BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
15
Phái
quan tòa và phái quân nhân (1).
Hôm sau
ngày xảy ra những biến cố ấy, Athos vẫn không thấy có mặt, ông De Treville đã
được D' Artagnan và Porthos báo cho biết về việc chàng mất tăm.
Còn
Aramis thì đã xin nghỉ năm ngày về Ruăng, nghe nói có việc gia đình.
Ông De
Treville là người cha của quân lính ông. Phàm đã mang bộ đồng phục ngự lâm quân
trên người thì dù nổi tiếng hoặc vô danh nhất cũng chắc chắn được ông giúp đỡ,
phù trợ như thể chính em ông.
Vậy nên
ông đi ngay đến viên trợ úy hình sự. Viên sĩ quan chỉ huy đồn Hồng thập tự được
gọi đến và những tin tức kế tiếp nhau cho biết Athos lúc này đang ở đồn
Pho-lêvếch.
Athos đã
trải qua tất cả những thử thách mà Bonacieux phải chịu.
Chúng ta
đã dự cảnh đối chất giữa hai người bị giam. Cho tới lúc đó Athos vẫn không nói
gì vì sợ D' Artagnan chưa đủ thì giờ cần có, và bấy giờ Athos mới khai mình là
Athos không phải D' Artagnan.
Chàng
nói thêm chàng không quen biết cả ông lẫn bà Bonacieux, chẳng bao giờ nói
chuyện với họ. Lúc mười giờ chàng đến là để thăm D' Artagnan, bạn chàng, nhưng
trước lúc đó, chàng vẫn ở nhà ông Treville và ăn trưa ở đấy, chàng nói thêm,
hai mươi nhân chứng có thể xác nhận điều ấy, và kể ra tên tuổi nhiều nhà quý
tộc nổi tiếng, trong số họ có Công tước De la Trênui.
Viên đồn
trưởng thứ hai cũng ngơ ngác như viên thứ nhất trước lời khai đơn giản và quả
quyết của người ngự lâm quân này. Vì hắn vẫn có ý định dựa vào người ngự lâm
này để nhân đó mở trận phục thù mà phái quan tòa mong thắng bọn quân nhân biết
mấy. Nhưng cái tên ông De Treville và Công tước De La Trênui đáng để y suy
nghĩ.
Athos
cũng được chuyển đến chỗ Giáo chủ, nhưng rủi thay, Giáo chủ lại ở chỗ Nhà Vua
tại điện Louvre.
Cũng
chính lúc đó, ông De Treville ra khỏi chỗ viên trợ úy hình sự và viên đội
trưởng của Pholêvếch, mà vẫn không thấy Athos, liền đi tới chỗ Hoàng thượng.
Ai cũng
biết những việc phòng bị của Nhà Vua chống lại Hoàng hậu, nhưng việc phòng bị
được Giáo chủ khéo léo điều hành, mà về mặt cơ mưu, lại phòng ngừa đàn bà hơn
đàn ông nhiều. Một trong những nguyên nhân lớn nhất của sự đề phòng này là tình
bạn giữa Anne d' Autriche với bà De Chevreuse. Hai người đàn bà này khiến Đức
ông lo lắng hơn cả những cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, những việc xích mích
với Anh quốc và những bê bối về tài chính. Trong con mắt và trong thâm tâm ông,
bà De Chevreuse phục vụ Hoàng hậu không những trong những âm mưu chính trị mà
còn cả trong những âm mưu tình ái, điều làm ông còn quay cuồng điên đảo hơn
nhiều.
Mới nghe
Giáo chủ tâu lại, bà De Chevreuse bị lưu đày ở thành Tours và tưởng bà vẫn ở
đó, nhưng bà đã đến Paris, đánh lạc hướng cảnh sát, lưu lại đây năm ngày, nhà
Vua đã đùng đùng nổi giận. Tính khí thất thường, không chung thủy, Nhà Vua lại
muốn được gọi là Louis chí công và Louis trong trắng. Hậu thế khó hiểu nổi tính
cách ấy, mà sử sách lại chỉ giải thích bằng các sự kiện chứ không bao giờ bằng
lý giải.
Nhưng
khi Giáo chủ thêm rằng không những bà De Chevreuse đã đến Paris, mà Hoàng hậu
còn nối lại với bà ta một mối quan hệ bí mật mà thời kỳ đó người ta gọi là bè
đảng, và khi ông khẳng định chính ông, Giáo chủ, sắp gỡ ra nước manh mối đen
tối nhất của âm mưu đó, lúc đang bắt quả tang, mật sứ của Hoàng hậu bên cạnh
người đàn bà bị lưu đày, với đầy đủ chứng cứ thì một tên ngự lâm quân đã dám
bạo hành chặn đứng việc thi hành công lý, vung gươm nhẩy bổ vào những con người
trung thực của luật pháp được ủy nhiệm cứu xét vô tư toàn bộ vụ việc này để tâu
lên đức Vua. Louis XIII nghe vậy không kiềm chế được nữa, ông bước một bước về
phía phòng của Hoàng hậu, mặt tái đi vì phẫn nộ, không nói ra được thành lời mà
khi nó bùng nổ sẽ dẫn Nhà Vua đến một sự tàn bạo lạnh lùng nhất.
Và tuy
vậy, trong mọi chuyện đó, Giáo chủ còn chưa động một lời về Công tước De
Buckingham.
Đang lúc
đó thì ông De Treville đi vào, lạnh lùng, lễ phép, quần áo chỉnh tề.
Sự hiện
diện của Giáo chủ, và nét mặt thất sắc của Nhà Vua, cảnh báo điều gì vừa mới
xảy ra, Nhưng ông De Treville tự cảm thấy vững tâm như Xăm xơn trước bọn
Philistin(2).
Louis
XIII đã đặt tay lên núm cửa, nghe thấy tiếng ông De Treville đi vào, lại quay
lại. Nhà Vua không biết che giấu những xúc cảm giận dữ khi nó đã dâng lên tới
mức nào đó, liền nói ngay:
- Ông
đến thật đúng lúc, ông Treville ạ, ta vừa được biết khối chuyện hay ho về lũ
ngự lâm quân của ông.
- Và
thần - Ông De Treville lạnh lùng đáp lại - thần cũng có khối chuyện hay ho để
tâu lên Hoàng thượng về bọn quan tòa của Hoàng thượng.
- Ông
nói cái gì vậy? - Nhà Vua ngạo nghễ nói.
Ông De
Treville tiếp tục vẫn bằng giọng lạnh lùng:
- Thần
có vinh dự được tâu với Hoàng thượng là cả bè đảng công tố viên, đồn trưởng và
nhân viên cảnh sát, toàn những người đáng kính nhưng hình như lại rất gay gắt
đối với giới quân nhân, tự cho phép mình vào nhà bắt bớ, điệu đi công khai trên
đường phố rồi tống vào đồn Pholêvếch một ngự lâm quân của thần, đúng hơn là của
Hoàng thượng, một ngự lâm quân đạo đức miễn chê, danh tiếng vang lừng, theo một
lệnh bắt mà họ từ chối không cho thần biết, người bị bắt đó chính là Athos,
người mà Hoàng thượng đã từng ưu ái.
- Athos
ư? - Nhà Vua nói như thể một cái máy - Ừ, thật ra, ta có quen biết cái tên đó.
- Xin
Hoàng thượng nhớ cho - Ông De Treville nói - Athos là người ngự lâm quân trong
trận đấu kiếm bất đắc dĩ mà Ngài đã biết đấy, chẳng may đã làm ông De Cahuxắc
bị trọng thương.
Ông De
Treville chuyển sang nói với Giáo chủ:
- Thưa
Đức ông, nhân tiện, xin Đức ông cho biết ông Cahuxắc đã hoàn toàn bình phục,
phải không ạ?
- Cám
ơn! - Giáo chủ mím môi giận dữ nói.
Ông De
Treville nói tiếp:
- Hôm
ấy, ông Athos đến thăm một người bạn lúc đó lại không có nhà, đó là một chàng
trai người Bearn, đang là lính tập sự cận vệ của Hoàng thượng, trong đại đội
ông des Essarts, nhưng ông Athos vừa mới đặt chân vào nhà bạn, vớ lấy cuốn sách
chờ bạn, thì một đám những sai nha, cảnh sát lẫn lộn cùng nhau kéo đến vây nhà,
phá tung cửa giả…
Giáo chủ
ra hiệu cho Nhà Vua ý nói: "Chính là để làm cái công việc mà thần đã nói
với Hoàng thượng".
- Chúng
ta đã biết cả rồi - Nhà Vua đáp - bởi tất cả những việc đó được làm để phục vụ
chúng ta.
- Thế là,
- ông Treville nói - Thế là để phục vụ Hoàng thượng, người ta đã giữ mất của
thần một ngự lâm quân vô tội, người ta kè kè hai bên hai tên gác như đối với
một tên gian phi, và điệu đi giữa đám dân đen hỗn láo con người hào hoa phong
nhã đã mười lần đổ máu đề phục vụ Hoàng thượng, và sẵn sàng đổ máu nữa.
- Chà! -
Nhà Vua nao núng nói - mọi việc lại đến thế kia ư?
Giáo chủ
với vẻ mặt tỉnh bơ nói:
- Ông De
Treville lại không nói rằng gã ngự lâm quân vô tội ấy, rằng con người hào hoa
ấy, một giờ trước đó đã vung gươm đánh bốn điều tra viên do tôi phái đến để
điều tra một việc tối quan trọng.
Ông De
Treville la lên với tính ngay thẳng hết sức Gátxcông và sự thô bạo rất lính
tráng của mình:
- Đức
ông có dám chứng minh điều đó không, bởi một giờ trước đó, ông Athos, người mà
tôi sẽ tiến cử lên Hoàng thượng, là một người có phẩm chất cao quý, sau khi
dùng bữa trưa tại nhà tôi, đã cho tôi vinh dự trò chuyện với Công tước De la
Trênui và Bá tước De Saluy cũng có mặt ở đấy.
Nhà Vua
nhìn Giáo chủ. Đáp lại câu hỏi ngầm của Hoàng thượng, Giáo chủ lớn tiếng nói:
- Có
biên bản hẳn hoi đây, và những người bị ngược đãi đã lập tờ biên bản sau đây mà
thần có vinh dự tâu lên Hoàng thượng.
Ông De
Treville kiêu hãnh đáp lại:
- Biên
bản của phái quan tòa có giá trị bằng lời thề danh dự của giới quân nhân không?
- Thôi
nào, thôi nào, Treville, ông im đi - Nhà Vua nói.
- Nếu
Đức ông có chút nghi ngờ nào chống lại một trong số ngự lâm quân của tôi - Ông
Treville nói - công lý của Giáo chủ đã quá quen thuộc khiến chính tôi, tôi yêu
cầu mở một cuộc điều tra.
Giáo chủ
vẫn trơ ra tiếp tục:
- Trong
ngôi nhà mà công lý đã bị tấn công, ở đó tôi tin có một người Bearn, bạn của
tay ngự lâm kia thuê.
- Đức
ông muốn nói về ông D' Artagnan?
- Tôi
muốn nói đến một chàng trai trẻ được ông che chở, ông De Treville ạ.
- Vâng,
thưa Đức ông, vẫn là con người ấy.
- Thế
ông không ngờ con người trẻ tuổi ấy đã có những lời khuyên láo lếu…
- Khuyên
ông Athos, một người gấp đôi tuổi anh ta ư? - Ông De Treville ngắt lời - Không,
thưa Đức ông. Vả lại, ông D' Artagnan đã ở nhà tôi tối hôm đó.
- Thế
kia ư? - Giáo chủ nói - Vậy ra tất cả mọi người tối ấy đều ở nhà ông?
Ông
Treville giận tím mặt nói:
- Đức
ông nghi ngờ lời nói của tôi ư?
- Không,
lạy Chúa chứng giám? - Giáo chủ nói - nhưng chỉ hỏi ông anh ta ở nhà ông lúc
mấy giờ?
- Ồ,
chuyện đó, tôi có thể nói thẳng thừng ra với Đức ông, bởi khi anh ta vào, tôi
nhìn đồng hồ và lúc đó là chín giờ rưỡi, mặc dầu tôi tưởng là muộn hơn thế.
- Và vào
lúc mấy giờ anh ta ra khỏi nhà ông?
- Mười
giờ rưỡi, một tiếng đồng hồ sau biến cố đó.
Không
một chút nghi ngờ lòng trung thực của ông De Treville, Giáo chủ cảm thấy chiến
thắng đã tuột khỏi tay mình, ông nói:
- Nhưng
rốt cuộc, Athos đã bị giữ trong ngôi nhà ở phố Phu đào huyệt.
- Thế
một người bạn bị cấm đến thăm bạn mình sao? Cấm một ngự lâm quân của tôi kết
bạn với một lính cận vệ ở đại đội ông des Essarts ư?
- Có
đấy! Khi một ngôi nhà mà anh ta tới kết bạn với người bạn kia bị tình nghi.
- Chính
vì ngôi nhà đó bị tình nghi, Treville ạ! - Nhà Vua nói - có thể ông không biết
chăng?
- Quả
nhiên, tâu Bệ hạ, thần không biết. Thôi thì nó có thể bị tình nghi ở chỗ nào
cũng được, nhưng lại bị tình nghi ở cái phần ông D' Artagnan ở thì thần không
công nhận bởi vì thần có thể khẳng định với Bệ hạ rằng, nếu như thần tin ở điều
ông ta nói thì không có ai tận trung với Bệ hạ bằng ông ta, không có ai ngưỡng
mộ Giáo chủ sâu sắc hơn ông ta.
Nhà Vua
liếc nhìn Giáo chủ đang đỏ mặt lên, tức tối rồi hỏi:
- Có
phải cái gã Đáctanháng một hôm đã đâm bị thương Jussac trong cuộc chạm trán
khốn khổ ở gần Tu viện Cácmơ tháo giầy không?
- Và
ngày hôm sau, Bécnaju nữa. Vâng, tâu Bệ hạ, đúng thế ạ, Bệ hạ nhớ tốt lắm ạ.
- Vậy
bây giờ giải quyết thế nào nào? - Nhà Vua hỏi.
- Việc
đó liên quan đến Bệ hạ hơn là đến thần. - Giáo chủ nói - Thần sẽ khẳng định là
phạm tội.
- Còn
tôi, tôi phủ nhận - Treville nói - Mà Hoàng thượng có các thẩm phán, và các
thẩm phán của người sẽ quyết định.
- Phải
đấy - Nhà Vua nói - hãy di lý sang các thẩm phán. Công việc của họ là xét xử và
họ sẽ xét xử.
- Có
điều Treville lắp lại - thật rất đáng buồn trong cái thời buổi khốn khổ mà
chúng ta đang sống này, một cuộc sống trong sạch nhất, một đức hạnh không thể
chối cãi được nhất vẫn không tránh được cho một con người khỏi bị nhục mạ và bị
ngược đãi. Vì vậy, quân đội sẽ không mấy hài lòng khi cứ phải đương đầu với
những đối xử nghiệt ngã vì những công việc của cảnh sát.
Câu nói
có vẻ không thận trọng, nhưng ông De Treville đã tung ra có chủ định. Ông muốn
nổ tung bởi chỉ có thế thuốc nổ mới bén lửa và lửa sẽ làm sáng tỏ mọi việc.
- Những
việc của cảnh sát ư? - Nhà Vua hét lên, nêu lại lời của ông De Treville - Những
việc của cảnh sát? Ông biết gì về chuyện này? Những việc của cảnh sát! Hãy lo
chuyện bọn ngự lâm quân của ông ấy, và đừng làm ta đau đầu nữa. Nghe ông nói
thì hình như nếu không may người ta bắt giữ một ngự lâm quân, nước Pháp sẽ lâm
nguy. Hừm, om sòm lên vì một lính ngự lâm. Ta sẽ cho bắt mười tên, một trăm, mẹ
kiếp, tất cả đại đội! Vì ta chẳng muốn ai hé miệng nửa lời.
- Trong
lúc họ bị Hoàng thượng tình nghi - Ông Treville - ngự lâm quân đều phạm tội
hết, như vậy xin Hoàng thượng xem xét cho thần xin trao lại thanh gươm, bởi vì
sau khi đã cáo buộc binh lính của thần, thần tin chắc, Giáo chủ cuối cùng sẽ
buộc tội cả thần nữa. Như thế, thà rằng thần xin nộp mình như là một tù nhân
cùng với ông Athos đã bị bắt rồi, và ông D' Artagnan chắc chắn cũng sắp bị bắt.
- Cái đồ
Gátxcông cứng đầu, có thôi đi không? - Nhà Vua nói.
- Tâu -
Treville không hạ giọng trả lời - xin Hoàng thượng trả lại người ngự lâm quân
của thần cho thần, hoặc ông ta phải được xét xử?
- Người
ta sẽ xét xử hắn - Giáo chủ nói.
- Thế
thì càng tốt! Vì trong trường hợp ấy thần xin Hoàng thượng cho phép bào chữa
cho ông ta.
Nhà Vua
sợ chuyện vỡ ra, nên bảo Giáo chủ.
- Nếu
Đức ông không có những động cơ cá nhân…
Giáo chủ
thấy nhà Vua có ý muốn giải quyết thế nào, liền đi đến trước mặt nhà Vua. Ông
nói:
- Xin
Hoàng thượng tha lỗi, nhưng lúc nào Hoàng thượng thấy ở thần một phán quan
thiên kiến, thì thần xin rút lui.
- Thôi
được - Nhà Vua nói - Treville, ông thề với ta, trước cha ta rằng Athos đã ở nhà
ông trong lúc xảy ra sự cố, và không hề dính dáng gì vào đấy chứ?
- Trước
tiên đế vinh quang và trước Hoàng thượng là những người thần yêu và sùng kính
nhất trên đời, thần xin thề như vậy!
- Tâu
Hoàng thượng, xin Ngài hãy suy nghĩ - Giáo chủ nói - Nếu chúng ta thả tên tù
nhân ra như thế, sẽ không thể biết được sự thật nữa.
Ông De
Treville nói:
- Ông
Athos vẫn luôn ở đó, sẵn sàng trả lời để làm đẹp lòng các vị phán quan thẩm vấn
ông ta. Ông ta sẽ không đào tẩu đâu, thưa Giáo chủ, xin ông cứ yên tâm, tôi,
chính tôi xin bảo lãnh cho ông ấy.
Nhà Vua
nói:
- Thật
ra, hắn sẽ không đào tẩu mất đâu, lúc nào chả tìm được ra hắn, như ông Treville
nói đấy.
Rồi hạ
giọng, nhìn Giáo chủ, bằng giọng cầu khẩn, nhà Vua nói tiếp:
- Ta cho
họ được an toàn, thế mới là chính trị.
Thứ
chính trị ấy của nhà Vua khiến Giáo chủ mỉm cười, ông ta nói:
- Xin
Hoàng thượng cứ ra lệnh. Hoàng thượng có quyền ân xá mà!
Ông De
Treville vẫn còn chưa chịu:
- Quyền
ân xá chỉ áp dụng với những kẻ phạm tội. Còn người lính ngự lâm của thần vô
tội. Vậy đây không phải là Hoàng thượng sắp làm việc ân xá mà là lập lại công
bằng.
- Thế
ông ta vẫn ở Pholêvếch à? - Nhà Vua hỏi.
- Vâng,
tâu Hoàng thượng, mà lại bí mật, trong hầm tối như một kẻ phạm trọng tội.
- Quỷ
thật! Quỷ thật? - Nhà Vua lẩm bẩm - Phải làm thế nào đây?
Giáo chủ
nói:
- Ký
lệnh thả tự do. Thế là xong chuyện. Thần cũng tin, như Hoàng thượng, việc ông
De Treville xin bảo lãnh thế là quá đủ.
Treville
kính cẩn nghiêng mình đáo lễ với một niềm vui không phải không pha lẫn lo sợ.
Ông thích Giáo chủ khăng khăng chống lại hơn là sự dễ dãi bất ngờ ấy.
Nhà Vua
ký lệnh phóng thích. Ông Treville mang đi không chút chậm trễ.
Đúng lúc
ông sắp đi ra, Giáo chủ mỉm cười thân ái với ông và bảo Nhà Vua:
- Một sự
hài hòa tuyệt vời được duy trì giữa các chỉ huy và binh lính, trong ngự lâm
quân của Hoàng thượng. Thật là thuận lợi cho công việc và rất vinh dự cho tất
cả.
Ông De
Treville tự nhủ: "Lão ta sẽ chơi lại trò đểu ngay thôi. Chẳng bao giờ biết
được cái gì sẽ xảy ra với con người như thế. Nhưng thôi mau lên, bởi nhà Vua có
thể đổi ý ngay đấy, và xét cho cùng tống giam lại một con người vào ngục
Bastille hay Pholêvếch khó hơn cứ giữ nguyên không thả".
Ông De Treville
bước vào đồn Pholêvếch một cách đắc thắng giải thoát người lính ngự lâm vẫn còn
nguyên vẻ thờ ơ bình thản.
Rồi, lần
đầu tiên gặp lại D' Artagnan, ông nói với chàng:
- Anh
trốn cừ thật đấy? Đây là trả giá nhát gươm anh đâm Jussac đấy. Vẫn còn một nhát
với Bécnaju.
Rốt
cuộc, ông De Treville có lý khi không tin Giáo chủ và khi nghĩ mọi chuyện còn
chưa kết thúc, bởi vì đại úy ngự lâm quân vừa khép cửa đi ra, Đức ông đã nói
với Nhà Vua:
- Bây
giờ thì chỉ có hai người chúng ta, chúng ta sẽ nói chuyện nghiêm túc, nếu Hoàng
thượng vui lòng. Tâu Hoàng thượng, ông De Buckingham đã ở Paris được năm ngày
nay và tận sáng nay mới đi.
Chú thích:
(1) Gens de robe et gens d'épée - Bản tiếng
Anh dịch là: Civilians and soldiers: nghĩa là phái dân sự và phái quân nhân.
Trong tiếng Pháp: Noblesse de robe: Quý tộc cung đình. Noblesse dépée: quý tộc
kiếm cung - De robe có nghĩa làm nghề pháp lý, nên chúng tôi tạm dịch Gens de
robe = pháp quan.
(2) Xăm xơn, thẩm phán của dân Hêbrơ, có thể
dùng chùy đập chết một lúc hàng nghìn bọn Philistin, sức khỏe nằm ngay trong bộ
tóc, yêu Đalila, bị cô gái điếm này phản bội cắt mất bộ tóc ấy và trao nộp Xăm
Xơn cho bọn Philistin. Trong một cuộc lễ tôn giáo ở Đền thờ Đagông, tại chỗ
người Philistin. Ông đã lật đổ những cột đền và tự chôn vùi mình.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
16
Viên
chưởng ấn Xécghiê tìm mấy lần vẫn không thấy chuông ở đâu để rung lên, như ngày
trước vẫn quen làm
- Không
thể nghĩ nổi việc mấy câu nói kia đã tác động lên nét mặt của vua Louis XIII
thế nào. Mặt nhà Vua hết đỏ lên rồi lại tái đi và Giáo chủ thấy ngay mình chỉ
bằng một đòn đã chiếm lại được địa bàn đã mất.
Nhà Vua
hét lên:
- Ông
Buckingham ở Paris. Và hắn đến để làm gì?
- Chắc
hẳn là để âm mưu với lũ kẻ thù của Hoàng thượng, bọn giáo phái Canvanh và bọn
Tây Ban Nha…
- Không,
chó chết, không? Âm mưu chống lại danh dự của ta, cùng với lũ bà De Chevreuse,
bà Lônggơvin và bọn Côngđê(1) ư?
- Ồ tâu
Hoàng thượng, Ngài nghĩ gì vậy? Hoàng hậu quá khôn ngoan và nhất là quá yêu
Hoàng thượng.
- Giống
đàn bà họ mềm yếu, ngài Giáo chủ ơi, còn về việc quá yêu ta, ta cũng có ý kiến
riêng của ta về mối tình đó rồi.
Giáo chủ
nói:
- Thần
cũng không đến mức cho rằng Huân tước De Buckingham đã đến Paris vì một dự định
hoàn toàn chính trị.
- Còn
ta, ta đoán chắc hắn đến vì một chuyện khác, Giáo chủ ạ. Nhưng nếu Hoàng hậu
phạm tội, bà ấy hãy liệu hồn.
- Thật
ra - Giáo chủ nói - Dù thấy ghê tởm khiến thần phải dừng ngay không dám nghĩ
đến sự phản bội như vậy, nhưng Hoàng thượng làm thần vẫn phải nghĩ tới nó. Bà
De Lanoa mà theo lệnh của Hoàng thượng thần đã hỏi nhiều lần, đã nói với thần
sáng nay rằng đêm qua Hoàng hậu đã khóc rất nhiều và bà viết suốt ngày.
- Chính
thế đó - nhà Vua nói - hẳn là viết cho hắn. Giáo chủ, ta muốn có những giấy tở
của Hoàng hậu.
- Tâu,
nhưng làm thế nào lấy được? Hình như không những chỉ thần mà cả Hoàng thượng
cũng không thể đảm nhiệm một việc như thế
- Thế
người ta đã làm thế nào với bà Thống chế De Ăngcrơ?
Nhà Vua
hét lên giận dữ đến tột cùng:
- Người
ta lục soát hòm tư của bà ta, cuối cùng lục soát cả chính người bà ta đấy thôi.
- Bà
Thống chế De Ăngcrơ chỉ là bà Thống chế De Ăngcrơ, một mụ Florăng(2) phiêu bạt,
có thế thôi, tâu Hoàng thượng. Còn như phu nhân tôn kính của Hoàng thượng, là
Anne d' Autriche, Hoàng hậu của nước Pháp, nghĩa là một trong những bà Hoàng
hậu bậc nhất của thế giới.
- Bà ta
chỉ tổ nặng tội thêm, Giáo chủ ạ! Càng quên địa vị cao sang mình được đặt lên
bao nhiêu, bà ta càng bị hạ bệ tồi tệ bấy nhiêu. Vả lại, từ lâu ta đã quyết
định thanh toán tất cả những âm mưu nhỏ nhen về chính trị và ái tình ấy. Bà ta
cũng có một kẻ đồng lõa La Porte nào đó…
Giáo chủ
nói:
- Thần
thú thật, thần tin rằng hắn là kẻ chủ chốt trong mọi việc.
Nhà Vua
hỏi:
- Vậy
cũng như ta, ông nghĩ bà ta lừa dối ta chứ?
- Thần
tin, và thần xin nhắc lại với Hoàng thượng rằng Hoàng hậu âm mưu chống lại
quyền lực của nhà Vua, nhưng thần không nói chống lại danh dự của Hoàng thượng.
- Còn
ta, ta nói với ông rằng chống lại cả hai. Ta đã nói với ông rằng Hoàng hậu
không yêu ta, ta nói với ông bà ta yêu một kẻ khác, ta nói với ông bà ta yêu
cái tên Buckingham bỉ ổi đó?
- Tại
sao ông không cho bắt giữ hắn lúc hắn ở Paris?
- Bắt
ông Công tước! Bắt giữ Thủ tướng của Nhà Vua Charles đệ nhất? Hoàng thượng có
nghĩ đến điều đó không? To chuyện biết mấy! Và nếu như những ngờ vực của Hoàng
thượng cái điều mà thần vẫn chưa tin đâu, lại có cơ sở nào đấy, thì thật tai
tiếng khủng khiếp! Một sự bê bối thật đáng xấu hổ!
- Nhưng
một khi hắn bất cần đời như một kẻ lang thang và một thằng ăn cắp, thì phải…
Louis XIII
tự dừng lại, sợ ngay cả điều mình sắp nói ra, còn Richelieu thì ngỏng cổ ra
ngóng đợi cái điều bị ngưng lại trên đôi môi của nhà Vua.
- Thì
phải sao ạ?
- Chẳng
sao cả - Nhà Vua nói - Nhưng trong suốt thời gian hắn ở Paris, ông không rời
mắt khỏi hắn chứ?
- Không
ạ.
- Hắn cư
trú ở đâu?
- Số nhà
75 phố Đàn Thụ cầm.
- Phố ấy
ở chỗ nào nhỉ?
- Cạnh
vườn Luxembourg.
- Và ông
chắc Hoàng hậu và hắn không gặp nhau?
- Thần
nghĩ Hoàng hậu quá gắn bó với nghĩa vụ của mình.
- Nhưng
họ đã liên lạc với nhau, Hoàng hậu viết suốt ngày chính là cho hắn, ông Quận
công ạ, ta phải có được những bức thư đó?
- Tâu Bệ
hạ, thế nhưng…
- Ông
Quận công, ta muốn có những thư đó với bất cứ giá nào.
- Tuy
nhiên thần xin lưu ý Bệ hạ…
- Ông
cũng phản ta ư, ông Giáo chủ, mà cứ luôn chống lại những ý nguyện của ta thế?
Ông cũng tán đồng với bọn Tây Ban Nha, bọn Anh, với bà De Chevreuse, với Hoàng
hậu ư?
Giáo chủ
thở dài:
- Tâu Bệ
hạ, thần tin không đáng bị nghi ngờ như thế.
- Ông
Giáo chủ, ông nghe ta nói rồi đấy, ta muốn những bức thư đó.
- Có lẽ
chỉ có một cách.
- Cách
nào?
- Sẽ
trao nhiệm vụ ấy cho viên chưởng ấn Xécghiê. Việc ấy sẽ được hoàn toàn đặt
trong chức trách của ông ta.
- Cho
tìm ngay ông ta đi!
- Ông ta
chắc đang ở chỗ thần, thần đã sai người yêu cầu ông ấy đến và khi thần đi đến
điện Louvre, đã dặn lại, nếu ông ta đến thì cứ chờ ở đó.
- Đi tìm
ông ấy đến ngay đi!
- Lệnh
của Hoàng thượng sẽ được thi hành, nhưng…
- Nhưng
sao?
- Nhưng
có thể Hoàng hậu sẽ không chịu tuân…
- Lệnh
của ta ư?
- Vâng,
nếu bà không biết lệnh ấy là của Nhà Vua.
- Thôi
được, để bà ấy khỏi nghi ngờ, chính ta đến báo cho bà ấy biết.
- Hoàng
thượng sẽ không quên rằng thần đã làm tất cả những gì mà thần có thể làm để
ngăn ngừa một sự tan vỡ.
- Phải,
Quận công ạ, ta biết ông rất độ lượng với Hoàng hậu, có lẽ quá độ lượng đấy. Và
ta báo cho ông biết, sau này chúng ta sẽ có chuyện để nói về việc ấy đấy.
- Khi
nào việc ấy làm vui lòng Hoàng thượng. Nhưng thần sẽ luôn sung sướng và tự hào
được xả thân vì sự thuận hòa mà thần ao ước được duy trì giữa Hoàng thượng và
Hoàng hậu nước Pháp.
- Tốt,
Giáo chủ, tốt, nhưng trong khi chờ đợi, hãy cho đi tìm chưởng ấn đến đây, còn
ta, ta đến chỗ Hoàng hậu.
Và Louis
XIII mở cửa bên đi vào hành lang thông từ chỗ Ngài đến phòng Anne d' Autriche.
Hoàng
hậu đang ở giữa đám phu nhân tùy tùng, bà De Ghitô, bà De Xablê, bà De
Môngtazông và bà De Ghêmơnê.
Trong
một góc là thị nữ hầu phòng Tây Ban Nha Đônha Stéphanie, đi theo Hoàng hậu từ
Madris. Bà De Ghêmơnê đọc sách và mọi người đang chăm chú lắng nghe, chỉ trừ có
Hoàng hậu, người đã bày vẽ ra việc đọc sách này cốt để có thể, trái lại vừa giả
vờ lắng nghe vừa thả theo những suy nghĩ riêng của mình.
Những ý
nghĩ ấy hết thảy đều nạm vàng bởi một ánh hồi quang tình ái, vẫn không kém phần
sầu não. Anne d' Autriche không được chồng tin cậy, bị lòng hận thù của Giáo
chủ đeo đuổi, người không thể tha thứ cho nàng vì đã không thèm có một tình
cảm, dịu dàng hơn, trước mắt nàng là tấm gương của thái hậu mà mối hằn thù đó
đã làm thái hậu, Marie de Médicis(3) điên đảo suốt đời, cho dù thái hậu, nếu
như tin vào những hồi ký thời đó, lúc đầu đã ban cho Giáo chủ thứ tình cảm mà
Anne d' Autriche rốt cuộc vẫn từ chối ông ta. Anne d' Autriche đã nhìn thấy rơi
rụng quanh mình những bầy tôi trung thành nhất, những người tri kỷ tâm đắc
nhất, những người sủng ái thân quý nhất của mình. Giống như những kẻ khốn khổ
ấy được phú cho một thiên tư bi thảm, nàng chỉ đem bất hạnh đến cho tất cả
những gì nàng tiếp xúc. Tình bạn bè của nàng là một dấu hiệu định mệnh dẫn đến
sự ngược đãi. Bà De Chevreuse và bà De Vécnê bị lưu đày. Cuối cùng ông La Porte
cũng không giấu nữ chủ nhân của mình ông vẫn đợi trước sau gì cũng bị bắt.
Chính lúc nàng đang đắm chìm trong những ý nghĩ sâu xa nhất và u ám nhất ấy thì
cửa phòng mở và Nhà Vua đi vào.
Người
đọc sách im ngay tức khắc, tất cả các bà đều đứng dậy, căn phòng im phăng phắc.
Còn Nhà
vua, ông không hề có một biểu hiện lịch sự nào, mà chỉ dừng lại trước Hoàng hậu
và lạc giọng nói:
- Thưa
bà, bà sắp được ông chánh án tối cao(4) đến thăm, ông ta sẽ thông báo với bà
một số công việc mà tôi đã ủy nhiệm cho ông đó.
Bà Hoàng
hậu khốn khổ, mà người ta không ngừng đe dọa ly dị, lưu đầy và cả xét xử, tái
mặt đi dưới lớp phấn hồng và không ngàn nổi nói ra:
- Nhưng
tại sao lại có cuộc thăm viếng đó, tâu Hoàng thượng? Ông chánh án tối cao sẽ
nói với tôi điều gì mà Hoàng thượng không thể tự mình nói với tôi được?
Nhà Vua
quay gót không trả lời, và hầu như cùng lúc đó, đại úy quân cận vệ, ông De
Ghitô thông báo cuộc viếng thăm của ông chánh án tối cao.
Khi ông
ta hiện ra thì Nhà Vua đã ra khỏi bằng một cửa khác.
Viên
chánh án đi vào, nửa tươi cười nửa ngượng ngùng. Vì có thể chúng ta sẽ lại thấy
ông trong câu chuyện này, không có gì đáng ngại để ngay từ bây giờ làm quen với
ông ta.
Viên
chánh án là một con người kỳ dị. Chính ông De Rốtsơ Lơ Malơ, giáo chức ở nhà
thờ Đức Bà, trước kia từng là hầu phòng cho Giáo chủ, đã tiến cử ông ta với Đức
ông như một con người hết mực trung thành. Giáo chủ tin cậy ngay và thấy rất
hài lòng.
Người ta
kể về ông ta nhiều chuyện trong đó có những chuyện sau: Sau một thời trai trẻ
phong ba, ông ta rút lui vào một tu viện để ăn năn hối lỗi, ít nhất trong một
khoảng thời gian nào đó, về những thói điên rồ của tuổi thanh xuân. Nhưng vào
nơi đất thánh, kẻ sám hối không thể đóng lại thật nhanh cánh cửa, khiến những
đam mê mà ông ta chạy trốn lại vào cùng với ông. Ông bị chúng ám ảnh mãi không
thôi, và vị bề trên được ông thổ lộ điều bất hạnh đó, rất mong bảo vệ ông tránh
khỏi những đam mê đó đã khuyên ông để tống khứ được con quỷ cám dỗ, hãy cầu cứu
cái dây thừng kéo chuông, và khua lên cho hết cỡ. Nghe tiếng chuông tố giác,
các thày tu sẽ được báo trước sự cám dỗ đang bao vây một đạo hữu, và tất cả
giáo đoàn sẽ lên tiếng cầu nguyện.
Lời
khuyên có vẻ tốt đối với tương lai ông chánh án tối cao. Ông ta giải trừ tâm
tính ma quái dựa vào sự hỗ trợ lớn lao của những lời nguyện của các thày tu.
Nhưng con quỷ không dễ để bị tước mất cái vị trí mà nó đã dồn trú. Dần dần
người ta tăng gấp đôi những lễ trừ tà, con quỷ cũng tăng gấp đôi cám dỗ, đến
nỗi ngày đêm chuông cứ réo lên hết cỡ, thông báo nỗi khát khao cực điểm được
hành xác mà kẻ ăn năn đang thể nghiệm.
Các thầy
tu không còn nổi một phút nghỉ ngơi. Ban ngày, họ chỉ còn việc lên lên xuống
xuống chiếc cầu thang dẫn đến tiểu giáo đường. Ban đêm, ngoài những lề lối và
lễ sớm, họ còn buộc phải nhảy từ trên giường xuống hai chục lần quỳ xuống gạch
lát nền phòng tăng để cầu nguyện.
Người ta
không biết liệu con quỷ đã buông tha hay các thày tu đã mệt mỏi, nhưng khoảng
ba tháng sau, kẻ ăn năn lại tái hiện trong thế tục, mang theo những tiếng tăm
khủng khiếp nhất, chưa từng thấy bao giờ.
Ra khỏi
tu viện, ông ta vào ngành tòa án, trở thành chánh tòa án thế chân ông chú, ôm
chân đảng phái của Giáo chủ, điều đó không chứng tỏ ông ít sáng suốt, rồi trở
thành chánh án tối cao nhiệt tình phục vụ Đức ông trong mối căm hận chống lại
Thái hậu Marie de Médicis và mối thù chống lại Anne d' Autriche, kích động các
thẩm phán chống lại Hầu tước de Salê(5) nhà sản xuất túi dết lớn của nước Pháp,
rồi cuối cùng chiếm được sự tin tưởng hoàn toàn của giáo chủ, nên đã đạt đến
việc được nhận một nhiệm vụ kỳ quặc và ông đang có mặt ở chỗ Hoàng hậu để thực
hiện nhiệm vụ đó.
Khi ông
ta vào Hoàng hậu còn đang đứng, nhưng vừa thấy ông ta, nàng liền ngồi xuống
chiếc ghếbành của mình và ra hiệu cho các bà cũng ngồi xuống những tấm nệm và
ghế đẩu của họ, rồi bằng một giọng tối kiêu kỳ hỏi ông ta:
- Ông
muốn gì và ông có mặt ở đây với mục đích gì?
- Thưa
Hoàng hậu, để làm việc nhân danh Đức Vua, xin thất kính với lệnh bà, là lục
soát kỹ các giấy tờ của lệnh bà.
- Sao!
Ông nói lục soát các giấy tờ của ta… Với ta ư? Nhưng đó là một điều bỉ ổi!
- Mong
lệnh bà thứ lỗi, nhưng trong trường hợp này, tôi chỉ là một công cụ Đức Vua sử
dụng thôi. Hoàng thượng chẳng vừa ra khỏi đây sao và chẳng phải chính Ngài đã
dặn lệnh bà chuẩn bị cho cuộc thăm viếng này sao?
- Vậy
ông lục soát đi! Xem ra ta là một phạm nhân mất rồi! Stéphanie, đưa chùm chìa
khóa bàn và tủ sách của ta ra đây.
Viên
chánh án xem xét các đồ gỗ một cách chiếu lệ, nhưng ông ta biết thừa không phải
trong hòm tủ, Hoàng hậu đã khóa giữ bức thư quan trọng mà nàng đã viết ngày hôm
ấy.
Khi ông
ta đã mở ra khóa vào đến hai chục lần các ngăn kéo của tủ sách thì dù có cảm
thấy do dự đến mấy cũng cứ phải đi đến đoạn kết của công việc nghĩa là khám
người chính Hoàng hậu. Thế rồi viên chánh án tiến lại chỗ Anne d' Autriche và
bằng một giọng rất đỗi băn khoăn và với vẻ cực kỳ lúng túng, ông ta nói:
- Và bây
giờ, còn lại cuộc lục soát chính yếu.
- Cuộc
lục soát nào? - Hoàng hậu hỏi, như thể không hiểu hoặc đúng hơn là không muốn
hiểu.
- Hoàng
thượng đinh ninh có một bức thư mà lệnh bà đã viết ngày hôm nay. Ngài biết bức
thư đó chưa được gửi tới địa chỉ của nó. Bức thư đó không có trong bàn, cũng
không có trong tủ sách, thế thì nó phải ở đâu đó.
- Ông
dám đặt tay lên Hoàng hậu của ông ư? - Anne d' Autriche đứng thẳng người lên,
nhìn xoáy vào viên chánh án, bằng đôi mắt có vẻ gần như hăm dọa, hỏi ông ta.
- Thưa
lệnh bà, tôi là thần tử trung thành của Hoàng thượng, và tất cả những gì Hoàng
thượng ra lệnh, tôi sẽ làm.
- Thế
thì đúng rồi! - Anne d' Autriche nói - Và những tên gián điệp của ông Giáo chủ
đã phục vụ ông ta đắc lực. Hôm nay ta đã viết một bức thư, bức thư ấy chưa hề
gửi đi. Nó ở đây này.
- Và
Hoàng hậu đưa bàn tay kiều diễm của mình lên chỗ nịt ngực.
- Vậy
xin lệnh bà đưa cho tôi bức thư đó - viên chánh án nói.
- Ta sẽ
chỉ đưa nó cho Nhà Vua - Anne nói.
- Thưa
lệnh bà, nếu Đức Vua muốn bức thư đó được trao lại cho chính Người thì Ngài đã
thân chinh đòi hỏi. Nhưng tôi xin nhắc lại, chính tôi đã được Đức Vua ủy thác
đòi hỏi lệnh bà thư đó, và nếu lệnh bà không trao nó cho tôi…
- Thì
sao?
- Cũng
chính tôi, nhà Vua trao việc đoạt lấy bức thư ấy ở lệnh bà.
- Sao,
ông muốn nói thế nào?
- Thưa
lệnh bà, là lệnh ban cho tôi phải đi xa hơn, là tôi sẽ được phép tìm mảnh giấy
khả nghi đó ngay trên thân thể của lệnh bà.
- Kinh
tởm chưa? - Hoàng hậu kêu lên.
- Vậy
mong lệnh bà hành động dễ dàng hơn.
- Lối xử
sự này là lối bạo lực bỉ ổi, ông biết thế chứ?
- Xin
lệnh bà thứ lỗi cho tôi, đây là Đức Vua chỉ dụ.
- Ta sẽ
không chịu điều đó đâu, không, không, thà chết còn hơn! - Hoàng hậu thét lên,
dòng máu hoàng đế Tây Ban Nha và của nước Áo nổi dậy trong người này.
Viên
chánh án nghiêng mình rất kính cẩn, nhưng vẫn rành rành có ý không lùi nữa bước
trong việc hoàn thành sứ mệnh ông ta được trao, và có thể làm như một tên hầu
của đao phủ trong phòng xét hỏi, hắn xấn lại gần Anne d' Autriche. Ngay lúc ấy,
người ta thấy những giọt nước mắt ứa ra trong đôi mắt sôi lên điên giận.
Như đã
nói, Hoàng hậu có một sắc đẹp tuyệt trần. Cái sứ mệnh này có thể diễn ra một
cách tế nhị nhưng vì quá ghen với Buckingham, nhà Vua đi đến mức không thiết
ghen với ai nữa.
Không
còn nghi ngờ gì nữa, viên chánh án Xécghiê lúc đó đưa mắt tìm chiếc dây thừng
của quả chuông trứ danh, nhưng không thấy nên đành quả quyết đưa tay tới chỗ mà
Hoàng hậu đã thú nhận bức thư đang ở đó.
Anne d'
Autriche lùi lại một bước, tái nhợt đi như thể sắp chết và phải chống tay trái
lên cái bàn ở phía sau để khỏi ngã rồi dùng bàn tay phải rút tờ giấy ra khỏi
ngực mình và chìa ra cho viên chánh án, rồi bằng một giọng đứt hơi run rẩy, nói
với y:
- Đây!
Thư ấy đây, cầm lấy, và hãy giải thoát cho ta bộ mặt bỉ ổi của ông!
Viên
chánh án, về phía mình, dễ nhận thấy y cũng đang run rẩy xúc động, cầm lấy bức
thư, cúi rạp đất chào và rút lui.
Cánh cửa
vừa khép lại đằng sau viên chánh án, hoàng hậu liền quỵ ngã, nửa mê nửa tỉnh
trong tay đám phu nhân tùy tùng.
Viên
chánh án đem thẳng bức thư đến cho nhà Vua, không hề đọc một chữ. Nhà Vua, tay
run rẩy cầm bức thư, tìm địa chỉ không thấy ghi, tái nhợt đi, chậm rãi mở ra,
rồi qua mấy chữ đầu, thấy ngay là gừi cho quốc vương Tây Ban Nha liền đọc rất
nhanh, là cả một kế hoạch tấn công Giáo chủ. Hoàng hậu yêu cầu anh mình và
Hoàng đế nước Áo, những người từng vì cái chính sách của Richelieu luôn luôn
nhằm hạ uy thế hoàng tộc Áo, làm tổn thương, giả bộ tuyên chiến với nưôc Pháp
và đặt điều kiện hòa bình là tống khứ Giáo chủ. Còn tình yêu, không hề có một
chữ trong toàn bộ bức thư.
Nhà Vua,
rất đỗi vui mừng, hỏi xem liệu Giáo chủ có còn ở điện Louvre không và được cho
biết Đức ông vẫn đang chờ lệnh của nhà Vua trong phòng làm việc.
Nhà Vua
trở về ngay chỗ Giáo chủ, nói với ông ta.
- Này,
Quận công, ông có lý, chính ta đã nhầm. Toàn bộ âm mưu này là chính trị, không
hề có vấn đề tình yêu trong bức thư, đây này. Đổi lại, vấn đề lại mạnh về ông.
Giáo chủ
cầm bức thư và đọc hết sức chăm chú. Đọc xong, ông ta lại đọc lại lần nữa, rồi
nói:
- Đấy
nhé, tâu Hoàng thượng, Hoàng thượng thấy lũ kẻ thù của thần đi đến đâu rồi đó.
Họ hăm dọa Hoàng thượng bằng hai cuộc chiến tranh nếu không tống khứ thần. Ở
địa vị Hoàng thượng, thật tình, thần sẽ nhượng bộ những yêu sách mạnh mẽ đến
như thế, và về phía mình, thần sẽ thật sự vui sướng được rút khỏi những công
việc mình đảm nhiệm.
- Ông
nói gì vậy, Quận công?
- Tâu Bệ
hạ, thần nói rằng sức khỏe của thần đã suy sụp trong những cuộc đấu tranh quá
căng thẳng và những công việc liên miên. Thần nói rằng, nếu có thể, thần sẽ
không kham nổi những mệt mỏi trong cuộc bao vây La Rochelle, và tốt hơn hết là
Bệ hạ chỉ định hoặc ông De Côngđê, hoặc ông De Bassompirre, nếu không thì một
con người dũng mãnh nào đó thạo nghề chỉ đạo chiến tranh, chứ không phải thần,
vốn chỉ là một kẻ tu hành không ngừng bị lái chệch ra ngoài thiên hướng của
mình để đưa vào những việc mà thần không đủ sức. Như vậy, đối nội Bệ hạ sẽ được
sung sướng hơn, và đối ngoại, thần tin chắc, Bệ hạ sẽ vĩ đại hơn.
- Ông
Quận công - Nhà Vua nói - ta hiểu, ông hãy bình tĩnh, tất cả những kẻ được nêu
trong bức thư sẽ bị trừng phạt cho xứng đáng và cả chính Hoàng hậu nữa.
- Bệ hạ
nói gì vậy? Cầu Chúa giữ cho Hoàng hậu bớt xung khắc tới thần. Hoàng hậu vẫn
luôn tin thần cho là kẻ thủ của bà cho dù Bệ hạ có thể chứng giám cho thần luôn
nhiệt tình đứng về phía bà, ngay cả khi phải chống lại Bệ hạ. Ôi! Nếu như Hoàng
hậu phản bội Bệ hạ, đúng nơi danh dự của Bệ hạ, lại là chuyện khác, và thần sẽ
là người đầu tiên lên tiếng: "Không dung thứ, tâu Bệ hạ, không dung thứ
đối với người đàn bà phạm tội". May sao, lại không hề có chuyện ấy, và Bệ
hạ vừa thu được một bằng chứng mới như vậy.
- Đúng
vậy, Giáo chủ ạ - nhà Vua nói - và ông luôn luôn có lý. Nhưng không vì thế mà
Hoàng hậu không làm ta tức giận kém đi hơn đâu.
- Chính
Ngài, tâu Bệ hạ, mới đáng để Hoàng hậu tức giận, và thật ra khi Hoàng hậu hờn
dỗi nặng nề Bệ hạ, thì thần hiểu được điều đó, đó là vì Bệ hạ đã đối xử với bà
có chiều khắc nghiệt!
- Ta
luôn luôn sẽ đối xử với kẻ thù của ta và kẻ thù của ông như thế, Quận công ạ,
cho dù chúng có cao sang đến đâu và cho dù hiểm nguy đến mấy ta phải chịu khi
hành xử khắc nghiệt với chúng!
- Hoàng
hậu là kẻ thù của thần, nhưng không phải của Bệ hạ. Trái lại bà là một người vợ
chung thủy, nhu mì và không thể chê trách. Vậy Bệ hạ cho phép thần xin giùm
Hoàng hậu, tâu Bệ hạ.
- Thì bà
ấy cứ tự hạ mình đi và phải làm lành với ta trước.
- Trái
lại, tâu Bệ hạ, Bệ hạ hãy làm gương. Bệ hạ là người phạm lỗi trước vì chính Bệ
hạ đã nghi ngờ Hoàng hậu.
Nhà Vua
nói:
- Ta làm
lành trước ư! Không bao giờ?
- Tâu Bệ
hạ, thần van xin Bệ hạ đấy.
- Hơn
nữa, ta làm lành trước như thế nào đây?
- Làm
một điều gì đó mà Bệ hạ biết sẽ làm Hoàng hậu hài lòng.
- Việc
gì?
- Ban
cho một buổi khiêu vũ. Bệ hạ biết Hoàng hậu thích khiêu vũ biết mấy. Thần cam
đoan, sự hờn giận của bà sẽ không trụ nổi trước một sự quan tâm như vậy.
- Ông
Giáo chủ, ông cũng biết ta không thích mọi vui thú thời lưu.
- Hoàng
hậu sẽ lại càng biết ơn Bệ hạ hơn một khi bà biết Bệ hạ mất thiện cảm đối với
thú vui ấy. Hơn nữa, đó sẽ là một dịp để Hoàng hậu đeo những hạt kim cương rất
đẹp mà Bệ hạ ban cho Hoàng hậu nhân ngày lễ của bà và bà còn chưa có dịp đem
dùng.
Nhà Vua,
đang mừng thấy Hoàng hậu phạm một tội mà ông không quan tâm mấy, và vô tội đối
với một lỗi lầm mà ông rất ghê sợ, đang sẵn sàng hòa giải với bà. Ngài nói:
- Để xem
đã, ông Giáo chủ, để xem sao đã, nhưng ta lấy danh dự ra mà nói nhé, ông quá độ
lượng đấy.
Giáo chủ
nói:
- Tâu Bệ
hạ, xin hãy để sự khắc nghiệt ấy cho các thượng thư. Sự khoan dung là đức tính
đế vương. Xin hãy tỏ ra như vậy, Bệ hạ sẽ thấy dễ chịu.
Tới đây,
nghe đồng hồ điểm mười một giờ, Giáo chủ van nài xin nhà Vua hòa giải với Hoàng
hậu rồi eúi rạp mình xin phép được cáo lui.
Anne d'
Autriche, sau khi bị lấy mất bức thư, đang đợi sự khiển trách nào đó, bỗng hết
sức ngạc nhiên thấy nhà Vua hôm sau lân la muốn đến gần nàng. Lúc đầu, nàng tỏ
vẻ ghê tởm, sự kiêu ngạo của đàn bà, và phẩm giá Hoàng hậu, cả hai đều bị xúc
phạm quá ư tàn nhẫn khiến nàng không thể bình tâm trở lại ngay được, nhưng rồi
bị các phu nhân tùy tùng thuyết phục, cuối cùng nàng cũng có vẻ bắt đầu khuây
đi. Nhà Vua lợi dụng ngay cái khoảnh khắc đầu tiên của sự bình tâm trở lại ấy
để nói với nàng rằng Ngài đang tính tổ chức một dạ hội.
Dạ hội
là một điều hiếm thấy đối với nàng Anne d' Autriche tội nghiệp. Đúng như Giáo chủ
đã nghĩ trước, nghe thông báo như vậy, dấu vết cuối cùng của những nỗi oán hờn
biến mất nếu không ở trong lòng, ít ra cũng trên nét mặt. Nàng hỏi, dạ hội định
tổ chức vào ngày nào, nhưng nhà Vua lại trả lời về điểm này nhà Vua cần phải
thỏa thuận với Giáo chủ đã.
Quả vậy,
ngày nào nhà Vua cũng hỏi Giáo chủ xem nên tổ chức dạ hội vào lúc nào, và ngày
nào, Giáo chủ cũng vin vào một cớ gì đó lần khần ấn định.
Mười
ngày như thế trôi đi.
Ngày thứ
tám sau cái cảnh chúng tôi đã kể, Giáo chủ nhận được một bức thư dán tem
London, bên trong chỉ có mấy dòng:
"Tôi
đã có những vật đó. Nhưng tôi không thể rời London bởi vì thiếu tiền. Gửi cho
tôi năm trăm đồng vàng. Và bốn hoặc năm ngày sau khi nhận được tiền, tôi sẽ ở
Paris".
Vẫn hôm
Giáo chủ nhận được thư đó, nhà Vua lại hỏi ông câu hỏi thường lệ.
Richelieu
bấm đốt ngón tay và khẽ nói với mình: "Cô ta nói, bốn năm ngày sau khi
nhận được tiền, cô ta sẽ đến nơi. Tiền đi phải mất bốn năm ngày, bốn năm ngày
nữa để cô ta trở về, vị chi mất mười ngày. Bây giờ phải tính cả phần ngược gió,
những rủi ro bất ngờ, những yếu đuối của đàn bà… cứ cho tất cả là mười hai
ngày".
- Thế
nào? Ông Quận công - nhà Vua nói - Ông tính toán xong rồi chứ?
- Vâng,
tâu Bệ hạ, hôm nay là 20 tháng chín, các thẩm phán của thành phố tổ chức một
ngày hội ngày 3 tháng mười. Như thể sẽ càng tốt, bởi Bệ hạ sẽ không phải tỏ ra
làm lành với Hoàng hậu.
Rồi Giáo
chủ nói thêm:
- Nhân
thể, tâu Bệ hạ, xin đừng quên nói với lệnh bà đêm trước hôm dạ hội Bệ hạ muốn
thấy chuỗi kim cương có hợp với lệnh bà không.
Chú thích:
(1) Bọn Công đê: thuộc dòng họ Bourbon, một số
là thủ lĩnh và chiến đấu trong hàng ngũ giáo phái Canvanh.
(2) Florăng: thủ phủ cũ của vùng Tốtxcan,
Italia
(3) Marie de Médicis, vợ vua Henri IV, mẹ
Louis XIII, khi chổng chết được nghị viện cử làm nhiếp chính, bà đã đuổi nhưng
bộ trưởng thời Henri IV, tin dùng Côngcini, cưới Anne d' Autriche cho Louis
XIII, chiếm hết quyền lực cho đến khi thống chế De Ăngcrơ bị ám sát. Tiến hành
chiến tranh với con trai từ nãm 1617 đến 1620, cuối cùng thỏa thuận với vua
Louis XIII cho vị giáo sĩ tư tế của mình là Richelieu làm thủ tướng (1624). Bị
đi đày và chết ở Côlônhơ năm 1642
(4) Từ đây tác giả dùng từ Chancelier có nghĩa
là chánh án tối cao cho nhân vật Xécghiê, chứ không dùng từ garde dessceaux
người giữ các con dấu, gọi là chưởng ấn nữa, tuy Chancelier cũng có nghĩa là
giữ các con dấu nhưng ở địa vị thấp hơn
(5) Hầu tước de Salê, tức Henri De Talâyrăng -
Sủng thần của Louis XIII, bị buộc tội chống lại Giáo chủ Richelieu - bị bắt ở
Năngtơ và bị chặt đầu năm 1626.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
17
Vợ chồng
nhà Bonacieux
Đây là
lần thứ hai Giáo chủ trở lại vấn đề những nút kim cương với nhà Vua. Louis vì
thế không hiểu nổi tại sao ông ta cứ nài nỉ và nghĩ rằng sự khuyến nghị này ắt
che giấu một điều bí mật.
Đã nhiều
lần nhà Vua từng bị xấu hổ vì Giáo chủ lại tỏ ra thông hiểu hơn cả bản thân nhà
Vua về những gì diễn ra trong cuộc sống vợ chồng riêng tư của nhà Vua, do cảnh
sát của ông ta hiện đại nhưng cũng rất ưu việt. Vì vậy, nhà Vua hy vọng trong
một buổi trò chuyện với Anne d' Autriche sẽ làm lóe ra một tia sáng nào đó,
tiếp đó đến ngay bên Giáo chủ cùng với một bí mật nào đó mà ông ta đã biết hoặc
không biết, thì dù trường hợp này hay trường hợp kia, việc đó cũng sẽ tôn cao
nhà Vua trước mắt viên Thủ tướng của mình.
Nhà Vua
liền đi gặp Hoàng hậu và theo thói quen, bắt chuyện với Hoàng hậu bằng những đe
dọa mới chống lại những người thân cận của nàng. Anne d' Autriche cúi đầu mặc
cho thác lũ tuôn trào, không đáp, và hy vọng cuối cùng cơn lũ cũng phải dừng.
Nhưng đó không phải là điều Louis XIII muốn, Louis XIII muốn một cuộc tranh cãi
từ đó lóe ra một tia sáng nào đó. Nhà Vua đinh ninh rằng Giáo chủ có một ẩn ý
nào đó và trù tính đặt nhà Vua trước một sự bất ngờ ghê gớm như ông ta vẫn quen
làm.
Nhà Vua
tính đạt tới mục đích đó bằng sự kiên trì cáo buộc. Nhưng, Anne d' Autriche mệt
mỏi vì những đòn công kích vu vơ ấy kêu lên:
- Nhưng
tâu Bệ hạ, Bệ hạ không nói hết ra những điều chất chứa trong lòng. Tôi đã làm
cái gì cơ chứ? Tôi đã phạm tội gì nào? Bệ hạ không thể làm ầm lên như thế về
bức thư viết cho anh tôi?
Nhà Vua
đến lượt mình bị tấn công trực tiếp đến thế không biết trả lời sao, liền nghĩ
đây là lúc đưa lời khuyến nghị mà ông chỉ được làm đêm trước hôm dạ hội.
Nhà Vua
nói với vẻ uy nghiêm:
- Thưa
bà, vũ hội chỉ nay mai thôi sẽ được tổ chức ở tòa thị chính. Tôi muốn rằng để
tôn vinh các thẩm phán nghiêm túc của chúng ta, bà hãy mặc lễ phục và nhất là
trang sức bằng những nút kim cương mà tôi đã ban tặng bà vào ngày lễ sinh nhật
của bà. Đó là câu trả lời của tôi đó.
Câu trả
lời thật khủng khiếp. Anne d' Autriche tin rằng Louis XIII đã biết tất cả, và
Giáo chủ đã thuyết phục được nhà Vua che giấu lâu đến bẩy hoặc tám ngày, vả
chăng nó cũng nằm trong bản tính của nhà Vua, Hoàng hậu tái nhợt hẳn đi, bàn
tay đẹp tuyệt mỹ lúc này nhợt tựa bàn tay sáp tỳ lên chiếc đôn, nhìn nhà Vua
bằng đôi mắt kinh hoàng không trả lời nổi một tiếng.
Nhà Vua
vui mừng ra mặt vì sự bối rối này, tuy vẫn chưa đoán ra nguyên nhân.
- Thưa
bà, bà nghe rõ chứ?
- Vâng,
tâu… tôi nghe rõ - Hoàng hậu ấp súng.
- Bà sẽ
có mặt ở vũ hội ấy chứ?
- Vâng.
- Với
những nút kim cương của bà?
- Vâng.
Sắc mặt
tái nhợt của Hoàng hậu càng tăng thêm đến cùng cực Nhà Vua thấy rõ điều đó và
khoái trá với vẻ tàn nhẫn lạnh lùng vốn là một trong những tật xấu của tính
cách nhà Vua.
- Thế là
thỏa thuận rồi đấy nhé - Nhà Vua nói - đó là tất cả những gì tôi cần nói với
bà.
- Nhưng
vũ hội sẽ mở vào ngày nào? - Anne d' Autriche hỏi.
Bằng
linh tính, nhà Vua cảm thấy không cần phải trả lời thẳng câu hỏi Hoàng hậu hỏi
bằng một giọng như của người sắp chết.
- Sắp
thôi mà - nhà Vua nói - nhưng tôi không nhớ chính xác ngày nào, để tôi hỏi Giáo
chủ xem.
- Vậy ra
chính Giáo chủ đã thông báo vũ hội đó với Bệ hạ? - Hoàng hậu kêu lên.
- Vâng,
thưa bà -Nhà Vua ngạc nhiên trả lời - nhưng có chuyện gì vậy?
- Chính
ông ta bảo Bệ hạ mời tôi dự hội với những nút kim cương ấy?
- Nghĩa
là, bà…
- Chính
ông ta, tâu Bệ hạ, chính ông ta?
- Ô hay?
Do ông ta hay do tôi thì sao nào? Mời như thế thì mắc tội sao?
- Thưa
không.
- Vậy bà
dự chứ?
- Vâng.
- Tốt
lắm! - Nhà Vua vừa nói vừa rút lui - Tốt lắm, tôi mong như thế đấy.
Hoàng
hậu trịnh trọng thi lễ vì nghi thức thì ít mà hai gối nàng rời rã thì nhiều.
Nhà Vua
khoái trá bỏ đi.
- Ta
nguy mất! - Hoàng hậu lẩm bẩm - nguy mất, bởi Giáo chủ biết tất và chính lão ta
đã thúc giục nhà Vua vốn còn chưa biết gì nhưng rồi sẽ biết ngay tất cả. Ta
chết mất! Trời ơi! Trời ơi! Trời ơi!
Nàng quỳ
lên trên một cái nệm và cầu nguyện, đầu gục sâu giữa hai cánh tay run rẩy.
Quả vậy,
tình thế thật khủng khiếp. Buckingham đã trở về London. Bà De Chevreuse đã ở
Tours bị giám sát ngặt nghèo hơn bao giờ hết, Hoàng hậu thầm cảm thấy có một
người trong đám phu nhân tùy tùng của mình đã phản bội mình mà chưa biết đó là
ai. La Porte không thể rời khỏi điện Louvre. Nàng không có một ai trên đời để
tin cậy.
Thế là
trước bất hạnh đang đe dọa, và tình cảnh bị bỏ rơi, nàng òa lên nức nở.
Bỗng
nhiên vang lên một giọng nói đầy lòng thương cảm và hết sức dịu dàng:
- Em
không thể có ích chút nào cho Hoàng hậu hay sao?
Hoàng
hậu quay phảt lại, bởi không thể nào nhầm với giọng nói này được, chỉ là bạn
mới nói được như thế.
Quả
nhiên, tại một cửa đi vào phòng Hoàng hậu, hiện ra bà Bonacieux xinh đẹp. Bà ta
đang bận sắp xếp khăn áo trong một căn phòng thì nhà Vua đi vào. Bà ta không
thể ra được và đã nghe thấy hết.
Hoàng
hậu rú lên một tiếng chói tai vì bị bất ngờ, bởi trong lúc bối rối, lúc đầu
nàng không nhận ra thiếu phụ mà La Porte đã dâng cho mình.
Người
đàn bà trẻ chắp hai tay lại vừa khóe vì chia sẻ những lo âu của Hoàng hậu vừa
nói:
- Ồ xin
lệnh bà đừng sợ gì hết. Em xin đem hết linh hồn và thể xác dâng lệnh bà, và cho
dù lệnh bà có quá cao sang và thân phận em hèn mọn đến đâu, em tin rằng em đã
tìm được một cách giúp lệnh bà thoát ra khỏi những khó khăn.
- Em đấy
ư? Trời ơi! Em đấy ư? - Hoàng hậu reo lên - Nhưng xem nào, hãy nhìn thẳng vào
mặt ta. Ta bị phản bội tứ phía. Liệu ta có thể tin cậy vào em không?
- Ôi,
thưa lệnh bà! - người đàn bà trẻ vừa quỳ xuống - vừa kêu lên - Em xin thề trên
linh hồn em, em xin sẵn sàng chết vì lệnh bà!
Tiếng
kêu đó thốt ra từ cõi lòng sâu thăm, và cũng như lời nói ban đầu, không thể có
chuyện lầm lẫn được.
- Vâng -
bà Bonacieux tiếp tục - Vâng, ở đây có những tên phản bội, nhưng có đức mẹ Đồng
trinh, em xin thề không có ai có thể trung thành như em với lệnh bà, những nút
kim cương mà nhà Vua hỏi lại ấy, lệnh bà đã tặng cho Quận công De Buckingham,
có phải không ạ? Những nút kim cương ấy được đựng trong một cái tráp nhỏ bằng
gỗ hồng đào mà Quận công đã kẹp dưới cánh tay? Em có nhầm không ạ? Không phải
như vậy sao?
- Ôi
Chúa ơi! Chúa ơi!
Hoàng
hậu thầm thì, răng va vào nhau lập cập vì sợ hãi.
- Thế
thì! Bà Bonacieux tiếp tục - Những nút kim cương ấy phải được lấy lại.
- Phải,
hẳn rồi, phải vậy thôi. - Hoàng hậu kêu lên - nhưng biết làm thế nào, làm thế
nào để lấy lại?
- Phải
cử một ai đến gặp Quận công.
- Nhưng
ai?… ai?… Ta có thể tin ai đây?
- Xin
lệnh bà cứ tin tưởng vào em. Hãy cho em được cái vinh dự ấy, Hoàng hậu của em
ạ, và em, em sẽ tìm được sứ giả.
- Nhưng
phải viết thư?
- Vâng,
việc đó là cần thiết. Vài chữ từ chính tay lệnh bà viết và có đóng dấu riêng
của lệnh bà.
- Nhưng
vài cái chữ ấy, đó là bản án của ta, đó là sự ly dị, sự lưu đày!
- Vâng
nếu nó rơi vào bàn tay lũ đê mạt. Nhưng em, em đảm bảo mấy chữ đó sẽ được trao
đúng địa chỉ.
- Ôi,
trời ơi! Vậy là ta phải trao tính mạng ta, danh dự ta và danh tiếng của ta vào
tay em!
- Vâng,
thưa bệnh bà, phải vậy thôi và chính em sẽ cứu vãn mọi cái đó!
- Nhưng
như thế nào? Ít nhất em cũng nói cho ta biết chứ.
- Chồng
em đã được trả tự do từ hai ba ngày nay. Em còn chưa có thì giờ về thăm ông ấy.
Đó là một người đàn ông tử tế và lương thiện, không hằn thù ai, cũng chẳng yêu
ai. Ông ấy sẽ làm cái gì em muốn. Ông ấy sẽ ra đi theo lệnh của em, mà không
biết mình mang cái gì, và ông ấy sẽ chuyển bức thư của lệnh bà tới địa chỉ lệnh
bà đã dặn.
Hoàng
hậu nắm lấy hai tay người đàn bà trẻ với niềm phấn khởi dạt dào, nhìn nàng như
thể đọc thấu tâm can và chỉ thấy lòng thành thực trong đôi mắt đẹp rồi ôm hôn
nàng trìu mến và nói:
- Em cứ
làm thế đi, em sẽ cứu được đời ta, cứu được danh dự của ta!
- Ồ xin
đừng cường điệu cái công việc em vinh dự được làm cho lệnh bà. Em có cứu vớt
lệnh bà chút gì đâu, chẳng qua lệnh bà chỉ là nạn nhân của những âm mưu nham
hiểm.
- Đúng
vậy, đúng vậy, em bé của chị - Hoàng hậu nói - Và em có lý.
- Vậy
xin hãy trao cho em bức thư ấy đi, thời gian gấp lắm rồi.
Hoàng
hậu chạy ngay đến chiếc bàn nhỏ, trên bàn có sẵn giấy bút mực. Nàng viết hai
dòng, niêm phong bức thư bằng con dấu của mình và trao cho bà Bonacieux.
- Và bây
giờ - Hoàng hậu nói - Chúng ta quên mất một điều tối cần thiết.
- Điều
gì ạ?
- Tiền.
Bà
Bonacieux đỏ mặt nói:
- Vâng,
đúng vậy và em xin thú thực với lệnh bà rằng chồng em…
- Chồng
em không có, em muốn nói thế chứ gì.
- Có chứ
ạ, chồng em có, nhưng ông ấy keo kiệt lắm, đó chính là tật xấu của ông ấy. Tuy
nhiên lệnh bà đừng lo, chúng ta sẽ tìm cách…
- Chính
là vì ta cũng không có - Hoàng hậu ngàt lời - những ai đã đọc những tập hồi ký
của bà De Mốttơvin sẽ không ngạc nhiên thấy ta trả lời như vậy, nhưng đợi đã.
Hoàng
hậu chạy đến hộp đồ nữ trang của mình, và nói:
- Đây em
cầm lấy, đây là chiếc nhẫn theo người ta cam đoan có giá trị rất lớn. Nó vốn
của anh ta, Nhà Vua Tây Ban Nha, nó đã là của ta và ta có thể tùy ý dùng nó. Em
hãy cầm chiếc nhẫn này bán lấy tiền để chồng em ra đi.
- Trong
vòng một tiếng đồng hồ, lệnh của hoàng hậu sẽ được thi hành.
- Em
nhìn rõ địa chỉ chứ - Hoàng hậu nói nhỏ thêm, chỉ vừa đủ nghe - Gửi Huân tước
Quận công De Buckingham ở London".
- Bức
thư sẽ được trao tận tay cho Huân tước.
- Em nhỏ
thật là hào hiệp! - Anne d' Autriche reo lên.
Bà
Bonacieux hôn đôi tay của Hoàng hậu, giấu bức thư trong nịt ngực và biến mất
nhẹ nhàng như một cánh chim.
Mười
phút sau, nàng đã về đến nhà. Như nàng đã nói với Hoàng hậu, từ lúc chồng nàng
được trả tự do nàng chưa về thăm. Nàng không biết gì về sự thay đổi đã diễn ra
trong lòng ông ta đối với Giáo chủ, sự thay đổi ấy đã được củng cố vững chắc
thêm sau hai hay ba lần viếng thăm của Bá tước De Rochefort và ông ta đã trở
thành bạn tốt nhất của Bonacieux đã không tốn công mấy làm cho Bonacieux tin
rằng việc bắt cóc vợ ông chẳng phải do một tình cảm tội lỗi nào mà chỉ là một
việc phòng ngừa chính trị.
Nàng
thấy ông Bonacieux chỉ có một mình. Con người khốn khổ đó đang vất vả thu dọn
lại nhà cửa mà ông ta thấy đồ đạc gần như gây vỡ hết và tủ giả gần như rỗng
không. Công lý không hề là một trong ba điều mà vua Salomon(1) đã chỉ ra là
không để lại một vết tích gì trên đường đi của nó. Còn như cô hầu gái thì cô ta
đã trốn mất từ khi chủ bị bắt giữ. Sự kinh hoàng đã tác động đến cô gái tội
nghiệp đến mức cô ta cuốc bộ một mạch từ Paris đến tận Buốcgônhơ, quê hương của
mình.
Ngay lúc
vợ mình vừa trở về nhà, ông hàng xén đáng khen đã chia sẻ với người vợ về sự
trở về may mắn của mình, còn vợ ông thì đã đáp lại để mừng cho chồng và để nói
với chồng rằng, ngay khi nàng có thể dứt ra khỏi công việc là đã nghĩ tới
chuyện hiến tất cả thời gian cho việc về thăm chồng.
Cái việc
ngay khi ấy cũng phải đợi mất đến năm ngày. Việc đó trong mọi tình huống khác
có vẻ hơi dài đối với Bonacieux nhưng trong cuộc viếng thăm Giáo chủ và những
cuộc thăm viếng của Rochefort, ông đã có một chủ đề phong phú để suy tư và như
người ta biết không có gì khiến thời gian trôi nhanh bằng suy nghĩ.
Hơn thế
nữa những suy nghĩ của Bonacieux lại toàn màu hồng. Rochefort gọi ông là bạn
mình, bạn thân mến Bonacieux và không ngừng nói với ông rằng Giáo chủ đánh giá
rất cao về ông.
Ông hàng
xén nhìn thấy mình đang trên con đường vinh hiển và giàu sang.
Về phần
mình, phải nói rằng bà Bonacieux lại nghĩ đến tất cả những gì khác ngoài tham
vọng. Những ý nghĩ của nàng, bất chấp nàng muốn hay không, chỉ một mực hướng về
chàng thanh niên đẹp trai rất đỗi can trường và cũng có vẻ rất đỗi si tình.
Cưới ông
Bonacieux ở tuổi mười tám, luôn sống giữa đám bạn bè của chồng mình, là một
thiếu phụ mà tấm lòng lại vượt lên trên địa vị của mình, bà Bonacieux vẫn trơ
trơ trước những ve vãn tầm thường. Nhưng vào thời kỳ đó, cái danh hiệu quý tộc
có một ảnh hưởng lớn đến giới thị dân và D' Artagnan lại là quý tộc, hơn nữa
chàng mặc đồng phục quân cận vệ, là thứ được các bà ưa thích nhất chỉ sau có
đồng phục ngự lâm quân. Chàng trẻ, đẹp, lại ưa mạo hiểm. Chàng nói về tình yêu
như một người lớn đang yêu và đang khát được yêu. Thế là dư thừa những gì cần
có để làm điên đảo một cái đầu hai mươi ba tuổi mà bà Bonacieux thì lại vừa đến
cái tuổi sung sướng trần đời đó.
Hai vợ
chồng, dù họ chưa được thấy nhau từ tám hôm rồi, và trong cái tuần lễ ấy, những
biến cố nghiêm trọng từng xảy ra giữa họ, cho nên họ bắt chuyện với nhau mỗi
người một mối bận tâm riêng. Tuy nhiên ông Bonacieux tỏ ra vui mừng thực sự và
dang rộng hai tay tiến về phía vợ.
- Bà
Bonacieux giơ trán cho chồng hôn, rồi nói:
- Ta nói
chuyện với nhau một chút.
- Sao
cơ? - Ông Bonacieux ngạc nhiên.
- Vâng -
Em có một chuyện tối quan trọng muốn nói với anh.
- Thật
ra, tôi cũng thế, tôi cũng có vài vấn đề khá nghiêm trọng muốn nói chuyện với
mình. Mình hãy giải thích qua việc mình bị bắt cóc cho tôi nghe nào, tôi xin
mình đấy.
- Lúc
này không phải lúc đề cập đến chuyện đó - Bà Bonacieux nói.
- Vậy
thì phải là chuyện gì nào?
- Chuyện
tôi bị bắt ư? Ngay hôm ấy em đã biết chuyện rồi. Nhưng vì chẳng phạm một tội
hình nào, mình chẳng dính líu đến một âm mưu nào, vì rốt cuộc mình chẳng biết
chút gì ai có thể làm hại mình, không phải mình, cũng không phải bất cứ ai, mà
em chỉ quan tâm đến tầm quan trọng đáng có của sự kiện ấy thôi.
- Thưa
bà, bà nói dễ nghe nhỉ! - Bonacieux thấy vợ tỏ ra ít quan tâm đến mình tự ái
nói - bà có biết tôi đã bị dìm một ngày một đêm trong hầm tối của ngục Bastille
không?
- Một
ngày một đêm ấy đã qua rồi, thôi hãy gác chuyện mình bị bắt lại, và ta trở lại
cái việc khiến đưa em về đây với mình.
- Sao,
cái việc khiến đưa bà về đây với tôi? Vậy chứ không phải lòng khát khao được
gặp lại một người chồng mà bà đã phải xa cách tám ngày rồi sao? - Ông hàng xén
tức tối hỏi.
- Chuyện
đó trước, chuyện kia sau.
- Nói
đi!
- Một
việc quan trọng bậc nhất, có lẽ vận hội sắp tới của chúng ta tùy thuộc vào đấy.
- Vận
hội của chúng ta đã thay đổi bộ mặt rất nhiều kể từ ngày tôi gặp bà, bà
Bonacieux ạ, và tôi sẽ không ngạc nhiên khi chỉ mấy tháng nữa thôi, nó sẽ làm
cho khối người thèm khát.
- Vâng,
nhất là nếu mình muốn những chỉ dẫn mà em sắp đưa ra cho mình.
- Cho
tôi?
- Vâng,
cho mình. Có một việc tốt và thánh thiện cần làm, mình ạ, đồng thời lại kiếm
được rất nhiều tiền.
- Bà
Bonacieux biết rằng nói về tiền bạc với chồng tức là bà đã nắm lấy chỗ yếu của
ông ta.
Nhưng
một người, ngay cả khi là một ông hàng xén, một khi đã trò chuyện mươi phút với
Giáo chủ, sẽ không còn là chính người ấy nữa.
- Kiếm
được nhiều tiền ư? - Ông Bonacieux bĩu môi.
- Vâng,
rất nhiều.
- Khoảng
bộ bao nhiêu?
- Vậy
cái việc mình yêu cầu tôi nghiêm trọng lắm sao?
- Vâng.
- Vậy
phải làm gì?
- Mình
sẽ phải đi ngay lập tức, em sẽ đưa cho mình một mảnh giấy mà mình sẽ không được
rời khỏi nó với bất cứ lý do gì và phải trao tận tay người nhận.
- Và tôi
phải đi đâu?
- Đi
London.
- Tôi,
đi London á? Thôi nào, mình đùa rồi, tôi chăng có việc gì ở London.
- Nhưng
những người khác lại cần mình đi đến đó.
- Những
người khác ấy là ai? Tôi xin báo để mình biết tôi sẽ không nhắm mắt làm bừa nữa
đâu và tôi muốn biết không chỉ tôi liều đời cho cái gì mà còn liều đời vì ai
nữa.
- Một
nhân vật nổi tiếng cử mình đi, một nhân vật nổi tiếng khác đợi mình: phần
thưởng sẽ vượt xa ước muốn của mình. Đó là tất cả những gì em có thể hứa với
mình.
- Lại
những âm mưu nữa rồi! Luôn luôn là những âm mưu!
- Cám
ơn, bây giờ tôi không tin gì nữa, và Giáo chủ đã khai sáng cho tôi về việc đó
rồi.
- Giáo
chủ ư! - Bà Bonacieux kêu lên - mình đã gặp Giáo chủ?
- Ngài
đã cho gọi tôi - Ông hàng xén kiêu hãnh trả lời.
- Và
mình đã nhận lời mời đến đó, mình lại bất cẩn như thế?
- Tôi
phải nói rằng, tôi không có sự lựa chọn là đến hay không đến, vì tôi bị kẹp
giữa hai lính gác. Nói đúng hơn, vì lúc đó tôi không quen biết Đức ông, nếu như
tôi có thể thoát khỏi cuộc viếng thăm đó, tôi hẳn đã cực kỳ sung sướng.
- Vậy
ông ấy đã ngược đãi mình ư? Hay ông ta đã hăm dọa mình?
- Ngài
chìa tay ra cho tôi bắt và gọi tôi là bạn ngài, bạn ngài, thưa bà, nghe rõ
chưa? Tôi là bạn của Đại Giáo chủ!
- Của
Đại Giáo chủ?
- Không
chấp nhận cái tước vị ấy của ngài, tình cờ thôi đấy chứ, thưa bà!
- Em
chẳng không chấp nhận cái gì cả, nhưng em nói với mình rằng sự sủng ái của một
ông Thủ tướng chỉ là phù du, và chỉ có điên mới đi gắn bó với một ông Thủ
tướng, còn có những quyền lực ở bên trên quyền lực của ông ta, nó không dựa trên
tính bất trắc của một con người hoặc lối thoát của một biến cố, chính là những
quyền lực ấy ta phải đi theo.
- Tôi
thấy bực mình rồi đấy thưa bà, tôi không biết thứ quyền lực nào khác ngoài
quyền lực của một bậc vĩ nhân mà tôi vinh dự được phụng sự.
- Ông
phụng Giáo chủ?
- Vâng,
thưa bà, và như một kẻ tôi tớ của ngài, tôi sẽ không cho phép bà lao vào những
âm mưu chống lại sự an ninh của một quốc gia và bà, phải, chính bà, lại phụng
sự những mưu mô của một người đàn bà không phải là phụ nữ Pháp và lòng dạ Tây
Ban Nha. May thay Giáo chủ vĩ đại ở đó, con mắt cảnh giác của ngài canh chừng
và xuyên thấu tận đáy lòng người khác.
Bonacieux
nhắc lại nguyên si từng lời cái câu ông ta được nghe Bá tước Rochefort nói.
Nhưng người vợ tội nghiệp đã trông mong vào chồng mình, và trong niềm hy vọng
ấy, đã đảm bảo cho ông ta trước Hoàng hậu, không kém rùng mình về điều đó và
nỗi nguy hiểm suýt nữa nàng đâm đầu vào, và cả sự bất lực nàng đang cảm thấy
nữa. Tuy nhiên, biết được sự hèn yếu và nhất là lòng tham của chồng mình, nàng
chưa hết hy vọng dẫn dụ ông ta tới những mục đích của mình.
- À!
Thưa ông, thì ra ông thuộc phái Giáo chủ! - Nàng kêu lên - Thì ra ông phụng sự
đảng phái của những kẻ đã ngược đãi vợ ông và lăng mạ Hoàng hậu!
Ông
Bonacieux huyênh hoang nói chữ:
- Lợi
ích riêng tư không là cái gì trước lợi ích của toàn thể. Tôi đứng về phía những
người cứu quốc gia.
Đấy cũng
lại là một câu nói khác của Bá tước Rochefort mà ông ta đã nhớ được. Và thấy có
dịp đem dùng.
- Thế
ông có biết cái quốc gia mà ông vừa nói nó là thế nào không? - Bà Bonacieux
nhún vai nói - Hãy yên phận là một thị dân ít học đi, và hãy quay về phía nào
cho ông nhiều lợi lộc hơn.
- Ông
Bonacieux vừa nói vừa vỗ lên cái túi căng tròn cho xủng xoẻng tiếng bạc reo:
- Hà,
hà! Bà nói sao về cái túi này, thưa bà thuyết sĩ?
- Ở đâu
ra số bạc ấy?
- Bà
không đoán ra ư?
- Của
Giáo chủ?
- Của
ngài và của bạn tôi, Bá tước De Rochefort.
- Bá
tước De Rochefort ư? Nhưng chính ông ta đã bắt cóc tôi!
- Có thể
đấy, thưa bà.
- Và ông
nhận tiền từ con người ấy?
- Tôi đã
chẳng bảo bà là việc bắt cóc đó hoàn toàn là chính trị sao.
- Phải,
nhưng cuộc bắt cóc đó có mục đích làm cho tôi phản bội lại nữ chủ của mình, và
bằng tra khảo để moi ở tôi ra những lời thú nhận có thể phương hại đến danh dự
và có thể cả mạng sống của nữ chúa tôn kính của tôi.
- Thưa
bà - Bonacieux nói tiếp - nữ chúa tôn kính của bà là một mụ đàn bà Tây Ban Nha
điên đảo, và việc Giáo chủ làm là rất đúng.
- Thưa
ông - thiếu phụ nói - tôi vẫn biết ông hèn nhát, keo bẩn và ngu xuẩn, nhưng tôi
lại không biết ông còn đê tiện nữa?
- Thưa
bà - Bonacieux chưa từng thấy vợ mình nối giận bao giờ, đã lùi bước trước cơn
điên giận của người vợ - Thưa bà, bà bảo sao cơ?
- Tôi
bảo ông là một tên khốn nạn! - Bà Bonacieux tiếp tục khi thấy mình đã lấy lại
được chút ảnh hưởng nào đó với chồng mình – Chà, ông làm chính trị ư, ông hả!
Và còn là thứ chính trị Giáo chủ nữa! Ôi chao, ông bán mình, cả thể xác lẫn
linh hồn cho quỷ sứ vì tiền?
- Không,
cho Giáo chủ chứ.
- Cũng
thế cả thôi? Thiếu phụ kêu lên - Nói Richelieu là nói quỷ Satan.
- Bà im
đi, im ngay đi, người ta nghe thấy đấy.
- Đúng,
ông có lý, và tôi sẽ phải xấu hổ, vì sự hèn nhát của ông.
- Nhưng
xem nào, bà đòi hỏi phải làm gì mới được chứ?
- Tôi đã
bảo ông là ông sẽ phải đi ngay tức khắc, rằng ông phải hoàn thành một cách
trung thực nhiệm vụ mà tôi đã vị nể mà trao cho ông, và với điều kiện sau, tôi
sẽ quên hết, tôi tha thứ và còn thêm - nàng chìa tay ra cho ông - em sẽ trao
lại mình tình thương mến của em.
Bonacieux
hèn mạt và keo kiệt. Nhưng ông ta yêu vợ mình, và ông đã mềm lòng. Một người
đàn ông năm mươi tuổi không giữ nổi hiềm thù lâu với một người vợ tuổi hăm ba.
Bà Bonacieux thấy ông còn do dự, liền nói:
- Thôi
được? Vậy thôi! Suy cho cùng, có lẽ mình có lý, một người đàn ông hiểu về chính
trị nhiều hơn những người đàn bà, nhất là mình, người đã từng trò chuyện với
Giáo chủ. - Tuy nhiên nàng nói thêm - Chồng tôi, người đàn ông mà tôi tưởng có
thể trông cậy vào tình thương yêu lại đối xử với tôi bạc bẽo và chẳng chiều
theo ý tôi chút nào, chả phải cứng rắn quá sao.
- Chính
vì những ý nghĩ ngông cuồng của bà có thể dẫn đi quá xa - Bonacieux đắc thắng
trả lời - nên tôi nghi ngờ những ý nghĩ ấy.
- Thì em
đành từ bỏ vậy - Thiếu phụ vừa nói vừa thở dài - Thôi được, ta không nói chuyện
ấy nữa.
Bonacieux
bỗng thấy mình chậm nhớ ra là Rochefort đã dặn mình cố chộp lấy những bí mật
của vợ, liền trả lời:
- Nói
chứ, ít nhất, bà cũng cho biết tôi phải làm gì ở London chứ.
Linh
tính khiến người thiếu phụ thấy nghi ngờ và đẩy nàng về tư thế phòng vệ. Nàng
nói:
- Ông
biết cũng vô ích thôi mà. Chỉ là một chuyện tầm phào mà đàn bà thường ao ước ấy
mà, mua một món hàng vặt nhưng lời lãi lại khá nhiều.
Nhưng
người vợ trẻ càng chống chế, thì Bonacieux trái lại càng nghĩ cái bí mật mà
nàng không chịu thổ lộ cùng ông ta rất quan trọng. Vậy ông ta quyết định chạy
ngay tới nhà Bá tước Rochefort để nói với Bá tước rằng Hoàng hậu đang tìm một
sứ giả để phái tới London.
- Xin
lỗi nhé nếu như tôi rời xa bà lúc này, bà Bonacieux thân mến của tôi ạ - Bonacieux
nói - vì không biết bà về thăm tôi, tôi trót có cuộc hẹn với một người bạn, Tôi
sẽ về ngay thôi và nếu bà có thể đợi tôi chỉ nửa phút thôi, xong việc với người
bạn tôi sẽ về ngay đón bà, và vì lúc đó trời cũng đã muộn, tôi sẽ đưa bà về
điện Louvre.
- Cám ơn
ông - Bà Bonacieux trả lời - Ông đâu có đủ can trường để giúp ích cho tôi việc
gì, và tôi thừa sức quay lạỉ Louvre một mình mà.
- Tùy bà
thôi, bà Bonacieux - tay cựu hàng xén tiếp - Tôi sớm gặp lại bà chứ?
- Chắc
chắn rồi, tuần sau, tôi hy vọng thế, công việc rỗi rãi, tôi sẽ nhân đó trở về
sắp xếp lại việc nhà chắc vẫn còn hơi bề bộn.
- Tốt
lắm, tôi sẽ đợi bà. Bà không giận tôi đấy chứ?
- Tôi ư!
Không chút nào đâu.
- Vậy,
sớm gặp lại chứ?
- Sớm
gặp lại.
Bonacieux
hôn tay vợ mình và vội vã ra đi. Khi cánh cửa ra ngoài phố đã khép lại còn lại
một mình, bà Bonacieux nói:
- Thế
đấy, cung cách này chắc chắn tên ngu xuẩn đó đã thuộc phái Giáo chủ rồi! Và ta,
ta đã đảm bảo với Hoàng hậu, ta là người đã hứa với nữ chủ nhân tội nghiệp của
ta. Ôi trời ơi! trời ơi! bà sẽ cho tôi cùng giuộc với lũ khốn nạn nhung nhúc
như kiến trong cuIlg mà người ta cắt đặt bên bà để do thám bà. Ôi, ông
Bonacieux! Tôi chưa bao giờ yêu ông nhiều. Bây giờ, còn tệ hơn nhiều: tôi căm
ghét ông. Và tôi thề, ông sẽ phải trả giá.
Đúng lúc
nàng nói ra những câu ấy, một tiếng gõ trên trần khiến nàng ngẩng đầu lên, và
một giọng nói xuyên qua sàn gác đến tai nàng:
- Bà
Bonacieux yêu quý, hãy mở chiếc cửa ngách ra lối đi, tôi sẽ xuống bên bà.
Chú thích:
(1) Con trai và là người kế vị vua David, vua
Israel, sự thông thái của ông
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
18
Người
tình và người chồng
- Ôi
thưa bà! - D' Artagnan vừa bước qua chiếc cửa mà thiếu phụ vừa mở ra cho chàng,
vừa nói - cho phép tôi được nói với bà, bà có một Đức ông chồng đáng buồn đấy?
- Vậy ra
ông đã nghe hết câu chuyện của chúng tôi? - Bà Bonacieux lo lắng nhìn D'
Artagnan và vội hỏi.
- Không
sót một câu.
- Nhưng
làm thế nào lại thế được, trời ơi!
- Bằng
một phương sách chỉ có tôi biết, và cũng nhờ nó mà tôi cũng đã nghe được câu
chuyện còn sôi nổi hơn giữa bà với bọn nha lại của Giáo chủ.
- Và ông
hiểu thế nào về những điều chúng tôi nói?
- Hàng
nghìn điều, nhá, trước hết chồng bà là một thằng đần, một kẻ điên khùng, may
thay, rồi thì bà bối rối, việc này khiến tôi lại rất vui vì nó cho tôi cơ hội
được phục vụ bà, và có trời mới biết liệu tôi có sẵn sàng lao vào lửa vì bà
không, cuối cùng là Hoàng hậu cần một người can trường thông minh và tận tụy
làm một cuộc hành trình đến London vì lệnh bà. Tôi có ít nhất hai trong số ba
phẩm chất bà cần và tôi đây.
Bà
Bonacieux không trả lời, nhưng trái tim rung động vì mừng vui, và một hy vọng
thầm kín long lanh trong mắt nàng. Nàng hỏi:
- Và ông
lấy gì đảm bảo với tôi, nếu tôi bằng lòng ủy thác cho ông nhiệm vụ đó?
- Tình yêu
của tôi đối với bà. Thế nào, bà nói đi, ra lệnh đi: phải làm gì?
- Lạy
Chúa! Lạy Chúa! - Thiếu phụ thầm thì - Tôi có nên thổ lộ với ông một bí mật như
thế không? Ông hãy còn như một đứa trẻ.
- Rõ
rồi, tôi thấy bà cần có một ai đó bảo đảm cho tôi với bà.
- Tôi
xin thú thực là việc đó sẽ làm tôi yên tâm lắm.
- Bà có
biết ông Athos không?
- Không.
-
Porthos?
- Không.
- Aramis
vậy?
- Không,
những vị ấy là những người nào?
- Những
ngự lâm quân của nhà Vua. Bà biết ông De Treville, đại úy của họ chứ?
- Ồ,
vâng, ông ấy, tôi biết chứ, không phải quen riêng đâu, mà vì nhiều lần đã được
nghe nói về ông ấy với Hoàng hậu như một nhà quý tộc chính trực và trung thực.
- Bà
không sợ ông ấy phản bội bà vì Giáo chủ, phải không nào?
- Ồ chắc
chắn không rồi.
- Vậy
thì bà hãy thổ lộ bí mật của bà với ông ấy, và hãy hỏi ông ấy xem liệu có thể
ký thác nó cho tôi được không, dù việc đó có quan trọng, có quý giá, có ghê gớm
đến đâu.
- Nhưng
bí mật đó không thuộc về tôi, tôi không thể tiết lộ như thế.
- Bà
chẳng vừa thổ lộ với ông Bonacieux đấy sao! - D' Artagnan giận dỗi nói.
- Với
ông ta, chẳng qua như ký thác vào một hốc cây, một cánh chim câu, một vòng cổ
chó ấy mà.
- Trong
khi ấy, bà thấy rõ là tôi yêu bà.
- Là ông
nói thôi.
- Tôi là
một người hào hoa.
- Tôi
tin vậy.
- Tôi
can trường.
- Ồ,
điều đó, tôi tin chắc.
- Vậy
thì đem tôi ra thử thách đi.
Bà
Bonacieux nhìn chàng trai trẻ, vẫn còn chút do dự cuối cùng. Nhưng mắt chàng
ánh lên nhiệt tình, giọng chàng đầy sức thuyết phục khiến nàng cảm thấy mình bị
lôi cuốn tới chỗ tin cậy chàng. Vả lại, nàng đang trong một những tình thế phải
liều để được ăn cả ngã về không. Hoàng hậu cũng đã từng bị mất mát nhiều, bởi
quá giữ gìn cũng như quá tin tưởng. Rồi, cũng phải thú nhận rằng, mối cảm tình
không chủ tâm mà nàng nghiệm thấy đối với người bảo vệ trẻ tuổi đã khiến nàng
quyết định nói ra.
- Ông
chú ý nghe đây. Tôi xin đầu hàng trước những cam kết của ông, và xin thua những
đảm bảo của ông. Nhưng tôi thề với ông trước Thượng đế đang nghe chúng ta, nếu
ông phản bội tôi và cho dù kẻ thù có tha thứ cho tôi, tôi sẽ tự sát để lấy cái
chết buộc tội ông.
- Và
tôi, tôi thề với bà trước Thượng đế - D' Artagnan nói - nếu như tôi bị bắt khi
đang hoàn thành những mệnh lệnh của bà, tôi sẽ chết trước khi làm hoặc nói điều
gì phương hại đến bất kỳ ai.
Lúc đó
người đàn bà trẻ mới thổ lộ với chàng điều bí mật ghê gớm mà do tình cờ đã để
lộ một phần với chàng ở trước mặt nhà thờ Samaritain.
Đó là sự
tỏ tình giữa họ với nhau.
D'
Artagnan rạng rỡ niềm vui và kiêu hãnh. Điều bí mật chàng đang nắm, người đàn
bà chàng đang yêu, sự tin tưởng và tình yêu, biến chàng thành một người khổng
lồ.
- Tôi đi
đây - Chàng nói - Tôi đi ngay lập tức.
- Sao!
Ông đi ngay ư? - Bà Bonacieux kêu lên - Thế còn binh đoàn của ông, đại úy của
ông?
- Thề trên
linh hồn tôi, bà đã làm tôi quên tất những cái đó, Constance yêu quý ạ! Đúng,
bà nói đúng, tôi phải xin nghỉ phép.
- Còn
một trở ngại nữa - Bà Bonacieux đau đớn nói.
- Ô, cái
việc đó - Sau một lúc suy nghĩ, D' Artagnan nói - Tôi sẽ vượt qua. Bà cứ yên
tâm.
- Vượt
qua như thế nào?
- Ngay
tối nay, tôi sẽ đến nhà ông Treville, tôi sẽ nhờ ông xin hộ tôi sự chiếu cố ấy
với em rể ông là ông des Essarts.
- Bây
giờ còn chuyện khác nữa.
- Chuyện
gì? - D' Artagnan hỏi vì thấy bà Bonacieux ngập ngừng không nói tiếp.
- Có lẽ
ông không có tiền?
- Nói có
lẽ là thừa - D' Artagnan vừa nói vừa mỉm cười.
- Bà
Bonacieux mở tủ lôi ra cái túi mà nửa giờ trước đấy chồng bà âu yếm vuốt ve nó,
bảo chàng:
- Vậy
thì, ông hãy cầm lấy cái túi này.
- Túi
tiền của Giáo chủ! - D' Artagnan phá lên cười và reo lên, vì chàng đã không bỏ
sót một vần trong câu chuyện giữa ông hàng xén và vợ mình, nhờ bóc đi mấy viên
gạch lát.
- Đúng,
túi tiền của Giáo chủ - bà Bonacieux trả lời - Ông thấy nó có vẻ bề thế đấy
chứ.
- Mẹ
kiếp! - D' Artagnan kêu lên - Sẽ khoái trá gấp đôi đem tiền của Giáo chủ đi cứu
Hoàng hậu đấy?
- Ông là
một chàng trai trẻ đáng yêu và duyên dáng - Bà Bonacieux nói - Ông hãy tin là
Hoàng hậu sẽ không vô ơn đâu.
- Ồ, tôi
đã được thưởng lớn rồi! - D' Artagnan nói - Tôi yêu cầu bà, hãy cho phép tôi
nói ra điều đó với bà, như thế đã hạnh phúc hơn cả điều tôi dám hy vọng rồi.
- Im
nào! - Bà Bonacieux giật mình nói.
- Cái
gì?
- Người
ta nói ở ngoài phố.
- Chính
là giọng…
- … của
chồng tôi. Đúng, tôi đã nhận ra.
D'
Artagnan chạy ra cửa, đóng chốt lại. Chàng nói:
- Hắn sẽ
không vào được khi tôi chưa đi, khi tôi đi rồi, bà hãy mở.
- Nhưng
tôi, tôi cũng phải đi thôi. Túi tiền biến mất, nếu tôi còn ở đây, sẽ biện minh
ra sao?
- Bà nói
đúng. Phải ra thôi.
- Ra ư?
Ra thế nào? Ông ta sẽ trông thấy chúng ta nếu chúng ta đi ra.
- Vậy,
phải lên nhà tôi thôi.
- Ôi! -
Bà Bonacieux kêu lên - Ông nói với tôi chuyện đó bằng cái giọng khiến tôi phát
sợ. - Bà Bonacieux rớm nước mắt khi thốt ra những lời ấy.
D'
Artagnan nhìn thấy nước mắt, cảm thấy mủi lòng, bối rối, chàng liền quỳ xuống
dưới chân nàng và nói:
- Ở nhà
tôi, bà sẽ được an toàn như trong một ngôi đền, tôi xin thề với lời thề của một
nhà quý tộc.
- Ta đi
thôi - Nàng nói - tôi tin ở ông, bạn tôi ạ.
D'
Artagnan thận trọng mở chốt cửa, và cả hai nhẹ nhàng như hai cái bóng luồn qua
cửa trong ra lối đi, rón rén lên cầu thang vào phòng của D' Artagnan.
Một khi
đã ở đó rồi, để an toàn hơn, chàng trai trẻ chèn cửa lại rồi hai người đến gần
cửa sổ, qua khe cánh cửa, họ nhìn thấy Bonacieux đang nói chuyện với một người
mặc áo choàng.
Vừa nhìn
thấy người mặc áo choàng. D' Artagnan đã chồm lên, nhích gươm, và lao về phía
cửa.
Đó chính
là người ở Măng.
- Ông
định làm gì vậy? - Bà Bonacieux kêu lên - Ông làm hại chúng ta mất.
D'
Artagnan nói:
- Nhưng
tôi đã thề phải giết con người đó?
- Lúc
này sinh mạng ông đã được dâng hiến rồi, nó không còn là của ông nữa. Nhân danh
Hoàng hậu, tôi cấm ông không được lao vào bất cứ mối hiểm nguy nào ngoài hiểm
nguy trong chuyến đi.
- Còn
nhân danh mình bà không ra lệnh gì ư?
- Nhân
danh tôi, tôi xin ông thế đấy. - Bà Bonacieux hết sức xúc động nói. Nhưng nghe
đã, hình như họ đang nói về tôi.
D'
Artagnan lại gần cửa sổ, áp tai vào.
Lão
Bonacieux đã mở được cửa, thấy nhà trống không lại quay lại chỗ người mặc áo
choàng, mà lão đã để đứng đấy một mình trong giây lát. Lão nói:
- Cô ta
đi rồi. Cô ta quay lại điện Louvre.
- Ông có
chắc vợ ông không nghi ngờ ông bỏ đi với ý đồ nào không? - Người lạ mặt hỏi.
- Chắc
chứ! - Bonacieux đáp với vẻ tự mãn - đó là một người đàn bà quá ư nông nổi.
- Tên
cận vệ tập sự có ở nhà không?
- Chắc
là không, ông thấy đấy, cửa sổ đóng và không có chút ánh sáng nào lọt qua khe
cửa.
- Mặc
kệ, cứ phải chắc chắn.
- Nhưng
làm thế nào?
- Đến gõ
cửa phòng nó.
- Để tôi
hỏi tên hầu xem.
- Đi đi!
Bonacieux
trở vào nhà, đi qua cái cửa mà hai kẻ chạy trốn đã đi qua, trèo lên tận thềm
nghỉ cầu thang phòng D' Artagnan, chàng đã cẩn thận không để lộ ra dấu hiệu nào
đang có mặt ở nhà.
- Đúng
lúc ngón tay Bonacieux gõ ầm lên cánh cửa, đôi bạn trẻ cảm thấy thót tim.
- Chẳng
có ai ở nhà - Bonacieux nói.
- Thôi,
không cần, ta xuống dưới nhà ông đi, sẽ chắc hơn là cứ đứng ở ngưỡng cửa.
- Ôi,
lạy Chúa - Bà Bonacieux thầm thì - Chúng ta không nghe thấy gì nữa rồi.
- Trái
lại - D' Artagnan nói - Chúng ta chỉ càng nghe rõ hơn thôi.
D'
Artagnan lật ba bốn viên gạch lát tạo thành ở phòng chàng một cái tai khác của
Denis(1), trải một tấm thảm lên nền nhà, quỳ xuống và ra hiệu cho bà Bonacieux
cúi xuống như mình, về phía lỗ nghe.
- Ông
tin chắc không có ai chứ? - Người lạ mặt nói.
- Tôi
đảm bảo vậy - Bonacieux trả lời.
- Và ông
nghĩ vợ ông đã?…
- Đã
quay lại Louvre.
- Không
nói gì với người nào ngoài ông?
- Tôi
chắc chắn thế.
- Một
điểm quan trọng đấy, ông có hiểu không?
- Như
thế tức là cái tin tôi mang đến cho ông có một giá trị…
- Rất
lớn, ông Bonacieux thân mến của tôi ạ, tôi không giấu ông điều đó.
- Vậy
Giáo chủ sẽ bằng lòng về tôi?
- Tôi
không nghi ngờ gì điều đó.
- Giáo
chủ vĩ đại!
- Ông có
chắc trong khi nói chuyện với ông, vợ ông không buột miệng nói ra những cái tên
riêng nào chứ?
- Hình
như thế.
- Bà ấy
không nhắc đến bà De Chevreuse, ông De Buckingham và cả bà De Vécne nữa chứ?
- Không,
cô ta chỉ nói với tôi cô ta muốn phái tôi đi London để phục vụ lợi ích của một
nhân vật danh tiếng.
- Quân
phản phúc! - Bà Bonacieux thầm thì.
- Im
nào! - D' Artagnan vừa nói vừa nằm lấy tay nàng còn nàng lơ đãng cứ để mặc.
- Không
sao - người mặc áo choàng tiếp tục - Ông thật ngớ ngẩn, không biết giả vờ chấp
nhận nhiệm vụ đó, và bây giờ ông đã có bức thư, quốc gia mà họ đe dọa được cứu
thoát và ông…
- Và
tôi?
- Và ông
ấy à! Giáo chủ sẽ ban tước hiệu quý tộc cho ông…
- Ngài
nói với ông như thế?
- Phải,
tôi biết ngài muốn làm ông bị bất ngờ.
- Ông
yên tâm - Bonacieux nói tiếp - vợ tôi tôn thờ tôi, vẫn còn kịp mà.
- Tên
đần độn! - Bà Bonacieux lẩm bẩm.
- Có im
không! - D' Artagnan vừa nói vừa siết chặt tay nàng hơn nữa.
- Còn
kịp là thế nào? - Người mặc áo choàng hỏi lại.
- Tôi
cũng quay lại Louvre, tôi yêu cầu gặp bà Bonacieux, tôi nói tôi đã nghĩ lại
rồi, tôi lại nhận việc đó, và tôi sẽ lấy được bức thư rồi chạy ngay đến chỗ
Giáo chủ.
- Thế
thì đi mau lên! Tôi sẽ quay lại ngay để biết kết quả tiến hành thế nào.
Người lạ
đi ra.
- Đồ đê
mạt? - Bà Bonacieux nói.
- Im
nào! - D' Artagnan nhắc lại và siết mạnh tay nàng hơn trước nữa.
Một
tiếng hét lên khủng khiếp làm gián đoạn những suy nghĩ của D' Artagnan và bà
Bonacieux. Chính là chồng nàng thấy túi tiền biến mất và đang hô hoán kêu bắt
kẻ cắp.
- Ôi,
lạy Chúa! - Bà Bonacieux khẽ kêu lên.
- Lão ta
khuấy đảo cả khu phố lên mất. Bonacieux kêu gào mãi, nhưng vì những tiếng kêu
như thế xảy ra luôn, nên chẳng thu hút được ai trong phố Phu đào huyệt, hơn nữa
ngôi nhà ông hàng xén lâu nay lại khá tai tiếng. Thấy chẳng ai đến, lão vừa đi
ra vừa tiếp tục kêu gào, và người ta nghe thấy tiếng kêu cứ xa dần, theo hướng
phố Bến phà.
- Thôi
bây giờ lão ta đã đi rồi, đến lượt ông cũng phải ra đi thôi - Bà Bonacieux nói
- Hãy can đảm, nhưng cất nhất phải thận trọng, nên nhớ ông có nghĩa vụ với
Hoàng hậu.
- Với
Hoàng hậu và với bà! - D' Artagnan nói - cứ yên tâm nàng Constance kiều diễm ạ,
tôi sẽ trở về xứng đáng với sự biết ơn của Hoàng hậu, nhưng chẳng lẽ tôi lại
không trở về xứng đáng với tình yêu của nàng sao.
Người
đàn bà trẻ chỉ trả lời bằng đôi má đỏ hồng lên. Mấy phút sau, D' Artagnan đến
lượt mình cũng ra đi, mình trùm một chiếc áo choàng lớn, bao gươm dài bên trong
đội lên một cách ngang tàng.
Bà
Bonacieux nhìn theo không dứt với con mắt thấm đượm tình yêu mà người đàn bà
đưa tiễn người đàn ông mình cảm thấy yêu thương. Nhưng khi chàng đã khi khuất
khỏi góc phố, nàng liền quỳ xuống, chắp hai tay lại và kêu lên:
- Ôi lạy
Chúa? Xin người che chở cho Hoàng hậu, che chở cho con!
Chú thích:
(1) Bạo chúa của Xyraquy (405-367 trước công
nguyên) - rất đa nghi. luôn mặc áo giáp, không dùng thợ cắt tóc, không ngủ một
nơi quá hai đêm. Đào một hầm lao dưới đất để giam tội phạm. Nấp trong một địa
điểm bí mật được xây theo hình cái tai, có thể nghe thấy hết những tiếng kêu than,
những ý nghĩ thầm kín của tù nhân.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
19
Kế hoạch
tác chiến.
D'
Artagnan đi thẳng đến nhà ông De Treville. Chàng nghĩ rằng chỉ ít phút nữa,
Giáo chủ sẽ được tên lạ mặt khốn kiếp kia, hính như là mật vụ của ông ta thông
báo, vì vậy chàng nghĩ không thể để chậm trễ một giây phút nào.
Lòng
chàng tràn ngập niềm vui. Một cơ hội vừa giành được vinh quang, vừa kiếm được
tiền đang hiện ra trước mắt chàng, và còn là sự cổ vũ ban đầu đưa chàng gần lại
người phụ nữ chàng ngưỡng mộ. Sự run rủi hầu như ngay từ lần đầu tiên vậy là đã
đem lại cho chàng hơn cả chàng dám cầu xin ở Chúa cứu thế.
Ông De
Treville đang trong phòng khách với cuộc hội kiến thường lệ của các nhà quý
tộc. D' Artagnan đã như người thân trong nhà, đi thẳng đến phòng làm việc của
ông và nhờ báo cho ông chàng đang chờ vì một việc quan trọng.
D'
Artagnan ở đó được năm phút thì ông De Treville đi vào, thoáng nhìn thấy niềm
vui trải mượt trên khuôn mặt chàng ông đại úy tôn kính hiểu ngay rõ ràng có
điều gì mới mẻ đã xảy ra.
Suốt dọc
đường, D' Artagnan đã tự hỏi liệu chàng có nên thổ lộ với ông De Treville không
hay chỉ xin ông cho phép được tự do hành động vì một công việc bí mật. Nhưng vì
ông De Treville đã từng quá chu toàn với chàng, ông lại quá tận tụy với nhà Vua
và Hoàng hậu, ông rất đỗi căm ghét Giáo chủ nên chàng trai trẻ quyết định nói
hết với ông.
- Anh
bạn trẻ, anh yêu cầu gặp tôi? - Ông hỏi.
- Vâng,
thưa ông và hy vọng xin ông thứ lỗi vì đã quấy rầy ông, khiông biết rõ vấn đề
là chuyện quan trọng gì.
- Anh
nói đi, ta nghe đây.
D'
Artagnan hạ giọng nói:
- Chuyện
không kém liên quan đến danh dự và có lẽ cả tính mạng của Hoàng hậu.
- Anh
nói gì vậy? - Ông De Treville vừa hỏi vừa nhìn xung quanh xem có ai không và
đưa mắt nhìn D' Artagnan như muốn hỏi rõ chàng.
- Thưa
ông, tôi nói, tình cờ khiến tôi đang làm chủ một bí mật…
- Anh
phải giữ kín, ta hy vọng thế, anh bạn trẻ ạ, bằng tính mạng của anh đấy.
- Nhưng
tôi lại phải thổ lộ với ông, thưa ông, với chính ông, bởi chỉ có ông mới có thể
giúp tôi trong nhiệm vụ mà tôi vừa mới nhận được của Hoàng hậu.
- Cái bí
mật ấy là của anh ư?
- Không,
thưa ông, của Hoàng hậu.
- Anh
được phép của Hoàng hậu?
- Không,
thưa ông, trái lại, bởi vì sự tuyệt mật đã được tôi đảm bảo.
- Vậy
tại sao anh lại đi phản bội lại ngay trước mặt tôi?
- Bởi
vì, tôi đã nói với ông rồi đó, không có ông, tôi chẳng thể làm gì, và tôi sợ
rằng ông sẽ từ chối cái ân huệ mà tôi yêu cầu ông, nếu ông không biết rõ tôi
yêu cầu ông điều đó với mục đích gì.
- Anh cứ
giữ lấy cái bí mật ấy của anh, chàng trai trẻ ạ, và nói cho ta hay anh muốn gì
ở ta.
- Tôi
muốn ông dành cho tôi một kỳ nghỉ phép mười lăm ngày ở ông des Essarts.
- Khi
nào?
- Ngay
đêm nay.
- Anh
rời Paris?
- Tôi đi
làm nhiệm vụ.
- Có thể
nói cho tôi ở đâu được không?
- Ở
London.
- Liệu
có kẻ nào quan tâm đến việc anh không đạt được mục đích không?
- Giáo
chủ, tôi tin như vậy, sẽ cho hết mọi thứ trên đời để ngăn tôi thành công.
- Và anh
đi một mình?
- Tôi đi
một mình.
Trong
trường hợp ấy, anh sẽ không qua nổi Bôngđy đâu, chính tôi là người nói với anh
như vậy, lời nói của Treville đấy.
- Sao
lại thế được?
- Người
ta sẽ cho ám sát anh.
- Tôi sẽ
chết khi làm nghĩa vụ của mình.
- Nhưng
sứ mạng của anh không được làm tròn.
- Đúng
vậy - D' Artagnan nói.
- Tin
tôi đi - Ông Treville tiếp tục - trong những cuộc phiêu lưu mạo hiểm này, phải
có bốn để đến được một.
- Ôi!
Thưa ông, sao ông nói đúng thế. Nhưng ông đã biết Athos, Porthos và Aramis, ông
thấy liệu tôi có sừ dụng họ được không?
- Không
thổ lộ với họ cái bí mật mà chính tôi cũng không muốn biết chứ?
- Chúng
tôi đã thề với nhau, một lần cho mọi lần, nhắm mắt tin nhau, hết lòng vì nhau
trước mọi thử thách. Vả lại, ông có thể nói với họ rằng ông hoàn toàn tin tưởng
ở tôi, và họ sẽ không kém tin tôi hơn ông đâu.
- Tôi có
thể cho họ mỗi người một kỳ phép mười lăm ngày, tất cả là thế này: cho Athos,
vì vết thương vẫn luôn luôn nhức nhối, để đến vùng suối nóng ở Foócgiơ, cho
Porthos và Aramis để đi theo bạn vì không muốn bỏ mặc bạn trong một tình cảnh
đau đớn đến như vậy. Gửi cho họ giấy phép sẽ là bằng chứng tôi cho phép cuộc
hành trình của họ.
- Xin
cám ơn ông, ông thật muôn vàn lần tốt.
- Vậy
anh hãy đi tìm họ ngay lúc này đi và tất cả phải được thi hành ngay đêm nay. À,
trước hết, hãy viết cho tôi đơn xin ông des Essarts. Có thể anh đã bị một tên
do thám theo dõi, và việc anh đến thăm tôi, trong trường hợp Giáo chủ đã biết
sẽ được hợp pháp hóa.
D'
Artagnan viết đơn xin, và ông De Treville nhận đơn từ tay chàng, đảm bảo trước
hai giờ sáng bốn giấy phép sẽ đến đúng địa chỉ các lữ khách.
- Làm ơn
gửi giấy phép của tôi đến chỗ Athos - D' Artagnan nói - Tôi sợ rằng trở về nhà
tôi sẽ gặp chuyện chẳng lành.
- Anh
yên tâm. Vĩnh biệt, chúc thượng lộ bình an! À mà? - Ông De Treville gọi chàng
lại.
D'
Artagnan rảo bước quay lại.
- Anh có
tiền không?
- Ba
trăm đồng vàng!
- Tốt
lắm, với số tiền ấy có thể đi tận cùng thế giới. Thôi đi đi.
D'
Artagnan chào ông De Treville đang chìa tay bắt tay chàng. Chàng siết chặt tay
ông với lòng kính trọng xen lẫn sự biết ơn. Từ khi tới Paris, chàng chỉ một mực
ca ngợi con người ưu tú ấy con người chàng luôn luôn thấy đáng tôn kính, trung
thực và vĩ đại.
Đầu tiên
chàng đến thăm Aramis. Từ cái buổi tối tuyệt diệu chàng bám theo bà Bonacieux,
chàng chưa trở lại nhà bạn mình.
Còn thêm
điều này nữa: Mới thoạt nhìn chàng ngự lâm trẻ ấy và mỗi lần gặp lại, chàng
tưởng như nhận thấy một nỗi buồn sâu sắc in trên gương mặt bạn mình.
Tối nay
nữa, Aramis vẫn thức, vẻ mặt sầm tối, mơ màng. D' Artagnan hỏi bạn mình mấy câu
về nỗi buồn sâu xa ấy.
Aramis
phân trần chàng buộc phải viết bằng tiếng Latinh một bài bình luận về chương
thứ 18 kinh Thánh Augustin cho tuần sau, khiến chàng phải bận tâm nhiều.
Đôi bạn
chuyện trò được một lát thì một đầy tớ của ông De Treville bước vào cầm theo
một gói kín có dấu niêm phong.
- Cái gì
thế này? - Aramis hỏi.
- Giấy
phép ngài yêu cầu - người hầu trả lời.
- Tôi
hả, tôi có xin phép nghỉ đâu.
- Im đi
và cầm lấy. - D' Artagnan nói - Và anh, anh bạn, đây là nửa đồng vàng thưởng
công cho anh, anh về nói với ông Treville là ông Aramis thành thật và rất đỗi
cám ơn ông. Thôi về!
Người
hầu cúi rạp đất chào và đi ra.
- Thế
nghĩa là thế nào? - Aramis hỏi.
- Anh
hãy cầm lấy cái cần thiết cho một cuộc hành trình mười lăm ngày và đi theo tôi.
- Nhưng
tôi không thể rời Paris lúc này mà không biết… - Aramis dừng lại.
- Không
biết bây giờ nàng ra sao, có phải không? - D' Artagnan tiếp tục.
- Ai cơ?
Người
đàn bà đã ở đây, người đàn bà có chiếc khăn tay thêu đó.
- Ai bảo
cậu có một người đàn bà ở đây? - Aramis cãi, mặt nhợt như người chết.
- Tôi đã
trông thấy.
- Và cậu
có biết là ai không?
- Tôi
ngờ ngợ thôi, ít ra là như vậy.
- Nghe
đây - Aramis nói - một khi cậu nắm được bao nhiêu chuyện như vậy, hẳn cậu phải
biết người đàn bà ấy bây giờ ra sao?
- Tôi
cho là nàng đã trở về Tours.
- Về
Tours? Phải, đúng thế, cậu biết nàng rồi. Nhưng làm sao nàng lại trở về Tours
mà không nói gì với tôi.
- Bởi
nàng sợ bị bắt.
- Làm
sao nàng không viết cho tôi?
- Bởi vì
nàng sợ làm hại anh.
- D'
Artagnan, cậu cứu sống tôi rồi! - Aramis reo lên - Tôi cứ tưởng mình bị khinh
bỉ, phản bội. Tôi đã sung sướng biết mấy khi gặp lại nàng! Tôi không thể ngờ
rằng nàng đã hy sinh tự dọ của mình vì tôi, tuy nhiên nàng trở lại Paris là vì
nguyên cớ gì?
- Vì cái
nguyên cớ mà hôm nay chúng ta phải đi sang nước Anh.
- Nhưng
nó là gì mới được chứ? - Aramis hỏi.
- Rồi có
ngày anh sẽ biết, Aramis ạ, nhưng còn lúc này, tôi sẽ bắt chước tính dè dặt của
cháu gái ông tiến sĩ.
Aramis
mỉm cười, vì chàng nhớ lại câu chuyện mình đã bịa ra tối hôm đó cho các bạn
nghe.
- Thôi
được, vậy một khi nàng đã rời Paris, và cậu đã chắc như vậy, D' Artagnan, không
có gì ngăn tôi được nữa, tôi sẵn sàng đi theo cậu. Cậu nói chúng ta đi…
- Lúc
này hãy đến Athos đã, và nếu anh muốn đến cùng thì nhanh nhanh lên, bởi chúng
ta đã mất khá nhiều thời gian rồi.
- À mà,
anh báo cho Bazin nữa.
- Bazin
đi cùng chúng ta? - Aramis hỏi.
- Có
thể. Dẫu sao, lúc này Bazin đi theo chúng ta đến nhà Athos cũng tốt.
Aramis
gọi Bazin, và sau khi đã ra lệnh cho y đi theo đến nhà Athos, chàng vơ áo choàng,
cầm lấy gươm và ba khẩu súng ngắn, rồi mở đi mở lại ba bốn cái ngăn kéo xem có
sót một đồng vàng nào không, chẳng thấy, chàng nói:
- Vậy ta
đi thôi.
Sau khi
đã chắc chắn việc tìm kiếm tiền còn sót lại chỉ là thừa, Aramis đi theo D'
Artagnan, vừa đi vừa tự hỏi làm thế nào mà cái tay tập sự trẻ ở đội cận vệ cũng
biết rõ như chàng người phụ nữ đã trọ ở nhà chàng là ai, và còn biết rõ hơn
chàng nàng đã ra sao.
Chỉ đến
lúc ra khỏi nhà, Aramis mới đặt tay lên cánh tay D' Artagnan, và nhìn thẳng vào
mặt bạn và nói:
- Cậu
không nói về người đàn bà ấy với ai chứ?
- Không
một ai hết.
- Không
cả với Athos và Porthos chứ?
- Không
hé một nửa lời.
- Khá
lắm!
Yên tâm
về cái điều quan trọng ấy, Aramis tiếp tục lên đường cùng D' Artagnan, chẳng
mấy chốc cả hai đã đến nhà Athos.
Họ thấy
Athos đang cầm một giấy phép trong tay và tay kia là bức thư của ông De
Treville.
"Athos
thân mến của tôi.
Vì sức
khỏe của anh tuyệt đối đòi hỏi phải như vậy, tôi rất muốn anh phải nghỉ ngơ
mười lăm ngày. Vậy hãy đến vùng suối nóng Foócgiơ hoặc chỗ nào khác hợp với
anh, và hãy nhanh chóng bình phục.
Thân ái
Treville"
- Anh
Athos ơi, cái giấy phép và bức thư đó có nghĩa là phải đi theo tôi đấy.
- Đến
suối nóng Foócgiơ?
- Đấy
hoặc chỗ khác.
- Để
phục vụ nhà Vua ư?
Nhà Vua
hoặc Hoàng hậu, chả phải chúng ta là bầy tôi của hai vị sao?
Đúng lúc
ấy thì Porthos vào. Chàng nói:
- Mẹ
kiếp! Chuyện kỳ quá đi thôi. Chả hiểu từ bao giờ trong ngự lâm quân, người ta
lại cho quân nghỉ phép không cần xin xỏ gì thế này.
D'
Artagnan nói:
- Từ khi
họ có những người bạn xin hộ họ.
- Chà
chà! - Porthos nói - Hình như có chuyện gì mới ở đây chăng?
- Phải,
chúng ta ra đi - Aramis nói.
- Đến
nước nào? - Porthos hỏi.
- Thật
tình, tôi chẳng biết gì lắm - Athos nói - hỏi D' Artagnan ấy.
- Đến London,
thưa các vị.
Đến
London? - Porthos kêu lên - Và chúng ta sẽ làm gì ở London đây?
- Đó lại
là điều tôi không thể nói với các vị được. Các vị phải tin vào tôi thôi.
- Nhưng
để đi đến London - Porthos thêm - Cần phải có tiền, mà tôi thì chẳng có một xu
nào cả.
- Tôi
cũng vậy - Aramis nói.
- Tôi
cũng thế - Athos nói.
- Tôi có
- D' Artagnan vừa nói vừa rút kho báu từ trong túi mình ra và đặt lên bàn -
Trong túi này có ba trăm đồng vàng. Mỗi người hãy cầm lấy, thế là đủ để đi đến
London và cho lúc trở về. Vả lại, cứ yên tâm, chúng ta sẽ không đến London tất
cả đâu?
- Tại
sao thế?
- Bởi vì
rất có thể, có một vài người trong chúng ta sẽ ở lại dọc đường.
- Nhưng
như vậy phải chăng chúng ta đang tiến hành một chiến dịch?
- Và
nguy hiểm nhất, tôi xin báo trước như vậy.
- Ra
thế! Porthos nói - Nhưng một khi nhỡ ra chúng ta bị giết chết, ít ra tôi cũng
muốn biết tại sao chứ?
- Cậu
vội quá đấy! - Athos nói.
- Tuy
nhiên tôi đồng ý với Porthos! - Aramis nói.
- Nhà
Vua phải chăng có lệ phải trình bày với cái vị? Không, Ngài chỉ nói thẳng ra
thế này: "Các vị, người ta đang chiến đấu ở Gátxcônhơ, hay ở Flăngđrơ, hãy
lên đường!" và các vị lên đường đến đấy. Tại sao ư? Các vị chẳng áy náy gì
đâu.
- D'
Artagnan nói đúng - Athos nói - Đây là ba giấy phép của chúng ta do ông De
Treville cấp, và đây là ba trăm đồng vàng chẳng biết từ đâu ra. Vậy ta đi thôi,
và sẵn sàng chết ở nơi người ta bảo ta đi. Cuộc đời có đáng đặt ra bao nhiêu
câu hỏi như vậy không? D' Artagnan, tôi sẵn sàng đi theo cậu.
- Cả tôi
nữa - Porthos nói.
- Tôi
cũng vậy - Aramis nói - Tôi cũng chẳng buồn bực phải rời khỏi Paris đâu. Tôi
đang cần tiêu khiển.
D'
Artagnan nói:
- Yên
trí, các vị sẽ được tiêu khiển.
- Còn
bây giờ, khi nào chúng ta đi đây? - Athos hỏi.
- Ngay
lập tức - D' Artagnan trả lời - Không còn một chút nào để mất đâu.
Bốn
chàng trai trẻ hô lên gọi những người hầu của mình:
- Ê này,
Grimaud, Planchet, Mousqueton, Bazin! Hãy đánh xi những đôi ủng cho chúng ta,
và đem ngựa từ dinh quán đến.
Quả
thật, mỗi lính ngự lâm đều để ngựa của mình và của người hầu ở tổng dinh như ở
doanh trại.
Planchet,
Grimaud, Mousqueton, Bazin vội vàng đi ngay.
- Bây
giờ, chúng ta phải vạch kế hoạch tác chiến - Porthos nói - Chúng ta đi đâu
trước nào?
- Đến
Cale - D' Artagnan nói - đó là con đường đi thẳng đến London.
Porthos
nói:
- Tôi có
ý kiến.
- Nói
đi.
- Bốn
người đi cùng nhau sẽ bị nghi ngờ. D' Artagnan sẽ hướng dẫn riêng từng người.
Tôi đi tiên phong theo đường Bulônhơ để thám thính. Hai giờ sau Athos khởi hành
theo đường Amiêng. Aramis sẽ đi theo chúng ta bằng đường Noayông. Còn D'
Artagnan, cậu ấy sẽ đi bằng đường nào thì đi, bằng y phục của Planchet, còn
Planchet sẽ đi theo chúng ta thành D' Artagnan và với đồng phục quân cận vệ.
- Thưa
các vị - Athos nói - tôi thấy mang theo bọn người hầu trong "một việc hệ
trọng" như thế này sẽ chẳng hay ho gì. Một bí mật không may có thể bị một
nhà quý tộc để lộ. Còn bọn người hầu, hầu như luôn luôn bán rẻ nó.
D'
Artagnan nói:
- Tôi
thấy kế hoạch của Porthos hình như không thể thực hiện được ở chỗ bản thân tôi
cũng không biết chỉ dẫn các anh điều gì. Tôi chỉ là người mang theo một bức
thư, có thế thôi. Tôi không có và cũng không thể làm ra ba bản sao bức thư ấy,
vì nó đã được niêm phong. Vậy theo ý tôi, ta cứ nên đi thành đoàn. Thư ấy ở
đây, trong cái túi này (và chàng chỉ cái túi có bức thư). Nếu tôi bị giết, một
trong các anh sẽ giữ lấy và các anh tiếp tục lên đường. Nếu anh ấy bị giết, sẽ
đến lượt anh khác, và cứ thế tiếp theo, miễn là một người đến được. Đó là tất
cả việc cần làm.
- Hoan
hô D' Artagnan! Ý kiến cậu cũng là ý kiến tôi! - Athos nói. Hơn nữa phải trước
sau như một, tôi đi nghỉ ở suối nóng, các cậu đi cùng, đáng lẽ ở suối nóng
Foócgiơ, tôi lại ra biển nghỉ, tôi được tự do cơ mà. Họ muốn bắt giữ chúng ta,
chúng ta sẽ chống trả. Họ xét xử chúng ta, chúng ta cứ một mực không có ý định
nào khác ngoài việc trầm mình ngày mấy lần trong nước biển. Bốn người mỗi người
một phương thì sẽ rẻ mạt, còn như bốn người thống nhất lại thì thành một đội
quân. Chúng ta sẽ trang bị cho bốn tên hầu cả súng ngán, lẫn súng trường. Nếu
họ phái một đạo quân tới chống lại chúng ta, chúng ta sẽ giao chiến, và người
nào sống sót, như D' Artagnan nói sẽ mang thư đi.
- Nói
hay lắm! - Aramít~ reo lên - Anh không hay nói, Athos ạ, nhưng khi anh nói, thì
cứ như thánh Jean miệng vàng. Tôi tán thành kế hoạch của Athos. Còn cậu,
Porthos?
- Tôi
cũng vậy, nếu hợp ý D' Artagnan. D' Artagnan là người mang thư tất nhiên phải
là chỉ huy cuộc mạo hiểm, cậu ấy quyết định và chúng ta thi hành.
- Vậy
thì tôi quyết định chúng ta chấp nhận kế hoạch của Athos và nửa giờ nữa chúng
ta lên đường.
- Chấp
nhận! - Ba người ngự lâm đồng thanh hô lên.
- Và mỗi
người vươn tay tới cái túi, lấy bẩy nhăm đồng vàng, chuẩn bị hành lý để khởi
hành đủng giờ.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
20
Du hành
- Đúng
hai giờ sáng, bốn chàng phiêu lưu của chúng ta ra khỏi Paris, qua cửa ô
Saint-Denis. Chừng nào vẫn còn là đêm, họ vẫn phải câm lặng. Dẫu không nói, họ
vẫn chịu ảnh hưởng của bóng đêm và nhìn đâu cũng thấy ổ phục kích.
Vừa rạng
sáng, lưỡi họ mới như được cởi trói. Cùng với mặt trời, niềm vui trở lại. Thật
giống như đêm trước một cuộc giao chiến, tim đập mạnh, mắt long lanh, người ta
cảm thấy cuộc đời mình sắp lìa bỏ suy cho cùng vẫn là một cái gì tốt đẹp.
Cảnh
tượng đoàn người ngựa xem ra thật dữ dội. Những con ngựa ô của ngự lâm quân,
dáng dấp hiếu chiến, rồi thói quen bước đều trong đội kỵ binh của những đồng
đội cao quý ay, tất cả những cái đó có thể làm lộ một sự giả dạng chặt chẽ
nhất. Những tên hầu theo sau, vũ trang đến tận răng.
Mọi việc
đều ổn thỏa cho tới khi đến Sángtily vào lúc tám giờ sáng. Phải ăn sáng đã. Họ
xuống ngựa trước một quán ăn trưng một biển hiệu vẽ Saint-Martin chia một nửa
tấm áo khoác cho một người nghèo. Bọn người hầu được lệnh không được tháo yên
cương ngựa và ở tư thế sẵn sàng đi ngay.
Bọn họ
vào căn phòng công cộng và ngồi vào bàn. Một nhà quý tộc theo đường D' Artagnan
vừa tới cũng vào ngồi cùng bàn và điểm tâm. Hắn gợi chuyện về trời mưa và nắng
ráo. Các lữ khách đáp chuyện. Hắn uống chúc họ sức khoẻ. Các lữ khách cũng đáp
lễ lại.
Nhưng
khi Mousqueton vào báo ngựa đã sẵn sàng, và khi mọi người đứng lên, người lạ đề
nghị Porthos nâng cốc chúc sức khỏe Giáo chủ. Porthos trả lời chàng không đòi
hỏi gì hơn nếu người lạ đến lượt mình cũng xuống chúc sức khỏe nhà Vua.
Người lạ
hét lên hắn không biết nhà Vua nào ngoài Giáo chủ.
Porthos
gọi hắn là thằng say rượu. Người lạ rút gươm.
- Cậu
lại làm một chuyện dại dột rồi - Athos nói - thôi kệ vậy, lúc này có lùi cũng
không được rồi, giết nó đi rồi đuổi kịp bọn mình càng nhanh càng tốt.
Và cả ba
đều lên ngựa phi nước đại ra đi trong khi Porthos hứa với đối thủ sẽ đâm xuyên
qua người hắn bằng tất cả các thế của thuật đấu gươm.
Đi được
khoảng năm trăm bước, Athos nói:
- Thế là
xong một tên?
- Nhưng
tại sao tên đó lại tấn công vào Porthos thay vì mọi người khác? - Aramis hỏi.
- Tại vì
- Porthos nói to hơn tất cả chúng ta, nó tưởng anh ấy là chỉ huy - D' Artagnan
nói.
Athos
lẩm nhẩm:
- Mình
luôn bảo, cái cậu tập sự Gátxcông này là một tay khôn ngoan thâm thúy mà.
Các lữ
khách lại tiếp tục lên đường.
Đến
Bôve, họ dừng lại hai giờ, vừa để cho ngựa thở, vừa để chờ Porthos. Không thấy
Porthos đến, cũng chẳng có tin gì về chàng, họ lại lên đường.
Đi khỏi
Bôve chừng một dặm, đến một chỗ đường đi thắt lại giữa hai vạt đất, họ gặp một
bọn tám đến mười người, lợi dụng đoạn đường bị bong đá lát có vẻ như đang làm
việc ở đó bằng việc đào hố và xẻ rãnh bùn.
Aramis
sợ bẩn ủng trong lớp vữa nhân tạo ấy, quát mắng bọn họ thậm tệ. Athos muốn ngăn
chàng lại, nhưng đã quá muộn. Những người thợ bèn châm chọc các lữ khách, sự
cấc lấc của họ làm điên đầu cả đến chàng Athos tính lạnh, đến mức thúc ngựa
xông vào một người trong bọn.
Thế là
mỗi người trong bọn họ đều lùi lại đến tận cái hố, và vồ lấy một khẩu hỏa mai
giấu ở đấy. Kết quả là bẩy lữ khách của chúng ta chẳng khác gì được đem ra để
thử súng. Aramis nhận một viên đạn xuyên qua vai và Mousqueton bị một viên cắm
vào thịt vùng dưới thận. Tuy nhiên chỉ có mỗi Mousqueton ngã ngựa không phải vì
bị trọng thương, mà vì hắn không thể nhìn thấy vết thương, chắc hắn tưởng nguy
hiểm chứ đâu phải thường.
- Đây là
một ổ phục kích - D' Artagnan nói - Đừng bắn nữa, lên đường thôi.
Aramis
tuy bị thương vẫn giữ chặt bờm ngựa, đi theo những người khác. Ngựa của
Mousqueton cũng đuổi kịp đoàn và phi một mình không chủ.
- Chúng
ta sẽ có một con ngựa để thay đây. Athos nói.
- Giá
tôi có một chiếc mũ thì tốt quá - D' Artagnan nói - Mũ của tôi bị đạn làm bay
mất rồi. Kể cũng may chán, vì bức thư không để ở trong mũ.
Aramis
nói:
- Nhưng
bọn chúng sẽ giết Porthos khi cậu ấy qua đây mất.
- Nếu
Porthos còn đứng vững trên đôi chân của mình, có lẽ cậu ấy bây giờ đã đuổi kịp
chúng ta - Athos nói - Tôi nghĩ lúc giao tranh, tên say sẽ tỉnh rượu.
Rồi họ
lại phi ngựa trong hai tiếng nữa, cho dù ngựa đã quá mệt đến nỗi họ sợ chúng
không chịu cho cưỡi nữa.
Các lữ
khách đi theo lối tắt hy vọng sẽ bớt lo. Nhưng đến Crevơcơ (Crève - Vỡ tim),
Aramis tuyên bố chàng không thể đi xa hơn được nữa. Quả thật, để đi được đến
đây, chàng đã phải lấy hết can đảm được che giấu dưới bề ngoài trang nhã và
cung cách lịch thiệp của mình. Mỗi lúc chàng càng tái nhợt đi và mọi người phải
đỡ chàng ngồi vửng trên mình ngựa. Họ để chàng xuống ngựa trước cửa một tửu
quán, cho Bazin ở lại với chàng, vả chăng hắn chỉ tổ vướng chân nếu xảy ra đụng
độ chứ chẳng được ích lợi gì. Rồi họ lại lên đường với hy vọng đến ngủ ở
Amiêng.
Rong
ruổi trên đường, lúc này chỉ còn Grimaud, Planchet và hai ông chủ, Athos nói:
- Mẹ
kiếp! Bọn chúng sẽ không lừa nổi mình nữa đâu, mình đảm bảo với cậu từ đây đến Cale,
chúng đừng hòng cậy nổi răng mình hoặc làm mình rút gươm khỏi vỏ.
- Thôi
đừng thề thốt nữa - D' Artagnan nói - Hãy phi lên, nếu lũ ngựa còn chịu.
Các du
khách thúc đinh vào bụng ngựa, lũ ngựa được kích thích mạnh, lấy lại được sức.
Họ đến Amiêng vào lúc nửa đêm và xuống ngựa ở quán trọ Huệ vàng.
Chủ quán
có vẻ là một người lương thiện nhất trên đời. Lão ta tay mang cây đèn nến, tay
kia ngả mũ bông chào đón khách. Hắn muốn để hai vị khách, mỗi người ngủ một căn
phòng duyên dáng, nhưng chán nỗi mỗi phòng lại ở mỗi đầu quán trọ.
D'
Artagnan và Athos từ chối. Chủ quán nài mãi. Lừ khách vẫn một mực như thế. Đành
phải tùy lữ khách vậy.
Họ vừa
xếp đặt chỗ ngủ và chặn cửa phía trong xong thì có tiếng gõ cửa sổ trông ra
sân, họ hỏi xem ai thì nhận ra tiếng nói của những người hầu, và mở ra.
Quả
nhiên đó là Planchet và Grimaud. Planchet nói:
- Một
mình Grimaud thôi cũng đủ để canh ngựa, và nếu các ông muốn, tôi sẽ nằm chắn
cửa, như thế các ông sẽ yên trí không ai lọt vào chỗ các ông được.
- Thế
anh ngủ trên cái gì? - D' Artagnan hỏi.
Planchet
trả lời:
- Giường
tôi đây. - Và anh ta chỉ một bó rơm.
- Vậy
vào đi! - D' Artagnan nói - Anh có lý đấy, cái bộ mặt lão chủ quán làm ta không
ưa, trông thớ lợ quá.
Athos
nói:
- Cả tôi
nữa cũng thấy thế.
Planchet
trèo qua cửa sổ, nằm chắn ngang cửa, còn Grimaud thì chui vào chồng ngựa đảm
bảo năm giờ sáng anh ta và ngựa đã sẵn sàng.
Đêm khá
yên tĩnh. Khoảng hai giờ sáng, có kẻ định mở cửa thật. Nhưng Planchet giật mình
chồm dậy, và kêu lên: "Ai đó?". Kẻ kia trả lời mình nhầm và bỏ đi.
Lúc bốn
giờ sáng, có tiếng ầm ầm ở chuồng ngựa. Grimaud muốn đánh thức bọn trai coi
ngựa, và bọn chúng đã đánh hắn.
Khi mấy
người mở cửa sổ, thì thấy gã hầu tội nghiệp nằm bất tỉnh, đầu bị một đòn cán
chĩa đánh vỡ.
Planchet
đi xuống sân và định gióng lại yên cương cho ngựa.
Chân
ngựa đều bị tụ máu. Chỉ còn mỗi con của Mousqueton chạy không chủ trong năm sáu
tiếng đồng hồ đêm trước có lẽ có thể tiếp tục lên đường. Nhưng do một sự nhầm
lẫn không thể chấp nhận được, kẻ có vẻ là thú y giải phẫu mà người ta sai đi
tìm để trích máu cho con ngựa của chủ quán, lại trích ngay con ngựa của
Mousqueton.
Việc đó
khiến mọi người trở nên lo lắng. Tất cả những tai họa kế tiếp nhau có thể do
rủi ro, nhưng cũng rất có thể là kết quả của một âm mưu. Athos và D' Artagnan
ra ngoài, trong khi đó Planchet hỏi thăm xem xung quanh đây, có ba con ngựa nào
muốn bán không? Ở ngoài cửa có hai con ngựa yên cương sẵn sàng, sung sức và lực
lưỡng. Đúng là nắng hạn gặp mưa rào. Gã hỏi chủ ngựa đâu, người ta trả lời, họ
cũng qua đêm ở đây và lúc này đang tính tiền trả chủ quán.
Athos đi
xuống để trả tiền trọ. Còn D' Artagnan và Planchet đứng ở cửa trông ra phố. Chủ
quán ở trong một cái phòng thấp và sâu mãi vào trong. Người ta yêu cầu Athos
vào trong.
Athos
không nghi ngờ gì lấy ra hai đồng vàng để trả. Chủ quán chỉ có một mình và đang
ngồi trước bàn làm việc mà một trong số ngăn kéo đã hé mở. Hắn cầm đồng tiền
Athos đưa cho, lật đi lật lại từ tay này sang tay khác và bất ngờ kêu toáng lên
là tiền giả, hắn tuyên bố sẽ bắt giữ bọn chàng như những kẻ làm tiền giả.
- Quân
chó má! - Athos vừa nói vừa tiến lại - Tao sẽ cắt tai mày.
Cùng lúc
đó, bốn người trang bị đến tận răng, qua cửa bèn xông vào và nhảy bổ lên Athos.
- Tôi bị
bắt - Athos đồn hết sức kêu thật to - chạy đi thôi, D' Artagnan phóng ngựa đi,
phóng ngựa mau!
Rồi
chàng nhả liền hai phát súng ngắn.
D'
Artagnan vì Planchet không để nhắc lại đến lần thứ hai, tháo luôn hai con ngựa
chờ ở cửa, nhảy lên, thúc đinh vào bụng ngựa, phóng như bay.
D'
Artagnan vừa phi vừa hỏi Planchet:
- Mày có
biết Athos bây giờ ra sao không?
- Ồ thưa
ông - Planchet nói - tôi trông thấy hai tên ngã vì trúng hai phát đạn, và qua
cửa kính, tôi thấy hình như ông đang đọ gươm với những tên khác.
- Hoan
hô Athos! - D' Artagnan lẩm nhẩm. Lại nghĩ đến việc mình phải bỏ rơi anh ấy -
Ồ, mà có lẽ cũng lại như thế đang đợi ta cách đây mấy bước thôi. Planchet tiến
lên, mày tốt lắm! Tiến lên!
- Thưa
ông, tôi đã nói với ông rồi - Planchet trả lời. Dân Pica, khi dùng mới biết mà.
Hơn nữa, tôi đang trên mảnh đất quê hương, tôi càng phấn khích.
- Và cả
hai phi ngựa hết tốc lực, một mạch đến Saint Ômê. Ở Saint Ômê, họ xuống cho
ngựa thở, cánh tay vẫn ngoắc dây cương, đề phòng bất trắc và ngồm ngoàm đứng ăn
đôi chút ngay giữa phố và rồi lại khởi hành.
Cách cửa
ô của Cale chừng trăm bước, ngựa của D' Artagnan quỵ ngã, không có cách nào làm
cho nó đứng lên được, máu trào ra mũi và hai mắt, còn lại con ngựa của
Planchet, nhưng nó cũng dừng lại, không có cách nào làm nó lại đi nữa.
Cũng may
chỉ còn cách thành phố trăm bước, họ bỏ ngựa lại trên đường và chạy về phía
cảng. Planchet ra hiệu cho chủ mình chú ý đến một nhà quý tộc cùng với người
hầu đi trước bọn họ chừng năm mươi bước.
Họ rảo
bước đến gần. Gã quý tộc có vẻ đang rất bận rộn, đôi ủng của gã phủ đầy bụi
đường và gã đang hỏi thăm xem có thể qua nước Anh ngay lúc này được không.
Người
chủ một chiếc thuyền buồm chuẩn bị căng buồm trả lời:
- Chả có
gì dễ hơn việc đó. Nhưng sáng nay có lệnh không được để người nào không được
phép khẩn cấp của Giáo chủ đi qua.
- Tôi có
giấy phép đó - Gã quý tộc vừa nói vừa rút mảnh giấy trong túi ra - Giấy phép
đây!
- Ông
hãy đem đến trấn thủ cảng xác nhận - chủ thuyền nói - và đưa cho tôi giấy ưu
tiên.
- Tôi
phải tìm ông trấn thủ ở đâu?
- Ở dã
thự của ông ấy.
- Dã thự
ấy ở đâu?
- Cách
thành phố một phần tư dặm. Kia kìa, từ đây ông cũng nhìn thấy, cái mái lợp đá
đen ở chân cái gò nhỏ ấy.
- Tốt
lắm! - Gã quý tộc nói.
Và cùng
với người hầu, gã đi theo con đường dẫn đến dã thự của viên trấn thủ.
D'
Artagnan và Planchet đi theo gã quý tộc với khoảng cách năm trăm bước.
Ra khỏi
thành phố, D' Artagnan rảo bước đuổi kịp gã, vừa lúc gã đi vào một cánh rừng
nhỏ.
- Thưa
ông - D' Artagnan nói - Ông có vẻ rất vội vã?
- Người
ta không thể vội hơn thế, thưa ông.
- Tôi lấy
làm tiếc - D' Artagnan nói - vì tôi cũng rất vội, nên tôi muốn nhờ ông giúp tôi
một việc.
- Việc
gì?
- Để tôi
đi trước.
- Không
được - gã quý tộc nói - tôi đã đi sáu mươi dặm và mất bốn mươi tư giờ và trưa
mai tôi đã phải ở London.
- Tôi
cũng đi cùng con đường ấy trong bốn mươi giờ và mười giờ sáng mai tôi phải ở
London.
- Thưa
ông tiếc thật. Nhưng tôi đến trước, và tôi sẽ không qua sau đâu.
- Rất
tiếc thưa ông. Nhưng tôi đến sau, và tôi sẽ qua trước.
- Công
việc của nhà Vua! - Gã quý tộc nói.
- Công
việc của chính tôi! - D' Artagnan nói.
- Tôi
thấy hình như ông định cố tình gây sự với tôi.
- Mẹ
kiếp! Thế ông muốn nó là thế nào?
- Ông
muốn gì?
- Ông
muốn biết điều đó ư?
- Hẳn
rồi.
- Vậy
thì thế này! Tôi muốn cái lệnh ông đang mang theo, bởi vì tôi không có nó, và
tôi lại cần có một cái.
- Tôi
cho là ông đang đùa.
- Tôi
chả bao giờ đùa.
- Để tôi
đi!
- Ông
không đi được đâu.
- Anh
bạn trẻ tử tế của ta ạ, ta sẽ bắn vỡ đầu anh, Lubanh đâu, súng ngắn của ta.
-
Planchet! - D' Artagnan nói - hãy lo tên hầu, còn ta lo thằng chủ.
Planchet
hăng hái lập chiến công đầu, nhảy bổ lên Lubanh, và vì khỏe và dũng mãnh, hắn
quật Lubanh ngã ngửa ra và tì gối lên ngực rồi nói với D' Artagnan:
- Ông
chủ, ông lo việc của ông đi, còn tôi, tôi đã làm xong việc của tôi rồi.
Thấy
vậy, gã quý tộc rút gươm nhảy bổ vào D' Artagnan, nhưng gã gặp phải một đối thủ
khó nuốt.
Trong
khoảng ba giây đồng hồ D' Artagnan đã cho hắn ba nhát gươm, mỗi nhát chàng lại
nói:
- Một
nhát vì Athos! Một nhát vì Porthos! Một nhát vì Aramis.
Đến nhát
thứ ba, gã quý tộc đổ vật xuống như một đống thịt.
D'
Artagnan tưởng hắn chết, hoặc ít nhất cũng bị ngất, lại gần hắn để chiếm lấy
cái lệnh, nhưng đúng lúc chàng vươn cánh tay ra để lục tìm, tên bị thương vẫn
chưa rời tay gươm liền xỉa luôn một mũi vào ngực chàng và nói:
- Một
cho ngươi!
- Và một
cho ta! Nhát cuối là nhát tốt nhất! - D' Artagnan hét lên giận dữ, đâm nhát thứ
tư xuyên qua bụng hắn cắm mũi gươm xuống đất.
Lần này
gã quý tộc nhắm mắt lại và lịm đi. D' Artagnan lục trong cái túi mà chàng thấy
gã đút tờ lệnh đi đường vào đấy rồi cầm lấy. Giấy mang tên Bá tước De Wardes.
Rồi đưa
mắt nhìn lần cuối con người trẻ tuổi đẹp trai suýt soát hai nhăm tuổi, bỏ mặc
hắn nằm đấy không còn cảm giác, có lẽ đã chết, chàng buông một tiếng thở dài,
buồn thay cho cái định mệnh trớ trêu xui khiến con người hủy hoại lẫn nhau vì
lợi ích của những kẻ xa lạ với mình và thường không biết cả đến việc mình đang
tồn tại nữa.
Nhưng
chàng bị bứt ra khỏi những ý nghĩ ấy bởi những tiếng gào thét hết sức mình kêu
cầu cứu của Lubanh.
Planchet
lấy tay chẹn họng hắn, và dùng hết sức siết chặt lại rồi nói:
- Thưa
ông, chừng nào tôi còn chẹn thế này, nó sẽ không kêu nữa, tôi tin chắc như vậy.
Nhưng tôi chỉ vừa buông tay ra là nó lại rống lên ngay. Tôi nhận ra nó là người
Noócmăng, và dân Noócmăng thì bướng lắm.
Thật
vậy, bị chẹn đến thế, Lubanh vẫn cố để lọt ra tiếng kêu.
- Đợi
đã! - D' Artagnan nói.
Cầm
chiếc khăn tay, chàng nhét vào miệng hắn và bảo Planchet:
- Bây
giờ, trói nó vào một gốc cây.
Công việc
được thực hiện cẩn thận, rồi họ kéo Bá tước De Wardes đến gần tên đầy tớ. Và vì
đêm bắt đầu buông, kẻ bị trói và kẻ bị tử thương cả hai đều ở sâu mấy bước ở
trong rừng, đương nhiên họ phải ở lại đó đến ngày hôm sau.
- Và bây
giờ - D' Artagnan nói - ta đến nhà trấn thủ.
- Nhưng
tôi thấy hình như ông cũng bị thương? - Planchet nói.
- Không
sao cả, ta hãy lo chuyện gấp nhất đã, rồi hãy nói đến vết thương của ta sau, vả
chăng hình như cũng không nguy hiểm lắm đối với ta.
- Và cả
hai rảo bước tới dã thự của viên trấn thủ đáng kính.
Người ta
thông báo có Bá tước De Wardes.
D'
Artagnan được dẫn vào.
- Ông có
lệnh do Giáo chủ ký? - Viên trấn thủ hỏi.
- Vâng,
thưa ông - D' Artagnan trả lời - lệnh đây.
- Ờ, ờ,
thế này là hợp thức và bảo đảm lắm rồi - viên trấn thủ nói.
- Đơn
giản thôi - D' Artagnan trả lời - tôi là một trong những người thân tín của
Giáo chủ mà.
- Hình
như Đức ông muốn ngăn ai đó đến nước Anh.
- Phải,
một thằng cha D' Artagnan nào đó, một tên quý tộc người Bearn xuất phát từ
Paris cùng với ba tên bạn với ý đồ đến tận London.
- Ông có
biết đích thân hắn không? - Viên trấn thủ hỏi.
- Ai cơ?
- Cái
tên D' Artagnan ấy.
- Quá
rõ.
- Vậy
cho tôi biết đặc điểm của hắn đi.
- Không
gì dễ hơn.
Và D'
Artagnan tả từng nét, từng nét đặc điểm của Wardes.
- Hắn có
ai đi cùng không? - Viên trấn thủ hỏi.
- Có,
một tên hầu là Lubanh.
- Người
ta sẽ canh chừng bọn chúng, và nếu tóm được chúng, Đức ông có thể yên tâm,
chúng sẽ được giải về Paris, và được áp giải cẩn thận.
D'
Artagnan nói:
- Thưa
ông, nếu làm được chuyện đó, ông sẽ có công lớn với Giáo chủ.
- Khi
quay về, ông lại gặp lại Giáo chủ chứ, thưa Bá tước?
- Chắc
chắn thế rồi.
- Xin Bá
tước nói giùm với Giáo chủ, tôi xin hết lòng phụng sự ngài.
- Tôi sẽ
không quên đâu.
Vui mừng
vì được bảo đảm như thế, viên trấn thủ xác nhận vào tờ giấy thông hành và trao
lại cho D' Artagnan.
D'
Artagnan không để mất thì giờ vào những việc chúc tụng vô ích, chàng chào viên
trấn thủ, cám ơn và ra đi.
Khi đã
ra ngoài, chàng và Planchet đi theo đường vòng để tránh khu rừng và vào thành
phốbằng một cửa ô khác.
Con
thuyền luôn sẵn sàng ra đi, chủ thuyền đang đợi trên boong thuyền. Thấy D'
Artagnan ông ta hỏi:
- Thế
nào?
- Đây là
giấy thông hành đã được xác nhận.
- Còn
nhà quý tộc kia?
- Ông ta
không đi hôm nay - D' Artagnan nói - nhưng ông yên tâm, tôi sẽ trả tiền đi cho
cả hai suất.
- Nếu
thế thì đi thôi - chủ thuyền nói.
- Ta đi
thôi! - D' Artagnan lắp lại.
Rồi
chàng và Planchet nhảy xuống chiếc xuồng nhỏ. Năm phút sau họ đã cặp mạn
thuyền.
Ra biển
được nửa dặm, D' Artagnan thấy một vùng sáng lóe lên và một tiếng nổ. Thì ra đó
là tiếng đại bác báo hiệu đóng cửa hải cảng.
Đã đến
lúc chăm sóc vết thương của mình, may sao đúng như D' Artagnan nghĩ, nó không
nguy hiểm lắm, mũi gươm gặp phải một xương sườn và trượt dọc theo chiếc xương
đó, thêm nữa, áo lót dính ngay vào vết thương và chỉ chảy mất mấy giọt máu.
D'
Artagnan mệt lả. Họ trải cho chàng một tấm nệm trên boong thuyền, chàng lăn ra
và ngủ thiếp đi.
Sáng sớm
hôm sau, chàng thấy mình chỉ cách bờ biển nước Anh ba bốn dặm. Suốt đêm gió yếu
nên đi được ít.
Khoảng
mười giờ, thuyền thả neo ở cảng Đuvrơ.
- Mười
giờ rưỡi, ta đã ở đây rồi!
Nhưng
thế chưa đủ, còn phải đến London. Ở nước Anh, bưu trạm phục vụ khá tốt. D'
Artagnan và Planchet mỗi người cưỡi một con ngựa nhỏ, một phu trạm chạy trước
dẫn đường họ.
Bốn giờ
sau, họ đã tới cửa ô kinh thành.
D'
Artagnan không quen biết London, không biết một câu tiếng Anh, nhưng chàng viết
lên một mẩu giấy cái tên Buckingham và ai ai cùng chỉ dinh Quận công cho chàng.
Quận
công đi săn ở Uynxo với nhà Vua.
D'
Artagnan hỏi người hầu thân tín của Quận công, thường đi theo ông trong mọi
cuộc du hành, nói tiếng Pháp thông thạo.
Chàng
bảo anh ta rằng mình đến London vì một việc sinh tử, và anh ta phải nói ngay
cho chủ mình tức khắc.
Giọng
nói đáng tin của D' Artagnan đã thuyết phục được Patrítxơ. Patrítxơ là tên
người thừa hành của Thủ tướng. Anh ta đóng yên cương hai con ngựa, tự đảm nhiệm
việc dẫn đường chàng cận vệ trẻ. Còn Planchet, người ta phải đỡ hắn từ trên
lưng ngựa xuống, chàng trai đáng thương đã kiệt sức, ngồi cứng đờ như cây chò,
không như D' Artagnan vững như thép.
Mọi
người đã đến lâu đài, hỏi thăm thì biết nhà Vua và Buckingham đi săn chim ở đầm
lầy cách đây hai ba dặm.
Hai
người đến nơi chỉ dẫn mất hai mươi phút. Patrítxơ nghe thấy ngay tiếng chủ mình
đang gọi chim ưng. Patrítxơ hỏi chàng:
- Tôi
phải thông báo ai muốn gặp Huân tước Quận công đây?
- Cứ nói
chàng trai trẻ một buổi tối đã kiếm cớ gây sự với ngài ở cầu Mới trước mặt nhà
thờ Samaritain là được rồi.
- Lối
giới thiệu lạ đời nhỉ!
- Anh sẽ
thấy nó gấp mấy lối khác ấy chứ.
Patrítxơ
phi ngựa nước đại đến gặp Quận công và thông báo với ông đúng lời lẽ D'
Artagnan đã nói là có một sứ giả đang đợi ông.
Buckingham
nhận ra D' Artagnan ngay và ngờ rằng có chuyện gì đó xảy ra ở Pháp nên phải cho
chàng mang tin đến, ông chỉ kịp hỏi người đưa tin đang ở đâu và từ xa đã nhận
ra bộ đồng phục cận vệ, ông cho ngựa phi nước đại đến thẳng chỗ D' Artagnan.
Patrítxơ cẩn thận đứng tránh ra.
- Hoàng
hậu không gặp phải chuyện chẳng lành nào chứ? - Buckingham hỏi bằng tất cả nỗi
nhớ mong và tình yêu của mình.
- Tôi
không nghĩ như vậy. Tuy nhiên, tôi tin bà đang gặp một mối nguy lớn mà chỉ có
Đức ngài mới có thể giải thoát.
- Ta ư?
- Buckingham hỏi - Thế nào nào? Ta sẽ rất sung sướng được có ích cho bà trong
một việc nào đó! Nói đi nào! Nói đi?
- Ngài
hãy xem bức thư này! - D' Artagnan nói.
- Bức
thư này ư! Của ai gửi cho ta?
- Tôi
nghĩ đó là của Hoàng hậu.
- Của
Hoàng hậu! - Buckingham vừa nói vừa tái nhợt đi khủng khiếp, D' Artagnan tưởng
ông ta sắp ngất.
Và ông
ta bẻ xi niêm phong.
- Vết
rách này là cái gì? - Ông ta vừa nói vừa chỉ cho D' Artagnan một chỗ thư bị
xuyên thủng.
- À, à,
- D' Artagnan nói - Tôi không để ý cái đó. Đó là vết mũi gươm của Bá tước De
Wardes, rất đẹp khi đâm vào ngực tôi đấy!
- Ông bị
thương à? - Buckingham vừa bẻ xi vừa hỏi.
- Ồ
không sao? Một vết xước thôi.
- Trời,
ta vừa đọc cái gì đây? - Công tước kêu lên - Patrítxơ hãy ở lại đây rồi xem nhà
Vua ở đâu, đi theo và tâu với Hoàng thượng là ta cúi đầu van xin Ngài hãy tha
thứ cho ta vì ta có việc tối quan trọng phải có mặt ở London - còn ông đi theo
ta.
- Và cả
hai cùng phi nước đại về kinh thành.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
21
Nữ bá
tước De Winter
Suốt dọc
đường, Công tước hỏi D' Artagnan để biết rõ tình hình, không phải tất cả những
gì đã diễn ra, mà chỉ những gì D' Artagnan biết. Khớp nối những gì đã được nghe
từ miệng chàng trai trẻ với những kỷ niệm của riêng ông, ông có thể có được một
ý niệm khá chính xác về tình thế nghiêm trọng, hơn nữa, bức thư của Hoàng hậu
dù rất ngắn, và không mấy dứt khoát, cũng cho ông thấy mức độ nghiêm trong đó.
Nhưng điều khiến ông lấy làm lạ hơn cả là Giáo chủ vốn quan tâm làm sao để
chàng trai trẻ này không đặt chân được trên đất Anh lại không sao bắt giữ nổi
chàng ở dọc đường. Thấy ông tỏ vẻ ngạc nhiên như thế, D' Artagnan liền kể hết
đã phòng bị thế nào, rồi nhờ sự tận tâm của ba người bạn chàng tuy đang đẫm máu
mà chàng vẫn phải bỏ mặc ở dọc đường, rồi việc chàng suýt đã lìa đời vì, mũi
gươm đâm xuyên qua bì thư của Hoàng hậu, và chàng đã trả miếng Bá tước De
Wardes khủng khiếp thế nào.
Chăm chú
nghe câu chuyện được kể vô cùng đơn giản, thỉnh thoảng Công tước lại ngạc nhiên
nhìn chàng trai trẻ như thể không tài nào hiểu nổi bấy nhiêu thận trọng, dũng
cảm, tận tâm lại có thể sóng đôi với bộ mặt chưa đến hai mươi này.
Ngựa phi
như gió, vài phút sau đã tới cửa ô London.
D'
Artagnan vẫn tưởng là vào trong thành phố, Quận công sẽ cho ngựa chạy chậm dần,
nhưng không phải thế, ông tiếp tục cho ngựa phi hết cỡ, chẳng quan tâm mấy đến
chuyện có thể xô ngã những người đi đường. Quả nhiên, khi đi xuyên qua khu đô
thị, hai ba tai nạn như thế đã xảy ra, mà Buckingham chẳng hề ngoái đầu lại xem
những người bị ông xô ngã ra sao, D' Artagnan đi theo sau ông giữa những tiếng
la ó nghe rất giống tiếng chửi rủa.
Vào đến
sân dinh thự, ông xuống ngựa, ném dây cương lên cổ nó, để mặc nó rồi lao tới
bậc thềm. D' Artagnan cũng làm theo như thế tuy nhiên có đôi chút ngại ngùng
hơn đối với những con vật quý mà chàng đã biết nó đáng giá thế nào, nhưng rồi
lại thấy không sao vì ba bốn người hầu đã từ trong bếp và chuồng ngựa lao ra
túm ngay lấy mấy con ngựa.
Công
tước đi khá nhanh khiến D' Artagnan khó theo kịp. Ông đi xuyên qua nhiều phòng
khách kế tiếp nhau, rất sang trọng mà những đại lãnh chúa bên Pháp cũng không
dám nghĩ tới cuối cùng đến một phòng ngủ, một kỳ tích cả về thẩm mỹ lẫn sự giàu
sang. Sâu trong phòng có một cái cửa, phủ thảm, mà Công tước mở bằng một chìa
khóa nhỏ bằng vàng ông vẫn đeo ở cổ bằng một sợi dây chuyền cũng bằng vàng. D'
Artagnan cẩn thận dừng lại ở phía sau, nhưng lúc Buckingham bước qua ngưỡng cửa
đó, ông quay lại thấy chàng trao trẻ vẫn do dự, ông bảo chàng:
- Lại
đây nào, và nếu ông có vinh dự được bệ kiến Hoàng hậu, hãy nói lại cho bà nghe
những gì ông thấy.
- Được
lời mời khích lệ chàng đi theo Quận công. Ông đóng cửa lại.
Thế là hai
người đã ở trong một tiểu giáo đường, phủ toàn lụa Ba Tư thêu sợi vàng, rực rỡ
ánh sáng của vô số ngọn nến. Bên trên một thứ giống như bàn thờ, và phía dưới
một chiếc tán bằng nhung xanh lam cắm lông chim trắng và đỏ, là một bức chân
dung to bằng người thật vẽ Anne d' Autriche giống như đúc khiến D' Artagnan
phải thốt lên kinh ngạc, tưởng như Hoàng hậu sắp nói thành lời.
Trên bàn
thờ, và phía dưới bức chân dung là cái tráp chứa những nút kim cương.
Công
tước lại gần bàn thờ, quỳ xuống như một linh mục quỳ trước chúa Kitô, rồi mở
tráp.
- Ông
lấy ra một nút tết to bằng dải băng xanh lóng lánh kim cương rồi bảo chàng:
- Cầm
lấy, đây là những nút kim cương quý báu mà ta đã nguyền được chôn theo ta.
Hoàng hậu đã tặng ta. Hoàng hậu lại lấy lại của ta. Nguyện vọng của Hoàng hậu
là ý của Chúa, phải được thực hiện trong mọi việc.
Kồi ông
hôn từng hạt, từng hạt một cả chuỗi nút kim cương sắp phải xa lìa. Bỗng nhiên
ông kêu lên một tiếng khủng khiếp.
- Có
chuyện gì vậy? - D' Artagnan hỏi vẻ lo lắng - Thưa Huân tước, có điều gì xảy ra
với ngài ư?
Buckingham
nhợt nhạt hẳn người đi như người đã khuất kêu lên:
- Hại to
rồi - Thiếu hai hạt kim cương. Chỉ còn có mười hạt.
- Huân
tước đánh mất hay bị lấy cắp?
- Họ lấy
cắp của ta - Công tước nói tiếp - chính Giáo chủ đã chơi ta quả này. Đây, ông
xem, dải băng giữ những nút kim cương có vết cắt bằng kéo.
- Nếu
Huân tước nghi ngờ kẻ nào đó đánh cắp… có thể kẻ đó vẫn còn đang giữ nó.
- Khoan
đã, khoan đã? - Công tước nói - Chỉ có mỗi một lần ta đeo chuỗi kim cương đó,
đó là buổi vũ hội của nhà Vua, cách đây tám ngày ở điện Uyn-xo. Lúc khiêu vũ,
nữ Bá tước De Winter, vốn có xích mích với ta đã lại gần ta, lối làm lành đó là
sự trả thù của đàn bà ghen tuông. Từ hôm đó, ta không xem lại chuỗi hạt. Mụ đàn
bà đó là một điệp viên của Giáo chủ.
- Nhưng
ông ta có tay chân ở khắp thế giới ư! - D' Artagnan kêu lên.
- Ồ,
đúng đấy! - Buckingham vừa nói vừa nghiến răng giận dữ - Phải, đó một đấu thủ
ghê gớm. Nhưng khi nào thì có vũ hội đó?
- Thứ
hai tuần sau.
- Thứ
hai tuần sau ư! Còn năm ngày nữa. Thế là thừa thì giờ chúng ta phải có rồi.
Patrítxơ! - Quận công vừa mở cửa tiểu giáo đường vừa gọi to - Patrítxơ!
Người
hầu thân tín của ông xuất hiện.
- Gọi
ngay người thợ kim hoàn và viên thư ký của ta!
- Người
hầu phòng đi ra, tức khắc và lặng lẽ chứng tỏ thói quen co mình lại vâng lệnh
một cách mù quáng và không cãi lại.
Mặc dầu
người thợ kim hoàn được gọi trước, nhưng viên thư ký lại hiện ra trước tiên.
Ông ta thấy Buckingham ngồi trước chiếc bàn trong phòng ngủ, tự tay viết lấy
mấy cái lệnh.
- Ông
Jécxơn này, Công tước nói - Ông hãy đến ngay chỗ Huân tước tổng trưởng pháp lý
và bảo ông ta rằng ta ủy nhiệm thi hành mấy lệnh này. Ta muốn những lệnh đó
được ban bố ngay tức khắc.
- Nhưng
thưa Đức ông, nếu Huân tước tổng trưởng hỏi tôi về những động cơ khiến Đức ngài
đi đến một biện pháp đặc biệt đến thế, tôi sẽ trả lời thế nào?
- Rằng
ta thích như thế và ta chẳng cần báo cáo với ai ý muốn của ta.
Viên thư
ký vừa đáp vừa mỉm cười:
- Liệu
đấy có sẽ là câu trả lời của ngài tổng trưởng phải tâu lên Hoàng thượng không,
nếu tình cờ Hoàng thượng tò mò muốn biết tại sao không một chiếc tàu nào có thể
ra khỏi các cảng biển của Đại Anh quốc?
- Ông có
lý - Buckingham trả lời - Trong trường hợp phải tâu với nhà Vua, ông ấy cứ nói
là ta quyết định chiến tranh và biện pháp đó là hành động thù địch đầu tiên của
ta chống lại nước Pháp.
Viên thư
ký cúi chào và đi ra.
Buckingham
quay lại phía D' Artagnan nói:
- Thế là
chúng ta yên tâm được một bề rồi. Nếu mấy nút kim cương đó chưa hề đến Paris,
nó sẽ chỉ đến đó sau ông.
- Làm
sao lại thế được?
- Ta vừa
ra lệnh cấm các tàu thuyền lúc này đang đậu ở các hải cảng của Hoàng thượng
không được rời bến và trừ phi có giấy phép đặc biệt, không một chiếc nào dám
nhổ neo.
D'
Artagnan vô cùng kinh ngạc nhìn con người đã đem cái quyền lực vô hạn mà nhà
Vua đã tin cậy trao cho, phục vụ cho những việc tình ái của mình. Buckingham
nhìn nét mặt của chàng trai trẻ, biết được điều gì đang diễn ra trong đầu, liền
mỉm cười:
- Phải,
chính Anne d' Autriche mới là Hoàng hậu đích thực của ta. Một lời nàng nói ra,
ta sẽ có thể phản bội lại đất nước ta, phản bội nhà Vua, phản bội lại Chúa trời
của ta. Nàng đã yêu cầu ta đừng gửi cứu viện cho giáo phái Tin lành ở La
Rochelle và ta đã làm như thế. Ta đã không giữ lời hứa, nhưng cần gì, ta vâng
theo ước muốn của nàng. Ta đã chẳng được trả công lớn về sự vâng theo ấy sao,
nói xem nào, bởi vì chính nhờ có sự vâng theo đó mà ta có được bức chân dung
của nàng?
D'
Artagnan lấy làm lạ thay cho vận mệnh một dân tộc và sinh mạng những con người
đôi khi lại được treo trên những sợi dây mong manh và không thấy được như thế.
Chàng
đang đắm nhìn trong suy nghĩ, thì người thợ kim hoàn đi vào. Đó là một người
Ireland loại có kỹ xảo nhất trong nghề, bản thân cũng thú nhận kiếm được hàng
trăm nghìn đồng vàng Anh quốc mỗi năm với Quận công De Buckingham.
- Ông
Ôrâyly này, - Quận công vừa nói vừa dẫn ông ta vào tiểu giáo đường - Hãy xem
những nút kim cương này và nói cho ta biết mỗi nút giá bao nhiêu?
- Người
thợ kim hoàn đưa mắt nhìn vẻ mỹ lệ mà chúng được gọt tỉa, lấy viên nọ bù viên
kia, tính toán giá trị rồi không do dự trả lời:
- Mười
lăm nghìn đồng vàng một nút, thưa Huân tước.
- Cần
phải bao nhiêu ngày để làm hai nút như thế? Ông thấy đấy, nó thiếu mất hai.
- Thưa
Huân tước, tám ngày.
- Ngày
kia ta cần có rồi, ta sẽ trả ba nghìn đồng mỗi nút.
- Huân
tước sẽ có.
- Ôi ông
Ôrâyly, ông thật là quý giá. Nhưng chưa hết đâu. Những nút kim cương đó không
được lộ ra với bất kỳ ai, và phải được làm trong lâu đài này.
- Thưa
Huân tước, không thể được. Chỉ có tôi mới có thể làm nổi, để không ai phân biệt
nổi cái mới với cái cũ.
- Vì
thế, ông Ôrâyly thân mến ạ, ông mới là tù nhân của ta; Giờ đây, ông có muốn ra
khỏi lâu đài của ta cũng không thề được nữa rồi. Hãy quyết định đi. Cho ta biết
danh sách thợ phụ mà ông cần và ghi rõ những đồ nghề gì bọn chúng phải mang
theo.
Người
thợ kim hoàn đã biết rõ Quận công. Ông ta hiểu rằng mọi thăm dò ý kiến đều vô
ích, nên quyết định ngay phần việc của mình. Ông ta hỏi:
- Tôi
được phép báo với vợ tôi chứ?
- Ồ, ông
còn được phép gặp nữa ấy chữ, ông Ôrâyly thân mến ạ Việc cầm giữ ông sẽ nhẹ
nhàng thôi, ông yên tâm, và vì mọi sự đảo lộn đều đáng được đền bù, vậy ngoài
giá tiền hai nút kim cương, đây là món quà một nghìn đồng vàng để ông quên đi
sự phiền muộn do ta gây ra cho ông.
D'
Artagnan không tránh khỏi ngạc nhiên về viên Thủ tướng với đôi tay đã khuấy đảo
bao nhiêu sinh mạng con người, và tiền triệu đi tong.
Còn
người thợ kim hoàn gửi món quà một nghìn đồng vàng và viết thư cho vợ bảo gửi
ngay cho người thợ phụ khéo nhất và một bộ hạt kim cương thích hợp mà ông đã
cho biết trọng lượng, phẩm chất, rồi còn danh sách những dụng cụ cần thiết nữa.
Buckingham
dẫn người thợ kim hoàn vào căn phong dành riêng cho ông ta và chỉ trong vòng
nửa giờ đã biến thành một xưởng thợ. Rồi Công tước cắt lính canh ở mỗi cửa, cấm
không cho bất cứ ai vào trừ người hầu phòng Patrítxơ của ông. Không cần phải
nói thêm cũng tuyệt đối cấm ông thợ kim hoàn Ôrâyly và người thợ phụ không được
ra khỏi phòng dưới bất cứ lý do nào.
Thu xếp
xong việc đó, Công tước trở lại với D' Artagnan.
- Bây
giờ, anh bạn trẻ, - Ông nói - nước Anh là của hai chúng ta, ông muốn gì, ông ao
ước điều gì nào?
- Một
cái giường - D' Artagnan trả lời - tôi thú thực, lúc này đó là thứ tôi cần
nhất.
Buckingham
đưa D' Artagnan đến một căn phòng liền kề với phòng của ông. Ông muốn giữ chàng
trai trẻ trong tay ông, không phải ông nghi ngờ gì chàng mà để ông được không
ngừng nói chuyện với chàng về Hoàng hậu.
Một giờ
sau lệnh không cho tàu thuyền nào đi Pháp được ra khỏi cảng ngay cả thuyền đưa
thư cũng vậy được ban bố. Trước mắt mọi người thì đây là lời tuyên chiến giữa
hai vương quốc.
Ngày hôm
sau nữa, khoảng mười một giờ hai nút kim cương đã được làm xong, bắt chước quá
đúng, hoàn toàn giống hệt khiến Buckingham không nhận ra cái nào là mới, cái
nào là cũ và kể cả những người lão luyện nhất trong nghề cũng sẽ bị nhầm như
ông.
Ngay lập
tức ông cho gọi D' Artagnan, rồi bảo chàng:
- Cầm
lấy, đây là những nút kim cương mà ông đến tìm, và ông hãy là nhân chứng cho
tôi rằng tất cả những gì sức con người có thể làm được tôi đã làm.
- Ngài
yên tâm, thưa Huân tước, tôi sẽ nói điều gì tôi thấy nhưng Đức ngài trao cho
tôi những nút kim cương mà không có tráp đựng.
- Cái
tráp sẽ làm cho ông vướng víu. Vả lại đối với tôi, cái tráp còn quý hơn. Tôi
chỉ còn lại mỗi thứ đó. Ông sẽ nói là tôi giữ lại.
- Thưa
Huân tước, tôi sẽ nói lại đúng từng lời việc ngài giao cho tôi.
- Và bây
giờ - Buckingham vừa nói tiếp vừa nhìn thẳng vào mặt chàng trai trẻ - Bao giờ
tôi mới trả ơn được ông đây?
D'
Artagnan đỏ bừng mặt lên. Chàng thấy ông Quận công đang tìm cách để chàng nhận
một thứ gi đó và cái ý nghĩ máu các đồng đội của chàng và máu chàng sắp được
trả cho chàng bằng vàng của nước Anh khiến chàng ghê tởm lạ lùng. Chàng đáp:
- Thưa
Huân tước, chúng ta hãy thông hiểu lẫn nhau, và cân nhắc kỹ mọi việc trước đã
sao cho không có một sự hiểu lầm nào xảy ra. Tôi phục vụ đức Vua và Hoàng hậu
nước Pháp, và tham gia đội cận vệ của ông des Essarts, ông này cũng như anh rể
ông là ông De Treville hoàn toàn đặc biệt gắn bó với Hoàng thượng. Còn thêm
nữa, có thể tôi đã chẳng làm nổi điều gì của tất cả cái đó nếu việc đó không
được làm để vừa lòng một người cũng là bà chúa của tôi, giống như Hoàng hậu là
của ngài vậy.
- Phải -
Quận công vừa nói vừa mỉm cười - và tôi tin tôi cũng biết cái bà chúa khác ấy,
có phải…
- Thưa
Huân tước, tôi có nêu tên người ấy ra đâu - chàng trai trẻ vội vã ngắt lời.
- Thế là
đúng - Công tước nói - vậy chính là tôi phải biết ơn người ấy về sự tận tụy của
ông.
- Thưa
Huân tước, ngài đã nói rồi, bởi vì đúng vào cái giờ này đã là chuyện chiến
tranh rồi, tôi xin thú thực tôi chỉ thấy ở Đức ngài một tên người Anh, do đó là
một kẻ thù mà tôi sẽ còn vui sướng được gặp ở chiến trường hơn là trong công
viên điện Uynxo hoặc trong những hành cung của điện Louvre. Tuy nhiên điều đó
không ngăn cản tôi thực hiện từng chi tiết, nhiệm vụ của tôi, nếu cần thiết,
sẵn sàng chết để hoàn thành nhiệm vụ đó Nhưng tôi xin nhắc lại với Đức ngài
rằng ngài sẽ không có gì phải cảm ơn tôi những việc tôi sẽ làm cho tôi trong
cuộc gặp gỡ lần thứ hai hơn là những gì tôi đã làm cho ngài trong cuộc gặp gỡ
lần thứ nhất đâu.
Buckingham
lẩm nhẩm:
- Bên
chúng tôi, chúng tôi thường nói: "Kiêu hãnh như một người Xcốt".
- Còn
chúng tôi, chúng tôi nói: "Kiêu hãnh như một người Gátxcông" - D'
Artagnan đáp - Dân Gátxcông là dân Xcốt của nước Pháp.
D'
Artagnan chào Công tước và sẵn sàng ra đi.
- Khoan
đã! Ông đi như thế ư? Đi lối nào? Đi thế nào?
- Vâng,
quả có thế.
- Chúa
ơi! Người Pháp không nghi ngại gì hết.
- Tôi
quên mất nước Anh là một hòn đảo và Ngài là vua hòn đảo ấy ông hãy đi đến cảng,
hỏi chiếc thuyền hai buồm tên là "Săn", đưa cho thuyền trưởng thư
này. Ông ta sẽ dẫn ông đến một cảng nhỏ, chắc người ta không đợi ông đâu, và ở
đó thường chỉ có thuyền đánh cá cặp bến.
- Cảng
đó tên là gì?
-
Saint-Valery, nhưng khoan đã, tới đó, ông sẽ vào một cái quán tồi tàn không
tên, không biển hiệu, một tửu quán đích thực của thủy thủ, và không lo nhầm
đâu, vì chỉ có một thôi.
- Sau
đó?
- Ông
hỏi chủ quán và bảo hắn ta: Forward
- Nghĩa
là thế nào?
- Là
"Tiến lên". Đó là khẩu lệnh. Hắn sẽ cho ông một con ngựa, yên cương
sẵn sàng và sẽ chỉ dẫn đường đi cho ông. Ông cũng sẽ thấy bốn trạm tiếp sức như
thế trên đường đi. Nếu ông muốn, ở mỗi trạm, hãy cho địa chỉ của ông ở Paris,
bốn con ngựa sẽ đi theo ông đến đó. Ông đã biết hai trong số đó, và tôi thấy
hình như ông có vẻ quý nó như một tay chơi ngựa, hai con mà chúng ta đã cưỡi
ấy. Và ông hãy tin tôi, hai con kia cũng không hề kém chút nào đâu. Bốn con
ngựa ấy đều là ngựa chiến đấy. Dù ông có kiêu hãnh đến đâu, ông cũng đừng từ
chối nhận một con, và bảo các bạn ông nhận ba con kia. Vả lại còn để ta dùng
trong chiến tranh mà. Mục đích bỏ qua cho các phương tiện như người Pháp các
ông vẫn nói có phải không?
- Phải,
thưa Huân tước, tôi xin nhận - D' Artagnan nói - Và nếu hợp lòng trời, chúng
tôi sẽ sử dụng tất những món quà của ngài.
- Bây
giờ, bắt tay người bạn trẻ, có thể chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau trên chiến
trường, nay trong khi chờ đợi, chúng ta hãy chia tay nhau như những người bạn
tốt, tôi hy vọng thế.
- Vâng,
thưa Huân tước, nhưng với hy vọng sớm thành kẻ thù của nhau.
- Ông
yên tâm, tôi hứa với ông như vậy.
- Huân
tước, tôi tin lời hứa của ngài.
D'
Artagnan chào công tước và vội vã tiến về phía cảng.
Trước
mặt tháp London, chàng thấy chiếc thuyền đã chỉ định. Chàng trao bức thư cho
viên thuyền trưởng. Ông ta đưa cho trấn thủ cảng xác nhận, rồi chuẩn bị giương
buồm.
Năm mươi
thuyền bè muốn rời bến mà phải nằm chờ.
Khi đi
qua mạn một con thuyền trong số đó, D' Artagnan tin là mình đã nhận ra người
đàn bà ở Măng, vẫn người đàn bà mà con người xa lạ từng gọi là Milady và chính
bản thân D' Artagnan cũng thấy nàng quá đẹp. Nhưng nhờ xuôi dòng, thuận gió con
thuyền của chàng đi nhanh đến nỗi chỉ một lát sau đã không thấy tăm hơi của
người đàn bà đó.
Hôm sau,
khoảng chín giờ sáng, thuyền cập bến Saint-Valery.
D'
Artagnan đi ngay tới cái quán đã chỉ dẫn và nhận ra qua những tiếng ầm ĩ từ bên
trong thoát ra. Người ta đang nói về chiến tranh giữa nước Anh và nước Pháp sắp
xảy ra đến nơi và không phải bàn cãi nữa, và bọn thủy thủ vui vẻ thì lu bù chè
chén.
D'
Artagnan rẽ đám đông tiến lại chủ quán và đọc Forward.
Ngay tức
khắc chủ quán ra hiệu cho chàng đi theo mình qua một chiếc cửa ra sân rồi dẫn
chàng đến chuồng ngựa đã có sẵn một con ngựa yên cương đầy đủ đợi chàng rồi chủ
quán hỏi xem liệu chàng có cần gì nữa không.
- Tôi
cần biết mình phải đi theo đường nào - D' Artagnan - Từ đây đi đến Blănggy, rồi
từ Blănggy đến Nớpsaten đến Nớpsaten vào quán Chiếc bừa vàng, nói khẩu lệnh với
chủ quán và ông sẽ thấy ở đó một con ngựa đầy đủ yên cương.
- Tôi có
phải gì không? - D' Artagnan hỏi.
- Đã trả
cả rồi - chủ quán nói - và trả hậu nữa. Ông cứ việc đi đi Cầu trời phù hộ cho
ông!
- Amen!
Nói rồi
chàng cho ngựa phi nước đại.
Bốn giờ
sau chàng tới Nớpsaten. Tuân theo chặt chẽ những chỉ dẫn đã nhận được, ở
Nớpsaten giống như ở Saint-Valery, chàng lại thấy một con ngựa yên cương sẵn
sàng đang đợi mình.
Chàng
định chuyển những khẩu súng ngắn từ yên con ngựa chàng thôi không cưỡi sang yên
con ngựa mới chàng sắp cưỡi, nhưng những bao súng ở yên con ngựa này đã gài sẵn
những khẩu súng ngắn tương tự.
- Địa
chỉ của ông ở Paris?
- Dinh
trại quân cận vệ, đại đội ông des Essarts.
- Tốt
lắm - chủ quán trả lời.
- Bây
giờ phải đi đường nào? - Đến lượt D' Artagnan hỏi lại.
- Đường
đi Ruăng, nhưng đừng có đi qua thành phố ở phía bên phải. Đến cái làng nhỏ
Ecu-i, ông dừng lại, ở đó chỉ có một cái quán tên là: Đồng vàng nước Pháp. Đừng
có nhìn bề ngoài mà xét đoán nó. Trong chuồng ngựa của quán, cũng sẽ có một con
ngựa giá trị tương đương con ngựa này.
- Vẫn
khẩu lệnh ấy.
- Đúng
vậy.
- Xin
chào ông chủ?
- Chúc
nhà quý tộc lên đường bình an! À mà ông còn cần gì nữa không.
D'
Artagnan lắc đầu và lại phóng như bay. Đến Ecu-i, vẫn diễn lại cảnh ấy. Chàng
lại gặp một chủ quán đã được báo trước.
Một con
ngựa sung sức và được nghỉ ngơi. Chàng để lại địa chỉ như đã làm rồi lại phi
nhanh đến Pôngtoa. Ở Pôngtoa chàng đổi ngựa lần cuối và vào lúc chín giờ chàng
phi nước đại vào thẳng sân dinh quán ông De Treville, vậy là chàng đã đi gần
sáu mươi dặm trong mười hai tiếng đồng hồ.
Ông De
Treville đón chàng như thể vừa gặp chàng ban sáng.
- Có
điều vừa siết tay chàng hơi mạnh hơn thường lệ, ông vừa báo cho chàng biết đại
đội cận vệ của ông des Essarts đang tuần canh điện Louvre và chàng có thể trở
về nhiệm sở của mình.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
22
Vũ khúc
Merlaison(1).
Hôm sau,
người ta xôn xao bàn tán khắp Paris về vũ hội mà các vị thẩm phán thành phố tổ
chức để tôn vinh nhà Vua và Hoàng hậu, trong đó chắc Louis sẽ nhảy vũ điệu nổi
tiếng Méeledông, là vũ điệu ưa thích của nhà Vua.
- Người
ta đã chuẩn bị từ tám hôm nay mọi công việc ở tòa thị chính cho buổi dạ hội
long trọng đó. Thợ mộc của thành phố đã dựng những kỳ đài làm chỗ ngồi cho các
phu nhân được mời.
Chủ tạp
hóa thành phố đã gắn trong các phòng hai trăm cây nến trắng, một sự xa hoa hiếm
thấy thời bấy giờ. Cuối cùng là hai mươi cây vĩ cầm được báo trước và giá công
được ấn định gấp đôi giá ngày thường vì họ sẽ phải chơi suốt đêm.
Khoảng
mười giờ sáng, ông De la Côtx kỳ úy đội cận vệ của nhà Vua, theo sau có hai sĩ
quan và nhiều xạ thủ của đội, đến yêu cầu ông lục sự thành phố tên là Clêmăng
đưa tất cả chìa khóa các cửa, các phòng, và các phòng làm việc của thị sảnh.
Chìa
khóa được trao ngay cho ông ta, mỗi chiếc đều mang theo một thẻ nhỏ để khỏi
nhầm và từ lúc đó ông De la Côtx chịu trách nhiệm canh phòng tất cả các cửa và
tất cả các lối đi trong thị sảnh.
Mười một
giờ, đến lượt ông Đuyhaliê, đại úy cận vệ đến, đem theo năm mươi xạ thủ, bọn họ
tản ngay đến các cửa đã được chỉ định trong tòa thị chính.
Ba giờ
chiều, hai đại đội cận vệ, một người Pháp, một Thụy Sĩ đến tiếp. Đại đội cận vệ
Pháp được hợp thành, một nửa từ những quân của ông Đuyhaliê, một nửa là của ông
des Essarts.
Sáu giờ
chiều, khách mời bắt đầu kéo đến. Vào đến đâu, khách được mời ngồi đến đấy trên
kỳ đài đã được dựng trong đại sảnh đường.
Chín
giờ, bà đệ nhất chủ tọa đến. Vì sau Hoàng hậu, đó là nhân vật quan trọng nhất
của vũ hội, bà ta được các quan chức của thành phố đón tiếp và được mời ngồi
trong khoang đối diện với khoang của Hoàng hậu.
Mười
giờ, người ta bầy một tiệc mứt để đón tiếp đức Vua trong một phòng nhỏ phía nhà
thờ Thánh Jăng, trước một tủ đựng các bộ đồ ăn bằng bạc, và được bốn xạ thủ bảo
vệ.
- Đúng
nửa đêm, người ta nghe thấy những tiếng reo lớn, và những tiếng tung hô, đó là
lúc nhà Vua đang tiến qua các phố rực rỡ những đèn màu suốt từ điện Louvre đến
tòa thị chính.
Ngay tức
khắc, các viên thẩm phán trong những chiếc áo dài bằng da, đi trước là sáu viên
đội, mỗi người một đèn lồng trong tay ra đón Nhà Vua, mà họ gặp ngay trên những
bậc thềm, ở đó viên thị trưởng thành phố đang đọc diễn văn chúc mừng nhà Vua,
còn nhà Vua đáp lại bằng việc cáo lỗi đã đến quá muộn nhưng lại gán cho Giáo
chủ đã giữ nhà Vua lại tận mười một giờ để bàn luận công việc quốc gia.
Nhà vua
mặc lễ phục, tháp tùng có Đức ông hoàng đế, Bá tước de Xoát xông, đại giáo
trường, Quận công Lôngdơvin, Quận công Đenbớp, Bá tước de Hácua, Bá tước de la
Rấtsơ Guyông, ông De Lăngcua, ông De Barađát, Bá tước de Cramay, và hiệp sĩ
Đờxúvơray.
Mọi
người đều nhận thấy nhà Vua có vẻ rầu rĩ và băn khoăn.
Một căn
phòng đã được chuẩn bị riêng cho nhà Vua, và một phòng khác cho Hoàng đế. Trong
mỗi phòng đó, đều để sẵn y phục giả trang. Cũng như thế cho Hoàng hậu và phu
nhân chủ tọa. Các vị đại thần và các phu nhân hộ giá Hoàng thượng thì cứ hai
người một thay đồ giả trang các phòng chuẩn bị cho việc đó.
Trước
khi vào phòng, nhà Vua dặn khi nào Giáo chủ xuất hiện phải báo ngay cho nhà Vua
biết.
Nửa giờ
sau khi nhà Vua đi vào, những tiếng tung hô mới lại vang lên báo tin Hoàng hậu
đến. Các thẩm phán lại ra đón như đã làm, đi trước cũng là những viên đội, họ
tiến đến trước vị nữ khách lừng danh của họ.
Hoàng
hậu bước vào đại sảnh. Người ta nhận thấy, giống như nhà Vua, bà có vẻ rầu rĩ
và rất là mệt mỏi.
Đúng lúc
bà bước vào, tấm rèm của một khán đài nhỏ cho đến lúc đó vẫn buông kín được mở
ra và người ta thấy hiện ra bộ mặt xanh xao của Giáo chủ mặc theo lối kỵ sĩ Tây
Ban Nha. Đôi mắt của ông ta xoáy vào đôi mắt của Hoàng hậu, và một nụ cười mừng
vui khủng khiếp lướt trên đôi môi ông ta: Hoàng hậu không đeo chuỗi kim cương.
Hoàng
hậu lưu lại ít phút để nhận những lời chúc tụng của quan chức thành phố và đáp
lại sự chào đón của các phu nhân.
Bất
thình lình nhà Vua cùng với Giáo chủ hiện ra ở một chiếc cửa của đại sảnh
đường. Giáo chủ nói rất khẽ với nhà Vua, và nhà Vua tái nhợt đi.
Nhà Vua
rẽ đám đông và, chưa đeo mặt nạ, những dải băng ở áo chẽn còn chưa buộc chặt,
tiến lại gần Hoàng hậu, lạc hẳn giọng đi:
- Thưa
bà, xin bà vui lòng, vậy chớ tại sao bà lại không đeo chuỗi hạt kim cương, khi
bà biết nó sẽ làm ta vui lòng khi nhìn thấy nó?
- Tâu
hoàng thượng - Hoàng hậu trả lời giọng cũng lạc đi - bởi giữa đám rất đông
người này, tôi sợ có chuyện không may xảy ra với nó.
- Thế
thì bà nhầm rồi, thưa bà! Nếu như tôi tặng bà món quà đó, chính là để bà đem ra
trang điểm. Tôi nói cho bà biết, bà nhầm rồi.
Và giọng
của nhà Vua run lên tức giận, ai nấy đều nhìn và nghe rất đỗi ngạc nhiên không
hiểu đã xảy ra chuyện gì.
- Tâu
Hoàng thượng - Hoàng hậu nói - Tôi có thể sai người về tìm ở điện Louvre, nó
vẫn ở đấy, và như vậy những ước muốn của Hoàng thượng sẽ được hoàn tất.
- Vậy bà
làm đi, thưa bà, làm đi, và nhanh nhanh lên, vì nửa giờ nữa là vũ hội bắt đầu
rồi.
Hoàng
hậu cúi chào tỏ vẻ phục tùng và đi theo các phu nhân có nhiệm vụ dẫn bà về
phòng riêng.
Về phía
mình, nhà Vua cũng trở về phòng mình.
Đại sảnh
rối loạn, xôn xao mất một lúc.
Mọi
người đều có thể nhận thấy có chuyện gì xảy ra giữa nhà Vua và Hoàng hậu. Nhưng
cả hai đều nói rất khẽ mà mọi người do tôn kính đều đứng xa ra mấy bước, nên
không ai nghe thấy gì. Vĩ cầm vang lên hết cỡ nhưng cũng chẳng ai nghe.
Nhà Vua
ra khỏi phòng mình trước tiên, trong trang phục đi săn loại hào hoa nhất, Hoàng
đế và các vị đại thần khác đều mặc như nhà Vua. Đó là bộ trang phục nhà Vua mặc
đẹp nhất và mặc như vậy, ông hình như mới đích thực là nhà quý tộc đệ nhất của
vương quốc.
Giáo chủ
lại gần và chuyển cho nhà Vua một cái hộp. Nhà Vua mở ra và thấy trong đó hai
nút kim cương liền hỏi Giáo chủ:
- Thế
nghĩa là thế nào?
- Không
thế nào cả - Giáo chủ trả lời - có điều nếu Hoàng hậu có những nút kim cương,
điều thần đang ngờ đấy, tâu Hoàng thượng, Hoàng thượng hãy đếm xem, và nếu Ngài
chỉ thấy có mười viên, xin hãy hỏi Hoàng hậu xem kẻ nào có thể lấy cắp mất hai
nút như thế này.
Nhà Vua
nhìn Giáo chủ như để hỏi. Nhưng ông còn chưa kịp hỏi một câu nào, thì tiếng kêu
ngưỡng mộ đã thốt ra từ miệng tất cả mọi người. Nếu như nhà Vua là bậc quý tộc
đệ nhất vương quốc, chắc chắn Hoàng hậu phải là người đàn bà đẹp nhất nước
Pháp.
Đúng là
bộ y phục nữ đi săn rất hợp với nàng. Nàng đội một chiếc mũ dạ với những lông
chim xanh lam, một áo khoác ngoài nhung màu xám có cài những móc kim cương và
một chiếc váy bằng xa tanh xanh lam toàn thêu sợi bạc, trên vai trái nàng lấp
lánh những nút kim cương được đính vào một cái nơ cùng màu với lông chim và
chiếc váy.
Nhà Vua
sướng run người, còn Giáo chủ run lên vì giận dữ, tuy nhiên vì cả hai người
cùng đứng cách xa Hoàng hậu nên không thể đếm được số nút kim cương. Hoàng hậu
đã có những nút kim cương ấy, có điều là có mười hay mười hai nút.
Cũng lúc
ấy, vĩ cầm vang lên tín hiệu bắt đầu vũ khúc. Nhà Vua tiến về phía phu nhân chủ
tọa và phải nhảy với bà và Hoàng đế với Hoàng hậu. Mọi người đều vào chỗ và vũ
khúc bắt đầu Nhà Vua nhảy đối diện với Hoàng hậu, và mỗi lần ông lướt qua gần
nàng, Ngài lại hau háu nhìn những nút kim cương mà không đếm nổi. Một lớp mồ
hôi lạnh toát ra tên trán Giáo chủ.
Vũ điệu
kéo dài một giờ, gồm mười sáu chuyển đoạn động tác múa.
Vũ điệu
kết thúc giữa những tiếng vỗ tay hoan hô của khắp mọi người trong đại sảnh, mỗi
người đều đưa quý bà nhảy với mình về chỗ, nhưng nhà Vua ỷ vào đặc quyền của
mình, bỏ bà chủ tọa ngay tại chỗ để tiến nhanh lại phía Hoàng hậu, và nói với
nàng:
- Thưa
bà, tôi xin cảm ơn bà, về sự tôn trọng mà bà đã biểu lộ trước những ý muốn của
tôi, nhưng tôi tin bà thiếu mất hai nút kim cương, mà tôi đã mang đến đây.
Vừa nói,
nhà Vua vừa chìa ra cho Hoàng hậu hai nút kim cương mà Giáo chủ đã đưa cho
mình.
- Tâu Bệ
hạ, lại thế nữa sao! - Hoàng hậu giả vờ ngạc nhiên kêu lên - Bệ hạ lại cho thêm
hai hạt nữa, thế là bây giờ tôi sẽ có những mười bốn viên ư?
Nhà Vua
đếm, quả nhiên mười hai nút kim cương vẫn trên vai Hoàng hậu.
Nhà Vua
gọi Giáo chủ và hỏi bâng một giọng nghiêm khắc:
- Thế
nào? Thế này, nghĩa là thế nào, ông Giáo chủ?
- Tâu Bệ
hạ, - Giáo chủ đáp - thế nghĩa là thần muốn Hoàng hậu nhận hai viên kim cương
đó, nhưng tự mình lại không dám dâng lên, thần phải dùng cách ấy.
- Thế
thì tôi lại càng phải chịu ơn Đức ông hơn – Anne d' Autriche trả lời bằng một
nụ cười chứng tỏ cái lối nịnh đầm tiểu xảo ấy không lừa được nàng - và tôi tin
chắc rằng hai nút kim cương này ông phải trả đắt bằng cả mười hai nút kim cương
kia mà Hoàng thượng phải trả đấy.
Rồi chào
nhà Vua và Giáo chủ, Hoàng hậu trở về căn phòng mà nàng đã mặc giả trang và là
nơi nàng phải cởi bỏ.
Chúng
tôi buộc phải lưu tâm tới những nhân vật danh tiếng chúng tôi đưa vào ngay từ
đầu chương này nên phải tạm xa nhân vật đã giúp Anne d' Autriche vừa giành được
thắng lợi không ngờ đối với Giáo chủ, người này hiện đang lẫn vào, không ai
biết tới và lạc lõng trong đám đông ùn lại ở một cối cửa, đang nhìn màn kịch
chỉ có bốn người hiểu nổi là nhà Vua, Hoàng hậu, Giáo chủ và chính nhân vật đó.
Hoàng
hậu vừa trở về phòng, và D' Artagnan chuẩn bị rút lui thì chàng cảm thấy có ai
đó đụng nhẹ vào vai chàng. Chàng quay lại thấy một thiếu phụ ra hiệu đi theo
nàng. Thiếu phụ đeo mặt nạ chó sói bằng nhung đen, nhưng mặc dầu đã cẩn thận
như vậy, vả chăng cũng là để che mắt người khác đâu phải với chàng, chàng nhận
ra ngay người dẫn đường mọi khi của chàng, bà Bonacieux khôn ngoan và yêu kiều.
Đêm
trước, họ mới chỉ được thoáng gặp nhau một lát tại nhà một người Thụy Sĩ tên là
Germain, mà D' Artagnan đã yêu cầu nàng đến gặp ở đó. Thiếu phụ quýnh lên vội
mang về cho Hoàng hậu cái tin tuyệt diệu là sứ giả của bà đã trở về may mắn,
khiến cho đôi tình nhân chỉ kịp trao đổi được vài lời. D' Artagnan đi theo bà
Bonacieux bởi hai thứ tình cảm gộp lại thúc đẩy tình yêu và sự hiếu kỳ. Suốt
dọc đường, mỗi lúc những hành lang càng trở nên vắng vẻ, D' Artagnan định ngăn
nàng lại để ôm chặt nàng, ngắm nghía nàng dù chỉ trong giây phút, nhưng thoăn
thoắt như một cánh chim, nàng luôn trườn khỏi hai tay chàng, và khi chàng định
nói, nàng lại đưa ngón tay lên miệng, một điệu bộ nhẹ nhàng đầy duyên dáng ra lệnh
cấm chàng không được nói, và nhắc cho chàng biết đclng dưới một uy quyền phải
nhắm mắt tuân theo, và cấm chàng không được thốt ra bất cứ một lời phàn nàn nhỏ
nào. Cuối cùng, sau vài phút vòng đi vòng lại, bà Bonacieux mở một chiếc cửa
dẫn chàng vào một căn phòng tối om, ở đây nàng lại ra hiệu phải ngậm miệng và
mở chiếc cửa thứ hai lấp sau một tấm thảm, bất ngờ một vầng sáng chói tỏa ra và
nàng biến mất.
D'
Artagnan đứng ngây ra một lúc và tự hỏi mình đang ở đâu thế này, nhưng rồi một
tia sáng từ phòng bên lọt sang, hơi ấm và thơm phức tỏa đến tận chỗ chàng,
tiếng mấy người đàn bà đang trò chuyện, lời lẽ vừa trang nhã, vừa tôn kính,
tiếng Đức bà được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, chỉ rõ cho chàng thấy mình đang
trong căn phòng liền kề với phòng Hoàng hậu.
Chàng
trai đứng yên trong bóng tối và chờ đợi.
Hoàng
hậu tỏ ra vui vẻ và sung sướng, hình như khiến mọi người xung quanh nàng rất
đỗi ngạc nhiên, vì trái lại mọi khi thường thấy nàng hầu như luôn luôn lo lắng.
Hoàng hậu trả lại hết cái tình cảm vui mừng đó cho vẻ mỹ lệ của đêm hội, cho
niềm vui mà vũ điệu đem lại cho nàng, và do không được phép trái ý một bà
hoàng, dù bà ta cười hay khóc, mọi người đều cường điệu thêm sự phong nhã của
các viên thẩm phán thành Paris.
Dù D'
Artagnan còn chưa quen biết gì Hoàng hậu, chàng phân biệt được ngay giọng nói
Hoàng hậu với giọng những người khác, trước hết đó là hơi pha giọng nước ngoài,
thêm nữa là cái vẻ bề trên tự nhiên in đậm trong mọi lời lẽ của bậc tối thượng.
Chàng
nghe thấy tiếng lại gần rồi lại xa ra khỏi chiếc cửa mở, hai ba lần chàng trông
thấy vẫn chiếc bóng của thân hình ấy che khuất ánh sáng.
Cuối
cùng, bất ngờ một bàn tay và một cánh tay trắng muốt và tuyệt đẹp vén tấm thảm
lên, D' Artagnan hiểu đây chính là phần thưởng cho chàng. Chàng quỳ xuống, nắm
lấy bàn tay ấy và kính cẩn áp môi lên, rồi bàn tay rút lại, để lại trong hai
bàn tay chàng một vật chàng nhận ra là một chiếc nhẫn, lập tức cửa đóng lại và
D' Artagnan lại thấy mình hoàn toàn trong bóng tối.
D'
Artagnan đeo chiếc nhẫn vào ngón tay chàng và lại đợi.
Rõ ràng
mọi chuyện chưa phải đã xong. Sau phần thưởng về lòng tận tụy của chàng phải là
phần thưởng của tình yêu. Vả lại vũ điệu đã nhảy rồi, nhưng dạ hội mới chỉ bắt
đầu. Người ta ăn đêm vào lúc ba giờ, mà đồng hồ nhà thờ Thánh Jăng chỉ vừa mới
điểm hai giờ bốn nhăm phút.
Quả
nhiên, tiếng người thưa dần trong phòng bên, và xa dần, rồi cửa phòng D'
Artagnan đang đứng lại mở ra và bà Bonacieux lao vào. D' Artagnan kêu lên:
- Cuối
cùng, nàng đây rồi!
- Im
nào! - Thiếu phụ áp bàn tay lên môi chàng - Im nào! Và bây giờ chàng hãy đi đi,
đi theo lối chàng đến ấy.
- Nhưng
ở đâu và khi nào chúng ta lại gặp nhau?
- Một
thư ngắn mà chàng sẽ thấy khi trở về nhà sẽ cho chàng biết điều đó. Đi đi!
Chàng đi đi?
Nói
xong, nàng mở chiếc cửa thông ra hành lang và đẩy D' Artagnan ra khỏi phòng.
D'
Artagnan vâng lời như một đứa trẻ, không kháng cự, không cãi lại câu nào, điều
đó chứng tỏ chàng thực sự đang yêu say đắm.
Chú thích:
(1) Merlaison - từ chữ Merle (con chim sáo
đen) - Vũ khúc với chủ đề săn chim sáo đen do vua Louis XIII soạn năm 1635.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
23
Cuộc hẹn
hò.
D'
Artagnan tức tốc chạy về nhà, và cho dù hơn ba giờ sáng lại phải đi xuyên qua
những khu phố dữ tợn nhất của Paris, chàng cũng không gặp phải chuyện rủi ro
nào. Người ta nói có một vị thần cho những kẻ yêu đương.
Chàng
thấy cửa lối đi để ngỏ, liền leo thẳng lên cầu thang và gõ nhẹ và đúng lối theo
quy ước giữa chàng và người hầu của mình. Planchet, hai giờ trước ở tòa thị
chính, chàng đã cho về trước và dặn đợi mình, ra mở cửa. Chàng vội hỏi:
- Có ai
mang thư đến cho ta không?
- Chả có
ai mang thư đến cả - Planchet trả lời - nhưng có một thư tự nó đến một mình
thôi.
- Mi
muốn nói gì, đồ ngốc?
- Tôi
muốn nói, lúc trở về, mặc dù chìa khóa phòng ông vẫn trong túi tôi, và không
rời khỏi tôi lúc nào, tôi vẫn thấy một bức thư trên tấm thảm xanh trên bàn
trong phòng ngủ của ông.
- Bức
thư ấy đâu rồi?
- Thưa
ông đâu vẫn đó. Những bức thư vào nhà người ta như thế không phải chuyện bình
thường đâu. Nếu cửa sổ vẫn mở hoặc chỉ khép, tôi không nói làm gì. Nhưng không,
tất cả đều đóng im ỉm cơ mà thưa ông, hãy đề phòng thôi, bởi chắc có phù chú gì
đó.
Trong
khi đó, chàng trai lao vội vào buồng ngủ và bóc thư xem. Đó là thư của bà
Bonacieux vắn tắt như sau:
"Xin
gửi tới những lời cảm ơn nồng nhiệt
"Muốn
được thể hiện và chuyển cho chàng những lời cám ơn nồng nhiệt. Tối nay khoảng
mười giờ chàng hãy đến Saint-Clu, đối diện với Nhà hứng gió nhô lên ở góc nhà
ông De Etxtrê".
CB"
Đọc bức
thư, D' Artagnan cảm thấy tim mình hồi hộp một sự đê mê dịu dàng vừa hành hạ
vừa mơn man trái tim của những cặp tình nhân.
Đó là
bức thư vắn đầu tiên chàng nhận được, đó cũng là cuộc hò hẹn đầu tiên dành cho
chàng. Trái tim chàng, nở tung ra vì say sưa vui sướng, tự cảm thấy sắp lịm đi
ở ngưỡng cửa cái thiên đàng hạ giới mà người ta gọi là tình yêu này.
- Ơ kìa!
Thưa ông - Planchet nói khi thấy chủ mình mặt cứ đỏ lên rồi lại tái đi liên
tiếp - Ơ kìa! Chẳng phải tôi đã đoán đúng có chuyện dữ hay sao?
-
Planchet ơi, mi nhầm rồi - D' Artagnan trả lời - Và bằng chứng đây, đây là một
đồng vàng để mi uống chúc mừng ta.
- Tôi
xin cảm ơn ông chủ về đồng vàng ông thưởng tôi, và tôi xin hứa làm theo đúng
những lời chỉ bảo của ông. Nhưng chẳng lẽ lại không đúng, rằng những bức thư
lại vào được như thế trong những ngôi nhà đóng kín…
- Rơi từ
trên trời xuống, anh bạn của ta ạ, rơi từ trên trời xuống đấy.
- Nhưng
ông bằng lòng chứ? - Planchet hỏi.
-
Planchet thân mến của ta ơi, ta là người sung sướng nhất trong mọi người.
- Và tôi
có thể nhân việc ông được sung sướng mà đi ngủ chứ?
- Được,
đi ngủ đi.
- Cầu
cho mọi phúc lành trên đời đều rơi xuống ông chủ, nhưng chẳng lẽ lại không đúng
là bức thư ấy… và Planchet vừa rút lui vừa lắc đầu với vẻ hoài nghi mà sự hào
phòng của D' Artagnan không thể hoàn toàn xóa đi nổi.
Còn lại
một mình, D' Artagnan đọc đi đọc lại bức thư vắn rồi hôn đi hôn lại đến hai
chục lần những dòng chữ do tay người tình của mình viết. Cuối cùng chàng đi
nằm, ngủ thiếp đi và mơ những giấc mơ vàng.
Bẩy giờ
sáng, chàng dậy và gọi Planchet, ngay sau tiếng gọi lần thứ hai, đã mở cửa, mặt
còn chưa gột hết những nỗi lo đêm trước.
-
Planchet! - D' Artagnan nói - có thể ta đi cả ngày hôm nay vậy mi được tự do
đến bẩy giờ tối. Nhưng đúng bẩy giờ mi phải chuẩn bị sẵn hai con ngựa.
- Nghĩa
là - Planchet nói - hình như chúng ta sắp làm cho mình được thủng da ở nhiều
chỗ nữa thì phải!
- Mi sẽ
mang theo súng trường và mấy khẩu súng ngắn của mày.
- Thấy
chưa? Tôi đã nói gì nào? - Planchet kêu lên. - Đến đây, thì tôi chắc chắn, bức
thư gở rồi?
- Nhưng
mày cứ yên trí, đồ ngu ạ - Đây chỉ hoàn toàn đơn giản là một trò đùa vui thôi.
- Ồ,
cũng như cuộc du hành thỏa thích ngày nào mà đạn bắn như mưa, và cạm bẫy mọc
như nấm chứ gì.
- Thôi
được, thưa ngài Planchet, nếu ngài sợ - D' Artagnan nói tiếp - tôi sẽ đi một
mình. Tôi thích du hành một mình hơn là có một bạn đồng hành run sợ.
- Ông
chủ lại chửi tôi rồi - Planchet nói - tuy nhiên, hình như ông cũng đã thấy tôi
lúc tâm sự.
- Phải,
nhưng tao lại tưởng mi đã sử dụng hết lòng can đảm của mi trong một lần rồi.
- Ông
chủ sẽ thấy khi có cơ hội, nó còn lại thế nào, có điều tôi xin ông chủ đừng
hoang phí nó, nếu ông muốn nó còn được lâu bền.
- Mày có
tin là vẫn còn một số nào đấy để chi tối nay không?
- Tôi hy
vọng là còn.
- Thôi
được! Ta tin ở mi?
- Đúng
giờ, tôi sẽ sẵn sàng. Có điều, tôi tưởng ông chủ chỉ có một con ngựa ở chuồng
ngựa cận vệ.
- Có lẽ
ngay lúc này đã có một con nữa ở đấy rồi. Nhưng tối nay, sẽ có bốn con.
- Hình như
chuyến du hành vừa qua của chúng ta là một cuộc du hành để thay ngựa?
- Đúng
thế. - D' Artagnan nói.
Rồi bằng
cử chỉ cuối cùng để căn dặn Planchet, chàng ra ngoài.
Ông
Bonacieux đang đứng trước cửa nhà mình. D' Artagnan định lờ đi không thèm nói
gì với lão hàng xén làm bộ làm tịch.
Nhưng
lão ta lại chào chàng đến là dịu dàng và nhã nhặn khiến người thuê nhà khó xử,
không những phải chào lại mà còn phải bắt chuyện với lão.
Vả lại
làm sao lại không có được một chút vị nể một ông chồng mà người vợ lại hẹn mình
ngay tối nay ở Saint-Clu, trước mặt Nhà hứng gió của ông De Etxtrê! D' Artagnan
lại gần với vẻ dễ mến nhất mà chàng có thể tạo được.
Câu
chuyện rơi vào chuyện con người tội nghiệp này bị bắt giam hoàn toàn tự nhiên.
Ông Bonacieux không biết D' Artagnan từng được nghe cuộc chuyện trò của ông ta
với con người lạ mặt ở Măng, lại đi kể cho chàng thuê nhà trẻ tuổi những sự
ngược đãi của con quỷ De Lafêmát mà ông ta gán cái danh hiệu ấy cho tên đao phủ
của Giáo chủ suốt cả câu chuyện, và dài dòng sang cả chuyện ngục Bastille,
những chốt cửa, những ô trổ những lỗ thông hơi, những song sắt, những dụng cụ
tra tấn.
D'
Artagnan lắng nghe với một thái độ vui vẻ mẫu mực rồi khi lão kết thúc, liền
hỏi:
- Còn bà
Bonacieux, ông có biết ai bắt cóc bà ấy không? Bởi vì tôi không quên chính
trong cái hoàn cảnh bức bối đó mà tôi có được cái diễm phúc làm quen với ông.
- À! Ông
Bonacieux nói - họ giữ không nói ra với tôi, còn vợ tôi cũng thề độc với tôi là
không biết. Nhưng còn ông - Bonacieux tiếp tục với một giọng hoàn toàn bộc
tuệch - mấy ngày qua, ông ra sao? Tôi chẳng thấy ông, cũng chẳng thấy các bạn
ông, và tôi nghĩ không phải trên vỉa hè của Paris mà ông đã gom tất cả lớp bụi
mà Planchet đã phủi hôm qua trên đôi ủng của ông đấy chứ?
- Ông
nói đúng đấy ông Bonacieux thân mến của tôi ạ, tôi và các bạn tôi vừa tổ chức
một cuộc du hành nho nhỏ.
- Xa đây
không?
- Ồ
không, lạy Chúa, chỉ độ bốn mươi dặn thôi. Chúng tôi đưa ông Athos đến vùng
suối nóng Foócgiơ, các bạn tôi đều ở lại đó.
- Và ông
trở về, có phải không ông? - Bonacieux nói tiếp, nét mặt lộ ra một tên trùm láu
cá - Một chàng đẹp trai như ông không thể vắng mặt lâu đối với tình nhân của
mình được và chúng ta lại được sốt ruột mong đợi ở Paris, có phải không?
- Thật
tình - chàng trai trẻ vừa cười vừa nói - tôi xin thú nhận với ông, còn hơn thế
ấy, ông Bonacieux thân mến ạ, tôi thấy không thể giấu nổi ông điều gì. Vâng,
tôi đã được mong đợi, và khá sốt ruột, tôi xin đảm bảo với ông như vậy.
Một lớp
mây mỏng lướt trên trán ông Bonacieux, nhưng quá mỏng khiến D' Artagnan không
nhận thấy.
- Và
chúng ta sẽ được thưởng về sự chu đáo của chúng ta chứ? - Lão hàng xén tiếp
tục, hơi biến giọng, một sự biến giọng mà D' Artagnan không nhận thấy, chẳng
hơn gì lớp mây mỏng trước đấy một lát chốc chốc lại làm sầm tối bộ mặt con
người.
D'
Artagnan vừa cười, vừa nói:
- Kìa,
ông cứ tiếp việc giả bộ ngây ngô đi mà.
- Đâu
có, tôi nói vậy là chỉ để biết liệu ông có về muộn không thôi.
- Tại
sao ông lại hỏi thế, ông chủ nhà thân mến của tôi, - D' Artagnan hỏi - Thế ông
định đợi tôi thật à?
- Không,
kể từ ngày tôi bị bắt và xảy ra vụ trộm ở nhà tôi, mỗi lần tôi nghe thấy tiếng
cửa mở nhất là ban đêm là tôi lại sợ run lên. Mẹ kiếp! Biết làm thế nào! Tôi
đâu phải người biết múa gươm!
- Ồ nếu
vậy ông chớ có sợ nếu tôi về vào lúc một giờ, hai giờ hay ba giờ sáng. Mà đến
sáng tôi vẫn không về, thì ông đừng lo gì nữa.
Lần này
thì mặt Bonacieux tái quá khiến D' Artagnan có không muốn cũng không thể không
nhận ra, liền hỏi ông ta có chuyện gì vậy.
- Có
chuyện gì đâu - Bonacieux trả lời - không có chuyện gì đâu. Chỉ có từ khi gặp
vận hạn, bất thình lình tôi lại cứ bị hơi choáng váng như thế, tôi vừa cảm thấy
bị rùng người. Ông là người chỉ bận sao cho được sung sướng thì để tâm đến
chuyện đó làm gì.
- Thế
thì tôi đang bận, vì tôi là người như thế.
- Khoan
đã, đã tới lúc đâu, ông bảo tối nay cơ mà.
- Yên
trí, rồi sẽ tối! Ơn Chúa? Và có thể ông sốt ruột đợi tối chẳng kém gì tôi đâu.
Có thể tối nay bà Bonacieux sẽ về thăm gia đình cũng nên đấy!
- Bà
Bonacieux không được tự do tối nay đâu - Bonacieux đáp với vẻ nghiêm trọng - bà
ấy bị giữ lại ở điện Louvre vì công việc.
- Thôi
kệ ông vậy, ông chủ thân mến của tôi ạ, kệ ông. Khi mà tôi hạnh phúc, tôi những
muốn tất cả mọi người được hạnh phúc theo nhưng hình như không thể được.
Và chàng
trai trẻ vừa đi vừa phá lên cười khoái trí, mà chàng nghĩ chỉ mình chàng mới có
thể hiểu được.
- Cứ
việc vui thích đi! - Bonacieux đáp với một giọng như từ dưới đáy mộ vọng lên.
Nhưng D'
Artagnan đã đi quá xa không nghe được, mà dù có nghe được, trong tâm trí hiện
thời, chắc chắn chàng cũng chẳng để ý.
Chàng đi
về phía dinh quán ông De Treville. Cuộc viếng thăm ông đêm trước quá ngắn ngủi,
và chưa giải thích được điều gì mấy.
Chàng
thấy ông De Treville đang vui. Nhà Vua và Hoàng hậu đã tỏ ra niềm nở với ông
trong vũ hội. Còn Giáo chủ thì đúng là mặt khó đăm đăm.
Một giờ
sáng Giáo chủ đã rút lui, mượn cớ thấy trong người khó ở. Còn Đức Vua và Hoàng
hậu mãi sáu giờ sáng mới trở về điện Louvre.
Ông De
Treville đưa mắt nhìn khắp quanh nhà để xem có ai khác không rồi hạ giọng hỏi
chàng.
- Bây
giờ anh bạn trẻ, ta nói về anh nào, bởi rõ ràng cuộc trở về may mắn của anh đã
phần nào là niềm vui của nhà Vua, sự đắc thắng của Hoàng hậu và sự hổ nhục của
Đức ông Giáo chủ.
- Anh
phải cẩn thận đấy.
D'
Artagnan trả lời:
- Chừng
nào, tôi còn có diễm phúc được hưởng ân sủng của Đức Vua và Hoàng hậu thì tôi
phải sợ cái gì nào?
- Phải
sợ tất, tin ta đi. Giáo chủ không phải là người quên chuyện mắc lừa chừng nào
còn chưa tính sổ với kẻ đánh lừa đâu, và kẻ đi lừa có vẻ là một gã Gátxcông nào
đó ta từng quen biết.
- Ông
tin rằng Giáo chủ cũng phòng xa như ông và biết chính tôi đã có mặt ở London ư?
- Quỷ
thật! Anh đã ở London! Có phải anh đã mang từ London về cái viên kim cương xinh
đẹp đang lấp lánh ở ngón tay anh không? Coi chừng đấy, anh D' Artagnan thân mến
của ta, món quà của kẻ thù không phải là một điều tốt đẹp đâu. Chẳng phải đã có
một câu thơ Latinh về điều đó… khoan đã…
- Vâng
hẳn vậy - D' Artagnan trả lời, mặc dầu chàng chưa bao giờ có thể nhồi nổi vào
đầu cái nguyên tắc đầu tiên của cuốn sách vỡ lòng, và vì do tối dạ, đã làm vị
gia sư của mình thất vọng - Vâng hẳn vậy, chắc phải có một câu.
- Chắc
thì chắc rồi - Ông De Treville có vẻ văn chương nói - Ông De Băngxơrát mới đọc
cho ta hôm nào… Khoan đã… À, đây rồi! "Timeo Danaos et dona ferente(1), có
nghĩa là: "Hãy coi chừng kẻ thù tặng quà cho anh".
- Nhưng
chiếc nhẫn kim cương này đâu phải của kẻ thù, thưa ông - D' Artagnan đáp - là
của Hoàng hậu đấy chứ.
- Của
Hoàng hậu? Ồ, ồ? - Ông De Treville nói - Quả vậy, đích thực là đồ nữ trang của
hoàng gia đáng giá nghìn vàng. Thế Hoàng hậu sai ai chuyển món quà này cho anh?
- Đích
thân Hoàng hậu trao cho tôi.
- Ở đâu?
- Trong
căn phòng liền kề với căn phòng Hoàng hậu thay trang phục.
- Trao
thế nào?
- Đưa
tay cho tôi hôn.
- Anh
được hôn tay Hoàng hậu? - Ông De Treville vừa nhìn D' Artagnan vừa kêu lên.
- Hoàng
hậu đã ban cho tôi đặc ân đó.
- Và
trước mặt những người khác? Bất cẩn! Ba lần bất cẩn! Ba lần bất cẩn!
- Không,
thưa ông, xin ông yên tâm, chắng ai trông thấy đâu.
Và D'
Artagnan kể cho ông Treville mọi việc diễn ra như thế nao.
- Ôi!
Đàn bà! Đàn bà! - Người lính già kêu lên - Ta nhận ra ngay cái trí tưởng tượng
lãng mạn của họ mà. Tất cả những gì cảm thấy bí ẩn là họ mê say ngay. Như thế
là anh đã nhìn thấy cánh tay, chỉ có thế, anh được gặp Hoàng hậu, nhưng không
thấy mặt Hoàng hậu, bà gặp anh nhưng không biết anh là ai.
- Không,
nhưng nhờ chiếc nhẫn kim cương này…- Chàng trai trẻ tiếp tục.
- Nghe
đây - Ông De Treville nói - anh có muốn tôi cho anh một lời khuyên, một lời
khuyên tốt, một lời khuyên chí tình không?
- Rất
hân hạnh, thưa ông. - D' Artagnan nói.
- Được!
Anh hãy đến ngay một chủ hiệu kim hoàn đầu tiên nào cũng được, bán cho hắn
chiếc nhẫn kim cương này đi với giá hắn trả cho anh thế nào cũng bán, dù hắn có
Do Thái đến đâu anh cũng sẽ được tám trăm đồng vàng. Tiền nó không có tên, anh
bạn trẻ ạ, còn chiếc nhẫn này có một cái tên khủng khiếp và có thể phản bội lại
kẻ đeo nó.
- Bán
chiếc nhẫn ư! Chiếc nhẫn do bà chúa của tôi cho!
- Không
bao giờ!- D' Artagnan nói.
- Thì
xoay mặt nó vào trong vậy, kẻ điên rồ tội nghiệp ạ, bởi người ta thừa biết một
gã thiếu sinh quân Gátxcông không thể moi đâu ra thứ trang sức như thế trong bộ
đồ tư trang của mẹ mình.
- Vâng,
ông tin là tôi có điều gì cần e ngại ư? - D' Artagnan hỏi.
- Nghĩa
là, chàng trai trẻ ạ, kẻ nào đang ngủ thiếp đi trên một quả mìn đã bén ngòi,
phải tự coi là an toàn so với anh đấy.
Giọng
nói hoàn toàn đáng tin cậy của ông De Treville bắt đầu làm cho chàng lo lắng:
- Quỷ thật!
Tôi phải làm gì nào?
- Luôn
cảnh giác, và coi đó là trên tất cả. Giáo chủ có trí nhớ rất dai và bàn tay rất
dài. Tin ta đi, thế nào ông ta cũng chơi lại anh một vố.
- Vố gì
nào?
- Ồ, ta
biết được vố gì! Chẳng phải dưới trướng ông ta không có đủ mọi mưu ma chước quỷ
ư? Bét nhất cũng có thể là cho bắt anh?
- Thế
nào? Dám bắt một người dưới trướng của Hoàng thượng?
- Mẹ
kiếp! Dễ thường họ chùn tay với Athos đấy! Dẫu sao đi nữa, chàng trai ạ, hãy
tin một người đã ba mươi năm nay ở triều đình, đừng có tự ru ngủ là mình an
toàn, mà toi đấy. Hoàn toàn ngược lại, ta nói để anh hay, phải thấy đâu đâu
cũng có kẻ thù cả. Nếu người ta kiếm cớ gây sự với anh, hãy tránh đi dù kẻ gây
sự là đứa trẻ mười tuổi. Nếu người ta tấn công anh bất kể ngày hay đêm, hãy vừa
đánh vừa lùi và đừng xấu hổ. Nếu anh đi qua một chiếc cầu, hãy thăm dò ván cầu,
xem có tấm nào bị sụt dưới chân anh không. Nếu anh đi qua một ngôi nhà đang
xây, hãy ngước nhìn lên tránh để một hòn đá nào choang đúng đầu anh. Nếu anh về
nhà muộn, hãy cho người hầu đi theo và người hầu phải mang theo vũ khí, tuy
nhiên anh phải hoàn toàn tin tưởng người hầu. Coi chừng tất cả mọi người, cả
bạn bè, anh em, tình thân, nhất là tình nhân của anh.
D'
Artagnan đỏ mặt, lắp lại một cách máy móc.
- Cả
tình nhân của tôi, nhưng tại sao đối với cô ta hơn người khác?
- Là vì
tình nhân là một trong những biện pháp ưa thích của Giáo chủ, không có gì nhanh
gọn hơn; một mụ đàn bà có thể bán anh lấy mười đồng vàng, bằng chứng là
Đalila(2) đó. Anh biết Kinh thánh chứ?
D'
Artagnan bỗng nghĩ đến cuộc hẹn hò mà bà Bonacieux đã hẹn chàng tối nay. Nhưng
chúng ta phải khen chàng là cái quan niệm lỗi thời về đàn bà nói chung của ông
De Treville không làm chàng mảy may nghi ngờ bà chủ nhà xinh đẹp của mình.
- Nhưng
tiện thể - Ông De Treville nói tiếp - Ba người đồng đội của anh ra sao rồi?
- Tôi
cũng đang định hỏi ông xem ông có biết chút tin tức gì về họ không?
- Không
một tin tức nào.
- Thế ạ!
Còn tôi, tôi đã bỏ họ lại ở dọc đường. Porthos ở Săngtily đang sắp quyết đấu.
Aramis ở Vỡ Rim với một viên đạn vào vai, và Athos ở Amiêng, bị buộc tội có
tiền giả trong người.
- Anh
thấy chưa? - Ông De Treville nói - Và anh làm thế nào thoát được?
- Tôi
phải nói như có phép mầu ấy, thưa ông, bị đâm một mũi gươm vào ngực, tôi đóng
đinh trả lại tay Bá tước De Wardes xuống con đường đi Cale như ghim một con
bướm trên một tấm thảm.
- Thấy
nữa chưa! De Wardes là một người của Giáo chủ, em họ của Rochefort. Này, anh
bạn, ta nảy ra một ý.
- Xin cứ
nói, thưa ông.
- Ở địa
vị anh, ta sẽ làm một điều.
- Điều
gì ạ?
- Trong
khi Đức ông cho người đi lùng anh ở Paris, anh, phải chính anh, sẽ không kèn,
không trống đi Picađy, tìm hiểu tin tức ba người bạn đồng đội của mình. Mẹ
kiếp, họ đáng để anh quan tâm như thế lắm chứ.
- Lời
khuyên quý giá, thưa ông, ngày mai tôi sẽ đi.
- Ngày
mai? Tại sao không tối nay?
- Thưa
tối nay tôi mắc ở Paris một công việc rất cần thiết.
- A,
chàng trai? Chàng trai! Một mối tình nho nhỏ chứ gì? Cẩn thận đấy, ta xin nhắc
lại với anh; chính đàn bà đã làm hại chúng ta, tất cả, chừng nào chúng ta còn
tồn tại, và sẽ còn làm hại chúng ta, tất cả, chừng nào chúng ta còn sống sót.
Tin ta đi. Đi ngay tối nay đi.
- Không
thể được, thưa ông.
- Anh
trót hứa rồi ư?
- Vâng,
thưa ông.
- Ồ, thế
thì lại là chuyện khác. Nhưng hứa với ta đi, nếu tối nay anh không bị giết,
ngày mai anh sẽ đi.
- Tôi
xin hứa.
- Có cần
tiền không?
- Tôi
còn năm mươi đồng vàng. Tôi nghĩ thế là tạm đủ.
- Nhưng
còn các đồng đội của mình?
- Tôi
nghĩ họ chắc cũng không thiếu. Chúng tôi ra khỏi Paris, mỗi người có bảy nhăm
đồng vàng trong túi.
- Ta
không cần gặp anh trước khi anh khởi hành chứ?
- Không,
tôi nghĩ thế, thưa ông, trừ phi có tin gì mới.
- Thôi
được, chúc lên đường may mắn.
- Xin
cảm ơn ông.
Và D'
Artagnan xin phép cáo lui, cảm động hơn bao giờ hết về sự quan tâm đầy tình cha
con với các ngự lâm quân của ông.
Chàng
lần lượt qua nhà Athos, Porthos và Aramis chưa có ai trở về. Bọn người hầu của
họ cũng vắng mặt, và chả có tin tức gì về người này hay người khác.
- Chắc
sẽ biết tin tức của họ qua tình nhân của họ, nhưng chàng lại không biết của
Porthos là ai, cũng chẳng biết của Aramis(3) còn Athos thì không có rồi.
Khi đi
qua trước mặt dinh trại cận vệ, chàng liếc mắt nhìn vào chuồng ngựa: ba trong
số bốn con ngựa đã trở về đấy rồi.
Planchet
đang trải lông ngựa, và đã xong hai con, vô cùng sừng sốt khi thấy D' Artagnan.
- A, ông
đây rồi, tôi đang mong gặp ông!
- Tại
sao vậy, Planchet?
- Ông có
tin cái lão Bonacieux chủ nhà của chúng ta không?
- Tao
hả? Không chút nào.
- Ồ! Thế
là đúng, thưa ông.
- Nhưng
tại sao mày lại hỏi thế?
- Là tại
vì, trong khi ông chuyện trò với lão, tôi quan sát ông mà không nghe ông nói
đâu, mặt lão biến sắc đến hai ba lần.
- Thế à!
- Ông
chủ không nhận thấy vì ông còn bận nghĩ đến bức thư vừa nhận được, nhưng tôi,
trái lại, vì cái cung cách lạ lùng bức thư đã vào tới nhà mình khiến tôi luôn
cảnh giác, tôi không để sót một nét cử động nào trên mặt lão.
- Vì mi
thấy mặt lão thế nào?
- Bộ mặt
tráo trở, thưa ông.
- Đúng
thế.
- Thêm
nữa, ngay khi ông chủ vừa đi và khuất ở góc phố, lão Bonacieux cũng cầm mũ,
đóng cửa và chạy về phía phố đối diện.
- Mi nói
đúng, Planchet ạ, quả thật, ta thấy mọi cái đó hình như đều ám muội lắm. Nhưng
yên tâm, chúng ta sẽ chỉ trả tiền thuê nhà cho lão khi nào chuyện này được giải
thích rành mạch cho chúng ta.
- Ông
chủ đùa rồi, nhưng rồi ông chủ sẽ thấy.
- Mi còn
muốn gì, Planchet, cái gì phải đến sẽ đến.
- Ông
chủ không bỏ cuộc dạo mát tối nay chứ?
- Hoàn
toàn trái lại Planchet ạ, càng giận lão Bonacieux bao nhiêu, ta lại càng sẽ đến
nơi bức thư khiến mi khá lo lắng ấy hẹn ta.
- Ờ, nếu
đó đã là quyết định của ông chủ…
- Thì
không gì lay chuyển được, anh bạn ạ. Cứ như thế nhé, đúng chín giờ mi sẵn sàng
ở dinh trại, tao sẽ đến đón mày.
Planchet
thấy không còn chút hy vọng nào làm cho ông chủ của mình từ bỏ dự định, liền
thở dài và lại tiếp tục trải lông con ngựa thứ ba.
Còn D'
Artagnan về cơ bản vốn là một chàng Gátxcông rất cẩn trọng, đáng lẽ trở về nhà,
chàng đến ăn trưa tại nhà ông linh mục người Gátxcông đã từng thết bữa điểm tâm
cho cả bốn người bạn lúc họ đang trong lúc túng quẫn.
Chú thích:
(1) Trích dẫn từ vở kịch của Virgile, nghĩa là
ta sợ bọn Hy Lạp đến mang theo quà biếu. Điển tích con ngựa thành Tơron.
(2) Cô gái điếm bán Xămxơn cho bọn Philistin
trong Kinh thánh đã chú thích.
(3) Đây có sự nhầm quên của tác giả, Ở phần
trên D' Artagnan đã bắt bọn Aramis và cuối cùng Aramis cũng đã thú nhận là De
Chevreuse là người tình của mình. Nhưng bà De Chevreuse đã trở về nhà Tours -
ND.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
24
Nhà hóng
gió
Lúc chín
giờ D' Artagnan đã có mặt ở dinh trại quân cận vệ.
Chàng
thấy Planchet đã trang bị đầy đủ vũ khí, con ngựa thứ tư đã tới Planchet vũ
trang bằng một súng trường và một súng ngắn.
D'
Artagnan đeo gươm và giắt hai khẩu súng ngắn ở đai lưng rồi cả hai lên ngựa, và
lặng lB xa dần. Trời tối như bưng, không ai trông thấy họ đi ra, Planchet đi
theo sau chủ mình cách xa chừng mười bước.
D'
Artagnan đi xuyên qua phố bờ sông, qua cửa ô Hội nghị ra khỏi thành phố rồi đi
theo con đường thuở đó đẹp hơn bây giờ nhiều dẫn tới Saint-Clu.
- Còn
trong thành phố, Planchet giữ nghiêm khoảng cách đã thiết lập, nhưng từ lúc con
đường bắt đầu trở nên vắng vẻ và tối tăm hơn, hắn im lặng nhích lại gần. Bắt
đầu vào rừng Bulônhơ, hắn đàng hoàng đi song song sát bên chủ. Quả thật những
cây to rung rinh và ánh trăng rọi trong những lùm cây tối sẫm khiến hắn lo sợ.
D' Artagnan thấy ở người hầu có điều gì đó lạ thường, liền hỏi:
- Thế
nào, ngài Planchet, chúng ta có chuyện gì vậy?
- Ông
không thấy rừng cây giống như những nhà thờ ư?
- Sao
lại thế, Planchet?
- Bởi vì
người ta không dám nói to trong chỗ này cũng như trong những chỗ kia.
- Tại
sao mi không dám nói to, Planchet mi sợ à?
- Vâng,
sợ bị nghe thấy, thưa ông!
- Sợ bị
nghe thấy! Nhưng Planchet thân mến, chuyện của chúng ta là chuyện đạo đức, có
gì đáng chê đâu.
Planchet
trở lại với ý nghĩ chủ chốt của mình, đáp:
- À,
thưa ông, sao cái lão Bonacieux nó có đôi lông mày trông đến quỷ quyệt, còn đôi
môi thì múa may phát tởm.
- Vì cái
quỷ gì mà mi cứ nghĩ về lão Bonacieux như thế?
- Thưa
ông, người ta nghĩ đến cái người ta có thể, chứ không nghĩ tới cái người ta
muốn.
- Bởi vì
mi là một thằng nhát, Planchet ạ.
- Thưa
ông, đừng nhầm lẫn sự thận trọng với sự nhút nhát, sự thận trọng là một đức
tính tốt.
- Và mi
có đức tính tốt phải không Planchet?
- Thưa
ông, chẳng phải cái nòng súng hỏa mai lấp lánh ở đâu đó chút nào sao? Chúng ta
cúi thấp đầu xuống chăng?
D'
Artagnan chợt nhớ đến những lời dặn dò của ông De Treville liền lẩm nhẩm:
- Thực
ra, cái quân súc sinh này cuối cùng cũng làm mình phát sợ.
Nghĩ vậy
chàng liền cho ngựa phi nước kiệu.
Planchet
cũng phi nước kiệu theo, đúng như một cái bóng của chàng.
- Chúng
ta cứ đi như thế này suốt đêm ư, thưa ông?
- Không,
Planchet ạ, vì riêng mi, mi đã tới nơi rồi.
- Sao
cơ? Tôi tới nơi rồi? Còn ông chủ?
- Ta còn
đi thêm ít bước nữa.
- Và ông
chủ bỏ lại mình tôi ở đây?
- Mi sợ
ư, Planchet?
- Không,
nhưng tôi chỉ xin ông chủ lưu ý đêm sẽ rất lạnh và khí lạnh gây bệnh thấp khớp,
và một tên hầu mắc bệnh thấp khởp sẽ là một tên đầy tớ đáng buồn, nhất là đối
với một ông chủ hiếu động như ông?
- Ồ, nếu
mi thấy lạnh, Planchet hãy ghé vào một cái quán nào đó ở kia kìa, và sáu giờ
sáng mai đợi ta ở ngoài cửa.
- Thưa ông,
tôi đã uống và ăn một cách thành kính hết cả đồng vàng sáng nay ông cho tôi,
đến nỗi chẳng còn một xu chết tiệt nào trong trường hợp tôi thấy lạnh.
- Một
đồng vàng nữa nữa đây. Mai nhé!
D'
Artagnan xuống ngựa, quàng dây cương vào cánh tay Planchet, và vừa khoác áo
choàng vừa nhanh chóng rời xa.
- Trời
ơi! Tôi rét quá! - Khi bóng chủ mình đã khuất, Planchet la lên, cuống quít mong
được sưởi ấm, rồi vội vã đến gõ cửa một ngôi nhà, được bày biện theo đúng kiểu
cách một tiểu quán ngoại ô.
Trong
khi ấy D' Artagnan rẽ vào một đường tắt tiếp tục đi đến Saint-Clu. Nhưng đáng
lẽ đi theo phố lớn, chàng lại rẽ vào đằng sau một tòa lâu đài, đi vào một phố
hẻm rất rộng và đã ở ngay trước mặt ngôi nhà hóng gió đã ấn định. Ngôi nhà ở
một nơi hoàn toàn vắng vẻ. Một bức tường lớn, mà góc tường là ngôi nhà đó,
chiếm hẳn một bên của phố hẻm, mặt phố bên kia, là một hàng rào ngăn người qua
lại vào một khu vườn nhỏ, cuối vườn một túp lều xơ xác.
Chàng đã
tới chỗ hẹn, và vì nàng không nói trong thư đến nơi thì báo bằng tín hiệu nào,
nên đành chờ.
- Không
nghe thấy một tiếng động nhỏ, tưởng như đang ở cách xa kinh thành đến trăm dặm
rồi. D' Artagnan dựa lưng vào bờ rào sau khi đã đưa mắt nhìn phía sau. Ra khỏi
hàng rào, khu vườn và túp lều ấy, một mà sương mù ảm đạm từng lớp, từng lớp bao
phủ cả một vùng bao la, trong đó Paris trống rỗng, há hốc mồm ra ngủ, cái bao
la trong đó nhấp nháy vài điểm sáng, mấy ngôi sao thê lương của địa ngục này.
Nhưng
đối với D' Artagnan, mọi cảnh tượng đều khoác một dáng vẻ vui tươi, mọi ý nghĩ
đều mang một nụ cười, mọi bóng đêm đều trong suốt. Giờ hẹn sắp điểm rồi.
Quả vậy,
chỉ trong vòng mấy giây, cái mõm rộng của tháp chuông nhà thờ Saint-Clu đã gầm
lên và từ từ buông ra mười tiếng.
- Có một
cái gì đó nghe đượm màu tang tóc trong cái giọng đồng thau đang than thở như
thế giữa đêm trường.
Nhưng
mỗi tiếng buông ra hợp thành cái giờ hẹn đó lại rung lên êm ái trong trái tim
chàng trai trẻ.
Đôi mắt
chàng đăm đàm nhìn lên ngôi nhà nhỏ hóng gió ở góc tường bao mà các cửa sổ đều
đóng kín, trừ chiếc cửa sổ duy nhất trên tầng một.
Qua
chiếc cửa sổ đó, một vùng ánh sáng dịu dàng như trăng bạc lên những vòm lá run
rẩy của vài ba cây thanh quất nhô lên thành từng cụm ở ngoài vườn. Hiển nhiên
là đằng sau chiếc cửa sổ nhỏ, được chiếu sáng rất duyên dáng ấy, bà Bonacieux
xinh đẹp đang đợi chàng.
Như được
ru trong ý nghĩ dịu ngọt ấy, D' Artagnan vẫn đứng đợi tại chỗ nửa giờ đồng hồ
không chút sốt ruột, mắt vẫn đăm đăm nhìn lên cái lầu ngắm cảnh nhỏ bé mê hồn
đó mà chàng cũng thấy được một mảng trần nhà có những gờ chỉ mạ nhũ vàng, chứng
tỏ vẻ hào hoa của phần còn lại của căn phòng.
Gác
chuông nhà thờ Saint-Clu điểm mười giờ rưỡi. Lần này không hiểu vì sao, chàng
bất giác rùng mình. Cũng có thể chàng bắt đầu thấm lạnh, và thật ra chỉ là một
cảm giác hoàn toàn thể chất và chàng lại xem là ấn tượng tinh thần.
Rồi
chàng lại nghĩ hay mình đã đọc sai, chứ giờ hẹn là mười một giờ kia.
Chàng
lại gần cửa sổ, đứng vào chỗ có ánh sáng chiếu ra, rút bức thư của nàng ra đọc
lại thấy mình không hề nhầm, giờ hẹn rõ ràng là mười giờ.
Chàng
trở lại chỗ cũ, bắt đầu hơi lo lắng về sự im ắng và quạnh quẽ này.
Chuông
điểm mười một giờ.
D'
Artagnan bắt đầu lo sợ thực sự đã xảy ra điều gì với bà Bonacieux.
Chàng vỗ
tay ba tiếng, tín hiệu thông thường của các cặp tình nhân, nhưng không có ai
đáp lại, không cả tiếng vọng.
Thế là
chàng giận dỗi nghĩ rằng có thể thiếu phụ đã ngủ quên trong khi đợi chàng.
Chàng
lại gần bức tường và cố treo lên, nhưng bức tường mới trát, trơn quá. D'
Artagnan không bám móng tay được.
Lúc ấy
chàng liền ngắm mấy cái cây mà ánh sáng tiếp tục dát bạc lên các khóm lá và một
trong những cây ấy lại ngả ra đường, chàng nghĩ nếu ở giữa đám cành cây ấy
chàng có thể nhìn xuyên thấu vào trong ngôi nhà hóng gió.
Cái cây
dễ trèo. Hơn nữa, D' Artagnan chưa đầy hai mươi tuổi, do đó chưa quên thói học
trò. Thoát một cái, chàng đã ở giữa đám cành lá, và qua những ô kính cửa sổ
trong suốt, chàng phóng mắt sâu vào tận bên trong ngôi nhà.
Một
chuyện lạ lùng khiến D' Artagnan rợn người từ gan bàn chân lên đến tận chân
tóc. Cái ánh sáng dịu dàng kia, cái cây đèn vô tình kia đang chiếu rõ một cảnh
tượng hỗn độn hãi hùng, một ô kính cửa bị vỡ, cửa phòng bị đạp tung, gần gẫy,
treo trên bản lề, một cái bàn chắc đã được bày một bữa tối sang trọng nằm lăn
ra đất, bình lọ vỡ tan, quả cây bị giẫm nát vung vãi trên sàn nhà, mọi cái đều
chứng tỏ một cuộc vật lộn quyết liệt và tuyệt vọng trong căn phòng này. D'
Artagnan còn tin rằng đã nhận ra giữa cái đống hổ lốn lạ lùng ấy những mảnh
quần áo và mấy vết máu hoen trên khăn trải bàn và rèm cửa nữa.
Chàng
vội vàng trèo xuống đường phố, tim đập khủng khiếp, muốn tìm xem có dấu vết bạo
lực nào khác không.
Ánh sáng
yếu ớt, êm dịu kia vẫn luôn nhấp nháy trong sự tĩnh lặng của ban đêm. Lúc bấy
giờ D' Artagnan mới nhận thấy điều mà thoạt đầu chàng không để ý, bởi chẳng có
gì đáng khiến chàng để ý, là nền đất nện bằng ở đây, chỗ kia lại lỗ chỗ, in dấu
chân người và ngựa. Ngoài ra, vết bánh xe, hình như từ Paris đến cũng đã cầy
đấy nhão lên một vết hằn sâu, dài không quá tầm cao của ngôi nhà hóng gió và
quay hướng về Paris.
Cuối
cùng, trong khi tiếp tục tìm kiếm, D' Artagnan thấy gần bức tường một chiếc
găng tay phụ nữ bị rách. Tuy nhiên chiếc găng đó, ở những phần chưa dính bùn,
trông vẫn mới không chê vào đâu được. Đó là một chiếc găng sức nước hoa thơm
phức mà các tình lang thích rút ra khỏi một bàn tay xinh đẹp.
D'
Artagnan càng tiếp tục dò tìm, mồ hôi càng vã ra, càng giá lạnh, long lanh trên
trán, tim chàng càng thắt lại bởi một nỗi lo âu khủng khiếp, hơi thở càng hổn
hển, tuy nhiên để tự an tủi, chàng tự nhủ, cái nhà hóng gió này có lẽ chả liên
quan gì với bà Bonacieux, vì người đàn bà ấy, hẹn chàng ở trước mặt ngôi nhà,
chứ đâu phải trong ngôi nhà đó, có khi nàng bị giữ lại ở Paris vì công việc,
cũng có thể vì chồng ghen.
Nhưng
mọi lý lẽ ấy đều bị công kích dữ dội, bị hủy diệt, bị lật nhào bởi cái cảm giác
đau đớn trong nội tâm, trong một số trường hợp nó xâm chiếm toàn bộ con người
chúng ta, và gào lên với chúng ta, bởi tất cả những gì trời phú cho chúng ta
thấu hiểu, rằng một tai họa lớn đang lượn lờ trên đầu chúng ta.
Thế là,
D' Artagnan trở nên như điên dại, chàng chạy phứa ra con đường lớn, rồi theo
lối đã đi lúc trước, tiến về phía bến đò hỏi người chở đò.
Người
chở đò nói khoảng bẩy giờ tối có chở qua sông một người đàn bà mặc áo choàng
đen có vẻ hết sức giữ gìn tránh không để ai nhận ra mình, nhưng cũng chính do
quá giữ gìn nên người chở đò lại càng để ý và nhận ra người đàn bà ấy rất đẹp
và đẹp.
Thời đó,
cũng như ngày nay, có hàng đống đàn bà trẻ và đẹp đi đến Saint-Clu và cũng giữ
không để bị lộ diện. Tuy nhiên D' Artagnan không còn hồ nghi gì nữa rằng đó
chính là bà Bonacieux.
Nhân có
ánh đèn trong lều người lái đò, D' Artagnan đọc lại bức thư của bà Bonacieux
yên tâm rằng mình đã không nhầm, nơi hẹn đúng là ở Saint-Clu chứ không ở đâu
khác, và trước ngôi nhà hóng gió của ông De Etxtrê chứ không phải ở phố khác.
Tất cả
đều quy tụ lại để chứng minh cho D' Artagnan thấy những dự cảm của chàng đã
không lừa chàng và một bất hạnh lớn đã xảy đến.
Chàng
vừa đi vừa chạy trên con đường trở về ngôi nhà hóng gió. Chàng thấy hình như
trong lúc chàng vắng mặt, đã có thêm điều gì mới có thể đã xảy ra ở ngôi nhà
hóng gió và những tin tức đang đợi chàng ở đó.
Phố hẻm
vẫn vắng tanh và vẫn thứ ánh sáng mờ mờ êm dịu vô tình tỏa ra ngoài cửa sổ.
D'
Artagnan bỗng nghĩ đến căn lều tuy lụp xụp im lìm và tối tăm kia nhưng biết dâu
lại thấy hết và có thể nói ra hết mọi điều chăng.
Cửa hàng
rào đóng kín, chàng đành nhảy qua và mặc cho con chó bị xích sủa vang, chàng
vẫn cứ đến gần túp lều.
Chàng gõ
cửa, lúc đầu không ai trả lời. Một sự im lặng chết chóc ngự trự trong căn lều
cũng như trong ngôi nhà hóng gió.
- Tuy
nhiên, túp lều là nguồn thông tin cuối cùng rồi, chàng đành cứ gõ.
Rồi hình
như có tiếng động nhẹ bên trong, một thứ tiếng động sợ sệt như thể run rẩy do
sợ bị nghe thấy.
Thế là
D' Artagnan thôi không gố nữa và nãn nỉ, van nài, giọng đầy lo âu và hứa hẹn,
đầy hãi hùng và ve vãn, khiến cho tiếng nói của chàng tự nhiên lại làm yên tâm
được kẻ dễ sợ sệt nhất. Cuối cùng thì một cánh cửa sổ cũ mọt cũng mở ra, đúng
hơn là chỉ hé mở rồi lại đóng lại ngay khi ánh sáng của một chiếc đèn tồi tàn
đang cháy ở góc lều chiếu lên dải đeo gươm, chuôi gươm và chuôi súng ngắn của
D' Artagnan, Trong khi đó D' Artagnan vẫn kịp nhận ra mặt một ông lão, dù cho
cửa đập lại rất nhanh.
- Có
Chúa chứng giám! - Chàng nói - Xin hãy nghe cháu. Cháu đợi một người mà không
thấy tới, cháu đang lo đến chết đây. Đã có chuyện gì không may xảy ra ở quanh
đây ư? Cụ nói đi!
Chiếc
cửa sổ lại từ từ mở ra, và vẫn bộ mặt ấy hiện ra, chỉ có điều nó còn nhợt nhạt
hơn cả lần trước.
D'
Artagnan hồn nhiên kể lại chuyện của mình, thay đổi tên người đôi chút. Chàng
nói có một cuộc hẹn hò với một thiếu phụ trước ngôi nhà hóng gió như thế nào,
và không thấy nàng đến ra sao, chàng trèo lên cây thanh quất và qua ánh đèn
nhợt nhạt đã thấy sự rối loạn trong căn phòng thế nào.
Ông lão
chám chú lắng nghe, chốc chốc lại tỏ ý đúng như vậy Rồi khi D' Artagnan đã nói
xong, ông lão lắc đầu tỏ ý ái ngại.
- Cụ
muốn nói sao? - D' Artagnan kêu lên - Trời ơi, cụ nói rõ ra cho cháu nghe nào.
- Ồ, ông
ơi! - Cụ già nói - Đừng hỏi gì tôi cả, bởi vì nếu tôi nói với ông những gì tôi
đã thấy chắc chắn sẽ xảy ra những điều không hay cho tôi.
- Vậy
chắc cụ đã trông thấy chuyện gì đó rồi? - D' Artagnan vừa nói tiếp vừa ném cho
ông cụ một đồng vàng - Trong trường hợp ấy, có Chúa nhìn thấy gì, và cháu xin
lấy danh dự của một nhà quý tộc ra thề không một lời nào của cụ hé ra khỏi
miệng cháu.
Ông cụ
đọc thấy trên mặt D' Artagnan biết bao vẻ thực thà và đau đớn, liền ra hiệu cho
chàng hãy chú ý nghe rồi nói khẽ:
"Lúc
đó khoảng gần chín giờ, tôi nghe thấy có tiếng động gì đó ở ngoài phố và tôi
định ra xem xảy ra chuyện gì thì ra gần đến cửa, tôi thấy người ta đang tìm
cách vào nhà tôi. Tôi vốn nghèo chả sợ ai trộm cắp đang định mở cổng thì thấy
ba người cách đó mấy bước. Trong bóng tối có một cỗ xe thắng ngựa và mấy con
ngựa dắt. Mấy con ngựa dắt hiển nhiên là của ba người đàn ông ăn mặc theo lối
kỵ sĩ rồi. Tôi kêu lên:
- A! Các
quý ông? Các quý ông muốn hỏi gì?
- Ngươi
hẳn có một cái thang chứ? - Người có vẻ đứng đầu nhóm hộ tống hỏi tôi.
- Vâng,
thưa ông, có một chiếc tôi vẫn trèo để hái quả.
- Đưa
đây cho chúng ta, rồi lui vào trong nhà, đây là một đồng vàng vì chúng ta đã
quấy quả ngươi. Và nhớ nếu ngươi chỉ nói ra một câu thôi những gì ngươi sắp
trông thấy và nghe thấy bởi ngươi sẽ nhìn và sẽ chú ý nghe, ta tin chắc là như
thế, dù chúng ta đã hăm dọa ngươi, ngươi sẽ toi mạng.
Nói rồi,
hắn ta vứt cho tôi đồng tiền, tôi nhặt lấy và hắn mang thang đi!
Quả
nhiên, sau khi đã đóng cổng hàng rào, tôi làm như trở vào nhà nhưng tôi lại ra
ngay bằng lối cửa sau, luồn trong bóng tối tới tận lùm cây mộc hương, ở giữa
lùm cây ấy, tôi có thể nhìn thấy hết mà không ai biết.
Ba người
đó cho cỗ xe tiến về phía trước không một tiếng động, và lôi ra khỏi xe một
người đàn ông lùn tịt, to ngang, tóc hoa râm, ăn mặc xuềnh xoàng, quần áo màu
tối sẫm, người này thận trọng trèo lên thang, nham hiểm nhìn vào trong căn
phòng rồi lại lén lút tụt xuống và nói nhỏ:
- Đúng ả
ta!
Người đã
nói chuyện với tôi lập tức đến gần cửa ngôi nhà hóng gió, dùng chiếc chìa khóa
mang theo mở ra, đóng lại rồi biến mất. Cùng lúc đó hai người kia trèo lên
thang. Lão già thấp bé đứng ở cửa xe, người đánh xe vẫn kìm mấy con ngựa thắng
vào xe, và một tên hầu giữ mấy con ngựa cưỡi.
Bất
thình lình những tiếng kêu thét vang lên trong ngôi nhà hóng gió, một người đàn
bà chạy tới định mở cửa sổ nhào xuống.
Nhưng
vừa thấy hai người đàn ông, bà ta nhảy lùi lại đằng sau, hai người đàn ông kia
lao qua cửa sổ đuổi theo bà ta trong căn phòng.
Thế rồi
chẳng nhìn thấy gì nữa. Nhưng tôi nghe thấy tiếng đồ đạc bị đập gãy. Người đàn
bà kêu cứu. Nhưng những tiếng kêu bị dập tắt ngay, ba người đàn ông lại gần cửa
sổ, khênh bà ta trên cánh tay, hai người xuống thang và chuyển bà ta vào trong
xe, và lão già sau đó cũng chui vào. Tên còn lại trong ngôi nhà hóng gió đóng
cửa sổ lại, một lát sau theo lối cửa ra khỏi nhà, kiểm tra xem người đàn bà đã
chắc chắn ở trong xe chưa.
Hai tên
đồng bọn đã lên ngựa đợi hắn, đến lượt hắn cũng nhảy lên yên, tên hầu lên ngồi
cạnh người đánh xe, cỗ xe được ba kỵ sĩ hộ tống xa dần theo bước ngựa phi nước
đại, và thế là hết. Từ lúc đó, tôi không còn trông thấy, nghe thấy gì
hết".
D'
Artagnan điếng người vì cái tin khủng khiếp đó, đứng lặng câm đi, trong khi đó
tất cả những con quỷ giận dữ và ghen tuông gào thét trong lòng chàng. Nỗi thất
vọng lặng câm đó hẳn đã tác dụng đến ông lão nhiều hơn nước tiếng kêu rên và
nước mắt, khiến ông bảo chàng:
- Nhưng
ông quý tộc này, thôi đi, đừng buồn phiền, chúng không giết mất người đàn bà
của ông, đấy mới là điều cốt yếu.
D'
Artagnan liền hỏi:
- Cụ có
biết tí chút nào cái kẻ đã điều khiển cái cuộc viễn chinh âm ty địa ngục này
không?
- Tôi
chả biết gì về hắn.
- Nhưng
một khi hắn đã nói với cụ thì cụ cũng nhìn thấy hắn chứ?
- À, ông
muốn hỏi lão về đặc điểm của hắn chứ gì?
- Vâng.
- Một kẻ
rắn sắt lại, da ngăm nâu, ria mép đen, mắt đen, dáng vẻ một nhà quý tộc.
- Đúng
nó rồi? - D' Artagnan kêu lên - Vẫn lại nó! Luôn luôn nó. Hình như nó là con
quỷ ám của tôi! Còn tên kia?
- Tên nào?
- Tên
lùn tịt ấy.
- Ồ, tôi
đảm bảo hắn không thuộc loại quyền quý. Vả lại, hắn không đeo gươm, những kẻ
khác đối xử với hắn có vẻ khinh thường lắm.
- Chắc
một tên hầu nào đó - D' Artagnan lẩm nhẩm - Ôi người phụ nữ tội nghiệp! Tội
nghiệp cho nàng. Chúng nó đã làm gì nàng?
- Ông đã
hứa giữ kín cho tôi đấy nhé - Ông già nói.
- Và
cháu xin hứa lại với cụ lần nữa. Cụ yên tâm. Cháu là một nhà quý tộc. Một nhà
quý tộc chỉ có một lời hứa và cháu đã hứa với cụ rồi.
D'
Artagnan, lòng sầu não, trở lại con đường ra bến đò, lúc thì chàng không thể
tin nổi đấy là bà Bonacieux và hy vọng hôm sau sẽ gặp lại nàng ở điện Louvre,
lúc chàng lại e ngại nàng có chuyện dan díu với một người nào khác và tên ghen
tuông ấy đã bắt quả tang và đem nàng đi(1), chàng phân vân, chàng rầu rĩ, chàng
tuyệt vọng.
- Ôi,
giá ta có các bạn ta ở đấy! chàng kêu lên - Ít nhất ta cũng sẽ có hy vọng tìm
lại được nàng nhưng ai biết được bây giờ chính họ ra sao?
Đã gần
nửa đêm. Phải tìm gặp lại Planchet thôi. D' Artagnan lần lượt gõ cửa tất cả các
quán rượu mà chàng thấy còn ánh đèn le lói ở bên trong nhưng chẳng quán nào
thấy Planchet cả.
Đến quán
thứ sáu, chàng bắt đầu nghĩ tìm kiếm thế này chẳng qua cũng chỉ cầu may thôi.
D' Artagnan chỉ hẹn với người hầu đến sáu giờ sáng mai, thì dù lúc này nó ở đâu
đi nữa vẫn là quyền của nó.
Hơn nữa,
chàng chợt nảy ra ý nghĩ, cứ nán lại quanh quẩn nơi sự cố xảy ra, có khi lại
thu thêm được một điều gì đó làm sáng tỏ thêm cái vụ bí ẩn này. Thế là chàng
dừng lại ở quán thứ sáu, gọi một chai vang thượng hạng, dựa tay trong góc tối
nhất và quyết định ngồi đợi như thế đến sáng hôm sau, nhưng lần này nữa chàng
lại hy vọng hão huyền và cho dù có hết sức lắng tai, chàng cũng chỉ nghe thấy
giữa những tiếng nguyền rủa là những lời nhạo báng, chửi bới, lời qua tiếng lại
giữa đám thợ chuyển, người hầu và phu xe hợp thành cái xã hội đáng kính mà
chàng đang tham gia này, chứ chẳng có gì có thể giúp chàng lần ra dấu vết người
đàn bà tội nghiệp bị bắt cóc.
Sau khi
đã nốc hết chai vang do chẳng có việc gì làm và để khỏi dấy lên những nghi ngờ,
chàng đành miễn cưỡng tìm trong góc mình ngồi, một tư thế thuận lợi nhất để ngủ
thiếp đi đã, muốn ra sao thì ra.
D'
Artagnan mới hai mươi tuổi, và ở cái tuổi ấy, giấc ngủ có những quyền vĩnh cửu
để đòi hỏi một cách khẩn thiết cả đối với những con tim tuyệt vọng nhất.
Khoảng
sáu giờ sáng, D' Artagnan thức dậy với một nỗi khó chịu thường thấy lúc sáng
sớm sau một đêm tồi tệ. Chàng rửa ráy qua loa, kiểm tra xem người ta có lợi
dụng chàng ngủ lấy cắp mất gì không, và thấy chiếc nhẫn kim cương vẫn trên ngón
tay, ví tiền vẫn nguyên trong túi, súng ngắn vẫn ở đai lưng, liền đứng lên trả
tiền chai rượu rồi đi ra để xem sáng nay việc tìm kiếm tên hầu của mình có may
mắn hơn đêm qua không. Quả nhiên, thứ đầu tiên chàng trông thấy trong màu sương
ẩm ướt và nhờ xám chính là tên Planchet thật thà, tay dắt hai con ngựa, đang
đợi chàng ở ngoài cửa một quán rượu nhỏ tồi tàn mà giá D' Artagnan có đi qua
trước cửa cũng không ngờ nó đang tồn tại.
Chú thích:
(1) Ở đây, tác giả lại tự mâu thuẫn với mình,
vì khi nghe cụ già kể, D' Artagnan đã kêu lên "lại đúng vẫn nó" tức
kẻ ở Mãng, tức là Bá tước Rochefort, kẻ đã bắt cóc bà Bonacieux lần trước.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
25
Porthos.
Đáng lẽ
về thẳng nhà D' Artagnan lại xuống ngựa trước cửa nhà ông De Treville, leo vội
lên cầu thang, lần này, chàng quyết định kể cho ông nghe tất cả những gì vừa
diễn ra. Chắc chắn, ông sẽ cho chàng những lời khuyên tốt trong toàn bộ vụ này.
Rồi, vì
ông De Treville hầu như gặp Hoàng hậu hàng ngày, biết đâu ông lại chẳng thể moi
được ở Hoàng hậu tin tức nào đấy về người đàn bà tội nghiệp mà nữ chúa của nàng
hẳn phải đền đáp lòng tận tụy của nàng với mình.
Ông De
Treville lắng nghe câu chuyện chàng trai kể với mức độ nghiêm trọng chứng tỏ
ông nhìn thấy một cái gì khác với chuyện dan díu yêu đương, trong toàn bộ cuộc
phiêu lưu này.
Rồi khi,
D' Artagnan đã kể xong, ông nói:
- Hừm,
tất cả chuyện này, cách xa một dặm cũng đã ngửi thấy mùi của Giáo chủ.
- Nhưng
phải làm gì? - D' Artagnan hỏi.
- Không
làm gì hết, tuyệt đối không, lúc này, chỉ có rời khỏi Paris như ta đã bảo anh
đó, càng sớm càng tốt. Ta sẽ gặp Hoàng hậu, ta sẽ kể lại mọi tình tiết về sự
biến mất của người phụ nữ tội nghiêp, chắc bà còn chưa biết gì, những tình tiết
ấy sẽ dẫn dắt bà phải làm gì về phía bà, và khi anh trở về, có thể ta sẽ có một
tin tốt lành nào đó để nói với anh. Cứ yên tâm ở ta.
D'
Artagnan biết rằng, dù là dân Gátxcông, ông De Treville không có thói quen hứa
hẹn và khi tình cờ ông đã hứa, thì ông còn giữ lời hứa hơn đã ngỏ. Chàng liền
chào ông, đầy lòng biết ơn cả trong quá khứ lẫn với tương lai, và ông đại úy
đáng kính về phần mình cũng cảm thấy một mối thiện cảm mãnh liệt đối với chàng
trai đến là can trường và kiên định, và trìu mến bắt tay chúc chàng lên đường
may mắn.
D'
Artagnan quyết định thực hiện ngay lúc này những lời khuyên của ông De
Treville, rẽ về đường Phu đào huyệt, lo việc gói ghém quần áo. Về tới gần nhà,
chàng nhận ra lão Bonacieux trong quần áo buổi sáng, đang đứng ở ngưỡng cửa.
Tất cả những gì mà gã Planchet cẩn tắc đã nói với chàng đêm trước về tính tình
nham hiểm của lão chủ nhà lúc này lại hiện ra trong đầu. D' Artagnan đang nhìn
lão chăm chú hơn bao giờ hết. Thật quả, ngoài cái màu nhợt nhạt vàng nhờ bệnh
hoạn chỉ rõ mật thấm tràn trong máu, mà cũng có thể chỉ là ngẫu nhiên, D'
Artagnan còn nhận ra một cái gì đó tráo trở nham hiển nơi những nếp nhăn trên
mặt lão. Một tên bịp bợm không cười giống như một người thật thà, một kẻ đạo
đức giả không khóc bằng những giọt nước mắt của người trung thực. Mọi giả tạo
đều là một cái mặt nạ, và cho dù cái mặt nạ có làm khéo đến đâu, chỉ cần hơi
chú ý, người ta vẫn phân biệt được với mặt thật.
Với D'
Artagnan, hình như lão có đeo một cái mặt nạ thật và lại là cái mặt nạ khó coi
nhất. Do đó, không thoát ra khỏi sự ghê tởm đối với con người đó, chàng đang
định đi qua trước mặt mà không nói gì, thì giống như đêm trước, lão Bonacieux
gọi chàng:
- Ê này,
chàng trai trẻ - lão nói với chàng - Hình như đêm qua chúng ta ngủ mòng mắt?
Bẩy giờ sáng rồi, khỉ thật! Tôi thấy hình như ông hơi đảo lộn những thói quen
cũ, ông trở về nhà vào lúc người khác ra đi.
- Ngài
Bonacieux ạ, người ta sẽ không thể trách ngài như vậy - chàng trai nói - vì
ngài là mẫu mực cho những con người nền nếp mà. Đúng là khi người ta có một cô
vợ trẻ đẹp, người ta cần gì phải tìm hạnh phúc ở đâu. Chính hạnh phúc tự khắc
nó tìm đến mình có phải không ngài Bonacieux?
Bonacieux
tái người đi như một xác chết, nhăn nhó cười:
- Chà,
chà! Ông là một tay vui tính đấy. Nhưng đêm vừa rồi ông chạy nhông đi đâu thế,
hở chú mình? Hình như đi ngang về tắt là không hay đâu đấy.
D'
Artagnan cúi xuống nhìn đôi ủng đầy bùn của mình, nhưng đồng thời cũng nhìn
luôn giầy tất lão hàng xén. Có thể nói chúng cùng chung một giuộc, của chàng và
của lão đều vấy bẩn cùng một thứ bùn.
Thế là
đột nhiên một ý nghĩ đi xuyên qua đầu chàng. Cái lão tóc hoa râm lùn tịt, to
bè, một loại người hầu, mặc sẫm màu, bị bọn đeo gươm đi hộ tống đối xử miệt thị
đích thực là Bonacieux chứ còn ai nữa. Tên chồng đã chủ mưu việc bắt cóc vợ
mình.
D'
Artagnan tự nhiên thèm muốn khủng khiếp nhảy chồm lên cổ họng lão hàng xén bóp
hắn chết ngay, nhưng, như đã nói, chàng là một chàng trai rất thận trọng nên
kìm giữ được. Tuy nhiên sự đảo lộn diễn ra trên mặt chàng vẫn cứ lồ lộ khiến
Bonacieux hoảng và định thử lùi lại, nhưng lão lại ở ngay trước cửa mà cánh cửa
lại đóng, khiến lão buộc phải đứng nguyên tại chỗ.
- Ra thế
đấy. Nhưng con người tử tế ạ, ông lại đùa rồi - D' Artagnan nói - Tôi thấy hình
như nếu đôi ủng của tôi cần phải lau chùi thì giầy, tất của ông cũng đòi bàn
chải giúp đấy. Về phần mình, chắc ngài cũng lang thang phải không ngài
Bonacieux? Chà, Mẹ kiếp! Như thế thì không thể nào tha thứ cho một người ở vào
lứa tuổi ông, thêm nữa lại có một người vợ trẻ đẹp như vợ ông.
- Ôi,
lạy Chúa, không phải thế - Bonacieux nói - mà hôm qua tôi đã ở Thánh Măngđê để
nắm được tin tức về một con ở, không có nó tuyệt đối không được, và vì đường sá
quá tồi, nên tôi đã tha cả đám bùn này về mà chưa có thì giờ làm sạch.
Địa điểm
mà Bonacieux chỉ ra là lão đã đi đến đấy, lại là bằng chứng mới làm cho những
nghi ngờ của D' Artagnan thêm vững vàng. Bonacieux nói đến Thánh Măngđê, bởi vì
Thánh Măngđê ngược lại hoàn toàn phía Saint-Clu.
Khả năng
xảy ra như thế làm chàng vơi dịu đi một phần. Nếu Bonacieux biết vợ mình hiện
đang ở đâu vẫn có thể dùng những biện pháp cực đoan cậy răng lão hàng xén để
tìm ra bí mật. Chỉ còn việc biến khả năng đó thành tất yếu.
- Xin
lỗi, ông Bonacieux thân mến, nếu tôi xử sự với ông hơi khiếm nhã - D' Artagnan
nói - nhưng không gì khát bằng đêm không được ngủ, tôi đang khát phát điên đây,
vậy cho phép tôi vào uống cốc nước trong nhà ông nhé, ông cũng rõ, giữa hàng xóm
với nhau, việc đó cũng tự nhiên thôi.
Và chẳng
đợi chủ nhà cho phép, D' Artagnan cứ vào và liếc mắt nhanh nhìn cái giường, cái
giường vẫn phẳng phiu.
Bonacieux
không nằm ngủ, vậy là lão chỉ vừa mới về nhà được một hai giờ thôi. Lão đã bám
theo vợ lão đến tận nơi người ta dẫn vợ lão đến, hoặc ít nhất cũng đến trạm đầu
tiên.
D'
Artagnan vừa uống cạn cốc nước vừa nói:
- Cám ơn
ngài Bonacieux nhé. Tôi chỉ cần ở ông có thế thôi. Bây giờ tôi về nhà tôi đây.
Tôi sẽ bảo Planchet đánh ủng cho tôi, khi nào nó làm xong, nếu ông muốn, tôi sẽ
sai nó sang đánh giầy cho ông.
Và chàng
rời nhà tay hàng xén còn đang hết sức ngỡ ngàng về sự chia tay kỳ lạ đó và tự
hỏi có phải đã đâm đầu vào bẫy của chính mình không.
Lên đến
trên thang gác, chàng thấy Planchet đang hốt hoảng. Thoạt trông thấy chủ mình,
gã đã kêu lên:
- Ôi,
ông chủ, lại có chuyện rồi, mà tôi thấy ông về muộn quá đấy?
- Có
chuyện gì vậy - D' Artagnan hỏi.
- Ồ, tôi
cho ông chủ đoán một trăm, không, cho hẳn một nghìn lần đấy xem tôi đã thay ông
khi vắng mặt tiếp ai đến thăm nào?
- Khi
nào?
Nửa giờ
trước đây, khi ông còn ở nhà ông De Treville ấy.
- Vậy là
ai đến, thôi nói đi nào.
- Ông De
Cavoa.
- Ông De
Cavoa ư?
- Đích
thân ông ấy.
- Ông
đại úy cận vệ của Đức ông?
- Chính
ông ấy.
- Đến
bắt ta?
- Tôi
nghĩ vậy, thưa ông, mặc dầu vẻ mềm mỏng của ông ta.
- Mi bảo
lão ta mềm mỏng?
- Nghĩa
là như mật ong luôn, thưa ông.
- Đúng
thế chứ?
- Ông ta
nói mình đến là do Đức Giáo chủ phái đến, có nhã ý mời ông theo ông ta đến
Hoàng cung.
- Thế mi
trả lời thế nào?
- Là
việc ấy không thể được, vì ông có ở nhà đâu, ông ta có thể thấy đấy.
- Thế
lão ta bảo sao?
- Rằng,
nội nhật hôm nay, ông đừng quên đến nhà ông ấy, rồi còn ghé tai nói thêm:
"Bảo với chủ anh là Đức ông hoàn toàn biệt đãi chủ anh, tương lai tốt đẹp
của chủ anh có lẽ phụ thuộc vào cuộc tiếp kiến này".
- Cái
bẫy của Giáo chủ hơi vụng về. - Chàng mỉm cười nói.
- Thì
tôi cũng thấy đó là cái bẫy chứ, và tôi trả lời khi ông trở về chắc ông sẽ tiếc
lắm. "Thế ông ấy đi đâu?" ông De Cavoa hỏi tôi. Tôi trả lời: "Đi
Troa vùng Sămpanhơ", "Ông ấy đi bao giờ? " "Tối hôm
qua".
-
Planchet, anh bạn của ta - D' Artagnan ngắt lời - mi thực sự là của quý của ta
đấy.
- Ông
biết không, tôi nghĩ nếu ông muốn gặp ông De Cavoa ông cứ việc bảo rằng ông
chẳng đi đâu cả, rằng tôi nói dối đấy thôi, vẫn còn kịp chán, vì tôi không phải
là nhà quý tộc, tôi có thể nói dối mà.
- Yên
tâm đi, Planchet, mi sẽ giữ được danh tiếng một con người chính trực. Mười lăm
phút nữa chúng ta sẽ đi.
- Tôi
cũng đang định khuyên ông chủ như vậy. Nhưng ta đi đâu tôi không quá tò mò đấy
chứ?
- Mẹ
kiếp! Cứ đi ngược lại phía mi nói ta đã đi ấy. Vả lại, chắc mi không kém sốt
ruột biết tin về Mousqueton, Grimaud và Bazin như ta muốn biết xem Athos,
Porthos và Aramis ra sao chứ?
- Muốn
quá chứ - Planchet nói. - Ông muốn lúc nào là tôi đi ngay. Không khí ở tỉnh nhỏ
tôi tin là tốt hơn cho chúng ta ở Paris. Vậy nên…
- Vậy
thì, gói ghém áo quần đi, Planchet và ta đi. Ta sẽ đi trước, hai tay đút túi,
để đừng ai nghi ngờ. Mi sẽ đuổi kịp ta ở dinh trại cận vệ. À, Planchet này, ta
tin mi nói đúng về lão chủ nhà đấy, chắc hẳn lão là một tên vô lại kinh tởm
rồi.
- Ồ, xin
ông chủ cứ tin tôi, khi tôi nói với ông điều gì, tôi là thầy tướng đấy.
D'
Artagnan xuống trước như đã thỏa thuận, và để khỏi phải băn khoăn điều gì,
chàng rẽ tới nhà ba bạn mình lần cuối nhưng cũng chẳng nhận được tin gì. Chỉ có
mỗi một bức thư thơm nức và chữ viết rất nhỏ và bay bướm gửi cho Aramis. D'
Artagnan nhận chuyển thư bộ. Mười phút sau, Planchet đuổi kịp chàng ở chuồng
ngựa dinh trại cận vệ. Để khỏi mất thì giờ, D' Artagnan tự đóng lấy yên cương.
- Tốt
lắm - chàng bảo Planchet, khi gã đã buộc gói quần áo vào túi hành trang - Bây
giờ đóng yên cương cho ba con ngựa rồi ta đi.
- Ông
tin mỗi người hai ngựa, ta sẽ đi nhanh hơn ư? - Planchet hỏi, sẽ tinh quái.
- Không,
thưa ông đùa tồi - D' Artagnan trả lời - nhưng với bốn con ngựa, chúng ta có
thể đem ba ông bạn của ta về, nếu ta tìm thấy họ còn sống.
- Nếu
như thế sẽ là quá may đấy - Planchet trả lời - nhưng rất cuộc không nên thất
vọng ở sự nhân từ của Thượng đế.
- Amen!
- D' Artagnan nói và phốc lên ngựa.
Và cả
hai ra khỏi dinh trại cận vệ, đến đầu phố, tách nhau ra, người đi trước, qua
trạm Vi-lét, và người kia qua trạm Mông Mac ra khỏi Paris rồi ra ngoài gặp lại
nhau ở Saint-Denis, một phương sách chiến lược được thực hiện cùng độ chính
xác, đáng được khen thưởng vì kết quả tốt đẹp. D' Artagnan và Planchet cùng vào
Piefit một lúc.
Phải nói
Planchet ban ngày can đảm hơn ban đêm. Tuy nhiên tính thận trọng tự nhiên chẳng
rời gã một phút. Gã không quên bất kỳ sự cố nào trong cuộc du hành lần trước,
và luôn coi tất cả những ai gã chạm trán ở trên đường là kẻ thù. Việc đó dẫn
đến gã không rời chiếc mũ trong tay khiến cho D' Artagnan sợ do sự lễ phép thái
quá của người hầu, người ta coi mình là người tầm thường, nên đã quở trách Planchet
thậm tệ.
Tuy
nhiên, quả thật hoặc những người qua đường cảm động vì sự nhã nhặn của
Planchet, hoặc lần này chẳng có ai rình rập trên đường, hai người tới Săngtily
không gặp bất trắc gì và xuống ngựa ở lữ quán Saint-Martin lớn, vẫn cái lữ quán
họ đã dừng chân chuyến đi trước.
Chủ quán
thấy một chàng trai, theo sau có một tên hầu tay dắt hai ngựa, liền trịnh trọng
tiến ra ngưỡng cửa. Mà vì đã đi được mười một dặm, nên D' Artagnan cho là nên
nghỉ, dù Porthos có còn trong quán hay không còn đấy nữa. Rồi có thể sẽ là
thiếu thận trọng nếu chưa chi đã hỏi xem chàng ngự lâm kia ra sao, nghĩ vậy, D'
Artagnan xuống ngựa, giao ngựa cho người hầu rồi vào một phòng dành cho những
ai muốn ngồi riêng, gọi một chai vang loại thượng hạng và một bữa điểm tâm càng
ngon càng tốt, làm tăng thêm thiện cảm của chủ quán vốn là đã có từ lúc mới gặp
lữ khách.
Vì thế,
D' Artagnan được phục vụ nhanh chóng lạ kỳ.
Binh
đoàn cận vệ tuyển mộ trong số đệ nhất quý tộc của vương quốc, và D' Artagnan
với một người hầu theo sau, lại đi du hành với bốn người ngựa đẹp, mặc dầu bộ
đồng phục giản dị vẫn không khỏi khiến người ta trọng nể. Chủ quán muốn đích
thân phục vụ. Thấy thế D' Artagnan bảo mang ra hai chiếc cốc và gợi chuyện.
- Thật
tình, ông chủ thân mến ạ - D' Artagnan rót đầy hai cốc và nói - tôi đã gọi loại
vang hảo hạng của ông, và nếu ông lừa tôi, ông sẽ bị trừng phạt ở chỗ ông mắc
tội, vì tôi ghét uống một mình, ông sẽ uống cùng tôi. Ông hãy nâng cốc và ta
cùng uống. Ta uống chúc cái gì nhỉ, ở cái gì không phật lòng ai được nhỉ? À ta
uống cho sự thịnh vượng của lữ quán ông.
- Quý
ông làm cho tôi vinh dự quá - chủ quán nói - tôi xin thành thực cảm ơn lời chúc
của ông.
- Nhưng
xin ông đừng nhầm đấy - D' Artagnan nói - trong lời chúc của tôi, nó nhuốm màu
ích kỷ nhiều hơn là ông nghĩ đấy.
- Có
những quán làm ăn thịnh vượng, khách hàng được tiếp đón chu đáo, trong những lữ
quán đang sa sút, tất cả đều rối tinh lên, và khách trọ thành nạn nhân của sự
lúng túng của người chủ. Mà tôi lại đi du hành nhiều, nhất là trên con đường
này, tôi muốn thấy tất cả các ông chủ quán đều làm ăn phát đạt.
- Quả
thật - chủ quán nói - hình như đây không phải lần đầu tiên tôi có vinh dự được
gặp ngài.
- Ồ, tôi
qua Săngtily có lẽ tới chục lần rồi ấy chứ và trong số chục lần ấy, ít ra tôi
cũng dừng lại ở quán ông ba bốn lần. Ông nhớ chứ, tôi vừa ở quán này cách đây
mười hai ngày gì đó. Tôi dẫn đường cho mấy người bạn tôi, mấy ông ngự lâm quân,
rồi một ông cậy mình là ngự lâm quân cãi lộn với một người lạ, người này chẳng
biết kiếm cớ gì gây sự với ông ấy.
- À,
thôi đúng rồi! - Chủ quán nói - Tôi nhớ hết chuyện đó.
- Có
phải là ông Porthos quý ngài muốn nói với tôi không?
- Đúng,
đấy là tên người bạn đồng hành của tôi. Lạy Chúa, ông chủ thân mến, nói cho tôi
biết nào, bạn tôi có gặp chuyện không may gì không?
- Nhưng
quý ngài chắc đã rõ ông ấy không thể tiếp tục lên đường.
- Quả
vậy, ông ấy có hứa đuổi kịp chúng tôi, nhưng chúng tôi không gặp lại.
- Ông ấy
đã cho chúng tôi cái vinh dự là ở lại đây.
- Sao?
Ông ấy đã cho ông vinh dự ở lại đây?
- Vâng,
thưa ông, trong lữ quán này. Chúng tôi còn rất lo ngại nữa.
- Về
chuyện gì?
- Về các
khoản chi dùng của ông ấy.
- Nhưng
ông ấy dùng gì thì ông ấy sẽ trả chứ.
- Ôi,
thưa ông, ông đúng là bôi cao xoa vào máu tôi rồi! Chúng tôi đã ứng trước những
khoản lớn, và sáng nay nữa, nhà phẫu thuật tuyên bố với chúng tôi, nếu ông
Porthos không trả tiền ông ấy, chính tôi phải chịu phạt, bởi vì chính tôi cho
người đi tìm ông ấy.
- Nhưng
Porthos bị thương ư?
- Thưa
ông, tôi không thể nói ra với ông.
- Sao, ông
không thể nói với tôi? Ông chắc phải biết rõ hơn ai hết chứ.
- Vâng,
nhưng trong tình trạng hiện thời của chúng tôi, chúng tôi không nói tất cả
những gì mình biết được thưa ông, nhất là khi người ta đã báo trước tai của
chúng tôi đảm bảo cho lưỡi của chúng tôi.
- Vậy
tôi có thể gặp Porthos không?
- Được
chứ, thưa ông. Ông hãy theo cầu thang lên tầng một gõ cửa phòng số 1. Có điều
ông phải báo trước là chính ông.
- Sao,
tôi báo trước là chính tôi?
- Vâng,
bởi ông có thể gặp chuyện rủi.
- Chuyện
rủi nào xảy đến với tôi?
- Ông
Porthos có thể tưởng lầm ông là người nhà này, và trong lúc tức giận, có thể
đâm cho ông một mũi gươm xuyên qua người hoặc bắn vỡ sọ ông.
- Thế
ông đã làm gì ông ấy?
- Chúng
tôi chỉ đòi tiền ông ấy thôi.
- Ôi đồ quỷ!
Tôi hiểu chuyện rồi. Đòi tiền trong khi không còn nữa thì Porthos luôn bậy bả
rồi. Nhưng tôi biết chắc là ông ấy còn nhiều tiền kia mà.
- Thì
tôi cũng nghĩ như thế, thưa ông. Nhà hàng chúng tôi vốn rất quy củ, tính toán
hàng tuần, được khoảng tám ngày chúng tôi đưa ông ấy hóa đơn, nhưng hình như
chúng tôi đưa không đúng lúc, vừa mới nói được câu đầu về chuyện thanh toán,
ông ấy đã chửi vang lên, đúng là đêm trước ông ấy đánh bạc thật.
- Thế
nào, đánh bạc đêm trước. Với ai?
- Ôi,
Chúa ơi, ai biết được? Với một quý ông đi qua, và ông Porthos ngỏ ý chơi bạc
với ông kia.
- Thế là
kẻ khốn khổ nhẵn túi?
- Luôn
cả con ngựa nữa thưa ông, vì khi người lạ mặt sắp ra đi, tôi thấy người hầu của
ông ta đóng yên vào con ngựa của ông Porthos. Lúc đó chúng tôi cũng đưa ra nhận
xét với người khách lạ, nhưng người này trả lời chúng tôi đừng dây vào chuyện
không liên quan đến mình, và con ngựa đó là của ông ta. Chúng tôi cũng đã báo
ngay cho ông Porthos điều gì vừa xảy ra, nhưng ông ấy bảo chúng tôi là đồ xấc
láo mới đi nghi ngờ lời nói của một nhà quý tộc và rằng một khi ông ta đã nói
con ngựa ấy là của ông ta, ắt nó là của ông ta.
- Tôi
thừa biết điều đó rồi! - D' Artagnan lẩm nhẩm.
Ông chủ
quán tiếp tục:
- Thế là
tôi cho người đến nói với ông ấy rằng vì hình như chúng tôi không thể đi đến
một thỏa thuận nào về việc thanh toán, tôi hy vọng ít nhất ông cũng tỏ ra biết
điều, bạn cho đồng nghiệp của tôi ở lữ quán Chim Phượng hoàng cái ân huệ đón
ông sang bên đó. Nhưng ông Porthos đáp lại rằng, vì quán của tôi tốt nhất, ông
muốn lưu lại đây. Câu trả lời quá tâng bốc ấy khiến tôi không dám vật nài ông
đi nữa. Tôi chỉ dám giới hạn xin ông trả lại căn phòng là phòng đẹp nhất lữ
quán, vui lòng lên căn phòng xinh xắn ở tầng ba. Nhưng ông Porthos nói lúc nào
ông cũng ngóng đợi người tình của ông là một trong những phu nhân quyền quý
nhất triều đình, tôi đành phải hiểu rằng căn phòng mà ông đem lại cho tôi vinh
dự là đã cư trú ở đấy chắc còn tồi tàn hơn nhiều đối với một nhân vật như thế.
Tuy nhiên, dù nhận ra điều ông nói là hoàn toàn có thật tôi vẫn cứ vật nài ông,
nhưng rồi chẳng thèm bàn cãi gì với tôi ông vớ luôn khẩu súng ngắn đặt lên bàn
ngủ và tuyên bố chỉ cần nói ướm một câu về việc chuyển phòng dù sang phòng khác
hay quán khác, ông sẽ bắn vỡ sọ kẻ nào dại dột đi xen vào chuyện chỉ liên quan
đến ông, vì thế, từ lúc đó, không ai dám vào phòng ông, nếu không phải tên đầy
tớ của ông.
- Vậy
Mousqueton cũng ở đây?
- Vâng
thưa ông, hắn đi đâu đó năm ngày rồi trở về mặt mũi cau có. Hình như trong
chuyến đi hắn cũng gặp những chuyện bực bội. Khốn thay, hắn nhanh nhẹn tháo vát
hơn chủ hắn cho nên cái gì cần cho chủ là hắn lục tung lên bằng được, vì nghĩ
nếu hỏi có thể lại bị từ chối, hắn cứ lấy phứa mà chẳng hỏi ai.
- Thật
ra - D' Artagnan trả lời - tôi luôn nhận thấy ở Mousqueton một lòng tận tụy và
trí thông minh rất cao.
- Có thể
đúng đấy, thưa ông, nhưng giả thử mà mỗi năm hắn đến tìm tôi bốn lần thì sau
khi tiếp xúc với trí thông minh và lòng tận tâm ấy, chắc chắn tôi sẽ khuynh gia
bại sản.
- Không,
Porthos sẽ trả ông.
- Hừm! -
Chủ quán tỏ vẻ nghi ngờ.
-
Porthos là người được một vị đại phu nhân yêu quý, bà ta sẽ không để ông ấy
trong tình trạng lúng túng và khốn khó đang mắc với ông đâu.
- Nếu
như tôi dám nói ra điều tôi tin trong chuyện này…
- Ông
tin thế nào?
- Còn
hơn là tin, mà là biết.
- Điều
mà ông biết?
- Mà còn
biết chắc chắn nữa.
- Nhưng
ông biết chắc chắn điều gì?
- Tôi
nói là tôi biết cái bà đại phu nhân ấy.
- Ông?
- Vâng,
tôi.
- Thế
làm thế nào ông biết được?
- Ồ,
thưa ông, liệu tôi có thể tin được tính kín đáo của ông không?
- Ông
nói đi, xin thề danh dự của người quý tộc, ông sẽ không phải hối tiếc về sự tin
cậy của ông đâu.
- Đó,
ông xem, sự lo lắng cũng làm được khối việc đấy chứ.
- Ông đã
làm được những việc gì?
- Ồ,
chẳng có gì ngoài việc một chủ nợ có quyền làm.
- Rốt
cuộc là cái gì?
- Ông
Porthos trao cho chúng tôi một bức thư cho bà nữ Công tước đó, và dặn chúng tôi
bỏ vào hòm thư. Gã đầy tớ của ông ấy chưa về. Vì ông ấy không thể rời khỏi
phòng mình, ông ấy phải nhờ chúng tôi.
- Rồi
sao?
- Đáng
lẽ bỏ thư vào hòm thư, việc ấy không bao giờ chắc chắn cả, nhân một tên hầu bàn
của tôi có việc phải đi Paris, tôi ra lệnh cho nó mang thẳng bức thư đến tận
tay bà Công tước.
- Như
thế là làm tròn ý định của ông Porthos đã hết sức tin cậy trao cho chúng tôi
bức thư, có phải không?
- Gần
như thế.
- Thế
ông có biết cái bà đại phu nhân ấy là thế nào không?
- Không,
tôi có được nghe Porthos nhắc đến, có thế thôi.
- Ông có
biết cái bà tự nhận là nữ Công tước ấy là người thế nào không?
- Tôi
xin nhắc lại, tôi không quen biết bà ta.
Đó là bà
biện lý(1) già ở Satơlê, tên là bà Coquenard, bà ta ít nhất cũng năm mươi tuổi
và vẫn có vẻ còn ghen tuông ghê lắm.
- Tôi
thấy điều đó khá lạ lùng, một nữ Quận chúa mà lại cư trú ở phố Lũ gấu.
- Làm
sao ông biết chuyện đó?
Bởi vì
bà ta nổi cơn tam bành khi nhận bức thư, và nói rằng ông Porthos là một kẻ thay
lòng đổi dạ, rằng lại vì một con mụ nào nữa mà xơi nhát gươm kia.
Nhưng
ông ấy bị xơi một nhát gươm thật à?
- Ôi,
lạy Chúa! Tôi vừa nói gì đấy nhỉ?
- Ông
nói là Porthos bị xơi một nhát gươm.
- Vâng,
nhưng ông ấy cấm ngặt tôi không được nói.
- Tại
sao vậy?
- Sao ư?
Thưa ông, tại vì ông ấy đã huênh hoang sẽ đâm xiên qua cái người lạ mặt mà ông
để mặc cho tranh cãi nhau ấy, và rồi chính cái người lạ mặt kia, trái lại, đã
cho ông Porthos lăn kềnh ra đất, bất chấp mọi thói anh hùng rơm(2) của ông ấy.
Mà vì ông Porthos là một người quá tự phụ, nên trừ đối với bà nữ Công tước mà
ông tưởng làm bà ta thích thú bằng việc kể những chuyện phiêu lưu của mình, ông
không muốn thú nhận với bất kỳ ai rằng ông đã xơi một nhát gươm.
- Như
thế, tức là một nhát gươm khiến ông ta nằm liệt giường?
- Và một
nhát gươm bậc thầy, tôi xin cam đoan với ông như vậy. Chắc linh hồn bạn ông
phải đóng chốt trong thể xác ông ấy.
- Ông có
mặt ở đây à?
- Thưa
ông, tôi đi theo họ là do hiếu kỳ, thành thử tôi được nhìn thấy trận đấu, còn
các đấu sĩ lại không nhìn thấy tôi.
- Thế
trận đấu diễn ra thế nào?
- Ồ!
Không lâu đâu, tôi đảm bảo như thế. Họ đều giữ thế thủ, người lạ mặt làm một
đòn nhử, rồi doãi chân, tất cả quá nhanh đến nỗi ông Porthos mới định đỡ thì
gần một gang tay sắt đã găm vào ngực ông rồi. Ông ngã ngửa ra đằng sau. Người
lạ mặt gí ngay mũi gươm vào họng ông. Ông Porthos thấy mạng mình đã trong tay
địch thủ, liền xin thua. Người lạ hỏi tên ông và khi biết tên ông là Porthos
chứ không phải D' Artagnan, liền đỡ ông ấy dậy dìu về lữ quán, rồi lên ngựa và
biến mất.
- Như
thế tức là D' Artagnan mới là người hắn ta thù hận?
- Hình
như thế.
- Và ông
có biết hắn ta thế nào rồi không?
- Không,
cho đến khi ấy, tôi chưa bao giờ thấy ông ta, và từ bấy, tôi chưa hề gặp lại.
- Tốt
lắm, tôi đã biết được điều tôi muốn biết. Ông bảo hiện thời ông Porthos đang ở
phòng số 1 tầng một?
- Vâng,
phòng đẹp nhất quán trọ, đáng lẽ tôi đã cho thuê chục lần rồi ấy chứ.
- Thôi
được, ông cứ yên tâm - D' Artagnan vừa cười vừa nói - Porthos sẽ trả ông bằng
tiền của nữ Công tước Coquenard.
- Ôi
thưa ông, bà biện lý hay bà công tước cũng được, miễn là bà ta nới dải buộc túi
tiền. Nhưng bà ấy đã trả lời dứt khoát là bà ấy chán những đòi hỏi và sự không
chung thủy của ông Porthos lắm rồi, và sẽ không gửi cho ông ta một xu nào nữa.
- Và ông
nói lại với vị khách trọ của mình chứ?
- Chúng
tôi phải giữ chứ, nếu không ông ấy sẽ biết chúng tôi chuyển thư bằng cách nào.
- Và ông
ấy cứ thoải mái đợi tiền?
- Ồ, lạy
Chúa, vâng! Mới hôm qua, ông ta lại viết, nhưng lần này là tên đầy tớ bỏ vào
thùng thư.
- Và ông
nói bà biện lý già và xấu ư!
- Ít
nhất năm mươi tuổi, và chẳng đẹp chút nào, theo như Patô nói.
- Nếu
thế, thì ông yên tâm đi, bà ta chả thoát khỏi mềm lòng, vả lại, Porthos không
thể nợ ông nhiều lắm.
- Sao,
không nhiều lắm ư? Hai chục đồng vàng rồi đấy, chưa tính tiền thuốc. Ôi, ông ấy
chẳng chịu từ bỏ thứ gì, quen sống thoải mái rồi mà.
- Không
sao đâu! Nếu tình nhân của ông ta bỏ rơi ông ta, ông ta sẽ tìm, được các bạn
bè, tôi đảm bảo như vậy. Như thế, ông chủ quán thân mến ạ, đừng lo ngại gì cả,
ông cứ tiếp tục cung ứng cho ông ấy tất cả những gì đang cần thiết đi.
- Ông đã
hứa với tôi là không nói gì về bà biện lý và không nói ra một câu nào về vết
thương rồi đấy nhé.
- Đã
thỏa thuận thế rồi, tôi đã hứa mà.
- Ông
phải biết, ông ấy sẽ giết tôi đấy!
- Ông
đừng sợ, ông ấy không đến nỗi hung dữ như bộ dạng ông ấy đâu.
Vừa nói,
D' Artagnan vừa leo lên cầu thang, để lại ông chủ quán đã hơi yên tâm về hai
điều ông ta hình như hết sức quan tâm: món nợ và mạng sống của ông ta.
Phía
trên cầu thang, chiếc cửa dễ nhận ra nhất ở hành lang, trên cửa kẻ chữ số 1
khổng lồ bằng sơn đen, D' Artagnan gõ một tiếng, bên trong có tiếng mời cứ vào,
và chàng bước vào.
Porthos
đang nằm và đang chơi bài với Mousqueton để luyện tay chơi, trong khi đó một
xiên gà gô đang quay trên lửa và ở mỗi góc của một lò sưởi lớn, là hai cái chảo
trên hai bếp lò đang sôi sùng sục tỏa ra thơm lừng mùi thỏ nấu sốt vang và cá
om. Ngoài ra, trên bàn và trên mặt đá hoa chiếc tủ ngăn kéo, đầy vỏ chai.
Nhìn
thấy bạn, Porthos reo lên mừng rỡ và Mousqueton kính cẩn đứng lên nhường chỗ
cho chàng, lui ra kiểm tra hai cái chảo.
- Ôi, Mẹ
kiếp! Là cậu ư - Porthos nói với D' Artagnan - Rất mừng là cậu đã đến, nhưng
xin lỗi nếu như mình không ra đón cậu được. Nhưng Porthos vừa nhìn D' Artagnan
vừa nói tiếp - cậu biết chuyện gì xảy với mình chứ?
- Không.
- Chủ
quán không nói gì với cậu à?
- Tôi
hỏi thăm anh rồi lên thẳng đây thôi.
Porthos
thở phào nhẹ nhõm. D' Artagnan tiếp tục hỏi:
- Thế có
chuyện gì xảy ra với anh ư, Porthos thân mến?
- Xảy ra
với mình khi mình nhoài người về phía địch thủ mà mình đã xỉa cho hắn ba nhát
rồi đấy chứ, mình định kết liễu hắn bằng nhát thứ tư, thế là chân mình giẫm lên
một hòn đá, và mình bị trẹo gối.
- Thật
thế ư?
- Thề
danh dự mà! Cũng may cho thằng đểu ấy, chứ không mình đã cho nó chết toi tại
chỗ rồi, mình đảm bảo với cậu như vậy.
- Và rồi
nó ra sao?
- Ồ,
mình cũng chẳng biết gì hết. Nó bị thế là đủ lắm rồi. Nó chuồn mất mà không dám
đòi những gì còn lại.
- Bị
trẹo gối - D' Artagnan tiếp tục - đến nỗi không ra được khỏi giường ư?
- Ờ Lạy
Chúa, thế thôi. Mấy lại chỉ mấy ngày nữa là mình lại đi được mà.
- Tại
sao lúc đó anh không để người ta khênh mình về Paris? Ở đây chắc anh phải buồn
dữ dội.
- Đấy là
ý định của mình. Nhưng, bạn thân mến ạ, mình phải thú nhận với cậu một chuyện.
- Chuyện
gì?
- Chính
vì mình buồn dữ dội như cậu nói và lại có trong túi bẩy nhăm đồng vàng mà cậu
chia cho, để giải sầu, mình đã cho mời một tay quý tộc đi qua đây và đã đề nghị
chơi xúc xắc với hắn, hắn nhận lời và không thể ngờ được cả chỗ bẩy nhăm đồng
vàng trong túi mình chuyển hết sang túi hắn không kể con ngựa của mình, hắn
cũng dắt mất. Còn cậu, D' Artagnan thân mến?
- Anh
Porthos thân mến, anh muốn gì nữa, người ta không thể cái gì cũng gặp may được
- D' Artagnan nói - Anh hẳn biết câu châm ngôn: "Đen bạc, đỏ tình".
Anh quá may trong tình trường không tránh được canh bạc nó trả thù, nhưng cần
cóc gì cái vận rủi! Chẳng phải một tay bợm gái may mắn như anh không có một nữ
Công tước không thể quên được việc đến giúp anh sao?
Porthos
trả lời, vẻ thoải mái nhất đời:
- Ấy
đấy, D' Artagnan thân mến ạ, chẳng qua mình gặp vận đen nên mới phải viết thư
bảo gửi cho mình khoảng năm mươi đồng vàng mình tuyệt đối cần trong tình cảnh
hiện thời.
- Rồi
sao?
Rồi thì,
chắc mụ ta tịch rồi hay sao không thấy trả lời.
- Thật
thế ư?
- Không,
vì thế, hôm qua mình lại tống cho một thư nữa thúc ép hơn thư trước. Nhưng còn
cậu, bạn rất thân của mình, nói về cậu đi nào. Mình xin thú thực với cậu mình
bắt đầu thấy lo lo cho cậu rồi đấy.
- Nhưng
mà chủ quán có vẻ đối xử tốt với anh ghê nhỉ, anh Porthos? - D' Artagnan vừa
nói vừa chỉ cho người ốm, những chảo đầy và những vỏ chai rỗng.
- Cũng
được được? - Porthos trả lời - Cách đây ba bốn ngày cái tên xấc xược đó đưa
bảng thanh toán cho mình, thế là mình tống hết ra khỏi cửa, cả tên chủ lẫn bảng
thanh toán, thành thử mình ở đây với tư cách người chiến thắng, kẻ chinh phục.
Vì vậy, cậu thấy đấy, mình phải vũ trang đến tận răng, vì luôn sợ bị buộc phải
rời khỏi cương vị chiến thắng ấy.
- Tuy
nhiên - D' Artagnan vừa nói vừa cười, chỉ mấy cái chảo và những vỏ chai - Thỉnh
thoảng hình như anh vẫn xuất ngoại đấy chứ.
- Khốn
nạn thay, không phải mình! - Porthos nói - cái trò trẹo xương khốn nạn đó giữ
chặt mình ở giường, nhưng Mousqueton đi lang thang khắp nơi và mang thực phẩm
về.
-
Mousqueton, anh bạn của ta - Porthos tiếp - Mi xem, chúng ta có viện trợ rồi,
phải bổ sung thức nhắm thôi.
-
Mousqueton - D' Artagnan nói - Ta cần anh gíúp một việc.
- Việc
gì thưa ông.
- Là
truyền cho Planchet cái bảo bối của anh. Đến lượt ta, cũng có thể bị bao vây
lắm chứ, lúc đó ta ắt sẽ không bực mình vì hắn cũng làm cho ta được hưởng từng
này lợi ích giống như anh bạn thưởng cho chủ anh ấy.
- Ôi,
trời ơi, thưa ông - Mousqueton nói vẻ khiêm tốn - không gì dễ hơn. Chỉ cần khéo
léo một chút, thế thôi. Tôi lớn lên ở thôn quê, và cha tôi, những lúc nhàn rỗi,
đôi khi cũng săn bắn trái phép.
- Thời
gian còn lại ông ấy làm nghề gì?
- Thưa
ông, cha tôi thực hành một công nghệ mà tôi thấy cũng tươm lắm.
- Nghề
gì?
- Vì đó
là thời chiến tranh giữa người Cơ đốc giáo và giáo phái Canvanh, và ông thấy
những người Cơ đốc giáo tàn sát những người phái Canvanh, và những người phái
Canvanh lại tàn sát người Cơ đốc giáo, bên nào cũng nhân danh tôn giáo, ông cụ
liền tự cho phép mình tín ngưỡng cả hai, lúc thì Cơ đốc giáo, lúc lại Canvanh.
Ông cụ thường súng khoác vai, lang thang sau nước rào giậu bờ đường và khi thấy
một người Cơ đốc đi một mình liền nổi máu Tin lành ngay tức khắc. Ông hạ súng
hướng về phía lữ khách, rồi khi chỉ còn cách mươi bước chân, ông vào đề đối
thoại và hầu như luôn kết thúc bằng việc người kia bỏ lại túi tiền để thoát lấy
mạng mình. Ông đi không nói một lời khi thấy một người Canvanh đang tới, ông
lại nổi máu Cơ đốc rất dữ dội đến nỗi chẳng hiểu tại sao mới mười lăm phút
trước đây ông lại có thể có những nghi ngờ về sự siêu đẳng của tôn giáo thần
thánh chúng ta. Bởi vì tôi, thưa ông, tôi theo Cơ đốc giáo, cha tôi, trung
thành với những nguyên tắc của ông, bắt anh cả tôi là dân Canvanh.
- Cuối
cùng con người đáng kính ấy thế nào? - D' Artagnan hỏi.
- Ôi,
thưa ông, một cách khốn nạn nhất. Một hôm ông cụ bị túm trên một con đường
trống vắng giữa một người Canvanh và một người Cơ đốc giáo đã từng mắc chuyện
với ông cụ, cả hai đều nhận ra ông, thế là họ họp lại với nhau chống lại và
treo cổ ông cụ lên một cái cây, rồi họ lại đến huyênh hoang về cái việc quá ư
liều lĩnh họ đã làm, trong một tửu quán ở ngôi làng chợt đến mà anh tôi và tôi
cũng đang uống ở đó.
- Rồi
các anh làm gì? - D' Artagnan hỏi.
- Chúng
tôi để mặc cho chúng nói - Mousqueton tiếp - Thế rồi, ra khỏi cái quán đó, mỗi
tên đi về một phía trái ngược nhau, anh tôi đi phục ở con đường gã Cơ đốc đi,
và tôi phía gã Tin lành. Hai giờ sau, thế là xong, chúng tôi ai nấy tính sổ
xong với chúng, và hết sức khâm phục tính lo xa của ông bố đáng thương của
chúng tôi đã đề phòng nuôi dạy chúng tôi mỗi người một tôn giáo khác nhau.
- Quả
thật, như anh nói ấy, Mousqueton, bố anh hình như từng là một người rất thông
mình. Và anh nói, lúc nhàn rỗi, con người tử tế ấy lại là tay săn bắn trộm?
- Vâng,
thưa ông, chính ông cụ đã dạy tôi cách buộc bẫy chim muông và đặt dây câu ngầm.
Kết quả là khi thấy lão chủ quán ty tiện nuôi chúng tôi bằng đống thịt bạc nhạc
chỉ hợp với bọn quê mùa và không thích hợp chút nào với hai cái dạ dày yếu ớt
như của chúng tôi, tôi đành xoay xở đôi chút với cái nghề cũ của mình. Lang
thang trong khu rừng nhỏ của vị Hoàng thân, tôi giăng bẫy trên các lối đi, ngủ
bên bờ nước của Điện hạ, tôi luồn dây câu xuống dưới ao hồ. Thành thử nhờ trời,
giờ đây chúng tôi chẳng thiếu những gà gô, thỏ, cá chép, lươn, tất cả các loại
thức ăn lành và dễ tiêu, thích hợp với người bệnh, ông có thể coi xem có đúng
không.
- Nhưng
còn rượu vang - D' Artagnan nói - ai cung cấp rượu vang? - chủ quán chứ?
- Nghĩa
là đúng và không.
- Đúng
và không là thế nào?
- Đúng
là ông ta cung cấp, nhưng ông ta không biết mình có cái vinh dự ấy.
- Giải
thích xem nào, Mousqueton, câu chuyện của anh đầy những điều bổ ích đấy.
- Thế
này, thưa ông. Tình cờ xui khiến tôi gặp được một người Tây Ban Nha, trong
những cuộc đi chơi xa, anh ta từng thăm nhiều nước trong đó có cả Tân thế giới.
- Tân
thế giới thì có liên quan gì đến những chai vang trên bàn giấy và trên cái tủ
ngăn kia?
- Bình
tĩnh nào, thưa ông, đâu sẽ có đấy mà.
- Đúng
vậy, Mousqueton. Ta tin và vẫn nghe anh đây.
- Người
Tây Ban Nha ấy có một người hầu đi theo sang Mêhicô. Người hầu ấy lại là đồng
hương của tôi, thành thử chúng tôi liên kết với nhau rất nhanh vì giữa chúng
tôi còn rất hợp nhau về tính cách nữa. Cả hai chúng tôi đều yêu săn bắn trên
hết mọi thứ, thành thử hắn kể cho tôi nghe những thổ dân đã săn hổ và bò tót
trong những đồng cỏ ở Nam Kỳ với những thòng lọng quăng vào cổ những con vật
kinh khủng ấy như thế nào. Lúc đầu, tôi không muốn tin người ta lại có thể đạt
tới trình độ khéo léo, cách xa hai ba mươi bước quăng đầu thòng lọng đúng nơi
mình nhằm. Bạn tôi đặt một cái chai cách ba mươi bước và lần nào cậu ấy quăng
cũng giật được chai trong thòng lòng. Trước bằng chứng ấy, phải nhận câu chuyện
là có thật thôi. Tôi cũng lao vào luyện tập, và vì trời phú cho chút ít nàng
khiếu, bây giờ tôi quăng thòng lọng giỏi ngang với bất kỳ ai. Thế là, ông có
hiểu không? Chủ quán có một hầm chứa đầy rượu và lão ta không bao giờ rời chìa
khóa. Có điều hầm rượu có lỗ thông hơi. Thế là, qua lỗ thông hơi đó tôi quăng
thòng lọng và giờ đây thì tôi đã biết được góc nào lấy tốt rồi, và cứ nơi ấy
tôi kéo. Đó, thưa ông. Tân thế giới có liên quan đến những chai vang trên bàn
giấy và tủ ngăn như thế đấy. Bây giờ ông hẳn muốn nếm thử rượu vang của chúng
tôi và đừng có thành kiến, ông cho biết uống thấy thế nào.
- Cám
ơn, anh bạn của ta, cám ơn, nhưng thật không may ta vừa ăn điểm tâm xong.
- Dào
ôi! - Porthos nói - Bày bàn đi, Mousqueton và trong khi chúng ta ăn điểm tâm,
D' Artagnan sẽ kể cho chúng ta nghe mười ngày xa chúng ta, cậu ấy ra sao.
- Xin
sẵn sàng - D' Artagnan nói.
Trong
khi Porthos và Mousqueton ăn điểm tâm với vẻ ngon lành của người ốm ăn giả bữa,
và của tinh thần huynh đệ của những con người xích lại gần nhau trong cơn hoạn
nạn, D' Artagnan kể Aramis bị thương và buộc phải nằm ở lại Vỡ Tim thế nào, rồi
D' Artagnan phải bỏ Athos lại ở Amiêng mặc Athos chống chọi giữa bốn tên buộc
tội chàng là tên làm bạc giả ra sao, và chính D' Artagnan đã buộc phải đâm
xuyên qua bụng Bá tước De Wardes để sang được nước Anh thế nào.
Nhưng
đến đây, việc tâm sự của D' Artagnan dừng lại, chàng chỉ thông báo ở nước Anh
về, chàng mang theo bốn con ngựa đẹp lộng lẫy, một con cho chàng, và đồng đội
mỗi người một con. Rồi chàng kết thúc bằng việc báo cho Porthos biết con ngựa
dành cho Porthos đã được đưa vào chuồng ngựa của lữ quán.
Đúng lúc
đó, Planchet vào và báo cho chủ biết rằng lũ ngựa đã được nghỉ ngơi đầy đủ và
có thể đến ngủ ở Clécmông.
Vì D'
Artagnan đã gần yên tâm về Porthos và chàng thấy nóng lòng muốn có tin tức của
hai người bạn kia, chàng đưa tay cho người bệnh và báo cho biết chàng sắp lên
đường tiếp tục tìm kiếm. Vả lại, vì chàng dự tính sẽ trở về theo con đường này,
nếu trong vòng bảy tám ngày nữa, Porthos vẫn còn ở lữ quán lớn Saint-Martin,
chàng sẽ ghé qua đón bạn.
Porthos
trả lời, cái chỗ xương bị trẹo hoàn toàn có thể không cho phép chàng rời khỏi
lữ quán. Vả lại chàng phải ở lại ở Săngtily để đợi nữ Công tước của chàng trả lời.
D'
Artagnan chúc Porthos mau nhận được sự trả lời và một sự trả lời tốt đẹp. Và
sau khi đã nhờ Mousqueton lần nữa trông nom Porthos, trả tiền các khoản cho chủ
quán, chàng lại cùng Planchet lên đường, giảm bớt được một con ngựa dắt theo.
Chú thích:
(1) Nguyên văn: Procureuse: bà biện lý. cũng
có nghĩa trùm nhà thổ tú bà nữa. Tác giả có ý chơi chữ ở đây với anh chàng
Porthos bạt tử chăng?
(2)Nguyên văn: bất chấp thói Rodomontades của
ông ấy - Rút từ tính cách huênh hoang khoác lác của vua Rodomont nước Algérie,
một nhân vật trong Orlando Furioso của Tasso.
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
26
Luận văn
của Aramis
D'
Artagnan không nói gì với Porthos về vết thương, cũng chẳng nói đến bà biện lý.
Chàng Bearn dù còn rất trẻ nhưng lại rất khôn ngoan, để giả bộ tin hết mọi điều
mà anh chàng ngự lâm quân hão huyền kể cho mình, vì tin chắc không có tình bạn
nào trụ vững trước một bí mật bị lật tẩy, nhất là bí mật ấy lại quan thiết đến
lòng kiêu hãnh, rồi thêm nữa người ta thường luôn nhìn xuống đối với những
người mình biết rõ đời tư. Mà trong những dự định mưu toan sắp tới, D' Artagnan
đã quyết định sẽ biến ba người đồng đội thành công cụ cho hạnh vận của mình, và
vui vẻ túm trước lấy những sợi dây vô hình mà nhờ chúng chàng tính chuyện điều
khiển họ.
Tuy
nhiên, suốt dọc đường, một nỗi buồn sâu sắc xiết lấy trái tim chàng, chàng nghĩ
tới bà Bonacieux trẻ và xinh đẹp thật xứng đáng với lòng tận tụy của chàng.
Nhưng phải nói ngay rằng nỗi buồn đó xuất phát từ niềm tiếc nuối hạnh phúc đã
mất ở chàng ít hơn là nỗi sợ hãi chàng cảm thấy tai họa giáng xuống người phụ
nữ đáng thương. Với chàng, không còn nghi ngờ gì nữa nàng là nạn nhân của sự
báo thù của Giáo chủ và như đã biết, sự báo thù của Đức ông thì thật là khủng
khiếp. Làm sao chàng có thể tin được sự tha thứ trước mắt ngài Thủ tướng, đó là
điều chính bản thân chàng cũng không biết được, họa chăng chỉ có ông De Cavoa
mới có thể tiết lộ cho chàng nếu viên đại úy cận vệ đó tìm thấy chàng ở nhà.
Không có
gì khiến thời gian trôi mau, và rút ngắn bớt con đường bằng một ý nghĩ hút hết
mọi khả năng suy nghĩ của người ta. Sự tồn tại bề ngoài lúc đó giống như một
giấc ngủ mà ý nghĩ đó như là một cơn mơ. Do ảnh hưởng của nó, thời gian không
đo được nữa, không gian không còn khoảng cách. Người ta đi từ một nơi và đến ở
một nơi, có thế thôi. Từ chặng đường đi qua, chẳng còn gì hiện rõ trong ký ức
ta ngoài một lớp sương mù mờ ảo, trong sương, hàng nghìn hình ảnh mơ hồ của cỏ
cây, sông núi, cảnh vật tự xóa đi. Bị đàm chìm trong cái ảo giác đó mà D'
Artagnan cứ mặc cho ngựa chạy, chả mấy chốc đã vượt qua bẩy tám dặm đường từ
Săngtily đến Vỡ Tim, và khi đến làng này chàng chẳng còn nhớ được điều gì mình
đã gặp trên dọc đường.
Chỉ đến
đây, trí nhớ mới trở lại, chàng làc đầu nhận ra cái quán mà chàng đã để lại
Aramis, và thúc ngựa đi nước kiệu tới dừng ở trước cửa.
Lần này
không phải ông chủ mà là bà chủ quán ra đón chàng. D' Artagnan biết xem tướng
nên chỉ nhìn qua bộ mặt đầy đặn tươi tỉnh của nữ chủ nhân, chàng đã hiểu không
cần phải giấu giếm bà ta, và chả có gì đáng sợ đối với bộ mặt vui tươi đến thế.
- Bà chủ
phúc hậu ơi - D' Artagnan hỏi - bà có thể nói cho tôi biết một người bạn mà tôi
buộc phải bỏ lại ở đây, cách đây khoảng mười hai ngày ra sao rồi không?
- Một
người đàn ông trẻ đẹp, chừng hăm ba, hăm bốn tuổi, hiền lành, dễ mến, chững
chạc?
- Đúng
thế.
- Còn
thêm bị thương ở vai?
- Đúng
vậy.
- Ồ,
thưa ông, ông ấy vẫn ở đây.
D'
Artagnan nhảy ngay xuống, ném dây cương vào tay Planchet nói:
- Chết
thật! Bà chủ thân mến, bà cứu sống tôi rồi. Anh ấy ở đâu, anh Aramis yêu quý
của tôi ấy, để tôi ôm hôn anh ấy, bởi vì tôi thú thực với bà, tôi phát sốt vì
muốn gặp anh ấy đây.
- Nhưng
tôi xin lỗi, thưa ông, tôi không tin ông ấy có thể gặp ông lúc này.
- Tại
sao thế? Ông ấy đang ở với một người đàn bà ư?
-
Jêsuma! Ông nói gì vậy, chàng trai tội nghiệp! Không, thưa ông, ông ấy không ở
với một phụ nữ.
- Vậy
thì với ai?
- Với
ông mục sư Môđiđiê và ông giáo trưởng dòng Tên của Amiêng.
- Lạy
Chúa? D' Artagnan kêu lên - Bệnh tình anh ấy nậng hơn ư?
- Không
đâu, trái lại ông ạ, nhưng sau trận ốm, được Chúa ban phúc, ông ấy đã quyết
định thụ giới.
- Đúng
thế - D' Artagnan nói - tôi quên kuấy anh ấy chỉ là ngự lâm quân tạm thời.
- Vâng,
ông vẫn muốn gặp ông ấy ư?
- Hơn
bao giờ hết.
- Được
thôi! ông cứ việc theo cầu thang bên phải ở ngoài sân, lên tầng hai, phòng số
5.
D'
Artagnan lao theo hướng đã chỉ, tìm thấy một chiếc cầu thang ngoài mà ngày nay
ta còn thấy ngoài sân những quán trọ cổ lỗ. Nhưng không thể đi như thế đến chỗ
ông tu viện trưởng tương lai, những lối đi ngoắt ngoéo đến phòng Aramis được
canh giữ không hơn không kém những khu vườn của Aramis(1).
Bazin
đóng chốt ở hành lang ngăn không cho chàng đi qua, càng táo tợn hơn sau những
năm thử thách cuối cùng Bazin thấy mình sắp đi đến cái kết quả vẫn hằng hy
vọng.
Thật
vậy, mơ ước của Bazin tội nghiệp vẫn luôn là được phục vụ một nhà tu hành, và
gã vẫn sốt ruột đợi chờ cái khoảnh khắc không ngừng hé mở trong tương lai
Aramis, cuối cùng vứt bỏ chiếc áo đồng phục ra bụi rậm thay bằng chiếc áo thày
tu. Lời hứa ông chủ trẻ tuổi hằng ngày nhắc lại rằng cái khoảnh khắc đó cũng
không lâu nữa đâu là điều duy nhất đã giữ gã lại phục vụ một ngự lâm quân, thứ
công việc theo như gã bảo nhỡ ra có thể làm gã mất linh hồn.
Vì vậy
Bazin tràn trề vui sướng. Lần này, hoàn toàn có khả năng chủ gã không sai lời.
Sự kết nối đau đớn thể xác với đau đớn tinh thần đã tạo ra hiệu quả vẫn hằng
khao khát từ lâu Aramis vừa đau đớn thể xác lẫn tinh thần, cuối cùng đã dừng
đôi mắt và ý nghĩ của mình lại ở nơi tôn giáo và chàng coi cái tai họa kép đã
xảy đến với chàng, nghĩa là sự biến mất đột ngột của người lính và vết thương
trên vai, như một sự cảnh tỉnh của trời cao.
Có thể
hiểu được, trong tình thế hiện nay, không gì khó chịu cho Bazin bằng việc D'
Artagnan đã đến và lại có thể ném chủ gã vào trong xoáy lốc của những ý tưởng
phàm thế đã từng lôi cuốn chủ gã quá lâu rồi. Vì vậy gã quyết định bảo vệ can
trường chiếc cửa, và vì đã bị bà chủ quán phản bội rồi, gã không thể nói rằng
Aramis đi vắng, gã cố tỏ ra cho kẻ mới đến biết thật là vô cùng bất nhã định
đến quấy rầy chủ gã đang trong một cuộc hội thảo thành kính bắt đầu từ buổi
sáng và theo Bazin nói không thể kết thúc trước buổi tối.
Nhưng D'
Artagnan chẳng buồn chú ý đến bài diễn văn hùng biện của thầy Bazin, và cũng chẳng
hơi đâu đi lý sự với người hầu của bạn mình, chàng chỉ đơn giản lấy tay gạt gã
ra và tay kia vận núm cửa phòng số 5.
Cửa mở,
và D' Artagnan vào trong phòng.
Aramis
mặc áo ngoài đen, đầu đội một loại mũ tròn và bẹt khá giống loại mũ chỏm đầu,
đang ngồi trước một cái bàn hình bầu dục phủ đầy những cuộn giấy và những cuốn
sách khổ đôi khổng lồ, bên phải là ông giáo trưởng dòng Tên, và bên trái là ông
mục sư Môngđiđiê. Những tấm rèm cửa chỉ vén ra một nửa để lọt vào một thứ ánh
sáng huyền bí thích hợp với sự mơ màng mộ đạo. Mọi vật dụng thời lưu có thể đập
vào mắt khi bưôc vào phòng chàng trai trẻ và nhất là chàng trai lại là ngự lâm
quân đều biến mất như có phép mầu, và chắc sợ nhìn thấy những thứ ấy chủ mình
lại hướng đến những ý nghĩ của thế giới trần tục, Bazin đã dọn sạch gươm súng,
mũ cài lông, các đồ thêu, ren các kiểu các loại.
Nhưng
thay vì thấy những thứ đó, D' Artagnan tưởng như nhìn thấy ở một góc tối một
thứ gì đó giống như chiếc roi hành xác treo trên một cái đinh ở trên tường.
Nghe
tiếng D' Artagnan mở cửa Aramis ngẩng đầu lên và nhận ra bạn mình. Nhưng điều
làm D' Artagnan hết sức ngạc nhiên là việc chàng xuất hiện hình như chẳng tạo
nên một ấn tượng lớn nào đối với chàng lính ngự lâm này, chừng như đầu óc anh
ta đã tách rời khỏi mọi vật nơi trần thế.
- Xin
chào D' Artagnan thân mến - Aramis nói - xin anh tin là tôi vui sướng được gặp
anh.
- Tôi
cũng vậy - D' Artagnan nói - cho dù tôi còn chưa tin có phải tôi đang nói với
anh Aramis không.
- Với
hắn ta đấy, bạn ạ, với chính hắn đấy! Nhưng ai có thể làm cho anh nghi ngờ?…
- Tôi đã
sợ là tôi nhầm phòng và lúc đầu tôi cứ tưởng là tôi vào phòng của một vị tu
hành nào đó, rồi tôi lại mắc thêm một cái nhầm nữa khi thấy anh đang cùng với
các vị đây.
Hai
người mặc đồ đen kia hiểu rõ ý đồ của D' Artagnan, liếc nhìn chàng có vẻ như
hăm dọa, nhưng chàng không hề tỏ ra sợ
- Có thể
tôi làm phiền anh, anh Aramis - D' Artagnan tiếp tục - Bởi vì theo những gì tôi
thấy, tôi đành phải tin rằng anh đang xưng tội với các vị đây.
Aramis
thoáng đỏ mặt:
- Anh mà
làm phiền tôi ư? Ồ, hoàn toàn trái lại, bạn thân mến ạ, tôi xin thề với anh
đấy, và coi như bằng chứng điều tôi vừa nói là anh hãy cho phép tôi được vui
mừng thấy anh được bình an vô sự.
"A,
thế mới phải chứ?" D' Artagnan nghĩ thầm "chưa đến nỗi nào?".
- Bởi vì
ông đây là bạn tôi, vừa mới thoát khỏi một mối nguy khốc liệt - Aramis vừa tiếp
tục nói giọng cảm động vừa trỏ D' Artagnan giới thiệu với hai vị giáo chức kia.
- Xin
ông hãy tạ ơn Chúa đi? - Hai người đồng thanh đáp và nghiêng mình.
D'
Artagnan về phần mình cũng nghiêng mình đáp lễ.
- Thưa
các vị đáng kính, tôi đã không quên đâu.
- D'
Artagnan thân mến - Aramis nói - Anh đến thật đúng lúc, anh tham gia vào cuộc
tranh luận đi, góp ý kiến làm sáng tỏ vấn đề. Ngài giáo trưởng xứ Amiêng, ngài
mục sư Môngđiđiê và tôi, chúng tôi đang tranh luận một số vấn đề thần học mà
chúng tôi đã quan tâm từ lâu, tôi sẽ rất vui được biết ý kiến của anh.
D'
Artagnan bắt đầu lo ngại trước sự đổi hướng của mọi chuyện, chàng trả lời:
- Ý kiến
của một kẻ võ biền thì còn đâu ra trọng lượng, xin hãy tin tôi, anh có thể yên
tâm về trình độ khoa học của các vị đây.
Hai
người mặc áo đen lại đáp lễ.
- Trái
lại - Aramis lại tiếp - ý kiến của anh sẽ rất quý với chúng tôi. Vấn đề là thế
này, ông giáo trưởng tin rằng bản luận văn nhất thiết phải có tính giáo lý và
giáo huấn.
- Bản
luận văn! Vậy ra anh làm một luận văn?
- Hẳn
rồi, - vị giáo sĩ dòng Tên trả lời - với kỳ sát hạch trước khi thụ phong, bản
luận văn là nhất thiết phải có.
- Thụ
phong? - D' Artagnan kêu lên, chàng không thể tin nổi vào cái điều mà bà chủ
quán và Bazin kế tiếp nhau nói với chàng – Lễ thụ phong.
Và chàng
đưa mắt hoang mang nhìn ba nhân vật đang ngồi trước mặt chàng. Còn Aramis thì
chễm chệ trên chiếc ghế bành ở tư thế duyên dáng như thể vẫn trong phố hẻm,
ngắm nghía thỏa thích bàn tay trắng trẻo và mũm mĩm như bàn tay đàn bà của
chàng rồi giơ tay lên cho khỏi bị dồn máu và nói:
- D'
Artagnan này, như anh đã nghe thấy đấy, ông giáo trưởng muốn bản luận văn của
tôi có tính giáo lý, trong khi tôi lại muốn nó duy lý. Chính vì vậy mà tại sao
ông giáo trưởng lại đề nghị với tôi cái chủ đề còn chưa hề được lý giải trong
đó tôi nhận thấy có vấn đề cho những sự phát triển rực rỡ: Utraque manus in
benedicendo clerieis inferioribus necessaria est.
D'
Artagnan mà chúng ta đã biết rõ sự uyên bác của chàng đến đâu, chả buồn chau
mày trước câu trích dẫn này hơn câu ông Treville đã trích dẫn về các món quà mà
ông cho là chàng đã nhận của ông De Buckingham.
Để D'
Artagnan hoàn toàn dễ hiểu, Aramis lại tiếp:
- Câu ấy
có nghĩa: Hai bàn tay rất cần thiết cho các tu sĩ cấp thấp, khi họ ban phúc
lành.
- Đề tài
tuyệt vời! - vị tu sĩ dòng Tên kêu lên.
- Tuyệt
vời và giáo lý nữa! - Ông mục sư nhắc lại, tiếng Latinh của ông ta chắc cũng
đại khái như D' Artagnan, cho nên ông theo dõi chăm chú ông giáo sĩ dòng Tên để
bắt chước và lặp lại những lời ông này nói như một loại tiếng vọng mà thôi.
- Còn D'
Artagnan chàng hoàn toàn thờ ơ trước nhiệt tình của hai ông áo đen.
- Vâng
tuyệt vời! Prorsù admirabile!(2) - Aramis tiếp tục - nhưng đòi hỏi một sự
nghiên cứu uyên thâm của cha và Kinh thánh. Tôi đã thú nhận với các vị giáo sĩ
thông thái này với tất cả sự kém cỏi của tôi rằng những đêm tuần canh của bộ
đội vệ binh và việc phục vụ nhà Vua khiến tôi lơ là việc nghiên cứu: Vì vậy tôi
thấy thoải mái hơn facilius natans(3) trong một đề tài do tôi lựa chọn, và sẽ
là những vấn đề thần học hóc búa, giống như vấn đề đạo lý đối với siêu hình học
trong triết học ấy.
D'
Artagnan chỉ thấy vô cùng chán ngán và ông mục sư cũng vậy.
- Đã
thấy nhập đề tuyệt chưa! - Ông dòng Tên kêu lên.
-
Exordium(4) ông mục sư lặp lại cho ra vẻ.
- Quem
ad… modum inter coelorum imnrensitatem(5).
Aramis
liếc nhìn D' Artagnan và thấy bạn mình đang ngáp đến sái quai hàm, liền nói với
ông giáo trưởng dòng Tên:
- Thưa
cha, ta nói tiếng Pháp thôi, ông D' Artagnan sẽ thưởng thức những ý kiến của
chúng ta nhiệt tình hơn.
- Vâng
tôi mệt mỏi khi đi đường - D' Artagnan nói - và mọi thứ tiếng Latinh ấy tuột đi
hết.
- Đồng ý
- Ông dòng Tên hơi khó chịu nói, trong khi đó ông mục sư thấy dễ chịu hẳn lên,
quay lại nhìn D' Artagnan với đầy lòng biết ơn. - Đồng ý để xem cách giải thích
ấy đi đến điều gì.
-
Môixe(6) kể tôi đòi của Chúa… Ông ta chỉ là kẻ tôi đòi, các vị hiểu chứ? Môixe
ban phúc bằng hai bàn tay, để mặc mọi người đỡ hai tay, trong khi người Hêbrơ
đánh đuổi quân thù, vậy là ông ban phước bằng hai bàn tay. Vả lại kinh Phúc âm
nói thế này, Imponite manus chứ không manum: Đánh lên hai bàn tay chứ không
phải bàn tay.
- Với
thánh Pie, mà kế vị ngài là các giáo hoàng, thì trái lại - ông giáo sĩ dòng Tên
tiếp - Porrige digitas. Hãy chìa các ngón tay ra, bây giờ các vị đã hiểu chưa?
Aramis
rất thoải mái trả lời:
- Nhất
định thế rồi, nhưng vấn đề rất tinh tế.
- Những
ngón tay! - Ông giáo sĩ tiếp - Thánh Pie ban phúc bằng những ngón tay. Vì vậy
giáo hoàng cũng ban phúc bằng những ngón tay. Và ngài ban phúc bằng bao nhiêu
ngón tay?
- Với ba
ngón, một vị Cha, một vị con, một vị Thánh thần.
Mọi
người đều làm dấu. D' Artagnan cho là phải bắt chước theo.
Giáo
hoàng là người kế vị Thánh Pie và đại diện cho ba quyền lực của cõi thiêng, còn
lại ordines inferiores (những chức danh cấp thấp - ND) của đẳng cấp giáo chức,
ban phúc nhân danh các thánh đại thiên sứ và thiên sứ. Những giáo chức tầm
thường nhất, như các trợ tế, các người coi đồ thánh thì ban phúc bằng những vòi
phun giả vờ như vô tận những ngón tay ban phúc. Thế là đề tài đã được đơn giản
hóa Argumentum ommi denu datum ornamento(7)- Ông giáo sĩ dòng Tên tiếp - Tôi sẽ
triển khai thành hai tập khổ như tập này.
Và trong
lúc đang hứng khởi ông ta đấm tay lên cuốn Thánh Crixếtxtôn khổ to, làm võng cả
mặt bàn dưới sức nặng của nó.
D'
Artagnan rùng người.
- Đúng
vậy rồi, Aramis nói - Tôi xin trả lại sự đúng đắn cho những vẻ đẹp của luận
thuyết đó, nhưng đồng thời tôi cũng nhận ra nó nặng nề đối với tôi. D' Artagnan
thân mến, tôi đã chọn cái tên bài này, anh cho biết liệu anh có thích không:
Non inutile est desiderium in oblatone hoặc thế này thì hay hơn. Còn hơi luyến
tiếc thì không hợp với lễ vật dâng lên Chúa.
- Dừng
lại đi? - Giáo sĩ dòng Tên to tiếng - bởi cái luận đề ấy sa vào tà giáo. Có một
đề thuyết gần giống như vậy trong cuốn Ôgúttinutx của tên dị giáo Jăngxêniuytx,
mà sớm muộn gì cuốn sách đó cũng bị đốt bởi bàn tay đao phủ. Coi chừng, ông bạn
trẻ, ông đang ngả về những tà thuyết đấy, ông có nguy cơ đấy!
- Ông có
cơ nguy đấy! - Ông mục sư vừa nói vừa lắc đầu đau đớn. Ông đang đến sát cái
quan điểm trứ danh của tự do ý chí nó là một mỏm đá ngầm đó. Ông đang đến gần
kề những lối bóng gió của bọn Pêlagiêng và nửa Pêlagiêng(8).
- Nhưng
thưa đức cha… - Aramis nói sau loạt lý sự đổ lên đầu mình như mưa đá.
Vị thầy
tu dòng Tên không để chàng kịp nói tiếp:
- Làm
sao ông có thể chứng minh được người ta lại luyến tiếc trần gian khi hiến thân
dâng Chúa? Hãy nghe cái quan điểm hai mặt này: Chúa là chúa và trần gian là quỷ
dữ, luyến tiếc trần gian là luyến tiếc quỷ dữ; đó là kết luận của tôi.
- Cũng
là của tôi nữa - Ông mục sư nói.
- Nhưng
làm ơn… - Aramis nói tiếp.
-
Desideras diabolum(9) hơi con người bất hạnh! - Giáo sĩ dòng Tên kêu lên.
- Ông ta
luyến tiếc quỹ dữ! Chà, ông bạn trẻ - Ông mục sư rên rỉ nói - đừng luyến tiếc
quỷ dữ làm gì, tôi van ông đấy.
D'
Artagnan không buồn nghe thứ tiếng nhố nhăng ấy nữa. Chàng cảm thấy như đang
trong một ngôi nhà của lũ điên, và chàng cũng sắp phát điên như họ. Có điều
chàng buộc phải im miệng, vì chẳng hiểu gì về cái thứ tiếng đang nói trước mặt
mình.
- Nhưng
các vị hãy nghe tôi đã nào - Aramis nói tiếp với vẻ lễ độ nhưng đã bắt đầu lộ
ra đôi chút bực bội. - Tôi không nói là tôi luyến tiếc - Không, tôi không bao
giờ đọc lên cái câu không chính giáo ấy…
Giáo sĩ
dòng Tên giơ hai tay lên trời, ông mục sư cũng làm theo:
- Không,
nhưng ít nhất ông cũng phải công nhận rằng thật chẳng ra gì khi chỉ đem hiến
dâng cho Chúa những gì mà mình đã hoàn toàn phát ngán. Tôi nói có đúng không,
D' Artagnan?
- Ừ, thì
đúng! - D' Artagnan nói to.
Ông mục
sư và ông giáo sĩ bật người lên. Aramis nói:
- Tam
đoạn luận là xuất phát điểm của tôi, thế gian không thiếu sức cám dỗ, tôi rời
bỏ thế gian, vậy là tôi đã hy sinh. Thánh kinh nói một cách tích cực hơn: Hãy
hy sinh cho Chúa.
- Điều
đó đúng! - Những người đối lập nói.
- Và rồi
- Aramis vừa tiếp tục - vừa bấm vào tai cho đỏ lên và vung vẩy hai tay cho
trắng lên - Và rồi tôi đã làm một đoản khúc về vấn đề đó, năm ngoái tôi đã đưa
cho ông Voatuya xem và ông ta đã hết lời khen ngợi.
- Một
đoản khúc! - ông mục sư lắp lại như cái máy.
- Đọc
đi! Đọc đi! D' Artagnan nói to - May ra nó thay đổi không khí một chút.
- Không
thay đổi gì đâu, bởi nó vẫn là tôn giáo - Aramis trả lời - Đó là thần học viết
thành thơ.
- Chết
cha người ta! - D' Artagnan nói.
- Nó đây
- Aramis nói với vẻ hơi khiêm tốn không ngoại trừ đượm màu đạo đức giả.
Anh khóc
thương quá khứ đầy mê hoặc
Và gánh
chịu những người bất hạnh kia
Mọi nỗi
đau rồi cũng sẽ xa lìa
Khi dâng
hiến lệ mình riêng cho Thượng đế
Ôi anh
đang khóc thương như thế.
D'
Artagnan và ông mục sư tỏ vẻ khoái lỗ tai lắm. Còn giáo sĩ dòng Tên vẫn khăng
khăng giữ ý kiến của mình.
- Ông
hãy cẩn thận với các sở thích phàm tục trong văn phong thần học. Thật quả,
thánh Augustin đã nói thế nào nhỉ? Severussti Clericsorum sermo.
- Vâng,
phải để lời thuyết giáo được rõ ràng. - Ông mục sư nói.
Thấy
người phụ tá của mình lạc đề, giáo sĩ dòng Tên vội ngắt lời:
- Những
luận đề của ông sẽ làm đẹp lòng các quý bà, có thế thôi. Nó sẽ có được thành
tích như một bài biện hộ của thầy cãi - Patru(10).
- Cầu
trời, phù hộ! - Aramis tràn trề vui sướng reo lên.
- Ông
thấy đấy nhé! - Tu sĩ dòng Tên nói to - Trần tục hãy còn cất cao tiếng nói
trong ông. Altisima voce (tiếng Latinh: cao giọng) ông theo thế tục, ông bạn
trẻ ạ, và tôi sợ rằng ơn cứu rỗi không có chút hiệu quả nào.
- Xin
đức cha tôn kính yên tâm, tôi xin đảm bảo về tôi.
- Một
giọng tự phụ phàm tục!
- Thưa
cha, tôi hiểu mình chứ, quyết định của tôi là bất di bất dịch.
- Vậy
ông vẫn bướng bỉnh theo đuổi luận đề đó?
- Tôi tự
cảm thấy mình được kêu gọi xử lý luận đề đó chứ không bất kỳ luận đề nào khác,
vậy tôi sẽ tiếp tục, và ngày mai, tôi hy vọng cha sẽ thỏa mãn về những điều tôi
sẽ sửa lại theo ý kiến cha.
- Ông cứ
làm từ từ thôi - Ông mục sư nói - chúng tôi sẽ để cho ông được chuẩn bị tốt
nhất.
Giáo sĩ
dòng Tên nói:
- Phải,
đất đai đã được gieo hạt khắp rồi và chúng ta không có gì để sợ một phần hạt bị
rơi xuống đá, một phần rơi vãi dọc đường và phần còn lại Chúa trời ăn nốt, aves
coeli comederumt illam.
D' Artagnan
nói:
- Cho ôn
dịch bóp chết cái tiếng Latinh của ngươi đi!
- Xin
chào, con trai, hẹn đến mai - Ông mục sư nói.
- Hẹn
đến mai, chàng trai táo tợn - tu sĩ dòng Tên nói - Ông hứa sẽ thành một trong
những vầng sáng của nhà thờ, cầu trời cho vầng sáng ấy không thành một vầng lửa
ngốn ngấu.
D'
Artagnan suốt một tiếng đồng hồ gặm móng tay sốt ruột bắt đầu gặm cả vào thịt.
Hai
người mặc đồ đen đứng dậy chào Aramis và D' Artagnan rồi tiến ra phía cửa.
Bazin vẫn đứng đó lắng nghe cuộc cãi lý với vẻ hân hoan sùng kính, liền lao về
phía họ đỡ lấy quyển kinh, đi trước để dẫn đường cho họ.
Aramis
ra tiễn tới tận chân cầu thang rồi lên ngay với D' Artagnan đang mơ màng.
- Còn
lại mình họ, hai người bạn thoạt tiên vẫn giữ im lắng lúng túng nhưng rồi cũng
phải có một trong hai người phá tan sự im lặng đó, và D' Artagnan có vẻ muốn
nhường vinh dự đó cho bạn mình:
- Anh
thấy đấy, - Aramis nói - Anh thấy tôi trở về với những ý tưởng căn bản của
mình.
- Phải,
ơn cứu rỗi đã tiếp xúc với anh rồi, như các ông ấy vừa rồi đã nói đó.
- Ồ, kế
hoạch rút lui đã hình thành từ lâu, và anh đã từng nghe tôi nói, có phải không,
bạn tôi?
- Hẳn
vậy, nhưng tôi xin thú thực tôi tưởng anh chỉ đùa thôi.
- Đùa
với những loại chuyện như vậy ư? Ôi, anh D' Artagnan!
- Mẹ
kiếp! Đùa cả với cái chết ấy chứ?
- Và
người ta đã nhầm, D' Artagnan ạ, bởi cái chết chính là cửa ải, dẫn đến sự ngộ
nan hoặc cứu rỗi.
- Đồng
ý, nhưng làm ơn đi, đừng nói về thần học với nhau nữa, Aramis, anh chắc còn
khối thì giờ để nghĩ đến chuyện đó, còn tôi, tôi xin thú thật, tôi gần như quên
hết một tí vốn Latinh mà tôi chẳng bao giờ hiểu cả, tôi cũng xin thú thật với
anh, từ mười giờ sáng nay, tôi chưa ăn uống gì cả và tôi đang đói chết cha đây.
- Chúng
ta sẽ ăn trưa ngay thôi, bạn thân mến ạ, có điều mong anh nhớ cho, hôm nay thứ
sáu, mà trong những ngày này, tôi không thể nhịn cũng không thể ăn thịt được.
Nếu anh hài lòng ăn trưa với tôi, thì bữa ăn chỉ có rau tứ giác luộc với trái
cây thôi.
- Rau tứ
giác là loại gì vậy? - D' Artagnan lo lắng hỏi.
- Là rau
dền ấy mà - Aramis nói tiếp - nhưng với anh tôi sẽ thêm trứng và đấy là phạm
luật nghiêm trọng rồi, vì trứng là thịt, vì trứng nở ra gà con.
- Bữa
tiệc này chẳng ngon lành gì, nhưng cóc cần, để ở lại với anh, tôi chịu được
hết.
- Tôi
rất biết ơn anh về sự hy sinh ấy - Aramis nói - Nhưng nếu như nó không có lợi
gì cho thể xác anh, nó sẽ có lợi cho tâm hồn anh, xin anh hãy tin chắc như vậy.
- Như
thế, Aramis, tức là anh dứt khoát đi tu rồi. Bạn bè chúng ta sẽ nói sao, ông De
Treville sẽ nói ra sao? Họ sẽ coi anh là kẻ đào ngũ tôi xin báo trước cho anh
như vậy.
- Tôi
không đi tu, tôi trở lại việc tu hành. Chính là vì trần thế mà tôi đã đào ngũ
khỏi nhà thờ, bởi anh cũng biết rằng tôi đã tự ép buộc mình khoác áo ngự lâm
quan.
- Tôi,
tôi chẳng biết cái gì cả?
- Anh
không biết tôi đã rời bỏ tu viện.
- Hoàn
toàn không.
- Đây là
chuyện của tôi. Vả lại Thánh kinh nói: "Các con hãy sám hối với
nhau". Vậy tôi xin sám hối với anh, D' Artagnan.
- Và tôi
tôi xá tội cho anh trước, anh thấy tôi nhân từ chưa.
- Xin
đừng đùa với những chuyện của thánh thần, bạn tôi ạ.
- Vậy
anh nói đi tôi nghe đây:
"Tôi
vào tu viện từ năm chín tuổi. Tới khi ba ngày nữa tôi tròn hai mươi tuổi, tôi
sắp thành tu viện trưởng. Một việc đã được ấn định rồi. Một tối, theo thói quen
tôi đi đến một ngôi nhà vẫn thích thú lui tới. Khi người ta trẻ, người ta
thường yếu đuối, làm thế nào được. Một viên sĩ quan nhìn tôi bằng con mắt ghen
tuông khi thấy tôi đang đọc cuốn "Những cuộc đời của Thánh nhân" cho
nữ chủ nhân ngôi nhà nghe, liền bất thình lình xộc vào nhà không báo trước.
Đúng buổi tối hôm ấy tôi đã dịch một mẩu chuyện của Juyđít và tôi cũng vừa đưa
mấy câu thơ cho nữ chủ nhân xem, bà ta hết lời khen ngợi và ngả vào vai tôi để
cùng đọc với tôi. Cái tư thế ấy có đôi chút hơi buông thả, tôi phải thú nhận
như vậy và đã làm viên sĩ quan tổn thương, gã không nói gì nhưng khi tôi đi ra,
hắn cũng ra theo và đuổi kịp tôi.
- Thưa
ông tu viện trưởng - hắn nói - Ông có thích ăn đòn không?
- Tôi
không thể nói điều ấy được, thưa ông - tôi đáp - vì không ai dám cho tôi bao
giờ cả.
- Vậy
nghe đây, ông tu viện trưởng, nếu ông còn trở lại ngôi nhà, mà tôi đã gặp ông
tối nay, thì tôi dám đấy.
- Tôi
tin là tôi cũng sợ, tôi tái hẳn người đi, cảm thấy như chân mình không còn nữa,
tôi tìm một câu trả lời mà không được, tôi đành im.
Viên sĩ
quan đợi câu trả lời đó và thấy mãi không có, hắn phá lên cười, quay lưng lại
phía tôi và trở vào ngôi nhà. Tôi trở về tu viện.
Tôi là
nhà quý tộc dòng dõi, và tôi có bầu máu nóng, như anh đã có thể nhận thấy, D'
Artagnan thân mến, sự lăng mạ thật là khủng khiếp mặc dầu chẳng ai biết chuyện
đó, tôi vẫn cảm thấy nó sống động trong đáy tim tôi. Tôi tuyên bố với các bề
trên của tôi rằng tôi cảm thấy chưa chuẩn bị đầy đủ cho việc thụ phong và theo
yêu cầu của tôi, người ta lui lễ lại một năm.
Rồi tôi
xin thày dạy gươm bậc nhất ở Paris, đặt điều kiện với ông mỗi ngày học một bài
đấu gươm và cứ như thế tôi học trong vòng một năm. Rồi tới ngày kỷ niệm một năm
tôi bị lăng nhục, tôi treo áo thày tu lên, mặc một bộ đồng phục kỵ sỹ, rồi tôi
đến một vũ hội do một quý bà, bạn tôi tổ chức và tôi biết con người kia của tôi
thế nào cũng có mặt. Vũ hội ở phố Những thị dân tự do cạnh ngay phố Sức mạnh.
Quả
nhiên viên sĩ quan của tôi có mặt. Tôi lại gần hắn, lúc hắn đang vừa hát một ca
khúc ngắn về tình yêu vừa trìu mến nhìn một phụ nữ và tôi ngắt lời hắn giữa
điệp khúc thứ hai. Tôi bảo hắn:
- Thưa
ông, ông vẫn không hài lòng khi tôi quay lại ngôi nhà ở phố Payen và ông không
còn cho tôi xơi đòn nữa, nếu như tôi nảy ra ý nghĩ kỳ quặc không tuân lời ông
đấy chứ?
Viên sĩ
quan nhìn tôi ngạc nhiên rồi nói:
- Ông
muốn gì tôi thưa ông? Tôi không quen biết ông.
- Tôi là
viên tu viện trưởng nhỏ đọc cuốn "Cuộc đời các Thánh nhân" và dịch
Juyđít thành thơ ấy mà.
- À, à…
Tôi nhớ ra rồi - Viên sĩ quan chớt nhả - Ông muốn gì tôi nào?
- Tôi
muốn ông có chút thì giờ nhàn rỗi đi dạo một vòng với tôi.
- Sáng
mai, nếu ông muốn, và sẽ không gì làm tôi vui bằng.
- Không
sáng mai gì cả, yêu cầu ông ngay lập tức.
- Nếu
ông dứt khoát đòi như vậy.
- Phải,
tôi đòi thế đấy.
- Vậy,
ra thôi; thưa các quý bà - Viên sĩ quan nói - xin cứ tự nhiên. Đủ thì giờ để
giết ông đây thôi và tôi sẽ quay lại hoàn tất điệp khúc cuối hầu các quý bà.
Chúng
tôi đi ra.
- Tôi
dẫn hắn đến phố Payen, đúng địa điểm một năm trước, đúng đến cả giờ hắn đã chúc
mừng tôi, mà tôi vừa kể đó. Trăng sáng tuyệt đẹp, chúng tôi cầm gươm và ngay
miếng đầu tiên, tôi đâm hắn chết tươi.
- Khiếp
nhỉ! - D' Artagnan nhận xét.
Aramis
tiếp tục:
- Thế
rồi, vì các quý bà không thấy ca sĩ của mình trở lại, và người ta tìm thấy xác
hắn ở phố Payen với một nhát gươm rất đậm xuyên qua người, người ta nghĩ chính
tôi đã dính vào chuyện đó, và sự việc trở thành bê bối. Vì vậy tôi buộc phải
cởi bỏ chiếc áo thày tu ít lâu. Athos mà tôi làm quen thời kỳ đó và Porthos là
người đã dạy tôi thêm vài ngón gươm giang hồ ngoài những bài đấu gươm tôi đã
học, cả hai quyết định tôi xin vào ngự lâm quân. Nhà Vua rất yêu quý cha tôi bị
chết trong trận vây Arát nên đã ban chiếc áo ngự lâm quân cho tôi. Bây giờ, anh
chắc hiểu đã đến lúc tôi phải trở lại trong sự nâng niu che chở của nhà thờ.
- Và tại
sao hôm nay chứ không hôm qua hoặc ngày mai? Hôm nay cái gì đã xảy ra với anh,
khiến anh có những ý nghĩ dữ tợn đến như vậy?
- D'
Artagnan thân mến ạ, vết thương này đã là một lời cảnh cáo của Thượng đế đối
với tôi.
- Vết
thương ư? Chết tiệt? Nó đã gần khỏi rồi. Tôi tin chắc không phải nó làm anh đau
đớn nhất.
- Thế
thì cái gì? - Aramis đỏ mặt hỏi.
- Nó ở
trong tim anh cơ! Aramis, một vết thương sâu và đẫm máu hơn, một vết thương do
một người đàn bà kia.
Mắt
Aramis long lanh lên ngoài ý mình, chàng giấu xúc động của mình dưới vẻ giả vờ
hững hờ và nói:
- Đùng
nói về những chuyện ấy nữa! Tôi mà lại đi nghĩ đến những chuyện ấy ư? Lại có
những sầu muộn tình yêu ư? Vanitas Vanitatum!(11) vậy theo ý anh, đầu óc tôi đã
bị đảo lộn rồi ư? Và vì ai? Vì con bé lam lũ lẳng lơ nào, hay cô ả hầu phòng
nào mà tôi đã tán tỉnh trong trại lính ư? Xì!
- Xin
lỗi, Aramis thân mến, nhưng tôi tin anh hướng lên tầm cao hơn kia.
- Cao
hơn? Và tôi là ai mà lại đi có tham vọng đến thế? Một gã ngự lâm quân khốn khổ
vô cùng quẫn bách, và hết sức tối tăm, căm ghét sự quỵ lụy và cảm thấy quá ư
lạc lõng trong thế giới thời lưu.
- Aramis
ơi là Aramis ơi! - D' Artagnan vừa kêu lên vừa nhìn bạn mình với vẻ nghi ngờ.
- Cát
bụi, tôi trở về cát bụi. Cuộc đời là biển nhục, là bể khổ, chàng tiếp tục và
sầm mặt lại - Mọi sợi dây gắn kết hạnh phúc với cuộc đời lần lượt bị đứt gãy
trong bàn tay con người nhất là những sợi dây bằng vàng - Ôi, D' Artagnan thân
mến của tôi - Aramis vừa tiếp tục vừa đem đến một vẻ cay đắng nhẹ nhàng cho
giọng nói của mình - hãy tin tôi, hãy giấu kín những vết thương, đi nếu anh có.
Sự im lặng là niềm vui cuối cùng của những con người bất hạnh, hãy giữ đừng để
bất kỳ ai biết được dấu tích của những đau khổ của anh, những kẻ tò mò sẽ bâu
vào hút nước mắt anh như lũ ruồi bâu vào hút máu một con hoẵng bị thương vậy.
- Than
ôi! Aramis thân mến! - D' Artagnan đến lượt mình cũng thở dài nói - Chuyện anh
nói cũng chính là chuyện của bản thân tôi đấy!
- Làm
sao?
- Phải,
một người đàn bà tôi yêu, tôi tôn thờ, vừa bị dùng bạo lực bắt cóc. Tôi không
biết hiện giờ nàng ở đâu, người ta dẫn nàng tới đâu, nàng có thể là tù binh,
cũng có thể nàng đã chết.
- Nhưng
ít ra anh cũng có được niềm an ủi để tự bảo rằng nàng đã không tự nguyện rời bỏ
anh, rằng nếu anh không có được chút tin tức nào của nàng, chính vì mọi thông
tin với anh đều bị ngăn cấm, trong khi…
- Trong
khi…
- Không
- Aramis tiếp - không có gì.
- Như
vậy, anh mãi mãi từ bỏ trần thế, một quyết định dứt khoát rồi chăng?
- Hoàn
toàn mãi mãi. Hôm nay anh là bạn tôi. Ngày mai anh chỉ còn là một cái bóng với
tôi mà thôi, hoặc hơn nữa, anh không tồn tại nữa. Còn thế gian, đó chính là một
phần mộ chứ không phải cái gì khác.
- Quỷ sứ
ơi! Điều anh nói với tôi thật quá thảm sầu!
- Anh
còn muốn gì? Thiên hướng của tôi cuốn hút tôi, và bắt tôi đi!
D'
Artagnan mỉm cười và không trả lời. Aramis tiếp tục:
- Tuy
nhiên, chừng nào tôi vẫn còn trên trái đất này, tôi vẫn muốn nghe nói về anh,
về các bạn của chúng ta.
- Và tôi
- D' Artagnan nói - tôi lại muốn nói với anh về chính anh, nhưng tôi thấy anh
đã quá tách mình ra khỏi tất cả. Những mối tình, anh không thèm nữa, bạn bè là
những cái bóng, thế giới là một phần mộ.
Aramis
thở dài:
- Than
ôi! Rồi chính anh cũng sẽ thấy như vậy.
- Thôi
không nói về những cái ấy nữa - D' Artagnan nói - và ta đốt quách bức thư, chắc
chắn, chỉ có thông báo cho anh biết một sự phụ bạc mới của một ả lẳng lơ hoặc
một cô hầu phòng của anh mà thôi.
- Thư
nào? - Aramis vội reo lên hỏi.
- Một
bức thư gửi đến cho anh, anh vắng mặt, nên nhờ tôi chuyển cho anh.
- Nhưng
bức thư của ai?
- À, của
một hầu gái khóc lóc, một ả lam lũ lẳng lơ đang thất vọng nào đó, có thể là cô
gái hầu phòng của bà De Chevreuse cũng nên, cô ta buộc phải trở lại thành Tours
với nữ chủ nhân của mình, và để làm ra vẻ tao nhã đã dùng giấy thơm và đã niêm
phong thư của mình bằng con dấu của nữ Công tước.
- Anh
bảo sao cơ?
- Xem
nào hay tôi đánh mất rồi! - D' Artagnan tinh quái vừa nói vừa giả vờ tìm - May
sao thế gian là một phần mộ, những người đàn ông, do đó cả những người đàn bà
nữa đều là những cái bóng, và tình yêu là thứ tình cảm mà anh không thèm nữa!
- A, D'
Artagnan ơi là D' Artagnan? - Aramis kêu lên - Cậu làm tớ chết mất thôi?
- A, nó
đây rồi! - D' Artagnan nói. Và chàng rút bức thư ra khỏi túi.
Aramis
chồm đến giật lấy bức thư bóc ra đọc, đúng hơn là ngốn ngấu, mặt bừng sáng lên.
- Hình
như ả hầu gái văn phong hay lắm! - Người đưa thư uể oải nói.
- Cám ơn
D' Artagnan! - Aramis sướng mê lên rối rít - Nàng buộc phải trở lại thành
Tours. Nàng không phụ bạc mình. Lại đây, lại đây cho mình ôm hôn bạn. Mình đến
ngất vì sung sướng mất!
Và hai
người bạn ôm lấy nhau nhảy múa xung quanh cuốn kinh Thánh Critxtôm giẫm đạp một
cách can trường lên những trang luận văn lăn lóc trên sàn nhà.
Đúng lúc
đó, Bazin bước vào cùng với rau dền và trứng rán.
Aramis
ném cái mũ chỏm thầy tu vào mặt gã hét lên:
- Tếch
đi, đồ khốn kiếp? Từ đâu đến hãy xéo về đấy! Mang hết những thứ rau hãi hùng và
món phụ ghê tởm này đi! Gọi một thỏ rừng nấu chua, một gà thiến béo, một đùi
cừu ướp tỏi và bốn chai Buốcgô lâu năm cho ta.
Bazin
ngơ ngác nhìn chủ chả hiểu gì về sự thay đổi ấy cả, rầu rĩ mặc cho trứng rớt
xuống rau và rau rớt xuống sàn.
D'
Artagnan thấy vậy nói:
- Giờ
đây là lúc cống hiến đời anh cho Đức Vua của các Nhà vua, nếu anh còn định giữ
chút lễ nghĩa với người. Non inutile desderium in oblatione.
- Vứt mẹ
nó thứ tiếng Latinh của cậu cho quỷ sứ đi!
- D'
Artagnan thân mến. Chúng ta hãy uống! Mẹ kiếp! Uống tươi uơng sống! Uống thật
nhiều vào, và kể cho mình nghe người ta làm gì ở đó đi?
Chú thích:
(1) Rút từ "Jêrudalem giải phóng"
anh hùng ca của nhà thơ Ý Torquato Tasso (1544-1595). Một nhân vật có sắc đẹp
quyến rũ nhất của Jêrudalem đã giữ chân người anh hùng Rinaldo lạỉ trong khu
vườn được phù phép. Thường dùng vườn Aramis để chỉ việc dùng sắc đẹp quyến rũ
và làm điên đảo các tu mi nam tử.
(2) Tiếng Latinh có nghĩa: hoàn toàn tuyệt
vời.
(3) Bơi dễ dàng hơn.
(4) Nhập đề, vào đề
(5) Đúng như sự bao la của thượng giới.
(6) Môixe, theo Cựu ước. một chiến binh một
chính khách. ngưới giải phóng, nhà đạo đức, nhà lập pháp của dân tộc Hêbrơ, vốn
chỉ là một đứa bé do một người đàn bà ở bộ tộc Lévi bỏ rơi trên sông Nile.
(7) Tiếng Latinh có nghĩa: Lời tranh cãi được
chuyển hoàn toàn thành lời hoa mỹ hoặc lời giải thích cặn kẽ
(8) Giáo phái xuất xứ thời Brơtông, thế kỷ 5,
phủ nhận tác dụng của sự cứu rỗi và tội truyền kiếp.
(9) Tiếng Latinh: Sự thèm muốn quỷ dữ
(10) Olivier Patru - một luật sư nổi tiếng thế
kỷ 17.
(11) Tiếng Latinh: Phù phiếm cả mà thôi!
BA NGƯỜI
LÍNH NGỰ LÂM
Chương
27
Người vợ
của Athos
Sau khi
đã kể cho chàng Aramis lanh lợi biết rõ mọi việc diễn ra ở kinh đô từ khi họ ra
đi và một bữa trưa thịnh soạn làm cho người thì quên đi bản luận văn, người thì
quên hẳn nỗi mệt nhọc, D' Artagnan nói:
- Bây
giờ việc còn lại là phải biết tin tức về Athos.
- Cậu
tin anh ấy gặp bất hạnh ư? - Aramis hỏi - Anh Athos rất chi lạnh tính, rất can
trường và là tay gươm rất giỏi kia mà.
- Hẳn
thế rồi, và không ai biết rõ hơn tôi về lòng can đảm và tay gươm tuyệt vời của
Athos. Nhưng tôi thích gươm tôi đấu với giáo hơn là với gậy. Tôi sợ rằng anh
Athos sẽ bị bọn gia nhân quần cho tơi bời, mà lũ gia nhân thì chúng đánh dữ và
dai lắm. Vì vậy mà tôi phải thú thật với anh, tôi muốn lại ra đi ngay càng sớm
càng tốt.
- Mình
sẽ cố đi cùng với cậu - Aramis nói - cho dù mình cảm thấy chưa đủ sức lên ngựa
mấy. Hôm qua, mình đã thử dùng cái roi hành xác treo trên tường đó, và đau quá
mình không thể tiếp tục được cái bài tập thành kính ấy.
- Chính
thế đấy, bạn thân mến, chả ai bao giờ thấy việc thử chứa một phát đạn hỏa mai
bằng vụt roi vào người cả. Nhưng anh còn ốm, và ốm đau làm cho đầu óc không
tỉnh táo, tôi bỏ qua cho anh. Mai, sớm tinh mơ. Đêm nay anh cứ ngủ cho thật tốt
vào, và ngày mai, nếu anh có thể, chúng ta sẽ cùng đi.
- Vậy để
đến mai - Aramis nói - vì dù có xương đồng da sắt đi nữa, cậu cũng cần phải
nghỉ ngơi.
Hôm sau,
khi D' Artagnan bước vào phòng Aramis, đã thấy Aramis ở cửa sổ, D' Artagnan
hỏi:
- Anh
nhìn gì ở đó thế?
- Thú
thật! Tôi đang chiêm ngưỡng ba con ngựa đẹp lộng lẫy mà bọn trai coi ngựa đang
giữ cương. Cưỡi những con ngựa đó mà đi du hành thì sướng như ông hoàng.
- Thế
thì anh Aramis thân mến của tôi ơi, anh hãy sướng đi bởi vì một trong mấy con
ngựa đó là của anh.
- Thật
không? Thế con nào?
- Con
anh thích nhất trong ba con ấy, tôi thì con nào cũng thế thôi.
- Và cả
tấm thảm đắt giá phủ lưng ngựa cũng là của tôi?
- Chắc
chắn rồi.
- Cậu
định giỡn tôi chắc, D' Artagnan?
- Từ lúc
anh nói tiếng Pháp, tôi không còn giỡn anh nữa.
- Cả
những bao súng ngắn mạ vàng, tấm nhung phủ hông ngựa, bộ yên ghim đinh bạc cũng
là của tôi?
- Của
chính anh, cũng như con ngựa đang dậm chân là của tôi và cái con đang nhảy nhót
kia là của Athos.
- Mẹ
kiếp! Đúng là ba con ngựa tuyệt luân?
- Tôi
rất mừng vì chúng hợp với sở thích của anh.
- Vậy là
nhà Vua đã ban tặng cậu món quà đó ư?
- Chắc
chắn không phải của Giáo chủ rồi. Nhưng anh đừng bận tâm chúng từ đâu đến, hãy
nghĩ một trong ba con thuộc của anh thôi.
- Mình
lấy cái con thằng hầu tóc hung đang giữ ấy.
- Cừ
lắm!
- Thượng
đế muôn năm! - Aramis reo lên - Thế này thì còn đau ở đâu cũng sẽ hết. Ba mươi
phát đạn vào người, mình vẫn sẽ phi nó cho mà xem. Ôi, thề trên linh hồn mình
đó, những cái bàn đạp mới đẹp tuyệt chứ! Ê, nào, Bazin đâu, đến đây ngay tức
khắc đi!
Bazin
rầu rĩ và héo úa người đi, hiện ra trước cửa.
- Lau
chuốt thanh gươm của ta, nắn lại mũ, chải lại áo khoác và nạp đạn thuốc vào mấy
súng ngắn cho ta.
D'
Artagnan ngắt lời:
- Không
cần lời dặn cuối đâu. Đã có sẵn súng ngắn nạp thuốc rồi trong các bao súng.
Bazin
thở dài.
- Thôi
nào, thầy Bazin, yên tâm đi - D' Artagnan nói - - Người ta có thể đến được
vương quốc cái thiên thần trong mọi hoàn cảnh mà.
- Ông
chủ đã từng là một nhà thần học tài ba! - Bazin nói mà rưng rưng nước mắt - Ông
ấy có thể trở thành giám mục hoặc hồng y Giáo chủ ấy chứ.
- Thôi
nào! Bazin khốn khổ của ta ơi, đừng nghĩ ngợi làm gì. Là người tu hành thì làm
được cái gì, ta xin anh đấy. Mà tu hành thì có tránh ra trận được đâu. Anh thừa
biết Giáo chủ ra trận lần đầu với cái mũ bình thiên và ngọn giáo trong tay. Còn
ông Nôgarê đờ la Valét, anh nói thế nào? Ông ta cũng là Giáo chủ đấy. Thử hỏi
lính hầu của ông ta xem bao nhiêu lần phải băng bó cho ông ta?
- Ôi!
Bazin thở dài - tôi cũng biết thế, thưa ông, ngày nay mọi chuyện trong thế giới
đều lộn tùng phèo hết.
Trong
khi đó, hai chàng trai trẻ và gã người hầu khốn khổ cùng đi xuống. Rồi Aramis
nói:
- Giữ
bàn đạp cho ra, Bazin.
Rồi
Aramis nhẹ nhàng, duyên dáng nhảy tót lên yên ngựa như mọi khi, nhưng chỉ sau
mấy lần con ngựa quý nhảy cỡn và chồm lên, chàng kỵ sĩ của nó cảm thấy đau
không chịu nổi, tái người đi và lảo đảo. D' Artagnan đã tiên liệu tai nạn đó,
nên vẫn không rời mắt, liền chạy băng tới, đỡ xuơng và dẫn bạn mình về phòng
rồi bảo:
- Tốt
rồi, Aramis thân mến, anh cứ chữa trị đi, tôi sẽ đi một mình tìm Athos.
- Cậu
đúng là một con người thép - Aramis nói.
- Không,
tôi may hơn, có thế thôi. Nhưng trong khi đợi tôi, anh sẽ sống ra sao? Không
còn những lời chú giải về số ngón tay ban phúc và những lời ban phúc nữa chứ,
hả?
Aramis
mỉm cười, nói:
- Mình
sẽ làm thơ.
- Phải
đấy, những vần thơ thơm nức mùi nước hoa bức thư ngắn của ả hầu bà De
Chevreuse. Anh hãy dạy âm vận thơ cho Bazin đi, cái đó sẽ an ủi gã. Còn con
ngựa, hàng ngày cưỡi nó một chút để điều khiển nó cho quen đi.
- Ồ về
chuyện đó, cậu cứ yên tâm - Aramis nói - Khi trở lại cậu sẽ thấy mình đã sẵn
sàng theo cậu rồi.
Họ chào
tạm biệt nhau, và sau khi đã ủy thác bạn mình cho Bazin và bà chủ quán, D'
Artagnan cho ngựa đi nước kiệu về phía Amiêng.
Chàng sẽ
tìm Athos thế nào đây và liệu có tìm thấy không? Chàng đã để bạn mình lại trong
tình thế hiểm nghèo. Người bạn thở dài khiến chàng buông khẽ những lời thề báo
hận.
Trong
tất cả số bạn bè, Athos là người nhiều tuổi nhất, và bề ngoài ít gần với sở
thích và tình cảm của chàng nhất. Tuy nhiên, chàng lại ưa thích con người quý
tộc ấy rõ rệt nhất. Phong thái cao quý và thanh lịch của anh ấy, tầm lớn lao
của anh thỉnh thoảng lại lóe sáng từ vùng bóng tối mà anh tự nguyện giấu mình
vào, tính tình điềm tĩnh không suy suyển khiến anh là người bạn dễ dãi nhất
trên đời, niềm vui bất đắc dĩ và cay đắng, sự can trường có thể gọi là mù quáng
nếu không phải là kết quả của sự bình tĩnh hiếm hoi nhất, bấy nhiêu phẩm chất
ấy của anh khiến chàng hết lòng ngưỡng mộ và còn hơn cả chỉ là quý trọng và bạn
bè thân thiết với anh.
Quả
thật, đem so sánh ngay với ông De Treville, một triều thần tao nhã và cao quý,
Athos trong những ngày anh vui vẻ, anh còn có phần hơn. Vóc người tầm thước,
nhưng thân hình lại quá ư cân đối, và tuyệt đẹp, mà, nhiều lần trong những cuộc
đấu sức anh đã quật đổ Porthos, gã khổng lồ mà sức mạnh thể xác đã trở thành
huyền thoại trong ngự lâm quân. Khuôn mặt với đôi mắt sắc, mũi thẳng, với chiếc
cằm như tượng tạc kiểu cằm của Brutus(1); một tính cách cao thượng và duyên
dáng khó xác định; đôi bàn tay không hề chăm chút nhưng vẫn làm cho Aramis phải
thất vọng mặc dầu chàng ra sức chăm sóc tay mình bằng kem hạnh nhân và dầu
thơm; giọng nói của anh nghe thấm thía lại du dương, và rồi, cái khó xác định
trong người Athos, người luôn luôn tỏ ra thấp kém và lu mờ, cái đó chính là cái
khoa học về thời lưu và về những lề thói của cái xã hội sáng giá nhất, cái thói
quen của một nhà dòng dõi tự lộ ra mà không hề hay biết trong những hành động
nhỏ nhặt nhất của mình.
Về mặt
ăn uống, Athos đặt ăn giỏi hơn bất kỳ ai, xếp khách ăn đúng chỗ và đúng ngôi
thứ mà tổ tiên hoặc chính bản thân họ đã tạo ra cho mình. Về khoa huân huy chương,
Athos thông thạo mọi gia tộc quý phái trong vương quốc, phả hệ của họ, sự liên
minh giữa các dòng họ, gia huy và nguồn gốc gia huy. Về nghi thức anh biết đến
từng chi tiết. Anh biết rõ quyền lợi của các đại điền chủ là thế nào. Anh biết
sâu sắc cách săn bắn bằng chó và chim ưng, và một hôm nhân đàm đạo về cái nghệ
thuật lớn này, anh làm Vua Louis XIII phải ngạc nhiên, trong khi đó, bản thân
nhà Vua thuộc lại bậc thầy.
Cũng như
các đại lãnh chúa thời ấy, anh cưỡi ngựa và sử dụng vũ khí thuộc loại thiện
nghệ. Thêm nữa việc học hành của anh không một chút xao lãng, ngay cả trong
lĩnh vực kinh viện học rất hiếm thấy trong giới quý tộc, anh chỉ mỉm cười khi
Aramis phun ra mấy câu Latinh cụt ngủn, còn Porthos thì ra vẻ hiểu. Vài ba lần
khi Aramis để lộ ra một sai lầm sơ đẳng nào đó, đặt động từ không đúng thời,
một danh từ không đúng cách, Athos đã sửa lại trước sự ngạc nhiên vô cùng của
các bạn. Ngoài ra, tính chính trực của anh là không thể lay chuyển được trong
cái thế kỷ mà các quân nhân quá dễ dàng coi nhẹ tôn giáo và lương tâm của mình,
các tình nhân quá dễ dàng coi nhẹ sự tế nhị nghiêm ngặt của thời đại chúng ta,
và những người nghèo coi nhẹ dễ dàng đối với điều răn thứ bẩy của Chúa. Vì vậy,
Athos quả là một con người rất phi thường.
Và tuy
vậy cái bản tính quá ưu việt, cái sinh linh quá tốt đẹp cái khí chất quá tinh
tế ấy quay lại một cách vô cảm với cuộc sống vật chất, cũng như các cụ già quay
lại với sự ngây ngô về thể xác và tinh thần. Athos trong những giờ phút thiếu
thốn đó, mà những giờ phút đó lại khá thường xuyên đã tự tắt trong cái phần tỏa
sáng của mình và cái mặt ngời ngời của anh bị biến mất trong đêm trường sâu
thẳm.
Thế là
phần bán thần tàn lụi, anh chỉ còn gần như một con người. Đầu gằm xuống, mắt lơ
mơ, lời nói nặng nề và khó khăn. Athos nhìn hàng mấy giờ liền hoặc cái chai và
chiếc cốc, hoặc Grimaud, kẻ đã quen vâng lời bằng tín hiệu và đọc được trong
con mắt vô sắc của chủ mình cả tới những ước muốn tầm thường nhất để thỏa mãn
chủ ngay tức khắc. Giá như bốn người bạn tụ hội vào nước lúc như thế, hết sức
cố gắng thất ra được một lời để góp vui vào câu chuyện cũng là hết mức đối với
Athos rồi. Đổi lại, Athos một mình uống bằng bốn người và tuy uống như thế,
nhưng anh tựa như không có gì thay đổi ngoài sự cau mày lộ liễu hơn và nỗi buồn
sâu sắc hơn.
D'
Artagnan như ta đã biết, vốn có óc xét đoán và sắc sảo, dù có đôi chút quan tâm
để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình về chuyện đó, cũng vẫn không thể gán cho nó
bất kỳ nguyên nhân nào, hoặc xác định được do hoàn cảnh nào đã dẫn đến tình
trạng suy sụp đó của Athos. Không bao giờ Athos nhận được thư từ, cũng chẳng
bao giờ tiến hành một việc gì mà các bạn không biết.
Không
thể nói rượu đem lại cho anh nỗi sầu muộn đó, trái lại anh chỉ uống để dẹp nỗi
buồn sầu mà phương thuốc đó càng làm thêm u uất hơn. Cũng không thể gán cho cái
vẻ u sầu thái quá ấy do thua bạc vì trái hẳn với Porthos tùy theo lúc đỏ đen
thường hát ca hay chửi rủa, Athos dù thua dù được vẫn bình thản như không.
Người ta đã từng thấy anh tại câu lạc bộ ngự lâm quân một tối được một nghìn
đồng vàng, rồi lại thua hết, và mất cả chiếc đai lưng thêu sợi vàng dùng trong
ngày hội, rồi lại được tất cả cộng thêm một trăm đồng vàng louis nữa, mà đôi
lông mày đẹp và đen nhánh của anh không hề dướn lên hay cúp xuống, mà đôi bàn
tay anh không hề mất đi vẻ ngà ngọc, và việc chuyện trò vui vẻ tối đó không vì
thế mà không bình tĩnh và thoải mái.
Càng
không phải, như những người láng giềng Anh quốc do ảnh hưởng của khí hậu mà sầm
tối mặt mày, bởi nỗi sầu muộn đó càng thấm đậm hơn vào những ngày đẹp trời
trong năm.
Tháng
sáu và tháng bảy là những tháng khủng khiếp của Athos. Đối với cuộc sống hiện
tại, anh không có gì buồn phiền, anh nhún vai khi người ta nói với anh về tương
lai. Bí mật của anh đã thuộc về quá khứ, như người ta đã nói một cách mơ hồ với
D' Artagnan.
Cái sắc
dạng bí ẩn nhuốm màu trên khắp người anh, khiến cái con người trong lúc say sưa
túy lúy nhất, đôi mắt và cái miệng cũng không bao giờ hé ra điều gì dù những
câu hỏi dò xét được đưa ra khéo léo nhất, càng được người ta mến mộ hơn.
D'
Artagnan lẩm bẩm giờ này Athos tội nghiệp có khi đã chết rồi, mà chết do lỗi
của ta, bởi chính ta đã lôi anh vào việc này, mà anh lại không biết gốc gác,
chẳng rõ kết quả, và cũng chẳng được lợi lộc gì.
- Chưa
kể, thưa ông - Planchet trả lời - Chúng ta sống có lẽ là nhờ ông Athos. Ông có
nhớ ông ấy đã kêu lên: "Chạy đi, D' Artagnan, tôi bị tóm rồi". Và sau
khi đã nổ hai phát súng ngắn, tiếng gươm vun vút của ông ấy mới khủng khiếp làm
sao!
- Có thể
nói đến hai chục người, đúng hơn là hai chục quỷ dữ đang điên dại!
Những
lời nói ấy làm tăng gấp bội bầu máu nóng của D' Artagnan, chàng thúc ngựa, mà
con ngựa thì chẳng cần phải thúc cũng đã mang người kỵ sỹ của mình phi nước đại
rồi.
Khoảng
mười một giờ sáng thì trông thấy Amiêng, và mười một rưỡi, hai người đã tới
trước cửa cái quán trọ đáng nguyền rủa.
D'
Artagnan vẫn thường luôn suy tính đến một cuộc trả thù thích đáng tên chủ quán
điên đảo này họa chăng mới thỏa lòng chàng. Chàng kéo mũ dạ sụp xuống che mắt,
tay trái giữ chuôi gươm tay phải quất roi ngựa vun vút bước vào quán trọ.
- Ông
còn nhớ tôi chứ? - chàng nói với chủ quán đang tiến ra để chào khách.
- Thưa
quý ông, tôi không có được cái vinh dự ấy - gã trả lời, mắt còn đang lóa lên vì
đoàn người ngựa quý giá xuất hiện cùng với chàng.
- Chà,
ông lại không biết ta ư?
- Không,
thưa quý ông.
- Thôi
được! Chỉ mấy câu hỏi là làm ông nhớ hết thôi. Ông đã làm gì nhà quý tộc cách
đây khoảng mười lăm ngày, đã bị ông cả gan buộc tội làm bạc giả?
Chủ quán
xanh mặt, bởi D' Artagnan tỏ thái độ hăm đọa dữ tợn nhất, và Planchet cũng làm
y như chủ mình.
- Ôi
thưa Đức ông, xin đừng nói với tôi về chuyện ấy, - tên chủ quán kêu lên bằng
một giọng muốn khóc - Ôi! Thưa đại nhân, tôi đã phải trả giá đắt chừng nào về
cái lỗi lầm này. Ôi, khốn nạn cái thân tôi!
- Nhà
quý tộc, ta hỏi ông, bây giờ ra sao?
- Xin
Đức ông nghe tôi nói, và xin đại lượng từ bi, xin làm phúc hãy ngồi xuống đã
nào.
D'
Artagnan giận và lo không nói được ra lời, ngồi xuống, hầm hầm như một quan
tòa. Planchet ngạo nghễ tựa lưng vào ghế bành của mình.
- Thưa
Đức ông, chuyện là như thế này - chủ quán run như cầy sấy nói tiếp - vì lúc này
tôi đã nhận ra ngài rồi, ngài là người đã đi mất khi tôi mắc vào cái chuyện rắc
rối khốn khổ với nhà quý tộc mà ngài nói.
- Phải,
chính ta, như vậy, ông thừa biết, ông đừng mong ta tha tội, nếu ông không nói
toàn bộ sự thật cho ta!
- Vậy
mong hãy nghe tôi, và ngài sẽ rõ tất cả.
- Ta
nghe đây.
- Tôi đã
được nhà đương cục báo trước một tên làm bạc giả trứ danh sẽ đến quán trọ tôi
với mấy tên đồng bọn tất cả đều cải trang dưới trang phục cận vệ hoặc ngự lâm
quân. Ngựa, người hầu và hình dạng các vị đều được miêu tả cho tôi rõ.
D'
Artagnan nhận ra ngay do đâu có sự chỉ điểm chính xác đến như thế. Chàng hỏi:
- Rồi
sao nữa? Sao nữa?
- Vậy là
được nhà đương cục phái đến sáu người tiếp viện, và ra lệnh cho tôi, tôi đã sử
dụng những biện pháp mà tôi cho là khẩn cấp để bắt giữ kỳ được mấy người bị mạo
danh làm bạc gia.
Nghe mấy
tiếng làm bạc giả. D' Artagnan nóng rực tai lên:
- Lại
vẫn nói thế hả?
- Xin
Đức ông tha thứ, vì đã chót nói ra những điều như vậy, nhưng đây thật ra chỉ là
cái cớ của tôi thôi. Nhà cầm quyền làm tôi sợ và ngài cũng biết một chủ quán
thì phải biết làm theo nhà cầm quyền.
- Nhưng
một lần nữa ta hỏi đây, nhà quý tộc ấy ở đâu? Ông ấy ra sao? Còn sống hay đã
chết?
- Thưa
Đức ông, xin hãy kiên nhẫn một chút, tôi nói ngay bây giờ đây. Vậy là xảy đến
cái điều ngài đã biết, mà việc ra đi đột ngột của ngài - chủ quán nói thêm với
vẻ ranh ma không lọt khỏi con mắt của D' Artagnan - việc ra đi ấy dường như đã
cho phép có lối thoát. Nhà quý tộc, bạn ngài chống cự tuyệt vọng.
- Người
hầu của ông ấy chẳng may vô tình gây sự với các nhân viên của nhà chức trách
cải trang làm bồi coi chuồng ngựa.
- Chà,
quân khốn kiếp! - D' Artagnan hét lên - tất cả bọn ngươi đã đồng lõa với nhau,
ta không hiểu vì cái gì mà chưa giết sạch lũ ngươi!
- Ôi,
không, thưa Đức ông, chúng tôi không đồng lõa cả lũ với nhau đâu, rồi Đức ông
sẽ thấy ngay thôi. Ngài bạn của Đức ông (tôi xin lỗi vì không biết tên) sau khi
đã loại khỏi vòng chiến hai người bằng hai phát súng ngắn, vừa đánh chống đỡ để
rút lui bằng lưỡi gươm của mình, rồi đâm què thêm một người nữa của tôi và dùng
mặt gươm quật tôi bất tỉnh.
- Nhưng,
tên đao phủ kia, mi có chấm dứt đi không? - D' Artagnan nói - Athos, ông Athos
ra sao kia?
- Vừa
đánh vừa lùi, như tôi đã nói với ngài, ông ấy thấy phía sau mình cầu thang của
hầm rượu và vì cửa đang mở, ông ấy rút chìa khóa cất đi và chặn lại từ bên
trong, vì người ta tin chắc có thể tìm lại ông ấy, họ để mặc cho ông ấy tự do.
- Phải -
D' Artagnan nói - người ta chưa định giết ông ấy nên mới chỉ tìm cách cầm tù
ông ấy thôi.
- Trời
ơi. Cầm tù ông ấy ư, thưa Đức ông? Ông ấy tự cầm tù thì có, tôi xin thề đấy.
Lúc đầu ông ấy đã làm một việc khốc liệt: một người bị chết tươi và hai bị
thương nặng. Người chết và hai người bị thương được đồng đội khênh đi và tôi
chẳng còn nghe thấy nói năng gì về người này, người khác trong bọn họ nữa. Bản
thân tôi khi tỉnh lại, tôi đến gặp ông trấn thủ kể lại mọi chuyện và hỏi tôi
phải làm gì với người tù. Nhưng ông trấn thủ như rơi từ trên mây xuống, ông nói
hoàn toàn chẳng hay biết gì điều tôi muốn nói, và những mệnh lệnh đến với tôi
không phải do ông ban ra, và nếu tôi vô phúc nói ra với bất kỳ ai là ông có
chút dính dáng đến cuộc xung đột này. Ông sẽ cho treo cổ tôi.
- Thưa
ông, có vẻ như tôi đã bắt giữ nhầm người này thay cho người khác và người đáng
ra phải bị bắt đã trốn thoát.
Thấy nói
nhà cầm quyền bỏ mặc câu chuyện, D' Artagnan càng sốt ruột gấp bội và hét lên:
- Nhưng
còn Athos? Athos ra sao?
- Tôi
vội sửa chữa ngay những sai lầm của tôi đối với người tù - chủ quán tiếp - tôi
đến hầm rượu và định thả ông ra. Ôi! Thưa ông, không phải một con người nữa mà
là một con quỷ. Về việc đề nghị thả, ông tuyên bố đấy là một cái bẫy giăng ra
bắt ông và trước khi ra, ông buộc phải tuân theo các điều kiện của ông. Tôi hạ
mình hết mức nói với ông rằng tôi sẵn sàng tuân chịu những điều kiện của ông,
bởi tôi chẳng giấu cái tình cảnh tồi tệ tôi tự chuốc lấy vì đã dám ra tay với
một ngự lâm quân của Hoàng thượng. Thế rồi ông bảo tôi: "Trước hết, ta
muốn trả người hầu được trang bị vũ khí cho ta".
Chúng
tôi vội tuân lệnh ngay, bởi vì ngài thừa hiểu, chúng tôi bị đặt vào tình thế
phải làm tất cả những gì bạn ngài muốn.
Ông
Grimaud, ông ấy đã nói tên ra, và chỉ thế thôi, được đưa xuống hầm, vẫn đầy
mình thương tích. Thế rồi, ông chủ nhận người hầu xong lại chặn cửa lại và ra
lệnh cho chúng tôi cứ ở trong cửa hàng.
- Nhưng
rốt cuộc - D' Artagnan lại hét lên - Ông ấy ở đâu? Athos ở đâu rồi?
- Trong
hầm rượu, thưa ông.
- Sao,
đồ khốn kiếp, mi giữ ông ấy trong hầm rượu từ bấy đến nay ư?
- Trời
đất quỷ thần ơi! Đâu có, thưa ngài. Chúng tôi mà lại giữ được ông ấy trong hầm!
Vậy ngài không biết ông ấy làm gì trong hầm ư? Ôi, nếu ngài có thể làm ông ấy
chịu ra, tôi sẽ suốt đời biết ơn ngài, tôi xin thờ ngài như vị thánh tổ của
tôi.
- Nghĩa
là ông ta vẫn ở đó? Ta sẽ tìm lại được ông ta ở đó?
- Chắc
chắn rồi, thưa ngài, ông ấy cứ khăng khăng ở lại. Hàng ngày, phải đưa bánh và
thịt bằng một cái xỉa qua lỗ thông hơi khi ông yêu cầu. Nhưng than ôi! Không
phải bánh và thịt là khoản tiêu thụ lớn nhất của ông. Một bữa, tôi cùng hai gã
hầu bàn định thử xuống hầm nhưng ông liền nổi giận khủng khiếp.
- Tôi
nghe thấy tiếng ông ấy nạp đạn vào súng ngắn và Grimaud nạp đạn vào súng
trường. Rồi vì là chúng tôi hỏi các ông có ý định gì, ông chủ trả lời rằng thầy
trò ông ấy có bốn chục viên đạn và sẽ bắn đến phát cuối cùng còn hơn cho phép
bất kỳ ai trong chúng tôi đặt chân xuống hầm. Thưa ông, thế là tôi lại đến kêu
với ông trấn thủ, ông trả lời rằng thế mới đáng kiếp cho tôi, và việc đó sẽ dạy
cho tôi biết thế nào là lăng nhục các vị đại nhân đáng kính đến trọ ở quán tôi.
- Thành
ra từ lúc đó… - D' Artagnan không thể nhịn cười trước bộ mặt thiểu não của chủ
quán, liền hỏi.
- Từ lúc
đó, thưa ngài, đời sống chúng tôi trở nên cực kỳ bi đát, bởi vì ngài phải biết
rằng tất cả nguồn thực phẩm của chúng tôi đều ở dưới hầm, nào là vang chai,
vang thùng, bia, dầu, gia vị, mỡ, và xúc xích, và vì bị cấm được xuống, chúng
tôi buộc phải từ chối lữ khách tới trọ gọi uống, gọi ăn đến nỗi ngày nào lữ
quán chúng tôi cũng mất khách. Bạn ngài chỉ ở thêm một tuần lễ nữa dưới hầm là
chúng tôi phá sản.
- Thế
mới công bằng, đồ vô lại ạ? Nhìn dáng bộ chúng ta lại không biết chúng tôi là
những con người danh giá chứ không phải đồ giả mạo hay sao?
- Vâng,
thưa ông, ông nói đúng - chủ quán nói - Nhưng, xem nào, xem nào, ông ấy lại nổi
giận đấy.
- Chắc
hẳn lại quấy rầy ông ấy chứ gì? - D' Artagnan nói.
- Nhưng
đành phải quấy rầy ông ấy thôi. - Chủ quán nói - vì mới có hai vị quý tộc người
Anh đến quán chúng tôi.
- Thì
sao?
- Thì
thế đấy! Bọn người Anh thích vang ngon như ông biết đấy. Bọn họ đòi loại thượng
hạng. Vợ tôi chắc có lẽ đến van xin ngài Athos cho phép xuống hầm để thỏa mãn
các vị kia. Và ông ấy chắc đã từ chối như thường lệ, ôi trời đất ơi, tiếng la
hét, mắng nhiếc lại tăng lên gấp bội.
Quả
nhiên, D' Artagnan cũng nghe thấy tiếng ầm ầm cạnh hầm rượu. Chàng liền đứng
dậy, đi trước là chủ quán vừa đi vừa vặn vẹo hai tay, và theo sau là Planchet
cầm theo súng trường đã nạp đạn, đến gần chỗ xảy ra cảnh náo loạn.
Hai nhà
quý tộc Anh đang nổi cáu, họ đã đi một đoạn đường dài và đang sắp chết đói và
chết khát.
- Nhưng
như thế là bạo hành quá đáng! - Bọn họ hét lên bằng tiếng Pháp rất chuẩn, tuy
có hơi lơ lớ giọng nước ngoài - Cái lão điên này lại không cho những con người
tốt này sử dụng rượu vang của họ. Đã thế thì chúng tôi sẽ phá cửa mà vào và nếu
hắn điên quá, chúng tôi giết béng hắn đi thế là xong.
- Đứng
lại các vị! - D' Artagnan vừa nói vừa rút hai khẩu súng ngắn ở đai lưng ra. Các
vị sẽ không giết ai hết, xin vui lòng vậy - Tốt thôi, tốt thôi! - Tiếng của
Athos bên sau cánh cửa bình tĩnh phát ra - cứ để bọn ăn thịt trẻ con ấy vào thử
một chút xem sao nào.
Có vẻ
rất can trường thế đấy, nhưng hai nhà quý tộc người Anh nhìn nhau ngại ngùng.
Người ta đồn trong hầm rượu có một con quỷ đói, gã khổng lồ trong huyền thoại
dân gian mà không ai vào trong hang của nó mà không bị trừng phạt. Lặng đi một
lúc, cuối cùng người Anh sợ lùi sẽ xấu hổ, và gã bẳn tính hơn bằng hai bước đã
xuống năm sáu bậc thang và đập mạnh vào cửa tưởng đến vỡ cả tường.
-
Planchet - D' Artagnan vừa nói vừa lên đạn hai khẩu súng ngắn - ta đảm nhiệm
tên đứng trên, còn anh thằng phía dưới.
- Này
các vị, các vị muốn giao chiến! Thế thì người ta đến để giao chiến với các vị!
- Trời
ơi! - Giọng trầm sâu của Athos hét toáng lên - Hình như ta nghe thấy tiếng D'
Artagnan.
- Đúng
đấy - D' Artagnan cũng cao giọng nói vọng vào - chính tôi đây, bạn ạ.
- A, tốt
lắm, - Athos nói - Ta quần cho cái bọn phá cửa này một trận chứ.
Mấy
người quý tộc kia đã lăm lăm tay gươm, nhưng họ thấy mình giữa hai làn đạn nên
lừng chừng thêm một lát, nhưng cũng như lần trước lòng kiêu hãnh đã thắng và
thêm một cái đạp chân làm vỡ cánh cửa suốt từ trên xuống.
Athos
kêu lên:
- Tránh
ra, D' Artagnan, tránh ra đi, tôi bắn đấy.
- Các
vị! - D' Artagnan nói, - hãy kiên nhẫn đã các vị tự nhiên đâm đầu vào một
chuyện tồi tệ, và chỉ tổ nát người. Tôi và người hầu của tôi đây sẽ nã vào các
vị ba phát và cũng ngần ấy phát từ trong hầm rượu tương ra các vị. Rồi chúng
tôi lại còn gươm nữa chứ, mà tôi xin đảm bảo với các vị tôi và bạn tôi sử dụng
cũng kha khá. Vậy hãy để tôi thu xếp việc của các vị với việc của tôi. Tôi xin
hứa danh dự chỉ chốc nữa các vị sẽ được uống ngay thôi.
- Nếu
như còn rượu - giọng Athos làu bàu giễu cợt.
Gã chủ
quán cảm thấy một dòng mồ hôi lạnh chạy dọc xương sống.
- Sao,
nếu như còn rượu ư? - Gã lẩm bẩm.
- Con
khỉ ạ? Sẽ còn tôi - D' Artagnan tiếp - cứ bình tĩnh nào, có hai người làm sao
uống hết cả hầm rượu, còn các vị, tra gươm vào vỏ đi. Thế thì ông cũng cài súng
vào đai lưng đi!
- Xin
sẵn sàng.
Và D'
Artagnan làm gương trước. Rồi quay lại phía Planchet, chàng ra hiệu tháo đạn
súng trường.
Bọn
người Anh đã tin chắc, làu bàu tra gươm vào vỏ. Người ta kể lại cho họ chuyện
Athos bị cầm tù. Và vì họ là những nhà quý tộc đứng đắn nên họ cho lỗi là ở tại
chủ quán.
- Bây
giờ thưa các vị - D' Artagnan nói - xin mời các vị trở về phòng mình, và trong
mười phút, tôi đảm bảo người ta sẽ mang tới cho các vị tất cả những gì các vị
muốn.
Bọn
người Anh chào và đi ra.
- Bây
giờ còn lại có mình tôi - D' Artagnan nói - Anh Athos thân mến ạ, mở cửa cho
tôi đi, tôi xin anh đấy.
- Mở
ngay đây - Athos nói.
- Thế là
người ta nghe thấy tiếng rầm rầm của những thanh gỗ đập vào nhau và của những
dầm nhà kêu kẽo kẹt. Đó là những ụ chống và pháo đài của Athos, mà bản thân kẻ
bị vây hãm đang phá hủy.
Một lát
sau cái cửa rùng rùng chuyển động, bộ mặt xanh xao của Athos hiện ra và đảo mắt
rất nhanh dò xét xung quanh.
D'
Artagnan nhảy lên bá cổ và ôm hôn trìu mến Athos. Rồi khi chàng định lôi anh ra
khỏi nơi trú ngụ ẩm thấp, thì chỉ đến lúc đó chàng mói thấy anh đang lảo đảo:
- Anh bị
thương ư? - Chàng hỏi.
- Tôi ư?
Không đời nào. Chỉ bí tỉ, thế thôi. Và chả có ai bao giờ lại có thể say hơn như
thế. Chúa trời muôn năm, chủ quán ơi! Riêng phần tôi, ít nhất cũng phải uống
đến một trăm năm chục chai đấy.
- Khốn
nạn thân tôi! - chủ quán kêu lên - Nếu người hầu của ông chỉ uống bằng phân nửa
chủ mình thì tôi cũng đến phá sản mất.
-
Grimaud là một người hầu dòng dõi thế gia, không cho phép mình tầm thường như
tôi đâu. Hắn chỉ uống ở thùng thôi. Xem nào, tôi tin là hắn quên đóng nắp lỗ
thùng. Các ông nghe thấy không? Nó đang chảy đấy.
D'
Artagnan cười phá lên làm cho cơn run rẩy của chủ quán thành cơn sốt nóng.
Cùng lúc
đó Grimaud đến lượt mình cũng hiện ra sau ông chủ, súng trường trên vai, đầu
lắc lư như những kẻ dâm đãng say sưa trong những tranh của Rubens(2). Người hắn
cả đằng trước lẫn đằng sau ướt đẫm một thứ nước nhờn mà chủ quán nhận ra đó là
loại dầu ô-liu hảo hạng.
Đoàn
người trịnh trọng đi xuyên qua đại sảnh và đến trụ tại một phòng sang nhất lữ
quán mà D' Artagnan đàng hoàng chiếm lấy.
Trong
khi đó, vợ chồng chủ quán cầm đèn nhảy bổ xuống căn hầm đã khá lâu bị cấm và
một cảnh tượng đáng sợ đang chờ họ ở đó.
Phía sau
những thành lũy mà Athos đã phá hủy để đi ra, bao gồm đòn, ván, bó que, thùng
rỗng đã được chất xếp hoàn toàn theo những quy tắc chiến thuật phòng thủ, người
ta thấy đây đó xương thừa của đùi lợn muối đã ăn rồi như đang bơi trong những
vũng dầu và rượu vang, trong khi một đống vỏ chai vỡ ngổn ngang ở góc trái căn
hầm và một thùng lớn, vòi không đóng, đang chảy nốt những giọt máu cuối cùng
của nó. Hình ảnh của tàn phá và chết chóc nói như nhà thơ cổ đang ngự trị trên
bãi chiến trường.
Năm mươi
xâu xúc xích treo trên dầm nhà còn lại chưa đầy mười xâu.
Thế là
tiếng kêu khóc của vợ chồng chủ quán như thể chọc thủng cả vòm hầm khiến chính
D' Artagnan cũng phải mủi lòng. Còn Athos thì không cả ngoảnh đầu lại.
Nhưng
cơn điên dại kế tiếp nỗi đau. Chủ quán vũ trang một cái đinh ba, trong cơn
tuyệt vọng, lao vào căn phòng mà đôi bạn đã lui về đấy.
- Rượu
ư!- Athos thấy chủ quán liền nói.
- Rượu
đấy! - Chủ quán la lên rụng rời - Rượu đấy! Ông đã uống của tôi mất hơn một
trăm đồng vàng rồi, ông làm tôi phá sản, nguy khốn, tiêu vong rồi!
- Thế à?
= Athos nói - Nhưng chúng tôi đã lúc nào hết khát đâu.
- Nhưng
giá các ông chỉ chịu uống thôi đã đỡ, lại còn đập hết các vỏ chai.
- Tại
ông đẩy tôi vào cái đống ấy nó mới đổ vỡ đấy chứ. Đấy là lỗi của ông.
- Dầu ăn
của tôi mất hết!
- Dầu là
loại cao bôi thần diệu chửa trị các vết thương cho nên gã Grimaud tội nghiệp
phải lấy để xoa bôi những vết thương ông gây ra cho gã chứ.
- Mọi
xâu xúc xích của tôi bị gặm hết.
- Trong
hầm rượu có vô số chuột cống.
Chủ quán
nổi khùng kêu lên:
- Ông sẽ
phải trả tiền tôi tất cả những thứ đó.
- Quân
ba đời vô lại! - Athos vừa nói vừa đứng dậy. Nhưng chàng liền ngã xuống. Chàng
đã kiệt sức rồi.
D'
Artagnan chạy lại đỡ chàng, và vung roi ngựa lên.
Chủ quán
lùi lại một bước và òa lên khóc. D' Artagnan nói:
- Điều
đó sẽ dạy cho ông biết cách đối xử lịch sự hơn với những khách trọ mà Chúa đã
gửi tới cho ông.
- Chúa
ư? Quỷ sứ thì có.
- Ông
bạn thân mến - D' Artagnan nói - Nếu ông còn làm rách màng nhĩ chúng tôi, cả
bốn chúng tôi lại tự nhốt vào hầm và chúng tôi sẽ coi xem sự thiệt hại có thật
sự to lớn như ông nói không.
- Thôi
được! Vâng, thưa các ngài tôi xin thú nhận tôi sai - Chủ quán nói - Nhưng tội
nào cũng phải được lòng nhân đức xá cho và các ngài đều là các bậc quyền quý,
còn tôi chỉ là gã chủ quán khốn khổ, xin các ngài rủ lòng thương.
- A, nếu
nhà ngươi nói như thế - Athos nói - ngươi làm ta đến tan nát trái tim mất, rồi
nước mắt ta cũng lại chảy như rượu chảy từ thùng ra. Cũng không đến nỗi là quỷ
như cái vẻ bề ngoài đấy nhỉ. Nào, lại đây ta nói chuyện.
Chủ quán
lại gần vẻ lo lắng:
- Lại
đây, ta bảo rồi, đừng sợ - Athos tiếp tục - Lúc định trả tiền ngươi, ta có đặt
túi tiền của ta lên bàn.
- Vâng,
thưa Đức ông.
- Trong
túi có sáu mươi đồng vàng. Đâu cả rồi?
- Chuyển
lên phòng lục sự, thưa Đức ông. Họ bảo đó là tiền giả.
- Thế à,
vậy đi mà đòi lại và giữ lấy sáu chục đồng vàng.
- Nhưng
Đức ông biết thừa là phòng lục sự chẳng nhả ra cái gì họ giữ đâu. Nếu đó là
tiền giả, may ra còn đòi được, nhưng khốn nỗi lại là tiền thật cả.
- Vậy
ngươi đi mà thu xếp với họ, con người tử tế ạ, chuyện đó chẳng liên quan gì đến
ta, mà ta cũng có còn xu nào đâu.
- Này -
D' Artagnan nói - Con ngựa cũ của Athos ở đâu?
- Ở
chuồng.
- Đáng
giá bao nhiêu?
- Năm
mươi đồng vàng là hết nước.
- Nó đáng
giá tám mươi đấy - Hãy giữ lấy con ngựa. Coi như xong.
- Sao,
cậu bán ngựa của mình - Athos nói - cậu bán con Badadê của tôi ư? Tôi sẽ cưỡi
gì để ra trận? Cưỡi lên thằng Grimaud ư?
D'
Artagnan nói:
- Tôi
mang đến cho anh một con khác rồi.
- Con
khác?
- Và
tuyệt đẹp? - Chủ quán tấm tắc.
- Thế
thôi, nếu quả có một con ngựa khác đẹp hơn, ít tuổi hơn, thì ngươi cứ giữ lấy
con ngựa cũ đi và cho uống đi thôi.
- Loại
nào ạ? Chủ quán hỏi, mặt mũi đã tươi tỉnh lên.
- Loại ở
cuối hầm gần đống ván mỏng ấy. Chỗ ấy vẫn còn hai nhăm chai đấy, những chai
khác bị vỡ hết lúc ta bị ngã rồi. Đem sáu chai lên đây.
- Loại
người này đúng là lưu linh tái thế đấy! - Chủ quán nói với riêng mình - Chỉ cần
hắn ở lại đây mười lăm ngày nữa, và uống đến đâu trả đến đấy, ta sẽ phục hồi
lại được công việc làm ăn.
- Và
đừng quên - D' Artagnan nói tiếp - mang bốn chai cùng loại cho mấy vị người
Anh.
- Giờ
thì - Athos nói - trong khi chờ đợi họ mang rượu lên.
- D'
Artagnan cậu hãy kể cho mình những người kia thế nào.
D'
Artagnan kể lại mình đã tìm thấy Porthos nằm liệt giường vì bị trẹo đầu gối như
thế nào, và Aramis trước cái bàn giữa hai nhà thần học. Chàng vừa kể xong cũng
là lúc chủ quán quay lại với những chai rượu đã gọi và một cái đùi lợn may sao
cho hắn lại ở ngoài hầm.
Athos
rót đầy cốc mình và cốc bạn rồi nói:
- Về
Porthos và Aramis thế là ổn rồi, còn cậu, cậu thế nào, có chuyện gì xảy ra với
riêng cậu không? Tôi thấy cậu có vẻ gặp tai ương thì phải.
- Than
ôi! - D' Artagnan nói - Chính tôi mới là kẻ khốn khổ nhất trong mấy người chúng
ta.
- Cậu
khốn khổ ư, D' Artagnan! - Athos nói - Thế cậu khốn khổ ra sao nào? Nói tôi
nghe đi.
- Để sau
đã, - D' Artagnan nói.
- Để sau
đã! Tại sao phải để sau? Vì cậu tưởng tôi say ư, D' Artagnan? Hãy nhớ lấy điều
này: tôi không bao giờ có được những ý tưởng minh bạch hơn trong rượu nhé. Vậy
hãy nói đi, tôi chú ý nghe đấy.
D' Artagnan
kể lại cuộc phiêu lưu tình ái của mình với bà Bonacieux.
Athos
lắng nghe không cau mày, khi chàng kể xong, Athos nói:
- Đau
khổ cả mà thôi - Athos nói - Chỉ đau khổ thôi!
Đó là từ
Athos ưa dùng.
- Anh
luôn luôn nói đau khổ, anh Athos thân mến của tôi? - D' Artagnan nói - Điều đó
không hợp với anh, người không bao giờ yêu cả.
Con mắt
lạc hồn của Athos bỗng rực sáng lên, nhưng chỉ như một tia chớp, nó lại trở lại
mờ đục và mơ hồ như trước.
- Đúng thế
- Chàng bình tĩnh nói - tôi chưa bao giờ yêu cả.
- Vậy
anh hẳn thấy, trái tim sắt đá ơi - D' Artagnan nói - Anh đã sai khi tỏ ra cứng
rắn với những trái tim mềm yếu như chúng tôi chứ.
- Trái
tim mềm yếu - Athos nói - là trái tim bị đâm xuyên.
- Anh nói
sao?
- Tôi
nói, tình yêu chỉ là trò xổ số, mà kẻ nào trúng, trúng luôn cái chết. Cậu không
trúng thế là phúc đấy. Tin tôi đi, D' Artagnan thân mến, và nếu tôi có lời
khuyên cậu thì là khuyên luôn luôn không trúng.
- Nàng
có vẻ quá chi là yêu tôi?
- Nàng
mới có vẻ thôi.
- Ô,
nàng yêu tôi.
- Trẻ
con! Chẳng có người đàn ông nào lại không tin như cậu rằng người tình của mình
yêu mình, và chẳng có người đàn ông nào lại không bị người tình của mình lừa
dối.
- Trừ
anh chứ, Athos, vì anh đã bao giờ có đâu.
- Đúng
vậy - Athos nói sau một lúc lặng đi - tôi chưa bao giờ có cả, đúng vậy. Ta uống
thôi!
- Vậy
thì là một triết gia - D' Artagnan nói - Anh hãy dạy tôi, nâng đỡ tôi. Tôi cần
hiểu biết và cần được an ủi.
- An ủi
cái gì?
- Nỗi
đau khổ của tôi.
- Nỗi
đau khổ của cậu làm tôi buồn cười - Athos nhún vai nói - Tôi tò mò muốn biết
cậu sẽ nói thế nào nếu tôi kể cho cậu nghe một chuyện tình.
- Xảy ra
với anh?
- Hoặc
với một người bạn tôi, thì đã sao!
- Nói
đi, Athos, anh nói đi.
- Uống
đã, sẽ thú vị hơn.
- Vậy
anh uống và kể đi.
Athos
uống cạn một cốc, rót đầy cốc nữa rồi nói:
- Được
thôi, vừa uống vừa kể là hay nhất.
- Tôi
nghe đây - D' Artagnan nói.
Athos
như đang nhớ lại, và càng nhớ lại, D' Artagnan thấy Athos càng tái đi. Anh đang
nhớ tới cái giai đoạn trong cơn say mà những kẻ uống tầm thường, thường gục ngã
và ngủ thiếp đi, còn anh, anh vẫn mơ màng, lớn tiếng mà không ngủ. Cái trạng
huống mộng du say sưa ấy có một cái gì đó thật hãi hùng.
- Cậu
muốn nghe thật chứ! - Athos hỏi.
- Tôi
xin anh đấy - D' Artagnan nói.
- Vì vậy
đã muốn thì phải kể thôi. Một người bạn tôi, một trong số những bạn tôi, cậu
hiểu chứ, chứ không phải tôi - Athos ngừng lại một lát với một nụ cười u tối.
Một trong những Bá tước ở tỉnh tôi, nghĩa là ở Bery, dòng dõi cao quý như một
Đăngđôlô(3) hoặc một Môngmôrăngxi(4) năm hăm nhăm tuổi si mê một thiếu nữ mười
sáu tuổi, xinh đẹp như bản thân tình yêu.
Một tâm
hồn nồng cháy biểu hiện trong vẻ ngây thơ của tuổi trẻ, không phải một tâm hồn
phụ nữ, mà là tâm hồn của nhà thơ.
Nàng
không làm người ta thích mà làm người ta si mê. Nàng sống ở một thị trấn nhỏ
cạnh người anh là một mục sư. Cả hai đều là người nơi khác đến đấy sinh sống.
Không ai biết họ từ đâu đến. Nhưng thấy nàng quá xinh đẹp và anh nàng quá sùng
đạo người ta cũng chẳng nghĩ đến việc hỏi họ từ đâu tới. Hơn nữa, người ta nói
họ xuất thân từ gia đình tử tế, bạn tôi lúc ấy là lãnh chúa xứ này lẽ ra có thể
quyến rũ nàng hoặc cưỡng đoạt nàng theo sở thích, vì chàng là chúa tể ở đây. Ai
sẽ đến bảo vệ hai kẻ xa lạ, hai kẻ vô danh? Khốn nỗi chàng là một người lương
thiện, chàng cưới nàng hẳn hoi - Một kẻ dại dột, ngớ ngẩn, ngu đần?
- Nhưng
tại sao lại thế, vì chàng yêu nàng cơ mà? - D' Artagnan hỏi.
- Khoan
đã nào - Athos nói - chàng đưa nàng về lâu đài của mình và đưa nàng lên hàng đệ
nhất phu nhân của tỉnh. Nhưng công bằng mà nói, nàng tỏ ra xứng đáng với địa vị
ấy.
- Rồi
sao nữa? - D' Artagnan hỏi.
- Rồi
một hôm nàng đi săn với chồng - Athos tiếp tục giọng nhỏ hơn và nói rất nhanh -
nàng bị ngã ngựa và ngất đi. Bá tước lao đến cứu, do nàng bị ngột ngạt trong bộ
quần áo đi săn, chàng bèn lấy dao găm rạch áo nàng ra để hở vai nàng. D'
Artagnan cậu thử đoán xem nàng có cái gì trên vai nào? - Athos nói và cười phá
lên.
- Tôi có
thể biết là cái gì không? - D' Artagnan hỏi.
- Một
bông huệ - Athos nói - Nàng bị đóng dấu sắt nung phạm tội.
Và Athos
uống một hơi cạn cốc rượu trên tay.
- Khủng
khiếp quá! - D' Artagnan kêu lên - Anh nói gì với tôi thế?
- Sự
thật. Bạn thân mến, thiên thần là quỷ dữ. Cô thiếu nữ tội nghiệp đó đã ăn cắp.
- Và Bá
tước tính sao?
- Bá
tước là một đại lãnh chúa, chàng có quyền xét xử các vụ án cấp thấp và cấp cao.
Chàng xé nốt quần áo của nữ Bá tước, trói quật tay ra sau lưng và treo cổ nàng
trên cây.
- Trời
ơi, Athos! Một vụ sát nhân! - D' Artagnan la lên.
- Đúng,
một vụ giết người, không hơn không kém - Athos tái người đi như một cái xác
không hồn - Nhưng hình như thiếu rượu cho tôi rồi đấy.
Và Athos
túm lấy cổ chai rượu cuối cùng còn lại, đưa vào tận miệng và tu thẳng một hơi
cạn chai rượu, như bình thường cạn một cốc rượu.
Rồi
chàng gục đầu lên hai bàn tay, D' Artagnan ngồi trước mặt chàng rùng mình kinh
hoảng.
- Chuyện
đó đã chữa khỏi bệnh đàn bà đẹp, thơ mộng và đa tình cho tôi - Athos vừa nói
vừa đứng lên không nghĩ tới việc tiếp tục câu chuyện có tính chất ngụ ngôn về
ông Bá tước - Cầu chúa cho cậu cũng được khỏi bệnh như vậy - Thôi ta uống đi!
- Thế là
nàng đã chết? - D' Artagnan ấp úng.
- Cho
chết! - Athos nói - Nhưng nâng cốc lên chứ. Đùi lợn đâu, quân đê tiện - Athos
hét lên - chúng ta không thể uống được nữa!
- Thế
còn anh nàng? - D' Artagnan rụt rè hỏi thêm.
- Anh
nàng ư? - Athos lặp lại.
- Ừ, ông
linh mục ấy?
- À, tôi
đã cho dò tìm để đem treo cổ cả hắn, nhưng hắn đã phòng xa, bỏ chức mục sư từ
đêm trước.
- Ít
nhất cũng phải biết tên khốn khiếp ấy là ai chứ?
- Chắc
chắn đó là người tình đầu tiên và kẻ đồng lõa của người đẹp, một người danh giá
đã đóng giả mục sư để cưới người tình của mình và đảm bảo thân phận của nàng.
Rồi cũng sẽ bị xé xác ra thôi, tôi cho là như vậy.
- Ôi!
Lạy Chúa? Lạy Chúa! - D' Artagnan kêu lên và choáng váng hết cả người vì câu
chuyện hãi hùng đó.
- Ăn
miếng đùi lợn này đi, D' Artagnan, tuyệt vời đấy, - Athos vừa nói vừa xẻo một
lát đặt vào đĩa của bạn - Thật không may trong hầm lại không có bốn cái đùi lợn
này, chỉ cần có thế, có lẽ tôi đã uống thêm năm mươi chai rượu nữa.
D'
Artagnan không thể chịu nổi cuộc trò chuyện này nữa, vì nó có thể khiến chàng
phát điên. Chàng để gục đầu lên hai bàn tay và giả vờ ngủ thiếp đi.
Athos
nhìn chàng thương hại nói:
- Bọn
trẻ không biết uống nữa rồi. Tuy nhiên, cậu này vẫn cứ là loại cừ nhất!
Chú thích:
(1) Marcus Junius Brutus (sinh năm 85 trước
công nguyên) nổi giận vì những tham vọng của bạo chúa Xêda, bị kich động thêm
vi những thư vắn bí mật gửi cho mình: "Brutus, mi đang ngủ và Rôma đang
trong xiềng xích" cùng Catxiútx âm mưu giết Xêda - Sau bị Antoine và
Octave truy đuổi. Theo Plưtác, sau khi cất lời than cay đắng: "Ôi đức
hạnh! Mi chỉ là một ngôn từ!" Brutus lao mình vào gươm của bạn mình tự sát
(năm 42 trước công nguyên).
(2) Pierre Paul Rubens: Họa sĩ người xứ
Flandre (1577-1640).
(3) Một dòng họ ở Vơnidơ đã có tới bốn ngưới
làm thủ lĩnh của nền cộng hòa.
(4) Một dòng họ ở nước Pháp có nhiều nhân vật
danh tiếng như nguyên soái. thống chế. quốc vương. từ triều đại Louis VII thế
kỷ 12. người cuối cùng là quốc vương Henri XI chết vì bì phóng một mũi thương
vào mắt trong cuộc cưỡi ngựa đấu thương với Montgome.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét