CHƯƠNG XV
NHÀ LÊ
(1428-1788)
Thời-Kỳ Thống-Nhất (1428-1527)
I. Lê Thái Tổ
1. Bình-định-vương lên ngôi tôn
2. Việc học-hành
3. Luật-lệ
4. Việc cai-trị
5. Phép quân-điền
6. Việc binh-lính
7. Công thần bị giết
II. Lê Thái Tông
III. Lê Nhân Tông
1. Cai-trị
2. Việc thuế-lệ
3. Việc canh-nông
4. Nhà sinh-tế
5. Việc sửa phong-tục
6. Địa-đồ nước Nam
7. Đại-Việt sử-ký
8. Việc văn-học
9. Việc vũ-bị
10. Đánh Chiêm-thành
11. Đánh Lão-qua
12. Đánh Bồn-man
13. Việc giao-thiệp với Tàu
V. Lê Hiến Tông
VI. Lê Túc Tông và Lê Uy Mục
VII. Lê Tương Dực
1. Việc thuế-má
2. Đại-Việt thông-giám
3. Sự biến-loạn
VIII. Lê Chiêu Hoàng và Lê Cung Hoàng
1. Giặc Trần Cao quấy-nhiễu ở Đông-đô
2. Quan trong Triều làm loạn
3. Mạc đăng Dung chuyên quyền
I. Lê
Thái Tổ ( 1428 - 1433 )
Niên-hiệu:
Thuận Thiên
1. Bình Định Vương Lên Ngôi Tôn.
Bình-định-vương là Lê Lợi có công dẹp giặc Minh, đem lại giang-sơn cho nước
nhà. Nhưng vì trước phải lấy cớ lập con cháu nhà Trần để cầu hòa với nhà Minh,
cho nên phải tôn Trần Cao lên làm vua. Nay việc chiến-tranh đã xong, lòng người
theo về Bình-định-vương, mà Trần Cao cũng biết chừng không ai để cho mình ở yên, bèn
trốn vào châu
Ngọc-Ma (thuộc phủ
Trấn-ninh) nhưng bị quan quân đuổi bắt được, đem về bắt phải
uống thuốc độc mà chết.
Trần Cao
chết rồi, Bình-định-vương lên ngôi tức là vua Thái-tổ nhà Lê, đặt quốc-hiệu là
Đại-Việt. Năm ấy là năm mậu-thân, lịch
Tây là năm 1428.
Vua
Thái-tổ sai sứ sang cầu phong bên Tàu, nhưng mà nhà Minh không chịu, bắt phải tìm
con cháu nhà Trần để lập lên làm vua.
Sứ nhà Minh đi về hai ba lần, sau vua Thái-tổ bắt các quan viên và phụ
lão trong nước làm tờ khai rằng con cháu nhà Trần thật không còn ai nữa, và xin
phong cho ngài là Lê Lợi làm vua nước Nam. Vua nhà Minh thấy vậy mới thuận
phong vương cho ngài.
Từ đấy
lệ cứ 3 năm phải sang cống nhà Minh một lần, mà lần nào cũng phải đúc hai người
bằng vàng gọi là: "đại thân kim nhân". Có lẽ là lúc đánh trận
Chi-lăng có giết mất tướng nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh, cho nên phải
đúc hai người bằng vàng thế mạng.
Việc cầu
phong và việc chịu cống nước Tàu là việc thế bất-đắc-dĩ, vì rằng nước ta đối
với nước Tàu thì lớn nhỏ khác nhau nhiều lắm; vả lại nước ta một mình lẻ-loi ở
phía nam không có vây-cánh nào cả, như vậy, nếu mà cứ kháng-cự, không chịu kém
một tí, thì không bao giờ yên được. Mà
dẫu bề ngoài mình chịu kém nước Tàu, nhưng kỳ thực bề trong vẫn tự chủ, chứ người
Tàu không xâm-phạm gì đến việc nước mình. Thế cũng là một sự giao-thiệp
khôn-khéo, làm cho nước được yên-trị.
Vua
Thái-tổ lên ngôi rồi, phong thưởng cho các công-thần: bên văn thì ông Nguyễn
Trãi đứng đầu, bên võ thì ông Lê Vấn đứng đầu, cả thảy là 227 người đều được
quốc-tính cả. Ngài lại phong cho ông Nguyễn Trãi là Quan-phục-hầu, ông Trần
nguyên Hãn là Tả-tướng-quốc, ông Phạm văn Xảo làm Thái-úy.
Những
người công-thần vào bậc thứ nhất thì được thưởng tước là Thượng-trí-tự, bậc thứ
nhì thì được tước là Đại-trí-tự, bậc thứ ba thì được tước là Trí-tự.
2. Việc Học Hành. Vua Thái-tổ sửa-sang việc
học-hành, đặt trường Quốc-tử-giám ở đất kinh-đô để cho con cháu các quan viên
và những người thường dân tuấn-tú vào học-tập; mở nhà học và đặt thầy dạy
nho-học ở các phủ và các lộ. Rồi lại bắt các quan văn vũ từ tứ phẩm trở xuống
phải vào thi Minh-kinh-khoa, nghĩa là quan văn thì phải thi kinh-sử, quan vũ
thì phải thi vũ-kinh. ở các lộ cũng mở khoa thi Minh-kinh để cho những người
ẩn-dật ra ứng-thí mà chọn lấy nhân-tài.
Những
người đi tu đạo Phật, đạo Lão cũng bắt phải thi kinh điển những đạo ấy; hễ ai
thi trúng thì mới cho phép được làm tăng và đạo-sĩ, ai thi hỏng thì phải về tục
làm ăn.
3. Luật Lệ. Đặt ra luật-lệ mới theo như
hình-luật nhà Đường: có tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.
Tội xuy
chia ra làm 5 bậc từ 10 roi đến 50 roi; tội trượng cũng chia ra làm 5 bậc, từ
60 đến 100 trượng; tội đồ chia ra làm 3 bậc: đồ làm dịch đinh, đồ làm lính
chuồng voi, và đồ làm lính đồn-điền; tội lưu chia ra làm 3 bậc : lưu đi cận
châu, lưu đi viễn châu và lưu đi ngoại châu92; tội tử cũng chia ra làm 3 bậc:
tội thắt cổ và chém, tội chém bêu đầu và tội lăng-trì.
Hễ ai
được vào hàng bát nghị93 thì trước phải tâu xin nghị, khi vào nghị xong rồi lại
phải tâu để vua xét lại. Những người cựu
thần có công từ ngũ-phẩm dĩ thượng, có ai phạm tội đồ hay là tội lưu thì cũng
tha cả; con cháu những người được nghị
công mà có tội, thì cứ theo cái thứ bậc
tập
92 Lưu
đi cận châu là vào Nghệ-an, đi viễn châu là vào Bố-chính, đi ngoại châu là vào
Tân-bình.
93 Bát
nghị là : Nghị thân, nghị cố, nghị hiền, nghị năng, nghị công, nghị quí, nghị
cần, nghị tân. Xem ở sách Chu-lễ thì biết rõ.
ấm của
ông cha mà giảm cho. Những quan viên, quân dân ai có lầm-lỗi, nhỡ ra phạm đến
tội lưu trở xuống thì được cho chuộc. Những người 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở
xuống hay là có phế-tật mà phạm tội lưu trở xuống, thì cũng được cho chuộc.
Những người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống hay là đốc-tật, thì cứ thứ-tự
giảm bớt cho. Những người phạm tội gì hay là phạm tội ăn-trộm, ăn-cắp của người
ta mà tự mình ra thú nhận trước, thì được lượng tội mà giảm cho ít nhiều.
Trong
nước bấy giờ có nhiều người du-đãng cứ rượu chè cờ bạc, không chịu làm ăn
tử-tế, vậy nên đặt ra phép nghiêm để trừng-trị : ai đánh đổ-bác bắt được phải
chặt ngón tay mất ba phân; đánh cờ, bắt được phải chặt ngón tay mất một phân;
không có việc gì quần-tụ nhau để rượu chè, phải đánh 100 trượng, người dung
chứa những kẻ ấy cũng phải tội, nhưng mà được giảm đi một bậc.
Sự
nghiêm-phạt như thế, thì có thái-quá thật, vì là làm tàn-hại đến thân-thể người
ta, nhưng mà cũng có công-hiệu, khiến cho trong nước bớt có thứ người cả đời
không chịu làm gì, chỉ đi đánh lừa người mà kiếm ăn.
4. Việc Cai Trị. Khi vua Thái-tổ mới ở Nghệ-an ra Đông-đô, thì
đã chia nước ra làm bốn đạo, nay lại đặt thêm một đạo nữa gọi là Hải-tây- đạo,
gồm cả Thanh-hóa, Nghệ-an, Tân-bình và Thuận-hóa.
Trong
các đạo, đạo nào cũng có quan Hành-khiển để giữ sổ-sách về việc quân-dân. Còn
như các xã-thôn thì cứ xã nào có hơn 100 người trở lên, gọi là đại xã, đặt ba
người xã quan; xã nào có 50 người trở lên, gọi là trung xã, đặt hai xã quan; xã
nào có 10 người trở lên gọi là tiểu xã, đặt một người xã quan để coi việc trong
xã.
5. Phép Quân Điền. Bấy giờ thường những
người không có công-lao gì với nhà-nước thì lắm ruộng nhiều nương, mà những kẻ
phải đánh đông dẹp bắc lao-lung khổ-sở, lúc về một tấc đất cũng không có. Vì
thế cho nên vua Thái-tổ định ra phép quân-điền để lấy công điền, công thổ mà
chia cho mọi người, từ quan đại-thần cho đến những người già yếu cô quả, ai
cũng có một phần ruộng, khiến cho sự giàu nghèo ở trong nước khỏi chênh-lệch
lắm.
6. Việc Binh Lính. Khi giặc Minh hãy còn ở
nước Nam, thì phải cần có nhiều quân binh, cho nên lúc quân An-nam ta mới ra
Đông-đô, cả thảy được 25 vạn, sau lấy được Đông-đô rồi cho 15 vạn về làm ăn,
chỉ để lại 10 vạn để phòng-vệ mà thôi, nay lại chia quân ra làm 5 phiên, một
phiên ở lại
lưu ban còn bốn phiên cho về làm ruộng, cứ lần lượt thay đổi nhau mà về.
7. Công Thần Bị Giết. Vua Thái-tổ vẫn là một ông vua anh tài, đánh
đuổi được giặc Minh, mà lại sửa-sang được nhiều công-việc ích-lợi cho nước,
nhưng khi ngài lên làm vua rồi, có tính hay nghi-ngờ, chém giết những người
công-thần như ông Trần nguyên Hãn và ông Phạm văn Xảo. Hai ông ấy giúp ngài đã
có công to, về sau chỉ vì sự gièm-pha mà đều phải chết oan cả.
Nghĩ mà
buồn thay cho mấy người công-thần đời xưa, chỉ lầm về hai chữ công danh, mà đem
tấm lòng son sắt đi phù-tá quân-vương trong lúc nguy-nan, mong được chút
hiển-vinh để cho thỏa cái chí trượng-phu ở đời. Ngờ đâu : chim bay đã hết, cung
tốt cất đi, thỏ nhanh chết rồi, chó săn phải giết; đến khi công việc xong rồi,
thì không những là một thân mình cũng không được trọn vẹn mà cả họ-hàng thường
cũng phải vạ lây. Thế mới biết chỉ có ôn Trương tử Phòng nhà Hán là người kiến
cơ hơn cả !
Vua
Thái-tổ làm vua được 6 năm thì mất, thọ được 49 tuổi.
II. Lê Thái Tông (1434 - 1442)
Niên-hiệu:
Thiệu Bình (1434 - 1442)
Đại Bảo
(1440 - 1442)
Khi vua
Thái-tông lên làm vua thì ngài mới có 11 tuổi, cho nên công- việc gì cũng ở
quan Phụ-chính là Lê Sát quyết định hết cả.
Lê Sát là
một người ít học nhưng vì trước theo vua Thái-tổ lập được công to, quan làm đến
Đại-tư-đồ. Nay làm Phụ-chính, thường hay cậy quyền, trái phép, làm nhiều điều
kiêu-hãnh, hễ triều-thần ai là người không tòng-phục thì tìm cách làm hại.
Vua
Thái-tông tuy còn trẻ tuổi nhưng vốn có tính thông-minh, làm vua được ít lâu
thì ra thân chính lấy, rồi giết Lê Sát đi để thu lấy quyền. Song cũng vì ít
tuổi mà lại không có người phù-tá, cho nên sau thành say- đắm tửu sắc làm lắm
điều không được chính-đính.
Đời
Thái-tông làm vua thì trong nước phải mấy năm đại hạn, nước lụt và hoàng-trùng
làm hại mùa-màng, dân phải đói khổ. ở mạn mường- mán lại có đôi ba đám giặc nổi
lên làm loạn, có khi vua phải thân chinh đi đánh, có
khi chỉ sai quan đi tiểu-trừ, cũng dẹp yên được. Còn việc giao- thiệp với những nước lân-bang,
như Tiêm-la (Thái-lan), Chiêm-thành, Ai-lao thì những nước ấy đều có sứ thần đi
lại và thường có tiến cống cả.
Ở trong
thì chỉnh-đốn việc
thi-cử lại. Lệ
cứ 5 năm một lần
thi hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi thì kỳ đệ-nhất làm một bài kinh- nghĩa, bốn bài tứ-thư nghĩa,
mỗi bài phải 300 chữ trở lên; kỳ đệ-nhị thì làm bài chiếu, bài chế và bài biểu;
kỳ đệ-tam làm bài thi phú; kỳ đệ-tứ thì làm một bài văn sách phải 1.000 chữ trở
lên.
Đến năm
nhâm-tuất (1442) mở khoa thi tiến-sĩ, bao nhiêu những người thi đỗ đều được
khắc tên vào bia đá để phấn-chấn lòng người văn- học. Các tiến-sĩ được khắc tên
vào bia ở Văn-miếu khởi đầu từ đấy.
Những
cách-thức tiêu-dùng tiền và lụa vải ở trong nước cũng định lại cả; cứ 60 đồng
là một tiền; lụa thì cứ dài 30 thước, rộng 1 thước 5 tấc trở lên là một tấm;
giấy thì 100 tờ làm một tập.
Tháng
bảy năm nhâm-tuất (1442), Thái-tông đi duyệt binh ở huyện Chí-linh. Bấy giờ ông
Nguyễn Trãi đã về trí sĩ ở trại Côn-sơn, thuộc huyện Chí-linh. Khi vua đi qua
đó có vào thăm, và thấy người hầu ông ấy là Nguyễn thị Lộ có tài sắc, bèn bắt
theo hầu. Đi đến huyện Gia-định (nay là
huyện Gia-bình ở Bắc-ninh) thì vua mất.
Triều-đình đổ tội cho Nguyễn thị Lộ giết vua, bắt ông Nguyễn Trãi làm
tội và tru di cả ba họ.
Vua
Thái-tông làm vua được 9 năm, thọ được 20 tuổi.
III.Lê Nhân Tông (1443 - 1459) Niên-hiệu: Đại
Hòa (1443 - 1453)
Diên
Ninh (1454 - 1459)
Khi vua
Thái-tông mất, thái-tử là Băng Cơ mới lên 2 tuổi. Các quan đại-thần là bọn Lê
Khả, Nguyễn Xí, lập thái-tử lên làm vua, tức là Nhân-tông, để bà Hoàng-thái-hậu
ra nhiếp chính.
Trong
mấy năm bà thái-hậu cầm quyền, thì có mấy việc quan-trọng như là đặt ra 14 điều
hộ-luật về việc tư-điền; đổi cách thi để lấy người làm lại, bỏ
thi ám-tả và thi kinh-nghĩa, chỉ thi viết và thi tính mà thôi. Lại đào sông
Bình-lỗ94 ở tỉnh Thái-Nguyên để cho tiện đường vận-tải.
Còn ở
ngoài, thì vua nước Chiêm-thành là Bí Cai cứ hay sang cướp phá ở đất Hóa-châu.
Triều-đình đã mấy phen sai quan vào đánh đuổi, nhưng vẫn không chừa. Đến năm
bính-dần (1446) Triều-đình sai Lê Thụ, Lê Khả đem quân sang đánh Chiêm-thành
lấy được thành Đồ-bàn, bắt được Bí Cai và cả phi tần đem về để ở Đông-kinh, rồi
lập người cháu vua Bồ-đề là Mã-kha-qui-Lai lên làm vua.
Năm
mậu-thìn (1448) lại có xứ Bồn-man xin nội thuộc nước ta, đặt làm châu
Qui-hợp. Đất Bồn-man
phía đông-nam giáp
tỉnh Nghệ-an, tỉnh Quảng-bình, phía tây-bắc giáp tỉnh
Hưng-hóa, tỉnh Thanh-hóa.
Tuy vậy,
nhưng vì bà Thái-hậu hay nghe những lời nói gièm, chém giết các quan cựu-thần
như là Lê Khả, Lê khắc Phục, làm cho nhiều người không phục.
Năm
quí-dậu (1453), Nhân-tông mới bắt đầu thân chính. Trước hết ngài truy-tặng cho
những người công-thần và cấp ruộng quan-điền cho con cháu các ông Lê Sát, Lê
Ngân, và Lê khắc Phục.
Lại sai
ông Phan phù Tiên làm bộ quốc-sử kể từ vua Thái-tông nhà Trần cho đến khi thuộc
nhà Minh, cả thảy là 10 quyển.
Trước
các vương-hầu và các quan văn-vũ đều cứ theo phẩm-hàm của mình mà ăn lộc lấy
thuế trong 50 hộ hay là 100 hộ. Nay Nhân-tông lại cho thêm tiền tuế-bổng nữa.
Vua
Nhân-tông có lẽ cũng nên được một ông vua hiền, nhưng chẳng may ngài có người
anh là Lạng-sơn-vương Nghi Dân, trước đã làm Thái-tử, sau vì người mẹ phải tội
cho nên phải bỏ. Đến năm kỷ-mão (1459),
Nghi Dân đồng mưu với bọn Lê đắc Ninh, Phạm Đồn, Phan Ban và Trần Lăng, nửa đêm
trèo thành vào giết Nhân-tông và Hoàng-thái-hậu, tự xưng làm vua, rồi cho sứ
sang Tàu cầu phong.
Nhân-tông
trị-vì được 17 năm, thọ 19 tuổi.
94
"Khâm-định Việt-sử" chép rằng sông Bình-lỗ chảy từ Thái-nguyên về đến
Phù-lộ, thì có lẽ sông Bình-lỗ là sông Cà-lồ chăng?
IV. Lê Thánh Tông (1460 - 1497)
Niên-hiệu:
Quang Thuận (1460 - 1469) Hồng Đức (1470 - 1497)
Nghi Dân
cướp ngôi vua được 8 tháng, nhưng vì tính hay nghe lời dua-nịnh, chém giết kẻ
cựu thần, cho nên lòng người không ai phục, đến tháng sáu năm canh-thìn (1460)
các quan đại-thần là bọn Nguyễn Xí, Đinh Liệt mưu chém Phạm Đồn và Phan Ban ở
giữa nghị-sự-đường, rồi đóng cữa thành lại vào bắt Nghi Dân giết đi, rước con
thứ tư vua Thái-tông là Bình- nguyên-vương Tư-Thành lên làm vua, tức là vua
Thánh-tông.
Thánh-tông
là một ông vua thông-minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đãi lấy lòng
thành. Ngài trị-vì được 38 năm,
sửa-sang được nhiều việc chính-trị, mở-mang sự học hành, chỉnh-đốn các việc
vũ-bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ-cõi, khiến cho nước Nam ta bấy
giờ đuợc văn- minh thêm ra và lại lừng-lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa
bao giờ cường-thịnh như vậy.
Thánh-tông
lên ngôi rồi phong tước và cấp ruộng quan điền cho các công-thần. Ngài lại truy-tặng những người công-thần bị
giết oan ngày trước, và cho tìm con cháu ông Nguyễn Trãi về, cấp cho 100 mẫu
ruộng để phụng- thờ tổ-tiên.
Những
người mà được quốc-tính, nay ngài cho phục tính lại để cho khỏi mất tên họ.
1. Việc Cai Trị.
Từ trước đến giờ triều-chính vẫn theo lối cũ của nhà Trần : trên thì có tả hữu Tướng-quốc, rồi đến Lễ-bộ, Lại-bộ, Nội- các-viện, Trung-Thư, Hoàng-Môn, và ba sở Môn-hạ, lại có ngũ-đạo Hành- khiển để coi sổ-sách quân-dân các đạo. Đến khi Nghi Dân cướp ngôi, đặt ra lục Bộ và lục Khoa. Lục Bộ là: Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Công-bộ và Hình-bộ. Lục khoa là: Lại-khoa, Lễ-khoa, Binh-khoa, Hình-khoa, Hộ-khoa và Công-khoa.
Từ trước đến giờ triều-chính vẫn theo lối cũ của nhà Trần : trên thì có tả hữu Tướng-quốc, rồi đến Lễ-bộ, Lại-bộ, Nội- các-viện, Trung-Thư, Hoàng-Môn, và ba sở Môn-hạ, lại có ngũ-đạo Hành- khiển để coi sổ-sách quân-dân các đạo. Đến khi Nghi Dân cướp ngôi, đặt ra lục Bộ và lục Khoa. Lục Bộ là: Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Công-bộ và Hình-bộ. Lục khoa là: Lại-khoa, Lễ-khoa, Binh-khoa, Hình-khoa, Hộ-khoa và Công-khoa.
Quan lục bộ
thì có Thượng-thư làm đầu, rồi đến
tả hữu Thị-lang, Lang-trung, Viên-ngoại-lang, Tư-vụ.
Thánh-tông
đặt thêm ra lục tự là : Đại-lý-tự, Thái-thường-tự, Quang- lộc-tự, Thái-bộc-tự,
Hồng-lô-tự, Thượng-bảo-tự. Quan Lục Tự thì có Tự- khanh, Thiếu-khanh và
Tự-thừa.
Ngài lại
lập ra quan chế và lễ-nghi theo như bên Tàu. Các quan văn võ có phần ruộng đất,
lại được tiền tuế bổng. Nhưng ai mà làm điều gì nhũng-lạm thì đều phải nghiêm
trị.
Ngài lại
định lệ trí sĩ, cho các quan nội ngoại : ai làm quan đến 65 tuổi thì được xin
về trí sĩ, còn những người làm nha-lại đến 60 tuổi cũng được xin về.
Trước
vua Thái-tổ chia ra làm 5 đạo, có phủ, lộ, trấn, châu, huyện, xã. Đạo thì đặt
quan Hành-khiển, Tuyên-phủ chánh phó-sứ; phủ thì đặt Tri- phủ; lộ thì đặt
An-phủ-sứ; trấn thì đặt Trấn-phủ-sứ; huyện thì đặt Chuyển- vận-sứ và
Tuần-sát-sứ; xã thì đặt Xã-quan.
Thánh-tông
chia nước ra làm 12 đạo là Thanh-hóa, Nghệ-an, Thuận-hóa, Thiên-trường,
Nam-sách, Quốc-oai, Bắc-giang, An-bang, Hưng- hóa, Tuyên-quang, Thái-nguyên,
Lạng-sơn. Mỗi đạo có tòa Đô, tòa Thừa và tòa Hiến. Tòa Đô thì có chánh phó
Đô-tổng-binh, coi về việc binh; tòa Thừa thì có Thừa-chính chánh-phó-sứ, coi về
việc chính; tòa Hiến thì có Hiến-sát chánh-phó-sứ, coi về việc hình.
Lại đặt
ra chức Giám sát-ngự-sử để đi xem xét công-việc ở các đạo cho khỏi sự
nhũng-nhiễu.
Sau nhân
có đất Quảng-nam mới lấy của Chiêm-thành lại đặt ra làm 13 xứ là
Thanh-hóa, Nghệ-an, Sơn-nam (trước là Thiên-trường), Sơn-tây (trước là
Quốc-oai), Kinh-bắc (trước là Bắc-giang), Hải-dương (trước là Nam- sách),
Thái-nguyên, Tuyên-quang, Hưng-hóa, Lạng-sơn, An-bang, Thuận- hóa, Quảng-nam. Ở
những xứ hiểm-yếu như Nghệ-an, Thuận-hóa, Tuyên- quang, Hưng-hóa, Thái-nguyên,
Lạng-sơn, Quảng-nam đều đặt chức Thủ- ngự kinh-lược-sứ để phòng giữ. Trong 13
xứ ấy lại chia làm 52 phủ, 172 huyện và 50 châu. Còn ở dưới phủ huyện thì có
hương, phường, xã, thôn, trang, sách, động, nguyên, trưởng cả thảy là 8.006.
2. Việc Thuế Lệ. Bấy giờ thuế đinh mỗi người
đồng niên đóng 8 tiền; còn thuế ruộng, thuế đất và thuế đất bãi trồng dâu thì
cứ kể mẫu mà đóng thuế, mà thứ đất nào cũng chia ra làm ba hạng.
Việc làm
sổ hộ, thì cứ 6 năm một kỳ, quan phủ huyện phải dẫn các xã-trưởng về Kinh để
khai số hộ-khẩu ở các xã.
3. Việc Canh Nông. Vua Thánh-tông lấy sự
nông-tang làm trọng, cho nên ngài chú ý về việc ấy lắm. Thường thường ngài sắc
cho phủ huyện phải hết sức khuyên bảo dân làm việc cày ruộng trồng dâu.
Đặt quan
Hà-đê và quan Khuyến-nông để coi việc cày cấy trong nước. Bắt quan Hộ-bộ và
quan Thừa-chính ở các xứ phải tâu cho ngài biết những đất bỏ hoang để bắt phủ
huyện đốc dân phu khai-khẩn làm ruộng.
Lập ra
cả thảy 42 sở đồn-điền, đặt quan để trông-nom sự khai-khẩn, khiến cho dân khỏi
phải đói-khổ.
4. Nhà Tế Sinh. Vua Thánh-tông lại lo đến
các chứng bệnh làm hại dân. Ngài lập nhà Tế-sinh để nuôi những người đau-yếu,
và khi nào ở đâu có dịch tễ thì sai quan đem thuốc đi chữa bệnh.
5. Việc Sửa Phong Tục. Dân ta bấy giờ
sùng-tín đạo Phật, hay làm đình làm chùa. Những lễ hôn và lễ tang thì làm những
điều trái với lẽ thường, như là nhà nào có tang-chế thì làm cỗ bàn ăn-uống, rồi
bày ra các trò hát xướng, làm một cuộc vui chơi. Lễ hôn thì ăn lễ hỏi rồi, để
ba bốn năm mới cho rước dâu về nhà chồng.
Thánh-tông
cấm không cho làm chùa mới, để tiền của và công-phu mà làm việc có ích. Cấm
những nhà có lễ tang không được bày cuộc hát xướng. Việc hôn thì khi đã nhận lễ
hỏi rồi, phải chọn ngày cho rước dâu, và lệ cứ cưới rồi ngày hôm sau đi chào
cha mẹ, ba ngày thì đi lễ từ đường.
Ngài lại
đặt ra 24 điều, sức cho dân-xã thường thường giảng đọc để
giữ lấy
thói tốt :
1. Cha mẹ dạy con phải có phép-tắc, trai gái
đều có nghề-nghiệp, không
được
rượu-chè cờ-bạc, tập nghề hát-xướng để hại phong-tục.
2. Người gia-trưởng tự mình phải giữ lễ-phép
để cho cả nhà bắt-chước; nếu con em làm càn, thì bắt tội người gia trưởng.
3. Vợ chồng cần-kiệm làm ăn, ân-nghĩa
trọn-vẹn, duy chỉ có khi nào người vợ phạm tội thất-xuất thì mới được bỏ, chứ
không được khiên ái cẩu dung làm hại đến phong-hóa.
4. Làm kẻ tử-đệ nên yêu-mến anh em,
hòa-thuận với hương-đảng, phải lấy lễ-nghĩa mà cư-xử; nếu trái phép thì người
tôn-trưởng đánh-đập dạy-bảo, có tội to thì phải đem nộp quan để trừng-trị.
5. ở chốn hương-đảng tông-tộc, có việc
hoạn-nạn thì phải giúp-đỡ lẫn nhau; nếu ai có tiếng là người hạnh-nghĩa tốt,
thì các quan phủ huyện sở tại phải bẩm lên tòa Thừa, tòa Hiến, để tâu vua mà
tinh biểu cho.
6. Đàn-bà có lỗi mà cha mẹ và chồng đã
trừng-trị thì nên phải sửa mình đổi lổi, không được tự-tiện trốn đi, làm hư mất
nết đàn-bà.
7. Người đàn-bà góa không được chứa những
đứa trai trẻ ở trong nhà, nói dối là con nuôi để ám hành những việc gian dâm.
8. Người đàn-bà góa chồng, đối với các con
vợ cả, hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có lòng thương-xót, không được mưu-mô để chiếm
đoạt gia-tài làm của riêng mình.
9. Đàn-bà góa chồng, chưa có con-cái, phải ở
nhà chồng để giữ đủ tang-lễ, không được chuyển-vận, của-cải mang về nhà mình.
10. Làm đàn-bà thì phải theo chồng, không được
cậy cha mẹ mình phú-quí mà khinh nhà chồng, nếu không như thế thì bắt tội đến
cha mẹ.
11. Kẻ sĩ-phu nên quí phẩm-hạnh và giữ phép quan,
nếu cứ xu-nịnh những kẻ quyền quí để cậy thế làm càn thì phải cách bỏ đi không
kể đến nữa.
12. Kẻ
điển-lại chỉ việc
giữ sổ-sách giấy-má
để làm việc
quan, nếu làm những sự điên-đảo án từ, thì quan trên sẽ
xét ra mà trừng trị.
13. Quan dân đều phải hiếu-để, và chăm-chỉ làm
ruộng, cùng giúp đỡ lẫn nhau; khi đi làm việc quan, không được trễ biếng,
trốn-tránh. Nếu ai có tiếng là người lương-thiện thì các quan phủ huyện phải
trình tòa Thừa, tòa Hiến để tâu mà tinh biểu cho.
14. Kẻ thương-mãi phải tùy thời giá mà buôn-bán
với nhau, không được thay đổi thưng đấu, và tụ-tập đồ-đảng để đi trộm-cướp; nếu
phạm điều ấy thì trị tội rất nặng.
15. Việc hôn-giá tế-tự phải giữ lễ-phép, không
được làm càn.
16. Chỗ dân-gian có mở trường du-hí hoặc cúng-tế,
thì con-trai con-gái đến xem, không được đứng lẫn lộn, để khỏi thói dâm.
17. Các hàng quán bên đường, có phụ-nữ đi xa
đến trọ, thì phải phòng giữ. Nếu để hà-hiếp ô-nhục người ta, việc phát-giác ra,
thì người phạm cùng với chủ nhà đều phải trị tội cả.
18. Phủ huyện phải lập bia ở các nơi sở-tại để
cấm con-trai con-gái không
được
cùng tắm một bến, để cho có phân biệt.
19. Các xã-thôn phải chọn một vài người già-cả,
đạo-đức làm trưởng, những ngày thong-thả đem dân ra đình, tuyên giảng những lời
cáo dụ, để khiến dân bắt-chước làm điều thiện, thành ra mỹ tục.
20. Trong hạt phủ huyện có kẻ cường-hào
xâm-chiếm điền-thổ, ức-hiếp cô- độc và xui-giục người ta kiện-tụng, thì cho
xã-thôn cáo giác lên để quan xử- trị, nếu mà ẩn-nặc thì phải biếm-bãi.
21. Các nhà vương, công, đại-thần dung túng
những đứa tiểu-nhân, đưa người khấn lễ, và để cho người nhà đi ức-hiếp dân-gian
mà mua rẻ các đồ vật, thì cho dân được đầu cáo để trọng trị.
22. Những người làm quan phủ, huyện mà biết
khuyên-bảo dân-gian làm điều lễ-nghĩa khiêm-nhượng, có quan Thừa-chính,
Hiến-sát xét thực, thì được cho vào hạng tốt; nếu ai không chăm dạy-bảo dân thì
cho là người không xứng chức.
23. Các người huynh-trưởng ở chốn xã-thôn và
phường biết dạy bảo con em trong làng cho nên được phong-tục tốt, thì quan phủ
huyện phải bẩm tòa Thừa, tòa Hiến để tâu vua ban khen cho.
24. Các dân mường-mán ở ngoài bờ-cõi, nên giữ
lời di-huấn, không được trái đạo luân-thường như cha, anh, chú, bác đã chết thì
con em không được chiếm lấy những thê-thiếp, nếu mà trái phép, thì sẽ trị tội
rất nặng.
6. Địa Đồ Nước Nam. Từ xưa đến nay nước Nam
ta vẫn không có địa-đồ, Thái-tông bèn sai quan ở các đạo xem xét ở trong hạt
mình có những núi sông gì, hiểm-trở thế nào phải vẽ địa-đồ ra cho rõ-ràng và
chỗ nào tự cổ chí kim có những sự-tích gì phải ghi-chép vào cho tường-tận, rồi
gửi về bộ Hộ để làm quyển địa-dư nước ta.
7. Đại Việt Sử Ký. Thánh-tông sai Ngô sĩ
Liên làm bộ Đại-Việt sử-ký chia ra làm 2 bản.
Một bản kể từ Hồng-bàng-thị cho đến thập-nhị Sứ- quân có 5 quyển. Một bản
kể từ Đinh Tiên-hoàng cho đến Lê Thái-tổ có 10 quyển. Cả thảy là 15 quyển.
8. Việc Văn Học. Vua Thánh-tông định phép
thi hương, sửa phép thi hội, để chọn lấy nhân-tài. Thường ngài ra làm chủ các kỳ thi đình, và
ngài lập ra lệ xướng danh các Tiến-sĩ và lệ cho về vinh qui.
Ngài mở
rộng nhà Thái-học ra. Phía trước thì làm nhà Văn-miếu, phía sau thì làm nhà
Thái-học, và làm ra các phòng ốc để cho những kẻ sinh-viên ở học. Làm kho
Bí-thư để mà chứa sách. Sự học bấy giờ càng ngày càng mở-mang thêm.
Ngài lại
hay ngâm thi, đặt ra Quỳnh-uyển cửu-ca, xưng làm Tao-đàn nguyên-súy, cùng với
kẻ triều-thần là bọn ông Thân nhân Trung, Đỗ Nhuận, cả thảy 28 người xướng họa
với nhau. Non xanh nước biếc chỗ nào cũng có thơ của ngài.
Ngài sai
ông Thân nhân Trung và ông Đỗ Nhuận làm bộ Thiên-nam dư-hạ-tập, 100 quyển nói
về việc chính là hình-luật đời Hồng-đức. Ngài làm ra một quyển Thân-chinh
ký-sự, kể việc ngài đi đánh Chiêm-thành, Lão-qua và các mường.
9. Việc Võ Bị. Tuy rằng vua Thánh-tông hết lòng sửa-sang mọi
việc trong nước, nhưng ngài cũng hiểu rằng phàm một nước mà cường-thịnh
thì tất
là phải có
võ-bị, cho nên
ngài bắt các
quan tổng-binh phải
chăm giảng-tập trận-đồ, phải luyện-tập sĩ-tốt để phòng khi có việc.
Ngài đổi
năm Vệ-quân ra làm năm phủ là : Trung-quân phủ, Nam quân-phủ, Bắc-quân phủ,
Đông-quân phủ và Tây-quân phủ. Mỗi một phủ thì có 6 vệ, mỗi vệ có 5 hay là 6
sở, mỗi sở có số quân độ 400 người. Quân cả 5 phủ ước chừng 6, 7 vạn người.
Ngài lại đặt ra 31 điều quân lệnh để tập thủy trận; 42 điều để tập bộ trận.
Lại đặt
ra lệ cứ ba năm một kỳ thi võ. Tướng-sĩ
ai đậu thì thưởng, ai hỏng thì phạt, để khiến mọi người đều vui lòng về việc
võ-bị.
Đời vua
Thánh-tông mấy năm về trước cũng được yên ổn, nhưng mấy năm về sau thì phải
chinh-chiến nhiều lần. Khi thì phải đánh giặc Lào,
khi thì
đánh những giặc cỏ ở trong nước; nhưng chỉ có đánh Chiêm-thành,
đánh
Lão-qua và đánh Bồn-man là phải dùng đến đại-binh.
10. Đánh Chiêm Thành. Năm canh-thìn (1470) là
năm Hồng-đức nguyên-niên, vua nước Chiêm-thành là Trà Toàn muốn sinh sự với
nước Nam. Một mặt thì cho người sang cầu viện-binh bên nhà Minh, một mặt thì
đem quân sang đánh phá ở đất Hóa-châu.
Vua
Thánh-tông cho sứ sang Tàu kể chuyện Trà Toàn làm nhiễu, rồi ngài tự làm tướng,
cử đại-binh hơn 20 vạn sang đánh Chiêm-thành; khi quân vào đến Thuận-hóa,
Thánh-tông đóng quân lại để luyện-tập và sai người lẻn sang vẽ địa-đồ nước
Chiêm-thành để biết cho rõ chỗ hiểm chỗ không rồi mới tiến binh lên đánh lấy
cửa Thị-nại (cửa Bình-định).
Trà Toàn
đánh thua, rút quân về giữ kinh-thành Đồ-bàn. Quân An- Nam kéo đến vây đánh,
phá được thành, bắt được Trà Toàn.
Bấy giờ
có tướng Chiêm-thành là Bô trì Trì chạy về đất Phan-lung, sai sứ vào cống và
xin xưng thần. Thánh-tông có ý muốn làm cho nước Chiêm yếu thế đi, mới chia đất
ra làm ba nước, phong làm ba vua, một nước gọi là Chiêm-thành, một là Hóa-anh
và một nước nữa là Nam-phan.
Còn đất
Đồ-bàn, đất Đại-chiêm và đất Cổ-lũy thì vua Thánh-tông lấy để lập
thêm đạo Quảng-nam,
có 3 phủ,
9 huyện, rồi
đặt quan cai-trị,
và chọn dân đinh từ 15 tuổi trở lên, ai là người thông-minh ham học thì
cho làm sinh-đồ, để dạy cho sự học-hành và sự lễ-nghĩa.
Khi Trà
Toàn đã phải bắt rồi, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang kêu với nhà
Minh và xin phong làm vua. Thánh-tông biết tin ấy liền sai ông Lê Niệm đem 3
vạn quân vào bắt được Trà Toại giải về kinh-sư. Sau vua nhà Minh có sai sứ sang
bảo ngài phải trả đất Chiêm-thành, nhưng ngài không chịu.
Từ khi
vua Thánh-tông đánh được Chiêm-thành rồi, thanh-thế nước Nam lừng-lẫy, nước Lào
và các mường ở phía tây đều về triều cống cả.
11. Đánh Lão Qua. Đến năm kỷ-hợi (1479) có tù-trưởng xứ Bồn-man
là Cầm Công có ý làm phản, xui người Lão-qua95 đem binh quấy- nhiễu ở miền tây
nước ta. Thánh-tông liền sai quan Thái-úy là Lê thọ Vực
95
Lão-qua, là đất thượng Lào ở về phía tây Bắc-Việt bây giờ tức là Luang-Prabang.
Có khi gọi là nước Nam-chướng.
cùng với
các tướng quân là Trịnh công Lộ, Lê đình Ngạn, Lê Lộng và Lê nhân Hiếu chia làm
5 đạo đi từ Nghệ-an, Thanh-hóa và Hưng-hóa sang đánh đuổi vua Lão-qua đến sông
Kim-sa96 giáp với nước Diến-điện. Trận ấy quân An- nam được toàn thắng.
12. Đánh Bồn Man. Gây nên sự đánh Lão-qua là
cũng vì họ Cầm ở Bồn-man muốn làm điều phản-nghịch.
Nguyên
đất Bồn-man trước đã xin nội thuộc, đổi làm châu Qui-hợp, nhưng vẫn để cho
tù-trưởng là họ Cầm được đời đời làm Phụ-đạo. Sau đổi làm Trấn-ninh phủ, có 7
huyện, và đặt quan phủ huyện để giám-trị. Nay Cầm Công cậy có người Lão-qua giúp-đỡ, bèn đuổi quân An-nam đi,
chiếm lấy đất, rồi đem quân chống giữ với quan quân.
Thánh-tông
bèn ngự giá thân-chinh, nhưng đi đến Phù-liệt, được tin thắng trận của quân ta
sang đánh Lão-qua, ngài trở về, sai ông Lê Niệm đem binh đi đánh. Cầm Công đánh
thua chết, còn những người Bồn-man xin hàng.
Thánh-tông
phong cho người họ Cầm Công là Cầm Đông làm Tuyên- úy-đại-sứ và đặt quan
cai-trị như trước.
13. Việc Giao Thiệp Với Tàu. Nước ta bấy giờ
tuy phải theo lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng vua Thánh-tông vẫn hết lòng
phòng- bị mặt bắc. Thỉnh-thoảng có những
người thổ-dân sang quấy-nhiễu, thì lập tức cho quan quân lên tiễu-trừ và cho sứ
sang Tàu để phân-giải mọi sự cho minh-bạch. Có một hôm được tin rằng người nhà
Minh đem binh đi qua địa- giới, Thánh-tông liền cho người lên do-thám thực hư.
Ngài bảo với triều- thần rằng : "Ta phải giữ-gìn cho cẩn-thận, đừng để cho
ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái-tổ để lại." Ngài có
lòng vì nước như thế, cho nên dẫu nước Tàu có ý muốn dòm-ngó cũng không dám làm
gì. Vả lại quân An-nam bấy giờ đi đánh Lào, dẹp Chiêm, thanh-thế bao nhiêu, nhà
Minh cũng phải lấy lễ-nghĩa mà đãi An-nam, cho nên sự giao-thiệp của hai nước
vẫn được hòa-bình.
Xem
những công việc của vua Thánh-tông thì ngài thật là một đấng anh-quân. Những sự văn-trị và sự võ-công ở nước Nam ta
không có đời nào thịnh hơn là đời Hồng-đức.
Nhờ có vua Thái-tổ thì giang-sơn nước Nam mới
96 Theo
địa-dư nước Tàu, thì Kim-sa-giang là khúc trên sông Trưng-giang. Sông ấy chảy ở
phía bắc qua tỉnh Tây-khương và Tứ-xuyên. Đây có lẽ là nhà chép sử lẫn với khúc
sông Lan-thương- giang là khúc trên Cửu-long-giang còn, và
nhờ có vua
Thánh-tông thì văn-hóa
nước ta mới
thịnh, vậy nên người An-nam ta không bao giờ quên công
đức hai ông vua ấy.
Thánh-tông
làm vua được 38 năm thọ được 56 tuổi.
V. Lê Hiến Tông ( 1497 - 1504 )
Niên-hiệu:
Cảnh Thống
Thái-tử
là Tăng lên nối ngôi làm vua, tức là vua Hiến-tông.
Ngài là
một ông vua thông-minh hòa-hậu. Thường khi bãi triều rồi, ngài ra ngồi nói
chuyện với các quan, hễ ai có điều gì trái phải, ngài lấy lời êm-ái mà nhủ-bảo,
chứ không gắt mắng bao giờ. Ngài vẫn hay nói rằng : "Vua Thái-tổ đã
gây-dựng cơ-đồ, vua Thánh-tông đã sửa-sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo gìn-giữ
nếp cũ, và mở-mang sự nhân-chính ra cho sáng rõ công-đức của ông cha
trước."
Ngài
theo cái chủ-ý ấy mà trị dân, cho nên trong mấy năm ngài làm vua không có
giặc-giã gì, mà những việc chính-trị đều theo như đời Hồng- đức, chứ không
thay-đổi gì cả. Nhất là về việc cày ruộng trồng dâu, ngài lưu tâm khuyên-nhủ
quan dân, khiến mọi người phải hết sức giữ-gìn, bắt đào sông, khai ngòi, đắp
đường, làm xe nước, để cho tiện việc vệ nông. Việc văn-học cũng vậy, không bao
giờ ngài để trể-nải. Nhưng ngài trị-vì
được có 7 năm thì mất, thọ được 44 tuổi.
VI. Lê Túc Tông ( 1504 ) và Lê Uy Mục (1505 -
1509 )
Niên-hiệu:
Thái Trinh và Đoan Khánh
Hiến-tông
mất, truyền ngôi lại cho người con thứ ba tên là Thuần, tức là vua Túc-tông.
Túc-tông
làm vua được 6 tháng thì mất. Triều-đình tôn người anh thứ hai của ngài là Tuấn
lên làm vua, tức là vua Uy-mục.
Từ vua
Uy-mục trở đi thì cơ-nghiệp nhà Lê mỗi ngày một suy dần, vì rằng từ đó về sau
không có ông vua nào làm được việc nhân-chính, và lại thường hay say-đắm tửu
sắc, làm những điều tàn-ác, cho nên thành ra sự giặc-giã, thoán-doạt, đến nỗi
về sau dẫu có trung-hưng lên được, nhưng quyền chính-trị vẫn về tay kẻ
cường-thần.
Vua
Uy-mục mới lên làm vua thì giết tổ-mẫu là bà Thái-hoàng Thái- hậu, giết quan
Lễ-bộ Thượng-thư là ông Đàm văn Lễ và quan Đô-ngự-sử là ông Nguyễn quang Bật,
vì lẽ rằng khi vua Hiến-tông mất, bà Thái-hậu và hai ông ấy có ý không chịu lập
ngài.
Đã làm
điều bạo-ngược, lại say đắm tửu-sắc; đêm nào cũng cùng với cung-nhân uống rượu,
rồi đến khi say thì giết đi. Có khi bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để làm trò
chơi. Tính đã hung-ác, mà lại hay phản-trắc. Cho nên sứ Tàu sang làm thơ gọi
Uy-mục là Quỉ-vương.
Bấy giờ
Uy-mục lại hay tin dùng mấy kẻ ngoại-thích và tìm những người có sức mạnh để
làm túc-vệ. Bởi thế cho nên Mạc đăng Dung là người đánh cá vào thi đỗ
đô-lực-sĩ, được làm chức Đô-chỉ-huy-sứ.
Còn những tôn- thất và công-thần thì bị đánh-đuổi, dân sự thì bị
hà-hiếp, lòng người ta-oán, thiên-hạ mất cả trông-cậy, triều-thần có nhiều
người bỏ quan trốn đi.
Tháng
chạp năm kỷ-tị (1509) có Giản-tu-công tên là Oanh cháu vua Thánh-tông, là anh
em con chú con bác với ngài, bị bắt giam.
Ông đút tiền cho người canh ngục mới được ra, trốn về Tây-đô, rồi hội
với các quan cựu- thần đem binh ra đánh bắt vua Uy-mục và Hoàng-hậu Trần-thị
giết đi.
VII. Lê Tương Dực (1510 - 1516)
Niên-hiệu:
Hồng Thuận
Giản-tu-công
giết vua Uy-mục rồi tự lập làm vua, tức là vua Tương- dực.
Vua
Tương-dực tính hay chơi-bời và xa-xỉ, như là sai người thợ tên là Vũ như Tô làm
cái điện 100 nóc, xây cái Cửu-trùng-đài, bắt quân dân làm trong mấy năm trời
không xong, mà thật là hao-tổn tiền-của, chết hại nhiều người. Rồi lại đóng
chiến-thuyền bắt đàn-bà chèo chơi ở hồ Tây. Lại tư- thông cả với những
cung-nhân đời tiền triều. Vì hoang dâm như thế cho nên sứ nhà Minh sang trông
thấy ngài, bảo rằng ngài là tướng lợn, sự loạn-vong chắc là sắp tới vậy.
1. Việc Thuế Má. Việc thuế-má lúc bấy giờ
thì đại-khái cũng như mấy triều trước, nhưng không biết rõ tiền-tài sản-vật
đồng-niên thu được những gì. Đến đời vua Tương-dực thấy sử chép rằng trước thì
thuế vàng thuế bạc đồng niên thu được :
Vàng
mười, thứ tốt gọi là "kiêm-kim".. 480 lượng
Vàng
mười 2.883 lượng
Bạc 4.930 lượng
Nay vua
Tương-dực định lệ đổi lại mỗi năm thu được : Vàng mười thứ "kiêm-kim" 449 lượng
Vàng
mười 2.901 lượng
Bạc 6.125 lượng
Những
vàng bạc ấy là nộp vào kho để chi vua tiêu-dùng. Còn cách thu-nộp thế nào thì
không rõ.
2. Đại Việt Thông Giám.
Đời bấy giờ có quan Binh-bộ Thượng-thư là ông Vũ Quỳnh làm xong bộ Đại-Việt thông-giám; chia ra từ họ Hồng-Bàng cho đến thập-nhị Sứ-quân làm ngoại-kỷ, còn từ Đinh Tiên- hoàng đến Lê Thái-tổ làm bản-kỷ, cả thảy là 26 quyển. Vua sai ông Lê Tung soạn bài tổng-luận về bộ sử ấy.
Đời bấy giờ có quan Binh-bộ Thượng-thư là ông Vũ Quỳnh làm xong bộ Đại-Việt thông-giám; chia ra từ họ Hồng-Bàng cho đến thập-nhị Sứ-quân làm ngoại-kỷ, còn từ Đinh Tiên- hoàng đến Lê Thái-tổ làm bản-kỷ, cả thảy là 26 quyển. Vua sai ông Lê Tung soạn bài tổng-luận về bộ sử ấy.
3. Sự Biến Loạn. Thời bấy giờ vua thì hoang
chơi, triều-thần thì tuy là có bọn ông Nguyễn văn Lang, ông Lê Tung, ông Lương
đắc Bằng, v.v... nhưng người thì già chết, người thì xin thôi quan về. Vả cũng
không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh-doanh được việc nước, cho
nên trong nước giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi. ở đất Kinh-bắc thì có Thân duy
Nhạc, Ngô văn Tổng, làm loạn ở huyện Đông-ngạn và huyện Gia-lâm; đất Sơn-tây
thì có Trần Tuân đánh phá. Lại có tên Phùng Chương làm giặc ở núi Tam-đảo; Trần
công Ninh chống giữ ở huyện An-lãng. Đất Nghệ-an thì có Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê
văn Triệt làm phản. Lại ở huyện
Thủy-đường (Hải- dương) có Trần Cao thấy sấm nói rằng ở phương đông có thiên-tử
khí, bèn cùng với đồ-đảng đánh lấy đất Hải-dương, Thủy-đường, Đông-triều, rồi
tự xưng là vua Đế-thích giáng sinh, bởi thế thiên-hạ theo có hàng vạn người.
Trần Cao
đem quân về đóng ở đất Bồ-đề, bên kia sông Nhị-hà, chực sang lấy Kinh-đô. Sau
quan quân sang đánh, Trần Cao lui về đóng ở Châu- sơn, thuộc phủ Từ-sơn. Vua
sai An-hòa-hầu là Nguyễn hoằng Dụ sang đóng quân ở Bồ-đề để chống giữ.
Tuy
trong nước giặc cướp như thế, nhưng vua cũng không chịu sửa- sang việc gì cả,
lại khinh-dể các quan triều-thần. Bấy giờ có Nguyên-quận- công là Trịnh duy
Sản, trước vẫn có công đi đánh giặc, nhưng sau vì hay can vua mà phải
đánh. Trịnh duy Sản tức giận bèn mưu
với Lê quảng Độ và Trình chí Sâm để lập vua khác, rồi giả mượn tiếng đi đánh
giặc, đêm đem binh vào cửa Bắc-thần giết vua Tương-dực.
Ngài
trị-vì được 8 năm, thọ được 24 tuổi.
VIII. Lê Chiêu Tông và Lê Cung
Hoàng (1516 - 1527) Niên-hiệu: Quang Thiệu (1516 - 1526) Thống Nguyên (1527)
Bọn
Trịnh duy Sản giết vua Tương-dực rồi, hội triều-đình lại định lập con
Mục-ý-vương là Quang Trị, mới có 8 tuổi, nhưng Võ-tá-hầu là Phùng Mại bàn nên
lập cháu ba đời vua Thánh-tông là con Cẩm-giang-vương tên là Y, đã 14
tuổi. Đảng Trịnh duy Sản bắt Phùng Mại
chém ngay ở chỗ nghị-sự, rồi lập Quang Trị. Quang Trị mới làm vua được ba ngày,
chưa kịp đổi niên-hiệu thì bị Trịnh duy Đại là anh Trịnh duy Sản đem vào
Tây-kinh. Quang Trị vào đấy được mấy
ngày lại bị giết.
Lúc
trong triều còn đang rối loạn, chưa biết ai là vua thì Nguyễn hoằng Dụ ở bến
Bồ-đề được tin Trịnh duy Sản đã giết vua Tương-dực, bèn đem quân về đốt phá
Kinh-thành và bắt Vũ như Tô, là người đốc việc làm đền-đài cho vua Tương-dực,
đem chém ở ngoài thành.
Bọn
Trịnh duy Sản lại lập con Cẩm-giang-vương là Y lên làm vua, tức là vua
Chiêu-tông.
Nhưng
bây giờ Kinh-thành đã bị tàn-phá rồi, Trịnh duy Sản phải rước vua vào Tây-kinh.
1.Giặc Trần Cao Quấy Nhiễu ở Đông Đô. Giặc
Trần Cao thấy Triều-đình đã bỏ kinh-đô, bèn đem quân sang chiếm lấy, rồi tiếm
hiệu làm vua.
Triều-đình
vào đến Tây-kinh, truyền hịch đi các nơi lấy binh ra đánh Trần Cao.
Trịnh
duy Sản, Nguyễn hoằng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân và các quan cựu thần phân binh
ra vây Đông-kinh. Trần Cao phải bỏ thành chạy lên đất Lạng-nguyên (có lẽ là
Lạng-sơn).
Triều-đình
lại về Đông-kinh, rồi sai Trịnh duy Sản lên Lạng-nguyên
đuổi
đánh Trần Cao. Trịnh duy Sản khinh địch
quá, bị giặc giết mất. Quân giặc lại
về đóng ở Bồ-đề. Vua sai Thiết-sơn-bá là Trần Chân đem quân đánh tập hậu, phá
được quân của giặc.
Trần Cao
lại chạy về Lạng-nguyên, và thấy sự-nghiệp không thành, bèn nhường quyền lại
cho con là Thăng rồi cắt tóc đi tu để trốn cho khỏi nạn.
2. Quan Trong Triều Làm Loạn. Tuy giặc Trần
Cao đã phá được, nhưng mà lúc bấy giờ vua Chiêu-tông hãy còn trẻ tuổi, chưa
quyết-đoán được, mà Triều-thần thì không có ai là người có chí giúp nước, đến
nỗi ngoài thì giặc làm loạn, trong thì các quan sinh ra hiềm-thù, đem quân đánh
lẫn nhau, như là Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy, hai người đi đánh giặc về rồi
mỗi người đóng quân một nơi để chống-cự với nhau, vua can ngăn cũng không được.
ở trong
triều thì bọn Trịnh duy Đại mưu sự làm phản, bị người tố cáo ra, phải giết cả
đảng.
Bọn Nguyễn
hoằng Dụ và
Trịnh Tuy cứ đánh
nhau mãi, sau
Trần Chân bênh Trịnh Tuy đem quân đánh Nguyễn hoằng Dụ. Nguyễn hoằng Dụ bỏ chạy về giữ Thanh-hóa.
Vua sai
bọn Mạc đăng Dung đi đánh Nguyễn hoằng Dụ. Nhưng Đăng Dung tiếp được thư của
Hoằng Dụ viết riêng cho mình, bèn không đánh, đem quân trở về.
Bấy giờ
quyền-bính về cả Trần Chân và lại có người nói rằng Trần Chân có ý làm phản, vua
bèn cho người vời Trần Chân vào thành rồi đóng cửa thành lại, bắt giết đi.
Bộ tướng
của Trần Chân là bọn Hoàng duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin Trần Chân
phải giết, bèn đem quân vào đánh phá kinh-thành. Vua phải chạy sang lánh mình ở
đất Gia-lâm, rồi cho người vào Thanh-hóa vời Nguyễn hoằng Dụ ra đánh giặc.
Nguyễn hoằng Dụ không ra.
Chiêu-tông
không biết mong cậy vào ai được, phải cho người sang Hải-dương vời Mạc Đăng
Dung về giúp. Mối thoán-đoạt gây nên từ đó.
Nguyên
Mạc đăng Dung là cháu 7 đời ông Mạc đĩnh Chi, ngày trước vốn ở làng Đông-cao,
huyện Bình-hà (thuộc Hải-dương), sau dời sang ở làng Cổ-chai (thuộc huyện
Nghi-dương, tỉnh Kiến-an bây giờ). Mạc
đăng Dung thủa trẻ nhà nghèo, làm nghề đánh cá, nhưng có sức mạnh, thi đỗ
Đô-lực-sĩ, làm đến
Đô-chỉ-huy-sứ về triều vua Uy-mục; đến triều vua Tương-dực được phong là
Vũ-xuyên-hầu.
Nay vua
Chiêu-tông gọi sang, nhất thiết trao cả binh quyền để đánh giặc Hoàng duy Nhạc.
Mạc đăng
Dung đem vua về ở Bồ-đề rồi cho người mật dụ bọn Nguyễn Kính, Nguyễn Áng về
hàng. Bọn ấy nói rằng Trần Chân bị giết
là tại Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính gièm-pha.
Nếu nhà vua làm tội ba người ấy thì xin về hàng.
Vua bắt
ba người đem giết đi, nhưng bọn tên Kính tên Áng vẫn không giải binh. Mạc đăng
Dung lại dời vua về Bảo-châu (thuộc huyện Từ- liêm). Thế
giặc vẫn mạnh,
rồi lại có
Trịnh Tuy và
Nguyễn Sư làm
phản, thông với bọn tên Kính lập Lê Do lên làm vua, đóng hành-điện ở
Từ-liêm.
Vua lại
phải cho người vào gọi Nguyễn hoằng Dụ lần nữa. Nguyễn hoằng Dụ đem binh
Thanh-hóa ra để cùng với Mạc đăng Dung đi đánh giặc. Nhưng Hoằng Dụ xuất binh
đánh trước, bại trận, phải rút quân về Thanh.
Được ít
lâu Mạc đăng
Dung trừ được
bọn Lê Do,
Trịnh Tuy và Nguyễn Sư, rồi lại hàng được bọn Hoàng duy
Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng đem về làm vây-cánh của mình. Từ đó quyền bính về
cả Đăng Dung.
3. Mạc Đăng Dung Chuyên Quyền. Mạc đăng Dung
bây giờ quyền-thế hống-hách, ra vào cung cấm tiếm dụng nghi-vệ thiên-tử. Các
quan ai có vì nhà vua mà can-gián điều gì, thì Đăng Dung tìm cách giết đi. Các
quan triều-thần có nhiều người thấy quyền lớn về cả họ Mạc, cũng bỏ vua mà theo
phò Mạc đăng Dung.
Vua
Chiêu-tông thấy vậy, mới mưu ngầm với bọn nội thần là Phạm Hiến và Phạm Thứ để
đánh Mạc đăng Dung, lại cho người vào Tây-kinh vời Trịnh Tuy đem binh ra làm
ngoại ứng. Đêm đến canh hai vua chạy lên
Sơn- tây để thu-xếp binh-mã đánh họ Mạc.
Sáng hôm
sau Mạc đăng Dung mới biết vua xuất ngoại, liền sai Hoàng duy Nhạc đem quân
đuổi theo, đến Thạch-thất, Duy Nhạc bị quân sở- tại bắt được giết đi.
Mạc đăng
Dung cùng với các quan ở trong triều lập Hoàng-đệ là Xuân lên làm vua, tức là
Cung-hoàng, đổi niên-hiệu là Thống-nguyên. Nhưng ở kinh-thành sợ vua Chiêu-tông
viện quân về đánh, cho nên Mạc
đăng
Dung rước Hoàng-đệ Xuân về ở đất Gia-phúc, nay là Gia-lộc thuộc tỉnh Hải-dương.
Khi vua
Chiêu-tông chạy lên Sơn-tây, những người hào-kiệt ở các nơi theo về cũng nhiều,
nhưng vì vua nghe lời những kẻ hoạn-quan là bọn Phạm Điền, không theo lời bàn
của các tướng, cho nên lòng người ly-tán, mọi việc hỏng cả. Vua cho người vào Thanh-hóa vời Trịnh Tuy ba
bốn lần, Trịnh Tuy do-dự mãi không ra.
Sau Trịnh Tuy cùng với Trịnh duy Tuấn đem hơn một vạn quân ra giúp, thì
vua lại nghe lời bọn Phạm Điền bắt Nguyễn bá Kỷ là thuộc tướng của Trịnh Tuy
đem giết đi. Trịnh Tuy tức giận đem
quân bắt vua Chiêu-tông về Thanh-hóa.
Năm
giáp-thân (1524) Mạc đăng Dung đem quân vào đánh Thanh- hóa, Trịnh Tuy thua
trận rồi chết, vua Chiêu-tông bị bắt đem về để ở Đông- hà (thuộc huyện
Thọ-xương), rồi cho người đến giết đi.
Vua
Chiêu-tông làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.
Cách hai
năm sau là năm đinh-hợi (1527), Mạc đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo bài
chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc.
Cung-hoàng
và bà Hoàng-thái-hậu đều bị giết cả. Bấy
giờ triều-thần có Vũ Duệ, Ngô Hoán, quan Đô-ngự-sử là Nguyễn văn Vận, quan
Hàn-lâm hiệu-lý là Nguyễn thái Bạt, quan Lễ-bộ thượng-thư là Lê tuấn Mậu, quan
Lại- bộ thượng-thư là Đàm thận Huy, quan Tham-chính-sứ là Nguyễn duy Tường,
quan Quan-sát-sứ là Nguyễn tự Cường, tước Bình-hồ-bá là Nghiêm bá Ký, quan
Đô-ngự-sử là Lại kim Bảng, quan Hộ-bộ thượng-thư là Nguyễn thiệu Tri, quan Phó
Đô-ngự-sử là Nguyễn hữu Nghiêm, quan Lễ-bộ tả Thị-Lang là Lê vô Cương đều là
người khoa-giáp cả, người thì nhổ vào mặt Mạc đăng Dung hay là lấy nghiên mực
đập vào mặt, hay chửi mắng, bị Đăng Dung giết đi. Có người thì theo vua không kịp, nhảy xuống
sông mà chết, người thì quay đầu về Lam-sơn lạy rồi tự-tử. Những người ấy đều
là người có nghĩa- khí để tiếng thơm về sau.
Nhà Lê,
kể từ vua Thái-tổ cho đến vua Cung-hoàng vừa một trăm năm (1428-1527), được 10
ông vua. Nhưng trong bấy nhiêu ông, trừ vua Thái-tổ ra, thì chỉ có vua
Thánh-tông và vua Hiến-tông là đã lớn tuổi mới lên ngôi, còn thì ông nào lên
làm vua cũng còn trẻ tuổi cả. Vì thế cho nên việc triều-chính mỗi ngày một
suy-kém, lại có những ông vua hoang-dâm, làm lắm điều tàn-bạo để đến nổi trong
nước xảy ra nhiều sự biến loạn.
Vậy vận
nhà Lê phải lúc trung-suy, nhưng công-đức vua Thái-tổ và vua Thánh-tông làm cho
lòng người không quên nhà Lê, cho nên dầu nhà Mạc có
cướp ngôi cũng
không được lâu
bền, và về
sau họ Trịnh
tuy có chuyên-quyền nhưng cũng
chỉ giữ ngôi chúa, chứ không dám cướp ngôi vua.
PHẦN IV
Tự Chủ
Thời-Đại
Thời Kỳ
Nam Bắc Phân Tranh ( 1528 - 1802 )
NHÀ HẬU
LÊ
Thời-kỳ
phân tranh (1533-1788)
CHƯƠNG I
Lịch
Triều Lược Kỷ
1. Nam-triều Bắc triều
2. Trịnh Nguyễn phân tranh
Nước Nam
ta từ khi Ngô Vương Quyền đánh đuổi được quân Nam- Hán, vua Đinh Tiên-hoàng dẹp
yên được loạn Thập-nhị Sứ-quân lập thành một nước tự-chủ, đời nọ qua đời kia kế
truyền được non 600 năm. Đến đầu thập-lục thế-kỷ, bởi vì vua nhà Lê hoang dâm
vô độ, bỏ việc chính-trị đổ-nát, cho nên trong nước loạn-lạc, nhà Mạc nhân dịp
mà làm sự thoán-đoạt. Nhà Lê tuy đã mất
ngôi, nhưng lòng người còn tưởng nhớ đến công-đức của vua Thái-tổ và vua
Thánh-tông, cho nên lại theo phò con cháu nhà Lê trung- hưng lên ở phía nam,
lập ra một Triều-đình riêng ở vùng Thanh-hóa, nghệ- an để chống nhau với nhà
Mạc. Ấy là thành ra Nam-triều và Bắc-triều; hai bên đánh nhau trong năm sáu
mươi năm trời.
Đến khi
nhà Lê nhờ có họ Trịnh giúp rập, dứt được nhà Mạc, tưởng là giang-sơn lại
thống-nhất như cũ, ai ngờ họ Trịnh và họ Nguyễn lại sinh ra lòng ghen-ghét, gây
nên mối thù-oán, rồi mỗi họ hùng-cứ một phương, chia nước ra làm hai mảnh: họ
Nguyễn giữ xứ Nam, họ Trịnh giữ xứ Bắc, mỗi họ chiếm-giữ một Xứ để làm
cơ-nghiệp riêng của mình. Từ đó giang-sơn chia rẽ, Nam Bắc phân tranh, ấy là
một thời-đại riêng trong lịch-sử nước ta vậy.
Nhà
Hậu-Lê từ khi trung-hưng lên, con-cháu vẫn giữ ngôi làm vua, nhưng quyền
chính-trị ở cả họ Trịnh. Còn ở phía nam
thì từ sông Linh-giang trở vào là cơ-nghiệp của họ Nguyễn. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không
xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn-phù nhà Lê. Sau này ta hãy chép tóm cả các đời
vua và các đời chúa để cho rõ sự kế truyền. Còn những công-việc về thời bấy giờ
thì ta sẽ bàn riêng rẽ từng mục cho rõ-ràng.
I. NAM TRIỀU BẮC TRIỀU
NAM
TRIỀU BẮC TRIỀU
Thái Tổ Mạc Đăng Dung
(1527-1529)
Niên hiệu: Minh-Đức
Thái
Tông Mạc Đăng Doanh
(1530-1540)
Lê Trang
Tông Niên hiệu: Đại-chính
(1533-1548)
Niên
hiệu: Nguyên-hòa Nhà Lê trung-hưng lên ở
Thanh-hóa.
Trang-tông
húy là Duy-Ninh,
con rốt vua Chiêu-tông. Ông
Nguyễn
Kim lập ngài lên làm Hiến Tông Mạc Phúc
Hải
vua ở
đất Cầm-chân (Lào), sau (1541-1546)
đưa ngài
về Thanh-Hóa, lập Niên hiệu: Quãng-hòa
hành-điện
ở Vạn-lại.
Trang-tông
làm vua được 16
năm, thọ
31 tuổi.
Lê Trung
Tông
(1548-1556)
Niên
hiệu: Thuận-bình
Trung-tông
húy là Duy Huyên,
con vua
Trang-tông. Ngài làm
vua được
8 năm, thọ 28 tuổi.
II. TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH
Lê
Kính-tông (1600-1619)
Niên
hiệu: Thận-đức (1600) - Hoằng-định (1601-1619)
Kính-tông
húy là duy-tân, con vua Thế-tông. Ngài làm vua đến năm kỷ-mùi (1619) bị Trịnh
Tùng bắt phải thắt cổ mà tự tận. Trị-vì
được 20 năm, thọ 32 tuổi.
TRỊNH NGUYỄN
Bình An
Vương Trịnh Tùng (1570 - 1620)
Miếu
hiệu: Thành tổ Triết Vương
Đoan
Quận Công Nguyễn Hoàng (1600 - 1613)
Trịnh Tùng
tranh quyền của anh,
nối nghiệp Trịnh
Kiểm đánh phá nhà Mạc, lấy lại đất Đông-đô. Lập ra nghiệp chúa Trịnh,
nhưng vẫn tôn vua Lê. Truy tôn là
Thái-tổ Gia-dụ Hoàng-đế, đương thời gọi là chúa Tiên.
Ông
Nguyễn Hoàng là con thứ hai ông Nguyễn Kim, vào trấn đất Thuận-hóa và Quảng-
nam lập ra nghiệp chúa Nguyễn.
Lấy đất của Chiêm-thành lập ra phủ Phú-yên.
Mất năm quí- sửu (1613), thọ 89 tuổi.
Thụy Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên
(1613 - 1635)
Truy tôn là Hi-tông Hiến văn Hoàng-đế,
đương thời gọi là chúa Sãi. Ngài là con thứ 6 ông Nguyễn Hoàng, cải họ là
Nguyễn-phúc.
CHƯƠNG
II
NAM-TRIỀU
BẮC-TRIỀU
(1527-1592)
1. Chính-trị nhà Mạc
2. Việc nhà Mạc giao-thiệp với nhà Minh
3. Họ Nguyễn khởi nghĩa giúp nhà Lê
4. Quyền về họ Trịnh
5. Trịnh Tùng thống-lĩnh binh-quyền
6. Khôi-phục thành Thăng-long
7. Nhà Mạc mất ngôi
8. Việc nhà Hậu-Lê giao-thiệp với nhà Minh
9. Con-cháu nhà Mạc ở Cao-bằng
1. Chính-Trị Nhà Mạc. Năm đinh-hợi (1527) Mạc đăng Dung cướp ngôi
nhà Lê lên làm vua, đặt niên-hiệu là Minh-đức.
Nhà Mạc
tuy đã làm vua, nhưng còn sợ lòng người nhớ nhà Lê, cho nên công-việc gì cũng
theo phép nhà Lê cả, rồi lại tặng phong cho những người vì nhà Lê mà tuẩn-tiết,
và lục dụng những con-cháu các quan cựu thần, phong cho quan-tước để dụ về với
mình. Nhưng mà kẻ thì trốn-tránh vào ở chỗ sơn-lâm, kẻ thì đi ra ngoại-quốc, kẻ
thì đổi họ tên, không mấy người
chịu phục. Lại
có kẻ tức-giận
vì họ Mạc
làm điều gian-ác,
tụ họp những người nghĩa-khí nổi
lên đánh phá, như Lê công Uyên, Nguyễn Ngã, Nguyễn thọ Trường, khởi-nghĩa ở đất
Thanh-hóa, nhưng vì thế-lực không đủ, cho nên phải thua. Sau lại có Lê Ý nổi
lên đánh họ Mạc ở đất Mã-giang, mấy phen đã được thắng trận, nhưng cũng vì
khinh địch cho nên đến nỗi phải bị bắt.
Mạc đăng
Dung bắt chước lối nhà Trần, làm vua được ba năm thì nhường ngôi cho con là Mạc
đăng Doanh rồi về ở Cổ-trai, làm Thái-thượng- hoàng.
Năm
canh-dần (1530) Mạc đăng Doanh lên làm vua, đặt niên-hiệu là Đại-chính. Đăng
Doanh tuy làm vua nhưng công việc trong nước thường do Đăng Dung quyết đoán cả.
Mạc đăng
Doanh làm vua được 10 năm, đến năm canh-tí (1540) thì mất, truyền ngôi lại cho
con là Mạc phúc Hải.
Mạc phúc
Hải lên nối ngôi, đổi niên-hiệu là Quảng-hòa.
2. Việc Nhà Mạc Giao-Thiệp Với Nhà Minh. Từ
khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê rồi, quan nhà Lê đã có người sang kêu cầu bên Tàu
để xin viện binh. Vua nhà Minh đã sai quan đi đến Vân-nam cùng với quan Tuần-
phủ sở-tại tra-xét bên An-nam thực hư thế nào.
Quan nhà
Lê sang Vân-nam kể rỏ việc họ Mạc làm điều thí nghịch.
Quan nhà
Minh tâu với vua xin cử binh-mã sang đánh.
Việc
định sang đánh họ Mạc không phải là vua nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng
qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như
khi trước sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ
giao-thiệp với nước kia thì thường là người ta mượn tiếng "vị nghĩa"
mà làm những việc "vị lợi" mà thôi.
Năm
đinh-dậu (1537) vua nhà Minh bèn sai Cừu Loan làm Đô-đốc, Mao bá Ôn làn
Tán-lý-quân-vụ, đem quân sang đóng gần cửa Nam-quan rồi truyền hịch đi mọi nơi,
hễ ai bắt được cha con Mạc đăng Dung thì thưởng cho quan-tước và hai vạn bạc.
Lại sai người đưa thư sang cho Mạc đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng-đất nhân-dân
sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết.
Mạc đăng
Dung sai bọn Nguyễn văn Thái sang sứ nhà Minh để xin
hàng.
Đến tháng
11 năm canh-tí (1540), Mạc đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa-soạn sang đánh,
sợ-hãi quá chừng, bèn để Mạc phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ như
Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam-quan,
lạy phục xuống đất để nộp sổ điền-thổ và sổ dân-đinh, lại xin dâng đất 5 động:
là động Tê-phu, động Kim-lạc, động Cổ-xung, động Liễu-cát, động La-phù, và đất
Khâm-châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.
Quan nhà
Minh tuy làm bộ hống-hách nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ phải cái vạ như
mấy năm bình-định ngày trước, và lại được tiền bạc của Đăng Dung rồi, cái lòng
nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi, cho
nên mới
tâu với vua nhà Minh xin phong cho Mạc đăng Dung làm chức Đô- thống-sứ hàm quan
nhị-phẩm nhà Minh.
Mạc đăng
Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch
thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ-cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho
người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh-giá
cho trọn-vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước
cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú-quí cho một thân mình và
một nhà mình, ấy là một người không biết liêm-sỉ.
Đối với
vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài
người, là không có nhân-phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có
lấy được giang-sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh-vực mặc lòng, một
cái cơ-nghiệp dựng lên bởi sự gian-ác hèn-hạ như thế, thì không bao giờ bền-chặt
được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung-hưng lên được.
3. Họ Nguyễn Khởi-Nghĩa Giúp Nhà Lê. Khi Mạc
đăng Dung làm sự thoán-đoạt thì các quan cựu thần trốn-tránh đi cũng nhiều.
Thủa ấy có người con ông Nguyễn hoằng Dụ, tên là Nguyễn Kim (hay là Nguyễn
hoằng Kim)97 làm quan Hữu-vệ Điện-tiền Tướng-quân An-thanh-hầu, trốn sang
Ai-lao. Vua nước ấy là Xạ-đẩu cho đến xứ Sầm-châu (thuộc Trấn-man phủ, đất
Thanh-hóa). Ông Nguyễn Kim đến ở Sầm-châu rồi cho người đi tìm con-cháu nhà Lê
để đồ sự khôi-phục. Đến năm quí-tị
(1532) tìm được một người con rốt vua Chiêu-tông tên là Duy-Ninh lập lên làm
vua, tức là Trang- tông.
Khi ấy
lại có một người tướng giỏi tên là Trịnh Kiểm, ở làng Sóc-sơn, huyện Vĩnh-lộc,
phủ Quảng-hóa. Ông Nguyễn Kim thấy người có tài, gả con gái là Ngọc Bảo cho, để
cùng ra sức giúp nhà Lê, dứt nhà Mạc.
Vua tôi
nhà Lê nương-náu ở Sầm-châu để chiêu-tập quân-sĩ, mãi đến năm canh-tí (1540),
ông Nguyễn Kim mới đem quân về đánh Nghệ-an. Năm nhâm-dần (1542) Trang-tông mới
cất quân về đánh Thanh-hóa và Nghệ-an, qua năm sau (1543) thì thu phục được đất
Tây-đô, quan Tổng-trấn nhà Mạc là Dương chấp Nhất ra hàng.
4. Quyền Về Họ Trịnh. Năm
ất-tị (1545) ông
Nguyễn Kim đem quân tiến đánh Sơn-nam, đi đến huyện
Yên-mô, bị Dương chấp Nhất là hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết. Những
binh-quyền giao cả lại cho con rể là Trịnh Kiểm.
Trịnh Kiểm
rút quân về
Thanh-hóa, lập hành-điện
ở đồn Vạn-lại (thuộc huyện Thụy-nguyên, Thanh-hóa)
để cho vua ở, rồi chiêu-mộ những kẻ hào-kiệt, luyện-tập quân-sĩ, tích trữ
lương-thảo để lo việc đánh họ Mạc.
Bấy giờ
có những người danh-sĩ như là các ông Phùng khắc Khoan (tức là trạng Bùng), ông
Lương hữu Khánh đều vào giúp nhà Lê. Giang-sơn bấy giờ chia làm hai: từ
Thanh-hóa trở vào thuộc nhà Lê, làm Nam-Triều; từ Sơn-nam trở ra thuộc về họ
Mạc, làm Bắc-Triều.
Năm
bính-ngọ (1546) Mạc phúc Hải mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc phúc Nguyên,
niên-hiệu Vĩnh-định.
Năm
mậu-thân (1548) vua Trang-tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái-tử tên là Duy Huyên lên
làm vua, được 8 năm thì mất, tức là Trung-tông.
Vua
Trung-tông mất không có con, mà bấy giờ dòng-dõi họ Lê cũng không có ai, việc
binh-quyền thì ở trong tay Trịnh Kiểm cả.
Tục truyền
rằng Trịnh Kiểm
đã lưỡng-lự muốn
tự xưng làm
vua, nhưng còn chưa dám định hẳn bề nào, các quan cũng không ai biết làm
thế nào cho phải. Sau Trịnh Kiểm cho
người lẻn ra Hải-dương hỏi ông Nguyễn bỉnh Khiêm98, tức là Trạng Trình, xem nên
làm thế nào.
Ông
Nguyễn bỉnh Khiêm không nói gì cả, chỉ ngảnh lại bảo đầy-tớ rằng: "Năm nay
mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ". Nói
rồi lại sai đầy-tớ ra bảo tiểu quét-dọn chùa và đốt hương, để ông ra chơi chùa,
rồi bảo tiểu rằng: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản".
Sứ-giả
về kể chuyện lại cho Trịnh Kiểm nghe.
Trịnh Kiểm hiểu ý, mới cho người đi tìm con cháu họ Lê. Sau tìm được
người cháu huyền-tôn ông Lê Trừ, là anh vua Thái-tổ, tên là Duy Bang, ở làng
Bố-vệ, huyện Đông- sơn, rước về lập lên làm vua.
97 Xem
sách Việt Nam Khai Quốc Chí truyện, thì ông Nguyễn Kim tức là ông Nguyễn Hoằng
Kim, là con ông Nguyễn Hoằng Dụ, cháu ông Nguyễn Văn Lang, đều làm quan nhà Lê
cả.
98 Ông
Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan nhà Mạc, được phong là Trình Quốc Công cho nên mới
gọi là Trạng Trình, sau về trí sĩ ở làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải
Dương.
Bấy giờ
nhà Lê thì lo đánh họ Mạc để khôi phục lại đất Đông-đô, nhà Mạc thì muốn trừ họ
Lê để nhất-thống thiên-hạ. Nhưng từ khi ông Nguyễn Kim mất rồi, và trong mấy
năm về đời vua Trung-tông, Trịnh Kiểm cứ giữ thế thủ ở đất Thanh-hóa, để
sửa-sang việc binh-lương, đợi ngày ra đánh họ Mạc.
Nhà Mạc
sai Mạc kính Điển, là chú Mạc phúc Nguyên cầm quân đi đánh họ Lê.
Mạc kính
Điển đem binh vào đánh Thanh-hóa cả thảy kể hơn mười phen, phen nào cũng phải
thua trở về, Trịnh Kiểm cũng ra đánh Sơn-nam kể vừa 6 lần, nhưng không có lần
nào được toàn thắng. Chỉ có năm kỷ-mùi
(1559) Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh mặt Bắc, đã lấy được những tỉnh
Sơn-tây, Hưng-hóa, Thái-nguyên, Kinh-bắc, Lạng-sơn, và các huyện ở mặt
Hải-dương, tưởng đã sắp thành-công, nhưng lại bị Mạc kính Điển đem một đạo quân đi đường bộ vào
đánh Thanh-hóa nguy-cấp lắm, Trịnh Kiểm lại phải bỏ miền Bắc về giữ đất
Tây-đô. Thành ra hai bên cứ giữ nhau mãi: nhà Lê tuy đã trung-hưng, nhưng
giang-sơn vẫn chưa thu được lại như cũ, mà nhà Mạc có làm vua, thì cũng chỉ làm
vua ở miền Bắc mà thôi.
Năm
tân-dậu (1561) vua nhà Mạc là Phúc Nguyên mất, con là Mạc mậu Hợp lên nối ngôi
làm vua.
Việc
tranh chiến vẫn cứ như trước: khi thì Trịnh Kiểm ra đánh Sơn- nam, khi thì Mạc
kính Điển vào đánh Thanh-hóa, hai bên không bên nào được hẳn.
5. Trịnh
Tùng Thống-Lĩnh Binh-Quyền.
Năm canh-ngọ (1570) Trịnh Kiểm
mất, trao quyền lại cho con trưởng là Trịnh Cối để lo việc đánh dẹp. Nhưng Trịnh Cối hay say đắm tửu sắc, tướng-sĩ
không mấy người phục; lại có em là Trịnh Tùng ý muốn cướp quyền của anh, bèn
cùng với bọn Lê cập Đệ, Trịnh Bách rước vua về đồn Vạn-lại, rồi chia quân ra
chống với Trịnh Cối.
Đương khi
hai anh em
họ Trịnh đánh
nhau, thì Mạc
kính Điển lại đem hơn 10 vạn quân vào đánh Thanh-hóa,
Trịnh Cối liệu thế địch không nổi, bèn đem quân về hàng họ Mạc, được giữ
quan-tước như cũ. Quân nhà Mạc thừa thế tiến lên đến sông Mã-giang, tràn sang
đóng ở đất Hà-trung, rồi đến vây đánh An-trường (thuộc huyện Thụy-nguyên) là
chỗ vua nhà Lê đóng.
Bấy giờ
vua Anh-tông về ở Đông-sơn, phong cho Trịnh Tùng làm tả- thừa-tướng, tiết chế
chư quân, để chống giữ với quân nhà Mạc.
Trịnh Tùng sai các tướng giữ mọi nơi rất là chắc-chắn. Mạc kính Điển
đánh mãi không được, lâu ngày hết lương phải rút quân về Bắc.
Quân nhà
Mạc rút về
rồi, vua phong
cho Trịnh Tùng
làm Thái-úy Trưởng-quốc-công, và
thăng thưởng cho các tướng-sĩ. Lại sai ông Phùng khắc Khoan đi chiêu-tập những
hoang dân ở Thanh-hóa về yên-nghiệp làm ăn, và chỉnh-đốn việc chính-trị lại.
Bấy giờ
việc gì cũng do Trịnh Tùng quyết-đoán cả, uy-quyền hống- hách, vua cũng lấy làm
lo. Lê cập Đệ thấy vậy, mưu với vua để
trừ họ Trịnh, nhưng Trịnh Tùng biết ý dùng mưu giết Cập Đệ, vua Anh-tông biết
sự không thành, lo sợ lắm, bèn cùng với bốn hoàng-tử chạy vào Nghệ-an.
Trịnh
Tùng thấy vua xuất ngoại rồi, bèn cho người đi rước hoàng-tử thứ năm là Duy
Đàm, ở làng Quảng-thi, huyện thụy-nguyên về làm vua, rồi sai Nguyễn hữu Liêu
đem binh đi đuổi theo vua Anh-tông.
Anh-tông
vào đến đất Nghệ-an, thấy quân đuổi đến, vội-vàng ẩn vào trong vườn mía, nhưng
bị Hữu Liêu tìm thấy đưa về, đến huyện Lôi-dương thì Trịnh Tùng sai người đến
giết đi, rồi nói rằng vua thắt cổ chết.
Trịnh Tùng
giết vua Anh-tông
rồi, thăng thưởng
cho những người đồng đảng với
mình, và chia quân ra phòng giữ các nơi để chống với quân nhà Mạc.
Từ năm
quí-dậu (1573) cho đến năm quí-mùi (1583) vừa 10 năm, Trịnh Tùng cứ giữ vững
đất Thanh-hóa, Nghệ-an, để cho quân nhà Mạc vào đánh phải hao binh tổn tướng.
Trong bấy nhiêu năm, tướng nhà Mạc là Mạc kính Điển, Nguyễn Quyện, và Mạc ngọc
Liễn, khi thì vào đánh Thanh-hóa, khi thì vào đánh cả mặt Thanh và mặt Nghệ,
nhưng mà không bao giờ thành công, phen nào cũng được một vài trận rồi lại
thua, phải rút quân về.
Từ năm
ất-mão (1579) trở đi, Mạc kính Điển mất rồi, Mạc đôn Nhượng đem binh vào đánh
họ Lê, nhưng cũng không được trận nào.
6. Khôi-Phục Thành Thăng-Long. Đến năm quí
mùi (1583) Trịnh Tùng xem thế mình đã mạnh, mới cử binh mã ra đánh Sơn-nam lấy
được thóc gạo đem về. Từ đó về sau năm nào cũng ra đánh, bắt quân nhà Mạc phải
đổi thế công ra thủ. Và nhà Mạc thấy thế nhà Lê một ngày một
mạnh,
bèn bắt quân-dân đắp ba từng lũy, đào ba lần hào ở ngoài thành Đại- la để làm
kế thủ-bị.
Quân nhà
Lê ra đánh trận nào được trận ấy, Trịnh Tùng bèn quyết ý cử đại binh ra đánh
Thăng-long.
Năm
tân-mão ( 1591 ) Trịnh Tùng sai Diễn-quận-công Trịnh văn Hải, Thái-quận-công
Nguyễn thất Lý đem binh trấn-thủ các cửa bể và các nơi hiểm-yếu. Sau
Thọ-quận-công Lê Hòa ở lại giữ ngự-dinh và cả địa hạt Thanh-hóa. Phòng bị đâu đó rồi, bèn đem hơn 5 vạn quân
chia ra làm 5 đội, sai quan Thái-phó Nguyễn hữu Liêu, quan Thái-úy Hoàng đình
Ái, Lân-quận- công Hà thế Lộc, Thế-quận-công Ngô cảnh Hữu, mỗi người lĩnh một
đội, còn Trịnh Tùng tự lĩnh 2 vạn quân ra cửa Thiên-quan (Ninh-Bình) qua núi
Yên mã (ở huyện An-sơn ) đất Tân-phong (tức là Tiên-phong ) rồi kéo về đóng ở
Tốt-lâm ( ? ) .
Vua nhà
Mạc là Mạc mậu Hợp cũng điều-động tất cả quân bốn vệ và quân năm phủ được hơn
10 vạn, sai Mạc ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo tả hữu, Mậu Hợp tự dẫn
trung-quân đến đóng đối trận với quân Trịnh Tùng.
Trịnh Tùng
thấy quân Mạc
đã đến, bèn
tự mình dốc
tướng-sĩ thề đánh cho được để báo
thù. Quân họ Trịnh đánh rất hăng, quân
nhà Mạc đánh không nổi, thua to, chết đến hàng vạn người. Mạc mậu Hợp bỏ chạy.
Quân họ Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng-long. Nhưng vừa đến tết Nguyên-đán, cho nên Trịnh Tùng đình-chiến lại cho quân-sĩ nghỉ-
ngơi ăn tết. Qua sang tháng giêng năm
nhâm-thìn ( 1592 ) Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất và các vua nhà Lê rồi đặt ba
điều ước để cấm quân-sĩ.
1. Không được vào nhà dân mà lấy đồ ăn và
củi-đuốc.
2. Không được cướp lấy của-cải và chặt lấy
cây-cối.
3. Không được dâm hiếp đàn-bà con-gái, và
không được vì tư thù mà giết người.
Ai phạm
ba điều ấy thì cứ theo quân-pháp mà trị.
Đoạn rồi, tiến quân lên đánh Thăng-long thành.
Mạc mậu
Hợp thấy quân nhà Lê lại tiến lên, bèn sai Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê, Nguyễn
Quyện và Trần bách Niên ở lại giữ thành Thăng-long, rồi đem quân sang sông
Nhị-hà về đóng ở làng Thổ Khối.
Trịnh
Tùng sai tướng chia quân vây đánh các cửa thành. Quân nhà Mạc giữ không nổi, ba tầng lũy đều
phải phá cả bọn Mạc ngọc Liễn, Bùi văn Khuê phải bỏ thành mà chạy, Nguyễn Quyện
thì bị bắt.
Trịnh
Tùng lấy được thành Thăng-long rồi bắt quân phá những hào lũy đi, sau phẳng ra
làm bình địa, rồi về Thanh-hóa đem tin thắng trận cho vua biết.
Sử không
nói rõ tại làm sao Trịnh Tùng đã lấy được Thăng-long mà không đánh rấn đi, lại
bỏ về Thanh-hóa. Có lẽ là tại quân họ
Trịnh tuy thắng trận, nhưng tướng sĩ đều mỏi-mệt cả, vả lại thế họ Mạc hãy còn
mạnh, ở lại giữ không nổi, cho nên phải bỏ mà về.
Trịnh
Tùng đã bỏ Thăng-long về Thanh-hóa, nhưng Mậu Hợp không biết nhân lấy dịp ấy mà
sửa sang việc võ-bị, chỉnh-đốn việc chính-trị, lại cứ say đắm tửu sắc, bạc đãi
các tướng-sĩ, đến nỗi công-việc hỏng nát, thân mình bị hại.
Bấy giờ
Bùi văn Khuê có người vợ tên là Nguyễn-thị nhan sắc hơn người, Mạc mậu Hợp muốn
giết Văn Khuê đi để lấy Nguyễn-thị làm vợ.
Văn Khuê
biết ý đem vợ vào ở huyện Gia-viễn ( thuộc Ninh-bình ) Mậu Hợp cho quân vào
bắt. Văn Khuê phải xin về hàng với Trịnh
Tùng.
7. Nhà Mạc Mất Ngôi. Trịnh Tùng được Văn Khuê về hàng, mừng lắm,
liền sai Hoàng đình Ái ra đón Văn Khuê rồi đem đi làm tiền đội, tự mình lại đem
đại binh trở ra Tràng-an, gặp quân nhà Mạc ở sông Thiên-phái ( ở về cuối huyện
Ý-yên và huyện Phong-doanh, tỉnh Nam-định ), đánh nhau một trận, lấy được 70
chiếc thuyền, tướng nhà Mạc là Trần bách Niên về hàng.
Quân
Trịnh Tùng kéo ra Bình-lục, sang Thanh-oai đóng ở bãi Tinh- thần ( bây giờ là
xã Thanh-thần ở huyện Thanh-oai ) rồi tiến lên đến sông Hát-giang, cửa sông Đáy
ra sông Hồng-hà, gặp tướng nhà Mạc là Mạc ngọc Liễn, đánh đuổi một trận lấy
được chiến thuyền kể hằng nghìn chiếc.
Mạc mậu
Hợp được tin quân mình thua to, bỏ thành Thăng-long chạy sang Hải-dương về đóng
ở kim-thành thuộc Hải-dương.
Trịnh
Tùng ra đến Thăng-long, rồi sai Nguyễn thất Lý, Bùi văn Khuê và Trần bách Niên
sang đánh Mậu Hợp ở Kim-thành, lấy được vàng bạc của cải nhiều lắm, và bắt được
mẹ Mậu Hợp đem về.
Mạc mậu
Hợp thấy quân mình thua luôn, bèn giao quyền chính-trị cho con là Mạc Toàn rồi
tự mình làm tướng đem quân đi đánh.
Bấy giờ
quan nhà Mạc là bọn Đỗ Uông, Ngô Tạo, cả thảy 17 người về hàng nhà Lê.
Trịnh
Tùng sang đóng quân ở huyện Vĩnh-lại, rồi sai Phạm văn Khoái đem quân đi đuổi
đánh Mậu Hợp ở huyện Yên-dũng và huyện Vũ-ninh ( nay là Vũ-giang ). Mạc mậu Hợp
phải bỏ thuyền chạy lên bộ, vào ẩn trong cái chùa ở huyện Phượng-nhỡn. Văn Khoái đuổi đến đấy, có người chỉ dẫn bắt
được đem về Thăng-long, làm tội sống ba ngày, rồi chém đầu vào bêu ở trong
Thanh-hóa.
Bấy giờ
có con Mạc kính Điển là Mạc kính Chỉ ở đất Đông-triều biết tin Mạc mậu Hợp đã
bị bắt, bèn tự lập làm vua, đóng ở huyện Thanh-lâm. Con cháu họ Mạc hơn 100
người và các quan văn võ đều về đấy cả, rồi treo bảng chiêu mộ quân-sĩ, chẳng
bao lâu được sáu bảy vạn người. Mạc Toàn là con Mạc mậu Hợp cũng theo về với
Mạc kính Chỉ.
Trịnh
Tùng thấy Kính Chỉ lại nổi lên, thanh thế to lắm, quan quân đánh mãi không được, bèn đem quân
sang đánh ở huyện Cẩm-giang và Thanh-lâm, bắt được Kính Chỉ và con cháu họ Mạc cùng các quan cả
thảy hơn 60 người.
Trịnh
Tùng đánh được trận ấy, rồi về Thăng-long, sai quan vào rước vua Thế-Tông ra
Đông-đô, mở triều và thăng thưởng cho các tướng-sĩ.
Năm sau,
tướng nhà Mạc là Mạc ngọc Liễn tìm được một người con Mạc kính Điển là Mạc kính
Cung lập lên làm vua, chiếm giữ châu Yên-bác ở đất Lạng-sơn để làm căn-bản.
Nhưng chẳng bao lâu quan Thái-úy là Hoàng đình Ái đem binh lên đánh. Mạc kính
Cung và Mạc ngọc Liễn phải chạy sang Long-châu. Ít lâu Ngọc Liễn chết có để thư
lại dặn Kính Cung rằng : "Nay họ Lê lại dấy lên được, ấy là số trời đã
định; còn dân ta thì có tội gì, mà ta nỡ để khổ sở mãi về việc chiến-tranh ? Vậy
ta nên đành phận lánh mình ở nước ngoài, chứ đừng có đem lòng cạnh-tranh mà lại
mời người Tàu sang làm hại dân nước mình. "
Trung-hậu
thay, mấy lời dạy lại của Mạc ngọc Liễn! Chỉ tiếc vì họ Mạc không ai chịu theo!
Từ đó
nhà Mạc mất ngôi làm vua, ngày sau tuy Mạc kính Cung nhờ có nhà Minh bênh-vực
được về ở đất Cao-bằng, nhưng cũng là ở một chỗ nhỏ-mọn gần chỗ biên-thùy mà
thôi.
Nhà Mạc
làm vua từ Mạc đăng Dung cho đến Mạc mậu Hợp là từ năm đinh-hợi ( 1527 ) đến
năm nhâm-thìn ( 1592 ) kể vừa được 65 năm.
Trịnh
Tùng tuy đã lập được công to dứt được nhà Mạc, lấy lại được đất Đông-đô, nhưng
nhà Minh vẫn có ý bênh nhà Mạc không chịu nhận nhà Lê. Và con cháu nhà Mạc hãy
còn nhiều; nay xưng vương chỗ này, mai khởi loạn chỗ khác, cho nên Trịnh Tùng
phải một mặt dùng trí mà giữ cho nhà Minh khỏi quấy nhiễu, và một mặt dùng lực
mà đánh dẹp dư-đảng họ Mạc.
8. Việc Nhà Hậu-Lê Giao-Thiệp Với Nhà
Minh. Khi Trịnh Tùng đã thu-phục được
thành Thăng-long rồi, người nhà Mạc sang kêu với vua nhà Minh rằng họ Trịnh nổi
lên tranh ngôi, chứ không phải con-cháu nhà Lê.
Vua nhà
Minh sai quan đến Nam-quan khám-xét việc ấy.
Tháng 3
năm bính-thân ( 1596 ) vua Thế-tông sai quan Hộ-bộ Thượng-thư là Đỗ Uông và
quan Đô-ngự-sử là Nguyễn văn Giai lên Nam- quan tiếp quan Tàu. Sau lại sai hai
ông hoàng-thân là Lê Cánh, Lê Lựu cùng với quan Công-bộ tả-thị-lang là Phùng
khắc Khoan đem 10 người kỳ-mục, 100 cân vàng, 1,000 cân bạc, cái ấn An-nam
Đô-thống-sứ của nhà Mạc và cái ấn An-nam-quốc-vương của vua nhà Lê ngày trước,
sang cho quan nhà Minh khám. Nhưng quan nhà Minh lại bắt vua Thế-tông phải thân
hành sang hội ở cửa Nam-quan.
Trịnh
Tùng sai Hoàng đình Ái, Nguyễn hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá, đưa vua
sang phó hội. Sang đến nơi, quan nhà Minh lại đòi phải nộp người vàng và ấn
vàng như tích cũ, rồi không chịu đến hội.
Vua chờ lâu, không xong việc lại phải trở về.
Đến
tháng tư năm sau, sứ nhà Minh lại sang mời vua Thế-tông lên hội ở Nam-quan.
Triều-đình sai quan Thái-úy Hoàng đình Ái đem 5 vạn quân đi hộ giá sang hội ở
Nam-quan.
Đến khi
xa giá về, Trịnh Tùng đem các quan đi đón mừng rồi sai Công-bộ tả-thị-lang
Phùng khắc Khoan làm chánh-sứ, quan Thái-Thường tự- khanh Nguyễn nhân Thiệm làm
phó sứ, đem đồ lễ sang Yên-kinh cống nhà Minh và xin phong.
Vua nhà
Minh chỉ phong cho vua Thế-tông làm An-nam Đô-thống- Sứ. Ông Phùng khắc Khoan
dâng sớ tâu rằng : "Đô-thống-sứ là chức cũ của họ Mạc, chứ vua nước Nam là
dòng dõi họ Lê, mà phong cho chức ấy thì không xứng-đáng " . Vua nhà Minh
trả lời rằng : vẫn biết họ Lê không ví như họ Mạc, nhưng lúc đầu mới phong hãy
tạm cho chức ấy, rồi về sau sẽ phong vương.
Ông
Phùng khắc Khoan phải chịu mà về. Từ đó
nhà Minh với nhà Lê lại thông sứ như trước.
9. Con cháu nhà Mạc ở Cao-Bằng. Từ khi Mạc
mậu Hợp và Mạc kính Chỉ bị bắt rồi, con cháu họ Mạc ẩn ở các nơi để mong đường
khôi- phục. Bấy giờ có Mạc kính Chương xưng làm Tráng-vương, chiếm-giữ từ huyện
Đông-triều cho đến đất Yên-quảng.
Năm
bính-thân ( 1596 ) Trịnh Tùng sai quan Trấn-thủ Hải-dương là Phan Ngạn đánh bắt
được Kính Chương.
Lại có
người Mạc kính Dụng là con Mạc kính Chi chiếm-giữ đất Yên- bắc ( Lạng-sơn )
xưng làm Uy-vương, nhưng cũng chẳng bao lâu bị quân họ Trịnh bắt được.
Còn Mạc
kính Cung trước đã chạy sang ở Long-châu, sau lại về cùng với đảng mình đánh
phá ở đất Cao-bằng và đất Lạng-sơn.
Trịnh Tùng sai quan lên đuổi đánh, nhưng Mạc kính Cung sang kêu với nhà
Minh, vua nhà Minh cho đưa thư sang bắt nhà Lê phải để đất Cao-bằng cho con
cháu họ Mạc.
Nhà Lê
bất-đắc-dĩ phải để đất Cao-bằng cho họ Mạc ở.
CHƯƠNG
lll
Trịnh-Nguyễn
phân tranh
1. Họ Trịnh xưng chúa miền Bắc
2. Họ Nguyễn xưng chúa miền Nam
1. Họ Trịnh Xưng Chúa Miền Bắc. Từ khi Trịnh Tùng dứt được họ Mạc, thu giang
sơn lại cho nhà Lê rồi, mỗi ngày một kiêu hãnh, chiếm giữ lấy quyền chính trị
và lại hà hiếp nhà vua. Họ Nguyễn ở
trong Thuận-hóa thấy họ Trịnh chuyên quyền, cũng tự xưng độc-lập ở miền Nam,
làm thành ra Nam Bắc đôi nơi và gây nên sự chiến tranh rất là tàn-hại cho nước
nhà.
Năm
kỷ-hợi ( 1599 ) đời vua Thế-tông nhà Lê, Trịnh Tùng thu-xếp xong việc thông sứ
với nhà Minh, và đã chịu nhường đất Cao-bằng cho con- cháu nhà Mạc rồi, trong
nước đã yên dần, bèn tự xưng làm Đô-nguyên-súy Tổng-quốc-chính Thượng-phu
Bình-an-vương rồi định lệ cấp bổng cho vua được thu thuế 1.000 xã, gọi là lộc
thượng-tiến, cấp cho vua 5.000 lính để làm quân túc-vệ. Còn những việc đặt quan, thu thuế, bắt lính,
trị dân, đều thuộc về họ Trịnh cả. Chỉ
có khi nào thiết triều hay là tiếp sứ thì mới cần đến vua mà thôi.
Từ đó về
sau, họ Trịnh cứ thế tập làm vương, tục gọi là chúa Trịnh.
Uy quyền
họ Trịnh bấy giờ hống-hách như thế và các quan lại theo về họ Trịnh cả. Giả-sử Trịnh Tùng có muốn dứt nhà Lê đi mà
làm vua, thì cũng không khó gì. Tuy vậy
mà Trịnh Tùng không dám làm, là tại sao ?
Tại lẽ rằng ở phía Bắc sợ nhà Minh sinh sự lôi thôi, lại có họ Mạc còn
giữ đất Cao-bằng nhỡ có làm điều gì phản-trắc, thì e quân nghịch nổi lên lấy
thù Lê thảo Trịnh làm cớ.
Và chăng
mặt Nam còn có họ Nguyễn, thế-lực cũng chẳng kém-hơn gì, mà lại có ý độc-lập để
tranh quyền với họ Trịnh. Chi bằng
không lấy nước cũng như lấy nước, không làm vua mà lại hơn vua. Vì bao giờ có
phải đi đánh-dẹp nơi nào, vẫn lấy lệnh thiên tử mà sai khiến mọi người, không
ai bắt-bẻ gì được. Bởi thế cho nên họ
Trịnh đành chịu ngôi thứ nhì trong nước mà giữ quyền cả nước.
2. Họ Nguyễn Xưng Chúa Miền Nam. Nguyên khi
xưa ông Nguyễn Kim khởi-nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc đi lấy được đất Thanh-
nghệ rồi , sau đem quân ra đánh Sơn-nam bị hàng tướng nhà Mạc nhà Mạc là Dương
chấp Nhất đánh thuốc độc chết, binh quyền giao cả lại cho rể là Trịnh Kiểm để
đánh giặc.
Ông
Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng cũng làm tướng lập
được nhiều công. Người anh là Nguyễn Uông được phong là Lang-quận-công, người
em là Nguyễn Hoàng được phong là Thái-úy Đoàn-quận-công.
Nhưng vì
Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn tranh mất quyền mình, bèn kiếm chuyện mà giết Nguyễn
Uông đi. Còn Nguyễn Hoàng cũng sợ Trịnh
Kiểm có ý ám hại, chưa biết thế nào mới cho người ra Hải-dương hỏi ông Nguyễn
bỉnh Khiêm. Ông ấy bảo rằng :
"Hoành-sơn nhất đái, vạn đại dung thân " nghĩa là một dãy Hoành-sơn99
kia có thể yên thân được muôn đời.
Nguyễn
Hoàng mới nói với chị là bà Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phía Nam.
Năm
mậu-ngọ ( 1558 ) đời vua An-tông, Trịnh Kiểm mới tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào
trấn đất Thuận-hóa. Bấy giờ những người họ hàng ở huyện Tống-sơn cùng những
quân lính ở đất Thanh-nghệ nhiều người đưa cả vợ con theo đi. Nguyễn Hoàng vào
đóng ở Xã Ái-tử ( sau gọi là kho Cây- khế ), thuộc huyện Đăng-xương, tỉnh
Quảng-trị.
Nguyễn
Hoàng là một người khôn-ngoan mà lại có lòng nhân-đức, thu-dùng hào-kiệt,
yên-ủi nhân-dân, cho nên lòng người ai cũng mến-phục.
Đến năm
kỷ-tỵ ( 1569 ) ông ra chầu vua ở An-tràng.
Qua năm sau Trịnh Kiểm gọi quan tổng-binh ở Quảng-nam là Nguyễn bá Quýnh
về giữ đất Nghệ-an, và lại cho ông vào trấn cả đất Thuận-hóa và đất Quảng-nam.
Lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Năm
nhâm-thân ( 1572 ) nhân lúc Trịnh Kiểm mới mất, con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng
đánh nhau, nhà Mạc đem quân vào đánh
Thanh-hóa và sai tướng là Lập Bạo đem một toán quân đi 60 chiếc thuyền, bởi
đường hải- đạo kéo vào đóng ở làng Hồ-xá và ở làng Lạng-uyển ( thuộc huyện
Minh-linh
) để
đánh Nguyễn Hoàng.
Ông mới
sai một người con gái đẹp là Ngô-thị giả làm cách đưa vàng bạc sang nói với Lập
Bạo xin cầu hòa. Lập Bạo mừng rỡ, không
phòng bị gì cả, bị quân họ Nguyễn đánh lẻn, bắt được giết đi, và đánh tan quân
nhà Mạc.
Năm
quí-tị ( 1593 ) Trịnh Tùng đã lấy được thành Thăng-long, bắt được Mạc mậu Hợp,
nhưng mà đảng nhà Mạc còn nhiều, phải đánh dẹp nhiều nơi, Nguyễn Hoàng đưa
quân-binh và súng-ống ra Đông-đô, ở hằng 8 năm, giúp Trịnh Tùng để đánh họ Mạc,
lập được nhiều công to. Nhưng mà Trịnh
Tùng vẫn có ý ghen ghét không muốn cho ngài về Thuận-hóa, mà ngài cũng không có
dịp gì mà về được.
Năm canh-tý
( 1600 ) nhân vì họ Trịnh kiêu hãnh quá, các quan có nhiều người không phục ;
bọn Phan Ngạn, Ngô đình Hàm, Bùi văn Khuê khởi binh chống lại với họ Trịnh ở
cửa Đại-an ( thuộc Nam-định ), Nguyễn Hoàng mới đem bản bộ tướng-sĩ giả cách
nói đi đánh giặc, rồi theo đường hải-đạo về Thuận-hóa.
Nguyễn Hoàng
về Thuận-hóa rồi,
sợ họ Trịnh
nghi-ngờ, bèn đem người con gái là bà Ngọc Tú gả cho Trịnh
Tráng là con trai Trịnh Tùng. Ngài ở giữ
đất Thuận-hóa, cho người con thứ sáu vào trấn đất Quảng-nam dựng ra kho tàng,
tích-trữ lương thực.
Từ đấy
trở đi, Nam Bắc phân-biệt, bề ngoài thì làm ra bộ hòa-hiếu, nhưng bề trong thì
vẫn lo việc phòng-bị để chống cự với nhau.
99 Núi
Hoành Sơn là núi Đèo Ngang ở tỉnh Quảng Bình
CHƯƠNG
IV
Sự Chiến
Tranh
1. Họ Trịnh đánh họ Mạc ở Cao Bằng.
2. Nhà Thanh dấy nghiệp.
3. Tình thế họ Nguyễn ở miền Nam.
4. Đánh nhau lần thứ nhất.
5. Đánh nhau lần thứ hai.
6. Đánh nhau lần thứ ba.
7. Đánh nhau lần thứ tư.
8. Đánh nhau lần thứ năm.
9. Đánh nhau lần thứ sáu.
10. Đánh nhau lần thứ bảy.
1. Họ Trịnh Đánh Họ Mạc ở Cao Bằng. Năm kỷ hợi (1599), vua Thế Tông mất, Trịnh
Tùng cùng với các quan triều thần lập hoàng tử là Duy Tân lên làm vua, tức là
vua Kính Tông. Qua năm sau (1600) bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm và Bùi Văn Khuê
nổi loạn ở cửa Đại An. Trịnh Tùng ở
Thăng Long sợ bốn mặt thụ địch, bèn rước vua vào Thanh Hóa.
Đảng họ
Mạc thấy thành Thăng Long bỏ không, bèn rước bà thứ mẫu của Mậu Hợp là Bùi Thị
về tôn lên làm quốc mẫu, rồi cho người lên đón Mạc Kính Cung ở đất Cao Bằng.
Phan
Ngạn và Bùi Văn Khuê lại nghi ngờ nhau rồi giết lẫn nhau, còn Ngô Đình Hàm thì
về giúp nhà Mạc.
Trịnh Tùng
đem Kính Tông
vào Thanh Hóa
rồi thu xếp
ra lấy lại Thăng Long, nhưng còn sợ mặt Thuận Hóa có
biến chăng, bèn sai quan vào ủy dụ Nguyễn Hoàng; đoạn rồi đem thủy bộ đại quân
ra Bắc, đánh bắt được Bùi Thị giết đi, còn Mạc Kính Cung bỏ chạy sang Kim Thành
ở Hải Dương, sau thấy đảng của mình thua cả, lại bỏ Kim Thành chạy lên Cao
Bằng.
Trịnh
Tùng lấy lại Thăng Long rồi sai quan vào rước vua ra, và sai các tướng đi tiễu
trừ đảng họ Mạc ở mặt Thái Nguyên, Lạng Sơn và Yên Quang.
Trịnh Tùng
càng ngày càng
kiêu hãnh quá,
vua cũng không
chịu được, lại nhân họ Trịnh có con là Trịnh Xuân muốn ganh quyền với
người con trưởng là Trịnh Tráng, vua Kính Tông mới mưu với Trịnh Xuân để giết
Trịnh Tùng, nhưng chẳng may sự không thành.
Trịnh Tùng bức vua phải thắt cổ chết, và bắt Trịnh Xuân giam mấy tháng
rồi tha.
Trịnh
Tùng giết vua Kính Tông rồi, lập Hoàng Tử là Duy Kỳ lên làm vua, tức là vua
Thần Tông.
Năm quý
hợi (1623) Trịnh
Tùng đau, hội
các quan lại
giao binh quyền cho con là Trịnh
Tráng, và cho Trịnh Xuân làm phó.
Trịnh Xuân
không bằng lòng,
đem binh làm
loạn, đốt phá
kinh thành, Trịnh Tùng thấy biến, chạy về xã Hoàng Mai, vào nhà Trịnh
Đỗ, rồi cho gọi Trịnh Xuân đến bắt giết đi.
Được mấy hôm Trịnh Tùng mất ở chùa Thanh Xuân, thuộc huyện Thanh Trì.
Trịnh
Tráng lên nối nghiệp làm chúa. Nhưng vì
đảng Trịnh Xuân còn làm loạn, cho nên mới đưa vua về Thanh Hóa. Vua phong cho Trịnh Tráng làm Thái Úy Thanh
Quốc Công, tiết chế thủy bộ chư quân.
Bấy giờ
có Mạc Kính Khoan là cháu Mạc Kính Cung xưng làm Khánh Vương ở đất Thái
Nguyên. Trước đã bị quân họ Trịnh đánh
phá mấy trận, phải lên ẩn núp ở đất Cao Bằng, nay thâ"y người nhà họ Trịnh
làm loạn, lại đem quân vào đóng ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm. Nhưng chẳng bao
lâu Trịnh Tráng ở Thanh Hóa ra đánh.
Kính Khoan lại phải chạy về Cao Bằng.
Trịnh
Tráng dẹp yên đất Đông Đô, lại vào rước vua ra, và tự xưng làm Nguyên Súy,
Thống Quốc Chính Thanh Đô Vương, rồi sai con là Trịnh Kiều đem quân lên đánh
Cao Bằng (ất sửu 1625) bắt được Mạc Kính Cung đem về giết đi. Mạc Kính Khoan
thì chạy sang Tàu, rồi cho người về dâng biểu xin hàng.
Triều
đình phong cho Kính Khoan làm Thái Úy Thông Quốc Công, và cho giữ đất Cao Bằng
theo lệ cống tiến.
2. Nhà Thanh Dấy Nghiệp. Khi Trịnh Tráng ở An Nam ta mới lên nối
nghiệp làm chúa và đang phải đánh dẹp họ Mạc ở đất Cao Bằng, thì ở bên Tàu nhà
Minh mất nước.
Nguyên ở
xứ đông bắc nước Tàu có một xứ gọi là Mãn Châu, có giống người Nữ Chân ở. Về
đời nhà Tống người Nữ Chân đã lập nên một
nước lớn
gọi là Kim, xưng đế được 120 năm, rồi bị nhà Nguyên lấy mất. Nhà Nguyên đặt Vạn Hộ Phủ để cai trị đất Mãn
Châu.
Sau nhà
Minh dứt được nhà Nguyên, tuy ở Mãn Châu nhà Minh có
đặt vệ
địa, nhưng mà người xứ ấy vẫn tự cai trị lấy.
Đất Mãn
Châu bấy giờ chia làm bốn bộ:
1. Mãn Châu Bộ (thuộc về Kiến Châu Vệ Địa)
2. Trường Bạch Bộ (thuộc về Kiến Châu Vệ Địa)
3. Đông Hải Bộ (thuộc về Dạ Nhân Vệ Địa)
4. Hỗ Luân Bộ (thuộc về Hải Tây Vệ Địa)
Về cuối
đời nhà Minh, ở Trường Bạch Bộ có một người tên là Nỗ Nhĩ Cấp Xích, tức là vua
Thái Tổ nhà Thanh, đánh lấy tất cả đất bốn bộ, đóng kinh đô ở Thẩm Dương, là
Thịnh Kinh bây giờ.
Nỗ Nhĩ
Cáp Xích mất, con lên nối nghiệp tức là Thanh Thái Tông. Sau nhân được cái
Truyền Quốc Tỉ của nước Tàu, Thái Tông mới cải quốc hiệu là Đại Thanh.
Con Thái
Tông tên là Phúc Lâm lên làm vua, tức là Thanh Thế Tổ,
đánh lấy
được cả đất Liêu Tây của nhà Minh.
Khi
tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế đang chống với quân nhà Thanh ở Sơn Hải Quan thì
Lý Tự Thành nổi lên vây đánh Yên Kinh. Vua Trang Liệt nhà Minh gọi Ngô Tam Quế
về cứu, nhưng về đến nửa đường, Tam Quế được tin Yên Kinh đã thất thủ, Trang Liệt Đế và Hoàng Hậu đã bị giết, Tam
Quế lại trở về Sơn Hải Quan.
Lý Tự
Thành cho người gọi Tam Quế về hàng, Tam Quế không về. Tự Thành đem quân đến
đánh Sơn Hải Quan. Tam Quế xin hàng nhà Thanh để lấy binh về đánh Tự Thành.
Lý Tự
Thành đánh thua, phải bỏ Yên Kinh mà chạy, quân nhà Thanh vào giữ Yên Kinh rồi
dời kinh sư về đó.
Các quân
cựu thần nhà Minh lập Phúc Vương lên làm vua ở Nam Kinh, nhưng sau vì các tướng
không hòa với nhau, Phúc Vương phải ra hàng.
Phúc
Vương hàng Thanh rồi, Đường Vương xưng đế ở Phúc Châu, chẳng bao lâu cũng bị
bắt, phải nhịn ăn mà chết.
Dòng dõi
nhà Minh là Quế Vương xưng đế ở đất Triệu Khánh (thuộc tỉnh Quảng Tây) được mấy
năm, bị quân nhà Thanh đến đánh, phải chạy sang Diến Điện. Vua Diến Điện bắt
Quế Vương nộp cho Ngô Tam Quế. Tam Quế đem giết đi. Từ đấy nhà Thanh nhất thống
nước Tàu.
Khi Quế
vương xưng đế ở đất Quảng Tây, có ý muốn nhờ An Nam cứu viện, cho nên mới phong
cho vua Thần Tông nhà Lê làm An Nam Quốc Vương và phong Trịnh Tráng làm phó
vương.
Khi ấy ở
phía bắc nước Tàu đang loạn, họ Mạc thì đã về hàng, Trịnh Tráng mới nhân dịp
quyết ý đi đánh họ Nguyễn ở phía nam.
3. Tình Thế Họ Nguyễn ở Miền Nam. Từ khi
Nguyễn Hoàng về Thuận Hóa rồi, bề ngoài tuy vẫn chưa ra mặt chống với họ Trịnh,
nhưng bề trong thì hết sức
lo sợ phòng
bị. Xem như
năm quý sửu
(1613), khi Nguyễn Hoàng sắp mất,
gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn rằng: "Đất Thuận, Quảng
này bên bắc thì có núi Hoàng Sơn, sông Linh Giang, bên nam thì có núi Hải Vân
và núi Bi Sơn thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải
thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn
đời." Xem lời ấy thì biết họ Nguyễn đã có ý muốn độc lập để chống với họ
Trịnh.
Khi ở
ngoài Bắc, Trịnh
Tùng mất, chúa
Sãi là ông
Nguyễn Phúc Nguyên bảo các quan
rằng: "Ta muốn nhân dịp này mà ra đánh họ Trịnh, nhưng hiềm vì công việc
chưa xong, vậy thì hãy sai người ra phúng điếu, trước là cho phải cái nghĩa hôn
nhân với nhau, sau là nhân thể xem tình ý ngoài Bắc ra thế nào."
Bấy giờ
ở miền Nam lại có những người tôi giỏi giúp rập như các ông Nguyễn Hữu Dật, ông
Đào Duy Từ, và ông Nguyễn Hữu Tiến đều là người có tài trí cả.
Nguyễn Hữu
Dật là người
làng Gia Miêu,
huyện Tống Sơn,
tỉnh Thanh Hóa, học rộng, tài cao, và lại có tài hùng biện, đánh giặc
giỏi, thật là một bậc văn võ kiêm toàn.
Đào Duy
Từ là người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Vì ông là con nhà xướng hát cho nên không
được đi thi, ông phẫn trí mới đi vào miền Nam tìm đường lập công, nhưng chưa
gặp được người tiến cử cho, bèn vào ở chăn trâu cho một nhà phú gia ở làng Tùng
Châu, phủ Hoài Nhân (nay là Bình Định). Ông làm bài "Ngọa Long
Cương"
để tự ví mình với ông Gia Cát Lượng. Sau có quan Khâm Lý là Trần Đức Hòa biết
Duy Từ là người có tài, đem về nuôi, và gả con gái cho, rồi đưa dâng chúa Sãi.
Chúa dùng làm Nội tán, phong làm Lộc Khê Hầu100.
Nguyễn
Hữu Tiến cũng là người Thanh Hóa, làng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, võ nghệ tinh
thông, dùng binh rất có kỷ luật, thật là một người làm tướng có tài vậy.
Những
người ấy giúp chúa Nguyễn, bày mưu định kế, luyện tập quân lính, xây đồn đắp
lũy để chống với quân họ Trịnh101.
Khi
những đồn lũy đã kiên cố, binh lương đã đủ rồi, chúa Sãi mới ra mặt không thần
phục họ Trịnh nữa, và sai tướng ra chiếm giữ lấy đất Nam Bố Chính là đất ở phía
nam sông Linh Giang để làm chỗ chống giữ. Từ đó họ Trịnh và họ Nguyễn đánh nhau
tai hại trong khoảng 45 năm ở đất Quảng Bình, Hà Tĩnh bây giờ.
4. Đánh Nhau Lần Thứ Nhất. Năm đinh mão
(1627) nhân khi nhà Minh bên Tàu còn đang chống nhau với nhà Thanh, và họ Mạc ở
Cao Bằng thì về hàng, Trịnh Tráng mới sai quan vào Thuận Hóa giả tiếng nhà vua
sai vào đòi tiền thuế từ ba năm về trước.
Tờ sắc
làm bằng chữ nôm như sau này:
"Hoàng
thượng sắc dụ cho Thái bảo Thụy quốc công là Nguyễn Phúc Nguyên
được
biết rằng:
Mệnh
lệnh triều đình,
Đạo làm
tôi phải nên tuân thủ; Thuế má phủ huyện,
Tướng
ngoài cõi không được tư chuyên.
Trước
đây trẫm có sai Công bộ thượng thư là Nguyễn Duy Thì, Bá Khê Hầu là Phan Văn
Trị vào Thuận Hóa, đạo đạt tình ý, chỉ bảo đường họa phúc, để cho tỉnh biết mà
phục tùng quyền chính triều đình. Không
ngờ nhà ngươi mang lòng dùng dằng, tối đường tới lui, nói thoái thác cho lôi
thôi ngày tháng, để đến nỗi thuế má thiếu thốn, không đủ việc chi thu, đạo làm
tôi như thế đã phải chưa? Nhà ngươi nay nên đổi lỗi trước, giữ gìn phép tắc.
Phàm ngạch thuế trong hai xứ Thuận, Quảng, từ năm quý hợi về trước, có
100 Đào
Duy Từ giúp chúa Sãi được 8 năm thì mất, thọ 63 tuổi.
101 Đào
Duy Từ lập đồn Trường Dục ở huyện Phong Lộc (Quảng Bình). Và xây cái lũy dài ở
cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) tức là cái Trường thành ở Quảng Bình bây giờ. Người
ta thường gọi lũy ấy là lũy Thầy, nghĩa là lũy của Đào Duy Từ đắp ra.
phải đã
mất mùa thì xá cả cho; còn từ năm giáp tí đến nay phải tính cho đủ số theo lệ
trước, tải thuyền đem ra nộp cho đủ; và phải chỉnh tề binh mã, hoặt thân đến
kinh đô triều hạ, hoặc phải sai con đi thay, để coi xem nghi vệ trong nước, và
để tỏ giãi tấm lòng làm tôi. Nếu thế thì triều đình sẽ phong thêm cho chức tước
vinh hiển, để rạng tỏ đến tổ tông. Nhược bằng thoái thác không đến, thì tức là
phạm tội với triều đình.
Khâm tai
dụ sắc!"
Chúa Sãi
tiếp sứ nhưng không chịu nộp thuế. Trịnh
Tráng lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ chúa Sãi cho con ra chầu, và lấy 30 con
voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa đi cống nhà Minh. Chúa Sãi không chịu.
Trịnh
Tráng thấy vậy, bèn quyết ý đánh họ Nguyễn, sai Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế
đem 5.000 quân đi làm tiên phong vào đóng ở xã Hà Trung (tục gọi là Cầu Doanh),
rồi đem đại binh, rước vua Lê đi đánh mặt Nam.
Chúa Sãi
sai cháu là Nguyễn Phúc Vệ làm tiết chế cùng với Nguyễn Hữu Dật đem binh mã ra
giữ các nơi hiểm yếu. Quân họ Trịnh đến
đánh, chết hại rất nhiều. Bọn Nguyễn Hữu Dật lại đặt ra một kế khiến cho quân
Trịnh phải rút về, sai người đi nói phao ra rằng ở ngoài Bắc có Trịnh Gia và
Trịnh Nhạc sắp làm loạn.
Trịnh
Tráng nghe tin ấy trong bụng sinh nghi, không biết thực hư thế nào, bèn rước
vua và rút quân về Bắc.
5. Đánh Nhau Lần Thứ Hai. Năm canh ngọ
(1630) chúa Sãi nghe lời Đào Duy Từ, sai người đem sắc dụ ra trả vua Lê, rồi
sai tướng đánh lấy phía nam ngạn sông Linh Giang để chống với quân họ
Trịnh. Đến năm quý dậu (1633) nhân khi
chúa Sãi có người con thứ ba tên là Ánh, trấn thủ ở đất Quảng Nam, có ý muốn
tranh quyền, bèn sai người đưa thư ra Thăng Long xin chúa Trịnh đem quân vào
đánh bắn súng làm hiệu, thì sẽ làm nội ứng. Ánh lại xin chúa Sãi cho ra Trấn
thủ đất Quảng Bình để cho tiện làm mưu gian, nhưng chúa Sãi có lòng ngờ, không
cho.
Khi
Trịnh Tráng được cái thư của ngươi Ánh gửi ra, liền đem đại binh vào đóng ở cửa
Nhật Lệ (cửa Đồng Hới).
Chúa
Nguyễn sai Nguyễn Vân Thắng và Nguyễn Hữu Dật đem quân ra chống giữ.
Quân Họ
Trịnh đến đợi hơn 10 ngày, không thấy tin tức gì của ngươi Ánh, bèn lui quân ra
để chờ.
Quân
lính đợi lâu thành ra lười biếng, quân họ Nguyễn mới xuất kỳ bất ý, đổ ra đánh
đuổi.
Trịnh
Tráng thấy sự không thành, rút quân về.
6. Đánh Nhau Lần Thứ Ba. Năm ất hợi (1635)
chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên mất, con là Nguyễn Phúc Lan lên nối nghiệp làm
chúa, gọi là chúa Thượng.
Lúc ấy
ngươi Ánh ở Quảng Nam nghe tin chúa Sãi mất rồi, anh lên nối nghiệp, bèn phát
binh làm phản - Bấy giờ có Nguyễn Phúc Khê giúp chúa Thượng, sai quân vào đánh
bắt được ngươi Ánh, lấy nghĩa "Anh em là tình riêng, phép nước là nghĩa
lớn" đem giết đi.
Trịnh
Tráng thấy anh em họ Nguyễn tranh nhau, sai tướng vào đánh đất Nam Bố Chính,
giết được tướng họ Nguyễn là Bùi Công Thắng rồi tiến lên đóng ở cửa Nhật Lệ.
Đến năm
quý tị (1643) Trịnh Tráng đem đại binh và rước vua Lê vào đất Bắc Bố Chính.
Nhưng bấy giờ đang tiết tháng tư, khí trời nóng lắm, quân sĩ chết hại rất
nhiều, Trịnh Tráng phải rút về Bắc.
7. Đánh Nhau Lần Thứ Tư. Năm mậu tí (1648) Trịnh Tráng sai đô đốc Tiến
Quận Công Lê Văn Hiểu102 đem quân thủy bộ vào đánh miền Nam; bộ binh tiến lên
đóng ở đất Nam Bố Chính; còn thủy quân thì vào đánh cửa Nhật Lệ.
Bấy giờ
có hai cha con Trương Phúc Phấn cố sức giữ lũy Trường Dục, quân họ Trịnh đánh
mã không tiến lên được.
Chúa
Nguyễn sai con là Nguyễn Phúc Tần đem binh ra chống giữ với họ Trịnh, khi ra đến
Quảng Bình, Nguyễn Phúc Tần hội các tướng lại bàn rằng: "Quân kia tuy
nhiều, nhưng người đánh giỏi thì ít. Nếu đến đêm, ta cho voi xông vào rồi đem
đại quân đến đánh là chắc phá được". Đoạn rồi, một mặt cho thủy quân đi
phục sẳn ở sông Cẩm La để chặn đường quân Trịnh chạy về; một mặt sai Nguyễn Hữu
Tiến đem 100 con voi đến canh năm xông vào trại quân Trịnh, quân bộ tiếp sau
vào đánh phá. Quả nhiên quân
Trịnh
thua to chạy về Bắc, lại gặp quân thủy của họ Nguyễn đón đường đuổi đánh mãi
đến sông Lam Giang mới thôi.
Trận ấy
quân họ Nguyễn bắt được mấy người tướng và 3.000 quân của họ Trịnh.
Trịnh Tráng
thấy quân mình
thua, sai Lê
Văn Hiểu cùng
với Trần Ngọc Hậu lĩnh một vạn
quân đóng ở Hà Trung, Lê Hữu Đức cùng với Vũ Lương đóng ở Hoàng Sơn, Phạm Tất
Toàn đóng ở đất Bắc Bố Chính để phòng giữ quân họ Nguyễn.
Lúc bấy
giờ ở trong Nam thì chúa Thượng mất, truyền nghiệp chúa lại cho con là Nguyễn
Phúc Tần, gọi là chúa Hiền. Ở ngoài Bắc thì vua Chân Tông mất,
không có con,
Trịnh Tráng lại rước Thần
Tông, Thái Thượng Hoàng, về làm vua lần nữa.
Họ Trịnh
vào đánh họ Nguyễn đã mấy phen, đánh phen nào thì hao binh tổn tướng phen ấy,
thế mà vẫn không chịu thôi việc chiến tranh.
Đến năm ất tị (1655) quân nhà Trịnh lại vào đánh đất Nam Bố Chính. Bấy giờ chúa Hiền mới quyết ý đem quân ra
đánh họ Trịnh.
8. Đánh Nhau Lần Thứ Năm. Tháng tư năm ất tị (1655) chúa Hiền sai Thuận
Nghĩa Hầu là Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Hầu là Nguyễn Hữu Dật đem quân qua sông
Linh Giang ra đánh đất Bắc Bố Chính, tướng họ Trịnh là Phạm Tất Toàn về hàng.
Quân nhà
Nguyễn tiến lên đến Hoành Sơn, gặp quân của Lê Hữu Đức, đánh đuổi một trận, rồi
thừa thắng đánh đến đồn Hà Trung, Lê Văn Hiểu chống không nổi, phải cùng với Lê
Hữu Đức rút quân về giữ An Trường (tức là thành Nghệ An bây giờ).
Nguyễn
Hữu Tiến đem binh đến đóng ở huyện Thạch Hà, Lê Văn Hiểu và Lê Hữu Đức lại sang
đóng ở xã Đại Nại.
Trịnh
Tráng thấy bọn Lê Văn Hiểu binh bại ở Hà Trung, bèn cho sứ vào triệu
về kinh, và
sai Trịnh Trượng
vào làm Thống
lĩnh, kinh lược
đất Nghệ An.
Lê Văn
Hiểu bị đạn ở chân, về đến nửa đường thì chết; còn bọn Lê Hữu Đức, Vữ Lương đều
phải giáng chức cả.
102 Có
nơi chép là Trịnh Đào hay là Hàn Tiến.
Trịnh Trượng
tiến binh lên
đến huyện Kỳ
Hoa, cho thủy binh
vào
đóng ở
cửa Kỳ La.
Nguyễn
Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh đã tiến, bèn rút quân về sông Linh Giang
để nhử quân
nghịch. Nhưng mà
Trịnh Trượng thấy
tự nhiên quân Nguyễn bỏ về như
vậy, sợ có mưu kế gì, không dám đuổi, bèn đóng quân ở lại Lạc Xuyên, rồi cho
500 người vào đóng ở đồn Hà Trung.
Nguyễn Hữu
Tiến thấy quân
họ Trịnh không
đuổi, bèn đem
quân đến đánh quân Trịnh ở Lạc Xuyên; còn Nguyễn Hữu Dật thì đem thủy
binh ra đánh cửa Kỳ La, đuổi chiến thuyền của họ Trịnh về cửa Châu Nhai.
Nguyễn
Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật thừa thắng tiến binh lên đánh quân họ Trịnh, rồi
chiếm giữ lấy đồn Lạc Xuyên. Binh tướng
họ Trịnh phải chạy về An Tràng.
Bấy giờ
những huyện ở phía nam sông Lam Giang (tức là sông Cả bây giờ) là huyện Kỳ Hoa,
huyện Thạch Hà, huyện Thiên Lộc, huyện Nghi Xuân, huyện La Sơn, huyện Hương
Sơn, huyện Thanh Chương, cả thảy là bảy huyện đều thuộc về họ Nguyễn cả.
Tin quân
Trịnh thua ở Lạc Xuyên ra đến Thăng Long, Trịnh Tráng giáng Trịnh Trượng xuống
làm đô đốc, rồi sai con là Trịnh Tạc vào Nghệ An làm Thống lĩnh để chống giữ
với quân họ Nguyễn.
Bọn
Nguyễn Hữu Tiến thấy quân Trịnh Tạc lại tiến, liền lui quân về đóng ở Hà Trung
để giữ trận thế. Nhưng bây giờ ở ngoài Bắc lắm việc, Trịnh Tráng phải gọi Trịnh
Tạc về, để tướng là Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ đất Nghệ An, đóng ở An
Tràng, sai Thân Văn Quang, Mẫn Văn Liên đóng ở làng Tiếp Vũ (thuộc huyện Thiên
Lộc), thủy quân đóng ở sông Khu Độc (thuộc huyện Nghi Xuân).
Qua năm
bính thân (1656) quân họ Nguyễn đến đánh đồn Tiếp Vũ, bọn Thân Văn Quang bỏ
chạy, Nguyễn Hữu Tiến đem quân đến đóng ở sông Tam Chế. Còn Nguyễn Hữu Dật tiến
binh đến núi Hồng Lĩnh, gặp quân họ Trịnh đánh đuổi đến đất Mẫn Tường, rồi lại
gặp thủy binh củaVũ Văn Thiêm, đánh phá một trận, Văn Thiêm thua chạy. Quân họ
Nguyễn thừa thắng tiến lên đến làng Minh Lương và lành Bình Lạng gặp quân của
Đào Quang Nhiêu, hai bên đánh nhau một trận rất dữ. Đào Quang Nhiêu thua chạy
về An Tràng, dâng biểu tạ tội và xin viện binh.
Trịnh
Tráng sai người con út là Ninh Quận Công Trịnh Toàn (tục hay gọi là ông Ninh)
vào làm thống lĩnh trấn thủ đất Nghệ An.
Trịnh
Toàn vào đến Nghệ An, đốc chư quân tiến lên đến Thạch Hà, sai Đào Quang Nhiêu
và Dương Hồ đem binh đến đóng ở làng Hương Bộc và ở làng Đại Nại, sai Lê Sĩ
Hậu, Bùi Sĩ Lương đem thủy quân đến đóng ở Nam Giới, và sai Vũ Văn Thiêm đem
thủy quân đến đóng ở Châu Nhau.
Nguyễn
Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh cử động như vậy, bèn sai bọn Dương Trí, Tống Phúc
Khang cùng với Nguyễn Hữu Dật đem thủy bộ quân đến đánh
quân Trịnh ở
Nam giới, lấy
được hơn 30
chiếc thuyền, rồi
tràn xuống sông Lam Giang đánh Vũ Văn Thiêm ở Châu Nhai, Vũ Văn Thiêm
phải bỏ thuyền mà chạy.
Trịnh Toàn
thấy các đạo
thủy binh của
mình đã thua,
bèn rút về đóng ở bến Hoạt, bỗng nghe tin toán quân
của Đào Quang Nhiêu bị vây ở Hương bộc, lập tức đem quân đến cứu, hai bên đánh
nhau ở làng Đại Nại, quân họ Nguyễn chạy về Hà Trung. Trịnh Toàn và Đào Quang Nhiêu đem quân đuổi
đến Tam Lộng, bị quân của Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đón đường đánh
phá. Trịnh Toàn lại thua, phải chạy về
An Tràng.
Trịnh
Toàn từ khi vào trấn thủ đất Nghệ An, hậu đãi tướng sĩ, yêu mến quân
dân, lòng người
đều phục; nhưng
chẳng được bao
lâu, Trịnh Tráng mất, Trịnh Tạc
lên thay, thấy em có nhiều người mến phục, lấy làm nghi kỵ, bèn cho con là
Trịnh Căn vào cùng trấn đất Nghệ An, có ý giữ để cho khỏi biến loạn. Đoạn rồi cho người vào đòi Trịnh Toàn về
kinh, trách sao không về chịu tang, bắt bỏ ngục giam chết.
Binh
quyền ở Nghệ An giao lại cho Trịnh Căn.
Đến tháng sáu năm đinh sửu (16570 Trịnh Căn chia quân làm 3 đạo, sai Lê
Hiến làm tướng trung quân, sai Hoàng
Nghĩa Giao làm
tướng tả quân,
sai Trịnh Thế
Công làm tướng hữu quân, sang sông
Lam Giang rồi tiến lên đánh tướng nhà Nguyễn là Tống Hữu Đại ở làng Nam Hoa
(thuộc huyện Thanh Chương).
Nhưng vì
có người báo trước, bọn Nguyễn Hữu Tiến đã phòng bị cả, đến khi quân Trịnh đến,
thì mắc kế phải thua, may nhờ có quân Trịnh Căn tiếp ứng, cho nên mới rút về
được.
Từ đó
quân hai bên cứ giữ nhau ở sông Lam Giang, thỉnh thoảng đánh nhau một trận, như
tháng chạp năm mậu tuất (1658), đánh ở làng Tuần Lễ (huyện Hương Sơn), quân họ
Nguyễn phải lùi; đến tháng tám năm canh tí (1660) đánh ở Nghi Xuân, quân họ
Trịnh thua bỏ thuyền mà chạy; qua tháng 9 năm ấy đang khi quân họ Nguyễn còn
đóng ở làng Hoa Viên (tức là làng Xuân Viên bây giờ), Trịnh Căn định sang lấy
núi Lận Sơn để giữ
trận
thế, bèn sai Hoàng Nghĩa Giao và Phan Kiêm Toàn đem binh sang ssông Lam Giang ở
làng Âm Công, và sai Lê Hiến103 đi xuống phía Hội Thống rồi sang sông, chờ đến
nửa đem thì hai đạo cùng tiến cả.
Đạo quân
của Đào Nghĩa Giao đi đến Lận Sơn bị quân của Nguyễn Hữu Dật đánh và vây ngặt
lắm. Bấy giờ Trịnh Căn đứng thị chiến
trên núi Quyết Dũng (ở gần Bến Thủy bây giờ), trông thấy quân mình bị vây nguy
cấp lắm, liền sai quân sang cứu, và truyền cho thủy quân đến bờ sông mà bắn
lên, quân họ Nguyễn phải lùi.
Còn đạo
quân của Lê Hiến và Mẫn Văn Liên sang đến làng Tả Ao gặp quân họ Nguyễn, hai
bên đánh nhau, Mẫn Văn Liên tử trận, nhưng quân họ Nguyễn phải bỏ Hoa Viên lui
về đóng ở Nghi Xuân.
Lúc ấy
đại quân của Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nghi Xuân, còn Nguyễn Hữu Dật thì đóng ở
Khu Đốc. Chúa Hiền cũng đem binh đến tiếp ứng, đóng ở làng Phù Lộ (nay là làng
Phù An thuộc huyện Bình Chính, Quảng Bình). Nguyễn Hữu Dật lẻn về ra mắt chúa
Hiền, kể đầu đuôi mọi việc đánh lấy thế nào, chúa Hiền mừng lắm, cho Hữu Dật
một thanh bảo kiếm bằng vàng và lại sai trở lại đánh giặc.
Nguyễn
Hữu Tiến biết việc ấy, trong bụng lấy làm không bằng lòng, và bấy giờ lại nhân
có những sĩ tốt mới hàng ở đất Nghệ An, thường hay bỏ trốn, Hữu Tiến bèn hội
chư tướng lại để bànx em nên đánh hay là nên lui về. Mọi người đều muốn lui về, duy chỉ có Nguyễn
Hữu Dật không chịu.
Khi các
tướng họ Nguyễn đang bàn bạc, thì có tin rằng Trịnh Căn sai bọn Lê Hiến đi men
bờ bể đến làng Cương Gián, bọn Hoàng Nghĩa Giao đến làng Lũng Trâu và làng Mãn
Trưởng, rồi tiến lên đánh ở làng An Điền và ở làng Phù Lưu; quân họ Nguyễn
thua. Được tin ấy Nguyễn Hữu Tiến quyết ý đem quân về, nhưng bề ngoài giả tảng
truyền lện cho các tướng rằng đến tối 28 thì các đạo đều phải tiến sang đánh An
Tràng, Nguyễn Hữu Dật đem binh đi hậu tiếp. Đoạn rồi, dặn riêng các tướng đến
nữa đêm rút quân về Nam Bố Chính, không cho Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật
sắm sửa đâu vào đấy, chờ mãi không có tin tức gì, đến khi cho người đi thámvề
nói mới biết quân mình đã rút về Nam rồi.
Lúc ấy quân họ Trịnh đã sang sông đến đánh đồn Khu Độc. Hữu Dật mới dùng kế nghi binh để cho quân
Trịnh không dám tiến lên, rồi đem binh chạy về, đến Hoành sơn mới gặp quân của
Nguyễn Hữu Tiến. Bấy giờ quân Trịnh Căn
vừa đuổi đến, hai bên đánh nhau một trận chết hại rất nhiều.
103 Có
sách chép là Lê Thời Hiến.
Trịnh
Căn lui về đóng ở Kỳ Hoa. Còn bên kia
Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nhật Lệ. Nguyễn Hữu Dật đóng ở Đông Cao, giữ các chỗ
hiểm yếu. Từ bấy giờ 7 huyện ở vùng sông Lam Giang lại thuộc về đất Bắc.
Trịnh
Căn thấy quân họ Nguyễn giữ gìn mọi nơi chắc chắn lắm, liệu thế đánh không
được, bèn sai Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ đất Nghệ An và kiêm lĩnh cả đất
Bắc Bố Chính để phòng giữ mọi nơi, rồi về Thăng Long.
9. Đánh Nhau Lần Thứ Sáu. Đến tháng 10 năm
tân sửu (1661) Trịnh Tạc cử đại binh và đem vua Lê vào đánh chúa Nguyễn: sai
Trịnh Căn làm thống lĩnh, Đào Quang Nhiêu làm Tổng suất, Lê Hiếu và Hoàng Nghĩa
Giao làm Đốc suất, Lê Sĩ Triệt và Trịnh Tế làm Đốc thị, đem binh sang sông Linh
Giang rồi đến đóng ở làng Phúc Tự.
Quan
Trấn thủ Nam Bố Chính của họ Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật đóng ở làng Phúc Lộc chia
quân ra đắp lũy, giữ vững mọi nơi, quân Trịnh đánh mãi mấy tháng không được.
Đến
tháng 3 năm nhâm dần (1662), quân mệt, lương hết, Trịnh Tạc phải thu quân và
rước vua về Bắc. Nguyễn Hữu Dật đem binh đuổi đánh đến sông Linh Giang mới
thôi.
Năm ấy
Thần Tông về rồi đến tháng 9 thì mất.
Trịnh Tạc lập Thái tử là Duy Vũ lên làm vua tức là vua Huyền Tông. Huyền
Tông làm vua được 8 năm thì mất. Trịnh
Tạc lại lập Hoàng Đệ là Duy Hội lên làm vua, tức là vua Gia Tông.
10. Đánh Nhau Lần Thứ Bảy. Từ năm tân sửu
(1661) quân họ Trịnh thua ở đất Bắc Bố Chính rồi, Trịnh Tạc về phải lo việc
nước và phải đánh dẹp họ Mạc ở đất Cao Bằng, cho nên không dòm ngó đến phía
Nam; mãi đế năm nhâm tí (1672) Trịnh Tạc lại đem mấy vạn quân và rước vua Gia
Tông và đất Bắc Bố Chính để đánh họ Nguyễn, sai Trịnh Căn làm thủy quân Nguyên
Súy, Lê Hiến làm bộ quân Thống suất.
Chúa
Hiền cũng sai em thứ tư là Hiệp làm Nguyên Súy đem binh ra cùng Nguyễn Hữu Dật
và Nguyễn Mỹ Đức giữ các nơi hiểm yếu để ngự địch, chúa Hiền đem đại binh đi
tiếp ứng.
Quân họ
Trịnh đến đánh lũy Trấn Ninh rất hăng, đã hai ba phen sắp phá được lũy, nhưng
Nguyễn Hữu Dật hết sức chống giữ, quân Trịnh đánh mãi không được, phải lùi về
Bắc Bố Chính. Đến tháng chạp, trời mưa rét và
lại nghe
tin rằng Trịnh Căn đi đến Linh Giang phải bệnh nặng, Trịnh Tạc bèn sai Lê Hiến
ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc đóng ở Hà Trung để giữ các nơi
yếu lộ, lấy sông Linh Giang, tức là sông Giang bây giờ mà phân giới hạn Nam
Bắc, rồi rút quân về Thăng Long.
Từ đó
Năm Bắc thôi việc chiến tranh, mãi đến khi Tây Sơn khởi binh, thì họ Trịnh mới
nhân dịp vào đánh lấy đất Thuận Hóa.
Kể từ
năm đinh mão (1627) đời vua Thần Tông lần thứ nhất, đến năm nhâm tí (1672) đời
vua Gia Tông, vừa 45 năm, họ Trịnh, họ Nguyễn đánh nhau cả thảy 7 lần. Trong bấy nhiêu lần, họ Nguyễn chỉ ra đánh
họ Trịnh có một lần, đã lấy được 7 huyện ở phía nam sông Lam Giang, nhưng vì
các tướng họ Nguyễn không đồng lòng với nhau, cho nên lại phải bỏ về giữ đất
cũ.
Còn như
thế lực binh
lương thì họ
Trịnh mạnh hơn họ Nguyễn, nhưng người Bắc phải đi đánh xa xôi,
vận tải khó khăn, mà người Nam thì đánh ở đất nhà mình, có đồn lũy chắc chắn,
tướng sĩ hết lòng, cho nên thành ra hai bên đối địch chứ không làm gì được
nhau, chỉ khổ cho những dân sự, phải sưu dịch vất vả, và bị tàn phá thiệt hại
rất nhiều.
CHƯƠNG V
Công
Việc Họ Trịnh Làm ở Đất Bắc
1. Việc giao thiệp với nhà Thanh
2. Việc lấy đất Cao Bằng của họ Mạc
3. Quan chế
4. Việc binh chế
5. Hình luật
6. Thuế đinh, thuế điền và sưu dịch
7. Các thứ thuế
8. Sổ chi thu
9. Việc khai mỏ
10. Việc đúc tiền
11. Sự đong lường
12. Việc in sách
13. Việc học hành thi cử
14. Trường học võ
15. Làm quốc sử
16. Sự đánh dẹp giặc giã trong nước: Giặc Ngân
già; Giặc Ninh xa: Nguyễn hữu Cầu; Nguyễn danh Phương; Hoàng công Chất; Lê duy
Mật
1. Việc Giao Thiệp Với Nhà Thanh. Năm quý
mão (1663), lúc ấy nhà Minh đã mất rồi, vua nhà Thanh có cho sứ sang dụ vua An
Nam về triều cống. Bấy giờ Trịnh Tạc mới
cho sứ đem đồ cống lệ sang Yên Kinh (tức là Bắc Kinh) để cầu phong cho vua Lê.
Đến năm đinh mùi (1667) vua Khang Hy nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua Lê làm
An Nam Quốc Vương.
Từ đó
hai nước thông sứ với nhau như thường. Về sau dẫu có lôi thôi về những việc
giặc cướp và việc giới hạn ở phía thượng du, nhưng bao giờ vua
nhà
Thanh cũng chủ lấy sự hòa bình, cho nên việc gì cũng trang trải xong xuôi.
2. Việc Lấy Đất Cao Bằng của Nhà Mạc. Năm ất
sửu (1625) Mạc Kính Khoan đã xin về hàng, được phong làm Thái Úy Thông Quốc
Công, cho giữ đất Cao Bằng. Song đến năm mậu dần (1638) Kính Khoan mất, con là
Mạc Kính Vũ (có chỗ gọi là Mạc Kính Hoàn) không nhận chức và không chịu về
cống, lại tự xưng làm vua hiệu là Thuận Đức.
Từ đó họ
Mạc cứ thỉnh thoảng đem quân về cướp phá ở mạn Thái Nguyên, quan quân đánh đuổi
nhiều lầ, nhưng không trừ hẳn đi được.
Năm đinh
tị (1667) Trịnh Tạc đem đem đại binh cùng các tướng là Đinh Văn Tả, Lê Chân, Lê
Hiến lên đánh lấy đất Cao Bằng, Mạc Kính Vũ phải bỏ chạy sang Tàu. Trịnh Tạc mới treo bảng, chiêu tập dân sự về
làm ăn, và đặt quan cai trị, lại sai Vũ Vinh làm đốc trấn đất Cao Bằng, Đinh
Văn Tả làm trấn thủ đất Thất Tuyền (tức là Thất Khê bây giờ).
Mạc Kính
Vũ ở bên Tàu, lấy vàng bạc đút lót cho quan nhà Thanh để tâu xin với Thanh Đế
bắt họ Trịnh trả lại đất Cao Bằng cho họ Mạc.
Thanh Đế cho Kính Vũ về ở Nam Ninh, rồi sai sứ sang thương nghị với Nam
triều về việc ấy. Triều đình An Nam và
sứ nhà Thanh bàn đi bàn lại mãi, sau Trịnh Tạc phải chịu trả lại cho họ Mạc đất
4 châu ở Cao bằng là châu Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang và triệu
quan đốc trấn Vũ Vinh về.
Về sau
Ngô Tam Quế phản nhà Thanh ở đất Vân Nam và đất Quảng Tây, Mạc Kính Vũ cũng về
đảng với Tam Quế mà chống lại nhà Thanh. Đến khi Tam Quế chết rồi, nhà Thanh đã
lấy lại đất Quảng Tây, họ Trịnh muốn nhân
dịp ấy mà
trừ họ Mạc cho xong,
bèn một mặt
sai Đinh Văn
Tả và Nguyễn Hữu
Đăng lên đánh
Mạc Kính Vũ.
Đến tháng tám
năm đinh tị (1667), Đinh văn Tả lấy được thành Cao
Bằng. Mạc Kính Vũ cùng họ hàng chạy sang Long Châu, bị quân nhà Thanh bắt giải
sang trả cho An Nam.
Từ khi
Mạc Mậu Hợp phải bắt, họ Mạc thất thủ Thăng Long rồi, con cháu chạy lên mạn
ngược, nhờ thế nước Tàu được giữ đất Cao Bằng, tương truyền được 3 đời, là Mạc
Kính Cung, Mạc Kính Khoan và Mạc Kính Vũ; đến nay mới mất hẳn. Dòng dõi học Mạc hoặc bị bắt, hoặc về hàng,
có nhiều người được tha, cho làm quan với họ Trịnh.
3. Quan Chế. Trước khi họ Mạc cướp ngôi nhà
Lê thì quan chế vẫn theo như đời Hồng Đức, nhưng từ khi nhà Lê trung hưng về
sau, chính
quyền về
họ Trịnh, cho nên quan chế có khác ít nhiều.
Trước thì trên cùng có quan Tham tụng và quan Bồi tụng để coi việc chính
trị, tức là giữ chức Tể tướng đời xưa, rồi đến các quan Thượng thư ở lục bộ.
Lục bộ
là: Lại bộ coi việc thuyên chuyển các quan viên, việc thăng hàm thưởng tước,
việc cách chức giáng trật, tức là coi mọi việc riêng về quan lại trong nước. Hộ
bộ coi việc điền thổ và nhân dân, thuế khóa, lương tiền thu vào phát ra. Lễ bộ
coi việc nghi lễ tế tự, việc học hành thi cử, việc áo mũ phẩm phục và phù ấn,
việc làm chương làm biểu, việc đi sứ nước nọ nước kia, việc coi thiên văn, làm
lịch, làm thuốc, bói toán, việc quan hệ tăng ni, đạo sĩ, việc âm nhạc ca xướng.
Binh bộ coi các võ quan, quân lính và việc phòng bị biên giới v.v.... Hình bộ coi việc hình pháp, kiện tụng. Công bộ coi việc xây đắp thành trì, cung
điện, cầu cống, đường xá, sông ngòi, rừng núi.
Đến năm
mậu tuất (1718), đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương lại đặt ra Lục phiên ở bên phủ
chúa, cũng như Lục bộ ở bên nhà vua, để coi mọi việc chính trị.
Về việc
võ bị thì trước có Ngũ phủ là: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam
quân phủ, Bắc quân phủ. Mỗi một phủ đặt một Đô đốc phủ có quan tả hữu Đô đốc
coi việc cả quân. Trong đời vua Thánh Tông, thì Thanh Hóa, Nghệ An thuộc về
Trung quân; Hải Dương, An Bang thuộc về Đông quân; Sơn nam, Thuận hóa, Quảng nam
thuộc về Nam quân; Tam Giang, Hưng Hóa thuộc về Tây quân; Kinh Bắc, Lạng Sơn
thuộc về Bắc quân. Đến năm
giáp thìn (1664)
đời vua Huyền
Tông, Trịnh Tạc
lại đặt thêm chức Chưởng phủ sự
và Thự phủ sự để coi hết thảy các quân.
Các quan
chức thời bấy giờ, chia ra làm ba ban: văn ban, võ ban và giám ban. Theo thường lệ, thì chỉ có văn ban và võ ban
mà thôi. Nhưng từ khi họ Trịnh giữ quyền
bính và lại yêu dùng các nội giám, thường cho ra làm quan coi việc chính trị,
cho nên mới đặt ra giám ban. Ban này đến
cuối đời Cảnh hưng (1740-1786) mới bỏ.
Từ khi
họ Trịnh cầm quyền, thì bên nhà vua gọi là Triều đình, bên phủ chúa gọi là Phủ
Liêu. Phàm những việc chính trị và quân
dân đều do bên phủ chúa định đoạt hết cả, cho nên người ta thường dùng Phủ liêu,
chứ không mấy khi dùng chữ Triều đình, vì Triều đình chỉ có cái hư vị, chứ
không có quyền gì nữa.
Sự kén
chọn các quan lại thì lệ cứ mấy năm lại khảo hạch một lần, ai không xứng chức
thì phải giáng xuống.
Khi nào
quan viên về hưu trí thì được ăn dân lộc, như là quan nhất phẩm thì mỗi năm
được 400 quan tiền dân lộc của bốn năm xã; quan nhị phẩm được 300 hoặc 250 quan
của hai ba xã; quan tam phẩm được 250 hoặc 150 quan của một hai xã; quan tứ
phẩm được 150 quan của một xã; quan ngũ phẩm được 100 quan của một xã.
Đời bấy
giờ lại đặt ra một phép rất hay, như là cấm không cho các quan viên lập trang
trại ở chỗ mình làm quan, bởi vì thường có nhiều người ỷ quyền thế mà hà hiếp
lấy ruộng đất của dân, rồi nuôi những đồ gian ác làm tôi tớ, để quấy nhiễu mọi
người, đến nỗi có nhiều nơi dân phải xiêu tán đi. Ấy cũng là một việc đỡ hại
cho dân, và lại có thể giữ liêm cho quan vậy.
Nhưng về
sau, từ đời Trịnh Giang trở đi, nhà chúa chơi bời xa xỉ, lại có nhiều giặc giã,
phải tìm cách lấy tiền, đặt ra lệ cứ tứ phẩm trở xuống ai nộp 600 quan thì được
thăng chức một bậc. Còn những người chân trắng mà ai nộp 2.800 quan thì được bổ
tri phủ, 1.800 quan thì bổ tri huyện104.
Như thế,
hễ ai có tiền thì được quyền trị dân, chứ không cần có tài năng gì cả, thành ra
cái phẩm giá của những người làm quan đời bấy giờ cũng kém dần dần đi.
4. Việc Binh Chế. Khi nhà Lê trung hưng ra
đánh họ Mạc, số quân chỉ có hơn 56.000 người mà thôi105. Về sau, từ lúc đánh được nhà Mạc rồi, họ
Trịnh chia ra làm hai thứ binh: một thứ gọi là ưu binh thì lấy lính ở ba phủ
đất Thanh Hóa và ở bốn phủ đất Nghệ An, lệ cứ ba suất đinh lấy một tên lính;
một thứ gọi là nhất binh thì lấy lính ở tứ trấn ở đất Bắc là Sơn Nam, Kinh Bắc,
Hải Dương, Sơn Tây, lệ cứ 5 suất đinh lấy một tên lính.
Lính ưu
binh thì đóng ở kinh thành, kén vào làm quân Túc vệ để canh giữ những nơi đền
vua phủ chúa. Những lính ấy đã được cấp cho công điền, lại được thêm chức sắc.
Lính
nhất binh thì chỉ để đủ giữ các trấn, và hầu hạ các quan, còn thì cho về làm
ruộng, có khi nào cần dùng đến thì mới gọi, như là về đời Trịnh Doanh có lắm
giặc giã, phải đánh dẹp nhiều nơi, thì mới gọi đến lính tứ trấn,
cả thảy
được độ chừng 11.500 người, chia ra làm 20 vệ. Sau lại đổi ra làm cơ, làm đội,
mỗi cơ có 200 người, để 100 người ở tại ngũ, còn 100 người cho về làm ruộng,
rồi cứ lần lượt thay đổi nhà mà về.
5. Hình Luật. Hình luật về đời ấy thì đại
khái cũng như đời Tiền Lê. Hình pháp thì chia ra làm 5 thứ gọi là ngũ hình:
xuy, trượng, đồ, lưu và tử. Nhưng trước thì tội gì cũng được cho chuộc cả106,
đến đời vua Huyền Tông, Trịnh Tạc định lại: trừ những người được dự vào bát
nghị107 ra, còn ai phạm tội gì cứ chiếu theo tội nặng nhẹ mà luận hình, chứ
không cho chuộc nữa.
Trước
thì ai đã phải tội lưu, lại phải tội chặt tay nữa. Đến đời vua Dụ Tông, Trịnh
Cương mới bỏ cái luật chặt tay và đổi lại như là ai phải chặt hai bàn tay va
phải lưu đi viễn châu thì cải làm tội đồ chung thân; ai phải chặt một bàn tay
và phải lưu ngoại châu thì đổi làm tội đồ 12 năm; ai phải chặt hai ngón tay trỏ
và phải lưu cận châu, thì đổi làm tội đồ 6 năm. Còn như ai phạm tội trộm cướp
thì không kể vào lệ ấy.
Những
việc án mạng, trộm cướp và những việc hộ, hôn, điền thổ thì phải theo thứ tự mà
xét xử. Như việc án mạng thì quan phủ huyện xét, rồi đệ lên để Thừa ti và hiến
ti hội đồng xét lại. Việc trộm cướp, ở Kinh đô thì do quan Đề Lĩnh xét lại, ở
các trấn thì do quan Trấn thủ xét lại.
Phàm
những việc đại tụng tiểu tụng mà ở huyện phủ hay là ở Thừa ti, Trấn ti, xử
không xong, thì đến Hiến ti xét lại. Ở Hiến ti không xong, thì đến Giám sát xét
lại. Ở Giám sát và Đề Lĩnh không xong, thì đến Ngự sử Đài xét lại.
Những
việc nhân mạng thì hạn cho 4 tháng, việc trộm cướp điền thổ thì 3 tháng, việc
hôn nhân ẩu đả thì 2 tháng, chứ lệ không cho để lâu, làm mất công việc của dân.
6. Thuế Đinh, Thuế Điền và Sưu Dịch. Trước tệ cứ sáu năm làm sổ hộ tịch một lần,
rồi cứ tùy số dân đinh nhiều ít mà đánh thuế, gọi là "qui" đồng niên
mỗi tên đinh cứ tùy hạng, hoặc đóng một quan hay là một quan tám tiền, tức là
thuế thân. Đến năm kỷ dậu (1669) đời
vua Huyền Tông, quan Tham Tụng là ông Phạm Công Trứ xin đặt ra phép bình lệ,
nghĩa
104 Việc
bán phẩm hàn đã có từ đời vua Dụ Tông nhà Trần và đời vua Thánh Tông nhà Lê.
Nhưng mà bấy giờ chỉ cho lấy hàm mà thôi, chứ không có thực chức.
105 Khi
vua Lê Thái Tổ ra đánh nhà Minh thì số binh bấy giờ được 25 vạn, chia ra làm 5
quân, gọi là trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân. Đến khi đánh
dẹp xong rồi, cho 15 vạn về làm ruộng, còn để lại 10 vạn chia ra làm 5 đạo gọi
là đông đạo, tây đạo, nam đạo, bắc đạo và hải tây đạo.
106 Tội
trượng thì cứ mỗi một trượng là quan tam phẩm phải chuộc 5 tiền, quan tứ phẩm
phải chuộc 4 tiền, quan ngũ phẩm 3 tiền, quan thất bát phẩm 2 tiền, từ củu phẩm
cho xuống đến thứ nhân thì 1 tiền. Tội đồ làm lính coi chuồng voi thì phải
chuộc 60 quan, làm lính đồn điền thì 100 quan. Tội lưu cận châu thì phải chuộc
130 quan, viễn châu thì 290 quan. Tội tử thì phải chuộc 330 quan.
107 Đã
nói ở đời vua Lê Thái Tổ.
là làm
sổ đinh nhất định một lần, rồi làng nào phải đóng bao nhiêu suất đinh, cứ theo
như thế mà đóng mãi, chứ có đẻ thêm ra cũng không kể, mà có chết đi cũng không
trừ.
Lập phép
ấy là để cho dân khỏi phải làm sổ, mà quan cũng khỏi phải tra xét, nhưng phải
một điều bất tiện là về sau số đinh hơn kém bao nhiêu, quan không biết được
nữa. Đến năm quý tị (1713) đời vua Dụ
Tông, sử chép rằng số dân nội tịch phải đóng thuế cho nhà vua cả thảy chỉ
206.315 suất mà thôi.
Còn như
thuế điền thì năm kỷ hợi (1719) đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương sai cái quan phủ huyện
và quan Thừa Chính, Hiến sát làm việc đạc điền để mà chia tiền thuế cho các dân
xã cho đều. Lệ bây giờ cứ đo công điền công thổ mà đánh thuế, gọi là
"thuế", chia ra làm ba hạng. Hạng nhất mỗi mẫu đồng niên đóng 1 quan,
hạng nhì 8 tiền, hạng ba 6 tiền.
Những
sưu dịch như là việc tế tự trong đền vua phủ chúa, việc sửa sang trường thi,
việc làm cầu cống, đắp đường sá, giữ đê điều v.v. thì cứ
tùy nghi
mà bổ cho các suất đinh để lấy tiền mà cung ứng cho đủ.
Ấy, các
thứ thuế trước đánh là vậy. Đến năm quý mão (1723), quan tham tụng là ông
Nguyễn Công Hãng theo phép tô, phép dung và phép điệu của nhà Đường mà châm
chước, sửa sang lại, như sau này:
Phép tô,
tức là phép đánh thuế điền thổ, cứ mỗi mẫu công điền là phải nạp 8 tiền thuế,
mà ruộng nào cấy hai mùa thì chia ba, quan lấy một phần thóc. Những đất bãi của
quan, cứ mỗi mẫu nạp thuế 1 quan 2 tiền; chỗ nào trồng dâu thì nộp một nửa bằng
tơ, chỗ nào không trồng dâu thì nộp cả bằng tiền.
Các
ruộng tư điền ngày trước không đóng thuế, đến bây giờ mới
đánh: ruộng
hai mùa mỗi mẫu 3 tiền, ruộng một mùa mỗi mẫu 2 tiền.
Phép
dung, tức là phép đánh thuế thân, cứ mỗi suất đinh là đồng niên đóng 1 quan 2
tiền. Những người sinh đồ, lão hạng và hoàng đinh108 thì đóng một nửa.
Phép
điệu, tức là phép bắt dân đóng tiền sưu dịch, cứ mỗi một suất đinh, một năm 2
mùa, mùa hạ phải đóng 6 tiền, mùa đông phải đóng 6 tiền. Quan lấy tiền ấy mà
làm các việc, không phiền đến dân nữa.
108 Lão
hạng là những người từ 50 tuổi đến 60 tuổi. Hoàng đinh là người mới có 17 đến
19 tuổi.
7. Các Thứ Thuế. Đời bấy giờ đánh thuế các
thứ thổ sản, thuế mỏ, thuế đò, thuế chợ, v.v.... nhưng mà những thuế ấy, khi
đánh khi thôi, không có nhất định.
1. Thuế Tuần Ti: Các thuyền bè chở hàng hóa
đi buôn bán ở trong sông cũng phải chịu thuế.
Trong nước lập ra cả thảy 23 sở tuần ti để thu thuế; như tre gỗ thì cứ
10 phần đánh thuế một phần; những đồ tạp hóa thì 40 phần đánh thuế một phần.
2. Thuế muối: Năm tân sửu (1721) Trịnh Cương
đặt quan Giám Dương để đánh thuế muối, cứ 10 phần, quan lấy 2 phần. Những người
buôn muối phãi lĩnh thẻ của quan Giám dương, thì mới được mua muối, mà trước
phải mua của quan đã, rồI sau mới được mua của những người làm muối. Vì đánh
thuế như thế, cho nên giá muối cao đến một tiền một đấu muối, dân sự ăn uống
khổ sở. Bởi vậy đến năm nhâm tí
(1732) Trịnh Giang
bỏ thuế muối
không đánh nữa. Đến năm bính thìn (1746) Trịnh Doanh lại
lập lại phép đánh thuế muối, cứ chia ra 50 mẫu ruộng muối làm một bếp, mỗi bếp
phải nộp 40 hộc thuế muối, mỗi một hộc đánh giá là 180 đồng tiền, tức là ba
tiền.
3. Thuế thổ sản: Năm giáp thìn (1724), Trịnh
Cương định lệ đánh thuế các thổ sản, như là vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, diêm
tiêu, than gỗ, than đá, tre, gỗ, tơ lụa, quế, cá, mắm, các đồ dụng vật như là
rượu, mật, dầu, và các đồ thập vật như là giấy, chiếu, vải, v.v....
8. Sổ Chi Thu. Về thời Trịnh Giang làm chúa, có lắm giặc giã
phải chi tiêu nhiều việc, cho nên năm kỷ mùi (1731) các quan xin đặt quan để
cùng với Hộ phiên mà làm sổ biên rõ đồng niên thu vào được bao nhiêu và phát ra
mất bao nhiêu, để liệu sự chi dụng cho vừa.
9. Việc Khai Mỏ. Nước ta từ đời bấy giờ ở
Tuyên Quang thì có mỏ đồng ở Tụ Long, mỏ bạc ở Nam Xương và ở Long Sinh. Ở Hưng
hóa thì có mỏ đồng ở Trinh Lan và Ngọc Uyển. Ở Thái Nguyên thì có mỏ đồng ở
Sáng Mộc, Yên hận, Liêm tuyền, Tống sinh, Vũ nông; mỏ vàng ở Kim mã, Tam lộng;
mỏ kẽm ở Cồn minh. Ở Lạng sơn thì có mỏ đồng ở Hoài viễn.
Những mỏ
ấy đều là người Tàu sang khai cả, bao nhiêu quyền lợi về tay người Tàu hết, của
10 phần nhà nước không được một. Mà những phu Tàu sang làm mỏ thường hay quấy
nhiễu dân sự. Tuy rằng năm đinh dậu (1717)
Trịnh Cương đã định
lệ rằng những
người Tàu sang
khai mỏ; chỗ đông lắm
chỉ được đến
300 người, chỗ
đông vừa 200
người, chỗ ít 100
người mà
thôi. Thế mà về sau có nơi phu khách đông đến hàng vạn người, rồi sinh sự đánh
nhau, thường phải dùng binh lính đi đánh dẹp mãi mới xong.
10. Việc Đúc Tiền. Nhà Hậu Lê trung hưng lên
rồi, vẫn tiêu tiền Hồng Đức, và ở trấn nào cũng có sở đúc tiền; nhưng vì có lắm
sự nhũng lạm cho nên đến năm quý dậu (1753) Trịnh Doanh mới bỏ sở đúc tiền ở
các trấn, mà chỉ để hai sở gần đất Kinh sư mà thôi. Đến năm bính thân (1776) đời Cảnh Hưng vua
Hiến Tông, khi họ Trịnh đã lấy được đất Thuận Hóa rồi, lại mở lò đúc tiền ở Phú
Xuân, đúc ra 3 vạn quan tiền Cảnh Hưng nữa.
Đời bấy
giờ cũng có đúc ra bạc lạng để tiêu dùng. Mỗi một lạng là 10 đồng, mỗi đồng giá
hai tiền. Bạc ấy chặt ra mà tiêu cũng được
11. Sự Đong Lường. Sự đong lường thì trước vẫn
theo lối cũ, cứ 6 hạp là một thăng, nhưng từ năm giáp thìn (1664) ông Phạm Công
Trứ định lại, lấy một cái ống gọi là hoàng chung quản làm chừng. Cái ống ấy
đựng được 1200 hộc thóc đen, gọi là một thược, rồi cứ 10 thược làm một hạp, 10
hạp làm một thăng, 10 thăng làm một đấu, 10 đấu là một hộc.
12. Việc In Sách. Người nước ta học chữ Nho đã
lâu mà những sách học như là Tứ Thư, Ngũ Kinh toàn thị dùng sách in của Tàu
cả. Năm giáp dần (1734) đời vua Thuần
Tông, Trịnh Giang mới bắt khắc bản in, in các sách phát ra mọi nơi và cấm không
cho mua sách in bên Tàu nữa. Ấy cũng là một sự lợi cho sự tài chính của nước
ta.
13. Việc Học Hành Thi Cử. Sự học hành về đời
Hậu Lê, thì đại khái cũng giống như đời Tiền Lê, trong nước ở đâu cũng lấy Nho
học làm trọng. Ở Quốc Tử Giám thì đặt quan tế tửu và quan tư nghiệp để làm
giảng quan, mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập.
Còn việc
thi cử là việc nhà nước chọn lấy nhân tài để dùng làm việc nước, thì đời nào
cũng có. Từ khi nhà Mạc và nhà Lê tranh nhau ngôi vua, Bắc Triều họ Mạc vẫn mở
khoa thi ở Thăng Long; Nam triều họ Lê vì bận việc binh, cho nên đến mãi năm
Canh Thìn (1580) mới mở khoa thi Hội ở Tây Đô; từ đó về sau cứ ba năm một kỳ
thi Hội, nhưng mà cách thức thi cử còn sơ lược, đến năm Giáp thìn (1664) đời
vua Huyền Tông, Trịnh Tạc mới định lại qui thức thi Hội.
Còn như
thi Hương, thì đến năm Mậu Ngọ (1678) mới định các điều lệ rõ ràng. Từ đó cứ ba năm một kỳ thi Hương: Thanh Hóa,
Nghệ An, Sơn
Nam, Sơn
Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Yên
Quảng đều có trường thi cả. Nhưng mà sự thi Hương bấy giờ hồ đồ lắm, không
nghiêm như đời Hồng Đức. Như là về đời vua Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái thì đặt
lệ ai đi thi phải nộp tiền minh kinh để lấy tiền làm nhà trường và khoản đốn
quan trường.
Đến năm
canh ngọ (1750) đời Cảnh Hưng, nhà nước thiếu tiền, lại đặt ra lệ thu tiền
thông kinh, hễ ai nộp ba quan thì dược đi, mà không phải khảo hạch. Thành ra lúc bấy giờ những người đi làm
ruộng, đi bán thịt, ai cũng được nộp quyển vào thi, đến nỗi lúc vào thi, người
tranh nhau vào trường xéo đạp lẫn nhau, có người chết. Vào ở trong trường người
thì dùng sách, kẻ đi thuê người làm bài, học trò với quan trường thì thông với
nhau, thành ra cái chợ thi. Phép thi cử bấy giờ thật là bậy.
14. Trường học võ. Đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương lại mở ra trường
học võ, đặt quan giáo thụ để dạy cho con cháu các quan vào học võ kinh chiến
lược, cứ mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập. Mùa xuân mùa thu
thì tập võ nghê, mùa đông mùa hạ thì tập võ kinh.
Lại đặt
ra lệ 3 năm một lần thi võ. Thi là đại khái là phải bắn cung, múa giáo, múa
gươm, phi ngựa mà bắn cung và chạy bộ và bắn cung, rồi sau cùng hỏi nghĩa sách
để xét học lực, hỏi phương lược để xét tài năng.
Năm canh
thân (1740) Trịnh Doanh lập võ miếu, chính vị thì thờ Vũ Vương, Khương thái
công, Tôn võ tử, Quảng tử, v.v.... Ở đàng sau thì thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn, và lại lập miếu riêng thờ Quan Công. Cứ xuân thu hai kỳ tế lễ.
15. Làm Quốc Sử. Từ khi ông Vũ Quỳnh làm sách Đại Việt Thông
Giám, mãi đến đời vua Lê Huyền Tông nhà Hậu Lê, Trịnh Tạc mới sai quan Tham
Tụng là Phạm Công Trứ soạn sách Việt Sử Toàn Thư, kể từ vua Trang Tông nhà Hậu
Lê cho đến vua Thần Tông, chia ra làm 23 quyển; nhưng mà bộ sử ấy không in. Đến
năm bính thìn (1676) đời vua Hi Tông sai Hồ Sĩ Dương xét lại bộ quốc sử, nhưng
chẳng bao lâu ông ấy mất, lại sai Lê Hi và Nguyễn Quý Đức chép nối từ vua Huyền
Tông cho đến vua Gia Tông, thêm vào 13 quyển, gọi là Quốc Sử Thực Lục.
Năm ất
tị (1775) đời Cảnh Hưng, Trịnh Sâm sai Nguyễn Hoàn, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Sĩ,
Nguyễn Du soạn quốc sử, chép thêm từ Hi Tông cho đến đời Ý Tông, gọi là Quốc Sử
Tục Biên, cả thảy là 6 quyển.
16. Sự Đánh Dẹp Giặc Giã Trong Nước. Về thời Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương làm
chúa, thì ông nào cũng hết lòng lo việc trị dân, và lại nhờ có những người tôi
giỏi như Phạm Công Trứ, Nguyễn Công Hãng, v.v... đều hết sức giúp đỡ, cho nên sửa
sang được nhiều việc, nước được yên trị.
Nhưng mà từ khi Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa, giết vua Lê, hại cả các
quan đại thần như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn và làm lắm điều tàn ác. Tính ông ấy đã tàn ngược lại hay tiêu dùng xa
xỉ, thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng, dân tình khổ sở,
giặc giã nổi lên khắp cả mọi nơi, đường sá trạm dịch đi không được, phải làm
đồn hỏa hiệu ở trên đỉnh núi để phòng khi có việc gì thì đốt lửa báo
Bấy giờ
trong triều thì có mấy người tôn thất như là Lê Duy Mật, Lê Duy Qui, Lê Duy
Chúc109 cùng với mấy người triều thần là Phạm Công Thế, Võ Thước, định đốt kinh
thành để trừ họ Trịnh, nhưng chẳng may việc lộ ra phải bỏ chạy. Ở ngoài các
trấn thì chỗ nào cũng có giặc, ở Hải Dương thì có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi
lên ở làng Ninh Xá (thuộc huyện Chí Linh), Võ Trác Oánh nổi lên ở làng Mộ Trạch
(thuộc huyện Đường An), ở đất Sơn Nam thì có Hoàng Công Chất, đều lấy tiếng phù
Lê diệt Trịnh làm cớ, bởi vậy cho nên dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo
giặc. Toán nào đông thì kể có hàng vạn người, toán nào ít thì cũng có đến hàng
trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành ấp,
quan quân đánh dẹp không được.
Đang lúc
giặc cướp như thế, Trịnh Giang cứ dâm dật vô độ, lại đào hầm làm nhà ở dưới đất
để cho khỏi sợ sấm sét, còn việc chính trị thì để cho những hoạn thần là bọn
Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy. Các quan ở phủ liêu là Nguyễn Quý Cảnh,
Nguyễn Công Thái, Võ công Tể bèn truất Trịnh Giang mà lập em là Trịnh Doanh lên
làm chúa, để lo việc đánh dẹp cho yên giặc giã.
Đời bấy
giờ giặc cướp thì nhiều, nhưng mà những giặc to phải đánh lâu, thì có Nguyễn
Tuyển, Nguyễn Cừ, và Võ Trác Oánh ở đất Hải Dương; Hoàng Công Chất, Võ Đình
Dung ở Sơn Nam; Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Diên, Tế, Bồng, ở Sơn Tây; Nguyễn
Hữu Cầu ở mặt đông nam; Lê Duy Mật ở mặt Thanh Hóa và Nghệ An. May lúc ấy lại
có những quan đánh giặc giỏi như Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình
Trọng, Nguyễn Phan, Bùi Thế Đạt, v.v.... cho nên Trịnh Doanh và Trịnh Sâm mới
dần dần dẹp yên được các nơi.
Giặc Ngân
Già: Năm canh thân (1740 trong khi đất Hải Dương, ở làng Ninh Xá, có Nguyễn
Tuyển, Nguyễn Cừ làm loạn, thì đất Sơn Nam, ở làng Ngân Già, có Vũ Đình Dung,
Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, cướp phá rất dữ,
giết cả quan
Đốc lĩnh là
Hoàng Kim Qua.
Thế giặc mạnh
lắm, Trịnh Doanh phải tự làm
tướng đem binh đi đánh, bắt được Võ Đình Dung đem chép, và đỗi tên xã Ngân Già
làm Lai Cách (nay là Gia Hòa).
Giặc
Ninh Xá: Trước hết Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Võ Trác Oánh và Nguyễn Diên dấy
binh từ năm kỷ mùi (1739) làm loạn ở Hải Dương, rồi vẫy vùng ở đất Từ Sơn,
Thuận Thành, Nam Sách và Hồng Châu. Nguyễn Cừ thì giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc,
Nguyễn Tuyển thì giữ núi Phao Sơn ở Chí Linh, làm đồn, xây lũy liên lạc với
nhau, quân lính kể có hàng mấy vạn người, quan quân đi đánh có nhiều người phải
bắt.
Năm tân
sửu (1745) quan thống lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được các đồn của
giặc ở Phao Sơn, ở Ninh Xá và ở Gia Phúc; Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Võ
Trác Oánh không biết đi đâu mất. Còn Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn được mấy
tháng lại về Đông Triều, nhưng vì hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa Vân Sơn, bị
quan Hiệp Đồng là ông Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũng đem về kinh làm tội.
Từ đó giặc Cừ và giặc Tuyển mới tan.
Nguyễn
Hữu Cầu: Nguyễn Hữu Cầu, tục gọi là quận He, người Hải Dương, trước đi ăn cướp,
sau theo Nguyễn Cừ làm giặc. Đến khi Nguyễn Cừ bị bắt rồi, Nguyễn Hữu Cầu đem
đồ đảng về giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn. Năm quý hợi (1743), Hữu Cầu giết được
quan Thủy Đạo đốc binh là Trịnh Bảng, rồi tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo
Dân Đại Tướng Quân, thanh thế lừng lẫy ở mạn ấy. Sau bị Hoàng Ngũ Phúc đem binh đến vây ở núi
Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh Bắc, quan Trấn phủ là Trần
Đình Cẩm, và quan Đốc đồng là Võ Phương Đề đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tính
mà chạy; ở Kinh Sư, được tin ấy rất lấy làm báo động.
Hoàng
Ngũ Phúc đem binh về, cùng với Trương Khuông lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế
Nguyễn Hữu Cầu vẫn mạnh, phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc
huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang
(thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu.
Trịnh
Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh Hữu Cầu ở Xương
Giang, giết được tướng của giặc là tên Thông, lấy được quân nhu chiến mã thật
là nhiều.
109 Duy
Mật và Duy Qui là con vua Dụ Tông, Duy Chúc là con vua Hi Tông.
Nguyễn
Hữu Cầu là một người kiệt hiệt nhất trong bọn làm giặc thời bấy giờ, mà lại quỷ
quyệt, ra vào bất trắc lắm; có khi bị
vây hàng mấy vòng, mà chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày
lại có hàng vạn người đi theo. Vì rằng ngày thường cướp được thóc gạo của
thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy
bao nhiêu quân lương cũng có.
Các
tướng sĩ ai cũng sợ, duy chỉ có ông Phạm Đình Trọng là đánh được Hữu Cầ mà
thôi, cho nên Hữu Cầu đào mã mẹ ông ấy đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề
không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu. Cũng vì lẽ ấy cho nên năm bính dần
(1749) Hữu Cầu cho người đem vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám
là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm
Hướng Nghĩa Hầu, lại sai quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sảng đem tờ dụ ra bảo
Phạm Đình Trọng đừng đánh Nguyễn Hữu Cầu nữa. Phạm Đình Trọng khăng khăng một
mực không chịu, bảo Nguyễn Phi Sảng rằng:
"Những người làm tướng ở ngoài dẫu có mệnh vua cũng có điều không
nên chịu. Ông vâng mệnh vua đi gọi giặc
về hàng thì ông cứ đi, tôi vâng mệnh vua đi đánh giặc, thì tôi cứ đánh".
Nói xong, cất quân đi ngay.
Lúc ấy
Phạm Đình Trọng có mộ người ở huyện Thanh Hòa, huyện Tú Kỳ, huyện Vĩnh Lại và
huyện Thượng Hồng, đặt làm 4 cơ, giao cho hai người thủ hạ cai quản. Ở phủ liêu
bọn Đỗ Thế Giai nhân lấy điều ấy mà nói gièm với Trịnh Doanh. Nhưng Trịnh Doanh vốn biết Phạm Đình Trọng
là người trung thành, không nói gì đến việc ấy, lại làm một bài thơ đưa ra cho
ông ấy để ông ấy yên lòng.
Nguyễn
Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về phá ở đất
Sơn Nam. Một hôm Phạm Đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng, Hữu Cầu nói với
thủ hạ rằng: "Ta vừa mới thua, có tin về Kinh, tất nhiên không ai phòng
bị, nay ta lẻn về đánh có lẽ được".
Nói đoạn, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời vừa
sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân
về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy.
Từ khi
thua trận Bồ Đề rồi, Hữu Cầu về cùng với Hoàng Công Chất cướp ở huyện Thần Khê
và Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi.
Hoàng
Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An hợp đảng với tên Diên ở
Hương Lãm (thuộc huyện Nam Đường). Phạm Đình
Trọng
đem quân vào đánh phá trại giặc, rồi đuổi Hữu Cầu ra đến làng Hoàng Mai bắt
được, đóng cũi
đem về nộp
chúa Trịnh. Bấy
giờ là năm
tân vị (1751) tức là năm Cảnh
Hưng thứ 12.
Nguyễn
Danh Phương: Năm canh thân (1740) tên Tế và tên Bồng làm loạn ở đất Sơn Tây,
quan Chính Tây Đại Tướng quân là Võ Tá Lý đánh bắt được cả hai tên ấy ở huyện
An Lạc (thuộc phủ Vĩnh Tường). Bấy giờ thủ hạ tên Tế là Nguyễn Danh Phương, tục
gọi là quận Hẻo, đem dư đảng về giữ núi Tam Đảo. Một mặt thì mộ quân trữ lương
và một mặt thì cho người về nói dối xin hàng.
Lúc bấy
giờ tên Cầu tên Chất đang làm loạn ở phía đông nam, cho nên Trịnh Doanh cũng
tạm cho hàng.
Năm giáp
tí (1744) tên Phương đem hơn một vạn quân về giữ đất Việt Trì, sang cướp phá ở
bên huyện Bạch Hạc. Bấy giờ quan Đốc suất Sơn Tây là Văn Đình Ức đem binh đến
vây đánh, Danh Phương chạy sang giữ làng Thanh Linh (huyện Bình Xuyên, đất Thái
Nguyên). Từ đó Danh Phương lập đại đồn ở núi Ngọc Bội (giáp huyện Bình Xuyên và
huyện Tam Dương), trung đồn ở đất Hương Canh, ngoại đồn ở đất Ức Kỳ, rồi tự
xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân, làm cung điện, đặt quan thuộc, thu các
thứ thuế ở đất Tuyên Quan, thanh thế lừng lẫy trong non 10 năm trời, thành ra
một nước riêng trong nước Nam vậy.
Năm canh
ngọ (1750) Trịnh Doanh tự đem đại quân đi đường Thái Nguyên đến đánh phá được
đồn Ức Kỳ. Khi quân tiến lên đến đồn
Hương Canh, giặc bắn súng, đạn ra như mưa, quan quân không tiến lên được Trịnh Doanh mới lấy gươm trao cho ông Nguyễn
Phan mà bảo rằng: "Đồn này phá không được thì lấy quân pháp mà trị!" Nguyễn Phan đem quân sấn vào rồi cởi áo chiến
bào ra, xuống ngựa đi bộ, và bảo những người thủ hạ rằng: "Quân sĩ có tên
ở trong sổ sách, việc gì đã có quân pháp. Chúng bay là người riêng của ta mà
hôm nay là buổi ta phải bỏ mình để giúp nước, và lại chính là ngày chúng bay
đền ơn cho ta. Vậy ai có cha già con dại, thì cho lui ra, còn thì nên cùng với
ta mà liều một trận sống chết để báo đền ơn nước, cho khỏi phụ cái tiếng râu
mày!". Thủ hạ không ai chịu lùi,
đều xin cùng xông vào, phá được đồn Hương Canh. Doanh Phương rút quân về giữ
đồn Ngọc Bội, quân Trịnh Doanh tiến lên đuổi đánh. Nguyễn Phan sai thủ hạ cầm đồ đoản binh cho
tự tiện đi trước mà vào, đại quân theo sau. Giặc giữ không nổi bỏ chạy tan cả.
Nguyễn Danh Phương chạy vào núi Độc Tôn, quan quân đuổi đến làng Tĩnh Luyện ở
huyện Lập Thạch thì bắt được. Trịnh
Doanh đem quân về Kinh đô, đi đến làng Xuân Hi, huyện Kim Anh, gặp người của
Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến.
Trịnh Doanh bèn mở
tiệc
khao quân, bắt tên Phương dâng rượu, tên Cầu thổi kèn, ba quân hôm
ấy thật
là vui vẻ.
Về đến
Kinh sư, tên Cầu và tên Phương đều phải chém cả.
Hoàng
Công Chất: Hoàng Công Chất cùng với Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên một lúc.
Trước phá ở đất Sơn Nam về hạt Khoái Châu. Đến năm ất sửu (1745) lại bắt được
và giết quan trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ, sau vì quan quân đuổi
đánh, Công Chất chạy vào Thanh Hóa rồi
ra Hưng Hóa cùng với tên Thành làm loạn ở vùng ấy. Năm tân tỵ tên Thành bị quan quân bắt được,
tên Chất chạy lên giữ động Mãnh Thiên (phía bắc Hưng Hóa) rồi chiếm giữ cả mấy
châu gần đấy, đồ đảng có hàng vạn người. Từ đó tên Chất cứ cướp phá ở đất Hưng
Hóa và đất Thanh Hóa. Mãi đến năm kỷ sửu (1769) Trịnh Sâm mới sai quan thống
lĩnh là Đoàn Nguyễn Thục đem quân Sơn Tây lên đánh động Mãnh Thiên. Khi quan
quân lên đến nơi thì Hoàng Công Chất đã chết rồi, con là Hoàng Công Toản chống
giữ không nổi, bỏ chạy sang Vân Nam. Đồ đảng tan cả.
Lê Duy
Mật: Năm mậu ngọ (1738) đời vua Ý Tông, bọn hoàng thân là Lê Duy Mật, Lê Duy
Qui và Lê Duy Chúc định mưu giết họ Trịnh, nhưng chẳng may sự không thành phải
bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau Duy Qui và Duy Chúc phải bệnh mất, còn Duy Mật giữ
đất thượng du phía tây nam. Những người đồng mưu với Duy Mật đều bị họ Trịnh
bắt được giết cả. Bấy giờ Duy Mật có bắt
được Phạm Công Thế đem ra hỏi rằng: "Ông là người khoa giáp sao lại theo
nghịch?" - Công Thế cười mà nói rằng: "Đã lâu nay danh phận không rõ,
lấy gì mà phân thuận nghịch?" Nói
rồi giương cổ ra chịu hình.
Lê Duy
Mật từ khi chạy về Thanh Hóa, chiêu tập binh sĩ, rồi từ năm canh thân (1740) là
Cảnh Hưng năm đầu, về đánh ở đất Hưng Hóa và Sơn Tây, sau lại cùng với giặc là
tên Tương giữ đồn Ngọc Lâu (thuộc huyện Thạch Thành). Đến khi tướng họ Trịnh phá được đồn Ngọc Lâu,
tên Tương tử trận, Lê Duy Mật lại chạy vào Nghệ An, rồi sang Trấn Ninh giữ núi
Trình Quang làm căn bản.
Năm giáp
tí (1764) Lê Duy Mật sai người đem thư vào cầu cứu với chúa Nguyễn là Vũ
Vương. Nhưng chúa không muốn gây sự với
họ Trịnh, cho nên không giúp.
Năm
đinh hợi
(1767) được tin Trịnh Doanh vừa
mất, con là Trịnh Sâm lên làm chúa, Lê Duy Mật đem quân về đánh ở đất
Hương Sơn và đất
Thanh
Chương rồi lại rút về Trấn Ninh. Trịnh
Sâm cho người đưa thư sang vỗ về không được, mới quyết ý dùng binh để dứt mối
loạn.
Năm kỷ
sửu (1769) Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt làm thống lĩnh đất Nghệ An, Nguyễn Phan làm
chánh đốc lĩnh đất Thanh Hóa, Hoàng Đình Thể làm đốc binh đất Hưng Hóa, cả ba
đạo đều tiến sang đánh Trấn Ninh. Khi qua6n của Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan đến
vây Trình Quang. Lê Duy Mật định cứ giữ hiểm không ra đánh. Không ngờ là người
con rể là Lại Thế Chiêu làm phản, mở cửa lũy cho quân họ Trịnh vào. Duy Mật biết có nội biến, bèn cùng với vợ
con tự đốt mà chết
* * *
Tóm lại
mà xét, thì những công việc của họ Trịnh sửa đổi ở miền Bắc cũng nhiều, và có
thể chia ra làm ba thời kỳ:
Thời kỳ
thứ nhất vào khoảng Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng và Trịnh Tráng. Lúc bấy giờ còn phải
đánh họ Mạc ở phía Bắc, rồi lại chống với họ Nguyễn ở phía Nam, cho nên trong
thời kỳ ấy chỉ có việc chiến tranh ở ngoài mà thôi, còn những công việc trong
nước không sửa sang được mấy.
Thời kỳ
thứ hai là vào khoảng Trịnh Tạc, Trịnh Căn và Trịnh Cương. Lúc bấy giờ việc
chiến tranh đã yên, trong nước bình trị, cho nên trong thời kỳ ấy các chúac mới
sửa sang và chỉnh đốn lại những phép tắc, luật lệ, việc thuế khóa, sự học hành,
thi cử, v.v....
Thời kỳ
thứ ba là
vào khoảng Trịnh
Giang, Trịnh Doanh
và Trịnh Sâm. Vì Trịnh Giang thất chính cho nên trong thời
kỳ này có lắm giặc giã, quan quân phải đánh đông dẹp bắc trong ba bốn năm trời,
thành ra không làm được việc gì ích lợi, đến nỗi dân nghèo nước yếu, chính trị
điêu tàn, bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà nhà Trịnh đổ, nhà Lê cũng mất.
CHƯƠNG
VI
Công-việc
họ Nguyễn làm ở
miền Nam
1. Quan-chế
2. Thi-cử
3. Việc võ-bị
4. Việc thuế-khóa
5. Số tiền chi-thu trong nước
6. Lấy đất Chiêm-thành
7. Mở đất Nam Việt và sự giao-thiệp
với Chân-lạp
8. Việc giao-thiệp với nước Tiêm-la
9. Việc lập dinh định phủ
Họ
Nguyễn đã giữ riêng một cõi ở phía nam, lập ra nghiệp chúa, lưu- truyền đời nọ
qua đời kia, bởi vậy cho nên
chính-trị, thuế-lệ, binh-lính,
việc gì cũng tự sửa-sang và xếp đặt lấy như là một nước tự-chủ vậy.
1.
Quan-Chế. Lúc họ Nguyễn chưa ra mặt chống nhau với họ Trịnh thì
quan-lại vẫn ở
ngoài Bắc bổ
vào nhưng mà
từ khi chúa
Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên không
chịu nộp thuế cho nhà Lê, và đem quân chống giữ
với quân họ Trịnh ở bắc Bố-Chính thì các quan-viên đều do chúa Nguyễn
đặt lấy cả.
Ở Chính
dinh là chỗ chúa đóng thì đặt tam-ti để giúp chúa coi việc chính- trị.
Tam-ti
là: Xá sai-ti, Tướng-thần-lại-ti, Lệnh-sử-ti.
1. Xá-sai-ti giữ việc từ tụng văn án. Có
quan Đô-tri, Ký-lục làm
đầu.
2. Tướng-thần-lại-ti giữ việc thu tiền thu
thuế, chi-phát lương- thực cho quan các đạo. Có quan cai-bạ làm đầu.
3. Lệnh-sử-ti giữ việc tế tự, tết nhất và
việc chi-cấp lương cho quân ở chính dinh. Có quan Nha-úy làm đầu.
Mỗi ti
lại có quan Cai-hợp, Thủ-hợp và các lại-ti để làm mọi việc.
Ở ngoài
các dinh, thì có nơi chỉ đặt có một Lệnh-sử-ti kiêm cả việc Xá-sai-ti và
Tướng-thần-lại-ti, có nơi thì đặt Xá-sai-ti và Lệnh-sử-ti để coi việc quân dân,
từ tụng, đinh điền, sổ sách, thuế khóa, v.v. nghĩa là tùy nơi quan-trọng hay là
không, mà thêm bớt quan-viên.
Ở phủ
huyện, thì đặt tri-huyện, tri-phủ, để coi việc từ tụng, thuộc hạ thì có đề-lại,
thông-lại, chuyên việc khám xét. Lại có huấn đạo, lễ-sinh, chuyên việc tế-tự ở
chỗ sở tại. Còn việc thu thuế thì đặt quan khác để coi về việc ấy.
Đến đời
chúa Thượng Nguyễn phúc Lan (1635-1648) lại đặt thêm chức nội-tả, ngoại-tả,
nội-hữu, ngoại-hữu, gọi là tứ trụ để giúp chúa trị dân.
Về đàng
quan võ thì đặt chức: chưởng-đinh, chưởng-cơ, cai-cơ, cai-
đội để
coi việc binh.
2. Thi Cử. Năm đinh-hợi (1674) chúa Nguyễn
mở khoa thi gọi là thi chính đồ và thi hoa-văn.
Thi
chính đồ chia ra làm ba kỳ: kỳ đệ-nhất
thi tứ-lục, kỳ đệ-nhị thi thơ-phú, kỳ đệ-tam thi văn-sách. Quan tri-phủ tri-huyện làm sơ-khảo, quan
cai-bạ, ký-lục, vệ-úy làm giám-khảo. Những quyển đậu, thì chia ra làm ba hạng:
hạng thứ nhất gọi là giám-sinh, được bổ ra làm tri-phủ, tri-huyện; hạng thứ nhì
gọi là sinh đồ được bổ làm huấn đạo; hạng thứ ba cũng gọi là sinh đồ được bổ
làm lễ-sinh, hoặc làm nhiêu-học.
Thi
hoa-văn thì cũng phải ba ngày, mỗi ngày chỉ phải làm có một bài thơ mà thôi. Ai
đậu thì được bổ vào làm việc ở Tam-ti.
Năm
ất-hợi (1695) Quốc-chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) mở khoa thi ở trong phủ
chúa, gọi là thi Văn-chức và thi Tam-ti. Thi Tam-ti là thi Xá-sai ti, thi Tướng-thần-lại-ti và thi
Lệnh-sử-ti. Thi Văn-chức thì thi tứ- lục, thơ-phú, văn-sách; thi Xá-sai-ti thì
hỏi về việc binh-lính, tiền lương, từ tụng; thi Tướng-thần-lại-ti và Lệnh-sử-ti
thì chỉ làm một bài thơ mà thôi.
Năm
canh-thân (1740), Vũ-vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) định lại phép
thi: những người đậu kỳ đệ-nhất gọi là
nhiêu-học, được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ-nhị và kỳ đệ-tam thì được miễn sai
chung thân; đậu kỳ đệ-tứ gọi là hương-cống, được bổ đi làm tri-phủ, tri-huyện.
Xem như
vậy thì sự thi-cử ở miền Nam đời bấy giờ còn sơ-lược lắm.
3. Việc Võ-Bị. Họ
Nguyễn bấy giờ
phải chống nhau
với họ Trịnh cho nên phải lo việc
võ-bị hơn. Quân thì chia ra làm năm cơ
gọi là: trung cơ, tả cơ, hữu cơ, tiền cơ, hậu cơ. Số quân độ chừng non ba vạn
người.
Năm
tân-mùi (1631) chúa Sãi lập ra sở đúc súng đại-bác và mở trường bắn, trường tập
voi, tập ngựa, cứ hằng năm luyện-tập để phòng-bị chiến-tranh.
4. Việc Thuế-Khóa. Điền-thổ chia ra làm 3
hạng để đánh thuế. Lại có hạng gọi là thu điền, khô thổ, nghĩa là ruộng đất xấu
thì thuế đánh lại nhẹ hơn ruộng đất thường.
Những
công điền thì cấp cho dân cày-cấy để nộp thuế; còn ai khai-khẩn
được đất
hoang ra làm ruộng, thì cho là tư điền.
Thuế mỏ.
Ở đất Quảng-nam, Thuận-hóa có mỏ vàng; ở đất Quảng- nghĩa có mỏ bạc; ở đất
Bố-chính có mỏ sắt. Các mỏ ấy đều đánh thuế cả.
Thuế
xuất-cảng nhập-cảng. Lệ cứ những tàu ở Thượng-hải và ở Quảng đông lại, thì phải
nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300 quan. Tàu ở Mả-cao, ở Nhật-bản lại, thì
phải nộp 4.000 quan, đến lúc đi phải nộp 400 quan. Tàu ở Tiêm-la, ở Lã-tống
lại, thì phải nộp 2.000 quan, đến lúc đi phải nộp 200 quan. Tàu ở các nước
phương Tây lại, thì phải nộp 8.000 quan, đến lúc về phải nộp 800 quan.
Thuế ấy
chia ra làm 10 thành: 6 thành thì đem vào kho, còn 4 thành để nộp cho quan-lại,
binh-lính đã coi về việc thu thuế.
5. Số tiền chi-thu trong nước. Năm quí đậu
(1753) Vũ- vương sai quan Chưởng-thái-giám là Mai văn Hoan tính số vàng, bạc và
tiền thu vào phát ra mỗi năm là bao nhiêu.
Bấy giờ
số tiền thì có năm thu vào được hơn 338.100 quan, mà phát ra mất hơn 364.400
quan; có năm được hơn 423.300 quan, mà phát ra mất hơn 369.400 quan. Vàng thì
có năm thu được 830 lượng, có năm được 890 lượng. Bạc thì thứ giáp-ngân (?) có
năm thu được 240 lượng, có năm được 390 lượng; thứ dung-ngân (?) có năm được
2.400 lượng, có năm được 1.800
lượng;
thứ kê-ngân (?) có năm được 10.100 đồng, có năm được 400 đồng, cũng có năm
không có đồng nào.
Tính đổ
đồng lại từ năm bính-dần (1746) đến năm nhâm-thân (1752) nghĩa là trong 7 năm,
số vàng được 5.768 lượng, số giáp ngân được 9.978 lượng, số dung-ngân được
14.276 lượng, số kê-ngân được 21.150 đồng.
Từ đó
trở đi mỗi năm phải làm sổ kê rõ ra trong năm vàng bạc và tiền thu vào và phát
ra mất bao nhiêu, lệ cứ đến ngày mồng ba tháng giêng năm sau dâng lên để chúa
xem.
Những
tiền tiêu trong nước, thì có tiền đồng và tiền kẽm, khắc hai chữ thái-bình.
6. Lấy
đất Chiêm-Thành. Trước
Trịnh Kiểm chỉ
cho Nguyễn Hoàng vào trấn-thủ đất Thuận-hóa mà thôi; sau đến năm
canh-ngọ (1570) họ Trịnh đòi quan trấn-thủ Quảng-nam là Nguyễn Bá Quýnh về trấn
đất Nghệ-an, để đất Quảng-nam cho Nguyễn Hoàng kiêm lĩnh.
Năm
tân-hợi (1611) Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm-thành lấy đất lập ra phủ
Phú-yên; chia ra làm hai huyện là Đồng-xuân và Tuyên-hòa. Đến năm quí-tị (1653)
vua nước Chiêm-thành là Bà Thấm sang quấy-nhiễu ở đất Phú-yên, chúa Hiền là
Nguyễn Phúc Tần mới sai quan cai-cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng
thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ
sông
Phan-lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan-lang trở ra lấy làm
Thái-ninh-phủ, sau đổi làm phủ Diên-khánh (tức là Khánh-hòa bây giờ), đặt dinh
Thái-khang để Hùng Lộc làm thái-thú.
Năm
quí-dậu (1693) vua nước Chiêm-thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn
là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng-binh là Nguyễn hữu Kính (con Nguyễn hữu Dật)
đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn thần-tử là Tả trà Viên, Kế bà Tử cùng
thân-thuộc là Bà Ân đem về Phú-Xuân. Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm-thành làm
Thuận-phủ, cho Tả trà Viên, Kế bà Tử làm chức Khám-lý và ba người con của Bà Ân
làm đề đốc giữ Thuận-phủ, lại bắt phải đổi y phục theo như người Việt-nam để
phủ dụ dân Chiêm- thành. Qua năm sau lại đổi Thuận-phủ ra làm Thuận-thành-trấn,
cho Kế bà Tử làm tả-đô-đốc. Năm đinh-sửu (1697) chúa Nguyễn đặt phủ Bình-thuận
lấy đất Phan-lý (Phan-tri) Phan-lang (Phan-rang) làm huyện Yên-phúc và huyện
Hòa-đa.
Từ đó
nước Chiêm-thành mất hẳn.
Nước
Chiêm-thành chính là nước Lâm-ấp ngày trước đã từng qua mấy trăm năm, cùng với
họ Lý, họ Trần đối địch, chống với quân Mông-cổ, không cho xâm phạm vào cõi,
lập nên một nước có vua, có tôi, có chính-trị, có luật-pháp. Nhưng chỉ hiềm vì người nước ấy cứ hay sang
cướp phá ở đất Việt-nam, thành ra hai nước không mấy khi hòa hiếu được với
nhau.
Đã là
đối địch thì không sao tránh khỏi được cái luật chung của tạo- hóa là: khỏe
còn, yếu chết. Vì vậy cho nên từ khi vua Thánh-tông nhà Lê đã lấy đất Quảng nam
và đã chia nước Chiêm ra làm 3 nước rồi, thì từ đó về sau thế-lực nước ấy mỗi
ngày một kém, dân tình mỗi ngày một suy. Chẳng những là đến nỗi mất nước với
chúa Nguyễn mà chủng-loại Chiêm-thành bây giờ cũng chẳng còn được mấy nghìn
người nữa. Một nước trước như thế, mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa
với nước ta mặc lòng, song nghĩ cũng thương-tâm thay cho những nước yếu-hèn
không tránh khỏi được cái họa: cá nhỏ bị
cá lớn nuốt.
7. Mở đất Nam-Việt và sự giao thiệp với
Chân-Lạp.
Nguyên
nước Chân-lạp ở vào quãng dưới sông Mê-kông, có lắm sông nhiều ngòi, ruộng đất
thì nhiều mà nước Nam ta thường hay mất mùa, dân-tình phải đói khổ luôn, và lại
vào lúc chúa Nguyễn, chúa Trịnh đánh nhau, cho nên nhiều người bỏ vào khẩn đất,
làm ruộng ở Mô-xoài (Bà-rịa) và ở Đồng- nai (nay thuộc Biên-hòa).
Năm
mậu-tuất (1658) vua nước Chân-lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau, sang cầu cứu
bên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan đem 3.000 quân sang
đánh ở Mỗi-xuy (nay thuộc huyện Phước- chánh, tỉnh Biên-hòa) bắt được vua nước
ấy là Nặc ông Chân đem về giam ở Quảng-bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt
phải triều-cống và phải bênh- vực người Việt-nam sang làm ăn ở bên ấy.
Năm
giáp-dần (1674), nước Chân-lạp có người Nặc ông Đài đi cầu- viện nước Tiêm-la
để đánh Nặc ông Nộn.
Nặc ông
Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái-khang (nay là Khánh-hòa). Chúa Hiền bèn
sai Cai-cơ đạo Nha-trang là Nguyễn dương Lâm cùng với Nguyễn đình Phái làm
tham-mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc ông Đài, phá được đồn Sài-gòn,
rồi tiến quân lên vây thành Nam- vang. Nặc ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết
ở trong rừng. Nặc ông Thu ra hàng. Nặc ông Thu là chính dòng con trưởng cho nên
lại lập làm chánh quốc-vương đóng ở Long-úc, để Nặc ông Nộn làm đệ-nhị
quốc-vương, đóng ở Sài-gòn, bắt hằng năm phải triều cống.
Năm kỷ-tị
(1679) có quan nhà Minh là tổng-binh trấn-thủ đất Long- môn (Quảng-tây) Dương
ngạn Địch, phó-tướng Hoàng Tiến, tổng-binh châu Cao, châu Lôi, và châu Liêm
(thuộc Quảng-đông) là Trần Thượng Xuyên, phó-tướng Trần
an Bình, không chịu
làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân cùng 50 chiếc thuyền
sang xin ở làm dân Việt-nam. Chúa Hiền nhân muốn khai-khẩn đất Chân-lạp, bèn
cho vào ở đất Đông-phố (tức là đất Gia định). Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc
đã (tức là đất Đồng-nai thuộc Biên-hòa), ở Mỹ-tho (thuộc Định-tường), ở Ban-lân
(thuộc Biên-hòa) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường-phố, có người phương tây,
người Nhật-bản, người Chà-và đến buôn bán đông lắm.
Năm
mậu-thìn (1688) những người khác ở Mỹ-tho làm loạn. Hoàng Tiến giết Dương ngạn Địch đi, rồi đem chúng
đóng đồn ở Nan-khê, làm tàu đúc súng để chống nhau với người Chân-lạp. Vua
Chân-lạp là Nặc ông Thu cũng đào hào đắp lũy để làm kế cố thủ và bỏ không chịu
thần-phục chúa Nguyễn nữa.
Bấy giờ
chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc Trăn sai quan đem quân đi đánh dẹp, dùng mưu giết
được Hoàng Tiến và bắt vua Chân-lạp phải theo lệ triều-cống.
Năm
mậu-dần (1698) chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc Chu sai ông Nguyễn hữu Kính làm
kinh-lược đất Chân-lạp, chia đất Đông-phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng-nai
làm huyện Phúc-long và Sài-gòn làm huyện Tân-bình. Đặt Trấn-biên dinh (tức là
Biên-hòa) và Phan-trấn dinh (tức là Gia định) sai quan vào cai-trị. Lại chiêu-mộ những kẻ lưu dân từ Quảng-bình
trở vào để lập ra thôn-xã và khai-khẩn ruộng đất. Còn những người Tàu ở đất
Trấn-biên (Biên-hòa) thì lập làm xã Thanh-hà, những người ở đất Phan-trấn (Gia
định) thì lập làm xã Minh-hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta.
Bấy giờ
lại có người khách Quảng đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh cướp ngôi nhà
Minh bên Tàu, bỏ sang ở Chân-lạp, thấy ở phủ Sài-mạt có nhiều người các nước
đến buôn-bán, bèn mở sòng đánh bạc, rồi lấy tiền chiêu-mộ những lưu dân lập ra
7 xã, gọi là Hà-tiên. Năm mậu-tí (1708) Mạc Cửu xin thuộc về chúa Nguyễn; chúa
phong cho làm chức tổng- binh, giữ đất Hà-tiên.
Đến khi
Mạc Cửu mất, chúa Nguyễn lại phong cho con Mạc Cửu là Mạc thiên Tứ làm chức đô
đốc, trấn ở Hà-tiên. Mạc thiên Tứ đắp thành, xây
lũy, mở
chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho-học để khai-hóa đất Hà- tiên.
Thời bấy
giờ đất Chân-lạp cứ loạn lạc luôn. Năm
kỷ-mão (1699) vua nước ấy là Nặc ông Thu đem quân chống với quân chúa Nguyễn,
chúa sai quan tổng-suất Nguyễn hữu Kính sang đánh. Quân ta sang đến thành Nam-
vang, Nặc ông Thu bỏ chạy, con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm mở cửa thành ra hàng.
Sau Nặc ông Thu cũng về hàng, xin theo lệ triều-cống như cũ. Quân ta rút về.
Được ít
lâu vua thứ hai là Nặc ông Nộn mất, vua thứ nhất là ông Nặc ông Thu phong cho
con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm làm quan và lại gả con gái cho. Sau Nặc ông Thu
già yếu, truyền ngôi cho con là Nặc ông Thâm.
Năm
ất-dậu (1705) Nặc ông Thâm nghi cho Nặc ông Yêm có ý làm phản, bèn khởi binh
đánh nhau. Nặc ông Thâm lại đem quân Tiêm-la về giúp mình. Nặc ông Yêm phải
chạy sang cầu cứu ở Gia định.
Chúa
Nguyễn sai quan cai-cơ là Nguyễn cửu Vân sang đánh Nặc ông Thâm. Nguyễn cửu Vân
sang phá được quân Tiêm-la; đem Nặc ông Yêm về thành La-bích. Từ đó Nặc ông Thâm ở Tiêm-la cứ thỉnh-thoảng
đem quân về đánh Nặc ông Yêm.
Năm
giáp-ngọ (1714) quân của Nặc ông Thâm về lấy thành La-bích và vây đánh Nặc ông
Yêm nguy-cấp lắm. Nặc ông Yêm sai người sang Gia định cầu-cứu. Quan đô đốc
Phiên-trấn (Gia-định) là Trần thượng Xuyên và quan phó-tướng Trấn-biên
(Biên-hòa) là Nguyễn cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc ông Thu và Nặc ông
Thâm ở trong thành La-bích. Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm sợ-hãi, bỏ thành chạy
sang Tiêm-la. Bọn ông Trần thượng Xuyên lập Nặc ông Yêm lên làm vua Chân-lạp.
Năm
tân-hợi (1729) quân Chân-lạp sang quấy-nhiễu ở hạt Gia định.
Chúa
Nguyễn bèn đặt sở Điều-khiển để thống-nhiếp việc binh ở mạn ấy.
Năm
bính-thìn (1736) Nặc ông Yêm mất, con là Nặc ông Tha lên làm vua. Đến năm
mậu-thìn (1747) Nặc ông Thâm lại ở bên Tiêm-la về, cử binh đánh đuổi Nặc ông
Tha đi, rồi chiếm lấy ngôi làm vua. Nặc ông Tha phải bỏ chạy sang Gia định.
Được ít
lâu Nặc ông Thâm mất, con là Nặc Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yếm tranh nhau. Chúa
Nguyễn bèn sai quan Điều-khiển là Nguyễn hữu Doãn đem quân sang đánh bọn Nặc
Đôn và đem Nặc ông Tha về nước.
Nặc ông
Tha về được mấy tháng lại bị người con thứ hai của Nặc ông Thâm là Nặc Nguyên
đem quân Tiêm-la sang đánh đuổi đi. Nặc ông Tha chạy sang chết ở Gia định.
Nặc
Nguyên về làm vua Chân-lạp thường hay hà-hiếp rợ Côn-man110 và lại thông sứ với
chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết tình-ý ấy,
đến năm quí-dậu (1753), sai Nguyễn cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm ất-hợi
(1755) Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam-vang chạy sang Hà-tiên nhờ Mạc thiên Tứ.
Năm sau
Mạc thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm-bôn và
Lôi-lạp để chuộc tội, và xin cho về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ
ông Nguyễn cư Trinh dâng sớ bày-tỏ cách khai- thác nên dùng kế "tầm
thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá, thì mới chắc chắn được.
Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân-lạp.
Năm
đinh-sửu (1759) Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám-quốc. Nặc Nhuận
còn đang lo để xin chúa Nguyễn phong cho làm vua, thì bị người con rể là Nặc
Hinh giết đi, rồi cướp lấy ngôi làm vua.
Quan
tổng-suất là Trương phúc Du thừa kế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy bị thuộc-hạ
giết chết, bấy giờ con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc thiên Tứ ở
Hà-tiên. Mạc thiên Tứ dâng thư về xin lập Nặc Tôn làm vua Chân-lạp. Chúa Nguyễn
thuận cho, sai Thiên Tứ đem Nặc Tôn về nước.
Nặc Tôn
dâng đất Tầm-phong-long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa bèn sai ông Trương phúc Du
và Nguyễn cư Trinh đem dinh Long-hồ về xứ Tầm-bào, tức là chỗ tỉnh-lỵ tỉnh
Vĩnh-long bây giờ, và lại đặt ra ba đạo là Đông-khẩu đạo ở Sa-đéc, Tân-châu đạo
ở Tiền-giang và Châu đốc đạo ở Hậu-giang.
Nặc Tôn
lại dâng 5 phủ là Hương-úc, Cần-bột, Trực-sâm, Sài-mạt và Linh-quỳnh để tạ ơn
Mạc thiên Tứ. Mạc thiên Tứ đem những
đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà-tiên cai-quản.
Vậy đất
6 tỉnh Nam-Việt bây giờ là đất lấy của nước Chân-lạp mà người Việt-nam
khai-thác ra.
110
Côn-man là chỗ những người Chiêm Thành sang tụ họp ở tại xứ Chân Lạp
8. Việc giao-thiệp với nước Tiêm-La. Tiêm-la
là một nước ở về phía tây-nam sông Mê-kông dòng đõi người Thái sang ở đấy.
Cứ theo
sử ta và sử Tàu thì thoạt đầu tiên gọi là nước Phù-nam. Đến quãng nhà Tùy và
nhà Đường bên Tàu là vào quãng thế-kỷ thứ sáu, thứ bảy thì đất Phù-nam chia ra
làm hai: một nửa về phía đông có một dân-tộc khác đến lập ra nước Chân-lạp, còn
một nửa về phía tây thì người Phù-nam ở gọi là nước Xích-thổ.
Vào
quãng nhà Tống, nhà Kim (thế-kỷ thứ XI, thứ XII) thì nước Xích- thổ lại chia ra
làm hai: một nước gọi là La-hộc, một nước gọi là Tiêm. Lúc nhà Nguyên làm vua
bên Tàu (thế-kỷ thứ XIII, thứ XIV) thì sử có chép hai nước ấy sang cống.
Về sau
nước La-hộc gồm được cả nước Tiêm, mới gọi là nước Tiêm- la-hộc. Đến đầu nhà
Minh (cuối thế-kỷ thứ XIV) vua nước ấy sang cầu phong bên Tàu, vua Thái-tổ nhà
Minh mới phong là nước Tiêm-la111.
Nước Tiêm-la
lúc đầu còn
nhỏ-yếu, thường bị
người Chân-lạp áp- chế.
Sau cường-thịnh dần
dần lên, rồi
vào khoảng năm
Vạn-lịch (1573- 1620) nhà Minh,
nước Tiêm-la lại đánh Chân-lạp mà hùng-bá cả phương ấy.
Trong
thời ấy vua Tiêm-la là Phra Naroi dòng dõi nhà Ayouthia dùng một người Hi-lạp
tên là Constantin Phaulcon làm tướng. Người ấy xin vua giao-thiệp với nước
Pháp. Bởi vậy năm 1620 mới có bọn sứ-thần Tiêm-la sang bái-yết Pháp-hoàng Louis
XIV ở tại Versailles.
Thủa bấy
giờ chúa Nguyễn còn đang khai sáng ở đất Phú-yên, Khánh-hòa, nhưng về sau chúa
Nguyễn lấy hết đất Chiêm-thành, lại lấn sang đất Chân-lạp. Người Tiêm-la có ý
muốn ngăn-trở để giữ lấy Chân-lạp làm của mình.
Nhưng vì thế chúa Nguyễn mạnh hơn, cho nên phải chịu để chúa Nguyễn sang
bảo-hộ Chân-lạp.
Tuy vậy
nước Tiêm-la thường hay dùng những người phản đối với vua Chân-lạp, rồi giúp
binh-lực cho về làm loạn trong nước. Nhiều khi quân ta phải sang đánh đuổi quân
Tiêm-la để giúp quốc-vương Chân-lạp. Cũng có khi quân Tiêm-la sang đánh ở đất
Hà-tiên, như năm ất-tị (1715) người Chân-lạp là Nặc Thâm đem quân Tiêm-la sang
cướp phá, quan tổng-binh Hà-tiên là Mạc Cửu phải bỏ thành mà chạy.
Quân ta
và quân Tiêm-la đã giao chiến nhiều lần, cho nên hai bên không thông sứ với
nhau. Mãi đến năm canh-ngọ (1750) đời chúa Nguyễn là Võ-vương Nguyễn-phúc
Khoát, thì mới thấy sử chép rằng chúa sai quan đem thư
sang trách nước
Tiêm-la dung-túng kẻ
nghịch-thần để làm
loạn nước Chân-lạp.
Năm
ất-hợi (1755) nước Tiêm-la sai sứ sang xin đừng đánh thuế những thuyền của nước
ấy sang buôn-bán ở đất chúa Nguyễn. Chúa đáp thư lại rằng thuế ấy là quốc-lệ đã
đặt ra không thể bỏ đi được.
Năm
đinh-hợi (1767) quân nước Diến-Điện sang đánh Tiêm-la bắt được vua nước ấy là
Phong-vương112 và con là Chiêu Đốc cùng mấy vạn người dân đem về Diến-Điện. Còn
những người con của Phong-vương là Chiêu xỉ Khang thì chạy sang Chân-lạp và
Chiêu Thúy thì chạy sang Hà-Tiên.
Bấy giờ
nước Tiêm-la không có vua, chức Phi-nhã (Phya) đất Mang- tát là Trịnh quốc Anh
bèn khởi binh tự lập làm vua. Trịnh quốc
Anh là người Triều-châu, tỉnh Quảng đông, cha tên là Yển sang ở đất Tiêm-la làm
trưởng ở Mang-tát. Yển chết, Trịnh quốc
Anh lên nối nghiệp xưng là Phi-nhã, là một chức xã-trưởng vậy.
Trịnh
quốc Anh lên làm vua rồi sai sứ sang bắt vua Chân-lạp là Nặc Tôn phải sang
cống. Nặc Tôn lấy lẽ rằng Trịnh quốc Anh
không phải là dòng dõi người Tiêm-la, không chịu cống.
Vua
Tiêm-la lấy điều ấy làm hiềm, sai tướng là Bôn Ma đem người Chân-lạp tên là Nặc
Non về đánh Nặc Tôn. Nặc Tôn giữ vững các nơi, quân Tiêm-la không làm gì được
lại phải rút về.
Trịnh
quốc Anh biết con vua cũ là Chiêu Thúy còn ở Hà-tiên, sợ ngày sau sinh ra biến
loạn, bèn đến tháng 10 năm tân-mão (1771) đem binh- thuyền sang vây đánh
Hà-tiên. Quan tổng-binh là Mạc thiên Tứ giữ không nổi phải bỏ thành chạy.
Vua
Tiêm-la để tướng là Trần Liên, ở lại giữ Hà-tiên rồi tiến quân sang đánh
Chân-lạp. Quốc-vương là Nặc Tôn phải bỏ chạy. Vua Tiêm-la đóng quân ở thành
Nam-vang và lập Nặc Non lên làm vua Chân-lạp.
111 Nước
Thái Lan ngày nay. 112 Vua nước Tiêm La
bấy giờ có bệnh hủi, cho nên sử gọi là Phong Vương
Tháng 6
năm sau (1772) chúa Nguyễn sai quan tổng-suất là Nguyễn cửu Đàm lĩnh chức
Điều-khiển đem binh-thuyền đi đánh quân Tiêm-la. Quân của Nguyễn cửu Đàm tiến
sang đến Nam-vang, quân Tiêm-la bỏ chạy về Hà-tiên, Nặc Non cũng chạy về
Cầu-bột.
Nặc Tôn
lại về làm vua Chân-lạp.
Vua
Tiêm-la về đến Hà-tiên sai người đưa thư sang gọi Mạc thiên Tứ về để
giảng-hòa. Mạc thiên Tứ không chịu. Vua Tiêm-la bèn để Trần Liên ở lại giữ
Hà-tiên, rồi bắt con gái Mạc thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về nước.
Năm sau
Mạc thiên Tứ thấy việc không xong, bèn sai người sang Tiêm-la xin hòa. Vua
Tiêm-la gọi Trần Liên về và cho người con gái của Mạc thiên Tứ về Hà-tiên. Còn
Chiêu Thúy thì đem giết đi.
Từ đó
Mạc thiên Tứ lại về giữ đất Hà-tiên.
9. Lập dinh định phủ. Lúc đầu, Nguyễn Hoàng
mới vào trấn đất Thuận-hóa thì đóng dinh ở làng Ái-tử (thuộc huyện Đăng-xương,
gần tỉnh-lỵ tỉnh Quảng-trị). Được 13 năm
sau (1570) Nguyễn Hoàng lại dời vào làng Trà-bát ở huyện ấy, tức là Cát Dinh.
Đến năm bính-dần (1626) chúa Sãi là Nguyễn phúc Nguyên sắp sửa chống nhau với
chúa Trịnh, mới dời dinh vào
làng Phúc-an (thuộc
huyện Quảng-điền, tỉnh
Thừa-thiên bây giờ) và đổi chỗ tư
sở là phủ.
Năm
bính-tí (1636) chúa Thượng là Nguyễn phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim-long
(thuộc huyện Hương-trà, tỉnh Thừa-thiên).
Năm
đinh-mão (1687) chúa Nguyễn là Nguyễn phúc Trăn đem phủ về làng Phú-xuân, tức
là đất Kinh-thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái-tông-miếu,
thờ chúa Hiền.
Năm
giáp-tí (1744) Vũ-vương mới xưng vương-hiệu đổi phủ ra làm
điện,
sửa-sang phép-tắc, và định triều-phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh.
1. Chính dinh (Phú-xuân)
2. Cựu dinh (Ái-tử)
3. Quảng-bình dinh
4. Vũ-xá dinh
5. Bố-chính dinh
6. Quảng-nam dinh
7. Phú-yên dinh |
8. Bình-khang dinh | đất Chiêm-thành
9. Bình-thuận dinh |
10. Trấn-biên dinh }
11. Phiên-trấn dinh } đất Chân-lạp
12. Long-hồ dinh }
Dinh nào
cũng đặt quan Trấn-thủ, quan Cai-hạ, quan Ký-lục để coi việc cai-trị. Còn phủ Quảng-nghĩa và phủ Qui-nhơn thì thuộc
về tỉnh Quảng- nam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần-phủ và quan Khám-lý để
coi mọi việc. Đất Hà-tiên thì đặt là
Trấn, có quan đô đốc cai-trị.
Tóm lại
mà xét, họ Nguyễn làm chúa miền nam, nhưng trước thì vẫn giữ chức vua Lê phong
cho, mãi đến đầu thế-kỷ thứ XVIII năm nhâm-ngọ (1702) Nguyễn phúc Chu mới sai
người sang cống vua nhà Thanh để xin phong làm vua, nhưng Thanh-triều nói rằng
nước Nam còn có họ Lê không phong được cho họ Nguyễn. Việc ấy lại im đi.
Nguyễn-phúc Chu bèn xưng là quốc-chúa và đúc cái ấn Đại-Việt-Quốc Nguyễn Chúa
Vĩnh Trấn Chi Bảo để làm cái Truyền-quốc-bảo, đến đời vua Thế-tổ mới thôi. Đến
năm giáp-tí (1744) Nguyễn-phúc Khoát mới xưng vương-hiệu và đổi lại chế độ,
định ra triều-nghi.
Bấy giờ
đất phía nam tuy độc-lập, nhưng họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua và
vẫn không đặt quốc-hiệu. Nhưng người ngoại-quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là
Quảng-nam quốc. Đấy là vì ở Quảng-nam có phố Hội-an (Faifo) là chỗ người Tàu và
người các nước ra vào buôn bán, cho nên mới lấy tên Quảng-nam mà gọi.
Còn
những công-việc họ Nguyễn làm ở phía nam quan-trọng cho nước Nam ta hơn cả, là
việc mở-mang bờ-cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là
chiêu-mộ những người nghèo-khổ trong nước đưa đi khai-hóa những đất phì-nhiêu
bỏ hoang, làm thành ra Nam-Việt bây giờ phồn-phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công
họ Nguyễn với nước Nam thật là to lắm vậy.
CHƯƠNG
VII
Người
Âu-châu sang nước Nam
I. SỰ ĐI TÌM ĐẤT
1. Người Âu-châu sang Á-đông
2. Người Âu-châu sang đất Việt-nam
II. SỰ ĐI TRUYỀN GIÁO
1. Đạo Thiên-chúa
2. Đạo Thiên-chúa sang nước Việt-nam
Nguyên
người Âu-la-ba đi du-lịch thiên-hạ là vì có hai cớ: một là đi ìm đất để buôn-bán, hai là để
truyền-bá tông-giáo Thiên-chúa ở các nước.
1. Sự đi tìm đất. Người Âu-châu sang Á đông
- Từ đời La- mã, đã có sách chép người Âu-châu sang đến nước Tàu, nhưng không
rõ cách giao-thiệp ra làm sao;
đến thập-tam thế-kỷ
mới có ông
Marco Polo, người nước I-ta-li
sang ở triều nhà Nguyên về đời vua Thế-tổ Tất Liệt hằng 17 năm, rồi sau đi qua
Ấn-độ-dương về nước, làm ra quyển sách: "Thế-giới kỳ-quan" (Les merveilles du monde), kể những chuyện
ông ấy đã biết.
Về sau
vào thập-ngũ thế-kỷ, ông Kha Luân Bố
(Christophe Colomb) dùng địa-bàn chỉ nam (boussole) định đi qua Đại-tây
dương sang Ấn độ, rồi tìm thấy châu
A-mỹ-lị-gia (Amérique); đến
năm 1479, người
Bồ đào-nha (Portugal) tên là
Vasco de Gama đi vòng qua Hảo-vọng-giác (Cap de Bonne Espérance) sang
Ấn-độ-dương vào đất Ấn độ. Năm 1521 lại có người Bồ đào-nha tên là Magellan đi
qua Ấn độ dương sang Thái-bình-dương vào đất Phi-luật-tân (Philippines).
Từ đó về
sau người Bồ đào-nha (Portugal) mới sang Tây-ban-nha (Espagne) và người Hòa-lan
(Hollande) mới sang Á đông lấy đất thuộc địa và mở cửa hàng buôn-bán như sau
này:
Năm quí-hợi
(1563) về đời Gia-tĩnh nhà Minh, người Bồ-đào-nha đến ở đất Áo-môn (Macao) nước
Tàu.
Năm
mậu-thìn (1568) người Tây-ban-nha sang lấy đất Phi-luật-tân làm thuộc địa.
Năm
bính-thân (1596) người Hòa-lan sang lấy đất Trà-và (Java) làm thuộc địa. Về sau
dần dần người Bồ-đào-nha, người Pháp-lan-tây (France) và người Anh-cát-lợi
(Angleterre) đến ở đất Ấn độ.
Người
Âu-châu sang đất Việt-nam. Người Âu-châu sang buôn-bán ở nước ta, thì có người
Bồ-đào-nha đến ở xứ Nam trước hết cả, mở cửa hàng ở phố Hội-an (tức là Faifo)
thuộc đất Quảng-nam. Ở đấy lại có người Tàu, người Nhật-bản và người Hòa-lan
đến buôn-bán nhiều lắm. Sách của ông Maybon và Russier có chép rằng năm giáp
dần (1614) đời chúa Sãi đã có người Bồ-đào-nha tên là Jean de la Croix đến lập
lò đúc súng ở đất Thuận- hóa, mà bây giờ ở Huế người ta còn gọi chỗ ấy là
Phường đúc.
Ở ngoài
Bắc thì trước đã có tàu của người Bồ-đào-nha ra vào buôn-bán, nhưng mãi đến năm
đinh-sửu (1637) đời vua Thần-tông nhà Lê, Thanh đô- vương Trịnh
Tráng mới cho
người Hòa-lan đến
mở cửa hàng
ở Phố-Hiến (gần chỗ tỉnh-lỵ
Hưng-yên bấy giờ). Về sau ở đấy có người
Nhật-bản, người Tàu, người Tiêm-la đến buôn-bán kể có 2.000 nóc nhà, làm thành
ra chỗ vui-vẻ lắm, cho nên tục-ngữ bấy giờ có câu rằng:
"Thứ
nhất Kinh-kỳ, thứ nhì Phố-hiến"
Lúc bấy
giờ người Bồ-đào-nha sang buôn-bán ở trong Nam nhiều hơn, mà ở ngoài Bắc thì có
người Hòa-lan nhiều hơn, nhưng thủa ấy người hai nước ấy hay tranh-cạnh với
nhau, bởi thế chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có ý muốn nhân cớ ấy mà nhờ họ giúp
mình. Song vì lợi buôn-bán cho nên họ không chịu ra mặt giúp hẳn, thành ra lâu
ngày các chúa cũng chán và lại lôi-thôi về việc tông-giáo, cho nên đến năm
canh-thìn (1700) đời vua Lê Hi-tông, người Hòa-lan thôi không vào buôn-bán ở
ngoài Bắc nữa.
Đời bấy
giờ người Anh-cát-lợi và người Pháp-lan-tây cũng vào buôn- bán ở nước ta. Năm
nhâm-tí (1672) đời vua Lê Hi-tông, người Anh-cát-lợi đem chiếc tàu Zant vào xin
mở cửa hàng buôn-bán, chúa Trịnh cho xuống ở Phố-hiến, nhưng vì sau sự buôn-bán
không được thịnh-lợi, người Anh-cát-lợi chỉ ở đến năm đinh-sửu (1697) rồi thôi.
Còn
người Pháp-lan-tây thì từ năm canh-thân (1680) đã có tàu vào xin mở cửa hàng ở
Phố-hiến; đến năm nhâm-tuất (1682) lại có chiếc tàu Saint Joseph ở Tiêm-la sang
đem phẩm-vật dâng chúa Trịnh.
Ở trong
Nam thì năm bính-dần (1686) có người Pháp tên là Verret được phép mở cửa hàng ở
cù-lao Côn-lôn. Đến năm kỷ-tị (1749) lại
có một người Pháp tên là Poivre đi chiếc tàu Machault vào cửa Hội-an, xin vào
yết- kiến chúa Nguyễn và dâng tờ quốc-thư cùng phẩm-vật để tỏ tình giao hiếu
của hai nước. Chúa Nguyễn cũng đáp thư lại, thuận cho người Pháp vào
thông-thương. Nhưng chẳng được bao lâu thì công-ty của Pháp ở Ấn độ bãi đi,
cho nên sự thông thương với người Pháp cũng bãi.
2. Sự đi truyền giáo. Đạo Thiên-chúa. Nguyên
khi xưa toàn xứ Âu-la-ba không có nhất định một tông-giáo nào cả. Mỗi dân-tộc
thờ một vị thần riêng của mình. Thường
hay lấy cái lực hoạt động của tạo-hóa mà tưởng-tượng ra các vị thần, rồi làm đền,
làm đài, để thờ cúng. Như dân- tộc Hi-lạp
(Grec) và dân-tộc La-mã (Romain) thờ thần Giu-bi-te (Jupiter), thần A-bô-lông
(Apollon) và các vị thần khác vậy. Duy
có dân-tộc Do-thái (Juifs) ở đất Tiểu Á-tế-á, nay là đất Palestine đã được
độc-lập, chỉ thờ một vị thần gọi là Jéhovah sinh-hóa vạn vật và người; cho nên
người chỉ phải thờ một vị thần ấy mà thôi.
Đến đời dân La-mã đã kiêm-tính được cả đất Tiểu Á-tế-á, đất bắc
A-phi-lị-gia và đất tây-nam Âu-la-ba, dân Do-thái cũng thuộc về La-mã, mà đạo
Do-thái bấy giờ cũng đã suy lắm rồi. Lúc ấy đức Gia-tô ra đời, nhân đạo Do-thái
mà lập ra đạo mới113 dạy người lấy sự yêu-mến và tôn-kính Thiên-chúa làm gốc,
lấy bụng từ-bi nhân thứ, coi người như anh em ruột thịt làm cốt. Từ đó về sau các môn đồ đem đạo ấy đi
truyền-bá các nơi. Ông Saint Pierre thì sang lập giáo đường ở tại Kinh-thành
La-mã, ông Saint Paul thì đi truyền đạo ở khắp trong nước.
Lúc đầu
đạo Thiên-chúa bị nhiều phen vua La-mã nghiêm-cấm, dùng cực hình mà giết hại
các giáo-sĩ và những người theo đạo mới, nhưng dẫu nguy-nan thế nào mặc lòng,
các môn đồ cứ một niềm đi truyền đạo khắp bốn phương. Mãi đến đầu đệ-tứ thế-kỷ (313) vua La-mã là
Constantin mới cho giảng đạo Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi
đạo Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên-chúa một ngày
một thịnh, lập Giáo-hoàng để thống-nhất việc giáo, đặt Giám-mục để coi việc
giáo ở các nơi, lại sai giáo-sĩ đi truyền đạo khắp trong thiên-hạ: hễ ở đâu có
người là có giáo-sĩ đến dạy đạo. Bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà toàn Âu đều
theo đạo Thiên-chúa cả.
Bên Á
đông ta thì từ đời nhà Đường (618-907) sử chép có Cảnh- giáo114 tức là một phái
Gia-tô-giáo đã sang Tàu, nhưng vì bấy giờ đạo Phật đang thịnh, cho nên đạo
Cảnh-giáo mất dần đi. Mãi đến đời nhà
Nguyên, nhà Minh mới thật có giáo-sĩ sang giảng đạo Gia-tô ở nước Tàu.
Đạo
Thiên-chúa sang nước Nam. Ở nước Nam ta từ khi đã có người Âu-la-ba sang buôn
bán, thì tất là có giáo-sĩ sang dạy đạo. Cứ theo sách Khâm định Việt-sử, thì từ
năm Nguyên-hòa nguyên-niên đời vua Trang-tông nhà Lê (1533) có người Tây tên là
I-nê-khu đi đường bể vào giảng đạo Thiên-chúa ở làng Ninh-cường, làng Quần-anh,
thuộc huyện Nam-chân (tức là Nam-trực) và ở làng Trà-lũ, thuộc huyện Giao-thủy.
Sách
Nam-sử của Trương vĩnh Ký chép rằng năm bính-thân (1596) đời ông Nguyễn Hoàng
có người giáo-sĩ Tây-ban-nha tên là Diego Adverte vào giảng đạo ở trong Nam
trước hết cả. Nhưng lúc bấy giờ lại có mấy chiếc tàu Tây-ban-nha cùng đến, chúa
Nguyễn sợ có ý quấy-nhiễu gì chăng, bèn đuổi đi.
Đến năm
ất-mão (1615) đời chúa Sãi, giáo-sĩ là P. Busomi lại đến giảng đạo, rồi đến năm
giáp-tí (1624) có giáo-sĩ tên là Jean Rhodes, người Pháp-lan-tây, đến giảng đạo
ở Phú-xuân và lập ra các giáo đường. Năm bính-dần (1626) đời vua Lê Thần-tông,
giáo-sĩ là Baldinoti vào giảng đạo ở ngoài
Bắc, bị chúa
Trịnh không cho,
phải bỏ đi.
Được ít lâu
ông Jean Rhodes ở trong Nam ra
Bắc vào yết-kiến chúa Trịnh và đem dâng các đồng- hồ quả lắc, chúa Trịnh cho
ông Jean Rhodes được giảng đạo tại Kinh đô.
Từ đó về
sau các giáo-sĩ cứ dần dần vào nước dạy đạo, mà người mình càng ngày càng theo
đạo cũng nhiều. Nhưng vì nước ta tự xưa đến nay vẫn theo Nho-giáo, lấy sự
thờ-cúng ông cha làm trọng, lấy sự tế-tự thần-thánh làm phải, mà lệ nước thì
lấy sự cúng-tế làm một việc rất quan- trọng. Đột nhiên thấy nhiều người mình
theo đạo Thiên-chúa, bỏ cả các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi
vậy cho nên trong Nam ngoài Bắc, vua chúa đều cho đạo ấy là một tả đạo, làm
hủy-hoại cả cái phong-hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm không cho
người trong nước theo đạo mới nữa, và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những kẻ
không tuân theo chỉ đụ ấy.
Cứ theo
trong sử thì năm tân-vị (1631) ở trong Nam, chúa Thượng là Nguyễn-phúc Lan cấm
không cho người Tây vào giảng đạo ở trong nước.
113 Đạo
của ông Gia Tô lập ra cho nên ta thường gọi là đạo Gia Tô, lại vì đạo ấy chỉ
thờ Thiên Chúa mà thôi, cho nên lại gọi là đạo Thiên Chúa. Có phái gọi là Cơ
đốc bởi chữ Christ là bậc cứu thế.
114 Cảnh
giáo là một phái đạo Gia Tô của người chủ giáo tên là Nestorius lập ra từ đệ
ngũ thế kỷ ở Đông La Mã, rồi truyền sang nước Ba Tư (Perse) và nước Tàu.
Năm
quí-mão (1663) ở ngoài Bắc, chúa Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo-sĩ và cấm
không cho người mình theo đạo Gia-tô.
Năm
giáp-thìn (1644) chúa Hiền ở miền Nam bắt giết những người
đi giảng
đạo ở Đà-nẵng.
Năm
bính-tí (1696) đời vua Lê Hi-tông, Trịnh Căn bắt đốt phá hết cả những sách đạo
và nhà đạo ở các nơi và đuổi những người giảng đạo ra ngoài nước.
Năm
nhâm-thìn (1712) đời vua Lê Dụ-tông, Trịnh Cương bắt những người theo đạo
Gia-tô phải cạo trán và khắc vào mặt bốn chữ "học Hoa-lan đạo"115.
Năm
giáp-tuất (1754) đời Cảnh-hưng, Trịnh Doanh lại nghiêm-cấm một cách rất ngặt,
không cho người ta đi theo đạo, và lại giết cả các đạo- trưởng và đạo đồ.
Từ đó về
sau việc cấm đạo một ngày một nghiêm, mà người đi giảng đạo cũng không lấy luật
nước làm sợ, cứ cố sức dụ cho được nhiều người theo đạo. Rồi dần dần người
trong nước phân ra bên lương bên giáo, ghen-ghét nhau hơn người cừu địch. Vua
quan thì thấy dùng phép thường không cấm được, mới dùng đến cực hình để mà
trừng-trị, giết hại bao nhiêu người vô tội.
Tóm lại
mà xét, thì giả sử người ngoại quốc vào nước ta mà chỉ có việc buôn bán mà
thôi, thì chắc rằng nước ta xưa nay vốn là một nước văn hiến, vua quan ta cũng
không có lẽ gì mà ngăn-cấm; nhưng bởi vì khi đã quan-hệ đến việc sùng-tín, thì
dù hay dở thế nào mặc lòng, người ta ai cũng cho sự sùng-tín của mình là phải
hơn, thành ra không ai khoan dung cho ai, rồi cứ phải dùng thế-lực để mà đè-nén
nhau. Cũng vì thế cho nên về sau nước ta không chịu suy-xét lẽ phải-trái cho
kỹ-càng, làm lắm sự tàn-ác để đến nỗi mất cả sự hòa-hiếu với các nước ở Tây
dương và gây nên cái mối biến-loạn cho nước nhà vậy.
CHƯƠNG
VIII
Vận
Trung Suy của Chúa Nguyễn
1. Trương Phúc Loan chuyên quyền
2. Tây Sơn dấy binh
3. Quân họ Trịnh vào lấy Phú Xuân
4. Chúa Nguyễn vào Gia Định
5. Nguyễn Vương khởi binh đánh Tây Sơn
6. Nguyễn Vương định cầu viện nước Pháp Lan
Tây
7. Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La
1. Trương Phúc Loan chuyên quyền.
Từ ông Nguyễn Hoàng trở đi, họ Nguyễn làm chúa trong Nam: phía bắc chống nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy đất Chiêm thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương là Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu. Vũ Vương định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, và phong cho người con thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu làm thế tử.
Từ ông Nguyễn Hoàng trở đi, họ Nguyễn làm chúa trong Nam: phía bắc chống nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy đất Chiêm thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương là Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu. Vũ Vương định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, và phong cho người con thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu làm thế tử.
Năm ất
dậu (1765) Vũ Vương mất. Bấy giờ thế tử đã mất rồi, con thế tử là Nguyễn Phúc
Dương hãy còn nhỏ, mà người con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Tờ di chiếu
để lại định lập người con thứ hai lên nối nghiệp chúa116. Nhưng khi ấy người
quyền thần là Trương Phúc Loan, ý muốn chuyên quyền làm bậy, bèn đổi tờ di
chiếu đi mà lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi, lên làm chúa,
gọi là Định Vương.
Trương
Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác, trong nước ai ai cũng oán
giận, bởi thế cho nên, ở phía nam thì có Tây Sơn dấy binh đánh phá tại đất Qui
Nhơn; ở mặt bắc thì có quân họ Trịnh vào lấy đất Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ
Nguyễn xiêu đổ vậy.
115 Hoa
Lan tức là Hòa Lan (Hollande). Người Hòa Lan sang buôn bán ở ngoài Bắc trước
hết cả cho nên mới gọi là đạo Hòa Lan. Vả lúc bấy giờ người Việt Nam ta không
phân biệt được những nước nào, hễ thấy người Tây thì thường cứ gọi là Hòa Lan
116 Tức
là hoàng khảo vua Thế Tổ, sau truy tôn là Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế.
2. Tây Sơn Dấy Binh.
Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly (nay đổi là Phù Cát) đất Quy Nhơn, có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh phản đối với chúa Nguyễn.
Lúc bấy giờ ở huyện Phù Ly (nay đổi là Phù Cát) đất Quy Nhơn, có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh phản đối với chúa Nguyễn.
Nguyên
ông tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước,
người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh
nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn117 thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh
là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy
Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ.
Anh em
ông Nhạc muốn khởi loạn, mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục
nhân tâm, vì rằng đất trong Nam vẫn là đất của chúa Nguyễn.
Nguyễn
Nhạc trước làm biện lại ở Vân Đồn, cho nên sau người ta thường gọi là biện
Nhạc. Nhưng vì tính hay đánh bạc, tiêu mất cả tiền thuế, sợ phải tội, bỏ đi vào
rừng làm giặc. Đến năm tân mão (1771) mới lập đồn trại ở đất Tây Sơn, chiêu nạp
quân sĩ, người theo về càng ngày càng đông. Thường hay lấy của nhà giàu cho nhà
nghèo, cho nên những kẻ nghèo khổ theo phục rất nhiều.
Thế
Nguyễn Nhạc mỗi ngày một mạnh, quân nhà chúa đánh không được. Vả lại Nhạc là
một người có can đảm và lắm cơ trí; một hôm định vào lấy thành Qui Nhơn, bèn
lập mưu, ngồi vào trong cái cũi, cho người khiêng vào nộp quan Tuần Phủ ở đấy
là Nguyễn Khắc Tuyên. Nguyễn Khắc Tuyên tưởng là thật, cho đưa vào trong thành.
Đến nửa đêm, Nhạc phá cũ ra, mở cửa thành cho quân mình vào đánh đuổi quan quân
đi, giữ lấy thành Qui Nhơn làm chỗ căn bản. Bấy giờ lại có mấy người khách buôn
tên là Tập Đình và Lý Tài cũng mộ quân nổi lên theo giúp Tây Sơn. Nguyễn Nhạc
chia quân ra làm 5 đồn là: trung, tiền, hậu, tả, hữu, rồi tiến lên đánh lấy đất
Quảng Nam. Chẳng bao lâu từ đất Quảng Nghĩa bây giờ vao cho đến Bình Thuận đều
thuộc về Tây Sơn cả.
3. Quân Họ Trịnh vào lấy Phú Xuân.
Đang khi trong Nam có quyền thần chuyên chính ở trong, Tây Sơn đánh phá ở ngoài, ở ngoài Bắc chúa Trịnh là Trịnh Sâm biết tình trạng như vậy, bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc đem thủy bộ hơn 3 vạn quân cùng với Hoàng Phùng Cơ, Hoàng
Đang khi trong Nam có quyền thần chuyên chính ở trong, Tây Sơn đánh phá ở ngoài, ở ngoài Bắc chúa Trịnh là Trịnh Sâm biết tình trạng như vậy, bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc đem thủy bộ hơn 3 vạn quân cùng với Hoàng Phùng Cơ, Hoàng
117 Ấp
Tây Sơn nay là đất thôn An Khà và thôn Cửu An thuộc phủ Hoài Nhân. Vì anh em
Nguyễn Nhạc khởi nghiệp ở chỗ ấy, nên mới gọi là Tây Sơn.
Đình
Thể, Hoàng Đình Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ Nguyễn, giả nói là vào đánh
Trương Phúc Loan.
Đến
tháng 10 năm giáp ngọ (1774) quân Hoàng Ngũ Phúc sang sông Linh Giang, sai
Hoàng Đình Thể đem binh đến đánh lấy lũy Trấn Ninh, nhờ có nội ứng, cho nên
không đánh mà lấy được lũy. Trịnh Sâm
được tin Hoàng Ngũ Phúc đã phá được thành Trấn Ninh rồi, bèn quyết kế đem đại
binh đi vào tiếp ứng. Đến tháng chạp thì quân của Ngũ Phúc tiến lên đóng ở làng
Hồ Xá (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị) rồi truyền hịch đi nói rằng quân Bắc
chỉ vào đánh Trương Phúc Loan mà thôi, chứ không có ý gì khác cả. Các quan ở
Phú Xuân bèn mưu bắt Phúc Loan đem nộp.
Hoàng
Ngũ Phúc bắt được Trương Phúc Loan rồi, lại tiến binh đến huyện Đăng Xương, sai
người đưa thư đến Phú Xuân nói rằng Phúc Loan tuy đã trừ, nhưng mà Tây Sơn hãy
còn, vậy xin đem binh đến hội tại Phú Xuân để cùng đi đánh giặc.
Chúa
Nguyễn biết mưu Hoàng Ngũ Phúc chực đánh lừa để lấy kinh thành, bèn sai Tôn
Thất Tiệp cùng với quan Chưởng cơ là Nguyễn Văn Chinh đem thủy bộ quân ra án
ngữ ở sông Bái Đáp Giang (nay gọi là Phu lệ ở huyện Quảng Điền). Hoàng Ngũ Phúc
sai Hoàng Đình Thể đem binh đi lên đường núi rồi tiến binh hai mặt đánh ập lại,
quân họ Nguyễn vỡ tan bỏ chạy cả, quân Bắc tiến lên lấy thành Phú Xuân, chúa
Nguyễn và các quan chạy vào Quảng Nam.
Bấy giờ
Trịnh Sâm đóng ở Hà Trung, được tin Hoàng Ngũ Phúc đã lấy được Phú Xuân rồi,
mừng lắm, sai quan đưa cho Ngũ Phúc 100 lạng vàng, và cho các tướng sĩ 5000
lạng bạc, lại phong cho Ngũ Phúc làm Đại Trấn Phủ, đất Thuận Hóa để lo việc lấy
đất Quảng Nam. Đoạn rồi Trịnh Sâm rút
quân về Bắc.
4. Chúa Nguyễn vào Gia Định.
Chúa Nguyễn vào đến Quảng Nam đóng ở Bến Vân, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm đông cung, để lo việc đánh giặc. Được mấy tháng quân Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo ra đánh lấy Quảng Nam, quân Chúa Nguyễn đánh không nổi, thua chạy về đóng ở Trà Sơn.
Chúa Nguyễn vào đến Quảng Nam đóng ở Bến Vân, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm đông cung, để lo việc đánh giặc. Được mấy tháng quân Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo ra đánh lấy Quảng Nam, quân Chúa Nguyễn đánh không nổi, thua chạy về đóng ở Trà Sơn.
Chúa
Nguyễn liệu chừng không chống giữ được, bèn cùng người cháu là ông Nguyễn Phúc
Ánh xuống thuyền chạy vào Gia Định, để Đông Cung ở lại Quảng Nam chống giữ với
giặc. Đông cung đóng đồn ở làng Câu Để (thuộc huyện Hòa Vinh).
Nguyễn
Nhạc biết Đông cung yếu thế, và lại muốn lấy tiếng để mà sai chúng, bèn sai
người đi rước Đông cung về đóng ở phố Hội An (Faifo, thuộc Quảng Nam).
Ngay lúc
ấy quân của Hoàng Ngũ Phúc đã qua Hải Vân Sơn vào lấy đồn Trung Sơn và đồn Câu
Để ở huyện Hòa Vinh, Nguyễn Nhạc sai người khác là Tập Đình làm tiên phong, Lý
Tài làm trung quân, tự mình làm hậu tập ra đánh nhau với quân họ Trịnh ở làng
Cẩm Sa (thuộc Hòa Vinh). Quân của Tập
Đình đều là người khách Quảng Đông và những người mọi to lớn, ai nấy cởi trần
ra đội khăn đỏ cầm phang, đeo khiên, đánh thật là hung mạnh. Quân tiền đội của
Ngũ Phúc đương không nội, Ngũ Phúc mới sai Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ đem
kỵ binh vào xông trận, rồi bộ binh đánh tràn vào. Tập Đình thua chạy. Nguyễn
Nhạc và Lý Tài phải lùi về giữ bến Bản rồi đưa Đông Cung về Quy Nhơn. Tập Đình
vốn là người bạo ngược, Nguyễn Nhạc
muốn nhân dịp
thua trận bắt
giết đi. Tập
Đình biết ý
bỏ chạy về Quảng Đông bị quan nhà Thanh bắt được đem
chém.
Lúc bấy
giờ ở phía nam có quan Lưu thủ đất Long Hồ là Tống Phúc Hợp đem quân đánh lấy
lại được ba phủ là Bình Thuận, Diên Khánh và Bình Khánh, rồi lại tiến binh ra
đánh đất Phú Yên; ở phía bắc thì có quân họ Trịnh đóng ở Quảng Nam, Nguyễn Nhạc
liệu thế chống không nổi, bèn sai Phan Văn Tuế đem thư và vàng lụa ra nói với
Hoàng Ngũ Phúc xin nộp đất Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên và xin làm tiền khu
đi đánh họ Nguyễn.
Hoàng
Ngũ Phúc cũng muốn dùng Nguyễn Nhạc để đánh đất Gia Định, bèn làm biểu xin chúa
Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm tiên phong tướng quân, Tây Sơn Hiệu trưởng, sai
Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn kiếm vào cho Nguyễn Nhạc.
Nguyễn
Nhạc không lo mặt bắc nữa, bèn lập mưu để đánh lấy đất Nam, đem con gái mình là
Thọ Hương dâng cho Đông Cung và khoảng đãi một cách rất tôn kính, rồi sai người
giả đến nói với Tống Phúc Hợp xin về hàng để lo sự khôi phục lại đất Phú Xuân.
Tống Phúc Hợp cho sứ đến xem hư thực, Nguyễn Nhạc đưa Đông Cung ra tiếp, rồi
viết thư cho sứ đưa về nói lấy nghĩa phù lập Đông Cung, điện an xã tắc, Tống
Phúc Hợp tin là thực tình, không phòng bị gì nữa.
Nguyễn
Nhạc biết rõ tình hình, sai em là Nguyễn Huệ đem quân đến đánh Tống Phúc Hợp.
Quân họ Nguyễn thua to bỏ chạy về giữ Vân Phong. Nguyễn Nhạc cho người đưa tin
thắng trận ra cho Hoàng Ngũ Phúc biết. Ngũ
Phúc xin chúa
Trịnh phong cho
Nguyễn Huệ làm
Tây Sơn Hiệu
Tiên Phong Tướng Quân.
Quân
Hoàng Ngũ Phúc đóng ở Châu Ổ, giáp đất Quảng Nghĩa, đến tháng chạp năm ấy là
năm ất tị (1775) bị dịch chết mất nhiều.
Ngũ Phúc viết thư ra xin chúa Trịnh cho rút về giữ Thuận Hóa. Trịnh Sâm thuận cho. Hoàng Ngũ Phúc về đến
Phú Xuân thì mất, chúa Trịnh sai Bùi Thế Đạt vào thay, và sai Lê Quý Đôn vào
làm Tham Thị cùng giữ đất Thuận Hóa.
Đất
Thuận Hóa bấy giờ kể từ đất Nam bố chính trở vào là 2 phủ: Triệu Phong và Quảng
Bình118, 2 huyện, 8 châu. Số nhân đinh được 126.857, số ruộng đất rộng được
265.508 mẫu, nhưng mà trừ đất rừng và các thứ đi, thì còn được 153.181 mẫu phải
đóng thuế.
Từ khi
quân họ Trịnh lui về Thuận Hóa rồi, đất Quảng Nam lại thuộc về Tây Sơn. Năm
bính thân (1776) Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Lữ đem thủy quân vượt bể vào đánh
Gia Định, lấy được thành Sài Côn. Chúa Nguyễn phải chạy về Trấn Biên (tức là
Biên Hòa).
Bấy giờ
ở Đông Sơn có Đỗ Thành Nhân khởI binh chống với Tây Sơn lấy lại thành Sài Côn.
Nguyễn Lữ lấy thóc gạo rồi rút quân về Quy Nhơn.
Nguyễn
Nhạc thấy thế mình một ngày một mạnh, bèn sai sửa lại thành Đồ Bàn (là kinh
thành cũ của Chiêm Thành ngày trước) rồi đến tháng ba năm bính thân (1776) tự
xưng làm Tây Sơn Vương và phong chức tước cho mọi người. Bấy giờ Tây Sơn đem
Đông Cung ra ở chùa Thập Tháp. Đông Cung bèn trốn xuống thuyền chạy về Gia
Định.
Người
khách Lý Tài trước đã bỏ Nguyễn Nhạc theo giúp chúa Nguyễn, rồi sau lại phản
lại, đánh chúa Nguyễn, nay nghe Đông cung trốn về, lại đem binh rước về Sài Côn
lập lên làm Tân Chính Vương, tôn Định Vương làm Thái Thượng Vương để cùng lo sự
khôi phục.
Năm đinh
dâu (1777) Nguyễn Nhạc sai người ra xin với chúa Trịnh cho trấn thủ đất Quảng
Nam, Trịnh Sâm bấy giờ cũng chán sự dụng binh, bèn nhân dịp phong cho Nguyễn
Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ, Tuyên Úy đại sứ, Cung Quận Công.
Nguyễn
Nhạc được phong rồi, không phải phòng giữa mặt bắc nữa, bèn sai Nguyễn Lữ và
Nguyễn Huệ đem thủy bộ quân vào đánh Gia Định. Lý Tài chống khôngh nổi phải bỏ
chạy. Tân Chính Vương chạy về bến Trà (thuộc Định Tường) rồi lại chạy về Ba vát
(thuộc Vĩnh Long), còn Thái
118
Triệu Phong phủ có 5 huyện; Quảng Bình phủ có 3 huyện 1 châu.
Thượng
Vương thì chạy về Long Xuyên. Nhưng chẳng bao lậu Nguyễn Huệ đem quân đuổi bắt
được cả Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương, đem giết đi.
Nguyễn
Lữ và Nguyễn Huệ lấy xong đất Gia Định, để tổng đốc Chu ở lại trấn thủ, rồi đem
quân về Quy Nhơn. Qua năm sau là năm mậu tuất (1778) Nguyễn Nhạc tự xưng đế
hiệu, đặt niên hiệu là Thái Đức, gọi thành Đồ Bàn là Hoàng Đế Thành, phong cho
Nguyễn Lữ làm Tiết Chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương Tướng Quân.
5. Nguyễn Vương Khởi Binh Đánh Tây Sơn.
Khi Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương bị bắt, thì người cháu Thái Thượng Vương là Nguyễn Phúc Ánh, chạy thoát được. Đến khi Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Nguyễn Phúc Ánh lại tụ tập những tôi tớ cũ, khởi binh từ đất Long Xuyên, tiến lên đến Sa đéc, và cùng với quan chưởng dinh là Đỗ Thanh Nhân, quan cai đội Lê Văn Câu119 và các tướng là Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương về đánh đuổi tổng đốc Chu, lấy lại thành Sài Côn. Bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh mới có 17 tuổi, các tướng đều tôn làm Đại Nguyên Súy, Nhiếp Quốc Chính.
Khi Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương bị bắt, thì người cháu Thái Thượng Vương là Nguyễn Phúc Ánh, chạy thoát được. Đến khi Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, Nguyễn Phúc Ánh lại tụ tập những tôi tớ cũ, khởi binh từ đất Long Xuyên, tiến lên đến Sa đéc, và cùng với quan chưởng dinh là Đỗ Thanh Nhân, quan cai đội Lê Văn Câu119 và các tướng là Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương về đánh đuổi tổng đốc Chu, lấy lại thành Sài Côn. Bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh mới có 17 tuổi, các tướng đều tôn làm Đại Nguyên Súy, Nhiếp Quốc Chính.
Được ít
lâu vua Tây Sơn lại sai tổng đốc Chu, tư khấu Uy, và quan hộ giá Phạm Ngạn đem
quân thủy vào đánh Trấn Biên và Phan trấn cùng các miền ở mặt bể. Đỗ Thanh Nhân
đem quân Đông Sơn đánh chém được tư khấu Uy, đuổi được quân Tây Sơn đi, ông
Nguyễn Phúc Ánh bèn sai Lê Văn Quân đem binh ra đánh lấy thành Bình Thuận và
thành Diên Khánh.
Từ khi
khôi phục được đất Gia Định rồi, Nguyễn Phúc Ánh sai sứ sang thông với nước
Tiêm La, và lại sai Đỗ Thanh Nhân, Hồ Văn Lân đem binh đi đánh Chân Lạp, lập
con Nặc Tôn là Nặc In lên làm vua để Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ. Ở đất Gia Định thì ngài sửa sang mọi việc:
đặt quan cai trị các dinh, định lệ thu thuế để nuôi binh lính, làm chiến
thuyền, tập binh mã để phòng bị việc chiến tranh.
Năm canh
tí (1780) Nguyễn Phúc Ánh xưng vương hiệu rồi phong cho Đỗ Thanh Nhân làm chức
Ngoại Hữu, Phụ Chính, Thượng Tướng Công, và thăng thưởng cho các tướng sĩ.
Nhưng sau vì Đỗ Thanh Nhân cậy công lộng quyền, cho nên Nguyễn Vương mới giết
đi. Cũng vì việc ấy cho nên Đông Sơn trước đã hết lòng giúp Nguyễn Vương, sau
đều bỏ cả, và lại phản lại, thành ra lôi thôI phải đánh dẹp mãi.
119 Lê
Văn Câu là người ở Vĩnh Tường đất Gia Định, trước theo Châu Văn Tiếp sau làm
thuộc tướng Đỗ Thanh Nhân.
Tháng 10
năm tân sửu (1781) vua nước Tiêm La là Trịnh Quốc Anh sai tướng là Chất Tri
(Chakkri) và Sô Si, hai anh em sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Vương sai quan Chưởng
cơ là Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đem 3000 quân sang cứu. Trong khi quân Nam
và quân Tiêm La còn đang chống giữ nhau ở Chân Lạp, thì ở Vọng Các vua nước
Tiêm La bắt giam cả vợ con của hai anh em Chất Tri, bởi vậy hai tướng ấy mới
giao kết với Nguyễn Hữu Thoại thề phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn. Đoạn rồi
Chất Tri đem quân về Tiêm La. Ngay lúc ấy ở bên nước Tiêm có giặc nổi lên, vua
nước ấy bị ngươi Phan Nha Văn Sản đuổi
đi cướp mất ngôi. Chất Trí về đến
Vọng Các, sai người đi tìm quốc vương là Trịnh Quốc Anh đem giết đi, và bắt
giết cả Phan Nha Văn Sả, rồi tự lập làm vua, xưng là Phật Vương, phong cho
em là
Sô Si làm
đệ nhị vương,
cháu là Ma
Lạc làm đệ
tam vương. Họ Chakkri làm vua đến nay hãy còn, và các
vua đều xưng là Rama.
Tháng ba
năm nhâm dần (1782) vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiếc
thuyền vào cửa Cần Giờ, đánh nhau với quân Nguyễn Vương ở Thất Kỳ Giang (tức
Ngả Bảy). Trận ấy quân Nguyễn Vương thua
to, có người nước Pháp tên là Mạn Hòe (Manuel) làm chủ một chiếc tàu phải đốt
tàu mà chết. Nguyễn Vương phải bỏ thành Sài gòn chạy về đất Tam phụ (Ba giồng),
rồi ra lánh ở đảo Phú Quốc.
Vua Tây
Sơn bình xong đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để
hàng
tướng là Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ thành Sài Côn (tức Sài Gòn).
Khi quân
Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, các tướng nhà Nguyễn lại nổi lên
đánh quân Tây Sơn. Bấy giờ có Châu Văn Tiếp là người ở Quy Nhơn, nhân lúc loạn,
tụ chúng giữ núi Trà Lang (thuộc Phú Yên). Đến khi chúa Nguyễn bỏ Phú Xuân chạy
vào Gia Định, Châu Văn Tiếp đem binh ra giúp. Sau chẳng may chúa Nguyễn thất
thế ngộ hại, Nguyễn Vương lên nối nghiệp. Văn Tiếp theo giúp, được phong làm
chức chưởng cơ, đem binh ra đánh Tây Sơn, bị thua, phải bỏ về giữ Trà
Lang. Nay được tin Gia Định lại thất
thủ, Văn Tiếp bèn đem quân từ Phú Yên về hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân
Tây Sơn đi, lấy lại được thành Sài Côn rồi cho người ra Phú Quốc đón Nguyễn
Vương về.
Nguyễn
Vương về sửa sang mọi việc để chống giữ với Tây Sơn, nhưng qua năm quý mão
(1783) vua Tây Sơn lại sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem binh vào đánh. Nguyễn
Vương lại phải rước vương mẫu và cung quyến ra Phú Quốc. Đến tháng 6 năm ấy,
Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc. Nguyễn Vương chạy về Côn Nôn; quân Tây Sơn lại đem
thuyền đến vây Côn Nôn; nhưng may nhờ có cơn bão đánh đắm cả thuyền của Tây
Sơn, cho nên Nguyễn
Vương mới ra khỏi trùng vi, chạy về đảo Cổ Cốt, rồi lại trở về Phú Quốc.
6. Nguyễn Vương Định Cầu Viện Nước Pháp Lan
Tây.
Lúc bấy
giờ lương thực hết sạch, Nguyễn Vương cùng với những người đi theo phải hái rau
và tìm củ chuối mà ăn, thế lực cùng kiệt, thật là nguy nan quá. Nhân vì khi
trước Nguyễn Vương có quen một người nước Pháp làm giám mục đạo Gia Tô, tên là
Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine, évêque d'Adran) khi ấy đang ở đất
Chantaboun (thuộc nước Tiêm La), ngài bèn sai người đến bàn việc. Ông Bá Đa Lộc
nói nên sang cầu cứu nước Pháp, nhưng phải cho Hoàng Tử đi làm tin thì mới
được.
Nguyễn
Vương theo lời ấy, ben giao Hoàng Tử Cảnh và cái quốc ấn cho ông Bá Đa Lộc, lại
làm tờ quốc thư cho ông ấy được quyền tự tiện sang thương nghị với chính phủ
Pháp để xin viện binh.
Tờ quốc
thư ấy có 14 khoản, đại lược nói nhờ ông Bá Đa Lộc sang xin nước Pháp giúp cho
1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn, đủ mọi cả thứ. Nguyễn Vương xin
nhường cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo), đảo Côn Nôn và để riêng cho người nước
Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở nước Nam120.
Nguyễn
Vương lại làm một cái thư riêng để dâng cho vua nước Pháp, và sai quan phó vệ
úy là Phạm Văn Nhân, quan cai cơ là Nguyễn Văn Liêm theo hộ vệ Hoàng Tử Cảnh
bấy giờ mới có 4 tuổi.
Mọi sự
đã xếp đặt cả rồi, nhưng vì còn trái mùa gió cho nên ông Bá Đa Lộc chưa khởi
hành được. Nguyễn Vương tuy đã nghe lời ông Bá Đa Lộc định sang cầu cứu nước
Pháp, nhưng trong bụng chưa quyết hẳn, còn có ý muốn nhờ nước Tiêm La.
Nguyên
lúc đánh thua ở Sài Côn, Châu Văn Tiếp chạy sang Tiêm La cầu cứu. Đến tháng 2
năm giáp thìn (1784) vua Tiêm La sai tướng là Chất Si Đa đem thủy quân sang Hà
Tiên, tìm Nguyễn Vương để mời sang bàn việc. Nguyễn Vương lại tiếp được mật
biểu của Châu Văn Tiếp, cho nên mới đến hội với tướng nước Tiêm, rồi cùng sang
Vọng Các xin binh cứu viện.
Tiêm
Vương tiếp đãi Nguyễn Vương rất hậu, và sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu
Sương đem hai vạn quân cùng 300 chiếc thuyền sang giúp
Nguyễn Vương. Quân Tiêm La sang lấy được Rạch Giá, Ba thắc, Trà Ôn, Mân thít,
Sa đéc. Khi đánh ở Mân thít, Châu Văn
Tiếp bị thương nặng mà mất. Từ đó quân Tiêm ỷ thế đi đến đâu quấy nhiễu dân sự,
làm nhiều điều tàn ác, cho nên lòng người oán hận lắm.
7. Nguyễn Huệ Phá Quân Tiêm La.
Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là Trương Văn Đa, thấy quân Tiêm La sang đánh phá, thế lực mạnh lắm, bèn sai người về Quy Nhơn phi báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là Trương Văn Đa, thấy quân Tiêm La sang đánh phá, thế lực mạnh lắm, bèn sai người về Quy Nhơn phi báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Nguyễn
Huệ vào đến Gia Định nhử quân Tiêm La đến gần Rạch Gầm và Xoài mút ở phía trên
Mỹ Tho, rồi đánh phá một trận, giết quân Tiêm chỉ còn được vài nghìn người,
chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Nguyễn Huệ phá được quân Tiêm La rồi,
đem binh đuổi đánh Nguyễn Vương. Nguyễn Vương bấy giờ hết cả lương thực, cùng
với mấy người chạy về Trấn Giang, ra đảo Thổ Châu, đảo Cổ Cốt, rồi sang Tiêm
La.
Đánh dẹp
xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là
Đặng Văn
Chân ở lại trấn đất Gia Định.
Nguyễn
Vương biết thế không mong cậy được người Tiêm La, bèn giục ông Bá Đa Lộc đem
Hoàng tử đi sang nước Pháp cầu viện. Ông Bá Đa Lộc đi rồi, Nguyễn Vương rước
vương mẫu và cung quyến sang trú ở Vọng Các để chờ có cơ hội lại về khôi phục.
120 Tờ
quốc thư này và cái thư của Nguyễn Vương viết cho vua nước Pháp nay hãy còn ở
Ngoại Giao Bộ tại Paris.
CHƯƠNG
IX
Họ Trịnh
Mất Nghiệp Chúa
1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ
2. Kiêu binh
3. Tây Sơn lấy Thuận Hóa
4. Tây Sơn dứt họ Trịnh
1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ.
Từ khi quân chúa Trịnh lấy được đất Thanh Hóa rồi, Trịnh Sâm đắc chí, càng thêm kiêu hãnh, lại có ý muốn cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan Thị Lang là Vũ Trần Thiệu sang nhà Thanh dâng biểu nói rằng con cháu họ Lê không có ai đáng làm vua nữa, và lại sai quan nội giám đi với Vũ Trần Thiệu đem tiền cũa sang đút lót mà xin phong làm vua. Nhưng sang đến Động Đình Hồ, thì Vũ Trần Thiệu đem tờ biểu đốt đi, rồi uống thuốc độc mà chết, bởi vậy việc cầu phong lại bỏ, không nói đến.
Từ khi quân chúa Trịnh lấy được đất Thanh Hóa rồi, Trịnh Sâm đắc chí, càng thêm kiêu hãnh, lại có ý muốn cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan Thị Lang là Vũ Trần Thiệu sang nhà Thanh dâng biểu nói rằng con cháu họ Lê không có ai đáng làm vua nữa, và lại sai quan nội giám đi với Vũ Trần Thiệu đem tiền cũa sang đút lót mà xin phong làm vua. Nhưng sang đến Động Đình Hồ, thì Vũ Trần Thiệu đem tờ biểu đốt đi, rồi uống thuốc độc mà chết, bởi vậy việc cầu phong lại bỏ, không nói đến.
Sau
Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng là Trịnh Khải mà lập người
con của Đặng Thị là Trịnh Cán làm thế tử.
Từ đó người thì theo Đặng Thị, người thì phò Trịnh Khải, trong phủ chúa
chia ra bè đảng.
Tháng chín năm
nhâm dần (1782) Trịnh Sâm mất để di chiếu lập Trịnh Cán
làm chúa và Huy Quận
Công Hoàng Đình
Bảo làm phụ
chính. Trịnh Cán còn ít tuổi mà lại lắm bệnh, không mấy người chịu phục,
bởi vậy cho nên thành sự biến loạn.
2. Kiêu Binh.
Nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê Trung Hưng về sau, đất Kinh Kỳ chỉ dùng lính Thanh, lính Nghệ gọi là ưu binh để làm quan túc vệ.
Nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê Trung Hưng về sau, đất Kinh Kỳ chỉ dùng lính Thanh, lính Nghệ gọi là ưu binh để làm quan túc vệ.
Những
lính ấy thường hay cậy công làm nhiều điều trái phép. Năm giáp dần (1674) đời
Trịnh Tạc, lính tam phủ tức là lính Thanh, lính Nghệ đã giết quan Tham Tụng
Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà Phạm Công Trứ. Năm tân dậu (1741) quân ưu binh lại
phá nhà và chực giết quan Tham Tụng Nguyễn Quý Cảnh. Những lúc quân ưu binh làm
loạn như vậy, tuy nhà chúa có bắt những đứa thủ xướng làm tội nhưng chúng đã
quen thói, về sau hễ hơi có điều gì bất bình, thì lại nổi lên làm loạn.
Đến năm
nhâm dần (1782) Trịnh Sâm mất, Đặng Thị và Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán lên làm
chúa. Con trưởng Trịnh Sâm là Trịnh
Khải mưu với quân tam phủ để tranh ngôi chúa. Bấy giờ có tên biện lại thuộc đội
Tiệp bảo tên là Nguyễn Bằng, người Nghệ An, đứng lên làm đầu, vào phủ chúa đánh
ba hồi trống làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào giết Hoàng Đình Bảo,
bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa.
Trịnh
Khải phong quan tước cho Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho quân tam phủ. Từ đó
quân ấy một ngày một kiêu, cứ đi cướp phá các nhà, không ai kiềm chế được. Năm
giáp thìn (1784) quân tam phủ lại phá nhà quan tham tụng Nguyễn Ly, nhà Dương
Khuông và giết Nguyễn Triêm ở trước cửa phủ chúa. Khi bấy giờ Nguyễn Ly chạy
thoát được lên Sơn Tây cùng với em là Nguyễn Điều bàn định rước Trịnh Khải ra
ngoài, rồi gọi binh các trấn về trừ kiêu binh. Nhưng sự lộ ra, quân kiêu binh
vào canh giữ phủ chúa, Trịnh Khải không ra được. Quân ấy lại chia nhau ra giữ các cửa ô. Quân
các trấn cũng sợ chúa bị hại đều phải rút về.
Từ đó quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm hàng nghìn đi cướp phá các làng.
Hễ có đứa nào đi lẻ loi thì dân làng lại bắt giết đi, thành ra quân với dân xem
nhau như cừu địch, mà các văn thần võ tướng cũng bó tay mà chịu không làm sao
được. Sau có quan tham tụng là Bùi Huy
Bích dỗ dành mãi mới dần dần hơi yên.
Lúc bấy
giờ ở trong đang có kiêu binh làm loạn, ở ngoài Tây Sơn nhân dịp đem quân vào
đánh phá, bởi thế cho nên cơ nghiệp họ Trịnh đổ nát vậy.
3. Tây Sơn Lấy Thuận Hóa.
Nguyên khi trước Hoàng Đình Bảo trấn thủ đất Nghệ An, có nhiều thủ hạ giỏi, mà trong bọn ấy có một người ở huyện Chân Lộc, thuộc Nghệ An, tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống từ lúc 16 tuổi, tục gọi là cống Chỉnh, tính hào hoa, lắm cơ trí, nhiều can đảm, mà lại có tài biện bác. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc, thường đi đánh giặc bể, giặc sợ lắm, gọi là chim dữ; sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Hữu Chỉnh về theo Hoàng Đình Bảo.
Nguyên khi trước Hoàng Đình Bảo trấn thủ đất Nghệ An, có nhiều thủ hạ giỏi, mà trong bọn ấy có một người ở huyện Chân Lộc, thuộc Nghệ An, tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống từ lúc 16 tuổi, tục gọi là cống Chỉnh, tính hào hoa, lắm cơ trí, nhiều can đảm, mà lại có tài biện bác. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc, thường đi đánh giặc bể, giặc sợ lắm, gọi là chim dữ; sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Hữu Chỉnh về theo Hoàng Đình Bảo.
Đến khi
kiêu binh đã giết Hoàng Đình Bảo rồi, có người đem tin Hữu Chỉnh biết, Hữu
Chỉnh vào bàn với quan trấn thủ Nghệ An là Võ Tá Giao để tự lập ở xứ Nghệ,
nhưng mà Võ Tá Giao sợ không dám làm, Hữu Chỉnh bèn bỏ vào với vua Tây Sơn là
Nguyễn Nhạc.
Nguyên khi
trước Nguyễn Hữu
Chỉnh theo Hoàng
Ngũ Phúc vào đánh
Quảng Nam thường vẫn đi lại quen Nguyễn Nhạc, cho nên Nguyễn Nhạc tin
dùng, đãi làm thượng tân. Từ đó Nguyễn
Hữu Chỉnh bày mưu định kế xin vua Tây Sơn ra đánh Thuận Hóa và đất Bắc Hà.
Vả, từ
khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt vào trấn thủ đất Thuận
Hóa, sau lại sai Phạm Ngô Cầu vào thay Bùi Thế Đạt. Phạm Ngô Cầu là người nhu
nhược vô mưu, mà lại có tính tham lam, chỉ lo việc làm giàu, chứ không nghĩ gì
đến việc binh. Quan phó đốc thị là
Nguyễn Lệnh Tân đã viết thư về bày tỏ mọi lẽ và xin Trịnh Sâm cho tướng khác
vào thay Phạm Ngô Cầu. Trịnh Sâm không
nghe, lại đòi Nguyễn Lệnh Tân về.
Vua Tây
Sơn biết đất
Thuận Hoá không
phòng bị, bèn
sai em là Nguyễn Huệ làm tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm
làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, đem quân thủy bộ ra
đánh Thuận Hóa.
Một hôm
Phạm Ngô Cầu thấy một người khách buôn nói thuật số, đến bảo Ngô Cầu rằng:
"Hậu vận tướng công phúc lộc nhiều lắm, nhưng năm nay có hạn nhỏ có lẽ
phải ốm đau, nên lập đàn làm chay mới được yên lành". Phạm Ngô Cầu nghe
lời ấy lập đàn cầu khấn bảy đêm ngày, bắt quân sĩ phải phục dịch không được
nghỉ ngơi chút nào. Chợt nghe tin quân
Tây Sơn đã lấy được đồn Hải Vân, tướng giữ đồn là Hoàng Nghĩa Hồ đã tử trận,
lại thấy báo rằng thủy quân của Tây Sơn đã vào cửa bể, thủy bộ hai mặt đều kéo
đến đánh. Ngô Cầu hốt hoảng, từ ở đàn chạy về dinh, gọi binh tướng để chống
giữ, nhưng quân lính đều mỏi mệt cả, không ai có lòng muốn đánh.
Phạm Ngô
Cầu lại có tính đa nghi. Nguyễn Hữu
Chỉnh bèn làm một cái thư đề ngoài gửi cho phó tướng là Hoàng Đình Thể, rủ về
hàng Tây Sơn, rồi giả tảng sai người đưa nhầm sang cho Ngô Cầu. Ngô Cầu bắt
được thư ấy nghi cho Hoàng
Đình Thể nhị tâm.
Đến khi quân
Tây Sơn đến đánh, Hoàng Đình Thể
đem quân bản bộ ra trận đối địch bắn hết thuốc đạn. Ngô Cầu đóng cửa thành lại
không ra tiếp ứng. Hoàng Đình Thể cùng hai con và tì tướng là Vũ Tá Kiên đều tử
trận cả.
Khi quân
Tây Sơn kéo đến đánh thành, Phạm Ngô Cầu kéo cờ trắng mở cửa thành ra
hàng. Quân họ Trịnh giữ ở các đồn đều
tan vỡ bỏ chạy. Trong mấy ngày mà đất Thuận hóa ra đến Linh Giang đều thuộc về
Tây Sơn cả. Bấy giờ là tháng năm năm bính ngọ (1786) đời Cảnh hưng năm thứ 47.
4. Tây Sơn Dứt Họ Trịnh.
Nguyễn Huệ lấy được đất Thuận Hóa rồi, sai người giải Phạm Ngô Cầu về Qui Nhơn định tội phải chém, đoạn rồi Nguyễn Huệ hội các tướng lại bàn sai người ra sửa sang đồn Đồng Hới, và định giữ địa giới cũ ở sông La Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng: "Ông phụng mệnh ra đánh một trận mà bình được đất Thuận Hóa, uy kinh cả chốn Bắc hà. Phàm cái phép dùng binh, một là thời hai là thế ba là cơ, có ba điều đó đánh đâu cũng được. Bây giờ ở đất Bắc Hà tướng thì lười, quân thì kiêu, triều đình không có kỷ cương gì cả, nếu ông nhân lấy cái uy thanh này, đem binh ra đánh thì làm gì mà không được. Ông không nên bỏ mất cái cơ, cái thời và cái thế ấy". Nguyễn Huệ nói rằng: "Ở Bắc Hà có nhiều nhân tài, không nên coi làm thường". Hữu Chỉnh đáp lại rằng: "Nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình Chỉnh, nay Chỉnh đã bỏ đi, thì nước không có ai nữa, xin ông đừng có ngại gì!" Nguyễn Huệ cười mà nói rằng: " Ấy! người khác thì không ngại, chỉ ngại có ông đó thôi!" Hữu Chỉnh thất sắt đi rồi nói rằng: " Tôi tự biết tài hèn, nhưng mà tôi nói thế là có ý tỏ cho ông biết ngoài Bắc không có nhân tài đó thôi". Nguyễn Huệu lấy lời nói ngọt để yên lòng Hữu Chỉnh và bảo rằng: " Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa chắc lòng người đã theo mình." Hữu Chỉnh nói: "Nay Bắc Hà có vua lại có chúa, ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng rằng phù Lê, thực là hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm gì để giúp nhà Lê, là chỉ sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông mà, phù Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai chẳng theo ông." Nguyễn Huệ nói: "Ông nói phải lắm, nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh đất Thuận Hóa mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi can tội kiểu mệnh thì làm thế nào ?" Hữu Chỉnh nói: "Kiểu mệnh là tội nhỏ, việc ông làm là công to. Vả làm tướng ở ngoài có điều không cần phải theo mệnh vua, ông lại không biết hay sao?"
Nguyễn Huệ lấy được đất Thuận Hóa rồi, sai người giải Phạm Ngô Cầu về Qui Nhơn định tội phải chém, đoạn rồi Nguyễn Huệ hội các tướng lại bàn sai người ra sửa sang đồn Đồng Hới, và định giữ địa giới cũ ở sông La Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng: "Ông phụng mệnh ra đánh một trận mà bình được đất Thuận Hóa, uy kinh cả chốn Bắc hà. Phàm cái phép dùng binh, một là thời hai là thế ba là cơ, có ba điều đó đánh đâu cũng được. Bây giờ ở đất Bắc Hà tướng thì lười, quân thì kiêu, triều đình không có kỷ cương gì cả, nếu ông nhân lấy cái uy thanh này, đem binh ra đánh thì làm gì mà không được. Ông không nên bỏ mất cái cơ, cái thời và cái thế ấy". Nguyễn Huệ nói rằng: "Ở Bắc Hà có nhiều nhân tài, không nên coi làm thường". Hữu Chỉnh đáp lại rằng: "Nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình Chỉnh, nay Chỉnh đã bỏ đi, thì nước không có ai nữa, xin ông đừng có ngại gì!" Nguyễn Huệ cười mà nói rằng: " Ấy! người khác thì không ngại, chỉ ngại có ông đó thôi!" Hữu Chỉnh thất sắt đi rồi nói rằng: " Tôi tự biết tài hèn, nhưng mà tôi nói thế là có ý tỏ cho ông biết ngoài Bắc không có nhân tài đó thôi". Nguyễn Huệu lấy lời nói ngọt để yên lòng Hữu Chỉnh và bảo rằng: " Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa chắc lòng người đã theo mình." Hữu Chỉnh nói: "Nay Bắc Hà có vua lại có chúa, ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng rằng phù Lê, thực là hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm gì để giúp nhà Lê, là chỉ sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông mà, phù Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai chẳng theo ông." Nguyễn Huệ nói: "Ông nói phải lắm, nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh đất Thuận Hóa mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi can tội kiểu mệnh thì làm thế nào ?" Hữu Chỉnh nói: "Kiểu mệnh là tội nhỏ, việc ông làm là công to. Vả làm tướng ở ngoài có điều không cần phải theo mệnh vua, ông lại không biết hay sao?"
Nguyễn
Huệ bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Đại An đánh
lấy kho lương ở bên sông Vị Hoàng.
Nguyễn Huệ tự đem binh đi sau, ước với Hữu Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt
lửa lên làm hiệu.
Nguyễn
Hữu Chỉnh đem quân đi qua Nghệ An, Thanh Hóa, quan trấn thủ là Bùi Thế Toại và
Tạ Danh Thùy không ai dám ra cự địch; khi ra đến Vị Hoàng, quan coi đồn ở đấy
bỏ chạy. Hữu Chỉnh lấy được hơn trăm vạn
hộc lương, rồi đốt lửa làm hiệu, quân Nguyễn Huệ kéo đến đóng giữ ở đấy.
Trước
kia thành Phú Xuân đã vỡ rồi, tin báo đến Thăng Long, các quan bàn rằng: xứ ấy
vẫn không là đất của triều đình, bây giờ mất cũng không hại gì. Vì thế, chỉ sai Trịnh Tự Quyền đem 27 cơ vào
giữ đất Nghệ An. Trịnh Tự Quyền thu xếp
hơn 10 ngày chưa xong, đến khi đi được độ 30 dặm thì đã có tin báo Tây Sơn đến
đóng ở sông Vị Hoàng rồi. Tự Quyền bèn
đem quân xuống giữ ở mặt Kim Động. Quan trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dận đem bộ
binh xuống đóng ở xã Phù Sa, thuộc huyện Đông An. Đinh Tích Nhưỡng đem thủy
quân ra giữ cửa Luộc Bấy giờ gió Đông Nam thổi to, đến đêm Nguyễn Huệ sai lấy
tượng gỗ để lên trên mấy chiếc thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả thuyền cho trôi
đi. Đinh Tích Nhưỡng trông thấy tưởng là quân Tây
Sơn đến đánh, giàn thuyền ra trận thành chữ nhất, rồi truyền lấy súng mà bắn.
Bắn mãi, sau mới biết người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc quân Tây Sơn tiến lên
đánh, thì Đinh Tích Nhưỡng hết cả thuốc đạn, phải bỏ thuyền mà
chạy. Quân của
Bùi Thế Dận
và Trịnh Tự Quyền cũng tan cả.
Nguyễn Huệ hạ được thành Sơn Nam rồi, rồi một mặt truyền hịch đi các lộ nói lấy
nghĩa phù Lê diệt Trịnh, một mặt kéo quân lên lấy Thăng Long.
Bấy giờ
ở kinh thành thì quân kiêu binh không sai khiến được, mà quân Tây Sơn thì đã
đến nơi rồi. Trịnh Khải mới cho gọi
Hoàng Phùng Cơ, ở Sơn Tây về, đem quân đóng ở hồ Vạn Xuân (xã Vạn Phú, Thanh
Trì) còn thủy binh thì đóng ở bến Tây Long (Thọ Xương) để phòng giữ. Quân Tây
Sơn tiến lên đánh tan thủy quân của nhà Trịnh, Hoàng Phùng Cơ phải bỏ
chạy. Trịnh Khải mặc áo nhung y cầm cờ lên
voi thúc quân vào đánh, nhưng thế Tây Sơn mạnh lắm, đánh không được, Trịnh Khải
bỏ chạy lên Sơn Tây. Đi đến làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, gặp tên Nguyễn Trang
đánh lừa bắt đem nộp cho Tây Sơn. Trịnh
Khải về đến làng Nhất Chiêu lấy gươm cắt cổ tự tận. Bấy giờ là năm bính ngọ
(1786). Nguyễn Huệ cho lấy vương lễ mà tống táng cho chúa Trịnh, rồi vào thành
Thăng Long yết kiến vua Lê.
Họ Trịnh
giúp nhà Lê trung hưng lên, rồi giữ lấy quyền chính, lập ra nghiệp chúa, lưu
truyền từ Trịnh Tùng đến Trịnh Khải được 216 năm (1570- 1786) đến đấy là hết.
CHƯƠNG X
Nhà Hậu
Lê Mất Ngôi Vua
1. Tây Sơn rút quân về Nam
2. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ở đất Bắc
3. Tây Sơn lấy đất Bắc Hà
1. Tây Sơn Rút Quân Về Nam. Nguyễn Huệ đã
dứt được họ Trịnh rồi, vào
thành Thăng Long,
xuống lệnh cấm
quân lính không
được cướp phá dân gian, và định ngày xin yết kiến vua Lê ở đền Vạn Thọ.
Bấy giờ
vua Hiển Tông đang đau, không ngồi dậy tiếp được, ngài mời Nguyễn Huệ vào ngồi
gần sập ngự, lấy lời ôn tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu bày cái lẽ đem binh rà
phù Lê diệt Trịnh, chứ không dám có ý dòm ngó gì. Vua mừng rỡ mà tạ Nguyễn Huệ.
Khi quân
Tây Sơn ra đến Thăng Long, các quan triều thần chạy trốn cả, chỉ còn có mấy
người nội giám ở lại hầu hạ vua. Nguyễn
Hữu Chỉnh thấy vậy vào tâu với vua xin xuống chiếu tuyên triệu các quan về
triều; được mấy hôm có độ mươi người lục tục kéo nhau trở về. Vua bèn định đến
ngày mồng 7 tháng 7 lập đại trào ở điện Kính Thiên, Nguyễn Huệ đem các tướng và
lạy và dâng sổ quân sĩ, dân đinh, để tỏ rõ cái nghĩa tôn phù nhất thống, nghĩa
là tự đó về sau nhà Lê có quyền tự chủ.
Vua
phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Uy Quốc Công, và lại gả cho bà Ngọc Hân
Công Chúa là con gái của ngài. Chẳng bao lâu vua Hiển Tông mất, Hoàng Tôn là
Duy Kỳ lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Chiêu Thống.
Nguyên
lúc trước vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vốn không có ý ra đánh Bắc Hà, đến khi
tiếp được thư của Nguyễn Huệ nói sắp ra đánh ngoài Bắc, Nguyễn Nhạc vội vàng
sai người ra Thuận Hóa ngăn lại. Nhưng khi sứ thần ra đến nơi, thì Nguyễn Huệ
đã cử binh đi rồi. Sau lại tiếp được thư nói rằng quân Tây Sơn đã lấy được
Thăng Long rồi, và còn phải ở lại để giúp nhà Lê. Nguyễn Nhạc sợ em ở lâu ngoài
Bắc Hà có sự biến chăng, bèn đem 500 quân ra Thuận Hóa, rồi lấy thêm 2000 quân,
đi không kỳ ngày đêm ra Thăng Long.
Vua
Chiêu Thống được tin vua Tây Sơn ra Bắc, bèn đem bách quan ra đón ở ngoài Nam
Giao. Nhưng Nguyễn Nhạc cứ đi thẳng, rồi cho người đến nói rằng: xin để ngày
khác tiếp kiến. Được mấy hôm Nguyễn Nhạc mời vua Chiêu Thống sang phủ đường là
lễ tương kiến. Nguyễn Nhạc ngồi giữa, vua Chiêu Thống ngồi bên tả, Nguyễn Huệ
ngồi bên hữu, các quan văn võ đứng hầu hai bên.
Khi vào
làm lễ xong rồi, vua Chiêu Thống xin nhường mấy quận để khao quân. Nguyễn Nhạc nói rằng: "Vì họ Trịnh hiếp
chế, cho nên chúng tôi ra giúp nhà vua; nếu bằng đất nước họ Trịnh thì một tấc
cũng không để lại, nhưng mà của nhà Lê thì một tấc cũng không dám lấy. Xin mong
nhà vua gắng sức làm việc, giữ yên cõi đất, để đời đời giao hiếu với nhau, ấy
là cái phúc của hai nước đấy."
Đoạn rồi
vua Chiêu Thống về điện, hôm sau anh em Tây Sơn bàn rút quân về Nam, và thấy
Nguyễn Hữu Chỉnh là người giảo quyệt, định bỏ lại ở Bắc Hà, bèn mật truyền cho
các tướng thu xếp quân thủy bộ, kho tàng có gì lấy hết, rồi đến nửa đêm ngày 17
tháng 8, kéo quân về Nam. Sáng hôm sau Nguyễn Hữu Chỉnh biết Tây Sơn về rồi, sợ
hãi lắm, hoảng hốt bỏ cả đồ đạc, chạy xuống chiếc thuyền buôn vào Nghệ An, theo
vua Tây Sơn. Nguyễn Nhạc thấy Hữu Chỉnh lại theo về, không nỡ bỏ, cho ở lại
cùng với Nguyễn Duệ giữ đất Nghệ An.
Bấy giờ
quyền bính ở đất Bắc Hà về cả vua nhà Lê, thật là một cơ hội ít có để lập lại
cái nền tự chủ của nhà Lê, nhưng tiếc vì vua Chiêu Thống không có tài quyết
đoán, mà đình thần lúc bấy giờ không có ai là người biết kinh luân: hễ thấy có
giặc thì bỏ chạy, giặc đi rồi thì kéo nhau ra bàn ngược bàn xuôi, người thì
định lập lại nghiệp chúa, kẻ thì muốn tôn phù nhà vua. Lại có dòng dõi họ Trịnh
là Trịnh Lệ và Trịnh Bồng chia đảng ra đánh nhau để tranh quyền. Vua Chiêu Thống bất đắc dĩ phải phong cho
Trịnh Bồng làm Án Đô Vương, lập lại phủ Chúa.
Đảng họ Trịnh lại toan đường hiếp chế nhà vua, vua Chiêu Thống phải
xuống mật chiếu vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra giúp.
2. Nguyễn Hữu Chỉnh Chuyên Quyền ở Đất
Bắc. Nguyễn Hữu Chỉnh từ khi trở về Nghệ
An, chiêu mộ dũng sĩ, ngày đêm luyện tập, nhân có chiếu nhà vua gọi vào, bèn
thu xếp được hơn một vạn quân ra giúp vua Lê. Trịnh Bồng đem quân ra chống giữ, đánh thua phải bỏ chạy. Hữu Chỉnh vào yết kiến vua Chiêu Thống và
chuyên giữ binh quyền.
Trịnh
Bồng có khởi binh mấy lần để toan sự khôi phục, nhưng không thành co6ng, cho
nên cũng chán sự đời bèn bỏ đi tu, về sau không biết chết ở đâu. Họ Trịnh mất từ đấy.
Nguyễn
Hữu Chỉnh đánh đuổi họ Trịnh đi rồi, vua phong cho chức Đại Tư Đồ Bằng Trung
Công. Từ đó Hữu Chỉnh cậy công khinh
người, làm lắm điều trái phép, vua cũng lấy làm lo. Nhưng không biết trông cậy
vào ai, cho nên đành phải chịu vậy.
3. Tây Sơn Lấy Đất Bắc Hà. Ở trong Nam thì
từ khi vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc về Quy Nhơn rồi, tự xưng làm Trung ương Hoàng
Đê, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, cho Nguyễn Huệ làm
Bắc Bình Vương, ở đất Thuận Hóa, lấy Hải Vân Sơn làm giới hạn.
Được ít
lâu Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ có chuyện hiềm khích với nhau, Nguyễn Huệ đem
binh vào vây đánh thành Qui Nhơn, ngặt đế nỗi Nguyễn Nhạc phải thân lên thành
mà kêu khóc, gọi Nguyễn Huệ mà bảo rằng: " Nỡ lòng nào lại nồi da nấu thịt
như thế"121 - Nguyễn Huệ động lòng mới giải vây rút quân về Thuận Hóa.
Trong
khi anh em Tây Sơn đánh nhau, thì Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc Hà, đến khi anh em
Tây Sơn đã giảng hòa rồi, Nguyễn Huệ ở Phú Xuân thấy Hữu Chỉnh lừng lẫy ở đất
Bắc, bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt.
Tháng 11
năm đinh tị (1787) Vũ Văn Nhậm phá quân Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thanh Quyết Giang
(làng Thanh Quyết, huyện Gia Viễn), và ở Châu Cầu ( phủ Lý Nhân) rồi đánh đuổi
ra đến Thăng Long.
Vua
Chiêu Thống thấy quân của Nguyễn Hữu Chỉnh đã thua rồi, bèn bỏ Kinh đô, chạy
sang Kinh bắc, và sai Lê Quýnh cùng với hơn 30 người tôn thất đem bà Hoàng Thái
Hậu, bà Hoàng Phi và Hoàng Tử lên Cao Bằng. Còn vua thì cùng với Hữu Chỉnh về
đóng ở núi Mục Sơn ở đất Yên Thế.
Tướng
Tây Sơn là Nguyễn Văn Hòa đem binh lên đánh bắt được Hữu Chỉnh đem về làm tội ở
Thăng Long.
Vũ Văn
Nhậm giết Nguyễn
Hữu Chỉnh rồi,
cho đi tìm vua Chiêu Thống không được, bèn tôn Sùng Nhượng
Công tên là Lê Duy Cẩn lên làm giám quốc để thu phục lòng người.
Bấy giờ
các quan không ai theo, Sùng Nhượng Công ở trong điện chỉ có vài người hoàng
thân và mấy viên võ tướng, sớm tối hầu hạ, còn thì
121 Tục
người trong Bình Định hễ ai đi săn được hươu nai gì thì lột da ra làm nồi mà
nấu thịt: ở đây Nguyễn NHạc có ý nói rằng cùng da cùng thịt nỡ nào hại lẫn nhau
vậy.
không ai
tâu hỏi việc gì cả. Ngày ngày cứ đi bộ sang chầu chực bên dinh Vũ Văn Nhậm. Văn
Nhậm cũng không biết xử làm sao. Người kinh thành thấy vậy gọi Sùng Nhượng Công
là thầy đề lại giám quốc. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh
Nguyễn Hữu Chỉnh thì đã có lòng nghi Vũ Văn Nhậm, cho nên lại sai Ngô Văn Sở và
Phan Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt binh quyền. Đến khi Văn Nhậm lấy
được Thăng Long, bắt được Hữu Chỉnh rồi, có ý cậy tài và ra bộ kiêu ngạo. Ngô Văn Sở đem ý ấy viết thư về nói Vũ Văn
Nhậm muốn làm phản. Bắc Bình Vương lập tức truyền lện kéo quân kỵ, đêm ngày đi gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm
đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, rồi truyền gọi các quan văn võ nhà Lê cho vào
yết kiến, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, để Lê Duy Cẩn làm giám quốc,
chủ trương việc tế lễ, dùng Ngô Thời Nhậm làm Lại Bộ Tả Thị Lang. Còn các quan nhà Lê thì có người ở lại nhận
chức, có người trốn đi, cũng có người tuẩn tiết.
Bắc Bình
Vương đã đổi đặt quan quân, chỉnh đốn mọi việc xong cả rồi, chọn ngày về Nam,
để bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà.
Vua
Chiêu Thống từ khi thua trận Mục Sơn chạy về núi Bảo Lộc, rồi nay ở Hải Dương,
mai ở Sơn Nam, cùng với mấy người trung nghĩa lo sự khôi phục, nhưng vì thế lực
mỗi ngày một kém, bề tôi như bọn Đinh Tích Nhưỡng thì giở mặt làm phản, còn thì
ai nấy trốn tránh đi mất cả, bởi thế cho nên cơ nghiệp nhà Lê đổ nát vậy.
Nhà Lê
kể từ vua Thái Tổ khởi nghĩa, đánh đuổi quân nhà Minh về Tàu, lập lại cái nền
tự chủ cho nước nhà, truyền đến vua Chiêu Tông thì họ Mạc cướp mất ngôi. Sau nhờ có họ Nguyễn và họ Trịnh giúp đỡ, nhà
Hậu Lê lại trung hưng lên, truyền đến vua Chiêu Thống tức là Mân Đế thì hết.
Nhà Lê
làm vua, kể cả Tiền Lê và Hậu Lê, được 360 năm (1428- 1788), trước sau sửa sang
được nhiều việc: sự học hành, việc luật pháp, việc canh nông đều được mở mang
ra hơn trước. Nhưng từ khi trung hưng lên trở về sau nhà vua bị họ Trịnh hiếp
chế thành ra có vua lại có chúa. Vua
ngồi làm vì, chúa giữ cả quyền chính trị.
Đến khi nghiệp chúa suy thì ngôi vua cũng đổ vậy.
CHƯƠNG
XI
Nhà
Nguyễn Tây Sơn
1. Nhà Nguyễn Tây Sơn dấy nghiệp
2. Vua Quang Trung
3. Tôn Sĩ Nghị đem quân sang Việt Nam
4. Vua Quang Trung đại phá quân nhà Thanh
5. Vua Quang Trung cầu phong
6. Vua Chiêu Thống nhà Lê bị nhục bên Tàu
7. Đức độ vua Quang Trung
8. Chính Trị của vua Quang Trung
9. Quan Chế
10. Việc Dinh Điền
11. Việc Học Hành
12. Việc làm chùa chiền
13. Việc định đánh Tàu
14. Vua Quang Trung mất
15. Vua Cảnh Thịnh
1. Nhà Nguyễn Tây Sơn Dấy Nghiệp.
Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất trung nguyên, thì cho là chính thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự thoán đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa, bà là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy triều.
Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất trung nguyên, thì cho là chính thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự thoán đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa, bà là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy triều.
Vậy nay
lấy những lẽ ấy mà xét xem nên cho nhà Nguyễn Tây Sơn làm chính thống hay ngụy
triều, để cho hợp lẽ công bằng và cho xứng cái danh hiệu những người anh hùng
đã qua.
Nguyên
nước ta là nước quân chủ, lấy cái nghĩa vua tôi làm trọng hơn cả, thế mà từ khi
nhà Lê trung hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ phương Nam, họ Trịnh xưng
chúa miền Bắc; trên tuy còn tôn vua nhưng mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước
ta đã có vua lại có chúa, làm thành ra vua
không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Đến sau ở trong
Nam thì có Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, ở ngoài Bắc thì có kiêu binh
làm loạn, giết hại quan đại thần, vua chúa phải nhún mình mà chiều đãi, đình
thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy lại là một lúc đại loạn vậy.
Lúc ấy
anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây Sơn, chống nhau
với chúa Nguyễn để lập nghiệp ở đất Quy Nhơn. Tuy rằng đối với họ Nguyễn là cừu
địch, nhưng mà đối với nước Nam, thì chẳng qua cũng là một người anh hùng lập
thân trong lúc biến loạn đó mà thôi.
Còn như
Nguyễn Huệ là vua Thái Tổ nhà Nguyễn Tây Sơn, thì trước giúp anh bốn lần vào
Gia Định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Tiêm La, chỉ còn
được mấy trăm người lủi thủi chạy về nước; sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh; tôn
vua Lê, đem lại mối cương thường cho rõ ràng. Ấy là đã có sức mạnh mà lại biết
làm việc nghĩa vậy.
Nhưng vì
vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh
luân, lại để
cho Trịnh Bồng
và Nguyễn Hữu
Chỉnh nối nhau
mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn
Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu
tiền triều; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc.
Sau vua
Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu đi sang kêu cầu bên Tàu, vua
nhà Thanh nhân
lấy dịp ấy mượn tiến cứu
nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng sang giữ
thành Thăng Long. Bấy giờ cứ theo như tờ mật dụ của vua nhà Thanh thì nước Nam
ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi.
Vậy nước
đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế, truyền
hịch đi các nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn
quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua
tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước
ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy.
Vả đánh
đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo? Há lại
chẳng hơn nhà Lý, nhà Trần nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà làm sự thoán đoạt hay
sao? Vậy thì lấy lẽ gì mà gọi là ngụy? Huống chi sau vua nhà Thanh cũng công
nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước Nam, và lại sai sứ sang phong cho ông làm
An Nam Quốc vương theo như lệ các triều trước,
như thế thì nhà Nguyễn Tây Sơn mở nước có khác gì nhà Đinh và nhà Lê không?
Tuy rằng
chẳng được bao lâu nhà Nguyễn Tây Sơn sinh ra nội loạn, vua Thế Tổ Cao Hoàng
nhà Nguyễn lại thu phục được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả nam bắc lại làm một,
nhưng việc thành bại hưng vong là mệnh trời, vả lại khi hai người anh hùng đuổi
một con hươu, tất là người nọ gọi người kia là cừu địch. Vậy lấy lẽ tôn bản
triều mà xét thì nhà Nguyễn Tây Sơn là ngụy, mà lấy công lý mà suy thì vua
Quang Trung Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên
Hoàng, vua Lê Thái Tổ, mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính thống như
nhà Đinh và nhà Lê vậy.
2. Vua Quang Trung (1788-1792).
Ông Nguyễn Huệ (sau đổi tên là Nguyễn Quang Bình) là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn (thuộc huyện An Khê, Bình Định) giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc Bình Vương, đóng đô ở đất Phú Xuân.
Ông Nguyễn Huệ (sau đổi tên là Nguyễn Quang Bình) là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn (thuộc huyện An Khê, Bình Định) giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc Bình Vương, đóng đô ở đất Phú Xuân.
Năm mậu
thân (1788) quân nhà Thanh mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ thành Thăng
Long, có ý muốn lấy đất An Nam, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế đặt niên hiệu
là Quang Trung, rồi đem binh đi đánh giặc.
3. Tôn Sĩ Nghị Đem Quân Sang An Nam.
Nguyên vua Chiêu Thống đã mấy lần toan sự khôi phục, nhưng không được, phải nương náu ở đất Lạng Giang; còn bà Hoàng Thái Hậu thì đem hoàng tử sang Long Châu kêu van với quan Tàu, xin binh cứu viện. Bấy giờ quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với vua Càn Long nhà Thanh, đại lược nói rằng: "Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường."
Nguyên vua Chiêu Thống đã mấy lần toan sự khôi phục, nhưng không được, phải nương náu ở đất Lạng Giang; còn bà Hoàng Thái Hậu thì đem hoàng tử sang Long Châu kêu van với quan Tàu, xin binh cứu viện. Bấy giờ quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với vua Càn Long nhà Thanh, đại lược nói rằng: "Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường."
Vua Càn
Long nghe lời tâu ấy sai Tôn Sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây,
Quý Châu, Vân Nam, đem sang đánh Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm 3 đạo,
sai quan tổng binh tỉnh Vân Nam và Quý Châu đem một đạo sang mạn Tuyên
Quang122, sai Sầm Nghi Đống là tri phủ Điền Châu đem một đạo sang mạn Cao
Bằng. Sĩ Nghị cùng với đề đốc là Hứa
Thế Hanh đem một đạo sang mạn Lạng Sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh An Nam.
122 Khi
xưa đất Hà Giang, Lao Kay, Yên Báy thuộc về địa hạt tỉnh Tuyên Quang.
Tướng
Tây Sơn là Ngô Văn Sở ở Thăng Long được tin quân Tàu đã sang, sợ thế yếu đánh
không nổi, bèn rút quân thủy bộ về đóng giữ từ núi Tam Điệp123 ra đến bờ bể,
rồi sai người về Phú Xuân cáo cấp.
Tôn Sĩ
Nghị kéo quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Chiêu Thống ra chào mừng rồi theo
quân Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn
ở giữa bãi, về mé nam sông Nhị Ha, bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và
chia quân ra giữ các mặt.
Ngày hôm
sau, Sĩ Nghị là lễ tuyên độc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho vua Chiêu Thống
làm An Nam Quốc Vương.
Vua
Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn
Long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại
đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ
mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị thì
ngạo nghễ, tự đắc, ý tứ xử với vua rất là khinh bạc; có khi vua Chiêu Thống lại
hầu, không cho vào yết kiến, chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra
rằng: không có việc quân quốc gì, xin ngày hãy về cung nghỉ.
Người
bấy giờ bàn riêng với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ,
không thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua
Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc, thế thì có khác gì đã là nội
thuộc rồi không?"
Vua và
triều thần bấy giờ việc gì cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị; ngày đêm chỉ lo việc
báo ân báo oán, giết hại những người trước đã đi theo Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị thì càng ngày càng kiêu ngạo
thêm, coi việc binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp phá dân gian, làm lắm
sự nhũng nhiễu. Vì thế cho nên lòng người mất cả trông cậy.
4. Vua Quang Trung Đại Phá Quân Thanh. Bắc
Bình Vương được tinh quân nhà Thanh đã sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các
tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh, các tướng đều xin hãy chính ngôi tôn, để
yên lòng người rồi sẽ khởi binh.
Bắc Bình
Vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, ngày 25 tháng mười một năm mậu thân
(1788), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, rồi tự mình
thống
lĩnh thủy bộ đại binh ra đánh giặc Thanh.
Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm binh, cả thảy được 10
vạn quân và hơn 100 con voi.
Vua
Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ nhủ bảo mọi người phải cố gắng đánh
giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20 tháng chạp thì đến núi
Tam Điệp. Bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhiệm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế
mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui về giữ chỗ hiểm yếu.
Vua
Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó
thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân
Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc.
Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một
trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi
không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải
nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú
cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa."
Vua
Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn tết Nguyên Đán trước, để đến hôm
trừ tịch thì
cất quân đi,
định ngày mồng
7 tháng giêng
thì vào thành Thăng Long mở tiệc
ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến nghe lệnh điều khiển.
Đại tư
mã Sở, Nội Hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem hậu quân đi
đốc chiến.
Đại đô
đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thủy quân, vượt qua bể vào sông Lục
Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé đông; Lộc thì kéo
về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về.
Đại đô
đốc Bảo, đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tượng mã đi đường núi ra đánh phía
tây. Mưu thì xuyên ra huyện Chương Đức (nay là Chương Mỹ), tiện đường kéo thẳng
đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, đánh quân Điền Châu; Bảo thì thống suất
quân tượng mã theo đường huyện Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì
tiếp ứng cho mặt tả.
Năm quân
được lệnh đều thu xếp đâu đấy, đến hôm 30 khua trống kéo ra Bắc. Khi quân sang
sông Giản Thủy124, cánh nghĩa quân của nhà Lê
123 Núi
Tam Điệp trước gọi là đèo Ba Dội ở chỗ phân biệt địa giới tỉnh Ninh Bình và
tỉnh Thanh Hóa.
124 Giản
Thủy chắc là bến đò Giản ở giáp giới tỉnh Ninh Bình và Hà Nam bây giờ.
tan vỡ
chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên bắt
sống hết được toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người nào chạy thoát được; vì
thế cho nên không có tin báo về, những quân Tàu đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc
Hồi không biết gì cả. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân
vua Quang Trung đến làng Hà hồi vây kín đồn giặc, rồi bắc loa lên gọi, các quân
dạ rầm cả lên, có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi thất
thố, đều xin hàng, bởi thế, lấy được hết cả quân lương và đồ khí giới. Sáng mờ
mờ ngày mồng năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra
như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm
một, lấy rơm cỏ giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người
khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới
theo sau. Vua Quang Trung cưỡi voi đi sau đốc chiến, quân An Nam vào đến gần
cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa
cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy.
Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn
ngang khắp đồng, máu chảy như tháo nước. Quân các đạo khác cũng đều được toàn
thắng. Quan nhà Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực
Thượng Duy Thăng đều tử trận cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng ở
Đống Đa125 bị quân An Nam vây đánh cũng thắt cổ mà chết126.
Tôn Sĩ
Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáo,
đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc.
Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau
sang cầu, một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những
thây người chết.
Vua Chiêu
Thống cũng theo
Tôn Sĩ Nghị
sang sông cùng
với bà Hoàng Thái Hậu và mấy
người cận thần chạy sang Tàu.
Đạo quân
Vân Nam và Quý Châu đóng ở miền Sơn Tây127 nghe tin Tôn Sĩ Nghị đã thua, cũng
rút quân chạy về.
Ngày hôm
ấy vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như
mực. Đến trưa thì vào thành Thăng Long, sai
125 Ở
cạnh Thái Hà Ấp, gần Hà Nội.
126 Về
sau bọn khách trú ở Thăng Long làm cái đền thờ Sầm Nghi Đống ở ngõ Sầm Công,
sau Hàng Buồm, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có vịnh bài tuyệt cú rằng:
Ghé mắt
trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.
Ví đây
đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?
127
Trước đất Phú Thọ, Vĩnh Yên thuộc về địa hạt tỉnh Sơn Tây.
tướng
đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa Nam Quan. Những dân Tàu ở gần Lạng
Sơn sợ khiếp, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau mà chạy, từ cửa ải về
mé bắc hơn
mấy trăm dặm,
tịnh không nghe
thấy tiếng một
người nào?
Vua
Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn
tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ
lại, trong những giấy má bắt được có tờ mật dụ của vua Càn Long nói rằng:
" Việc quân nên từ đồ, không nên hấp tấp.
Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về
nước cũ hợp nghĩa binh, tìm tự quân nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với
Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có
quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui; ta nhân
lấy dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo, rồi đại binh của ta theo sau, như thế
không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt
người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Nguyễn Huệ tất không
chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang tỏ bảo
đường họa phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân, Quảng đi
đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên
sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch, thế
tất phải chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân
mà là ơn cho cả hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng Nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn
Huệ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra Bắc thì phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại
binh lại để kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau".
Vua
Quang Trung đem tờ mật dụ ấy bảo với Ngô Thì Nhiệm rằng: " Ta xem tờ chiếu
của vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận, tất là lấy
làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai
nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy
nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà người chủ
trương cho mới được".
Ngô Thì
Nhiệm vâng lệnh làm thư đại khái nói rằng: "Nước Nam vốn không dám chống
cự với đại quốc, nhưng chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy
nay xin tạ tội và xin giảng hòa."
Vua
Quang Trung sai sứ đem thư sang Tàu, và lại sai đem những quân nhà Thanh đã bắt
được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về nước. Xếp đặt mọi việc
xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô Văn Sở và Phan văn Lân ở lại tổng thống các
việc quân quốc; còn những việc từ lệnh giao thiệp với nước Tàu thì ủy thác cho
Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích cho
được tự
tiện mà khu xử, hễ không có việc gì quan hệ thì bất tất phải đi tâu báo mà làm
gì.
5. Vua Quang Trung Cầu Phong. Vua nhà Thanh
nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại binh, nổi giận đùng đùng, lập tức giáng chỉ sai quan
nội các là Phúc Khang An128 ra thay Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đem binh
mã chín tỉnh, sang kinh lý việc An Nam.
Phúc
Khang An ra đến Quảng Tây nghe tiếng quân An Nam thế mạnh trong bụng đã sợ, có
ý muốn hòa, bèn sai người đưa thư sang nói việc lợi hại và bảo phải làm biểu tạ
tội để cho yên việc binh đao.
Vua
Quang Trung bèn cho người đưa vàng bạc sang đút lót cho Khang An, rồi sai người
cháu là Nguyễn Quang Hiển và quan là Vũ Huy Tấn đem đồ cống phẩm sang Yên Kinh
vào chầu vua nhà Thanh và dâng biểu xin phong.
Bấy giờ
quan ngoài thì có Phúc Khang An đề đạt giúp đỡ, quan trong thì có các thần là
Hòa Thân129 làm chủ trương, cho nên vua nhà Thanh mới thuận cho giảng hòa. Hòa
Thân được tiền bạc của vua Quang Trung đút lót, rồi dùng lời nói khéo, điều gì
cũng hợp ý vua nhà Thanh. Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho vua Quang
Trung làm An Nam Quốc Vương, và lại giáng chỉ vời quốc vương vào chầu.
Vua
Quang Trung bèn chọn một người hình dung giống mình, tên là Phạm Công Trị trá làm quốc vương, rồi sai Ngô Văn
Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn đưa sang Yên Kinh, vào chầu Càn
Long. Ngoài những phẩm vật phải đem cống, vua Quang Trung lại đem cống thêm đôi
tượng đực, làm cho các cung trạm ở dọc đường bên Tàu phảI phục dịch đưa đón
thật là vất vả. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An và quan Tuần phủ
Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải đưa Quốc Vương An Nam vào Kinh.
Sang đến
Yên Kinh, vua Càn Long nhà Thanh tưởng là Nguyễn
6. Vua Chiêu Thống Nhà Lê bị nhục bên
Tàu. Vua Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị
vào thành Nam Kinh ở Quảng Tây, được ít lâu thì vua nhà Thanh sai các thần là
Phúc Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị.
Khang An muốn giảng hòa với Tây Sơn, bèn mời vua Chiêu Thống về Quế Lâm.
Bấy giờ những quan cựu thần nhà Lê là: Hoàng thúc Lê Duy Án, Đinh Nhạ Hành,
Đinh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh, Phan Khải Đức, Bế Nguyễn Cung,
Bế Nguyễn Doãn, đều lục tục sang theo vua Chiêu Thống, vào ra mắt Khang An.
Khang An
dùng Đinh Nhạ Hành làm chức thủ bị Toàn Châu, Phan Khải Đức làm chức đô tư Liễu
Châu, còn thì tùy tiện an trí mỗi người một nơi. Duy chỉ có Lê Duy Án, Trần Huy Lâm, Lê Doãn,
Lê Dĩnh về Quế Lâm theo vua nhà Lê.
Đến tháng
tư năm kỷ
dậu (1789), vua
tôi nhà Lê
vào thành Quế Lâm, Khang An nói thác ra bảo với vua
Chiêu Thống rằng: Trời đang mùa hè nắng nóng, sang đánh phương nam không tiện,
nên để đến mùa thu mát mẻ sẻ khởi binh. Vậy nhà vua nên gióng giả dần bọn tướng
thuộc đi trước. Nhưng nhà vua hãy nên gọt đầu thay áo, làm như dáng người Tàu,
để khi về nước, giặc không nhận được mặt. Việc hành binh phải nên biến trá, đợi
khi thành công rồi lại theo tục nước mà ăn mặc. Vua Chiêu Thống không ngờ là
Khang An đánh lừa mình, bèn cùng với các quan cạo đầu gióc tóc và đổi y phục.
Phúc
Khang An bèn làm một tờ biểu tâu với vua nhà Thanh rằng: "Vua nước Nam là
Lê Duy Kỳ không có ý xin viện binh nữa, vua tôi hiện đã gióc tóc, thay áo, xin
yên tâm ở lại nước Tàu. Vậy xin bãi binh đánh An Nam". Ở trong lại có Hòa
Thân tán thành, bởi vậy vua nhà Thanh mới xuống chỉ bãi binh.
Vua nhà
Thanh đã nghe lời bọn Phúc Khang An và Hòa Thân, và đã phong vương cho vua
Quang Trung rồi, lại giáng chỉ triệu vua tôi nhà Lê về Yên Kinh130.
Quang
Trung thật, vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ ôm gối, như là tình cha
con một nhà, và cho ăn yến với các thân vương. Đến lúc về nước, vua lại sai thợ
vẽ làm một bức ảnh truyền thần để ban cho ân lễ thật là hậu.
128 Phúc
Khang An là người Mãn Châu, thuộc về dinh Hoàng Kỳ, vốn là người tìn dùng của
vua nhà Thanh.
129 Hòa
Thân cũng là người Mãn Châu về dinh Hoàng Kỳ, cùng với Phúc Khang An coi việc
phiên viễn.
130 Bọn
Lê Quýnh, Trịnh Hiến cả thảy đến 10 người sau cũng bị Phúc Khang An gọi về
Quảng Tây, rồi bắt đổi áo gióc tóc như mọi người. Lê Quýnh nói rằng: "Ông
cho gọi chúng tôi đến chẳng bàn được điều gì, lại dỗ chúng tôi đổi áo, gióc
tóc, ấy là nghĩa gì? Đầu chúng tôi có thể chặt được, chứ tóc không gióc, da có
thể lột được, chứ áo không đổi!". Phúc Khang An tức giận cho giải về cả
Yên Kinh, đi đến Sơn Đông gặp vua Càn Long đi chơi, vua đòi vào hỏi sao vua An
Nam đã chịu đổi áo gióc tóc theo nhà Thanh mà bọn ấy lại còn không chịu ? Lê
Quýnh tâu rằng: " Chúng tôi muôn dặm tòng vong, xin cứ theo tục bản quốc
vào ra mắt quốc vương, rồi sau sẽ vâng chỉ" Vua nhà Thanh khen là trung. Nhưng về sau Lê Quýnh không chịu gióc tóc,
chiếu tội vi mệnh phải giam mãi.
Mùa xuân
năm canh tuất (1790), vua Chiêu Thống cùng với các quan tòng vong vào kinh. Vua
Càn Long để vua Chiêu Thống, bà Thái Hậu và Hoàng Tử ở ngõ Hồ Đồng, Tòa Quốc Tử
Giám, cửa Tây Định ở Yên Kinh, ngoài cửa đề chữ "Tây An Nam Dinh".
Còn các quan An Nam đi theo, thì cho ở ngõ Hồ Đồng, cửa Đông Trực, ngoài cửa đề
chữ: "Đông An Nam Dinh".
Vua
Chiêu Thống đến Yên Kinh được mấy hôm, thì thấy quan Đô Thống Nhương Hoàng Kỳ
là Kim Giản phụng chỉ vua nhà Thanh ra phong cho chức Tá Lĩnh, và ban cho áo
mão quan tam phẩm. Còn các quan đi theo thì cấp cho mỗi người ba lạng bạc và
một thạch gạo.
Vua
Chiêu Thống giận vì bị người Tàu đánh lừa, bèn cùng với bề tôi là bọn Phạm Như
Tùng, Hoàng Ích Hiển, Lễ Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý
Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng, Lê Thức uống máu ăn thề, định
sống chết thế nào thì cũng dâng biểu xin binh cứu viện. Nếu
không cho thì xin đất hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên để phụng thờ tông tự;
mà không nữa, thì xin cho về nước vào đất Gia Định với chúa Nguyễn để đồ việc
khôi phục.
Văn biểu
làm xong, đến nói lót trước với Kim Giản, Kim Giản không nghe, vua tôi nhà Lê
phục xuống đất mà kêu khóc. Kim Giảng bất đắc dĩ mời vào an ủi, rồi nói rằng:
hãy xin về quán nghỉ ngơi, đợi để thương lượng thế nào, sau sẽ cho biết.
Kim Giản
bèn mưu với Hòa Thân phân trí vua tôi An Nam đi ở mỗi người một nơi, để cho
khỏi kêu ca khó chịu.
Đến
tháng tư năm tân hợi (1791) Hoàng Ích Hiểu phải đày sang I-lê (thuộc Hồi-bộ ở
Tây-vực, phía Tây nước Tàu); Lê Hân đày đi Phụng Thiên (Mãn Châu); Phạm Như
Tùng đày lên Hắc Long Giang (Mãn Châu); Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn
Đình Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương đày ra bến Trương-gia ở Nhiệt-hà
(thuộc tỉnh Trực-lệ). Chỉ để Phạm Đình
Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu hạ vua Lê.
Vua
Chiêu Thống nghe chuyện ấy lo lắng chua xót, ruột nóng như lửa đốt, sáng hôm
sau cưỡi ngựa đế nhà Kim Giản, để kêu oan cho mấy người phải đi đày, gặp Kim
Giản vào chầu vua nhà Thanh ở vườn Viên Minh, vua Chiêu Thống đi vào cửa vườn,
bị lính giữ vườn ngăn cấm không cho đi. Bấy giờ có Nguyễn Văn Quyên đi theo
hầu vua, thấy lũ lính vô lễ, mới nổi giận lên mà chửi mắng rằng: "Lũ chó
Ngô kia sao chúng bay được làm nhục đến vua
tao!" Rồi lấy gạch ném vào chúng nó. Chúng nó xúm nhau lại đánh Văn
Quyên về thành bệnh mà chết.
Tự đó
vua Chiêu Thống trong bụng buồn bã rầu rĩ, không dám nói đến việc xin binh nữa.
Qua tháng năm năm nhâm tí (1792) hoàng tử lên đậu mất. Vua nhân dịp đó phải bệnh một ngày một nặng,
đến tháng mười năm quý sửu (1793) thì mất, thọ được 28 tuổi.
Vua nhà
Thanh sai theo lễ tước công mà táng ở ngoài cửa Đông
Trực.
Tháng 11
năm kỷ mùi (1799) đời vua Gia Khánh thì bà Hoàng Thái Hậu mất.
Đến năm
nhâm tuất (1802) nhân khi bên Việt Nam ta vua Thế Tổ nhà Nguyễn đã thống nhất
cả nam bắc, và có sứ ta sang cầu phong, các quan nhà Lê mới nhân dịp dâng biểu
xin đem ma Thái Hậu và Cố Quân về nước. Vua Gia Khánh cho tất cả những người
Việt Nam theo vua Lê sang Tàu về nước.
Sử chép
rằng khi đào đất lên để cải táng mả Cố Quân, thì thấy da thịt đã tiêu cả, chỉ
còn có quả tim không nát, vẫn đỏ như thường.
Ai trông thấy cũng động lòng thương xót. Dẫu chuyện đó thực hư thế nào
mặc lòng, nhưng tưởng đến tình cảnh vua Chiêu Thống lúc bấy giờ, thì ai cũng ái
ngại thay cho ông vua một nước, phải đày đọa đến nỗi như thế, có thể làm được
một bài bi kịch thảm xót muôn đời. Tuy rằng
tại vua tôi nhà Lê vụng tính cho nên bị người ta đánh lừa, nhưng cũng nên tránh
vua quan nhà Thanh xử tệ, bạc đãi một ông vua vong quốc, đem thân đến nương nhờ
nước mình. Ấy cũng là một thời dã man về đời áp chế, khiến cho cái oan khổ của
người ta muôn đời về sau không tiêu thoát đi được.
Khi đem
ma bà Thái Hậu và vua Chiêu Thống về đến Việt Nam thì bà Hoàng Phi trước phải
ẩn nấp ở đất Kinh Bắc, nay lên đến Ải quan đón rước, rồi về đến Thăng Long cũng
nhịn ăn mà tự tử.
Ngày 24
tháng 11, rước ma Cố quân, Thái Hậu, Hoàng Phi và Hoàng tử về táng ở lăng Bàn
Thạch ở Thanh Hóa.
7. Đức Độ Vua Quang Trung. Vua Quang Trung
nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài
có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn
học. Khi ngài ra lấy Bắc hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được
trọng dụng và nhất là đối với một người xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật là khác
thường.
Ông
Nguyễn Thiệp, tự là Khải Chuyên, hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là Hạnh Am. Ông làm nhà ở Lục Niên Thành, thuộc huyện La
Sơn, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, cho nên người ta gọi là Lục Niên tiên sinh hay là La
sơn phu tử. Vua Quang Trung từ khi đem quân ra đánh Bắc hà, biết tiếng Nguyễn
Thiệp, đã mấy lần cho người đem lễ vật mời ông ra giúp, ông không nhận lễ và cũng
từ chối không ra. Đến khi ngài đã đăng cực, lại mấy lần cho người đến mời ông,
ông có đến bái yết và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân trị nước, rồi
lại xin về. Vua Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ cũng
tôn kính ông như bậc thầy, và
việc chính trị trong nước thường theo ý nghĩa của ông đã trình bày.
8. Chính Trị của vua Quang Trung. Vua Quang Trung tuy đã thụ phong nhà Thanh,
nhưng vẫn tự xử theo cách Hoàng Đế, lập bà Ngọc Hân con vua Hiển Tông nhà Lê
làm Bắc Cung Hoàng Hậu, lập con là Quang Toản làm Thái Tử. Lại lấy thành Nghệ
An là đất giữa nước và lại là đất tổ khi xưa ở đó, mới sai thợ thuyền tải vận
đá, gỗ, gạch, ngói, sửa sang đền đài cung điện, và sai quân các đạo đào lấy đá
ong để xây nội thành, gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Cải thành Thăng Long là Bắc
Thành, chia đất Sơn Nam ra làm hai trấn, gọi là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ131.
Mỗi trấn
đặt quan trấn thủ và quan hiệp trấn. Mỗi huyện, văn thì đặt chức phân tri để
xét việc kiện cáo, võ thì đặt chức phân suất để coi việc binh lương.
9. Quan Chế. Quan Chế thời bấy giờ thì không
thấy sử chép rõ, nhưng xem các dã sữ thì thấy có tam co6ng, tam thiếu, có Đại
chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư khấu, Đại tư mã, Đại tư không, Đại tư cối, Đại tư
lệ, Thái Úy, Đại tổng quản, Đại đổng lý, Đại đô đốc, Đại đô hộ, v.v... Lại có
Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Thị trung ngự
sử, Lục bộ thượng thư, Tả hữu đồng nghị, Tả hữu phụng nghị, Thị lang, Tư vụ,
Hàn lâm, v.v....
Về đường
quân binh thì đặt ra tiền quân, hậu quân, trung quân, tả quân, hữu quân, v.v...
131 Trấn
lị Sơn Nam Thượng ở Châu Cầu, trấn lị Sơn Nam Hạ ở Vị Hoàng.
10. Việc Đinh Điền. Đinh thì chia ra làm ba
hạng: từ 2 tuổi đến 17 tuổi làm hạn "vị cập cách"; từ 18 đến 55 tuổi
làm tráng hạng; từ 56 đến 60 tuổi làm lão hạng; từ 61 trở lên làm lão nhiêu.
Ruộng
cũng chia ra làm ba hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu phải nộp 150 bát thóc, nhị
đẳng điền mỗi mẫu 80 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 50 bát. Lại thu tiền thập vật,
mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50 đồng.
Ruộng tư
điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi
mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công điền, còn tiền khoán khố thì mỗi
mẫu phải nộp 30 đồng.
11. Việc Học Hành. Đời Tây Sơn việc cai trị thường hay dùng chữ
nôm. Nhà vua muốn rằng người Việt Nam thì phải dùng tiếng Việt Nam, để gây
thành cái tinh thần của nước nhà, và cái văn chương đặc biệt, không phải đi
mượn tiếng mượn chữ của nước Tàu. Vậy nên khi thi cử thường bắt quan ra bài chữ
nôm và bắt sĩ tử làm bài bằng chữ nôm. Thời bấy giờ nhiều người không hiểu rõ
cái ý nghĩa sâu xâ ấy, cho là vua Tây Sơn dùng hà chính mà ức hiếp nhân dân.
12. Việc Làm Chùa Chiền. Vua Quang Trung thấy
làng nào cũng có chùa chiền, mà những người đi tu hành thì ngu dốt, không mấy
người đạt được cái đạo cao sâu của Phật, chỉ mượn tiếng thần thánh mà đánh lừa
kẻ ngu dân, ngài xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem gỗ gạch làm
ở mỗi phủ mỗi huyện một cái chùa thật to, rất đẹp, rồi chọn lấy những tăng nhân
có học thức, có đạo đức, ở coi chùa thờ Phật. Còn những người không xứng đáng
thì bắt về làm ăn. Ý vua Quang Trung muốn rằng chỗ thờ Phật phải cho tôn
nghiêm, mà những người đi tu hành thì phải là người chân tu mộ đạo mới được.
Những
việc cải cách ấy rất có nghĩa lý, nhưng vì thủa ấy có nhiều sự chiến tranh, vả
nhà Tây Sơn cũng không làm vua được bao lâu, cho nên thành ra không có công
hiệu gì cả.
13. Việc Định Đánh Tàu. Trước vua Quang Trung
cầu hòa với nước Tàu và chịu phong là cốt để đợi ngày có đủ sức mà đánh báo
thù, cho nên từ khi trong nước đã dẹp yên rồi, ngày đêm trù tính việc đánh Tàu.
Đình thần ai cũng bàn nên xét số dân đinh cho đích thực để kén lấy lính. Vua
bèn xuống lệnh cho các trấn bắt dân xã làm lại sổ đinh, ai ai cũng phải biên
vào sổ, rồi cấp cho mỗi người một cái thẻ bài, khắc bốn chữ "Thiên Hạ
Đại Tính",
chung quanh ghi
tên họ quê
quán, và phải
điểm chỉ làm
tin. Người nào cũng phải đeo thẻ ấy gọi là tín bài. Ai không có thẻ là
dân lậu, bắt sung vào quân phòng, và bắt tội tổng trưởng, xã trưởng. Nhân có
việc ấy, những kẻ lại dịch hiệp với xã trưởng đi lại làm bậy: thường vào làng
vây bắt hỏi thẻ, làm cho dân gian nhiễu động, nhiều người phải trốn vào rừng mà
ở.
Sổ đinh
làm xong rồi cứ ba tên đinh kén lấy một người lính.
Quân thì
chia ra làm đạo, cơ, đội. Đạo thì thống các cơ, cơ thì thống các đội. Cơ đội
nào theo về cơ đội ấy, bắt phải diễn tập luôn luôn.
Bấy giờ
ở bên Tàu có những giặc Tàu ô, quấy nhiễu ở miền bể bị quân nhà Thanh đánh đuổi,
chạy sang xin phụ thuộc nước ta, vua Quang Trung cho người tướng Tàu-ô làm chức
tổng binh, sai sang quấy nhiễu ở mặt bể nước Tàu. Lại có người thuộc về đảng
Thiên Địa Hội làm giặc ở Tứ Xuyên, vua cũng thu dùng cho làm tướng.
Công
việc xếp đặt đâu vào đấy rồi, đến năm nhâm tí (1792) vua Quang Trung sai sứ
sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc ấy tuy
không phải là bản ý nhưng muốn mượn chuyện để thử ý vua nhà Thanh. Không ngờ
vua Quang Trung phải bệnh mất, các quan dìm việc cầu hôn và việc xin trả đất
đi, không cho Thanh triều biết.
14. Vua Quang Trung mất. Vua Quang Trung mất
năm nhâm tí (1792), làm vua được 4 năm, thọ được 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ
Võ Hoàng Đế.
Triều
thần bấy giờ là Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu132, Vũ Văn Dũng lập thái tử là
Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi làm vua, rồi sai sứ sang Tàu dâng biểu cáo tang
và cầu phong. Trong biểu nói dối rằng khi vua Quang Trung mất có dặn lại rằng
phải đem chôn ở Tây Hồ gần Bắc Thành, để tỏ cái bụng quyến luyến trông về Thiên
triều. Vua nhà Thanh xem biểu tưởng là thật, khen là trung, đặt tên thụy cho là
Trung Thuần, lai ngự chế một bài thơ sang viếng, sai quan án sát Quảng Tây là
Thành Lâm sang tế, và phongcho Quang Toản làm An Nam Quốc Vương. Trong bài văn
tế có câu rằng:
Nghĩa
thần tử vẫn còn mến chúa.
15. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802). Khi vua Quang Trung mất thì Thái Tử là Nguyễn
Quang Toản mới lên 10 tuổi, triều đình tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh
Thịnh, sau thành Phú Xuân thất thủ, vua tôi nhà Tây Sơn chạy ra Bắc hà lại đổi
niên hiệu là Bảo Hưng.
Vua Cảnh
Thịnh tuy đã lên ngôi nhưng mà việc gì cũng do ở thái sư là Bùi Đắc Tuyên quyết
đoán cả. Bùi Đắc Tuyên là anh ruột bà Thái Hậu, cho nên uy quyền lại càng hống
hách lắm. Các quan văn võ có nhiều người không phục, bởi vậy cho nên về sau
trong Triều phân ra bè đảng; các đại thần giết hại lẫn nhau. Vả lại lúc bấy giờ
có vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn là một bậc có tài trí, quyết chí phục thù,
cho nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn không được bao lâu mà đổ nát vậy.
Chầu ngô
Nam cực, Lòng trung nghĩa hết đạo thờ vua Chôn đất Tây hồ
132 Có
sách chép là Nguyễn Quang Diệu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét