Tác giả:Alexandre
Dumas
Thể loại:Phương Tây
Trạng thái:Full
Trà hoa nữ (tiếng
Pháp: La Dame aux camélias) là một tiểu thuyết của Alexandre Dumas con, được ấn
bản lần đầu vào năm 1848. Đây là tác phẩm đầu tiên khẳng định tài năng và đã
đem lại vinh quang rực rỡ cho ông.
Tóm tắt nội dung:
Trà hoa nữ là một
câu chuyện đau thương về cuộc đời nàng kỹ nữ yêu hoa trà có tên là Marguerite
Gautier. Nội dung Trà hoa nữ kể về mối tình bất thành của anh chàng luật sư
Duval với cô kỹ nữ Marguerite, một đề tài tưởng đâu là quen thuộc, nhưng bằng
ngòi bút sắc sảo cộng với tình cảm bao dung mà tác giả muốn truyền tải, truyện
được độc giả đón nhận không ngần ngại, dù là giới quý tộc, cái giới bị hạ thấp
hơn cả cô kỹ nữ trong truyện. Mặc dù Marguerite sống bằng nghề kỹ nữ nhưng trái
với nghề của mình, Marguerite là người có tâm hồn và cá tính; nàng có lòng vị
tha, biết hi sinh bản thân mình cho người mình yêu. Marguerite Gautier trong
chuyện được viết dựa trên hình mẫu của Marie Duplessis, người yêu của chính tác
giả.
Đọc tác phẩm ta có
thể cảm nhận được có những giá trị vượt lên trên cả tình yêu trai gái bình
thường, đó không chỉ là sự hi sinh cuộc sống của mình vì người mình yêu,
Marguerite còn chấp nhận hi sinh hạnh phúc của mình vì người đàn bà khác (em
gái Duval) người mà cô chưa từng gặp. Đàn bà hy sinh hạnh phúc vì đàn bà là một
sự hy sinh hiếm có trong các tác phẩm viết về đề tài tình yêu, đáng khiến cho
ta phải suy ngẫm.
TRÀ HOA NỮ
Chương 1
Người ta chỉ tạo nên nhân vật sau khi đã nghiên cứu kỹ con người. Cũng
như, người ta chỉ nói được tiếng nước ngoài sau khi đã học hỏi nghiêm túc tiếng
nói đó.
Tôi chưa đến tuổi để đi vào sáng tạo. Tôi xin chỉ làm công việc của
người kể chuyện.
Xin bạn đọc tin chắc với tôi: chuyện này là một chuyện có thật. Tất
cả những nhân vật trong đó, trừ vai chính, đều còn sống.
Vả chăng, ở Paris vẫn còn có chứng cho hầu hết những sự việc tôi
thu thập ở đây. Những nhân chứng đó có thể xác nhận hoặc bổ sung cho câu
chuyện, nếu ghi nhận của tôi còn thiếu sót. Nhờ một trường hợp đặc biệt, chỉ
riêng tôi mới có thể viết laị sự việc đó. Bởi vì tôi là người độc nhất nắm được
những chi tiết cuối cùng của nó. Thiếu những chi tiết này, không thể nào kể lại
câu chuyện một cách đầy đủ và thú vị được.
Tôi xin cho biết tất cả những chi tiết đến với tôi như thế nào.
Ngày 13 tháng 03 năm 1847, tôi đọc được ở đường Lapphit một yết thị
lớn màu vàng, thông báo một cuộc bán đấu giá những động sản và những đồ vật
hiếm đắt tiền. Cuộc đấu giá này được thực hiện sau khi người chủ đã chết. Trên
yết thị không ghi tên người chủ là ai. Nhưng cuộc bán đấu giá sẽ bắt đầu vào
ngày 16, từ trưa đến năm giờ chiều, tại đường Anti, nhà số 9.
Yết thị còn cho biết trong hai ngày 13 và 14, mọi người có thể đến
thăm căn nhà và xem trước đồ đạc.
Vốn là người yêu thích những đồ vật quý hiếm, tôi tự nhủ sẽ không
bỏ qua dịp này, nếu không mua gì thì cũng đến để xem.
Ngày hôm sau, tôi đến ngôi nhà số 9 đường Anti. Còn sớm lắm, thế
nhưng nhiều người đã có mặt trong phòng. Họ ăn mặc nhung lụa đẹp đẽ, có xe song
mã sang trọng dừng đợi trước cửa, nhưng vẫn ngắm nhìn sự xa hoa tráng lệ đang
trải ra trước mắt một cách ngạc nhiên, có thể nói có ý thán phục nữa là khác.
Lát sau, tôi hiểu sự thán phục và ngạc nhiên ấy. Bởi vì khi đã xem
xét kỹ, tôi nhận biết một cách rõ ràng: đây là căn phòng của một người đàn bà
chuyên sống với tình nhân. Nay, nếu có một điều mà các bà phong nhã muốn xem –
và ở đây có những bà phong nhã – thì đó chính là tư thất của người đàn bà phóng
đãng, mà cách phục sức hàng ngày dám cạnh tranh với các bà. Những người đàn bà
này, cũng như các bà, thuê những lô riêng ngay bên cạnh các bà trong các nhà
hát; và ở Paris, họ cũng phô bày một cách xấc xược cái nhan sắc hào nhoáng, đồ
nữ trang và những vụ tại tiếng.
Người đàn bà trước kia là chủ căn phòng này đã chết rồi. Những
người đàn bà khác, những con người đạo đức nhất, có thể đi sâu vào bên trong
căn phòng của người đã khuất. Cái chết đã thuần khiết hoá không khí cái hang ổ
uế tạp lộng lẫy này. Hơn nữa, nếu cần, các bà vẫn có lý do để tự biện hộ: các
bà đến đây để mua đồ đạc và không cần biết đây là nhà của ai. Các bà đã đọc yết
thị, để có thể lựa chọn trước. Thật là đơn giản. Điều này không thể ngăn cản
các bà tìm kiếm, giữa tất cả những cái đẹp đẽ đó, những dấu vết đời tư của cô
gái giang hồ sang trọng mà những kẻ khác, chắc chắc, đã từng truyền tụng cho
nhau nhiều mẩu chuyện lạ lùng, đặc sắc.
Khốn thay! Những bí mật đã chết cả rồi cũng với nữ thần của nó. Vì
vậy, dù với tất cả thịên chí, các bà cũng chỉ có thể bắt gặp được nhưng thứ
được bày bán sau khi người chủ đã chết và không bắt gặp một cái gì được bán lúc
người chủ còn sống. Vả lại, lắm thứ có thể mua được: bàn ghế rất đẹp, những đồ
đạc bằng gỗ quý, những chậu sành sứ Xevơ, Trung Quốc, những tượng nhỏ ở Xâcxơ,
xatanh, nhung, đăng ten, không thiếu thứ gì.
Tôi đi dạo trong căn phòng, theo chân những bà quý tộc tò mò đã đến
đó trước tôi. Các bà đi vào một gian phòng căng đầy rèm vải Ba Tư. Tôi sắp bước
vào thì bắt gặp các bà đang bước vội ra, miệng tủm tỉm cười. Hình như các bà
hơi thẹn vì sự tò mò mới mẻ của mình.
Tôi như bị kích thích, lòng ham muốn được vào xem càng mạnh hơn. Đó
chính là phòng trang sức đầy những chi tiết tỉ mỉ, mà tất cả đã biểu lộ đến cao
độ sự hoang phí của người chủ đã chết.
Trên một cái bàn lớn kê sát vách, rộng ba thước, dài sáu thước
(thước Anh) tất cả những bảo vật Ocôc và Ôđiôt sáng rực lên. Đó là một bộ sưu
tập cực kỳ phong phú. Không một vật nào trong số hàng ngàn vật đó - những thứ
rất cần cho sự trang sức của một người đàn bà như người chủ căn nhà này - được
làm bằng một kim loại nào khác hơn vàng và bạc. Bộ sưu tập này chỉ có thể được
hình thành dần dần, và chắc chắn không phải chỉ do riêng một tình nhân nào tạo
lập được.
Không chút ngại ngùng, tôi đứng nhìn phòng trang sức của một kỹ nữ.
Tôi thích thú quan sát từng chi tiết dù nó thế nào chăng nữa. Tất cả những vật
này được chạm khắc rất đẹp và đều mang chữ đầu của những tên họ khác nhau.
Tôi nhìn tất cả những vật đó, mỗi vật biểu trưng cho một sự
"bán mình" của cô gái đáng thương. Tôi tự nhủ, Thượng Đế đã khoan
hồng đối với nàng; vì đã cho nàng được chết trong xa hoa và sắc đẹp, không để
nàng phải chịu sự trừng phạt thông thường; nhìn thấy tuổi già của mình - tức
cái chết đầu tiên đối với những cô gái giang hồ.
Thực vậy, còn gì buồn hơn là phải nhìn thấy sự già nua của tội lỗi,
nhất là nơi người đàn bà? Nó không giữ được phẩm giá và cũng không gây được sự
hấp dẫn. Sự hối hận cứ triền miên, không phải họ hối hận vì đã đi theo con
đường xấu, mà vì những tính toán sai lầm đã có và vì những đồng tiền đã không
dùng đúng chỗ. Đó là điều đáng buồn nhất mà người ta thường được nghe nói. Tôi
được biết một người đàn bà, ngày trước lẳng lơ đã sinh được một cô bé. Theo lời
những người cùng thời cô bé này đẹp không kém gì người mẹ xưa. Với đứa con khốn
nạn này, chẳng bao giờ người mẹ đó bảo: "Con là con gái của mẹ", trừ
phi để ra lệnh cho cô phải nuôi bà lúc già yếu, như ngày trước bà phải nuôi cô,
lúc cô còn thơ ấu. Cô bé khốn khổ tên là Luidơ, vâng lời mẹ làm việc hiến thân
lấy tiền, không dục vọng, không đam mê, không thích thú; như cô đã chọn một cái
nghề, nếu người ta nghĩ đến việc dạy cho cô một nghề.
Bắt buộc hàng ngày phải chứng kiến cảnh ăn chơi sa đoạ ngày từ lúc
còn qúa trẻ, cộng thêm vào đó là tình trạng bện hoạn triền miên, cô gái đã đánh
mất ý thức về thiện và ác mà Thượng Đế đã phân phát cho cô, nhưng chẳng một ai
để ý giữ gìn và phát triển cái ý thức ấy cả.
Tôi còn nhớ cô gái ấy, ngày nào cũng lang thang trên những đại lộ
phố phường đúng vào một thời khắc nhất định. Bà mẹ luôn đi kèm bên cạnh, cũng
rất đều đặn, như một người mẹ đích thực đi theo bên cạnh đứa con gái đích thực
của mình. Thuở ấy, tôi còn trẻ lắm, nên dễ chấp nhận cái luân lý dễ dàng của
thời đại. Tuy nhiên, tôi vẫn nhớ, cảnh canh giữ tội lỗi này gây cho tôi tâm
trạng khinh bỉ và ghê tởm. Thêm vào đó, chưa bao giờ ta bắt gặp được một khuôn
mặt đồng trinh nào lại có thứ tình cảm ngây thơ, vô tội đến như thế, một vóc
dáng đau thương nào ảo não đến thế.
Người ta có thể nói, đây là hiện thân của Tủi Nhục.
Một ngày kia, khuôn mặt cô bừng sáng hẳn lên, giữa cảnh ăn chơi sa
đoạ mà mẹ cô đã vạch chương trình. Hình như Thượng Đế đã cho phép cô gái tội
lỗi đó được tiếp nhận một hạnh phúc. Xét cho cùng, lẽ nào Thượng Đế đã tạo ra
một người con gái không nghị lực lại nỡ để nàng cứ phải sống không một niềm an
ủi dưới gánh nặng đau thương của cuộc đời? Một ngày kia, cô nhận thấy mình đã
có thai, và sự trinh trắng còn sót lại nơi cô như run lên sung sướng. Linh hồn
có những nơi trú ẩn kỳ lạ. Luidơ chạy đi báo tin cho mẹ. Nói ra thật xấu hổ.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta không bàn đến sự vô luân của khoái lạc mà chỉ kể lại
một sự kiện có thật. Có thể tốt hơn, chúng ta nên im đi, nếu chúng ta không cho
rằng thỉnh thoảng nên nói đến sự đau khổ cực độ của những con người đã bị người
đời buộc tội, khinh bỉ không cần đến một lời thanh minh, xét đoán. Thật đáng hổ
thẹn! Nhưng quả thật người mẹ đã trả lời cho con gái của mình: "Chỉ với
hai người, chúng ta đã chật vật lắm rồi. Thêm một người nữa thì lấy gì mà
sống?" và "Những đứa con như thế là vô ích, thời gian thai nghén sẽ là
thời gian bỏ đi" .
Ngày hôm sau, một cô đỡ, bạn thân của người mẹ, đến thăm Luidơ!
Luidơ phải nằm liệt giường mấy ngày liền. Khi cô đi lại được, người cô trông
xanh xao, gầy yếu hơn trước rất nhiều.
Ba tháng sau, một người đàn ông thương hại hoàn cảnh cô, đến chăm
sóc, chữa trị tinh thần và thể xác cho cô. Nhưng sự xúc động trước đó đã qúa
mạnh; và Luidơ đã chết, vì những biến chứng sau khi phải đẻ non.
Người mẹ còn sống: sống như thế nào? Chỉ có Thượng Đế biết!
Câu chuyện trở lại trong tâm trí tôi, lúc tôi đang đứng ngắm nghía
những đồ vật bằng vàng bạc. Cứ như thế, thời gian lặng lẽ trôi qua, khi sực
nhìn lại, thì trong căn phòng chỉ còn tôi và người đứng gác ở cửa. Ông chăm chú
theo dõi tôi, hình như để xem tôi có lấy cắp gì không?
Tôi tiến đến gần ông ta. Quả thật, tôi đã làm cho người gác phải lo
lắng đề phòng.
- Ông có thể cho tôi biết tên người chủ trước kia đã ở đây? – Tôi
hỏi.
- Cô Macgơrit Gôchiê.
Tôi đã biết cô gái đó, qua tên gọi và những lần gặp mặt.
- Thế nào tôi nói với người gác - Macgơrit Gôchiê đã chết rồi.
- Thưa ông, phải.
- Từ bao giờ?
- Cách đây khoảng ba tuần.
- Tại sao người ta cho mọi người đến xem ngôi nhà này?
- Những người chủ nợ cho rằng điều đó có thể làm tăng được giá bán
đồ đạc. Vải vóc và đồ đạc ở đây sẽ gây được ấn tượng mạnh đối với khách hàng
khi họ xem trước chúng. Điều đó sẽ thúc đẩy tốt việc mua bán.
- Nghĩa là cô ta có nợ à?
- Ồ! Thưa ông, nhiều lắm.
- Với tiền bán đấu giá này, có thể trả đủ chứ?
- Thưa ông, thừa đủ.
- Vậy số tiền thừa sẽ thuộc về ai?
- Về gia đình cô ta.
- Cô ta có gia đình?
- Có lẽ thế.
- Cám ơn ông.
Yên tâm trước những ý tưởng của tôi, người gác cổng cúi chào tôi,
và tôi bước ra.
"Cô gái khốn khổ" – Tôi tự nhủ lúc ra về. Cô ta chắc đã
chết với một tâm trạng rất buồn thảm. Trong giới của cô, người ta chỉ có bạn
khi khoẻ mạnh. Tôi tự nhiên cảm thấy thương xót cho số phận của Macgơrit
Gôchiê. . .
Điều này có thể buồn cười đối với nhiều người. Nhưng tôi vốn có một
thái độ khoan dung không bờ bến đối với những cô gái giang hồ phóng đãng; và
tôi cũng chẳng chút bận tâm để lý giải vì sao mình có sự khoan dung đó.
Một hôm, đi lấy giấy xuất cảnh ở văn phòng tỉnh, tôi nhìn thấy trên
đường phố bên cạnh một cô gái đang bị hai sen đầm áp giải. Tôi không biết cô
gái đó đã làm gì. Tất cả điều tôi có thể nói là cô ta khóc sướt mướt và ôm hôn
một đứa trẻ chừng ba tháng mà hoàn cảnh mới này buộc cô phải lìa xa nó. Kể từ
ngày đó, tôi không bao giờ dám khỉnh bỉ một người đàn bà mà mình mới gặp lần
đầu.
TRÀ HOA NỮ
Chương 2
Cuộc bán đấu giá được ấn định vào ngày 16.
Trước đó một ngày, người ta ngưng hẳn việc cho đến xem đồ đạc trong
nhà, để những người thợ chuyên môn có đủ thời gian tháo gỡ rèm, màn xuống.
Những ngày ấy, tôi đi xa mới về. Theo lẽ thường người ta không cho
tôi biết về cái chết của Macgơrit như một trong những tin quan trọng mà bạn bè
thường báo lại cho bất cứ người nào từ xa trở về thủ đô được biết. Macgơrit
thật xinh đẹp. Nhưng nếu cuộc sống cầu kỳ của người đàn bà như thế gây tai
tiếng nhiều chừng nào, thì cái chết của họ ít gây xáo động chừng ấy. Đó là
những lúc mặt trời lặn, lúc lặn xuống cũng như lúc mọc lên không hề rực rỡ. Cái
chết của họ, nếu họ chết trẻ, thì tất cả những tình nhân họ được biét cùng một
lúc. Bởi vì ở Paris, hầu hết những tình nhân của một cô gái tên tuổi đều rất
quen biết nhau. Một vài kỷ niệm chung được nhắc lại. Rồi sau đó, cuộc đời những
người này và những người khác vẫn cứ tiếp tục trôi đi, không hề để sự bất hạnh
kia có thể khuấy động hay làm rơi một giọt nước mắt nào ở họ.
Ngày nay, khi người ta hai lăm tuổi, những giọt lệ trở nên quá khan
hiếm. Nhiều lắm, chỉ những người thân thuộc đã bỏ tiền ra thuê những người khóc
mướn mới phải nhỏ lệ vì số tiền đã bỏ ra mà thôi.
Còn tôi, tuy không hề có một kỷ niệm nào sâu nặng với Macgơrit,
nhưng thật lòng khoan dung do bản năng, tình thương xót tự nhiên mà tôi vừa thú
nhận, đã làm cho tôi suy nghĩ đến cái chết của cô có lẽ lâu hơn là cô xứng đáng
được như vậy.
Nhớ lại, trước kia tôi thường gặp Macgơrit ở quảng trường Xăng
Êlidê. Nàng thường đến nơi này, ngày nào cũng thế, trong một chiếc xe hai chỗ
ngồi màu xanh da trời, thắng hai con ngựa màu be đẹp đẽ. Và như thế, trông nàng
có một vẻ gì đó khác biệt hẳn với bạn bè của nàng. Sự khác biệt này càng nổi
bật nhờ một nhan sắc thật sự ngoại hạng của nàng.
Những con người đáng thương này, mỗi khi ra đường, luôn luôn có kẻ
cắp đi kèm.
Không một người đàn ông nào chịu để công chúng biết được những cuộc
tình tự ban đêm với các cô gái giang hồ. Và những cô gái này sợ sự cô đơn. Các
cô phải đem theo những người đàn bà khác, kém sung sướng hơn, không có xe
riêng, hoặc một vài người đàn bà sang trọng đã về già, nơi họ sự hào nhoáng
không còn lý do để tồn tại. Với những người đàn bà này, người ta có thể đến làm
quen nói chuyện một cách tự nhiên, khi người ta muốn biết một vài chi tiết nào đó
về cô gái mà các bà đi kèm.
Macgơrit thì khác hẳn. Cô đến quảng trường Xăng Êlidê bao giờ cũng
đi một mình, đi riêng và lánh mặt đến mức tối đa: mùa đông, trong một tấm áo
choàng lớn; mùa hè, với những chiếc áo dài rất đơn giản. Nếu cô mỉm cười với
những người quen biết tình cờ gặp trên đường thì nụ cười riêng tư đó cũng rất
kín đáo. Một bà hoàng cũng có thể cười như thế.
Cô không đi dạo từ ngã tư đến cổng vào Xăng Êlidê, như những người
bạn cô vẫn đi từ xưa đến nay. Hai con ngựa nhanh chóng đưa cô đến khu rừng. Ở
đó cô bước xuống xe, chậm rãi đi bách bộ trong khoảng một giờ, rồi lại lên xe,
trở về nhà, với đôi ngựa phi nước đại.
Những cảnh ấy, mà đôi khi tôi được chứng kiến, giờ lại hiện ra
trước mắt tôi. Tôi thương xót cái chết của người con gái đó, không khác nào
người ta thương tiếc sự tàn phá hoàn toàn một công trình tuyệt đẹp.
Thực vậy, không dễ gì có thể tìm thấy được một sắc đẹp mê hồn như
sắc đẹp của Macgơrit. người cô cao và mảnh dẻ, gần như hơi thái quá. Nhưng cô
đã nắm được cái nghệ thuật tuyệt vời để làm tan biến những sơ sót của tạo hoá
bằng sự sắp xếp giản dị tuyệt vời những thứ được dùng làm trang sức cho một
người đàn bà. Tấm áo choàng Casơmia rộng buông gần chấm đất, để lộ mỗi bên một
cái vạt rộng của chiếc áo đầm dài bằng lụa. Đôi găng tay che kín hai bàn tay áp
sát vào ngực, để lộ những nếp nhăn rất khéo sắp xếp đến mức những con mắt khó
tính đến mấy cũng không thể chỉ trích những đường nét chìm nổi.
Cái đầu tuyệt vời của nàng thật sự là một kỳ quan. Đầu nàng bé nhỏ,
và nói như Mútxê, mẹ nàng đã tạo ra nó như thế để nắn nót nó chu đáo hơn.
Trên khuôn mặt trái xoan duyên dáng không thể tả, bạn hãy đặt lên
đó một cặp mắt đen long lanh dưới đôi lông mày vòng cung, nét sắc như vẽ. Hãy
giảm nhẹ sóng mắt bằng những hàng mi dài; và những hàng mi này, mỗi khi hạ
xuống, toả râm phơn phớt trên sắc hồng của đôi má. Hãy vẽ một cái mũi thon nhỏ,
thẳng nét, thông minh, với lỗ mũi hơi nở nang như để thu hút sức nồng cháy của
cuộc sống nhục dục. Hãy hình dung một cái miệng đều đặn, với đôi môi duyên dáng
nở trên những chiếc răng trắng như sữa. Hãy tô màu da với những sợi tơ nhung,
thứ tơ nhung trông thấy trên một trái đào mà chưa một bàn tay nào động đến. Và
như thế, bạn sẽ ý thức được toàn thể cái đầu duyên dáng sang trọng đó.
Tóc nàng đen huyền, gợn sóng tự nhiên, toả ra trên trán thành hai
dải nhỏ rồi vòng ra phủ kín phía sau, trọn vẹn, chỉ đủ hé cho thấy hai viên kim
cương lấp lánh nơi tai. Mỗi viên trị giá từ bốn đến năm ngàn frăng. Vì sao cuộc
sống dữ dội của Macgơrit lại để lại trên khuôn mặt nàng cái ánh sáng trinh
trắng, thơ ngây đến như thế? Đó chính là điều chúng ta bắt buộc phải nhìn nhận
mà không thể giải thích được.
Macgơrit có một chân dung tuyệt đẹp của chính mình, do Vidal vẽ. Đó
là một người độc nhất có thể tạo lại nàng giống như nàng. Tôi có giữ được bức
chân dung này trong vài ngày, sau khi nàng chết. Bức chân dung quả giống nàng
đến lạ lùng, đủ để gợi lại cho tôi những chi tiết mà trí nhớ tôi không còn giữ
được.
Trong số những chi tiết mà tôi mô tả ở trong chương này, một vài
chi tiết mãi sau này mới đến với tôi. Nhưng tôi cần viết ngay, để khỏi phải trở
lại khi bắt đầu câu chuyện kể về người đàn bà này.
Macgơrit dự tất cả các buổi trình diễn đầu tiên của các vở. Tối nào
nàng cũng có mặt ở rạp hát hay ở vũ trường. Mỗi khi người ta cho trình bày một
vở diễn mới, chắc chắn nàng sẽ có mặt, với ba vật bất ly thân luôn luôn đặt ở
phía trước lô riêng của nàng tại tầng trệt; một ống nhòm, một túi kẹo và một bó
hoa trà. Đều đặn mỗi tháng hai mươi lăm ngày hoa trà trắng, và năm ngày hoa trà
đỏ. Người ta không biết lý do của sự đổi thay màu sắc này. Tôi nhận thấy điều
đó, nhưng cũng không giải thích được. Những người thường đi xem ở các rạp nàng
thường đến và các bạn nàng cũng nhận thấy điều đó như tôi.
Người ta không bao giờ thấy ở Macgơrit loại hoa nào khác ngoài hoa
trà. Bởi thế, ở cửa hàng hoa bà Bacdông, nơi nàng thường đến mua hoa người ta
gọi nàng bằng biệt danh "Trà hoa nữ" . Biệt danh này đã tồn tại. Tôi
biết, cũng như tất cả những người sống trong một thế giới nào đó ở Paris,
Macgơrit xưa kia đã là tình nhân của những chàng trai sang trọng hào nhoáng bậc
nhất. Điều này nàng công nhiên nhìn nhận và những chàng trai kia cũng hãnh diện
khoe khoang. Sự việc trên chứng tỏ họ rất ăn ý với nhau.
Tuy nhiên, người ta bảo rằng khoảng ba năm nay, từ sau chuyến đi
Banhêe về, nàng chỉ sống với một ông quận công già nước ngoài, giàu kếch xù.
Ông này đang cố gắng đưa nàng ra khỏi cuộc đời quá khứ. Điều này hình như được
nàng chấp nhận khá dễ dàng.
Sau đây là những gì tôi được nghe người khác kể lại.
Mùa xuân, năm 1842, Macgơrit rất suy nhược. Các thầy thuốc buộc
nàng phải đi chữa trị bằng nước suối và vì thế, nàng đến Banhêe.
Ở đó, trong số những người bệnh, có cô con gái ông quận công. Cô
này không những có cùng bệnh trạng như nàng, mà còn có khuôn mặt giống Macgơrit
đến nỗi nhiều người khác phải nhầm là hai chị em. Chỉ có điều, cô tiểu thư quận
công trẻ tuổi này đã bị chứng lao phổi ở thời kỳ thứ ba, và đã từ trần sau khi
Macgơrit đến được vài ngày.
Một buổi sáng, ông quận công – lúc đó còn lưu lại Banhêe như một
người phải ở lại trên mảnh đất đã chôn vùi một phần trái tim mình - chợt bắt
gặp Macgơrit trên đường đi tại một khúc quanh.
Như bắt gặp hình bóng cô gái mình đang đi qua, ông vội tiến đến gần
Macgơrit, nắm tay nàng, rồi ôm choàng lấy nàng mà khóc. Và không cần hỏi nàng
là ai, ông đã van nài xin được phép thường xuyên gặp nàng, được thương yêu nàng
như thương yêu hình ảnh sống động của đứa con đã chết.
Macgơrit đang một mình ở Banhêe với một bà hầu phòng, lại không
phải lo bị thiệt thòi chút nào trong việc ấy nên đã nhận lời.
Ở Banhêe có những người biết rõ nàng và đã công khai đến gặp ông
quận công, cho ông biết hoàn cảnh thực của Gôchiê. Thật là một đòn khá mạnh đối
với ông già, vì ông không còn thấy rằng người con gái này là hình ảnh của cô
con gái mình nữa. Nhưng việc đã quá muộn! Người đàn bà trẻ đã trở thành một nhu
cầu của tâm hồn ông và đó là cái cớ độc nhất, lý do duy nhất để ông có thể tiếp
tục sống.
Ông không hề có một lời nào nặng nề với Macgơrit Gochiê. Ông không
có quyền. Ông chỉ yêu cầu nàng, nếu có thể, hãy thay đổi cách sống. Để đền bù
lại sự hy sinh đó, ông sẽ tạo cho nàng tất cả những gì nàng muốn. Và nàng đã
nhận lời.
Phải nói vào thời kỳ đó, Macgơrit, bản chất vốn nồng nhiệt, nhưng
đang trong bệnh hoạn. Quá khứ đối với nàng như một trong những nguyên nhân
chính của bệnh trạng và một thứ mê tín nào đó đã làm nàng hy vọng rằng Thượng
Đế sẽ cho phép nàng giữ lại sắc đẹp và sức khoẻ, nếu nàng biết hối lỗi và trở
về với chúa.
Thật vậy, nước suối, những cuộc du ngoạn, sự mệt mỏi tự nhiên và sự
nghỉ ngơi đã làm cho nàng gần như khoẻ hẳn vào cuối mùa hạ.
Ông quận công đưa Macgơrit trở về Paris. Ở đó, ông tiếp tục đến
thăm nàng thường xuyên, như ở Banhêe.
Sự giao hảo đó – mà người khác không biết rõ cội nguồn sâu xa, cũng
không biết rõ được lý do thật sự - đã gây ra nhiều tai tiếng. Bởi vì, ông quận
công, vốn nổi tiếng về gia tài kếch sù của mình, giờ đây lại nổi tiếng thêm về
sự ăn tiêu hoang phí.
Người ta cho đó chẳng qua là sự phóng đãng rất thường gặp ở những
ông già giàu có. Chính sự phóng đãng này đã làm cho ông quận công già và người
đàn bà trẻ kia gần gũi nhau. Người ta đặt ra đủ mọi giả thuyết, trừ sự thật
diễn ra trước mắt.
Thực tế, tình cảm của người cha đó đối với Macgơrit rất trong sáng.
Bất cứ một liên hệ nào ngoài những liên hệ thuần túy tâm hồn cô gái này, ông
đều cho là tội lỗi. Không bao giờ ông nói một lời nào để Macgơrit – con gái ông
- cảm thấy khó nghe.
Hãy miễn cho chúng tôi cái việc tạo cho vai chính của câu chuyện
một điều gì khác hơn là sự thật. Chúng tôi xin nói thẳng ngày nào nàng còn ở
Banhêe, lời hứa của nàng đối với ông quận công còn được thực hiện không gì khó
khăn; và nàng đã giữ đúng. Nhưng một khi trở về Paris, người con gái vốn trước
đây đã quen với cuộc sống phóng đãng ở những vũ trường, những chốn chè chén
truỵ lạc, giờ lại phải sống cô đơn trừ những buổi viếng thăm thường lệ của ông
quận công, cảm thấy có thể chết được vì buồn tẻ. Những sinh khí nóng bỏng của
cuộc đời sóng gió ngày trước lại ùn ùn trỗi dậy trong đầu óc nàng, trong trái tim
nàng.
Cũng nói thêm, Macgơrit trở về sau chuyến đi đó, lại xinh đẹp hơn
trước rất nhiều. Nàng đã hai mươi tuổi. Căn bệnh chỉ được ru ngủ, chứ không
phải bị đánh bại, lại tiếp tục gây cho nàng những dục vọng sôi động. Đó là hậu
quả gần như thường xuyên của bệnh lao phổi. Những bạn thân của ông quận công
không ngừng rình mò để bắt quả tang tội lỗi của người đàn bà mà họ cho là ông
đã lầm để hại đến thanh danh của mình. Ông quận công đã đau khổ nhiều khi họ
báo thẳng và chứng minh cho ông biết rằng người đàn bà trẻ nàyđã dùng những giờ
mà chắc chắn ông không đến để tiếp khách; và những cuộc tiếp khách này kéo dài
cho tới mãi sáng hôm sau.
Được chất vấn, Macgơrit thú nhận tất cả với ông quận công. Rồi
không hề quanh co, nàng nói rằng ông đừng chăm sóc đến nàng nữa. Bởi nàng tự
thấy không đủ sức để giữ trọn những lời hứa trước đây và không muốn tiếp tục
nhận những ân huệ nơi một người mà nàng đã lừa dối.
Ông quận công, tám ngày liền không xuất hiện. Đó là tất cả những gì
ông có thể làm được. Và sau ngày thứ tám, ông đến năn nỉ Macgơrit hãy cứ nhìn
nhận ông. Ông sẵn sàng chấp nhận lối sống của nàng như nàng muốn, miễn là ông
vẫn được đến thăm nàng như trước. Ông thề rằng dù phải chết đi nữa, ông cũng sẽ
chẳng bao giờ đưa ra một lời phiền trách nàng.
Đó là tất cả những việc đã xảy ra trong ba tháng sau khi Macgơrit
trở về Paris, nghĩa là vào khoảng tháng Mười Một hay tháng Mười Hai năm 1842.
TRÀ HOA NỮ
Chương 3
Ngày 16, lúc một giờ, tôi đến phố Anti.
Từ trên xe, người ta đã nghe những tiếng hô vang của những người
bán đấu giá.
Căn phòng đầy những khách hiếu kỳ, Người ta trông thấy ở đây, tất
cả những danh vọng của những tội lỗi sang trọng được theo dõi xem xét một cách
thâm hiểm bởi vài ba bà lớn. Một lần nữa, những bà này lại lấy cớ đến nơi bán
đấu giá để có quyền được nhìn thấy tận mắt cuộc sống của người đàn bà mà họ
không bao giờ có dịp thân thiện. Và có lẽ họ cũng đã thèm muốn thầm kín những
thú vui dễ dàng cuả người đàn bà ấy.
Bà quận công F. . đi sát bên cô A. . . - một trong những cô gái
giang hồ tân tiến. Bà huân tước T. . . đang lưỡng lự suy tính mua một dộng sản
mà bà Đ. . . - người đàn bà ngoại tình sang trọng nhất và nổi danh nhất của
thời đại – đang bám theo với giá cao. Ông quận công Y. . . vẫn thường qua
Macgơrit để phá một mớ gia sản ở Paris và qua Paris để phá một mớ gia sản ở
Mađơrit mà vẫn không tiêu hết được lợi tức hàng năm của mình - vừa tiếp chuyện
với bà M. . . - một trong những con người kể chuyện láu lỉnh nhất, thỉnh thoảng
viết lại những điều bà đã nói và ký tên ở những điều bà đã viết - vừa trao đổi
những cái nhìn riêng tư với bà N. . . - người đàn bà đẹp, thường đi dạo ở quảng
trường Xăng Êlidê với chiếc áo màu hồng hoặc xanh da trời, có xe riêng với hai
con ngựa kéo to lớn, đẹp đẽ mà Tôny đã bán cho với gía mười ngàn frăng và bà đã
trả đủ tiền rồi. Cuối cùng, cô R. . . - chỉ nhờ tài riêng của mình, đã làm cho
vốn riêng tăng lên gấp hai lần so với những người đàn bà sang trọng có sẵn của
hồi môn, và gấp ba lần so với những người đàn bà khác đã tạo nên cơ nghiệp nhờ
nhân tình nhân ngãi – đã có mặt ở đây dù hôm nay trời lạnh, và hẳn không phải
cô là người ít được những kẻ khác chú ý đến.
Chúng tôi còn có thể kể ra những chữ đầu tên của nhiều nhân vật
khác nữa có mặt trong phòng khách này. Chính họ cũng rất ngạc nhiên khi lại
được gặp gỡ nhau tại đây. Nhưng như thế tôi sợ sẽ làm mệt bạn đọc.
Chỉ cần nói, tất cả mọi người đều điên loạn. Trong số những người
đàn bà có mặt tại đây, nhiều người đã từng quen biết với người đã chết, nhưng
hình như họ không còn nhớ đến nàng nữa.
Người ta cười nói ồn ào. Những kẻ hô bán la chói óc. Trước những
bàn đấu gía, những người khách luôn cố gắng một cách vô ích để áp đặt sự yên
lặng, điều kiện cần thiết để họ có thể làm việc một cách bình tĩnh. Chưa bao
giờ có một cuộc tụ họp phức tạp đến thế, sôi nổi ồn ào đến thế!
Tôi lặng lẽ nhẹ nhàng đi giữa sự náo nhiệt đáng buồn ấy, thầm nghĩ:
sự ồn ào này đang diễn ra ngay bên cạnh căn phòng mà người xấu số đã trút hơi
thở cuối cùng, và người ta đang bán đồ đạc trong nhà để trả những món nợ của
nàng. Tôi đến đây để xem hơn là để mua. Nhìn khuôn mặt những người thầu đứng
bán, tôi cảm thấy nét mặt họ rạng rỡ hẳn lên, mỗi khi có món hàng nào đó đạt
đến một giá cao mà không ngờ tới.
Những con người lương thiện đã đầu tư trên sự bán mình của người
đàn bà trẻ ấy và giờ đây đã thu lợi cả trăm phần. Họ đưa đơn kiện cáo nàng vào
những giờ phút nàng hấp hối. Và bây giờ, sau cái chết của nàng, họ lại đến đây
để nhận lãnh thành quả từ những tính toán đáng kính của họ, đồng thời nhận
những món lãi sinh ra do những món tiền cho vay một cách bỉ ổi của họ.
Người xưa thật chí lý, khi họ đã chọn chung cho những kẻ lái buôn
và những tên trộm cướp một vị thần để thờ.
Áo dài, hàng casơmia, đồ nữ trang. . . bán chạy nhanh chóng không
tưởng được. Trong số đó, không có cái gì hợp với tôi cả và tôi đành chờ đợi.
Bỗng nhiên, tôi nghe tiếng hô to: "Một quyển sách, đóng công
phu, bìa da, mạ vàng, nhan đề "Manông Lexcô" . Có vài dòng chữ ở
trang đầu. Mười frăng" .
- Mười hai! - Một giọng thốt lên, sau một lúc yên lặng khá lâu.
- Mười lăm! – Tôi hô lên.
Tại sao? Tôi không biết, chắc hẳn vì những dòng chữ viết trên cuốn
sách đó.
- Mười lăm - Người hô gía lặp lại.
- Ba mươi! Người trả giá đầu tiên nhấn mạnh, vẻ thách thức, tin
chắc rằng không ai có thể vượt lên được nữa.
Sự việc trở thành một cuộc đối chọi.
- Ba lăm! – Tôi la lớn.
- Bốn mươi!
- Năm mươi!
- Sáu mươi!
- Một trăm!
Tôi thú thật, nếu muốn gây ấn tượng, tôi đã thành công hoàn toàn.
Bởi vì, sau cái giá đó, một sự yên lặng hoàn toàn bao phủ khắp căn phòng. Người
ta chăm chú nhìn tôi, để biết cái người đã khăng khăng mua cho kỳ được cuốn
sách kia.
Hình như cái giọng tôi hô tiếng cuối cùng đã làm cho đối thủ của
tôi không còn nghi ngờ gì nữa: anh ta bỏ cuộc. Thế là tôi phải trả cuốn sách
với giá mười lần đắt hơn. Còn anh ta chỉ khẽ nghiêng mình, nói với tôi một cách
rất lịch sự, tuy hơi muộn một chút.
- Tôi xin nhường ông.
Không còn ai nói thêm gì nữa. Quyển sách được bán cho tôi. Nhưng
tôi ngại một cuộc đương đầu mới mà tôi bắt buộc sẽ phải giữ lòng kiêu hãnh bằng
cách làm đau đớn túi tiền của mình. Tôi xin ghi tên rồi đi ra. Chắc chắn những
người chứng kiến cảnh tượng đó đã phải tự hỏi rằng tôi bỏ ra một trăm đồng để
mua cuốn sách với mục đích gì, trong lúc có thể mua nó ở bất cứ nơi nào khác,
với giá cao nhất cũng chỉ đến mười hay mười lăm frăng là cùng.
Một giờ sau, tôi nhờ người đến nhận sách cho mình.
Trên trang đầu của cuốn sách có ghi lời đề tặng cho người tặng
sách, nét chữ viết tay rất đẹp. Lời đề tặng chỉ vẻn vẹn mấy chữ sau đây:
Manông gửi Macgơrit – Khiêm tặng.
Dưới ký tên: Acmân Đuyvan.
Người viết muốn nói gì ở các từ "Khiêm tặng" ?
Phải chăng Manông đã nhận thấy nơi Macgơrit – Theo như ông Acmân
Đuyvan nghĩ – một con người vượt hẳn mình về sự truỵ lạc hoặc về tâm tình?
Giải thích theo ý sau có thể dễ chấp nhận hơn. Bởi vì ý đầu là một
sự thẳng thắn khiếm nhã mà Macgơrit không thể đồng ý, mặc dù nàng vẫn tự hiểu
mình là người như thế nào.
Tôi lại phải đi, và tôi chỉ bận tâm vào cuốn sách vào buổi tối, khi
đi nằm.
Manông Lexcô là một câu chuyện cảm động. Không một chi tiết nào của
nó xa lạ đối với tôi. Tuy thế, khi có cuốn sách trong tay, tôi vẫn bị nó lôi
cuốn. Tôi mở sách ra và đây là lần thứ một trăm, tôi sống lại với vai chính của
tu sĩ Prêvốt. Vai chính này qúa thực, đến nỗi tôi có cảm tưởng như đã quen biết
từ lâu. Trong hoàn cảnh mới này, một sự so sánh giữa người trong truyện với
Macgơrit đã gây cho tôi những thích thú bất ngờ. Lòng khoan dung của tôi như
lớn lên cùng nỗi đau thương của nàng, trở thành như một tình yêu đối với người
con gái xấu số mà gia tài để lại đã cho tôi cơ hội có cuốn sách này. Manông
trước kia đã chết trong một sa mạc, đúng vậy, nhưng chết trong cánh tay của
người đàn ông đã yêu quý nàng với tất cả sự nồng cháy trong tâm hồn. Người này
đã đào huyệt cho nàng, tưới lên đó những giọt nước mắt, và chôn vùi luôn ở đó
trái tim của mình. Còn Macgơrit, một người con gái tội lỗi như Manông và cũng
có thể được trở về với Chúa như Manông, đã chết giữa một sự xa hoa cực độ - nếu
như tin vào những gì tôi đã thấy – nhưng lại giữa cái sa mạc của trái tim. Nó
khô cằn hơn nhiều, đáng thương xót hơn nhiều so với cái sa mạc trong đó Manông
được an nghỉ.
Macgơrit, quả vậy, như tôi được biết qua một số bạn hữu đã chứng
kiến những giờ phút cuối cùng của đời nàng, nàng không hề tìm được một sự an ủi
thực sự nào ở bên giường bệnh. Trong hai tháng cuối cùng nàng phải chống chọi
một sự hấp hối kéo dài, đầy khổ ải, đau thương.
Rồi từ Manông và Macgơrit, tôi lại nghĩ đến những người đàn bà quen
biết mà tôi vẫn thường gặp họ vừa đi vừa hát. Họ đang dần dần tiến đến một cái
chết đau thương tất yếu, gần như không bao giờ thay đổi.
Những con người khốn khổ! Nếu thương yêu họ là một sai lầm, thì ít
ra chúng ta có thể thương xót họ. Các bạn thương xót người mù không bao giờ
thấy được ánh sáng của ban ngày, người điếc không bao giờ nghe được âm thanh
của tạo vật, người câm không bao giờ cất lên được những tiếng nói của tâm hồn.
Nhưng vin vào một cớ e ngại giả tạo, bạn không chịu thương xót sự đui mù của
trái tim, sự điếc lác của tâm hồn, sự câm lặng của lương tâm. Và đã làm cho
người phụ nữ bị đày đoạ không thể thấy được con đường lương thiện, không thể
nghe được tiếng gọi của Chúa và nói lên được ngôn ngữ thuần khiết của tình yêu
và đức tin.
Huygô đã tạo nên Mariông Đơloocmơ, Mútxê đã tạo nên Becnơrết,
Alecxanđơrơ Đuyma đã tạo nên Phécnăngđơ. Những nhà tư tưởng và thi sĩ, từ ngàn
xưa, đã hiến dâng lòng khoan dung cho những người kỹ nữ. Và đôi khi vĩ nhân,
bằng tình yêu và ngay cả tên tuổi của mình, đã phục hồi danh dự cho họ. Tôi
nhấn mạnh như thế, là bởi vì trong số những bạn đọc của tôi, có nhiều người như
đã sẵn sàng vứt cuốn sách này sợ sách này chỉ để ca ngợi tội lỗi và nghề mại
dâm, và tuổi đời tác giả, chắc chắn đã góp phần tạo nên nỗi lo sợ này. Nếu ai
đó nghĩ vậy, xin hãy vứt bỏ ý nghĩ sai lầm, và hãy tiếp tục đọc cuốn sách nếu
chỉ vì ý nghĩa lầm lạc kia cản trở.
Tôi tin chắc một cách đơn giản vào nguyên lý này: Đối với đàn bà
không được giáo dục về đạo đức, Thượng Đế hình như luôn luôn mở ra hai con
đường mòn để dẫn họ đến đó. Hai con đường mòn này chính là sự đau khổ và tình
yêu. Đó là những con đường đầy chông gai. Những người đàn bà nào đi vào sẽ phải
trầy da, đổ máu. Nhưng đồng thời họ cũng sẽ để lại trên những gai góc của con
đường ấy tất cả các thứ phục sức lộng lẫy nhơ nhuốc. Và họ đi đến đích với sự khoả
thân cần thiết, không làm cho người ta phải đỏ mặt trước Chúa.
Những ai được gặp những người đàn bà dũng cảm này, phải nói lại cho
tất cả mọi người biết mình đã gặp họ. Bởi vì nói lên sự việc này, tức là chúng
ta đã chỉ được con đường nên đi.
Đâu đơn giản là chỉ việc đặt sẵn ngay trước ngưỡng cửa cuộc đời hai
tấm bảng, một tấm mang lời chỉ dẫn: "con đường lương thiện" và tấm
kia là lời răn đe: "con đường tội ác" rồi nói với những người đến đó:
"Hãy lựa chọn đi!" Phải như đấng Kitô, chỉ những con đường dẫn từ con
đường thứ hai đến con đường thứ nhất cho những kẻ nào đã bị cám dỗ và nhất là
cho thấy: chặng đầu những con đường này không đến nỗi quá chằng chịt gai góc
đến nỗi người ta e sợ không dám bước chân vào.
Đạo thiên chúa có một chuyện ngụ ngôn kỳ thú "Thằng con trai
hoang phí" để khuyên chúng ta cần khoan hồng và tha thứ. Chúa Giêsu đầy
tình thương đối với những tâm hồn đầy thương tích do dục vọng của con người gây
ra và Chúa cũng thích băng bó những vết thương, chữa trị nó bằng chính những
hương thơm. Người đã rút ra từ nó, để tự nó lành hẳn đi. Đúng như thế. Người ta
bảo Mađơlen: "Người sẽ được tha tội nhiều, bởi vì người đã thương
yêu" . Sự khoan hồng cao cả sẽ khơi dậy một đức tin cao cả.
Tại sao chúng ta lại cứng rắn hơn Đấng Kitô? Tại sao chúng ta cứ
cứng đầu bám chặt những luận điệu của thế giới này, cái thế giới tỏ ra cứng rắn
để người ta tưởng nó giàu nghị lực? Tại sao chúng lại đồng ý với nó để xua đuổi
những tâm hồn đang bị rỉ máu vì những vết thương do tội lỗi của quá khứ gây
nên, những tâm hồn chỉ chờ đợi được một bàn tay thân ái đến băng bó, giúp họ
lấy lại được sự an lành của trái tim?
Tôi đang nói chuyện với những người cùng thế hệ với tôi - thế hệ mà
những lý thuyết của ông Vônte, may mắn thay không còn nữa! - Với những người,
cũng hiểu như tôi rằng nhân loại từ mười lăm năm nay đang lấy đà tiến lên, lao
tới một cách can cường. Ý thức về thiện và ác đã được phân minh. Đức tin được
xây dựng lại, sự tôn kính những gì thiêng liêng được trả lại. Và thế giới này,
nếu không phải là hoàn toàn tốt đẹp, thì ít ra nó cũng đang dần dần trở nên tốt
đẹp hơn. Những nỗ lực của tất cả con người thông minh đều hướng về một mục đích
và tất cả những ý chí vĩ đại đều phục tùng một nguyên tắc: "phải tốt, phải
trẻ, phải thực!" . Tôi ác chỉ là một điều hư ảo. Hãy giữ lòng tự trọng về
điều thiện. Và nhất là không được thất vọng. Đừng khinh bỉ những người đàn bà
không được làm mẹ, làm thiếu nữ, làm vợ. Không nên thu hẹp tình thương hạn chế
chỉ trong gia đình, đừng biến lòng khoan dung thành tính ích kỷ. Bởi vì, thiên
đường sẽ vui sướng trước sự hối cải của một người tội lỗi còn hơn cả khi tiếp
nhận một trăm người lương thiện không hề phạm tội bao giờ. Chúng ta hãy nỗ lực
làm cho thiên đường vui hơn và chắc chắn chúng ta sẽ được đền bù xứng đáng. Hãy
để lại trên những con đường chúng ta đi lòng khoan dung cho tất cả những kẻ mà
dục vọng trên cõi đời đã làm hư hỏng. Và có thể họ sẽ may mắn được cứu thoát bở
một hy vọng thiêng liêng. Những bà già tốt bụng thường bảo, khi khuyên dùng một
thứ thuốc nào đó do các bà tìm ra: "Nếu nó không làm lành bệnh, thì nó
cũng không làm cho bệnh nặng thêm" . Lòng khoan dung của chúng ta cũng
vậy, nếu nó không đem lại được điều tốt lành cho ai, thì cũng chẳng hại ai.
Thực vậy, tôi có vẻ táo bạo khi muốn đưa ra những kết luận to lớn từ
một đề tài nhỏ bé. Nhưng tôi là một trong những người tin rằng: "Cái tất
cả nằm trong cái nhỏ bé" . Đứa bé, tuy nhỏ tuổi nhưng đã hàm chứa trong nó
một người lớn rồi. Bộ não tuy hẹp, nhưng đã che chở được tư tưởng. Con mắt tuy
chỉ như một điểm nhỏ, nhưng đã ôm trùm vạn dặm.
TRÀ HOA NỮ
Chương 4
Marie Duplessis, tranh màu nước
Hai ngày sau, người ta đã bán sạch tất cả. Tổng số tiền thu được
lên đến một trăm năm mươi ngàn frăng.
Những chủ nợ cùng chia nhau hai phần ba. Số còn lại được giao cho
gia đình, gồm một em trai và một cháu trai.
Cô em này mở tròn đôi mắt, khi người có trách nhiệm đến báo tin cho
biết: cô được một gia tài là năm mươi ngàn frăng.
Cách sáu bảy năm rồi, cô gái nhỏ này không gặp lại chị. Người chị
này, một ngày nọ, đã biến mất, không biết đi nơi nào. Không ai nhận được tin
tức gì về người chị, từ sau ngày người chị ra đi.
Nhận được tin, cô em vội vã đến Paris. Những người quen biết
Macgơrit rất đỗi ngạc nhiên khi được biết rằng người độc nhất thừa hưởng gia
sản kia là một cô gái mập chắc xinh đẹp, sinh sống ở nông thôn, chưa bao giờ đi
xa khỏi làng.
Tài sản không hề mong ước bỗng dưng đến. Cô không hiểu ngọn ngành
vào đâu cả.
Người ta cho hay cô em đã lại trở về nông thôn, đem theo một nỗi
buồn sâu sắc về cái chết của người chị, nhưng ít nhất cũng được bù đắp phần
nào, tiền lãi của số vốn thừa hưởng.
Tất cả những trường hợp đó lặp đi lặp lại ở Paris, thành phố mẹ của
tội lỗi và ô nhục, bắt đầu bị lãng quên dần. Và tôi cũng quên dần đi việc tôi
đã tham dự vào biến cố đó như thế nào, cho đến khi một điều bất ngờ mới làm cho
tôi biết được cuộc đời của Macgơrit với tất cả những chi tiết hết sức cảm động.
Và sự xúc động đã thúc giục tôi phải viết lại câu chuyện này.
Đồ đạc đã bán sạch từ bốn năm ngày rồi. Gian phòng trống rỗng được
dùng để cho thuê.
Bỗng nhiên một sáng, có kẻ đến gõ cửa nhà tôi.
Người giúp việc, đúng hơn là người gác kiêm cả ngươi giúp việc
trong nhà, ra mở cửa rồi đem vào cho tôi một tấm danh thiếp, nói người đưa danh
thiếp muốn nói chuyện với tôi.
Tôi nhìn tấm danh thiếp thấy dòng chữ; Acmân đuyvan.
Hình như tôi đã thấy cái tên này ở đâu rồi. Và tôi đã nhớ ra: trong
trang đầu của cuốn sách Manông lexcô.
Con người tặng sách cho Macgơrit muốn nói gì với tôi? Tôi cho mời
người khách lạ ấy vào tức khắc.
Đó là một người đàn ông trẻ, tóc hung hung, dáng to lớn, da hơi
xanh, mặc một bộ đồ đi đường đầy bụi bặm, hình như đã vài ba ngày rồi chưa thay
và cũng không buồn cho chải lại sau khi đã đến Paris.
Đuyvan rất xúc động, và cũng không cố che giấu sự xúc động của
mình. Với đôi mắt đẫm lệ, giọng run run, anh ta nói với tôi:
- Thưa ông, xin ông thứ lỗi cho về việc tôi đến thăm ông hôm nay,
với cách ăn mặc như thế này. Nhưng tôi cũng tin rằng giữa những người trẻ tuổi,
chúng ta có thể thông cảm cho nhau dễ dàng. Hôm nay, tôi rất mong muốn được gặp
ông, đến nỗi tôi không có thì giờ để đến khách sạn, dù tôi đã gửi hành lý đến
đó rồi. Tôi chạy gấp đến đây, tuy còn sớm nhưng vẫn cứ lo không gặp được ông.
Tôi yêu cầu Đuyvan ngồi lại bên lò sưởi. Anh làm theo và rút khăn
tay ra đưa lên cho khuất mặt trong chốc lát.
- Chắc ông không hiểu được – anh ta vừa nói vừa thở ra buồn bã -
một người khách lạ như tôi, đến đây giờ này, với cách ăn mặc như thế này, và
lại khóc như thế này, để mong nhờ ông một việc gì. Thưa ông, tôi đến đây, tình
thực chỉ để nhờ ông giúp cho một việc quan trọng.
- Ông cứ nói, tôi sẵn sàng tiếp nhận ý kiến của ông.
- Ông có đến tham dự cuộc bán đấu giá tài sản của Macgơrit Gôchiê?
Nói tới đó, sự xúc động mà người đàn ông trẻ đã dằn được trong giây
lát vụt mạnh hơn anh ta, và anh buộc phải đưa hai bàn tay lên để che mắt.
- Tôi có vẻ đáng buồn cười quá! - Anh ta nói – Xin lỗi ông, và xin
ông tin cho là chẳng bao giờ tôi có thể quên sự nhẫn nại mà ông đã có khi chịu
khó nghe tôi.
- Thưa ông, - tôi đáp - Nếu tôi có thể giúp được điều gì đó để giảm
đi một ít sự đau khổ của ông, ông cứ nói cho tôi biết. Tôi sẽ rất sung sướng
khi giúp đỡ ông.
Nỗi đau khổ của Đuyvan thật đáng thương cảm, và mặc dù chưa biết
mọi chuyện thế nào, tôi vẫn muốn được giúp anh.
Anh ta nói tiếp:
- Ông có mua gì tại cuộc bán đấu giá tài sản của Macgơrit?
- Thưa ông, có: một cuốn sách.
- Manông Lexcô?
- Đúng vậy.
- Ông còn giữ cuốn sách đó?
- Tôi để trong phòng ngủ của mình.
Nghe thấy thế. Acmân Đuyvan như nhẹ hẳn một gánh nặng, và cảm ơn
tôi. Chừng như tôi đã giúp ích cho anh nhiều vì đã giữ lại cuốn sách.
Tôi liền đứng dậy, vào phòng lấy sách đem ra và đưa cho anh ta.
- Chính nó đây rồi! – Anh vừa nói, vừa nhìn lời đề tặng ở trang
đầu, giở từng trang và nói tiếp. – Chính đây rồi!
Hai giọt nước mắt lớn nhỏ lên những trang giấy.
- Ôi! Thưa ông. – Anh ta ngẩng đầu lên nhìn tôi, không hề có ý giấu
những giọt lệ và như còn muốn khóc thêm nữa là khác – ông có cần cuốn sách này
lắm không?
- Thưa ông, thế nào?
- Vì tôi đến đây để xin ông nhượng lại cho tôi.
- Xin ông tha cho sự tò mò của tôi – tôi nói – Chính ông là người
đã tặng cuốn sách này cho cô Macgơrit Gôchiê?
- Vâng, chính tôi.
- Thưa ông, cuốn sách này là của ông. Ông hãy nhận lại. Tôi sung
sướng được trả nó lại cho ông.
Nhưng – Đuyvan hơi bối rối - vậy ít nhất, ông vui lòng cho tôi hoàn
lại số tiền ông đã mua.
- Ông cho phép tôi tặng lại. Giá bán một cuốn sách trong một cuộc
đấu giá như thế chẳng là bao. Và tôi cũng không nhớ rõ tôi đã trả bao nhiêu.
- Ông đã trả một trăm frăng.
- Đúng đấy - đến lượt mình, tôi cảm thấy hơi lúng túng – mà làm thế
nào mà ông biết được?
- Cũng đơn giản thôi, thưa ông. Tôi hy vọng đến Paris kịp ngày bán
đấu giá tài sản của Macgơrit. Nhưng mãi sáng nay tôi mới đến được. Tôi rất muốn
có một vật do nàng để lại. Tôi đã chạy đến người phụ trách cuộc bán đấu giá để
xin phép xem danh sách những vật đã bán và tên những người mua. Tôi thấy cuốn
sách này ông mua và quyết định đến xin ông vui lòng nhượng lại cho, mặc dầu cái
giá ông mua đã làm tôi e ngại rằng có thể ông cũng có một kỷ niệm nào đó trong
việc mua cuốn sách.
Nói những lời như thế, Acmân tất nhiên e ngại rằng tôi cũng có thể
quen biết Macgơrit như anh quen biết nàng.
Tôi vội trấn an anh ta:
- Tôi được biết cô Macgơrit chỉ vì đã từng gặp mặt thôi. Cái chết
của cô gây xúc cảm nơi tôi cũng giống như xúc cảm của một người trai trẻ bao
giờ cũng có khi hay tin về cái chết của một người đàn bà đẹp mà mình đã từng
gặp mặt. Tôi muốn mua một cái gì đó của Macgơrit trong ngày bán đấu giá, và đã
nhất quyết mua cho kỳ được cuốn sách này. Tôi không biết tại sao, chắc tại muốn
trêu tức một anh chàng cứ cố leo giá như thách thức tôi tranh giành cuốn sách.
Bởi thế, thưa ông, tôi xin nhắc lại rằng cuốn sách này là của ông. Xin ông hãy
nhận lấy nó từ tay tôi không phải như tôi đã nhận nó từ tay người bán đấu giá.
Mà hãy xem nó như vật cam kết cho một sự quen biết lâu dài hơn, sự liên hệ thân
thiết hơn giữa chúng ta.
-Thưa ông, ông tốt quá! – Đuyvan nắm chặt tay tôi – Tôi xin nhận và
tôi sẽ biết ơn ông suốt đời.
Tôi muốn hỏi thêm Acmân về Macgơrit. Bởi vì lời đề tặng trong cuốn
sách, chuyến đi của người con trai đó, nhiệt tình tìm lại cho được cuốn sách ở
anh đã kích thích tính tò mò nơi tôi. Nhưng tôi sợ hỏi như thế làm cho Đuyvan
hiểu nhầm là tôi đã từ chối không nhận tiền để có quyền xen vào việc riêng tư
của anh.
Hình như đoán được ý của tôi, Đuyvan hỏi:
- Ông đã đọc cuốn sách này?
- Đọc hết cả.
- Ông nghĩ gì về hai dòng chữ tôi đã viết?
- Tôi hiểu ngay rằng người con gái đáng thương mà ông đã tặng cuốn
sách không thuộc hạng tầm thường. Tôi không thể nào xem những dòng chữ đó chỉ
là những lời khen sáo nhạt.
- Thưa ông, ông có lý. Người con gái đó đúng là một thiên thần.
Đây, xin ông đọc bức thư này.
Và anh ta đưa cho tôi một tờ giấy, hình như nó đã được đọc đi đọc
lại nhiều lần.
Tôi mở ra. Nội dung tờ giấy như sau:
"Anh Acmân thân mến, em đã nhận được thư anh. Anh vẫn đối tốt
với em và em xin cảm ơn thượng đế vì điều này. Vâng, anh yêu quý, em đang lâm
bệnh, một căn bệnh ngặt nghèo. Nhưng sự quan tâm của anh đã làm giảm đi nhiều
nỗi đau đớn của em. Chắc em sẽ không còn sống được bao lâu nữa để mà được cái
hạnh phúc nắm chặt lấy bàn tay đã viết lá thư rất cảm động em vừa nhận được.
Những lời lẽ trong thư có thể làm cho em lành bệnh, nếu bệnh của em là căn bệnh
có thể chữa lành. Em sẽ không được gặp lại anh, bởi vì, em đã đứng bên cái chết
rồi, mà giờ đây em và anh lại đứng cách xa nhau đến trăm ngàn dặm. Anh Đuyvan
ơi! Em Macgơrit của anh ngày xưa đã thay đổi nhiều rồi. Thà rằng anh đừng gặp
em nữa còn hơn là phải gặp em trong lúc này. Anh hỏi em có tha lỗi cho anh
không? Ôi! Tâm hồn cao thượng! Người bạn chí thân! Nỗi đau khổ mà anh để em
phải chịu đựng chỉ là bằng chứng của tình yêu anh dành cho em mà thôi. Em nằm
bệnh đã từ một tháng nay và em yêu quý thiết tha tình yêu của anh, đến nỗi ngày
nào em cũng viết nhật ký đời em, bắt đầu từ lúc chún ta xa nhau cho mãi đến lúc
nào em không còn đủ sức lực để viết.
Anh Đuyvan ơi! Nếu anh vẫn còn thực sự giữ lòng yêu thương em thì
ngày trở về, anh hãy đến nhà Juyli Đupơra, Juyli sẽ trao cho anh cuốn nhật ký
ấy. Anh sẽ tìm được trong đó cái lý do của câu chuyện đã xảy ra giữa chúng ta
và hiểu mà tha thứ cho em. Juyli đối với em rất tốt. Chúng em thường ngồi nói
về anh. Khi thư anh đến, Juyli cũng có mặt tại đó, và chúng em đã vừa khóc vừa
đọc thư anh.
Trong trường hợp anh không cho em biết tin tức về anh, Juyli sẽ
trao những tờ giấy này lại cho anh, khi anh trở về Pháp. Anh đừng cảm ơn em về
tập nhật ký ấy. Sự nhớ lại hàng ngày những giây phút sung sướng độc nhất của
đời em đã đem lại cho em một niềm vui rất lớn. Nếu anh tìm thấy lại được trong
tập nhật ký sự tha thứ đối với quá khứ thì em lại tìm thấy ở đó một nguồn an ủi
vĩnh cửu.
Em muốn để lại cho anh một cái gì đó có thể nhắc mãi hình ảnh em
trong tâm trí anh. Nhưng tất cả tài sản của em đã bị tịch thu rồi và không còn
một cái gì còn thuộc về em nữa.
Anh có hiểu cho không, người anh yêu quý, em sắp chết, và từ phòng
ngủ của em, em đã nghe tiếng chân của người gác trong phòng khách. Những chủ nợ
đã thuê người canh giữ ở đó, để không ai có thể vào lấy gì mang đi. Và nếu như
em không chết, em cũng sẽ không còn gì cả. Các chủ nợ đang chờ đợi những giây
phút cuối cùng của đời em để họ có thể bán đi đồ đạc.
Ôi người đời thật tàn nhẫn! Hay đúng hơn, em đã lầm, chính thượng
đế rất công bằng và không thể nào lay chuyển được.
Thôi đành vậy, anh yêu quý, anh hãy đến lúc người ta bán đấu giá,
và anh sẽ mua một cái gì đó. Bởi vì, nếu em để dành bất cứ một thứ gì cho anh
mà người ta biết được, thì người ta sẽ cho là anh biển thủ đồ đạc bị tịch thu.
Cuộc đời mà em sẽ từ giã thật là bi đát!
Ước gì Thượng Đế sẽ rủ lòng thương! Ước gì Người sẽ cho em gặp lại
anh trước khi chết. Nhưng chắc chắn hơn, em xin vĩnh biệt anh, anh yêu quý. Xin
anh tha lỗi cho em nếu em không thể viết tiếp được nữa. Những người bảo sẽ chữa
em lành bệnh, chỉ làm cho em ngày càng thêm hao mòn vì mất máu thôi, và bàn tay
em giờ đây không đủ sức để viết thêm được nữa. . .
Macgơrit Gôchiê"
Thật vậy, những chữ cuối cùng rất khó đọc. Tôi trả bức thư cho
Acmân. Có lẽ anh đã vừa đọc lại trong tâm trí những gì tôi đọc trên tờ giấy.
Bởi vì, anh vừa cầm lấy bức thư vừa nói:
- Ai có thể nghĩ rằng một kỹ nữ lại có thể viết được một bức thư
như thế.
Xúc động về những kỷ niệm ngày xưa, anh nhìn lại giây lát nét chữ trong
thư, và cuối cùng đưa bức thư lên môi, rồi nói tiếp:
- Khi tôi nghĩ Macgơrit chết mà không gặp được tôi và tôi chẳng bao
giờ gặp lại nàng, khi tôi nghĩ nàng đã làm cho tôi những gì mà một người chị
cũng không làm được, tôi không thể nào tha thứ cho tôi, vì đã bỏ mặc nàng chết
như thế.
Cho đến chết! Cho đến chết! Vẫn còn nghĩ đến tôi, vẫn viết cho tôi,
và vẫn gọi tên tôi, Macgơrit thân yêu và khốn khổ!
Và Acmân, để cho tư tưởng lẫn nước mắt tự do tuôn trào, đưa tay cho
tôi, nói tiếp:
- Người ta cho tôi quá trẻ con, nếu thấy tôi than khóc thế này bởi
một người đàn bà đã chết. Vì người ta không thể biết được, tôi đã làm cho người
đàn bà đó đau khổ như thế nào, tôi đã tàn ác như thế nào, và nàng đã tốt bụng,
chịu đựng, nhẫn nhục như thế nào. Trước đây tôi cứ nghĩ tôi là người tha thứ
cho nàng. Thế mà bây giờ đây, tôi cảm thấy tôi không xứng đáng với sự tha thứ
mà nàng đã dành cho tôi. Ôi! Tôi sẵn sàng đổi mười năm cuộc sống của tôi để
được khóc một giờ dưới chân nàng.
Thật khó an ủi một niềm đau thương mà người ta không biết rõ. Tuy
nhiên, vì quá thương cảm một người trai trẻ đã thành thực tâm sự với mình về
những nỗi đau khổ riêng tư, tôi nghĩ những lời nói của tôi có lẽ sẽ không đến
nỗi lạc lõng, vô ích đối với anh ta và tôi nói:
- Chắc anh cũng có bà con và bạn hữu? Hãy hy vọng lên. Hãy đến thăm
họ. Và họ sẽ an ủi anh. Bởi vì tôi, tôi chỉ có thể thương hại cho anh thôi!
- Đúng vậy – anh vừa nói vừa đứng dậy, và đi từng bước dài trong
phòng. Tôi làm phiền ông. Xin lỗi ông. . . Tôi quên rằng sự đau khổ của tôi đã
quấy rầy đến ông, và tôi đã làm phiền ông một việc chẳng liên quan và chẳng lợi
ích gì cho ông cả.
- Xin ông đừng hiểu lầm lời tôi nói. Tôi sẵn sàng giúp ông tất cả.
Chỉ tiếc rằng tôi không biết làm như thế nào để làm dụi nỗi đau khổ của ông. Nếu
tôi và những người bạn của tôi có thể giúp ông giải khuây, nếu cuối cùng ông
cần đến tôi về bất cứ việc gì, xin ông tin là chúng tôi rất sung sướng được làm
vui lòng ông.
- Xin lỗi, xin lỗi ông, sự đau khổ đã làm cho những xúc cảm con
người bùng lên một cách quá mức. Ông cho phép tôi ở nán lại vài phút, đủ thời
gian để tôi lau khô những giọt nước mắt, để cho những đứa nhỏ ngoài đường phố
sẽ không tò mò theo nhìn một thằng con trai lớn tuổi như thế này mà lại còn
khóc. Ông vừa làm cho tôi sung sướng khi trao cuốn sách này lại cho tôi. Tôi
không biết phải đền đáp ông bằng cách nào.
- Bằng cách chấp nhận cho tôi được làm thân với anh ít nhiều – tôi
nói với Acmân – và bằng cách cho phép tôi được biết nguyên nhân sự đau khổ của
anh. Người ta sẽ được an ủi khi kể lại cho người khác nghe những đau khổ của
mình.
- Ông có lý. Nhưng hôm nay tôi quá cần được khóc. Nếu phải kể, tôi
chỉ có thể nói ra những lời lẽ rời rạc, chẳng liên hệ gì với nhau. Một ngày
khác tôi sẽ kể lại câu chuyện đó. Ông sẽ thấy tôi có lý hay không khi thương
tiếc người con gái ấy. Và giờ đây – anh nói tiếp, vừa lấy tay dụi mắt vừa nhìn
mình trong tấm kính lớn – có lẽ ông thấy tôi không đến nỗi ngốc lắm! Xin ông
cho phép tôi được trở lại thăm ông.
Cái nhìn của người con trai ấy hiền dụi và trong sáng. Tôi chỉ muốn
ôm lấy anh ta mà hôn
Còn anh ta, đôi mắt lại bắt đầu mờ lệ. Biết tôi nhận thấy, anh ta
vội nhìn đi chỗ khác.
- Anh ạ - tôi nói – hãy can đảm lên!
- Xin chào ông.
Phải cố gắng đến cực độ để khỏi khóc, anh bước ra, đúng hơn là anh
chạy vội vã ra khỏi nhà tôi.
Tôi vén màn cửa sổ và nhìn thấy anh bước lên chiếc xe nhỏ đang chờ
trước cửa. Nhưng vừa ngồi vào xe anh đã lấy chiếc khăn tay ra che mặt và oà
khóc.
TRÀ HOA NỮ
Chương 5
Một thời gian khá lâu trôi qua. Tôi không nghe nói đến Acmân. Nhưng
trái lại tôi thường nghe bàn tán về Macgơrit. Tôi không biết bạn có để ý không:
chỉ cần cái tên của một người đúng ra xa lạ với bạn hoặc ít ra không liên can
gì đến bạn, được nhắc một lần trước mặt bạn, là những chi tiết liên hệ khác sẽ
dần dần đến vây quanh cái tên ấy. Và bạn sẽ nghe tất cả những người quen biết
nói về những điều mà trước đây họ không bao giờ nói với mình. Và lúc đó bạn sẽ
nhận ra rằng con người đó gần như có mối liên hệ với mình, đã nhiều lần đi qua
trong đời mình mà mình không lưu ý. Bạn sẽ tìm thấy những biến cố mà bạn được
nghe kể lại một sự trùng hợp, một mối quan hệ mật thiết thực sự với một số biến
cố chính của đời bạn.
Trường hợp tôi không hoàn toàn đúng như thế, bởi vì tôi đã thấy
nàng, đã biết nàng, đã gặp nàng rất nhiều lần. Tuy nhiên, từ ngày bán đấu gía,
tôi thường được nghe nhắc đến tên nàng. Và trong trường hợp tôi vừa nói ở
chương vừa qua, cái tên này hoà lẫn trong một niềm đau buồn sâu đậm, làm cho sự
ngạc nhiên của tôi cứ lớn dần lên và sự tò mò của tôi cũng tăng lên theo.
Hậu quả là tôi không bao giờ tiếp xúc với một người bạn nào mà
không nhắc đến Macgơrit:
- Bạn có biết một người tên Macgơrit Gôchiê không?
- Trà hoa nữ?
- Biết rõ!
Những tiếng "biết rõ" ấy đôi khi đi kèm theo những nụ
cười mà người ta không thể không đoán được ý nghĩa của nó.
- Vậy à! Cô gái ấy như thế nào? – Tôi hỏi tiếp.
- Một cô gái tốt bụng.
- Chỉ có thế?
- Chúa ơi! Vâng, đúng thế. Có trí tuệ hơn và có thể có tâm hồn hơn
những cô gái khác.
- Anh không biết gì đặc biệt về cô ta sao?
- Cô ta làm phá sản bá tước R. . .
- Chỉ có thế?
- Cô ta là tình nhân của ông quận công già tên. . .
- Có đúng cô ta là tình nhân của ông ta không?
- Người ta nói thế. Nhưng dù sao thì ông ta cũng đã chi cho cô ta
rất nhiều tiền.
Luôn luôn vẫn những chi tiết đại để như thế.
Tuy nhiên, tôi vẫn tò mò muốn biết chút ít về câu chuyện tình giữa
Macgơrit và Acmân.
Một ngày kia, tôi gặp được một trong những người đã sống nhiều
trong mối thân tình với những kỹ nữ tên tuổi. Tôi hỏi:
- Anh có biết Macgơrit Gôchiê không?
Cũng vẫn tiếng "biết rõ" được lặp lại.
- Cô gái ấy thế nào?
- Đẹp và hiền lành. Cái chết của cô đã làm tôi đau đớn nhiều.
- Có phải cô ta có một tình nhân tên là Acmân Đuyvan?
- Một anh chàng cao lớn tóc hung?
- Phải.
- Đúng vậy.
- Và Acmân là người thế nào?
- Một anh chàng đã cùng tiêu hết với nàng số tiền ít ỏi của mình,
tôi nghĩ vậy. Và sau đó bị bắt buộc phải xa nàng. Người ta bảo anh chàng mê
nàng như điếu đổ!
- Còn nàng?
- Người ta cũng bảo nàng yêu hắn lắm. Nhưng anh bạn cũng biết thế
nào là tình yêu của những cô gái đó. Không thể đòi hỏi nơi họ đến cái mức mà họ
không thể cho được.
- Acmân sau đó thế nào?
- Tôi không biết. Chúng tôi biết rất ít về anh ta. Anh ta sống năm
hay sáu tháng với Macgơrit, nhưng ở đồng quê. Khi nàng trở về thì anh ta đã đi
rồi
- Và từ đó đến nay anh không gặp lại anh ta?
- Không hề gặp lại.
Tôi cũng vậy. Tôi không gặp lại Acmân. Đến nỗi có lúc tôi tự hỏi
rằng phải chăng khi anh ta đi tìm tôi, cái tin mới nhận về cái chết của
Macgơrit đã khuyếch đại cả tình yêu ngày trước lẫn sự đau khổ của anh ta? Tôi
tự nhủ, có lẽ anh ta đã quên người chết rồi, đồng thời cũng đã quên lời hứa trở
lại gặp tôi.
Cái giả thiết ấy có vẻ khá đúng đối với một kẻ khác. Nhưng ở đây,
nỗi thất vọng của Acmân rất chân thành. Và đi từ thái cực này đến thái cực
khác, tôi lại hình dung sự đau khổ của anh ta đã biến thành căn bệnh và nếu tôi
không được tin tức gì của anh ta, chắc hẳn do anh ta bị bệnh, hay cũng có thể
anh ta đã chết rồi.
Ngoài ý muốn của mình, tôi vẫn cứ để tâm nghĩ đến người con trai
ấy. Có thể có cái gì giống như ích kỷ trong sự lưu tâm đó. Có thể tôi thoáng
thấy được trong nỗi đau khổ đó một câu chuyện tâm tình cảm động. Cuối cùng, có
thể vì câu chuyện tâm tình đó đã dự phần khá lớn trong niềm lo âu của tôi về sự
im lặng của Acmân Đuyvan.
Bởi vì Đuyvan không đến, tôi quyết định đi tìm gặp anh. Tìm ra một
duyên cớ, không khó gì. Khốn nỗi, tôi không có địa chỉ. Và trong số tất cả
những người tôi gặp hỏi, không một ai biết cả.
Tôi đi đến đường Anti. Người gác cổng của Macgơrit có thể biết
Acmân ở đâu. Nhưng đây lại là người gác cổng mới. Anh ta cũng chẳng biết gì hơn
tôi. Thế là tôi tìm tới nghĩa trang nơi cô Giôchiê an nghỉ. Đó là nghĩa trang
Môngmat.
Thời tiết tháng tư thật đẹp. Những ngôi mộ không còn vẻ đau thương
và hiu quạnh như trong mùa đông. Trời đã bắt đầu trở nên ấm áp để những người
còn sống nhớ lại và đi thăm viếng những người đã chết. Tôi vừa đi đến nghĩa
trang vừa tự nhủ: chỉ cần thăm mộ của Macgơrit, tôi sẽ biết được nỗi đau khổ
của Acmân nay có còn không, và tôi có thể sẽ biết được Đuyvan hiện giờ ra sao.
Tôi đi vào căn nhà của người giữ nghĩa trang và hỏi anh ta phải
chăng ngày 22 tháng hai có một người đàn bà tên Macgơrit Gôchiê đã được an táng
tại nghĩa trang Môngmat.
Người ta lật tìm trong một quyển sổ lớn có ghi tên và đánh số tất
cả những người đã đưa vào nơi an nghỉ cuối cùng này và trả lời cho tôi biết,
đúng vào buổi trưa ngày 22 tháng hai, một người đàn bà tên là Macgơrit Gôchiê
đã được an táng tại đây.
Tôi yêu cầu người giữ nghĩa trang dẫn tôi đến ngôi mộ. Bởi vì đi
vào đây mà không có người hướng dẫn thì chắc chắn không khỏi bị lạc giữa cái
thành phố những người chết. Ở đây cũng có rất nhiều đường đi lối lại như thành
phố của người sống. Người giữ nghĩa trang gọi bác làm vườn, chỉ bảo những điều
cần thiết. Nhưng người này đã ngắt lời và nói:
- Tôi biết. . . Tôi biết. . . - bác ta quay sang phía tôi và nói
tiếp - Nấm mộ ấy dễ tìm lắm.
- Tại sao vậy? – Tôi hỏi.
- Bởi vì nó có những bông hoa khác hẳn những mộ khác.
- Chính ông đã chăm sóc ngôi mộ ấy?
- Thưa ông, vâng. Và tôi ước rằng tất cả những người thân thuộc đều
chăm sóc những người đã chết như người con trai đó, người đã gửi gắm ngôi mộ
cho tôi.
Sau vài phút đi quanh co, người làm vườn dừng lại và nói với tôi:
- Đây, chúng tôi đã đến nơi.
Quả vậy, dưới mắt tôi là một khoảng đất vuông vức đầy hoa, khiến
người ta không thể nghĩ đây là một ngôi mộ, nếu không để ý đến một tấm bia cẩm
thạch trắng khắc tên một người.
Tấm bia này dựng thẳng đứng. Một khung lưới sắt bao bọc mảnh đất đã
mua làm nấm mộ, mảnh đất phủ đầy hoa trà màu trắng.
- Ông nghĩ gì về ngôi mộ đó? - Người làm vườn hỏi.
- Trông thật đẹp.
- Mỗi khi một cây hoa trà héo đi, tôi được lệnh phải thay ngay cây
khác.
- Thế ai ra lệnh đó?
- Một người trai trẻ. Người này đã khóc rất nhiều khi đến đây lần
đầu. Hẳn đó là tình nhân của người đã chết. Hình như người chết là một người
đàn bà phóng đãng. Người ta bảo cô ta rất đẹp, chắc ông có biết chứ?
- Vâng.
- Cũng như cậu kia? - Người làm vườn nói với một cụ cười láu lỉnh.
- Không, tôi không hề nói chuyện với cô ta lần nào.
- Và giờ đây, ông lại đến thăm cô ấy ở đây. Việc làm của ông thật
đáng quý! Bởi vì những kẻ đến đây để thăm người con gái khốn khổ ấy thật quá
thưa thớt.
- Vậy không có người nào đến nữa sao?
- Không có người nào cả, trừ chàng trai trẻ đã đến đây một lần.
- Chỉ một lần thôi à?
- Vâng, thưa ông.
- Và từ đó đến nay, anh ta không trở lại nữa?
- Vâng, nhưng anh ta sẽ lại đến khi anh ta trở về.
- Vậy anh ta đã đi xa?
- Vâng.
- Ông có biết anh ta hiện nay ở đâu không?
- Tôi tin chắc anh ta đang ở nhà em gái của cô Giôchiê.
- Làm gì ở đó?
- Anh ta đến đó để xin phép mang người chết dời đi nơi khác.
- Tại sao anh ta không để cô ây nằm ở đây?
- Ông biết, thưa ông, người sống luôn có những ưu tư đối với người
chết. Chúng tôi ở đây, ngày nào cũng chứng kiến được điều đó. Mảnh đất này chỉ
mua trong thời hạn năm năm. Người con trai đó muốn có một sự nhượng bán vĩnh
viễn, và một mảnh đất mới hơn trong khu đất mới. Như thế sẽ tốt hơn.
- Khu đất mới là gì?
- Đó là những mảnh đất mới nằm ở bên trái khu đất này, hiện giờ
người ta đang bán. Nếu nghĩa trang này từ xưa luôn luôn được giữ gìn như hiện
nay, trên thế giới sẽ không có một nghĩa trang nào có thể so sánh với nó. Nhưng
còn lắm việc phải làm, trước khi mọi việc được hoàn toàn như mong muốn. Hơn nữa
nhiều người còn ngơ ngác lắm.
- Ông muốn nói gì?
- Tôi muốn nói, có những con người rất tự phụ, ngay cả khi đã đến
nơi đây. Ấy vậy, cô Giôchiê này, hình như cô đã sống khá phóng túng, xin ông
thứ lỗi cho. Giờ đây, cô gái đáng thương ấy đã chết rồi. Còn bao nhiều cô gái
khác mà người ta không nhắc nhở gì đến và chúng tôi ngày nào cũng đem nước đến
tưới mộ cho họ. Thế nhưng khi bà con của những người đã an nghỉ bên cạnh cô
được biết cô là ai, họ muốn nêu lên ý kiến rằng họ chống đối việc để cô ta nằm
ở đây; rằng phải có những mảnh đất dành riêng cho hạng đàn bà như cô ấy, cũng
như mảnh đất dành cho những người nghèo khó. Người ta đã bao giờ thấy điều đó ở
đâu chưa? Tôi đã nhắc nhẹ cái sai trái của họ, một cách lễ độ, tôi đây. . .
Những người giàu có, một năm không đến đây quá bốn lần để thăm những người
chết, và chỉ đem theo những bông hoa đã mua, mà những bông hoa ấy nào có ra gì!
Ngay đến việc trả tiền chăm sóc mộ cho những người mà họ giao, họ cũng rất dè dặt.
Họ viết lên trên những ngôi mộ ấy những lời than khóc mà họ chưa hề nhỏ ra một
giọt nước mắt nào. Rồi chính họ lại đến để làm khó dễ với người láng giềng của
người đã chết. Ông hãy tin những điều tôi nói. Tôi không biết cô gái này, tôi
không biết cô đã từng làm gì, nhưng tôi thương cô gái bất hạnh ấy. Tôi chăm sóc
mộ cô, tôi bán những hoa trà với giá rất phải chăng. Đó là một người chết mà
tôi quý mến. Chúng tôi thì, thưa ông, chúng tôi bắt buộc phải thương yêu những
người chết. Bởi vì công việc rất bận rộn, chúng tôi gần như không có thì giờ để
thương yêu một cái gì khác nữa.
Tôi nhìn bác làm vườn và có lẽ bạn đọc cũng hiểu được sự xúc động
của tôi khi nghe những lời người làm vườn nói.
Chắc hẳn người làm vườn thấy được điều đó, nên bác hỏi tiếp:
- Người ta bảo rằng nhiều người phá sản vì cô gái đó. Và cô ta có
những tình nhân rất yêu quý cô ta. Thế nhưng khi tôi nghĩ, không một người nào
đến đây mua cho cô ta được một cành hoa, thì thật quá lạnh lùng! Tuy thế, cô
gái này cũng chưa phải là đáng thương lắm. Bởi vì cô còn có một ngôi mộ và có
một người còn nhớ đến cô. Người này đã làm những bổn phận chung cho cả những
người khác. Nhưng ở đây, chúng tôi còn có những người con gái khốn khổ cũng
cùng hạng và cùng lứa tuổi như cô Giôchiê mà người ta đã ném xuống cái hố công
cộng. Tôi đứt ruột mỗi khi nghe tiếng những thi thể đó rớt xuống lòng đất. Và
không có một ai đến chăm sóc những người con gái đó, một khi họ đã nằm xuống
đây. Nghề của chúng tôi làm thật không có gì để vui, nhất là khi chúng tôi còn
một ít lương tâm. Ông nghĩ thế nào? Điều này mạnh hơn tôi quá nhiều. Tôi có một
đứa con gái hai mươi tuổi. Mỗi khi người ta đưa đến đây một người chết trạc
tuổi con tôi, tôi lại nghĩ đến nó, và mặc cho người đó là một bà lớn hay một cô
gái lang thang, tôi cũng không thể nào ngăn được nỗi xúc động.
- Chắc tôi đã làm phiền ông với những mẩu chuyện của tôi. Ông đến
đây hẳn không phải để nghe những chuyện như thế. Người ta bảo tôi đưa ông đến
mộ cô Giôchiê, tôi đã đưa ông đến nơi. Giờ đây, tôi còn có thể làm gì nữa để
giúp ông?
- Ông có biết địa chỉ của Acmân Đuyvan không?
- Có, anh ta ở đường . . . Chính ở đó. Ít ra, tôi đã đến đó để nhận
tiền trả cho tất cả những cây hoa ông thấy đấy.
- Cảm ơn ông.
Tôi nhìn lại lần cuối ngôi mộ đầy hoa. Tôi những muốn nhìn thấu đến
chiều sâu ngôi mộ để được trông thấy đất đã làm gì với một con người xinh đẹp
mà người ta đã giao phó cho nó. Rồi tôi buồn bã ra về.
- Có phải ông muốn đến gặp Đuyvan không? - Người giữ vườn đi bên
cạnh tôi hỏi.
- Vâng.
- Tôi tin chắc anh ta chưa trở về. Bởi vì nếu đã về, thì anh ta đã
đến đây rồi.
- Như thế ông đoán chắc anh ta không quên cô Macgơrit?
- Không những tôi tin chắc, mà tôi còn cam đoan rằng Đuyvan muốn
dời ngôi mộ chỉ cốt để được nhìn thấy lại cô gái đó.
- Như thế nghĩa là sao?
- Câu đầu tiên anh ta nói với tôi khi đến nghĩa trang là: "Làm
thế nào để nhìn thấy mặt nàng?" Chỉ có một cách là dời ngôi mộ đi. Tôi đã
hướng dẫn cho anh ta tất cả những thủ tục cần thiết để có thể dời được. Bởi vì
ông biết, để chuyển những người chết từ mộ này sang mộ khác, phải được sự cho
phép của gia đình và có một cảnh sát trưởng chứng giám. Chính vì để có được
giấy phép Đuyvan đã đi tìm đến nhà cô em gái cô Giôchiê. Khi trở về, dĩ nhiên
việc đầu tiên của anh ta là đến đây thăm chúng tôi.
Chúng tôi đi đến cổng nghĩa trang. Một lần nữa, tôi cảm ơn ngưòi
làm vườn và đặt vào tay bác vài đồng bạc. Sau đó, tôi tìm đến địa chỉ của Acmân
Đuyvan mà người làm vườn vừa cho tôi biết.
Acmân vẫn chưa về.
Tôi viết giấy để lại, yêu cầu anh ta khi trở về đến gặp tôi, hoặc
cho tôi biết có thể tìm gặp anh ta ở đâu.
Hôm sau, vào buổi sáng, tôi nhận được thư của Đuyvan cho biết anh
đã về và mời tôi đến nhà gặp anh. Anh cũng cho biết thêm vì bị mệt đến kiệt sức
nên không thể đến tôi được.
TRÀ HOA NỮ
Chương 6
Tôi gặp Acmân đang
nằm trên giường.
Thấy tôi, anh ta
đưa bàn tay nóng hổi bắt tay tôi.
- Anh bị sốt – tôi
nói.
- Sẽ không sao cả.
Đây chỉ là sự mệt mỏi do một chuyến đi đường quá gấp.
- Anh đến nhà cô em
gái của Macgơrit?
- Phải. Ai nói cho
anh biết thế?
- Tôi biết. Anh có
được thoả mãn điều anh yêu cầu không?
- Vâng, nhưng ai đã
cho anh biết về chuyến đi và mục đích của tôi trong chuyến đi đó?
- Người làm vườn ở
nghĩa trang.
- Anh đã thấy ngôi
mộ?
Tôi lo ngại không
dám trả lời. Bởi vì giọng nói chứng tỏ người nói ra câu đó đang sẵn sàng bị
cuốn vào nỗi xúc động mà trước đây tôi đã có lần chứng kiến. Và một thời gian
dài, cứ mỗi lần nghĩ đến hoặc nghe người khác gợi lại niềm đau thương cũ, sự
xúc động ấy lại nổi lên giằng xé đau đớn trong anh.
Vì thế, tôi chỉ gật
đầu.
- Ông ấy chăm sóc
ngôi mộ tốt chứ? – Acmân hỏi tiếp.
Hai dòng lệ lớn lăn
dài trên mà người bệnh. Anh ta cố ý quay đầu để giấu đi. Tôi làm vẻ như không
để ý đến và cố gắng đổi hướng câu chuyện.
- Như thế anh đi
cách đây đã ba tuần rồi? – Tôi nói.
Acmân đưa tay lên
mắt và trả lời:
- Ba tuần đúng.
- Chuyến đi của anh
khá lâu.
- Ồ! Tôi không đi
liên tục được. Tôi đã đau hết mười lăm ngày. Nếu không tôi đã trở về lâu rồi.
Vừa đến nơi, tôi đã bị sốt, và bắt buộc phải nằm mãi trong phòng.
- Và anh đã trở về
đây, khi chưa lành hẳn.
- Nếu tôi ở lại
thêm tám ngày nữa, có lẽ tôi đã chết rồi.
- Nhưng giờ đây,
anh đã về, anh phải lo chữa trị đi. Bạn bè anh sẽ đến thăm. Tôi là người đầu
tiên nếu được anh cho phép.
- Trong hai giờ nữa
tôi sẽ dậy được.
- Đừng có liều thế.
- Không, được mà.
- Anh có việc gì
đến nỗi phải vội thế?
- Tôi phải đi gặp
ông cảnh sát trưởng.
- Tại sao anh không
nhờ một người nào đó làm việc này. Nếu không anh có thể đau nặng thêm đấy.
- Chính đó là điều
độc nhất có thể làm cho tôi khỏi bệnh. Tôi phải thấy được mặt nàng. Từ lúc tôi
nhận được tin nàng chết, và nhất là khi tôi nhìn thấy mộ nàng, tôi không thể
ngủ được nữa. Tôi không thể tưởng tượng được người đàn bà khi tôi xa, rất trẻ
và rất đẹp như thế, lại chết đi. Tôi phải làm sao để có thể xác định chắc chắn
điều đó. Tôi cần phải biết Thượng Đế đã đối xử như thế nào với con người mà tôi
đã yêu quý đến thế. Và có thể sự ghê rợn trước cảnh tượng đó sẽ thay thế sự
thất vọng của kỷ niệm. Anh sẽ đi với tôi đấy chứ. . . nếu điều đó không làm anh
phiền lắm!
- Em gái cô ấy đã
nói gì với anh?
- Không có gì cả.
Cô ta có vẻ ngạc nhiên khi thấy một người khách lạ muốn mua một mảnh đất để làm
phần mộ cho Macgơrit, và cô ta đã ký tên ngay vào giấy phép mà tôi yêu cầu.
- Anh hãy nghe tôi,
hãy đợi lành bệnh hẳn rồi tính đến chuyện dời mộ.
- Ồ! Tôi sẽ khoẻ
hẳn. Anh yên tâm, vả chăng tôi sẽ điên mất, nếu tôi không kết thúc nhanh cái
quyết định đó, sự thực hiện nó đã trở thành một nhu cầu cho nỗi đau của tôi.
Tôi thề với anh, tôi chỉ yên tâm khi nào tôi thấy lại được Macgơrit. Đây có thể
là một sự khát khao so cơn sốt đã đốt nóng tôi, một mơ ước của những đêm không
ngủ, một hậu quả của sự loạn trí. Tôi sẽ xem, tôi có nên đi tu dòng kín như ông
Rânxê không, sau khi đã thấy nàng.
- Tôi hiểu điều đó
– tôi nói với Acmân – tôi sẵn sàng giúp anh mọi việc. Anh đã gặp Juyli Đupơra
chưa?
- Vâng, tôi đã gặp
cô ấy ngay ngày đầu tiên trở về.
- Cô ta có đưa cho
anh những giấy tờ mà Macgơrit để lại chứ?
- Có đây – Acmân
rút một cuộn giấy dưới gối đưa ra rồi để ngay lại chỗ cũ.
- Tôi thuộc lòng
tất cả những gì ghi trong những tờ giấy này – anh ta nói với tôi - Từ ba tuần
nay, mỗi ngày tôi đọc đi đọc lại đến mười lần. Anh cũng sẽ được đọc, nhưng sau
này đã, khi tôi được bình tĩnh hơn. Và tôi có thể cho anh hiểu tất cả những gì
là tâm tư, là tình cảm được bộc lộ trong những lời thú tội này. Còn bây giờ,
tôi có một việc cần nhờ anh.
- Việc gì vậy?
- Anh có một chiếc
xe dưới đó chứ?
- Có.
- Vậy được. Anh có
thể cầm thẻ thông hành của tôi đi đến bưu điện hỏi xem có thư từ gì cho tôi
không. Cha tôi và em gái tôi chắc đã viết thư đến Paris cho tôi. Tôi ra đi hết
sức vội vã, đến nỗi không kịp báo tin về nhà. Khi anh trở về, chúng ta sẽ đi
báo trước cho ông cảnh sát trưởng về việc dời mộ ngày mai.
Acmân trao cho tôi
tờ thông hành và tôi đi đến đường Jăng Jắc Rútxô.
Có hai lá thư cho
Đuyvan. Tôi nhận và đem về. Khi tôi trở về, Acmân đã ăn mặc chỉnh tề và sẵn
sàng ra đi.
- Cám ơn – anh vừa
nói vừa nhận những lá thư. – Vâng, - anh nói tiếp sau khi nhìn địa chỉ - đây là
thư của cha tôi và em gái tôi. Hẳn họ không hiểu về sự im lặng của tôi.
Anh ta mở thư ra và
đoán đúng hơn là đọc. Bởi vì mỗi lá thư dài những bốn trang, nhưng chỉ giây
phút sau anh đã xếp lại.
- Thôi chúng ta đi!
– Anh nói với tôi. – Tôi sẽ trả lời thư vào ngày mai.
Chúng tôi đến gặp
ông cảnh sát trưởng.
Acmân trình giấy
cho phép của em gái Macgơrit. Ông cảnh sát trưởng trao cho anh ta một giấy báo
tin để đưa lại cho người giữ nghĩa trang. Việc dời mộ sẽ tiến hành trong ngày
mai, vào 10 giờ sáng. Một giờ trước đó tôi sẽ đến gặp anh, để cùng đi với anh
đến nghĩa trang.
Tôi cũng thế, tôi
cũng hiếu kỳ muốn được xem cảnh tượng đó. Và tôi thú thật, đêm đó tôi không
ngủ.
Chỉ với tôi cũng đã
có biết bao ý tưởng đến khuấy động tâm trí rồi. Tôi nghĩ, đêm đó hẳn là một đêm
dài đối với Acmân.
Ngày hôm sau, lúc
chín giờ, tôi đến nhà anh. Anh trông xanh xao dễ sợ, nhưng có vẻ bình tĩnh hơn.
Anh mỉm cười và đưa tay nắm tay tôi.
Những ngon nến đã
cháy sạch. Trước khi ra đi Acmân lấy ra một bức thư rất dày để gửi cho cha anh.
Trong đó chắc là tâm sự và những cảm giác của anh suốt một đêm.
Nửa giờ sau, chúng
tôi đến Môngmat.
Ông cảnh sát trưởng
đã chờ sẵn ở đó. Chúng tôi đi chầm chậm về phía phần mộ của Macgơrit. Ông cảnh
sát trưởng đi đầu. Acmân và tôi tiếp theo sau cách vài bước.
Thỉnh thoảng tôi
thấy cánh tay của bạn tôi run lên. Tôi nhìn anh. Anh hiểu cái nhìn và mỉm cười
với tôi. Từ khi chúng tôi bước ra khỏi nhà anh đến giờ, chúng tôi không hề nói
với nhau một lời.
Lúc gần tới phần
mộ, Acmân dừng lại để lau những giọt mồ hôi đọng trên mặt.
Nhân lúc đó, tôi
cũng dừng lại để thở. Bởi vì, chính tôi cũng nghe như quả tim mình bị siết chặt
giữa hai gọng kìm.
Từ đâu mà người ta
có cái cảm giác thoải mái đau đớn để dự vào những cảnh tượng như thế? Khi chúng
tôi đến ngôi mộ, người làm vườn đã chuyển những chậu hoa đi nơi khác. Cái lưới
sắt cũng đã lấy đi rồi và hai người đàn ông đang cong lưng đào đất.
Acmân đứng dựa vào
một thân cây và nhìn.
Toàn bộ cuộc đời
anh như hiện ra trong đôi mắt.
Thình lình, một nhát
cuốc chạm mạnh vào một tảng đá.
Nghe tiếng động ấy,
Acmân lui lại như bị điện giật. Anh siết chặt tay tôi với một sức mạnh làm đau
cả bàn tay.
Một người đào huyệt
lấy một cái xẻng lớn xúc đất dưới hố đem để dần lên trên. Rồi khi chỉ còn những
phiến đá mà người ta chặn trên quan tài, anh ta nhặt từng phiến một, vứt ra bên
ngoài.
Tôi chú ý nhìn
Acmân. Tôi sợ những cảm xúc của anh, mỗi phút càng tập trung rõ rệt, có thể
đánh quỵ anh. Nhưng anh vẫn cứ nhìn. Những con mắt như đóng đinh vào một chỗ và
mở to như người bị điên. Má anh, môi anh nhè nhẹ run lên, chứng tỏ anh đang lâm
vào một cơn xúc động rất dữ dội.
Còn tôi, tôi chỉ có
thể nói một điều: Tôi hơi hối hận vì đã trót đến đây.
Khi nắp quan tài
hoàn toàn hiện ra, viên cảnh sát trưởng nói với những người đào huyệt:
- Các anh mở ra.
Những người này
vâng lời, bình tĩnh, như đang làm một việc giản dị nhất đời.
Quan tài bằng gỗ
sồi. Những người đào huyệt bắt đầu mở những đinh vít nắp quan tài. Đất ẩm ướt
đã làm cho những cái đinh sét gỉ, vì thế mở ra cũng không dễ lắm. Một mùi hôi
khó chịu xông lên, mặc dù thi hài người chết đã được liệm giữa những loại cây
cỏ có hương thơm.
- Thượng đế ơi!
Thượng đế! – Acmân thì thầm. Và anh trở nên xanh xao một cách đáng sợ.
Những người đào
huyệt bước lui ra.
Tấm vải liệm màu
trắng rộng lớn bao bọc thi thể vẽ nên những nếp uốn khúc nhăn nhíu. Tấm vải
này, một đầu đã bị rã hỏng gần như hoàn toàn, để lộ ra một bàn chân của người
chết.
Tôi có cảm giác
nặng nề và giờ đây, khi tôi viết những dòng này, kỷ niệm về cảnh tượng đó còn
hiện ra rõ ràng trong trí tưởng tượng của tôi, với tất cả sự nặng nề của nó
trong thực tại.
- Nhanh lên! – Viên
cảnh sát giục.
Thế là một trong
hai người đàn ông kia bắt đầu mở tấm vải liệm và nắm chặt một đầu tấm vải kéo
mạnh để lộ ra khuôn mặt của Macgơrit.
Thật khủng khiếp và
rùng rợn.
Hai con mắt chỉ còn
hai lô sâu hoắm, đôi môi đã biến mất để lộ hàm răng nghiến chặt. Những sợi tóc
đen dài và khô, dán chặt vào hai bên thái dương, che khuất phần nào những lỗ
hõm màu xanh hai bên má. Thế nhưng tôi vẫn tìm thấy lại được trong khuôn mặt
đó, cái khuôn mặt trắng hồng hào, vui tười ngày xưa tôi thường hay gặp.
Acmân không rời mắt
khỏi khuôm mặt đó và đưa chiếc khăn tay lên miệng cắn chặt.
Tôi cảm thấy như có
một vòng sắt đang siết mạnh vào đầu, một cái khăn trùm lên đôi mắt, những tiếng
vù vù trong trong hai tai. Tất cả những điều tôi có thể làm là mở nút lọ dầu đã
tình cờ đem theo và hít mạnh hơi dầu.
Giữa sự choáng váng
ấy, tôi nghe viên cảnh sát trưởng nói với Đuyvan:
- Ông nhận ra chứ?
- Vâng! – Đuyvan
trả lời.
- Thế thì đóng lại
và mang đi – Viên cảnh sát trưởng nói tiếp.
Những người phu đào
huyệt phủ miếng vải liệm lên mặt người chết, đóng quan tài lại, và mỗi người
một đầu khiêng quan tài về chỗ người ta đã định trước cho họ.
Acmân không nhúc
nhích. Cặp mắt như bị đóng đinh vào cái hố trống không. Anh ta xanh như thây ma
chúng tôi vừa thấy. . . Có thể nói anh ta đã hoá thành đá rồi.
Tôi hiểu được cái
gì đã đến, khi sự đau đớn đã giảm đi trước một cảnh tượng không còn nữa, và như
thế là không có gì nâng đỡ anh nữa.
Tôi tiến đến gần
viên cảnh sát trưởng:
- Sự có mặt của ông
Đuyvan – tôi vừa nói vừa chỉ Acmân – có cần thiết nữa không!
- Không - ông ta
đáp – tôi khuyên ông nên dẫn ông ấy về ông ấy có vẻ ốm đấy.
- Lại đây! Tôi nói
với Acmân và nắm tay anh ta kéo đi.
- Cái gì? – Anh ta
vừa nói vừa nhìn tôi, hình như không còn biết tôi là ai.
- Xong rồi – tôi
tiếp - giờ đây anh phải về, anh bạn ạ. Anh quá xanh, lại bị lạnh. Anh sẽ tự
giết anh với những cảm xúc như vậy.
- Anh có lý, chúng
ta đi đi – anh trả lời như cái máy những vẫn không nhúc nhích.
Thế là tôi nắm tay
anh và kéo anh đi.
Anh để tôi dẫn đi
như một đứa trẻ, thỉnh thoảng chỉ thì thầm: "Anh có thấy những con
mắt?"
Và anh ta quay lại
nhìn, hình như cảnh tượng vừa rồi đã lên tiếng gọi anh.
Những bước chân của
anh đi như đứt đoạn. Anh tiến tới bằng những bước giật. Răng của anh đánh vào
nhau, tay anh lạnh ngắt. Một sự xúc động thầm kín dữ dội xâm chiếm toàn thể con
người anh.
Tôi nói với anh.
Anh không trả lời tôi.
Tất cả những điều
anh có thể làm là để cho tôi dắt đi.
Ra khỏi cổng, chúng
tôi tìm được một chiếc xe. Thật đúng lúc.
Đuyvan vừa ngồi vào
chỗ thì sự run rẩy của anh tăng dần. Cơn xúc động thần kịch liệt và dữ dội này
là cho tôi hoảng sợ. Nhưng anh đã nắm lấy tay tôi và thì thầm: "Không sao
cả, không có chuyện gì cả, tôi chỉ muốn khóc thôi" .
Tôi thấy ngực anh
phồng lên. Và máu lên đỏ ngầu đôi mắt.
Tôi đưa cho anh hít
lọ dầu tôi đã dùng lúc nãy. Và khi chúng tôi về đến nhà anh, thì anh chỉ còn
run rẩy thôi.
Người giúp việc
giúp một tay, tôi đặt anh nằm lên giường rồi đốt một lò sưởi lớn trong phòng.
Sau đó, tôi chạy đi tìm thầy thuốc của tôi, kể lại những gì vừa xảy ra cho ông
ta nghe.
Người thầy thuốc
chạy đến.
Acmân đỏ ửng cả
người. Anh như loạn trí, và ú ớ những tiếng không ăn khớp gì với nhau. Giữa
những tiếng đó, chỉ có cái tên Macgơrit là nghe được rõ ràng.
- Thế nào? – tôi
hỏi bác sĩ, khi ông đã khám người bệnh xong.
- Anh ta bị một cơn
sốt cao, không hơn không kém. Và cũng may đấy, tôi tin thế, lạy Chúa, anh ta đã
có thể phát điên. May mắn thay cơn bệnh thể xác sẽ giết cơn bệnh tinh thần.
Trong một tháng nữa anh ta sẽ qua khỏi cơn bệnh này, và có thể khỏi cả cơn bệnh
tinh thần kia nữa.
TRÀ HOA NỮ
Chương 7
Những loại bệnh như
bệnh của Acmân, có được điều may mắn là sẽ giết chết người bệnh ngay tức khắc
hoặc sẽ được chữa lành rất nhanh chóng.
Mười lăm ngày sau
những biến cố tôi vừa kể trên, Acmân đã bình phục hẳn. Chúng tôi trở thành hai
người bạn rất thân. Trong thời gian anh ốm, tôi thường xuyên có mặt ở cạnh anh,
ngày tại phòng anh.
Mùa xuân đến đem
lại sự tràn ngập của cỏ cây, hoa lá, chim muông và những khúc hát tình tứ. Cửa
sổ phòng bạn tôi mở rộng, nhìn ra khu vườn tươi thắm mà những mùi hương dịu
dàng bay vào tận phòng anh.
Thầy thuốc cho phép
anh được ngồi dậy. Chúng tôi thường ngồi bên cửa sổ được mở rộng nói chuyện với
nhau vào những giờ nắng gay gắt nhất, từ trưa đến hai giờ chiều.
Tôi giữ gìn không
nhắc đến Macgơrit. Tôi luôn sợ cái tên đó sẽ đánh thức một kỷ niệm buồn bã đã
được ru ngủ dưới cái bề ngoài yên lành của bạn tôi. Nhưng Acmân trái lại, hình
như sung sướng được nhắc nhở đến nàng, không phải với một giọt lệ trong mắt như
ngày xưa, mà với một nụ cười hiền lành, làm tôi yên tâm về trạng thái tâm hồn
anh.
Tôi để ý, từ khi
đến thăm nghĩa trang lần cuối, từ khi cảnh tượng bốc mộ gây cho anh một cơn xúc
động dữ dôi, sự đau đớn tinh thần nơi anh hình như đã được thay thế dần dần bởi
cơn bệnh thể xác. Cái chết của Macgơrit không còn hịên ra trước mắt anh trong
khung cảnh ngày trước nữa. Một thứ an ủi đã hình thành, sau khi anh đã biết
chắc chắn cái sự thật phũ phàng rồi. Và để đẩy lui hình ảnh đen tối thường xuất
hiện nơi anh, anh đã đi sâu vào những kỷ niệm sung sướng của những ngày thân ái
với Macgơrit, và hình như chỉ còn muốn giữ lại những kỷ niệm đó mà thôi.
Thân thể anh bị suy
kiệt quá nhiều vì bệnh sốt, ngay cả lúc đã lành bệnh rồi vẫn không thể cho phép
trí óc anh được xúc động mạnh. Và niềm vui mùa xuân của vũ trụ chung quanh
Acmân đã đưa tư tưởng anh trở về với những hình ảnh xinh tươi.
Anh luôn luôn cưỡng
lại, không chịu tin cho gia đình biết chuyện tai biến đã xảy ra cho anh. Khi
anh đã được cứu sống rồi, cha anh vẫn không hề biết gì về bệnh tình của anh cả.
Một buổi chiều,
chúng tôi ngồi bên cửa sổ lâu hơn thường lệ. Thời tiết thật đẹp. Mặt trời lặn
trong một hoàng hôn xanh tươi và vàng rực. Tuy chúng tôi ở Paris, nhưng màu
xanh bao quanh như đã tách rời chúng tôi khỏi thế giới bên ngoài, và thỉnh
thoảng mới nghe âm vang một chiếc xe nào xa xa vọng đến xen lẫn vào giữa câu chuyện
của chúng tôi.
- Cũng vào khoảng
thời gian này trong năm, vào một buổi chiều như chiều hôm nay tôi gặp Macgơrit
– Acmân nói, anh như đang lắng nghe những ý nghĩ của chính mình chứ không phải
nghe những điều tôi nói với anh
Tôi không trả lời.
Anh quay sang phía
tôi, nói tiếp:
- Thế nào tôi cũng
phải kể cho anh nghe câu chuyện này. Anh sẽ viết thành một quyển sách. Có thể
người ta không tin quyển sách đó, nhưng viết nó ra có thể thú vị đấy.
- Anh sẽ kể cho tôi
nghe chuyện đó vào lúc khác, anh bạn ạ, anh chưa được khoẻ lắm đâu.
- Buổi chiều nay
trời ấm áp tôi ăn hết một con gà gìo – anh nói với tôi và mỉm cười – Tôi hết
sốt rồi. Chúng ta không có việc gì để làm, tôi sẽ kể cho anh nghe tất cả.
- Vì anh nhất định
muốn thế, tôi xin nghe.
- Đó là một câu
chuyện rất đơn giản. Tôi sẽ kể cho anh theo thứ tự những sự việc đã xảy ra. Nếu
sau này anh có làm một cái gì đó, thì tuỳ ý anh, kể khác đi cũng được.
Dưới đây là những
điều anh đã kể cho tôi nghe. Và nếu tôi có sửa đổi chăng, thì chỉ vài ba từ nào
đó thôi trong câu chuyện cảm động này.
- Vâng – Acmân nói
và ngả đầu dựa vào lưng ghế bành – Vâng, đó là một buổi chiều như chiều hôm
nay. Tôi đã sống suốt ngày ở đồng quê với một người bạn của tôi, Gatông R. . .
Chiều đến, chúng tôi trở về Paris, và không biết làm gì nữa, chúng tôi vào nhà
hát Variêtê.
Trong lúc nghỉ giải
lao, chúng tôi ra ngoài. Ra đến hành lang, chúng tôi gặp một người đàn bà đi
qua và bạn tôi nghiêng mình chào.
- Anh chào người
nào đó? – tôi hỏi.
- Macgơrit Gôchiê -
bạn tôi đáp.
- Hình như cô ta
thay đổi nhiều, bởi vì tôi không nhận ra được. – Tôi nói với một cảm xúc mà
chốc nữa bạn sẽ hiểu.
- Cô ta bị bệnh. Cô
gái đáng thương ấy sẽ không còn sống lâu lắm đâu.
Tôi vẫn còn nhớ rõ
những lời nói đó, như vừa mới được nói ngày hôm qua đây.
Anh nên biết, anh
bạn thân mến, từ hai năm nay rồi, hình ảnh người con gái ấy, dù chỉ một lần gặp
gỡ, đã để lại nơi tôi một ấn tượng lạ lùng.
Không hiểu tại sao
tôi bỗng tái mặt và tim tôi đập dữ dội. Tôi có nói với một người bạn thân
chuyên về khoa học huyền bí. Anh ta gọi cảm xúc đó của tôi là "ái lực của
những truyền cảm" . Tôi thì nghĩ một cách đơn giản: định mệnh đã buộc tôi
trở thành người phải lòng Macgơrit, và tôi đã tiên cảm được điều đó.
Bao giờ nàng cũng
là người gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt. Nhiều bạn thân của tôi chứng kiến
điều đó và cũng đã cười tôi rất nhiều khi biết ấn tượng ấy từ ai đưa đến.
Lần đầu tiên tôi
thấy nàng là ở quảng trường Buôcx, tại cổng Xuyt. Một cỗ xe dở mui dừng lại.
Một người đàn bà ăn bận toàn màu trắng trên xe bước xuống. Những tiếng thì thầm
khen ngợi nổi lên đón nàng, khi nàng bước vào nhà hàng. Còn tôi như bị đóng
đinh tại chỗ, từ khi nàng đi vào đến khi nàng đi ra. Xuyên qua của kính, tôi
nhìn nàng lựa chọn những thứ nàng đến mua. Tôi có thể bước vào lắm. Nhưng tôi
không dám. Tôi biết người đàn bà ấy là ai, và tôi sợ nàng có thể đoán biết lý
do đã đưa tôi vào nhà hàng và sẽ cảm thấy khó chịu. Tuy nhiên, tôi không nghĩ
rằng tôi sẽ được gặp lại nàng.
Nàng ăn mặc sang
trọng. Một cái áo dài mutxơlin có tuy, một khăn choàng Ấn Độ hình vuông, bốn
góc có thêu hoa và kim tuyến, một nón rơm Italia và một cái khuyên độc nhất làm
bằng một sợi dây chuyền vàng lớn, thời trang của xã hội này.
Nàng lại lên xe và
đi. Một cậu con trai nhà hàng đứng ở cổng dõi mắt nhìn theo cô khách quan trọng
ấy. Tôi tiến lại gần cậu ta và yêu cầu cho biết tên người đàn bà ấy.
- Đó là cô Macgơrit Gôchiê - cậu ta trả
lời.
Tôi không dám hỏi địa chỉ và bỏ đi.
Kỷ niệm về cuộc gặp gỡ ấy - bởi vì nó
thật sự là một kỷ niệm – không ra khỏi đầu óc tôi như nhiều cuộc gặp gỡ khác
trước đây. Tôi tìm khắp nơi người đàn bà áo trắng đẹp không khác gì một nữ
hoàng đó.
Vài ngày sau có một cuộc trình diễn lớn
tại Ôpêra Cômic. Tôi đến dự. Người đầu tiên tôi nhìn thấy trong lô trước sân
khấu là Macgơrit Gôchiê.
Người đàn ông trẻ đi với tôi cũng nhận
ra nàng bởi vì anh ta vừa chỉ nàng, vừa nói với tôi:
- Xem kìa, một người con gái đẹp.
Vào lúc đó Macgơrit nhìn về phía chúng
tôi. Cô ta thấy bạn tôi và ra hiệu cho anh ta đến gặp cô.
- Tôi phải đến chào nàng – anh ta nói –
Tôi sẽ trở lại trong chốc lát.
Tôi không thể không nói với anh ta:
"Anh sung sướng thật" .
- Vì sao?
- Được đến gặp người đàn bà đó.
- Anh mê nàng rồi phải không?
- Không – Tôi nói và đỏ mặt, bởi vì
thật sự tôi không biết vì sao mình đã nói thế - Nhưng tôi rất muốn được quen
biết cô ta.
- Anh đến với tôi, tôi sẽ giới thiệu.
- Anh hãy xin phép cô ta đã.
- Ồ! Có gì đâu. Không cần phải mệt trí
với nàng, anh cứ đến với tôi.
Điều anh ta vừa nói làm tôi khó chịu.
Tôi run người khi nghĩ đến quả thật Macgơrit không xứng đáng như tôi nghĩ về
nàng.
Có một câu chuyện ở quyển sách của
Anphông Kar, nhan đề "Am Rauschen" : Một chiều một người đàn ông đi
theo một người đàn bà rất sang trọng. Mới gặp lần đầu, anh ta đã trở thành kẻ
si tình. Bởi nàng quá đẹp. Để được hôn bàn tay người đàn bà ấy, anh cảm thấy có
đủ sức mạnh quyết đoán được tất cả, đủ ý chí để chinh phục được tất cả, đủ can
đảm để làm được tất cả. Anh chỉ hơi dám nhìn chiếc bít tất xinh xắn nơi chân mà
nàng vén vạt áo để lộ ra vì sợ vạt áo dài buông chấm đất. Trong khi anh mơ mộng
về tất cả những gì anh phải làm để có được người đàn bà đó, thì người đàn bà đó
chặn anh dừng lại ở một góc đường, và hỏi anh muốn đến nhà nàng không.
Anh vội quay mặt đi và băng ngang qua
đường buồn bã trở về nhà.
Tôi nhớ lại câu chuyện đó, và tôi sẵn
sàng để được đau khổ vì người đàn bà đó. Tôi sợ nàng chấp nhận tôi quá nhanh,
và trao cho tôi quá nhanh một tình yêu mà tôi muốn đạt được bằng sự chờ đợi lâu
dài hay phải chịu hy sinh một to lớn. Chúng ta như thế đấy. Chúng ta - những
con người! Và sung sướng thật, óc tưởng tượng đã trao cái thi vị ấy laị cho các
giác quan, và những dục vọng của xác thịt đã chấp nhận sự nhân nhượng đó trước
những ước mơ của tâm hồn.
Cuối cùng, nếu người ta bảo tôi:
"Anh sẽ có được người đàn bà ấy chiều nay và ngay mai anh sẽ bị giết
chết", tôi sẽ chấp nhận. Nếu người ta bảo: "Anh hãy đưa ra mười ngàn
đồng vàng và anh sẽ là tình nhân của người đàn bà ấy", tôi sẽ từ chối và
khóc. Không khác nào đứa bé khi tỉnh dậy bỗng thấy toà lâu đài ở giấc mơ trong
đêm tối đã tan biến mất rồi.
Tuy nhiên, tôi muốn được quen biết
nàng. Đó là một phương tiện, và đó cũng là phương tiện độc nhất để tôi hiểu
nàng như thế nào.
Tôi nói với bạn tôi rằng cần được nàng
đồng ý việc anh giới thiệu tôi với nàng. Và tôi đi lại tha thẩn trong hành
lang, tưởng tượng lúc nàng sẽ gặp tôi, và tôi không biết giữ thái độ như thế
nào trước cái nhìn của nàng.
Tôi gắng sắp đặt trước những lời mà tôi
sẽ nói với nàng. . .
Tình yêu thật là một trò trẻ con tuyệt
vời và cao cả.
Một lát sau, bạn tôi lại trở xuống.
"Nàng đang đợi chúng ta" –
anh ta nói với tôi.
- Chỉ có mình nàng? – tôi hỏi.
- Có một người đàn bà khác nữa.
- Không có đàn ông?
- Không.
Bạn tôi đi về phía cửa lớn nhà hát.
- Ồ, không phải ngã đó! – Tôi nói với
anh.
- Chúng ta đi mua một ít quà. Nàng nhờ
tôi.
Chúng tôi đến hàng bán bánh kẹo trong
hành lang Ôpêra.
Tôi như muốn mua hết tất cả cửa hàng
này và tôi nhìn xem có thể mua những gì để đặt vào xách, thì bạn tôi bảo:
- Nửa cân nho ướp lạnh.
- Nàng có thích loại nho đó không?
- Nàng không bao giờ ăn thứ gì khác.
Điều này, tôi biết rất rõ.
Chúng tôi bước ra khỏi cửa hàng. Anh
nói tiếp:
- À, anh biết tôi giới thiệu anh với
một người đàn bà như thế nào không? Anh chớ tưởng đây là một bà quận công. Nàng
chỉ là một kỹ nữ với tất cả những gì thật là phóng đãng, anh bạn thân mến ạ.
Anh chẳng phải băn khoăn gì cả. Anh cứ tự do nói toạc tất cả những ý nghĩ trong
đầu anh ra.
- Được, được! – Tôi ấp úng như thế và
đi theo anh ta, tự nhủ thầm: Thế là sự say mê của tôi sắp chấm dứt.
Khi tôi bước vào trong lô, Macgơrit
đang cười vang. Tôi muốn nàng buồn thì tốt hơn. Bạn tôi giới thiệu tôi.
Macgơrit nghiêng đầu chào tôi và nói:
- Quà của tôi đâu?
- Có đây.
Vừa nhận quà, nàng vừa nhìn tôi. Tôi
đưa mắt nhìn xuống, đỏ mặt.
Nàng nghiêng đầu về phía người bạn gái
ngồi gần bên, nói nhỏ vào tai người đó, và cả hai phá lên cười lớn.
Chắc chắn tôi là nguyên nhân của chuỗi
cười đó. Sự bối rối nơi tôi nhân lên gấp bội. Vào thời gian ấy, tôi có một
người tình nhân, hạng tiểu tư sản, rất dịu dàng và rất tình cảm. Tâm hồn đa cảm
và những bức thư đượm buồn của nàng đã làm cho tôi phải cười. Giờ đây tôi hiểu
sự khó chịu mà tôi đã gây cho nàng, qua sự khó chịu tôi đang cảm thấy, và trong
khoảng năm phút, tôi bỗng yêu nàng hơn bất cứ một ai có thể yêu một người đàn
bà.
Macgơrit ăn nho, không hề chú ý gì đến
tôi cả.
Người giới thiệu tôi không muốn để tôi
trong vị trí đáng buồn cười ấy.
- Macgơrit – anh nói – cô không nên
ngạc nhiên khi thấy ông Đuyvan không nói gì với cô cả. Cô đã làm cho anh ta
điên đầu, đến nỗi anh ta không tìm ra được lời nào để nói.
- Tôi lại cứ tưởng ông ấy đã đưa anh
đến đây, bởi vì nếu để anh đến đây một mình thì có lẽ hơi buồn.
- Nếu điều đó đúng, - tôi tiếp lời –
tôi đã không yêu cầu ông Ecnec xin phép cô để được giới thiệu tôi.
Đó có thể chỉ là một phương cách để trì
hoãn giây phút của định mệnh.
Chỉ cần sống ít lâu với những cô gái
như hạng Macgơrit, người ta sẽ hiểu được cái thích thú các cô ưa dùng để đánh
lệch hướng phán đoán và để trêu ghẹo, những người các cô mới gặp lần đầu. Đương
nhiên, đây là một sự trả thù những sự nhục mạ mà các cô bắt buộc phải tiếp nhận
từ phía những người các cô thường gặp hàng ngày.
Vì thế, để trả lời cho các cô, phải có
một tập quán nào đó của thế giới các cô. Cái tập quán đó, tôi không có. Thêm
nữa, ý tưởng mà tôi tự tạo ra về Macgơrit làm cho tôi thêm khó chịu về sự đùa
cợt của nàng. Không một cái gì thuộc về người đàn bà này có thể làm tôi thờ ơ
cả. Vì thế, tôi đứng dậy, nói với cô ta bằng một giọng không bình thường mà tôi
không thể che giấu được:
- Nếu đó là điều mà cô nghĩ về tôi,
thưa cô, tôi chỉ còn việc xin cô tha lỗi cho sự bất nhã của tôi, và xin cô tin
chắc điều đó sẽ không lặp lại lần thứ hai.
Thế là tôi chào và đi ra.
Tôi vừa đóng cửa lại thì lại nghe một
lần thứ ba nữa những tiếng cười phá lên. Lúc ấy tôi rất muốn được kẻ nào đó
thúc mạnh cùi tay vào người.
Tôi trở về chỗ cũ.
Người ta rung chuông báo hiệu sắp trình
diễn.
Ecnec trở lại ngồi gần bên tôi.
- Anh làm sao thế? – anh ta vừa nói vừa
ngồi xuống – các ả tưởng anh điên rồi.
- Macgơrit nói gì khi tôi đã đi?
- Cô ta cười và nói với tôi, cô ta chưa
bao giờ gặp một người lẩn thẩn đến như anh. Nhưng anh đừng nghĩ là mình đã bị
đánh bại. Chỉ nên nhớ rằng đối với những cô gái đó, anh không nên nghĩ đến danh
dự và nề nếp. Các cô ả không hiểu gì về cái gọi là thanh nhã và lịch sự cả. Đó
cũng giống như những con chó mà người ta tưới nước hoa cho, thế thôi. Chúng
nghe mùi nước hoa khó chịu và sẽ lăn tòm xuống nước để hết hôi.
- Tóm lại, tôi cũng không cần – tôi
gượng đáp với một giọng bình thản – Tôi sẽ không bao giờ gặp lại người đàn bà
đó. Nếu trước kia cô ta đã lôi cuốn tôi khi tôi chưa biết cô ta, thì giờ đây,
sau khi đã gặp cô ta, điều đó khác hẳn rồi.
- Ồ! Tôi sẽ không ngạc nhiên khi nhìn
thấy anh một ngày nào đó sẽ ngồi tận chỗ trong cùng ở lô của cô ta. Và được
nghe tin anh đã phá sản vì cô ta. Đồng ý anh nói có lý, cô ta là một người mất
dạy. Nhưng lại là một tình nhân xinh đẹp!
May mắn là màn đã kéo lên và bạn tôi
không nói nữa.
Kể lại hôm đó người ta đã trình diễn
những gì thì tôi xin chịu. Tất cả những gì tôi nhớ, đó là thỉnh thoảng tôi lại
đưa mắt nhìn lại nơi lô mà tôi vừa đột ngột từ giã; ở đó các khuôn mặt những
người khách mới cứ lần lượt kế tiếp nhau xuất hiện.
Tuy nhiên, tôi không thể nào không nghĩ
đến Macgơrit. Một thứ tình cảm khác xâm chiếm lấy tôi. Tôi phải làm điều đó để
quên đi sự nhục mạ của nàng và cái đáng buồn cười của tôi. Tôi tự nhủ, tôi sẵn
sàng, bỏ hết của cải để có được người con gái ấy và cái quyền giữ lại chỗ ngồi
mà tôi vừa vội vàng từ bỏ.
Trước khi buổi trình diễn chấm dứt,
Macgơrit và người bạn gái của cô đã rời lô đi ra.
Ngoài ý muốn, tôi cũng rời bỏ chỗ ngồi
của tôi.
- Anh về à? – Enec hỏi tôi.
- Vâng.
- Tại sao?
Ngay lúc đó anh ta nhận thấy không còn
ai ở trong lô của Macgơrit nữa, liền bảo:
- Đi đi, chúc may mắn, hay đúng hơn là
chúc anh may mắn hơn.
Tôi bước ra.
Tôi nghe ở cầu thang tiếng áo xào xạc
và tiếng người nói cười. Tôi đứng sang một bên và nhìn thấy hai người đàn bà
bước ra cùng hai thanh niên. Họ không nhìn thấy tôi.
Tại tầng dười nhà hát, một thằng bé
giúp việc tiến đến bên các ả.
- Chú hãy bảo người đánh xe chờ ở hiệu
cà phê Ănglê
- Macgơrit nói – Chúng tôi sẽ đi bộ đến
đó.
Vài phút sau, đang đi như rình mò trên
đường phố, tôi nhìn thấy qua cửa sổ một phòng lớn khách sạn, Macgơrit dựa vào
bao lơn, tỉa từng cánh một bông hoa trà ở bó hoa của nàng.
Một trong hai chàng thanh niên đi cùng
nàng đang cúi xuống bên nàng và nói chuyện thì thầm với nàng.
Tôi vào nhà hàng, ngồi trong một phòng
khách tầng thứ nhất, mắt không rời khung cửa sổ nói trên.
Vào một giờ sáng, Macgơrit lên xe với
ba người bạn của mình.
Tôi cũng lên một chiếc xe nhỏ và cho đi
theo nàng.
Chiếc xe dừng ở số 9 đường Antin.
Macgơrit bước xuống xe và một mình đi
vào nhà.
Dĩ nhiên đó là một sự tình cờ. Nhưng sự
tình cờ này làm cho tôi rất sung sướng.
Kể từ ngày hôm đó tôi thường gặp mặt
Macgơrit tại các nhà hát và quảng trường Xăng Êlidê. Luôn luôn vẫn niềm vui
tươi đó ở nàng và luôn luôn vẫn sự xúc động đó đối với tôi.
Mười lăm ngày trôi qua, tôi không gặp
nàng ở đâu cả. Tôi tìm gặp Gatông hỏi thăm tin tức về nàng.
- Cô gái đáng thương đó đang bị bệnh –
anh ta trả lời.
- Cô ta bị bệnh gì?
- Cô ta bị đau ngực. Cuộc sống của cô
ta không cho phép cô ta lành bệnh được. Hiện cô ta nằm liệt giường, nói đúng
ra, cô đang chết dần.
Trái tim thật lạ lùng.
Tôi gần như cảm thấy thoả mãn trước căn
bệnh của nàng.
Ngày nào, tôi cũng đến hỏi thăm tin tức
và bệnh tình của nàng, nhưng không bao giờ ghi tên hoặc để danh thiếp lại. Vì
thế, tôi được biết nàng đã bình phục và sắp đi Banhêe dưỡng bệnh.
Thế rồi, một thời gian trôi qua. Ấn
tượng - nếu không phải là kỷ niệm – có vẻ như phai mờ dần trong tâm trí tôi.
Tôi đi du lịch. Những tập quán, những công việc thế chỗ cho cái ý nghĩ kia.
Nghĩ đến cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, tôi chỉ thấy đây là một trong những đam mê
thường có khi người ta còn trẻ và sau này nghĩ lại người ta sẽ mỉm cười.
Vả chăng, thắng được kỷ niệm đó cũng
chẳng có vinh dự gì. Bởi vì tôi đã đánh mất hình ảnh Macgơrit từ khi nàng ra
đi; và như tôi đã nói với bạn điều đó, khi nàng đi qua bên tôi trong hành lang
ở Variêtê, tôi không nhận ra nàng nữa.
Nàng mang một tấm voan, đúng vậy.
Nhưng trước đây, hai năm trước đây, nếu
nàng có che giấu mặt nàng bằng cách nào, tôi cũng vẫn nhận ra nàng.
Điều này không thể
ngăn tim tôi đập mạnh, khi tôi biết đó là nàng. Hai năm trôi qua không gặp nàng
và những điều mà sự xa cách đó đã đem lại vụt chốc tan biến ngay như sướng khói
khi tay tôi chạm khẽ vạt áo nàng.
TRÀ HOA NỮ
Chương 8
Tuy nhiên – sau một
phút, Acmân nói tiếp – tôi vẫn hiểu, tôi còn yêu nàng và mạnh hơn cả ngày
trước. Và trong ý muốn được gặp lại Macgơrit còn có cả cái ý chí muốn cho nàng
biết, tôi đã cao giá hơn nàng một bậc.
Để đạt được mục
đích, con tim đã không ngoan việc dẫn bao nhiêu lý lẽ, lựa chọn bao nhiêu con
đường.
Vì thế, tôi không
thể đứng lâu hơn trong hành lang. Tôi trở về ngồi bên dàn nhạc và nhìn nhanh
khắp nhà hát để xem nàng ngồi ở lô nào.
Nàng ngồi trước sân
khấu, ở tầng dưới, và chỉ một mình thôi. Nàng thay đổi nhiều như tôi đã nói với
bạn. Tôi không còn tìm thấy trên môi nàng nụ cười hờ hững nữa. Nàng đã ốm đau
và nàng sẽ còn ốm đau nhiều.
Mặc dầu đã tháng tư
rồi, nàng vẫn ăn mặc như giữa mùa đông, toàn người đều nhung len.
Tôi nhìn nàng một
cách rất chai lỳ, đến nỗi cái nhìn tôi đã thu hút cái nhìn của nàng.
Nàng nhìn tôi một
lúc, rồi lấy ống nhòm đưa lên để nhìn cho rõ hơn và chắc chắn đã ngờ ngợ nhận
biết tôi, tuy không thể quyết chắc tôi là ai. Bơỉ vì khi nàng để kính xuống,
một nụ cười – cách chào duyên dáng của những người đàn bà - nở trên đôi môi
nàng và như chờ đợi một cái chào trả lời nơi tôi. Nhưng tôi không đáp lại, như
để cản lối nàng và tỏ ra tôi đã quên rồi khi nàng còn nhớ lại.
Nàng tưởng đã lầm
và quay đi nơi khác.
Màn kéo lên.
Tôi đã gặp Macgơrit
nhiều lần ở rạp hát. Tôi không hề thấy nàng để ý một chút nào về những gì người
ta trình diễn.
Còn đối với tôi,
những điều trình diễn cũng không hấp dẫn tôi lắm. Tôi chỉ chú ý đến nàng, nhưng
lại cố gắng làm sao để nàng không thấy được điều đó.
Tôi thấy nàng trao
đổi cái nhìn với người ở lô trước mặt nàng. Tôi đưa mắt nhìn theo và nhận ra
một người đàn bà khá quen biết trong lô đó.
Người đàn bà này
xưa kia sống bằng nghề kỹ nữ, đã từng cố gắng qua nhiều sân khấu nhưng không
thành công. Và sau đó, do có nhiều mối quen biết với những người đàn bà sang
trọng ở Paris, bà ta chuyển sang nghề buôn bán và đã lập ra được một nhà hàng
thời trang.
Tôi thấy nơi người
đàn bà này một phương tiện tốt để giúp tôi gặp Macgơrit. Và nhân một lúc người
này nhìn về phía tôi, tôi đưa mắt và đưa tay chào.
Điều tôi tiên đoán
đã đến: bà ta gọi tôi đến lô của mình.
Người đàn bà buôn
thời trang này tên là Pruđăng Đuvecnoa, trạc bốn mười tuổi, mập mạp. Với những
người đàn bà như người này, chúng ta không cần gì nhiều đến tài ngoại giao để
được biết điều muốn biết, nhất là khi điều muốn biết đó lại đơn giản như những
điều tôi vừa nghĩ. Tôi, nhân lúc bà ta bắt đầu nhìn lại Macgơrit, liền hỏi:
- Bà nhìn ai thế?
- Macgơrit Gôchiê.
- Bà biết người đó?
- Vâng, tôi là
người chăm sóc thời trang cho cô, và cô là người láng giềng của tôi.
- Thế ra bà ở đường
Antin?
- Số 7. Cửa sổ
phòng trang sức của cô ta đối diện với cửa sổ phòng tôi.
- Người ta bảo cô
ta là một cô gái rất duyên dáng.
- Anh không biết cô
ấy sao?
- Không. Nhưng tôi
muốn được quen biết cô.
- Anh có muốn tôi
bảo nàng đến lô chúng ta không?
- Không. Nhưng tôi
muốn bà giới thiệu tôi với cô ta.
- Ở nhà cô?
- Vâng.
- Điều đó hơi khó.
- Tại sao?
- Bởi vì cô ta đang
được một ông quận công già rất hay ghen che chở. - Được che chở là một điều
tốt.
- Vâng, được che
chở - Pruđăng đáp – ông già thật đáng thương, ông ta sẽ rất lúng túng nếu phải
làm tình nhân của cô ấy.
Pruđăng kể cho tôi
nghe Macgơrit đã quen biết ông quận công già ở Banhêe như thế nào.
- Chính vì thế mà
cô ta đến đây chỉ một mình?
- Vâng, đúng.
- Nhưng ai sẽ đưa
cô ấy về?
- Ông ta.
- Vậy ông ta sắp đến?
- Trong vài phút nữa.
- Và ai đưa bà về?
- Không ai cả.
- Tôi xin được phép làm người đó.
- Nhưng anh đang đi với một người bạn,
tôi tin thế
- Thế thì chúng tôi cùng đưa bà về.
- Bạn anh là ai thế?
- Đó là một chàng trai dễ thương, rất
láu lỉnh, hắn sẽ lấy làm vui sướng khi được làm quen với bà.
- Thế thì đồng ý nhé. Sau màn này, tôi
biết đây là màn cuối, bốn chúng ta sẽ cùng về.
- Sẵn sàng, tôi sẽ đi báo trước cho bạn
tôi biết.
- Được, đi đi.
- A! – Pruđăng nói, khi tôi sắp sửa
bước ra – Kìa xem, ông quận công đã vào lô của Macgơrit rồi.
Tôi nhìn theo.
Quả thật, một người đàn ông chừng bảy
mười tuổi vừa đến ngồi sau người đàn bà trẻ đó và đưa cho nàng một túi quà.
Nàng đang lấy quà ra và mỉm cười, rồi nàng đưa túi quà ra phía trước lô, ra
hiệu cho Pruđăng như hỏi:
- Chị có dùng không?
- Không – Pruđăng nói.
Macgơrit thu túi quà về và quay lại,
bắt đầu nói chuyện với ông quận công.
Kể lại tất cả những chi tiết này, thật
là trẻ con. Nhưng tất cả những gì liên quan đến người con gái ấy đều hiện ra rõ
ràng trong trí nhớ tôi, và hôm nay tôi không thể nào không nhớ lại.
Tôi bước xuống, báo cho Gatông biết
trước việc tôi vừa sắp đặt cho anh ta và cho tôi.
Anh ta nhận lời
Chúng tôi rời chỗ ngồi để lên lô trên
với bà Pruđăng Đuvecnoa.
Chúng tôi vừa mở cửa phòng nhạc thì bắt
buộc phải dừng lại để nhường lối cho Macgơrit và ông quận công đi ra.
Tôi sẵn sàng đổi mười năm đời tôi để
được cái vị trí của ông già này.
Ra đến lộ, ông ta đưa Macgơrit lên ngồi
trên một cỗ xe bốn bánh do ông điều khiển. Và cả hai khuất dạng theo nhịp tế
nhanh của hai con ngựa cao đẹp.
Chúng tôi bước vào lô của Pruđăng.
Khi vở tuồng chấm dứt, chúng tôi xuống
tìm một chiếc xe nhỏ để đưa chúng tôi đến số 7 đường Antin.
Đến trước cửa, Pruđăng mời chúng tôi
vào nhà, để cho xem những hàng hoá mà chúng tôi không biết gì về giá trị của nó
cả. Nhưng bà ta thì rất tự đắc. Hẳn bạn cũng hiểu tôi đã nhận lời một cách vỗn
vã như thế nào.
Hình như dần dần tôi đã tiến đến gần
Macgơrit hơn. Tôi nhanh chóng đưa nàng vào đầu đề câu chuyện.
- Ông quận công già ở tại nhà người
láng giềng của chị? – tôi hỏi Pruđăng.
- Không! Không phải. Cô ta ở một mình
thôi.
- Như vậy cô ta sẽ buồn ghê gớm lắm –
Gatông nói.
- Gần như chiều nào chúng tôi cũng họp
mặt với nhau. Hoặc khi đi đâu về, cô ấy lại gọi tôi, Macgơrit không bao giờ ngủ
trước hai giờ sáng, cô ta không thể ngủ sớm hơn được.
- Tại sao?
- Bởi vì cô ta bị bệnh đau ngực và gần
như lúc nào cũng bị sốt.
- Cô ta không có tình nhân? – tôi hỏi.
- Tôi không hề thấy ai ở lại, khi tôi
ra về. Nhưng tôi không nói rằng không có người nào đến, khi tôi đã đi rồi.
Thường thường tôi gặp tai nhà cô một ông bá tước N. . . nào đó. Ông này tin
rằng công việc của mình có thể tiến triển tốt đẹp bằng những cuộc viếng thăm
Macgơrit vào lúc mười một giờ, và bằng cách gửi tặng những nữ trang nàng thích.
Nhưng nàng lại không muốn gặp mặt ông ta bất cứ ở đâu. Nàng đã sai lầm; vì đó
là một người đàn ông rất giàu. Thỉnh thoảng, tôi lại bảo nàng: "Cô em ạ,
đó là người đàn ông cần cho cô em!" . Nhưng vô hiệu. Nàng quay lưng lại
với tôi và trả lời rằng người đó đần độn lắm. Người đó đần, tôi đồng ý. Nhưng
cô ta sẽ có một địa vị. Chứ ông quận công già thì có thể chết nay mai. Những
người già đều ích kỷ. Gia đình ông luôn chỉ trích ông về tình thương đối với
Macgơrit. Đó là hai lý do để ông sẽ không cho nàng được thừa hưởng gì cả. Tôi
giảng giải cho cô ta. Cô ta trả lời: khi ông quận công chết, sẽ nhận lời bá
tước cũng không muộn gì.
-sống như nàng thật lạ lùng – Pruđăng
nói tiếp – Tôi, nếu tôi biết rõ ông ta không hợp với tôi, tôi sẽ không ngần
ngại gì cho ông ấy cút nhanh đi cho rảng. Ông già kia thì rõ nhạt nhẽo. Ông gọi
cô ta là con gái ông. Chăm sóc cho cô ta như một đứa trẻ nhỏ. Ông luôn luôn bám
bên lưng cô ta. Tôi tin chắc, vào giờ này, một trong những người nhà của ông
đang rình ngoài đường để xem có ai đi ra và nhất là có ai đi vào nhà Macgơrit
không.
- A! Cô Macgơrit đáng thương – Gatông
vừa nói, vừa ngồi lại bàn pianô và đáng một điệu vanxơ – Tôi không biết điều
đó. Tuy nhiên gần đây tôi thấy cô ta ít được vui vẻ.
- Xuỵt! – Pruđăng vừa nói vừa lắng tai
nghe. Gatông dừng lại – Hình như cô ta gọi tôi.
Chúng tôi lắng nghe.
Quả nhiên có tiếng gọi Pruđăng.
- Thôi các ông đi đi cho! – Bà Đuvecnoa
bảo chúng tôi.
- A! Bà cho thế là tinh thần hiếu khách
đấy à? – Gatông vừa cười vừa nói – Chúng tôi chỉ đi khi nào chúng tôi muốn đi.
- Tại sao chúng tôi phải đi?
- Tôi sang Macgơrit.
- Chúng tôi đợi ở đây.
- Điều đó thì không thể được.
- Thế thì chúng tôi đi cùng với bà.
- Càng không được.
- Tôi biết Macgơrit – Gatông nói – Tôi
có thể đến thăm cô ta lắm chứ.
- Nhưng Acmân không biết cô ta.
Tôi sẽ giới thiệu anh ta.
- Không thể được.
Chúng tôi lại lắng nghe lần nữa tiếng
Macgơrit gọi Pruđăng.
Pruđăng chạy đến phòng trang sức. Tôi
và Gatông đi theo. Bà ta mở cửa sổ ra.
Chúng tôi đứng núp lại để bên ngoài
đừng trông thấy.
- Tôi đã gọi chị hơn mười phút rồi –
Macgơrit nói từ cửa sổ nhà mình, với một giọng hơi khó chịu.
- Cô muốn tôi giúp gì?
- Tôi muốn chị đến ngay lập tức.
- Tại sao?
- Bởi ông bá tước N. . . vẫn còn đó.
Ông làm tôi chán chết được.
- Tôi không thể đi ngay bây giờ được.
- Ai ngăn cản chị?
- Trong nhà tôi hiện có hai thanh niên,
họ không chịu ra về.
- Chị hãy bảo họ là chị cần đi.
- Tôi đã nói với họ rồi.
- Cũng được, hãy để họ ở đó. Khi họ
thấy chị đi rồi, họ sẽ đi.
- Sau khi đã xáo trộn tất cả mọi thứ ở
đây?
- Nhưng họ muốn gì?
- Họ muốn gặp cô.
- Thế họ tên gì?
- Cô biết một người, ông Gatông R. . .
- À, vâng. Tôi biết ông ấy. Và ông kia?
- Acmân Đuyvan, cô không biết phải
không?
- Không. Nhưng cứ đưa họ đến. Tôi nghĩ
ai cũng vẫn hơn ông bá tước. Tôi đang đợi. Chị sang nhanh cho.
Macgơrit đóng cửa sổ lại. Pruđăng cũng
đóng cửa sổ lại.
Macgơrit, đã có lần nhớ lại mặt tôi,
nay lại không nhớ tên tôi. Tôi thích một kỷ niệm không tốt đẹp đối với tôi hơn
là sự lãng quên ấy.
- Tôi biết chắc – Gatông nói – cô ta sẽ
sung sướng khi được gặp chúng ta.
- Rất sung sướng thì chưa hẳn đâu –
Pruđăng vừa đáp vừa quàng lại khăn choàng và để mũ lên đầu – Cô ta tiếp các anh
để đuổi ông bá tước. Các anh phải cố gắng tỏ ra lịch sự hơn ông bá tước. Nếu
không, tôi hiểu Macgơrit lắm, cô ta sẽ lại gây chuyện với tôi đấy.
Chúng tôi đi theo Pruđăng, cùng đi
xuống.
Tôi run sợ. Tôi nghĩ cuộc viếng thăm
này sẽ có một ảnh hưởng lớn đối với đời tôi.
Tôi còn cảm động hơn cả buổi chiều tôi
được giới thiệu với nàng tại nhà hát Ôpêra Cômic.
Đến cửa, tim tôi đập rất mạnh, đến nỗi
các ý nghĩ trong đầu óc tôi biến đi đâu cả.
Tiếng đàn pianô thoảng đến tai chúng
tôi.
Pruđăng gọi chuông.
Tiếng đàn dừng lại.
Một người đàn bà, có vẻ như một người
bạn hơn là hầu phòng, ra mở cửa cho chúng tôi.
Chúng tôi vào phòng khách, rồi từ phòng
khách đến phòng trang nhã (phòng khách đặc biệt ở nhà các bà sang trọng).
Một người thanh niên đứng dựa bên lò
sưởi.
Macgơrit ngồi trước đàn pianô, để những
ngón tay chạy trên các phím và bắt đầu những bản nhạc.
Cảnh tượng ấy thật buồn tẻ. Người đàn
ông thì bối rối trước sự bất lực của chính mình, và người đàn bà thì chán ngán
do sự viếng thăm của một con người mà mình không ưa thích.
Nghe tiếng Pruđăng, Macgơrit đứng dậy
và tiến đến phía chúng tôi. Sau khi đã nhìn Đuvecnoa một cách biết ơn, cô ta
nói với chúng tôi:
- Xin mời các ông vào, và hãy là những
khách quý.
TRÀ HOA NỮ
Chương 9
Chào ông Gatông thân mến – Macgơrit nói
với bạn tôi – Tôi rất vui sướng được tiếp đón ông. Tại sao ông không vào lô của
tôi ở Variêtê?
- Tôi sợ bị xem là thiếu tế nhị.
- Nhưng bạn thân cả mà – Macgơrit nhấn
mạnh, như muốn nói cho những người có mặt ở đó hiểu dù nàng có tiếp Gatông một
cách thân mật, anh ta cũng chỉ là bạn thân và luôn luôn chỉ là bạn - Những
người bạn thân thiết nhau không bao giờ ngại thiếu tế nhị đối với nhau!
- Xin cô vui lòng cho tôi giới thiệu
ông Acmân Đuyvan.
- Tôi đã cho phép Pruđăng được làm điều
đó.
- Vả lại, thưa cô – tôi vừa nghiêng
mình vừa nói những lời không được rõ ràng lắm – Tôi từng vinh dự được giới
thiệu với cô một lần rồi.
Con mắt xinh đẹp của Macgơrit hình như
đang cố tìm lại trong ký ức. Nhưng cô ta không nhớ, hay có vẻ như không nhớ tý
nào.
- Thưa cô – tôi nói – tôi cảm ơn cô đã
quên buổi giới thiệu đầu tiên đó. Bởi vì hôm đó, tôi đã rất buồn cười và có lẽ
đã làm phiền cô. Ngày ấy cách đây đã hai năm, ở rạp Ôpêra Cômic, tôi cùng đi
với Enec.
- À! Tôi nhớ ra rồi! – Macgơrit nói
tiếp và mỉm cười - không phải ông đáng buồn cười, nhưng chính tôi là người ưa
trêu chọc. Giờ đây tôi vẫn còn thói quen đó, nhưng ít thôi. Thưa ông, chắc ông
đã tha lỗi cho tôi? – Và cô đưa tay ra. Tôi cúi xuống hôn.
- Đúng vậy – cô ta nói – ông hãy tưởng
tượng, tôi có cái tật xấu là muốn làm những người tôi gặp lần đầu đều lúng
túng. Cái đó thật ngốc. Thầy thuốc bảo tôi, nguyên nhân là vì tôi hay nóng nảy
và luôn luôn bệnh hoạn. Ông hãy tin như thế.
- Nhưng trông cô có khoẻ mạnh.
- Ôi! Tôi vừa bị ốm rất nặng.
- Tôi có được biết. Tôi thường đến đây
để hỏi thăm tin tức về cô và tôi sung sướng được biết cô đang trong thời kỳ
dưỡng bệnh.
- Người ta chưa bao giờ đưa cho tôi một
danh thiếp của ông.
- Tôi không bao giờ để danh thiếp lại
cả.
- Phải chăng ông là người thanh niên
ngày nào cũng đến hỏi thăm sức khỏe của tôi trong lúc tôi bệnh và không bao giờ
cho biết tên họ?
- Vâng, chính tôi.
- Thế thì, không phải ông đã tha thứ,
mà ông còn rất khoan dung nữa. - Chắc ông bá tước không thể làm được như thế! –
Nàng vừa nói vừa quay sang phía ông bá tước N. . . sau khi đã nhìn tôi, với một
cái nhìn mà qua đó những người đàn bà bổ túc thêm cho ý niệm của mình đối với
một người đàn ông.
- Tôi chỉ mới biết cô có hai tháng thôi
– Ông bá tước trả lời.
- Và ông này chỉ biết tôi mới năm phút
thôi. Ông luôn trả lời ngớ ngẩn lắm!
Đàn bà thật tàn nhẫn đối với những kẻ
họ không yêu.
Ông bá tước đỏ mặt và cắn chặt đôi môi.
Tôi thương hại ông ta, bởi vì ông ta
cũng si tình như tôi. Và sự thẳng thắn cứng rắn của Macgơrit chắc làm cho ông
khốn khổ lắm, nhất là trước mặt hai người khách lạ.
- Cô đang đánh đàn khi chúng tôi đi vào
– tôi nói tiếp để thay đổi câu chuyện - Nếu được cô xem như chỗ quen biết cũ,
cô cứ tự nhiên tiếp tục. Tôi rất vui sướng.
- Ồ! – Cô ta vừa nói vừa ném mình lên
ghế trường kỷ và ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống – Gatông biết rõ tôi chơi thứ
nhạc nào. Thật là tốt, khi chỉ có một mình tôi và ông bá tước. Nhưng tôi không
muốn các anh phải chịu một thứ cực hình như thế.
- Cô dành riêng cái ân huệ đó cho tôi?
– Ông bá tước N. . . nói với một nụ cười mà ông ta cố gắng làm cho nó có vẻ tế
nhị và mỉa mai.
- Ông thật sai lầm khi trách móc tôi.
Đó chỉ là cái ân huệ độc nhất.
Nàng đã cố tình ngăn không cho người
đàn ông đáng thương này được nói một lời nào nữa cả. Ông ta nhìn người đàn bà
trẻ với cái nhìn thật sự van lơn.
- Nói đi, Pruđăng – cô ta tiếp- chị đã
làm điều tôi yêu cầu chưa?
- Rồi.
- Tốt lắm. Chị sẽ cho tôi biết sau.
Chúng ta phải nói chuyện. Chị sẽ không được bỏ đi khi chưa có ý kiến của tôi.
- Chắc hẳn chúng tôi là những người
không tế nhị, - tôi nói – Và giờ đây, chúng tôi xin phép rút lui, Gatông và
tôi.
- Không nên chút nào cả. Điều đó không
phải để nói với các anh. Trái lại, tôi muốn các anh ở lại đây.
Ông bá tước rút một cái đồng hồ đẹp ra
và nhìn giờ: "Đã đến giờ tôi phải đến câu lạc bộ rồi", ông nói.
Macgơrit không nói gì cả.
Ông bá tước rời lò sưởi và đến bên
nàng;
- Xin chào tạm biệt.
Macgơrit đứng dậy:
- Xin chào bá tước thân mến, ông đã vội
đi?
- Vâng, tôi sợ làm phiền cô.
- Hôm nay, ông cũng không làm phiền tôi
hơn mấy hôm trước đâu. Bao giờ gặp lại ông?
- Khi nào cô cho phép.
- Thế thì vĩnh biệt.
Thật là tàn nhẫn. May mắn thay, ông bá
tước đã nhận được một nền giáo dục tốt và có một tư cách rất tốt. Ông cúi hôn
bàn tay Macgơrit đưa ra một cách uể oải và bước ra sau khi đã chào chúng tôi.
Lúc bước ra ngưỡng cửa, ông quay lại
nhìn Pruđăng.
Chị này nhún vai với ý nghĩ: "Ông
còn muốn gì? Tôi đã làm tất cả những gì có thể" .
- Nanin! – Macgơrit kêu to – Hãy soi
đèn cho bá tước.
Chúng tôi nghe tiếng mở cửa và đóng
cửa.
Cuối cùng, Macgơrit xuất hiện và nói
lớn: "Thế là ông ta đã đi rồi! Ông ta làm tôi nhức cả óc" .
- Cô nàng ơi! Pruđăng nói – Cô quá độc
ác với ông ta. Ông ta là người rất tốt, và rất hoà nhã đối với cô. Xem kìa, một
cái đồng hồ để lại trên lò sưởi cho cô đó. Cái đồng hồ này ít nhất cũng đánh
giá một ngàn đồng vàng, tôi tin chắc thế.
Và bà Đuvecnoa đến bên lò sưởi, mân mê
cái đồng hồ vừa nói vừa nhìn một cách thèm muốn.
- Chị bạn thân mến – Macgơrit nói và
ngồi lại bên chiếc đàn pianô – khi tôi đem cân một bên là những gì ông đã cho
tôi và một bên là những gì ông đã nói với tôi, tôi nghĩ rằng tôi đã bán những
buổi tiếp chuyện của mình rất hạ giá.
- Chàng trai đáng thương đó đã say mê
cô.
- Nếu tôi phải lắng nghe tất cả những
người yêu tôi, tôi sẽ chẳng còn thì giờ để ăn nói nữa.
Nàng cho những ngón tay lướt trên phím
đàn pianô và sau đó lại quay sang nói với chúng tôi:
- Các anh có dùng gì không? Tôi muốn
một ít rượu dầm trái cây.
- Và tôi, tôi sẽ ăn chút thịt gà giò –
Pruđăng tiếp - nếu chúng tôi ăn tối.
- Được lắm, chúng ta hãy đi ăn tối –
Gatông nói.
- Không chúng ta hãy ăn tại đây.
Cô ta gọi chuông. Ninna chạy ra.
- Hãy dọn bữa tối!
- Thưa, cần những gì ạ?
- Tuỳ ý chị. Nhưng nhanh lên, nhanh
lên!
Ninna bước ra.
- Chính thế đấy. – Macgơrit vừa nói vừa
nhảy như một đứa bé – Chúng ta sẽ ăn tối. Nhớ lại cái ông bá tước ngốc ấy,
phiền quá!
Càng nhìn người đàn bà ấy, tôi càng cảm
thấy say mê ngây ngất. Cô ta xinh đẹp đến mê hồn. Ngay cả sự gầy yếu nơi cô
cũng là một nét duyên dáng.
Tôi đăm chiêu ngắm nàng.
Cái gì đã xảy ra trong tôi vào lúc ấy?
Thật khó mà giải thích. Tôi tràn ngập lòng tha thứ đối với cuộc đời nàng, sự
thán phục đối với nhan sắc nàng. Cái bằng chứng không vụ lợi mà nàng đã bộc lộ
qua sự từ chối một chàng trai sang trọng, giàu có, sẵn sàng phá sản vì nàng
diễn ra trước mắt tôi, đã xoá hết những lỗi lầm của nàng trong quá khứ.
Trong người đàn bà đó, có một cái gì
như sự trong trắng ngây thơ.
Người ta thấy nàng vẫn còn trinh trắng
giữa cuộc sống tội lỗi. Dáng đi vững chãi, thân hình mềm mại, lỗ mũi màu hồng
nở nang, đôi mắt lớn với quầng thâm xanh, biểu lộ một trong những bản chất nồng
cháy, đang toả rộng một mùi hương đầy khoái cảm không khác nào những lọ hương
phương Đông, dù đậy kín thế nào cũng cho thoát ra ít nhiều hương thơm của chất
nước bên trong.
Cuối cùng, hoặc do bản chất, hoặc do
hậu quả của tình trạng đau yếu, thỉnh thoảng trong đôi mắt người đàn bà ấy,
những tia chớp của dục vọng loé lên, có thể xem như ân huệ của Chúa đối với kẻ
vào được nàng yêu thương. Nhưng, những kẻ đã yêu thương Macgơrit thì không thể
đếm hết được, và những kẻ được nàng yêu thương thì chưa được bắt đầu tính.
Tóm lại, người ta nhận thấy nơi người
con gái ấy một nữ đồng trinh mà sự tình cờ không đâu đã làm nên cô ả giang hồ;
và cô ả giang hồ mà một tình cờ không đâu có thể làm nên người nữ đồng trinh
rất tình tứ và rất thanh khiết. Macgơrit vẫn còn sự kiêu hãnh và tính độc lập.
Hai tình cảm này, nếu bị thương tổn, có thể tạo nên những gì mà chỉ sự tinh
khiết mới có thể làm được. Tôi không nói gì cả. Nhưng tâm hồn tôi như dồn cả
vào trong tim tôi và tim tôi hiện lên trong đôi mắt tôi.
- Thế ra – nàng đột ngột nói tiếp –
chính ông đến để biết tin tức về tôi, khi tôi bị bệnh?
- Vâng.
- Ông có biết điều đó rất đáng quý
không? Tôi có thể làm gì để cảm ơn ông?
- Cho phép tôi thỉnh thoảng được đến
thăm cô.
- Xin tuỳ ý. Từ năm giờ đến sáu giờ, từ
mười một giờ đến nửa đêm. Này, anh Gatông, anh hãy đánh cho nghe bản
"Khuyên mời vũ điệu" .
- Tại sao?
- Trước hết là để làm tôi vui lòng, và
sau đó, là bởi tôi không thể nào đánh hết bản đó một mình được.
- Vậy cái gì đã làm cô lúng túng?
- Phần thứ ba, khúc chuyển sang
"đie" .
Gatông đứng dậy, tới ngồi trước pianô,
và bắt đầu hoà khúc kỳ diệu của Uêbơ mà bản nhạc đã mở sẵn trên giá.
Macgơrit, một tay tựa vào pianô, đứng
nhìn bản nhạc, đôi mắt theo dõi từng âm và nàng hát theo với một giọng rất
thấp. Khi Gatông đã đàn đến đoạn nàng chỉ cho anh biết, nàng hát nho nhỏ, đưa
những ngón tay nhè nhẹ chạy dài ở mặt chiếc pianô;
- Rê, mi, rê, đô, fa, mi, rê. . . đó
chính là đoạn tôi không thể đàn được. Anh hãy lặp lại.
Gatông đàn lại, sau đó Macgơrit nói:
- Bây giờ anh để tôi cố gắng thử xem –
nàng ngồi vào chỗ và bắt đầu đánh đàn. Nhưng những ngón tay nàng luôn luôn
ngoan cố lầm lẫn trên những âm vừa nói trên.
- Lạ lùng thật! – nàng nói với một
giọng thật trẻ con – Tôi chẳng làm thế nào đánh đoạn đó được! Các anh có tin
rằng, có lúc tôi ngồi mãi đến hai giờ sáng chỉ vì bấy nhiêu. Và khi tôi nghĩ,
cái ông bá tước ngốc ấy lại đánh đoạn đó thành công mà không cần nhìn bản nhạc,
thì tôi càng tức ông ta hơn. Có lẽ thế.
Rồi nàng tập lại, nhưng vẫn không thể
nào đàn được.
- Quỷ tha ma bắt ông Uêbơ này, và âm
nhạc, và cả những chiếc đàn pianô nữa! – Nàng vừa nói vừa ném cuốn sách nhạc
đến cuối phòng – Có ai hiểu dùm cho rằng chẳng bao giờ tôi có thể đánh tám
"đie" liên tục nhau được?
Nàng vòng tay lại nhìn chúng tôi và dậm
chân.
Máu lên đỏ cả đôi má và một tiếng ho
nhẹ làm đôi môi hé mở.
- Coi chừng, coi chừng! – Pruđăng nói
sau khi đã lấy mũ ra và đang chuốt lại mái tóc rẽ trước một tấm gương lớn – Cô
sẽ nổi tức lên và sẽ làm hại cô. Chúng ta ăn thôi.
- Thế thì tốt hơn. Tôi đói đến lả người
rồi!
Macgơrit gọi chuông rồi lại ngồi vào
pianô, và bắt đầu hát nửa giọng một điệu hát phóng đãng, vừa hát vừa đệm đàn
không bối rối chút nào.
Gatông biết bài hát đó và cả hai cùng
hát như một tốp song ca.
- Ôi! Đừng hát những thứ quái tởm ấy! –
Tôi thân mật nói với Macgơrit bằng một giọng van lơn.
- Ồ! Anh rất trinh trắng! – Nàng nói
với tôi, rồi mỉm cười và đưa bàn tay ra cho tôi.
- Tôi không nói cho tôi, mà cho chính
cô.
Macgơrit làm một điệu bộ, như để
nói"
"Ôi! Đã từ lâu lắm rồi! Tôi đã từ
giã sự trinh trắng lâu lắm rồi!"
Vừa lúc đó Nanin bước vào.
- Bữa ăn tối đã sẵn sàng chưa? –
Macgơrit hỏi.
- Vâng, thưa bà, khoảng khắc nữa!
- Nhân đây – Pruđăng nói với tôi – anh
chưa từng thấy căn nhà này, đến đây tôi sẽ chỉ cho anh xem. Anh phải biết phòng
khách đẹp tuyệt. Macgơrit đi với chúng tôi ít bước, rồi nàng gọi Gatông và cùng
đi với anh ta vào phòng ăn, để xem bữa ăn tối đã sẵn sàng chưa.
- À – Pruđăng vừa nói lớn vừa nhìn lên
một cái bệ, và cầm đưa ra một cái tượng nhỏ - tôi không biết cậu nhỏ này ở đâu
ra!
- Cậu nhỏ nào?
- Một chú chăn chiên nhỏ, cầm một cái
lồng với một con chim.
- Hãy lấy đi, nếu chị thích.
- À, nhưng tôi sợ làm mất sự thích thú
của cô.
- Tôi muốn cho chị hầu phòng của tôi.
Tôi thấy không đẹp chút nào cả. Nhưng nếu chị thích chị cứ lấy đi.
Pruđăng nghĩ đến món quà, chứ không
phải cách người ta tặng. Chị lấy bức tượng để riêng một bên và dẫn tôi đến
phòng trang sức, nơi đó chị chỉ cho tôi hai bức tiểu hoạ và nói
- Đó là bá tước G. . . rất say mê
Macgơrit. Chính ông đã đem lại danh vọng cho cô ta. Anh có biết ông ta không?
- Không, và ông này? – tôi vừa hỏi vừa
nhìn bức tiểu hoạ thứ hai.
- Đó là công tước L. . . Ông ta buộc
phải ra đi.
- Tại sao?
- Bởi vì ông ta đã gần như phá sản. Đó
là một người rất yêu Macgơrit.
- Và chắc hẳn nàng cũng yêu ông ra lắm?
- Thật là một cô gái lạ đời. Người ta
không bao giờ biết rõ cô ta muốn gì. Buổi chiều khi ông ta đi cô ta vẫn ở rạp
hát như thường lệ, tuy nhiên cô đã khóc nhiều, lúc đưa tiễn
Ngay lúc đó, Nanin xuất hiện báo cho
biết bữa ăn tối đã dọn rồi.
Khi chúng tôi vào phòng ăn, Macgơrit
đang đứng tựa vào vách và Gatông cầm tay nàng thì thầm nói chuyện.
- Anh điên rồi – Macgơrit trả lời- Anh
biết rõ tôi không thích anh. Không phải sau hai năm người ta biết một người đàn
bà như tôi, rồi người ta đòi hỏi được làm tình nhân. Chúng tôi thì, hoặc nhận
lời tức khắc, hoặc chẳng bao giờ. Thôi mời các ông ngồi lại bàn.
Rời tay Gatông, Macgơrit mời anh ta
ngồi bên phải và tôi ngồi bên trái, rồi nàng bảo Nanin:
- Trước khi ngồi chị hãy bảo nhà bếp,
có ai gọi chuông cũng đừng mở cửa đấy.
Lời căn dặn này đã đưa ra lúc một giờ
sáng.
Chúng tôi cười, chúng tôi uống, chúng
tôi ăn rất nhiều trong bữa tối nay. Trong chốc lát sự vui nhộn đã xuống đến mức
giới hạn thấp nhất của nó. Và những lời nói, vốn được một giới hạn nào đó cho
là thích thú nhưng làm hoen ố những cái miệng đã phát ra, thỉnh thoảng lại bị
bật ra, trước sự tán thưởng của Nanin, Pruđăng và Macgơrit. Gatông đã vui đùa
thẳng thắn. Đó là một thanh niên có tâm hồn, nhưng trí óc đã bị sai lạc ở mức
nào đó, do những tập quán buổi đầu.
Có một lúc tôi muốn giải buồn, làm cho
tâm hồn tôi và tư tưởng tôi dửng dưng trước cảnh tượng đang diễn ra trước mắt
và nhận phần trong niềm vui đùa ấy, giống như nhận một món ăn. Nhưng lần lần,
tôi tách khỏi sự ồn ào đó. Ly tôi vẫn cứ đầy, và tôi gần như sầu não nhìn thấy
người con gái hai mười tuổi xinh tươi ấy ăn uống nói năng không khác một phu
khuân vác, và cười rộ lên càng lớn trước những lời nói càng xằng bậy tục tĩu.
Tuy nhiên, cách nói năng, ăn uống ấy,
đối với những người khác là hậu quả của sự sa đoạ, của tập quán, hay của sức
mạnh; còn ở Macgơrit, hình như lại là một nhu cầu để quên lãng một cơn sốt, một
cơn căng thẳng thần kinh. Mỗi ly rượu sâm banh làm má nàng đỏ lên như sốt và
một cơn ho, nhè nhẹ lúc bắt đầu bữa ăn, đã trở thành nặng nề, kéo dài, và khá
dữ dội để bắt nàng phải ngả đầu trên ghế và lấy tay ôm ngực mỗi khi phải ho
lên.
Tôi đau cái đau đớn đã gây nên cho cơ
thể mảnh mai đó, bởi những sự bừa bãi, quá độ hàng ngày.
Cuối cùng một sự việc mà tôi đã tiên
đoán và lo lắng đã xảy ra. Vào cuối bữa ăn. Macgơrit bị một cơn ho dữ dội hơn
tất cả những cơn từ khi tôi bước vào căn nhà này. Hình như ngực nàng bị xé ở
bên trong. Cô gái đáng thương hại đó, mặt đỏ rần, nhắm mắt lại vì đau đớn và
đưa khăn lên môi thấm một vết máu hoen đỏ. Thế rồi, nàng đứng dậy và chạy sang
phòng trang sức.
- Cái gì thế, Macgơrit? – Gatông hỏi.
- Cô ta cười nhiều quá, và khạc ra máu
– Pruđăng nói - Ồ! Không sao cả, điều đó thường xảy ra hàng ngày. Cô ta sẽ trở
lại. Hãy để cho cô ta một mình thôi. Cô ta thích như thế đấy.
Còn tôi, tôi không thể ngồi đó. Trước
sự ngạc nhiên của Pruđăng và Nanin đang gọi tôi, tôi chạy theo Macgơrit.
TRÀ HOA NỮ
Chương 10
Phòng nàng chỉ được chiếu sáng bởi một
ngọn nến độc nhất trên bàn. Ngả người trên chiếc ghế dài lớn, áo nhăn nhúm,
nàng để một tay trên tim và tay kia buông thõng xuống. Trên bàn, đặt một cái
thau nhỏ bằng bạc, đựng nửa thau nước, trong nước loáng thoáng những sợi máu
nhỏ.
Macgơrit mặt xanh xao, miệng nửa mở, cố
gắng lấy lại hơi sức. Thỉnh thoảng, ngực nàng căng lên, thở một hơi dài, hình
như nhờ thế nàng đỡ hơn được chút xíu và trong giây phút có được cảm giác dễ
chịu.
Tôi đến gần nàng, nàng không một cử
động. Tôi ngồi xuống và cầm lấy bàn tay nàng đang để trên ghế dài:
- À! Anh đó à? – nàng nói với tôi và
mỉm cười.
Hình như tôi có vẻ hơi lo lắng, bởi vì
nàng nói:
- Anh cũng thấy đau
hay sao?
- Không, nhưng cô
còn đau lắm không?
- Rất ít – và nàng
lấy chiếc khăn nhỏ lau những giọt nước mắt, mà cơn ho đã lùa lên đôi mắt- Giờ
đây, tôi đã quen lắm rồi.
- Nhưng cô tự giết
cô – tôi nói với một giọng xúc động – Tôi muốn làm bạn thân của cô, để ngăn cản
không để cho cô phải tự làm khổ thân mình như thế.
- À! Điều đó, thật
ra anh không phải bận tâm lo lắng – nàng đáp lại với giọng hơi chua chát – Anh
hiểu, nếu những kẻ khác chăm sóc cho tôi, chính là vì họ biết rõ, không còn
cách gì để chữa bệnh này được cả.
Một lát sau, cô
đứng dậy, cầm ngọn nến đặt lên lò sưởi và đến soi mình trong tấm gương lớn.
- Tôi xanh xao quá
– nàng vừa nói vừa sửa áo lại và đưa tay vuốt những sợi tóc rối – À thôi! Chúng
ta hãy trở lại bàn ăn. Anh đi chứ?
Nhưng tôi vẫn ngồi,
không cử động
Cô ta hiểu nỗi xúc
động mà cảnh tượng vừa qua đã gây cho tôi, bởi vì cô tiến đến gần tôi, đưa bàn
tay cho tôi và nói:
- Xem kìa, anh đi
đi chứ?
Tôi cầm lấy tay cô,
đưa bàn tay lên môi hôn. Ngoài ý muốn, hai giọt lệ ngưng đọng trong mắt tôi đã
rơi xuống.
- Ô kìa! Anh trẻ
con thế! – Cô vừa nói, vừa ngồi xuống bên tôi – Anh lại khóc, vì sao thế?
- Tôi có vẻ ngờ
nghệch, nhưng điều tôi vừa trông thấy đã làm tôi đau đớn quá.
- Anh thật tốt
bụng! Anh muốn gì? Tôi không thể ngủ được. Tôi phải tìm cách giải khuây một ít.
Vả chăng, những người con gái như tôi, thêm hay bớt một người, có hế gì? Các thầy
thuốc bảo tôi, máu tôi khạc ra từ khí quản. Tôi có vẻ hơi tin. Đó là tất cả
nhưng gì tôi có thể giúp các ông ấy.
- Hãy nghe đây,
Macgơrit – tôi nói với một nhiệt tình không thể giấu được – Tôi không biết ảnh
hưởng của cô đối với đời tôi sẽ như thế nào. Nhưng tôi biết rằng, không có một
người nào, ngay cả em gái tôi, được tôi chăm sóc như cô. Điều đó hẳn được bắt
đầu khi tôi gặp cô. Vậy, nhân danh thượng đế, cô hãy chăm sóc cô, và không nên
sống như cô đã sống.
- Nếu tôi tự chăm
sóc tôi, tôi sẽ chết mất. Điều giúp tôi đứng vững, chính là cuộc đời náo động
tôi đang sống. Thênm nữa, tự chăm sóc mình, điều đó rất cần cho những người đàn
bà sang trọng, có gia đình và bạn hữu. Còn như chúng tôi, khi chúng tôi không
còn ích gì cho sự hào nhoáng hay vui thú của những tình nhân chúng tôi, thì họ
bỏ chúng tôi. Và những đêm dài nối tiếp những ngày dài. Tôi biết rõ như thế,
tôi có lúc nằm trên giường bệnh hai tháng, và sau tuần thứ ba không còn người
nào đến thăm tôi nữa.
- Quả thật tôi
không là gì cả đối với cô – tôi nói – Nhưng nếu cô bằng lòng, tôi sẽ chăm sóc
cô như một người anh. Tôi sẽ không rời bỏ cô, và tôi sẽ giúp cô lành bệnh. Thế
rồi, khi lấy lại sức khoẻ, cô sẽ trở lại cuộc đời cô đã sống, nếu cô muốn.
Nhưng tôi chắc chắn cô sẽ thích một cuộc đời êm đềm, nó sẽ giúp cô sung sướng
hơn và giữ cô xinh đẹp lâu dài.
- Bây giờ anh nghĩ
như thế, bởi vì anh vừa uống rượu đấy. Nhưng anh sẽ không có sự kiên nhẫn như
anh vừa nói đó đâu.
- Cho phép tôi được
nói với cô, Macgơrit, cô đã ốm suốt hai tháng, và trong hai tháng đó, tôi đã
đến ngày một, để được biết tin tức về cô.
- Đúng vậy, nhưng
tại sao anh không lên nhà?
- Bởi vì tôi chưa
được biết cô.
- Người ta cần giữ
ý như thế với một người con gái như tôi không?
- Người ta luôn giữ
ý đối với mỗi người đàn bà. Ít ra, đó là ý kiến của tôi.
- Thế thì anh sẽ
chăm sóc tôi?
- Vâng.
- Anh sẽ ở bên tôi
suốt ngày?
- Bất kỳ lúc nào,
nếu điều đó không làm phiền lòng cô.
- Anh gọi tên thái
độ ấy là gì?
- Sự tận tuỵ.
- Và sự tận tuỵ đó
từ đâu đến?
- Từ một sự thông cảm
không thể cưỡng lại của tôi đối với cô.
- Thế nghĩa là anh
yêu tôi? Nói ngày đi, có phải đơn giản hơn không?
- Có thể là thế?
Nhưng nếu như có một ngày tôi phải nói điều đó, thì ngày đó không phải là ngày
hôm nay.
- Tốt hơn, đừng bao
giờ anh nói điều đó với tôi cả.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì điều đó
chỉ có thể đưa đến hai hậu quả.
- Như thế nào?
- Hoặc tôi không
chấp nhận, thế là anh sẽ giận tôi: hoặc tôi chấp nhận, thế là anh sẽ có một
tình nhân đáng buồn. Một người đàn bà cau có, bệnh hoạn, buồn tẻ, hay vui một
nỗi vui còn đáng buồn hơn cả sự ưu phiền. Một người đàn bà ho ra máu, và tiêu
phí một trăm nghìn frăng mỗi năm. Người đó rất tốt đối với một ông già rất giàu
như ông quận công. Nhưng rất phiền chán đối với một chàng trai trẻ như anh. Và
bằng chứng là tất cả những tình nhân trẻ của tôi ngày xưa đều đã rời bỏ tôi rất
nhanh chóng.
Tôi không trả lời
gì cả, chỉ lắng nghe. Sự thành thật đó gần như là một lời thú tội. Cuộc đời đau
đớn ấy, tôi hé thấy dưới màn sáng đang chói rạng đang che phủ, và người con gái
khốn khổ đó đã chạy trốn thực tại trong sự sa đoạ, say sưa và mất ngủ. Tất cả
những điều đó xúc động tôi đặc biệt, đến nỗi tôi không tìm ra được lời nào để
nói.
- À thôi – Macgơrit
nói tiếp – chúng ta đã nói những chuyện trẻ con qúa. Đưa tay cho tôi, và chúng
ta trở vào phòng ăn. Người ta không nên biết sự vắng mặt của chúng ta mang ý
nghĩa gì.
- Vào đi, nếu cô
muốn. Nhưng xin lỗi cô, cho phép tôi được ngồi lại đây.
- Tại sao?
- Bởi vì sự vui đùa
của cô làm tôi đau xót quá.
- Thế tôi sẽ buồn
bã.
- Nghe đây,
Macgơrit, hãy cho tôi nói với cô một điều mà hẳn nhiều người đã thường nói với
cô rồi. Và do đó, thói quen để nghe nó có thể cản trở niềm tin nơi cô. Nhưng
không vì thế mà kém thiết thực. Và tôi xin sẽ không bao giờ lặp lại với cô nữa.
- Đó là. . . - nàng
nói với một nụ cười không khác gì những bà mẹ đang lắng nghe một sự rồ dại của
con cái mình.
- Đó là, từ khi tôi
trông thấy cô, tôi không thể hiểu thế nào và tại sao, nhưng cô đã chiếm một chỗ
trong cuộc đời tôi. Tôi đã xua đuổi một cách vô ích hình ảnh cô trong tư tưởng
tôi. Hình ảnh đó cứ trở lại mãi. Chính hôm nay, khi tôi gặp lại cô sau hai năm
xa cách, cô đã đi một bước càng sâu hơn vào tâm trí tôi. Cuối cùng giờ đây cô
tiếp tôi, tôi được biết cô. Tôi biết tất cả những gì khác thường nơi cô. Cô trở
nên cần thiết đối với tôi; và tôi sẽ điên mất, không phải chỉ vì cô không yêu
thương tôi, mà ngày cả khi nếu cô không để cho tôi được phép yêu thương cô.
- Nhưng đáng buồn
cho anh, tôi sẽ nói cho anh biết điều mà bà Đ. . . đã nói. Vậy chắc anh giàu
lắm. Anh phải biết, tôi tiêu sáu, bảy ngàn frăn mỗi tháng. Sự tiêu phí đó đã
trở thành cần thiết đối với đời tôi. Anh không hiểu nổi, anh bạn đáng thương
của tôi. Tôi sẽ làm phá sản anh không mấy chốc; và gia đình anh sẽ cấm không
cho anh sống bên cạnh một con người như tôi. Anh hãy yêu thương tôi như một
người bạn và không thể khác hơn. Anh hãy đến thăm tôi. Chúng ta sẽ cười đuà,
chúng ta sẽ nói chuyện với nhau. Nhưng anh không nên phóng đại giá trị của tôi.
Bởi vì thật ra, tôi không đáng giá là bao. Anh có một tấm lòng vàng. Anh cần
được thương yêu. Anh còn trẻ lắm, và quá đa cảm để sống trong thế giới của
chúng tôi. Anh hãy cưới một người vợ. Anh thấy chứ. Tôi là người con gái lương
thiện, và tôi nói với anh rất thành thật.
- Ối chào! Các bạn
nói gì đó? – Pruđăng la to. Chúng tôi không nghe tiếng bước chân chị đến và chị
hiện ra ở cửa phòng với mái tóc búng rối và áo hở rộng cổ. Tôi biết sự lôi thôi
đó là do bàn tay của Gatông.
- Chúng tôi nói lý
lẽ với nhau, - Macgơrit nói - chị hãy để chúng tôi ở đây một lát. Chúng tôi sẽ
đến gặp chị chốc nữa.
- Được, được. Cô
cậu cứ nói chuyện đi! – Pruđăng vừa nói vừa bước ra và đóng mạnh cửa phong như
để nhấn mạnh những lời nói sau cùng của mình.
- Thế nhé –
Macgơrit nói tiếp, khi chúng tôi còn lại một mình – Anh đừng yêu tôi nữa.
- Tôi sẽ đi.
- Đến nước đó sao?
Tôi đã tiến quá sâu
để có thể lui lại. Vả chăng, người con gái ấy đã làm tôi nhức đầu. Sự lẫn lộn
vui buồn, trinh trắng, sa đoạ; ngay cả cái bệnh đang phát triển nơi nàng, tính
mẫn cảm cũng như tính dễ kích động nơi nàng, tất cả làm cho tôi hiểu, nếu ngay
từ đầu, tôi không chinh phục được bản chất hay quên và nhẹ dạ của nàng, nàng sẽ
vụt khỏi tay tôi mãi mãi.
- Xem nào! Anh nói
nghiêm chỉnh đấy chứ!
- Rất nghiêm túc.
- Nhưng tại sao anh
không nói điều đó với tôi sớm hơn?
- Tôi có thể nói
vào lúc nào được?
- Ngày ngày hôm
sau, khi anh đã được giới thiệu với tôi tại nhà hát Ôpêra Cômic.
- Tôi nghĩ rằng cô
sẽ tiếp tôi một cách khó chịu nếu tôi đến thăm cô.
- Tại sao?
- Bởi vì tối hôm ấy
tôi có vẻ ngờ nghệch quá.
- Điều đó đúng đấy.
Nhưng tuy thế, anh đã yêu tôi ngay từ ngày ấy?
- Vâng.
- Điều đó chắc
không ngăn cấm anh đi nghỉ và ngủ ngon, yên ổn sau một đêm hát. Chúng tôi hiểu
những tình yêu lớn lao đó la như thế nào rồi.
- Thế đấy. Chính là
điều cô lầm. Cô có biết chiều hôm ấy, từ rạp Ôpêra Cômic ra, tôi làm gì không?
- Không.
- Tôi đã đợi cô ở
hiệu cà phê Ănglê. Tôi theo dõi chiếc xe đưa cô và ba người bạn của cô về. Khi
thấy cô một mình xuống xe và đi vào nhà, tôi rất sung sướng.
Macgơrit bỗng cười
lên.
- Cô cười gì thế?
- Không gì cả.
- Cô cho tôi biết
đi, tôi van cô. Nếu không, tôi nghĩ cô đã chế nhạo tôi.
- Anh không giận
chứ?
- Tôi có quyền gì
để nóng giận.
- Thế nghĩa là có
lý do để tôi trở về nhà một mình.
- Lý do gì?
- Người ta đợi tôi
ở nhà.
Cô cho tôi một nhát
dao cũng không làm tôi đau đớn đến thế. Tôi đứng dậy, đưa tay chào:
- Xin từ biệt – tôi
nói.
- Tôi biết rõ anh
giận tôi rồi – cô nói – Nhưng người đàn ông vẫn thường điên rồ để muốn biết
những cái làm cho họ thêm mệt trí.
- Nhưng tôi đoán
chắc – tôi nói tiếp với một giọng lạnh lùng, để chứng tỏ tôi thoát hẳn khỏi sự
đam mê của mình – tôi quả quyết với cô, tôi không nổi giận vì có người đợi cô.
Đó là việc rất tự nhiên. Cũng như rất tự nhiên tôi bỏ đi lúc ba giờ sáng.
- Vậy cũng có người
đang đợi anh ở nhà?
- Không, nhưng tôi
phải đi.
- Thế thì xin từ
biệt.
- Cô đuổi tôi?
- Không phải thế!
- Tại sao cô làm
cho tôi khổ?
- Tôi làm cho anh
khổ ở chỗ nào?
- Cô bảo có người
đợi cô.
- Tôi không thể
nhịn được cười, khi nghĩ anh đã rất sung sướng khi thấy tôi về một mình. Vì
người ta có nhiều lý do lắm.
- Người ta thường
tạo nên niềm vui từ một trò trẻ con. Phá huỷ niềm vui đó, thật là tàn ác. Vì để
nó tồn tại, người ta có thể làm cho kẻ tìm ra niềm vui đó được sung sướng hơn.
- Nhưng anh nghĩ
anh đang nói chuyện với ai? Tôi không phải là một cô gái đồng trinh, cũng không
phải là bà quận chúa. Tôi chỉ biết anh hôm nay và không nợ nần gì anh về những
hành động của tôi. Cho rằng một ngày kia, tôi sẽ trở thành tình nhân của anh,
thì anh cũng cần biết, tôi còn có những tình nhân khác nữa. Nếu anh đã làm
phiền tôi vì những chuyện ghen tị của anh giờ đây, thì sau này, trò ghen tị đó
sẽ ra sao nữa! Tôi chưa hề thấy một người đàn ông nào như anh.
- Bởi vì chưa một
người đàn ông nào yêu cô như tôi yêu cô.
- Xem này, nói
thẳng đi, anh có thật sự yêu tôi nhiều đến thế không?
- Với tất cả khả
năng người ta có thể yêu được. Tôi tin thế.
- Và điều đó có từ
bao giờ rồi.
- Từ ngày tôi trông
thấy cô bước xuống xe, đi vào Xuyt, cách đây ba năm.
- Anh có biết rằng
đó là một điều rất cao quý không? Vậy tôi phải làm gì để đến đáp tình yêu lớn
lao ấy?
- Cô phải yêu tôi
một ít – Tôi nói với nhịp tim đập mạnh, như muốn ngăn chặn lời tôi. Bởi vì mặc
dầu có những nụ cười như có ý nhạo báng mà nàng giữ trong suốt buổi nói chuyện,
hình như Macgơrit đã bắt đầu chia xẻ sự xúc động của tôi. Và tôi dần dần đi đến
cái phút mà tôi chờ đợi từ lâu.
- Nhưng còn ông
quận công?
- Ông quận công
nào?
- Ông già ghen
tuông của tôi.
- Ông ấy sẽ không
biết gì cả!
- Nhưng nếu ông ta
biết?
- Ông sẽ tha thứ
cho cô.
- Ồ không! Ông sẽ
bỏ rơi tôi và tôi sẽ như thế nào?
- Cô có thể hy sinh
sự từ bỏ ấy cho một người khác.
- Tại sao anh biết
được?
- Bởi vì cô đã dặn
đừng để ai vào nhà đêm nay.
- Đúng vậy, nhưng
người đó là một người bạn đàng hoàng.
- Nhưng cô chẳng để
ý gì lắm đâu. Bởi vì cô đã cấm ông đến nhà giờ này.
- Anh không thể là
người chỉ trích tôi điều đó. Bởi vì chính để tiếp các anh, anh, và bạn của anh,
mà tôi làm như vậy.
Dần dần, tôi tiến
gần Macgơrit, đưa tay choàng lấy người nàng, và tôi cảm thấy thân hình mềm mại
của nàng dựa nặng vào tôi.
- Nếu cô biết tôi
yêu cô chừng nào! – Tôi nói nho nhỏ bên tai nàng.
- Đúng thật vậy?
- Tôi xin thề.
- Anh có thể hứa
với tôi rằng anh sẽ làm tất cả theo ý muốn của tôi mà không cần nói một lời,
không cần cho tôi những chỉ dẫn, không cần chất vấn tôi gì cả? Như thế có thể
tôi sẽ yêu anh.
- Tôi sẽ làm tất cả
những gì cô muốn.
- Nhưng tôi nói cho
anh biết trước, tôi muốn sống tự do và làm tất cả những gì tôi thích; không
phải cho anh biết bất cứ một chi tiết nhỏ nào của cuộc đời tôi. Đã lâu rồi, tôi
đi tìm một nhân tình trẻ, không nghị lực, yêu mà không nghi kỵ, được yêu nhưng
không có quyền gì. Tôi chưa bao giờ tìm được người như thế. Những người đàn ông
đáng lẽ phải thoả mãn khi được người ta cho họ nhiều điều mà có lẽ họ chỉ dám
ao ước có được một lần, đã đòi hỏi những tình nhân họ phải cho họ biết về hiện
tại, về quá khứ và ngày cả về tương lai nữa. Những người đàn ông đó, càng trở
nên quen thuộc, lại càng muốn ngự trị và trở thành khó tính, muốn người ta cho
họ tất cả những gì họ muốn. Nếu giờ đây tôi quyết định có một tình nhân mới,
tôi muốn người đó phải có ba đặc tính hiếm có này; anh ta phải tin tưởng, phải
biết chiều chuộng, phải kín đáo.
- Được lắm, tôi sẽ
làm tất cả những gì cô muốn.
- Chúng ta sẽ xem.
- Và khi nào chúng
ta sẽ xem?
- Sau này.
- Tại sao.
- Bởi vì – Macgơrit
vừa nói vừa gỡ cánh tay tôi ra, cầm một bó hoa trà đỏ lớn cô đã đem về từ sáng,
lấy một bông hoa trà cắm lên nút áo tôi, và nói - bởi vì người ta không bao giờ
có thể thực hiện những giao ước ngay ngày người ta ký.
Điều này thì dễ
hiểu thôi.
- Khi nào tôi sẽ
gặp lại cô? - Vừa nói tôi vừa ôm chặt nàng trong hai cánh tay.
- Khi nào cánh hoa
trà này đổi sắc.
- Lúc nào nó sẽ đổi
sắc?
- Ngày mai, từ 11
giờ đến nửa đêm. Anh bằng lòng chứ?
- Cô còn hỏi tôi
điều đó ư?
- Không một lời nào
về chuyện này với bạn của anh, hay với Pruđăng hoặc bất cứ người nào khác.
- Tôi xin hứa với
cô.
- Giờ đây, hãy hôn
tôi đi và chúng ta sẽ trở vào phòng ăn.
- Cô ta đưa môi cho
tôi hôn, vuốt lại mái tóc. Và chúng tôi bước ra khỏi phòng, cô vừa đi vừa hát.
Tôi như điên dại nửa người.
Vào phòng khách,
nàng dừng lại nói nhỏ với tôi:
- Vừa rồi chắc anh
ngạc nhiên khi thấy tôi sẵn sàng nhận lời anh ngay tức khắc. Anh có biết như
thế là vì sao không?
Nàng cầm lấy tay
tôi và đặt lên tim nàng, nơi tôi nghe những tiếng đập liên hồi, rồi nói tiếp:
- Là vì cuộc sống
của tôi ngắn ngủi hơn những kẻ khác, nên tôi tự hứa sẽ sống vội vàng hơn.
- Đừng nói với tôi
như thế, tôi năn nỉ cô.
- Ồ! Anh hãy tự an
ủi – nàng vừa tiếp vừa cười - nếu tôi còn sống một thời gian nữa, tôi sẽ sống
lâu hơn là yêu tôi.
Và bước vào phòng
ăn, nàng vừa đi vừa hát.
- Nanin đâu rồi? -
Nàng nói khi chỉ nhìn thấy có Gatông và Pruđăng.
- Nanin ngủ trong
phòng cô, đang đợi cô vào ngủ đó – Pruđăng trả lời.
- Con bé tội
nghiệp! Tôi giết chết nó mất! Thôi, giờ đây xin mời các ông về, đã đến giờ rồi.
Mười phút sau
Gatông và tôi ra về. Macgơrit siết chặt tay tôi, chào tạm biệt. Chỉ còn lại một
mình Pruđăng
- À này – Gatông
hỏi khi chúng tôi đã ra ngoài – anh nghĩ gì về Macgơrit?
- Đúng là một thiên
thần. Tôi điên lên vì nàng.
- Tôi nghi ngờ điều
đó. Anh có nói điều đó cho nàng nghe chứ?
- Có.
- Và nàng có hứa là
tin lời anh không?
- Không.
- Không giống như
Pruđăng.
- Cô ả có hứa với
anh ?
- Nàng còn đi xa hơn, anh bạn ạ! Người
ta sẽ không thể tin được, nhưng quả thật nàng vẫn còn đáng giá lắm, Nàng
Đuvecnoa to lớn ấy!
TRÀ HOA NỮ
Chương 11
Đến chặng này của câu chuyện Acmân dừng
lại.
- Anh có thể đóng dùm cửa sổ? – Anh nói
với tôi, - Tôi bắt đầu thấy lạnh. Trong thời gian ấy tôi sẽ đi nằm.
Tôi đóng cửa sổ lại. Acmân còn rất yếu.
Anh cởi chiếc áo ngủ ra, nằm lên giường, dựa đầu lên gối trong chốc lát, như
một người mệt mỏi vì chuyến đi dài ngày, hoặc bị xúc động bởi những kỷ niệm
nặng nề.
- Có lẽ anh nói nhiều quá – tôi bảo anh
ta – anh có muốn tôi đi về để cho anh ngủ không? Anh sẽ kể tiếp đoạn cuối câu
chuyện vào ngày khác.
- Câu chuyện ấy có làm cho anh chán
không?
- Không, trái lại.
- Thế thì tôi kể tiếp. Nếu anh để tôi ở
lại một mình, tôi sẽ không ngủ được.
"Khi tôi trở về nhà – anh kể tiếp
– không cần phải nghĩ ngợi, tất cả những chi tiết đó vẫn hiện ra trong tư tưởng
tôi. Tôi không đi nằm được. Tôi bắt đầu suy nghĩ về những gì đã xảy ra trong
suốt ngày hôm nay. Sự gặp gỡ, sự giới thiệu, sự cam kết của Macgơrit đối với
tôi. Tất cả đều diễn ra rất nhanh, rất bất ngờ, nên có những giây phút, tôi
tưởng như tôi đang nằm mộng. Tuy nhiên, đó không phải là lần đầu tiên một người
con gái như Macgơrit hứa hẹn với một người đàn ông như thế: đồng ý chấp nhận
ngay ngày hôm sau, điều mà ngày hôm trước người ta yêu cầu.
Tôi đã suy nghĩ điều đó một cách vô
ích. Ấn tượng đầu tiên mà người tình tương lai gây ra cho tôi thật quá mạnh,
đến nỗi nó tồn tại mãi. Tôi vẫn cứng đầu không chịu nhìn thấy nơi nàng một
người con gái giống như những người con gái khác. Với tính kheo khoang rất phổ
biến ở những người đàn ông, tôi sẵn sàng tin nàng không thể nào cưỡng lại để
không chia sẻ với tôi sẽ hấp dẫn mà tôi đã có với nàng.
Tuy nhiên, tôi có ngay trước mắt những
ví dụ rất trái ngược. Tôi thường nghe người ta bảo tình yêu của Macgơrit trở
thành như một món hàng mà giá cả lên xuống tuỳ theo mùa.
Nhưng mặt khác, làm thế nào mà hoà hợp
cái dư luận đó với sự từ chối liên tục của nàng đối với ông bá tước trẻ mà
chúng tôi đã gặp tại nhà nàng? Bạn sẽ bảo tôi, ông này làm cho nàng chán ngấy
và nàng được ông quận công chu cấp một cách đầy đủ rồi? Nếu cần đến một tình
nhân, nàng phải chọn cho được một người đàn ông nàng thích. Thế tại sao nàng
không chấp nhận Gatông, một người đẹp trai, thông minh giàu có mà lại chấp nhận
tôi, người mà nàng thấy là rất ngờ nghệch ngay từ ban đầu tiếp xúc với tôi?
Vẫn biết tình cờ có trong một phút đáng
giá hơn sự chạy theo suốt một năm dài.
Đối với tất cả những người dự bữa tối
hôm đó, tôi là người độc nhất cảm thấy lo lắng, khi nàng rời bàn ăn. Tôi đã đi
theo nàng. Tôi đã xúc động đến nỗi không che giấu được. Tôi đã khóc khi hôn tay
nàng. Trường hợp đó, cộng với sự thăm viếng của tôi hàng ngày trong suốt hai
tháng trời nàng đau ốm, có thể cho nàng thấy nơi tôi một người đàn ông khác hẳn
những người đàn ông trước đây nàng đã gặp. Và có thể nàng đã tự nhủ rằng nàng
nên làm điều đó với một tình yêu được biểu lộ như thế, như nàng đã làm điều đó
biết bao nhiêu lần rồi, và nó chẳng có tác dụng gì với nàng nữa cả.
Tất cả những giả thiết đó, như bạn đã
thấy, rất gần sự thật. Nhưng dù lý do sự bằng lòng của nàng là thế nào đi nữa,
vẫn có một điều chắc chắn, đó là nàng đã bằng lòng.
Ôi, tôi đã say mê Macgơrit. Tôi sắp
được nàng. Tôi không thể đòi hỏi nơi nàng gì hơn nữa. Tuy nhiên, tôi lặp lại,
dù nàng chỉ là kỹ nữ, tôi đã thi vị hoá nàng quá nhiều, đã xây dựng tình yêu đó
thành một thứ tình yêu tuyệt vọng, cho nên đến gần giây phút mà tôi không cần
phải hy vọng nữa, tôi lại đâm ra nghi ngờ.
Suốt đêm tôi không ngủ được.
Tôi không nhận ra tôi. Tôi như điên dại
nửa người. Khi thì, tôi thấy tôi không phải đẹp lắm, không phải giàu lắm, cũng
không đủ sang trọng để có được người đàn bà như thế. Khi thì, tôi thấy tôi đầy
kiêu ngạo về ý tưởng của sự chiếm hữu đó. Rồi tôi bắt đầu sợ thái độ của
Macgơrit đối với tôi chỉ là một bất thường trong vài ba ngày và cảm nhận trước
nỗi thống khổ có thể gây ra trong sự đổ vỡ bỗng chốc. Tôi tự nhủ, tốt hơn là
tối đó, tôi không nên đến nhà nàng và nên đi đâu đó, rồi để thư lại cho nàng
biết những lo sợ của tôi. Từ đó, tôi lại đi đến những hy vọng không cùng, đến
một sự tin tưởng không bờ bến. Tôi tạo ra những giấc mơ tương lai không tưởng tượng
được. Tôi tự nhủ, người con gái nhờ tôi sẽ lành bệnh về thể xác cũng như về
tinh thần. Tôi sẽ suốt đời sống với nàng và tình yêu của nàng sẽ làm tôi sung
sướng hơn cả tình yêu của những nữ đồng trinh.
Cuối cùng, tôi không thể lặp lại cho
bạn biết hàng nghìn ý nghĩ, từ tim tôi đã dâng lên đầu tôi, và dần dần đã tắt
theo giấc ngủ đến xâm chiếm tôi lúc trời bắt đầu sáng.
Khi tôi thức dậy, đã hai giờ rồi. Thời
tiết thật huy hoàng. Tôi không còn nhớ, cuộc đời đối với tôi đã có bao giờ tươi
đẹp đến thế, đầy đủ đến như thế. Những kỷ niệm đêm trước hiện ra trong tâm trí
tôi, không bóng mờ, không chướng ngại, và được tưng bừng chào đón bởi những hy
vọng về buổi tối đến. Tôi sửa soạn một cách vội vàng. Tôi thoả mãn và sẵn sàng
làm những hành động tốt. Thỉnh thoảng tim tôi lại nhảy lên vì vui mừng và tình
yêu căng lên trong lồng ngực tôi. Một cơn sốt dịu dàng xâm chiếm lấy tôi. Tôi
không bâng khuâng gì nữa vì những lý do làm tôi bận rộn trước khi ngủ. Tôi chỉ
thấy kết quả. Tôi chỉ nghĩ đến giờ phút mà tôi gặp lại Macgơrit.
Tôi không thể nào ở nhà được. Căn phòng
hình như quá hẹp để chứa đựng hạnh phúc của tôi. Tôi cần cả thiên nhiên trọn
vẹn để có thể tâm tư tình tự.
Tôi ra đi.
Tôi đi qua đường Antin. Chiếc xe ngựa
của Macgơrit đang đợi trước cửa nhà nàng. Tôi đi về phía Xăng Êlidê. Tôi yêu
thương tất cả, ngay đến những người không quen biết mà tôi gặp trên đường.
Tình yêu thật là thánh thiện!
Sau một giờ, tôi đi từ Macli đến ngã
tư, rồi từ ngã tư đến Macli, tôi thấy chiếc xe của Macgơrit từ xa. Tôi không
nhận ra được như tôi đoán.
Lúc đi vòng qua quảng trường Xăng
Êlidê, cô dừng lại. Một thanh niên to lớn tách ra từ một nhóm đông anh đang trò
chuyện, tới nói chuyện với nàng.
Họ nói chuyện trong
giây lát. Người thanh niên trở lại với nhóm bạn của mình. Mấy con ngựa lại đi.
Và tôi lại gần nhóm người đó. Tôi nhận ra, người vừa nói chuyện với Macgơrit là
bá tước G. . . mà tôi đã thấy chân dung và Pruđăng đã cho tôi biết. Đó là người
đã giúp đỡ Macgơrit có được địa vị như ngày nay.
Chính ông là người
đêm qua nàng đã cấm không cho vào nhà. Tôi giả thiết là nàng đã dừng xe lại, để
cho ông ta biết lý do về sự ngăn cấm ấy. Và đồng thời, tôi cũng hy vọng rằng
nàng đã tìm một duyên cớ nào đó để khỏi tiếp chuyện với ông ta đêm sau.
Phần còn lại ngày
hôm ấy đã trôi qua như thế nào tôi không nhớ. Tôi đi từng bước, tôi hút thuốc,
tôi nói chuyện. Nhưng đã nói gì, tôi đã gặp ai, tính cho đến mãi mười giờ đêm,
tôi không còn giữ một kỷ niệm nào cả.
Tất cả điều tôi nhớ
lại là tôi về nhà, đã tiêu phí ba giờ để sửa soạn phục sức. Tôi đã nhìn một
trăm lần cái đồng hồ treo và cái đồng hồ đeo tay. Nhưng khốn nạn, cả hai luôn
luôn chạy đều chạy như nhau, đều chỉ giờ phút như nhau, để chỉ cùng một giờ như
nhau. Khi nghe tiếng chuông đổ mười giờ rưỡi, tôi tự nhủ đã đến giờ ra đi.
Vào thời gian đó,
tôi ở đường Prôvân. Tôi đi theo đường Mông Blân, xuyên qua đại lộ, đến đường
Luy Grân, đến đường Po, Mahông, rồi đến đường Antin.
Tôi nhìn lên cửa sổ
nhà Macgơrit.
Thấy có ánh đèn,
tôi gọi chuông.
Tôi hỏi người gác:
"Có cô Giôchiê ở nhà không?" .
Anh ta trả lời:
"Cô ấy không bao giờ về nhà trước mười một giờ hay mười một giờ mười
lăm" .
Tôi nhìn đồng hồ
đeo tay.
Tôi nghĩ tôi đã đi
rất chậm rãi. Nhưng thật ra tôi chỉ mất năm phút để từ đường Prôvân đến nhà
Macgơrit.
Thế là, tôi đi dạo
trên một đường phố không quán xá và quạnh hiu trong giờ này.
Độ nửa giờ sau
Macgơrit trở về. Nàng bước xuống xe và nhìn quanh. Hình như nàng có ý tìm ai.
Chiếc xe chậm rãi
quay đi. Chuồng ngựa và nơi để xe đặt ở nơi khác. Trong lúc Macgơrit sắp gọi
chuông tôi đến gần nàng và nói:
- Xin chào!
- A! Chào anh? –
Nàng nói một giọng hơi ngờ ngợ về nỗi vui mừng đã gặp tôi ở đó.
- Cô chẳng đã cho
phép tôi gặp cô hôm nay sao?
- Đúng vậy, tôi đã
quên điều đó.
Lời nói đó làm đảo
lộn tất cả những ý nghĩ của tôi buổi sáng, tất cả những hy vọng của tôi suốt
ngày. Tuy nhiên, tôi bắt đầu tập làm quen với những cách đối xử đó. Và tôi
không bỏ đi, điều mà ngày xưa, nhất định tôi đã làm.
Chúng tôi đi vào.
Nanin đã mở cửa từ
trước.
- Pruđăng vẫn chưa
về? – Macgơrit hỏi.
- Thưa bà, chưa.
- Khi bà ta về, hãy
nói bà sang ngay cho. Trước tiên chị hãy tắt đèn phòng khách đi. Và nếu có
người đến hãy bảo rằng tôi chưa về.
Đó thực là một
người đàn bà bận rộn một công việc gì đó và có lẽ đang bị làm phiền bởi môt kẻ
không ổn nào. Tôi không biết sẽ phải có thái độ như thế nào và phải nói gì.
Macgơrit đi về phía phòng ngủ của cô ta. Tôi đứng yên tai chỗ.
"Đến đây"
– Cô ta nói với tôi.
Cô lấy mũ ra, lấy
áo choàng bằng nỉ ra và ném cả lên giường rồi ngả người trên một ghế bành lớn,
gần lò sưởi mà cô ta đã cho đốt ấm mãi đến đầu mùa hạ. Và cô ta nói với tôi,
vừa mân mê cái dây đồng hồ đeo tay.
- À, anh có chuyện
gì mới để kể cho tôi nghe?
- Không có gì cả,
nếu không phải là chuyện tôi đã lầm lỗi khi đến đây tối nay.
- Tại sao?
- Bởi vì cô có vẻ
không vừa ý, và chắc chắn, tôi đã làm phiền cô.
- Anh không làm
phiền tôi đâu. Chỉ tại tôi bị bệnh. Tôi đã đau suốt ngày. Tôi không ngủ được.
Và tôi bị nhức đầu ghê gớm.
- Cô cho phép tôi
về để cô có thể đi nghỉ.
- Ồ! Anh có thể ở
lại. Nếu tôi muốn đi nằm, tôi có thể nằm trước mặt anh.
Vào lúc đó có người
gọi chuông.
"Còn ai đến
nữa!" – Nàng nói với một vẻ khó chịu.
Giây lát sau lại có
tiếng gọi chuông.
- Thế ra không có
người nào mở cửa sao? Tôi phải đi mở vậy!
Thực vậy, nàng đứng
dậy và nói với tôi:
- Anh đợi đây.
Nàng đi ngang qua
căn phòng. Tôi nghe tiếng mở cửa. . . Tôi lắng nghe.
Người đàn ông mà
nàng đã ra mở cửa cho, dừng lại ở phòng ăn. Nghe những tiếng đầu tiên, tôi biết
ngay là giọng của ông bá tước N. . .
- Chiều này sức
khoẻ cô ra sao? – Ông ta nói.
- Ốm – Macgơrit trả
lời, giọng khô khan.
- Có lẽ tôi làm
phiền cô?
- Có thể.
- Cô tiếp tôi như
thế sao? Tôi đã làm gì cô, cô Macgơrit thân mến?
- Anh bạn ơi, anh
không làm gì tôi cả. Tôi bị bệnh. Tôi phải đi nằm. Như thế, anh về đi để tôi
vui lòng. Thật là phiền quá. Không chiều nào tôi về mà không thấy anh xuất hiện
trong năm phút. Anh muốn gì? Tôi sẽ là tình nhân của anh? Hãy nghe tôi, tôi đã
nói với anh trăm lần rồi, không là không. Anh làm tôi khó chịu ghê gớm. Anh có
thể đi đến một nơi khác. Tôi gặp lại anh lần này là lần cuối. Tôi không chấp
nhận anh. Điều ấy đã rõ ràng rồi. Vĩnh biệt. À, Nanin đã về. Nó sẽ đem đèn cho
anh đi ra. Xin chào!
Và không thêm một
lời nào, không nghe người thanh niên kia đang lẩm nhẩm điều gì, Macgơrit trở về
phòng nàng và đóng cửa lại một cách dữ dội. Và cũng qua cửa đó, Nanin, đến lượt
chị ta, cũng trở vào gần như tức khắc.
- Chị nge tôi –
Macgơrit nói – chị hãy bảo thẳng với tên ngốc đó, là tôi chán rồi, tôi không
muốn tiếp hắn nữa. Cuối cùng, tôi đã quá mệt mỏi để phải luôn luôn nhìn thấy
những con người ấy đến đây để đòi hỏi tôi chỉ một việc. Chúng nó trả tiền cho
tôi, chúng tưởng như thế là sạch nợ với tôi rồi! Nếu những người đàn bà bắt đầu
cái nghề tủi nhục của chúng tôi biết rõ là sẽ như thế nào, thì chắc họ thích
làm hầu phòng hơn. Nhưng không, thói khoe khoang, sự ham muốn những cái áo dài,
những cỗ xe, những viên kim cương đã lôi cuốn chúng tôi. Người ta tin vào cái
gì mà người ta muốn tin. Bởi vì sự bán thân cũng có cái đức tin của nó. Người
ta làm hao mòn dần dần trái tim người ta, thân xác người ta, sắc đẹp người ta.
Người ta ghê sợ như một con thú dữ, khinh bỉ như một tên cùng khốn. Người ta bị
bao vây bởi những kẻ luôn luôn đến để đòi hỏi nhiều hơn là để ban phát. Và một
ngày nào đó, người ta chết như một con chó chết, sau khi đã làm hư hỏng những
người khác và làm hư hỏng ngay cả mình nữa.
- Xem kìa, bà hãy
bình tĩnh – Nanin nói - chiều nay bà bị xúc động qúa đấy.
- Cái áo dài này
làm tôi bực bội – Macgơrit vừa nói vừa giật tung những móc áo – Đưa cho tôi cái
áo khoác. À, còn Pruđăng?
- Bà ta chưa về.
Khi nào bà ta về, bà ta sẽ đến gặp bà.
- À, lại một con
người nữa – Macgơrit vừa nói vừa cởi áo dài ra và choàng áo khoác vào – A, lại
một người nữa đó, biết tìm gặp tôi khi cần đến tôi, và không thể giúp tôi một
việc gì mà không tính công. Bà ấy biết rằng chiều nay tôi đang chờ tin trả lời.
Và tôi tin chắc bà ta đang lo chạy những công việc riêng tư của mình mà không
để ý gì đến việc giúp đỡ tôi cả.
- Có thể bà ấy bị
người ta giữ lại.
- Hãy cho chúng tôi
rượu dầm trái cây!
- Bà sẽ làm cho bà
đau thêm – Nanin nói.
- Thây kệ, hãy đem
trái cây, patê, hay cánh gà giò hoặc một cái gì đó cũng được, ngay tức khắc.
Tôi đang đói.
Nói lại cho bạn
biết cái ấn tượng mà cảnh tượng đó đã gây nên trong tôi chỉ là vô ích. Bạn có
thể đoán lấy, phải không?
- Anh sẽ ăn tối với
tôi – cô ta nói. – Trong lúc chờ đợi, anh hãy đọc sách. Tôi phải đi vào phòng
trang sức trong chốc lát.
Cô ta đốt ngọn nến
trên một giá đèn, mở cách cửa nơi chân giường và biến mất.
Còn lại một mình,
tôi bắt đầu suy nghĩ về cuộc đời của người con gái đó. Tình yêu nơi tôi lớn
thêm lên vì thương xót.
Tôi sải những bước
dài trong căn phòng nàng, vừa đi vừa nghĩ ngợi thì Pruđăng bước vào.
- À, anh đó à? – Bà ta nói – Macgơrit
đâu rồi?
- Trong phòng trang sức.
- Tôi sẽ chờ, mà này cô ta bảo anh có
duyên đấy. Anh biết điều đấy chứ?
- Không.
- Cô ta không nói cho anh biết tí nào
sao?
- Không một chút nào.
- Anh đến đây có việc gì?
- Tôi đến thăm cô ta.
- Vào nửa đêm?
- Sao lại không?
- Hay nhỉ!
- Cô ta tiếp tôi rất tệ.
- Cô ta sẽ tiếp anh tử tế hơn.
- Bà tin thế?
- Tôi đem về cho cô ta một tin vui.
- Cũng chẳng can chi. Thế cô ta có nói
với bà về tôi không.
- Chiều ngày qua hay đúng hơn là trong
đêm qua, khi anh ra đi với bạn thân của anh. . . Nhân đây, xin hỏi thêm, bạn
anh là người như thế nào? Gatông R. . . ấy, tôi xin thề, người ta gọi thế phải
không?
- Vâng – tôi nói và không nhịn được
cười, khi nhớ đến tâm sự mà Gatông đã thổ lộ với tôi trong lúc Pruđăng thú nhận
mới biết sơ sơ về anh chàng.
- Cậu ấy dễ thương, cậu ấy làm nghề gì?
- Cậu ta có hai mươi ngàn frăng lợi
tức.
- Thật thế à? Thôi được, bây giờ trở
lại chuyện anh. Macgơrit đã hỏi tin tức anh nơi tôi. Cô ta hỏi: Anh là ai? Anh
làm nghề gì? Cuối cùng là tất cả những gì người ta có thể hỏi về một người đàn
ông độ tuổi các anh. Tôi cho cô ấy biết tất cả những gì tôi biết và nói thêm
rằng anh là một anh chàng rất có duyên. Thế đó.
- Tôi cám ơn bà. Giờ đây, bà hãy nói
cho tôi biết ngày qua cô ta đã nhờ bà giúp việc gì?
- Không việc gì cả. Chỉ để đuổi ông bá
tước như cô ta muốn. Nhưng hôm nay cô ta có nhờ tôi một việc. Và chiều nay, tôi
đến đây để trả lời.
Vừa lúc đó, Macgơrit từ phòng tranh
bước ra. Trên đầu là một mũ ngủ được trang trí bằng một chòm tua màu vàng, mà
người ta thường gọi là những dải su.
Trông cô ta thật mê người.
Cô ta đi chân trần, trong một đôi giày
bằng sa tanh, và vừa làm song công việc trải chuốt móng tay.
- À chị - cô ta nói khi trông thấy
Pruđăng - chị có gặp ông quận công?
- Đã gặp.
- Ông ta nói gì với chị?
- Ông ta đã đưa cho tôi.
- Bao nhiêu?
- Sáu ngàn.
- Chị có đem theo đó không?
- Có.
- Ông ta có vẻ khó chịu không?
- Không.
- Con người đáng thương!
Câu "Con người đáng thương"
được nói bằng một giọng không thể diễn tả được.
Macgơrit nhận sáu tờ bạc một ngàn
frăng.
- Thật đúng lúc – nàng nói – Pruđăng
thân mến, chị có cần tiền không?
- Cô biết chứ, cô em ạ, trong hai ngày
nữa, ngày 15, nếu có thể cô cho tôi mược ba hay bốn trăm frăng, cô sẽ giúp tôi
nhiều đó.
- Sáng mai sẽ có, bây giờ đã quá khuya
để có thể đổi tiền lẻ được.
- Đừng quên nhé.
- Chị yên tâm. Chị ở lại dùng bữa tối
với chúng tôi.
- Không! Saclơ đang chờ tôi ở nhà.
- Thế ra chị vẫn luôn luôn bị điên đầu
với cậu ấy sao.
- Ngốc quá em ạ. Thôi ngày mai. Chào
Acmân.
Bà Đuvecnoa ra về.
Macgơrit mở ngăn tủ ra, vứt những tờ
giấy bạc vào bên trong.
- Anh cho phép em đi nằm! – Nàng vừa
nói vừa mỉm cười và đi về phía giường nàng.
- Không chỉ cho phép mà tôi còn yêu cầu
nữa là khác.
Cô ném cái khăn choàng ngoài xuống phía
dưới chân giường và nằm xuống.
- Giờ đây – cô nói – anh hãy đến ngồi
gần em rồi chúng ta nói chuyện.
Pruđăng nói đúng, câu trả lời chị ta
đem về làm cho Macgơrit vui hẳn lên.
- Anh tha thứ cho em thái độ cau có
chiều này chứ?
- Tôi sẵn sàng tha thứ cho cô tất cả
những gì khác nữa.
- Và anh yêu em chứ?
- Trở thành điên được.
- Mặc cho các tính xấu của em nữa?
- Mặc cho tất cả.
- Anh thề đi.
- Vâng – tôi nói nho nhỏ.
Nanin bưng thức ăn
vào. Một con gà giò ướp lạnh, một chai rượu Boócđô, những trái dâu tây và hai
phần ăn.
- Tôi không làm
rượu dầm trái cây – Nanin nói - rượu Boóđô sẽ tốt hơn đối với bà. Thưa ông, có
phải thế không?
- Chắc chắn thế -
tôi trả lời, vẫn còn xúc động bởi những lời nói cuối cùng của Macgơrit và đăm
đăm nhìn nàng với đôi mắt cuồng nhiệt.
- Được – cô ta nói
– hãy đặt tất cả những món ăn trên bàn nhỏ và đẩy bàn đến gần giường. Chúng tôi
sẽ tự phục vụ lấy. Thế là chị đã thức ba đêm rồi, chắc chị cần ngủ lắm, chị đi
ngủ đi. Tôi không cần gì nữa.
- Có cần đóng cửa
lớn, khoá hai lần không?
- Tôi tin là cần. Và nhất là dặn người
ta, từ giờ đến trưa mai đừng để ai vào cả.
TRÀ HOA NỮ
Chương 12
Vào năm giờ sáng, khi ánh sáng ban ngày
bắt đầu xuất hiện xuyên qua những tấm màn, Macgơrit nói với tôi:
- Anh hãy tha lỗi, vì em phải mời anh
ra về, nhưng không thể khác được. Sáng nào, ông quận công cũng đến. Người ta sẽ
cho ông biết là em đang ngủ khi ông đến, và có lẽ ông sẽ đợi cho đến lúc em
dậy.
Tôi ôm đầu Macgơrit vào trong hai bàn
tay. Những sợi tóc nàng rối tung, xoã xuống quanh người, tôi hôn nàng một lần
cuối cùng và nói:
- Bao giờ anh được gặp lại em?
- Thế này nhé – nàng nói – Anh hãy cầm
chiếc chìa khoá mạ vàng để trên lò sưởi, đến mở cửa kia, rồi đem chìa khoá lại
đây và đi đi. Nội trong ngày, anh sẽ nhận được một lá thư và những mệnh lệnh
của em. Bởi vì, anh biết đó, anh phải vâng lời em một cách mù quáng.
- Vâng. Nhưng nếu anh muốn đòi hỏi em
một điều gì đó?
- Điều gì vậy?
- Em hãy để anh giữ chìa khoá này.
- Em chưa làm điều đó với bất cứ một
ai.
- Thế thì hãy làm điều đó cho anh. Và
anh thề với em, anh không yêu em như những kẻ khác yêu em.
- Thôi được, anh hãy giữ lấy. Nhưng em
cho anh biết trước, tất cả đều tuỳ em, chiếc chìa khoá sẽ không ích gì với anh
cả.
- Có những chốt
phía bên trong cửa.
- Độc ác!
- Em sẽ cho lấy
những chốt ra.
- Vậy thì, em yêu
anh một ít chứ?
- Em không biết nói
thế nào. Nhưng hình như là thế. Giờ đây anh đi đi. Em buồn ngủ quá.
Chúng tôi ngồi lại
thêm vài giây nữa trong vòng tay nhau, rồi tôi ra đi.
Đường phố vắng vẻ.
Cả thành phố còn chìm trong giấc ngủ. Một bầu không khí mát dịu lan tràn khắp
phố phường và tiếng động của con người, trong vài giờ nữa sẽ toả ra khắp nẻo.
Hình như cái thành
phố đang ngủ thuộc về tôi. Tôi tìm kiếm trong trí nhớ những người trước đây tôi
thèm muốn hạnh phúc của họ và tôi không tìm ra một người nào để đem so sánh
được rằng tôi lại không hạnh phúc hơn họ.
Được yêu bởi một
người con gái trinh trắng, đem lại cho người ấy lần đầu tiên những bí mật của
tình yêu, đúng là một hạnh phúc lớn. Nhưng đó chỉ là một điều giản dị nhất đời.
Chiếm được một trái tim không quen với những sự tấn công, đó là đi vào một
thành phố bỏ ngỏ và không quân đội canh giữ. Giáo dục, ý thức về bổn phận và
gia đình là những canh phòng dũng mãnh, nhưng không có người canh phòng hăng
hái đến mấy mà một cô gái mười sáu tuổi không thể lừa phỉnh được. Cô gái này,
qua tiếng nói của người yêu, đã cảm nhận được những lời khuyên đầu tiên của tạo
hoá về tình yêu, những lời khuyên này càng có vẻ thuần khiết bao nhiêu thì càng
mãnh liệt bấy nhiêu.
Người con gái càng
lớn lên trong đạo đức chừng nào, càng tự buông mình dễ dàng chừng ấy, nếu không
cho người tình, thì ít nhất cũng cho ái tình. Bởi vì, cô ta không có cả sự nghi
ngờ lẫn nghị lực, và được cô yêu thương là một thắng lợi mà người đàn ông nào
hai mươi lăm tuổi cũng có thể làm được, khi họ muốn.
Và điều này quá
đúng, nên bạn thấy người ta đã bao vây, những thiếu nữ bằng biết bao nhiêu sự
cạnh giữ và những thành luỹ! Nhưng những tu viện không có những bức tường qua
cao, những bà mẹ không có những chiếc chìa khoá đủ chắc, tôn giáo không có
những nghĩa vụ khá liên tục để giam giữ nhưng con chim xinh đẹp đó trong lồng:
Thêm nữa, người ta cũng chẳng thèm nhọc sức vứt lên lồng chim một ít bông hoa.
Bởi thế, các cô gái đó thèm muốn cái thế giới mà người ta che giấu. Các cô tin
chắc rằng thế giới này rất là cám dỗ. Và các cô phải tìm kiếm lắng nghe tiếng
nói đầu tiên, qua những chấn song, đến cả những bí mật của thế giới đó, và ban
phép lành cho bàn tay đầu tiên đã vén lên một góc bức màn bí ẩn của nó.
Nhưng để được yêu
thương thực sự của một kỹ nữ, đó là một chiến thắng khó khăn hơn nhiều. Ở những
con người này, thể xác đã giũa mòn tâm hồn, giác quan và đốt cháy trái tim, sự
truỵ lạc bọc kín tình cảm trong một lớp áo giáp bằng sắt. Những lời nói với họ,
họ đã biết từ lâu rồi. Những phương tịên người ta dùng đến, họ đã hiểu cả rồi.
Cả tình yêu mà họ gây nên, họ cũng đã bán nó rồi. Họ thương yêu vì nghề nghiệp,
chứ không phải vì tình cảm. Họ được giữ gìn kỹ lưỡng bởi những tính toán hơn
hẳn sự tính toán một nữ đồng trinh có được bởi người mẹ hay bởi tu viện. Vì
thế, họ đã phát minh ra tiếng "bất thường" cho những tình yêu không
buôn bán mà thỉnh thoảng họ tạo nên như một sự yên nghỉ, một sự tha thứ hay một
niềm an ủi. Không khác nào những người cho vay nặng lãi đã bòn rút tiền của
hàng ngàn người và tin rằng mình đã chuộc hết tội lỗi, vì một ngày nào đó, đã
đem cho một kẻ khốn nạn đang chết đói nào đó hai mươi lăm frăng không đòi hỏi
tiền lời, cũng không đòi hỏi biên lai. Vả lại, khi Thượng Đế cho phép một kỹ nữ
được biết đến tình yêu, cái tình yêu đó ban đầu giống như một sự tha thứ, gần
như luôn luôn trở thành một điều trừng phạt đối với cô ả. Không có sự tha thứ
nào lại không kèm theo hình phạt. Khi một người mà quá khứ đáng chê trách, bỗng
dưng cảm thấy bị xâm chiếm bởi một tình yêu sâu đậm chân thực, không cưỡng lại
được, một tình yêu mà người đó chẳng bao giờ tin rằng mình có thể có; khi người
đó đã thú nhận cái tình yêu đó rồi thì người đàn ông được yêu như thế đã chế
ngự người đàn bà ấy đến mức độ nào rồi! Người đàn ông đó cảm thấy mạnh hơn bao
giờ hết, và với quyền lực tàn nhẫn, được phép nói với người đàn bà: "Cô
không đối xử với tình yêu khác hơn là cô đã đối xử với tiền bạc" .
Thế là những người
đàn bà này không còn biết vin vào những bằng chứng nào nữa. Một đứa trẻ trong
một chuyện ngụ ngôn, sau khi nô đùa thật lâu trong cánh đồng, vùng la lớn:
"Cứu tôi với!" để phá rối những người đang làm việc; một ngày kia đã
bị một con gấu vồ và không làm sao cho những kẻ trước đây thường bị lừa có thể
tin rằng lần này những tiếng kêu cứu của mình thật. Đối với những cô gái khốn
khổ kia cũng như thế, khi họ yêu thương một cách nghiêm chỉnh. Các cô đã nói
dối qúa nhiều lần rồi, người ta không còn có thể tin ở các cô nữa.
Và các cô bị nhai
ngấu nghiến bởi tình yêu, giữa sự hối hận của chính các cô.
Do đó, chúng ta
thấy được những sự hy sinh cao cả và những chốn tu hành khắc khổ, mà một vài
người trong số họ đã nêu được những gương sáng.
Nhưng khi người đàn
ông đã gây được cái tình yêu cứu rỗi có một tâm hồn khá cao thượng để chấp nhận
nó, không cần nhớ đến quá khứ khi người đó lăn xả vào; và cuối cùng, khi người
đó yêu như người đó đã được yêu, người đàn ông ấy sẽ chỉ trong một lần, làm cạn
tất cả những cảm xúc trần tục của mình. Và sau cái tình yêu đó, quả tim anh ta
sẽ đóng kín trước bất cứ mối tình nào khác.
Những suy tư đó
không đến trong tâm trí tôi vào buổi sáng khi tôi trở về nhà. Chúng có lẽ chỉ
là sự tiên cảm của những điều sẽ đến với tôi. Và mặc cho tình yêu của tôi đối
với Macgơrit, tôi đã không thấy được, dù chỉ thoáng qua, những hậu quả tương
tự. Những suy nghĩ đó, hôm nay mới đến với tôi. Tất cả đều đã được kết thúc,
không thể nào trở lại. Nhưng suy nghĩ đó là hậu quả tự nhiên của những cái gì
đã xảy ra.
Nhưng giờ đây,
chúng ta hãy trở về, tôi sung sướng đến điên người, khi nghĩ rằng những ngăn
cách đặt ra giữa tôi và Macgơrit do trí tưởng tượng của tôi vẽ ra đều tan biến
cả, rằng tôi sẽ có nàng, tôi đã chiếm được một chỗ nào đó trong tư tưởng nàng,
tôi đã có trong túi tôi chiếc chìa khoá đó. . . Tôi thoả mãn trước cuộc đời,
tôi đã tự phụ về tôi, và tôi biết ơn Thượng Đế đã ban cho tôi tất cả những thứ
đó.
Một ngày nào đó,
một người trai trẻ đi trên đường phố, bỗng chạm nhầm một người đàn bà. Anh ta
nhìn, anh ta quay đầu lại, rồi bỏ đi.
Người đàn bà ấy,
anh ta không quen biết. Người đàn bà ấy có những thú vui, những đau buồn, những
mối tình mà anh không dự vào một chút nào cả. Anh không sống vì người đàn bà
đó, và có lẽ, nếu anh nói với người đàn bà đó, người đàn bà đó sẽ chế giễu anh,
cũng như Macgơrit đã chế giễu tôi. Những tuần lễ, những tháng, những năm trôi
qua. Và bỗng nhiên khi hai người đi theo đệnh mênh của mình trong một trật tự
khác biệt, sự ngẫu nhiên dẫn họ về đối diện với nhau. Nhưng người đàn bà trở thành
người tình của chàng trai đó, yêu thương anh. Thế nào? Tại sao? Hai người đó
như nhập làm một. Thân hình vừa mới nhen nhúm đã hình như thường xuyên hiện hữu
với họ tự những bao giờ. Và tất cả những gì từng xảy ra trước đó, đã mờ xoá
trong trí nhớ của hai người. Thật là lạ lùng. Nhưng chúng ta phải thú nhận điều
đó.
Cũng như tôi, tôi
không còn nhớ tôi đã sống cái đêm đó như thế nào. Toàn thân tôi toả rạng niềm
vui, khi nhớ lại những lời trao đổi trong cái đêm ban đầu đó. Hoặc là Macgơrit
đã khôn khéo lừa phỉnh, hoặc là nàng đã có những say đắm đột ngột đối với tôi.
Những say đắm này đã bộc lộ trong cái hôn đầu tiên. Rồi đôi khi nó cũng chết
đi, như nó đã được sinh ra.
Càng nghĩ những
điều đó, tôi càng tự nhủ rằng Macgơrit không có một lý do nào để biểu lộ giả
tạo một tình yêu mà nàng không cảm thấy. Tôi tự nhủ, những người đàn bà có hai
cách thương yêu, và cách này có thể từ cách kia mà ra. Họ thương yêu hoặc với
trái tim, hoặc vì nhục dục. Nhiều khi một người đàn bà chấp nhận một tình nhân
chỉ vì để vâng theo mệnh lệnh của các giác quan, bỗng biết được, không hề mong
đợi, những bí mật của tình yêu không vật chất, và rồi chỉ sống với trái tim. Và
nhiều khi một thiếu nữ chỉ tìm trong hôn nhân sự hoà hợp của hai tình thương
thuần tuý, bỗng tiếp nhận được sự hiện hữu của tình yêu vật chất – cái kết cục
mãnh liệt từ những ấn tượng trong trắng nhất của tâm hồn.
Tôi ngủ thiếp đi
giữa những ý nghĩ đó. Tôi bị đánh thức bởi một lá thư của Macgơrit với những
dòng chữ sau đây:
"Đây, những
mệnh lệnh của em. Chiều nay, ở Vôđơvin. Anh hãy đến vào lúc nghỉ giải lao hồi
thứ ba" .
M. G Tôi cất tờ
giấy đó trong ngăn kéo, để được luôn luôn nhìn thấy cái thực tại ấy dưới bàn
tay trong trường hợp tôi nghi ngờ, và điều này thỉnh thoảng đã xảy ra.
Cô không bảo tôi
đến gặp ban ngày, nên tôi e ngại không đến nhà cô. Nhưng tôi có một ước muốn
rất lớn là được gặp cô trước buổi tối. Tôi đến Xăng Êlidê. Nơi đó, như đêm qua,
tôi lại thấy cô đi qua rồi lại đi về.
Lúc bảy giờ, tôi đã
có mặt ở Vôđơvin. Không bao giờ tôi đến rạp hát sớm đến thế.
Tất cả các lô lần
lượt đầy người. Chỉ một lô vẫn còn trống ; lô trước sân khấu, ở tầng trệt.
Bắt đầu hồi thứ ba,
tôi nghe cánh cửa lô ấy mở ra và Macgơrit xuất hiện.
Nàng đi ngay phía
trước, nhìn xuống dàn nhạc tìm kiếm. Thấy tôi ở đó, nàng đưa mắt nhìn tôi cảm
ơn.
Tối hôm đó, nàng
đẹp lạ lùng.
Phải chăng tôi là
nguyên nhân của sự trang điểm đó? Nàng đã yêu tôi đến mức nào để tin rằng nàng
càng đẹp, tôi càng sung sướng? Tôi vẫn chưa biết được, nhưng nếu ý nghĩ nàng
như thế, thì nàng đã thành công. Bởi vì khi nàng xuất hiện, những cái đầu người
như dựa vào nhau gợn sóng, và các diễn viên đang trên sân khấu, cũng đã đưa mắt
nhìn con người mà sự diễn xuất hiện làm xôn xao bao nhiêu khán giả.
Và tôi đã có cái
chìa khoá căn phòng người đàn bà ấy. Trong ba hay bốn giờ nữa nàng sẽ là của
tôi.
Người ta chê bai
những kẻ đã phá sản vì những nữ diễn viên và những gái giang hồ. Điều làm tôi
ngạc nhiên, là những người đàn ông đó đã không vì những người đàn bà ấy mà hành
động hai mươi lần điên rồ hơn. Phải sống như tôi cuộc sống đó, để biết những
khoe khoang nhỏ nhặt hàng ngày mà những người đàn bà dành cho họ đã gắn chặt
đến thế nào trong trái tim họ, bởi vì chúng ta không có lời nào khác, để nói
đến tình yêu của người đàn ông đó đối với người đàn bà họ yêu.
Pruđăng ngồi vào
trong lô. Và một người đàn ông mà tôi biết, đó là bá tước G. . . ngồi ở cuối
lô.
Thấy người này, một
luồng giá lạnh đi qua tim tôi.
Dĩ nhiên, Macgơrit
nhận thấy ấn tượng gây nên nơi tôi, bởi sự hiện diện của người đàn ông trong lô
nàng. Bởi vì nàng lại mỉm cười với tôi lần nữa, và quay lưng lại bá tước, nàng
có vẻ như chăm chú nhìn vở kịch đang diễn. Đến lần nghỉ giải lao hồi thứ ba,
nàng quay lại nói vài tiếng. Ông bá tước đứng dậy, rời lô. Và Macgơrit ra hiệu
cho tôi đến gặp nàng.
- Xin chào! – Nàng
nói với tôi khi tôi bước vào và đưa tay cho tôi.
- Xin chào! – Tôi
đáp, vừa cho Macgơrit, vừa cho Pruđăng.
- Mời anh ngồi.
- Nhưng tôi chiếm
chỗ của một người. Bá tước G. . . sẽ trở lại chứ?
- Vâng, tôi đã nhờ
ông đi lấy một ít quà, để chúng ta có thể nói chuyện với nhau trong chốc lát.
Bà Đuvecnoa là chỗ thân tình.
Macgơrit vừa nói
vừa đứng dậy, đi trở vào phía bóng tối của lô, ôm hôn lên trán tôi và hỏi:
- Tối nay anh có
chuyện gì vậy?
- Tôi hơi mệt một
tí.
- Vậy anh phải đi
nằm đi – nàng đáp lại, với một vẻ hơi mỉa mai rất hợp với cái đầu thon nhỏ và
tinh ranh của nàng.
- Ở đâu?
- Ở nhà anh ấy.
- Cô biết rõ, tôi
sẽ không ngủ được ở đó.
- Thế thì không nên
làm nũng với chúng tôi ở đây chỉ vì anh thấy một người đàn ông ở trong lô tôi.
- Không phải vì lẽ
ấy đâu.
- Không, em biết
lắm, và anh có lỗi. Thôi chúng ta đừng nói đến điều ấy nữa. Sau buổi hát, anh
hãy đến nhà Pruđăng. Anh hãy đợi ở đó, cho đến khi nào em gọi anh. Anh hiểu
chứ?
- Vâng.
Tôi có thể không
vâng lời nàng được chăng?
- Anh vẫn yêu em
luôn luôn chứ? – Cô nói tiếp.
- Cô còn hỏi tôi
điều đó?
- Anh có nghĩ đến
em không?
- Suốt cả ngày.
- Anh có biết, em
lo sợ sẽ yêu anh mất không? Anh hãy hỏi lại Pruđăng thì rõ.
- A! Thật là mệt
quá – cô gái lớn mập này trả lời.
- Bây giờ, anh hãy
trở về chỗ cũ của anh. Ông bá tước sắp vào. Và ông ta gặp anh ở đây không lợi
ích gì.
- Tại sao?
- Bởi vì nhìn thấy
ông ta, anh sẽ khó chịu.
- Không. Nếu cô bảo
tôi rằng cô muốn đến Vôđơvin chiều nay, tôi cũng có thể thuê cái lô này cho cô
như ông ta.
- Khốn nỗi ông ta
đã thuê cái lô này cho em mà em không hề đòi hỏi. Và ông ta xin được cùng đi
với em. Anh biết rõ chứ, em không thể từ chối. Tất cả điều em có thể làm, là
viết thư cho anh, để anh biết em ở đâu, để anh có thể thấy em. Và bởi vì chính
em, em cũng có cái mong muốn được nhìn lại anh sớm hơn.
- Anh có lỗi, xin
thứ lỗi cho anh.
- Tốt quá! Hãy vui
vẻ trở về chỗ anh đi. Và nhất là đừng có ghen nữa.
Cô ôm hôn tôi lần
nữa. Và tôi đi ra.
Trong hành lang,
tôi gặp ông bá tước đang đi trở vào.
Tôi trở lại chỗ
ngồi của tôi.
Nói cho cùng sự
hiện diện của ông G. . . trong lô của Macgơrit là một chuyện dễ hiểu thôi. Ông
đã là người tình của nàng, ông thuê cho hàng một cái lô, ông cùng đi với nàng
đến rạp hát. Tất cả những cái đó là đương nhiên. Và khi tôi có người tình là
một cô gái như Macgơrit, tôi phải chấp nhận những thói quen của nàng. Phần còn
lại của đêm đó, xem ra, tôi vẫn chịu không ít khốn khổ. Tôi rất buồn lúc đi ra,
sau khi đã thấy Pruđăng, bá tước G. . . và Macgơrit lên chiếc xe chờ họ ở trước
cửa.
Tuy thế, mười lăm phút sau, tôi có mặt
tại nhà Pruđăng, chị ta vừa mới về.
TRÀ HOA NỮ
Chương 13
Anh đến cũng nhanh, gần như chúng tôi –
Pruđăng nói.
- Vâng – tôi trả lời như máy – Macgơrit
ở đâu?
- Ở nhà cô.
- Một mình thôi?
- Với ông G. . .
Tôi sải từng bước dài trong phòng
khách.
- Thế anh cần gì?
- Chị nghĩ tôi chờ ở đây, mãi đến khi
ông G. . . ra khỏi nhà Macgơrit thì có ngố lắm không?
- Anh cũng thế, anh không có lý chút
nào. Anh hiểu chứ. Macgơrit không thể đuổi ông bá tước ra khỏi nhà. Ông G. . .
đã quen cô từ rất lâu. Ông đã chi cho cô rất nhiều tiền. Và ông sẽ còn chi nữa
cho cô. Macgơrit chi tiều hơn một trăm ngàn frăng mỗi năm. Cô ta có nhiều nợ.
Ông quận công gửi cho cô ta tất cả những gì mà cô đòi hỏi. Nhưng cô không bao
giờ dám đòi hỏi tất cả những gì cô cần. Cô không thể gây rối với ông bá tước đã
chi cho cô ít nhất khoảng chục ngàn frăng mỗi năm. Macgơrit yêu anh lắm, anh
bạn thân mến. Nhưng sự dan díu giữa anh và cô, trong phạm vi lợi ích của cô và
lợi ích của anh, không thể nghiêm túc được. Không thể với bảy hay tám ngàn
frăng trợ giúp, anh có thể bảo đảm được sự xa xỉ của cô gái đó. Số tiền đó
không đủ để bảo quản chiếc xe ngựa của cô ta. Anh hãy chấp nhận Macgơrit, như
cô ta trong hiện tại, một cô gái thông minh xinh đẹp. Anh hãy là người tình của
cô trong một tháng, hai tháng. Anh hãy đem đến cho cô ta những bó hoa, những
quà tặng và những lô hát. Nhưng anh không nên đặt thêm vào đầu anh cái gì khác
nữa, và không nên cho cô ta thấy những cảnh ghen tuông lố bịch. Anh có biết anh
giao thiệp với một người như thế nào không? Macgơrit không phải là một mẫu mực
đạo đức. Anh được lòng cô, anh yêu cô, anh không nên băn khoăn gì hơn nữa. Tôi
thấy anh hay hay với tính hay hờn dỗi ấy! Anh đã có được một tình nhân duyên
dáng nhất ở Paris. Cô đã tiếp anh trong một căn phòng lộng lẫy. Cô mang đầy kim
cương. Cô không làm tốn của anh một đồng xu. Anh nghĩ xem. Thế mà anh không
bằng lòng! Thật quá lắm! Anh đòi hỏi nhiều qúa.
- Chị có lý. Nhưng có cái gì đó mạnh
hơn tôi. Ý nghĩ người đàn ông đó là tình nhân của cô ta làm cho tôi đau đớn vô
cùng.
- Trước hết – Pruđăng tiếp - người đó
có còn là tình nhân của cô ấy nữa không? Đó là một người đàn ông cô ta cần, chỉ
thế thôi. Đã hai ngày rồi cô ta đóng cửa, không tiếp ông ta. Sáng nay, ông ra
lại đến, cô ta không còn cách nào khác là chấp nhận cái lô đã thuê và để ông ta
được đi cùng. Ông ta đã dẫn cô trở về, đã lên nhà cô chốc lát. Ông sẽ không ở
lại, bởi vì anh đang chờ đây. Tất cả những cái đó đều rất tự nhiên đối với tôi.
Vả lại, anh đã chấp nhận ông quận công kia mà.
- Vâng, nhưng đó là một ông già. Và tôi
tin chắc Macgơrit không phải là tình nhân của ông ấy. Hơn nữa, người ta có thể
chấp nhận một sự dan díu mà không chấp nhận đến hai. Sự dễ dãi đó quả đúng như
một điều tính toán và nó đưa con người đã đồng ý sự chấp nhận đó, ngay cả khi
vì tình yêu, tới gần những kẻ ở hạng thấp hơn, xem sự chấp nhận là một nghề
nghiệp và rút ra lợi lộc từ cái nghề đó.
- Ồ, anh bạn, anh lạc hậu quá! Tôi đã
từng thấy biết bao nhiều người quý phái nhất, sang trọng nhất, giàu có nhất, đã
làm điều tôi khuyên anh không một chút khó nhọc, không hổ thẹn, không hối hận!
Và điều đó, ngày nào cũng xảy ra. Nhưng anh nghĩ, làm thể nào để những cô gái
giang hồ ở Paris có thể giữ vững nếp sống sang trọng của các cô, nếu các cô
không chấp nhận ba hay bốn tình nhân cùng một lúc? Không có tài sản nào dù cho
lớn đến mấy đi nữa có thể, chỉ một mình nó, cung cấp đủ những chi phí của một
người đàn bà như Macgơrit. Một tài sản chừng năm trăm ngàn frăng lợi tức là một
tài sản lớn ở nước Pháp. Nghe đây ông bạn, năm trăm ngàn frăng lợi tức sẽ là
không đủ để chi tiêu. Và đây là lý do tại sao: một người có một lợi tức như
thế, dĩ nhiên, có một ngôi nhà sắp đặt, những con ngựa, những người giúp việc,
những chiếc xe, những cuộc đi săn, những bạn hữu. Thường thì, những người đó
đều có vợ, có con, phải đi đây đi đó, phải bàn bạc, du lịch và gì gì nữa. . .
tôi nào có biết! Tất cả những thói quen đó, đã có rồi. Và như thế, người đó
không thể vứt bỏ đi được mà khỏi bị xem như đã phá sản và không gây tai tiếng.
Tính toán tất cả với năm trăm ngàn frăng mỗi năm, và thế cũng là đã quá nhiều.
Thế thì phải có những mối tình khác để bổ túc cho chi phí hàng năm của người
đàn bà. Với Macgơrit, điều này có nhiều thuận lợi hơn. Cô ta nhờ một phép lạ
của trời, đã rơi vào một ông nhà giàu có đến cả chục triệu, mà vợ và con gái
đều chết cả. Ông ta lại cũng toàn có những đứa cháu cũng giàu có. Ông đã cho cô
ta tất cả những gì cô muốn, và chẳng cần đòi hỏi ở cô điều gì cả. Nhưng cô ta
không thể xin quá bảy mươi ngàn frăng mỗi năm, và tôi chắc chắn, nếu cô ta đòi
hỏi nhiều hơn nữa, thì măc cho sự giàu có và tình thương đối với cô ta, ông
cũng sẽ từ chối.
Tất cả những thanh niên có từ hai mươi
đến ba mươi ngàn frăng lợi tức ở Paris, nghĩa là có vừa đủ để có thể sống trong
thế giới họ lui tới, hiểu rất rõ, khi họ là tình nhân của một người đàn bà như
Macgơrit, số tiền họ cho người ấy không đủ để trả tiền thuê nhà và thuê người
giúp việc. Những người này không nói với cô ta rằng họ biết điều đó. Họ có vẻ
như không biết gì cả. Và khi họ đã cạn rồi, thì họ bỏ đi. Nếu họ huênh hoang
muốn trang trải mọi sự, họ sẽ phá sản nhưn những đứa ngu ngốc và sẽ chết ở Phi
Châu, sau khi để lại trăm ngàn frăng nợ ở Paris. Anh tin là người đàn bà kia
biết ơn họ? Không một tí ơn nghĩa nào cả. Trái lại, cô ta bảo, cô ta đã hy sinh
địa vị của mình cho họ, và trong khi đi với họ, cô ta đã thiệt thòi về tiền
bạc. Than ôi! Anh cho những chi tiết đó là nhục nhã phải không? Đúng vậy. Anh
là một thằng đàn ông có duyên mà tôi thương với tất cả tấm lòng. Tôi đã sống từ
hai mươi năm nay giữa những cô gái giang hồ, tôi biết các cô là thế nào và các
cô đáng giá như thế nào. Tôi không muốn thấy anh đặt thành quan trọng cái bất
thường nhất thời của một người con gái đẹp đối với anh.
Pruđăng nói tiếp:
- Hơn nữa, ngoài điều đó ra, chúng ta
hãy cứ chấp nhận rằng Macgơrit yêu anh đến nỗi có thể từ chối ông bá tước và
ông quận công, trong trường hợp ông này biết được sự dan díu của cô và bảo cô
phải lựa chọn giữa anh và ông ta. Sự hy sinh của cô đối với anh sẽ rất to lớn,
không chối cãi được. Vậy về phía anh, anh sẽ đền bù lại sự hy sinh tương đương
nào? Rồi khi sự chán chường đã đến, khi cuối cùng, anh thấy anh không còn sự
ham muốn nữa, anh sẽ làm gì để đền bù lại việc anh đã làm cho cô ta thiệt thòi?
Không có gì cả. Anh đã tách rời cô ta khỏi cái thế giới mà trong đó là cả tài
sản và tương lai của cô ta. Cô ta sẽ cho anh những năm đẹp đẽ nhất của cuộc đời
và cô ta sẽ bị lãng quên. Hoặc anh sẽ là một người đàn ông tầm thường, thế là
anh vứt cả quá khứ vào mặt cô ta. Anh sẽ bảo cô ta khi từ giã rằng anh chỉ làm
như tất cả những tình nhân khác, và anh sẽ bỏ mặc cô ta trong sự đói nghèo khổ
đương nhiên. Hoặc anh sẽ là một người đàn lương thiện, anh bắt buộc phải giữ
nàng bên anh, và anh sẽ tự chuốc hoạ cho chính anh. Bởi vì sự dan díu đó có thể
tha thứ được ở một thanh niên, nhưng không thể chấp nhận được nơi người đứng
tuổi. Cô ta trở thành một chướng ngại cho tất cả. Cô ta không cho phép tạo nên
một gia đình, hay tạo nên một tham vọng, những mối tình thứ hai và cuối cùng
của người đàn ông. Vậy hãy tin tôi, anh bạn ạ, hãy chấp nhận sự vật đúng với
giá trị của nó, những người đàn bà như những người đàn bà, và không cho phép
một cô gái giang hồ được tự nhận là chủ nợ của anh, bất cứ ở phương diện nào!
Lời lẽ được nói ra thực sự không ngoan,
với một lý luận mà tôi không ngờ Pruđăng có thể có. Tôi không tìm ra lý lẽ nào
để trả lời, ngoài việc thừa nhận chị ta có lý. Tôi đưa tay bắt tay chị ta và
cảm ơn những lời khuyên bảo.
- Vững vàng nhé! - Chị ta nói với tôi –
Anh hãy đuổi xa những lý thuyết sai trái đó đi và hãy tười cười. Cuộc đời là
đẹp, anh bạn thân mến, tuỳ theo mặt kính xuyên qua đó người ta nhìn cuộc đời.
Anh hãy đến hỏi ý kiến Gatông. Bạn anh là một người nổi bật đối với tôi, hiểu
được tình yêu như tôi đã hiểu. Có một điều anh phải tin chắc, nếu không anh sẽ
trở thành một thằng con trai vô vị: Ngay lúc này, gần đây, một cô gái đẹp đang
trông đợi người đàn ông ở nhà nàng cút đi, đang nghĩ đến anh và sẽ giữ anh ở
lại suốt đêm, yêu quý anh. Tôi tin chắc như thế. Và bây giờ, anh hãy ra đứng
cạnh cửa sổ với tôi, hãy nhìn ông bá tước sắp đi ra và nhường chỗ lại cho chúng
ta.
Pruđăng mở một cánh cửa ra. Chúng tôi
dựa tay trên bao lơn, cùng đứng bên cạnh nhau.
Chị ta nhìn những người đi đường, lúc
này đã rất thưa thớt. Còn tôi, tôi đang mơ mộng.
Tất cả những gì chị ta nói quay vù vù
trong đầu tôi. Và tôi không thể chấp nhận Pruđăng có lý. Nhưng tình yêu chân
thực nơi tôi đối với Macgơrit khó hoà hợp với lập luận đó. Thỉnh thoảng tôi lại
thở ra, làm cho Pruđăng quay lại nhìn và nhún vai, như một người thầy thuốc
thất vọng trước một bệnh nhân.
"Người nhận thấy cuộc đời thật
ngắn ngủi – tôi tự nhủ, - xuyên qua sự nhanh chóng của những cảm giác" .
Tôi chỉ biết Macgơrit từ hai ngày nay, cô ta chỉ là tình nhân của tôi từ ngày
hôm qua. Nhưng cô ta đã xâm nhập vào tư tưởng tôi, vào trái tim tôi, vào cuộc
đời tôi, quá sâu đậm đến nỗi cuộc viếng thăm của ông bá tước G. . . đối với tôi
đã thành tai hại
Cuối cùng, ông bá tước đi ra, lên xe và
biến mất. Pruđăng đóng cửa sổ lại.
Vừa lúc đó, Macgơrit gọi chúng tôi:
- Các bạn đến nhanh lên. Đã đặt bàn ăn
rồi. Chúng ta sẽ ăn tối.
Khi tôi vào nhà, Macgơrit chạy đến,
nhảy chồm lên ôm cổ tôi, hôn tôi say đắm.
- Chúng ta cau có luôn luôn phải không?
– nàng nói với tôi.
- Không đã chấm dứt rồi – Pruđăng đáp –
Tôi đã cho anh ta một bài luân lý và anh ta hứa sẽ ngoan hơn.
- Quý hoá lắm!
Ngoài ý muốn, tôi đưa mắt nhìn lên
giường nàng. Không có gì xáo động cả. Còn Macgơrit, nàng đã choàng vào người
cái áo khoác màu trắng rồi.
Chúng tôi ngồi vào bàn.
Duyên dáng, dịu dàng, cởi mở, Macgơrit
có tất cả.
Thỉnh thoảng tôi tự thấy mình bắt buộc
phải hiểu rằng tôi không có quyền đòi hỏi nơi nàng cái gì khác, rằng nhiều
người sẽ cảm thấy sung sướng nếu được ở địa vị tôi. Và như người chăn chiên của
Vyyếtgin, tôi chỉ việc vui hưởng những giờ nhàn rỗi mà một người thần linh, hay
đúng hơn, một nữ thần, đã đem lại cho tôi.
Tôi cố gắng đem thực hành những lý
thuyết của Pruđăng và cũng vui vẻ như hai người bạn gái của tôi. Nhưng những
điều mà ở hai người bạn gái này là tự nhiên, thì nơi tôi, lại là sự cố gắng, và
cái cười gượng ép của tôi, mà các cô hiểu lầm là thành thực, đang đi sát bên
những giọt lệ.
Cuối cùng bữa ăn tối chấm dứt. Tôi ở
lại một mình với Macgơrit. Theo thói quen, nàng đến ngồi trên tấm thảm trước lò
sưởi và nhìn ngọn lửa trong lò với một vẻ buồn bã.
Nàng suy tư. Về điều gì? Tôi không
hiểu. Tôi nhìn nàng thương cảm và gần như sợi hãi ngĩ đến điều tôi sẵn sàng đau
đớn thay cho nàng.
- Anh biết em đang nghĩ gì không?
- Không.
- Về một sự sắp đặt mà em đã tìm thấy.
- Sắp đặt về cái gì?
- Em không thể nói cho anh biết được.
Nhưng em có thể cho anh biết kết quả. Kết quả là từ đây đến một tháng nữa, em
sẽ được tự do. Em không còn nợ nần gì cả. Và chúng ta sẽ được cùng đi nghỉ mùa
hè ở thôn quê.
- Em không thể cho anh biết em đã làm
như thế nào à?
- Không. Chỉ cần anh thương em như em
đã thương anh, và mọi sự sẽ tốt đẹp hơn.
- Chỉ mình em tìm được sự sắp đặt đó?
- Vâng.
- Và sẽ thực hiện một mình?
- Chỉ một mình em, sẽ có những phiền
phức – Macgơrit nói với một nụ cười không bao giờ tôi quên được – Nhưng chúng
ta sẽ cùng chia cái lợi.
Tôi không thể không đỏ mặt, khi nghe
đến chữ lợi. Tôi nhớ đến chuyện Manông Lexcô cùng ăn với Đêgriơ tiền của ông B.
. .
Tôi trả lời với giọng hơi cứng rắn và
đứng dậy:
- Em cho phép anh, Macgơrit thân mến,
chỉ nhận những cái lợi do những cuộc kinh doanh anh nghĩ ra, và tự anh khai
thác lấy.
- Điều đó nghĩa là thế nào?
- Điều đó nghĩa là, anh rất nghi ngờ
ông bá tước G. . . là người chung công việc với em trong cuộc làm ăn đó, mà anh
sẽ không chấp nhận dự vào, hay thu nhận những món lợi.
- Anh là một đứa con nít. Em tin
anh yêu em. Em đã lầm. Thôi được.
Ngay lúc đó, cô
đứng dậy, đến mở pianô ra và bắt đầu đánh bài "Khuyên mời vũ điệu"
cho đến đoạn luôn luôn làm cho cô phải dừng lại chỗ những điệu lên cao.
Phải chăng đó là
thói quen, hay vì muốn nhắc cho tôi nhớ lại ngày chúng tôi đã gặp nhau? Tất cả
những gì tôi biết là chính cái nhạc điệu đó đã đưa những kỷ niệm ngày trước trở
về với tôi. Tôi tiến lại gần nàng, đưa hai tay ôm lấy đầu nàng, và tôi hôn
nàng.
- Em tha lỗi cho
anh chứ? – tôi nói.
- Anh đã thấy rồi
đó – nàng đáp lại – nhưng anh hãy để ý, chúng ta mới chỉ yêu nhau đến ngày thứ
hai và em đã có cái để tha lỗi cho anh. Anh không giữ đúng những điều đã hứa:
"Vâng lời mù quáng" .
- Em muốn gì,
Macgơrit? Anh yêu em nhiều. Anh ghen tị từng tý đối với những ý nghĩ của em.
Điều em đề nghị với anh lúc nãy làm anh vui mừng đến điên đầu. Nhưng cái bí ẩn
liên quan tới sự thực hiện ý định đó như siết chặt trái tim anh.
- Xem nào. Chúng ta
lý luận một chút – nàng vừa nói, vừa nắm lấy hai bàn tay tôi và nhìn tôi, cười
với một nụ cười duyên dáng mà tôi không thể nào cưỡng lại được – Anh yêu em có
phải không? Anh sẽ sung sướng được sống ba hay bốn tháng ở thôn quê chỉ với
mình em. Em cũng thế, em sẽ sung sướng với sự sống cô đơn chung cho hai người.
Không phải chỉ sung sướng với sự sống cô đơn chung cho hai người. Không phải
chỉ sung sướng mà thôi, em lại còn cần điều đó cho sức khoẻ của em nữa. Em
không thể rời Paris trong một thời gian lâu thế mà không sắp xếp lại công việc
của em. Và những công việc của một người đàn bà như em bao giờ cũng rất bề bộn,
phức tạp. Tuy nhiên, em đã tìm được phương cách để làm ổn thoả tất cả những
công việc của em, và tình của em đối với anh. Vâng, anh đừng cười em đã yêu anh
như điên dại. Ấy thế mà anh lại làm ra vẻ bề trên và nói với em bằng những lời
nặng nề. Con nít, ba lần con nít. Anh chỉ cần nhớ: em yêu anh. Và anh không
phải lo lắng e ngại gì cả. Đồng ý chứ? Được không?
- Tất cả những gì
em muốn đều được anh đồng ý, em đã biết rõ rồi mà.
- Thế là không đến
một tháng nữa, chúng ta sẽ về một làng quê nào đó. Chúng ta sẽ đi dạo chơi ở bờ
sông và uống sữa tươi. Điều đó đối với anh, có vẻ lạnh lùng lắm. Em, Macgơrit
Gôchiê, lại nói như thế đó. Anh ạ, cái đời sống ở Paris này hình như đã làm cho
em rất sung sướng những vẫn không đốt cháy em được. Em đã chán ngán và em đã có
những ước muốn đột ngột hướng về một cuộc sống yên lặng hơn, có thể nhắc lại
cho em thời thơ ấu. Người ta luôn luôn có một thơ ấu, mặc dù sau này sẽ là như
thế nào. Ôi! Anh hãy yên tâm. Em sẽ không bao giờ bảo anh, em là con gái của
một ông đại tá về hưu, em đã từng được nuôi dưỡng ở Xanh Đơni. Em là một đứa
con gái khốn khổ ở thôn quê, và cách đây sáu năm em chưa biết được ngay chính
cái tên của em. Anh đã yên tâm chưa? Chính thế đấy. Tại sao anh lại là người
đầu tiên mà em đề nghị cùng chia sẻ niềm vui của ước vọng đã đến với em? Không
nghi ngờ gì cả, bởi vì em đã nhận thấy được anh yêu em vì em, chứ không vì anh.
Còn những kẻ khác, chỉ yêu em vì sự ích kỷ của họ.
Em thường về thôn
quê. Nhưng chẳng bao giờ về theo như ý muốn. Chính em tin ở anh, để tạo nên cái
hạnh phúc đơn sơ kia. Vậy anh không nên độc ác mà hãy ban cho em cái hạnh phúc
đó.
Anh hãy tự nhủ:
"Nàng không thể sống lâu hơn được. Một ngày kia, tôi sẽ hối hận, nếu không
làm cho nàng cái việc đầu tiên mà nàng yêu cầu, mà việc đó lại rất dễ làm"
.
Trả lời thế nào cho
những lời nói như vậy? Nhất là khi kỷ niệm sau đêm ân ái đầu tiên vẫn còn nồng
nàn và người ta đang trong sự chờ đợi đêm thứ hai.
Một giờ sau, tôi ôm
Macgơrit vào giữa vòng tay và nếu nàng yêu cầu tôi phạm một tội ác, hẳn tôi đã
vâng lời nàng.
Sáu giờ sáng, tôi
ra đi. Trước khi ra đi, tôi nói với nàng:
- Đêm nay gặp lại.
Nàng ôm tôi rất
chặt. Nhưng nàng không trả lời.
Ngày hôm đó, tôi
nhận được một lá thư với những dòng sau đây:
"Anh thân yêu!
Em hơi đau và thầy thuốc bảo em cần nghỉ ngơi. Đêm nay, em sẽ nghỉ sớm và không
tiếp anh được. Nhưng để bù lại, trưa mai em sẽ chờ đón anh. Em yêu anh" .
Câu nói đầu tiên
của tôi "Nàng lừa dối tôi" .
Mồ hôi lạnh toát
lên trán tôi. Tôi đã yêu người đàn bà đó thái quá, đến nỗi chỉ một điều nghi
ngờ thôi đủ làm cho tôi phải rối loạn.
Tuy nhiên, tôi phải
biết, biến cố ấy có thể xảy ra gần như ngày một, đối với Macgơrit. Và điều đó
cũng thường xảy ra đối với những người tình khác của tôi, nhưng không làm tôi
phải bận tâm đến thế. Vậy thì do đâu mà cái uy lực của người đàn bà này đối với
tôi lại đặc biệt như vậy?
Thế là tôi nghĩ,
tôi đã có cái chìa khoá của nhà nàng. Tôi có thể đến thăm nàng như thường lệ.
Bằng cách ấy, tôi có thể nhanh chóng biết được sự thật. Và nếu tôi bắt gặp một
người nào đó ở nhà nàng, tôi sẽ cho hắn một cái tát.
Trong lúc chờ đợi,
tôi đến Xăng Êlidê. Tôi ở đó bốn giờ liền. Nàng không xuất hiện. Chiều đến, tôi
đi tìm khắp các rạp hát nàng thường đến. Không có bóng nàng ở rạp nào cả.
Mười một giờ, tôi
đến đường phố Antin.
Không thấy ánh đèn
qua cửa sổ nhà Macgơrit. Tuy thế, tôi vẫn gọi chuông.
Người gác cổng hỏi
tôi đi đâu.
- Đến nhà cô
Giôchiê – tôi trả lời.
- Cô ấy chưa về.
- Tôi sẽ lên nhà để
đợi.
- Không có ai trong
nhà cả.
Dĩ nhiên đó là một
sự từ chối mà tôi có thể không chấp nhận, bởi vì tôi có chìa khoá. Nhưng sợ một
sự ồn ào tai tiếng nên tôi đi ra.
Tôi không thể trở
về nhà. Tôi không thể rời con đường này. Tôi không thể đi khuất, không nhìn vào
nhà Macgơrit. Hình như tôi còn có cái gì đó cần phải biết, hay ít ra, những
nghi ngờ của tôi đang chờ đợi được xác nhận.
Vào nửa đêm, một xe
ngựa hai chỗ ngồi mà tôi từng biết rõ, dừng lại trước ngôi nhà số 9.
Bá tước G. . . bước
xuống xe đi vào trong nhà, sau khi đã cho phép xe được trở về.
Trong giây phút nào
đó, tôi đã hy vọng rằng, cũng như đối với tôi, người ta sẽ bảo ông ta là
Macgơrit không có ở nhà, và tôi sẽ thấy ông ta trở ra. Nhưng mãi cho đến bốn
giờ sáng, tôi vẫn chờ đợi và không thấy điều gì như vậy.
Tôi đã đau đớn nhiều từ ba tuần nay,
nhưng điều đó chẳng có nghĩa lý gì, nếu đem so sánh với sự đau đớn của tôi
trong đêm đó.
TRÀ HOA NỮ
Chương 14
Trở về nhà, tôi bắt đầu khóc như một
đứa trẻ. Không có người nào mà ít nhất đã không bị lừa gạt một lần trong đời và
không biết nỗi đau khổ khi bị lừa dối là đến như thế nào.
Tôi tự nhủ - với sức nặng của những
quyết định hình thành trong cơn sốt, mà người ta luôn luôn tin có đủ sức mạnh
để giữ được - phải cắt đứt dứt khoát với mối tình ấy. Và trong tâm trạng bực
bội, tôi chờ đợi ngày hôm sau, để đi kiếm một chuyến xe trở về nhà với cha tôi
và em tôi, hai tình yêu mà tôi tin chắc không bao giờ lừa dối tôi.
Tuy nhiên, tôi không muốn ra đi mà
không cho Macgơrit biết rõ tôi đã ra đi. Chỉ có người đàn ông nào dứt khoát
không yêu tình nhân nữa mới có thể từ giã mà không cần viết thư từ gửi lại.
Tôi viết đi viết lại hai mươi lá thư
trong đầu tôi.
Tôi đã dan díu với một cô gái giang hồ
giống như tất cả những cô gái giang hồ khác. Tôi đã thi vị hoá cô gái này thái
quá. Cô đã đối xử với tôi như một đứa học trò. Và để lừa gạt tôi, cô đã dùng
một mưu mẹo đơn giản và hỗn láo. Điều này đã rõ ràng. Lòng tự ái của tôi sôi
lên. Phải từ bỏ người đàn bà này và không cho nàng hưởng sự thoả mãn được biết
cuộc đổ vỡ này đã làm cho tôi đau khổ. Và đây, những gì tôi đã viết, với những
nét chữ rất hào hoa và những giọt lệ điên cuồng khổ đau trong đôi mắt.
"Em Macgơrit thân mến!
Anh hy vọng sự mệt mỏi của em ngày qua
cũng chẳng là bao nhiêu. Anh đã đợi đến mười một giờ đêm, để được biết những
tin tức về em. Và người ta đã trả lời anh rằng không thể vào nhà. Và người ta
trả lời anh rằng em không về nhà. Ông G. . . sung sướng hơn anh bởi vì ông ta
đến sau anh chốc lát. Và mãi đến bốn giờ sáng, ông ta hãy còn tại nhà em.
Hãy tha lỗi cho anh về những giờ buồn
tẻ mà anh đã đem lại cho em. Và em hãy tin chắc, anh sẽ không bao giờ quên
những giây phút sung sướng mà anh đã nợ em.
Hôm nay, anh rất muốn đến để biết những
tin tức về em. Nhưng anh phải chuẩn bị trở về với cha anh.
Xin vĩnh biệt em, Macgơrit thân yêu của
anh. Anh không đủ giàu sang để yêu em, nhưng anh mơ ước cũng không phải nghèo
khổ để yêu em như em muốn. Vậy chúng ta hãy quên đi: Em, cái tên một người đối
với em gần như xa lạ và anh, một hạnh phúc đã trở thành không thể có được.
Anh gửi lại em cái chìa khoá: nó chưa
hề được anh dùng lần nào. Và nó sẽ có ích cho em, nếu em thường bị ốm, như em
đã ốm đau ngày hôm qua" .
Anh thấy chưa, tôi không đủ nghị lực để
chấm dứt cái thư đó mà không có chút mỉa mai cay cú. Điều này chứng tỏ tôi vẫn
còn yêu nàng.
Tôi đọc đi đọc lại mười lần lá thư đó,
và ý nghĩ lá thư này sẽ làm khổ Macgơrit đem lại cho tôi một chút êm dịu. Tôi
cố gắng tỏ ra đã dạn dày trong những tình cảm được bộc lộ. Vào lúc tám giờ, khi
người giúp việc đến, tôi trao cho anh ta lá thư để anh ta đem đi tức khắc.
- Có phải chờ thư trả lời không? –
Jôdép hỏi (Người giúp việc tôi tên là Jôdép, cũng như tất cả những người giúp
việc khác).
- Nếu người ta hỏi anh có cần trả lời
không, anh hãy bảo: anh không biết gì cả, và anh cứ chờ đợi.
Tôi hy vọng nàng sẽ trả lời.
Thật chúng ta đều khốn nạn và hèn yếu
cả.
Trong suốt thời gian người giúp việc
tôi đi, tôi cảm thấy rất bối rối. Khi thì nhớ lại Macgơrit đã đến với tôi như
thế nào; tôi tự hỏi, tôi lấy quyền gì để viết cho nàng một lá thư bất nhã như
thế, trong lúc nàng có thể trả lời cho tôi biết không phải ông G. . . đã lừa
tôi mà chính tôi đã lừa ông G. . . Chính cái lập luận này đã cho phép những
người đàn bà có nhiều tình nhân. Khi thì nhớ lại những lời thề thốt của cô gái
ấy, tôi nghĩ lá thư của tôi vẫn còn hiền lành quá, và tôi không tìm ra những
lời lẽ cứng rắn hơn để tạt vào mặt người đàn bà có đã phỉ báng một tình yêu rất
chân thành như tình yêu của tôi. Rồi tôi tự nhủ, có lẽ tốt hơn tôi đừng nên
viết lá thư đó, mà nên đến ngay nhà nàng, trong ngày hôm nay, và bằng cách đó,
tôi sẽ sung sướng đón nhận những giọt lệ mà tôi phải làm cho nàng đổ ra.
Cuối cùng, tôi tự hỏi nàng sẽ trả lời
tôi như thế nào, và sẵn sàng tin nàng sẽ xin lỗi tôi.
Jôdép trở về.
- Thế nào? – tôi hỏi.
- Thưa ông, bà ta đang ngủ và vẫn còn
ngủ. Nhưng nếu khi nào bà dậy, người nhà sẽ trao thư lại và nếu có trả lời,
người nhà sẽ đem đến.
Nàng ngủ.
Hai mươi lần tôi suýt cho người đi lấy
lại bức thư. Nhưng tôi luôn luôn tự nhủ: "Có lẽ người ta đã đưa cho nàng
rồi", và tôi bắt đầu cảm thấy hối hận.
Càng gần đến giờ để đón nhận thư trả
lời của nàng, tôi lại càng hối hận vì đã lỡ viết thư.
Mười giờ, mười một giờ, mười hai giờ.
Chuông reo vang.
Mười hai giờ, tôi suýt đến nơi hẹn, như
không có việc gì xảy ra cả. Rốt cuộc, tôi chẳng biết làm thế nào để thoát ra
khỏi cái vòng sắt nó đang siết chặt người tôi.
Thế là tôi với sự mê tín của những
người đang chờ đợi: nếu tôi ra đi chốc lát, đến lúc trở về tôi sẽ tìm được câu
trả lời. Những câu trả lời, được chờ một cách bực bội, luôn luôn đến khi người
ta không có ở nhà mình.
Tôi đi ra, với cái cớ đi ăn trưa.
Đáng lẽ ăn trưa tại tiệm cà phê Foa ở
góc đại lộ theo thói quen, tôi lại đến ăn trưa tại Pale Roazal, và đi qua đường
phố Antin. Mỗi lần, từ xa trông thấy một người đàn bà, tôi lại tưởng chính
Nanin đem thư trả lời tôi. Tôi qua đường phố Antin. Không hề gặp một người chạy
việc nào cả. Tôi đên Pale Roazal, vào phòng ăn. Một người bồi đem thức ăn lại,
hay đúng hơn, anh ta dọn thứ gì tuỳ ý, bởi vì tôi không ăn.
Ngoài ý muốn, cặp mắt tôi cứ luôn luôn
nhìn vào đồng hồ.
Tôi trở về, tin chắc rằng tôi sẽ nhận
được thư của Macgơrit.
Người gác cổng không nhận được gì cả.
Tôi lại hy vọng nơi người giúp việc. Người này trả lời không hề thấy người nào
đến từ lúc tôi ra đi đến giờ.
Nếu Macgơrit trả lời tôi, nàng đã trả
lời từ lâu rồi.
Thế là tôi bắt đầu hối tiếc về những
lời lẽ trong thư của tôi. Đáng lẽ tôi phải im lặng hoàn toàn. Điều này, dĩ
nhiên, có thể đem lại một sự lo lắng nào đó cho nàng. Bởi vì không thấy tôi đến
nơi hẹn tối hôm trước, chắc nàng sẽ hỏi tôi lý do vắng mặt ấy, và chỉ đến lúc
đó, tôi mới nên nói cho nàng biết những lý do. Bằng cách ấy, nàng không thể làm
thế nào khác hơn là tự minh oan cho nàng. Và điều tôi muốn là chính nàng phải
tự minh oan cho nàng. Tôi đã nhận thấy trước dù những lý lẽ mà nàng đưa ra để
phân trần như thế nào đi nữa, tôi cũng sẽ tin vào chúng. Và thà rằng tôi sẽ
chấp nhận tất cả, còn hơn không được gặp lại nàng nữa.
Tôi đi đến chỗ tin rằng chính nàng sẽ
đến nhà tôi. Nhưng giờ khắc cứ trôi qua, và nàng không đến.
Dĩ nhiên, Macgơrit không giống như tất
cả những người đàn bà khác. Bởi vì rất ít người nhận được một lá thư như tôi
viết mà lại không trả lời một điểm nào cả.
Vào lúc năm giờ, tôi chạy đến Xăng
Êlidê. Nếu tôi gặp nàng, tôi nghĩ, tôi sẽ tỏ ra lạnh nhạt, và nàng sẽ tin chắc
tôi không còn nghĩ đến nàng nữa.
Đến khúc quanh đường phố Roazal, tôi
thấy nàng đi qua trên một cỗ xe. sự gặp gỡ quá đột ngột làm tôi tái người. Tôi
không biết nàng thấy được nỗi xúc động của tôi không. Tôi quá bối rối, đến nỗi
chỉ thấy cái xe nàng thôi.
Tôi tiếp tục đi dạo trong Xăng Êlidê.
Tôi nhìn những quảng cáo của các rạp hát. Bởi vì tôi còn hy vọng gặp nàng.
Ở Pale Roazal có một cuộc trình diễn
lần đầu tiên. Tất nhiên Macgơrit sẽ đến xem.
Tôi có mặt ở rạp hát lúc bảy giờ.
Tất cả các lô đều đông người. Nhưng
Macgơrit không có mặt.
Thế là tôi rời khỏi Pale Roazal và đi
đến tất cả các rạp hát mà nàng thường đến xem ở Vôđơvin, ở Variêtê, ở Ôpêra
Cômic.
Không thấy nàng ở đâu cả.
Hoặc lá thư tôi đã làm cho nàng khổ
tâm, đến nỗi nàng không đi xem hát nữa. Hoặc là nàng sợ phải gặp lại tôi và
tránh một sự giải thích.
Đó là điều mà lòng kiêu hãnh của tôi đã
gợi ra trong trí tôi, khi tôi đang đi trên đại lộ thì gặp Gatông. Anh ta hỏi
tôi từ đâu đi đến.
- Từ Pale Roazal – tôi trả lời.
- Còn tôi từ rạp Ôpêra – anh ta nói –
Tôi tưởng anh cũng ở đó chứ.
- Tại sao? Bởi vì Macgơrit ở đó.
- Nàng có ở đó?
- Vâng.
- Chỉ một mình?
- Không, với một bạn gái.
- Không còn ai nữa?
- Bá tước G. . . có vào lô nàng trong
chốc lát. Nhưng nàng đã đi ra với ông quận công. Trong giây phút tôi chờ thấy
anh xuất hiện ở đó. Bên cạnh tôi có một chỗ ngồi mà trong suốt buổi tối được bỏ
trống. Tôi tin chắc là anh đã thuê.
- Nhưng tại sao Macgơrit đến đâu tôi
phải đến đó?
- Bởi vì anh là tình nhân của nàng,
trời ơi!
- Ai đã bảo anh điều đó?
- Pruđăng, tôi đã gặp cô ta ngày hôm
qua. Tôi khen anh bạn đấy, anh bạn ạ. Đó là một tình nhân trẻ đẹp mà không phải
ai muốn cũng được cả đâu. Hãy bám lấy. Cô ta sẽ là vinh dự cho anh đấy!
Cái suy nghĩ đơn giản của Gatông đã cho
tôi thấy những ngờ vực của tôi thật là lố bịch.
Nếu tôi gặp anh ta đêm qua và nếu anh
ta nói với tôi như thế, chắc chắn sáng nay tôi đã không viết lá thư ngu ngốc đó
rồi.
Tôi muốn đến nhà Pruđăng và nhờ chị đến
nói với Macgơrit là tôi muốn gặp nàng. Nhưng tôi sợ để trả thù lại nàng sẽ trả
lời là không tiếp tôi. Thế là, tôi trở về nhà, sau khi đi qua đường phố Antin.
Một lần nữa, tôi phải hỏi người gác
cổng có thư cho tôi không.
Không có gì cả.
Lúc đi nằm, tôi tự nhủ rằng có lẽ nàng
muốn xem tôi sẽ làm gì thêm nữa, hay tôi sẽ rút lại lá thư hôm nay. Nhưng không
thấy tôi viết gì thêm cho nàng, ngày mai nàng sẽ viết thư cho tôi.
Đêm hôm ấy, tôi vô cùng hối hận về việc
tôi đã làm. Tôi ở nhà một mình, không ngủ được, dằn vặt vì những lo lắng và hờn
ghen. Nếu để sự việc tiến triển theo con đường bình thường, tự nhiên của nó,
tôi đã có thể đến bên Macgơrit, nghe những lời êm ái mà tôi chỉ được nghe có
hai lần, và giờ đây, trong cô đơn, chúng như làm cháy thân xác tôi.
Điều đáng sợ là trong lúc đó, tôi nhận
ra tôi là kẻ có lỗi. Quả vậy, tất cả đều nói lên rằng Macgơrit yêu tôi. Trước
tiên, cái dự định sẽ sống mùa hè chỉ với tôi tại thôn quê. Rồi đến một điều
chắc chắn là không có gì phải bắt buộc nàng phải là tình nhân của tôi. Bởi vì
tài sản của tôi không đủ cho những nhu cầu và ngay cả cho những chi phí bất
thường của nàng. Vậy thì nàng chỉ có hy vọng tìm thấy nơi tôi một tình thương
chân thành, có thể làm cho nàng được an ủi trong lúc nàng phải sống giữa tình
yêu và tiền bạc. Thế mà chỉ đến ngày thứ hai, tôi đã phá vỡ hy vọng đó, tôi đã
đền đáp lại bằng sự mỉa mai cay đắng cái tình yêu được chấp nhận trong hai đêm.
Điều tôi làm không chỉ lố bịch mà còn bất nhã. Tôi trả tiền cho người đàn bà đó
chưa, để được quyền chê trách cuộc sống của nàng? Rút lui từ sau ngày thứ hai,
tôi có vẻ như một gã ăn bám tình yêu sợ người ta bắt trả tiền bữa ăn tối. Thế
đấy! Tôi quen biết Macgơrit mới ba mươi sau giờ. Tôi là tình nhân của nàng mới
hai mươi bốn giờ. Và tôi bắt đầu hờn dỗi ghen tuông. Đáng lẽ tôi phải cảm thấy
qúa sung sướng khi được nàng san sẻ tình yêu cho tôi thì tôi lại muốn tất cả,
và bắt nàng phải cắt đứt ngày tất cả những liên hệ trong quá khứ đồng thời cũng
là nguồn lợi cho tương lai của nàng. Tôi có gì để trách cứ nàng? Không có gì
cả. Nàng đã viết cho tôi là nàng bị ốm trong khi nàng có thể nói một cách trắng
trợn, và sự thẳng thắn hì hợm của một số đàn bà, rằng nàng bận tiếp một tình
nhân khác. Đáng lẽ phải tin ở thư nàng, đáng lẽ phải đi dạo trên tất cả đường
phố Paris, trừ đường Antin, đáng lẽ phải đi dự dạ hội với những bạn hữu, và
ngày mai đúng giờ đã hẹn, có mặt tại nhà nàng thì tôi lại bắt chước Ôtenlô. Tôi
đi rình rập dò xét nàng. Tôi tin sẽ trừng phạt được nàng bằng cách không gặp
nàng nữa. Nhưng nàng có thể sung sướng trước sự dứt khoát đó và có thể thấy tôi
là đứa rất ngu ngốc. Sự im lặng của nàng, không phải là sự trả đũa, mà chính là
sự khinh bỉ.
Đáng lẽ tôi phải đem lại cho Macgơrit
một món qùa, để nàng không nghi ngờ gì về lòng độ lượng của tôi. Món quà này
cho phép tôi xem nàng nhưng một cô gái giang hồ và có thể từ giã không nợ nần
gì với nàng nữa. Nhưng tôi nghĩ, làm như thế tôi sẽ nhục mạ tình yêu, nếu không
phải là tình yêu của nàng đối với tôi, thì ít ra nó cũng là tình yêu của tôi
đối với nàng. Bởi vì, tình yêu đó rất trong sạch và không chấp nhận sự chia sẻ.
Không thể trả giá bằng một món quà tặng dù quà tặng này có đáng giá gấp mấy đi
nữa cái hạnh phúc mà người ta đã cho, dù cái hạnh phúc này ngắn ngủi mấy đi
nữa.
Đó là những điêu tôi đã nghĩ suốt đêm.
Mỗi giây mỗi phút trôi qua, tôi lại càng sẵn sàng để đến nói với Macgơrit điều
ấy.
Trời đã sáng rồi. Tôi vẫn chưa ngủ. Tôi
sốt. Tôi không thể nghĩ điều gì khác ngoài Macgơrit ra.
Như anh hiểu, phải đứng hẳn về một phía
dứt khoát. Phải chấm dứt hoặc với người đàn bà này, hoặc với những băn khoăn
của tôi, nếu nàng vẫn còn đồng ý tiếp tôi.
Nhưng người ta luôn luôn trì hoãn để
chọn một thái độ dứt khoát. Không thể ở nhà được, cũng không dám đến Macgơrit.
Tôi gắng tìm một phương cách để gặp nàng, phương cách mà lòng tự ái của tôi có
thể cho rằng đó là sự ngẫu nhiên trong trường hợp thành công được.
Đã chín giờ, tôi chạy đến nhà Pruđăng.
Bà ta hỏi tôi lý do về cuộc viếng thăm vào sáng sớm đó.
Tôi không dám trả lời một cách thẳng
thắn lý do tôi đến. Tôi trả lời rằng tôi đã đi ra phố sớm để giữ một chỗ ngồi
trên chuyến xe về C. . . nơi cha tôi hiện ở.
- Anh sung sướng thật – bà ta nói - khi
rời xa Paris, trong một buổi đẹp trời như hôm nay.
Tôi nhìn Pruđăng, tự nhủ phải chăng bà
ta đã chế nhạo tôi.
Nhưng vẻ mặt của Pruđăng rất nghiêm
trang.
- Anh sẽ đến chào Macgơrit chứ? – Bà ta
nói tiếp với giọng nghiêm trang.
- Không.
- Anh làm thế là đúng.
- Chị cho là đúng?
- Dĩ nhiên. Bởi vì anh đã đoạn giao với
nàng thì gặp lại ích gì?
- Vậy chị đã biết sự đổ vỡ giữa chúng
tôi?
- Cô ta đã cho tôi xem lá thư của anh.
- Cô ấy nói gì với chị?
- Cô ta nói với tôi: "Chị Pruđăng
thân mến, người chị đỡ đầu không lịch sự. Người ta nghĩ những bức thư kiểu đó,
nhưng không bao giờ người ta viết ra" .
- Cô ta nói với giọng thế nào?
- Vừa cười, cô ta vừa nói thêm:
"Anh ta ăn tối hai lần tại nhà tôi, và anh ta không hề nghĩ đến việc thăm
tôi để đáp lễ" .
Thế đó, hậu quả mà lá thư và sự ghen
tuông của tôi đã mang lại. Tôi bị hạ nhục một cách tàn nhẫn, bởi sự kiêu ngạo
trong tình yêu của mình.
- Chiều ngày qua, cô ta đã làm gì?
- Cô ta đi xem hát ở Ôpêra.
- Tôi biết điều đó. Và sau đó?
- Cô ta ăn tôi ở nhà.
- Chỉ một mình?
- Với bá tước G. . . tôi nghĩ vậy.
Như vậy sự đoạn giao của tôi không thay
đổi gì cả trong nếp sống của Macgơrit.
Chính trong những trường hợp ấy, một số
người có thể bảo bạn: "Không nên nghĩ đến người đàn bà đó nữa. Người ta
không yêu anh đâu" .
Tôi gượng cười và nói với Pruđăng.
- Tôi rất bằng lòng khi được biết
Macgơrit không buồn bã gì cả về chuyện tôi.
- Và nàng rất có lý. Anh đã làm điều
anh phải làm. Anh đã có lý hơn cô ta. Bởi vì người con gái đó yêu anh. Cô ta
chỉ nói chuyện về anh, và rất có thể sẽ phạm một điều điên rồ nào đó.
- Cô ta yêu tôi? Vậy thì sao cô ta
không trả lời thư tôi?
- Bởi vì cô ta hiểu rằng cô ta sai lầm
vì đã yêu anh. Hơn nữa, những người đàn bà, đôi khi cho phép người ta gạt gẫm
tình yêu, nhưng không bao giờ cho phép người ta làm thương tổn lòng tự ái của
họ. Và người ta sẽ làm tổn thương lòng tự ái của một người đàn bà, nếu sau hai
ngày được làm tình nhân lại giã từ, dù với lý do nào được đưa ra để biện hộ cho
sự đoạn giao đó. Tôi hiểu Macgơrit, cô ta có thể chết, còn hơn phải trả lời thư
anh.
- Thế thì bây giờ tôi phải làm gì?
- Không cần làm gì cả. Cô ta sẽ quên
anh. Anh sẽ quên cô ta. Các bạn sẽ không có gì để oán trách nhau cả.
- Nhưng nếu tôi viết thư để xin nàng
tha lỗi cho?
- Anh hãy xem lại kỹ. Có thể cô ta sẽ
tha lỗi cho anh.
Tôi gần như muốn nhảy lên ôm hôn
Pruđăng.
Mười lăm phút sau, tôi đã về đến nhà và
tôi viết thư cho Macgơrit.
"Có người hối hận vì một lá thư đã
viết ngày qua. Ngày mai, người ấy sẽ bỏ đi, nếu cô không tha lỗi cho hắn. Và
giờ đây, người ấy muốn được biết bao giờ người ấy có thể đến đặt sự hối lỗi
dưới chân cô.
Khi nào người ấy có thể gặp cô, chỉ một
mình cô thôi? Bởi vì cô biết, những lời thú tội cần được đưa ra không người
chứng kiến" .
Tôi xếp bài văn xuôi ấy lại và bảo
Jôdép mang đến trao cho Macgơrit. Macgơrit cho biết nàng sẽ trả lời thư ấy sau.
Tôi chỉ ra đi khỏi nhà một chút để ăn
chiều. Mãi đến khoảng mười một giờ đêm, tôi vẫn chưa nhận được thư trả lời.
Thế là tôi quyết định không kéo dài sự
đau khổ nữa và ngày hôm sau sẽ lên đường.
Biết chăng nếu đi nằm cũng không ngủ
được, tôi bắt đầu sửa soạn hành lý.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét