Mục-lục
Tựa
Nước Việt Nam
Thượng
Cổ Thời Đại
Chương I Họ Hồng Bàng
Chương
II Nhà Thục
Chương
III Xã hội nước Tàu
Chương
IV Nhà Triệu
Bắc Thuộc Thời Đại
Chương I Bắc Thuộc lần thứ nhất
Chương
II Trưng Vương
Chương
III Bắc Thuộc lần thứ hai
Chương
IV Nhà Tiền Lý
Chương V Bắc Thuộc lần thứ ba
Chương
VI Kết quả của thời đại Bắc Thuộc
Tự Chủ Thời Đại
Chương I Nhà Ngô
Chương
II Nhà Đinh
Chương
III Nhà Tiền Lê
Chương
IV Nhà Lý
Chương V Nhà Lý (tiếp theo)
Chương
VI Nhà Trần (Thời kỳ thứ nhất)
Chương
VII Giặc nhà Nguyên - I
Chương
VIII Giặc nhà Nguyên - II
Chương
IX Nhà Trần (Thời kỳ thứ hai)
Chương X Nhà Trần (Thời kỳ thứ ba)
Chương
XI Nhà Hồ
Chương
XII Nhà Hậu Trần Chương XIII Thuộc nhà
Minh
Chương
XIV Mười năm đánh quân Tàu
Chương
XV Nhà Lê
Tự Chủ Thời Đại (Thời kỳ nam bắc phân tranh)
Chương I Lịch Triều lược kỷ
Chương
II Nam triều - Bắc triều
Chương
III Trịnh Nguyễn phân tranh
Chương
IV Sự chiến tranh
Chương V Công việc họ Trịnh làm ở ngoài Bắc
Chương
VI Công việc họ Nguyễn làm ở miền Nam
Chương
VII Người Âu châu sang nước Nam
Chương
VIII Vận trung suy của chúa Nguyễn
Chương
IX Họ Trịnh mất nghiệp chúa
Chương X Nhà Hậu Lê mất ngôi vua
Chương
XI Nhà Nguyễn Tây Sơn
Chương
XII Nguyễn Vương nhất thống nước Nam
Cận Kim Thời Đại
Chương I Nguyễn-thị Thế Tổ
Chương
II Thánh Tổ
Chương
III Thánh Tổ (tiếp theo)
Chương
IV Hiến Tổ
Chương V Dực Tông
Chương
VI Chế độ tình thế nước Việt Nam cuối đời
Tự Đức
Chương
VII Nước Pháp lấy Nam Kỳ
Chương
VIII Giặc giã ở trong nước
Chương
IX Quân nước Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ nhất
Chương X Tình thế nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau
Chương
XI Quân nước Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ hai
Chương
XII Cuộc bảo hộ của nước Pháp
Chương
XIII Chiến tranh với nước Tàu
Chương
XIV Loạn ở Trung kỳ
Chương
XV Việc đánh dẹp ở Trung kỳ và
Bắc kỳ
Chương
XVI Công việc của người Pháp tại Việt Nam
Tổng Kết
Tựa
Sử là
sách không những chỉ để ghi chép những công việc đã qua mà thôi, nhưng lại phải
suy xét việc gốc ngọn, tìm tòi cái căn nguyên những công việc của người ta đã
làm để hiểu cho rõ những vận hội trị loạn của một nước, những trình độ tiến hóa
của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương chung cổ cho người cả nước được
đời đời soi vào đấy mà biết cái sự sinh hoạt của người trước đã phải lao tâm
lao lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này.
Người
trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu nước yêu nhà,
mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã hội
của tiên tổ đã xây dựng nên mà để lại cho mình. Bởi những lẽ ấy cho nên phàm
dân tộc nào đã có đủ cơ quan và thể lệ làm cho một nước độc lập, thì cũng có sử
cả. Nước Việt ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quãng thế kỷ thứ XIII. Từ
đó trở đi nhà nào lên làm vua cũng trọng sự làm sử. Nhưng cái lối làm sử của ta
theo lối biên niên của Tàu. nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện gì quan trọng
thì nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy
chuyện ấy mà thôi, chứ không giải thích cái gốc ngọn và sự liên can việc ấy với
việc khác là thế nào.
Nhà làm
sử lại là người làm quan, vua sai coi việc chép sử, cho nên dẫu thế nào sự chép
sử cũng không được tự do, thường có ý thiên vị về nhà vua, thành ra trong sử
chỉ cần chép những chuyện quan hệ đến nhà vua, hơn là những chuyện quan hệ đến
sự tiến hóa của nhân dân trong nước. Vả, xưa nay ta vẫn chịu quyền chuyên chế,
vẫn cho việc nhà vua là việc nước. Cả
nước chỉ cốt ở một họ làm vua, cho nên nhà làm sử cứ theo cái chủ nghĩa ấy mà
chép sử, thành ra sử đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy mà thôi. Bởi
vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường không có ích lợi cho sự học vấn là mấy.
Sử của
mình đã không hay, mà người mình lại không mấy người biết sử. Là vì cái cách
học tập của mình làm cho người mình không có thể biết được sử nước mình. Bất kỳ lớn nhỏ, hễ ai cắp quyển sách
đi học thì
chỉ học sử Tàu,chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú
văn chương gì cũng lấy điển tích ở sử Tàu, chứ chuyện nước mình thì nhất thiết
không nói đến. Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải
biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi
mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự
mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: "Việc
nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!" Cái sự học vấn của mình như thế,
cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang
ra làm sao được?
Nhưng
dẫu thế nào mặc lòng, nước ta đã có sử ta thì cũng có thể bởi đó mà biết được
những sự đã qua ở nước ta, và có thể bởi đó mà khảo cứu được nhiều việc quan hệ
đến vận mệnh nước mình từ xưa đến nay xoay vần ra làm sao. Hiềm vì sử nước ta
thì làm bằng chữ Nho cả, mà chữ Nho thì từ rày trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém
đi. Hiện nay số người đọc được chữ Nho còn nhiều, mà trong nước còn không có
mấy người biết được chuyện nước nhà, huống chi mai sau này chữ Nho bỏ không học
nữa, thì sự khảo cứu về những việc quan hệ đến lịch sử nước mình sẽ khó biết
bao nhiêu!
Nay nhân
sự học ở nước ta đã thay đổi, chữ quốc ngữ đã phổ thông cả trong nước, chi bằng
ta lấy tiếng nước nhà mà kể chuyện nước nhà, ta soạn ra bộ Việt Nam Sử Lược,
xếp đặt theo thứ tự, chia ra từng thời đại, đặt thành chương, thành mục rõ
ràng, để ai ai cũng có thể xem được sử, ai ai cũng có thể hiểu được chuyện,
khiến cho sự học sử của người mình được tiện lợi hơn trước.
Bộ Việt
Nam Sử Lược này, soạn giả chia ra làm 5 thời đại:
Thời đại
thứ nhất là Thượng Cổ thời đại, kể từ họ Hồng Bàng cho đến hết đời nhà Triệu.
Trong thời đại ấy, từ chương thứ III, bàn về xã hội nước Tàu trước đời nhà Tần,
phần nhiều là những chuyện hoang đường, huyền hoặc cả. Những nhà chép sử đời
trước cũng theo tục truyền mà chép lại, chứ không có di tích gì mà khảo cứu cho
đích xác. Tuy vậy, soạn giả cũng cứ theo sử cũ mà chép lại, rồi cũng phê bình
một đôi câu để tỏ cho độc giả biết rằng những chuyện ấy không nên cho là xác
thực.
Thời đại
thứ nhì là Bắc Thuộc thời đại, kể từ khi vua Vũ Đế nhà Hán lấy đất Nam Việt của
nhà Triệu, cho đến đời Ngũ Quí, ở bên ta có họ Khúc và họ Ngô xướng lên sự độc
lập. Những công việc trong thời đại ấy, thì sử cũ của nước ta chép rất là sơ
lược lắm. Vì rằng trong thời đại Bắc Thuộc, người mình chưa được tiến hóa, sự
học hành còn kém, sách vở không có, cho nên về sau những nhà làm sử của ta chép
đến thời đại này cũng không kê cứu vào đâu được, chỉ theo sử Tàu mà chép lại
thôi. Vả, người Tàu lúc ấy vẫn cho mình
là một xứ biên địa dã man, thường không ai lưu tâm đến, cho nên những chuyện chép
ở trong sử, cũng sơ lược lắm, mà đại để cũng chỉ chép những chuyện cai trị,
chuyện giặc giã, chứ các công việc khác thì không nói đến.
Thời đại
Bắc Thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục
ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta
nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất
sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người
mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu.
Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu
ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được.
Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự
biến cải mới có công hiệu vậy.
Thời đại
thứ ba là thời đại Tự Chủ, kể từ nhà Ngô, nhà Đinh cho đến sơ-diệp nhà Hậu Lê.
Nước mình từ thời đại ấy về sau là một nước dộc lập, tuy đối với nước Tàu vẫn
phải xưng thần và chịu cống, nhưng kỳ thực là không ai xâm phạm đến cái quyền
tự chủ của mình. Buổi đầu, nhà Đinh, nhà Lê mới dấy lên; còn phải xây đắp cái
nền tự chủ cho vững bền, phải lo sửa sang việc võ bị để chống với kẻ thù
nghịch, cho nên sự văn học không được mở mang lắm. Về sau đến đời nhà Lý, nhà
Trần, công việc ở trong nước đã thành nền nếp, kẻ cừu địch ở ngoài cũng không
quấy nhiễu nữa, lại có nhiều vua hiền tôi giỏi nối nhau mà lo việc nước, cho
nên từ đó trở đi việc chính trị, việc tôn giáo và việc học vấn mỗi ngày một
khai hóa ra, làm cho nước ta thành một nước có thế lực, bắc có thể chống được
với Tàu, nam có thể mở rộng thêm bờ cõi. Nhà Lý và nhà Trần lại có công gây nên
cái quốc hồn mạnh mẽ, khiến cho về sau đến đời Trần mạt, nhân khi họ Hồ quấy
rối, người Tàu đã toan đường kiêm tính, người mình biết đồng tâm hiệp lực mà
khôi phục lại giang sơn nhà. Kế đến nhà Lê, trong khoảng một trăm năm về
buổi đầu, nước
mình cũng có
thể gọi là
thịnh trị, nhất
là về những
năm Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497), thì sự văn trị và
võ công đã là rực rỡ lắm. Nhưng về sau gặp những hôn quân dung chúa, việc triều
chính đổ nát, kẻ gian thần dấy loạn. Mối binh đao gây nên từ đó, người trong
nước đánh giết lẫn nhau, làm thành ra nam bắc chia rẽ, vua chúa tranh quyền. Ấy
thật là một cuộc biến lớn ở trong nước vậy.
Thời đại
thứ tư là Nam Bắc phân tranh, kể từ khi nhà Mạc làm sự thoán đoạt cho đến nhà
Tây Sơn. Trước thì nam Lê, bắc Mạc, sau thì Nguyễn nam, Trịnh bắc, sự cạnh
tranh càng ngày càng kịch liệt, lòng ghen ghét càng ngày càng dữ dội. Nghĩa vua
tôi mỏng mảnh, đạo cương thường chểnh mảng: nước đã có vua lại có chúa. Trong
Nam ngoài Bắc mỗi nơi một giang sơn, công việc ở đâu, chủ trương ở đấy. Tuy vậy
việc sửa đổi ở ngoài Bắc cũng có nhiều việc hay, mà việc khai khẩn trong Nam
thật là ích lợi. Nhưng cuộc thành bại ai đâu dám chắc, cơn gió bụi khởi đầu từ
núi Tây Sơn, làm đổ nát cả ngôi vua cùng nghiệp chúa. Anh em nhà Tây Sơn vẫy
vùng không được 20 năm, thì bản triều nhà Nguyễn lại trung hưng lên, mà đem
giang sơn về một mối, lập thành cái cảnh tượng nước Việt Nam ta ngày nay vậy.
Thời đại
thứ năm là Cận Kim thời đại, kể từ vua Thế Tổ bản triều cho đến cuộc Bảo Hộ bây
giờ. Vua Thế Tổ khởi đầu giao thiệp với nước Pháp Lan Tây để mượn thế lực mà
đánh Tây Sơn. Nhưng về sau vì những vua con cháu Ngài đổi chính sách khác,
nghiêm cấm đạo Thiên Chúa và đóng cửa không cho ngoại quốc vào buôn bán. Những
đình thần thì nhiều người trí lự hẹp hòi, cứ nghiễm nhiên tự phụ, không chịu
theo thời mà thay đổi. Đối với những
nước ngoại dương, thì thường hay gây nên sự bất hòa, làm cho nước Pháp phải
dùng binh lực để bênh vực quyền lợi của mình. Vì những chính sách ấy cho nên
mới thành ra có cuộc Bảo Hộ.
Đại khái
đó là những mục lớn trong những phần mà soạn giả đã theo từng thời đại để đặt
ra. Soạn giả đã cố sức xem xét và góp nhặt những sự ghi chép ở các sách chữ Nho
và chữ Pháp, hoặc nhữNg chuyện rải rác ở các dã sử, rồi đem trích bỏ những sự
huyền hoặc đi mà soạn ra bộ sách này, cốt để người đồng bang ta biết được
chuyện nước nhà mà không tin nhảm những sự huyễn hoặc. Thời đại nào nhân vật ấy
và tư tưởng ấy, soạn giả cứ bình tĩnh cố theo cho đúng sự thực. Thỉnh thoảng có một đôi nơi soạn giả có đem
ý kiến riêng của mình mà bàn với độc giả, thí dụ như chỗ bàn về danh hiệu nhà
Tây Sơn thì thiết tưởng rằng sử là của chung cả quốc dân, chớ không phải riêng
cho một nhà một họ nào, cho nên mới phải lấy công lý mà xét đoán mọi việc và
không vị tình riêng để phạm đến lẽ công bằng vậy.
Độc giả
cũng nên biết cho rằng bộ sử này là bộ Sử Lược chỉ cốt ghi chép những chuyện
trọng yếu để hãy tạm giúp cho những người hiếu học có sẵn quyển sách mà xem cho
tiện. Còn như việc làm thành ra bộ sử thật là đích đáng, kê cứu và phê bình rất
tường tận, thì xin để dành cho những bậc tài danh sau này sẽ ra công mà giúp
cho nước ta về việc học sử. Bây giờ ta chưa có áo lụa, ta hãy mặc tạm áo vải,
tuy nó xấu xí nhưng nó có thể làm cho ta đỡ rét. Nghĩa là ta hãy làm thế nào
cho những thiếu niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết một đôi chút sự tích
nước nhà, cho khỏi tủi quốc hồn. Ấy là
cái mục đích của soạn giả, chỉ có thế thôi. Nếu cái mục đích ấy mà có thể tới được thì tưởng bộ sách này là bộ sách
có ích vậy.
Trần
Trọng Kim
Nước Việt Nam
1. Quốc
Hiệu
2. Vị
Trí và Diện Tích
3. Địa
Thế
4. Chủng
Loại
5. Gốc
Tích
6. Người
Việt Nam
7. Sự Mở
Mang Bờ Cõi
8. Lịch
Sử Việt Nam
Nước Việt Nam
1. Quốc
Hiệu.
Nước Việt Nam ta về đời Hồng Bàng (2897 - 258 trước Tây lịch) gọi là Văn Lang, đời Thục An Dương Vương (257 - 207 trước Tây lịch) thì gọi là Âu Lạc. Đến nhà Tần (246 - 206 trước Tây lịch) lược định phía nam thì đặt làm Tượng Quận, sau nhà Hán (202 trước Tây lịch - 220 sau Tây lịch) dứt nhà Triệu, chia đất Tượng Quận ra làm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Đến cuối đời nhà Đông Hán, vua Hiến Đế đổi Giao Chỉ làm Giao Châu. Nhà Đường lại đặt là An Nam Đô Hộ Phủ.
Nước Việt Nam ta về đời Hồng Bàng (2897 - 258 trước Tây lịch) gọi là Văn Lang, đời Thục An Dương Vương (257 - 207 trước Tây lịch) thì gọi là Âu Lạc. Đến nhà Tần (246 - 206 trước Tây lịch) lược định phía nam thì đặt làm Tượng Quận, sau nhà Hán (202 trước Tây lịch - 220 sau Tây lịch) dứt nhà Triệu, chia đất Tượng Quận ra làm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Đến cuối đời nhà Đông Hán, vua Hiến Đế đổi Giao Chỉ làm Giao Châu. Nhà Đường lại đặt là An Nam Đô Hộ Phủ.
Từ khi nhà Đinh (968 - 980) dẹp xong loạn Thập
Nhị Sứ Quân, lập nên một nước tự chủ, đổi quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Vua Lý
Thánh Tông đổi là Đại Việt, đến đời vua Anh Tông, nhà Tống bên Tàu mới công
nhận là An Nam Quốc.
Đến đời
vua Gia Long, thống nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An Nam, Việt
là Việt Thường, mới đặt quốc hiệu là Việt Nam. Vua Minh Mệnh lại cải làm Đại
Nam.
Quốc
hiệu nước ta thay đổi đã nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói quen
dùng hai chữ An Nam, nhưng vì hai chữ ấy có ngụ ý phải thần phục nước Tàu, vậy
thì ta nên nhất định lấy tên Việt Nam mà gọi nước nhà.
2. Vị
Trí và Diện Tích.
Nước Việt Nam ở về phía đông nam châu Á- tế-á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, hình cong như chữ S, trên phía bắc và dưới phía nam phình rộng ra, khúc giữa miền trung thì eo hẹp lại.
Nước Việt Nam ở về phía đông nam châu Á- tế-á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, hình cong như chữ S, trên phía bắc và dưới phía nam phình rộng ra, khúc giữa miền trung thì eo hẹp lại.
Đông và
nam giáp bể Trung Quốc (tức là bể Nam Hải); Tây giáp Ai Lao và Cao Miên; Bắc
giáp nước Tàu, liền với tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam.
Diện
tích cả nước rộng chừng độ 312.000 ki-lô-mét vuông chia ra như sau này:
Bắc
Việt: 105.000 km2 Trung Việt: 150.000 km2 Nam Việt: 57.000 km2
3. Địa
Thế.
Nước ta hiện chia ra làm ba cõi: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Đất Bắc Việt có sông Hồng Hà (tức là sông Nhị Hà) và sông Thái Bình. Mạn trên gọi là Thượng Du lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung Châu, đất đồng bằng, người ở chen chúc đông lắm.
Nước ta hiện chia ra làm ba cõi: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Đất Bắc Việt có sông Hồng Hà (tức là sông Nhị Hà) và sông Thái Bình. Mạn trên gọi là Thượng Du lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung Châu, đất đồng bằng, người ở chen chúc đông lắm.
Đất
Trung Việt thì chỉ có một giải ở men bờ bể, còn ở trong có núi Trường Sơn chạy
dọc từ Bắc Việt vào gần đến Nam Việt, cho nên người chỉ ở được mạn gần bể mà
thôi.
Đất Nam
Việt thì ở vào khúc dưới sông Mê Kông (tức là sông Cửu Long), lại có sông Đồng
Nai chảy ở mé trên, cho nên đất tốt, ruộng nhiều, dân gian trù phú và dễ làm ăn
hơn cả
4. Chủng
Loại.
Người Việt Nam có nhiều dân tộc ở, như là ở về miền thương du Bắc Việt thì có dân Thái, (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung Việt thì có dân Mọi, và Chàm (tức là Hời), ở về miền Nam Việt thì có dân Mọi, Chàm, Chà Và và Khách, v.v.... Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả đến non một triệu người. Còn thì dân tộc Việt Nam ở hết cả.
Người Việt Nam có nhiều dân tộc ở, như là ở về miền thương du Bắc Việt thì có dân Thái, (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung Việt thì có dân Mọi, và Chàm (tức là Hời), ở về miền Nam Việt thì có dân Mọi, Chàm, Chà Và và Khách, v.v.... Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả đến non một triệu người. Còn thì dân tộc Việt Nam ở hết cả.
Số người
Việt Nam ở trong ba nơi có thể chia ra như sau này:
Bắc
Việt: 8.700.000 người
Trung
Việt: 5.650.000 người
Nam
Việt: 4.616.000 người
Cả thảy cộng lại được độ chừng non 19 triệu
người1.
1 Số này
là theo sách Địa Lý của ông H. Russier (1939) chép lại chứ không chắc đã đúng
số nhất định của người mình.
5. Gốc
tích. Theo ý kiến của nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người
Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần xuống
phía đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; còn người Thái thì theo sông Mê
Kông xuống, lập ra nước Tiêm La (tức là Thái Lan) và các nước Lào.
Lại có
rất nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có
giống Tam Miêu ở, sau giống Hán Tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc
đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước
Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp trong rừng hay là
xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ.
Những ý
kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho
đích xác. Chỉ biết rằng người Việt Nam
ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao
Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài
riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu.
Dẫu
người mình thuộc về chủng loại nào mặc lòng, về sau người Tàu sang cai trị hàng
hơn một nghìn năm, lại có khi đem sang nước ta hơn bốn mươi vạn binh, chắc là
nói giống cũ của mình cũng đã lai đi nhiều rồi, mới thành ra người Việt Nam ngày
nay.
6. Người
Việt Nam.
Người Việt Nam thuộc về loài da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm lụng dầm mưa dãi nắng lắm, thì nước da ngăm ngăm đen, người nào nhàn hạ phong lưu, ở trong nhà luôn, thì nước da trăng trắng như màu ngà cũ.
Người Việt Nam thuộc về loài da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm lụng dầm mưa dãi nắng lắm, thì nước da ngăm ngăm đen, người nào nhàn hạ phong lưu, ở trong nhà luôn, thì nước da trăng trắng như màu ngà cũ.
Trạc
người thì thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn lẳn con người, chứ không to béo. Mặt
thì xương xương, trông hơi bèn bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì đen và hơi
xếch về đàng đuôi, hai gò má thì cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng thì to mà
lại nhuộm đen. Râu thì thưa mà ít, tóc thì nhiều và dài, đen và hơi cứng. Dáng
điệu đi đứng thì nhẹ nhàng và xem ra bộ vững vàng chắc chắn.
Áo quần
thì dài rộng, đàn ông thì búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc dài quá đầu
gối, tay áo thì chật, ống quần thì rộng. Đàn bà ở Bắc Việt và phía bắc Trung
Việt thì đội khăn, mà ở chỗ thành thị thì mặc quần, còn ở nhà quê thì hay mặc
váy. Ở phía nam Trung Việt và Nam Việt thì đàn bà hay mặc quần cả, và búi tóc,
chứ không đội khăn bao giờ.
Về đàng
trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu.
Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng
dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quý sự lễ phép, mến điều
đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tình vặt, cũng có
khi quỷ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và
muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỹ
luật.
Tâm địa
thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng
bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn
không nhiệt tin tông giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân,
biết thương người và hay nhớ ơn.
Đàn bà
thì hay làm lụng và đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại
biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ
được các đức tính rất quý là: tiết, nghĩa, cần, kiệm.
Vậy ghi
chép những cơ hội gian truân, những sự biến cố của nước mình đã trải qua, và kể
những công việc của người mình làm từ đời nọ qua đời kia, để cho mọi người
trong nước đều biết, ấy là sách Việt Nam sử.
Nay ta
nên theo từng thời đại mà chia sách Việt Nam sử ra 5 phần để cho tiện sự kê
cứu.
Phần I: Thượng
Cổ thời đại.
Phần II:
Bắc Thuộc thời đại.
Phần
III: Tự Chủ thời đại.
Phần IV:
Nam Bắc Phân Tranh thời đại.
Phần V: Cận Kim thời đại.
Người
Việt Nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói một thứ tiếng2, cùng giữ
một kỹ niệm, thật là cái tính đồng nhất của một dân tộc từ đầu nước đến cuối
nước.
7. Sự Mở
Mang Bờ Cõi. \
Người nòi giống Việt Nam ta mỗi ngày một nẩy nở ra nhiều, mà ở phía bắc thì đã có nước Tàu cường thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, đánh Lâm Ấp, dứt Chiêm Thành, chiếm đất Chân Lạp, mở ra bờ cõi bây giờ.
Người nòi giống Việt Nam ta mỗi ngày một nẩy nở ra nhiều, mà ở phía bắc thì đã có nước Tàu cường thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, đánh Lâm Ấp, dứt Chiêm Thành, chiếm đất Chân Lạp, mở ra bờ cõi bây giờ.
8. Lịch
Sử Việt Nam.
Từ khi người Việt Nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu cai trị mấy lần, chịu khổ sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc biệt của giống mình, ấy là đủ tỏ ra rằng khí lực của người mình không đến nỗi kém hèn cho lắm. Tuy rằng mình chưa làm được việc gì cho vẽ vang bằng người, nhưng mình còn có thể hy vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường thịnh.
Từ khi người Việt Nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu cai trị mấy lần, chịu khổ sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc biệt của giống mình, ấy là đủ tỏ ra rằng khí lực của người mình không đến nỗi kém hèn cho lắm. Tuy rằng mình chưa làm được việc gì cho vẽ vang bằng người, nhưng mình còn có thể hy vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường thịnh.
2 Tuy
rằng mỗi nơi có một ít tiếng thổ âm riêng và cái giọng nói nặng nhẹ khác nhau,
nhưng đại để thì vẫn là một thứ tiếng mà thôi.
CHƯƠNG I
Họ Hồng-Bàng
(2879-258 trước Tây Lịch)
Phần I
Thượng Cổ Thời Đại
1. Họ
Hồng Bàng
2. Nước
Văn Lang
3. Truyện
cổ tích về đời Hồng Bàng:
-Phù Đổng Thiên Vương
-Sơn Tinh Thủy Tinh
1. Họ
Hồng Bàng. Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông,
đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một
nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi
lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua
phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ
Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ
Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh
Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm nhâm tuất (2879 trước Tây Lịch
?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua,
xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long
Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con
trai3. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là dòng dõi Long Quân, nhà ngươi
là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được; nay được trăm con thì nhà
người đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải".
Gốc tích
truyện này có lẽ là từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia ra những nước
gọi là Bách Việt. Bởi vậy ngày nay đất
Hồ Quảng (tỉnh Hồ Nam, tỉnh Quảng Đông và tỉnh Quảng Tây) còn xưng là đất Bách
Việt. Đấy cũng là một điều nói phỏng,
chứ không có lấy gì làm đích xác được.
3 Có
sách chép là Âu Cơ đẻ ra một trăm cái trứng nở ra một trăm con.
2. Nước
Văn Lang.
Lạc Long Quân phong cho người con trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.
Lạc Long Quân phong cho người con trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.
Cứ theo
sử cũ thì nước Văn Lang chia ra làm 15 bộ:
1. Văn
Lang (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên)
2. Châu
Diên (Sơn Tây)
3. Phúc
Lộc (Sơn Tây)
4. Tân
Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)
5. Vũ
Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ
Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục
Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh
Hải (Quảng Yên)
9. Dương
Tuyền (Hải Dương)
10. Giao
Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định,
Ninh Bình)
11. Cửu
Chân (Thanh Hóa)
12. Hoài
Hoan (Nghệ An)
13. Cửu
Đức (Hà Tĩnh)
14. Việt
Thường (Quảng Bình, Quảng Trị)
15. Bình
Văn ( ? )
Hùng
Vương đóng đô ở Phong Châu (bây giờ ở vào địa hạt huyện Bạch Hạc, tĩnh Vĩnh
Yên), đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi
là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính4. Quyền chính trị thì cứ cha truyền con nối,
gọi là Phụ Đạo.
Về đời
bấy giờ, sử Tàu có chép rằng năm tân mão (1109 trước Tây lịch), đời vua Thành
Vương nhà Chu, có nước Việt Thường, ở phía nam xứ Giao Chỉ sai sứ đem chim bạch
trĩ sang cống, nhà Chu phải tìm người làm thông ngôn mới hiểu
được tiếng, và ông Chu Công Đán lại chế ra xe chỉ nam để đem sứ Việt Thường về
nước. Vậy đất Việt Thường và đất Giao Chỉ có phải là đất của Hùng Vương lúc bấy
giờ không?
được non
150 năm! Dẫu là người đời thượng cổ nữa, thì cũng khó lòng mà có nhiều người
sống lâu được như vậy. - Xem thế thì đủ biết truyện đời Hồng Bàng không chắc là
truyện xác thực.
3.
Truyện Cổ Tích Về Đời Hồng Bàng. Sử chép rằng đời Hùng Vương thứ nhất, người
nước Văn Lang làm nghề chài lưới, cứ hay bị giống thuồng luồng làm hại, vua mới
bắt dân lấy chàm vẽ mình để những giống ấy tưởng là đồng loại không làm hại
nữa5. Sử lại chép rằng thuyền của ta ở đằng mũi thường hay làm hai con mắt,
cũng có ý để cho các thứ thủy quái ở sông ở bể không quấy nhiễu đến.
Trong
đời Hùng Vương lại có hai truyện mà ngày nay người ta thường hay nói đến, là
truyện Phù Đổng Thiên Vương và truyện Sơn Tinh Thủy Tinh.
Truyện
Phù Đổng Thiên Vương: Đời vua Hùng Vương thứ 6 có đám giặc gọi là giặc Ân, hung
mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài
giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đỗng, bộ Võ Ninh (nay là huyện
Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh), có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu
vua, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và
cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự
nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.
Phá được
giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến đi mất. Vua nhớ ơn, truyền
lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng Thiên Vương6. Truyện này
là truyện tục truyền như vậy, chứ không có lẽ tin làm sự thực được. Họa chăng
đời bấy giờ có người tướng giỏi, đánh được giặc, về sau người ta nhớ ơn làm đền
thờ thì hợp lẽ hơn. Hiện bây giờ có đền thờ ở làng Gióng tức làng Phù Đổng. Năm
nào đến mồng tám tháng tư cũng có hội vui lắm, tục gọi là đức Thánh Gióng.
Truyện
Sơn Tinh Thủy Tinh: Tục truyền rằng vua Hùng Vương thứ 18 có người con gái tên
là Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt trần. Sơn
Tinh và Họ Hồng
Bàng làm vua được 18 đời, đến năm quý mão (158 trước Tây
lịch) thì bị nhà Thục lấy mất nước.
Xét từ
đời Kinh Dương Vương đến đời vua Hùng Vương thứ 18, cả thảy 20 ông vua, mà tính
từ năm nhâm tuất (2879) đến năm quý mão (258 trước Tây lịch) thì vừa được 2622
năm. Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua
trị vì
4 Bây
giờ còn có nơi gọi Chánh Tổng là Bồ Đình, chắc là bởi Bồ Chính mà ra.
5 Sử
chép rằng người Việt Nam ta có thói vẽ mình mãi đến đời vua Anh Tông nhà Trần
mới bỏ.
6 Có
người chép truyện này nói rằng: Giặc Ân là quân của nhà Ân bên Tàu sang đánh
nước ta. Nói như thế thật là một điều lầm.
Về đời nhà Ân nước Tàu chỉ ở vào mạn sông Hoàng Hà là đất tỉnh Hà Nam,
Trực Lệ, Sơn Tây và Thiểm Tây bây giờ mà thôi.
Còn những đất ở bên này sông Trường Giang là man di hết cả. Từ Trường
Giang sang đến Bắc Việt ta xa cách bao nhiêu đường đất. Dẫu lúc ấy ở bên ta có họ Hồng Bàng làm vua
nữa, thì chắc cũng chưa có kỷ cương gì, có lẽ cũng giống như một người làm Quan
Lang trên Mường mà thôi, như thế thì đã có giao thiệp gì với nhà Ân mà đánh
nhau. Vả lại, sử Tàu cũng không có chỗ nào chép đến truyện ấy. Vậy thì lẽ gì mà
nói rằng giặc Ân là người nhà Ân bên Tàu.
Thủy
Tinh đều muốn hỏi làm vợ. Hùng Vương hẹn rằng ngày hôm sau ai đem đồ lễ đến
trước thì gả cho người ấy. Ngày hôm sau Sơn Tinh đến trước lấy được Mỵ Nương
đem về núi Tản Viên (tức là núi Ba Vì ở tỉnh Sơn Tây).
Thủy
Tinh đến sau, thấy Sơn Tinh lấy mất Mỵ Nương, tức giận vô cùng, mới làm ra mưa
to gió lớn, rồi dâng nước lên đánh Sơn Tinh, Sơn Tinh ở trên núi không việc gì:
hễ nước lên cao bao nhiêu, thì Sơn Tinh làm núi cao lên bấy nhiêu. Sơn Tinh lại
dùng sấm sét đánh xuống, Thủy Tinh phải rút nước chạy về. Từ đó Sơn Tinh và
Thủy Tinh thù nhau, mỗi năm đánh nhau một lần, dân gian thật là cực khổ.
Truyện
này là nhân vì ở Bắc Việt năm nào đến tháng 6, tháng 7 cũng có nước lũ ở trên
mạn ngược chảy xuống tràn vào trong đồng áng, ngập mất cả ruộng đất. Người ta
không hiểu là tại lẽ gì, mới tưởng tượng mà đặt ra câu chuyện Sơn Tinh Thủy
Tinh đánh nhau vậy.
Tóm lại
mà xét, nước ta khởi đầu có quốc sử từ cuối thập tam thế kỷ: đến đời vua Thánh Tông nhà Trần, mới có quan
Hàn Lâm Học Sĩ là Lê Văn Hưu, soạn xong bộ Đại Việt Sử Ký, chép từ Triệu Võ
Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Hai trăm rưỡi năm về sau lại có ông Ngô Sĩ Liên, làm
quan Lễ Bộ Tả Thị Lang đời vua Thánh Tông nhà Lê, soạn lại bộ Đại Việt Sử Ký:
chép từ họ Hồng Bàng đến vua Lê Thái Tổ. Nghĩa là từ ông Ngô Sĩ Liên, ở về thập
ngũ thế kỷ trở đi, thì sử ta mới chép truyện về đời thượng cổ. Xem thế thì đủ biết những truyện về đời ấy
khó lòng mà đích xác được. Chẳng qua nhà làm sử cũng nhặt nhạnh những truyện
hoang đường tục truyền lại, cho nên những truyện ấy toàn là truyện có thần tiên
quỷ quái, trái với lẽ tự nhiên cả.
Nhưng ta
phải hiểu rằng nước nào cũng vậy, lúc ban đầu mờ mịt, ai cũng muốn tìm cái gốc
tích của mình ở chỗ thần tiên để cho vẻ vang cái chủng loại của mình. Chắc cũng
bởi lẽ ấy mà sử ta chép rằng họ Hồng Bàng là con tiên cháu rồng, v.v....
Nay ta
theo sử cũ mà chép mọi truyện, người xem sử nên phân biệt truyện nào là truyện
thực, truyện nào là truyện đặt ra, thì sự học mới có lợi vậy.
CHƯƠNG II
Nhà Thục
(257 - 207 trước
Tây lịch)
1. Gốc
Tích Nhà Thục
2. Nước
Âu Lạc
3. Nhà
Tần Đánh Bách Việt
4. Nhà
Thục Mất Nước
1. Gốc
Tích Nhà Thục. Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là nước Thục bên Tàu,
vì rằng cứ theo sử nước Tàu thì đời bấy giờ đất Ba Thục (Tứ Xuyên) đã thuộc về
nhà Tần cai trị rồi, thì còn có vua nào nữa. Vả, sử lại chép rằng khi Thục
Vương Phán lấy lấy được nước Văn Lang thì đổi quốc hiệu là Âu Lạc, tức là nước
Âu Lạc gồm cả nước Thục và nước Văn Lang.
Song xét trong
lịch sử không
thấy đâu nói đất Ba
Thục thuộc về Âu Lạc. Huống chi lấy địa lý mà xét thì từ đất Ba Thục (Tứ
Xuyên) sang đến Văn Lang (Bắc Việt), cách bao nhiêu đường đất và có bao nhiêu
núi sông ngăn trở, làm thế nào mà quân nhà Thục sang lấy nước Văn Lang dễ dàng
như vậy ? Sử cũ lại có chỗ chép rằng An Dương Vương, họ là Thục tên là Phán.
Như vậy chắc hẳn Thục tức là một họ nào độc lập ở gần nước Văn Lang, chứ không
phải là Thục bên Tàu. Sách "Khâm Định Việt Sử" cũng bàn như thế.
2. Nước
Âu Lạc. Sử chép rằng Thục Vương hỏi con gái của Hùng Vương thư 18, là Mỵ Nương
không được, trong bụng lấy làm tức giận, dặn con cháu ngày sau đánh báo thù lấy
nước Văn Lang. Hùng Vương bấy giờ cậy mình có binh cường tướng dũng, bỏ trễ
việc nước, chỉ lấy rượu chè làm vui thú. Người cháu Thục Vương tên là Phán,
biết tình thế ấy, mới đem quân sang đánh lấy nước Văn Lang. Hùng Vương thua
chạy, nhảy xuống giếng mà tự tử.
Năm giáp
thìn (275 trước Tây lịch), Thục Vương dẹp yên mọi nơi rồi, xưng là An Dương
Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê (nay thuộc huyện Đông Anh,
tỉnh Phúc An). Hai năm sau là năm bính
ngọ (255 trước Tây Lịch), An Dương Vương xây Loa Thành. Thành ấy cao và từ ngoài vào thì xoáy trôn
ốc, cho nên mới gọi là Loa Thành. Hiện nay còn dấu tích ở làng Cổ Loa, huyện
Đông Anh, tỉnh Phúc An.
3. Nhà
Tần Đánh Bách Việt. Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc ở bên này, thì ở bên
Tàu vua Thủy Hoàng nhà Tần, đã nhất thống thiên hạ. Đến năm đinh hợi (214 trước Tây lịch). Thủy Hoàng sai tướng là Đồ Thư đem quân đi
đánh lấy đất Bách Việt (vào quãng tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây bây
giờ). An Dương Vương cũng xin thần phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Bách Việt
và đất Âu Lạc ra làm ba quận, gọi là: Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây)
và Tượng Quận (Bách Việt).
Người
bản xứ ở đất Bách Việt không chịu để người Tàu cai trị, trốn vào rừng ở. Được
ít lâu quân của Đồ Thư, vốn là người ở phương bắc, không chịu được thủy thổ,
phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách
Việt thừa thế nổi lên giết được Đồ Thư.
4. Nhà
Thục Mất Nước. Chẳng được bao lâu thì nhà Tần suy, nước Tàu có nhiều giặc giã,
ở quận Nam Hải có quan úy là Nhâm Ngao thấy có cơ hội, muốn mưu đánh lấy Âu Lạc
để lập một nước tự chủ ở phương nam. Nhưng công việc chưa thành, thì Nhâm Ngao
mất. Khi sắp mất, Nhâm Ngao giao binh quyền lại cho Triệu Đà để thay mình làm
quan úy quận Nam Hải.
Năm quý
tị (208 trước Tây lịch) là năm thứ 50 đời vua An Dương Vương. Triệu Đà đem quân
sang đánh lấy nước Âu Lạc, lập ra nước Nam Việt7. rồi định
về báo tin cho cha biết. Khi sắp ra về,
Trọng Thủy hỏi Mỵ Châu rằng: "Tôi về, mà nhỡ có giặc giã đánh đuổi, thì
rồi tôi biết đâu mà tìm?" - Mỵ Châu nói rằng: "Thiếp có áo lông
ngỗng, hễ khi thiếp có chạy về đâu, thiếp sẽ lấy lông ấy mà rắc ra ở dọc đường
thì rồi sẽ biết."
Trọng
Thủy về kể lại với Triệu Đà tình đầu mọi sự, Triệu Đà bèn khởi binh sang đánh
Âu Lạc. An Dương Vương cậy có cái nỏ,
không phòng bị gì cả, đến khi quân giặc đến gần chân thành mới đem nỏ ra bắn,
thì không thấy hiệu nghiệm nữa. An
Dương Vương mới đem Mỵ Châu lên ngựa mà chạy
về phía nam.
Chạy đến núi
Mộ Dạ (thuộc
huyện Đông Thành,
tỉnh Nghệ An) gần bờ bể, vua thấy giặc đuổi kíp quá, mới khấn Kim Qui
lên cứu, Kim Qui lên nói rằng: "Giặc ngồi sau lưng nhà vua đấy!" An
Dương Vương tức giận quá, rút gươm ra chém Mỵ Châu đi, rồi nhảy xuống bể mà tự
tận8.
Trọng
Thủy theo dấu lông ngỗng của vợ rắc, đem binh đuổi đến núi Mộ Dạ, thấy xác vợ
chết nằm đó, thương xót vô cùng, vội vàng đem về cấp táng, xong rồi, nhảy xuống
cái giếng ở trong Loa Thành mà tự tử.
Nay ở
làng Cổ Loa trước đền thờ An Dương Vương có cái giếng tục truyền là Trọng Thủy
chết ở giếng ấy. Tục lại truyền rằng Mỵ
Châu bị giết đi, vì nỗi tình thực mà phải thác oan, cho nên máu nàng ấy chảy
xuống bể, những con trai ăn phải hóa ra có ngọc trân châu. Hễ ai lấy được ngọc
ấy đem về rửa vào nước cái giếng ở trong Loa Thành là chỗ Trọng Thủy đã tự tử,
thì ngọc ấy trong và đẹp thêm ra.
Tục
truyền rằng khi An Dương Vương xây Loa Thành, có những yêu quái quấy nhiễu, xây
mãi không được. An Dương Vương mới lập đàn lên cầu khấn, có thần Kim Qui hiện
lên bày phép cho vua trừ những yêu quái đi, bấy giờ mới xây được thành. Thần
Kim Qui lại cho An Dương Vương một cái móng chân, để làm cái lẫy nỏ. Lúc nào có
giặc thì đem cái nỏ ấy ra bắn một phát, giặc chết hàng vạn người.
Cũng nhờ
có cái nỏ ấy cho nên Triệu Đà đánh không được An Dương Vương. Triệu Đà dùng kế, cho con là Trọng Thủy sang
lấy Mỵ Châu là con gái An Dương Vương, giả kết nghĩa hòa thân để do thám tình
thực.
Trọng
Thủy lấy được Mỵ Châu rồi, hỏi dò vợ rằng: "Bên Âu Lạc có tài gì mà không
ai đánh được?" Mỵ Châu nói chuyện
cái nỏ, và lấy cho chồng xem.
Trọng Thủy bèn lấy cái móng của Kim Qui đi, làm cái lẫy giả thay vào,
8 Nay ở
trên núi Mộ Dạ, gần xã Cao Ái, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An, có đền thờ An
Dương
7 Xin
đừng lầm nước Nam Việt ngày xưa với Nam Việt của nước Việt Nam hiện nay. Vương. Ở đấy có nhiều cây cối và có nhiều chim
công, cho nên tục gọi là đền Công hay Cuông.
CHƯƠNG III
Xã-Hội Nước Tàu Về Đời Tam Đại Và Đời Nhà Tần
1. Phong-Kiến
2. Quan-Chế
3. Pháp-Chế
4. Binh-Chế
5. Điền-Chế
6. Học-Hiệu
7. Học-Thuật
8. Phong-Tục
Khi
Triệu Đà sang đánh An-Dương-Vương thì ở bên Tàu nhà Tần đã suy, nhà Hán sắp lên
làm vua, nước Tàu đang vào lúc đại loạn, phong tục, chính trị đều đổi khác
cả. Vả lại Triệu-Đà là người Tần, cho
nên đến khi lấy được Âu-Lạc, gồm cả các quận ở phương nam, lập làm một nước tự
chủ, bèn đem chính trị, pháp-luật nước Tàu sang cai-trị đất Nam-Việt9. Vậy trước khi nói đến chuyện nhà Triệu, ta
nên xét-xem xã-hội nước Tàu lúc bấy giờ là thế nào .
1. Phong-Kiến.
Nguyên về đời thái-cổ, nước Tàu chia ra từng địa-phương một. Mỗi một địa-phương thì có một người làm thủ-lĩnh, lập thành một nước, gọi là nước chư-hầu, phải triều cống nhà vua.
Nguyên về đời thái-cổ, nước Tàu chia ra từng địa-phương một. Mỗi một địa-phương thì có một người làm thủ-lĩnh, lập thành một nước, gọi là nước chư-hầu, phải triều cống nhà vua.
Số những
nước chư hầu ấy thì mỗi đời một khác. Xem như khi vua Đại-Vũ nhà Hạ, hội các
nước chư-hầu ở núi Đồ-sơn, kể có hàng vạn nước. Đến khi vua Vũ-vương nhà Chu đi
đánh Trụ-vương nhà Ân, thì các nước chư- hầu hội lại cả thảy được 800 nước.
9 Xin
đừng lầm nước Nam-việt ngày xưa với Nam-việt của nước Việt-nam thời nay.
Đánh xong
nhà Ân, vua Vũ-Vương phong cho hơn 70 người làm vua chư-hầu, chia ra làm 5 bậc
là: công, hầu, bá, tử, nam. Nước phong cho tước công, tước hầu thì rộng 100 dặm
gọi là đại quốc; nước phong cho người tước bá thì rộng 70 dặm, gọi là trung
quốc; nước phong cho người tước tử, tước nam thì rộng 50 dặm, gọi là tiểu quốc.
Những nước không đủ 50 dặm, thì gọi là nước phụ-dung.
2. Quan-Chế.
Nhà Hạ đặt tam-công, cửu-khanh, 27 đại-phu, 81 nguyên sĩ.
Nhà Hạ đặt tam-công, cửu-khanh, 27 đại-phu, 81 nguyên sĩ.
Nhà Ân
đặt hai quan tướng, sáu quan thái là: thái-tể, thái-tông, thái- tử, thái-chúc,
thái-sĩ, thái-bốc; năm quan là: tư-đồ, tư- mã, tư-không, tư-sĩ, tư-khấu; sáu
phủ là: tư-thể, tư-mộc, tư-thủy, tư-thảo, tư-khí, tư-hóa; sáu công là:
thổ-công, kim-công, thạch-công, thủy-công, thú-công và thảo-công.
Đến nhà
Chu, ông Chu-Công đặt ra sáu quan gọi là: thiên-quan, địa- quan, xuân-quan,
hạ-quan, thu-quan, đông-quan. Mỗi một quan lại có 60 thuộc-quan, cộng cả lại là
360 người.
Người làm
đầu thiên-quan, gọi là trủng-tể,
thống cả việc
chính-trị trong nước, việc thu-nạp cả năm và mọi việc ở trong cung.
Người làm đầu địa quan gọi là đại-tư-đồ giữ việc nông, việc thương, việc giáo
dục và việc cảnh sát. Người làm đầu xuân-quan gọi là đại-tông-bá, giữ việc
tế-tự, triều, sính, hội-đồng v.v... Người làm đầu hạ-quan, gọi là đại-tư-mã,
giữ việc binh- mã và việc đi đánh dẹp. Người làm đầu thu-quan gọi là đại
tư-khấu giữ việc dân, việc hình và việc kiện-tụng. Người làm đầu đông-quan gọi
là đại-tư- không, giữ việc khuyến công, khuyến nông và việc thổ mộc v.v...
Trên lục
quan lại đặt tam công, là: thái-sứ, thái-phó, thái- bảo; tam cô là : thiếu-sứ,
thiếu-phó, thiếu-bảo, để bàn xét việc trị nước yên dân, chứ không dự vào việc
hành chính.
3. Pháp-Chế.
Về đời thái-tổ thì có năm hình, ngoài năm hình lại có phép đánh bằng roi da và tội lưu. Đến đời nhà Hạ, nhà Ân và nhà Chu thì lại đặt phép chân, gọt đầu và tội đồ. Đến cuối đời nhà Chu thì đặt ra tội bêu đầu, xé thây lăng trì, mổ, muối v.v...
Về đời thái-tổ thì có năm hình, ngoài năm hình lại có phép đánh bằng roi da và tội lưu. Đến đời nhà Hạ, nhà Ân và nhà Chu thì lại đặt phép chân, gọt đầu và tội đồ. Đến cuối đời nhà Chu thì đặt ra tội bêu đầu, xé thây lăng trì, mổ, muối v.v...
4. Binh-Chế.
Binh-chế nhà Hạ và nhà Ân thì không rõ, đến đời nhà Chu thì đặt 5 người làm một ngũ; 5 ngũ tức là 25 người thành một lượng; 4 lượng tức là 100 người làm một tốt; 5 tốt tức là 500 người làm một lữ; 5 lữ tức là 2500 người làm một sư ; 5 sư tức là 12500 người tức là một quân.
Binh-chế nhà Hạ và nhà Ân thì không rõ, đến đời nhà Chu thì đặt 5 người làm một ngũ; 5 ngũ tức là 25 người thành một lượng; 4 lượng tức là 100 người làm một tốt; 5 tốt tức là 500 người làm một lữ; 5 lữ tức là 2500 người làm một sư ; 5 sư tức là 12500 người tức là một quân.
Quân thì
đặt quan mạnh-đan làm tướng, sư thì đặt quan trung-đại- phu làm súy, lữ thì đặt
quan đại-hạ làm súy, tốt thì đặt quan thượng-sĩ làm trưởng, lượng thì đặt quan
trung-sĩ làm tư-mã.
Thiên tử
có 6 quân; còn những nước chư hầu, nước nào lớn thì có 3 quân, nước vừa có 2
quân, nước nhỏ 1 quân.
Trong
nước chia ra làm tỉnh, mỗi tỉnh 8 nhà, 4 tỉnh làm một ấp 32 nhà; 4 ấp làm một
khâu, 128 nhà; 4 khâu làm một điện, 512 nhà. Cứ mỗi điện phải chiêu một cỗ binh
xa, bốn con ngựa, 12 con bò, 3 người giáp sĩ, 72 người bộ tốt, 25 người để
khiêng-tải những đồ nặng. Cả thảy là 100 người .
5. Điền
Chế. Về đời thái-cổ thì không biết chia ruộng đất ra làm sao. Từ đời Hạ trở đi
thì chia 50 mẫu làm một gian, 10 gian làm một tổ. Cứ 10 nhà cày một lô ruộng,
hoa-lợi được bao nhiêu chia làm 10 phần, nhà nước lấy một gọi là phép cống.
Nhà Ân
và nhà Chu thì dùng phép tỉnh điền, nghĩa là chia đất ra làm chín khi hình chữ
tỉnh. Những khu ở chung quanh làm tư-điền, khu ở giữa để làm công-điền. Mỗi một
tỉnh cho 8 nhà ở, đều phải xuất lực cầy cấy công điền rồi nộp hoa lợi cho nhà
vua.
Về đời
nhà Ân thì mỗi tỉnh có 630 mẫu, mỗi nhà được 70 mẫu; phép đánh thuế gọi là phép
trợ. Đến đời nhà Chu thì mỗi tỉnh có
900 mẫu,
mỗi nhà có 100 mẫu, phép đánh thuế gọi là phép triệt.
Nhà Chu
lại đặt ra lệ cứ 20 tuổi thì được 100 mẫu ruộng, đến 60 tuổi thì trả lại cho
nhà nước. Nhà nào có con thứ nhì gọi là dư phu đến 16 tuổi thì được lĩnh 25 mẫu
ruộng.
Nhờ có
phép chia ruộng như thế nên lúc bấy giờ không có nhiều người nghèo lắm mà cũng
không có người giàu lắm. Về sau đến đời Chiến Quốc, người Lý Khôi làm tướng
nước Ngụy, bắt dân hết sức làm ruộng, không định hạn như trước nữa; người
Thương Ưởng làm tướng nước Tần, bỏ phép tỉnh điền, mở thiên mạch, cho mọi người
được tự tiện làm ruộng. Phép chia đất từ đó mới mất dần dần đi.
6. Học-Hiệu.
Nhà Hạ đặt nhà Đông tự làm đại học, nhà Tây tự làm tiểu học. Nhà Ân đặt là Hữu-học làm đại học, nhà Tả-học làm tiểu học. Những nhà đại-học, tiểu học ấy, là chỗ để tập bắn, để nuôi những người già- cả và để tập văn nghệ.
Nhà Hạ đặt nhà Đông tự làm đại học, nhà Tây tự làm tiểu học. Nhà Ân đặt là Hữu-học làm đại học, nhà Tả-học làm tiểu học. Những nhà đại-học, tiểu học ấy, là chỗ để tập bắn, để nuôi những người già- cả và để tập văn nghệ.
Nhà Chu
thì đặt Tích-ung hoặc nhà Thành-quân làm đại học, để cho con vua, con các quan
và những người tuấn tú tuyển ở các thôn xã đến học; còn ở châu, ở đảng10 thì
đặt nhà tiểu học gọi là Tự và nhà Tường để cho con dân-gian vào học. Lại đặt lệ
cứ từ 8 tuổi đến 14 tuổi làm niên hạn cho tiểu học, từ 15 đến 20 tuổi, làm
niên-hạn cho đại học. Đại học thì dạy lễ, nhạc, thi, thư; tiểu-học thì dạy cách
kính trên nhường dưới và cách ứng đối, v.v...
7. Học-Thuật.
Học-thuật ở nước Tàu về đời nhà Chu đã thịnh lắm, cho đến đời nhà Xuân-thu có nhiều học-giả như là Lão-tử bàn đạo; Khổng-tử bàn hiếu, đễ, nhân, nghĩa; Mạc Địch bàn lễ kiêm-ái, nên chuộng sự tiết kiệm bỏ âm-nhạc; Dương Chu thì bàn lẽ vị-kỷ, nên tự-trọng thân mình và không chịu thiệt mình để lợi người.
Học-thuật ở nước Tàu về đời nhà Chu đã thịnh lắm, cho đến đời nhà Xuân-thu có nhiều học-giả như là Lão-tử bàn đạo; Khổng-tử bàn hiếu, đễ, nhân, nghĩa; Mạc Địch bàn lễ kiêm-ái, nên chuộng sự tiết kiệm bỏ âm-nhạc; Dương Chu thì bàn lẽ vị-kỷ, nên tự-trọng thân mình và không chịu thiệt mình để lợi người.
Lại có
những pháp-gia như Thân Bất-Hại, Hàn-Phi bàn việc trị thiên- hạ thì chỉ nên
dùng pháp-luật, chứ không nên dùng nhân nghĩa. Còn những người như Quỉ Cốc, Thi
Giảo, Điền Biền, v.v..., mỗi người đều xướng một học thuyết để dạy người đương
thời.
8. Phong-Tục.
Nước Tàu lấy sự cày ruộng làm gốc, nhưng mà việc nuôi tằm, dệt lụa, việc họp chợ, việc buôn-bán cũng phát-đạt cả.
Nước Tàu lấy sự cày ruộng làm gốc, nhưng mà việc nuôi tằm, dệt lụa, việc họp chợ, việc buôn-bán cũng phát-đạt cả.
Dân
trong nước chia ra làm 4 thứ: sĩ, nông, công, thương, nhưng mà con người làm
quan lại làm quan, con người làm ruộng cứ làm ruộng, chứ con người làm ruộng
không được làm quan. Tuy vậy, đến đời Xuân-thu những người thứ dân lên làm
tướng văn tướng võ cũng nhiều.
Trong
gia-đình thì già trẻ trên dưới phân biệt nghiêm lắm. Con phải theo cha, vợ phải
theo chồng, con-trai con-gái từ 7 tuổi trở đi, là không được ăn một mâm, nằm
một chiếu nữa. Con trai 30 tuổi mới được lấy vợ, gái 20 tuổi mới được lấy chồng
mà hai người cùng họ không được lấy nhau.
Nước Tàu
về đời Tam-đại cũng sùng sự tế-tự lắm. Thường cúng-tế thiên, địa, nhật, nguyệt,
sơn, xuyên, lâm, trạch. Nhà vua lập đàn Nam-giao để tế Thượng-Đế. Lại có nhà
Xã-tắc để tế Thổ-thần và Hậu-tắc. Còn sự thờ-10 Cứ 12500 nhà một châu, và 500
nhà làm một đảng thì có nhà Tự, ở đảng thì có nhà Tường.
phụng
tổ-tiên thì từ vua cho đến thứ-dân đều lấy làm một việc quan trọng trong đời
người.
Xem như
thế, thì xã-hội nước Tàu về đời Tam-đại đã văn minh lắm, nhưng sau đến cuối đời
nhà Chu, vì nhà vua suy-nhược, cho nên chư hầu, người xưng hầu, kẽ xưng vương
rồi tranh nhau, đánh nhau như Ngũ-Bá đời Xuân-Thu, Thất-Hùng đời Chiến-Quốc,
làm cho trăm họ lầm than khổ sở.
Sau nhà
Tần thống-nhất được thiên-hạ, mới bỏ lệ phong-kiến, lập ra quận huyện; bỏ phép
tỉnh điền, lập thiên-mạch; cấm nho học đốt sách vở, việc chính-trị thì cốt dùng
pháp-luật, để lấy quyền lực mà áp chế.
Đang khi
phong-tục nước Tàu biến cải như thế, thì Triệu Đà lập ra nước Nam-Việt (3), đem
văn-minh nước Tàu sang truyền-bá ở phương nam, cho nên từ đó về sau người nước
mình đều nhiễm cái văn-minh ấy.
CHƯƠNG IV
Nhà Triệu
(207-111 tr. Tây-lịch)
1. Triệu
Vũ-Vương
2. Vũ-Vương
thụ-phong nhà Hán
3. Vũ-Vương
xưng đế
4. Vũ-Vương
thần phục nhà Hán
5. Triệu
Văn-Vương
6. Triệu
Minh-Vương
7. Triệu
Ai-Vương
8. Triệu
Dương-Vương
1. Triệu
Vũ-Vương (207-137 tr. Tây-lịch). Năm quí-tị
(207)
Triệu Đà đánh được An-dương-vương rồi, sáp-nhập nước Âu-lạc vào quận Nam-hải,
lập thành một nước gọi là Nam-Việt, tự xưng làm vua, tức là Vũ-vương, đóng đô ở
Phiên-ngung, gần thành Quảng-châu bây giờ.
2. Vũ-Vương
thụ-phong nhà Hán. Trong khi Triệu Vũ- Vương gây-dựng cơ-nghiệp ở Nam-Việt, thì
ở bên Tàu, ông Lưu Bang triệt được nhà Tần, diệt được nhà Sở, nhất-thống thiên
hạ, rồi lên ngôi Hoàng-đế tức là vua Cao Tổ nhà Hán. Vua Cao-tổ thấy Triệu
Vũ-Vương độc-lập ở phương nam, bèn sai Lục Giả sang phong cho Vũ-Vương. Bấy giờ
là năm ất- tị (196 tr. Tây-lịch), năm thứ 12 đời vua Vũ-Vương nhà Triệu, và năm
thứ 11 đời vua Cao-tổ nhà Hán.
Vũ-Vương
vốn là người kiêu-căng, có ý không muốn phục nhà Hán, đến khi Lục Giả sang đến
nơi, vào yết-kiến Vũ-Vương, Vũ-Vương ngồi xếp vành tròn, không đứng dậy tiếp.
Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: "Nhà vua là người nước Tàu , mồ mả và thân
thích ở cả châu Chân-định. Nay nhà Hán đã làm vua thiên hạ, sai sứ sang phong
vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng-cự sứ-thần, không làm lễ thụ-phong, Hán-đế
tất là tức giận, hủy-hoại mồ mả và giết hại thân-thích của nhà vua, rồi đem
quân ra đánh thì nhà vua làm thế nào?" Vũ-vương nghe lời ấy vội-vàng đứng
dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: "Tiếc thay ta không được khởi nghiệp
ở nước Tàu, chứ không thì ta cũng chẳng kém gì Hán-đế!"
3. Vũ-Vương
xưng đế. Năm mậu ngọ (183 tr. Tây-lịch)
vua Cao-tổ nhà Hán mất rồi, bà Lữ-hậu lâm triều tranh quyền Huệ-đế, rồi lại
nghe lời gièm pha, cấm không cho người Hán buôn bán những đồ vàng, đồ sắt và
những đồ điền-khí với người Nam-Việt. Vũ-vương lấy làm tức giận, lại ngờ cho
Trường-sa-vương xui Lữ-hậu làm như vậy, bèn tự-lập làm Nam-việt Hoàng-đế, rồi
cử binh-mã sang đánh quận Tràng-sa (tỉnh Hồ-nam bây giờ).
Năm Canh
thân (181 tr.
Tây-lịch) Hán-triều sai
tướng đem quân sang đánh Nam-việt. Quân nhà Hán chịu
không được thủy-thổ phương nam, nhiều người phải bệnh-tật, bởi vậy phải chạy
thua về bắc. Từ đó thanh-thế Triệu Vũ-đế lừng lẫy, đi đâu dùng xe ngựa theo
nghi-vệ Hoàng-đế, như vua nhà Hán vậy.
4. Vũ-Vương
thần phục nhà Hán. Đến khi Lữ hậu mất, Hán Văn-đế lên ngôi, lại sai Lục Giả đưa
thư sang khuyên Vũ-đế thuần phục nhà Hán. Thư rằng:
"Trẫm
là con trắc-thất vua Cao-đế, phụng mệnh ra trị nước Đại , vì non sông cách trở,
thẹn mình phác-lậu, cho nên lâu nay chưa từng đưa thư sang hỏi thăm nhà vua .
Từ khi
đức Cao-đế xa bỏ quần-thần , đức Huệ-đế qua đời, bà Cao- hậu làm triều, không
may bị bệnh, để cho họ Lữ chuyên quyền, toan đem con họ khác để nối-đức Huệ-đế.
May nhờ nhà Tông-miếu linh-thiêng, các công thần ra sức dẹp kẻ tiếm-nghịch.
Trẫm vì
các vương-hầu cùng bách quan cố ép, cho nên phải lên ngôi Hoàng-đế. Mới rồi
trẫm nghe nhà vua có đưa thư cho Long-lư-hầu, nhắn tin và xin anh em họ-hàng ở
quận Chân-định, và xin bãi binh ở quận Trường-sa. Trẫm cũng nghe lời thư của
nhà vua, thì đã bảo tướng-quân Bác-
dương-hầu
bãi binh về, còn anh em họ hàng nhà vua ở Chân-định thì trẫm
đã cho
người thăm nom, lại sai sửa sang phần-mộ nhà vua, thật tử-tế.
Thế vừa
rồi trẫm nghe nhà vua còn đem binh quấy-nhiễu ngoài biên, quận Trường-sa thật
khổ, mà Nam-quận lại còn khổ hơn. Làm như thế, nước nhà vua có chắc lợi được
một mình không? Tất là tướng-tá quân-sĩ chết nhiều, làm cho vợ người góa chồng,
con người mồ-côi bố, cha mẹ mất con, được một mất mười, trẫm không lòng nào nỡ
làm như vậy.
Vả lại
được đất nhà vua cũng không lấy làm to, được của nhà vua cũng không đủ làm
giàu. Vậy thì từ phía nam núi Lĩnh thì mặc ý nhà vua tự trị lấy. Nhưng nhà vua
cứ xưng đế hiệu, hai bên cùng là đế-quốc mà không sai sứ giao-thông, thế chẳng
hóa ra ganh nhau ư ? Ganh nhau mà không nhường , thì người nhân không thèm làm.
Trẫm nay
xin cùng nhà vua gác bỏ điều cũ, từ rày trở đi, thông sứ như xưa. Vậy trẫm sai
Lục Giả sang đem ý trẫm khuyên nhà vua nên nghe, chứ làm chi nhiều sự cướp bóc
tai-hại"
Xem thư
của Hán-Văn-đế lời-lẽ tử-tế, thật là có nhân-từ, vì thế cho nên Triệu
Vũ-đế phải chịu phục, và đáp thư lại
rằng:
"Nam
di đại-trưởng lão-phu thần, Đà, muội tử tái bái, dâng thư lên Hoàng-đế bệ-hạ.
Lão-phu là kẻ cố-lại nước Việt, khi Hiếu Huệ Hoàng-đế lên ngôi, tình-nghĩa
không dứt, vẫn hậu đãi lão phu. Đến khi Cao-hậu lâm triều, lại phân-biệt ra
Trung-hoa, ngoại-di, hạ lệnh cấm không được bán cho Nam- việt những đồ vàng sắt
và điền khí; còn ngựa, trâu dê thì chỉ bán cho giống đực, chứ không bán cho
giống cái.
Lão-phu
lại phong văn rằng nhà Hán đem hủy-hoại cả phần mộ lão- phu cùng giết cả anh em
tông-tộc lão phu, cho nên có bàn riêng với chúng rằng: nay trong đã không
vẻ-vang với nhà Hán, ngoài lại không có gì hơn được nước Ngô, cậy có xưng
đế-hiệu; mà chẳng qua tự đế nước mình, không dám hại gì thiên-hạ.
Cao-hậu
nghe thấy thế, lấy làm tức giận, đem tước bộ sổ Nam-Việt đi, không cho thông
sứ, lão phu trộm nghĩ rằng hẳn vì Trường-sa-vương gièm pha, cho nên Lão-phu có
đem binh đánh.
Lão-phu
ở đất Việt đã bốn mươi chín năm nay , bây giờ đã có cháu rồi, nhưng mà sớm
khuya trằn-trọc, ăn không ngon, ngủ không yên, mắt không dám trông sắc đẹp, tai
không dám nghe đàn vui, là chỉ vì cớ không được phụng thờ nhà Hán. Nay nhờ bệ
-hạ đoái thương, cho phục lại hiệu cũ, thông sứ như xưa, lão-phu nhờ ơn, dẫu
chết xương cũng không nát.
Vậy xin
cải hiệu từ đây, và xin có cống-phẩm phụng-hiến Hoàng-đế
bệ-hạ."
Từ khi
Triệu Vũ-Vương chịu bỏ đế-hiệu, Nam Bắc lại giao thông hòa hiếu không có điều gì nữa.
Năm
giáp-thìn (137 trước Tây-lịch), Triệu Vũ-Vương mất. Sử chép rằng ngài thọ được 121 tuổi và làm
vua được hơn 70 năm.
5. Triệu Văn-Vương
(137-125 trước Tây-lịch).
Triệu
Vũ-vương truyền ngôi lại cho cháu đích tôn, tên là Hồ tức là Triệu Văn- vương,
trị được 12 năm.
Triệu
Văn-vương vốn là người tầm thường, tính khí nhu nhược, không được như Triệu
Vũ-vương. Khi mới lên làm vua được hai năm, thì vua Mân-Việt (tỉnh Phúc-kiến
bây giờ) đem quân sang đánh phá ở chỗ biên thùy nước Nam-việt. Triệu Văn-vương
không dám cử binh-mã ra chống cự, sai sứ sang cầu cứu bên Hán-triều.
Vua nhà
Hán sai Vương Khôi và Hàn-An-Quốc Hán đến nơi, bèn bắt Quốc-vương giết đi, đưa
đầu nộp cho quan nhà Hán, và xin hàng. Mân-việt đã bình rồi vua nhà Hán sai
Trang Trợ sang dụ Triệu Văn-Vương vào chầu, nhưng mà đình-thần xin đừng đi, bèn
cho thái tử là Anh Tề đi thay.
Anh Tề ở
bên Hán-Triều mười năm, đến năm bính-thìn (125 tr. Tây lịch) vua Văn-vương mất
thì mới về nối ngôi.
6. Triệu
Minh-Vương (125-113 tr. Tây lịch). Anh Tề lên làm vua tức là Triệu Minh-Vương ,
trị vì được 12 năm.
Khi Anh
Tề ở bên Hán có lấy vợ lẽ là Cù-thị, đẻ được một người con tên là Hưng. Đến khi
về làm vua Nam-việt, Minh Vương lập Cù-thị lên làm hoàng-hậu và Hưng làm
Thái-tử.
7. Triệu
Ai-Vương. Mậu-thìn (113
tr. Tây lịch)
Triệu Minh- Vương mất, thái tử
Hưng lên làm vua, tức là Triệu Ai-Vương, trị-vì được một năm.
người Tàu chiếm lấy, cải là Giao-chỉ-bộ, chia
ra làm 9 quận, và đặt quan cai- trị như các châu quận bên Tàu vậy.
Bấy giờ
vua nhà Hán cho An-quốc Thiếu Quí sang dụ Nam-Việt về chầu. Thiếu Quí nguyên là
tình-nhân của Cù-thị lúc trước, đến khi sang Nam- Việt gặp nhau, lại tư thông
với nhau rồi dỗ-dành Ai-vương đem nước Nam- việt về dâng nhà Hán.
Khi
Cù-thị và Ai-vương đã định về Hán-triều, thì có quan Tể-tướng là Lữ Gia, biết
rõ tình-ý, đã can-ngăn mãi không được, mới truyền hịch đi mọi nơi nói rằng vua
và Cù-thái-hậu sắp đem nước dâng cho nhà Hán; rồi Lữ Gia cùng với mấy người đại
thần đem quân cấm-binh vào giết sứ nhà Hán, Cù- Thị và Ai-Vương. Đoạn rồi tôn
Kiến Đức lên làm vua. Kiến Đức là con trưởng của Minh-Vương mẹ là người Nam-Việt
làm vua.
8. Triệu
Dương-Vương. Kiến Đức lên làm vua, tức là Dương-Vương. Dương-Vương mới lên làm
vua được độ một năm thì vua Vũ- đế nhà Hán sai Phục-ba tướng-quân là Lộ-
Bác-Đức và Dương Bộc đem 5 đạo quân sang đánh lấy Nam-Việt. Quan Thái-phó Lữ
Gia ra chống cự không nổi, phải đem Dương-Vương chạy. Quân nhà Hán đuổi theo
bắt được, vua tôi đều bị hại cả. Năm ấy là năm canh-ngọ (111 tr. Tây-lịch),
nước Nam bị
PHẦN II
Bắc-Thuộc Thời-Đại
(11 tr. Tây-lịch-931 sau Tây-lịch)
CHƯƠNG 1
Bắc-Thuộc Lần Thứ I
(111 tr. Tây-lịch - 39 sau Tây-lịch)
1. Chính-Trị
nhà Tây-Hán
2. Tích
Quang và Nhâm Diên
1.
Chính-Trị nhà Tây-Hán. Năm canh ngọ (111
tr. Tây- lịch) vua Vũ-đế nhà Hán sai Lộ-Bác-Đức và Dương Bộc sang đánh nhà
Triệu, lấy nước Nam-việt rồi cải là
Giao-chỉ-bộ, và chia ra làm 9 quận, là những quận này:
1. Nam-hải: (Quảng-đông)
2. Thương-ngô:
(Quảng-tây)
3. Uất-lâm: (Quảng-tây)
4. Hợp-phố: (Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía Bắc
Trung-Việt)
5. Giao-chỉ: (Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía Bắc Trung-Việt)
6. Cửu-chân: (Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía Bắc
Trung-Việt)
7. Nhật-nam: (Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía Bắc
Trung-Việt)
8. Châu-nhai: (đảo Hải-nam)
9. Đạm-nhĩ: (đảo Hải-nam)
Mỗi quận
có quan thái-thú coi việc cai-trị trong quận và lại có quan thứ-sử để giám sát
các quận. Ở trong quận Giao-chỉ thì có những lạc tướng hay lạc hầu vẫn được thế
tập giữ-quyền cai trị các bộ lạc tựa hồ như các quan lang ở mạn thượng-du đất
Bắc-Việt bây giờ.
Quan
thứ-sử trước tiên là Thạch Đái , đóng phủ cai trị ở Long-uyên. Có sách chép là
phủ trị thủa ấy đóng ở Lũng-khê, thuộc phủ Thuận-thành bây giờ.
Từ đời
vua Vũ-đế cho đến hết đời nhà Tây-Hán không thấy sử nói gì đến đất Giao-chỉ
nữa. Mãi đến năm kỷ-sửu (năm 29 Tây lịch) là năm Kiến-Võ thứ 5 đời vua Quang-vũ
nhà Đông Hán thì mới thấy chép rằng thứ-sử Giao- chỉ là Đặng Nhượng sai sứ về
cống nhà Hán. Bởi vì khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, bọn Đặng-Nhượng, Tích
Quang và Đỗ Mục ở Giao chỉ giữ châu quận, không chịu phục Vương Mãn. Đến khi
vua Quang-Vũ trung hưng lên, bọn Đặng Nhượng mới sai sứ về triều cống.
2. Tích
Quang và Nhâm Diên. Về đầu thế-kỷ đệ
nhất có hai người sang làm thái-thú trị dân có nhân-chính. Một người tên là
TÍCH QUANG làm thái-thú
Giao-chỉ, một người
tên là NHÂM
DIÊN làm thái
thú quận Cửu-chân.
Tích
Quang sang làm thái-thú quận Giao-chỉ từ đời vua Bình-đế nhà Tây Hán, vào quãng
năm thứ hai, thứ ba về thế kỷ đệ nhất.
Người hết lòng lo việc khai-hóa, dạy dân lấy điều lễ-nghĩa, cho nên dân trong
quận có nhiều người kính phục.
Nhâm
Diên ở Cửu-chân được 4 năm thì được thăng chức về Tàu đi làm quan chỗ khác.
Dân-sự quận ấy ái-mộ Nhâm Diên, làm đền thờ. Cớ người vì được nhờ quan thái-thú
cho nên sau sinh con ra, lấy tên Nhâm mà đặt tên cho con để tỏ lòng biết ơn.
CHƯƠNG II
TRƯNG-VƯƠNG
(40-43)
1. Trưng-Thị
khởi binh
2. Mã
Viện sang đánh Giao-chỉ
1. Trưng-Thị
khởi binh. Năm giáp-ngọ (34) là năm Kiến-võ thứ 10, vua Quang-vũ sai Tô Định
sang làm thái thú quận Giao-chỉ.
Tô Định
là người bạo ngược, chính trị tàn ác, người Giao-chỉ đã có lòng oán giận lắm.
Năm canh-tí (40) người ấy lại giết Thi Sách người ở quận Châu-Diên (phủ Vĩnh
tường, trước thuộc về Sơn Tây, nay thuộc về tỉnh Vĩnh- yên).
Vợ Thi
Sách là Trưng-Trắc con gái quan lạc tướng ở huyện Mê-linh (làng Hạ-lôi, huyện
Yên-lãng, tỉnh Phúc-yên) cùng với em gái là Trưng-Nhị, nổi lên đem quân về đánh
Tô Định. Bọn Tô Định phải chạy trốn về quận Nam Hải.
Lúc bấy
giờ những quận Cửu-chân, Nhật-nam và Hợp-phố cũng nổi lên theo về với hai bà
Trưng-Thị. Chẳng bao lâu quân hai bà hạ được 65 thành-trì. Hai bà bèn tự xưng
làm vua, đóng đô ở Mê-linh, là chỗ quê nhà.
2. Mã-Viện
sang đánh Giao-Chỉ. Năm tân-sửu (41) vua
Quan-vũ sai Mã Viện làm Phục-ba tướng-quân, Lưu Long làm phó tướng cùng với
quan Lâu-thuyền tướng quân là Đoàn Chí sang đánh Trưng-vương.
Mã Viện
là một danh-tướng nhà Đông-Hán, lúc bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, nhưng vẫn còn
mạnh, đem quân đi men bờ để phá rừng đào núi làm đường sang đến Lãng-bạc, gặp
quân Trưng-Vương hai bên đánh nhau mấy trận11. Quân Trưng-vưng là quân ô-hợp
không đương nổi quân Mã Viện, đã từng đánh giặc nhiều phen. Hai bà rút quân về
đóng ở Cẩm-khê ( phủ Vĩnh- tường, tỉnh Vĩnh-yên). Mã Viện tiến quân lên đánh, quân hai bà vỡ
tan cả. Hai bà chạy về đến xã Hát-môn, thuộc huyện Phúc-lộc (nay là huyện Phúc
Thọ tỉnh Sơn-tây), thế bức quá, bèn gia mình xuống sông Hát-giang (chỗ
11 Sử
chép rằng Lãng-bạc là Hồ-tây ở gần Hà-nội, nhưng có người bác đi bảo không.
sông Đáy
tiếp vào sông Hồng-hà) mà tự tận. Bấy giờ là ngày mồng 6 tháng 2 năm quí -mão
(43).
Những
tướng của hai bà là bọn Đô Dương chạy vào giữ huyện Cư- phong thuộc quận
Cửu-chân. Sau Mã Viện đem quân vào đánh, bọn Đô Dương đều phải ra hàng.
Hai bà
họ Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài-trí người đàn bà mà dấy được
nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng đủ để cái tiếng
thơm về muôn đời. Đến ngày nay có nhiều nơi lập đền thờ hai bà để nghi-tạc cái
danh-tiếng hai người nữ anh-hùng nước Việt-nam ta12.
Sử-gia
Lê văn Hưu nói rằng: "Trung Trắc, Trưng Nhị là đàn bà nổi tiếng đánh lấy
được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như giở bàn tay. Thế mà từ cuối đời
nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay
làm tôi-tớ người Tàu, mà không biết xấu-hổ với hai người đàn-bà họ Trưng!"
CHƯƠNG III
Bắc-Thuộc Lần Thứ II
(43-544)
I . Nhà
Đông Hán
1. Chính
Trị nhà Đông Hán
2. Lý
Tiến và Lý Cầm
3. Sỹ
Nhiếp
II. Đời
Tam Quốc
1. Nhà
Đông Ngô
2. Bà
Triệu (Triệu thị Chinh)
3. Nhà
Ngô chia đất Giao-châu
III. Nhà
Tấn
1. Chính-trị
nhà Tấn
2. Nước
Lâm-ấp quấy nhiễu Giao-châu
IV. Nam
Bắc-triều
1. Tình
thế nước Tàu
2. Việc
đánh Lâm-ấp
3. Sự
biến loạn ở đất Giao-châu
I. Nhà
Đông-Hán (25-220)
1. Chính-Trị
nhà Đông-Hán. Mã Viện đánh được Trưng- vương đem đất Giao-chỉ về thuộc
nhà Hán như củ, rồi chỉnh đốn binh lương, đem quân đi đánh dẹp các nơi, đi đến
đâu xây thành đắp lũy đến đấy và biến cải mọi cách chính trị trong các châu
quận. Đem phủ-trị về đóng Mê- linh13 và dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới,
khắc sáu chữ: "Đồng trụ chiết, Giao-chỉ diệt." Nghĩa là cây đồng trụ
mà đổ thì người Giao-chỉ mất nòi.
Sử chép
rằng người Giao-chỉ đi qua lại chỗ ấy, ai cũng bỏ vào chân cột đồng-trụ một hòn
đá, cho nên về sau chỗ ấy thành ra núi, phủ mất cả, đến bây giờ không biết cột
ấy ở chỗ nào.
12 Nay ở
làng Hát-môn, huyện Phúc-thọ, tỉnh Sơn Tây và ở bãi Đồng-nhân, ở gần Hà-nội có
đền thờ hai bà, đến ngày mồng 6 tháng 2 thì có hội .
13 Về
cuối đời Đông Hán lại dời về Long Biên.
Từ đó
chính-trị nhà Đông Hán càng ngày càng ngặt thêm, mà những quan-lại sang cai-trị
Giao-chỉ thường có lắm người tàn-ác, tham nhũng, bắt dân lên rừng xuống bể để
tìm những châu-báu. Dân ở quận Hợp-phố cứ phải xuống bể mò ngọc trai khổ quá,
đến nổi phải bỏ xứ mà đi.
Triều
đình thì xa, quan-lại ra cai-trị thì tha hồ mà tung-hoành, tiếng oan-ức kêu
không thấu vào đâu, cho nên thường hay có sự loạn-lạc, làm cho dân-gian phải
nhiều sự khổ-sở.
2. Lý
Tiến và Lý Cầm. Quan cai-trị đã tàn-ác,
nhà vua lại bạc đãi người bản xứ. Đời bấy giờ người mình dẫu có học hành thông
thái cũng không được giữ việc chính-trị. Mãi đến đời vua Linh-đế(168-189) cuối
nhà Đông-Hán mới có một người bản xứ là Lý Tiến được cất lên làm Thứ -sử ở
Giao-chỉ. Lý Tiến dâng sớ xin cho người Giao chỉ được bổ đi làm quan như ở
Trung-châu bên Tàu. Nhưng Hán-đế chỉ cho những người đỗ mậu tài hoặc hiếu-liêm
được làm lại-thuộc ở trong xứ mà thôi, chứ không được đi làm quan ở châu khác.
Bấy giờ có người Giao-chỉ tên là Lý Cầm làm lính túc-vệ hầu vua ở trong
điện, rủ mấy người bản xứ ra phục xuống sân mà kêu cầu thảm thiết. Hán-đế mới
cho một người Giao-chỉ đỗ mậu-tài đi làm quan-lệnh ở Hạ dương và một người đỗ
hiếu-liêm làm quan-lệnh ở Lục-hợp. Về sau Lý Cầm làm đến quan Tư-lệ Hiệu -úy và
lại có Trương Trọng cũng là người Giao-chỉ
làm thái thú
ở Kim-thành. Người
Giao-chỉ ta được
làm quan như người bên Tàu, khởi đầu từ Lý Tiến và Lý
Cầm vậy.
3. Sĩ
Nhiếp (187-226). Về cuối đời nhà Đông-Hán, giặc cướp nổi lên khắp cả bốn
phương, triều-đình không có uy-quyền ra đến ngoài, thiên-hạ chỗ nào cũng có
loạn. Đất Giao-chỉ bấy giờ nhờ có quan thái- thú là Sĩ Nhiếp cùng với anh em
chia nhau giữ các quận huyện, cho nên mới được yên.
Tiên-tổ
nhà ông Sĩ Nhiếp là người nước Lỗ, vì lúc Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, mới
tránh loạn sang ở đất Quảng-Tín, quận Thương-ngô, đến đời ông thân sinh ra Sĩ
Nhiếp là sáu đời. Ông thân sinh tên là Sĩ Tứ làm thái thú quận Nhật-nam, cho Sĩ
Nhiếp về du học ở đất Kinh-sư, đỗ hiếu liêm được bổ Thượng-thư-lang, vì việc
quan phải cách, rồi về chịu tang cha. Sau lại đỗ mẫu-tài được bổ sang làm
Thái-thú ở quận Giao-chỉ.
Năm
quí-mùi (203) là năm thứ 3 đời vua Hiến-đế quan Thứ-sử là Trương Tân cùng với
quan Thái-thú Sĩ Nhiếp dâng sớ xin cải Giao-chỉ làm Giao-Châu. Vua nhà Hán
Thuận cho. Sau vì trong châu có lắm giặc-giã, Sĩ
Nhiếp
mới tâu xin vua nhà Hán cho mấy anh em làm Thái-thú quận Cửu- chân, quận Hợp
phố và quận Nam-Hải. Sĩ Nhiếp giữ được đất Giao-châu khỏi loạn và vẫn giữ lệ
triều cống như cũ, cho nên vua Hiến-đế lại phong cho chức An-viễn tướng quân
Long-độ đình-hầu Sĩ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho
nên lòng người cảm-mộ công-đức, mới gọi tôn lên là Sĩ-vương.
Nhà làm
sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sĩ Nhiếp. Cái ý kiến đó có lẽ
không phải. Vì rằng từ khi nhà Hán cai trị đất Giao-chỉ đến đời Sĩ Nhiếp
đã được hơn
300 năm, người
Giao-chỉ đã có
người học hành thi đỗ hiếu liêm,
mậu tài. Vậy nói rằng đến ông Sĩ Nhiếp mới có nho- học thì chẳng sai lắm ru.
Hoặc giả ông ấy là một người có văn học trong khi làm quan, lo mở-mang sự
học-hành, hay giúp đỡ những kẻ có chữ-nghĩa, cho nên về sau mới được, cái tiếng
làm học tổ ở nước Nam tưởng như thế thì có thể hợp lẽ hơn.
II. Đời
Tam-Quốc (220-265)
1. Nhà
Đông-Ngô (222-280). Nhà Đông-Hán mất ngôi thì nước Tàu phân ra làm ba nước:
Bắc-ngụy, Tây-thục, Đông-ngô. Đất Giao- châu bấy giờ thuộc về Đông-ngô.
Sĩ Nhiếp
ở Giao-châu được 40 năm, tuy thiệt có uy-quyền ở cõi Giao- châu, nhưng vẫn theo
lệ triều cống nhà Hán, và đến khi nhà Hán mất thì lại triều cống nhà Ngô.
Năm
bính-ngọ (226) là năm Hoàng-vũ thứ 5 nhà Ngô, Sĩ Nhiếp mất, con Sĩ Huy tự xưng
làm Thái-thú. Ngô-chủ là Tôn quyền bèn chia đất Giao- châu, từ Hợp phố về bắc
gọi là Quảng-châu. Sai Lữ Đại làm Quảng Châu thứ sử, Đái Lương làm Giao-châu
thứ sử, và sai Trần Thì sang thay Sĩ Nhiếp làm thái-thú quận Giao-chỉ.
Bọn Đái
Lương và Trần Thì sang đến Hợp-phố thì Sĩ Huy đem quân ra chống giữ. Thứ Sử
Quảng châu là Lữ Đại mới tiến quân sang đánh dẹp, và cho người đến dụ Sĩ Huy ra
hàng. Sĩ Huy đem 5 anh em ra hàng, Lữ Đại sai bắt Sĩ Huy đem chém đi, còn mấy
anh em thì đem về Ngô-triều làm tội.
Ngô-chủ
lại hợp Quảng-Châu và Giao-Châu lại làm một, và phong cho Lữ Đại làm Thứ-sử. Lữ
Đại đem quân đi đánh quận Cửu-chân có công được phong làm Giao-châu-mục.
2. Bà
Triệu (Triệu Thị Chinh)14
năm
xích-ô thứ 11 nhà Đông ngô, Ngô chủ sai Lục Dậu sang làm thứ-sử Giao-châu.
Năm ấy ở
quận Cửu-chân có người đàn bà tên là Triệu Thị Chinh khởi binh đánh nhà Ngô.
Sử ta
chép rằng bà Triệu là người huyện Nông-cống bấy giờ. Thủa nhỏ cha mẹ mất cả, ở
với anh là Triệu quốc Đạt, dến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu ác nghiệt, bà
ấy giết đi rồi vào ở trong núi. Bà ấy là một người có sức mạnh, lại có chí-khí
và lắm mưu-lược. Khi vào ở trong núi chiêu mộ hơn 1,000 tráng sĩ để làm thủ hạ.
Anh thấy thế mới can bà, thì bà bảo rằng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp
đường sóng dữ, chém cá tràng-kình ở bể đông chứ không thèm bắt-chước người đời
cúi đầu cong lưng để làm tì-thiếp người ta."
Năm
mậu-thìn (248) vì quan-lại nhà Ngô tàn-ác, dân-gian khổ-sở, Triệu quốc Đạt mới
khởi binh đánh quận Cửu-chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu
quốc Đạt thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi bà ra trận thì
cưỡi voi và mặc áo giáp vàng là Nhụy-kiều tướng-quân.
Thứ sử
Giao-châu là Lục Dận đem quân đi đánh, bà chống nhau với nhà Ngô được năm sáu
tháng . Nhưng vì quân ít thế cô, đánh mãi phải thua, bà đem quân chạy đến xã
Bồ-điền (nay là xã Phú-điền thuộc huyện Mỹ-hóa) thì tự-tử. Bấy giờ mới 23 tuổi.
Về sau
vua Nam Đế nhà Tiền-Lý, khen là người trung-dũng sai lập miếu thờ, phong là:
"Bất chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu-nhân". Nay ở xã Phú-điền,
tỉnh Thanh-hóa còn đền thờ.
3. Nhà
Ngô chia đất Giao-Châu. Năm giáp-thân (264) là năm Nguyên-hưng nguyên-niên, vua
nhà Ngô lại lấy đất Nam-hải, Thương-ngô
và Uất-lâm làm
Quảng-châu, đặt châu-trị
ở Phiên ngung;
lấy đất Hợp-phố, Giao-chỉ, Cửu-chân, và Nhật-nam làm Giao Châu, đặt
châu-trị ở Long Biên. Đất Nam-Việt của nhà Triệu ngày trước thành ra Giao-châu
và Quảng-châu từ đấy.
Đất
Giao-châu đời bấy giờ cứ loạn-lạc mãi, những quan-lại nhà Ngô thì thường là
người tham-tàn, vơ-vét của dân, bởi vậy người Giao-châu nổi lên giết quan
thái-thú đi rồi về hàng nhà Ngụy.
Năm ất
dậu (256) nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, rồi sai quan sang giữ Giao-châu. Nhà Ngô
sai Đào Hoàng sang lấy lại. Đào Hoàng được phong là Giao-châu mục. Năm canh tí
(280) nhà Ngô mất nước. Đào Hoàng về nhà Tấn, được giữ chức cũ. Đất Giao-châu
từ đó thuộc về nhà Tấn.
III Nhà Tấn (256-420)
1. Chính-Trị
Nhà Tấn. Nhà Tấn được thiên-hạ rồi, thấy nhà Ngụy vì thế cô mà mất, bèn đại
phong cho họ-hàng và sai ra trấn các nơi để làm vây cánh cho nhà vua. Nhưng
cũng vì lẽ ấy mà các thân vương thường vì lòng tham danh-lợi cứ dấy binh đánh
giết lẫn nhau, làm cho anh em trong nhà, cốt nhục tương tàn, mà ngôi vua cũng
thành ra suy nhược.
Thời bấy
giờ ở phía tây-bắc có những người nhung-địch thấy nhà Tấn có nội loạn, bèn
lũ-lượt nổi lên chiếm giữ dần dần lấy cả vùng phía bắc sông Trường-giang rồi
xưng đế, xưng vương, như nước Triệu, nước Tần, nước Yên, nước Lương, nước Hạ,
nước Hán v. v... cả thảy trước sau đến 16 nước, gọi là loạn Ngũ-Hồ15.
Đất
Giao-châu ta vẫn thuộc về nhà Tấn. Những quan lại sang cai-trị cũng như quan
lại đời nhà Hán, nhà Ngô, thỉnh thoảng mới gặp được một vài người nhân từ tử
tế, thì dân gian mới được yên ổn, còn thì là những người tham lam, độc-ác, làm
cho nhân dân phải lầm than khổ sở. Cũng lắm khi bọn quan lại có những người
phản nghịch đánh giết lẫn nhau, làm cho trong nước cứ phải loạn lạc luôn.
2. Nước
Lâm-Ấp quấy nhiễu Giao-Châu. ĐẤt Giao- châu lúc bấy giờ trong thì có quan lại
nhũng-nhiễu, ngoài thì có người nước Lâm-ấp vào đánh phá.
Nước
Lâm-Ấp (sau gọi là Chiêm-Thành) ở từ quận Nhật-nam vào cho đến Chân-Lạp, nghĩa
là ở vào quãng từ tỉnh Quảng-Bình, Quảng-Trị cho đến đất Nam-Việt bây giờ.
Người Lâm-ấp có lẽ là nòi giống Mã-lai, theo tông giáo và chính trị Ấn Độ. Nước
ấy cũng là một nước văn minh và cường
thịnh ở
14 Bà
Triệu, các kỳ xuất bản trước để là Triệu Ẩu.
Nay xét ra nên để là Triệu Thị Chinh.
15 Ngũ
Hồ là 5 rợ: Hung Nô và rợ Yết (chủng loại Mông Cổ), rợ Tiên Ti (chủng loại Mãn
Châu), rợ Chi và rợ Khương (chủng loại Tây Tạng)
phía nam
lúc bấy giờ, nhưng không rõ nước ấy khởi đầu thành nước từ lúc nào. Sách
"Khâm-định Việt Sử" chép rằng: năm nhâm-dần (102) đời nam có huyện
Tượng-lâm, người huyện ấy cứ hay sang cướp phá ở quận Nhật-nam, bởi vậy vua nhà
Hán mới đặt quan cai-trị ở huyện ấy, để phòng giữ sự rối loạn.
Đến cuối
đời nhà Hán có người huyện Tương-lâm tên là Khu Liên giết huyện-lệnh đi, rồi tự
xưng làm vua, gọi nước là Lâm-ấp. Dòng dõi Khu Liên thất truyền, bởi vậy cháu
ngoại của Phạm Hùng lên nối nghiệp.
Trong
đời Tam-quốc, người Lâm-ấp hay sang cướp phá ở quận Nhật-nam và quận Cửu-chân,
bởi vậy khi nhà Tấn đã lấy được Đông-ngô rồi, ý muốn giảm bớt quân ở các châu
quận, nhưng quan thứ sử Giao-châu là Đào Hoàng dâng sớ về tâu rằng: "Vua
nước Lâm-ấp là Phạm Hùng thông với nước Phù Nam hay sang quấy nhiễu ở đất
Nhật-nam nếu lại giảm bớt quân ở Giao-châu đi, thì sợ quân Lâm-ấp lại sang đánh
phá."
Xem như
vậy thì nước Lâm-Ấp đã có từ đầu đệ nhị thế kỷ.
Phạm
Hùng truyền cho con là Phạm Dật. Phạm Dật mất, thì người gia nô là Phạm Văn
cướp mất ngôi. Phạm Văn truyền cho con là Phạm Phật.
Năm
quí-sửu (353) đời vua Mục-đế nhà Đông-Tấn, thứ-sử Giao-châu là Nguyễn Phu đánh
vua Lâm-ấp là Phạm Phật, phá được hơn 50 đồn lũy. Phạm Phật mất, truyền ngôi
lại cho con cháu là Phạm Hồ-Đạt. Năm kỷ hợi
(399)
Phạm Hồ-Đạt đem quân sang đánh lấy hai quận Nhật-nam và Cửu- chân rồi lại đi
đánh Giao-châu. Bấy giờ có thái thú quận Giao-chỉ là Đỗ Viện đánh đuổi người
Lâm-Ấp, lấy lại hai quận. Đỗ Viện được phong làm Giao- châu thứ-sử.
Năm quí-sửu
(413) Phạm Hồ-Đạt lại đem quân sang phá ở quận Cửu-chân. Khi bấy giờ con Đỗ
Viện là Đỗ Tuệ-Độ làm Giao-châu thứ sử đem binh ra đuổi đánh, chém được tướng
Lâm-ấp là bọn Phạm Kiện và bắt được hơn 100 người.
Người
Lâm-Ấp vẫn còn hay tính đi cướp phá, cứ năm ba năm lại sang quấy nhiễu ở đất
Nhật nam. Đỗ Tuệ-Độ định sang đánh Lâm-ấp để trừ cái hại về sau, bèn đến năm
canh-thân (420) cất binh mã sang đánh, chém giết tàn hại, rồi bắt người Lâm-ấp
cứ hàng năm cống tiến: voi, vàng, bạc, đồi-mồi v.v. Từ đó mới được tạm yên.
Dòng dõi
Phạm Hồ-Đạt làm vua được mấy đời lại bị
quan Lâm-ấp là Phạm Chư Nông cướp mất ngôi. Phạm Chư Nông truyền cho con là
Phạm Dương Mại.
Khi Phạm
Dương Mại làm vua nước Lâm-ấp, thì nhà Tấn đã mất rồi, nước Tàu phân ra
Nam-triều và Bắc-triều. Phạm Dương Mại lại nhân dịp đó sang quấy nhiễu Giao
châu.
IV. NAM
BẮC-TRIỀU (420-588)
1. Tình-Thế
Nước Tàu. Năm canh thân (420) Lưu Dụ cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở
phía Nam. Lúc bấy giờ ở phía Bắc thì nhà Ngụy gồm được cả nước Lương, nước Yên,
nước Hạ. Nước Tàu phân ra làm Nam-Triều và Bắc Triều. Bắc Triều thì có nhà
Ngụy, nhà Tề, nhà Chu nối nhau làm vua; Nam-Triều thì có nhà Tống, nhà Tề, nhà
Lương và nhà Trần kế nghiệp trị-vì.
2. Việc
đánh Lâm-Ấp. Trong đời nhà Tấn về năm Quí dậu
(433)
đời vua Văn-đế, vua nước Lâm-ấp là Phạm Dương Mại thấy nước Tàu loạn-lạc, bèn
sai sứ sang cống nhà Tống và xin lĩnh đất Giao-châu để cai trị. Nhưng vua nhà
Tống không cho.
Từ đó
nước Lâm-ấp lại sang cướp phá ở mạn Nhật-nam và Cửu- chân. Vua nhà Tống bèn sai
quan thứ-sử là Đàn Hòa Chi và Tông Xác làm phó tướng đem binh sang đánh Lâm-ấp.
Phạm Dương Mại đem quân ra chống cự.
Đàn Hòa
Chi và Tông Xác tiến quân chém được tướng, phá được thành, quân Lâm-ấp vỡ tan,
Phạm Dương Mại cùng với con chạy thoát được. Đàn Hòa Chi vào đất Lâm-ấp lấy
được vàng bạc châu báu rất nhiều. Sử chép rằng Đàn Hòa Chi lấy được một cái
tượng bằng vàng mấy người ôm không xuể, đem nấu-đúc được hơn 10 vạn cân. Từ đấy
người Tàu biết Lâm-ấp có nhiều của, cứ chực sang lấy. Đàn Hòa Chi cũng từ đấy bị gièm pha, phải
cách chức đuổi về.
3. Sự
biến-loạn -- Đất Giao-Châu. Năm
Kỷ-Mùi (479) nhà Tống mất ngôi,
nhà Tề kế nghiệp, trị vì được 22 năm thì nhà Lương lại cướp ngôi nhà Tề.
Trong
đời Nam Bắc Triều, đất Giao-châu không được mấy khi yên ổn, vì quan Tàu sang
cai-trị có nhiều người thấy bên Tàu loạn, cũng muốn tìm cách để độc-lập, bởi
vậy quan lại cứ giết lẫn nhau.
Đời nhà
Lương lại sai Tiêu-Tư sang làm thứ sử Giao-châu. Tiêu Tư là một người tàn bạo,
làm cho lòng người ai cũng oán giận. Bởi vậy ông Lý Bôn mới có cơ hội mà nổi
lên, lập ra nhà Tiền Lý.
CHƯƠNG IV
Nhà Tiền Lý
(544 - 602)
1. Lý
Nam Đế
2. Triệu
Việt Vương
3. Hậu
Lý Nam Đế
1. Lý
Nam Đế (544-548). Năm Tân Dậu (541) là năm Đại Đồng thứ 7 đời vua Vũ Đế nhà
Lương, ở huyện Thái Bình16 có một người tên là Lý Bôn, tài kiêm văn võ, thấy
nước mình, trong thì quan lại Tàu làm khổ, ngoài thì người Lâm Ấp cướp phá, bèn
cùng với những người nghĩa dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu, rồi chiếm
giữ lấy thành Long Biên.
Lý Bôn,
có người gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh
loạn chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là bảy đời, thành ra người bản xứ.
Khi chiếm giữ được đất Giao Châu rồi, ông sửa sang mọi việc, định lập nghiệp
lâu dài. Qua năm Quí Hợi (543) quân Lâm Ấp lại sang phá quận Nhật Nam, Lý Bôn
sai tướng là Phạm Tu vào đánh ở Cửu Đức (Hà Tĩnh), người Lâm Ấp thua chạy về
nước.
Năm Giáp
Tí (544) đời nhà Lương bên Tàu, ông Lý Bôn tự xưng là Nam Việt Đế, đặt quốc
hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức, rồi phong cho Triệu Túc làm thái phó,
Tinh Thiều làm tướng văn, và Phạm Tu là tướng võ.
Năm Ất
Sửu (545) vua nhà Lương sai Dương Phiêu sang làm thứ sử Giao Châu, và sai Trần
Bá Tiên đem quân sang đánh Nam Việt. Lý Nam Đế thua phải bỏ thành Long Biên chạy
về giữ thành Gia Ninh (huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên). Trần Bá Tiên đem quân
lên vây thành Gia Ninh, Lý Nam Đế chạy về giữ thành Tân Xương, tức là đất Phong
Châu cũ thuộc tĩnh Vĩnh Yên bây giờ.
16 Cứ
theo sách "Khâm Định Việt Sử" thì huyện Thái Bình thuộc về Phong Châu
ngày trước, nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây nhưng mà không rõ là chỗ nào, chứ
không phải là phủ Thái Bình ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái Bình.
Nhà
Lương lại tiến lên đuổi đánh, Lý Nam Đế thấy thế mình yếu, chống không nổi, mới
rút quân lên đóng ở động Khuất Liêu (thuộc đất Hưng Hóa), để đợi thu xếp được
quân sĩ lại ra đánh. Được non một năm, Lý Nam Đế đem hai vạn quân ra đánh nhau
với Trần Bá Tiên ở hồ Điển Triệt (?), lại thua. Lý Nam Đế bèn giao binh quyền
lại cho tả tướng quân Triệu Quang Phục chống nhau với quân nhà Lương rồi trở về
Khuất Liêu.
Triệu
Quang Phục là con quan thái phó Triệu Túc người ở Châu Diên (Vĩnh Tường, tỉnh
Vĩnh Yên) theo cha giúp Lý Nam Đế lập được nhiều công, nay đem quân chống cự
với nhà Lương được ít lâu, rồi sau thấy thế quân Tàu còn mạnh, địch không nổi,
bèn rút quân về Dạ Trạch17. Dạ Trạch là chỗ đồng lầy, chung quanh cỏ mọc như
rừng, ở giữa có bãi cát làm nhà ở được. Triệu Quang Phục vào ở đấy, ngày nấp
ẩn, tối thì cho lính chở thuyền độc mộc ra đánh quân của Trần Bá Tiên, cướp lấy
lương thực về nuôi quân sĩ. Trần Bá Tiên đánh mãi không được. Người thời bấy
giờ gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương.
2. Triệu
Việt Vương (549-571). Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế ở trong Khuất Liêu phải bệnh
mất, sang năm sau Triệu Quang Phục ở Dạ Trạch được tin ấy bèn xưng là Việt
Vương. Bấy giờ quân của Việt Vương đã sắp hết lương, mà mãi không phá được quân
Tàu. May nhờ gặp lúc bên Tàu có loạn Hầu Cảnh, vua nhà Lương phải triệu Trần Bá
Tiên về để người tì tướng là Dương Sân ở lại chống cự với Triệu Quang Phục.
Quang Phục mới thừa thế đem quân ra đánh phá quân Tàu, rồi về lấy lại thành
Long Biên.
Khi Lý
Nam Đế thất thế chạy về Khuất Liêu thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng với
người họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào quận Cửu Chân, rồi bị quân nhà Lương
đuổi đánh chạy sang Lào, đến đóng ở động Dã Năng, xưng là Đào Lang Vương, quốc
hiệu là Dã Năng.
Năm Ất
Hợi (555) là năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương, Lý Thiên Bảo mất, không có con,
binh quyền về cả Lý Phật Tử. Đến năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về
chống với Triệu Việt Vương. Đánh nhau mấy trận không được, Phật Tử mới xin chia
đất giảng hòa. Triệu Việt Vương nghĩ tình họ Lý, cũng thuận chia đất cho Lý
Phật Tử.
Lý Phật
Tử đóng ở Ô Diên (nay ở vào làng Đại Mỗ, thuộc huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông).
Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, lấy bãi Quân Thần làm giới hạn (bãi ấy thuộc
làng Thượng Các, huyện Từ Liêm). Triệu Việt
Vương
lại gả con gái cho Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu với nhau. Nhưng Phật Tử vẫn có ý
muốn thôn tính, bởi vậy bề ngoài tuy hòa hiếu, nhưng bề trong vẫn sửa soạn để
đánh lấy Long Biên.
Năm Tân
Mão (571), Phật Tử bất thình lình đem quân đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt
Vương thua chạy đến sông Đại Nha (nay ở huyện Đại An, tỉnh Nam Định), nhảy
xuống sông tự tận. Người ở đấy cảm nhớ Triệu Việt Vương, mới lập đền thờ ở chỗ
sông Đại Nha. Nay còn có đền thờ ở làng Đại Bộ, gần huyện Đại An.
3. Hậu
Lý Nam Đế (571-602). Lý Phật Tử lấy được thành Long Biên rồi, xưng đế hiệu,
đóng đô ở Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), sai Lý Đại Quyền
giữ Long Biên và Lý Phổ Đỉnh giữ Ô Diên.
Trong
khi Lý Phật Tử làm vua ở Nam Việt thì vua Văn Đế nhà Tùy đã gôm cả Nam Bắc,
nhất thống nước Tàu. Đến năm Nhâm Tuất (602) vua nhà Tùy sai tướng là Lưu
Phương đem quân 27 doanh sang đánh Nam Việt.
Lưu
Phương sai người lấy lẽ họa phúc để dụ Lý Phật Tử về hàng.
Hậu Lý
Nam Đế sợ thế không địch nổi bèn xin về hàng.
Từ đấy
đất Giao Châu lại bị nước Tàu cai trị 336 năm nữa.
17 Bây
giờ thuộc phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
CHƯƠNG V
Bắc Thuộc Lần Thứ Ba
(603 - 939)
I. Nhà
Tùy.
1. Việc
đánh Lâm Ấp
II. Nhà
Đường
1. Chính
trị nhà Đường
2. An
Nam đô hộ phủ
3. Mai
Hắc Đế
4. Giặc
bể
5. Bố
Cái Đại Vương
6. Việc
đánh nước Hoàn Vương
7. Nam
Chiếu cướp phá Giao Châu
8. Cao
Biền bình giặc Nam Chiếu
9. Công
việc của Cao Biền
10. Sự
trị loạn của nước Tàu
III. Đời
Ngũ Quí
1. Tình
thế nước Tàu
2. Họ
Khúc dấy nghiệp: Khúc Thừa Dụ
3. Khúc
Hạo
4. Khúc
Thừa Mỹ
5. Dương
Diên Nghệ và Kiểu Công Tiện
6. Ngô
Quyền phá quân Nam Hán
I. Nhà Tùy (589 - 617)
1. Việc
Đánh Lâm Ấp. Nhà Tùy làm vua bên Tàu được 28 năm thì mất. Trong bấy nhiêu năm thì sử không chép chuyện gì lạ,
chỉ nói rằng năm Ất Sửu (605), vua nhà Tùy nghe nói ở Lâm Ấp có nhiều của, bèn
sai tướng là Lưu Phương đem quân đi đánh. Vua Lâm Ấp lúc bấy giờ là Phạm Phạm
Chí đem quân ra giữ những chỗ hiểm yếu, ở bên này sông Đồ Lê (?) để chống cự
với quân Tàu. Nhưng chẳng bao lâu quân Lâm Ấp phải thua bỏ chạy. Lưu Phương
thừa kế tiến quân sang sông đuổi đánh, gặp đại binh
Lâm Ấp
kéo đến, có nhiều voi thế rất mạnh. Lưu Phương bèn dùng mưu: sai quân đào hố
lấy cỏ phủ lên, rồi sai quân ra đánh nhử, giả tảng bại trận. Quân Lâm Ấp đuổi
theo được một quãng, voi sa xuống hố, quân sĩ loạn cả. Khi bấy giờ quân Tàu mới
quay trở lại lấy cung nỏ bắn, voi khiếp sợ xéo cả lên quân Lâm Ấp mà chạy. Lưu
Phương cũng phải bệnh về đến nửa đường thì chết.
II. Nhà
Đường (618 - 907)
1. Chính
Trị Nhà Đường. Năm Mậu Dần (618) nhà Tùy mất nước, nhà Đường kế nghiệp làm vua
nước Tàu. Đến năm Tân Tị (621) vua Cao Tổ nhà Đường sai Khâu Hòa làm Đại Tổng
Quản sang cai trị Giao Châu.
Từ khi
nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả. Nhưng sử
chép lược quá: thường cách hai ba năm mới chép một việc, chắc là những nhà làm
sử nước ta sau cứ theo sử Tàu chép lại, cho nên mới sơ lược như vậy.
2. An
Nam Đô Hộ Phủ. Năm Kỹ Mão (678) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra
làm 12 châu, 59 huyện, và đặt An Nam đô hộ phủ18.
Nước ta
gọi là An Nam khởi đầu từ đấy.
Mười hai
Châu đời nhà Đường là những châu này:
1. Giao Châu có
8 huyện (Hà Nội, Nam Định v. v.)
2. Lục Châu có
3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn)
3. Phúc Lộc Châu có 3 huyện (Sơn Tây)
4. Phong Châu có 3 huyện (Sơn Tây)
5. Thang Châu có 3 huyện (?)
6. Trường Châu có 4 huyện (?)
7. Chí Châu có
7 huyện (?)
8. Võ Nga Châu có 7 huyện (?)
9. Võ An Châu có 2 huyện (?)
10. Ái Châu có
6 huyện (Thanh Hóa)
11. Hoan Châu có
4 huyện (Nghệ An)
18 Nhà
Đường lúc đó chia nhiều tỉnh bên Tàu ra làm Đô Hộ Phủ như Tứ Xuyên Đô Hộ Phủ,
An Nam Đô Hộ Phủ, v.v. Vậy Đô Hộ là
một chức quan chứ không phải là một chính thể cai trị các
thuộc
địa như ta hiểu bây giờ.
12. Diên Châu có
7 huyện (Nghệ An)
Ở về
phía Tây Bắc đất Giao Châu lại đặt một châu nữa, gọi là Man Châu gồm cả những
Mường ở mạn ấy, lệ cứ hằng năm phải triều cống vua nhà Đường.
Ấy là
đại để cách chính trị nhà Đường như vậy. Còn thường thì cũng loạn lạc luôn: khi
thì người trong nước nổi lên đánh phá như Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương: khi
thì những nước ở ngoài vào xâm phạm, như nước Hoàn Vương và nước Nam Chiếu.
3. Mai Hắc
Đế (722). Năm Nhâm Tuất (722) là năm Khai Nguyên thứ 10 về đời vua Huyền Tông
nhà Đường, ở Hoan Châu có một người tên là Mai Thúc Loan nổi lên chống cự với
quân nhà Đường.
Mai Thúc
Loan là người huyện Thiên Lộc, tức là huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, mặt mũi đen sì, sức vóc khỏe mạnh, thấy quan
nhà Đường làm nhiều điều tàn bạo, dân gian khổ sở, lại nhân lúc bấy giờ lắm
giặc giã, ông ấy bèn chiêu mộ những người nghĩa dũng, rồi chiếm giữ lấy một chỗ
ở đất Hoan Châu (nay thuộc huyện Nam Đường tỉnh Nghệ An) rồi xây thành đắp lũy,
xưng hoàng đế, tục gọi là Hắc Đế.
Mai Hắc
Đế lại kết hiếu với nước Lâm Ấp và nước Chân Lạp để làm ngoại viện.
Vua nhà
Đường sai quan nội thị là Dương Tư Húc đem quân sang cùng với quan Đô Hộ là
Quang Sở Khách đi đánh Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế thế yếu chống không nổi phải thua
chạy, được ít lâu thì mất. Nay ở núi Vệ Sơn huyện Nam Đường, tỉnh Nghệ An, còn
có di tích thành cũ của vua Hắc Đế, và ở xã Hương Lãm, huyện Nam Đường còn có
đền thờ.
4. Giặc
Bể. Năm Đinh Vị (767) là năm Đại Lịch thứ 2, đời vua Đại Tông nhà Đường, sử
chép rằng có quân Côn Lôn và quân Đồ Bà là quân ở những đảo ngoài bể vào cướp
phá đất Giao Châu, lên vây các châu thành.
Quan
Kinh Lược Sứ là Trương Bá Nghị cùng với quan Đô Úy là Cao Chính Bình đem quân
đánh phá được lũ giặc ấy. Trương Bá Nghi bèn đắp La Thành để phòng thủ phủ trị.
La Thành khởi đầu từ đấy.
5. Bố
Cái Đại Vương (791). Năm Tân Vị (791) quan Đô Hộ là Cao Chính Bình bắt dân đóng
sưu thuế nặng quá, lòng dân oán hận. Khi bấy giờ ở quận Đường Lâm (bây giờ là
làng Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây) có người tên là Phùng Hưng nổi lên
đem quân về phá phủ Đô Hộ. Cao Chính Bình lo sợ thành bệnh mà chết. Phùng Hưng
mới chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng thì mất. Quân sĩ lập con Phùng Hưng là
Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên làm Bố
Cái Đại Vương, bởi vì ta gọi cha là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn Phùng Hưng lên
làm cha mẹ.
Tháng 7
năm Tân Vị ấy, vua nhà Đường sai Triệu Xương sang làm
Đô Hộ.
Phùng An liệu thế chống không nổi xin ra hàng.
6. Việc
Đánh Nước Hoàn Vương. Nước Lâm Ấp từ khi bị tướng nhà Tùy là Lưu Phương sang
đánh, rồi quốc vương là Phạm Phạm Chí dâng biểu tạ tội và xin triều cống như
cũ. Đến quãng năm Trinh Quan đời vua Thái Tông nhà Đường, vua Lâm Ấp là Phạm
Đầu Lê mất, con là Phạm Trấn Long cũng bị người giết, dân trong nước mới lập
người con của bà cô Phạm Đầu Lê, tên là
Chư Cát Địa lên làm vua.
Chư Các
Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương Quốc. Từ đó về sau thường người nước hoàn vương
lại sang quấy nhiễu ở giao châu, và chiếm giữ lấy Châu Hoan và Châu Ái.
Năm Mậu
Tí (808) đời vua Hiến Tông, quan Đô Hộ là Trương Chu đem binh thuyền đi đánh
giết hại quân Hoàn Vương rất nhiều. Vua nước ấy bèn lui về ở phía Nam (ở vào
quãng tỉnh Quảng Nam, Quảng Nghĩa bây giờ) và đổi quốc hiệu là Chiêm Thành.
7. Nam
Chiếu Cướp Phá Giao Châu. Về cuối đời nhà Đường, quan lại Tàu lắm người chỉ vì
tư lợi, ức hiếp nhân dân như Đô Hộ Lý Trác cứ vào những chợ ở chỗ Mường Mán mua
trâu mua ngựa, mỗi con chỉ trả có một đấu muối, rồi giết tù trưởng mán là Đỗ
Tồn Thành. Vì thế cho nên người Mường Mán tức giận bèn dụ người Nam Chiếu sang
cướp phá, làm cho dân Giao Chỉ khổ sở trong 10 năm trời.
Ở phía
Tây Bắc đất Giao Châu, tức là ở phía Tây tỉnh Vân Nam bây giờ có một xứ người
nòi Thái ở. Người xứ ấy gọi vua là chiếu. Trước có 6 chiếu là Mông Huề, Việt
Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở về phía Nam nên
gọi là Nam Chiếu.
Trong
khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà
Đường,
Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi.
Bì La
Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6
chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ
đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn (Tây Tạng) rồi
dời đô lên đóng ở thành Thái Hòa (thành Đại Lý bây giờ).
Năm Bính
Dần (846) quân Nam Chiếu sang cướp ở Giao Châu, quan Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên
Dụ đem quân đánh đuổi đi.
Năm Mậu
Dần (858), nhà Đường sai Vương Thức sang làm Kinh Lược Sứ.
Vương Chức là
người có tài
lược, trị dân
có phép tắc,
cho nên những giặc giã đều dẹp
yên được cả, mà quân Mường và quân Nam Chiếu cũng không dám sang quấy nhiễu.
Năm Canh
Thìn (860), nhà Đường gọi Vương Thức về làm Quan Sát Sứ ở Tích Đông và sai Lý
Hộ sang làm Đô Hộ.
Bấy giờ
Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông rồi lại đổi là
Đại Lễ19. Lý Hộ giết người tù trưởng là Đỗ Thủ Trừng, người Mường lại đi dụ
quân Nam Chiếu sang đánh lấy mất phủ thành. Lý Hộ phải bỏ chạy về Tàu. Vương
Khoan đem binh sang cứu, quân Nam Chiếu bỏ thành rút về.
Năm Nhâm
Ngọ (862), quân Nam Chiếu sang đánh Giao Châu, nhà Đường sai Thái Tập đem ba
vạn quân sang chống giữ. Quân Nam Chiếu thấy quân nhà Đường nhiều lại rút về. Bấy
giờ có quan Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam là Thái Kinh sợ Thái Tập lập được công to bèn
mật tâu với vua nhà Đường rằng Giao Châu đã yên, thì nên rút quân về. Thái Tập
xin để lại 5.000 quân cũng không được.
Tháng
giêng năm Quí Mùi (863), Nam Chiếu đem 50.000 quân sang đánh phủ thành. Thái
Tập cứu không kịp, thế bức quá phải tự tử. Trận ấy có tướng nhà Đường là Nguyên
Duy Đức đem hơn 400 quân Kinh Nam chạy ra đến bờ sông, thuyền bè không có,
Nguyên Duy Đức bảo chúng rằng chạy xuống nước cũng chết, bất nhược trở lại đánh
nhau với giặc, một người đổi lấy hai người thì chẳng lợi hơn hay sao. Nói đoạn
quay trở lại giết được hơn
2.000
người, nhưng đêm đến tướng Nam Chiếu laà Dương Tư Tấn đem binh
đến
đánh, bọn Nguyên Duy Đức chết cả.
19 Đến
đời Ngũ Quý vào quãng nhà Hậu Tấn có người tên là Đoàn Tư Bình lên làm vua đổi
quốc hiệu là Đại Lý, truyền đến đời Hồng Võ (1368-1392) nhà Minh mới mất. Nhà
Minh đặt là Đại Lý Phủ, thuộc về tỉnh Vân Nam.
Quân Nam
Chiếu vào thành giết hại rất nhiều người. Sử chép rằng Nam Chiếu hai lần sang
đánh phủ thành, giết người Giao Châu hơn 15 vạn.
Vua Nam
Chiếu là Mông Thế Long cho Dương Tư Tấn quản lĩnh
20.000
quân và cho Đoàn Tù Thiên làm Tiết Độ Sứ ở lại giữ Giao Châu.
Vua nhà
Đường hạ chỉ đem An Nam Đô Hộ Phủ về đóng ở Hải Môn (?) rồi lấy quân các đạo về
ở Lĩnh Nam và đóng thuyền lớn để tải lương thực, đợi ngày tiến binh.
Mùa Thu
năm Giáp Thân (864) vua nhà Đường sai tướng là Cao Biền sang đánh quân Nam
Chiếu ở Giao Châu.
8. Cao
Biền Bình Giặc Nam Chiếu. Cao Biền là người tướng giỏi nhà Đường, vốn dòng võ
tướng môn, tính ham văn học, quân sĩ đều có lòng mến phục.
Năm Ất
Dậu (865), Cao Biền cùng với quan Giám Quân là Lý Duy Chu đưa quân sang đóng ở
Hải Môn. Nhưng Lý Duy Chu không ưa Cao Biền, muốn tìm mưu làm hại. Hai người
bàn định tiến binh. Cao Biền dẫn 5.000 quân đi trước, Lý Duy Chu không phát
binh tiếp ứng.
Tháng
chín năm ấy quân rợ đang gặt lúc ở Phong Châu (huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên),
Cao Biền đến đánh cất lẻn một trận, giết được nhiều người, rồi lấy thóc gạo
nuôi quân lính.
Đến
tháng 4 năm sau (866), Nam chiếu cho bọn Dương Tập, Phạm Nê Ta, Triệu Nặc Mi
sang giúp Đoàn Tù Thiên để giữ Giao Châu. Khi bấy giờ có tướng nhà Đường là Vi
Trọng Tể đem 7.000 quân mới sang, Cao Biền nhân dịp mới phát binh đánh được mấy
trận, cho người đưa tin thắng trận về Kinh, nhưng mà đi đến Hải Môn, Lý Duy Chu
giữ lại, không cho triều đình biết.
Trong
triều mãi không thấy tin tức gì, cho ra hỏi, thì Lý Duy Chu tâu dối rằng Cao
Biền đóng quân ở Phong Châu không chịu đánh giặc. Vua nghe tin ấy, nổi giận sai
Vương Án Quyền ra thay, và đòi Cao Biền về hỏi tội. Ngay tháng ấy Cao Biền phá
quân Nam Chiếu và vây La Thành đã hơn 10 ngày rồi, chỉ nay mai thì lấy
được, bỗng chốc được tin Vương Án Quyền
và Lý Duy Chu sang thay. Cao Biền liền giao binh quyền cho Vi Trọng Tể, rồi
cùng với mấy người thủ hạ về Bắc. Nhưng trước Cao Biền đã sai người lẻn về Kinh
dâng biểu tâu rõ tình trạng. Vua nhà Đường biết rõ sự tình, mừng lắm, lại cho
Cao Biền thăng trật và sai trở sang cầm quân đánh Nam Chiếu.
Bọn
Vương Án Quyền và Lý Duy Chu lười biếng không vây đánh gì cả, đến khi Cao Biền
trở sang mới đốc quân binh đánh thành, giết được Đoàn Tù Thiên và người thổ làm
hướng đạo là Chu Cổ Đạo. Còn những động Mán Thổ ở các nơi xin về hàng rất
nhiều.
Đất Giao
Châu bị Nam Chiếu phá hại vừa 10 năm, đến bấy giờ Cao Biền lấy lại, đem về nội
thuộc nhà Đường như cũ.
9. Công
Việc Của Cao Biền. Vua nhà Đường đổi An Nam làm Tĩnh Hải, phong cho Cao Biền
làm Tiết Độ Sứ. Cao Biền chỉnh đốn mọi công việc, lập đồn ải ở mạn biên thùy để
phòng giữ giặc giã, làm sổ sưu thuế để chi dụng việc công20. Cao Biền trị dân
có phép tắc cho nên ai cũng kính phục, bởi vậy mới gọi tôn lên là Cao Vương.
Cao Biền
đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch. Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng
linh 5 thước, cao hai trượng linh 6 thước, đắp một đường đê bao bọc ở ngoài dài
hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dày 2 thượng. Trong thành cho
dân sự làm nhà hơn 40 vạn nóc (?).
Sử chép
rằng Cao Biền dùng phép phù thủy khiến Thiên Lôi phá những thác ghềnh ở các
sông để cho thuyền bè đi được. Thiên Lôi ấy có lẽ là Cao Biền dùng thuốc súng
chăng?
Tục lại
truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao Châu ta lắm đất đai đế vương, thường cứ cỡi
diều giấy đi yểm đất, phá những chỗ sơn thủy đẹp, và hại mất nhiều long mạch.
Những chuyện ấy là chuyện ngoa ngôn, không có lẽ gì mà tin được.
Năm Ất
Vị (875) vua nhà Đường sai Cao Biền sang làm Tiết Độ Sứ ở Tây Xuyên (Tứ Xuyên).
Biền dâng người cháu họ là Cao Tầm làm Tiết Độ Sứ ở giao Châu.
Nhà
Đường tuy lấy lại được đất Giao Châu nhưng bên Tàu lại sắp loạn, giặc cướp dần
dần nổi lên, ngôi nhà vua cũng dần dần sắp đổ, nước Tàu lại chia rẽ làm mấy
nước, cho nên ở xứ Giao Châu cũng có sự biến cải.
10. Sự
Trị Loạn Của Nước Tàu. Xét chuyện nước Tàu từ đời nhà Hán cho đến đời bấy giờ,
cứ mỗi nhà lên cầm quyền chính trị được vài ba trăm năm, rồi trong nước lại
biến loạn, Nam Bắc phân tranh độ chừng
20 Có người bảo rằng người Việt Nam ta phải
đóng sưu thuế khởi đầu từ Cao Biền.
năm bảy
mươi năm, khi ấy có một nhà đứng lên dẹp loạn yên nước, lập lên cơ nghiệp một
nhà khác.
Phàm sự
trị loạn thay đổi trong một xã hội là thường lý, nhưng chỉ lạ có một điều mấy
lần bên Tàu loạn cũng tương tự như nhau cả. Xem như khi nhà Hán suy, thì nước
Tàu phải loạn Tam Quốc; hết Tam Quốc thì có nhà Tấn nhất thống. Đến khi nhà Tấn
suy, thì có Nam Bắc triều; hết Nam Bắc triều thì có nhà Đường nhất thống. Nay
thì nhà Đường suy lại phải cái loạn Ngũ Quí. Cái cơ hội trị loạn bên Tàu giống
nhau như thế là cũng có lẽ tại cái phong tục và cái xã hội của Tàu. Sự giáo dục
không thay đổi, nhân quần trong nước không tiến bộ, cách tư tưởng không khai
hóa, cho nên nước tuy lâu đời, mà trình độ xã hội vẫn đứng nguyên một chỗ. Khi
có biến loạn là chỉ có mấy người có quyền thế tranh cạnh với nhau, chứ dân
trong nước hễ thấy bên nào mạnh là làm tôi bên ấy. Nhà Hán làm vua là dân nhà
Hán, nhà Đường làm vua là dân nhà Đường, việc gì cũng đổ cho thiên mệnh, làm
dân chỉ biết thuận thụ một bề mà thôi.
Xứ Giao
Châu mình tự đời nhà Hán cho đến đời Ngũ Quí vẫn là đất nội thuộc của Tàu, cho
nên sự trị loạn bên Tàu cũng ảnh hưởng đến nước mình. Nhờ khi bên Tàu loạn lạc,
người Tàu bận việc nước, thì bên Giao Châu cũng rục rịch tự lập được ba năm.
Nhưng chỉ vì nước thì nhỏ, người thì ít, mà người trong nước lại không biết
đồng tâm với nhau, không hiểu các lẽ hợp quần đoàn thể là thế nào, cho nên
không thành công được.
III. Đời
Ngũ Quí (907 - 959)
1. Tình
Thế Nước Tàu. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường,
Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả
là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.
2. Họ
Khúc Dấy Nghiệp. Khúc Thừa Dụ (906 - 907).
Trước
khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Tàu loạn, giặc cướp nổi lên khắp
cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người
ấy xưng đế, xưng vương. Ở Giao Châu, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là
Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương).
Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay
thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần (906) đời vua
Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, chúng cử ông ấy lên làm
Tiết Độ Sứ để cai trị Giao Châu. Nhà Đường
lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tĩnh
Hải Tiết Độ Sứ và gia phong Đồng Bình Chương Sự.
Năm sau
nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm
chức Tiết Độ Sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu.
Khúc
Thừa Dụ làm Tiết Độ Sứ được non một năm thì mất, giao quyền lại cho con là Khúc
Hạo.
3. Khúc
Hạo (907 - 917). Khúc Hạo lên thay cha làm Tiết Độ Sứ, lập ra lộ, phủ, châu, xã
ở các nơi, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch và lại cho con là
Khúc Thừa Mỹ sang sứ bên Quảng Châu, tiếng là kết hiếu với nhau, nhưng cốt để
dò thăm mọi việc hư thực.
Lưu Ẩn ở
Quảng Châu đóng phủ trị ở Phiên Ngung được 4 năm thì mất. Em là Lưu Cung (trước
gọi là Lưu Nham) lên thay. Được ít lâu nhân có việc bất bình với nhà Hậu Lương,
Lưu Cung tự xưng đế, quốc hiệu là Đại Việt. Đến năm Đinh Sửu (947) cải quốc
hiệu là Nam Hán.
4. Khúc
Thừa Mỹ (917 - 923). Năm Đinh Sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền nghiệp lại cho con
là Khúc Thừa Mỹ. Khúc Thừa Mỹ nhận chức Tiết Độ Sứ của nhà Lương, chứ không
thần phục nhà Nam Hán. Vua nước Nam hán lấy sự ấy làm hiềm, đến năm Quí Mùi
(923) sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ, rồi
sai Lý Tiến sang làm thứ sử cùng với Lý Khắc Chính giữ Giao Châu.
5. Dương
Diên Nghệ và Kiểu Công Tiện (931 - 938). Năm Tân Mão (931) Dương Diên Nghệ là
tướng của Khúc Hạo ngày trước mới nổi lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lý Khắc Chính
và Lý Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết Độ Sứ. Được 6 năm, Dương Diên Nghệ bị người nha tướng là Kiểu Công Tiện giết đi mà
cướp lấy quyền.
6. Ngô
Quyền Phá Quân Nam Hán. Khi ấy có người tướng của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền
cử binh đi đánh Kiểu Công Tiện để báo thù cho chúa. Ngô Quyền là người làng
Đường Lâm, cùng một làng với Phùng Hưng ngày
trước (huyện Phú Thọ,
tỉnh Sơn Tây)
làm quan với Dương Diên Nghệ. Dương Diên Nghệ thấy
người có tài trí mới gả con gái cho, và phong cho vào giữ Ái Châu (Thanh Hóa).
Khi được tin Kiểu Công Tiện đã giết mất Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền liền đem
quân ra đánh.
Kiểu
Công Tiện cho sang cầu cứu ở bên Nam Hán, Hán Chủ nhân dịp cho thái tử là Hoằng
Tháo đưa quân đi trước, mình tự dẫn quân đi tiếp ứng.
Khi quân
Hoằng Tháo vào gần đến sông Bạch Đằng, thì bên này Ngô Quyền đã giết được Kiểu
Công Tiện (938), rồi một mặt truyền lệnh cho quân sĩ phải hết sức phòng bị, một
mặt sai người lấy gỗ cặp sắt nhọn, cắm ngầm ở dưới lòng sông Bạch Đằng, xong
rồi chờ đến lúc nước thủy triều lên, cho quân ra khiêu chiến; quân Nam Hán đuổi
theo, đến lúc nước xuống, Ngô Quyền hồi quân đánh ập lại, quân Nam Hán thua
chạy, bao nhiêu thuyền mắc vào cộc gỗ thủng nát mất cả, người chết quá nửa,
Hoằng Tháo bị Ngô Quyền bắt được, đem về giết đi.
Hán Chủ
nghe tin ấy, khóc òa lên, rồi đem quân về Phiên Ngung, không dám sang quấy
nhiểu nữa.
Ngô
Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá được
cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ,
mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một
nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau này được tự chủ ở cõi Nam
vậy.
CHƯƠNG VI
Kết Quả Của Thời Bắc Thuộc
1. Người
Nước Nam Nhiễm Văn Minh Của Tàu
2. Nho
Giáo
3. Đạo
Giáo
4. Phật
Giáo
5. Sự
Tiến Hóa Của Người Nước Nam
1. Người
Nước Nam Nhiễm Văn Minh Của Tàu. Từ khi vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ Bát Đức sang
đánh lấy Nam Việt cho đến đời Ngũ Quí, ông Ngô Quyền đánh đuổi người Tàu về
bắc, tính vừa tròn 1.050 năm.
Xứ Giao
Châu ta bị người Tàu sang cai trị bấy lâu năm thì chắc là sự sinh hoạt của
người bản xứ cũng bị thay đổi một cách khác hẳn với trước. Khi đất Giao Châu
còn gọi là Văn Lang hay là Âu Lạc thì người bản xứ ăn ở thế nào, phong tục làm
sao, nay cũng không có di tích gì mà kê cứu rạch rõ được. Có lẽ cũng tự hồ như
Mường hay là Mán ở mạn thượng du đất Bắc Việt bây giờ. Giả sử? có đem vua Hùng
Vương họ Hồng Bàng và vua An Dương Vương họ Thục mà sánh với mấy người Quan
Lang ở mạn thượng du thì dễ thường cũng không xa sự thực là mấy. Nhưng đây là
một điều nói phỏng mà thôi, chứ lấy gì làm đích xác?
Vả lại,
khi người một xã hội đã văn minh như người Tàu mà đi mở đất chưa khai như đất
Giao Châu lúc bấy giờ, thì e rằng người Tàu chiếm giữ lấy chỗ bình địa rồi tụ
họp với nhau mà làm ăn, còn những người bản xứ thì hoặc là lẫn với kẻ khỏe hơn
mình, hoặc giết hại đi, hoặc vào ở trong rừng trong núi rồi chết mòn chết mỏi
đi. Kể như thế thì người mình bây giờ cũng không xa người Tàu là bao nhiêu.
Dẫu thế
nào mặc lòng, hết đời Bắc Thuộc rồi thì người Giao Châu ta có một cái nghị lực
riêng và cái tính chất riêng để độc lập, chứ không chịu lẫn với nước Tàu. Duy
chỉ có sự sùng tính, sự học vấn, cách cai trị thì bao giờ mình cũng chịu cái
ảnh hưởng của Tàu.
Nguyên
nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà Chu thì cái học
thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho Giáo và Lão Giáo đều
khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy thịnh
lên, lại có Phật Giáo ở Ấn Độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp
cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của
Tàu đều theo tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong
tục tương tự như nhau cả. Vậy ta xét qua xem những học phái ấy gốc tích từ đâu,
và cái tông chỉ của những học phái ấy ta thế nào.
2. Nho
Giáo. Nho giáo sinh ra từ đức Khổng Tử. Ngài húy là Khâu, tên chữ là Trọng Ni,
sinh ở nước Lỗ (thuộc tỉnh Sơn Đông) vào năm 551 trước Tây Lịch, về đời vua
Linh Vương nhà Chu.
Ngài
sinh ra vào đời Xuân Thu, có Ngũ Bá tranh cường, dân tình khổ sở, phong tục bại
hoại. Ngài muốn lấy đạo luân thường mà dạy người ta cách ăn ở với nhau trong
đời. Ngài đi du lịch trong mấy nước chư hầu, hết nước nọ qua đến nước kia, môn
đệ theo ngài cũng nhiều. Đến lúc già, ngài trở về nước Lỗ, soạn kinh Thi, kinh
Thư, kinh Dịch, định kinh Lễ, kinh Nhạc và làm ra kinh Xuân Thu, rồi đến năm
479 trước Tây Lịch về đời vua Kính Vương nhà Chu thì Ngài mất, thọ được 72
tuổi.
Ngài chỉ
cốt lấy những điều hợp với bản tính của loài người mà dạy người, chứ không dạy
những điều u uẩn huyền diệu khác với đạo thường. Ngài nói rằng: "Đạo bất
viễn, nhân chi vi đạo nhu viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo". Nghĩa là: đạo
không xa cái bản tính người ta, hễ vì đạo mà xa cái bản tính ấy thì đạo ấy
không phải là đạo. Bởi vậy cái tông chỉ của Ngài là chủ lấy Hiếu, Đễ, Trung,
Thứ làm gốc, và lấy sự sửa mình làm cốt mà dạy người. ngài chỉ dạy người về sự
thực tế hiện tại, chứ những điều viễn vông ngoài những sự sinh hoạt ở trần thế
ra thì Ngài không bàn đến. Nói đến sự sống chết thì Ngài bảo rằng: "Vị tri
sinh, yên tri tử", chưa biết được việc sống, sao đã biết được việc chết.
Nói đến việc quỉ thần thì ngài bảo rằng: "Quỉ thần kính nhi viễn
chi", quỉ thần thì nên kính, mà không nên nói đến.
Tổng
chi, đạo Ngài thì có nhiều lý tưởng cao siêu (xem sách Nho Giáo)21 nhưng về
đường thực tế thì chú trọng ở luân thường đạo lý. Cái đạo luân lý của Ngài có
thể truyền cho muôn đời về sau không bao giờ vượt qua được. Đối với mọi người
thì Ngài dạy: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", điều gì mình không
muốn người ta làm cho mình, thì mình đừng làm cho ai". Đối với
21 Nho Giáo - Trung Tâm Học Liệu xuất bản trọn
bộ 2 quyển.
việc bổn
phận của mình thì ngài dạy: "Quân tử động nhi thế vi thiên hạ đạo, hành
nhi thế vi thiên hạ pháp, ngôn nhi thế vi thiên hạ tắc, viễn chi tắc vọng, cận
chi tắc bất yếm", người quân tử cử động việc gì là để làm đạo cho thiên
hạ, nói năng điều gì là để làm mực cho thiên hạ; người ở xa thì muốn lại gần,
người ở gần thì không bao giờ chán22.
Đạo của
Khổng Tử truyền cho thầy Tăng Sâm; Tăng Sâm truyền cho Khổng Cấp; Khổng Cấp
truyền cho thầy Mạnh Kha tức là thầy Mạnh Tử.
Thầy
Mạnh Tử là một nhà đại hiền triết nước Tàu, làm sách Mạnh Tử, bàn sự trọng nhân
nghĩa, khinh công lợi, và cho tính người ta vốn lành, ai cũng có thể nên được
Nghiêu, Thuấn cả.
Đến đời
nhà Tần, vua Thỉ Hoàng giết những người Nho học, đốt cả sách vở, đạo Nho phải
một lúc gian nan. Đến đời vua Cao Tổ nhà Hán lại tôn kính đạo Nho, sai làm lễ
thái lao tế đức Khổng Tử. Đến đời vua Vũ Đế nhà Hán lại đặt quan bác sĩ để dạy
năm kinh. Từ đấy trở đi, đạo Nho mỗi ngày một thịnh, dẫu trong nước có đạo Lão,
đạo Phật mặc lòng, bao giờ đạo nho vẫn trọng hơn.
3. Đạo
Giáo. Đạo giáo là bởi đạo của ông Lão Tử mà thành ra. Lão Tử là người nước Sở
(thuộc tỉnh Hồ Bắc) họ là Lý, tên là Đam, sinh vào năm 604 trước Tây Lịch về
đời vua Định Vương nhà Chu, sống được 81 tuổi, đến năm 523 trước Tây Lịch, vào
đời vua Cảnh Vương nhà Chu thì mất.
Tông chỉ
của Lão Tử là trước khi có trời đất, thì chỉ có Đạo. Đạo là bản thể của vũ trụ,
là cái gốc nguyên thỉ của các sự tạo hóa. Vạn vật đều bởi Đạo mà sinh ra. Vậy
sửa mình và trị nước nên phải theo Đạo, nghĩ là người ta nên điềm tĩnh, vô vi,
cứ tự nhiên, chứ không nên dùng trí lực mà làm gì cả.
Lão Tử
soạn ra sách Đạo Đức Kinh, rồi sau có Văn Tử, Thi Tử, Trang Tử, và Liệt Tử noi
theo mà truyền bá cái tông chỉ ấy.
Đạo của
Lão Tử lúc đầu là một môn triết học rất cao siêu nhưng về sau cái học thuyết
biến đổi đi, rồi những người giảng thuật thần tiên cũng phụ theo đạo ấy mà nói
những chuyện số kiếp và những sự tu luyện để được
phép trường sinh bất tử v. v... Bởi vậy đạo Lão mới thành ra Đạo giáo là một
đạo thần tiên, phù thủy, và những người theo Đạo giáo gọi là đạo sĩ.
Nguyên
từ đời vua Thỉ Hoàng nhà Tần và vua Vũ Đế nhà Hán, người Tàu đã tin sự thần
tiên, sau đến cuối đời nhà Đông Hán có Trương Đạo Lăng soạn ra 24 thiên Đạo
Kinh giảng cái thuật trường sinh. Bọn giặc Hoàng Cân Trương Giác chính là học
trò của Trương Đạo Lăng. Đến đời nhà Đông Tấn lại có Cát Hồng nói rằng được
tiên thuật rồi làm sách dạy những thuật ấy. Từ đấy về sau
Đạo giáo thịnh
dần lên, tôn
Lão Tử làm Thái
Thượng Lão Quân.
Đời vua
Cao Tổ nhà Đường có người nói rằng thấy Lão tử hiện ra ở núi Dương Giác Sơn
xưng là tổ nhà Đường23. Vua Cao Tổ đến tế ở miếu Lão Tử và tôn lên là Thái
Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế. Bởi vậy nhà Đường trọng đạo Lão Tử lắm, bắt con
cháu phải học Đạo Đức Kinh.
Tuy đạo
Lão về sau thịnh hành ở nước Tàu, nhưng cũng không bằng đạo Phật. Đạo Phật là
một đạo ở Ấn Độ đem vào nước Tàu, và lại là một tôn giáo rất lớn ở thế gian
này.
4. Phật
Giáo. Tị tổ đạo Phật là đức Thích Ca Mâu Ni. Không biết rõ ngài sinh vào đời
nào. Cứ ý kiến của đạo phái ở về phía Bắc đất Ấn Độ thì cho là ngài sinh về năm
1028 trước Tây Lịch kỷ nguyên, vào đời vua Chiêu Vương nhà Chu. Còn đạo phái ở
phía Nam thì cho vào năm 624. Những nhà bác học thời bây giờ cho ngài sinh vào
năm 558 hay là 520, cùng với Khổng Tử một thời.
Đức
Thích Ca là con một nhà quí tộc đất Ấn Độ. Ngài đã lấy vợ, có con, nhưng vì
thấy người ta ở trần thế này không ai khỏi được những khổ não như sinh, lão,
bệnh, tử, cho nên ngài bỏ cả vợ con mà đi tu, để cầu phép giải thoát. Vậy đạo
Phật cốt có hai chủ ý: một là đời là cuộc khổ não; hai là sự thoát khỏi khổ
não.
Người ta
gặp phải những sự khổ não như thế là tại mình cứ mắc trong vòng luân hồi mãi.
Vậy muốn cho khỏi sự khổ não thì phải ra ngoài luân hồi mới được; mà ra ngoài
luân hồi thì phải cắt cho đứt những cái nhân duyên nó trói buộc mình ở trần
gian này. Ra được ngoài Luân Hồi thì lên đến cõi Nát Bàn (nirvana) tức là thành
Phật, bất sinh, bất tuyệt.
22 Sánh
với lời của Khang Đức tiên sinh là một nhà đại triết học ở phương Âu:
"Agis de telle que la maxime de ton vouloir puisse être acceptée comme
règle universelle", ăn ở thế nào cho bao nhiêu những việc mình làm có thể
làm cái công lệ cho thiên hạ.
23 Lão
Tử và vua nhà Đường cùng họ Lý.
Nguyên
đạo Phật là do ở đạo Bà La Môn (Brahmane) mà ra, nhưng tông chỉ đạo Phật không
giống đạo Bà La Môn cho nên hai đạo chống nhau mãi, thành ra đến ba bốn trăm
năm sau, khi đức Thích Ca mất rồi, đạo Phật mới phát đạt ra ở Ấn Độ.
Đạo Phật
sang nước Tàu kể từ nhà Tây Hán. Đời vua Hán Vũ Đế (140 - 86) quân nhà Hán đi
đánh Hung Nô đã lấy được tượng Kim Nhân và biết rằng người Hung Nô có thói đốt
hương thờ Phật24. Đời vua Ai Đế năm Nguyên thọ nguyên niên, là lịch tây năm thứ
2, vua nhà Hán sai Tần Cảnh Hiến sang sứ rợ Nhục Chi có học khẩu truyền được
kinh nhà Phật.
Đến đời
vua Minh Đế nhà Đông Hán, có Ban Siêu đi sứ các nước ở Tây Vực biết đạo Phật
thịnh hành ở phương Tây. Vua bèn sai Thái Am đi sang Thiên Trúc lấy được 42
chương kinh và rước thầy tăng về dạy đạo Phật. Bấy giờ nhân có con bạch mã đem
kinh về, cho nên nhà vua mới lập chùa Bạch Mã để thờ Phật ở đất Lạc Dương.
Từ đó
đạo Phật cứ dần dần truyền bá ra khắc nước Tàu, nhưng chỉ có người Ấn Độ sang
dạy đạo Phật mà thôi, mãi đến đời Tam Quốc mới có người Tàu đi làm thầy tăng.
Về sau người Tàu sang Ấn Độ lấy kinh đem về giảng dạy cũng nhiều.
Đời vua
An Đế nhà Đông Tấn (402) đất Trường An có ông Pháp Hiển đi chơi hằng 30 nước ở
xứ Ấn Độ, qua đảo Tích Lan (Ceylan) rồi theo đường hải đạo về Tàu, đem kinh nhà
Phật dịch ra chữ Tàu và làm sách Phật Quốc Ký.
Đến đời
Nam Bắc Triều, vua Hiến Minh nhà Ngụy sai tăng là Huệ Sinh và Tống Vân sang Tây
Vực lấy được hơn 170 bộ kinh đem về. Từ đó đạo Phật rất thịnh, kinh điển có đến
450 bộ, chùa chiền được hơn 3 vạn, tăng ni có đến 2 triệu người.
Đời vua
Thái Tông nhà Đường (630), có ông Huyền Trang (tục gọi là Đường Tăng hay Đường
Tam Tạng) đi sang Ấn Độ ở hơn 10 năm lấy được 650 bộ kinh nhà Phật. Đến đời vua
Cao Tông (672) ông Nghĩa Tĩnh lại sang Ấn Độ lấy được 400 bộ kinh nhà Phật nữa.
Từ đời
nhà Đường trở đi, thì ở bên Tàu đạo Phật càng ngày càng thịnh, mà người đi lấy
kinh cũng nhiều.
24 Tục
lệ đốt hương mà thờ cúng khởi đầu từ đó.
5. Sự Tiến Hóa Của Người Nước Nam. Khi những
đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao Châu ta còn thuộc
về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về sau nước mình đã tự
chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà
Đinh, nhà Tiền Lê, và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
Phàm
phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà người mình đã
theo học thật và tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả.
Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà tự người mình không thấy có
tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái tinh thần riêng
của nòi giống mình, là tại làm sao?
Có lẽ
một là tại địa thế nước Nam ta, hai là cách ăn ở của người
mình.
Phàm sự
tiến hóa của một xã hội cũng như công việc của người làm, phải có cái gì đó nó
đun đẩy mình, nó bắt phải cố sức mà tiến hóa thì mới tiến hóa được. Sự đun đẩy
ấy là sự cần dùng và sự đua tranh. Nếu không có cần dùng thì không có cố gắng,
không cố gắng thì không tiến hóa. Nếu không có đua tranh thì không có tìm kiếm,
không tìm tìm kiếm thì không tài giỏi, sự lý tất nhiên là vậy.
Xem như
nước Nam ta, thì hai cái yếu điểm ấy đều kém cả. Người mình ở về xứ nóng nực,
cách ăn mặc giản dị, đơn sơ, không phải cần lao lo nghĩ cũng đủ sống, cho nên ai
cũng thích nhàn lạc, quí hồ khỏi chết thì thôi, chứ không ai muốn lao tâm lao
lực lắm như những người ở nước văn minh khác. Tính người mình như thế, thì hễ
ai nói cái gì, mình chỉ bắt chước được mà thôi, chứ không phát khởi bày đặt ra
được điều gì nữa.
Còn như
sự đua tranh, phải có nhiều người, nhiều nước thì mới đua tranh được. Nhưng
nước ta ở phía Đông thì có bể, ở phía Tây, phía Nam thì những người Mường,
người Lào là những người văn minh kém mình cả, còn ở phía Bắc có nước Tàu là
hơn mình, nhưng Tàu lại to quá, sự giao thông với mình thì cách trở sơn xuyên,
đường sá khó khăn không tiện, chỉ có quan tư thỉnh thoảng đi lại mà thôi, chứ
dân trong nước không mấy khi ra đến ngoài bờ cõi nước nhà. Người mà cả đời
không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người, thì tiến hóa
làm sao được? mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu
là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng
lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là
dở. Cách mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái
hơn cái kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh rằng
người ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.
Địa thế
nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như thế, thì cái
trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì cũng phải thua kém
người ta vậy.
PHẦN III
Tự Chủ Thời-Đại
(Thời Kỳ Thống Nhất)
CHƯƠNG I
NHÀ NGÔ
(939-965)
1. Tiền Ngô-Vương
2. Dương Tam Kha
3. Hậu Ngô-Vương
4. Thập-Nhị Sứ-Quân
1. TIỀN NGÔ VƯƠNG (939-965). Năm kỹ-hợi (939) Ngô Quyền xưng vương,
đóng đô ở
Cổ Loa (thuộc
huyện Đông-anh, tỉnh
Phúc-yên). Ngô-vương đặt quan chức, chế triều-nghi, định phục-sắc và
chỉnh đốn việc chính-trị trong nước, chí muốn dựng nghiệp lâu dài, nhưng chỉ
làm vua được có 6 năm, đến năm Giáp Thìn (944) thì mất, thọ 47 tuổi.
2. DƯƠNG TAM KHA (945-950). Ngô-vương trước
lấy con Dương diên Nghệ là Dương-thị lập làm vương-hậu; đến lúc mất, vương uỷ-
thác con là Ngô xương Ngập cho Dương tam Kha là em Dương-hậu. Dương tam Kha bèn
cướp lấy quyền của cháu, tự xưng là Bình-vương.
Ngô
xương Ngập thấy biến, chạy trốn sang Nam-sách (thuộc Hải- dương) vào ẩn ở nhà
Phạm Lịnh-công ở Trà-hương (huyện Kim-thành). Tam Kha sai quân đi đuổi bắt. Phạm Lịnh-công đem vào dấu trong núi. Dương tam Kha bắt em Ngô xương Ngập là Ngô vương Văn nuôi làm con nuôi.
Năm
Canh-Tuất (905) có dân ở tại thôn Thái-bình (thuộc Sơn-tây) làm loạn. Dương tam
Kha sai Ngô xương Văn cùng với tướng là Dương cát Lợi và Đỗ cảnh Thạc đem quân
đi đánh. Đi đến Từ-liêm, Ngô xương Văn mưu với hai tướng đem quân trở về bắt
Dương tam Kha.
Ngô
xương Văn nghĩ tình cậu cháu không nỡ giết, chỉ giáng xuống làm Trương
Dương-công.
3. HẬU NGÔ VƯƠNG (950-965). Ngô vương Văn bỏ
Dương tam Kha đi rồi, xưng là Nam-tấn-vương và sai người đi đến làng Trà-hương
rước anh là Ngô xương Ngập về cùng coi việc nước. Ngô xương Ngập về xưng là
Thiên-sách-vương. Cả hai anh em làm vua, sử gọi là Hậu Ngô-vương.
Làm vua
được ít lâu, Thiên-sách vương đã toan giữ lấy quyền một mình, nhưng đến năm
giáp-dần (965) thì mất.
Thế lực
nhà Ngô lúc bấy giờ mỗi ngày một kém, giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi. Nam
tấn-vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Khi đi đánh giặc ở hai thôn
Thái-bình, không may
bị tên bắn
chết. Bấy giờ
là năm Ất-Sửu (965), Nam-tấn-vương làm vua được 15
năm.
4. THẬP
NHỊ SỨ QUÂN
(945-967). Từ khi
Dương tam Kha tiếm-vị rồi, những người thổ-hào ở các
nơi như bọn Trần Lãm, Kiểu công Hãn v.v... đều xướng lên độc lập, xưng là
Sứ-quân. Về sau Nam-tấn-vương đã khôi phục được nghiệp cũ, nhưng mà các sứ-quân vẫn không chịu về thần-phục. Bởi vậy nhà vua cứ phải đi đánh dẹp mãi, mà không yên
được. Đến khi Nam-tấn-vương bị giặc bắn chết, thì con Thiên-sách-vương là Ngô
xương Xí lên nối nghiệp, nhưng thế nhà vua lúc ấy suy-nhược lắm, không ai
phục-tùng nữa. Ngô xương Xí về đóng giữ đất Bình-kiều. Tướng nhà Ngô là Đỗ
cảnh-Thạc cũng giữ một chỗ xưng là Sứ-quân.
Lúc bấy
giờ trong nước có cả thảy 12 Sứ-quân, gây ra cảnh nội loạn kéo dài đến hơn 20
năm. Mười hai Sứ-quân là :
1. Ngô xương Xí giữ Bình-kiều (nay là làng
Bình-kiều, phủ Khoái-châu, Hưng-yên).
2. Đỗ cảnh Thạc giữ Đỗ-động -giang (thuộc
huyện Thanh-oai).
3. Trần
Lãm, xưng là
Trần Minh-công giữ Bố-hải-khẩu (Kỳ-bố,
tỉnh Thái-bình).
4. Kiểu công Hãn, xưng là Kiểu Tam-chế giữ
Phong-châu (huyện Bạch- hạc).
5. Nguyễn Khoan, xưng là Nguyễn Thái-bình
giữ Tam-đái (phủ Vĩnh Tường).
6. Ngô nhật Khánh, xưng là Ngô Lãm-công giữ
Đường-lâm (Phúc-thọ, Sơn-tây).
7. Lý Khuê, xưng là Lý Lang-công giữ
Siêu-loại (Thuận-thành).
8. Nguyễn thủ Tiệp, xưng là Nguyễn Lịnh-công
giữ Tiên-du (Bắc-ninh).
9. Lữ Đường, xưng là Lữ Tá-công giữ Tế-giang
(Văn-giang, Bắc-ninh).
10.Nguyễn Siêu, xưng là Nguyễn Hữu-công giữ
Tây-phù-liệt (Thanh-trì, Hà-đông).
11. Kiểu Thuận, xưng là Kiểu Lịnh-công giữ
Hồi-hồ (Cẩm-khê, Sơn-tây).
12. Phạm bạch Hổ, xưng là Phạm Phòng át giữ
Đằng-châu (Hưng-yên).
Những
Sứ-quân ấy cứ đánh lẫn nhau, làm cho dân-gian khổ-sở. Sau nhờ có ông Đinh bộ
Lĩnh ở Hoa-lư đem quân đi đánh, mới dẹp xong cái loạn sứ-quân, đem giang-sơn
lại làm một mối,và lập nên cơ nghiệp nhà Đinh vậy.
CHƯƠNG II
NHÀ ĐINH
(968-980)
1. Đinh Tiên-hoàng
2. Đinh Phế-đế
1. ĐINH TIÊN-HOÀNG (968-979). Đinh bộ Lĩnh25
là người ở Hoa-lư động (huyện Gia-viễn, tỉnh Ninh-bình), con ông Đinh công Trứ
làm thứ-sử ở Hoan-châu về đời Dương diên Nghệ và đời Ngô-vương Quyền. Đinh công
Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với trẽ chăn trâu-bò, bắt
chúng khoanh tay làm kiệu để nghồi cho chúng rước, và lại lấy bông lau làm cờ
bày trận đánh nhau. Trẽ xứ ấy đứa nào cũng sợ, tôn lên làm anh. Đến lúc
khôn-lớn lên, dân làng ở đấy theo phục rất nhiều, nhưng sau vì không hòa với
chú, cho nên Bộ Lĩnh cùng với con là Liễn sang ở với Sứ-quân Trần Minh-công ở
Bố-hải khẩu (Phủ Kiến-xương, Thái-bình).
Trần
Minh-công thấy người khôi-ngô có chí-khí, đem lòng yêu mến, cho được giữ
binh-quyền. Đến khi Trần Minh-công mất, Đinh bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa-lư,
chiêu mộ những người hào-kiệt, hùng cứ một phương. Năm tân-hợi (951) đời Hậu
Ngô-vương, Nam Tấn-vương và Thiên-sách- vương đã đem quân vào đánh không được.
Đến khi nhà Ngô mất rồi, Đinh bộ Lĩnh hàng được Sứ-quân Phạm Phòng-át, phá được
Đỗ-dộng của Đỗ cảnh Thạc. Từ đó đánh đâu được đấy, cho nên chúng tôn là Vạn-thắng-vương.
Chỉ trong một năm mà vương binh được các Sứ-quân và lập thành nghiệp đế.
Năm
mậu-thìn (968) Vạn-thắng-vương lên ngôi Hoàng-đế, tức là Tiên- hoàng-đế, đặt
quốc-hiệu là Đại-cồ-việt, đóng đô ở Hoa-lự Tiên-hoàng xây cung-điện, chế
triều-nghi, định phẩm-hàm quan văn quan võ, phong cho Nguyễn Bặc làm Định quốc
công, Lê Hoàn làm Thập-đạo tướng-quân, và phong cho con là Đinh Liễn làm
Nam-việt-vương.
25 Có
sách chép rằng Đinh Tiên Hoàng tên là Hoàn, chứ không phải là Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh
là một tước quan của Trần Lãm phong cho Đinh Hoàn. Nhưng xét trong "Khâm
Định Việt Sử" và cách sách khác thì thấy chép Đinh Bộ Lĩnh chớ không thấy
Đinh Hoàn. Vậy nay cứ theo sách Khâm Định mà chép.
Năm
canh-ngọ (970) Tiên-hoàng đặt niên-hiệu là Thái-bình nguyên-niên, và đặt năm
ngôi Hoàng-hậu.
Trong
khi vua Đinh Tiên-hoàng dẹp loạn Sứ-quân ở nước ta, thì ở bên Tàu ông Triệu
khuông Dẫn nối nghiệp nhà Hậu-Chu tức là vua Thái-tổ nhà Tống. Đến năm canh-ngọ (970) vua Thái-tổ nhà Tống
sai tướng là Phan Mỹ sang đánh lấy Nam-Hán. Vua Tiên-hoàng sợ quân nhà Tống
sang đánh, bèn sai sứ sang thông hiếu với Tống-triều.
Năm
nhâm-thân (972) Tiên-hoàng lại sai Nam-việt-vương là Liễn đem đồ phương vật
sang cống nhà Tống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên-hoàng làm
Giao-chỉ quận vương
và phong cho
Nam-việt-vương Liễn làm
Tĩnh-hải-quân Tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ. Từ đó nước ta cứ giữ lệ sang triều cống
nước Tàu.
Việc
chính trị trong nước thì lúc bấy giờ còn có nhiều người quen thói lúc loạn,
không chịu tuân theo luật-lệ. Tiên-hoàng phải dùng oai để trừng-trị những
bọn gian-ác: đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, rồi hạ lệnh
rằng hễ ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hay là cho hổ báo ăn. Hình-luật uy-nghiêm
như thế, thì cũng quá lắm, nhưng nhờ có những hình-luật ấy thì dân trong nước
mới dần dần được yên.
Việc
binh-lính thì Tiên-hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có
10 quân; 1 quân 10 lữ; 1 lữ 10 tốt; 1 tốt 10 ngũ; 1 ngũ 10 người.
Vậy một
đạo là 100.000 người, và cứ số ấy mà tính thì nhà Đinh bấy giờ có 10 đạo, là
1.000.000 người.
Thiết
tưởng nước ta bấy giờ đất thì nhỏ, người thì ít, lấy đâu làm một triệu quân
được, và lấy cơm gạo đâu mà nuôi được bấy nhiêu người. Họa chăng Tiên-hoàng có
được độ 10 vạn người đã là nhiều.
Tiên-hoàng
bỏ trưởng lập âú, cho đứa con út là Hạng Lang làm Thái-tử.
Đình-thần
tìm bắt được Đỗ Thích đem làm tội, và tôn Vệ-vương Đinh Tuệ lên làm vua.
Tiên-hoàng
làm vua được 12 năm, thọ được 56 tuổi.
2. PHẾ ĐẾ (979-980). Vệ-vương mới có 6 tuổi
lên làm vua, quyền- chính ở cả Thập-đạo tướng-quân là Lê Hoàn. Lê Hoàn lại cùng
với Dương Thái-hậu tư thông.
Các quan
đại-thần bấy giờ là bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy Lê Hoàn nhiếp chính lộng
quyền quá, mới cử binh-mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết cả.
Lúc bấy
giờ nhà Tống nghe tin Tiên-hoàng đã mất, tự-quân còn dại, muốn thừa thế sang
lấy nước ta, mới hội đại binh ở gần biên-giới.
Bên ta
được tin quân Tàu sắp sang, Lê Hoàn sai Phạm cự Lượng làm đại-tướng đem binh đi
chống giữ. Trước khi khởi hành, Phạm cự Lượng họp cả quân-sĩ lại ở trong điện,
rồi nói rằng: "Bây giờ quân nghịch sắp vào cõi, mà vua thì còn bé, lấy ai
mà thưởng phạt cho chúng mình. Dẫu chúng mình có hết sức lập được chút công
nào, thì rồi ai biết cho? Chi bằng nay ta tôn Thập-đạo tướng-quân lên làm vua
rồi ra đánh thì hơn"26.
Quân-sĩ
nghe nói đều hô vạn-tuế. Thái-hậu thấy quân-sĩ thuận cả, mới sai lấy áo
long-cổn mặc vào cho Lê Hoàn.
Lê Hoàn
lên làm vua, giáng Đinh Tuệ xuống làm Vệ-vương, sử gọi là Phế-đế.
Nhà Đinh
làm vua được 2 đời, cả thảy là 14 năm.
Con trưởng
là Nam-việt-vương Liễn đã theo Tiên-hoàng đi trận-mạc từ thủa hàn-vi,
nay không được ngôi Thái-tử, lấy sự ấy làm tức-giận bèn khiến người giết
Hạng Lang đi. Ấy là gây nên mối loạn ở trong nhà.
Năm
kỹ-mão (979) vua Tiên-hoàng và Nam-việt-vương Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết.
Sử chép rằng tên Đỗ Thích trước làm lại, đêm nằm thấy sao rơi vào mồm, tưởng là
triệu mình được làm vua, bèn định bụng làm sự thí-đoạt.
Một hôm Đỗ Thích thấy Tiên-hoàng say rượu nằm trong cung, bèn lẻn vào giết Tiên-hoàng đi, rồi giết cả
Nam-việt-vương Liễn.
26 Xem
sử Tàu, nhà Tống lấy ngôi nhà Hậu-Chu cũng giống như bên ta nhà Tiền-Lê lấy
ngôi nhà
Đinh.
Nhà làm sử có chép lẫn nhau không?
CHƯƠNG III
NHÀ TIỀN LÊ
(980-1009)
1. Lê Đại-Hành
2. Phá quân nhà Tống
3. Đánh Chiêm-thành
4. Việc đánh-dẹp và sửa sang trong nước
5. Lê Trung-Tông
6. Lê long Đĩnh
1. Lê Đại Hành (980-1005). Lê Hoàn là người
làng Bảo-thái, huyện Thanh-liêm, tỉnh Hà-nam bây giờ, làm quan Thập-đạo
tướng-quân nhà Đinh. Nhân khi vua nhà Đinh còn trẻ tuổi, và lại có quân
nhà Tống sang xâm, quân-sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức là Đại-hành Hoàng-đế,
niên-hiệu là Thiên-phúc, Hưng-thống (989-993), và Ứng-thiên (994-1005).
Vua
Đại-hành lên làm vua rồi sai sứ đưa thư sang nhà Tống nói dối là thư của Đinh
Tuệ (Phế-đế) xin phong, có ý để nhà Tống hoãn binh lại. Nhưng vua nhà Tống
không nghe, sai sứ sang trách Đại-hành rằng sao được xưng đế, và lại nói rằng :
"Nhà Đinh truyền tập đã ba đời rồi, vậy cho Đinh Tuệ làm Thống-soái, Lê
Hoàn làm phó. Nhược bằng Đinh Tuệ còn trẽ tuổi không làm được, thì Lê Hoàn phải
bắt mẹ con Đinh Tuệ sang chầu Bắc-triều, rồi sẽ phong quan-tước cho Lê
Hoàn". Vua Đại-hành biết mưu nhà Tống bèn không chịu và sửa-sang sự
phòng-bị .
2. Phá Quân Nhà Tống.
Nhà Tống thấy vua Đại-hành không chịu nghe lời, bèn sai tướng đem quân sang đánh. Tháng 3 năm tân-tị (981) thì bọn Hầu nhơn Bảo và Tôn toàn Hưng tiến quân sang mặt Lạng-sơn, bọn Lưu-trừng đem thủy-quân sang mặt Bạch-đằng-giang.
Nhà Tống thấy vua Đại-hành không chịu nghe lời, bèn sai tướng đem quân sang đánh. Tháng 3 năm tân-tị (981) thì bọn Hầu nhơn Bảo và Tôn toàn Hưng tiến quân sang mặt Lạng-sơn, bọn Lưu-trừng đem thủy-quân sang mặt Bạch-đằng-giang.
Vua
Đại-hành đem binh-thuyền ra chống-giữ ở Bạch-đằng. Quân nhà Tống tiến lên thế
mạnh lắm, quan quân đánh không lại phải lùi. Bấy giờ lục- quân của bọn Hầu nhân
Bảo tiến sang đến Chi-lăng (thuộc Ôn-châu, Lạng- sơn), vua Đại-hành sai người
sang trá hàng để dụ Hầu nhơn Bảo đến chổ hiểm bắt
chém đi, rồi đuổi đánh quân nhà Tống chém giết được quá nửa, và bắt được hai
người bộ-tướng.
Bọn Lưu
Trừng thấy lục-quân đã tan vỡ, vội-vàng đem thủy-quân rút về.
Quân ta
tuy thắng trận, nhưng vua Đại-hành sợ thế-lực không chống với Tàu được lâu, bèn
sai sứ đem hai viên tướng bắt được sang trả nhà Tống và xin theo lệ triều cống.
Lúc ấy ở phiá bắc nước Tàu có quân Khiết-đan (Hung-nô) đang đánh phá, cho nên
vua nhà Tống cũng thuận lời, thôi việc chiến-tranh với nước ta, và phong cho
vua Đại-hành làm chức Tiết-độ-sứ.
Năm
quí-tị (993) nhà Tống sách phong cho vua Đại-hành làm Giao-chỉ quận-vương, rồi
đến năm đinh-dậu (997) lại gia phong là Nam-bình-vương.
Bấy giờ
sứ nhà Tống thường hay đi lại, có khi vua Đại-hành phụng chiếu mà không lạy,
nói dối rằng đi dánh giặc ngã ngựa đau chân. Nhà Tống biết là nói dối, nhưng
cũng làm ngơ đi.
3. Đánh Chiêm Thành. Vua Đại-hành phá được
quân nhà Tống rồi, định sang đánh Chiêm-thành, vì lúc vua Đại-hành lên ngôi, có
sai sứ sang Chiêm-thành, bị vua nước ấy bắt giam sứ lại. Đến khi việc phía bắc đã yên, vua Đại-hành
đem binh sang đánh báo thù. Quân vua Đại-hành sang chiếm giữ dược kinh-thành
nước Chiêm và bắt được người, lấy được của rất nhiều. Từ đấy nước Chiêm-thành
phải sang triều-cống nước ta.
4. Việc Đánh Dẹp Và Sửa Sang Trong Nước.
Việc trong nước thì có các quan đại thần là bọn Từ Mục, Phạm cự Lượng, Ngô tử
An giúp rập. Đặt luật-lệ, luyện quân lính và sửa-sang mọi việc.
Bấy giờ
thường hay có các động Mường và những người các châu quận làm phản, vua
Đại-hành phải thân chinh đi đánh-dẹp, bình được 49 động Hà-man (thuộc huyện Thạch-thành, tỉnh Thanh-hoá) và dẹp yên những người phản-nghịch ở các
nơi. Bởi vậy thanh-thế vua Đại-hành lúc
bấy giờ rất là lừng-lẫy.
Năm
ất-tị (1005) là năm Ứng-thiên thứ 12, vua Đại-hành mất, thọ 65 tuổi, làm vu được 24 năm.
5. LÊ TRUNG TÔNG (1005). Vua Đại-hành đã
định cho người con thứ ba là Long Việt làm thái-tử, nhưng đến lúc vua Đại-hành
mất, các hoàng-tử
tranh ngôi đánh nhau trong bảy tháng. Đến khi Long Việt vừa mới lên ngôi được
ba ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết đi, thọ 23 tuổi. Sử gọi
là Lê Trung-tông.
6. LÊ LONG ĐĨNH (1005-1009). Long Đĩnh là
người bạo-ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa. Khi đã giết
anh rồi, lên làm vua thường cứ lấy sự giết người làm trò chơi: có khi những tù
phạm phải hình, thì bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt
tù trèo lên cây rồi ở dưới sai người chặt gốc cho cây đổ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông. Làm những điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ, rồi thỉnh-thoảng giã tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trông thấy thế làm vui cười. Còn khi ra buổi chầu, có ai tấu sớ điều gì thì cho những thằng hề nói khôi- hài hay là nhại tiếng làm trò.
Long Đĩnh làm vua được 2 năm đổi niên-hiệu là Cảnh-thụy (1008-1009). Sang năm sau là năm kỹ-dậu (1009) thì mất, làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi.
Vì lúc sống dâm-dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa-triều.
Long Đĩnh mất rồi, con thì bé, đình-thần nhân dịp tôn Lý công Uẩn lên làm vua, khai sáng nên cơ-nghiệp nhà Lý.
Nhà Tiền-Lê làm vua được 3 đời, cả thảy được 29 năm.
I. LÝ
THÁI TỔ
CHƯƠNG IV
NHÀ LÝ
(1010-1225)
1. Thái-tổ khởi nghiệp
2. Dời đô về Thăng-long thành
3. Lấy kinh Tam-tạng
4. Việc chính-trị
II. LÝ THÁI TÔNG
1. Lê phụng Hiểu định loạn
2. Sự đánh dẹp
3. Giặc Nùng
4. Đánh Chiêm-thành
5. Việc chính-trị
III. LÝ THÁNH TÔNG
1. Việc chính-trị
2. Lấy đất Chiêm-thành
IV.LÝ NHÂN TÔNG
1. Ỷ-lan thái-phi
2. Lý đạo Thành
3. Việc sửa-sang trong nước
4. Việc đánh nhà Tống
5. Nhà Tống lấy đất Quảng-nguyên
6. Đánh Chiêm-thành
I. LÝ
THÁI-TỔ (1010-1028)
Niên-hiệu
: Thuận-thiên
1. Thái-Tổ khởi nghiệp.
Lý công Uẩn người ở làng Cổ-pháp, nay thuộc về huyện Đông-ngạn, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh (ở làng Đình-bảng có lăng và đền thờ nhà Lý).
Lý công Uẩn người ở làng Cổ-pháp, nay thuộc về huyện Đông-ngạn, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh (ở làng Đình-bảng có lăng và đền thờ nhà Lý).
Tục
truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm-thị đi chơi chùa Tiêu-sơn (làng
Tiêu-sơn, phủ Từ-sơn), nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai đẻ ra
đứa con trai. Lên ba tuổi đem cho người sư ở chùa Cổ- pháp tên là Lý khánh Văn
làm con nuôi, mới đặt tên là Lý công Uẩn.
Công Uẩn
lớn lên vào Hoa-lư làm quan nhà Tiền-Lê, đến chức Tả-thân- vệ Điện-tiền
Chỉ-huy-sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất, thì Lý
công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán-giận nhà Tiền-Lê lắm, ở
trong triều có bọn Đào cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý công Uẩn lên làm
vua.
Lý công
Uẩn bèn lên ngôi hoàng-đế, tức là vua Thái-tổ nhà Lý.
2. Dời Đô Về Thăng Long Thành.
Thái-tổ thấy đất Hoa-lư chật- hẹp không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời đô về La- thành. Tháng 7 năm Thuận-thiên nguyên-niên (1010), thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La-thành, Thái-tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-la thành là Thăng-long thành, tức là thành Hà-nội bây giờ. Cải Hoa-lư làm trường-an phủ và Cổ-pháp làm Thiên-đức phủ.
Thái-tổ thấy đất Hoa-lư chật- hẹp không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời đô về La- thành. Tháng 7 năm Thuận-thiên nguyên-niên (1010), thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La-thành, Thái-tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-la thành là Thăng-long thành, tức là thành Hà-nội bây giờ. Cải Hoa-lư làm trường-an phủ và Cổ-pháp làm Thiên-đức phủ.
3. Lấy Kinh Tam Tạng.
Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông. Tháng 6 năm mậu-ngọ (1018) vua sai quan là Nguyễn đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu lấy kinh Tam-tạng đem về để vào kho Đại-hưng.
Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông. Tháng 6 năm mậu-ngọ (1018) vua sai quan là Nguyễn đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu lấy kinh Tam-tạng đem về để vào kho Đại-hưng.
4. Việc
Chính Trị.
Lúc bấy giờ ở bên nhà Tống có nhiều việc, cho nên cũng không sinh sự lôi thôi gì với nước ta. Bởi vậy khi Thái-tổ lên làm vua, sai sứ sang cầu phong, vua nhà Tống liền phong cho làm Giao-chỉ quận-vương, sau lại gia phong Nam-bình-vương. Nước Chiêm-thành và nước Chân-lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang-giao thời bấy giờ đều yên-trị. ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn-châu (thuộc Nghệ-an) và ở mạn Thượng-du hay có sự phản-nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh-dẹp mới yên được.
Lúc bấy giờ ở bên nhà Tống có nhiều việc, cho nên cũng không sinh sự lôi thôi gì với nước ta. Bởi vậy khi Thái-tổ lên làm vua, sai sứ sang cầu phong, vua nhà Tống liền phong cho làm Giao-chỉ quận-vương, sau lại gia phong Nam-bình-vương. Nước Chiêm-thành và nước Chân-lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang-giao thời bấy giờ đều yên-trị. ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn-châu (thuộc Nghệ-an) và ở mạn Thượng-du hay có sự phản-nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh-dẹp mới yên được.
Thời bấy
giờ các hoàng-tử đều phong tước vương và phải cầm quân đi đánh giặc, bởi vậy ai
cũng giỏi nghề dùng binh.
Thái-tổ
lưu tâm về việc sửa-sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền- Lê; chia nước ra
làm 24 lộ, gọi Hoan-châu và Ái-châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là : thuế
ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù-sa; thuế sản-vật ở
núi; thuế mắm-muối
đi qua Aỉ-quan;
thuế sừng tê,
ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ
hoa quả. Vua cho những bậc công-chúa coi việc trưng-thu các thứ thuế ấy.
Thái-tổ
trị-vì được 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi.
II. LÝ
THÁI TÔNG (1028-1054)
Niên
hiệu : Thiên thành (1028-1033)
Thông-thụy (1034-1038)
Thông-thụy (1034-1038)
Càn-phù-hữu-đạo
(1039-1041)
Minh-đạo
(1042-1043)
Thiên-cảm-thánh-võ (1044-1048)
Sùng-hưng-đại-bảo (1049-1054).
1. Lê Phụng Hiểu Định Loạn. Thái-tổ vừa mất
chưa tế-táng xong, thì các hoàng-tử là bọn Võ-đức-vương, Dực-thánh-vương và
Đông-chinh- vương đã đem quân đến vây thành để tranh ngôi của Thái-tử.
Bấy giờ
các quan là bọn Lý nhân Nghĩa xin Thái-tử cho đem quân ra thành quyết được thua
một trận. Khi quân của Thái-tử và quân các vương đối trận, thì quan Võ-vệ
tướng-quân là Lê phụng Hiểu rút gươm ra chỉ vào Võ-đức-vương mà bảo rằng :
"Các người dòm-ngó ngôi cao, khinh-dể tự- quân, trên quên ơn Tiên-đế, dưới
trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này !" Nói xong chạy
xông vào chém Võ-đức-vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ-hãi bỏ
chạy cả. Dực-thánh-vương và Đông- chinh-vương cũng phải chạy trốn.
Thái-tử
Phật Mã lên ngôi, tức là vua Thái-tông.
Dực-thánh-vương
và Đông-chinh-vương xin về chịu tội.
Thái-tông nghĩ tình cốt-nhục bèn tha tội cho, và lại phục chức cũ cho cả
hai ngừơi.
Cũng vì
sự phản-nghịch ấy cho nên vua Thái-tông mới lập lệ: cứ hàng năm, các quan phải
đến đền Đồng-cổ (ở làng Yên-thái, Hà-nội) làm lễ đọc lời thề rằng : "Làm
con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỉ thần làm
tội". Các quan ai trốn không đến
thề, phải phạt 50 trượng.
2. Sự Đánh Dẹp. Thái-tông là người có
thiên-tư đĩnh-ngộ, thông lục- nghệ, tinh thao-lược, gặp lúc trong nước có nhiều
giặc-giã, nhưng ngài đã quen việc dùng binh, cho nên ngài thường thân chinh đi
đánh đông dẹp bắc.
Thời bấy
giờ nhà vua không đặt quan tiết trấn; phàm việc binh việc dân ở các châu, là
đều giao cả cho người châu-mục. Còn ở mạn thượng-du thì có người tù-trưởng quản
lĩnh. Cũng vì quyền những người ấy to quá, cho nên thường hay có sự
phản-nghịch. Lại có những nước lân bang
như Chiêm- thành và Ai-lao thường hay sang quấy nhiễu, bởi vậy cho nên sự
đánh-dẹp về đời vua Thái-tông rất nhiều.
3. Giặc Nùng. Lúc ấy châu Quảng-nguyên
(Lạng-sơn) có những người Nùng cứ hay làm loạn. Năm mậu-đần (1038) có Nùng tồn
Phúc làm phản, tự xưng là Chiêu-thành Hoàng-đế, lập A-nùng làm Ninh-đức
Hoàng-hậu, đặt quốc-hiệu là Tràng-sinh-quốc rồi đem quân đi đánh-phá các nơi.
Năm
kỹ-mão (1039) Thái-tông thân chinh đi đánh, bắt được Nùng tồn Phúc và con là
Nùng tri Thông đem về kinh làm tội. Còn A-nùng và con là Nùng trí Cao chạy
thoát được.
Năm tân-tị
(1041) Nùng trí
Cao cùng với
mẹ là A-nùng
về lấy châu Đảng-đo
(gần châu Quãng-nguyên)
lập ra một
nước gọi là
Đại-lịch-quốc. Thái-tông sai tướng lên đánh bắt được đem về Thăng-long.
Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha và anh, nay thương tình không giết, tha cho về
và lại phong cho làm Quãng-nguyên mục. Sau lại gia phong cho tước Thái-bảo.
Năm
mậu-tí (1048) Nùng trí Cao lại phản, xưng là Nhân-huệ Hoàng-đế quốc-hiệu là
Đại-nam. Thái-tông sai quan thái-uý
Quách thịnh Dật lên đánh không được. Bấy giờ Trí Cao xin phụ-thuộc vào nước
Tàu, vua nhà Tống không cho. Trí Cao bèn đem quân sang đánh lấy Ung-châu, rồi
chiếm cả thảy được 8 châu ở đất Quảng-đông và Quảng-tây. Những châu ấy là châu
Hoành châu Quí, châu Cung, châu Tầm, châu Đằng, châu Ngô, châu Khang, châu Đoan.
Vua nhà
Tống đã toan nhờ quân nhà Lý sang đánh giúp nhưng tướng nhà Tống là Địch Thanh
can rằng : Có một Nùng trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không chế được, lại phải nhờ
quân ngoại-quốc vào đánh giúp. Nếu có ai nhân đó mà nổi loạn, thì làm thế nào?
Vua nhà Tống nghe lời ấy bèn sai bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh-dẹp giặc Trí
Cao. Bọn Dư Tĩnh đánh mãi không được, nhà Tống lấy làm lo, nhân khi Trí Cao
dâng biểu xin lĩnh chức Tiết-độ-sứ châu Ung và châu Quí, vua nhà Tống đã toan
thuận cho, Địch Thanh can đi, và xin đem quân đi đánh.
Địch
Thanh ra hợp quân với bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện đóng ở Tân-châu (Liễu-châu tỉnh
Quảng-tây) rồi hội
các tướng lại
cấm không cho
ra đánh nhau với giặc. Bấy giờ có quan Kiềm-hạt tỉnh Quảng-tây tên
là Trần-Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém đi,
rồi lệnh cho quân nghĩ 10 ngàỵ Quân đi thám biết chuyện về báo Trí Cao
biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống
không dám đánh, bèn không phòng-giữ. Địch Thanh đem quân đến cửa Côn-lôn (gần
phủ Nam-ninh) đánh Nùng trí Cao. Lúc đang đánh nhau, Địch Thanh đem quân kỵ
đánh hai bên tả hữu, quân của Trí Cao tan vỡ, tướng là bọn Hoàng sư Mật đều tử
trận.
Trí Cao
chạy thoát trốn sang nước Đại-lý. Sau người Đại-lý bắt Nùng trí Cao chém lấy
đầu đem nộp nhà Tống. Giặc Nùng từ đó mới yên.
4. Đánh Chiêm Thành. Thái-tông lên làm vua
đã hơn 15 năm, mà nước Chiêm-thành không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở
mặt bể. Thái- tông bèn sắp-sửa
binh-thuyền sang đánh Chiêm-thành.
Năm
giáp-thân (1044) vua Thái-tông ngự giá đi đánh Chiêm-thành. Quân Chiêm-thành
dàn trận ở phía nam sông Ngũ-bồ(?) Thái-tông truyền thúc quân đánh tràn sang,
quân Chiêm-thành thua chạy. Quân ta bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi.
Tướng
Chiêm-thành là Quách gia Gi chém quốc-vương là Sạ Đẩu đem đầu sang xin hàng.
Bấy giờ
quan quân chém giết người bản xứ rất nhiều, máu chảy thành suối Thái-tông trông thấy động lòng thương, xuống
lịnh cấm không được giết người Chiêm-thành, hễ ai trái lệnh thì theo phép quân
mà trị tội.
Thái-tông
tiến binh đến quốc đô là Phật-thệ (nay ở làng Nguyệt-hậu, huyện Hương-thủy,
tỉnh Thừa-thiên), vào thành bắt được Vương-phi là Mị Ê và các cung nữ đem về.
Khi xa-giá về đến sông Lý-nhân, Thái-tông cho đòi Mị Ê sang chầu bên thuyền ngự
. Mị Ê giữ tiết không chịu, quấn chiên
lăn xuống sông mà tự-tử. Nay ở phủ Lý-nhân còn có đền thờ.
Thái-tông
bắt về hơn 5.000 người Chiêm-thành ban cho ruộng đất lập thành phường ấp mà làm
ăn.
5. Việc Chính Trị. Thái-tông tuy phải đánh dẹp luôn, nhưng cũng
không bỏ việc chính-trị trong nước, bao giờ cũng để lòng thương dân. Hễ năm nào đói kém hay là đi đánh giặc về,
thì lại giảm thuế cho hàng hai ba năm. Ngài sửa lại luật-phép, định các bậc
hình-phạt, các cách tra-hỏi, và đặt lệ cho những người già người trẻ, trừ khi
phạm tội thập ác, thì được lấy tiền
mà chuộc
tội. Nhân khi đổi luật mới, nhà vua đổi niên-hiệu là Minh-đạo (1042).
Năm
quí-mùi (1043) Thái-tông hạ chiếu cấm không cho ai được mua hoàng-nam27 để làm
nô. Vua lại chia đường quan-lộ ra từng cung, đặt nhà trạm để chạy giấy
công-văn.
ở trong
cung thì Thái-tôn định số hậu-phi và cung-nữ như sau này : hậu và phi 13 người,
ngự-nữ là 18 người , nhạc kỹ 100 người.
Những cung-nữ phải học nghề thêu-dệt vóc-gấm.
Thái-tông
trị-vì được 27 năm, đến năm giáp-ngọ (1054) thì mất, thọ 55 tuổi.
III LÝ
THÁNH-TÔNG (1054-1072)
Niên-hiệu
:
Long-thụy thái-bình (1054-1058)
Chương-thánh gia-khánh (1059-1065)
Long-thụy thái-bình (1054-1058)
Chương-thánh gia-khánh (1059-1065)
Long-chương
thiên-tự (1066-1067)
Thiên-huống
bảo-tượng (1060)
Thần-võ
(1069-1072).
1. Việc
Chính Trị. Thái-tử là Nhật Tôn lên ngôi tức
là vua Thánh- tông, ngài đổi quốc-hiệu là Đại-Việt28.
Thánh-tông
là một ông vua nhân-từ, có lòng thương dân; một năm trời làm rét lắm,
Thánh-tông bảo những quan hầu gần rằng: "Trẫm ở trong cung ăn-mặc như thế
này còn rét, nghĩ những tù-phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có
mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa
rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm". Nói rồi truyền lấy chăn
chiếu cho tù nằm, và mỗi ngày cho hai bửa ăn. Lại có một hôm Thánh-tông ra ngự
ở điện Thiên-khánh xét án, có Động-thiên công-chúa đứng hầu bên cạnh. Thánh-tông chỉ vào công-chúa mà bảo các quan
rằng : "Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu
dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giãm
nhẹ bớt đi" .
Vua
Thánh-tông có nhân như thế, cho nên trăm họ mến-phục, trong đời Ngài làm vua ít
có giặc-giã. Ngài lại có ý muốn khai-hóa sự văn-học, lập văn-miếu, làm tượng
Chu-công Khổng-tử và 72 tiên-hiền để thờ. Nước ta có văn-miếu thờ Khổng-tử và
chư hiền khởi đầu từ đấy.
Việc
binh-chính thì ngài đặt quân-hiệu và chia ra làm tả hữu tiền hậu 4 bộ, hợp lại
là 100 đội có lính kỵ và lính bắn đá.
Còn những phiên-binh thì lập ra thành đội riêng không cho lẫn với nhau.
Binh-pháp nhà Lý bấy giờ có tiếng là giỏI, nhà Tống bên Tàu đã phải bắt chước.
Ấy là một sự vẻ-vang cho nước mình bao nhiêu?
2. Lấy Đất Chiêm Thành. Vua Thánh-tông đã
nhân mà lại dũng: nước Chiêm-thành hay sang quấy nhiễu, ngài thân chinh đi
đánh. Đánh lần đầu không thành công, đem quân trở về. Đi đến châu Cư-liên (?)
nghe thấy người khen bà
Nguyên phi ở
nhà giám quốc,
trong nước được
yên-trị, Thánh-tông nghĩ bụng rằng: "Người đàn bà trị nước còn được
như thế, mà mình đi đánh Chiêm-thành không thành công, thế ra đàn-ông hèn lắm à
!" Lại đem quân trở lại đánh bắt được vua Chiêm-thành là Chế Củ. Năm ấy là
năm kỷ-dậu (1069). Thánh-tông về triều, đổi niên-hiệu là Thần-võ.
Chế Củ
xin dâng đất ba châu để chuộc tội, là châu Địa-lý, châu Ma-linh và châu
Bố-chính. Thánh-tông lấy 3 châu ấy và cho Chế Củ về nước.
Những
châu ấy nay ở địa-hạt tỉnh Quảng-bình và tỉnh Quảng-trị.
Năm
nhâm-tí (1072) Thánh-tông mất, trị-vì được 17 năm, thọ 50 tuổi.
IV. LÝ NHÂN-TÔNG (1072-1127)
Niên-hiệu
:
Thái-ninh (1072-1075)
Anh-võ chiêu-thắng (1076-1084)
Thái-ninh (1072-1075)
Anh-võ chiêu-thắng (1076-1084)
Quảng-hữu
(1085-1091)
Hội-phong
(1092-1100)
Long-phù
(1101-1109)
Hội-tường
đại-khánh (1110-1119)
Thiên-phù
duệ-võ (1120-1126)
Thiên-phù
khánh-thọ (1127).
27 Hoàng
Nam là người từ 18 tuổi trở lên.
28 Từ
nhà Đinh đến bây giờ, nước ta vẫn gọi là Đại Cồ Việt, nay mới đổi là Đại Việt.
1. Ỷ Lan
Thái-Phi. Vua Nhân-tông là con bà Ỹ-lan Thái-phi, người ở Siêu-loại (Bắc-ninh).
Khi trước vua Thánh-tông đã 40 tuổi mà không có con, đi cầu tự qua làng Thổ-lội
(sau đổi là Siêu-loại rồi lại đổi là Thuận- quang), người đi xem đứng đầy
đường, có một người con gái đi hái dâu, thấy xe nhà vua đi cứ đứng tựa vào cây
lan chứ không ra xem. Vua thấy thế lấy làm lạ, truyền gọi đem vào cung, phong
là Ỹ-lan phu-nhân. Được ít lâu có thai đẻ ra hoàng-tử là Càn Đức, được phong là
Nguyên-phi.
Càn Đức
làm thái-tử rồi lên nối ngôi, tức là vua Nhân-tông, phong cho mẹ làm Ỹ-lan thái
phi.
Thái-phi
tính hay ghen-ghét, thấy bà Dương-thái-hậu giữ quyền, trong bụng không yên, bèn
xui vua bắt Thái-hậu và 72 người thị-nữ bỏ ngục tối, rồi đem giết cả.
2. Lý
Đạo Thành. Lúc Nhân-tông lên làm vua mới có 7 tuổi, có quan Thái-sư là Lý đạo
Thành làm phụ-chính.
Ông Lý
đạo Thành là người họ nhà vua, tính rất đoan-chính, hết lòng lo việc nước.
Thường những lúc sớ tấu cứ hay nói đến việc lợi hại của dân. Những quan-thuộc
thì chọn lấy người hiền-lương mà cất nhắc lên để làm mọi việc. Bởi vậy thời bấy giờ trong thì sửa-sang được
việc chính-trị, ngoài thì đánh nhà Tống, phá quân Chiêm. Ấy cũng nhờ có tôi
hiền tướng giỏi cho nên mới thành được công-nghiệp như vậỵ
3. Việc
Sửa Sang Trong Nước. Việc đánh-dẹp về đời vua Nhân- tông thì nhiều, song những
công-việc ở trong nước cũng không bỏ trễ. Đời bấy giờ mới khởi đầu đắp cái đê
Cơ Xá để giữ đất kinh-thành cho khỏi lụt ngập. Việc đắp đê khởi đầu từ đó.
Năm
ất-mão (1075) mở khoa thi tam-trường để lấy người văn-học vào làm quan. Kỳ thi ấy là kỳ đầu tiên ở nước ta, chọn được
hơn 10 người. Thủ- khoa là Lê văn Thịnh. Ông Thủ-khoa ấy ngày sau làm đến chức
thái-sư, nhưng vì sự làm phản-nghịch, cho
nên phải đày lên ở Thao-giang (huyện Tam-nông, Phú-thọ).
Năm
bính-thìn (1076) lập Quốc-tử-giám để bổ những người văn-học vào dạy. Đến năm
bính-dần (1086) mở khoa thi chọn người văn-học vào Hàn-lâm-viện, có Mạc hiển
Tích đỗ đầu, được bổ Hàn-lâm-học-sĩ.
Sự
nho-học nước ta khởi đầu thịnh lên từ thời bấy giờ.
Năm
kỷ-tị (1089) định quan-chế, chia văn võ ra làm 9 phẩm. Quan đại- thần thì có
Thái-sư, Thái-phó, Thái-uý và Thiếu-sư, Thiếu-phó, Thiếu-uý. ở dưới những bậc
ấy, đàng văn-ban thì có Thượng-thư, tả hữu Tham-tri, tả hữu Gián-nghị đại-phu,
Trung-thư Thị-lang, Bộ Thị-lang
v.v.. Đàng võ-ban thì có Đô-thống
Nguyên-súy, Tổng-quản khu-mật sứ, Khu-mật tả hữu-sứ, Kim-ngô thượng-tướng,
đại-tướng, đô-tướng, Chư-vệ tướng-quân v.v...
ở ngoài
các châu-quận, văn thì có Tri-phủ, Phán-phủ, Tri-châu, võ thì có Chư-lộ trấn
trại-quan.
4. Việc Đánh Nhà Tống. Từ nhà Đinh, nhà Lê
trở đi, tuy Tàu không sang cai-trị nước ta nữa, nhưng vẫn cứ lăm-le có ý muốn
xâm-lược. Đến khi vua Thần-tông nhà Tống (1068-1078) có quan Tể-tướng là Vương
an Thạch đặt ra phép mới để cải-tổ việc chính-trị nước Tàu.
Nguyên nhà Tống bấy giờ bị nước Bắc-liêu và nước
Tây-hạ ức hiếp, hằng năm phải đem vàng bạc và lụa vải sang cống hai nước ấy. Mà
trong nước thì không có đủ tiền để chi dụng. Vua Thần-tông mới dùng ông Vương
an Thạch làm Tể-tướng để sửa-sang mọi việc.
Vương an
Thạch29 đặt ra ba phép về việc tài-chính và 2 phép về việc binh-chính.
Việc Tài
Chính :
1. Phép thanh miêu: là khi lúa còn xanh thì
nhà nước cho dân vay tiền, đến khi lúa chín thì dân lại phải trả tiền lại, tính
theo lệ nhà nước đã định mà trả tiền lãi.
2. Phép miễn dịch: là cho những người dân đinh mà ai phải
sưu-dịch thì
được nộp
tiền, để nhà nước lấy tiền ấy thuê người làm.
3. Phép thị dịch: là đặt ra một sở buôn-bán ở chốn kinh-sư, để
có những thứ hàng-hóa gì mà dân-sự bán không được, thì nhà nước mua thu cả lấy
mà bán. Những người con-buôn mà ai cần phải vay tiền thì cho vay, rồi cứ tính
theo lệ nhà nước mà trả tiền lãi.
Việc
Binh Chính:
1. Phép bảo giáp: là lấy dân làm lính. Chia
ra 10 nhà làm một bảo, 500 nhà làm một đô-bảo. Mỗi bảo có đặt hai người chánh
phó để dạy dân luyện-tập võ-nghệ
29 Xin
xem "Vương An Thạch" của Đào Trinh Nhất - Tân Việt xuất bản.
2. Phép bảo mã: là nhà nước giao ngựa cho các bảo phải nuôi, có con nào chết
thì dân phải theo giá đã định mà thường lại.
Khi năm
phép ấy thi-hành ra thì dân nước Tàu đều lấy làm oán-giận, vì là trái với
chế-độ và phong-tục cũ.
Vương an
Thạch lại có ý muốn lập công ở ngoài biên, để tỏ cái công-hiệu viêc. cải-tổ của
mình. Bấy giờ ở Ung-châu có quan tri-châu là Tiêu Chú biết ý Vương an Thạch,
mới làm sớ tâu về rằng: nếu không đánh lấy đất Giao- châu thì về sau thành một
điều lo cho nước Tàu.
Vua nhà
Tống nghe lời tâu ấy, sai Tiêu Chú kinh-lý việc đánh Giao-châu. Nhưng Tiêu Chú
từ chối, lấy việc ấy làm khó, đang không nổi. Nhân lúc ấy lại có Thẩm Khởi tâu
bày mọi lẽ nên đánh Giao-châu. Vua nhà Tống bèn sai Thẩm Khởi làm Tri-châu châu
Quế. Thẩm Khởi ra thu-xếp mọi việc theo ý Vương an Thạch, nhưng sau không biết
tại lẽ gì phải bãi về. Tống-triều cho Lưu Gi ra thay.
Lưu Gi
sai người đi biên các khe ngòi, các đồn-lũy, sửa binh-khí, làm thuyền-bè và lại
cấm không cho người ở châu huyện gần đấy đi lại buôn-bán với người Giao-châu.
Bên
Lý-triều ta thấy sự tình như thế mới viết thư sang hỏi Tống-triều, thì Lưu Gi
lại giữ lại không đệ về kinh. Lý-triều tức giận, bèn sai Lý thường Kiệt và Tôn
Đản đem 10 vạn binh chia ra làm 2 đạo, thủy bộ cùng tiến sang đánh nhà Tống,
lấy cớ rằng nhà Tống đặt ra phép mới làm khổ trăm họ. Vậy quân Đại-Việt sang
đánh để cưú-vớt nhân-dân, v.v.....
Năm
ất-mão (1075) Lý thường Kiệt đem quân sang vây đánh Khâm- châu và Liêm-châu
(thuộc tỉnh Quảng-đông) giết hại hơn 8.000 người. Đạo quân của Tôn Đản sang đánh Ung-châu (tức
là thành Nam-ninh thuộc tỉnh Quảng-tây), quan Đô-giám Quảng-tây là Trương thủ
Tiết đem binh lại cưú Ung-châu, bị Lý thường Kiệt đón đánh ở Côn-lôn quan (gần
Nam-ninh) chém Trương thủ Tiết ở trận tiền.
Tôn Đản
vây thành Ung-châu hơn 40 ngày, quan tri-châu là Tô Dam kiên cố giữ mãi. Đến
khi quân nhà Lý hạ được thành, thì Tô Dam bắt người nhà tất cả là 36 người chết
trước, rồi tự đốt mà chết. Người trong thành cũng bắt-chước
quan tri-châu, không
ai chịu hàng cả. Quân nhà Lý vào thành giết hại gần đến
58.000 (?) người.
Lý
thường Kiệt và Tôn Đản sang đánh nhà Tống giết hại cả thảy đến 10 vạn người,
rồi lại bắt người lấy của đem về nước.
5. Nhà Tống Lấy Đất Quảng Nguyên. Tống-triều
đươc. tin quân nhà Lý sang đánh-phá ở châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, lấy làm
tức-giận lắm, bèn sai Quách Quì làm Chiêu-thảo-sứ, Triệu Tiết làm phó, đem 9
tướng quân cùng hội với nước Chiêm-thành và Chân-lạp chia đường sang đánh nước
Nam ta.
Tháng
chạp năm bính-thìn (1076) quân nhà Tống vào địa-hạt nước ta. Lý-triều sai Lý
thường Kiệt đem binh đi cự địch. Thường Kiệt đánh chặn quân nhà Tống ở sông
Như-nguyệt (làng Như-nguyệt ở Bắc-ninh, tức là sông Cầu bây giờ). Quân nhà Tống
đánh trận ấy chết hơn 1.000 người, Quách Quì tiến quân về phía tây, đến đóng ở
bờ sông Phú-lương30.
Lý
thường Kiệt đem binh-thuyền lên đón đánh không cho quân nhà Tống sang sông.
Quân Tống mới chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa, thuyền của ta thủng nát mất
nhiều, quân-sĩ chết hàng mấy nghìn người. Lúc bấy giờ quân nhà Tống đánh hăng
lắm, Lý thường Kiệt hết sức chống giữ, nhưng sợ quân mình có ngã lòng chăng,
bèn đặt ra một chuyện nói rằng có thần cho bốn câu thơ :
Nam-quốc
sơn-hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm
-phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Quân-lính
nghe đọc mấy câu thơ ấy, ai nấy đều nức lòng đáng giặc, quân nhà Tống không
tiến lên được. Hai bên cứ chống giữ nhau mãi. Lý- triều sợ đánh lâu không lợi,
bèn sai sứ sang Tống xin hoãn binh.
Vua Tống
thấy quân mình không tiến lên được, mà lại đóng ở chỗ chướng địa, quân-sĩ trước
sang hơn 8 vạn, sau chết đến quá nửa, cho nên cũng thuận hoãn-binh lui về,
chiếm-giữ châu Quảng-nguyên (bây giờ là châu Quảng-uyên, tỉnh Cao-bằng), châu
Tư-lang (bây giờ là châu Thượng-lang và
30 Sách
"Khâm-định Việt-sử" có chép rằng sông Phú-lương là con sông đi từ
Bạch-hạc qua Nam- định rồi chảy ra bể, tức là sông Hồng-hà. Nhưng xem trận thế
bấy giờ và xét ở trong địa-lý thì sông Phú-lương chép ở đây chính là sông Cầu,
chứ không phải sông Hồng-hà. Nếu lúc bấy giờ Lý thường Kiệt đã phá quân nhà
Tống ở sông Như-nguyệt tức là khúc dưới sông Cầu, thì tất nhà Lý còn đóng ở mạn
sông Cầu. Quân Quách Quì làm thế nào mà tiến đến sông Hồng-hà được ? Vả lại ở
Thái-nguyên hiện bây giờ có huyện Phú-lương, huyện ấy về đời nhà Lý, nhà Trần
là Phú-lương phủ, mà chính con sông Cầu chảy qua địa-hạt ấy. Có lẽ là những nhà
chép sử đời trước thường không thuộc địa-lý cho nên chép lầm sông Phú-lương là
sông Nhị-hà, vậy ta nên cải lại.
Hạ-lang,
tỉnh Cao-bằng), châu Tô, châu Mậu (ở giáp-giới tỉnh Cao-bằng và tỉnh Lạng-sơn)
và huyện Quảng-lang (Ôn-châu, tỉnh Lạng-sơn).
Đến năm
mậu-ngọ (1078) Lý nhân Tông sai Đào tôn Nguyên đưa voi sang cống nhà Tống và
đòi lại những châu huyện ở mạn Quảng-nguyên. Vua Tống bắt phải trả những người
châu Khâm, châu Liêm và châu Ung mà quân nhà Lý bắt về ngày trước, rồi mới trả
châu huyện cho nhà Lý. Sang năm kỷ-mùi (1079) Nhân-tông cho những người Tàu về
nước , tất cả chỉ có 221 người. Con trai thì thích ba chữ vào trán, từ 15 tuổi
trở lên thì thích: Thiên-tử binh; 20 tuổi trở lên thì thích: Đầu Nam-triều; còn
con gái thì thích vào tay trái hai chữ : Quan-khách.
Đất
Quảng-nguyên từ khi bọn Quách Quì lấy được, cải tên là Thuận- châu và có 3.000
quân Tống ở lại giữ, nhưng vì đất lam-chướng, mười phần chết đến năm sáu.
Đến khi
nhà Lý cho những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung về Tàu, vua nhà Tống
trả lại châu Quảng-nguyên. Nhưng vì có người nói rằng châu ấy có nhiều vàng,
người Tống tiếc của, làm hai câu thơ rằng :
Nhân
tham Giao-chỉ tượng. Khước thất Quảng-nguyên kim.
Đến mùa
hạ năm giáp-tí (1084) Nhân-tông sai quan binh-bộ Thị-lang là Lê văn Thịnh sang
nhà Tống bàn việc chia địa-giới. Lê văn
Thịnh phân-giãi mọi lẽ, nhà Tống trả nốt cả mấy huyện mà trước còn giữ lại. Từ
đó nước ta và nước Tàu lại thông sứ như cũ.
Năm
đinh-mão (1087) vua nhà Tống phong cho Nhân-tông là Nam- bình-vương.
Nhà Tống
bấy giờ đã suy-nhược, đến năm bính-ngọ (1126) nước Kim (Mãn-châu) sang lấy mất
cả phía bắc nước Tàu, nhà Tống dời đô về đóng ở Hàng-châu (thuộc Chiết-giang)
gọi là Nam-tống.
6. ĐÁNH CHIÊM-THÀNH. Nước Chiêm-thành thỉnh-thoảng cứ hay sang
quấy-nhiễu, đánh thế nào cũng không được. Năm ất-mão (1075) trước khi đi đánh
nhà Tống, Lý thường Kiệt đã sang đánh Chiêm-thành, vẽ được địa-đồ ba châu của
Chế Cũ đã nhường ngày trước, rồi cho người sang ở.
Năm
quí-mùi (1103) ở Diễn-châu (thuộc Nghệ-an) có Lý Giác làm phản. Lý thường Kiệt
vào đánh, Lý Giác thua chạy sang Chiêm-thành đem quốc-vương là
Chế ma Na sang đánh lấy lại ba châu Ma-linh, Bố-chính, v.v... Sang năm sau là
năm giáp-thân (1104) vua Nhân-tông sai Lý thường Kiệt vào đánh Chiêm-thành. Chế
ma Na thua chạy xin trả lại ba châu như cũ.
Lý
thường Kiệt bấy giờ đã ngoài 70 tuổi đi đánh Chiêm-thành về được một năm thì
mất. Ông là người ở phường Thái-hoà, huyện Thọ-xương (thành phố Hà-nội), có
tướng tài, tinh thao-lược, bắc đánh Tống, nam bình Chiêm, thật là một người
danh-tướng nước ta vậy.
Từ khi
bình-phục được nước Chiêm-thành rồi, các nước ở phía nam đều về triều-cống. Nhân-tông làm vua
đến năm đinh-vị
(1127) thì mất,
trị-vì được 56 năm, thọ 63 tuổi.
CHƯƠNG V
NHÀ LÝ
(Tiếp
theo)
V. Lý Thần Tông
VI. Lý Anh Tông
1. Đỗ Anh Vũ
2. Tô Hiến Thành
3. Giặc Thân Lợi
4. Việc chính trị
VII. Lý Cao Tông
1. Tô Hiến Thành làm phụ chính
2. Sự nội loạn
VIII.Lý Huệ Tông
1. Trần thị
2. Quyền về họ Trần
XI. Lý
Chiêu Hoàng
VI. LÝ
THẦN-TÔNG (1128-1138)
Niên-hiệu:
Thiên Thuận (1128-1132) Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137)
Nhân-tông
không có con, lập con của hoàng-đệ là Sùng-hiền-hầu lên làm thái-tử, nay lên
nối ngôi, tức là vua Thần-Tông31.
Bấy giờ
có các quan đại-thần là bọn ông Trương Bá Ngọc, Lưu Khánh Đàm, Dương Anh Nhị
giúp Thần-tông trị nước. Ngài vừa lên
ngôi thì đại xá cho các tù phạm, và trả lại những ruộng đất tịch thu của quan
dân ngày trước. Quân lính thì cho đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một, được về làm
ruộng. Như thế việc binh không làm ngăn-trở việc canh-nông.
31 Tục
truyền rằng Thần Tông là con cầu tự được, mà Ngài chính là ông Từ Đạo Hạnh hóa
xác sinh ra. Ở Bắc Việt ai đi đến chùa Thầy (thuộc Sơn Tây) cũng nghe nói sự
tích ông Từ Đạo Hạnh và ông Nguyễn Minh Không. Chuyện hoang đường, không thể
tin là sự thật được.
Giặc-giã
thời bấy giờ cũng ít. Một hai khi có người Chân-lạp và người Chiêm-thành sang
quấy nhiễu ở mạn Nghệ-An, nhưng đó là những đám cướp-phá vặt vãnh không mấy nỗi
mà quan quân đánh đuổi đi được.
Thần
Tông làm vua được 10 năm thì mất, thọ 23 tuổi.
VI. LÝ
ANH-TÔNG (1138-1175)
Niên-hiệu:
Thiệu Minh (1138-1139)
Đại-định
(1140-1162)
Chính-long
bảo-ứng 1163-1173) Thiên-cảm chí bảo (1174-1175)
1. Đỗ Anh Vũ. Thần-tông mất, triều đình tôn
Thái-tử là Thiên Tộ lên làm vua, tức là vua Anh-tông.
Anh-tông
bấy giờ mới có 3 tuổi, Thái-hậu là Lê-thị cầm quyền nhiếp chính. Lê Thái-hậu
lại tư thông với Đỗ anh Vũ, cho nên phàm việt gì bất cứ lớn nhỏ đều ở tay Đỗ
anh Vũ quyết đoán cả. Đỗ anh Vũ được thể ra vào chỗ cung cấm, kiêu ngạo và
khinh-dể đình-thần. Các quan như bọn Vũ Đái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và Dương
tự Minh thấy Đỗ anh Vũ lộng quyền quá độ, đều lo mưu trừ đi, nhưng sự không
thành lại bị giết-hại cả.
May nhờ
thời bấy giờ có nhiều tôi giỏi như Tô hiến Thành, Hoàng nghĩa Hiền, Lý công Tín
làm quan đại triều cho nên Đỗ anh Vũ không dám có ý khác.
2. Tô Hiến Thành. Ông Tô hiến Thành giúp vua
Anh-tông đi đánh dẹp, lập được nhiều công to, như là bắt được giặc Thân Lợi,
phá được giặc Ngưu Hống và dẹp yên giặc Lào, được phong làm chức Thái-úy coi
giữ việc binh. Ông luyện tập quân-lính, kén-chọn những người tài giỏi để làm
tướng hiệu. Bởi vậy binh-thế nhà Lý lúc bấy giờ lại phấn-chấn lên. Ông giỏi
việc võ và chăm việc văn. Ông xin vua khai-hóa việc học-hành, và làm đền thờ
đức Khổng-Tử ở cửa nam thành Thăng-Long, để tỏ lòng mộ nho học.
3. Giặc Thân Lợi. Vua Anh-tông vừa mới lên
làm vua được 2 năm, thì ở mạn Thái-nguyên có giặc Thân-Lợi làm loạn. Thân Lợi
xưng là con riêng vua Nhân-tông, trước đã xuất gia đi tu, rồi chiêu tập những
đồ vong mạng hơn 1,000 người, chiếm giử mạn Thái-nguyên, xưng vương phong tước,
đem quân đi đánh phá khắp nơi. Quan quân đánh mãi không được.
Năm
tân-dậu (1141) Thân Lợi về vây phủ Phú-lương, Đỗ anh Vũ đem quân lên đánh, Thân
Lợi chạy lên Lạng-châu, tức là Lạng-sơn bị ông Tô hiến Thành đuổi bắt được, đem
về kinh làm tội.
4. Việc Chính Trị. Năm giáp-thân (1164) vua nhà Tống đổi
Giao-chỉ quận làm An-nam quốc, và phong cho Anh-tông làm An-nam quốc-vương.
Nguyên
khi trước Tàu gọi ta là Giao-chỉ quận, rồi sau đổi là Giao- châu, đến thời nhà
Đường đặt An-nam đô-hộ-phủ. Nhà Đinh lên đặt Đại-Cồ- Việt, vua Lý Thánh-tông
đổi là Đại-Việt. nhưng Tàu vẫn phong cho vua ta là Giao-chỉ quận-vương, đến bấy
giờ mới đổi là An-nam quốc-vương. Nước
ta thành tên là nước An-nam khởi đầu từ đấy.
Năm
tân-mão và năm nhâm-thìn (1171-1172) Anh-tông đi chơi xem sơn-xuyên hiểm-trở,
đường-sá xa gần và sự sinh-hoạt của dân-gian, rồi sai quan làm quyển địa-đồ
nước An-nam32.
Năm
ất-mùi (1175), Anh-tông phong cho Tô hiến Thành làm Thái- phó
Bình-chương-quân-quốc trọng-sự và phong vương tước. Anh-tông đau, uỷ thác
Thái-tử là Long Cán cho Tô hiến Thành.
Anh-tông mất, trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi.
LÝ
CAO-TÔNG (1176-1210)
Niên-hiệu:
Trinh-phù (1176-1185)
Thiên-gia
bảo-hữu (1202-1204)
Trị-bình-long-ứng
(1205-1210).
1. Tô Hiến Thành Làm Phụ Chánh. Khi vua
Anh-tông mất, Thái-tử Long Cán chưa đầy 3 tuổi, bà Chiêu-linh Thái-hậu muốn lập
người con trưởng là con mình tên là Long Xưởng33 lên làm vua, đem vàng bạc đút
lót cho vợ Tô hiến Thành, nhưng ông nhất thiết không chịu, bèn cứ theo di-
chiếu mà lập Long Cán, tức là vua Cao-tông.
Tô hiến
Thành giúp vua Cao-tông trị nước, đến năm kỷ hợi(1179) thì mất. Sử chép rằng
khi ông đau có quan Tham-tri chính sự là Vũ tán Đường, ngày đêm hầu hạ. Đến khi
bà Đỗ Thái-Hậu34 ra thăm hỏi ngày sau ai thay
32 Quyển
địa đồ ấy bây giờ không thấy còn di tích ở đâu cả.
33 Long
Xưởng trước đã lập làm Thái Tử, sau vì có tội phải giáng xuống làm thứ dân.
34 Đỗ
Thái Hậu là mẹ đẻ ra Cao Tông.
được
ông, ông tâu rằng: có quan Gián-nghị đại-phu Trần trung Tá. Thái-hậu ngạc nhiên nói rằng tại sao không cử
Vũ tán Đường? Ông đáp: "Nếu bệ-hạ hỏi người hầu-hạ, thì xin cử người Tán
Đường, hỏi người giúp nước thì tôi xin cử người Trung-Tá".
Tô hiến
Thành không những là một người có tài thao-lược, dẹp giặc yên dân mà thôi, cách
thờ vua thật là trung-thành cho nên người đời sau thường ví ông với Gia cát
Lượng đời Tam-quốc bên Tàu.
Tô hiến
Thành mất rồi, Triều-đình không theo lời ông ấy dặn, cử Đỗ yên Di làm phụ chính
và Lý kính Tu làm đế-sư. Đình-thần bấy giờ có người đứng đắn, cho nên bà
Chiêu-linh Thái-hậu không dám mưu sự phế-lập.
Đến khi
Cao-tông lớn lên cầm quyền trị nước, thì cứ đi săn bắn chơi bời, làm cung xây
điện, bắc trăm họ phải phục-dịch khổ-sở.
Ngoài biên thì quân mường thổ ở bên Tàu sang quấy nhiễu ở phía bắc,
người Chiêm-thành sang đánh ở phía nam; trong nước thì nổi lên như ong dấy. Vua
tôi không ai lo nghĩ gì về chính-trị, chỉ làm những việc nhũng-lạm, mua quan
bán chức, hà-hiếp nhân-dân, lấy tiền để làm những việc xa-xỉ.
2. Sự nổi loạn. Năm bính-thìn (1208) ở
Nghệ-an có Phạm Du, chiêu nạp những đồ vong mệnh, cho đi cướp các thôn dân, có
bụng làm phản. Cao-tông sai quan Phụng-ngự là Phạm bỉnh Di đi đánh Phạm
Du. Bỉnh Di đem quân vào đến nơi đánh
đuổi Phạm Du đi và tịch-biên cả của-cải, đốt phá cả nhà cửa.
Phạm Du
cho người về kinh, lấy vàng bạc đút lót với các quan trong triều, để vu cho
Bỉnh Di làm việc hung bạo, giết hại những kẻ không có tội, và Phạm Du lại xin
về triều để kêu oan.
Cao-tông
nghe lời, cho vời Phạm Du vào chầu và triệu Phạm bỉnh Di về.
Bỉnh Di
về kinh vào chầu, Cao-tông truyền bắt giam, lại toan đem làm tội. Bấy giờ
có bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân phá cửa thành vào cứu Bỉnh
Di.
Cao-tông
thấy biến, bèn đem giết Phạm bỉnh Di đi, rồi cùng với Thái- tử chạy lên Qui Hóa
(sông Thao-giang ở phía bắc huyện Tham-nông, Phú- thọ). Thái-tử Sam thì chạy về
HảI-ấp, làng Lưu-gia (bây giờ là làng Lưu-xá, huyện Hưng-nhân).
Bọn
Quách Bốc đưa xác Bỉnh Di ra mai táng xong rồi, lại vào điện tôn Hoàng-tử Thẩm
lên làm vua.
Khi
Thái-tử Sam chạy về Hải-ấp vào ở nhà Trần Lý. Nguyên Trần Lý là người làng
Tức-mạc (huyện Mỹ-lộc, phủ Xuân-trường, tỉnh Nam-định) làm nghề đánh cá, nhà
giàu, có nhiều người theo phục, sau nhân buổi loạn cũng đem chúng đi cướp phá.
Đến khi Thái-tử Sam chạy về đấy, thấy con gái Trần Lý có nhan sắc, lấy làm vợ,
rồi phong cho Trần Lý tước Minh-tự và phong
cho người cậu
Trần-thị là Tô
trung Từ, người
ở làng Lưu-gia
làm Điện-tiền Chỉ-huy-sứ.
Anh em
họ Trần mộ quân về kinh dẹp loạn, rồi lên Qui-hóa rước Cao-tông cho quân về
làng Lưu-gia đón Thái-tử, còn Trần-thị thì về ở nhà Trần Lý.
Cao-tông
về kinh được một năm thì phải bệnh, đến tháng 10 năm canh-ngọ (1210) thì mất,
trị-vì được 35 năm, thọ 38 tuổi.
VIII. Lý Huệ Tông (1211-1225)
Niên-hiệu:
Kiến-gia (1211-1224)
1. Trần Thị.
Thái-tử Sam lên ngôi, tức là vua Huệ-tông, rồi sai quan đi rước Trần-thị về phong làm Nguyên-phi.
1. Trần Thị.
Thái-tử Sam lên ngôi, tức là vua Huệ-tông, rồi sai quan đi rước Trần-thị về phong làm Nguyên-phi.
Bấy giờ
Trần Lý đã bị quân cướp giết, chúng theo về người con thứ là Trần tự Khánh.
Huệ-tông bèn phong cho tự Khánh làm Chương-tín-hầu và cho người cậu Trần-thị
làm Thái-úy Thuận-lưu-bá.
Năm quí-dậu
(1213) Thái-hậu làm khổ Trần-thị ở trong cung, anh Trần-thị
là Tự Khánh đem quân đến chốn kinh sư, nói rằng xin rước vua đi. Huệ-tông không
biết tình-ý gì, nghi Tự Khánh có ý phản-nghịch bèn giáng Trần-thị xuống làm
Ngự-nữ. Tự Khánh nghe tin ấy, thân đến
quân môn xin lỗi và rước vua đi. Huệ-tông càng nghi lắm, bèn cùng với Thái-hậu
đi lên Lạng-châu (Lạng-sơn).
Tự Khánh
lại phát binh xin rước vua như trước, Huệ-tông sợ lại rước Thái-hậu về huyện
Bình-hợp (?).
Khi bấy
giờ bà Thái-hậu cho Tự Khánh là phản-trắc, thường chỉ mặt Trần-thị mà xỉ mắng
và xui Huệ-tông bỏ đi. Huệ-tông không
nghe. Thái- hậu định bỏ thuốc độc cho
Trần-thị, nhưng Huệ-tông biết ý, đến bữa ăn thì ăn một
nửa, còn một nửa cho Trần-thị ăn và ngày đêm không cho đi đâu. Sau vì Thái-hậu
làm ngặt quá, Huệ-tông và Trần-thị đêm bèn lẻn ra đi đến nhà tướng-quân Lê Mịch
ở huyện Yên-duyên rồi lại đến Cửu-liên (?), cho đòi Tự Khánh đến chầu.
2. QUYỀN VỀ HỌ TRẦN. Trần tự Khánh đem quân
đến hộ giá. Huệ-tông phong Trần-thị làm Hoàng-hậu, Tự Khánh làm Phụ-chính và
người anh Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội-thị Phân-thủ. Trần tự Khánh cùng với Thượng-tướng-quân là
Phân Lân sửa-sang quân ngũ, làm đồ chiến-khí, luyện-tập việc võ. Từ đấy
quân-thế lại nổi dần dần lên.
Huệ-tông
phải bệnh, thỉnh-thoaảng có cơn điên, rồi cứ uống rượu say cả ngày, có việc
chính-trị đều ở tay Tự Khánh quyết đoán cả.
Đến
tháng chạp năm quí-mùi (1228) Tự Khánh mất, Huệ-tông cho Trần Thừa làm Phụ-quốc
Thái-úy, sang năm sau lại cho người em họ Hoàng- hậu là Trần thủ Độ làm
Điện-tiền chỉ-huy-sứ. Từ đó việc gì ở
trong triều cũng quyền ở Thủ Độ cả.
Huệ-tông
có bệnh mãi không khỏi, mà Thái-tử thì chưa có, Trần-thị thì chỉ sinh được hai
người con gái, người chị là Thuận-thiên công-chúa thì đã gả cho Trần Liễu là
con trưởng của Trần Thừa; con người em là Chiêu- thánh công chúa tên là
Phật-kim thì mới lên 7 tuổi, Huệ-tông yêu mến lắm, cho nên mới lập làm Thái-tử.
Tháng 10 năm giáp-thân (1224) Huệ-tông truyền ngôi cho Chiêu-thánh công-chúa,
rồi vào ở chùa Chân-giáo.
Huệ-tông
trị vì được 14 năm.
IX. LÝ CHIÊU-HOÀNG (1225)
Niên-hiệu:
Thiên-chương-hữu-đạo (1224-1225)
Chiêu-thánh
công-chúa lên ngôi, tức là vua Chiêu-hoàng. Bấy giờ quyền-chính ở cả Trần thủ
Độ. Thủ Độ lại tư thông với Trần Thái hậu, đêm ngày mưu lấy cơ-nghiệp nhà Lý,
bèn đòi các con quan vào trong cung để hầu Chiêu-hoàng, và lại cho cháu là Trần
Cảnh vào làm chức Chính-thủ. Đến tháng chạp thì Chiêu-hoàng lấy Trần Cảnh và
truyền ngôi cho chồng.
Nhà Lý
đến đấy là hết, cả thảy làm vua được 216 năm, truyền ngôi
được 9
đời.
Nhà Lý
có công làm cho nước Nam ta nên được một nước cường- thịnh: ngoài thì đánh nước Tàu, bình nước Chiêm,
trong thì chỉnh-đốn việc võ-bị, sửa-sang pháp-luật, xây vững cái nền
tự-chủ. Vì vua Cao-tông hoang chơi, làm
mất lòng người, cho nên giặc-giã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tông lại
nhu-nhược bỏ việc chính-trị, đem giang-sơn phó-thác cho người con gái
còn đang thơ-dại,
khiến cho kẻ
gian-hùng được nhân
dịp mà lấy giang-sơn nhà Lý và lập ra cơ-nghiệp nhà
Trần vậy.
CHƯƠNG VI
NHÀ TRẦN
(1225-1400)
Thời kỳ
thứ nhất (1225-1293)
I. TRẦN THÁI TÔNG
1. Trần thủ Độ
2. Việc đánh-dẹp giặc-giã
3. Việc cai-trị
4. Việc thuế-má
5. Việc đắp-đê
6. Việc học-hành
7. Pháp-luật
8. Quan-chế
9. Binh-chế
10. Việc đánh Chiêm-thành
11. Quân Mông-cổ xâm-phạm đất An-nam
II. TRẦN THÁNH TÔNG
1. Việc chính-trị
2. Sự giao-thiệp với Mông-cổ
III. TRẦN NHÂN-TÔNG
1. Việc chiến-tranh
2. Việc văn-học
I. TRẦN
THÁI-TÔNG (1225-1258) Niên-hiệu: Kiến-trung (1225-1237) Thiên-ứng chính-bình
(1238-1350)
Nguyên-phong
(1251-1258)
I. Trần Thủ Độ. Tháng chạp năm ất-dậu (1225)
Trần Cảnh lên làm vua, tức là Trần Thái-Tông phong cho Trần thủ Độ làm Thái-sư
Thống-quốc hành-quân chinh-thảo-sự. Bấy giờ vua Thái-tông mới có 8 tuổi, việc
gì cũng do ở Trần thủ Độ cả. Thủ Độ tuy là một người không có học-vấn nhưng là
một tay
gian-hùng, chủ ý cốt gây dựng cơ-nghiệp nhà Trần cho bền-chặt, cho nên dẫu việc
tàn-bạo đến đâu, cũng làm cho được. Lý Huệ-tông tuy đã xuất gia đia ở chùa rồi
nhưng Thủ Độ vẫn định bụng giết đi, cho khỏi sự lo về sau.
Một hôm
Huệ-tông ngồi nhổ cổ ở sân chùa Chân-giáo, Thủ-Độ đi qua trông thấy, mới nói
rằng: "Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rể cái nó đi! " Huệ- tông nghe thế,
phủi tay đứng dậy nói rằng: "Nhà ngươi nói ta hiểu rồi ". Được mấy
hôm, Thủ Độ cho người đến mời Huệ-tông, Huệ-tông biết ý, vào nhà sau thắt cổ
tự-tận. Thủ Độ đưa bách quan đến tế khóc xong rồi hỏa táng, chôn ở tháp
Bảo-quang.
Còn
Thái-hậu là Trần-thị giáng xuống làm Thiên-cực công-chúa để gả cho Trần thủ Độ
(Trần thủ Độ và Thiên-cực công-chúa là hai chị em họ). Bao nhiêu những
cung-nhân nhà Lý thì đưa gả cho những Tù-trưởng các mường.
Thủ Độ
đã hại Huệ-tông rồi, lại muốn trừ nốt các tôn-thất nhà Lý. Đến năm nhăm-thìn
(1232) nhân làm lễ Tiên-hậu nhà Lý ở thôn Thái-Đường, làng Hoa-lâm (huyện
Đông-ngạn, tỉnh Bắc-ninh), Thủ Độ sai đào hầm, làm nhà lá ở trên, để đến khi
các tôn-thất nhà Lý vào đấy tế-lễ, thì sụt cả xuống hố rồi đổ đất chôn sống cả.
Thủ Độ
chỉ lo làm cho thế nào cho ngôi nhà Trần được vững-bền, cho nên không những là
tàn ác với nhà Lý mà thôi, đến luân-thường ở trong nhà, cũng làm loạn cả.
Chiêu-thánh Hoàng-hậu lấy Thái-tông đã được 12 năm mà vẫn chưa có con35, Thủ Độ
bắt Thái-tông bỏ đi và giáng xuống làm công-chúa, rồi đem người chị bà
Chiêu-thánh tức là vợ Trần Liễu vào làm Hoàng-hậu, bởi vì người chị đã có thai
được 3 tháng.
Làm loạn
nhân-luân như thế, thì tự thượng-cổ mới có là một. Trần Liễu tức giận, đem quân
làm loạn. Vua Thái-tông bị Thủ Độ hiếp
chế như thế, trong bụng cũng không yên, đến hôm trốn ra, lên chùa Phù-vân, trên
núi Yên-tử (huyện Yên-hưng, tỉnh Quảng-yên).
Trần thủ Độ biết tin ấy, đem quân thần đi đón Thái-tông về. Thái-tông không chịu về, nói rằng: "Trẫm còn nhỏ-dại, không kham nổi việc
to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã-tắc". Thủ Độ nói
mãi không nghe, ngảnh lại bảo bác quan rằng: "Hoàng-thượng ở đâu là
Triều-đình ở đấy!" Nói đoạn, truyền sắp sửa xây cung điện ở chùa Phù-vân.
Quốc-sư ở chùa ấy thấy thế, vào van lạy Thái-tông về Triều, Thái-tông
bất-đắc-dĩ truyền xa-giá về Kinh. Được ít lâu Trần
Liễu biết sức mình không làm gì nổi, bèn nhân lúc Thái-tông ngự thuyền đi chơi,
giả làm người đánh cá lẻn xuống thuyền ngự, xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà
khóc. Thủ Độ nghe tin, đến rút gươm toan giết Trần Liễu, Thái-tông can mãi mới
thôi. Sau Thái-tông lấy đất Yên-phụ, Yên- đường, Yên-sinh và Yên-bang (ở huyện
Đông-triều và phủ Kinh-môn, Hải- dương) cho Trần Liễu làm thái-ấp và phong cho
làm An-sinh-vương. Thủ Độ đã hại hết cả dòng dỏi họ Lý, lại muốn cho họ Lý
không còn ai nhớ đến họ Lý nửa, mới nhân vì tổ nhà Trần tên là Lý, bắt trong
nước ai là họ Lý đều phải cải là họ Nguyễn.
Thủ Độ
là người rất gian-ác đối với nhà Lý, nhưng lại là một người đại công-thần của
nhà Trần. Một tay cáng-đán bao nhiêu trong-sự, giúp Thái-công bình-phục được
giặc-giã trong nước và chỉnh-đốn lại một việc, làm cho nước Nam ta bấy giờ được
cường thịnh, ngày sau có thể chống-cự với Mông-cổ, khỏi phải làm nô-lệ những kẻ
hùng-cường.
2. Việc Đánh Dẹp Giặc Giã. Nước An-nam từ
khi vua Cao-tông nhà Lý thất chính, trong nước chỗ nào cũng có giặc-giã. ở mạn
Quốc-oai thì có giặc Mường làm loạn, ở Hồng-châu thì có Đoàn Thượng chiếm giữ
đất Đường hào, tự xưng làm vua, ở Bắc-giang thì có Nguyễn Nộn độc-lập xưng
vương ở làng Phù-đổng. Ấy là một nước mà chia ra làm mấy giang-sơn. Khi Trần
thủ Độ đã thu-xếp trong việc cướp ngôi nhà Lý rồi, mới đem quân đi đánh dẹp.
Trước lên bình giặc Mường ở Quốc-oai, sau về đánh bọn Đoàn Thượng và Nguyễn
Nộn. Nhưng thế-lực hai người ấy mạnh lắm, Trần thủ Độ đánh không lại, bèn chia
đất cho hai người làm vương để giảng-hòa.
Năm
mậu-tí (1228) Nguyễn Nộn đem quân đánh Đoàn Thượng, chiếm giữ lấy đất
Đường-hào, thanh-thế lừng-lẫy. Trần thủ Độ đã lấy làm lo. Nhưng chỉ được mấy tháng, thì Nguyễn Nộn
chết. Từ đó các châu huyện trong nước
lại thống-hợp làm một.
3. Việc Cai Trị. Cứ theo phép nhà Lý thì làng nào có bao nhiêu
người đi làm quan văn, quan võ, thơ-lại, quân lính, hoàng-nam, lung-lão,
tàn-tật, và những người đến ở ngụ cư, hay là những người xiêu-lạc đến trong
làng, thì xã-quan phải khai vào cả quyển sổ gọi là trường-tịch. Ai có quan-tước mà có con được thừa ấm thì
con lại được vào làm quan, còn những người giàu-có, mà không có quan-tước thì
đời đời cứ phải đi lính. Thái-tông lên làm vua phải theo phép ấy, cho nên đến
năm mậu-tí (1228) lại sai quan vào Thanh-hóa làm lại trường-tịch theo như lệ
ngày trước.
35 Chiêu
Thánh Hoàng Hậu bấy giờ mới có 19 tuổi.
Năm nhâm-dần
(1242) Thái-tông chia nước Nam ra làm 12 lộ. Mỗi lộ đặt quan cai-trị là
An-phủ-sứ, chánh-phó 2 viên. Dưới
An-phủ-sứ có quan Đại-tư-xã và Tiểu-tư-xã. Từ ngũ phẩm trở lên thì làm
Đại-tư-xã, lục phẩm trở xuống thì làm Tiểu-tư-xã, mỗi viên cai-trị, hoặc hai
xã, hoặc ba bốn xã. Mỗi xã lại có một viên xã-quan là Chánh-sử-giám. Lộ nào
cũng có quyển dân-tịch riêng của lộ ấy.
4. Việc Thuế Má. Người trong nước phân ra
từng hạng: con trai từ 18 tuổi thì vào hạng tiểu-hoàng-nam, từ 20 tuổi vào hạng
đại-hoàng-nam. Còn từ 60 tuổi trở lên thì vào lão hạng.
Thuế
thân: Thuế thân thời bấy giờ tùy theo số ruộng mà đánh, ai có một hai mẫu ruộng
thì phải đóng một năm một quan tiền thuế thân; ai co ba bốn mẫu, thì phải đóng
hai quan; ai co năm mẫu trở lên, thì đóng ba quan. Ai không có mẫu nào, thì
không phải đóng thuế.
Thuế
ruộng: Thuế ruộng thì đóng bằng thóc: cứ mỗi một mẫu thì chủ điền phải đóng 100
thăng thóc.
Còn như
ruộng công, thì có sách chép rằng đời nhà Trần có hai thứ ruộng công, mỗi thứ
phân ra làm ba hạng.
1. Một thứ gọi là ruộng quốc-khố: hạng nhất
mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc; hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch; hạng 3 mỗi
mẫu 3 thạch.
2. Một thứ gọi là thác-điền36: hạng nhất mỗi
mẫu đánh thuế một thạch thót; hạng nhì ba mẫu lấy một thạch, hạng ba, bốn mẫu
lấy một thạch.
Còn
ruộng ao của công-dân thì mỗi mẫu lấy ba thăng thóc thuế. Ruộng muối phải đóng
bằng tiền.
Các thứ
thuế: Có sách chép rằng nhà Trần đánh cả thuế trầu cau, thuế hương yên-tức, và
tôm, cá, rau, quả, gì cũng đánh thuế cả.
36 Sử chép
rằng ông Lê Phụng Hiểu đời vua Lý Thái Tông đi đánh giặc lập được nhiều công.
Sau vua định phong tước cho ông, ông từ chối, xin lên núi ném con dao, hễ rơi
đến đâu xin lấy đất làm tư nghiệp. Vua thuận cho. Lê Phụng Hiểu lên núi Băng
Sơn ném con dao xuống xa được 10 dặm. Vua bèn lấy ruộng ở chung quanh núi Băng
Sơn cho ông Lê Phụng Hiểu, gọi là thác đao điền. Sau thành ra tên thác điền là
ruộng để thưởng công cho các quan.
Còn như
vàng bạc tiêu-dụng trong nước thì tiêu bằng phân, lượng đã đúc sẵn, có hiệu nhà
nước. Khi nào đóng nộp cho vua quan, thì một tiền là 70 đồng, mà thường tiêu
với nhau thì một tiền chỉ có 69 đồng mà thôi.
5. Việc Đắp Đê. Nước Nam ta ở mạn đường
ngược thì lắm núi, mà ở trung châu thì nhiều sông ngòi, cho nên đến mùa lụt
nước ngàn, nước lũ chảy về ngập mất cả đồng-điền. Vì vậy năm mậu-thân (1244)
Thái-tông sai quan ơở các lộ đắp đê ở hai bên bờ sông cái (Hồng-hà), gọi là
Đỉnh-nhĩ-đê. Lại đặt quan để coi việc đê, gọi là Hà-đê chánh phó-sứ hai viên.
Hễ chỗ nào mà đê đắp vào ruộng của dân, thì nhà nước cứ chiếu theo giá ruộng mà
bồi thường cho chủ ruộng.
6. Việc Học Hành. Năm nhăm-thìn (1232) mở
khoa thi Thái-học-sinh (thi Tiến-sĩ). Từ
đời nhà Lý cũng đã có thi nho-sĩ, nhưng chỉ thi Tam-trường mà thôi, đến bây giờ
mới có khoa thi Thái-học-sinh, chia ra thứ bậc, làm ba giáp để định cao
thấp. Đến khoa thi năm đinh-vị (1247)
lại đặt ra tam-khôi: trạng nguyên, bảng-nhãn, thám-hoa. Khoa thi năm đinh-vị này có Lê văn Hưu, là
người làm sử nước Nam trước hết cả, đổ bảng-nhãn. Năm ấy lại có mở khoa thi
Tam-giáo: Nho, Thích, Lão, ai hơn thì đổ khoa giáp, ai kém thì đổ khoa ất.
Xem như
thế thì sự học-vấn đời nhà Trần cũng rộng: Nho, Thích, Lão cũng trọng cả. Nhưng
không rõ cách học-hành và phép thi-cử bấy giờ ra thế nào, bởi vì chỗ này sử chỉ
nói lược qua mà thôi.
Năm
quí-sửu (1253) lập Quốc-học-viện để giảng tứ-thư ngũ-kinh và lập giảng-võ-đường
để luyện-tập-võ-nghệ.
7. Pháp Luật. Sử chép rằng năm giáp-thìn
(1244) vua Thái-tông có định lại các luật-pháp, nhưng không nói rõ định ra thế
nào. Xét trong sách "Lịch-triều hiến-chương" của ông Phan huy Chủ thì
phép nhà Trần đặt ra là hễ những người phạm tội trộm-cắp đều phải chặt tay,
chặt chân, hay là cho voi giày. Xem như thế thì hình-luật bấy giờ nặng lắm.
8. Quan Chế. Quan-chế đời nhà Trần cũng
sửa-sang lại cả. Bấy giờ có Tam-công, Tam-thiếu, Thái-úy, Tư-mã, Tư-đồ,
Tư-không, làm văn-võ đại- thần. Tể-tướng thì có Tả-hữu Tường-quốc, Thủ-tướng,
Tham-tri. Văn-giai nột chức, thì có các bộ Thượng-thư, Thị-lang, Lang-trung,
Viên-ngoại, Ngự- sử, v.v... Ngoại chức, thì có An phủ-sứ, Tri-phủ, Thông-phán,
Thiêm-phám v.v... Còn võ-giai
nội-chức, thì có Phiêu-kỵ thượng-tướng-quân, Cẩm-vệ thượng-tướng quân, Kim-ngô
đại-tướng-quân, Võ-vệ đại-tướng-quân, Phó
đô-tướng-quân
v.v... Ngoại chức thì có Kinh-lược-sứ, Phòng-ngự-sứ, Thủ- ngự-sứ, Quan-sát-sứ,
Đô-hộ, Đô-thống, Tổng-quản, v.v...
Quan-lại
đời bấy giờ, cứ 10 năm, thì được thăng lên một hàm, và 15 năm mới được thăng
lên một chức.
Đời nhà
Trần tuy quan-lại thì nhiều, nhưng vua quan có ý thân-cận với nhau lắm. Hễ khi
nào vua đãi yến, các quan uống rượu xong rồi, thì ra dắt tay nhau mà múa hát,
không có giữ lễ-phép nghiêm-khắc như những đời sau.
9. Binh Chế. Từ khi Thái-tông lên ngôi làm
vua thì việc binh-lính một ngày một chỉnh-đốn thêm. Bao nhiêu những người dân-tráng trong nước
đều phải đi lính cả. Các quân-vương ai cũng được quyền mộ tập quân-lính. Vì cớ
ấy cho nên đến sau người Mông-cổ sang đánh, nước Nam ta có hơn 20 vạn quân để
chống với quân nghịch. Trừ những
giặc-giã nhỏ-mọn ở trong nước không kể chi, nước Nam ta bấy giờ ở phía nam có
Chiêm-thành, phía bắc có quân Mông-cổ sang quấy-nhiễu cho nên phải đánh -dẹp
luôn.
10. Việc Đánh Chiêm Thành. Từ khi Thái-tông lên
làm vua, nước Chiêm-Thành đã sang cống-tiến, nhưng thường vẫn sang cướp phá, và
cứ đòi lại đất cũ. Thái-tông lấy làm tức giận, bèn sửa-soạn sự đi đánh
Chiêm-thành. Năm nhăm-tí (1252) ngài ngự-giá đi đánh, bắt được vương- phi nước
Chiêm tên là Bố-gia-la và quân dân nước ấy rất nhiều.
11. Quân Mông Cổ Xâm Phạm Đất An Nam. Trong khi
nhà Lý mất ngôi, nhà Trần lên làm vua ở An-nam, thì nhà Tống bên Tàu bị người
Mông-cổ đánh phá. Nguyên ở phía bắc nước Tàu có một dân-tộc gọi là Mông-cổ, ở
vào khoảng thượng-lưu sông Hắc-long-giang (Amour). Người Mông-cổ hung tợn, mà
lại có tính hiếu chiến, người nào cưỡi ngựa cũng giỏi, và bắn tên không ai
bằng. Binh-lính thường là quân-kị, mà
xếp-đặt thành cơ nào đội ấy, thật là có thứ-tự, và người nào cũng tinh nghề
chiến-đấu.
Bởi
tính-chất và binh-pháp của người Mông-cổ như thế, cho nên Thiết-mộc-chân
(Témoudjine) tức là Thành-cát-tư-hãn (Gengis khan), miêu- hiệu là
Nguyên-thái-tổ, mới chiếm giữ được cả vùng Trung-Á, cùng đất Ba- tư, sang đến
phía đông-bắc Âu-la-ba. Sau quân Mông-cổ lại lấy được nước Tây-hạ, phía tây
nước bắc Tàu, dứt được nước Kim và tràn sang đến nước Triều-tiên (Cao-ly).
Thành-cát-tư-hãn
mất, người con thứ ba là A-loa-đài (Agotai) lên làm vua tức là
Nguyên-thái-tông. A-loa-đài truyền cho con là Quí-do (Gouyouk)
tức là Nguyên Định-tông. Quí-do làm vua được non ba năm thì mất, ngôi vua
Mông-cổ về chi khác. Người em con nhà chú là Mông-kha (Mong-ké) lên làm vua,
tức là Nguyên Hiến-tông.
Mông-kha
sai hai em là Hạt-lỗ (Houlagen) sang kinh-lý việc nước Ba- tư, và Hốt-tất-liệt
(Koubilai) sang đánh nhà Tống bên Tàu. Trong khi quân Mông-cổ sang đánh nhà
Tống, thì Mông-kha mất, Hốt-tất-liệt phải rút binh về lên ngôi vua, tức là
Nguyên Thế-tổ. Hốt-tất-liệt lên làm vua rồi đổi quốc hiệu là Nguyên.
Hốt-tất-liệt
lại sang đánh nhà Tống. Từ đó cả nước Tàu thuộc về Mông-cổ cai-trị.
Khi
Mông-kha hãy còn, Hốt-tất-liệt đem quân sang đánh nhà Tống, có sai
một đạo quân
đi đánh nước
Đại-lý (thuộc tỉnh
Vân-nam bây giờ) tướng Mông-cổ là Ngột-lương-hợp-thai
(Wouleangotai) sai sứ sang bảo vua Trần-thái-tông về thần-phục Mông-cổ.
Thái-tông
không những là không chịu, lại bắt giam sứ Mông-cổ, rồi sai Trần quốc Tuấn đem
binh lên giữ ở phía Bắc. Bấy giờ là năm
đinh-tị (1257).
Trần
quốc Tuấn ít quân đánh không nổi, lùi về đóng ở Sơn-tây. Quân Mông-cổ kéo tràn
xuống đến sông Thao. Thái-tông phải ngự-giá thân chinh, nhưng đánh không được,
chạy về đóng ở sông Hồng-hà37. Quân Mông-cổ tiến lên đánh đuổi quân nhà Trần
đến Đông-bộ-đầu (phía đông sông Nhị-hà ở hạt huyện Thượng-phúc). Thái-tông phảI bỏ kinh-đô, chạy về đóng ở
sông Thiên-mạc (về hạt huyện Đông-an, tỉnh Hưng-yên).
Quân
Mông-cổ vào thành Thăng-long, thấy ba người xứ Mông-cổ còn phải trói, giam ở
trong ngục, đến khi cởi trói ra thì một người chết. Ngột-lương-hợp-thai thấy
thế tức giận quá, cho quân ra giết phá cả nam phụ lão ấu ở trong thành.
Bấy giờ
thế nguy, Thái-tông ngự thuyền đến hỏi Thái-úy là Trần nhật Hiệu. Nhật Hiệu
không nói gì cả, cầm sào viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống".
Thái-tông lại đến hỏi Thái-sư Trần thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: "Đầu tôi chưa
rơi xuống đất, thì xin Bệ-hạ đừng lo!". Thái-tông nghe thấy Thủ Độ nói
cứng-cỏi như thế, trong bụng mới yên.
37 Sử ta
chép là sông Phú Lương.
Được ít
lâu quân Mông-cổ ở nước Nam không quen thủy-thổ xem ra bộ mỏi-mệt. Thái-tông
mới tiến binh lên đánh ở Đông-bộ-đầu. Quân Mông- cổ thua chạy về đến trại
Qui-hóa, lại bi chủ trại đấy chiêu-tập thổ dân ra đón đánh. Quân Mông-cổ thua
to, rút về Vân-nam, đi đường mỏi-mệt, đến đâu cũng không cướp-phá gì cả, cho
nên người ta gọi là giặc Phật.
Quân
Mông-cổ tuy thua phải rút về, nhưng chẳng bao lâu vua Mông- cổ dứt được nhà
Tống, lấy được nước Tàu, rồi có ý muốn bắt vua nước Nam ta sang chầu ở
Bắc-kinh, bởi vậy lại sai sứ sang đòi lệ cống. Vua Thái-tông sai Lê phụ Trần
sang sứ xin cứ ba năm sang cống một lần.
Mùa xuân
năm mậu-ngọ (1258), Thái-tông nhường ngôi cho Thái-tử là Trần Hoảng, để dạy-bảo
mọi việc về cách trị nước, và đề phòng ngày sau anh em không tranh nhau.
Triều-đình tôn Thái-tông lên làm Thái-thượng- hoàng để
cùng coi việc
nước. Thái-tông trị-vì
được 33 năm,
làm Thái- thượng-hoàng được 19
năm thì mất, thọ 60 tuổi.
II. TRẦN THÁNH-TÔNG (1258-1278)
Niên-hiệu:
Thiệu-long (1258-1272)
Bảo-phù
(1273-1278)
1. Việc Chính Trị.
Thái-tử Hoảng lên ngôi, tức là vua Thánh-tông, đổi niên-hiệu là Thiệu-long.
Thái-tử Hoảng lên ngôi, tức là vua Thánh-tông, đổi niên-hiệu là Thiệu-long.
Thánh-tông
là ông vua nhân-từ trung-hậu ở với anh em họ hàng rất là tử-tế. Thường hay nói
rằng: "Thiên-hạ là của ông cha để lại, nên để cho anh em cùng hưởng
phú-quí chung". Rồi cho các hoàng-thân vào nội điện, cùng ăn một mâm, nằm
một giường, thật là thân-ái, chỉ có lúc nào ra việc công, hoặc buổi chầu, thì
mới phân thứ-tự theo lễ-phép mà thôi.
Còn việc
nước thì thật
ngài có lòng
lo giữ cho
dân được yên
trị. Trong 21 năm, ngài làm vua không có giặc-giã gì cả. Việc học-hành
cũng mở mang thêm: cho Hoàng-đệ Trần ích Tắc là một người hay chữ trong nước
lúc ấy, mở học-đường để những người văn-sĩ học-tập. Danh nho Mạc đỉnh Chi cũng
học ở trường ấy ra.
Đời bấy
giờ Lê văn Hưu làm xong bộ Đại-Việt sử thành 30 quyển, chép từ Triệu Võ-vương
đến Lý Chiêu-hoàng. Bộ sử này khởi đầu làm từ Trần Thái-tông đến năm nhâm-thân
(1272) đời Thánh-tông mới xong. Nước Nam ta có quốc-sử khởi đầu từ đấy.
Thánh-tông
lại bắt các vương-hầu, phò-mã phải chiêu-tập những người nghèo-đói lưu-lạc để
khai-khẩn hoang điền làm trang hộ. Trang-điền có từ đấy.
2. Sự giao-thiệp với Mông-Cổ. Nước tuy được
yên, song việc giao-thiệp với Tàu một ngày một khó thêm. Đời bấy giờ Mông-cổ đã
đánh được nhà Tống rồi, chỉ chực lấy nước An-nam, nhưng vì trước tướng Mông- cổ
đã đánh thua một trận, vả trong nước Tàu vẫn chưa được yên, cho nên vua Mông-cổ
muốn dụng kế dụ vua An-nam sang hàng-phục, để khỏi dùng can-qua. Vậy cứ vài năm
lại cho sứ sang sách-nhiễu điều nọ điều kia, và dụ vua An-nam
sang chầu, nhưng
vua ta cứ nay lần
mai lữa, không chịu đi. Sau nhân dịp Thái-tông nhừờng ngôi cho
Thánh-tông, vua Mông-cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh-tông, và tuy không
bắt nước Nam phải đổi phục-sắc và chính-trị,
nhưng định cho ba năm phải
một lần cống.
Mà lệ cống thì phải cho nho-sĩ,
thầy thuốc, thầy bói, thầy toán-số và thợ-thuyền mổi hạng ba người, cùng với
các sản-vật như là sừng tê, ngà voi, đồi-mồi, châu-báu và các vật lạ. Vua
Mông-cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xích (tiếng Mông-cổ tức
là quan Chưởng-ấn),
để đi lại
giám-trị các châu-quận
nước Nam.
Ý
Mông-cổ muốn biết nhân-vật tài-sản nước Nam ta có những gì, và học-vấn xảo-kỹ
ra sao, để liệu đường mà đánh lấy cho tiện.
Và tuy rằng quyền chính-trị vẫn để cho vua nước Nam, nhưng đặt quan
giám-trị để dần dần lập thành Bảo-hộ.
Thánh-tông ề ngoài tuy vẫn chịu thần-phục, nhưng trong bụng cũng biết rằng Mông-cổ
có ý đánh lấy nước mình, cho nên cứ tu binh dụng võ để phòng có ngày tranh
chiến. Vậy tuyển đinh-tráng các lộ làm lính, phân quân-ngũ ra làm quân và đô:
mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người, bắt phải luyện tập luôn.
Năm
bính-dần (1266) nhân sứ Mông-cổ sang, Thánh-tông sai quan sang Tàu đáp lễ và
xin đừng bắt nho-sĩ, thầy bói, và các thợ-thuyền sang cống. Vua Mông-cổ ưng cho, nhưng bắt chịu 6 điều
khác:
1. Vua phải thân vào chầu
2. Vua phải cho con hay là em sang làm tin
3. Biên sổ dân sang nộp
4. Phải chịu việc binh-dịch
5. Phải nộp thuế-má
6. Vẫn cứ đặt quan giám-trị
Vua
An-nam cứ lần-lữa không chịu. Đến năm
tân-mùi (1271) vua Mông-cổ là Hốt-tất-liệt cải quốc-hiệu là Đại-nguyên, rồi cho
sứ sang dụ Thánh-tông sang chầu nhưng Thánh-tông cáo bệnh không đi.
Năm sau
Nguyên-chủ cho sứ sang tìm cột đồng-trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng
Thánh-tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu
mà tìm nữa. Việc ấy cũng thôi.
Đến năm
ất-hợi (1275) Thánh-tông sai sứ sang Tàu nói rằng: nước Nam không
phải là nước
Mường-mán mà đặt
quan giám-trị, xin
đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan
Dẫn-tiến-sứ. Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt theo 6 điều đã định trước. Thánh-tông cũng không chịu. Tự đấy vua nhà Nguyên thấy dụng-mưu không
được, quyết ý cử binh sang đánh nước Nam, sai quan ở biên-giới do thám địa-thế
nước ta. Bên An-nam cũng đặt quan phòng-bị.
Năm
đinh-sửu (1277) Thái-thượng-hoàng mất ở Thiên-trường-phủ (tức là làng Tức-mạc).
Năm sau (1278), Thánh-tông nhường ngôi cho Thái- tử Khâm, rồi về ở Thiên-trường
làm Thái-thượng-hoàng.
Thánh-tông trị
vì được 21
năm, làm Thái-thượng-hoàng được
13 năm, thọ 51 tuổi.
III. TRẦN NHÂN-TÔNG (1279-1293)
Niên-hiệu:
Thiệu-bảo (1279-1284)
Trùng-hưng
(1285-1293)
1. Việc Chính Trị. Thái-tử
Trần Khâm lên
làm vua, tức
là vua Nhân-tông.
Lúc bấy
giờ sứ nhà Nguyên đi lại hạch điều này, trách điều nọ, triều- đình cũng có lắm
việc bối-rối. Nhưng nhờ có Thánh-tông thượng-hoàng còn coi mọi việc và các quan
triều-đình nhiều người có tài-trí, vua Nhân-tông lại là ông vua thông-minh,
quả-quyết, mà người trong nước thì từ vua quan cho chí dân-sự đều một lòng cả,
cho nên từ năm giáp-thân (!284) đến năm mậu- tí (1288) hai lần quân Mông-cổ
sang đánh rồi không làm gì được.
Trừ việc
chiến-tranh với quân Mông-cổ ra, để sau sẽ nói, trong đời vua Nhân-tông lại còn
giặc Lào, thường hay sang quấy-nhiễu ở chỗ biên- thùy, bởi vậy năm canh-dần
(1290) vua Nhân-tông lại phải ngự giá đi đánh Lào.
2. Việc Văn Học. Đời vua Nhân-tông có nhiều
giặc-giã, tuy vậy việc văn-học cũng hưng-thịnh lắm. Xem bài hịch của Hưng-đạo-vương, thơ của ông
Trần quan Khải và của ông Phạm ngũ Lão thì biết là văn-chương đời bấy giờ có
khí-lực mạnh-mẽ lắm. Lại có quan Hình-bộ Thượng-thư là ông Nguyễn Thuyên khởi
đầu dùng chữ Nôm mà làm thơ-phú. Ông Nguyễn Thuyên là người Thanh-lâm38, tỉnh
Hải-dương, có tiếng tài làm văn như ông Hàn Dũ bên Tàu ngày xưa, bởi vậy vua
cho đổi họ là Hàn. Về sau người mình theo lối ấy mà làm thơ, gọi là Hàn-luật.
Năm
quí-tị (1293) Nhân-tông truyền ngôi cho Thái-tử tên là Thuyên, rồi về
Thiên-trường làm Thái-thượng-hoàng.
Nhân-tông trị-vì được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ 51 tuổi.
38 Làng
Lai Hạ, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, nay thuộc huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.
CHƯƠNG
VII
GIẶC NHÀ
NGUYÊN I
(1284-1288)
1.Sài Thung sang sứ An-nam
2.Trần di Ái theo nhà Nguyên
3.Thoát Hoan sang đánh lần thứ nhất
4.Trần Hưng-đạo-vương quân thua về vạn-kiếp
5.Thành Thăng-long thất-thủ
6.Toa Đô đánh Nghệ-an
7.Hưng-đạo-vương đem vua về Thanh-hóa
8.Trận Hàm-tử-quan: Trần nhật Duật phá quân
Toa Đô
9.Trận Chương-dương-Độ: Trần quang Khải
khôi-phục Thăng-long
10.Trận Tây-kết: tướng nhà Trần chém Toa-Đô
11.Trận Vạn-kiếp: Thoát Hoan trốn chạy về Tàu
1.Sài Thung Sang Sứ An Nam. Nhà Nguyên nghe
tin Trần Thái-tông mới mất và Thánh-tông nhượng-vị, liền sai Lễ-bộ thượng-thư
là Sài Thung sang sứ, đi tự Giang-lăng (Hồ-bắc), qua Ung-châu (Quảng-tây) rồi
sang nước Nam, chứ không đi qua tỉnh Vân-nam như các sứ-thần trước.
Sài
Thung đến kinh-thành, lên mặt kiêu-ngạo,cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương-minh,
rồi cho người đưa thư vào trách Nhân-tông rằng: "Sao không xin phép
triều-đình nhà Nguyên, mà dám tự-lập, vậy phải sang chầu Thiên-triều Hoàng-đế
mới xong". Nhân-tông sai quan đại-thần ra tiếp. Thung không thèm đáp lễ;
vua bày yến mời, Thung không thèm đến. Đình- thần An-nam ai cũng lấy làm tức
giận nhưng không dám nói ra.
Sau vua
phải dọn yến ở điện Tập-hiền, mời mãi Sài Thung mới đến. Đương khi uống rượu,
Nhân-tông bảo Sài Thung rằng: "Quả-nhân xưa nay sinh-trưởng ở trong cung
không quen phong-thổ, không thể nào đi được".
Được mấy
hôm Sài Thung về nước. Nhân-tông sai sứ mang thư sang Tàu nói không thể sang
chầu được. Nguyên-triều thấy vua An-nam không
chịu sang chầu, và cứ đưa thư sang nói thoái-thác ra việc nọ việc kia, ý muốn
cầm quân sang đánh, nhưng còn chưa quyết.
2. Trần Di Ái Theo Nhà Nguyên. Năm nhâm-ngọ
(1282) Nguyên-chủ lại cho sứ sang dụ rằng: "Nếu vua nước Nam không sang
chầu được thì phải đưa vàng ngọc sang thay, và phải nộp hiền-sĩ, thầy âm-dương
bói-toán, thợ khéo mỗi hạng 2 người ".
Nhân-tông
sai người chú họ là Trần di Ái và Lê Tuân, Lê Mục sang thay cho mình. Nhưng
Nguyên-chủ không bằng lòng, quyết ý chiếm giữ quyền cai-trị nước Nam, bèn xuống
chỉ lập tòa Tuyên-phủ-ti, đặt quan liêu- thuộc để sang giám-trị các châu
huyện. Quan nhà Nguyên sang đến nơi,
Nhân-tông không nhận, đuổi về Tàu.
Nguyên-chủ
thấy vậy giận lắm, bèn lập Trần di Ái làm An-nam quốc- vương, phong cho Lê Mục
làm Hàn-lâm học-sĩ, Lê Tuân làm Thượng-thư- lệnh, và sai Sài Thung dẫn 1.000
quân đưa bọn ấy về nước.
Trần di
Ái thấy Nguyên-chủ phong cho cũng nhận, đưa về cũng về; chắc trong bụng đồ là
chuyến này nhờ sức Mông-cổ, may việc xong, thì được làm vua, nhược bằng không
xong, thì đổ cho là Nguyên-chủ bắt-ép; vì thế mới theo Sài Thung về.
Sài
Thung đưa bọn Trần di Ái đến gần ải Nam-quan, có tin phi-báo về Kinh-đô.
Nhân-tông liền sai tướng dẫn một đội quân lên đón đường đánh lũ nghịch-thần. Sài Thung bị tên bắn mù mất một mắt, trốn
chạy về Tàu, còn lũ Trần di Ái bị bắt, phải tội đồ làm lính.
3.Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ Nhất.
Nguyên-chủ thấy Sài Thung bị thương chạy về tức giận lắm, bèn sai con là Thoát
Hoan làm Trấn-nam-vương, cùng với bọn Toa-Đô, Ô mã Nhi dẫn 50 vạn quân, giả
tiếng mượn đường đi qua nước Nam sang đánh Chiêm-thành.
Quan
trấn-thủ Lạng-sơn do-thám được tin ấy, sai người về Kinh-đô phi báo. Nhân-tông
ngự thuyền ra sông Bình-than39 chỗ sông Đuống nối với sông Thái-bình, để hội
các vương-hầu bách quan lại bàn kế chống giữ.
Các
quan, người thì nói nên để cho quân Nguyên mượn đường, người thì bảo nên đưa đồ
sang cống để xin hoãn binh. Duy có Trần quốc Tuấn và Trần khánh Dư quyết xin
đem quân đi phòng-giữ các nơi hiểm-yếu,
39 Làng
Bình Than, tổng Vạn Ti, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
không
cho quân Mông-cổ sang nước Nam. Nhân-tông ưng nghe lời ấy. Đến tháng mười năm
quí-mùi (1283) phong cho Hưng-đạo-vương là Trần-quốc- Tuấn làm Tiết-chế
thống-lĩnh mọi quân đi chống giữ với quân nhà Nguyên.
Qua
tháng tám năm giáp-thân (1284) ông Trần quốc Tuấn truyền hịch cho các vương-hầu
hội hết quân-sĩ tại bến Đông-bộ-đầu để điểm-duyệt. Quân thủy và quân bộ hết cả
thảy 20 vạn.
Ông Trần
quốc Tuấn truyền cho các tướng-sĩ rằng: "Bản-chức phụng-mệnh thống đốc
quân-sĩ ra phá giặc. Các vương-hầu và các tướng-sĩ, ai nấy phải cần giữ
phép-tắc, đi đâu không được nhiễu dân và phải đồng lòng hết sức đánh giặc, chớ
thấy thua mà ngã lòng, chớ thấy được mà tự kiêu, việc quân có luật, phép nước
không thân, các ngươi phải giữ ". Xong rồi sai Trần bình Trọng đem quân đi
đóng đồn ở trên sông Bình-than, Trần khánh Dư đem quân ra giữ mặt Vân-đồn
(thuộc Vân-hải ở Quảng-yên), còn các tướng thì chia ra đóng các nơi hiểm-yếu.
Trần quốc Tuấn tự dẫn đại quân đóng ở Vạn-kiếp (tức là làng Kiếp-bạc thuộc
Hải-dương) để tiếp-ứng cho các nơi.
Được ít
lâu, Nhân-tông nghe tin về báo rằng nhà Nguyên hội tại Hồ- quảng sắp sửa kéo
sang mặt Lạng-sơn. Vua có ý lo quân ta không địch nổi, bèn sai sứ mang đồ lể
sang Tàu, xin vua nhà Nguyên hoãn binh, để thương- nghị lại.
Vua nhà
Nguyên không nghe, sai Thoát Hoan cứ việc tiến binh sang. Nhân-tông thấy vậy,
lập tức cho triệu các bô-lão dân-gian hội tại điện Diên- hồng để bàn xem nên
hòa hay nên đánh. Các bô-lão đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân-gian một
lòng như vậy, cũng quyết ý kháng cự.
Quân
Nguyên chia ra làm hai đạo: một đạo do tướng Mông-cổ là Toa Đô đem 10 vạn quân
từ Quảng-châu đi hải-đạo sang đánh Chiêm-thành; còn Thoát Hoan thì kéo đại binh
đến ải-quan, sai người đưa thư sang nói cho mượn đường đi đánh Chiêm-thành.
Nhân-tông
tiếp được thư của Thoát Hoan, trả lời lại rằng: "Tự bản- quốc sang
Chiêm-thành, thủy lục không có đường nào tiện ". Sứ-giã về nói với Thoát
Hoan, Thoát Hoan nổi giận, thúc quân kéo sang mạn Lạng-sơn, rồi sang quan
Bả-tổng tên là A Lý đến dụ rằng:
"Bản-súy chỉ nhờ đường Nam- quốc sang đánh Chiêm-thành, chứ không
có bụng gì đâu mà ngại. Nên mở cửa ải cho quân bản-súy đi, và đi dến đâu, nhờ
giúp ít nhiều lương-thảo, rồi khi nào phá xong Chiêm-thành thì sẽ có trọng ta
về sau. Nhược bằng
kháng-cự
thiên binh, thì bản-súy sẽ không dong tình, phá tan bờ-cõi, bấy giờ dù hối lại
cũng không kịp ".
Hưng-đạo-vương
Trần quốc Tuấn nổi giận, đuổi A Lý về, rồi phân binh giữ ải Khả-li và Lộc-châu
(thuộc Lạng-sơn) còn mình thì tự dẫn quân đi đóng giữ núi Kì-cấp. Những chiến
thuyền thì đóng ở Bái-tân40 giữ mặt thủy.
4. Trần Hưng Đạo Vương Quân Thua Về Vạn
Kiếp.
Thoát
Hoan thấy Hưng-đạo-vương giữ cả các nơi, liền tiến binh lên đánh núi Kì-cấp, ải
Khả-li và ải Lộc-châu. Quân hai bên đánh nhau ở núi Kì-cấp hai ba trận không
phân thắng bại. Nhưng sau vì Khả-li và Lộc-châu thất thủ, quân An-nam phải rút
về ải Chi-lăng41. Thoát Hoan dẫn đại binh đến đánh Chi- lăng, Hưng-đạo-vương
kém thế, thua chạy ra bến Bái-tân, xuống thuyền cùng với bọn gia-tướng, là Dã
Tượng và Yết Kiêu về Vạn-kiếp. Các tướng thu nhặt tàn quân dần dần cũng kéo về
đấy cả.
Nhân-tông
nghe Hưng-đạo-vương thua chạy về Vạn-kiếp, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống
Hải-đông (tức là Hải-dương) rồi cho vời Hưng- đạo-vương đến bàn việc, nhân thấy
quân mình thua, trong bụng lo sợ, mới bảo Hưng-đạo-vương rằng: "Thế giặc
to như vậy, mà chống với nó thì dân- sự tàn-hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi
để cứu muôn dân".
Hưng-đạo-vương
tâu rằng: "Bệ-hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân- đức, nhưng mà Tôn-miếu
Xã-tắc thì sao? Nếu bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau
sẽ hàng!". Vua nghe lời nói trung-liệt như vậy, trong bụng mới yên.
Hưng-đạo-vương
chiêu-tập quân các đạo, hội tại Vạn-kiếp được hơn 20 vạn quân, thế lại nổi to.
Bấy giờ Hưng-đạo-vương có soạn ra một quyển Bình-thư yếu-lược rồi truyền hịch
khuyên-răn các tướng-sĩ. Tờ hịch ấy làm
bằng Hán-văn, nay dịch ra quốc âm như sau này:
"Ta
thường nghe chuyện: Kỷ Tín liều thân
chịu chết thay cho vua Cao-đế; Do Vu lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu-vương;
Dư Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho
nước; Kính Đức là một chức quan còn nhỏ, mà liều thân cứu vua Thái-tông được
thoát vòng vây; Kiểu Khanh là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng Lộc Sơn là
quân
40 Ở
Thượng lưu sông Lục Nam, có lẽ là bến Chữ.
41 Cửa
Chi Lăng, tục gọi là bầu Chi Lăng ở tổng Chi Lăng, gần ga Tuần Muội, thuộc về
địa hạt châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ấy là một nơi hiểm địa nước Nam ta. Trần Hưng Đạo Vương sau lại phá quân Nguyên ở
chỗ ấy, và đến đầu đời Lê, vua Thái Tổ giết tướng nhà Minh là Liễu Thăng cũng ở
chỗ ấy.
nghịch-tặc. Các bậc trung-thần nghĩa-sĩ ngày xưa, bỏ mình
vì nước, đời nào không có? Giả-sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường
tình, chết già ở xo nhà thì sao cho lưu danh sử-sách đến nghìn muôn đời như thế
được?
Nay các
ngươi vốn dòng vũ-tướng, không hiểu văn-nghĩa, nghe những chuyện cổ-tích ấy,
nửa tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nửa; ta hãy đem chuyện đời Tống, Nguyên
mới rồi mà nói: Vương công Kiên là người thế nào? Tỳ-tướng của Vương công Kiên
là Nguyễn văn Lập lại là người thế nào, mà giữ một thành Điếu-ngư42 nhỏ mọn,
chống với quân Mông-kha43 kể hàng trăm vạn, khiến cho dân sự nhà Tống, đến nay
còn đội ơn sâu. Đường ngột Ngại là người như thế nào? Tỳ-tướng của Đường ngột Ngại là Xích tu Tư
lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam-chướng xa xôi, đánh được quân
Nam-chiếu trong vài ba tuần, khiến cho quân-trướng đời Nguyên đến nay còn lưu
tiếng tốt. Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu- nhương, gặp phải buổi
gian-nan này, trông thấy những ngụy-sứ đi lại rầm- rập ngoài đường, uốn lưỡi cú
diều mà xỉ-mắng triều-đình, đem thân dê chó mà bắt-nạt tổ-phụ, lại cậy thế Hốt
tất Liệt mà đòi ngọc-lụa, ỷ thế Vân-nam- vương44 để vét bạc vàng; của kho có
hạn, lòng tham không cùng, khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho
khỏi tai-vạ về sau!
Ta đây,
ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm-đìa, chỉ
căm-tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài
nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi
giữ binh-quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta
cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy
thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn-nạn thì cùng nhau sống chết,
lúc nhàn-hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư-xử so với Vương công Kiên,
Đường ngột Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì.
Nay các
ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sĩ mà không biết
thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến
ngụy sứ, mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui- đùa, hoặc lấy việc
đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ
con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn mà quên việc
binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà
trống sao cho đâm thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân
mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ
bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà mua cho được đầu giặc;
chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc
say chết; tiếng
42 Điếu
Ngư là tên núi, thuộc phủ Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên.
43 Mông
Kha (Mungke) là vua Mông Cổ, anh Hốt Tất Liệt.
44 Khi
quân Mông Cổ lấy được đất Vân Nam rồi, Hốt Tất Liệt phong cho con là Hố Kha
Kích làm Vân Nam Vương.
hát hay
không làm được cho giặc điết tai; khi bấy giờ chẳng những là thái-ấp của ta
không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng hết; chẳng những là gia- quyến ta bị
đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ,
mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi; mà gia thanh của các ngươi cũng
chẵng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có
được hay không?
Nay ta
bảo thật các ngươi: nên cẩn-thận như nơi củi lửa, nên giữ-gìn như kẻ húp canh,
dạy-bảo quân-sĩ, luyện-tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như
Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được
công-danh. Chẳng những là thái-ấp ta được vững- bền, mà các ngươi cũng đều được
hưởng bổng-lộc; chẳng những là gia- quyến của ta được yên-ổn, mà các ngươi cũng
đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên-nhân ta được vẻ-vang, mà các ngươi
cũng được phụng- thờ tổ-phụ, trăm năm vinh-hiển; chẳng những là một mình ta
được sung- sướng, mà các ngươi cũng được lưu-truyền sử-sách, nghìn đời
thơm-tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui-vẻ, cũng tự khắc được vui-vẻ.
Nay ta
soạn hết các binh pháp của các nhà danh-gia hợp lại làm một quyển gọi là
"Binh-thư yếu-lược". Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách này, theo lời
dạy-bảo, thì mới phải đạo thần-tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời
dạy-bảo, thì tức là kẻ nghịch-thù.
Bởi cớ
saỏ Bởi giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi
cứ điềm-nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân-sĩ, khác nào
như quay ngọn giáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thu quân giặc,
khiến cho sau trận Bình-lỗ45 mà ta phải
chịu tiếng xấu muôn đời, thì còn mặt-mũi nài đứng trong trời đất nữa. Vậy nên
ta phải làm ra bài hịch này để cho các ngươi biết bụng ta".
5. Thành Thăng Long Thất Thủ. Các tướng-sĩ
được lời khuyên- răn ấy, ai nấy hết lòng luyện-tập, quyết chí đánh giặc, cho
nên người nào cũng lấy mực thích vào cánh tay hai chữ "Sát Đát "
nghĩa là giết quân Mông-cổ. Khi Thoát Hoan lấy xong các ải ở Lạng-sơn rồi, thừa
thắng đánh xuống Vạn-kiếp, quân An-nam non thế, địch không nổi thua chạy, bao
nhiêu chuyến thuyền mất cả. Quân Mông-cổ bắt được quân An-nam thấy người nào
cũng có hai chử "Sát Đát" ở cánh tay, giận lắm, đem giết sạch cả, rồi
kéo tràn sang mặt Kinh-bắc. Thoát Hoan thả quân cho cướp phá vùng Võ- ninh,
Gia-lâm, Đông-ngạn rồi kéo về đóng tại bến Đông-bộ-đầu, Hưng-đạo- vương lập
trại mé ngạn để phòng giữ.
45 Bình
Lỗ là tên thành, nhưng sử cũ không chép rõ ở đâu và ai xây lên. Sách "Khâm
Định Việt Sử" chép rằng theo bộ "Dư Địa Chí" của ông Nguyễn
Trãi, thì đời nhà Lý có đào con sông Bình Lỗ để đi lên Thái Nguyên cho tiện.
Vậy thành Bình Lỗ có lẽ ở vào hạt Thái Nguyên. Xem lời dặn của Trần Hưng Đạo
Vương thì thành Bình Lỗ này xây vào đời Đinh hay đời Tiền Lê, rồi Lý Thường
Kiệt đời Lý đã đánh quân Tống ở đó.
Thoát
Hoan thấy phía nam ngạn sông Hồng-hà46 có trại quân An- nam đóng giữ, mới sai
quân lấy súng đại-bác bắn sang, phá tan cả các trại, quân-sĩ khiếp-sợ bỏ chạy
hết sạch. Quân Mông-cổ bấy giờ làm cầu phao qua sông, kéo đến tận chân thành
Thăng-long hạ trại.
Hưng-đạo-vương
rước xa-gía Thượng-hoàng và vua ra ngoài Thăng- long, để các tướng ở lại giữ
thành. Đến khi Thoát Hoan vây đánh, hạ được thành, biết rằng Hưng-đạo-vương đã
rước xa-giá xuống mặt nam rồi, liền sai tướng dẫn quân đi đuổi đánh.
6. Toa Đô Đánh Nghệ An. Toa Đô là tướng đạo
thứ hai quân Nguyên, đi đường bể sang đánh Chiêm-thành, nhưng mà quân nước
Chiêm giữ được các đường hiểm-yếu, đánh mãi không được. Nguyên chúa hạ chiếu
sai Toa Đô theo đường bộ kéo ra mặt Nghệ-an, hợp với quân Thoát Hoan để đánh
An-nam.
Thoát
Hoan được biết tin ấy, liền sai tương Ô mã Nhi dẫn quân đi đường bể vào
tiếp-ứng cho Toa Đô để đánh tự mặt trong đánh ra, còn ở mặt ngoài thì chiến
thuyền của nhà Nguyên chia ra giữ các bến đóng ở sông Hồng-hà47 từ Thăng-long
xuống đến khúc sông Đại-hoàng (thuộc huyện Nam-xang, Hà-nam).
7. Hưng Đạo Vương Đem Vua Về Thanh Hóa. Bấy
giờ Hưng-đạo-vương dẫn các tương hộ-vệ xa-giá xuống Thiên-trường, nghe Toa Đô
từ vùng trong kéo ra, Hưng-đạo-vương tâu vua xin sai Thượng-tướng Trần quang
Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ-an, giữ chặn đường hẽm, không cho Toa Đô ra, và
sai Trần bình Trọng ở lại giữ Thiên-trường cự nhau với quân Thoát Hoan, rồi
rước xa-giá ra Hải-dương.
Trần
quang Khải vào đến Nghệ-an, chia quân phòng giữ, nhưng mà quân nhà Nguyên thế
mạnh, đi đến đâu đánh tan đến đấy, lại có Ô mã Nhi ở mặt bể đánh vào. Quang
Khải đương không nổi, phải lui quân ra mặt ngoài. Còn quan trấn-thủ Nghệ-an là
Trần Kiện đem cả nhà ra hàng với Toa Đô. Toa Đô cho đưa bọn Trần Kiện về
Yên-kinh.
Hưng-đạo-vương
nghe tin, sai tướng đem quân đi lẻn đường tắt đuổi theo. Khi quân Nguyên đưa
Trần Kiện đến địa-phận Lạng-sơn, qua trại Ma-lục (?), thì có người thổ-hào ở
đấy tên là Nguyễn thế Lộc và Nguyễn Lĩnh đem dân
binh ra đánh. Lại có quan quân đuổi đến nơi, quân Nguyên bỏ chạy. Trần Kiện bị tên bắn chết, nhưng có người nhà
là Lê Tắc cướp được thây chạy thoát, đưa đến gò Ôn-khâu (Lạng-sơn) mai-táng
xong rồi trốn sang Tàu. Lê Tắc là dòng dõi Nguyễn Phu làm Thứ-sử Giao-châu về đời
Đông-Tấn (317-419) ngày trước. Tự lúc trốn sang Tàu rồi, Lê Tắc có làm bộ sử
"An-nam chí-lược". Bộ sử ấy hiện bây giờ còn có ở bên Tàu và bên
Nhật- bản. ở
Thiên-trường, Trần bình Trọng thấy quân nhà Nguyên đã đến bãi Đà-mạc (ở khúc
sông Thiên-mạc, huyện Đông-an, Hưng-yên) liền đem binh ra đánh, nhưng chẳng may
bi vây, phải bắt. Quân Nguyên đưa Bình Trọng về nộp cho Thoát Hoan. Thoát Hoan
biết Bình Trọng là tướng khỏe-mạnh, muốn khuyên-dỗ về hàng, thết-đãi cho
ăn-uống, nhưng Bình Trọng không ăn, dỗ-dành hỏi dò việc nước, Bình Trọng cũng
không nói. Sau Thoát Hoan hỏi rằng: "Có muốn là vương đất Bắc không?"
Bình Trọng quát lên rằng: "Tà thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm
vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một
chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi-thôi!" Thoát Hoan thấy dỗ không được,
sai quân đem chém.
Thánh-tông
thượng-hoàng cùng Nhân-tông và Hưng-đạo-vương nghe tin Trần bình Trọng tử-tiết,
ai nấy động lòng thương-xót.
Hưng-đạo-vương
thấy thế nguy-cấp lắm, bèn rước xa-giá ra Quảng- yên. Thuyền
đi về đường
sông Tam-chỉ (thuộc
châu Tiên-yên), sai
một tướng dẫn chiếc thuyền rồng ra cửa bể Ngọc-sơn (thuộc châu Vạn-ninh,
tỉnh Quảng-yên) làm cho nghi tình quân giặc. Tướng nhà Nguyên là Lý Hằng và
Khoan Triệt sai người do-thám biết thuyền ra Ngọc-sơn là giả, mới dẫn quân đuổi
theo đến sông Tam-chỉ, Hưng-đạo-vương rước xa-giá lên bộ đi đến làng Thủy-chú
rồi lại xuống thuyền ra sông Nam-triều (tức Bạch-đằng-giang, thuộc Hải-dương)
rồi vaò tỉnh Thanh-hóa. Bấy giờ quân
Nguyên thế lắm, đóng khắp các nơi, từ vùng Bắc-ninh, Thăng-long, Thiên-trường,
chỗ nào cũng có quân đóng. Ở vùng Nghệ-an lại có Toa Đô, Đường ngột Ngải, Ô mã
Nhi đánh ra. Nhân-tông kinh-hãi, Thượng-hoàng đêm ngày lo sợ. Nhà nước
ngất-ngưởng nguy như trứng chồng. Bọn Hoàng-tộc là Trần ích Tắc, Trần tú Viên
đều ra hàng Thoát Hoan cả. Chỉ có
Hưng-đạo-vương phụng xa- giá đi, trèo non vượt bể, trải gió dầm mưa, thế lực
tuy cùng, nhưng vẫn bền vững một lòng, tìm kế đánh giặc, lo liệu việc nước
không rối sợ lúc nào. Thật là một người có tài đại-tướng, có thể cứu dân giúp
nước, tiếng để muôn đời.
46 Sử
chép là Phú Lương Giang.
47 Sử
chép là Phú Lương Giang.
8. Trận Hàm Tử Quan - Trần Nhật Duật phá
quân Toa Đô: Đạo quân của Toa Đô ở Chiêm-thành kéo ra đánh lấy đất Nghệ-an.
Trần quang Khải đem quân lùi ra mặt ngoài giữ các đường hiểm-yếu. Toa Đô đánh
mãi không được, mà lương-thảo thì một ngày một cạn, bèn cùng với Ô mã Nhi dẫn
quân xuống thuyền vượt bể ra ngoài Bắc để hợp binh với Thoát Hoan.
Trần
quang Khải được tin ấy, cho người về Thanh-hóa phi báo. Nhân-tông hội quân-thần
lại hỏi kế, Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Toa Đô tự Chiêm- thành trở ra, qua
vùng Ô-lý (Thuận-hóa), Hoan (Nghệ-an), Ái (Thanh-hóa), đường sá gập-ghềnh,
quân-sĩ vất-vả, nay lại vượt bể ra Bắc, thì sức-lực cũng đã mỏi-mệt. Vậy nay
nên sai một tướng nên ra đón đường mà đánh thì chắc phá được".
Nhân-tông
nghe lời, sai Chiêu-văn-vương Trần nhật Duật làm tướng và Trần quốc Toản48 làm
phó-tướng cùng với tướng-quân là Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đường đánh
Toa Đô ở mặt Hải-dương. Tháng tư năm ất-dậu (1285) Trần nhật Duật ra đến Hàm-tử
(thuộc huyện Đông-an, Hưng-yên) thì gặp chiến thuyền của Toa Đô, Nhật Duật liền
phân binh ra đánh. Quân Nhật Duật bấy giờ có bọn Triệu Trung là tướng nhà Tống
sang xin tùng chinh, mặc áo đeo cung như quân nhà Tống. Đến khi giáp trận, quân
Nguyên trông thấy bọn Triệu Trung, tưởng là nhà Tống đã khôi-phục được nước
Tàu, rồi cho quân sang cứu An-nam, đứa nào cũng sợ-hãi bỏ chạy. Quân ta đuổi
đánh, quân giặc thua to chết hại rất nhiều. Toa Đô phải lùi ra ở bải
Thiên-trường.
Trần
nhật Duật thắng trận, cho Quốc Toản đưa tin về Thanh-hóa. Hưng-đạo-vương được
tin mừng ấy, vào tâu với vua rằng: "Quân ta mới thắng, khí-lực đang hăng,
mà quân Nguyên mới thua, tất cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này mà tiến quân
đánh Thoát Hoan để khôi phục Kinh-thành".
Vua nghe
lời truyền sắp sửa tiến binh. Sực có Thượng tướng Trần quang Khải ở trong
Nghệ-an ra, xin đi đánh Thoát Hoan. Vua liền sai Quang Khải thu-xếp quân-sĩ để
ra đánh Thăng-long và truyền hịch sai Trần nhật Duật đóng quân giữ chặn đường
không cho bọn Toa Đô kéo lên hợp với Thoát Hoan.
48 Sử
chép rằng khi vua Nhân Tông hội các vương thần ở Bình Than đê/ bàn việc chống
giặc, Trần Quốc Toản bấy giờ mới có 15, 16 tuổi cũng theo ra hội. Vì còn nhỏ
tuổi cho nên không được dự bàn, Quốc Toản căm tức vô cùng, trong tay cầm quả
cam bóp vỡ nát ra lúc nào không biết. Khi tan hội, ai nấy về lo sửa soạn binh
thuyền. Quốc Toản về nhà cùng tụ họp những người thân thuộc, sắm đồ khí giới,
may lá cờ đề sáu chữ: "Phá Cường Địch Báo Hoàng Ân" Rồi đem quân đi
đánh giặc. Đánh chỗ nào quân giặc cũng phải lùi.
9. Trận Chương-Dương-Độ - Trần Quang Khải
khôi phục Thăng Long: Khi bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng-long,
còn chiến thuyền thì lại đóng ở bến Chương-dương, địa phận huyện Thượng-phúc.
Trần
quang Khải với Trần quốc Toản và Phạm ngũ Lảo đem quân từ Thanh-hóa đi thuyền
vòng đường bể ra đến bến Chương-dương, sấn vào đánh chiến-thuyền của quân
Nguyên. Quan quân đánh hăng quá, quân Nguyên địch không nổi phải bỏ chạy. Quan
quân lên bộ đuổi đánh về đến chân thành
Thăng-long hạ trại. Thoát Hoan đem đại
quân ra cự địch, bị phục binh của Trần quang Khải đánh úp lại, quân Nguyên phải
bỏ thành Thăng-long chạy qua sông Hồng-hà49 sang giữ mặt Kinh-bắc (Bắc-ninh).
Trần quang
Khải đem quân vào thành mở tiệc khao quân. Đến khi uống rượu vui-vẻ, Quang Khải
ngâm bài thơ rằng:
Đoạt sáo
Chương-dương-độ50
Cầm hồ Hàm-tử quan
Cầm hồ Hàm-tử quan
Thái-bình
nghi nỗ lực
Vạn cổ thủ giang-san
Vạn cổ thủ giang-san
Dịch
nôm:
Chương-dương
cướp giáo-giặc
Hàm-tử bắt quân thù
Hàm-tử bắt quân thù
Thái-bình
nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Non nước ấy nghìn thu
Trần
quang Khải sai người về Thanh-hoá dâng biểu báo tin thắng trận. Vua Nhân-tông
thấy quân thế đã mạnh, trong hai tháng đánh được hai trận, quân-sĩ ai nấy đều
nức lòng đánh giặc, bèn rước Thượng-hoàng và cất binh-mã ra đóng ở Tràng-an
(Ninh-bình).
10. Trận Tây Kết - Tướng Nhà Trần Chép Được Toa
Đô: Toa Đô đóng quân ở Thiên-trường xa cách Thoát Hoan hơn 200 dặm, cho nên
chưa biết Thoát Hoan đã thua chạy về Bắc-giang rồi, bèn tiến bình vào đóng ở
sông Thiên-mạc51 định để hợp sức với Thoát Hoan làm thế ỷ- giốc. Được mấy hôm
Toa Đô biết đạo tiền quân của mình đã bại trận, mà
49 Sử
chép là Phú Lương.
50 Chữ
Nho là:
51 Thiên
Mạc là một khúc sông Hồng Hà ở vào địa hạt huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên.
các bến
thì chỗ nào cũng có quân nhà Trần án ngữ, mới lui về đóng ở Tây- kết52 rồi cho
người đi dò xem quân Thoát Hoan đóng ở đâu.
Quân
An-nam từ khi đánh được trận Hàm-tử và trận Chương-dương rồi, quân-thế phấn
chấn lắm. Hưng-đạo-vương mừng rỡ, vào tâu với Nhân- tông xin một mặt sai
Chiêu-văn-vương Trần nhật Duật, hợp với Thượng- tướng Trần quang Khải dẫn quân
chặn các đường, không cho Thoát Hoan, Toa Đô đi lại thông tin với nhau, và một
mặt xin tự tiến binh ra đánh Toa Đô, rồi đánh Thoát Hoan.
Nhân-tông
nghe lời ấy, cho Hưng-đạo-vương tùy ý mà sai khiến. Khi quân ra đến Tây-kết,
Hưng-đạo-vương chia quân ra đánh trại quân Nguyên, và đặt phục binh để bắt Toa
Đô.
Quân ta
đánh hăng quá, quân Nguyên không địch nổi, Toa Đô và Ô mã Nhi đem binh lên bộ
chạy ra mặt bể, nhưng khi chạy đến mé sau một dãy núi, thì bị quân An-nam vây
đánh, Toa Đô trúng tên chết, còn Ô mã Nhi thì tìm đường chạy vào Thanh-hóa,
nhưng bị quân ta đánh đuổi ngặt quá, phải một mình lẻn xuống chiếc thuyền con
chạy ra bể, trốn về Tàu được.
Khi các
tướng thắng trận, đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân-tông thấy người dũng-kiện mà lại
hết lòng với chúa, mới than rằng: "Làm bầy tôi nên như người này!"
rồi cởi áo ngự-hào đắp vào đầu Toa Đô, sai quan dùng lễ mai-táng cho tử-tế.
Trận
Tây-kết đánh vào tháng năm, năm ất-dậu (1285) quan quân bắt được quân Nguyên
hơn 3 vạn người, và chiến-thuyền khí-giới không biết bao nhiêu mà kể.
Hưng-đạo-vương được trận toàn thắng, mở tiệc khao thưởng ba quân, rồi lên đánh
mặt bắc, để tiểu-trừ Thoát Hoan.
11. Trận Vạn Kiếp - Thoát Hoan Trốn Chạy Về
Tàu: Bấy giờ Thoát Hoan đóng quân ở Bắc-giang, nghe tin đồn Toa Đô tử trận, Ô
mã Nhi đã trốn về Tàu, quân-binh tướng-sĩ ai nấy đều ngã lòng cả. Vả lại trời
đang mùa
hè nóng-nực khó
chịu, sơn-lam chướng-khí
bốc lên, quân-sĩ
bị dịch-tễ chết hại cũng nhiều.
Bởi thế có bụng muốn rút quân về Tàu.
Hưng-đạo-vương
cũng biết cơ Thoát Hoan tất phải chạy, liền sai Nguyễn Khoái, Phạm ngũ Lão dẫn
3 vạn quân đi lên đường núi, phục sẵn hai bên rừng sậy ở bên sông Vạn-kiếp, để
chờ lúc quân Nguyên chạy đến thì đổ ra đánh;
sai hai con là Hưng-võ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy dẫn 3 vạn quân đi
đường Hải-dương ra mặt Quảng-yên, giữ chặn đường về châu Tư-minh;
Hưng-đạo-vương tự dẫn đại quân lên Bắc-giang đánh quân Nguyên. Quân Nguyên thua
chạy, Thoát Hoan dẫn đại binh chạy đến bến Vạn-kiếp, gặp bọn Nguyễn Khoái ra
đánh, quân Nguyên mười phần tổn-hại mất năm.
Tướng nhà Nguyên là Lý Hằng bị tên bắn chết. Còn Thoát Hoan, Phàn Tiếp , A bát Xích, Lý
Quán cố sức đánh lấy đường mà chạy. Sau thấy quân An-nam đuổi kíp quá, Thoát
Hoan phải chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy. Về gần đến châu
Tư-ninh lại gặp bọn Hưng-võ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy đánh đuổi một
trận nửa. Lý Quán trúng tên bắn chết. Thoát Hoan, A bát Xích và Phàn Tiếp chạy
thoát về Tàu được.
Thế là
Đại-quân của Thoát Hoan lúc đầu mới sang lừng-lẫy bao nhiêu, bây giờ tan nát
mất cả. Trong sáu tháng trời, từ tháng chạp năm giáp thân (1284) đến tháng sáu
năm ất dậu (1285), quân An-nam đuổi 50 vạn quân Mông-cổ ra ngoài bờ-cỏi, chỉnh-đốn
giang-sơn lại như cũ. Ấy cũng nhờ có tay
Hưng-đạo-vương có tài đại-tướng, cầm quân vững-chãi, gan bền tựa sắt, và lại
khéo dùng lời khuyên-dỗ, khiến cho bụng người cảm-động, sinh lòng trung-nghĩa,
cho nên tướng-sĩ ai nấy đều hết lòng giúp nước.
Vả nước
An-nam thời bấy giờ vua tôi hòa-hợp, lòng người như một, nhân-tài lũ-lượt kéo
ra; mà quân Nguyên sang An-nam thì đường xa muôn dặm, núi sông cách trở, hùng
mạnh được lúc đầu mà thôi, sau thành ra bệnh-tật yếu-đau. Như thế mà lại gặp
phải tay Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế
tiến thoái, cho nên sự quân nhà Nguyên thua tan-nát là sự tất-nhiên vậy.
52 Hiện
nay thuộc phủ Khoái Châu (Hưng Yên) có làng Đông Kết ở vào trong cách xa bờ
sông Hồng Hà. Hoặc ở phía tây gần bờ sông, ngày xưa có làng Tây Kết mà nay đã
lỡ mất đi chăng?
CHƯƠNG
VII
GIẶC NHÀ
NGUYÊN II
(1284-1288)
1. Nguyên-chủ định khởi binh phục thù
2. Thoát Hoan sang đánh lần thứ hai
3. Trận Vân-đồn Trần khánh Dư cướp lương của
quân Nguyên
4. Trận Bạch-đằng-giang Ô mã Nhi phải bắt
5. Hưng-đạo-vương đại phá Nguyên-binh
6. Sứ An-nam sang Tàu xin hòa
7. Định công, phạt tội
8. Định cuộc hòa-hiếu
1. Nguyên Chủ định khởi binh phục thù.
Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn phá được quân Nguyên rồi thì kéo quân về Tràng-an,
rước Thượng-hoàng và Nhân-tông ra Thăng-long. Giang-sơn nhà Trần lại khôi phục
đâu vào đấy cả. Bọn Thoát Hoan bại trận về Tàu, nghĩ khi đi thì thanh- thế
lừng-lẫy bao nhiêu, khi về thì hao binh tổn tướng, lấy làm xấu hổ lắm. Định xin
Nguyên-chủ cho thêm binh-mã sang đánh báo thù.
Nguyên-chủ
thấy bọn Thoát Hoan bại trận về, giận lắm, muốn bắt chém cả, nhưng quân-thần
can-ngăn mãi mới thôi.
Bấy giờ
nhà Nguyên đang sắp sửa cất quân sang đánh Nhật-bản, bèn lập tức đình việc đi
đánh Nhật-bản lại và sai đóng thêm 300 chiếc thuyền, truyền
hịch cho ba
tỉnh Giang-hoài, Hồ-quảng,
Giang-tây tụ tập quân-sĩ, định đến tháng tám thì cất quân
noi đường châu Khâm, châu Liêm sang đánh nước Nam để báo thù.
Nhân-tông
nghe tin Nguyên-triều sắp sửa cất quân sang đánh An- nam, bèn vời
Hưng-đạo-vương vào hỏi rằng: "Thoát Hoan bại trận trở về, chuyến này
căm-tức định sang đánh báo thù, quân-thế hẳn to hơn trước, ta nên dùng kế gì mà
chống lại được?" Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Nước ta xưa kia, quân-dân
hưởng thái-bình đã lâu, không tập đến việc chiến-trận, cho nên năm trước quân
Nguyên vào cướp còn có kẻ trốn-tránh theo hàng- giặc. May nhờ có oai-linh
Tổ-tông, và thần-võ của Bệ-hạ, đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét
sạch được bờ-cõi. Còn như bây giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch
thì đi xa mỏi-mệt. Vả lại thấy Toa Đô,
Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân-tình đã sinh nghi-sợ, hẳn
không dám hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi, thì chuyến này dù có quân Nguyên sang
đây, ta phá cũng dễ hơn phe trước, xin bệ-hạ đừng lo".
Nhân-tông
mừng rỡ, sai Hưng-đạo-vương đốc-suất các vương-hầu, mộ thêm quân-sĩ, sử-sang
khí-giới để phòng việc công thủ.
2. Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ Hai. Sang
mùa xuân tháng hai năm đinh-hợi (1287) Nguyên-chủ kén lấy 7 vạn quân, 5 trăm
chiếc thuyền, 6 nghìn quân Vân-nam và 1 vạn 5 nghìn quân ở bốn châu ngoài bể,
sai Thoát Hoan làm Đại-nguyên-súy, A bát Xích làm Hành-tỉnh-tả-thừa, Áo lỗ Xích
làm Bình-chương-chính-sự, Ô mã Nhi, Phàn Tiếp làm Tham-tri chính-sự, đem tất cả
hơn 30 vạn quân sang đánh nước Nam, giả danh đưa Trần ích Tắc về nước, lập làm
An-nam quốc-vương53. Lại sai Vạn-hộ Trương văn Hổ theo đường bể tải hơn 1754
vạn thạch lương sang cấp cho quân-sĩ.
Qua
tháng mười một, Thoát Hoan dẫn quân noi đường Châu-khâm, châu Liêm đến châu
Tư-minh; sai bọn Trương Ngọc lĩnh 2,000 quân coi việc chở lương-thực, khí-giới
lại sai Trình bằng Phi, Áo lỗ Xích, mỗi người dẫn 1 vạn quân đi đường bộ; Ô mã
Nhi, Phàn Tiếp suất lĩnh thủy-quân đi đường bể, đều tiến sang An-nam.
Quan Trấn-thủ
ở biên-thùy phi báo về Thăng-long. Các quan xin tuyển thêm binh. Hưng-đạo-vương
nói rằng: "Binh cốt giỏi, chứ không cốt nhiều, nếu nhiều mà không giỏi, thí-dụ như Bồ Kiên có trăm vạn quân cũng không ích-gì!"
Quan
tỉnh Hồ-nam là Tuyến Kha dâng sớ về can rằng:
"Quân ta bại trận mới
về, kẻ mang dấu-vết chưa khỏi, người đau-yếu chưa dậy, xin hãy cho quân-sĩ
nghỉ-ngơi dưỡng sức ít lâu, rồi sẽ định kế xuất chinh".
Vua nhà
Nguyên nghe lời, cho quân-sĩ nghĩ vài tháng. Còn Trần ích Tắc đã theo Thoát
Hoan về Tàu, thì cho ra ở Ngạc-châu.
53 Có
sách chép rằng: Thoát Hoan sang đánh An Nam lần thứ hai này có đem một tên
hướng đạo là Nguyễn Nhan, tên chữ là Nguyễn Bá Linh, phạm tội trảm quyết, tình
nguyện đi đánh để lập công chuộc tội. Cha tên Nguyễn Nhan là người Quảng Đông
sang buôn bán ở nước Nam, lấy vợ ở làng An Bài, huyện Đông Triều, đẻ ra Bá
Linh, cho về Tàu học, thi đỗ tiến sĩ, lại cao tay phù thủy. Khi sang An Nam, nó
dùng phép để giúp quân Nguyên. Sau Hưng Đạo Vương bắt được, đưa về chém ở làng
An Bài, là quê mẹ nó. Tục truyền rằng khi tên Nguyễn Nhan chết rồi hồn nó bay
hiện lên trêu ghẹo đàn bà con gái, mà hễ ai phạm đến nó thì chết, cho nên gọi
là Phạm Nhan.
54 Sử cũ
chép là 70 vạn thạch.
Nhân-tông
sai Hưng-đạo-vương thống-lĩnh các vương-hầu, chia quân phòng-giữ các nơi.
Hưng-đạo-vương
sai Trần nhật Duật, Nguyễn Khoái dẫn 3 vạn quân lên giữ mặt Lạng-sơn; sai Trần
quốc Toản, Lê phụ Trần dẫn 3 vạn quân và giữ mặt Nghệ-an; tự mình thống đại
quân ra giữ mặt Quảng-yên. Một mặt sai tiền-quân lên gần châu Tư-minh chia ra
đóng làm ba đồn: Sa, Từ, Trúc, để chống-giữ quân Nguyên; một mặt sai tướng đem
quân ra giữ chặt cửa sông Đại-than55 (thuộc Hải-dương) còn đại-quân của
Hưng-đạo-vương thì đóng lại núi Phù-sơn.
Quan
quân tuy đóng giữ như vậy, nhưng quân Nguyên thế to lắm, chống không nổi, phải
rút về Vạn-kiếp; Thoát Hoan tiến lên chiếm giữ núi Phả-lại và núi Chí-linh, lập
trại chống nhau với quân ta, rồi sai tướng là Trình bằng Phi đem hai vạn lính
đánh lấy đồn Vạn-kiếp, lại sai Ô mã Nhi và A bát Xích dẫn quân từ sông Lục-đầu
đánh xuống sông Hồng-hà.
Hưng-đạo-vương
rút quân về giữ Thăng-long và sai tướng rước xa- giá tạm lánh về Hám-nam (?).
Nhưng
sau khi bị bọn Ô mã Nhi đuổi ngặt quá, Thượng-hoàng và Nhân-tông phải xuống
thuyền ra bể đi vào Thanh-hóa.
Ô mã Nhi
đuổi không kịp, đem quân trở về qua Long-hưng (phủ Tiên-hưng, Thái-bình) biết ở
đấy có Thiên-lăng, là lăng tổ nhà Trần, bèn sai quân đến phá nát cả đi.
Thoát
Hoan đem binh-mã tiến lên vây đánh Thăng-long không được, phải rút về giữ
Vạn-kiếp, Chí-linh và Phả-lại, Hưng-đại-vương cũng tiến quân lên lập trại để
chống với giặc.
Nhân-tông
thấy quân Nguyên đã lùi rồi bèn rước Thượng-hoàng ra
Bắc.
3. Trận Vân Đồn - Trần khánh Dư cướp lương
của quân Nguyên. Quân Nguyên đóng mãi ở Vạn-kiếp lương-thực sắp cạn, Thoát Hoan
bèn sai Ô mã Nhi dẫn thủy-quân ra cửa bể Đại-bàng (huyện
Nghi-dương,
Hải-dương)56 đón thuyền lương của Trương văn Hổ. Ô mã Nhi đem thuyền đi đến ải
Vân-đồn (Vân-hải, Quảng-yên) gặp quân của Nhân- huệ-vương Trần khánh Dư chặn
đường không cho đi. Ô mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ
chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương.
Thượng-hoàng
nghe tin thủy-quân ở Vân-đồn bại trận, cho sứ ra bắt Khánh Dư về hỏi tội.
Khánh Dư
từ khi thất trận, đang nghĩ kế phục binh thù, bỗng thấy sứ ra bắt, Khánh Dư
tiếp sứ rồi nói rằng: "Tôi sai
tướng-lệnh đành thôi chịu tội, nhưng xin khoan cho tôi một vài hôm, may mà tôi
lập được công khác để chuộc tội chăng?"
Được mấy
hôm Ô mã Nhi ra bể gặp thuyền lương của Trương văn Hổ, lại đem quân trở vào đi
trước dẹp đường. Trương văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau.
Khánh Dư
đồ rằng Ô mã Nhi đã phá được quân ta, trong bụng hắn chắc rằng không còn ai
ngăn-trở gì nữa, cho nên mới khinh thường đem binh thuyền đi trước. Khánh Dư bèn
nhặt-nhạnh thuyền-bè phục quân sẵn đợi thuyền lương của Trương văn Hổ đến thì
kéo ra đánh.
Quả-nhiên
Trương văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể Lục-thủy- dương (phía đông-nam
huyện Hoành-bồ tức là vịnh cửa Lục bây giờ).
Khánh Dư đổ quân ra đánh. Văn Hổ
địch không nổi, bao nhiêu thuyền lương bị quân của Khánh Dư phá cướp mất cả, và
bắt được khí giới rất nhiều. Còn Trương văn Hổ thì chạy xuống chiếc thuyền nhỏ
trốn về Quỳnh-châu.
Khánh Dư
thắng trận đưa thư về báo tiệp. Thượng-hoàng mừng rỡ, xá tội trước không hỏi,
và bảo Hưng-đạo-vương rằng: "Quân Nguyên cốt trông cậy có lương-thảo
khí-giới, nay đã bị ta cướp được cả rồi, thì thế nó không tràng-cửu được nữa.
Nhưng nó chưa biết tất còn đắc chí, vậy ta nên tha những quân bị bắt cho về báo
tin với Thoát Hoan, thì quân-sĩ của nó tất ngã lòng, bấy giờ mới phá rất
dễ".
Hưng-đạo-vương
tuân lệnh, cho lũ quân Nguyên về. Từ đấy quân của Thoát Hoan xôn-xao, có bụng
muốn về Tàu, mà lương-thực một ngày một cạn.
55 Huyện
Nghi Dương nay thuộc về tỉnh Kiến An.
56 Bấy giờ thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, liền với Bình Than.
56 Bấy giờ thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, liền với Bình Than.
Ô mã Nhi
từ khi ở ải Vân-đồn trở về, chờ mãi không thấy thuyền lương đến, bèn đem quân
đến phá trại An-hưng (thuộc Quảng-yên) rồi rút về Vạn-kiếp.
4. Trận Bạch Đằng Giang - Ô mã Nhi phải bắt.
Quân Nguyên từ khi thua trận Vân-đồn, lương-thảo một ngàymột cạn đi, Thoát Hoan
muốn cho người về Tàu cầu viện và lấy thêm lương, Hưng-đạo-vương biết ý, sai
tướng lên giữ núi Kỳ-cấp và ải Nữ-nhi ở mặt Lạng-sơn không cho người Tàu đi
lại.
Các tướng
thấy vậy bèn vào bàn với Thoát Hoan rằng: "Quân ta đóng ở đây, thành-trì
đã không có, kho-tàng lại cạn cả; và bây giờ là đang lúc hết xuân sang hạ, khí
trời nồng-nực, mà lại những chổ hiểm-yếu đều mất cả, chi bằng hãy rút quân về,
rồi sau sẽ liệu kế khác".
Thoát
Hoan thấy quân thế của Hưng-đạo-vương mạnh lắm, chưa có thể phá được, bèn nghe
lời các tướng, sai Ô mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy- quân theo đường sông
Bạch-đằng57 về trước. Còn mặt bộ thì sai Trình bằng Phi, Trương Quân dẫn binh
đi chặn hậu. Sửa-soạn định vài hôm nữa thì rút về.
Hưng-đạo-vương
biết mưu ấy, bèn sai Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt mé sông thượng-lưu
sông Bạch-đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giửa giòng sông, rồi phục
binh chờ đến lúc nào nước thủy- triều lên thì đem binh ra khiêu-chiến, nhử cho
thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy-triều xuống thì quay binh
lại hết sức mà đánh. Lại sai Phạm ngũ Lão, Nguyễn chế Nghĩa dẫn quân lên phục ở
ải Nội-bàng (thuộc Lạng-sơn) chờ quân Nguyên chạy lên đến đấy thi đổ ra mà
đánh.
Các
tướng đi đâu đấy cả rồi. Hưng-đạo-vương tiến quân lên đánh giặc, sực nghe tin
báo rằng Ô mã Nhi đã kéo quân về đến Bạch-đằng, Hưng- đạo-vương mới hô quân-sĩ
, trỏ sông Hóa-giang58 mà thề rằng: "Trận này không phá xong giặc Nguyên,
thì không về đến sông này nửa!" Quân-sĩ ai nấy đều xin quyết chiến, kéo
một mạch đến sông Bạch-đằng.
Những
chiến-thuyền của Ô mã Nhi, Phàn Tiếp theo giòng sông Bạch- đằng, bỗng chốc thấy
tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền đến khiêu-chiến. Ô mã Nhi tức
giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn
57 Sông
Bạch Đằng bây giờ thuộc huyện Thụy Nguyên, tỉnh Kiến An.
58 Hóa
Giang là một ngọn sông thuộc về sông Thái Bình, ở giáp giới tỉnh Kiến An và
tỉnh Thái Bình. Nay ở đấy dân sở tại còn nhớ chỗ con voi của Hưng Đạo Vương qua
sông Hóa sa lầy mà chết.
Khoái
liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy-triều lên, mặt nước mênh-mông, Ô
mã Nhi vô tình, thấy địch quân chạy, cứ việc thúc thuyền đuổi theo.
Nguyễn
Khoái nhử quân đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi mới quay thuyền đánh vật lại. Hai
bên đánh đang hăng, thì đại quân của Hưng-đạo-vương tiếp đến. Ô mã Nhi, Phàn
Tiếp thấy quan quân to thế lắm, mới quay thuyền chạy trở lại. Khi chạy đến khúc
sông có cọc đóng thì nước thủy-triều đã rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng
mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vở mất nhiều. Quan quân thừa thắng đánh
cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông. Tướng Nguyên là Ô
mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đều bị bắt cả.
Trận
Bạch-đằng-giang đánh vào tháng ba năm mậu-tí (1288) lấy được chiến thuyền của
quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt được quân-sĩ rất nhiều.
5. Hưng Đạo Vương Đại Phá Nguyên Binh. Thoát
Hoan nghe tin quân thủy vở tan rồi, dẫn bọn Trình bằng Phi, A bát Xích, Áo lỗ
Xích, Trương Quân, Trương Ngọc, đi đường bộ chạy về đến ải Nội-bàng, bỗng gặp
quân phục của Phạm ngũ Lão đổ ra đánh. Các tướng hết sức giữ gìn Thoát Hoan,
vừa đánh vừa chạy. Trương Quân dẫn 3,000 quân đi đoạn hậu cố sức đánh lấy đường
chạy, bị Phạm ngũ Lão chém chết. Thoát
Hoan chạy thoát ra được cửa ải, quân-sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 6 phần.
Bọn
Thoát Hoan đang đi, bỗng lại có tin báo rằng tự cửa ải Nữ-nhi đến mãi núi
Kì-cấp hơn 100 dặm, chổ nào cũng có đồn ải. Nghe tin ấy quân-sĩ đều xôn-xao
sợ-hãi, và mé sau lại nghe tiếng ầm-ầm quan quân đuổi theo và sắp kéo đến.
Thoát Hoan vội-vàng sai A bát Xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước mở đường, Áo
lỗ Xích đi đoạn hậu.
A bát
Xích, Trương Ngọc gặp phải quan quân chặn đường phục ở hai bên sườn núi bắn tên
thuốc độc xuống như mưa. Hai tướng đều tử trận, và quân-sĩ chết thây nằm
ngổn-ngang từng đống. Còn Trình bằng Phi hết sức giữ-gìn Thoát Hoan chạy ra
Đan-kỹ, qua Lộc-châu rồi đi lẻn con đường tắt về châu Tư-minh.
Áo lỗ
Xích đi sau, chạy thoát được, mới nhặt-nhạnh tàn quân theo cả Thoát Hoan về Yên-kinh.
Hưng-đạo-vương
chuyến này thực là trừ hết quân Mông-cổ mới hội cả tướng, dẫn quân rước xa-giá
Thượng-hoàng và Nhân-tông về kinh-sư. Khi về đến Long-hưng, Nhân-tông đem bọn
tướng Nguyên bị bắt là Ô mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc vào làm lễ hiến-phù
ở trước Chiêu-lăng.
Nhân
thấy giang-sơn lại được như cũ, Thánh-tông Thượng-hoàng có làm hai câu thơ để
làm kỹ-niệm:
Xã-tắc
lưỡng hồi lao thạc mã, Sơn-hà thiên cổ điện kim âu.
Dịch
nôm:
Xã-tắc
hai phen bọn ngựa đá, Non sông thiên cổ vững âu vàng.
Về đến
Thăng-long vua sai mở tiệc khao thưởng tướng-sĩ, cho dân- sự mở hội vui-vẻ ba
ngày, gọi là Thái-bình diên-yến.
6. Sứ An Nam Sang Tàu Xin Hòa. Quân nhà
Nguyên sang đánh An-nam tuy thua hai ba phen thật, nhưng thế nhà Nguyên vẫn
mạnh lắm, mà nước Nam ta sánh với nước Tàu lại là một nước nhỏ-mọn, cô-lập một
mình, không nương tựa vào đâu được; nếu cứ tranh chiến mãi thì sự thắng-bại
chưa biết ra thế nào, mà muôn dân lại phải lầm-than, khổ-sở. Vì những lẽ ấy,
cho nên đến tháng mười năm mậu-tí (1288) vua Nhân-tông sai quan là Đỗ thiên Thứ
sang sứ nhà Nguyên, xin theo lệ cống hiến như xưa.
Nguyên-chủ
thấy quân mình thua mấy lần rồi, trong bụng cũng nản, cho nên cũng thuận cho
thông hòa.
Tháng
hai năm kỷ-sửu (1289) Nhân-tông sai quan đưa bọn tướng Nguyên bị bắt là Tích
Lệ, Cơ Ngọc về Tàu. Còn Phàn Tiếp vì lo
mà thành bệnh chết, vua sai hỏa táng, rồi cấp người ngựa cho vợ con đem hài-cốt
về nước. Các đầu mục cũng tha cho về cả. Duy có Ô mã Nhi giết hại nhiều người,
vua căm-tức vô cùng, không muốn tha về, nhưng lại ngại đường hòa- hiếu, bèn
dùng mưu của Hưng-đạo-vương sai người đưa đi đến giửa bể, đánh đắm thuyền, cho
chết đuối, mà Nguyên-triều cũng không trách vào đâu được. Về sau vua Dực-tông
bản triều nhà Nguyễn xem đến chỗ này, có phê bốn chữ: "bất nhân phi
nghĩa". Tưởng lời phê ấy cũng là chính đáng.
7. Định công, phạt tội. Tháng
tư năm kỷ-sửu
(1289) mới định công, phạt tội. Bao nhiêu những vương
hầu đi đánh giặc Nguyên có công đều được thăng trật cả, còn các tướng-sĩ khác
họ mà ai có công to thì cho quốc-tính. Nguyễn Khoái được phong tước hầu, cho ăn
lộc một làng Khoái- lộ (tức là phủ Khoái bây giờ); Phạm ngũ Lão được thăng làm
Quản Thánh- dực quân.
Các chúa
Mường mà có công đem dân binh ra cự giặc cũng được phong hầu.
Vua lại
sai văn-thần ghi-chép công-trạng của các tướng hợp biên làm quyển sách gọi là
Trung hưng thực lục và lại sai thợ vẽ tranh các tướng để treo ở gác công thần.
Định
công xong rồi mới xét đến tội những người hàng giặc. Khi quân Nguyên đang cường
thịch, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy-má đi lại với giặc. Sau giặc thua
chạy về bắc, triều-đình bắt được tráp biểu hàng của các quan. Đinh-thần muốn lục ra để trị tội, nhưng
Thượng-hoàng nghĩ rằng làm tội những đồ tiểu-nhân cũng vô ích, bèn sai đem đốt
cả tráp đi, cho yên lòng mọi người. Duy
những người nào quả thực là hàng với giặc, thì mới trị tội; hoặc đem cày, hoặc
xử-tử. Vì thế bọn Trần Kiện, Trần văn Lộng tuy đã chết rồi, nhưng con cháu phải
tước họ tôn-thất đổi ra họ Mai. Còn Trần ích Tắc, thì vua nghĩ tình cận-thân
không nở bỏ họ, nhưng phải gọi là ả Trần, nghĩa là bảo nhút-nhát như đàn-bà
vậy.
Những
quân-dân thì được thứ tội cả, duy có hai làng Bàng-hà, Ba điểm trước hết theo
giặc, cả làng phải đồ làm binh-lính, không khi nào được làm quan.
Thưởng
công, phạt tội xong rồi, Thượng-hoàng về phủ Thiên- trường, đến tháng năm, năm
canh-dần (1290) thì mất.
Nhân-tông
sai sứ sang cáo tang và xin phong.
8. Định cuộc hòa-hiếu. Tự lúc Thoát Hoan
thua về, vua nhà Nguyên đã thuận cho hòa-hiếu, nhưng trong bụng vẫn chưa nguôi
giận, ý lại muốn cất binh sang đánh báo thù. Đình-thần can, xin để cho sứ sang
dụ vua An-nam sang chầu xem đã, nếu không sang rồi hãy liệu. Nguyên-chủ nghe
lời, sai Thượng-thư Trương lập Đạo sang sứ An-nam. Nhưng vua Nhân-tông lấy cớ
có tang không đi. Sai quan là Nguyễn đại Phạp đi thay. Nguyễn đại Phạp sang Tàu
nói năm sau vua An-nam sẽ sang chầu.
Qua năm
sau Nguyên-triều không thấy vua An-nam sang, lại sai Lại- bộ thượng-thư là
Lương Tằng và Lễ-bộ thượng-thư là Trần Phu sang giục Nhân-tông sang chầu.
Nhân-tông
không đi, sai sứ là Đào tử Kỳ đưa đồ vật sang cống Tàu. Nguyên-triều thấy vua
An-nam không sang định khởi binh sang đánh, bèn bắt giam Tử Kỳ ở Giang-lăng,
rồi sai Lưu quốc Kiệt và các tướng sửa-soạn binh-lương, chọn ngày phát binh.
Lại sai Trần ích Tắc đi theo, về hội ở Tràng sa. Nhưng lúc đang sửa soạn, thì
Nguyên Thế-tổ là Hốt-tất-Liệt mất, Nguyên Thánh-tông lên ngôi, mới bãi việc
binh và cho sứ An-nam là Đào tử Kỳ về nước.
Từ đó
nhà Nguyên với nước Nam thông hòa, không có sự tranh chiến nữa.
CHƯƠNG
IX
Nhà Trần
Thời Kỳ
Thứ Hai (1293 - 1341)
I. Trần Anh Tông
1. Đức Độ Vua Anh Tông
2. Trần Hưng Đạo Vương mất
3. Việc Đánh Ai Lao
4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm Thành
II. Trần Minh Tông
III. Trần Hiến Tông
1. Giặc Ngưu Hống
2. Giặc Ai Lao
I. Trần Anh Tông (1293-1314)
Niên-hiệu:
Hưng Long
1. Đức Độ Vua Anh Tông. Thái tử Trần Thuyên
lên ngôi, tức là vua Anh Tông.
Anh Tông
lúc đầu hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có khi bị đồ vô
lại phạm đến.
Một hôm
uống rượu say đến nỗi Nhân Tông Thượng Hoàng ở Thiên Trường về kinh, các quan
đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng Hoàng giận lắm, truyền xa giá
lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về
kinh, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn
Nhữ Hài, mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống
thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng Hoàng xem biểu rồi quở mắng một
lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự
sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa.
Từ xưa
đến nay vua An Nam vẫn có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi, nhưng Anh Tông không
muốn theo tục này. Một hôm Thượng Hoàng bảo Anh Tông rằng: " Dòng dõi nhà
mình vẫn vẽ mình để nhớ gốc ngày xưa, nay nhà vua phải
theo tục ấy mới được". Anh Tông tuy vâng mệnh nhưng lừa khi Thượng Hoàng
bận việc khác, lẩn đi không cho vẽ. Từ đấy, vua An Nam mới không vẽ mình nữa.
Tính vua
Anh Tông hay vẽ: thường có làm một tập Thủy Vân Tùy Bút, nhưng đến lúc sắp mất
đem đốt đi không cho để lại. Sử có chép rằng khi Anh Tông đau nặng, hoàng hậu
cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi mà bảo rằng:
" Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chết". Xem thế thì biết Anh
Tông là một ông vua hiếu thảo và lại thông minh, cho nên việc triều chính thời
bấy giờ có cương kỷ lắm.
Trong
triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Văn như bọn ông
Trương Hán Siêu, võ như ông Phạm Ngũ Lão đều là người có tài trí cả.
Phạm Ngũ
Lão là người
làng Phù Ủng,
huyện Mỹ Hào,
tỉnh Hải Dương59, trước theo Trần Hưng Đạo Vương đánh
giặc Nguyên, lập được công to. Triều đình trọng dụng cho làm đại tướng. Ngũ Lão trị quân có kỷ luật, đãi tướng hiệu
như người nhà, ở với sĩ tốt cùng chịu cam khổ, cho nên vẫn gọi quân của ông ấy
là phụ tử chi binh, đánh đâu được đấy, thành một người danh tướng nước Nam ta.
Ông Phạm
Ngũ Lão đã giỏi nghề võ, lại hay nghề văn, thường ngâm bài thơ thuật hoài sau
này:
Hoành
sáo giang sơn cáp kỷ thu60 Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu Nam nhi vị liễu công
danh trái
Tu thính
nhân gian thuyết Vũ hầu.
Thời bấy
giờ vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính
trị không có điều gì hồ đồ. Việc học
hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn học như bọn ông Mạc Đĩnh
Chi, ông Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình.
Thật là một thời rất thịnh về đời nhà Trần vậy.
59 Bây
giờ thuộc tỉnh Hưng Yên
60 Bài
này có người dịch ra nôm như sau: Ngọn giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân
hùng hổ khí thôn ngưu Công danh nếu để còn vương nợ Luống thẹn tai nghe chuyện
Vũ hầu
2. Trần Hưng Đạo Vương mất. Trong đời vua
Anh Tông có mấy người danh tướng như là: Thượng Tướng Trần Quang Khải, thắng
trận Chương Dương ngày trước, mất năm giáp ngọ (1294), và Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn, mất ngày 20 tháng tám năm canh tí (1300).
Hưng Đạo
Vương là một danh tướng đệ nhất nước Nam, đánh giặc Nguyên có công to với nước,
được phong làm Thái Sư, Thượng Phụ, Thượng Quốc Công, Bình Bắc Đại Nguyên Súy,
Hưng Đạo Đại Vương. Vua lại sai người về Vạn Kiếp làm sinh từ để thờ ngài ở chỗ
dinh cũ của ngày đóng ngày trước.
Hưng Đạo
Vương làm quan đến đời vua Anh Tông thì xin về trí sĩ ở Vạn Kiếp. Khi ngài sắp
mất, vua Anh Tông có ngự giá đến thăm, nhận thấy ngài bệnh nặng, mới hỏi rằng:
" Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân bắc lại sang thì làm thế
nào? "
Hưng Đạo
Vương tâu rằng: " Nước ta thuở xưa, Triệu Võ Vương dựng nghiệp, Hán Đế đem
binh đến đánh, Võ Vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để lương thảo cho giặc
chiếm được, rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánh quận Tràng Sa61
dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời. Đến đời Đinh, Lê, nhiều người hiền
lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn
chấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thành Bình Lỗ (thuộc Thái
Nguyên) phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đời nhà Lý, quân Tống sang
xâm, Lý Đế sai Lý Thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai Lĩnh, quân hùng,
tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bản triều, giặc Nguyên kéo đến vây
bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà
đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trời giúp ta mới được thế.
Đại để,
kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhau với
tràng, phép dùng binh thường vẫn phải như thế. Còn như khi nào quân giặc kéo
đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như
tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới
khó trị; thì ta nên kén dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ,
phải tùy cơ mà ứng biến, dùng binh phải dồn lòng như cha con một nhà, thì mới
có thể đánh được.
61 Chỗ
này Hưng Đạo Vương nói lầm: Triệu Võ Vương đóng đô ở Phiên Ngung tức là ở gần
thành Quảng Châu bây giờ, mà châu Khâm, châu Liêm thì ở giáp giới nước ta. Lẽ
nào đi đánh Trường Sa ở tỉnh Hồ Nam mà lại quay trở lại châu Khiêm, châu
Liêm. Chắc hẳn người mình ngày trước
không thuộc địa đồ và có lẽ rằng Hưng Đạo Vương lúc nói chuyện đó cũng tưởng là
kinh đô của Triệu Võ Vương ở đâu bên nước ta bây giờ, cho nên mới nói như thế
chăng?
Cách ấy
cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái
thuật giữ nước hay hơn cả."
Anh Tông
chịu lời ấy rất là phải.
Được mấy
hôm thì ngài mất, vua cùng các quan ai nấy đều cảm thương lắm.
Hưng Đạo
Vương thực là hết lòng với vua, với nước, tuy rằng uy quyền lừng lẫy, mà vẫn
giữ chức phận làm tôi, không dám điều gì kiêu ngạo. Đang khi quân Nguyên quấy
nhiễu, ngài cầm binh quyền, Thánh Tông, Nhân Tông cho ngài được chuyên quyền
phong tước: trừ ra tự tước hầu trở xuống, cho ngài được phong trước rồi mới tâu
sau. Thế mà ngài không dám tự tiện phong thưởng cho ai cả; phàm những nhà giàu mà
ngài có quyên tiền gạo để cấp cho quân ăn, ngài chỉ phong cho làm giả lan tướng
mà thôi, nghĩa là tướng cho vay lương. Ngài cẩn thận như thế và ở với ai cũng
thật là công chính cho nên đến khi ngài mất, tự vua cho chí bách tính ai cũng
thương tiếc. Nhân dân nhiều nơi lập đền thờ phụng để ghi nhớ cái công đức của
ngài.
3. Việc Đánh Ai Lao. Từ khi quân nhà Nguyên
thua chạy về Tàu rồi, phía bắc được yên, nhưng ở phía tây nam có quân Ai Lao
thường hay sang quấy nhiễu ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An. Trước vua Nhân Tông đã
thân chinh đi đánh giặc lại sang cướp phá. Sau Anh Tông sai tướng quân là Phạm
Ngũ Lão đi đánh ba bốn phen nữa. Đánh
trận nào quân Lào cũng bị giết hại rất nhiều, cho nên từ đó phía Thanh, Nghệ,
mới được yên.
4. Sự Giao Thiệp Với Chiêm Thành. Nước Chiêm
Thành đối với An Nam từ ngày nhà Trần lên làm vua, hai nước không có điều gì
lôi thôi. Đến khi Nhân Tông đi đánh Lào trở về, thì bỏ đi tu, trước ở chùa Võ
Lâm ( làng Võ Lâm, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình), sau về ở An Tử Sơn (huyện
Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên). Năm tân sửu
(1301) Thượng Hoàng đi sang Chiêm Thành sang phong cảnh, có ước gả Huyền Trân
Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu Chế Mân cho người đưa vàng bạc
và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận.
Chế Mân lại xin dâng Châu Ô và Châu Rí để làm lễ cưới, bấy giờ Anh Tông mới
quyết ý thuận gả. Đến tháng sáu năm bính ngọ (1306) cho công chúa về Chiêm
Thành.
Sang năm
sau (1307) vua Anh Tông thu nhận hai Châu Ô và Châu Rí, đổi tên là Thuận Châu
và Hóa Châu, rồi sai quan là Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.
Huyền
Trân Công Chúa lấy Chế Mân chưa được một năm thì Chế Mân mất, mà theo tục Chiêm
Thành, hễ khi vua đã chết, thì các hậu phải hỏa thiêu chết theo.
Anh Tông
được tin ấy, sai Trần Khắc Chung, giả mượn tiếng vào thăm để tìm kế đưa công
chúa về.
Từ khi
Chế Mân mất rồi, Chế Chí lên làm vua Chiêm Thành. Nhưng Chế Chí hay phản trắc,
không giữ những điều giao ước trước, cho nên năm tân hợi (1311), Anh Tông cùng
với Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phân binh làm ba
đạo sang đánh Chiêm Thành, bắt được Chế Chí đem về An Nam và phong cho người em
là Chế Đà A Bà làm vua Chiêm Thành.
Chế Chí
về An Nam được phong là Hiệu Thuận Vương, nhưng chẳng được bao lâu thì mất ở
huyện Gia Lâm. Vua sai đưa hỏa táng. Từ đó về sau nước Chiêm và nước Nam thành
ra có điều thù oán mãi.
Năm mậu
thân (1308) Nhân Tông Thượng Hoàng mất ở chùa Yên Tử Sơn. Năm giáp dần (1314)
Anh Tông nhường ngôi cho thái tử Mạnh, rồi về làm Thái Thượng Hoàng ở phủ Thiên
Trường đến năm canh thân (1320) thì mất.
Anh Tông
trị vì được 21 năm, nhường ngôi được 6 năm, thọ 54 tuổi.
II. Trần Minh Tông (1314-1329)
Niên-hiệu:
Đại Khánh (1314 - 1323)
Khai
Thái (1324 - 1329)
Năm giáp
dần (1314) Thái Tử Mạnh lên ngôi làm vua, tức là vua Minh Tông.
Thời bấy
giờ làm quan tại triều có Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh
Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, v.v... đều là những người có tài cán trí lự
cả.
Trong
nước được yên trị; giao hiếu với nước Tàu thì tuy rằng có lôi thôi về đường
phân địa giới, nhưng đại khái vẫn được hòa hảo.
Duy chỉ có
nước
Chiêm Thành tự khi Chế Chí chết rồi, thì người Chiêm cứ hay sang quấy nhiễu ở
phía nam, cho nên phải dùng đến can qua. Năm mậu ngọ (1318), Minh Tông sai Huệ
Võ Vương Trần Quốc Chân và tướng quân Phạm Ngũ Lão đem binh đi đánh, vua Chiêm
là Chế Năng phải bỏ thành mà chạy.
Còn
những việc chính trị trong nước, thì năm ất mão (1315), lập lệ cấm người trong
họ không được đi thưa kiện nhau; năm bính thìn (1316) duyệt định văn võ quan
cấp; năm quý hợi (1323) mở khoa thi Thái Học Sinh; năm ấy lại cấm quân sĩ không
được vẽ mình như trước. Nước ta bỏ thói vẽ mình từ đấy.
Minh
Tông vốn là ông vua có lòng nhân hậu, hay thương yêu nhân dân, nhưng chỉ vì
nghe nịnh thần cho nên giết oan Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân, là người làm quan
có công với nước.
Trần
Quốc Chân là thân sinh ra hoàng hậu và lại có công đi đánh Chiêm Thành thắng
trận mấy lần. Nhưng vì Hoàng Hậu chưa có hoàng tử, triều thần phân ra làm 2
đảng, một đảng thì có Văn Hiến Hầu và Trần Khắc Chung, xin lập hoàng tử Vượng
là con bà thứ, làm thái tử. Một đảng thì có Trần Quốc Chân xin chờ cho hoàng
hậu có con trai rồi sẽ lập thái tử.
Sau Văn
Hiến Hầu cho tên Trần Nhạc là đầy tớ của Trần Quốc Chân một trăm lạng vàng xúi nó
vu cáo cho Quốc Chân làm mưu phản. Minh Tông bắt Quốc Chân đem giam ở chùa Tư
Phúc.
Trần
Khắc Chung xin vua trừ Quốc Chân đi, lấy lẽ rằng bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó.
Minh Tông nghe lời ấy, cấm không cho Quốc Chân ăn uống gì cả, đến đổi khát nước
quá, Hoàng Hậu phải lấy áo nhúng xuống nước rồi mặc vào vắt ra cho uống. Uống
xong thì chết. Sau có người vợ lẽ tên Trần Nhạc ghen nhau với vợ cả, đi tố cáo
ra sự Trần Nhạc lấy vàng và sự vu cáo cho Trần Quốc Chân. Bấy giờ mới rõ cái
tình oan của một người trung thần.
Minh
Tông làm vua đến năm ất tị (1329), thì nhường ngôi cho thái tử Vượng, rồi về
làm Thái Thượng Hoàng.
III. Trần Hiến Tông (1329-1341)
Niên-hiệu: Khai Hữu
Thái Tử
Vượng mới có 10 tuổi, lên làm vua tức là vua Hiến Tông.
Hiến Tông
chỉ làm vua
lấy vì mà
thôi, quyền chính
ở cả tay
Minh Tông Thượng Hoàng, cho nên
tuy ngài có làm vua được non 13 năm, nhưng không được tự chủ việc gì.
1. Giặc Ngưu Hống. Minh Tông Thượng Hoàng
vừa nhường ngôi xong, thì ở mạn Đà Giang có Mường Ngưu Hống làm loạn. Thượng
Hoàng phải thân chinh đi đánh. Người Ngưu Hống ở trại Chiêm Chiêu đưa thư đến
giả xin hàng. Nhưng khi đạo quân ở
Thanh Hóa đi đến nơi, thì bị người ở trại ấy đổ ra đánh, phải thua chạy. Thượng
hoàng đem đại binh tiến lên, thanh thế lừng lẫy, quân Ngưu Hống bỏ chạy cả vào
rừng. Quân giặc tuy thua nhưng không trừ hết được, mãi đến năm đinh sữu (1377)
tướng nhà Trần là Hưng Hiếu Vương chém được thủ đảng Ngưu Hống ở trại Trịnh Kỳ,
thì giặc ấy mới yên.
2. Giặc Ai Lao. Trong khi giặc Ngưu Hống còn
đang quấy nhiễu, giặc Ai Lao lại sang đánh phá. Năm giáp tuất (1384) Minh Tông
Thượng Hoàng lại phải thân chinh đi đánh. Sai ông Nguyễn Trung Ngạn vào Thanh
Hóa sung chức Phát Vận Sứ để vận lương đi trước, Thượng Hoàng đem đại quân vào
sau. Khi đại quân vào đến Kiềm Châu (thuộc huyện Tương Dương, Nghệ An), quân Ai
Lao nghe tiếng đều bỏ chạy cả.
Thượng
Hoàng bèn sai ông Nguyễn Trung Ngạn làm bài bia khắc trên núi để ghi công. Bài
bia ấy chữ to bằng bàn tay, khắc vào đá sâu một tấc, đến nay vẫn còn.
Văn bài
bia ấy dịch ra chữ nôm như sau này:
"Chương
nghiêu Văn triết Thái thượng hoàng là vua thứ sáu đời nhà Trần, nước Hoàng Việt
chịu mệnh trời nhất thống cõi trung hạ, trong đất ngoài bể đâu cũng thần phục.
Nước Ai Lao nhỏ mọn kia dám ngạnh vương hóa; cuối mùa thu năm ất hợi vua thân
đem sáu quân đi tuần cõi tây, Thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm
La và tù trưởng các dạo mán là Quì, Cầm, Xa, Lạc, tù trưởng rợ Bồ Man mới phụ
và các bộ Mán Thanh xa đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước. Chỉ có tên nghịch Bổng cứ giữ mê tối, sợ phải
tội chưa lại chầu ngay. Cuối mùa đông vua đóng quân ở cánh đồng Cự, thuộc châu
Mật, sai các tướng và quân rợ mọi vào tận nước, nghịch Bổng theo gió chạy trốn. Vua mới xuống chiếu đem quân về. Lúc bấy giờ là ngày tháng chạp nhuận năm ất
hợi, niên hiệu Khai Hữu thứ 7, khắc vào đá".
Xem văn
từ thì hình như việc Minh Tông Thượng Hoàng đi đánh Ai Lao thật là hống hách
lắm, nhưng cứ sự thực thì quân ta bấy giờ chưa ra khỏi cõi, mà giặc Ai Lao thì
chưa trừ được. Còn như việc thế tử nước Chân Lạp và nước Tiêm La, v.v.... sang
chầu, thì thiết tưởng đấy là một lối làm văn của nhà làm bia nói cho trân trọng
đó mà thôi, chứ chưa chắc đã hợp với sự thực.
Năm sau
quân Ai Lao lại sang cướp ở ấp Nam Nhung (thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ
An). Minh Tông thượng hoàng lại ngự giá
đi đánh lần nữa. Ngài sai quan Kinh Lược
Đại Sứ tỉnh Nghệ An là Đoàn Nhữ Hài làm Đô Đốc chư quân. Đoàn Nhữ Hài khi quân
lào hèn yếu, chắc đánh là tất được. Đến khi đem quân đến ấp Nam Nhung qua sông
Tiết La, chẳng may phải hôm có sương mù, bị phục binh của Lào đổ ra đánh, quan
quân thua chạy cả xuống sông, chết đuối nhiều lắm. Đoàn Nhữ Hài cũng chết đuối.
Xét ra
nước Ai Lao đã sang quấy nhiễu đất An Nam từ đời vua Nhân Tông và vua Anh Tông.
Quan quân đã phải đi đánh nhiều lần, nhưng lần nào đánh xong thì cũng chỉ yên
được độ vài ba năm, rồi giặc lại sang đánh phá. Mà quan quân có đi đánh thì
cũng đánh cho nó đừng sang ăn cướp ở đất mình nữa mà thôi, chứ không có lúc nào
định chiếm giữ đất Lào cả. Có lẽ là tại đất Lào nhiều rừng lắm núi, phải sơn
lam thủy chướng, đường sá xa sôi, vận tải khó nhọc, cho nên quân ta không ở
được lâu. Còn người Lào thì họ thuộc đường sá, quen phong thổ, tiến thoái tùy
tiện; thắng trận thì họ tiến lên đánh, bại trận thì họ rút quân đi, mình không
biết đâu mà đuổi. Bởi thế cho nên quân ta vẫn đánh được giặc mà giặc vẫn còn,
thành ra cứ phải đi đánh mãi.
Hiến Tông
làm vua đến
năm tân tị (1341) thì mất,
trị vì được 13 năm, thọ 23 tuổi.
CHƯƠNG X
Nhà Trần
- Thời Kỳ Thứ Ba ( 1341 - 1400 )
I. Trần Dụ Tông
1. Việc chính trị
2. Việc giao thiệp với nước Tàu
3. Việc giao thiệp với Chiêm Thành
4. Dương Nhật Lễ
II. Trần Nghệ Tông
III. Trần Duệ Tông
1. Việc chính trị
2. Sự thi cử
3. Việc đánh Chiêm Thành
IV. Trần Phế Đế
1. Chiêm Thành sang phá Thăng Long
2. Tình thế nước Nam
3. Nhà Minh sách nhiễu
4. Nghệ Tông thất chính
5. Lê Quý Ly giết Đế Hiễn
V. Trần Thuận Tông
1. Phạm Sư Ôn khởi loạn
2. Chế Bồng Nga tử trận
3. Lê Quý Ly chuyên quyền
4. Nghệ Tông mất
VI. Lê Quý Ly mưu sự thoán đoạt
1. Việc tài chánh
2. Việc học hành
3. Việc cai trị
4. Lập Tây Đô
5. Sự phế lập: Trần Thiếu Đế
I. Trần Dụ Tông (1341-1369)
Niên-hiệu:
Thiệu Phong (1341 - 1357)
Đại Trị
( 1358-1369)
1. Việc
Chính Trị. Hiến Tông không có con, Minh
Tông thượng hoàng lập người em tên là Hạo lên làm vua, tức là vua Dụ Tông.
Trong
những năm Thiệu Phong, là mười mấy năm đầu, tuy Dụ Tông làm vua, nhưng quyền
chính trị ở Minh Tông thượng hoàng quyết đoán cả, cho nên dẫu có phải mấy năm
tai biến mất mùa đói khổ, nhưng việc chính trị còn có thứ tự. Từ năm Đại Trị nguyên niên (1358) trở đi,
Thượng Hoàng mất rồi, bọn cựu thần như ông Trương Hán Siêu, ông Nguyễn Trung
Ngạn cũng mất cả, từ đó việc chính trị bỏ trễ nãi. Kẻ gian thần mỗi ngày một đắc chí. Ông Chu Văn
An là một nhà danh nho thời bấy giờ và đang làm quan tại triều, thấy chính trị
bại hoại, làm sớ dâng lên xin chém bảy người quyền thần. Vua không nghe, ông ấy
bỏ quan về ở núi Chí Linh.
Nước Nam
ta bấy giờ tuy đã suy nhược, nhưng mà nhà Minh mới định xong thiên hạ, còn phải
sửa sang việc nước, chưa dòm đến nước mình, cho nên cũng chưa có việc gì quan
trọng lắm.
3. Việc
Giao Thiệp Với Chiêm Thành. Từ khi vua nước Chiêm Thành là Chế A Nan mất rồi,
con là Chế Mộ và rể là Bồ Đề tranh nhau làm vua. Người Chiêm Thành bỏ Chế Mộ mà
theo Bồ Đề; qua năm nhâm thìn (1352) Chế Mộ chạy sang An Nam cầu cứu.
Đến năm
quý tị (1353)
Dụ Tông cho
quân đưa Chế Mộ về
nước, nhưng quan quân đi đến đất Cổ Lụy (thuộc Quảng Nghĩa) thì bị quân
Chiêm đánh thua, phải chạy trở về. Chế Mộ cũng buồn rầu chẳng bao lâu thì chết.
Người
Chiêm Thành từ đấy được thể cứ sang cướp phá ở đất An
Vua Dụ
Tông về sau cứ rượu chè chơi bời, xây cung điện, đào hồ đắp núi, rồi lại cho
gọi những người nhà giàu vào trong điện để đánh bạc. Bắt vương hầu công chúa
phải đặt chuyện hát tuồng62 và bắt các quan thi
Nam.
Năm đinh
mùi (1367), Dụ Tông sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đi
nhau
uống rượu, ai uống rượu được một trăm thăng thì thưởng cho hai trật.
Chính sự
như thế, cho nên giặc cướp nổi lên như ong dấy: ở mạn Hải Dương thì có giặc Ngô
Bệ làm loạn ở núi Yên Phụ; ở các nơi thì chỗ nào cũng có giặc nổi lên cướp phá.
Dân tình khổ sở, năm nào cũng phải đói kém. Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy từ
đấy.
2. Việc
Giao Thiệp Với Nước Tàu. Bấy giờ ở bên Tàu, nhà Nguyên đã suy, trong nước rối
loạn, có bọn Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên Chương khởi binh đánh
phá.
Chu
Nguyên Chương dấy binh ở đất Từ Châu (tỉnh An Huy), chiếm giữ thành Kim Lăng,
rồi trong 15 năm dứt được nhà Nguyên dẹp yên thiên hạ, dựng nên cơ nghiệp nhà
Minh.
Năm mậu
thân (1368) Minh Thái Tổ sai sứ đưa thư sang dụ nước ta, Dụ Tông sai quan Lễ Bộ
Thị Lang là Đào Văn Đích sang cống.
62 Khi
quân nhà Trần đánh được quân nhà Nguyên, có bắt được một tên hát bội là Lý Nguyên
Cát, sau nó ở lại nước ta lấy cổ truyện mà đặt thành bài tuồng, rồi dạy người
mình hát. Khi con hát ra làm trò thì mặc áo gấm, áo vóc, theo nhịp đàn nhịp
trống mà hát. Sự hát tuồng của Việt Nam
bắt đầu từ đấy.
đánh
Chiêm Thành. Quan quân đi đến Chiêm Động (thuộc phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam)
bị phục quân của Chiêm Thành đánh bắt mất Trần Thế Hưng, Đổ Tử Bình đem quân
chạy trở về.
Người
Chiêm thấy binh thế nước Nam suy nhược, có ý khinh dễ, cho nên qua năm mậu thân
(1368) vua nước Chiêm cho sứ sang đòi đất Hóa Châu. Việc đòi Hóa Châu này thì sử chỉ chép qua đi
mà thôi. Vả bấy giờ ở nước Nam ta, vua
Dụ Tông chỉ lo việc hoang chơi, không tưởng gì đến việc Võ bị; mà ở bên Chiêm
Thành thì có Chế Bồng Nga, là một ông vua anh hùng, có ý đánh An Nam để rửa
những thù trước. Vậy cho nên hết sức tập trận, luyện binh; bắt quân lính phải
chịu khó nhọc cho quen, dàn trận voi cho tiện đường lui tới: thắng thì cho voi
đi trước để xông đột, bại thì cho voi đi sau để ngăn giữ quân nghịch. Nhờ cách xếp đặt có thứ tự, dụng binh có kỷ
luật như thế, cho nên quân Chiêm Thành từ đó mạnh lắm, sau dánh phá thành Thăng
Long mấy lần, làm cho vua tôi nhà Trần phải kính sợ mấy phen.
4. Dương
Nhật Lễ (1369 - 1370). Năm kỷ dậu
(1369), vua Dụ Tông mất, không có con. Triều đình định lập Cung Định Vương là
anh Dụ Tông lên làm vua, nhưng mà bà Hoàng Thái Hậu nhất định lập người con
nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ.
Nguyên
mẹ Nhật Lễ là người con hát, lấy người hát bội tên là Dương Khương, có thai rồi
mới bỏ Dương Khương mà lấy Cung Túc Vương, sinh ra
Nhật Lễ.
Nay lên làm vua, Nhật Lễ muốn cải họ là Dương để dứt ngôi nhà Trần, rồi giết bà
Hoàng Thái Hậu và Cung Định Vương.
Bấy giờ
Cung Tĩnh Vương ở chỗ Kinh Sư cũng sợ bị hại, vả lại tính khí cũng nhu nhược,
không có ý tranh cạnh, mới bỏ trốn lên mạn Đà Giang. Các quan Tôn thất nhà Trần
mới hội nhau đem binh về bắt Nhật Lễ giết đi, rồi rước Cung Tĩnh Vương về làm
vua. Tức là vua Nghệ Tông.
II. Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Niên-hiệu:
Thiệu Khánh
Khi Nghệ
Tông giết Nhật Lễ rồi, mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành, xin vua nước ấy là Chế
Bồng Nga đem quân sang đánh An Nam. Quân Chiêm vược bể vào cửa Đại An, kéo lên
đánh Thăng Long. Quan quân đánh không nổi. Nghệ Tông phải lánh mình chạy sang
Đông Ngạn (ở Cổ Pháp làng Đình Bảng). Quân Chiêm vào thành, đốt sạch cung điện,
bắt đàn bà con gái, lấy hết các đồ báu ngọc, rồi rút quân về.
Nghệ
Tông là một ông vua nhu nhược, việc gì cũng để cho người ngoại thích là Lê Quý
Ly quyết đoán cả.
Quý Ly
là dòng dõi người ở Chiết Giang bên Tàu, tổ là Hồ Hưng Dật, từ đời Ngũ Quý sang
ở nước ta, làng Bào Đột, huyện Quỳnh Lưu.
Sao ông tổ tứ đại là Hồ Liêm dời ra ở Thanh Hóa, làm con nuôi nhà Lê
Huấn, cho nên mới đổi họ là Lê. Lê Quý Ly có hai người cô lấy vua Minh Tông.
Một người sinh ra vua Nghệ Tông, một người sinh ra vua Duệ Tông. Vì thế cho nên
Nghệ Tông càng tin dùng lắm, phong cho làm Khu Mật Đại Sứ, lại gia tước Trung
Tuyên Hầu.
Năm nhâm
tí (1372) Nghệ Tông truyền ngôi cho em là Kính, rồi về ở phủ Thiên Trường làm
Thái Thượng Hoàng.
III. Trần Duệ Tông (1372-1377)
Niên-hiệu:
Long Khánh
1. Việc Chính Trị. Thái Tử Kính lên ngôi, tức là vua Duệ Tông,
lập Lê Thị làm hoàng hậu (Lê Thị là em họ Quý Ly).
Duệ Tông
có tính quyết đoán hơn Nghệ Tông, nhưng mà quyền bính vẫn ở
tay Nghệ
Tông thượng hoàng cả.
Bấy giờ
quân Chiêm Thành cứ sang quấy nhiễu mãi, vua Duệ Tông quyết ý đi đánh báo thù,
bèn hạ chiếu luyện tập quân lính, làm chiến thuyền, và tích lương thảo để phòng
việc chinh chiến, rồi đặt thêm quân hiệu, cho Quý Ly làm Tham mưu quân sự; dổi đất
Hoan Châu làm Nghệ An, Diễn Châu làm Diễn Châu Lộ, Lâm Bình Phủ làm Tân Bình
Phủ, rồi sai quan bắt dân sửa sang đường sá tự Cửu Chân (Thanh Hóa) cho đến
huyện Hà Hoa (tức là huyện Kỳ Anh bây giờ).
2. Sự Thi Cử. Tuy bấy giờ lo việc võ bị nhiều, nhưng cũng
không quên việc văn học; năm giáp dần (1374) mở khoa thi tiến sĩ, lấy hơn 50
người cho áo mão vinh quy. Trước vẫn có thi thái học sinh, đến bấy giờ mới đổi
ra là thi tiến sĩ.
3. Việc Đánh Chiêm Thành. Năm bính thìn
(1376) quân Chiêm lại sang phá ở Hóa Châu. Duệ Tông định thân chinh đi đánh.
Đình thần can không được. Sai quân dân Thanh Hóa, Nghệ An, vận tải 5 vạn thạch
lương vào Hoá châu, rồi rước Thượng Hoàng lên duyệt binh ở Bạch Hạc. Nhân năm
ấy vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem sang cống 15 mâm vàng, quân trấn thủ Hóa
châu tên là Đỗ Tử Bình lấy đi, rồi dâng sớ về nói rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô
lễ, xin vua cử binh sang đánh. Được tin ấy, Duệ Tông quyết ý đi đánh; sai Quý
Ly đốc vận lương thực đến cửa bể Di Luân (thuộc huyện Bình Chính, Quảng Bình)
và tự lĩnh 12 vạn quân, cả thủy bộ cùng tiến; đi đến cửa bể Nhật Lệ (ở làng
Đồng Hới, huyện Phong Lộc, Quảng Bình) đóng lại một tháng để luyện tập sĩ tốt.
Quan
tháng giêng năm đinh tị (1377) mới tiến quân vào cửa Thị Nại (tức là cửa Quy
Nhơn) đánh lấy đồn Thạch Kiều và động Kỳ Mang, rồi kéo quân đến đánh thành Đồ
Bàn là Kinh đô Chiêm Thành63.
Chế Bồng
Nga lập đồn giữ ở ngoài thành, rồi cho người sang giả hàng nói Chế Bồng Nga đã
bỏ thành chạy trốn rồi, chỉ còn có thành không mà thôi, xin tiến binh sang
ngay. Duệ Tông lấy điều ấy làm thật, hạ lệnh truyền tiến binh vào thành. Đại
tướng là Đỗ Lễ can mãi vua không nghe. Khi quân gần đến thành Đồ Bàn, quả nhiên
bị quân Chiêm đổ ra vây đánh. Quan quân thua to; Duệ Tông chết ở trận, tướng sĩ
quân lính chết mười phần đến bảy tám.
Bấy giờ
Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân không đem binh lên cứu, Lê Quý Ly cũng bỏ chạy về. Thế
mà hai người về kinh, Nghệ Tông thượng hoàng chỉ giáng Đổ Tử Bình xuống làm
lính mà thôi.
63 Thành
Đồ Bàn bây giờ hãy còn di tích ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Khánh Hòa.
IV. Trần Phế Đế (1377-1388)
Niên-hiệu: Xương Phù
Thượng
Hoàng được tin Duệ Tông chết trận rồi, bèn lập con Duệ Tông là Hiễn lên nối
ngôi, tức là vua Phế Đế.
1. Chiêm Thành Sang Phá Thăng Long. Quân
Chiêm Thành đã phá được quân An Nam và giết được Duệ Tông rồi, qua tháng sau
đem quân sang đánh Thăng Long. Thượng hoàng nghe tin giặc đến, sai tướng ra giữ
Đại An hải khẩu. Giặc biết chỗ ấy có
phòng bị, đi vào cửa Thần Phù (sông Chính Đại, thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình)
rồi lên cướp phá thành Thăng Long, không ai chống giữ được.
Tháng
năm năm mậu ngọ (1378) quân Chiêm Thành lại sang đánh đất Nghệ An, rồi lại vào
sông Đại Hoàng lên đánh Thăng Long lần nữa.
Quân
Chiêm Thành biết nước Nam suy nhược, cứ sang cướp phá. Năm canh thân (1380) lại
sang phá ở đất Thanh Hóa, Nghệ An. Vua sai Lê Quý Ly lĩnh thủy binh, Đỗ Tử Bình
lĩnh bộ binh vào giữ ở Ngu Giang, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Lê Quý Ly đánh
đuổi được quân Chiêm về. Đến năm nhâm tuất (1382) quân Chiêm lại sang đánh ở
đất Thanh Hóa. Lê Quý Ly cùng với tướng quân Nguyễn Đa Phương giữ ở bến Thần
Đầu (Ninh Bình). Nguyễn Đa Phương phá được quân Chiêm, đuổi đánh đến đất Nghệ
An mới thôi.
Từ khi
đánh được trận Ngu Giang và trận Thần Đầu, quân thế An Nam đã hơi nổi, cho nên
sang tháng giêng năm quý hợi (1383). Thượng hoàng sai Quý Ly vào đến Lại Bộ
Nương Loan (tức là cửa Nương Loan bây giờ ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) phải bão
đánh nát mất nhiều thuyền, lại phải rút quân về.
Qua
tháng sáu năm ấy, Chế Bồng Nga cùng với tướng là La Khải đem quân đi đường sơn
lộ ra đóng ở Khổng Mục, đất Quảng Oai. Ở kinh sư nghe tin giặc Chiêm lại sang,
Thượng hoàng sai tướng là Mật Ôn ra giữ ở châu Tam Kỳ ở địa hạt Quốc Oai, nhưng
Mật Ôn bị quân Chiêm đánh bắt mất.
Thượng Hoàng sợ hãi, sai Nguyễn Đa Phương ở lại kinh sư làm đồn giữ
thành, rồi cùng với vua chạy sang Đông Ngạn. Bấy giờ có người níu thuyền lại
xin Thượng hoàng cứ ở lại kinh sư mà chống giữ với giặc. Thượng hoàng không
nghe.
Quân
Chiêm Thành bấy giờ ra vào nước Nam ta như đi vào chỗ không người, cho nên
trong mấy năm mà vào phá kinh thành 3 lần; ba lần
thượng
hoàng cùng Đế Hiễn phải bỏ thành mà chạy. Thế mà đến khi giặc về rồi, cũng
không sửa sang gì để phòng bị về sau, thật là làm nhục cái tiếng con cháu Trần
Hưng Đạo Vương.
2. Tình Thế Nước Nam. Trong nước bấy giờ dân
tình đói khổ, nhà vua thì sợ giặc phải đưa của đi chôn ở trên núi Thiên Kiện,
tức là núi Kiện Khê, huyện Thanh Liêm. Ở ngoài bờ cõi thì người Chiêm hay vào
đánh chỗ này, mai vào phá chỗ khác, nhà nước mỗi ngày một hèn yếu, đến nỗi phải
nhờ đến lũ tăng nhân là bọn Đại Nạn Thiền Sư đi đánh giặc Chiêm.
Thuế má
thì càng ngày càng nặng. Trước dân An Nam cứ phải định nghạch chịu thuế, sống
không kể, chết không trừ, ai đã làm lính, thì cả đời chỉ phải làm lính, chứ
không bao giờ được làm quan. Còn những
người có điền thổ thì phải đóng tiền, ai không có gì thì thôi. Khi nào có binh
sự, thì những người có ruộng, có đồng dâu, hay là có đầm cá phải chịu thóc,
tiền và vải, để cho quân dùng. Đến nay giặc giã luôn, kho tàng trống thốc, Đỗ
Tử Bình64 xin với vua bắt mỗi suất đinh mỗi năm phải đóng 3 quan tiền thuế.
Thuế thân sinh ra từ đấy.
3. Nhà Minh Sách Nhiễu. Ở bên Tàu thì bấy
giờ nhà Minh đã dứt được nhà Nguyên, lại có ý dòm đất An Nam. Thường thường cho
sứ đi lại sách cái nọ, đòi cái kia; năm giáp tí (1384) Minh Thái Tổ cho sứ sang
bắt An Nam phải cấp 5000 thạch lương cho quân nhà Minh đóng ở Vân Nam. Năm sau
(1385) lại cho sứ sang đem 20 tăng nhân An Nam về Kim Lăng, rồi lại đòi phải
cống cây quý, phải nộp lương, chủ ý là xem tình thế nước Nam ra thế nào.
4. Nghệ Tông Thất Chính. Vua Nghệ Tông tuy
giữ quyền chính trị, nhưng việc gì cũng do ở Lê Quý Ly. Triều đình thì chỉ có mặt xu nịnh, người nào
cũng chỉ lo lấy thân mà thôi, việc nước an nguy thế nào không ai lo nghĩ đến.
Những người tôn thất như Trần Nguyên Đán65 thấy quốc chính rã rời, xin về trí
sĩ. Một hôm Thượng hoàng đến thăm bàn đến hậu sự, Nguyên Đán tâu rằng: "
Xin bệ hạ thờ nhà Minh như cha, yêu nước Chiêm Thành như con, thì quốc gia sẽ
không việc gì, mà lão thần chết cũng không hẩm !" Ấy là chỉ bàn những
chuyện làm tôi tớ mà thôi, chứ không có chí muốn cho nước mình cường
thịnh. Nguyên Đán biết rằng Quý
Ly sau này tất cướp ngôi nhà Trần, bèn kết làm thông gia, vì thế cho nên sau
dòng dõi nhà Trần chết cả, duy chỉ có con cái nhà Nguyên Đán được phú quý mà
thôi.
64 Đỗ Tử
Bình trước đi đánh Chiêm Thành có tội phải đày đi làm lính. Nay không biết làm
thế nào đã được phục chức.
65 Trần
Nguyên Đán là cháu tằng tôn Trần Quang Khải.
Nghệ
Tông Thượng Hoàng thì cứ mờ mịt, không biết ai trung ai nịnh, vẫn tưởng là Lê
Quý Ly hết lòng với nhà vua, bèn cho Lê Quý Ly gươm và cờ có chữ đề rằng:
"Văn Võ Toàn Tài, Quân Thần Đồng Đức". Lê Quý Ly làm thơ nôm dâng tạ.
5. Lê Quý Ly Mưu Giết Đế Hiễn. Bấy giờ Đế
Hiễn thấy Thượng hoàng yêu dùng Quý Ly, mới bàn với các quan thấy rằng nếu
không trừ đi rồi sau tất thành ra vạ to. Quý Ly biết mưu ấy, đến kêu van với
Thượng hoàng rằng: " Cổ lai chỉ bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con
nuôi cháu bao giờ". Thượng hoàng nghe lời, xuống chiếu trách Đế Hiễn còn
tính trẻ con và lại có ý hại kẻ công thần, làm nguy xã tắc; vậy phải giáng
xuống làm Minh Đức Đại Vương, và lập Chiêu Định Vương là con Nghệ Tông lên nối
ngôi.
Khi tờ
chiếu ấy bố cáo ra ngoài, có mấy người tướng quân đã toan đưa quân vào điện cứu
Đế Hiễn ra, nhưng vua viết hai chữ "giải giáp" và không cho được trái
mệnh của Thượng hoàng. Sau Đế Hiễn bị
thắt cổ chết, còn những tướng sĩ đồng mưu giết Quý Ly đều bị hại cả.
V. Trần Thuận Tông (1388-1398)
Niên-hiệu:
Quang Thái
1. Phạm Sư Ôn khởi loạn. Nghệ Tông Thượng
Hoàng đã nghe Quý Ly mà giết Đế Hiễn rồi lập người con út của mình là Chiêu
Định Vương lên làm vua, tức là vua Thuận Tông.
Bấy giờ
trong triều thì Lê Quý Ly chuyên quyền, chọn những chân tay cai quản các đội
quân để làm vây cánh, ngoài các trấn thì giặc giã nổi lên nhiều lắm. Ở Thanh
Hóa có tên Nguyễn Thanh tự xưng là Linh Đức Vương làm loạn
ở Lương Giang;
tên Nguyễn Kị tự xưng
là Lỗ Vương
làm loạn ở Nông Cống. Ở Quốc Oai
thì có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi lên đem quân về đánh Kinh Sư. Thượng
Hoàng, Thuận Tông và Triều đình phải bỏ chạy lên Bắc giang. Phạm Sư Ôn lấy được
Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Bấy giờ có tướng quân là Hoàng Phụng
Thế đóng ở Hoàng Giang66 để phòng giữ quân Chiêm Thành, nghe tin Sư Ôn phạm đất
Kinh sư mới đem quân về đánh lẻn bắt được Sư Ôn và phá tan giặc ấy.
2. Chế Bồng Nga Tử Trận. Năm kỷ tị (1389) Chế Bồng Nga lại đem quân ra
đánh Thanh Hóa. Vua sai Lê Quý Ly đem binh vào chống giữ ở làng Cổ Vô. Quan
quân đóng cọc ngăn sông ra giữ nhau với giặc hơn 20 ngày. Giặc bèn phục binh,
rồi giả tảng rút quân về. Lê Quý Ly đem quân thủy bộ đuổi đánh, bị phục binh
của giặc đổ ra đánh, giết hại mất nhiều. Quý Ly trốn chạy về kinh để người tỳ
tướng là Phạm Khả Vĩnh, và tướng quân là Nguyễn Đa Phương chống nhau với giặc ở
Ngu Giang. Bọn Nguyễn Đa Phương thấy quân mình yếu thế, giả tảng bày cờ giàn
thuyền ra rồi đến đêm rút quân về.
Qua
tháng mười một, quân Chiêm lại vào sông Hoàng gian, Thượng hoàng sai quan Đô
tướng là Trần Khát Chân67 đem binh đi chống giữ với giặc. Trần Khát Chân khóc
và lạy rồi ra đi, Thượng hoàng cũng khóc. Xem thế thì biết vua tôi nhà Trần,
bấy giờ lấy quân Chiêm thành làm khiếp sợ lắm.
Trần
Khát Chân đem quân đến Hoàng Giang xem không có chỗ nào đóng quân được tiện
lợi, bèn rút về đóng ở sông Hải Triều (ở vào địa phận Huyện Hưng Nhân, tỉnh
Thái Bình và huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, tức là ở sông Luộc).
Đến
tháng giêng năm canh ngọ (1390) Chế Bồng Nga đi thuyền đến xem hình thế quân
của Trần Khát Chân. Bấy giờ có thằng đầy tớ của Chế Bồng Nga có tội, sợ phải
giết, chạy sang hàng với Trần Khát Chân. Nhân khi Chế Bồng Nga đem hơn 100
chiếc thuyền đến gần trại của quân nhà Trần đóng, tên đầy tớ ấy chỉ cái thuyền
của Chế Bồng Nga cho Khát Chân. Khát
Chân mới truyền lấy súng bắn vào thuyền ấy. Chế Bồng Nga trúng phải đạn chết.
Quan
quân đổ ra đánh, quân Chiêm thấy quốc vương chết đều bỏ chạy cả. Quan quân đánh
đuổi rồi cắt lấy đầu Chế Bồng Nga đem về dâng triều đình. Thượng Hoàng thấy đầu
Chế Bồng Nga, tự ví mình như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, rất là vui vẽ. Đoạn
rồi định công thưởng tước các tướng sĩ.
Tướng
Chiêm Thành là La Khải đem xác Chế Bồng Nga hỏa táng xong rồi, dem quân trở về
nước, chiếm lấy ngôi vua Chiêm Thành. Hai người con Chế Bồng Nga phải chạy sang
hàng An Nam, đều được phong tức hầu cả.
66 Hoàng
Giang là khúc sông Hồng Hà ở về huyện Nam Xang, Hà Nam. 67 Trần Khát Chân là dòng dõi Trần Bình Trọng.
3. Lê Quý Ly Chuyên Quyền. Từ khi giặc Chiêm
đã yên, Lê Quý Ly càng ngày càng kiêu hãnh. Bao nhiêu những người mà không tòng
phục mình thì xui Thượng hoàng giết đi; hoàng tử, thân vương đều bị giết hại.
Mà Thượng hoàng thì cứ tin Quý Ly một cách lạ lùng. Sĩ phu có người dâng sớ tâu
với Thượng hoàng rằng Quý Ly có ý muốn dòm cơ nghiệp nhà Trần, thì Thượng hoàng
lại đưa sớ cho Quý Ly xem, cho nên những người trung thần không ai nói năng gì
nữa.
Uy quyền
của Quý Ly một ngày một to, vây cánh một ngày một nhiều, Thượng hoàng sau tỉnh
dần dần lại biết lấy làm sợ, nhưng đã chậm lắm rồi, thế không sao được nữa; mới
bắt người vẽ cái tranh tứ phụ cho Quý Ly. Trong tranh ấy vẽ ông Chu công giúp
vua Thành Vương, ông Hoắc Quang giúp vua Chiêu Đế, ông Gia Cát Lượng giúp vua
Hậu Chủ, ông Tô Hiến Thành giúp vua Lý Cao Tông, rồi bảo Quý Ly rằng nhà ngươi
giúp con trẫm cũng nên như thế. Một hôm Thượng hoàng gọi Quý Ly vào trong điện
mà bảo rằng: "Nhà ngươi là thân tộc, cho nên bao nhiêu việc nước, trẫm đều
ủy thác cho cả; nay quốc thế suy nhược, trẫm thì già rồi; ngày sau con trẫm có
nên giúp thì giúp, không thì nhà ngươi tự làm lấy". Thượng hoàng bắt chước
câu ấy của ông Lưu Bị nói vớo ông Khổng Minh ngày trước, tưởng để mua chuộc
được lòng Quý Ly.
Quý Ly
cởi mũ, khấu đầu khóc lóc mà thề rằng: "Nếu hạ thần không hết lòng, hết
sức giúp nhà vua, thì trời tru đất diệt. Vả ngày trước Linh Đức Vương (tức là
Phế Đế) có lòng làm hại, nếu không có uy linh của bệ hạ, thì nay đã ngậm cười
dưới đất, còn đâu ngày nay nữa mà mài thân nghiền cốt để báo đền vạn nhất! Vậy
hạ thần đâu có ý gì khác, xin bệ hạ tỏ lòng ấy cho và đừng lo gì ! "
VI. Lê Quý Ly Mưu Sự Thoán Đoạt
Nghệ
Tông mất rồi, Quý Ly lên làm Phụ Chính Thái Sư vào ở trong điện, dịch thiên Vô
Dậu ra chữ Nôm để dạy vua và bắt người ta gọi là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế.
Từ đấy
Quý Ly cứ chuyên làm mọi việc để chực đường thoán đoạt. Việc trong nước, Quý Ly
xếp đặt lại cả, hoặc để mua chuộc lấy những người vây cánh.
1. Việc Tài Chính. Quý Ly đặt ra một cách
làm tiền giấy để thu tiền của dân: Tờ giấy ăn 10 đồng, thì vẽ cây rêu bể; ăn 30
đồng thì vẽ cái sóng; ăn một tiền, thì vẽ đám mây; hai tiền thì vẽ con rùa; ba
tiền thì vẽ con lân;
năm tiền
thì vẽ con phượng; một quan thì vẽ con rồng. Hễ ai làm giấy giả thì phải tội
chém. Khi đã có dấu đóng rồi thì phát ra bắt dân phải tiêu, còn bao nhiêu tiền
đồng thì thu nộp nhà vua; ai mà dấu giếm thì phải tội như là tội làm giấy giả
vậy.
Việc
ruộng đất thì khi trước những nhà tôn thất cứ sai đầy tớ ra chỗ đất bồi ở ngoài
bể, đắp đê để một vài năm cho hết nước mặn, rồi khai khẩn thành ruộng, để tư
trang. Nay Quý Ly lập lệ rằng trừ những bậc đại vương, công chúa ra, thì những
người thứ dân không được có hơn 10 mẫu, ai có thừa ra thì phải đưa nộp quan, và
ai có tội thì được phép lấy ruộng mà chuộc tội.
2. Việc Học Hành. Tư trước thì phép thi
không có định văn thể; bây giờ định lại làm tứ trường văn thể và bỏ thi ám tả;
nhất trường làm bài kinh nghĩa; nhị trường
làm bài thi
phú; tam trường
làm chiếu, chế,
biểu; tứ trường làm bài văn
sách. Còn như kỳ thi, thì năm trước thi
Hương, năm sau thi Hội, ai đã trúng Hội thì vào thi một bài văn sách nữa để
định cao thấp.
Những
quan làm giáo chức ở các lộ, phủ, châu thì được cấp ruộng; như ở các lộ thì có
quan đốc họ; ở phủ và châu lớn thì các quan giáo thụ được ruộng 15 mẫu, ở phủ
và châu vừa thì được 12 mẫu, ở phủ và châu nhỏ thì được 10 mẫu.
3. Việc Cai Trị. Ở trong triều thì Quý Ly định lại phẩm phục
của các quan; nhất phẩm mặc áo sắc tía; nhị phẩm sắc đỏ; tam phẩm sắc hồng; tứ
phẩm sắc lục; ngũ lục, thất phẩm sắc biếc; bát, cửu phẩm sắc sanh; vô phẩm và
hoằng nô68 sắc trắng.
Ở ngoài
thì cải các lộ làm trấn, và đặt thêm quan chức ở lộ, phủ, v.v....
Thanh
Hóa đổi ra Thanh Đô Trấn; Quốc Oai là Quảng Oai Trấn; Đà Giang Lộ là Thiên Hưng
Trấn; Nghệ An Lộ là Lâm An Trấn; Tràng An Lộ là Thiên Quan Trấn; Diễn Châu Lộ
là Vọng Giang Trấn; Lạng Sơn Phủ là Lạng Sơn Trấn; Tân Bình Phủ là Tây Bình
Trấn. Và bỏ các ti xã, chỉ để quản giáp
như cũ mà thôi.
Ở các
lộ, phủ, châu, huyện thì đặt lại quan chức. Lộ thì đặt chánh phó An phủ sứ; phủ
thì đặt chánh phó Trấn Phủ Sứ; châu thì đặt Thông phán, Thiêm phán; huyện thì đặt
Lĩnh Úy, Chủ Bạ. Lộ coi phủ coi châu, châu coi huyện. Lộ nào cũNg phải có một
tập sổ sách về những việc đinh, điền, kiện tụng, đến cuối năm thì đệ về Kinh để
kê cứu.
68 Hoằng
Nô là đầy tớ nhà quan.
4. Lập Tây Đô. Quý Ly định dời Kinh Đô vào
Thanh Hóa cho dễ đường thoán đoạt, bèn sai quan vào xây thành Tây Đô ở động Yên
Tôn (nay còn di tích ở xã Yên Tôn, huyện Vĩnh Lộc, tục gọi là Tây Giai). Đến
năm bính tí (1396) Quý Ly bắt Thuận Tông phải dời kinh về Tây Độ Qua tháng ba
năm sau, Quý Ly lập mưu cho người đạo sĩ vào trong cung xui Thuận Tông nhường
ngôi mà đi tu tiên. Thuận Tông phải nhường ngôi cho con, rồi đi tu tiên ở cung
Bảo Thanh tại núi Đại Lại (thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa).
5. Sự Phế Lập: Trần Thiếu Đế (1398 - 1400).
Quý Ly bắt Thuận Tông nhường ngôi rồi, lập Thái Tử là Án lên làm vua. Thái tử
bấy giờ mới có 3 tuổi, tức là Thiếu Đế, niên hiệu là Kiến Tân.
Lê Quý
Ly làm phụ chính tự xưng làm Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, rồi sai người giết
Thuận Tông đi.
Bấy giờ
triều đình có những người như là Thái Bảo Trần Nguyên Hảng, Thượng tướng quân
là Trần Khát Chân lập hội để mưu trừ Quý Ly, chẳng may sự lộ ra, bị giết đến
hơn 370 người69.
Lê Quý
Ly lại xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, ở cung Nhân Thọ, ra vào dùng nghi vệ của
Thiên Tử. Đến tháng hai năm canh thìn (1400) Quý Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xưng làm
vua thay ngôi nhà Trần.
Nhà Trần
làm vua nước Nam ta kể từ Trần Thái Tông đến Trần Thiếu Đế, với 12 ông vua,
được 175 năm, công việc trong nước sửa sang được nhiều, chính trị luật lệ đều
chỉnh đốn lại, học hành thi cử thì mở mang rộng thêm ra. Lại chống với nhà
Nguyên giữ được giang sơn, lấy đất Chiêm Thành mở thêm bờ cõi, thật là có công
với nước Nam. Nhưng chỉ có điều luân
thường trong nhà thì bậy: cô cháu, anh em, trong họ cứ lấy lẫn nhau, thật là
trái với thế tục.
Còn như
cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ là tại vua Duệ Tông và vua Nghệ Tông. Dụ Tông thì hoang chơi, không chịu lo gì đến
việc nước và lại làm loạn cả cương kỷ để đến nổi dân nghèo nước yếu. Nghệ Tông thì không biết phân biệt hiền gian
để kẻ quyền thần được thế làm loạn, thành ra tự mình nối giáo cho giặc, tự mình
làm hại nhà mình vậy.
69 Nay ở
Thanh Hóa có nhiều nơi làm đền thờ Trần Khát Chân.
CHƯƠNG XI
Nhà Hồ
(1400 - 1407)
I. Hồ Quý Ly
II. Hồ Hán Thương
1. Việc võ bị
2. Sự sưu thuế
3. Việc học hành
4. Việc giao thiệp với Chiêm Thành
5. Việc giao thiệp với nhà Minh
6. Nhà Minh đánh họ Hồ
7. Thành Đa Bang thất thủ
8. Trận Mộc Phàm Giang
9. Trận Hàm Tử Quan
10. Họ Hồ phải bắt
I. Hồ Quý Ly ( 1400 )
Niên-hiệu:
Thánh Nguyên
Quý Ly
bỏ Thiếu Đế, nhưng vị tình cháu ngoại cho nên không giết, chỉ giáng xuống làm
Bảo Ninh Đại Vương, rồi tự xưng làm đế, đổi họ là Hồ. Nguyên họ Hồ là dòng dõi
nhà Ngu bên Tàu, cho nên Quý Ly đặt quốc hiệu là Đại Ngu.
Bấy giờ
vua Chiêm Thành là La Khải mới mất, con là Ba Đích Lại mới nối nghiệp,
Quý Ly nhân
dịp ấy sai
tương là Đỗ
Mãn làm thủy
quân đô tướng, Trần Tùng làm bộ
quân đô tướng lĩnh 15 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Nhưng Trần Tùng đem quân đi
đường núi sang gần đất Chiêm Thành, cách thủy quân xa, hai bên không tiếp ứng
được nhau, thành ra bộ quân thiếu lương phải rút về. Trần Tùng về phải tội, đày
ra làm lính.
Quý Ly
làm vua chưa được một năm, muốn bắt chước tục nhà Trần, nhường ngôi cho con là
Hồ Hán Thương rồi làm Thái Thượng Hoàng để cùng coi việc nước.
II. Hồ Hán Thương ( 1401 - 1407 )
Niên-hiệu:
Thiệu Thành (1401 - 1402)
Khai Đại
(1403 - 1407)
1. Việc Võ Bị.
Hồ Quý Ly đã nhường ngôi rồi, nhưng việc gì cũng quyết đoán ở mình cả. Hồ Hán Thương chỉ làm vua lấy vì mà thôi.
Hồ Quý Ly đã nhường ngôi rồi, nhưng việc gì cũng quyết đoán ở mình cả. Hồ Hán Thương chỉ làm vua lấy vì mà thôi.
Nhà Hồ
không làm vua được bao lâu, nhưng mà công việc sửa sang cũng nhiều. Trước hết Hồ Quý Ly chỉnh đốn việc võ bị: bề
ngoài tuy lấy lễ mà đối đãi với nhà Minh, nhưng vẫn biết nhà Minh có ý muốn dòm
đất An Nam, cho nên thường cứ hỏi các quan rằng: " Ta làm thế nào cho có
100 vạn quân để đánh giặc Bắc ?"
Bèn lập ra hộ tịch bắt người trong nước cứ hai tuổi trở lên thì phải
biên vào sổ, ai mà ẩn lậu thì phải phạt. Đến lúc hộ tịch làm xong rồi, số người
từ 15 tuổi đến 60 tuổi hơn gấp mấy phần lúc trước. Từ đó số quân lại thêm ra
được nhiều.
Còn như
thủy binh để giữ mặt sông, mặt bể thì Quý Ly bắt làm những thuyền lớn ở trên có
sàn đi, ở dưới thì để cho người chèo chống, thật tiện cho sự chiến đấu.
Quý Ly
lại đặt ra bốn kho để chứa đồ quân khí và bắt những người xảo nghệ vào làm
những đồ khí giới.
Ở các
cửa bể và những chỗ hiểm yếu ở trong sông lớn đều bắt lấy gỗ đóng cọc để ngự bị
quân giặc.
Việc
quân chế thì nam bắc phân ra làm 12 vệ, đông tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18
đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân thì có 30 đội, trung quân thì có 20 đội. Mỗi
doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội. Còn những cấm vệ, thì chỉ có 5 đội, có một
người đại tướng thống lĩnh cả.
2. Việc Sưu Thuế.
Những thuyền đi buôn bán đều phải chịu thuế cả. Những thuyền hạng nhất mỗi chiếc phải 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan.
Những thuyền đi buôn bán đều phải chịu thuế cả. Những thuyền hạng nhất mỗi chiếc phải 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan.
Thuế
điền thì ngày trước nhà Trần đánh thuế ruộng tư mỗi mẫu ba thăng thóc, ruộng
dâu mỗi mẫu hoặc 9 quan, hoặc 7 quan. Thuế đinh thì mỗi người phải đóng 3 quan.
Nay nhà Hồ định lại: ruộng tư điền thì phải đóng 5 thăng; còn ruộng dâu thì
chia ra làm 3 hạng: hạng nhất 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan. Thuế
đinh thì lấy ruộng làm ngạch: ai có 2 mẫu 6 sào trở lên thì phải đóng 3 quan,
ai có kém số ấy được giảm bớt, ai không có ruộng, và những người cô nhi quả phụ
thì được tha thuế.
3. Việc Học Hành.
Việc học hành, thi cử đều sửa sang lại, lấy toán học đặt thêm ra một trường nữa, nghĩa là trong những khoa thi, có đặt thêm ra một kỳ thi toán pháp. Còn những cách thi, thì những người đã đỗ hương thi, sang năm sau phảI vào bộ Lễ thi lại, ai đỗ thì mới được tuyển bổ, rồi qua năm sau nữa thì lại thi hội, bấy giờ có đỗ, thì mới được là Thái Học Sinh.
Việc học hành, thi cử đều sửa sang lại, lấy toán học đặt thêm ra một trường nữa, nghĩa là trong những khoa thi, có đặt thêm ra một kỳ thi toán pháp. Còn những cách thi, thì những người đã đỗ hương thi, sang năm sau phảI vào bộ Lễ thi lại, ai đỗ thì mới được tuyển bổ, rồi qua năm sau nữa thì lại thi hội, bấy giờ có đỗ, thì mới được là Thái Học Sinh.
Nhà Hồ
lại sửa hình luật, và đặt ra y tỳ để coi việc thuốc thang.
4.Việc Giao Thiệp Với Chiêm Thành.
Năm nhâm ngọ (1402) tướng nhà Hồ là Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành. Vua nước ấy là Ba Đích Lại sai cậu là Bồ Điền sang dâng đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) để xin bãi binh. Quý Ly lại bắt phải dân đất Cổ Lụy (Quảng Nghĩa) rồi phân đất ra làm châu Thăng, Châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa, và đặt quan An Phủ Sứ để cai trị bốn châu ấy. Lại bắt những dân có của mà không có ruộng ở các bộ khác đem vợ con vào ở để khai khẩn đất những châu ấy, bởi vì khi vua Chiêm nhường đất Chiêm Động và Cổ Lụy, người Chiêm đều bỏ đất mà đi cả.
Năm nhâm ngọ (1402) tướng nhà Hồ là Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành. Vua nước ấy là Ba Đích Lại sai cậu là Bồ Điền sang dâng đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) để xin bãi binh. Quý Ly lại bắt phải dân đất Cổ Lụy (Quảng Nghĩa) rồi phân đất ra làm châu Thăng, Châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa, và đặt quan An Phủ Sứ để cai trị bốn châu ấy. Lại bắt những dân có của mà không có ruộng ở các bộ khác đem vợ con vào ở để khai khẩn đất những châu ấy, bởi vì khi vua Chiêm nhường đất Chiêm Động và Cổ Lụy, người Chiêm đều bỏ đất mà đi cả.
Năm quý
mùi (1403) nhà Hồ lại muốn lấy những đất Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch, và Sa Ly Nha về
phía nam những đất đã nhường năm trước, bèn sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn đem
thủy bộ cả thảy 20 vạn quân sang đánh Chiêm Thành. Quân nhà Hồ vào vây thành Đồ
Bàn hơn một tháng trời mà đánh không đổ, lương thực hết cả, phải rút quân về.
Lần này hao binh tổn tướng mà không có công trạng gì.
5. Việc Giao Thiệp Với Nhà Minh.
Khi Hồ Hán Thương mới lên ngôi, thì cho sứ sang nhà Minh nói dối rằng: vì chưng dòng dõi nhà Trần không còn người nào nữa, cho nên cháu ngoại lên thay để quyền lý việc nước.
Khi Hồ Hán Thương mới lên ngôi, thì cho sứ sang nhà Minh nói dối rằng: vì chưng dòng dõi nhà Trần không còn người nào nữa, cho nên cháu ngoại lên thay để quyền lý việc nước.
Đến khi
vua Thái Tổ nhà Minh mất, Hoàng Thái Tôn lên ngôi tức là vua Huệ Đế. Bấy giờ
hoàng thúc là Yên Vương Lệ, đóng ở Yên Kinh, quyền to thế mạnh, có ý tranh ngôi
của cháu, bèn khởi binh đánh lấy Kim Lăng, rồi lên làm vua, tức là vua Thành
Tổ, đóng đô ở Yên Kinh (Bắc Kinh).
Khi
Thành Tổ dẹp xong dư đảng nhà Nguyên ở phía bắc rồi, có ý muốn sang lấy nước An
Nam, cho nên nhân khi Hồ Hán Thương sai sứ sang xin phong, vua Thành Tổ sai
quan là Dương Bột sang xem hư thực thể nào. Hồ Quý Ly bèn bắt những quan viên
phụ lão làm tờ khai nói y như lời sứ An Nam dã
sang nói. Vì thế cho nên Thành Tổ không có cớ gì mà từ chối, phải phong cho Hồ
Hán Thương làm An Nam Quốc Vương.
Đến năm
giáp thân (1404) có Trần Khang ở mạn Lão Qua đi đường Vân Nam sang Yên Kinh,
đổi tên là Trần Thiêm Bình, xưng là con vua Nghệ Tông rồi kể rõ sự tình Hồ Quý
Ly tiếm nghịch. Vua Thành Tổ nhà Minh
sai quan ngự sử Lý Ỷ sang tra xét việc ấy. Lý Ỷ về tâu quả thật là họ Hồ làm
điều thoán đoạt.
Từ đấy
nhà Minh muốn mượn tiếng đánh Hồ để lấy đất An Nam. Ở
bên này
cha con họ Hồ cũng biết ý ấy, hết sức tìm cách chống giữ.
Năm ất
dậu (1405) nhà Minh sai sứ sang đòi đất Lộc Châu. Trước Hồ Quý Ly đã không
chịu, sau phải cắt ra 59 thôn ở Cổ Lâu nhường cho Tàu.
Tuy vậy
nhà Minh vẫn cứ cứ trách nhà Hồ làm điều tiếm nghịch. Sứ nhà Hồ sang Tàu thì nhà Minh giữ lại,
không cho ai về, lại cho người sang An Nam dò xem sơn xuyên đạo lộ hiểm trở thế
nào, để liệu đường tiến binh.
Họ Hồ
biết thế nào rồi quân Minh cũng sang đánh, bèn sai đắp thành Đa Bang (bây giờ ở
xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây), bắt lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch
Hạc để chặn đường quân Minh sang, và chia các vệ quân ở Đông Đô ra giữ mọi
đường hiểm yếu. Đoạn rồi hội cả nội ngoại bách quan văn võ lại bàn việc nên
đánh hay là nên hòa. Người thì bàn đánh, người thì bàn hòa, nhưng Quý Ly nhất
định đánh.
Từ khi
Lý Ỷ trở về Tàu, nhà Hồ cho sứ sang dâng biểu tạ tội, và xin rước Trần Thiêm
Bình về. Vả bấy giờ Thiêm Bình cứ kêu van với vua nhà Minh, xin cho đem binh
sang đánh báo thù, vì vậy năm Bính Tuất (1406) Minh Thành Tổ sai đốc tướng là
Hàn Quan và bọn Hoàng Trung dẫn 5000 quân đưa Thiêm Bình về nước.
Khi Hồ
Quý Ly được tin ấy, liền sai tướng lên đón ở cửa Chi Lăng, đánh quân Minh, bắt
được Thiêm Bình đem về giết đi. Đoạn rồi biết quân Minh tất lại sang, một mặt
cho sứ sang biện bạch việc Thiêm Bình nói dối, và xin theo lệ tiếng cống như
cũ, một mặt cho những công hầu được quyền mộ những người đào vong làm lính, đặt
thiên hộ, bách hộ để làm quản những lính mộ ấy. Và ở các cửa sông thì đóng cừ
lại, để giữ quân giặc ở mặt bể vào. Về
phía nam ngạn sông Nhị Hà (tức là sông Hồng Hà) thì đóng cừ dài hơn 700 dặm.
Lại sai dân ở Bắc Giang và Tam Đái sang làm nhà sẵn ở phía nam sông lớn để
phòng khi giặc đến, thì bỏ sang bên này mà ở.
6. Nhà Minh Đánh Họ Hồ.
Vua nhà Minh trước đã cho hoạn quan là Nguyễn Toán sang An Nam do thám, biết nước ta phú thịnh, đã có ý đánh lấy, cho nên thường cứ tìm chuyện để lấy cớ dấy binh. Nay nhân việc Hồ Hán Thương giết Thiêm Bình, vua Thành Tổ mới sai Thành Quốc Công là Chu Năng làm đại tướng, Tân Thành Hầu là Trương Phụ, Tây Bình Hầu là Mộc Thạnh, làm tả hữu phó tướng, Phong Thành Hầu là Lý Bân, Vân Dương Bá là Trần Húc làm tả hữu tham tướng, chia binh ra làm hai đạo sang đánh An Nam.
Vua nhà Minh trước đã cho hoạn quan là Nguyễn Toán sang An Nam do thám, biết nước ta phú thịnh, đã có ý đánh lấy, cho nên thường cứ tìm chuyện để lấy cớ dấy binh. Nay nhân việc Hồ Hán Thương giết Thiêm Bình, vua Thành Tổ mới sai Thành Quốc Công là Chu Năng làm đại tướng, Tân Thành Hầu là Trương Phụ, Tây Bình Hầu là Mộc Thạnh, làm tả hữu phó tướng, Phong Thành Hầu là Lý Bân, Vân Dương Bá là Trần Húc làm tả hữu tham tướng, chia binh ra làm hai đạo sang đánh An Nam.
Khi quân
nhà Minh đến Long Châu thì đại tướng Chu Năng chết, phó tướng Trương Phụ lên
thay.
Đạo quân
của Trương Phụ ở Quảng Tây đi từ đất Bằng Tường sang đánh lấy cửa Ba Lụy, tức
Nam Quan bây giờ, rồi tiến sang phía tây bắc về mé sông Cái70. Còn đạo quân của
Mộc Thạnh ở Vân Nam theo đường Mông Tự sang đánh lấy cửa Phú Lĩnh ( thuộc tỉnh
Tuyên Quang) rồi tiến sang đến sông Thao. Cả hai đạo hội ở Bạch Hạc, đóng đồn ở
bờ sông phía bắc.
Tuy rằng
nhà Hồ trước đã phòng bị, nhưng mà tướng nhà Minh biết rằng người An Nam không
phục họ Hồ, bèn làm hịch kể tội họ Hồ, và nói rằng quân Tàu sang là để lập dòng
dõi nhà Trần lên, cứu cho dân khỏi sự khổ sở.
Trương Phụ sai viết hịch ấy vào những mảnh ván nhỏ bỏ xuống sông, trôi
đến đâu, quân sĩ An Nam bắt được, nhiều người không đánh và theo hàng quân
Minh; vì thế cho nên quân Minh đi đến đâu đánh được đến đấy. Quân Hồ phải lui
về giữ thành Đa Bang.
Ở chỗ
thành Đa Bang, quân Hồ lập đồn ải liên tiếp ở phía nam sông Thao và sông Cái
tức là dọc sông Hồng Hà, rồi đóng cọc cắm ở giữa sông, thuyền bè không đi lại
được, có ý để cho quân Minh mỏi mệt rồi sẽ đánh.
7. Thành Đa Bang thất thủ.
Quân Minh tiến lên mặt có thành Đa Bang ngăn trở. Mộc Thạnh mới bàn với Trương Phụ rằng: "Mọi nơi đồn An Nam đóng gần bờ sông, quân sang không được, còn thành Đa Bang thì lũy cao hào sâu, nhưng ở đằng trước có bãi cát, quân có thể sang đấy được, vả ta có đồ chiến cụ, nếu đánh thì tất thành ấy phải đổ". Trương Phụ bèn hạ lệnh rằng: "Quân kia trông cậy có thành này, mà ta lập công cũng ở đó; hễ quân sĩ ai lên được trước thì có thưởng to !" Rồi ngay đêm hôm ấy đốt lửa thổi tù và làm hiệu, Trương Phụ, Hoàng Trung đánh mặt tây bắc, Mộc Thạnh, Trần Tuấn đánh mặt đông nam, dùng thang vân thê để lên thành; quân Hồ đánh không được phải lui vào thành, đến sáng hôm sau đào thành
Quân Minh tiến lên mặt có thành Đa Bang ngăn trở. Mộc Thạnh mới bàn với Trương Phụ rằng: "Mọi nơi đồn An Nam đóng gần bờ sông, quân sang không được, còn thành Đa Bang thì lũy cao hào sâu, nhưng ở đằng trước có bãi cát, quân có thể sang đấy được, vả ta có đồ chiến cụ, nếu đánh thì tất thành ấy phải đổ". Trương Phụ bèn hạ lệnh rằng: "Quân kia trông cậy có thành này, mà ta lập công cũng ở đó; hễ quân sĩ ai lên được trước thì có thưởng to !" Rồi ngay đêm hôm ấy đốt lửa thổi tù và làm hiệu, Trương Phụ, Hoàng Trung đánh mặt tây bắc, Mộc Thạnh, Trần Tuấn đánh mặt đông nam, dùng thang vân thê để lên thành; quân Hồ đánh không được phải lui vào thành, đến sáng hôm sau đào thành
70 Sử
chép là Phú Lương.
cho voi
ra đánh. Quân Minh vẽ sư tử trùm lên ngựa rồi xông vào và dùng súng bắn hăng
lắm, voi sợ chạy trở vào, quân Minh theo sau voi chạy ồ vào thành, quân Hồ thua
to, phải bỏ chạy vào Hoàng Giang71. Quân Minh thừa thế đánh tràn xuống sông
Cái, đốt sạch cả các đồn ải, rồi tiến lên đánh lấy Đông Đô (tức là Thăng Long),
bắt đàn bà con gái, cướp lấy của cải. Bọn Trương Phụ tích trữ lương thực, đặt
quan làm việc, định kế ở lâu dài.
8. Trận Mộc Phàm Giang. Qua tháng ba năm
đinh hợi (1407) Mộc Thạnh biết rằng con trưởng Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng
đóng ở Hoàng Giang, bèn đem thủy lục cùng tiến lên đến hạ trại ở sông Mộc Phàm
(ở làng Mộc Phàm, huyện Phú Xuyên tiếp với Hoàng Giang).
Hồ
Nguyên Trừng đem 30 chiếc thuyền ra đánh bị quân Mộc Thạnh ở hai bên bờ sông
đánh ụp lại. Nguyên Trừng thua chạy về cửa Muộn Hải (ở Giao Thủy, Nam Định).
Bấy giờ tướng nhà Hồ là Hồ Đỗ và Hồ Xạ cũng bỏ bến Bình Than72 (ở làng Trần Xá,
huyện Chí Linh, Hải Dương) chạy về cửa Muộn Hải để cùng với Nguyên Trừng tìm kế
phá giặc; nhưng quân Minh sực đến, lại bỏ chạy ra giữ cửa Đại An (thuộc phủ
Nghĩa Hưng bây giờ).
Quân
Minh ở Muộn Hải phải bệnh, lui về đóng ở bến Hàm Tử, để đợi quân Hồ lên sẽ
đánh.
Bọn Hồ
Nguyên Trừng rước Quý Ly và Hán Thương ở Tây Đô ra, rồi đem quân
lên Hoàng Giang để chống giữ với giặc.
9. Trận Hàm Tử Quan.
Quân Hồ bấy giờ cả thủy và bộ được 7 vạn, giả xưng là 21 vạn, rồi phân quân bộ ra làm hai đạo đi men hai bên sông, quân thủy đi giữa, tiến lên Hàm Tử Quan. Vừa đi đến nơi bị quân Minh hai mặt xông lại mà đánh, quân bộ của nhà Hồ đương không nổi, bỏ chạy cả, phần thì hàng giặc, phần thì chạy xuống xông chết đuối. Còn thủy quân thì chạy thoát được, nhưng bao nhiêu thuyền lương thì đắm mất cả.
Quân Hồ bấy giờ cả thủy và bộ được 7 vạn, giả xưng là 21 vạn, rồi phân quân bộ ra làm hai đạo đi men hai bên sông, quân thủy đi giữa, tiến lên Hàm Tử Quan. Vừa đi đến nơi bị quân Minh hai mặt xông lại mà đánh, quân bộ của nhà Hồ đương không nổi, bỏ chạy cả, phần thì hàng giặc, phần thì chạy xuống xông chết đuối. Còn thủy quân thì chạy thoát được, nhưng bao nhiêu thuyền lương thì đắm mất cả.
Bấy giờ
có quan An Phủ Sứ Bắc Giang tên là Nguyễn Hy Chu bị quân Minh bắt được, không
chịu hàng phải giết.
Hồ Quý
Ly và Hồ Hán Thương đưa bọn liêu thuộc chạy ra bể, rồi về Thanh Hóa, vào đến
Lỗi Giang (tức là Mã Giang) gặp quân Minh đuổi đến, quân Hồ không đánh mà tan.
Tướng nhà Hồ là Ngụy Thức thấy thế nguy cấp lắm,
bảo Quý Ly rằng: " Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt
được, xin Bệ Hạ tự đốt mà chết đi còn hay hơn ! " Quý Ly giận lắm, bắt
Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An.
10. Họ Hồ Phải Bắt. Trương Phụ, Mộc Thạnh biết
là Quý Ly chạy vào Nghệ An, bèn đem binh đi đường bộ đuổi theo, lại sai Liễu
Thăng đem thủy sư đi đuổi mặt thủy.
Quý Ly vào đến cửa Kỳ La (thuộc huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) bị quân nhà Minh bắt được. Hán Thương và những con cháu họ Hồ đều bị giặc bắt được cả ở núi Cao Vọng. Những quan nhà Hồ, người thì ra hàng, người thì bị bắt, người thì không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử.
Quý Ly vào đến cửa Kỳ La (thuộc huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) bị quân nhà Minh bắt được. Hán Thương và những con cháu họ Hồ đều bị giặc bắt được cả ở núi Cao Vọng. Những quan nhà Hồ, người thì ra hàng, người thì bị bắt, người thì không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử.
Nhà Hồ
chỉ làm vua được từ năm canh thìn (1400) đến năm đinh hợi (1407), kể vừa 7 năm
thì mất.
Xem công
việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay
một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung,
thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được
nước Nam, mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng
tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước.
Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh
lấy nước An Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo
giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở
đất nước người!
Nhưng
đấy là cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước
Nam, thì ai gánh vác cho Quý Ly ? May mà sau có một tay đại anh hùng là vua Lê
Thái Tổ hết sức ra tay trong hơn mười năm trời, cứu vớt được người mình ra khỏi
tay quân Tàu, chứ không thì cái khổ làm nô lệ nước Tàu lại biết mấy mươi đời
nữa mới giải thoát được.
71 Hoàng
Giang tức là khúc sông Hồng Hà thuộc về huyện Nam Xang tỉnh Hà Nam.
72 Bến
Bình Than là bến đò ngang từ làng Bình Than, Gia Bình, Bắc Ninh qua sông Thái
Bình sang làng Trần Xá ở hữu ngạn sông Kinh Thầy, thuộc phủ Nam Sách, Hải
Dương.
CHƯƠNG
XII
Nhà Hậu
Trần
(1407 -
1413)
1. Nhà Minh chiếm giữ đất An Nam
2. Giản Định Đế
3. Trận Bồ Cô
4. Trần Quý Khoách
5. Trương Phụ trở sang An Nam
6. Hóa Châu thất thủ
1. Nhà Minh Chiếm Giữ Đất An Nam. Nhà Minh
không phải có yêu gì nhà Trần mà sang đánh nhà Hồ, chẳng qua là nhân lấy cái cớ
nhà Trần mất ngôi mà đem binh sang lấy nước Nam. Lại nhân vì người An Nam ta
hay có tính ỷ lại, có việc gì thì chỉ muốn nhờ người, chứ tự mình không biết
kiên nhẫn, không có cố gắng mà làm lấy. Một ngày gì nữa mà còn lạ cái lòng hùm
beo của người Tàu, thế mà hễ khi nào trong nước có biến loạn, lại chạy sang van
lạy để rước chúng sang. Khác nào đi rước voi về giày mồ vậy.
Dẫu người
Tàu có lòng
vị nghĩa mà
sang giúp mình
nữa thì nghĩ cũng chẳng vẻ vang gì cái việc đi nhờ
người ta, huống chi kỳ thực thì lúc nào chúng cũng chực đánh lừa mình, như đánh
lừa trẻ con, để bóp cổ mình, thế mà người mình vẫn không biết cái dại, là tại
làm sao?
Tại là
cái nghĩa dân với nước ta không có mấy người hiểu rõ. Nhà nào làm vua, cho cả
nước là của riêng của nhà ấy; hễ ai lấy mất thì đi tìm cách lấy lại, lấy không
được thì lại đi nhờ người khác lấy lại cho, chứ không nghĩ đến cái lợi chung
trước cái lợi riêng, cái quyền nước trước cái quyền nhà, thế cho nên mình cứ
dại mãi, mà vẫn không biết là dại.
Xem như
lúc còn nhà Trần, nhà Minh đã có ý lấy đất An Nam, sau nhà Trần mất rồi lại
dùng lời nói khéo, và lấy tiếng điếu phạt đem binh sang đánh họ Hồ. Đến khi bắt
được cha con Hồ Quý Ly rồi, lại bày kế để chiếm giữ đất An Nam: giả treo bảng
gọi con cháu họ Trần, rồi bắt quan lại và kỳ lão làm tờ khai rằng: Họ Trần
không còn ai nữa và đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước, nay xin đặt
quận huyện như cũ.
Nhà Minh
lấy cái cớ giả dối ấy để chiếm giữ lấy nước Nam, rồi chia đất ra làm 17 phủ là:
Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Lạng Sơn, Tân An, Kiến Xương, Phong Hóa, Kiến
Bình, Trấn Man, Tam Giang, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân
Bình, Thuận Hóa, Thăng Hoa, và 5 châu là: Quảng Oai, Tuyên Hóa, Qui Hóa, Gia
Bình, Diễm Châu.
Còn
những nơi yếu hại thì đặt ra 12 vệ để phòng giữ. Lại đặt ra 3 ti là: Bố Chính
Ti, Án Sát Ti, Chưởng Đô Ti, và cả thảy ở trong nước lập ra 472 nha môn để cai
trị, sai quan thượng thư là Hoàng Phúc coi cả Bố Chính và Án Sát Ti; Lữ Nghị
chi Chưởng Đô Ti, Hoàng Trung làm phó.
Vua quan
nhà Hồ thì đều phải đem cả về Kim Lăng. Quý Ly về bên Tàu phải giam, rồi sau
đày ra làm lính ở Quảng Tây, còn con cháu và các tướng sĩ thì được tha cả không
phải tội.
Vua nhà
Minh lại truyền cho Trương Phụ tìm kiếm những người ẩn dật ở sơn lâm, những kẻ
có tài có đức, hay văn học rộng, quen việc, hiểu toán pháp, nói năng hoạt bát
cùng những người hiếu đễ, những người lực điền mà mặt mũi khôi ngô, hoặc có gân
sức khoẻ mạnh, những người thầy đồ, thầy bói, thầy thuốc, v.v.... để đưa sang
Kim Lăng, ban thưởng cho phẩm hàm, rồi cho về làm quan phủ, quan châu, hay là
quan huyện. Bấy giờ những đồ bôn cạnh tranh nhau mà ra, duy chỉ có vài người
như ông Bùi Ứng Đẩu, ông Lý Tử Cấu biết liêm sĩ, không chịu ra làm quan với nhà
Minh.
Công
việc xếp đặt đâu vào đấy rồi. Lữ Nghị
và Hoàng Phúc ở lại trấn đất Giao Chỉ, còn Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân về
Tàu, đưa địa đồ An Nam về dâng vua nhà Minh.
Bấy giờ
tuy rằng nhà Minh đã chiếm giữ đất An Nam, nhưng con cháu nhà Trần còn có người
muốn khôi phục nghiệp cũ, vả nước ta còn có nhiều người không muốn làm nô lệ
nước Tàu, cho nên nhà Hậu Trần lại hưng khởi lên được mấy năm nữa.
2. Giản Định Đế (1407 - 1409). Khi trước
Trương Phụ treo bảng gọi con cháu nhà Trần là ý giả dối để chực giết hại, cho
nên không ai dám ra. Bấy giờ có Giản Định Vương tên là Quĩ, con thứ vua Nghệ
Tông chạy đến Mô Độ (thuộc làng Yên Mô, huyện Yên Mô, Ninh Bình) gặp Trần Triệu
Cơ đem chúng đi theo, bèn xưng là Giản Định Hoàng Đế, để nối nghiệp nhà Trần,
đặt niên hiệu là Hưng Khánh.
Giảng
Định khởi nghĩa chống với quân Minh, nhưng vì quân mình là quân mới góp nhặt
được, đánh không nổi, phải thua chạy vào Nghệ An; bấy giờ có Đặng Tất là quan
nhà Trần, trước đã ra hàng nhà Minh được làm đại tri châu ở Hóa Châu, nay thấy
Giản Định Đế khởi nghĩa, liền giết quan nhà Minh đi, rồi đem quân ra Nghệ An để
giúp việc khôi phục. Lại ở đất Đông Triều có Trần Nguyệt Hồ cũng khởi binh đánh
quân nhà Minh, nhưng chẳng được bao lâu mà phải bắt, còn dư đảng chạy vào Nghệ
An theo vua Giản Định. Vì vậy cho nên quân thế của Giản Định mới mạnh lên. Ông
Đặng Tất lại giết được hàng tướng nhà Minh là Phạm Thế Căng ở cửa Nhật Lệ. Lúc
bấy giờ đất An Nam từ Nghệ An trở vào lại thuộc về nhà Trần.
3. Trận Bô Cô. Tháng chạp năm mậu tý (1408)
Giản Định Đế hội tất cả quân Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh
Hóa, rồi tiến ra đánh Đông Đô. Quân ra đến Trường Sơn (Ninh Bình) thì các quan
thuộc và những kẻ hào kiệt ở các nơi ra theo nhiều lắm.
Quan nhà
Minh đem tin ấy về báo cho Minh Đế biết. Minh Đế sai Mộc Thạnh đem 4 vạn quân ở
Vân Nam sang đánh dẹp. Mộc Thạnh cùng với các quan đô chưởng là Lữ Nghị vào đến
bến Bô Cô (thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Phong Doanh) thì gặp quân Trần. Hai bên giao
chiến, vua Giản Định tự cầm trống thúc quân, tướng sĩ ai nấy hết sức xung đột,
phá tan được quân nhà Minh, chém được Lữ Nghị ở trận tiền và đuổi Mộc Thạnh về
đến thành Cổ Lộng (thành nhà Minh xây, bấy giờ ở làng Bình Cách, huyện Ý Yên).
Bấy giờ
vua Giản Định muốn thừa thắng đánh tràn ra để lấy lại Đông Quan (tức Đông Đô).
Nhưng ông Đặng Tất ngăn lại muốn để đợi quân các lộ về đã, rồi sẽ ra đánh. Từ
đó vua tôi không được hòa thuận, vua Giản Định lại nghe người nói gièm, bắt
Đặng Tất và quan tham mưu là Nguyễn Cảnh Chân đem giết đi, thành ra lòng người
ai cũng chán ngán cả, không có lòng giúp rập nữa.
4. Trần Quý Khoách (1403 -1413). Giặc nước
hãy còn, mà vua tôi đã nghi hoặc nhau, rồi đem giết hại những người có lòng vì
nước, thật là tự mình gây nên cái vạ cho mình.
Bấy giờ
con ông Đặng Tất là Đặng Dung và con ông Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị
thấy thân phụ bị giết, đều bỏ vua Giản Định, đem quân bản bộ về Thanh Hóa rước
vua Quý Khoách vào huyện Chi La (tức là huyện La Sơn, Hà Tĩnh) rồi tôn lên làm
vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang.
Lúc ấy
vua Giản Định đương chống nhau với quân nhà Minh ở thành Ngự Thiên (thuộc huyện
Hưng Nhân). Quý Khoách sai tướng là Nguyễn Súy ra đánh lẻn bắt đem về Nghệ An.
Quý Khoách tôn Giản Định lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng lo việc khôi phục.
5. Trương Phụ Trở Sang An Nam. Vua nhà Minh
thấy Mộc Thạnh bại binh, lại sai Trương Phụ làm thống binh, Vương Hữu làm phó
đem binh sang cứu viện.
Quân nhà
Trần bấy giờ chia ra là mấy đạo đi đánh dẹp các châu huyện ở mạn Hải Dương.
Giản Định đóng quân ở Hạ Hồng (Ninh Giang), Quý Khoách đóng ở Bình Than.
Khi
Trương Phụ sang đến nơi, tiến binh đánh đuổi, Giản Định đem binh thuyền chạy về
đến huyện Mỹ Lương (giáp Sơn Tây và phủ Nho Quan) gặp quân Trương Phụ đuổi đến
bắt được giải về Kim Lăng.
Giản Định
bị bắt rồi, Quý Khoách ở Bình Than sai Đặng Dung đến giữ Hàm Tử Quan (huyện
Đông An, Hưng Yên). Nhưng quân của Đặng Dung thiếu lương, phải bỏ chạy. Quý
Khoách thấy quân của Đặng Dung đã thua, liệu thế giữ không nổi, bèn bỏ Bình
Than chạy về Nghệ An.
Trương
Phụ thắng trận, đi đến đâu giết hại quân dân, và làm những điều tàn bạo gớm ghê
như là: xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt
người để lấy đầu. Còn những người An Nam
ai tòng phục nhà Minh mà giết được nhiều người bản quốc thì được thưởng cho làm
quan. Thật bấy giờ tha hồ cho bọn hung ác đắc chí!
Năm canh
dần (1410) Trần Quý Khoách cùng với bọn Nguyễn Cảnh Dị lại đem quân ra đánh
quân Minh ở Hồng Châu, được thắng trận, rồi lại ra đóng ở Bình Than. Ở các nơi lại nổi lên đánh giết quân nhà
Minh; nhưng chỉ vì quân không có thống nhiếp, hiệu lệnh bất nhất, cho nên đến
khi quân giặc đến đánh, quân nhà Trần lại thua, phải chạy về Nghệ An.
Trương
Phụ một mặt đưa chiếu của vua Minh lấy lời giả nhân nghĩa mà dụ quan lại nhân dân,
một mặt thì tiến quân vào đánh Trần Quý Khoách.
Tháng tư
năm quý tị (1413) Trương Phụ đưa quân đánh Nghệ An, quân Quý Khoách bấy giờ
mười phần chỉ còn ba bốn, lương thực lại không có, phải bỏ chạy và Hóa Châu.
Trước
Quý Khoách đã mấy lần cho người sang Tàu cầu phong, Minh Đế không cho, đem giết
sứ thần đi. Nay Quý Khoách lại sang Nguyễn Biểu ra cầu phong với Trương Phụ .
Trương Phụ bắt giữ không cho về. Nguyễn Biểu giận mắng Trương Phụ rằng: "
Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem
quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận
huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay
thật đồ ăn cướp hung ngược
!"
Trương Phụ tức giận đem giết đi.
6. Hóa Châu Thất Thủ. Đến
tháng sáu năm
quý tị (1413)
quân Trương Phụ vào đến Nghệ An, quan Thái Phó nhà Hậu Trần là Phan Quý
Hữu ra hàng, nhưng được mấy hôm thì mất. Trương Phụ cho con là Quý Hữu là Liêu
làm tri phủ Nghệ An. Phan Liêu muốn tâng công, Quý Khoách có bao nhiêu tướng tá
người nào giỏi, người nào dở, quân số nhiều ít, sơn xuyên chổ hiểm, chỗ không
thế nào, khai cả cho Trương Phụ biết. Trương Phụ bèn quyết ý vào Hóa Châu, và
hội chư tướng lại để bàn kế tiến binh.
Mộc
Thạnh nói rằng: " Hóa Châu núi cao bể rộng khó lấy lắm".
Trương
Phụ nhất định vào đánh cho được, nói rằng: " Ta sống cũng ở đất Hóa Châu
này, mà chết cũng ở đất Hóa Châu này. Hóa Châu mà không lấy được thì không mặt
mũi nào về trông thấy chúa thượng !" Lập tức truyền cho quân thủy bộ tiến
vào đánh Hóa Châu.
Đến
tháng chín, quân Trương Phụ vào đến Thuận Hóa, Nguyễn Súy và Đặng Dung nửa đêm
đem quân đến đánh trại Trương Phụ. Đặng Dung đã vào được thuyền của Trương Phụ
định để bắt sống lấy nhưng không biết mặt, vì thế Trương Phụ mới nhảy xuống
xông lấy cái thuyền con mà chạy thoát được.
Bấy giờ
quân nhà Trần ít lắm. Trương Phụ thấy vậy đem binh đánh úp lại, bọn Đặng Dung
địch không nổi phải bỏ chạy.
Từ khi
thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc
được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoách,
Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy
đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả.
Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, bọn ông Đặng Dung
cũng tử tiết cả.
Cha con
ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng
cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho
người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc,
tỉnh Hà Tĩnh.
Ông Đặng
Dung có làm bài thơ thuật hoài như sau này, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn
truyền tụng:
Thế sự
du du nại lão hà !
Vô cùng
thiên địa nhập hàm ca
\Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
\Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
Kỷ độ
long tuyền đái nguyệt ma !
DỊch:
Việc đời
bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng
lỡ bước ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Nhà Hậu
Trần nổi lên toan đường khôi phục, nhưng hiềm vì nỗi lòng người còn ly tán, thế
lực lại hèn yếu, cho nên chỉ được 7 năm thì mất.
CHƯƠNG
XIII
Thuộc
Nhà Minh
(1414 -
1427)
1. Việc chính trị nhà Minh
2. Việc tế tự
3. Cách ăn mặc
4. Sự học hành
5. Việc trạm dịch
6. Việc binh lính
7. Phép hộ thiếp và hoàng sách
8. Việc thuế má
9. Việc sưu dịch
10.Quan lại
1. Việc Chính Trị Nhà Minh.
Trương Phụ lấy được châu Thuận Hóa và châu Tân Bình rồi, làm sổ biên số dân đinh ở hai châu ấy, đặt quan cai trị và để quân binh ở lại phòng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Đến htáng 8 năm giáp ngọ (1414) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu, đem những đàn bà con gái về rất nhiều.
Trương Phụ lấy được châu Thuận Hóa và châu Tân Bình rồi, làm sổ biên số dân đinh ở hai châu ấy, đặt quan cai trị và để quân binh ở lại phòng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Đến htáng 8 năm giáp ngọ (1414) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu, đem những đàn bà con gái về rất nhiều.
Bọn
Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước để khiến cho người An Nam đồng
hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu,
rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, việc gì cũng bắt theo như người Tàu cả.
Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thì thu nhặt đem về Tàu hết
sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy
giờ phải nhiều điều khổ nhục
2. Việc Tế Tự. Hoàng Phúc bắt các phủ, châu,
huyện phải lập văn miếu và lập bàn thờ bách thần, xã tắc, sơn xuyên, phong vân
để bốn mùa tế tự.
3. Cách Ăn Mặc. Bắt con trai con gái không
được cắt tóc, đàn bà con gái thì phải mặt áo ngắn quần dài theo như người Tàu
cả.
4. Sự Học Hành. Quan nhà Minh bắt mở nhà học
ở các phủ, châu, huyện, rồi chọn những thầy âm dương, thầy thuốc, thầy chùa,
đạo sĩ, ai giỏi nghề gì thì làm cho quan để dạy nghề ấy.
Vua nhà
Minh lại xuống chỉ truyền lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư và bộ Tính Lý Đại Toàn, sai quan
đưa sang ban cấp cho người An Nam học ở các châu huyện, rồi lại sai thầy tăng
và đạo sĩ ở Tăng Đạo Ti73, đi truyền giảng đạo Phật và đạo Lão. Còn bao nhiêu
sách vở của nước Nam, từ nhà Trần về trước thì thu lấy cả rồi đem về Kim Lăng.
Cứ theo
sách Lịch Triều
Hiến Chương Văn
Tịch Chí của
ông Phan Huy Chú thì những sách
của nước Nam mà Tàu lấy về là những sách này:
- Hình Thư, của vua Thái Tông nhà Lý 3 quyển.
- Quốc Triều Thông Lễ, của vua Thái Tông
nhà Trần 10 quyển
- Hình Luật, của vua Thái Tông nhà Trần 1 quyển
- Thường Lễ, niên hiệu Kiến Trung 10 quyển
- Khóa Hư Tập 1 quyển
- Ngự Thi 1
quyển
- Di Hậu Lục, của vua Thái Tông nhà Trần 2 quyển
- Cơ Cầu Lục 1 quyển
- Thi Tập 1
quyển
- Trung Hưng Thực Lục, của Trần Nhân Tông 2 quyển
- Thi Tập 1
quyển
- Thủy Vân Tùy Bút, của Trần Anh Tông 2 quyển
- Thi Tập, của Trần Minh Tông 1 quyển
- Trần Triều Đại Điển, của Trần Dụ Tông 2 quyển
- Bảo Hòa Điện Dư Bút, của Trần Nghệ Tông 8 quyển
- Thi Tập 1
quyển
- Binh Gia Yếu Lược, của Trần Hưng Đạo 1 bộ
- Vạn Kiếp Bí Truyền, của Trần Hưng Đạo 1 bộ
- Tứ Thư Thuyết Ước, của Chu Văn Trinh 1 bộ
- Tiều Ẩn Thi 1 tập
- Sầm Lâu Tập, của Uy Văn Vương Trần Quốc
Toại 1 quyển
- Lạc Đạo Tập, của Chiêu Minh Vương Trần
Quang Khải 1 quyển
- Băng Hồ Ngọc Hác Tập, của Trần Nguyên
Đán 1 quyển
- Giới Hiên Thi Tập, của Nguyễn Trung Ngạn 1 quyển
- Giáp Thạch Tập, của Phạm Sư Mạnh 1 quyển
- Cúc Đường Di Thảo, của Trần Nguyên Đào 2 quyển
73 Nhà
Minh bấy giờ không những là mở mang Nho Học mà thôi, lại lập ra Tăng Cương Ti
và Đạo Kỳ
Ti để coi những việc thuộc về Đạo Phật và Đạo Lão.
- Thảo Nhàn Hiệu Tần, của Hồ Tôn Vụ 1 quyển
- Việt Nam Thế Chí 1 bộ
- Việt Sử Cương Mục 1 bộ
- Đại Việt Sử Ký, của Lê Văn Hưu 30 quyển
- Nhị Khê Thi Tập, của Nguyễn Phi Khanh 1 quyển
- Phi Sa Tập, của Hàn Thuyên 1 quyển
- Việt Điện U Linh Tập, của Lý Tế Xuyên 1 quyển
Những
sách ấy bây giờ không biết mất đâu cả, không thấy quyển nào nữa, thật là một
cái thiệt hại cho người nước mình.
Còn
những người đi học, ở các phủ, châu, huyện, trước thì ở phủ mỗi năm 2 người, ở
châu 2 năm 3 người, ở huyện mỗi năm 1 người, sau cải lại ở phủ mỗi năm 1 người,
ở châu 3 năm 2 người, ở huyện 2 năm 1 người, được làm học trò tuế cống cho vào
học Quốc Tử Giám, rồi bổ đi làm quan.
5. Việc Trạm Dịch. Từ thành Đông Quan (tức là Hà Nội) cho đến
huyện Gia Lâm, phủ Từ Sơn, thì đặt trạm để chạy giấy bằng ngựa; từ huyện Chí
Linh, huyện Đông Triều cho đến phủ Vạn Ninh là nơi giáp đất Khâm Châu nước Tàu
thì đặt trạm chạy giấy bằng thuyền.
6. Việc Binh Lính. Việc bắt lính thì cứ theo
sổ bộ mà bắt. Ở những nơi gọi là vệ sở thì mỗi một bộ phải ba suất đinh đi
lính, nhưng từ Thanh Hóa về nam người ở ít, thì mỗi hộ chỉ phải hai suất đinh
đi lính mà thôi. Những chỗ nào mà không có vệ sở thì lập đồn ở chỗ hiểm yếu rồi
lấy dân binh ra giữ.
7. Phép Hộ Thiếp và Hoàng Sách. Việc điền hộ
ở An Nam bấy giờ phải theo như lệ bên Tàu. Những dân đinh trong nước, thì ai
cũng phải có một cái giấy biên tên tuổi và hương quán để lúc nào có khám hỏi
thì phải đưa ra. Cái giấy ấy biên theo như ở trong quyển sổ của quan giữ. Hễ
giấy của ai mà không hợp như ở trong sổ thì người ấy phải bắt đi lính.
Việc cai
trị ở trong nước thì chia ra làm lý và giáp.
Ở chỗ thành phố thì gọi là phường; ở chung quanh thành phố thì gọi là
tương; ở nhà quê thì gọi là lý. Lý lại chia ra giáp.
Cứ 110
hộ làm một lý và 10 hộ làm một giáp. Lý thì có lý trưởng, giáp thì có giáp thủ.
Mỗi một năm
có người làm lý trưởng coi việc trong lý.
Mỗi một
lý, một phường hay là một tương có một quyển sách để biên tất cả số đinh số
điền vào đấy. Còn những người tàn tật cô quả thì biên riêng ra ở sau, gọi là kỷ
linh. Ở đầu quyển sách lại có cái địa
đồ.
Khi nào
quyển sổ ấy xong rồi, thì biên ra làm 4 bản, một bản có bìa vàng, cho nên gọi
là hoàng sách để gửi về bộ Hộ, còn 3 bản bìa xanh, thì để ở bố chính ti, ở phủ
và huyện, mỗi nơi một bản.
Cứ mười
năm lại tùy số dinh điền hơn lên hay kém đi thế nào, phải làm lại cái mẫu sổ
khác, gửi đi cho các lý, phường và tương để cứ theo mẫu ấy mà làm.
Bấy giờ
lý trưởng và giáp thủ phải đập đánh cực khổ lắm.
8. Việc Thuế Má. Phép nhà Minh đánh thuế cứ
mỗi mẫu ruộng phải nộp năm thăng thóc, mỗi một mẫu bãi để trồng dâu phải nộp
một lạng tơ, và mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa.
Lại đặt
ra thuế muối. Dân mà nấu muối mỗi một tháng được bao nhiêu phải đưa vào để ở
tòa Đề Cử, đợi khi nào tòa Bố chính khám rồi mới được bán. Ai mà nấu lậu hay là
bán lậu thì cũng phải phạt như nhau.
Ở châu,
huyện nào cũng có một tòa Thuế Khóa để thu thuế.
9. Việc Sưu Dịch. Phàm những chỗ nào có mỏ vàng mỏ bạc thì đặt
quan ra để đốc dân phu đi khai mỏ. Những chỗ rừng núi, thì bắt dân đi tìm ngà
voi, sừng tên; ở chỗ gần bể, thì bắt dân phải đi mò ngọc trai. Còn những thổ
sản như: hồ tiêu, hương liệu, cũng phải bắt cống nộp. Đến những hươu, voi, rùa,
chim, vượn, rắn, cái gì cũng vơ vét đem về Tàu.
Từ khi
bọn Lý Bân, Mã Kỳ sang thay Trương Phụ, dân ta bị bọn ấy sách nhiễu thật là khổ
sở.
10.Quan Lại.
Trừ những quan lại ở bên Tàu sang cai trị ra không kể, những người An Nam như những tên Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung theo hàng nhà Minh, khéo đường xu nịnh, được làm quan to, lại càng ỷ thế của giặc, làm những điều tàn bạo hung ác hơn người Tàu. Vả, trong những lúc biến loạn như thế, thì những đồ tham tàn gian ác, không có nghĩa khí, không biết liêm sĩ, lại càng đắc chí lắm, cho nên dân tình cực khổ, lòng người sầu oán. Cũng vì lẽ ấy, có nhiều kẻ tức giận nổi lên đánh phá, làm cho trong nước không lúc nào được yên ổn.
Trừ những quan lại ở bên Tàu sang cai trị ra không kể, những người An Nam như những tên Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung theo hàng nhà Minh, khéo đường xu nịnh, được làm quan to, lại càng ỷ thế của giặc, làm những điều tàn bạo hung ác hơn người Tàu. Vả, trong những lúc biến loạn như thế, thì những đồ tham tàn gian ác, không có nghĩa khí, không biết liêm sĩ, lại càng đắc chí lắm, cho nên dân tình cực khổ, lòng người sầu oán. Cũng vì lẽ ấy, có nhiều kẻ tức giận nổi lên đánh phá, làm cho trong nước không lúc nào được yên ổn.
CHƯƠNG XIV
Mười Năm Đánh Quân Tàu
(1418 -
1427)
1. Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn
2. Về Chí Linh lần thứ nhất
3. Về Chí Linh lần thứ hai
4. Bình Định Vương về đóng Lư Sơn
5. Bình Định Vương về đóng Lỗi giang
5. Bình Định Vương về đóng Lỗi giang
6. Nguyễn Trãi
7. Bình Định Vương phá quân Trần Trí
8. Về Chí Linh lần thứ ba
9. Bình Định Vương hết lương phải hòa với
giặc.
10. Bình Định Vương lấy đất Nghệ An
11. Vây thành Tây Đô
12. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa
13. Quân Bình Định Vương tiến ra Đông Đô
14. Trận Tụy Động: Vương Thông thất thế
15. Vây thành Đông Đô
16. Vương Thông ước hòa lần thứ nhất
17. Bình Định Vương đóng quân ở Bồ Đề
18. Bình Định Vương đặt pháp luật để trị
quân dân
19. Trận Chi Lăng: Liễu Thăng tử trận
20. Vương Thông xin hòa lần thứ hai
21. Trần Cao dâng biểu xin phong
22. Tờ Bình Ngô Đại Cáo
1. Lê Lợi Khởi Nghĩa ở Lam Sơn.
Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam, dân ta ph?i khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, lòng tức giận ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi đống than lửa. May lúc ấy có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm ấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước Nam.
Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam, dân ta ph?i khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, lòng tức giận ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi đống than lửa. May lúc ấy có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm ấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước Nam.
Đấng anh
hùng ấy, người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa,
họ Lê, tên là Lợi. Đã mấy đời làm nghề
canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người
đều phục, và những tôi tớ ước có hàng nghìn người. Ông Lê Lợi khẳng khái, có
chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu
khuất, thường nói rằng: " Làm trai
sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao
lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta!" Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời
những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong.
Đến mùa
xuân năm mậu tuất (1418) đời vua Thành Tổ nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16,
ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn, tự xưng
là Bình Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rõ cái mục
đính của mình khởi nghĩa đánh kẻ thù của nước.
Việc
đánh giặc Minh tuy là thuận lòng người và hợp lẽ công bằng, nhưng mà thế lực
của Bình Định Vương lúc đầu còn kém lắm, tướng sĩ thì ít, lương thực không đủ.
Dẫu có dùng kế đánh được đôi ba trận, nhưng vẫn không có đủ sức mà chống giữ
với quân nghịch, cho nên phải về núi Chí Linh74 ba lần, và phải nguy cấp mấy
phen, thật là gian truân vất vả. Sau nhờ hồng phúc nước Nam, Bình Định Vương
lấy được đất Nghệ An, rồi từ đó mới có thể vẫy vùng, đánh ra mặt Bắc, lấy lại được
giang sơn nước nhà.
2. Về Chí Linh Lần Thứ Nhất.
Khi quan nhà Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô, nghe tin Bình Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn, liền đem quân đến đánh. Vương sang đóng ở núi Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để đợi quân Minh. Đến khi quân Mã Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng vì thế yếu lắm chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem bại binh chạy về đóng ở núi Chí Linh.
Khi quan nhà Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô, nghe tin Bình Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn, liền đem quân đến đánh. Vương sang đóng ở núi Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để đợi quân Minh. Đến khi quân Mã Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng vì thế yếu lắm chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem bại binh chạy về đóng ở núi Chí Linh.
74 Sách
"Khâm Định Thông Giám" chép là núi Chí Linh này ở phủ Trấn Định, tỉnh
Nghệ An, tức là ở vào đất Cam Môn, Cam Cát giáp tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng xem kỹ địa đồ thì vua Thái Tổ khởi binh
ở Lam Sơn, thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, và lúc ấy vẫn lui tới ở vùng
Lạc Thủy, tức là Cẩm Thủy và ở vùng Nga Sơn. Vậy thì núi Chí Linh này không
phải ở miền Trấn Định, mà chắc là chỉ ở trong vùng Thanh Hóa mà thôi. Xem như khi ngài thua ở Chí Linh thì chạy về
Lư Sơn ở châu Quan Hóa, thuộc phủ Quảng Hóa thì biết. Vả lại ngày khởi nghĩa từ
năm mậu tuất (1418) mà mãi đến năm giáp thìn (1424) thì ngài mới bàn sự đi đánh
mạng Nghệ An, như thết mà nói rằng núi Chí Linh ở phủ Trấn Định, tức là xứ Ngọc
Ma ngày trước, ở phía nam tỉnh Nghệ An bấy giờ thì chắc là lầm.
3. Về Chí Linh Lần Thứ Hai.
Tháng tư năm kỷ hợi (1419) Bình Định Vương lại ra đánh lấy đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân của Vương bấy giờ hãy còn ít, đánh lâu không được, lại phải rút về Chí Linh.
Tháng tư năm kỷ hợi (1419) Bình Định Vương lại ra đánh lấy đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân của Vương bấy giờ hãy còn ít, đánh lâu không được, lại phải rút về Chí Linh.
Quan nhà
Minh biết rằng Chí Linh là chỗ Bình Định Vương lui tới, bèn đem binh đến vây
đánh. Vương bị vây nguy cấp lắm, mới
hỏi các tướng rằng: Có ai làm được như người Kỷ Tín ngày trước chịu chết thay
cho vua Hán Cao không? Bấy giờ có ông Lê Lai liều mình vì nước, xin mặc thay áo
ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định
Vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.
4. Bình Định Vương Về Đóng Lư Sơn.
Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ mình cứu chúa, mới trốn thoát được nạn lớn, rồi một mặt cho người sang Ai Lao cầu cứu, một mặt thu nhặt những tàn quân về đóng ở Lư Sơn (ở phía tây châu Quan Hóa).
Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ mình cứu chúa, mới trốn thoát được nạn lớn, rồi một mặt cho người sang Ai Lao cầu cứu, một mặt thu nhặt những tàn quân về đóng ở Lư Sơn (ở phía tây châu Quan Hóa).
Ngay năm
ấy, ở Nghệ An có quan tri phủ là Phan Liêu làm phản nhà Minh; ở Hạ Hồng có
Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu có Nguyễn Đặc; ở Hoàng Giang có Nguyễn
Đa Cấu, Trần Nhuế; ở Thủy Đường có Lê Ngà, nổi lên làm loạn, quân nhà Minh phải
đi đánh dẹp các nơi cho nên Bình Định Vương ở vùng Thanh Hóa cũng được nhân dịp
mà dưỡng uy súc nhuệ.
5. Bình Định Vương Về Đóng Lỗi Giang.
Năm canh tí (1420) Bình Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi, định xuống đánh Tây Đô, tướng nhà Minh là Lý Bân được tin ấy, đem quân đến đánh, đi đến chỗ Thi Lang, bị phục binh của Vương đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy. Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang75 và ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi về đóng ở Nga Lạc và Quan Du để phòng giữ Tây Đô.
Năm canh tí (1420) Bình Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi, định xuống đánh Tây Đô, tướng nhà Minh là Lý Bân được tin ấy, đem quân đến đánh, đi đến chỗ Thi Lang, bị phục binh của Vương đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy. Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang75 và ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi về đóng ở Nga Lạc và Quan Du để phòng giữ Tây Đô.
6. Nguyễn Trãi.
Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, thì có ông Nguyễn Trãi76, vào yết kiến, dâng bài sách bình Ngô, vua xem lấy làm hay, dùng ông ấy làm tham mưu.
Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, thì có ông Nguyễn Trãi76, vào yết kiến, dâng bài sách bình Ngô, vua xem lấy làm hay, dùng ông ấy làm tham mưu.
75 Lỗi
Giang là tên một khúc sông Mã Giang ở vùng trên huyện Cẩm Thủy.
76 Ông
Nguyễn Trãi là cháu ngoại ông Trần Nguyên Đán, bởi vậy ông cùng với Trần Nguyên
Hãng có tình thân. Ông Nguyễn Trãi và ông Trần Nguyên Hãng là người đại công
thần nhà Lê, sau đều bị giết hại cả.
Ông
Nguyễn Trãi là con ông Bảng Nhãn Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đã thi đỗ
tiến sĩ (1400). Khi ông Nguyễn Phi Khanh
bị nhà Minh bắt về Kim Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan không chịu trở
lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: " Con
phải trở về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà
làm gì ? " Từ đó ông trở lại, ngày đêm lo việc phục thù. Nay ra giúp Bình
Định Vương, bày mưu định kế để lo sự bình định.
7. Bình Định Vương Phá Quân Trần Trí. Đến
tháng 11 năm tân sửu (1421) tướng nhà Minh là Trần Trí đem mấy vạn quân đến
đánh Bình Định Vương ở đồn Ba Lậm, lại ước với người Lào sang cùng đánh hai
mặt. Vương mới hội các tướng lại bàn rằng: Quân kia tuy nhiều nhưng ở xa đến,
còn đang nhọc mệt, ta nên đưa quân ra đón đành tất là phải được. Bàn xong, đến
đêm đem quân vào cướp trại Minh, giết được hơn 1.000 người. Trần Trí thấy vậy
giận lắm, sáng hôm sau truyền lệnh kéo toàn quân đến đánh. Quân An Nam đã phục
sẳn trước, thấy quân Minh đến, liền đổ ra đánh hăng quá, quân Minh lại phải lui
về.
Đang khi
hai bên còn đối địch, có ba vạn người Lào giả xưng sang làm viện binh cho Bình
Đình Vương. Vương không biết là dối, quân Lào nửa đêm kéo đến đánh, tướng của
Vương là Lê Thạch bị tên bắn chết.
Nhưng mà quân ta giữ vững đồn trại, quân Lào phải lùi về.
8. Về Chí Linh Lần Thứ Ba. Sang năm sau là
năm nhâm dần (1422) Bình Định Vương tự đồn Ba Lậm tiến lên đánh đồn Quan Gia,
bị quân Minh và quân Lào hai mặt đánh lại, phải thua chạy về giữ đồn Khôi Sách.
Quân Minh và quân Lào thừa thế đổ đến vây kín bốn mặt. Vương thấy thế nguy quá,
mới bảo các tướng rằng: "Quân giặc vây kín rồi, nếu không liều sống chết
đánh tháo lấy đường chạy ra, thì chết cả !" Quân sĩ ai nấy đều cố sức đánh
phá, quân giặc phải lùi. Vương lại đem quân về núi Chí Linh.
Từ khi
Bình Định Vương đem binh về Chí Linh, lương thực một ngày một kém, trong hai
tháng trời quân sĩ phải ăn rau ăn cỏ có bao nhiêu voi ngựa làm thịt ăn hết
cả. Tướng sĩ mỏi mệt, đều muốn nghỉ
ngơi, xin Vương hãy tạm hòa với giặc. Vương bất đắc dĩ sai Lê Trăn đi xin hòa.
Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh không lợi, cũng thuận cho hòa.
9. Bình Định Vương Hết Lương Phải Hòa Với
Giặc. Năm quý mão (1423) Bình Định Vương đem quân về Lam Sơn. Bấy giờ tướng nhà
Minh là bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường hay cho Vương trâu, ngựa, cá mắm và thóc
lúa; Vương cũng cho Lê Trăn đưa vàng bạn ra tạ. Nhưng sau bọn Trần
Trí ngờ có bụng giả dối, bắt giữ Lê Trăn lại, không cho về, vì vậy Vương mới
tuyệt giao không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở núi Lư Sơn.
10. Bình Định Vương Lấy Đất Nghệ An.
Năm giáp thìn (1424) Bình Định Vương hội các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là Lê Chích nói rằng: " Nghệ An là đất hiểm yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hãy vào lấy Trà Long (phủ Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ trú chân đã, nhiên hậu sẽ quay trở ra đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có thể bình được."
Năm giáp thìn (1424) Bình Định Vương hội các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là Lê Chích nói rằng: " Nghệ An là đất hiểm yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hãy vào lấy Trà Long (phủ Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ trú chân đã, nhiên hậu sẽ quay trở ra đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có thể bình được."
Vương
cho kế ấy là phải, bèn đem quân về nam, đánh đồn Đa Căng, tướng nhà Minh là
Lương Nhữ Hốt bỏ chạy.
Lấy được
đồn Đa Căng rồi, Vương tiến quân vào đánh Trà Long, đi đến núi Bồ Liệp, ở phủ
Quì Châu, gặp bọn Trần Trí, Phương Chính đem binh đến đánh, Vương bèn tìm chỗ
hiểm phục sẳn; khi quân Minh vừa đến, quân ta đổ ra đánh, chém được tướng nhà
Minh là Trần Trung, giết được sĩ tốt hơn 2.000 người, bắt được hơn 100 con
ngựa. Quân Minh bỏ chạy, Vương đem binh đến vây đánh Trà Long. Quan tri phủ là
Cầm Bành chờ cứu binh mãi không được, phải mở cửa thành ra hàng.
Từ khi
Bình Định Vương khởi nghĩa cho đến giờ, đánh với quân nhà Minh đã nhiều phen,
được thua đã trải qua mấy trận, nhưng quan nhà Minh vẫn lấy làm khinh thường,
cho nên không tâu về cho Minh Triều biết. Bấy giờ Hoàng Phúc về Tàu rồi, vua
nhà Minh sai Binh Bộ Thượng Thư là Trần Hiệp sang thay.
Trần
Hiệp thấy Bình Định Vương lấy được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy, bèn vội
vàng làm sớ tâu cho vua nhà Minh biết. Minh Đế mới xuống chiếu trách mắng bọn
Trần Trí, Phương Chí, bắt phải dẹp ngay cho yên giặc ấy. Bọn Trần Trí sợ hãi
đem cả thủy bô, cùng tiến lên đánh Bình Định Vương.
Vương
sai Đinh Liệt đem 1.000 quân đi đuờng tắt ra giữ Đỗ Gia77, còn Vương thì đem cả
tướng sĩ đến ở mạn thượng du đất Khả Lưu ở bắc ngạn sông Lam Giang (thuộc huyện
Lương Sơn), rồi tìm chỗ hiểm yếu phục binh để đợi quân Minh.
Khi quân
Minh đã đến Khả Lưu, Vương bèn sai người ban ngày thì kéo cờ đánh trống, ban
đêm thì bắt đốt lửa để làm nghi binh, rồi cho binh sang bên kia sông phục
sẵn. Sáng hôm sau quân Minh tiến lên bị
phục binh
77 Vào
quãng gần đồn Linh Cảm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
bốn mặt
đổ ra đánh, tướng nhà Minh là Chu Kiệt phải bắt, Hoàng Thành phải chém, còn
quân sĩ bỏ chạy cả. Trần Trí phải thu quân về giữ thành Nghệ An.
Tháng
giêng năm ất tị (1425) Vương đem binh về đánh thành Nghệ An, đi đến làng Đa Lôi
ở huyện Thổ Du (bây giờ là huyện Thanh Chương) dân sự đưa trâu đưa rượu ra đón
rước, già trẻ đều nói rằng: không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ. Bấy
giờ lại có quan tri phủ Ngọc ma (phủ Trấn Định) là Cầm Quý đem binh mã về giúp.
Vương
bèn xuống lệnh rằng: "Dân ta lâu nay đã phải khổ sổ về chính trị bạo ngược
của người Tàu, quân ta đi đến đâu cấm không được xâm phạm đến chút gì của ai.
Những gạo thóc trâu bò mà không phải là của người nhà Minh thì không được
lấy". Đoạn rồi, phân binh đi đánh lấy các nơi, đi đến đâu các quan châu
huyện ra hàng cả, đều tình nguyện đi đánh thành Nghệ An. Vương bèn đem quân về
vây thành; quân Minh hết sức giữ gìn không dám ra đánh.
Đương
khi vây đánh ở Nghệ An, tướng nhà Minh là Lý An ở Đông Quan đem quân đi dường
bể vào cứu. Quân của Trần Trí ở trong thành cũng đổ ra đánh, Vương nhử quân
Minh đến cửa sông Độ Gia, rồi dùng phục binh đánh tan quân giặc. Trần Trí bỏ
chạy về Đông Quan, còn Lý An vào giữ thành, Vương lại đem quân về vây thành.
11. Vây Thành Tây Đô. Đến tháng năm, Vương sai
quan Tư Không là Đinh Lễ đem binh đi đánh Diễn Châu, Đinh Lễ đi vừa đến nơi,
thì gặp tướng nhà Minh là Trương Hùng đem 300 chiếc thuyền lương ở Đông Quan
mới vào, quân ở trong thành ra tiếp, bị phục binh của Đinh Lễ đánh đuổi. Bao
nhiêu thuyền lương Đinh Lễ cướp lấy được cả, rồi đuổi Trương Hùng ra đến Tây
Đô. Bình Định Vương được tin ấy liền sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú đem binh ra
tiếp ứng Đinh Lễ. Đinh Lễ nhân dịp tiến
lên vây thành Tây Đô.
12. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa. Qua tháng bảy,
Vương sai quan Tư Đồ Trần Nguyên Hãn78, Thượng Tướng Lê Nỗ đem hơn một nghìn
quân vào lấy châu Tân Bình và châu Thuận Hóa. Đi đến Bố Chính thì gặp tướng nhà
Minh là Nhâm Năng, hai bên đánh nhau, quân nhà Minh bị phục binh đánh chạy tan
cả. Bấy giờ lại có đạo thủy quân của Lê Ngân đem hơn 70 chiếc thuyền đi đường
bể vào, Trần Nguyên Hãn liền đem cả thủy bộ tiến lên đánh
hạ được hai thành ấy, mộ thêm mấy vạn tinh binh đưa ra đánh mặt bắc.
Từ đây
binh thế của Bình Định Vương một ngaymột mạnh, các tướng tôn ngài lên làm
"Đại Thiên Hành Hóa", nghĩa là thay trời làm mọi việc.
13. Quân Bình Định Vương Tiến Ra Đông Đô. Năm
bính ngọ (1426) Vương thấy tinh binh của nhà Minh ở cả Nghệ An, ở ngoài Đông Đô
không có bao nhiêu người, bèn sai Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Đỗ Bí ra
đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quý Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc),
Tuyên Quang để chặn đường viện binh ở Vân Nam sang. Sau Lưu Nhân
Chú và Bùi
Bị ra đánh
Thiên Trường, Kiến
Xương, Tân Hưng, Thượng hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh
Giang), Bắc Giang, Lạng Giang để chặn đường viện binh ở Lưỡng Quảng sang. Lại
sai Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem binh đi thẳng ra đánh Đông Quan.
Quân của
Bình Định Vương đi đến đâu giữ kỷ luật rất nghiêm, không xâm phạm đến của ai
chút gì, cho nên ai ai cũng vui lòng theo phục. Bọn Lý Triện lấy được Quốc Oai
và Tam Đái rồi đem quân về đánh Đông Quan.
Quan
tham tướng nhà Minh là Trần Trí đem binh ra đóng ở Ninh Kiều79 (phía tây phủ
Giao Châu) và ở Ứng Thiên (?) để chống giữ; quân Lý Triện đến đánh, Trần Trí
thua chạy về đóng ở phía tây sông Ninh Giang (khúc trên sông Đáy). Chợt có tin
báo rằng có hơn một vạn quân Vân Nam sang cứu. Lý Triện sợ để hai đạo quân của
Minh hợp lại thì khó đánh, bèn bảo Phạm Văn Xảo đem hơn một nghìn người đi đón
chặn đường quân Vân Nam; còn mình thì cùng với Đỗ Bí đem quân đến đánh Trần
Trí. Trần Trí thua chạy; bọn Lý Triện đuổi đến làng Nhân Mục bắt được tướng nhà
Minh là Vi Lạng, chém được hơn 1.000, rồi lại quay trở về Ninh Giang hợp binh
với Văn Xảo để đánh quân Vân Nam.
Phạm Văn
Xảo đến cầu Xa Lộc (?) thì gặp quân Vân Nam sang, đánh một trận, quân nghịc
thua chạy về giữ thành tam giang.
Trần Trí
thấy thế ở Đông Quan yếu lắm bèn viết thư vào Nghệ An gọi Phương Chính đem binh
ra cứu, để giữ lấy chỗ căn bản. Phương Chính
78 Trần
Nguyên Hãn, có nơi chép là Trần Hãn, là cháu Trần Nguyên Đán, dòng dõi Trần
Quang Khải.
79 Những
tên Ninh Kiều, Ninh Giang, Ứng Thiên chắc là ở vùng huyện Từ Liêm, huyện Thanh
Oai, về quãng sông Nhuệ Giang và sông Đáy. Mà Ninh Giang có lẽ là khúc sông Đáy
ở vào quãng Từ Liêm hay Thanh Oai gì đó.
được thư
bèn sai Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, rồi đem quân xuống thuyền đi đường
bể ra Đông Quan.
Bình
Định Vương nghe tin ấy, liền sai Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn
Linh ở lại vây thành Nghệ An; Vương tự đem đại quân cả thủy bộ Phương Chính ra
bắc. Ra đến Thanh Hóa, Vương đem binh vào đánh thành Tây Đô, nhưng quân Minh
giữ vững thành trì đánh không được, Vương đem quân đến đóng ở Lỗi Giang.
14.Trận Tụy Động - Vương Thông Thất Thế. Từ
khi Bình Định Vương ở Lư Sơn vào đánh Nghệ An đến giờ, đánh đâu được đấy, thanh
thế lừng lẫy, quân Minh khiếp sợ, đem tin về cho Minh Triều biết, Minh Đế liền
sai Chinh Di Tướng Quân là Vương Thông và Tham Tướng là Mã Anh đem 5 vạn quân
sang cứu Đông Quan. Trần Trí và Phương Chính thì phải cách hết cả quan tước bắt
phải theo quân đi đánh giặc, còn Trần Hiệp thì cứ giữ chức Tham Tán Quân Vụ.
Vương
Thông sang đến đất Đông Quan hội tất cả quân sĩ lại được mười vạn, cùng với bọn
Trần Hiệp chia làm ba đạo đi đánh Bình Định Vương.
Vương
Thông đem quân đến đóng ở bến Cổ Sở (thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, Sơn
Tây). Phương Chính đóng ở Sa Thôi (thuộc huyện Từ Liêm), Mã Kỳ đóng ở Thanh
Oai, đồn lũy liên tiếp nhau một dãy dài hơn mấy mươi dặm.
Bọn Lý
Triện, Đỗ Bí ở Ninh Kiều đem quân và voi đến phục ở Cổ Lãm, rồi cho quân đến
đánh nhữ Mã Kỳ. Mã Kỳ đem tất cả quân
đuổi đến cầu Tam La (ở giáp giới huyện Thanh Oai và huyện Từ Liêm), quân phục
binh của Lý Triện đổ ra đánh, quân Minh thua chạy, nhiều người xuống đồng lầy,
chạy không được, bị chém hơn 1.000 người. Lý Triện đuổi quân Minh đến Nhân Mục, bắt
được hơn 500 người. Mã Kỳ một mình một
ngựa chạy thoát được.
Bọn Lý
Triện thừa thắng tiến lên đánh đạo quân Phương Chính. Nhưng Phương Chính thấy
Mã Kỳ đã thua cũng rút quân lui, rồi cùng Mã Kỳ về hội với Phương Thông ở bến
Cổ Sở.
Vương
Thông liệu tất thế nào quân An Nam cũng đến đánh, bèn phục binh và phòng bị
trước cả. Chợt có quân của Lý Triện
đến. Quân Minh giả ra đánh rồi bỏ chạy,
nhử quân ta và chỗ hiểm có chông sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông đi không
được, rồi lại có phục binh đổ ra đánh, Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (ở vùng Chương Đức, Mỹ Lương) và cho người về
Thanh
Đàm (tức là huyện Thanh Trì bây giờ) gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến cứu.
Đinh Lễ
và Nguyễn Xí đem 3.000 quân và hai con voi lập tức đêm hôm ấy đến Cao Bộ, rồi
phân binh ra phục sẵn ở Tụy Động (thuộc huyện Mỹ Lương) và ở Chúc Động (thuộc
huyện Chương Đức)80. Chợt bắt được tên thám tử của quân Minh, tra ra thì biết
rằng quân Vương Thông đóng ở Ninh Kiều, có một đạo quân đi lẻn ra đường sau
quân Lý Triện để đánh tập hậu, đại quân sang đò chỉ chờ lúc nào nghe súng thì
hai mặt đổ lại cùng đánh.
Biết mưu
ấy rồi, đến canh năm đêm hôm ấy, Đinh Lễ sai người bắn súng làm hiệu để đánh
lừa quân giặc. Quả nhiên quân giặc nghe tiếng súng đều kéo ùa đến đánh. Bấy giờ
phải độ trời mưa, đường lầy, quân Minh vừa đến Tụy Động thì bị quân ta bốn mặt
đổ ra đánh, chém được quan Thượng Thư là Trần Hiệp, và Nội Quan là Lý Lượng.
Còn những quân sĩ nhà Minh thì chết hại nhiều lắm: phần thì giày xéo lẫn nhau
mà chết, phần thì ngã xuống sông chết đuối, cả thảy đến hơn năm vạn người; còn
bị bắt sống hơn một vạn người, các đồ đạc khí giới thì lấy được không biết bao
nhiêu mà kể. Trận Tụy Động đánh vào tháng mười năm bính ngọ (1426).
Phương
Chính và Mã Kỳ chạy thoát được, rồi cùng với Vương Thông về giữ thành Đông
Quan.
Bọn Đinh
Lễ thừa thắng đem binh về vây thành và cho người về Lỗi Giang báo tin thắng
trận cho Bình Định Vương biết.
Vương
liền tiến binh ra Thanh Đàm, rồi một mặt sai Trần Nguyên Hãn đem 100 chiếc
thuyền đi theo sông Lung Giang (?)81 ra cửa Hát Giang (cửa sông Đáy thông với
sông Cái) rồi thuận dòng sông Nhị Hà xuống đóng ở bến Đông Bộ Đầu ; một mặt sai
bọn Bùi Bị đem hơn 1 vạn quân đi lẻn ra đóng ở Tây Dương Kiều (?), Vương tự dẫn
đại quân đến hạ trại ở gần thành Đông Quan. Quân Minh giữ ở trong thành không
ra đánh, bao nhiêu chiến thuyền thì Vương lấy được cả.
Kể từ
ngày Bình Định Vương đem binh vào đánh Nghệ An đến giờ, tuy rằng đánh đâu được
đấy, nhưng chưa có trận nào quan hệ bằng trận Tụy Động này. Bởi vì việc thắng
bại trong 10 phần, đánh xong trận này, thì đã chắc được 7, 8 phần rồi. Quân thế nhà Minh chỉ còn ở trong mấy thành
bị vây
80 Tụy
Động và Chúc Động ở vào quãng huyện Chương Mỹ, phía đông có sông Đáy, phía tây
có con sông con gọi là sông Bùi, chảy vào sông Đáy, chỗ Ngã Ba Thá.
81 Chắc
là một khúc sông Đáy thuộc hạt tỉnh Hà Đông bây giờ.
nữa mà
thôi, mặt ngoài thì viện binh lại chưa có, mà dẫu cho có sang nữa, thì thế của
Bình Định Vương cũng đã vững lắm rồi.
Nhưng cứ
trong Việt Sử thì quân của Lý Triện và Đinh Lễ chẳng qua chỉ có mấy nghìn người
mà thôi, làm thế nào mà phá được hơn 10 vạn quân tinh binh của Vương Thông ? Vả
lại sử chép rằng đánh trận Tụy Động quân An Nam giết được hơn 5 vạn quân Minh,
lại bắt được hơn 1 vạn người, như thế chẳng hóa ra quân Minh hèn lắm ru! E rằng nhà làm sử có ý thiên vị, cho nên sự
thực không được rõ lắm. Nhưng dẫu thực hư thế nào mặc lòng, đại khái trận Tụy
Động là một trận đánh nhau to, mà Vương Thông thì thua, phải rút quân về giữ
thành Đông Quan rồi bị vây, còn Bình Định Vương thì ra bắc thu phục các châu
huyện. Việc ấy chắc là thật có.
15. Vây Thành Đông Đô. Từ khi Bình Định Vương
ra Đông Đô, những kẻ hào kiệt ở các nơi đều nô nức về theo, xin hết sức đi đánh
giặc. Vương dùng lời úy dụ và lấy cái nghĩa lui tới mà giảng giải cho mọi người
nghe, rồi cứ tùy tài mà thu dùng.
Vương
chia đất Đông Đô ra làm bốn đạo, đặt quan văn võ để coi việc chính trị.
Cứ theo
sách "Lịch Triều
Hiến Chương Địa Dư
Chí" của ông
Phan Huy Chú thì những trấn Tam Giang, Tuyên Quan, Hưng Hóa, Gia Hưng
thuộc về Tây Đạo; những trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách cùng
với lộ An Bang thuộc về Đông Đạo; những trấn Bắc Giang, Thái Nguyên thuộc về
Bắc Đạo; những lộ Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường thuộc
về Nam Đạo.
16. Vương Thông Xin Hòa Lần Thứ Nhất. Vương
Thông ở Đông Quan cứ bị thua mãi, liệu thế đánh không được nữa, muốn bãi binh
về Tàu, nhưng sợ mang tiếng, bèn lục tờ chiếu của vua nhà Minh, niên hiệu Vĩnh
Lạc (1407), nói về việc tìm con cháu họ Trần, rồi cho người ra nói với Bình
Định Vương tìm người dòng dõi họ Trần lập lên, để xin bãi binh.
Vương
nghĩ đánh nhau mãi, trong nước tàn hại, dân tình khổ sở, bèn y theo lời Vương
Thông. Nhân lúc bấy giờ có người tên là Hồ Ông trốn ở Ngọc Ma, xưng là cháu ba
đời vua Nghệ Tông, vương bèn cho người đi đón Hồ Ông về đổi tên là Trần Cao,
lập nên làm vua, mà Vương thì xưng làm Vệ Quốc Công để cầu phong với nhà Minh,
cho chóng xong việc.
Vương
Thông cho người đưa thư ra xin hòa, và xin cho đem toàn quân về nước. Bình Định
Vương thuận cho, định ngày để Vương Thông gọi quân ở các nơi về hội tại Đông
Đô, rồi về Tàu. Việc đã định như thế, nhưng mà bấy giờ có mấy người An Nam theo
nhà Minh, như những tên Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, sợ rằng quân Minh về thì
mình phải giết, bèn lấy chuyện Ô Mã Nhi ngày trước can Vương Thông đừng rút
quân về. Vương Thông nghe lời, bề ngoài tuy nói hòa, nhưng bề trong sai người
đào hào, rắc chông, rồi cho người đi lẻn đem thư về Tàu cầu cứu.
Bình
Định Vương bắt được người đưa thư, giận lắm, không giao thông với quân Minh
nữa, rồi sai Lê Quốc Hưng đánh thành Điêu Diêu (huyện Gia Lâm, Bắc Ninh) và
thành Thị Kiều (tức là Thị Cầu thuộc huyện Võ Giang, Bắc Ninh); Trịnh Khả và Lê
Khuyển đánh thành Tam Giang (tức là Tam Đái, nay là huyện Bạch Hạc); Lê Sát và
Lê Thụ đánh thành Xương Giang ( tức là Phủ Lạng Thương bây giờ); Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn. Chẳng bao
lâu những thành ấy đều lấy được cả.
17.Bình Định Vương Đóng Quân ở Bồ Đề. Tháng
giêng năm đinh mùi (1427), Bình Định Vương tiến quân lên đóng ở chỗ Bồ Đề, ở
phía bắc sông Nhị Hà, rồi sai tướng đánh thành Đông Quan: Trịnh Khả đánh cửa
Đông, Đinh Lễ đánh cửa Nam, Lê Cực đánh cửa Tây, Lý Triện đánh cửa Bắc.
Quân nhà
Minh một ngày một kém, tướng nhà Minh giữ thành Nghệ An và thành Diễn Châu là
bọn Thái Phúc và Tiết Tụ đều ra hàng cả. Bình Định Vương
lại sai Lại
Bộ Thượng Thư
là ông Nguyễn
Trãi, làm hịch
đi khuyên tướng sĩ các nơi về hàng.
Nhưng
cũng vì thấy quân Minh đã yếu thế, có ý khinh định cho nên quân ta mất hai viên
đại tướng. Trước thì Lý Triện đóng ở Từ Liêm, không cẩn thận,
bị quân của
Phương Chính đến đánh
lẻn giết mất; sau Vương Thông ở Đông Quan đem
binh ra đánh Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt (thuộc huyện Thanh Trì), Vương sai Đinh
Lễ và Nguyễn Xí đem 500 quân đi cứu. Đi đến Mỹ Động (thuộc Hoàng Mai, huyện
Thanh Trì) gặp quân Minh, hai bên đánh nhau. Vương Thông thấy quân Đinh Lễ có
ít, bèn vây lại đánh bắt được Đinh Lễ và Nguyễn Xí. Nguyễn Xí trốn đi được, còn Đinh Lễ bị giết.
18. Bình Định Vương Đặt Pháp Luật Để Trị Quân
Dân.
Bình
Định Vương cứ một mặt vây đánh thành Đông Quan và các thành khác, một mặt lo
việc cai trị, đặt ra các điều lệ để cho việc binh có kỷ luật và cho lòng dân
được yên.
Trước
hết Vương dụ cấm tà đạo: ai mà dùng những phép tà ma giả dối để đánh lừa người
ta thì phải tội. Còn những dân sự bị
loạn phải lưu tán đi chỗ khác cho về nguyên quán, cứ việc làm ăn như cũ.
Những vợ
con gia quyến của những người ra làm quan với giặc, thì được phép theo lệ, lấy
tiền mà chuộc82; còn những quân lính nhà Minh đã hàng thì đưa về Thiên Trường,
Kiến Xương, Lý Nhân, Tân Hưng để nuôi nấng tử tế.
Vương
đặt ra ba điều để răn các quan:
1. Không được vô tình.
2. Không được khi mạn.
3. Không được gian dâm
Và lại
dụ rằng những quân lính ngày thường có tội không được giết càn, trừ lúc nào ra
trận mà trái quân lệnh thì mới theo phép mà thi hành.
Vương
lại đặt ra 10 điều để làm kỷ luật cho các tướng sĩ:
1. Trong quân ồn ào không nghiêm.
2. Không có việc gì mà đặt chuyện ra để làm
cho mọi người sợ hãi.
3. Lúc lâm trận nghe trống đánh, thấy cờ
phất, mà chùng chình không tiến.
4. Thấy kéo cờ dừng quân mà không dừng.
5. Nghe tiếng chiêng lùi quân mà không lùi
6. Phòng giữ không cẩn thận, để mất thứ ngũ.
7. Lo riêng việc vợ con, mà bỏ việc quân.
8. Tha binh đinh về để lấy tiền, và làm sổ
sách mập mờ.
9. Theo bụng yêu ghét của mình mà làm lòa
mất công quả của người ta.
10. Gian dâm, trộm cắp.
Hễ tướng
sĩ ai mà phạm vào 10 điều ấy thì phải tội chém.
Còn quân
lính, thì hễ nghe một tiếng súng mà không có tiếng chiêng, thì các tướng hiệu
phải đến dinh nghe lệnh; hễ nghe hai ba tiếng súng và hai ba tiếng chiêng ấy là
có việc cảnh cấp, quan chấp lệnh phải sắp hàng ngũ, còn quan thiếu úy thì đến
dinh mà nghe lệnh; hễ đến lúc lâm trận mà lùi hoặc là bỏ những người sau không
cứu, thì phải tội chém, nhưng gián hoặc đã có ai không may chết trận mà mình
hết sức mang được xác ra thì khỏi tội.
82 Vợ
con của quan Bố Chính thì phải 70 quan; vợ con những sinh viên và thổ quan thì
10 quan; còn những con trai, con gái đầy tớ, đứa ở thì 5 quan.
Đại khái
kỷ luật ở trong quân của Bình Định Vương như thế, cho nên đi đâu, dân gian kính
phục lắm.
19. Trận Chi Lăng - Liễu Thăng Tử Trận. Từ khi
quân Minh thua trận Tụy Động, Trần Hiệp bị giết, Vương Thông cho người về tâu
với Minh Đế để xin thêm binh. Minh Đế thất kinh, liền sai Chinh Lỗ Phó Tướng
Quân An Viễn Hầu là Liễu Thăng, Tham Tướng Bảo Định Bá là Lương Minh, Đô Đốc là
Thôi Tụ, Binh Bộ Thượng Thư là Lý Khánh, Công Bộ Thượng Thư là Hoàng Phúc, Hữu
Bố Chính Sứ là Nguyễn Đức Huân, đem 10 vạn quân, hai vạn ngựa, đi đường Quảng
Tây sang đánh cửa Ba Lụy, bấy giờ là tháng chạp năm bính ngọ (1427). Lại sai
Chinh Nam Đại Tướng Quân Kiềm Quốc Công là Mộc Thạnh, Tham Tướng Anh Hưng Bá là
Từ Hanh, Tây Ninh Bá là Đàm Trung đi đường vào Vân Nam sang đánh cửa Lê Hoa.
Khi các
tướng nghe viện binh của quân Minh sắp đến, nhiều người khuyên Vương đánh ngay
lấy thành Đông Quan để tuyệt đường nội ứng, nhưng Vương không nghe, bảo rằng:
"Việc đánh thành là hạ sách, nay ta hãy cứ dưỡng binh súc nhuệu để đợi
quân địch đến thì ra đánh. Hễ viện quân mà thua, thì quân trong thành tất phải
ra hàng. Thế có phải làm một việc mà thành được hai không?" Đoạn rồi bắt
phải giữ gìn mọi nơi cho nghiêm nhặt, lại bắt người ở Lạng Giang, Bắc Giang,
Tam Đái, Tuyên Quan, Quy Hóa đi chỗ khác, bỏ đồng không để tránh quân Minh.
Đến
tháng mười (1427) Bình Định Vương nghe tin quân của bọn Liễu Thăng đã sắp sang
đất An Nam, liền hội các tướng lại bàn rằng: "Quân kia cậy
khoẻ khinh yếu,
lấy nhiều bắt
nạt ít, chỉ
cốt đánh cho
được, chứ không tưởng đến điều
khác. Nay đường xa nghìn dặm, mà đi có mấy ngày, nếu ta nhân lúc người ngựa của
chúng đang mỏi mệt, ta "dĩ dật đãi lao", đánh là tất được". Bèn
sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân và 5 con
voi lên phục sẵn ở cửa Chi Lăng, để đợi quân Minh. Lại sai Lê Lý, Lê Văn An,
đem 3 vạn quân cứ lục tục kéo lên đánh giặc.
Bấy giờ
Trần Lựu đang giữ cửa Ba Lụy (Nam Quan) thấy quân Minh đến, lui về giữ Ai Lưu;
đến khi quân giặc đến đánh Ai Lưu, Trần Lựu lại lùi về giữ Chi Lăng, cứ cách
từng đoạn, chỗ nào cũng có đồn, quân Minh đi đến đâu không ai dám chống giữ,
phá luôn một lúc được những mấy cái đồn. Liễu Thăng đắc ý đuổi tràn đi. Bình
Định Vương lại làm ra bộ khiếp sợ, cho người đưa thư sang nói với Liễu Thăng
xin lập Trần Cao lên làm vua để xin bãi binh. Liễu Thăng tiếp thư không mở ra
xem cho người đưa về Bắc Kinh, rồi cứ tiến lên đánh.
Ngày 18
tháng 9, quân Liễu Thăng đến gần cửa Chi Lăng. Lê Sát sai Trần Lựu ra đánh rồi
bỏ chạy. Liễu Thăng mừng lắm, chỉ đem
100 lính kị đuổi theo, bỏ đại đội ở lại sau. Đuổi được một đoạn, phải chỗ bùn
lầy đi không được, phục binh ta đổ ra đánh, chém Liễu Thăng ở núi Đảo Mã Pha
(bây giờ là Mã Yên Sơn, ở làng Mai Sao, thuộc Ôn Châu). Việc ấy vào ngày 20
tháng 9 năm đinh mùi.
Bọn Lê
Sát, Trần Lựu thừa thắng đuổi đánh quân Minh giết hơn 1 vạn người. Lúc bấy giờ
đạo quân của Lê Lý cũng vừa đến, hội lại tiến lên đánh quân Minh, chém được
Lương Minh ở giữa trận (ngày 25). Lý Khánh thì tự tử (ngày 28). Còn bọn Hoàng
Phúc và Thôi Tụ đem bại binh chạy về thành Xương Giang (thành của nhà Minh xây
ở xã Thọ Xương, phủ Lạng Giang), đi đến nữa đường bị quân của Lê Sát đuổi đến
đánh phá một trận; Thôi Tụ cố đánh lấy đường chạy về Xương Giang, không ngờ
thành ấy đã bị bọn Trần Nguyên Hãn lấy mất rồi, quân Minh sợ hãi quá bèn lập
trại đắp lũy ở giữa đồng để chống giữ.
Bình
Định Vương sai quân thủy bộ vây đánh, sai Trần Nguyên Hãn chặn đường tải lương
của quân Minh, lại sai Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Xí đem quân thiết đội vào đánh
chém quân Minh được hơn 5 vạn, bắt sống được Hoàng Phúc, Thôi Tụ và 3 vạn
quân. Thôi Tụ không chịu hàng phải
giết.
Bấy giờ
Mộc Thạnh với bọn Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả đang giữ nhau ở cửa Lê Hoa. Trước
Vương cũng đã liệu rằng Mộc Thạnh là người lão luyện tất chờ xem quân Liễu
Thăng thắng bại thế nào rồi mới tiến, bèn sai đưa thư dặn bọn Văn Xảo cứ giữ
vững chứ đừng ra đánh. Đến khi quân Liễu Thăng thua rồi, Vương cho những tên tì
tướng đã bắt được, đem những giấy má ấn tín lên cho Mộc Thạnh biết.
Mộc
Thạnh được tin ấy, sợ quá, đem quân chạy, bị quân Trịnh Khả đuổi theo chém được
hơn 1 vạn người và bắt được cả người lẫn ngựa mỗi thứ hơn một nghìn.
20. Vương Thông Xin Hòa Lần Thứ Hai. Bình Định
Vương sai đưa bọn Hoàng Phúc và hai cái hổ phù, hai dấu đài ngân của quan Chinh
Lỗ Phó Tướng Quân về Đông Quan cho Vương Thông biết.
Vương
Thông biết rằng viện binh sang đã bị thua rồi, sợ hãi quá, viết thư xin hòa.
Vương thuận cho, rồi cùng với Vương Thông lập đàn thề ở phía nam thành Đông
Quan, hẹn đến tháng chạp thì đem quân về Tàu.
21. Trần Cao Dâng Biểu Xin Phong. Bình Định
Vương đã hòa với Vương Thông rồi, quân Minh ở Tây Đô và ở các nơi đều giải binh
cả. Vương sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Quang Cảnh và Lê Đức Huy đem tờ biểu và phương vật
sang sứ nhà Minh.
Những đồ
phương vật là:
1. Hai người bằng vàng để thay mình.
2. Một lư hương bằng bạc.
3. Một đôi bình hoa bằng bạc
4. Ba mươi tấm lượt.
5. Mười bốn đôi ngà voi.
6. Mười hai bình hương trầm.
7. Hai vạn nén hương duyến.
8. Hai mươi bố cây hương trầm.
Và lại
đem hai cái dấu đài ngân, đôi hổ phù của Chính Lỗ Phó Tướng Quân cùng với sổ kê
những người quan quân nhân mã đã bị bắt đem trả lại Minh Triều.
Còn tờ
biểu thì đứng tên Trần Cao, đại lược như sau này:
"Khi
vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế mới lên ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống
trước nhất, bấy giờ ngài có ban thưởng, phong cho tước Vương. Từ đó nhà tôi vẫn
nối đời giữ bờ cõi, không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.
Mới rồi
nhân họ Hồ thoán nghịch, vua Thái Tông Văn Hoàng Đế quân sang hỏi tội. Sau khi
đã dẹp yên rồi, ngài có hạ chiếu tìm con cháu họ Trần để giữ lấy dòng dõi cúng
tế. Bấy giờ quan tổng binh Trương Phụ tìm chưa được khắp, đã xin đặt làm quận
huyện.
Nguyên
tôi lúc trước vì trong nước có loạn, chạy trốn vào xứ Lão Qua, cũng là muốn để
tìm chốn yên thân mà thôi, không ngờ người trong nước, vẫn quen thói mọi, nhớ
đến ân trạch nhà tôi thuở trước, lại cố ý ép tôi phải về, bất đắc dĩ tôi cũng
phải theo.
Dẫu rằng
trong khi vội vàng, bị người trong nước cố ép, nhưng cũng là cái tội tôi không
biết liệu xử. Mới đây tôi đã có xin lỗi trước hàng quân, nhưng không ai chịu
nghe, bấy giờ người nước tôi sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra phòng bị các cửa
ải, cũng là một kế giữ mình.
Ngờ đâu
quan quân xa xôi mới đến thấy voi sợ hãi, tức khắc vỡ tan. Việc đã xảy ra như
vậy, dẫu bởi sự bất đắc dĩ của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao
nhiêu những quân và ngựa bắt được đều phải thu dưỡng tử tế, không dám xâm phạm
một tí gì.
Dám xin
hoàng thượng ngày nay lại theo như lời chiếu của vua Thái Tông Văn Hoàng Đế,
tìm lấy con cháu họ Trần, nghĩ đến cái lòng thành vào triều cống trước nhất của
tổ tiên tôi ngày xưa, mà xá cái tội to như gò núi ấy, không bắt phải cái phạt
nặng bằng búa rìu, khiến cho tôi được nối nghiệp ở xứ nam, để giữ chức triều
cống.
Tôi đã
sai người thân tín mang tờ biểu tạ và đưa trả những ấn tín nhân mã tới chốn
kinh sư, nay lại xin đệ tâu những danh số ấy"
Vua nhà
Minh bấy giờ là Tuyên Tông xem biểu biết rằng giả dối, nhưng cũng muốn nhân dịp
ấy để thôi việc binh, bèn đưa tờ biểu cho quần thần xem, mọi người đều xin
hòa. Minh Đế sai quan Lễ Bộ Thị Lang là
Lý Kỳ đưa chiếu sang phong cho Trần Cao làm An Nam Quốc Vương, bỏ tòa Bố Chính
và triệt quân về Tàu.
Đến
tháng chạp năm đinh mùi, Vương Thông theo lời ước với Bình
Định
Vương, đem bộ binh qua sông Nhị Hà, còn thủy quân theo sau.
Bấy giờ
có người xui Vương rằng: lúc trước người Minh tàn ác lắm, nên đem giết cả đi.
Vương nói rằng: " Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng
cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà
lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái
tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà
khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ
trong sử xanh".
Vương
không giết người Minh lại cấp cho thủy quân 500 chiếc thuyền giao cho Phương
Chính và Mã Kỳ quản lĩnh; cấp lương thảo cho lục quân giao cho Sơn Thọ, Hoàng
Phúc quản lĩnh; còn 2 vạn người đã ra hàng và đã bị bắt thì giao cho Mã Anh
quản lĩnh đem về Tàu. Vương Thông thì
lĩnh bộ binh đi sau. Bình Định Vương tiễn biệt rất hậu.
Giặc
Minh lục tục về bắc, bấy giờ mới thật là: Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư; nước Nam
lại được tự chủ như cũ.
23. Tờ Bình Ngô Đại Cáo. Bình Định Vương dẹp
xong giặc Minh rồi, sai ông Nguyễn Trãi làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết.
Tờ Bình
Ngô Đại Cáo này làm bằng Hán Văn, là một bản văn chương rất có giá trị trong
đời Lê. Nay theo nguyên văn ở trong tập
Hoàng Việt Văn Tuyển mà chép ra như sau này:
Bình Ngô
Đại Cáo
Tượng
mảng:
Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn hiến đã
lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý,
Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu
cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung
sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô,
sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng83.
Vừa rồi:
Vì họ Hồ
chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ
tứ ngược84, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung
tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa
ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm85 vét không
sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào
lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên
liên86. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai
đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay
! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào
trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam
Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề
sống chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng
nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng
phế đắn đo càng
kỹ. Những trằn
trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa
dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt
vì:
Tuấn
kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục
đông87; mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả88. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt,
vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương89. thế mà
tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch90. Phần thì giận hung đồ
ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi
huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách
chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa
đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén
rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch
nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại
nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang
sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro baỵ
Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy
tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc,
lấy Đông Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông; bến Tụy Động
xác đầy ngoại nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng. Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông
hết cấp lo lường, Mã Anh không đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay
không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu
khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ,
hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người;
tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên
Đức91, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa
cháy. Năm đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiếng san; lại năm nay
tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối
Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu
Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương
Minh trận vong; hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo
giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt
tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng
mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc,
đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt
toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói
83 Minh trưng: chứng cớ rõ ràng.
84 Tứ ngược: Hết sức tàn ngược.
85 Khoa liễm: Thuế má.
86 Quan: Người không vợ; Quả: người góa chồng;
Điên Liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.
87 Dục đông: ý nói muốn về lấy Đông Đô.
88 Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi người
hiền.
89 Vọng dương: Trông ra biển không thấy gì.
90 Chửng nịch: Vớt người chết đuối.
91 Vua Tuyên Tông nhà Minh, niên hiệu Tuyên
Đức.
để ra
hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi
đỏ nước. Gớm ghê thay ! sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm thay ! sáng nhật
nguyệt phải mờ. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan
chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ; thành
xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành
cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tôi;
thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc
thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn
cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục; ta
muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.
Thế mới
là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xã
tắc từ đầy vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền
vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất
tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi
!
Vẫy vùng
một mảng nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh
thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng cho biết.
Bình Ngô
Đại Cáo
Cái văn
: nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy
ngã Đại-Việt chi quốc, thực vi văn-hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký
thù, Nam Bắc chi phong-tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã
quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy
cường nhược thì
hữu bất đồng,
nhi hào kiệt
thế vị thường phạp.
Cố Lưu
Cung tham công dĩ thủ bại, nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa Đô ký cầm ư
Hàm-tử quan, Ô Mã hựu ế ư Bạch-đằng hải. Kê chư vãng cổ, quyết hữu minh trưng.
Khoảnh
nhân Hồ-chính chi phiền-hà, trí-sử nhân-tâm chi oán-bạn. Cuồng-Minh tứ khích,
nhân dĩ độc ngã dân; ngụy đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc. Hân thương-sinh
ư ngược-diễm, hảm xích-tử ư họa-khanh. Khi thiên võng dân, quỷ-kế cái thiên vạn
trạng; liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, kiền
khôn ky hồ dục tức; trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai
kim-trường, tắc mạo lam-chướng nhi phủ sơn đào sa; thái minh-châu, tắc xúc
giao-long nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh, điễn
vật chức thúy cầm chi võng la. Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
quan quả điên-liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh dân chi huyết, dĩ nhuận
kiệt-hiệt chi vẫn nha; cực thổ mộc chi công, dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu
lý chi chinh dao trọng khốn, lư diêm chi trữ trục giai không. Quyết Đông-hải
chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô; Khánh Nam-sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần nhân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dung.
Dư phấn
tích Lam-sơn, thê thân hoang dã. Niệm thế-thù khởi khả cộng đái, thệ nghịch-tặc
nan dữ câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, thường đảm ngọa tân
giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao-lược chi thư;
tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý. Đồ hồi chi chí, ngộ mỵ bất
vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì, chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ
nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh. Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất-uất nhi dục
đông; cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp-cấp dĩ hư tả. Nhiên kỳ đắc nhân chi
hiệu, mang nhược vọng dương; do kỷ chi thành, thậm ư chửng nịch. Phẫn hung-đồ
chi vị diệt, niệm quốc-bộ chi tao truân. Linh-sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi-huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhâm, cố
dư ích lệ chi dĩ tế vu nạn. Yết can vi
kỳ, manh
lệ chi
đồ tứ tập; đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ nhược chế cường,
hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng
dĩ đại nghĩa
nhi thắng hung-tàn,
dĩ chi nhân
nhi dịch cường-bạo. Bồ-đằng chi
đình khu điện xiết, Trà-lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, quân
thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Thọ, văn phong nhi trĩ phách; Lý An,
Phương Chính, dả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu, Tây-kinh ký vi ngã
hữu; tuyển phong tiến thủ, Đông-đô tận phục cựu cương. Ninh-kiều chi huyết
thành xuyên, lưu tinh vạn lý; Tụy-động chi thi tích dã,
di xú thiên
niên. Trần Hiệp
tặc chi phúc
tâm, ký kiêu
kỳ thủ; Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bộc quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ
trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến
tự khuất. Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự, khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp
nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân; tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên-hạ.
Toại lệnh Tuyên- đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng chi
nhụ tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh-vị cửu nguyệt,
Liễu Thăng toại
dẫn binh do Khâu-ôn nhi tiến; bản niên bản nguyệt, Mộc
Thạnh diệc phân đồ tự Vân-nam nhi lai. Dư tiền ký tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ
phong, dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật,
Liễu Thăng vi ngã quân sở công, kế đọa ư Chi-lăng nhi dã; bản nguyệt nhị thập
nhật, Liễu Thăng vi ngã quân sở bại,
thân tử ư Mã-yên chi
sơn. Nhị thập
ngũ nhật, Bảo-định
bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu; nhị thập bát nhật, thượng-thư Lý
Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại
nghinh nhận nhi giải, bỉ tự đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ
bao vi, kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
thân mệnh trảo nha chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy can, ma đao nhi sơn thạch
khuyết. Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán
quân kinh. Quyết
hội nghị ư
băng đê, chấn
cương phong ư cảo
diệp. Đô-đốc Thôi Tụ tất hàng nhi tống khoản, thượng-thư Hoàng Phúc diện phược
dĩ tựu cầm. Cương-thi tắc Lạng-giang, Lạng-sơn chi đồ; chiến-huyết xích
Xương-giang, Bình-than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc, nhật nguyệt thảm dĩ
vô quang.
Kỳ Vân-nam
binh vi ngã quân sở ách ư Lê-hoa, tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá đảm. Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư
Cần- trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lãnh-câu chi huyết xử
phiêu, giang-thủy vị
chi ô yết;
Đan-xá chi thi
sơn tích, dã
thảo vị chi ân
hồng. Lưỡng lộ cứ binh, ký bất tuyền chủng nhi âu bại; các thành cùng khấu,
diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc
thủ thành cầm, bỉ ký điệu ngạ-
hổ khất
liên chi vỹ; thần vũ bất sát, dư diệc thể Thượng-đế hiếu sinh chi tâm. Tham-tướng Phương Chính, nội-quan Mã Kỳ,
tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách táng.
Tổng-binh Vương Thông, tham-chính Mã-Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn
quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ ký
úy tử tham sinh, nhi tu hiếu hữu thành; dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân
đắc tức.
Phi duy
kế mưu chi cực kỳ thâm viễn, cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xã-tắc dĩ chi
điện an, sơn xuyên dĩ chi cải quán. Kiền khôn ký bĩ nhi phục thái, nhật nguyệt
ký hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ, vu dĩ tuyết thiên cổ
vô-cùng chi sỉ. Thị do thiên địa tổ tông
chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.
Ô-hô!
Nhất nhung đại-định, ngật thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh-thanh, dản bố
duy-tân chi cáo. Bá cáo hà nhĩ, hàm sử văn tri.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét