NHẬP MÔN
KHÁI NIỆM LƯU MANH
Vương
Trí Nhàn
Trong
bài Đường đi và người đi - Những khám phá thú vị về xã hội người Việt xưa in
trên TT&VH số ra 18-12-2011 nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng có viết :
“Ngày
xưa đi buôn, thường phải thuê người gánh hàng, một người gánh hai thúng gọi là
Đểu, hai người gánh chung một thúng hoặc một kiện hàng gọi là Cáng. Dân gánh
thuê Đểu Cáng thi thoảng có trộm hàng của chủ buôn, nên chữ Đểu Cáng dần mang
nghĩa xấu, cũng như chữ Lưu manh – người mù đi lang thang, đôi khi cũng trộm
cắp, nên chữ này cũng mang nghĩa xấu”.
Tôi muốn
bàn thêm với anh Thượng riêng về hai chữ lưu manh.
Chữ manh
ở đây không phải người mù.
Trong
chữ Hán cũng có một chữ manh viết bằng cách kết hợp chữ vong với bộ mục, Đào
Duy Anh dịch nghĩa là mắt không có con ngươi, tối tăm.
Nhưng
trong từ ghép lưu manh thì sách vở xưa nay đều viết chữ manh khác, gồm chữ vong
như trên và bộ thị thay cho bộ mục. Chữ manh nói về sau này thời cổ là chỉ
chung là dân. Trong Bình Ngô đại cáo có câu:
Yết can
vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập
Đào Duy
Anh dịch là
Dựng gậy
làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp
Là dùng
chữ manh ấy.
Từ chỗ
ban đầu chỉ dân nói chung (Hiện đại Hán ngữ từ điển giảng “cổ đại xưng bách
tính”), sau chữ manh này chỉ dân không có nghề nghiệp. Nó cũng không mấy khi
được dùng riêng mà thường dùng như một thành phần trong từ ghép lưu manh.
Anh Phan
Cẩm Thượng cho rằng đểu cáng thi thoảng có trộm hàng của chủ hàng nên có nghĩa
xấu.
Nghĩa
xấu đó là gì? Việt Nam Tự điển của hội Khai trí tiến đức 1931 ghi đểu cáng là
hạng người hèn mạt vô hạnh. Như vậy là từ một thói xấu đã biến thành một bản
chất. Nay đểu cáng thường dùng như một tính từ chỉ phẩm chất.
Hạng lưu
manh cũng vậy. Các từ điển Hán - Hán hiện đại thường ghi lưu manh ban đầu chỉ
dân lang thang vô nghề nghiệp, sau chỉ kẻ “bất vụ chính nghĩa, vị phi tác đãi’,
tức là kẻ không biết chính nghiã là gì, dám làm mọi việc phi pháp xấu xa.
Tra các
từ điển Hán Anh, tôi thấy người ta thường dịch lưu manh thành rogue, gangster,
hooligan, sau đó chuyển sang nghĩa rộng hơn, nó dùng để chỉ những quan niệm
hành động phi đạo đức, liều lĩnh, bậy bạ, rộng hơn là những triết lý “vô thiên
vô pháp”, cho phép người ta dùng mọi thủ đoạn cốt đạt được mục đích.
Dẫu sao
tôi cũng cảm ơn nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng. Từ chỗ nghiên cứu nghệ thuật
thuần túy, anh chuyển sang nghiên cứu cơ sở của nghệ thuật là xã hội.
Khi
nghiên cứu về giao thông VN trong xã hội cũ, anh không chỉ nói tới đường đi mà
còn nói tới người đi, vì thế mới có câu chuyện chúng ta trao đổi ở đây.
Tôi lại
rất tán thành cái hướng mà anh theo là phân chia xã hội không theo thang bậc
giai cấp chung chung nông dân—địa chủ phong kiến mà theo các tầng lớp hình
thành trong xã hội như kẻ sĩ, nhà buôn, kẻ hạ lưu trộm cướp lưu manh.
Xin phép
nói thực, tôi cũng đang muốn làm như vậy.
Phần góp
chuyện của tôi:
Ngày nay
chúng ta thường hay lý tưởng hóa chữ dân. Nhưng ở trang 87 của Từ điển từ
nguyên tiếng Trung (Nxb Hồng Đức H. 2008), tác giả Nguyễn Mạnh Linh ghi:
"Để
áp bức nô lệ làm việc và tránh tạo phản, bọn chủ nô thường bắt họ đeo gông tay
gông chân hoặc dùng mũi khoan chọc mù mắt họ. Chữ dân trong Giáp cốt văn và Kim
văn nghĩa gốc là chỉ nô lệ, nghĩa rộng chỉ kẻ bị thống trị trong đó bao gồm nô
lệ và dân thường. Sau này phiếm chỉ bách tính quần chúng nhân dân."
Phải đi
vào từ nguyên học lôi thôi như vậy vì nói tới người dân xưa là nói tới tình
trạng lang thang vô nghệ nghiệp.
Mà đó
cũng là nguồn gốc tạo nên cách sống của họ.
Họ chẳng
coi cái gì là quan trọng.
Họ dám
làm những việc động trời bất chấp pháp luật. Nhờ thế, trong lịch sử các nước
như Trung Quốc Việt Nam họ là nguồn gốc của những hỗn lọan mà ngày nay ta hay
gộp vào và gọi chung là những cuộc nông dân khởi nghĩa.
Lưu manh
du đãng… ở ta đóng vai trò lớn trong các cuộc chiến tranh kể cả nội chiến lẫn
chống ngoại xâm. Nhiều bộ sách cũ tôi đọc được có ghi những người theo Đinh Bộ
Lĩnh cờ lau tập trận là du đãng, mà sau này Quang Trung mạnh cũng là nhờ tập
hợp và phát huy sức mạnh đám người này.
Trong
lịch sử Trung quốc, những Lưu Bang Hán Cao Tổ, hoặc Chu Nguyên Chương Minh Thái
Tổ cũng mang đậm trong mình chất vô lại, du đãng, lưu manh. Đã có câu tổng kết
trí thức chỉ làm đến tể tướng chỉ có lưu manh mới có thể làm vua.
Nhận xét
ấy trong thời hiện đại được chứng nghiệm qua bộ đôi Mao Trạch Đông và Chu Ân
Lai.
(Tuy Mao
Trạch Đông cũng là một trí tuệ siêu đẳng, song yếu tố chủ đạo trong ông vẫn là
lưu manh).
Lịch sử
cả Đông lẫn Tây vận động theo hướng xã hội khép kín trong các làng xóm thôn lạc
thời cổ điển bị phá vỡ, con người tràn ra thành thị. Trong khi các tầng lớp nhà
buôn và quan lại dùng tri thức tổ chức lại đời sống thì tầng lớp lưu manh cũng
xuất hiện, và phát triển mạnh theo hướng thâm nhập vào các tầng lớp khác.
Trong xã
hội Việt Nam sau 1945, do mải lo chiến tranh, nên chúng ta dung túng cho mọi
cách sống khác nhau.
Trong
khi không chú ý tới những tiêu chuẩn đạo đức nhân bản, xã hội để mặc cho xu thế
lưu manh phát triển, nó mặc sức chi phối sự hình thành nhân cách từ người lao
động đến người có học, làm họ cũng trở nên lười biếng tầm thường tàn ác vô cảm,
nhất là khinh thường mọi sự thiêng liêng, cho phép mình sống như quỷ dữ.
Tức là
lưu manh hóa họ.
Mặc dù
nhiều khi mượn áo trí thức để làm dáng nhưng trong thực tế bản chất của lưu
manh là thâm thù căm ghét trí thức chân chính.
Và họ
căm thù trí tuệ nói chung.
Ở tầng lớp lưu manh khoác áo trí thức, cái lõi là vô học, bao nhiêu cái có học bên ngoài chỉ là đắp điếm thêm.;
TRÍ THỨC CẦM QUYỀN VÀ THÓI LƯU MANH TRONG CAI TRỊ
Ở trên,
tôi đã nói Mao Trạch Đông có cốt cách lưu manh. Phải nói rõ thêm chính ra ông
cũng là một trí thức siêu đẳng. Đã có thời gian ông làm thủ thư Đại học Bắc
Kinh. Có thời gian đi dạy học. Thói quen đọc sách theo ông suốt đời, đi đâu ông
cũng đọc. Bạn tôi anh Nguyễn Bá Dũng từng kể với tôi, có thời gian Mao Trạch
Đông và Tưởng Giới Thạch cùng làm việc ở một Bộ tư lệnh quân sự. Nhiều buổi
sáng dạy, người ta bắt gặp Mao và Tưởng cùng ra sân, mỗi người một cuốn sách
trên tay. Xòe ra thì đều là Tư trị thông giám – tấm gương về sự cai trị của Tư
Mã Quang (1019-1086).
Trong
một cuốn sách nói về cuộc hòa giải Trung
– Mỹ 1972, tôi thấy người ta kể tuy Chu Ân Lai là người trực tiếp đón Nixon,
song Mao là người chỉ đạo từng bước cụ thể.
Có một
chi tiết liên quan đến chuyện chúng ta đang nói. Khi Nixon đến thăm Mao thấy Mao đang có trên tay cuốn sách mới in ở Mỹ và
chắc có ai vừa dịch để cung cấp cho ông.
Những
người lâu nay chê Mao bảo rằng Mao chỉ
thích đọc sách kinh điển Trung quốc hóa ra đã lầm. Mao cũng đọc đủ sách của
phương Tây hiện đại.
Tiễn Nixon về, Chu quay lại báo cáo với Mao.
Chu bảo:
- Chúng
ta vừa thay đổi thế giới.
Mao trả
lời ngay:
- Trước
đó thế giới đã làm chúng ta thay đổi.
Nhạy bén và hiện đại ở đây là thuộc tầm vĩ mô!
Cũng như
nhiều lãnh tụ Trung Hoa, Mao cũng làm thơ. Mà ở Trung quốc, cái danh hiệu nhà
thơ không dễ dãi như ở ta. Thơ là lĩnh vực của trí tuệ. Đọc thơ Mao thấy ông có tầm vóc lịch sử. Lại
có người nói qua thơ đã thấy có khí trượng đế vương.
Nhưng
mượn cách nói của người xưa, phải nói ông thuộc loại bá đạo chứ không phải vương
đạo.
(Trích
bài trên blog VTN)
Vương
Trí Nhàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét