SỰ GIỐNG VÀ KHÁC
NHAU GIỮA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA VÀ PHẬT GIÁO TIỂU THỪA
Đại thừa và tiểu thừa là hai khái niệm rất
phổ biến trong Phật giáo mà có lẽ những ai quan tâm hay từng tiếp xúc với Đạo
phật đều đã từng nghe qua. Về việc định nghĩa hai khái niệm này đã được rất
nhiều tác giả, học giả thực hiện và có đăng trên nhiều website khác. Tuy vậy
những định nghĩa đó nhiều phần thì quá cao siêu, nhiều phần thì mơ hồ lệch lạc
đi xa với cái nghĩa thuần túy của nó. Trong bài viết này tôi xin được giải
thích chúng theo lý giải đơn giản nhất mà ai cũng có thể hiểu được về Phật giáo
Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa, Bắc tông và Nam tông… Giữa hai hệ phái cùng thờ
Phật này có gì giống nhau và có gì khác biệt? Tôi cũng đã từng thắc mắc như thế
nên đã thử tìm hiểu.
A- Nguồn gốc:
Muốn hiểu đôi chút về Phật giáo Đại thừa và Phật giáo
Tiểu thừa, có lẽ phải tìm hiểu vài nét bắt đầu từ giai đoạn lịch sử hình thành
Phật giáo. Đức Phật Thích Ca Nâu Ni (Sakyamuni Gautana) được sinh ra ở Ấn Độ,
là người sáng lập ra Phật giáo, theo ghi chép của sử liệu Phật giáo Trung Hoa,
Ngài đản sinh vào năm 565 trước Công nguyên, nhập diệt vào năm 486 trước Công
nguyên, thọ 80 tuổi. Theo ghi chép, khoảng 100 năm sau khi đức Phật tịch diệt,
từ Giáo đoàn nguyên thủy, do có cái nhìn khác nhau về nhiều mặt, giới luật,
giáo nghĩa, phương pháp tư duy, tu hành… nội bộ của Phật giáo bắt đầu chia rẽ,
hình thành hai phái bộ chính, là “Đại chúng bộ”, và “Thượng tọa bộ”.
Đến khoảng thế kỷ thứ I trước Công nguyên (có sách
chép vào thế kỷ thứ I Công nguyên), Phật giáo Ấn Độ bắt đầu hình thành một số
tư tưởng, học thuyết mới, và các giáo phái mới. Một hệ phái mới bắt nguồn từ
Đại chúng bộ coi mục đích của họ là “Phổ độ chúng sinh”, dựa trên tính đa dạng
của Giáo pháp. Phái này tự nhận là “Cỗ xe lớn” (Đại thừa, tiếng Sanscrit:
Mahayana). Phái Đại thừa gọi phái bộ còn lại (Thượng tọa bộ) là “Cỗ xe nhỏ” (Tiểu
thừa, S: Hinayana), trong khi Thượng tọa bộ tự coi họ là Phật giáo Nguyên thủy
(S: Theravada). Cách gọi “Cỗ xe nhỏ” (Tiểu thừa) ban đầu có tính cách châm biếm
và miệt thị, nên bản thân hệ phái Thượng tọa bộ (Phật giáo Nguyên thủy) không
thừa nhận danh xưng Tiểu thừa. Tuy nhiên tên gọi PG Tiểu thừa dần trở thành phổ
biến và được đại chúng quen gọi. Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa ra
đời từ đó.
Trước hết xin nói về chữ “Thừa”, “Thừa” ( 乘 ) là dịch nghĩa của từ Yana, tiếng Phạn Sanscrit (S)
và Pali (P) đều gọi là Yana, âm Hán Việt là Diễn na, có nghĩa là “Cỗ xe”, cũng
có khi được hiểu như “Con thuyền”, là phương tiện đưa hành giả đến bờ giác ngộ.
Thật ra Phật giáo không chỉ có Đại thừa và Tiểu thừa.
Trong các từ điển, sách vở Phật giáo ghi đến Tam thừa, bao gồm Bồ Tát thừa còn
gọi là Đại thừa với đắc quả cao nhất là thành Phật. Thanh Văn thừa mà Đại thừa
gọi là Tiểu Thừa với đắc quả cao nhất là A La Hán. Và Độc Giác thừa còn gọi là
Duyên Giác thừa hay Trung thừa với đắc quả cao nhất là Độc Giác Phật (được xem
như bậc Thánh ở quả vị khoảng giữa A La Hán và Phật), Tuy sách vở nói đến “Tam
thừa”, nhưng chúng ta chỉ thường nghe phổ biến “Nhị Thừa” là Đại thừa và Tiểu
thừa.
B- Giống nhau
giữa Phật giáo Đại thừa (PG Đại thừa) và Phật giáo Tiều thừa (PG Tiểu thừa):
Điểm giống nhau dễ nhận thấy nhất giữa hai hệ phái lớn
của Phật giáo là cùng bắt nguồn từ đức Phật, và cùng tôn kính đức Phật Thích
Ca. Giáo pháp cơ bản của PG Đại thừa và PG Tiểu thừa gồm có: Tứ diệu đế (1),
Thập nhị nhân duyên (2) (Mười hai nhân duyên), Bát chánh đạo (3), Nhân quả (4),
Nghiệp (5)…
Tuy nhiên trong nhiều vấn đề khác, giữa hai phái có
những sự khác biệt lớn.
C- Sự khác biệt
giữa hai phái Phật giáo Đại thừa (PG Đại thừa) và Phật giáo Tiểu thừa (PG Tiểu
Thừa): Có mấy điểm khác biệt chính giữa PG Đại thừa và PG Tiểu thừa:
– PG Đại thừa xem đức Phật như một vị Thần vạn năng,
uy lực tuyệt đối. Thọ mệnh của đức Phật là vô cùng, sắc thân của Ngài là vô
biên, những gì do Ngài nói ra cũng đều viên mãn không có khuyết điểm, đều là
chân lý. Ngoài đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ở Tam thế (Quá khứ, hiện tại, vị lai)
còn có vô số Phật các vị Phật khác, như lời của đức Cồ Đàm “Ta là Phật đã
thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Trong một ngôi chùa theo hệ phái PG Đại
thừa thờ rất nhiều hình tượng, Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Phật Dược Sư Lưu
Ly, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Di Lặc, Tổ Bồ Đề Đạt Ma…
– PG Tiểu thừa coi đức Phật như một nhân vật lịch sử,
một Con người và một Thày dạy, là một vị Giáo chủ chứ không phải như một vị
Thần vạn năng, giáo lý của Ngài là con đường đi đến Giác ngộ, như Ngài đã khẳng
định rằng mọi chúng sinh đều bình đẳng trong việc chứng ngộ chân lý, điều này
không phụ thuộc vào thành phần xuất thân, mà vào hành vi đạo đức và sự hiểu
biết về chân tướng của vạn pháp. Trong một ngôi chùa của PG Tiểu thừa, ta thấy
chỉ thờ chủ yếu hình tượng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
– PG Đại Thừa cho rằng Niết bàn (S: Nirvana) và Thế
gian không khác biệt. Muốn đạt được Niết bàn chỉ là tiêu trừ Vô minh, và nhận
thức được thực tướng của các hiện tượng sự vật. Cảnh giới Niết bàn không tồn
tại độc lập với Thế gian.
– PG Tiểu Thừa cho rằng Niết bàn là cảnh giới đạt được
sau khi thoát khỏi luân hồi sinh tử. Cảnh giới này hoàn toàn khác biệt với cảnh
giới Trần thế.
– PG Đại thừa không quá chú trọng đến đời sống xuất
gia, cư sĩ tại gia cũng có thể đạt đến Niết bàn với sự tế độ của chư Phật và
chư Bồ tát. Niết bàn không chỉ là giải thoát khỏi Luân hồi (S&P: Samsara),
mà Hành giả còn giác ngộ về Chân tâm và an trú trong đó. PG Đại Thừa xem trọng
sự nhập thế, sự liên hệ mật thiết với đời sống thế tục, có như thế mới thực
hiện được tính chất phổ độ chúng sinh, giúp chúng sinh vượt qua bể khổ (Bồ Tát
hạnh)*.
– PG Tiểu Thừa chú trọng sự xuất gia, xa lánh thế
gian, vì vậy PG Tiểu thừa quan niệm phải sống cuộc đời của kẻ tu hành. Đối với
Tiểu thừa cuộc sống tại gia không thể đem đến sự giải thoát, hình ảnh tiêu biểu
của Tiểu thừa là đắc quả A La Hán (S: Arhat), là người phải dựa vào chính bản
thân để giải thoát. Không có thần thánh nào có thể làm việc ấy thay ta.
Ngoài ra cũng còn một số khác biệt khác giữa PG Đại
thừa và PG Tiểu thừa, như:
– Kinh sách của PG Đại thừa viết bằng Phạn ngữ
Sanscrit, là ngôn ngữ và chữ viết của giới quý tộc, trí thức ở miền Bắc Ấn Độ
cổ đại, còn kinh sách của PG Tiểu thừa viết bằng Phạn ngữ Pali, là ngôn ngữ và
chữ viết của giới bình dân ở miền Nam Ấn Độ.
Tương truyền khi sinh thời, đức Phật đã giảng Đạo pháp
cho đại chúng bằng ngôn ngữ Pali.
– Giới tăng lữ của PG Đại thừa bao gồm cả Sa di, Tỳ
kheo (nam tu sĩ) và Sa di ni, Tỳ kheo ni (nữ tu sĩ), trong khi tăng lữ của PG
Tiểu thừa chỉ gồm Sa di, Tỳ kheo.
Còn nhiều nét khác nhau nữa giữa PG Đại thừa và PG
Tiểu thừa, tuy nhiên trên đây là những nét khác nhau cơ bản dễ nhận biết giữa
PG Đại thừa và PG Tiểu thừa.
D- PG Nam tông
và PG Bắc tông, hay PG Nam
truyền và PG Bắc truyền:
Nói PG Nam
tông hay PG Bắc tông là nói theo hướng mà PG Ấn Độ truyền ra bên ngoài. PG Nam tông là tông phái PG được truyền theo hướng Nam nước Ấn Độ, cho nên cũng được gọi là PG Nam truyền chủ
yếu thuộc phái Thượng tọa bộ PG, tức PG nguyên thủy (Tiểu thừa). PG Nam tông
hay PG Nam truyền hiện diện ở các nước như Sri Lanka, và Đông Nam Á như
Myanmar, Thailand, Cambodia, Laos… Còn PG Bắc tông, cũng gọi là PG Bắc truyền,
chủ yếu thuộc Đại chúng bộ, tức PG Đại thừa, phổ biến ở các nước Đông Á như
Trung Hoa, Tây Tạng, Nhật Bản, Đại Hàn… và Việt Nam…
Dù là đại thừa hay tiểu thừa cũng đều là Phật đạo, đều
hướng người tu tới cảnh giới Niết bàn. Những người tu học không đến nơi đến đến
chốn, thiếu kiến thức , trí tuệ thường sinh ra những ngộ nhận, định kiến xấu về
đại thừa hay tiểu thừa. Người theo tiểu thừa thì nghĩ chữ tiểu thừa là do người
bên đại thừa đặt nhằm chế nhạo, coi thường mình. Người tu đại thừa nghĩ mình
theo dòng đại thừa là to lớn vĩ đại nên sinh lòng kiêu mạn… Chính vì những ngộ
nhận, định kiến xấu đó mà không biết bao người đã phạm phải nhiều sai lầm gây
đau khổ cho chính bản thân mình.
Đây là lý giải
riêng tư của tác giả, nếu có phần nào sai sót xin được nhận góp ý và lượng thứ.
Vài nét sơ lược về vấn đề bạn muốn tìm hiểu, hy vọng sẽ đáp ứng được phần nào…
Ghi chú:
(1) Tứ diệu đế (S: Arya Astangika Marga – P: Nidanas):
là bốn sự thật quý báu, bao gồm: Khổ đế (những đau khổ của thế gian). Tập đế
(kê hiện trạng của những đau khổ). Diệt đế (hoàn cảnh an lành sẽ đạt sau khi
diệt trừ khổ). Đạo đế (phương pháp diệt đau khổ).
(2) Thập nhị nhân duyên (S: Pratitya Samutpada): là
mười hai duyên khởi với mười hai yếu tố. các yếu tố này làm loài hữu tình mãi
vướng trong luân hồi. Gồm: Vô minh (ngu dốt) – Hành (những hành động thuộc ý
chí tạo nên Nghiệp) – Thức (nguyên nhân sự kết thành bào thai trong bụng mẹ) –
Danh sắc (toàn bộ tâm, vật lý của một hiện hữu) – Lục nhập (sáu giác quan khi
tiếp xúc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) – Xúc (tiếp xúc, sáu giác quan tiếp
xúc sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) – Thọ (cảm giác khi tiếp xúc
sáu trần) – Ái (ưa thích, đam mê) – Thử (chiếm giữ) – Hữu (tồn tại) – Sinh (tái
sinh) – Lão tử (già, chết).
(3) Bát chánh đạo (S: Arya Astangika Marga: là tám con
đường ngay thẳng, hay tám phương tiện nhiệm màu đưa chúng sinh đến đời sống chí
diệu, gồm: Chánh kiến (thấy đúng)- Chánh tư duy (suy nghĩ đúng), Chánh ngữ (nói
lời đúng, không độc ác), Chánh nghiệp (không làm những việc trái giới luật),
Chánh mạng (nghề nghiệp sinh sống chân chính), Chánh tinh tấn (làm việc thiện
không làm điều ác), Chánh niệm (suy nghĩ chân chính), Chánh định (thiền định
chân chính).
(4) Nhân quả (P: Hetuppaccaya): là nguyên nhân và kết
quả, làm điều thiện sẽ hưởng an lành.
(5) Nghiệp (S: Karma, P: Kamma): kết quả của một hành
động được gây ra bởi ý thức (tâm hay ngôn ngữ). Một nghiệp tốt thường mang lại
một kết quả tốt.
* Bồ Tát hạnh: những người tu tập theo PG Đại thừa
thường đề cao và kính yêu vị thánh từ bi, hiện thân là một Bồ Tát, như Quán Thế
Âm Bồ Tát. Đó là một vị thánh đạt đạo, luôn chia sẻ những khổ đau cũng như hy
vọng của tất cả chúng sinh, nên đã tự mình không vào Niết bàn cho đến khi tất
cả chúng sinh có thể cùng vào Niết Bàn. Người ta thường biết đến Quán Thế Âm Bồ
Tát với Mười hai đại nguyện.
Sách tham khảo:
– Từ điển Phật
học, Nguyên Hảo, Về nguồn xuất bản – Canada 1999.
– Từ điển Phật
học, Ban biên dịch Đạo Uyển, NXB Thời Đại – 2011.
– Phật học phổ
thông, HT Thích Thiện Hoa, Thành hội PG TP. HCM ấn hành – 1992.
– Tranh tượng
& Thần phổ Phật giáo, Louis Frédéric, Bản tiếng Việt: Phan Quang Định, NXB
Mỹ Thuật – 2005.
– Những tôn giáo
lớn trong đời sống nhân loại, TS. Floyd H. Ross & GS. Tynette Hills. Dịch
giả Tâm Quang, NXB Tôn giáo – 2007.
– Thế giới Phật
giáo Phương diện Lịch sử Văn hóa và Minh triết, Điền Đăng Nhiên, Dịch giả Thích
Ngộ Thành – 2009.
– Lịch sử Phật
giáo, Nguyễn Tuệ Chân biên dịch, NXB Tôn giáo – 2011.
Nguồn: Phạm Ngọc
Hiệp – Admin www.citytourdanang.com (Vui lòng dẫn nguồn và link website nếu bạn
chia sẻ bài viết này)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét