(Chuyện
ngắn của Katerina Kỉrianova)
Làng Marikostinovo nằm cách chừng 2
km phía trái dòng sông Struma. Các ngôi nhà của làng hướng về phía Tây, nơi có
những nguồn nước khoáng nóng sủi lên từ mặt đất không biết từ bao giờ. Các nhà
sử học khẳng định rằng, làng có tên như vậy từ thời Vua Boris I * và Vua Simeon
vĩ đại.*
Các
nguồn nước khoáng nóng được tìm thấy từ thời La mã cổ đại, vì nhà tắm theo kiểu
Thổ nhĩ kỳ được xây dựng trên các nền móng được khẳng định là tồn tại từ thời
La mã .**
Thời Đế chế Ottoman ***thống trị, các bùn khóang nóng được lấy từ đây và
chuyên chở bằng các xe trâu kéo đến tận Sarigrad, Thổ nhĩ kỳ, dùng để chữa các
bệnh khác nhau cho người trong cung điện nhà vua.
Sau năm
1907, các nguồn khoáng nóng với các nhà tắm Thổ nhĩ kỳ được dâng tặng cho thủ
lĩnh quân đội Iane Sandanski. Ông đã cho sửa sang lại, xây dựng các nhà khách,
nhưng sau đó, chúng đều bị cháy rụi.
Tên ngôi
làng chưa bao giờ thay đổi. Điều này đã được ghi chép từ một truyền thuyết rất
cổ từ bao đời cho tới ngày nay. Cùng với
làng này, những ngôi làng xung quanh cũng được mang những cái tên đôi
chút liên quan đến nó trong vùng. Họ khẳng định điều này qua rất nhiều thế kỷ.
Theo
thuyền thuyết, một thời xa xưa, vùng đất này thuộc quyền cai trị của hai vị
Chúa đất có tên Shirban và Sengel. Shirban sống ở vùng Rupite ngày nay, tên gọi
cũ là Vùng Shirbanovo. Đây là vùng đất trải rộng phía tây của sông Struma.
Vị Chúa
đất thứ 2 tên Sengel nắm quyền cai trị vùng phía đông rộng lớn, ngày xưa có tên
gọi Vùng Sengelovo, sát với biên giới Hy lạp ngày nay.
Cả hai
vị chúa đất này đều giàu có về đất đai và tham lam quyền lực. Họ luôn luôn căm
ghét lẫn nhau.Nhưng, cả hai đều tự hào, kiêu hãnh về những đứa con của mình.
Shirban có một cậu con trai rất cao lớn, đẹp
đẽ và dũng mãnh. Cậu có mái tóc dày đen bóng, cặp mắt to đen hình quả oliu. Các
cô gái trong vùng nín thở mỗi khi liếc nhìn cậu.
Còn
Sengel có cô con gái xinh đẹp Mara / Marena/ , cao ráo và mỏng manh như một
nhành cây nhỏ , với mái tóc rất dài xoăn màu hạt dẻ, với đôi môi mọng như trái
dâu rừng chín đỏ và cặp mắt nâu hình quả hạnh đào. Bao nhiêu chàng trai chưa vợ
ao ước được cưới cô, nhưng chỉ có một người duy nhất lọt vào trái tim bị cầm tù
của cô, chính là con trai của Chúa đất Shirban.
Sự thù hận giữa hai vị chúa đất không ngăn cản được họ say đắm nhau đến điên cuồng. Tuổi trẻ và tình yêu không quan tâm đến mối hận thù giữa hai dòng họ và những người lớn tuổi. Họ yêu nhau, trao gửi cho nhau và hẹn sẽ cùng nhau xây đắp tổ ấm, thề thốt sẽ không bao giờ xa nhau. Tuy nhiên, các cuộc gặp gỡ bí mật của họ đã không còn là điều bí mật nữa, khi mà các cặp mắt ganh ghét đã nhìn thấy họ và tin lan ra khắp mọi nơi. Họ kháo nhau đến tai Sengel, rằng Mara đã gặp gỡ nhiều lần với con trai của Shirban. Người cha của Mara phát hoảng, căm tức và thề không bao giờ trở thành thông gia với kẻ thù lớn nhất của mình là Shirban.
[*Thế kỷ 8-9; ** Thế kỷ thứ 1-3 sau Công nguyên; *** Thế kỷ 13-18 You sent]
Để ngăn cản ngọn lửa tình yêu hai trẻ, cha của Mara đã cho xây một ngọn
tháp bằng đá và nhốt cô con gái xinh đẹp của mình vào đó.Ông cho lính canh gác
rất nghiêm ngặt cô bé đau khổ.
Cả hai
rất đau buồn và khao khát được gặp nhau để tìm ra một quyết định phải làm gì.
Vào thời
đó, mỗi năm khi mùa thu tới, các ngôi làng đều có các cuộc hội chợ truyền thống
kéo dài 3 ngày. Các thương gia từ khắp các vùng đều tới, trưng bày các sản phẩm
của mình.
Trong sự
đau buồn tuyệt vọng, chàng con trai của Shirban quyết định thực hiện một chuyện
mạo hiểm. Chàng cải trang thành một nhà buôn, chất lên chiếc xe đẹp nhất và chở
theo rất nhiều các hàng hoá quí hiếm, thắng cỗ xe bằng chú ngựa khoẻ nhất của
mình, tiến thẳng đến hội chợ với hy vọng và sự mong mỏi sẽ gặp được người yêu
của mình ở đó. Ba ngày trôi đi với sự quan sát hàng ngàn người mà chàng vẫn
chẳng thấy đâu bóng dáng người thiếu nữ thân yêu của mình.
Cô gái xinh đẹp bị giam cầm trong toà tháp đá khao khát được thấy người
yêu bèn tìm cách bỏ trốn khỏi toà thành đáng nguyền rủa. Vài ba lần nàng đã định nhảy xuống từ các cửa
sổ nhỏ hẹp của toà tháp, nhưng đều không thành, vì chúng đều được đóng song sắt
rất chặt, và phía dưới đều có các lính canh giữ nghiêm ngặt.
Ngày thứ 2, Mara quyết định dùng biện
pháp mưu mẹo hơn. Cô dùng đôi tay đấm lên 2 cánh cửa nặng nề rất mạnh, với hy
vọng một người nào đó sẽ nghe thấy và sẽ tới nói chuyện với cô. Và quả đúng như
vậy, một trong số các lính gác đã bước tới gần nơi cánh cửa khoá chặt và hỏi cô
cần điều gì. Mara đã hứa với người lính rằng cô sẽ tặng anh ta tất cả các đồ
trang sức đang đeo trên mình, chỉ mong anh cho cô thoát ra ngoài một lúc để đi
tới hội chợ.
Người
lính canh hoa mắt bởi số vàng bạc châu báu cô thiếu nữ đeo trên người, anh mở
khoá cổng cho cô lúc chiều tối và bắt cô hứa sẽ quay về trước bình minh.
Như một
con chim sổ lồng, cô gái lao vút qua các hàng rào tường thành, chạy băng qua
các cánh đồng tới thẳng nơi có hội chợ, nơi chàng trai của cô đang mong ngóng
từng giờ từng phút. Niềm vui lan toả trên khuôn mặt chàng trai khi anh thấy cô
gái rạng rỡ đứng trước quầy hàng của anh.
Bốn mặt
gặp nhau, hai trái tim đã hiểu họ cần phải làm gì.
Không
chậm trễ một giây, con trai Shirban vội vàng rời bỏ quầy hàng với những hàng
hoá quí giá, chạy ra đỡ thiếu nữ và ngay lập tức nhảy lên ngựa, cùng cô gái
chạy theo hướng bắc, dọc theo dòng sông Struma.
Thúc
mạnh vào sườn chú ngựa dũng mãnh, chàng cầu mong phi thật nhanh chạy trốn trước
khi cha của Mara phát hiện ra.
Nhưng thật không may cho họ, vị chúa
đất Sengel đã được các người thân tín cho biết về sự chạy trốn của cặp trai gái
yêu nhau.
Vô cùng
tức giận, người cha của Mara đã tập hợp những người thân tín nhất, họ nhảy lên
lưng các con ngựa khoẻ mạnh nhất và đuổi theo dấu vết của chàng trai và cô gái.
Cuối cùng, họ đã đuổi kịp đôi trai gái
khi hai trẻ vừa ra tới vùng đất Marino, nơi mà ngày đó chỉ là một xóm thưa thớt
với những ngôi nhà nhỏ lụp sụp.
Tức giận
đến tột đỉnh, người cha tóm lấy mái tóc dài của con gái và đánh cô bằng chiếc
roi ngựa một cách không thương tiếc. Ông gào thét và ra lệnh cho con gái phải
quay trở về nhà ngay lập tức, nhưng cô gái kiên quyết từ chối lời cha. Người
cha điên tiết, mất hết lý trí, bèn buộc tóc của cô vào đuôi ngựa, kéo lê con
gái qua các cánh đồng trở về nhà.Người con gái chịu đau đớn bị cha mình bị kéo
văng qua các quả đồi, qua cánh đồng, tóc cô bay khắp nơi, nước mắt cô thấm hết
qua mấy tầng đất.
Người ta
kể lại rằng, nơi tóc cô vương lại đã mọc lên các khóm lau sậy và cỏ bông lau,
còn nơi nước mắt cô thấm ướt, đã sủi lên các tia nước nóng bỏng.
Tức
giận vì sự thách thức của con gái, Sengel đã rút thanh gươm bên mình đâm thẳng
vào ngực cô bé đáng thương. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, cô đưa mắt nhìn
xóm nhỏ bên đường và thề rằng, nơi cô chết sẽ không bao giờ có thể trở thành
một làng mạc đông đúc.
Và như
vậy, như theo trí nhớ của các lão làng, Marino mãi mãi chỉ là một xóm nhỏ, nép
mình ven các ngọn đồi và các làng mạc khác xung quanh.
Người làng đã chôn cất cô gái xinh đẹp trên
một ngọn đồi cát gần làng. Nơi đó, cho đến ngày nay vẫn được gọi là đồi “ Mộ
của Mara”.
Nhưng
không lâu sau đó, những con chó đã đào bới và mang xương của nàng đi rải khắp
các ngọn đồi, nơi mà ngày nay, đã thành ngôi làng có tên Marikostinovo. Tên
nàng thiếu nữ còn gắn với một ngọn đồi khác có tên “ Marena”. Truyền thuyết nói
rằng, Mara đã được nhà thờ Kito giáo tuyên là thánh Marena, và để tưởng nhớ tới
cô, họ đã cho xây một nhà nguyện dưới chân đồi, cách ngôi làng khoảng 3-4 km về
phía bắc.
Truyền
qua nhiều thế kỉ, người ta kể rằng, chàng trai quay về làng đau khổ, tả tơi và
thổn thức, qua dòng nước mắt kể cho cha mình
nghe về hành động tàn bạo của vị lãnh chúa Sengel.
Thương con và buồn bã, lãnh chúa Shirban ra
lệnh cho dân làng giết trâu, bò bao nhiêu có thể, dùng toàn bộ các bộ da trâu,
bò đó phủ kín ngọn đồi đá sắc nhọn đến tận bờ sông, nơi đó, cho đến ngày nay
vẫn có tên vùng “Áo choàng da”.
Đó chính là nơi gần với con đường mà lãnh chúa
Sengel vẫn thường đi qua. Bằng cách đó, lãnh chúa Shirban ngầm thách thức và
doạ nạt kẻ thù của mình.
Truyền thuyết về một tình yêu bị ngăn cấm dừng
lại ở đây.
Cũng có
thể, tình yêu cháy bỏng của đôi trai gái đã để lại sự khao khát của mình trong
các dòng suối phía nam của sông Struma, nơi đã cho bao nhiêu kiếp người làn
nước ấm nóng để chữa lành bệnh cho những người đau khổ.
(Theo
lời kể của Katerina Kirianova, người dịch NTT)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét