Tây Sương Ký- chuyện tình dưới Mái Tây
Tây sương ký (còn có tên đầy đủ là
Thôi Oanh Oanh đãi nguyệt Tây sương ký “truyện về Thôi Oanh Oanh chờ trăng dưới
mái Tây”), là vở kịch nổi tiếng nhất của
Vương Thực Phủ, sáng tác trong khoảng những năm Đại Đức (1297-1307) đời Nguyên
Thành Tông, miêu tả cuộc tình duyên vượt qua môn đăng hộ đối và lễ nghi phong
kiến của nàng Thôi Oanh Oanh và chàng thư sinh Trương Quân Thụy.
Vương
Thực Phủ và Tây Sương Ký– một trong tứ đại cổ điển hí kịch
Vương
Thực Phủ là người Đại Đô, tư liệu về cuôc đời ông rất hiếm, sống đồng thời với
Quan Hán Khanh hoặc sau đó một chút, là một văn nhân phong lưu, viết văn hay
đẹp. Theo sách vở thì tác phẩm của ông có khỏang 123 vở, nổi tiếng nhất là Tây
Sương Ky.
Nếu xét từ một tác phẩm riêng lẻ, Tây
Sương Ký có một ảnh hưởng rất lớn trong tạp kịch đời Nguyên. Với quy mô to lớn
gồm 5 quyển, miêu tả câu chuyện của một đôi trai gái cùng phấn đấu vươn tới
tình yêu và hôn nhân tự do. Về mặt đề tài rất được yêu thích, mà khắc họa nhân
vật cũng tài tình, tinh tế, ngôn ngữ tươi vui, lãng mạn, cảm động.
Vở kịch Tây Sương Ký, có nguồn gốc từ
tiểu thuyêt truyền kỳ thời nhà Đường có tên Oanh Oanh truyện nhưng lại chịu ảnh
hưởng lớn bởi Tây sương ký chư cung điệu của Đổng Giai Nguyên đời nhà Kim sau
đó dụng tâm vào từng tình tiết, từng thủ pháp nghệ thuật cộng thêm công sáng
tác mà thành.
Vở kịch kể về mối tình của chàng
Trương Quân Thụy và nàng Thôi Oanh Oanh. Nàng là con gái quan tướng quốc, tiểu
thư khuê các kín cổng cao tường, không may cha chết, nàng và mẹ đưa linh cửu về
quê. Nửa đường dừng lại quàn ở chùa Phổ Cứu để làm chay. Ơ đây Oanh Oanh gặp
chàng học trò nghèo Trương Quân Thụy. Họ yêu nhau nhưng bị ngăn trở bởi bức
tường môn đăng hộ đối. Chuyện không may xảy ra: chùa bị bọn cướp vây hãm, bà
lớn- mẹ cảu Oanh Oanh, liền cầu xin ai giải cứu thì sẽ gả con cho. Trương nhận
lời và nhờ bạn đến giải vây, nhưng bà
nuốt lời khiến cả hai đau khổ. Trương tương tư ốm liệt giường, nhờ có cô người
hầu là Hồng nương nhiêt tình giúp đỡ, họ vượt ra ngòai lễ giáo phong kiến đến
với nhau. Sự việc vỡ lỡ, bà lớn đùng đùng nổi giận, cuối cùng nhờ có Hồng nương
khéo léo khuyên can, bà đồng ý cho hai người lấy nhau với điều kiện Trương phải
lên kinh ứng thí. Cuối cùng họ được đòan viên sau khi Trương đề danh bảng vàng.
Lên án lễ giáo phong kiến
Trong Tây Sương Ký chính những lễ
giáo phong kiến đã ngăn cách tình yêu của đôi trẻ. Trương Quân Thụy và Thôi
Oanh Oanh mê nhau vì sắc, trọng nhau vì tài. Lẽ ra đã viết nên một câu chuyện
tài tử giai nhân nếu không có bức tường gia phong lễ giáo cách trở.
Những lễ nghi bó buộc con người vào
vòng khuôn phép, chế độ hôn nhân phong kiến không chấp nhận tự định chung thân.
Mà trong cốt tủy chú trọng địa vị, phân biệt sang hèn nên nào có việc bà lớn
(mẹ Thôi Oanh Oanh) đồng ý gả con mình cho Trương Quân Thụy thư sinh áo vải. Có
thể nói, trong vở kịch này, nhân vật bà lớn là đại diện cho thế lực phong kiến
bị tác giả lên án. Bà ta là một phu nhân quý tộc mang nặng trong mình những tư
tưởng phong kiến, luôn xem trọng địa vị và quyền thế. Dường như, nhân vật này
đã trở thành một điển hình cho việc bảo vệ đạo đức phong kiến. Những tư tưởng
cổ hủ, cứng nhắc làm bà ta chỉ biết nghĩ đến môn đăng hộ đối khi bàn chuyện hôn
nhân cho con gái. Vì Quân Thụy gia cảnh bần hàn mà nuốt lời hẹn ước, bắt Oanh
Oanh nhận chàng làm anh. Bà răn dạy người ta không được làm gì ngoài những đức
hạnh của tiên vương nhưng quay mặt đi lại nuốt lời, bội ước. Việc không gả con
cho những chàng áo vải của bà ta che giấu bộ mặt hám lợi.
Tại đây, tác giả không chỉ đả kích những
lễ giáo phong kiến mà còn nêu lên hiện thực của xã hộ bấy giờ. Nền kinh tế
Nguyên triều phát đạt, sự phồn vinh của đời sống thành thị dẫn đến ngày càng
nhiều người xem trọng đồng tiền. Tác giả vạch trần bà lớn là một người ngoan cố
với những ý thức phong kiến; bên cạnh đó là bộ mặt tư lợi, hám tài của chính
bản thân bà ta- con người chỉ trọng đồng tiền. Thông qua nhân vật này, tác giả
lên án lễ giáo phong kiến nghiêm khắc không trọng tình người; đồng thời là sự
suy tàn, mục ruỗng của chế độ phong kiến, những con người luôn miệng về lễ nghi
gia giáo không thật coi trọng điều đó, họ chỉ mượn nó như một công cụ để làm
cho bản thân trở nên “cao quý” mà thôi.
Đề cao sự tự do trong tình yêu và hôn
nhân
Trương
Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh có một tình yêu đẹp vượt qua rào cản phong kiến. Từ
lần gặp nhau đầu tiên tại vườn hoa, họ đã bị nhan sắc, tài năng cúa đối phương
thu hút:
Ví không duyên nợ kiếp xưa.
Kiếp này hồ dễ tình cờ xui nên!
Mắt trông kể vạn, kể nghìn,
Con người đẹp thế, đã nhìn thấy ai!
Mắt hoa
miệng những nghẹn lời,
Thần hồn tơi tả, lưng trời bay xa!
Nói năng đùa cợt mặc ta!
Nghiêng vai chỉ bứt bông hoa mỉm cười!
Phải chăng đây là cảnh Bồng lai?
Sao tôi lại gặp con người thần tiên!
Trâm hoa cài lệch một bên,
Mặt xuân mừng, giận càng nhìn càng say.
Mày in trăng mới xinh thay,
Cong cong bên mái tóc mây rườm rà!
Sượng sùng miệng chửa nói ra.
Răng là ngọc chuốt, môi là son tươi,
Lâu lâu mới nói nên lời,
Véo von oanh hót bên ngoài lớp hoa!
(Lời Trương Quân Thụy)
…
Phong lưu, tài học vẹn mười!
Mặt trông sáng sủa, người coi dịu dàng!
Tình tình chắc hẳn nhẹ nhàng,
Bảo ta không nhớ đừng thương được nào!
Biết mình, ta vẫn ước ao …
Văn chương rạng vẻ trăng sao một trời!
Thương mình, ai kẻ đoái hoài …
Sách đèn những lúc dùi mài mười năm!
(Lời Thôi Oanh Oanh)
Họ không coi “môn đăng hộ đối” là lí
tưởng hôn nhân, từ chối phương án hôn nhân truyền thống của xã hội phong kiến-
có lệnh mẹ cha, có người mối lái; mà theo đuổi tình yêu chân thành, cảm xúc của
bản thân. Họ còn nêu lên một quan điểm tình yêu đích thực- tình cảm phải xuất
phát từ hai phía.
Đây có thể xem là định hướng mới
trong hôn nhân và tình yêu giữa “lòng” phong kiến đầy lễ giáo, một lời kêu gọi
đi tìm hạnh phúc cá nhân. Sự va chạm giữa ý thức cá nhân và quan điểm thời đại
thôi thúc con người đứng lên đấu tranh cho hạnh phúc bản thân- điều mà Vương
Thực Phủ muốn ca ngợi. Được Hồng nương giúp đỡ, hai người cùng nhau bầu bạn,
tâm tình mặc cho xiềng xích của lễ giáo phong kiến.
Với địa vị xã hội của hai người, một
thư sinh cùng một tiểu thư khuê các, thì đây là sự phản kháng mạnh mẽ nhất. Tác
giả ca ngợi hành động này của hai người dù lễ giáo phong kiến cho rằng đây là
việc làm tồi tệ, suy đồi. (Vương Thực Phủ không ca ngợi việc hai người nói
chuyện yêu đương mà là ca ngợi sự dung cảm chống lại cả một ý thức hệ ăn sâu
vào máu của những người sống trong xã hội bấy giờ- tư tưởng phong kiến nặng nề
và xơ cứng.) Và thế lực phong kiến đã thất bại, bà lớn đành phải chấp nhận
chuyện đã rồi. Nhưng bà ta vẫn ép Trương Quân Thụy phải về kinh dự thi.
Có thể thấy những hạn chế nhất định
trong tư tưởng tác phẩm khi giải quyết mâu thuẫn bằng con đường khoa cử nhưng
không thể phủ nhận những mặt tiến bộ của tác phẩm. Chi tiết Trương Quân Thụy mơ
thấy Oanh Oanh đi tìm mình trong màn Tan mộng đã nêu lên lí tưởng tình yêu cao
đẹp của nàng:
Giầu sang em cũng chẳng màng!
Anh hào em cũng coi thường như không!
Cùng em tôi đã quyết lòng!
Sống chung một gối chết chung một mồ!
Tây Sương Ký là tiếng nói cho tình
yêu tự do và hơn hết là quyền con người, nhất là người phụ nữ. Bằng việc tạo ra
mâu thuẫn giữa lễ giáovà hôn nhân trong xã hôi phong kiến, tác giả ca ngợi tình
yêu tự do, cổ vũ thanh niên dung cảm đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân.
Hạn chế mang tính thời đại về mặt tư
tưởng
Dù thể
hiện những đổi mới trong tư tưởng, Tây Sương Ký vẫn không tránh khỏi những hạn
chế nhất định. Sự thỏa hiệp của Trương Quân Thụy trước đề nghị của bà lớn “Giờ
tôi đã hứa gả con Oanh cho cậu, cậu vào kinh đừng để tủi cho em. Thế nào cũng
cố kiếm lấy cái trạng nguyên về nhé.” Thể hiện phần nào hạn chế trong vở kịch.
Tác giả giải quyết mâu thuẫn giữa con người và ý thức hệ phong kiến bằng con
đường khoa cử- một trong những biểu hiện của xã hội phong kiến. Điều này cho
thấy công danh, sự nghiệp vẫn còn đè nặng lên tình yêu, tư tưởng Nho gia vẫn
đang chi phối ý nghĩ của tác giả.
Hạn chế còn thể hiện cả trong tính
cách nhân vật. Khi mâu thuẫn xảy ra, Thôi Oanh Oanh khóc lóc, Trương Quân Thụy
ốm tương tư. Họ chưa thực sự quyết liệt để giải quyết mâu thuẫn, cứu lấy tình
yêu của mình mà phải nhờ sự dẫn dắt của Hồng Nương.
Những hạn chế trên không phải chỉ
thuộc về cá nhân tác giả, dưới cái bóng của thời đại, Vương Thực Phủ dù thực sự
có tài năng cũng không thể nào phá đảo cả một ý thức hệ tồn tại lâu dài, cắm rễ
vào lòng mỗi con người. Hệ tư tưởng phong kiến ràng buộc mỗi người trong xã
hôi, không riêng gì Vương Thục Phủ. Thế nên, để hoàn toàn thoát li ý thức hệ
phong kiến trong thời đại bấy giờ là điều bất khả thi.
Trừ đọan kết cục bị hạn chế vì tuân
theo yêu cầu chung của kịch- kết thúc phải có hậu- còn tòan vở kịch mang màu
sắc chống phong kiến rất rõ nét. Mũi nhọn đấu tranh của vở kịch là hôn nhân, lễ
giáo phong kiến. Để khẳng định tinh thần đấu tranh, tác giả đã cho nàng Thôi
Oanh Oanh nổi lọan, nàng đã chủ đông theo sự thôi thúc của con tim, tự đến với
người yêu để chung chăn sẻ gối. Chi tiết này đã liệt Tây Sương Ký vào lọai sách
“dâm thư” và bị cấm lưu hành trong một thời gian. Nhưng trên thực tế, nó vẫn
được truyền tụng và yêu thích vì là một tác phẩm vừa hiện thực lại vừa lãng
mạn, tình tiết nhiều mâu thuẫn lại có xung đột, giải quyết hợp tình hợp lý
(những mâu thuẫn do mẹ nàng Oanh Oanh gây ra…), xây dựng nhân vật rất điển hình
cho tầng lớp thị dân đời Nguyên (Trương Quân Thụy với tính tình thực thà trung
hậu, vừa phóng khóang tự do… rất giống mẫu nhân vật hụt hẩng kiểu Quan Hán
Khanh, Vương Thực Phủ, cá tính nhân vật này không quy định bởi yêu cầu gia thế
của vở kịch mà từ sở thích của xã hội thị dân), còn Oanh Oanh là một cô gái với
nhiều mâu thuẫn giữa lễ giáo và tình yêu, tâm lý xây dựng rất tài tình làm cho
vở kịch rất có sinh khí và nhiều màu sắc. Hồng Nương cũng là nhân vật hay: khôn
ngoan, lanh lợi, sôi nổi, tự tin, là tỳ nữ nhưng lại đứng ở một vị thế cao hơn
hẳn mọi người.
Ngôn ngữ rất đẹp đẽ, hoa mỹ, khác hẳn
sự giản dị, trôi chảy của kịch Quan Hán Khanh, lời kịch hòa tan những ý tưởng
của Đường thi, Tống từ.
Vở kịch có ảnh hưởng rất lớn đến văn
học và quan niệm cuộc sống đời sau, thông qua những tình tiết trong Hồng Lâu
Mộng sau này, có thể thấy Tây Sương Ký đã trở thành một bộ sách kinh điển về
tình yêu trong thời cổ của Trung Quốc.
Nguyễn Du mô tả mối tình đẹp đẽ đã đến một cách hoàn toàn ngẫu nhiên:
"Ngẫm duyên kì ngộ xưa nay, Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi, Trương." (TKiều) sự gặp gỡ hoàn toàn ngẫu nhiên nhưng lại rất tâm đầu ý hợp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét