THANH HÓA LÀ ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
Chỉ tính từ thời nước Nam có tự chủ,
bắt đầu từ Ngô Quyền: Triều đại Nhà Ngô
(939–965) với 3 đời vua, nhà Đinh (968–980) với 2 đời vua, nhà Tiền Lê
(980–1009) có 3 đời vua, nhà Lý (1009–1225) có 9 đời vua, nhà Trần (1226–1400)
có 12 đời vua, nhà Hồ (1400–1407) có 2 đời vua, nhà Lê sơ (1428–1527) có 10 đời
vua, Nhà Mạc (1527 –1592) có 5 đời vua, nhà Lê trung hưng (1533–1789) có 16 đời
vua, chúa Trịnh (1545–1787) có 12 đời chúa, chúa Nguyễn (1558–1777) có 10 đời
chúa; nhà Tây Sơn (1778–1802) có 3 đời vua, nhà Nguyễn (1802 – 1945) có 13 đời
vua.
Tổng
cộng có 11 triều đại thì có tới 4 triều đại gốc là Thanh Hoá gồm Tiền Lê, Lê
sơ, Lê trung hưng, Nguyễn, đó là chưa
tính Ngô Quyền hiện vẫn chưa thống nhất quê ở Sơn Tây hay Thanh Hoá và Nhà Hồ
phát tích ở Thanh Hoá. Có 2 nhà Chúa thì cả 2 đều là người Thanh Hoá.
Và
khuyến mại cho bà Triệu Trinh Nương, và Tiết độ
sứ Dương Đình Nghệ người có công đặt dấu chấm hết cho 1000 năm đô hộ của
phương Bắc, mở ra nền tự chủ cho nước Nam.
Tổng
cộng các triều đại phong kiến Việt Nam có 78 đời vua thì Thanh Hoá có 42 vua =
53,8%. Có 22 đời chúa thì cả 22 chúa đều là người Thanh Hoá = 100%
LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC.
1. Cuộc khởi nghĩa của Chu Ðạt (156 - 160)
Năm 156,
Chu Ðạt, người huyện Cự Phong (nay là thôn Phú Hào, xã Thọ Phú, huyện Triệu
Sơn) chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cự Phong (vùng đất các huyện Nông
Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia và Như Xuân, Như Thanh ngày nay) giết chết huyện
lệnh rồi tiến công Tư Phố, giết chết thái thú nhà Ðông Hán, lực lượng có đến
5.000 người, quản trị Cửu Chân được 4 năm từ năm 156 đến năm 160.
2. Cuộc khởi nghĩa bà Triệu (Triệu Thị Trinh)
năm 248
Từ năm
220, Cửu Chân thuộc quyền cai trị của Ðông Ngô (một trong 3 nước thời Tam
Quốc), trong xứ không kể Nghệ An, Hà Tĩnh, có chừng 3 vạn hộ. Bà Triệu tức
Triệu Thị Trinh, người Quân Yên (huyện Yên Ðịnh), 20 tuổi; lập căn cứ ở Núi Nưa
(Triệu Sơn), hội quân với 3 anh em họ Lý ở Bồ Ðiền (tức Phú Ðiền, huyện Hậu
Lộc) cùng tiến đánh quận sở Tư Phố đại thắng. Hầu hết các huyện lỵ, thành ấp ở
Cửu Chân, Cửu Ðức, Nhật Nam (2 quận nay là vùng Nghệ Tĩnh - Quảng Bình) bị
nghĩa quân đánh hạ, các thái thú, huyện lệnh và huyện trưởng bị giết... nền đô
hộ của nhà Hán ở Giao Châu hơn 330 năm bị lật đổ.
3. Thời nước Vạn Xuân, Lý Nam Ðế (542 - 556)
Mùa xuân
542, Lý Bí - mẹ đẻ là người Cửu Chân, khởi nghĩa thắng lợi, lập ra nước Vạn
Xuân xưng là Lý Nam Ðế. Nhà Lương đàn áp, Lý Thiên Bảo là anh ruột Lý Bí rút về
Dã Năng (huyện Bá Thước ngày nay) xưng là Ðào Lang Vương tiếp tục kháng chiến.
Sau đó Thiên Bảo mất, Lý Phật Tử lên thay tức là Hậu Lý Nam Ðế. Năm 556, Lý
Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương - Triệu Quang Phục - người tiếm ngôi của
Lý Bí và là người đánh bại quân đội nhà Lương ở đầm Dạ Trạch (tỉnh Hưng Yên
ngày nay).
4. Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc (đầu thế kỷ VII)
Lê Ngọc
(còn gọi là Lê Cốc) cùng với 4 người con lật đổ quan cai trị của nhà Tuỳ (Trung
Quốc) đóng ở Ðông Phố (tức Ðồng Pho, xã Ðông Hoà, huyện Ðông Sơn ngày nay), gọi
là kinh đô Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống lại nhà Ðường cho đến đầu thế kỷ
VI. Ðến thế kỷ VII, Cửu Chân gồm 6 huyện có 16.100 hộ (quận Giao Chỉ có 30.000
hộ) khoảng 84.000 nhân khẩu, thuộc xứ An Nam (tên An Nam thay cho Giao Châu bắt
đầu từ đây). Quận sở là Ðông Phố (tức là Ðồng Pho). Năm 759, quân Mã Lai cướp
phá Châu Ái (tên gọi Cửu Chân từ năm 523) bị quan cai trị là Trương Bá Nghi
tiêu diệt. Năm 797, quân Mã Lai lại cướp phá Châu Ái nữa, xây cả thành, lập
nước, nhưng bị quan cai trị là Trương Châu đánh đuổi, san phẳng thành trì thu
hồi mọi của cải. Thế kỷ IX, Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo đã rất phát đạt ở
Châu Ái. Ðạo Nho có anh em Khương Công Phụ, đỗ Tiến sỹ làm quan đến Tể tướng
triều đình nhà Ðường, đạo Lão biến các hang động đẹp nhất ở khắp Vĩnh Lộc, Hà
Trung, Nga Sơn làm nơi tu tiên và đạo Phật có các Ðại hoà thượng như Trí Hành
và Ðại Thăng Ðăng sang tận Trung Quốc để hành đạo.
5. Thời Dương Ðình Nghệ (? - 937)
Dương
Ðình Nghệ, chính khách quan trọng nhất thế kỷ X của lịch sử Việt Nam, thu hút
hơn 3.000 người làm vây cánh ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất các xã Thiệu
Dương, Thiệu Khánh, thành phố Thanh Hóa), trong đó có Ngô Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh,
Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng... Tháng 3 năm 931, Dương Ðình Nghệ đánh đuổi thứ sử Lý
Tiến của nhà Nam Hán (Trung Quốc), tiêu diệt viện binh Nam Hán, tự lập làm tiết
độ sứ, chấm dứt vĩnh viễn nền đô hộ hơn 1.000 năm của người Trung Quốc ở Việt
Nam. Ông điều hành đất nước trong 6 năm, (từ 932 - 938). Từ Dương Ðình Nghệ,
Việt Nam xác định lại được quốc thống của một đất nước độc lập hoàn toàn.
6. Thời Ngô Quyền (938 - 968)
Mùa đông
năm 938, Ngô Quyền đem quân đội Cửu Chân tiến ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn -
kẻ phản bội họ Dương ở Ðại La (Hà Nội ngày nay), rồi cản phá quân Nam Hán là
Lưu Hoàng Thao trên sông Bạch Ðằng, lên ngôi vua tức Ngô Vương Quyền. Thời 12
sứ quân, Cửu Chân nằm trong vòng kiểm soát của Ðinh Bộ Lĩnh ở miền Ðông và của
Ngô Xương Xí - cháu nội Ngô Quyền, ở Bình Kiều (đất vùng Triệu Sơn ngày nay)
tức miền Tây lãnh thổ.
7. Thời Ðại Cồ Việt - Tiền Lê (968 - 1009)
Năm 979
- 980, Lê Hoàn trấn áp xong quân chống đối của Nguyễn Bặc và Ðinh Ðiền ở vùng
sông Tống (vùng đất huyện Hà Trung ngày nay) lên ngôi vua. Năm 981, ông đánh
tan quân xâm lược nhà Tống, và năm 982 đánh thắng quân Chiêm Thành. Năm 982,
nhà vua cho nạo vét các sông ngòi, đào kênh nối liền hệ thống sông Mã, sông
Chu, sông Yên, sông Bạng cho đến vùng đất tỉnh Nghệ An ngày nay, thành một
đường giao thông thuận tiện đầu tiên ở Cửu Chân và ở cả đất nước Ðại Cồ Việt.
Người chỉ huy đào các kênh này là Ðào Lang, làng Bùi Ðỉnh (xã Yên Trung huyện
Yên Ðịnh ngày nay). Từ năm 999 đến năm 1005, các vua thời Tiền Lê phải trực
tiếp điều quân bình định miền viễn Tây Thanh Hoá nhưng chưa ổn.
8. Thời Nhà Lý (1010 - 1225)
Sau khi
dẹp tan quân Tống, biết Ái Châu là vùng đất quan trọng, hiểm yếu. Nhà Lý cử
Thái úy Lý Thường Kiệt (chức ngang với Thủ tướng bây giờ) vào trấn thủ châu Ái
(Thanh Hóa), ông trấn thủ ở Thanh Hóa 19 năm, từ 1082 - 1101. Từ năm 1009 đến
1029, Lý Thái Tổ gọi Thanh Hóa là Châu Ái. Năm 1029, dưới triều vua Lý Thái
Tông, năm Thiên Thành thứ hai đặt tên Phủ Thanh Hóa. Từ đó các triều đại tiếp
theo lúc gọi phủ, lúc gọi lộ, lúc gọi trấn và gọi là tỉnh Thanh Hóa vào thời
nhà Nguyễn.
Tên Hóa
có lúc lại đổi thành Hoa, rồi lại trở lại Hóa; đến đời vua Thiệu Trị, triều đại
nhà Nguyễn (1841), nhà vua có một chỉ dụ đại ý nói: Thanh Hóa là một tên cổ, do
các triều đại trước đã định danh, vì vậy không có lý do gì đổi tên này, mà phải
giữ nguyên tên gọi tỉnh Thanh Hóa.
Ngày
12/7/2017, tại kỳ họp thứ ba, HĐND tỉnh khóa XVII đã quyết nghị lấy năm 1029 là
năm ra đời Danh xưng Thanh Hóa với tư cách đơn vị hành chính trực thuộc Trung
ương. Sự kiện lịch sử này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo sự phấn khởi, lan
tỏa trong các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
9. Thời nhà Trần (1226 - 1400)
Tháng
giêng năm Thiệu Long thứ 15 nhà Trần (năm 1272), Lê Văn Hưu, người làng Bồi Lý
(xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá ngày nay) dòng dõi Lê Lương, soạn xong Ðại Việt sử
ký toàn thư - bộ sử hoàn chỉnh đầu tiên của nước ta.
Lê Văn
Hưu được tôn là ông tổ ngành sử học của Việt Nam. Ðầu năm 1285, kháng chiến chống
Nguyên Mông lần thứ 2, ở Thanh Hoá, quân đội nhà Trần do Trần Kiên, Trần Nhật
Duật, Trần Quang Khải chỉ huy chống giữ cầm chân giặc, ở các điểm Yên Duyên (xã
Quảng Hùng), núi Ðá Chẹt (Quảng Lĩnh), Văn Trinh (Quảng Hợp), Bố Vệ (thành phố
Thanh Hoá), Phú Tân (Hà Toại), Nga Lĩnh, Quang Lộc, Liên Lộc, chiến sự rất dữ
dội. Sau khi tướng Nguyên: Toa Ðô tiến được ra sông Hồng thì Hưng Ðạo Vương lại
đem 2 vua Trần rút vào Thanh Hoá (ở các vùng Nga Sơn, Hà Trung, Thạch Thành
ngày nay) để bảo toàn đầu não. Ðến tháng 5 năm 1285, từ Thanh Hoá, Hưng Ðạo
Vương tiến quân ra Bắc quét sạch quân Nguyên Mông khỏi bờ cõi Ðại Việt. Năm
1370, dòng họ Lê ở Ðại Lại (Ðò Lèn, Hà Ngọc huyện Hà Trung) do Lê Liêm dẫn đầu
hội quân Thanh Hoá tiến ra Thăng Long phế bỏ người tiếm ngôi Dương Nhật Lễ, lập
lại nhà Trần bằng vua Trần Phủ - tức Trần Nghệ Tôn - nhà Trần từ đây thiên vào
Thanh Hoá. Năm 1378, quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hoá bị quan quân nhà Trần
trấn giữ đánh bại. Năm 1380, quân Chiêm Thành do đích thân vua Chế Bồng Nga chỉ
huy lại vào cướp Thanh Hoá bị Hồ Quý Ly đánh bại ở cửa sông Ngu (tức Lạch
Trường, Hoằng Trường ngày nay). Năm 1382, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá
Thanh Hoá, bị Nguyễn Ða Phương đánh bại ở cửa Thần Ðầu (tức Thần Phù, huyện Nga
Sơn ngày nay). Năm 1389, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, Hồ Quý Ly
chống không nổi phải bỏ chạy. Quân Chiêm Thành tiến ra Bắc. Năm 1390, tướng chỉ
huy nhà Trần ở Thanh Hoá là Trần Khát Chân cản phá được quân Chiêm Thành, giết
chết Chế Bồng Nga, chấm dứt vĩnh viễn sự quấy rối của các vua Chiêm Thành.
10. Thời nhà Hồ (1400 - 1407)
Mùa xuân
năm 1397, xây dựng xong thành đá Tây Giai ở động Thiên Tôn (nay là đất xã Vĩnh
Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc). Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên
ngôi vua ở thành này, thay nhà Trần, đổi tên nước là Ðại Ngu (nghĩa là rất an
vui và cùng lo việc nước), bỏ kinh đô Thăng Long, lấy thành đá mới làm quốc đô
gọi là Tây Ðô. Nhà Hồ phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng đúc từ năm 1396,
đến năm 1400 định lại giá kim ngạch cho thêm chặt chẽ. Năm 1402, nhà Hồ hoàn
thành việc xây dựng con đường Thiên Lý từ Tây Ðô ra Ðông Quan (tức Thăng Long
cũ) và từ Tây Ðô vào Hoá Châu (vùng Quảng Bình ngày nay) dọc đường đặt nhà
trạm, phố xá và bưu dịch có hệ thống. Sau một năm chiến đấu ngoan cường nhưng
thất bại, năm 1407, nhà Hồ và nước Ðại Ngu mất vào tay quân xâm lược nhà Minh.
11. Cuộc kháng chiến 10 năm chống nhà
Minh(1418 - 1428)
Mùa
xuân, tháng Giêng ngày mồng 2 năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng với những người
tài giỏi trong cả nước khởi nghĩa ở Mường Chính (nay là huyện lỵ Lang Chánh)
tiến về Khả Lam (tức Lam Sơn) bắt đầu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà
Minh (Trung Quốc) giải phóng đất nước. Lê Lợi xưng là Bình Ðịnh Vương, người
hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân). Bình
Ðịnh Vương chiến đấu ở Thanh Hoá 6 năm, các trận đánh lớn diễn ra ở Lam Sơn,
Mường Một (vùng Bát Mọt, huyện Thường Xuân ngày nay), Mường Chính, Bến Bổng
(vùng thượng du sông Âm), Ba Lẫm (vùng Chiềng Lẫm, huyện Bá Thước ngày nay),
Kình Lộng (vùng Cổ Lũng, huyện Bá Thước), Úng Ải (vùng đèo Thiết Ống, huyện Bá
Thước), Sách Khôi (ở khoảng giữa huyện Bá Thước và huyện Hoàng Long - Ninh Bình
và huyện Thạch Thành - Thanh Hoá), Ða Căng (vùng Thọ Nguyên, Thọ Xuân), có trận
phía địch có tới 10 vạn quân như ở Kình Lộng. Mùa đông năm 1424, Bình Ðịnh
Vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách của Nguyễn Chích. Mùa thu năm 1426,
quân khởi nghĩa tiến ra Bắc bao vây Ðông Quan. Ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ
(1426), Bình Ðịnh Vương đến Lỗi Giang (vùng đất các huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc
ngày nay) chỉ huy bao vây Tây Ðô. Cuối năm 1426, Bình Ðịnh Vương ra Bắc chỉ huy
giải phóng các miền đất Giao Chỉ (Bắc Bộ ngày nay), và vây hãm thành Ðông Quan.
Ngày 22 tháng 01 năm Ðinh Mùi (1427), giặc Minh đầu hàng. Mùa xuân năm sau -
giặc rút về, đất nước sạch bóng quân thù, thành Tây Ðô lại về Ðại Việt. Ngày 15
tháng giêng năm Mậu Thân (1428), Bình Ðịnh Vương lên ngôi hoàng đế nước Ðại
Việt, thủ đô là Ðông Kinh (tức Ðông Quan, thủ đô Hà Nội ngày nay). Cả nước chia
làm 3 đạo hành chính lớn, Thanh Hoá thuộc đạo Hải Tây trong số các trấn ven
biển Tây Ðô.
12. Thời Lê sơ (1428 - 1516)
Tháng 11
- Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ về bái yết Sơn Lăng, Lam Sơn, sau 10 năm chiến
đấu giành độc lập cho đất nước thắng lợi. Mùa Hè năm Canh Tuất (1430) đổi Tây
Ðô làm Tây Kinh và Ðông Ðô (Hà Nội) làm Ðông Kinh. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu
(1433), Lê Thái Tổ mất, một tháng sau đem về an táng ở Lam Sơn, gọi nơi an táng
là Vĩnh Lăng. Tháng 12 năm Quí Sửu (1433) xây dựng điện Lam Sơn (gọi là Lam
Kinh). Ngày 7 tháng 01 Giáp Dần (1434), điện Lam Kinh bị cháy (cháy lần thứ
nhất). Tháng 9 Mậu Thìn (1448): xây dựng lại Lam Kinh do Thái uý Trịnh Khả chỉ
huy. Từ Mậu Ngọ (1438) đến Mậu Tý (1468), 3 lần khơi đào các kênh trong xứ
Thanh Hoá. Năm Bính Tý, tháng 4 (1516), Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực,
lập vua Lê Chiêu Tông rước về Tây Kinh.
13. Thời Lê Mạc (1516 - 1788)
Họ Mạc
cướp ngôi vua Lê ở Thăng Long. Nhà Lê phải ly tán nhiều nơi. Có người phải đưa
gia đình vợ con đi trốn tận Ai Lao (Lào). Quan Ðiện tiền tướng quân Nguyễn Kim
- người Hà Trung lập căn cứ ở Thanh Hoá chống lại họ Mạc. Năm 1533 (Quí Tỵ),
ông sang Lào đưa Lê Ninh (con vua Chiêu
Tông) lên ngôi tức Lê Trang Tông, trở về Thanh Hóa đánh chiếm Tây Kinh (1545)
thắng lợi. Ðến năm 1545 (Ất Tỵ), Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm lên thay,
đánh nhau nhiều trận lớn với họ Mạc ở Thanh Hoá, 16 lần quân Mạc đều thua.
Từ năm
1533 đến 1592, triều đình nhà Lê ở Thanh Hoá, quản lý đất nước từ Thanh Hoá trở
vào, đóng đô ở Yên Trường (nay thuộc Yên Ðịnh) mở nhiều khoa thi, chọn người
hiền tài tham gia chính quyền. Năm 1593, Trịnh Tùng - con trai Trịnh Kiểm, kế
tục cha tiêu diệt họ Mạc, đưa vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long, lập phủ chúa,
Ðàng Ngoài do vua Lê - Chúa Trịnh trị vì từ năm 1599. Trong thời đó, năm 1588,
Nguyễn Hoàng (con trai của Nguyễn Kim) vào trấn thủ xứ Thuận Hoá, mở đầu sự
nghiệp các Chúa Nguyễn ở Ðàng trong. Năm 1738, Lê Duy Mật (con vua Lê Dụ Tông
Duy Ðường) khởi nghĩa chống Chúa Trịnh, địa bàn hoạt động rộng khắp Tây Nam,
Tây, Tây Bắc Thanh Hoá và vùng Tây Bắc lẫn Tây Bắc Bộ. Năm 1770, Duy Mật bị con
rể phản bội phải thua và tự sát với vợ con, chấm dứt 32 năm chiến đấu. Từ năm
1557 đến 1786, Thanh Hoá bị 10 trận bão lụt lớn xen đại hạn, 15 lần đói to chết
nhiều người và 16 cuộc chiến giữa quân Trịnh - Mạc, những tai hoạ ấy không hề
có ở thời Lê sơ.
14. Thời Tây Sơn
Những
năm quân Tây Sơn tiến công ra Bắc, quân dân Thanh Hoá do Lê Trung Nghĩa (tức
Quận Mãn) chỉ huy chống lại rất dữ dội, Lê Trung Nghĩa tử trận ở Tĩnh Gia.
Quân đội
Tây Sơn phá huỷ hoàn toàn Lam Kinh và kinh đô An Trường biểu tượng của các vua
Lê và còn phá huỷ nhiều chùa chiền miếu mạo khác. Năm 1790, con vua Quang Trung
là Quang Bàn được cử ra trấn thủ Thanh Hoá. Năm 1792, ông tách ra 2 phủ Trường
An và Thiên Quan của Thanh Hoa ngoại thành trấn Thanh Bình (tức Ninh Bình ngày
nay).
15. Thời nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Thanh
Hoá là đất tổ của nhà Nguyễn, cho nên sau kinh thành Huế, Thanh Hoá đặc biệt
được chú trọng. Nhà Nguyễn coi viên quan tổng đốc quản trị Thanh Hoá ngang với
chức thượng thư trong triều đình và phải là một vị hoàng thân mới được làm tổng
đốc tỉnh Thanh Hoá.
Ðặc
biệt, triều đình ra lệnh không được đào bới khai mỏ gì ở Thanh Hoá sợ rằng xúc
phạm đến oai linh của xứ sở. Nhà Nguyễn xây lăng tổ khai sáng ở Triệu Tường (Hà
Trung), thành Triệu Tường lớn thứ 2 sau thành Thanh Hoá, chu vi 182 trượng (1
trượng = 4m), xây dựng lại Lam Kinh để tỏ lòng kính ngưỡng nhà Lê, dựng đền thờ
các vua Lê ở Kiều Ðại (TP Thanh Hoá), hằng năm cắt cử các quan lại thay mặt nhà
vua cúng tế và tổ chức phòng thủ ở Thanh Hoá rất hùng mạnh gồm một hệ thống 11
đồn binh có quân chính qui trấn giữ 7 bảo súng (pháo đài), 1 đồn thuỷ với 44
khẩu đại bác (súng thần công) mỗi đợt tuyển quân lấy của Thanh Hoá hơn 7.000
người. Ngày 25/11/1885, quân xâm lược Pháp lần đầu tiên tiến công Thanh Hoá.
Trước đó, ngày 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi tuyên bố chọn Thanh
Hoá làm thủ phủ kháng chiến, nên tinh thần Cần Vương của quân dân Thanh Hoá rất
sôi sục. Vùng rừng núi Thanh Hoá được xây dựng những sơn phòng tích trữ tiền
của, lương thảo để chuẩn bị đánh giặc. Ba tháng sau (12/3/1886), nghĩa quân Cần
Vương đã tiến đánh quân Pháp đóng ở thành Thanh Hoá. Mùa hè năm 1886, nghĩa
quân lập bộ chỉ huy kháng chiến toàn Thanh Hoá do Tống Duy Tân đứng đầu và lập
chiến khu ở Ba Ðình (Nga Sơn). Từ 18/12/1887, chiến sự dữ dội nhất giữa quân
Việt Nam và Pháp đã nổ ra ở Ba Ðình. Quân Pháp phải tập trung trên địa bàn một
số xã ở đây lượng binh lính lớn nhất so với toàn quốc (6.000 người trong một
trận) để chiến đấu và bị thiệt hại nặng nề. Cuối cùng vì không được tiếp ứng
như kế hoạch dự kiến, nghĩa quân do Ðinh Công Tráng chỉ huy đã rút lui an toàn
khỏi các chiến luỹ. Ngày nay quảng trường trọng đại nhất của đất nước mang tên
chiến khu này, đó là quảng trường Ba Ðình lịch sử ở thủ đô Hà Nội. Các cuộc
chiến đấu chống quân đội Pháp ở Thanh Hoá đến giữa năm 1895 mới chấm dứt cùng
với hàng ước của nhà Nguyễn. Thanh Hoá và các tỉnh miền Trung Việt Nam vẫn nằm
trong nền độc lập hạn chế của nhà Nguyễn không bị Pháp cai trị trực tiếp. Thực
tế chính quyền thuộc địa Pháp chỉ cai quản địa phận thị xã Thanh Hoá được thành
lập ngày 12/7/1899 ở khu đất phía Ðông thành Thanh Hoá mà thôi. Năm 1918, chế
độ thi cử tuyển hiền tài, kiểu Nho giáo ở Thanh Hoá mới bãi bỏ. Thanh Hoá bắt
đầu hình thành xã hội phong kiến nửa thuộc địa hiện đại hoá.
16. Thời hiện đại
Các năm
1926 - 1927, các tổ chức cách mạng đầu tiên ở Thanh Hoá ra đời. Ngày 25/6/1930,
chi bộ Ðảng Cộng sản đầu tiên thành lập ở làng Hàm Hạ (thuộc xã Ðông Tiến,
huyện Ðông Sơn), và ngày 29/7/1930, đã thành lập Ðảng bộ tỉnh, Bí thư Tỉnh uỷ
đầu tiên là đồng chí Lê Thế Long.
Tháng
9/1942, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hoá thành lập. Ngày 24/7/1945, nhân dân huyện
Hoằng Hoá giành chính quyền huyện thắng lợi. Ngày 19/8/1945, nhân dân thành phố
Thanh Hoá và một số huyện tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi. 4 ngày sau, cách
mạng thành công trên toàn tỉnh. Ngày 23/8/1945, chính quyền cách mạng tỉnh
Thanh Hoá ra mắt đồng bào ở thị xã Thanh Hoá. Ngày 2/9/1945, Nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà ra đời. Cùng với cả nước, lịch sử Thanh Hoá bước vào thời kỳ phát
triển mới.
Trong 9
năm kháng chiến chống Pháp, Thanh Hoá là vùng tự do, quân và dân Thanh Hoá vừa
chiến đấu, vừa phục vụ chiến đấu, chi viện sức người, sức của cho các mặt trận,
các chiến trường, đóng góp to lớn vào thắng lợi chung, lập lại hoà bình ở Việt
Nam, đặc biệt là trong chiến dịch Điện Biên phủ. Như Bác Hồ đã nói trong lần về
thăm Thanh Hoá lần thứ 2, ngày 13 - 6- 1957: "Bây giờ tiếng Việt Nam đến
đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh
Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó".
Trong
kháng chiến chống Mỹ, Thanh Hoá là trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ, đặc biệt
là cây cầu Hàm Rồng huyền thoại, Đế quốc Mỹ muốn cắt đứt tuyến đường huyết mạch
từ Hậu phương Miền Bắc vào chiến trường Miền Nam: Chỉ trong 2 ngày 3 -
4/4/1965, đế quốc Mỹ tổ chức một trận đánh với quy mô lớn nhất ra miền Bắc, sử
dụng 174 lần tốp máy bay, 454 lần chiếc máy bay, ném xuống địa bàn tỉnh Thanh
Hóa 627 quả bom phá, 58 quả bom nổ chậm (gồm các loại từ 500 đến 1.000 kg) cùng
hàng trăm tên lửa, rốc-két vào các khu vực trọng điểm của Thanh Hóa. Riêng khu
vực Hàm Rồng - Nam Ngạn - Yên Vực, đế quốc Mỹ đã bổ nhào 85 lần, cắt bom bắn
phá 80 lần, ném 350 quả bom, bắn 149 quả đạn rốc-két.
Sau 2
ngày chiến đấu kiên cường, Thanh Hóa đã bắn rơi 47 máy bay giặc Mỹ, bắt sống
nhiều giặc lái, bảo vệ an toàn cầu Hàm Rồng, khiến cho dư luận nước Mỹ xôn xao,
bạn bè yêu chuộng công lý và hòa bình trên toàn thế giới khâm phục. Mỹ cay đắng
thú nhận: “Đó là 2 ngày đen tối của không lực Hoa Kỳ”.
Hàm Rồng
đã trở thành biểu tượng của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ.
Cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ kéo dài 4 năm. Trên mảnh
đất Thanh Hóa lịch sử, mỗi ngọn núi, dòng sông, cánh đồng, nhà máy, mỗi xóm
làng thân yêu đều là mục tiêu đánh phá của kẻ thù. Tiếp đó, trong cuộc chiến
tranh phá hoại lần thứ 2 của Mỹ (từ ngày 26/12/1971 đến ngày 15/1/1973), đế
quốc Mỹ đã sử dụng những phương tiện chiến tranh hiện đại từ máy bay chiến lược
B52, đến tên lửa Tà-lốc, bom xuyên, bom la-de... tập trung rải xuống Hàm Rồng.
Qua 2
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, quân và dân Thanh Hoá đã bắn rơi 405
máy bay Mỹ bằng 1/10 tổng số máy bay quân và dân miền Bắc bắn rơi trrong 2 cuộc
không kích. Riêng quân và dân Hàm Rồng, đã bắn rơi 117 máy bay, tiêu diệt, bắt
sống nhiều giặc lái Mỹ, bảo vệ cầu bảo đảm giao thông thông suốt, đẩy mạnh sản
xuất góp phần xứng đáng cùng quân dân cả nước, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Như vậy:
Trong quá trình lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam,
người dân Thanh Hoá đã ghi lại những mốc son chói lọi. Thanh Hoá là nơi phát
tích của các vương triều: Tiền Lê, Hậu Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, triều
Nguyễn. Ngày nay, người dân xứ Thanh đã và đang góp phần xứng đáng cùng với
nhân dân cả nước để bảo vệ Tổ quốc, kiến thiết đất nước và xây dựng quê hương
mình nhanh chóng trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh./.
Sưu tầm
trên internet và trang Facebook Thanh Hóa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét