm-Thượng bèn phát quân đánh nhau, Đàm thua trốn đến quận Bình Nguyên. Thượng
gấp đánh Đàm, Đàm sai Tân Bì đến chỗ Thái Tổ xin cứu, Thái Tổ bèn về cứu Đàm;
Tháng mười, (năm Kiến An thứ tám) Thái Tổ đến Lê Dương.
Ngụy thị
xuân thu chép thư của Lưu Biểu gửi Đàm rằng: "Trời xanh giáng hại, họa nạn
nhiều đầy. Tiên công mất đi khiến cho người khắp bốn cõi đau lòng. Kịp lúc con
hiền nối dõi, mọi người trông mong, đều muốn tỏ rõ tài sức để thờ minh chủ; dẫu
đến lúc mất vẫn còn mong như thế. Sao lại để ruồi xanh bay ở cán cờ, vi vu lượn
qua hai trại, khiến cho đùi tay chia làm hai phần, lưng bụng cắt làm thân khác!
Ngày xưa từ thời Tam vương-Ngũ bá đến thời Chiến quốc, cha con giết nhau, đã có
thế ấy. Nhưng nếu muốn lập thành nghiệp vương, hoặc muốn định công bá, hoặc
muốn làm rạng rỡ tổ tiên, hoặc muốn giữ gìn dòng dõi thì chưa có ai bỏ người
thân mà chia cắt gốc rễ của mình, mà chỉ chăm chỉ lập công, truyền lộc cho đời
sau vậy. Như Tề Tương Công trả thù mối thù của chín đời, Sĩ Cái lập nên công
của Tuân Yển, cho nên kinh Xuân thu khen nghĩa của họ, bậc quân tử quý cái tín
của họ. Bá Du đã oán với vua Tề không bằng tiên công oán Tháo vậy; Tuyên Tử nối
nghiệp không bằng ngài nối nghiệp vậy. Vả lại quân tử tránh nạn thì không đến
đất địch, há quên cái oán của thái công mà bỏ đi cái tình của người thân, làm
gương cho vạn đời, để lại nỗi nhục của đông đồng minh sao! Em ngài ở Kí châu
kiêu căng đã thế rồi; ngài nên nhẫn chí nhịn nhục để làm việc giúp nước; dẫu bị
phu nhân ghét cũng không bằng Trịnh Trang Công bị Khương thị ghét. Anh em ngài
hiềm khích cũng không bằng Trọng Hoa hiềm ganh với Tượng vậy. Thế mà Trịnh Trang
Công vẫn có buổi bày nhạc ở hầm đất, Tượng được phong ở ấp Hữu Tị. Mong hãy vứt
bỏ oán trước, nghĩ kĩ nghĩa cũ, lập lại tình anh em như xưa". Lại gửi thư
cho Thượng rằng: "Ta biết loạn do ở Tân-Quách, gây họa cho anh em, nhớ
việc cũ của Át Bá-Thực Thẩm quên cái nghĩa để tang chép trong bài Thường khang
mà gây loạn can qua, thây phơi máu chảy, ta đọc đến đây mà nghẹn ngào, dẫu còn
mà như mất vậy. Ngày xưa Hiên Viên đánh trận ở cánh đồng Trác Lộc; Chu Vũ Vương
phát quân đánh ở ấp Thương-Yểm, đều là vì trừ diệt tai hại mà dựng nghiệp
vương, không phải là tranh mạnh yếu, chẳng phải là tỏ lòng vui giận vậy. Cho
nên dẫu diệt người thân mà vẫn không cho là lo, giết anh em mà không tổn nghĩa.
Nay hai ngài mới nối nghiệp lớn, noi theo phép cũ, tiến thì có nỗi lo nghiêng
đổ của nhà nước, lùi thì có mối thù oán giận của tiên công, phải nên làm việc
giữ nghĩa, cứu giúp nhà nước. Vì sao? Kim-mộc-thổ-thủy-hỏa lấy cứng mềm giúp
nhau, rồi mới được hòa hợp, cho dân lấy dùng. Nay anh ngài ở Thanh châu bản
tính nóng nảy, lầm lẫn phải trái. Ngài khí độ rộng rãi, khoan dung có thừa, nên
lấy lớn giúp bé, lấy tốt giúp kém, nên diệt trừ Tào Tháo trước để rửa mối hận
của tiên công; sau khi việc này xong mới ban kế phải trái, cũng chẳng hay hơn
sao! Nếu suy nghĩa sâu xa, nhún mình giữ lễ, nên xua quân ruổi dài cùng giúp
nhà vua; nếu mê lầm không sửa, trái mà không đổi thì rợ Hồ còn có lời trách
hỏi, huống chi là đồng minh? Lúc ấy ai còn gắng sức giúp ngài đánh dẹp đây? Đấy
là Hàn Lô-Đông Quách (12) tự gây khốn mà bị người làm ruộng bắt được vậy. Nhảy
nhót đứng trông, mong được nghe tin hòa mục. Nếu là lành thì họ Viên sẽ hưng
vong với nhà Hán chăng? Nếu là xấu thì đồng minh mãi không còn đứng trông
vậy". Đàm-Thượng không nghe. Hán Tấn xuân thu chép thư Thẩm Phối gửi Đàm
rằng: "Theo nghĩa kinh Xuân thu, vua của một nước chết với xã tắc, trung
thần chết vì mệnh vua. Nếu có mưu gây loạn tông miếu, phá vỡ nhà nước thì đã có
kỉ cương phép vua, dẫu thân sơ đều xử như nhau vậy. Cho nên Chu Công rơi lệ mà
xử ngục Quản-Sái, Quý Hữu nức nở mà chuốc độc cho chú mình. Vì sao? Nghĩa nặng
người nhẹ, đấy là việc bất đắc dĩ vậy. Ngày xưa Vệ Linh Công bỏ Khoái Hội mà
lập Khoái Triếp là vì Khoái Hội vô đạo, vào ấp Thích để soán ngôi, do đó Vệ
Linh Công đánh hắn. Xuân thu truyện chép: 'Theo nghĩa của Thạch Mạn Cô cũng
chống lại được Khoái Hội'. Cho nên Khoái Hội rút cuộc bị phạt tội phản nghịch
mà Thạch Mạn Cô có tiếng là trung thần. Cha con còn thế, huống chi là anh em
đây? Ngày xưa tiên công phế bỏ tướng quân là vì lấy người hiền thay anh, lập
tướng quân ta làm người nối tự, trên cáo tổ tiên, dưới chép vào sách, tiên công
gọi tướng quân là cháu, tướng quân cũng gọi tiên công là chú, người gần xa
trong nước, ai chẳng biết việc này? Vả lại tiên công đã qua đời, tướng quân ta
tạm để tang ở nhà cỏ, mà tướng quân cũng trai giới ở phòng mình, thân phận ra
vào đều đã rõ ràng. Bấy giờ nghịch thần là Phùng Kỉ xằng bậy vẽ rắn thêm chân,
nói lời siểm nịnh, gây loạn tình thân, do đó tướng quân tỏ nỗi giận đùng đùng,
đánh không mấy chốc thì tướng quân cũng vâng mệnh theo ý, bày thêm hình phạt.
Từ đó về sau, ung nhọt bị phá, cốt nhục không có chút gây hiềm, những bầy tôi
từng nghi ngờ đều giữ được toàn mạng sống. Cho nên rợ Hồ mạnh bạo cũng kén
tướng giỏi, sửa sang binh khí, lựa chọn quân sĩ, dốc hết tiền của trong kho
tàng, vét sạch lương lực trong bờ cõi để cung cấp cho tướng quân mà không đòi
hỏi gì cả. Vua tôi hòa thuận cùng dưới cờ trống, đánh như nhạn bay, thuế đến
cho chủ, dẫu kho tàng nghiêng lật, tàn hại dân chúng nhưng trên dưới gắng chịu,
không dám nói là khổ. Sao thế? Nghĩ đến tấm lòng son trung thành, dốc kế sách
còn để trong bụng ngực, như răng môi, trục xe không mong được thưởng. Bảo là vì
tướng quân mà cùng lòng hợp ý, cong thẳng một thể, tất sẽ trổ oai tỏ thế, chống
giặc giữ nhà. Thế mà kẻ hung ác siểm nịnh, vu vạ không cùng, dụ dẫn lợi lộc,
đến nỗi khiến cho tướng quân chốc lát đổi ý, quên lòng nhân hiếu thuận, nghe
mưu của bọn sói lang, gièm lời phế lập của tiên công, trái ngôi vị lúc để tang
mới đây, phản lẽ của phép tắc, không xét khí tiết thuận nghịch, mưu đổi chủ của
Kí châu, muốn làm người nối nghiệp của tiên công. Rồi phát quân cướp bóc, phá
thành giết quan, thây phơi đầy đồng, dân ngã đầy nội, có kẻ phải cắt tóc rạch
da, chặt đứt tay chân, oán thán nỉ non ở cõi âm, đau đớn kêu gào ở bụi gai. Lại
còn mưu đánh thành Nghiệp, hứa tặng tiền của đàn ba cho người Tần-Hồ, hẹn cùng
chia đất. Có kẻ nghe nói tướng quân cáo lệnh quan quân rằng: 'Ta còn có mẹ già,
chỉ muốn cho bà ấy được thân thể trọn vẹn mà thôi'. Nghe nói đến đây, chẳng ai
không kinh ngạc thất sắc, đau lòng rơi lệ, khiến cho thái phu nhân cũng buồn
rầu căm giận ở phòng buồng, chủ tớ quan quân trong châu ta nằm nghỉ cũng than
thở, không có chỗ đặt tay chân; nghĩ rằng nếu muốn lặng im suy nghĩ để nghe mưu
nắm việc thì sợ trái với khí tiết chết vì mệnh vua trong kinh Xuân thu, gây
thêm nỗi lo không cùng của thái phu nhân, tổn cơ nghiệp nhiều đời của tiên
công. Vả lại ba quân hăng hái, mọi người đều mang oán, tướng quân ta bất đắc dĩ
mới đánh trận ở huyện Quán Đào. Bấy giờ ngoài là chống nạn, trong thực là chịu
tội, đã không được tha mà lại đều tỏ hai ba ý, vào trận thì phản loạn. Tướng
quân ta tiến lùi đều không có công, đầu đuôi gặp địch, bèn dẫn quân bỏ trốn,
không dám từ biệt. Cũng vì tướng quân tỏ lòng nhân của người thân, ban cái ân
dừng đuổi cho nên vướng vào vũng lầy, không có chỗ nương thân. Thú khốn thì tất
đấu, dốc hết sức mình, mà quân sĩ của tướng quân tan lở thua vỡ, đấy không phải
là do sức người, mà còn là ý trời vậy. Từ đó lại mong tướng quân đổi ý sửa
tính, cúi mình giữ lễ, lập lại tình thân anh em như xưa; vậy mà vẫn tự ý oán
giận, đánh phá nhà cửa, đứng lên nhảy nhót, liên kết giặc ngoài, thổi gió vào
lửa, tăng thêm độc hại, khói lửa mù mịt, máu chảy nghìn dặm, nghiêng thành nguy
dân, gây thêm oán hờn; dẫu muốn chẳng đánh, há được ngừng sao! Cho nên bèn dẫn
quân sang miền đông, giữ gìn bờ cõi, dẫu đến gần lũy nhưng chưa lấn đất đai,
chỉ đứng trông cờ tinh, than mãi không thôi! Bọn Phối là bây tôi của tiên công,
vâng theo lệnh phế lập. Vậy mà bọn Đồ hại nước loạn nhà, phải phạt theo phép
thường. Cho nên phát quân của châu nhỏ này để dẹp trừ cái bệnh của tướng quân.
Nếu mà trời có ý giúp, sớm tỏ rõ hình phạt thì tướng quân ta cúi mình kêu gọi ở
trên bàn tay của tướng quân, bọn Phối cũng cởi trần lộ thân mà chịu phạt lấy
rìu chém. Nếu chẳng sửa lỗi, có ý hại nước, không treo đầu Đồ thì quân ta chẳng
dừng. Mong tướng quân nghĩ kĩ việc nên làm để được theo về". Điển lược
chép: Đàm nhận được thư mà thở dài, lên thành mà khóc. Nhưng đã bị Quách Đồ ép,
cũng đem quân nhiều lần đánh đấu, rút cuộc đánh không nghỉ.
Thượng
nghe tin Thái Tổ lên phía bắc, bèn bỏ quận Bình Nguyên mà về thành Nghiệp,
tướng của Thượng là Lữ Khoáng-Lữ Tường phản theo Thái Tổ. Đàm lại ngầm khắn ấn
tướng quân trao cho Khoáng-Tường. Thái Tổ biết Đàm dối, bèn gả hôn để làm hắn
yên lòng, rồi dẫn quân về. Thượng sai Thẩm Phối-Tô Do giữ thành Nghiệp, lại
đánh Đàm ở quận Bình Nguyên. Thái Tổ tiến quân đi đánh thành Nghiệp, đến sông
Hoàn cách thành Nghiệp năm mươi dặm; Do muốn làm nội ứng, mưu lộ, đánh với Phối
ở trong thành, thua chạy ra theo Thái Tổ. Thái Tổ bèn đến đánh thành, đào hầm
đất, Phối cũng dựng lũy ở trong để chống lại. Tướng của Phối là Phùng Lễ mở
toang cửa thành, cho hơn ba trăm quân của Thái Tổ vào, Phối biết được, từ trên
thành lấy đá to ném phá cửa lũy trong thành; lúc cửa lũy đóng lại, những người
đi vào đều bị giết chết. Thái Tổ lại vây thành, đắp lũy xung quanh dài bốn mươi
dặm, đào rãnh nước, tỏ ý như vượt qua. Phối thấy mà cười việc ấy, không ra
tranh lợi. Thái Tổ một đêm đào rãnh nước, sâu rộng hai trượng, dẫn nước sông
Chương chảy vào thành; từ tháng năm đến tháng tám, người trong thành chết đói
quá nửa. Thượng nghe tin thành Nghiệp nguy cấp, đem hơn vạn quân về cứu thành,
men theo vùng núi phía tây mà đến, sang phía đông đến đình Dương Bình, cách
thành Nghiệp bảy mươi dặm, đến gần sông Phũ, đốt lửa lên để cho người trong
thành biết, người trong thành cũng đốt lửa để đáp lại. Phối đem quân ra phía
bắc thành, muốn cùng Thượng phá vòng vây. Thái Tổ đón đánh Phối, Phối thua rút
về, Thượng cũng thua chạy, dựa vào sông Khúc Chương để dựng trại, Thái Tổ bèn
vây trại ấy; chưa gặp, Thượng sợ, sai Âm Quỳ-Trần Lâm ra xin hàng, Thái Tổ
không nghe. Thượng chạy về cửa Lạm Khẩu; Thái Tổ lại gấp đến vây Thượng, tướng
của Thượng là bọn Mã Diên vừa vào trận liền xin hàng, quân của Thượng tan vỡ,
Thượng trốn đến quận Trung Sơn. Thái Tổ thu hết đồ xe nặng, lấy được ấn thao,
tiết việt và đồ áo của Thượng đem cho người nhà của Thượng biết, do đó người
trong thành vỡ lở. Con anh của Phối là Vinh giữ của đông thành, buổi đem mở cửa
cho quân của Thái Tổ vào, đánh với Phối ở trong thành, bắt sống Phối. Phối nói
lời tráng liệt, cuối cùng chẳng chịu phục, người xem chẳng ai không than thở,
bèn chém Phối.
Tiên
hiền hành trạng chép: Phối tự Chính Nam, người quận Ngụy. Thủa trẻ trung liệt
khảng khái, có khí tiết không thể đổi. Viên Thiệu lĩnh Kí châu, tin dùng làm
tim bụng, cho làm Trị trung biệt giá, coi quản phủ trướng. Trước đây, Đàm bỏ
đi, đều gọi người nhà của Tân Bì-Quách Đồ đi theo nhưng riêng người nhà của Tần
Bì không chịu đi. Kịp lúc con anh của Phối mở cửa thành đón quân ngoài vào, bấy
giờ Phối ở trên lầu tại góc đông nam thành, nhìn thấy quân của Thái Tổ vào,
giận Tân-Quách phá hỏng Kí châu, bèn sai người đi nhanh đến nhà ngục trong
thành Nghiệp, bắt giết người nhà của Trọng Trị. Bấy giờ Tân Bì ở trong quân,
nghe tin cửa thành mở, chạy nhanh đến nhà ngục, muốn cứu người nhà của anh
mình, nhưng người nhà của anh đã chết. Hôm đó bắt sống Phối, đem đến dưới
trướng, bọn Tân Bì chặn lại lấy roi ngựa đánh vào đầu Phối, mắng Phối rằng: "Thằng
nô kia, hôm nay mi chết chắc rồi"! Phối ngoảnh lại nói: "Bọn chó!
Cũng vì bọn mi phá Kí châu, ta hận không giết được bọn mi vậy! Vả lại bọn mi
hôm nay giết được ta sao"! Chốc lát, Tào Công dẫn vào gặp, bảo Phối rằng:
"Có biết ai mở của thành của khanh không"? Phối nói: "Không biết
được". Nói: "Từ cháu khanh là Vinh vậy". Phối nói: "Thằng
nhỏ kia không đáng được dùng nên mới thế"! Tào Công lại bảo rằng:
"Khi trước ta đến vây thành, sao lại nỏ bắn nhiều thế"? Phối nói:
"Chỉ hận còn ít"! Tào Công nói: "Khanh trung với cha con họ
Viên, cũng là không được không như thế". Có ý muốn cho hắn sống. Phối đã
không chịu phục, lại nữa bọn Tân Bì kêu khóc không thôi, bèn giết Phối. Trước
đây, người Kí châu là Trương Tử Khiêm hàng trước, vốn không hòa với Phối, cười
bảo Phối rằng: "Chính Nam, khanh sao bằng được ta"? Phối lớn tiếng
nói: "Mi là tên giặc phản hàng, Thẩm Phối là tôi trung, dẫu chết nhưng há
sống như mi sao"! Sắp chịu chết, quát bọn lính cầm giữ sai phải để đầu
hướng về phía bắc, nói: "Chủ ta ở miền bắc". Sơn Âm Công tái kí của
Nhạc Tư và Hiến Đế xuân thu của Viên Diệp đều chép: Quân của Thái Tổ vào thành.
Thẩm Phối đánh ở trong cửa, đã thua, trốn ở trong giếng, bắt được Phối ở giếng.
Thần là Tùng Chi cho rằng: Phối là tráng sĩ một thời, là tôi chịu chết của họ
Viên, há vào ngày vận cùng mà trốn mình ở trong giếng? Việc này khó tin, nhưng
kể ra cũng dễ như thế. Không biết bọn Tư-Diệp là người thế nào, chưa phân biệt
được đúng sai mà lại khinh thường viết bút mực, xằng bậy bày ra điều quái lạ để
chép vào sách mình. Cách chép như thế, đấy là nói gièm mà không chịu nghe nhìn,
khiến cho người đời sau nghi ngờ. Đấy là việc có lỗi với sách vở, là điều mà kẻ
soạn sách không nên làm vậy.
Cao Cán
đem cả dân Kí châu hàng, lại lấy Cán làm Thứ sử.
Vào lúc
Thái Tổ vây thành Nghiệp thì Đàm cướp lấy các nơi Cam Lăng-An Bình-Bột Hải-Hà
Gian, đánh Thượng ở Trung Sơn. Thượng chạy đến huyện Cố An theo Hi; Đàm thu hết
quân của Thượng. Thái Tổ đến đánh Đàm, Đàm bèn đánh lấy quận Bình Nguyên, chiếm
huyện Nam Bì, tự đóng trại ở huyện Long Thấu. Tháng mười hai, (năm Kiến An thứ
chín) Thái Tổ đem quân đến cửa trại của Đàm, Đàm không ra, buổi đêm lẻn trốn
đến Nam Bì, rồi đến quận Thanh Hà mà đóng trại. Tháng giêng năm (Kiến An) thứ
mười, (năm 205 Công nguyên) Thái Tổ đánh lấy trại, chém bọn Đàm và Đồ.
Hi-Thượng bị tướng của mình là Tiêu Xúc-Trương Nam đánh, trốn đến chỗ người Ô
Hoàn ở quận Liêu Tây. Xúc tự hiệu làm U châu Thứ sử, thống lĩnh các quan Lệnh
trưởng-Thái thú của các quận phản họ Viên theo họ Tào, bày mấy vạn quân, giết
ngựa trắng để thề, lệnh rằng: "Kẻ trái lệnh thì chém"! Mọi người
chẳng ai dám nói, đều lấy máu uống thề. Đến chỗ Biệt giá Hàn Hành, Hành nói:
"Ta nhận ân dày của cha con họ Viên, nay sắp phá diệt, nếu có trí mà chẳng
cứu được, có dũng mà không chết cùng, thì về nghĩa là sai vậy. Nếu ngoảnh mặt
về phía bắc theo họ Tào thì ta chẳng làm được". Mọi người ngồi đều vì Hành
mà thất sắc. Xúc nói: "Đã làm việc lớn thì nên giữ nghĩa lớn, việc thành
hay không chẳng phải do ở một người, nên theo ý của Hành để khuyến khích việc
thờ chủ". Cao Cán phản, bắt Thượng Đảng Thái thú, đem binh giữ cửa Hồ
Khẩu; Thái Tổ sai Nhạc Tiến-Lí Điển đánh hắn, không thắng. Tháng mười một, Thái
Tổ đánh Cán, Cán bèn giữ tướng của mình là Hạ Chiêu-Đặng Thăng giữ thành, rồi
tự đến chỗ Thiền vu của của người Hung Nô xin cứu, không được, một mình cùng
mấy quân kị chạy trốn, muốn xuống phía nam đến Kinh châu; Thượng Lạc Đô úy bắt
chém Cán.
Điển
lược chép: Thượng Lạc Đô úy Vương Diễm bắt được Cao Cán, xét công phong Hầu; vợ
của Diễm khóc ở trong phòng, cho là Diễm giàu có rồi sẽ lấy thê thiếp mà bỏ
sủng ái mình vậy.
Năm
(Kiến An) thứ mười hai, (năm 207 Công nguyên) Thái Tổ đến quận Liêu Tây đánh
người Ô Hoàn. Thượng-Hi cùng người Ô Hoàn đem quân đón đánh, thua chạy đến quận
Liêu Đông, bị Công Tôn Khang dụ bắt chém, đem đầu đến.
Điển
lược chép: Thượng là người có sức khỏe, muốn đoạt lấy quân của Khang, mưu với
Hi rằng: "Nay đến đây, Khang tất gặp nhau. Ta muốn cùng anh bắt lấy hắn.
Có được quận Liêu Đông vẫn tự mở rộng được vậy". Khang cũng tự mưu nói:
"Nay không bắt Hi-Thượng thì không biết nói gì với nhà nước". Bèn đặt
quân tinh nhuệ ở trong chuồng ngựa, rồi mời Hi-Thượng. Hi-Thượng vào, quân phục
của Khang xổ ra, đều bắt trói bọn Thượng, cho ngồi đất băng. Thượng lạnh, xin
ngồi chiếu, Hi nói: "Đầu sọ sắp rời đến chỗ vạn dặm rồi, xin chiếu chi
nữa"! Bèn chém đầu. Đàm tự Hiển Tư. Hi tự Hiển Dịch. Thượng tự Hiển Phủ.
Ngô thư chép: Thượng có em trai tên là Mãi, cùng với Thượng chạy đến Liêu Đông.
Tào Man truyện chép: Mãi là em của anh Thượng. Chưa rõ.
Thái Tổ
khen khí tiết của Hàn Hành, nhiều lần mời mà không đến, chết ở nhà.
Tiên
hiền hành trạng chép: Hành tự Tử Bội, người quận Đại. Trong sạch lại nhã nhặn.
Thủa trẻ mất cha mẹ, kính thuận anh chị, họ hàng khen là hiếu đễ.
Chú thích
(1) Chủ minh: chỉ việc đứng đầu hội thề. Bấy
giờ hào kiệt của miền Sơn Đông hội thề để đánh Đổng Trác, tôn Thiệu làm chủ
minh.
(2) Trác sang phía tây vào cửa quan: chỉ việc
Trác dời đô từ Lạc Dương sang phía tây vào cửa quan Hàm Cốc mà đến thành Tràng
An.
(3) Hà bá: chỉ thần sông.
(4) Quân 'bạch mã nghĩa tòng': tức quân theo
nghĩa cưỡi ngựa trắng.
(5) Vận hỏa suy kiệt, họ Viên là dòng dõi của
vận thổ: ý nói nhà Hán của họ Lưu thuộc vận hỏa đã suy kiệt, họ Viên thuộc vận
thổ sẽ nối thay.
(6) 'Thập vây ngũ công': ý nói theo binh pháp
thì quân nhiều hơn địch mười lần mới vây, nhiều hơn địch năm lần mới đánh.
(7) Mạc phủ: chỉ phủ trướng của Viên Thiệu.
Lúc đầu Thiệu tự hiệu làm Xa kị tướng quân, chủ minh, lập ra phủ trướng để
thống lĩnh quân hào kiệt của miền Sơn Đông đi đánh Đổng Trác.
(8) Bỏ xấu chọn dùng: ý nói thời loạn cần dùng
người, dẫu người xấu thì cũng gạt bỏ tiếng xấu cũ của người đó mà chọn dùng.
(9) Phát khâu trung lang tướng, Mô kim hiệu
úy: là những chức quan do Tào Tháo đặt ra, coi việc đào mộ cổ để lấy vàng bạc
châu báu ở trong mộ.
(10) Chính sự phiền hà: chỉ chính sự rườm rà,
khắc bạo.
(11) Trung Hoàng-Dục-Hoạch: Trung Hoàng là
Trung Hoàng Bá, Dục là Hạ Dục, Hoạch là Ô Hoạch, đều là những dũng sĩ thời cổ,
có sức khỏe hơn người.
(12) Hàn Lô-Đông Quách: Hàn Lô tức Hàn Tử Lô,
là một con chó nổi tiếng khỏe mạnh; Đông Quách là Đông Quách Thuân, là con thỏ
nổi tiếng khôn ngoan. Theo Chiến quốc sách kể câu chuyện rằng: Hàn Lô đuổi Đông
Quách ba vòng quanh, năm lần trèo lên núi, hai con ra sức chạy, cuối cùng đều
mệt mỏi mà chết ở dưới núi. Lúc đó có người làm ruộng thấy mà bắt được mà không
khó khọc gì. Ý nói hai bên đều mệt thì bên thứ ba được lợi vậy.
TRUYỆN LƯU BIỂU
Lưu Biểu
tự Cảnh Thăng, người huyện Cao Bình quận Sơn Dương. Thủa trẻ nổi danh, gọi là
'bát tuấn'. Hán kỉ của Trương Phan chép: Biểu với người cùng quận là bọn Trương
Ẩn, Tiết Úc, Vương Phỏng, Tuyên Tĩnh, Công Tự Cung, Điền Lâm gọi là 'bát giao',
hoặc gọi là 'bát cố'. Hán mạt danh sĩ lục chép: Biểu với người quận Nhữ Nam là
Trần Tường tự Trọng Lân, Phạm Bàng tự Mạnh Bác, người nước Lỗ là Khổng Dục tự
Thế Nguyên, người quận Bột Hải là Phạm Khang tự Trọng Chân, người quận Sơn
Dương là Đàn Phu tự Văn Hữu, Trương Kiệm tự Nguyên Tiết, người quận Nam Dương
là Sầm Chí tự Công Hiếu gọi là 'bát hữu'. Hậu Hán thư của Tạ Thừa chép: Biểu
theo học người cùng quận là Vương Sướng. Sướng làm Nam Dương Thái thú, có đức
tiết kiệm. Bấy giờ Biểu mười bảy tuổi, can gián rằng: "Xa xỉ không lấn
người trên, tiết kiệm không ép kẻ dưới, đấy là đạo trung dung, cho nên Cừ Bá
Ngọc thẹn vì riêng mình được khen là bậc quân tử. Nếu phủ quân không ngoảnh xem
lời dạy sáng suốt của Khổng Tử mà lại ngưỡng mộ tiết tháo thấp kém của Di-Tề
thì không lấy gì rạng rỡ với đời được"! Sướng đáp rằng: "Ít có người
bỏ tiết kiệm vậy; vả lại để nắn sửa phong tục".
Biểu thân
cao hơn tám thước, dáng vẻ hùng vĩ. Từ chức Đại tướng quân duyện làm Bắc quân
trung hầu. Linh Đế băng, thay Vương Duệ làm Kinh châu Thứ sử. Bấy giờ quân miền
Sơn Đông nổi dậy, Biểu cũng hợp quân binh ở Tương Dương.
Chiến
lược của Tư Mã Bưu chép: Vào buổi Lưu Biểu vừa làm Kinh châu mục, hào tộc ở
miền Giang Nam lớn mạnh, Viên Thuật đóng đồn ở Lỗ Dương, chiếm hết quân của
quận Nam Dương. Người quận Ngô là Tô Đại làm Trường Sa Thái thú, Bối Vũ làm Hoa
Dung Trưởng, đều phát quân làm loạn. Biểu vừa đến, một ngựa vào Nghi Thành, lại
mưu tính với người huyện Trung Lô là Khoái Lương-Khoái Việt, người quận Tương
Dương là Sái Mạo. Biểu nói: "Hào tộc rất mạnh, mà dân lại không theo, Viên
Thuật nhân đó mà đánh, nay họa sắp đến rồi! Ta muốn hịch gọi quân nhưng sợ không
tụ, phải làm thế nào"? Lương nói: "Dân không theo là vì chưa đủ lòng
nhân vậy. Theo mà không trị được là vì tín nghĩa không đủ vậy. Nếu có lập đạo
nhân nghĩa thì trăm họ đi theo như nước chảy xuống chỗ thấp, lúc ấy còn lo chi
trăm họ không theo mà phải hỏi kế sách phát binh đây"? Biểu ngoảnh hỏi
Việt, Việt nói: "Trị bình phải làm việc nhân nghĩa trước, trị loạn phải tỏ
rõ quyền mưu trước. Quân không cốt nhiều, cốt ở lòng người vậy. Viên Thuật dũng
cảm mà không quyết đoán, Tô Đại-Bối Vũ đều là kẻ võ dũng, không đáng lo. Bọn
hào tộc phần nhiều tham bạo, bị kẻ dưới căm ghét. Có kẻ mà Việt vốn nuôi dưỡng,
sai đem lợi để dụ, tất đem dân đến; lúc ấy ngài chỉ giết kẻ vô đạo, vỗ về mà
dùng họ thì người cả châu sẽ có ý yên lòng. Lại nghe nói ngài có đức lớn thì sẽ
dắt cõng mà đến vậy. Quân hội dân tụ, rồi xuống miền nam lấy thành Giang Lăng,
lên phía bắc giữ thành Tương Dương, vậy thì truyền hịch mà vỗ yên tám quận Kinh
châu. (1) Bọn Thuật dẫu đến cũng không làm chi được vậy". Biểu nói:
"Lời của Tư Như như lời bàn của Ung Quý. Kế của Dị Độ như mưu của Cữu Phạm
vậy". Rồi cho Việt sai người dụ bọn hào tộc, có năm mươi lăm người đến,
đều chém chúng. Đánh úp bắt lấy quân của chúng, có kẻ liền nhận làm bộ khúc.
Riêng hào tộc ở quận Giang Hạ là bọn Trương Hổ-Trần Sinh đem quân giữ quận
Tương Dương; Biểu lại sai Việt cùng Bàng Quý đi một ngựa đến dụ hàng chúng, rút
cuộc miền Giang Nam đều bình.
Vào lúc
Viên Thuật ở tại Nam Dương, liên hợp với Tôn Kiên muốn đánh lấy châu của Biểu,
sai Kiên đánh Biểu. Kiêm bị trúng tên lạc mà chết, quân thua, rút cuộc Thuật
không thắng được Biểu. Lí Thôi-Quách Dĩ vào Tràng An, muốn kết Biểu làm ngoại
viện, bèn lấy Biểu làm Trấn nam tướng quân, Kinh châu mục, phong tước Thành Vũ
Hầu, Giả tiết. Thiên tử đóng đô ở đất Hứa; Biểu dẫu sai sứ giả cống nạp nhưng
liên kết với Viên Thiệu ở miền bắc. Trị trung Đặng Hi can ngăn Biểu, Biểu không
nghe, Hán Tấn xuân thu chép: Biểu đáp Hi rằng: "Trong không bỏ cống nạp,
ngoài không phản minh chủ, đấy là đạt nghĩa với thiên hạ vậy. Sao quan Trị
trung lại cho là lạ"?
Hi bèn
lấy cớ bệnh mà lui về, không làm quan thời Biểu. Trương Tế dẫn quân vào cõi
Kinh châu, đánh thành Nhưỡng, bị trúng tên lạc mà chết, quan thuộc ở Kinh châu
đều chúc mừng, Biểu nói: "Tế vì khốn cùng mà đến đây, tướng giữ thành vô
lễ mới dẫn đến giao tranh, đấy không phải là ý ta. Nay ta chỉ nhận lời thương
tiếc chứ không nhận lời chúc mừng". Liền sai người thu nạp quân của Tế,
mọi người nghe tin đều mừng, bèn theo phục. Trường Sa Thái thú Trương Tiện phản
Biểu, Anh hùng kí chép: Trương Tiện là người quận Nam Dương. Lúc đầu làm quan
Trưởng ở các quận Linh Lăng-Quế Dương Trưởng, rất được lòng người miền
Giang-Tương, nhưng tính cứng cỏi không hòa thuận.
Biểu đối đãi người này bạc bẽo, rất không giữ lễ. Do đó Tiện mang lòng oán, bèn
phản lại Biểu.
Biểu vây
hắn nhiều năm không thắng. Kịp lúc Tiện chết, người quận Trường Sa lại lập con
của hắn là Dịch; Biểu lại đánh bắt Dịch, xuống phía nam thu miền Linh-Quế, (2)
lên miền bắc chiếm miền sông Hán, có đất vuông mấy nghìn dặm, hơn mười vạn quân
mặc giáp.
Anh hùng
kí chép: Bọn giặc trong châu đã hết, Biểu bèn mở lập quan lại dạy học, cầu tìm
nhà Nho, sai bọn Kì Vô Khai-Tống Trung soạn sách Ngũ kinh chương cú, còn gọi là
sách Hậu định.
Thái Tổ
đang chống nhau với Viên Thiệu ở Quan Độ; Thiệu sai người xin giúp, Biểu hứa
theo mà không đến, cũng không giúp Thái Tổ, muốn giữ miền Giang-Hán để xem sự
biến của thiên hạ. Tòng sự trung lang Hàn Tung, Biệt giá Lưu Tiên khuyên Biểu
rằng: "Nay hào kiệt tranh giành, hai kẻ mạnh chống nhau, kẻ mạnh trong
thiên hạ cũng có tướng quân. Nếu tướng quân muốn muốn tranh thắng thì nên thừa
lúc bọn họ mệt mỏi mà đánh cũng được vậy; nếu không tranh thì chọn lựa quân bản
bộ, lúc ấy tướng quân nắm mười vạn quân, ngồi yên mà đứng xem cũng được. Nếu
trông người hiền mà không giúp được, xin hòa mà cũng không xong, hai kẻ kia tất
đều oán tướng quân, tướng quân chẳng còn đứng giữa được nữa. Tào Công là người
sáng suốt, người hiền tài trong thiên hạ đều theo về, thế chắc thắng được Viên
Thiệu, sau đó dẫn quân hướng đến miền Giang-Hán, sợ rằng tướng quân không chống
được vậy. Cho nên bày kế giúp tướng quân, không bằng đem cả châu theo phục Tào
Công, Tào Công tất trọng đức của tướng quân; sẽ hưởng phúc lộc lâu dài, truyền
cho dòng dõi; đấy là kế vạn toàn vậy". Viên đại tướng của Biểu là Khoái
Việt cũng khuyên Biểu, Biểu do dự, bèn sai Tung đến chỗ Thái Tổ để xem thật
giả. Tung về, kể rõ oai đức của Thái Tổ, khuyên Biểu sai con vào làm tin. Biểu
ngờ Tung phản nói giúp Thái Tổ, cả giận, muốn giết Tung, xét hỏi người đi theo
Tung, biết Tung không có ý khác mới tha.
Phó Tử
chép: Lúc trước Biểu bảo Tung rằng: "Nay thiên hạ đại loạn, chưa biết lúc
nào yên. Tào Công giữ thiên tử đóng đô ở đất Hứa, ông hãy giúp ta đi xem
xét". Tung đáp nói: "Thánh nhân hiểu tiết, thứ đó là giữ tiết. Tung
chỉ biết giữ tiết vậy. Đã thờ chủ là giúp chủ, tôi chủ đã định danh thì giữ
danh đến chết; nay trao mệnh làm tin, vâng lệnh của ngài, dẫu nhảy vào lửa bỏng
thì chết cũng không từ. Tung xem thấy Tào Công là người rất sáng suốt, tất giúp
được thiên hạ. Tướng quân nên trên thuận thiên tử, dưới nên phục Tào Công, tất
được hưởng lợi đến trăm đời, đất Sở thực là cũng được nhờ; sai Tung đi cũng
đáng. Nay chưa bày sẵn kế, Tung đi sứ đến kinh sư, nếu thiên tử trao một chức
quan cho Tung thì Tung là tôi thần của thiên tử và chỉ là quan thuộc cũ của
tướng quân mà thôi. Ở cạnh vua thì giúp vua, vậy thì Tung vâng lệnh của thiên
tử; về nghĩa không được chết vì tướng quân vậy. Mong tướng quân nghĩ kĩ, chớ
phụ Tung". Biểu bèn sai đi, đúng như Tung nói, thiên tử bái Tung làm Thị
trung, chuyển làm Linh Lăng Thái thú, khi trở về khen đức của triều đình và Tào
Công. Biểu cho là Tung mang lòng khác, hội gặp mấy trăm quan thuộc, bày quân
gặp Tung, nổi giận, cầm cờ tiết muốn chém Tung, mắng rằng: "Hàn Tung dám
mang lòng khác chăng"! Mọi người đều sợ, muốn sai Tung tạ lỗi. Tung không
tạ, bảo Biểu rằng: "Tướng quân phụ Tung chứ Tung không phụ tướng
quân"! Nói rõ lời trước. Biểu giận không thôi. Vợ Biểu là Sái thị can ngăn
nói: "Hàn Tung là người trọng vọng của đất Sở; vả lại hắn nói lời thẳng
thắn, nếu giết hắn thì không biết nói lẽ ra sao". Biểu bèn không giết mà
chỉ bắt giam.
Biểu dẫu
vẻ ngoài nho nhã nhưng long nhiều nghi kị, đều đại loại như thế. Lưu Bị đến chỗ
Biểu, Biểu hậu đãi hắn nhưng không dùng được.
Hán Tấn
xuân thu chép: Vào lúc Thái Tổ mới đánh Liễu Thành; Lưu Bị khuyên Biểu đánh úp
đất Hứa nhưng Biểu không theo. Kịp lúc Thái Tổ về, Biểu bảo Bị rằng: "Ta
không nghe lời ông cho nên làm mất cơ hội lớn này". Bị nói: "Nay
thiên hạ chia cắt, can qua nhiều ngày, cơ hội xảy đến, há có cuối cùng sao? Nếu
trao cho dòng dõi được thì việc ấy cũng không đáng tiếc".
Năm Kiến
An thứ mười ba, (năm 208 Công nguyên) Thái Tổ đánh Biểu, chưa đến nơi thì Biểu
bệnh chết.
Trước
đây, Biểu và vợ sủng ái con út là Tông, muốn cho nối tự, Tông lại có Sái
Mạo-Trương Doãn giúp làm phe đảng, Biểu cho con cả là Kì ra làm Giang Hạ Thái
thú, mọi người bèn cử Tông làm người nối tự. Kì và Tông bèn gây hiềm khích.
Điển
lược chép: Biểu bệnh tật, Kì về thăm bệnh. Kì tính hiếu đễ, Mạo-Doãn sợ Kì gặp
Biểu thì cha con thương nhau sẽ có lời trao gửi, bảo Kì rằng: "Tướng quân
sai ngài đến vỗ về quận Giang Hạ, làm phên dậu phía đông, gánh việc rất nặng;
nay bỏ quân mà đến tất bị trách giận; tấm lòng thương cha sẽ làm cho cha thêm
bệnh, đấy không phải là hiếu kính vậy". Bèn ngăn ở cửa nhà, không vào gặp
được; Kì rơi lệ mà đi ra.
Việt-Tung
và Đông tào duyện Phó Tốn khuyên Tông theo Thái Tổ; Tông nói: "Nay ta cùng
các ông giữ cả đất Sở, giữ nghiệp của tiên công để xem thiên hạ, sao lại không
được thế"? Tốn đáp nói: "Thuận nghịch có thế lớn, mạnh yếu có thế
sẵn; là bầy tôi mà chống nhà vua là nghịch vậy. Lấy đất Sở mới lập mà chống nhà
nước, thế này chẳng đáng vậy; giúp Lưu Bị mà địch Tào Công lại chẳng đáng; ba
điều ấy đều kém. Nếu muốn chống mũi nhọn của quân nhà vua, đấy là thế tất vong.
Tướng quân tự nghĩ so với Lưu Bị thế nào"? Tông nói: "Ta không bằng
hắn". Tốn nói: "Nếu giúp Lưu Bị cũng không ngăn được Tào Công thì dẫu
giữ đất Sở cũng không đủ để tự yên vậy; nếu giúp Lưu Bị đủ để ngăn Tào Công thì
Bị cũng không chịu đứng dưới tướng quân vậy. Mong tướng quân chớ nghi. Thái Tổ
đem quân đến Tương Dương, Tông đem châu hàng, Bị chạy đến Hạ Khẩu.
Phó Tử
chép: Tốn tự Công Đễ, học nhiều hiểu rộng, có tài nhìn người. Phủ Tam công gọi,
bái làm Thượng thư lang, sau đó làm khách ở Kinh châu, có công khuyên dụ Lưu
Tông, ban tước Quan nội hầu. Vào thời Văn Đế, bái làm Thị trung, giữa năm Thái
Hòa thì chết. Tốn ở tại Kinh châu, xem rằng Bàng Thống là anh hùng một nửa, bàn
là Bùi Tiềm sẽ nêu rõ đức lành; rút cuộc Thống theo Lưu Bị, được sủng đãi sau
Gia Cát Lượng; Tiềm làm đến Thượng thư lệnh, đều có tiếng tăm. Đến thời nhà
Ngụy, có Ngụy Phúng nổi tiếng tài trí, Tốn bảo là hắn tất phản, rút cuộc như
lời Tốn. Con em của Tốn là Hỗ, có truyện chép riêng. Hán Tấn xuân thu chép:
Vương Uy khuyên Lưu Tông rằng: "Tào Tháo có tướng quân đã hàng, Lưu Bị đã
chạy, tất trễ nải không phòng bị, khinh thường mà tiến lên; nếu cấp mấy nghìn
quân khỏe cho Uy, chặn đánh ở chỗ hiểm thì bắt được Tháo vậy. Bắt được Tháo thì
oai lừng thiên hạ, ngồi mà vồ chộp. Trung Nguyên dẫu rộng nhưng lướt dài mà
định, không chỉ lập được một công thắng trận và giữ gìn được hôm nay mà thôi.
Đây là cơ hội khó gặp, không nên để lỡ". Tông không nghe. Sưu thần kí
chép: Đầu năm Kiến An, trẻ con ở Kinh châu hát rằng: "Trong năm thứ
tám-thứ chín thì bắt đầu suy, đến năm thứ mười ba thì chẳng còn chi"!. Ý
nói là từ năm Trung Bình về sau thì riêng Kinh châu được trọn vẹn, đến thời Lưu
Biểu làm châu mục, dân được yên vui, đến năm Kiến An thứ tám-thứ chín thì bắt
đầu suy. Bắt đầu suy là chỉ buổi vợ của Lưu Biểu chết, các tướng đều loạn vỡ
vậy. Năm thứ mười ba thì chẳng còn chi là nói Biểu chết, nhân đó thua vỡ vậy.
Bấy giờ ở huyện Hoa Dung có một người con gái chợt kêu gào nói: "Kinh châu
sắp có tang lớn". Lời nói mê lầm, quan huyện cho là nói bậy, bắt vào ngục
hơn một tháng, ở trong ngục lại chợt khóc nói: "Hôm nay Lưu châu mục
chết". Huyện Hoa Dung cách sở châu mấy trăm dặm, liền sai người ngựa đi
xem sao, thì đúng Biểu chết, quan huyện bèn thả ra. Rồi lại hát ngâm rằng:
"Không ngờ Lí Lập là người tôn quý". Sau đó không lâu, Thái Tổ bình
Kinh châu, lấy người quận Trác là Lí Lập, tự Kiến Hiền làm Kinh châu Thứ sử.
Thái Tổ
lấy Tông làm Thanh châu Thứ sử, phong tước Liệt hầu.
Vũ Đế cố
sự chép lệnh rằng: "Đất Sở có cái hiểm của sông núi miền Giang-Hán, ngang
bằng với đất Tần, mà Kinh châu là đất cũ. Lưu Trấn nam dùng dân ở đất ấy lâu
rồi. Sau khi thân mất, các con lại tranh giành, dẫu khó giữ trọn nhưng vẫn kéo
dài. Thanh châu Thứ sử là Tông ý chí cao khiết, trí tuệ sâu rộng, khinh vinh
trọng nghĩa, lợi mỏng đức dày, coi thường cơ nghiệp vạn dặm, lơ là binh sĩ ba
quân, dốc tấm thân trung chính, giữ danh dự tiếng tốt, trên nêu rõ tiếng cao
của tiên công, dưới nắm chặt lộc lớn không mục; dẫu Bào Vĩnh bỏ Tinh châu, Đậu
Dung rời năm quận cũng chưa đáng để sánh vậy. Dẫu phong tước Liệt hầu ở một
châu cũng tiếc vinh sủng ấy chưa xứng cho người này; mà lại gửi sớ xin về châu
cũ. Chức quan Giám dẫu quý nhưng bổng lộc chưa nhiều. Nay nghe theo lời xin,
bái Tông làm Gián nghị đại phu, Tham đồng quân sự".
Phong
tước Hầu cho mười lăm người bọn Khoái Việt. Việt làm Quang lộc huân;
Phó Tử
chép: Việt là dòng dõi của Khoái Thông vậy. Mưu sâu trí đầy, kiệt hiệt có oai
hùng. Đại tướng quân Hà Tiến nghe danh mà gọi làm Đông tào duyện. Việt khuyên
Tiến giết bọn hoạn quan, Tiến do dự không quyết. Việt biết Tiến tất thua, xin
ra làm Nhữ Dương Lệnh, giúp Lưu Biểu đánh dẹp trong châu, Biểu được lớn mạnh.
Hạ chiếu bái làm Chương Lăng Thái thú, phong tước Phàn đình hầu. Kinh châu
bình, Thái Tổ gửi thư cho Tuân Úc rằng: "Không mừng có Kinh châu, chỉ mừng
có Khoái Dị Độ thôi". Năm Kiến An thứ mười chín thì chết. Sắp chết, gửi
thư cho Thái Tổ, trao gửi người nhà. Thái Tổ báo thư rằng: "Chết mà lại
sống, sống mà chẳng thẹn. Ta ít cử ai, chỉ làm nhiều thôi. Hồn mà có linh, cũng
sẽ nghe lời này của ta".
Tung làm
Đại hồng lư;
Tiên
hiền hành trạng chép: Tung tự Đức Cao, người huyện Nghĩa Dương. Thủa trẻ ham
học, nghèo mà chẳng đổi tiết. Biết đời sắp loạn, không vâng lệnh của Tam công,
cùng mấy người bạn cùng quận ẩn cư ở trong núi phía tây huyện Lịch. Kịp lúc
giặc Khăn vàng nổi lên, Tung tránh nạn đến miền nam, Lưu Biểu cho làm Biệt giá,
chuyển làm Tòng sự trung lang. Biểu ra ngoài thành cúng tế trời đất, Tung can
ngăn mà không nghe, bèn có ý làm trái. Đi sứ đến đất Hứa, việc chép tại lời chú
ở trước. Vào lúc Kinh châu bình, Tung bệnh tật, đến tại sở quan nhận ấn thao
Đại hồng lư.
Hi làm
Thị trung; Hi là người quận Chương Lăng.
Tiên làm
Thượng thư lệnh; những người còn lại đều làm đến quan to.
Linh
Lăng tiên hiền truyện chép: Tiên tự Thủy Tông, học rộng nhớ lâu, ưa học đạo
Hoàng Lão, thuộc làu sách vở của nhà Hán. Làm Biệt giá của Lưu Biểu, đem thư
đến đất Hứa, gặp Thái Tổ. Bấy giờ tân khách đều hội, Thái Tổ hỏi Tiên rằng:
"Lưu châu mục sao lại cúng tế lở ngoài thành"? Tiên đáp nói:
"Lưu châu mục lấy tiếng là bụng ngực của nhà Hán, nắm vị mục bá mà gặp
buổi phép vua chưa yên, bọn xấu chặn đường, muốn chầu dâng lụa ngọc mà không
đến được, gửi biểu sớ mà chẳng tới được nhà vua, cho nên cúng tế trời đất, nêu
rõ lòng thành". Thái Tổ nói: "Bọn xấu là ai"? Tiên nói:
"Dõi mắt đều thấy". Thái Tổ nói: "Nay ta có kẻ sĩ hùm gấu, mười
vạn bộ kị, vâng lệnh đánh dẹp, ai dám không phục"? Tiên nói: "Nhà Hán
suy kém, dân chúng tiều tụy, đã không có kẻ sĩ trung nghĩa giúp đỡ thiên tử vỗ
yên bốn cõi khiến cho vạn nước phục đức mà lại đem quân giết chóc, nói là chẳng
ai bằng mình,
đấy chỉ
là bọn Xi Vưu-Trí Bá xuất hiện ngày nay vậy". Thái Tổ im ỉm, bái Tiên làm
Vũ Lăng Thái thú. Vào lúc Kinh châu bình, Tiên mới vào làm Thượng thư của nhà
Hán, sau lại làm Thượng thư lệnh của nước Ngụy. Con rể người cùng quận của Tiên
là Chu Bất Nghi, tự Nguyên Trực, người huyện Linh Lăng. Tiên hiền truyện chép:
Thủa bé Bất Nghi có tài lạ, thông minh nhanh nhẹn, Thái Tổ muốn gả con gái cho,
Bất Nghi không dám nhận. Thái Tổ sủng ái con là Thương Thư, sớm có tài trí, bảo
là sánh được với Bất Nghi. Kịp lúc Thương Thư chết, ý Thái Tổ kị Bất Nghi, muốn
giết đi. Văn Đế can ngăn cho là không nên. Thái Tổ nói: "Người này không
phải là người mà mi ngăn chặn được". Bèn sai thích khách đi giết. Văn
chương chí của Chí Ngu chép: Bất Nghi chết vào lúc mười bảy tuổi, soạn bốn bài
văn luận. Thế ngữ chép: Sau khi Biểu chết hơn tám mươi năm, đến giữa năm Thái
Khang thời nhà Tấn, người ta đào mộ của Biểu, thấy hình người Biểu và vợ như
lúc sống, mùi trà lan mấy dặm.
Bình
rằng: Đổng Trác lang sói tàn ác, bạo ngược bất nhân, từ khi có sách chép đến
nay gần như chưa có ai như thế.
Anh hùng
kí chép: Ngày xưa có người lớn xuất hiện ở huyện Lâm Thao thì đúc người đồng;
Trác sinh ở huyện Lâm Thao thì người đồng vỡ; (3) đời có Trác thì xảy ra đại
loạn, sau đại loạn thì Trác thân diệt, nguyên nhân như thế đó.
Viên
Thuật xa xỉ phóng túng, không đáng vinh hiển mà tự nắm lấy.
Thần là
Tùng Chi cho rằng: Kiệt-Trụ vô đạo, Tần-Mãng (4) bạo ngược, đều trải qua nhiêu
năm rồi việc ác mới rõ ràng. Đổng Trác tự nắm quyền bính, làm việc hỏng tổn, kể
bằng ngày tháng, chưa đến ba năm mà họa chất cao như núi, độc tuôn bốn cõi. Cái
tính tàn ngược của hắn đến sói lang cũng không bằng. Chép rằng: "Từ khi có
sách chép đến nay gần như chưa có ai như thế", lời này là đúng. Nhưng đã
bình rằng: "Tàn ác" mà lại nói "Bất nhân", tàn ác, bất
nhân, lời này là nặng nề. Viên Thuật không có công chút ít gì, chẳng có đức
lành tí tẹo nào mà xằng bậy ở thời ấy, tự ý tôn lập, khiến cho nghĩa sĩ than
thở, thần người cùng khinh ghét. Dẫu có cung kính tiết kiệm thì cũng không
tránh khỏi vỡ lật vậy. Thế mà chỉ bình rằng: "Xa xỉ không đáng" thì
không đủ để thấy cái tính xấu của hắn.
Viên
Thiệu-Lưu Biểu đều có oai danh khí độ, nổi tiếng trên đời. Biểu nhảy nhót ở
miền nam sông Hán; Thiệu bay vỗ ở miền bắc sông Hoàng Hà, nhưng đều ngoài thì
rộng rãi mà trong thì nghi kị, ưa mưu kế mà không quyết đoán, có người tài mà
chẳng dùng được, thấy người hiền mà chẳng nạp được, phế trưởng lập thứ, bỏ lễ
mà yêu sủng, dẫn đến dòng dõi tranh giành, xã tắc nghiêng lật; đấy chẳng phải
là không may vậy. Ngày xưa Hạng Vũ làm trái mưu của Phạm Tăng mà vùi lấp nghiệp
vương; nay Thiệu giết Điền Phong, còn lầm hơn Vũ vậy!
Chú thích
(1) Tám quận Kinh châu: vào thời Lưu Biểu làm
Kinh châu Thứ sử, Kinh châu gồm tám quận là: Nam Quận, Nam Dương, Giang Hạ,
Chương Lăng, Trường Sa, Vũ Lăng, Quế Dương, Linh Lăng.
(2) Miền Linh-Quế: chỉ hai quận Linh Lăng và
Quế Dương.
(3) Ngày xưa có người lớn xuất hiện ở huyện
Lâm Thao thì đúc người đồng; Trác sinh ở huyện Lâm Thao thì người đồng vỡ: Hán
thư - Ngũ hành chí chép: Vào năm thứ hai mươi sáu (năm 221 Trước công nguyên)
thời Tần Thủy Hoàng, có mười hai 'người lớn' cao năm trượng, chân rộng sáu
thước, mặc áo Di-Địch, xuất hiện ở huyện Lâm Thao, cho nên Tần Thủy Hoàng phá
binh khí để đúc thành tượng mười hai người lớn kia, đặt ở thành Hàm Dương. Quan
trung kí chép: Đổng Trác phá
mười tượng người đồng, chỉ còn lại hai tượng.
(4) Tần-Mãng: Tần là nhà Tần, Mãng là Vương
Mãng, chính trị thời nhà Tần và Vương Mãng đều bạo ngược rườm rà.
NGỤY THƯ QUYỂN 7 - Lã Bố (Trương Mạc, Trần
Đăng), Tang Hồng truyện Lã Bố, (Trương Mạc, Trần Đăng) Tang Hồng
LÃ BỐ TRUYỆN
Lã Bố tự
Phụng Tiên, người quận Ngũ Nguyên huyện Cửu Nguyên. Bởi vũ dũng có sức khoẻ nên
được làm Cấp sự(1)ở Tinh Châu. Thứ sử Đinh Nguyên làm Kỵ Đô uý, đóng quân ở Hà
Nội, dùng Bố làm Chủ bộ, lấy tình thân mà đối đãi.
Anh hùng
ký chép: Nguyên tự Kiến Dương(2). Vốn xuất thân nơi nghèo khó, là người thô
lậu, có vũ dũng, khéo cưỡi ngựa bắn cung. Lúc làm Lại ở huyện Nam, khi đi công
cán chẳng từ chối việc khó nhọc, có tinh thần cảnh giác và ứng biến nhanh, khi
đuổi theo quân cường khấu, thường xông lên trước. Ít đọc sách, thiếu khả năng
làm Lại.
Linh Đế
băng hà, Nguyên dẫn binh đến Lạc Dương. Cùng Hà Tiến mưu tính diệt bọn hoàng
môn, được bái làm Chấp kim ngô. Tiến chết, Đổng Trác vào kinh đô, định làm
loạn, muốn giết Nguyên, thâu gồm hết binh
lính. Trác thấy Bố được Nguyên tin tưởng, bèn dụ Bố sai giết Nguyên. Bố bèn
chém Nguyên đem đầu đến chỗ Trác, Trác lấy Bố làm Kỵ Đô uý, rất yêu mến tin
tưởng, ước thệ làm cha con.
Bố giỏi
việc cung ngựa, sức vóc hơn người, có danh hiệu là Phi tướng. Ít lâu được thăng
làm Trung lang tướng, tước Đô Đình hầu. Trác tự biết mình vô lễ với người, sợ
họ mưu hại mình, khi đi đứng thường lấy Bố làm hộ vệ. Nhưng Trác tính tình cố
chấp mà nóng nảy, lúc cáu giận chẳng nghĩ đến nguy hiểm, có lần thất ý vì một
việc nhỏ, tiện tay rút cây kích ném Bố. Bố có sức khoẻ đánh dạt cây kích đi,
ngoảnh về phía Trác tạ lỗi, Trác cũng có ý nguôi giận. Tuy vận Bố vẫn ngầm oán
Trác. Trác thường sai Bố trấn giữ trong cửa nách, Bố và thị tì của Trác tư
thông, sợ việc bị phát giác, trong lòng bất an.
Kinh Thi
viết: "Không có sức không gan góc, mà có chức tước là loạn ngôi
thứ.(3)" Chú: "Quyền, là sức vậy".
Trước
đấy, Tư đồ Vương Doãn nhân vì Bố là người cùng châu quận lại rất tráng kiện,
nên đãi Bố rất hậu. Về sau Bố đến chỗ Doãn, dãi bầy việc Trác có lần định giết
mình. Bấy giờ Doãn và quan Phó xạ Tôn Thuỵ đang ngầm bàn mưu tru diệt Trác, nên
yêu cầu Bố làm nội ứng. Bố nói: "Nhưng có cái tình cha con thì ta phải làm
thế nào!" Doãn nói: "Ngài là họ Lã, vốn chẳng phải là cốt nhục. Nay
vừa lo cái chết chẳng xong, sao bảo là có tình cha con?" Bố bèn nghe theo,
tự tay cầm dao đâm chết Trác. Việc đã nói ở Đổng Trác truyện. Doãn cho Trác làm
Phấn vũ tướng quân, cho Giả tiết, Nghi bỉ tam ti(4), tước Ôn hầu, cùng nắm
quyền chiều chính. Bố từ sau khi giết Trác, căm ghét người ở Lương châu, người
Lương châu đều oán giận. Bởi thế bọn Lý Thôi bèn liên kết kéo về vây đánh
Trường An. Bố không chống nổi, bọn Thôi liền kéo vào Trường An. Trác chết được
sáu tuần, Bố cũng thất bại. Bố bèn dẫn mấy trăm quân kỵ chạy ra Vũ Quan, muốn
đến chỗ Viên Thuật.
Anh hùng
ký chép: Quách Dĩ ở phía bắc thành. Bố mở rộng cửa thành, dẫn binh tới chỗ Dĩ,
nói: "Ngươi hãy tạm lui binh, chỉ mình ta và ngươi quyết thắng phụ".
Dĩ và Bố bèn đơn đả độc đấu, Bố dùng mâu đâm trúng người Dĩ, quân kỵ của Dĩ ở
phía sau liền tiến ra cứu Dĩ, Dĩ và Bố hai bên đều bãi binh.
Thần
Tùng Chi xét Anh hùng ký chép: Các sách nói, Bố giết Trác vào ngày hai mươi ba
tháng tư, ngày mồng một tháng sáu thua chạy, mùa ấy lại không có tháng nhuận,
vậy chẳng thể đến sáu tuần được.
Bố tự
nghĩ mình đã giết Trác là báo thù được cho Thuật, muốn tỏ cái ơn ấy ra. Thuật
ghét Bố là kẻ phản phúc, cự tuyệt không thu dụng. Bố về bắc đến chỗ Thiệu,
Thiệu cùng Bố đánh Trương Yến ở Thường Sơn. Yến có hơn vạn tinh binh, mấy nghìn
quân kỵ. Bố có con ngựa hay gọi là Xích Thố.
Tào Man
truyện chép: Người bấy giờ có câu rằng: "Người thì có Lã Bố, ngựa thì có
Xích Thố."
Bố
thường cùng cùng bọn tướng thân cận là Thành Liêm-Nguỵ Việt xung phong hãm
trận, sau phá được quân của Yến. Nhưng lúc xin cấp thêm binh, tướng sĩ lại hay
cướp bóc, Thiệu sợ mà ghét. Bố biết được ý ấy, tới gặp Thiệu xin đi. Thiệu sợ
Bố quay lại hại mình, bèn phái tráng sĩ nhân đêm tối đến giết Bố, không xong.
Việc bại lộ, Bố chạy về Hà Nội, cùng Trương Dương hợp binh.
Anh hùng
ký chép: Bố tự nghĩ mình có công với họ Viên, kiêu căng khinh mạn chư tướng bộ
hạ của Thiệu, cho rằng chỉ tạm giữ chức, không đủ quý hiển. Bố xin về Lạc
huyện, Thiệu giả vờ cho Bố lĩnh chức Tư lệ Hiệu uý. Bề ngoài nói là đang sắp
xếp, trong bụng muốn giết chết Bố. Sáng hôm sau lên đường, Thiệu phái ba chục
giáp sĩ đi theo, nói là đưa tiễn Bố. Bố ở trong góc trướng, vờ sai người ở
trong trướng gảy đàn tranh. Quân của Thiệu nằm nghỉ, Bố không biết làm sao lại
ra khỏi trướng, mà binh kia không phát giác được. Nửa đêm binh lính xông lên,
đến chém loạn vào giường của Bố, cho là Bố đã chết. Sáng hôm sau, Thiệu tra
hỏi, mới biết Bố vẫn còn sống, bèn đóng cửa thành lại. Bố liền bỏ đi.
Thiệu
lệnh cho binh lính đuổi theo, chúng đều sợ Bố, chẳng ai dám tiếp cận.
Anh hùng
ký chép: Dương cùng chư tướng thuộc hạ, đều vâng mệnh Thôi-Dĩ cho yết bảng để
tìm Bố, mưu toan giết đi. Bố nghe tin, bảo với Dương rằng: "Bố ta, và ngài
là người cùng châu. Ngài giết Bố, là ngài kém. Chẳng bằng đem bán Bố, có thể
được Dĩ-Thôi ban cho tước hậu." Dương vì thế ngoài mặt hứa với Thôi-Dĩ,
trong bụng lại thật tình bảo hộ Bố. Dĩ-Thôi lo lắng, bèn đổi ý xuống đại chiếu
thư, phong cho Bố làm Thái thú Dĩnh Xuyên(5).
Ghi chú:
(1) Theo một số tài liệu liên quan thì Lã Bố
khi đó làm sai dịch, chuyên việc tuyển mộ lính thú ở Tinh Châu.
(2) Nguyên văn câu này là 'Nguyên tử Kiến
Dương', chữ 'tử' có nghĩa là con cái, gốc gác; chữ 'tự' có nghĩa là tên tự, hai
chữ này viết chỉ khác nhau một nét, có thể bản gốc viết lầm chữ này?
(3) Vô quyền vô dũng, chức vi loạn giai. Chữ
'quyền' ở đây là quyền cước, là cái nắm tay.
(4) Tức là cho nghi trượng, gần được như ngôi
Tam công.
(5) Không hiểu vì sao truyện về Lã Bố lại dừng
ở đây, khi những tình tiết về nhân vật này vẫn còn dài?
NGỤY THƯ QUYỂN 8 - Nhị Công Tôn Đào tứ Trương
truyện
Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Trương Dương, Công
Tôn Độ, Trương Yên, Trương Tú, Trương Lỗ
CÔNG TÔN ĐỘ TRUYỆN
Công Tôn
Độ tự Thăng Tế, vốn là người huyện Tương Bình quận Liêu Đông. Cha Độ là Diên,
tránh quan (1) mà đến ở quận Huyền Thố, dùng Độ làm quan của quận ấy. Bấy giờ
con của Huyền Thố Thái thú Công Tôn Vực là Báo, mới mười tám tuổi, chết sớm. Độ
thuở nhỏ có tên là Báo(2), lại cùng tuổi với con của Vực, Vực gặp mà yêu quý
Độ, sai thầy đến dạy học, giúp cưới vợ cho. Sau cử Hữu đạo(3), bái làm Thượng
thư lang, dần chuyển làm Kí Châu Thứ sử, nói lời sai trái mà bị bãi chức. Người
cùng quận là Từ Vinh làm Trung lang tướng của Đổng Trác, tiến cử Độ làm Liêu
Đông Thái thú. Độ vốn là quan nhỏ của quận Huyền Thố, bị người quận Liêu Đông
coi thường. Lúc đầu, người của thuộc quốc (4) là Công Tôn Chiêu làm Tương Bình
Lệnh, gọi con Độ là Khang làm Ngũ Trưởng. Độ đến nhận chức, bắt Chiêu, đánh
chết ở chợ Tương Bình. Thổ hào họ lớn trong quận là bọn Điền Thiều không có ân
giao kết, đều dùng hình pháp mà giết hết hơn trăm nhà, trong quận rúng động.
Đến phía đông đánh nước Cao Câu Li, đến phía tây đánh người Ô Hoàn, uy lừng ngoài
nước. Năm Sơ Bình thứ nhất, Độ biết Trung Quốc rối loạn, bảo với quan thân cận
là bọn Liễu Nghị, Dương Nghi nói: "Lộc nhà Hán sắp hết, nay cùng các ông
mưu làm Vương thôi".
Ngụy thư
viết: "Độ nói với bọn Nghị, Nghi rằng: 'Có sách bói nói Tôn Đăng đáng làm
Thiên tử, Thái thú họ Công Tôn, tự Thăng Tế, Thăng là Đăng vậy''.
Bấy giờ
ở xã Diên Lí thuộc huyện Tương Bình có khối đá lớn, dời hơn một trượng, dưới có
ba khối đá nhỏ làm chân. Có người bảo Độ nói: "Đấy là điềm đã mũ(5) thời
Hán Tuyên Đế, mà tên ấp giống với tên tiên quân. Xã là đất đai, ý nói đáng có
đất đai, mà ba chân là phụ tá vậy". Độ thêm vui. Hà Nội Thái thú Lí Mẫn
ngày trước là người có tiếng trong quận, ghét việc mà Độ làm, sợ bị Hại, bèn
đem người nhà chạy vào biển. Độ cả giận, đào mộ cha của hắn, xẻ quan đốt thây,
giết họ hàng của hắn.
Tấn
Dương thu viết: "Con Mẫn đến cứu Mẫn, ra cửa ải, qua hai mươi năm không
lấy vợ. Người trong chua là Từ Mạc trách hắn nói: 'Bất hiếu chẳng gì lớn bằng
không có người nối dõi, sao lại suốt đời không lấy vợ vậy'! Bèn lấy vợ, sinh
con là Dận rồi đuổi vợ đi, thường dùng lễ chịu tang, không thôi lo buồn, được
mấy năm thì chết. Dận sinh ra không biết cha mẹ là ai, đến lúc biết, ăn rau
chịu tang người thân cũng ba năm. Vì không biết ông nội còn hay mất, cũng tự mình
cúng tế. Do đó mà có tiếng tăm, làm quan đến chức Tư đồ".
Thần là
Tùng Chi xét: Truyện gốc nói Mẫn đem người nhà vào biển, mà đây lại nói Mẫn lạc
nhau với con, chưa rõ nguyên nhân.
Chia
quận Liêu Đông lâp ra quận Liêu Tây, quận Trung Liêu, đặt chức Thái thú. Vượt
biển lấy các huyện quận Đông Lai, đặt chức Doanh Châu Thứ sử. Tự lập làm Liêu
Đông Hầu, Bình Châu Mục, truy phong cha là Diên làm Kiến Nghĩa Hầu. Lập miếu
thờ hai vị tổ của nhà Hán(6), thừa lệnh đắp đàn tế ở phía nam thành Tương Bình,
cúng tế trời đất, cày ruộng tịch điền(7), luyện binh, cưỡi xe màn loan, dùng
chín cờ xí, lập quân kị mao đầu, vũ lâm. Thái Tổ xét bái Độ làm Vũ uy Tướng
quân, phong Vĩnh Ninh Hương Hầu, Độ nói: "Ta làm chủ quận Liêu Đông, sao
lại là huyện Vĩnh Ninh"! Giấu ấn thao ở kho vũ khí. Độ chết, con là Khang
thay tước, lấy tước Vĩnh Ninh Hầu phong cho em là Cung. Năm đó là năm Kiến An
thứ chín.
Năm thứ
mười hai, Thái Tổ đánh người Ô Hoàn của ba quận, (8) làm cỏ Liễu Thành. Bọn
Viên Thượng trốn đến Liêu Đông, Khang chém đem đầu Thượng đem đến. Lời này tại
Vũ Đế kỉ. Phong Khang làm Tương Bình Hầu, bái làm Tả Tướng quân. Khang chết,
con là bọn Hoảng, Uyên còn nhỏ, quân sĩ lập Cung làm Liêu Đông Thái thú. Văn Đế
lên ngôi, sai sứ đến bái Cung làm Xa kị Tướng quân, Giả tiết, phong Bình Quách
Hầu, truy tặng Khang làm Đại Tư mã.
Trước
đây, Cung mắc bệnh suy sụp trở thành người yểm(9), gầy yếu không coi được việc.
Năm Thái Hóa thứ hai, Uyên ép đoạt chức của Cung. Minh Đế lên ngôi, bái Uyên
làm Dương liệt Tướng quân, Liêu Đông Thái thú. Uyên sai sứ xuống phía nam giao
kết với Tôn Quyền, trao đổi hàng hóa.
Ngô thư
chép Uyên dâng biểu gửi Quyền nói: "Phần trộm nghĩ rằng mình gặp buổi trời
đất quay ngược, mắc phải vận không hay; con đường đến chỗ Nhà vua chưa yên,
nghiêng ngả rối loạn. Từ thời tiên nhân đến nay, thờ qua Hán, Ngụy, nhân theo
cơ hội, giúp nước giữ tiết cho nên đời sau dược thay chức tước, giữ nơi biên
giới, nhưng vẫn biết rằng phù lệnh chưa có chỗ theo về. Thường cảm kích ân dày,
nhiều lần sai sứ đi, lại nghĩ rằng bầy tôi không được giao kết với kẻ ngoài
cõi, cho nên có ý giữ chắc, ngăn chặn sứ giả lúc trước. Về nghĩa dẫu là không
có tín ước nhưng há dám quên ân lớn của nhà nước sao! Bệ hạ vỗ về giữ nước nhỏ
này, trước sau sai bọn Bùi Hiệu úy, Cát Đô úy đến, nhận được chiếu lệnh ấy,
thấy chiếu chỉ nồng hậu, lại thêm ý tốt, phân biệt sáng tối, tự thân xét rõ,
lời ấy vẫn văng vẳng bên tai. Thần ngày thì ngâm đọc, đêm thì ngủ mộng, suốt
đời ghi nhớ lấy, tự thấy chí mình không biết đủ. Thời nay nhiễu loạn, trời đất
tắc nghẽn, can quan không ngừng, dân chúng lìa tan. Ngẩng xem mệnh trời mà ngậm
ngùi, đứng riêng một góc mà trông mong bậc Thiên tử. Nay nhà Ngụy không giữ
được ý tốt, không khen tặng dòng dõi của công thần, lại sai người gièm vu người
có chí tốt, nghe lời sai trái của U Châu Thứ sử, Đông Lai Thái thú, rồi phát
quân trong châu đánh phá quận của thần. Đấy là thần không phản Ngụy, mà là Ngụy
cắt dứt thần vậy. Thần nghe nói rằng bầy tôi có cái nghĩa phục và bỏ, như Điền
Nhiêu rời nước Tề, Nhạc Nghị bỏ nước Triệu(10), đấy là vì không được thờ vua,
cho nên chỉ giúp vua có đạo thôi; Trần Bình, Cảnh Huống, cũng vì thấy thời loạn
mà theo về nhà Hán, chăm chỉ giúp vua. Cúi xét thấy đức của Bệ hạ không có hai
trên đời, đời nay ít có, cho nên người ta tự kính ngưỡng mà theo về, người phương
xa ngưỡng trông nơi hiểm trở như nhìn chỗ gần gũi vậy. Thực mong Bệ hạ bày mưu
thần mà lập nên nghiệp lớn, sửa soạn thế mạnh của sáu quân, thu lấy đất Hà, đất
Lạc(11), làm vua thánh thay ngôi. Vậy thì thiên hạ may lắm"! Ngụy lược
viết: "Nhà nước biết Uyên có hai lòng, lại sợ quan dân quận Liêu Đông bị
Uyên lừa dối, bèn hạ chiếu đến Liêu Đông, nhân đó bảo họ nói: 'Báo cho quan
lại, tướng súy, dân chúng của quận Huyền Thố, quận Liêu Đông được biết rằng:
Giặc phản Tôn Quyền gặp lúc loạn lạc, cậy vào công lao của tiên nhân cướp chiếm
châu quận, trở thành bọn xấu, tự giữ miền Giang Biểu, bôi bẩn gây bệnh. Trẫm
mong hắn biết sửa đổi, cho nên cắt đất phong Vương, sai phải ngoảnh mặt về phía
nam xưng thần(12), bái đến chức Thượng tướng, lấy lễ cửu tích mà đối đãi. Quyền
tự chắp tay, hướng bắc cúi đầu, được sủng ái của bầy tôi, được vinh hoa của
phiên thần, chưa có ai được như Quyền vậy. Vậy mà mang lòng chó sói, ra lệnh
gây nạn, rút cuộc phản nghịch quên ân phản chủ, lừa trời dối thần, lại dám tiếm
hiệu. Cậy vào cái hiểm trở của miền Giang Biểu, quân Nhà vua chưa đến đánh
được. Từ đó đến nay, sai thuyền đi xa, vượt qua biển lớn, thu nhiều tài vậy, dụ
dỗ dân biên giới. Dân biên giới không biết cho nên giao kết với hắn. Từ bậc
trưởng lại trở xuống, chẳng ai chịu dừng. Lại sai sứ là bọn Chu Hạ đưa trăm
chiếc thuyền, dọc ngang nơi bờ biển, buôn bán tấp nập. Đã không ngăn cấm, lại
cho tặng ngựa khỏe, lại sai Túc Thư theo Hạ kết thân. Ấp có mười nhà vẫn có
người trung tín, người vùi vua vào chỗ xấu, đấy là điều mà sách Xuân thu ghi
chép. Nay các quận Liêu Đông, Huyền Thố vâng theo nhà nước, những người đeo dải
xanh dây đỏ có đến hàng trăm hàng nghìn người, đội khăn lụa rủ dải tua, đều đeo
ấn thao, vậy mà không nói lời giúp đỡ bày kế tốt. Rùa ngọc vỡ trong hộp, hổ tê
ra khỏi rương(13), đấy là lỗi của ai vậy? Nhà nước vì các ông mà hổ thẹn thay!
Xưa Hồ Đột có nói: 'Cha dạy con làm phụ tá, thì lấy gì mà thờ vua? Phải dốc hết
sức, xong rồi mới thôi'. Mà nay lại hùa theo mưu xấu, đi theo kẻ gian, há chỉ
có cái giáo hóa của cha anh không được rõ, mà không phải vì cái việc làm của
con em mà thôi sao! Như cỏ dại hại lúa, theo gió mà đốt lửa, thì cây củ đều bị
cháy, há được lợi riêng sao? Vả lại việc này rõ là dễ thấy, không phải soi vào
việc được thua của thời xưa mà sách truyên ghi chép. Miền Giang Nam, miền Hải
Bắc(14) có cái hiểm của đất đai dài vạn dặm, vua tôi miền Liêu Đông không có
cái hại đáng lo lắng, lợi thì có chỗ không lợi, quý thì có chỗ không quý, đấy
là tự chán ghét chỗ yên vui mà tìm lấy cái họa diệt vong, vứt tiết tháo trung
tiết mà coi trọng cái tiếng phản nghịch vậy. Quân trưởng của người Man Mạch vẫn
biết yêu lễ nghĩa, lấy đó mà thờ vua, mà cũng khó làm sao! Vả lại Túc Thư không
có tội, bị ép sai vào Ngô, nhận lệnh làm sứ giả không có nghĩa, từ biệt với
người nhà trước, khóc lóc mà đi. Rồi đến ngày bọn Chu Hạ chết, chất thây ở núi
Thành Sơn, Thư dẫu thoát chết nhưng hồn bay phách lạc. Cái gì bức ép mới dẫn
đến như thế? Nay trung thần liệt tướng đều căm giận quận Liêu Đông làm trái đạo
thờ vua, đều muốn cưỡi thuyền vượt qua biển Bột Hải, hẹn nhau xông xáo. Trẫm là
cha mẹ của thiên hạ, nghĩ rằng thiên hạ mới định, đã không muốn gây can qua mỏi
mệt, lội sông đi xa, hao tổn ở đấy, lại buồn lo bọn dân đen nơi biên giới vẫn
mê muội như thế, cho nên sai bọn Trung lang Vệ Thận, Thiệu Mạc đem chiếu thư
đến bảo cho biết trước. Nếu làm kẻ trung lương, làm đùi tay thì nên giữ tiết
tháo để giúp vua, chống ác theo thiện để lập công lớn, vậy thì phúc nào to hơn?
Nếu lo sợ mình từng làm việc ác nghịch dơ bẩn mà không dám nói ra, mang lòng sợ
hãi và những người khác từng cùng sứ giặc qua lại thì đều tha thứ cho, cho các
ngươi sửa đổi".
Quyền
sai bọn Trương Di, Hứa Yến đem vàng ngọc châu bảo đến tặng, lập Uyên làm Yên
Vương. Uyên cũng sợ Quyền ở xa không dựa cậy được, lại tham tài vật, dụ dỗ sứ
giả, đều chém đem đầu bọn Di, Yến đến dâng, Ngụy lược chép biểu của Uyên nói:
"Thần trước kia sai Hiệu úy Túc Thư, Lang trung lệnh Tôn Tông dùng lời hay
lễ hậu đến để dụ giặc Ngô. May nhờ đạo trời giáng phúc giúp Đại Ngụy, khiến cho
bọn giặc sai lầm u mê, làm trái lời bàn của bầy tôi, không nghe lời can gián mà
lại tin theo lời thần, sai thuyền đi xa, đem nhiều quân sĩ, đến đây bái phong.
Thần đã bắt gọn, được như ý mình, dẫu lo có tội, nhưng tự thấy vẫn may lắm.
Quân giặc vốn có vạn người, thêm bọn Thư, Tông có bảy, tám nghìn người nữa đi
đến bến Đạp(15). Bọn sứ giả là Trương Di, Hứa Yến cùng bọn Trung lang tướng Vạn
Thái, Hiệu úy Bùi Tiềm của bọn ngụy(16). đem hơn bốn trăm quan quân đem chiếu
thư cùng tài vật đến quận của thần. Bọn Thái, Tiềm đi riêng đem tài vật đến
tặng, muốn nhân đó mua ngựa. Tướng quân Hạ Đạt, Ngu Tư lĩnh quân còn lại ở trên
thuyền. Thần vốn muốn nhân lúc trời lạnh mà bắt lấy bọn Di nhưng quân sĩ của Di
rất đông, chúng thấy thần không chịu theo lệnh của Ngô bèn có ý nghi ngờ. Thần
sợ chúng gây loạn trước, muốn sống mà liều thân, cho nên thần liền cho quân đến
vây lại, chém đầu bọn Di, Yến, Thái, Tiềm. Bọn quan lại dẫn quân đông đi theo,
đều là quân sĩ nhỏ bé, xông đông xáo tây, không được như ý, đều cúi đầu xin
hàng, cho nên thần không nỡ giết chết, liền nhận làm tù binh, cho vào đội ngũ
ra nơi biên giới. Lại sai riêng bọn Hàn Khởi đem ba quân đi nhanh đến bến Đạp,
sai bọn Trưởng sử Liễu Viễn bày lễ chủ khách để dụ bọn Đạt, Tư; ba quân ẩn nấp
để đợi ở dưới, lại đem đàn ngựa cùng tài vật đến muốn mua bán. Bọn Đạt, Tư nghi
ngờ không xuống thuyền, sai năm, sáu người mua bán xuống trước, muốn trao mua.
Bọn Khởi đánh trống vang lừng, tên bay tán loạn, đánh chém hơn ba trăm thủ cấp,
kẻ bị thương rơi xuống nước mà chết chìm đến hơn hai trăm người, những kẻ còn
lại phân tán vào hang núi, phải đến hàng hoặc trốn náu đói rét mà chết, không
tại trong số đó. Thu được ấn bạc, ấn đồng, binh
khí, hàng hóa, không thể kể hết. Lại kính sai Tây tào duyện Công Tôn Hành đem
chở các đồ cờ tiết, ấn thao, phù lệnh, cửu tích, tài vật của giặc Quyền cùng
thủ cấp, ấn thao, cờ tiết của bọn Di đến dầng". Lại nói: "Túc Thư,
Tôn Tống trước đây đi sứ đến Ngô, giặc Quyền hỏi các việc lớn nhỏ trong nhà
thần, bọn Thư, Tống nói thần có ba con, con là Tu cho ở em thần. Quyền dám gian
xảo, lại tự tiện bái phong. Nay kính đem ấn thao, phù lệnh đến dâng lên. Thần
dẫu không có phong thái người xưa biết rửa tai, sợ bị giặc Quyền bôi trát dơ
bẩn, nay dẫu đã theo ý trời mà đánh hắn, nhưng vẫn còn giận". Lại nói:
"Cha thần là Khang, lúc trước giết sứ giả của Quyền, gây kết thù oán. Nay
lại lừa dối, sai sứ đến dụ, khiến cho Quyền xiêu lòng, nước rỗng lộc kiệt, sứ
giả đi xa, sai quan lớn đến ở ngàn dặm, sắm sửa lễ nghi uy động cả phương nam.
Quyền lại đối đãi Thư, Tông rộng rãi ân cần, vua tôi trên dưới đều vui vẻ tận
tình. Vậy mà thần khiến cho bốn sứ giả bị giết, treo đầu ở chốn vạn dặm, quân
sĩ tan vỡ, chết gục chỗ bờ nước, hổ thẹn vươn xa, đau nhục ngút trời. Cái xót
giận của Quyền còn khắc vào xương thịt. Nếu trời làm yếu nghiệp của hắn, khiến
cho hắn tổn hại, Quyền sẽ đau lòng phát ra mà chết. Nếu số vận chưa hết, hắn
tất gây độc, lâu ngày tất làm việc cướp hại. Các đồn trại miền Từ Châu cùng các
quận Thành Dương tiếp gần với nhau, nếu năm sau có quân thuyền của hắn đến cửa
biển, nếu có tin tức, hãy nhanh báo cho thần, thần sẽ phòng bị". Lại nói:
"Nhà thần chịu ân, vừa sâu vừa nặng, từ lúc thần thay coi làm việc đến
nay, nhiều năm được yêu quý, được đối đãi đặc biệt không kể hết, chức phận phải
rong ruổi, nên đem hết sức đến chết mới thôi. Vậy mà thần ngu dốt, mưu kế mờ
mịt, không bắt sống được giặc để rồi dẫn đến bị nghi ngờ. Sớ biểu trước đây nói
rõ thế cuộc ngày nay, thực là thần muốn dẹp trừ quân giặc, khiến cho chúng tự
cắt đứt, cũng thật là không dám phản lại cái ân của nhiều đời mà nương theo bọn
giặc vậy. Vậy mà bị người ta ghét, lại thêm bị vu gièm, giả gây việc quân, rút
cuộc khiến cho thần bị nghi ngờ như việc có hổ giữa chợ, khiến cho thay ân đổi
sủng, gây phát oán giận, dẫn đến chìm đắm, lâu ngày lo lắng. May nhờ ân dày,
lại được khen thêm, khiến cho thần được sửa lỗi, cởi bỏ được nỗi lo, như oai
trời sâu xa, không bị xử sai, sớm được rũ bỏ, xóa bỏ nỗi ngục trước kia, nhân
đó mà tự sáng tỏ, lập được công nhỏ này. Thần đã vui vì việc xong, lại được tự
trông coi, buồn vì việc trước, như việc xấu này, vẫn để lại nỗi sợ, chưa dám tự
yên. Mong Bệ hạ kính theo lòng nhân giữ trọn vạn vật ngày xuân, dẹp bỏ hiềm
nghi, vứt ném ý xét nét, xét việc nay mà làm rõ việc trước, xét tấm lòng của
thần, khiến cho thần mãi được ôm bọc, được giữ chức phận đến lúc xuống chín
suối". Lại nói: "Thần được nhận vinh hoa, ân tình chưa trả, mà lại có
tội lỗi, tự lấy làm tiếc giận, tội đáng giết chết làm răn bảo cho mọi người.
Làm sai phép thường, giả kết thân với Ngô, cũng là vì cùng khốn, chưa lập công
chuộc tội mà oai trời đã giáng hình phạt đến, sợ rằng mãi bị vùi lấp không được
tẩy rửa. Cho nên dám tự sửa lỗi hơn một năm trước, sai sứ đến dụ Ngô, biết
chúng tất đến, Quyền đến xin ở quận, năm tháng thêm dài, trước không nói ra một
lời ứng đáp, nay Quyền sai sứ đến tất không nghi ngờ, cho nên đánh một trận là
được như ý muốn, quan thuộc quân sĩ, tụ tập đầy đủ, hàng hóa đem đến, nghiêng
nước xiêu ngôi, dẫn đến bị bắt, tan lìa diệt vong có đến hơn nghìn người, từ đó
họa trừ không quay lại. Đấy thực là bẻ mũi nhọn sắc bén của bọn gian, phá cái
mạnh kiêu ngạo của giặc ác, tỏ rõ cho thiên hạ biết, phá tổn cơ nghiệp của
chúng, đủ để làm chúng hổ thẹn vậy".
do đó
Minh Đế bái Uyên làm Đại Tư mã, phong Lạc Lãng Công, Trì tiết, lĩnh quận như
trước.
Ngụy
danh thần tấu chép biểu của Trung lĩnh quân Hạ Hầu Hiến nói: "Công Tôn
Uyên năm xưa dám trái lệnh vua, bỏ dứt cống nạp, thực là mang hai lòng. Lại cậy
chỗ hiểm trở mới theo Tôn Quyền. Do đó ngỗ ngược, buông thả ở ngoài cõi. Túc
Thư tự thân đến xem kho phủ quân sĩ của giặc Quyền, biết chúng yếu kém không đủ
để nương dựa, cho nên quyết ý chém sứ giả của giặc mà thôi. Lại nữa người Cao
Câu Li, người Uế Mạch gây thù với Uyên, cướp bóc với nhau. Nay ngoài thì mất
chỗ dựa với Ngô, trong thì bị ngời Hồ cướp bóc, trong lòng biết nhà nước có thể
đi theo đường bộ, không thể không lo lắng được. Nhân lúc này, nên sai sứ giả
đến kể rõ họa phúc. Phụng xa Đô úy Tông Hoằng vào thời Vũ Hoàng Đế bắt đầu nhận
đi sứ, mở thông đường lối. Văn Hoàng Đế lên ngôi, muốn thông sứ giả, sai Hoằng
đem vợ con về quê quán, ban cho xe, ngựa, bốn trăm thất lụa. Hoằng đã nhận ân,
xin chết vì nước, không có ý quay về, xin giữ vợ con ở lại, tự thân nhận đi sứ.
Công Tôn Khang bèn xưng phiên thần. Vì Hoằng có ý nhận đi sứ, ban tước Quan Nội
Hầu. Tính Hoằng cứng cỏi, dốc lòng vì nước, ngày đêm chăm chỉ, nghĩ tự lập
công. Vốn là con cháu nhà quan, thuở nhỏ học hỏi, hiểu rộng sách truyện, phần
nhiều thông suốt, miệng nói nhanh nhẹn, lời lẽ không tầm thường, nói rõ lợi
hại, đủ để lay động ý người khác, rõ ràng để để xét việc, tài đủ để làm việc,
lời đủ để được tin. Nếu theo kế ấy, dẫu Lịch Sinh khuyên Tề Vương hàng, Lục Giả
khuyên Úy Đà phục cũng không hơn được thế. Muốn đi đường xa, không bằng thả
ngựa kì kí (17) ra; muốn chữa bệnh mình, không bằng mời Biển Thước đến. Mong
xét ý ngu này".
Sứ giả
đến, Uyên bày binh giáp làm thế trận, ra gặp sứ giả, lại nhiều lần sai tân
khách trong nước nói lời xấu. Ngô thư viết: "Ngụy sai sứ giả là Phó Dung,
Nhiếp Quỳ đến bái Uyên làm Lạc Lãng Công. Kế lại của Uyên từ Lạc Dương về, bảo
Uyên nói: 'Sứ giả là Tả Tuấn Bá, đều chọn kẻ dũng mãnh, không phải người
thường'. Uyên do đó nghi ngờ. Dung, Quỳ đến, trú trong nhà học. Uyên đem quân
bộ kị vây họ trước, rồi vào nhận phong. Dung, Quỳ cả kinh, do đo về Lạc Dương
báo tình trạng".
Năm Cảnh
Sơ thứ nhất(18), lại sai bọn U Châu Thứ sử Quán Khâu Kiệm đem ấn thư đến gọi
Uyên. Uyên bèn phát binh, làm phản ở thành Liêu Toại, đánh với bọn Kiệm. Bọn
Kiệm không được lợi mà về. Uyên bèn tự lập làm Yên Vương, đặt trăm quan hữu tư.
Sai sứ giả cầm cờ tiết, mượn ấn Thiền vu(19) của người Tiên Ti mà phong bái dân
biên giới, dụ gọi người Tiên Ti vào xâm nhiễu miền bắc.
Ngụy thư
viết: "Uyên biết cuộc biến ấy không chỉ do từ Kiệm, bèn phòng bị. Sai sứ
đến tạ lỗi Ngô, tự xưng Yên Vương, xin làm nước giúp nhau. Nhưng vẫn sai quan
thuộc tự bày tỏ với Ngụy nói: 'Bọn thần bảy trăm tám mươi chín người là bọn Đại
Tư mã Trưởng sử Quách Hân, Tham quân Liễu Phổ nói: Nhận chiếu thư ngày kỉ mão
tháng bảy năm nay, cúi đọc kính cẩn mà hồn phách tán lạc, không biết tính mạng
của đáng vứt bỏ ở đâu! Bọn Hân cúi thân tự nghĩ mình là kẻ nhỏ bé sâu kiến,
không được dùng đến, may gặp cơ hội ngàn năm, được nhận ân đức tươi đẹp của tổ
tiên Công Tôn Uyên đến nay, ân trạch thấm đẫm, vinh hoa dồi dào. Dẫu mình không
có công một tấc một thước mà vẫn nhận được đầy nhiều; bèn được khen ngợi, viết
tên lên phủ quan, lại đều là kẻ chậm chạp mà được nương dựa vào rồng ngựa, được
đeo thao xanh dải tím, bay lướt tầng mây, cảm kích ân mà báo đền, dẫu chết cũng
không lùi bước. Bọn thần nghe nói rằng vua sáng ở trên phải nghe lời thẳng chọn
lời hay, bầy tôi ở dưới không được giấu diếm, cho nên bọn thần xin tự bày tỏ,
liều chết để giải oan. Quận tại biên giới, xa xôi khó phục, ba châu trước kia
chuyển chở tổn phí, đến để cung cấp đồ dùng thêm nhiều, làm Trung Quốc hao tổn.
Nhưng vẫn hiên ngang giữ gìn biên giới, đuốc lửa(20) vẫn trông nhau, văn thư
vẫn qua lại, buổi ngày vẫn đóng cửa thành, trên đường không có người đi, binh
lính của châu quận vẫn phải tản ra lao dịch, Vậy mà ông nội của Uyên là Độ mới
đến nhận chức ở quận, tiếp nhận chỗ hoang tàn, mở ánh sáng của Mặt trời Mặt
trăng, bày mưu thần vũ, tụ tập dân ô hợp, quét đất mà dựng nghiệp, oai lừng lẫy
cả dân khác, đức trạch bao bọc cả muôn vật. Đất Liêu Đông không bị phá hoại,
thực là cậy vào Độ vậy. Khổng Tử nói:
'Nếu không có Quản Trọng(21) thì ta phải búi tóc cài vạt áo bên trái rồi'. Nếu
không có Độ thì quận sớm đã thành gò hoang và dân chúng đã bị bắt đi hết rồi
vậy. Truyền lại phong tục, còn mãi không mất. Độ đã hoăng mất, quan dân cảm mến,
vui chọn con là Khang lên, tôn mà vâng theo Khang. Khang thay dựng công to,
dũng mãnh có mưu lược hay, văn sáng võ mạnh, nhân đức bao bọc biên giới; lại có
lòng hướng về nhà vua, cung kính thành thật giúp nước dẹp loạn, tranh giành lập
công, công to việc lớn đều ở phủ Vương. Độ, Khang gặp lúc Vũ Hoàng Đế sáng
suốt, cùng bày kế hay, giúp đỡ nhà Hán, cúi mình thần phục, cung kính thờ Ngụy.
Đấy là quận nhỏ mà công lớn, sợ mà kính phục, lại ngưỡng mộ phong thái cao đẹp,
trông mông đức tốt vậy. Vũ Hoàng Đế cũng xiêu lòng tiếp nhận, đối đãi không tệ,
công lao không kể to nhỏ, nhưnng thường không bị quên. Lại lệnh cho Khang nói:
'Đất đai của miền Hải Bắc cắt cho phủ quân, con cháu đời sau đều được có nó'.
Trời cao đất dày thực là ban đức âm. Bọn thần lớn nhỏ đều vui lòng ở dưới, vâng
lệnh cẩn thận, không dám làm trái. Uyên sinh ra vốn có dáng vẻ đẹp đẽ, thưở nhỏ
chịu dạy bảo hiếu thuận, học văn luyện võ, trung thành ngay thẳng; dân chúng
kính ngưỡng, chẳng ai không yêu. Uyên kính theo tổ tiên, trông coi muôn dân,
lấy lễ mà dựng nước, lập dựng giáo hóa, thấy việc trước mắt, ràng buộc phương
xa, giữ nghĩa giúp vua, xem chỗ nguy như chỗ yên, người đời khen là kẻ trung
lương, không làm xấu tên tuổi. Tôn Quyền mộ nghĩa ấy, nước không xa hơn vạn
dặm, nhiều năm sai sứ đến, muốn tự giúp đỡ, dẫu đã bị giết hết, nhưng cũng
không ghi nhớ oán cũ, vẫn qua lại lũ lượt, xin được gần gũi. Uyên giữ tiết vốn
có không mưu lợi riêng, giữ chí vững như đá, lại càng chắc chắn. Nhưng vẫn sợ
lòng son chưa được giữ rõ, lại dùng lời lẽ nhún nhường đến bày tỏ, dụ sứ giả
của Quyền đến, treo đầu cắt tai chúng để tỏ rõ không có hai lòng với nhà vua
vậy. Ngô dẫu ở phương xa, nhưng lợi ở đường thủy, dương buồm là đến, không gì
ngăn cách nhưng Uyên không nghĩ về mối thù sâu cũ, vẫn ghi nhớ tiết tháo của
bầy tôi, cắt đứt cái vui của giặc Ngô mạnh, tỏ rõ ý thờ Ngụy, có thần minh soi
sáng, trời cao làm chứng. Bệ hạ soi sáng tốt đẹp, công võ đầy đủ, hiệu lệnh
rộng rãi, yêu quý hơn cả Tề, Lỗ, ban xuống bầy tôi, đều được nhận phúc lớn.
Thật là dựa ân trời ban, phải nên trọn vẹn trước sau, dốc hết sức đùi tay, để
giữ mãi tước lộc. Vậy mà không ngờ một sớm lại bị phá vỡ, Mong có ý an ủi, nghĩ
về công trước kia mà lo buồn không thôi, đau đáu vì bị rũ bỏ, khiến cho cả quận
kêu than, vỗ ngực khóc chảy máu. Những kẻ mà ba quân đánh dẹp là người Man, Di,
Nhung, Địch(22), kẻ kiêu ngạo không phục, do đó mới dùng võ, chưa từng nghe nói
kẻ giữ nghĩa mà lại bị đánh giết vậy. Theo phép tắc của bậc vua hiền thì ở cõi
hoang phục có chỗ không theo chức phận, thì tu văn sửa đức, nếu lại không đến
thì mới đánh dẹp. Uyên có lòng cung kính, cẩn thận giữ chức, chăm làm thờ vua,
có thể nói là gắng gỏi vậy. Dốc hết trung tiết mà lại bị họa hại, hát khúc Tiểu
biện, viết tập Li tao(23), đều là do đó vậy. Có kẻ nịnh nọt, nói lời ngon ngọt,
vẫn nên xét rõ, chỉ sợ không biết người tốt; lời gièm giống lời thẳng, làm mê
loạn vua hiền, phải xem lời văn thế nào, khiến cho biết được nguyên nhân của
nó. Nếu vua tin là có tội thì cũng nên có tam hữu(24), xét công mà giảm phạt,
nên bàn bạc đến tám lần. Vậy mà ngầm đem quân đến đánh úp, đại quân lén đến,
vung đao ruổi ngựa, vào đánh đất Liêu Đông. Dẫu là chó ngựa còn sợ chết, huống
chi là người! Do đó quan dân liều chết, chống lại quân của nhà vua. Uyên dẫu bị
oan uổng, đang bị họa hại nhưng vẫn cậy vào ân dày, trong lòng buồn bã cho rằng
tất do gian thần sắp đặt, tự ý ngang ngược, lại bảo bọn thần nói: 'Năm Kiến
Quang thứ nhất thời Hán An Đế, Liêu Đông thuộc quốc Đô úy Bàng Phấn nhận chiếu
thư ngàu ất mùi tháng ba có lệnh là bắt lấy U Châu Thứ sử Phùng Hoán, Huyền Thố
Thái thú Diêu Quang. Nhưng thực ra không có chiếu thư ngày ất mùi ấy, bèn sai
Thị Ngự sử U Châu Mục xét hỏi gian thần làm trái. Nay quan Thứ sử gièm vu tự ý
làm trái lệnh sao'? Bọn thần bàn cho rằng: 'Thứ sử dấy binh, thiên hạ nhiễu
động, đấy không phải tự ý mà là có chiếu lệnh'. Uyên lại ngẩng mặt than thở, tự
làm khổ thân không có tội. Nghĩ kĩ rằng đất đai nuôi người cũng là vì có cái
công to của tổ tiên, lại muốn vứt mũ cởi thao, chạy
trốn vào rừng núi. Bọn thần níu lại, thề theo đến chết, đóng giữ cửa phủ, không
nghe theo ý của Uyên. Nhưng bọn dũng sĩ của bảy trại, người Man Di của năm bộ
lạc đều mong được ăn no, không cùng lòng mưu tính, dương tay hô lớn, mở cửa
trốn ra. Dân cày ngoài thành đều vứt cuốc cày, chặt củi làm gậy, sửa bàn làm
khiên, chạy nhanh đến cứu nạn, quân đội đã thành, dẫu nhảy vào nước sôi lửa
bỏng, chết không cần sống. Uyên dẫu bị vứt bỏ, dẫu oán nhưng không giận, liền
lệnh cho quân không được làm bừa, rồi tự tay viết thư báo lên, lời lẽ rất tha
thiết. Nhưng quan quân hăng hái, không thể giải tán, đều đánh hết mình, đến
chết không tiếc. Uyên sợ quan quân không theo mệnh lệnh, bèn tự thân đi đôn
đốc, tự đến phân giải, chỉ làm thế mới ngăn được. Cũng vì cái ân cho một bát
cơm thì bốn người xin chết vì người cho cơm, huống chi nhiều đời nhà Uyên vốn
có tín ước với trăm họ, ân lớn với lòng dân. Từ lúc Tiên Đế mới dấy binh kịp
đến Bệ hạ, ban cho Uyên ân sủng, vì Uyên công to đức dày, hết lòng khen ngợi,
Uyên nói lời lẽ tốt đẹp đến ở triều đình, dẫu là trẻ con sắp mặc áo đi giày
cũng nhẩm đọc văn hay, mở miệng là đọc được. Như chôn rồi đào lên, đấy là điều
mà người xưa láy làm thẹn. Tiểu Bạch, Trùng Nhĩ (25) là chư hầu thời suy loạn
mà vẫn ngưỡng mộ tín ước để làm nên nghiệp Bá. Kinh Thi khen Văn Vương làm cho
muôn nước tin phục, sách Luận ngữ khen Trọng Ni bỏ ăn mà giữ tín. Giữ tín là tu
đức, cũng quan trọng lắm vậy. Nay Ngô, Thục cùng xưng Đế, lập ra thế chân vạc,
thiên hạ đong đưa, chưa nối làm một, bọn thần thường vì Bệ hạ mà lo việc ấy.
Uyên giữ cãi vững của thành vàng, nắm lấy dân chúng hòa mục, nước giàu quân
mạnh, có thể lấy đó mà dùng. Nguyện dốc lòng vì nước, dẫu chết giữ đạo hay, đem
hết trung nghĩa để làm phên dậu của chín châu. Ngày nay hai tên giặc dòm ngó,
chưa biết khi nào định, mà không phòng bị, mà nếu Uyên bị hại, hiếp yếu tránh
mạnh là không phải là cái đạo của bậc Vương vậy. Bọn thần dẫu ngu hèn cũng trộm
nghĩ đấy là nỗi hổ thẹn. Nếu không có trời thì cái tốt xấu của quận thần, vẫn
chưa biết được; nếu nói có trời cũng đáng lo vậy! Bọn thần nghe nói rằng làm
tôi trong nhà, hai đời thì làm chủ trong nhà, ba đời thì làm vua trong nhà. Bọn
thần sinh ở cõi biên giới, xuất thân ở giữa chốn xa xôi, không được nhà Ngụy
giúp nhều, suốt đời lệ thuộc vào họ Công Tôn, nguyện đền áo cái ân sinh sôi và
ban tặng ấy. Xưa Khoái Thông nói thẳng, Hán Cao Tổ tha tội; Trịnh Đam nói lời
kính thuận, Tấn Văn Công tha chết. Bọn thần ngu dốt, không có tiết tháo lớn
nhũng cũng giữ ý nói thẳng, tỏ rõ tim gan, lời nói trái tai rồng lân(26), tội
đáng muôn chết. Chỉ mong Bệ hạ mở ý vỗ về, xét rõ lời gièm vu, khiến cho bọn
thần ở nơi xa mãi được giữ gìn".
Mùa xuân
năm thứ hai, sai Thái úy Tư Mã Tuyên Vương đánh Uyên. Tháng sáu, quân đến Liêu
Đông.
Hán Tấn
Xuân thu viết: "Công Tôn Uyên tự lập, xưng niên hiệu là năm Chiêu Hán thứ
nhất. Nghe tin quân Ngụy đến đánh, lại xưng thần với Ngô, xin quân đánh phía
bắc để tự cứu. Người Ngô muốn giết sứ giả của Uyên, Dương Bát nói: 'Không nên,
đấy là tỏ cái giận của kẻ thất phu mà tổn cái kế của bậc Bá Vương vậy. Không
bằng nhân đó mà vỗ về hắn, sai quân tinh nhuệ ngầm đến xem thành bại. Nếu Ngụy
đánh Uyên không thắng thì quân ta đi xa đến cũng tỏ được ân kết với người
ngoài, nghĩa trùm cả vạn dặm, nếu quân mãi không giải, đầu đuôi ngăn cách thì
ta đánh quận bên cạnh của chúng, cướp nhanh rồi về, cũng đủ để tỏ ý phạt của
trời, lại rửa được nỗi nhục lúc trước'. Quyền nói: 'Hay'. Bèn sai quân đi ra.
Bảo sứ giả của Uyên nói: 'Xin đợi hỏi sau, đang phải viết thư, sẽ cùng nhau gần
gũi, cùng chung còn mất, dẫu ngăn cách với Trung Nguyên, nhưng ta cũng vui lòng'.
Lại nói: 'Chỗ mà Tư Mã Ý đến không ở lại được, sẽ lo xa vì các ngươi vậy'.
Uyên sai
tướng là bọn Ti Hành, Dương Tộ đem mấy vạn quân bộ kị đóng ở thành Liêu Toại,
đắp lũy vây quanh hơn hai mươi dặm. Quân Tuyên Vương đến, Uyên sai Hành đón
đánh. Tuyên Vương sai tướng là bọn Hồ Tôn đánh phá chúng. Tuyên Vương lệnh đào
lũy, dẫn quân về phía đông nam, bị nguy cấp ở phía đông bắc, liền đi nhanh về
huyện Tương Bình. Bọn Hành sợ thành Tương Bình không giữ được, nhân buổi đêm
chạy trốn. Các quân đi đến núi Thủ, Uyên lại sai bọn Hành đem liều chết mà
đánh, lại đánh, đại phá chúng, rồi đem quân đến dưới thành, làm lũy vây quanh.
Gặp mưa dầm hơn hai mươi ngày, sông Liêu dâng cao, đưa thuyền từ cửa sông Liêu
đến thẳng dưới thành. Mưa tạnh, đắp đất làm gò, sửa khiên làm máy bắn đá mà bắn
vào trong thành. Uyên nguy khốn, lương hết, người ăn thịt nhau, người chết rất
nhiều. Bọn Tướng quân Dương Tộ hàng. Buổi đêm ngày bính dần tháng tám, có sao
băng dài đến mấy chục trượng từ phía đông bắc núi Thủ rơi xuống phía đông nam
thành Tương Bình. Ngày nhâm ngọ, quân Uyên vỡ, cùng con là Tu đem mấy trăm quân
kị phá vây chạy về phía đông nam, đại quân nhanh đánh chúng, đến chỗ mà sao
băng rơi xuống, chém cha con Uyên. Thành phá, chém mấy nghìn bọn Tướng quốc trở
xuống, đem đầu Uyên đến Lạc Dương. Các quận Liêu Đông, Đái Phương, Lạc Lãng,
Huyền Thố đều bình.
Trước
đây, nhà Uyên có điềm gở, có con chó đội mũ quấn áo đỏ chạy lên nhà, lại lúc
đun bếp nấu chết một đứa trẻ con trong nồi. Chợ phía đông bắc thành Tương Bình
mọc ra miếng thịt, dài tròn đến mấy thước, có đầu mắt môi miệng, không có tay
chân mà dao động được. Thầy bói nói: "Có hình mà không thành thân, có thân
mà không có tiếng, nước này sắp diệt vong". Từ năm Trung Bình thứ sáu Độ
bắt đầu đến Liêu Đông kịp đến Uyên là ba đời, cả thảy năm mươi năm thì diệt.
Ngụy
lược viết: "Lúc đầu anh Uyên là Hoảng làm con nuôi của Cung ở tại Lạc
Dương, nghe nói Uyên cướp lấy chức của Cung, nói là Uyên không giữ được đến
cùng, nhiều lần dâng biểu, muốn xin nhà nước đánh Uyên. Đế vì Uyên đã nắm quyền,
cho nên nhân đó mà vỗ về thôi. Lúc Uyên phản, bèn dùng hình pháp bắt trói
Hoảng. Hoảng có lời nói lúc trước, dẫu may không bị tội chết, nhưng trong là
tình máu thịt, biết Uyên phá thì đến lượt mình. Đầu Uyên đến, Hoảng tự xét tất
chết, cùng con mình ôm nhau khóc lóc. Bấy giờ nhà vua muốn cho họ sống, nhưng
quan Hữu tư cho là không nên, bèn giết họ".
Ghi chú:
(1) Tránh quan: tránh sự đuổi bắt của quan lại
hoặc tránh làm quan ở kinh sư mà xin đi làm quan ở nơi xa để tránh loạn họa.
(2) Độ thuở nhỏ có tên là Báo: thuở nhỏ tên là
Báo, sau đổi tên là Độ. Chỗ này có vẻ khó hiểu.
(3) Cử Hữu đạo: tiến cử người có đạo đức tốt
lành ra làm quan.
(4) Thuộc quốc: các nước nhỏ phụ thuộc quận
Liêu Đông.
(5) Đá mũ : phiến đá lớn nằm trên ba phiến đá
nhỏ giống hình người đội mũ.
(6) Hai vị tổ của nhà Hán: Cao Tổ Lưu Bang lập
nên nhà Tây Hán và Quang Vũ Lưu Tú trung hưng lập nên nhà Đông Hán.
(7) Ruộng tịch điền: là ruộng của Đế Vương
hoặc vua chư hầu. Vào mùa xuân đầu năm vua tự mình cày cấy để khuyến khích
người dân chăm làm nông.
(8) Người Ô Hoàn của ba quận: người Ô Hoàn
thuộc ba quận biên giới phía đông bắc thời Hán, gồm quận Liêu Đông, quận Liêu
Tây và quận Hữu Bắc Bình.
(9) Người yểm: người không còn khả năng sinh
con.
(10) Điền Nhiêu rời nước Tề, Nhạc Nghị bỏ nước
Triệu: Điền Nhiêu là một người tài giỏi của nước Lỗ thời Xuân thu, không được
Lỗ Ai Công dùng, bèn bỏ sang nước Yên làm đến Tướng quốc nắm triều chính, giúp
nước Yên giàu có yên bình. Nhạc Nghị của nước Triệu thời Chiến quốc, giỏi dùng
binh. Triệu Cũ Linh Vương gặp nạn, bỏ sang
nước Yên, cùng quân các nước Triệu, Sở, Hàn, Ngụy, Yên đánh bại quân Tề, nổi
tiếng khắp chư hầu.
(11) Đất Hà, đất Lạc: vùng đất ven sông Hoàng
Hà và sông Lạc là trung tâm của Trung Quốc
(12) Ngoảnh mặt về phía nam xưng thần: Đế Vương
Trung Quốc thời xưa lúc lên triều đình bàn bạc cùng bầy tôi đều ngồi ngoảng mặt
về phía nam. Trung Quốc ở phía bắc bán cầu, Mặt trời hơi chếch về phía nam,
thói quen ngoảnh mặt về phía nam là đón ánh nắng Mặt trời.
(13) Rùa ngọc vỡ trong hộp, hổ tê ra khỏi
rương: ý nói tai họa từ trong phát ra, nuôi ong tay áo.
(14) Miền Giang Nam, miền Hải Bắc: Miền Giang
Nam là miền phía nam sông Trường Giang, là đất Đông Ngô mà Tôn Quyền chiếm giữ.
Miền Hải Bắc là miền phía bắc biển Bột Hải, là đất Liêu Đông mà Công Tôn Uyên
chiếm giữ
(15) Bến Đạp.: là bến sông ở miền Liêu Đông,
nơi thuyền bè qua lại trao đổi hàng hoá.
(16) Ngụy: không phải chính thống. Chính quyền
Tào Ngụy xem Thục, Ngô là ngụy.
(17) Ngựa kì kí: ngựa khoẻ mỗi ngày có thể
chạy nghìn dặm.
(18) Năm Cảnh Sơ thứ nhất: năm 237 Công nguyên
thời Ngụy Minh Đế.
(19) Thiền vu: tên gọi chung của vua Tiên Ti,
Ô Hoàn, Hung Nô thời xưa.
(20) Đuốc lửa : là đuốc lửa ở các chòi canh
hoặc trại quân nơi biên giới để báo hiệu khi có địch đến đánh.
(21) Quản Trọng : Quản Trọng là Tướng quốc của
Tề Hoàn Công thời Xuân thu, giúp nước Tề lớn mạnh đánh dẹp người Sơn Nhung phía
bắc, giữ vững phong tục của Trung Quốc.
(22) Man, Di, Nhung, Địch: Theo Lễ kí: phía
nam Trung Quốc gọi là người Man, phía đông gọi là người Di, phía tây gọi là
người Nhung, phía bắc gọi là người Địch. Ý nói người ở bốn phương ngoài Trung
Quốc.
(23) Khúc hát Tiểu biện, bài thơ Li tao: Tiểu
biện là tên bài hát trong kinh Thi nói về một đứa trẻ than oán trời đất vì bị
cha xua đuổi. Li tao là bài thơ của Khuất Nguyên thời Chiến quốc, nói về nỗi
lòng buồn bực của Khuất Nguyên về chính trị yếu kém của nước Sở thời bấy giờ mà
bị lưu đày ở miền Kinh Tương.
(24) : là phép xử án có từ thời nhà Chu. Có ba
tình huống được tha thứ tội lỗi.
(25) Tiểu Bạch, Trùng Nhĩ : Tiểu Bạch là Tề
Hoàn Công, Trùng Nhĩ là Tấn Văn Công đều là chư hầu nổi tiếng thời Xuân thu.
(26) Rồng lân: con rồng và con lân là biểu
tượng của Đế Vương thời xưa.
Mục lục:
Tam Quốc Diễn Nghĩa và Tam Quốc Chí?
Trả lờiXóaRất nhiều người lầm lẫn giữa hai tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa và Tam Quốc Chí, gọi tác giả của Tam Quốc Chí là La Quán Trung. Thật ra, đây là hai tác phẩm hoàn toàn khác nhau.
Tam Quốc Diễn Nghĩa được viết bởi La Quán Trung vào thế kỷ 14, miêu tả thời kỳ cuối Hán và Tam Quốc. Đây là một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử được La Quán Trung viết theo lối "bảy thực ba hư", dựa vào chi tiết lịch sử hư cấu thêm để gây hấp dẫn. Đây cũng là khởi nguồn của nhiều game, phim, truyện do sự hấp dẫn của nó. Tam Quốc Diễn Nghĩa cũng là một trong Tứ đại danh tác của Văn học cổ điển Trung Quốc.
Tam Quốc Chí mà nhiều bạn lầm lẫn của La Quán Trung thực ra là một công trình sử biên niên của Trần Thọ, được viết vào khoảng thế kỷ thứ 3, gồm 4 chương 66 hồi. Đây là một tác phẩm sử học biên niên có giá trị tuy nhiên còn sơ sài. Sau này, Bùi Tùng Chi đã chú thích lại và bản do Bùi Tùng Chi chú thích là bản lưu hành thông dụng ngày nay. Trần Thọ là một vị quan của Thục Hán và sau đó là Tây Tấn.