Chương 16
- El Sordo đã qua đây. - Pilar nói với Robert Jordan. Bọn họ vừa từ
vùng bão tuyết trở về với bầu không khí ấm cúng trong hang và người đàn bà ra
dấu cho Robert Jordan đến gần bà ta, hắn đã đi kiếm ngựa.
- Được rồi. Hắn không nhắn gì với tôi à?
- Hắn chỉ lo kiếm ngựa.
- Còn chúng ta thì sao?
- No sé 1 - Bà ta nói - Nhìn hắn kìa.
Robert Jordan trông thấy Pablo ngay khi hắn trở vô, và Pablo mỉm
cười với chàng. Chàng lại nhìn hắn bấy giờ đã ngồi vào bàn, và chàng vừa mỉm
cười với hắn vừa vẫy tay.
- Inglés - Pablo gọi - Tuyết vẫn còn rơi hoài đó hả, Inglés?
Robert Jordan gật đầu.
- Đưa đôi giày anh cho em để em hơ khô cho - Maria nói - Em treo
chúng trên ngọn lửa.
- Coi chừng kẻo đốt chúng cháy tiêu đó nghe - Robert Jordan bảo
nàng - Anh không thích đi dạo bằng chân không ở đây chút nào. Chuyện gì đã xảy
ra vậy? - Chàng hỏi Pilar - Hội họp à? Đồng chí không cắt người gác bên ngoài
sao?
- Trong bão tuyết như vầy à? Qué va.
Có sáu người đang ngồi vào bàn, tựa lưng vào vách. Anselmo và
Fernando hãy còn đang giũ lớp tuyết đóng trên áo vét, phủi quần và chà đế giày
trên vách gần cửa ra vào.
- Đưa áo vét của anh cho em - Maria nói - Đừng để tuyết tan trên
đó.
Robert Jordan cởi áo vét, phủi lớp tuyết dính trên quần và tháo
giày ra khỏi chân.
- Coi chừng, đồng chí làm ướt hết nơi này đó! - Pilar nói.
- Chính đồng chí gọi tôi mà.
- Đó không phải là lý do để đồng chí khỏi bước ra cửa để giũ tuyết
xuống.
- Xin lỗi - Robert Jordan nói và chàng đi trên mặt đất đầy bụi,
chân trần - Kiếm giùm anh một đôi vớ đi, Maria.
- Vị lãnh chúa và chủ nhân ông đó đa. - Pilar nói, và bà ta tiếp
tục nhóm lửa.
- Hay que aprovechar el tiempo. - Chàng bảo bà ta - Phải sống cho
hợp thời hợp cảnh chớ sao!
- Khóa hết cả rồi. - Maria nói.
- Chìa khóa nè. - Và chàng ném chìa khóa về phía nàng.
- Không phải chìa khóa của cái bọc này.
- Cái bọc kia. Chúng nằm phía trên, ngay bên cạnh.
Cô gái đã tìm ra đôi vớ, mang chúng đến cho chàng cùng với chìa
khóa sau khi đã khóa lại cái bọc.
- Anh ngồi đây, mang vớ vào đi và chà chân kỹ nghe. - Nàng nói,
Robert Jordan mỉm cười với nàng.
- Em không thể lau chúng khô bằng tóc em à? - Chàng nói cố tình cho
Pilar nghe.
- Quê một cục! - Bà ta nói - Mới đây là vị lãnh chúa trong lâu đài,
bây giờ thì là cựu lãnh chúa. Hãy tặng cho hắn một thanh củi coi nào, Maria!
- Không - Robert Jordan nói - Tôi khoái chí nên đùa một chút mà.
- Đồng chí khoái chí à?
- Ừ. Tôi nghĩ mọi sự tiến hành tốt dẹp.
- Roberto - Maria nói - Ngồi xuống đây anh, lau chân cho khô và em
sẽ kiếm cho anh cái gì uống cho ấm.
- Người ta sẽ bảo rằng đây là lần thứ nhứt trong đời chàng trai này
bị ướt cẳng - Pilar nói - Và cũng không hề thấy tuyết rơi.
Maria mang đến cho chàng một tấm da trừu mà nàng đặt dưới mặt đất
đầy bụi.
- Này, anh hãy giữ cái này dưới chân cho tới khi đôi giày anh khô.
Tấm da trừu mới phơi khô, chứ chưa được thuộc. Robert Jordan đặt
hai bàn chân mang vớ lên đó, chàng có cảm tưởng lớp da khô kêu răng rắc như một
lớp da giấy thuộc.
- Thổi lửa đi chớ, đồ đứng đường. Bộ đây là nhà hàng bán thức ăn
hun khói sao chớ!
- Chị thổi lấy, - Maria nói - để em đi tìm chai rượu của El Sordo
để lại.
- Nó ở đàng sau những chiếc ba lô kìa - Pilar nói với nàng - Bộ em
định săn sóc hắn như đứa bé còn bú à?
- Không phải - Maria nói - Như một kẻ bị ướt và lạnh run. Một kẻ
mới trở về nhà. Nó đây. - Nàng mang chai rượu cho Robert Jordan - Chai rượu ban
trưa đó. Có thể làm nên một cái đèn tuyệt đẹp với cái chai này. Khi nào có điện
trở lại, ta sẽ làm nên một ngọn đèn đẹp biết mấy với cái chai này đây! - Nàng
trầm trồ nhìn cái chai - Anh thấy cái này thế nào hở Roberto?
- Anh tưởng anh là dân Inglés. - Robert Jordan bảo nàng.
- Em gọi anh là Roberto trước tất cả mọi người - Nàng nói nhỏ và
mặt ửng đỏ vì thẹn - Anh thích vậy không, Roberto.
- Roberto - Pablo nói bằng một giọng nhừa nhựa vừa ngẩng đầu lên -
Ông thích vậy không hở Don Roberto?
- Đồng chí thích như vậy không? - Robert Jordan hỏi lại hắn.
Pablo lắc đầu.
- Tôi thì chỉ lu bù với rượu thôi. - Hắn nói một cách đạo mạo.
- Vậy thì cút đi với Bacchus 2 - Robert Jordan nói.
- Bacchus là ai vậy? - Pablo nói.
- Bồ tèo của đồng chí chớ ai.
- Tôi chưa hề nghe nói tới hắn bao giờ - Pablo nói bằng một giọng
nặng nề khó nghe - Không hề nghe trên vùng núi này.
- Hãy cho Anselmo một tách - Robert Jordan bảo Maria - Lão ta đang
lạnh - Chàng tròng đôi vớ khô vào chân, rượu huýt ky pha nước đã sưởi ấm chàng
ngây ngất. Nhưng nó không đến nỗi cuốn xoáy vào trong người như rượu ngải,
chàng nghĩ. Không có rượu nào giống rượu ngải cả.
Chàng nghĩ, có ai tưởng tượng được rằng có huýt ky để uống nơi đây
không? Quả thật La Granja là nơi dễ tìm ra huýt ky nhất là ở Tây Ban Nha. Tưởng
tượng lão Sordo nọ đi mua một chai cho tên chuyên viên chất nổ đang đi ngang
qua, nghĩ tới việc mang nó xuống núi và để nó lại. Đó không chỉ là phép lịch sự
của bọn họ. Phép lịch sự lẽ ra là phải lấy chai ra, trịnh trọng rót cho mỗi
người một ly. Đó là điều người Pháp hay làm, và phần còn lại người ta để dành
cho dịp khác. Không, sự lưu tâm sâu xa đó, ý tưởng cho rằng khách thích được
đối xử như thế cùng với ý định mang tặng hắn một chai để làm đẹp lòng hắn giữa
lúc người ta đang dấn thân vào một công việc cho phép người ta chỉ nghĩ đến
mình, đến công việc đang tiến hành, đó chính là lối của người Tây Ban Nha. Đó
là một phép lịch sự đặc biệt Tây Ban Nha, chàng nghĩ. Nhớ lại sự việc đó cũng
chính là một trong những lý do để yêu mến dân tộc này hơn nữa. Thôi, đừng tiểu
thuyết hóa bọn họ quá dỗi, chàng nghĩ, dân Tây Ban Nha có nhiều hạng cũng như
dân Mỹ vậy thôi. Nhưng nên nhớ rằng việc mang tặng chai rượu này bao gồm một mỹ
ý.
- Đồng chí chịu thứ này chớ hả? - Chàng hỏi Anselmo.
Lão già ngồi bên ngọn lửa, mặt điểm một nụ cười, hai bàn tay gồ ghề
cầm lấy cái tách, lão lắc đầu.
- Không à? - Robert Jordan hỏi lão.
- Cô bé đã đổ nước lạnh vào đây. - Anselmo nói.
- Roberto cũng uống như vậy - Maria nói - Bộ đồng chí muốn uống thứ
đặc biệt à?
- Không phải, không đặc biệt chút nào. Nhưng mà tôi khoái uống tới
đâu thì nghe thiêu đốt tới đó.
- Đưa cái đó cho anh - Chàng bảo cô gái - Rót cho lão cái thứ thiêu
đốt đó.
Chàng trút tách rượu vào tách chàng và chìa cái tách không cho cô
gái, cô gái nghiêng chai rượu rót một cách cẩn trọng.
- À, đây rồi. - Anselmo đón lấy chiếc tách, ngả người ra phía sau
để cho chất rượu chạy vào cuống họng. Đoạn lão ta nhìn Maria đang đứng bên, tay
cầm chai rượu, và lão chớp chớp cặp lông mày, mắt rươm rướm. - Phải vậy - Lão
nói - Phải vậy chớ - Lão liếm môi - Cái này mới giết nổi sâu bọ.
- Roberto - Maria nói. Nàng đến bên chàng - Bây giờ anh đói bụng
chưa?
- Cơm nước sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng.
- Mọi người ăn chưa em?
- Rồi, trừ anh, Anselmo và Fernando.
- Vậy thì cho bọn anh ăn đi, còn em ăn chưa?
- Em ăn sau với Pilar.
- Ăn với bọn anh luôn thể đi.
- Không. Như vậy không tốt.
- Cứ ăn với bọn anh. Ở xứ anh, chồng không khi nào ăn cơm trước vợ.
- Xứ anh khác, ở đây, vợ nên ăn sau.
- Hãy ăn với hắn - Pablo vừa nói vừa nhìn họ - Hãy ăn với hắn. Hãy
uống rượu với hắn. Hãy ngủ với hắn. Hãy chết luôn với hắn. Hãy làm như ở xứ
hắn.
- Đồng chí say rồi hả? - Robert Jordan nói, chàng đang đứng trước
mặt Pablo. Người đàn ông có khuôn mặt xồm xoàm, bẩn thỉu nhìn chàng, tươi cười.
- Ừ - Pablo nói - Xứ sở đồng chí ở đâu vậy hở Inglés, ở đâu mà đàn
bà lại ăn chung với đàn ông, nói nghe coi.
- Ở Estado Unidos, thuộc tiểu bang Montana.
- Có phải ở đó đàn ông mặc váy giống như đàn bà không?
- Không. Cái đó ở Tô Cách Lan kìa!
- Nhưng mà nghe này, Inglés, khi đồng chí mặc váy như vậy...
- Tôi chả mặc nó bao giờ.
- Khi đồng chí mặc như thế thì có cái gì ở bên trong không? - Pablo
vẫn tiếp tục cù nhầy.
- Tôi không biết người Tô Cách Lan ăn mặc ra sao - Robert Jordan
nói - Tôi cũng từng tự hỏi như vậy.
- Không, không phải dân Tô Cách Lan - Pablo nói - Ai nói chuyện dân
Tô Cách Lan với đồng chí bao giờ? Ai lưu tâm tới cái dân có cái tên gọi lạ như
thế bao giờ? Không có tôi. Tôi cóc cần. Còn dân tộc của đồng chí. Tôi nói dân
tộc của đồng chí. Ở xứ các người, các người mang cái gì ở bên trong cái váy hả?
- Tôi đã nói với đồng chí và đã lặp lại là tôi không có mặc váy.
Ngay lúc say rượu cũng không nữa, ngay khi đùa cợt cũng không nữa.
- Nhưng mà dưới chiếc váy của các người kìa - Pablo nhấn mạnh - Mọi
người đều biết các người mặc váy mà. Ngay cả bọn lính cũng vậy. Tôi đã thấy
trong hình. Và tôi cũng thấy thật sự như vậy trong gánh xiệc. Này Inglés, các
người mặc gì sau chiếc váy hả?
- Los cojones 3 - Robert Jordan nói.
Anselmo buột miệng cười, những người khác đang theo dõi câu chuyện
cũng cười theo, trừ Fernando. Tiếng nói sống sượng thốt lên trước mặt bọn phụ
nữ đã khiến hắn khó chịu.
- Cái đó là chuyện bình thường - Pablo nói - Nhưng mà theo tôi,
trong trường hợp đó người ta không cần mặc váy nữa.
- Thôi đừng khích hắn nữa, Inglés à - Người đàn ông mặt bẹt, mũi
gãy tên Primitivo nói - Hắn say nhừ rồi. Này, đồng chí nói cho tôi biết ở xứ
đồng chí người ta chăn nuôi loại thú nào.
- Bò và trừu. Người ta còn trồng trọt nữa, có nhiều lúa và đậu
phọng lắm. Cả củ cải đường nữa.
Ba người đàn ông vừa mới tới đã ngồi vào bàn, bên cạnh những người
khác. Chỉ có mình Pablo là ngồi biệt lập với ly rượu của hắn, người ta dọn món
ra gu như đêm rồi và Robert Jordan cắm đầu ăn ngon lành.
- Ở xứ đồng chí, có nhiều núi non không? Chắc là nhiều lắm hả? -
Primitivo khơi chuyện một cách lịch sự. Hắn có vẻ khó chịu vì cơn say của
Pablo.
- Nhiều núi lắm, và núi cao nữa.
- Và nhiều đồng cỏ xanh tốt nữa chớ hả?
- Không chê được. Những đồng cỏ bát ngát trong những khu rừng của
chánh phủ. Và rồi mùa thu, người ta lùa súc vật xuống.
- Đất cát có thuộc về nông dân không?
- Phần lớn đều là sở hữu của những ai canh tác chúng. Lúc đầu, đó
là sở hữu của nhà nước, một người đến lập nghiệp và chính thức canh tác có thể
được xem là sở hữu chủ của một trăm năm chục mẫu.
- Đồng chí nói nghe coi - Angustin nói - Đó là một cuộc cải cách
điền địa đáng kể đó.
Robert Jordan giải thích phương thức cho họ nghe. Chàng không hề
nghĩ đó là một cuộc cải cách điền địa.
- Hay thiệt - Primitivo nói - Vậy thì ở xứ đồng chí có chủ nghĩa
cộng sản à?
- Không. Dưới chính thể Cộng Hòa người ta thực hiện việc đó.
- Theo tôi, - Angustin nói - chuyện gì cũng thực hiện được dưới
chính thể Cộng Hòa cả. Tôi không thấy một hình thức chính phủ nào tốt đẹp, cần
thiết hơn.
- Ở đó không có nhiều đại nghiệp chủ lắm à? - Andrés hỏi.
- Nhiều lắm chớ.
- Vậy thì hẳn phải có những cảnh quá trớn.
- Chắc chắn rồi, có nhiều cảnh quá trớn lắm.
- Vậy các người có định san bằng chúng không?
- Mỗi ngày người ta mỗi cố gắng làm công việc đó. Nhưng những cảnh
quá trớn, hà lạm vẫn còn.
Nhưng có nên phân tán những tài sản lớn lao ra không?
- Nên chớ. Nhiều người cho rằng có thể thực hiện việc đó bằng cách
đánh thuế.
- Bằng cách nào?
Robert Jordan vừa dùng mẩu bánh mì quệt vào nước sốt trong chén vừa
giải thích người ta đánh thuế cách nào trên lợi tức và sản nghiệp, chàng nói.
- Nhưng mà những tài sản lớn thì luôn luôn có mặt ở đấy. Ngoài ra
còn thuế đánh trên đất cát nữa.
- Chắc chắn như vậy rồi, những đại nghiệp chủ và bọn giàu sụ sẽ
chống lại các thứ thuê má đó không? Tôi thấy các thứ thuế đó có vẻ cách mạng
lắm. Bọn họ sẽ nổi loạn với chính phủ khi họ thấy quyền lợi bị hăm dọa, đúng
như bọn phát xít đã từng làm ở đây. - Primitivo nói.
- Có thể lắm chớ.
- Vậy thì các người phải chiến đấu ngay trên đất nước các người như
chúng tôi chiến đấu tại đây. - Primitivo nói.
- Đúng vậy, phải chiến đấu.
- Ở xứ đồng chí, có nhiều phát xít không?
- Có nhiều người không biết chúng là phát xít, nhưng lúc cần thì họ
sẽ thấy điều đó.
- Không thể tiêu diệt chúng trước khi chúng làm loạn sao?
- Không - Robert Jordan nói - Chúng tôi không thể tiêu diệt chúng
được. Nhưng chúng tôi có thể hướng dẫn quần chúng để họ ghê sợ chúng, nhận diện
được chúng khi chúng chường mặt ra, và đánh ngã chúng.
- Đồng chí biết ở đâu không có phát xít không? - Andrés hỏi.
- Ở đâu?
- Trong thành phố của Pablo - Andrés nói. Và hắn mỉm cười.
- Đồng chí có biết ở đó người ta làm gì không? - Primitivo hỏi
Robert Jordan.
- Biết. Tôi có nghe kể.
- Pilar à?
- Ừ.
- Bà ta làm sao kể cho đồng chí được - Pablo nói bằng một giọng
nhừa nhựa - Bởi vì bà ta không thấy đoạn sau cùng, bà ta đã bị ngã từ một chiếc
ghế trước cánh cửa sổ mà.
- Vậy thì ông kể lại đi - Pilar nói - Bởi ông biết rõ chuyện mà, kể
cho hắn nghe đi.
- Không - Pablo nói - Tôi chưa kể chuyện đó bao giờ.
- Không - Pilar nói - Và ông sẽ không bao giờ kể nó ra cả. Và bây
giờ thì ông rất muốn chuyện đó đừng xảy ra bao giờ cả.
- Không - Pablo nói - Không phải vậy đâu. Nếu mọi người đều giết
phát xít như tôi thì làm gì có trận giặc này. Và tôi không muốn sự việc xảy ra
như đã xảy ra.
- Sao đồng chí lại nói vậy? - Primitivo hỏi hắn - Bộ đồng chí đổi
lập trường rồi à?
- Không. Nhưng mà nó dã man quá - Pablo nói - Vào thời đó tôi là
một thằng dã man.
- Và bây giờ ông là một thằng say. - Pilar nói.
- Đúng rồi, với sự cho phép của bà.
- Khi ông dã man tôi lại khoái ông hơn. Cái bệ rạc nhất của bọn đàn
ông là nát rượu. Kẻ cắp khi hắn không ăn cắp, hắn cũng như mọi người. Cũng như
ke lừa bịp khi hắn không lừa bịp trong nhà hắn. Kẻ sát nhân cũng có thể rửa tay
trong nhà hắn. Nhưng mà tên say rượu thì chỉ biết có ụa mửa trên chính cái
giường của hắn và hắn chỉ biết hủy hoại thân thể hắn trong rượu mà thôi.
- Bà là đàn bà, bà chẳng biết gì đâu - Pablo nói với một vẻ nhân
nhượng - Tôi say rượu và tôi sẽ được hạnh phúc hơn nếu không có những kẻ đã
chết dưới tay tôi. Họ luôn làm tôi buồn thảm. - Hắn ngẩng đầu lên trong một
dáng vẻ ảm đạm.
- Cho hắn thêm rượu của El Sordo mang tới đi - Pilar nói - Giúp cho
hắn lên tinh thân chút coi. Coi bộ hắn buồn rầu lắm rồi, thật là không chịu nổi
mà.
- Nếu tôi có thể làm cho họ sống lại, tôi sẽ làm ngay.
- Dẹp đồng chí đi - Angustin nói - Vậy chớ ta đang làm gì ở đây?
- Tôi sẽ làm cho họ sống lại - Pablo buồn bã nói - Tất cả.
- Mẹ họ - Angustin hét vào mặt hắn - Đừng có nói cái giọng đó nữa
hay ra khỏi nơi này. Chính là bọn phát xít mà đồng chí đã giết chớ có ai vô
đây.
- Đồng chí nghe rõ chớ - Pablo nói - Tôi sẽ trả lại sự sống cho họ.
- Và sau đó, ông sẽ bước đi trên mặt nước - Pilar nói - Trong đời
tôi chưa thấy ai hèn nhát như vậy. Cho tới hôm qua ông còn có chút đàn ông. Bây
giờ thì không bằng con mèo bịnh. Đã vậy mà ông còn hài lòng với những lời nói
nôn mửa của ông nữa chớ.
- Lẽ ra nên giết tất cả hay là không giết một ai (Pablo ngẩng đầu
lên). Tất cả hay không một ai.
- Nghe đây Inglés - Angustin nói - Đồng chí đến Tây Ban Nha bằng
cách nào đó. Đừng để ý tới Pablo. Hắn say rồi.
- Lần đầu tiên tôi tới đây mười hai năm trước, để tìm hiểu và học
nói tiếng ở đây. Tôi dạy tiếng Tây Ban Nha trong một viện đại học.
- Đồng chí không có vẻ giáo sư chút nào. - Primitivo nói.
- Hắn không có râu - Pablo nói - Nhìn hắn kìa. Hắn không có râu.
- Đồng chí là giáo sư thật à?
- Giảng viên.
- Nhưng có dạy học không?
- Có chớ.
- Nhưng sao lại dạy tiếng Tây Ban Nha chớ? - Andrès hỏi - Dạy tiếng
Anh phải dễ hơn không, bởi đồng chí là dân Anh mà?
- Hắn nói tiếng Tây Ban Nha chẳng khác gì chúng ta - Anselmo nói -
Vậy thì tại sao hắn lại không dạy tiếng Tây Ban Nha được chớ?
- Phải rồi, nhưng nói cho cùng người ngoại quốc mà dạy tiếng Tây
Ban Nha thì cũng hơi kỳ - Fernando nói - Không phải công kích ông đâu, Don
Roberto ạ!
- Hắn là một giáo sư giả mạo - Pablo nói một cách tự mãn - Hắn
không có râu.
- Chắc chắn là đồng chí giỏi tiếng Anh hơn - Fernando nói - Có phải
tốt hơn, dễ hơn và bình thường hơn là đồng chí nên dạy tiếng Anh không?
- Hắn không dạy cho dân Tây Ban Nha. - Pilar lên tiếng - Hắn dạy
tiếng Tây Ban Nha cho dân Mỹ, cho dân Nam Mỹ.
- Bộ họ không biết tiếng Tây Ban Nha sao? - Fernando hỏi - Dân Bắc
Mỹ châu biết tiếng Tây Ban Nha mà!
- Đồ lừa - Pilar nói - Hắn dạy tiếng Tây Ban Nha cho dân Bắc Mỹ nói
tiếng Anh.
- Dẫu sao tôi cũng cho rằng dạy tiếng Anh dễ cho hắn hơn, bởi vì
hắn nói tiếng đó. - Fernando nói.
- Đồng chí không nghe hắn nói tiếng Tây Ban Nha à? - Pilar nhìn
Robert Jordan tỏ dấu thất vọng.
- Có, nhưng hắn nói một giọng.
- Giọng ở đâu? - Robert Jordan hỏi.
- Ở Estramadure. - Fernando nói với một vẻ trang trọng.
- Ối mẹ cha ơi! - Pilar nói - Người gì tôi chẳng hiểu nổi.
- Có thể lắm - Robert Jordan nói - Tôi đã từng ở đó trước khi tới
đây.
- Hắn biết rõ điều đó mà - Pilar nói - Đúng là gái già, - Bà ta
quay sang Fernando - đồng chí ăn no rồi chớ hả?
- Tôi còn có thể ăn nữa nếu cần - Fernando bảo bà ta - Đừng tưởng
rằng tôi muốn công kích ông nghe, Don Roberto.
- Đồ cứt đái - Angustin nói - Đồ cứt đái thật mà. Người ta làm cách
mạng cái chó gì mà gọi một đồng chí là Don Roberto.
- Với tôi, cách mạng là gọi mọi người bằng Don - Fernando nói -
Chính thể Cộng Hòa phải vậy chớ sao.
- Đồ cứt đái - Angustin nói - Đồ cứt đái bẩn thỉu.
- Và dầu sao tôi cũng cứ cho rằng Don Roberto dạy tiếng Anh dễ dàng
và trơn tru hơn.
- Don Roberto không có râu - Pablo nói - Tôi thì tôi cho rằng cái
gì cũng trơn tru, bình thường hết, trừ việc Don Roberto không có râu.
Maria đưa bàn tay lên má Robert Jordan.
- Hắn có râu chớ. - Nàng bảo Pablo.
- Dĩ nhiên là cô biết rõ rồi. - Pablo nói, và Robert Jordan nhìn
hắn.
Robert Jordan nghĩ, tôi không tin hắn say. Không, hắn không say đến
nỗi đâu. Và tốt hơn hết là tôi nên đề phồng.
- Này - Chàng bảo Pablo - Đồng chí tin rằng tuyết còn rơi nữa à?
- Đồng chí nghĩ sao?
- Tôi hỏi đồng chí mà.
- Hãy hỏi kẻ khác - Pablo bảo chàng - Tôi không có bổn phận lo việc
thông tin cho đồng chí. Đồng chí đã có bản tin tức rồi mà! Hãy hỏi mụ đàn bà.
Chính mụ ta chỉ huy.
- Tôi hỏi đồng chí.
- Hãy cút khỏi đây, đồng chí, mụ đàn bà và đứa con gái.
- Hắn say bí tỉ rồi - Primitivo nói - Đừng để ý tới, Inglés à.
- Tôi không tin hắn say đến độ đó đâu. - Robert Jordan nói.
Maria đang đúng sau lưng chàng, và Robert Jordan trông thấy đôi mắt
Pablo đang nhìn chầm chập vào nàng qua vai chàng. Hắn nhìn nàng với đôi mắt nhỏ
giống heo rừng, trên cái đầu bờm xờm. Và chàng nghĩ, tôi đã gặp nhiều tên sát
nhân trong trận giặc này, và trước đó nữa, chúng đều khác nhau, không có điểm
nào giống nhau và cũng không có một loại sát nhân nào đặc biệt, nhưng Pablo quả
thật xấu xí.
- Tôi không tin đồng chí biết uống rượu - Chàng bảo Pablo - cũng
không tin đồng chí say.
- Tôi say mà - Pablo nói một cách đạo mạo - Uống rượu thì chả nghĩa
lý gì. Điều cần là phải say. Estoy muy borracho 4.
- Tôi nghi lắm - Robert Jordan nói - Đồng chí hèn nhát thì đúng
hơn.
Bầu không khí trong hang chợt lặng im lạ thường đến nỗi người ta có
thể nghe tiếng củi reo trong lò, nơi Pilar đang nấu nướng. Chàng nghe tiếng da
trừu rơm rớp dưới chân chàng. Chàng tưởng chừng nghe cả tiếng tuyết rơi bên
ngoài. Chàng không nghe nó rơi, nhưng chàng nghe thấy niềm im lặng trong đó nó
rơi vào.
Tôi muốn giết quách hắn cho xong, Robert Jordan nghĩ. Tôi không
biết hắn sắp sửa làm gì, nhưng mà không gì tốt đẹp đâu. Ngày mốt là bắt đầu
đánh cầu. Con người này đã thối nát lắm rồi và chỉ gây tai họa cho mọi công
việc. Nào ra tay đi một lần cho xong.
Pablo mỉm cười với chàng, đưa một ngón tay lên cổ họng. Hắn lắc
đầu, đầu hắn lắc lư một cách khó khăn trên cái cổ ngắn ngủn mập bự của hắn.
- Không, Inglés à. Đừng khiêu khích tôi - Hắn nhìn Pilar và bảo bà
ta - Bà đừng hòng loại tôi bằng cách đó.
- Sinverguenza 5, Robert Jordan bảo hắn, chàng đã quyết định sẵn
sàng hành động. Cobarde 6.
- Có thể lắm - Pablo nói - Nhưng tôi không để bị khiêu khích đâu.
Uống cái gì đi, Inglés, và hãy nói với mụ đàn bà là hỏng việc rồi.
- Câm họng đi - Robert Jordan nói - Nếu tôi khiêu khích đồng chí,
đó là phần tôi thôi.
- Đồng chí chỉ mất thời giờ - Pablo bảo chàng - Tôi thì chẳng khiêu
khích ai cả.
- Đồng chí là một bichro raro 7. Robert Jordan nói, chàng không
muốn bỏ rơi cũng không muốn bỏ lỡ cơ hội một lần thứ nhì, chàng thừa biết rằng
trong lúc chàng nói, tất cả điều đó đã xảy ra từ trước, chàng có cảm tưởng mình
đang đóng một vai tuồng thuộc nằm lòng, với tất cả những gì chàng đã từng đọc
qua hay mơ tưởng tới, và tất cả đang quay mòng mòng trong đầu chàng.
- Rất hiếm lạ, đúng lắm - Pablo nói - Rất lạ và rất say sưa. Mừng
sức khỏe của đồng chí - Hắn ngâm cái tách vào chậu rượu và giơ lên - Salud y
cojones.
Một con chim lạ, đúng lắm, vừa tinh quái lại vừa phức tạp, Robert
Jordan nghĩ thầm, chàng nghe cơn giận lắng xuống.
- Mừng sức khỏe đồng chí - Robert Jordan nói, và chàng ngâm cái
tách vào hũ rượu. Chàng nghĩ nếu không có tất cả những cung cách tôn kính thì
sự phản bội chẳng còn ý nghĩa gì. Vậy thì xin chúc mừng. Chàng nói, salud,
salud và salud. Chàng nghĩ, salud, mày đây, salud.
- Don Roberto. - Pablo nói, giọng nhừa nhựa.
- Don Pablo. - Robert Jordan nói.
- Đồng chí không phải là giáo sư, - Pablo nói - bởi đồng chí không
có râu. Và rồi để trừ khử tôi, đồng chí phải ám sát tôi, và để làm việc đó,
đồng chí lại không có cojones.
Hắn nhìn Robert Jordan, miệng mím chặt, hai môi chỉ còn là đường
thẳng, trông như miệng con cá, Robert Jordan nghĩ. Với cái đầu như vậy, người
ta sẽ nói rằng đó là một con cá cưa đang nuốt hơi và phồng lên khi mắc câu.
- Salud Pablo - Robert Jordan nói. Chàng nâng tách và uống - Tôi
học nhiều ở đồng chí.
- Tôi dạy giáo sư à? - Pablo ngẩng đầu lên - Đến đây Don Roberto,
mình là bạn với nhau.
- Mình đã là bạn. - Robert Jordan nói.
- Nhưng giờ đây mình sẽ là bạn thân với nhau.
- Mình đã là bạn thân rồi.
- Tôi phải chuồn khỏi chỗ này - Angustin nói - Tai tôi nghe hết vô
rồi đây.
- Cái gì bắt mày vậy hở negro 8? - Pablo hỏi hắn - Mày không thích
thấy tình bạn giữa Don Roberto với tao à?
- Coi chừng đó, đừng gọi tao là negro. - Angustin tiến về phía Pablo,
đứng trước mặt hắn, hai tay đu đưa.
- Thì người ta vẫn gọi mày như thế.
- Mày không được gọi như vậy.
- Được lắm, blanco 9.
- Cũng không được nữa.
- Vậy mày là gì hở mọi dỏ?
- Ừ mọi đỏ. Rojo 10. Với ngôi sao Hồng quân; và tao phục vụ nền
Cộng Hòa. Tên tao là Angustin.
- Ái quốc dữ đa - Pablo nói - Inglés nhìn coi. Đây là một nhà ái
quốc gương mẫu.
Angustin dùng mu bàn tay trái tát mạnh vào miệng hắn. Pablo vẫn
ngồi yên. Khóe miệng hắn còn nhòe nhoẹt rượu, sắc mặt hắn không thay đổi, nhưng
Robert Jordan quan sát thấy đôi mắt bé nhỏ của hắn trông giống như cặp con
ngươi gần như sổ thẳng của một con mèo trong lớp ánh sáng chói chang.
- Không sao, - Pablo nói - đừng cậy trông gì, mụ à. - Hắn quay sang
Pilar - Tôi không để bị khiêu khích đâu.
Angustin lại vung tay đánh hắn. Lần này hắn ném ra một quả đấm vào
miệng, Robert Jordan ghì chặt khẩu súng lục dưới gầm bàn. Chàng đã tháo chốt an
toàn và dùng tay trái đẩy Maria ra. Nàng khẽ nhích người ra một chút và chàng
dùng bàn tay trái đẩy mạnh vào cạnh sườn nàng để nàng đi chỗ khác. Lần này,
nàng đi thật và chàng liếc nhìn nàng lướt đi dọc theo vách tiến về phía ngọn
lửa, lúc bấy giờ Robert Jordan dò xét khuôn mặt của Pablo. Người đàn ông có sọ
dừa tròn quay đang ngồi nhìn Angustin bằng đôi mắt bẹt của hắn. Đôi con ngươi
của hắn như thu hẹp lại. Hắn liếm môi, chùi miệng bằng lưng bàn tay rồi nhìn
máu đỏ dính trên bàn tay. Hắn thè lưỡi và nhổ xuống đất.
- Không sao - Hắn nói - Tôi không ngu. Tôi không thích khiêu khích
ai cả.
- Cabron. - Angustin nói.
- Mày biết rõ hơn ai - Pablo nói - Mày hiểu bà ta mà.
Angustin lại giáng một đấm vào miệng hắn thật mạnh và Pablo phá lên
cười ngất, khoe những chiếc răng vàng khè bể nát, xệu xạo giữa hai làn môi dấy
máu.
- Thôi đi chớ, - Pablo nói, và hắn cầm tách múc ít rượu trong hũ -
không ai ở đây đủ cojones để giết được tao. Chơi tay chân thì chẳng hay ho gì.
- Đồ hèn. - Augustin nói.
- Chơi chữ cũng vậy thôi - Pablo nói, và hắn ực một ngụm rồi sức
miệng bằng rượu, đoạn phun xuống đất - Tao ở trên các thứ đó.
Angustin đứng nhìn hắn và nguyền rủa hắn thậm tệ. Hắn nói bằng
những tiếng chậm rãi, rõ ràng và ngạo mạn, những tiếng chửi bới nguyền rủa của
hắn đều đều và liên tục bất tận như đang rải phân bón ruộng.
- Mày chửi mãi cũng vậy thôi, chẳng chết chóc ai. Thôi đi Angustin.
Đừng cum tao nữa. Chỉ đau tay mày thôi.
Angustin rời khỏi hắn và bước đến gần cửa ra vào.
- Đừng đi - Pablo nói - Bên ngoài tuyết còn rơi mà. Hãy ở đây cho
ấm.
- Ồ mày! Tao chán mày! - Angustin quay lại để nói với hắn, nhấn
mạnh ở tiếng “mày” đầy vẻ khinh miệt.
- Ừ, tao vậy đó - Pablo nói - Tao sẽ tiếp tục sống khi mày chết
nhăn răng.
Hắn lại đong đầy tách rượu và đưa về phía Robert Jordan, “Chúc mừng
giáo sư”, hắn nói. Đoạn quay sang Pilar: “Chúc mừng senora commandante 11” và
đảo mắt nhìn quanh, “Chúc mừng tất cả những ai nuôi ảo tưởng”.
Angustin tiến về phía hắn và nhanh tay tát hắn, làm văng tách rượu
ra khỏi bàn tay hắn.
- Phung phí quá - Pablo nói - Đồ điên.
Angustin nguyền rủa hắn bằng những lời lẽ bẩn thỉu, rác rến.
- Không - Pablo nói, vừa múc thêm một tách rượu khác từ trong hũ -
Mày thấy rõ tao say mà. Khi tao không say, tao chẳng thích nói chút nào. Mày
chưa thấy tao nói nhiều đến vậy. Nhưng đôi khi một người thông minh buộc lòng
phải say để có thể chịu đựng bọn ngu đần.
- Ông hãy cút đi với sự hèn nhát của ông - Pilar bảo hắn - Tôi chán
ngấy ông và sự hèn nhát của ông rồi.
- Mụ nói vậy thì tôi đi thăm ngựa đây.
- Đi làm trò khỉ với chúng đi - Angustin nói - Đó không là thói
quen của mày à?
- Không. - Pablo nói, và hắn lắc đầu. Hắn đang gỡ chiếc áo choàng
bằng vải làm mền máng trên vách, hắn nhìn Angustin nói - Coi bộ mày khoái bạo
động lắm đó.
- Mày định làm gì với những con ngựa đây? - Angustin nói.
- Tao săn sóc chúng.
- Mày làm trò khỉ với chúng.
- Tao thương chúng lắm - Pablo nói - Ngay khi nhìn từ phía sau
trông chúng con đẹp đẽ và tốt lành hơn bọn người này. Các người hãy vui đùa cho
thỏa thích - Hắn nói và mỉm cười - Đồng chí hãy nói cho họ biết phải rút lui
cách nào. Sau vụ cây cầu, đồng chí còn đưa họ đi tới đâu nữa hở Inglés? Đồng
chí đưa họ đi tới đâu, những con người yêu nước của đồng chí? Suốt ngày tôi đã
vừa uống rượu vừa nghĩ tới chuyện đó.
- Mày nghĩ gì? - Angustin hỏi.
- Tao nghĩ gì à? - Pablo nói, hắn cọ lưỡi vào trong đôi môi. Điều
tao nghĩ, qué te importa 12?
- Nói nghe coi.
- Nhiều điều lắm, Pablo - Hắn tròng chiếc mền lên đầu. Cái sọ tròn
quay của hắn thò ra khỏi những nếp nhăn vàng vọt bẩn thỉu của chiếc mền - Tao
nghĩ đến nhiều thứ lắm.
- Cái gì? Cái gì?
- Tao nghĩ rằng bọn bây là một đám người nhiễm đầy ảo tưởng - Pablo
nói - Tụi bây bị xỏ mũi bởi một mụ đàn bà có bộ óc ở giữa hai đùi và một kẻ lạ
mặt đến đây để tiêu diệt bọn bây.
- Thôi đi đi - Pilar hét với hắn - Thôi đi vùi đầu ngoài tuyết đi.
Đưa cái máu xấu ra khỏi chỗ này, đồ mê ngựa.
- Phải nói vậy mới vừa. - Angustin nói với một vẻ vừa thán phục vừa
lơ đãng. Hắn có vẻ lo âu.
- Tôi đi đây - Pablo nói - Nhưng mà tôi sẽ trở vào ngay. - Hắn vén
tấm mền căng ở cửa ra vào.
Hắn đứng ngoài cửa gọi vào trong, “Tuyết còn rơi hoài, Inglés à”.
--- ------ ------ ------ -------
1 Không biết.
2 Thần rượu (huyền thoại Hy Lạp).
3 Tiếng tục: hạ bộ.
4 Tôi say lắm đây.
5 Phóng đãng, dâm đãng.
6 Hèn nhát.
7 Con vật lạ.
8 Thằng đen.
9 Người da trắng.
10 Da đỏ.
11 Bà chỉ huy trưởng.
12 Can gì tới mày?
Chương 17
Trong hang bây giờ chỉ còn có tiếng rít từ bếp lửa khi tuyết từ cái
lỗ hổng trên mái rơi xuống đám than hồng.
- Pilar à, - Fernando nói - còn ra gu không đó?
- Thôi, câm họng đi. - Người đàn bà bảo. Mặc dầu vậy, Maria vẫn lấy
chén của Fernando đi đến gần cái nồi to đặt bên bếp lửa và múc đầy vào đó. Nàng
đặt cái chén trên bàn và vỗ nhẹ vào vai Fernando đang cong lưng xuống để ăn.
Hắn không ngước mắt. Hắn chỉ còn biết có món ra gu của hắn.
Angustin vẫn đứng bên bếp lửa. Mọi người khác đang ngồi. Pilar ngồi
vào bàn, đối diện với Robert Jordan. Bà ta nói.
- Inglés, bây giờ đồng chí đã biết chuyện gì xảy ra rồi chớ?
- Hắn sắp sửa làm gì? - Robert Jordan hỏi.
- Bất luận. - Người đàn bà nhìn xuống mặt bàn - Bất luận chuyện gì.
Chuyện gì hắn cũng làm được.
- Khẩu súng máy đâu rồi? - Robert Jordan hỏi.
- Kìa, trong góc, bao trong lớp mền - Primitivo nói - Đồng chí muốn
lấy ra à?
- Chưa - Robert Jordan nói - Tôi muốn biết nó ở đâu mà.
- Nó ở đó - Primitivo nói - Tôi đã giấu nó trong chiếc mền của tôi
cho khỏi ướt. Hộp đạn thì ở trong bao.
- Hắn không làm thế đâu - Pilar nói - Hắn không làm gì với khẩu
súng máy đâu.
- Đồng chí mới bảo hắn làm được mọi sự mà.
- Đúng vậy, nhưng hắn không làm gì được với khẩu súng máy. Có lẽ
hắn sẽ ném một trái bom thì đúng hơn. Đó là sở trường của hắn mà.
- Không giết hắn thì quả là ngu xuẩn và yếu hèn - Tên du mục nói,
từ chiều đến giờ hắn không xen vào câu chuyện một tiếng nào - Chiều hôm qua
đáng lý ra Roberto đã giết hắn.
- Giết hắn - Pilar nói, khuôn mặt bà ta trở nên âm u, mệt mỏi - Bây
giờ thì tôi đồng ý.
- Trước thì tôi chống lại - Angustin nói. Hắn đang đứng bên bếp
lửa, hai tay buông thõng, hai má in bóng đám râu tua tủa dưới cặp quyền sâu hóm
dưới ánh lửa - Bây giờ hắn trở nên nguy hiểm rồi và hắn muốn mọi người bị hạ
gục hết.
- Mọi người hãy cho ý kiến đi - Pilar nói, giọng bà ta trở nên mệt
mỏi hơn - Andrés, đồng chí thấy sao?
- Matardo 1 - Một trong hai anh em có mái tóc mọc xuống trán nói,
và ngẩng đầu nhìn lên.
- Còn Eladio thì sao?
- Cũng vậy - Người kia nói - Theo tôi hắn trở thành một mối nguy
lớn. Và hắn chả có ích lợi gì.
- Primitivo thế nào?
- Cũng vậy.
- Còn Fernando?
- Mình không thể cầm tù hắn à? - Fernando hỏi.
- Ai giữ hắn đây? - Primitivo nói - Phải có hai người để giữ một tù
binh, rồi sau cùng thì tính sao?
- Có thể bán hắn cho bọn phát xít không? - Tên du mục nói.
- Không nên làm vậy - Angustin nói - Tởm lắm.
- Đó chỉ là một ý kiến, Rafael - Tên du mục nói - Chắc bọn
facciosos 2 được hắn thì sẽ khoái chí lắm.
- Thôi đi, Angustin. Tôi nghe tởm quá.
- Không tởm bằng Pablo. - Tên du mục nói để biện hộ cho ý kiến của
mình.
- Một việc ghê tởm không biện minh gì được cho một chuyện ghê tởm
khác - Angustin nói - Rồi, vậy là xong hết rồi. Trừ lão già và Inglés.
- Họ không liên quan gì tới việc này - Pilar nói - Hắn đâu phải là
thủ lãnh của họ.
- Khoan - Fernando nói - Tôi chưa hết ý.
- Nói đi - Pilar nói - Hãy tiếp tục nói cho tới khi nào hắn quay
lại, cho tới khi hắn ném một quả lựu đạn vào dưới chiếc mền kia và làm nổ tung
hết nơi này. Thuốc nổ và tất cả.
- Đồng chí nói quá lời - Fernando nói - Tôi không tin hắn có những
dự định tương tự.
- Tôi cũng không tin như vậy - Angustin nói - Bởi vì làm vậy hắn
cũng chỉ khổ làm cho người ta chú ý hắn, và có lẽ hắn sẽ trở về trong chốc lát
để uống rượu.
- Tại sao không giao hắn cho El Sordo và để El Sordo bán hắn cho
bọn phát xít? - Rafael đề nghị - Mình có thể làm đui mắt hắn và lúc đó mặc tình
dẫn dắt hắn.
- Câm họng đi - Pilar nói - Khi đồng chí nói như vậy, tôi lại nghĩ
điều đó cũng đúng cho đồng chí nữa.
- Lại nữa, bọn phát xít khỏi phải trả một cái gì để được hắn -
Primitivo nói - Lắm kẻ đã thử làm như vậy và chúng chẳng mất gì. Chúng cũng sẽ
bắn đồng chí nữa.
- Hắn mà bị đui rồi, tôi tin người ta có thể đổi hắn lấy một cái
gì.
- Im đi - Pilar nói - Nếu đồng chí còn nói tới việc chọc đui mắt
bất luận người nào, đồng chí có thể đi cùng đường với kẻ đó được lắm.
- Nhưng mà hắn, Pablo, hắn đã chọc đui mắt thằng dân vệ bị thương
đó sao - Tên du mục nhấn mạnh - Đồng chí quên rồi à?
- Câm họng đi. - Pilar nói, bà ta có vẻ khó chịu khi nghe những đề
nghĩ như vậy trước Robert Jordan.
- Các đồng chí không chịu cho tôi nói hết. - Fernando ngắt lời.
- Nói hết đi - Pilar nói - Nói đi. Nói hết cho rồi đi.
- Bởi vì cầm tù Pablo không thực tế chút nào, và bởi vì giao hắn
cho bọn phát xít để đổi chác thì tởm quá, - Fernando lặng lẽ tiếp lời - tôi
nghĩ tốt hơn là loại hắn để những công tác dự trù đạt được kết quả tối đa.
Pilar nhìn người đàn ông nhỏ thó, bà ta gật đầu, cắn môi, không nói
gì.
- Đó là ý kiến của tôi - Fernando nói - Tôi tưởng ta có quyền nghĩ
rằng hắn đang gây trở ngại cho nền Cộng Hòa...
- Mẹ chúa ơi! - Pilar nói - Không ngờ là ngay ở đây người ta có thể
trở thành một thứ quan liêu chỉ với cái mồm.
- .... bằng những lời nói cũng như bằng hoạt động của hắn -
Fernando tiếp tục - Và nếu quả thật là người ta nên biết ơn hắn về những hoạt
động ngay từ đầu phong trào cho tới những lúc gần đây thì...
Pilar quay trở về bên bếp lửa. Bà ta trở lại bàn.
- Fernando - Bà ta lặng lẽ nói vừa trao cho hắn một cái chén - Làm
ơn cầm cái chén ra gu này đi, đừng ngại gì, lo cáng cho đầy họng đi và đừng nói
nữa. Chúng tôi dư biết quan niệm của đồng chí rồi.
- Nhưng mà coi kìa... - Primitivo hỏi, hắn không nói hết câu.
- Estoy listo 3 - Robert Jordan nói - Tôi đã sẵn sàng. Bởi vì các
đồng chí đều đồng ý với nhau về điều phải làm, đây là một công tác mà tôi có
thể hoàn tất.
Cái gì bắt ta vậy, chàng nghĩ. Mải nghe Fernando nói, ta đã bắt đầu
nói giọng điệu của hắn rồi đây. Đúng là bị lây cái giọng điệu đó rồi đây. Tiếng
Pháp là ngôn ngữ ngoại giao. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ quan liêu.
- Không - Maria nói - Không.
- Cái đó không can gì tới em - Pilar bảo cô gái - em im đi.
- Tôi sẽ làm việc đó tối nay. - Robert Jordan nói.
Chàng trông thấy Pilar nhìn chàng, một ngón tay đặt trên môi. Bà ta
quay ra cửa.
Chiếc mền nơi cửa hang vén ra và Pablo thò đầu vào. Hắn mỉm cười
với tất cả mọi người, bước vào trong, quay đầu cột lại chiếc mền sau hắn. Hắn
đứng đối diện với mọi người, cởi chiếc áo choàng trên đầu hắn và giũ cho tuyết
rớt ra.
- Các người nói về tôi đó hả? - Hắn hỏi tất cả mọi người - Tôi làm
các người mất tự nhiên hả?
Không ai trả lời hắn. Hắn máng chiếc áo choàng lên vách và đến bên
bàn.
- Cái gì đó? - Hắn hỏi. Hắn cầm lên cái tách của hắn để lại khi nãy
và nhúng vào hũ rượu. Hết rượu rồi, hắn bảo Maria. Ra vò lấy thêm rượu coi.
Maria bưng hũ rượu đi về phía cái vò bám đầy bụi, căng phồng và đen
đủi, treo trên vách, cổ vò rượu nghiêng xuống đất. Nàng mở nút từ một cái chân.
Pablo nhìn nàng đang quỳ gối xuống, nâng hũ rượu lên cao và trông chừng rượu
chát chảy òng ọc vào đó.
- Coi chừng đó - Hắn nói - Bây giờ thì rượu đã cạn tới thắt lưng
rồi đó.
Không ai nói gì.
- Hôm nay tôi đã uống từ rún tới bao tử đây - Pablo nói - Nhu cầu
trong ngày mà. Tất cả mọi người làm sao vậy? Các người thụt lưỡi hết rồi à?
- Vặn nút lại đi, Maria - Pablo nói - Đừng để rượu chảy ra.
- Còn đủ rượu mà, đồng chí cứ chén cho say mèm đi. - Angustin nói.
- Người ta nói được rồi đây - Pablo nói, và hắn chào Angustin - Khá
lắm. Tôi tưởng đồng chí bị cái gì làm cho câm rồi chớ.
- Cái gì? - Angustin hỏi.
- Việc tôi trở vào.
- Quan trọng lắm à?
Hắn đang hừng chí, Robert Jordan nghĩ. Có thể Angustin sắp sửa ra
tay rồi đây. Chắc chắn là hắn thù ghét Pablo. Còn tôi, tôi không thù ghét gì
hắn. Không, tôi không thù ghét gì hắn. Hắn làm tôi nản chí thì có chớ tôi không
thù ghét gì hắn. Mặc dù chuyện chọc đui mắt kẻ thù đã là quái chiêu rồi. Dù sao
đây cũng là cuộc chiến của họ. Trong hai ngày tới đây, hắn chẳng giúp ích được
gì. Tôi sẽ đứng ngoài việc đó, chàng nghĩ. Tối nay tôi đã một lần dại dột với
hắn và tôi đã quyết định thanh toán hắn. Nhưng tôi không muốn làm trò dại dột
bây giờ. Sẽ không có cuộc đấu súng cũng như sẽ không có chuyện gì đáng tiếc xảy
ra khi tất cả thuốc nổ còn đây. Dĩ nhiên là Pablo đã biết điều đó. Còn mày, mày
có biết hay không? Chàng tự hỏi chính mình. Không. Và Angustin cũng không biết.
Chàng nghĩ, mày thật đáng nhận tất cả những gì có thể xảy ra cho mày.
- Angustin. - Chàng nói.
- Cái gì? - Angustin ngước mắt nhìn lên với một vẻ gắt gỏng vừa
quay về phía Pablo.
- Tôi có chuyện muốn nói với đồng chí, Robert Jordan nói.
- Khoan đã.
- Bây giờ - Robert Jordan nói - Por favor 4.
Robert Jordan đã đến gần cửa ra vào và Pablo dõi mắt nhìn theo
chàng. Angustin, người cao lớn với đôi má hóp, đứng dậy bước đến bên chàng. Hắn
bước đi với một dáng vẻ vừa luyến tiếc vừa khinh khỉnh.
- Đồng chí quên trong mấy cái ba lô có gì à? - Robert Jordan hỏi
nhỏ hắn.
- Đ.M. - Angustin nói - Tôi đã quen rồi lại quên.
- Tôi cũng quên luôn.
- Đ.M. - Angustin nói - Ngu thật - Hắn quay đi, bước đi lửng thửng
về bàn và ngồi vào đó - Một ly nghe, ông bạn Pablo - Hắn nói - Mấy con ngựa ra
sao rồi?
- Khá lắm - Pablo nói - Tuyết bớt rơi rồi.
- Đồng chí có tin rằng tuyết sắp hết rơi rồi không?
- Ừ - Pablo nói - Bớt rồi, chỉ còn những lọn nhỏ và cứng. Gió thì
vẫn còn thổi nhưng tuyết sắp hết rồi. Gió đã đổi chiều.
- Đồng chí có tin rằng ngày mai hết tuyết không? - Robert Jordan
hỏi hắn.
- Ừ - Pablo nói - Chắc trời sẽ lạnh và trong. Gió đang xoay chiều.
Robert Jordan nghĩ thầm, trông hắn kìa. Bây giờ thì hắn lại có vẻ
dễ thương. Chính hắn cũng xoay chiều nhanh như gió. Mặt mày người ngợm hắn
giống heo thật. Và tôi biết hắn đã giết nhiều người. Tuy nhiên hắn lại nhạy cảm
như một cây phong vũ biểu loại tốt. Đúng vậy, chàng nghĩ, hắn giống như một con
heo, nhưng heo cũng là một loài vật thông minh vậy. Pablo thù chúng tôi, có thể
chỉ vì những dự định chúng tôi. Hắn khích ta tới cùng, với những lời nhục mạ
đầy hằn học, và sau đó khi hắn biết ta sắp sửa loại bỏ hắn thì lúc đó hắn lại
bỏ qua và bắt đầu lại như chưa có gì.
- Bọn ta sẽ được thời tiết tốt để làm công việc, Inglés ạ. - Pablo
nói với Robert Jordan.
- Bọn ta à? - Pilar nói - Bọn ta nào?
- Ừ, bọn ta - Pablo mỉm cười với bà ta và nốc một hớp rượu - Tại
sao không? Tôi đã suy nghĩ kỹ trong lúc còn ở ngoài. Tại sao bọn ta không đồng
ý với nhau chớ?
- Đồng ý cái gì? - Người đàn bà hỏi - Đồng ý cái gì đây?
- Tất cả. Trong vụ cây cầu. Bây giờ thì tôi đứng về phe bà.
- Bây giờ thì đồng chí đứng về phe bọn này à? - Angustin hỏi - Sau
những gì đồng chí đã nói phải không?
- Ừ, với sự thay đổi thời tiết này tôi đồng ý với đồng chí.
Angustin lắc đầu.
- Thời tiết - Hắn vừa nói vừa tiếp tục lắc đầu - Và sau những cái
tát tay tôi đã tặng cho đồng chí à?
- Ừ - Pablo mỉm cười với hắn và đưa mấy ngón tay sờ môi - Sau
chuyện đó nữa.
Robert Jordan dò xét Pilar. Bà ta đang nhìn Pablo như một con vật
kỳ lạ. Trên khuôn mặt bà ta vẫn còn thoáng hiện những bóng tối âm u của câu
chuyện móc mắt vừa rồi. Bà ta lắc đầu như để thoát ra khỏi tất cả điều đó. Bà
ta bảo Pablo :
- Nghe đây ông.
- Cái gì, bà?
- Cái gì bắt ông đó?
- Không có gì cả. Tôi đổi ý. Vậy thôi.
- Ông nghe trộm từ ngoài cửa phải không?
- Ừ, nhưng tôi không nghe được cái quái gì hết.
- Ông sợ người ta giết ông hả?
- Không - Hắn nói, vừa nhìn lên miệng tách - Tôi cóc sợ chết đâu.
Bà biết tôi mà.
- Vậy thì cái gì xui khiến đồng chí vậy? - Angustin nói - Trong lúc
đồng chí say rượu, đồng chí chửi rủa hết thảy mọi người, đồng chí bỏ bê công
việc, đồng chí nói năng một cách đê tiện về cái chết của bọn này, đồng chí nhục
mạ đàn bà con gái, và đồng chí lại còn làm kỳ đà cản mũi nữa.
- Tôi say mà!
- Và bây giờ...
- Tôi hết say rồi. Và tôi đổi ý.
- Những người khác tin được đồng chí. Tôi không tin.
- Tin tôi hay không, tùy ý. Nhưng chỉ có tôi mới đưa đồng chí tới
Gredos.
- Gredos?
- Sau vụ cây cầu chỉ còn cách đến đó.
Robert Jordan nhìn Pilar, giơ bàn tay ở phía khuất tầm mắt Pablo vỗ
nhẹ vào tai như ngầm hỏi điều gì.
Người đàn bà gật đầu, rồi lại gật đầu lần nữa. Bà ta nói điều gì
với Maria và cô gái đến bên Robert Jordan.
- Chị ấy bảo, chắc chắn là hắn đã nghe. - Maria nói nhỏ vào tai
Robert Jordan.
- Vậy thì, Pablo này - Fernando nói một cách nghiêm trang - Bây giờ
đồng chí theo phe bọn tôi và đồng ý vụ cây cầu phải không?
- Đúng vậy đồng chí ạ. - Pablo nói. Hắn nhìn thẳng vào mắt Fernando
và gật đầu.
- Thật vậy à? - Primitivo hỏi.
- Thật vậy.
- Và đồng chí thấy liệu có thành công không? - Fernando hỏi - Bây
giờ đồng chí đã tin tưởng chưa?
- Tại sao không? - Pablo nói - Còn đồng chí không tin à?
- Tin chớ. Tôi lúc nào lại không tin.
- Tôi phải ra ngoài đây. - Angustin nói.
- Bên ngoài lạnh lắm. - Pablo nói bằng một giọng thân thiện.
- Có thể - Angustin nói - Tôi không thể ở lâu trong cái manicomio
này được.
- Đừng gọi cái hang này là nhà thương điên. - Fernando nói.
- Một cái manicomio với những người điên cuồng bạo - Angustin nói -
Tôi rút lui trước khi trở thành điên đi mất.
--- ------ ------ ------ -------
1 Hãy giết nó.
2 Phát xít.
3 Tôi sẵn sàng.
4 Làm ơn đi.
Chương 18
Có thể nói đó là một vòng quay trong kỳ hội chợ, Robert Jordan nghĩ
thầm. Không phải là vòng quay thật nhanh theo tiếng đại phong cầm máy, với
những đứa bé cỡi trên lưng những con bò cái có sừng sơn màu vàng chói, tay cầm
gậy bắt vòng trong ánh sáng chập chờn của hai đốt trên đại lộ Maine sụp tối...
một vòng quay dựng bên chiếc quán bán cá rán và bên một gian hàng xổ số với
vòng bánh xe quay tròn, rà những cái dải bằng da của nó trên những cái ô đánh
số, với những hộp đường phèn chất thành hình kim tự tháp dùng làm phần
thưởng... Không, đây không phải là một vòng quay loại đó, mặc dù ở đây mọi
người vẫn chờ đợi, như những người đàn ông đội mũ cát két, những người đàn bà
mặc áo săng đai và để đầu trần ở những nơi đó đang nhìn bánh xe may rủi quay
đều. Vâng, mọi người đủ mặt cả. Nhưng đây lại là một cái bánh xe khác. Một cái
bánh xe vừa quay tròn vừa lên, xuống.
Bây giờ thì nó đã quay hết hai vòng. Đó là một cái bánh xe lớn quay
tròn trên một mặt phẳng nghiêng. Mỗi lần như vậy, nó quay thành một vòng và trở
lại khởi điểm. Một phía của nó cao hơn phía khác và trước hết nó đưa ta lên
đoạn hạ ta xuống đúng vào chỗ cũ. Và rồi không có lô trúng chàng nghĩ, và không
ai muốn bước lên bánh xe đó cả. Nhưng người ta lại ở trên đó từng hồi và người
ta quay thành vòng một cách miễn cưỡng. Chỉ có một vòng hình bầu dục lên,
xuống, và sau đó người ta lại trở về chỗ cũ. Chàng nghĩ, ta lại về chỗ cũ, và
không có gì được giải quyết cả.
Không khí trong hang nóng bức và bên ngoài gió đã ngưng. Giờ đây
chàng đã ngồi vào bàn với cuốn sổ tay trước mặt và chàng phác họa phần kỹ thuật
của việc phá cầu. Chàng vẽ ba bản phác họa, đặt ra những công thức, ghi chú
phương pháp thực hiện vụ nổ bằng hai bức vẽ giản lược như những bức vẽ trong
các lớp mẫu giáo, để cho Anselmo có thể kết thúc được khi chàng gặp sự cố trong
lúc phá cầu. Chàng hoàn tất mấy búc phác họa và bắt đầu nghiên cứu chúng.
Maria ngồi cạnh chàng, nhìn qua vai chàng. Chàng ý thức sự hiện
diện của Pablo ở đầu bàn bên kia và của những người khác đang trò chuyện hoặc
đánh bài. Chàng cảm nhận những mùi vị xông lên trong hang, không phải là mùi vị
của bếp núc nữa, mà là những mùi vị làm nên từ khói lửa bếp, mùi da thịt đàn
ông, mùi thuốc lá, mùi rượu chát và mùi ngai ngái của thân thể. Maria nhìn
chàng kết thúc công việc, nàng đặt một bàn tay lên bàn, chàng cầm lấy bàn tay
của nàng, đưa nó lên tận mặt chàng và hít lấy hương vị tươi thắm của nước mát
và xà bông đen mà nàng dùng để rửa chén. Chàng trả bàn tay về chỗ cũ, không
nhìn cô gái và vì chàng tiếp tục vùi đầu trong công việc của mình nên chàng
không thấy nàng đỏ mặt. Nàng tiếp tục đặt bàn tay nơi đó, sát bên bàn tay
chàng, nhưng chàng không nắm lấy nó nữa.
Chàng đã làm xong dự án về công tác phá hoại, trên một trang sổ mới
chàng thảo những điều dặn dò của chàng. Tâm trí chàng trong sáng, thoải mái và
chàng lấy làm hài lòng với công việc của mình. Chàng viết đầy hết hai trang
giấy và chăm chú đọc lại.
Chàng nhủ thầm, tôi nghĩ như vậy là xong. Như vậy là rõ ràng lắm
rồi và không thể nào có những sơ sót, khuyết điểm. Hai đồn canh sẽ bị tiêu diệt
và cây cầu của bọn chúng sẽ bị nổ tung đúng theo lệnh của Golz. Đó là tất cả
những gì tôi trách nhiệm. Có lẽ tôi không bao giờ nên nhúng tay vào câu chuyện
của Pablo. Việc đó rồi cũng sẽ ổn thỏa, bằng cách này hay cách khác. Có mặt
Pablo hay không có mặt Pablo trong công tác này, dù sao đi nữa, tôi cũng cóc
cần. Nhưng mà tôi sẽ không leo lên cái bánh xe đó nữa đâu. Tôi đã leo lên đó
hai lần rồi, và đã hai lần, nó quay tròn và trở về khởi điểm, còn tôi, tôi
không quay tròn nữa.
Chàng gấp cuôn sổ tay lại, nhìn Maria nói :
- Hola, guapa, em có hiểu chút gì trong tất cả những điều này
không?
- Không, Roberto. - Cô gái nói và nàng đặt bàn tay nàng lên bàn tay
hãy con cầm cây viết chì. Xong chưa?
- Xong rồi, tất cả đều được ghi chép và tổ chức chu đáo.
- Đồng chí làm gì đó Inglés? - Pablo hỏi từ cạnh bàn bên kia. Đôi
mắt hắn lại có vẻ bối rối.
Robert Jordan nhìn hắn chăm chú. Chàng nghĩ thầm tôi không ngồi lên
bánh xe quay tròn nữa đâu. Đừng leo lên bánh xe. Có lẽ nó lại khởi sự quay tròn
rồi đây.
- Tôi lo vụ cây cầu. - Robert Jordan lễ độ nói.
- Ra thế nào? - Pablo hỏi.
- Tốt đẹp lắm. Tất cả đều thật khả quan.
- Tôi thì lo vụ rút lui.
Robert Jordan nhìn vào đôi mắt đục ngầu vì rượu của hắn, đoạn nhìn
hũ rượu hầu như đã cạn.
Chàng nghĩ thầm, tôi không leo lên bánh xe đâu. Chàng lại uống
rượu. Đúng vậy. Đừng leo lên bánh xe. Người ta không bảo rằng tướng Grant đã
say bí tỉ một phần lớn trong suốt thời kỳ nội chiến à? Đồng ý là hắn cũng say.
Nhưng tướng Grant hẳn sẽ nổi trận lôi đình về sự so sánh này, nếu ông ta trông
thấy Pablo, vả lại, tướng Grant thì hút xì gà. Có lẽ phải tìm một điếu xì gà
cho Pablo. Đúng là phải thêm vào cái khuôn mặt kia một điếu xì gà trông mới
được. Phải kiếm ở đâu ra điếu xì gà cho Pablo đây?
- Thế nào? - Robert Jordan lịch sự hỏi.
- Tốt đẹp - Pablo nói bằng một giọng rõ ràng vừa nặng nề hất đầu
lên - Muy bien.
- Đồng chí có ý kiến gì không? - Angustin hỏi, hắn ngồi từ trong
góc, đang đánh bài.
- Có - Pablo nói - Nhiều lắm.
- Đồng chí tìm thấy chúng ở đâu đó? Trong hũ rượu à? - Angustin
hỏi.
- Có thể - Pablo nói - Biết đâu đó? Maria, đong đầy hũ rượu giùm
tôi đi.
- Chính trong vò rượu mới có những ý kiến hay - Angustin nói tiếp
tục đánh bạc - Tại sao đồng chí không chung vào đó.
- Không - Pablo trầm tĩnh nói - Tôi tìm chúng trong hũ được rồi.
Robert Jordan nghĩ, hắn cũng không thích leo lên bánh xe. Vậy thì
bánh xe phải quay một mình. Tôi không tin người ta có thể ở mãi trên đó được.
Cái bánh xe đó bắt buộc đưa tới cái chết. Tôi khoái chí thấy người ta không còn
ngồi trên đó nữa. Nó đã từng làm tôi chóng mặt một hai lần gì đó. Nhưng chính
bằng những trò tương tự mà những tên say và những kẻ vô lại hoặc hung ác quay
cho tới khi chết thì thôi. Nó quay, nó lên cao và hoạt động của nó hẳn không
bao giờ y như cũ, và sau đó, nó hạ thấp xuống vừa tiếp tục quay. Chàng nghĩ, nó
có thể quay mãi mãi. Đừng ai hòng mang tôi lên đó. Không, ông tướng ạ. Tôi
không còn ở trên chiếc bánh xe quay nữa, tướng Grant ạ!
Pilar ngồi cạnh bếp lửa, chiếc ghế kê đúng chỗ để bà ta có thể nhìn
qua vai của hai người đang đánh bạc quay lưng về phía bà ta. Bà ta theo dõi
cuộc chơi.
Robert Jordan nghĩ, điều kỳ lạ nhất ở đây là sự chuyển tiếp từ
những khoảnh khắc phong ba hiểm nghèo tới trạng thái bình yên, ấm cúng của một
đời sống gia đình thật sự. Lúc cái bánh xe quỷ quái kia hạ xuống chính là lúc
nó móc lấy ta, chàng nghĩ. Nhưng mà không ai có thể đưa tôi lên đó được nữa.
Cách đây hai ngày, tôi vẫn chưa biết rằng Pilar, Pablo và những
người khác có mặt ở trên đời này, chàng nghĩ. Cũng không có Maria trên đời này
nữa. Lúc đó chắc hẳn là thế giới đơn sơ hơn nhiều. Tôi đã nhận từ Golz những
chỉ thị thật rõ ràng và có vẻ như để thực hiện được một cách hoàn hảo mặc dù nó
bày ra một vài khó khăn và lôi cuốn theo một số hậu quả. Một khi cây cầu đã bị
giựt sập, hoặc tôi sẽ lên đường trở về phòng tuyến hoặc không bao giờ. Nếu vạn
bất đắc dĩ mà phải trở về, tôi đã có ý định xin được sống một thời gian ở
Madrid. Không có chuyện nghỉ phép trong trận giặc này. Nhưng tôi tin chắc rằng
tôi có thể được hai hoặc ba ngày phép ở Madrid.
Ở Madrid, chàng nghĩ, tôi thích đi mua sách báo, đến khách sạn
Florida, thuê một phòng, tắm rửa bằng nước thật nóng. Tôi sẽ sai tên gác cửa
chạy đi mua một chai rượu ngải nếu hắn có thể tìm ra thứ rượu đó ở Mantequerias
Leonesas hay ở bất luận nơi nào tại Gran Via, và rồi sau khi tắm xong, tôi sẽ
nằm đọc, vừa uống một hoặc hai ly rượu ngải. Sau đó tôi sẽ điện thoại đến quán
Gaylord để coi có thể đến ăn tối tại đó được hay không.
Chàng không thể dùng bữa tối tại Gran Via bởi vì đầu bếp ở đó không
khéo tay lắm và chàng phải đến thật sớm mới có hy vọng thưởng thức các món ăn
tại đây. Lại nữa, ở đó có nhiều nhà báo quá và chàng không thích phải giữ kẽ
trong lời ăn tiếng nói. Chàng thích uống rượu ngải và mặc tình đấu láo. Vậy thì
chàng sẽ tới quán Gaylord dùng một bữa tối thật ngon lành với Karkov, uống rượu
bia thứ thiệt và thăm dò về diễn tiến của cuộc chiến.
Lần đầu tiên chàng tới Madrid, chàng không thích quán Gaylord nơi
những người Nga vừa mới đến, vì nó có vẻ xa hoa quá, ở đó thức ăn có vẻ quá
sang trọng so với hoàn cảnh của một thành phố bị bao vây và những câu chuyện có
vẻ quá cục súc khi đang có chiến tranh. Nhưng mà mày cũng là một tên dễ bị lôi
cuốn lắm, chàng nghĩ. Tại sao người ta không được ăn ngon khi vừa mới hoàn tất
một công tác như thế này? Và những câu chuyện mới nghe qua lần đầu chúng có vẻ
cục súc nhưng thật ra chúng chỉ nói lên bộ mặt của sự thật. Chàng nghĩ, cái vụ
này mà hoàn tất thì cũng đáng mang ra kể lại tại đó lắm. Ừ, khi nó đã hoàn tất.
Có nên dẫn Maria tới quán Gaylord không đây? Không, không thể được.
Nhưng chàng có thể để nàng ở lại khách sạn để nàng tắm nước nóng và chàng có
thể gặp lại nàng ở đó khi từ quán Gaylord về. Vâng, chàng có thể làm vậy được.
Sau đó, khi nói về nàng cho Karkov nghe xong, chàng có thể dẫn nàng đi giới
thiệu với bọn họ bởi bọn họ chắc sẽ tò mò và muốn biết nàng.
Có thể chàng cũng không tới quán Gaylord nữa. Chàng có thể đi ăn
thật sớm ở Gran Via và trở về khách sại Florida. Nhưng mà mày thừa biết rằng
mày sẽ tới quán Gaylord bởi vì mày muốn nhìn lại tất cả ở đó, mày muốn dùng lại
một lần nữa những món ăn ở đó, muốn nhìn lại tất cả cái tiện nghi và xa xỉ ở đó
sau khi hoàn thành sứ mạng này. Sau đó, mày sẽ trở lại khách sạn Florida và
Maria sẽ có mặt ở đó. Chắc chắn là nàng sẽ có mặt ở đó khi sứ mạng đã xong
xuôi. Nếu chàng thành công trong sứ mạng này, chàng sẽ rất xứng đáng với một
bữa ăn tối tại quán Gaylord.
Quán Gaylord là nơi gặp gỡ của những lãnh tụ nông dân và thợ thuyền
nổi tiếng ở Tây Ban Nha, họ đã xuất thân từ quần chúng, không cần trải qua một
thời kỳ huấn luyện tại một quân trường nào để có thể cầm súng ngay từ đầu cuộc
chiến, và người ta khám phá ra rằng nhiều người trong bọn họ nói tiếng Nga. Vài
tháng trước đây, đó chính là nỗi thất vọng lớn lao đầu tiên của chàng, và chàng
đã nảy sinh ra vài ghi nhận cay đắng. Nhưng mà sau đó chàng kịp nhận ra rằng sự
việc phải như vậy. Họ đúng là nông dân và thợ thuyền. Họ đã tham dự vào cuộc
cách mạng năm 1934 và sau khi cách mạng thất bại, họ đã phải trốn khỏi xứ; tại
Nga, người ta gởi họ vào học tại trường quân sự và viện Lénine, đặt dưới quyền
điều khiển của Cộng sản Đệ Tam, để chuẩn bị những cuộc chiến đấu sắp tới và đón
nhận những chỉ thị quân sự cần thiết để trở thành người chỉ huy.
Ở đó, Cộng sản Đệ Tam đã huấn luyện cho họ. Trong một cuộc cách
mạng, ta không cho phép những người ủng hộ ta hoặc bất luận ai được biết hơn
điều cần biết. Họ đã dạy như vậy. Nếu một điều nào đúng ngay từ nền tảng của
nó, người ta có nói dối thì cũng không quan hệ gì. Nhưng mà người ta đã nói dối
nhiều quá. Lúc đầu chàng không thích nói dối. Về sau chàng bắt đầu yêu thích sự
nói dối. Nó bước vào vai trò của người đảng viên nhưng nơi đó có một cái dốc
thật hiểm nghèo.
Chính tại quán Gaylod người ta được biết Valentin Gonzalés mệnh
danh là El Campesino hay Tên Nông Dân không hề làm nông dân bao giờ mà là một
cựu trung sĩ của đạo quân Lê dương Tây Ban Nha, đã từng đào ngũ và chiến đấu
với Abd-el-Krim. Chuyện đó nghe cũng thật ly kỳ. Tại sao không, cần phải có
những lãnh tụ nông dân sẵn sàng trong trận giặc kiểu này, và một lãnh tụ nông
dân thật sự thì dễ giống Pablo lắm. Người ta không thể đợi một lãnh tụ nông dân
chính hiệu ra đời. Vả chăng có thể người đó sẽ có nhiều đặc chất nông dân quá.
Vậy thì phải tạo nên một người kiểu đó. Sau những gì chàng trông thấy được ở
Campesino, với bộ râu đen, cặp môi dày như người da đen và đôi mắt cuồng nhiệt
của hắn, Jordan tự nhủ là hắn phải khó lòng sai khiến và sử dụng chẳng khác gì
một lãnh tụ nông dân chánh hiệu. Lần sau cùng chàng gặp lại hắn, hắn có vẻ như
đắc chí với điều mà hắn tự quảng cáo cho mình và tưởng hắn là một nông dân
chính hiệu. Đó là một con người chắc chắn và gan dạ, gan dạ không ai bằng.
Nhưng mà Trời Phật ơi! Hắn lại già chuyện quá đỗi. Và khi mà hắn đã vô cơ rồi
thì hắn có thể nói bất kể chuyện gì, không màng gì tới hậu quả của những điều
hắn bật mí. Hậu quả thì cũng đã không vừa gì. Nhưng hắn lại tỏ ra là một người
cầm binh tuyệt diệu trong những hoàn cảnh hiểm nguy tưởng đã tuyệt vọng. Hắn
không bao giờ tuyệt vọng và hắn luôn luôn thoát được.
Tại quán Gaylord, chàng cũng đã gặp tên thợ hồ quèn tên là Enrique
Lister ở Galice, hiện đang chỉ huy một sư đoàn và hắn cũng nói tiếng Nga. Chàng
cũng gặp ở đó anh chàng thợ mộc tên Juan Modesto ở Andalousie, người ta vừa mới
giao một binh chủng cho hắn chỉ huy. Hắn không học tiếng Nga ở Puerto de Santa
Maria mặc dù hắn có khả năng theo học nếu ở đó có một trường Berlitz dành riêng
cho thọ mộc. Trong số tất cả những quân nhân trẻ, hắn là người mà người Nga tin
cậy nhiều nhất, bởi hắn là một đảng viên thật sự, một con người “trăm phần
trăm”, như bọn họ vẫn bảo, với sự hãnh diện trong lối nói kiểu Mỹ này. Hắn
thông minh hơn Lister El Campesino nhiều.
Vậy quán Gaylord chính là nơi ta phải đến để bổ túc kiến thức của
mình. Ở đó người ta biết được tất cả mọi việc xảy ra thế nào thay vì được giả
định là sẽ xảy ra. Chàng chỉ cần bắt đầu công việc giáo dục chính mình, chàng
nghĩ. Chàng tự hỏi không biết chàng có được làm công việc đó lâu bền không.
Quán Gaylord ngon lành và tinh khiết. Chàng chỉ cần có vậy. Lúc đầu, khi chàng
còn cả tin vào tất cả những trò ngu xuẩn, quán Gaylord làm chàng khó chịu. Bây
giờ chàng có chút đỉnh hiểu biết để chấp nhận sự cần thiết của tất cả những sự
dối trá, và những gì chàng thu thập ở quán Gaylorđ chỉ có thể khiến chàng vững
tin thêm ở những gì chàng cho là thật. Chàng bằng lòng khi được biết sự việc
thật sự xảy ra cách nào chớ không phải như chúng được giả định xảy ra. Trong
một cuộc chiến tranh, luôn luôn có những sự dối trá. Nhưng sự thật về Lister,
Moderto, và El Campesino có giá trị hơn tất cả mọi sự dối trá và tất cả những
huyền thoại. Vâng, một ngày nào đó, người ta sẽ nói lên sự thật cho tất cả mọi
người. Và trong khi chờ đợi, chàng bằng lòng có được một quán Gaylord để được
tùy nghi đến đó thu thập nhưng thông tin cần thiết.
Vâng, chàng sẽ đến đó một khi có mặt tại Madrid, sau khi đi mua mấy
quyển sách, tắm nước nóng, uống rượu và nằm đọc được chút ít. Nhưng mà chương
trình này chỉ thực hiện khi chưa có Maria kìa. Vậy thì, họ sẽ mướn hai phòng.
Nàng có thể tùy nghi muốn làm gì thì làm trong khi chàng đến đó, và trên đường
về từ quán Gaylord, chàng sẽ đến gặp nàng. Nàng đã chờ đợi trong trọn thời kỳ
này trên những vùng đồi núi. Nàng có chờ đợi thêm chút nữa ở khách sạn Florida
cũng chẳng sao. Hẳn họ sẽ được sống ba ngày tại Madrid. Ba ngày thì quá nhiều.
Chàng sẽ đưa nàng đi xem bọn Marx Brothers trong phim “Một đêm ở nhà hát nhạc
kịch”. Người ta chiếu phim này đã ba tháng nay rồi và dư sức chiếu trong ba
tháng nữa. Nàng sẽ thích phim “Một đêm ở nhà hát nhạc kịch”. Và chàng cũng sẽ
thích.
Nhưng mà quán Gaylord thì cách xa cái hang này quá. Không, đó không
phải là chuyện khó khăn bực nhứt. Có xa là từ cái hang này đi tới Gaylord. Lần
đầu tiên chàng đã đến đó với Kachkine, và chàng đã không lấy gì làm thích nơi
đó. Kachkine nói là chàng phải gặp Karkov bởi Karkov thích quen với những người
Mỹ và bởi hắn là người khoái Lope de Vega nhất; hắn cho rằng “Fuente Ovejuna”
là vở kịch vĩ đại nhất từ xưa tới giờ. Có thể đúng như vậy, nhưng đó không là ý
kiến của Robert Jordan.
Chàng thích Karkov, nhưng không thích chỗ đó. Karkov là người thông
minh nhứt mà chàng đã gặp. Hắn mang giày ống đen dùng cưỡi ngựa và mặc quần xám
áo choàng xám. Chân tay hắn ốm yếu. Mặt mày và thân thể hắn ẻo lả, bịnh hoạn,
hắn có lối nói chuyện làm văng nước bọt giữa hai hàm răng hư hỏng xệu xạo của
hắn. Lần đầu tiên gặp hắn, chàng thấy hắn có vẻ khôi hài. Nhưng hắn lại là
người thông minh, nhiều tư cách, có tính khí ngang tàng và óc trào phúng hơn
bất cứ một người nào.
Quán Gaylord tự nó có vẻ xa hoa, trụy lạc một cách quá lộ liễu, sỗ
sàng. Nhưng tại sao những sứ giả của một cường quốc cai trị trên một phần sáu
quả địa cầu lại không được một chút tiện nghi chớ? Lúc đầu, Robert Jordan khó
chịu về tất cả những tiện nghi thừa mứa của bọn họ nhưng rồi sau cùng chàng
cũng đã chấp nhận việc đó và ngay cả chính chàng cũng thích như vậy nữa.
Kachkine đã giới thiệu hắn như một mẫu người lạ thường và Karkov
lúc đầu đã biểu lộ một phép lịch sự làm cho kẻ khác phải khó chịu, sau đó vì lẽ
Robert Jordan không tỏ ra anh hùng chút nào mà lại kể một câu chuyện thật kỳ dị
và thật thô lỗ không tốt đẹp gì cho chàng, lúc đó Karkov mới bỏ tác phong lịch
sự, ăn nói vung vít, thô lỗ và sau cùng hắn trở nên xỏ lá ba que không chịu
được. Sau đó họ trở thành đôi bạn.
Kachkine chỉ được dung thứ trong khung cảnh này. Chắc chắn trong
quá khứ hắn có một vết đen nào đó và hắn đã có mặt tại Tây Ban Nha là để cứu
chuộc mình. Người ta không cho chàng biết câu chuyện nhưng có thể người ta sẽ
cho chàng biết một ngày nào đó bởi Kachkine đã chết. Dù sao Karkov và chàng đã
trở thành đôi bạn, và chàng đồng thời cũng là bạn với người đàn bà kỳ lạ, da
ngăm ốm yếu, mệt mỏi, tình cảm, nóng tính, chơn thật và dửng dưng, người đàn bà
có thân hình hốc hác, không trang điểm, có mái tóc ngắn, hơi điểm bạc là vợ của
Karkov, làm thông ngôn trong những đội thiết kỵ. Chàng còn là bạn của tình nhân
Karkov, người đàn bà có đôi mắt mèo, có mái tóc màu vàng hung (hung hơn hoặc
vàng hơn tùy theo người thợ làm tóc), có thân hình uể oải và đầy nhục dục (một
thân hình có lẽ chỉ dùng để dán chặt vào những thân hình khác một cách khoan
khoái), một chiếc miệng lúc nào cũng như chờ đợi một nụ hôn, một tâm hồn đần
độn, đầy tham vọng và một mực thắng thắn. Cô tình nhân này hay ngồi lê đôi mách
và lúc nào cũng dây vào những mối tình thoáng qua, điều này dường như làm cho
Karkov lấy làm thích thú. Người ta bảo rằng Karkov còn một người vợ khác nữa
ngoài người đàn bà của những đội thiết kỵ, nhưng không ai chắc chắn là điều này
có thật hay không. Robert Jordan rất thích cả vợ hắn lẫn cô nhân tình của hắn.
Chàng nghĩ, rất có thể chàng cũng thích người vợ khác kia của hắn nếu chàng
được gặp nàng ta, giả dụ rằng nàng ta có thật. Karkov là một tên sành sõi về
đàn bà kia mà.
Có nhiều lính canh với lưỡi lê gắn sẵn trên nòng súng ở trước quán
Gaylord và đó là nơi tràn đầy an lạc của trọn thành phố Madrid đang vị vây
khổn. Đêm nay chàng thích có mặt ở đó hơn là ở nơi này mặc dù giờ đây chàng
đang rất thoải mái tại đây, khi mà bọn họ đã ngừng bánh xe lại. Và tuyết cũng
đã ngừng rơi.
Chàng thích giới thiệu Maria với Karkov nhưng chàng không thể đưa
nàng tới quán Gaylord mà không có phép, và chàng cũng cần phải biết người ta sẽ
tiếp đón chàng ra sao sau sứ mạng này. Cuộc tấn công chấm dứt, Golz sẽ có mặt
đó và nếu chàng thi hành công tác xuất sắc thì hẳn mọi người đều sẽ biết qua
Golz. Chắc Golz sẽ không quên chế nhạo chàng về chuyện Maria sau những gì
Jordan nói với hắn về vấn đề gái.
Chàng múc một tách rượu trong hũ rượu của Pablo. “Cho tôi xin”,
chàng nói.
Pablo ngẩng đầu. Chắc hẳn là hắn đã sẵn sàng trong những kế hoạch
quân sự của hắn, Robert Jordan nghĩ. Hắn không tìm kiếm một chiến thắng gian
trá trong họng súng cà nông, nhưng tìm kiếm lối thoát cho một vấn đề nằm trong
cái chén kia. Dù sao phải nhìn nhận hắn có đầy đủ khả năng để chỉ huy đám người
kia một cách thành công cho tới bây giờ. Chàng nhìn Pablo, vừa tự hỏi hắn có
thể là loại thủ lãnh du kích nào trong trận nội chiến tại Mỹ. Có hàng khối
người loại đó, chàng nghĩ. Nhưng ta không biết nhiều về họ. Không phải là nhóm
Quantrill hoặc nhóm Mosby, cũng không phải chính người ông của chàng, nhưng mà
là những con người nhỏ bé, những người buôn da thú. Còn về chuyện rượu thì
Grant có thật sự là người say xỉn? Ông của chàng đã xác nhận điều đó. Grant
luôn luôn say rượu vào khoảng 4 giờ chiều, người nói. Khi ở Vicksburg ông ta đã
say nhừ trong hai ngày trời. Nhưng ông chàng lại quả quyết rằng ông ta hành
động rất mực bình thường ngay trong lúc say rượu, trừ một đôi khi người ta phải
vất vả đánh thức ông ta dậy. Và khi thức dậy rồi thì ông ta rất bình thường.
Cho tới bây giờ ở khắp mọi nơi trong trận giặc này, người ta không
thấy một Grant, một Sherman, hay một Stonewal Jackson. Không. Job Stuart cũng
không. Sheridan cũng không nốt. Còn cỡ Mc Clellans thì đếm không hết. Bọn phát
xít có rất nhiều Mc Clellans trong khi phía chúng ta thì có ít lắm là ba người
như vậy.
Quả thật chàng chưa thấy ai là thiên tài quân sự trong cuộc chiến
này. Không có đến một mống để làm thuốc. Một mống tàm tạm gọi là cũng chẳng có.
Kleber, Lucasz và Hanz đã tỏ ra xuất sắc trong vị trí của họ trong suốt thời
gian phòng thủ Madrid với những lữ đoàn quốc tế. Còn Miaja, lão già sói đầu
mang kính, tự phụ, đần độn như một con cú mèo, không hở môi, gan dạ và tối đầu
như một con bò mộng, lão già mà người ta tuyên truyền là kẻ bảo vệ Madrid đã
ganh tị với những tiếng tăm thêu dệt quanh cái tên Kleber đến đỗi đã phải thúc
giục người Nga cất chức chỉ huy của Kleber và gởi hắn tới Valence. Kleber là
một quân nhân tốt, nhưng lại thiển cận và quá bép xép trong chức vụ của hắn.
Golz đúng là một tướng tài, một chiến sĩ gan dạ, nhưng người ta luôn dành cho
hắn một địa vị phụ thuộc và không khi nào để hắn được toàn quyền. Cuộc tấn công
này chính là một sứ mạng quan trọng vào bực nhứt của hắn cho tới bây giờ, và
Robert Jordan không ưa thích gì lắm về tất cả những gì liên quan tới cuộc tấn
công ngày. Ngoài ra còn có Hall, người Hung Gia Lợi mà người ta tưởng đã bị bắn
chết nếu chỉ tin vào phân nửa những tin đồn ở quán Gaylord. Robert Jordan nghĩ,
đúng ra chỉ cần tin vào mười phần trăm thôi.
Chàng thích xem trận đánh trong đó người ta thắng bọn Ý trên vùng
cao nguyên nằm ở sau Guadalajara. Nhưng lúc đó chàng đang ở Estramadure. Mười
lăm ngày trước, Hans đã nói cho chàng biết điều đó tại quán Gaylord và hắn đã
giải thích cho chàng nghe mọi việc. Có một lúc tình thế thật là tuyệt vọng, khi
bọn Ý chọc thủng các phòng tuyến ở Trijueque. Nếu con đường từ Torija-Brihuega bị
cắt đứt thì lữ đoàn thứ 12 hẳn đã bị bao vây. “Nhưng mà để đánh với bọn Ý, -
Hans nói - chúng tôi đã liều thực hiện một cuộc hành binh có thể không hợp lý
nếu đụng những lực lượng khác. Và cuộc hành binh thành công”.
Hans đã chỉ cho chàng biết trên những tấm bản đồ về vùng hành quân
nơi diễn ra trận đánh. Hắn luôn mang chúng theo bên mình, trong cái cặp giấy
của hắn, và lúc nào cũng có vẻ kinh ngạc về chuyện lạ đó. Hans là một quân nhân
cừ khôi và một đồng chí tốt bụng. Hắn đã kể lại rằng những đội quân Tây Ban Nha
của Lister, Modesto và Compesino đều đã chiến đấu hữu hiệu trong trận giặc này.
Đó là nhờ ở tài năng và kỷ luật của những người chỉ huy. Nhưng mà Lister,
Compesino và Modesto đã thực hiện phần đông những cuộc hành quân của họ căn cứ
trên những chỉ thị của đám cố vấn Nga. Họ giống như những sinh viên phi công
lái máy bay với hai bộ phận điều khiển, bằng cách là người huấn luyện viên có
thể can thiệp trong trường hợp người sinh viên phạm sai lầm. Rốt cuộc, năm nay
ta sẽ thấy những điều họ đã học được. Tới một lúc nào đó, họ không cần lái như
thế nữa, và người ta sẽ thấy bằng cách nào tự tay họ, họ điều khiển được hàng
sư đoàn và hàng binh chủng.
Họ là người cộng sản và họ có tinh thần kỷ luật. Thứ kỷ luật mà họ
yêu sách mang lại nhiều kết quả tốt. Lister rất hung tợn trong vấn đề kỷ luật.
Đó là một người cuồng tín thật sự và hắn có tất cả sự miệt thị về đời người rất
thuần Tây Ban Nha. Kể từ các cuộc xâm lăng đầu tiên của dân Tartares, không có
quân đội nào mà trong đó người ta bị hành hình dễ dàng như dưới sự chỉ huy của
hắn. Nhưng hắn biết biến một sư đoàn thành một đơn vị thiện chiến. Giữ một địa
thế là một việc. Tấn công và chiếm giữ một địa thế là một việc khác nữa, Robert
Jordan nghĩ thầm, chàng đang ngồi trước bàn. Theo những gì tôi biết được về
hắn, tôi tự hỏi liệu Liester hành động cách nào nếu bỏ chuyện học lái như thế.
Nhưng cũng có thể người ta không bỏ. Hay là họ lại hỗ trợ thêm? Còn quan niệm
của người Nga? Phải tới quán Gaylord mà thôi.
Có lúc, chàng nghĩ quán Gaylord không hợp với chàng. Nó là cái gì
rất trái ngược với chủ nghĩa cộng sản khắc khổ đạo hạnh, với số nhà 63
Velasquez, đại khách sạn Madrid đã biến thành Tổng hành dinh của Lữ đoàn Quốc
tế. Ở 63 Velasquez, người ta có cảm tưởng mình là tín đồ của một hệ phái tôn
giáo nào đó. Bầu không khí ở quán Gaylord cũng rất xa lạ với cảm giác của chàng
khi đến Tổng hành dinh của liên đội năm trước khi liên đội này giải tán để gia
nhập vào những lữ đoàn thuộc quân đội mới.
Ở đó, người ta cảm thấy mình thuộc một đội thập tự quân. Đó là danh
từ thích hợp nhứt dù người ta đã sử dụng hay lạm dụng nhiều đến nỗi nó không
còn ý nghĩa đích thật của nó nữa. Không kể thói quan liêu, khả năng hạn chế và
những tranh luận trong nội bộ đảng, ta vẫn nhận ra một cái gì giống như tình
cảm ta vẫn mong đợi, nhưng không thấy, trong buổi lễ ban thánh thể đầu tiên của
mình: một tình cảm bổn phận có tính cách tự nguyện đối với tất cả những kẻ bị
áp bức trên thế giới chẳng khác gì một kinh nghiệm tôn giáo. Tuy nhiên tình cảm
này lại chân thật giống như tình cảm ta có được lúc nghe nhạc Bach hoặc chiêm
ngưỡng trong lớp ánh sáng rọi xuống từ các khung kính nhà thờ Chartres hay nhà
thờ Leon, hoặc xem tranh Mantegna, Greco và Brueghel tại Prado. Nó cho phép ta
tham dự vào một cái gì ta có thể đặt trọn vẹn niềm tin và ta cảm thấy mình hòa
đồng hợp nhất với tất cả những tâm hồn khác cũng dấn thân vào đó bằng một tình
thân ái tuyệt đối. Cho tới bây giờ tình cảm đó hãy còn xa lạ nhưng nó lại quan
trọng biết bao trong khi chính cái chết của ta lại không có vẻ gì quan trọng,
một cái gì ta chỉ nên lẩn tránh vì nó ngăn trở ta hoàn tất bổn phận. Nhưng điều
tốt hơn hết là ta làm sao để tuân phục vào tình cảm đó và sự cần thiết đó. Để
có thể chiến đấu.
Vậy thì mày đã chiến đấu, chàng nghĩ. Trong cuộc tranh đấu, tính
cách thuần khiết của tình cảm sớm biến mất nơi những con người còn sống sót,
những kẻ thắng trận. Trong sáu tháng, không còn lại gì. Tử thủ một địa điểm hay
một thành phố là một hình thức chiến tranh trong đó người ta cảm nghiệm như
vậy. Trận Sierra là trường hợp đó. Ở đó, họ đã chiến đấu trong thứ tình đồng
chí thật sự của người cách mạng. Ở đó, khi phải tăng cường kỷ luật, chàng lĩnh
hội và cảm nhận ngay vấn đề. Dưới áp lực của những quả đại pháo, nhiều người đã
vội hoảng sợ và tìm đường lẩn trốn. Chàng đã trông thấy người ta nổ súng vào
họ. Người ta đã để mặc cho xác họ sình lên bên vệ đường, không ai màng tới họ
nếu không phải là để lột đạn được, giày ống, áo da của họ. Đó là công việc bình
thường hợp lý. Đó là một công việc rất thực tế. Để khỏi phải nhường lại cho bọn
vô chính phủ.
Bắn vào những kẻ bỏ chạy là đúng đắn và cần thiết. Không có gì sai
trái trong những vụ đó cả. Họ bỏ chạy vì ích kỷ. Bọn phát xít đã tấn công và
người ta đã chận bước tiến của chúng trên dốc núi thuộc vùng Guadarrama, nơi có
toàn những núi đá xám với những cây thông nhỏ và bụi rậm. Quân ta đã kháng cự
mãnh liệt trên con lộ dưới những trận mưa bom và sau đó dưới những quả đại pháo
khi chúng kịp mang pháo binh tới. Buổi chiều, những người còn sống sót đã phản
công và đẩy lui được bọn phát xít. Sau đó, khi chúng cố gắng rút xuống dưới về
phía trái, vừa luồn lách giữa những đám núi đá và cây cối, chúng tôi đang chiếm
đóng viện điều dưỡng, đã nã súng bắn ra từ các khung cửa sổ và từ trên mái, mặc
dầu chúng đã tiến đến hai mặt, và lúc đó chúng tôi mới biết thế nào là bị bao
vây, mãi cho tới khi cuộc phản công một lần nữa đẩy lui chúng ra sau con đường.
Trong suốt thời gian đó, trong cơn sợ làm khô cả mồm mép và cuống
họng, trong những vụn thạch cao mịt mù và nỗi hãi hùng trước một bức tường đổ
sập, cuốn theo ngọn lửa đỏ rực và tiếng gào thét của những quả đại pháo, chúng
tôi lấy khẩu súng máy ra, chúng tôi kéo thây các xạ thủ bị đè bẹp đang nằm dưới
những mảnh vụn, chúng tôi tháo máy nạp đạn đã hư, kéo thẳng dây đạn, nằm dài
sau miếng chắn, và khẩu súng máy lại bắt đầu ria xuống con lộ; chúng tôi đã làm
tất cả những gì phải làm và chúng tôi biết rằng chúng tôi có lý. Mày đã biết
cảnh mồm mép khô ran, mày đã biết tới niềm phấn khích càng thuần khiết trong sự
sợ hãi, tất cả do cuộc chiến đấu đem lại, và trong suốt mùa hè và mùa thu này,
mày đã chiến đấu cho tất cả những con người khốn khổ trên thế giới này, chống
lại tất cả những bạo quyền, mày đã chiến đấu cho tất cả những điều mày tin
tưởng, cho một thế giới mới mà nền giáo dục của mày đã chuẩn bị cho mày. Chàng
nghĩ, mùa thu này, mày đã biết người ta phải đau khổ và miệt thị sự đau khổ
cách nào, với những ngày dài sống trong cảnh đói lạnh, ẩm ướt và lầy lội khi
phải đào đất, đắp mô để chiến đấu. Và cái cảm giác của suốt một mùa hè và mùa
thu đã bị vùi dập dưới những cơn mệt mỏi, buồn ngủ, nôn nóng và trong cảnh sống
tù túng thiếu tiện nghi. Tuy nhiên tình cảm đó vẫn còn và tất cả những gì chúng
tôi chịu đựng đã chỉ xác nhận nó mà thôi. Chàng nghĩ chính trong những ngày
tháng đó, mày mới biết được niềm tự phụ sâu xa, tinh khiết và đầy lòng vị
tha... niềm tự phụ chỉ có thể biến mày thành một thằng người nhảm nhí, đột
nhiên chàng nghĩ như vậy, nếu mày ở quán Gaylord.
Không, ở quán Gaylord, lúc đó, mày sẽ không thoải mái đâu. Mày quá
ngây thơ đó thôi. Mày đã sống trong một trạng thái ân sủng. Nhưng có thể quán
Gaylord dạo đó không giống như bây giờ. Không, thật ra không phải vậy, chàng tự
nhủ. Không phải vậy chút nào. Trong lúc này không có chuyện quán Gaylord.
Karkov đã từng nói với chàng về thời kỳ những người Nga đến Madrid
ở tại khách sạn thành phố. Lúc bấy giờ Robert Jordan không biết chuyện. Đó là
lúc trước khi thành lập những toán quân du kích đầu tiên, trước khi chàng gặp
Kachkine và những người khác. Kachkine ở miền Bắc, tại Irun, thuộc Saint-Sébastien
và đã từng tham dự vào những trận đánh non yểu tại Victoria. Hắn chỉ đặt chân
tới Madrid vào tháng Giêng trong khi Robert Jordan chiến đấu ở Carabanchel và ở
Usera trong suốt ba ngày trời khi mọi người đã chận đứng cánh phải của cuộc tấn
công của bọn phát xít vào thành phố Madrid, đẩy lui bọn Maures và bọn Tercio 1
từ nhà này sang nhà khác để giải phóng vùng ngoại ô đang bị bắn phá tơi bời bên
rìa vùng cao nguyên xám trải rộng dưới ánh mặt trời gay gắt, sau đó lập một
tuyến phòng thủ trên cao để bảo vệ góc thành phố đó, trong khi đó Karkov đang ở
Madrid.
Chính Karkov cũng không thể nói về thời kỳ này bằng một giọng trơ
trẽn. Đó là thời kỳ mà mọi người ai cũng đã trải qua, thời kỳ mà tất cả dường
như đã mất hết, và giờ đây mỗi người còn giữ được kỷ niệm về thái độ cùng tâm
trạng của mình khi tất cả đã tiêu ma, kỷ niệm đó còn quý báu hơn cả một chiếc
huy chương hay một cuộc tuyên dương công trạng. Chính phủ đã rời khỏi thành
phố, mang theo tất cả những chiếc xe thuộc Bộ Chiến tranh và lão già Miaja đã
phải thị sát mặt trận phòng thủ của lão bằng xe đạp.
Robert Jordan chỉ tin một cách mờ ở vào câu chuyện đó. Ngay cả với
sức tưởng tượng của một người yêu nước nhứt, chàng cũng không thể nghĩ tới việc
Miaja có thể đi xe đạp; tuy vậy, Karkov đã nói là chuyện đó có thật. Nhưng bởi
vì hắn đã viết điều đó trên những tờ báo Nga, có thể chàng cố tin vào những bài
báo của hắn.
Karkov đã kể cho chàng nghe một câu chuyện khác mà hắn không viết
ra. Tại đại khách sạn có ba người Nga bị thương mà hắn có trách nhiệm săn sóc:
hai người lái thiết kỵ và một phi công, cả ba đều không thể di chuyển được vì
tính cách trầm trọng của vết thương. Bởi điều quan trọng nhất là đừng để lộ
bằng cớ về sự ủng hộ của Nga, điều sẽ biện minh cho sự can thiệp công khai của
quân phát xít, Karkov có bổn phận làm thế nào để ba người bị thương không rơi
vào tay bọn phát xít trong trường hợp thành phố phải sơ tán.
Trong trường hợp sơ tán, Karkov bắt buộc phải đầu độc họ để tiêu
diệt mọi bằng cớ về lai lịch của họ trước khi rồi khỏi khách sạn. Không ai nhận
ra một đặc tính Nga nào trên thi thể của ba người bị thương: một người với một
viên đạn ở bụng, một người mất quai hàm với những dây thanh lòi ra, người thứ
ba với xương bánh chè dập nát, tay và mặt bị phỏng nặng đến nỗi khuôn mặt hắn
chỉ còn là một vết thương không có lông mi, lông mày lẫn tóc. Trên những cái
xác hắn bỏ lại sau hắn, trên những chiếc giường khách sạn, không ai còn nhận ra
họ là người Nga nữa. Không có gì phát giác được quốc tịch hoặc đảng phái của
một người chết.
Robert Jordan đã hỏi Karkov về những tình cảm của hắn trước sự cần
thiết phải làm như vậy, và Karkov đã cho biết là điều đó chẳng thích thú tí
nào. “Bằng cách nào đồng chí làm được?” Robert Jordan hỏi, và tiếp lời: “Đồng
chí thừa biết là đầu độc liên tiếp bao nhiêu người như vậy không phải là một
việc đơn giản chút nào”. Và Karkov đã nói: “Ô! Đơn giản chớ, khi người ta luôn
luôn cần phải sẵn sàng thích nghi với hoàn cảnh”. Đoạn hắn mở hộp thuốc lá và
chỉ cho Robert Jordan thấy vật dựng trong đó.
- Nhưng mà điều đầu tiên đồng chí phải làm khi bị bắt làm tù binh
là lấy hộp thuốc lá ra - Robert Jordan nhận xét - Người ta sẽ bắt đồng chí giơ
tay lên.
- Tôi cũng có chút ít ở đây - Karkov nói và vừa mỉm cười vừa lật bề
trái chiếc áo choàng của hắn - Chỉ cần giữ trong miệng như vậy, cắn một cái và
nuốt trọng.
- Như vậy tiện hơn nhiều - Robert Jordan nói - Này, nó có giống
trái hạnh nhân đắng trong những tiểu thuyết trinh thám không?
- Tôi không biết nữa - Karkov nói thật vui vẻ - Tôi không nghe gì
hết. Đồng chí có muốn mình bẻ một ống để xem chơi không.
- Tốt hơn hết đồng chí nên giữ lấy.
- Ừ. - Karkov nói vừa bỏ hộp thuốc vào túi - Đồng chí thừa hiểu
rồi, nhưng luôn luôn rất có thể là ta lại gặp những trường hợp nghiêm trọng như
thế và không phải ở đâu cũng tìm được món này. Đồng chí đã đọc thông cáo của
mặt trận Cordoue rồi chớ? Hay lắm. Đó là bản thông cáo mà tôi thích nhất bấy
giờ đó.
- Nó nói gì? - Robert Jordan đã từ mặt trận Cordue đến Madrid và
chàng chợt thấy ái ngại khi nghe đùa về một đề tài mà lẽ ra chỉ có chàng là
được quyền đùa - Đồng chí nói tôi nghe coi.
- Nuestra gloriosa tropa sigue avanzando sin perder ni una sola
palona de terreno. - Karkov nói bằng thứ tiếng Tây Ban Nha kỳ dị của hắn.
- Không thể được. - Robert Jordan nói, chàng có vẻ nghi ngờ.
- Các toán quân anh dũng của ta tiếp tục tiến bước không bỏ lỡ một
tấc đất nào - Karkov lặp lại bằng tiếng Anh. Trong thông cáo đó - Tôi sẽ tìm
lại cho đồng chí xem.
Riêng mày, mày vẫn nhớ những người mà mày từng quen biết đã ngã gục
trong trận đánh diễn ra quanh Pozoblanco, nhưng ở Gaylord thì đó là một đề tài
đùa cợt.
Đó là không khí của quán Gaylord bây giờ. Tuy nhiên không phải lúc
nào cũng có được một quán Gaylord, và nếu hoàn cảnh hiện tại cũng giống với
hoàn cảnh đã làm nảy sinh những hiện tượng như quán Gaylord trong số những gì
còn sống sót trong những ngày đầu thì nhứt định là chàng lấy làm hài lòng đã
nhìn thấy quán Gaylord và được dịp biết đến nó. Mày không còn sống trong những
tình cảm khi còn ở Sierra, Carabanchel và Usera, chàng nghĩ. Mày dễ bị hư hỏng
thật. Nhưng đó có phải là hư hỏng hay ít ra đó có nghĩa là mày đã đánh mất đi
tâm hồn ngây thơ trong sáng của những ngày đầu? Có phải tâm hồn đó vẫn như cũ
trong mọi hoàn cảnh không? Vậy thì ai con giữ được sự trong sáng ban đầu mà
những y sĩ trẻ, những thầy tu và những người lính trẻ thường có đủ trên bước
đường khởi nghiệp của họ? Những thầy tu trẻ còn giữ nó, hoặc họ không ngần ngại
từ bỏ. Chàng nghĩ, tôi tin rằng bọn phát xít cũng còn giữ nó, và cả người cộng
sản nữa, với kỷ luật nội tâm nghiêm khắc của họ. Nhưng mà hãy nghĩ về Karkov.
Chàng vẫn không ngừng tra xét trường hợp Karkov. Lần sau cùng ở
quán Gaylord, Karkov có vẻ hớn hở về vụ một nhà kinh tế người Anh nào đó sống
nhiều năm tại Tây Ban Nha. Robert Jordan đã từng đọc qua những bài viết của
người này từ lâu và chàng luôn dành cho hắn nhiều cảm tình mặc dù chưa biết mặt
hắn bao giờ. Chàng không thích lắm những điều hắn viết về Tây Ban Nha. Vì chúng
có vẻ sáng sủa và đơn giản quá, chúng phân minh quá, nhiều bản thống kê sai lạc
vì ảo tưởng lạc quan, chàng thừa biết điều đó. Chàng nghĩ, quả thật là người ta
ít để ý tới những tác phẩm viết về một xứ sở mà mình biết rõ, và chàng có thiện
cảm với hắn vì những thiện ý của hắn.
Sau đó, chàng gặp hắn vào một buổi chiều trong khi xảy ra cuộc tấn
công Carabanchel. Robert Jordan và các đồng chí của chàng đang ngồi trong sân
đấu trường, có tiếng súng nổ vang trên hai con đường và mọi người có vẻ nóng
lòng đợi cuộc tấn công. Người ta hứa với bọn chàng một chiếc xe tăng mà vẫn chưa
thấy. Montero đang ngồi, hai tay ôm đầu, lặp đi lặp lại câu nói: “Chiến xa chưa
tới. Chiến xa chưa tới”.
Đó là một ngày trời lạnh, một lớp bụi vàng cuốn xoáy trên mặt
đường. Montero bị thương ở cánh tay trái và cánh tay phải thì trở nên cứng đơ.
“Chúng ta cần một chiến xa - Hắn nói - Phải đợi chiến xa nhưng mà ta không thể
đợi được nữa”. Vết thương hắn trở nên nhức nhối, khó chịu.
Robert Jordan đi tìm chiếc chiến xa. Montero nói rằng chàng có thể
bị bắt sau tòa nhà lớn bên đường xe điện. Nó nằm ra đấy. Nhưng không phải là
chiến xa. Vào thời đó, gặp cái gì bọn Tây Ban Nha cũng gọi là chiến xa hết. Đó
là một chiếc xe bọc sắt cũ. Người lái xe không muốn rời bỏ góc tòa nhà lớn để
đến sân đấu trường. Hắn đứng sau chiếc xe, hai tay khoanh trên thành kim khí,
đầu đội mũ da kê lên hai tay. Khi Robert Jordan nói chuyện với hắn, hắn chỉ lắc
đầu trong hai cánh tay. Sau cùng hắn quay đầu đi, không nhìn Robert Jordan.
- Tôi không có lịnh. - Hắn nói bằng một giọng cáu kỉnh.
Robert Jordan rút khẩu súng lục ra khỏi bao và kề mũi súng vào
chiếc áo da của người lái xe bọc sắt.
- Đây là lịnh. - Chàng bảo hắn. Người đàn ông lắc đầu, hắn đội một
chiếc nón da nặng nề bên trong có nhồi bông như nón cầu thủ bóng đá, và hắn
nói: “Không có đạn cho súng máy”.
- Có đạn trong sân đấu trường - Robert Jordan bảo hắn - Nào, đi đi.
Mình sẽ lắp đạn ở đó. Đi.
- Không có ai sử dụng cả.
- Hắn đâu rồi? Đồng đội của đồng chí đâu?
- Chết rồi. Hắn chết ở trong kia kìa.
- Kéo hắn ra đi - Robert Jordan bảo hắn - Kéo hắn ra khỏi chỗ đó
đi.
- Tôi không muốn đụng vào đó - Người lái xe nói - Hơn nữa, hắn bị
gập làm đôi, bị kẹt vào giữa khẩu súng máy và tay lái, và tôi không thể nào
bước qua được.
- Đến đây, ta cùng kéo hắn ra.
Chàng bị va vào đầu trong khi leo lên chiếc xe bọc sắt và bị sướt ở
trên mí mắt, máu chảy dài xuống mặt chàng. Xác chết thì nặng nề và cứng đơ đến
nỗi người ta không gấp lại được, chàng đã phải vỗ mạnh vào đầu để kéo nó ra
khỏi cái góc nó bị kẹt, giữa ghế ngồi và vô lăng, mặt úp xuống. Sau cùng chàng
cho được đầu gối vào dưới đầu xác chết, đoạn nắm chặt chiếc áo ngắn, kéo xác
chết ra khỏi cửa xe với cái đầu ra trước.
- Phụ tôi với coi nào. - Chàng bảo người lái xe.
- Tôi không thể đụng vào hắn. - Người lái xe nói và Robert Jordan
trông thấy hắn khóc. Nước mắt theo hai bên mũi, chạy dài trên khuôn mặt dính
đầy bụi, nước mũi hắn cũng chảy ra.
Đứng bên cửa xe, Robert Jordan kéo xác chết lúc bây giờ đã rơi
xuống vệ đường, bên đường xe điện, nó vẫn cong queo, cứng đờ. Nó nằm đó, khuôn
mặt xám ngắt úp xuống vỉa hè xi-măng, hai tay chấp dưới thân thể, như đang trên
một chiếc xe.
- Lên đi chớ, trời ơi - Robert Jordan nói, dùng khẩu súng lục ra
dấu cho người lái xe - Lên lập tức coi nào.
Chính trong lúc đó, chàng trông thấy người đàn ông bước ra từ phía
sau tòa nhà. Hắn mặc một chiếc áo khoác dài, đầu trần, tóc hoa râm, lưỡng quyền
rộng, hai mắt lõm sâu và gần sát với nhau. Hắn cầm trong tay một gói thuốc
Chesterfield, hắn rút ra một điếu mời Robert Jordan đang dùng khẩu súng lục
thúc vào hông người lái xe trên chiếc xe bọc sắt.
- Chờ chút, đồng chí - Hắn nói với Robert Jordan bằng tiếng Tây Ban
Nha - Đồng chí có thể giải thích cho tôi biết chút gì về trận đánh được không?
Chàng nhận ra hắn nhờ những tấm hình chàng đã xem được. Đó là nhà
kinh tế học người Anh.
- Thôi dẹp mẹ nó đi - Chàng bảo hắn bằng tiếng Anh đoạn nói với
người lái xe bằng tiếng Tây Ban nha: “Đến đó. Đấu trường. Biết chưa?”. Chàng
đóng sầm cửa xe lại và chiếc xe chở họ chạy dọc theo con đường dốc trong khi
súng bắt đầu nã đạn tới tấp vào xe nghe như sỏi đá ném vào chiếc nồi sắt. Sau
đó, khi khẩu súng máy bắt đầu khạc vào họ, họ tưởng chừng như đó là tiếng búa
đập liên hồi. Đến sau đấu trường, nơi những tấm áp phích tháng Tám vẫn còn dán
la liệt cạnh nơi bán vé, họ ngừng lại bên những thùng quân nhu mở toang. Những
đồng chí võ trang bằng súng, với lựu đạn giắt nơi dây lưng và bỏ trong túi,
đang chờ đợi họ.
Montero nói: “Tốt lắm. Thiết giáp đây rồi. Bây giờ thì ta có thể
tấn công được rồi”.
Sau đó, trong đêm, khi họ đã chiếm được những ngôi nhà sau cùng
trên đồi, Jordan nằm dài sảng khoái sau bức tường gạch có khoét lỗ để bắn ra,
và chàng nhìn trường bắn lý tưởng trải dài từ chỗ tập họp của họ tới đường viền
nơi bọn phát xít đã rút lui.
Với một niềm khoan khoái đê mê, chàng nghĩ tới ngọn đồi với những
biệt thự đổ nát dùng che chở cho cánh trái của họ. Chàng nằm dài trên một đống
rơm, trong bộ quần áo ướt đẫm mồ hôi, và chàng quấn mình trong một chiếc mền để
lau cho khô. Nằm đó, nghĩ tới nhà kinh tế học, chàng thốt cười một mình và tiếc
rẻ về sự khiếm nhã của mình. Nhưng mà trong lúc người đàn ông đưa thuốc lá cho
chàng như một món buộc boa dùng đền đáp những tin tức của chàng, lúc đó niềm
oán hận của kẻ chiến đấu đối với kẻ không chiến đấu có lý do nổi dậy trong lòng
chàng.
Bấy giờ thì chàng nhớ quán Gaylord và Karkov khi hắn nói về người
đàn ông đó với chàng: “Như vậy thì đồng chí đã gặp hắn ở đó. Tôi thì ngày hôm
đó, tôi chưa đi xa khỏi Puente de Toledo. Hắn ở sát mặt trận. Đó là ngày dũng
cảm sau cùng của hắn. Ngày hôm sau hắn rời Madrid. Chính tại Toledo, hắn tỏ ra
là một người gan dạ nhứt, theo chỗ tôi nghĩ. Ở Toledo, hắn thật tuyệt vời. Hắn
là một trong những người có công đầu trong việc chiếm Aleazar. Phải trông thấy
hắn ở Toledo kìa! Tôi tin rằng nếu cuộc bao vây của chúng ta thành công, đó là
nhờ những nỗ lực và chỉ dẫn của hắn. Đó là giai đoạn ngu xuẩn nhất của cuộc
chiến tranh. Nó đạt tới cao độ của sự ngu xuẩn. Nhưng mà hãy nói cho tôi biết ở
bên Mỹ, người ta nghĩ gì về hắn?”
- Ở bên Mỹ, - Robert Jordan nói - người ta xem hắn như là người rất
mật thiết với Moscou.
- Không đúng vậy đâu - Karkov nói - Nhưng hắn có một khuôn mặt kỳ
lạ, một khuôn mặt với những dáng vẻ dễ đem lại thành công cho hắn. Còn tôi thì
với cái mặt chả làm nên trò trống gì. Mặt mày tôi không giúp ích gì cho tôi
trong một số công việc tôi hoàn tất được, nó không biết phải làm gì để kích
thích kẻ khác hoặc khiến cho họ yêu thích hay tin cậy vào tôi. Còn hắn,
Mitchell, hắn có một khuôn mặt đáng đồng tiền bát gạo. Đó là khuôn mặt của tên
mưu sĩ. Tất cả những ai đã đọc qua lịch sử của những tên mưu sĩ đều tin cậy vào
hắn tức thì. Và rồi mưu sĩ cũng có nhiều thứ. Không bao giờ người ta thấy hắn
bước vào một gian phòng mà không biết ngay rằng đó là một tên mưu sĩ hảo hạng.
Tất cả những người đồng hương giàu sụ của đồng chí đã vì tình cảm, muốn giúp đỡ
Liên Bang Xô Viết (mà họ tin tưởng) hoặc đón chút gió trước sự thành công có
thể xảy ra của đảng, những người đó trông thấy ngay khi nhìn thấy khuôn mặt và
dáng vẻ của hắn, rằng hắn chắc mẻm là một nhân viên trung thành của Cộng sản Đệ
Tam.
- Hắn không có liên lạc gì với Moscou sao?
- Không, nghe đây đồng chí Jordan. Đồng chí có nghe chuyện tếu về
hai hạng ngu đần chớ?
- Kẻ ngu thường tình và kẻ ngu hạnh phúc hả?
- Không. Hai hạng người ngu ở xứ Nga chúng tôi - Karkov mỉm cười và
bắt đầu kể - Trước hết có hạng người ngu mùa đông. Tên ngu mùa đông thường đến
trước nhà thiên hạ và đạp cửa inh ỏi. Đồng chí chỉ cần mở cửa và trông thấy hắn
đứng đó, đồng chí chưa hề gặp hắn bao giờ, hắn cao lớn, mặc áo lông cừu và đội
nón lông cừu, người phủ đầy tuyết. Trông hắn ngoạn mục lắm. Hắn bắt đầu dậm đôi
giày ống của hắn cho tuyết rơi ra. Đoạn hắn cởi áo ra giũ và tuyết lại rơi ra.
Đoạn hắn giở nón và đập vào cửa. Tuyết lại rơi ra từ chiếc nón lông cừu của
hắn. Hắn lại dậm chân một lần nữa và bước vào nhà. Lúc đó đồng chí nhìn hắn và
nhận ra đó là một thằng ngu. Một thằng ngu mùa đông. Nhưng vào mùa hè, đồng chí
lại có một hạng người ngu khác bước ra đường vừa khoa tay múa chân vừa quay đầu
sang hết phía này tới phía kia. Đứng cách xa hai trăm thước, ai ai cũng nhận ra
đó là một thằng ngu. Một thằng ngu mùa hè. Nhà kinh tế học đó là một thằng ngu
mùa đông.
- Nhưng tại sao ở đây lại kính nể hắn? - Robert Jordan hỏi.
- Nhờ mặt mày và mồm mép mưu sĩ của hắn cùng cái vẻ tuyệt khéo lúc
nào cũng làm ra vẻ như vừa tới từ một nơi hắn được kính nể và được xem là quan
trọng. Đúng vậy, - Karkov mỉm cười - hắn buộc lòng phải đi đây đi đó nhiều để
tiếp tục biểu diễn cái trò đó. Đồng chí biết chớ, dân Tây Ban Nha thật là kỳ
lạ. Cái chính phủ này là một chính phủ giàu. Với rất nhiều vàng. Nhưng họ lại
không cho bạn hữu của họ được gì. Đồng chí là một người bạn? Tốt lắm. Đồng chí
cứ hành động một cách vô vị lợi và đừng mong một sự đền đáp nào. Nhưng mà với
những người đại diện cho một công ty quan trọng hay một nước không lấy gì làm
thân thiện mà họ cần gây ảnh hưởng, thì họ lại ban bố rất nhiều. Nếu ta chịu
quan sát kỹ thì thấy được nhiều điều hay lắm.
- Tôi không thích điều đó. Vả lại tiền bạc đó là của thợ thuyền Tây
Ban Nha.
- Tôi không đòi đồng chí ưa thích mà phải hiểu vấn đề - Karkov nói
- Tôi sẽ giải thích cho đồng chí về tất cả chuyện đó trong mỗi lần gặp nhau,
sau cùng đồng chí sẽ nắm vững mọi sự. Đối với một giáo sư như đồng chí thì cũng
nên học hỏi lắm.
- Không biết khi trở về nước tôi còn là giáo sư hay không nữa. Rất
có thể người ta sẽ trục xuất tôi vì lý do thân cộng.
- Kìa, đồng chí có thể tới Liên Bang Xô Viết và tiếp tục việc dạy
học ở đó. Có thể đó là giải pháp tốt nhất cho đồng chí đó.
- Nhưng phạm vi của tôi là tiếng Tây Ban Nha.
- Có nhiều nước nói tiếng Tây Ban Nha - Karkov bảo - Tất cả các
nước đó không thể vất vả, khó khăn như nước Tây Ban Nha này. Và rồi đồng chí
nên nhớ rằng đồng chí không còn là giáo sư từ chín tháng nay. Trong chín tháng
trời, có thể đồng chí đã học được một nghề mới. Đồng chí có nghiên cứu biện
chứng pháp không?
- Tôi có đọc một quyển viết về chủ nghĩa Mác của Emil Burns. Chỉ có
vậy.
- Nếu đọc kỹ thì quyển đó đã là một bước đầu nho nhỏ rồi đó. Có cả
thảy 1.500 trang và đồng chí có thể dừng lại một chút trên mỗi trang. Nhưng mà
còn nhiều điều mà đồng chí phải đọc.
- Bây giờ tôi không có thì giờ.
- Tôi biết - Karkov nói - Tôi nói sau này kìa. Có nhiều điều phải
đọc nếu người ta muốn tìm hiểu một phần nào những sự việc xảy ra. Một ngày nào
đó một cuốn sách sẽ được ra đời từ những kinh nghiệm ta đang sống bây giờ. Một
cuốn sách rất bổ ích sẽ giải thích tường tận những điều ta phải biết qua. Có
thể tôi sẽ viết cuốn sách đó. Hy vọng rằng tôi là người viết nên cuốn sách đó.
- Tôi cũng không thấy ai hơn đồng chí.
- Đừng bốc thơm - Karkov nói - Tôi là nhà báo. Nhưng mà cũng như
tất cả những người làm báo, tôi mơ làm văn chương. Hiện tôi đang bỏ hết thì giờ
nghiên cứu Calvo Sotelo. Đó là một tên phát xít hảo hạng, một tên phát xít
chính hiệu của Tây Ban Nha. Franco và những tên khác thì không thế. Tôi đã
nghiên cứu tất cả những bài viết và những bài diễn văn của Sotelo. Hắn rất
thông minh và chính vì vậy phải giết hắn.
- Tôi không tin đồng chí là người chủ trương những vụ ám sát chính
trị.
- Đó là một biện pháp thông dụng, rất thông dụng là đằng khác.
- Nhưng mà...
- Chúng tôi không chủ trương những hành vi khủng bố có tính cách cá
nhân - Karkov vừa nói vừa mỉm cười - Nhất là khi những hành vi đó lại được thực
hiện bởi bọn sát nhân hoặc những tổ chức phản cách mạng. Chúng tôi kinh tởm sự
gian xảo và dã tâm của bọn ác ôn côn đồ Bukharinít, cả bọn ăn hại của nhân loại
như Zinoviev, Kamenev, Rykov và những tên dao phủ của chúng. Chúng tôi căm thù
bọn người bỉ ổi đó (hắn lại mỉm cười). Nhưng mà dù sao tôi cũng có thể nói rằng
ám sát chính trị là một phương sách rất thông dụng.
- Đồng chí muốn nói....
- Tôi không muốn nói gì hết. Nhưng nhứt định chúng tôi phải xử tử
và thủ tiêu những nhân vật khả ố đó, những tên ăn hại, những tướng lĩnh phản
bội và những tên thủy sư đề đốc khả ố mất lòng tin. Những bọn người đó, chúng
tôi thủ tiêu họ. Chúng tôi đâu có ám sát họ. Đồng chí có thấy sự khác biệt
không?
- Thấy. - Robert Jordan nói.
- Thỉnh thoảng tôi cũng thích đùa, và đồng chí biết đùa cợt như vậy
nguy hiểm tới ngần nào chớ, dầu chỉ để cười mà thôi. Tôi đùa cợt, nhưng đừng
tưởng rằng một ngày nào đó dân tộc Tây Ban Nha sẽ không bùi ngùi tiếc rẻ đã tha
tội chết cho một vài tướng lãnh hiện đang giữ quyền chỉ huy. Tôi không ưa thích
gì những sự trừng phạt đó cả, đồng chí hiểu bụng tôi chớ?
- Tôi không thắc mắc chuyện đó - Robert Jordan nói - Tôi không
thích chuyện đó nhưng tôi không thắc mắc gì nữa.
- Tôi biết. Người ta đã nói với tôi.
- Có quan trọng lắm không? - Robert Jordan hỏi - Tôi chỉ muốn thành
thật.
- Đáng tiếc - Karkov nói - Nhưng đó là một trong những lý do cho
phép người ta thấy những ai đáng tin cậy nếu không thì họ phải mất nhiều thì
giờ để được liệt vào hạng người đó.
- Người ta có tin cậy nơi tôi không?
- Trong công việc, đồng chí được tin cậy là người đáng tin cậy. Một
ngày nào đó, tôi phải nói chuyện nhiều với đồng chí để tìm hiểu những ý nghĩ
thầm kín của đồng chí. Rất tiếc là chúng ta chưa hề nói chuyện nghiêm chỉnh với
nhau.
- Tư duy tôi sẽ còn bỏ lửng cho tới khi nào ta thắng trận. - Robert
Jordan nói.
- Vậy thì có thể nó còn thất nghiệp lâu lắm. Nhưng tốt hơn là cho
nó hoạt động một chút.
- Tôi đang đọc tờ Mundo Obrero.
- Tốt lắm. Tôi cũng là người thích đùa. Nhưng có nhiều điều thật
thông minh trong Mundo Obrero. Những điều thông minh độc nhứt mà người ta đã
viết được về trận giặc này.
- Vâng - Robert Jordan nói - Đồng ý. Nhưng để có được một hình ảnh
đẩy đủ về tình thế, người ta không thể chỉ đọc những gì do đảng đưa ra.
- Không phải vậy. Đồng chí có đọc hai chục tờ nhật báo thì cũng vậy
thôi. Vả lại, không biết đồng chí sẽ làm gì với cái hình ảnh đó. Tôi thì gần
như luôn luôn có một cái nhìn cố định về loại này. Nhưng tất cả những điều tôi
làm là để quên nó.
- Bộ đồng chí thấy tình hình tệ lắm sao?
- Bây giờ thì đỡ rồi. Chúng ta đã vượt qua những tình cảnh tệ hại
nhứt. Nhưng sự thối nát vẫn đầy dẫy khắp mọi nơi. Vài phần tử thuộc đám người
của Modesto, El Campesino Lister và Duran rất chắc chắn. Họ còn hơn cả sự chắc
chắn nữa, họ tuyệt diệu. Rồi đồng chí sẽ thấy điều đó. Và rồi chúng ta luôn có
binh đoàn mặc dù vai trò của chúng đã thay đổi. Nhưng một quân đội gồm những
phần tử tốt và những phần tử xấu thì không thể thắng trận được. Tất cả phải đạt
tới một trình độ trưởng thành nào đó về chính trị. Họ phải biết lý do và tầm
quan trọng của cuộc chiến đấu của họ. Tất cả mọi người phải tin vào cuộc chiến
đấu của họ và tất cả phải chấp nhận kỷ luật. Chúng tôi đã thành lạp một quân
lực thật hùng hậu bằng chính sách quân dịch mà không có thì giờ đề đặt vào đó
một kỷ luật cần thiết cho một quân đội loại đó để nó có thể chiến đấu thích
đáng. Chúng tôi gọi đó là một quân đội nhân dân nhưng nó sẽ không có được những
căn bản của một quân đội nhân dân thật sự và nó sẽ không có được một kỷ luật
sắt cần thiết. Rồi đồng chí sẽ thấy. Phương sách thật là nguy hiểm.
- Hôm nay trông đồng chí không được vui lắm.
- Không - Karkov nói - Tôi vừa từ Valence về, nơi đó tôi đã gặp
nhiều người. Đi Valence về thì không khi nào vui được. Tại Madrid, người ta cảm
thấy mình được thoải mái, tinh khiết, và người ta không thể tưởng tượng được là
mình thất bại. Valence thì khác. Những tên hèn nhát đã trốn khỏi Madrid vẫn còn
đang tiếp tục cai trị dưới kia. Chúng mang nặng óc lười biếng và tinh thần quan
liêu. Chúng chỉ khiến cho những người ở thành phố Madrid khinh bỉ mà thôi. Mối
ám ảnh của chúng bây giờ chính là sự suy yếu của Bộ Chiến tranh. Còn Barcelone
nữa. Phải trông thấy thành phố Barcelone.
- Nó ra làm sao?
- Lúc nào cũng như một vở nhạc kịch hài hước. Lúc đầu, đó là thiên
đường của bọn tốc kê và bọn lãng tử làm cách mạng. Bây giờ là thiên đường của
bọn lính kiểng. Những tên lính thích nghinh ngang với bộ quân phục của chúng,
thích ăn tục nói phét, thích quấn khăn đen đỏ. Chúng thích tất cả mọi thứ, trừ
việc chiến đấu. Valence thì đáng buồn nôn, còn Barcelone thì buồn cười chết
được.
- Thế còn cuộc nổi dậy của tổ chức P.O.U.M. thì sao?
- Tổ chức P.O.U.M. thì không đứng đắn bao giờ. Đó là một thứ tà
thuyết của bọn tốc kê và bọn đấu bò, thật ra đó chỉ là một trò con nít. Ở đó có
những người gan dạ không được chỉ huy đúng mức. Có một bộ óc hảo hạng và một ít
tiền bạc của bọn phát xít. Không nhiều. Tội nghiệp cho bọn chúng thì thôi. Nói
chung thì đó là những tên thật ngu đần.
- Nhưng trong cuộc nổi loạn rất có nhiều người chết.
- Ít hơn những người bị bắn sau đó và sẽ còn bị bắn nữa. P.O.U.M.
vẫn còn giữ nguyên tên hiệu của nó. Nghe không đứng đắn chút nào. Lẽ ra nên gọi
nó là G.H.E.L.O. hoặc Đ.Â.U.M.U.A. Nhưng mà không. Bịnh đậu mùa nguy hiểm hơn
nhiều. Nó có thể ảnh hưởng tới thị giác và thính giác. Nhưng mà đồng chí có
biết bọn chúng đã âm mưu giết tôi, Walter Modesto và Prieto không? Đồng chí
thấy đó, bọn chúng lầm lẫn mọi sự. Tất cả đều không có chung lập trường. Tội
nghiệp cho tổ chúc P.O.U.M. Bọn chúng chưa hề giết chóc ai. Ở ngoài mặt trận
cũng như ở một nơi nào khác. Tại Barcelone thì có, một vài người.
- Đồng chí đã từng ở đó rồi à?
- Đã. Tôi đã đánh về một bài báo về sự thối nát của cái tổ chúc sát
nhân nổi tiếng kia, giống bọn Trốt-kít và những âm mưu đê tiện rập theo phát
xít của chúng, nhưng mà giữa chúng ta với nhau thì tổ chúc P.O.U.M. không có
đàng hoàng lắm đâu. Nin là người duy nhứt đáng kể của bọn chúng. Ta đã bắt được
hắn nhưng hắn đã tẩu thoát.
- Bây giờ hắn ở đâu?
- Paris. Đó là một con người đầy thiện cảm, nhưng hắn lại có nhiều
sai lầm về chính tri.
- Nhưng bọn chúng có tiếp xúc nhiều với bọn phát xít, có phải vậy
không?
- Ai lại tránh khỏi việc đó?
- Chúng ta.
- Biết đâu. Tôi hy vọng là không. Chính đồng chí thường đi tới sau
phòng tuyến của chúng - Hắn vừa nói vừa mỉm cười - Nhưng tuần rồi, anh của một
viên thư ký thuộc Sứ quán Cộng Hòa tại Paris có đi Saint de Lug để gặp bọn
người từ Burgos tới.
- Tôi thích mặt trận hơn. Càng gần mặt trận, người ta càng khá hơn.
- Sau các phòng tuyến của bọn phát xít, đồng chí có được toại
nguyện không?
- Nhiều. Ta có nhiều người khá ở nơi đó.
- Ồ! Đồng chí cũng thừa biết là bọn chúng cũng có nhiều người khá
sau các phòng tuyến của ta chớ? Nếu ta bắt được chúng và mang chúng ra bắn thì
bọn chúng cũng bắt người của ta và mang ra bắn. Khi các đồng chí có mặt tại
vùng của chúng, luôn luôn các đồng chí nên nghĩ tới số người mà chúng đã gởi
tới vùng ta.
- Tôi có nghĩ tới điều đó.
- Tốt lắm - Karkov nói - Hôm nay chắc đồng chí đã có nhiều đề tài
để nghĩ ngợi. Vậy mình uống ly bia này đi và lo chuồn bởi tôi còn phải gặp
nhiều người thuộc cỡ nặng kí. Hãy trở lại ngay nhé!
Vâng, Robert Jordan nghĩ. Ở quán Gaylord người ta biết được nhiều
chuyện. Karkov đã đọc mỗi một quyển sách duy nhứt mà Jordan đã xuất bản. Cuốn
sách chưa phải là một thành công. Nó vỏn vẹn có 200 trang và có thể không được
hai ngàn độc giả. Jordan đã đem vào cuốn sách đó tất cả những gì chàng khám phá
được tại Tây Ban Nha trong mười năm đi khắp đó đây bằng chân, bằng toa xe lửa hạng
ba, bằng xe buýt, bằng ngựa, bằng la, bằng xe bò. Chàng biết rõ xứ Basque, cả
miền Navarra, Aragon, Galice, Castilles và Estramadure. Borrow, Ford và nhiều
người khác đã viết nên hàng khối sách hay mà chàng không cần phải thêm vào điều
gì hơn nữa. Nhưng mà Karkov đã bảo là cuốn sách của chàng tốt.
- Chính vì vậy mà tôi quan tâm tới đồng chí - Hắn nói thêm - Tôi
thấy đồng chí viết bằng một cách tuyệt đối chính xác và đó là điều hiếm có. Vì
vậy mà tôi muốn đồng chí biết qua một vài điều.
Vậy thì chàng sẽ viết một cuốn sách khác nữa khi cuốn này xong, vẫn
chỉ với những điều mà chàng đã mắt thấy tai nghe. Chàng nghĩ, nhưng để có thể
diễn tả đầy đủ tất cả, có lẽ tôi phải là một nhà văn lớn. Bởi những điều chàng
thu thập học hỏi được trong cuộc chiến này không đơn giản chút nào.
--- ------ ------ ------ -------
1 Binh đoàn ba.
Chương 19
- Anh làm gì đó? - Maria hỏi. Nàng đang đứng bên chàng. Chàng quay
đầu nhìn nàng, mỉm cười.
- Không - Chàng nói - Anh suy nghĩ.
- Về cái gì? Cây cầu à?
- Không. Cây cầu thì xong rồi. Anh đang nghĩ tới em và tới một
khách sạn tại Madrid, nơi có những người Nga mà anh quen biết, cũng như tới một
cuốn sách mà một ngày nào đó anh sẽ viết.
- Ở Madrid có nhiều người Nga lắm à?
- Không đâu. Ít lắm.
- Nhưng trên những tờ nhật báo phát xít, người ta nói có tới hàng
trăm ngàn người đó sao.
- Láo. Rất ít thôi em à.
- Anh thích bọn Nga không? Người đàn ông nọ đã từng có mặt ở đây có
phải là người Nga không anh?
- Em thích hắn không?
- Thích. Hôm đó em bị bịnh và em thấy hắn thật đẹp trai và thật gan
dạ.
- Thật đẹp trai, đồ ngốc - Pilar nói - Hắn có mũi bẹt ra như bàn
tay và lưỡng quyền bự như hai mông đít con trừu.
- Đó là một người bạn rất thân của anh, hắn còn là một đồng chí -
Robert Jordan nói với Maria - Anh thương hắn lắm.
- Chắc chắn rồi - Pilar nói - Nhưng mà đồng chí đã giết hắn.
Nghe câu này, ba người đàn ông đang đánh bài ngẩng đầu lên và Pablo
nhìn Robert Jordan. Không ai nói gì nhưng trong khoảnh khắc sau đó, Rafael, tên
du mục, lên tiếng hỏi.
- Có đúng vậy không, Roberto?
- Đúng vậy. - Robert Jordan nói, chàng tiếc rẻ vì Pila đã nói ra
chuyện đó, chàng tiếc rẻ đã kể điều đó tại nhà El Sordo. Theo lời yêu cầu của
hắn vì lúc đó hắn bị thương nặng.
- Qué cosa mas rara 1 - Tên du mục nói - Lúc nào ở bên cạnh chúng
tôi hắn cũng nói tới việc đó. Không biết bao nhiêu lần tôi hứa với hắn là sẽ
làm việc đó. Lạ thật. - Hắn vừa nói vừa ngẩng đầu lên.
- Đó là một người kỳ lạ - Primitivo nói - Một người thật đặc biệt.
- Này, Andrès - Một trong hai anh em nói - đồng chí là giáo sư đồng
thời là tất cả các thứ, đồng chí có tin rằng người ta có thể biết được tương
lai cùng tất cả những việc sẽ xảy đến cho mình không?
- Tôi chắc chắn rằng không. - Robert Jordan nói. Pablo nhìn chàng
kinh ngạc, và Pilar thì nhìn vào đôi mắt lạnh lùng của chàng, về chuyện anh
chàng đồng chí người Nga, hắn ta trở nên nóng nảy khi ở mãi ngoài mặt trận. Hắn
đã chiến đấu ở Iran, nơi mà các đồng chí thừa biết là tình trạng thật xấu xa,
tệ hại. Thật tệ hại. Sau đó, hắn chiến đấu tại miền Bắc. Và tiếp theo, khi
những bộ đội đầu tiên làm việc sau phòng tuyến được thành lập, hắn làm việc tại
đây, tại Estramadure và tại Andalousie. Tôi nghĩ hắn phải mệt mỏi, căng thắng
và hắn phải nghĩ tới nhiều điều ghê gớm.
- Chắc chắn là hắn đã thấy lắm chuyện hãi hùng. - Fernando nói.
- Như tất cả mọi người - Andrès nói - Nhưng mà nghe này ông đồng
chí người Anh. Đồng chí có tin rằng người ta biết trước được chuyện sắp xảy ra
cho mình không?
- Không - Robert Jordan nói - Đó là chuyện ngu si, mê tín.
- Cứ tiếp tục - Pilar nói - Ta hãy nghe quan điểm của giáo sư. - Bà
ta nói như đang nói với một chú nhóc con.
- Tôi cho rằng sự sợ hãi đã gây cho hắn những ảo tưởng hãi hùng -
Robert Jordan nói - Khi hắn trông thấy những điềm xấu...
- Như những chiếc phi cơ bay trong ngày hôm nay hả? - Primitivo
nói.
- Như việc đồng chí tới đây, từ cạnh bàn bên kia. - Pablo nói,
giọng nhẹ nhàng. Robert Jordan nhìn hắn và nhận ra đó không phải là một lời
khiêu khích, nhưng là một ý kiến đơn giản. Chàng tiếp tục :
- Khi trông thấy những điềm xấu thì kẻ nhát gan mường tượng ra ngay
cái chết của mình và hắn xem những điều hắn tưởng tượng ra chính là những linh
cảm. Tôi tin tất cả là như vậy. Tôi không tin chuyện chằn tinh, chuyện thần
thánh cũng như tất cả những sự việc phi thường. - Robe Jordan kết luận.
- Nhưng mà anh chàng có cái tên kỳ lạ kia, hắn thấy rõ những gì
đang chờ đợi hắn - Tên du mục nói - Và sự việc đã xảy ra đúng như vậy.
- Hắn không thấy điều đó đâu - Robert Jordan nói - Hắn sợ chết và
cái chết trở thành một ám ảnh. Không ai có thể tự hào thấy trước bất luận
chuyện gì.
- Kể cả tôi nữa à? - Pilar hỏi chàng. Bà ta nhặt một mớ tro vào
trong lòng bàn tay và thổi cho nó bay đi. Kể cả tôi cũng không thể tự hào về
điều đó à?
- Không, dù cho với tất cả những trò phù thủy của đồng chí, thuộc
dân du mục hay thuộc những giống dân nào khác nữa, đồng chí cũng không thể tự
hào về điều đó được.
- Bởi đồng chí là cái thứ điếc không sợ súng - Pilar nói, khuôn mặt
bà ta hiện rõ dưới ánh của những ngọn đèn cầy, mập bự và dữ dằn. Không phải vì
đồng chí là thằng ngu. Đồng chí chỉ điếc mà thôi. Một thằng điếc không thể nghe
âm nhạc được. Hắn cũng không thể nghe radio nữa. Vậy vì không nghe thấy những
điều đó, vì hắn chẳng hề nghe thấy những điều đó bao giờ, hắn tưởng tất cả
những chuyện đó không có. Qué va, Inglés. Tôi đã từng thấy cái chết của người
thanh niên có cái tên kỳ lạ đó hiện rõ lên mặt hắn, như thể nó đã được hằn lên
đó bắng một thanh sắt đỏ.
- Đồng chí chẳng thấy gì về điều đó cả - Robert Jordan quả quyết -
Đồng chí đã thấy sự sợ hãi và sự lo ngại, sự sợ hãi đến từ những kinh nghiệm
hắn đã trải qua, sự lo ngại đến từ những chuyện khủng khiếp mà hắn nghĩ tới.
- Qué va - Pilar nói - Tôi đã trông thấy cái chết đó, rõ ràng như
nó đang đè nặng lên vai hắn. Và hơn thế nữa, chính hắn cảm thấy cái chết.
- Hắn cảm thấy cái chết - Robert Jordan lặp lại bằng một giọng nhạo
báng - Sự sợ hãi thì có thể. Có một mùi vị sợ hãi.
- De la muete 2, nghe đây này - Pilar nói - Khi còn làm việc theo
lịnh của Granero, Blanquet, một peón de brega 3 xuất sắc từ nào tới giờ đã kể
với tôi rằng, vào cái ngày Manolo Granero chết, khi họ dừng chân bên nhà nguyện
trước khi tới sân đấu trường, thì mùi vị của cái chết nó mãnh liệt trên người
Manolo đến nỗi Blanquet muốn phát bịnh. Và hắn đã tháp tùng theo Manolo trong
khi hắn tắm rửa, mặc quần áo tại khách sạn trước khi lên đường tới đấu trường.
Khi mọi người chen chúc lên xe để tới quảng trường thì không còn ai nghe mùi vị
đó nữa, ngoài Juan Luis de la Rosa, cả Marcial, cả Chicuelo cũng không nghe
thấy gì, và cả bọn họ nữa khi ra đứng thành hàng cũng không nghe thấy gì. Nhưng
mà Juan Luis lúc bấy giờ trông như chết rồi, Blanquet đã kể lại với tôi, và lúc
bấy giờ Blanquet bảo hắn: “Anh cũng vậy nữa à?”.
- Muốn nghẹt thở - Juan Luis bảo hắn - Nó đến từ tên đấu bò của anh
đó.
- Pues nada - Blanquet nói - Chả làm gì được. Hy vọng rằng chúng ta
lầm lẫn.
- Còn những người khác? - Juan Luis hỏi Blanquet.
- Nada - Blanquet nói - Chẳng làm gì được. Nhưng mà tay này toát
mùi còn hơn thằng José ở Talavera nữa.
Và chính buổi xế chiều hôm đó, con bò mộng Pocapen thuộc trại
Veraqua đã húc Manolo Granero ngã vào bờ rào, trước tendido 4 nhì, tại Plaza de
Toros ở Madrid. Tôi có mặt ở đó với Finito và tôi đã trông thấy hắn. Chiếc sừng
cày nát ngướu sọ của Manolo bị tấn dưới cái barrera 5, dưới sức đẩy của con bò
mộng.
- Nhưng đồng chí có nghe thấy gì không? - Fernando hỏi.
- Không - Pilar nói - Tôi ở quá xa. Tôi ở hàng ghế thứ bảy của
tendido ba. Ở đó tôi thấy mọi sự việc xảy ra. Nhưng ngay vào buổi chiều hôm đó,
Blanquet, người thuộc quyền sai khiến của Joselito khi chính hắn cũng bị giết,
đã kể lạ việc đó cho Finito nghe tại nhà Fornos, và Finito đã hỏi chuyện Juan
Luis de la Rosa trong khi tên này chả muốn nói gì hết. Hắn chỉ gật đầu xác nhận
là sự việc có thật. Tôi ở đó. Vậy thì Inglés ạ, có thể đồng chí bịt tai nhắm
mắt trước nhiều chuyện như Chicuelo, Marcial Lalanda, tất cả những tay đấu bò
và những tay kỵ thủ của họ cùng tất cả đám người của Juan Luis và Manolo
Granero đã từng bịt tai nhắm mắt. Nhưng mà Juan Luis và Blanquet thì không điếc
chút nào. Tôi cũng vậy, tôi không bịt tai nhắm mắt trước những chuyện đó.
- Tại sao bảo rằng điếc khi đây là chuyện mùi vị? - Fernando nói.
- Leche 6, chính đồng chí phải thay chức giáo sư của Inglés mới
đúng. Nhưng tôi còn có thể kể nhiều điều nữa Inglés ạ, và đồng chí đừng nghi
ngờ về tất cả những điều gì mà người ta không thể thấy hoặc nghe được. Đồng chí
không thể nghe như một con chó nghe, hoặc cảm giác như một con chó cảm giác.
Nhưng mà dù sao đồng chí cũng có một ít hy vọng về tất cả những gì có thể xảy
ra cho một người.
Maria đặt một bàn tay lên vai Robert Jordan và để yên nơi đấy.
Chàng thốt nghĩ: hãy chấm dứt ở những trò nhảm nhí này và lợi dụng thì giờ còn
lại. Nhưng còn sớm chán. Phải tiêu pha buổi chiều còn lại. Chàng hỏi Pablo :
- Còn đồng chí, đồng chí có tin những chuyện bùa chú đó không?
- Không biết - Pablo nói - Có lẽ tôi đồng ý với đồng chí hơn. Tôi
không thể thấy chuyện gì phi thường xảy ra cho tôi cả. Sợ thì có, chắc rồi.
Nhưng tôi tin rằng Pilar có thể đọc được tương lai trong lòng bàn tay. Nếu bà
ta không nói dối thì có thể là bà ta đã nghe thấy cái mùi vị đó rồi.
- Sao, tôi nói dối à? Không phải tôi đặt điều ra đâu. Tên Blanquet
kia là một người đàn ông rất mực đàng hoàng, lại nữa, hắn rất ngoan đạo. Hắn
không phải là một tên du mục mà là một tên trưởng giả tại Valence, đồng chí
chưa hề gặp hắn à?
- Gặp rồi - Robert Jordan nói - Tôi gặp hắn thường lắm. Hắn nhỏ
người, da xám, không ai sử dụng tấm vải giỏi như hắn. Hắn chạy lẹ như thỏ.
- Đúng - Pilar nói - Hắn có nước da xám vì hắn đau tim, và bọn du
mục bảo hắn mang cái chết trong người hắn, nhưng hắn có thể đuổi nó đi bằng tấm
vải của hắn như người ta phủi bụi trên bàn vậy. Tuy vậy, dầu không là dân du
mục, hắn cũng nghe thấy mùi vị cái chết phảng phất trên người Joselito tại
Talavera. Ngoài ra tôi không hiểu bằng cách nào hắn có thể nghe được cái mùi vị
đó rõ hơn mùi vị của rượu manzanilla. Sau cùng, Blanquet đã chỉ tiết lộ điều đó
với rất nhiều ngừng ngập và những ai từng nghe hắn tiết lộ thì bảo rằng đó là một
ý nghĩ và hắn đã chỉ linh cảm được đoạn đời của José trong giai đoạn đó, phát
hiện cùng với mồ hôi toát ra dưới đôi cánh tay của hắn. Nhưng mà rồi sau đó,
đến chuyện của Manolo Granero và Juan Luis de la Rosa nữa. Điều chắc chắn, Juan
Luis là một người rất ít danh giá, nhưng hắn say mê công việc và hắn lại là một
anh chàng đào hoa có hạng, còn Blanquet thì rất đạo mạo, rất trầm lặng và tuyệt
đối không bao giờ nói dối. Và tôi thì tôi cho đồng chí biết là tôi đã nghe thấy
cái chết của ông bạn của đồng chí lúc bấy giờ có mặt tại đây.
- Tôi không tin - Robert Jordan nói - Lại nữa, đồng chí bảo rằng
Blanquet đã cảm thấy điều đó đúng vào lúc sắp sửa vào cuộc đấu. Nhưng tại đây,
đồng chí và Kachkine đã thành công trong vụ đánh xe lửa. Hắn không chết ở đó.
Vậy bằng cách nào đồng chí thấy trước được điều đó.
- Chả hề hấn gì - Pilar giải thích - Trong mùa đấu sau cùng của
Sanchez Mejias. Cái chết hiện rõ nơi hắn đến đỗi nhiều người không dám ngồi
chung bàn với hắn trong quán cà phê. Tất cả mọi người du mục đều biết điều đó.
- Khi hắn chết rồi thì người ta thêu dệt những điều đó - Robert
Jordan cắt ngang - Mọi người đều biết rằng Sanchez Mejias dễ bị sừng húc bởi
lâu ngày hắn không tập dượt, lối biểu diễn của hắn nặng nề và nguy hiểm, bởi
sức lực và sự nhanh nhẹn của đôi chân không còn nữa và bởi phản xạ của hắn
không như xưa.
- Chắc rồi - Pilar nói - Tất cả điều đó đều đúng. Nhưng mọi người
dân du mục đều thấy trước cái chết của hắn và khi hắn bước vào Villa Rosa,
người ta thấy nhiều người như Ricardo và Felipe Gonsalez chuồn mất bằng cánh
cửa nhỏ sau quán.
- Có thể họ thiếu tiền hắn thì sao? - Robert Jordan hỏi.
- Bà ta nói đúng đó, Inglés à - Rafael, tên du mục nói - Tụi này ai
cũng biết.
- Tôi không tin chút nào. - Robert Jordan nói.
- Nghe đây, Inglés - Anselmo bắt đầu lên tiếng - Tôi chống mọi trò
phù thủy kia. Nhưng mà Pilar nổi tiếng là tiến bộ trong loại đó.
- Nhưng bằng cách nào cảm thấy nó được chớ? - Fernando nói - Người
ta nghe thấy gì? Nếu nó có mùi vị thì đó phải là mùi vị rõ ràng mới được chớ.
- Đồng chí muốn biết không, Fernando? - Pilar vừa nói vừa mỉm cười
với hắn.
- Nếu có thì tại sao tôi không thấy như người khác.
- Tại sao không? - Pilar trêu hắn, hai bày tay bà ta chấp trên hai
gối - Đồng chí chưa bao giờ xuống một chiếc tàu sao, Fernando?
- Chưa. Và tôi cũng không muốn xuống đó làm gì?
- Vậy thì có thể đồng chí không nhận ra nó. Bởi một phần, đó là mùi
vị đến từ một chiếc tàu khi có bão tố và khi các cửa sổ trên thành tàu đã đóng
lại. Hãy dán mũi vào nắm cửa bằng đồng trên một cánh cửa sổ đóng chặt, trên một
chiếc tàu đang lảo đảo dưới chân đồng chí, làm cho đồng chí phải buồn nôn, với
một cái lỗ bọng trong dạ dày, lúc đó đồng chí sẽ biết được một phần mùi vị đó.
- Tôi sẽ không nhận ra nó bởi tôi sẽ không bao giờ bước chân xuống
một chiếc tàu. - Fernando nói.
- Tôi thì đã nhiều lần bước xuống tàu - Pilar nói - Để đi Mễ Tây Cơ
và Venezuela.
- Còn phần còn lại của mùi vị đó thì sao, nó ra làm sao? - Robert
Jordan hỏi.
Pilar lúc bấy giờ đang hồi tưởng những cuộc phiêu lưu của bà ta một
cách kiêu hãnh, bà ta ném vào Jordan một cái nhìn mỉa mai.
- Được rồi, Inglés ạ. Hãy học. Phải thế mới được. Hãy học. Được
rồi. Sau cái mùi vị dưới tàu kia, buổi sáng sớm, phải bước vào lò sát sinh ở
cầu Toledo, Madrid, và dừng chân trên lớp đá ướt, khi sương mù đùn lên từ
Manzanares, và đợi những mụ già sẽ tới trước bình minh để uống máu những con
vật bị thọc huyết. Và khi một trong những mụ già đó bước ra khỏi lò sát sinh,
quấn mình trong chiếc khăn với với một khuôn mặt xám ngắt, đôi mắt sâu hoắm và
những cọng râu của tuổi già mọc dưới cằm, trên má của mụ ta, thứ râu mọc từ lớp
da mặt trắng bệch giống như những mầm non nảy ra từ một hột đậu phọng, không
phải là lông, mà là những mầm nhợt nhạt mọc trên khuôn mặt đầy sự chết chóc,
lúc đó đồng chí hãy ôm chật lấy mụ ta, ghì mạnh mụ ta vào lòng mình, hôn lên
miệng mụ ta và đồng chí sẽ biết tới cái phần còn lại của mùi vị đó.
- Cái đó làm tôi ăn mất cả ngon. - Tên du mục nói, những cái mầm
thì quá đáng.
- Đồng chí muốn biết rõ hơn không? - Pilar hỏi Robert Jordan.
- Muốn - Chàng nói - Bởi phải học cơ mà.
- Những cái mầm mọc trên mặt các mụ già làm tôi phát ớn - Tên du
mục nói - Tại sao lại có chuyện đó nơi các mụ già hở Pilar? Với tụi tôi đâu có
chuyện đó.
- Không... - Pilar nói, giọng chế nhạo - Ở xứ chúng tôi, đàn bà
thường rất mảnh dẻ lúc trẻ, dĩ nhiên là trừ cái bầu kinh niên mà họ mang trước
bụng, đặc ân của các ông chồng mang tới...
- Đừng nói như vậy - Rafael bảo - Nghe gớm quá.
- Đồng chí khó chịu à - Pilar nói - Đồng chí chưa bao giờ trông
thấy một người đàn bà du mục gần tới ngày sanh hay vừa mới sanh xong à?
- Đồng chí chớ còn ai.
- Nhờ đồng chí tí - Pilar nói - Không ai tránh khỏi điều đó. Điều
tôi muốn nói là tuổi tác làm cho mọi người trở nên xấu xí đi. Khỏi phải đi vào
chi tiết, làm gì. Nhưng mà nếu ông Inglés phải học nghe cái mùi vị mà ông ta
nóng lòng muốn nhận ra kia, ông ta phải vào lò sát sinh vào buổi sáng sớm.
- Tôi sẽ đi - Robert Jordan nói - Tôi sẽ biết được cái mùi vị đó
khi các mụ già nọ đi qua, khỏi phải hôn họ làm gì. Tôi cũng sợ những cái mầm đó
như Rafael vậy.
- Hãy hôn một mụ - Pilar nói - Hãy hôn một mụ mới biết được, Inglés
ạ! Và rồi, với cái mùi đó trong mũi, đồng chí trông thấy một cái thùng rác với
cánh hoa ủng thối, hãy cho đầu vào đó và hít vào để mùi hương đó trộn lẫn với
những mùi đã có sẵn trong mũi đồng chí.
- Đồng ý - Robert Jordan nói - Những cánh hoa nào đó?
- Cúc.
- Nói tiếp đi. Tôi cảm nhận được mùi hương của chúng rồi đấy.
- Rồi thì, vào một ngày mùa thu có mưa hay ít ra có sương mù, hoặc
một ngày chớm đông, đồng chí phải tiếp tục đi bộ trong thành phố và trong Calle
de Salud để nghe cái mùi mà đồng chí từng nghe khi người ta quét dọn các cascul de putas 7 khi người ta trút các chậu
nước vào cống, với cái mùi xác thịt chán chường trộn lẫn với mùi dìu dịu của
nước xà bông và mùi thuốc lá, với cái mùi đó thoáng qua mũi đồng chí, đồng chí
phải vào vườn Botanico, nơi mà ban đêm, các chị em ta không thể hành nghề tại
nhà đành phải đi kiếm khách bên những song sắt của công viên và trên vỉa hè.
Chính nơi đó, trong bóng tối của cây cối, sát bên những song sắt, họ thỏa mãn
mọi thèm muốn của người đàn ông, từ những đòi hỏi đơn giản nhất với giá 10 centimos, tới một peseta trả cho cái tác động
linh thiêng đó. Tại đó, trên thảm hoa héo úa làm cho mặt đất trở nên êm ái hơn,
êm ái hơn vỉa hè rất nhiều, đồng chí sẽ bắt gặp một cái túi vải người ta bỏ
lại, với mùi đất ướt, mùi hoa héo và mùi của những gì xảy ra trong đêm đó.
Trong cái túi đó, sẽ có đầy đủ bản tính của mọi sự, của đất bị chà xéo, của
những cành hoa chết với những cánh hoa ung thối, và đó là mùi của sự chết chóc
đồng thời lại là mùi sinh nở của con người. Đồng chí sẽ cho đầu vào chiếc túi
đó và thử hít lấy bầu không khí trong đó.
- Không được đâu.
- Được chớ - Pilar nói - Đồng chí sẽ cho đầu vào trong túi và thử
thở trong đó, sau đó nếu đồng chí vẫn còn giữ lại tất cả những mùi vị trước
trong khi đồng chí thở vào thật mạnh, lúc đó đồng chí sẽ biết được mùi vị của
cái chết sắp tới như chúng tôi đã từng biết.
- Được rồi - Robert Jordan nói - Và đồng chí bảo rằng Kachkine đã
từng có cái mùi đó khi hắn ở đây à?
- Ừ.
- Vậy thì, - Robert Jordan nói bằng một giọng trầm trọng - trong
trường hợp đó tôi giết hắn là phải rồi.
- Olé - Tên du mục nói - Đồng ý - Mọi người cùng phá lên cười.
- Được lắm - Primitivo biểu đồng tình - Cho bà ta hết nói lôi thôi.
- Nào, Pilar này - Fernando nói - Đồng chí không nghĩ rằng một
người có học thức như Don Roberto lại có thể làm được những việc gớm ghiếc đó
sao?
- Không. - Pilar nhìn nhận.
- Những chuyện đó nghe thật tởm.
- Đúng. - Pilar nhìn nhận.
- Quả thật đồng chí không nghĩ rằng chàng ta sẽ làm những việc đê
tiện đó chớ?
- Không - Pilar nói - Thôi đồng chí đi ngủ đi chớ?
- Nhưng mà Pilar này. - Fernando vẫn tiếp tục lải nhải.
- Câm họng đi nghe không? - Pilar nói, nghiêm sắc mặt lại. Đừng có
ngốc quá và tôi thì tôi sẽ cố tránh những điều xuẩn ngốc khi nói với những
người không thể hiểu kẻ khác nói gì.
- Tôi thú thật không hiểu. - Fernando nói.
- Đừng thú thật cũng đừng cố hiểu làm gì. - Pilar nói - Có phải
tuyết vẫn rơi đó không?
Robert Jordan bước ra cửa hang, vén màn nhìn ra ngoài. Đêm sáng và
lạnh, tuyết không còn rơi nữa. Chàng nhìn tuyết trắng phủ những thân cây, đoạn
ngước mắt nhìn lên bầu trời giờ đây đã sáng tỏ. Khí lạnh thâm sâu vào ngực
chàng, lạnh như cắt.
El Sordo sắp để lại nhiều dấu vết nếu đêm nay ông trộm ngựa.
Chàng buông màn và trở vào cái hang hun khói.
- Trời đẹp - Chàng nói - Đã hết bão rồi.
--- ------ ------ ------ -------
1 Chuyện lạ quá.
2 Của cái chết.
3 Trợ thủ.
4 Bậc nhiều từng để ngồi.
5 Hàng rào.
6 Sữa (Tiếng chửi).
7 Ổ điếm.
Chương 20
Trong đêm tối, chàng đợi cô gái đến. Trời lặng gió, những rừng
thông im lìm. Nhưng thân cây mọc lên từ những thảm tuyết dày. Chàng nằm trong
túi ngủ và cảm thấy êm ái trên chiếc giường do chính chàng tự tay làm, khí lạnh
vây phủ trên đầu và trong mũi chàng. Chàng nằm nghiêng, gối đầu trên chiếc ba
lô gồm có đôi giày quấn tròn trong chiếc quần dài và chiếc áo vét dùng làm gối,
chạm vào cạnh sườn chàng là chất kim khí lạnh lẽo của khẩu súng lục mà chàng đã
tháo ra khỏi bao trong lúc cởi đồ và cột dính vào cổ tay bằng sợi dây súng.
Chàng gạt khẩu súng sang một bên, và thò tay vào sâu trong bao, trong khi hai
mắt vẫn chăm chăm nhìn qua đám tuyết cái kẽ hở tối đen giữa hai tảng đá, lối
vào hang. Bầu trời trong xanh và ánh sáng phản chiếu trên tuyết vừa đủ để người
ta có thể phân biệt được những thân cây và những tảng đá quanh hang.
Ban chiều, chàng đã xách búa bước ra khỏi hang, dẫm tuyết đi thẳng
tới bìa rừng, đốn một cây tùng nhỏ. Trong bóng đêm, chàng đã kéo nó tới dưới
chân vách đá. Chàng dựng đứng thân cây dậy và chặt sạch các nhánh, đoạn, cành
lá chất đống nơi đó, chàng đặt thân cây trần trụi nằm trên lớp tuyết và trở vào
hang lấy tấm ván dựng bên vách. Chàng dùng tấm ván gạt tuyết dưới vách đá, đoạn
lượmB những cành lá, giũ cho tuyết rơi xuống, xếp chúng thàn hàng chất chồng
lên nhau như những chiếc lò so, để làm thành một cái giường. Chàng đặt thân cây
nằm ngang ở dưới chân chiếc giường lá đó để giữ cho những nhánh cây nằm ở chỗ
cũ. Chàng giữ chặt nó lại với hai miếng cây nhọn chặt từ bìa tấm ván. Sau đó
chàng trở vào hang, đặt chiếc búa và tấm
ván bên vách.
- Đồng chí làm gì bên ngoài vậy? - Pilar hỏi.
- Làm một cái giường.
- Đừng bửa cái tủ kệ của tôi mà làm giường đó nghe.
- Rất tiếc.
- Chả sao - Bà ta nói - Hãy còn nhiều tám ván ở trại cưa. Đồng chí
làm giường ra sao đó?
- Như ở xứ tôi.
- Vậy thì vào đó mà ngủ đi. - Bà ta nói. Robert Jordan lấy ra cái
túi ngủ từ một trong hai cái ba lô, xếp đặt lại đồ đạc trong ba lô, đoạn trở ra
ngoài với cái túi ngủ, vừa cúi đầu để bước qua tấm mền. Chàng trải cái túi ngủ
trên những nhánh cây, đầu bít đặt trên thân cây cột chặt vào chân giường, đầu
hở đặt sát bên vách đá. Chàng lại trở vào hang để lấy mấy cái ba lô, nhưng
Pilar bảo chàng. Chúng có thể ngủ với tôi mà, như hôm qua vậy.
- Đồng chí không đặt người canh à? - Chàng hỏi - Đêm tối trời và
bão tuyết hết rồi.
- Có Fernando. - Pilar nói.
Maria đang ở cuối hang. Jordan không trông thấy nàng.
- Chào hết thảy mọi người - Chàng nói - Tôi đi ngủ đây.
Từ trong đám người đang tém dẹp bàn ghế sang một bên để trải chăn
gối sửa soạn chỗ ngủ, Primitivo và Andrès ngẩng đầu lên nói “Buenas noches” 1.
Anselmo đã ngủ từ lúc vào trong góc, người quấn tròn kín mít trong
chiếc áo choàng và trong cái chăn của lão, Pablo thì ngủ trên ghế.
- Đồng chí có cần một lớp da trừu trải trên giường không? - Pilar
hỏi chàng, giọng dịu dàng.
- Không. Cám ơn. Không cần.
- Ngủ ngon nhé - Bà ta bảo hắn - Tôi sẽ lo giữ những vật liệu của
đồng chí.
Fernando cùng bước ra ngoài với chàng. Hắn đứng lại giây phút nơi
Robert Jordan trải rộng cái túi ngủ ra.
- Sao lại có ý nghĩ ngủ ngoài trời lạ vậy, Don Roberto. - Hắn nói,
đứng yên trong bóng tối, người quấn trong chiếc áo choàng, khẩu các bin chĩa
thẳng trên vai.
- Quen rồi. Chào đồng chí.
- À! Khi mà đồng chí quen rồi.
- Bao giờ thay phiên?
- Bốn giờ.
- Ở đó sẽ lạnh lắm nghe!
- Quen rồi. - Fernando nói.
- À! Khi mà đồng chí quen rồi. - Robert Jordan trả lời một cách lễ
độ.
- Ừ - Fernando nói - Bây giờ tôi phải lên trên đó. Ngủ ngon nghe,
Don Roberto.
- Chào Fernando.
Đoạn Robert Jordan lấy quần áo quấn thành chiếc gối, chui vào túi
ngủ và bắt đầu nằm đợi. Chàng cảm thấy những nhánh cây êm ái dưới hơi ấm nồng
nàn của cái túi ngủ. Chàng nằm đó, chờ đợi, tim đập mạnh, hai mắt nhìn chăm
chăm về phía cửa hang ở bên kia vùng tuyết trắng.
Đêm trong sáng, đầu óc chàng cũng sáng rực và lạnh lẽo như bầu
không khí bên ngoài. Chàng ngủi mùi hương của những nhánh tùng, những lá thông
khô và chất nhựa hăng nồng rỉ ra từ những cành cây bị chặt. Pilar, chàng nghĩ.
Pilar và mùi vị cái chết. Còn tôi, tôi thích cái mùi hương này ở tại đây. Mùi
hương này cùng với cỏ tươi mới cắt, mùi cây từ bi bị dập nát dưới chân ngựa tôi
lúc tôi đuổi đàn bò, mùi khói từ những lửa củi và mùi lá mùa thu đốt lên. Mùi
hương này, mùi hương của những làn khói bay lên từ những đống lá khô gom thành
hàng dọc theo các con đường tại Missoula, vào mùa thu, hẳn đó là mùi vị của nhớ
nhung. Mày thích mùi gì hơn cả? Mùi cỏ tươi ngon đựng trong những chiếc thúng
của bọn da đỏ? Mùi da ám khói? Mùi đất ẩm vào mùa xuân sau một trận mưa rào?
Mùi nước biển thoảng lại khi người ta tiến về một mũi đất tại Galice, xuyên qua
những bụi rậm? Hay mùi hương trong gió từ đất liền thổi tới khi người ta tiến
gần tới Cuba trong đêm tối? Đó là mùi của đám xương rồng đang đơm bông, những
cây mimosa và những loài rong biển. Hay là mày thích mùi giăm bông chiên vào
buổi sáng khi bụng đói? Hoặc mùi cà phê buổi điểm tâm? Hoặc của một trái táo
cắn lút răng? Hoặc mùi rượu mới ép? Hoặc mùi bánh mì vừa mới ra lò? Mày phát
đói bụng rồi đó, chàng nhủ thầm. Chàng nằm nghiêng sang một bên, nhìn về phía
cửa hang, dưới ánh sáng của những vì sao bị khúc xạ trong tuyết.
Một người đàn ông bước ra từ sau tấm màn và chàng nhận ra một bóng
người đứng bên khe đá. Chàng nghe có tiếng sột soạt trên tuyết. Kế đó bóng
người đàn ông cúi xuống và trở vào trong.
Có lẽ nàng sẽ không tới trước khi mọi người đã đi ngủ, chàng nghĩ.
Rõ phí thì giờ, đêm đã trôi qua đến một nửa. Ôi, Maria. Đến mau lên, Maria,
chúng ta không có nhiều thì giờ. Chàng nghe tiếng động êm ái của tuyết từ trên
một cành cây rơi xuống mặt đất trắng xóa. Gió thoảng tới. Chàng nghe gió thoảng
qua mặt mình. Một niềm xao xuyến bất chợt xâm chiếm lấy chàng trong ý nghĩ nàng
không thể đến được. Gió nổi lên, nhắc chàng nhớ rằng không còn bao lâu nữa bình
minh ló dạng. Tuyết vẫn cứ rơi từ những cành cây trong tiếng gió lay động trên
những ngọn thông.
- Đến đi, Maria. Anh van em, đến mau lên, chàng nhủ thầm. Ô, đến
đi, đến ngay bây giờ đi. Còn đợi gì nữa. Không cần gì phải đợi cho tới khi bọn
họ đi ngủ.
Rồi thì chàng trông thấy nàng vén màn bước ra khỏi cửa hang. Nàng
đứng đó một hồi. Chàng nhận ra nàng ngay, nhưng chàng không thể biết được nàng
đang làm gì. Chàng huýt sáo thật nhỏ. Nàng vẫn đứng trước cửa hang, bận làm
điều gì trong bóng tối của vách đá mà chàng không biết được. Đoạn nàng vừa đi
vừa chạy, nàng ôm món đồ gì trong hai tay. Chàng trông thấy nàng chạy trên cặp
giò dài xuyên qua đám tuyết. Và nàng đến, quỳ gối bên cái túi ngủ, đâu nàng kề
sát vào đầu chàng, nàng phủi lớp tuyết dính trên hai bàn chân. Nàng hôn chàng
và trao cho chàng cái bọc.
- Đặt cái này bên cái gối của anh - Nàng nói - Em lấy tất cả để
khỏi mất thì giờ.
- Em đi chân không trên tuyết đến đây à!
- Dạ. - Nàng nói - Và với độc cái áo cô dâu trên người.
Chàng siết chặt nàng trong đôi cánh tay, và nàng vùi đầu dưới cằm
chàng.
- Đừng đụng vào chân em - Nàng nói - Chân em lạ lắm, Roberto.
- Đặt chúng vào đây cho ấm.
- Không - Nàng nói - Chúng sẽ ấm sau mà. Bây giờ hãy nói anh yêu em
nhanh lên đi.
- Anh yêu em.
- Tuyệt, ồ! Tuyệt làm sao.
- Anh yêu em, dê con của anh.
- Anh có thích chiếc áo cô dâu của em không?
- Vẫn chiếc áo đó?
- Đúng, vẫn chiếc áo chiều hôm qua. Đây là áo cưới của em.
- Đặt chân em vào đây.
- Ồ! Không, không cần đâu, anh. Tự chúng cũng ấm được rồi. Em không
thấy lạnh. Chúng chỉ lạnh với anh thôi; vì tuyết. Nói nữa đi anh.
- Anh yêu em, dê con của anh.
- Em cũng yêu anh và em là vợ anh.
- Bọn họ ngủ rồi hả em?
- Chưa. Nhưng em không thể đợi lâu hơn được. Quan trọng gì hở anh?
- Không quan trọng gì - Chàng nói và chàng ôm sát vào lòng chàng
thân hình mảnh khảnh, nóng hổi và mềm dịu của nàng - Không còn gì quan trọng
nữa em ạ!
- Đặt tay lên đầu em đi anh - Nàng nói - rồi để em xem thử có biết
hôn anh không. Được không anh? - Nàng hỏi.
- Được - Chàng nói - Em cởi chiếc áo cô dâu của em đi.
- Phải cởi hả anh?
- Ừ, nếu em không lạnh.
- Sao, lạnh à. Em nóng ran là đàng khác.
- Anh cũng vậy. Nhưng sau đó, em sẽ không lạnh chớ?
- Không. Sau đó em sẽ như một con thú trong rừng và ta gần nhau đến
đỗi không ai có thể nói rằng mình là mình mà không là người kia. Anh không thấy
rằng tim em là tim anh sao?
- Không. Không có sự khác biệt nào.
- Anh là em và tất cả những gì của em là của anh hết. Em yêu anh,
ồ, em yêu anh vô cùng. Ta không phải là một sao anh? Anh không thấy điều đó à?
- Thấy chớ. Đúng như vậy đó em.
- Bây giờ thì anh nghe đây. Anh không có trái tim nào khác ngoài
trái tim của em.
- Cũng như anh không có đôi chân nào khác, đôi bàn chân nào khác
cùng thân thể nào khác.
- Nhưng mà mình lại khác biệt nhau - Nàng nói - Em muốn mình phải
giống nhau thật sự kia.
- Không phải em muốn nói như vậy.
- Có, có chớ, đó là điều em phải nói với anh.
- Không phải em muốn nói như vậy.
- Có thể - Nàng nói nhỏ, đôi môi đặt trên vai chàng - Nhưng em vẫn
thích nói như vậy. Bởi vì mình khác biệt nhau, em rất hài lòng vì anh là
Roberto, em là Maria. Nhưng mà nếu anh muốn đổi thì em cũng chịu đổi nữa. Em sẽ
là anh vì em yêu anh vô cùng.
- Anh không muốn đổi. Tốt hơn chỉ nên là chính mình mà thôi và mỗi
người hãy cứ là mình thôi.
- Nhưng mà giờ đây mình chỉ là một và không còn cách biệt nữa. Em
là anh khi anh không có đó. Ồ! Em yêu anh làm sao, em phải săn sóc anh chu đáo
mới được.
- Maria.
- Dạ.
- Maria.
- Dạ.
- Maria.
- Da, dạ, em đây anh.
- Em không lạnh à?
- Ô! không. Anh kéo cái túi lên vai anh đi.
- Maria.
- Em không nói được nên lời anh à.
- Ồ, Maria, Maria, Maria.
Sau đó, họ nằm sát bên nhau, với đêm lạnh giá vây quanh họ, họ nằm
vùi trong hơi ấm của chiếc túi ngủ, đầu Maria chạm vào má Robert Jordan. Nàng
nằm trải dài, lặng lẽ sung sướng, sát bên người chàng, nàng nói bằng một giọng
thật dịu dàng.
- Còn anh thì sao?
- Cũng như em vậy. - Chàng nói.
- Đúng - Nàng bảo - Nhưng không giống buổi chiều này.
- Không.
- Nhưng em vẫn hài lòng với điều đó hơn. Mình không cần phải chết.
- Ojala no - Chàng nói - Anh mong rằng không.
- Em không muốn nói vậy đâu.
- Anh biết. Anh biết em muốn nói gì, ta cùng nghĩ về một điều giống
nhau.
- Vậy thì tại sao anh nói vậy thay vì nói điều em nghĩ.
- Với một người đàn ông thì khác em à.
- Vậy thì em bằng lòng thấy mình khác nhau.
- Anh cũng vậy. Nhưng anh hiểu em muốn nói gì khi nhắc tới chuyện
chết chóc. Anh chỉ nói như một người đàn ông, theo thói quen. Anh cũng thấy một
điều giống như em.
- Dầu anh có là gì và dù anh có nói gì đi nữa, em vẫn muốn anh như
vậy.
- Và anh yêu em, anh yêu cái tên của em, Maria à.
- Một cái tên tầm thường.
- Không. Không tầm thường đâu.
- Bây giờ mình ngủ chớ anh? - Nàng bảo - Em dễ ngủ lắm.
- Mình ngủ đi. - Chàng nghe nói. Chàng nghe tấm thân manh dẻ, nhẹ
nhàng, nóng ran của nàng ép sát vào người chàng, nó xoa dịu, nó đánh tan sự cô
độc, kỳ diệu thay, chỉ bằng sự va chạm của cạnh vai và chân cẳng với nhau, nó
tạo thành một sự liên kết chặt chẽ chống lại cái chết, và chàng nói.
- Hãy ngủ ngon, con dê con mảnh dẻ của anh.
- Em ngủ rồi đây. - Nàng nói.
- Anh sắp ngủ đây. - Chàng nói - Hãy ngủ ngon, em cưng của anh. -
Và chàng buông mình trong giấc ngủ đầy khoan khoái.
Nhưng trong đêm, chàng chợt thức giấc và ghì nàng vào lòng như thể
nàng là tất cả sự sống và người ta toan tước đoạt lấy nàng. Chàng ôm nàng và
chàng cảm thấy nàng là tất cả sự sống, quả đúng như vậy. Nhưng nàng đã ngủ một
cách bình yên, say sưa. Lúc đó, chàng dang ra khỏi nàng và quay sang bên cạnh.
Chàng kéo cái túi ngủ trên đâu Maria, chàng hôn vào cổ nàng trong túi ngủ, đoạn
chà kéo sợi dây súng lên đặt khẩu súng sang bên đúng trong tầm tay, và chàng
tiếp tục nằm đó, thân thể duỗi dài trong bóng tối, và chàng bắt đầu nghĩ ngợi.
--- ------ ------ ------ -------
1 Chúc ngủ ngon.
Chương 21
Trời về sáng, một
làn gió ấm thổi qua và Robert Jordan nghe tuyết tan trên cành cây nặng nề rơi
xuống. Đó là một buổi sáng vào cuối mùa xuân. Trong làn không khí đầu tiên hít
vào buồng phổi, chàng biết rằng cơn bão núi gây nên trận mưa tuyết chẳng đáng
kể gì rồi sẽ chóng qua. Chàng nghe tiếng chân ngựa sải nước kiệu trên tuyết
ướt. Chàng lại nghe tiếng lách cách của kim khí khẽ chạm vào nhau và tiếng da
răng rắc.
- Maria - Chàng nói
vừa vỗ vai cô gái để đánh thức nàng dậy - Em trốn trong túi đi - Và một tay
chàng gài nút áo một tay chàng cầm khẩu súng, dùng ngón tay tháo chốt an toàn.
Chàng trông thấy cái đầu bị cạo trọc của cô gái chợt thụt sau vào túi ngủ, đoạn
chàng ngước mắt nhìn tên kỵ mã đang tiến tới trong đám cây cối. Chàng tuột sâu
vào túi ngủ hai tay nắm chặt khẩu súng, chĩa thẳng vào người đàn ông đang tiên
về phía chàng. Lần đầu tiên chàng trông thấy hắn.
Bây giờ hắn gần như
đang đối diện với chàng. Hắn ngồi trên lưng một con ngựa to, xám và đội một
chiếc mũ ka ki, một cái áo choàng cắt ra từ một cái mền trông giống một cái
poncho, chân mang giày ống đen nặng nề. Từ cái bao treo ở bên phải yên ngựa,
nhô lên cái báng súng và băng đạn thuôn dài của khẩu súng liên thanh cỡ nhỏ.
Hắn có khuôn mặt non choẹt và dữ tợn. Lúc đó hắn cũng vừa trông thấy Robert
Jordan.
Hắn hạ bàn tay
xuống gần khẩu súng và trong lúc hắn cúi xuống, kéo và giật cái bao súng,
Robert Jordan thấy cái huy hiệu đo đỏ gắn trên ngực áo choàng bên trái hắn.
Nhắm vào giữa ngục
hắn, xê một chút xuống phía dưới huy hiệu, Robert Jordan lảy cò.
Tiếng súng vang lên
trong rừng cây phủ tuyết trắng.
Con ngựa chồm lên
và người thanh niên vẫn cúi người về phía cái bao súng, hắn té nhào xuống đất,
bàn chân phải vẫn dính vào bàn đạp ngựa.
Con ngựa bắt đầu
chạy nhanh trong đám cây, kéo lê người thanh niên đang cố chồm lên, mặt va
xuống đất. Roben Jordan đứng dậy, một tay còn cầm khẩu súng lục.
Con ngựa chạy băng
qua rừng thông, kéo xệch người thanh niên phía sau, tạo thành một nét rạch lớn
trên tuyết, với những tia máu chạy dài ở một bên. Nhiều người bước ra khỏi
hang. Robert Jordan nghiêng người xuống, mở cái quần dài mà chàng đã dùng làm
gối và bắt đầu mặc vào.
- Mặc đồ vào đi em.
- Chàng bảo Maria. Chàng nghe có tiếng động cơ máy bay thật cao trên đầu. Nhìn
vào trong đám cây chàng trông thấy con ngựa xám đã dừng lại với người thanh
niên vẫn bị mắc vào bàn đạp, mặt ập xuống đất.
- Đến bắt con ngựa
đi - Chàng kêu to về phía Primitivo đang bước đến gần chàng - Ai đang gác ở
trên đó?
- Rafael. - Pilar
đứng nơi cửa hang trả lời. Bà ta đứng đó, tóc vẫn còn thắt thành hai cái bím
như lúc sắp sủa đi ngủ.
- Kỵ binh xuất hiện
rồi đó - Robert Jordan nói - Hãy mang khẩu đại liên cổ lỗ sĩ của các người lên
trên cao kia kìa.
Chàng nghe Pilar
quay vào trong gọi “Angustin”. Bà ta lộn bước trở vào trong, sau đó hai người
đàn ông vừa bước ra khỏi hang vừa chạy, một người vác khẩu súng tự động với
chân ba càng lắc lư trên vai, còn người kia mang túi đạn.
- Hãy lên trên kia
với bọn họ đi - Robert Jordan bảo Anselmo - Đồng chí hãy nằm dài cạnh khẩu súng
cà meng để giữ mấy cái chân của nó.
Cả ba người cùng
chạy lên con đường mòn ăn sâu vào rừng.
Mặt trời chưa lên
tới các ngọn núi, Robert Jordan đứng cài nút quần và thắt dây nịt. Khẩu súng
lục vẫn lủng lẳng nơi cổ tay chàng qua một sợi dây da. Chàng bỏ nó trở vào bao
nơi thắt lưng. Đoạn chàng tuột gút sợi dây da và trồng đầu vào vòng dây.
Chàng nhủ thầm, rồi
một ngày nào đó một kẻ nào đó sẽ thắt cổ mày với sợi dây này. Cũng may mà mày
có nó. Chàng rút khẩu súng ra khỏi bao, tháo băng đạn, cho thêm vào đó một viên
đạn lấy từ hàng đạn dọc bao súng, đoạn trả băng đạn về chỗ cũ.
Chàng nhìn qua đám
cây, thấy Primitivo đang giữ lấy cương ngựa, rán sức tháo bàn chân của người
thanh niên ra khỏi bàn đạp. Cái xác nằm sóng soài, úp mặt vào trời tuyết và
trong khi chàng mải nhìn thì Primitivo bắt đầu lục lạo trong mấy cái túi của
người chết.
- Thôi về. - Chàng
kêu lên. Dẫn ngựa về. Khi quỳ xuống để cột lại giày, chàng nghe Maria đang loay
hoay mặc đồ trong túi ngủ. Nàng không còn chỗ trong đời chàng lúc bây giờ đây.
Chàng nghĩ người
thanh niên cưỡi ngựa đâu có ngờ chuyện đó xảy ra. Hắn đâu có đi trên một con
đường mòn và hắn đâu có cảnh giác. Chắc hẳn là hắn thuộc một toán tuần thám
phân tán mỏng trong vùng núi này. Nhưng mà khi toán tuần thám ghi nhận được sự
mất tích của hắn, thì người ta sẽ lần theo dấu vết của hắn đến tận nơi này. Trừ
phi tuyết tan sớm. Hoặc trừ phi có chuyện gì xảy ra cho toán tuần thám.
- Giờ đây tốt hơn
đồng chí nên xuống đi. - Chàng bảo Pablo.
Mọi người đã bước
ra khỏi hang với các bin cầm tay, lựu đạn giắt trong dây nịch. Pilar trao cho
Robert Jordan một cái túi da đầy lựu đạn. Chàng lấy ra ba trái bỏ vào túi.
Chàng bước trở vào hang, đến bên hai cái ba lô, mở cái ba lô đựng khẩu tiểu
liên, lấy ra báng và nòng súng, ráp lại những bộ phận của khẩu súng tháo rời,
lắp vào một băng đạn, và bỏ ba băng khác vào túi. Chàng nghĩ, túi mình tra bị
đầy ắp miễn đừng có bung ra. Chàng bước ra khỏi hang, nói với Pablo :
- Tôi lên đó. Angustin
có biết sử dụng khẩu đại liên của đồng chí không?
- Biết. - Pablo
nói. Hắn nhìn Primitivo đang dẫn con ngựa về.
- Mira qué caballo
1 - Hắn nói - Nhìn giùm tôi con ngựa kìa.
Con ngựa xám to lớn
thở hào hển và khẽ run rẩy. Robert Jordan khẽ vỗ lên cổ nó.
- Tôi sẽ cho nó
nhập vào những con khác. - Pablo nói.
- Không - Robert
Jordan nói - Nó để lại dấu vết khi tới đây. Những dấu vết đó phải nổi bật lắm.
- Đúng - Pablo nhìn
nhận - Tôi sẽ lên đường với nó. Tôi sẽ giấu nó và sẽ dẫn nó về khi tuyết tan.
Đồng chí có ý kiến hay đó, ông đồng chí Inglés à.
- Hãy cho một người
xuống phía dưới - Robert Jordan nói - Còn bọn mình thì phải đi lên phía trên.
- Chẳng cần đâu -
Pablo nói - Những kẻ đi ngựa không thể đến bằng ngả ở phía dưới, còn chúng ta,
chúng ta có thể chuồn bằng ngả này và bằng hai ngả khác nữa. Tốt hơn hết là
đừng để lộ tung tích trong trường hợp có máy bay. Đưa bầu rượu cho tôi coi,
Pilar.
- Để ông đi say xỉn
à - Pilar nói - Thôi cầm đỡ cái này đi. - Hắn đưa tay đón lấy hai trái lựu đạn
bỏ vào túi.
- Sao, say xỉn à -
Pablo nói - Tình thế đang lúc nghiêm trọng mà. Nhưng mà đưa bầu rượu cho tôi.
Tôi không thể làm tất cả công việc đó vừa uống nước lạnh.
Hắn nắm chặt dây
cương, và nhảy phóc lên yên ngựa. Hắn mỉm cười, vuốt ve con ngựa cộc cằn. Robert
Jorda trông thấy hắn âu yếm dùng chân cạ dọc theo hông của nó.
- Qué caballo mas
bonito 2 Hắn nói vừa tiếp tục vuốt ve con ngựa. Qué caballo mas hermoso 3. Đi
nào. Nó đi khỏi nơi này sớm chừng nào tốt chừng đó.
Hắn nghiêng mình,
rút khẩu tiểu liên từ trong bao, đó là một khẩu súng ria loại nhỏ có thể lắp
loại đạn 9 ly, hắn ngắm nghía khẩu súng: “Hãy coi chúng, võ trang ngon lành như
vầy, - Hắn nói - đúng là thứ kỵ binh tân tiến”.
- Đúng là thứ kỵ
binh tân tiến, dưới kia kìa, với mặt úp xuống đất đó. - Robert Jordan nói -
Vámonos.
- Andrès, đồng chí
hãy thắng yên ngựa và hãy chuẩn bị chúng cho sẵn sàng. Hễ nghe có tiếng súng
thì cho chúng chạy lên rừng, ở sau khe núi, và đến gặp tụi này với súng ống đầy
đủ, còn phụ nữ thì lo giữ ngựa. Fernando, đồng chí sẽ lo việc mang mấy cái ba
lô cho tôi. Cần nhất là phải mang chúng đi một cách cẩn trọng. Tôi cũng giao
việc này cho bà - Hắn bảo Pilar - Và bà hãy trông chừng việc chở chúng bằng
ngựa.
- Vámonos - Chàng nói - Ta đi đi.
- Còn Maria và tôi sẽ sửa soạn cho việc
lên đường. - Pilar nói. Đoạn bà ta ghé sát vào Robert Jordan - Hãy nhìn hắn
kìa. - Bà ta chỉ về phía Pablo đang ngồi trên lưng con ngựa xám trông như một
anh cao bồi điệu nghệ, mũi con vật nở ra trong khi Pablo thay băng đạn cho khẩu
tiểu liên. - Hãy nhìn hắn hí hửng với con vật kìa.
- Nếu tôi có được hai con ngựa thì tốt
quá. - Robert Jordan nói, giọng thành thật.
- Con ngựa của đồng chí chính là sự
nguy hiểm.
- Vậy thì hãy cho tôi một con la -
Robert Jordan vừa nói vừa cười - Hãy lột hết tên này cho tôi - Chàng bảo Pilar
vừa quay đầu nhìn người thanh niên nằm sấp trên tuyết. Và lấy hết giấy má thư
từ của hắn, bỏ chúng vào túi ngoài của cái ba lô của tôi. Tất cả, đồng chí nghe
không?
- Nghe rồi.
- Vámonos. - Chàng nói.
Pablo đi ngựa phía trước, tiếp theo là
hai người đàn ông kẻ trước người sau đang thận trọng từng bước đi để khỏi để
lại dấu vết. Robert Jordan mang tiểu liên, nòng súng quay xuống. Chàng nghĩ,
phải chi có thể lắp nó bằng cùng thứ đạn với khẩu súng kỵ binh kia. Nhưng mà
không được. Đây là loại súng Đức. Khẩu súng của anh chàng Kachkine.
Mặt trời đã nhô lên trên ngọn núi. Từng
ngọn gió nóng thổi tới làm tan tuyết đi. Đó là một buổi sáng mùa xuân êm dịu.
Robert Jordan nhìn ra phía sau và thấy
Maria đang đứng cạnh Pilar. Sau đó, cô gái bắt đầu leo con đường mòn vừa co giò
chạy.
- Em có thể đến với anh không? - Nàng
nói.
- Không. Hãy phụ
với Pilar.
Nàng đi bên cạnh
chàng và nắm lấy cánh tay chàng.
- Được chớ, em đến
với anh.
- Không được.
Nàng tiếp tục bước
đi cạnh chàng.
- Em có thể giữ
chân cho khẩu máy, như anh đã nói với lão Anselmo.
- Em sẽ không giữ
chân, ngay cả chân súng máy.
Nàng cho bàn tay
vào túi Robert Jordan.
- Không - Chàng nói
- Nhưng hãy lo giữ gìn chiếc áo cô dâu của em.
- Hôn em đi anh -
Nàng nói - Nếu ta phải xa nhau.
- Em không biết
thẹn là gì. - Chàng nói.
- Không. Em không
thẹn chút nào hết.
- Bây giờ em đi đi.
Công việc nhiều lắm. Có thể bọn anh phải chiến đấu nếu chúng theo dõi dấu vết
của con ngựa.
- Này anh, - Nàng
nói - anh có thấy hắn mang vật gì trên ngực không?
- Thấy, rồi sao
nữa?
- Đó là hình Thánh
Tâm.
- Đúng rồi. Dân
Navarre nào cũng có cái đó.
- Anh đã nhắm vào
đó mà bắn à?
- Không, ở dưới
kìa. Thôi em đi đi.
- Anh biết chứ -
Nàng nói - Em thấy hết.
- Em không thấy gì
đâu. Một người đàn ông. Một người đàn ông ngã ngựa. Vete 4. Đi đi.
- Nói yêu em đi.
- Không. Bây giờ
không phải lúc.
- Bây giờ anh không
yêu em sao?
- Dejamos 5. Đi đi.
Không thể cùng một lúc làm công việc này lại vừa yêu được.
- Em muốn giữ chân
khẩu súng máy và được yêu anh, trong lúc súng nổ: tất cả những công việc đó
cùng một lúc.
- Em điên rồi. Thôi
đi đi.
- Em không điên -
Nàng nói - Em yêu anh.
- Vậy thì trở xuống
đi.
- Được rồi. Em đi
đây. Và nếu anh không yêu em thì em sẽ yêu anh đủ cho cả hai.
- Khi nghe tiếng
súng, - Chàng nói - em sẽ tới với mấy con ngựa. Em hãy phụ Pilar mang mấy cái
ba lô. Có thể sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu. Anh hy vọng thế.
- Em đi đây. Anh
nhìn con ngựa Pablo kìa, nó đẹp làm sao.
Con ngựa to màu xám
đang leo dốc con đường mòn.
- Ừ. Nhưng mà em đi
đi.
Chàng nghe trong
túi quần nắm tay của cô gái cọ sát vào đùi chàng. Chàng nhìn nàng và thấy đôi
mắt nàng ứa lệ. Nàng rút tay ra khỏi túi quần và choàng tay ôm cổ Jordan, nàng
hôn chàng.
- Em đi đây - Nàng
nói - Me voy. Em đi đây.
Chàng quay đầu lại,
nhìn nàng đứng yên trong những tia sáng đầu tiên của buổi bình minh đang ve
vuốt lên khuôn mặt màu nâu ngon phủ một mái tóc ngắn màu vỏ cây và màu vàng
cháy xém. Nàng giơ nắm tay về phía chàng, quay lưng đi và bước trở xuống theo
con đường mòn, đầu nàng cúi xuống.
Primitivo quay lại
nhìn theo nàng.
- Nếu không có mái
tóc ngắn quá thì đó là một cô gái đẹp. - Hắn nói.
- Ừ. - Robert
Jordan nói. Chàng nghĩ tới một điều nào khác.
- Ở trên giường, cô
ta thế nào? - Primitivo hỏi.
- Cái gì?
- Trên giường.
- Câm họng đi.
- Không có gì phải
khó chịu mà, bởi vì...
- Thôi. - Robert
Jordan nói. Và chàng bắt đầu ngắm nghía vị trí.
--- ------ ------
------ -------
1 Hãy nhìn con ngựa
đẹp sao.
2 Con ngựa tốt làm
sao!
3 Con ngựa đẹp làm
sao!
4 Em thấy không.
5 Hãy để mặc chúng
tôi.
Chương 22
- Chặt cho tôi mấy
nhánh thông và mang lại đây mau lên - Robert Jordan bảo Primitivo - Tôi không
thích đặt khẩu súng máy tại đây. - Chàng bảo Angustin.
- Sao vậy?
- Đặt nó chỗ kia
kìa. Tôi sẽ giải thích cho đồng chí sau. Đó, như vậy đó. Để tôi phụ với đồng
chí một tay. Ở đó được rồi. - Chàng vừa nói vừa ngồi xổm cạnh hắn.
Chàng nhìn xuyên
qua lối đi chật hẹp, ghi nhận chiều cao của núi đá ở hai bên.
- Phải đặt nó xa
hơn - Chàng nói - Xa hơn chỗ kia nữa. Tốt. Chỗ đó. Trong lúc này thì được rồi.
Chỗ kia kìa. Hãy để đá ở đây đi. Có một hòn đây rồi. Đặt một hòn khác chỗ kia.
Hãy để cho nòng súng có chỗ xoay trở. Hãy để hòn đá kia xa hơn. Anselmo, lão
trở xuống hang và mang lên cho tôi một cái rìu. Mau lên nào.
- Bộ đồng chí không
thể nào tìm ra một vị trí thích hợp cho khẩu súng máy được à? - Chàng hỏi
Angustin.
- Tụi tôi vẫn đặt
nó ở chỗ đó.
- Kachkine không hề
nói phải đặt nó ở chỗ này sao?
- Không, khi người
ta mang súng tới thì hắn đã đi rồi.
- Những người mang
nó tới không biết sử dụng à?
- Không. Họ chỉ
khuân vác.
- Làm việc cách gì
mà lạ thật - Robert Jordan nói - Người ta gởi súng tới như thế mà không có lời
chỉ dẫn nào hết à?
- Đúng vậy. Như một
món quà. Một khẩu cho bọn này và một khẩu cho El Sordo. Bốn người đã mang chúng
tới, dưới sự chỉ đường của lão Anselmo.
- Mang chúng về tới
quả là kỳ diệu. Bốn người phải băng qua phòng tuyến.
- Tôi cũng nghĩ như
vậy - Angustin nói - Tôi nghĩ rằng những người gởi bọn họ tới cũng muốn họ lạc
mất nữa, nhưng mà Anselmo đã hướng dẫn họ đi thật tài tình.
- Đồng chí biết sử
dụng nó không?
- Biết. Tôi có tập.
Tôi biết sử dụng. Pablo biết. Primitivo biết. Fernando cũng biết nữa. Bọn này
tập tháo ráp ngay trên bàn, trong hang. Một lần bọn tôi tháo nó ra và phải mất
hai ngày mới biết cách ráp nó lại. Từ đó bọn tôi không tháo ra nữa.
- Bây giờ thì ít ra
nó cũng nhả đạn chớ?
- Ừ. Nhưng người ta
không để cho tên du mục và mọi người đùa với nó.
- Đồng chí thấy
chớ? Chỗ kia không sử dụng được - Chàng nói - Nhìn kìa. Những núi đá kia phải
bảo vệ hai bên sườn của các đồng chí thì lại che chắn cho những kẻ tấn công các
đồng chí. Với một vũ khí như vậy, cần có một khoảng trống trải trước mặt. Lại
nữa, cần phải chĩa vào cạnh sườn chúng. Đồng chí thấy chưa? Nhìn xem này, chúng
ta chế ngự tất cả vùng này.
- Hiểu rồi -
Angustin nói - Nhưng mà bọn tôi chưa hề đánh trong thế thủ cả, trừ phi chúng
tấn công thành phố. Trong trận xe lửa, có nhiều lính trang bị maquina.
- Nào, chúng ta hãy
học tập chung với nhau một chút - Robert Jordan nói - Có nhiều quy luật cần
phải thông qua. Tên du mục đâu rồi? Hắn phải có mặt tại đây mới được.
- Tôi không biết.
- Hắn có thể đi đâu
kìa?
- Không biết.
Pablo đã cưỡi ngựa
đi xuyên qua đèo và đã đi vòng quanh ngọn núi trống trải làm thành trường bắn
của khẩu súng tự động. Bây giờ thì Robert Jordan đang nhìn hắn xuống triền dốc,
đi dọc theo con đường in dấu chân ngựa lúc hắn đi lên. Hắn biến mất trong đám
cây ở phía trái.
Robert Jordan nghĩ
thầm, mong hắn đừng nhào đầu vô tụi kỵ binh, chỉ ngại hắn lại rơi vào vòng tay
chúng tôi đúng chỗ này.
Primitivo mang
những cành lá thông tới. Robert Jordan cắm chúng xuống mặt đất xuyên qua lớp
tuyết dầy chưa đông và chàng uốn cong chúng lại trên nòng súng.
- Lấy thêm nữa đi -
Chàng nói - Cần ngụy trang hai người sử dụng súng. Không quan trọng gì nhưng
không phải là vô ích lắm đâu. Này. Trong trường hợp nghe có máy bay thì bất
luận đồng chí đang ở đâu cũng phải nằm rạp xuống đất dưới vách núi đá nghe. Tôi
ở lại đây với khẩu súng.
Mặt trời đã lên
cao, gió thổi ấm áp, bầu trời trở nên quang đãng trên những dải núi đá. Robert
Jordan nghĩ thầm, bốn con ngựa, hai người đàn bà và tôi, Anselmo, Primitivo,
Fernando, Angustin và anh chàng tên gì nữa trong hai anh em vậy kìa? Tất cả tám
người. Không kể đến tên du mục. Như vậy là chín. Cộng thêm Pablo là mười. À
đúng rồi, anh chàng tên Andrès. Còn người kia là Eladio. Cả thảy mười một
người. Không đủ cả ngựa cho hai người trên lưng mỗi con. Ba người có thể giữ
chỗ này và bốn người ra đi. Với Pablo nữa là năm. Còn lại hai. Với Eladio
là ba. Quỷ dịch, hắn ở đâu rồi kìa?
Có trời biết cái gì đang đợi Sordo hôm
nay đây, nếu bọn chúng tìm ra dấu ngựa trên tuyết. Tuyết ngừng rơi thế này thì
đểu thật. Nhưng mà nó cũng sắp tan hết rồi, cũng đỡ. Nhưng không đỡ cho Sordo.
Tôi sợ quá trễ cho hắn.
Nếu ngày nay không đụng độ thì ngày mai
người ta có thể khởi công với toàn lực của mình. Tôi biết khả nàng của họ. Có
thể không khá lắm. Có thể không được đúng mức để làm tròn công việc như ta mong
muốn, nhưng nếu sử dụng toàn thể nhân lực thì có thể ra tay được. Với điều kiện
là hôm nay không đụng độ. Nếu hôm nay mà phải chiến đấu thì cầu Trời Phật phù
hộ vậy.
Trong khi chờ đợi, không thấy địa điểm
nào tốt hơn ở đây. Nếu bây giờ mà đi thì sẽ để lại dấu vết. Địa điểm không đến
đỗi thất lại và nếu công việc không tiến hành tốt đẹp thì có ba lối thoát thân.
Sau đó sẽ đến đêm và dầu ở bất luận nơi nào trong vùng núi này tôi cũng có thể
đi lần tới cầu và làm nổ tung nó vào sáng mai. Tôi không hiểu sao mình lại lo
âu. Bây giờ thì công việc đã có vẻ dễ dàng rồi. Hy vọng rằng không quân sẽ đến
kịp lần này. Ừ. Tôi hy vọng như vậy. Ngày mai sẽ có chuyện lộn xộn xảy ra.
Được rồi, ngày hôm nay có thể sẽ rất
thú vị, hoặc rất nhạt nhẽo. Tôi rất hài lòng vì con ngựa kia đi xa khỏi nơi
đây. Ngay khi bọn chúng tới đây, tôi không tin chúng có thể nhận ra những dấu
vết đã bị xóa nhòa. Chúng sẽ nghĩ rằng nó đã dừng lại và quay bước đi. Chúng sẽ
theo những dấu vết của Pablo. Không biết cái thằng đểu cáng đó đi đâu vậy kìa?
Có thể khi lên dốc hắn để lại những dấu chân ngựa và tiếp theo đó, khi tuyết
tan đi, hắn sẽ đi lòng vòng ở phía dưới. Đúng là con ngựa giúp hắn nhiều việc,
có thể hắn lợi dụng nó để dù đi mất. Nhưng đó là chuyện riêng tư của hắn. Hắn
phải biết xoay sở cho hắn và hắn phải biết lâu rồi. Với tất cả những công việc
đó, tôi không tin tưởng ở hắn lắm.
Tôi thấy giấu khẩu súng trong những kẽ
đá và ngụy trang nó cho khéo còn hơn là tạo cho nó một chỗ ẩn giấu thật sự. Nếu
chúng tới, chúng hay phi cơ của chúng, chúng sẽ bắt gặp chúng tôi đang hì hục
đào bới. Ở trong vị trí này nếu là nàng thì nàng sẽ bám trụ tới cùng đấy. Còn
tôi thì dù sao tôi không thể chậm trễ trong việc chiến đấu được. Tôi phải rút
lui khỏi nơi này với vật liệu của mình và tôi sẽ dẫn Anselmo theo. Ai ở lại để
bắn che cho chúng tôi rút lui trong trường hợp xảy ra trận đánh nhau đây?
Trong lúc đó khi chàng còn mải quan sát
địa thế, chàng trông thấy tên du mục đi tới ở phía trái, giữa những tảng đá.
Hắn có lối đi trông khệnh khạng, núng nính, khẩu các bin khoác trên vai, khuôn
mặt tươi cười mỗi tay xách một con thỏ rừng, đầu chúng thòng xuống đất.
- Chào Don Roberto. - Hắn kêu lên vui
vẻ.
Robert Jordan đưa bàn tay lên trước
miệng, và tên du mục hiểu ý, im bặt. Hắn lướt đi sau những tảng đá, đến tận chỗ
Robert Jordan đang ngồi xổm, cạnh khẩu súng máy khuất lấp trong các cành lá.
Hắn ngồi xổm cạnh chàng và đặt hai con thỏ trong tuyết. Robert Jordan nhìn hắn.
- Sao, hijo de la gran puta 1 - Chàng
nói nhỏ - Ở đâu ra đó?
- Tôi theo dấu của chúng - Tên du mục
nói - Tôi đón được cả hai. Chúng đang làm tình trên tuyết.
- Còn trạm canh của đồng chí?
- Không được lâu - Tên du mục thì thầm
- Chuyện gì xảy ra vậy? Có báo động à?
- Những cuộc di chuyển của kỵ binh.
- Redios 2 - Tên du mục nói - Đồng chí
thấy chúng à?
- Có một tên ở
trong trại. Hắn đi ăn sáng.
- Rõ ràng tôi có
nghe một tiếng súng nổ hay một tiếng gì tương tự như vậy - Tên du mục nói - Bố
tiên sư nó đến bằng ngã này à?
- Bằng ngã này, ngã
trạm canh của đồng chí.
- Ay mi madre 3! - Tên du mục nói - Tôi
xui quá.
- Nếu đồng chí không phải là dân du
mục, tôi đã hạ đồng chí rồi.
- Đừng, Roberto. Đừng nói vậy chớ. Tôi
rất buồn. Tại tôi bận với hai con thỏ này. Trước bình minh, tôi nghe con đực
nhảy trong tuyết. Đồng chí không thể nào tưởng tượng được cuộc vui đùa của
chúng. Tôi lặng lẽ bước đến gần nhưng chúng vọt ngay. Thế rồi tôi lần theo dấu
chúng để lại trên tuyết và trong khi bước lên dốc, tôi lại trông thấy chúng và
tôi hạ cả hai. Hãy coi chúng mập thế này. Hãy tưởng tượng những món ăn Pilar sẽ
tự tay nấu nướng với chúng. Tôi buồn lắm, Roberto ạ, buồn không thua gì đồng
chí đâu. Tên kỵ binh bị giết chết rồi chớ?
- Ừ.
- Đồng chí giết à?
- Ừ.
- Que tio! 4 - Tên du mục nói, giọng bợ
đỡ. Đồng chí chì lắm.
- Mẹ mày! - Robert Jordan nói, nhưng
chàng không nín cười được với tên du mục - Thôi mang mấy con thỏ về trại và
mang điểm tâm ra coi nào!
Chàng đưa tay xoa nắn hai con thỏ rừng
nằm sóng soải trên tuyết, con nào con nấy trông dài sọc và nặng nề với lớp da
dầy cộm, chân và tai dài, mắt âm u và tròn xoe, mở thao láo.
- Chúng mập thiệt. - Chàng bảo.
- Mập - Tên du mục nói - Mỗi con có cả
dề mỡ ở hai bên hông. Trong đời tôi chưa hề thấy những con thỏ nào như vậy,
ngay trong lúc nằm chiêm bao.
- Thôi đi đi, Robert Jordan nói - hãy
trở lại ngay với món điểm tâm, và nhớ mang cho tôi những tài liệu của tên
requeté 5 kia. Nhớ hỏi Pilar.
- Đồng chí không giận tôi chớ, Roberto?
- Không giận. Chỉ nản chí về việc đồng
chí bỏ trạm canh thôi. Nếu có cả một đội kỵ binh thì sao?
- Redios! - Tên du mục nói - Đồng chí
nói có lý.
- Nghe này, đừng tái diễn chuyện bỏ
trạm canh nữa nghe chưa. Đừng bao giờ. Khi tôi đòi hạ đồng chí, tôi không nói
đùa đâu.
- Dĩ nhiên, vả lại, không còn cơ hội
nào gặp hai con thỏ như thế này nữa. Chuyện đó không xảy ra đến hai lần trong
một đời người.
- Anda - Robert Jordan nói - Thôi hãy
cô trở lại cho nhanh.
Tên du mục lượm lên hai con thỏ và dời
bước, len lỏi giữa những tảng đá. Robert Jordan bắt đầu quan sát cái lỗ hổng và
cái dốc chạy xuống. Một con quạ lượn vòng trên đầu chàng đáp xuống một cành
thông oằn xuống thấp. Một con quạ khác sắp tới gần và Robert Jordan nghĩ, đó là
những tên lính canh của tôi. Khi chúng không động đậy gì cả đó là vì không có
ai tới gần trong rừng cây.
Tên du mục, chàng nghĩ, quả thật là vô
dụng. Hắn không có một chút ý thức chính trị lẫn tinh thần kỷ luật và người ta
không thể tin cậy được gì ở hắn. Nhưng ngày mai tôi cần tới hắn. Tôi có việc
làm cho hắn ngày mai. Trông thấy một tên du mục trong chiến tranh quả là điều
kỳ cục. Người ta phải miễn họ như phải miễn cho những kẻ trốn quân dịch vịn vào
lương tâm của họ. Hoặc những kẻ không ích lợi gì cho công việc, về tinh thần
hay về vật chất. Bọn họ chẳng có giá trị gì. Nhưng những kẻ trốn tránh quân
dịch vì lương tâm vẫn không bị loại trừ trong cuộc chiến này. Không có ai bị
loại trừ cả. Chiến tranh xảy đến và thâu tóm tất cả mọi người. Phải, lần này
chiến tranh lại đến với bọn ăn không ngồi rồi, bọn vô tích sự. Bây giờ thì
chúng đã ở trong chiến tranh.
Angustin và Primitivo leo lên triền dốc
vừa mang theo những cành lá, Robert Jordan khéo léo ngụy trang cho khẩu súng
máy để cho phi cơ khỏi nhìn thấy. Chàng chỉ bảo họ phải cắt đặt một người ở
trên những tảng đá ở phía bên phải để có thể nhìn thấy toàn vùng ở cánh đó, và
một người khác phải ở đâu để có thể trông chừng cuộc xâm nhập ở vách núi bên
trái.
- Đừng bắn dù trông thấy ai đi nữa -
Robert Jordan nói - Hãy thả một hòn sỏi lăn xuống dưới để thông báo cho tôi,
một hòn sỏi nhỏ thôi, và ra dấu bằng khẩu súng như thế này - Chàng giơ cao khẩu
súng và để yên nó trên đầu - Và cho biết số lượng của chúng như thế này. -
Chàng giơ cao và hạ thấp khẩu súng - Nếu chúng xuống ngựa, thì các đồng chí
chĩa họng súng xuống đất. Như thế này. Đừng bắn khi chưa nghe tiếng súng máy.
Hãy nhắm vào đầu gối mà bắn nếu bắn từ trên cao như chỗ này. Khi nghe tôi thổi
ba lần với cái còi này, thì các đồng chí hãy kín đáo đi lần xuống và đến bên
khẩu súng máy.
Primitivo giơ khẩu súng lên.
- Hiểu rồi - Hắn nói - Dễ ợt mà.
- Nhớ ném hòn đá trước tiên để thông
báo cho tôi, đoạn cho biết hướng đi và số lượng. Coi chừng đừng để lộ...
- Xong rồi - Primitivo nói - Tôi ném
lựu đạn được không?
- Trước khi khẩu súng máy khai hỏa thì
không được. Chúng có thể đến đây tìm đồng bọn và không dám đi sâu hơn về phía
trước. Chúng có thể theo dấu Pablo. Chúng ta không nên đụng độ nếu có thể tránh
được. Cần nhất là cố tránh đụng độ. Bây giờ hãy đi lên trên đi.
- Me voy. - Primitivo nói, và hắn cầm
các bin trong tay bước lên những tảng đá cao.
- Còn Angustin, - Robert Jordan nói -
đồng chí có biết làm gì với khẩu súng máy này không?
Angustin bước tới, hắn đen đúa, dinh
dàng, cằm lỏm chởm râu, mắt sâu hoắm, môi mỏng, đôi tay nặng nề và chai sạn vì
công việc.
- Pues 6, tôi biết nạp đạn. Nhắm. Bắn.
Chỉ có vậy.
- Đồng chí đừng bắn trước khi chúng
chưa cách năm chục thước và chỉ bắn khi đồng chí chắc chắn rằng chúng sắp đi
vào con đường đưa tới hang. - Robert Jordan nói.
- Đồng ý. Cách bao xa đây?
- Chỗ tảng kia. Nếu có một tên sĩ quan,
thì hãy bắn vào hắn trước hết. Đoạn chĩa vào những tên khác. Bắn thật chậm. Ghì
cho mạnh để súng khỏi giựt. Nhắm thật cẩn thận và đừng bắn liên tiếp hơn sáu
phát nếu có thể. Nhưng cứ mỗi lần nhắm một tên rồi quay sang một tên khác. Nếu
là một người cưỡi ngựa thì hãy nhắm vào bụng.
- Ừ.
- Phải có người giữ chân ba càng để
khẩu súng khỏi rung. Như thế này đây. Và để lắp đạn cho đồng chí.
- Còn đồng chí lúc đó ở đâu?
- Tôi ở đàng kia, bên trái. Ở trên kia
kìa, để có thể nhìn thấy hết mọi sự và tôi sẽ bắn che cánh trái của đồng chí
với khẩu tiểu liên. Nếu chúng tới, phải tàn sát chúng. Nhưng không nên bắn
trước khi chúng đến thật gần.
- Tôi tin có thể tàn sát chúng. Menuda
matanza! 7
- Nhưng tôi hy vọng chúng không tới.
- Nếu không có vụ nổ cầu của đồng chí,
ta có thể tiêu diệt chúng và chuồn êm.
- Việc này có lợi gì? Nó chả ích lợi
gì. Cây cầu góp phần vào chương trình để thắng trận giặc này. Còn cái này, đúng
là con số không. Đây chỉ là việc phụ. Chả quan trọng gì.
- Sao, chả quan trọng gì à, mỗi tên
phát xít chết đi là đỡ một tên phát xít.
- Đúng. Nhưng với chuyện phá cầu, ta có
thể tiến chiếm Ségovie, thủ phủ của tỉnh lỵ. Hãy nghĩ kỹ điều đó. Đó là vùng
đầu tiên ta tiến chiếm.
- Đồng chí nói thật chớ? Ta có thể
chiếm Ségovie à?
- Thật. Có thể, nếu cây cầu nổ tung như
dự định.
- Tôi muốn tiêu diệt chúng tại đây và
cũng muốn nổ sập cầu nữa.
- Đồng chí tham lam quá. - Robert
Jordan bảo hắn. Trong lúc đó, chàng trông chừng mấy con quạ. Chàng lưu ý thấy
một con đang nhìn vào một vật gì. Nó cất tiếng kêu và vỗ cánh bay đi. Nhưng con
kia vẫn đứng im trên cành cây. Robert Jordan nhìn về phía trạm canh của
Primitivo ở trên núi đá. Chàng trông thấy hắn đang quan sát cánh đồng nhưng hắn
không ra dấu hiệu gì. Robert Jordan nghiêng người về phía trước mở cuy lách của
khẩu súng máy và kiểm điểm máy nạp đạn. Đoạn chàng đóng cuy lách. Con quạ vẫn
còn trên cành cây, con kia lượn thành một vòng lớn trên tuyết và đáp trở xuống
cành cây. Trong nắng và gió nóng, những cành thông để rơi từng mảng tuyết.
- Tôi hứa với đồng chí là sẽ có một
cuộc tàn sát vào sáng mai - Robert Jordan nói - Cần phải thanh toán đồn canh
tại xưởng cưa.
- Tôi sẵn sàng -
Angustin nói - Estoy listo.
- Và cả đồn canh
trong cái chòi của phu lục lộ dưới chân cầu nữa.
- Tôi sẵn sàng cho
cái này hoặc cái kia - Angustin nói - Hoặc cả hai.
- Không cả hai
được. Ta tấn công chúng cùng một lúc. - Robert Jordan nói.
- Vậy thì một trong
hai vậy - Angustin nói - Lâu rồi tôi muốn được hành động trong trận giặc này.
Pablo làm tụi này chết rũ ở đây.
Anselmo bước tới,
xách theo cái rìu.
- Đồng chí còn cần
nhánh cây nữa không? - Lão hỏi - Tôi thì thấy kín đáo lắm rồi.
- Không phải cành
cây - Robert Jordan nói - Mà hai cây nhỏ cắm ở đây, thiếu cây cối để trông có
vẻ tự nhiên.
- Tôi đi lấy về
cho.
- Hãy chặt ở xa xa
một chút để người ta đừng trông thấy gốc.
Robert Jordan nghe
tiếng rìu vang lên trong đám cây sau chàng. Chàng ngước mắt nhìn về phía
Primitivo ở trên núi đá, đoạn quan sát những cây thông phía dưới ở bên kia cánh
rừng. Con quạ vẫn còn đó. Chàng nghe tiếng rống chát chúa đầu tiên của một
chiếc phi cơ đang bay tới gần. Chàng ngước mắt nhìn lên và trông thấy nó ở trên
cao, bé nhỏ và lấp lánh dưới mặt trời. Nó có vẻ di động thật chậm trên trời.
- Nó không trông
thấy ta được đâu - Chàng bảo Angustin - Nhưng phải cẩn thận. Đó là chiếc phi cơ
quan sát thứ nhì trong ngày hôm nay.
- Còn những chiếc
hôm qua? - Angustin hỏi.
- Bây giờ thì nó
chỉ còn là một cơn ác mộng. - Robert Jordan nói.
- Chúng phải ở
Ségovie. Cơn ác mộng còn đợi dưới kia để trở thành sự thật.
Bây giờ thì chiếc
phi cơ đã biến mất trên những ngọn núi nhưng tiếng động cơ vẫn còn vẳng lại.
Và khi nhìn lên
không, chàng bỗng thấy con quạ bay đi. Nó bay thẳng trong đám cây mà không cất
lên một tiếng kêu nào.
--- ------ ------
------ -------
1 Con của đồ đĩ.
2 Trời.
3 Mẹ ơi.
4 Cừ thật.
5 Người theo phái
bảo tàng.
6 Rồi thì.
7 Cuộc tàn sát nhỏ.
Chương 23
- Nằm xuống đi! -
Robert Jordan thì thầm với Angustin, đoạn quay đầu ra dấu, và bảo Anselmo cúi
xuống. Anselmo đang bước tới, vai mang một cây tùng trông giống như một cây
giáng sinh. Chàng trông thấy lão già đặt cây tùng sau một tảng đá và biến mất
trong các mô đá, đoạn Robert Jordan bắt đầu quan sát khoảng không trống trải
trước mặt theo hướng của cánh rừng. Chàng không thấy gì, nghe gì, nhưng chàng
cảm thấy tim mình đập mạnh. Đoạn chàng nghe tiếng đá chạm vào nhau, và tiếng
một hòn sỏi lăn xuống. Chàng quay đầu sang phía tay phải và ngước mắt nhìn lên,
chàng trông thấy khẩu súng của Primitivo giơ lên và hạ xuống bốn lần theo chiều
ngang. Tiếp theo chàng chỉ còn trông thấy một vùng trắng xóa trước mặt với dấu chân
chạy vòng quanh do con ngựa xám để lại, và thấp hơn ở phía dưới là bìa rừng.
- Kỵ binh. - Chàng
nói thật khẽ với Angustin.
Angustin nhìn
chàng, hai má lõm, âm u như dãn rộng ra trong một nụ cười. Robert Jordan để ý
thấy hắn đổ mồ hôi hột. Chàng đưa tay đặt lên vai hắn. Trong lúc đó, họ thấy
bốn tên kỵ binh ra khỏi khu rừng và Robert Jordan cảm thấy những bắp thịt trên
lưng Angustin căng ra dưới bàn tay của chàng.
Một tên kỵ binh dẫn
đầu, ba tên khác cho ngựa đi nước kiệu ở phía sau. Tên dẫn đầu đang theo dấu
chân con ngựa xám. Hắn ngồi trên lưng ngựa, hai mắt chăm chăm nhìn xuống đất.
Ba tên khác cưỡi ngựa đi theo hình cánh quạt xuyên qua cánh rừng. Tất cả đều
sẵn sàng trong thế thủ. Robert Jordan nghe tim đập mạnh, sát vào mặt đất phủ
đầy tuyết nơi chàng đang nằm dài, hai khuỷu tay dang rộng, và chàng nhìn mấy
tên kỵ binh qua lỗ nhắm của khẩu súng máy.
Tên dẫn đầu đi theo
dấu vết để lại cho tới nơi Pablo loanh quanh, và hắn dừng lại ở đó. Những tên
khác cũng đến bên hắn và dừng lại.
Robert Jordan trông
thấy bọn chúng rõ mồn một ở phía trên nòng thép xanh của khẩu súng máy. Chàng
phân biệt được những khuôn mặt, những lưỡi kiếm thòng xuống đất, những cạnh
sườn ngựa rịn mồ hôi, những chiếc áo choàng ka ki hình nón và những chiếc mũ
đội trệch xuống. Tên dẫn đầu thúc ngựa đi về phía khoảng hở giữa những tảng đá,
nơi đặt khẩu súng máy, và Robert Jordan trông thấy khuôn mặt non choẹt của hắn
sạm đi vì nắng và gió, hai mắt gần tiếp giáp nhau, mũi quặm, chiếc cằm dài sọc
và vểnh ra.
Tới đây, ức con
ngựa đã ở ngay trước mặt Robert Jordan, đầu nó ngước cao, bá súng tiểu liên nhô
ra khỏi bao, ở bên phải yên ngựa, tên dẫn đầu phác một cử chỉ về phía khoảng
trống nơi đặt khẩu súng.
Robert Jordan ấn
sâu hai khuỷu tay vào mặt đất và nhìn dọc theo nòng súng, bốn tên kỵ mà dừng
lại trên tuyết! Ba tên trong bọn chúng đã rút súng ra khỏi bao. Hai cầm súng
ngang yên ngựa. Còn tên kia ghìm súng bên tay phải, bá súng tì vào hông.
Chàng nghĩ, ít khi
nào được thấy chúng gần gũi như thế này. Thông thường người ta chỉ thấy chúng
từ đàng xa trông như những con người thu nhỏ lại và người ta chỉ việc bắn tới
đó. Hoặc giả chúng đang chạy và làm náo loạn cả lên, lúc đó ta sẽ bắn xuống dốc
đồi hoặc chận ngang một con đường, hoặc nhắm các cửa sổ, trong trường hợp khác
nữa, người ta trông thấy chúng từ xa, đang diễn hành trên một con đường. Chỉ
lúc đánh xe lửa ta mới thấy chúng như vậy. Đó là trường hợp của chúng hiện giờ
và với bốn khẩu súng như vậy, người ta có thể làm chúng thất tán như không.
Nhìn qua lỗ nhắm, với khoảng cách đó, chúng có lẽ cao lớn gấp đôi. Mày, chàng
nghĩ thầm vừa nhìn qua lỗ nhắm đỉnh đầu ruồi nhắm trúng ngực tên dẫn đầu lệch
sang bên phải của chiếc huy hiệu màu đỏ tía, chói chang dưới ánh sáng của buổi
mai hắt lên chiếc áo choàng ka ki. Mày, chàng nghĩ thầm, và ấn mấy ngón tay sát
vào vành che cò súng. Mày, chàng lại nghĩ, như thế là mày đi đời giữa tuổi xuân
xanh. Và mày, chàng nghĩ, và mày. Nhưng không nên để việc đó xảy ra. Không nên.
Chàng nghe bên cạnh
mình, Angustin đang sắp sửa cất tiếng ho. Chàng cảm thấy hắn đang cố nén lại,
nín thở và nuốt ực trở vào. Đoạn, chàng nhìn dọc theo nòng súng có màu xanh
bóng, xuyên qua chùm lá, mấy ngón tay vẫn tì sát vào vành che cò súng, chàng
trông thấy tên dẫn đầu quay ngựa đi và tiến về phía cánh rừng nơi có dấu Pablo
để lại. Tất cả bốn tên đều thúc ngựa vào rừng và Angustin nói nho nhỏ:
“Cabrones” 1.
Robert Jordan nhìn
ra sau, về phía những tảng đá nơi Anselmo đặt thân cây xuống.
Tên du mục đang
tiến tới giữa những tảng đá tay xách hai túi yên ngựa, khẩu súng trên lưng.
Robert Jordan ra dấu cho hắn cúi thấp xuống và tên du mục biến mất.
- Mình có thể hạ
chúng cả bốn thằng. - Angustin nói nho nhỏ. Hắn toát mồ hôi khắp mình mẩy.
- Đúng - Robert
Jordan thì thầm - Nhưng ai biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu có tiếng súng?
Lúc đó, chàng nghe
một hòn sỏi khác lăn xuống và vụt đảo mắt nhìn quanh. Nhưng tên du mục và
Anselmo đã khuất dạng. Chàng nhìn xuống chiếc đồng hồ tay của mình, đoạn nhìn
lên khoảng không và trông thấy Primitivo đang cầm súng đưa lên đưa xuống liên
tiếp nhiều lượt. Chàng nghĩ, Pablo có trước bốn mươi lăm phút, và sau đó chàng
nghe tiếng một đội kỵ binh đang tới gần.
- No te apures -
Chàng thì thầm với Angustin - Đừng sợ, chúng sẽ đi qua như các tên kia.
Chúng xuất hiện,
cưỡi ngựa theo nước kiệu dọc bìa rừng, đi thành hàng đôi, tất cả lên tới hai
chục tên, trang bị vũ khí và mặc quân phục như những tên khi nãy, kiếm thòng
xuống đất, súng nhô ra khỏi bao, và chúng đi sâu vào rừng như những tên trước.
- Tu ues - Robert Jordan nói với
Angustin - Thấy chưa?
- Đông quá. - Angustin nói.
- Nếu khi nãy mình hạ mấy tên kia là
đụng độ với bọn này rồi. - Robert nói thật nhỏ. Tim chàng đã trở lại nhịp bình
thường, chiếc áo sơ-mi của chàng ướt đẫm vì tuyết tan. Chàng nghe một cảm giác
trống trải trong lồng ngực.
Mặt trời chiếu sáng trên tuyết đã bắt
đầu tan thật nhanh chóng. Chàng trông thấy tuyết lõm xuống quanh mấy thân cây
và trước nòng đại liên, dưới mắt chàng, mặt tuyết ẩm ướt đang tan dần dưới sức
nóng của mặt trời và hơi ấm từ đất xông lên.
Robert Jordan ngước mắt nhìn về phía
trạm canh của Primitivo và trông thấy hắn ra dấu: “Không có gì”, bằng cách chấp
hai bàn tay úp xuống.
Đầu Anselmo hiện ra trên một tảng đá và
Robert Jordan ra dấu cho lão tới gần. Lão già lướt đi từ tảng núi đá này tới
tảng núi đá khác, vừa đi vừa bò sát mặt đất đến bên khẩu súng máy.
- Nhiều quá - Lão nói - Nhiều quá.
- Không cần cây - Robert Jordan nói với
lão - Thôi đừng hoài công tạo thêm những cảnh rừng ở đây nữa.
Anselmo và Angustin
cùng mỉm cười.
- Ngụy trang đã có
kết quả và bây giờ cắm cây ở đây có lẽ sẽ nguy hiểm bởi chúng có thể trở lại và
có thể chúng không ngu đâu.
Chàng thấy cần nói,
một dấu hiệu quen thuộc của chàng mỗi khi trải qua một cơn nguy hiểm trọng đại.
Luôn luôn chàng có thể đo lường mức độ trầm trọng của công việc bằng ước muốn
lên tiếng, phát biểu đến với chàng sau đó.
- Ngụy trang khéo
chớ hả? - Chàng nói.
- Ừ - Angustin nói
- Khéo lắm. Tổ cha bọn phát xít. Mình đã có thể hạ bốn tên. Đồng chí thấy
không? - Hắn hỏi Anselmo.
- Thấy.
- Còn đồng chí, -
Robert Jordan bảo Anselmo - đồng chí phải đến trạm canh hôm qua hoặc một trạm
canh nào khác để quan sát con đường và báo cáo cho tôi biết tất cả những gì xảy
ra ở đó như hôm qua vậy. Hơi trễ rồi đó. Hãy ở đó cho tới đêm. Sau đó hãy trở
về và có người khác tới thế.
- Nhưng tôi sẽ để
lại dấu vết thì sao?
- Hãy lên đó ngay
khi tuyết tan đi hết. Con đường sẽ trở nên lầy lội. Hãy xem có nhiều dấu xe cam
nhông và dấu xe thiết giáp trên những lớp tuyết tan thành bùn hay không. Đó là
tất cả những gì chúng tôi có thể nói trước khi đồng chí đến trạm canh để quan
sát.
- Đồng chí cho phép
chớ? - Lão già hỏi.
- Dĩ nhiên.
- Nếu được phép, có
lẽ tốt hơn là tôi nên tới La Granja để thăm dò tin tức đêm rồi và tôi gởi một
người nào đó để quan sát theo ý đồng chí muốn. Người đó có thể báo cáo vào tối
nay, hoặc tôi có thể trở lại La Granja để nhận báo cáo.
- Đồng chí không sợ
gặp kỵ binh à?
- Khi tuyết tan thì
không sợ.
- Ở La Granja có ai làm việc đó không?
- Có. Về việc đó thì có. Một người đàn
bà. Có nhiều người đàn bà đáng tin cậy ở La Granja.
- Tôi tin điều đó - Augustin nói - Và
có nhiều người rất tốt cho việc khác nữa kia. Đồng chí có muốn tới đó không?
- Hãy để lão già tới đó. Đồng chí biết
sử dụng súng máy và ngày chưa hết mà.
- Tôi sẽ đi khi nào tuyết tan - Anselmo
nói - Tuyết sẽ tan ngay ấy mà.
- Đồng chí có tin rằng chúng đuổi kịp
Pablo không? - Robert Jordan hỏi Angustin.
- Pablo tinh ranh lắm - Angustin nói -
Liệu người ta có thể đuổi kịp một con hươu nếu không có chó?
- Có thể. - Robert Jordan nói.
- Với Pablo thì không - Angustin nói -
Rõ ràng là hắn chỉ còn là vang bóng một thời. Nhưng không phải tự nhiên mà hắn
vẫn còn sống và sống ung dung trên vùng núi này để có thể say sưa chè chén khi
có quá nhiều người chết dưới chân tường.
- Hắn tinh quái đến thế à?
- Hơn nữa kìa.
- Nhưng tôi thấy ở đây hắn không sành
sỏi với công việc lắm.
- Como que no? Không sành sỏi thì hắn
đã chết chiều hôm qua rồi. Tôi có cảm tưởng đồng chí không biết gì về chính
trị, ông Inglés ạ, và cả về du kích chiến nữa. Về mặt chính trị ở đây, điều
quan trọng bực nhứt là tiếp tục sống. Hãy nhìn xem hôm qua hắn đã giữ gìn mạng
sống ra sao. Và hàng tá rác rến của đồng chí và của tôi mà hắn ngốn hết.
Giờ đây Robert Jordan không còn muốn
bêu xấu Pablo nữa khi hắn đã lại đứng vào hàng ngũ, và chàng hối hận đã bảo hắn
không sành sỏi công việc. Chàng thừa biết Pablo rất tinh ranh, quái quỷ. Pablo
đã thấy ngay tức khắc điểm nguy hiểm chứa đựng trong những mệnh lệnh liên quan
tới việc phá hủy cây cầu. Hắn lưu ý điều đó chỉ vì hắn không ưa thích gì vụ
này, và hắn biết mình đã lầm lẫn khi nói lên điều đó. Đó chính là ước muốn được
nói năng tiếp theo những cảm xúc. Chàng nói sang chuyện khác và bảo Anselmo :
- Đồng chí có thể đi La Granja vào ban
ngày được không?
- Không ghê gớm gì đâu - Lão già nói -
Tôi đâu có đi với giàn quân nhạc đâu mà lo.
- Cũng không với cái chuông đeo ở cổ. -
Angustin nói - Cũng không có cờ xí mang theo.
- Định đi cách nào đây?
- Len lỏi trên núi và sau đó đi băng
qua rừng.
- Nhưng nếu chúng đón đường thì sao?
- Tôi có giấy tờ.
- Chúng ta có đầy đủ hết, nhưng hãy cố
gắng nuốt những giấy tờ nguy hiểm.
Anselmo gật đầu và vỗ vào túi áo.
- Nhiều lần tôi đã nghĩ tới chuyện đó -
Lão ta nói - Nhưng tôi không thích nuốt giấy tờ.
- Có lẽ nên để vào đó một ít hột cải -
Robert Jordan nói - Trong túi trái, tôi có những giấy tờ của bọn mình. Trong
túi phải là giấy tờ phát xít. Như thế đó, trong trường hợp nguy hiểm, khỏi phải
lẫn lộn.
Trường hợp nguy hiểm thì đã rõ khi tên
trưởng toán thám thính ra hiệu về phía họ, bởi vì tất cả bọn họ đều nói rất
nhiều. Quá nhiều, Robert Jordan nghĩ.
- Nhưng mà này Roberto - Angustin nói -
Người ta đồn rằng chính phủ ngày một nghiêng về phía hữu, rằng trong vùng Cộng
Hòa người ta không gọi nhau bằng đồng chí nữa mà bằng Sénor và Sénora. Đồng chí
có thể đánh tráo các túi của đồng chí không?
- Khi họ nghiêng về phía hữu như vậy,
tôi sẽ cất giấy tờ của tôi trong túi súng lục, - Robert Jordan nói - và tôi sẽ
may nó dính vào đáy quần tôi.
- Hy vọng chúng vẫn nằm trong áo sơ-mi
của đồng chí - Angustin nói - Người ta có thể thắng trận giặc này và thất bại
trong cuộc cách mạng không?
- Không - Robert Jordan nói - Nếu không
thắng được trận giặc này thì không còn cách mạng nữa, không còn cả nền Cộng
Hòa, cả đồng chí, cả tôi, cả mọi sự, tất cả chỉ còn là một carajo 2 vĩ đại.
- Thì như tôi đã nói - Anselmo nói - Ta
bắt buộc phải thắng trận giặc này.
- Và sau đó bắn bỏ hết bọn vô chánh phủ
và bọn cộng sản cùng tất cả bọn canalla
3 kia, trừ những người Cộng Hòa tốt. - Angustin nói.
- Phải thắng trận giặc này và không bắn
bỏ ai cả - Anselmo nói - Phải cai trị với sự công bằng và để tất cả mọi người
được hưởng những lợi ích tùy theo những công khó mà họ bỏ ra. Và phải giáo hóa
những ai đã chống lại ta, để họ hiểu sự lầm lẫn của họ.
- Phải bắn bỏ nhiều người - Angustin
nói - Nhiều. Nhiều. Nhiều.
Hắn dùng nắm tay phải đấm vào lòng bày
tay trái.
- Tôi hy vọng sẽ không phải giết ai cả.
Ngay cả bọn đầu xỏ. Phải cải tạo chúng bằng lao động.
- Tôi biết phải bắt chúng làm công việc
gì rồi. - Angustin nói và hắn nhặt lên một nắm tuyết bỏ vào miệng.
- Công việc gì? - Robert Jordan hỏi.
- Hai việc làm cực kỳ hào hứng.
Angustin hãy còn nhấm mút mớ tuyết và
nhìn về phía cánh rừng thưa nơi bọn kỵ binh đã đi qua. Đoạn hắn nhổ mớ tuyết
tan.
- Vaya 4. Buổi điểm tâm gì lạ lùng -
Hắn nói - Cái tên du mục bần tiện đâu rồi kìa!
- Việc gì? - Robert Jordan hỏi - Nói
đi, tên xấu mồm.
- Cho nhảy máy bay không dù. - Angustin
nói, hai mắt sáng lên - Việc này dành cho những tên ta mến mộ. Còn những tên
khác thì đóng đinh trên những cột cao.
- Đồng chí nói nghe đê tiện, gớm ghiếc
quá. - Anselmo nói - Không thể nào có được một nền Cộng Hòa như vậy.
- Tôi muốn bơi năm mươi thước trong nồi
canh đặc sệt nấu bằng trứng d... của tất cả bọn chúng. - Angustin nói - Khi
trông thấy bốn tên kỵ binh kia, tôi đã nghĩ việc hạ chúng, tôi nôn nao như một
con ngựa cái bị cột vào một chỗ đang đợi con ngựa giống.
- Nhưng đồng chí biết tại sao ta không
hạ chúng rồi chớ? - Robert Jordan ôn tồn nói.
- Biết rồi. Đồng ý. Nhưng tôi thèm hạ
chúng như một con ngựa cái đang động đực. Đồng chí không hiểu được nếu không có
cảm giác đó.
- Đồng chí đổ mồ hôi khá nhiều - Robert
Jordan nói - Tôi tưởng đồng chí sợ chớ.
- Sợ, đúng. Sợ và còn cái khác nữa. Và
trên đời này không gì mạnh mẽ hơn cái khác đó.
Đúng như vậy, Robert Jordan nghĩ. Chúng
ta làm công việc đó một cách lạnh nhạt. Còn bọn họ thì không bao giờ như vậy
cả. Đó chính là thánh lễ của họ, thứ thánh lễ cổ xưa mà họ có trước khi tiếp
nhận luồng tôn giáo mới đến từ bên kia Địa Trung Hải, thứ thánh lễ mà bọn họ
không đời nào chịu buông bỏ mà chỉ dồn nén và che giấu nó đi để rồi bộc lộ
trong chiến tranh và những cuộc tra tấn. Họ thuộc dân tộc vốn đặt niềm tin nơi
những cuộc hỏa hình.
Dĩ nhiên là phải giết nhau nhưng với
chúng ta thì khác. Còn mày, chàng tự hỏi, mày không hề cảm nghiệm điều đó à?
Mày không hề cảm nghiệm điều đó trong vùng Sierra? Usera? Và trọn khoảng thời
gian ở Estramadure nữa? Qué va, chàng tự nhủ. Trong mỗi vụ đánh xe lửa. Thôi
đừng làm mãi cái thứ văn chương đáng ngờ về bọn Berbères và bọn Ibères cổ xưa,
hãy nhìn nhận rằng mày thích thú trong việc giết người, giống như tất cả bọn
lính nghề thỉnh thoảng cũng say máu, dù họ có thú thật điều đó hay không.
Anselmo không thích chuyện đó vì lão là thợ săn chớ không phải là lính. Mày
cũng đừng lý tưởng hóa con người lão. Bọn thợ săn giết loài vật còn bọn lính
thì giết người. Đừng dối lòng mày, chàng nghĩ. Và đừng làm văn chương. Mày đã
vướng vào chuyện đó lâu rồi đó. Thôi cũng đừng nghĩ xấu về lão Anselmo nữa. Lão
là tín đồ Cơ Đốc. Một sự kiện thật lạ trong những xứ sở theo Thiên Chúa giáo.
Nhưng Angustin thì
tôi tin rằng hắn sợ. Nỗi sợ tự nhiên trước khi hành động. Nhưng còn việc khác
nữa. Cũng có thể hắn làm ra vẻ gan lì, dĩ nhiên rồi. Trong trường hợp hắn thì
người ta dễ sợ hãi lắm. Tôi cảm thấy sự sợ hãi dưới bàn tay tôi. Thôi, đã tới
lúc đừng lải nhải nữa.
- Đi xem tên du mục
mang thức ăn tới chưa - Chàng bảo Anselmo - Đừng để hắn lên đây. Đó là một
thằng điên. Hãy mang lấy. Và dù hắn có mang tới bao nhiêu thức ăn, hãy bắt hắn
về lấy thêm nữa. Tôi đói lắm đây.
--- ------ ------
------ -------
1 Đồ dê đực.
2 Hỗn loạn.
3 Bọn vô lại.
4 Trò đùa.
Chương 24
Bây giờ đúng là một
buổi sáng vào cuối tháng Năm. Bầu trời cao rộng và trong sáng, gió thổi nghe
nóng trên vai Robert Jordan. Tuyết tan rất nhanh. Lúc bấy giờ họ đang dùng điểm
tâm. Có hai miếng xăng-uých lớn dồn thịt và phó mách dê cho mỗi miếng. Robert
Jordan dùng con dao của mình thái từng miếng củ hành mỏng, cặp chúng vào mỗi
bên thịt và phó mách giữa hai lát bánh mì.
- Bọn phát xít sắp
sửa đánh mùi đồng chí suốt từ đầu kia cánh rừng. - Angustin nói, miệng đầy thức
ăn.
- Đưa bầu rượu cho
tôi tráng miệng coi. - Robert Jordan miệng nhai ngấu nghiến.
Chàng chưa bao giờ
đói đến như vậy. Chàng nốc một ngụm rượu đầy, bầu rượu bằng da súc vật nghe như
mùi hắc ín, chàng giơ cao cái bầu để rượu chạy vào sâu trong miệng, cái bầu
chạm vào những lá thông dùng để ngụy trang và chàng ngửa đầu trong cành lá để
uống.
- Cần xăng-uých nữa
không? - Angustin vừa hỏi chàng vừa đưa miếng bánh qua khẩu súng.
- Thôi. Cám ơn. Ăn
đi.
- Tôi ăn hết vô
rồi. Tôi không quen ăn sáng.
- Đồng chí không ăn
nữa thật à?
- Ừ. Cầm lấy.
Robert Jordan đón
lấy miếng bánh đặt lên đầu gối và lấy ra một củ hành từ trong túi áo vét nơi
đựng những trái lưu đạn. Chàng mở con dao ra để cắt. Chàng bỏ đi một lớp mỏng
bẩn thỉu ở ngoài, đoạn cắt một miếng dày, một khoanh ngoài rơi xuống, chàng
lượm nó lên, lấp trở vào và dồn tất cả trong miếng xăng-uých.
- Đồng chí lúc nào
cũng ăn củ hành trong bữa điểm tâm à? - Angustin hỏi.
- Nếu có.
- Ở xứ đồng chí, ai
cũng ăn như vậy à?
- Không - Robert
Jordan nói - Ở đó ăn uống lôi thôi lắm.
- Điều này làm tôi
khoái chí - Angustin nói - Tôi vẫn luôn luôn coi Mỹ quốc là một nước văn minh.
- Đồng chí ghét củ
hành về điểm nào?
- Chỉ ghét cái mùi
của nó. Ngoài ra trông nó giống một bông hồng.
Robert Jordan mỉm
cười với hắn, miệng vẫn ngấu nghiến.
- Giống bông hồng -
Chàng nói - Đúng lắm. Một bông hồng bằng một bông hồng, bằng một củ hành.
- Coi chừng củ hành
nó lên óc đồng chí đó nghe. - Angustin nói.
- Một củ hành bằng
một củ hành, bằng một củ hành. - Robert Jordan vui vẻ nói, và chàng nghĩ một
hòn đá bằng một tảng đá bằng một kè đá, bằng một núi đá, bằng một hòn sỏi.
- Đồng chí hãy
tráng miệng với rượu đi - Angustin nói - Trông đồng chí nản thiệt, ông đồng chí
Inglés ạ. Đồng chí; khác xa với anh chàng chuyên viên chất nổ vừa rồi đã từng
làm việc với bọn tôi.
- Quả thật là khác nhau xa.
- Khác nhau làm sao?
- Tôi sống, hắn chết. - Robert Jordan
nói. Sau đó chàng lại nghĩ, cái gì bắt mày? Đó là một cách nói! Chính vì khi ăn
ngon mày được hưởng sự thoải mái, phải không? Mày là cái quái gì hở tên say củ
hành? Có phải đó là trạng thái nó đã gây ra cho mày? Cái đó chẳng có gì đáng
kể, chàng thành thật nghĩ thầm. Thỉnh thoảng mày cũng thử gán cho nó một ý
nghĩa nào đó nhưng nó lại chẳng ra làm sao cả. Thôi đừng dối lòng vô ích.
- Không - Chàng nói một cách nghiêm
chỉnh - Hắn là người đã chịu khổ nhiều.
- Còn đồng chí thì sao? Đồng chí không
khổ sao?
- Không. Tôi thuộc những người chịu khổ
phần nào thôi.
- Tôi cũng vậy - Angustin nói - Có
những người sống khổ và những người khác thì không. Còn tôi, tôi khổ ít.
- Tốt chớ sao. - Robert Jordan mở nút
vò - Và với cái này thì con tốt hơn nữa.
- Tôi khổ vì kẻ khác.
- Như tất cả những con người tốt đều
phải vậy.
- Nhưng cho tôi thì ít lắm.
- Đồng chí có bà xã không?
- Không.
- Tôi cũng không.
- Nhưng mà bây giờ đồng chí đã có
Maria.
- Ừ.
- Kỳ thật - Augustin nói - Từ khi cô ta
về đây với bọn tôi sau lần đánh xe lửa, Pilar bảo vệ cô ta với tất cả mọi
người, hà khắc như trong tu viện. Đồng chí không tưởng tượng nổi bà ta bảo vệ
nàng dữ tợn tới đâu. Đồng chí tới thì bà ta lại tặng nàng cho đồng chí. Đồng
chí thấy thế nào?
- Chuyện đó không phải như vậy đâu!
- Nó ra làm sao nào?
- Bà ta giao cô ta cho tôi săn sóc.
- Giao cô ta cho đồng chí joder 1 cả
đêm... Đó cũng là cách săn sóc một người hả?
- Đồng chí không biết người ta có thể
săn sóc một người nào bằng cách đó à?
- Biết chớ. Nhưng về những cách săn sóc
đó, ai trong bọn tôi cũng làm được.
- Thôi đừng nói tới chuyện đó nữa -
Robert Jordan nói - Tôi thương cô ta đàng hoàng.
- Đàng hoàng à?
- Không gì đàng hoàng hơn nữa.
- Sau đó? Sau vụ cây cầu thì sao?
- Cô ta sẽ đi với tôi.
- Trong trường hợp này thì ta không nói
chuyện đó nữa, cả hai người hãy ráng mà hưởng hạnh phúc với nhau.
Angustin nhấc bầu rượu và nốc một ngụm
dài, đoạn trao cho Robert Jordan.
- Còn điều này, Inglés. - Hắn nói.
- Điều gì.
- Tôi cũng vậy, tôi thương cô ta lắm.
Robert Jordan đặt bàn tay lên vai hắn.
- Nhiều - Angustin nói - Nhiều hơn
người ta có thể tưởng tượng ra được.
- Tôi tưởng tượng được.
- Cô ta gây cho tôi một ấn tượng bền
vững.
- Tôi tưởng tượng được.
- Đồng chí biết chớ. Tôi nói điều đó
thật đứng đắn.
- Nói đi.
- Tôi chưa hề đụng tới cô ta và tôi
cũng không có dịp nào gần gũi cô ta, nhưng tôi thương cô ta lắm, ông đồng chí
Inglés ạ, ông đừng có coi thường nàng nghe, không phải vì ngủ với ông mà cô ta
là điếm đâu.
- Tôi sẽ lo cho cô ta.
- Tôi tin đồng chí. Nhưng đồng chí
không hiểu một cô gái như thế sẽ ra làm sao nếu không xảy ra cách mạng. Đồng
chí có trách nhiệm lớn lao. Cô ta khổ nhiều rồi. Cô ta không như bọn mình.
- Tôi sẽ cưới cô ta.
- Không. Không phải vậy đâu. Cái đó,
trong thời cách mạng, quả không cần thiết. Dù sao... - Hắn ngẩng đầu lên.
- Tôi sẽ cưới cô ta - Robert Jordan
nói, và trong khi nói vậy chàng nghe cuống họng mình nó lạ làm sao - Tôi rất
thương cô ta.
- Sau này đã - Angustin nói - Khi nào
thuận tiện hơn cơ. Điều quan trọng là nên có ý định đó.
- Tôi có ý định đó.
- Nghe đây, - Angustin nói - tôi nói
quá nhiều và lại nói về một chuyện chẳng ăn nhậu gì tới mình. Nhưng mà đồng chí
biết nhiều đàn bà ở đây không?
- Vài người.
- Điếm à?
- Khác nữa.
- Bao nhiêu người?
- Nhiều.
- Ngủ với họ rồi à?
- Không.
- Đồng chí thấy rõ chớ?
- Thấy.
- Tôi muốn nói rằng con bé Maria đó
không xem nhẹ chuyện đó đâu.
- Tôi cũng vậy.
- Nếu tin rằng đồng chí xem nhẹ chuyện
đó, tôi đã bắn đồng chí khi đồng chí đang ngủ với cô ta. Về những chuyện đó, ở
đây người ta giết nhiều người lắm.
- Nghe này ông bạn - Robert Jordan nói
- Vì không có thì giờ nên không còn lễ nghi phép tắc gì nữa. Chúng tôi không có
thì giờ. Ngày mai phải chiến đấu rồi. Với tôi, điều đó chẳng là gì. Nhưng với
tôi và Maria, điều đó có nghĩa là chúng tôi phải sống trọn vẹn trong lúc này.
- Một ngày một đêm chả có bao nhiêu.
- Đúng. Nhưng đã có ngày hôm qua, đêm
trước và đêm rồi.
- Phải chi tôi có thể làm gì để giúp
đồng chí.
- Không. Tất cả đều tốt đẹp.
- Phải chi tôi có thể làm gì cho đồng
chí và cho cô bé đầu trọc...
- Không.
- Quả thật một người không thể giúp gì
nhiều cho một người khác.
- Không đúng. Người ta có thể làm được
nhiều chuyện chớ.
- Chuyện gì?
- Từ hôm nay tới mai, trong tất cả mọi
việc liên quan tới cuộc chiến đấu, hãy nghe tôi và làm tôi tin cậy, ngay khi
những mệnh lệnh có vẻ ngu xuẩn đi nữa.
- Tôi tin nơi đồng
chí. Kể từ khi xảy ra vụ kỵ binh vừa rồi và trông vào cách đồng chí dời con
ngưa đi chỗ khác.
- Chưa có gì đâu.
Chúng ta làm việc cho một mục tiêu rõ ràng là thắng trận. Cho tới khi nào chúng
ta thắng trận, mọi việc khác đều không quan trọng. Ngày mai có việc thật hệ
trọng. Hệ trọng thật sự. Và còn phải chiến đấu nữa. Trong lúc chiến đấu, phải
có kỷ luật. Bởi vì nhiều điều xảy ra không giống như ta tưởng, kỷ luật phải đến
từ lòng tin.
Angustin nhổ nước
bọt xuống đất.
- Con bé Maria và
những điều đó là một chuyện khác - Hắn nói - Đồng chí và con bé Maria, hai
người cần lợi dụng khoảng thì giờ còn lại. Tôi không giúp đồng chí được gì
nhưng tôi thuộc quyền đồng chí. Về chuyện ngày mai, tôi sẽ tuân lệnh đồng chí
vô điều kiện. Nếu phải chết thì cũng trong thơ thới hân hoan.
- Tôi cũng cảm thấy
vậy - Robert Jordan nói - Nhưng nghe đồng chí nói vậy tôi cũng đủ khoái rồi.
- Còn tên trên kia,
- Hắn chỉ về phía Primitivo - thì ngon lành không chê được. Mụ Pilar thì rất
chì, hơn đồng chí tưởng nữa. Lão Anselmo cũng vậy. Andrès nữa. Cả Elado. Rất
lặng lẽ, nhưng lại rất đáng tin cậy. Và phải kể Fernando. Không biết đồng chí
nghĩ gì về hắn. Đúng là hắn nặng nề còn hơn thủy ngân. Trông hắn ì ạch còn hơn
một con bò đang kéo xe trên đường trường. Nhưng khi phải đánh nhau và làm theo
chỉ thị, es muy hombre! 2 đồng chí sẽ thấy mà.
- Bọn ta có nhiều
may mắn.
- Không. Bọn ta có
hai nhược điểm. Tên du mục và Pablo. Nhưng nhóm của Sordo lại hơn nhóm của
ta, cũng như nhóm ta thì lại hơn đống phân dê.
- Vậy thì mọi việc đều tốt đẹp.
- Ừ - Angustin nói - Nhưng tôi lại muốn
nó xảy ra ngay hôm nay.
- Tôi cũng vậy. Để xong cho rồi. Nhưng
hôm nay không được.
- Đồng chí nghi nó sẽ tệ hại lắm à?
- Có thể.
- Nhưng bây giờ thì trông đồng chí vui
lắm.
- Đúng.
- Tôi cũng vậy. Mặc dầu chuyện Maria và
tất cả những chuyện đó.
- Đồng chí biết tại sao không?
- Không.
- Tôi cũng không biết. Có lẽ vì thời
tiết. Trời hôm nay đẹp.
- Biết đâu! Có thể vì ta sắp sửa phải
hành động.
- Tôi nghĩ đúng như vậy - Robert Jordan
nói - Nhưng hôm nay thì không. Hôm nay cần phải né tránh.
Trong khi nói, chàng nghe ra một cái
gì. Đó là tiếng động xa xôi nổi lên trong hơi gió nóng thổi vào đám cây. Chàng
không tin ở ấn tượng của mình và chàng im lặng, há hốc miệng, lắng tai nghe
ngóng, đầu ngẩng về phía Primitivo. Tiếng động vừa như vẳng tới đã tan biến đâu
mất. Gió thổi rì rào trong đám thông, và Robert Jordan thu hết sức để chú ý
lắng nghe. Và chàng bắt gặp cái âm thanh mơ hồ vọng về trong gió.
- Với tôi thì chuyện đó chả có gì bi
thảm cả - Angustin nói - Tôi không có con bé Maria, rồi sao nữa? Thì tôi đi tìm
chị em ta như mọi khi vậy.
- Im đi! - Chàng bảo hắn, không nghe
thấy hắn nói gì, và chàng nằm dài cạnh hắn, đầu ngoảnh đi chỗ khác, Angustin
nhìn chàng.
- Qué pasa? - Hắn hỏi.
Robert Jordan đặt bàn tay lên miệng hắn
và tiếp tục nghe ngóng. Một lần nữa chàng lại nghe cái âm thanh nhẹ nhàng khô
khan và xa xôi. Nhưng không thể lầm lẫn được. Đó là tiếng đạn súng máy nổ liên
hồi nghe giòn giã chính xác. Như từng dây đạn nối tiếp nhau nổ phía xa, thật xa
với những ánh lửa li ti.
Robert Jordan nhìn Primitivo, hắn cũng
đang nhìn chàng, bàn tay che sau vành tai. Chàng ngước mắt nhìn lên, Primitivo
đưa tay chỉ ngọn núi cao nhất.
- Đánh nhau ở vùng El Sordo. - Robert
Jordan nói.
- Phải đến tiếp tay họ - Angustin nói -
Gom người lại đi. Vamonos.
- Không - Robert Jordan nói - Ta phải ở
lại đây.
--- ------ ------ ------ -------
1 Làm tình.
2 Là tay cừ.
Chương 25
Robert Jordan ngước
mắt nhìn về phía Primitivo đứng ở trạm canh của hắn đang giơ súng lên chỉ về
một hướng. Chàng gật đầu ra dấu hiểu, nhưng hắn vẫn tiếp tục ra dấu, bàn tay kề
bên lỗ tai, như muốn nhấn mạnh điều gì.
- Hãy ở lại bên
khẩu súng máy và chỉ khai hỏa khi chắc chắn, thật chắn chắn rằng chúng đang đi
về phía bọn ta. Và chỉ bắn khi nào chúng tới cái bụi rậm kia - Robert Jordan
nói, vừa đưa tay chỉ về phía bụi rậm - Hiểu chưa?
- Hiểu rồi,
nhưng...
- Không có nhưng
nhị gì hết. Sẽ giải thích sau. Tôi đi gặp Primitivo xem thử.
Anselmo đang ở gần
bên chàng, hắn bảo lão :
- Viejo. Hãy ở đây
với Angustin và khẩu súng máy. - Chàng nơi chậm rãi, gằn giọng - Không được bắn
trừ khi nào kỵ binh thật sự vào tới đây. Nếu chúng chỉ xuất hiện suông thì hãy
để yên như vừa rồi. Nếu phải bắn thì hãy giữ chặt chân ba càng và trao đạn cho
hắn.
- Được rồi - Lão
già nói - Còn vụ đi La Granja thì sao?
- Sau hãy đi.
Robert Jordan leo
dốc và đi vòng theo những tảng đá bây giờ đã trở nên xám xịt, ướt át dưới đôi
bàn tay của chàng khi chàng phải bám chặt vào chúng để rút người lên. Mặt trời
làm tuyết tan nhanh. Các chỏm đá đã trở nên khô ráo. Chàng vừa leo dốc vừa nhìn
rừng thông, con đường dốc trần trụi và đáy thung lũng xuất hiện xa xa, dưới
chân những triền núi cao. Đến bên Primitivo, chàng đứng thẳng người lên, lúc
bấy giờ họ đang trong một cái hốc đá, và người đàn ông nhỏ thó có khuôn mặt nâu
sẫm nói với chàng :
- Chúng tấn công.
Làm gì bây giờ?
- Không làm gì cả. - Robert Jordan nói.
Chàng nghe tiếng súng rõ mồn một và chàng trông thấy trước mắt, ở bên kia thung
lũng, nơi mặt đất dốc lên, một đội kỵ binh đang ra khỏi khu rừng, băng qua
đường dốc phủ đầy tuyết trắng và leo lên ngọn núi, tiến về phía có tiếng súng.
Chàng trông thấy hai hàng người và ngựa in trên tuyết trắng. Chàng trông thấy
bọn chúng đến bên bờ thung lũng và tiến sâu vào rừng.
- Phải đến tiếp tay họ chớ. - Primitivo
nói. Giọng hắn khô khan không ngữ điệu.
- Không thể được - Robert Jordan nói -
Tôi đợi chuyện đó từ sáng tới giờ.
- Sao?
- Đêm hôm qua họ đã đi đánh cắp ngựa.
Bây giờ tuyết hết rơi và chúng lần theo dấu vết của họ.
- Nhưng phải đi tiếp tay với họ -
Primitivo nói - Không nên bỏ rơi họ trong lúc này. Họ là đồng chí của ta.
Robert Jordan đặt tay lên vai hắn.
- Không làm gì được - Chàng bảo - Nếu
làm được ta sẽ làm ngay.
- Có cách xuống dưới bằng lối trên này.
Có thể đi ngã này bằng ngựa và với hai khẩu súng máy. Khẩu đang nằm kia và khẩu
của đồng chí.
- Nghe coi nào. - Robert Jordan nói.
- Tôi nghe đây. - Primitivo nói.
Từng loạt súng nổ vang nghe như tiếng
sóng gào. Đoạn có tiếng lựu đạn cầm tay xen lẫn trong những tràng súng máy khô
khan.
- Họ đang thua. - Robert Jordan nói -
Khi tuyết hết rơi thì họ thua. Nếu ta đến đó, ta lại sẽ rước lấy sự thất bại.
Ta không thể chia lục lượng đang có.
Râu xám phủ đầy lên quai hàm, môi trên
và cổ Primitivo. Phần còn lại trên khuôn mặt thì xám nhẵn với một chiếc mũi gãy
và tẹt, với đôi con mắt xám, sâu hoắm. Robert Jordan trông thấy râu hắn khẽ
rung lên ở hai khóe miệng và ở những đường gân cổ.
- Hãy lắng nghe - Hắn nói - Đó là một
cuộc tàn sát.
- Đúng, nếu chúng bao vây cái lũng. -
Robert Jordan nói - Có thể một ít người thoát thân được.
- Nếu đến đó bây giờ ta có thể đánh bọc
hậu chúng - Primitivo nói - Ta đến đó bốn người bằng ngựa đi.
- Rồi sau đó? Chuyện gì xảy ra khi ta
đánh bọc hậu chúng?
- Ta sẽ nhập với Sordo.
- Để chết cả lũ ở đó à? Nhìn mặt trời
kìa. Ngày còn dài.
Trời cao không gợn mây. Mặt trời hơ
nóng trên lưng họ. Có những tấm biển trần trụi trên con đường dốc ở phía nam
dưới mắt họ, và tất cả tuyết còn đọng trên các cây thông đều đã rơi xuống. Phía
dưới họ, một làn khói mỏng bay lên trong những tia nắng ấm, những tảng núi đá
còn ướt đẫm.
- Phải chấp thuận điều đó. - Robert
Jordan nói - Hay que aguantarse 1. Đó là những điều vẫn xảy ra trong chiến
tranh.
- Nhưng mình không thể làm gì được hết
sao? Thật như vậy à? - Primitivo nhìn chàng và chàng biết hắn hoàn toàn tin
tưởng nơi chàng - Đồng chí không cho tôi và một người khác đến đó với một khẩu
súng máy sao?
- Không ích lợi gì đâu. - Robert Jordan
nói.
Chàng tưởng trông thấy điều chàng vẫn
mong đợi, nhưng đó chỉ là một con chim ưng đang buông mình rơi trong gió, đoạn
bay vụt lên cao đến tận nét vạch xa nhất của rừng thông.
- Không ích lợi gì, dù cả bọn ta có tới
đó đi chàng nữa. - Chàng nói.
Trong lúc đó, cường độ tiếng súng lại
gia tăng, chen vào đó là tiếng ì ầm của những quả lựu đạn.
- Ồ! Mẹ tổ nó - Primitivo nói với tất
cả sự thô tục trong lời nói, mắt ngấn lệ và hai gò má khẽ run lên - Ồ! Thượng
đế và Đức Mẹ ơi, sao không sai ôn dịch bắt chúng cho rồi!
- Bình tĩnh - Robert Jordan nói - Đồng
chí còn phải đánh nhau với bọn chúng, sắp sửa thôi. Kìa, mụ ta tới kia.
Pilar leo dốc tiến về phía họ, bà ta
nặng nề trèo lên các mõm đá.
- Cặp ống dòm của đồng chí - Bà ta vừa
nói vừa tháo đai da ra - Sao, đánh nhau ở vùng của Sordo à?
- Ừ.
- Pobre 2 - Bà ta nói với một vẻ thương
hại - Tội cho Sordo.
Bà ta thở hào hển sau chuyến leo dốc.
Bà ta nắm tay Robert Jordan siết mạnh vừa nhìn ra xa :
- Đồng chí thấy trận đánh ra làm sao?
- Tệ. Rất tệ.
- Ông ta bị joidido 3 à?
- Có lẽ.
- Pobre - Bà ta nói - Chắc hẳn là vì
những con ngựa chớ gì.
- Có thể.
- Pobre, Rafael đã kể cho tôi nghe hàng
tá những chuyện ôn dịch về những hoạt động của tụi kỵ binh. Chuyện gì xảy ra
vậy?
- Một cuộc tuần thám của một đội kỵ
binh.
- Tới đâu lận?
Robert Jordan chỉ nơi bọn kỵ binh vừa
dừng lại và chỗ đặt khẩu súng máy được ngụy trang cẩn thận. Từ chỗ đứng, họ
nhìn thấy đúng một chiếc giày của Angustin thò ra từ vòm lá.
- Tên du mục kể cho biết chúng đến gần
tới độ nòng súng chạm vào ức con ngựa của tên dẫn đầu. Quân khốn kiếp. Ống dòm
của đồng chí ở trong hang đó.
- Đồng chí sửa soạn đồ đạc gì chưa?
- Xong cả rồi. Có tin gì của Pablo
không?
- Hắn có bốn mươi lăm phút trước khi
bọn kỵ binh tới. Chúng đang theo dấu hắn.
Pilar mỉm cười với
chàng và buông bàn tay chàng ra.
- Chúng sẽ không
bao giờ bắt gặp được hắn - Bà ta nói - Còn Sordo, ta có thể làm gì được không?
- Không.
- Pobre. Tôi rất
thương Sordo. Đồng chí có chắc chắn là ông ta bị jodido chớ?
- Chắc chắn. Tôi đã
thấy rất nhiều kỵ binh.
- Nhiều hơn ở đây
nữa à?
- Có thêm một đội
đã leo lên đó.
- Pobre, Pobre, Pobre Sordo.
Họ nghe tiếng súng nổ.
- Primitivo muốn tới đó.
- Đồng chí không đến đó chớ? - Pilar
nói với người đàn ông mặt bẹt - Đồng chí định làm cái đếch gì với những trò
locos 4 như thế?
- Tôi muốn tiếp tay với họ.
- Qué va - Pilar nói - Lại một người mơ
mộng. Đồng chí lo mình chết mà không được du lịch nhảm nhí à?
Robert Jordan nhìn bà ta, chàng nhìn
vào khuôn mặt nâu sẫm, nặng nề với lưỡng quyền cao trông giống dân da đỏ, chàng
nhìn vào đôi mắt âm u dang rộng và cái miệng tươi cười với làn môi dưới nặng
nề, toát một vẻ cay đắng.
- Hãy tỏ mình là đàn ông - Bà ta bảo
Primitivo - Là người lớn. Với mái tóc hoa râm và tất cả những gì đồng chí đang
có.
- Đừng nhạo báng tôi - Primitivo cáu
kỉnh - Khi người ta còn một chút tình cảm và tưởng tượng.
- Thì người ta tập sao cho chúng im đi
- Pilar nói - Đồng chí sẽ được chết mau chóng với bọn này mà. Không cần phải
tìm kiếm ở đâu xa. Còn về óc tưởng tượng thì tên du mục cũng có đủ cho mọi
người rồi. Hắn đã kể cho tôi nghe cả một quyển tiểu thuyết.
- Nếu đồng chí thấy sự việc xảy ra,
đồng chí sẽ không còn cho là tiểu thuyết nữa - Primitivo nói - Bọn này đã may
mắn thoát.
- Qué va - Pilar nói - Bọn kỵ binh tới
đây rồi lại đi. Và các người tưởng các người là anh hùng. Đúng là vô công rồi
nghề nó dễ sinh ra lắm điều.
- Còn ở vùng Sordo cũng không trầm
trọng à? - Primitivo nói, lần này với một vẻ khinh miệt, người ta nghe tiếng
hắn rít lên mỗi lần tiếng súng nổ theo gió vọng lại và hẳn là hắn muốn đến đó
hoặc Pilar phải dời chân đi chỗ khác, để cho hắn được yên thân.
- Total qué? 5 - Pilar nói - Đúng như
thế, đúng như thế. Đừng đánh mất cojones của đồng chí vì chuyện kẻ khác.
- Thôi đi chỗ khác chơi - Primitivo bảo
bà ta - Có nhiều con mụ cứng đầu và tàn bạo không chịu nổi.
- Đó là để bù đắp cho bọn đàn ông quá
yếu đuối về sinh lý - Pilar nói - Không có gì lạ, tôi đi đây.
Trong lúc đó Robert Jordan nghe có
tiếng phi cơ bay thật cao. Chàng ngẩng mặt lên trời. Dường như vẫn là loại phi
cơ thám thính ban sáng. Bây giờ thì nó từ phòng tuyến bay về phía cao nguyên
nơi nhóm El Sordo bị tấn công.
- Đúng là nó mang tai họa tới - Pilar
nói - Không biết nó có trông thấy sự việc xảy ra dưới kia không?
- Chắc chắn - Robert Jordan nói - Nếu
nó không đui.
Bọn họ nhìn lên chiếc phi cơ lướt đi
trên cao, êm đềm lấp lánh trong ánh sáng mặt trời. Nó bay từ phía bên trái và
người ta có thể trông thấy những dĩa ánh sáng tạo nên từ những cánh quạt của
nó.
- Cúi xuống. -Robert Jordan nói.
Chiếc phi cơ bay trên đầu họ, bóng nó
lướt đi trên khoảng không gian trống trải trong khi tiếng động cơ của nó rống
lên dữ dội hơn bao giờ hết. Đoạn nó bay về hướng chóp thung lũng. Họ đưa mắt
nhìn bóng nó xa dần tới khi khuất dạng rồi bất thình lình nó quày trở lại, lộn
nhào thành một vòng lớn, nó lộn hai vòng như vậy trên vùng cao nguyên và bay về
phía Ségovie.
Robert Jordan nhìn Pilar. Bà ta toát mồ
hôi trên trán. Bà ta khẽ lắc đầu. Bà ta cắn vào môi dưới.
- Mỗi người đều có nhược điểm của mình.
Tôi thì tất cả những cái đó làm tôi run gân.
- Đồng chí không sợ như tôi chớ? -
Primitivo mỉa mai.
- Không (bà ta đặt tay lên vai hắn).
Đồng chí không sợ, tôi biết. Tôi xin lỗi đã nhạo báng, đùa cợt với đồng chí hơi
quá. Tất cả mọi người đều cùng chung hoàn cảnh với nhau. - Đoạn bà ta quay sang
Robert Jordan - Tôi sẽ gởi thức ăn và rượu ra đây, đồng chí còn cần thứ gì khác
nữa không?
- Bây giờ thì không. Mọi người đâu cả
rồi?
- Đồ phòng bị của đồng chí vẫn còn
nguyên, dưới kia, với mấy con ngựa - Bà ta nói vừa mỉm cười - Tất cả đều giấu
kỹ. Tất cả đều sẵn sàng. Maria thì lo giữ dụng cụ của đồng chí.
- Nếu tình cơ mà có phi cơ, hãy giữ cô
ta trong hang.
- Xin tuân lệnh, ngài lãnh chúa Inglés
- Pilar nói - Tên du mục của ngài (tôi gởi hắn cho ngài), tôi đã cho hắn đi lấy
nấm để nấu với mấy con thỏ. Trong lúc này có nhiều nấm và tôi nghĩ hôm nay cũng
nên ăn thịt thỏ, mặc dù nên để sang ngày mai hay ngày mốt.
- Tôi nghĩ tốt hơn nên ăn hôm nay, thật
đó - Robert Jordan nói và Pilar đặt bàn tay mập mạp của bà lên vai chàng đúng
vào chỗ mang dây súng tiểu liên, đoạn bà ta nhấc tay lên, vuốt tóc chàng - Cái
anh chàng Inglés này! Tôi sẽ cho Maria mang thức ăn ra khi nào xong.
Tiếng súng chừng đã ngừng bặt ở phía
xa. Thỉnh thoảng chỉ còn nghe văng vẳng lại một tiếng nổ rời rạc.
- Xong chưa? - Pilar hỏi.
- Chưa - Robert Jordan nói - Nghe theo
tiếng súng nổ thì hẳn đã xảy ra một cuộc tấn công và nó đã bị đẩy lui. Bây giờ
thì tôi cho rằng chúng đang bao vây bọn họ. Chúng đang bình tĩnh đợi máy bay.
Pilar nói với Primitivo :
- Đồng chí thấy không, tôi không muốn
nhục mạ đồng chí.
- Ya lo sé 6 - Primitivo nói - Đồng chí
còn xử tệ với tôi hơn trong nhiều lần khác. Đồng chí có một ngôn ngữ ghê tởm.
Nhưng coi chừng mồm mép đồng chí đó, Sordo là đồng chí tốt của tôi.
- Ông ấy không phải là đồng chí tốt của
tôi à? - Pilar hỏi hắn - Nghe tôi nói này đồ mặt bẹt. Trong lúc chiến tranh,
người ta không thể nói điều mình cảm được. Lo việc mình đủ rồi, không cần phải
lo cho Sordo nữa.
Primitivo vẫn còn gắt gỏng.
- Hãy lo cho cái xác của đồng chí -
Pilar bảo hắn - Tôi đi sửa soạn bữa ăn trưa đây.
- Đồng chí có mang ra những tài liệu về
tên requeté kia không? - Robert Jordan hỏi bà ta.
- Tôi ngốc quá. Tôi quên mất rồi. Để
tôi đưa cho Maria mang ra.
--- ------ ------ ------ -------
1 Hãy tự kiềm chế.
2 Tội nghiệp.
3 Tém gọn, quét gọn.
4 Điên.
5 Vậy là sao?
6 Tôi biết.
Chương 26
Các chiếc phi cơ
bay trở lại vào lúc 3 giờ chiều. Tuyết đã biến mất hẳn từ trưa và những tảng đá
giờ đây nóng lên dưới ánh nắng mặt trời. Bầu trời không một gợn mây. Robert
Jordan ngồi trong những tảng núi đá, mình trần vừa đưa lưng ra để sưởi nắng vừa
đọc những lá thư tìm thấy trên xác của tên kỵ binh. Thỉnh thoảng chàng bỏ dở lá
thư, nhìn xuyên qua thung lũng, hướng về phía rừng thông chạy dài tới cao
nguyên, đoạn trở về với những mặt chữ. Bọn kỵ binh không thấy trở lại. Thỉnh
thoảng người ta nghe tiếng súng nổ lẻ tẻ từ trại của El Sordo. Nhưng cuộc chạm
trán đã kết thúc.
Giấy tờ quân đội
của người thanh niên cho biết hắn quê quán ở Tafalla, tỉnh Navarre, hắn mới lên
21 tuổi, chưa có vợ, cha làm thợ rèn. Hắn thuộc trung đoàn kỵ binh thứ N, điều
làm cho Robert Jordan ngạc nhiên không ít vì chàng vẫn tưởng trung đoàn này
thuộc miền Bắc. Hắn theo phe bảo hoàng và đã từng bị thương tại trận Irun xảy
ra từ đầu cuộc chiến.
Có thể tôi đã từng
trông thấy hắn chạy trước những con bò mộng trong kỳ hội chợ ở Pampelune,
Robert Jordan nghĩ.
Trong chiến tranh
người ta không hề giết những kẻ mình muốn giết. Gần như là không bao giờ, chàng
sửa lại, và tiếp tục đọc những bức thư.
Những bức thư đầu
có tính cách thăm hỏi thông thường, viết rất cẩn thận và chỉ nói về những diễn
biến tại địa phương. Đó là những bức thư của em gái hắn. Robert Jordan biết
được rằng mọi việc đều tốt đẹp ở Tafalla, người cha vẫn mạnh khỏe, người mẹ vẫn
đau lưng như lúc nào, bà mong hắn được bình yên, đừng gặp quá nhiều nguy hiểm
và bà rất sung sướng được biết hắn đang chống Hồng quân để giải phóng Tây Ban
Nha ra khởi sự đô hộ của bọn Mác-xít. Nhưng từ lá thư sau cùng của hắn, có danh
sách những thanh niên gốc Tafalla bị giết hay bị thương nặng. Robert Jordan
nghĩ, bao nhiêu đó quá nặng cho một thành phố có tầm quan trọng như Tafalla.
Những bức thư nói
nhiều về vấn đề tôn giáo, nàng cầu nguyện thánh Antoine, Nữ Thánh Đồng Trinh ở
Pilar và những Nữ Thánh Đồng Trinh khác phù hộ cho hắn; nàng bảo hắn đừng bao
giờ quên là hắn cũng được sự che chở của Thánh Tâm Chúa Jésus mà hắn luôn mang
trong người, nàng tin tưởng chắc chắn ở lòng mình vì vô số trường hợp xảy ra đã
chứng tỏ (điều này được gạch ở dưới) rằng nó có thể làm cho đạn ngừng lại. Lúc
nào nàng cũng vẫn là Concha, cô em gái thân yêu trìu mến của hắn.
Lá thư đó bị lấm
lem ở mấy cạnh bìa; Robert Jordan cẩn thận xếp nó vào những giấy tờ quân đội,
và chàng mở ra một lá thư khác có tuồng chữ ít gò gẫm hơn. Đó là thư do novia
của chàng thanh niên, vị hôn thê của hắn, và cô gái này thì tỏ ra, dưới những
công thức ước định, điên cuồng vì lo âu trước cuộc đời đầy nguy hiểm của hắn.
Robert Jordan đọc thư và sau đó xếp lại tất cả giấy tờ cho vào túi quần. Chàng
không muốn đọc những lá thư khác.
Tôi nghĩ hôm nay
mình làm được một việc tốt, chàng tự nhủ. Tôi nghĩ rằng đúng, chàng thầm lặp
lại một lần nữa.
- Đồng chí đọc gì
đó? - Primitivo hỏi.
- Tài liệu thư từ
của tên requeté bị bắn hạ sáng nay. Muốn xem không?
- Tôi không biết
đọc - Primitivo nói - Có gì hay không?
- Không. Thư riêng
ấy mà.
- Tình hình ra làm
sao, hắn ở đâu tới đó? Đồng chí có biết được gì khi đọc thơ hắn không?
- Có vẻ tốt lắm.
Thành phố hắn bị tổn thất nhiều.
Chàng ngắm nghía
công việc ngụy trang đã được sủa đổi, cải thiện khi tuyết đã tan đi, bây giờ
trông có vẻ thật tự nhiên. Chàng nhìn ra xa.
- Hắn ở thành phố
nào đó? - Primitivo hỏi.
- Tafalla - Robert
Jordan đáp. À đúng rồi, chàng nhủ thầm, tiếc thật, không biết điều đó có giúp
ích gì được không.
Không, chàng nghĩ
thầm. Vậy thì hãy bỏ rơi cho rồi. Đồng ý bỏ rơi cho rồi.
Nhưng mà không dễ
dàng gì đâu. Mày đã giết bao nhiêu người chàng tự hỏi. Không biết. Mày thấy
rằng mày có quyền giết người à? Không. Thế mà phải giết. Mày đã giết bao nhiêu
người đích thật là phát xít? Ít lắm. Nhưng tất cả đều là kẻ thù, thuộc thế lực
đối nghịch. Mầy thích dân Navarra hơn tất cả những người Tây Ban Nha khác. Đúng
vậy và mày lại giết họ. Đúng vậy. Nếu mày không tin thì hãy vào trại mà xem.
Mày không biết giết người là xấu à? Biết chớ. Vậy mà vẫn giết à? Đúng vậy. Và
mày tiếp tục tin ở chính nghĩa của mày một cách tuyệt đối à? Đúng vậy.
Chính nghĩa đó
đúng, chàng tự nhủ, không phải để trấn an chính mình, mà với lòng tự phụ. Tôi
tin ở quần chúng, và tôi tin họ có quyền tự cai trị theo ý muốn. Nhưng không
nên tin rằng người ta có quyền giết người. Phải giết người vì cần phải giết,
nhưng không nên tin rằng đó là một cái quyền. Nếu người ta tin vào điều đó thì
tất cả đều hỏng bét.
Nhưng mày đã giết
hết bao nhiêu người rồi? Tôi không nhớ. Nhưng mày biết điều đó chớ? Biết. Bao
nhiêu. Không thể biết rõ con số được. Làm nổ tung chiếc xe lửa là đã giết hại
nhiều người. Quả thật là nhiều. Nhưng không thể chắc chắn là bao nhiêu. Nhưng
những người mà mày biết được? Hơn hai mươi người. Và trong số đó có bao nhiêu
tên Phát xít chính hiệu? Tôi biết rõ là hai tên. Bởi vì tôi đã buộc lòng phải
hạ chúng khi chúng tôi bắt chúng làm tù binh tại Usera. Và lương tâm mày không
hề hấn gì trước chuyện đó sao? Không. Mày cũng không thích thú nữa à? Tôi đã
quyết là không đời nào tái diễn một lần nữa. Tôi đã né tránh. Tôi đã tránh
không hạ những kẻ bị tước đoạt khí giới.
Này, chàng tự nhủ,
tốt hơn mày đừng bận tâm với tất cả những chuyện đó. Điều đó rất thất lợi cho
mày và cho công việc của mày. Và chàng tự trả lời: hãy rán nghe cho kỹ, mày
đang thi hành một công tác thật quan trọng và tao muốn chắc chắn được là mày
hiểu rõ vấn đề. Mày phải hiểu điều đó thật rõ ràng. Bởi vì nếu đầu óc mày không
sáng suốt thì mày không được làm những điều mày đang làm, bởi tất cả đều có
tính cách sát nhân và không một ai có quyền tước đoạt sự sống của kẻ khác trừ
phi để ngăn cản một điều gì tệ hại xảy ra cho mọi người. Vậy thì rán mà hiểu
lấy và đừng dối lòng mày nữa.
Nhưng không phải là
tôi sắp sửa giữ bản tổng kết về những người tôi đã giết như người sưu tập những
chiến tích hoặc những cái khóa tầm thường trong một khẩu súng, chàng nghĩ thầm.
Tôi có quyền không giữ bản tổng kết đó và tôi có quyền quên lãng họ.
Không, chàng thầm
đáp lại. Mày không được quyền quên bất cứ cái gì. Mày không được quyền nhắm mắt
bịt tai trước mọi sự hoặc lãng quên, giảm thiểu hay biến đổi bất luận điều gì.
Mày im đi. Mày trở
nên long trọng thái quá.
Mày cũng đừng lừa
phỉnh chính mày.
Đồng ý, chàng tự
nhủ. Cám ơn những lời khuyên tốt.
Thế còn yêu Maria
thì được chớ?
Được, con người
khác trong chàng lên tiếng.
Ngay khi người ta
không còn chỗ cho tình yêu trong một quan niệm thuần túy duy vật của xã hội.
Từ bao giờ mày có
quan niệm đó vậy? Mày không hề có quan niệm đó. Và mày không thể có được. Mày
không là một người Mác-xít đích thật, mày biết rõ điều đó mà. Mày tin ở Tự Do,
Bình Đẳng, Bác Ái. Đừng tự mày nhồi sọ mày với quá nhiều biện chứng pháp. Điều
đó tốt cho kẻ khác, không tốt cho mày. Mày cần phải biết những chuyện đó để
khỏi ra vẻ một thằng đần độn. Cần phải chấp nhận nhiều thứ để thắng một trận
giặc. Nếu ta thua trận này tức là ta mất hết.
Nhưng sau đó mày có thể ném bỏ những
điều mày không tin. Có nhiều điều mày không tin và cũng có nhiều điều mày tin.
Còn chuyện kia nữa. Mày đừng bao giờ
làm quẩn trí mày với tình yêu dành cho kẻ khác. Chỉ vì hầu hết mọi người đều
không may mắn có được nó. Mày chưa hề biết đến nó trước đây, và bây giờ mày
biết. Chuyện gì xảy ra liên quan tới mày và Maria, dù nó chỉ kéo dài hết ngày
hôm nay và một phần ngày mai, hoặc trọn một đời, đó là chuyện hệ trọng nhất có
thể xảy đến cho một con người. Luôn luôn có nhiều người bảo chuyện đó không có
thật, bởi họ không thể nào biết tới chuyện đó. Còn tao, tao cho rằng nó có
thật, và mày là kẻ may mắn, dù cho mày có chết vào ngày mai này.
Thôi, đừng nói
chuyện chết chóc nữa, chàng nhủ thầm. Đó không là một cách nói. Đó là ngôn ngữ
của những người bạn theo thuyết vô chính phủ của ta. Mỗi khi có chuyện gì không
xong, họ muốn đốt tiêu một cái gì và sau đó chịu chết. Đầu óc họ quả buồn cười.
Quả thật lạ lùng. Sau cùng, ngày hôm nay còn không mấy chốc rồi cũng trôi qua,
ông bạn ạ, chàng tự nhủ. Gần ba giờ rồi, ta sắp sửa ăn. Chúng vẫn còn nã súng
vào nhóm Sordo, điều này chứng tỏ rằng chúng đã bao vây bọn họ và có thể đang
đợi tiếp viện. Nhưng chúng cần được tiếp viện trước khi đêm xuống.
Không hiểu sự việc
xảy ra thế nào ở trên kia, tại vùng của Sordo. Sớm muộn gì đó cũng là điều đang
đợi tất cả bọn ta. Chắc là việc xảy ra trên đó không vui gì cho lắm. Có thể nói
rằng chúng ta đã đặt Sordo vào trong một tình thế khó khăn với câu chuyện mấy
con ngựa. Tiếng Tây Ban Nha gọi sao đây kìa?
Un callejon sin salida 1. Một con đường không có lối thoát. Tôi nghĩ
rằng trong trường hợp đó tôi có thể xoay trở được. Chỉ có một lần thôi, thế là
xong việc. Nhưng mà tham dự vào một trận giặc mà người ta có thể đầu hàng khi
bị bao vây đó không phải là điều xa xỉ hay sao? Estamos copados 2. Chúng ta bị
bao vây. Đó chính là tiếng kêu thét hãi hùng của cuộc chiến này. Sau đó người
ta bị bắn hạ, nếu không có gì tệ hại hơn trước đó thì người ta vẫn còn may mắn.
Sordo hẳn không có sự may mắn đó. Bọn chúng cũng vậy khi cơ hội xảy đến.
Ba giờ rồi. Nghe có
tiếng rống xa xa, chàng ngước mắt nhìn lên và trông thấy những chiếc phi cơ.
--- ------ ------
------ -------
1 Một ngõ cụt.
2 Chúng ta bị bao
vây.
Chương 27
Sordo đang chiến
đấu trên một ngọn đồi. Ông ta không thích gì ngọn đồi này và khi trông thấy nó,
ông ta nghĩ rằng hình thù nó giống một cái mụn lở loét. Nhưng ông ta không chọn
cách nào khác. Nhìn từ xa, ông ta đã nhận ra nó ngay. Ông ta thúc ngựa phi về
phía đó, con ngựa thở hổn hển giữa hai chân ông ta, khẩu súng máy nặng nề trên
lưng, túi lựu đạn treo lủng lẳng ở một bên và túi đựng hộp đạn ở một bên khác,
trong khi Joaquin và Ignacio dừng lại và bắn, dừng lại và bắn để ông ta có đủ
thì giờ để đặt khẩu súng máy vào vị trí thuận lợi. Lúc bấy giờ tuyết hãy còn
rơi, tuyết đã gây thất bại cho họ, và khi ngựa ông ta trúng đạn, nó thở phì
phì, bắt đầu leo dốc bằng những bước chân chậm chạp, khập khiễng như muốn té,
đi tiếp đoạn đường còn lại, máu nó phun có vòi trên tuyết. Sordo leo bộ vừa cầm
cương kéo nó. Ông ta cố leo thật nhanh với hai cái túi nặng nề trên vai trong
lúc những viên đạn bắn xối xả vào các tảng núi đá, sau đó ông ta nắm chặt bờm
ngựa và hạ thủ nó thật nhanh chóng, khéo léo, dịu dàng ngay nơi địa thế mà ông
ta đang cần đến nó, con ngựa đầu vùi phía trước, lăn nhào trong kẽ hở giữa hai
tảng đá. Sordo đặt khẩu súng máy đúng vào vị trí để có thể bắn qua lưng ngựa,
ông ta đã bắn sạch hai hộp đạn, bắn thành từng dây ào ạt trong khi những vỏ đạn
thi nhau rơi sâu trong tuyết, một mùi lông ngựa cháy khét lẹt xông lên từ lớp
da ngựa nơi họng súng nóng tựa vào, trong lúc ông ta bắn xả vào bọn người đang
leo lên dốc, buộc chúng phải phân tán để tìm chỗ ẩn núp. Trong trọn khoảng thời
gian đó, ông ta nghe lạnh ở lưng bởi ông ta không biết được chuyện gì xảy ra ở
phía sau ông ta. Khi người sau cùng trong số năm người đã leo tới đỉnh đồi, cảm
giác lành lạnh kia biến mất và ông ta quyết định giữ lại số đạn dược phòng khi
cần đến.
Có hai con ngựa
khác nằm chết trên sườn đồi và ba con ở trên đỉnh đồi. Đêm rồi ông ta đã chỉ có
thể đánh cắp được ba con ngựa và trong số đó thì một con đã trốn thoát khi
người ta giải nó vào chuồng và khi những tiếng súng đầu tiên nổ vang. Trong số
năm người đã leo tới đỉnh đồi. Hết ba người đã bị thương, Sordo trúng đạn ở
mông đít và trúng hai chỗ nơi cánh tay trái, ông ta rất khát nước, những vết
thương khiến các bắp thịt ông ta cứng đờ và một trong hai vết thương ở cánh tay
trái thật nhức nhối. Ông ta nghe nhức đầu và trong khi nằm dài đợi phi cơ, ông
ta nghĩ đến câu nói bông lơn của người Tây Ban Nha. Đó là câu: Hay que tomar la
muerte como si fuera aspira, có nghĩa là: Mày hãy nhận cái chết như uống một
viên aspirine. Nhưng ông ta chỉ thì thầm câu nói đùa đó. Ông ta mỉm cười trong
cơn đau đớn và trong cơn buồn nôn xâm chiếm lấy ông ta trong mỗi lần ông ta cử
động cánh tay, và ông ta nhìn quanh quẩn xem còn lại những ai trong nhóm.
Năm người đàn ông
chia nhau mỗi người một vị trí, trông giống năm nhánh ngôi sao. Họ dùng đầu gối
và tay tạo thành những mô bùn và đá chắn ngang trước đầu và vai họ. Lúc bấy giờ
từ chỗ núp, họ đang nối liền những cái mô cá nhân đó bằng một cái bao lơn bằng
đất và đá. Cậu thiếu niên tên Joaquin dùng chiếc nón sắt để đào và xúc đất đưa
đi.
Cậu ta đã tìm thấy
chiếc nón sắt đó trong cuộc tấn công xe lửa, chiếc nón bị một viên đạn chọc
thủng và mọi nguơi đã chế nhạo cậu ta. Nhưng cậu ta đã dùng búa vỗ lại những
chỗ lởm chởm quanh cái lỗ thủng và nhét vào đó một cái nút cây mà cậu đẽo được
bằng một miếng kim khí ở bên trong chiếc nón.
Khi trận đánh bắt
đầu, cậu ta trồng chiếc nón lên đầu mạnh đến nỗi sọ dừa cậu ta kêu vang như đội
phải một cái soong và trong quãng đường sau cùng khi buồng phổi thấm đau, hai
chân đờ đẫn, miệng khô ran giữa lúc đạn réo ầm ĩ, chát chúa chung quanh trong
đoạn đường đưa lên đỉnh đồi, sau khi con ngựa của cậu ta đã bị giết chết, lúc
bây giờ chiếc nón trở nên nặng nề, nó siết lấy vầng trán sưng phồng của cậu ta
bằng một vành sắt cứng. Nhưng cậu ta vẫn giữ lấy nó. Bây giờ thì cậu ta xới đất
với nhịp đều đều đầy sự tuyệt vọng và gần như máy móc. Cho tới bây giờ cậu ta
vẫn chưa trúng đạn.
- Cái đó cũng giúp
ích được phần nào. - Sordo bảo cậu ta bằng một giọng khan khan.
- Resistir y
fotificar es vencer. - Joaquin nói, miệng cậu cứng đờ, khô ran vì nỗi sợ hãi
vượt quá khát vọng chiến đấu thông thường. Đó là một trong những khẩu hiệu của
đảng Cộng sản có nghĩa là: “Giữ vững tinh thần và củng cố tức là thắng trận”.
Sordo nhìn về phía
dưới triền đồi, nơi một tên kỵ binh vừa rời khỏi một tảng đá. Ông ta rất thương
Joaquin nhưng lúc này thì ông ta không còn tâm trí đâu mà nghe khẩu hiệu.
- Đồng chí nói gì?
Một người trong bọn
ngoảnh mặt khỏi công việc đang làm. Hắn đang nằm sấp, hai tay cẩn thận đặt một
viên đá trong khi cằm vẫn tì sát mặt đất.
Joaquin lặp lại câu
nói bằng một giọng nói non choẹt, khô khan trong khi vẫn tiếp tục đào đất.
- Tiếng sau cùng ra
làm sao? - Người đàn ông tì cằm sát mặt đất nói.
- Vencer - Cậu
thiếu niên nói - Thắng trận.
- Mierda - Người
đàn ông nói. Cứt đái.
- Có một khẩu hiệu
áp dụng đứng vào trường hợp này được, và người ta nói nó phát sinh ra những
khẩu hiệu kia vanh vách từng cái một không khác gì những bùa chú. Pasionaria
từng nói rằng thà chết đứng còn hơn sống quỳ.
- Này, người cộng
sản, đồng chí có biết rằng mụ Pasionaria của đồng chí có một thằng con trai cỡ
tuổi đồng chí đang ở bên Nga từ đầu cuộc chiến này không?
- Láo. - Joaquin nói.
- Qué va, láo à.
Chính anh chàng chuyên viên thuốc nổ có cái tên kỳ dị nọ đã bảo với tôi. Hắn
cũng ở trong đảng. Hắn nói dối làm gì?
- Láo. Bà ta không
làm một việc như vậy đâu: giấu đứa con trai ở bên Nga, an toàn, xa nơi giặc
giã.
- Tôi muốn được ở
bên Nga - Một người trong bọn của Sordo nói - Mụ Pasionaria của đồng chí hẳn sẽ
không gởi tôi sang Nga đâu hả?
- Nếu đồng chí còn
tin ở mụ Pasionaria quá thì hãy đến xin mụ ta giúp bọn ta rời khỏi ngọn đồi
này. - Một người đàn ông có bắp đùi được băng bó lên tiếng.
- Bọn phát xít sẽ
đảm trách chuyện đó. - Người đàn ông tì cằm sát vào đất bùn nói.
- Đừng nói những
chuyện như thế. - Joaquin nói.
- Đồng chí miệng
còn hôi sữa, hãy lo chùi sạch môi đi rồi chuyền đất trong nón sắt cho tôi.
Không một ai trong bọn ta được dịp nhìn mặt trời lặn chiều nay đâu!
Và Sordo nghĩ:
trông nó giống một cái mụn lở loét. Hay một cái vú con gái, không có núm. Hay
một cái miệng núi lửa. Mày chưa trông thấy núi lửa bao giờ, ông ta nghĩ, và mày
sẽ không bao giờ thấy được nó nữa. Vả lại ngọn đồi này lại giống một cái mụn lở
loét. Đừng bận tâm tới chuyện núi lửa. Bây giờ nghĩ tới chuyện núi lửa thì trễ
quá rồi.
Ông ta thận trọng
đưa mắt nhìn qua cổ con ngựa chết, có tiếng súng nổ veo veo từ một tảng đá ở
sát phía dưới triền đồi và ông ta nghe những viên đạn ghim vào xác con ngựa.
Ông ta bò sau xác con ngựa, liều lĩnh ném một cái nhìn vào khoảng giữa mông con
ngựa và tảng đá. Ngay trên sườn đồi, ông ta trông thấy xác ba tên kỵ binh bị
giết trong lúc bọn phát xít toan xung phong chiếm ngọn đồi dưới lằn đạn bắn che
của những khẩu súng máy. El Sordo và các đồng chí của ông ta đã bẻ gãy cuộc tấn
công đó bằng cách thả những trái lựu đạn lăn dọc theo triền đồi. Còn nhiều xác
chết không thấy được trên các triền đồi khác. Không có ngõ thuận tiện nào cho
phép chúng mở cuộc tấn công để lên phía trên đỉnh đồi, và Sordo biết rằng khi
ông ta còn đạn và lựu đạn, cùng với bốn người còn lại, chúng không thể đánh bật
ông ta ra khỏi đây được trừ phi chúng sử dụng tới lũy pháo. Ông ta không hiểu chúng
có đi kiếm súng cối ở La Granja để mang tới hay không. Có lẽ là không, bởi vì
phi cơ chắc chắn sẽ đến ngay. Bốn tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc chiếc phi
cơ quan sát bay trên đầu bọn họ.
Ông ta nghĩ, ngọn
đồi này quả thật là một cái mụn lở loét và chúng tôi chỉ là mủ của nó. Nhưng
chúng tôi giết chúng khá nhiều khi chúng khởi sự cái trò dại dột này. Làm sao
chúng có thể hy vọng tóm được bọn chúng tôi bằng cách đó? Chúng trang bị bằng
những võ khí tối tân đến độ chúng có thể điên lên vì tin tưởng. Ông ta đã dùng
lựu đạn giết tên sĩ quan trẻ cầm đầu cuộc xung phong. Trái lựu đạn tung lên và
lăn xuống trước bọn chúng đang ở trên triền đồi trong lúc chứng đang gập người
vừa leo dốc vừa chạy lên.
Xuyên qua đám lửa
vàng và làn khói xám, Sordo trông thấy tên sĩ quan phóng người tới trước. Bây
giờ thì hắn nằm trơ ra đó như một cái gói quần áo cũ, đánh dấu giới hạn cùng
tận của đám xung phong. Sordo nhìn xác chết đó rồi nhìn những xác chết khác ở
triền đồi phía dưới.
Những con người đó
quả cam đảm nhưng lại cứng đầu, ông ta nghĩ. Nhưng bây giờ thì chúng đã hiểu,
chúng không thể tấn công trước khi phi cơ đến. Dĩ nhiên là trừ phi có súng cối.
Với một khẩu súng cối thì điều đó lại dễ. Súng cối, đó chính là phương cách
thông thường, và ông ta thừa biết sự hiện diện của một khẩu súng cối chính là
cái chết của cả năm người trong bọn họ, nhưng khi nghĩ đến việc phi cơ sẽ tới
đây thì ông ta lại cảm thấy trơ trọi trên ngọn đồi này như thể ông ta bị lột
sạch áo quần, và cả da nữa. Ông ta nghĩ, không thể nào cảm thấy trần truồng
hơn. Một con thỏ bị lột da cũng lành lặn sánh với một con gấu. Nhưng tại sao
chúng lại mang phi cơ tới? Chúng có thể đánh bật chúng tôi ra khỏi nơi này với
một khẩu súng cối cơ mà. Nhưng mà chúng lại tự hào với phi cơ của chúng và rất
có thể chúng sẽ mang phi cơ tới. Cũng như chúng đã tự hào với vũ khí tự động
của chúng vì thế mới xảy ra chuyện ngu xuẩn này. Nhưng chắc chắn là chúng đang
tìm một khẩu súng cối.
Một người nổ súng.
Sau đó hắn lại bắn, lần này thật nhanh.
- Hãy tiết kiệm
đạn. - Sordo nói.
- Có một tên khốn
kiếp đang định leo lên tảng đá kia. - Người vừa bắn nói và đưa một ngón tay ra.
- Bắn trúng không?
- Sordo hỏi vừa quay đầu lại một cách khó khăn.
- Không. Nó nấp kỹ
quá.
- Đồ điếm chúa,
chính Pilar. - Người đàn ông có chiếc cằm đặt vào đất bùn nói - Con điếm đó, nó
biết bọn mình đang chết tại đây.
- Mụ ta không làm
gì được đâu. - Sordo nói. Người đàn ông vừa mới lên tiếng sát bên lỗ tai thông
suốt của ông ta đang nghe ông ta nói mà không quay đầu lại - Mụ ta có thể làm
gì được đây?
- Đánh bọc hậu bọn
côn đồ này.
- Qué va - Sordo
nói - Chúng phân tán quanh trái núi này. Làm sao mụ ta đương đầu với chúng
được? Bọn chúng có 150 tên. Bây giờ thì có thể hơn.
- Nhưng nếu mình
cầm cự tới đêm. - Joaquin nói.
- Và nếu Noël đến
vào dịp Pâques. - Người đàn ông tì cằm xuống mặt đất nói.
- Và nếu bà cô của
đồng chí mà có cojones, thì bả là ông dượng rồi - Một người khác nói - Cho
người tìm mụ Pasionaria đi. Để mụ ta giúp bọn mình. Chỉ còn lại có mụ ta thôi.
- Tôi không tin
chuyện đứa con trai của bà ta - Joaquin nói - Hoặc giả nếu hắn có ở bên đó,
chính là để được huấn luyện thành phi công hay một cái gì gần gần như vậy.
- Hắn trốn an toàn
bên đó.
- Hắn học biện
chứng pháp. Pasionaria cũng đã từng ở đó rồi. Và Lister, Modesto cùng bao nhiêu
người khác nữa. Anh chàng có cái tên kỳ lạ đã cho tôi biết. Họ đi học ở bên đó
để trở về giúp đỡ bọn mình. - Joaquin nói.
- Phải chi họ giúp
mình ngay bây giờ. - Người kia nói - Phải chi họ đến đây giúp đỡ bọn mình ngay
bây giờ. - Hắn bắn và nói - Me cago entai, tôi lại bắn trật nó nữa rồi.
- Hãy giữ đạn của
đồng chí và đừng nói nhiều, nói nhiều khát nước lắm - Sordo nói - Trên đồi này
không có nước đâu.
- Hãy cầm lấy cái
này. - Người đàn ông nói và lăn người nằm sang một bên, tháo vò rượu từ trên vai
vòng qua khỏi đầu, trao cho Sordo - Uống cái này thấm giọng đi, hẳn những vết
thương làm cho đồng chí khát lắm.
- Tất cả cùng uống
đi. - Sordo nói.
- Vậy tôi vô trước
đây. - Chủ nhân vò rượu nói và nốc một ngụm to trước khi chuyền vò rượu đi giáp
vòng.
- Sordo, theo đồng
chí thì bao giờ phi cơ tới đây? - Người đàn ông kê cằm trên đất bùn hỏi.
- Bất cứ lúc nào -
Sordo nói - Đáng lẽ chúng đã tới đây rồi.
- Liệu bọn ác ôn
côn đồ kia có tấn công ta nữa hay không?
- Chúng chỉ tấn
công khi nào phi cơ không tới. - Ông ta nghĩ rằng nói tới súng cối không ích
lợi gì. Khi có súng cối tới đây thì họ cũng có đủ thì giờ để biết.
- Chúng có quá đủ
máy bay, căn cứ vào những gì mình trông thấy hôm qua.
- Quá nhiều. -
Sordo nói.
Ông ta nghe đau đớn
nơi đầu và cánh tay đờ đẫn không tài nào cử động được, ông ta dùng cánh tay còn
lành lặn cầm lấy vò rượu giơ lên, vừa nhìn bầu trời cao rộng, trong sáng và
xanh lơ: bầu trời đầu hạ. Ông ta đã năm muơi hai tuổi và ông ta chắc chắn rằng
đây là lần sau cùng trong đời ông ta còn có dịp nhìn bầu trời.
Ông ta không sợ
chết chút nào, nhưng ông ta giận điên người lên vì bị sập bẫy trên ngọn đồi
này, nơi người ta không còn biết phải làm gì ngoài việc đợi chết. Ông ta nghĩ
phải chi có thể chuồn được khỏi nơi này. Nếu kéo chúng vào thung lũng hoặc
thoát được qua bên kia con đường thì còn gì bằng. Nhưng mà làm gì được trên
ngọn đồi ghẻ lở này. Chỉ còn cách sử dụng nó tới mức tối đa và đó là điều họ
vẫn cố làm cho tới bây giờ.
Nếu ông ta biết
được rằng trong lịch sử có bao nhiêu người đã phải chết gục trên một ngọn đồi,
thì điều đó cũng không an ủi ông ta chút nào, bởi vì trong những giây phút mà
ông ta đã trải qua, loài người vẫn không động lòng trước những gì xảy ra cho
những kẻ khác trong những trường hợp tương tự; như một người thành góa phụ
không thấy an ủi khi nghĩ rằng bao nhiêu người chồng yêu dấu khác đã chết. Dù
sợ hay không sợ, thật khó lòng chấp nhận cái chết của chính mình. Sordo đã chấp
nhận nó, nhưng ông ta không tìm thấy niềm khuây khỏa trong sự chấp nhận đó,
ngay ở tuổi năm mươi hai của đời người, với ba vết thương và trên một ngọn đồi
bị vây khổn.
Ông ta thầm đùa
nghịch với chính mình về chuyện đó nhưng ông ta nhìn bầu trời và những ngọn núi
xa, ông ta nốc rượu và ông ta cảm nghiệm rằng mình chẳng muốn chết chút nào.
Ông ta nghĩ, nếu phải chết và nếu biết rõ ràng phải chết, tôi có thể yên ổn mà
chết. Nhưng tôi chống lại chuyện này.
Chết không là gì cả
và ông ta chẳng vẽ nên một hình ảnh hãi hùng nào về cái chết trong đầu óc ông
ta. Nhưng sống, đó là hình ảnh một cánh đồng lúa đong đưa trong gió bên sườn
đồi. Sống, đó là một cánh chim ưng bay trong trời rộng. Sống, đó là một ấm nước
mát của ngày đập lúa với những bụi trấu bay mù. Sống, đó là một con ngựa kẹp
giữa hai chân, một khẩu các bin ở một bên chân, và một ngọn đồi, và một thung
lũng, và một dòng suối cây cối um tùm ở hai bên bờ, và bờ thung lũng bên kia
với xa xa những ngọn đồi trùng điệp.
Sordo trả lại vò
rượu cho chủ nhân của nó với một cái gật đầu tỏ dấu cám ơn. Ông ta nghiêng
người về phía trước và vỗ nhẹ vào cổ con ngựa chết, đúng vào nơi nòng khẩu súng
máy đã làm cháy xém mảng da của nó. Ông ta vẫn còn nghe mùi lông cháy khét lẹt.
Ông ta nhớ lại mình đã giữ con ngựa nơi kia bằng cách nào khi nó đang run rẩy
giữa lúc những viên đạn thi nhau nổ chát chúa và rít liên hồi ở chung quanh và
ở trên đầu họ như một tấm màn, và bằng cách nào ông ta đã nhắm bắn thật kỹ,
đúng vào giao điểm của những đường nối liền một bên tai và con mắt phía đối
xứng. Sau đó, khi con ngựa bị bắn gục, ông ta vội nằm xuống sau cái lưng nóng
hổi và nhễ nhại của nó để bắn trả lại những tên lính xung phong đang leo lên
ngọn đồi.
- Eras mucho
caballo, - Ông ta nói - điều này có nghĩa là: mi đúng là một con ngựa hảo hạng.
Bây giờ thì Sordo
đang nằm ở bên cạnh sườn còn lành lặn, đưa mắt nhìn trời. Ông ta nằm trên những
lớp vỏ đạn, đầu được tảng đá che chở và người ép sát vào hông con ngựa. Những
vết thương làm cho các bắp thịt của ông ta đờ đẫn, nhức nhối, ông ta đau đớn
nhiều và cảm thấy mệt nhọc trong từng cử động nhỏ.
- Sao vậy, Sordo? -
Người đàn ông đứng cạnh ông ta lên tiếng hỏi.
- Không, tôi đang
nghỉ mệt.
- Ngủ đi. Chúng sẽ
đánh thức ta dậy khi chúng đến đây.
Đúng vào lúc đó,
một người nào cất tiếng kêu từ phía dưới triền đồi.
- Nghe đây, bọn ăn
cướp. - Giọng nói phát ra từ phía sau một tảng đá che khuất khẩu súng máy gần
họ nhất - Đầu hàng đi trước khi máy bay phân tụi bay ra từng mảnh.
- Nó nói gì? -
Sordo hỏi.
Joaquin lặp lại cho ông ta. Sordo lăn
người nằm sang một bên và trườn người lên để lại nằm đúng sau khẩu súng.
- Có thể chúng không có máy bay - Ông
ta nói - Đừng trả lời và cũng đừng bắn. Có thể ta lại làm cho chúng tấn công
nữa.
- Ta sỉ vả chúng một chút đi nghe? -
Một người đàn ông hỏi, hắn là người đã kể cho Joaquin nghe chuyện con trai của
Pasionaria đang ở bên Nga.
- Không - Sordo nói - Đưa khẩu súng lục
lớn cho tôi. Ai có khẩu súng lục lớn?
- Đây.
- Đưa cho tôi. - Ông ta quỳ gối, cầm
khẩu Star 9mm và bắn một viên xuống mặt đất, cạnh xác con ngựa, chờ đợi giây
phút, đoạn bắn liên tiếp bốn viên cách khoảng đều nhau. Đoạn ông ta chờ và đếm
tới sáu mươi và bắn một viên sau cùng vào xác con ngựa. Ông ta mỉm cười, trả
lại khẩu súng.
- Lắp đạn vô đi, - Ông ta thì thầm -
không ai được nói gì và cũng không ai được bắn.
- Bandidos! 1 - Giọng nói vang lên từ
sau những tảng đá.
Trên đồi, không ai đáp lại.
- Bandidos! Hàng đi trước khi tan xác
thành muôn mảnh.
- Có kết quả rồi đó. - Sordo hài lòng.
Trong khi ông ta quan sát triền đồi,
thì một người đàn ông chợt xuất hiện trên một tảng đá. Không một tiếng súng nào
phát ra từ ngọn đồi và cái đầu người vụt biến mất. El Sordo chờ đợi, vừa đưa
mắt ngó quanh, nhưng không thấy động tĩnh gì nữa. Ông ta quay đầu nhìn những
người khác, mỗi người đang canh chừng khoảng triền đồi của mình. Họ cùng gật
đầu với ông ta.
- Không ai được động đậy. - Ông ta thì
thầm.
- Đồ ma cô con của điếm thúi. - Từ sau
các tảng đá giọng nói lại vang lên.
- Lũ heo đỏ. Đồ đâm cha giết chú hãm
chị dâu, ngồi đầu cầu thổi ống tiêu!
Sordo mỉm cười. Ông ta đã nghe ra những
tiếng chửi bới ném tới ông ta, ông ta quay cái lỗ tai lành lặn của mình về phía
những tiếng chửi bới đó. Ông ta nghĩ thầm, hiệu quả hơn aspirine. Còn phải tém
bao nhiêu tên nữa đây? Chúng ngu ngốc đến thế à?
Giọng nói lại im bặt và trong vòng ba
phút sau đó, họ không còn nghe gì nữa và cũng không trông thấy một hoạt động
nào. Sau đó, khoảng chừng 100 thước dưới chân họ, tên lính đang rình mò lại
xuất hiện và bắn. Viên đạn trúng vách đá và trượt đi trong một tiếng rít rợn
người. Sau đó Sordo trông thấy một người đàn ông người gập làm đôi chạy từ chỗ
núp sau các tảng đá nơi đặt khẩu súng máy, chạy qua khoảng trống, tới tảng đá
lớn nơi một người khác đang núp và kêu inh ỏi. Hắn phóng người sau tảng đá.
Sordo nhìn quanh. Người ta ra dấu cho
ông ta biết không có động tĩnh nào trên các dốc đồi khác. Sordo mỉm cười sung
sướng, và gật đầu. Ông ta nghĩ, mười lần hơn thuốc aspirine và ông ta chờ đợi,
chỉ một anh thợ săn lành nghề mới có thể sung sướng như ông ta lúc bấy giờ.
Phía dưới sườn đồi, người đàn ông vừa
mới chạy ra khỏi đống đá để tới chỗ núp sau tảng đá lớn lúc bấy giờ nói với tên
kia.
- Mày có chắc điều đó không?
- Không biết. - Tên đứng núp trả lời.
- Điều đó hợp lý - Người đàn ông nói,
hắn là tên sĩ quan chỉ huy phân đội - Chúng bị bao vây rồi. Chúng chỉ còn có
nước đợi chết mà thôi.
Tên lính không nói gì.
- Mày nghĩ sao? - Tên sĩ quan hỏi.
- Tôi không nghĩ gì cả. - Tên lính nói.
- Mày không thấy gì hết từ lúc có những
tiếng súng lục sao?
- Không.
Tên sĩ quan nhìn đồng hồ đeo tay. Ba
giờ kém mười rồi, hắn nói. Lúc bấy giờ một tên sĩ quan khác đến núp sau tảng
đá. Tên đang đứng núp xê ra để nhương chỗ cho hắn.
- Còn anh, Paco - Tên sĩ quan thứ nhứt
hỏi - Anh thấy thế nào?
Tên sĩ quan thứ nhì thở hổn hển sau
chuyến leo dốc và chạy băng qua sườn đồi.
- Tôi nghĩ đó là một mưu mẹo. - Hắn
nói.
- Nếu không phải thế thì sao? Mình cứ
mãi đợi ở nơi này và lo bao vây xác chết thì quê thật.
- Mình đã từng biết những cảnh tệ hơn -
Tên sĩ quan thứ nhì nói - Hãy nhìn cái dốc đồi này coi.
Hắn ngước mắt về phía những xác người
nằm gục bên đỉnh đồi. Từ chỗ quan sát, hắn trông thấy đường viền đỉnh đồi với
những tảng đá tản mạn, cái bụng cùng mấy cái chân co lại của con ngựa của
Sordo, và đống đất do bọn họ xới lên để làm bao lơn.
- Còn súng cối? - Tên sĩ quan thứ nhì
hỏi.
- Đáng lẽ tới đây từ một tiếng đồng hồ
trước. Nếu không tới sớm hơn nữa.
- Vậy thì mình đợi nó. Mình đã dại dột
khá nhiều rồi!
- Bandidos! - Tên sĩ quan thứ nhứt chợt
hét lên vừa đứng thẳng người lại và ngẩng đầu ra khỏi tảng đá, chóp ngọn đồi
trở nên gần với hắn hơn - Đồ heo đỏ! Đồ hèn nhát!
Tên sĩ quan thứ nhì nhìn tên lính và
lắc đầu. Tên lính quay mặt đi nhưng môi hắn mím lại.
Tên sĩ quan thứ nhứt vẫn đứng đó, đầu
trồi lên, khỏi tảng đá, và bàn tay đặt trên bá súng lục. Hắn bắt đầu nguyền rủa
thậm tệ về phía ngọn đồi. Không có gì xảy ra. Sau đó, hắn rời khỏi tảng đá một
cách cương quyết và vẫn đứng thẳng người như thế, nhìn về phía đỉnh đồi.
- Lũ hèn, bắn đi nếu tụi bay còn sống -
Hắn hét lên - Hãy bắn vào một người, cóc sợ một tên con đỏ nhà thổ nào cả.
Đó là một câu hò hét dài dòng và khuôn
mặt tên sĩ quan đỏ lên như gấc.
Tên sĩ quan thứ nhì, một người ốm yếu,
da sạm nắng, đôi mắt trầm lặng, miệng mỏng, môi trên dài ra, hai má hóp tua tủa
những râu, lại lắc đầu một lần nữa. Chính tên sĩ quan vừa mới hét kia là người chỉ
huy cuộc tấn công thứ nhứt. Trên trung úy nằm gục chết bên sườn đồi là người
bạn thân nhứt của tên trung úy kia tên là Paco Berrendo. Bây giờ hắn đang nghe
những tiếng hò hét của tên đại úy đang trong trạng thái kích động dữ dội.
- Chính đồ heo đã giết mẹ và chị tôi. -
Tên đại úy nói. Hắn có khuôn mặt đỏ rần, bộ râu mép vàng hung kiểu người Anh và
một vẻ bịnh hoạn trong cái nhìn của hắn. Đôi mắt hắn có một màu xanh nhợt nhạt
với những sợi lông mi cũng nhợt nhạt. Khi nhìn vào đôi mắt đó, người ta có cảm
tưởng chúng điều tiết rất chậm chạp - Bọn đỏ! - Hắn kêu lên! - Bọn hèn nhát! -
Và hắn lại bắt đầu nguyền rủa.
Bây giờ thì hắn hoàn toàn xuất đầu lộ
diện và hắn cầm súng nhắm kỹ vào mục tiêu duy nhứt hiện ra trên đồi mà bắn: xác
con ngựa của Sordo. Viên đạn làm tung một lớp bụi cách mười lăm thước ở phía
dưới con ngựa. Tên đại úy lại bắn nữa. Viên đạn va vào một tảng đá và trượt đi
trong tiếng rít.
Tên đại úy đừng nhìn lên đỉnh đồi. Tên
trung úy Berrendo thì nhìn xác tên trung úy kia nằm đúng ở dưới đỉnh đồi. Tên
đang núp thì nhìn xuống đất trước mặt hắn. Đoạn hắn ngẩng mặt nhìn tên đại úy.
- Không ai còn sống trên đó nữa. - Tên
đại úy nói - Mày, - Hắn bảo tên đang núp - mày lên xem coi nào.
Tên lính nhìn xuống đất, không nói gì.
- Mày không nghe tao nói gì à? - Tên
đại úy hét lên.
- Nghe, thưa đại úy. - Tên lính nói,
vẫn không nhìn hắn.
- Vậy thì đi đi. - Tên đại úy vẫn cầm
khẩu súng lục - Nghe chưa?
- Dạ nghe, thưa đại úy.
- Tại sao chưa chịu đi?
- Tôi không muốn đi, thưa đại úy.
- Mày không muốn đi à? - Tên đại úy
chĩa mũi súng vào vùng thắt lưng của tên lính - Mày không muốn đi à?
- Tôi sợ, thưa đại úy. - Tên lính nói
một cách nghiêm trang.
Tên trung úy Berrendo quan sát khuôn
mặt tên đại úy cùng đôi mắt kỳ dị của hắn, tưởng chừng hắn sắp giết tên lính
tại chỗ.
- Đại úy Mora. -
Hắn nói.
- Trung úy
Berrendo?
- Tên lính kia có
thể có lý.
- Có lý khi hắn nói
sợ à? Có lý khi hắn không muốn tuân theo một mệnh lệnh à?
- Không. Hắn có lý
khi tin có một âm mưu gì đây.
- Bọn chúng chết cả
rồi - Tên đại úy nói - Anh không nghe tôi nói à? Bọn chúng chết cả rồi.
- Ông muốn nói
những người bạn của chúng ta nằm trên sườn đồi đó à? - Berrendo hỏi hắn - Tôi
đồng ý với ông.
- Paco, - Tên đại
úy nói - đừng có ngốc. Anh tưởng chỉ có anh là người thương mến Julian sao? Tôi
nói với anh là bọn đỏ đã chết. Nhìn coi.
Hắn đứng thẳng
người và đặt hai tay lên tảng đá, hắn rút người lên đó và leo một cách vụng về
trên hai đầu gối đoạn đứng phắt dậy.
- Bắn đi - Hắn hét
lên, hắn đứng trên tảng đá hoa cương xám, khoa hai tay - Bắn đi. Bắn đi. Bắn hạ
tao đi.
Trên đỉnh đồi, El
Sordo vẫn nằm yên sau lưng con ngựa chết và mỉm cười.
Cái giống dân gì
lạ! Ông ta nghĩ, ông ta cười khẩy một mình vừa cố nén lại, bởi tiếng cười làm
lay động cánh tay khiến ông ta đau nhói.
- Bọn đỏ - Có tiếng
hét phía dưới - Bọn đỏ súc sinh. Bắn vào người tao nè. Bắn hạ tao đi.
Ngực run lên vì
tiếng cười, Sordo ném một cái nhìn rất nhanh qua mông con ngựa và trông thấy
tên đại úy đang khoa tay từ trên một tảng đá. Một tên sĩ quan khác đứng cạnh
đó. Tên lính đứng ở đầu bên kia. Sordo tiếp tục nhìn theo hướng đó và lắc đầu,
lòng tràn đầy sung sướng.
“Bắn vào tao nè -
Ông ta lặp lại thật nhỏ - Bắn hạ tao đi!” Đoạn hai vai ông ta lại run lên vì
cười. Ông càng đau nhói ở cánh tay, và cứ mỗi lần cười như vậy ông ta có cảm
giác đầu mình như sắp sửa vỡ ra. Nhưng ông ta lại cười đến rung người như trong
một chứng động kinh.
Tên đại úy Mora
bước xuống tảng đá.
- Bây giờ anh tin
tôi không, Paco? - Hắn hỏi tên trung úy Berrendo.
- Không.
- Cojones. Ở đây
chỉ có toàn những thằng ngu xuẩn và nhát gan.
Tên lính đã cẩn
thận quay trở lại sau tảng đá và tên trung úy Berrendo đang ngồi xổm cạnh hắn.
Tên đại úy xuất
hiện cạnh tảng đá lại bắt đầu chửi những điều gớm ghiếc về phía đỉnh đồi. Không
có ngôn ngữ nào bẩn thỉu, rác rến hơn ngôn ngữ Tây Ban Nha. Nó có thể phiên
dịch được tất cả những vẻ thô tục của những ngôn ngữ khác và cả những từ ngữ
chỉ có trong những xứ sở mà sự lăng mạ đi đôi với sự khổ hạnh trong tôn giáo.
Tên trung úy Berrendo là một tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo. Tên lính cũng
vậy. Cả hai thuộc phe bảo hoàng ở Navarre, họ có thể nguyền rủa hay lăng mạ kẻ
khác khi họ nổi giận, nhưng họ xem đó như một cái tội mà họ thường xuyên phải
đi xưng.
Họ ngồi sau tảng
đá, nhìn tên đại úy và nghe hắn hò hét cả hai đều không tán thành hắn và những
lời lẽ của hắn. Họ không muốn nuôi duỡng những ý nghĩ kiểu đó trong đầu vào
ngày họ có thể chết. Tên lính nghĩ rằng nói năng như vậy thật không nên chút
nào. Nói về đức Virgen như vậy thì rõ là xui xẻo. Con người đó, hắn ăn nói còn
tệ hơn bọn đỏ.
Julian đã chết, tên
trung úy Berrendo nghĩ. Chết ngay trên sườn đồi kia vào một ngày như thế này.
Thế mà bây giờ cái ống loa kia lại tiếp tục mang xui xẻo lại cho bọn này với
những câu chửi rủa tục tằn của nó.
Sau cùng, tên đại
úy thôi không hò hét nữa và quay lại nhìn tên trung úy Berrendo. Đôi mắt hắn lạ
lùng hơn bao giờ hết.
- Paco. - Hắn vui
vẻ nói. Ta lên đó đi, anh và tôi.
- Tôi không đi.
- Sao? - Tên đại úy
lại móc khẩu súng lục ra.
Tôi ghét cái bọn
thích cầm súng hăm dọa người ta, Berrendo nghĩ. Chúng không thể đưa ra một mệnh
lệnh mà không phô trương vũ khí. Chúng phải móc súng ra khi chúng vào nhà xí và
tự ra lịnh phải làm những điều phải làm.
- Tôi sẽ đi khi ông
ra lịnh nhưng đồng thời tôi phản đối. - Tên trung úy Berrendo nói với tên đại
úy.
- Vậy thì tôi đi
một mình vậy - Tên đại úy nói - Ở đây sao lắm kẻ hèn nhát quá.
Hắn cầm khẩu súng
lục trong bàn tay phải, bắt đầu leo lên triền đồi. Berrendo và tên lính đưa mắt
nhìn theo. Hắn không lẩn tránh và nhìn thẳng về phía trước, nơi có những tảng
đá, xác con ngựa và khoảng đất mới xới ở trên đỉnh.
El Sordo nằm sau
con ngựa, trong góc đá, nhìn tên đại úy leo lên ngọn đồi.
Chỉ có một tên
thôi, ông ta nghĩ. Ta chỉ có một tên thôi. Nhưng theo cách nói của hắn thì
đó là caza mayor 2. Hãy nhìn hắn tiến lên kìa. Hắn thuộc phần tôi. Tôi đưa hắn
đi theo tôi cho có bạn. Hắn sắp sửa đi một chuyến với tôi. Nào đến đây, leo lên
đây. Đến với tôi. Nào. Bước tới đi. Đừng bước chậm lại. Đến thẳng đây đi. Cứ
tiếp tục như vậy. Đừng dừng chân lại nhìn bọn chúng. Được lắm. Đừng nhìn xuống
dưới. Hãy cứ tiếp tục tiến bước và nhìn thẳng về trước. Nhìn xem kìa, hắn có
râu mép. Mày bảo sao? Hắn đang trờ bộ râu mép tới, người bạn đồng hành. Hắn là
đại úy. Nhìn dáng đi của hắn kia. Ta bảo hắn là maza mayor đúng lắm mà. Hắn có
cái đầu của bọn Inglés. Nhìn xem, với khuôn mặt đỏ ửng, tóc vàng và mắt xanh.
Hắn có đôi mắt xanh nhợt nhạt không cố định. Khá gần rồi đấy. Quá gần rồi, tốt
lắm, người bạn đồng hành. Đón lấy cái này nghe.
Ông ta ấn nhẹ vào cò súng, khẩu súng
máy giật lùi lại ba lượt chạm mạnh vào vai ông ta trong cơn trượt mạnh của võ
khí tự động.
Tên đại úy ngã gục trên triền đồi, mặt
ập vào đất. Cánh tay trái của hắn gập lại dưới thân thể hắn. Cánh tay phải tay
cầm súng, nằm sải ra ở trước đầu. Từ dưới triền dốc bọn chúng lại tiếp tục bắn
lên đỉnh đồi.
Ngồi xổm sau tảng đá, nghĩ rằng đã đến
lúc phải vừa băng qua khoảng trống vừa chạy dưới làn đạn, tên trung úy Berrendo
nghe giọng nói trầm trọng và khàn khan của Sordo từ trên đỉnh đồi vọng xuống.
- Bandidos! Bandidos! Bắn đi! Bắn hạ
tao đi!
Trên đỉnh đồi, El Sordo nằm dài sau
khẩu súng và cất tiếng cười đến đau nhói ở ngực và ông ta tưởng đầu mình đang
võ ra.
- Bandidos! - Ông ta lại kêu lên hớn hở
- Bắn hạ tao đi, bandidos! - Đoạn ông ta gật đầu khoái trá. Ta có nhiều người
đồng hành trong cuộc du lịch, ông ta nghĩ.
Ông ta đợi bắn hạ tên sĩ quan kia khi
hắn rời chỗ núp sau tảng đá. Sớm muộn gì hắn cũng sẽ rời khỏi chỗ đó. Sordo
biết hắn không thể đứng đó chỉ huy được và ông ta tin mình có thể giết hắn một
cách dễ dàng.
Lúc bấy giờ, những người khác đang nghe
những tiếng vù vù đầu tiên của những chiếc phi cơ đang bay tới gần.
El Sordo không nghe thấy chúng, ông ta
mải nhắm vào rìa tảng đá với khẩu súng máy, ông ta nghĩ: tôi chỉ trông thấy hắn
khi hắn đang co giò chạy và nếu không chú ý là tôi sẽ bắn hụt nó ngay. Tôi có
thể bắn từ phía sau hắn trong suốt quảng đường. Khẩu súng máy phải đuổi theo
một lượt với hắn, trước cả hắn. Hoặc cứ để hắn chạy và sau đó bắn ngay về phía
trước hắn, trên đầu hắn. Tôi sẽ thử chận hắn ở đó, bên rìa tảng đá và bắn vào
ngay phía trước hắn. Lúc bấy giờ, ông ta cảm thấy có bàn tay đặt lên vai mình,
ông quay lại trông thấy khuôn mặt của Joaquin xám ngắt vì sợ. Ông ta nhìn theo
hướng chỉ của cậu thiếu niên và trông thấy ba chiếc phi cơ đang tới gần.
Cũng trong lúc đó, tên trung úy
Berrendo đã rời khỏi tảng đá và cúi đầu chạy băng qua triền đồi để tiến về chỗ
núp có nhiều tảng đá cũng là nơi đặt khẩu súng máy.
Sordo đang nhìn phi cơ, không trông
thấy hắn băng qua.
- Giúp tôi kéo cái này ra coi. - Ông ta
bảo Joaquin, và người con trai kéo súng máy vào giữa khoảng con ngựa và tảng
đá.
Những chiếc phi cơ bay tới gần trong
một tốc độ đều đều. Chúng bay từng đợt, chúng mỗi lúc một lớn dần và tiếng gầm
thét mỗi lúc một to hơn.
- Nằm ngửa xuống để bắn lên chúng, -
Sordo nói - phía trước chúng khi chúng bay tới.
Họ nhìn những chiếc phi cơ không rời
mắt.
- Cabrones! Hijos de putas! - Ông ta
nói nhanh.
- Ignacio - Ông ta vừa nói kê họng súng
trên vai cậu trai - Còn cậu! - Ông ta bảo Joaquin - Ngồi xuống và đừng cử động.
Cúi xuống. Nữa. Thôi. Nữa.
Ông ta lại nằm xuống và chĩa khẩu súng
máy lên trời trong lúc phi cơ từ từ trờ tới.
- Ignacio, vịn cho tôi cái chân ba càng
này coi. - Cái chân ba càng lủng lẳng trên vai người con trai và nòng súng thì
lắc lư theo cơn run mà Joaquin không chế ngự nổi trong khi cậu ta ngồi xổm ra
dó, đầu cúi xuống, nghe chừng tiếng rống mỗi lúc một lớn dần.
Ignacio nằm sấp, đầu ngẩng lên trời,
trông chừng chúng bay tới, cậu gom chân ba càng trong hai bàn tay và dựng đứng
khẩu súng lên.
- Hãy cúi đầu sát xuống - Ông ta bảo
Joaquin - Đưa đầu tới trước.
Mụ Pasionaria nói: “Tốt hơn là chết
đứng...”, Joaquin nghĩ thầm trong khi tiếng rống vọng tới gần. Đoạn cậu ta chợt
thầm thì: “Kính Đúc Mẹ đầy ơn phước. Chúa ở cùng Bà. Bà được nhiều phước đức
hơn tất cả mọi người nữ và tấm lòng Bà được giáng phúc. Thánh nữ Maria, đức Mẹ
của Chúa Trời, hãy cầu nguyện cho chúng con là những kẻ có tội, bây giờ và
trong giờ lâm tử. Amen. Thánh nữ Maria, đúc Mẹ của Chúa Trời”, cậu ta lại bắt
đầu cầu nguyện và sau đó, khi những tiếng gầm thét trở nên dữ dội, cậu ta vội
vã xưng tội: “Lạy Chúa, con thật tình sám hối đã lăng mạ Ngài, Ngài vẫn xứng
đáng với lòng kính mến của con...”.
Sau đó, có tiếng nổ dữ dội thét vào tai
và nòng súng chợt nóng hổi trên vai cậu ta. Tiếng nổ lại phát ra và cậu nghe
điếc tai vì sức thổi của khẩu súng. Ignacio kéo mạnh chân ba càng, và nòng súng
làm cháy xém lưng cậu ta. Tiếng súng nổ vang từng hồi trong tiếng gầm thét của
phi cơ và cậu ta không còn nhớ việc xưng tội nữa.
Tất cả những gì cậu còn nhớ là: trong
giờ lâm tử của chúng con. Amen. Trong giờ của chúng con. Amen. Trong
giờ. Trong giờ. Amen. Những người khác tất cả đều đang bắn. Bây giờ và trong
giờ lâm tử của chúng con. Amen.
Sau đó, xuyên qua
tiếng súng nổ, có tiếng rít của không khí bị xé toạt, trong cơn gầm thét rực
trời, mặt đất lăn quay dưới hai đầu gối của cậu ta và những mảnh đá bắt đầu rơi
chung quanh, và rồi Ignacio nằm ập lên người cậu ta, và rồi khẩu súng đè lên cậu
ta. Nhưng cậu ta vẫn chưa chết bởi vì tiếng rít lại bắt đầu và mặt đất lại lăn
quay dưới thân thể cậu ta trong cơn gầm thét dữ dội. Rồi sự việc lại khởi đầu
trở lại, và rồi mặt đất tan biến dưới bụng cậu ta và rồi một cạnh đồi bay tung
lên trong không khí và chầm chậm rơi xuống, phủ lên những thân thể nằm sõng
soài. Những chiếc phi cơ bay trở lại và dội bom ba lần nhưng trên ngọn đồi
không còn ai hay biết gì về điều đó. Rồi chúng bắn ria lên đỉnh đồi và bay đi
thẳng. Chúng nhào thẳng xuống một lần sau cùng trong tiếng nổ của những khẩu
súng máy của chúng rồi thì chiếc thứ nhứt bay trở lên và tách ra, tuần tự những
chiếc kia cũng làm y theo, bây giờ chúng không bay từng đợt nữa mà kết thành
hình chữ V, và bay ra xa theo hướng Ségovie.
Tiếp tục cầm đầu một
hỏa lực hùng hậu tiến chiếm đỉnh đồi, tên trung úy hướng dẫn một cuộc tuần thám
lên tới một trong những hố bom, nơi bọn chúng có thể ném lựu đạn lên đỉnh đồi.
Hắn không muốn để sót một người nào chờ bọn chúng trên đỉnh đồi hoang tàn, hắn
ném bốn trái lựu đạn vào trong mớ xác chết hỗn độn của mấy con ngựa làm tung
đất đá mịt mù trước khi leo lên khỏi hố bom và đi xem xét.
Không còn ai sống
sót trên đỉnh đồi trừ Joaquin đang nằm bất tỉnh nhân sự dưới xác chết của
Ignacio. Joaquin bị chảy máu mũi và tai. Cậu ta không còn hay biết gì, cảm giác
gì kể từ lúc cậu ta chợt thấy mình rơi vào giữa cơn sấm sét và lúc trái bom kia
rơi sát bên cậu ta khiến cậu tan hồn khiếp đảm. Tên trung úy Berrendo làm dấu
thập tự đoạn bắn một phát từ sau gáy cậu ta, nhanh chóng và dịu dàng, nếu người
ta có thể bảo một động tác như thế là dịu dàng, như lúc Sordo hạ thủ con ngựa
bị thương.
Đứng trên đỉnh đồi,
tên trung úy Berrendo nhìn phía dưới hắn, trên triền đồi, những xác chết của
đồng bọn, đoạn hắn nhìn về phía cánh đồng xa, nơi bọn chúng đã phi ngựa tới
trước khi Sordo bị dồn vào bước đường cùng tại đây. Hắn quan sát các vị trí
đoạn ra lịnh dẫn ngựa của những người chết lên và cột các xác chết nằm vắt qua
yên ngựa để đưa họ về La Granja.
- Nhặt tên đó lên
nữa. - Hắn nói. Tên có hai tay đặt trên khẩu súng máy. Hẳn đó là Sordo, ông ta
lớn tuổi hơn cả và chính ông ta giữ khẩu súng máy. Không, cắt đầu hắn và bọc
trong một cái poncho - Hắn sung sướng nghĩ trong giây phút - tốt hơn hết nên
cắt hết đầu. Và đầu những tên khác ở triền đồi phía dưới, nơi ta đã khởi sự bắn
chết chúng. Hãy lượm hết những súng trrường và súng lục và chở khẩu súng này
trên một con ngựa.
Đoạn hắn bước trở
xuống nơi có xác tên trung úy đã bị ngã gục trong đợt tấn công đầu tiên. Hắn
chỉ nhìn mà không dám đụng vào đó. Qué cosa mas mala es la querra, hắn nói với
chính mình, điều đó có nghĩa là: “Chiến tranh là điều tệ hại làm sao”.
Đoạn hắn lại làm
dấu thập tự và vừa bước xuống đồi, hắn lẩm nhẩm đọc năm bài Lạy Chúa Con và năm
bài Kính đức Maria dành cho sự yên nghỉ của linh hồn người bạn đã chết. Hắn
không muốn ở lại để chứng kiến việc thi hành mệnh lệnh của hắn.
--- ------ ------
------ -------
1 Đồ ăn cướp.
2 Con mồi to.
Chương 28
Phi cơ bay đi rồi,
Robert Jordan và Primitivo nghe tiếng súng bắt đầu nổ vang trở lại và họ có cảm
tưởng tim họ bắt đầu đập mạnh trong giây phút đó. Một vầng khói đùn lên ở trên
phòng tuyến sau cùng trông thấy được của vùng cao nguyên, và các chiếc phi cơ
chỉ còn là ba đốm đen nhỏ dần trên nền trời rộng.
- Có thể chúng dội
bom xuống đội kỵ binh của chúng mà không đụng gì tới Sordo và người của ông ta
- Robert Jordan nghĩ thầm - Những chiếc phi cơ quỷ vật kia chúng gây khiếp đảm
thôi chớ không giết các đồng chí bao giờ.
- Trận đánh vẫn
tiếp tục. - Primitivo nói, hắn đang lắng tai nghe súng nổ ác liệt. Hắn nhăn mặt
mỗi lần có tiếng bom gầm thét và bây giờ thì hắn đang liếm đôi môi khô ran của
hắn.
- Tại sao không? -
Robert Jordan nói - Những thứ đó không hề giết được ai.
Loạt đạn ngừng hẳn.
Người ta không còn nghe một tiếng nổ nào nữa. Tiếng nổ từ khẩu súng lục của tên
trung úy Berrendo không vọng xa bao nhiêu.
Khi loạt đạn im
bặt, thoạt đầu chàng không lo lắng gì. Nhưng trong niềm im lặng kéo dài, chàng
nghe như có một cảm giác trống trải trong dạ dày của mình. Tiếp theo chàng nghe
tiếng lựu đạn nổ và tim chàng nhói lên trong khoảnh khắc. Sau cùng tất cả lại
trở nên lặng thinh như tờ. Niềm im lặng kéo dài, chàng biết ngay là mọi sự đã
xong xuôi.
Maria từ trại tới,
nàng đem lên một cái nồi sắt đung món thỏ nấu rượu với nấm quyện trong một lớp
nước sốt dày, một cái giỏ bánh mì, một vò rượu, bốn cái dĩa thiếc, hai cái tách
và bốn cái muỗng. Nàng dừng lại cạnh khẩu súng máy và bày ra hai dĩa cho
Angustin và Eladio, người thay chỗ cho Anselmo, nàng trao bánh mì cho họ, mở
nút vò và rót đầy hai ly rượu.
Robert Jordan đã
nhìn nàng nhẹ nhàng bước lên dốc, đến trạm quan sát của chàng, vai mang giỏ,
tay bưng nồi, cái đầu cạo trọc của nàng sáng lên trong ánh nắng. Chàng bước
xuống để gặp nàng, bưng nồi giùm nàng và giúp nàng leo lên tảng đá sau cùng.
- Máy bay làm gì
vậy? - Nàng hỏi, đôi mắt sợ sệt.
- Chúng dội bom
xuống nhóm Sordo. - Chàng dở nắp nồi và múc thịt vào một cái dĩa.
- Vẫn đánh nhau à?
- Không. Xong rồi.
- Ồ! - Nàng kêu lên và bậm môi ngước
nhìn xa xa.
- Tôi không đói. - Primitivo nói.
- Dù sao nên ăn đi. - Robert Jordan bảo
hắn.
- Tôi không thể nào nuốt vô thứ gì
được.
- Uống một ngụm cái này đi, ông bạn -
Robert Jordan nói vừa trao cho hắn - Rồi sau đó hãy ăn.
- Câu chuyện Sordo làm mất ngon -
Primitivo nói - Đồng chí ăn đi. Còn tôi, tôi không đói.
Maria đến bên hắn, choàng tay ôm cổ hắn
và hôn hắn.
- Ăn đi, ông bạn - Nàng nói - Cần phải
giữ gìn sức khỏe.
Primitivo quay đi. Hắn cầm vò rượu,
ngửa mặt, uống từ từ một ngụm rượu rồi nuốt ục vào tận cổ họng. Đoạn hắn múc
thịt vào dĩa và bắt đầu ăn.
Robert Jordan nhìn Maria, gật đầu. Nàng
ngồi xuống bên chàng và choàng tay ôm vai chàng. Mỗi người đều biết cảm nghĩ
của nhau và họ giữ yên như vậy, ngồi sát bên nhau. Robert Jordan ăn món thỏ,
thong thả thưởng thức hương vị của những chiếc nấm và lặng lẽ uống.
- Em có thể ở lại đây nếu em thích,
guapa ạ! - Chàng nói, một chập sau khi nồi đã cạn.
- Không - Nàng nói - Em phải đi gặp
Pilar.
- Em có thể ở đây được mà. Bây giờ thì
không có chuyện gì xảy ra đâu.
- Không. Em phải đi
gặp Pilar. Chị đã bắt đầu dạy em.
- Bà ta làm gì?
- Dạy em - Nàng mỉm
cười với chàng đoạn ôm chàng hôn - Anh chưa nghe nói tới việc giáo dục tôn giáo
bao giờ à? (Nàng đỏ mặt). Một cái gì gần như vậy (Nàng lại đỏ mặt). Nhưng lại
khác.
- Thôi em đi học
đi. - Chàng nói và vuốt ve lên đầu nàng. Nàng lại mỉm cười với chàng và quay
sang Primitivo: “Đồng chí có cần gì ở dưới đó không?”
- Không, cô bé ạ. -
Hắn nói. Người ta thấy rõ là hắn chưa hoàn hồn lại.
- Salud, ông bạn. -
Nàng bảo hắn.
- Nghe này - Primitivo
nói - Tôi không sợ chết nhưng để bọn họ lẻ loi như vậy thì... - Giọng nói hắn
dứt khoảng.
- Không còn cách
lựa chọn nào khác. - Robert Jordan bảo hắn.
- Tôi biết. Nhưng
ngay trong hoàn cảnh đó.
- Không cách nào
khác. Bây giờ tốt hơn đừng bàn chuyện đó nữa.
- Xong rồi. Nhưng
bọn họ lẻ loi, không có sự trợ giúp nào của bọn ta....
- Tốt hơn đừng nói
chuyện đó nữa. Còn em, guapa, lo đi học đi.
Chàng nhìn nàng
băng qua những tảng đá bước xuống. Chàng ngồi như thế khá lâu, vừa nghĩ ngợi
vừa quan sát các triền đồi.
Primitivo nói nhưng
chàng không đáp lại. Trời nóng dữ nhưng chàng vẫn không để tâm lưu ý, chàng vẫn
nhìn những triền dốc của ngọn đồi và những cụm thông lớn trên cao. Một tiếng
đồng hồ đã trôi qua và mặt trời đã lên cao ở phía trái chàng khi chàng trông
thấy chúng ở triền dốc và chàng cầm ống dòm lên. Chàng trông thấy hai hàng
người ngựa đang di chuyển dưới mắt chàng. Trong khi quan sát, chàng nghe mồ hôi
dầm dề dưới hai bên nách. Một người đàn ông cưỡi ngựa dẫn đầu. Tiếp theo là
những tên kỵ mã khác. Tiếp theo là những con ngựa không có người cưỡi với những
bọc nặng cột ngang trên yên. Tiếp theo nữa là hai tên kỵ mã khác. Theo sau là
những tên bị thương ngồi trên lưng ngựa với những tên đi bộ vây quanh. Sau cùng
là những tên kỵ mã khác nữa khép chặt đoàn quân.
Robert Jordan nhìn
bọn chúng xuống triền dốc và khuất mất trong rừng cây. Trong khoảng cách đó,
chàng không thể trông rõ cái bọc cột chặt trên yên một con ngựa, quấn tròn
trong một lớp poncho, cột từng đoạn và ở hai đầu, nó phồng lên từng khoảng giữa
hai mối cột. Cái bọc vắt ngang qua yên, hai đầu cột vào bàn đạp ngựa. Cạnh gánh
nặng đó là khẩu súng máy của Sordo, buộc vào yên ngựa, ngạo nghễ dựng lên.
Tên trung úy
Berrendo cuỡi ngựa dẫn đầu đoàn quân không ra vẻ tự phụ chút nào. Hắn chỉ nghe
một cảm giác trống trải sau những phút hành động. Hắn nghĩ: cắt đầu người là
điều dã man. Nhưng phải làm thế nào để chứng minh và nhận diện. Việc này có thể
phiền phức đây, ai biết được? Chuyện cắt đầu người này có thể sẽ làm cho họ
động lòng. Những cũng có nhiều kẻ khoái những cái này. Có thể họ sẽ gởi tất cả
những đầu người về Burgos. Chuyện dã man thật. Phi cơ thì muchos. Nhiều. Quá
nhiều. Nhưng chúng ta có thể làm tất cả việc đó và gần như không thất bại được,
với một khẩu súng cối. Hai con la để chuyên chở đạn dược và một con chở mỗi bên
yên một khẩu súng cối. Một đạo quân giản tiện làm sao! Với hỏa lực của những võ
khí tự động. Và thêm một con la nữa. Không. Hai con. Để chuyên chở quân nhu.
Thế là đủ, hắn nghĩ. Không còn kỵ binh nữa. Đủ rồi. Mày tự tạo lấy một quân
đội. Chẳng bao lâu nữa, mày cần phải có một khẩu sơn pháo.
Đoạn hắn nghĩ tới
Julian đã chết trên đồi, giờ đây đã chết, thân thể buộc trên lưng con ngựa đang
đi đầu.
Hắn bắt đầu thì
thầm: “Kính mừng Đức Thánh Mẫu từ bi. Mẹ là sự sống dịu dàng là hy vọng của
con. Chúng con hướng về mẹ, khóc than trong thung lũng nước mắt này”.
Hắn tiếp tục cầu
nguyện. Những móng chân ngựa thong dong dẫm trên những xác lá thông, ánh sáng
lọc qua, rọi xuống thành từng đốm giữa những thân cây trông giống như những
thanh cột trong một giáo đường, và trong khi cầu nguyện, hắn đưa mắt nhìn đám
tiền thám của hắn đang đi ở phía trước xuyên qua những hàng cây.
Hắn ra khỏi khu
rừng, đi lần trên con đường đất vàng dẫn tới La Granja, những bước chân ngựa
làm tung một vầng bụi mù vây phủ lấy đoàn người, bám đầy lên những xác chết
buộc vắt ngang qua những yên ngựa, bám đầy lên những người bị thương và những
người đi bộ cạnh đó đang tiến bước trong vùng không khí ngầu đục.
Chính trong vùng
bụi mù mịt đó Anselmo đã trông thấy bọn chúng đi qua.
Lão ta đếm những
người chết, những người bị thương và nhận ra khẩu súng máy của Sordo. Lão không
biết chúng đựng gì trong cái ba lô quấn trong lớp poncho. Cái ba lô đó vồng lên
ở hai bên hông con ngựa theo nhịp đong đưa của bàn đạp ngựa. Nhưng trên đường
về khi băng qua ngọn đồi trong đêm tối nơi Sordo đã thất trận, lão biết ngay
vật gì quấn trong poncho.
Trong bóng tối lão
không thể nhận ra những ai hiên diện trên đồi.... Nhưng lão đếm những xác chết
đoạn băng qua những ngọn đồi trở về trại của Pablo.
Lão ta bước đi như
thế, trong đêm tối, với một nỗi sợ hãi làm cho lòng lão lạnh cóng kể từ lúc lão
khám phá những hố bom trên đồi, trông thấy sự việc xảy ra ở đó, lão đánh đuổi
khỏi đầu óc mình tất cả những ý nghĩ liên quan tới cuộc phiêu lưu ngày mai. Lão
bước đi nhanh hơn để mang tin về. Và vừa bước đi, lão vừa cầu nguyện cho Sordo
và tất cả những người trong nhóm của ông ta. Từ khi có chiến tranh, đó là lần
đầu tiên lão cầu nguyện.
Đức Mẹ vô cùng từ
bi, vô cùng dịu dàng, vô cùng bao dung, lão cầu nguyện.
Nhưng lão không thể
không nghĩ tới ngày mai. Và lão nhủ thầm, tôi sẽ làm đúng những gì chàng Inglés
bảo tôi làm, đúng như cách hắn bảo tôi làm. Nhưng mà Chúa ơi ước gì tôi được ở
gần bên hắn và những lời chỉ bảo của hắn được sáng sủa rõ ràng, bởi tôi không
tin mình có thể tự chủ được dưới những trận mưa bom. Chúa ơi, hãy giúp con,
ngày mai hãy giúp con xử trí như một con người phải xử trí đúng vào giờ phút
sau cùng của nó. Chúa ơi, hãy giúp con hiểu rõ điều con sẽ làm. Chúa ơi, hãy
giúp con làm chủ được đôi chân để khỏi phải chạy một cách nhục nhã. Chúa ơi,
hãy giúp con xử trí như một con người trong những giờ phút chiến đấu vào ngày
mai. Con cầu cứu tới Ngài, con xin Ngài chấp thuận cứu giúp con, bởi Ngài hiểu
rõ là con sẽ không cầu xin nếu đây không phải trường hợp hệ trọng và con sẽ
không bao giờ xin Ngài điều gì nữa.
Lão tiếp tục bước
một mình trong bóng tối, bây giờ lão cảm thấy đỡ hơn sau khi đã cầu nguyện và
lão chắc chắn mình sẽ xử trí một cách tốt đẹp. Lão vừa bước xuống vừa cầu
nguyện cho những người của Sordo. Chẳng bao lâu lão bước tới trạm canh cao
nhứt, nơi Fernando kêu lão dừng lại.
- Tôi đây mà - Lão
đáp - Anselmo đây.
- Được rồi. -
Fernando bảo.
- Đồng chí biết
chuyện gì xảy ra cho Sordo chưa? - Anselmo hỏi Fernando, cả hai cùng đứng bên
những tảng đá lớn.
- Sao không? -
Fernando nói - Pablo đã kể cho bọn này nghe rồi.
- Hắn lên đó à?
- Sao không? -
Fernando lặp lại - Bọn phát xít dã man thật! Cần phải giải phóng nước Tây Ban
Nha khỏi tay bọn dã man đó. - Hắn ngừng lời đoạn nói tiếp bằng một giọng cay
đắng - Chúng không biết phẩm giá là gì cả.
Anselmo mỉm cười
trong bóng tối. Trong một tiếng đồng hồ trước đây, lão không nghĩ là mình còn
có thể cười được bao giờ nữa. Cái tên Fernando này tuyệt quá, lão nghĩ thầm.
- Ừ - Lão nói với
Fernando - Phải dạy dỗ chúng. Phải đoạt máy bay, vũ khí tự động, xe tăng, pháo
binh của bọn chúng và dạy cho chúng bài học về phẩm giá.
- Đúng - Fernando
nói - Tôi rất khoái thấy đồng chí đồng ý với tôi.
Anselmo để hắn đứng
đó, một mình với ý nghĩ về phẩm giá con người và bước xuống, đi về phía hang.
Chương 29
Về tới hang,
Anselmo gặp Robert Jordan đang ngồi nơi bàn đối diện với Pablo. Trên bàn, trước
mặt họ là một hũ rượu và hai tách rượu đầy. Robert Jordan lấy ra cuốn sổ tay và
cầm một cây bút chì trong tay. Pilar và Maria đang ở cuối hang, không ai trông
thấy họ. Anselmo không hiểu được rằng chính Pilar đã đưa Maria ra xa để nàng
khỏi nghe câu chuyện và lão ngạc nhiên vì bà vợ của Pablo không có mặt tại bàn.
Robert Jordan ngước
mắt nhìn Anselmo khi thấy lão vén màn bước vào. Pablo nhìn chăm chăm lên mặt
bàn. Đôi mắt hắn không rời hũ rượu và hắn không hé răng nói một lời nào.
- Tôi từ trên kia
xuống. - Anselmo nói với Robert Jordan.
- Pablo đã kể cho
chúng tôi nghe rồi. - Robert Jordan bảo.
- Có sáu người chết
trên đồi và người ta đã cắt đầu họ. - Anselmo nói - Khi tôi đến thì trời đã sụp
tối.
Robert Jordan ngẩng đầu lên. Pablo vẫn
ngồi yên, nhìn chăm chăm vào hũ rượu, không nói gì. Hắn không biểu lộ một nét
mặt nào và hai con mắt heo của hắn nhìn chòng chọc vào hũ rượu như chưa trông
thấy nó bao giờ.
- Ngồi xuống đây. -
Robert Jordan bảo Anselmo.
Lão già ngồi vào
bàn trên một chiếc ghế đẩu bọc da và Robert Jordan nghiêng người lấy chai
whiskỵ dưới gầm bàn, tặng phẩm của Sordo. Chai rượu lưng đi phân nửa. Robert
Jordan lấy một cái tách trên bàn, rót whisky vào đó và đẩy cái tách sang
Anselmo.
- Uống đi ông lão.
- Chàng nói.
Pablo ngước mắt
nhìn Anselmo trong khi lão đang uống rượu, và hắn lại bắt đầu ngắm nghía hũ
rượu.
Rượu mang lại cho
Anselmo một cảm giác nóng bỏng nơi mũi, mắt và miệng, và tiếp theo là một hơi
ấm nồng nàn sảng khoái nơi dạ dầy. Lão chùi miệng bằng mu bàn tay.
Lão nhìn Robert
Jordan và nói :
- Uống thêm tách
nữa được à?
- Sao không? -
Robert Jordan nói và rót thêm một tách rượu đầy cho lão, lần này chàng trao tận
tay lão thay vì đẩy nó tới.
Lần này ngụm rượu
không còn đốt cháy cổ họng nhưng cảm giác nồng nàn sảng khoái lại tăng lên gấp
đôi. Nó làm khỏe người như một mũi huyết thanh làm lại sức một người vừa bị ra
máu nhiều.
Lão già lại nhìn
chai rượu.
- Còn lại để ngày
mai - Robert Jordan - Trên đường cái có gì không, ông lão?
- Nhiều - Anselmo
nói - Tôi ghi lại hết theo lời chỉ dẫn của đồng chí. Có một người đàn bà canh
chừng và ghi chép cho tôi. Chốc nữa tôi sẽ đi nhận báo cáo của mụ ta đây.
- Có thấy đại bác
chống thiết xa không? Loại có bánh xe và một cái nòng súng dài đó mà.
- Có - Anselmo nói
- Có bốn xe cam nhông chạy qua. Trong mỗi xe có một súng đại bác như đồng chí
vừa nói, với những nhánh thông trên nòng súng. Trong mỗi xe, có sáu người cho một
khẩu đại bác.
- Vậy là có bốn
khẩu đại bác phải không? - Robert Jordan hỏi.
- Bốn. - Anselmo
vừa nói vừa nhìn vào những điều lão ghi chép.
- Còn gì khác trên
đường cái nữa không?
Trong lúc Robert
Jordan ghi chép, Anselmo kể lại những chuyện xảy ra trên đường cái. Lão kể lại
từ lúc đầu và theo thứ tự hẳn hoi với thứ ký ức tuyệt diệu của người mù chữ.
Trong khi Anselmo kể, Pablo thò tay múc rượu trong hũ ba lần.
- Còn có kỵ binh
vào La Granja vừa kéo xuống ngọn đồi nơi El Sordo bị hạ. - Anselmo tiếp tục.
Đoạn lão cho biết
số người bị thương mà lão đã trông thấy và số người chết nằm vắt qua yên ngựa.
- Có một cái bọc
cột vào một cái yên và tôi không biết đó là cái gì - Lão nói - Nhưng bây giờ
thì tôi biết đó là những cái đầu người. - Lão tiếp theo ngay - Đó là một đội kỵ
binh, nhưng chúng chỉ còn lại có một tên sĩ quan. Không phải là tên đi ngang
qua đây ban sáng trong lúc đồng chí đang ở bên khẩu súng máy đâu. Tên đó chắc
chết rồi. Nhìn vào tay áo, tôi biết có hai trong đám người chết là sĩ quan. Chúng
được cột nằm sấp trên yên ngựa, hai tay buông thõng. Còn có khẩu maquina của El
Sordo cột vào yên ngựa bên bọc đầu người. Khẩu súng đã bị hư hại. Có bao nhiêu
đó. - Lão kết luận.
- Đủ rồi - Robert
Jordan nói và chàng múc một tách rượu trong hũ - Ngoài đồng chí ra, còn có ai
là người đã từng ở bên kia phòng tuyến, trong vùng Cộng Hòa không?
- Andrès và Eladio.
- Ai khá hơn hết?
- Andrès.
- Từ đây tới
Navacerrada hắn đi trong bao lâu?
- Không có gánh
nặng và cẩn thận thì đi trong ba giờ, nếu hắn gặp may mắn. Hai chúng tôi thì đi
bằng con đường dài hơn và an toàn hơn vì có vật liệu.
- Hắn đi được, chắc
không?
- Nosé, không có gì
chắc chắn!
- Đồng chí cũng
không chắc à?
- Không.
- Không.
Vậy là quyết định
xong, Robert Jordan nghĩ. Nếu lão bảo có thể xong việc một cách chắc chắn thì
mới có thể giao cho lão đi được.
- Andrès có thể tới
dưới kia an toàn như đồng chí chớ?
- Như tôi hoặc hơn
tôi. Hắn trẻ mà.
- Tôi có món đồ gởi
tới đó và phải chắc chắn tới nơi.
- Nếu không có gì
xảy ra thì hắn sẽ về tới đó. Nếu có chuyện gì xảy ra thì ai cũng vậy thôi.
- Tôi sẽ viết một
lá thư và hắn sẽ mang đi cho tôi - Robert Jordan nói - Tôi sẽ giải thích cho
hắn biết sẽ gặp ông đại tướng ở đâu. Có lẽ hắn ở Estado Mayor 1 của Sư đoàn.
- Hắn sẽ chả hiểu
được gì về những chuyên đó đâu - Anselmo nói - Tôi thì lúc nào cũng rối rắm với
những cái đó. Hắn phải biết tên ông đại tướng và biết chỗ sẽ gặp ông ấy.
- Nhưng đúng là ở
Espado Mayor của Sư đoàn.
- Đó không phải là một chỗ ở à?
- Chớ còn gì nữa, ông lão - Robert
Jordan kiên nhẫn giải thích - Nhưng đó là nơi ông tướng chọn để làm tổng hành
dinh.
- Vậy thì ở đâu? - Anselmo đã mệt mỏi
và sự mệt mỏi làm cho lão ta mụ người đi. Và rồi những danh từ như lữ đoàn, sư
đoàn, binh chủng... lúc nào cũng làm cho lão rối trí. Trước hết là có đội, liên
đội rồi tới đoàn. Bây giờ thì lại có những lữ đoàn rồi lại có những sư đoàn.
Lão không hiểu nổi. Một chỗ ở là một chỗ ở.
- Nghe kỹ này -
Robert Jordan bảo lão. Chàng biết rằng nếu không làm cho lão hiểu được thì
chàng lại càng khó lòng giải thích cho Andrès hiểu - Estado Mayor của sư đoàn
là nơi ông tướng chọn để thiết lập bộ chỉ huy. Ông ta chỉ huy một sư đoàn tức
là gồm hai lữ đoàn. Tôi không biết nó ở đâu vì tôi không có mặt ở đó khi ông ta
chọn nó. Rất có thể là trong một hầm rượu hay một nơi ẩn núp nào đó với những
đường dây thép dẫn tới đó. Andrès phải hỏi chuyện ông tướg hoặc bộ tư lệnh sư
đoàn. Hắn phải trao cái thơ này cho ông tướng hay viên tham mưu trưởng của ổng
hay một người nào khác mà tôi sẽ ghi tên ra cho hắn biết. Chắc chắn sẽ có một
người, ngay khi những người khác bận xem xét công cuộc chuẩn bị tấn công. Bây
giờ đồng chí đã rõ chưa?
- Hiểu.
- Vậy thì dẫn
Andrès đến tôi đi. Tôi lo viết thơ và tôi sẽ đóng con dấu này vào. - Chàng chỉ
cho lão thấy con dấu cao su với chuôi bằng cây, khắc những chữ S.I.M. và mực
trong chiếc hộp thiếc to gần bằng tờ giấy 50 xu mà chàng cất trong túi. Họ sẽ
nể con dấu này lắm. Bây giờ thì lo tìm Andrès đi, tôi giải thích cho hắn. Hắn
cần thu xếp cho nhanh nhưng trước hết phải hiểu công việc đã.
- Tôi đã hiểu thì
hắn cũng sẽ hiểu mà, nhưng đồng chí phải giải thích kỹ cho hắn. Những chuyện về
sư đoàn và bộ tham mưu đối với tôi là cả một điều bí ẩn. Tôi thì lúc nào cũng
tới những nơi rõ ràng, thường thường là một căn nhà. Ở Mavacerrada, Bộ chỉ huy
đặt trong một khách sạn cũ. Ở Guadarrama thì trong một ngôi nhà có vườn tược.
- Với một ông tướng
thì phải ở một nơi gần phòng tuyến. Đó sẽ là một nơi ở dưới mặt đất để tránh
máy bay. Andrès sẽ tìm ra dễ dàng nếu hắn biết hỏi thăm. Hắn chỉ cần đưa miếng
giấy của tôi ra. Thôi lo tìm hắn đi, vì hắn phải tới đó thật nhanh.
Anselmo bước ra
ngoài. Robert Jordan bắt đầu lật cuốn sổ ra viết.
- Nghe đây, Inglés.
- Pablo nói, mắt vẫn nhìn vào hũ rượu.
- Tôi đang viết. -
Robert Jordan nói, đầu vẫn cúi xuống.
- Nghe đây, Inglés
(Pablo như đang nói với hũ rượu) Không có gì phải ngã lòng. Ngay khi mất Sordo,
ta vẫn còn đủ người để chiếm đồn và giựt sập cầu.
- Tốt. - Robert
Jordan nói, tay vẫn không ngừng viết.
- Đủ người - Pablo
nói - Bây giờ thì tôi phục tài xét đoán của đồng chí lắm, Inglés ạ - Pablo nói
với hũ rượu - Tôi thấy đồng chí nhiều
picardia 2 lắm. Đồng chí tinh quái hơn tôi. Tôi tin nơi đồng chí.
Robert chỉ nghe có
nửa câu nói của hắn, chàng mải chăm chú vào bản báo cáo gởi cho Golz, chàng cố
tiết kiệm chữ tới mức tối đa, đồng thời vẫn cố làm cho nó có tính thuyết phục,
bằng cách kể lại diễn tiến của sự việc, theo đó nên bãi bỏ cuộc tấn công và
chàng cũng cho thấy không phải vì chàng ngại nguy hiểm trong sứ mạng của mình,
nhưng để cho Golz biết rõ tình hình.
- Inglés. - Pablo
nói.
- Tôi đang viết. -
Robert Jordan nói, hai mắt vẫn nhìn xuống.
Tôi phải gởi đi hai
bản, chàng nghĩ. Nhưng bây giờ thì không còn được bao nhiêu người để phá cầu
nếu vạn bất đắc dĩ phải thực hiện công tác. Liệu tôi có biết được lý do thật sự
của cuộc tấn công này không? Có thể đây chỉ là một chiến thuật giương đông kích
tây. Có thể họ muốn áp lực cho những đội binh kia rút khỏi nơi nào đó. Có thể
ta làm vậy để lôi cuốn phi cơ từ miền bắc tới. Có thể lắm. Tôi biết gì về
chuyện đó? Đó là nội dung báo cáo tôi gởi cho Golz. Tôi không giựt sập cầu
trước khi cuộc tấn công khởi sự. Lịnh thật rõ ràng, và nếu cuộc tấn công bị hủy
bỏ, tôi không phải giựt sập cầu. Nhưng tôi phải giữ lại đây một số người tối
thiểu có tính cách cần thiết để thi hành lịnh.
- Đồng chí nói gì?
- Tôi tin tưởng
lắm, Inglés. - Pablo vẫn nói với hũ rượu. Ông bạn, Robert Jordan nghĩ thầm, tôi
cũng muốn được nói như vậy lắm. Và chàng tiếp tục viết.
--- ------ ------
------ -------
1 Bộ Tham Mưu.
2 Tính lừa đảo, đểu
cáng.
Phụ lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét