CHƯƠNG XII
Nguyễn Vương Nhất Thống Nước Nam
11. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La
12. Nguyễn Vương về lấy Gia Định
13. Nguyễn Vương sửa sang mọi việc ở Gia Định
14. Việc khai khẩn điền thổ
15. Việc buôn bán
16. Ông Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở Pháp về
17. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhất
18. Thế lực Tây Sơn
19. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ hai
20. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhất
21. Quân Tây Sơn vây thành Bình Định
22. Nguyễn Vương thu phục Phú Xuân
23. Võ Tính tử tiết
24. Nguyễn Vương lên ngôi tôn
25. Quân Nam ra lấy bắc hà
1. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La.
Tháng tư năm ất tị (1785), ông Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La ở Mỹ tho, Nguyễn Vương thế cô, lại phải sang nương nhờ nước Tiêm. Đến khi các tướng sĩ đã biết ngài ở Tiêm La, đều lục tục kéo sang bái yết, bấy giờ có quan cũ là Lê Văn Câu (còn gọi Quân hay Duân) đem 600 người sang theo giúp. Vua nước Tiêm để cho người ViệtNam ở riêng một chỗ gọi là Long Kỳ, ở ngoài
thành Vọng Các (Bangkok )133.
Tháng tư năm ất tị (1785), ông Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La ở Mỹ tho, Nguyễn Vương thế cô, lại phải sang nương nhờ nước Tiêm. Đến khi các tướng sĩ đã biết ngài ở Tiêm La, đều lục tục kéo sang bái yết, bấy giờ có quan cũ là Lê Văn Câu (còn gọi Quân hay Duân) đem 600 người sang theo giúp. Vua nước Tiêm để cho người Việt
Nguyễn
Vương bèn phân trí mọi người đi làm các việc: người thì đi làm ruộng để lấy
thóc gạo nuôi quân, người thì đi ra các đảo làm sẵng chiến thuyền,
người thì đi lẻn về Gia Định, chiêu tập những kẻ nghĩ dũng để đợi ngày khôi
phục.
Lúc bấy
giờ nhân có quân Diến Điện sang đánh Tiêm La, Nguyễn Vương cùng với bọn Lê Văn
Câu, Nguyễn Văn Thành đem quân bản bộ đi đánh giúp nước Tiêm. Nguyễn Vương lại
có công trừ được những giặc Mã Lai thường vẫn hay đến quấy nhiễu ở mặt bể. Bởi
vậy cho nên nước Tiêm lại càng trọng đãi vua tôi nhà Nguyễn.
2. Nguyễn Vương Về Lấy Gia Định.
Trong khi Nguyễn Vương còn phải nương náu ở đất Tiêm La, ông Nguyễn Huệ tiến binh ra Bắc Hà giết Trịnh Khải, tôn vua Lê, rồi về được phong là Bắc Bình Vương, đóng ở Phú Xuân. Ông Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương vào giữ đất Gia Định.
Trong khi Nguyễn Vương còn phải nương náu ở đất Tiêm La, ông Nguyễn Huệ tiến binh ra Bắc Hà giết Trịnh Khải, tôn vua Lê, rồi về được phong là Bắc Bình Vương, đóng ở Phú Xuân. Ông Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương vào giữ đất Gia Định.
Nhưng
chẳng được bao lâu, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ không hòa với nhau. Nguyễn Nhạc
đem quân Phú Xuân vào vây thành Quy Nhơn nguy cấp lắm. Nguyễn Nhạc phải vời đô
đốc Đặng Văn Chân đem quân ở Gia Định ra cứu.
Từ đó
quân thế của Tây Sơn ở Gia Định đã kém, ở các nơi lại có nhiều đảng theo về
chúa Nguyễn, rồi nổi lên đánh phá, làm cho quân Tây Sơn càng ngày càng khó
giữ. Vả trong mấy anh em Tây Sơn chỉ có
Nguyễn Huệ là anh hùng kiệt hiệt hơn cả, mà đã ra chuyên giữ mặt bắc, thì công
việc mặt nam phó mặc Nguyễn Lữ là người tầm thương, cho nên thế Tây Sơn ở mặt
ấy thành ra suy nhược.
Lúc bấy
giờ Nguyễn Vương ở Tiêm La vẫn có người đi về tin tức, biết có cơ hội lấy được
đất Gia Định, mà cũng biết rằng người Tiêm La vẫn không giúp được cho mình lại
còn có bụng ghen ghét: như năm đinh mùi (1787) có người Bồ Đào Nha đưa quốc thư
cho Nguyễn Vương xin đem binh và thuyền ở thành Goa134 lại giúp. Vua Tiêm La
biết việc ấy làm không bằng lòng, Nguyễn Vương phải từ chối và tạ ơn người Bồ
Đào Nha.
Đến khi
được tin rằng đất Gia Định có thể lấy được, Vương bèn để thư lại từ tạ vua Tiêm
La, rồi nửa đêm đem vương mẫu và cung quyến xuống thuyền về nước. Bấy giờ là
tháng bảy năm đinh mùi (1787).
Nguyễn
Vương đi qua đảo Cổ cốt có người nhà Thanh tên là Hà Hỉ Văn thuộc về Thiên Địa
Hội đem mấy người đến xin theo giúp. Vương về
133 Nay ở Bangkok có một chỗ gọi là làng Gia
Long tức là chỗ Nguyễn Vương ở ngày trước.
134 Đất thuộc địa của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ
134 Đất thuộc địa của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ
đến Hà
Tiên cho người đưa vương mẫu và cung quyến ra ở Phú Quốc, rồi cùng mọi người về
đóng ở Long Xuyên.
Lúc bấy
giờ Nguyễn Vương đi đến đâu, những người hào kiệt ra theo rất nhiều lại có
tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Trương đem 300 quân, 15 chiếc thuyền ra hàng. Qua
tháng 6, vương vào cửa Cần Giờ, quân thế to lắm, Đông Định Vương Nguyễn Lữ
khiếp sợ để quan thái phó Phạm Văn Tham ở lại giữ thành Sài Gòn rồi lui về đóng
ở Lạng Phụ, thuộc Biên Hòa.
Nguyễn
Vương sai người trá làm một cái thư của Nguyễn Nhạc gửI cho Nguyễn Lữ, trong
thư bảo phải giết Phạm Văn Tham đi, rồi vương sai người giả tảng đưa lầm cho
Phạm Văn Tham, Phạm Văn Tham bắt được cái thơ ấy sợ hãi, lập tức về Lạng Phụ để
phân giải tình oan với Nguyễn Lữ, nhưng Nguyễn Lữ thấy tự nhiên Phạm Văn Tham
kéo quân đến, lại có cờ trắng đi trước, tưởng là Văn Tham đã hàng nhà Nguyễn
rồi, vội vàng bỏ thành chạy về Quy Nhơn, được ít lâu thì mất.
Phạm Văn
Tham trở về giữ thành Gia Định đánh phá được quân nhà Nguyễn. Nguyễn Vương phải rút quân về miền Mỹ Tho,
chỉ còn được 300 quân và vài mươi chiếc thuyền, thế lực đã núng lắm. Nhưng nhờ
có mộ thêm được mấy nghìn quân Cao Miên và lại có mấy toán quân Tây Sơn về
hàng, cho nên quân thế mới hơi vững.
Bấy giờ
lại nhờ có Võ Tính là tướng giỏi ra giúp, cho nên Nguyễn Vương lại tiến lên
đánh Nước Xoáy, Phạm Văn Tham lùi về đóng ở Ba Thắc.
Võ Tính
là người ở Biên Hòa, có người anh tên là Võ Nhân làm thuộc tướng Đỗ Thanh
Nhân. Sau Đỗ Thanh Nhân bị giết, Võ Nhân
tụ quân Đông Sơn làm phản, đánh lại chúa Nguyễn, nhưng chẳng bao lâu cũng bị
bắt, phải giết. Võ Tính mới đem dư đảng Đông Sơn của anh về giữ Vườn Trầu
(thuộc Gia Định), rồi sau lại về đóng ở Gò Công, xưng là Tổng Nhung, thủ hạ có
mấy vạn người, quân Tây Sơn đã bị đánh phá nhiều lần, thường nói rằng:
"Trong bọn tam hùng đất Gia Định, Võ Tính là anh hùng bậc nhất, không nên
phạm đến". Khi Nguyễn Vương ở Tiêm La về có sai Nguyễn Đức Xuyên đến dụ Võ
Tính về giúp. Đến khi Nguyễn Vương về đóng ở Nước Xoáy, Võ Tính đem bộ hạ đi
đuổi đánh Phạm Văn Tham, rồi đến tháng tư năm mậu thân (1788) mới đem Võ Văn
Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín đến hành tại bái kiến Nguyễn
Vương. Nguyễn Vương mừng rỡ, phong cho làm Tiền Phong Dinh Chưởng Cơ và lại gả
cho bà Ngọc Du Công Chúa là em gái. Bọn Võ Văn Lượng đều được phong làm cai cơ.
Qua
tháng 7 năm ấy (1788) Nguyễn Vương đem quân về đóng ở Ba Giồng, rồi sai Tôn
Thất Hội và Võ Tính đem binh vào đánh quan đốc chiến Tây Sơn là Lê Văn Minh ở
đồn Ngũ Kiều, đốt phá cả đồn trại, bắt được tướng sĩ rất nhiều. Lại có tướng là
Nguyễn Văn Nghĩa phá được quân Tây Sơn ở Lộc Dã (tức là Đồng Nai). Tháng tám
thì Nguyễn Vương vào thành Gia Định, chiêu yên trăm họ, sửa sang phép tắc và
phong thưởng cho các tướng sĩ.
Bấy giờ
quan thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Tham vẫn đóng ở Ba Thắc; vương sai giữ các
cửa bể không cho quân Tây Sơn chạy thoát, rồi sai Nguyễn Văn Nhàn sang Tiêm La
báo tiệp; sai Nguyễn Văn Nhân và Trương Phúc Giáo ra Phú Quốc đón vương mẫu và
cung quyến về Gia Định.
Sang năm
kỷ dậu (1789)
Phạm Văn Tham
ở Ba Thắc
đem binh xuống thuyền định ra bể
về Quy Nhơn, nhưng Nguyễn Vương đã sai Lê Văn Câu (còn gọi Duân), Tôn Thất Hội,
Võ Tính, Nguyễn Văn Trương hợp binh lại đánh ở Hỗ Châu, quân Phạm Văn Tham
không phá được vây, lại phải lui về Ba Thắc. Văn Tham chờ không thấy viện binh,
liệu thế giữ không nổi, bèn đem binh ra hàng, được ít lâu bị tội phải giết.
Từ đó
toàn đất Gia Định thuộc về chúa Nguyễn cả.
3. Nguyễn Vương Sửa Sang Mọi Việc ở Gia
Định. Nguyễn Vương thu phục được đất Gia Định rồi, lập ra luật pháp, khôNg cho
dân gian đánh cờ bạc, lại nghiêm cấm phù thủy và đồng bóng để giữ phong tục cho
khỏi sự mê hoặc.
Trước hết
vương lo chỉnh
đốn những việc
thuế khóa, việc
canh nông, để lấy lương tiền nuôi tướng sĩ và tu bổ việc vũ bị. Lại đặt ra các sở công đồng để các quan văn
võ hội nghị mọi việc quốc quân, và lo sự tiến binh đánh Tây Sơn.
4. Việc Khai Khẩn Điền Thổ. Đất Gia Định lúc
bấy giờ chi ra làm 4 doanh là: Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, và Trấn Định,
nhưng vì phải loạn lạc mãi, dân sự đói khổ, ruộng đất bỏ hoang, lương thực
không đủ. Nguyễn Vương bèn sai văn thần là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô
Tùng Chu, Hoàng Minh Khánh cả thảy là 12 người làm điền tuấn quan để khuyên nhủ
quân dân cố sức làm ruộng. Từ lính phủ binh cho đến người cùng cố đều bắt phải
làm ruộng cả. Hễ ai không chịu thì bắt
phải làm lính để thay cho phủ binh.
Đến mùa
lúa chín, thì cứ mỗi người cày ruộng đồng bằng phải nộp 100 cơ135, mà ai cày
ruộng núi thì phải nộp 60 cơ trở lên. Ai nộp đủ lệ ấy, như phủ binh thì được
miễn cho một năm không phải đi đánh giặc, mà dân đinh thì được miễn cho một năm
giao dịch. Ai không nộp đủ thì không
được dự vào lệ miễn ấy.
Lại mộ
những dân ở các nơi đến làm ruộng, gọi là điền tốt. Quan điền tuấn lấy ruộng
đất bỏ hoang cấp cho để cày cấy. Ai không có đủ trâu bò mà cày bừa, thì quan
cũng cấp cho, rồi đến mùa phải trả bằng thóc.
Nguyễn
Vương lại phát trâu bò và điền khí cho quân dân, bắt đi khai khẩn những nơi
rừng núi để làm ruộng gọi là đồn điền, rồi đến mùa lấy thóc để vào kho, gọi là
đồn điền khố.
Các quan
văn võ đều phải mộ người lập thành đội, gọi là đồn điền đội, mỗi năm mỗi người
phải nộp 6 hộc thóc. Còn dân mà ai mộ được 10 người trở lên, thì cho làm cai
trại và được trừ sưu tịch.
Cách
Nguyễn Vương khai khẩn đất Gia Định thật là khôn khéo, khiến cho đất Nam Việt
trước là một chỗ đất bỏ hoang, không có người ở, mà sau thành ra một nơi rất
đông người và rất trù phú trong nước Nam ta. Ấy cũng là một cái công lớn của
ông Nguyễn Phúc Ánh vậy.
5. Việc Buôn Bán. Nguyễn Vương lập lệ: phàm
những thuyền của khác mà có chỡ những đồ gang, sắt, kẽm và lưu hoàng, thì quan
mua để làm binh khí, và cho cứ theo số hàng nhiều ít, được chở thóc gạo về
nước. Bởi vậy những khách buôn bán cũng vui lòng đem đồ hàng đến bán. Vương lại
sai quan ở doanh Trấn Biên cứ theo giá chợ mà mua lấy đường cát để đổi cho
những người Tây Dương mà lấy đồ binh khí.
6. Ông Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh ở Pháp về.
Từ mùa đông năm giáp thìn (1784), ông Bá Đa Lộc đem Hoàng Tử Cảnh cùng với Phạm
Văn Nhân, Nguyễn Văn Khiêm xuống tàu sang Tây; đi qua Ấn Độ Dương và thành
Phong ti thê ri (Pondichéry) đất Ấn Độ, ở lại gần 20 tháng, rồi đến mùa xuân
năm đinh mùi (1787), thì chiếc tàu chở ông Bá Đa Lộc mới vào cửa Lorient ở phía
tây nước Pháp Lan Tây.
Ông Bá
Đa Lộc đưa Hoàng Tử Cảnh vào yết kiến Pháp Hoàng Louis XVI. Pháp Hoàng lấy vương lễ tiếp đãi Hoàng Tử, và
giao cho thượng thư ngoại
giao bộ là De Montmorin Bá Tước, thương nghị với ông Bá Đa Lộc việc sang giúp
Nguyễn Vương.
Đến ngày
28 tháng 11 năm 1787 thì ông Bá Đa Lộc và De Montmorin bá tước ký tờ giao ước,
đại lược nói rằng:
1. Vua nước Pháp thuận giúp cho Nguyễn Vương
4 chiếc tàu chiến và một đạo binh: 1.200 lục quân, 200 pháo binh, 250 hắc binh
ở Phi Châu (Cafres) và đủ các thứ súng ống thuốc đạn.
2. Vì vua nước Pháp có lòng giúp như thế,
Nguyễn Vương phải nhường đứt cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo) và đảo Côn Lôn
(Poulo-Condore).
3. Nguyễn Vương phải để cho người nước Pháp
ra vào buôn bán tự do ở trong nước, ngoại giả không cho người nước nào ở Âu
Châu sang buôn bán ở nước Nam nữa.
4. Khi nào nước Pháp có cần đến lính thủy,
lính bộ, lương thực, tàu bè ở phương đông, thì Nguyễn Vương phải ứng biện cho
đủ giúp nước Pháp.
5. Khi Nguyễn Vương đã khôi phục được nước
rồi, thì phải cứ mỗi năm làm một chiếc tàu, y như tàu của nước Phám đã cho sang
giúp, để đem sang trả cho Pháp Hoàng136.
Tờ giao
ước ký xong rồi, Pháp Hoàng xuống chiếu giao cho quan tổng trấn thành
Pondichéry ở đất Ấn Độ, tên là De Conway bá tước, kinh lý việc sang giúp Nguyễn
Vương.
Ngày
mồng 8 tháng chạp tây, năm 1787, ông Bá Đa Lộc vào bái tạ Pháp Hoàng Louis XVI,
rồi đem Hoàng Tử Cảnh xuống tàu về nước Nam. Nhưng đến khi sang tới thành
Pondichéry, vì De Conway bá tước có chuyện bất hòa với ông Bá Đa Lộc, cho nên
bá tước mới tìm cách ngăn trở việc giúp Nguyễn Vương, rồi làm sớ về tâu Pháp
Hoàng xin bãi việc ấy đi, lấy cớ rằng sự đem binh sang cứu viện Nguyễn Vương là
việc rất khó mà không có lợi gì.
Pháp
Đình thấy sớ của De Conway bá tước nói như vậy cũng lấy làm nản; vả lại lúc bấy
giờ chính phủ còn đang bối rối về việc trong nước dân cách mệnh đã rục rịch cả
mọi nơi, cho nên bỏ việc ấy không nói đến nữa.
Ấy cũng
vì có De Conway bá tước, cho nên việc sang cứu viện Nguyễn Vương không thành,
bởi vậy sau ông Faure chép truyện ông Bá Đa
135 Mỗi một cơ là 42 bát.
136 Tờ giao ước này hiện còn ở Ngoại Giao Bộ ở
Paris, và đã biên rõ ở sách ông Gosselin.
Lộc, có
tiếc rằng: "Ví bằng lúc bấy giờ chính phủ nước Phám mà sẵn lòng giúp ông
Bá Đa Lộc, thì có lẽ ông ấy đã lập nên cho nước Pháp thành cuộc bảo hộ ở An Nam
ngay từ cuối đời thập bát thế kỷ, khiến cho về sau khỏi phải dùng đến sự chiến
tranh mới xong công việc".
Ông Bá
Đa Lộc thấy
De Conway bá
tước không chịu
xuất binh thuyền, bèn đứng lên đi
mộ người, mua tàu và súng ống khí giới để đem sang giúp Nguyễn Vương.
Đến
tháng 6 năm kỷ dậu (1789), ông Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi chiếc tàu chiến
Méduse về đến Gia Định. Các tàu buôn chở súng ống thuốc đạn cũng lục tục sang
sau.
Bấy giờ
những người Pháp tên là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng), túc là chúa tàu Long,
Vannnier, (Nguyễn Văn Chấn), tức là chúa tàu Phụng, De Forcant (Lê Văn Lăng),
Victor Ollivier (ông Tín), Dayot v.v... cả thảy đến non 20 người theo ông Bá Đa
Lộc sang giúp Nguyễn Vương; vương phong quan tước cho cả mọi người để luyện tập
quân sĩ, làm tàu, đúc súng, và chỉnh đốn mọi việc vũ bị.
Từ đó,
thế lực của Nguyễn Vương mỗi ngày một mạnh, tướng tá mỗi ngày một đông, lương
thực nhiều, quân sĩ giỏi, việc đánh phá Tây Sơn đã chắc lắm rồi.
Tháng tư
năm tân hợi (1791), bà thứ phi sinh ra hoàng tử thứ tư lên là Đảm, tức là vua
Thánh Tổ ở làng Tân Lộc, gần Sài Gòn bây giờ. Đến tháng ba năm quý sửu (1793),
thì vương lập hoàng tử Cảnh làm Đông Cung, phong chức nguyên súy, lĩnh tả quân
doanh.
7. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Nhất.
Nguyễn
Vượng đã khôi phục được đất Gia Định rồi, nghỉ ngơi hơn một năm để chỉnh đốn
mọi việc. Đến tháng tư năm canh tuấn
(1790) mới sai quan chưởng tiền quân là Lê Văn Câu đem 5.000 quân thủy và quân
bộ ra đánh lấy Bình Thuận, sai Võ Tính và Nguyễn Văn Thành đem quân đi làm tiên
phong. Chẳng bao lâu nhà Nguyễn lấy được đất Phan Rí và hạ được thành Bình
Thuận. Nhưng vì Lê Văn Câu và Võ Tính
hai người không chịu nhau, Nguyễn Vương bèn lưu Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí,
triệu Võ Tính và Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Lê Văn Câu đem quân ra đóng ở
Phan Rang bị quân
Tây Sơn đến
vây đánh, phải
cho người đi
gọi Võ Tính
và Nguyễn Văn Thành
trở lại cứu,
nhưng Võ Tính
không chịu trở
lại, chỉ có Nguyễn Văn Thành đưa binh đến đánh giải
vây rồi cùng Lê Văn Câu về giữ Phan Rí.
Lê Văn
Câu lấy điều bại binh ấy làm thẹn, xưng bệnh không ra coi việc binh nữa. Đến khi về Gia Định nghị tội phải cách hết
chức tước, Lê Văn Câu uống thuốc độc tự tử137.
Quân nhà
Nguyễn ra đánh Tây Sơn lần ấy không lợi; vả bấy giờ là mùa tháng 7, gió bắc
thổi mạnh, cho nên Nguyễn Vương truyền rút quân về Gia Định để đợi mùa gió
thuận thì mới đem quân đi đánh nhau, cho nên người đời bấy giờ gọi là giặc mùa.
Năm nhâm
tí (1792) tháng ba, nhân khi mùa gió nam thổi mạnh, Nguyễn Vương sai tướng là
Nguyễn Văn Trương cùng với Nguyễn Văn Thành, Dayot và Vannier (Nguyễn Văn Chấn)
đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại của Tây Sơn ở cửa Thị Nại
(cửa Quy Nhơn) rồi lại về.
Tháng ba
năm quý sửu (1793) Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ đất Gia Định, sai Tôn
Thất Hội cùng Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh Phan Rí.
Nguyễn Vương cùng với Nguyễn Văn Trương và Võ Tính đem thủy sư đi đánh mặt bể.
Đến tháng năm thì chiến thuyền của Nguyễn Vương vào cửa bể Nha Trang rồi lên
đánh lấy phủ Diên Khánh và phủ Bình Khang, sau lại ra đánh lấy phủ Phú Yên.
Mặt
thủy, Nguyễn Vương được toàn thắng, còn mặt bộ, thì Tôn Thất Hội chỉ lấy được
phủ Bình Thuận mà thôi. Vương bèn sai
người đưa thư giục Tôn Thất Hội phải kíp tiến binh lên hội với thủy sư, để hai
mặt cùng ra đánh Quy Nhơn.
Khi quân
của Nguyễn Vương
vào cửa Thị
Nại, vua Tây
Sơn là Nguyễn Nhạc sai thái tử là
Nguyễn Bải, đem binh ra chống giữ. Nguyễn Vương bèn mật sai Võ Tính đem binh
lẻn đi hội với toán quân Tôn Thất Hội và Nguyễn Văn Thành để đánh tập hậu. Quân của Nguyễn Bảo bị hai mặt đánh lại,
chống không nổi, phải bỏ chạy về Quy Nhơn. Từ đó quân thủy và quân bộ của Nguyễn
Vương tương thông được với nhau. Vương bèn sai Tôn Thất Hội, Võ Tính, Nguyễn
Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành đem binh tiến lên đánh thành Quy Nhơn.
Nguyễn
Nhạc phải sai người ra cầu cứu ở Phú Xuân.
Bấy giờ
vua Quang Trung đã mất rồi, vua Cảnh Thịnh, tức là Nguyễn Quang Toản, sai quan
thái úy là Phạm Công Hưng, quan hộ giá là Nguyễn
137 Lê
Văn Câu là một người công thần đã theo phò Nguyễn chủ trong lúc gian nan, nay
cũng bất đắc kỳ tử.
Văn
Huấn, quan đại tư lệ là Lê Trung và quan đại tự mã là Ngô Văn Sở đem 17.000
bộ binh và 80 con voi đi đường bộ, và sai quan đại thống lĩnh là Đặng Văn Chân
đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cả hai đạo cùng tiến vào cứu Quy Nhơn.
Nguyễn
Vương thấy viện binh đã đến, liệu thế chống không nổi, rút quân về Diên Khánh
(tức là Khánh Hòa bây giờ) rồi về Gia Định. Để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên
Khánh, Nguyễn Huỳnh Đức ở lại giữ Bình Thuận.
Đến
tháng 11, Nguyễn Vương lại sai Đông Cung Cảnh và ông Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhân,
Tống Phúc Khê ra giữ thành Diên Khánh.
8. Thế Lực Tây Sơn. Bọn Phạm Công Hưng giải
được vây rồi, kéo quân vào thành Quy Nhơn, chiếm giữ lấy thành trì và tịch biên
cả các kho tàng.
Nguyễn
Nhạc thấy vậy, tức giận đến nỗI thổ huyết ra mà chết. Ông làm vua được 16 năm.
Vua Cảnh
Thịnh ở Phú Xuân thấy Nguyễn Nhạc mất rồi, phong cho Nguyễn Bảo làm Hiến Công,
cho ăn lộc một huyện, gọi là tiểu triều rồi để Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở
lại giữ thành Quy Nhơn.
Từ đó
các tướng Tây Sơn mới hoạt động hơn trước. Tháng ba năm giáp dần (1794) Nguyễn
Văn Hưng đem bộ binh vào đánh Phú Yên, và Trần Quang Diệu vào vây thành Diên
Khánh.
Đông
Cung Cảnh cho người về Gia Định cầu viện, NguyễN Vương bèn đem đại binh đến
đánh giải vây. Trần Quang Diệu rút quân về.
Nguyễn
Vương thấy thế Tây Sơn còn mạnh và lại đến mùa gió bắc, cho nên vương đem Đông
Cung về Gia Định; để Võ Tính ở lại giữ thành Diên Khánh.
Tháng
giêng năm ất mão (1795) Trần Quang Diệu lại đem quân vào đánh Diên Khánh, Võ
Tính hết sức chống giữ, Quang Diệu đánh mãi không được. Đến tháng hai, Nguyễn
Vương để Đông Cung ở lại giữ Gia Định, đem thủy sư ra cứu Diên Khánh.
Trong
khi hai bên còn đang chống giữ nhau ở đất Diên Khánh, thì ở Phú Xuân các quan
đại thần nhà Tây Sơn giết hại lẫn nhau, gây thành mối loạn.
Nguyên
từ khi vua Quang Trung mất rồi, vua Cảnh Thịnh lên ngôi, nhưng quyền về cả Thái
sư Bùi Đắc Tuyên, các quan có nhiều người oán giận. Năm ất mão (1795) Bùi Đắc
Tuyên sai Ngô Văn Sở ra Bắc hà thay cho Vũ Văn Dũng. Văn Dũng về Phú Xuân, đi
đến trạm Hoàng Giang138 gặp quan trung thư lệnh là Trần Văn Kỷ phải tội đày ra
ở đấy. Văn Kỷ nhân đang căm tức Bùi Đắc
Tuyên, bèn xui Vũ Văn Dũng rằng: "Thái sư ngôi trùm cả nhân thần, cho ai
sống được sống, bắt ai chết phải chết; nếu mà không sớm trừ đi, thì rồi có
chuyện bất lợi cho nhà nước. Ông nên liệu sớm đi".
Vũ Văn
Dũng xưa nay vẫn tin trọng Văn Kỷ, nay thấy nói như vậy, bèn nghe lời ấy, về
mưu với Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn, lừa đến đêm đem quân vây nhà Bùi Đắc
Tuyên bắt bỏ ngục, rồi sai Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn bắt con Đắc Tuyên là
Bùi Đắc Trụ, và cho người đưa thư ra Bắc Hà truyền cho quan tiết chết là Nguyễn
Quang Thùy (em Nguyễn Quang Toản) bắt giải Ngô Văn Sở về Phú Xuân.
Bọn Vũ
Văn Dũng bèn đặt chuyện ra vu cho những người ấy làm phản, đem dìm xuống sông
giết đi. Vua Cảnh Thịnh không sao ngăn
giữ được, chỉ gạt nước mắt khóc thầm mà thôi.
Lúc bấy
giờ Trần Quang Diệu đang vây thành Diên Khánh, nghe tin ấy, thất kinh, nói với
các tướng rằng: "Chúa thượng không phải là người cứng cỏi, để cho đại thần
giết lẫn nhau. Nếu trong mà không yên, thì ngoài đánh người ta thế nào
được?"
Quang
Diệu bèn giải vây rút quân về. Khi về đến Quy Nhơn, Nguyễn Văn Huấn đến tạ tội
trước. Trần Quang Diệu không hỏi đến, rồi dẫn quân về đến làng An cựu đóng bên
bờ sông mé nam.
Vũ Văn
Dũng cùng với nội hậu Tứ cũng đem quân bản bộ ra đóng ở mé bắc
bờ sông, ỷ mệnh vua ra cự nhau với Trần Quang Diệu.
Vua Cảnh
Thịnh sợ hãi
sai quan ra
khuyên giải cả hai bên,
Trần Quang Diệu mới đem các tướng vào chầu, rồi với bọn Vũ Văn Dũng
giảng hòa.
Từ đó
Trần Quang Diệu làm thiếu phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm
đại tư đồ, Nguyễn Văn Danh (hay là Nguyễn Văn Tứ) làm đại tư mã, gọi là tứ trụ
đại thần. Nhưng chẳng được bao lâu có người
138 Có
nơi chép là trạm Hán Xuyên
gièm
pha, Trần Quang Diệu bị thu hết cả binh quyền, chỉ được giữ chức tại trièu mà
thôi. Thế lực Tây Sơn từ đấy về sau mỗi ngày một kém: trên vua thì còn nhỏ dại,
không có đủ uy quyền để sai khiến các quan, dưới tướng tá thì vì lòng ghen ghét
rồi cứ tìm cách mà giết hại lẫn nhau. Bởi vậy cho nên đến khi quân Nguyễn Vương
ở Nam ra đánh, chẳng phải mất bao nhiêu công phu mà lập nên công lớn vậy.
9. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Hai.
Từ khi quân của Trần Quang Diệu giải vây Diên Khánh về Phú Xuân rồi, Nguyễn
Vương cũng rút quân về Gia Định sửa soạn việc quân lương, và sai người đi do
thám mọi nơi để chiêu mộ người về đánh Tây Sơn.
Đến năm
đinh tị (1797) Nguyễn Vương để Tôn Thất Hội ở lại giữ Gia Định, rồi cùng Đông
Cung Cảnh đem binh thuyền ra đánh Quy Nhơn. Lại sai Nguyễn Văn Thành và Võ Tính
ra đánh Phú Yên.
Quân
thủy của Nguyễn Vương ra đến Quy Nhơn, thấy Tây Sơn đã phòng bị,
liệu đánh không
đổ được, Nguyễn
Vương bèn ra
đánh Quảng Nam. Được vài tháng
quân nhu không đủ, lại phải đem quân về Gia Định, sai Nguyễn Văn Thành và Đặng
Trần Thường ở lại giữ thành Diên Khánh.
10. Nguyễn Vương Đánh Quy Nhơn Lần Thứ Ba.
Nguyễn Vương về Gia Định rồi, một mặt sai Nguyễn Văn Thụy sang Tiêm La xin với
quốc vương nước ấy đem quân đi đường Vạn Tượng, hoặc sang đánh Thuận Hóa, hoặc
sang đánh Nghệ An, để chận đường quân ở Bắc hà vào. Một mặt sai quan binh bộ
tham tri là Ngô Nhân Tĩnh sang sứ nhà Thanh, để do thám mọi việc.
Năm mậu
ngọ (1798) Tiểu triều là Nguyễn Bảo căm tức vua Cảnh Thịnh là Nguyễn Quang Toản
chiếm giữ mất đất Quy Nhơn, bèn định bỏ về hàng Nguyễn Triều. Vua Cảnh Thịnh biết mưu ấy, sai tướng vào bắt
Nguyễn Bảo đưa về dìm xuống sông giết đi.
Lại có
người nói gièm rằng việc Tiểu Triều làm phản là tại quan trấn thủ Lê
Trung. Vua Cảnh Thịnh triệu Lê Trung về
Phú Xuân, sai võ sĩ bắt chém đi. Được ít
lâu quan thiếu phó Nguyễn Văn Huấn cũng bị giết. Từ đó quân Tây Sơn ai cũng nản lòng, có nhiều
người bỏ theo về Nguyễn Vương.
Bấy giờ
có người con rễ Lê Trung là Lê Chất vốn là người đánh trận giỏi có tiếng, quan
làm đến chức đại đô đốc; đến khi thấy vua Tây Sơn hay nghi kỵ
mà giết hại
các công thần
như vậy, bèn bỏ trốn
sang hàng nhà Nguyễn. Nguyễn Vương trọng dụng cho làm
chức Tướng Quân.
Nguyễn
Vương thấy thế Tây Sơn đã suy nhược, đến tháng ba năm kỷ mùi (1799) bèn củ đại
binh ra đánh Quy Nhơn. Đến tháng tư thủy
quân của Nguyễn Vương vào cửa Thị Nại, rồi Nguyễn Vương sai quan hậu quân Võ
Tính, hữu quân
Nguyễn Huỳnh Đức
đem quân lên
bộ đóng ở
Trúc Khê. Ngay lúc bấy giờ quan
Khâm sai tiền quân chưởng cơ Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh lấy Phú Yên,
rồi tiến quân lên tiếp ứng cho toán quân Võ Tính.
Đến
tháng năm, thì quân của Nguyễn Vương đến vây thành Quy Nhơn. Ở Phú Xuân sai
Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đm binh vào cứu. Nhưng mà vào đến Quảng Nghĩa
gặp quân của Nguyễn Văn Thành giữ ở Thạch Tân, cho nên không cứu được Quy Nhơn.
Sử chép
rằng khi đạo quân của Vũ Văn Dũng vào đến Chung Xá, đóng lại ở đấy, đến đêm có
con nai ở trong rừng chạy ra, có người trông thấy kêu to lên rằng: Con nai!
Quân Tây Sơn nghe lầm là quân Đồng Nai! Mọi người luống cuống bỏ chạy. Các quân
đội Tây Sơn tưởng là quân nhà Nguyễn đã vây đánh, đều vỡ tan cả. Quân nhà
Nguyễn thừa thế đánh đuổi, thành ra quân Tây Sơn thua to.
Quan
trấn thủ Quy Nhơn là Lê Văn Thanh không thấy viện binh đến, mà lương thực ở
trong thành thì hết cả, bèn cùng các tướng mở cửa ra hàng. Nguyễn Vương đem
quân vào thành rồi đổi tên Quy Nhơn gọi là Bình Định.
Vua Tây
Sơn được tin Quy Nhơn thất thủ, liền cử đại binh vào đóng ở Trà Khúc (thuộc
Quảng Nghĩa) để đốc các tướng tiến binh đánh quân nhà Nguyễn. Nhưng vì phải độ
trái mùa gió, thủy chiến không tiện, cho nên các quan đều can xin rút quân
về. Vua Cảnh Thịnh bèn sai Nguyễn Văn
Giáp ở lại giữ Trà Khúc, sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng giữ Quảng Nam.
Nguyễn
Vương cũng đem quân về Gia Định, để Võ Tính và Ngô Tòng Chu ở lại giữ thành
Bình Định. Năm ấy (1899) ông Bá Đa Lộc đi tòng chinh, mất ở cửa Thị Nại. Nguyễn Vương đem về hậu táng ở Gia Định, tặng
phong làm Thái Tử Thái Phó Bi Nhu Quận Công.
11. Quân Tây Sơn Vây Thành Bình Định. Khi quân
nhà Nguyễn ra vây đánh thành Quy Nhơn, vua Tây Sơn sai Trần Quang Diệu và Vũ
Văn Dũng đem binh vào cứu, nhưng vì quân cuả Văn Dũng không đánh
mà tan,
đến nỗi bại binh. Việc ấy là tội Văn Dũng, nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi, cho
nên không ai biết. Văn Dũng cảm ơn ấy, cho nên mới kết nghĩa sinh tử với Quang
Diệu.
Bấy giờ
ở Phú Xuân có nhiều người ghét Quang Diệu, nhân dịp ấy mà đổ tội cho Quang
Diệu, bèn tâu vua xin sai người đưa mật thư ra cho Vũ Văn Dũng để giết Quang
Diệu. Vũ Văn Dũng tiếp được thư ấy đưa cho Trần Quang Diệu xem. Trần Quang Diệu
sợ hãi, lập tức đem quân về Phú Xuân, đóng ở mé nam sông Hương Giang, nói rằng
về bắt những người loạn thần. Vua Tây Sơn sai người ra giảng hòa. Không ai dám
đi, sau phải bắt mấy người nộp cho Quang Diệu. Quang Diệu mới vào chầu. Vua
Cảnh Thịnh cũng tìm lời giảng dụ, khuyên phải hết sức giúp đỡ nhà nước.
Quang
Diệu khóc lạy rồi xin cùng Văn Dũng đem thủy bộ quân vào lấy lại thành Quy
Nhơn.
Đến
tháng giêng năm canh thân (1800), quân của Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng tiến
đến gần thành Quy Nhơn. Võ Tính giữ vững, không ra đánh. Quang Diệu sai đắp lũy
chung quanh thành và chia quân ra vây bốn mặt. Văn Dũng thì đem hai chiếc tàu
lớn và hơn 100 chiến thuyền ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt súng đại
bác ở hai bên cửa bể, để phòng ngự thủy quân nhà Nguyễn.
Nguyễn
Vương được tin quân Tây Sơn ra vây thành Bình Định, liền cử đại binh ra cứu
viện, sai Nguyễn Văn Thành đem Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tiến Bảo, chia ra
làm ba đạo ra đánh lấy đồn Hội An ở Phú Yên, rồi kéo ra đánh ở Thị Dã (thuộc
Bình Định). Nguyễn Vương đem thủy binh
ra đến Quy Nhơn đóng thuyền ở ngoài cửa Thị Nại. Bấy giờ quân bộ của Nguyễn Văn Thành và quân
thủy của Nguyễn Vương không thông được với nhau, cho nên sự cứu viện không có
công hiệu gì cả.
Đến
tháng giêng năm tân dậu (1801), Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc
Lương đem quân tiền đạo đến đánh đồn thủy của Tây Sơn, và sai Lê Văn Duyệt, Vũ
Di Nguy đem thủy quân vào đánh cửa Thị Nại. Vũ Di Nguy trúng đạn chết, còn Lê
Văn Duyệt ra sức xông đột, đốt được cả tàu và thuyền của Tây Sơn.
Tướng
Tây Sơn là Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thị Nại đem binh về hợp với Trần Quang Diệu
để phòng giữ mọi nơi.
Nguyễn
Vương lấy được cửa Thị Nại rồi, cho người đưa tin về Gia
Định báo
cho tướng sĩ các nơi đều biết.
Năm ấy
Đông Cung Cảnh lên đậu, mất ở Gia Định, thọ được 22 tuổi. Được một tháng hoàng
tử thứ hai tên là Hi cũng mất ở Diên Khánh, đem về táng ở Gia Định.
12. Nguyễn Vương Thu Phục Phú Xuân. Nguyễn
Vương đánh được trận thủy ở Thị Nại rồi, bèn sai Nguyễn Văn Trương đem thủy
quân ra đánh Quảng Nam, Quảng Nghĩa, và lại thấy quân Tây Sơn vây thành Quy
Nhơn một cách cẩn mật lắm, đánh phá không được. Vương cho người lẻn vào thành
bảo Võ Tính và Ngô Tòng Chu bỏ thành mà ra. Nhưng Võ Tính phúc thư lại rằng:
quân tinh binh của Tây Sơn ở cả Quy Nhơn, vậy xin đừng lo việc giải vây vội,
hãy nên kíp ra đánh lấy Phú Xuân thì hơn.
Nguyễn
Vương bèn để Nguyễn Văn Thành ở lại chống giữ với Trần Quang Diệu và Vũ Văn
Dũng, rồi đem đại quân ra đánh Phú Xuân.
Bấy giờ
nhà Tây Sơn cũng bối rối lắm: ở Nghệ An thì có tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn
Thụy và Lưu Phúc Tường đem quân Vạn Tượng sang đánh phá; ở Thanh Hóa thì có
phiên thần là Hà Công Thái khởi binh giúp nhà Nguyễn; ở Hưng Hóa thì có thổ ti
là Phan Bá Phụng nổi lên quấy nhiễu. Còn các trấn ở Bắc Hà thì rối vì những
việc tông giáo; các đạo trưởng và đạo đồ đạo Thiên Chúa cũng nổi lên, có ý giúp
nhà Nguyễn; dân tình thì bị quan quân nhũng lạm hà hiếp, ai ai cũng có lòng oán
giận. Ở Phú Xuân, vua thì hèn, các quan đại thần thì cứ ghen ghét nhau rồi tìm
kế giết hại lẫn nhau, việc chính trị không sửa sang gì cả. Bởi vậy nhân dân đều mong mỏi chúa Nguyễn,
cho nên có câu hát rằng: "Lạy trời cho chóng gió nồm, để cho chúa Nguyễn
giong buồm thẳng ra".
Nguyễn
Vương thấy lòng người đã không theo Tây Sơn nữa, bèn đem binh ra đánh Phú Xuân,
đến tháng năm (1801), thủy sư vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn là phò mã Nguyễn
Văn Trị đem quân ra lập đồn giữ ở núi Quy Sơn. Tiền quân nhà Nguyễn đánh không
được. Nguyễn Vương sai Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem thủy binh ra đánh tập
hậu. Nguyễn Văn Trị bỏ đồn mà chạy.
Quân Nguyễn Vương vào cửa Nguyễn Hải (cửa Thuận An) rồi kéo lên đánh thành Phú
Xuân. Vua Tây Sơn phải ngự giá đem quân ra chống giữ, hai bên đánh nhau đến
giữa trưa, thì quân Tây Sơn vỡ tan. Quân Nguyễn Vương tiến lên đuổi đánh, thu
phục được đô thành. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm tân dậu (1801).
Nguyễn
Vương vào thành Phú Xuân treo biển yên dân, rồi sai Lê Chất đem bộ binh đuổi
đánh quân Tây Sơn, sai Nguyễn Văn Trương đem thủy binh ra chặn ở Linh Giang, để
đánh quân Tây Sơn chạy ra Bắc. Lại sai Phạm Văn Nhân ra giữ cửa Nguyễn Hải, sai
Lưu Phúc Tường đem quân đi đường
Cam Lộ sang Vạn Tượng truyền bảo các Mường giữ đường yếu lộ không cho quân Tây
Sơn chạy tràn sang.
13. Võ Tính Tử Tiết. Trần Quang Diệu và Vũ Văn
Dũng đang vây đánh thành Quy Nhơn, được tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng
đem quân ra cứu, nhưng ra đến Quảng Nam, gặp quân của Lê Văn Duyệt kéo vào đánh
chặn đường, quân Tây Sơn phải lùi trở lại. Từ đó Trần Quang Diệu ngày đêm hết
sức đốc quân đánh thành. Quân Nguyễn Vương ở trong thành hết cả lương thực,
không thể chống giữ được nữa, quan trấn thủ là Võ Tính bèn viết thư sai người
đưa ra cho Trần Quang Diệu nói rằng: "Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành
liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết
hại".
Đoạn rồi
sai người lấy rơm cỏ chất ở dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào tự đốt mà
chết. Quan hiệp trấn là Ngô Tùng Chu cũng uống thuốc độc tự tử.
Trần
Quang Diệu vào thành Quy Nhơn tha cho cả bọn tướng sĩ và sai làm lễ liệm táng
Võ Tính và Ngô Tòng Chu, rồi sai đại đô đốc Trương Phúc Thượng và tư khấu Định,
đem binh đi đường thượng đạo ra đánh Phú Xuân. Đi được nửa đường thì quân hết
lương. Trương Phúc Thượng về hàng nhà Nguyễn, còn tư khấu Định thì đánh thua
chạy vào chết ở trong Mường. Trần Quang Diệu lại sai Lê Văn Điềm vào đánh Phú
Yên, cũng không được.
Bấy giờ
Trần Quang Diệu tuy đã lấy được thành Quy Nhơn, nhưng một mặt thì có quân của
Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa đánh
vào, một mặt thì quân của Nguyễn
Văn Thành ở cửa Thị Nại đánh lên, còn ở phía nam, lại có quân của Tống Viết
Phúc và Nguyễn Văn Tính ở Phú Yên đánh ra. Ba mặt thụ địch, quân Tây Sơn phải
hết sức chống giữ, để chờ quân ở Bắc Hà vào cứu viện.
11. Trận
Trấn Ninh. Từ khi thất thủ Phú Xuân, vua
Cảnh Thịnh ngày đêm kíp ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng và truyền hịch đi
các trấn để lấy viện binh rồi sai em là Nguyễn Quang Thùy đem binh mã vào giữ
Nghệ An. Đến tháng 11, vua Tây Sơn đem quân 4 trấn ở xứ Bắc và quân Thanh Hóa,
Nghệ An, cả thảy được non 3 vạn người, sang sông Linh Giang. Lại sai tướng đem
hơn 100 chiếc chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ. Bấy giờ có vợ Trần Quang Diệu
là Bùi Thị Xuân cũng đem 5.000 thủ hạ đi tòng chinh.
Quan
Chưởng Trung Quân Bình Tây Đại Tướng Quân Nguyễn Văn Trương, cùng với Tống Phúc
Lương, Đặng Trần Thương giữ ở Linh Giang, thấy quân Tây Sơn thế mạnh phải lui
về giữ Đồng Hới. Nguyễn Vương được tin ấy, liền thân chinh đem đại binh ra tiếp
ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem quân ra giữ mặt bộ, sai Nguyễn
Văn Trương ra giữ mặt bể.
Tháng
giêng năm nhâm tuất (1802), vua Tây Sơn sai Nguyễn Quang Thùy tiến quân lên
đánh lũy Trấn Ninh; đánh mãi không đổ. Vua Tây Sơn đã toan rút quân về, nhưng
Bùi Thị Xuân không chịu, xin cho ra đốc quân đánh trận. Đánh từ sáng sớm đến
chiều tối, chưa bên nào được thua. Bỗng có
tin rằng thủy
quân của Tây
Sơn ở cửa
Nhật Lệ (cửa
Đồng Hới) đã bị
Nguyễn Văn Trương phá tan cả. Quân Tây Sơn khiếp sợ bỏ chạy, tướng là Nguyễn
Văn Kiên về hàng nhà Nguyễn.
Vua Tây
Sơn đem tàn quân chạy về Bắc, để Nguyễn Văn Thận ở lại giữ Nghệ An.
Nguyễn
Vương phá được quân Tây Sơn ở thành Trấn Ninh rồi đem quân về Phú Xuân, để
trung quân Nguyễn Văn Trương giữ Đồng Hới, để Tống Phúc Lương và Đặng Trần
Thường giữ Linh Giang.
Trần
Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở Quy Nhơn được tin quân Tây Sơn thua ở Trấn Ninh,
liệu chống không nổi, bèn đến tháng 3 năm nhâm tuất (1802) bỏ thành Quy Nhơn,
đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, để hội với vua Tây
Sơn mà lo sự chống giữ.
15. Nguyễn Vương Lên Ngôi Tôn. Nguyễn Vương từ
khi khởi binh ở Gia Định tuy đã xưng vương, nhưng vẫn theo các chúa đời trước
không đặt niên hiệu. Đến nay khôi phục được Phú Xuân, thanh thế lừng lẫy, bắc
phá đại quân của Tây Sơn, nam lấy lại thành Quy Nhơn; đất An Nam bấy giờ từ
sông Linh Giang vào đến Gia Định lại thuộc về nhà Nguyễn như trước. Các quan
thân thuộc đều xin Nguyễn Vương đặt niên hiệu và lên ngôi tôn.
Tháng 5
năm nhâm tuất (1802) ngài lập đàn tế cáo trời đất, rồi thiết triều để các quan
chầu mừng, và đặt niên hiệu là Gia Long nguyên niên.
16. Quân Nam Ra Lấy Bắc Hà. Nguyễn Vương đã lên
ngôi làm vua rồi, sai
Trịnh Hoài Đức
và Ngô Nhân
Tĩnh đem các
đồ phẩm vật và
những ấn sách của nhà Thanh phong cho Tây Sơn sang nộp cho Thanh Triều và xin
phong. Ngài lại định ngự giá đi đánh Bắc Hà, bèn sai Nguyễn Văn
Trương
lĩnh thủy binh, Lê Văn Duyệt và Lê Chất lĩnh bộ binh, hai mặt thủy bộ cùng tiến.
Tháng 6,
thì quân bộ sang sông Linh Giang tiến lên đóng ở Hà Trung, quân thủy vào cửa
Hội Thống rồi lên đánh phá các đồn lũy của Tây Sơn. Quan Trấn Thủ Nghệ An là
Nguyễn Văn Thận bỏ thành chạy ra giữ đồn Tiền Lý ở Diễn Châu.
Bấy giờ
Trần Quang Diệu đi đường Ai Lao ra đến châu Quý Hợp, xuống huyện Hương Sơn thấy
quân nhà Nguyễn đã lấy được Nghệ An rồi, bèn cùng với Bùi Thị Xuân về huyện
Thanh Chương, bao nhiêu quân sĩ đều bỏ cả, được mấy hôm hai vợ chồng cùng bị
bắt. Còn Vũ Văn Dũng chạy ra đến Nông Cống
cũng bị dân bắt được đem nộp.
Quân
Nguyễn Triều kéo tràn ra lấy Thanh Hóa, đi đến đâu quân Tây Sơn chưa đánh đã
tan, chỉ trong một tháng đã ra đến Thăng Long.
Vua Tây
Sơn thấy thế mình không chống giữ được nữa, bèn cùng với các em là Nguyễn Quang
Thùy, Nguyễn Quang Thiệu, và mấy người bề tôi là bọn đô
đốc Tú, và
Nguyễn Văn Tứ
sang sông Nhị
Hà chạy về
phía Bắc, nhưng lên đến địa hạt
Phượng Nhỡn, bị dân ở đấy bắt được.
Nguyễn Quang Thùy tự tử, đô đốc Tú và vợ cũng tự vẫn. Còn vua tôi nhà
Tây Sơn mấy người đều bị đóng cũi đem về nộp ở Thăng Long.
Nhà Tây
Sơn khởi đầu từ năm mậu tuất (1778), Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn, đến năm
Nhâm Tuất (1802), cả thảy được 24 năm. Nhưng Nguyễn Nhạc chỉ làm vua từ đất
Quảng Nam, Quảng Nghĩa trở vào mà thôi, còn từ Phú Xuân trở ra, thì thuộc về
nhà Lê. Đến năm mậu thân (1788), vua Quang Trung xưng đế hiệu, rồi ra đánh giặc
Thanh, lấy lại đất Bắc Hà, sửa đổi việc chính trị. Từ đó nước Nam mới thuộc về nhà Nguyễn Tây
Sơn.
Vậy kể
từ năm mậu thân (1788) đến năm nhâm tuất (1802) thì nhà Tây Sơn chỉ làm vua
được có 14 năm mà thôi.
Trong
bấy nhiêu năm phải đánh nam dẹp bắc luôn, không mấy lúc nghỉ việc chiến tranh,
cho nên nhà Tây Sơn không sửa sang được việc gì. Vả sau khi vua Quang Trung mất rồi, vua thì hèn,
quan thì nhũng, chính trị bỏ nát,
lòng người oán
giận, ai cũng
mong mỏi được
thời thịnh trị
để yên nghiệp mà làm ăn. Bởi vậy
cho nên khi vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn cất quân ra Bắc, lòng người theo
phục, chỉ một tháng trời mà bình được đất Bắc Hà, đem giang sơn về một mối, nam
bắc một nhà, làm cho nước ta thành một nước lớn ở phương nam vậy.
PHẦN V
Cận Kim
Thời-Đại
Nhà
Nguyễn
(1802-1945)
CHƯƠNG I
Thế Tổ
(1802-1819)
Niên
hiệu: Gia Long
26. Thế Tổ xưng đế hiệu
27. Việc triều chính
28. Binh chế
29. Việc tài chánh
30. Công vụ
31. Pháp luật
32. Việc học hành
33. Việc giao thiệp với nước Tàu
34. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước
Tiêm La
35. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao
36. Việc giao thiệp với nước Pháp Lang Tây
37. Sự giết hại công thần
38. Xét công việc của vua Thái Tổ
1. Thế Tổ xưng đế hiệu. Thế tổ khởi binh
chống nhau với Tây Sơn ở đất Gia Định từ năm mậu tuất (1778), kể vừa 24 năm,
mới dứt được nhà Tây Sơn, thu phục được giang sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và
họp cả nam bắc lại làm một mối. Khi việc đánh dẹp xong rồi, ngài xưng đế hiệu,
đặt quốc hiệu là Việt Nam, đóng Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành Huế bây giờ.
Khi vua
Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ tha cho dân một vụ thuế, và
thăng thưởng cho các tướng sĩ. Ngài lại phong tước cho con cháu nhà
Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch cho dòng dõi hai họ ấy để
giữ việc thờ phụng tổ tiên.
Đoạn
rồi, ngài đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn Thành ở
Quy Nhơn ra sung chức ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ, tào
Binh, tào Hình, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, và Phạm Văn Đăng ra coi
các tào ấy, để giúp Nguyễn Văn Thành.
Đến
tháng bảy năm nhâm tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn về làm
lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị. Lại sai quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và
vua Thái Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi, còn đầu thì đem bỏ giam ở trong
ngục tối.
Những
bọn văn thần nhà Tây Sơn như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem nọc ra
đánh ở trước văn miếu, rồi tha cho về. Lúc bấy giờ có Ngô Thì Nhiệm vì trước có
hiềm với Đặng Trần Thường, cho nên đến khi đánh ở văn miếu, Đặng Trần Thường
sai người đánh chết.
Vua Thế
Tổ định tội, thưởng công xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm đền Cần Chính để
lập thường triều, đền Thái Hòa để lập đại triều; lại sai quân dân xây thành
Kinh Đô và Hoàng Thành cùng các thành trì ở ngoài các doanh trấn.
Tuy rằng
ngài đã đặt niên hiệu, lên ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà đến năm giáp
tí (1804), tức là Gia Long tam niên, vua nhà Thanh mới sai sứ sang phong vương,
và đến năm bính dần (1806), ngài mới làm lễ xưng đế hiệu ở đền Thái Hòa. Định
triều nghi, cứ ngày rằm và ngày mồng một thiết đại triều; ngày mồng 5, mồng 10,
20 và 25 thì thiết tiểu triều.
Lúc ngài
đánh xong Tây Sơn, thì chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy hoại, việc gì
cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong
thì ngài chỉnh đốn pháp luật, và mọi việc cai trị cùng là sửa sang phong tục,
cấm dân gian không cho lấy việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn uống, nghiêm dụ
quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo sự giao hiếu với
nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước Việt Nam lúc bấy giờ trong
ngoài đều được yên trị.
2. Việc Triều Chính. Ở trong cung, nhà vua
không đặt ngôi hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì tự quân lên ngôi, mới
tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.
Quan lại
trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê, nhưng bỏ chức Tham Tụng và Bồi Tụng
tức là chức tể tướng đời xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương hết cả. Mỗi bộ
có quan Thượng Thư làm đầu, quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang, cùng các
thuộc viên như là lang trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại,
v.v.....
Bộ Lại: coi
việc thuyên bổ quan văn, ban thưởng phẩm cấp, khảo xét công trạng, phong tặng
tước ấm, thảo những tờ chiếu sắc cáo mệnh và làm những sổ các hàng quan lại
v.v....
Bộ Hộ:
coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật
đắt rẻ v.v...
Bộ Lễ:
coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong, cùng là cách thức học hành thi
cử, tinh biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa, phong thụy cho các thần
nhân v.v.....
Bộ Binh:
coi việc thuyên bổ võ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc
đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh.
Bộ Hình:
coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án
ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.
Bộ Công:
coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm
kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v....
Ngoài
lục bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc can gián vua, và đàn hạch các quan. Cấp
sự trung các khoa và giám sát ngự sử các đạo, đều thống thuộc về viện ấy. Trong
viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu.
Bấy giờ
vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má tàu bè. Có
quan Tào Chính Sứ và Tào Phó Sứ làm đầu.
Các địa
phương thì lúc bấy giờ từ nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh
Hóa ngoại (tức là Ninh bình bây giờ) trở ra, gọi là Bắc Thành, thống cả 11
trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và
Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Quảng Yên. Từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành, thống cả 5
trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An
Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên.
Còn ở
quãng giữa nước, thì đặt Thanh Hóa Trấn (gồm cả Thanh Hóa nội, Thanh Hóa
ngoại), Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa trấn, Bình Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa
trấn (tức là Khánh hòa) và Bình Thuận trấn.
Đất kinh kỳ thống bốn doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là Thừa
Thiên bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng bình doanh, Quảng Nam doanh.
Ở Bắc
Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng trấn, và phó tổng trấn, để coi mọi
việc. Ở các trấn thì đặt quan lưu trấn hay là quan trấn thủ, quan cai bạ và
quan ký lục để coi việc cai trị trong trấn.
Trấn lại
chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri phủ, tri huyện, tri châu để coi việc cai
trị.
Những
trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5 nội trấn ở Bắc Thành, thì dùng những quan cựu
thần nhà Lê làm quan cai trị. Còn 6
ngoại trấn ở Bắc Thành, thì giao quyền cai trị cho những thổ hào sở tại.
3. Binh Chế. Khi vua Thế Tổ đánh được Tây
Sơn rồi, ngài ban thưởng cho các tướng sĩ, tặng phong và làm đền thờ những
người tử trận. Còn những quân lính già nua thì cho về quê quán. Đặt ra phép
giản binh: lệ định các trấn, tự Quảng Bình vào đến Bình Thuận thì cứ ba tên
đinh kén lấy một tên lính; tự Biên Hòa trở vào thì cứ 5 tên đinh kén lấy một
tên lính; tự Hà Tịnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc Thành thì cứ 7 tên đinh kén
lấy một tên lính. Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng
Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên thì cứ 10 tên đinh kén lấy một tên lính.
Ở chỗ
Kinh thành thì đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có
500 người và có 50 người tập quân nhạc. Ở các trấn thì đặt ra lính cơ, lính mộ.
Lại đặt biền binh ban lệ, nghĩa là các binh lính chia ra làm 3 phiên, 2 phiên
về quán, còn một phiên ở tại ban luân lưu thay đổi cho nhau.
Những
binh khí thì dùng gươm giáo, mã tấu, và lại có súng lớn bằng đồng gọi là súng
đại bác, súng nhỏ gọi là súng thạch cơ điểu thương, nghĩa là bắn thì mổ bằng
máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba sở xạ trường để quân lính tập bắn.
Ở các
cửa bể đều làm đồn đặt súng để phòng giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc
đi lại.
Nước
Việt Nam ta có nhiều bể cần phải giữ gìn, bởi vậy vua Thế Tổ lưu tâm về việc
chỉnh đốn binh thuyền: lấy người ở gần bể về doanh Quảng Đức và
doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy quân đóng tại Kinh Thành. Còn ở các hải khẩu, mỗi
nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà vua lại làm một thứ thuyền lớn ngoài bọc
đồng, để đi lại tuần phòng ở miền bể.
4. Việc Tài Chính. Thuế đinh, thuế điền đều
định lại cả. Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên
nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10
thăng.
Thuế
đinh thì lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên
phải chịu:
Thuế
thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Cước mễ 2 bát
5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng
Thiên139, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:
Thuế
thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu
tiền (tạp dịch) 6 tiền
Cước mễ 2 bát
Cước mễ 2 bát
6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng
niên phải chịu:
Thuế thân 6 tiền
Thuế thân 6 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu
tiền 3 tiền
Cước mễ 1 bát
Lệ giảm
thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như
là bị hoàng
trùng, đại hạn
hay là nước
lụt, v.v... thì
nhà nước chiếu theo sự thiệt hại
nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Lúa 10 phần thiệt hại tới 4 phần thì khoan giảm
cho hai phần thuết; thiệt hại 5 phần thì giảm cho 3; thiệt hại 6 phần thì giảm
cho 4; thiệt hại 7 phần thì giảm cho 5; thiệt hại 8 phần thì giảm cho 6; thiệt
hại 9 phần thì giảm cho 7; thiệt hại hết cả thì giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy
dân đinh đi làm đường, đào sông, xây thành v.v... thì cũng được giảm thuế.
139 Tức
là phủ Hoài Đức bây giờ.
Vụ thuế:
Nhà vua lại tùy từng địa phương mà định vụ thuế. Từ Quảng Bình đến Bình Thuận
cứ mỗi năm một vụ thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng 7 thì hết. Từ Nghệ An
ra đến Thanh Hóa ngoại, cùng các trấn ở Bắc thành mỗI năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ
thì khởi tự tháng 4 đến tháng 6 thì hết; mùa đông thì khởi sự tự tháng 10 đến
tháng 11 thì hết.
Đinh bạ:
Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều
phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải khai vào sổ.
Điền bạ:
Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất
hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chí phải
chua cho rõ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần đệ vào bộ
đóng dấu kiềm, rồi một bản lưu lại bộ, để phòng khi xét đến; còn hai bản giao
về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiểu, còn một bản gia trả dân xã lưu thủ.
Cấm bán
ruộng công điền: Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xã có nơi thì đem công điền đổi ra
tư điền, có nơi thì đem cố bán đi, bởi vậy năm Gia Long thứ hai (1803) nhà vua
lập lệ cấm dân xã không được mua bán công điền công thổ, chỉ trừ lúc nào xã
thôn có công dụng điều gì, thì mới được phép cho điển cố, hạn hết 3 năm lại
phải trả lại. Ai giữ quán hạn ấy thì phải tội.
Thuế các
sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên
phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân, và đều được miễn
trừ thuế thân cả. Những người tìm được cây quế, phải trình quan để cấp cho văn
bằng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người tìm được.
Năm Gia
long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng
Nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng, và được tha việc binh lính.
Còn
những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp
bằng tiền hay là bằng sản vật.
Vua Thế
Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn
nhỏ mà định số thuế phải nộp.
Những mỏ
đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai để đánh thuế.
Đúc
tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc Thành, để đúc tiền đồng
và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện
sự giao thông buôn bán trong nước.
Mỗi đồng
tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ "Gia Long Thông Bảo", một mặt in
chữ "thất phân", mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.
Giá vàng
ở Bắc Thành thì định cứ một lượng vàng đổi lấy 10 lượng
bạc.
Về sau
mở thêm lò đúc tiền ở Gia Định Thành và ở các trấn.
Thước
đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng, một mặt khắc 7 chữ
"Gia Long cửu niên thu bát nguyệt", một mặt khác 10 chữ "ban
hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo". Chuẩn định lại các thước
vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ "Gia
Long Cửu Niên Thu Bát Nguyệt", một mặt khắc 12 chữ "ban hành đạc điền
cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo".
Phép
cân: Năm Gia Long thứ 12 (1813), chế tạo ra cân thiên bình, cấp cho các doanh
các trấn, để cân đồng, sắt, chì, thiếc và các sản vật. Còn vàng và bạc thì dùng
cân trung bình.
5. Công Vụ. Vua Thế Tổ lại sửa sang những
đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân
gian được tiện lợi.
Đường
Quan Lộ: Đường sá trong nưóc là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên vua Thế
Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ: bắt
dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000
trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo.
Lại từ
cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến Bình Thuận, cứ độ
4.000 trượng
phải làm một cái nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ
ngơi. Cả thảy 98 trạm.
Còn từ
Bình Thuận trở vào phía nam đến Hà Tiên thì đi đường thủy.
Sông
ngòi và đê điều: Những sông ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc canh
nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ngòi và
các cửa bể, và nhất là ở Bắc thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận: chỗ nào
không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa
lại. Ở
các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy mà
phát cho dân.
6. Pháp Luật. Nguyên khi trước vẫn theo luật
nhà Lê, nhưng nay nhà Nguyễn đã nhất thống cả nam bắc, vua Thế Tổ bèn truyền
cho đình thần lập ra pháp luật rõ ràng, để cho tiện sự cai trị. Năm tân mùi (1811) sai Nguyễn Văn Thành làm
tổng tài, coi việc soạn ra sách luật; lấy luật cũ của đời Hồng Đức nhà Lê, mà
tham chước với luật nhà Thanh làm thành một bộ, cả thảy 22 quyển, có 398 điều.
Đến năm
ất hợi (1815), thì in sách luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo
luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều
mà thôi.
7. Việc Học Hành. Thời bấy giờ nhờ có võ
công mới dựng nên cơ nghiệp, cho nên lúc ấy các quan đầu triều là quan ngũ quân
đô thống, và quan tổng trấn Nam Bắc hai thành đều là quan võ cả. Nhưng vua Thế
Tổ cũng biết rằng sự trị nước cần phải có võ có văn, bởi vậy đêm ngày ngày lưu
ý về việc học hành thi cử trong nước.
Ngài lập
nhà Văn Miếu ở các doanh các trấn, thờ đức Khổng tử, để tỏ lòng trọng Nho học.
Đặt Quốc Tử Giám ở Kinh đô, để dạy con các quan và các sĩ tử. Mở khoa thi Hương
để kén lấy những người có học hành ra là quan.
Đặt thêm
chức đốc học ở các trấn, và dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi
việc dạy dỗ.
Vua Thế
Tổ lo cả đến địa dư và quốc sử, bởi vậy ngày sai quan Binh Bộ Thượng Thư là Lê
Quang Định kê cứu ở trong các trấn các doanh, tự Lạng Sơn đến Hà Tiên, xem sơn
xuyên hiểm trở, đưòng sá xa gần, sông bể, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ
sản, có những gì làm thành sách "Nhất Thống Địa Dư Chí" để dâng lên.
Đến năm bính dần (1806), bộ sách ấy làm xong cả thảy được 10 quyển.
Năm tân
mùi (1811), ngài sai quan tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn
Tây Sơn để sửa lại quốc sử.
Thời bấy
giờ văn quốc âm cũng thịnh lắm. Một đôi
khi nhà vua cũng thật là
một bài văn chương đại bút. Lại có những chuyện như "Hoa Tiên" của
ông Nguyễn Huy Tự, "Truyện Thúy Kiều" của quan Hữu Tham tri bộ Lễ là
ông Nguyễn Du140, cũng phát hiện ra thời bấy giờ.
"Truyện
Thúy Kiều" là một tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân tình thế
cố, tả được cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ
cũng lý thú. Nói theo tiếng đời nay thì "Truyện Thúy Kiều" thật là
một tập văn chương đại trước tác của nước ta vậy.
8. Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu. Khi vua Thế
Tổ dứt được nhà Nguyễn Tây Sơn và lấy được đất Bắc Hà rồi, sai quan thượng thư
Binh Bộ là Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu
là Nam Việt, lấy lẽ rằng Nam là An Nam và Việt là Việt Thường. Nhưng vì đất Nam
Việt đời nhà Triệu ngày trước gồm cả đất Lưỡng Quảng, cho nên Thanh Triều mới
đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt Nam để cho khỏi lầm với tên cũ.
Đến năm
giáp tí (1804) Thanh Triều sai quan án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang
tuyên phong. Đoạn rồi, vua sai Lê Bá Phẩm làm chánh sứ đem đồ cống sang tạ và
từ đó cứ chiếu lệ ba năm một lần sang cống.
Đồ cống
phẩm là:
Vàng 200 lượng
Bạc 1000 lượng
Lụa và
cấp mỗi thứ 100 cây
Sừng tê giác 2 bộ
Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân
Sừng tê giác 2 bộ
Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân
9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước
Tiêm La.
Nguyên
lúc còn Lê Triều thì chúa Nguyễn vẫn giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp. Sau
vua nước ấy
là Nặc Ông
Tôn141 bị anh
em hiếp chế,
phải chia quyền ra làm ba, để cho
Nặc Ông Vinh làm vua đầu, mình làm vua thứ hai, em là Nặc Ông Thâm làm vua thứ
ba. Được ít lâu Nặc Ông Vinh giết cả Nặc Ông Tôn và Nặc Ông Thâm giữ lấy quyền
làm vua một mình.
Lúc bấy
giờ Nguyễn Vương còn ở Gia Định mới sai Đỗ Thanh Nhân sang đánh Nặc Ông Vinh và
lập con Nặc Ông Tôn là Nặc Ông Ấn lên làm vua. Nặc Ông Ấn bấy giờ mới có 8
tuổi. Nguyễn Vương sai Hồ Văn Lân ở lại
dùng chữ
nôm mà làm văn tế. Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn
Văn Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế không rõ ai làm, nhưng
140 Ông
Nguyễn Du người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
141 Xem
ở chương VI
bảo hộ.
Nhưng đến khi đất Gia Định thất thủ quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước
Tiêm La.
Năm bính
thìn (1796), Nặc Ông Ấn mất, truyền nôi lại cho con là Nặc Ông Chân. Vua Tiêm
La sai sứ sang phong, như thế là vua Chân Lạp phải thần phục vua Tiêm La.
Đến năm
đinh mão (1807) Nặc Ông Chân lại bỏ Tiêm La mà xin về thần phục vua Việt Nam
ta, theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần.
Đồ cống
vật là:
Voi đực
cao 5 thước 2 con
Sừng tê
giác 2 chiếc
Ngà voi 2 cái
Hột sa
nhân 50 cân
Đậu khấu 50 cân
Hoàng
lạp 50 cân
Cánh
kiến 50 cân
Sơn đen 20 lọ
Nặc Ông
Chân có ba người em tên là Nặc Ông Nguyên, Nặc Ông Lem, Nặc Ông Đôn, muốn tranh
quyền của anh, mới sang cầu cứu nước Tiêm La. Tiêm La bắt Nặc Ông Chân phải
chia đất cho các em. Nặc Ông Chân
không chịu, quân
Tiêm La bèn
sang đánh thành La Bích.
Nặc Ông Chân chạy sang Tân Châu, rồi dâng biểu cầu cứu. Quan tổng trấn
Gia Định thành bấy giờ là Nguyễn Văn Nhân mới đem việc ấy tâu về Triều đình.
Năm tân
mùi (1811), vua Thế Tổ cho sứ đưa thư sang trách nước Tiêm La sinh sự. Năm sau,
vua Tiêm La sai sứ sang phúc thư lại rằng: việc ấy là muốn giảng hòa cho anh em
Nặc Ông Chân, chứ không có ý gì cả. Vậy xin để Việt Nam xử trí thế nào, Tiêm
La142 cũng xin thuận.
Qua năm
quý dậu (1813) vua Thế Tổ sai quan tổng trấn Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt đem
hơn 10.000 quân, hội đồng với sứ nước Tiêm La, đưa Nặc Ông Chân về nước.
Nước
Tiêm La tuy không dám kháng cự, nhưng vẫn lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc tầm bon
(Battambang), nói rằng để đất ấy phong cho các em Nặc Ông Chân. Lê Văn Duyệt
mới viết thư sang trách nước Tiêm La về điều ấy, quân Tiêm mới rút về.
Lê Văn
Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnompenh) và thành La-lêm. Khi những
thành ấy xây xong, thì vua Thế Tổ sai Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân ở lại bảo
hộ nước Chân Lạp. Từ đó quyền bảo hộ Chân Lạp lại về nước ta.
10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao. Năm quý
hợi (1803), nước Hồng Mao (tức là Anh Cát Lợi) sai sứ là ông Robert đem đồ
phương vật sang dân và xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng
Nam. Vua Thế Tổ không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Hồng
Mao còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng ngày vẫn một niềm từ chối không
chịu.
11. Việc giao thiệp với nước Pháp Lan Tây. Đối
với nước Pháp thì vua Thế Tổ có biệt nhỡn hơn, là vì khi ngài còn gian truân,
ngài có nhờ ông Bá Đa Lộc có đem mấy người sang giúp ngày. Đến khi xong việc
đánh dẹp rồi, còn có Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, mà vua
Thế Tổ cũng có lòng trọng đãi, cho mỗi người 50 lính hầu, và đến buổi chầu thì
không bắt lạy.
Vả trong
khi vua Thế Tổ làm vua ở nước Việt Nam, thì Nã Phá Luân đệ nhất (Napoleon I)
làm vua bên nước Pháp, đang còn phải đánh nhau với các nước, cho nên tàu Pháp cũng
không hay đi lại ở phía Viễn Đông này. Đến khi Nã Phá Luân thất thế, dòng dõi
nhà vua cũ lại trung hưng lên, bấy giờ sự chiến tranh đã yên, thì mới có tàu
sang buôn bán ở phương Á đông. Năm đinh sửu (1817), có chiếc tàu "La
Paix" của hiệu Balguerie, Sarget et Cie chở đồ hàng sang bán, nhưng mà
những đồ hàng ấy, người Việt Nam ta không dùng được, lại phải chở về. Vua Thế
Tổ tha không đánh thuế. Qua tháng sáu năm ấy, chiếc tàu binh tên là Cybèle của
nước Pháp vào cử Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng là De Kergarion bá tước nói rằng
Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm
1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời
rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói
đến nữa.
Năm kỷ
mão (1819), có chiếc tàu buôn ba cột tên là "Rose" và "Le
Henri" vào cửa Đà Nẵng. Lần này hàng hóa đem sang bán được, lại chở chè và
lụa về. Năm ấy Chaigneau xin nghỉ ba
năm, đem vợ con xuống tàu "Le Henri" về Pháp.
142 Tức
là Thái Lan ngày nay
12. Sự giết hại công thần. Những người công
thần như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại trong khi vua Thế
Tổ còn đang trị vì.
Nguyễn
Văn Thành, nguyên là người ở Thừa Thiên, nhưng vào ở Gia Định đã hai ba đời.
Theo vua Thế Tổ từ khi ngài mới khởi binh đánh Tây Sơn, chịu hết mọi đường khổ
sở. Sau ra đánh Tây Sơn ở Quy Nhơn, lập
được công lớn, đứng đầu hàng công thần.
Khi vua
Thế Tổ ra lấy bắc hà, triệu ông ra làm tổng trấn, giao cho xếp đặt mọi việc,
chỉ có mấy năm mà đất Bắc Hà được yên
trị. Sau về Kinh làm chức trung quân.
Ông có
học thức, cho nên triều đình cử làm tổng tài việc làm sách luật và quốc sử.
Nguyễn
Văn Thành có người con tên là Nguyễn Văn Thuyên thi đậu cử nhân, thường hay làm
thơ để giao du với những kẻ văn sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn
Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, Văn Thuyên làm bài thơ sai tên
Nguyễn Trương Hiệu cầm đi mời vào chơi.
Bài thơ
rằng:
Văn đạo
Ái châu đa tuấn kiệt Hư hoài trắc tịch dục cầu ty Vô tâm cửu bảo Kinh sơn phác Thiện
tường phương tri Ký bắc kỳ U cốc hữu hương thiên lý viễn
Cao
cương minh phượng cửu thiên tri Thư hồi nhược đắc sơn trung tể Tá ngã
kinh luân chuyển hóa ky Dịch nôm là:
Ái châu
nghe nói lắm người hay
Ao ước cầu hiền đã bấy nay
Ngọc phác Kinh sơn tài sẵn đó
Ngựa kỳ Ký bắc biết lâu thay
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây
Sơn tể phen này dù gặp gỡ
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này
Ao ước cầu hiền đã bấy nay
Ngọc phác Kinh sơn tài sẵn đó
Ngựa kỳ Ký bắc biết lâu thay
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây
Sơn tể phen này dù gặp gỡ
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này
Tưởng
bài thơ này chẳng qua là lời lẽ của người thiếu niên nói ngông mà thôi, không
ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi xui
tên Hiệu đi cáo với Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vốn ghét Nguyễn Văn Thành, nay
thấy bài thơ này, nắm lấy đem vào tâu vua, vua sai bắt Nguyễn Văn Thuyên đem bỏ
ngục. Bấy giờ triều thần có nhiều người bẻ tội ông Thành. Một hôm bãi triều
rồi, ông Thành chạy theo nắm lấy áo vua mà kêu khóc rằng: "Thần theo Bệ Hạ
từ thủa nhỏ đến bây giờ, nay không có tội gì mà bị người ta cấu xé, Bệ Hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn để người ta giết
thần mà không cứu?". Vua Thế Tổ giật áo ra đi vào cung, rồi từ đó cấm
không co ông Thành vào chầu nữa, và sai Lê Văn Duyệt đem con Nguyễn Văn Thành
ra tra hỏi, bắt phải nhận tội. Nguyễn Văn Thành sợ tội, uống thuốc độc mà chết,
còn Nguyễn Thuyên thì phải chém.
Đặng
Trần Thường người ở Chương Đức (tức là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông bây giờ)
có tài văn học, trốn Tây Sơn vào Gia Định theo giúp vua Thế Tổ làm đến Binh Bộ
Thượng Thư. Sau vì làm gian sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc là tướng nhà
Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình làm án phải tội chém. Nhưng rồi lại được
tha. Đặng Trần Thường vốn có hiềm với Lê Chất, cho nên Lê Chất mới bới những
việc như là khi ra coi tào binh ở Bắc Thành, có chiếm giữ đầm ao và ẩn lậu đinh
điền, v.v.... Lại bị bắt bỏ ngục và xử phải tội giảo.
Tương truyền
rằng Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài "Hàn Vương Tôn Phú"
bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời Hán.
13. Xét công việc của vua Thế Tổ. Vua Thể tổ là
ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn,
trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sợ
khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái
đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng
mà theo giúp. Bởi vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà
lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy
giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.
Công
nghiệp của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có một
điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn
cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người
có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến
vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công
danh về đời áp chế ngày xưa.
Vua Thế
Tổ mất năm
kỷ mão (1819),
trị vì được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế.
CHƯƠNG I
Thánh Tổ
(1820-1840)
Niên
hiệu: Minh Mệnh
1. Đức độ vua Thánh Tổ
2. Việc chính trị trong nước
3. Nội các
4. Cơ mật viện
5. Tôn nhân phủ
6. Quan chế
7. Đặt tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh
8. Lương bổng của các quan
9. Tiền dưỡng liêm
10. Sự học hành thi cử
11. Sách vở
12. Việc sửa sang phong tục
13. Nhà dưỡng tế
14. Việc dinh điền và thuế má
15. Việc võ bị
1. Đức Độ Vua Thánh Tổ.
Tháng giêng năm canh thìn (1820), Hoàng Thái Tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh.
Tháng giêng năm canh thìn (1820), Hoàng Thái Tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh.
Vua
Thánh Tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại hay làm;
phàm có việc gì, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành.
Ngài
tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, cho nên không ưa đạo mới, cho là một tả
đạo lấy trời thánh ra mà làm mê hoặc lòng dân. Bởi vậy, ngài mới nghiêm cấm và
trừng trị những người theo đạo Gia Tô.
Về sau
có nhiều nhà làm sử, vì ý riêng mà cho ngài là bạo quân, thì thiết tưởng điều
ấy không hợp với lẽ công bằng.
Phải
biết rằng nước ta từ xưa đến nay, điều gì cũng theo Nho Giáo, lấy tam cương ngũ
thường làm căn bản cho sự ăn ở. Vua tôi, cha con, vợ chồng, ấy là cái khóa luân
lý củ xã hội mình. Ai tháo cái khóa ấy ra thì cho là không phải loài người nữa.
Vậy con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy ra phải tội
nặng, đáng chém giết.
Lúc
trong nước mình từ vua quan cho chí dân sự, ai ai cũng lấy cái lý tưởng ấy làm
phải, làm hay hơn cả, mà lại thấy có người bỏ đi theo đạo khác, nói những
chuyện mà lúc bấy giờ lại không mấy người hiểu rõ ra thế nào thì tất cho là
theo tả đạo làm hư hỏng cái phong tục hay của mình. Bởi vậy cho nên nhà vua mới
cấm, không cho người trong nước đi theo đạo mới.
Một ông
vua nghiêm khắc như Thánh Tổ mà cấm không được, thì tất là phải giết. Trong khi
cấm và giết như vậy, là vẫn tưởng mình làm bổn phận làm vua của mình, chớ có
biết đâu là mình làm sự thiệt hại cho dân cho nước.
Vả, bao
giờ cũng vậy, hễ người ta đã sùng tín một tông giáo nào, thì tất cho cái tông
giáo của mình là hay hơn, và cho người theo tông giáo khác là thù nghịch với
mình, rồi hễ có quyền thế là làm thế nào cũng dùng cách ấy mà hà hiếp người
khác đạo với mình. Cũng vì lẽ ấy, cho nên ngày trước Vua Phillippe II nước I
Pha Nho, vua Louis XIV nước Pháp Lan Tây giết hại bao nhiêu người trong nước.
Mà chắc rằng lúc bấy giờ các ông ấy cũng tưởng là mình làm điều phải, chớ có
biết đâu là mình làm điều trái lẽ.
Vẫn biết
rằng sự giết đạo là sự không lành, nhưng phải hiểu cái trí não người Việt Nam
ta lúc bấy giờ, không rõ cái tông chỉ đạo Thiên Chúa ra thế nào, cho nên dẫu
không phải là vua Thánh Tổ nữa, thì ông vua khác cũng không chắc đã tránh khỏi
cái lỗi giết đạo ấy.
Nhà làm
sử lại đổ cho vua Thánh Tổ giết Nguyễn Văn Thành, song xét trong các truyện như
sách Thực Lục Chính Biên và sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện thì chỉ thấy
chép rằng Nguyễn Văn Thành bị tội phải uống thuốc độc mà tự tử năm Gia Long thứ
15 mà thôi. Còn như vụ án Lê Văn Duyệt và Lê Chất thì có hẹp hòi thật, nhưng
khi các ông ấy đã mất rồi, và lại vì có tên Khôi khởi loạn cho nên mới truy tội
hai ông ấy mà làm án, chứ lúc hai ông ấy còn sống, thì vua Thánh Tổ, tuy có
bụng nghi ngờ, nhưng vẫn không bạc đãi.
Việc ngài giết chị dâu là bà vợ Hoàng Tử Cảnh và các cháu, thì không thấy sách nào chép cả, chỉ thấy một đôi người truyền ngôn như
thế mà thôi. Vậy việc ấy thực hư thế nào không rõ.
Còn việc
không biết giao thiệp với các nước ngoại dương, thì không phải là cái lỗi riêng
một mình ngài. Lúc bấy giờ người mình ai
cũng chỉ biết có nước Tàu là văn minh hơn, còn thì cho là man di cả. Phỏng sử
có ai là người biết mà nói ở thiên hạ còn có nhiều nước văn minh hơn nữa cũng
không ai tin. Bởi thế, hễ thấy người ngoại quốc vào nước mình, thì không những
là sợ có sự phản trắc và sợ đem đạo mới vào nước mà thôi, lại còn sợ lây phải
cái phong tục dã man nữa, cho nên không muốn giao thông với ngoại quốc làm gì.
Như thế thì có nên riêng trách một mình ai không ?
Cái
nghĩa vụ làm sử, tưởng nên kê cứu cho tường tận, rồi cứ sự thực mà nói, chứ
không nên lấy lòng yêu ghét của mình mà xét đoán. Dẫu người mình ghét mà có làm
điều phải, mình cũng phải khen; người mình yêu mà có làm điều trái, mình cũng
phải chê. Vua Thánh Tổ là một ông vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều
điều sai lầm và có nhiều điều tàn ác, nhưng xét cho kỹ, thì thật ngài cũng có
lòng vì nước lắm. Trong, lo sửa sang mọi
việc, làm thành ra nền nếp chỉnh tề, ngoài, đánh Tiêm dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn.
Vậy cứ
bình tình mà xét, thì dẫu ngài không được là ông anh quân nữa, thì cũng không
phải là ông vua tầm thường; cứ xem công việc của ngài làm thì hiểu rõ.
2. Việc Chính Trị Trong Nước.
Vua Thánh Tổ đã 30 tuổi mới lên ngôi vua, cho nên việc triều chính ngài đã am hiểu lắm. Việc gì ngài cũng muốn biết. Có khi xong buổi chầu rồi, ngài đòi một vài quan đại thần lên bàn mọi việc kinh lý và hỏi những sự tích đời xưa, những nhân vật và phong tục ở các nước xa lạ. Ngài chăm xem xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống hai, trống ba mới thôi. Thường thường ngài nói với các quan rằng: Lòng người ai cũng muốn ở yên, mà không muốn sinh sự ra để thay đổi luôn, nhưng lúc trẻ mạnh mà không sửa sang mọi việc, thì rồi đến lúc già yếu, mỏi mệt còn làm gì được. Bởi vậy cho nên trẫm không dám lười biếng lúc nào143.
Vua Thánh Tổ đã 30 tuổi mới lên ngôi vua, cho nên việc triều chính ngài đã am hiểu lắm. Việc gì ngài cũng muốn biết. Có khi xong buổi chầu rồi, ngài đòi một vài quan đại thần lên bàn mọi việc kinh lý và hỏi những sự tích đời xưa, những nhân vật và phong tục ở các nước xa lạ. Ngài chăm xem xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống hai, trống ba mới thôi. Thường thường ngài nói với các quan rằng: Lòng người ai cũng muốn ở yên, mà không muốn sinh sự ra để thay đổi luôn, nhưng lúc trẻ mạnh mà không sửa sang mọi việc, thì rồi đến lúc già yếu, mỏi mệt còn làm gì được. Bởi vậy cho nên trẫm không dám lười biếng lúc nào143.
Ở trong
triều, thì ngài đặt thêm ra các tự và các viện. Bấy giờ có Nội Các và Cơ Mật
Viện là quan trọng hơn cả.
3. Nội Các.
Đời vua Thế Tổ đã đặt Thị Thư Viện làm chốn cơ yếu trong
Đời vua Thế Tổ đã đặt Thị Thư Viện làm chốn cơ yếu trong
điện, để
có điều gì thì vua hỏi han và làm các việc như biểu, sách, chế, cáo,
143 Minh
Mệnh Chính Yếu, quyển Cần Chính.
chương,
tấu, sắc, mệnh, v.v.... Đại khái cũng tự hồ phòng bí thư của vua vậy.
Năm canh
thìn (1820) là năm Minh Mệnh nguyên niên, vua Thánh Tổ cải làm Văn Thư Phòng;
đến năm Minh Mệnh thứ mười (1829), đổi làm Nội Các, lấy quan tam tứ phẩm ở các
bộ, viện, vào quản lĩnh mọi việc.
4. Cơ Mật Viện.
Năm giáp ngọ (1834) là năm Minh Mệnh thứ 15, nhân vì việc quân quốc cơ yếu là việc rất quan trọng, vua Thánh Tổ mới theo như Khu Mật Viện nhà Tống và Quân Cơ xứ nhà Thanh mà châm chước đặt ra Cơ Mật Viện, cho có trách nhiệm riêng. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy thì dùng 4 viên, văn võ từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc viên thì có viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ, biên tu, đều kén ở trong các bộ viện ra sung bổ. Các quan đại thần ở Cơ Mật Viện có đặc chỉ cho đem kim bài để phân biệt với các quan khác. Kim bài khởi đầu có từ đấy.
Năm giáp ngọ (1834) là năm Minh Mệnh thứ 15, nhân vì việc quân quốc cơ yếu là việc rất quan trọng, vua Thánh Tổ mới theo như Khu Mật Viện nhà Tống và Quân Cơ xứ nhà Thanh mà châm chước đặt ra Cơ Mật Viện, cho có trách nhiệm riêng. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy thì dùng 4 viên, văn võ từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc viên thì có viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ, biên tu, đều kén ở trong các bộ viện ra sung bổ. Các quan đại thần ở Cơ Mật Viện có đặc chỉ cho đem kim bài để phân biệt với các quan khác. Kim bài khởi đầu có từ đấy.
5. Tôn Nhân Phủ.
Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, vua Thánh Tổ đặt ra Tôn Nhân Phủ và đặt quan chức để coi mọi việc ở trong họ nhà vua.
Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, vua Thánh Tổ đặt ra Tôn Nhân Phủ và đặt quan chức để coi mọi việc ở trong họ nhà vua.
Nhà vua
thờ tiên tổ có 7 miếu: những miếu phía tả gọi là chiêu, những miếu phía hữu gọi
là mục. Con cháu các dòng chiêu hay là mục phải phân biệt chi nào ra chi ấy.
Đặt tôn
nhân lệnh một người, tả hữu tôn chính hai người, tả hữu tôn nhân hai người, để
coi việc hoàng tộc và việc phân biệt tự hàng chiêu hàng mục, ghi chép hàng lượt
người thân người sơ, việc nuôi nấng và cấp tước lộc cho mọi người trong hoàng
tộc; lại đặt ra hữu tôn khanh hai người, tả hữu tá lý hai người, để coi thứ
trật mọi người tôn thất và việc cấp dưỡng cho kẻ cô ấu, giúp đỡ những việc tang
hôn v.v....
6. Quan Chế.
Vua Thánh Tổ lại đặt các phẩm cấp quan chế, từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mổi phẩm chia ra làm chánh và tòng hai bậc.
Vua Thánh Tổ lại đặt các phẩm cấp quan chế, từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mổi phẩm chia ra làm chánh và tòng hai bậc.
*Chánh
Nhất Phẩm (văn): Cần chính điện đại học
sĩ, Văn Minh điện đại học sĩ, Võ hiển điện đại học sĩ, Đông các đại học sĩ.
*Chánh nhất phẩm (võ): Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống chưởng phủ sự.
*Chánh nhất phẩm (võ): Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống chưởng phủ sự.
+Tòng
Nhất Phẩm (Văn): Hiệp biện đại học sĩ. học chánh, thông phán, thổ tri phủ, y hữu viện phán;
+Tòng Nhất Phẩm (Võ): Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống, chánh đội trưởng suất đội.
+Tòng Nhất Phẩm (Võ): Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống, chánh đội trưởng suất đội.
*Chánh
Thất Phẩm (Văn): Hàn lâm viện biên tu,
tư vụ, lục sự, giám thừa, giám linh đài lang, giáo thụ, kinh lịch.
*Chánh Thất Phẩm (Võ): Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh chánh đội trưởng suất đội.
*Chánh Thất Phẩm (Võ): Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh chánh đội trưởng suất đội.
*Tòng
Thất Phẩm (Văn): Hàn lâm viện kiểm thảo, y
chánh, tinh linh đài lang, thổ tri huyện, tri châu.
*Tòng Thất Phẩm (Võ): Tinh binh đội trưởng, phụng ân úy, dịch thừa, tòng thất phẩm thiên hộ, nội tạo phó tư tượng.
*Tòng Thất Phẩm (Võ): Tinh binh đội trưởng, phụng ân úy, dịch thừa, tòng thất phẩm thiên hộ, nội tạo phó tư tượng.
*Chánh
Bát Phẩm (Văn): Hàn lâm viện điển tịch, huấn đạo,
chánh bát phẩm thơ lại.
*Chánh Bát Phẩm (Võ): Chánh bát phẩm đội trưởng, chánh bát phẩm bá hộ, dịch mục, chánh bát phẩm chánh tư tượng.
*Chánh Bát Phẩm (Võ): Chánh bát phẩm đội trưởng, chánh bát phẩm bá hộ, dịch mục, chánh bát phẩm chánh tư tượng.
*Tòng bát phẩm (Văn): Hàn lâm viện điển bạ, y phó, tòng
bát phẩm thơ lại.
*Tòng bát phẩm (Võ): Tòng bát phẩm đội trưởng, tòng bát phẩm bá hộ, thừa ân úy, tòng bát phẩm phó tư tượng.
*Tòng bát phẩm (Võ): Tòng bát phẩm đội trưởng, tòng bát phẩm bá hộ, thừa ân úy, tòng bát phẩm phó tư tượng.
*Chánh
Cửu Phẩm (Văn): Hàn lâm viện cung phụng, chánh
cửu phẩm thơ lại, thái y y chánh, tự thừa, phủ lại mục.
*Chánh Cửu Phẩm (Võ): Chánh cửu phẩm đội trưởng, phủ lệ mục, chánh cửu phẩm bá hộ, chánh cửu phẩm tượng mục.
*Chánh Cửu Phẩm (Võ): Chánh cửu phẩm đội trưởng, phủ lệ mục, chánh cửu phẩm bá hộ, chánh cửu phẩm tượng mục.
*Tòng Cửu
Phẩm (Văn): Hàn lâm viện đãi chiếu, tòng cửu
phẩm thơ lại, tỉnh y sinh,
huyện lại mục, chánh tổng.
*Tòng Cửu Phẩm (Võ): Tòng cửu phẩm đội trưởng, tòng cửu phẩm bá hộ, huyện lệ mục, tòng cửu phẩm tượng mục.
*Tòng Cửu Phẩm (Võ): Tòng cửu phẩm đội trưởng, tòng cửu phẩm bá hộ, huyện lệ mục, tòng cửu phẩm tượng mục.
7. Đặt Tổng Đốc, Tuần Phủ ở các tỉnh. Nguyên trước nước Nam ta chia ra làm từng
trấn, có quan Trấn Thủ, hay là quan Lưu Trấn để coi việc trong trấn. Từ đời Gia
Long trở đi, ở Bắc Thành và Gia Định Thành đặt quan Tổng Trấn và quan Hiệp
Trấn, để coi việc quân và việc dân trong cả toàn xứ.
Đến năm
tân mão (1831) là năm Minh Mệnh thứ 12, vua Thánh Tổ mới theo lối nhà Thanh,
đổi trấn làm tỉnh và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính sứ, án sát sứ và
lĩnh binh.
Tổng đốc
thì coi việc quân, việc dân, khảo hạch quan lại, sửa sang bờ cõi ở trong hạt;
tuần phủ thì coi việc chính trị, giáo dục và giữ gìn phong tục; bố chính sứ thì
coi việc thuế má, đinh điền, lính tráng và triều đình có ân trạch hay là cấm
lệnh điều gì, thì phải tuyên cho mọi nơi biết; án sát sứ
Từ tuần
phủ trở xuống đều phải theo lệnh quan tổng đốc. Thường thì tỉnh nào lớn, có lắm
việc quan trọng mới đặt tổng đốc để quản trị cả hai ba tỉnh. Còn những tỉnh nhỏ thì chỉ đặt tuần phủ là
quan đầu tỉnh144.
8. Lương bổng của các quan viên.
Năm kỷ hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên.
Năm kỷ hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên.
Chánh
nhất phẩm:tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân phục 70 quan. Tòng nhất
phẩm: tiền 300 quan, gạo 250 phương, tiền xuân phục 60 quan. Chánh nhị
phẩm:tiền 250 quan, gạo 200 phương, tiền xuân phục 50 quan. Tòng nhị phẩm: tiền
180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân phục 30 quan. Chánh tam phẩm:tiền 150 quan,
gạo 120 phương, tiền xuân phục 20 quan. Tòng tam phẩm: tiền 120 quan, gạo 90
phương, tiền xuân phục 16 quan.
Chánh tứ
phẩm:tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền xuân phục 14 quan. Tòng tứ phẩm: tiền 60
quan, gạo 50 phương, tiền xuân phục 10 quan. Chánh ngũ phẩm:tiền 40 quan, gạo
43 phương, tiền xuân phục 9 quan. Tòng ngũ phẩm: tiền 35 quan, gạo 30 phương,
tiền xuân phục 8 quan. Chánh lục phẩm:tiền 30 quan, gạo 25 phương, tiền xuân
phục 7 quan. Tòng lục phẩm: tiền 300 quan, gạo 22 phương, tiền xuân phục 6
quan. Chánh thất phẩm:tiền 25 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng
thất phẩm: tiền 22 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Chánh bát
phẩm:tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng bát phẩm: tiền 20
quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 4 quan. Chánh cửu phẩm:tiền 18 quan, gạo 16
phương, tiền xuân phục 4 quan. Tòng cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền
xuân phục 4 quan.
Lại dịch
binh tượng: mỗi tháng tiền một quan, gạo một phương. Hậu bổ: mỗi tháng tiền 2
quan, gạo 2 phương.
Từ nhất
phẩm đến tam phẩm, mỗi năm hai kỳ trình giấy lĩnh bỗng; tự tứ phẩm đến thất
phẩm, mỗi năm 4 lần, đến tháng cuối mùa xuân, hạ, thu, đông, trình giấy lĩnh
bỗng; tự bát cửu phẩm trở xuống, thì cứ mỗi tháng đến lĩnh một kỳ.
Tiền
lương bổng của các quan viên lúc bấy giờ mà so sánh với bây giờ, thì thật là ít
ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn tiêu thủa trước rẻ rúng không hết bao nhiêu. Nhà
vua lại sợ những phủ huyện thiếu thốn mà nhũng lạm của dân, cho nên mỗi năm lại
phát thêm tiền dưỡng liêm.
thì coi
việc hình luật
và kiêm cả
việc trạm dịch
bưu chính; lĩnh
binh thì chuyên
coi binh lính.
144 Đời
vua Thế Tổ nước Nam ta có 27 trấn, đến đời vua Thánh Tổ đặt thêm 4 tỉnh nữa là
Hưng Yên, Ninh Bình, Hà tĩnh và An Giang, cả thảy thành ra 31 tỉnh.
9. Tiền Dưỡng Liêm.
Tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.
Tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.
Đồng tri
phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản
khuyết 25 quan.
Tri
huyện, tri châu: tối yếu khuyết cho 40 quan, yếu khuyết 30 quan, trung khuyết
25 quan, giản khuyết 20 quan.
10. Sự Học Hành Thi Cử.
Việc trị nước cần phải có văn học, cho nên từ đời vua Thế Tổ cũng đã lưu ý về việc mở mang sự học hành. Đến đời vua Thánh Tổ thì ngài lại trọng sự văn học lắm, ngài thường nói với các quan rằng: Đạo trị nước thì trước hết cần phải gây lấy nhân tài. Bởi vậy ngài có lòng yêu dùng những người có văn học, cho các hương cống vào làm hành tẩu ở trong lục bộ, để học tập việc chính trị. Mở Quốc Tử Giám cho các giám sinh được lương bổng ở ăn học.
Việc trị nước cần phải có văn học, cho nên từ đời vua Thế Tổ cũng đã lưu ý về việc mở mang sự học hành. Đến đời vua Thánh Tổ thì ngài lại trọng sự văn học lắm, ngài thường nói với các quan rằng: Đạo trị nước thì trước hết cần phải gây lấy nhân tài. Bởi vậy ngài có lòng yêu dùng những người có văn học, cho các hương cống vào làm hành tẩu ở trong lục bộ, để học tập việc chính trị. Mở Quốc Tử Giám cho các giám sinh được lương bổng ở ăn học.
Đời vua
Thế Tổ thì chỉ có thi Hương mà thôi, đến năm nhâm ngọ (1822) là năm Minh Mệnh
thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy tiến sĩ, đến năm Minh Mệnh thứ 10
(1829) nhà vua lại cho những người trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ
phó bảng. Phó bảng khởi đầu có từ đấy.
Nguyên
trước cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm tí, ngọ,
mão, dậu, thi Hương; năm thìn, tuất, sửu, mùi, thi Hội, thi Đình.
Phép thi
thì vẫn theo như đời Gia Long, nghĩa là kỳ đệ nhất: kinh nghĩa; kỳ đệ nhị: tứ
lục; kỳ đệ tam: thi phú; kỳ đệ tứ: văn sách.
Trước ai đỗ tam trường, gọi là sinh đồi, ai đỗ tứ trường gọi là hương
cống, nay đổi sinh đồ là tú tài, hương cống là cử nhân.
Vua
Thánh Tổ là ông vua thông minh, ngài vẫn biết sự học của nước ta sai lầm, những
sĩ phu trong nước chỉ học theo lối cử nghiệp, nghĩa là cốt học lấy thi đỗ, chứ
không mấy người có thực học. Thường ngài nói chuyện với các quan rằng:
"Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không
có qui củ nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang
lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa
tráng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi
ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần
dần đổi lại". Vua Thánh Tổ thật là biết rõ cái tật của những người đi học
ở trong nước ta, nhưng chỉ vì thói
quen lâu ngày khó bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, thì dễ thường cũng không biết đổi
ra thế nào cho hay hơn được, cho nên sự học của mình vẫn nguyên như cũ.
11. Sách Vở.
Vua Thánh Tổ mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột Di Hoán Văn Thảo; ông Hoàng Công Tài dâng một bản Bản Triều Ngọc Phả, 2 bản Kỷ Sự; ông Cung Văn Hi, người ở Quảng Đức dâng 7 quyển Khai Quốc Công Nghiệp Diễn Chí; ông Nguyễn Đình Chính người Thanh Hóa dâng 34 quyển Minh Lương Khải Cáo Lục; ông Vũ Văn Tiêu, người Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cố Sự Biên Lục.
Vua Thánh Tổ mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột Di Hoán Văn Thảo; ông Hoàng Công Tài dâng một bản Bản Triều Ngọc Phả, 2 bản Kỷ Sự; ông Cung Văn Hi, người ở Quảng Đức dâng 7 quyển Khai Quốc Công Nghiệp Diễn Chí; ông Nguyễn Đình Chính người Thanh Hóa dâng 34 quyển Minh Lương Khải Cáo Lục; ông Vũ Văn Tiêu, người Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cố Sự Biên Lục.
Vua
Thánh Tổ lại sai quan soạn xong bộ Liệt Thánh Thực Lục Tiền Biên, bộ Khâm Định
Tiễu Binh Lưỡng Kỳ Phỉ Khấu Phương Lược, còn sách của ngài soạn ra có hai bộ là
Ngự Chế Tiễu Bình Nam Kỳ Tặc Khấu Thi Tập và Ngự Chế Thi Tập.
12. Việc Sửa Sang Phong Tục. Mấy năm về cuối
đời vua Thánh Tổ trong nước lắm giặc giã, phong tục thành ra kiêu bạc, dân sự
lắm người cờ bạc rượu chè và hay mê hoặc những tà giáo. Nhà vua lấy sự ấy làm
lo, bèn soạn ra 10 điều huấn dụ, ban ra mọi nơi, để dạy bảo ngu dân.
1. Đô Nhân Luân: trọng tam cương ngũ thường.
2. Chính Tâm Thuật: làm việc gì cũng cốt
phải giữ bụng dạ cho chính đính
trong sạch.
3. Vụ Bản Nghiệp: giữ bổn phận chăm nghề
nghiệp của mình.
4. Thượng Tiết Kiệm: chuộng đường tiết kiệm.
5. Hậu Phong Tục: giữ phong tục cho thuần
hậu.
6. Huấn Tử Đệ: phải dạy bảo con em.
7. Sùng Chính Học: chuộng học đạo chính.
8. Giới Dâm Thắc: răn giữ những điều gian tà
dâm dục.
9. Thận Pháp Thủ: cẩn thận mà giữ pháp luật.
10. Quảng Thiện Hạnh: rộng sự làm lành.
Năm bính
thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, có quan giám sát ngự sử là Bùi Mậu Tiên
dâng sớ tâu rằng: "Các làng ở ngoài Bắc Thành nhiều kẻ hào cường trái
phép, mà dân thì biếng nhác chỉ cờ bạc rượu chè; việc tế lễ quỷ thần thì hay
dùng cách xa xỉ, việc táng tế thì chuộng đường xa hoa, thậm chí
có kẻ bán sạch cửa nhà cơ nghiệp để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương
bảo tương lân".
Vua Thánh
Tổ bèn xuống chiếu trách cứ các quan địa phương phải đem những điều huấn dụ đã
ban ra trước mà khuyên bảo dân sự, và phải chuyển sức cho tổng lý: hễ thấy ai
biếng nhác rong chơi cờ bạc rượu chè, thì phải cấm chỉ đi. Những kẻ hào cường trong làng mà ỷ thế hống
hách điêu toa kiện tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ bình dân, thì
phải theo phép mà trừng trị. Còn những
lệ thờ thần và lễ tang tế thì Lễ Bộ đã định ra phép tắc, hễ ai không tuân theo
thì phải tội.
13. Nhà Dưỡng Tế.
Không những là vua Thánh Tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc Thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương nhờ, phải đến ở đó, thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.
Không những là vua Thánh Tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc Thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương nhờ, phải đến ở đó, thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.
14. Việc Đinh Điền và Thuế Má.
Thuế đinh và thuế điền thì đại khái cũng theo như đời vua Thế Tổ đã định. Chỉ có năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, đất Nam kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền thổ ở miền ấy. Còn như số dân đinh và điền thổ trong nước, thì cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.
Thuế đinh và thuế điền thì đại khái cũng theo như đời vua Thế Tổ đã định. Chỉ có năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, đất Nam kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền thổ ở miền ấy. Còn như số dân đinh và điền thổ trong nước, thì cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.
Những
dân Tàu sang thành lập hương ấp ở nước Nam ta gọi là Minh Hương, thì có lệnh
mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được trừ giao dịch. Những người lão hạng và tàn tật thì phải chịu
một nửa.
Còn
những người nhà Thanh sang buôn bán ở nước Nam, phàm người nào mà có vật lực
thì đồng niên phải đóng 6 quan năm tiền; ai không có vật lực thì phải nộp một
nửa, hạn cho 3 năm, thì chiếu lệ thu cả thuế.
Nhà vua
lại đặt lệ đánh thuế muối. Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải nộp bằng muối từ 6
phương cho đến 10 phương.
Mỗi
phương nộp bằng tiền thì phải từ 3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.
Còn các
thứ thuế mỏ, thuế sản vật, v.v... thì đại khái cũng theo lệ đời vua Thế Tổ đã
định, chứ không thay đổi mấy đi.
15. Việc Võ Bị.
Khi vua Thánh Tổ lên nối nghiệp làm vua, thì trong nước đã được yên trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có võ bị, cho nên thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện tập binh mã để phòng khi hữu sự.
Khi vua Thánh Tổ lên nối nghiệp làm vua, thì trong nước đã được yên trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có võ bị, cho nên thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện tập binh mã để phòng khi hữu sự.
Ở những
nơi hiểm yếu thì lập đồn ải, ở các cửa bể và các đảo thì lập pháo đài. Và lại
làm tàu đồng, tập thủy quân để phòng giữ mặt bể.
Binh chế
thì có bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ
binh.
Bộ binh
thì có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia ra làm doanh, vệ, đội, hoặc
để đóng giữ
ở Kinh thành,
hoặc sai đi
đóng giữ các
tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ
có 10 đội, mỗi đội có 50 người, có suất đội và đội trưởng cai quản.
Những
binh khí của mỗi vệ, thì có hai khẩu súng thần công, 200 khẩu điểu thương và 21
ngọn cờ.
Cơ binh
là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra làm cơ, làm đội. Cơ thì có quản cơ, mà đội thì có suất đội cai
quản.
Tượng
quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh thành 150 con, ở
Bắc thành 110 con, ở Gia Định thành 75 con, ở Quảng Nam 35 con, ở Bình Định 30
con, ở Nghệ An 21 con, ở Quảng Bình, Quảng Nghĩa, Thanh Hóa mỗi nơi 15 con,
Quảng Trị, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Bình mỗi nơi 7 con.
Thủy
quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng vệ quản lĩnh, và
có quan đô thống coi cả 3 doanh.
Vua
Thánh Tổ vẫn biết rằng nước ở dọc bờ bể, thủy binh là việc rất yếu trọng cho sự
phòng bị. Thường ngài bắt quan đem binh
thuyền ra để luyện tập.
Đại khái
việc binh cơ, ngài không bỏ trễ chút nào. Ngài lập toán giáo dưỡng binh, để cho
con các quan võ, từ suất đội trở lên ai muốn tình nguyện vào học, thì cho lương
bổng, và cử quan đại thần ra dạy võ nghệ.
Còn như
khi nào có quân lính đi đâu, thì nhà vua đặt lệ sai mấy người y sinh đi theo để
điều hộ.
Tuy nhà
vua muốn lưu ý về việc binh lính, nhưng người mình lúc bấy giờ ai cũng trọng
văn khinh võ, bình nhật không có ai lo gì đến việc quân lính khí giới. Hễ có lâm sự thì mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua nay có chỉ dụ ra tập binh,
mai có chỉ dụ ra tập trận mặc lòng, các quan chỉ làm cho xong việc, rồi lại bỏ
mặc bọn quản đội làm thế nào thì làm. Thành ra quân số ở trong sổ sách thì
nhiều, mà thế lực thì vẫn không đủ: ấy là đời vua Thánh Tổ mà còn thế, huống
chi đến những đời sau, lại còn suy nhược hơn nữa.
CHƯƠNG
III
Thánh Tổ
(1820-1840)
(tiếp
theo)
1. Sự giặc giã
2. Giặc ở Bắc kỳ
3. Phan Bá Vành
4. Lê Duy Lương
5. Nông Văn Vân
6. Giặc ở Nam Kỳ
7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất
8. Giặc Tiêm La
9. Việc Ai Lao
10. Việc Chân Lạp
11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương
12. Sự cấm đạo
13. Vua Thánh Tổ mất
1. Sự Giặc Giã.
Vua Thánh Tổ thật là hết lòng lo việc chính trị, điều gì ngài cũng xem xét đến, việc gì ngài cũng sửa sang lại, có ý muốn cho nước thịnh dân giàu, nhưng phải mấy năm về sau, trong nước có lắm giặc giã, quan quân phải chinh nam phạt bắc, phải đánh Tiêm, dẹp Lào, thành ra dân sự không được yên nghiệp mà làm
Vua Thánh Tổ thật là hết lòng lo việc chính trị, điều gì ngài cũng xem xét đến, việc gì ngài cũng sửa sang lại, có ý muốn cho nước thịnh dân giàu, nhưng phải mấy năm về sau, trong nước có lắm giặc giã, quan quân phải chinh nam phạt bắc, phải đánh Tiêm, dẹp Lào, thành ra dân sự không được yên nghiệp mà làm
Xét sự
giặc giã về đời vua Thánh Tổ là do ở ba lẽ cốt yếu:
Một là
khi nhà Nguyễn thất thế ở Nam, quân họ Trịnh thua ở Bắc, nhà Nguyễn Tây Sơn còn
phải lo việc trong nước, lúc bấy giờ nước Tiêm La nhân lấy dịp ấy mà giữ quyền
bảo hộ nước Chân Lạp và hiếp thế các nước ở đất Lào. Đến khi vua Thế Tổ nhất
thống nam bắc, thanh thế lừng lẫy, nước Chân Lạp lại xin về thần phục nước Nam,
và các nước Ai Lao, Vạn Tượng, đều sang triều cống nhà Nguyễn. Từ đó nước Tiêm La
đối với nước Nam, bề ngoài tuy không ra mặt cừu địch, nhưng bề trong chỉ tìm
cách mà sinh sự để cướp lại cái quyền bảo hộ ở Chân Lạp và ở các nước Lào. Bởi
vậy cho nên về phía
tây và phía nam bao giờ cũng có giặc Tiêm và giặc Lào quấy nhiễu mãi.
Hai là ở
Bắc Kỳ tuy đã là thống thuộc về nhà Nguyễn rồi, nhưng còn có người mong
nhớ nhà Lê,
thỉnh thoảng lại có nơi nổi lên,
hoặc muốn khôi phục cho nhà Lê, hoặc để chống cự với quan nhà Nguyễn, bởi thế
cho nên ở đất Bắc cứ phải loạn lạc luôn.
Ba là quan
lại cứ hay nhũng nhiễu, làm cho lòng người không được thỏa thuận, và trong đám
quan trường thường hay có thói bới móc nhau để tâng công tâng cán. Nhà vua lại
có tính hẹp hòi, không bao dong cho những kẻ công thần, hay tìm chuyện làm uất
ức mọi người, mà ở với thần dân thì nghiêm khắc quá, cho nên mới thành ra nhiều
sự rối loạn.
Bởi
những lẽ ấy, cho nên ở ngoài thì có giặc Tiêm đánh phá, ở trong thì có ngụy
Khôi dấy loạn ở phía nam. Lê Duy Lương và Nông văn Vân dấy binh ở phía bắc. Lúc
bấy giờ cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi như Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê
Văn Đức, Nguyễn Công Trứ v.v. đều ra công
đánh
dẹp, cho nên không những là giặc trong nước dẹp yên, mà lại thêm
được bờ
cõi rộng rãi hơn cả những đời trước.
2. Giặc ở Bắc Kỳ.
Sự giặc giã ở đất Bắc thì từ năm Minh Mệnh thứ hai (1822) trở đi, thỉnh thoảng ở các trấn vẫn có những giặc cỏ quấy nhiễu ở các châu huyện. Còn những giặc có thanh thế to mà quan quân phải đánh dẹp khó nhọc, thì có Phan Bá Vành khởi ở Nam Định, Lê Duy Lương khởi ở Ninh Bình và Nông Văn Vân khởi ở Tuyên Quang.
Sự giặc giã ở đất Bắc thì từ năm Minh Mệnh thứ hai (1822) trở đi, thỉnh thoảng ở các trấn vẫn có những giặc cỏ quấy nhiễu ở các châu huyện. Còn những giặc có thanh thế to mà quan quân phải đánh dẹp khó nhọc, thì có Phan Bá Vành khởi ở Nam Định, Lê Duy Lương khởi ở Ninh Bình và Nông Văn Vân khởi ở Tuyên Quang.
3. Phan Bá Vành.
Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), ở Nam Định có Võ Đức Cát cùng với Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh khởi binh đánh phủ Trà Lý và Lân Hải, giết quan thủ ngự là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn. Quan trấn thủ ở Nam Định là Lê Mậu Cúc đem quân xuống đánh, cũng bị giặc giết mất. Quan quân ở các trấn phải về tiễu trừ, bắt được tên Võ Đức Cát. Còn tên Vành và dư đảng thì chạy tan cả. Nhưng đến tháng chạp năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại thông với đảng giặc Khánh đi cướp ở ngoài bể, rồi lại đem quân về đánh phá ở huyện Tiên Minh và huyện Nghi Dương ở Hải Dương.
Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), ở Nam Định có Võ Đức Cát cùng với Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh khởi binh đánh phủ Trà Lý và Lân Hải, giết quan thủ ngự là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn. Quan trấn thủ ở Nam Định là Lê Mậu Cúc đem quân xuống đánh, cũng bị giặc giết mất. Quan quân ở các trấn phải về tiễu trừ, bắt được tên Võ Đức Cát. Còn tên Vành và dư đảng thì chạy tan cả. Nhưng đến tháng chạp năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại thông với đảng giặc Khánh đi cướp ở ngoài bể, rồi lại đem quân về đánh phá ở huyện Tiên Minh và huyện Nghi Dương ở Hải Dương.
Nhà vua
thấy thế giặc to lắm, bèn sai quan Tham biện Thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ, quan
Tham biện Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận đem binh thuyền ở Thanh, Nghệ ra cùng với
quan Hiệp trấn Bắc thành là Nguyễn Hữu Thận đi đánh giặc.
Tháng
giêng năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, Vành lại về đánh lấy phủ
Thiên Trường và phủ Kiến Xương, sau lại về vây quan quân ở chợ Quán. Phạm Văn
Lý và Nguyễn Công Trứ đem quân đến đánh giải vây, Vành thua chạy về giữ Trà Lũ.
Quan quân vây đánh, bắt được Vành và cả đảng hơn 765 người.
4. Lê Duy Lương.
Khi dẹp xong giặc Vành thì trong xứ yên được một độ, nhưng còn có dòng dõi nhà Lê muốn khôi phục nghiệp cũ, bởi vậy đến tháng ba năm quý tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, ở Ninh Bình có Lê Duy Lương, là con cháu nhà Lê nổi lên, xưng là Đại Lê Hoàng Tôn, cùng với bọn thổ ti là Quách Tất Công, Quách tất Tế, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh, đem binh đi đánh phá các phủ huyện và chiếm giữ được 3 châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa và Yên Hóa. Lê Duy Lương lại sai quân đến vây đánh thành Hưng Hóa nguy cấp lắm.
Khi dẹp xong giặc Vành thì trong xứ yên được một độ, nhưng còn có dòng dõi nhà Lê muốn khôi phục nghiệp cũ, bởi vậy đến tháng ba năm quý tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, ở Ninh Bình có Lê Duy Lương, là con cháu nhà Lê nổi lên, xưng là Đại Lê Hoàng Tôn, cùng với bọn thổ ti là Quách Tất Công, Quách tất Tế, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh, đem binh đi đánh phá các phủ huyện và chiếm giữ được 3 châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa và Yên Hóa. Lê Duy Lương lại sai quân đến vây đánh thành Hưng Hóa nguy cấp lắm.
Vua
Thánh Tổ sai quan tổng đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh Bình cùng
với Tổng đốc Thanh hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh Lê Duy Lương.
Lê Duy
Lương ở Ninh Bình thế cô lắm, chống không nổi mấy đạo quan quân, chỉ đương được
vài ba tháng thì bị bắt, đóng cũi giải về Kinh trị tội. Còn bọn Quách Tất Công,
Quách Tất Tế thì chẳng được bao lâu mà tan.
Vì có
chuyện Lê Duy Lương dấy binh, cho nên nhà vua truyền bắt dòng dõi nhà Lê đem
đày vào ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Bình Định, cứ chia cho 15 người ở một huyện
và phát cho 10 quan tiền và 2 mẫu ruộng để làm ăn.
5. Nông Văn Vân.
Ở Bắc còn đang dẹp loạn Lê Duy Lương chưa xong, thì ở Nam Lê Văn Khôi làm phản, chiếm giữ thành Gia Định. Nguyên tên Khôi là người Bắc, có họ hàng bà con mạn Tuyên Quang, Cao Bằng, bởi vậy nhà vua sai quan tìm bắt anh em của tên Khôi đem về Kinh làm tội. Bấy giờ ở Tuyên Quang có người anh vợ tên Khôi là Nông Văn Vân bị quan bắt bớ, bèn nổi lên đánh phá trong hạt Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn. Giặc Nông khởi từ tháng 7 năm quý tị (1833) cho đến tháng 3 năm ất mùi (1835) dai dẳng trong non hai năm trời, làm cho quan quân thật là vất vả.
Ở Bắc còn đang dẹp loạn Lê Duy Lương chưa xong, thì ở Nam Lê Văn Khôi làm phản, chiếm giữ thành Gia Định. Nguyên tên Khôi là người Bắc, có họ hàng bà con mạn Tuyên Quang, Cao Bằng, bởi vậy nhà vua sai quan tìm bắt anh em của tên Khôi đem về Kinh làm tội. Bấy giờ ở Tuyên Quang có người anh vợ tên Khôi là Nông Văn Vân bị quan bắt bớ, bèn nổi lên đánh phá trong hạt Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn. Giặc Nông khởi từ tháng 7 năm quý tị (1833) cho đến tháng 3 năm ất mùi (1835) dai dẳng trong non hai năm trời, làm cho quan quân thật là vất vả.
Nông Văn
Vân làm Tri châu châu Bảo Lạc. Nhân thấy quan quân tìm bắt họ hàng Lê Văn Khôi,
bèn nổi lên tự xưng là Tiết Chế Thượng Tướng
Quân, và
bắt viên tỉnh phái thích chữ vào mặt rằng: "Quan tỉnh hay ăn tiền của
dân", rồi đuổi về.
Nông Văn
Vân chia quân ra đánh phá các tỉnh, quan sở tại chống không nổi, phải xin quân
cứu viện. Vua Thánh Tổ được tin ấy, bèn sai Sơn Hưng Tuyên Tổng Đốc là Lê Văn
Đức làm Tam Tuyên Tổng Đốc Quân Vụ, và sai Hải An thự tổng đốc là Nguyễn Công
Trứ làm tham tán, đem quân hội với Ninh Thái Tổng Đốc là Nguyễn Đình Phổ đi
tiễu trừ giặc Nông.
Quân
giặc vây đánh Cao Bằng và Lạng Sơn ngặt quá, nhà vua lại sai An Tĩnh tổng đốc
là Tạ Quang Cự làm tổng thống đại thần, lên đánh ở mạn Cao Bằng và Lạng Sơn.
Nông Văn
Vân nhận được chỗ mường mán lắm núi nhiều rừng, bèn chia quân đi tản ra mọi
nơi, tìm chỗ hiểm yếu mà ẩn nấp, hễ có quan quân đến, đánh được thì tiến, không
đánh được thì lui, cứ ra vào bất trắc, lui tới không nhất định. Quan quân đi
đánh thật là khó nhọc và lại hao binh tổn tướng rất nhiều.
Tháng
chạp năm quý tị (1833) đạo quân của Tạ Quang Cự giải được vây tỉnh Lạng Sơn và
lấy lại được thành Cao bằng. Đạo quân
của Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung (tức là Bảo Lạc) là chỗ sào
huyệt của giặc. Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Tàu.
Nhưng mà
khi quan quân rút về, thì Nông Văn Vân lại về rủ đảng đánh phá như cũ. Nhà vua lại sai các đạo quân tiến lên phòng
giữ các tỉnh mạn ngược.
Đến
tháng 9 năm giáp ngọ (1834) Lê Văn Đức và Phạm Văn Điển đi từ Sơn Tây lên Tuyên
Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn Tiến Lâm, và Hồ Hữu đi từ Cao bằng; Nguyễn Đình Phổ
và Nguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên, ba mặt quân cùng tiến lên hội tiễu. Quan
quân đi đường sá khó khăn, lương thực vận tải không tiện, nhưng mà quân sĩ đều
cố hết sức, đi đến đâu quân giặc tan đến đấy. Tháng chạp năm ấy, cả ba đạo cùng
đến hội ở Vân Trung, rồi sai người đưa thư sang nói với quan nhà Thanh phòng
giữ, đừng cho quân giặc chạy sang bên ấy.
Quả nhiên Nông Văn Vân lại chạy sang Tàu, bị quân Tàu đuổi bắt, lại phải
trở về Tuyên Quang.
Tháng 3
năm ất mùi (1835), Phạm Văn Điển được tin biết chỗ tên Văn Vân ở, liền đem quân
đi đuổi. Văn Vân chạy ẩn vào trong rừng, Phạm Văn Điển bèn vây 4 mặt, rồi phóng
hỏa đốt rừng. Văn Vân bị chết cháy.
Quan quân chém lấy đầu đem về Kinh báo tiệp.
6. Giặc ở Nam Kỳ.
Đất Nam Kỳ là đất của nhà Nguyễn khai sáng ra, và cũng bởi đấy mà vua Thế Tổ lập nên cơ nghiệp bản triều bây giờ, thế mà lại có sự phản nghịch là tại làm sao? Có phần là tại vua Thánh Tổ không dong thứ cho những kẻ cựu thần, có phần là tại những người gian nịnh muốn chiều ý vua để lấy công, làm ức hiếp người ta, cho nên mới thành ra sự loạn lớn ấy.
Đất Nam Kỳ là đất của nhà Nguyễn khai sáng ra, và cũng bởi đấy mà vua Thế Tổ lập nên cơ nghiệp bản triều bây giờ, thế mà lại có sự phản nghịch là tại làm sao? Có phần là tại vua Thánh Tổ không dong thứ cho những kẻ cựu thần, có phần là tại những người gian nịnh muốn chiều ý vua để lấy công, làm ức hiếp người ta, cho nên mới thành ra sự loạn lớn ấy.
Nguyên
mấy năm trước, Lê Văn Duyệt làm tổng trấn ở Gia định thành, có uy quyền lắm, mà
lòng người ai cũng kính phục. Chỉ vì ông
ấy là quan võ, tính khí nóng nảy, lắm khi ở chỗ triều đường tấu đối không được
hợp thể, vua Thánh Tổ lấy làm không bằng lòng, nhưng ông ấy là bậc khai quốc
công thần, cho nên ngài cũng làm ngơ đi. Đến khi ông ấy mất, thì vua Thánh Tổ
bãi chức Tổng Trấn thành Gia Định và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án
sát, lĩnh binh, như các tỉnh ở ngoài Bắc.
Tỉnh
Phiên An (tức là tỉnh Gia Định) có Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân
Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm án sát. Nhưng Bạch Xuân Nguyên vốn
là người tham lam tàn ác; khi đến làm bố chính ở Phiên an, nói rằng phục mật chỉ truy xét việc riêng
của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn
tôi tớ của ông Duyệt ngày trước.
Trong
bọn ấy có Lê Văn Khôi. Nguyên trước tên ấy gọi là Nguyễn Hữu Khôi, người ở Cao
Bằng, nhân cớ khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh
Hóa, gặp Lê Văn Duyệt làm kinh lược ở đấy, nó xin ra thú. Ông Duyệt tin dùng
cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho
làm đến chức Phó Vệ Úy.
Bấy giờ
Lê Văn Khôi bị bắt giam, phần thì tức giận, phần thì sợ tội, bèn mưu với mấy
người đảng của nó để dấy loạn; ở Gia Định lại có những người có tội ở Bắc Kỳ
đem đày vào, hoặc cho làm ăn với dân sự, hoặc bắt làm lính gọi là hồi lương;
những lính ấy đều theo tên Khôi cả.
Đến đêm
ngày 18 tháng năm, năm quý tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, Khôi cùng với 27
người lính hồi lương vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên, rồi ra gặp
quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu, chúng cũng giết nốt. Còn
quan Án và quan Lãnh thì chạy thoát được.
Bấy giờ
những quân kinh đóng ở Phiên An phần nhiều theo về Lê Văn Khôi. Lê Văn Khôi bèn
tự xưng làm Đại Nguyên Súy, phong cho đảng mình là bọn Thái Công Triều và Lê
Đắc Lực quản trung quân, Nguyễn Văn Đà và
Nguyễn Văn Tông quản tiền quân, Võ Vĩnh Tiền và Võ Vĩnh Tài quản hữu quân, Võ
Vĩnh Lộc và Nguyễn Văn Bột quản hậu quân, Lưu Tín và Trần Văn Tha quản thủy
quân, Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Văn Chân quản tượng quân, v.v.... Lại đặt các
quan chức như một triều đình riêng vậy. Đoạn rồi Lê Văn Khôi sai bọn Thái Công
Triều đem quân đi lấy các tỉnh thành, chỉ trong một tháng mà 6 tỉnh Gia Định
thuộc về giặc cả.
Triều
đình được tin ấy, liền sai Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch tả tướng quân và
Nguyễn Xuân làm tham tán, sai Phan Văn Thúy làm Thảo nghịch hữu
tướng quân, Trương Minh Giảng làm tham tán, cùng với Bình Khấu
tướng quân là Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh Lê Văn Khôi.
Khi quan
quân vào đến Gia Định không biết tại cớ gì, mà trung quân của ngụy là Thái Công
Triều xin về đái tội lập công. Nguyên Thái Công Triều là người ở Thừa Thiên,
trước làm quan vệ úy, coi vệ biền binh đóng ở Gia Định, sau theo tên Khôi làm
phản. Nay lại trở về với triều đình, đem quân đi đánh Lê Văn Khôi lấy lại các
tỉnh.
Lê Văn
Khôi biết thế không chống nổi, vào thành Phiên An đóng cửa lại, rồi chia quân
ra chống giữ, và lại sai người đi sang Tiêm La cầu cứu. Quân Tiêm nhân dịp ấy,
chia làm mấy đạo sang đánh nước Nam. Việc ấy sẽ nói ở mục sau.
Quan
quân một mặt thì đánh đuổi quân Tiêm, một mặt thì vây đánh thành Phiên An, Lê
Văn Khôi hết sức chống giữ, nhưng đến tháng chạp năm ấy thì phải bệnh chết. Tuy
vậy, quân ngụy ở trong thành cứ chống giữ mãi, non ba năm trời quan quân mới hạ
được thành.
Thành
Phiên An là thành của ông Lê Văn Duyệt xây xong năm Minh Mệnh thứ 11 (1830).
Xây toàn bằng đá ong, thành cao và rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả
lương thực khí giới, cho nên quan quân đánh thành lần nào cũng bị chết hại
nhiều người, mà không lấy được. Mãi đến
tháng 7 năm ất tị (1835), quân ngụy ở trong thành đã mỏi mệt lắm rồi, tướng
quân là Nguyễn Xuân, và Nguyễn Văn Trọng mới hạ được thành và vào bắt giết quân
giặc cả thảy đến 1.831 người, đem chôn vào một chỗ, nay gọi là "mả
ngụy". Còn những người thủ phạm thì
đóng cũi đem về Kinh trị tội.
Ông J.
Silvestre chép truyện Lê Văn Khôi khởi loạn ở Gia Định145 nói rằng trong 6
người thủ phạm phải đóng cũi giải về Huế, có một ông linh mục
145 Xem
tập tạp chí "Revue Indochinoise" số 7-8 năm 1915 và quyển An Nam Sử
Lược "Abrégé de l'histoire d'Annam" của ông A. Schreiner.
người
nước Pháp tên là Marchand (bấy giờ gọi là cố Du), một người khách tên là Mạch
Tấn Gia, và một đứa con của Khôi, mới lên 7 tuổi.
Việc ông
cố Marchand thì đã nhiều người bàn đi bàn lại: người thì bảo ông ấy có ý muốn
làm như ông Bá Đa Lộc, để giúp Lê Văn Khôi lập nên một nước theo đạo Thiên Chúa
ở Gia Định, người thì bảo ông ấy bị Lê Văn Khôi bắt vào trong thành. Việc ấy
vẫn phân vân không rõ hẳn ra thế nào.
Đến khi
về đến Huế thì ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng trì. Thiết tưởng
dẫu thế nào mặc lòng, đem một đứa con vô tội và 2 người ngoại quốc ra làm cái
tội thảm hình ấy, thì thật gớm ghê quá. Tục Á Đông ta trước hay dùng những nhục
hình như là tội lăng trì, tội ngựa xé, tội voi dày v.v... thì thật là dã man vô
cùng, ngày nay ai nghĩ đến cũng phải ghê mình.
7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất: - Lê Văn
Duyệt. Quan quân bình xong giặc Lê Văn Khôi rồi vua Thánh Tổ sai phá thành Phiên
An đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê Văn Duyệt và tội
Lê Chất.
Cứ bình
tỉnh mà xét, thì chẳng qua là vua Thánh Tổ vốn có ý không ưa hai ông ấy, rồi
đình thần lại nhân đó mà bới việc ra để chiều ý ngài, cho nên thành ra hai cái
án thật là không đáng.
Nay cứ
theo trong sách "Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện" mà chép ra, để mọi
người đều được lấy lẽ công bằng mà phán đoán.
Từ khi
tên Khôi khởi loạn, vua Thánh Tổ thường ban trách Lê Văn Duyệt che chở quân phỉ
đảng, để gây nên hoạn loạn.
Năm ất
mùi (1835), ở Đô Sát Viện có Phan Bá Đạt dâng sớ nói rằng: Lê Văn Duyệt trước ở
Gia Định, lấy bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, làm trảo nha, lấy binh Bắc Thuận,
Hồi Lương146 làm tâm phúc. Bọn ấy vốn là quân hung ác, không phải là người
lương thiện, cho nên Duyệt mất chưa bao lâu mà bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, đã
đem quân Hồi Lương, Bắc thuận cùng với bọn thủ hạ giữ thành làm phản; lại làm
phiến hoặc nhân tâm, để vạ lây đến các tỉnh Nam Kỳ, mà khó nhọc đến đại đội
quan quân phải tiến tiễu. Năm tỉnh nay dẫu thu phục rồi, song thành Phiên An
tặc đảng vẫn còn thiết cứ, quan quân tiến tiễu, lắm người thương vong, cái vạ
ấy nói sao cho xiết. Nay Duyệt mất rồi, sự trạng dẫu không có thể tường cứu
được, nhưng cứ xem con nuôi là Lê Văn Hán trước đây vào ra trong thành, nhập
đảng với
146 Bắc
Thuận, Hồi Lương là những người ở Bắc Kỳ bị tội phải đày vào làm lính ở Nam Kỳ.
nghịch
Khôi, và đem Bạch Xuân Nguyên làm đuốc để tế từ đường, thì tâm tích của Duyệt
tưởng không phải xét cũng đã rõ. Nếu không bắt tội e không làm gương được cho
đời sau. Vậy xin truy đoạt quan chức của Duyệt, còn vợ con thì giao về Hình Bộ
tra minh nghiêm nghị, để tỏ phép nước".
Vua dụ
Nội Các rằng: "Lê Văn Duyệt xuất tha6n từ kẻ yêm hoạn, vốn là một đứa đầy
tớ trong nhà. Xảy gặp hồi trung hưng, rồng mây gặp gỡ, đánh dẹp Tây Sơn, cũng
dự có phần công lao. Đức hoàng khảo ta nghĩ tới nó thủa nhỏ sai khiến ở trong
cung, mới đem lòng tin cậy, nhiều lần cho nó cầm quyền đại tướng. Không ngờ bọn
ấy phần nhiều là quân bất lương, mỗi ngày sinh ra kiêu căng, manh tâm phản
nghịch, sinh chí làm càn, ăn nói hỗn xược. Vì nó còn e Hoàng Khảo ta thánh
minh, cho nên dẫu có lòng gian mà chưa dám lộ. Mà hoàng khảo ta đến vãn niên
cũng đã biết rõ. Nhưng lại nghĩ hắn dẫu có lòng gian, song thiên hạ đã yên rồi,
thần dân ai còn theo kẻ thị hoạn đó, thì chắc hắn cũng chẳng làm gì được. Đến khi trẫm lên ngôi, cựu thần không còn
mấy, vả lại nghĩ nó tuổi đã già, cho nên cũng tạm khoan dung, hoặc là hắn biết
nghĩ mà chừa đi, để cho toàn vẹn công danh, thì cũng là việc hay. Không ngờ kẻ
kia lòng như rắn rết, tính tựa sài lang, càng ngày càng sinh kiêu ngạo, dám nói
xấu triều đình trước mặt chúng nhân, mà khoe cái tài riêng của mình. Năm trước
các quân tù phạm xứ Thanh, Nghệ cùng là những kẻ hung ác, hắn đều chiêu dụ ra thú,
tâu xin ghép vào trướng hạ để làm nanh vuốt. Lê Văn Khôi là quân vô lại, thì
tiến cử đến chức vệ úy, theo dưới cờ hắn, để làm phúc tâm. Thổ hào như bọn
Dương Văn Nhã, Đặng Vĩnh Ưng thì hắn ngấm ngầm vời dùng; nhân thích như bọn Võ
Vĩnh Tiền, Võ Vĩnh Lộc thì hắn âm thầm lập đảng. Những kẻ tù phạm Bắc Kỳ phát phối vào đó,
hắn cho ở trong thành, rồi tha cho làm lính; lại kén lấy những voi khỏe đem ra
nơi đồn trú; vét lấy những thuyền bè khí giới trong 6 tỉnh Nam Kỳ chứa vào
thành Phiên An; rồi lại nghe tên Trần Nhật Vĩnh mà hút hết cao huyết của dân
Nam Kỳ. Đắp thành Phiên An, tiếm bằng
Kinh thành, hào thì đào sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu để phòng giặc Tiêm,
thì đường bể phải phòng ở Hà Tiên, đường bộ phải phòng ở Chân Lạp, có lẽ nào bỏ
bốn tỉnh An, Hà, Long, Tường không giữ, mà lại giữ ở Phiên An hay sao? Thế là
rõ rằng phòng Triều đình, chứ không phải phòng ngoại hoạn. Cứ suy điều đó, thì
ruột gan hắn, dẫu người đi đường cũng biết, ai không căm tức, chỉ giận vì ai
không chịu nói rõ cho Triều đình biết sớm mà thôi. Đến nỗi ngày nay như nuôi
cái nhọt bọc để nên đau, mỗi ngày mầm vạ một lớn, cho nên kẻ quyền yêm dẫu chịu
tội minh tru, mà bọn nhỏ nhặt còn dám giữ thành làm phản. Ví dù quan cai trị không hèn đốn như Nguyễn
Văn Quế, tham tàn như Bạch Xuân Nguyên, thì chúng nó có ngày làm phản chứ không
sao khỏI được. Vì bọn tiêu hạ hắn toàn là quân hung đồ, quen làm những việc bất
thiện. Chúng nó đã quen thấy hắn dối chúa, lấn trên, đều bắt chước hắn. Thậm
chí hắn nói với người tra rằng hắn vào trấn Gia Định, vốn là
phong vương để giữ lấy đất, chứ không phải như các tổng trấn tầm thường khác.
Mả của cha hắn, em hắn, cũng tiếm gọi là lăng; hoặc dám đối với người ta, tự
xưng là Cô, để cho bộ hạ tập quen thành thói, chỉ biết có Lê Văn Duyệt mà không
biết đến triều đình. Thầy Hữu tử nói rằng: "Không ưa phạm người trên mà ưa
làm loạn, chứ có lẽ ấy bao giờ". Vậy thì ưa phạm người trên và không ưa
làm loạn, cũng chưa có lẽ thế bao giờ. Mối vạ gây nên đã lâu, lẽ nào mà muốn
cho bọn tiêu hạ không làm phản được? Vậy nên hắn chết chưa bao lâu, mà bọn Lê
Văn Khôi đã khởi loạn, cháu hắn cũng đồng tình tạo phản, để cho cả bọn bộ khúc
của hắn đều theo giặc cả, không một tên nào trốn đi, rồi nó kết tử đảng, cậy có
thành cao, hào sâu, lương thực như núi, khí giới tinh nhuệ, đồ đảng lại nhiều,
kháng cự lại vương sư, chầy đến 3 năm trời, nhiều lần mở đường sống cho nó, mà
chúng nó không biết hối tội đầu thành, đến nỗi binh dân gan óc lầy đường, nói
ra đau xót đến gốc nguồn thì tội hắn kể từng cái tóc cũng không xuể. Nay hãY
đem những công việc của hắn làm, rõ ràng ở tai mắt người ta, để gây nên hoạn
loạn, hiểu thị cho ai nấy đều biết. Còn
như Lê Văn Duyệt và con cháu hắn nên xử tội thế nào, thì giao cho đình thần
nghị xử".
Vài hôm
sau, nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quýnh tâu rằng: Duyệt che
chở cho quân phỉ loạn, gây nên sự biến, cái tai vạ tích lại đã lâu. Nay xét
những giấy má của y ngày trước, rõ ra hình tích bội nghịch, có 6 điều:
1) Năm Minh Mệnh thứ 4, y tự tiện sai người
riêng là bọn Phan Đạt giả danh đi thám, đi thuyền sang nước Diến Điện. Trong
thư ấy chắc có giao thông. Cứ lấy nghĩa "làm tôi không có phép được giao
thông với nước ngoài", thì tâm sự của y đã rõ, ấy là một tội.
2) Đến khi sứ thần nước Diến điện đến thành,
mới tâu vào Triều Đình. Đã có chỉ dụ
nói việc đó quan hệ đến đại nghĩa, không nên khinh thường, nghe lời ngoài mà bỏ
tình hòa hiếu, gây việc cừu thù. Vậy mà y cố xin dung nạp. May mà triều đình
trả đồ cống vật cho sứ Diến Điện về nước, thì danh nghĩa nước lớn ta mới tỏ
giải ra thiên hạ. Thế là y chẳng những mưu việc nước không ra gì, mà lại cố giữ
lấy ý riêng để che điều lỗi, ấy là hai tội.
3) Năm Minh Mệnh thứ 7, tàu bạt phong nước
Anh Cát Lợi đậu vào cửa Bình Thuận, đã có chỉ sai sở tại hộ tống, mà y cố xin
đưa vào Gia Định, và nói rằng: "Quan trấn kiềm thúc, không bằng thần có
quyền, khiến cho kẻ kia sợ tướng lệnh và biết binh oai". Hai chữ "có
quyền" từ xưa vẫn lấy làm răn, mà y dám ngất ngưởng tự nhận, kiêu tứ dường
nào, ấy là ba tội.
4) Năm Minh Mệnh thứ 4, thị vệ là Trần Văn Tình
nhân việc công sai ở Gia Định về, có tâu việc Trần Nhật Vĩnh làm riêng phố
ngói, mua trộm
các món. Y nghe chuyện làm vậy, năm sau vào chầu, cố xin bắt Trần Văn Tình giao
cho y để y chém, nếu không giao thì y xin trả chức Tổng Trấn; rồi y xin từ chức
thực. Có ý trêu quân như vậy, tội gì còn to bằng tội ấy. Vả y xin giết một Trần
Văn Tình, thế là bắt người ta phải khóa lưỡi, không ai dám nói nữa, rất là dụng
tâm nham hiểm, ấy là bốn tội.
5) Trần Nhật Vĩnh đã có chỉ bổ thụ ký lục
Vĩnh Thanh, mà y cố xin lưu ở lại trong thành.
Lê Đại Cương có chỉ tuyên triệu, mà y cố xin lưu lại làm việc phủ Lạc
Hóa, đều là có ý vi chiếu. Trong tập tâu của y lại nói rằng: "Chuẩn cho
thần cầu xin việc ấy, thì hầu có ích cho việc ngoài biên cương"; lại ở
trong tập tâu xin chi bổng cho bọn thơ lại, cơ, đội, các vệ, có câu rằng:
"Lão thần xa ở ngoài biên khổn, chỉ e triều đình tin dùng không được vững
bền". Trong lời lẽ ấy đều là không kính, ấy là 5 tội.
6) Năm Minh Mệnh thứ 6, y tâu xin tăng thọ
cho Lê Chất, có nói rằng: "Ấy là
vị thánh dược khởi tử hồi
sinh, tiếc gì mà
không làm". Y là chức biên khổn dám kết đảng tư tình như thế, rất
trái với đạo làm tôi, ấy là 6 tội. Vả lại nghe y bình nhật thường khoe chuyện
với người ta rằng: y xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:
Tá Hán
tranh tiên chư Hán tướng
Phù Chu ninh hậu thập Chu thần
Tha niên tái ngộ Trần kiều sự
Nhất đán hoàng báo bức thử thân
Phù Chu ninh hậu thập Chu thần
Tha niên tái ngộ Trần kiều sự
Nhất đán hoàng báo bức thử thân
Dịch Nôm
Giúp Hán
há thua cùng tướng
Hán Phò Chu nào kém bọn tôi Chu
Trần kiều nếu gặp cơn binh biến
Mảnh áo hoàng bào để ép nhau!
Hán Phò Chu nào kém bọn tôi Chu
Trần kiều nếu gặp cơn binh biến
Mảnh áo hoàng bào để ép nhau!
Giá y
không phải là người sẵn có bụng bất trung, thì không khi nào dám khoe bài ấy
với người ta. Bởi vậy bọn tiêu hạ tập quen thành thói, cho nên thây y chưa lạnh
mà đã có việc này. Vậy xin giao cả lời tâu này cho đình thần kết án để chính
tội. Vua ưng cho.
Đến khi
nghị án xong, trích ra các lời nói, việc làm, bội nghịch, có 7 tội nên trảm:
1. Sai người đi riêng sang Diến Điện, âm kết
ngoại giao.
2. Xin giao tàu Anh Cát Lợi đến thành, để tỏ
có quyền.
3. Xin giết thị vệ là Trần Văn Tình, để khóa
miệng người ta.
4. Kháng sớ xin lưu quan viên bổ đi chỗ
khác.
5. Lập đảng mà xin tăng thọ cho Lê Chất.
6. Giấu chứa giấy ngự bảo.
7. Mộ cha, tiếm gọi là lăng, đối với người
ta, tự xưng là Cô.
Có 2 tội
nên giảo:
1. Cố xin dung nạp Diến Điện để che chở cái
lỗi của mình.
2. Nói chuyện với người ta xin được quẻ thẻ
có câu thơ hoàng báo.
Một tội
nên phát quân:
1. Tự
tiện sai biền binh tu tạo tàu thuyền.
Sự biến
Phiên An, y thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu phản, khép vào tội lăng tri;
song y đã chịu minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bỏ quan quách giết thây, để
tỏ gương răn cho người khác. Còn như tằng tổ, tổ phụ của y được phong tặng cáo
sắc, thì xin truy đoạt cả; tiên phần có tiếm dụng trái phép nào thì tước hủy
đi; con, cháu, vợ cả, vợ lẽ, đều phân biệt nghị tội; tài sản thì tịch biên hết.
Án ấy đệ
lên. Những tội nguyên nghị trảm quyết
đổi làm giam hậu, con cháu từ 15 tuổi trở xuống, tạm hãy nghiêm cấm; trẻ thơ ấu
chưa biết gì thì tha không bắt; ba họ phải phát nô cũng đều tha; nguyên nghĩ
lục thì cũng thôi.
Lại sai
Hình bộ sao bản văn án phát cho tổng đốc, tuần phủ các tỉnh, cho cứ ý kiến
riêng mà tâu về. Hộ phủ Lạng Bình là Trần Huy Phác xin điều phép tội trảm
quyết. Hộ phủ Quảng Yên là Lê Dục Đức xin người nào từ 16 tuổi trở lên đều
chém, còn thì đều y như đình nghị. Tổng
đốc Bình Phú là Võ Xuân Cẩn, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Văn Trạm cũng đều xin
y đình nghị. Lại nói kèm một cầu rằng: hoặc nên lấy công bù tội châm chước ít
nhiều thì tự Thiên Ân.
Dụ rằng:
"Xem vậy thì đủ biết lẽ Trời không sai, mà công đạo ở lòng người không ai
giấu được. Kẻ quyền gian kia gây vạ, thiên hạ ai cũng căm tức luôn, muôn miệng
cùng lời, đủ tỏ cái án sắt nghìn xưa. Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể
cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây, cũng là đáng
tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mã,
không bõ gia hình. Vậy cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng
và khắc đá dựng bia ở trên viết to những chữ "Chỗ này là nơi quyền yêm Lê
Văn Duyệt phục pháp", để chính tội danh cho kẻ đã chết, mà tỏ phép nước về
đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời.
Không
những Lê Văn Duyệt là họa thủ tội khôi, mà tên cháu y là Lê Văn Hán cũng giao
thông với giặc, thì thân thuộc phải tội, trong luật đã có điều nói rõ rồi. Song
nghĩ nó chẳng qua cuồng dại một lúc, qua lại với giặc mà thôi, sánh với kẻ
trước sau theo giặc kháng cự quan quân, hơi có khác nhau. Và đã xử cực hình,
cũng đủ tỏ phép nước rồi. Những kẻ thân thuộc khác, khép tội trảm giam hậu,
cũng đủ cho nó phục tội. Lời dụ này chuẩn lục tống phát cho mỗi tỉnh một đạo,
để cho ai nấy đều biết Triều Đình xử rất công, rõ ràng cái cân ba thước mà
nghiêm như rìu búa nghìn thu".
Án Lê
Chất: Án Lê Văn Duyệt phát ra năm trước thì năm sau có quan Lại bộ tả thị lang là
Lê Bá Tú truy tham những tội bất thần của Lê Chất, có 6 tội nên chết:
1. Chất cùng Duyệt toan mưu làm việc Y, Hoắc
(phế lập), bị hai đứa ở
nói hở
ra ngoài, bèn giết chúng nó để buộc miệng, là một tội.
2. Mấy lần cố xin thưởng cho hoàng tử để làm
con nuôi, muốn bắt chước lối cũ của Dương Kiên, là hai tội.
3. Muốn cho con gái chính vị trong cung,
không được thỏa chi, nói ra những lời oán vọng, là ba tội.
4. Thường nói chuyện với Lê Văn Duyệt rằng:
"Người ta thường nói trời, vua và cha mẹ, người làm con, làm tôi dù có
điều bất bình, cũng không dám giận, mà một mình tôi dám giận" là bốn tội.
5. Lại nói rằng: "Vua cậy có Trịnh Hoài
Đức, Nguyễn Hữu Thuận phúc tâm, chỉ đem độ vài trăm người vào chầu, quát to một
tiếng, bọn ấy cũng phải phục xuống đất, rồi ta muốn làm gì ta làm" là năm
tội.
6. Lại nói rằng quốc tính đổi làm tôn thất,
đều là bọn Hoài Đức a dua xui giục, nên đem chém ở trước cửa miếu để chính tội,
là sáu tội.
Lại có
10 tội tiếm loạn:
1. Khi y ở Bắc thành, đầu năm điểm binh, dám
lên lầu Ngũ môn ngồi chính giữa.
2. Đệ niên thuyền tải ngoài bể, y lấy của
riêng mà tải vào thuyền công.
3. Cùng với Lê Văn Duyệt dâng biểu từ chức
để bắt bí nhà vua.
4. Việc sinh sát dữ đoạt, hay tự tiện.
5. Trái phép, ăn lễ, giàu đến nghìn vạn.
6. Tấu sớ không hợp phép, có chỉ không cho,
mà cứ nhất định nộp lại, có Lê Văn Duyệt ngăn đi mới thôi.
7. Nuôi những cung nữ tiên triều, không biết
kiêng nể gì.
8. Nơi công sảnh tiếm làm gác chuông, gác
trống.
9. Tội án Lê Duy Thanh đã thành, lại còn
cùng với Lê Văn Duyệt cố xin nghị lại.
10. Điều bổ cơ binh, phủ binh, xin lấy chức
quan văn mà thi hành.
Vậy xin
giao cho đình nghị, để chính tội danh làm gương cho kẻ gian trăm đời.
Vua dụ
rằng: "Chất, tính vốn sài lang, nết như ma quỷ, làm tôi thì bất trung, bất
chính, xử việc thì đại ác đại gian, việc nào cũng càn rỡ, ai là chẳng tức giận,
chẳng những là 16 tội mà thôi đâu. Trước kia trẫm nghĩ hắn cùng với Lê Văn
Duyệt, dẫu mang lòng bất thần, nhưng người ta không chịu theo, thì chắc không
dám gây sự. Vả hắn là nhất phẩm đại thần; dù có mưu gian mà thần dân chưa cáo
tố, thì không nỡ bắt tội. Kể đến hắn lại
chịu tội minh tru rồi thì lưới trời tưởng cũng không thoát, cho nên cũng chẳng
kể làm gì nữa. Nay đã có người tham hạch, vậy thì phải trái công, đã có triều
đình pháp luật. Chuẩn cho đình thần đem 16 điều tội của hắn mà định rõ tội
danh, vợ con cũng án luật mà nghị xử, duy con gái nào đã xuất giá, cùng là cháu
trai còn nhỏ thì tha".
Đình
thần nghị rằng: Chất, bất pháp bất trung, đại gian đại ác, có 6 tội nên lăng
trì, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo. Những tội phạm phận, âm mưu điều bất quỷ,
thì khép vào tội bạn nghịch mà xử lăng trì. Song y đã chịu tội minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bổ áo quan, lục
thây, khiêu thủ để thị giới. Còn cáo
sắc phong cho cha mẹ y, cũng xin truy đoạt; vợ là Lê Thị Sai từng đồng mưu bạn
với chồng, nghĩ trảm lập quyết. Lại phát
cho các tổng đốc, tuần phủ, mỗi nơi một đạo văn án, để cho đem ý riêng bày tỏ
tâu về, cho công lòng chúng. Các địa
phương tâu về, đều xin y đình nghị.
Ngài dụ
rằng: "Như vậy đủ rõ lẽ trời ở tại lòng người, công luận không bao giờ
mất. Kẻ gian thần chứa vạ, muôn miệng cùng một lời, đủ làm án sắt thiên cổ. Vả
Lê Chất cùng với Lê Văn Duyệt, dựa nhau làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái
tóc mà tính cũng không hết, giá thử bổ áo quan giết thây, cũng không là quá.
Song lại nghĩ Chất tội cũng như Duyệt, trước kia Duyệt đã không bổ áo quan giết
thây, thì nắm xương khô của Chất nay cũng chẳng màng bắt tội. Vậy cho tổng đốc
Bình Phú Võ Xuân Cẩn san phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề to mấy
chữ: "Chỗ nầy là nơi Lê Chất phục pháp" để làm gương cho kẻ gian tặc
muôn đời. Còn vợ hắn là Lê Thị Sai cùng ở một nhà, dự biết mưu bạn nghịch, xử
vào cực hình, cũng là phải, song kẻ đàn bà chẳng cần vội vàng chính pháp. Vậy Lê Thị Sai cùng con là Lê Cẩn, Lê Trương,
Lê Thường, Lê Kỵ, đều cải làm trảm giam hậu. Lại tịch
biên gia sản,
được hơn 12.000
quan tiền, giao
tỉnh chứa cả vào
kho147.
147 Đến
năm Tự đức nguyên niên (1847) quan đông các đại học sĩ là Võ Xuân Cẩn làm sớ
tâu xin gia ân cho con cháu Nguyễn Văn Thành. Trong bài sớ có lắm câu thảm
thiết. Có chỗ nói rằng: "Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất đều có
lòng theo mây đợi gió, xông pha chỗ mũi tên hòn đạn, thân làm đại tướng, tước
đến quận công, sau hoặc vì con dại, hoặc vì cậy công mà làm thành tội Dù bọn Nguyễn Văn Thành có tội, thì tội
đã trị rồi, mà công thì không hỏi đến,
8. Giặc Tiêm La. Nước Tiêm La tự khi mất
quyền bảo hộ ở Chân Lạp, vẫn có ý muốn sinh sự với nước Nam, nhưng còn sợ thế
lực Nguyễn Triều chưa dám làm gì, chỉ thỉnh thoảng sang sinh sự với những nước
ở Lào. Hễ khi nào Tiêm và Lào đánh nhau,
thì nhà vua sai quan quân phòng giữ những chỗ biên thùy, và sang cứu viện những
nước bị người Tiêm bắt nạt. Như năm
đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, nước Tiêm đánh lấy nước Vạn Tượng
(Vientiane), quốc trưởng nước ấy là A Nỗ chạy sang cầu cứu, vua Thánh Tổ sai
quan thống chế là Phan Văn Thúy làm kinh lược biên vụ đại thần đem binh tượng
sang cứu A Nỗ.
Tháng
chín năm ấy, bọn Lê Đức Lộc, Nguyễn Công Tiến đem binh ở Nghệ An chia làm hai
đạo đi đường Quy Hợp và đường Lạc Phàm qua Trấn Ninh sang cứu A Nỗ. Đi đến đâu
vẽ những sông núi hình thế hiểm trở rồi gửi về Kinh.
A Nỗ mất
nước không lấy lại được, phải theo quân An Nam về Nghệ An, đợi thu xếp quân sĩ
để về đánh báo thù. Đến năm mậu tí (1828), A Nỗ nói rằng quân Lào tụ hợp được
đủ rồi, xin cho quan quân đưa về nước. Vua Thánh Tổ sai Phan Văn Thúy làm kinh
lược đại thần, Nguyễn Văn Xuân làm phó, Nguyễn Khoa Hào làm tham tán, đem 3.000
quân và 24 con voi, đưa A Nỗ về Trấn Ninh.
Đến Trấn
Ninh, A Nỗ xin đem quân Lào về Vạn Tượng (Vientiane). Phan Văn Thúy cho hai đội
quân Thần Sách đi hộ tống. Về đến Vạn Tượng, A Nỗ đem quân đi đánh quân Tiêm,
quân sĩ chết hại rất nhiều, rồi lại sai người sang Nghệ An xin viện binh.
Vua
Thánh Tổ thấy A Nỗ hay sinh sự đánh nhau mà không được việc gì, bèn không cho
quân sang cứu, chỉ xuống lệnh truyền cho các hạt ở Lào phải phòng giữ những chỗ
biên thùy. A Nỗ không có quân cứu viện,
bị quân Tiêm đến đánh, lại phải bỏ thành mà chạy sang Trấn Ninh. Được ít lâu,
Chiêu Nội là thủ lĩnh Trấn Ninh bắt A Nỗ đem nộp cho Tiêm La.
Quân
Tiêm La phá được Vạn Tượng rồi, lại xâm vào đến các châu phụ thuộc về nước Nam,
ở mạn gần Quảng Trị. Vua Thánh Tổ sai
thống chế Phạm Văn Điển, kinh lý mọi việc ở Cam Lộ, sai Lê Đăng Doanh làm tham
tán quân vụ, cùng với quân các đạo ở Lào đi tiễu trừ.
Phạm Văn
Điển, một mặt thì cho người đem thư sang trách nước Tiêm La sinh sự, một mặt
thì chia quân, làm ba đạo tiến lên đánh.
Tướng
Tiêm la viết thư trả lời một cách khiêm nhường lắm, rồi rút quân về. Từ đó nước
Tiêm bề ngoài vẫn thông sứ đi lại để giữ sự hòa hiếu, nhưng ngấm ngầm cứ tìm
cách quấy nhiễu nước Nam. Ở phía tây nam, người Tiêm vẫn dung túng những người
phản nghịch nước Chân Lạp, mà ở phía tây bắc thì vẫn cứ hà hiếp Vạn Tượng và
các nước nhỏ khác. Dù thế mặc lòng, vua Thánh Tổ không muốn gây việc binh đao,
cứ dùng lời nói ngọt mà trang trải mọi việc.
Đến cuối
năm quý tị (1833) nhân có ngụy Khôi khởi loạn ở đất Gia Định và tên Khôi lại
cho người sang cầu cứu vua Tiêm La bèn sai quân thủy bộ chia ra làm 5 đạo sang
đánh Việt Nam.
Đạo thứ
nhất thủy quân đem hơn 100 chiếc thuyền vào đánh lấy Hà Tiên; đạo thứ nhì bộ
quân sang đánh Nam Vang (Phnon-penh), rồi tiến lên đánh lấy Châu Đốc và An Giang;
đạo thứ ba đánh lấy mặt Cam Lộ; đạo thứ tư đánh Cam Cát, Cam Môn, đạo thứ năm
đánh Trấn Ninh.
Tuy rằng
quân nghịch năm đạo cùng tiến, nhưng chủ đích của Tiêm La là cốt đánh Chân Lạp
và Nam Kỳ, còn các đạo khác là để phân quân lực của nước Nam mà thôi.
Vua
Thánh Tổ được tin báo cấp, liền xuống chiếu sai quan quân phòng ngự các nơi.
Phía tây nam thì sai quân thứ ở Gia Định, chia quân cho Trương Minh Giảng và
Nguyễn Xuân đi tiến tiễu ở mặt An Giang. Phía tây bắc thì sai Lê Văn Thụy giữ
mặt Cam Lộ, thuộc Quảng Trị, Phạm Văn Điển giữ mặt Nghệ An. Lại sai Nguyễn Văn
Xuân148 làm kinh lược đại sứ đi tiễu trừ quân Tiêm và quân Lào ở Trấn Ninh.
Trương
Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại phá quân Tiêm La ở sông Cổ cắng. Quân Tiêm La ở Chân Lạp cũng bị người bản xứ
đánh phá. Chỗ nào quân nghịch cũng thua
to chết hại rất nhiều; chỉ trong một tháng mà quan quân lấy lại Hà Tiên và Châu
Đốc, đuổi quân Tiêm ra khỏi bờ cõi, rồi tiến lên đánh lấy thành Nam Vang và đưa
vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước. chẳng hóa
ra đem cái công lao bách chiến mà để đến nỗi cái tàn hồn phải bơ vơ như ma trơi
ngoài đồng, khác nào quỷ Mạc Ngao không ai thờ cúng không?" Vua Dực Tông xem bài sớ ấy lấy làm cảm động
bèn truy phong cho bọn Nguyễn Văn Thành, và cấp phẩm hàm cho các con cháu.
148
Nguyễn Xuân thì làm tham tán đại thần theo Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn Xuân
thì làm hữu quân lĩnh An tĩnh tổng đốc đi đánh mặt Trấn Ninh.
Trương
Minh Giảng và Nguyễn Xuân từ Nam Vang tiến lên đánh quân Tiêm, liền phá mấy
trận, chém tướng bắt binh lấy được súng ống khí giới không biết ngần nào mà kể.
Tướng Tiêm La là Phi Nhã Chất Tri đem bại binh chạy về nước, quan quân đuổi
đánh lấy thành Phú Túc (Pursat) rồi cho người Chân Lạp ở lại giữ các nơi: chỗ
nào hiểm yếu thì làm đồn đắp lũy, để phòng ngự quân giặc.
Những đạo
quân Tiêm và
quân Lào sang
đánh ở mặt
Quảng Trị, Nghệ An và Trấn Ninh,
đều bị tướng quân là Nguyễn Văn Xuân, Phạm Văn Điển và Lê Văn Thụy đánh đuổi,
chỗ nào quan quân cũng được toàn thắng, giữ được bờ cõi nguyên như chỗ cũ cả.
Quân
Tiêm sang đánh từ tháng giêng năm giáp ngọ (1834), đến tháng năm năm ấy, thì
quan quân đã bình xong cả mọi nơi. Vua Thánh Tổ mừng rỡ, ban thưởng cho các
tướng sĩ và bố cáo ra cho mọi nơi đều biết.
9. Việc Ai Lao. Nước Nam ta về đời vua Thánh
Tổ thì to rộng hơn cả, là vì quân Tiêm La cứ hay sang quấy nhiễu cho nên các xứ
ở Lào đều xin về nội thuộc nước ta.
Năm đinh
hợi (1827), người Nam chưởng (Luan Prabang) thông với Tiêm La, rồi cứ đem quân
xuống quấy nhiễu đất Trấn Ninh. Tù trưởng là Chiêu Nội xin đem đất Trấn Ninh về
nội thuộc Việt Nam. Vua Thánh Tổ phong cho Chiêu Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sứ
cai quản cả 7 huyện, lại phong cho những thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện
thừa. Chiêu Nội dâng sổ dân đinh và điền thổ, cả thảy được 3.000 suất đinh và
28 sở ruộng.
Lại có
đất Tam động và Lạc Phàn ( trước thuộcvề Vạn Tượng) cũng xin nội thuộc. Triều
đình chia những đất ấy ra làm hai phủ là Trấn Tĩnh phủ và Lạc biên phủ. Năm ấy
lại có xứ Xa hổ (?), Sầm Tộ (Sam teu), Mường soạn (?), Mang Lan (Mường Lam),
Trình Cố (Xiêng-khô), Sầm nứa (Sam- neua), Mương Duy (?) và ở Ngọc Ma có Cám
cát (Kham-keut), Cam Môn và Cam Linh (?) đều xin về nội thuộc. Vua Thánh Tổ
chia những đất ấy ra làm ba phủ là Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man.
Phủ Trấn
biên có bốn huyện là Xa hổ, Sầm tộ, Mang soạn, Mang lan; phủ Trấn định149 có 3
huyện là Cam cát, Cam môn, và Cam linh. Hai phủ ấy đều thuộc về Nghệ An. Còn
phủ Trấn Nam có 3 huyện là Trình Cố, Sầm nứa, Man Duy thì thuộc về Thanh Hóa.
149 Ở
gần địa hạt Hà tĩnh bây giờ.
Ở miền
Cam Lộ thuộc Quảng Trị lại có những mường Mang vang (?), Ná bi (?), Thượng kế
(?), Tả bang (?), Xương thịnh (?), Tầm bồn (?), Ba lan (?), Mang bổng (?), Lang
thời (?), xin về nội thuộc, chia ra làm 9 châu, cho chiếu lệ triều cống.
Đại khái
là đất Sầm nứa, đất Trấn Ninh, đất Cam môn và đất Savannakhet bây giờ, thủa ấy
thuộc về Việt Nam ta cả.
10. Việc Chân Lạp. Ở nước Chân Lạp thì từ khi
quan quân phá được giặc Tiêm rồi, Tướng quân là Trương minh Giảng và tham tán
là Lê Đại Cương lập đồn An Nam ở gần Nam vang để bảo hộ Chân Lạp.
Cuối năm
giáp ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có con trai,
quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là bọn Trà Long và La Kiên.
Những người này đều là người Chân Lạp mà lại nhận quan chức Việt Nam. Đến năm
ất mùi (1835), Trương Minh Giảng xin lập người con gái của Nặc Ông Chân tên là
Angmey lên làm quận chúa, gọi là Ngọc Vân công chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra
làm Trấn tây thành, chia ra làm 32 phủ và 2 huyện. Đặt một tướng quân, một tham
tán đại thần, một đề đốc, một hiệp tán, và 4 chánh phó lĩnh binh, để coi mọi
việc quân dân. Ở các chỗ yếu hại, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.
Năm canh
tí (1840), nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và
cùng với Trương Minh Giảng để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc
buôn bán, đo ruộng đất, định thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.
Nhưng vì
quan lại Việt Nam ta sang làm nhiều điều trái lẽ, nhũng nhiễu dân sự, lại bắt
Ngọc Vân công chúa đem về để ở Gia Định, bắt bọn Trà Long và Lê Kiên đày ra Bắc
Kỳ, dân Chân Lạp ai cũng oán giận, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên đánh phá.
Lại có em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa, có người Tiêm La giúp đỡ,
thành ra quan quân đánh mãi không được. Về sau khi vua Thánh Tổ mất rồi, quan
quân phải bỏ thành Trấn Tây mà rút về An Giang.
Ấy cũng
là vì người mình không biết bênh vực kẻ hèn yếu, chỉ đem lòng tham tàn mà ức
hiếp người ta, cho nên thành ra hao tổn binh lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại
phải sự bại hoại, thật là thiệt hại cho nước mình.
11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương.
Việc giao thiệp của nước Nam ta với các nước ngoại dương mà ngăn trở là bởi có hai lẽ:
một là vì sự cấm giảng đạo thiên chúa; hai là vì người nước mình lúc bấy giờ
không hiểu thời thế, cứ tự đắc mình là văn minh hơn người, không chịu học tập
như người ta mà theo đường tiến bộ.
Nước ta
từ đời thập thất thế kỷ, về nhà Hậu Lê đã có người Âu-la-ba ra vào buôn bán,
hoặc ở Phố Hiến (Hưng Yên), hoặc ở cửa Hội An (Faifo), đều không có việc gì
ngăn trở cả. Chỉ có sự giảng đạo Thiên
chúa ở trong nước là hay bị sự ngăn cấm. Ngày trước chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã có dụ nghiêm cấm. Đến đời Nguyễn
Tây Sơn thì trong nước rối loạn, còn phải lo việc chiến tranh, cho nên không
nói đến việc cấm đạo. Về sau, khi vua Thế Tổ nhất thống cả nam bắc, thì ngài
nhớ ơn bên đạo có công giúp rập trong lúc gian truân, vẫn để các giáo sĩ được
phép đi giảng đạo mọi nơi. Mãi đến đời vua Thánh Tổ thì việc nước đã yên, nhà
vua lưu ý về sự giáo hóa, lấy Nho đạo làm chính đạo và cho các tôn giáo khác
làm tả đạo, bắt dân gian phải bỏ tà theo chính. Sự cấm đạo lại khởi đầu phát ra
nữa.
Mà cũng
vì sự cấm đạo, cho nên sự buôn bán của những người ngoại dương ở nước ta,
thành ra ngăn
trở. ởi vì Triều đình thấy
thỉnh thoảng có chiếc tàu buôn lại, thì có một vài người giáo sĩ vào
giảng đạo, ngăn cấm thế nào cũng không được, tưởng là có ý do thám gì chăng,
cho nên lại càng nghi ngờ lắm.
Vả lại
về đời nhà Nguyễn lúc bấy giờ, ở trong nước cũng không có người ngoại quốc ra
vào buôn bán, chỉ có người Pháp Lan Tây trước đã theo giúp vua Thế Tổ, rồi ở
lại làm quan tại triều là Chaigneau và Vannier. Khi vua Thế Tổ hãy còn, thì
Chaigneau có xin về nước Pháp nghỉ ba năm, đến năm đinh mùi (1821), ông ấy trở
sang thì lại nhận chức lãnh sự và chức khâm sai của vua Louis XVIII, đem đồ
phẩm vật và tờ quốc thư sang điều đình việc thông thương với nước Nam.
Chaigneau sang đến nơi, thì vua Thế Tổ mất rồi, vua Thánh Tổ tiếp đãi Chaigneau
cũng tử tế, và ngày sai quan trả lời cho Pháp Hoàng rằng nước Nam và nước Pháp
không việc gì mà phải làm điều ước về việc thương mại. Việc vào buôn bán ở nước
Nam, thì cứ theo luật nước Nam, không điều gì ngăn trở cả.
Năm nhâm
ngọ (1822) có chiếc tàu chiến của Pháp tên là Cléopâtre vào cửa Đà nẵng, người
quản tàu tên là Courson de La Ville Héllio nhờ Chaigneau xin phép cho vào yết
kiến vua Thánh Tổ; ngài không cho. Tháng 7 năm ấy, có tàu Anh Cát Lợi vào Đà
nẵng xin thông thương, nhà vua cũng không cho.
Chaigneau
thấy nhà vua càng ngày càng nhạt nhẽo với mình, và cũng không làm được công
việc gì có ích, bèn cùng với Vannier xin từ chức, rồi đến
cuối năm giáp thân (1824), hai người xuống tàu đi qua Gia Định về Pháp.
Tháng
giêng năm ất dậu (1825), lại có thủy quân đại tá nước Pháp là ông Bougainville
đem hai chiếc tàu chiến là Thétis và Espérance vào cửa Đà Nẵng, đem đồ phẩm vật
và quốc thư, xin vào yết kiến vua Thánh Tổ. Ngài nói rằng nước Pháp và nước Anh
là hai nước cừu địch, mà nước ta trước đã không tiếp sứ Anh Cát Lợi, lẽ nào nay
lại tiếp sứ nước Pháp. Vả lúc bấy giờ Chaigneau và Vannier đã về cả rồi, ngài
bèn sai quan đem đồ vật ra ban thưởng cho sứ nước Pháp và nói rằng ở trong
triều không có ai biết tiếng Pháp, cho nên không thể tiếp được.
Qua năm
sau (1826) chính phủ Pháp lại sai cháu ông Chaigneau sang làm lĩnh sự thay cho
chú, nhưng sang đến nơi, Triều đình nước ta không nhận, đến năm kỷ sửu (1829)
lại phải trở về.
Từ đó
cho đến 10 năm về sau nước Pháp tuyệt giao với nước Nam ta. Mà lúc bấy giờ chỉ trừ mấy người giáo sĩ đi
giảng đạo ở chỗ thôn dã ra, thì trong nước cũng không có người ngoại dương nào
ở nữa.
12. Sự Cấm Đạo. Từ khi vua Thánh Tổ lên ngôi,
ngài đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm ất
dậu (1825), khi chiếc tàu Thétis vào cửa Đà Nẵng, có một người giáo sĩ tên là
Rogerot ở lại đi giảng đạo các nơi, vua Thánh Tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm đạo,
và truyền cho các quan phải khám xét các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể.
Trong dụ nói rằng: "Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và
hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính
đạo".
Ngài lại
sai tìm bao nhiêu những giáo sĩ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách
Tây ra chữ Việt Nam, chủ ý là không phải vì việc dịch sách, nhưng là để cho
khỏi đi giảng đạo ở chốn hương thôn.
Lúc bấy
giờ không phải là một mình vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan
lại cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu
cấm thế nào mặc lòng, trong nước vẫn có người đi giảng đạo, nhà vua lấy điều đó
làm trái phép, lại có dụ ra lần nữa truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, và ai
bắt được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ
phải xử giảo, và ở các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo.
Từ đó
trở đi, trong Nam ngoài Bắc, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ cho
dân bên đạo theo giúp quân giặc, lại càng cấm nghiệt: từ năm giáp ngọ (1834)
cho đến năm mậu tuất (1838), có nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi
bắt được cố Du (P. Marchand) ở Gia Định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn trước nữa.
Nhà vua
một mặt thì cấm đạo, một mặt thì ban những huấn điều ra đê/ khuyên dân giữ lấy
đạo chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại
khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả
lại đạo Thiên chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái,
việc gì mà làm khổ dân sự như thế? Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều sống
chết đi truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hàng mấy
tháng để dạy đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, thì hình phạt cũng vô
ích mà thôi. Năm mậu tuất (1838), vua Thánh Tổ thấy cấm thế nào cũng không được
những người đi giảng đạo trong nước, ngài bèn sai sứ sang nước Pháp để điều
đình với chính phủ Pháp về việc ấy. Song khi sứ thần Việt Nam sang đến nơi, thì
hội Ngoại Quốc Truyền Đạo xin Pháp Hoàng là vua Louis Philippe đừng tiếp150. Sứ
thần ta phải trở về không; khi về đến Huế thì vua Thánh Tổ đã mất rồi.
Về sau
việc cấm đạo cứ dai dẳng mãi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.
13. Vua Thánh Tổ Mất. Vua Thánh Tổ mất năm canh
tí (1840), thọ được 50 tuổi, và trị vì được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân
Hoàng Đế.
Trong
đời vua Thánh Tổ làm vua, pháp luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại cả, làm
thành một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ vì
ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, chứ không tùy thời mà biến hóa phong
tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo
đạo, và lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra nước Nam ta ở lẻ loi một
mình.
mà ít độ
lượng, ngài biết có dân có nước mà không biết thời thế tiến hóa. Bởi vậy cho
nên nói rằng ngài là một ông anh quân thì khí quá, mà nói rằng ngài là ông bạo
quân thì không công bằng. Dẫu thế nào mặc lòng, ngài là một ông vua thông minh,
có quả cảm, hết lòng lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông
vua nào làm được nhiều công việc hơn ngài vậy.
Đã hay
rằng những điều lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả triều đình và cả bọn sĩ phu
nước ta lúc bấy giờ, chứ không riêng chi một mình ngài, nhưng ngài là ông vua
chuyên chế một nước, việc trong nước hay dỡ thế nào, ngài cũng có một phần
trách nhiệm rất to, không sao chối từ được. Vậy cứ bình tình mà xét, thì chính
trị của ngài tuy có nhiều điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài biết
cương mà không biết nhu, ngài có uy quyền
150 Sách
Histore de la Cochinchine Francaise của ông Cultru.
CHƯƠNG
IV
Hiến Tổ
(1841-1847)
Niên
hiệu: Thiệu Trị
1. Đức độ vua Hiến Tổ
2. Việc Chân Lạp
3. Việc Tiêm La
4. Việc giao thiệp với nước Pháp
1. Đức Độ Vua Hiến Tổ.
Tháng giêng năm tân sửu (1841) Hoàng Thái Tử húy là Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa đặt niên hiệu là Thiệu Trị.
Tháng giêng năm tân sửu (1841) Hoàng Thái Tử húy là Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa đặt niên hiệu là Thiệu Trị.
Tính vua
Hiến Tổ thuần hòa, không hay bày ra nhiều việc và cũng không được quả cảm như
Thánh Tổ. Trong đời Ngài làm vua, học hiệu, chế độ, thuế mà, điều gì cũng theo
như triều vua Thánh Tổ cả. Bầy tôi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức,
Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp trong ngoài ra sức giúp
rập. Nhưng mà đất Nam Kỳ có giặc giã,
dân Chân Lạp nổi loạn, quân Tiêm La sang đánh phá, nhà vua phải dùng binh đánh
dẹp mãi mới xong.
2. Việc Chân Lạp.
Nguyên từ cuối đời đức Thánh Tổ, đất Nam Kỳ và đất Chân Lạp đã có giặc giã, các ông Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ cứ phải đem quân đi tiễu trừ mãi, đánh được chỗ này thì chỗ kia nổi lên. Sau ở Nam Kỳ lại có Lâm Sâm cùng với bọn thầy chùa làm loạn ở Trà Vinh; ở Chân Lạp thì những người bản xứ cùng với người Tiêm La đánh phá. Quan quân chống không nổi. Triều đình lấy việc ấy làm lo phiền. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), ở trong Triều, ông Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Vua nghe lời ấy, xuống chiếu truyền cho tướng quân là Trương Minh Giảng rút quân về. Trương Minh Giảng về đến An Giang thì mất. Bởi vì việc kinh lý đất Chân Lạp là ở tay ông cả, nay vì có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà, ông nghĩ xấu hổ và buồn bực đến nỗi thành bệnh mà chết.
Nguyên từ cuối đời đức Thánh Tổ, đất Nam Kỳ và đất Chân Lạp đã có giặc giã, các ông Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ cứ phải đem quân đi tiễu trừ mãi, đánh được chỗ này thì chỗ kia nổi lên. Sau ở Nam Kỳ lại có Lâm Sâm cùng với bọn thầy chùa làm loạn ở Trà Vinh; ở Chân Lạp thì những người bản xứ cùng với người Tiêm La đánh phá. Quan quân chống không nổi. Triều đình lấy việc ấy làm lo phiền. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), ở trong Triều, ông Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Vua nghe lời ấy, xuống chiếu truyền cho tướng quân là Trương Minh Giảng rút quân về. Trương Minh Giảng về đến An Giang thì mất. Bởi vì việc kinh lý đất Chân Lạp là ở tay ông cả, nay vì có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà, ông nghĩ xấu hổ và buồn bực đến nỗi thành bệnh mà chết.
3. Việc Tiêm La.
Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam Kỳ, thì quân Tiêm La lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc để đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng thống đem binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây. Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cõi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu.
Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam Kỳ, thì quân Tiêm La lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc để đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng thống đem binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây. Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cõi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu.
Nguyên
là Nặc Ông Đôn151 đem quân Tiêm La về cứu viện để đánh lấy lại nước. Nhưng khi
đến Việt Nam rút về rồi, quân Tiêm La tàn bạo, người Chân Lạp lại không phục,
có người sang cầu cứu ở Nam Kỳ, vua bèn sai Võ Văn Giải sang kinh lý việc Chân
Lạp.
Tháng
sáu năm ất tị (1845), là năm Thiệu Trị thứ năm, Võ Văn Giải vào đến Gia Định,
cùng với Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân
Lạp, phá được đồn Dây Sắt, lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp về hàng kể
hơn 23.000 người.
Đoạn rồi,
Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem binh đuổi đánh quân Tiêm La và quân Chân Lạp,
vây Nặc Ông Đôn và tướng Tiêm La là Chất Tri ở Ô-Đông (Oudon).
Tháng
chín năm ấy, Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua tháng mười thì Nguyễn Tri
Phương, Doãn Uẩn và Chất Tri ký tờ hòa ước ở nhà hội quán, hai nước đều giải
binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng ở Trấn Tây, đợi quân Tiêm thi hành
những điều ước đã định.
Tháng
chạp năm bính ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm
vật sang triều cống.
Tháng
hai năm đinh mùi (1847) là năm Thiệu Trị thứ bảy, Triều đình phong cho Nặc Ông
Đôn làm Cao Miên Quốc Vương và phong cho Mỹ Lâm Quận Chúa làm Cao Miên Quận
Chúa. Lại xuống chiếu truyền cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang.
Từ đó
nước Chân Lạp lại có vua, và việc ở phía nam mới được yên
vậy.
151 Nặc
Ông Đôn là em Nặc Ông Chân, chú nàng Ang-mey là Ngọc Vân quận chúa.
4. Việc Giao Thiệp với nước Pháp.
Từ khi vua Hiến Tổ lên trị vì, thì sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít. Nhưng mà triều đình vẫn ghét đạo, mà những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha.
Từ khi vua Hiến Tổ lên trị vì, thì sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít. Nhưng mà triều đình vẫn ghét đạo, mà những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha.
Qua năm
ất tị (1845) là năm Thiệu Trị thứ năm có một giám mục tên Lefèbvre phải án xử
tử. Bấy giờ có người quản tàu Mỹ Lợi
Kiên ở Đà Nẵng xin mãi không được, mới báo tin cho hải quân thiếu tướng nước
Pháp là Cécile biết. Thiếu tướng sai quân đem chiếc tàu Alemène vào Đà Nẵng
lĩnh giám mục ra.
Năm đinh
mùi (1847) quan nước Pháp được tin rằng ở Huế không còn giáo sĩ phải giam nữa,
mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến
thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được
tự do theo đạo mới.
Lúc hai
bên còn đang thương nghị về việc ấy, thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra
đóng ở gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân ta sắp sửa đồn lũy, mới
nghi có sự phản trắc gì chăng, bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi
nhổ neo kéo buồm ra bể.
Vua Hiến
Tổ thấy sự trạng như thế, tức giận vô cùng, lại có dụ ra cấm người ngoại quốc
vào giảng đạo, và trị tội những người trong nước đi theo đạo.
Việc tàu
nước Pháp vào bắn ở Đà nẵng xong được mấy ngày tháng, thì vua Hiến Tổ phải bệnh
mất. Bấy giờ là tháng chín năm đinh mùi (1847), năm Thiệu Trị thứ bảy. Ngài làm vua được bảy năm, thọ 37 tuổi, miếu
hiệu là Hiến tổ Chương Hoàng Đế.
CHƯƠNG V
Dực Tông
(1847-1883)
Niên
hiệu: Tự Đức
1. Đức độ vua Dực Tông
2. Đình thần
3. Việc ngoại giao
4. Việc cấm đạo
5. Việc thuế má
6. Việc văn học
7. Việc binh chế
1. Đức độ vua Dực Tông.
Vua Hiến Tổ mất, truyền ngôi lại cho hoàng tử thứ hai húy là Hồng Nhậm. Bấy giờ hoàng tử mới có 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái. Đến tháng 10 năm đinh mùi (1847), thì ngài lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Tự Đức, lấy năm sau là năm Mậu Thân làm Tự Đức nguyên niên.
Vua Hiến Tổ mất, truyền ngôi lại cho hoàng tử thứ hai húy là Hồng Nhậm. Bấy giờ hoàng tử mới có 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái. Đến tháng 10 năm đinh mùi (1847), thì ngài lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Tự Đức, lấy năm sau là năm Mậu Thân làm Tự Đức nguyên niên.
Vua Dực
Tông đối với vận hội nước Nam ta thật là quan hệ, vì là đến đời ngài thì nước
Pháp sang bảo hộ, đổi xã hội mình ra một cảnh tượng khác. Bởi vậy cho nên ta
cần phải biết rõ ngài là người thế nào, để xét đoán những công việc thời bấy
giờ cho khỏi sai lầm. Quan tổng đốc Thân Trọng Huề đã được trông thấy dung nhan
của ngài và đã tả rõ chân tượng của ngài ra như sau này: "Ngài hình dung
như một người nho sĩ, không cao, không thấp, trạc người bậc trung, không gầy
không béo, có một phần hơi gầy một tí. Da không trắng không đen. Mặt hơi dài;
cằm hơi nhỏ, trán rộng mà thẳng, mũi cao mà tròn, hai con mắt tinh mà lành.
Ngài hay
chít cái khăn vàng mà nhỏ, và mặc áo vàng, khi ngài có tuổi thì hay mặc quần
vàng đi giày hàng vàng của nội vụ đóng. Ngài không ưa trang sức mà cũng không
cho các bà nội cung đeo đồ nữ trang, chỉ cốt lấy sự ăn mặc sạch sẽ làm đẹp.
Tính
ngài thật là hiền lành. Những người được hầu gần ngài nói chuyện rằng: một hôm
ngài ngự triều tại điện Văn Minh, ngài cầm cái hoa mai152
sắp hút thuốc, tên thái giám đứng quạt hầu, vô ý quạt mạnh quá, lửa hoa mai bay
vào tay ngài. Tên thái giám sợ xanh mặt
lại, mà ngài chỉ xoa tay, chứ không nói gì cả.
Ngài thờ
đức Từ Dụ rất có hiếu. Lệ thường cứ ngày chẵn thì chầu cung, ngày lẽ thì ngự
triều: trong một tháng chầu cung 15 lần, ngự triều 15 lần, trừ khi đi vắng và
khi se yếu153. Trong 36 năm, thường vẫn như thế, không sai chút nào.
Khi ngài
chầu cung thì ngài tâu chuyện này chuyện kia, việc nhà việc nước, việc xưa việc
nay. Đức Từ Dụ thuộc sử sách đã nhiều mà biết việc đời cũng rộng. Khi Đức Từ Dụ
ban câu chi hay, thì ngài biên ngay vào một quyển giấy gọi là Từ Huấn Lục.
Một hôm
rảnh việc nước, ngài ngự bắn tại rừng Thuận Trực154 gặp phải khi nướt lụt. Còn hai ngày nữa thì có kị đức Hiến Tổ, mà
ngài chưa ngự về. Đức Từ Dụ nóng ruột, sai quan đại thần là Nguyễn Tri Phương
đi rước. Nguyễn Tri Phương đi được nữa đường, vừa gặp thuyền ngự đương chèo
lên, mà nước thì chảy mạnh, thuyền không đi mau được. Gần tối thuyền ngự mới
tới bến. Khi ấy trời đang mưa, mà ngài vội vàng lên kiệu trần đi thẳng sang
cung, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dụ ngồi
xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng chi cả. Ngày lấy một cây roi mây, dâng
lên để trên ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đòn. Cách một hồi lâu, đức Từ Dụ xoay mặt ra lấy
tay hất cái roi mà ban rằng:
- Thôi,
tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi
sớm mai đi hầu kị.
Ngài lạy
tạ lui về, nội đêm đó ngài phê thưởng cho các quan quân đi hầu ngự. Quan thì
mỗi người được một đồng tiền bạc, lớn nhỏ tùy theo phẩm, còn lính thì mỗi tên
được một quan tiền kẽm. Đến sáng ngài ngự ra điện Long An lạy kị. Xem cách ngài thờ mẹ như thế, thì tự xưa đến
nay ít có.
Tính
ngài siêng năng, sáng chừng năm giờ, ngài đã ngự tánh, nghĩa là thức dậy, chừng
sáu giờ, ngài đã ra triều. Cho nên các quan ở Kinh buổi ấy cũng phải dậy sớm để
mà đi chầu. Thường thấy các quan thắp đèn ăn cháo để vào triều cho sớm.
Thường
ngài ngự triều tại điện Văn Minh, ở bên tả điện cần chính. Các quan đến sớm,
quan văn thì ngồi chực tại tả vu, quan võ tại hữu vu. Khi ngài đã ngự ra, thì
thái giám tuyên triệu các quan vào chầu. Các quan đều mặc áo rộng xanh, đeo thẻ
bài đi vào, quan văn bên hữu, quan võ bên tả155.
Khi các
quan theo thứ tự đứng yên rồi, quan bộ Lại hay là quan hộ Binh tâu xin cho mấy
ông quan mới được thăng thuyên bái mạng. Các quan bái mạng thì phải chực ở
ngoài, đợi bộ Lại hay là bộ Binh tâu xong mới được vào. Quan văn thuộc bộ Lại,
quan võ thì thuộc bộ binh. Bái mạng thì phải mặc áo đại trào.
Các ông
bái mạng xong rồi, bộ nào có việc gì tâu thì đến chỗ tấu sự quỳ tâu. Như bộ nào có tâu việc gì thì các quan ấn
quan trong bộ ấy đều quỳ chỗ tấu sự, rồi ông nào tâu, thì đọc bài diện
tấu. Một bên các quan tấu sự lại có một
ông quan nội các và một ông ngự sử đều quỳ.
Quan nội các để biên lời ngài ban; quan ngự sử để đàn hạch các quan phạm
phép.
Đức Dực
Tông đã thuộc việc mà lại chăm cho nên nhiều bữa ngài ban việc đến chín mười
giờ mới ngự vào nội.
Ngài
thường làm việc ở chái đông điện Cần Chánh. Trong chái ấy lót ván đánh bóng.
Gần cửa kính có mấy chiếc chiếu, trên trải một chiếu cạp bằng hàng vàng, để một
cái yên với nghiên bút, một trái dựa (cái gối dựa), chứ không bày bàn ghế gì
cả. Cách một khoảng có để một cái đầu hồ với thẻ. Ngày làm việc mỏi thì đứng
dậy đánh đầu hồ, hay là đi bách bộ. Ngài ngồi làm việc một mình, vài tên thị nữ
đứng hầu để mài son, thắp thuốc hay là đi truyền việc.
Lệ nước
ta xưa nay các quan không được vào chỗ ngài ngự tọa làm giúp việc cho vua, cho
nên việc lớn việc nhỏ, ngài phải xem cả.
Phiến sớ
ác nơi đều gởi về nội các. Nội các đề trong tráp tấu sự, đưa cho giám, giám đưa
cho nữ quan dâng lên ngài. Ngài xem rồi giao nội các. Nội các giữ bản chính có
châu điểm, châu phê, lục bản phó ra cho các bộ nha.
152 Hoa
mai là một sợi dây làm bằng chỉ để thắp lửa mà hút thuốc.
153 Se
yếu là đau yếu. Tiếng se ở Huế nói cách tôn kính, như vua đau thì nói vua se
mình.
154 Cách
Kinh thành chừng độ 15 cây số, ở bên bờ sông Lợi Giang, có một cái rừng cấm gọi
là Thuận Trực. Chỗ ấy nhiều chim, đức Dực Tông thường ngự đến bắn ở đấy.
155 Khi
ngài ngự điện Thái Hòa hay là điện Cần Chính, hay là đi hành lễ điện Phụng
Tiên, thì quan văn lại đứng bên tả, quan võ bên hữu, duy ở điện Văn Minh thì
quan võ bên tả, quan văn bên hữu, không biết tại làm sao?
Nay xem
các nguyên bản trong Các, thì thấy có nhiều tờ phiến ngài phê dài hơn của các
quan tâu. Chữ đã tốt mà văn lại hay, ai cũng kinh cái tài của ngài.
Ngài vốn
là người hiếu học. Đêm nào ngài cũng xem sách đến khuya. Có ba tập Ngự Chế Thi
Văn của ngài đã in thành bản. Ngài lại làm sách chữ nôm để dạy dân cho dễ hiểu,
như là sách Thập Điều, Tự Học Diễn Ca, Luận Ngữ Diễn Ca, v.v..."
Xem cái
chân tượng của vua Dực Tông như thế, thì ngài không phải là người to béo vạm
vỡ156, mà cũng không phải là ông vua tàn ác bạo ngược như người ta thường
nói. Chỉ vì ngài làm vua về một thời
đại khó khăn, trong nước lắm việc, mà những người phò tá thì tuy có người thanh
liêm như ông Trương Đăng Quế, ông Vũ Trọng Bình, trung liệt như ông Phan Thanh
Giản, ông Nguyễn Tri Phương, ông Hoàng Diệu, v.v. nhưng mà các ông ấy
đều là
người cũ, không am hiểu thời thế mới. Vả lại các thế lực lúc bấy giờ kém hèn
quá, dẫu có muốn cải cách duy tân, cũng không kịp nữa, cho nên mọi việc đều
hỏng cả.
2. Đình Thần.
Đình thần là các quan ở trong Triều giúp vua để lo việc nước. Nhưng lúc bấy giờ tình thế đã nguy ngập lắm, vì từ đầu thập cửu thế kỷ trở đi, sự sinh hoạt và học thuật của thiên hạ đã tiến bộ nhiều mà sự cạnh tranh của các nước cũng kịch liệt hơn trước. Thế mà những người giữ cái trách nhiệm chính trị nước mình, chỉ chăm việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì phi Nghiêu, Thuấn lại Hạ, Thương, Chu, việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại, rồi cứ nghễu nghện tự xưng mình hơn người, cho thiên hạ là dã man. Ấy, các đình thần lúc bấy giờ phần nhiều là những người như thế cả. Tuy có một vài người đã đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại, thì các cụ ở nhà cho là nói bậy, làm hủy hoại mất kỷ cương! Thành ra người không biết thì cứ một niềm tự đắc, người biết thì phải làm câm làm điếc, không thở ra với ai được, phải ngồi khoanh tay mà chịu.
Đình thần là các quan ở trong Triều giúp vua để lo việc nước. Nhưng lúc bấy giờ tình thế đã nguy ngập lắm, vì từ đầu thập cửu thế kỷ trở đi, sự sinh hoạt và học thuật của thiên hạ đã tiến bộ nhiều mà sự cạnh tranh của các nước cũng kịch liệt hơn trước. Thế mà những người giữ cái trách nhiệm chính trị nước mình, chỉ chăm việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì phi Nghiêu, Thuấn lại Hạ, Thương, Chu, việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại, rồi cứ nghễu nghện tự xưng mình hơn người, cho thiên hạ là dã man. Ấy, các đình thần lúc bấy giờ phần nhiều là những người như thế cả. Tuy có một vài người đã đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại, thì các cụ ở nhà cho là nói bậy, làm hủy hoại mất kỷ cương! Thành ra người không biết thì cứ một niềm tự đắc, người biết thì phải làm câm làm điếc, không thở ra với ai được, phải ngồi khoanh tay mà chịu.
Xem như
mấy năm về sau, nhà vua thường có hỏi đến việc phú quốc cường binh, các quan
bàn hết lẽ nọ lẽ kia, nào chiến, nào thủ, mà chẳng thấy làm được việc gì ra
trò. Vả thời bấy giờ, cũng đã có người hiểu rõ thời thế, chịu đi du học và muốn
thay đổi chính trị. Như năm bính dần
(1866) là156 Ta
thường trông thấy có cái tranh vẽ một người to lớn vạm vỡ, mặt mũi dữ tợn mà
mặc áo đội mũ không ra lối lăng gì cả, ở dưới cái tranh có chữ đề là vua Tự
Đức. Cái tranh ấy chắc là của một người nào tưởng tượng mà vẽ ra chứ không phải
là chân dung của ngài. Vì là thủa trước chỉ trừ những quan đại thần và những
người được vào hầu cận, vua ta không cho ai trông thấy mặt, mà cũng không bao
giờ có hình ảnh gì cả.
năm Tự
Đức thứ 19, có mấy người ở Nghệ An là Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn
Điều đi du học phương tây. Sau Nguyễn Trường Tộ về làm mấy bài điều trần, kể
hết cái tình thế nước mình, và cái cảnh tượng các nước, rồi xin nhà vua phải
mau mau cải cách mọi việc, không thì mất nước. Vua giao những tờ điều trần ấy
cho các quan duyệt nghị. Đình thần đều
lấy làm sự nói càn, không ai chịu nghe.
Năm mậu
thìn (1868) là năm Tự Đức thứ 21, có người ở Ninh Bình tên là Đinh Văn Điền
dâng tờ điều trần nói nên đặt doanh điền, khai mỏ vàng, làm tàu hỏa, cho người
các nước phương tây vào buôn bán, luyện tập sĩ tốt để phòng khi chiến thủ, thêm
lương thực cho quan quân, bớt sưu dịch cho dân sự, thưởng cho những người có
công, nuôi nấng những người bị thương, tàn tật, v.v.... Đại để là những điều
ích quốc lợi dân cả, thế mà đình thần cho là không hợp với thời thế, rồi bỏ
không dùng.
Các quan
đi sứ các nơi về tâu bày mọi sư, vua hỏi đến đình thần thì mọi người
đều bác đi,
cái gì cũng
cho là không
hợp thời. Năm
kỷ mão (1879) là năm Tự Đức thứ
32, Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La về nói rằng khi người nước Anh Cát Lợi mới sang
xin thông thương, thì nước Tiê m La lập điều ước cho ngay, thành ra người Anh
không có cớ gì mà sinh sự để lấy đất, rồi Tiêm La lại cho nước Pháp, nước Phổ,
nước Ý, nước Mỹ v.v... đặt lĩnh sự để coi việc buôn bán. Như thế mọi người đều
có quyền lợi không ai hiếp chế được mình.
Năm tân tị (1881) là năm Tự Đức thứ 34, có Lê Đĩnh đi sứ ở Hương Cảng
về, tâu rằng: các nước Thái Tây mà phú cường là chỉ cốt ở việc binh và việc
buôn bán. Lấy binh lính mà bênh vực việc buôn bán, lấy việc buôn bán mà nuôi
binh lính.
Gần đây
Nhật Bản theo các nước Thái Tây cho người đi buôn bán khắp cả mọi nơi. Nước Tàu
cũng bắt chước cho người ngoại quốc ra vào buôn bán. Nước ta, người khôn ngoan,
lại có lắm sản vật, nên theo người ta mà làm thì cũng có thể giữ được quyền độc
lập của nước nhà.
Năm ấy
lại có quan hàn lâm viện tu soạn là Phan Liêm làm sớ mật tâu việc mở sự buôn
bán, sự chung vốn lập hội, và xin cho người đi học nghề khai mỏ. Giao cho đình
thần xét, các quan đều bàn rằng việc buôn bán không tiện, còn việc khác thì xin
đòi hỏi các tỉnh xem thể nào, rồi sẽ xét lại. Ấy cũng là một cách làm cho trôi
chuyện, chứ không ai muốn thay đổi thói cũ chút gì cả. Nhân việc đó vua Dực
Tông khuyên rằng các quan xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín, nhưng
cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến, thì tức là thoái vậy.
Xem lời
ấy thì không phải là vua không muốn thay đổi.
Chỉ vì vua ở trong cung điện, việc đời không biết rõ, phải lấy các quan
làm tai làm mắt, mà các quan thì lại số người biết thì ít, số người không biết
thì nhiều. Những người có quyền tước thì lắm người trông không rõ, nghe không
thấy, chỉ một niềm giữ thói cũ cho tiện việc mình. Lại có lắm người tự nghĩ
rằng mình đã quyền cả ngôi cao, thì tất là tài giỏi hơn người, chứ không hiểu
rằng cái tài giỏi không cần phải nhiều tuổi, sự khôn ngoan không phải làm quan
to hay là quan nhỏ. Cái phẩm giá con người ta cốt ở tư tưởng, học thức, chứ
không phải ở tiền của hay là ở quyền tước.
Đến khi
nước Pháp đã sang lấy đất Nam Kỳ, đã ra đánh Bắc Kỳ, tình thế nguy cấp đến nơi
rồi, thế mà cứ khư khư giữ lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự gì hơi mới một tí, thì
bác đi. Như thế thì làm thế nào mà không hỏng việc được.
Đã hay
rằng vua có trách nhiệm vua, quan có trách nhiệm quan, dẫu thế nào vua Dực Tông
cũng không tránh khỏi cái lỗi với nước nhà, nhưng mà xét cho xác ly, thì cái
lỗi của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ vậy.
Đến năm
tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, lại có dụ ra cấm đạo. Lần này, cấm nghiệt
hơn lần trước, và có mấy người giáo sĩ ngoại quốc phải giết.
Sức đã
không đủ giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Đã không cho người ngoại quốc vào
buôn bán, lại đem làm tội những người đi giảng đạo, bởi thế cho nên nước Pháp
và nước I Pha Nho mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta vậy.
5. Việc
Thuế Má. Thuế má trong nước đời bấy giờ, thì đại khái cũng như đời vua Thánh Tổ
và Hiến Tổ, duy chỉ từ khi nước Pháp và nước I Pha Nho vào đánh lấy mấy tỉnh
Nam Kỳ rồi, lại phải bồi tiền binh phí mất 4 triệu nguyên, nhà nước mới tìm
cách lấy tiền, bèn cho người khách tên là Hầu Lợi Trịnh trưng thuế bán thuốc
nha phiến từ Quảng Bình ra đến Bắc Kỳ.
Sử chép rằng đồng niên nhà vua thu được có 302.200 quan tiền thuế nha
phiến.
3. Việc Ngoại Giao.
Việc chính trị đời Dực Tông là nhất thiết không cho người ngoại quốc vào buôn bán. Như năm canh tuất (1850) là năm Tự Đức thứ 3, có tàu Mỹ Lợi Liên vào cửa Đà Nẵng, đem thư sang xin thông thương, nhà vua không tiếp thư.
Việc chính trị đời Dực Tông là nhất thiết không cho người ngoại quốc vào buôn bán. Như năm canh tuất (1850) là năm Tự Đức thứ 3, có tàu Mỹ Lợi Liên vào cửa Đà Nẵng, đem thư sang xin thông thương, nhà vua không tiếp thư.
Từ năm
ất mão (1855) cho đến năm đinh sửu (1877) tàu Anh Cát Lợi ra vào mấy lần ở cửa
Đà Nẵng, cửa Thị Nại (Bình Định) và ở Quảng Yên, để xin buôn bán, cũng không
được. Người I Pha Nho và nước Pháp Lan Tây xin thông thương cũng không được.
Về sau
đất Gia Định đã mất rồi, việc ngoại giao một ngày một khó, nhà vua mới đặt Bình
Chuẩn Ti để coi việc buôn bán, và Thương Bạc Viện để coi việc giao thiệp với
người ngoại dương. Tuy vậy nhưng cũng không thấy ai là người hiểu việc buôn bán
và biết cách giao thiệp cả.
4. Việc Cấm Đạo. Việc cấm đạo thì từ năm mậu
thân (1848) là năm Tự Đức nguyên niên, vua Dực Tông mới lên ngôi, đã có dụ cấm
đạo. Lần ấy trong dụ nói rằng những người ngoại quốc vào giảng đạo, thì phải
tội chết, những người đạo trưởng ở trong nước mà không chịu bỏ đạo, thì phải
khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. Còn những ngu dân thì các
quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng
có giết hại v.v....
Nhà vua
lại định lệ cho quyên từ 1.000 quan trở lên thì được hàm cửu phẩm, lên đến
10.000 quan thì được hàm lục phẩm, nghĩ là phải dùng lối đời trước bán quan để
lấy tiền.
6. Việc Văn Học.
Vua Dực Tông là một ông vua hay chữ nhất đời nhà Nguyễn, cho nên ngài trọng sự nho học lắm. Ngài chăm về việc khoa giáp, sửa sang việc thi cử đặt ra Nhã Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa, để chọn lấy người văn học ra làm quan.
Vua Dực Tông là một ông vua hay chữ nhất đời nhà Nguyễn, cho nên ngài trọng sự nho học lắm. Ngài chăm về việc khoa giáp, sửa sang việc thi cử đặt ra Nhã Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa, để chọn lấy người văn học ra làm quan.
Ngài lại
đặt Tập Hiền Viện và Khai Kinh Diên để ngài ngự ra cùng với các quan bàn sách
vở, làm thơ phú hoặc nói chuyện chính trị.
Lại sai quan soạn bộ Khâm Định Việt Sử , từ đời thượng cổ cho đến hết
đời nhà Hậu Lê.
7. Việc Binh Chế. Đời vua Dực Tông lắm giặc
giã, nhà vua cần đến việc võ, nên chỉ năm tân dậu (1861) là năm Tự Đức thứ 14
mới truyền cho các tỉnh chọn lấy những người khỏe mạnh để làm lính võ
sinh. Đến năm ất sửu (1865) là Tự Đức
thứ 18 lại mở ra khoa thi võ tiến sĩ.
Tuy rằng
lúc bấy giờ nước mình có lính võ sinh, có quan võ tiến sĩ, nhưng mà thời đại đã
khác đi rồi, người ta đánh nhau bằng súng đạn nạp hậu, bằng đạn trái phá chứ
không bằng gươm bằng giáo như trước nữa. Mà quân lính của mình mỗi đội có 50 người
thì chỉ có 5 người cầm súng điểu thương cũ, phải châm ngòi mới bắn được, mà lại
không luyện tập, cả năm chỉ có
một lần tập bắn. Mỗi người chỉ được bắn
có 6 phát đạn mà thôi, hễ ai bắn quá số ấy thì phải bồi thường.
Quân
lính như thế, binh khí như thế, mà quan thì lại cho lính về phòng, mỗi đội chỉ
để độ chừng 20 tên tại ngũ mà thôi. Vậy
nên đến khi có sự, không lấy gì mà chống giữ được.
CHƯƠNG
VI
Chế độ
và tình thế nước Việt Nam đến cuối đời Tự Đức
1. Cách tổ chức chính trị và xã hội.
2. Bốn hạng dân
3. Sự sinh hoạt của người trong nước.
1. Cách Tổ Chức Chính Trị và Xã Hội.
Nước Việt Nam tuy nói là một nước quân chủ chuyên chế157, nhưng theo cái tinh thần và cách tổ chức của xã hội thì có nhiều chỗ rất hợp với cái tinh thần dân chủ. Nguyên Nho Giáo là cái học căn bản của nước ta khi xưa, mà về đường thực tế, thì cái học ấy rất chú trọng ở sự trị nước. Trị nước thì phải lấy dân làm gốc, nghĩa là phải lo cho dân được sung túc, phải dạy dỗ dân cho biết đạo lý và mở mang trí tuệ của dân. Những việc quan trọng như thế không phải bất cứ ai cũng làm được, tất là phải có những người có đủ đức hạnh, tài năng và uy quyền mới có thể đảm đang được. Bởi vậy cho nên mới cần có vua có quan.
Nước Việt Nam tuy nói là một nước quân chủ chuyên chế157, nhưng theo cái tinh thần và cách tổ chức của xã hội thì có nhiều chỗ rất hợp với cái tinh thần dân chủ. Nguyên Nho Giáo là cái học căn bản của nước ta khi xưa, mà về đường thực tế, thì cái học ấy rất chú trọng ở sự trị nước. Trị nước thì phải lấy dân làm gốc, nghĩa là phải lo cho dân được sung túc, phải dạy dỗ dân cho biết đạo lý và mở mang trí tuệ của dân. Những việc quan trọng như thế không phải bất cứ ai cũng làm được, tất là phải có những người có đủ đức hạnh, tài năng và uy quyền mới có thể đảm đang được. Bởi vậy cho nên mới cần có vua có quan.
Vua:
Theo cái lý thuyết của Nho Giáo, thì khi đã có quần chúng, là phải có
quân. Quân là
một đơn vị
giữ cái chủ
quyền để chịu
hết thảy các
trách nhiệm về sự sinh hoạt và tính mệnh của toàn dân trong nước. Cái đơn vị ấy gọi là đế hay là vương, được
giữ cái chủ quyền cả nước. Cái chủ quyền ấy người ta còn gọi là cái thần khí,
nghĩa là một vật thiêng liêng do trời cho, tức là dân thuận mới được giữ. Nói
rằng những người làm những điều gian ác bạo ngược mà cướp lấy chủ quyền thì sao
? Đó là sự tiếm đoạt chứ không phải là chính nghĩa. Ngay những người đã làm đế làm
vương mà lạm dụng chủ quyền để làm những điều tàn bạo, thì cũng chỉ là người
tàn tặc mà thôi, chứ không phải là thật bậc đế bậc vương nữa.
157 Ta
thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế theo cái nghĩa của các nước Âu Tây ngày
nay, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học nho giáo có nhiều chỗ khác nhau.
Triều
đình: Sở dĩ đời xưa quần chúng công nhận một ông vua giữ cái chủ quyền cả nước,
là muốn cho có mối thống nhất để khỏi sự tranh dành và cuộc biến loạn. Song việc trị nước là việc chung cả nước, cho
nên có vua là phải có triều đình. Triều đình không phải là một nhóm cận thần để
hầu hạ và làm việc riêng cho nhà vua, chính là một hội nghị chung cả nước, do
sự kén chọn những người xứng đáng bằng cách thi cử mà đặt ra. Cách thi cử không
phân biệt sang hèn giàu nghèo gì cả, miễn là ai có học, có hạnh và có đũ tài
năng thì được ra ứng thí. Người nào đã đỗ rồi và đã ra làm quan là người ấy có
chân ở trong triều đình.
Lệ nhà
vua, mỗi tháng phải mấy lần thiết đại triều, các quan tại kinh đều phải đến đủ
mặt và theo phẩm trật mà đứng để tâu bày mọi việc. Bởi vì khi có việc gì quan
trọng, thì vua hạ đình nghị, nghĩa là giao cho đình thần bàn xét. Các quan bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến
của mình mà trình bày. Việc gì đã quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi
mới thi hành.
Vua tuy
có quyền lớn thật, nhưng không được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có
làm điều gì lầm lỗi, thì các quan Giám Sát Ngự Sử phải tâu bày mà can ngăn vua.
Trừ những ông vua bạo ngược không kể, thường là vua phải nghe lời can ngăn của
các quan.
Hễ triều
đình có những người ngay chính và sáng suốt, thì việc nước được yên trị; nếu có
những người gian nịnh mờ tối, thì việc nước hư hỏng. Đó là lệ chung từ xưa đến
nay như vậy.
Quan tư:
mệnh lệnh của triều đình đã phát ra, thì quan tư ở các quận huyện phải theo mà
thi hành. Các quan coi các quận huyện có nhiệm vụ dạy dỗ dân, đừng để dân làm
những điều trái luân thường đạo lý hay những việc phản loạn. Ngoài ra quan phải
để cho dân được yên nghiệp làm ăn, không nên bày việc ra để nhiễu dân. Bởi vậy đời xưa ông quan nào cai trị một hạt
mà dân hạt ấy được yên trị là ông quan giỏi.
Quyền Tự
Trị của dân làng: Quan của triều đình bổ ra chỉ có đến phủ huyện, còn từ tổng
trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân.
Dân tự chọn lấy người của mình mà cử ra coi mọi việc trong hạt. Tổng là
một khu gồm có mấy làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do hội đồng kỳ
dịch các làng cử ra coi việc thuế khóa, đê điều và mọi việc trị an trong tổng.
Làng hay
xã là phần tử cốt yết của dân. Phong tục, lệ luật của làng nào hay làng ấy,
triều đình không can thiệp đến, cho nên tục ngữ có câu: "Phép vua thua lệ
làng". Làng có hội đồng kỳ dịch do
dân cử ra để trông coi hết cả mọi việc.
Hội đồng ấy có người tiên chỉ và thứ chỉ đứng đầu, rồi có lý trưởng
và phó lý do hội đồng kỳ dịch cử ra để thay mặt làng mà giao thiệp với quan tư,
có tuần đinh chuyên coi việc cảnh sát trong làng. Khi một người nào can phạm
việc gì thì quan trách cứ ở làng, cho nên ai đi đâu hay làm việc gì cũng phải
lấy làng làm gốc.
Ngày xưa
các làng không có sổ khai sinh tử và giá thú, nhưng tục lệ của làng, cứ con
trai đến 12 tuổi thì phải vào làng, tức là vào sổ đinh của làng, con gái thì
không có lệ ấy. Lại vì sự thờ cúng tổ tiên và sự tin số, tướng, v.v... cho nên
nhà nào đẻ con ra, bất kỳ trai hay gái, cha mẹ phải nhớ cho đúng giờ, ngày
tháng và năm sinh của đứa con ấy. Bởi vậy người nào cũng biết rõ ngày tháng
sinh của con mình.
Việc giá
thú là việc quan hệ về gia tộc, phải làm đúng lệ thường, nhưng đối với làng,
thì tục lệ bắt người chồng khi cưới vợ, phải trình làng và nộp cho làng một số
mấy quan tiền, gọi là nộp tiền cheo. Như thế, thành ra theo tục lệ, tuy không
có sổ khai sinh tử giá thú, mà mọi điều cũng đủ như là có vậy.
2. Bốn Hạng Dân. Người trong nước chia ra
làm bốn hạng là:
sĩ, nông, công, thương.
sĩ, nông, công, thương.
Công:
Công là hạng người làm thợ hoặc làm một công nghệ gì để lấy lợi. Nhưng vì nước ta khi xưa chỉ có những tiểu
công nghê, như quây tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới, làm mắm muối v.v. chứ không có đại công nghệ
làm giàu
như các nước khác. Đại công nghệ đã không có thì những người làm thợ, ai chuyên
tập nghề gì thì lập thành phường, như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, thợ đúc, thợ
gốm v.v. mỗi phường có thợ cả, thợ phó
và thợ, và
phường
nào có tục lệ của phường ấy. Những người làm thợ thường là người ít học, quanh
năm ngày tháng đi làm thuê làm mướn chỉ được đủ ăn mà thôi.
Thương:
Thương là hạng người làm nghề buôn bán. Song việc buôn bán của ta ngày xưa kém
cỏi lắm. Người thiên hạ đi buôn nước này, bán nước nọ, xuất cảng, nhập cảng,
kinh doanh những công cuộc to lớn kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh
quẩn ở trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, thành ra bao nhiêu mối lợi
lớn về tay người ngoài
mất. Thỉnh thoảng
có một ít
người có mươi
lăm chiếc thuyền mành chở hàng từ
xứ nọ đến xứ kia, nhưng vốn độ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự
phú.
Công
nghệ như thế, buôn bán như thế, bảo nước mình phú cường làm sao được? Rút cục lại, chỉ có nghề nông và nghề sĩ là
trọng yếu hơn cả.
Nông:
Nông là hạng người chuyên nghề làm ruộng. Dân Việt Nam ta thường thì ai cũng có
ít ra là vài ba sào ruộng để cày cấy, nghĩa là nghề làm ruộng là nghề gốc của
người mình. Nhưng trừ những nơi ruộng nhiều người ít và đất lại phì nhiêu như
đất ở Nam Việt, còn thì đất xấu và lại vì khí hậu không điều hòa, nắng mưa thất
thường, việc cày cấy gặp nhiều nỗi khó khăn. Dân ở nhà quê, phần nhiều ăn nhờ
về ruộng nương, hễ năm nào mưa hòa gió thuận, mùa màng tốt thì năm ấy dân được
no ấm, nhưng năm nào mưa lụt hay hạn hán, mùa màng mất hết, thì dân đói khổ.
Sĩ: Sĩ
là hạng người chuyên nghề đi học, hoặc để thi đỗ ra làm quan, hoặc để đi dạy
học, làm thầy thuốc, thầy địa lý, thầy bói, thầy tướng, thầy số v.v. là những
nghề phong lưu nhàn hạ.
Sự học
của nước ta ngày trước có bộ Lễ coi việc giáo hóa của toàn nước. Ở tỉnh có quan Đốc Học, ở phủ có quan Giáo
Thụ, ở huyện và ở châu thì có quan Huấn Đạo, là những người có khoa mục, triều
đình bổ ra coi việc giáo dục ở các hạt, và mỗi người coi một trường công ở
trong hạt. Những sĩ tử học ở các trường tư thục đã khá khá đều được đến học tập
ở các trường công của quan Đốc, quan Giáo hay quan Huấn, đợi đến khi có khoa
thi Hương, thì ra ứng thí. Năm nào có khoa thi, thì các quan huấn đạo, giáo thụ
và đốc học mở cuộc khảo học trò để lựa chọ những người có đủ sức mới cho ra ứng
thí.
Lệ nhà
vua cứ ba năm mở khoa thi Hương ở các địa phương. Những người đỗ cao ở khoa thi
Hương gọi là cử nhân, những người đỗ thấp gọi là Tú Tài. Năm sau ở Kinh đô mở
khoa thi Hội tại bộ Lễ, những người đỗ Cử Nhân năm trước vào ứng thí, ai trúng
cách thì được vào thi Đình ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến Sĩ, là
những bậc đại khoa, người trong nước rất lấy làm quý trọng.
Mỗi khi
có khoa thi Hương, các quan ở kinh ra chấm thi có cái biển đề bốn chữ: Phụng
Chỉ Cầu Hiền, nghĩa là: vâng chỉ vua ra tìm người giỏi. Vậy sự thi cử ngày
trước có cái ý nghĩa khác sự thi cử ngày nay.
Đó là
nói cách tổ chức việc giáo hóa của triều đình. Còn ở chỗ dân gian, thì sự học
tập rất tự do. Bất kỳ người nào có học
lực kha khá cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường
tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học và cho
con các nhà lân cận đến học. Người Việt Nam ta vốn chuộng sự học, cho nên người
đi học cũng nhiều.
Nguyên
sự học ngày xưa có cái mục đích chân chính là học cho hiểu đạo lý, biết phải
trái, và luyện tâm tính cho thành người có tiết tháo và có phẩm cách cao quý,
để gặp thời thì ra giúp nước giúp dân, nếu không, thì làm người ngay chính
trong xã hội. Sau dần dần vì sự sanh hoạt ở đời, sự học thành ra cái học chuyên
về mặt cử nghiệp, nghĩa là học chỉ cốt lấy đỗ để ra làm quan. Người đi học đã đỗ đạt rồi, tự tin mình là
tài giỏi, chỉ vụ lấy cái hoa mỹ bề ngoài để lòe người, chứ không thiết gì đến
sự thực học. Tựu trung cũng có người
muốn thi đỗ để lấy chút danh phận rồi về ở nhà học thêm hay dạy học. Nhưng đại đa số chỉ mong đỗ để làm quan vì
làm quan là có địa vị tôn quý, ngoài ra không có gì hơn nữa.
Chương
trình sự học cử nghiệp có những gì ? Bao nhiêu công phu của người đi học chú
trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng những lời thể chú của
tiền nho trong những sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. Còn sự luyện tập
hàng ngày, thì cốt tập cho thạo thuộc các lề lối ở chỗ khoa trường là: kinh
nghĩa, tứ lục, thi phú, văn sách. Ấy là dùng hư văn mà xét tài thực dụng, đem
sự hoa mỹ làm mực thước đo tài kinh luân. Bởi vậy ai hay kinh nghĩa đã nghĩ
mình hơn người, ai tài thi phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước. Việc đời thì tối tăm mờ mịt mà lại tự phụ và
kiêu căng, cho thiên hạ như rơm rác, coi mình như thần thánh.
Sự học
của mình đã hư hỏng như thế, những hủ tục lại ăn sâu vào trí não, thành ra một
thứ cố tật không sao chữa được. May nhờ cái tinh thần học cũ, người đi học,
kiến thức tuy không có cái gì mấy, nhưng thường có khí tiết, biết liêm sĩ và
nhờ có cái thanh nghị của bọn sĩ phu ràng buộc, ngăn ngừa sự hành động bấ
chính. Song chỉ có thế mà thôi, vẫn
không đủ để sinh tồn trong cái thời đại quyền lợi cạnh tranh, quyền mưu quỷ
quyệt, trí thuật gian trá. Cho nên trong
khi người tiến thì ta thoái, người thịnh thì ta suy.
Đại
khái, cái trình độ của bọn sĩ phu ở nước ta lúc bấy giờ là thế, cho nên vận
nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê muội ở chỗ mơ màng mộng mị. Bọn sĩ phu là người có học, làm tai làm mắt
cho mọi người mà còn kém cõI như thế, thì bảo dân gian khôn ngoan làm sao được.
3. Sự Sinh Hoạt của người trong nước.
Tình thế trong nước như đã nói trên, công nghệ không có, buôn bán không ra gì, trừ việc cày cấy làm ruộng ra thì người nghèo đói không có nghề nghiệp gì mà làm ăn cả, cho nên thủa ấy tuy một tiền được bốn bát gạo, mà vẫn có người chết đói, vì rằng giá gạo thì rẻ, nhưng kiếm được đồng tiền thật là khó. Người đi làm thuê khôn khéo, thì mới được một ngày một tiền, không thì chỉ được 18 hay 30 đồng tiền mà thôi. Sự làm ăn ở chỗ thôn quê đã vất vã mà lại thường bị nhiều sự hà lạm, ai có đồng tiền ở trong nhà thì lo sợ đủ mọi đường: nào sợ kẻ gian phi trộm cắp, nào sợ giặc đêm giặc ngày cướp phá, cho nên phải chôn phải giấu cho kín.
Tình thế trong nước như đã nói trên, công nghệ không có, buôn bán không ra gì, trừ việc cày cấy làm ruộng ra thì người nghèo đói không có nghề nghiệp gì mà làm ăn cả, cho nên thủa ấy tuy một tiền được bốn bát gạo, mà vẫn có người chết đói, vì rằng giá gạo thì rẻ, nhưng kiếm được đồng tiền thật là khó. Người đi làm thuê khôn khéo, thì mới được một ngày một tiền, không thì chỉ được 18 hay 30 đồng tiền mà thôi. Sự làm ăn ở chỗ thôn quê đã vất vã mà lại thường bị nhiều sự hà lạm, ai có đồng tiền ở trong nhà thì lo sợ đủ mọi đường: nào sợ kẻ gian phi trộm cắp, nào sợ giặc đêm giặc ngày cướp phá, cho nên phải chôn phải giấu cho kín.
Nhà cửa
phần nhiều là nhà tranh nhà lá, ít khi có nhà ngói nhà gạch. Kiểu nhà làm cũng
phải theo kiểu thường mà làm, chứ không được làm nhà lầu và nhà kiểu chữ công
hay kiểu chữ môn. Ai làm nhà cữa mà không theo đúng phép, thì cho là lộng hành,
phải tội.
Cách ăn
mặc thì chỉ có đồ vải đồ nâu, người nghèo khổ chỉ có manh áo cánh và thường thì
đóng cái khố, có đi đâu mới mặc cái quần vải dài đến đầu gối. Người sung túc
mới có vài cái áo nâu đen và vài cái quần hoặc nhuộm nâu hoặc để trắng, chứ
không được mặc đồ gấm đồ vóc và đi giày. Nhà vua cấm như thế, là cũng có ý muốn
cho dân không quen thói xa hoa hoang phí, chỉ trừ những người làm quan làm tư
mới có cái đặc ân được ăn mặc hơn người. Cũng vì thế cho nên người trong nước
ai cũng mong được đi làm quan cho hiển đạt cái thân hình và cho rỡ ràng mẹ cha,
chứ không lo nghĩ làm việc gì khác nữa. Hễ ai đi học mà vì lẽ gì thi không đỗ,
làm quan không được, thì bức chí quay ra làm giặc để tìm cách hiển vinh, thành
ra trong nước hay có giặc giã.
Nước
nghèo, dân khổ, lại phải lúc có nhiều tai biến, người ngoài vào xâm lược, triều
đình ngơ ngác không biết xoay xở ra thế nào, lòng người ly tán, phân ra bè nọ
đảng kia, giết hại lẫn nhau. Ấy là cái tình thế nước Việt Nam ta và cuối đời Tự
Đức là thế, cho nên sự nguy vong mới xảy ra vậy.
CHƯƠNG
VII
Nước
Pháp lấy đất Nam Kỳ
1. Nước Pháp đánh Đà Nẵng.
2. Quân Pháp hạ thành Gia Định.
3. Mất tỉnh Định Tường.
4. Mất tỉnh Biên Hòa và tỉnh Vĩnh Long
5. Hòa ước năm nhâm tuất (1862)
6. Sứ Việt Nam ta sang Tây
7. Việc bảo hộ Cao Miên
8. Nước Pháp lấy ba tỉnh phía tây đất Nam Kỳ
1. Quân Pháp Đánh Đà Nẵng.
Trong thời đại khó khăn như đời vua Dực Tông, mà vua quan cứ khư khư giữ lấy thói cũ, không biết theo thời mà mở nước cho người ta vào buôn bán, không biết nhân dịp mà khai hóa dân trí, lại vì sự sùng tín mà đem giết hại người trong nước, và đem làm tội những người đi giảng đạo. Bởi những sự lầm lỗi ấy, cho nên nước Pháp mới dùng binh lực để báo thù cho những người giáo sĩ bị hại.
Trong thời đại khó khăn như đời vua Dực Tông, mà vua quan cứ khư khư giữ lấy thói cũ, không biết theo thời mà mở nước cho người ta vào buôn bán, không biết nhân dịp mà khai hóa dân trí, lại vì sự sùng tín mà đem giết hại người trong nước, và đem làm tội những người đi giảng đạo. Bởi những sự lầm lỗi ấy, cho nên nước Pháp mới dùng binh lực để báo thù cho những người giáo sĩ bị hại.
Nguyên
từ năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 về sau, nghĩa là từ khi có tờ dụ cấm
đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có mấy người giáo sĩ là ông Bonard, ông Charbonnier,
ông Matheron và ông giám mục I Pha Nho tên là Diaz bị giết. Còn những giáo sĩ khác thì phải đào hầm đào
hố mà ở, hoặc phải trốn tránh ở trong rừng trong núi để giảng đạo. Những tin ấy
về đến bên Tây, các báo chí ngày ngày kể những thảm trạng của các người giáo sĩ
đi truyền đạo ở nước ta, lòng người náo động cả lên.
Chính
phủ nước Pháp bèn sai ông Leheur de Ville-sur-Arc, đem chiếc chiến thuyền
"Catinat" vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách Triều Đình
Việt Nam về việc giết đạo. Sau thấy quan ta lôi thôi không trả lời, quân nước
Pháp bèn bắn phá các đồn lũy ở Đà Nẵng, rồi bỏ đi. Bấy giờ là tháng 8 năm bính
thìn (1856) là năm Tự Đức thứ 9.
Được 4
tháng sau thì sứ thần nước Pháp là ông Montigny ở nước Tiêm La sang, để điều
đình mọi việc. Chiếc tàu của ông Montigny đi vào đóng ở cửa Đà nẵng, rồi cho
người đưa thư lên nói xin cho người nước Pháp được tự
do vào thông thương, đặt lĩnh sự ở Huế, mở cửa hàng buôn bán ở Đà Nẵng, và cho
giáo sĩ được tự do đi giảng đạo. Trong bấy nhiêu điều, triều đình nước ta không
chịu điều nào cả.
Bấy giờ
bên nước Pháp đã lập lại đế hiệu, cháu ông Nã Phá Luân đệ nhất là Nã Phá Luân
đệ tam lên làm vua. Triều chính lúc bấy giờ thì thuận đạo, lại có bà hoàng hậu
Eugénie cũng sùng tín. Vả chăng khi chiếc tàu "Catinat" vào cửa Đà
nẵng, có ông giám mục Pellerin trốn được xuống tàu rồi về bệ kiến Pháp Hoàng,
kể rõ tình cảnh các người giảng đạo ở Việt Nam.
Ông P.
Cultru chép ở
trong sách Nam
Kỳ Sử Ký
(Histore de la Cochinchine) rằng: lúc bấy giờ có nhiều
người quyền thế như ông chủ giáo thành Rouen là Mgr de Bonnechose và có lẽ cả
bà hoàng hậu cũng có nói giúp cho ông giám mục Pellerin. Bởi vậy Pháp hoàng mới
quyết ý sai quan đem binh thuyền sang đánh nước ta. Lại nhân vì những giáo sĩ
nước I Pha Nho cũng bị giết, cho nên chính phủ hai nước mới cùng nhau trù tính
việc sang đánh nước Việt Nam. Ấy cũng tại vì vua quan mình làm điều trái đạo,
giết hại những người theo đạo Gia Tô cho nên mới có tai biến như vậy.
Tháng 7
năm mậu ngọ (1858) là năm Tự Đức thứ 11, hải quân Trung Tướng nước Pháp là
Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu I Pha Nho cả thảy 14 chiếc, chở hơn 3.000
quân của hai nước vào cửa Đà nẵng, bắn phá các đồn lũy, rồi lên hạ thành An Hải
và thành Tôn Hải.
Triều
đình được tin ấy liền sai ông Đào Trí ra cùng với quan tổng đốc Nam Nghĩa là
Trần Hoằng tiễu ngự. Ông Đào Trí ra đến nơi thì hai cái hải thành đã mất rồi.
Triều đình lại sai quan hữu quân Lê Đình Lý làm tổng thống đem 2.000 cấm binh
vào án ngự.
Ông Lê
Đình Lý vào đánh với quân Pháp một trận ở xã Cẩm Lệ bị đạn, về được mấy hôm thì
mất.
Vua Dực
Tông lại sai quan Kinh Lược Sứ là ông Nguyễn Tri Phương vào làm tổng thống, ông
Chu Phúc Minh làm đề đốc cùng với ông Đào Trí chống giữ với quân Pháp và quân I
Pha Nho.
Ông
Nguyễn Tri Phương lập đồn Liên Trì và đắp lũy dài từ Hải Châu cho đến Phúc
Ninh, rồi chia quân ra phòng giữ. Cứ như
sách Nam Kỳ Sử của ông Cultru thì ý quan trung tướng Rigault de Genouilly định
lấy Đà Nẵng xong rồi, lên đánh Huê, nhưng mà đến lúc bấy giờ thấy quan quân
phòng giữ cũng rát, và lại có người đem tin cho trung tướng biết rằng có hơn
10.000
quân ở Huế sắp kéo xuống. Trung tướng không biết rõ tình thế ra làm sao,
mà đường xá lại không thuộc, cho nên cũng không dám tiến quân lên.
Nhân vì
khi trước các giáo sĩ đều nói rằng hễ quân Pháp sang đánh, thì dân bên đạo tức
khắc nổi lên đánh giúp, đến nay không thấy tin tức gì, mà quân lính của trung
tướng thì tiến lên không được. Ở Đà Nẵng thì chỗ ăn chỗ ở không có, lại phải
bệnh dịch tả chết hại mất nhiều người, bởi vậy trung tướng lấy làm phiền lắm.
Bấy giờ có ông giám mục Pellerin cũng đi theo sang ở dưới tàu Ménésis, trung
tướng cứ trách ông giám mục đánh lừa mình, giám mục cũng tức giận bỏ về ở nhà
tu dạy đạo tại thành Pénang ở bên Mã Lai.
Được mấy
tháng, trung tướng liệu thế đánh Huế chưa được, bèn định kế vào đánh Gia Định
là một nơi dễ lấy, và lại là một nơi trù phú của nước Nam ta.
2. Quân Pháp vào đánh Gia Định.
Trước đó đã có người bàn với trung tướng Rigault de Genouilly ra đánh Bắc Kỳ, nói rằng ở Bắc Kỳ có hơn 40 vạn người đi đạo, và lại có đảng theo nhà Lê, có thể giúp cho quân Pháp được thành công. Trung tướng cho đi do thám biết rằng đất Nam Kỳ dễ lấy hơn, và lại là đất giàu có, nhiều thóc gạo. Đến tháng giêng năm kỷ mùi (1859) là năm Tự Đức tháng 12, Trung tướng giao quyền lại cho đại tá Toyon ở lại giữ các đồn tại Đà Nẵng, rồi còn bao nhiêu binh thuyền đem vào Nam Kỳ. Quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá các pháo đài ở hai bên bờ sông Đồng Nai, rồi tiến lên đánh thành Gia Định.
Trước đó đã có người bàn với trung tướng Rigault de Genouilly ra đánh Bắc Kỳ, nói rằng ở Bắc Kỳ có hơn 40 vạn người đi đạo, và lại có đảng theo nhà Lê, có thể giúp cho quân Pháp được thành công. Trung tướng cho đi do thám biết rằng đất Nam Kỳ dễ lấy hơn, và lại là đất giàu có, nhiều thóc gạo. Đến tháng giêng năm kỷ mùi (1859) là năm Tự Đức tháng 12, Trung tướng giao quyền lại cho đại tá Toyon ở lại giữ các đồn tại Đà Nẵng, rồi còn bao nhiêu binh thuyền đem vào Nam Kỳ. Quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá các pháo đài ở hai bên bờ sông Đồng Nai, rồi tiến lên đánh thành Gia Định.
Ở Gia
Định, bấy giờ tuy có nhiều binh khí, nhưng quân lính không luyện tập, việc võ
bị bỏ trễ nải, cho nên khi quân Pháp ở cửa Cần Giờ tiến lên, quan hộ đốc là Vũ
Duy Ninh vội vàng tư đi các tỉnh lấy binh về cứu viện; nhưng chỉ trong hai ngày
thì thành vỡ. Vũ Duy Ninh tự tận. Quân nước Pháp và nước I Pha Nho vào thành,
lấy được 200 khẩu súng đại bác, 8 vạn rưỡi kilos thuốc súng và độ chừng 18 vạn
phật lăng (francs) cả tiền lẫn bạc, còn các binh khí và thóc gạo thì không biết
bao nhiêu mà kể.
Trung
tướng Rigault de Genouilly lấy được thành Gia Định rồi, đốt cả thóc gạo và san
phẳng thành trì làm bình địa, chỉ để một cái đồn ở phía nam, sai thủy quân
trung tá Jauréguiberry đem một đạo quân ở lại chống giữ với quân của ông Tôn
Thất Hợp đóng ở đất Biên Hòa.
Trung
tướng lại đem quân trở ra Đà Nẵng, rồi tiến lên đánh một trận ở đồn Phúc Ninh.
Quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải lui về giữ đồn Nại Hiên và đồn Liên Trì.
Trung
tướng muốn nhân dịp đó mà định việc giảng hòa, nhưng mà Triều đình cứ để lôi
thôi mãi, người thì bàn hòa, kẻ thì bàn đánh, thành ra không xong việc gì
cả158. Mà quân Pháp lúc bấy giờ ở Đà Nẵng khổ sở lắm, nhiều người có bệnh tật;
trung tướng Rigault de Genouilly cũng đau, phải xin về nghỉ.
Chính
phủ Pháp sai hải quân thiếu tướng Page (Ba-du) sang thay cho trung tướng
Rigault de Genouilly và nhân thể để chủ việc giảng hòa cho xong. Đến tháng 10 năm kỷ mùi (1859) thì thiếu tướng
sang đến nơi, và cho người đưa thư bàn việc hòa, chỉ cốt xin đừng cấm đạo, để
cho các giáo sĩ được tự do đi giảng đạo, đặt lĩnh sự coi việc buôn bán ở các
cửa bể và đặt sứ thần ở Huế. Đại để thì cũng như những điều của ông Montigny đã
bàn năm trước. Nhưng chẳng may lúc bấy giờ ở trong Triều không ai hiểu chính
sách ngoại giao mà chủ trương việc ấy, hóa ra làm mất cái dịp hay cả cho hai
nước.
Thiếu
tướng thấy cuộc hòa không xong bèn tiến binh lên đánh, trận
ấy bên
quân Pháp chết mất một viên lục quân trung tá là Dupré Déroulède.
Khi quân
Pháp và quân I Pha Nho sang đánh nước ta ở Đà Nẵng và Gia Định, thì quân nước
Anh và quân nước Pháp đang đánh nước Tàu ở mạn Hoàng Hải. Đến bấy giờ quân Pháp
cần phải tiếp sang bên Tàu, chính phủ nước Pháp mới truyền cho thiếu tướng Page
phải rút quân ở Đà Nẵng về, và chỉ để quân giữ lấy Gia Định, còn bao nhiêu binh
thuyền phải đem sang theo hải quân trung tướng Charner đi đánh Tàu. Bởi vậy đến
tháng ba năm canh thân (1860) quân Pháp đốt cả dinh trại ở Trà Sơn rồi xuống
tàu. Về đến Gia Định, thiếu tướng Page để hải quân đại tá d'Ariès ở lại giữ Gia
Định, còn bao nhiêu binh thuyền đem lên phía bắc hội với binh thuyền của nước
Anh để đánh nước Tàu.
Triều
đình ở Huế thấy quân Pháp bỏ Đà nẵng đi, bèn sai Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế
Hiển vào Nam Kỳ, để cùng với ông Tôn Thất Hợp sung Gia Định quân thứ.
Đến
tháng 7 năm canh thân (1860) ông Nguyễn Tri Phương khởi hành. Lúc gần đi, ông
ấy có tâu bày mấy lẽ về việc giữ nước và nói rằng việc đánh nhau với nước Pháp
bây giờ khó gắp năm gấp bảy lúc trước, nhưng
ông ấy xin cố hết sức để đền ơn nước, còn ở mặt Quảng Nam mà có việc gì, thì
ông Phan Thanh Giản và ông Nguyễn Bá Nghi có thể cáng đáng được.
Quân
Pháp và quân I Pha Nho ở Sài gòn lúc bấy giờ chỉ có độ 1.000 người mà quân của
Việt Nam ta thì có đến hơn một vạn người. Nhưng mà quân ta đã không luyện tập,
lại không có súng ống như quân Tây. Mình
chỉ có mấy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay là 300 thước tây là
cùng; còn súng đại bác thì toàn là súng nạp tiền mà bắn mười phát không đậu
một. Lấy những quân lính ấy, những khí giới ấy mà đối địch với quân đã lập theo
lối mới, thì đánh làm sao được. Bởi vậy cho nên xem trận đồ của Việt Nam ta từ
đầu cho đến cuối, chỉ có cách đào hầm đào hố để làm thế thủ, chứ không bao giờ
có thế công, mà người Tây thì lợi cả công lẫn thủ. Tuy vậy ông Nguyễn Tri
Phương cùng với quan tham tán đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt ở Gia Định một
cách rất có quy cũ, đắp dãy đồn Kỳ Hòa (người Pháp gọi là dãy đồn Chí Hóa) cũng
hợp quy thức, để chống nhau với quân của đại tá d'Ariès. Hai bên đã từng đánh
nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả.
Đến
tháng 9 năm canh thân (1860), thì nhà Thanh bên Tàu ký tờ hòa ước với nước Anh
và nước Pháp, hai bên bãi sự chiến tranh. Chính phủ nước Pháp sai hải quân
trung tướng Charner đem binh thuyền về chủ trương việc lấy Nam Kỳ.
Tháng
giêng năm tân dậu (1861) trung tướng Charner đem cả thảy 70 chiếc tàu và 3.500
quân bộ về đến Gia Định159. Được 20 ngày thì trung tướng truyền lệnh tiến quân
lên đánh lấy đồn Kỳ Hòa. Hai bên đánh
nhau rất dữ trong hai ngày. Quân Pháp chết hơn 300 người, nhưng mà súng Tây bắn
hăng quá, quân ta địch không nổi, phải thu bỏ đồn chạy về Biên Hòa.
Trận ấy
bên Tây thì có lục quân thiếu tướng Vassoigne, đại tá I Pha Nho Palanca
và mấy người nữa bị
thương, mà bên ta thì ông Nguyễn Tri Phương bị thương, em ngài là Nguyễn Duy tử
trận, quan tham tán là Phạm Thế Hiển về đến Biên Hòa được mấy hôm thì mất, còn
quân sĩ thì chết hại rất nhiều.
3. Mất Tỉnh Định Tường.
Phá được đồn Kỳ Hòa rồi, trung tướng Charner truyền cho quân thủy bộ tiến lên đuổi đánh, quan quân vỡ tan cả.
Phá được đồn Kỳ Hòa rồi, trung tướng Charner truyền cho quân thủy bộ tiến lên đuổi đánh, quan quân vỡ tan cả.
158 Chỗ
này sách tây có quyển chép rằng khi hai bên đang bàn việc hòa, thì vua Tự Đức
sai ông Nguyễn Tri Phương đánh quân Pháp ở Gia Định. Vả xem sử ta lúc bấy giờ
thì ông Nguyễn Tri Phương đang còn ở Quảng Nam mãI đến tháng 5 năm canh thân
(1860), ông ấy mới vào Nam Kỳ. Vậy việc
đánh ở Gia Định là ông Tôn Thất Hợp, chứ không phải là ông Nguyễn Tri Phương.
159 Sử
ta chép rằng quân Pháp lúc bấy giờ có hơn 1 vạn người, mà các sách chép việc
lấy Nam Kỳ thì chỉ nói có 3.500 người thôi và trong số ấy lại có mấy đội lính
mộ An Nam nữa. Thiết tưởng số 3.500 có
lẽ thật hơn.
Tàu thủy
của Pháp lên lấy Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Trung tướng lại sai người đưa thư
sang cho vua Cao Miên là Norodom (Nặc Ông Lân), đại lược nói rằng: chủ ý của
Pháp định lấy đất Gia Định làm thuộc địa, và nay mai sẽ đánh lấy Mỹ Tho (Định
Tường) để cho tiện đường lưu thông với nước Cao Miên.
Bấy giờ
bại quân của Nguyễn Tri Phương rút về đóng ở Biên Hòa, còn đang rối loạn, chưa
dám làm gì, quân Pháp bèn quay về phía tây đánh tỉnh Định Tường. Trước trung tướng đã cho tàu đi dò các ngọn
sông xem đi đường nào tiện, đến cuối tháng 2 năm tân dậu (1861), một mặt trung
tướng sai trung tá Bourdais đem tàu đi đường sông, tiến lên đánh các đồn, một
mặt thì sai thiếu tướng Page đi đường bể, theo cửa sông Mê-kong vào, hai mặt
cùng tiến lên đánh lấy thành Mỹ tho. Quan hộ đốc là Nguyễn Công Nhàn phải bỏ
thành chạy.
Từ khi
hạ xong thành Mỹ Tho rồi, trung tướng đặt đồn lũy ở các nơi hiểm yếu, và có ý
hoãn việc binh để sửa sang việc cai trị trong địa hạt đã lấy được, cho nên cũng
không đánh các tỉnh khác.
Triều
đình ở Huế được tin quan quân thất thủ đại đồn Kỳ Hòa, và thành Mỹ Tho cũng
thất thủ rồi, sai quan thượng thư Hộ bộ là Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần
vào kinh lý việc Nam kỳ. Nguyễn Bá Nghi
biết thế chống không nổi với quân Pháp, dâng sớ về xin giảng hòa. Nhưng ở trong
triều lúc bấy giờ có bọn Trương Đăng Quế không chịu, bắt phải tìm kế chống giữ.
Có nhà
chép sử trách Nguyễn Bá Nghi rằng tuy ông ấy muốn giảng hòa, nhưng không chịu
nhường đất, cứ lấy lý mà cãi, chứ không biết rằng thời buổi cạnh tranh này, hễ
cái sức đã không đủ, thì không có cái lý gì là phải cả. Vả chăng quân nước Pháp đã sang đánh lấy mấy
tỉnh ở Nam Kỳ, là cốt để làm thuộc địa, lẽ nào tự nhiên lại đem trả lại. Bởi
vậy sự giảng hòa cứ lôi thôi mãi không xong.
Mà ở trong địa hạt tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường lúc ấy lại có mấy
người như tri huyện Toại, phó quản cơ Trương Định, Thiên hộ Dương rủ những
người nghĩa dũng nổi lên đánh phá quân Pháp. Quân Pháp cứ đánh dẹp mãi dân tình
cũng bị lắm điều cực khổ.
Đến
tháng 10 năm tân dậu (1861), chính phủ Pháp sai hải quân thiếu tướng Bonard
sang thay cho trung tướng Charner về nghỉ.
4. Mất
Tỉnh Biên Hòa
và Tỉnh Vĩnh
Long. Thiếu tướng Bonard thấy quan quân ta cứ chống giữ
mãi, bèn quyết ý đánh lấy tỉnh Biên Hòa và tỉnh Vĩnh Long. Đến tháng 11 năm ấy, thì quân Pháp chia ra
làm 3 đạo,
cùng tiến lên đánh lấy thành Biên Hòa, rồi lại tiến lên mặt đông nam đánh lấy
đồn Bà Rịa. Qua tháng 3 năm sau là năm
nhâm tuất (1862), thiếu tướng Bonard lại đem 11 chiếc tàu và hơn 1.000 quân đi
đánh Vĩnh Long. Tỉnh thần ở đấy chống giữ được 2 ngày thì thành phá. Tổng đốc Trương Văn Uyển phải đem quân lui
về phía tây sông Mê-kong.
5. Hòa Ước Năm Nhâm Tuất (1862). Lúc bấy giờ
ở ngoài Bắc Kỳ có tên Phụng, tên Trường, đánh
phá ở mặt Quảng Yên và Hải Dương ngặt lắm, lại có Nguyễn Văn
Thịnh, tục gọi là Cai Tổng Vàng, quấy nhiễu ở Bắc Ninh, mà trong Nam Kỳ thì lại
mất thêm hai tỉnh nữa. Triều đình lấy
làm lo sợ lắm, bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng hòa.
Đến
tháng 4 thì sứ thần nước ta theo chiếc tàu Forbin160 vào Sài gòn. Đến hôm 9
tháng 5 thì thiếu tướng Bonard và sứ thần nước Nam ta là ông Phan Thanh Giản và
ông Lâm Duy Tiếp ký tờ hòa ước.
Tờ hòa
ước ấy có 12 khoản, nhưng cốt có những khoản sau này là quan trọng hơn cả:
1. Nước Nam phải để cho giáo sĩ nước Pháp và
nước I Pha Nho
được tự
do vào giảng đạo, và để dân gian được tự do theo Đạo.
2. Nước Nam phải nhường đứt cho nước Pháp
tỉnh Biên Hòa, tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường, và phải để cho chiến thuyền
của Pháp được ra vào tự do ở sông Mékong.
3. Nước Nam không được đem binh khí, thuốc
đạn đi qua những tỉnh đã nhường cho nước Pháp.
4. Hễ nước Nam có giao thiệp với nước nào
khác thì phải cho chính phủ Pháp biết, và khi nào muốn nhường đất cho nước nào,
thì phải tùy ý nước Pháp có thuận cho mới được.
5. Người nước Pháp và nước I Pha Nho được ra
vào buôn bán tự do ở cửa Đà Nẵng, cửa Ba Lạt và cửa bể ở Quảng Yên.
6.Nước Nam phải trả tiền binh phí 4.000.000
nguyên, chia làm mười năm, mỗi năm 40 vạn nguyên.
7. Nước
Pháp trả tỉnh
Vĩnh Long lại
cho nước Nam, nhưng
quân Pháp cứ đóng ở tỉnh lỵ cho đến khi dẹp yên giặc giã ở tỉnh Gia Định
và tỉnh Định Tường thì mới rút về.
160
Nguyên trước thiếu tướng Bonard có sai trung tá Simon đem chiếc tàu Forbin vào
cửa Thuận An để đợi xem triều đình ở Huế có xin hòa không. Nay chiếc tàu ấy đem
thuyền của sứ thần Việt Nam ta về Gia Định.
Sự giảng
hòa xong rồi thì triều đình sai ông Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long, ông
Lâm Duy Tiếp làm tuần phủ Khánh Thuận, để giao thiệp với quan nước Pháp ở Gia
Định.
Bấy giờ
nước I Pha Nho cũng nhường quyền lấy đất làm thuộc địa cho nước Pháp, chỉ nhận
tiền binh phí và quyền được cho giáo sĩ đi giảng đạo thôi.
Tháng 2
năm quý hợi (1863) là năm Tự Đức thứ 16, thiếu tướng Bonard và đại tá nước I
Pha Nho là Palanca vào Huế triều yết vua Dực Tông để công nhận sự giảng hòa của
ba nước. Đoạn rồi thiếu tướng Bonard về Pháp nghĩ. Hải quân thiếu tướng De la
Grandière sang thay.
6. Sứ Việt Nam Sang Tây. Vua Dực Tông tuy
thế bất đắc dĩ phải nhường đất ba tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp, nhưng trong bụng
vẫn muốn cố hết sức để chuộc lại, vì là đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà
Nguyễn và lại là đất quê ngoại của ngài, nên chi hòa ước đã ký rồi, mà ngài vẫ
sai quan thương nghị với quan nước Pháp về việc ấy. Mà chủ ý người nước Pháp lúc bấy giờ thì không
những là chỉ giữ lấy ba tỉnh mà thôi, lại còn định mở rộng thêm ra nữa. Vậy lẽ
nào lại đem trả lại cho mình?
Vua Dực
Tông thấy việc bên này bàn không xong, bèn sai quan hiệp biện đại học sĩ Phan
Thanh Giản, quan tả tham tri lại bộ Phạm Phú Thứ và quan án sát sứ tỉnh Quảng
Nam là Ngụy Khắc Đản đem phẩm vật sang sứ nước Pháp và I Pha Nho. Còn việc giao thiệp ở trong Nam Kỳ thì giao
lại cho quan tổng đốc tỉnh Vĩnh Long là Trương Văn Uyển.
Tháng 6,
các sứ thần xuống tàu "Echo" vào Gia Định, rồi sang tàu
"Européen" cùng với quan nước Pháp và quan nước I Pha Nho sang Tây.
Đến tháng 8 thì tàu "Européen" về tới nước Pháp, sứ thần nước ta lên
Paris, xin vào triều yết Pháp Hoàng Nã Phá Luân đệ tam. Nhưng bấy giờ Pháp
Hoàng sắp đi ngự mát, sứ thần ta phải ở lại chờ đến hơn một tháng mới được yết
kiến. Ông Phan Thanh Giản tây bày mọi lẽ về việc xin chuộc ba tỉnh Nam Kỳ. Pháp Hoàng ban rằng việc đó để đình nghị xem
thế nào rồi sau sẽ trả lời cho Triều Đình Huế.
Mấy hôm
sau, bọn ông Phan Thanh Giản đi sang I Pha Nho, rồi đến cuối năm thì các sứ
thần xuống tàu "Japon" trở về.
7. Việc Bảo Hộ Cao Miên. Trong khi sứ nước
ta sang Tây lo việc chuộc lại mấy tỉnh ở Nam Kỳ, thì ở bên này thiếu tướng De
La Grandière một mặt cứ
đánh dẹp mọi nơi, xếp đặt cách cai trị, định thuế lệ và mở trường dạy chữ Pháp
và chữ quốc ngữ161, một mặt sai quan đi kinh doanh việc bảo hộ nước Cao Miên
(Chân Lạp).
Nguyền
từ năm kỷ mùi (1859), vua nước Cao Miên là An Dương (tức là Nặc Ông Tôn) mất
rồi, người con trưởng tên là Norodom (Ông Lân) lên nối ngôi. Đến năm tân dậu
(1861), thì người em Norodom là Si-Vattha nổi lên tranh ngôi của anh. Norodom
phải chạy sang Tiêm La. Sang năm nhâm tuất (1862) vua Tiêm La sai quân đem
Norodom về nước, rồi đặt quan ở Ô- đông để bảo hộ Cao Miên.
Lúc bấy
giờ ở Cao Miên có ông giám mục tên là Miche khuyên vua Norodom về với nước Pháp
thì Tiêm La không dám bắt nạt. Bên này thiếu tướng De La Grandière cũng sai đại
úy Doudart de Lagrée sang kinh doanh việc bảo hộ Cao Miên. Ông Doudart de
Lagrée sang Cao Miên trong một năm trời thu xếp mọi việc, đến năm giáp tí
(1864) thì nước Tiêm La phải rút quân về, nhường quyền bảo hộ cho nước Pháp.
8. Nước Pháp Lấy Ba Tỉnh Phía Tây Đất Nam
Kỳ. Ở bên Pháp lúc bấy giờ chính phủ
cũng còn phân vân, chưa quyết hẳn lấy hay là trả đất Nam Kỳ, mà Pháp Hoàng thì
thấy đường xá xa xôi cũng ngại, bèn sai hải quân trung tá Aubaret (Ha-ba-lý)
sang điều đình với Triều đình ở Huế về việc cho chuộc ba tỉnh Nam Kỳ.
Vua Dực
Tông lại sai quan Lại Bộ thượng thư là ông Phan Thanh Giản ra sung chức toàn
quyền cùng với Trần Tiễn Thành và Phan Huy Vịnh để thương nghị với sứ thần nước
Pháp.
Ông
Aubaret đưa bản thảo tờ hòa ước, đại lược nói rằng: Nước Pháp trả lại
ba tỉnh Gia
Định, Biên Hòa
và Định Tường
cho nước Nam,
chỉ giữ Sàigòn, Mỹ Tho và Thủ Dầu
Một để đóng quân. Nhưng nước Nam phải
để nước Pháp được quyền bảo hộ cả 6 tỉnh Nam Kỳ. Nước Nam lại phải chịu mỗi năm là 2.000.000
nguyên tiền thuế.
161
Nguyên người nuớc ta tự xưa tuy có tiếng nói riêng mà không có chữ viết. Học
hành, văn chương, án từ, việc gì cũng làm bằng Hán tự cả. Từ đời nhà Trần về
sau đã có người dùng Hán Tự mà đặt ra chữ Nôm để viết tiếng Quốc Ngữ. Nhưng mà
những nhà văn học không hay dùng đến chữ nôm. Đến cuối đời nhà Lê có các giáo
sĩ Bồ Đào Nha sang giảng đạo ở nước ta, thấy hán tự khó học và không mấy người
hiểu, mới mượn chữ La Tinh mà đặt ra chữ quốc ngữ, để cho tiện sự giảng dạy.
Ngày nay ta cũng nhờ có chữ quốc ngữ ấy mà làm thành ra nước ta có một lối chữ
riêng rất tiện.
Sứ hai
nước cứ bàn đi bàn lại mãi không xon, mà ở bên Pháp thì có nhiều người không
muốn trả lại đất Nam Kỳ. Cuối năm giáp
tí (1864) quan thượng thư Hải quân bộ là hầu tước De Chasseloup Laubat dâng sớ
tâu với Pháp Hoàng nhất định xin không cho nước Nam chuộc ba tỉnh. Pháp Hoàng nghe lời ấy bèn xuống chỉ truyền
cứ chiếu tờ hòa ước năm nhâm tuất (1862) mà thi hành.
Năm ất
sửu (1865), quan thượng thư De Chasseloup Laubat muốn biết rõ tình thế bên Việt
Nam này, bèn gọi thiếu tướng De La Grandière về hội nghị và sai hải quân thiếu
tướng Roze sang thay. Thiếu tướng De la
Grandière về Pháp cả đi lẫn về mất 7 tháng, lại trở sang kinh lý việc Nam Kỳ.
Lúc bấy
giờ ở ba tỉnh của Pháp đã thành nếp rồi, thiếu tướng De la Grandière ở Pháp
sang đã quyết ý lấy nốt ba tỉnh phía tây.
Lại nhân từ khi trước nước Pháp sang lấy Nam Kỳ, người bản xứ thỉnh
thoảng vẫn nổi lên đánh phá, quân Pháp dẹp mãi không yên. Ở Cao Miên lại có tên
sư Pu kầm Bô xưng là cháu Nặc Ông Chân cũng nổi lên đánh vua Norodom. Súy phủ ở
Sài gòn đổ cho quan Việt Nam xui giục và giúp đỡ những người làm loạn, bèn sửa soạn
việc lấy tỉnh Vĩnh Long, tỉnh An Giang và tỉnh Hà Tiên.
Ở Huế
tuy triều đình còn cứ mong chuộc lại đất ba tỉnh, nhưng vẫn biết ý súy phủ ở
Sài gòn rồi tất lấy cả ba tỉnh phía tây, cho nên năm bính dần (1866), lại sai
ông Phan Thanh Giản vào làm kinh lược sứ để tìm kế chống giữ.
Ở bên
Pháp, thì từ năm đinh mão (1867), hải quân trung tướng Rigault de Genouilly lên
làm thượng thư hải quân bộ162 ra sức giúp thiếu tướng De la Grandière cho xong
việc. Bởi vậy súy phủ ở Sài gòn chỉ đợi
dịp để khởi sự.
Tháng 6
năm đinh mão (1867) là năm Tự Đức thứ 20, thiếu tướng De la Grandière hội hơn
1.000 quân ở Mỹ Tho, rồi định ngày kéo sang lấy Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Ông Phan Thanh Giản biết thế không chống nổi, bảo các quan đành chịu nộp thành
trì cho khỏi sự tai hại, rồi ông uống thuốc độc mà tự tận, dặn lại con cái phải
cày ruộng mà ăn, chứ không được nhận quan chức gì ở Nam Kỳ.
Bấy giờ
ông đã già, đã ngoài 74 tuổi, làm quan thật là thanh liêm, nhưng chẳng may gặp
phải khi nước có biến, biết thế mình không làm gì được,
đem tấm lòng son sắt mà báo đền ơn nước cho hết bổn phận người làm tôi.
Từ đó
đất Nam kỳ toàn cảnh thành ra đất thuộc địa của Pháp, thuế má, luật lệ, điều gì
cũng do súy phủ ở Sài gòn quyết định cả.
162 Lúc
bấy giờ Hải quân bộ kiêm cả Thuộc địa bộ
CHƯƠNG
VIII
Giặc giã
ở trong nước
1. Việc rối-loạn trong nước
2. Giặc Tam-đường
3. Giặc châu-chấu
4. Giặc tên Phụng
5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành
6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ
1. Việc rối-loạn trong nước.
Vua Dực-tông vốn là ông vua có lòng chăm-chỉ về việc trị dân, ngay từ năm canh-tuất (1850), là năm Tự-đức thứ 3, ngài đã sai ông Nguyễn Tri Phương làm Kinh-lược đại-sứ 6 tỉnh Nam- kỳ; ông Phan Thanh Giản làm Kinh-lược đại-sứ Bình-định, Phú-yên, Khánh- hòa và Bình-thuận; Ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh-lược đại-sứ Hà tĩnh, Nghệ An và Thanh-hóa. Các ông ấy đi khám-xét công việc các quan-lại và sự làm ăn của dân gian, có điều gì hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.
Vua Dực-tông vốn là ông vua có lòng chăm-chỉ về việc trị dân, ngay từ năm canh-tuất (1850), là năm Tự-đức thứ 3, ngài đã sai ông Nguyễn Tri Phương làm Kinh-lược đại-sứ 6 tỉnh Nam- kỳ; ông Phan Thanh Giản làm Kinh-lược đại-sứ Bình-định, Phú-yên, Khánh- hòa và Bình-thuận; Ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh-lược đại-sứ Hà tĩnh, Nghệ An và Thanh-hóa. Các ông ấy đi khám-xét công việc các quan-lại và sự làm ăn của dân gian, có điều gì hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.
Tuy vậy
mặc lòng, không có đời nào lắm giặc giã bằng đời ngài làm vua. Chỉ được vài ba năm đầu thì còn có hơi yên
trị, còn từ năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi, thì càng ngày càng
nhiều giặc. Mà nhất là đất Bắc-kỳ là có nhiều giặc hơn cả, bởi vì đất Bắc-kỳ là
đất của nhà Lê cũ, dân tình cũng có nhiều người tưởng nhớ đến tiền triều, nên
chỉ những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là giòng dõi nhà Lê, hoặc tìm một
người nào giả nhận dòng dõi nhà Lê, rồi tôn lên làm minh chủ để lấy cớ mà khởi
sự.
Lại nhân
lúc bấy giờ bên Tàu có giặc Thái-bình nổi lên đánh nhà Thanh, đến khi giặc ấy
tan thì dư đảng chạy tràn sang nước ta cướp phá ở mạn thượng du. Nào giặc
khách, nào giặc ta, quan quân cứ phải đi đánh dẹp luôn. ở trong nước thì thỉnh thoảng lại có tai
biến, như nước lụt, đê vỡ,
v. v. Ở
Hưng-yên, đê Văn-giang vỡ 18 năm liền, cả huyện Văn-giang thành bãi cát bỏ
hoang, dân gian đói khổ, nghề nghiệp không có, cho nên người đi làm giặc càng
ngày càng nhiều vậy.
2. Giặc Tam-đường. Năm Tân hợi (1851) là năm
Tự Đức thứ 4, có giặc khách là bọn Quảng nghĩa Đường, Lục thắng Đường, Đức
thắng đường,
v. v...
tục gọi là giặc Tam-đường, quấy nhiễu ở mặt Thái-nguyên, vua sai ông Nguyễn
đăng Giai ra kinh lược Bắc-kỳ. Ông ấy
dùng cách khôn khéo dụ được chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên
một độ. Nhưng đến cuối năm giáp dần (1854) là năm Tự Đức thứ 7, Nguyễn đăng
Giai mất, đất Bắc-kỳ lại có loạn.
3. Giặc châu-chấu. Năm
Tự Đức thứ 7 (1854), ở tỉnh Sơn-tây có một bọn người đem Lê duy Cự là
dòng dõi nhà Lê ra lập lên làm minh chủ để khởi sự đánh nhà Nguyễn. Lúc bấy giờ
có Cao bá Quát, người làng Phú- thụy, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh, thi đỗ cử
nhân, ra làm quan, được bổ chức giáo-thụ phủ Quốc-oai (Sơn tây). Cao bá Quát có
tiếng là người văn- học giỏi ở Bắc-kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức
chí, bỏ quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở vùng
Sơn-tây và Hà-nội. Tháng chạp năm ấy
quan phó Lĩnh-binh tỉnh Sơn-tây là Lê Thuận đi đánh bắt được Cao bá Quát đem về
chém tại làng.
Nhân vì
mùa tháng năm ấy ở vùng tỉnh Bắc-ninh và Sơn-tây có nhiều châu-chấu ra phá hại
mất cả mùa màng, rồi đến cuối năm lại có giặc ấy, cho nên người thời bấy giờ
gọi là giặc châu-chấu.
Cao bá
Quát chết đi rồi, Lê duy Cự còn quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được. Từ
đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc, nhưng kiệt-hiệt hơn cả là có
giặc tên Phụng và giặc Khách ở mạn Thượng- du.
4. Giặc tên Phụng. Năm tân dậu (1861), quân
nước Pháp và nước I- pha-nho sang đánh Quảng-nam, có mấy người ở Bắc-kỳ theo
vào làm lính mộ. Trong ấy có tên Tạ văn Phụng, trước đã theo giáo-sĩ ra ngoại-quốc
đi học đạo, sau lại theo trung tướng Charner về đánh Quảng-nam.
Đến
tháng chạp thì tên Phụng ra Bắc-kỳ, mạo xưng là Lê duy Minh dòng dõi nhà Lê,
rồi tự xưng là minh-chủ, cùng với một người đạo-trưởng tên là Trường làm
mưu-chủ, và tên Ước, tên Độ dấy binh ở Quảng-yên. Đảng tên Phụng đem quân giặc
Khách ở ngoài bể vào đánh lấy phủ Hải- ninh, rồi lại thông với giặc Khách và
giặc ta ở các tỉnh, để làm loạn ở Bắc-Kỳ.
Tháng ba
năm nhâm-tuất (1862), ở Bắc-ninh có tên cai-tổng Nguyễn văn Thịnh (tục gọi là cai
tổng Vàng) xưng làm nguyên-súy, lập tên Uẩn mạo xưng là
con cháu nhà Lê, lên làm minh-chủ, rồi nhập đảng với tên Phụng, đem binh
đi đánh phủ Lạng-giang, huyện Yên-dũng, và vây thành Bắc-ninh.
Bấy giờ
quan bố chính ở Hà-nội là Nguyễn khắc Thuật, quan bố- chính tỉnh Sơn-tây là Lê
Dụ và quan phó lĩnh-binh tỉnh Hưng-yên là Vũ Tảo đem quân ba tỉnh về đánh giải
vây cho tỉnh Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với
quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.
Phía đông
thì tên Phụng
vây thành Hải-dương,
tỉnh-thần dâng sớ cáo-cấp. Triều đình bèn sai quan
Thượng-thư bộ Hình là Trương quốc Dụng ra làm tổng-thống Hải-an163 quân-vụ,
cùng với Phan tam Tỉnh, Đặng Hạnh, Lê Xuân, đem quân Kinh và quân Than, Nghệ ra
tiến-tiễu. Lại sai Đào Trí làm tham-tán đại-thần, Nguyễn bá Nghi làm
Sơn-Hưng-Tuyên164 tổng-đốc, để cùng với Trương quốc Dụng đánh giặc ở Bắc-kỳ.
Lúc ấy,
tỉnh Thái Nguyên thì có giặc Nông và giặc Khách đánh phá, tỉnh Tuyên Quang thì
có bọn tên Uẩn, tên Nông hùng Thạc quấy nhiễu, tỉnh Cao-bằng thì bị tên Giặc
Khách Lý hợp Thắng vây đánh, tỉnh Bắc-ninh thì có cai tổng Vàng cướp phá, các
quan to la rối cả lên. Vua Dực-tông sai Nguyễn tri Phương ra làm
tây-bắc-tổng-thống quân-vụ đại-thần, cùng với Phan đình Tuyển và Tôn thất Tuệ
ra đánh mặt Bắc-ninh, Thái-nguyên và Tuyên-quang.
Tháng 3
năm quí-hợi (1863) Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên-quang và bắt
được tên Uẩn
đóng củi giải
về trị tội.
Qua tháng 4,
Nguyễn tri Phương dẹp xong giặc ở
Bắc-ninh, rồi đem binh lấy lại thành Thái-nguyên, bắt được tên Thanh, tên Đắc,
tên Vân và lại phá được sào huyệt của giặc ở núi Ma-hiên, thuộc châu
Bạch-thông.
Còn ở
mặt Hải-dương và Quảng-yên, thì tuy Trương quốc Dụng và Đào Trí đã giải được
vây cho thành hải-dương, nhưng thế quân giặc ở mặt bể còn mạnh lắm. Vua Dực-tông
lại sai Nguyễn tri Phương làm tổng-thống hải-an quân-vụ, Trương quốc Dụng làm
hiệp-thống đem quân ra đánh mặt ấy.
Lúc bấy
giờ bọn tên Phụng có sai người vào cầu viện quan thiếu- tướng Bonard ở trong
Nam-kỳ, ước hễ lấy được Bắc-kỳ thì xin để nước Pháp bảo-hộ. Nhưng vì trong Nam-kỳ còn lắm việc, mà sự
giảng hòa với Triều- đình ở Huế đã sắp xong, cho nên thiếu-tướng không nhận.
Đảng tên Phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng-yên và những đảo ở ngoài bể, để làm sào
huyệt,
163 Hải
Dương và Quảng An
164 Sơn
Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang
rồi cho
binh thuyền đi cướp phá khắp nơi. Quan quân đi đánh, nhiều người bị hại.
Cuối năm
quí-hợi (1863) là năm Tự-đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo
Các-bà và ở núi Đồ-sơn, có ý muốn đem quân vào đánh đất Kinh-kỳ, nhưng chẳng
may phải bão, thuyền đắm mất nhiều. Quan
đề-đốc là Lê quang Tiến và quan bộ-phủ Bùi huy Phan được tin ấy liền đem quân
ra đánh, bị quân giặc tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê quang Tiến và Bùi huy Phan phải nhảy
xuống biển tự tận.
Đến tháng
6 năm giáp-tí (1864) là năm Tự-đức thứ 17, quan hiệp- thống Trương quốc Dụng,
quan tán-lý Văn đức Khuê, quan tán-tương Trần huy Sách và quan chưởng-vệ Hồ
Thiện đánh nhau với giặc ở đất Quảng-yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân-sĩ thiệt hại
rất nhiều.
Tháng 4
năm ất-sửu (1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra làm 3 đạo vào cướp ở
mạn Hải-dương. Nguyễn tri Phương sai Nguyễn văn VĨ đem quân ra đón đánh, bắt và
chém được rất nhiều. Từ đó quan đề-đốc Mai Thiện quan tán-lý Đặng trần Chuyên,
quan đốc-binh Ông ích Khiêm phá được quân giặc hơn 10 trận, quân giặc lui về
giữ mặt Hải-ninh.
Tháng 7
năm ấy, Nguyễn tri Phương sai Đặng trần Chuyên, Ông ích Khiêm đem binh ra
Quảng-yên, ước với quan nhà Thanh ở Khâm-châu để đánh lấy lại thành Hải-ninh.
Quân giặc thua to, đem hơn 70 chiếc thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh
thuyền ra đuổi đánh, tên Phụng, tên Ước thì chạy vào mạn Quảng-bình, Quảng-trị,
còn những đồ đảng, đứa thì phải bắt, đưa thì chạy trốn được. Sau tên Phụng, tên Ước cũng bị bắt đem về trị
tội ở Huế.
Giặc
Phụng khởi từ cuối năm tân-dậu (1861) đến cuối năm ất-sửu (1865) mới dẹp xong,
kể vừa 4 năm trời, nhà nước tổn hại rất nhiều. Khi giặc Phụng ở Quảng-yên dẹp
gần xong, thì ở mạn Cao-bằng đã có giặc Khách đánh lấy tỉnh-thành. Quan kinh-lược Võ trọng Bình và quan tuần-phủ
Phạm chi Hương đem binh lên Lạng-sơn rồi chia quân đi đánh các nơi, từ tháng 9
năm ất-sửu (1865) cho đến tháng 3 năm bính-dần (1866), thì tướng giặc là Trương
cận Bang mới xin về hàng, và mới thu phục lại được thành Cao-bằng.
Nguyễn
tri Phương và Võ trọng Bình về Kinh coi việc triều-chính.
5. Sự
phản-nghịch ở Kinh-thành.
Việc ngoài Bắc mới hơi nguôi-nguôi, thì Kinh-đô lại có việc làm cho náo động lòng người.
Việc ngoài Bắc mới hơi nguôi-nguôi, thì Kinh-đô lại có việc làm cho náo động lòng người.
Nguyên
vua Dực-tông là con thứ mà được nối ngôi, là vì người anh ngài là Hồng Bảo
phóng đãng, không chịu học hành cho nên không được lập. Ông ấy lấy điều đó làm
tức giận, bèn đồ-mưu với một nước ngoại quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ
ra, ông ấy phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. Còn con ông thì được tha
mà phải đổi tên là Đinh Đạo
Đến năm
bính dần (1866) là năm Tự-đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn-niên-cơ tức là
Khiêm-lăng bây giờ, quân-sĩ phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Bấy
giờ ở Kinh có Đoàn Trưng cùng vơi em là Đoàn hữu Ái, Đoàn tư Trực, và bọn
Trương trọng Hòa, Phạm Lương kết làm " Sơn- đông-thi-tửu-hộ" để mưu
việc lập Đinh Đạo lên làm vua. Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm làm ở
Vạn-niên-cơ và cùng với qua hữu-quân Tôn thất Cúc làm nội ứng, định ngày khởi
sự.
Đến đêm
hôm mồng 8 tháng 8, bọn tên Trưng đem quân vào cửa tả-dịch, chực xông vào điện
giết vua Dực-tông. May nhờ có quan
chưởng-vệ là Hồ Oai đóng được cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên
Trực và cả bọn đồng đảng.
Đinh Đạo
phải tội giảo, Tôn thất Cúc thì tự vẫn chết, còn các quan có trách nhiệm đều
phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải cách.
Lúc ấy
ngoài thì có giặc cướp phá, trong thì có nghịch-thần làm loạn. Ở mặt
Quảng-nghĩa lại có giặc mọi Đá-vách cứ hay xuống quấy nhiễu dân- gian, may nhờ
có quan tiểu-phủ Nguyễn Tấn ra sức đánh dẹp mới yên được. Việc giao thiệp với
nước Pháp càng ngày càng khó. Ở Bắc-kỳ
thì có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh không được, phải
nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều-đình cũng bối rối không biết tính ra thế nào
cho khỏi được sự biến loạn.
6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ. Bên Tàu lúc bấy giờ cũng loạn: ngoài thì đánh
nhau với nước Anh-cát-lợi và nước Pháp-lan-tây. Triều đình phải bỏ Kinh-đô mà
chạy; trong thì có giặc Thái-bình nổi lên đánh phá, tí nữa ngôi vua nhà Thanh
cũng đổ nát.
Nguyên
từ năm Đạo-quang thứ 29, là năm kỷ-dậu (1849), tức là bên ta năm Tự-đức thứ 2,
ở Quảng-tây có tên Hồng tú Toàn cùng với bọn Dương tú Thanh, Tiêu triều Quí, Lý
tú Thành, nổi lên xưng là Thái-bình thiên-quốc, rồi chiếm cứ đất Kim-lăng và
các tỉnh phía nam sông Trường-giang. May nhờ có bọn Tăng quốc Phiên, Tả tôn Đường, Lý hồng Chương, hết sức
đánh dẹp, và lại có thế lực ngoại quốc tư giúp, cho đến năm Đồng-trị thứ hai là
năm
quí-hợi (1863) tức là bên ta năm Tự-đức thứ 16, quan nhà Thanh mới bắt được các
tướng Thái-bình, Hồng tú Toàn phải uống thuốc độc tự tử, triều đình nhà Thanh
lại thu phục được các tỉnh phía nam nước Tàu.
Lúc ấy
có dư đảng của Hồng tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy tràn sang nước ta,
trước còn nói xin hàng, rồi sau đem quân đi cướp phá các tỉnh, quan quân
đánh mãi không được. Năm mậu-thìn (1868) là năm Tự-đức thứ 21, Ngô Côn chiếm
giữ tỉnh thành Cao-bằng. Triều-đình sai
quan tổng-đốc Phạm chi Hương viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin quân Tàu
sang tiểu-trừ. Nhà Thanh sai phó-tướng Tạ kế Quí đem quân sang cùng với quan
tiểu-phủ Ông ích Khiêm và quan đề-đốc Nguyễn viết Thành, đánh phá quân của Ngô
Côn ở Thất-khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua ở Lạng-sơn, quan
tham-tán Nguyễn Lệ, quan phó đề-đốc Nguyễn viết Thành tử trận, quan thống-đốc
Phạm chi Hương bị bắt.
Triều-đình
sai Võ trọng Bình ra làm Hà-ninh tổng-đốc kiêm chức Tuyên-Thái-Lạng quân-thứ
khâm-sai đại-thần, để hội với quan đề-đốc tỉnh Quảng-tây là Phùng tử Tài mà
đánh giặc Ngô Côn.
Quân hai
nước cùng đồng
sức đánh dẹp,
đến tháng 5 năm kỷ-tị (1869) thì mới khôi phục lại được
tỉnh-thành Cao-bằng. Đến cuối năm canh-
ngọ (1870), Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh-thành Bắc-ninh, quan tiểu- phủ Ông ích Khiêm đánh một trận
bắn chết Ngô Côn và phá tan quân giặc.
Ngô Côn
tuy chết, song còn có những đồ-đảng là Hoàng sùng Anh, hiệu cờ vàng, Lưu vĩnh
Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, Lương văn Lợi, hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy-nhiễu
ở mạn Tuyên-quang, Thái-nguyên, quan quân phải hết sức chống giữ thật là vất
vả. Triều-đình sai quan trung-quân Đoàn Thọ ra làm tổng-thống quân-vụ ở Bắc-kỳ.
Đoàn Thọ
vừa mới ra,
kéo quân lên
đóng ở tỉnh-thành
Lạng-sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành, bắt
ông ấy giết đi, còn Võ trọng Bình thì vượt thành chạy thoát được.
Tin ấy
vào đến Huế, Triều-đình vội vàng sai Hoàng kế Viêm165 ra làm
Lạng-Bình-Ninh-Thái thống-đốc quân-vụ đại thần, cùng với quan tán-tương Tôn
thất Thuyết đi dẹp giặc ở Bắc-kỳ. Qua
tháng tư năm sau (1871), nhà vua lại sai quan Hình-bộ thượng-thư là Lê Tuấn làm
chức Khâm-sai thị-sự để cùng với ông Hoàng kế Viêm lo việc đánh dẹp.
165 Có
sách chép là Hoàng Tá Viêm.
Tháng 11
năm tân-mùi (1871), ở Quảng-yên lại có tên Hoàng Tề nổi lên, thông với giặc Tô
Tứ và giặc Tàu-ô ở ngoài bể, rồi đem binh thuyền đi cướp phá các nơi. Hoàng kế
Viêm giữ mạn Sơn-tây, Lê Tuấn ra cùng với tỉnh thần Hải-dương đem quân đi đánh
giặc Tề. Được ít lâu, quân thứ-tỉnh
Hải-dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh-lâm, dư-đảng giặc ấy đều tan cả. Ở mạn
thượng-du thì đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc và đảng cờ vàng là bọn Hoàng
sùng Anh quấy-nhiễu ở đất Tuyên-quang. Bao nhiêu thuế má ở mạn ấy, chúng thu
cả, sau hai đảng ấy lại thù-khích nhau, đánh phá nhau thật là tàn-hại, đảng cờ
đen về hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu vĩnh Phúc cho đất ở Lao-kay, được
thu cả quyền lợi ở chỗ ấy, để chống giữ với đảng cờ vàng, đóng ở mạn Hà-giang.
Đất
Bắc-kỳ cứ giặc-giã mãi, quan quân đánh-dẹp thật là tổn-hại mà không yên được.
Đến tháng 7 năm nhâm-thân (1872), Triều-đình lại sai Nguyễn tri Phương làm
Tuyên-sát đổng-sức đại-thần ra thay mặt vua xem- xét việc đánh giặc ở
Bắc-kỳ. Nhưng lúc bấy giờ việc giặc ở
trong nước chưa xong, thì sự giao-thiệp với nước Pháp đã sinh ra lắm nỗi khó
khăn, khiến việc nước lại rối thêm ra nữa.
Chương
IX
Quân
Pháp Lấy Bắc Kỳ Lần Thứ I
1. Người Pháp tìm đường sang Tàu
2. Đồ-phổ-Nghĩa
3. Đại-úy Francis Garnier ra Hà-nội
4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873)
5. Lấy mấy tỉnh ở Trung-châu
6. Đại-úy Francis Garnier chết
7. Ông Philastre ra Hà-nội
8. Hòa-ước năm giáp-tuất (1874)
1. Người Pháp tìm đường sang Tàu. Từ khi
nước Pháp lấy xong đất Nam-kỳ rồi, Súy-phủ ở Sài-gòn sửa-sang mọi việc, và cho
người đi xem xét tình thế và sông núi ở Trung-kỳ và Bắc-kỳ để mở mang sự giao-
thông. Lại có ý muốn tìm đường thông sang nước Tàu, bởi vậy tháng 5 năm
bính-dần (1866), thiếu-tướng De la Grandière sai trung-tá Doudart de Lagrée
cùng với đại-úy Francis Garnier (Ngạc-nhi) và mấy người Pháp nữa theo sông
Mékong đi tìm đường sang Tàu. Đến tháng 3 năm mậu-thìn (1868), non hai năm
trời, ông Doudart de Lagrée mới sang đến đất Vân-nam. Nhưng chẳng may ông ấy
phải bệnh đau gan mà chết. Ông Francis Garnier đem xác ông ấy đi qua nước Tàu,
rồi xuống Tàu thủy về Sài-gòn.
Đến năm
canh-ngọ (1870) là năm Tự-đức thứ 23, ở bên Tây, nước Pháp đánh nhau với nước
Phổ; quân Pháp thua, Pháp-hoàng là Nã-phá-luân đệ-tam bị bắt. Dân nước Pháp bỏ đế-quốc mà lập Dân-chủ
cộng-hòa. Tuy ở bên Pháp có sự chiến
tranh, nhưng ở bên Viễn-đông này, quân Pháp vẫn giữ vững đất Nam-kỳ. Vả Triều-đình ở Huế còn bận dẹp giặc Khách ở
Bắc-kỳ, cho nên cũng không sinh sự lôi-thôi gì cả.
2. Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis). Thuở ấy, có
một người Pháp tên là Jean Dupuis, ta gọi là Đồ-phổ-Nghĩa mấy năm trước đã đi
du lịch ở các tỉnh bên Tàu, để tìm cách buôn-bán, biết có sông Hồng-hà từ đất
Vân-nam chảy
qua Bắc-kỳ ra bể, là một đường tiện lợi hơn, bèn nhận với quan nhà Thanh ở
Vân-nam để chở đồ binh-khí sang bán.
Đồ-phổ-Nghĩa
về cùng với một người Pháp nữa tên là Millot, buôn- bán ở Thượng-hải, trù-tính
việc chở binh khí sang Vân-nam, đoạn rồi về Pháp để mua hàng. Khi trở sang bên
này, Đồ-phổ-Nghĩa vào Sài-gòn xin Súy-phủ
giúp thanh-thế cho để đi qua Bắc-kỳ.
Viên thống-đốc Nam-kỳ lúc bấy giờ là lục-quân thiếu-tướng d'Arhaud, có
hứa với Đồ-phổ-Nghĩa cho chiếc tàu Bourayne đi theo.
Đồ-phổ-Nghĩa
sang Hương-cảng để cùng với Millot đem ba chiếc tàu con là Hồng-giang, Lao-kay
và Sơn-tây chở đồ binh-khí và hàng-hóa vào Quảng-yên. Trong lúc ấy hải-quân
trung-tá Sénès đã đem tàu Bourayne ra Bắc-kỳ, rồi lên Hải-dương, Hà-nội,
Bắc-ninh đi xem các nơi.
Trung-tá
ở Bắc-ninh nghe tin bọn Đồ-phổ-Nghĩa đã đến Quảng-yên, liền trở ra để cùng bàn
với quan Khâm-sai Lê Tuấn về việc thông-thương ở sông Hồng-hà.
Ông Lê
Tuấn không có lệnh Triều-đình, không dám tự-tiện, nói xin
đợi vài
mươi hôm để có mệnh nhà vua ra sẽ hay.
Đồ-phổ-Nghĩa
và Millot thấy đợi lâu, bèn cứ đem tàu lên đóng ở Hà- nội, rồi thuê thuyền chở
đồ lên Vân-nam. Bấy giờ là cuối năm nhâm-thân (1872), là năm Tự-đức thứ 25.
Thuyền của Đồ-phổ-Nghĩa đi qua những đồn của quan ta, của giặc cờ vàng và giặc
cờ đen đều vô sự cả. Khi lên dến Vân- nam, quan nhà Thanh cho chở đồ khoáng-vật
xuống, đến thánh tư năm quí- dậu (1873), thì Đồ-phổ-Nghĩa và Millot lại trở về
đến Hà-nội, đem một bọn lính cờ vàng về theo. Millot thì vào Sài-gòn cho
Súy-phủ biết tình-thế ở Bắc- kỳ, và nhân thể đem đồ khoáng-vật sang bán ở
Hương-cảng. Còn Đồ-phổ- Nghĩa thì ở lại
Hà-nội, đóng ở phố Mới bây giờ, rồi cùng với mấy người Khách là Bàng lợi Ký,
Quan tá Đình mua gạo, mua muối chở lên Vân-nam.
Bấy giờ
luật nước ta cấm không cho chở muối sang Tàu, mà việc thông-thương ở sông
Hồng-hà cũng chưa định rõ thế nào, nhưng Đồ-phổ- Nghĩa tự xưng là có lệnh quan
Tàu cho, thì không cần phải theo luật nước Nam, vì nước Nam là một nước phải
thần-phục nước Tàu.
Đồ-phổ-Nghĩa
không hiểu rõ sự giao-thiệp nước Tàu và nước ta ngày trước. Đối với Tàu thì bề ngoài nước ta tuy xưng
cống-thần, nhưng kỳ thực vẫn là độc-lập.
Khi có việc gì, phải có sứ hai nước sang thương-nghị rồi mới thi hành.
Mà có khi sứ nước Tàu bàn sang điều gì, nước ta không thuận cũng
thôi, chứ không có phép tự-tiện mà làm được. Chỉ trừ lúc nào nước Tàu ỷ thế mạnh mà bắt-nạt, như đời nhà Nguyên, nhà
Minh, và nhà Thanh, thì lại có ông Trần hưng Đạo, ông Lê thái Tổ và ông Nguyễn
quang Trung tỏ cho người Tàu biết rằng nước Nam vốn không phải đất thuộc-địa
của Tàu.
Tuy vậy,
quan ta phải nể Đồ-phổ-Nghĩa là người nước Pháp, sợ có việc gì, thì thành ra
bất-hòa với Súy-phủ ở Sài-gòn, cho nên cứ dùng lời nói ngọt để can ông ấy đừng làm
điều trái với luật nước. Nhưng ông ấy cứ một niềm tự ý mình mà làm. Quan ta nhờ
cả Giám-mục Puginier là Kẻ-sở lên can cũng không được.
Sau quân
ta có bắt mấy tên Khách Bành lợi Ký và Quan tá Đình về sự đem thuyền chở muối
và gạo lên Vân-nam, thì Đồ-phổ-Nghĩa đem người đi bắt quan phòng-thành Hà-nội
và quan huyện Thọ-xương, đem xuống thuyền giam lại. Quan ta cũng ngơ ngác không
biết ra thế nào. Một bên thì cố tình sinh sự, một bên thì mệnh nhà vua ra không
được lôi thôi điều gì.
Bấy giờ
Triều-đình sai quan hữu-tham-tri bộ Binh là Phan đình Bình làm khâm-phái ra
giao cho ông Nguyễn tri Phương phải thu-xếp cho yên chuyện ấy. Ông Nguyễn tri
Phương mới sai quan bố-chính là Vũ Đường định ngày mời Đồ-phổ-Nghĩa đến
hội-quán Quảng-đông, để hội nghị. Khi
hai bên đến hội-đồng, quan ta nói rằng sự giao-thiệp nước Pháp với nước Nam đã
có tờ hòa-ước năm nhâm-tuất (1862), và sự đem muối và gạo lên bán ở Vân- nam là
trái với tờ hòa-ước ấy, và lại trái với luật bản-quốc. Đồ-phổ-Nghĩa cãi rằng
ông ấy có lệnh quan Tàu cho là đủ, không cần phải xin phép gì nữa, rồi đứng dậy
ra về.
Triều-đình
ở Huế thấy việc lôi thôi mãi, sợ để lâu thành ra nhiễu sự, mới sai ông Lê Tuấn,
ông Nguyễn văn Tường và ông Nguyễn tăng Doãn vào sứ Sài-gòn, để thương-nghị về
việc ba tỉnh phía tây đất Nam-kỳ và nhân thể nhờ Súy-phủ phân xử việc
Đồ-phổ-Nghĩa cho xong.
3. Đại-úy Francis Garnier (Ngạc Nhi) ra
Hà-nội. Viên Thống-đốc Nam-kỳ bấy giờ là Hải-quân thiếu-tướng Dupré vốn đã lưu
ý về việc Bắc-kỳ. Trước đã viết thư về
cho Thượng-thư thuộc-địa-bộ ở Paris nói rằng: "Đất Bắc-kỳ là đất
tiếp-giáp với những tỉnh tây-nam nước Tàu, ta nên chiếm giữ lấy thì sự cai-trị
của ta ở Viễn-đông này mới được chắc chắn" .
Nhưng
bên Pháp bấy giờ mới đang đánh nhau với nước Phổ vừa xong, không muốn gây
chuyện khác, bèn điện sang cho thiếu-tướng rằng: "Không được sinh sự ở
Bắc-kỳ." Đến khi Millot về Sài-gòn
kể công việc ở Bắc-kỳ, thiếu-tướng lại điện về Paris nói rằng: " Việc
Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ
đã thành
công rồi. Cần phải lấy xứ Bắc-kỳ và giữ
lấy con đường thông sang Tàu. Không cần phải viện binh. Thành công chắc lắm
". Ngay hôm ấy, thiếu-tướng lại viết thêm một cái thư về nói rõ mọi lẽ, và
quyết rằng xin chính-phủ để cho thiếu-tướng được tự tiện, hễ có việc gì thì
thiếu-tướng xin chịu lỗi166.
Đang lúc
ấy thì Triều-đình ở Huế sai bọn ông Lê Tuấn vào xin thiếu- tướng ra điều-đình
việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ.
Cứ như ý
của thiếu-tướng Dupré điện về cho chính-phủ Pháp thì thiếu-tướng chỉ mong
có cái cơ-hội gì để đem quân
ra Bắc-kỳ. Nay thấy Triều-đình ta vào nhờ Súy-phủ ở
Sài-gòn phân-xử việc Đồ-phổ-Nghĩa, thật là gặp được cái dịp mình đang mong,
thiếu-tướng liền gọi quan hải-quân đại-úy Francis Garnier ở Thượng-hải về, rồi
sai ra Hà-nội, nói rằng ra phân-xử việc Đồ-phổ-Nghĩa167.
Đại-úy
Francis Garnier đem mấy chiếc tàu con và 170 người lính ra đến cửa
Thuận, nghỉ lại
mấy hôm để
đợi quan khâm-sai
cùng ra Bắc-kỳ. Đến tháng 10 năm quí-dậu (1873), thì
các quan ra đến Hà-nội.
Bấy giờ
ai cũng tưởng là đại-úy Francis Garnier ra chuyến này thì mọi việc xong cả, cho
nên đi đến đâu quan ta cũng tiếp-đãi rất trọng-hậu. Nhưng xem những thư-từ của
đại-úy lúc bấy giờ, thì cốt ra có chủ ý khác. Khi ở Sài-gòn sắp đi, đại-úy viết
thư về cho người anh ở bên Pháp nói rằng: " Lệnh của Súy-phủ cho, là được
tự tiện. Việc gì hải-quân thiếu-tướng cũng ủy-thác cho tôi cả. Vậy vì nước Pháp
mà tôi phải cố sức." Đến khi ra đến Hải-dương, đại-úy vào ở Kẻ-sặt, rồi
viết thư sai người đem cho Đồ-phổ- Nghĩa, báo tin cho ông ấy biết cái chủ đích
của mình, và lại nói rằng trăm sự đại-úy trông-cậy vào ông ấy chỉ bảo cho, bởi
vì ông ấy đã quen biết mọi việc ở Bắc-kỳ.
Đồ-phổ-Nghĩa
tiếp được thư, liền đem chiếc tàu Man-hao đi đón đại- úy. Lên đến Hà-nội,
đại-úy đem mấy người đi thẳng vào thành ra mắt ông Nguyễn tri Phương, và đòi đem
quân ra đóng ở trong thành. Quân ta nói mãi, Đại-úy mới thuận ra đóng ở
Trường-thi. Đoạn rồi đại-úy viết thư mời giám-mục Puginier ở Kẻ-sở lên Hà-nội,
để nhờ làm thông-ngôn. Đại-úy lại làm tờ hiểu-dụ, cho dân biết, nói rằng:
" Bản-chức ra Bắc-kỳ cốt để dẹp cho yên giặc-giã, và để mở-mang sự
buôn-bán.
166 Sách
"L'Empire d'Annam" của capitaine Ch. Gosselin.
167 Đồ
Phổ Nghĩa (Jean Dupuis) có làm quyển sách "Le Tonkin de 1872 à 1886) kể
những công việc của ông ấy ở Bắc Việt, và nói rõ tình ý của các quan coi việc
Súy Phủ ở Sài Gòn lúc bấy giờ là thế nào. Ta cũng nhờ có sách ấy mà kê cứu ra
được nhiều việc rất là tường tận
4. Hạ thành Hà-nội năm quí-dậu (1873). Quan
ta thấy đại- úy không nói gì đến việc Đồ-phổ-Nghĩa, mà lại nói những việc
dẹp-giặc và mở sự buôn-bán, thì đều lấy làm phân-vân. Sau lại thấy tàu và quân
ở Sài- gòn tiến ra, quan ta lại càng lo lắm. Được mấy hôm, đại-úy không bàn hỏi
gì đến quan ta, tự-tiện làm tờ tuyên-bố sự mở sông Hồng-hà cho người nước Pháp,
nước I-pha-nho và nước Tàu được ra vào buôn-bán.
Quan ta
lúc bấy giờ cũng bối-rối quá. Việc giao-thiệp và việc buôn- bán với nước Pháp
thì đã định rõ trong tờ hòa-ước năm nhâm-tuất (1862), nay thấy đại-úy Francis
Garnier đường đột làm như thế, thì cũng thấy làm lo, cho nên cũng có kiếm cách
phòng-bị. Mà đại-úy cũng đã biết trước
rằng thế nào quan ta cũng không chịu, cho nên đã định kế đánh thành Hà-nội.
Đến đầu
tháng 10, một mặt đại-úy viết thư cho ông Nguyễn tri Phương, trách quan ta làm
ngăn-trở việc buôn-bán của Đồ-phổ-Nghĩa; vậy vì sự văn-minh và cái quyền-lợi
của nước Pháp, cho nên Súy-phủ ở Sài-gòn sai đại-úy ra
mở sự buôn-bán
ở Bắc-kỳ. Dẫu
quan Việt-nam có
thuận hay không cũng mặc, đại-úy
cứ theo lệnh của Súy-phủ mà thi-hành. Một mặt đại-úy bàn-định với Đồ-phổ-Nghĩa
định ngày đánh thành và bắt ông Nguyễn tri Phương giải vào Sài-gòn.
Cứ như
sách của Đồ-phổ-Nghĩa, thì lúc bấy giờ có cả những người mạo xưng là đảng nhà
Lê, cũng xin theo đại-úy để vào thành làm nội-ứng.
Đến sáng
hôm rằm tháng 10 năm quí-dậu (1873), thì quân Pháp phát súng bắn vào thành
Hà-nội. Ông Nguyễn tri Phương cùng với con là phò-mã Nguyễn Lâm hoảng-hốt lên
thành giữ cửa Đông và cửa Nam. Được non một giờ đồng hồ thì thành vỡ, phò-mã
Lâm trúng đạn chết, ông Nguyễn tri Phương thì bị thương nặng. Quân Pháp vào thành bắt được ông Nguyễn tri
Phương và quan khâm-phái Phan đình Bình đem xuống tàu.
Ông
Nguyễn tri Phương nghĩ mình là một bậc lão-thần thờ vua đã trải ba triều, đánh
nam dẹp bắc đã qua mấy phen, nay chẳng may vì việc nước mà
bị thương, đến nỗi phải
bị bắt, ông
quyết chí không
chịu buộc thuốc và nhịn ăn mà
chết.
Ông
Nguyễn tri Phương là người người ở Thừa-thiên, do lại-điển xuất thân, làm quan
từ đời vua Thánh-tổ, trải qua ba triều, mà nhà vẫn thanh-bạch, chỉ đem chí-lự
mà lo việc nước, chứ không thiết của-cải.
Nhưng chẳng may phải khi quốc-bộ gian-nan, ông phải đem thân hiến cho
nước, thành ra
cả nhà cha con, anh em đều mất vì việc nước. thật là một nhà trung-liệt xưa nay
ít có vậy.
5. Lấy mấy tỉnh ở Trung-châu. Thành Hà-nội thất thủ rồi, quan ta thì
trốn-tránh đi cả, giặc cướp lại nhân dịp nổi lên. Đại-úy Francis Garnier lại cho những người
theo với mình đi làm quan các nơi để chống với quan triều, rồi lại sai người đi
đánh lấy tỉnh Ninh-bình, Nam-định và Hải-dương.
Quan ta ở
các tỉnh đều
ngơ ngác không
biết ra thế
nào, hễ thấy người Tây đến là bỏ chạy. Bởi vậy, chỉ có người Pháp tên là
Hautefeuille và 7 người lính tây mà hạ được thành Ninh-bình, và chỉ trong 20
ngày mà 4 tỉnh ở Trung-châu mất cả.
6. Đại-úy Francis Garnier chết. Triều-đình
được tin biến ở Bắc- kỳ, vội-vàng sai ông Trần đình Túc, ông Nguyễn trọng Hợp,
ông Trương gia Hội cùng với giám-mục Bình (Mgr Bohier) và linh-mục Đăng (Dangelger) ra Hà-nội, để điều đình mọi việc và sai ông Hoàng kế Viêm ở Sơn-tây
làm tiết- chế quân-vụ, để phòng giữ các nơi. Lại sai ông Lê Tuấn làm
toàn-quyền, ông Nguyễn văn Tường làm phó, vào thương-thuyết với Súy-phủ ở
Sài-gòn về việc đại-úy Francis Garnier đánh Bắc-kỳ.
Lúc bấy
giờ ông Hoàng kế Viêm đóng ở Sơn-tây, có đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc về
giúp. Vua phong cho Lưu vĩnh Phúc làm đề-đốc, để cùng với quan quân chống giữ
quân Pháp. Lưu vĩnh Phúc đem quân về đóng ở mạn phủ Hoài-đức. Khi ông Trần đình
Túc và ông Nguyễn trọng Hợp đang thương-thuyết với đại-úy Francis Garnier, thì
quân cờ đen về đánh Hà- nội. Đại-úy đem
quân đi đuổi đánh, lên đến Cầu-giấy thì bị phục quân giết chết.
7. Ông Philastre ra Hà-nội. Nguyên khi
thiếu-tướng Dupré sai đại-úy Francis Garnier ra Bắc-kỳ là tự ý mình chứ
chính-phủ nước Pháp vẫn không thuận, bởi vậy khi được tin đại-úy đã khởi sự
đánh Hà-nội, thiếu- tướng liền sai hải-quân đại-úy, khiêm chức thống-soái việc
hình-luật ở Nam- kỳ, là ông Philastre (ta gọi là Hoắc-đạo-sinh) cùng với qua
phó-sứ nước ta là ông Nguyễn văn Tường ra điều-đình mọi việc ở Bắc-kỳ.
Đến
Cửa-cấm thì ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường mới biết rằng đại-úy Francis
Garnier đã bị quân cờ đen giết mất rồi.
Sử chép rằng khi được tin ấy, ông Philastre tức giận vỗ bàn mà bảo ông
Nguyễn văn Tường rằng: " Việc không xong rồi, phải trở về đợi lệnh súy-phủ
mới được. " Ông Nguyễn văn Tường sợ ông Philastre giận quá mà nhỡ việc,
mới ung-dung mà
nói
rằng: " Việc đánh lấy thành Hà-nội súy-phủ bảo không phải là bản-ý, mà
quân bản-quốc ở 4 tỉnh Bắc-kỳ cũng không tranh dành gì cả. Vậy hai bên không có làm điều gì trái
nhau. Nay đại-úy Francis Garnier chết,
hoặc là bị giết chết, hoặc là vì dân nổi lên làm loạn, việc ấy ta chưa rõ.
Huống chi trả thành lại để định hòa-ước cho xong, ấy là lệnh của súy-phủ; mà
thu lấy thành rồi mới nghị-hòa, ấy là mệnh của bản-quốc. Còn như việc Hà-nội giết đại-úy Francis
Garnier thì cũng như đại-úy Francis Garnier giết ông Nguyễn tri Phương, việc đó
xuất ư ý ngoại, chứ có phải lỗi chúng ta đâu. Bây giờ chúng ta ra đây, mắt chưa
trông thấy việc gì cả, mới nghe thấy tin báo mà đã bỏ về, thế chẳng hóa ra mình
đi uổng mất công hay sao ? chi bằng ta cho người đưa thư lên Hà-nội bảo đem tàu
xuống đón, chúng ta sẽ lên tới nơi, hoặc là cứ theo mệnh lệnh mà làm, hoặc là
xét rõ duyên-do tại sao mà đại-úy Francis Garnier chết, rồi sẽ báo tin, thế
chẳng ổn việc lắm hay sao ? " Ông Philastre nghe lời ấy, bèn sai người đưa
thư lên cho Hà-nội biết.
Ngay lúc
ấy có tàu " Decrès " còn đóng ở gần Đồ-sơn, ông Philastre muốn sang
tàu ấy để cho chiếc tàu mình đi là "D'Estrées " trở về báo tin cho
Sài-gòn biết. Nguyễn văn Tường ngăn đi rằng: "Tàu của mình đã vào cửa rồi
lại trở ra, nhỡ sĩ-dân biết, lại bắt chước Hà-nội mà làm bậy, thì làm thế nào
mà ngăn cấm được; sợ có việc tổn-hại, thì lấy lẽ gì mà bẩm với quí súy. Vậy nay
xin sai chiếc tàu "Decrès" ra bể, đuổi đánh những giặc Tàu-ô, còn cứ
đem tàu "D'Estrées" vào đến Hải-phòng, rồi ta lên Hải-dương, đem trả
tỉnh-thành lại cho bản-triều, để tỏ cái lòng tin cho sĩ-dân biết, sau ta lên
Hà- nội, trả nốt cả mấy thành kia, và tra-hỏi việc đại úy Francis Garnier chết
ra thế nào sẽ bẩm cho quí-súy biết " .
Ông
Philastre vốn là một người rất công bằng, lại thấy ông Nguyễn văn Tường nói
hợp-lẽ, bèn thuận nghe, và lên Hải-dương truyền trả thành lại cho quan ta, rồi
lên Hà-nội làm tờ giao-ước trả lại cả 4 thành cho quan ta coi giữ. Còn những tàu bè và quân lính của Pháp ở các
tỉnh thì thu cả về Hà- nội, rồi đinh ngày rút quân ra đóng ở Hải-phòng đợi đến
ngày ký tờ hòa-ước xong thì rút về. Bấy giờ là tháng giêng năm giáp-tuất (1874),
là năm Tự- đức thứ 27.
Đồ-phổ-Nghĩa
thấy ông Philastre phá mất cả những việc của mình đã làm với đại-úy Francis
Garnier, bèn vào Sài-gòn kêu với súy-phủ và đòi tiền phí-tổn non một triệu
nguyên
8. Hòa-ước năm giáp-tuất (1874). Mọi việc ở
Hà-nội xếp-đặt xong rồi, súy-phủ ở Sài-gòn sai ông Rheinart (Lê Na) ra thay cho
ông Philastre cùng với ông Nguyễn văn Tường về Nam-kỳ, định sự hòa-ước cho kịp
ngày thiếu-tướng Dupré về Pháp.
Ngày 27
tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, hải-quân thiếu-tướng
Dupré và ông Lê Tuấn, ông Nguyễn văn Tường ký tờ hòa-ước cả thảy 22 khoản,
đại-lược có những khoản này là quan trọng hơn cả.
Khoản
II. Quan thống-lĩnh nước Pháp nhận quyền độc-lập của vua nước Nam không phải
thần phục nước nào nữa, và khi nào vua nước Nam có cần đến việc gì để đánh dẹp
giặc giã, thì nước Pháp sẵn lòng giúp mà không yêu-cầu điều gì.
Khoản
III. Vua nước Nam phải đoan nhận y theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp, và
chính-lược ngoại-giao hiện lúc bấy giờ thế nào thì phải để nguyên như thế,
không được đổi khác đi
Quan
thống-lĩnh nước Pháp tặng vua nước Nam:
1. 5 chiếc tàu có đủ máy-móc súng-ống
2. 100 khẩu súng đại-bác, và mỗi khẩu có 200
viên đạn
3. 1000 khẩu súng tay và 5000 viên đạn
Khoản
IV. Quan thống-lĩnh nước Pháp hứa cho quan sang giúp vua nước Nam để dạy tập
lính thủy, lính bộ; cho những kỹ-sư sang dạy làm mọi việc, và cho những người
giỏi việc tài chính sang tổ-chức việc thuế-má và việc thương-chính v. v.
Khoản V.
Vua nước Nam
phải thuận nhường
đứt đất 6 tỉnh Nam-kỳ
cho nước Pháp.
Khoản
IX. Vua nước Nam phải để cho giáo-sĩ được tự-do đi giảng-đạo, và cho dân trong
nước được tự-do theo đạo.
Khoản
XI. Vua nước Nam phải mở cửa Thị-nại (
Qui-nhơn ), của Ninh-hải ( Hải-phòng ), thành Hà-nội và sông Hồng-hà, cho ngoại
quốc vào buôn-bán.
Khoản
XIII. Nước Pháp được quyền đặt lĩnh-sự ở các cửa bể và các thành- thị đã mở ra
cho ngoại quốc vào buôn-bán.
Khoản
XV. Người nước Pháp hay là người ngoại quốc, hễ có giấy thông hành của quan
lĩnh-sự Pháp và có chữ quan Việt-nam phê nhận thì được phép đi xem các nơi ở
trong nước.
Khoản
XVI. Người nước Pháp và người ngoại quốc có điều gì kiện tụng tại
đất
Việt-nam, thì do lĩnh-sự Pháp phân-xử.
Khoản
XX. Khi nào tờ hòa-ước này ký xong, thì quan thống-lĩnh nước Pháp đặt sứ-thần ở
Huế để chiếu những điều đã giao-ước mà thi hành. Vua nước Nam cũng được quyền
đặt sứ-thần ở Paris và ở Sài-gòn.
Tờ
hòa-ước ấy ký xong, thì quan chánh-sứ Lê Tuấn mất, ông Nguyễn văn Tường về
Huế. Thiếu-tướng Dupré giao mọi việc ở
Nam-kỳ cho hải-quân thiếu-tướng Krantz quyền lĩnh, rồi về Pháp.
Tháng 6,
Triều-đình ở Huế lại sai quan hình-bộ Thượng-thư là Nguyễn văn Tường và quan
lại-bộ thị-lang là Nguyễn tăng Doãn, vào Sài-gòn cùng với thiếu-tướng Krantz
định các lệ về sự buôn-bán ở nước Nam. Đến 20 tháng 7, thì tờ thương-ước lập
xong.
CHƯƠNG X
Tình thế
nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau
1. Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh
2. Giặc ở Bắc-kỳ
3. Sự giao-thiệp với Tàu
4. Tình-thế nước Tàu
5. Sự giao-thiệp với nước Pháp
1. Văn-thân nổi loạn ở Nghệ-tỉnh.
Nhờ có ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường thu xếp việc Bắc-kỳ vừa xong, thì ở mạn Nghệ-tĩnh có loạn.
Nhờ có ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường thu xếp việc Bắc-kỳ vừa xong, thì ở mạn Nghệ-tĩnh có loạn.
Nguyên
lúc bấy giờ dân trong nước ta chia ra làm hai phái: bên lương, bên giáo; hai
bên vẫn không ưa nhau. Đến khi sảy ra việc đại-úy Francis Garnier lấy Hà-nội,
bọn sĩ phu ở mạn Nghệ-tĩnh thấy giáo-dân có nhiều người theo giúp ông ấy, thì
lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá.
Tháng
giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, đất Nghệ-an có hai người
tú-tài là Trần Tấn và Đặng như Mai hội-tập cả các văn- thân trong hạt, rồi làm
một bài hịch gọi là " Bình Tây sát tả ", đại lược nói rằng "
Triều-đình dẫu hòa với với Tây mặc lòng sĩ-phu nước Nam vẫn không chịu, vậy
trước nhất xin giết hết giáo-dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết, để giữ
lại cái văn-hóa của ta đã hơn 1000 năm nay, v. v..." Bọn Văn- thân cả thảy
độ non hơn ba nghìn người, kéo đi đốt phá những làng có đạo.
Nước ta
mà không chịu khai-hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ-phu cứ giữ thói
cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi.
Nay sự suy-nhược của mình đã sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở
mắt ra mà nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà việc nông-nỗi càn-rỡ, để cho
thiệt hại thêm, như thế thì cái tội trạng của bọn sĩ-phu đối với nước nhà chẳng
to lắm ru!
Lúc bấy
giờ quan tổng-đốc Nghệ-an là ông Tôn thất Triệt lại có ý dung-túng bọn
Văn-thân, cho nên họ càng đắc thế càng phá dữ. Triều-đình thấy vậy, mới truyền
bắt quan quân phải dẹp cho yên. Bọn Văn-thân thấy quan quân đuổi đánh, bèn cùng
với bọn giặc Trần quang Hoán, Trương quan Phủ, Nguyễn huy Điển đánh lấy thành
Hà-tĩnh, rồi ra vây phủ Diễn-châu.
Triều-đình
thấy thế giặc càng ngày càng to, bèn sai ông Nguyễn văn Tường ra làm khâm-sai
và ông Lê bá Thận làm tổng-thống, đem quân ra đánh dẹp, từ tháng 2 đến tháng 6
mới xong.
2. Giặc ở Bắc-kỳ.
Thuở ấy ở mạn Thượng-du đất Bắc-kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh mãi không được, phải nhờ quân Tàu sang đánh giúp cũng không xong.
Thuở ấy ở mạn Thượng-du đất Bắc-kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh mãi không được, phải nhờ quân Tàu sang đánh giúp cũng không xong.
Mạn
Hải-dương và Quảng-yên thì vẫn có những người mạo xưng là con-cháu nhà Lê, cứ
quấy-rỗi mãi. Khi Francis Garnier ra lấy Hà-nội, những người ấy về xin theo đi
đánh quân ta, nhưng vì sau nước Pháp trả lại các tỉnh ở Bắc-kỳ, họ lại tản
đi. và từ khi nước ta và nước Pháp đã ký
hòa-ước rồi, quan Pháp có đem binh-thuyền đi đánh giúp, cho nên mới diệt được
đảng ấy.
Còn ở
mạn Tuyên-quang, thì có giặc cờ vàng nhũng-nhiễu đã lâu. Quan quân phải đánh
dẹp mãi không được. Đến tháng 8 năm ất-hợi (1875), là năm Tự-đức thứ 28, tướng
cờ vàng là Hoàng sùng Anh đem quân về đóng ở làng Châu-thượng, thuộc phủ
Vĩnh-tường. Bấy giờ quan quân tán-dương quân-vụ tỉnh Sơn-tây là Tôn thất Thuyết
về đánh một trận. Giặc ấy từ đó tan
dần.
Năm sau
Tôn thất Thuyết lại giết được tên giặc Trận ở làng Cổ-loa, và dẹp yên được ở
mạn Sơn-tây. Nhưng đến năm mậu-dần (1878), ở Lạng- sơn lại có tên giặc Khách là
Lý dương Tài nổi lên.
Lý dương Tài trước làm
quan hiệp-trấn ở
Tầm-châu, thuộc tỉnh Quảng-tây, sau bị cách mới nổi lên làm
giặc và đem quân tràn sang đánh lấy tỉnh
Lạng-sơn. Quan ta
đem thư sang cho
quan Tàu
biết. Quan đề-đốc Quảng-tây là
Phùng tử Tài đem quân 26 doanh sang cùng với quân ta hội- tiễu. Đến tháng 9 năm kỷ-mão (1879), quan quân mới
bắt được Lý dương Tài ở núi Nghiêm-hậu
thuộc tỉnh Thái-nguyên đem giải sang Tàu.
Vì đất
Bắc-kỳ cứ có
giặc giã luôn
cho nên Triều-đình
đặt ra chức Tĩnh-biên-sứ để giừ các nơi về đường
ngược. Năm canh-thìn (1880), đặt ra Lạng-giang-đạo và Đoan-hùng-đạo sai hai
viên Tĩnh-biên phó-sứ là Trương
quang
Đản đóng ở Lạng-giang và Nguyễn hữu Độ đóng ở Đoan-hùng, lại phong cho Hoàng kế
Viêm là Tĩnh-biên-sứ, kiêm cả hai đạo .
3. Sự giao-thiệp với Tàu.
Nước ta từ xưa đến nay tuy là độc-lập, nhưng vẫ giữ lệ triều-cống nước Tàu, lấy cái nghĩa rằng nước nhỏ phải tôn- kính nước lớn. cho nên khi chiến-tranh, dẫu ta có đánh được Tàu đi nữa, thì rồi nhà nào lên làm vua cũng phải theo cái lệ ấy, mà đời nào cũng lấy điều đó làm tự-nhiên vì rằng triều-cống cũng không tổn hại gì mấy, mà nước vẫn độc-lập và lại không hay có việc lôi-thôi với một nước láng-diềng mạnh hơn mình. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ sang Tàu cầu phong, và cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.
Nước ta từ xưa đến nay tuy là độc-lập, nhưng vẫ giữ lệ triều-cống nước Tàu, lấy cái nghĩa rằng nước nhỏ phải tôn- kính nước lớn. cho nên khi chiến-tranh, dẫu ta có đánh được Tàu đi nữa, thì rồi nhà nào lên làm vua cũng phải theo cái lệ ấy, mà đời nào cũng lấy điều đó làm tự-nhiên vì rằng triều-cống cũng không tổn hại gì mấy, mà nước vẫn độc-lập và lại không hay có việc lôi-thôi với một nước láng-diềng mạnh hơn mình. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ sang Tàu cầu phong, và cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.
Các vua
đời nhà Nguyễn cũng theo lệ ấy, nhưng các đời vua trước thì vua phải ra Hà-nội
mà tiếp sứ Tàu và thụ phong cho. Đến đời vua Dực- tông thì sứ Tàu vào tại Huế
phong vương cho ngài.
Còn
những cống phẩm thì cứ theo lệ, mà thường chỉ đưa sang giao cho quan Tổng-đốc
Lưỡng-Quảng để đệ về Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến Yên-kinh. Trong đời
vua Dực-tông thì sử chép rằng năm mậu-thìn (1868), có ông Lê Tuấn, ông Nguyễn
tư Giản và ông Hoàng Tịnh sang sứ Tàu. Năm quí-dậu (1873), lại có các ông Phan
sĩ Thục, ông Hà văn Khai, và ông Nguyễn Tu sang sứ Tàu, để bày tỏ việc đánh
giặc Khách ở Bắc-kỳ.
Từ năm
giáp-tuất (1874) trở đi, Triều-đình ở Huế đã ký tờ hòa-ước với Pháp, công nhận
nước Nam độc-lập, không thần-phục nước nào nữa, nhưng lúc bấy giờ vì thế
bất-đắc-dĩ mà ký tờ hòa-ước, cứ trong bụng vua Dực-tông vẫn không phục, cho nên
ngài vẫn cứ theo lệ cũ mà triều-cống nước Tàu, có ý mong khi hữu sự, nước Tàu
sang giúp mình. Bởi vậy năm bính-tí (1876), vua Dực-tông sai ông Bùi ân Niên
tức là ông Bùi Dỵ, ông Lâm Hoành và ông Lê Cát sang sứ nhà Thanh. Năm canh-thìn
(1880), lại sai ông Nguyễn Thuật, Trần Khánh Tiên, Nguyễn Hoang sang Yên-kinh
dâng biểu xưng thần và các đồ cống-phẩm. Năm sau, Triều-đình nhà Thanh sai
Đường đình Canh sang Huế bàn việc buôn-bán và lập cuộc chiêu thương, chủ ý là
để thông tin cho chính phủ Tàu biết mọi việc bên nước ta.
Một bên
đã hòa với nước Pháp, nhận theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp mà
độc-lập168, một bên cứ triều-cống nước Tàu, có ý để cầu viện, bởi thế cho nên
chính phủ Pháp lấy điều đó mà trách Triều-đình ta vậy.
4. Tình-thế nước Tàu. Xưa nay ta vẫn công
nhận nước Tàu là thượng-quốc và vẫn phải lệ triều-cống. Hễ khi nào trong nước
có việc biến- loạn và vẫn trông mong nước Tàu sang cứu-viện. Không ngờ từ thế-kỷ thứ XIX trở đi, thế lực
các nước bên Tây-âu mạnh lên, người phương Tây đi lược địa rất nhiều, mà tình
thế nước Tàu thì rất là suy-nhược. Năm Đạo-quang thứ 19 (1839) tức là năm
Minh-mệnh thứ 20 bên ta, vì việc cấm thuốc nha- phiến ở Quảng-đông thành ra có
chiến-tranh với nước Anh-cát-lợi. Quân nước Anh đánh phá thành Ninh-ba,
Thương-hải, v. v. Vua Đạo Quang phải nhận những điều hòa-ước năm nhâm-dần
(1842) làm tại Nam-kinh, nhường đảo Hương-cảng cho nước Anh và mở những thành
Quảng-châu, Hạ-môn, Phúc-châu, Ninh-ba và Thương-hải ra cho ngoại quốc vào
buôn-bán.
Cuộc
hòa-ước ở Nam-kinh định xong, các nước ngoại-dương vào buôn-bán ở nước Tàu và đặt
lĩnh-sự ở Quảng-châu, Ninh-ba, Thương-hải, v.
v. Đến
năm Hàm-phong thứ 8 (1858), tức là năm Tự-đức thứ 11, nước Anh và nước Pháp ký
tờ hòa-ước với nước Tàu, đặt sứ-thần ở Bắc-kinh. Đoạn nước Tàu có điều trái
ước, gây thành việc chiến-tranh với hai nước ấy. Quân nước Anh và nước Pháp
đánh lấy hải-khẩu, rồi kéo lên đánh lấy Bắc-kinh. Vua Hàm-phong phải nhận những
điều hòa-ước năm canh-thân (1860) làm tại Thiên-tân.
Từ đó
nước Tàu bị các nước khác sách-nhiễu mọi
điều và bị đè nén nhiều cách. Lúc ấy
nước Tàu chẳng khác gì cái nhà lớn đã bị hẩm-nát sắp đổ, mà ta vẫn không tỉnh
ngộ, cứ mê-mộng là nước ấy còn cường thịnh, có thể giúp ta được trong khi
nguy-hiểm. Bởi vậy khi quân nước Pháp đã lấy Bắc-kỳ rồi,
người mình còn
trông cậy ở
quân cứu-viện của
nước Tàu. Phương-ngôn ta có câu
rằng " Chết đuối vớ phải bọt " thật là đúng lắm. Nếu người Tàu có đủ
thế lực cứu được ta, thì trước hết họ hãy cứu lấy họ đã. Nhưng lúc bấy giờ từ
vua quan cho chí bọn sĩ-phu trong nước ta, ai là người hiểu rõ cái tình-thế ấy
? Cho nên không những là ta không chịu
cải cách chính thể của ta cho hợp thời mà lại còn làm những điều ngang-ngạnh để
cho chóng hỏng việc. Ấy cũng là cái vận nước chẳng may, song những người đương
lộ lúc ấy cũng không so tránh được cái lỗi của mình vậy.
5. Sự giao-thiệp với nước Pháp.
Từ khi ông Philastre ra điều- đình mọi việc ở Bắc-kỳ xong rồi, ông Rheinart ra thay ở Hà-nội, đợi cho đến ngày ký hòa-ước thì chiếu mọi khoản mà thi hành. Ông Rheinart ở được mấy tháng, rồi về lại Sài-gòn, giao quyền cho lục-quân thiếu-tá Dujardin (La- Đăng). Thiếu-tá có đem binh-thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hải- dương và Quảng-yên.
Từ khi ông Philastre ra điều- đình mọi việc ở Bắc-kỳ xong rồi, ông Rheinart ra thay ở Hà-nội, đợi cho đến ngày ký hòa-ước thì chiếu mọi khoản mà thi hành. Ông Rheinart ở được mấy tháng, rồi về lại Sài-gòn, giao quyền cho lục-quân thiếu-tá Dujardin (La- Đăng). Thiếu-tá có đem binh-thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hải- dương và Quảng-yên.
168 Tờ
hòa ước năm giáp tuất 1874
Đến khi
tờ hòa-ước và tờ thương-ước đã ký xong thì Triều-đình sai ông Nguyễn tăng Doãn
ra Bắc-kỳ để cùng thiếu-tá Dujardin chọn đất ở Hà- nội và ở Ninh-hải
(Hải-phòng) để làm dinh làm trại cho quan quân nước Pháp đóng, và lại sai quan
thượng-thư bộ Hộ là ông Phạm phú Thứ ra làm Hải-an tổng-đốc sung chức tổng-lý
thương-chánh đại-thần, cùng với ông Nguyễn tăng Doãn và ông Trần hi Tăng bàn
định việc thương-chánh ở Bắc- Kỳ.
Tháng 6
năm ất-hợi (1875) chính phủ nước Pháp sai ông Rheinart sang làm khâm-sứ ở Huế,
ông Truc làm lĩnh-sự ở Hải-phòng, và ông Kergaradec (Kê-la-đích) làm lĩnh-sự ở
Hà-nội. Triều-đình sai ông Nguyễn thành Ý vào làm lĩnh sự ở Sài-gòn.
Ông
Rheinart ở Huế đến tháng 10 năm bính-tí (1876), thì cáo bịnh xin về, ông
Philastre ra thay.
Triều-đình
lúc bấy giờ cũng đã hiểu rằng hễ không theo tân-học thì không tiến-hóa được,
cho nên mới định cho người đi du học. Năm mậu-dần (1878), bên Pháp có mở hội
vạn quốc đấu-xảo ở Paris, vua sai ông Nguyễn thành Ý và ông Nguyễn tăng Doãn
đem đồ đi đấu-xảo và cho người sang học ở Toulon.
Nhưng vì
năm tân-tị (1881), Triều-đình lại sai quan Lễ-bộ thị-lang là Phạm Bính sang
Hương-cảng, đem 12 đứa trẻ con đi học ở trường Anh-cát- lợi, rồi lại sai sứ đi
sang Tiêm-la và sang Tàu mà không cho sứ-thần nước Pháp biết, bởi vậy chính-phủ
Pháp lấy những điều đó mà trách Triều-đình ở Huế không theo hòa-ước năm
giáp-tuất (1874).
Khi ông
Philastre còn ở Huế, vì ông ấy là một người công chính và lại có học chữ Nho,
cho nên Triều-đình ta trọng-đãi và có điều gì trang-trải cũng còn dễ. Từ năm kỷ-mão (1879) về sau, ông ấy về Pháp
rồi, sự giao- thiệp càng ngày càng khó thêm: phần thì vì người mình không biết
cách giao thiệp với ngoại-quốc, phần thì cái quyền-lợi nước ta và nước Pháp lúc
bấy giờ tương-phản với nhau, cho nên hai bên không có lòng tin-cậy nhau, thành
ra sự giao-thiệp không được thân-thiết lắm.
Vả về
sau, sự cai-trị ở Nam-kỳ đã thành nếp, giặc giã đã yên cả; ở bên Pháp thì thế
lực đã mạnh, và đã có nhiều người bàn đến việc bên Viễn- đông này và việc
bảo-hộ ở Bắc-kỳ. Lại nhân có những nước I-ta-ly. I-pha- nho, Anh-cát-lợi và
Hoa-kỳ muốn sang thông-thương với nước Nam, mà có ý không muốn
chịu để quan
nước Pháp phân-xử
những việc can-thiệp
đến người những nước ấy. Bởi vậy nước Pháp muốn lập hẳn cuộc bảo-hộ để
cho khỏi mọi
sự lôi thôi, bèn bỏ lệ đặt quan hải-quân khiêm lĩnh chức thống-đốc ở Nam-kỳ,
mà sai quan văn sang sung chức ấy để trù-tính mọi việc.
Tháng 6
năm kỷ-mão (1879), viên thống đốc mới là ông Le Myre de Vilers sang nhận chức ở
Sài-gòn và ông Rheinart lại sang làm khâm-sứ ở Huế để thay cho ông Philastre.
Bắc-kỳ
thì người Pháp đã ra vào buôn-bán, nhưng vì quan ta không biết lo sự khai hóa,
việc thông thương không được tiện-lợi, và ở mạn thượng-du thì có quân cờ đen
tuy là mượn tiếng theo lệnh quan ta, nhưng kỳ thực chúng nó làm gì cũng không
ai ngăn cấm được. Bởi vậy, chính-phủ Pháp
mới lấy những điều đó mà trách quan ta và sai quan đem quân ra Bắc- kỳ, lấy
cớ nói ra
mở mang sự
buôn-bán, kỳ thực
là ra kinh-doanh
việc ở vùng ấy.
CHƯƠNG
XI
Quân
Pháp Lấy Bắc Kỳ Lần Thứ II
1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội
2. Hạ thành Hà Nội lần thứ hai
3. Việc cầu cứu nước Tàu
4. Quân Pháp lấy Nam Định
1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội.
- Cuối năm Tân Tỵ (1881)169, nhân có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam, nhưng lên đến gần Lào Kay, bị quân Khách làm ngăn trở, không đi được. Viên thống đốc Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên dùng binh lực mà cho dẹp cho yên đất Bắc Kỳ. Sang tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1882), một mặt thống đốc sai hải quân đại tá Henri Rivière sắp sửa binh thuyền ra Hà Nội; một mặt viết thư vào Huế, đại lược nói rằng : đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người nước Pháp có giấy thông hành của quân An Nam cấp cho mà đi đến đâu cũng bị quân Khách ngăn trở. Ở Huế thì quan Việt Nam thất lễ với quan khâm sứ Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh vực quyền lợi của người nước Pháp.
- Cuối năm Tân Tỵ (1881)169, nhân có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam, nhưng lên đến gần Lào Kay, bị quân Khách làm ngăn trở, không đi được. Viên thống đốc Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên dùng binh lực mà cho dẹp cho yên đất Bắc Kỳ. Sang tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1882), một mặt thống đốc sai hải quân đại tá Henri Rivière sắp sửa binh thuyền ra Hà Nội; một mặt viết thư vào Huế, đại lược nói rằng : đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người nước Pháp có giấy thông hành của quân An Nam cấp cho mà đi đến đâu cũng bị quân Khách ngăn trở. Ở Huế thì quan Việt Nam thất lễ với quan khâm sứ Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh vực quyền lợi của người nước Pháp.
Được ít
lâu, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm quân ra đến Hải Phòng,
rồi đi tàu nhỏ lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thủy.
2. Hạ thành Hà-nội lần thứ hai. Quan tổng
đốc Hà Nội bấy giờ là ông Hoàng Diệu thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc
Kỳ, lấy làm nghi kỵ lắm, tuy có sai quan tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đãi tử
tế, nhưng trong bụng vẫn lo, cho nên mới sai sửa dọn thành trì để phòng bị. Đại
tá Henri Rivière vào thành thấy vậy có ý không bằng lòng, bèn quyết ý đánh
thành.
Sáng 5
giờ ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1882), quan tổng đốc tiếp được tờ tối hậu
thư của đại tá hạn cho đến 8 giờ phải giải binh, và các quan võ Việt Nam phải
ra đợi lệnh ở Đồn Thủy. Đúng 8 giờ thì quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ thì
thành đổ. Ông Hoàng Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, còn các quan thì bỏ
chạy cả.
Lúc tiếp
được thư của đại tá, thì ông Hoàng Diệu có sai Án sát sứ là Tôn Thất Bá ra
thương thuyết. Ông Tôn Thất Bá ở trên thành bỏ thang trèo xuống vừa xong, thì
quân Pháp bắn súng vào thành, ông ấy bỏ trốn mất. Đến khi hạ được thành rồi,
đại tá sai tìm ông Tôn Thất Bá về quyền lĩnh mọi việc170.
Vua Dực
Tông được tin thành Hà Nội thất thủ, bèn xuống chiếu truyền cho quan kinh lược
chánh phó sứ là là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên đem
binh lui về
mặt Mỹ Đức
để cùng với
Hoàng Kế Viêm
tìm cách chống giữ. Nhưng quan
khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc đánh thành Hà Nội không phải là chủ
ý của nước Pháp, và xin sai quan ra giữ lấy thành trì. Triều đình bèn sai quan
nguyên Hà Ninh tổng đốc là Trần Đình Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên
phó sứ là Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri
Rivière thu xếp mọi việc. Đại tá trả thành Hà Nội cho quan ta, nhưng vẫn đóng
quân ở trong Hành cung. Hai bên thương
nghị mãi. Đại tá đòi 4 khoản :
1 - nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ
2 - phải nhường thành thị Hà Nội cho nước
Pháp
3 - đặt thương chánh ở Bắc Kỳ
3 - đặt thương chánh ở Bắc Kỳ
4 - sửa
lại việc thương chánh ở các nơi, và giao quyền cho người Pháp cai quản.
Bọn ông
Trần Đình Túc đệ những khoản ấy về Kinh. Triều đình hội nghị, các
quan có nhiều
người nói rằng
: nước ta
trong còn có
Lưu Vĩnh Phúc, ngoài còn có nước
Tàu, lẽ nào lại bó tay mà chịu. Bèn trả lời không chịu.
Đến
tháng 10 thì ông Trần Đình Túc về Huế, ông Nguyễn Hữu Độ ở lại làm
Hà Ninh tổng đốc.
3. Việc cầu-cứu nước Tàu. Triều đình ta bấy
giờ nghĩ nước Pháp cố ý chiếm đoạt, và lại tưởng rằng nước Tàu có thể bênh vực
được mình, cho nên mới sai ông Phạm Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu. Chẳng qua
169 Độc
giả hiểu cho rằng những ngày tháng chép trong sách này là theo ngày tháng Việt
Nam chứ không phải là theo ngày tháng Tây.
170 Về
sau có bài Chính Khí Ca nói về việc quan ta giữ thành Hà Nội lúc bấy giờ, và ai
hay ai dở cũng chép rõ ràng. Bài ca ấy không biết ai làm.
là người
mình có hay có tính ỷ lại, cho nên mới đi kêu cầu người ta, chứ không biết rằng
người Tàu giữ nước Tàu không xong còn đi cứu ai được. Tuy vậy, không những
người Tàu không cứu được mình mà lại còn muốn nhân dịp để mượn tiếng sang lấy
nước mình. Xem như khi thành Hà nội thất
thủ, quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh làm mật sớ về tâu với vua
nhà Thanh, đại lược nói rằng : "nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà
thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn
tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến thì ta
chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng Hà". Bởi vậy triều đình nhà
Thanh mới sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và ở
Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân sang tiếp
ứng.
4. Quân Pháp lấy Nam-định. Chính phủ Pháp
trước cũng muốn thu xếp dần dần cho xong việc bảo hộ ở nước Nam, và cho khỏi sự
chiến tranh, nhưng sau thấy Triều đình ở Huế không chịu, lại thấy có quân Tàu
sang đóng ở các tỉnh, bèn một mặt sai ông Charles Thomson sang làm thống đốc
Nam Kỳ, để thay cho ông Le Myre de Vilers về Pháp; một mặt tiếp quân cho đại tá
Henri Rivière và triệu quan khâm sứ Rheinart ở Huế về.
Nguyên
trước đại tá Henri Rivière ở Hà Nội chỉ có 400 lính, sau lại tiếp được 750
người nữa, đại tá bèn để đại úy Berthe de Villers với 400 quân ở lại giữ Hà
Nội, còn bao nhiêu đem đi đánh Nam Định. Ngày 28 tháng 2 năm Quý Mùi (1883),
thì quân Pháp khởi sự đánh thành. Đánh từ sáng dến trưa thì quân Pháp vào
thành; quan tổng đốc Vũ Trọng Bình bỏ chạy, quan đề đốc Lê Văn Điếm tử trận,
quan án sát sứ Hồ Bá Ôn bị thương.
5. Đại tá Henri Rivière bị chết. Quan
ta thấy quân
Pháp tiến binh, và lại cậy có quân Tàu sang cứu, bèn quyết ý đổi thế hòa
ra thế công. Một mặt quan tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản cùng với quan
phó kinh lược Bùi Ân Niên đem binh về đóng ở Giốc Gạch, thuộc huyện Gia Lâm
chực sang đánh Hà Nội. Đại úy Berthe de Villers đem quân ở Hà Nội sang đánh
đuổi, quan quân phải lui về phía Bắc Ninh. Một mặt quan tiết chế Hoàng Kế Viêm
sai Lưu Vĩnh Phúc làm tiên phong đem quân về đóng phủ Hoài Đức, để đánh quân
Pháp.
Đại tá
Henri Rivière lấy xong Nam Định rồi về Hà Nội thấy quân ta và quân cờ đen sắp
đến đánh, bèn truyền lệnh tiến binh lên đánh mặt phủ Hoài Đức. Sáng hôm 13
tháng 4 thì đại tá đem 500 quân ra đánh ở mạn Cầu Giấy, bị quân cờ đen phục ở
chung quanh đổ ra đánh, quân Pháp chết và bị thương
đến non 100 người. Đại tá Henri Rivière tử trận, đại úy Berthe de Villers bị
thương nặng.
Sài Gòn
được tin đại tá Henri Rivière chết, viên thống đốc Thomson liền điện về cho
chính phủ Pháp biết. Lúc bấy giờ ở Paris
hạ nghị viện còn đang do dự về việc đánh lấy Bắc Kỳ. Khi tiếp được điện báo ở Sài Gòn về, nghị
viện liền thuận cho chính phủ trích ra 5 triệu rưỡi phật lăng để chi tiêu về
việc binh phí, và lại thuận cho một viên quan văn làm toàn quyền, sang kinh lý
mọi việc ở Bắc Kỳ.
Chính
phủ Pháp liền điện sang truyền cho lục quân thiếu tướng Bouet ở Nam Kỳ ra thống
đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, sai Hải quân thiếu tướng Courbet đem một đội chiến thuyền
sang tiếp ứng và lại cử ông Harmand là sứ thần Pháp ở Tiêm La ra làm toàn quyền.
Ngày
mồng 3 tháng 5, thì thiếu tướng Bouet đem 200 lính tây, 300 lính tập ra đến Hải
Phòng. Lập tức thiếu tướng sửa sang sự chống giữ ở Hà Nội và Nam Định, và lại
cho Georges Vlavianos (ông Kiều) là người theo Đồ Phổ Nghĩa ngày trước, được
phép mộ lính cờ vàng đi làm tiền quân.
Quan ta
đem quân về đánh quân Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng và ở
Nam
Định, nhưng chỗ nào cũng thất bại.
Quân ta
bấy giờ không có thống nhất, ai đứng lên mộ được năm ba trăm người cho mang
gươm mang giáo đi đánh, hễ phải độ vài ba phát đạn trái phá thì xô đẩy nhau mà
chạy; còn quân của nhà vua thì không có luyện tập, súng đại bác toàn là súng
cổ, súng tay thì ít và xấu. Như thế thì chống làm sao được với quân Pháp là
quân đã quen đánh trận và lại có đủ súng ống tinh nhuệ?
Bấy giờ cuộc
hòa đổi ra chiến, súy phủ ở Sài Gòn đuổi quan lĩnh sự Việt Nam là ông Nguyễn
Thành Ý về Huế. Trong khi việc nước đang rối cả lên như thế, thì vua Dực Tông
mất.
Ngài mất
ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (1883), trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu
là Dực Tông Anh Hoàng Đế.
CHƯƠNG
XII
Cuộc Bảo
Hộ Của Nước Pháp
1. Sự phế lập ở Huế : vua Hiệp Hòa.
2. Quân Pháp lấy cửa Thuận An.
3. Hòa ước năm Quý Mùi (1883).
4. Việc ở Bắc Kỳ.
5. Vua Hiệp Hòa bị giết.
6. Vua Kiến Phúc.
7. Sự đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ.
8. Lấy tỉnh Sơn Tây.
9. Lấy thành Bắc Ninh.
10. Lấy Hưng Hóa.
11. Lấy Tuyên Quang.
12. Hòa ước Fournier.
13. Hòa ước Patenôtre tháng 6 năm Giáp Thân.
14. Việc Triều chính ở Huế.
15. Vua Hàm Nghi.
1. Sự phế lập tại Huế: Vua Hiệp Hòa.
Bản triều nhà Nguyễn truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông thì mất quyền tự chủ. Nước Nam từ đó thuộc về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua tuy vẫn còn, nhưng quyền chính trị phải theo chính phủ Bảo Hộ xếp đặt.
Bản triều nhà Nguyễn truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông thì mất quyền tự chủ. Nước Nam từ đó thuộc về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua tuy vẫn còn, nhưng quyền chính trị phải theo chính phủ Bảo Hộ xếp đặt.
Ấy cũng
vì thời đại biến đổi mà người mình không biết biến đổi, cho nên nước mình mới
thành ra suy đồi. Vả lúc ấy ở ngoài Bắc
Kỳ thì rối loạn, ở trong Triều thì quyền thần chuyên chế, bởi vậy cho nên lại
sinh ra lắm việc khó khăn171.
Vua Dực
Tông không có con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi : trưởng là ông Dục Đức172,
phong Thụy quốc công, thứ là ông Chánh Mông, phong Kiên giang quận công, ba là
ông Dưỡng Thiện. Khi ngài sắp mất, có để di chiếu nói rằng : đức tính ông Dục
Đức không đáng làm vua, mà ý ngài muốn lập ông Dưỡng Thiện, nhưng vì ông ấy còn
bé, mà việc nước cần phải có vua lớn tuổi, cho nên phải lập con trưởng. Ngài
lại cho Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính.
Được ba
ngày thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ ông Dục Đức mà
lập em vua Dực Tông là Lạng quốc công lên làm vua. Triều thần ngơ ngác, không ai dám nói gì,
chỉ có quan ngự sử Phan Đình Phùng đứng dậy can rằng : "Tự quân chưa có
tội gì mà làm sự phế lập như thế thì sao phải lẽ". Nguyễn Văn Tường và Tôn
Thất Thuyết truyền đem bắt giam Phan Đình Phùng, rồi cách chức đuổi về.
Lạng
quốc công, húy Hồng Dật lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hòa. Còn ông Dục Đức
thì đem giam ở Dục Đức giảng đường.
2. Quân Pháp lấy cửa Thuận An. Vua Hiệp Hòa
vừa lập xong, thì viên Toàn quyền mới là ông Harmand đến Hải Phòng, rồi hội hải
quân thiếu tướng Courbet và lục quân thiếu tướng Bouet, để bàn định mọi việc.
Định một
mặt thì thiếu tướng Bouet đem quân lên đánh lấy đồn phủ Hoài; một mặt thì thiếu
tướng Courbet đem tàu vào đánh lấy cửa Thuận An, để bắt triều đình phải nhận
nước Pháp bảo hộ.
Ngày 12
tháng 7, thiếu tướng Bouet lên đánh quân Cờ Đen ở mạn làng Vòng. Hai bên đánh
nhau non ba ngày trời. Sau quân Cờ Đen phải lùi lên đóng ở Đồn Phùng. Nhưng vì
lúc bấy giờ nước lũ lên to, đê vỡ nên quân Pháp không tiến lên được.
Ngày 16,
lục quân trung tá Brionval ở Hải Phòng đem quân lên lấy thành Hải Dương.
Quân
Pháp tuy thắng, nhưng quân Cờ Đen còn mạnh, nên chi thiếu tướng Bouet phải điện
về Paris xin thêm quân tiếp ứng.
171
Những chuyện ở trong Triều lúc bấy giờ, phần nhiều là lấy ở quyển "Hạnh
Thục Ca", của Lễ Tân Nguyễn Nhược thị. Bà ấy là một người cung phi của vua Dực Tông sau lại làm thư ký cho bà
Từ Dụ, cho nên những việc trong triều bà ấy biết rõ được rõ.
172 Dục
Đức, Chánh Mông, Dưỡng Thiện là tên nhà học của những ông Hoàng con nuôi vua
Dực Tông gọi là Dục Đức đường, Chánh Mông đường, v.v. Lúc các ông Hoàng ấy chưa được phong
thì
người ta cứ lấy tên nhà học mà gọi.
Trong
khi lục quân thiếu tướng Bouet tiến quân đánh tại Bắc Kỳ, thì hải quân thiếu
tướng Courbet cùng với viên toàn quyền Harmand đem tàu vào đánh cửa Thuận An,
từ ngày 15 đến ngày 18 tháng bảy thì thành Trấn Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê
Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân thì nhảy xuống sông tự tử.
3. Hòa ước năm quý-mùi (1883).
Triều đình thấy sự nguy cấp, liền sai quan ra xin hòa. Viên toàn quyền Harmand bắt quan ta phải giải binh cả mọi nơi, rồi cùng với ông De Champeaux lên Huế để nghị hòa. Triều đình sai quan Hiệp biện hưu trí là Trần Đình Túc làm khâm sai toàn quyền, và Nguyễn Trọng Hợp làm phó, để cùng với quan Pháp hội nghị.
Triều đình thấy sự nguy cấp, liền sai quan ra xin hòa. Viên toàn quyền Harmand bắt quan ta phải giải binh cả mọi nơi, rồi cùng với ông De Champeaux lên Huế để nghị hòa. Triều đình sai quan Hiệp biện hưu trí là Trần Đình Túc làm khâm sai toàn quyền, và Nguyễn Trọng Hợp làm phó, để cùng với quan Pháp hội nghị.
Ngày 23
tháng 7 thì tờ hòa ước lập xong, có chữ ông Harmand, ông De Champeaux, ông Trần
Đình Túc và ông Nguyễn Trọng Hợp cùng ký.
Tờ Hòa
ước có 27 khoản :
- Khoản thứ nhất nói rằng : Nước Nam chịu
nhận nước Pháp bảo hộ, có việc gì giao thiệp với ngoại quốc thì phải do nước
Pháp chủ trương.
- Khoản thứ hai : Tỉnh Bình Thuận thuộc về
Nam Kỳ.
- Khoản thứ ba : Quân Pháp đóng giữ ở núi
đèo Ngang và ở Thuận An.
- Khoản thứ sáu : Từ tỉnh Khánh Hòa ra đến
đèo Ngang thì quyền cai trị thuộc về Triều đình.
Những
khoản sau nói rằng viên khâm sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết kiến nhà
vua. Còn đất Bắc Kỳ kể từ đèo Ngang trở
ra thì nước Pháp đặt công sứ173 ở các tỉnh để kiểm soát những công việc của quan
Việt Nam. Nhưng người Pháp không dự vào việc cai trị ở trong hạt.
Từ hòa
ước ký xong, gửi về Paris để chính phủ duyệt y, rồi mới hỗ giao, nghĩa là mới
tuyên cáo cho thiên hạ biết. Ông De Champeaux ở lại Huế làm khâm sứ, viên toàn
quyền Harmand ra Bắc Kỳ để kinh lý việc đánh dẹp.
4. Việc ở Bắc Kỳ.
Triều đình ở Huế nhận hòa ước xong rồi, sai quan Lại bộ thượng thư Nguyễn Trọng Hợp làm Khâm sai đại thần, quan Công bộ Thượng thư Trần Văn Chuẩn và quan Lại bộ tham tri Hồng Phi làm phó khâm sai, ra Bắc Kỳ để cùng với viên Toàn quyền Harmand hiểu dụ nhân dân và bãi quân thứ ở các nơi.
Triều đình ở Huế nhận hòa ước xong rồi, sai quan Lại bộ thượng thư Nguyễn Trọng Hợp làm Khâm sai đại thần, quan Công bộ Thượng thư Trần Văn Chuẩn và quan Lại bộ tham tri Hồng Phi làm phó khâm sai, ra Bắc Kỳ để cùng với viên Toàn quyền Harmand hiểu dụ nhân dân và bãi quân thứ ở các nơi.
173
Résident tức là lưu trú quan, nhưng lúc bấy giờ ta chưa quen dùng chữ ấy, và
nhân có chữ consul cho nên mới dùng chữ công sứ.
Bấy giờ
ở Bắc Kỳ có quan nhà Thanh là Dương Cảnh Tùng đóng ở Sơn Tây, Từ Diên Húc đóng
ở Bắc Ninh, lại có quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đóng ở đồn Phùng.
Triều
đình tuy có chỉ ra truyền cho quan ta phải rút quân về Huế, nhưng quan ta còn
nhiều người muốn ỷ nước Tàu mà chống giữ với quân Pháp, cho nên không ai phụng
chỉ. Bởi vậy cuộc chiến tranh ở Bắc Kỳ mãi không xong được.
5. Vua Hiệp Hòa bị giết.
Trong Huế thì vua Hiệp Hòa cũng muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi vua, nhưng các quan có nhiều người không chịu, và lại thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muốn dùng kế mà trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh bộ Thượng thư, Tôn Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn Thất Thuyết.
Trong Huế thì vua Hiệp Hòa cũng muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi vua, nhưng các quan có nhiều người không chịu, và lại thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muốn dùng kế mà trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh bộ Thượng thư, Tôn Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn Thất Thuyết.
Hai
người thấy vua có lòng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ Thái
hậu để lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba vua Dực Tông, rồi bắt vua Hiệp
Hòa đem ra phủ ông Dục Đức cho uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hòa làm vua được
hơn 4 tháng, sử gọi là Phế Đế.
Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã giết vua Hiệp Hòa rồi, lại thấy quan Phụ chính
Trần Tiễn Thành không theo ý mình, cũng sai người giết nốt.
6. Vua Kiến Phúc.
Ngày mồng 7 tháng 10 năm Quý Mùi (1883), ông Dưỡng Thiện, húy là Ưng Đăng lên ngôi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Bấy giờ ngài mới có 15 tuổi, việc gì cũng ở Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định cả.
Ngày mồng 7 tháng 10 năm Quý Mùi (1883), ông Dưỡng Thiện, húy là Ưng Đăng lên ngôi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Bấy giờ ngài mới có 15 tuổi, việc gì cũng ở Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định cả.
Bắc Kỳ
thì Hoàng Kế Viêm còn đóng tại Sơn Tây, Trương Quang Đản còn đóng tại Bắc Ninh,
cùng với quân Tàu chống giữ quân Pháp. Viên khâm sứ ở Huế lấy điều đó trách
Triều đình. Triều đình lại có dụ ra truyền cho Hoàng Kế Viêm và Trương Quang
Đản phải về kinh.
Các quan
bấy giờ cũng có ông về, cũng có ông nạp ấn trả Triều đình, rồi hoặc đi chiêu mộ
những người nghĩa dũng, hoặc đi theo quan nhà Thanh, để chống nhau với quân Pháp.
Bấy giờ có quan đề đốc Nam Định là Tạ Hiện lĩnh chức đề đốc của Tàu, và quan án
sát sứ Phạm Vụ Mẫn và quan tri phủ Kiến Xương Hoàng Văn Hòe bỏ chức mà đi; quan
tán tương quân vụ ở Sơn
Tây là Nguyễn Thiện Thuật bỏ về Hải Dương, đi mộ quân để chống giữ với quân
Pháp.
7. Sự đánh lấy các tỉnh ở Bắc Kỳ. Viên Toàn
quyền Harmand ra Bắc Kỳ sửa sang sự cai trị, lập ra những đội lính tuần cảnh,
tục gọi là lính khố xanh, để phòng giữ các nơi, và bãi lính cờ vàng của thiếu
tướng Bouet đã cho mộ được mấy trăm, vì những lính ấy hay cướp phá dân gian.
Nhưng vì viên Toàn quyền xâm vào quyền quan binh, cho nên thiếu tướng Bouet lấy
làm bất bình.
Ngày
mồng một tháng 8, thiếu tướng đem quân lên đánh Cờ Đen ở đồn Phùng. Hai bên
đánh nhau rất dữ. Quân Cờ Đen tuy phải lui, nhưng chưa thực thua. Thiếu tướng
thấy đánh giặc chưa được và lại có ý bất hòa với viên Toàn quyền, bèn xin về
Pháp, giao binh quyền lại cho đại tá Bichot.
Được ít
lâu, có quân tiếp ở Sài Gòn ra, đại tá Bichot bèn vào lấy tỉnh Ninh Bình.
8. Lấy Sơn Tây. Ngày 25 tháng 9, chính phủ
Pháp điện sang cho hải quân thiếu tướng Courbet làm thống đốc quân vụ, kiêm
chức Toàn quyền ở Bắc Kỳ. Viên nguyên
Toàn Quyền Harmand xin về Pháp.
Từ đó
việc binh nhung, việc cai trị và việc giao thiệp, ở cả tay thiếu tướng Courbet.
Trong khi thiếu tướng còn phải sửa sang mọi việc và đợi quân tiếp ở Pháp sang
thì quan ta đem quân về đánh Hải Dương, đốt cả phố xá. Quan Pháp nghi tỉnh thần thông với văn thân,
bèn bắt đầy vào Côn Lôn.
Đến khi
thiếu tướng tiếp được quân ở bên Pháp sang, số quân Pháp ở Bắc Kỳ bấy giờ được
hơn 9000 người, thiếu tướng chia ra làm hai đạo, đem cả thủy bộ tiến lên đánh
thành Sơn Tây. Đánh từ sáng ngày 13 đến hết ngày 16 mới hạ được thành. Quân Cờ
Đen chống giữ hăng lắm, nhưng quân ta và quân Tàu thấy súng của Pháp bắn lên
mạnh quá, đều bỏ thành rút lên mạn ngược, quân Cờ Đen cũng phải chạy theo Trận ấy quân Pháp bị 83 người tử trận và 319
người bị thương.
9. Lấy thành Bắc Ninh. Quân Pháp tuy đã lấy
dược Sơn Tây, nhưng quân Tàu càng ngày càng sang đông, thiếu tướng phải chờ có
quân tiếp thêm mới đi đánh chỗ khác. Bên
Pháp lại sai một lữ đoàn174 sang Bắc Kỳ và sai lục
quân trung tướng Millot sang làm thống đốc quân vụ thay cho hải quân thiếu
tướng Courbet.
Ngày 16
tháng giêng năm Giáp Thân (1884), thống tướng Millot sang nhậm chức, thiếu
tướng Courbet được thăng lên hải quân trung tướng và lại ra coi hải quân để giữ
mặt bể. Bấy giờ quân Pháp cả thảy được hơn 1 vạn 6 nghìn người và 10 đội pháo
thủ, chia làm 2 lữ đoàn. Một lữ đoàn ở bên hữu ngạn sông Hồng Hà thì đóng ở Hà
Nội, có thiếu tướng Brière de l'Isle coi; một lữ đoàn ở bên tả ngạn sông Hồng
Hà, thì đóng ở Hải Dương, có thiếu tướng De Négrier coi.
Bấy giờ
con đường từ Hà Nội sang Bắc Ninh, chỗ nào cũng có quân Tàu và quân ta đóng.
Thống tướng Millot bèn truyền lệnh cho thiếu tướng Brière de l'Isle đem quân
qua sông Hồng Hà, rồi theo sông Đuống (tức là sông Thiên Đức) đi về phía đông.
Còn toán quân của thiếu tướng De Négrier ở Hải Dương, đi tàu đến Phả Lại lên
bộ, để tiếp vào với toán quân của thiếu tướng Brière de l'Isle, rồi cả thủy bộ
theo sông Cầu (sông Nguyệt Đức) tiến lên đánh Bắc Ninh.
Hai bên
khởi sự đánh nhau từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16, thì lấy được Đáp Cầu. Quân
Tàu thấy quân Pháp chặn mất đường lên Lạng Sơn, bèn bỏ Bắc Ninh rút lên mạn
Thái Nguyên. Tối ngày 16, thì quân Pháp vào thành Bắc Ninh. Trận ấy quân Pháp chỉ mất có 8 người và 40 bị
thương mà thôi.
Thiếu
tướng Brière de l'Isle đem quân lên đánh Yên Thế, rồi đến ngày 23 thì lên lấy
thành Thái Nguyên.
10. Lấy Hưng Hóa. Hạ dược thành Bắc Ninh và
thành Thái Nguyên rồi, quân Pháp quay về mạn sông Hồng Hà để đánh lấy Hưng Hóa
và Tuyên Quang. Thiếu tướng Brière de l'Isle đem lữ đoàn thứ nhất theo con
đường Sơn Tây lên Hưng Hóa, rồi dàn trận ở bên này sông Đà Giang. Hai bên khởi
sự đánh nhau từ sáng ngày rằm tháng 3, đến 2 giờ chiều ngày hôm ấy thì quân
Pháp sang sông ở chỗ gần địa hạt huyện Bất Bạt. Chín giờ sáng ngày 16, thì
thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nhì tiếp đến, cả hai lữ đoàn cùng hợp
lực tiến lên đánh. Quân Tàu và quân Cờ Đen thấy thế không chống được, bèn đốt
cả phố xá, rồi bỏ thành Hưng Hóa rút lên mạn ngược. Còn bọn ông Hoàng Kế Viêm
thì kéo lên mạn núi, rồi đi đường thượng đạo rút về Kinh. Trưa ngày 17 thì quân
Pháp vào thành Hưng Hóa. Lập tức thiếu tá Coronnat đem một toán quân lên đánh
phá đồn Vàng.
174 Mỗi
một lữ đoàn (brigade) có hai vệ quân, độ chừng bảy tám nghìn người, có chức
thiếu tướng coi. Hai lữ đoàn là một sư đoàn (division), có chức trung tướng
coi.
11. Lấy Tuyên Quang.
Lấy xong Hưng Hóa rồi, chỉ còn có thành Tuyên Quang là chỗ quân Cờ Đen còn đóng giữ. Thống tướng Millot bèn sai quân đem tàu đi dò xem sông Lô Giang tàu thủy lên được đến đâu. Đoạn rồi sai trung tá Duchesne đem đạo quân ở Hưng Hóa và một đội năm chiếc tàu binh lên đánh Tuyên Quang. Quân của trung tá Duchesne đóng ở Việt Trì khởi hành từ hôm mồng 3 tháng 5 đến ngày mồng 8 thì đến Tuyên Quang. Chỉ đánh độ một giờ đồng hồ thì quân Cờ Đen bỏ thành chạy.
Lấy xong Hưng Hóa rồi, chỉ còn có thành Tuyên Quang là chỗ quân Cờ Đen còn đóng giữ. Thống tướng Millot bèn sai quân đem tàu đi dò xem sông Lô Giang tàu thủy lên được đến đâu. Đoạn rồi sai trung tá Duchesne đem đạo quân ở Hưng Hóa và một đội năm chiếc tàu binh lên đánh Tuyên Quang. Quân của trung tá Duchesne đóng ở Việt Trì khởi hành từ hôm mồng 3 tháng 5 đến ngày mồng 8 thì đến Tuyên Quang. Chỉ đánh độ một giờ đồng hồ thì quân Cờ Đen bỏ thành chạy.
12. Hòa ước Fournier.
Bấy giờ tuy các tỉnh ở mạn trung châu đất Bắc Kỳ đều thuộc về quan Pháp cai quản cả, nhưng quân Tàu còn đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và mạn Lào Kay. Bởi vậy chính phủ Pháp muốn dùng cách giao thiệp mà trang trải với nước Tàu, để chính phủ Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Nam cho xong. Lại nhân bấy giờ có hải quân trung tá Pháp tên là Fournier quen một người nước Đức tên là Détring làm quan bên Tàu coi việc thương chánh ở Quảng Đông. Détring vốn thân với quan tổng đốc Trực lệ là Lý Hồng Chương. Một hôm Détring gặp trung tá Fournier nói chuyện việc hòa với nước Tàu. Détring điện về cho Lý Hồng Chương biết. Hai bên đều có ý muốn hòa cho êm chuyện.
Bấy giờ tuy các tỉnh ở mạn trung châu đất Bắc Kỳ đều thuộc về quan Pháp cai quản cả, nhưng quân Tàu còn đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và mạn Lào Kay. Bởi vậy chính phủ Pháp muốn dùng cách giao thiệp mà trang trải với nước Tàu, để chính phủ Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Nam cho xong. Lại nhân bấy giờ có hải quân trung tá Pháp tên là Fournier quen một người nước Đức tên là Détring làm quan bên Tàu coi việc thương chánh ở Quảng Đông. Détring vốn thân với quan tổng đốc Trực lệ là Lý Hồng Chương. Một hôm Détring gặp trung tá Fournier nói chuyện việc hòa với nước Tàu. Détring điện về cho Lý Hồng Chương biết. Hai bên đều có ý muốn hòa cho êm chuyện.
Chính
phủ Pháp bèn sai trung tá Fournier lên Thiên Tân để cùng với Lý Hồng Chương
nghị hòa. Đến ngày 18 tháng 4 năm Giáp
Thân (1884), thì lập xong tờ hòa ước. Đại lược nói rằng nước Tàu thuận rút quân
đóng ở Bắc Kỳ về, và từ đấy về sau chính phủ Tàu thuận nhận tờ giao ước của
nước Pháp lập với nước Nam. Nghĩa là nước Tàu để cho nước Pháp được tự do xếp
đặt mọi việc ở đất Việt Nam.
13. Hòa ước Patenôtre tháng 5 Giáp Thân (1884).
Tờ giao ước ký xong thì trung tá Fournier điện cho thống tướng Millot ở Bắc Kỳ biết sự hòa ước đã xong, mà quân Tàu ở Bắc Kỳ phải rút về.
Tờ giao ước ký xong thì trung tá Fournier điện cho thống tướng Millot ở Bắc Kỳ biết sự hòa ước đã xong, mà quân Tàu ở Bắc Kỳ phải rút về.
Lúc bấy
giờ công sứ nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre ở bên Pháp sang, đi qua đến
Sài Gòn, chính phủ ở Paris điện sang sai ông ấy ra Huế sửa lại tờ hòa ước của
ông Harmand đã ký ngày 23 tháng 7 năm Quý Mùi (1883).
Ông
Patenôtre và ông Rheinart ra Huế cùng với Triều đình thương nghị mấy ngày, rồi
đến ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân là ngày mồng 6 tháng sáu năm 1884, ông
Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thuận Duật và ông Tôn Thất
Phan ký tờ hòa ước mới. Cả thảy có 19 khoản, đại để thì cũng như tờ hòa ước của
ông Harmand, chỉ đổi có mấy
khoản
nói về tỉnh Bình Thuận và 3 tỉnh ở ngoài đèo Ngang là Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh
Hóa vẫn thuộc về Trung kỳ.
Tờ hòa
ước ký xong, ông Rheinart ở lại làm Khâm sứ ở Huế, và ông Patenôtre hội cả các
quan, bắt đem cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam thụt, bễ nấu lên mà hủy đi,
nghĩa là từ đó nước Nam thuộc về nước Pháp bảo hộ, chứ không thần phục nước Tàu
nữa.
Hòa ước
ký năm Giáp Thân là năm 1884, là hòa ước của Triều đình ở Huế ký với nước Pháp
công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và
Bắc Kỳ. Tuy hai kỳ cũng thuộc về quyền
bảo hộ của nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có một cách cai trị khác. Về sau dần dần hòa ước năm 1884 cũng mất cả ý
nghĩa, và thực quyền về chính phủ bảo hộ hết cả. Triều đình ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà thôi.
Nước
Việt Nam trước kia, từ Nam chí Bắc là một, có cái tính cách duy nhất hơn cả các
nước khác. Văn hóa, lịch sử, phong tục,
ngôn ngữ đều là một cả, mà nay thành ra ba xứ : Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ; mỗi
kỳ có một chính sách riêng, luật lệ riêng như ba nước vậy. Thậm chí lúc đầu
người kỳ này đi sang kỳ kia phải xin giấy thông hành mới đi được. Kỳ nghĩa là xứ, là khu trong một nước, chứ
không có nghĩa là nước.
Một nước
mà tam phân ngũ liệt ra như thế, thật là một mối đau lòng cho người Việt Nam là
dân một nước đã có một lịch sử vẻ vang hàng mấy nghìn năm.
14. Việc Triều Chính ở Huế.
Triều đình lúc bấy giờ việc gì cũng do hai quan phụ chính là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết định đoạt.
Triều đình lúc bấy giờ việc gì cũng do hai quan phụ chính là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết định đoạt.
Tôn Thất
Thuyết là người tính nóng nảy, dữ dội, ai cũng khiếp sợ. Nhưng tài năng thì
kém, mà lại nhát gan, cho nên đa nghi và hay chém giết. Nguyễn Văn Tường là
người ở Quảng Trị, thi đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 5, thật là một người có tài
trí, giỏi nghề giao thiệp, nhưng chỉ có tính tham lam và lại tàn nhẫn.
Hai ông
ấy chuyên giữ triều chính. Quan lại thì ở tay ông Tường, binh quyền thì ở tay
ông Thuyết. Nhưng mà thường việc gì cũng do ở ông Thuyết xui khiến cả. Trong
Triều từ hoàng thân quốc thích cho đến các quan, ai có điều gì trái ý hai ông
ấy là bị giam ở chấp hay là chém giết cả.
Ông
Thuyết thì mộ quan phản nghĩa để giữ mình, và thường hay tiếm dụng nghi vệ của
vua; ông Tường thì chịu tiền hối lộ của những người
Khách,
cho chúng nó đem tiền sềnh, là một thứ tiền niên hiệu Tự Đức, mỏng và xấu, đúc
ở bên Tàu đem sang, bắt dân phải tiêu. Ai không tiêu thì phải tội. Vả lúc ấy
vua hãy còn trẻ tuổi chưa biết gì, cho nên hai ông ấy lại càng chuyên chế lắm
nữa.
Vua Kiến
Phúc lên ngôi vừa được hơn 6 tháng, đến ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp Thân
(1884) thì phải bệnh mất175, miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng Đế.
15. Vua Hàm Nghi. Vua Kiến Phúc mất, đáng lẽ ra
con nuôi thứ hai của vua Dực Tông là ông Chánh Mông lên nối ngôi thì phải.
Nhưng Tường và Thuyết không muốn lập người lớn tuổi, sợ mình mất quyền, bèn
chọn người con ông Chánh Mông là ông Ưng Lịch, mới 12 tuổi, lập lên làm vua,
đặt niên hiệu là Hàm Nghi.
Viên
Khâm sứ Rheinart trước đã tư giấy sang cho Triều đình Huế rằng : Nam triều có
lập ai làm vua, thì phải xin phép nước Pháp mới được. Nhưng Tường và Thuyết cứ
tự tiện lập vua, không cho viên Khâm sứ biết.
Viên Khâm
sứ thấy vậy, viết thư ra Hà Nội. Thống tướng Millot bèn sai chức tham mưu là
đại tá Guerrier đem 600 quân và một đội pháo binh vào Huế, bắt Triều đình phải
xin phép lập ông Ưng Lịch lên làm vua.
Tường và Thuyết làm tờ xin phép bằng chữ nôm gửi sang bên Khâm sứ. Viên
Khâm sứ không nghe, bắt phải làm bằng chữ nho. Đến ngày 27 tháng 6, đại tá và
viên Khâm sứ đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi. Xong
rồi quan Pháp lại trở ra Hà Nội.
175 Có
chuyện nói rằng: Khi vua Kiến Phúc se mình, nằm trong điện, đêm thấy Nguyễn Văn
Tường vào trong cung, ngài có quở mắng. Đến ngày hôm sau, thì ngài ngộ thuốc mà
mất.
CHƯƠNG
XIII
Chiến
Tranh Với Nước Tàu
1. Trận Bắc Lệ.
2. Đánh Phúc Châu và vây Đài Loan.
3. Trận đồn Chữ và đồn Kép.
4. Trận Yên Bạc.
5. Lấy thành Lạng Sơn.
6. Thành Tuyên Quang bị vây.
7. Mất thành Lạng Sơn.
8. Hòa ước Thiên Tân.
1. Trận Bắc Lệ.
Tại Bắc Kỳ thì quân Pháp tưởng là việc hòa ước với nước Tàu đã xong, chỉ còn đợi ngày quân Tàu rút về, thì lên thu nhận lấy thành Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Kay. Cứ theo tờ hòa ước của trung tá Fournier ký ở Thiên Tân, thì vào chừng rằm tháng 5 quân Tàu ở Lạng Sơn, Thất Khê và Cao Bằng phải rút về. Vậy đến cuối tháng 5, thì thống tướng Millot sai trung tá Dugenne đem 1000 quân lên thu lại các thành ấy. Ngày mồng một tháng 5 nhuận thì quân Pháp lên đến đồn Bắc Lệ. Khi quân Pháp sang sông Thương, thì quân Tàu bắn vào quân Pháp, phải 3 người bị thương. Được một chốc bên quân Tàu sai người đưa thư nói rằng đã biết có hòa ước, nhưng chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoãn lại 6 ngày để đợi lệnh Bắc Kinh. Trung tá Dugenne không chịu; đến quá trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu rằng : trong một giờ nữa mà quân Tàu không rút về thì quân Pháp cứ việc tiến lên. Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, thì quân Tàu phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối. Sáng ngày hôm sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn rút quân về bên này sông Thương, để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên. Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử trận, 46 người bị thương, còn những phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể.
Tại Bắc Kỳ thì quân Pháp tưởng là việc hòa ước với nước Tàu đã xong, chỉ còn đợi ngày quân Tàu rút về, thì lên thu nhận lấy thành Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Kay. Cứ theo tờ hòa ước của trung tá Fournier ký ở Thiên Tân, thì vào chừng rằm tháng 5 quân Tàu ở Lạng Sơn, Thất Khê và Cao Bằng phải rút về. Vậy đến cuối tháng 5, thì thống tướng Millot sai trung tá Dugenne đem 1000 quân lên thu lại các thành ấy. Ngày mồng một tháng 5 nhuận thì quân Pháp lên đến đồn Bắc Lệ. Khi quân Pháp sang sông Thương, thì quân Tàu bắn vào quân Pháp, phải 3 người bị thương. Được một chốc bên quân Tàu sai người đưa thư nói rằng đã biết có hòa ước, nhưng chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoãn lại 6 ngày để đợi lệnh Bắc Kinh. Trung tá Dugenne không chịu; đến quá trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu rằng : trong một giờ nữa mà quân Tàu không rút về thì quân Pháp cứ việc tiến lên. Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, thì quân Tàu phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối. Sáng ngày hôm sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn rút quân về bên này sông Thương, để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên. Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử trận, 46 người bị thương, còn những phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể.
Thống
tướng Millot tiếp được tin quân Pháp thua ở Bắc Lệ, liền sai thiếu tướng De
Négrier đem 2 đại đội quân bộ, 2 đội pháo binh và một toán công binh đi đường
Phủ Lạng Thương qua làng Kép, lên tiếp ứng cho trung tá Dugenne. Khi tiếp được
quân của trung tá rồi, thiếu tướng Millot triệu thiếu tướng De Négrier về Hà
Nội, để chờ lệnh và quân ở bên Pháp sang.
2. Đánh Phúc Châu và vây Đài Loan.
Chính phủ bên Pháp tiếp được sự khai chiến ở Bắc Kỳ, liền điện truyền cho hải quân trung tướng Courbet đem tàu sang đóng gần thành Phúc châu là tỉnh lị Phúc Kiến, và lại cho ông Patenôtre là công sứ Pháp ở Bắc Kinh đòi nước Tàu phải trả 250 triệu tiền binh phí về việc chiến tranh ở Bắc Kỳ. Chính phủ 2 nước thương thuyết mãi, đến ngày 29 tháng 6, thì chính phủ Pháp gửi tờ tối hậu thư đòi nước Tàu 80 triệu phật lăng tiền binh phí, hạn cho trả làm 10 năm. Đến ngày mồng ba tháng 7 năm Giáp Thân (1884), thì hải quân trung tướng được lệnh khởi sự đánh Phúc châu.
Chính phủ bên Pháp tiếp được sự khai chiến ở Bắc Kỳ, liền điện truyền cho hải quân trung tướng Courbet đem tàu sang đóng gần thành Phúc châu là tỉnh lị Phúc Kiến, và lại cho ông Patenôtre là công sứ Pháp ở Bắc Kinh đòi nước Tàu phải trả 250 triệu tiền binh phí về việc chiến tranh ở Bắc Kỳ. Chính phủ 2 nước thương thuyết mãi, đến ngày 29 tháng 6, thì chính phủ Pháp gửi tờ tối hậu thư đòi nước Tàu 80 triệu phật lăng tiền binh phí, hạn cho trả làm 10 năm. Đến ngày mồng ba tháng 7 năm Giáp Thân (1884), thì hải quân trung tướng được lệnh khởi sự đánh Phúc châu.
Trung
tướng truyền lệnh cho các chiến thuyền bắn lên các pháo đài và phá các xưởng
làm binh khí ở Phúc Châu, và lại đánh cả chiến thuyền của Tàu đóng ở trong sông
Mân Giang. Trung tướng bắn phá ở Phúc Châu rồi đem binh thuyền ra vây đánh đảo
Đài Loan.
Hải quân
của Pháp vây Đài Loan và các cửa bể mãi đến tháng 6 năm Ất Dậu
(1885), nước Tàu ký hòa ước rồi, mới thôi.
3. Trận Đồn Chũ và Đồn Kép.
Trong khi hải quân của Pháp đánh phá ở mặt bể, quân Tàu ở quảng Đông, Quảng Tây kéo sang Bắc Kỳ càng ngày càng nhiều, mà quân tiếp ứng của Pháp mãi không thấy sang, đến trung tuần tháng 7, thống tướng Millot bèn cáo bệnh xin về, giao quyền lại cho thiếu tướng Brière de l'Isle.
Trong khi hải quân của Pháp đánh phá ở mặt bể, quân Tàu ở quảng Đông, Quảng Tây kéo sang Bắc Kỳ càng ngày càng nhiều, mà quân tiếp ứng của Pháp mãi không thấy sang, đến trung tuần tháng 7, thống tướng Millot bèn cáo bệnh xin về, giao quyền lại cho thiếu tướng Brière de l'Isle.
Được ít
lâu, thiếu tướng Brière de l'Isle tiếp được 6 nghìn quân ở Pháp sang, số quân
bấy giờ cả thảy được non 2 vạn người, thiếu tướng bèn chia ra làm 4 đạo để đi
đánh quân Tàu và quân ta; thiếu tá Servière đem một đạo quân lên mạn Đông
Triều; trung tá Donnier đem một đạo quân theo sông Lục Nam đến đánh đồn Chũ và
đồn Đầm; trung tá Defoy đem một đạo quân lên mạn sông Thương; thiếu tá Mibielle
và thiếu tướng De Négrier thì đóng đại đồn ở Lạng Thương. Ngày 20 tháng 8, quân
Pháp tiến lên đóng đồn Chũ, đồn Bảo Lạc và đồn Kép. Quân Tàu chống lại được một
ngày, mà quân hai bên đánh nhau ở đồn Kép hăng hơn cả. Quân Tàu chết có đến 2
000 người; còn bên quân Pháp thì thiếu tướng De Négrier bị thương ở chân,
27 người
tử trận và
100 người bị
thương. Quân Tàu
chết hại mất nhiều người, phải bỏ đồn Kép, đồn Bảo Lạc
và đồn Chũ chạy lui trở về.
Mạn đông
bắc, quân Tàu đã lui, thiếu tướng Brière de l'Isle bèn sai đại tá Duchesne đem
700 quân lên đánh quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc ở mạn Tuyên Quang và lại sai
trung tá Berger đem quân lên giữ Thái Nguyên.
4. Trận Yên Bạc. Quân Tàu tuy đã thua ở đồn
Chũ và đồn Kép, nhưng vẫn còn đóng ở địa hạt Lạng Sơn và Quảng Yên. Đến trung
tuần tháng 11, quân Tàu lại về đóng ở An Châu, thiếu tướng De Négrier đem quân
bộ và quân pháo binh đi theo tả ngạn sông Lục Nam lên đánh quân Tàu ở núi Bóp.
Quân Tàu chết đến hơn 600 người, quân Pháp thiệt hại mất 19 người tử trận và 65
người bị thương.
5. Lấy thành Lạng Sơn. Đầu năm 1885 là quãng
tháng 11 năm Giáp Thân, thiếu tướng Brière de l'Isle được thăng chức trung
tướng và lại tiếp tục được hơn 1 000 quân ở bên Pháp sang. Qua tháng chạp ta,
trung tướng mộ non 7 000 phu để tải đồ và đem 7 500 quân, chia ra làm 2 đạo để
đánh Lạng Sơn. Đạo thứ nhất thì thuộc quyền thiếu tướng De Négrier, đạo thứ nhì
thì thuộc quyền đại tá Giovanninelle.
Con
đường đi từ Kép đến Lạng Sơn là đường hẻm trong núi, mà chỗ nào cũng có quân
Tàu đóng, cho nên quân Pháp mới dùng kế đánh ngang từ đồn Chũ đánh lại, để lấy
đồn Tuần Muội176. Thiếu tướng De Négrier trước đã lên đồn Kép, dương thanh thế
tiến binh, rồi lẻn về đồn Chũ đem quân qua đèo Vân, lấy đồn Đồng Sơn tức là đồn
Sung, rồi sang lấy đồn Tuần Muội. Quân Tàu đang giữ ở mạn Bắc Lệ, thấy quân
Pháp đã chặn mất đường về, liền rút quân chạy. Thiếu tướng De Négrier đem quân
đánh tràn lên đến Lạng Sơn, trưa hôm 29 tháng chạp thì lấy được thành. Đánh từ
ngày 25 đến 29 tháng chạp, quân Pháp thiệt mất 40 người tử trận và 22 người bị
thương.
Lấy xong
thành Lạng Sơn,
quân Pháp nghỉ ngơi mấy
ngày, rồi lại tiến lên đánh Đồng Đăng. Quân Tàu chạy
phân làm hai ngả : một ngả chạy lên Thất khê, một ngả chạy lên ải Nam Quan về
Tàu. Đến ngày mồng 8 tháng giêng năm Ất Dậu (1885), thì thiếu tướng De Négrier
lên đến cửa Nam Quan, truyền phá ải quan, rồi trở về giữ Lạng Sơn.
6. Thành Tuyên Quang bị vây. Khi quân Pháp đi đánh mặt Lạng Sơn, thì quân
Tàu và quân Cờ Đen ở mạn sông Hồng Hà và sông Lô Giang lại kéo về đánh Tuyên
Quang. Bấy giờ quân Pháp ở trong thành cả thảy độ hơn 600 người, thuộc quyền
thiếu tá Dominé. Từ đầu tháng mười năm Giáp Thân (1884), quân Cờ Đen của Lưu
Vĩnh Phúc đã kéo về đóng ở gần phủ Yên Bình và phủ Đoan Hùng. Đến tháng 11 thì
quân Tàu giữ các chỗ hiểm yếu, để chặn đường không cho quân Pháp ở trung châu
lên tiếp ứng, rồi Lưu Vĩnh Phúc đem quân lên đánh thành Tuyên Quang; đánh mãi
đến 15 tháng
176 Tức
là ải Chi Lăng ngày trước.
chạp mới
vây được thành. Quân Cờ Đen dùng đủ kế dể phá thành, mà quân Pháp ở trong thành
cũng cố hết sức để chống giữ.
Lúc ấy
quân Pháp đã lấy được thành Lạng Sơn rồi, trung tướng Brière de l'Isle liền để
thiếu tướng De Négrier ở lại giữ thành, đến ngày mồng 2 tết đem quân đi đường
đồn Chũ về Hà Nội, rồi lập tức lên cứu Tuyên Quang. Ngày 13 tháng giêng năm Ất
Dậu thì lên đến Đoan Hùng rồi sang sông Chảy. Quân Tàu và quân Pháp giao chiến
từ đó cho đến ngày 16, mới giải được vây. Trận ấy quân hai bên thiệt hại cũng
nhiều, nhưng quân Tàu không địch được quân Pháp, phải vội vàng giải vây mà rút
lên mạn ngược.
7. Mất thành Lạng Sơn. Thành Tuyên Quang vừa
giải vây xong, thì ở Lạng Sơn lại khởi sự giao chiến. Quân Tàu tuy đã thua phải
bỏ thành Lạng Sơn, nhưng quan đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài vẫn đóng đại đồn
ở Long Châu, chực sang đánh lấy lại Lạng Sơn.
Ngày
mồng 6 tháng 2 năm Ất Dậu (1885), quân Tàu sang đánh Đồng Đăng, thiếu tướng De Négrier
đem quân lên cứu, rồi chực đánh sang Long Châu. Quân Pháp đánh trong 2 ngày,
chết hại mất non 200 người. Đến mồng 8, thiếu tướng rút quân về Lạng Sơn, còn
những người bị thương thì đem về đồn Chũ. Quân Pháp đóng ở Lạng Sơn bấy giờ có
35 000 người.
Ngày 13
thì quân Tàu
tràn sang đánh
Kỳ Lừa, thiếu
tướng De Négrier bị thương nặng,
phải giao quyền lại cho trung tá Herbinger để chống với quân địch. Nhưng bấy
giờ quân Tàu sang đông quá, trung tá phải bỏ thành Lạng Sơn rút về Tuần Muội,
rồi về đồn Chũ và đồn Kép.
Trung
tướng Brière de l'Isle tiếp được tin bại trận ở Lạng Sơn, liền điện cho chính
phủ Pháp để xin tiếp quân sang cứu viện, và lập tức đi tàu lên đồn Chũ để phòng
sự chống giữ.
Quân Tàu
lấy được Lạng Sơn rồi chia quân giữ các chỗ hiểm yếu, chứ không dám đuổi xa.
Còn ở mạn sông Hồng Hà, thì quân Cờ Đen và quân của các quan cựu thần thì về
đánh phá ở mạn gần Hưng Hóa và Lâm Thao.
8. Hòa Ước Thiên Tân. Bên Pháp tiếp được
điện tín của trung tướng Brière de l'Isle đánh về nói quân Pháp phải bỏ thành
Lạng Sơn, thì lòng người náo động cả lên. Thủ tướng Jules Ferry phải từ chức.
Chính phủ Pháp thấy sự chiến tranh không lợi bèn ký tờ giao ước đình chiến với
nước Tàu. Rồi một mặt thì truyền lệnh cho sứ thần nước Pháp ở Bắc Kinh là ông
Patenôtre lập tờ hòa ước với chính phủ Tàu; một mặt thì cho quân sang tiếp ứng Bắc
Kỳ và sai trung tướng Roussel de Courcy làm Thống đốc quân dân sự vụ, trung
tướng Warnel làm tham mưu tổng trưởng, cùng với thiếu tướng Jamont và thiếu
tướng Prudhomme đem hai sư đoàn sang Bắc Kỳ.
Chính
phủ Tàu thấy chiến tranh không có lợi, bèn thuận ký tờ hòa ước, và lập tức sai
quan sang Hà Nội truyền lệnh cho quân Tàu phải rút về. Ngày 27 tháng 4 năm Ất
Dậu (1883) là năm Quang Tự thứ 11, ông Patenôtre và ông Lý Hồng Chương ký tờ
hòa ước, đại lược nói rằng nước Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Việt
Nam, và lại hòa thuận buôn bán như cũ. Nước Pháp thì trả lại các chỗ mà hải
quân đã chiếm giữ ở mặt bể, và thuận bỏ cái khoản tiền binh phí không đòi nữa.
Ngày hôm quan hai nước ký tờ hòa ước ở Thiên Tân, thì hải quân trung tướng
Courbet phải bệnh mất ở gần đảo Đài Loan. Hải quân của Pháp cũng chiếu theo
điều ước mà rút quân về.
CHƯƠNG
IV
Loạn ở
Trung Kỳ
1. Thống tướng De Courcy vào Huế.
2. Triều đình chạy ra Quảng Trị.
3. Nguyễn Văn Tường ra thú.
4. Xa giá các bà Thái hậu về Khiêm Lăng.
5. Quân Cần vương.
6. Vua Đồng Khánh.
7. Thống tướng De Courcy phải triệt về.
8. Vua Hàm Nghi ở Quảng Bình.
9. Ông Paul Bert.
10. Lập Tổng đốc Toàn Quyền.
1. Thống Tướng De Courcy vào Huế. Việc đánh
nhau với Tàu xong, thì tức là cuộc bảo hộ ở nước Nam thành. Nhưng ở các nơi,
những quan cũ ta còn chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế thì Nguyễn Văn Tường và
Tôn Thất Thuyết chuyên chế đủ mọi đường.
Tháng 9
năm Giáp Thân (1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức giam vào nhà tối, không cho ăn
uống để chết đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai ông ấy lại mộ quân tập
lính và lập đồn Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng
bạc ra đấy, phòng khi có việc gì thì đem quân ra đó để chống nhau với quân
Pháp. Cũng vì các ông ấy có ý muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đã chiếm giữ
Mang Cá ở thành Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.
Ngày 18
tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ. Bấy giờ sự hòa ước với Tàu đã xong, bởi vậy
thống tướng mới định vào Huế bắt Triều đình ta phải chịu quyền bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội đã nói chuyện với các
người Pháp và những người Nam ra làm quan với Pháp, đã biết tình hình ở trong
Huế là thế nào. Đến ngày 19 tháng 5 thì thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào
Huế. Triều đình cử hai quan đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux
ra đón thống tướng ở cửa Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đòi hai quan
phụ chính sang bên Khâm sứ để định việc vào yết kiến vua Hàm Nghi.
Hai ông
ấy lúc bấy giờ còn đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay mình cả, mà thấy
thống tướng làm sự đường đột như thế, cũng đã tức giận lắm, lại cứ như lời mấy
ông quan cựu thần nói chuyện, thì ông Thuyết là quan văn làm tướng võ, nhưng
hình dáng thì không được thanh tú : đầu thì trọc, người thì béo mà đen, cách đi
đứng thì không được chững chạc, sự giao thiệp và đối đáp thì không sành. Xưa nay thì chỉ lấy quyền thế mà đè nén người
ta, hơi một tí thì lấy sự chém giết làm oai. Đến khi phải ra theo lễ bang giao
mà đối với một người tướng ngoại quốc như ông De Courcy thì trong bụng khiếp sợ
không biết ra thế nào.
Ông
Tường thì là một tay giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng biến,
cho nên lúc ấy chỉ có một mình ông Tường sang ra mắt quan thống tướng De Courcy
mà thôi, còn ông Thuyết thì cáo bệnh không sang. Thống tướng thấy vậy, bảo đau
cũng phải khiêng sang.
Tôn Thất
Thuyết thấy quan Pháp ra oai như thế, phần thì tức giận, phần thì sợ, lại nhân
lúc bấy giờ mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng đấy là điềm trời xuôi
khiến bèn quyết ý sửa soạn để đánh nhau.
Thống
tướng De Courcy định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi, thì
phải mở cửa
chính, không những
chỉ để quan nước Pháp
đi mà thôi, nhưng lại phải để cả
quân lính cùng đi vào cửa ấy. Triều đình thấy điều ấy trái với quốc lễ, xin để
thống tướng đi cửa giữa, theo như sứ Tàu ngày trước, còn quân lính thì xin đi
cửa hai bên, thống tướng nhất định không chịu.
2. Triều đình chạy ra Quảng Trị. Trưa hôm 22 các quan ở Cơ Mật Viện sang Khâm
sứ xin vào bàn định cho xong việc đi cửa chính, cửa bên, nhưng thống tướng De
Courcy không tiếp. Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật sang tặng thống
tướng, thống tướng cũng khước đi không nhận.
Các quan
thấy thống tướng làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ý tứ gì mà
khinh mạn Triều đình đến như thế. Tôn Thất Thuyết càng thấy thế càng lấy làm
tức giận, thôi thì sống chết cũng liều một trận, họa may trời có giúp kẻ yếu
hèn gì chăng? Ấy là lúc tướng sĩ lúc bấy giờ ai cũng tưởng như thế, cho đến mới
định đến nửa đêm khởi sự phát súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp
ở Mang Cá.
Chiều
hôm ấy thống tướng làm tiệc đãi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, thì súng ở
trong thành nổ ra đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh
Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân Pháp thấy bất thình lình nửa đêm quân ta
đánh phá như vậy, chưa biết ra thế nào, chỉ yên lặng mà chống giữ. Đến sáng
ngày 23 mới tiến lên đánh, thì quân ta thua chạy177. Nguyễn Văn Tường cho người
vào điện tâu xin rước vua và các bà Thái Hậu tạm lánh lên Khiêm Lăng178. Khi xa
giá ra gần đến cửa hữu thì gặp Nguyễn Văn Tường đã chực sẵn để đi hộ giá, nhưng
lệnh truyền cho Nguyễn Văn Tường ở lại để thu xếp mọi việc. Nguyễn Văn Tường
vâng lệnh trở lại. Xa giá đi qua làng Kim Long, lên đến chùa Thiên Mụ, thì Tôn
Thất Thuyết đem quân chạy đến truyền rước xa giá quay trở về Trường Thi179.
Lúc bấy
giờ vương tôn công tử, người đi ngựa, kẻ đi chân, dân gian thì trẻ cõng già,
đàn bà dắt trẻ con, ai nấy chạy hốt hoảng tìm đường tránh cho khỏi chỗ binh
đao.
Xa giá
đến Trường Thi vào nghỉ được một lát, thì Tôn Thất Thuyết lại giục lên đường,
nói rằng quân Pháp đã sắp đuổi tới. Tối ngày 23, xa giá vào nghỉ nhà một người
bá hộ, sáng ngày 24 ra đi, đến tối mới tới thành Quảng Trị; Quan tuần phủ Trương Quang Đản180 ra rước xa
giá vào Hành cung và đặt quân lính để phòng giữ.
Trận đánh
nhau ở Huế,
quân Pháp mất
16 người và 80 người
bị thương. Sách tây chép rằng quân ta chết đến vài nghìn người, còn bao
nhiêu khí giới lương thực và hơn một triệu tiền của đều mất cả.
3. Nguyễn Văn Tường ra thú. Tại Huế, cả buổi
sáng hôm 23, quân Pháp chiếm lấy thành trì và giữ gìn các nơi. Còn quan ta,
người thì đi theo xa giá, người thì ẩn nấp một nơi, chưa biết thế nào, chưa ai
dám ra. Đến trưa hôm ấy, Nguyễn Văn Tường vào ăn cơm nhà ông giám mục Caspard,
rồi nhờ ông ấy đưa ra thú với thống tướng De Courcy. Thống tướng cho Nguyễn Văn
Tường ra ở Thương bạc viện, giao cho đại úy Schmitz và một toán lính Pháp phải
coi giữ, và hẹn cho trong hai tháng phải làm thế nào cho yên mọi việc.
4. Xa giá các bà thái hậu về Khiêm Lăng.
Nguyễn Văn Tường viết sớ
ra Quảng Trị
xin rước xa
giá trở về
Kinh để cho
yên lòng
177 Việc
Tôn Thất Thuyết đánh quân Pháp ở Huế, sử ta không nói rõ số quân ta là bao
nhiêu. Mà sách Tây có nơi chép là 2 vạn, có nơi chép là 3 vạn. Nhưng cứ những
người biết việc ở Huế lúc bấy giờ, thì quân ta cả thảy độ chừng non 2 vạn trở
lại, chứ không hơn.
178
Khiêm Lăng là lăng của vua Dực Tông, có khi gọi là Khiêm Cung cũng là đấy.
179
Trường Thi thủa ấy bấy giờ ở làng Đa Chữ cách Kinh thành 10 cây số.
180
Trương Quang Đản trước làm tổng đốc Bắc Ninh, chống nhau với quân Pháp, sau về
Kinh phải giáng xuống tuần phủ ra giữ thành Quảng Trị.
người.
Nhưng lúc ấy vua Hàm Nghi và tam cung là bà Từ Dụ Thái hoàng thái hậu, mẹ đức
Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Dục Đức, bà Hoàng
thái phi là vợ thứ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Kiến Phúc, bị Tôn Thất Thuyết
gìn giữ, sớ của Nguyễn Văn Tường gửi ra vấn an, ông ấy đem giấu đi không cho
vua biết. Ai cũng muốn xin rước xa giá lên Tân Sở, để lo liệu sự khôi phục. Đức
Từ Dụ và hai bà Thái hậu nhất định không chịu đi.
Ngày 27,
Tôn Thất Thuyết nghe tin có tàu Pháp sắp đến, bèn xin tam cung ở lại Quảng Trị
và xin rước vua lên Tân Sở. Khi sắp đi,
vua Hàm Nghi vào lạy ba bà Thái hậu : tình ly biệt, nỗi sầu thảm, kể sao cho
xiết ! Vua đi khỏi độ một giờ đồng hồ, thì bọn nội giám đều trở lại nói rằng
Tôn Thất Thuyết không cho đi. Đến ngày 28, thì tam cung mới tiếp được tin của
Nguyễn Văn Tường ra nói xin rước xa giá trở về Huế, mọi việc đã thu xếp xong
rồi. Bà Từ Dụ cho người đi rước vua trở lại để cùng về Huế, nhưng tìm mãi không
biết vua ở đâu, chỉ tiếp được thư của Tôn Thất Thuyết gửi về nói Nguyễn Văn
Tường phản trắc nọ kia, xin đừng có nghe. Nguời bàn đi, kẻ bàn lại, ai nấy phân
vân chưa biết ra thế nào. Ngày 30 lại tiếp được sớ của Nguyễn Văn Tường ra giục
xa giá trở về. Đức Từ Dụ mới quyết ý về Kinh, định ngày mồng 4 thì lên đường,
sai quan tuần phủ Trương Quang Đản đem quân đi hộ giá. Đến chiều tối ngày mồng
5, xa giá các bà Thái hậu về đến Khiêm cung.
Nguyễn Văn Tường dâng sớ lên thỉnh an và kể tình mọi việc.
Trong
khi vua còn đi vắng, thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm giám quốc,
giao quyền binh bộ thượng thư cho viên Khâm sứ De Champeaux, để bãi việc binh
lính của ta đi, và gọi quan kinh lược ở Bắc kỳ là Nguyễn Hữu Độ và quan Tổng
đốc Nam Định là Phan Đình Bình về cùng với Nguyễn Văn Tường coi việc cơ mật. Vì hai ông ấy ở Bắc Kỳ đã hiểu mọi việc và đã
biết theo chính sách của bảo hộ, cho nên thống tướng đem về để thu xếp mọi việc
cho chóng xong. Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu Độ không hợp ý nhau, Nguyễn Hữu
Độ lại trở ra Bắc Kỳ.
5. Quân Cần Vương.
Tôn Thất Thuyết ở Quảng Bình làm hịch cần vương truyền đi các nơi, bởi vậy chỉ trừ những chỗ chung quanh Kinh thành ra, còn tự Bình Thuận trở ra cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, chỗ nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho dân bên đạo gây thành mối loạn, rồi đến đốt phá những làng có đạo. Sách tây chép rằng từ đầu tháng 6 cho đến cuối tháng 8, dân bên đạo phải 8 ông cố và hơn 2 vạn người bị giết.
Tôn Thất Thuyết ở Quảng Bình làm hịch cần vương truyền đi các nơi, bởi vậy chỉ trừ những chỗ chung quanh Kinh thành ra, còn tự Bình Thuận trở ra cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, chỗ nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho dân bên đạo gây thành mối loạn, rồi đến đốt phá những làng có đạo. Sách tây chép rằng từ đầu tháng 6 cho đến cuối tháng 8, dân bên đạo phải 8 ông cố và hơn 2 vạn người bị giết.
Thống
tướng De Courcy thấy chỗ nào cũng có loạn cả, bèn trở ra Bắc Kỳ, hội các tướng
lại để bàn sự đánh dẹp. Thống tướng đỉnh
sai đại tá Pernot đem 1 500 quân ở Huế ra đuổi Tôn Thất Thuyết, lại sai thiếu
tướng De
Négrier đem một đạo quân đi từ Thanh Hóa dánh vào. Nhưng chính phủ ở Paris điện
sang không cho thống tướng khởi sự dùng đại binh, và lại nhân lúc bấy giờ ở Bắc
Kỳ và Trung Kỳ có bệnh dịch tả, quân Pháp chết hại đến ba bốn nghìn người, bởi
vậy cho nên việc dùng binh phải đình lại.
Tại Huế
thì mãi không ai biết vua Hàm Nghi ở đâu. Triều đình thì mỗi ngày một rối, việc
lập vua mới thì tuy rằng đã định rồi, nhưng còn lôi thôi chưa xong.
Đến ngày
27 tháng 7, vừa hết hạn 2 tháng của thống tướng De Courcy hẹn cho Nguyễn Văn
Tường, vả bấy giờ ở Bắc Kỳ lại có nhiều người ghét Nguyễn Văn Tường xin thống
tướng đem trị tội. Bởi vậy sang ngày 28
thống tướng bắt quan nguyên Phụ chính Nguyễn Văn Tường, quan Hộ bộ thượng thư
Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính là thân sinh ra Tôn Thất Thuyết, đem đày ra Côn
Lôn. Phạm Thận Duật đang đi tàu thì mất, phải ném xuống bể. Nguyễn Văn Tường
thì sau lại phải đày ra hải đảo Tahiti ở Thái Bình Dương, được ít lâu cũng mất,
cho đem xác về chôn ở quê nhà.
6. Vua Đồng Khánh. Thống tướng De Courcy đày
bọn Nguyễn Văn Tường đi rồi, đem Nguyễn Hữu Độ về cùng với Phan Đình Bình coi
việc triều chính, sai Nguyễn Trọng Hợp ra quyền kinh lược ở Bắc Kỳ. Thống tướng lại sai ông De Champeaux lên
Khiêm cung yết kiến đức Từ Dụ xin lập ông Chánh Mông là Kiên giang quận công
lên làm vua.
Ngày
mồng 6 tháng 8, ông Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ làm lễ thụ
phong, rồi làm lễ tấn tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Vua Đồng
Khánh tính hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được lòng người
Pháp; đình thần thì nhiều người đã biết theo chính sách của bảo hộ cho nên mọi
việc trong Triều đều được yên ổn. Nhưng vua Hàm Nghi còn ở mạn Quảng Bình, kéo
cờ nghĩa để chống nhau với quân Pháp, truyền hịch cần vương để mong đường khôi
phục. Lúc bấy giờ, lòng người còn tưởng
nhớ chúa cũ, cho nên từ tỉnh Bình Thuận trở ra, chỗ nào cũng có người nổi lên
đánh phá để toan bề khôi phục.
Tại
Quảng Nam thì bọn thân hào lập ra Nghĩa hội có quan sơn phòng sứ là Trần Văn Dự
làm chủ, rồi những tỉnh Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận đều noi theo mà nổi
lên. Tại Quảng Trị có các ông Trương
Đình Hội, Nguyễn Tự Như, ở Quảng Bình có quan nguyên tri phủ là Nguyễn Phạm
Tuân, ở Hà Tĩnh có cậu ấm Lê Ninh181; ở Nghệ An có ông nghè Nguyễn Xuân Ôn và
181
Người ở La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, con quan nguyên bố chính Lê Kiên.
quan sơn
phòng sứ Lê Doãn Nhạ; ở Thanh Hóa có Hà Văn Mao, v.v.. Những người ấy đều xướng
lên việc cần vương. đem quân đi hoặc chiếm giữ tỉnh thành, hoặc đánh lấy các
phủ huyện, và đốt phá những làng có đạo. Tại ngoài Bắc thì các quan cựu thần là
quan đề đốc Tạ hiện, quan tán tương Nguyễn Thiện Thuật tụ họp ở Bãi Sậy, rồi đi
đánh phá ở mạn trung châu, còn ở mạn thượng du, thì ở chỗ nào cũng có quân giặc
Tàu quấy nhiễu. Bởi vậy quân Pháp phải chia binh ra chống giữ các nơi.
7. Thống tướng De Cource phải triệt về.
Thống tướng De Courcy thấy ở ngoài Bắc có lắm việc, bên để thiếu tướng
Prudhomme ở lại Huế, rồi ra Hà Nội kinh lý mọi việc. Nhưng vì thống tướng tính
khắc khổ và đa nghi, cho nên công việc càng ngày càng khó thêm. Tại Pháp thì có
nhiều người không muốn giữ đất Bắc Kỳ, có ý muốn bãi binh. Bởi vậy đến cuối năm 1885 là năm Ất Dậu, thủ
tướng nước Pháp là ông Brisson xin nghị viện thuận cho lấy ra 75 triệu phật
lăng để chi tiêu về việc Bắc Kỳ. Nghị
viện đặt hội đồng để xét việc ấy. Hội
đồng định rút quân về và chỉ cho 18 triệu phật lăng mà thôi. Đến khi đầu phiếu
thì đảng theo chính phủ được 274 phiếu, và đảng phản đối với chính phủ được
270, nghĩa là đảng muốn giữ đất Bắc Kỳ chỉ hơn
có 4 phiếu. Thủ tướng
Brisson thấy trong nghị viện có nhiều người không hợp ý mình bèn xin từ
chức.
Ông
Freycinet lên làm thủ tướng, thấy thống tướng De Courcy ở bên nước Nam làm lắm
việc lôi thôi, bèn điện sang triệt về Pháp, giao binh quyền lại cho trung tướng
Warnel, và sai ông Paul Bert là quan văn sang sung chức thống đốc, để kinh lý
mọi việc ở nước Nam.
8. Vua Hàm Nghi ở Quảng Bình. Bấy giờ tuy ở
Huế đã lập vua Đồng Khánh rồi, nhưng đảng cựu thần còn có nhiều người theo phò
vua Hàm Nghi, quyết chí chống lại với quân Pháp. Quan Pháp bèn sai đại tá
Chaumont đem quân ra đóng ở thành Quảng Bình, để chặn đường không cho đảng
Tôn Thất Thuyết thông với Bắc Kỳ. Nhưng ở mạn Thanh
Hóa, Nghệ An, bọn văn thân đánh phá rất dữ. Đại tá Chaumont bèn để đại
tá Grégoire ở lại giữ thành Quảng Bình, rồi trở về Đà Nẵng lấy thêm binh và tàu
chiến đem ra đóng ở thành Nghệ An, chia quân đi tuần tiễu các nơi.
Tôn Thất
Thuyết thấy thế không chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé,
thuộc huyện Tuyên Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu) tỉnh Quảng Bình, rồi cùng với đề
đốc Trần Xuân Soạn đi đường thượng đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu182.
182 Tôn
Thất Thuyết đi đường thượng đạo ra vùng Hưng Hóa rồi theo thượng lưu sông Đà lên
Lai Châu nương tựa vào họ Điêu. Đến lúc nghe tiếng quân Pháp lên đánh, liền bỏ
họ Điêu mà
Vua Hàm
Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con Tôn Thất Thuyết là
Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân183,
hết sức giữ gìn và đem quân đi đánh phá ở mạn Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Tháng
giêng năm Bính Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc kỳ vào Nghệ An, rồi
chia làm hai đạo : một đạo thì thiếu tá Pelletier đem lính tập theo sông Ngàn
sâu vào mạn Tuyên Hóa; một đạo thì trung tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ
vào giữ thành Hà Tĩnh, rồi vào đóng ở sông Gianh.
Tại Huế
lại sai trung tá Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng các đạo. Quân Pháp
đóng ở chợ Đồn và ở Minh Cầm, rồi trung tá Metzniger đem ông cố Tortuyaux đi
làm hướng đạo để lên lấy đồn Vé. Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân văn thân
chống lại không nổi, phải tan cả.
Nhưng
qua sang tháng hai, ở ngoài Bắc Kỳ có việc, vả lại viên thống dốc Paul Bert đã
sang đến nơi, chính sách đổi lại cả, cho nên mới triệt các đạo quân
về, chỉ đóng
giữ ở Quảng
Khê, ở Roon
và ở chợ Đồn
mà thôi. Quân văn thân thấy quân
Pháp rút về, lại trở về đóng ở các đồn cũ.
9. Ông Paul Bert. Ngày mồng 5 tháng 3 năm
Bính Tuất (1886), viên thống đốc Paul Bert sang đến Hà Nội. Lập tức đặt phủ Thống sứ ở Bắc kỳ và sở kiểm
soát về việc tài chính. Đến cuối tháng 3 thì thống đốc vào yết kiến vua Đồng
Khánh ở Huế, và xin lập nha Kinh lược ở Bắc Kỳ, cho quan Kinh lược đại sứ được
quyền cùng với phủ Thống sứ tự tiện làm mọi việc. Vì rằng ở ngoài Bắc vào đến
Huế đường xá xa xôi, có việc gì phải tâu bẩm vào Bộ mất nhiều ngày giờ lắm, bởi
vậy xin cho được tự tiện làm việc, rồi trong một năm độ vài kỳ đem các việc tâu
về vua biết.
Thống
đốc Paul Bert ở Huế đến cuối trung tuần tháng 4 lại ra Hà Nội, rồi một mặt thì
lo đánh dẹp, một mặt thì mở Pháp Việt học đường, lập Thương nghiệp cục, đặt lệ
đồn điền. Chủ ý của thống dốc là muốn khai hóa đất Bắc Kỳ cho chóng được thịnh
lợi. Nhưng cũng vì thống đốc phải lo
nghĩ nhiều
việc, vả lại nay đi kinh lược chỗ này, mai đi kinh lược chỗ nọ, thành ra khí
lược suy nhược đi, cho nên mới cảm bệnh nặng, đến ngày rằm tháng 10 năm Bính
Tuất (11 tháng 11 năm 1886) thì mất. Nhà nước đem linh cữu về Pháp mai táng.
Chính
phủ Pháp sai ông Bihourd sang lĩnh chức thống dốc Pháp thay ông Paul Bert.
10. Lập Tổng Đốc Toàn Quyền Phủ. Nước Pháp đã
lấy đất Nam Kỳ, lập
bảo hộ ở
nước Cao Miên,
rồi lập bảo hộ
ở đất Bắc Kỳ và
ở Trung Kỳ, mở ra một cuộc thuộc địa lớn ở Viễn đông này; nhưng buổi đầu
thì mỗi xứ có một chức thủ hiến để coi riêng việc chính trị. Đến năm Đinh Hợi (1887), chính phủ nước Pháp
mới đặt phủ Tổng đốc toàn quyền để điều khiển việc chính trị cả mấy xứ ở nước
ta và nước Cao Miên. Tháng 10 năm Đinh
Hợi (15 tháng 11 - 1887), thì viên Tổng đốc toàn quyền mới, tức là viên Tổng
đốc toàn quyền trước nhất, là ông Constant sang nhận chức ở Sài Gòn.
Từ đó ở
các nơi như Nam Kỳ thì có viên Thống đốc, Trung Kỳ và Cao Miên thì mỗi nơi có
viên Khâm sứ, Bắc kỳ và Lào thì mỗi nơi có viên Thống sứ đứng đầu coi việc cai
trị trong hạt; những việc gì quan hệ đến chính sách cả toàn cảnh thì phải theo
lệnh viên Tổng đốc toàn quyền mà thi hành.
trốn sang Tàu. Con cháu họ Điêu nói chuyện lại rằng: Khi Tôn Thất Thuyết lên đến Lai Châu còn có mấy chục người đi theo. Lên đấy ở một đô, chém giết gần hết. Xem như thế ông Thuyết là một người cuồng dại mà lại nhát gan. Một người như thế mà làm đại tướng để giữ nước, thì tài gì mà nước không nguy được Về sau chết già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông.
trốn sang Tàu. Con cháu họ Điêu nói chuyện lại rằng: Khi Tôn Thất Thuyết lên đến Lai Châu còn có mấy chục người đi theo. Lên đấy ở một đô, chém giết gần hết. Xem như thế ông Thuyết là một người cuồng dại mà lại nhát gan. Một người như thế mà làm đại tướng để giữ nước, thì tài gì mà nước không nguy được Về sau chết già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông.
183 Sách
ông Gosselin chép là Phạm Thuận. Nhưng xét trong sử nước thì không có ai làm
Phạm Thuận, chỉ có Nguyễn Phạm Tuân trước làm tri phủ, sau theo vua Hàm Nghi
chống cự với quân Phá, rồi bị đạng phải bắt.
Vậy Phạm Thuận tức là Nguyễn Phạm Tuân.
CHƯƠNG XV
Việc
Đánh Dẹp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ
1. Việc đánh dẹp ở các nơi
2. Vua Đồng-khánh ra Quảng-Bình
3. Hoàng kế Viêm ra quân thử mạn Quảng-Bình
4. Lập đồn Minh-cầm
5. Vua Hàm-nghi bị bắt
6. Vua Thành-thái
7. Sự đánh dẹp ở Bắc-kỳ
8. Việc Phan đình Phùng
9. Lòng yêu nước của người Việt-nam
1. Việc đánh dẹp ở các nơi.
Trong khi thống-đốc Paul Bert xếp- đặt mọi việc ở Bắc-kỳ, thì ở Trung-kỳ quân Cần-vương ở các tỉnh vẫn đánh phá. Quân Pháp phải tìm cách mà đánh-dẹp cho yên. ở mạn Bình-thuận, Phú-yên thì thiếu-tá De Lorme và viên Công-sứ Aymonier cùng với Trần bá Lộc đem lính tây và lính ở Nam-kỳ ra đánh-dẹp. Trần bá Lộc dùng cách dữ- dội, chém giết rất nhiều, bởi vậy đất Bình-thuận không bao lâu mà yên; rồi đem quân ra dẹp đảng văn-thân ở Phú-yên và Bình-định, bắt được cử-nhân Mai xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm bính-tuất (1886) đến tháng 6 năm đinh-hợi (1887), thì những tỉnh ở phía nam đất Kinh-kỳ đã dẹp yên.
Trong khi thống-đốc Paul Bert xếp- đặt mọi việc ở Bắc-kỳ, thì ở Trung-kỳ quân Cần-vương ở các tỉnh vẫn đánh phá. Quân Pháp phải tìm cách mà đánh-dẹp cho yên. ở mạn Bình-thuận, Phú-yên thì thiếu-tá De Lorme và viên Công-sứ Aymonier cùng với Trần bá Lộc đem lính tây và lính ở Nam-kỳ ra đánh-dẹp. Trần bá Lộc dùng cách dữ- dội, chém giết rất nhiều, bởi vậy đất Bình-thuận không bao lâu mà yên; rồi đem quân ra dẹp đảng văn-thân ở Phú-yên và Bình-định, bắt được cử-nhân Mai xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm bính-tuất (1886) đến tháng 6 năm đinh-hợi (1887), thì những tỉnh ở phía nam đất Kinh-kỳ đã dẹp yên.
2. Vua Đồng Khánh ra Quảng Bình.
Đất Trung-kỳ từ Quảng-trị trở ra chưa được yên. Vua Đồng-khánh bèn định ra tuần thú mặt bắc, để dụ vua Hàm-nghi và những quan đại thần về cho yên việc đánh-dẹp. Quân Pháp sai đại-úy Henry Billet đi hộ-giá.
Đất Trung-kỳ từ Quảng-trị trở ra chưa được yên. Vua Đồng-khánh bèn định ra tuần thú mặt bắc, để dụ vua Hàm-nghi và những quan đại thần về cho yên việc đánh-dẹp. Quân Pháp sai đại-úy Henry Billet đi hộ-giá.
Ngày 16
tháng 5 năm bính-tuất (1886), xa-gía ở Kinh đi ra, mãi đến cuối tháng 7 mới tới
Quảng-bình. Xa-gía đi đến đâu thì đảng cựu thần vẫn không phục, cứ đem quân đến
chống-cự, cho đến việc vua đi tuần-thú lần ấy, không có kết-qủa gì cả. Ra đến
Quảng-bình thì vua Đồng-khánh yếu, ở được vài mươi ngày rồi phải xuống tầu đi
đường hải đạo trở về Huế.
3. Hoàng Kế Viêm Ra Quân Thử Mạn Quảng Bình.
Vua Đồng-khánh về Huế được vô sự. Đến tháng 9 vua khai phục nguyên hàm cho
Hoàng kế Viêm và phong cho làm Hữu-trực-kỳ An-phủ kinh-lược đại-sứ, được quyền
tiện-nghi hành-sự, để ra Quảng-bình dụ vua Hàm-nghi và các quan cựu thần về.
Trong tờ dụ của vua Đồng-khánh ban cho Hoàng kế Viêm đại-lược nói rằng: Nếu vua
Hàm nghi mà thuận về, thì sẽ phong cho làm làm Tổng-trấn ba tỉnh Thanh-hóa,
Nghệ-an và Hà-tĩnh, và lại cấp cho bổng lộc theo tước vương. Các quan cựu-thần
như các ông Trương văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê mô Khải, Nguyễn nguyên
Thành, Phạm trọng Mưu, Nguyễn xuân Ôn, Lê doãn Nha, Ngô xuân Quỳnh, ai về thú
thì được phục nguyên chức, cho vào làm quan ở các tỉnh từ Quảng-trị trở vào. Còn
như các ông Trần xuân Soạn, Nguyễn phạm Tuân, Phan đình Phùng mà có chịu về thì
sẽ tha những điều lỗi trước, và sẽ phong cho làm chức hàm khác. Những điều ấy
đã bàn với viên Thống-đốc Paul Bert, hai bên đã thuận cho như thế, quyết không
sai lời.
Bấy giờ
quân của quan Đề-đốc Lê Trực đóng ở mạn Thanh-thủy , thuộc huyện Tuyên-chánh;
quân của Tôn-thất Đạm là con Tôn-thất Thuyết thì đóng ở ngàn Hà-tĩnh, về hạt
Kỳ-anh và Cẩm-xuyên. Còn Tôn-thất Thiệp
và Nguyễn phạm Tuân thì phò vua Hàm-nghi ở mạn huyện Thanh-hóa.
Ông
Hoàng kế Viêm ra Quảng-bình, sai người đi dụ ông Lê Trực về. Nhưng các ông ấy
cứ nhất thiết không chịu , chỉ có bọn thủ-hạ lác đác vài người ra thú mà thôi.
Bởi vậy, việc Hoàng kế Viêm ra kinh-lược cũng không thành công, cho nên đến
tháng 5 năm đinh-hợi (1887), lại phải triệt về.
4. Lập Đồn Minh Cầm. Triều-đình ở Huế thấy
dùng cách phủ-dụ không được, bèn lấy quyền cho người Pháp tìm kế đánh-dẹp.
Người
Pháp cũng biết là thế-lực của đảng vua Hàm-nghi chẳng được bao nhiêu, cốt tìm
đường mà chiếm dần địa-thế và mua chuộc những đứa làm tay trong, thì tất thế
nào rồi cũng trừ hết được, bởi vậy cho nên không dùng đến đại binh.
Trước
đại-úy Mouteaux ở Quảng-bình đã cùng với ông cố Tortuyaux đem quân đi đánh lấy
đồn của Lê Trực ở Thanh-thủy, nhưng quân của ông ấy vẫn không tan, cứ đành phá
mãi. Đến tháng giêng năm đinh-hợi (1887), đại-úy Mouteaux đem quân lên lập đồn
Minh-cầm đóng ở mé trên Thanh- thủy. Đại-úy vẫn biết ông Lê Trực là người có
nghĩa-khí, và trong khi hai bên chống cự với nhau không bao giờ ông ấy làm điều
tàn-ác, cho nên đại-
úy vẫn
có ý trọng lắm. Trước đã cho người đưa thư lên dụ ông ấy về thú. Ông ấy phúc
thư lại rằng: "Tôi vì vua, vì nước, chết sống cũng một lòng làm cho hết
việc bổn-phận, chứ không dám tham sự sống mà quên việc nghĩa".
Từ khi
quân Pháp đóng đồn ở Minh-cầm, các ông Lê Trực và Nguyễn phạm Tuân phải lui lên
mé trên. Ông Lê Trực thì ra mạn Hà-tĩnh, Ông Nguyễn phạm Tuân thì lên đóng ở
làng Yên-lộc về phía sông Gianh.
Qua
tháng 3, nhờ có do thám, biết chỗ ông Nguyễn phạm Tuân đóng, đại-úy Mouteaux
bèn đem quân lên vây làng Yên-lộc, bọn ông Nguyễn phạm Tuân, trong khi bất ý,
đều bị bắt cả. Ông Nguyễn phạm Tuân
phải đạn bên cạnh sườn, sống được mấy ngày thì mất.
Quân
Pháp tuy đã trừ được ông Nguyễn phạm Tuân nhưng ông Lê Trực hãy còn, và vẫn
chưa biết rõ vua Hàm-nghi ở chỗ nào, sau có những người ra thú, mách rằng muốn
bắt vua Hàm-nghi thì mưu với tên Trương quang Ngọc. Tên ấy là người bản-xứ ở
đấy và từ khi vua ra ở vùng ấy nó được vào hầu cận, và lại là một đứa khí-độ tiểu-nhân,
thì chắc có lẽ mua chuộc nó được. Đại-úy định tìm cách để thông với tên Ngọc,
cho người đi do-thám, biết được tên Ngọc hiện đóng ở làng Chà-mạc, bèn đem quân
lên vây làng ấy. Nhưng khi lên đến nơi, tên Ngọc thấy động, chạy thoát được.
Đại-úy sai tìm trong làng chỉ thấy có một bà lão, đại-úy bèn đưa cái thư viết
cho tên Ngọc, nhờ bà lão ấy đưa cho nó, rồi rút quân về đồn Minh-cầm.
Được mấy
hôm kỳ-dịch những làng mé trên về thú ở đồn Minh-cầm, đại-úy đưa cho chánh-tổng
những dân ấy mấy lạng thuốc phiện và mấy bì gạo trắng để gửi cho tên Ngọc và
nhờ bảo nó dỗ vua Hàm-nghi về. Tên Ngọc nhận những đồ ấy và trả lời xin hết
lòng giúp người Pháp, nhưng cần phải để thong thả, sợ việc tiết-lộ ra thì không
thành.
Từ đó
việc bắt vua Hàm-nghi chỉ trông-cậy vào tên Ngọc. Nhưng bấy giờ có người con
thứ Tôn-thất Thuyết là Tôn-thất Thiệp giữ-gìn vua Hàm- nghi một cách nghiêm-mật
qúa. Tôn-thất Thiệp thề sống chết không để cho quân Pháp bắt vua được. Bởi vậy,
hễ ai nói đến sự về thú thì bắt chém ngay, cho nên bọn tên Ngọc tuy đã nhị tâm,
nhưng chưa dám hạ thủ.
ở mé
ngoài, thì các ông Lê Trực và Tôn-thất Đạm, nay đánh chỗ này mai phá chỗ kia mà
không sao bắt được. Đại-úy Mouteaux đánh đuổi lâu ngày nhọc-mệt, bèn xin về
Pháp nghỉ.
5. Vua Hàm Nghi Bị Bắt.
Qua tháng giêng năm mậu-tí (1888), viên đại-tá coi đạo quân ở Huế ra Quảng-bình, rồi chia quân đi tuần-tiễu, để tìm vua Hàm-nghi và đuổi bắt ông Lê Trực và ông Tôn-thất Đạm. Đến tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi-mệt mà không thành công được. Quân Pháp đã toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng có tên suất-đội Nguyễn đình Tinh hầu cận vua Hàm-nghi ra thú ở đồn Mang-cả, phía trên đồn Minh- cầm, và khai rõ tình-cảnh cùng chỗ vua đóng. Người Pháp bèn sai tên Tinh đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm tên Ngọc và tên Tinh về tình- nguyện xin đi bắt vua Hàm-nghi.
Qua tháng giêng năm mậu-tí (1888), viên đại-tá coi đạo quân ở Huế ra Quảng-bình, rồi chia quân đi tuần-tiễu, để tìm vua Hàm-nghi và đuổi bắt ông Lê Trực và ông Tôn-thất Đạm. Đến tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi-mệt mà không thành công được. Quân Pháp đã toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng có tên suất-đội Nguyễn đình Tinh hầu cận vua Hàm-nghi ra thú ở đồn Mang-cả, phía trên đồn Minh- cầm, và khai rõ tình-cảnh cùng chỗ vua đóng. Người Pháp bèn sai tên Tinh đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm tên Ngọc và tên Tinh về tình- nguyện xin đi bắt vua Hàm-nghi.
Người
Pháp truyền cho bọn tên Ngọc phải làm thế nào bắt sống
được vua
Hàm-nghi, còn những người khác hễ ai chống cự, thì cứ giết đi.
Ngày 26
tháng 9, tên Ngọc và tên Tinh đem hơn 20 đứa thủ hạ, người ở làng Thanh-lang và
Thanh-cuộc lên vây làng Tả-bảo184 là chỗ vua Hàm-nghi đóng. Đến độ nửa đêm, khi
chúng nó sông vào, thì Tôn-thất Thiệp còn đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra,
thì chúng đâm chết. Vua Hàm-nghi trông thấy tên Ngọc làm phản như vậy, cầm thanh
gươm đưa cho nó và bảo rằng: "Mày giết tao đi, còn hơn đưa tao về nộp cho
Tây". Ngài vừa nói dứt lời, thì bọn chúng nó có một đứa lẻn ra sau lưng ôm
quàng lấy ngài rồi dựt thanh gươm ra. Từ
khi ngài bị bắt rồi, ngài không nói năng gì nữa.
Sáng
ngày hôm sau, bọn tên Ngọc võng ngài ra đến bến Ngã-hai, rồi đem xuống cái bè,
đi mất hai ngày mới về đến đồn Thanh-lang, nộp cho viên đại-úy coi đồn ấy là
ông Boulangier. Đại-úy lập tức đem ngài về đồn Thuận- bài đóng ở tả-ngạn sông
Gianh, gần chợ đồn.
Vua Hàm-nghi
bấy giờ đã 18 tuổi, quan Pháp lấy vương- lễ mà tiếp- đãi. Tuy vậy ai hỏi gì, ngài cũng không nói, chỉ
nhất-thiết chối rằng mình không phải là vua.
Nhưng
đến lúc vào trong buồng ngồi một mình, thì hai hàng nước mắt chứa-chan, buồn vì
nỗi nước đổ nhà tan, thân mình phải nhiều nỗi gian- truân.
Người
Pháp đem vua Hàm-nghi xuống tầu về Thuận-an, rồi đem sang để ở bên xứ Algérie,
là xứ thuộc-địa của nước Pháp, ở phía bắc châu A- phi-ly-gia, mỗi năm cấp cho 2
vạn rưỡi phật-lăng185.
184
Những chuyện nói về việc bắt vua Hàm Nghi là phần nhiều lấy ở trong sách
"Empire d'Annam" của đại úy Gosselin, cho nên những tên làng tên đất
nói ở đoạn này viết không được đúng dấu.
Nhưng đại để là những làng mường ở vùng sông Giai, thuộc huyện Tuyên
Hóa, tỉnh Quảng Bình.
185 Hiện
nay vua Hàm Nghi còn ở Algérie, và đã lấy một người nước Pháp, được mấy đứa
con.
Tên
Trương quang Ngọc được hưởng hàm lĩnh-binh, tên Nguyễn đình Tinh cũng được
thưởng hàm quan võ. Còn bọn thủ-hạ, đứa thì được thưởng hàm suất-đội, đứa thì
được thưởng mấy đồng bạc.
Tôn-thất
Đạm ở ngàn Hà-tĩnh, nghe tin vua Hàm-nghi bị bắt, bèn hội cả bọn tướng sĩ lại,
truyền cho ra thú để về làm ăn, rồi viết hai bức thư: một bức để dâng vua
Hàm-nghi, xin tha lỗi cho mình làm tôi không cứu được vua, và một bức gửi cho
thiếu-tá Dabat, đóng ở đồn Thuận-bài xin cho bọn thủ-hạ ra thú. Viết xong thư
rồi, Tôn-thất Đạm nói rằng: "Bây giờ người Pháp có muốn bắt ta thì vào tìm
thấy mả ta ở trong rừng!". Đoạn rồi thắt cổ mà tử-tận186.
Ông
Tôn-thất Thuyết làm đại-tướng mà cư-xử ra một cách rất hèn- nhát không đáng làm
người trượng-phu chút nào. Nhưng hai người con thì thật là bậc thiếu-niên
anh-hùng, có thể che được cái xấu cho cha vậy.
Quan
đề-đốc Lê Trực cũng đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận- bài. Triều-đình ở Huế
xem cái tờ xin ra thú, thấy lời-lẽ của quan đề-đốc cũ nói khảng-khái, không
được khiêm-tốn, có ý bắt tội, nhưng người Pháp thấy là một người trung-nghĩa,
có lòng qúi-trọng, tha cho về yên nghiệp ở nhà.
Ông
Tôn-thất Đạm và ông Lê Trực là người phản-đối với nước Pháp lúc bấy giờ, nhưng
các ông ấy vì việc nước mà hết lòng làm việc bổn-phận cho nên người Pháp cũng
biết lượng tình mà thương-tiếc. Sau ông Lê Trực về ở làng Thanh-thủy, thuộc
huyện tuyên-hóa, tỉnh Quảng-bình, người Pháp thường vẫn đi lại thăm-nom và có ý
kính-trọng lắm. Người bản-quốc thấy vậy, ai cũng lấy làm cảm phục.
6. Vua Thành Thái. Ngày 27 tháng chạp năm
mậu-tí là ngày 28 tháng giêng năm 1888, vua Đồng-khánh phải bệnh mất, thọ 25
tuổi, làm vua được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh-tông Thuần-hoàng-đế.
Bấy giờ
ông Rheinard lại sang làm Khâm-xứ ở Huế, thấy con vua Đồng-khánh còn nhỏ, và
lại nhớ ông Dục-đức ngày trước, khi vua Dực-tông hày còn, thường hay đi lại với
người Pháp, bởi vậy viêm Khâm-xứ nghĩ đến tình cũ mà truyền lập ông Bửu Lân là
con ông Dục-dức lên làm vua.
186 Hai
bức thư ấy dịch ra chữ Pháp in ở trong sách "Empire d'Annam" của đại
úy Gosselin. Lời lẽ thì thật là cương
nghị đáng bậc thiếu niên anh hùng. Nhưng
vì thư đã dịch ra chữ Pháp nếu nay lại theo chữ Pháp mà dịch ra chữ ta thì sợ
không đúng với bản chính, cho nên không đem vào đây.
Ông Bửu
Lân bấy giờ mới lên mười tuổi, đang cùng với mẹ phải giam ở trong ngục.
Triều-đình vào rước ra, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Thành-thái, cử ông
Nguyễn trọng Hợp và ông Trương quang Đản làm Phụ- chính.
7. Sự đánh dẹp ở Bắc Kỳ. Khi nhà Thanh bên Tầu đã ký hòa-ước với nước
Pháp ở Thiên-tân rồi, quân Tầu ở nước ta rút về. Nhưng các cựu- thần như quan
Tán-tương quân-vụ là Nguyễn thiện Thuật và quan Đề-đốc Tạ Hiện còn giữ ở vùng
Bãi-sậy thuộc Hải-dương cùng với các thổ-hào như Đốc Tít ở vùng Đông-triều; Đề
Kiều ở vùng Hưng-hóa; Cai Kinh, Đốc Ngữ ở vùng Phủ-lạng-thương và Yên-thế;
Lương tam Kỳ, dư đảng cờ đen, ở vùng chợ Chui đều nổi lên tương ứng với nhau mà
đánh phá. Lúc ấy quan quyền kinh-lược-sứ là ông Nguyễn trọng Hợp cử quan quyền
Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng cao Khải làm chức Tiểu-phủ-sứ đi đánh-dẹp ở vùng
Bãi-sậy.
Hoàng
cao Khải đem quân đi đánh riết mấy mặt. Bọn văn-thân người thì tử trận, người
thì bị bắt. Nguyễn thiện Thuật chạy sang
Tầu, sau mất ở Nam-ninh, thuộc quảng-tây. Đốc Tít ra hàng, phải đầy sang ở
thành Alger, bên Algérie. Đề Kiều và
Lương tam Kỳ ra thú được ở yên. Cai Kinh
bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng hoa Thám ở Yên-thế cũng ra thú, được giữ ở vùng
ấy, mãi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm 1912 mới bị giết.
Hoàng
cao Khải đi đánh-dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho lãnh chức Bắc-kỳ
Kinh-lược-sứ.
8. Việc Phan Đình Phùng. Từ năm kỷ-sửu (1889) là năm Thành- thái nguyên-niên
cho đến năm qúy-tị
(1893) là năm
Thành-thái ngũ-niên, đất Trung-kỳ
không có việc gì quan-hệ lắm. Các quan
cựu-thần, người thì về thú, người thì ẩn-nấp ở chỗ sơn-lâm. Riêng ông Phan đình
Phùng thì về ở đồn điền ở Vũ-quang về phía bắc huyện Hương-khê, thuộc tỉnh
Nghệ-tĩnh, rồi cho người đi sang Tầu, sang Tiêm, học đúc súng đúc đạn, để đợi
ngày khởi sự.
Ông Phan
đình Phùng người tỉnh Hà-tĩnh, thi đỗ đình-nguyên về đời vua Dục-tông, quan làm
đến chức ngự-sử bị bọn quyền-thần là Nguyễn văn Tường và Tôn-thất Thuyết cách
chức đuổi về. Sau ông ấy đứng đầu đảng văn-thân để chống cự với quân Pháp. Ông
không những là một người có tài văn-chương mà thôi, mà lại là một nhà có
thao-lược, sửa-sang quân-lính có cơ-ngũ,
luyện-tập tướng-sĩ có
kỷ-luật, cho nên
đại-úy Gosselin làm
quyển sách "Empire d Annam" có khen rằng: "Quan
Đình-nguyên Phan đình Phùng có tài kinh-doanh việc quân-binh, biết luyện-tập
sĩ-tốt theo phép Thái-tây,
áo-quần
mặc một lối, và đeo súng kiểu 1874, những súng ấy là súng của người quan
Đình-nguyên đúc ra thật nhiều mà máy-móc cũng hệt như súng Pháp chỉ vì lòng
súng không xẻ rãnh, cho nên đạn không đi xa được".
Đến cuối
trung-tuần tháng 11 năm qúi-tị (1893), ông sai người đến vây nhà tên Trương
quang Ngọc ở làng Thanh-lang, huyện Tuyên-hóa, bắt tên Ngọc chém lấy đầu để
báo-thù về việc tên ấy làm sự phản-ác. Từ đó quân của quan Đình-nguyên vẫy-vùng
ở mạn Hương-khê, đảng văn-thân cũ lại về tụ họp ở đấy.
Bấy giờ
người Pháp không muốn dùng đại binh sợ náo-động lòng người ở bên Pháp, cho nên
chỉ sai quan đem lính tập đi đánh. Đánh
từ cuối năm qúi-tị (1893)
cho đến cuối
năm ất-mùi (1895)
ngót 2 năm
trời mà không dẹp yên được,
quân-lính chết hại cũng nhiều. Bên Bảo-hộ cũng đã tìm đủ mọi cách, như bảo
Hoàng cao Khải viết thư dụ Phan đình Phùng về hàng cho xong cũng không được.
Sau cùng Triều-đình ở Huế thấy việc dai- dẳng mãi không yên, mới xin chính-phủ
Bảo-hộ để sai quan Tổng-đốc Bình- định là Nguyễn Thân làm Khâm-mạng tiết-chế
quân-vụ đem quân ra tiễu- trừ. Ông Phan đình Phùng lúc bấy giờ tuổi đã già, mà
thế-lực mỗi ngày một kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai chạy chỗ kia, thật là
lao-khổ vô cùng, bởi vậy khi Nguyễn Thân đem quân ra đến Hà-tĩnh, thì ông đã
phải bệnh mất rồi. Nguyễn Thân sai người đuổi đánh tìm thấy mả, đào lấy xác đem
về xin người Pháp cho đem đốt lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn đi. Có người
nói rằng việc ấy tuy Nguyễn Thân trước định thế, nhưng sau lại cho đem chôn, vì
muốn để làm cái tang-chứng cho đảng phản-đối với chính-phủ Bảo-hộ là quan Đình
Nguyên đã mất rồi. Từ đó đảng văn-thân tan-vỡ; ai trốn đi mất thì thôi, ai ra
thú thì phải về Kinh chịu tội.
Nguyễn
Thân về Kinh được thăng làm Phụ-chính thay ông Nguyễn trọng Hợp về hưu.
9. Lòng
yêu nước của người Việt Nam. Người Việt-nam vì hoàn-cảnh, vì tình thế bắt-buộc
phải im hơi lặng tiếng, nhưng lòng ái quốc mỗi ngày một nồng-nàn, sự uất-ức
đau-khổ mỗi ngày một tăng thêm. Cho nên cứ cách độ năm bẩy năm lại có một cuộc
phiến-động, như sau việc Phan đình Phùng rồi, có việc Kỳ-đồng và việc
Thiên-binh vào khoảng 1897-1898 ở vùng Thái-bình, Hải-dương, Bắc-ninh v.v...
Vào quãng năm 1907 ở Hà-nội có việc Đông-kinh nghĩa-thục. Lúc ấy có những người
chí sĩ như Phan bội Châu, Phan chu Trinh, người thì không sợ tù tội, đứng lên
tố-cáo sự tham- nhũng của bọn quan-lại, người thì ra ngoại-quốc bôn-ba khắp nơi
để tìm cách giải-phóng cho nước. Năm 1908, ở Trung-Việt vùng Nghệ-Tĩnh và Nam- Nghĩa
có việc dân nổi lên kêu sưu. ở Hà-nội thì có việc đầu-độc lính Pháp, rồi ở
Thái-nguyên, Hoàng hoa Thám lại nổi lên đánh phá.
Khi bên
Âu-châu có cuộc đại-chiến thì bên ta lại có việc đánh-phá ở Sơn-la và Sầm-nứa
và việc vua Duy-tân mưu sự độc-lập, bị bắt đầy sang ở đảo Réunion. Thế là nước Việt-nam bấy giờ có ba ông vua bị
đầy: vua Hàm- nghi đầy sang xứ Algérie, vua Thành-thái và vua Duy-tân đầy sang
ở đảo Réunion.
Sau cuộc
chiến lần thứ nhất, có toàn lính khố xanh nổi lên đánh Thái-nguyên do Đội Cấn
và ông Lương ngọc Quyến làm đầu. Năm 1927, ở vùng Nghệ-tĩnh có cuộc phiến-động
gây ra bởi đảng Cộng-sản do Nguyễn ái Quốc cầm đầu. Đến năm 1930, ở Bắc Việt có
cuộc cách-mệnh của Quốc- dân-dảng, có Nguyễn thái Học điều-khiển ở Yên-bái và
các nơi. Năm 1940, ở Nam-Việt có cuộc phiến-động ở vùng Gia-định, Hốc-môn
v.v... Từ khi có cuộc đại-chiến lần thứ hai, nước Pháp bại trận, bị nước Đức
chiếm cứ, quân Nhật-bản ở bên Tầu sang đánh Lạng-sơn rồi ký hiệp-ước với người
Pháp cho người Nhật được đóng quân ở Đông-pháp. Đến ngày mồng 9 tháng 3 năm
1945, quân Nhật đánh quân Pháp và giao quyền nội-trị lại cho vua Bảo-đại. Được
mấy tháng thì quân Đồng-minh thắng trận, Nhật-bản đầu hàng. Đảng Việt-minh187
dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn ái Quốc-đổi tên là Hồ chí Minh thừa cơ nổi lên
cướp quyền, vua Bảo-đại phải thoái-vị và nhường quyền cho đảng Việt-minh.
Đây chỉ mới
nói qua cái đại-lược một đoạn
lịch-sử của nước Việt- nam, để dành về sau nhà làm sử sẽ tìm
đủ tài-liệu mà chép cho rõ-ràng và phê-bình cho chính-đáng.
187 Việt
Minh là tên gọi tắt một đảng cách mệnh gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh do
đảng Cộng sản lập ra khi còn ở bên Quảng Tây, bên Tàu, để tránh hai chữ Cộng
sản cho người ta khỏi ngờ
CHƯƠNG XVI
Công
Việc Của Người Pháp Tại Việt Nam
1. Đà-nẵng,
Hà-nội, Hải-phòng thành đất nhượng-địa
2. Việc
kinh-doanh ở các xứ bảo-hộ
1. Đà-nẵng,
Hà-nội, Hải-phòng thành đất nhượng-địa.
Từ khi
sự đánh-dẹp các nơi đã yên rồi, các viên Tổng-đốc toàn-quyền lần lượt sang kinh-doanh việc Đông-pháp
và lo mở
mang về đường chính-trị, kinh-tế và xã-hội theo chính-sách của nước Pháp.
Tháng 3
năm mậu-tí (1888) tức là năm Thành-thái nguyên-niên, ông Richaud sang làm
Tổng-đốc toàn-quyền. Tháng tám năm ấy, Triều-đình ở Huế ký giấy nhượng hải-cảng
Đà-nẵng, thành-thị Hà-nội và Hải-phòng cho nước Pháp để làm đất nhượng địa
nghĩa từ đó là việc cai-trị và pháp-luật ở ba thành-thị ấy thuộc về nước Pháp,
chứ không thuộc về nước Nam nữa. Trừ ba thành-thị ấy ra, thì việc cai-trị ở các
tỉnh trong toàn hạt Bảo-hộ vẫn để quan-lại làm việc như cũ, nhưng phải do người
Pháp điều-khiển và kiểm- duyệt.
2. Việc
kinh doanh ở các xứ bảo hộ. Cuộc Bảo-hộ đã lập xong, người Việt-nam vì thế
bất-đắc-dĩ phải chịu, nhưng phần nhiều người trong lòng còn mong khôi-phục nước
nhà, cho nên chính-phủ Bảo-hộ một mặt thì lo việc phòng giữ, một mặt lo mở-mang
các công-cuộc kiến-thiết để gây thêm mối lợi. Về đường phòng-giữ, thì chính-phủ
lập ra những đội binh bảo-an, lấy người bản-sứ làm lính. Những lính ấy đội một
thứ nón dẹt có giải xanh và múi thắt lưng xanh, cho nên tục gọi là lính
khố-xanh. Lính ấy do người Pháp cai-quản ở dưới quyền quan cai-trị người Pháp,
cho đi canh giữ các dinh-thự, các công-sở, và cho đi đóng đồn ở các nơi trong
vùng thôn-quê, để phòng-giữ trộm cướp. ở những nơi hiểm-yếu thì có lính Pháp và
lính khố đỏ đóng. Lính khố đỏ là một thứ bộ binh người bản-xứ, cách ăn- mặc
cũng như lính khố xanh, chỉ khác là quai nón đỏ mà múi thắt lưng đỏ. Những lính
ấy có cơ, có đội do sĩ-quan Pháp cai-quản ở dưới quyền nhà binh Pháp. Khi có
việc gì quan-hệ thì đem lính Pháp và lính ấy ra đánh-dẹp.
Về việc
hành binh và việc thương-mại, thì chính-phủ Bảo-hộ trước hết phải lo sửa-sang
và mở-mang thêm đường-sá cho tiện sự giao-thông. Vì rằng có đường thì khi hữu
sự, việc đánh-dẹp mới tiện-lợi và việc buôn-bán cũng nhân đó mà được dễ-dàng.
Bởi vậy thoạt đầu tiên chính-phủ mở thương-cục, lập xưởng làm tầu thủy chở
hàng-hóa và hành-khách đi trong các sông ở trong xứ.
Năm
tân-mão (1891), ông De Lanessan sang làm Tổng-đốc toàn- quyền, mở đường xe lửa
từ Phủ-lạng-thương lên đến Lõng-sơn, đến năm giáp-ngo (1894), con đường ấy mới
xong. Chủ-đích là để cho tiện sự phòng- giữ ở chỗ biên-thùy.
Chính-phủ
Bảo-hộ lại lo mở-mang thêm bờ-cõi về phía Lào. Nguyên đất Lào ngày trước vẫn
thần-phục nước Nam. Những nơi như Trấn-ninh, Cam-môn, Cam-cát, v.v. về đời vua
Minh-mệnh đã lập thành phủ huyện và đặt quan cai-trị cả. Nhưng về sau nước ta suy-nhược lại có việc
chiến-tranh với nước Pháp, cho nên nước Tiêm-la mới nhân dịp mà sang chiến-giữ
lấy. Sau có người Pháp tên là Pavie
sang dự nước Lào nhận sự bảo-hộ của nước Pháp, rồi đến đầu năm quí-tị (1893),
quân Pháp sang lấy lại những đất cũ thuộc về nước Nam ta trước. Bấy giờ quân
Tiêm-la ở mạn Cam-môn giết mất một người quan binh Pháp, người Pháp bèn sai
hải-quân đem hai chiếc tầu chiến vào sông Mê-nam, lên đậu ở gần thành Băng-cốc
(Bangkok). Ngày 24 tháng 8 năm ấy, nước Tiêm-la phải ký, hòa-ước, nhường những
đất Lào cho nước Pháp bảo-hộ, hạn trong một tháng phải rút quân đóng ở bên
tả-ngạn sông Mékong về, lại phải bồi thường 2 triệu phật-lăng, và phải trị tội
những người dám chống-cự với người Pháp.
Người
Pháp lập phủ Thống-sứ ở Vientiane để cai-trị các địa hạt bên
Lào.
Năm
ất-mùi (1895), viên Tổng-đốc toàn-quyền Rousseau sang thay ông De Lanessan,
thấy còn nhiều nơi chưa yên bèn vay nước Pháp cho Bắc- kỳ 80 triệu phập-lăng ,
để chi-tiêu về việc đánh-dẹp và mở-mang.
Năm
đinh-dậu (1897), ông Daumer sang làm Tổng-đốc toàn-quyền, chỉnh-đốn lại
việc tài-chánh và việc
chính-trị. Lập ra sổ chi-thu chung cả toàn cảnh Đông-pháp,
định các thứ thuế: thuế đinh, thuế điền, thuế thổ, thuế xuất-cảng, nhập-cảng,
v.v., và cho người được độc-quyền lĩnh trưng thuế rượu,
thuế muối, thuế
nha-phiến. Bỏ nha
Kinh-lược ở Bắc-kỳ,
giao quyền
lại cho viên Thống-sứ (tháng 6 năm đinh-dậu 1897)188, vay nước Pháp 200 triệu
phập-lăng, để mở đường hỏa-xa trong xứ Đông-pháp và mở-mang thêm việc canh-nông
và việc công-nghệ.
Năm
nhâm-dần (1902) ông Doumer về Pháp, ông Beau sang làm Tổng-đốc toàn-quyền. Ông
Beau chủ việc khai-hóa dân-trí, lo mở-mang sự học-hành và đặt ra Y-tế-cục, làm
nhà bệnh-viện, để cứu-giúp những kẻ yếu- đau nghèo-khổ. Ấy là những công-việc
làm của chính-phủ bảo-hộ vậy.
TỔNG KẾT
Sách
Việt Nam Sử-Lược này chép đến đây hãy tạm ngừng, để sau có tài-liệu đầy-đủ và
các việc biến-đổi ở nước Việt-Nam này được rõ-rệt hơn, sẽ làm tiếp thêm189.
Việc
chép lịch-sử cũng như việc dệt vải dệt lụa, dệt xong tấm nào mới biết tấm ấy
tốt hay xấu, còn tấm đang dệt, chưa biết thế nào mà nói được.
Ta chỉ
biết rằng các dây sợi dệt tấm Nam-sử này còn dài, người dệt tuy phải lúc đau
yếu, bỏ ngừng công-việc, nhưng còn mong có ngày khỏe- mạnh lại dệt thêm, có lẽ
lại dệt được tốt đẹp hơn, cũng chưa biết chừng.
Mặc dù
nước Việt-nam hiện nay được hoàn toàn độc-lập nhưng sự hay-dở tương-lai chưa
biết ra thế nào? Song người bản-quốc phải biết rằng phàm sự sinh-tồn tiến-hóa
của một nước, là ở cái chí-nguyện, sự nhẫn-nại và sự cố-gắng của người trong
nước. Vậy ta phải hết sức mà học-tập, mà giữ cái tâm-trí cho bền-vững thì chắc
tương-lai còn nhiều hi-vọng. Nước Việt-nam ta đã có cái văn-hóa chẳng thua-kém
gì ai, và lại có một lịch-sử vẻ- vang, nếu ta biết lợi-dụng cái tiềm-lực cố hữu
và cái tính thông-minh hiếu học của ta để theo thời mà tiến-hóa, thì sao ta lại
không có ngày nối được cái chí của ông cha mà dệt thêm một đoạn lịch-sử mỹ-lệ
hơn trước?
Có một
điều thiết-tưởng nên nhắc lại là ta nên giữ lấy những điều hay của ta đã có, bỏ
những điều hủ-bại đi, và bắt-chước lấy những điều hay của người, để gây lấy cái
nhân-cách đặt-biệt của dân-tộc ta và cùng tiến với người mà không lẫn với
người. Muốn được như thế, ta phải biết phân-biệt cái hay cái dở, không ham muốn
những cái huyền-hão bề ngoài, rồi đồng tân hiệp lực với nhau mà làm mọi việc
cho thành cái hiệu-qủa mỹ-mãn.
Nước nào
cũng có lúc bĩ lúc thái, đó là cái công-lệ tuần-hoàn của tạo-hóa trong
thế-gian. Tự xưa chưa thấy có nước nào
cứ thịnh mãi hay cứ suy mãi. Khi lâm vào cảnh bĩ mà người trong nước cứ vững
lòng giữ được cái nghi-lực để sinh-tồn và tiến-hóa, thì rồi thế nào cũng có
ngày chấn-khởi lên được. Vậy chúng ta đây đều là một dòng-dõi nhà Hồng-Lạc, nếu
ta biết kiên tâm bền chí, thì há lại không có một ngày ta có cái địa-vị vẻ-vang
với
188 Có
một điều rất kỳ, là viên thống sứ Bắc Kỳ là người đại biểu chính phủ Bảo hộ mà
lại kiêm chức Kinh Lược Sứ là một chức quan của Triều Đình ở Huế.
189
Trước tôi đã dự bị viết một quyển sách nối theo sách này. Tôi đã thu nhặt được rất nhiều tài liệu. Chẳng may đến cuối năm bính tuất (1946) có
cuộc chiến tranh ở Hà Nội, nhà tôi bị đốt cháy, sách vỡ mất sạch, thành ra đành
phải bỏ quyển sử ấy mà không làm được nữa.
thiên-hạ
hay sao? Sự ước-ao mong-mỏi như thế là cái nghĩa vụ chung cả chủng-loại
Việt-nam ta vậy.
Những
Sách Soạn Giả Dùng Để Kê Cứu
A. Sách Chữ Nho Và Chữ Quốc Ngữ:
1. Đại-Việt sử-ký, của Ngô Sĩ-Liên
2. Khâm-định Việt-sử Thông-giám cương-mục
3. Trần-triều thế-phổ hành trạng
4. Bình Nguyên công-thần thực lục
5. Hoàng Lê nhất thống chí
6. Lịch-triều hiến-chương, của Phan huy Chú
7. Đại Nam thực lục tiền biên
8. Đại Nam thực lục chính biên
9. Đại Nam thống chí
10. Đại Nam chính biên liệt truyện
11. Đại Nam điển lễ toát-yếu, của Đỗ văn Tâm
12. Minh-mệnh chính yếu
13. Quốc-triều sử toát-yếu, của Cao xuân Dục
14. Thanh-triều sử-ký
15. Trung-quốc lịch-sử
16. Hạnh-Thục ca, của bà Nguyễn nhược Thị
B. Sách Chữ Pháp :
1. Cours d'Histoire Annamite, par Trương
vĩnh Ký
2. Notion d'Histoire d'Annam, par Maybon et
Ruissier
3. Pays d'Annam, par E. Luro
4. L'Empire d'Annam, par Gosselin
5. Abrégé de l'Histoire d'Annam, par
Shreiner
6. Histoire de la Cochinchine, par P.Cultru
7. Les Origines du Tonkin, par J. Dupuis
8. Le Tonkin de 1872 à 1886, par J. Dupuis
9. La Vie de Monseigneur Puginier, par E.
Louvet
10. L'insurrection de Gia-định, par J.
Silvestre (Revue Indochinoise - Juillet-Aout 1915) Trung Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét