Hồ -
Minh đại chiến: Vì sao Hồ Quý Ly thất bại?
Hạn hán, đói kém, bất mãn trong
dân chúng và ưu thế quân sự của nhà Minh dường như là các yếu tố chính kết hợp,
khiến nhà Hồ sụp đổ trước đợt xâm lược của nhà Minh đầu thế kỷ 15.
Hồ Quý Ly (1336-1407), người
gốc ở Chiết Giang, Trung Quốc, có ông tổ là Hồ Hưng Dật được cử sang làm Thái
thú Diễn Châu (Nghệ An ngày nay) hồi thế kỷ 10.
Dưới thời Trần Nghệ Tông, năm
1371, Quý Ly giữ chức Khu mật viện đại sứ, được vua gả em gái.
Trong vòng 20 năm, đến 1397,
Quý Ly đã giữ chức Thái sư khuynh đảo toàn bộ triều Trần.
Năm 1397, Quý Ly cho xây thành
Tây Đô ở tỉnh Thanh Hóa, sau này sẽ là kinh đô của nhà Hồ.
Đến năm 1400, Quý Ly chính thức
bức vua Trần nhường ngôi, lập ra nhà Hồ, đặt niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu
Đại Ngu.
Nạn đói
Chưa đầy một năm, Hồ Quý Ly
nhường ngôi ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái thượng hoàng, nhưng
thực tế vẫn nắm triều chính.
Nhà Hồ chỉ tồn tại 7 năm ngắn
ngủi (1400-1407). Trong những năm này, Việt Nam trải qua các năm hạn hán
1401-4, và ngay sau đó là nạn đói năm 1405.
Sự thanh trừng tàn khốc với họ
Trần cũng khiến Hồ Quý Ly có nhiều kẻ thù. Theo sách Việt sử Giai thoại của
Nguyễn Khắc Thuần, có vụ Hồ Quý Ly sát hại một lúc trên 370 người, trong đó có
Thượng tướng Trần Khát Chân là người đã có công giết chết vua Chế Bồng Nga của
Chiêm Thành trong trận đánh năm 1390.
Tháng 4/1406, vua Minh Thành Tổ
sai tướng đưa 5.000 quân đưa Trần Thiêm Bình, người trá xưng là con vua Nghệ
Tông, sang Việt Nam .
Trần Thiêm Bình tự nhận là
người duy nhất còn lại của họ Trần và xin vua Minh xuất quân điếu phạt.
Đến biên giới, xảy ra giao
tranh với quân nhà Hồ. Kết quả, quân Hồ bắt được Thiêm Bình, đem về chém đầu.
Nhưng cuối năm đó, nhà Minh đưa
đại quân sang đánh. Nhà Minh đã huy động các vị tướng và binh lính thiện
chiến nhất cho chiến dịch tấn công Đại Việt.
Hỏa khí
Theo nghiên cứu về vũ khí của
Sun Laichen, để đối phó với hỏa khí của Đại Việt, vua Minh Thành Tổ ra lệnh
sản xuất các khiên lớn và dày. Ông ra lệnh không được để lộ kỹ thuật làm
súng cho đối phương, phải bảo đảm là khi rút quân, súng "phải được đếm
theo số hiệu và không để một khẩu súng nào thất lạc."
Trong số 215.000 quân Minh tham
gia chiến dịch viễn chinh, khoảng 21.000 lính thuộc khẩu đội được vũ trang
bằng súng.
Ngày 19 tháng 11 năm 1406, quân
Minh do Trương Phụ dẫn đầu tiến vào từ Quảng Tây, còn đội quân của Mộc Thạnh
tấn công từ Vân Nam .
Sau các thắng lợi ban đầu, quân
Minh tổ chức đánh thành Đa Bang, thuộc Sơn Tây, là tiền tuyến của quân Hồ.
Việc chiếm thành Đa Bang bộc
lộ vai trò quan trọng của súng ống của quân Minh. Đa Bang là vị trí chiến lược
quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống phòng thủ khi ấy của Đại Việt, và nhà
Hồ tập trung quân tướng và vũ khí tốt nhất để phòng thủ nơi này.
Trận tấn công bắt đầu ngày 19
tháng Giêng, 1407. Khi quân Minh dùng thang ập vào thành mà leo lên, những
người lính Việt chỉ có thể bắn vài mũi tên và đạn. Sau khi vào thành, quân
Minh đối diện với các đoàn voi trận. Quân Minh vẽ hình sư tử trùm lên ngựa để
làm voi sợ, và đặc biệt, nhóm quân súng thần cơ đóng vai trò quyết định cho
thắng lợi của quân Minh.
Các đoàn voi trận Đông Nam Á
vốn vẫn là đối thủ đáng gờm trước quân Trung Quốc trong nhiều thế kỷ, nhưng
trước hỏa lực mạnh của đối phương, voi đành bỏ chạy.
Khi Đa Bang vỡ, quân nhà Hồ
không còn ngăn được đà tiến về miền đông và nam của quân Minh.
Ngày 20 tháng Giêng, Đông Đô
(Thăng Long) sụp đổ, và sáu ngày sau, Tây Đô (vùng Thanh Hóa) cũng rơi vào tay
quân viễn chinh.
Chiến cuộc
Trong các trận chiến sau đó,
súng của quân Minh cũng chứng tỏ hiệu quả.
Ngày 21 tháng Hai, trên Lục giang,
quân Minh huy động thủy - lục quân với nhiều loại súng, tấn công 500 chiến
thuyền của Hồ Nguyên Trừng, giết chết hơn 10.000 lính Việt.
Một nguồn sử Trung Hoa mô tả
trận chiến là "súng bắn ra như sao rơi, sét đánh."
Đầu tháng Năm 1407, một trận
lớn diễn ra ở bến Hàm Tử, Hưng Yên. Nhà Hồ huy động lực lượng đáng kể (70.000
quân) và nhiều chiến thuyền kéo dài trên sông đến năm cây số. Mặc dù quân Hồ
cũng sử dụng súng chống trả, nhưng hỏa lực quân Minh vẫn đủ sức tạo chiến
thắng, với 10.000 lính Việt tử trận.
Ngày 16-17 tháng Sáu 1407, quân
Minh kết thúc chiến dịch với việc bắt sống Hồ Quý Ly và các con.
Chiến thắng nhanh chóng khiến
tướng Hoàng Phúc bình luận: "Thành công nhanh chóng thế này chưa bao giờ
xảy ra trong quá khứ."
Sách Việt sử Toàn thư của Phạm
Văn Sơn còn nhắc một chi tiết. Khi quân Minh tiến vào nước Nam , đã thả
xuống sông những tấm ván có viết bài hịch, nói rằng họ sang dẹp nhà Hồ có ý
khôi phục lại dòng dõi nhà Trần và cứu nhân dân khỏi vòng đói khổ.
Sách viết: "Quân sĩ của ta
xem được bài hịch này nhiều kẻ nản lòng. Bọn Mạc Địch, Mạc Viễn, Mạc Thủy (cháu
trạng Mạc Đỉnh Chi ở lộ Hải Dương) và Nguyễn Huân bất bình với nhà Hồ bỏ theo
quân Minh được trọng đãi. Nhờ có sự cộng tác của bọn này, nội tình quân dân
nước Nam
thời đó bị phanh phui hết thảy ra trước mắt quân xâm lược."
Hồ Quý Ly cùng các con Hán
Thương, Nguyên Trừng bị quân Minh giải về Trung Quốc.
Tại đây, Minh Thành Tổ hỏi Quý
Ly: "Giết vua cướp nước có phải là đạo bề tôi không?"
Quý Ly không trả lời, sau đó,
cùng Hán Thương, bị đưa đi làm lính tuần ở Quảng Tây.
Con của ông, Nguyên Trừng, giỏi
chế tạo vũ khí, được nhà Minh phong làm quan, sau này viết sách Nam Ông Mộng
Lục.
Sau khi đánh bại nhà Hồ, từ
1407, nhà Minh tự đặt Việt Nam
thành quận Giao Chỉ của Trung Quốc. Việt Nam lúc này rơi vào sự đô hộ của
Trung Quốc.
Bình định xong, nhà Minh đặt ba
cơ quan hành chính: Ty Đô chỉ huy sứ, ty Thừa tuyên bố chính sứ và ty Đề hình
án sát sứ, thuộc quyền Đô đốc Lã Nghị và Thượng thư Hoàng Phúc.
Đại Việt dưới thời Hồ Quý Ly
đã chuẩn bị cho khả năng bị xâm lăng từ sớm, và huy động một lực lượng quân
đội lớn chưa từng thấy.
Tuy vậy, chế độ nhà Hồ sụp đổ
nhanh chóng. Lý do, bên cạnh các yếu tố khác như bất mãn của tầng lớp quý tộc
và dân chúng trong nước, sai lầm chiến lược, còn là ưu thế quân sự, bao gồm
súng đạn, của nhà Minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét