Tại sao
Người Mỹ không thích dùng trà hay câu chuyện phải chăng chúng ta nên bắt đầu từ
thuế và phí?
Nhắc đến
tiệc trà, thường người ta nghĩ ngay đến chiếc tách xinh xắn và những câu chuyện
trò lịch thiệp bên hương trà tao nhã
Song đối
với dân Mỹ, cụm từ “tea party” lại làm gợi đến một sự kiện chính trị mang tính
biến động lớn trong hành trình lập quốc của họ. Kể từ sau “Boston tea party,”
người Mỹ đã chính thức quay lưng với trà và chuyển sang tiêu thụ cà phê. Ở Mỹ
hiện giờ, trà vẫn chỉ là thức uống phụ sau cà phê và… nước ngọt. Đầu đuôi của
“bữa tiệc trà lịch sử” đó như sau:
Chỉ chưa
đầy 300 năm trước đây thôi, nước Mỹ chưa phải là một cường quốc hùng mạnh như
ta thấy ngày nay. Vào khoảng những năm đầu thập niên 1770, Hợp Chủng Quốc Hoa
Kỳ không tồn tại mà mới chỉ có mười ba thuộc địa nho nhỏ của Anh chạy dọc bờ
Đông nước Mỹ hiện giờ
Những
thuộc địa đầu tiên đều khá giàu có nhờ buôn bán, trồng trọt, và nô lệ. Thế
nhưng những người dân thuộc địa càng lúc càng không vừa lòng với “mẫu quốc”.
Người dân thuộc địa không có ai là đại biểu trong quốc hội Anh, xong họ vẫn
phải đóng thuế. Với tư cách là công dân nước Anh, những người dân thuộc địa cảm
thấy thật bất công khi phải “cống nạp” cho một chính phủ không đại diện cho lợi
ích cho họ. Khẩu hiệu của dân thuộc địa lúc bấy giờ là: “No taxation without
representation,” đã không có tiếng nói thì không thuế má gì cả
Cùng lúc
đó, những người gốc Anh di cư sang thuộc địa vẫn coi trà là một nhu yếu phẩm
quan trọng, bởi họ vẫn chưa bỏ được thói quen uống trà. Một công ty xuất khẩu
hùng mạnh có tên Đông Ấn (East India Company) thì lại đang lâm vào tình trạng
tài chính kiệt quệ, bởi thuế ở khu vực thuộc địa quá cao làm đẩy giá trà lên,
dẫn đến không ai thèm mua trà của họ nữa. Dân sống ở thuộc địa thành ra toàn
phải mua trà lậu. Công ty Đông Ấn liền cầu cứu Quốc hội Anh. Quốc hội Anh bèn
hỗ trợ công ty này bằng cách đề ra luật Tea Act năm 1773, cho phép công ty Đông
Ấn được độc quyền bán trà ở thuộc địa với thuế nhẹ, lại được bán thẳng cho
người dân nên giá rất rẻ.
Những
tưởng người dân sẽ vui mừng vì giá trà nay rẻ chỉ bằng một nửa lúc trước, xong
thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Các lái buôn thì tiếc lợi lộc sắp mất trắng,
các nhà cấp tiến tự xưng là Sons of Liberty (“Những người con của tự do”), hay
Whigs, thì giận vì tình trạng độc quyền, thiên vị. Hai nhóm này cùng bàn bạc tổ
chức chống lại công ty Đông Ấn. Một chiến dịch nâng cao tinh thần đấu tranh
trong nhân dân bắt đầu. Kết quả là tại tất cả các nơi khác ngoại trừ vùng
Massachusetts, những lô hàng chở trà qua Đại Tây Dương đều bị gửi trả lại.
Những người nhận hàng cũng bỏ việc để bày tỏ thái độ phản đối chính sách mới.
Nhưng thống đốc Hutchinson nhất quyết không chịu thua trước áp lực của dân
thuộc địa. Khi tàu Dartmouth cập cảng Boston vào tháng mười một, Samuel Adams,
thủ lĩnh Sons of Liberty, đồng thời là anh họ của luật sư John Adams, hạ lệnh
ngăn không cho tàu được dỡ hàng lên bờ mà phải quay lại Anh ngay. Trong khi đó
thống đốc Hutchinson lại không cho phép tàu được rời đi mà chưa nộp thuế. Ông
ta còn thuyết phục hai con trai mình kiêm chức nhận hàng, đừng chùn bước. Tàu
Dartmouth thế là lâm vào cảnh “đi thì dở, ở cũng không xong.” Còn chưa giải
quyết được thì lại thêm hai chiếc tàu nữa, Beaver và Eleanor cập cảng.
Theo
luật Anh, nếu quá hai mươi ngày mà tàu không chịu nộp thuế thì sẽ phải phạt,
tịch thu toàn bộ hàng hóa. Hạn chót đã tới. Đêm ngày 16. 12. 1773, một nhóm
người cải trang thành người da đỏ Mohawk đột nhập lên ba con tàu đang thả neo ở
biển Boston và đổ toàn bộ 342 rương trà xuống biển. Do tàu Darthmouth, Eleanor,
và Beaver không phải tàu Anh mà là tài sản của thuộc địa, do đó không bị phá
phách tẹo nào. Chỉ có trà Anh là có tội mà thôi! Ngoài ra việc những người tham
gia Tea party cải trang thành người da đỏ còn nói lên rằng, từ giây phút đó,
quân nổi dậy thuộc địa đã tự đồng nhất với người Mỹ bản địa, quay lưng lại với
đế quốc Anh. Việc Samuel Adams có trực tiếp nhúng tay vào việc hủy trà hay
không vẫn còn chưa rõ, song ông ngay lập tức đứng về phía quần chúng phạm luật
và biện hộ rằng đó là một hành động hợp với quyền họ đáng được hưởng.
Sự kiện này như phát súng khai mào cuộc chiến giữa đế quốc và thuộc địa. Đế quốc Anh trả đũa bằng cách đóng cảng Boston và đề ra thêm nhiều đạo luật xiết chặt lấy thuộc địa. Tức nước vỡ bờ, vào năm 1775, cuộc Cách Mạng nổ ra. Năm 1776, mười ba bang hợp nhất thành Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Sau sự kiện “Tiệc trà Boston,” luật sư John Adams bắt đầu cổ súy cho việc từ bỏ trà, coi uống trà là “không yêu nước.” Kể từ đó người dân Mỹ chỉ ưa chuộng cafe. Ông John Adams này sẽ trở thành tổng thống thứ hai của nước Mỹ, tiếp nối Washington. (St)
P/S- tuy trà là thức uống quốc hồn quốc túy của người Anh, nhưng phải đến thế kỉ 17 thời nhà Thanh, trà mới từ Trung Quốc chạy sang đế quốc Anh. Charles II là ông vua Anh đầu tiên được uống trà, chính là nhờ công ty Đông Ấn. Dân ở đế quốc và thuộc địa đều thích uống trà cả. Và sau “Boston tea party, cafe mới lên ngôi ở Mỹ. Tổng thống John Adams trong thư gửi cho bà vợ Abigail có kể lại câu chuyện: Sau một chuyến công tác dài mệt mỏi ít nhất 35 dặm, ông xin bà chủ nhà một tách trà, với điều kiện trà được nhập lậu “tử tế” và không chịu thuế Anh. Nhưng bà chủ nhà bảo là dân mình ở đây đồng lòng bỏ trà rồi, tôi chỉ cho ông uống cafe được thôi. Kể từ đó ông Adams ngày nào cũng làm một cách cafe. Kết luận là đã yêu nước thì hãy cai trà càng sớm càng tốt! he he..
Sưu tầm từ Hoa Thanh Que.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét