Tên sách : Rừng thẳm tuyết dày
Tác giả : Khúc Ba
Người dịch : Hải Nguyên & Như Hà
Nhà Xuất bản Thanh niên 1991 – Tái bản
HỒI THỨ MƯỜI MỘT - ĐẠO SĨ TÍNH NHẦM.
Kiếm Ba ôn tồn giải thích chính sách tôn giáo của Đảng cho lão đạo sĩ
hiểu và xin lỗi đạo sĩ về hành động nóng nảy trong khi làm nhiệm vụ chiến đấu
của Dương Tử Vinh và Tôn Đạt Đắc:
- Vì để đuổi bắt bọn hung phạm giết
người, nên hai đồng chí chúng tôi có làm phiền đạo sĩ đôi chút, các đồng chí
chúng tôi xuất thân công nông, không hiểu rõ quy tắc của kinh đạo. Tục ngữ có
câu: "Chấp chi người không biết". Mong đạo sĩ thông cảm.
Sắc mặt của đạo sĩ biến đổi một đôi lần,
buồn buồn nhìn tuyết rơi lả tả ngoài cửa, nói:
- Chính tâm tu thân, đó là quy tắc của
đạo. Khắc kỷ phục lý, đó là phẩm đức của đạo. Phổ độ chúng sinh, đó là nghĩa vụ
của đạo. Không giết sinh linh, đó là giới quy của đạo.
Lão đạo sĩ đọc mấy câu kinh, ý muốn thanh
minh với phân đội rằng mình là người đại thiện.
Nói xong, lão quay cái cổ béo rụt to gần
bằng đầu của lão và chỉ về phía người đàn bà tỉnh không ra tỉnh, quê không ra
quê, buôn không ra buôn, làm ruộng không ra làm ruộng, ban nãy bế con quỳ tụng
kinh ở điện Tam Thanh:
- Vị thiện nữ này ba mươi hai tuổi, mới
đẻ con, bị tà ma bắt bóng định đến đây tụng kinh ba ngày, đường xa sáu mươi
dặm, vượt qua băng tuyết, cũng cố đến cửa đạo đấy!
Rồi lão tỏ vẻ oán giận:
- Hôm nay là ngày đầu tiên, đến đây gặp
hai qúy quân, làm cho kinh kệ bị đảo lộn. Thật là một ngày đại bất hạnh.
Người đàn bà bỗng tỏ ra vẻ lo lắng:
- Bạch thầy, linh hồn của đứa bé này
không thể lấy lại được ư?
Lão đạo sĩ không đáp, chỉ lẩm bẩm:
- Ác nghiệt, ác nghiệt...
Kiếm Ba lại xin lỗi một lần nữa và an ủi
người đàn bà:
- Đội chúng tôi có một thầy thuốc. Chờ chị
ấy đến, sẽ khám bệnh cho cháu.
Đạo sĩ và người đàn bà thấy thế, bỗng
biến sắc mặt, lo lắng và sợ hãi nhìn Kiếm Ba. Sự thay đổi sắc mặt đột nhiên của
hai người làm cho Kiếm Ba chú ý. Kiếm Ba liếc nhìn đứa bé nằm yên trong lòng
người đàn bà, lại liếc nhìn đạo sĩ, rồi mỉm cười an ủi người đàn bà nán chờ
thầy thuốc đến sẽ xem bệnh cho đứa trẻ. Kiếm Ba càng nói đến xem bệnh, thì
người đàn bà càng sợ hãi luống cuống, càng ôm chặt đứa trẻ, hai cánh tay co rúm
như người bị động kinh.
Lão đạo sĩ lúc đó đã trở lại bình tĩnh,
nói với người đàn bà:
- Này bà tín chủ, đã cầu đạo thì không
cầu thuốc, đã cầu thuốc thì không cầu đạo. Thầy thuốc chữa bệnh dựa vào sức
thuốc, thầy đạo chữa bệnh dựa vào sức thần. Thuốc và đạo là hai đường xung khắc
như nước với lửa. Bà đến đây tìm thuốc hay là tìm đạo, bà tin thuốc hay tin
thần? Tùy bà chọn lấy!
Người đàn bà như trút được gánh nặng:
- Tôi từ bé đến giờ vốn tin thần không
tin thuốc. Bệnh của con tôi đã chữa qua ba thầy rồi mà chưa khỏi. Thầy thuốc
chỉ có thể chữa được bệnh nhức đầu đau óc, ung nhọt ghẻ lở, nhưng con tôi bị
mất hồn phách, làm sao mà chữa đưọc! Bạch thầy, tôi vẫn cầu đến người để thu
hồn lại cho cháu!
Kiếm Ba để ý tỉ mỉ đến lời nói và cử chỉ
của hai người, nghĩ bụng:
"Đây có phải lão đạo sĩ phản đối
khoa học, hay là người đàn bà mê tín không tin khoa học? Hay còn có một nguyên
nhân gì khác nữa?" - Tất cả những câu hỏi ấy hiện nay Kiếm Ba chưa thể một
lúc rút ngay ra kết luận. Vì thế anh chuyển ngay câu chuyện nói với người đàn
bà và lão đạo sĩ:
- Chị đã muốn cầu đạo, không muốn cầu
thuốc, thế thì bệnh của con chị, cứ nhờ đạo sĩ chữa cho, chúng tôi không ép.
Hiện nay chúng tôi muốn nói đến người mà chúng tôi cần tìm.
Lão đạo sĩ giả bộ không nghe thấy gì,
quay nhìn tuyết rơi ngoài cửa, giẫm giẫm chân lên bục gỗ.
Kiếm Ba hỏi to:
- Đạo trưởng! Người mà chúng tôi muốn tìm,
đúng là nó chạy vào đây.
Đạo sĩ đáp lại một cách dứt khoát:
- Trong miếu, ngoài hai thầy trò và bà
thiện nữ đây thì không có ai nữa hết. Hôm nay chúng tôi tụng kinh buổi chiều,
không thấy một người nào tới đây cả. Đất lành người ác chẳng đến. Tôi ở miếu
này từ trước đến nay chưa thấy việc ấy bao giờ.
Dương Tử Vinh ôn tồn đứng ra làm chứng:
- Chính mắt tôi trông thấy nó đến đây. Có
lẽ nó luồn qua miếu.
Đạo sĩ cười nhạt không nói.
Tôn Đạt Đắc nóng mắt:
- Nó chẳng đi đâu cả đâu. Chẳng có vết
tích nào chạy ra ngoài cả, chỉ trốn ở trong miếu này thôi.
- Thế thì các người cứ việc tìm đi, tại
sao cái người vô cớ làm hại đến thanh danh của bần đạo?
Kiếm Ba giải thích:
- Chúng tôi chẳng có ý thế đâu. Người ấy
không có quan hệ gì với đạo sĩ. Trách nhiệm của Nhân dân giải phóng quân là bảo
vệ nhân dân, tiêu diệt lũ thổ phỉ cướp của giết người. Chúng tôi truy kích đến
đây, sở dĩ cần hỏi đạo sĩ là vì muốn nhờ đạo sĩ giúp đỡ….
Đạo sĩ rời khỏi ghế đạo trưởng, xốc tà áo
cà sa, đi đi lại lại, tay lần bộ tràng hạt đen lánh.
- Bần đạo là người đã rời khỏi cảnh trần
tục. Phàm mọi việc trên đời, đều không biết đến. Người tu hành lấy điều thiện
là gốc, thích điều từ thiện, ghét điều gươm dao, yêu quý sinh linh, phổ độ
chúng sinh, mới có thể tu thành chính quả.
Kiếm Ba nói:
- Đúng đấy. Đạo sĩ đã biết những điều ấy,
thì cần phải giúp chúng tôi tiễu trừ lũ hung thủ giết hại sinh linh, lũ thổ phỉ
cướp của giết người. Người mà chúng tôi tìm, chính là một tên hung phạm vừa mới
giết người sáng hôm nay.
Lão đạo sĩ nghe tới đây, mắt chớp liền
mấy cái. Nhưng lão lại bình tĩnh ngay, hừ một cái, gật đầu, cười nhạt đáp:
- Tai nghe là hư, mắt nhìn mới thực. Nó
có giết người hay không giết người tôi không nhìn thấy. Bần đạo chưa tự mắt
trông thấy, thì không tin nghe người nói.
Kiếm Ba định lấy chiếc găng tay dính máu
ra, nhưng lại đổi ngay ý kiến, nghĩ bụng:
"Kẻ giết người hiện nay vẫn còn chưa rõ. Luận điệu của tên đạo sĩ
này rất đáng nghi ngờ. Nếu như lấy cái găng ra, hắn biết là cái găng tay của
Nhân dân giải phóng quân để cho hắn nắm được chứng cớ, hắn sẽ tìm cách đối phó,
thì lại càng thêm rắc rối". Vì thế, anh quyết định đấu trí với lão đạo sĩ
một trận, không thể tranh thủ lão, thì cũng cần lợi dụng lão.
Anh đứng dậy, tỏ vẻ nghiêm trang:
- Chúng tôi là quân đội của nhân dân, từ
trước đến nay chưa bắt người tốt bao giờ.
Lão đạo sĩ càng trở nên gian ngoan, hừ
một tiếng:
- Vì người ta ai cũng phải sống, mà sống
phải ăn cơm, nó là phỉ hay không là phỉ tôi không biết. Người xưa có nói:
"Được làm vua, thua làm giặc". Xưa và nay cũng thế thôi. Người gọi nó
là phỉ, nó gọi người là giặc. Phỉ hay giặc đều không có quan hệ gì đến bản đạo.
Đạo giáo lập đã mấy nghìn đời nay, bao nhiêu triều đại thay đổi, nhưng đạo vẫn
không hề thay đổi. Đệ tử đạo chúng tôi, hàng nghìn năm cũng như một ngày, đạo
gia miếu đường hàng ức vạn ngôi cũng chỉ như một nhà.
Kiếm Ba nắm lấy chủ đề của lão đạo sĩ,
cho lão nói nhiều hơn một chút nữa để lợi dụng chỗ hở lão.
- Người ta ăn cơm, phải dựa vào hai bàn
tay lao động. Đó là rất vĩ đại, rất cao thượng. Sự hưởng thụ của địa chủ cường
hào là dựa vào bóc lột áp bức người nghèo. Hiện nay nhân dân đã vươn mình dậy,
đòi chúng phải trả lại ruộng đất, mà những tên địa chủ cường hào lại tụ tập
nuôi nấng bọn phỉ cướp của giết người để làm nanh vuốt tàn sát nhân dân. Ngày
nay thời đại của nhân dân, đất nước của nhân dân, cho nên nhân dân phải trừng
phạt bọn hung phạm giết người, bọn cường đạo cướp của. Cái tên mà chúng tôi
muốn bắt, là một tên vi phạm pháp luật Nhà nước, là tên tội phạm giết hại nhân
dân, chúng
tôi căn
cứ vào pháp luật để bắt nó.
Đạo sĩ giảo hoạt, cười nhạt:
- Xin người thứ lỗi, chúng tôi không
phải là người quen đấu khẩu, xin người tôn trọng đạo quy. Bần đạo từ ngày xuất
gia, vốn không làm điều trái, vốn không sát sinh. Người chịu trách nhiệm với
Nhà nước, tôi chịu trách nhiệm với đạo quy, tốt hơn là không nên làm phiền
nhau.
Lão hự hự vài cái, rồi lẩm bẩm:
-
Bỏ con dao giết người, để trở về đất Phật.
Kiếm Ba nắm ngay lấy cái đuôi của lão, tấn
công:
- Nhưng mà con dao giết người của nó vẫn
chưa bỏ ! Nó lại chui vào miếu đường của đạo sĩ rồi !
Đạo sĩ thấy mình lỡ lời, đôi mắt xảo quyệt
của lão liếc nhìn Kiếm Ba :
- Thưa trưởng quan, thực tình bần đạo không
biết nó chạy về hướng nào, dù rằng có biết cũng không thể tố cáo. Nếu tố cáo
với các người, các người tay cầm súng, khi gặp tất phải có một trận đâm chém,
đã đâm chém hai bên đều bị thương vong. Như vậy thì cũng như tôi đã phạm phải
tội giết người, đã vi phạm sát giới của đạo. Bần đạo tu hành đã năm mươi năm,
chưa hề giết người, bao giờ cũng vậy, một lòng làm điều thiện, ỏ đây là đạo môn
đạo sĩ, thì đạo quy cẦn phải cao hơn hết. Ở đây không có người mà các người
định tìm,xin đừng hỏi nữa, thiện tai! Muốn thành chiến trường xin ra ngoài miếu
đường.
Nói xong, lão đạo sĩ ngồi vào ghế đạo
trưởng mắt lim dim, tay lần tràng hạt, ra chiều không muốn nói nữa.
Dương Tử Vinh, Lưu Huân Thương và các
đồng chí khác ruột đã nóng như lửa cháy, không bằng lòng với cách đối xử ôn hòa
của Kiếm Ba, nên đều lặng thinh.
Kiếm Ba chẳng những không nóng nảy, mà
lại càng từ tốn:
- Thôi được, Nhân dân giải phóng quân
chúng tôi đều là những người gương mẫu chấp hành chính sách. Chúng tôi chủ
trương tự do tín ngưỡng, chúng tôi cũng tôn trọng tập quán và quy củ của tôn
giáo, cho nên chúng tôi quyết không làm bãi chiến trường ở miếu này nữa.
Nói rồi anh dằn giọng cốt để cho đạo sĩ chú
ý:
- Vì tên phỉ này chỉ là bọn phân tán
linh tinh nên không cần thiết lắm. Nó khó tránh khỏi lưới pháp luật, khó mà
tránh khỏi bàn tay to lớn của nhân dân. Nay tha cho nó, nó cũng chẳng gây nên
trò trống gì.
Cặp môi của lão đạo sĩ mấp máy, tỏ vẻ đắc
chí.
Kiếm Ba hạ lệnh:
- Trở về doanh trại.
Các chiến sĩ đều hoài nghi cái quyết
định này của Kiếm Ba, ngay cả đến người mưu trí như Dương Tử Vinh cũng vậy.
Nhưng vì nghiêm lệnh của Kiếm Ba, các chiến sĩ chỉ ấm ức trong lòng cấp tốc
hành quân về phía ngọn suối tối đen. Tuyết rơi ngập đường, lấp kín vết chân của
họ….
*
* *
Bên ngoài trời tối mù mịt. Tuyết rơi rả
rích. Trong căn buồng bên cạnh hành lang điện Địa Tạng vương Bồ tát ẩn vào
trong một cái hang của miếu Thần Hà, cửa buồng đóng kín mít không hở một kẽ
nào. Tên tiểu đồng cầm nến đi trước, lão gian đạo đi sau, mở đóa hoa sen sơn
son thiếp vàng, lộ ra một cửa hang rộng lớn, hai người bước xuống thềm đá tiến
vào.
Ánh nến sáng rọi vào trong hang, chiếu
vào một người đàn ông, một người đàn bà, đang lơn nhau cười sằng sặc. Khẩu
pạc-hoọc và một chiếc găng tay giải phóng quân đặt trên bàn, đứa trẻ con đặt
trên giường, bị bọc thật chặt, không động đậy.
Thấy đạo sĩ bước vào, người đàn bà đánh
bệt đít xuống giường, vuốt lại mái tóc rối bù. Người đàn ông kéo tà áo cà sa
ban nãy hắn đã mặc ngụy trang và chắp tay vái lão đạo sĩ:
- Xin tạ ơn sư thầy đã cứu mệnh.
Lão đạo sĩ hai tay cầm bộ tràng hạt:
- Thiện tại! Thiện tại! Có gì đâu, việc nhỏ
đó có gì đáng kể.
Nói rồi ngồi xuống ghế bên cạnh bàn, tiểu
đồng đặt cây nến trên bàn, rồi cũng ngồi xuống cạnh lão đạo sĩ. Cả người đàn
ông và người đàn bà ngồi trên giường đều cười híp mắt.
Người đàn bà nguẩy đầu một cái, giọng nói
the thé:
- Sư thầy lắm mẹo nhiều mưu, thật là thần
thông quảng đại, chỉ mấy câu nói mà đã đánh tan được tụi chúng.
Người đàn ông vuốt sợi râu dài trên má
cười hà hà :
- Sư thầy thật là đạo pháp vô biên, nếu
không có sư thầy thì hôm nay vận mệnh của tôi đã...
Người đàn bà vỗ vào tay người đàn ông
cười khanh khách :
- Đã...rồi đời. Hôm nay tôi nghe thấy tay
cộng sản định khám bệnh cho con tôi, làm tôi hết hồn, nếu mà nó cứ chữa thật,
thì số nhựa thuốc trong đứa trẻ của chúng mình sẽ bị lộ hết, chúng mình sẽ chết cả nút.
Bốn người đắc chí rộ lên cười.
Lão đạo sĩ tự đắc ngạo mạn:
- Một đợt sóng nhỏ làm sao lật được con
thuyền to.
Rồi hắn nhìn người đàn bà lẳng lơ kia với
con mắt say sưa thèm thuồng:
- Mẹ kiếp, ta nhất sinh làm người đã có
tài uốn ba tấc lưỡi, có thể làm quan được ba triều đại.
Ba người không ngớt lời ca tụng tài năng
của đạo sĩ.
Lão đạo sĩ càng thêm đắc chí, đứng dậy,
nguẩy đầu:
- Ta tuy ở tận rừng sâu, nhưng có thể
quan sát bốn phương thiên hạ, xa gần, quan nha và dân chúng. Không ai biết Định
Hà đạo nhân ta là thật hay là giả. Một ngày kia dẹp xong cái nạn cộng sản rồi,
ta sẽ xuống núi vào thành, giơ bàn tay có thể bình được thiên hạ, mở mắt nhìn
có thể định được trời đất.
Cái câu khoác lác ba hoa của hắn làm cho
ba tên đồ đệ như được hút một hơi thuốc đỡ cơn nghiện.
Với vẻ thỏa mãn, họ trố mắt nhìn người sư
thầy thần thông quảng đại của họ.
Lão đạo sĩ khịt mũi kiêu ngạo, nhìn ánh
sáng nến, gật đầu cười:
- Mấy thằng nhãi nhép mà dám đấu trí với
ta à ? Mẹ kiếp, thật là đọc “tam tự kinh" trước mắt thánh!
Ngưòi đàn bà đứng dậy, vỗ đít đánh bẹt:
- Khác gì đánh bạc ở trong nhà một tay du
côn.
Bốn người lại rộ lên cười một cách rất
kiêu căng tự đắc. Lão đạo sĩ lệnh cho người đàn ông:
- Bây giờ anh kể chuyện đi!
Người đàn ông bỗng lộ vẻ sợ hãi, nhìn
đạo sĩ :
- Hứa lữ trưởng bị giam trong nhà ngục
Mẫu Giang, tạm thời chưa bị quân cộng sản xử án. Từ ngày 15 tháng Mười, chúng
tôi không cướp được ngục, việc canh gác nhà ngục của quân cộng sản càng thêm
nghiêm ngặt. Còn Loan cảnh úy tìm khắp nơi đều không thấy. Không biết hiện nay
ông ta trốn tránh ở chỗ nào, hay là đã sa lưới? Hoặc là ông ta đi với Hầu
chuyên viên rồi.
Lão đạo sĩ sốt ruột nói:
- Thế thì anh chẳng được việc gì cả?
Người đàn ông đã sợ lại càng sợ, không
dám nói câu nào.
- Còn cái "bản đồ bí mật" của
Loan cảnh úy chắc cũng chưa lấy được?
Câu hỏi này của lão đạo sĩ làm cho hắn
từ lo sợ chuyển sang luống cuống, miệng lắp bắp, mắt nhìn vào chiếc găng tay để
trên bàn. Hắn đang suy tính trả lời cho cấp trên của hắn như thế nào. Hắn nghĩ:
Nếu nói rằng bản đồ bí mật đã lấy được thì lão đạo sĩ sẽ hỏi lấy ở đâu ra. Lại
nếu hỏi đến vợ Loan cảnh úy, thì cái lão dâm dật này vẫn muốn lấy, nhưng hiện
đã bị mình giết rồi, nếu lão mà biết việc này thì không biết lão sẽ dùng hình
phạt gì. Nếu nói chưa lấy được, sau khi xuống núi, tất phải giao cho Tọa Sơn
Điêu, mà Tọa Sơn Điêu với đạo sĩ lại rất thân thiết với nhau, sớm muộn thế nào
cũng nói với lão, thì lúc ấy cũng khó làm ăn. Đối với hắn, đây là một mâu thuẫn
rất khó giải quyết, nhưng cuối cùng hắn phải quyết định xuống núi giao cho Tọa
Sơn Điêu, trước hết phải lấy lòng Tọa Sơn Điêu đã, rồi mới nói chuyện được. Vì
thế hắn giả bộ khóc lóc:
- Tôi thật là đồ vô dụng. Bản đồ bí mật,
tôi không tìm thấy, vì rằng ngay đến người ấy tôi cũng không tìm thấy, còn nói
gì đến vợ người ấy.
Lão đạo sĩ thở dài, mắt nhắm nghiền, tay
lần tràng hạt, tỏ vẻ chán ngán, cái chán ngán mỗi ngày một nặng.
- Mấy chỗ tôi chỉ, anh đã tìm cả chưa?
- Tìm rồi! Tìm rồi! Nhưng mà các đầu mối
bây giờ đã hỏng cả. Đều bị đội phát động cải cách và bọn dân nghèo quản chế cả,
cho nên tôi...
Lão đạo sĩ trợn mắt, hỏi:
- Không dám đi à? Hử?
Người đàn ông cúi đầu không đáp, như mặc
nhận là hắn không đi.
Lão đạo sĩ ngồi ngay người lên, quẳng áo
cà sa một bên, mắng:
- Đồ ăn hại! Nuôi các anh chẳng có ích
lợi gì!
Người đàn bà lườm lão đạo sĩ:
- Giào ôi! Mình với nhau cả, làm gì phải
to tiếng thế. Đánh chó còn phải nể chủ nhà, dù sao anh cũng là chồng tôi, không
nhìn mặt tăng thì phải nhìn mặt phật, công lao của hai chúng tôi đóng góp cho
các ông không phải ít đâu! Các ông có tài cán sao mười vạn đại quân lại bị cộng
sản tiêu diệt hết, bây giờ phải ngồi xó núi? Ai có tài cán thì tự mình làm thử
xem. Làm được những việc như tôi dễ mấy người.
Nói xong dẩu môi, ngồi phệt xuống giường.
Lão đạo sĩ tiến lại người đàn bà :
- Được lắm, được lắm ! Bà chị của tôi. Bà
chị nói đúng lắm. Các người có công, việc đó ai cũng biết. Vừa rồi là tôi muốn
dùng cách khích tướng để cho các người thêm hăng hái. Đã có công rồi lại lập
thêm công nữa, chờ đến lúc quốc quân đến, khi ấy sẽ…
Người đàn bà lại nguẩy đít một cái :
- Thôi đi! Gớm chết! Khích tướng khích tá
gì. Toàn những câu phù chú giết người, một lần đi không nên là mất đầu.
Đạo sĩ quay về phía người đàn ông:
- Thế nào? Bộ đội lớn của cộng sản còn ở
trong núi không?
- Không. Chỉ có bộ đội nhỏ, hôm nay đã
gặp họ...
Lão đạo sĩ ngoẹo đầu bực dọc:
- Thế thì Nãi Đầu Sơn ra sao rồi.
- Tôi cho là bộ đội lớn của nó đã trở về
rồi, chỉ còn bộ đội nhỏ không làm gì
được Nãi Đầu Sơn.
Người đàn ông nhìn lão đạo sĩ, không khí
trong hang trở nên nặng nề.
Lão đạo sĩ ngẫm nghĩ một lát, mắt gườm
gườm nhìn người đàn ông:
- Anh đi xuống núi. không thể coi thường
toán quân cộng sản nhỏ này, có lẽ là bộ đội trinh sát của quân cộng sản, đó là
một cái đinh trước mắt chúng ta, hãy trở về báo cáo với cụ Ba.
Nói đến đây, lão đạo sĩ rút ngăn kéo lấy
bút giấy, nghiên mực, viết một lá thư ngắn, giao cho người đàn ông.
Người này cầm thư, vạch gấu áo, giấu vào
bên trong. Người đàn bà lấy kim khâu lại cẩn thận.
- Thưa sư thầy, tôi đi ngay bây giờ chứ?
Nhân lúc quân cộng sản vừa mới rút, tôi phải đi ngay suốt đêm nay, kẻo lỡ ngày
mai chúng lại đến.
Lão đạo sĩ lắc đầu cười nhạt:
- Thật là ngốc! Anh cho rằng chúng đi thật
hay sao? Chưa đâu, chúng đang giăng lưới bốn mặt chờ anh đấy!
Cả người đàn ông và người đàn bà đều trố
mắt kinh sợ, nói:
- Thế thì làm thế nào?
Lão đạo sĩ ung dung tỏ vẻ tự phụ:
- Tốt hơn hết là ngủ béng ngay ở miếu này
một đêm yên trí, các người đã lâu ngày không gặp nhau, ta lẽ nào lại nhẫn tâm
để các người xa nhau ngay. Tối nay không có gió, ngày mai vẫn còn tuyết, sáng
mai nhân lúc tuyết to xuống núi, chỉ độ ba ngày là đến nơi, đi đến đâu lấp sạch
vết chân đến đấy, ai mà tìm được, phải làm cho quân cộng sản chết uất đi được.
Nói rồi lão đạo sĩ nhìn hai người đang
tủm tỉm cười, hắn quay đầu lại lim dim đôi mắt nhìn ánh nến, giọng đầy tự tin:
- Ta tin rằng bọn cộng sản không thể ngồi
mãi trong đống tuyết, tuyết to là kẻ tử thù của chúng đấy.
Nói xong lão đứng dậy đi ra.
Đêm đã khuya, tuyết to phủ ngập trời.
Trong miếu nến tắt, người ngủ. Miếu Thần Hà và rừng núi rậm rạp xung quanh chìm
đắm trong đêm đông dài vắng lặng……
Trời sáng.....
Phía tây miếu Thần Hà, một người đàn ông
chui qua cánh cửa nhỏ đi về núi phía tây miếu. Rừng rậm và tuyết trắng che lấp
cả người hắn. Tuyết xuống lại lấp cả vết chân, hắn yên chí lẩn vào trong rừng
sâu bãi tuyết. Trong cơn mưa tuyết ùn ùn, hắn giống như một một người đi trên
sông nước, và giống như chiếc thuyền con bơi trên hồ.Mỗi bước chân của hắn
giống như chiếc bơi chèo xoáy xuống nước, khi nhấc chân lên thì mặt tuyết lại
phẳng lỳ.
Đạo sĩ, tiểu đồng và một người đàn bà,
đứng dưới hành lang nhìn bóng hắn khuất dần trong bãi tuyết rộng. Lão đạo sĩ
đắc chí nở nụ cười, tự cho mình là đắc kế.
Người đàn ông đi tới đỉnh núi, ngoảnh
nhìn lại những vết chân của hắn đã lấp phẳng, bốn bề vắng ngắt không một bóng
người. Cơn hoảng hốt ngày hôm qua đã tiêu tan, cuộc đời lại trở lại bình
thường, may mắn, hắn thầm phục đạo sĩ quả là diệu kế thần cơ. Trèo qua đỉnh
núi, nhìn về tây bắc, lần xuống sườn núi, bước chân nhẹ nhàng, hắn tiến thẳng
về hướng tây bắc.
Đi được độ bảy tám dặm, bỗng vấp phải sợi
dây ngã lăn kềnh ra mặt tuyết.
Hắn vừa bò dậy vừa chửi :
- Mẹ kiếp, cái hòn đá chết tiệt.
Tiếng chửi chưa dứt, thì ở dưới tuyết đột
nhiên chui ra hai người mặc áo trắng, đội mũ trắng, toàn thân đều là tuyết
trắng, tiến đến bóp cổ hắn, tước khẩu pạc-hoọc, trói chặt hắn lại.
Người mặc quần áo trắng to lớn rúc một
tiếng còi, tám người nữa cũng toàn quần áo trắng vội chạy đến. Người áo trắng
to lớn hạ lệnh:
- Đi!
Mười người quần áo trắng, áp giải hắn đi
về hướng tây nam.
Thôn Hắc Hạt là một thôn nhỏ chỉ có bảy,
tám gia đình, nằm dọc theo con đường sát nhỏ trong rừng, bên ngoài giáp bến đò
sông Mẫu Đơn, bên trong giáp công trường gỗ thôn Giáp Bi. Đó là một cái ga nhỏ.
Phân đội suốt đêm hành quân trên tuyết nên mệt lử, các chiến sĩ đang ngủ một
giấc rất ngon lành. Kiếm Ba, Dương Tử Vinh và mấy đồng chí trái lại đang chờ
đợi một cái gì. Mắt họ đỏ ngầu vì thiếu ngủ, nhưng tinh thần họ vẫn sáng suốt.
Kiếm Ba luôn luôn nhìn đồng hồ, đếm từng giây.
Loan Siêu Gia sốt ruột:
- Sao vẫn chưa đến?
Dương Tử Vinh vẫn bình tĩnh, nói một câu
khôi hài làm cho mọi người cười rộ:
- Có phải việc lấy vợ cho anh đâu mà vội!
Tôn Đạt Đắc nhìn Kiếm Ba:
- Tôi cho rằng hôm qua không soát miếu,
đêm cũng không phục ở ngoài miếu, có thể nửa đêm nó chuồn rồi.
Mấy đồng chí khác cũng đồng ý với Tôn Đạt
Đắc.
Kiếm Ba gật đầu, cười mỉm:
- Có lẽ!
Nhưng trong bụng, anh vẫn tin chắc rằng
quyết định của anh là đúng.
Bỗng bên ngoài có tiếng xôn xao. Mọi
người cùng quay ra phía cửa sổ. Tiếng xôn xao mỗi lúc một gần.
Đổng Trung Tùng từ con đường phía tây đi
lại, tay ôm một bọc quần áo ngụy trang, phủi sạch tuyết trên người, giậm chân
xuống đất, bỏ mũ, mồ hôi trên trán anh bốc hơi nóng rực. Tùng vừa bước vào, mọi
người đã hỏi ngay:
- Thế nào? Thế nào?
Trung Tùng thấy sự nóng vội của mọi
người, nghĩ bụng:
- "Các cậu nhất định là nghĩ như
mình hôm qua thôi, cho rằng không bắt được".
Vì thế anh cố ý thở ra một cái rất dài:
- Ôi giào! Chả biết thế nào, hãy cho một
hớp nước đây đã.
Nói rồi anh vớ lấy bát nước nóng nốc ừng
ực.
Mọi người chờ câu nói đầu tiên của anh.
Tôn Đạt Đắc càng nóng ruột tợn:
- Nói mau đi, Trung Tùng! Làm người ta
sốt ruột đến phát điên lên rồi đây này!
Trung Tùng xịu mặt lại:
- Đồ khốn kiếp chúng nó...
Tôn Đạt Đắc ngắt ngay câu nói đầu tiên
của Trung Tùng và định chứng minh cho phán đoán của anh lúc nãy.
- Không bắt được rồi!
Trung Tùng vẫn thản nhiên nói tiếp:
- Vừa tới nơi thì nó đến, chúng tôi đánh
một cái, nó ngã ngay.
Tôn Đạt Đắc đờ người ra:
- Thế đánh chết nó rồi à?
Trung Tùng tiếp tục kể nổt:
- Thật là may mắn, chúng tôi vừa mai phục
được độ nửa giờ, thì thằng cha ấy đến. Chúng tôi phục ở trên tuyết, ngáng vào
chân nó, nó chửi chúng tôi là "hòn đá chết tiệt". Tiếng chửi chưa dứt
thì hòn đá chết biến thành hòn đá sống. Hòn đá Huân Thương lập tức tóm lấy cổ
hắn như con diều hâu bắt con gà.
Mọi người dồn mắt nhìn Kiếm Ba, ai cũng
khâm phục sự phán đoán chính xác của thủ trưởng mình.
Trung Tùng hỏi trước:
- 203, đồng chí phán đoán thế nào mà đúng
vậy? Thú thật là hôm qua không soát miếu, bọn chúng tôi ai cũng có ý kiến, hôm
nay trời gần sáng đi mai phục, chúng tôi cũng không tin, cho rằng tối hôm qua
nhất định là nó chuồn rồi, hôm nay đi cũng chỉ là đơm đó ngọn tre.
Mọi người từ khâm phục chuyển sang yêu
cầu Kiếm Ba nói rõ bí quyết.
Kiếm Ba nhìn các bạn chiến đấu, thân mật
tươi cười nói:
- Các đồng chí, đối phó với kẻ địch, nhất
định phải biết mình biết người, mới có thể bách chiến bách thắng. Muốn bắt mãnh
hổ thì phải mạnh hơn mãnh hổ, muốn bắt Tôn Ngộ Không phải giỏi hơn Tôn Ngộ
Không. Hôm qua tôi biết chắc lão đạo sĩ đã giữ lấy thằng cha này, tại sao tôi
còn hỏi nó những câu ấy làm gì? Một là tôi muốn xem lão đạo sĩ này là thằng cha
nào, hai là tôi muốn đánh lạc phán đoán của lão, để cho lão quyết định nhầm.
Sai lầm của kẻ địch là thắng lợi của chúng ta, trái lại, sai lầm của chúng ta,
cũng có thể tạo cơ hội tốt cho địch.
Mọi người lắng nghe một cách chăm chú.
Kiếm Ba lại nói tiếp:
- Vì thế tôi đã đoán được lão đạo sĩ đánh
giá chúng ta thế nào. Lão nghĩ rằng hôm qua chúng mình chỉ vờ đi thôi, còn buổi
tối nhất định chúng mình sẽ mai phục bên ngoài miếu. Nhưng chúng ta không làm
thế, chúng ta lại về doanh trại, ăn một bữa thật no, ngủ một giấc thật say.
Mọi người phấn khởi, cười vang:
- Lão lại nghĩ rằng trời băng tuyết giá
lạnh, chúng ta không thể nào mai phục được một đêm, sáng ra nhất định phải về,
cho nên lão định lợi dụng lúc mờ mờ sáng mới cho tên kia đi. Như thế tuyết
xuống lấp phẳng vết chân, ta không biết đằng nào mà tìm. Nhưng chúng ta thì mãi đến sáng mới ra đợi
tên kia.
Vừa nói tới đây, Huân Thương người đầy
tuyết hớt hải chạy vào báo cáo:
- 203, diệu kế! Diệu kế! Nhiệm vụ hoàn
thành, bắt được tên phỉ, hiện giam trong tiểu đội chúng tôi, chờ lệnh đồng chí,
giải quyết thế nào?
Huân Thương dừng lại một lát:
-
Lão đạo sĩ đúng là một thằng cha xấu. Chưa có lệnh của đồng chí, nên tôi chưa
dám bắt, bây giờ yêu cầu đồng chí cho lệnh tôi trở lại bắt ngay tên cáo già
này.
Mọi người đều tán thành ý kiến Huân
Thương:
- Đúng! Bắt ngay lão đạo sĩ!
Kiếm Ba mỉm cười, khẽ lắc đầu:
- Đề nghị của các đồng chí sai, bây giờ
chúng ta không những không thể bắt lão đạo sĩ, mà chúng ta còn phải dựa vào lão
để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn của chúng ta, tức là chúng ta còn phải để lão
đạo sĩ lại, dùng vào việc có ích cho chúng ta….
HỒI THỨ MƯỜI HAI - TRA HỎI "MỘT CHÒM
LÔNG"
Cuộc tra hỏi bắt đầu.
Người bị bắt ngồi trước mặt Kiếm Ba và
anh em chiến sĩ. Mặt hắn vừa gầy vừa dài giống như chiếc giày cỏ kiểu Quan Đông
Sơn. Mặt hắn còn có một đặc điểm rõ rệt: Má bên trái có một nốt ruồi đen to gần
bằng đồng tiền, trên nốt ruồi mọc một chòm lông vừa trắng vừa đen, dài chừng
hai tấc. Trong gian nhà lửa cháy bập bùng, chòm lông như cũng rung theo.
Hai con mắt hắn nhìn Kiếm Ba có lúc như
hoang mang sợ sệt, có lúc bình tĩnh như không. Qua thái độ biến đổi bất thường
ấy có thể đoán biết trong lòng hắn rất phức tạp và xảo quyệt. Hắn đang đập óc
suy nghĩ và hòng có thể còn tia hy vọng.
Mắt Kiếm Ba nghiêm nghị nhìn hắn đến ba
phút:
- Anh là ai?
Hắn mỉm cười, với một giọng rất tự nhiên:
- Đồng chí, người mình cả, chớ hiểu lầm.
Tôi là trinh sát viên đại đội trinh sát Bộ tư lệnh quân khu.
Nói xong, hắn móc túi lấy ra một mảnh
giấy:
- Đây là chứng minh thư của tôi. Hừ…Không
thể nhầm được.
Đưa giấy cho Kiếm Ba xem xong, hắn thản
nhiên lại ngồi xuống chỗ cũ, bình tĩnh hơ tay trên lửa để sưởi, nhưng vẫn đưa
mắt nhìn trộm Kiếm Ba.
Dương Tử Vinh đem tấm chứng minh thư đặt
trên bàn, xem đúng là chứng minh thư của đại đội trinh sát Bộ tư lệnh quân khu
Mẫu Đơn Giang. Tấm chứng minh thư ghi rõ người này là Lan Chiếm Sơn.
Kiếm Ba chỉ nhìn qua, rồi cười nhạt:
- Thế sao lại sợ Quân đội giải phóng
quân?
Không một chút hoang mang, hắn trả lời:
- Đây chỉ là hiểu lầm nhau mà thôi. Tôi
cho rằng chúng mình chỉ có ít người như thế này thì không thể nào đi xa đến thế
được. Cho nên tôi đoán rằng các anh chỉ là thổ phỉ thôi, hơn nữa trời lại mưa
tuyết, xa quá tôi trông không rõ.
- Tại sao anh ẩn ở trong miếu mà lại không
nghe thấy chúng tôi hỏi người đạo sĩ hay sao?
- Nghe thấy hết! Nghe thấy hết!
- Tại sao anh cũng không chạy ra? Chúng
tôi đã bảo rất rõ ràng với đạo sĩ rằng chúng tôi là giải phóng quân kia mà!
- Bọn thổ phỉ thì khôn ngoan lắm. Tôi cứ
cho rằng các anh chính là thổ phỉ, giả làm giải phóng quân. Tôi nghĩ rằng. Nếu
bộ đội ta chỉ có một đơn vị nhỏ thì bất luận như thế nào cũng không dám tới nơi
này. Ấy vì thế nên mới đến nỗi "anh em nhà chả nhận được nhau". Toàn
là nhận nhầm. Làm trinh sát viên trong trường hợp như thế, ai mà chẳng phải
cảnh giác kia chứ! Chẳng nói thì thủ trưởng cũng hiểu hơn tôi.
Hắn nói những câu đó một cách rất tự
nhiên, bình tĩnh.
- Anh về thăm nhà sao lại đến khu rừng
sâu này làm gì? Có phải là đường chính không?
Hắn thở dài làm ra vẻ buồn phiền:
- Hừ! Tôi nói ra thì thủ trưởng và các
đồng chí lại cho là đầu óc gia đình và cá nhân chủ nghĩa! Lần này về nhà, thật
trong lòng không vui chút nào. Bố tôi từ ngày bị bắt đi phu thời Mãn Châu Quốc,
trong dịp đi đào hầm ở Hồ Lâm bị mắc bệnh tê thấp, hai năm nay lại nặng thêm.
Lần này tôi về nhà thăm, thì bố tôi đã không xuống giường dược, thành bán thân
bất toại mất rồi. Lúc tôi ra đi bố mẹ đều dặn, dù thế nào cũng phải kiếm cho được
ít hổ cốt cho bố, vì nghe người ta nói rượu hổ cốt chữa khỏi. Chúng mình làm
giải phóng quân thì làm gì có nhiều tiền, cho nên tôi muốn vòng qua vùng núi,
định hỏi nhân dân để mua thì chắc giá rẻ hơn nhiều. Nếu không, đến hiệu thuốc
bắc ở thành phố thì một là giá đắt gấp đôi, hai là sợ của giả, cho nên...
- Thế anh định đi đến đâu tìm?
Hắn chớp chớp mắt:
- Tôi định đến Giáp Bì.
- Giáp Bì có à?
- Có.
- Tại sao anh biết là có?
- Bởi vì ở đây có nhiều công nhân làm
rừng. Họ biết trượt tuyết, đi săn rất giỏi, bắn hổ dễ như chơi. Không có những
tay tài săn bắn như thế thì không thể tìm được hổ cốt. Cho nên tôi tưởng rằng
nhất định họ có cao hổ cốt.
- Anh là người huyện Phương Chính, tại
sao biết ở Giáp Bì có người biết trượt tuyết và giỏi đi săn?
- Thời kỳ còn Nhật Bản, tôi ở trong hội
trượt tuyết Mẫu Đơn Giang nên biết. Thời kỳ đó người Giáp Bì thường đến bán ván
và gậy trượt tuyết.
Kiếm Ba, Huân Thương và Tử Vinh nhìn nhau
cười. Kiếm Ba lại nghiêm nghị hỏi:
- Anh đã là giải phóng quân, tại sao lại
cưỡng bức vợ chồng ông già trên đỉnh núi và ăn uống của người ta rất nhiều.
Hắn ta cúi đầu tỏ vẻ sợ hãi:
- Xin thủ trưởng tha lỗi, tôi trình độ
giác ngộ còn thấp. Giác ngộ thấp... đã phá hoại kỷ luật bộ đội, xin thủ trưởng
tha lỗi.
Hắn trả lời rất trôi chảy, thật giống như
người giải phóng quân vậy. Muốn chứng tỏ thêm rằng mình thật là trinh sát viên
của giải phóng quân, hắn lấy găng tay ra, nhưng thấy chỉ còn một chiếc thì hắn
ngây người ra:
- À ! Chả biết rơi đâu mất một cái.
Nói xong hắn lại bình tĩnh lại ngay, vẻ
mặt rất tự nhiên, hình như hắn tin rằng thủ đoạn của hắn chắc chắn thành công.
Đặc biệt khi hỏi đến lão già đạo sĩ, thì
hắn luôn mồm ca tụng lão đạo sĩ là một người hiền lành, làm ơn, làm phúc, đại
từ, đại bi, giúp đỡ cách mạng. Để chứng tỏ điều ấy, hắn kể rằng: người đạo sĩ
hết lòng che chở cho hắn và làm cơm cho hắn ăn ở trong miếu.
Tuy thế có một điều là trong lúc nói
chuyện hai tay hắn không lúc nào để yên, luôn luôn giữ chặt gốc phải vạt áo.
Kiếm Ba nghĩ bụng: Đây chính là chỗ chết
của mày, cho nên ngay từ lúc bắt đầu tra hỏi, Kiếm Ba không nhìn vào mắt nó, mà
lại nhìn vào bàn tay không bình thường của nó. Kiếm Ba càng nhìn, tay nó càng
nắm chặt và hơi run run.
Kiếm Ba rút con dao con ra, ra lệnh:
- Giơ tay lên!....
Trước câu nói bất thình lình ấy, hắn bỗng
nhiên thất sắc, đứng hẳn dậy, hai mắt nhìn hoảng sợ.
Kiếm Ba cầm dao cắt đứt góc vạt áo, Kiếm
Ba rút trong góc vạt áo ra một cuộn giấy
nhỏ. Mọi người hết sức chăm chú nhìn vào
mảnh giấy.
Trong khi Kiếm Ba mở đầu cuộn giấy ra
thì thần sắc hắn biến đổi hẳn, toàn thân run cầm cập, hai chân như đứng không
vững nữa. Hắn ú ớ nói không tiếng:
- Bẩm quan lớn... tha cho...tôi xin
nói...nói thực.
- Việc đó là tùy ở anh.
Kiếm Ba vẻ mặt lạnh lùng, cũng không
ngẩng lên nhìn, anh thong thả mở hết cuộn giấy: tất cả hai tờ.
Hắn ấp úng kể rõ lai lịch.
Hắn là Lưu Duy Sơn, phó quan hầu của lữ
trưởng Tọa Sơn Điêu tức Ba Thôi thuộc lữ đoàn thứ năm quân bảo an ở Tấn Tuy Đồ
Giai do quân Quốc đảng trung ương để lại. Vì má bên trái hắn có chòm lông dài
hai tấc, nên người ta gọi hắn là “Một chòm lông". Nó cũng như Loan cảnh úy,
bộ hạ Hứa Gậy Gộc đều làm liên lạc cho thổ phỉ, dò xét quân ta. Hồi làm cảnh úy
cho bù nhìn Mãn Châu hai đứa chúng đã kết nghĩa anh em với nhau.
"Một chòm lông" chuyến này ra
đi đã hơn một tháng để tìm tên phỉ Loan. Mục đích là lấy cho được bản danh sách
những kẻ hoạt động bí mật cho Quốc dân đảng mà Hứa Gậy Gộc giữ.
Danh sách tổ chức bí mật đó, đối với bọn
phỉ là tài sản vô cùng qúy giá. Mỗi một lữ có một khu vực hoạt động. Mỗi khu
vực có một tổ chức. Danh sách của tổ chức có lẽ vẽ trên bản đồ, nên chúng gọi
bản đồ đó là "bản đồ bí mật". Nếu phỉ Loan lấy được tài sản ấy của
Hứa Gậy Gộc đem cho Tọa Sơn Điêu mà không đem cho lữ trưởng nào khác thì Tọa
Sơn Điêu sẽ cho phỉ Loan làm đoàn trưởng. Nếu cướp được tài sản đó của Hứa Gậy
Gộc thì Tọa Sơn Điêu cũng sẽ trở thành lực lượng hùng hậu trong nội bộ bọn phỉ
và như thế nó sẽ có cái vốn để mà đòi thăng thưởng khi quốc dân đảng tới.
Được tin Hứa Gậy Gộc bị tiêu diệt. Tọa
Sơn Điêu rất thích chí, vì từ đây dưới con mắt cấp trên của chúng là Hầu Điệu
Khôn, chuyên viên đảng vụ Tấn Tuy, hắn từ bậc thứ ba thăng lên bậc thứ hai. Về
mặt khác hắn lại có thể chiếm cứ khu vực hoạt động của Hứa Gậy Gộc và toàn bộ
lực lượng bí mật của Hứa, đặc biệt là bộ phận quân đội bí mật ghi trên bản đồ.
Bọn này phần đông là địa chủ, ác bá và quan lại, hiến binh của ngụy Mãn. Nắm
được lực lượng này, đợi lúc quân quốc dân đảng đến, thì muốn tiền có tiền, muốn
thế có thế, muốn kế có kế, muốn người có người và như thế là con tính Tọa Sơn
Điêu gãy gọn.
Trong lúc "Một chòm lông" nói,
Kiếm Ba chỉ nhìn hai tờ giấy không hỏi nó một câu, cũng không hề nhìn nó. Nhưng
Kiếm Ba đã nghe được trong lời cung của "Một chòm lông" rất nhiều
điều có ích.
Trên tờ giấy thứ nhất, là một bản đồ mà
mới nhìn thì không thể hiểu được. Còn bản đồ có vẽ núi Ông Già cùng các thành
thị thôn xóm chung quanh núi Ông Già, thị xã Mẫu Đơn Giang cũng ghi trong đó.
Mỗi một thành thị hoặc thôn xóm đều có tên họ và bí danh của một số người. Thí
dụ, thị trấn Mai Lâm ghi lên Trần Đại, Lưu Trí Nghĩa, ở đường sắt Mẫu Đơn, ghi
tên Tương râu, xếp ga Khổng. Những tên ghi trên bản đồ này so với lời cung
trước của tên phỉ Loan có nhiều chỗ giống nhau, nhưng phỉ Loan chỉ khai có 18
lên, mà ở đây có những 387 tên.
Kiếm Ba vừa nhìn thẳng "Một chòm lông"
vừa giơ bản đồ lên hỏi:
- Thế thì đây có phải là bản đồ tổ chức
bí mật của Hứa Gậy Gộc không?
- Phải! Phải!
- Anh tìm được ở đâu?
"Một chòm lông" cúi đầu xuống,
mặt đẫm mồ hôi, chép miệng, không trả lời.
Kiếm Ba lại hỏi:
- Hả! Từ đâu lấy về? Loan cảnh úy ở đâu?
"Một chòm lông" chỉ trả lời là
không tìm thấy Loan cảnh úy, còn bản đồ này lấy được ở đâu thì nó nói là lấy
được ở trong hầm của Loan cảnh úy.
Kiếm Ba suy nghĩ: Lâu la Hứa Gậy Gộc đã
bị quét sạch chưa? Hay là tên phỉ Loan cảnh úy trong nhà giam đã đưa lọt cái
này ra ngoài? Nếu quả như thế thì bộ đội coi nhà giam của ta không được trong
sạch chăng?
Kiếm Ba nhận thấy đã nắm đuợc bản đồ
này, nắm được danh sách thổ phỉ đặc vụ bí mật rồi, chưa cần hỏi truy nó nữa.
Anh lại đem hết tâm lực vào tờ giấy thứ hai.
Tờ giấy thứ hai này là một phong thư
không ghi rõ tên người gửi. Trong thư viết:
"Thôi sư huynh,
Giời tháng Chạp, gió to, tuyết lớn. Đóng
cửa cho chặt, trùm chăn cho kín, tránh gió, tránh tuyết, đề phòng ma lạnh thấu
xương. Cảm ơn và cáo từ bữa yến bách kê. Thiện tai! Thiện tai! “
Kiếm Ba cầm phong thư hỏi:
- Đây là cái gì?
- Là... là...
"Một chòm lông" càng thêm
hoảng sợ.
Kiếm Ba lại nghiêm nghị hỏi dồn:
- Là cái gì?
- Là... bạn của Tọa Sơn Điêu gửi cho nó.
- Người bạn ấy, nhà ở đâu? Tên là gì?
Làm gì?
- Nói cho rõ!
Lời nói và mắt nhìn của Kiếm Ba lộ vẻ uy
nghiêm đáng sợ.
- Người... người này... ở huyện tôi là
một hòa thượng... hòa... hòa thượng.
Kiếm Ba cười nhạt, rồi nói một cách quả
quyết:
- Người này không phải là một hòa thượng,
mà là một đạo sĩ.
Nghe nói tới tiếng đạo sĩ. "Một chòm
lông" giật nẩy mình:
- Hòa thượng, hòa thượng... không...
không phải
là đạo
sĩ.
Kiếm Ba cười mỉa mai:
- Đừng nói dối! Hòa thượng thì thường
dùng câu A di đà Phật, còn trong thư thì viết thiện tai! Thiện tai! Nếu không
phải là đạo sĩ thì là cái gì? Hử?.....
"Một chòm lông" sợ cứng miệng
nói không ra lời. Thấy nó chối cãi, Kiếm Ba đoán biết ở đây có điều gì bí mật,
mà bí mật chính là ở tên đạo sĩ yêu ma trong miếu Thần Hà. Anh nghĩ bụng việc
này phải để nghiên cứu đã, rồi hãy hỏi thêm. Cho nên anh đứng dậy, đến gần
"Một chòm lông" chuyển sang hỏi việc
khác:
- Bữa yến "bách kê" là cái gì?
"Một chòm lông" thấy chuyển
sang vấn đề khác như được trút đi một gánh nặng, giương mắt lên trả lời:
- Đây là tiệc mừng của Tọa Sơn Điêu. Mỗi
năm một lần cứ đến 30 tháng Chạp, vào đêm giao thừa toàn thể quân quan của Tọa
Sơn Điêu lại ăn uống no say một bữa. Bữa tiệc ấy chỉ ăn toàn thịt gà. Gà này
lấy của nhân dân, hàng hơn trăm con, cho nên gọi là bữa yến "bách
kê". Ngày trước, giặc Nhật và bù nhìn Mãn Châu khi thu phục Tọa Sơn Điêu
cũng đã có lần bày tiệc yến bách kê như thế, tại hiệu Tụ Anh Lâu ở Mẫu Đơn
Giang.
Dương Tử Vinh cười:
- Oai nhỉ!
Kiếm Ba hạ lệnh cho Trung Tùng dẫn hắn ra
Kiếm Ba lại tiếp tục suy nghĩ những vấn đề rắc rối chung quanh tên phỉ
"Một chòm lông" này:
- Phong thư này nhất định là của tên đạo
sĩ yêu ma ở miếu Thần Hà. Còn cái bản đồ này thì từ ở đâu lại? Tên phỉ Loan bị
ta bắt giam rồi, chẳng lẽ bộ đội coi nhà giam của ta có vấn đề chăng? Hav là
còn đặc vụ của Hứa Gậy Gộc lọt lưới? Hay là việc này cũng có liên quan đến tên
đạo sĩ?
Anh trầm ngâm, nghĩ tới nguòi đàn bà bị
giết, lại nghĩ tới người đàn bà đến lễ ở miếu Thần Hà. Tất cả những vấn đề đó
diễn ra trong óc anh và lần lượt được sàng lọc trong đầu anh.
Kiếm Ba và anh em chiến sĩ cùng ngồi ăn
cơm, vừa ăn vừa bàn luận xung quanh manh mối về vấn đề này. Ăn xong, Kiếm Ba
cười hỏi Huân Thuơng:
- Thế nào "Xe tăng"? Còn đủ
sức không?
Huân Thương vỗ vào bụng nói:
- "Xe tăng" chỉ cần dầu xăng
là sức sẽ vô cùng tận. Bữa cơm vừa rồi đã cho thêm dầu rồi, có thể mở máy được
ngay.
- Thế thì cậu quay trở lại nhà vợ chồng
ông già, gọi Bạch Như trở về hỏi cho ra lai lịch người đàn bà vừa cứu sống.
Bạch Như và Cao Ba không chắc có đối phó nổi với người đàn bà ấy không. Cậu đi
một chuyến nhất định hiểu rõ câu chuyện.
Để tiếp tục tìm ra manh mối xung quanh
tên phỉ “Một chòm lông", Kiếm Ba lại cùng Tử Vinh tiếp tục hỏi nó.
"Một chòm lông" lại được dẫn tới.
Kiếm Ba thong thả bảo nó:
- Chúng tôi định giao anh cho vị đạo sĩ
Định Hà miếu Thần Hà vì anh giả làm giải phóng quân nói dối ông ta, nên ông ta
đã giấu giếm cho anh. Nay cần cho ông ta biết anh là người thế nào để ông ta
khỏi bất mãn về việc chúng tôi vào lục soát trong miếu. Và cũng cần để ông ta
dạy cho anh từ nay trở đi đừng có giết người cướp của, do thám bộ đội, tổ chức
phản loạn, hòng lật đổ Chính phủ. Để tỏ rõ anh là một tên thổ phỉ, chúng tôi sẽ
lấy hai tờ giấy này làm chứng cớ và đưa cả cái găng tay mà anh bỏ quên khi giết
người phụ nữ cho ông ta xem. Làm như thế chắc anh vui lòng chứ?
"Một chòm lông" nghe Kiếm Ba
nói, lại trông thấy cái găng tay đẫm máu của hắn đánh rơi khi giết người, thì
hắn ta hoàn toàn tuyệt vọng, hai mắt kinh hãi, thở hổn hển, không nói lên lời.
Kiếm Ba giục:
- Mau lên, trả lời đi! Như thế là tiện
cho anh quá rồi còn gì?
"Một chòm lông" ngã quỵ xuống
đất:
- Không được! Như thế không được...Như
thế cả nhà tôi...Không được... đời tôi không còn gì nữa. Cho tôi ở lại đây, các
ông ưu đãi tù binh kia mà?
Dương Tử Vinh cười:
- Đúng rồi, chúng tôi sẽ thả anh ngay và
giao anh cho đạo sĩ, như thế là ưu đãi lắm chứ!
"Một chòm lông" hoảng hốt, lắc
đầu lia lịa:
- Không... tôi không đi... không đi.
Kiếm Ba và Tử Vinh nhìn nhau cười, và nói
tiếp:
- Đạo sĩ từ thiện việc gì mà anh sợ? Trai
tráng như anh mà lại sợ một người đạo sĩ già hay sao?
- Không! Chúng nó ác lắm! Ác lắm...
Nói đến đấy, "Một chòm lông" ngừng
lại, như chợt nhớ ra trong lúc sợ hãi nó đã trót lỡ lời.
Kiếm Ba nghiêm nghị giục:
- Nói đi!
Hắn không trả lời, nhưng Kiếm Ba đã nắm
được chỗ lợi hại của bọn phỉ, anh nghĩ: Việc này chứng tỏ tên yêu đạo này chính
là một tay ghê gớm, có thể là nơi tập trung các đầu mối. Nơi địch sợ nhất, cũng
chính là chỗ sơ hở của chúng. Bây giờ không cần hỏi nữa, vấn đề từ nay về sau
là đối phó với tên yêu đạo này như thế nào? Dùng thủ đoạn gì để "đi
lại" với hắn ?
Thái độ Kiếm Ba bỗng nhiên ôn hòa lại:
- Anh sợ lão đạo sĩ như thế, còn đối với
Tọa Sơn Điêu, anh có thể dẫn chúng tôi vào núi tiêu diệt nó được không?
Kiếm Ba đưa mắt dò xét thái độ nó như thế
nào.
Kiếm Ba vừa dứt lời thì "Một chòm
lông" đương sợ hãi bỗng nhiên bình
tĩnh lại ngay, và luôn mồm nói:
- Được, được. Tôi nguyện làm thân trâu
ngựa giúp các ông thành công.
Nghe những lời khảng khái của "Một
chòm lông", Kiếm Ba sinh cảnh giác. Anh nhìn tên phỉ giảo hoạt này và nghĩ
bụng, nó đương định tìm một quỷ kế gì lừa bịp mình đây. Anh cười bảo nó:
- Được. Anh hãy nói qua trận thế của Tọa
Sơn Điêu xem nào?
- Vâng, vâng, được ạ...
"Một
chòm lông" phủi mông bò dậy, ngoan ngoãn:
- Tọa Sơn Điêu cũng chẳng phải là tay ghê
gớm gì, chẳng qua chỉ có cái danh hão mà thôi. Uy Hổ Sơn cũng bình thường thôi,
không thể sánh với Nãi Đầu Sơn của Hứa Gậy Gộc được. Còn kém xa, kém xa...
- Giản đơn thế ư?
- Đúng thế, thật không dám nói dối. Tôi
nói sai, xin ông cứ cắt đầu tôi đi. Uy Hổ Sơn cũng chẳng "uy" mà cũng
chẳng "hổ". Tọa Sơn Điêu cũng chẳng phải là con sơn điêu, mà chỉ là
con gà đồng thôi. Không nên nghe người ta đồn nhảm. Họ nói nào là Tọa Sơn Điêu
ghê gớm hơn Hứa Gậy Gộc, nào là bộ hạ Tọa Sơn Điêu bắn trăm phát, trăm trúng.
Nào là Uy Hổ Sơn chín dãy núi, 27 lô-cốt, bên dưới toàn là đường hầm dài tới
hơn mười dặm. Nào là địa thế của Uy Hổ Sơn tiến lên có thể đánh, lùi có thể
giữ, tiến thì như hổ đói, không ai địch nổi, thoái thì như rồng lặn dưới nước
vô tăm, vô tích. Đó toàn là...
Kiếm Ba vội ngắt lời:
- Thôi! Vắn tắt một chút! Bây giờ tôi cho
anh giấy bút, anh vẽ cho tôi trận thế Uy Hổ Sơn.
"Một chòm lông" gật đầu, cúi
rạp lưng đón lấy giấy bút, luôn mồm:
- Vâng, vâng, vâng.
Kiếm Ba nghiêm khắc cảnh cáo:
- Chú ý, nếu mày nói dối tao thì không
khác gì mày đem cái đầu mày ra làm trò đùa! Hiểu chưa?
- Vâng, vâng, vâng. Con không dám...kẻ có
tội không dám.
"Một chòm lông" đặt giấy trên
bàn, tay run run vẽ. Trước hết vẽ núi Ngũ Phúc và cách bố trí quân sự trên núi.
Sau vẽ tới trại Uy Hổ, những điểm hỏa lực, những hào ngầm. Cuối cùng hắn vẽ ở
góc bên trái tờ giấy một đường giao thông hào thật dài. Vẽ xong, hắn trỏ giao
thông hào này và nói:
- Bẩm quan, chính chỗ này, đây là một con
đường hào dài rất kín. Ta sẽ tiến theo con đường này, thế nào cũng thành công,
thực không dám nói sai.
Nhìn tờ giấy vừa vẽ xong, Kiếm Ba nghĩ
bụng:
- Đứng về mặt quân sự mà nói, trận thế của
tên phỉ già này không phải bình thường, đặc biệt là nó dựa vào thế núi, binh
lực bố trí phân tán, nó lại dựa vào rất nhiều khe rãnh bí mật. Việc này chứng
tỏ tên phỉ già này có nhiều kinh nghiệm và rất khôn ngoan, nhưng tại sao nó còn
có mấy điểm rất thiếu sót. Nhất là con đường hào phía tây nam mà "Một chòm
lông” giảo hoạt này định bẫy ta.
Anh hỏi nó:
- Bây giờ tôi hỏi anh tại sao...
Bỗng nhiên một tiếng lanh lảnh của phụ nũ
ngắt lời anh:
- Báo cáo!
- A! "Bồ Câu Trắng"! Dương Tử
Vinh reo lên, chạy ra đón Bạch Như và Cao Ba, dẫn vào.
Kiếm Ba rất vui thích, hỏi:
- Tại sao về sớm thế?
Bạch Như tươi cười gật đầu, lanh chanh như
đứa bé ngây thơ:
- Chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, điều
cần biết đều đã biết. Ông già dẫn chúng tôi đi đến nửa đường thì gặp "Xe
tăng". Chúng tôi cảm ơn ông già rồi theo "Xe tăng" về.
Nàng nói liến thoắng luôn một hồi, Kiếm
Ba trong lòng rất vui thích, nhưng làm ra vẻ sốt ruột:
- Thôi, vắn tắt một chút.
Bạch Như bĩu môi:
- Báo cáo với thủ trưởng phải nói cho rõ
ràng, anh chẳng bảo với chúng tôi như thế là gì?
Mọi người cười ồ lên, Bạch Như chợt trông
thấy "Một chòm lông", mỏ to mắt nhìn:
- A, bắt được rồi ư?
Kiếm Ba ra hiệu cho Lý Hồng Nghĩa dẫn tên
phỉ đi, rồi quay lại Bạch Như:
- Báo cáo đi!
Bạch Như cố ý không nhìn Kiếm Ba, ngồi
trên giường nói một mạch:
- Người đàn bà ấy cứu được rồi. Chị ta bị
"Một chòm lông" đánh chết và hắn đã ăn cắp của chị ta cái bản đồ tổ
chức bí mật. "Một chòm lông" là tên quan hầu của Tọa Sơn Điêu, chuyên
môn đi do thám tình hình ta. Báo cáo hết.
Mọi người lại cười vang lên, Kiếm Ba cũng
bật cười :
- A, cô định phá quấy đấy à?
Bạch Như phụng phịu tỏ vẻ không bằng lòng:
- Chính thủ trưởng nói như thế! Tôi báo
cáo tường tận thì phê bình là dài dòng, bảo báo cáo vắn lát, tôi báo cáo vắn
tắt, thì lại phê bình là phá quấy. Thế thì biết làm thế nào cho đúng. Làm một
người chiến sĩ, không còn được một chút chủ động nào à?
- Này, không phải cuộc họp phê bình, có ý
kiến sau này sẽ nói!
Kiếm Ba vừa ra vẻ nghiêm trang, vừa như
muốn giải thích lời phê bình của mình. Anh nói với một giọng ôn hòa hơn.
- Ý kiến của tôi là cần vắn tắt thì vắn
tắt, cần tường tận thì tường tận. Chỗ đáng vắn tắt thì cô lại dài dòng, chỗ
đáng tường tận thì lại cụt lủn. Đảo ngược như thế, người ta phê bình lại còn
không đồng ý!
Mọi người lại cười vang nhìn Bạch Như.
Nàng như e thẹn, nhưng trong lòng vui sướng khi thấy thủ trưởng phải đặc biệt
chú ý đến mình. Nàng giương đôi mắt duyên dáng nhìn Kiếm Ba, rồi bắt đầu báo
cáo tường tận:
- Người đàn ấy tên là Lý Tú Nga, người
huyện Vỹ Hà, bố làm nghề dạy học. Chị ta mồ côi mẹ từ thưở nhỏ, theo bố đi học.
Năm mười tám tuổi học tới lớp sáu, bị tên Loan cảnh úy để ý. Tên này tìm mọi
cách nhờ người làm mối và tìm đến viên hiệu trưởng trường trung học Vỹ Hà, viên
hiệu trưởng này vừa là thầy học cũ của Loan cảnh úy, vừa là chú dượng của hắn,
lại vừa được tiền của hắn, nên tìm mọi cách giúp đỡ hắn. Bố chị ta là một giáo
viên trung học có tư cách, không muốn gả con cho cảnh sát của Nhật, chị ta thì
cũng không muốn lấy hắn, đang mong tiếp tục học để nối nghiệp bố làm giáo viên.
Vì thế, hai cha con đều nhất mực từ chối.
Tên Loan cảnh úy tức chết ngưòi. Nó bàn
với viên hiệu trưởng, trước hết cách chức bố chị ta, rồi vu cho là có hành động
chống Nhật, bắt bỏ nhà giam. Chị ta từ đó bỏ học, cơm không có ăn, phải chạy
tới nhà ông cậu. Nhưng ông cậu vì mẹ chị chết đã lâu nên thân đã thành sơ. Hơn
nữa trước sự đe dọa của Loan cảnh úy, ông cậu khiếp sợ đã đuổi cháu đi. Chị ta
lại chạy đến nhà chị gái, nhưng chị gái chết đã lâu, anh rể đã lấy vợ khác, nên
cũng không cho chị ở lại. Chị lại phải trở về nhà đến nhờ vả bạn học giúp đỡ,
nhưng những bạn thân của chị cũng có nhiều người bị bắt, số còn lại thì sợ hãi
không dám tiếp chị.
Không tìm cách nào nữa chị phải tìm đến
tên hiệu trưởng nham hiểm kia. Tên hiệu trưởng bảo chị:
- Chỉ có việc lấy tên Loan cảnh úy là bố
chị không những được tha, mà còn được phục chức nữa.
Muốn cứu bố thì phải hy sinh, chị đành
bằng lòng lấy Loan cảnh úy. Bố chị được tha, nhưng sau thời gian bị giam cầm đã
thành tật, về nhà không bao lâu thì chết. Chị không còn biết nưong tựa vào ai,
cả ngày chỉ biết khóc lóc, Loan cảnh úy lại còn hành hạ, dọa sẽ đem bán chị cho
nhà thổ. Chị đành cắn răng chịu đựng cho qua một đời.
Nói tới đấy Bạch Như cảm động, thở dài
nói tiếp:
- Tóm lại chị ta là một người đàn bà đáng
thương. Khi quân của Hứa Gậy Gộc rút lên núi thì chị ta cũng đi theo và cùng
với những vợ con tướng phỉ ở trong miếu Thần Hà. Chị nói, tên đạo sĩ già trong
miếu Thần Hà, nhiều lần lợi dụng những dịp Loan cảnh úy đi đưa thuốc phiện và
lấy tình báo, đã hiếp chị. Vì tên đạo sĩ có thế lực lớn, chị cũng không dám nói
việc ấy với Loan cảnh úy, sợ hai người xung đột với nhau thì chị cũng không thể
sống nổi, cho nên chị chỉ yêu cầu Loan cảnh úy tìm nơi khác mà ở. Lúc đó vì sợ
bộ đội ta, nên Loan không dám trở về nhà, mà đến ở trong hang, gần khe Lê Thụ,
cách chỗ chúng ta bắt tên thợ đồ gốm chừng 20 dặm.
Sau khi chúng ta tiêu diệt Hứa Gậy Gộc
rồi, thì thằng béo, tức là cậu Ba của Loan cảnh úy lên núi thu xếp chỗ ở cho
chị, và cho chị một tờ giấy thông hành đi Mẫu Đơn Giang. Chị ở trong hang một
tháng trời mưa tuyết. Lương ăn đã hết. Cảnh úy và cậu Ba cũng không thấy trở
về. Không thể ngồi đợi chết, chị liều xuống núi nghe ngóng tin tức Loan cảnh úy
ra sao. Nhưng vừa tới nhà cậu Ba ở thôn Lê Thụ, thì vừa gặp lúc nhân dân đương
mở đại hội, đấu tên cậu Ba của chồng chị. Chị sợ quá lại chạy về hang, thu xếp
đồ đạc thì thấy trong một túi áo của Loan cảnh úy có cái ví da, bên trong có một bản đồ ghi tên
thôn, tên người. Trong đó có cả tên của cậu Ba ở thôn Lê Thụ. Ở Mẫu Đơn Giang
cũng ghi nhiều tên trong đó có cả tên người anh chị họ của chồng chị nữa. Chị
đoan rằng những người có tên đây chắc là bạn của Loan cảnh úy, cho nên chị lấy
cái bản đồ đó để tìm đến nhờ vả nhà bè bạn và hỏi thăm tin tức của chồng. Chị
đinh ninh chồng chị đang ẩn náu ở nhà bạn.
Xuống núi tìm mấy ngày không thấy. Một
hôm đến thôn Hòa Thượng bỗng gặp người anh em kết nghĩa với chồng là Lưu Duy
Sơn biệt hiệu "Một chòm lông". Thấy là bạn rượu chè thân thiết của
chồng, nêu chị mừng, nghĩ có thể biết được tin tức của Loan cảnh úy, nên mời
hắn lên hang nghỉ mấy hôm. "Một chòm lông" nói chồng chị còn ở trên
núi, chưa bị sa lưới, rủ chị cùng đi tìm, rồi cùng đi theo Tọa Sơn Điêu. Nó lại
dọa chị rằng: Mặc dù thế nào, không bao giờ được trở về làng ở. Phàm người nào
đã làm việc với Nhật và bù nhìn Mãn Châu thì đều bị cộng sản bắt chôn sống hoặc
thiêu sống. Chị ta sợ hãi, không biết nó nói có đúng hay không, nên chị đành đi
theo nó. Đi đường nó năm lần, bảy lượt hỏi chị có thấy cái bản đồ ghi tên người
và tên các thôn hay không? Chị đã biết đấy chính là bản đồ tìm thấy ở trong ví
da của chồng, nhung vì thấy "Một chòm lông" có thái độ thô bạo, hành vi
gian trá, biết nó không phải người tốt bụng, nên chị không nói ra.
Chị theo nó được bảy, tám hôm, thì đến
căn nhà lẻ loi ở trên núi. Nó lấy súng dọa người ta đòi ăn, đòi uống, nói dối
là trinh sát viên của ta về thăm nhà. Thấy "Một chòm lông" làm sằng
bậy như thế, nên chị rất kinh hãi, xin quay trở về. Nhưng "Một chòm
lông" không cho chị về, cầm súng dọa chị bắt đi theo.
Ngày hôm ấy, đến nhà hai vợ chồng ông
già, thì gặp bão tuyết. "Một chòm lông" lại càng ráo riết đòi bản đồ
ấy. Biết chị có quan hệ với tên đạo sĩ vì đã nhiều lần bị đạo sĩ hãm hiếp, sợ
khi về miếu Thần Hà lão ta đối với hắn không tốt, nên nó quyết tâm hạ thủ. Nó
cũng nhiều lần hãm hiếp chị. Trong lúc ăn nằm với chị, nó bỗng nhiên nhìn thấy
cái ví da, vội cướp lấy mở ra xem, thì đúng là cái bản đồ nó đang cần. Mới đầu
nó còn định bỏ mặc cho chị đi đâu thì đi, nhưng lại sợ nay mai Loan cảnh úy trở
về, hoặc giả lão đạo sĩ biết chuyện này thì nguy, cho nên nhân lúc chị ta khóc
lóc đòi lại bản đồ, nó uống luôn mấy bát rượu, rồi lôi chị ta đi, đâm chị ta ba
nhát dao làm chị ngất đi, lăn xuống đất.
Nói đến đây, Bạch Như thở một hơi dài:
- Xin báo cáo hết! Chả biết là tường tận
mà không vắn tắt, hay vắn tắt mà không tường tận? Xin thủ trưởng phê bình!
Mọi người rất thỏa mãn về bản báo cáo của
Bạch Như, nhưng Huân Thương còn thấy chỗ thiếu sót:
- Người đàn bà ấy sống hay chết? Sống thì
để ở đâu? Chết thì chôn chỗ nào?
Mọi người đều cười, cảm thấy câu nói của
Huân Thương vừa đúng, vừa lý thú.
Bạch Như đỏ mặt:
-
Sống! Nhờ vợ chồng ông già trông coi. Ông bà già rất hiền lành, đối với chị ta
rất tốt.
Kiếm Ba đang định hỏi, thì Bạch Như nói:
- Xin bổ sung hai điểm, bản đồ mà
"Một chòm lông" cướp đi có ghi trên 300 tên người, rất có lợi cho ta,
có thể đó là bộ phận bí mật của quốc dân đảng. Còn tên đạo sĩ già là một phần
tử xấu, miếu Thần Hà là một cứ điểm quan trọng.
Nghe xong, mọi người đều vui mừng khoan
khoái.
Kiếm Ba khen ngợi :
- Báo cáo của cô hôm nay có thể gọi là
tốt. Tường tận mà vắn tắt. Vắn tắt mà tường tận. Về số lượng và chất lượng đều
ưu điểm.
Bạch Như cười, đưa mắt nhìn Kiếm Ba, nàng
hơi đỏ mặt, hai lúm đồng tiền xinh xinh điểm trên hai má.
Kiếm Ba nói:
- Các đồng chí! Mọi việc xung quanh tên
"Một chòm lông", về đại thể, đã rõ. Bản đồ tổ chức bí mật của
"Một chòm lông" sẽ giúp ta rất nhiều trong việc tiễu phỉ. Cả bọn này
trở thành chiến lợi phẩm của chúng ta, trở thành tù binh trong tay chúng ta.
Đôi mắt sáng ngời của anh đầy phấn khởi:
- Các đồng chí! Bây giờ chúng ta hãy đi
vào kế hoạch mới…
HỒI THỨ MƯỜI BA
PHÂN ĐỘI CHIA BA ĐƯỜNG TIẾN VÀ CỨ NHƯ THẾ... NHƯ THẾ...
Có một số tình hình rồi, bây giờ làm thế
nào? Kiếm Ba quyết định tổ chức họp một cuộc hội nghị quân sự dân chủ để nghe ý
kiến của mọi người.
Trong một căn nhà lẻ cách bản độ hơn một
dặm, toàn thể phân đội đề ra ý kiến, thảo luận sôi nổi và tranh luận nhiều vấn
đề. Cũng như không khí tranh luận, ánh đèn trong căn nhà le lói, lúc tỏ lúc mờ.
Loan Siêu Gia và Đổng Trung Tùng thì chủ
trương: phải bắt lão đạo sĩ ở miếu Thần Hà trước, rồi tra xét miếu sau, vì hắn
là một thằng cha đầu mối. Sau khi bắt lão đạo sĩ, đem vợ tên thợ đồ gốm cùng
với lão đạo sĩ và một "Một chòm lông" làm thành ba cái đối án. Lúc ấy
lại đi tra xét miếu, nắm được tình hình xác thực hơn, rồi mới đánh Uy Hổ Sơn.
Tôn Đạt Đắc phản đối ý kiến của Gia và
Tùng. Anh nói : Phải tra xét miếu trước, rồi bắt đạo sĩ sau. Làm như thế chắc
chắn hơn, đúng chính sách hơn. Nếu soát miếu mà không tìm ra cái gì, thì không
bắt lão đạo sĩ nữa, vì nếu bắt cái thằng cha này mà không có bằng chứng gì, thì
nhất định nó không chịu thú nhận, công tác trinh sát của ta như thế sẽ ít giá
trị. Nếu nó chất vấn tại sao chúng ta soát miếu, thì chúng ta không nói ta nghi
ngờ nó mà nói: "Đó là nội quy của bộ đội, kiểm tra hộ khẩu"
Mọi người phá lên cười, Loan Siêu Gia
hỏi:
- Này Đạt Đắc à! Cậu kiểm tra hộ khẩu,
thế thì các ông tượng đất, bọn quỷ sứ, quan tòa ở trong miếu có nằm trong sổ hộ
khẩu không đấy?
Câu hỏi của Siêu Gia làm cho mọi người
càng cười dữ. Tôn Đạt Đắc đỏ mặt tía tai bác lại Siêu Gia:
- Siêu Gia! Mình chưa nói hết. Chúng mình
vẫn trên danh nghĩa là đi tìm "Một chòm lông" cơ mà. Hôm kia chúng
mình chưa tra xét gì đã đi rồi, chắc nó yên trí rằng mình không đến nữa. Bây
giờ đột nhiên chúng mình quay trở lại đánh cho nó một trận bất thình lình không
kịp trở tay, một trận nổi tiếng nữa là khác. Vạn nhất mà không tìm thấy gì,
chúng ta lại phái hai chiến sĩ ăn mặc thường phục đi theo dõi ở một quãng núi
xa, không biết chừng cái bọn kiểu “Một chòm lông" lại đến, lúc đó chúng
mình lại bắt thêm thêm vài ba thằng "Hai chòm lông", "Ba chòm
lông"... thế chẳng hơn à?
Lưu Huân Thương nóng nảy, suýt nữa làm
tắt đèn:
- Như thế đến đời nào mới giải quyết xong
cái món Tọa Sơn Điêu! Tôi nói là tình hình đã đủ lắm rồi, dù sao Tọa Sơn Điêu
cũng không dám rời khỏi núi Uy Hổ. Nhân lúc thằng cha đó còn chưa phát hiện ra
phân đội chúng ta, ta đánh cho nó một trận tập kích bất thình lình, làm một
trận "kỳ tập Nãi Đầu Sơn" nữa. Dù chúng có đến mấy chục cái lô-cốt,
địa hình hiểm trở chỉ đến như Nãi Đầu Sơn là cùng. Ta nắm chắc "Một chòm
lông", bắt nó dẫn đường, có bảo đảm, chẳng việc gì. Đến nơi rồi thì mãnh
đả, nó chạy thì mãnh truy. Sau khi lấy được Uy Hổ Sơn rồi, trở lại thanh toán
nốt tên đạo sĩ mũi trâu này. Tên yêu đạo ngu đần như con gấu chó rụng răng, sớm
muộn rồi cũng đến vào tay ta.
Nhiều đồng chí tán thành ý kiến Lưu Huân Thương, đề nghị cho đánh ngay,
nhằm lúc địch sơ ý, đánh địch lúc không chuẩn bị.
- Dũng khí và quyết tâm của chiến sĩ thực
là có thừa, Kiếm Ba khêu gợi cho mọi người đề xuất nhiều kế hoạch. Anh chăm chú
lắng nghe, thu hút lấy những cái hay trong các ý kiến, dù rằng trong các ý kiến
ấy chỉ có một phần, hoặc một đoạn, thậm chí là một câu có giá trị.
Dương Tử Vinh đang ngồi bên cửa sổ, trầm
ngâm, mắt lim dim, ngậm chiếc điếu dài, thỉnh thoảng cười mỉm bàn góp về ý kiến
mọi người, có lúc thì lại trầm ngâm suy nghĩ, viết đề án của mình.
Huân Thương nắm lấy cánh tay Tử Vinh lắc
lắc, làm cho điếu thuốc Tử Vinh vừa nhồi rơi vãi:
- Tử Vinh! Còn nghiền ngẫm gì đấy? Nghĩ
đến phu nhân phỏng? Ý kiến thế nào đưa ra chứ? Để mãi trong bụng nó sinh con
sinh cái ra đấy!
Mọi người nhìn Dương Tử Vinh cười.
Dương Tử Vinh vẫn thản nhiên cầm chặt
ống điếu và đập đập lên thành cửa sổ. Nhưng vẫn chưa tỏ vẻ muốn phát biểu ý
kiến gì. Anh lần đến ngồi cạnh Kiếm Ba ghé tai nói nhỏ độ một phút. Mọi người
nhìn kỹ anh ta, nhưng không nghe rõ anh ta nói gì, chỉ thấy Kiếm Ba gật gật
đầu. Cuối cùng, nghe thấy Dương Tử Vinh kết thúc một câu:
- Làm thế thì hơi lâu một chút, hơn nữa
có phần mạo hiểm, nhưng chắc chắn có kết quả tốt.
Kiếm Ba phấn khởi:
- Hay lắm! Tôi cũng nghĩ như thế, như vậy
thì nắm chắc được, nhưng...
Kiếm Ba cau mày, do dự, suy nghĩ một lát,
đoạn lắc đầu, hạ thấp giọng:
- Nhưng mà đồng chí Tử Vinh à, phương
pháp này đối với bộ đội trinh sát cũng gay đấy. Chúng mình sẽ nói chuyện sau.
Các đồng chí chưa rõ chuyện thế nào. Kiếm
Ba nhìn đồng hồ, đã mười giờ rưỡi đêm. Anh bắt đầu phát biểu:
- Các đồng chí, không thể bắt lão đạo sĩ
trước, rồi mới lục soát miếu sau, cũng không thể lục soát miếu trước, bắt đạo
sĩ sau. Vì sao? Rất giản đơn, là vì giá trị của lão đạo sĩ đối với việc phá Tọa
Sơn Điêu không lớn lắm. Một là hắn không thể báo cáo tình hình, hai là hắn
không thể dẫn đường. Nhưng hắn lại có một tác dụng lớn khác. Căn cứ tình hình
hiện nay, thì hắn có thể giúp chúng ta làm một cái mồi câu cá, dùng hắn để câu
cho chúng mình các thứ tôm cua cá mà chúng mình đang cần tìm. Cái thằng cha
gian giảo này, nếu chỉ dùng biện pháp thông thường thì không ăn thua, thậm chí
hắn có thể chết cho phản cách mạng. Vì thế bây giờ để cho hắn tạm sống thì có
tác dụng hơn. Tác dụng của nó có thể là từ nay về sau.
Các chiến sĩ ghé tai nói thầm, tiếng xì
xào huyên náo. Ai nấy đều tỏ vẻ vui tươi phấn khởi.
Kiếm Ba nói tiếp:
- Đồng thời cũng không thể đánh liều Tọa
Sơn Điêu. Vì căn cứ vào địa đồ, căn cứ vào lời khai của phỉ, căn cứ vào những
kinh nghiệm của bọn phỉ ở với Tọa Sơn Điêu đã mấy chục năm, có thể đoán chắc
rằng Uy Hổ Sơn hoàn toàn không giống như Nãi Đầu Sơn. Hứa Gậy Gộc chỉ dựa vào
cái hiểm trở của Nãi Đầu Sơn để ngăn ngừa chúng ta, nhưng chính nó đã phải chết
vì chỗ hiểm trở ấy. Chúng ta lợi dụng chỗ hiểm trở của Nãi Đầu Sơn, Tiên Cô
Động để bắt phỉ như bắt cá ngay trong chậu. Khi chúng ta lợi dụng được hiểm trở
thiên nhiên, lấp chặt cửa hang Tiên Cô, bản lĩnh tài giỏi của bọn phỉ cũng phải
xếp xó. Nó không thể độn thổ, cũng không thể xuyên sơn. Vì vậy chúng ta đã bắt
cá từ ngay trong chậu. Đó là điều kiện cơ bản và nguyên nhân của quyết định mạo
hiểm của chúng ta lúc ấy.
Kiếm Ba dừng lại một lát, móc trong túi
ra một chứng từ của “Một chòm lông”. Nhưng anh không nhìn đến cái chứng từ ấy
mà chỉ vê vê ở trong tay.
- Uy Hổ Sơn của Tọa Sơn Điêu, nơi căn cứ
của bọn phỉ lâu đời, xét về các mặt, trận thế của nó giống như một cái hang cua
trong ao bùn. Lũ thổ phỉ có thể tung hoành ngang dọc trong cái ao bùn, rồi cũng
tùy lúc mà chui thụt vào cái hang cua. Hang rất nhiều, xa gần đều có. Chúng
mình nếu không cẩn thận, có thể rơi vào ao bùn, bị chúng cắn chân. Do đó đối
phó với cái hang cua, không thể lại dùng cái phương pháp cũ là bắt cá ở trong
chậu được.
Mọi người cười rộ. Tiếng cười chưa dứt,
bên ngoài có tiếng chân chạy rộn rịp.
Hai chiến sĩ trinh sát hóa trang, đứng
nghiêm trước mặt Kiếm Ba.
- Báo cáo thủ trưởng 203, chúng tôi trinh
sát ở ngọn núi Phật Tháp Mật, bắt được một tên phỉ.
Nói
xong đưa ra một khẩu súng trường và một chiếc đoản dao của thổ phỉ.
Các chiến sĩ tươi cười mừng rỡ:
- Tốt lắm, thằng cha này lại đem mồi đến
đây rồi!
Kiếm Ba hỏi:
- Nó có đặc điểm gì không?
- Thằng cha trông rất thộn. Chúng tôi bắt
được nó, nó cứ hỏi mãi chúng tôi là thuộc bọn nào, vì chúng tôi cũng hóa trang
giống như thổ phỉ, cho nên tôi bây giờ nó vẫn chưa biết chúng tôi là ai.
- Hay lắm!
Kiếm Ba ra lệnh cho các chiến sĩ về nghỉ,
cán bộ thì ở lại, sau ghé vào tai Huân Thương và Siêu Gia nói nhỏ mấy câu.
Siêu Gia gật đầu:
- Đúng, như thế đấy!
Nói xong Siêu Gia đi cùng với Huân Thương
theo sự phân công của Kiếm Ba.
Kiếm Ba quay lại nói nhỏ với Dương Tử
Vinh:
- Ý kiến của đồng chí, chúng mình sẽ suy
nghĩ thêm, để chuẩn bị làm như thế thì hôm nay đồng chí không nên lộ mặt với
tên phỉ này.
Dương Tử Vinh vui vẻ nói:
- Đúng, phải như thế!
Trong một gian nhà nhỏ khác. Huấn Thương
và Siêu Gia sau khi sửa soạn cẩn thận rồi, bày một cái bàn con lên giường, trên
bàn có hũ rượu và bát uống rượu, trong đó có những khúc xương nhai rồi, giống
như một bàn rượu đang ăn dở chưa kịp thu dọn.
Kiếm Ba và Huân Thương đã thay đổi quần
áo thường, cải trang giống như thổ phỉ. Dương Tử Vinh ở giường bên cạnh, nằm
sấp bóng đằng sau lưng Kiếm Ba, không ai nhìn rõ.
Huân Thương dùng một giọng ồ ồ trong cổ
họng:
- Các anh em! Đem cái thằng cha ấy lại đây
cho tôi!
Tiếng Trung Tùng trả lời vừa mạnh, vừa
sắc:
- Có!
Tức thì Đổng Trung Tùng và Cao Ba dẫn
thằng cha to lớn và thộn lại. Hắn vừa bước vào cửa, trợn mắt:
- Ô hay! Cùng bọn cả, chớ hiểu nhầm!
Huân Thương đập bàn quát, bát chén kêu
loảng xoảng:
- Câm mồm!
Dương Tử Vinh nằm trong bóng tối, cố làm
ra vẻ say rượu:
- Giời đất ơi !...
Thằng cha thộn, cổ dài, mặt đen sì, lông
mày còn dính đầy sương trắng, răng vổ chìa ra ngoài miệng, hai lỗ mũi phập
phồng, trông hắn giống như một thằng điên. Chiếc quần bông bị vướng cây rách
mướp. Hắn nhìn Huân Thương đương nổi giận.
Huân Thương quắc mắt hỏi:
- Mày là bọn nào?
Thằng cha thộn đáp.
- Tôi ở Uy Hổ Sơn, thuộc quyền cụ Ba Thôi
Tọa Sơn Điêu. Các anh là thuộc bọn nào? Chỗ anh em cả, đừng hiểu nhầm, cùng ăn
một bát cả, đừng đánh lẫn nhau.
Huân Thương hỏi:
- Đến đây làm gì? Mù đấy à!
- Sắp đến ba mươi tết rồi, là ngày sinh
nhật hàng năm của cụ Ba, tối ba mươi mở tiệc Bách kê yến. Tôi xuống núi bắt gà,
gặp các anh em đây.
Muốn chứng thực lần nữa cái điều "Một
chòm lông" nói xem có đúng hay không, Kiếm Ba hỏi luôn:
- Bách kê yến nào?
Thằng cha thộn nhe răng, những chiếc răng
vổ chìa ra đầy mồm, nói:
- Cái đấy thì ai cũng biết. Một trăm con
gà, lấy ở một trăm nhà, tối ba mươi tháng Chạp, các anh em ở núi mở đại yến
hội, nên gọi là Bách kê yến. Đó là mừng ngày sinh nhật của cụ Ba.
Huân Thương mắng cho hắn một chặp:
- Đồ chết rấp! Tọa Sơn Điêu chúng mày
không biết điều một tí nào hết cả. Chúng mày đã hết chỗ kiếm ăn rồi hay sao mà
lại lần đến địa bàn ông Chín chúng tao để bắt gà?
- Vậy thế các anh là người của ông Cửu
Bưu?
Huân Thương nhanh trí đáp ngay:
- Tọa Sơn Điêu chúng mày có ngày sinh nhật
thì ông Chín chúng tao cũng có ngày sinh nhật. Mẹ kiếp! Đây là địa bàn của
chúng tao, chúng tao cũng có quy củ, phạm vào địa phận chúng tao, chúng tao
đánh chết không có luật pháp gì.
Huân Thương gọi Trung Tùng:
- Anh em đâu!
- Có!
- Bóc mười đầu móng chân của nó ra!
-
Có tôi!
Trung Tùng và Cao Ba lấy dây trói thằng
cha thộn, lôi ra ngoài cửa.
Thằng cha thộn vừa bước đi, vừa kêu van:
- Đừng trói, đừng trói...
Tiếng kêu van ra mãi đến ngoài cũng chưa
dứt....
Dương Tử Vinh ngồi nhỏm dậy. Mọi người
cười ran lên một hồi, và nghiên cứu xem thằng cha thộn có khả năng nào tranh
thủ được không. Kết quả là ai cũng thừa nhận: tranh thủ hắn thì có thể nhờ hắn
dẫn đến Uy Hổ Sơn, nhưng khi đến rồi cũng không phải là dễ đánh, nếu như đợi
đến ba mươi tết mới đánh, thì Tọa Sơn Điêu tất nhiên sẽ đề phòng cẩn mật hơn vì
chưa thấy hắn về. Đồng thời cái bí mật của phân đội trong nửa tháng cũng không
dám nói chắc sẽ không lọt đến Tọa Sơn Điêu. Nếu chỉ tranh thủ hắn để dẫn đường,
có thể làm hỏng các kế hoạch khác. Huống chi lũ phỉ này không dễ gì tranh thủ
như bọn quân quan của quốc dân đảng. Do đó không nên hy vọng ở hắn nhiều. Từ
anh thợ đồ gốm, Điêu Chiếm Nhất đến cả "Một chòm lông" có thể thấy rõ
điểm này. Riêng đối với "Một chòm lông" thì lại càng rõ ràng hơn.
Mình muốn giao hắn cho lão dạo sĩ, hắn sợ chết, mà mình muốn hắn dẫn đến Uy Hổ
Sơn, thì hắn lại tỏ ra vẻ sốt sắng, điều đó chứng tỏ lão đạo sĩ là một tên đầu
sỏ lợi hại. Hắn muốn dẫn mình vào Uy Hổ Sơn, đó chỉ là một thủ doạn lừa dối.
Hắn thấy binh lực của phân đội ta nhỏ,
không phải là đối thủ của Tọa Sơn Điêu, chỉ có vào, không có ra, vạn nhất chúng
ta thành công, tiêu diệt được Tọa Sơn Điêu là hắn có thể trở lại kể công với
chúng ta để bảo vệ lão đạo sĩ.
Sau khi Kiếm Ba khẳng định sự phán đoán
của mình, anh nói với các cán bộ:
- Ta cần suy nghĩ một chút rồi hãy quyết
định. Bây giờ giải tán.
Các cán bộ của phân đội, ai trở về nhà
người nấy.
Trên đường về phân đội bộ, Kiếm Ba bước
đi chầm chậm, thường chỉ khi nào có vấn đề rất quan trọng anh mới đi như thế.
Dương Tử Vinh lần bước theo Kiếm Ba. Anh
biết rõ người thủ trưởng trẻ tuổi hiện đang suy nghĩ vấn đề gì. Anh chưa muốn
đến ngay Kiếm Ba, vì một là sợ đứt luồng tư tưởng của Kiếm Ba, hai là cũng
giống như Kiếm Ba, anh đang suy nghĩ rất lung về đề nghị của mình, và nghĩ về
phương pháp tự mình đi làm cái nhiệm vụ khó khăn đó. Anh biết rằng cái cửa ải
khó qua này chỉ một mình anh đi đánh.
Khi Kiếm Ba về đến phân đội, Cao Ba, Bạch
Như, Lý Hồng Nghĩa đã ngủ cả. Anh ngồi trên mép giường, để nguyên áo dài, mắt
nhìn lên góc tường trước mặt, chiếc đồng hồ trong túi kêu tích tắc. Anh không
hề biết rằng Dương Tử Vinh đang ngồi ngoài cửa. Kiếm Ba suy nghĩ về một vấn đề
mắc míu nhất: Kế hoạch của Dương Tử Vinh vạn nhất có thất bại, chẳng những
nhiệm vụ sau này khó hoàn thành mà vấn đề sinh mệnh của Dương Tử Vinh cũng sẽ
làm cho anh phải đau đớn suốt đời. Vì thế anh do dự mãi.
Sau khi trầm ngâm gật gù vài cái, anh
đứng dậy đi ra ngoài. Vừa đến bực cửa, trông thấy Dương Tử Vinh, anh dừng lại:
- À, đồng chí Tử Vinh chưa đi ngủ à?
- Tôi biết thế nào đồng chí cũng đến tìm
tôi.
- Đúng đấy, tôi đang đi tìm đồng chí, vào
đây ngồi.
Hai người ngồi đối diện với nhau trước cái
bàn con. Dương Tử Vinh hút chiếc điếu ống dài.
Kiếm Ba thân mật hỏi:
- Thế nào? Đồng chí Tử Vinh, phương án của
đồng chí có chắc không?
- Thủ trưởng 203, bất tất phải do dự thế.
Tôi hoàn toàn tin rằng kế hoạch ấy có thể làm được và có kết quả tốt. Tôi đã
suy nghĩ kỹ rồi.
Kiếm Ba gật đầu:
- Đúng là nó có kết quả rất tốt. Nhưng
mà...
Kiếm Ba cau mày, lộ vẻ lo lắng:
- Nếu làm không được, có thể thiệt mình,
lại có thể gây ra bao nhiêu khó khăn, phức tạp lớn hơn, vả lại đồng chí...
Dương Tử Vinh hình như thấy Kiếm Ba có
điều gì ngần ngại:
- Sao vậy, thủ trưởng 203? Tôi đi với đồng
chí đã được một năm rưỡi giời, chẳng lẽ đồng chí lại còn chưa tin tôi hay sao?
Hay là…
Kiếm Ba vội ngắt ngay lời Tử Vinh:
- Không không không! Tôi hoàn toàn không
có ý nghĩ như thế. Tôi hoàn toàn tin tưỏng và kính trọng lòng trung thành đối
với Đảng của đồng chí. Đã cùng với đồng chí xông pha trận mạc, tôi càng khâm
phục tài năng và kinh nghiệm trinh sát trí dũng kiêm toàn của đồng chí, nhưng
trinh sát kiểu như vậy thì đồng chí chưa làm bao giờ. Ngoài việc lo lắng về
nhiệm vụ chung, tôi đặc biệt lo lắng về việc bảo vệ đồng chí.
- Thủ trưởng 203, trận đánh ở Yên Đài cũng
là lần đầu tiên đối với đồng chí.
- Không không! Trận ấy khác, Yên Đài là
rừng người, ẩn vào đâu cũng được, mà Uy Hổ Sơn ngoài thổ phỉ ra chẳng có ai. Ở
Yên Đài, ta lại chưa từng giáp chiến với địch.
- Nhưng điều kiện có lợi ngày nay hơn Yên
Đài rất nhiều. Thứ nhất, chúng ta có "bản đồ bí mật" mà bọn Tọa Sơn
Điêu Sơn thèm khát đã lâu. Thứ hai, tiếng lóng của bọn phỉ tôi tin rằng đã
thạo. Thứ ba, qua một lần luyện tập tôi hoàn toàn có thể trở thành một
"thổ phỉ" khó mà lộ đưọc. Thứ tư...
Dương Tử Vinh dừng lại một lát, đôi mắt
hiện ra vẻ nghiêm trang và kiên quyết, nói tiếp:
- Tôi tin rằng tôi một dạ trung thành với
Đảng với nhân dân.
- Đồng chí cho như thế đã là nắm chắc
thắng lợi rồi sao?
- Vâng, tôi cho như thế.
Thấy Dương Tử Vinh đầy lòng tin tường,
Kiếm Ba thấy cần phải làm rõ vấn đề hơn nữa.
- Bốn điểm ấy chẳng qua chỉ là một thứ vũ
khí để chống đỡ khi vào hang phỉ. Nó chỉ có thể giúp cho đồng chí chui vào bụng
kẻ địch. Mấu chốt vấn đề không phải ở chỗ đó. Mấu chốt là ở chỗ sau khi đồng
chí vào rồi, thì đồng chí tiếp tục công tác như thế nào.
Nghe những lời đó, Dương Tử Vinh nghĩ
bụng: Thủ trưởng quyết không nghi ngờ về hiệu quả kế hoạch ấy. Hiện nay đồng
chí chỉ còn nghi ngại mình có thể hoàn thành nhiệm vụ này không. Đúng rồi, thủ
trưởng hết sức lo lắng về vấn đề mấu chốt này, để tránh khỏi sự thất bại. Nhưng
tại sao hôm nay đồng chí chưa trực tiếp nói thẳng? Có lẽ đồng chí đang suy tính
về những tình hình bất lợi có thể xảy đến. Anh lại nghĩ đến một mặt phức tạp
khác của vấn đề…..
Anh tiếp tục suy nghĩ:
"Lần công tác này không phải là bình
thường. Mình sắp phải xa rời thủ trưởng, xa rời các đồng chí, khi ấy chung
quanh mình có thể không có một lực lượng gì giúp đỡ. Vào trong hang phỉ, mọi
vấn đề đều phải tự mình giải quyết. Thủ trưởng lo lắng là hoàn toàn cần thiết,
đối với vấn đề quan trọng nhất của kế hoạch chiến đấu phải đặc biệt thận trọng,
không thể quyết định một cách qua loa. Lúc này mình chỉ có quyết tâm chưa đủ,
còn phải làm sao nói lên lòng tin tưởng tất thắng của mình mới làm cho thủ
trưởng hết lo lắng mà hạ quyết tâm cuối cùng".
Nghĩ vậy, Dương Tử Vinh ngẩng đầu nói :
- Tôi thừa nhận tôi chưa có kinh nghiệm
và bản lĩnh về việc này, cho nên không thể nói liều. Nhung tôi cho rằng bản
lĩnh gì cũng không thể tự nhiên mà có được. Tục ngữ nói: "Đi một ngày
đàng, học một sàng khôn". Trên đời không có việc gì khó, chỉ sợ không
quyết tâm. Không xuống nước thì cả đời cũng không biết bơi. Không giương buồm
thì cả đời không biết lái thuyền. Cũng như đồng chí thủ trưởng 203, trước kia
đồng chí đã xông pha trăm trận, cho nên đồng chí chỉ huy thiện quân vạn mã dễ
như trở bàn tay, tôi dù thế nào cũng không sánh được. Nhưng mà làm trinh
sát, tôi tin rằng tôi có thể chỉ huy
được mình cũng như điều khiển cái lưỡi của tôi vậy. Tôi biết suy nghĩ, không
đến nỗi ngu đần như lũ thổ phỉ. Xin đồng chí cứ yên trí tin ở tôi, để tôi đi...
Kiếm Ba hình như bị câu nói đầy tin tưởng
của Dương Tử Vinh thuyết phục, anh vui vẻ nói:
- Phải đấy! Nói về trinh sát, tôi thực còn
kém đồng chí xa.
Hai người cùng cười. Dương Tử Vinh nói
bằng một giọng tha thiết:
- Thế nào? Quyết định chứ?
Kiếm Ba vỗ tay xuống bàn :
- Được, quyết định !
- Xin cảm ơn lòng tín nhiệm của đồng chí
thủ trưởng 203.
- Đồng chí Dương Tử Vinh, tôi cũng cảm ơn
lòng trung thành và gan dạ của đồng chí đối với Đảng.
Tối hôm nay, các cán bộ của phân đội tụ
tập trong phòng Kiếm Ba, xúm quanh tấm bản đồ đặt trên bàn.
Kiếm Ba hạ thấp giọng, bắt đầu nói:
- Căn cứ tình hình hiện nay, phân đội ta
tất phải chia làm ba đường: Đường thứ nhất, tôi và Huân Thương dẫn toàn thể
phân đội, cứ như thế, như thế... tất nhiên đường thứ nhất của chúng tôi tương
đối yên tĩnh hơn.
Đường thứ hai, Dương Tử Vinh một mình một
ngựa, để hoàn thành một nhiệm vụ đặc biệt, muốn hoàn thành nhiệm vụ này, tất
phải như thế... như thế...
Đường thứ ba, Siêu Gia cũng một mình một
ngựa để chuyên môn đối phó với kẻ địch. Hoàn thành nhiệm vụ này, phải như
thế... như thế...
Còn thằng cha thộn này, chúng ta không hy
vọng gì lắm, nhưng chúng ta phải lợi dụng nó một chút. Cho nên tối nay, đối với
thằng cha này phải làm như thế... như thế... Nhiệm vụ này do Cao Ba, Lý Hồng
Hghĩa phụ trách tiến hành.
Với nhiệm vụ nặng nề trên vai, mọi người
giải tán ra về. Điều lo lắng nhất của Kiếm Ba vẫn là nhiệm vụ đặc biệt của
Dương Tử Vinh. Nếu làm không được, thì mọi việc sẽ hỏng cả. Vì thế đêm đã
khuya, anh vẫn tìm Tử Vinh đến, trao đổi về kế hoạch cụ thể. Cuối cùng, Kiếm Ba
nắm chặt tay Tử Vinh, nói đi nói lại cái câu anh đã nói không biết mấy lần hoặc
không biết mấy mươi lần.
- Đồng chí Tử Vinh, tôi hoàn toàn tin
tưởng ở trí tuệ và lòng gan dạ của đồng chí. Nhưng tôi còn lo lắng về kinh
nghiệm của đồng chí đối với công tác này. Cho nên phải nắm vững thời gian ba
ngày trước mắt, luyện tập đi luyện tập lại, học tập đi học tập lại. Hiện nay
đồng chí không phải là đồng chí Tử Vinh mà phải là tên phỉ Hồ Bưu từ đầu đến
chân.
Tuy đó là câu nói đùa, nhưng Dương Tử Vinh
vẫn không cười, anh cảm thấy câu nói ấy của Kiếm Ba nghiêm trang biết chừng
nào.
Kiếm Ba tươi cười:
- Nhớ nhé! Thời cơ! Thời cơ tốt nhất là
bách kê yến tối ba mươi tết. Thận trọng, giữ gìn, gan dạ! Hoạt động của chúng
tôi làm cho đồng chí không bị cô lập.
- Đồng chí Kiếm Ba, đồng chí tin ở tôi có thể
hoàn thành được nhiệm vụ của Đảng. Tôi luôn luôn nhớ lời dạy của Đảng và tấm
gương sáng của đồng chí.
Cặp mắt của hai người long lanh, ươn ướt.
Vì nắm tay đã lâu nên bàn tay của hai người thấm đẫm mồ hôi, không phân biệt
được của ai….
*
* *
Đêm đã khuya. Hai người chia tay.
Trời đầy sao. Gió lạnh ngắt.
Thằng cha thộn bị giam ở trong một gian
nhà đổ ở một bản bên kia núi. Nơi đây đã mấy năm không người qua lại. Lý Hồng
Nghĩa đeo chiếc kiếm ngắn kiểu Nhật đứng gác bên cạnh thằng cha thộn. Chiếc
kiếm sáng loáng dưới ánh sáng của cây nến nhựa thông ; thằng cha thộn nằm cuộn
tròn trên giường cỏ, hai mắt sợ hãi nhìn chiếc kiếm ngắn.
Lý Hồng Nghĩa vung kiếm, dí vào cổ hắn :
- Nhìn cái gì? Có thấy không, kiếm này
ngọt lắm, sật một nhát ngon ơ!
Thằng cha thộn sợ hết vía, lắp bắp xin tha
chết, cổ rụt lại.
Cao Ba cũng không cầm súng, cố ý làm ra vẻ
ngủ gật, càu nhàu:
- Mẹ kiếp, chán như cơm nếp nát. Tết nhất
đến nơi rồi, lại gặp cái thằng quỷ sứ này chẳng ra sao, mau thanh toán cho xong
nợ.
Cao Ba đứng dậy giật chiếc kiếm ngắn
trong tay Lý Hồng Nghĩa, bổ đứt đôi khúc gỗ to sù trước mặt. Thằng cha thộn
nhìn lưỡi dao sáng loáng, lạnh toát cả người, cổ rụt vào trong áo.
Lý Hồng Nghĩa giằng lưỡi kiếm, cứa đứt
từng đoạn dây trói trên người thằng cha thộn, rơi xuống giường.
- Dao sắc thật!
Cao Ba giật mình kêu:
- Cậu! Cậu mê à? Cậu chặt đứt dây trói,
nó chạy thì làm thế nào? Trách nhiệm ai chịu?
Lý
Hồng Nghĩa vẫn thản nhiên:
- Hừ! Sợ quái gì! Mỗ gia đã làm thế nhiều
rồi, không đứa nào dám chạy. Cứ yên trí, không cần gì cả.
Thằng cha thộn được cởi trói, sung sướng
ngắm nghía hai người trước mặt hắn. Hai người so với hắn thì còn thấp hơn một
đầu, so cánh tay thì giống như các cành cây với các thân cây. Hắn nghĩ nếu đánh
nhau tay không, hai tay oắt này mà đọ với hắn thì không mùi mẽ gì. Dù sao cũng
chết, mẹ kiếp, mình chạy thì nó cũng không thể đuổi kịp mà giết mình. Chạy về
báo cáo cụ Ba Thôi đến báo thù, có mấy con khỉ ở trên núi Ông Chín, còn đòi bắt
mình phải nộp tiền mãi lộ. Nghĩ rồi, hắn chống tay xuống đất, nghển lên, giường
kêu lắc rắc.
Lý Hồng Nghĩa quát một tiếng, chìa lưỡi
kiếm vào trước ngực hắn:
- Nói thật đi! Không nói thật tao cắt cổ!
Thằng cha thộn rụt cổ lại như con dím.
Giữa lúc ấy bỗng có tiếng Huân Thương kêu to truyền từ bên ngoài vào:
- Bắt lấy! Bắt lấy! Đừng để nó chạy!
Tiếng chân huỳnh huỵch chạy qua cửa.
Cao Ba, Lý Hồng Nghĩa co cẳng chạy ra
ngoài, vừa chạy vừa kêu:
- Bắt lấy! Bắt lấy!
Thằng cha thộn nghe tiếng kêu đã xa, lòng
rất nhẹ nhõm. Hắn nghĩ bụng: Ranh con, bọn bay làm cái gì thế, ông chạy đây,
rồi hắn chạy như bay ra ngoài. Khi Cao Ba, Hồng Nghĩa nhìn rõ thấy hắn chạy ra
ngoài cửa, liền quay lại, và kêu to:
- Lại một tên nữa chạy rồi, đuổi mau! Đuổi
mau!
Nghe tiếng kêu đuổi, thằng cha thộn chạy
càng nhanh, trong nháy mắt đã chui vào trong rừng rậm phía tây nam. Hắn quay
lại nghe thấy tiếng đuổi bắt, liền cười một cách đắc ý:
- Ông ở đây cơ mà!
Rồi chạy biến vào trong rừng.
Vết chân của hắn còn in hằn trên mặt
tuyết…..
HỒI THỨ MƯỜI BỐN - THÔN GIÁP BÌ, XE CHỊ, XE
EM...
Một đêm không trăng.
Phân đội lần theo đường sắt đi mãi vào
rừng sâu tìm đến một thôn trên núi. Thôn này hết sức quan trọng đối với kế
hoạch hành động của phân đội.
Trong đội ngũ, ngày hôm nay không thấy
Dương Tử Vinh và Loan Siêu Gia, cũng không thấy con ngựa, bắt được của Hứa Gậy
Gộc
Trời sáng thì đến thôn Giáp Bì. Một vài
bóng người lạnh lẽo trên phố, nhác thấy phân đội đằng xa đã sợ hãi chạy về nhà,
đóng sập cửa lại. Không có một người nào ra cửa nhìn.
Phân đội vào trong thôn thấy mọi nhà đều
đóng cửa, không thấy bếp nhà ai có khói, chỉ có hai căn nhà mở cửa, một là miếu
Sơn Thần ở giữa thôn, hai là một nhà ga bỏ không từ mấy năm nay. Trong thôn
không có chút sinh khí nào, họa chăng có tiếng khóc của trẻ con và tiếng gió
đập vào cửa nhà ga kêu lách cách.
Kiếm Ba ra lệnh:
- Đi tìm nhà ở.
Khi các chiến sĩ đến gọi cửa các nhà, thì
chỉ nghe thấy trong nhà có những tiếng thở hổn hển như kinh hãi.
Bước vào nhà, ngưòi già và phụ nữ nét mặt
sợ hãi và đau khổ, da xanh nhợt như mặt tường, thanh niên thì khoanh tay trước
ngực và nhìn một cách hằn học.
Kiếm Ba và Cao Ba vào một nhà ở giữa thôn.
Cao Ba ôn hòa, thân thiết nói vói nhà chủ:
- Cụ ơi, cho chúng cháu ở nhờ nhà cụ nhé.
Người chủ còn trẻ tuổi rất lạnh nhạt:
- Tùy ý, thế nào cũng được.
Cao Ba tươi cười:
- Chúng cháu nghỉ ở đâu ạ? Chúng cháu sẽ
tự dọn dẹp lấy.
Người chủ nhà nét mặt vẫn không thay đổi:
- Tùy ý, thế nào cũng được !
Cao Ba thấy tình hình như thế bèn rút lui
và đi tìm nhà khác. Nhưng mà một nhà, hai nhà, ba nhà, năm nhà... đều như thế
cả. Sau cùng vào một nhà, trong nhà có hai ông bà già, một người đàn bà đứng
tuổi, một cô gái còn trẻ và một người đàn ông to lớn chừng bốn mươi tuổi đứng ở
giữa nhà. Cao Ba, Kiếm Ba, Bạch Như cùng vào. Người đàn ông to lớn ấy không nói
một lời, trừng mắt nhìn một cách căm tức. Hai ông bà già thì ôn hòa hơn, nhưng
vẻ mặt rất sợ hãi. Kiếm Ba thấy vẻ mặt giận dữ của người đàn ông, anh chỉ chào
hỏi qua, rồi trở ra, suy nghĩ tìm cách khác để trú quân. Ra khỏi nhà anh còn
nghe thấy tiếng ông già run run bảo con:
- Con ạ, liệu mà nói năng, không trêu
người ta được đâu! Đừng gây sự làm gì!
Người đàn ông trả lời một cách thô lỗ:
- Sợ cóc gì nó! Đòi tiền thì không có,
đòi lương thực thì chúng nó cướp sạch rồi, muốn giết thì giết đi!
Ông già vội ngăn lại:
- Đừng nói thế! Đừng nói thế! Xem chừng
không phải người của Tọa Sơn Điêu, hình như quân chính quy thì phải.
Người đàn ông càng giận dữ giậm chân xuống
đất:
- Chính quy gì? Đồ chó đểu! Nay là binh,
mai là phỉ. Nay là phỉ, mai là binh! Đều cùng một giuộc cả!
- Con! Mày điên à? Đùng có cứng đầu cứng
cổ! Cứng cũng không bằng cái búng tay của họ đâu!
- Mẹ chúng nó, đồ khốn nạn! Đằng nào cũng
chỉ một chết mà thôi.
Kiếm Ba nghe tiếng chửi mỗi lúc một to,
hình như người đàn ông cố ý khiêu khích mình vậy. Đến khi nghe các chiến sĩ về
báo cáo tình hình các nơi đều như thế, Kiếm Ba càng suy nghĩ: thôn này là một
thôn công nhân đường sắt lâm nghiệp, anh đặt rất nhiều hy vọng ở thôn này. Nay
đứng trước thái độ lạnh nhạt của nhân dân, kế hoạch của anh gặp khó khăn lớn.
Nhưng đứng trước tinh thần quật cường này của thanh niên và hành động nhất trí
của toàn thôn, anh rất cảm phục. Anh triệu tập toàn phân đội giải thích:
- Các đồng chí, thấy chưa, thấy chưa?
Quần chúng chưa biết chúng ta la ai. Họ chưa hiểu quân đội nhân dân. Họ căm thù
chúng ta cũng như căm thù quốc dân đảng và Tọa Sơn Điêu vậy. Chúng ta đến đây
để tiễu phỉ, mà quần chúng thì coi chúng ta như là thổ phỉ vậy. Thật là oan ức!
Mọi ngưòi đều cười. Kiếm Ba nói tiếp:
- Vấn đề mấu chốt hiện nay là phải làm
cho quần chúng hiểu rõ chúng ta. Chúng ta phải lấy hành động thực tế để cảm hóa
quần chúng, nâng cao lòng giác ngộ của quần chúng. Tôi ra lệnh: Không ở nhà
nhân dân, toàn thể đến ở tại nhà ga và trụ sở công ty lâm nghiệp Mãn Châu, tự
lên núi lấy cỏ về mà nằm, lấy củi về thổi cơm và bắt đầu ngay việc tuyên
truyền. Chúng ta là quân đội nhân dân. Không phát động được quần chúng thì
không thể tiến hành được kế hoạch của chúng ta.
Tuân lệnh Kiếm Ba, các chiến sĩ bắt tay
ngay vào công tác quần chúng.
Giáp Bì vốn là một thôn làm gỗ ở đầu con
đường sắt khai thác lâm nghiệp, ở đây gỗ xếp thành núi chờ để chở về xuôi. Mùa
hạ thì chuyển bằng con đường sắt nhỏ. Mùa nước thì chở đến miếu Thần Hà, rồi
đóng thành bè chở về Mẫu Đơn Giang.
Toàn thôn có 500 nhà, toàn là công nhân
đường sắt. Khi Nhật Bản đầu hàng, công nhân ở đây cướp được súng Nhật, tiêu
diệt đội kiểm lâm của địch, rồi tự võ trang bảo vệ tài sản quốc gia, bảo vệ nhà
cửa của mình.
Không
may, bọn phỉ Tọa Sơn Điêu khi bị quân ta đánh tan đã chạy về dây. Tên phỉ già
này dùng trăm phương nghìn kế để mua chuộc đội ngũ công nhân, nhưng công nhân
cự tuyệt. Tên phỉ già sợ công nhân tiêu diệt bọn chúng như đã tiêu diệt bọn
kiểm lâm, nên nó dùng võ trang trấn áp công nhân và cướp súng của họ. Bao nhiêu
tài sản do mồ hôi nước mắt của nhân dân kiếm ra được như nhân sâm, nhung hươu,
lông da cho dến cả chăn màn quần áo, đồ nữ trang đều bị cướp đi hết.
Hiện nay Chính phủ vẫn chưa phái người
tới tổ chức lại việc khai thác lâm nghiệp, súng lại bị Tọa Sơn Điêu cướp mất
rồi, không đi săn được, nên nhân dân đã dần dần cơm không có ăn, áo không có
mặc, hàng ngày chỉ biết đi hái ít rau, ít nấm về ăn, nên mặt mũi xanh xao vàng
vọt. Còn quần áo thì thật thê thảm. Thời kỳ Mãn may được ít quần áo vải thô thì
nay đã rách tơi tả như giấy phất hồ gặp phải trời mưa. Có người lấy bao
xi-măng, có người lấy bao gai làm áo, chắp chắp, vá vá. Có nhà bốn, năm người
chỉ có một cái quần, ai đi đâu thì mặc, còn người ở nhà thì dùng một manh chiếu
cói. Chăn, nệm trên giường thì toàn bện bằng cỏ ô-la. Kiếm Ba và phân đội hiểu
rõ hoàn cảnh ấy của nhân dân, càng thêm xúc động tình giai cấp, xót xa nỗi khổ
của nhân dân, có người rơi nước mắt.
Đêm nay, bốn bề im lặng như chết. Dưới
ngọn đèn mờ trong một căn nhà nhỏ hẹp, Kiếm Ba đi đi lại suy nghĩ.
Suốt ngày hôm nay, anh cùng anh em chiến
sĩ đi chặt củi, cắt cỏ và tới các gia đình tuyên truyền thăm hỏi. Anh đã đem
hai bộ quần áo lót và sơ-mi cho quần chúng. Hiện nay anh chỉ mặc trần chiếc áo
bông. Một số quần áo của Bạch Như cũng đem cho cô gái trẻ tuổi ở nhà người đàn
ông to lớn đêm qua. Anh em chiến sĩ noi gương Kiếm Ba cũng đem sơ-mi của mình
cho quần chúng. Làm như thế họ cảm thấy như trút đi được ít nào băn khoăn. Kiếm
Ba đi đi, lại lại, trong lòng sầu muộn: Không quan tâm đến nỗi khổ của quần
chúng là một tội lớn. Nhưng ở đây lương thực chẳng có, quần áo cũng không. Chỉ
có súng và lựu đạn, làm thế nào giải quyết ngay nạn đói rét của quần chúng bây
giờ? Mình là một đảng viên, là người tiêu biểu của Đảng ở đây, quần chúng trong
tình cảnh thế này mà ngồi yên được hay sao? Nhưng làm thế nào được?...
Mười giờ rưỡi đêm rồi. Cao Ba bưng chậu
nước rửa chân vào. Bạch Như cũng giục Kiếm Ba đi rửa chân, nhưng anh vẫn ngồi
im, không nghe thấy gì và cũng không nhìn lại. Mãi đến lúc Bạch Như ngồi xuống
cởi cho anh, anh mới giật mình.
- Làm gì đấy?
Bạch Như vẫn tiếp tục cởi giày:
- Anh vẫn chưa đi rửa chân!
- Thôi, thôi, thôi! Bây giờ hơi đâu mà
nghĩ đến những việc như thế! Chỉ rắc rối! Thôi!
- Rửa chân thì có gì hại đến việc suy
nghĩ của anh? Phiền cái gì ?
Kiếm Ba đứng phắt dậy:
- Đi, đi, đi! Đừng làm phiền tôi!
Anh
đi đi lại lại, chân kéo lê sợi dây giày mà Bạch Như đang cởi dở.
Bạch Như nhìn theo anh nói:
- Đó là trách nhiệm của tôi!
- Cô chỉ có trách nhiệm nhắc nhở, chứ
không có quyền bao biện.
- Đối với người không làm theo kỷ luật vệ
sinh, tôi phải bao biện.
- Thôi đi đi, không phải là lúc tranh
luận! Quần chúng chết đói, chết rét đến nơi, chưa giải quyết được vấn đề, còn
đi nghĩ cho mình những chuyện nhỏ nhặt này hay sao?
- Không phải chuyện nhỏ nhặt. Hành quân
trên tuyết xong, phải kiểm tra xem có ai bị sây sứt chân, hay có chỗ sưng lên
vì rét, đó là trách nhiệm của chiến sĩ vệ sinh.
Kiếm Ba càng sốt ruột:
- Còn nói mãi? Tôi ra lệnh: Nghiêm! Đằng
sau quay! Xuống thăm anh em chiến sĩ. Kiểm tra xem mọi người đã rửa chân chưa?
Có sưng đau ở đâu không? Đều, bước!
Bạch Như vừa đi, vừa quay đầu lại cãi:
- Tôi đã kiểm tra rồi.
- Kiểm tra lại lần nữa. Trong một giờ đồng
hồ không cho phép quay trở lại đây.
Bạch Như bĩu môi lẩm bẩm:
- Nếu mọi người như anh cả, thì chiến sĩ
vệ sinh này đến chịu. Hừ! Đặt ra chế độ mà lại không tuân theo chế độ!
Ngoảnh đầu lại, thấy Cao Ba đi sau nhìn
nàng cười, Bạch Như bảo:
- Cậu Ba bao biện cũng được, cậu cứ giục
anh ấy rửa, rửa xong, cho anh ấy ít mì.
Cao Ba cười gật đầu.
Kiếm Ba tiếp tục suy nghĩ, anh chợt nhớ
tới mấy câu ca của nhân dân miền núi:
Đầy rừng hổ báo hươu nai,
Ô-la cỏ mọc tốt tươi quanh nhà.
Nhân sâm đem uống thay trà,
Da điêu nhan nhản như là cỏ rơm.
Kiếm Ba bỗng phát hiện cách giải quyết
vấn đề: Phải tổ chức đi săn ngay. Vừa tạm thời giải quyết nạn đói cho nhân dân,
vừa phù hợp với kế hoạch của ta là khoa trương thanh thế ở vùng này. Giáp Bì
lại còn nhiều gỗ xếp lên như núi, đó là thứ mà thành thị, nông thôn và quân sự
đang cần. Chỉ cần lao động là có ăn, có mặc. Ta nắm được quần chúng thôn Giáp
Bì, Tọa Sơn Điêu có bay đằng giời.
Anh lập tức gọi to:
- Cao Ba, Hồng Nghĩa! Lại đây, lại đây!
Cao Ba bưng bát mì cùng với Lý Hồng Nghĩa
vào. Kiếm Ba tươi cười nhìn Cao Ba nói:
- Đúng rồi, làm như thế!
Cao Ba nghe nói:"Làm như thế"
tưởng rằng Kiếm Ba muốn ăn mì, vừa cười vừa bưng lại:
- Vừa may, vừa mới hâm xong, còn nóng
nguyên !
Kiếm Ba xua tay:
-
Hừ, món này chưa vội, các đồng chí hãy mau đi tìm hai người lái xe và mấy người
công nhân xe lửa. Chú ý tìm những công nhân cốt cán, đừng vớ phải bọn ngụy đấy.
Mời cho được mấy ngưòi tôi nói ban ngày là Trương Đại Sơn. Lý Dũng Kỳ, Mã Thiên
Vũ.
Cao Ba, Lý Hồng Nghĩa trả lời:
"Có!" Rồi chạy đi. Kiếm Ba đốt thêm ngọn nến nhựa thông. Gian nhà
cũng như lòng anh bừng sáng. Anh cầm bút viết thư.
Anh đang viết thì Bạch Như về, thấy anh
ngồi viết, mì vẫn chưa ăn, mà chân vẫn chưa rửa. Cao Ba và Hồng Nghĩa chắc cũng
bị coi là đến làm phiền và bị anh ấy đuổi đi rồi chăng? Từ trận Nãi Đầu Sơn,
Bạch Như ngày càng quan tâm đến Kiếm Ba, giờ đây nàng xót xa như cảm thấy chân
Kiếm Ba đang đau, bụng Kiếm Ba đang đói. Nàng bụng bảo dạ: Ta cứ đến làm nhiệm
vụ của ta!
- Báo cáo thủ trưởng 203! Đã kiểm tra lần
thứ hai. Mọi người đã rửa chân, ăn no, mặc ấm. Có năm người sưng chân nhẹ. Hiện
nay đã tắt đèn đi ngủ.
- Được.
Kiếm Ba vẫn không ngẩng đầu lên, tiếp tục
viết. Bạch Như sợ làm phiền anh không dám nói nữa, chỉ đứng nhìn. Tiếng ngòi
bút sột soạt trên giấy hòa lẫn tiếng hơi thở đều đều của hai người...Cuối trang
giấy, ngòi bút của anh như bay, ký tên trên thư một chữ giống như con chim bồ
câu bay. Tim Bạch Như hồi hộp. Các đồng chí xưa nay vẫn gọi nàng là "Bồ
Câu Trắng". Tại sao chữ ký của anh lại giống như chim bồ câu, khi còn chị
Cúc, anh không ký như thế bao giờ...
Kiếm Ba tươi cười gấp thư lại, nói một
mình:
- Kế hoạch rất đúng!
Bạch Như nói:
- Tôi nói được chứ?
Kiếm Ba mỉm cười nhìn nàng:
- Được rồi.
- Không mắng là rắc rối nữa chứ?
- Mỗi lúc một khác, bây giờ thì được.
Bạch Như làm vẻ bực mình:
- Hôm nay chỉ có một phần tử lạc hậu về
vệ sinh. Một là không rửa chân, hai là mì nóng không ăn, ba là vệ sinh viên
nhắc nhỏ không tiếp thu, bốn là...
- Thôi được, thôi được! Đừng nói cạnh nữa!
Người ấy là tôi, tôi thừa nhận, xin tiếp thu.
- Đã biết mà lại cứ làm là khuyết điểm.
- Nhưng cô phải biết hoàn cảnh...
-
Đừng đổ cho khách quan nữa!
- Cô cũng máy móc lắm!
- Chế độ mà lại bảo là máy móc? Ai cũng
linh động thì còn gì là chế độ nữa?
- Được rồi, tôi xin sửa chữa ngay.
Hai người cùng phì cười nhìn nhau. Kiếm
Ba cởi giày đi rửa chân.
Bạch Như thay chậu nước, rồi đứng tựa vào
khung cửa nhìn Kiếm Ba đi rửa chân. Để phá tan không khí im lặng, Kiếm Ba hỏi:
- Bạch Như, hình như tôi chưa ăn cơm?
- Dứt khoát là chưa ăn. Còn hình như gì
nữa? Bảo anh ăn thì anh bảo là làm rắc rối! Cậu Ba, cậu Nghĩa giục anh, anh
cũng đuổi đi.
- Đâu phải thế! Tôi phái họ đi công tác.
Bây giờ cho ăn vậy.
Nói xong Kiếm Ba định cầm lấy bát mì.
Bạch Như giằng lấy:
- Nguội rồi, để tôi hâm lại.
Nói xong nàng bưng bát mì chạy đi.
Kiếm Ba gọi lại:
- Thong thả, mấy người ăn đấy?
- Chúng tôi ăn cả rồi, chỉ còn mình anh.
- Không! Cho bốn, năm người ăn đấy!
- Tại sao?
- Có khách! Mau lên! Nếu không đủ làm
thêm.
Bạch Như cầm thêm bao mì khô chạy đi….
Bọn Cao Ba, Lý Hồng Nghĩa bước vào, theo
sau là ba người đứng tuổi, ăn mặc lam lũ, tay chân rét run cầm cập, đi sau là
Lưu Huân Thương, Đổng Trung Tùng và Tôn Đạt Đắc.
Kiếm Ba vội vàng lấy ba chiếc áo bông to
đưa cho ba người, rồi kéo họ ngồi lên trên giường ấm.
Trong ba người, một người là Trương Đại
Sơn, lái xe, hai người kia là Lý Dũng Kỳ, Mã Thiên Vũ, công nhân bốc vác. Lý
Dũng Kỳ chính là người to lớn chửi đổng sáng nay. Cả ba đều là những người tỏ
vẻ bực tức nhất khi thấy bộ đội vào thôn, xem chừng đây chính là những người
thẳng tính bạo ăn, bạo nói ở trong thôn.
Sau một hôm bộ đội tuyên truyền thăm hỏi
nhân dân và giúp đỡ quần áo, lương thực, ba người này lại là những người xúc
động nhất và chảy nước mắt trước nhất.
Ăn mì xong, Kiếm Ba đưa vấn đề ra bàn:
- Các đồng chí công nhân! Thật là không
phải! Đây là một nơi chúng tôi chưa từng tới. Các đồng chí đau khổ, chúng tôi
không được biết. Hiện nay dân thôn đói rét, chúng tôi phải tìm cách giúp đỡ.
Chúng ta cùng bàn với nhau làm thế nào có lương thực, có quần áo, làm thế nào
bảo vệ được tính mạng quần chúng?
Ba người cùng hỏi:
- Liệu có thể làm được không?
- Được. Chỉ cần chúng ta cùng nhau ra sức.
Lý Dũng Kỳ tranh nói trước:
- Chỉ cần biết làm như thế nào? Chúng tôi
sẵn sàng ra sức. Công nhân, ngoài sức ra, thì không có cái gì khác!
Kiếm Ba muốn xua đuổi tâm lý tuyệt vọng
của mọi người từ một năm nay, nhấn mạnh rằng:
- Đảng và Chính phủ, một khi đã biết chúng
ta khổ sở, nhất định sẽ giúp chúng ta giải quyết.
Trương Đại Sơn đang vui vẻ bỗng nhiên trầm
ngâm và thở dài:
- Có cái ăn nhưng không có tiền, cũng tội.
Kiếm Ba xua tay:
- Đừng sợ, núi Ông Già là tiền đấy, chỉ
cần chúng ta lao động là được. Đồng chí Đại Sơn này, nhân dân ta có câu ca
rằng:
"Tàu ta rúc vang,
Là vàng muôn lạng.
Tàu ta chuyển bánh,
Là gánh áo cơm".
Dũng Kỳ cau mày:
- Thưa thủ trưởng, đó là lúc thái bình.
Ngày nay khác rồi. Nhân dân bây giờ ca rằng:
"Tàu ta rúc vang,
Thổ phỉ về làng.
Dân ta khốn khổ,
Giặc Tưởng giàu sang".
Lưu Huân Thương rắn rỏi nói:
- Không sợ, chúng ta có bộ đội sẽ tiêu
diệt hết bọn chó má ấy.
Lý Dũng Kỳ tỏ vẻ lo ngại:
-
Nhưng khi bộ đội đi rồi thì thêm khổ, vì chúng tôi không có súng.
Nói xong anh kể lại chuyện Tọa Sơn Điêu
về thôn cướp phá và càng tỏ vẻ thất vọng. Anh nói thêm rằng chính vì mọi người
không một lòng, nên bị Tọa Sơn Điêu lừa dối.
Kiếm Ba gật đầu:
- Nếu ngày nay có súng, thì mọi người có
một lòng không?
- Còn nói gì nữa! Chịu lép một lần thôi
chứ. Ngày xưa Tọa Sơn Điêu, khi còn làm lữ trưởng có bảy, tám nghìn quân, nên
chúng tôi không chống nổi. Ngày nay chỉ còn có 200 tên khốn kiếp ấy, nếu có
súng, thì mỗi người trong thôn Giáp Bì
cũng đánh nổi hai, ba đứa.
Trương Đại Sơn thở dài:
- Chúng tôi tưởng chúng nó cũng là người
Trung Quốc thế nào cũng hơn giặc Nhật, nên đến nỗi mắc lừa chúng nó, kêu giời,
giời không biết, kêu đất, đất không hay.
Kiếm Ba nắm tay lại nói:
- Ngày nay thì Đảng đã "biết".
Giải phóng quân đã “hay”.
Lý Dũng Kỳ với giọng căm giận nói:
- Mẹ nó, đằng nào cùng chết, thà liều
chết với nó, còn hơn sống mà chết đói, chết rét. Ngày xưa, Lý Dũng Kỳ này cầm
súng, đã từng bắn chết chín giặc Nhật, và giết không biết bao dã thú ở trên
đỉnh núi Ông Già! Giá mà ngày nay có súng thì quyết liều chết với chúng nó một
phen.
Kiếm Ba vui vẻ:
- Tốt lắm. Vấn đề bây giờ là trước hết làm
cho nhân dân no bụng cái đã.
Cả ba người cùng nói:
- Đúng rồi. No bụng thì làm gì cũng được.
Kiếm Ba hỏi:
- Đồng chí Trương Đại Sơn! Liệu xe có
chạy được không?
- Được, hai xe, một xe 24 tấn, một xe 18
tấn. Chỉ châm tí lửa là chạy được, không phải sửa chữa gì. Khi Nhật Bản đầu
hàng, chúng tôi đem giấu một nơi, đổi nhau coi giữ, không sứt mẻ tí nào.
- Thế thì tốt lắm. Chỉ ngại tuyết to quá…
- Không sợ. Chúng tôi có một xe gạt
tuyết, tuyết to cũng không sợ.
Kiếm Ba thấy đã giải quyết được vấn đề xe,
anh vui sướng quay lại hỏi Lý Dũng Kỳ:
- Đồng chí Lý Dũng Kỳ, xếp một xe gỗ hết
bao nhiêu thời giờ?
Lý Dũng Kỳ và Mã Thiên Vũ nhìn nhau tính
toán:
- Chiếc 24 tấn kéo được mười toa...độ
chừng hai ngày.
- Nếu anh em bộ đội giúp đỡ thì sao?
Mã Thiên Vũ lắc đầu:
- Không được, đồng chí ạ. Phải khỏe và
quen mới được. Anh đưa mắt nhìn Bạch Như đương đứng nghe, lúc ấy Bạch Như mặc
quần áo bộ đội lại đứng sau Huân Thương, nên không biết nàng là phụ nữ, anh nói
tiếp:
- Như đồng chí đứng kia kìa, nhẹ như chim
thì chưa nói là khuân vác gỗ, mà ngay mang cái gậy cũng chưa chắc đã vác nổi!
Mọi người cười ồ lên. Huân Thương vỗ vai
Bạch Như:
- Các đồng chí xem, ngựa cái không ra trận
được hay sao?
- Anh cút đi!
Bạch Như bĩu môi và ẩy Huân Thương một
cái. Nghe tiếng của Bạch Như, Mã Thiên Vũ mới biết nàng là con gái, biết mình
lỡ lời, nên có vẻ ngượng.
Đạt Đắc, Huân Thương cũng không chịu kém:
- Chúng tôi đều là công nhân cả đây. Vác
súng thì là binh, bỏ súng là công. Hiện nay nhân dân đói rét, làm được càng sớm
càng hay. Chúng tôi nhất định cùng làm với nhân dân.
Kiếm Ba cười bảo Mã Thiên Vũ:
- Các đồng chí cử hai người đến chỉ huy,
chúng tôi xin đi tập sự.
- Được lắm! Thế thì tất cả đều làm. Đồng
chí thủ trưởng! Xin đồng chí ra lệnh bao giờ bắt đầu.
- Đêm nay được không?
- Được. Chúng tôi xin về làm ngay.
- Chắc chắn chứ?
- Chắc chắn. Chúng ta có sức, chúng ta có
người, chúng ta có hai bàn tay làm chủ, việc gì mà không chắc chắn.
Bọn Huân Thương quay ra:
- Thôi! Anh về dẫn bộ đội đi!
Ba người bắt tay Kiếm Ba ra về.
Một lát sau, đuốc sáng trưng thôn Giáp
Bì. Dô ta, hò dô ta! Trong tiếng hò vang có tiếng của đàn ông, có tiếng của phụ nữ, có tiếng của người già, có
tiếng của trẻ con.
Trời sáng, hai đoàn xe dài đã xình xịch đỗ
tại trước ga. Anh em chiến sĩ, công nhân và nhân dân thôn Giáp Bì đã đứng chật
hai bên xe.
Trương Đại Sơn đứng ở đầu máy nhìn mọi
người cười nói. Cao Ba mang thư của Kiếm Ba ngồi trên xe đạp tuyết.
Kiếm Ba vui vẻ gọi to:
- Cám ơn các đồng chí công nhân, các đồng
chí đã rất gian khổ. Nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành vượt mức. Hiện nay chúng
ta có hai xe. Thật không khác gì hai chị em cùng nhau kết bạn lên đường. Mấy
hôm nữa, "Xe chị, xe em" sẽ quay trở về mang lại cho chúng ta lương
thực và quần áo. Bây giờ tôi ra lệnh: "Xuất phát".
Mọi người vỗ tay hoan hô vang dội.
"Xe chị, xe em" đều hét lên những tiếng còi tu tu, tu tu và xình xịch
chạy về phía nam; hai làn khói trắng bay lên trên không như hai đám mây rất
đẹp.
Từ hang sâu, bãi tuyết còn vang lại tiếng
xình xịch, giòn giã của hai đoàn xe….
HỒI THỨ MƯỜI LĂM - DƯƠNG TỬ VINH DÂNG LỄ.
Một người hóa trang thổ phỉ, đi một mình
trên bãi tuyết trong rừng rậm.
Người ấy lúc thì cười sằng sặc rất hung
ác, lúc thì rít lên những giọng như điên cuồng, lúc thì phi ngựa chạy như bay,
lúc thì đi đằng sau ngựa huýt sáo, lúc thì lẩm bẩm nói những câu gì, lúc thì
chạy đằng trước ngựa để ngựa chạy theo sau, lúc thì ngồi lại cho ngựa đi xa,
rồi thì lại hô cho ngựa quay đầu chạy lại. Khi ngựa chạy về trước mặt, người ấy
lại vỗ đầu ngựa, cười lên một hồi. Người ấy giống như một thằng điên, không lúc
nào bình tĩnh, cũng lại giống như một tài tử luyện ngựa.
Chỉ có một hành động của người ấy là rõ
ràng, rất tỉ mỉ mà lại có quy luật. Dù là cưỡi ngựa hay đi bộ, dù là cười nói
điên cuồng, cứ đi một quãng cách năm sáu cây, người ấy lại lấy đoản đao chặt
vào thân cây bóc ra một miếng vỏ. Có lúc bóc không ra, người ấy lại chặt một
nhát nữa. Cho đến lúc bóc trật lõi cây trắng ra mới thôi.
Người ấy không phải ai xa lạ, chính là
đồng chí Dương Tử Vinh của phân đội. Từ khi rời khỏi phân đội, ngày nào anh
cũng sống như thế. Mặt mũi anh bây giờ trông gớm ghiếc, tóc dài quá tai, râu
ria xồm xoàm, mục đích của anh là làm cho mình hoàn toàn giống thổ phỉ về thói
quen, ăn nói, cử chỉ. Anh đã luyện tập gian khổ như thế trong ba ngày. Muốn tạm
bỏ được những thói quen của người chiến sĩ đã năm sáu năm ở trong bộ đội giải
phóng quân, anh buộc phải luyện tập thói quen thổ phỉ. Anh một lòng chỉ nghĩ
đến nhiệm vụ:
"Ta luyện càng tinh, hoàn thành nhiệm
vụ càng có bảo đảm. Cũng như thủ trưởng 203 đã căn dặn: "Lần này không
phải đồng chí diễn kịch, mà là phụ trách một nhiệm vụ tiễu phỉ nặng nề. Thế thì
cái vai trò thổ phỉ của đồng chí phải triệt để. Từ bây giờ đồng chí không phải
là đồng chí Dương Tử Vinh mà là thổ phỉ Hồ Bưu".
Ngày thứ nhất và ngày thứ hai trên đường
đi, anh không bỏ lỡ cơ hội nào để diễn tập.
Có một điều kiện thuận lợi cho Tử Vinh
trên đường đi là cái vết chân trên tuyết của thằng cha thộn, do Cao Bá và Lý
Hồng Nghĩa cố ý để cho nó chạy thoát, vết chân ấy là người hướng đạo rất tốt
cho anh đến Uy Hổ Sơn, làm cho anh không mất thời giờ tìm kiếm phương hướng. Vì
thế ngoài việc vừa đi vừa tập ra, anh chỉ còn có việc là khắc ám hiệu vào thân
cây.
Anh cưỡi con ngựa của Hứa Gậy Gộc, tuy
chạy nhanh, nhưng đường rừng rậm rạp, không thể phát huy được bản lĩnh của
ngựa. Đi được hai ngày, rừng lại càng rậm chi chít. Hai ngày liền không thấy
một bóng người, chỉ thấy có vết chân của thằng cha thộn, giống như cái mạng
nhện vẽ trên tuyết.
Ngày thứ ba, Dương Tử Vinh không dám ngủ
trong hốc cây nữa, vì hai hôm trước anh gặp một con gấu trong hốc cây. Hôm nay
anh khoét mặt tuyết đắp thành bức tường chung quanh để chắn gió, giải tấm da
thú, nằm lên trên. Anh gọi đó là tòa "bạch cung" trong rừng tuyết.
Anh ngủ một giấc rất say cho đến khi mặt trời chiếu vào "bạch cung"
anh mới tỉnh dậy. Nhằm thẳng hướng bắc anh lại tiếp tục lên đường. Xa xa hiện
ra một khu rừng đầy loại cây hoa. Đó là dấu hiệu chứng tỏ sắp đến Uy Hổ Sơn.
"Bây giờ cần phải chuyển ngay sang
hướng khác không nên đi theo vết chân của thằng cha thộn để cho bọn thổ phỉ
khỏi nghi."
Anh đứng thẳng người lên, liếc đôi mắt
tinh nhanh nhìn chung quanh như muốn tìm một cái gì. Anh nhìn đi nhìn lại thấy
một cây con cách chỗ anh chừng năm mươi thước, anh bỗng bật lên tiếng cười khẽ.
Có lẽ vì cái cây con mọc bên cạnh bụi cây um tùm hay là chung quanh cái cây con
không có cái gì to hơn che lấp nó? Có lẽ trên cây bằng đầu người có cái chạc.
Rút đoản đao, anh đi về phía cây con.
Anh dùng lưỡi dao nhọn khoét thân cây,
một chốc thân cây rỗng một đám bằng cái hộp thuốc lá. Lại khoét nữa, rồi lại
lắp miếng vỏ cây vào chỗ khoét, khít liền không còn vết tích gì. Lập tức, anh
móc túi ra một hòn đá đen, để lên chạc cây.
Nhảy lên ngựa, anh đi về hướng tây hắc.
Đi vài chục bước quay lại nhìn cây con, đang từ đắc chí, bỗng trở thành lo
lắng, anh dừng ngựa, lẩm bẩm:
- Hỏng rồi, nếu mấy ngày không có tuyết,
không có gió thì vết chân của mình ở cái cây làm sao sạch được, sẽ xảy ra
chuyện không hay!
Ngẫm nghĩ hồi lâu, anh quay ngựa trở lại
chỗ vết chân dưới gốc cây con ban nãy, chạy quanh một vòng, quay về hướng bắc,
đi vào khu rừng cây hoa, rồi lại quay ngựa đi về hướng tây bắc. Như vậy là vết
chân ở gốc cây con trông giống hệt như vết chân con thú ngoằn ngoèo không thể
nào tìm ra dấu hiệu và vết tích gì đặc biệt.
Vào giữa rừng cây hoa, qua bụi rậm, dưới
một chòm cây um tùm, anh lại cho ngựa ăn. Anh móc trong túi lấy ra một miếng
bánh mì. Không có than để nướng, anh cứ thế nhai ngấu nghiến. Cứ hai miếng bánh
lại hai miếng tuyết, vừa nhai vừa nghĩ. Bỗng anh phá lên cười khi nhìn đến bộ
quân áo thổ phỉ, bộ mặt đã lâu ngày không rửa, bộ râu không cạo. Giơ tay vuốt
cằm thấy râu mọc lởm chởm cứng như lá thông. Sờ đến cằm vô tình sờ phải cái sẹo
dài hai phân, tiếng cười bỗng nhiên biến mất, chỉ còn lại căm giận.
Số là, cái sẹo này làm cho anh nhớ lại
mối thù không bao giờ quên dược. Năm mười tám tuổi, con bò nhà anh chạy đến ăn
cỏ ở cái mả tổ của tên địa chủ cường hào Dương Đại Đầu. Dương Đại Đầu buộc cho
là bò đã xéo vào đất cát mồ mả của ông cha nó. Nó bắt bố anh, đổ nước cứt đái
lên đầu và cho gia nhân đánh một trận. Ông già không chịu được đòn chết tươi.
Mẹ Tử Vinh lo buồn thành bệnh, lại thêm lao lực quá độ đã lâu ngày, chẳng bao
lâu cũng chết. Còn lại Dương Tử Vinh non trẻ, ngày ngày nghĩ cách báo thù,
nhưng chỉ có một mình, và lại không có dịp hạ thủ, nên chỉ có một cách là
trường kỳ chịu đựng.
Nhưng thật phúc bất trùng lai, họa vô đơn
chí. Thù chưa kịp báo, Dương Tử Vinh lại bị một tai họa nữa suýt chết. Hôm ba
mươi tết năm ấy, cái nhà sau của Dương Đại Đầu bị cháy ra tro. Dương Đại Đầu
cho rằng Dương Tử Vinh báo thù. Hắn quyết định bắt Dương Tử Vinh trả món nợ đó.
Hắn treo Tử Vinh lên cành cây, đánh bất tỉnh nhân sự. Để trừ hậu họa, hắn quyết
tâm giết hại, định đến đêm mang Tử Vinh lên núi, vứt xuống vực sâu cho chết.
May sao có người cố nông tốt bụng tên là Dương Tứ Thiết, bạn thân của Dương Tử
Vinh thả trộm anh ra.
Sau bảy năm lưu lạc bên ngoài, đến lúc
Dương Đại Đầu chết anh mới về nhà. Khi ấy anh mới biết em gái bị Dương Đại Đầu
bắt làm con ở, rồi sau không biết nó bán đi đâu. Đến thời kỳ kháng Nhật, lòng
căm thù đã thúc đẩy anh tham gia Bát lộ quân, làm cho anh có một lòng trung
thành vô hạn đối với sự nghiệp giải phóng nhân dân.
Dương Tử Vinh vừa nhai, vừa nghĩ đến kẻ
thù của mình, kẻ thù ấy trong quan niệm của Dương Tử Vinh ngày nay, không phải
chỉ là Dương Đại Đầu, mà là tất cả những bọn áp bức, bóc lột người nghèo khổ.
Chúng là bọn đầu sỏ gây ra tai nạn của xã hội cũ. Cần phải triệt chúng cho đến
tận gốc rễ.
Dương Tử Vinh xoa tay, đôi mắt sắc sảo
của anh nhìn chung quanh rừng rậm. Anh suy nghĩ rất lung về cuộc đấu tranh sắp
bắt đầu.
Luồng tư tưởng tập trung đến nỗi anh
ngừng nhai từ lúc nào không biết. Bỗng nhiên con ngựa đang ăn cỏ, nhảy cẫng lên
hí loạn xạ, như có một cái gì kinh hãi lắm.
Dương Tử Vinh đứng lên nhìn về phía con
ngựa hoảng sợ, rừng cây vẫn im lìm, tĩnh mịch. Quay lại nhìn ngựa, anh thấy
toàn thân nó run bắn, thở hồng hộc. Mắt nó sợ hãi nhìn vào rừng rậm, rồi lại
nhìn Tử Vinh chằm chặp, như muốn cầu cứu.
Dương Tử Vinh cảm thấy có một việc gì sắp
xảy ra. Trong lòng bứt rứt. Vứt miếng bánh khô và miếng tuyết trong tay, nắm
chặt lấy khẩu súng anh tiến đến trước ngựa.
Ngựa nép chặt sau người anh, hình như muốn nhờ anh che chở….
Dương Tử Vinh nhìn một lát nữa, cũng
không thấy gì, anh quay lại vỗ đầu ngựa, an ủi nó:
- Đừng sợ, không sợ gì cả. Cứ ăn đi, tao
sẽ bảo vệ cho mày. Ăn no đi để rồi hoàn thành nhiệm vụ.
Nói xong, anh buộc chặt dây cương vào
thân cây và anh nấp vào sau một cây to nắm chắc tay súng, rút đoản đao, tiếp
tục xem xét bốn phía.
Khi ấy, ngựa lại hí lên một hồi kinh
hoàng nữa, giật mạnh dây cương ra, nhưng không đứt. Chân nó run bắn, không đứng
vững, xem chừng như muốn ngã.
Dương Tử Vinh càng ngạc nhiên:
- Mẹ kiếp, không biết cái gì ghê gớm mà
làm cho ngựa sợ đến thế !
Anh chưa kịp quay lại thì thình lình có
tiếng gầm dữ dội, một con hổ đông bắc rất to từ trong bụi nhe răng, vẫy đuôi,
hung hăng lao vào ngựa. Đuôi hổ quật vào bụi cây kêu đen đét, tuyết bay tơi tả.
Con ngựa hoảng sợ đứng chết gí một chỗ, nhìn kẻ địch một cách tuyệt vọng. Đây
là lần đầu tiên, Dương Tử Vinh trông thấy con hổ thật. Quãng cách rất gần, nó
lại sắp ăn thịt con ngựa của anh. Tim anh đột nhiên đập mạnh, khẩu súng nắm
trong tay không vững nữa.
Con hổ hung hãn tiến lại mỗi lúc một gần.
Tử Vinh nghĩ: "Phải hạ thủ ngay mới được. Con ngựa này không những chỉ là
cái xe của ta, mà chủ yếu là cái chứng minh thư của ta. Mất nó có nghĩa là mất
chứng minh thư."
Nghĩ rồi, anh rán sức dựa chặt lưng vào
thân cây, phóng lưỡi dao cắm sâu vào thân cây, tì báng súng lên làm cho tay
súng nằm yên không động đậy. Anh nín thở, ngắm đầu hổ bóp cò. Nhưng thật chẳng
may bị viên đạn thối, súng không nổ. Con hổ không hay biết gì vẫn cứ lao về
phía con ngựa, chỉ còn cách độ hơn ba chục bước. Dương Tử Vinh lạnh toát người,
rút khẩu pạc-hoọc bắn một băng. Con hổ hoảng hốt lăn mình dưới đất, chứng tỏ
đạn bắn không trúng. Nó bò dậy rống lên mấy tiếng. Khi trông thấy Dương Tử Vinh
ở đằng sau thân cây, nó lại rống lên ra oai, rung chuyển cả núi rùng. Đuôi nó
như một cái roi lớn đập xuống đất bụi mù. Tử Vinh lợi dụng phút nó ra oai, nhồi
một viên đạn khác vào súng trường. May sao viên đạn này bắn nổ, nhưng không bắn
trúng hổ, đạn chui xuống đất cách hổ ba bốn thước. Tử Vinh lại nhồi một viên
dạn nữa, nhầm con hổ bóp cò, nhưng vẫn không trúng, hổ càng chồm lên dữ tợn, cố
lao vào Dương Tử Vinh.
"Bắn hổ không trúng, có thể chết
người. Phải bắn phát nữa. Càng gần càng chắc..."
Vừa nín thở, vừa ngắm kẻ địch hung ác đang
lao lại. Chỉ còn cách mười bước. Hổ giẫm mạnh chân trước xuống lấy đà, chuẩn bị
vồ một cái cuối cùng.
Cơ hội tốt! Dương Tử Vinh tì súng, bắn
trúng vào chân trước con hổ. Hổ gầm lên một tiếng ghê rợn, hai chân sau đứng
thẳng, mõm há to đỏ như chậu máu, đứng trước Dương Tử Vinh chỉ có ba bốn bước.
Trong nháy mắt, Tử Vinh chĩa thẳng súng vào mõm hổ. Súng nổ, viên dạn xuyên qua
mồm hổ, xuyên lên tận óc, hổ ngã lăn ra, vẫy vẫy đuôi một hồi, rồi chết hẳn.
Tử
Vinh tiến lên hai bước, đạp chân lên lưng hổ. Con hổ chết, thịt mềm nhũn. Cũng
giống như hổ, người anh cũng mềm nhũn, tay chân không còn một chút sinh lực
nào. Ngồi bệt xuống dất, không lê đi được bước nào nữa, anh ngã người xuống mặt
tuyết cho đỡ mệt. Ngước mắt nhìn ra: con ngựa sợ cứng khi ấy đã trở lại bình
tĩnh, đang thong thả gặm cỏ.Tử Vinh khoan khoái, lau mồ hôi trán, đắc ý nói một
mình:
"Muốn vào Uy Hổ Sơn, giữa đường lại
gặp ngay cảnh "Võ Tòng đả hổ trên đồi Cảnh Dương". Nhưng mà giải quyết
con hổ này thế nào? Đem về phân đội hay sao? Không được. Đưa vào Uy Hổ Sơn? Hổ
rất nặng. Chỉ còn cách vùi xuống tuyết sâu, đợi khi trừ xong Tọa Sơn Điêu sẽ
trở lại lấy."
Anh vui vẻ cười một mình:
- "Hay lắm. Lúc đó, bọn ta sẽ một
tay xách hổ, một tay xách Sơn Điêu xuống núi, anh em phân đội không biết sẽ vui
mừng đến thế nào”.
Nghĩ đến đây, anh thấy vô cùng hào hứng,
người như thêm sức mạnh. Hai chân nện mạnh xuống đất, lấy đà đứng dậy, phủi
sạch tuyết bám trên người. Đang định kéo con hổ, bỗng nghe tiếng xì xào mỗi lúc
một gần. Anh cúi xuống nhìn qua các kẽ cây hở, thấy từ đằng xa có đám người
đang tiến lại. "Đây nhất định là bọn phỉ ở Uy Hổ Sơn. Chúng đi đuổi hổ đến
hay nghe tiếng súng mà đến? Dù thế nào chúng đến, mình nhất định phải đối
phó."
Thấy tinh thần tự nhiên căng thẳng, tay
nắm chặt, mồ hôi toát ra, anh hết sức lấy lại bình tĩnh, tự phê phán mình gay
gắt:
"Càng không bình tĩnh, càng nhát
gan! Thái độ sợ hãi thật là nguy hiểm, sợ hãi là tự thú tội với kẻ địch, thừa
nhận mình không phải là Hồ Bưu. Kẻ địch ngu ngốc đến đâu cũng có thể khám phá
ra được. Thôi mau bình tĩnh, bình tĩnh lại, đấu tranh sắp bắt đầu. Ta không
phải là Dương Tử Vinh, ta là Hồ Bưu."
Nghĩ rồi, anh hát một bài, thong thả bước
lại gần con ngựa.
Tiếng hát của anh giống hệt giọng hát thô
tục của thổ phỉ. Anh cũng chẳng để ý gì đến năm ngưòi đó, chỉ chú ý nhìn ngựa
ăn cỏ, nghĩ bụng:
"Mình đợi xem chúng nó đến làm
gì?"
Một trong năm tên chột hỏi một câu tiếng
lóng thổ phỉ:
- Nấm ơi, chuồn đi đâu, giá bao nhiêu?
(Ai đấy ? Đi đâu ?)...
Tử Vinh nghĩ bụng:
"Bọn này đến thật may cho
mình."
Rồi quay lại cười hì hì, nhìn năm tên phỉ
đứng cách chỗ anh hai mươi bước, đang giương mắt nhìn anh. Dương Tử Vinh đứng
thẳng người, tay sờ lên má, ngón tay trỏ ấn vào mũi, trả lời bằng tiếng lóng:
- A, muốn sao được vậy, muốn bú lại gặp
mẹ, muốn về nhà cậu nó lại đến. (Đi tìm bạn..)
Tử Vinh dùng tiếng lóng trả lời câu hỏi
thứ nhất của bọn phỉ rất trôi chảy. Theo đúng thủ tục, anh tiến lên mấy bước,
chắp tay chào một kiểu chào thổ phỉ:
- Nhanh ba ngày, chậm ba ngày. Sao chả
tìm thấy Thiên Vương Sơn ? (Tôi đi đã chín hôm nay, vẫn chưa tìm thấy ?...)
Nghe thấy Tử Vinh trả lời tiếng lóng ,
cả bọn cùng ngạc nhiên. Một tên mặt rỗ cao to nhất trong bọn hỏi:
- Gà rừng buồn đầu chui, làm sao mà đến
Thiên Vương Sơn được ? (Vì anh không phải là chính qui !)..
Dương Tử Vinh bỏ chiếc mũ da, khoanh một
vòng lên đầu, rồi lại đội vào. Làm xong cái ám hiệu này, anh lại nói câu tiếng
lóng:
- Dưới đất có mì, ngô nha có gốc.(Tôi
đúng là chính qui)…
Tên mặt rỗ hỏi:
- Đã bái kiến qua A-ma nào? (Từ thưở bé
đã theo thầy nào? )
Tử Vinh đáp:
- Mái nhà không có ngói, phi phủ phi,
phủ phi phù.(Không ở chính đường không được nói. Học trò không được nói tên húy
của thầy.)
Tên mặt rỗ lại hỏi:
- Tây đạt, Tây đạt ? (Ai chỉ cho mày đến
đây?.)
Dương Tử Vinh làm một cái ám hiệu nữa.
- Một tòa linh long tháp, đằng trước
trông về dải đất xanh, đằng sau dựa vào cát. (Một đạo sĩ.)
- Ma cáp, ma cáp ? (Trước đây có mỗi một
mình thôi à ?)
- Nói chuyện đúng giữa trưa, không ai có
nhà. (Trên núi Hứa Gậy Gộc.)
Một lô ám hiệu và tiếng lóng của Dương Tử Vinh
làm cho cả bọn phỉ hết nghi ngờ. Chúng cười hì hì, cùng nhìn về con hổ chết.
Tên mặt rỗ nói:
- Ông anh bắn giỏi lắm.
- Cùng bọn ta cả, nếu anh em chẳng ngại
thì xin cho theo vói.
Năm tên thổ phỉ cùng cười rộ:
- Được lắm, được lắm!
Nói rồi chắp tay chào kiểu thổ phỉ. Dương
Tử Vinh đáp lễ.
Tên mặt rỗ hỏi:
- Ông anh định làm gì đấy?
Dương Tử Vinh làm bộ buồn bã:
- Hứa lữ trưởng gặp nạn, anh em tôi cũng
dần dần thay đổi, đều lên núi cả.
Tên mặt rỗ cười toét mồm:
- Thế thì tốt lắm! Này hiền đệ, ngưỡng
cửa ở ngay trước mặt, tôi cho anh một cái mành.
- Cám ơn đại ca tiến cử.
Tên mặt rỗ nháy mắt:
- Giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta từ xưa đến
nay đều làm việc trượng nghĩa.
Dương Tử Vinh hoàn toàn hiểu rõ ý nghĩa
cái nháy mắt của tên mặt rỗ. Sung sướng anh nghĩ thầm:
- Đó là ám hiệu của bọn phỉ cho mình lên
núi.
Nghĩ rồi, anh móc túi lấy ra mảnh vải đen
dài hai thước, rộng ba tấc đưa cho hắn:
- Này bạn, xin cứ tự nhiên.
Dương Tử Vinh để khẩu súng trường và khẩu
pạc-hoọc lên yên ngựa, cởi dây cương, rồi theo luật lệ của thổ phỉ, anh buộc
mảnh vải đen vào mắt, đi theo năm tên phỉ.
Tên mặt rỗ cười khanh khách.
- Khá lắm, làm rất đúng.
Nói rồi hắn ra lệnh cho bốn tên phỉ vác
hổ lên vai, rút đoản đao chặt một cành cây cho Dương Tử Vinh nắm một đầu, còn
một đầu tự tay hắn cầm lấy. Cả bọn đi về hướng bắc.....
Đại bản doanh của Tọa Sơn Điêu là một tòa
nhà gỗ ở trong một cái thành bằng gỗ rất to nằm dưới chân ngọn đồi ở khe giữa
núi Ngũ Phúc. Nền của tòa nhà gỗ trải mấy chục cái thảm da gấu khâu liền lại
thành một cái thảm to. Bảy tám cái bát, chén đựng mỡ lợn rừng đốt cháy sáng
trưng.
Tọa Sơn Điêu ngồi trên cái ghế mộc to,
trên ghế trải miếng da hổ. Đầu hắn nhẵn bóng như cái ruột quả bóng, phản chiếu
ánh đèn như một chai rưọu bia. Cái mũi diều hâu nhọn hoắt như sắp sửa dính vào
mồm. Dưới cằm có một chòm râu dê dài đến bốn tấc. Hắn mặc một cái áo da báo
rộng thùng thình. Đằng sau tường chỗ hắn ta ngồi treo một bức tranh lớn, trong
tranh vẽ một con diều hâu đang vỗ cánh bay, móng chân quắp một hòn đá to, cúi
xuống núi một cách dữ tợn.
Hai bên Tọa Sơn Điêu mỗi bên bốn ngưòi,
ngồi trên bốn cái ghế bành bằng gỗ. Trong đó có tên mặt rỗ, hắn ngồi hàng thứ
nhất ở bên trái. Bọn này là Bát đại kim cương, chúng đã đi theo Tọa Sơn Điêu từ
khi làm thổ phỉ đến nay. Sau khi lữ trưỏng của hắn được quốc dân đảng ủy cho
trọng trách, chúng liền trở thành tham mưu trưởng lữ đoàn, và đoàn trưởng, đoàn
phó các đoàn.
Bộ mặt hung ác của bọn phỉ, thật giống
như những tên sơn đại vương thường miêu tả trong các tiểu thuyết cổ.
Một tên phỉ dẫn Dương Tử Vinh vào và cởi
vuông vải bịt mắt. Dương Tử Vinh trước hết theo tục lệ vào núi, cúi đầu chào
Tọa Sơn Điêu, sau đó lại chào một kiểu chào quân sự quốc dân đảng, rồi đứng
sang vị trí bị chất vấn, nhìn Tọa Sơn Điêu, đợi tên này xét hỏi.
Tọa Sơn Điêu giương đôi mắt tròn xoe như
mắt khỉ, vểnh bộ râu dê, nhìn thẳng Dương Tử Vinh. Cũng như Tọa Sơn Điêu, đôi
mắt hung ác của Bát đại kim cương theo dõi Dương Tử Vinh chằm chặp, trong tay
mỗi đứa cầm một đoản đao sáng loáng, trông đến lạnh gáy. Ba phút qua, Tọa Sơn
Điêu chưa hỏi câu hỏi nào. Đó là cách ra oai của hắn. Đó cũng là thủ đoạn quen
dùng của hắn để khảo sát người. Đối với lý lịch của Dương Tử Vinh, tất nhiên
hắn không thể chỉ hỏi qua loa được. Trông tên phỉ già thực đáng sợ, trong ba
phút ấy Dương Tử Vinh như chịu một thứ hình phạt. Nhưng anh vẫn tự khuyến khích
mình: "Không nên sợ, không nên hoảng. Phải trấn tĩnh, đấy là mánh khóe của
thổ phỉ. Nếu không chịu được tất sẽ bị lộ tẩy. Đấu tranh cách mạng không phải
là việc dễ, phải can đảm, phải can đảm ...Phải tự tin mình, không nên để một
chút gì lộ liễu. Không nên nói trước, như vậy sẽ..."
Tọa Sơn Điêu đột nhiên nói một câu tiếng
lóng trước bằng giọng ồ ồ:
- Thiên vương cái địa hổ. (Nhà ngươi có
bộ gan lớn lắm! Làm cho ông tổ ngươi cũng phải bực tức…)
Hắn càng nhìn sát vào Dương Tử Vinh. Bát
đại kim cương cũng nhìn Dương Tử Vinh với cặp mặt dữ tợn.
Đó là một câu tiếng lóng rất cơ mật của
thổ phỉ mà chúng đã dùng không biết bao nhiêu lần để khảo sát lũ phỉ. Thấy tên
trùm thổ phỉ bắt đầu mở miệng, Dương Tử Vinh nhẹ được nửa người. Nhưng bỗng óc
anh lại trở thành căng thẳng, vì anh chưa dám bảo đảm câu trả lời của anh đã
một trăm phần trăm là chắc chắn, nếu trả lời sai lập tức có thể bị rơi đầu,
không thể cãi cọ gì được nữa. Anh hết sức trấn tĩnh, dựa theo qui cách của thổ
phỉ, cánh tay phải lật một bên áo phải, trả lời cũng bằng tiếng lóng:
- Bảo tháp trấn hà yêu..(Nếu vậy thì đêm
tôi đi trôi sông, ném xuống chân núi).
Vừa trả lời xong, trống ngực anh càng đập
mạnh, phân vân chưa biết câu ấy đúng hay sai.
Tọa Sơn Điêu hỏi vặn:
- Sao đỏ mặt lên thế?
Đó là một câu tiếng lóng, nhưng câu ấy hỏi
vào lúc này nó lại có tác dụng là một đòn cân não, Dương Tử Vinh không biết đó
là tiếng lóng hay là tiếng thường. Vì thế tinh thần anh càng căng thẳng thêm.
Nhưng bề ngoài anh vẫn tỏ ra thản nhiên như không.
Tọa Sơn Điêu trợn mắt, trông càng dữ tợn.
- Sao mặt lại vàng đi thế?
Dương Tử Vinh mỉm cười, ung dung đưa tay
sờ cằm.
- Mỡ bôi phòng rét.
- Hảo bát đạt.( Trong quân làm chức gì?)
- Thiện hạ đại la. (Không nói ngoa, đã từng
làm đại đội).
Tọa Sơn Điêu nghe người bị chất vấn trả
lời một cách lưu loát, đàng hoàng, thở ra một hơi, ngả người về đàng sau dựa
vào thành ghế, nhìn lên nóc nhà, bộ râu dê của hắn vểnh vểnh lên như đuôi thỏ.
Bộ mặt hung dữ của Bát đại kim cương cũng đã bớt hung dữ. Sau đó chúng lần lượt
hỏi Tử Vinh một số câu tiếng lóng thông thường. Tử Vinh đối đáp trôi chảy,
không chút ngập ngùng. Anh lấy làm tự hào về mấy ngày luyện tập gian khổ.
Nhưng mấy câu tiếng lóng anh đã học được
qua bọn bị bắt làm tù binh dùng đã sắp hết. Anh rất lo lắng về điểm này:
"Để khảo sát đồng loại của chúng, không biết bọn thổ phỉ còn dùng bao
nhiêu tiếng nữa? Liệu còn câu nào mà mình chưa biết?"
Giữa lúc ấy, Tọa Sơn Điêu đột nhiên đứng
dậy, vẫy tay, Bát đại kim cương lập tức thôi hỏi. Hắn vuốt bộ râu dê, khịt khịt
cái mũi diều hâu, hỏi Dương Tử Vinh một cách ngạo mạn:
- Vậy chứ nhà ngươi là người của Hứa lữ
trưởng?
Thấy bọn này đã thôi dùng tiếng lóng,
Dương Tử Vinh như trút được gánh nặng.
Anh khoan khoái gật đầu:
- Vâng, tôi là Hồ Bưu, phó quan giám mã
của Hứa lữ trưởng.
- Ngươi muốn làm gì?
- Hãy cứ đi theo cụ Ba, để dần dần được
lên cao.
- Sơn cùng thủy tận, cũng phải cố chút lễ
tiến kiến chứ?
Dương Tử Vinh cười hà hà:
- Nhờ uy phong của cụ Ba, chỉ có con hổ
vừa mới bắn được.
Tọa Sơn Điêu cười khanh khách. Bát đại
kim cương cũng toét miệng cười rất lâu, góp thêm ý với chủ chúng:
- Bẩm cụ Ba, thật là dịp may, ngày mừng
thọ Cụ 60 tuổi có người biếu hổ.
Tọa Sơn Điêu đưa mắt cho tên mặt rỗ. Tên
này rót một bát rượu to, mời Dương Tử Vinh. Dương Tử Vinh trông bát rượu, trong
lòng mừng rỡ, vì như thế chứng tỏ cuộc thử thách đã kết thúc. Anh đỡ bát rượu
giơ lên cao, nốc một hơi cạn. Uống xong, giơ tay sờ râu, ngồi xuống chiếc ghế
gỗ. Còn lễ vật chính đã chuẩn bị anh quyết định thong thả mới hiến để bọn thổ
phỉ coi trọng mình hơn nữa. Vì thế, anh mới lấy điệu bộ thổ phỉ, nhồi một điếu
thuốc, bắt đầu kể lai lịch:
- Bẩm cụ Ba, cái thằng Hồ Bưu tôi thật lao
đao! Theo Hứa lữ trưởng bao nhiêu năm, chưa lần nào khổ như lần này. Sau khi bị
quân cộng sản đánh bại ở Nãi Đầu Sơn, Hứa lữ trưởng và các anh em đều bị bắt tù
cả, chỉ còn mấy người trốn thoát. Loan phó quan chưa lên núi. Phu nhân và Trịnh
Tam Pháo đi tìm Hầu chuyên viên. Tôi thì nuôi ngựa ở Lạp Chúc Đài, chỉ còn bốn
chúng tôi là chưa bị nạn. Hiện nay bốn chúng tôi mỗi đứa một ngả. Hồ Bưu tôi đã
đi hơn một tháng mới tới đây...
Tọa Sơn
Điêu vội ngắt ngay lời Dương Tử Vinh:
- Thế Loan phó quan đi đâu?
Dương Tử Vinh đã bắt được mạch của thằng
trùm thổ phỉ này. Vì thế anh làm ra bộ thở dài, lắc đầu:
- Thôi, đừng nhắc đến nữa!
Tọa Sơn Điêu sốt ruột hỏi ngay:
- Thế nào, ngươi đã gặp ông ta chưa?
Dương Tử Vinh kéo một hơi thuốc:
- Gặp thì gặp rồi! Ở nhà cậu Ba ông ta ở
thôn Lê Thụ. Nhưng mà cái thằng cha ấy thì mẹ kiếp, thật không phải là bạn,
hừ...
- Vậy chú Lưu Duy Sơn và Loan cảnh úy đã gặp
nhau chưa?
Dương Tử Vinh cố ý hỏi lại:
- Ai cơ?
Tọa Sơn Điêu hình như lo lắng điều gì, chỉ
lên má làm hiệu:
- Lưu Duy Sơn tức là anh chàng "Một
chòm lông" ấy mà.
Dương Tử Vinh hiểu rõ ý của tên trùm thổ
phỉ, liền lắc đầu, vờ như không biết:
- Không biết, tôi cũng chưa gặp "Một
chòm lông" bao giờ.
Tọa Sơn Điêu cau mày, như có điều gì lo
lắng:
- Hừ, nhà cậu Ba, thôn Lê Thụ..."Một
chòm lông" nhất định cũng đi rồi!
Hắn ta lẩm bẩm, ngoẹo đầu thở dài.
Dương Tử Vinh nghĩ bụng:
"Để cho chúng bay tha hồ đoán! Cho
đến đời chết, chúng bay đừng hòng gặp được "Một chòm lông".
Lặng một lúc lâu. Tọa Sơn Điêu lại gân cổ
lên hỏi Dương Tử Vinh:
- Không biết Loan cảnh úy nghĩ ra thế nào?
Dương Tử Vinh lại đi vào câu chuyện, nét
mặt vẫn giữ vẻ thản nhiên:
- Mẹ kiếp, nhắm rượu đi đã, chuyện còn
dài ta cứ thong thả.
Tửu lượng của Dương Tử Vinh vốn rất khá,
lại có rượu của Tọa Sơn Điêu, toàn là rượu nho do thổ phỉ nấu lấy. Trong đơn vị
vì phải tuân theo kỷ luật, nên không được uống rượu, nhưng lúc này anh phải
uống với chúng mấy bát. Trước mắt lũ phỉ cần phải thi thố tài năng một chút,
không thể chỉ làm một tên lâu la chỉ đâu đánh đấy được.
Muốn tìm hiểu tin tức của Loan cảnh úy đã
lâu không rõ, Tọa Sơn Điêu lại hạ lệnh cho tên mặt rỗ rót một bát rượu nữa.
Dương Tử Vinh đỡ lấy bát uống một hơi cạn. Lau miệng xong, anh nói tiếp:
- Mẹ kiếp, cái thằng cha Loan này không
tốt. Chúng tôi vừa mới gặp mặt, nó liền năm lần bảy lượt lôi tôi trực tiếp đi
theo Hầu chuyên viên. Tôi nghĩ trong tay nó cầm "bản đồ bí mật" của
Hứa lữ trưởng, mà tôi thì đơn thương độc mã, đi vào đấy thì ăn thua gì? Đừng có
kéo tôi làm tay sai, thằng Hồ Bưu này từ trước đến nay không quen liếm đĩa cho
người khác bao giờ. Để cho tôi ăn bát cơm nguội của họ, tôi không thèm! Lại có
Yêu Bươm Bướm và Trịnh Tam Pháo ở đấy, tôi chả đến. Mà nói cho đúng, họ cũng sợ
thằng Hồ Bưu này. Một chọi một tôi cũng không sợ chúng, dại gì đi theo lũ chuột
cho thêm xấu hổ. Cho nên lúc ấy tôi nói thẳng cho Loan cảnh úy biết:
- Này Loan cảnh úy, thôi đừng đến Hầu
chuyên viên nữa. Có Yêu Bươm Bướm và Trịnh Tam Pháo ở đây, có đến chúng mình
cũng chẳng ăn thua gì. Hãy xem thằng cha Trịnh Tam Pháo cũng chỉ đi báo một cái
tin mà lên ngay chức đoàn trưởng, mày có đến cũng phí công. Tụi mình phải đến
Uy Hổ Sơn theo cụ Ba mới được! Thưa cụ, cụ thử đoán xem nó trả lời như thế nào.
Nó nói:
- Này Hồ Bưu, ý kiến mày toàn vứt đi cả.
Mày đến hàng Tọa Sơn Điêu làm gì. Dưới trướng lão ta đã có Bát đại kim cương,
mày đến liệu lão ta có thể cho mày chức Cửu đại kim cương không? Dù lão có cho
mày đi nữa, thì ở cái xó núi của lão cũng phải nghe theo lệnh của Hầu chuyên
viên, Tạ tư lệnh. Tao đến Hầu chuyên viên không làm đoàn trưởng thì cũng làm
trung tá tham mưu.
Nói rồi, nó móc trong lưng ra cái
"bàn đồ bí mật", giơ tay ra trước tôi:
- Coi đây Hồ Bưu, tao có cái này.
Dương Tử Vinh nói đến đây cố ý châm
thuốc, kéo hai hơi dài, liếc nhìn Tọa Sơn Điêu. Tên trùm phỉ này đang bị câu
nói khích của Dương Tử Vinh làm cho bực tức, mặt nổi gân xanh. Cái bản đồ bí
mật bấy lâu mong ước thế là thất vọng.
- Bẩm cụ Ba, nó nhất định đi, mà nó cũng
còn cứ lôi kéo tôi, sau nó biết không kéo tôi được, nó lại muốn xin tôi con
ngựa của Hứa lữ trưởng, nó bảo nó không đi bộ được. Mẹ kiếp! Nó không đi được
thì dễ tôi đi được à? Tất nhiên tôi không cho nó, cái thằng khốn kiếp nó liền
định dùng kế phục cho tôi uống rượu say, rồi ăn cắp lấy ngựa chạy. Mẹ kiếp,
thằng Hồ Bưu này đời nào mắc mưu nó. Tôi liền tương kế tựu kế. Mày chơi tao thì
tao cũng chơi mày. Vì thế tôi với nó uống luôn tám bát rượu to. Thằng Bưu này
chẳng việc gì sất, còn nó thì lại say bất tỉnh nhân sự, mềm nhũn ra như bún.
Tôi nghĩ, đã liều thì ba bảy cũng liều, định ra tay thì phải ra tay. Thừa lúc
hắn say mềm, tôi lột lấy áo hắn, lại lấy luôn cả tấm bản đồ bí mật nữa, rồi
cưỡi ngựa, chuồn thẳng.
Tọa Sơn Điêu và Bát đại kim cương vỗ đùi
cười lớn:
- Thật là hảo hán, Hồ Bưu! Anh thật là phi
thường!
Dương Tử Vinh đắc ý cười, cởi vạt áo, để
lộ ra bộ quần áo Loan cảnh úy hóa trang làm anh thợ đồ gốm, lấy đoản đao rạch
một góc áo, moi ra "bản đồ bí mật" đưa cho Tọa Sơn Điêu.
- Thưa cụ, Hồ Bưu này xin dâng tặng cụ
đây!
Tọa Sơn Điêu và Bát đại kim cương cùng
cười ầm lên, tiến đến trước mặt Dương Tử Vinh, vỗ vai và giơ ngón tay cái:
- Chú Hồ Bưu giỏi lắm! Thật là kẻ có tài.
Ba Thôi này quyết không để chú thiệt đâu.
Nói rồi hắn giật vội lấy cái bản đồ như
con quạ vồ gà con, đặt lên bàn, xem đi xem lại rồi cẩn thận để vào cái hòm sắt
trên ghế. Sau đó hắn kéo Dương Tử Vinh đến ngồi xuống bên cạnh, miệng vẫn tiếp
tục lẩm bẩm:
- Khá lắm, chú quả là có tài, có tài...
Dương Tử Vinh trái lại vẫn thản nhiên, vẻ
coi thường.
- Bẩm cụ Ba, việc nhỏ mọn có gì đáng kể. Đó
chẳng qua chỉ là một chút lễ kiến diện thôi.
Tọa Sơn Điêu cúi nhìn Dương Tử Vinh.
- Hồ Bưu, người không rõ chứ, với Ba
Thôi, một cái vật này không phải một ngày mà được đâu. Ngươi tưởng tượng cái
vật này sắp rơi vào tay Mã Hi Sơn thì Hứa lữ trưởng bắt được. Nếu quân trung
ưong đến, lão ta sẽ trở thành ông triệu phú. Còn ta thì sẽ lại trở thành một kẻ
bần cùng. Cho nên sau khi Hứa lữ trưởng bị nạn, ta liền phái ngay "Một
chòm lông" đi tìm Loan cảnh úy, chẳng ngờ thằng cha này coi thường ta đến
thế. Mẹ kiếp bây giờ có rồi! Nhờ có bản đồ này, làm gì mà ta chẳng được ngồi
ghế thứ nhất ỏ khu địa Tấn tuy này. Hà hà, ngươi thật có công, có công...
Dương Tử Vinh tự hào:
- Có gì đâu! Đó chẳng qua mới chỉ là một
cái giơ tay của Hồ Bưu. Từ nay cụ còn được thấy tài của Hồ Bưu này nhiều nữa.
Không phải là Hồ Bưu nói khoác.
Dương Tử Vinh đứng dậy, giơ nắm đấm to xù
xì, đập xuống bàn ra oai:
- Tay võ nghệ này sẽ làm cho thiên hạ phải
gờm!
Tọa Sơn Điêu phấn khởi vỗ đùi:
- Được, Hồ Bưu, bây giờ ta phong cho ngươi
làm cửu đầu của Uy Hổ Sơn. Sau đây địa bàn rộng rãi, còn có thể một mình cai
quản một quả núi...
- Cám ơn cụ Ba.
Tọa Sơn Điêu giơ tay:
- Khoan, chưa vội! Vì chúng ta là quốc
quân, nhất định còn phải có quân hàm, bây giờ ta giao cho ngươi làm đoàn phó,
lữ thứ năm Tấn Tuy Đồ Giai bảo an.
Nói rồi tên trùm phỉ tự tay rót một bát
rượu, đưa cho Dương Tử Vinh:
- Lại đây, chú Chín, chúc ngươi được
thăng chức trung đoàn phó lữ đoàn 5.
Bát đại kim cương cùng hô theo:
- Chúc Hồ đoàn phó vinh thăng!
Dương Tử Vinh ưỡn ngực:
- Nhờ phúc của cụ Ba, nhờ uy danh các chư
vị, Hồ Bưu này thật chưa xứng, chưa xứng! Từ nay xin cụ Ba và các đại ca nâng
đỡ, cất nhắc cho.
Nói xong, đỡ bát rượu, nốc một hơi.
Bọn phỉ đầu sỏ nắm được bản đồ bí mật, xì
xào, mừng như vớ được vàng, bàn bạc về tiền đồ của chúng.
Dương Tử Vinh đứng trông, trong lòng sung
sướng phấn khởi về thành công của màn kịch đầu, anh nghĩ thầm:
"Những việc này khi về báo cáo với
các đồng chí, thì thật thú vị biết chừng
nào! Nhất là cô "Bồ Câu Trắng" ngây thơ, có thể mừng đến nhảy lên
được. Hãy nán chờ, các đồng chí, nán chờ cuộc gặp gỡ hội sự thắng lợi của chúng
ta. Tôi xin đem hết sức lực để hoàn thành trách nhiệm Đảng đã giao cho."….
Bỗng nhiên, anh lại suy nghĩ về nhiệm vụ
còn nặng nề trên vai:
"Đây chẳng qua mới là chui được vào
sào huyệt thổ phỉ. Đó chưa phải là vấn đề mấu chốt, cuộc đấu tranh gian khổ mới
chỉ bắt đầu."……
HỒI THỨ MƯỜI SÁU
TẬP BAY
TRÊN TUYẾT
Ánh mặt trời rọi trên tuyết trắng, chiếu
hắt lên lóa cả mắt.
Nhân dân đứng chật sân ga Giáp Bì. Mọi
người cười nói rất vui vẻ, vừa sưởi nắng, vừa ngóng trông về phía nam, mong đợi
hai đoàn xe trở về.
Hôm nay là ngày thứ năm rồi, theo đúng
kế hoạch thì hai đoàn xe trưa nay sẽ trở về. Vì thế từ sáng sớm nhân dân đã tới
ga ngóng đợi. Trẻ em, nhất là những thiếu niên lớn tuổi, nô đùa chạy nhảy, đánh
cầu tuyết hoặc chơi đuổi nhau. Có lúc xô cả vào người lớn, bị mắng, các chú lại
ùa ra khỏi nhà ga, trèo lên tận đỉnh đồi phía tây nam để đón "hai cô"
trở về - các chú gọi hai đoàn xe là hai "cô xe".
Anh em công nhân chốc chốc lại ghé sát
tai vào đường sắt để nghe xem "chân của hai cô" đã về chưa. Mọi ngưòi
cố quên đói, thỉnh thoảng lại thắt chặt thêm thắt lưng. Người ta ước mong làm
thế nào có thể kéo đường ray lại như kéo sợi dây thừng để lôi ngay hai đoàn xe
về trước mắt.
Chiều rồi. Mặt trời đã ngả dần xuống rừng
cây trên núi tây nam. Ánh nắng đã nhạt dần. Tiếng cười nói cũng giảm bớt, mọi
người đã lộ vẻ thất vọng.
Một trận gió lạnh thổi cuộn tuyết lên.
Bụi tuyết bay tung, giội vào người, vào mặt càng tăng thêm lòng bi quan và thất
vọng. Rất nhiều bà già và phụ nữ không chịu được gió rét buổi chiều đã chán nản
bỏ về, người đứng ở sân ga mỗi lúc một thưa dần. Không khí trở nên âm thầm lạnh
lẽo. Chỉ còn lại những thanh niên và thiếu nhi, họ vẫn không thất vọng, vẫn
cười, vẫn nói, nắm tuyết ăn như ăn bánh bao.
Kiếm Ba đã mấy lần giở đồng hồ ra xem.
Nhìn mặt trời sắp lặn, anh cũng có vẻ suy nghĩ, nhưng anh tin chắc chắn rằng
không xảy ra việc gì. Anh đoán chừng ở quãng đường sắt Tấn Tuy chuyển sang
đường sắt lâm nghiệp phải mất nhiều thời giờ chuyển hàng, nên xe về trễ. Anh
tươi cười đi về chỗ đám thanh thiếu niên ngồi trên đống củi.
- Thế nào, chán nản rồi ư? "Hai
cô" sắp về rồi đấy!
- Chưa chán nản đâu, thủ trưởng 203 ạ.
Đó là câu nói của chú bé Song Hỷ, con
giai bác lái xe Trương Đại Sơn, chú giương hai con mắt đen láy nhìn Kiếm Ba,
rồi nhún mình nhảy từ trên đống gỗ xuống mặt đất, xắn lại cái quần rách, giơ
tay gọi to:
- Chúng mày đừng nản! Lại đây đón
"hai cô" đi!
- Đúng rồi, lại đi đi!
Cả bọn trẻ con lại nhảy ùa từ trên đống
gỗ xuống đất, rồi chạy rối rít lên cái gò phía tây nam.
Bọn trẻ em đi khỏi, sân ga càng lạnh lẽo
thêm. Trừ phân đội ra, hầu như không còn mấy người nữa. Kiếm Ba và phân đội
nhìn đoàn thiếu niên và nhi đồng tung tăng chạy lên đồi. Thấy một thiếu niên
giống như Song Hỷ, trèo lên một cây to, đến gần ngọn cây, bỗng nhiên rơi tuột
xuống đất, sau đó lại thấy đám trẻ con chạy rối rít vẫy tay la gọi.
Kiếm Ba lo ngại hét to;
- Một chú bé nữa từ trên cây xuống đất.
Huân Thương, Bạch Như đâu?
Huân Thương và Bạch Như trả lời:
- Có.
Rồi chạy thẳng lên phía đồi. Đám trẻ con
vẫn chạy nhảy rối rít từ trên đồi xuống. Kiếm Ba nâng ống nhòm lên nhìn: chạy
đi đầu chính là chú Song Hỷ, mình đầy những tuyết. Kiếm Ba mỉm cười.
- Không phải đi nữa, xem kìa. Song Hỷ nó
đang vui mừng cuống quít chạy về.
Các chiến sĩ đều nhìn về phía chú bé:
- Nhất định chúng nó thấy tàu về rồi.
Tu tu...Tu tu...
Tiếng còi xe lửa vui vui từ phương xa
vọng lại. Huân Thương vừa gọi to, vừa chạy về phía chân gò.
- Xe lửa về rồi!
Trước sân ga các chiến sĩ đều reo mừng
gọi to:
- Bà con ơi, xe lửa về rồi!
Huân Thương chạy tới chân gò, thì vừa gặp
bọn trẻ con chạy xuống. Chúng gọi rối rít:
- Bác đội trưởng Lưu ơi, xe về rồi! Xe về
rồi!
Vừa nói chúng vừa chạy ven chân núi để
đón xe. Vừa lúc đó thì xe lại rúc lên một hồi còi dài và đã chạy về gần tới
nơi.
Toàn thôn nhộn nhịp hẳn lên. Mọi người vừa
kêu vừa gọi, chạy ùa về phía sân ga. Xe xình xịch chạy tới giữa tiếng hoan hô
của mọi người.
Cao Ba và một tiểu đội được phái tới để
bảo vệ xe, oai hùng đứng trước khẩu súng máy trên toa đầu, miệng cười tay vẫy,
chào gọi mọi người.
Hai đoàn xe lần lượt dừng lại trước cửa
ga. Cao Ba cùng đơn vị đi bảo vệ nhảy xuống xe, chạy đến trước mặt Kiếm Ba, dàn
thành hàng ngang, đứng nghiêm chào:
- Báo cáo thủ trưởng 203, theo lệnh đồng
chí, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Thủ trưởng 201 và 202 có gửi thư cho
đồng chí và phái một đơn vị đi theo bảo vệ xe.
Báo cáo xong, Cao Ba chuyển thư cho Kiếm
Ba. Tiểu đội trưởng Quách Khuê Vũ tiến ra khỏi hàng ngũ, giơ tay chào báo cáo:
- Báo cáo thủ trưởng 203! Tôi Quách Khuê
Vũ, tiểu đội trưởng thuộc đại đội cảnh vệ được lệnh đi áp tải đoàn xe, bây giờ
chờ lệnh của đồng chí.
Kiếm Ba cười giơ tay chào lại:
- Hãy báo cáo cho mọi người biết các đồng
chí đã đem những gì tới cho nhân dân.
Quách Khuê Vũ và các chiến sĩ trả lời:
- Có !
Nhân dân vòng trong vòng ngoài quanh
Quách Khuê Vũ và các chiến sĩ, vỗ tay hoan hô rầm trời.
Kiếm Ba bắt tay đồng chí lái xe Trương
Đại Sơn, rồi anh xé bức thư mới nhận được ra đọc. Vừa đọc, vừa tươi cười nói:
- Hay lắm, hay lắm! Thế là giải quyết
được vấn đề.
Anh gọi Huân Thương:
-
"Xe tăng"! Thổi còi tập hợp.
Tiếng còi của Huân Thương nổi lên, tiếng
cười nói im bặt. Kiếm Ba trèo lên một toa chở đầy lương thực. Mọi người đổ xô
tới chung quanh anh. Kiếm Ba giơ cao lá thư, cười nói:
- Thưa các đồng chí công nhân và đồng bào
toàn thôn! Đảng và Chính phủ đã gửi tới cho chúng ta cơm ăn, áo mặc. Chính phủ
cho dân ta hai vạn tấn gạo cứu tế. Anh em bộ đội cũng tiết kiệm lương thực, gửi
giúp chúng ta một vạn cân. Cấp trên quyết định 3 vạn cân gạo ấy giúp hẳn cho
đồng bào không lấy tiền.
Toàn thể nhân dân vỗ tay, hô to:
- Đảng cộng sản muôn năm! Giải phóng quân
muôn năm!...
Kiếm Ba đã mấy lần ra hiệu nhưng tiếng
hoan hô vẫn không dứt. Trương Đại Sơn đứng sau Kiếm Ba gọi to:
- Đồng bào ơi! Chưa hết đâu! Chưa hết
đâu!
Kiếm Ba nói tiếp:
- Chính phủ và bộ đội còn quyên gửi cho
chúng ta một trăm áo bông và hai trăm quần bông.
Tiếng vỗ tay lại nổi lên như vũ bão.
Mọi người chạy lại ôm lấy các chiến sĩ,
công kênh lên và reo hò.
Kiếm Ba với giọng trong trẻo, nói lớn:
- Các đồng chí ơi, chúng tôi quyết định
về lương thực thì chia: Người lớn 120 cân, trẻ con 50 cân đủ ăn trong hai
tháng.
- Đủ rồi, đủ rồi! Nhiều lắm...
- Quần áo thì không đủ. Chúng ta chỉ có
thể quyết định trước hết cấp cho những người phải lên núi một bộ cả áo lẫn
quần. Còn lại thì phát cho những người cần thiết nhất.
- Đồng ý, đồng ý.
Kiếm Ba lại nói tiếp:
- Đảng và Chính phủ lại gửi cho chúng ta
mỗi người 5 cân mì và 7 cân gạo tốt nhất để ăn tết. Gạo này không tính vào số
ba vạn cân nói trên.
Lại một trận hoan hô vang trời nữa nổi
lên. Có người nói:
- Thật là mẹ đối với con không bằng!
Kiếm Ba lại tiếp tục:
- Thưa các đồng chí và đồng bào, đời sống
của chúng ta phải dựa vào lao động, chứ không phải chỉ dựa mãi vào cứu tế. Hiện
nay, Đảng, Chính phủ và nhân dân đang phải dành rất nhiều sức người sức của để
đóng góp cho cuộc chiến tranh tiêu diệt Tưởng Giới Thạch, vì thế không thể cứu
tế mãi được. Hiện nay ở thành thị rất cần gỗ và da thú, chúng ta bắt tay ngay
vào việc tìm ra các thứ ấy để đem về thành thị đổi lấy lương thực và quần áo.
- Được lắm! Chúng ta có sức, chúng ta sẽ
đem hết của quí báu trên núi về thành thị.
Lý Dũng Kỳ nói to:
- Thôi đừng khoa trương vội! Hai năm nay
suýt chết đói có phải là chúng ta không có sức không? Không phải thế! Chỉ vì
bọn Tọa Sơn Điêu quốc dân đảng cướp mất súng của chúng ta. Tại sao chúng ta
khổ, tại sao chúng ta nghèo, các người nói đi?...
Quần chúng nổi giận quát to:
- Chỉ tại quốc dân đảng, chỉ tại Tọa Sơn
Điêu cướp mất súng. Chuyến này chúng nó đến nhất định chúng ta sẽ đập chết như
đập lũ chó.
Kiếm Ba vui vẻ gọi to:
- Đúng rồi! Quốc dân đảng, Tọa Sơn Điêu
cướp của cải của chúng ta, phá hoại lao động của chúng ta, cướp mất súng của
chúng ta, muốn cho chúng ta chết đói. Hiện nay Chính phủ đã cho chúng ta gạo,
cứu sống chúng ta, mở đường cho chúng ta làm ăn. Chúng ta phải giữ lấy cơm áo
nhà cửa của chúng ta, giữ lấy mồ hôi nước mắt của chúng ta.
Quần chúng sôi nổi ngắt lời Kiếm Ba :
-
Chúng ta phải trừ ngay mối họa ấy, thủ trưởng 203, có thể phát súng được không?
Chúng tôi có súng, nhất định sẽ giết chết những quân khốn nạn ấy như giết những
con lợn rừng vậy.
Thấy quần chúng sau những ngày gian khổ
biểu lộ tinh thần quyết tâm giết giặc, Kiếm Ba rất vui sướng, nói với mọi
người:
- Các đồng chí, tôi tin rằng các đồng chí
sẽ bảo vệ được nhà cửa, bảo vệ được củi gỗ, bảo vệ lấy công lao của mình. Hôm
nay chúng tôi phát súng cho các đồng chí, một là để bán thú rừng, hai là để
đánh quốc dân đảng.
Lý Dũng Kỳ giơ nắm tay nói to:
- Không được! Phải đổi nguợc lại là :
trước là đánh quốc dân đảng, sau là đánh dã thú. Không tiêu diệt được quốc dân
đảng thì cũng không yên ổn mà làm ăn đâu.
- Đúng lắm, phải làm như thế! Nhất định
sẽ như thế!
Quần chúng hoan hô vang dậy chạy đến toa
chở súng để lĩnh súng. Trong lúc này, đối với họ, súng còn, quí hơn lương thực.
Trương Đại Sơn, Mã Thiên Vũ ngay đêm ấy
thành lập ủy ban sản xuất. Lý Dũng Kỳ được cử ra chỉ huy đại đội dân quân gồm
58 người.
Thôn Giáp Bì từ nay nhà nào cũng bắc nồi,
bếp nào cũng bốc khói, mùi cơm, mùi thịt thơm phưng phức, tiếng cười nói râm
ran. Thôn Giáp Bì đã sống lại. Bọn người đi săn thì vác súng, mang bẫy len lỏi
vào trong rừng. Bọn người đi chặt củi thì cưa cưa, xẻ xẻ, làm việc tấp nập bên
cạnh đường sắt.
Trong không khí tưng bừng của thôn Giáp
Bì, phân đội của Kiếm Ba bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
Ngày nào cũng từ sáng tinh sương, Kiếm Ba
dẫn phân đội tới một địa điểm mà ít ai tìm thấy.
Chỗ ấy là một cái khe dài ở phía bắc thôn
Giáp Bì. Ở đây có một ngọn núi cao giống như cái vỏ đậu nên người ta gọi là núi
Vỏ Đậu. Chung quanh núi này có một cái khe dài hơn trăm dặm. Khe lại giáp liền
với những núi cao khác trùng trùng điệp điệp. Ở đây có một luồng gió từ trên
đỉnh núi Vỏ Đậu hun hút thổi xuống khiến cho bao nhiêu tuyết rơi trên núi đều
bị cuốn sạch đi. Vết chân của phân đội đi qua cũng vì thế mà được xóa sạch…
Qua núi
Vỏ đậu là cả một vùng đồi núi nhấp nhô bát ngát, và đầy tuyết. Ở đây phân đội
đã tiến thêm một bước là kết bạn với tuyết.
Lý Dũng Kỳ đã mượn được hơn bốn mươi bộ
trượt tuyết. Anh vốn là một tay trượt tuyết đi săn rất giỏi ở Giáp Bì. Mùa đông
năm ngoái, anh đã nhiều lần trượt tuyết như bay để đuổi bắt hươu và ngựa rừng
trên núi. Giò đây anh đóng vai huấn luyện viên thứ hai dạy phân đội trượt
tuyết.
Huấn luyện viên thứ nhất là nhà thể thao
kiệt xuất: Huân Thương. Huân Thương đã từng trong ba năm trời dày công luyện
tập.
Hiện nay toàn thể phân đội đều tham gia
luyện tập trừ có hai người vắng mặt. Một người là Dương Tử Vinh đi đối phó với
Tọa Sơn Điêu, một người là Siêu Gia đi đối phó với tên yêu đạo ở miếu Thần Hà.
Đơn vị bảo vệ xe lửa của Quách Khuê Vũ cũng tham gia luyện tập.
Kiếm Ba coi việc luyện tập này là vấn đề
mấu chốt để tiễu phỉ ở vùng rừng sâu, bãi tuyết này. Vì thế, anh yêu cầu các
chiến sĩ phải dốc hết sức luyện tập, và anh rất nghiêm khắc đối với cả bản thân
mình nữa.
Buổi đầu tiên là đêm hôm 16 tháng Chạp.
Trăng sáng. Tuyết trắng phau phau. Kiếm Ba đứng trước phân đội ra lệnh:
- Hiện nay chúng ta phải kết giao chặt
chẽ hơn nữa với bạn tuyết, để bạn giúp ta phi hành trên vùng rừng sâu bãi tuyết
này. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta khổ luyện trong 10 hôm. Mỗi hôm tập 10 giờ,
chưa kể thời giờ tập thêm của cá nhân. Sau 10 hôm, mỗi một chiến sĩ chúng ta sẽ
không còn làm cái kiểu "đại lực sĩ" dùng hai vế đùi rẽ tuyết để bước
đi, mà sẽ thành người "võ hiệp" phi hành trên tuyết. Chúng ta làm cho
bãi tuyết đối với chúng ta thành đường cái ô tô, thành đường ray cho xe lửa,
thành biển cả cho chiến hạm, thành không trung cho máy bay.
Mọi người đều phấn khởi tươi cười. Kiếm Ba
cầm gậy chống bắt đầu tập trượt tuyết. Trượt được một quãng đến chỗ dốc thì ngã
quay trên tuyết.
Lý Dũng Kỳ và Huân Thương đều cười gọi:
- Đừng vội! Hãy xem chúng tôi đi trước.
Nói xong, hai người chống gậy, từ trên dốc
45 độ trượt xuống, rất nhẹ nhàng thoải mái, lượn quanh co qua những hàng cây.
Đến quãng dốc, hai người lấy đà, băng mình vượt qua đỉnh núi phía bắc.
Anh em chiến sĩ đều hoan hô vang dội và
cũng bắt chước đi. Nhưng cứ bắt đầu bước là như có người kéo lại sau lưng làm
ngã ngửa trên tuyết, đít giáng mạnh xuống tuyết thành một cái hố khá sâu. Khắp
người đầy tuyết. Ngã xong lại bò đậy trượt, trượt rồi lại ngã. Tuyết vào đầy cả
túi áo, vào cả trong cổ áo lẫn cả với mồ hôi. Một chiến sĩ cười nói:
- Mẹ nó! Chân thì đi trên hai miếng ván
dài thế này, hai tay lại chống hai gậy, thế mà vẫn trượt, vẫn ngã, thật là đi
khó hơn phụ nữ bó chân.
Ba hôm đầu, mỗi người ngã không biết bao nhiêu
lần nữa. Mới đầu còn đếm: ngã một lần... hai lần... 30 lần... sau không còn đếm
được nữa.
Luyện tập rất gian khổ, nhưng mọi người
vẫn cười nói:
- Ông bạn tuyết thật khó chơi! Tính nết
rất là quái gở! Mềm cũng ngã, cứng cũng ngã, chậm cũng ngã, nhanh cũng ngã, cúi
về trước cũng ngã, ngửa về sau cũng ngã!
Kiếm Ba lại động viên lòng tin tưởng của
mọi người:
- Các đồng chí! Chúng ta muốn đi sâu vào
vùng tuyết rộng bát ngát này mà không biết trượt tuyết thì không khác nào một
người rơi xuống bể mà không biết bơi, nhất định sẽ chết đuối. Hiện nay căn cứ
vào yêu cầu chiến đấu và đề nghị của huấn luyện viên, căn cứ vào khả năng thục
tế của mỗi người, chúng ta nêu khẩu hiệu: mạnh, nhanh, khéo.
Tiếp sau, anh giải thích thế nào là mạnh,
nhanh, khéo? Muốn mạnh, phải dũng cảm không sợ ngã. Muốn nhanh, phải ra sức
luyện tập hơn nữa. Muốn khéo, phải kiên nhẫn, gian khổ tập cho quen sẽ thành
khéo. Chúng ta phải khéo như con chim nhỏ, con đường nào cũng trượt dược,
chướng ngại nào cũng vượt qua! Dù rừng sâu, cây rậm như thế nào chúng ta cũng
xuyên qua được như chiếc thoi đưa. Dù núi cao, khe sâu, chúng ta cũng bay qua
được như con chim én. Trong luyện tập, Kiếm Ba lúc nào cũng tỏ ra là một chiến sĩ
gương mẫu, đứng đầu về mọi mặt: mạnh, nhanh khéo.
Huân Thương là một huấn luyện viên rất
xứng đáng. Anh rất nghiêm nghị. Ngay đối với thủ trưởng của mình là Kiếm Ba,
anh cũng không hề nhân nhượng. Đứng cương vị huấn luyện viên, anh ra lệnh:
- 203!
- Có!
- Ra khỏi hàng!
Kiếm Ba trượt lên ba bước, đứng theo tư
thế trượt tuyết, đợi lệnh huấn luyện viên.
Huân Thương trỏ đồi trước mặt ra lệnh:
- Mục tiêu vượt qua quả đồi 70 thước,
trước mặt kia! Tự chọn lấy đường đi. Bắt đầu trượt!
Kiếm Ba cúi mình về phía trước, chống hai
gậy trượt tuyết đẩy mạnh một cái, trượt đi theo hình răng cưa, xuyên qua những
hàng cây và trượt xuống dốc núi. Sau đó, anh nghiêng về bên trái, định lấy sức
vượt lên đỉnh đồi 70 thước trước mặt. Nhưng vừa mới vươn lên, thì chân không
vững, ngã quay trên tuyết, người anh trôi đi khá xa.
Huân Thương gọi to:
- Trở về, làm lại !
Kiếm Ba lập tức quay lại, tuyết phủ đầy
người. Huân Thương giảng cho anh rất tỉ mỉ.
Kiếm Ba gật đầu nhìn lại quả đồi truớc
mặt, rồi lại bắt đầu trượt, trượt mạnh xuống đáy khe, lượn nửa vòng, rồi vươn
mạnh lên đỉnh đồi.
Truớc sự thành công của Kiếm Ba, các
chiến sĩ nhiệt liệt vỗ tay hoan hô, rồi noi gương anh, mọi người bắt đầu tập, lượn
đi lượn lại như chiếc thoi và vượt lên đỉnh đồi. Sau mỗi giờ luyện tập lại nghỉ
năm phút, và trao đổi ý kiến. Mọi người đều học được một bí quyết là: Chỉ có
dũng cảm là thành công.
Bạch Như vốn hay cười, cứ ngã là cười.
Huân Thương rất chú ý dạy chị và không nể nang chút nào, phạt chị mấy lần. Anh
biết rằng anh có trách nhiệm lớn đối với Bạch Như, để Bạch Như không biết trượt
là một điều nguy hiểm, nếu Bạch Như không theo kịp đơn vị.
Trong giờ nghỉ, mọi người cười, nói đùa:
- Huân Thương huấn luyện Bạch Như không
khác gì thời Đông Chu liệt quốc, Tôn Vũ Tử
huấn luyện nữ binh của Hoàng phi vậy.
Trung Tùng lại nói thêm:
- Đây là xe tăng huấn luyện ngựa cái ra
trận đó!
Mọi người lại cười vang. Bạch Như đỏ mặt
nắm một nắm tuyết nhét vào cổ áo Trung Tùng…..
HỒI THỨ MƯỜI BẢY.
NHỜ GIÓ BẺ MĂNG
Tính đến 23 tháng chạp, Dương Tử Vinh
làm đoàn phó ở trên Uy Hổ Sơn đã được mười ngày. Trong mười ngày đó, Tọa Sơn
Điêu vẫn tỏ ra tin cẩn Tử Vinh. Vì cái công lao buổi đầu của anh làm cho Tọa
Sơn Điêu hoàn toàn coi anh như một tay chân đắc lực. Nhưng Dương Tử Vinh vẫn
không vì thế mà buông lỏng cảnh giác. Ngày nào cũng vậy, trừ khi Tọa Sơn Điêu
ngủ, anh luôn luôn ở bên cạnh hắn, mục đích là triệt để xóa bỏ bất cứ sự nghi
ngờ nào dù là nhỏ nhặt của hắn.
Hôm qua lợi dụng ngày làm viên quan trực
nhật, anh đã xem xét kỹ lưỡng trận thế trên Uy Hổ Sơn. Viên quan trực này chăm
chỉ xông xáo khắp mọi nơi, núi trước, núi sau, địa hình các ngả, các điểm hỏa
lực, các lô-cốt của lũ phỉ, nhất nhất đều in vào trong óc anh. Trận thế của Tọa
Sơn Điêu thực là lợi hại. Toàn bộ trận thế đều bố trí ở trong lòng Uy Hổ Sơn.
"Uy Hổ Sơn,
Nằm ôm núi Ngũ Phúc".
Câu tục ngữ này Dương Tử Vinh đã nghe
thấy người ta lưu truyền như một chuyện thần thoại, trước khi lên núi, anh cũng
đã nhìn kỹ trên địa đồ, giờ đây chính mắt anh trông thấy, chính bản thân anh
đang ở giữa nơi thần thoại đó.
Trong lòng dãy núi Uy Hổ Sơn cao lớn, có
năm ngọn đồi, một ngọn ở giữa, bốn ngọn ở bốn góc, gọi là núi Ngũ Phúc. Kích thước
của năm ngọn đồi này hoàn toàn giống nhau quãng cách rất đều. Bốn ngọn đồi ở
bốn góc cách nhau không quá năm trăm thước. Nếu lấy quãng cách ở giữa thì chỉ
độ ba trăm thước. Trên mỗi ngọn đồi xây chín lô-cốt, chia làm ba tổ, mỗi tổ ba
cái, bố trí hỏa lực theo kiểu chéo cánh sẻ. Lô-cốt xây dựng đặc biệt chắc chắn,
đều làm ở sườn đồi, lợp bằng gỗ tròn, xạ giới phía trước mặt rất rộng. Ngoài
lô-cốt năm mươi thước, là một hàng lũy dày đặc. Giữa lô-cốt này và lô-cốt kia,
giữa tổ nọ và tổ kia, giữa đồi nọ và đồi kia có giao thông hào nối liền nhau,
tối mò như các cống ngầm ở thành phố. Trên mặt giao thông hào lát gỗ, trên mặt
gỗ đắp đất, mặt đất cỏ mọc dày, hiện nay thì tràn ngập những tuyết. Bọn phỉ xây
dựng núi Ngũ Phúc rất kín đáo, đứng bên ngoài không thể nhìn ra đó là công
trình quân sự.
Mỗi lô-cốt có năm tên phỉ. Phỉ lâu đời,
pháo thủ và địa chủ cường hào, ngụy Mãn, quan lại, hiến binh, cảnh sát ở lẫn
lộn với nhau.
Dưới chân ngọn đồi giữa, xây một nhà gỗ
tròn to. Đó là đại sảnh của Tọa Sơn Điêu, gọi là sảnh đường Uy Hổ. Dương Tử
Vinh đã dâng lễ, hiến hổ ở trong sảnh này. Chung quanh sảnh đường xây bốn cái
lô-cốt, trong đặt bốn khẩu súng máy hạng nhẹ, chĩa ra các kẽ trống của bốn ngọn
đồi. Bất cứ một sự tấn công nào ở ngoài vào đều bị giáp kích từ ba mặt hỏa lực.
Còn như các đường ngầm, lại càng lợi hại.
Năm ngọn đồi, ngọn nào cùng có đường hầm thông ra ngoài núi Ngũ Phúc hơn ba
dặm. Một cửa đường ngầm ăn thông với khe dốc phía tây nam. Chui ra cửa này, đi
thẳng xuống khe, ngoài một trăm năm mươi dặm, thì có thể đến sào huyệt thổ phỉ
khác là Mẫu Đơn Phong. Một cửa đường ngầm nữa ăn thông ra sườn ngọn núi phía
tây bắc Uy Hổ Sơn. Chui ra cửa này, trèo qua đỉnh Uy Hổ Sơn, có thể đến một sào
huyệt thổ phỉ khác là Thao Hoàn Sơn. Một đường ngầm nữa thông ra phía đông bắc.
Chui ra cửa này, men theo dải rừng Hoàng Hoa Tùng, có thể đến thôn Giáp Bì. Bọn
phỉ gọi những con đường ngầm dài lớn đó là đường lưu thủy. Nghĩa là khi gặp
tình hình khẩn cấp, tức thì chuồn ra các đường ấy như nước chảy. Tất cả các cửa
đường ngầm và các giao thông hào nối liền các lô-cốt từ Uy Hổ Sảnh của Tọa Sơn
Điêu đều có thể đi được các ngả. Một trong những chiến thuật của phỉ là chuẩn
bị sẵn sàng để “lưu thủy".
Hèn nào đạo quân Quan Đông tinh nhuệ của
giặc Nhật trước đây cũng phải chịu Tọa Sơn Điêu, cuối cùng chúng phải dùng số
tiền lớn dụ hắn xuống núi, biến Tọa Sơn Điêu làm tên quân tiên phong phá hoại
liên quân kháng Nhật.
Sau một ngày lợi dụng chức vụ quan trực
nhật để trinh sát tỉ mỉ, Dương Tử Vinh tập trung suy nghĩ làm cách nào tiêu
diệt cái sào huyệt của Tọa Sơn Điêu. Ở dưới khe dốc của ngọn đồi tây nam, anh
nhớ lại lúc tra hỏi "Một chòm lông". Tên phỉ "Một chòm
lông" đã khảng khái nhận nhiệm vụ dẫn đường vào núi và ra vẻ ân cần vạch
con đường bí mật của cái khe này.
Dương Tử Vinh vừa xem vừa nghĩ:
- Thằng này đúng là một tên phản cách
mạng kiên quyết, chết đến đít vẫn phản cách mạng. Nếu bị nó lừa vào cái khe tử
địa vừa dài, vừa sâu, vừa dốc này, thì tính mạng của toàn phân đội sẽ không còn
sót một người nào. May mà có thủ trưởng nhìn xa trông rộng mới không bị mắc mưu
hắn. Chỉ một điểm này cũng chứng tỏ tội ác của hắn tầy trời, không thể nào tha
thứ được.
Nhìn thế trận của Tọa Sơn Điêu, lòng Dương
Tử Vinh nặng trĩu. Cả đêm không ngủ. Song, vì ngủ chung với Bát đại kim cương,
nên phải giả vờ ngủ say. Nếu không thế thì những cái tiểu tiết có thể làm cho
bọn đầu sỏ nghi ngờ, và như vậy thì mọi việc sẽ ra tro.
Anh nằm yên, giả vờ ngủ, giở mình nghĩ:
"Trận thế của bọn phỉ đúng như thủ trưởng 203 đã nói, đã là một cái ao
bùn, lại là một cái hang cua.. Nếu đánh liều thì nhất định không có đường ra,
có thể bị một trận thất bại đáng tiếc."
Vậy thì làm thế nào? Báo cáo về cho thủ
trưởng 203 thế nào? Dùng cách nào tiêu diệt thổ phỉ? Lực lượng của phân đội có
làm được không ? Có cần phải điều động binh lực lớn đến viện trợ không? Anh suy
nghĩ rất lung, tự mình đề ra vấn đề, tự mình giải đáp. Đáp rồi lại bỏ, bỏ rồi
lại đáp. Cứ như thế đến bao nhiêu lần. Giờ đây, anh cảm thấy sâu sắc rằng lực
lượng của một người rất cô độc, trí tuệ của một người chỉ có hạn. Đặc biệt là
xa rời người thủ trưởng trẻ tuổi, càng cảm thấy thiếu thốn. Sau một đêm suy
nghĩ, tinh thần anh mệt mỏi.
Buổi sáng ngày hai mươi ba, đầu óc đã
nặng trĩu, nhưng suy nghĩ vẫn chưa ngừng. Lúc anh cùng với Bát đại kim cương
vào hội kiến Tọa Sơn Điêu, đột nhiên anh phát hiện thấy luồng mắt ranh mãnh của
Tọa Sơn Điêu nhìn anh một cách kỳ dị. Dương Tử Vinh chợt nhận ra thiếu sót
nghiêm trọng của mình. Anh tưởng tượng như mặt mình đang đỏ, thiếu bình tĩnh,
còn Tọa Sơn Điêu thì đang tra hỏi liên hồi. Các tế bào của Dương Tử Vinh hình
như cũng rung động: "Thật là thiếu sót! Ta chỉ nên suy nghĩ về đêm. Vì suy
nghĩ tất phải hiện ra nét mặt. Cho nên ban ngày không cho phép được suy nghĩ.
Phải nghiêm khắc tuân theo kỷ luật này."
Sau khi tự mình ra lệnh cho mình, anh
lại nghĩ: "Lúc này là đo thần kinh của mình đối với tên trùm phỉ quá căng
thẳng, hay do tên trùm phỉ phát hiện ra cái khả nghi của mình? Đối phó với tình
hình này thế nào?".
"Bất kể thể nào, công tác cũng cần
phải chuẩn bị từ cái mặt gian khổ nhất, phải bỏ tâm lý cầu may, bất cứ một tâm
lý cầu may nào đều làm cho mình bị tê liệt."
Anh kết luận:
"Đã trót thì phải chét. Sẽ chuẩn bị
tùy cơ ứng biến."
Khi Dương Tử Vinh đã hạ quyết tâm, đôi
mắt dị kỳ của Tọa Sơn Điêu lần thứ ba lại quay nhìn Dương Tử Vinh không chớp
mắt.
Dương Tử Vinh chưa hề hay biết, quay mặt
ra ngoài của, ngẩng đầu hít làn không khí lạnh, thở ra mấy cái dài. Sau đó quay
lại, cố ý nheo mắt, nhăn mặt, tay bóp đầu, thở mạnh ra một cái, đứng thừ ra vẻ
như người ốm.
Tên mặt rỗ ân cần chăm chú hỏi Dương Tử
Vinh:
- Cửu hiền đệ sao thế? Bị trúng gió đấy
à?
Bảy tên đại kim cương khác cũng quay nhìn
Dương Tử Vinh dò hỏi như tên mặt rỗ. Riêng có Tọa Sơn Điêu vẫn có vẻ đặc
biệt.
Dương Tử Vinh nhếch mép gượng cười:
- Không hề gì. Mệt xoàng thôi. Bệnh nhẹ
chả đánh ngã được Cửu đầu này.
Bát đại kim cương cười khanh khách……
….Dương Tử Vinh đắc kế, song vẫn phải
tiếp tục giả vờ. Bữa cơm sáng ngồi cùng bàn với bọn trùm phỉ,. Dương Tử Vinh
chỉ húp qua mấy hớp canh. Lúc đó Tọa Sơn Điêu không biết là đã hết nghi ngờ hay
là có thủ đoạn gì. Hắn gọi đầu bếp nấu cho Dương Tử Vinh hai bát canh to tướng.
Dương Tử Vinh húp sột soạt, mồ hôi
vã ra
như tắm.
- Cụ Ba, tôi phải về nấu nước xông.
- Nhớ đội mũ cho cẩn thận. Đừng để gió
lọt vào. Đi về xông cho ra nhiều mồ hôi. Hôm nay là hai mươi ba tháng Chạp, chớ
bỏ nhỡ bữa rượu đưa Táo chầu trời đấy.
- Cám ơn lòng tốt của cụ Ba.
Vừa nói, Dương Tử Vinh vừa đội chiếc mũ
lông, trở về phòng. Vừa đặt mình xuống giường, anh đã bắt đầu ngay cuộc suy
nghĩ làm thế nào tiêu diệt sào huyệt thổ phỉ.
Buổi chiều, ở Uy Hổ Sảnh mở tiệc rượu.
Tọa Sơn Điêu và Bát đại kim cương cùng
với Dương Tử Vinh uống rượu.
Thật là may mắn, do Dương Tử Vinh uống
rượu, lại do suy nghĩ suốt một buổi sáng, lúc dậy đi tiểu tiện không khoác áo,
nên bị chút gió lạnh, tiếng nói trở nên nằng nặng. Dương Tử Vinh rất mừng, vì
như thế không phải chịu nỗi khổ tâm của người giả vờ ốm. Đặc biệt vờ cảm mạo là
chuyện rất khó, lũ phỉ chỉ cần sờ vào trán anh, nhìn vào mặt anh, nghe giọng
nói của anh cũng có thể biết ngay ra được.
Đang giữa tiệc rượu, Tọa Sơn Điêu bỗng
nhiên hỏi Dương Tử Vinh:
- Nẩy Cửu hiền đệ, nghe nói Yêu Bươm Bướm
và Trịnh Tam Pháo đã tằng tịu gì với nhau? Việc này Hứa lữ trưởng có biết không?
Đối với Dương Tử Vinh, đó là câu hỏi rất
hắc búa. Trong khi tra hỏi tù binh, bất cứ điểm nào có liên quan đến vấn đề
quân sự, anh đều không bỏ sót, và nhớ như in vào ruột. Nhưng mà về đời tư của
Hứa Gậy Gộc, trái lại anh hỏi rất ít. Từ lúc bắt dầu diễn tập làm thổ phỉ cho
đến nay, anh chưa hề đề phòng đến vấn đề này. Việc đó làm cho anh suy nghĩ rất
gắt. Đã không thể nói không biết, cũng không thể để cho lũ phỉ biết mình không biết.
Để che giấu vẻ nghĩ ngợi của mình, trong một lúc chưa thể trả lời ngay được,
anh cố ý ra vẻ chậm rãi, dằn từng tiếng, cười hỏi lại:
- Bẩm cụ, cụ hỏi việc ấy mà làm gì?
- Rỗi không có việc gì, hỏi chơi cho vui
bữa rượu.
Bát đại kim cương nghe thấy câu đó, cái
thói dâm ô nổi lên, chúng giục:
- Cửu hiền đệ, nói đi...
Dương Tử Vinh càng thêm lo lắng. Anh nghĩ:
"Nói không biết thì tỏ ra mình không phải Hồ Bưu nữa rồi. Nói liều một mẻ,
càng dễ sơ hở. Tên trùm phỉ này muốn dò xét mình hay muốn nếm một chút của
người? Hiện nay cũng khó mà đoán cho ra được."
Để hết sức tranh thủ thêm thời giờ nghĩ
cách đối phó, anh hắt hơi liền hai cái và cố làm ra người bị cảm muốn hắt hơi
nữa. Mặc dầu cái hắt hơi này chỉ kéo dài được mấy giây đồng hồ, nhưng chỉ với
mấy giây ấy cũng đủ để Dương Tử Vinh nghĩ ra một kế hoãn binh. Anh vuốt mũi,
đứng dậy, cười toét miệng:
- Các đại ca muốn nghe, Cửu đệ xin kể lại,
nhưng để cho tôi đi giải cái đã!
Bát đại kim cương sốt ruột, giục:
- Mau đi, mau đi, Cửu đệ...
Dương Tử Vinh vừa sờ dây thắt lưng, vừa
mỉm cười bước ra khỏi Uy Hổ Sảnh nói:
- Chớ vội, người ta thuờng nói: "Cơm
ngon không sợ ăn muộn, chuyện hay chẳng ngại nghe chậm". Càng thong thả
càng có đầu đuôi, càng thú vị.
Trên một quãng đường dài chỉ có ơn một
trăm bước đi ra nhà xí và trở về bàn tiệc, Dương Tử Vinh phải suy nghĩ rất gay
go: "Thằng trùm phỉ này đúng là muốn thử mình, duy có Bát đại kim cương
thì chưa phát hiện ra điểm này. Chứng tỏ bọn chúng vẫn chưa có bàn bạc gì với
nhau. Nhưng làm thế nào giải đáp một vấn đề nan giải bất ngờ này? Đây là một
vấn đề quan trọng mấu chốt. Nếu không làm rõ được thì hắn có thể đánh dấu hỏi
mình có phải là thân tín của Hứa Gậy Gộc, có phải là Hồ Bưu không?"
Đấu tranh, rõ ràng là cuộc đấu tranh
phức tạp giũa ta và phỉ. Nói cho đúng thì đó là một trận chiến đấu nguy hiểm,
vì nó là một trận tấn công của tên trùm phỉ đánh vào một chỗ ta hoàn toàn chưa
có chuẩn bị, vào một chỗ ta bị tê liệt không ngờ. Hơn nữa trận đấu này chỉ cho
phép thành công, không cho phép thất bại.
Nếu thất bại lần này, tuy rằng chưa thể
đi tới thiệt ngay tính mạng, nhưng ít nhất nó cũng tăng thêm cảnh giác của tên
trùm phỉ đối với mình, như vậy sẽ dần dần đi đến thất bại. Một cuộc chiến đấu
gian khổ phức tạp như thế, đối với một ngưòi trinh sát quân sự thông thường như
mình, thật là quá sức!
Cuối cùng, Dương Tử Vinh quyết định đối
sách của mình: "Ta phải dùng sách đánh lạc đầu đề, nhờ gió bẻ măng. Mượn
cái đầu đề Yêu Bươm Bướm, nói hươu nói vượn để đánh lạc hướng của hắn. Vì dĩ
vãng của Yêu Bươm Bướm, ta biết rất tỉ mỉ qua những cuộc đấu tố của quần chúng
ở thôn Sam Lam và trấn Tiên Cô Động. Dùng ba tấc lưỡi mà đưa hắn vào ngã ba
đường mười vạn tám nghìn dặm, đi đến cái mâu thuẫn giữa Hứa Phúc và Trịnh Tam
Pháo tranh nhau chức tham mưu trưởng, như thế thì. .."
Dương Tử Vinh vừa đặt chân vào ngưỡng
cửa. Bát đại kim cương đã nói ngay:
- Cửu đệ, Cửu đệ! Mau ngồi xuống, nói…
Dương Tử Vinh đàng hoàng, điềm tĩnh ngồi,
cười hà hà:
- Nhắc đến chuyện họ thì thật mấy ngày
cũng không hết. Các đại ca có thời giờ muốn nghe, tôi phải kể từ đầu chí cuối,
có gốc có ngọn, có cành, có lá, có được không?
Bát đại kim cương nhiệt liệt tán thành:
- Tốt lắm!
Tọa Sơn Điêu cũng tán đồng....
Dương Tử Vinh bắt đầu kể tỉ mỉ từ thằng Ba
Khương "lợn ỉ" lấy bảy vợ cho đến Yêu Bươm Bướm nổi danh, chuyện mấy
chục cậu ấm và Yêu Bươm Bướm, chuyện Hứa Phúc và Yêu Bươm Bướm ăn nằm với nhau,
rồi cha con họ Hứa cùng vói Yêu Bươm Bướm... Kể đến nỗi Bát đại kim cương cười
híp cả mắt. Mục đích của Dương Tử Vinh là giết thời giờ, kéo dài thời gian, che
giấu cái chỗ mà anh không biết, lúc thì liên hệ với Chư Bát Giới, lúc thì liên
hệ đến Võ Tắc Thiên, cách liên hệ rất là kỳ diệu, không hở hang sơ sót chỗ nào.
Anh hết sức phát huy cái tài tán chuyện phiếm, nói thao thao bất tuyệt như rồng
bay phượng múa của mình.
Cho đến gần tối, mới kể đến chuyện Hứa
Phúc và Trịnh Tam Pháo tranh nhau làm tham mưu trưởng. Đó là cái chỗ anh biết
rất tỉ mỉ khi tra hỏi tù binh thậm chí còn thuộc hơn cả những ám hiệu và tiếng
lóng thổ phỉ mà anh đã học. Nói đến đây, Dương Tử Vinh cố ý vươn vai, lắc đầu:
- Thưa các đại ca, chuyện Trịnh Tam Pháo
và Yêu Bươm Bướm hãy xin để lại nói sau, cơm ngon không nên ăn hết ngay một bận.
.
Bát đại kim cương cười lên một hồi:
- Cửa hiền đệ quả có tài kể chuyện, nói
dẻo như kẹo. Bây giờ cũng nên dừng lại, để hôm khác sẽ hạ hồi phân giải, để
hiền đệ đi nghỉ.
Dương Tử Vinh vươn vai cái nữa, đập tay
bàn, nói:
- Chuyện kể đến đây chia làm hai phần.
Muốn biết Trịnh Tam Pháo và Yêu Bươm Bướm cấu kết với nhau thế nào, trước tiên
phải hiểu Trịnh Tam Pháo và Hứa Phúc tranh nhau chức tham mưu trưởng ở Nãi Đầu
Sơn.
Dương Tử Vinh kéo một hơi thuốc, tu một
hớp nước, kể:
- Vào khoảng tháng Tám, tháng Chín mùa thu
năm nay, Hứa lữ trưởng phân phối chăn dạ mùa rét, làm cho Hứa Phúc và Trịnh Tam
Pháo xung đột. Chăn có đủ các màu, các loại, có chăn da cừu, da sói, da báo, da
gấu, lại có ba cái chăn da hổ. Hứa lữ trưởng lại có dụng ý, chia làm năm loại
người. Loại cuối cùng cho chăn da cừu, loại thứ tư cho chăn da báo, loại thứ ba
cho chăn da sói, loại thứ hai quan viên chăn da gấu, Hứa lữ trưởng và Yêu Bươm
Bướm mỗi người một chăn da hổ. Còn cái chăn da hổ thứ ba thật khó chia. Nếu căn
cứ vào chức vụ thì phải chia cho Hứa Phúc là tham mưu trưởng, nhưng Trịnh Tam
Pháo căn bản lại không phục. Tất nhiên ý Hứa lữ trưởng là muốn chia cho con
mình, nhưng lại ngại tính nết hung đồ của Trịnh Tam Pháo và lũ đồ đệ chân tay
của hắn, lại thêm Yêu Bươm Bướm bí mật giúp sức cho Trịnh Tam Pháo nên không
dám tự tiện đem chia.
Qua mấy ngày sau, Hứa lữ trưởng nghĩ ra
một diệu kế, đó là kế của Tào Tháo đã dùng trong bữa đại tiệc ở đài Đồng Tước.
Đem treo chăn da hổ buộc vào sợi dây treo lên cây, cách 150 thước, xếp gia nhân
họ Hứa và thân thuộc thành một hàng, xếp Trịnh Tam Pháo và các đồ đệ của hắn
thành một hàng, bao nhiêu anh em còn lại thì đúng ngoài xem. Hứa lữ trưởng quy
định ai bắn trúng sợi dây, da hổ rơi xuống đất, người ấy sẽ được da hổ.
Yêu Bươm Bướm muốn da hổ về tay Trịnh Tam
Pháo, nên chị ta đứng ngay vào hàng đầu nhà họ Hứa. Cuộc thi bắt đầu, Yêu Bươm
Bướm rút khẩu pạc-hoọc ra, ai cũng biết đôi pạc-hoọc của chị ta bắn rất nhạy.
Nếu Yêu Bươm Bướm có bắn trúng, thì Trịnh Tam Pháo cũng chẳng giận, vì rằng họ
đã... Nhưng Yêu Bươm Bướm bắn trượt. Trong hàng ngũ Trịnh Tam Pháo có tỉếng
kêu, Trịnh Tam Pháo lập tức giơ súng định bắn,thì bị Hứa Phúc hầm hầm chạy ra
ngăn lại, đỏ mặt tía tai:
- Không được. Phát súng này không được tính,
vì dì Yêu có sự thiên vị.
Tay Trịnh Tam Pháo hung đồ đâu có chịu,
nhưng không biết tại sao hắn ta không nói gì, có lẽ vì hắn sợ âm mưu cấu kết
của hắn và Yêu Bươm Bướm bị lộ.
Bát đại kim cương chêm vào:
- Vì Hứa công tử đã vạch chỗ thiên vị của
Yêu Bươm Bướm. Đừng vạch ra thì được, thì Trịnh Tam Pháo mới nhượng bộ.
Dương Tử Vinh kể tiếp:
- Đúng thế đấy, Hứa Phúc vẩy khẩu pạc-hoọc
một cái. Pằng, pằng mấy tiếng đạn nổ. Sợi dây treo tấm da đứt tung, miếng da hổ
rơi xuống đất. Hứa Phúc đắc chí, kéo sợi dây trên tấm da hổ, huýt sáo. Vừa định
quay về, thì bọn đồ đệ của Trịnh Tam Pháo kêu la ầm ĩ: "không công bằng,
không công bằng!" Tiếng kêu la khiến cho Trịnh Tam Pháo sinh bực tức, hắn
cắt đứt ngay sợi dây Hứa Phúc đang kéo. Bọn đồ đệ Trịnh Tam Pháo cướp lấy tấm
da hổ. Hứa Phúc cáu tiết, co chân đá một tên đồ đệ của Trịnh Tam Pháo và chửi
mắng om sòm. Trịnh Tam Pháo vội tiến đẩy Hứa Phúc ra:
- Này công tử, đánh chó còn phải ngó đến
chủ chứ. Công tử thật không phải là người trượng nghĩa, tại sao đánh đồ đệ của
ta.
Hứa Phúc mắt hấp háy:
- Đồ đệ cái đếch gì. Ta là tham mưu trưởng
có quyền dạy dỗ chúng nó.
Thấy Hứa Phúc cậy mình là tham mưu trưởng,
Trịnh Tam Pháo nổi giận:
- Tham mưu trưởng cái chó gì. Không nể mặt
lữ trưởng thì ai hầu hạ mi.Mi hãy trông cây súng của Trịnh Tam Pháo đánh khắp
thiên hạ. Oắt con như mi thì ra cái thá gì.
Rồi hai ngưòi cãi lộn. Hứa Phúc cậy có sức
khỏe, muốn ra tay. Thấy tình hình gay go, Hứa lữ trưởng vội đến can. Yêu Bươm
Bướm nguẩy đít, mắng nhiếc Hứa Phúc. Thằng cha Hứa Phúc hung hăng tất nhiên
chẳng khi nào chịu, hắn quay lại nhổ một bãi nước bọt vào mặt Yêu Bươm Bướm...
Bát đại kim cương đang ngẩn người ra nghe,
bỗng một tên phỉ hớt hải chạy vào, cắt ngang câu chuyện của Dương Tử Vinh:
- Báo cáo! Có việc! Có việc!...
Tọa Sơn Điêu hỏi:
- Có việc gì?
- Mấy tên lâu la xin...
- Gọi mấy thằng chó chết ấy vào đây!
- Có!
Năm tên thổ phỉ tả tơi, rách mướp được dẫn
vào. Tên thì treo dây lưng vào cánh tay, tên thì đi khập khiễng, tên thì khăn
tay rách buộc lên đầu, có dính máu. Năm tên phỉ run như chó ốm, giương mắt nhìn
Tọa Sơn Điêu.
Tọa Sơn Điêu nghiến răng:
- Thế nào? Định phá Uy Hổ Sơn của ta sao?
Năm tên phỉ cúi mặt, lấm lét nhìn lẫn
nhau, không nói năng gì.
Một tên gầy gò xanh xao, cuối cùng không
chịu được vẻ hung dữ của Tọa Sơn Điêu và Bát đại kim cương, lắp bắp nói :
- Bẩm cụ Ba, chúng tôi ở miếu Thần Hà. Sư
thầy Định Hà bảo chúng tôi về báo cáo cho cụ biết chiếc xe lửa nhỏ ở thôn Giáp
Bì bắt đầu chạy, chở đến nhiều thứ lắm. Chúng tôi nghe thấy, nghĩ rằng khi nào
lại chịu trở về tay không. Nên chúng tôi đi thâu ngày thâu đêm đến thôn Giáp
Bì. Tới nơi vào lúc quá khuya, vừa định mò vào, bỗng một tràng súng nổ, Điêu lão
bá và bốn người nữa bị chết ngay tại trận. Sáu người chúng tôi biết không thể
đối địch được, liền bỏ chạy.
Lúc ấy trong làng có tiếng hô:
- Bắt sống...
Nghe tiếng có đến hai ba trăm người, nếu
không chạy nhanh thì nguy đến nơi. Chạy đến lưng chừng núi, một viên đạn lạc
đột nhiên trúng vào Tôn Nguyệt Hỷ, chết ngay...
Tọa Sơn Điêu thất kinh:
- Ủa! Những hai ba trăm người cơ à?
- Vâng, hai ba trăm người. Có lẽ còn hơn
nữa.
- Thế Sư thầy Định Hà không nói cho chúng
mày biết à?
- Sư thầy Định Hà nói trên xe chỉ có bảy,
tám người.
Tọa Sơn Điêu điên người, hỏi:
- Có thư không?
Tên phỉ móc trong tà áo ra một cuộn giấy,
đưa cho Tọa Sơn Điêu.
Tọa Sơn Điêu mở cuộn giấy xem, nét mặt lộ
vẻ mừng rỡ, lẩm bẩm:
- Xe lửa chạy, tiền tài vô số.
Rồi quay về phía năm tên phỉ nói:
- May mà không mất cái thư này. Nếu mà mất
thì Định Hà sư huynh...
Dương Tử Vinh nghe rõ câu chuyện, vô cùng
khoan khoái, vì: một là lũ phỉ đã đụng đầu vào đá, hai là tội trạng của tên đạo
sĩ gian ngoan lại được Tọa Sơn Điêu cung cấp thêm, chủ yếu nhất là bọn phỉ đã
nhầm lẫn nhìn phân đội ba mươi sáu người thành hai ba trăm người. Do đó Tọa Sơn
Điêu có thể tập trung sức lực đề phòng mạn Giáp Bì, hơn nữa bọn phỉ cũng không
dám đánh thẳng vào Giáp Bì nơi có hai ba trăm người ấy…..
Nghĩ tới đây, Dương Tử Vinh mừng thầm:
- "Ta lại nhờ gió bẻ măng một lần
nữa."
Lập tức, anh nghiêm nét mặt hỏi mấy tên
phỉ:
- Các anh đi lối nào về đây? Có xóa sạch
chân không?
Mấy tên phỉ sợ hãi:
- Hỏng rồi, hỏng rồi! Chúng tôi hoảng hốt
chẳng phân biệt đường hướng nào, chạy một mạch về đến đây.
Tọa Sơn Điêu đang vui vẻ, bỗng đâm giận dữ:
- Đồ toi cơm! Bây giờ phải lập tức tăng
cường cảnh giới mặt Giáp Bì.
Thằng mặt rỗ tỏ vẻ tán đồng:
- Đúng đấy! Sắp đến ngày Bách kê yến ba
mươi tết rồi. Để chúc thọ cụ Ba sáu mươi tuổi được vui vẻ, không thể để cho mấy
thằng toi cơm này phá quấy. Bây giờ phải phạt chúng nó mấy ngày đêm đi tuần.
Năm tên phỉ ủ rũ bước ra.
Dương Tử Vinh mỉm cười, nói với tên mặt
rỗ:
- Tham mưu trưởng, không nên quá giận dữ.
Công việc hiện đang cấp bách. Cho mấy thằng cha bị thương này đi canh gác
thì...
Tên mặt rỗ nói:
- Cửu đệ, đã nói là phải làm. Lũ quỷ này
không làm thế không được. Canh gác tất nhiên sẽ phái người khác, nhưng mà...Một
lực lượng nhỏ hai ba trăm người của quân cộng sản, đang nghỉ ngơi để đến đánh
Uy Hổ Sơn. Nếu nó đánh vào thật, thì tức là nó tự tìm lấy cái chết. Cứ để cho
nó đến, chỉ sợ nó không có đường về.
Bát đại kim cương cười một cách ngạo mạn:
- Nhưng chúng mình phải ra oai một phen mới
được. Bẩm cụ Ba, còn bảy hôm nữa mới đến ba mươi tết, tôi xuống núi cho nó một
trận, cụ xem có được không?
Tọa Sơn Điêu nheo mắt cười:
- Thế thì còn gì bằng, Uy Hổ Sơn từ trước
đến nay chưa bị thế này bao giờ. Nhưng chưa thể đánh ngay Giáp Bì được. Hiện
nay cần phải bảo tồn thực lực, đợi quốc quân đến, sẽ cho nó một mẻ. Lúc ấy
ngươi xuống núi, sẽ đem quân đánh vào đội công tác của quân cộng sàn hay là
đánh vào xe lửa.
Nghe thấy kế hoạch độc ác của lũ phỉ,
Dương Tử Vinh không khỏi bồn chồn trong dạ. Lần này chúng mà xuống núi nhất
định là sẽ xảy ra bao nhiêu cảnh cướp bóc, giết người. Muốn nghĩ cách phá kế
hoạch của chúng, bất đắc dĩ phải liên lạc cấp tốc, báo cho các bản ở trên núi
và đường sắt chuẩn bị đề phòng.
Bọn phỉ đã nói là chúng đi. Dương Tử Vinh
chưa kịp có thời giờ để nghĩ cách ngăn trở. Tối nay, tên mặt rỗ đã mang ba mươi
sáu người xuống núi. nhưng bọn chúng sẽ quấy rối ở đâu, Dương Tử Vinh không hề
biết gì. Đó là đặc điểm hoạt động của bọn phỉ. Khi thực hành ý đồ cướp giết,
chúng chẳng bao giờ có kế hoạch trước. Chỉ sau khi xuống núi rồi, chúng mới tùy
cơ ứng biến, cần hạ thủ thì hạ thủ.
Nhiệm vụ đặt trước mắt Dương Tử Vinh là
phải liên lạc ngay với phân đội. Mục đích liên lạc này chẳng những đề phòng tên
mặt rỗ xuống núi, mà chủ yếu là báo cáo kế hoạch tiêu diệt sào huyệt thổ phỉ
Tọa Sơn Điêu, do Dương Tử Vinh đã suy nghĩ trong nửa ngày giả ốm. Kế hoạch ấy
đã được bí mật viết vào miếng vỏ cây hoa, nhưng làm thế nào mang đến địa điểm
liên lạc đã quy định là một vấn đề nan giải. Đêm tối lẻn ra đi chăng? Cũng chưa
dám tin chắc rằng Tọa Sơn Điêu không kiểm soát. Dương Tử vinh suy nghĩ suốt
đêm.
Tờ mờ sáng ngày 24 tháng Chạp.
Sau một đêm suy nghĩ, Dương Tử Vinh ngủ
thiếp đi. Bỗng trên ngọn đồi đông bắc truyền lại hai tiếng súng lanh lảnh, tiếp
theo là tiếng hô loạn xạ.
Dương Tử Vinh và Thất, Bát đại kim cương
vừa ra đến cửa thì đã gặp ngay Tọa Sơn Điêu đứng ở đó. Chỉ nghe thấy hai tên
phỉ kêu ở trên ngọn đồi phía đông bắc:
- Quân địch đến rồi!
Dương Tử Vinh sửng sốt, tinh thần căng
thẳng, óc anh lại nảy ra một trận suy nghĩ:
"Quái lạ! Không lẽ thủ trưởng 203
lại mạo hiểm thế sao? Không lẽ các đồng chí theo vết chân lũ phỉ đến đánh hay
sao? Nếu quả thực thế thì kết quả chiến đấu chưa biết thểế nào mà lường cho
được! Bây giờ mình phải làm gì? Một khẩu pạc-hoọc và một quả lựu đạn trước hết
tiêu diệt lũ phỉ trước mặt mình hay thế nào?..."
Trong một vài giây đồng hồ đó, Dương Tử
Vinh suy nghĩ rất nhiều, hai bàn tay nắm chặt, thấm đầy mồ hôi. Bỗng tiếng súng
trước mặt làm anh nhận ra tình hình. Tiếng súng nghe rất xa, đạn bay cao, tiếng
hô ra chiều vội vã, tên trùm phỉ lại đứng ngay trước cửa nhất định là hắn phải
biết trước công việc ngày hôm nay. Như thế thì chắc chắn là do hắn bố trí. Anh
lại tự suy xét:
"Nghe tiếng súng biết không phải là
chiến thuật của phân đội. Phương pháp tập kích của phân đội từ trước đến nay
không hề làm ầm ĩ, cự ly cũng không hề cách xa quá như thế. Phương hướng xuất
kích của phân đội, quyết không thể từ phía Giáp Bì,mà đó chỉ là hư trương thanh
thế để bọn phỉ chú ý."
Anh hoàn toàn tin tưởng ở mưu cơ tác chiến
của thủ trưởng 203 và phân đội. Như vậy, tên trùm phỉ muốn dùng thuật gì? Muốn
dùng diễn tập quân sự để nâng cao cảnh giác của bọn phỉ, hay là muốn dùng cách
này để thử thách ta lần nữa? Để đấu tranh thắng lợi, ta chỉ có quyền nghĩ đến
khả năng thứ hai, không có quyền nghĩ đến khả năng thứ nhất. Vấn đề bây giờ là
ta phải tỏ thái độ thế nào trước mặt tên trùm phỉ.
Một loạt súng nữa nổ rất dữ dội, đạn bay
lên không.
- Bẩm cụ Ba, tôi xin đi chỉ huy!
Dương Tử Vinh vừa thỉnh thị Tọa Sơn Điêu,
vừa chạy vụt về phía đồi đông bắc. Dương Tử Vinh nấp sau một thân cây trên đầu
núi, lợi dụng điểm cao và thẳng để quan sát, và chúng thực cho phán đoán của
mình.
Dương Tử Vinh phấn khởi, cho rằng đây là
cơ hội tốt, cần phải mượn gió bẻ măng một lần nữa. Anh rút khẩu pạc-hoọc nghĩ:
- "Mình bắn chết mấy thằng phỉ để tỏ
rõ bản lĩnh trước mặt Tọa Sơn Điêu, phá tan mối hoài nghi của hắn đối với
mình."
Nghĩ rồi anh lên đạn, bắn liền hai phát,
rồi lại siết cò nổ luôn một băng nữa. Đạn rơi chung quanh các bóng đen, bụi
tuyết bay mù.
Dương Tử Vinh lập tức thay luôn băng khác,
vừa định bóp cò, bỗng có một bàn tay sờ lên vai anh:
- Cửu đệ, hãy khoan!
Dương Tử Vinh quay lại nhìn, thì ra Toa
Sơn Điêu và Bát đại kim cương đã đứng đằng sau lưng anh từ bao giờ. Tọa Sơn
Điêu vểnh râu dê, nhìn Dương Tử Vinh cười, rồi ghé vào tai anh nói nhỏ:
- Cửu đệ! Đừng bắn, đó là ta bố trí diễn
tập quân sự đấy mà.
Duơng Tử Vinh giương mắt, ra bộ ngạc nhiên:
- Bẩm cụ Ba, thật nguy hiểm quá. Nếu cụ
không đến sớm một tí, tôi bắn một băng này nữa thì có thể chết mấy người.
Anh hạ thấp giọng, có vẻ oán trách:
- Cụ Ba định diễn tập sao không bảo tôi một
tiếng, cụ Ba còn chưa tin Hồ Bưu này, coi tôi như người ngoài hay sao.
Tọa Sơn Điêu rung rung hai bả vai, cười:
- Hà hà hà... Cửu hiền đệ, chớ lo phiền.
Lần diễn tập này ai cũng không được biết, chẳng tin hiền đệ cứ hỏi mà xem.
Dương Tử Vinh đắc ý nghĩ bụng:
- "Thuật của tên trùm phi thế là đã
rõ ràng, hắn muốn thử thách mình. Những tràng súng bắn lúc nãy của mình đã có
tác dụng giải trừ mối nghi ngờ của hắn đối với mình. Bây giờ mình cần phải mượn
gió bẻ măng, lợi dụng vấn đề này để làm lợi cho ta."
Với chủ ý định sẵn, Dương Tử Vinh đề nghị
với Tọa Sơn Điêu:
- Bẩm
cụ Ba, diễn tập không thể chỉ diễn tập phòng ngự, mà còn phải tập truy kích, cụ
thấy thế nào?
Tọa Sơn Điêu vuốt bộ râu dê:
- Chính hợp ý ta. Cửu đệ, nguơi hãy điều
khiển việc truy kích.
- Xin tuân lệnh!
Dương Tử Vinh hô to:
-
Các anh em! Quân địch đã rút lui! Mau truy kích! Hãy theo ta...
Năm mươi tên phỉ ở trên đồi theo tiếng hô
của Dương Tử Vinh, bò ra ngoài lô-cốt. Dương Tử Vinh vẫy khẩu pạc-hoọc, dẫn năm
mươi tên phỉ lao xuống núi.
Đối phương đã ngừng tiếng súng, các bóng
đen đã mất tăm tích. Đuổi được ba dặm, thấy bức thành tuyết ngụy trang lấp
ngoài cửa hang đã bị phá. Đó là vết chân người bò vào lúc nãy, là vết chân của
mấy tên phỉ đóng giả cộng quân. Như vậy là không còn vấn đề gì nữa. Nhưng bây
giờ chưa thể nói cho thổ phỉ biết được, bây giờ cũng không thể thu quân. Vì
rằng mục đích đề nghị truy kích của Dương Tử Vinh là muốn mượn cớ để đem miếng
vỏ cây hoa liên lạc với phân đội. Bây giờ đã nắm được quyền chỉ huy truy kích
trong tay, đó là một điều kiện rất thuận lợi để tiến hành liên lạc.
Nhưng trước mắt đã không còn vết tích gì
của cộng quân rút lui nữa, thì làm thế nào chỉ huy? Làm thế nào để che mắt bọn
phỉ lâu la? Làm thế nào để chỉ huy việc truy kích hướng gần vào địa điểm liên
lạc của mình? Thật là nan giải. Phương
hướng truy kích hiện nay là đông bắc, mà địa điểm liên lạc của mình lại là
hướng nam, là nơi mà mình đã tiến vào dâng lễ hôm đầu tiên.
Dương Tử Vinh nghĩ ra một cách:
- "Đã có chức tất phải có quyền, phải
giả truyền thánh chỉ."
Nghĩ rồi anh ra mệnh lệnh cho thổ phỉ:
- Lữ trưởng hạ lệnh, sau khi tiêu diệt quân
địch, phải đi tuần một vòng quanh núi. Tiểu đoàn trưởng 1 đâu?
Một tên tiểu đoàn trưởng cao, gầy trong
đám phỉ đứng lên:
- Có.
- Ngươi dẫn một bộ phận đi theo hướng bắc,
vòng về hướng nam để dò xét phía bắc, phía nam núi, ta chỉ huy một bộ phận dò
xét phía đông và phía nam núi. Một giờ rưỡi sau, tập hợp ở sảnh đường Uy Hổ.
Xin tuân lệnh.
Tên tiểu doàn trường cao, gầy dẫn ba mươi
người đi rẽ về hướng tây bắc, Dương Tử Vinh thân dẫn hơn hai mươi người, rẽ
xuống dốc, đi về hướng nam.
Muốn cho khỏi lộ cái ám hiệu khắc trên cây
ở địa điểm liên lạc, Dương Tử Vinh bố trí lũ phỉ ở phía đằng sau cái chạc cây.
Khi bố trí chắc chắn rồi, anh mới nói cho lũ phỉ biết:
- Các anh em! Hôm nay cụ Ba đặc biệt bố
trí diễn tập quân sự đấy. Các anh em có mệt không?
Lũ phỉ đang căng thẳng về cuộc chiến đấu,
bỗng nhiên cười nói vang ầm:
- Tôi bảo rằng Uy Hổ Sơn chúng mình vững
như núi Thái Sơn, binh tướng nhà giời cũng không đánh nổi, nói gì đến cộng
quân.
- Cộng quân không có mười vạn quân, nó dám
vào Uy Hổ Sơn! Hừ! Mèo sao dám liếm mũi hổ!
- Đến bọn quỷ Nhật mà còn phải mời cụ Ba
xuống núi nữa là.
Dương Tử Vinh cười hà hà. Lúc này anh muốn
thực hành kế hoạch liên lạc đã dịnh, nên anh nói:
- Các anh em, chúng mình hãy diễn tập
phòng thủ, đã diễn tập truy kích, bây giờ lại diễn tập xung phong một trận, các
anh em thấy thế nào?
Lũ phỉ đồng thanh:
-
Xin nghe theo mệnh lệnh của ông Chín.
Dương Tử Vinh chĩa khẩu pạc-hoọc về phía
trước:
- Mục tiêu nhằm thẳng phía đỉnh núi con,
phát hiện địch nhân, xung phong!
Lũ phỉ hét ran lên, băng qua địa điểm
liên lạc của Dương Tử Vinh, lao vê ngọn đồi phía tây. Lợi dụng lúc ồn ào đó,
Dương Tử Vinh rút từ trong túi thuốc lá ra một vỏ cây mỏng. Trong nháy mắt, anh
bỏ ngay vào hốc cây to bằng hộp thuốc lá anh khoét hôm nọ. Sung sướng nhìn lại
cái vết chân cũ giống như thú vật của mình trên tuyết, rồi anh chạy một mạch
lên địa điểm bọn phỉ xung phong…..
Tôn Đạt
Đắc cứ men theo ám hiệu của Dương Tử Vinh khắc trên cây, lê đôi chân dài, đi đã
được ba ngày. Mấy ngày qua, tuyết nhỏ, gió nhẹ làm cho Tôn Đạt Đắc đi càng mau
hơn. Ba ngày qua, ba ngày vật lộn với tuyết, với mệt nhọc vất vả, sức lực của
anh đã tổn phí nhiều, thân thể cường tráng của anh đã mềm nhão ra. Mỗi bước
chân bước đi, không phải là tiến lên phía trước mà như lùi lại sau. Chân trái
vừa mới rút lên, thì chân phải lún càng sâu. Có khi muốn rút được chân phải,
thì phải dồn sức xuống chân trái, làm cho chân trái càng lún sâu. Có lúc rút
lên mấy lần không được.
Chuyến đi liên lạc này đã làm giàu thêm
tri thức đi tuyết của Tôn Đạt Đắc. Khi không rút được chân lên, chi còn cách
nằm lăn trên tuyết như con ngựa kéo xe bị ngã, thở một hơi, rồi lại dậy. Có lúc
bò dậy không được, anh giãy giụa một hồi, không kết quả, bỗng anh lăn mình sang
một bên, muốn nằm ngửa ra một lúc. Nhờ cái lăn này mà thân thể thấy nhẹ nhàng
khoan khoái, đám tuyết mà anh lăn không bị hút xuống như vết chân nữa.
"Khỉ thật! Người mình nặng như thế mà
lại nhẹ hơn chân hay sao? Chẳng lẽ mình cứ phải lăn mãi thế này sao? Thôi được!
Để hoàn thành nhiệm vụ, lăn hay bò cũng chẳng sao”.
Từ lúc đó, Tôn Đạt Đắc khi thì đi, khi thì
lăn, chỗ nào tuyết nông thì đi, chỗ nào tuyết dày thì lăn.
Trời tối dần, những ám hiệu của Dương Tử
Vinh để lại cứ còn mãí không hết.
Tôn Đạt Đắc, ruột nóng nhu lửa: "Thời
gian! Thời gian... Hôm nay là hai mươi bốn tháng Chạp, thời gian hoàn thành
nhiệm vụ của mình chỉ còn ba ngày..."
Thời gian gấp rút và nhiệm vụ nặng nề càng
kích động tinh thần trách nhiệm cùa anh, cho anh thêm sức mạnh, mệt nhọc gần
như tiêu tan.
Mỗi bước đi, anh càng thêm lo lắng:
"Không biết đồng chí Dương Tử Vinh rút cục rồi ra thế nào? Có xảy ra sự gì
nguy hiểm không? Thôi đi mau! Chỉ có đi nhanh đến địa điểm liên lạc mới biết rõ
mọi sự thể." Ý nghĩ ấy làm cho anh
thêm sức mạnh, thúc đẩy anh đi càng nhanh. Vừa đi, vừa quan sát, đến gần ngọn
đồi nhỏ, bỗng phát hiện ra một cây nhỏ, đứng một mình, trên chạc ba của ngọn
cây có một vật gì. Anh mừng quýnh nhu muốn nhảy lên, nhưng anh lại cố trấn
tĩnh:
-
"Không được mạo hiểm, phải coi chừng..."
Anh ngồi xuống gốc cây, giống như một đội
viên trinh sát nhìn đi nhìn lại xung quanh vài ba lượt. Khi đã tin chắc không
có kẻ địch mai phục, anh chạy vội lại.
"May quá! Tìm thấy rồi, tìm thấy
rồi!"
Một mặt với lấy hòn đá trên chạc cây, một
mặt sờ soạng chung quanh cây. Có lẽ vì nóng vội,anh tìm không thấy.
"Có lẽ nào đồng chí Dương Tử Vinh
chưa bố trí xong tất cả công tác liên lạc..."
Dừng một lát, anh chợt nhìn thấy vỏ cây
trước mặt có một cái gì khang khác, sờ tay vào thấy vỏ cây động đậy.
"Rõ khỉ! Mi ở chỗ này, mà không nói lên
một tiếng!"
Tôn Đạt Đắc mừng rơn, rút đoản đao bập một
cái vào vỏ cây, rồi rút lưỡi dao ra. Một miếng vỏ cây to bằng hộp thuốc lá,
theo lưỡi dao rơi ra ngoài. Đồng thời một mảnh vỏ cây hoa cuộn trăng trắng cũng
rơi ra.
Tôn Đạt Đắc cầm chặt vào trong lòng bàn
tay:
"Ai dà! Bây giờ mới tìm thấy
mày!"
Rồi nhìn về phía bắc, anh nói:
"Người bạn chiến đấu anh hùng! Anh
đã thành công!"
Bỏ cuộn vỏ cây vào trong bọc cẩn thận, anh
thở ra một hơi dài, nhìn bốn xung quanh. Rừng núi vẫn tĩnh mịch. Hoàng hôn bao
trùm khắp cả. Mệt mỏi đã trở lại với anh, mỗi bước đi lúc này càng nặng nề hơn
bao giờ hết.
"Phải tranh thủ nghỉ một lát, dù là
một tiếng đồng hồ cũng tốt."
Không thể tự chủ được nữa, người đã khuỵu
xuống từ lúc nào. Đít vừa đặt tới đất, đã nhìn thấy xa xa ngoài trăm thước,
dưới bóng cây có bức tường tuyết nho nhỏ. Tôn Đắc Đạt cười mỉm:
- A, lại có bức tường chắn gió, ta phải
hướng ngay, hướng ngay!
Chống tay muốn đứng dậy, nhưng chân tay
mình mẩy đã mỏi dừ. Cố gắng đứng dậy lê từng bước đến gần bức tường tuyết, tức
thì ngã ngay vào trong đó, ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Bỗng nhiên nét mặt thân thiết của Kiếm Ba
hiện ra trước mắt anh, Kiếm Ba nắm chặt tay anh:
- Đồng chí Đạt Đắc, thời gian của đồng chí
chỉ có sáu ngày. Sáu ngày nếu không hoàn thành nhiệm vụ liên lạc bảy trăm dặm
trên tuyết, thì chúng ta bỏ lỡ mất cơ hội có lợi. Nhớ nhé! Thời gian là lực
lượng! Đồng chí đi đi! Chúc đồng chí thành công!
Trống ngực Tôn Đắc Đạt bỗng đập thình
thình, anh nghĩ đến lời dặn dò của thủ trưởng 203 lúc chia tay. Anh choàng mở
mắt, nhìn qua bóng tối và dùng lại bức tường tuyết chung quanh. Anh bốc hai nắm
tuyết xát lên mặt, hơi lạnh làm cho tinh thần anh tỉnh lại.
- Thôi, đi! Hôm nay là đúng ba ngày rồi.
Không thể vì Tôn Đạt Đắc mà bỏ lỡ mất cơ hội tốt! Đi! Càng nhanh càng tốt!
Anh mở to mắt, định bước đi ngay, bỗng có
một dấu vết làm cho anh chú ý. Anh cúi xuống tiến sát vào bức tường tuyết. Dấu
vết bàn tay thô kệch của Dương Tử Vinh còn in hằn vào bức tường tuyết, dấu vết
đó nói rõ bức tường tuyết là công trình của Dương Tử Vinh. Tôn Đạt Đác thêm
phấn chấn, lẩm bẩm:
"Người bạn chiến đấu, tôi tới đây
rồi! Để chiến thắng, tôi sẽ trở về ngay."
Đặt bàn tay vào vết tay của Dương Tử
Vinh, anh nói:
- Nào, bắt tay người bạn chiến đấu! Chào
đồng chí nhé! Tôn Đạt Đắc móc ra mẩu bánh mì, nuốt vài miếng, đứng dậy, bước
mạnh trên đường về. Bóng dáng cao lớn của anh, khuất vào trong rùng rậm âm u…..
(còn nữa)
Mục lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét