XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2019

Mật Mã Da Vinci (Chương 36-50)



MẬT MÃ DA VINCI
Chương 36

Thậm chí với vận tốc khiêm tốn 60km/h, cái giảm xóc treo lủng lẳng phía trước của chiếc xe tải bọc thép vẫn quẹt cành cạch vào mặt đường ngoại ô vắng tanh, làm bắn những tia lửa lên mui xe.

Chúng ta phải ra khỏi con đường này, Langdon nghĩ bụng. Ông thậm chí không rõ họ đang đi về đâu nữa. Chiếc đèn pha duy nhất còn sáng bị va lệch tâm, giờ đây chiếu xiên xẹo vào cánh rừng ven đường cao tốc. Rõ ràng, tính từ bọc thép trong cụm từ "xe tải bọc thép" chỉ đúng với thùng chứa hàng chứ đâu có đúng với phần đằng trước.

Sophie ngồi ở ghế hành khách, thẫn thờ nhìn chiếc hộp gỗ.

"Cô vẫn ổn đấy chứ?" Langdon hỏi.

Sophie có vẻ run: "Anh có tin ông ta không?".

"Về chuyện có ba người nữa bị sát hại ư? Tôi hoàn toàn tin. Điều đó giải đáp cho một loạt vấn đề - tình trạng tuyệt vọng của ông cô khi muốn truyền lại viên đá đỉnh vòm cũng như chuyện tay cảnh sát Fache đang ráo riết săn lùng tôi".

"Không, tôi muốn nói về việc Vernet cố gắng bảo vệ ngân hàng của ông ta".

Langdon liếc nhìn: "Đối lập với…?".

"Ông ta muốn chiếm lấy viên đá đỉnh vòm cho riêng mình".

Langdon trước đó thậm chí không hề tính đến chuyện đó:

"Làm sao ông ta có thể biết chiếc hộp chứa cái gì?".

"Thì ngân hàng của ông ta cất giữ chiếc hộp này mà. Ông ta biết ông tôi. Có thể ông ta biết nhiều điều đấy. Có lẽ ông ta đã quyết định đoạt lấy Chén Thánh cho riêng mình".

Langdon lắc đầu. Vernet không thể là loại người này. "Theo tôi, chỉ có hai lí do khiến nhiều người đeo đuổi việc tìm kiếm Chén Thánh. Một là họ rất ngây thơ và tin rằng họ đang kiếm tìm cái Chén của Chúa Jesus đã bao lâu mất tích…".

"Còn lí do kia".

"Hoặc là họ biết sự thật và bị chính sự thật đó đe doạ. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều nhóm đã tìm cách huỷ Chén Thánh".

Sự im lặng giữa hai người càng làm nổi bật tiếng chiếc giảm sóc quệt trên mặt đường. Họ đã đi được vài cây số, và trong khi quan sát những tia lửa bắn tóe trước đầu xe, Langdon tự hỏi liệu điều đó có nguy hiểm không. Đằng nào cũng vậy, nếu họ đi ngang một chiếc xe khác, điều này chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý. Langdon bèn quyết định.

"Để tôi xem có thể nắn lại chiếc giảm sóc được không".

Tạt vào vệ đường, ông đỗ xe lại.

Cuối cùng, yên tĩnh đã trở lại.

Khi Langdon bước về phía đầu xe, ông cảm thấy mình lanh lẹ một cách đáng ngạc nhiên. Việc phải đối diện với một nòng súng khác nữa đêm nay đã tiếp cho ông một hơi thở mới. Ông hít mạnh không khí trong lành ban đêm và cố gắng tập trung trí lực minh mẫn. Kèm theo tình thế nghiêm trọng của kẻ bị săn đuổi, Langdon bắt đầu cảm thấy gánh nặng của trách nhiệm, cái viễn cảnh là ông và Sophie có thể đang thực sự nắm giữ một loạt chỉ dẫn mã hóa đưa tới một trong những bí mật bền lâu nhất của mọi thời.

Cứ như thể nhiệm vụ này vẫn chưa đủ nặng nề, giờ đây Langdon nhận ra rằng mọi khả năng tìm cách hoàn trả viên đá đỉnh vòm cho Tu viện Sion vừa bị tiêu tan. Tin có thêm ba vụ sát hại mang những ngụ ý khốc liệt. Tu viện Sion đã bị kẻ địch cài người vào. Họ đã bị phản. Rõ ràng hội kín này đã bị theo dõi hoặc là có nội ứng trong hàng ngũ. Điều đó giải thích tại sao Saunière lại trao viên đá đỉnh vòm cho Sophie và Langdon vốn là người ngoài tổ chức, những người mà ông biết rằng họ không thỏa hiệp. Chúng ta không dễ gì trả lại viên đá đỉnh vòm cho hội này được. Thậm chí nếu Langdon biết cách tìm ra được một thành viên của Tu viện Sion thì cũng rất có thể người đứng ra nhận viên đá đỉnh vòm lại chính là kẻ thù. Lúc này, chí ít viên đá đỉnh vòm cũng ở trong tay Langdon và Sophie cho dù họ có muốn hay không.

Phía đầu chiếc xe tải trông còn tệ hơn cả trong tưởng tượng của Langdon. Chiếc đèn pha bên trái đã tắt ngúm, còn chiếc bên phải nom như một con ngươi long ra khỏi hốc mắt.

Langdon gắn thẳng chiếc đèn lại nhưng nó lại long ra. Điều đáng mừng duy nhất là chiếc giảm sóc đằng trước đã tả tơi, gần rụng. Langdon đá vào đó một cái thật mạnh và cảm thấy ông có thể bẻ nó rời ra hoàn toàn.

Trong khi ông liên tục đá vào thanh sắt cong queo, Langdon nhớ lại câu chuyện trước đó với Sophie. "Ông tôi đã để lại một tin nhắn thông qua chiếc máy điện thoại di động". Sophie tiết lộ. "Ông bảo rằng ông cần phải kể cho tôi nghe về bí mật của gia đình".

Khi ấy, điều đó chẳng có nghĩa gì, nhưng giờ đây khi biết Tu viện Sion cũng có liên quan, Langdon cảm thấy nổi lên một khả năng mới đáng kinh ngạc.

Chiếc giảm sóc đột nhiên gẫy đánh cách. Langdon ngừng lại để thở. Ít ra thì chiếc xe cũng không còn giống pháo hoa ngày mồng bốn tháng bảy (1) nữa. Ông túm lấy chiếc giảm sóc và kéo nó quắng vào rừng cho khuất mắt. Ông tự hỏi sau đây họ sẽ đi đâu. Họ không biết làm thế nào để mở hộp mật mã hoặc tại sao Saunière lại giao cho họ viên đá đỉnh vòm. Khốn thay, sự sống còn của họ trong đêm nay dường như lại phụ thuộc vào việc tìm ra câu trả lời cho chính những câu hỏi trên.

Chúng ta cần có sự giúp đỡ, Langdon quyết định. "Một sự giúp đỡ mang tính chuyên môn.

Trong thế giới của Chén Thánh và trong Tu viện Sion, sự giúp đỡ ấy chỉ có thể tìm thấy ở một người duy nhất. Tất nhiên, thách thức ở đây sẽ là làm sao thuyết phục được Sophie về ý tưởng ấy.

Bên trong chiếc xe bọc thép, trong khi chờ Langdon quay trở lại, Sophie cảm thấy sức nặng của chiếc hộp trên lòng mình và cô hậm hực. Tại sao ông lại giao cái này cho mình? Cô hoàn toàn không biết phải làm gì với nó.

Suy nghĩ đi, Sophie. Hãy sử dụng cái đầu của mày. Ông mày đang cố nói điều gì với mày đấy!

Mở chiếc hộp lớn ra, cô xem xét các đĩa quay của hộp mật mã. Một trắc nghiệm để chứng minh giá trị. Cô cảm thấy bàn tay của ông mình đang làm việc. Viên đá đỉnh vòm là một bản đồ mà chỉ những người xứng đáng mới lần theo được. Nghe đặc khẩu khí của ông cô.

Nâng hộp mật mã ra khỏi chiếc hộp lớn, Sophie đặt những ngón tay của mình lên trên những đĩa quay. Năm chữ cái. Cô quay lần lượt từng chữ cái một. Cơ cấu hoạt động trơn tru. Cô sắp những đĩa sao cho các chữ cái cô đã chọn thẳng hàng giữa hai mũi tên bằng đồng ở mỗi đầu hình trụ. Những đĩa quay lúc này chắp vần thành một từ năm chữ cái mà Sophie biết rằng nó quá hiển nhiên đến mức phi lí.

G-R-A-I-L(2).

Cô nhẹ nhàng cầm hai đầu hình trụ rồi kéo nó để từ từ gây ra một áp suất. Hộp mật mã vẫn không nhúc nhích gì cả. Cô nghe thấy dấm chảy òng ọc phía trong và ngửng kéo. Rồi cô lại thử một từ khác.

V-I-N-C-I

Vẫn chẳng thấy chuyển động gì.

V-O-U-T-E (3)

Chẳng thấy gì. Hộp mật mã vẫn đóng chặt.

Chau mày, cô đặt nó trở vào trong chiếc hộp gỗ hồng rồi đậy nắp lại. Phóng mắt ra ngoài nhìn Langdon, Sophie cảm thấy biết ơn trời đã cho Langdon ở bên cô đêm nay. P.S. Hãy tìm Robert Langdon Langdon. Suy lý của ông cô nhằm kéo Langdon vào cuộc giờ đây đã trở nên rõ ràng. Sophie không được trang bị đầy đủ kiến thức để hiểu những ý đồ của ông, vậy nên ông đã chỉ định Robert Langdon làm người hướng dẫn cho cô. Một vị thầy để kèm cặp cô. Không may cho Langdon, đêm nay hoá ra ông còn Có trách nhiệm hơn cả một người thầy. Ông đã trở thành cái đích săn lùng của tay cảnh sát Bezu Fache… và một lực lượng vô hình đang ráo riết muốn sở hữu Chén Thánh.

Bất kể Chén Thánh hóa ra là cái gì.

Sophie tự hỏi liệu việc tìm ra Chén Thánh có bõ để cô liều mạng sống của mình hay không.

Khi chiếc xe tải lại tăng tốc, Langdon lấy làm hài lòng thấy nó chạy êm ru: "Cô có biết đường đến Versailles không?".

Sophie đưa mắt nhìn: "Anh muổn đi ngắm cảnh?".

"Không, tôi có một kế hoạch. Tôi biết một sử gia chuyên nghiên cứu về tôn giáo, ông ta sống gần vùng Versailles. Tôi không nhớ chính xác nơi ông ấy sống. Nhưng chúng ta có thể tìm ra. Tôi đã đến thăm điền trang của ông ấy một vài lần.

Tên ông ấy là Leigh Teabing. Trước đây ông từng là một sử gia thuộc Hoàng gia Anh".

"Và ông ta sống ở Paris?".

"Đam mê cả đời của Teabing là Chén Thánh. Khi những xì xào về viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion nổi lên khoảng mười lăm năm về trước, ông đã chuyển tới Pháp nhằm tìm kiếm trong các nhà thờ với hi vọng sẽ tìm thấy nó. Ông đã viết một vài cuốn sách về viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion và Chén Thánh. Ông có thể giúp chúng ta mở được hộp mật mã và gợi ý cho chúng ta nên làm gì với nó".

Mắt Sophie tỏ vẻ thận trọng: "Anh có thể tin ông ta sao?".

"Về mặt nào? Về việc ông ta sẽ không đánh cắp thông tin?".

"Và không nộp chúng ta cho cảnh sát".

"Tôi không có ý định nói cho ông ấy biết cảnh sát đang truy lùng chúng ta. Tôi hy vọng ông ấy sẽ cho chúng ta tá túc cho đến khi chúng ta làm rõ mọi chuyện".

"Robert này, anh có nghĩ tới việc mọi đài truyền hình trên đất Pháp có thể đã sẵn sàng phát đi hình ảnh của chúng ta hay không? Bezu Fache luôn biết cách lợi dụng các phương tiện truyền thông. Hắn sẽ không để chúng ta tự do đi hết nơi này đến nơi khác mà không bị phát hiện".

"Tuyệt vời, Langdon nghĩ bụng. Cuộc ra mắt của mình trên Truyền hình Pháp sẽ mang tiêu đề "Kẻ bị săn lùng ráo riết nhất Paris". Chí ít Jonas Faukman cũng sẽ hài lòng: mỗi khi Langdon được đưa tin trên báo đài, số lượng sách bán ra của ông ta đều tăng vọt lên.

"Ông ta có phải là một người bạn tốt không?". Sophie hỏi.

Langdon không tin Teabing là người ham theo dõi tivi, nhất là vào giờ này, nhưng dẫu sao câu hỏi đó của Sophie cũng đáng cân nhắc. Linh tính mách bảo Langdon rằng Teabing là một người hoàn toàn đáng tin cậy. Một bến đậu an toàn lí tưởng.

Xét hoàn cảnh cụ thể, Teabing có thể sẽ vượt lên bản thân để giúp họ đến mức tối đa có thể. Không chỉ vì ông ta chịu ơn Langdon mà còn vì ông là một chuyên gia nghiên cứu về Chén Thánh, mà Sophie thì khẳng định rằng ông cô là Đại sư của Tu viện Sion. Nếu Teabing nghe thấy điều này, ông ta ắt thèm nhỏ dãi muốn được giúp họ tháo gỡ chuyện này.

"Teabing có thể là một đồng minh đầy quyền năng", Langdon nói. "Điều đó còn phụ thuộc vào việc cô muôn kể cho ông ta nghe những gì".

"Fache có thể sẽ treo thưởng bằng tiền".

Langdon cười: "Hãy tin tôi, tiền là thứ chót hạng mà tay này cần đến". Leigh Teabing giàu theo cái cách giàu của những nước nhỏ. Là hậu duệ của quận công đầu tiên của dòng họ Lancaster lại Vương quốc Anh, Teabing nhận được của cải theo cái cách cổ xưa - thừa kế. Điền trang của ông ta ở vùng ngoại thành Paris là một cung điện thế kỉ XVII với hai con hồ riêng.

Langdon gặp Teabing lần đầu tiên cách đây một vài năm thông qua Đài phát thanh Anh quốc BBC. Teabing đã tiếp cận BBC với đề nghị làm một bộ phim tài liệu lịch sử, trong đó, ông sẽ giới thiệu lịch sử đầy xung đột của Chén Thánh với khán giả xem truyền hình. Những nhà sản xuất chương trình của BBC rất thích giả thuyết sốt dẻo của Teabing, cũng như công việc nghiên cứu uy tín và năng lực của ông, nhưng người ta lo ngại rằng khái niệm này gây sốc và khó nuốt đến mức, chung cuộc, nó có thể làm hoen ố danh tiếng của đài với tư cách là một cơ quan báo chí có chất lượng cao. Theo gợi ý của Teabing, hãng BBC đã giải tỏa được nỗi sợ mất uy tín ấy bằng cách thỉnh cầu một số nhà sử học được khắp thế giới kính nể tham gia vào ba đoạn phim đặc biệt, tất cả họ đều xác định tính chất lạ kì của bí mật về Chén Thánh, dựa trên nghiên cứu của riêng từng người.

Langdon ở trong số những nhân vật được lựa chọn ấy.

Đài BBC đã đưa Langdon đến điền trang của Teabing ở Paris bằng máy bay để quay phim. Langdon ngồi trước máy quay trong phòng khách sang trọng của Teabing và tham gia vào câu chuyện của ông ta, thừa nhận thái độ hoài nghi ban đầu của mình khi nghe câu chuyện dị bản về Chén Thánh, rồi miêu tả những năm nghiên cứu đã thuyết phục mình như thế nào để đi đến tin rằng câu chuyện đó là thật. Cuối cùng, Langdon trình bày một vài trong số những nghiên cứu của riêng mình - một loạt các mối liên hệ kí tượng học hỗ trợ mạnh mẽ cho những giả thuyết gây tranh cãi ấy.

Khi chương trình phát ở Anh quốc, bất chấp thành phần tham dự và những bằng chứng thông qua các tài liệu xác thực, giả thuyết này đã đụng chạm mạnh với nếp tư duy Cơ đốc phổ biến đến nỗi lập tức vấp phải một cơn bão tố thù địch tẩy chay.

Chương trình này chưa bao giờ được phát ở Mỹ, nhưng ảnh hưởng của nó lại vang vọng khắp cả Đại Tây Dương. Ít lâu sau, Langdon nhận được một tấm thiếp từ một người bạn cũ - vài chữ đơn giản: "Et tu, Robert?" (Cả anh sao, Robert?)

"Robert này" Sophi hỏi "Anh chắc chắn là chúng ta có thể tin người này chứ?".

"Tôi hoàn toàn chắc chắn. Chúng tôi là những đồng nghiệp, ông ta không cần tiền đâu và tình cờ tôi biết được rằng ông ấy rất khinh thường giới cầm quyền Pháp. Chính phủ Pháp đã đánh thuế ông đến mức phi lý bởi vì ông đã mua một điểm mốc lịch sử (4). Ông ấy sẽ không vội vã hợp tác với Fache đâu".

Sophie nhìn sâu vào con đường tối đen như mực: "Nếu chúng ta tìm gặp ông ta, anh muốn cho ông ta biết đến đâu?".

Langdon có vẻ chẳng lo lắng chút nào: "Hãy tin tôi đi, Leigh Teabing là người am hiểu tường tận về Tu viện Sion và Chén Thánh hơn bất kì ai trên đời".

Sophie nhìn Langdon: "Hơn cả ông tôi sao?".

"Ý của tôi là anh ấy am hiểu chuyện này hơn bất kì ai ở ngoài hội kín đó".

"Làm sao anh có thể biết được Teabing không phải là một thành viên của tổ chức này?".

Teabing đã bỏ cả đời để tìm cách phổ biến sự thật về chiếc Chén Thánh. Trong khi lời thề của Tu viện Sion là giấu kín bản chất thật sự của Chén Thánh".

"Theo tôi, điều đó nghe như một sự xung đột về lợi ích vậy".

Langdon hiểu những lo lắng của cô. Saunière đã trực tiếp trao lại cho cô hộp mật mã, mặc dù cô chẳng biết nó đựng gì hoặc phải làm gì với nó, nên cô rất ngần ngại khi phải dính dáng đến một người hoàn toàn xa lạ. Trong việc đánh giá những thông tin còn bí ẩn, bản năng bao giờ cũng là một phương pháp có hiệu quả. "Chúng ta chưa cần nói ngay với Teabing về viên đá đỉnh vòm. Hoặc thậm chí không nói gì hết.

Ông ấy sẽ cho chúng ta một nơi trú ẩn, cả thời gian để suy ngẫm và có thể, khi chúng ta nói chuyện với ông ấy về Chén Thánh, biết đâu cô sẽ vỡ lẽ ra tại sao ông cô lại trao cho cô viên đá đỉnh vòm".

Cho chúng ta chứ", Sophie sửa lại.

Langdon cảm thấy một niềm tự hào khiêm tốn và một lần nữa ông lại tự hỏi tại sao ông Saunière cố ý gán ông vào chuyện này.

"Anh biết ít nhiều về nơi ở của Teabing chứ?".

"Điền trang của ông ấy được gọi là Château Villette".

Sophie quay lại với vẻ không tin: "Chính Château Villette sao?".

"Đúng vậy".

"Bạn oách đấy".

"Cô biết điền trang ấy?".

"Tôi đã đi qua đó. Nó nằm trong một vùng toàn các lâu đài. Cách đây hai mươi phút lái xe".

Langdon cau mày: "Xa đến vậy sao?".

"Đúng thế, ngần ấy thời gian đủ cho anh nói cho tôi biết Chén Thánh thực ra là cái gì".

Langdon dừng lại: "Tôi sẽ kể cho cô nghe tại nhà Teabing. Ông ta và tôi chuyên về những lĩnh vực khác nhau của huyền thoại này, cho nên, nghe cả hai chúng tôi, cô sẽ nắm được đầy đủ câu chuyện về Chén Thánh". Langdon mỉm cười. "Ngoài ra, Chén Thánh là cả cuộc đời Teabing, nên nghe Leigh Teabing kể chuyện Chén Thánh cũng giống như nghe thuyết tương đối từ chính miệng Einstein".

Hy vọng Leigh không phản đối khách đến vào lúc đêm khuya".

Nói cho chính xác, đó đích thị là ngài Leigh. Langdon chỉ mắc lầm lẫn này có một lần. "Teabing quả là một tính cách đặc biệt. Nữ hoàng đã phong tước hiệu Hiệp sĩ cho ông cách đây mấy năm sau khi ông soạn một bộ lịch sử kì vĩ về Ngôi nhà ở xứ York".

Sophie nhìn Langdon: "Anh đang đùa, phải không? Chúng ta sắp tới thăm một Hiệp sĩ ư?".

Langdon mỉm cười vụng về: "Sophie ạ, chúng ta đang đi tìm Chén Thánh. Còn ai có thể giúp chúng ta đắc lực hơn một hiệp sĩ?".

Chú thích:

(1) Quốc khánh Mỹ.

(2) Tiếng Anh: Chén Thánh

(3) Tiếng Pháp: viên đá đỉnh vòm.

(4) Điền trang của ông là một cung điện thế kỷ XVII.

Khu đất rộng 185 mẫu của Château Villette nằm ở vị trí 25 tây bắc Paris trong vùng ngoại ô Versailles. Được thiết kế bởi kiến trúc sư Francois Mansart cho Bá tước Aufflay vào năm 1668, đây là một trong những lâu đài lịch sử quan trọng nhất ở Paris. Hoàn chỉnh với hai con hổ hình chữ nhật và những khu vườn do kiến trúc sư Le Nôtre thiết kế, Château Villette là một toà lâu đài khiêm nhường hơn là uy nghi lộng lẫy. Người ta âu yếm mệnh danh cho nó là Petite Versailles- Versailles nhỏ.

Langdon hãm phanh và chiếc xe tải bọc thép rùng mình dừng lại ở chân đường xe vào lâu đài dài tới một dặm. Bên kia chiếc cổng bảo vệ uy nghi, tòa dinh thự của Ngài Leigh Teabing nổi lên xa xa trên một bãi cỏ. Tấm biển trên cổng ghi bằng tiếng Anh: PRIVATE PROPERTY. NO TRESPASSING (Tài sản tư nhân. Không được phép xâm phạm).

Như để tuyên bố rằng tự bản thân nhà mình là một đảo Anh quốc trên đất Pháp, Teabing không chỉ trương biển bằng tiếng Anh, mà còn cho đặt hệ thống liên lạc từ cổng vào ở phía bên phải của chiếc xe tải - ở tất cả các quốc gia châu Âu phía này là phía ghế hành khách, ngoại trừ nước Anh.

Sophie nhìn hệ thống liên lạc đặt sai chỗ bằng con mắt lạ lùng:

"Nếu như ai đó tới đây mà không chở hành khách thì sao?".

"Đừng hỏi", Langdon có trải nghiệm này với Teabing, "Ông ấy thích mọi thứ vẫn theo cách bên quê nhà".

Sophie hạ cửa xe bên phía cô: "Anh nên nói thì hơn".

Langdon xoay người đổi tư thế và vươn mình ra qua Sophie để bấm nút trên hệ thống liên lạc: Thoảng một mùi nước hoa quyến rũ từ Sophie phả vào mũi ông và ông nhận ra họ đang kề sát bên nhau biết bao. Ông vẫn đợi trong tư thế ngả người bất tiện ấy, trong khi chuông điện thoại bắt đầu reo trên chiếc micrô nhỏ.

Cuối cùng thì hệ thống liên lạc cũng kêu lạo xạo và một giọng Pháp cáu kỉnh lên tiếng: "Château Villette đây. Ai đang gọi đấy?".

"Tôi là Robert Langdon". Langdon nói to, vẫn xoài người trên lòng Sophie, "Tôi là một người bạn của ngài Leigh Teabing.

Tôi cần sự giúp đở của ông ấy".

Ông chủ tôi đang ngủ. Cũng như tôi đây. Ông có công chuyện gì với ông chủ tôi?".

"Đây là chuyện riêng. Một vấn đề ông ấy đặc biệt quan tâm".

"Vậy thì tôi chắc chắn rằng ông chủ sẽ vui lòng tiếp ngài vào sáng mai!".

Langdon xoay người đi một chút: "Chuyện này rất quan trọng đấy".

"Giấc ngủ của ngài Leigh cũng rất quan trọng. Nếu ông là bạn, thì hắn phải biết rằng ngài không được khoẻ chứ".

Ngài Leigh Teabing bị bại liệt từ hồi nhỏ, và bây giờ vẫn phải đeo nẹp chân và dùng nạng để đi lại, nhưng Langdon thấy ông vẫn tràn trề nhựa sống trong lần gặp trước đến nỗi khó có thể coi đó là một tật nguyền. "Làm ơn nói với ngài là tôi đã phát hiện được thông tin mới về Chén Thánh. Mà thông tin ấy không thể chờ đến sáng mai được".

Một quãng ngừng kéo dài.

Sophie và Langdon đợi, động cơ xe tải vẫn ì ầm chạy không tải.

Cả một phút trôi qua.

Cuối cùng ai đó lên tiếng: "Ôi ông bạn của tôi, tôi dám cá là anh vẫn đang theo giờ tiêu chuẩn ở Harvard", giọng nói mạnh mẽ và nhẹ nhàng.

Langdon toét miệng cười khi nhận ra chất giọng Anh đặc sệt ấy: "Leigh à, xin lỗi vì đã đánh thức ông vào cái giờ khiếm nhã này".

"Người giúp việc của tôi nói rằng không những anh đang ở Paris mà còn muốn tiết lộ thông tin về Chén Thánh nữa".

"Tôi nghĩ điều đó có thể lôi ông ra khỏi giường mà".

"Thì thế đấy".

"Liệu có cơ may là ông mở cửa tiếp một người bạn cũ không?".

"Những ai kiếm tìm sự thực thì còn hơn cả bạn bè. Họ là anh em ruột thịt".

Langdon đảo mắt nhìn Sophie, quá quen với cái thói thích diễn kịch của Teabing.

"Thực ra tôi sẽ mở cửa thôi", Teabing tuyên bố, "nhưng trước tiên tôi phải xác định tấm lòng chân thật của anh đã. Một bài kiểm tra sát hạch về danh dự đối với anh. Anh phải trả lời ba câu hỏi".

Langdon rên rỉ rồi thì thầm với Sophie: "Hãy chịu đựng cùng tôi nhé. Tôi đã nói trước rồi mà, ông ấy là một tính cách đặc biệt".

"Câu hỏi đầu tiên của anh đây", Teabing tuyên bố, giọng điệu như Hercule. "Tôi phải đãi anh cà phê hay trà?".

Langdon biết Teabing rất ghét cà phê Mỹ: "Trà đi. Hiệu Earl Grey".

"Rất tốt. Câu hỏi thứ hai. Anh dùng dường hay sữa?".

Langdon đắn đo.

"Sữa đi", Sophie thì thầm bên tai ông. "Tôi nghĩ người Anh sẽ dùng sữa".

"Sữa", Langdon nói.

Im lặng.

"Đường được không?".

Teabing không nói gì.

Khoan! Giờ thì Langdon đã nhớ ra thứ đồ uống đăng đắng mà ông đã được mời trong cuộc đến thăm lần thước và nhận ra câu hỏi này là một cái mẹo. "Chanh!" ông tuyên bố. "Earl Grey với chanh".

"Quả vậy". Giờ đây Teabing có vẻ rất khoái. "Và cuối cùng, tôi sẽ hỏi anh một câu nghiêm túc nhất". Teabing dừng lại rồi sau đó nói bằng một giọng rất trịnh trọng. "Lần cuối cùng một vận động viên chèo thuyền của trường Harvard thắng một tay đua của trường Oxford tại giải Henley là vào năm nào?".

Langdon không biết, nhưng ông có thể mường tượng ra lí do duy nhất câu hỏi được đưa ra: "Một trò hề lố bịch như thế chưa bao giờ xảy ra cả".

Cửa bật mở: "Trái tim anh chân thật, anh bạn của tôi. Anh có thể vào".

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 37

"Ngài Vernet!" Người quản lí trực đêm của Ngân hàng ký thác Zurich nhẹ cả người khi nghe thấy giọng của ông chủ tịch ngân hàng trên điện thoại. "Ngài vừa đi đâu thế ạ? Cảnh sát đang ở đây. Tất cả mọi người đều đang đợi ngài!".

"Tôi đang gặp một rắc rối nhỏ", ông chủ tịch ngân hàng nói, giọng nghe có vẻ khổ sở. "Tôi cần ông giúp ngay".

Ngài đang gặp chuyện nghiêm trọng hơn một rắc rối nhỏ nhiều, người quản lí nghĩ thầm. Cảnh sát đã phong toả toàn bộ ngân hàng và đang doạ rằng đích thân tay đại uý của DCPJ sẽ đến với lệnh khám xét mà ngân hàng đòi hỏi phải xuất trình. "Tôi có thể giúp ngài bằng cách nào?".

"Chiếc xe tải bọc thép số ba. Tôi cần phải tìm ra nó".

Bối rối, người quản lí kiểm tra lịch phân phát hàng: "Nó vẫn còn ở đây mà. Tại bãi bốc dỡ tầng một".

"Thực tế là không phải vậy đâu. Hai kẻ bị cảnh sát truy lùng đã đánh cắp chiếc xe tải đó rồi".

"Cái gì? Làm sao chúng có thể lái xe ra khỏi ngân hàng được cơ chứ?".

"Tôi không thể nói chi tiết trên điện thoại được, nhưng chúng ta gặp một tình huống có thể cực kì bất lợi cho ngân hàng".

"Ngài cần tôi giúp gì đây?".

"Tôi muốn ông khởi động hệ thống phát tín hiệu khẩn cấp của chiếc xe tải đó".

Người quản lí trực đêm dõi mắt vào hộp điều khiển LoJack đằng kia căn phòng. Cũng giống như rất nhiều chiếc xe bọc thép khác, mỗi chiếc xe tải của ngân hàng đều được trang bị một hệ thống được kiểm soát từ ngân hàng thông qua máy radio, hệ thống này có thể được khởi động từ ngân hàng. Người quản lí mới chỉ sử dụng hệ thống báo động này có một lần, sau mỗi vụ cướp, và nó đã hoạt động một cách hoàn mĩ không thể chê vào đâu được - xác định vị trí của chiếc xe tải và tự động truyễn toạ độ về các nhà chức trách. Tuy nhiên, tối nay người quản lí lại có cảm giác rằng ông chủ tịch đang hy vọng mình sẽ hành động thận trọng hơn mọi ngày. "Thưa ngài, ngài phải hiểu rằng nếu tôi khởi động LoJack thì hệ thống báo động sẽ ngay lập tức thông báo cho các nhà chức trách biết chúng ta đang gặp rắc rối".

Vernet im lặng trong vài giây: "Phải, tôi hiểu. Dù sao cũng cứ làm thế đi. Xe tải số ba. Tôi sẽ giữ máy. Tôi cần biết vị trí chính xác của chiếc xe tải đó ngay sau khi ông xác định được".

"Tôi sẽ làm ngay, thưa ngài".

***

Ba mươi giây sau đó, cách ngân hàng bốn mươi cây số, một hệ thống báo động nhỏ xíu được giấu kín dưới gầm chiếc xe tải bọc thép bắt đầu khởi động nhấp nháy.

Khi Langdon và Sophie lái chiếc xe tải bọc thép trên đoạn đường ngoằn ngoèo giữa hai hàng cây dương về phía toà nhà, Sophie đã có thể cảm thấy cơ bắp mình thư giãn. Thật nhẹ người khi thoát ra khỏi đường giao thông công cộng, và cô nghĩ ít có nơi nào trú chân an toàn hơn là khu điền trang kín cổng cao tường của người nước ngoài vui tính này.

Họ rẽ vào đoạn đường xoáy vòng tròn và Château Villêtte hiện ra trước mắt họ ở phía bên phải. Tòa nhà cao ba tầng và dài ít nhất mười sáu mét, mặt tiền bằng đá xám, chiếu sáng bởi những trụ đèn chiếu đặt bên ngoài. Mặt tiền thô nháp này kề sát và tương phản với những khu vườn cảnh tinh khiết và hồ nước như gương soi.

Đèn trong nhà lúc này vừa bật lên.

Thay vì lái xe đến cửa trước, Langdon lái vào khu đỗ xe náu dưới những cây vạn niên thanh. "Chẳng tội gì phơi nó ra để từ ngoài đường cái cũng nhìn rõ mồn một", ông nói. "Hoặc là để Leigh thắc mắc tại sao mình lại đến trong chiếc xe bọc thép tả tơi thế này".

Sophie gật đầu: "Chúng ta làm gì với chiếc hộp mật mã này đây? Có lẽ không nên để nó lại trong xe, nhưng nếu Leigh nhìn thấy nó, chắc chắn ông ta sẽ muốn biết đó là cái gì".

"Đừng lo", Langdon nói, rồi cởi áo khoác khi bước ra khỏi chiếc xe. Ông cuộn chiếc áo khoác bằng vải tuýt quanh chiếc hộp rồi ôm bọc đó trong tay như ẵm trẻ vậy.

Sophie có vẻ vẫn hoài nghi: "Tinh vi".

"Teabing không bao giờ tự ra mở cửa, ông ta thích bước vào khi khách đã yên vị. Tôi sẽ tìm thấy một nơi nào đó bên trong nhà để cất giấu cái này trước ông ấy gặp chúng ta". Langdon dừng lại. "Thực ra, có lẽ tôi nên dặn cô điều này trước khi chúng ta nói chuyện với ông ấy. Ngài Leigh là người có khiếu hài hước mà mọi người thường cảm thấy hơi… kì dị một chút".

Sophie không tin là còn có điều gì đêm nay có thể khiến cô coi là kỳ dị.

Lối đi dẫn tới cửa vào chính được rải sỏi. Nó lượn tới một cánh cửa bằng gỗ sồi chạm trổ và gỗ anh đào, với một chiếc vòng gõ cửa bằng đồng to như quả bưởi. Trước khi Sophie nắm lấy chiếc vòng đó, cánh cửa đã mở tung ra từ bên trong.

Một người quản gia nghiêm trang và thanh lịch đứng trước mặt họ, chỉnh lại lần cuối chiếc cà vạt trắng và bộ tuxedo mà rõ ràng ông ta vừa mới mặc vào. Trông ông ta trạc ngũ tuần, nét mặt tao nhã và vẻ nghiêm khắc cho thấy rành là ông ta chẳng khoái gì sự hiện diện của họ ở đây.

"Ngài Leigh sẽ xuống ngay bây giờ", ông ta nói dõng dạc bằng chất giọng Pháp đặc sệt. "Ông chủ đang mặc trang phục.

Ông ấy không muốn tiếp đãi khách trong khi đang bận đồ ngủ.

Tôi có thể giúp ông cầm chiếc áo khoác được không?" Ông ta gườm gườm nhìn bọc vải tuýt trong tay Langdon.

"Cám ơn, tôi cầm được mà".

"Tất nhiên là được. Xin mời đi lối này".

Người quản gia dẫn họ đi xuyên qua một phòng chờ sang trọng lát cẩm thạch rồi vào một phòng khách trang trí tuyệt đẹp dưới ánh sáng êm dịu từ những ngọn đèn rủ tua kiểu Victoria. Không khí trong nhà có vẻ rất cổ xưa và cách nào đó lại có chất vương giả với mùi thuốc lá tẩu, mùi lá trà, mùi rượu vang Tây Ban Nha đang nấu và cả mùi đất của kiến trúc đá.

Trên nền bức tường phía xa, giữa hai bộ áo giáp sáng lấp lánh là một lò sưởi xù xì đủ lớn để nướng cả một con bò đực. Bước tới lò sưởi, người quản gia quỳ xuống và đánh một que diêm, Châm vào mớ củi gỗ sồi đã xếp sẵn và nhóm lò lên. Một ngọn lửa nhanh chóng bùng lên lách tách.

Người quản gia đứng lên và vuốt phăng chiếc áo vét của mình: "Ông chủ tôi đề nghị quí khách cứ tự nhiên như ở nhà". Nói rồi, ông đi khỏi, để Langdon và Sophie ở lạỉ một mình.

Sophie phân vân không biết nên ngồi lên thứ gì trong số những đồ cổ kê cạnh lò sưởi - chiếc đivăng nhung thời Phục hưng, chiếc xích đu hình móng đạỉ bàng hay là đôi ghế nguyện bằng đá nom như vừa được khuân ra từ một điện thờ Byzantine nào đó.

Langdon lôi hộp mật mã ra khỏi chiếc áo khoác, đoạn tiến tới chiếc đivăng nhung kia và luồn chiếc hộp gỗ xuống gầm đivăng, khuất hẳn tầm nhìn. Rồi rũ mạnh chiếc áo, ông mặc nó trở lại, vuốt phẳng ve áo và vừa mỉm cười với Sophie vừa ngồi ngay lên chỗ vừa cất giấu kho báu.

Chiếc đi văng này đây, Sophie nghĩ bụng rồi ngồi xuống bên cạnh Langdon.

Trong khi đăm đăm nhìn ngọn lửa đang to dần, tận hưởng hơi ấm toả ra, Sophie có cảm giác ông cô ắt rất thích căn phòng này. Ván lát tường bằng gỗ màu đen được trang trí bằng những bức hoạ của các bậc thầy thời xưa, trong số đó cô nhận ra một bức Poussin - người hoạ sĩ ưa thích thứ hai của ông cô. Trên mặt lò sưởi, một bức tượng bán thân nữ thần Isis đang quan sát toàn bộ căn phòng.

Ngay sát dưới nữ thần Ai Cập, ở bên trong lò sưởi, có hai máng xối nước hình đầu thú được dùng làm vỉ lò, miệng của chúng há hốc để lộ ra cổ họng rỗng toác đầy đe doạ. Hồi bé, những chiếc máng xối nước hình thú như vậy bao giờ cũng khiến cho Sophie hoảng sợ, cho mãi tới khi ông cô chữa cho cô khỏi cảm giác sợ hãi ấy bằng cách đưa cô bé lên nóc Nhà thờ Đức Bà trong một cơn mưa giông. "Công chúa, cháu hãy nhìn vào những con vật ngốc nghếch này", nói rồi ông chỉ về phía những máng xối nước mưa hình thú với những cái miệng đang phun nước tung toé kia. "Cháu có nghe thấy cái tiếng ngồ ngộ trong cuống họng chúng không?". Sophie gật gật đầu, rồi mỉm cười khi nghe thấy tiếng nước chảy ồng ộc trong cổ họng của những con thú ấy. "Bọn chúng đang xúc miệng đấy", ông nói với cô bé. "Ôi những con thú biết xúc miệng - Cargariser!" Và đó cũng chính vì thế mà người ta đặt những cái tên thật ngớ ngẩn cho những con thú ấy.

Từ đó Sophie không bao giờ còn sợ chúng nữa.

Kí ức thân yêu ấy khiến Sophie cảm thấy quặn đau khi thực tế nghiệt ngã của vụ giết người lại bóp chặt tlm cô. Ông đã ra đi rồi. Cô hình dung hộp mật mã ở dưới đivăng và tự hỏi không biết Leigh Teabing có cách nào để mở nó hay không. Hay là ta cứ hỏi thẳng ông ấy. Lời trăng trối của ông cô đã dặn cô tìm Robert Langdon. Ông chẳng nói gì về chuyện kéo thêm ai khác vào cuộc. Chúng ta cần có một nơi để trốn. Sophie tự nhủ và quyết định sẽ tin tưởng vào nhận định của Robert.

"Ngài Robert", một giọng nói oang oang đâu đó phía sau họ, "Tôi thấy là ngài đi cùng với một thiếu nữ".

Langdon đứng lên. Sophie cũng bật dậy. Giọng nói ấy vọng xuống từ đầu cầu thang vòng cung, uốn khúc lên tầng hai chìm trong bóng tối. Trên đầu cầu thang, một hình người chuyển động trong bóng tối, chỉ thấy được vóc dáng mà thôi.

"Xin chào", Langdon nói vọng lên, "Ngài Leigh, tôi xin giới thiệu đây là cô Sophie Neveu".

"Rất hân hạnh", Teabing hiện ra dưới ánh đèn.

"Cảm ơn ngài đã tiếp chúng tôi", Sophie nói, lúc này đã thấy rõ ông ta mang nẹp chân bằng kim loại và dùng nạng để di chuyển. Ông ta đang bước từng bậc một xuống cầu thang, "Tôi biết giờ đã rất khuya".

"Bạn thân mến, khuya quá hóa sớm!" ông mỉm cười: "Vous ri etes pas Americaine?" (1).

Sophie lắc đầu: "Parisienne"(2).

"Tiếng Anh của cô rất tuyệt đấy".

"Cám ơn ngài. Tôi đã học tại trường Hoàng gia Holloway".

"Ra thế, thảo nào", Teabing tập tễnh bước xuống bậc bậc dưới. "Có lẽ Robert đã kể cho cô biết tôi đã từng giảng dạy ở Oxford", Teabing nở một nụ cười tinh quái với Langdon. "Tất nhiên tôi cũng đã nộp đơn xin dạy ở Harvard, xem như trường an toàn của tôi".

Vị chủ nhân đã tới chân cầu thang, Sophie thấy ông chẳng có vẻ hiệp sĩ gì hơn Ngài Elton John (3). Với vóc dáng bệ vệ và khuôn mặt hồng hào, Teabỉng có mái tóc rậm hung dỏ, cặp mắt màu nâu vui tươi dường như lúc nào cũng lấp lánh mỗi khi ông cất lời ông mặc quần chiết li và sơ mi lụa rộng bên trong chiếc vét có hoạ tiết hình cánh hoa. Mặc dù phải dùng nẹp chân bằng nhôm, nhưng ông đi thẳng thớm, nhún nhảy với cái vẻ đường hoàng tựa như kế truyền từ dòng dõi quí tộc hơn là do nỗ lực một cách hữu thức.

Teabing tới và chìa tay cho Langdon: "Robert này, anh giảm cân đi nhiều đấy".

Langdon nhoẻn miệng cười: "Còn ngài thì có tăng trọng một chút".

Teabing cười nồng hậu, vỗ vỗ cái bụng tròn trịa của mình:

Touché!"(4). Dạo này, lạc thú thể xác duy nhất của tôi dường như chỉ là ăn uống". Quay sang Sophie, ông dịu dàng cầm lấy tay cô, khẽ cúi đầu hôn nhẹ lên những ngón tay cô và ngánh mắt đi: "Quý nương".

Sophie liếc nhìn Langdon, không biết mình đã trở lui về thời xa xưa hay vừa bước vào một nhà thương điên.

Người quản gia lúc nãy mở cửa đón họ, giờ bước vào với một bộ đồ trà mà ông ta xếp lên một chiếc bàn trước lò sưởi.

"Đây là Rémy Legaludec", Teabing giới thiệu, "quản gia của tôi".

Người quản gia mảnh mai gật đầu cứng nhắc và lại biến mất.

"Rémy là Lyonnais"(5), Teabỉng thì thào như thể người Lyon là một bệnh dịch vậy, "nhưng ông ta nấu nước sốt rất ngon".

Nom Langdon có vẻ thích chí: "Tôi những tưởng ngài sẽ nhập khẩu cả một đội ngũ nhân viên người Anh cơ đấy?".

"Trời, không đâu! Tôi sẽ không cầu cho bất cứ ai vô phúc vớ phải một đầu bếp người Anh, trừ bọn thu thuế người Pháp".

Ông liếc nhìn Sophie. "Pardonnez-moi (6), thưa cô Neveu. Xin cô hãy tin rằng rằng ác cảm của tôi đối với nước Pháp chỉ mở rộng đến chính trị và sân bóng đá mà thôi. Chính phủ nước cô đã cuỗm mất tiền của tôi, và đội bóng nước cô thì vừa mới hạ nhục chúng tôi".

Sophie mỉm cười thoải mái.

Teabing quan sát cô một lúc rồi lại nhìn Langdon: "Có chuyện gì đó vừa xảy ra. Cả hai bạn đều có vẻ xáo động".

Langdon gật đầu: "Chúng tôi đã có một đêm hay ho đấy, ngài Leigh ạ".

"Không nghi ngờ gì nữa. Nửa đêm, anh đến đập cửa nhà tôi không báo trước, lại đem chuyện Chén Thánh ra làm quà. Hãy nói cho tôi biết, thực ra chuyện này có liên quan đến chiếc Chén Thánh hay không? Hay đơn giản anh nói như vậy chỉ vì anh biết rõ rằng đó là chủ đề duy nhất sẽ đánh thức được tôi vào nửa đêm thế này?".

Cả hai, mỗi thứ một chút, Sophie nghĩ thầm, hình dung tới hộp mật mã bên dưới chiếc đivăng.

"Ngài Leigh này", Langdon nói, "chúng tôi muốn nói chuyện với ngài về Tu viện Sion".

Cặp lông mày rậm rạp của Teabing uốn cong lên, lộ vẻ tò mò. "Những người gìn giữ Chén Thánh. Vậy ra hai người đến đây về chuyện Chén Thánh thật. Anh nói có mang một số thông tin tới. Có gì mới không, Robert?".

"Có thể. Chúng tôi cũng không dám chắc lắm đâu. Chúng tôi có thể biết rõ hơn nếu như chúng tôi nhận được thông tin từ phía ngài trước đã".

Teabing dứ dứ ngón tay: "Vẫn cái thói ranh ma của người Mỹ. Một trò có đi có lại. Tốt thôi. Tôi sẵn sàng phục vụ các bạn. Tôi có thể nói cho các bạn biết về điều gì đây?".

Langdon thở dài: "Tôi hy vọng ngài sẽ sẵn lòng giải thích cho cô Neveu đây về bản chất thực của Chén Thánh".

Teabing có vẻ sửng sốt: "Cô ấy chưa biết sao?".

Langdon lắc đầu.

Một nụ cười dần nở trên mặt Teabing, nó gần như tục tĩu:

"Robert này, thì ra anh mang đến cho tôi một trinh nữ".

Langdon cau mặt, liếc nhìn Sophie: "Trinh nữ là một thuật ngữ mà những người say mê Chén Thánh dùng để mô tả bất kì ai chưa bao giờ nghe câu chuyện thật về Chén Thánh".

Teabing sốt sắng quay sang Sophie: "Cô biết đến đâu rồi?".

Sophie nhanh chóng phác qua những gì trước đây Langdon đã giải thích cho cô hay - Tu viện Sion, các Hiệp sĩ Templar, tài liệu Sangreal và cả Chén Thánh mà nhiều người cho rằng đó không chỉ là một chiếc chén… mà đúng hơn là một thứ gì đó đầy quyền lực.

"Chỉ có vậy thôi sao?". Teabing ném về phía Langdon một cái nhìn công phẫn. "Robert này, tôi cứ tưởng anh là một quý ông cơ đấy. Anh đã tước mất của cô gái này đoạn cao trào!"(7).

"Tôi biết, tôi nghĩ ngài và tôi có thể…" Rõ ràng là Langdon thấy phép ẩn dụ khiếm Teabing dùng đã đi quá xa và như thế là quá đủ rồi.

Teabing đã khiến Sophie bị cột chặt vào cái nhìn long lanh của ông: "Cô bạn thân mến, cô là một trinh nữ về Chén Thánh. Và hãy tin tôi, cô sẽ không bao giờ quên lần đầu tiên của mình đâu".

Chú thích:

(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cô không phải là người Mỹ?

(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Người Paris.

(3) Danh ca Anh cũng được phong tặng danh hiệu hiệp sĩ.

(4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Trúng đích.

(5) Tiếng Pháp trong nguyên bản: người Lyon

(6) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Thứ lỗi cho tôi.

(7) Chơi chữ: climax trong tiếng Anh vừa có nghĩa là đoạn cao trào, phần có ý nghĩa nhất của một câu chuyện nhưng cũng có nghĩa là phút cực khoái trong giao hợp.

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 38

Nằm trên chiếc đivăng bên cạnh Langdon, Sophie uống tách trà và ăn bánh nướng, cảm thấy tác động dễ chịu của chất cafein và đồ ăn. Ngài Leigh Teabing tươi rói trong khi vụng về dạo bước phía trước lò sưởi để ngỏ, những chiếc nẹp chân lách cách trên nền đá.

"Chén Thánh", Teabing nói, giọng giảng giải, "hầu hết mọi người chỉ hỏi tôi là hiện nó ở đâu. Tôi e rằng đó chính là câu hỏi tôi sẽ không bao giờ trả lời được". Ông quay lại nhìn thẳng vào mặt Sophie. "Tuy nhiên… câu hỏi thích đáng nhất chính là: Chén Thánh là gì?".

Sophie cảm thấy một vẻ rào đón mang tính học thuật ở cả hai người bạn nam của mình.

"Để có thể hiểu một cách đầy đủ về Chén Thánh", Teabing tiếp tục trước tiên chúng ta cần phải hiểu Kinh thánh đã. Cô hiểu như thế nào về Tân ước?".

Sophie nhún vai: "Thực sự, tôi chẳng hiểu gì cả. Người nuôi dạy tôi nên người lại rất sùng kính Leonardo Da Vinci".

Teabing có vẻ vừa sửng sốt vừa hài lòng: "Một tâm hồn sáng láng. Tuyệt! Thế thì chắc chắn cô phải biết rất rõ Leonardo là một trong số những người nắm giữ bí mật về Chén Thánh. Và ông ta còn cất giấu những đầu mối về bí mật đó trong nghệ thuật của mình".
"Vâng, Robert đã nói cho tôi như vậy".

"Thế những quan điểm của Da Vinci về Tân ước thì sao?".

"Tôi không biết".

Mắt Teabing trở nên vui thích khi ông khoát tay về phía giá sách ở đầu kia phòng: "Robert này, phiền anh được không? Ở ngăn dưới cùng ấy. Cuốn La stora di Leonardo" (Truyện về Leonardo.

Langdon băng ngang qua căn phòng, ông tìm thấy một cuốn sách khổ lớn về nghệ thuật, đem nó lại, đặt lên mặt bàn giữa hai người. Xoay cuốn sách về phía Sophie, Teabing lật mở tấm bìa dày và chỉ vào một loạt những lời trích dẫn bên trong bìa sau. "Trích từ sổ tay của Da Vinci về luận chiến và suy biện", Teabing vừa nói vừa chỉ tay vào một đoạn trích cụ thể. "Tôi nghĩ cô sẽ thấy đoạn trích này phù hợp với cuộc thảo luận của chúng ta".

Sophie đọc những dòng chữ đó lên.

Nhiều người đã buôn bán những ảo tưởng và những phép màu giả mạo, lừa gạt đám đông ngu ngốc.

LEONARDO DA VINCI.

"Đây là một đoạn khác", Teabing vừa nói vừa chỉ tay một đoạn trích khác.

Sự ngu dốt mù loà đưa chúng ta lầm đường lạc lối.

Hỡi lũ người trần tục khôn khổ, hãy mở mắt ra!

LEONARDO DA VINCI.

Sophie cảm thấy hơi ớn lạnh: "Da Vinci nói về Kinh Thánh đấy ư?".

Teabing gật đầu: "Những cảm giác của Leonardo về Kinh Thánh liên quan trực tiếp tới Chén Thánh. Thực tế, Da Vinci đã vẽ chiếc Chén Thánh đích thực, mà lát nữa tôi sẽ chỉ cho cô xem, nhưng chúng ta phải nói về Kinh Thánh trước đã". Teabing mỉm cười: "Và tất cả những gì cô cần biết về Kinh Thánh đã được tổng kết bởi vị Tiến sĩ, Giáo sĩ vĩ đại Martyn Percy". Teabing hắng giọng và tuyên bố. "Kinh Thánh không đến từ thiên đàng bằng đường fax đâu".

"Xin lỗi tôi không hiểu?".

"Bạn thân mến, Kinh Thánh là một sản phẩm của con người. Chứ không phải là của Chúa. Kinh Thánh không phải rơi xuống từ những đám mây bằng phép mầu. Con người đã sáng tạo ra Kinh Thánh như một hồ sơ lịch sử ghi lại những thời đại loạn lạc và nó đã triển hóa qua vô số những bản dịch, bổ sung, và sửa chữa. Lịch sử chưa bao giờ có một bản chính dứt khoát của cuốn sách này!".

"Tôi hiểu rồi".

Chúa Jesus Christ là một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng chấn động, có lẽ là người lãnh đạo bí hiểm nhất và đem lại nhiều nguồn cảm hứng nhất mà thế giới từng thấy. Với tư cách là vị Chúa Cứu Thế được báo trước, Jesus lật đổ các vị vua, khơi gợi cảm hứng cho hàng triệu người và đã sáng lập ra nhiều nền triết học. Với tư cách là người kế tục dòng dõi của các vị vua Salomon và David, Jesus có quyền chính đáng đòi ngôi Quân vương của người Do Thái. Thật dễ hiểu là cuộc đời của Người được hàng nghìn tín đồ trên khắp các vùng đất ghi chép lại". Teabing dừng lại một chút để nhấm nháp tách trà rồi đặt nó trở lại trên mặt lò sưởi. "Có hơn tám mươi bản phúc âm được xem xét để soạn Tân ước, nhưng chỉ có một số tương đối ít được chọn để đưa vào - Matthew, Mark, Luke, và John".

"Ai là người lựa chọn những bản phúc âm đó để đưa vào Tân ước?" Sophie hỏi.

"Aha!". Teabing bốc lên. "Điều mỉa mai cơ bản của Thiên Chúa giáo! Cuốn Kinh thánh mà chúng ta biết ngày nay được tập hợp và chỉnh lý bởi Constantine Đại đế - một hoàng đế La Mã ngoại đạo".

"Tôi tưởng Constantine là một tín đồ Thiên Chúa giáo", Sophie nói.

"Đâu có", Teabing chế giễu, "Ông ta cả đời là một kẻ ngoại đạo mãi đến khi nằm trên giường lâm chung, quá yếu không thể phản đối được, mới chịu lễ rửa tội. Dưới thời Constantine, quốc giáo của La Mã thờ thần Mặt trời - thờ Sol Invictus tức là Mặt trời không gì thắng nổi - và Constantine chính là tu sĩ đứng đầu quốc giáo đó. Rủi cho ông ta, một cuộc náo loạn tôn giáo ngày càng dữ dội đã tràn ngập La Mã. Ba thế kỉ sau khi Chúa Jesus Christ bị đóng đinh câu rút, số tín đồ của Người đã tăng bội lên theo cấp luỹ thừa. Những tín đồ Thiên Chúa giáo và những người ngoại đạo bắt đầu gây chiến với nhau, và cuộc xung đột phát triển đến mức đe doạ chia cắt La Mã làm hai. Constantine quyết định phải làm một điều gì đó. Vào năm 325 sau Thiên Chúa Giáng Sinh, ông ta quyết tâm thống nhất La Mã dưới hình thức một tôn giáo duy nhất. Đó chính là Thiên chúa giáo".

Sophie ngạc nhiên: "Tại sao một hoàng đế ngoại đạo lại lựa chọn đạo Thiên chúa làm quốc giáo?".

Teabing cười khúc khích: "Constantine là một nhà kinh doanh rất giỏi. Ông ta thấy rõ Thiên chúa giáo ở xu thế đang lên, và đơn giản là ông ta ủng hộ con ngựa thắng cuộc. Các sử gia lấy làm thán phục sự xuất sắc của Constantine trong việc cải đạo cho những người thờ thần Mặt Trời thành những tín đồ Thiên chúa giáo. Bằng việc phối quyện những biểu tượng, ngày tháng, nghi lễ ngoại đạo vào truyền thống Thiên chúa giáo đang ngày càng phát triển, ông đã tạo ra một thứ tôn giáo lai tạo có thể chấp nhận được với cả hai phía".

"Thần thông biến hóa", Langdon nói. "Những dấu tích của dị giáo trong những biểu tượng của Thiên chúa giáo là không thể chối cãi được. Đĩa mặt trời Ai Cập thành hào quang quanh đầu các thánh Thiên Chúa giáo. Những hình diễn đạt nữ thần Isis cho Horus bú, đứa con trai được thụ thai một cách kì diệu, đã trở thành mẫu phác thảo cho các hình vẽ hiện đại thể hiện Đức Mẹ Đồng Trinh Mary cho Chúa Hài Đồng Jesus bú. Và gần như mọi yếu tố trong các nghi lễ của Ki tô giáo như mũ tế, bàn thờ thánh, thánh ca, lễ ban thánh thể cũng như nghi thức rước mình Thánh Chúa đều được lấy thẳng từ những nghi lễ bí nhiệm dị giáo có từ trước đó".

Teabing rên rỉ: "Đừng có để một nhà ký tượng học bắt đầu giảng những bức tượng thánh Thiên chúa giáo. Chẳng có gì trong Thiên chúa giáo là chính gốc. Mithras - mà người ta vẫn quen gọi là Con trai của Thượng đế và Anh sáng của thế giới - là một vị thần tiền - Thiên chúa giáo chào đời vào ngày 25 tháng 12, và khi chết được chôn trong một ngôi mộ bằng đá, rồi tái sinh sau đó ba ngày. Tiện đây xin nói ngày 25 tháng 12 cũng được coi là ngày sinh của Orisis, Adonis và Dionysus. Thần Krishna lúc mới sinh ra đã được dâng tặng vàng, trầm hương và cả nhựa trầm hương. Thậm chí ngày thánh hàng tuần của Cơ đốc giáo cũng là thứ đánh cắp từ những người ngoại đạo".

"Ý ông muốn nói gì?".

"Thoạt kỳ thuỷ". Teabing nói, "Thiên chúa gỉáo tôn vinh ngày hành lễ thứ Bảy Sabbath của người Do Thái, nhưng Constantine đã chuyển ngày lễ đó cho trùng với ngày lễ thần Mặt Trời của người ngoại đạo". Ông dừng lạí và cười. "Cho đến tận bây giờ, những con chiên đi lễ chầu sáng Chủ nhật vẫn không mảy may biết rằng họ ở đó để dự tế thần Mặt Trời hàng tuần của người ngoại đạo - Chủ nhật có nghĩa là ngày của mặt trời mà".

Sophie cảm thấy đầu óc quay cuồng: "Và tất cả những điều này đều liên quan đến Chén Thánh?.

"Quả vậy", Teabing nói, "hãy tiếp tục cùng tôi. Trong thời kì hợp nhất tôn giáo ấy, Constantine cẫn tăng cường truyền thống mới trong Thiên chúa giáo và triệu tập một cuộc họp toàn giáo hội nổi tiếng gọi là Hội đồng Nicaea".

Sophie có nghe nói đến Hội đồng Nicaea nhưng chỉ biết đó là nơi ra đời của Kinh tin kính Nicene.

"Tại cuộc họp này", Teabing nói, "nhiều khía cạnh của Thiên chúa giáo đã được mang ra tranh cãi và biểu quyết như lễ Phục sinh vai trò của các giám mục, việc quản lí các nghi lễ và tất nhiên, cũng bao gồm cả tính thiên giới của Jesus".

"Tôi không hiểu. Tính thiên giới của Jesus nghĩa là sao?".

"Bạn thân mến ơi", Teabing tuyên bố, "cho đến thời điểm đó trong lịch sử, các tín đồ của Jesus vẫn chỉ coi Người như một nhà tiên tri trần tục… nghĩa là một con người vĩ đại và đầy uy lực nhưng dù sao mặc lòng vẫn là một con người. Một kẻ trần tục".

"Không phải là Con trai của Chúa trời sao?".

"Đúng vậy", Teabing nhận xét, "việc cố tình công nhận Jesus là Con trai của Chúa trời được đề xuất chính thức và biểu quyết bởi Hội đồng Nicaea".

"Hượm đã. Ông nói tính thiên giới của Jesus là kết quả của một cuộc bỏ phiếu biểu quyết?".

"Mà lại là một cuộc biểu quyết tương đối hẹp nữa chứ", Teabing bổ sung, "Dù sao đi nữa, việc khẳng định tính thiên giới của Christ có tính quyết định đối với việc thống nhất đế chế La Mã và cơ sở quyền lực mới của Vatican. Bằng việc chính thức xác nhận Jesus là Con trai của Chúa Trời, Constantine đã biến Jesus thành một vị thần tồn tại ngoài phạm vi thế giới loài người, một thực thể với quyền uy vượt qua mọi thách thức. Điều này không chỉ ngăn chặn những thách thức mới đối với Thiên Chúa giáo từ phía những người ngoại đại, mà giờ đây những tín đồ của Christ còn có thể tự cứu chuộc mình thông qua con đường linh thiêng duy nhất đã được chế định - nhà thờ Thiên Chúa giáo La Mã".

Sophie liếc nhìn Langdon, ông nhẹ nhàng gật đầu khẳng định.

"Tất cả đều có liên quan đến quyền lực", Teabing tiếp tục, "Christ, với tư cách là Chúa Cứu thế, có tầm quan trọng quyết định đối với sự vận hành của nhà thờ cũng như của nhà nước. Nhiều học giả tuyên bố rằng Nhà thờ sơ khởi đã đánh cắp Jesus theo nghĩa đen từ những tín đồ ban đầu của ông, cưỡng doạt thông điệp nhân văn của ông, trùm lên thông điệp đó một tấm màn dày đặc là tính thiên giới và sử dụng nó để mở rộng quyền lực của riêng họ. Tôi đã viết một vài cuốn sách về đề tài này".

"Tôi đồ rằng hắn các tín đồ Thiên chúa giáo mộ đạo ngày nào cũng gửi cho ông những bức thư hằn học?".

"Tại sao họ phải làm thế?". Teabing phản bác. "Đại đa số những tín đồ Thiên chúa có học vấn đều biết lịch sử tín ngưỡng của mình. Quả thực, Jesus là một con người vĩ đại và giàu sức mạnh. Những thủ đoạn chính trị lừa lọc của Constantine không làm giảm sút sự vĩ đại của Jesus. Không ai nói rằng Christ là một vụ gian trá hay chối cãi rằng ông đã đi khắp thế gian và gieo vào lòng hàng triệu người khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chúng tôi chỉ nói Constantine đã lợi dụng tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn lao của Christ. Làm như vậy, ông ta đã tạo ra diện mạo của Thiên chúa giáo như chúng ta biết ngày nay".

Sophie liếc nhìn cuốn sách nghệ thuật nằm trước mặt cô, háo hức muốn giở tiếp để xem bức hoạ của Da Vinci về Chén Thánh.

"Sự xoay chuyển là thế này", Teabing lúc này nói nhanh hơn, "bởi vì Constantine nâng vị thế của Jesus sau khi Jesus qua đời gần bốn thế kỉ, nên đã có hàng ngàn tài liệu ghi chép lại cuộc đời của Jesus như là một con người trần tục. Để chỉnh biên lại những cuốn sách lịch sử này, Constantine biết mình cần làm một cú táo bạo. Do vậy, đã nẩy sinh thời điểm sâu sắc nhất trong lịch sử Thiên chúa giáo". Teabing dừng lại và nhìn Sophỉe. "Constantine đã tài trợ và đặt người viết một cuốn Kinh Thánh mới, trong đó tước bỏ những bản phúc âm mô tả những nét con người trần thế của Christ và tô điểm những bản thể hiện Christ như một vị thần. Những sách phúc âm trước đó bị coi là bất hợp pháp, phải thu gom lại và đốt sạch".

"Một lưu ý thú vị", Langdon bổ sung, "bất kì ai chọn những bản phúc âm bị cấm thay vì bản của Constantine đều bị coi là dị giáo. Từ dị giáo phát sinh từ thời điểm lịch sử này. Trong tiếng Latinh từ haereticus có nghĩa là "sự lựa chọn". Những ai lựa chọn, lịch sử khởi nguyên của Christ đều là những kẻ dị giáo đầu tiên của thế giới".

"Cũng may cho các sử gia", Teabing nói, "một vài trong số những phúc âm mà Constantine cố gắng thủ tiêu vẫn còn sót.

Vào những năm 1950, người ta đã tìm thấy những bản ghi chép về vùng Biển Chết cuộn trong ống được giấu trong một cái hang gần Qumran trong sa mạc Judean. Và tất nhiên, phải kể đến những ống giấy Coptic mà người ta đã tìm thấy vào năm 1945 tại Nag Hammadi. Thêm vào việc kể câu chuyện thật về Chén Thánh, những văn bản này đều nói đến chức năng dẫn dắt của Christ bằng những lời lẽ rất người. Tất nhiên, phù hợp với truyền thống bóp méo thông tin của mình, Vatican đã ra sức dẹp việc lưu hành những ống giấy này. Tại sao lại không cơ chứ? Những ống giấy đó đã phanh phui sự bịa đặt và những sai trật rành rành về lịch sử, khẳng định rõ ràng rằng cuốn Kinh thánh ngày nay được soạn thảo và biên tập bởi những người có sẵn một đề cương chính trị: đề cao tính thiên giới của con người trần Jesus Christ và lợi dụng ảnh hưởng của Người để củng cố cơ sở quyền lực của chính họ.

"Tuy nhiên", Langdon phản đối, "cần phải nhớ rằng mong muốn của Nhà Thờ hiện đại - xóa bỏ những tài liệu ấy - xuất phát từ một niềm tin chân thành vào quan điểm đã chế định về Christ. Vatican bao gồm những người mộ đạo sâu sắc thực sự tin rằng những tài liệu đối lập kia chỉ là những chứng cứ giả mạo mà thôi".

Teabing cười tủm khi ông ngồi vào chiếc ghế đối diện với Sophie: "Như cô thấy đấy, vị giáo sư của chúng ta thông cảm với Roma hơn tôi nhiều. Tuy nhiên, ông ấy đúng khi nói giới tu sĩ hiện đại tin rằng những tài liệu chống đối kia là chứng cứ giả mạo. Điều đó hoàn toàn có thể hiểu được. Cuốn Kinh thánh của Constantine đã là chân lý của họ suốt nhiều thế kỉ. Chẳng có ai được truyền giáo triệt để hơn những người truyền giáo".

"Điều ông ấy muốn nói", Langdon nói, "là chúng ta thờ các vị thần của cha ông chúng ta".

"Điều tôi muốn nói", Teabing phản đối, "là hầu hết những điều ông cha chúng ta dạy chúng ta về Christ là sai. Cũng như những câu chuyện về Chén Thánh".

Sophie nhìn lại đoạn trích của Da Vinci ở trước mặt cô. Sự ngu dốt mù loà đưa chúng ta lầm đường lạc lối. Hỡi lũ người trần tục khôn khổ, hãy mở mắt ra!

Teabing với tay lấy cuốn sách và lật đến trang giữa: "Và cuối cùng, trước khi tôi chỉ cho cô thấy những bức hoạ của Da Vinci về Chén Thánh, tôi muốn cô hãy xem qua cái này". Ông giở tới một bức đồ hoạ màu in tràn cả hai trang. "Tôi cho rằng cô nhận ra bức bích họa này chứ?".

Ông ta đang đùa, đúng không? Sophie nhìn chăm chú vào bức bích họa nổi tiếng mọi thời đại -Bữa ăn tối cuối cùng - bức tranh huyền thoại của Da Vinci trên tường nhà thờ Santa Maria della Grazie ở Milan. Bức bích họa đang hư nát ấy mô tả cảnh Jesus và các tông đồ của mình vào lúc Jesus thông báo rằng một tông đồ đã phản bội ông.

"Vâng, tôi biết bức tranh tường này".

"Vậy thì có lẽ cô sẽ cho phép tôi làm một trò nhỏ này nhé? Xin cô hãy nhắm mắt lại".

Lưỡng lự rồi cô nhắm mắt lại.

"Jesus ngồi ở đâu?", Teabing hỏi.

"Ở giữa".

"Tốt. Và ông cùng với các tông đồ đang ăn thứ gì vậy?".

"Bánh mì". Rõ ràng là thế.

"Tuyệt. Thế họ uống gì?".

"Rượu. Họ uống rượu".

"Tuyệt. Câu hỏi cuối cùng đây. Có bao nhiêu cốc rượu trên mặt bàn?".

Sophie dừng lại nhận ra đây là câu hỏi bẫy. Sau bữa tối, Jesus đã cầm chiếc cốc rượu của mình lên, uống cùng với các tông đồ. "Một chiếc", cô trả lời. "Chiếc cốc. Chiếc cốc của Christ. Chén thánh". Jesu chỉ truyền tay với họ một cốc rượu vang thôi giống như những người Thiên chúa giáo hiện đại làm trong lễ Thánh Thể".

Teabing thở dài: "Cô mở mắt ra được rồi".

Cô mở mắt. Teabing cười tự mãn. Sophie xoáy mắt vào bức tranh, và ngạc nhiên thấy mọi người ngồi ở bàn ấy đều có một ly rượu vang, kể cả Christ nữa. Mười ba chiếc ly. Hơn nữa, những chiếc ly này đều nhỏ, không có chân và bằng thuỷ tinh. Không hề có một chiếc chén thiêng nào trong bức tranh này. Không có Chén Thánh.

Mắt Teabing lấp lánh: "Hơi lạ lùng đấy, cô không nghĩ như vậy sao, vì cả Kinh Thánh lẫn giai thoại về Chén Thánh đều tôn vinh thời điểm này như là sự xuất hiện chính thức của Chén Thánh. Kì thay, Da Vinci có vẻ như đã quên không vẽ chiếc Chén thiêng của Christ".

"Chắc chắn các học giả nghiên cứu nghệ thuật sẽ phải lưu ý đến điều này".

"Cô sẽ bị sốc khi biết rằng những điều bất thường mà Da Vinci đưa vào bức tranh này, hầu hết các học giả hoặc là không nhìn ra hoặc là cố tình phớt lờ đi. Trên thực tế, bức tranh này chính là toàn bộ chìa khoá để mở ra bí mật Chén Thánh. Da Vinci đã phơi bày ra cả trong Bữa tối cuối cùng".

Sophie hăm hở rà mắt trên bức tranh: "Bức bích họa này cho chúng ta biết thực sự Chén Thánh là cái gì sao?".

"Không phải là cái gì", Teabing thì thào. "Mà là ai mới đúng. Chén Thánh không phải là một vật. Trên thực tế, đó là một… người".

Sophie đăm đăm nhìn Teabing hồi lâu, rồi quay sang Langdon: "Chén Thánh là một người thật sao?".

Langdon gật đầu: "Thực tế, đó là một phụ nữ". Bằng vào cái nhìn đờ đẫn trên khuôn mặt Sophie, Langdon có thể nói họ đã làm cô hoang mang. Langdon chợt nhớ ra ông cũng có phản ứng như vậy khi lần đầu tiên nghe lời khẳng định ấy. Mãi tới khi ông hiểu ra biểu tượng đằng sau Chén Thánh thì mối liên hệ với tính nữ ấy mới trở nên rõ ràng.

Rõ ràng Teabing cũng có suy nghĩ tương tự như vậy: "Robert này, có lẽ đây là lúc nhà ký tượng học làm sáng tỏ vấn đề, đúng không?". Bước tới một cái bàn gần đấy, ông tìm thấy một mảnh giấy và đặt nó trước mặt Langdon.

Langdon rút từ trong túi áo ra một chiếc bút máy: "Sophie, cô biết biểu tượng hiện đại dành cho nam và nữ chứ?". Ông vẽ kí tượng nam và kí tượng nữ".

"Tất nhiên", cô trả lời.

"Những hình này", ông nói nhẹ nhàng, "không phải là biểu tượng ban đầu của nam và nữ đâu. Nhiều người đã lầm khi cho rằng biểu tượng nam bắt nguồn từ một cái khiên và một cái thương, còn biểu tượng nữ là một tấm gương phản chiếu vẻ đẹp. Thực ra những biểu tượng này bắt nguồn từ những biểu tượng trong thiên văn cổ xưa là nam thần Hỏa tinh và nữ thần Kim tinh. Những biểu tượng ban đầu bao giờ cũng đơn giản hơn nhiều".

Langdon vẽ lên mẩu giấy một kí tượng khác.

"Đây là biểu tượng ban đầu dành cho nam", ông giảng giải cho Sophie biết, "Một chiếc dương vật ở dạng thô sơ".

"Rất thích đáng", Sophie nhận xét.

"Có thể nói thế". Teabing bổ sung.

Langdon tiếp tục: "Biểu tượng này chính thức được biết đến như là lưỡi gươm, và nó tượng trưng cho sự hiếu chiến và nam tính. Trong thực tế, biểu tượng dương vật chính xác này ngày nay vẫn được sử dụng trên đồng phục của quân đội để chỉ cấp bậc".

"Thực thế", Teabing nhe răng ra cười, "anh càng lắm dương vật cấp bậc anh càng cao. Nam nhi vẫn là nam nhi mà".

Langdon cau mày lại: "Tiếp tục, biểu tượng nữ, như cô có thể hình dung, là hoàn toàn ngược lại". Ông lại vẽ một biểu tượng khác lên mẩu giấy, "Biểu tượng này được gọi là chiếc ly".

Sophie ngước lên, vẻ ngạc nhiên.

Langdon có thề thấy cô đã nhận ra mối liên hệ: "Chiếc ly", Langdon nói vậy, "giống hình một cái cốc hay một chiếc bát, và quan trọng hơn, nó giống hình tử cung đàn bà. Biểu tượng này biểu đạt tính nữ, tính chất đàn bà và tính phồn thực". Lúc này Langdon nhìn thẳng vào Sophie. "Sophie, truyền thuyết bảo chúng ta rằng Chén Thánh là một chiếc ly - một loại cốc. Nhưng sự mô tả Chén Thánh như một chiếc ly thực chất là một phép phóng dụ để bảo vệ bản chất đích thực của Chén Thánh mà thôi. Có nghĩa là truyền thuyết dùng hình ảnh chiếc ly như một ẩn dụ cho một cái gì quan trọng hơn nhiều".

"Một phụ nữ?" Sophie hỏi.

"Chính xác", Langdon mỉm cười, "chiếc Chén, theo nghĩa đen, là biểu tượng cổ xưa của tính chất đàn bà và Chén Thánh biểu thị tính nữ thiêng liêng và nữ thần, điều này tất nhiên hiện nay đã mai một, thực tế đã bị Nhà Thờ loại bỏ. Quyền năng của người nữ và khả năng sản sinh ra sự sống đã từng được coi là linh thiêng, nhưng sự linh thiêng ấy đe doạ sự thăng tiến của Nhà Thờ mà đại đa số thành phần là nam, và thế là tính nữ thiêng liêng bị cho là quỷ quyệt và không trong sạch. Chính con người, chứ không phải Chúa, đã tạo ra khái niệm "tội tổ tông truyền", theo đó Eve đã ăn quả táo và gây ra sự sa đọa của loài người. Đàn bà trước đây là người đem lại sự sống thiêng liêng thì giờ đây lại trở thành kẻ thù".

"Tôi nên bổ sung một chút", Teabing hùn vào, "khái niệm về đàn bà với tư cách là người đem lại sự sống chính là nền tảng của tôn giáo cổ xưa. Sinh nở là huyền bí và đầy quyền năng.

Buồn thay, triết lý Thiên Chúa giáo sau này đã quyết định biển thủ quyền năng tạo sinh của người nữ bằng cách không đếm xỉa đến sự thật sinh học ấy và biến đàn ông thành Đấng Sáng Tạo. Sáng Thế Ký (1) dạy chúng ta rằng Eve được tạo ra từ chỉếc xương sườn của Adam. Và từ đó người phụ nữ đã trở thành một nhánh phụ của người đàn ông. Đã thế lại là một nhánh phụ tội lỗi nữa. Sáng Thế Ký là điểm khởi đầu cho sự kết thúc đối với các nữ thần".

"Chén thánh", Langdon nói, "tượng trưng cho hình ảnh nữ thần tiêu vong. Khi Thiên chúa giáo lớn mạnh, các tôn giáo ngoại đạo cổ xưa cũng không chết dễ dàng. Các truyền thuyết về các hiệp sĩ đi tìm Chén Thánh bị thất lạc trên thực tế là những truyện kể về cuộc tìm kiếm tính nữ thiêng liêng bị thất lạc một cuộc tìm kiếm bị cấm. Những hiệp sĩ tuyên bố "kiếm tìm Chén Thánh", thực ra đang nói theo cách mã hóa như là một phương thức để bảo vệ an toàn cho chính họ trước thế lực của Nhà Thờ - thế lực đã chế ngự phụ nữ, loại trừ nữ thần, thiêu sống những người không tin Chúa và cấm việc tôn sùng tính nữ linh thiêng của những người ngoại đạo".

Sophie lắc đầu: "Tôi xin lỗi, khi anh nói rằng Chén Thánh là một con người. Tôi cứ đinh ninh rằng anh định nói đó là một con người có trong thực tế hẳn hoi".

"Đúng vậy", Langdon trả lời.

"Và không phải bất kì người nào nhé", Teabing bật ra và phấn khích đứng dậy một cách khó khăn, "một người phụ nữ mang theo mình một bí mật; bí mật này hàm chứa một quyền năng ghê gớm đến nỗi nếu bị tiết lộ, nó có thể phá huỷ chính nền tảng của Thiên chúa giáo!".

Sophie có vẻ bị choáng ngợp: "Người phụ nữ này có nổi tiếng trong lịch sử không?".

"Rất nổi tiếng". Teabing lượm lấy đôi nạng và chỉ về phía hành lang. "Bạn thân mến, nếu chúng ta rời đến thư phòng của tôi, tôi sẽ rất vinh dự chỉ cho bạn thấy bức hoạ của Da Vinci về người đàn bà ấy".

Cách đó hai phòng, trong nhà bếp, người hầu Rémy Lagadulec đứng lặng trước một cái tivi. Đài truyền hình đang phát đi bức ảnh một người đàn ông và một phụ nữ. Chính hai người khách mà Rémy vừa mới phục vụ trà.

Chú thích:
(1) Phần đầu tiên của Kinh Cựu ước

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 39

Đứng ở chỗ rào chắn đường bên ngoài Ngân hàng Ký thác Zurich, Trung uý Collet tự hỏi không biết điều gì khiến Fache mãi chưa lấy được lệnh khám xét. Rõ ràng, người trong ngân hàng này đang che giấu một điều gì đó. Họ khai rằng Langdon và Sophie đã đến đây sớm hơn và đã bị ngân hàng từ chối vì không đủ giấy tờ chứng nhận tài khoản hợp thức. Vậy thì tại sao họ lại không để chúng ta vào ngó qua một cái?

Cuối cùng, điện thoại di động của anh cũng reo lên. Cú điện được gọi từ sớ chỉ huy đặt tại Louvre. "Đã có lệnh khám xét chưa?". Collet hỏi.

"Quên cái ngân hàng ấy đi, trung uý", người nhân viên nói. Chúng tôi vừa nhận được một tin trình báo. Chúng tôi đã có địa điểm chính xác, nơi Langdon và Sophie đang lẩn trốn".

Collet ngồi phịch xuống mui xe: "Ông đang đùa chắc".

"Tôi đã có được địa chỉ ở vùng ngoại ô. Một nơi nào đó gần Versailles".

"Đại uý Fache đã biết chưa?".

"Chưa đâu. Ông ta đang bận trả lời một cuộc gọi quan trọng".

"Tôi lên đường đây. Hãy bảo ông ta gọi lại cho tôi ngay sau khi nói chuyện điện thoại xong". Collet ghi lại địa chỉ rồi nhảy vào xe. Khi rời khỏi ngân hàng, Collet chợt nhận ra anh đã quên không hỏi xem ai đã báo nơi lẩn trốn của Langdon cho DCPJ. Điều ấy không quan trọng lắm. Chúa đã ban cho anh cơ may để chuộc lại những lỗi bất cẩn khi trước cùng thái độ hoài nghi của mình. Anh sắp làm cuộc bắt giữ nổi đình đám nhất trong sự nghiệp cảnh sát của mình.

Collet gọi qua sóng radio thêm năm chiếc xe nữa để tiếp ứng: "Không rúc còi báo động, anh em. Tay Langdon không thể biết rằng chúng ta đang đến".

***

Cách đó bốn mươi cây số, một chiếc Audi màu đen rời khỏi con đường quê và đỗ dưới bóng tối bên rìa một cánh đồng. Silas bước ra khỏi xe và nhòm qua những chấn song của hàng rào sắt vây quanh một khu liên hợp rộng lớn trước mặt. Hắn đăm đăm nhìn con dốc đầy ánh trăng dẫn tới toà lâu đài phía xa xa.

Đèn dưới nhà đều sáng trưng. Kỳ lạ vào giờ này, Silas mỉm cười nghĩ thầm. Thông tin Thầy Giáo vừa cho hắn rõ ràng là chính xác. "Mình sẽ không rời khỏi toà nhà này nếu không có viên đá đỉnh vòm, hắn thề. Mình sẽ không làm Đức Giám mục và Thầy Giáo phải thất vọng.

Sau khi đã kiểm tra băng đạn mười ba viên trong khẩu Heckler & Koch của mình, Silas đẩy khẩu súng qua chấn song để nó rơi trên nền đất phủ đầy rêu phía trong. Rồi hắn nắm chặt lấy phía trên hàng rào, đu người lên, băng qua và buông mình xuống nền đất phía bên kia. Không đếm xỉa đến những vết đau do hành xác, hắn nhặt lại khẩu súng và bắt đầu đi trên triền dốc phủ cỏ.

Thư phòng của Teabing chẳng glống với bất kì phòng làm việc nào mà Sophie từng thấy trước đó. Lớn gấp sáu - bảy lần những văn phòng thuộc loại sang trọng nhất, cabinet de travail (1) của ngài hiệp sĩ giống như một thứ lai tạp vụng về giữa phòng thí nghiệm khoa học, thư viện lưu trữ và chợ trời trong nhà vậy. Dưới ánh sáng của ba chiếc đèn chùm, sàn nhà lát đá rộng mênh mông như mặt biển lác đác từng cụm đảo là những bàn làm việc lấp dưới những đống nào sách, nào tác phẩm nghệ thuật, nào đồ tạo tác, và la liệt máy móc thiết bị điện tử nhiều đến kinh ngạc - máy vi tính, máy chiếu, kính hiển vi, máy photo copy và máy quét.

"Tôi đã cải biến phòng khiêu vũ thành thế này", Teabing giới thiệu, có vẻ ngượng khi lệt xệt bước vào phòng. "Vì tôi ít có dịp khiêu vũ mà".

Sophie có cảm giác như thể toàn bộ bóng đêm đã biến thành một vùng tranh sáng tranh tối trong đó không một thứ gì giống như cô chờ đợi. "Tất cả những thứ này là để phục vụ cho công việc của ông?".

"Khám phá sự thực đã trở thành mối tình của đời tôi", Teabing nói. "Và Chén Thánh chính là người tình cưng nhất của tôi".

Chén Thánh là một người phụ nữ. Sophie nghĩ thầm, đầu óc cô như một mớ hỗn độn những ý tưởng đan bện vào nhau dường như chẳng có nghĩa gì cả. "Ông nói có một bức hoạ vẽ người phụ nữ mà ông khẳng định người đó là Chén Thánh?".

"Đúng vậy, nhưng không phải tôi là người khắng định bà ấy là Chén Thánh. Đích thân Christ đã khẳng định điều đó".

"Thế đó là bức nào vậy?" Sophie hỏi, đáo mắt tìm khắp bốn bức tường.

"À, Teabing giả bộ như đã quên béng mất điều đó. "Chén Thánh. Sangreal. Chiếc ly", ông đột ngột quay phắt người, chỉ vào bức tường cuối phòng trên đó có treo một phiên bản in dài khoảng hai mét rưỡi của bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng giống hệt hình ảnh Sophie vừa xem lúc nãy. "Bà ấy đó!".

Sophie chắc chắn đã bỏ sót một chi tiết nào đó: "Nó giống hệt với bức tranh mà ông vừa cho tôi xem".

Ông nháy mắt: "Tôi biết, nhưng bản phóng to li kì hơn nhiều.

Cô không nghĩ thế sao?".

Sophie quay sang Langdong cầu cứu: "Tôi rất hoang mang".

Langdon mỉm cười: "Như đã vỡ lẽ ra, Chén Thánh quả đã xuất hiện trong bức hoạ Bữa ăn tối cuối cùng. Leonardo đã thể hiện bà ấy thật nổi bật".

"Khoan", Sophie nói, "Ông bảo tôi Chén Thánh là một phụ nữ. Nhưng Bữa ăn tối cuối cùng là một bức tranh gồm mười ba người đàn ông".

"Thật sao?", Teabing nhíu mày. "Cô hãy nhìn kỹ hơn nữa đi".

Phân vân, Sophie tiến đến gần bức tranh hơn, nhìn kỹ vào mười ba người - Jesus Christ ngồi ở giữa, sáu tông đồ ngồi bên trái và sáu người nữa ngồi bên phải. "Tất cả bọn họ đều là đàn ông", Sophie khắng định.

"Thế à?". Teabing nói. "Thế còn người ngồi ở vị trí danh dự phía tay phải của Chúa thì sao?".

Sophie xem kĩ lại người ngồi ngay bên phải Jesus tập trung vào đó. Khi cô quan sát khuôn mặt và thân hình người đó, một nỗi ngạc nhiên cuộn lên trong cô. Người này có mái tóc đỏ lượn sóng, hai tay chắp lại nhỏ nhắn, và thoáng nét vồng lên của bộ ngực. Không còn nghi ngờ gì đó là… một người đàn bà.

"Đó là một người đàn bà?". Sophie thốt lên.

Teabing cười vang: "Ngạc nhiên, ngạc nhiên hả. Tin tôi đi, không có sai sót gì đâu. Leonardo rất điêu luyện trong việc thể hiện sự khác biệt về giới tính đấy".

Sophie không sao rời mắt khỏi người đàn bà ngồi bên cạnh Christ. Bữa ăn tối cuối cùng đúng ra phải thể hiện mười ba người đàn ông. Người đàn bà này là ai? Mặc dù Sophie đã nhiều lần xem bức hoạ kinh điển này, nhưng chưa một lần nào cô để ý thấy sự trật lấc rành rành này.

"Mọi người đều bỏ sót đỉều này", Teabing nói. "Tiên kiến hình thành sẵn trong ta về cảnh này mạnh đến mức trí óc ta loại trừ điều lạc lõng đó và bất chấp con mắt ta".

"Người ta gọi đó là ám thị", Langdon bổ sung. "Bộ óc đôi khi lấn át thị giác đối với cả những biểu tượng rất rõ".

"Một lí do khác khiến cô bỏ qua người đàn bà này", Teabing nói tiếp, "đó là rất nhiều ảnh trong các cuốn sách nghệ thuật được chụp trước năm 1954, khi đó những chi tiết còn bị lấp dưới những lớp bụi bẩn và một số lần phục chế lại do những đôi tay vụng về ở thế kỉ thứ XVIII. Giờ đây, rốt cuộc thì bức bích hoạ này cũng đã được làm sạch tới lớp vẽ ban đầu của Da Vinci".

Ông đi về phía bức tranh. "Và đây!".

Sophie tiến lại gần hình ảnh đó hơn nữa. Người đàn bà phía tay phải Jesus còn trẻ, vẻ sùng đạo, khuôn mặt e lệ, mái tóc đẹp màu đỏ, và tay chắp lại nhẹ nhàng. Đây là người đàn bà có thể một mình làm sụp đổ cả Giáo hội sao?

"Người đàn bà này là ai vậy?" Sophie hỏi.

"Bạn thân mến ơi, đó chính là", Teabing đáp lại, "Mary Magdalene".

Sophie quay ngoắt người: "Là ả điếm đó sao?".

Teabing hít một hơi, cứ như thể cái từ ấy làm tổn thương chính ông ta vậy: "Magdalene không phải là thế đâu. Quan niệm sai lầm đáng tiếc ấy chính là hậu quả của chiến dịch bôi nhọ thanh danh Magdalene được Giáo hội trước đây phát động.

Giáo hội cần phải phỉ báng Mary Magdalene để che giấu bí mật nguy hiểm của bà - vai trò của bà với tư cách là Chén Thánh".

"Vai trò của bà ấy?".

"Như tôi đã đề cập ở trên", Teabing nói rõ hơn, "Giáo hội cần thuyết phục cả thế giới tin rằng nhà tiên tri trần tục Jesus là người thuộc thiên giới. Vì vậy, mọi phúc âm mô tả những khía cạnh trần tục trong cuộc đời của Jesus đều bị loại bỏ khỏi Kinh Thánh. Không may cho các nhà biên tập thời xưa, một chủ đề trần tục đặc biệt rắc rối cứ trở đi trở lại trong các bản phúc âm. Đó chính là Mary Magdalene", ông dừng lại. "Cụ thể hơn, đó là cuộc hôn nhân của bà với Jesus Christ".

"Xin ông làm ơn nhắc lại?" Mắt Sophie lia sang Langdon rồi quay trở lại Teabing.

"Đây là một vấn đề ghi chép lịch sử", Teabing nói tiếp. "Chắc chắn Da Vinci đã biết sự việc này. Bữa ăn tối cuối cùng gần như chỉ cho người xem thấy Jesus và Magdalene là một cặp".

Sophie quay lại nhìn bức hoạ.

"Hãy chú ý rằng Jesus và Magdalene mặc đồ như thể người này là hình ảnh của người kia trong gương vậy". Teabing chỉ tay vào hai người ở vị trí trung tâm của bức tranh.

Sophie như bị hút hồn. Chắc chắn là quần áo của họ có màu đảo nghịch nhau. Jesus mặc áo thụng dài màu đỏ và khoác áo choàng màu xanh trong khi Mary Magdalene mặc áo thụng dài màu xanh và khoác áo choàng màu đỏ. Dương và âm.

"Đi sâu vào một điều kì quặc hơn", Teabing nói, "hãy chú ý là Jesus cùng cùng vị hôn thê của mình tựa như hông gắn vào nhau và mỗi người ngả sang một phía như thể để tạo ra cái khoảng tiêu cực được vạch ra rõ ràng giữa họ".

Trước cả khi Teabing vạch nét đó cho cô thấy, Sophie đã kịp nhận ra hình không thể chối cãi được ở chính tâm điểm của bức tranh. Đó chính là kí tượng mà Langdon đã vẽ lúc nãy biểu trưng cho Chén Thánh, chiếc ly và cả tử cung của người đàn bà.

"Cuối cùng", Teabing nói, "nếu cô nhìn Jesus và Magdalene như là những yếu tố bố cục chứ không phải như những con người, cô sẽ thấy một hình khác rất hiển nhiên đập vào mắt cô". Ông ta dừng lại. "Một chữ trong bảng chữ cái".

Sophie nhìn thấy nó ngay tức thì. Nói rằng chữ cái ấy đập vào mắt Sophie còn chưa đủ. Chữ cái đó bỗng nhiên là tất cả những gì Sophie nhìn thấy. Lồ lộ ở chính giữa bức tranh là nét vạch rành rành một chữ M to tướng, tạo hình thật hoàn hảo.

"Quá hoàn hảo đối với một sự trùng hợp, chẳng phải cô định nói như vậy sao?". Teabing hỏi Sophie.

Sophie rất đỗi ngạc nhiên: "Tại sao lại có chứ M ở đấy?".

Teabing nhún vai: "Những nhà lý thuyết về âm mưu sẽ nói với cô rằng chữ M thay cho Matrimonio hay Mary Magdalene. Thành thực mà nói, chả ai dám chắc cả. Điều duy nhất chúng ta dám chắc là: chữ M ẩn giấu đó không phải là một lỗi. Vô số các tác phẩm liên quan đến Chén Thánh đều chứa chữ M ẩn tàng - hoặc dưới dạng hoa văn chìm, hoặc nằm ở lớp sơn lót, hoặc như là thành phần bố cục. Và rõ rành nhất đương nhiên là chữ M được dùng để trang trí bàn thờ trong nhà thờ Đức Bà Paris ở Luân Đôn, do một cựu Đại Sư của Tu viện Sion, Jean Cocteau, thiết kế".

Sophie cân nhắc kỹ lưỡng những thông tin này: "Tôi thừa nhận rằng chữ M giấu rất gợi tò mò, mặc dù tôi đồ rằng không ai dám thẳng định nó là bằng chứng về cuộc hôn nhân của Jesus với Magdalene".

"Không, không", Teabing nói, đi tới chiếc bàn đầy sách cạnh đó, "như tôi đã nói lúc nãy, cuộc hôn nhân của Jesus và Magdalene là một phần trong những ghi chép lịch sử". Ông bắt đầu lục lọi trong bộ sưu tập sách của mình. "Hơn nữa, Jesus với tư cách là một người có vợ hắn sẽ hợp lý hơn nhiều so với quan điểm chuẩn mực trong Kinh thánh của chúng ta về một Jesus độc thân".

"Tại sao?". Sophie hỏi.

"Bởi vì Jesus là một người Do Thái", Langdon giảng giải, trong khi Teabing tìm kiếm cuốn sách của ông, "Và chuẩn mực xã hội vào thời đó thực tế không cho phép đàn ông Do Thái sống độc thân. Theo phong tục của người Do Thái, việc sống độc thân bị lên án, và bổn phận của mỗi ông bố người Do Thái là phải tìm bằng được một cô vợ thích hợp cho con trai mình. Nếu Jesus không kết hôn, thì chí ít phải có một trong những phúc âm của Kinh thánh đề cập đến điều này và đưa ra lời giải thích về tình trạng độc thân trái tự nhiên của Người".

Teabing tìm thấy một cuốn sách to tướng và kéo nó về phía mình. Cuốn sách đóng bìa da khổ bằng một tấm áp phích, giống như một bộ bản đồ Atlas lớn. Dòng chữ tít trên bìa: Tuyển tập phúc âm ngộ đạo. Teabing mở sách ra, Langdon và Sophie xán lại Sophie có thể thấy nó bao gồm những ảnh chụp những đoạn được phóng to trong các tài liệu cổ - văn bản viết tay trên giấy papyrut đã rách tả tơi. Cô không hiểu được thứ ngôn ngữ cổ đó, nhưng những trang đối diện có in lời dịch.

Đây là những bản photocopy từ những ống giấy được tìm thấy ở vùng Biển Chết và Nag Hammadi mà tôi đã nhắc đến lúc nãy", Teabing nói, "Những bản ghi chép cổ nhất của đạo Thiên Chúa. Rắc rối là ở chỗ: chúng lại không khớp với những phúc âm trong Kinh Thánh". Lật tới gỉữa cuốn sách, Teabing chỉ tay vào một đoạn văn. "Phúc âm của Philip bao giờ cũng là điểm khởi đầu tốt".

Sophie đọc to đoạn văn lên:

"Và người bạn đồng hành của Chúa Cứu thế chính là Mary Magdalene. Christ yêu nàng hơn tất cả những tông đổ của mình, và thường hôn lên miệng nàng. Những tông đồ khác lấy thế làm điều xúc thạm và bày tỏ sự phản đối. Họ nói với Chúa: "Tại sao Ngài lại yêu cô ta hơn cả chúng con".

Lời chữ ấy khiến Sophie ngạc nhiên, nhưng xem ra hầu như không khắng định gì. "Đoạn này chẳng nói gì đến hôn nhân".

"Au contrare"(2), Teabing mỉm cười rồi chỉ tay vào dòng đầu tiên, "bất kỳ nhà nghiên cứu ngôn ngữ Aram nào cũng sẽ nói cho cô biết, thời đó, từ bạn đồng hành nghĩa đen là vợ hoặc chồng".

Langdon gật đầu đồng tình.

Sophie đọc lại dòng đầu tiên. Và người bạn đồng hành của Chúa Cứu thế chính là Mary Magdalene.

Teabing lật tiếp sang trang và chỉ ra một vài đoạn văn khác ngụ ý rõ ràng, trước sự ngạc nhiên của Sophie, rằng Magdalene và Jesus có một mối quan hệ lãng mạn. Khi cô đọc những đoạn văn này, Sophie chợt nhớ đến một tu sĩ phẫn nộ đã đập cửa nhà ông ngoại khi cô còn là một nữ sinh.

"Đây có phải là nhà ông Jacques Saunère không?" Người tu sĩ hỏi, chằm chằm nhìn xuống bé Sophie khi cô mở cửa. "Ta phải nói chuyện với ông ấy về cái bài xã luận mà ông ấy đã viết", Người tu sĩ giơ một tờ báo lên.

Sophie mời ông ngoại ra, và hai người đàn ông biến vào trong phòng làm việc rồi đóng cửa lại. Ông mình viết điều gì trên báo nhỉ? Sophie lập tức chạy tới nhà bếp và lật tờ báo sáng. Cô bé tìm thấy tên của ông ngoại ờ một bài báo trong trang hai.

Cô bé đọc bài báo. Sophie không hiểu tất cả, nhưng có vẻ như, dưới áp lực của các tu sĩ, chính phủ Pháp đã đồng ý cấm một bộ phim Mỹ được gọi là Cám dỗ cuối cùng của Christ nói về chuyện Jesus có quan hệ với một cô gái tên là Mary Magdalene Bài báo của ông cô nói rằng Giáo hội quá ngạo mạn và sai lầm khi đòi cấm bộ phim ấy.

Thảo nào ông cha cô phát khùng, Sophie nghĩ bụng.

"Đó là phim con heo? Tội phạm thánh!" Người tu sĩ gào lên, ra khỏi phòng làm việc của ông cô rồi lao ra cửa chính. "Làm sao ông có thể chấp nhận điều đó được! Tay người Mỹ Martin Scorsese là một kẻ báng bổ, và Giáo hội sẽ không cho phép hắn chầu lễ tại Pháp đâu!" Người tu sĩ đóng sầm cửa lại trên đường ra khỏi nhà.

Khi ông ngoại vào nhà bếp và thấy Sophie đang cầm tờ báo, ông cau mày. "Cháu cũng khá nhanh đấy".

Sophie trả lời: "Ông nghĩ Jesus Christ có một người tình?".

"Không, cháu yêu, ông chỉ nói: không nên để Nhà Thờ được phép bảo chúng ta những ý tưởng nào là có thể ấp ủ hay cấm kị".

"Jesus có một người tình hay không?".

Ông cô im lặng hồi lâu rồi bất chợt hỏi: "Nếu có thì có là xấu không?".

Sophie nghĩ một lúc rồi nhún vai trả lời: "Cháu sẽ không phản đối".

Ngài Leigh Teabing vẫn tiếp tục nói: "Tôi sẽ không làm cô chán ngấy với vô số những tham chiếu về cuộc hợp nhất của Jesus và Magdalene. Điều đó đã được các sử gia hiện đại khảo sát đến phát buồn nôn. Tuy nhiên, tôi muốn vạch ra điều sau đây". Ông chỉ tay vào một đoạn khác. "Đoạn này trích từ Phúc âm của Mary Magdalene".

Sophie chưa bao giờ biết là có một bản phúc âm bằng lời chữ của Mary trên cõi đời này. Cô đọc đoạn văn ấy:

Và Peter nói: "Liệu rằng Chúa Cứu thế có thực sự đã nói chuyện với một người đàn bà mà chúng ta không hề hay biết.

Liệu chúng ta có phải quay lại và cùng lắng nghe cô ta nói không? Ngài yêu mến cô ta hơn chúng ta thật sao?".

Và Levi trả lời: "Này, Peter, anh bao giờ cũng nóng nảy.

Giờ đây tôi thấy anh đang đối phó với người đàn bà đó như kẻ thù vậy. Nếu Chúa Cứu thế thấy người đàn bà xứng đáng để chọn thì anh thực sự là cái thá gì mà bác bỏ cô ta? Chắc chắn Chúa Cứu thế biết rất rõ về người đàn bà này. Đó là lý do Người yêu mến cô ấy hơn chúng ta".

"Người đàn bà mà họ nhắc đến", Teabing giải thích, "là Mary Magdalene. Peter ghen tị với bà ấy".

"Bởi vì Jesus yêu mến Mary hơn à?".

"Không chỉ có thể. Cái được-mất ở đây còn lớn tình yêu đơn thuần, lớn hơn nhiều. Tới điểm này trong các Phúc âm, Jesus đã ngờ ngợ rằng chẳng bao lâu nữa Người sẽ bị bắt và đóng đinh câu rút. Vậy nên Người mới dặn dò Magdalene phải duy trì Giáo hội của Người như thế nào sau khi Người qua đời. Và kết quả là, Peter tỏ ra rất bất mãn vì phải phụ tá cho một người đàn bà. Tôi dám nói rằng Peter có chút phân biệt giới tính".

Sophie cố gắng theo cho kịp: "Đây chính là Thánh Peter. Hòn đá tảng mà Jesus đã xây dựng Giáo hội của Người trên đó".

"Chính ông ta, ngoại trừ một điểm khúc mắc. Theo những phúc âm không bị chỉnh sửa này, người được Christ chỉ đạo để tạo lập Giáo hội Thiên Chúa giáo không phải là Peter mà chính là Mary Magdalene".

Sophie nhìn Teabing: "Ông nói rằng Giáo hội Thiên chúa giáo đã có thể được giao lại cho một người đàn bà?".

Đó chỉ là theo dự kiến. Jesus là người đầu tiên bảo vệ nữ quyền. Người chủ định đặt tương lai Giáo hội vào tay Mary Magdalene".

"Và Peter đã rất bực bội về điều này", Langdon vừa nói vừa chỉ tay vào bức hoạ Bữa ăn tối cuối cùng. "Kia chính là Peter. Cô có thể thấy Da Vinci biết rất rõ Peter có ác cảm với Mary Magdalene".

Một lần nữa Sophie lại không thốt nên lời. Trong bức tranh, Peter ngả người đầy vẻ đe doạ về phía Mary Magdalene và dứ bàn tay như lưỡi dao ngang cổ bà. Cử chỉ đe doạ này cũng giống như trong tác phẩm Madonna of the Rocks!

"Và đây nữa", Langdon vừa nói vừa chỉ tay vào đám tông đồ ngồi gần Peter, "không phải là một điềm gở hay sao?".

Sophie nheo mắt và nhận thấy một bàn tay giơ lên từ trong đám tông đồ: "Có phải bàn tay đó đang vung một con dao găm không?".

"Đúng vậy. Kì lạ hơn nữa, nếu cô đếm những cánh tay, cô sẽ nhận ra rằng, bàn tay này không thuộc về…bất kỳ ai có mặt trong bức tranh. Nó tách rời cơ thể. Khuyết danh".

Sophie bắt đầu cảm thấy ngợp: "Xin lỗi, tôi vẫn chưa hiểu làm sao tất cả những chuyện này lại dẫn đến chỗ khiến Mary Magdalene trở thành Chén Thánh".

"Aha!" Teabing một lần nữa lại thốt lên. "Cái khó là ở chỗ đó! Ông ta một lần nữa quay lại chiếc bàn và lôi ra một sơ đồ khá rộng rồi trải nó ra trước mặt Sophie. Đó chính là một sơ đồ phả hệ rất tỉ mỉ. "Ít người nhận chân được rằng Mary Magdalene, ngoài việc là cánh tay phải của Jesus, còn là một người phụ nữ đầy quyền lực".

Sophie có thể thấy tiêu đề của cây phả hệ đó.

BỘ LẠC BENJAMIN

"Mary Magdalene ở đây", Teabing nói, chỉ tay gần vào đỉnh cây phả hệ.

Sophie ngạc nhiên: "Bà ấy là người của dòng họ Benjamin sao?".

"Quả vậy", Teabing nói tiếp, "Mary Magdalene có dòng dõi hoàng gia".

"Nhưng tôi lại có cảm giác rằng Magdalene là người nghèo".

Teabing lắc đầu: "Người ta đã biến Magdalenen thành một con điếm để xóa bỏ bằng chứng về những mối quan hệ huyết thống đầy quyền lực của bà".

Sophie thấy mình một lần nữa lại liếc sang Langdon, và Langdon lại gật đầu. Cô quay lại Teabing: "Nhưng tại sao Giáo hội ban đầu lại quan ngại nếu như Magdalene thuộc dòng máu hoàng gia?".

Teabing mỉm cười: "Ôi con gáỉ của ta, huyết thống hoàng gia của bà không làm cho Giáo hội lo sợ bằng vỉệc bà chung sống với Jesus, mà Jesus cũng có dòng máu hoàng gia. Như cô biết, Sách Phúc âm của Matthew cho chúng ta hay Jesus là người của dòng họ David. Một hậu duệ của đức vua Solomon - vua của người Do Thái. Bằng việc kết hôn với người thuộc dòng họ Benjamin đầy quyền lực, Jesus đã kết nối hai dòng họ hoàng gia lại với nhau, tạo ra một liên minh chính trị hùng mạnh với khả năng đưa ra yêu sách chính đáng đòi quyền kế vị ngôi báu và khôi phục dòng vua truyền nối như dưới thời Solamon".

Sophie cảm thấy cuối cùng Teabing cũng đi đến điểm chính.

Lúc này, trông Teabing có vẻ rất phấn khích: "Truyền thuyết về Chén Thánh là một truyền thuyết về dòng máu hoàng gia.

Khi truyền thuyết về Chén Thánh nói đến "chiếc ly hứng máu của Christ"… thực ra là nói về Magdalene - cái tử cung mang dòng máu hoàng gia của Jesus".

Những lời đó dường như vang khắp phòng khiêu vũ và dội trở lại trước khi đầu óc Sophie kịp ghi nhận. Mary Magdalene đã mang trong người dòng máu hoàng gia của Jesus Christ? "Nhưng bằng cách nào Christ có được dòng máu ấy trừ phi…?", Cô dừng lại và nhìn Langdon.

Langdon mỉm cười dịu dàng: "Trừ phi họ có con với nhau".

Sophie đứng sững sờ.

"Nhìn đây", Teabing tuyên bố, "bí mật lớn nhất trong lịch sử loài người. Jesus không chỉ kết hôn mà Người còn là một người cha. Bạn thân mến, Mary Magdalene là Chén Thánh linh thiêng.

Bà là chiếc ly mang trong mình dòng máu của Jesus Christ. Bà là chiếc tử cung mang dòng dõi của Jesus, và cây nho từ đó nẩy sinh những trái quả thiêng!".

Sophie cảm thấy sởn da gà: "Nhưng làm sao một bí mật lớn như thế lại có thể giữ im ỉm trong suốt chừng ấy năm?".

"Ôi trời?" Teabing nói. "Nó tuyệt nhiên khong hề im ỉm. Dòng dõi hoàng gia của Jesus Christ là nguồn gốc của truyền thuyết lâu bền nhất của mọi thời đại - Chén Thánh. Trong nhiều thế kỉ, câu chuyện về Magdalene đã vang vọng tới khắp hang cùng ngõ hẻm thể hiện trong mọi loại ẩn dụ và ngôn ngữ. Câu chuyện về bà hiện diện ở khắp mọi nơi, một khi cô mở to mắt mà nhìn!".

"Thế còn những tài liệu Sangreal?" Sophie nói. "Người ta bảo chúng chứa đựng bằng chứng rằng Jesus có dòng máu hoàng gia phải không?".

"Đúng thế".

"Vậy là toàn bộ truyền thuyết Chén Thánh là về dòng máu hoàng gia?".

"Hoàn toàn chính xác", Teabing nói, "Từ Sangreal phát sinh từ San Greal - tức là Chén thánh. Nhưng ở trong dạng cổ xưa nhất, từ Sangreal lại phân chia ở một điểm khác". Teabing viết lên một mảnh giấy lộn rồi đưa cho Sophie.

Sophie đọc dòng chữ Teabing vừa mới viết.

Sang Real

Cuối cùng, Sophie cũng nhận ra được sự chuyển dịch ấy.

Sang Real nghĩa đen là Dòng máu hoàng gia.

Chú thích:

(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: phòng làm việc.

(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Trái lại.

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 40

Nam nhân viên lễ tân ở sảnh của trụ sở Opus Dei trên đại lộ Lexington, thành phố New York, ngạc nhiên khi nghe thấy giọng của giám mục Aringarosa trên điện thoại. "Xin chào ngài".

"Tôi có tin nhắn gì không?" Giám mục hỏi bằng giọng lo lắng một cách khác thường.

"Có thưa ngài. Tôi rất mừng thấy ngài gọi về. Tôi đã gọi đến nhà mà không gặp được ngài. Ngài có một tin nhắn khẩn cấp qua điện thoại khoảng nửa tiếng đồng hồ trước đây".

"Thật hả?" ông có vẻ nhẹ cả người khi nghe tin đó. "Thế người gọi có để lại tên không?".

"Không, thưa ngài, họ chỉ để lại số thôi", người nhân viên tổng đài chuyển số.

"Mã 33 à? Đó là mã của nước Pháp, đúng không?".

"Vâng thưa ngài, đó chính là mã của Paris. Người gọi nhắn lại rằng ngài rất cần liên lạc với họ ngay lập tức".

"Cám ơn. Tôi đang chờ cuộc gọi này". Aringarosa nhanh chóng cúp máy.

Trong khi gác ống nghe, nhân viên lễ tân tự hỏi tại sao đường dây điện thoại của Aringarosa lại lạo xạo đến thế. Thời gian biểu hàng ngày của giám mục cho thấy ông đang ở New York trong tuần này nhưng có vẻ như ông đang ở tận đầu kia thế giới. Người phục vụ nhún vai. Trong những tháng gần đây, giám mục Aringarosa hành xử rất kì lạ.

Máy di động của ta chắc đã không nhận được tin, Aringarosa nghĩ khi chiếc Fiat đến gần lối ra của sân bay Ciampino Charter tại Roma. Thầy Giáo đang cố tìm gặp mình đây. Mặc dù e ngại vì đã lỡ mất cuộc gọi quan trọng đó, Arinbarosa vẫn thấy phấn khởi vì Thầy Giáo cảm thấy đủ tin cậy để gọi thẳng đến trụ sở Opus Dei.

Mọi chuyện hẳn phải diễn ra tốt đẹp ở Paris hôm nay.

Khi Aringarosa bắt đầu bấm số, ông cảm thấy phấn chấn khi biết rằng ông sẽ sớm ở Paris. Ta sẽ hạ cánh trước bình minh. Một chiếc máy bay phản lực thuê riêng đang chờ để chở Aringarosa trên chuyến bay ngắn tới Pháp. Máy bay thương mại không phải là một lựa chọn vào giờ này, nhất là xét những gì chứa bên trong chiếc cặp số của ông.

Điện thoại reo.

Một giọng nữ đáp: "Direction Centrale Police Judiciaire"(1).

Aringarosa cảm thấy mình ngần ngừ. Điều này thật bất ngờ.

"À vâng…người ta yêu cầu tôi gọi theo số máy này đúng không?".

"Qui etes-vous?"(2), người phụ nữ hỏi: "Tên ông là gì?".

Aringarosa phân vân không biết có nên xưng tên hay không.

Cảnh sát tư pháp của Pháp.

"Tên của ông?", Người phụ nữ nhấn mạnh.

"Giám mục Manuel Aringarosa".

"Un moment"(3). Có tiếng cách trên đường dây.

Sau hồi chờ đợi, một người đàn ông khác tiếp máy, giọng thô kệch và lo lắng: "Thưa giám mục, tôi rất mừng vì cuối cùng tôi cũng tiếp cận được ngài. Ngài và tôi có nhiều điều để bàn".

Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cục Cảnh sát tư pháp trung ương.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: ông là ai?
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Xin chờ một lát.

Sangreal… Sang Real… San Greal… Dòng máu hoàng gia Chén Thánh.

Tất cả cứ xoắn quện với nhau.

Chén Thánh chính là Mary Magdalene… người mẹ của dòng máu hoàng gia của Jesus Christ. Sophie cảm thấy một đợt lạc hướng mới khi cô đứng trong tĩnh lặng của phòng khiêu vũ và đăm đăm nhìn Robert Langdon. Langdon và Teabing càng đặt thêm nhiều mảnh lên bàn thì trò đố chắp hình lại càng trở nên không thể đoán được.

"Như bạn thấy đấy, bạn thân mến", Teabing nói, tập tễnh tiến về phía giá sách, "Leonnardo không phải là người duy nhất cố gắng nói với thế giới sự thật về Chén Thánh. Hàng mấy chục nhà sử học đã ghi chép hết sức chi tiết về dòng máu hoàng gia của Jesus vào sử biên niên". Ông lướt ngón tay lên gáy một dãy hàng tá sách.

Sophie nghiêng đầu, điểm các tiêu đề:

KHẢI HUYỀN TEMPLAR

Những người bí mật bảo vệ nhân thân đích thực của Christ.

NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI CHIẾC BÌNH NGỌC THẠCH.

Mary Magdalence và Chén Thánh.

NỮ THẦN TRONG SÁCH PHÚC ÂM.

Đòi lại tính nữ thỉêng liêng.

"Có lẽ đây là bộ sách nổi tiếng nhất", Teabing nói, lôi từ đống sách ra một quyển bìa cứng rách nát và đưa cho cô.

Ngoài bìa in dòng chữ:

DÒNG MÁU THIÊNG LIÊNG, CHÉN THÁNH.

Ấn phẩm quốc tế bán chạy nhất rất được tán thưởng.

Sophie ngước mắt lên: "Ấn phẩm quốc tế bán chạy nhất? Sao tôi chưa bao giờ nghe nhắc đến nó".

"Khi đó cô còn bé. Quyển sách này đã gây náo động trong những năm 1980. Theo khẩu vị của tôi, các tác giả đã đưa ra một số tín niệm đáng ngờ khó chứng minh được trong phân tích của họ, nhưng giả thuyết cơ bản thì rất hợp lí, và chung cuộc, họ đã thực hiện được việc đưa ý tưởng về dòng máu của Christ vào dòng chủ lưu".

"Nhà Thờ phản ứng thế nào với cuốn sách?".

"Bị xúc phạm, tất nhiên. Nhưng điều đó không có gì là bất ngờ. Nói cho cùng, đó là bí mật mà Vatican cố chôn vùi vào thế kỷ thứ tư. Đó chính là một phần của cái mà các cuộc Thập Tự Chinh nhằm tới. Thu gom và tiêu huỷ thông tin. Mối đe doạ từ Mary Magdalene đối với những người của Giáo hội sơ khởi ẩn chứa sự phá huỷ tiềm tàng. Bà không chỉ là người phụ nữ được Jesus ký thác nhiệm vụ thành lập Giáo hội mà còn là bằng chứng vật thể rằng vị thiên chúa mới tấn phong của nhà thờ đã sinh ra dòng máu trần tục. Giáo hội, để tự bảo vệ chống lại sức mạnh của Magdalene, đã bôi nhọ vĩnh viễn hình ảnh của bà như một gái điếm và chôn vùi những bằng chứng về cuộc hôn phối giữa Christ và bà, do đó đã tháo ngòi nổ bất cứ lời tuyên bố nào về việc Christ có một huyết thống vẫn tiếp tục tồn tại và là một nhà tiên tri trần tục".

Sophie ngước nhìn Langdon, ông gật đầu: "Sophie, những bằng chứng lịch sử khắng định điều này là rất nhiều".

"Tôi thừa nhận rằng", Teabing nói, "những điều khẳng định nói trên là kinh khủng, nhưng cô nên biết rằng Giáo hội có những động cơ rất mạnh mẽ để tiến hành sự che giấu này. Họ tất không thể tồn tại sau khi công chúng biết là có một huyết thống từ Christ. Một người con của Jesus sẽ hủy hoại ý niệm về tính thiên giới của Christ và do đó hủy hoại cả Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo vốn tự xưng là nguồn mạch duy nhất qua đó nhân loại có thể tiếp cận với thiên giới và tìm được đường vào nước thiên đàng".

"Bông hoa hồng năm cánh", Sophie nói, đột nhiên chỉ vào gáy một quyển sách của Teabing. Hệt như hoa văn khảm trên chiếc hộp bằng gỗ hồng mộc.

Teabing liếc nhìn Langdon, nhoẻn miệng cười: "Cô ấy có con mắt rất tinh đời". Ông quay lại phía Sophie. "Đó là biểu tượng của Tu viện Sion để chỉ Chén Thánh. Mary Magdalene. Vì Nhà Thờ cấm nhắc đến tên bà nên Mary Magdalene được bí mật biết đến dưới nhiều bí danh khác nhau - Cốc rượu Thánh - Chén Thánh và Hoa Hồng". Ông ngừng lại. "Hoa Hồng có những mối liên hệ với hình sao năm cánh của thần Venus và la bàn Hoa Hồng chỉ hướng. Nhân tiện xin lưu ý, từ rose (hoa hồng) là y như nhau trong tiếng Anh, Pháp, Đức và nhiều ngôn ngữ khác nữa".

"Rose - Hoa Hồng", Langdon bổ sung thêm, "cũng là dạng đảo chữ của từ Eros, thần tình dục trong thần thoại Hy Lạp".

Sophie nhìn Langdon ngạc nhiên trong khi Teabing nói tiếp: "Hoa Hồng luôn luôn là biểu tượng đầu tiên của tính dục nữ. Trong tục lệ thờ nữ thắn thời nguyên thuỷ, năm cánh hoa đại diện cho năm chặng trong cuộc đời người nữ: ra đời, bắt đầu có kinh, làm mẹ, mãn kinh và chết. Thời nay, liên hệ giữa một bông hoa đang nở với đặc tính đàn bà được nhìn nhận dưới góc độ thị giác nhiều hơn". Ông liếc nhìn Robert: "Có lẽ nhà ký tượng học có thể giải thích điều này rõ hơn?".

Robert ngập ngừng. Một khoảnh khắc dài.

"Ôi trời!". Teabing thở hắt ra. "Người Mỹ các bạn thật hay cả thẹn". Ông quay lại nhìn Sophie. "Điều làm cho Robert lúng túng là việc một bông hoa đang nở giống bộ phận sinh dục của nữ giới, đóa hoa tuyệt diệu mà từ đó toàn nhân loại bước vào thế giới. Và nếu cô đã từng xem bất kì bức tranh nào của Georgia O Keeffe(1), cô sẽ biết chính xác tôi định nói gì".

"Vấn đề ở đây", Langdon nói, chỉ về phía giá sách, "là tất cả những cuốn sách này đều chứng minh cùng một lời khắng định mang tính lịch sử".

"Rằng Jesus là một người cha?" Sophie vẫn không chắc chắn lắm.

"Phải", Teabing nói, "và rằng Mary Magdalene đã mang thai giọt máu hoàng gia của Người. Tu viện Sion, đến nay, vẫn thờ Mary Magdalene như một nữ thần, Chén Thánh, Hoa Hồng và Thánh Mẫu".

Sophie bỗng hồi tưởng lại nghi thức diễn ra trong tầng hầm.

"Theo Tu viện Sion", Teabing tiếp tục, "Mary Magdalene có mang vào chính thời điểm Jesus bị đóng đinh câu rút. Vì sự an toàn của đứa con chưa được ra đời, bà không còn cách lựa chọn nào khác là phải trốn khỏi Đất Thánh. Với sự giúp đỡ của người bác đáng tin cậy của Jesus, Joseph, Joseph xứ Arimathea, Mary Magdalene đã bí mật tới Pháp, rồi lấy tên Gaul. Bà tìm thấy một nơi trú ẩn an toàn trong cộng đồng người Do Thái. Chính tại đây trên đất Pháp, bà đã sinh một bé gái đặt tên là Sarah".

Sophie ngước lên: "Họ thực sự biết tên của đứa trẻ ư?".

"Còn hơn thế nữa. Những người Do Thái bảo vệ Magdalene và Sarah đã ghi chép hết sức tỉ mỉ cuộc sống của họ. Hãy nhớ rằng con của Magdalene thuộc dòng dõi các vua của người Do Thái - David và Solomon. Vì lý do đó, người Do Thái ờ Pháp coi Magdalene là thuộc hoàng tộc thiêng liêng và tôn thờ bà như là tổ mẫu dòng máu hoàng gia của các vị vua. Vô số học giả thời đó đã ghi chép về thời kì Mary Magdalene ở Pháp, bao gồm cả sự ra đời của Sarah và gia phả sau này".

Sophie giật mình: "Có cây gia hệ của Jesus Christ ư?".

"Đúng thế. Và nó là một trong những nền tảng của tài liệu Sangreal. Một bảng phả hệ hoàn chỉnh về con cháu dòng dõi của Christ".

"Nhưng một bảng phả hệ trên cơ sở tài liệu về dòng dõi của Christ thì ích gì?" Sophie hỏi. "Nó không thể là bằng chứng. Các nhà sử học không thể khẳng định tính xác thực của tài liệu".

Teabing cười tủm tỉm: "Không nhiều hơn mức mà họ có thể khẳng định là xác thực trong Kinh Thánh".

"Nghĩa là…?".

"Nghĩa là lịch sử bao giờ cũng được viết bởi những kẻ chiến thắng. Khi hai nền văn hoá va chạm nhau, người thua cuộc sẽ bị xóa bỏ, và kẻ chiến thắng sẽ viết những cuốn sách lịch sử - những cuốn sách vinh danh sự nghiệp của chính họ và miệt thị kẻ thù bị chinh phục. Như Napoleon đã có lần nói rằng: "Lịch sử là gì, nếu không phải là một thứ ngụ ngôn được thoả thuận?". Ông cười. "Do bản chất của nó, lịch sử bao giờ cũng là bản tường tnnh thiên lệch về một phía".

Sophie chưa bao giờ nghĩ về lịch sử theo cách ấy.

"Tài liệu Sangreal chỉ đơn giản kể nốt phía kia của câu chuyện về Christ. Cuối cùng, việc bạn tin phía nào của câu chuyện sẽ lại là vấn đề của đức tin và khảo sát cá nhân, nhưng dù gì thì thông tin này cũng đã tồn tại. Những tài liệu Sangreal gồm hàng chục ngàn trang. Các bản tường trình của những nhân chứng về kho báu Sangreal mô tả rằng nó được chở trong bốn chiếc hòm lớn. Nghe đồn trong các hòm đó là những Tài liệu thuần túy - hàng ngàn trang chưa bị sửa đổi từ thời tiền Constantine do các đệ tử ban đầu của Jesus viết, họ tôn kính Người như một bậc thầy và nhà tiên tri hoàn toàn nhân bản.

Cũng theo lời đồn đại thì một phần của kho báu là Tài liệu "Q". huyền thoại - một bản thảo chép tay mà cả Vatican cũng thừa nhận họ tin là đang tồn tại. Người ta cho rằng đó là một quyển sách ghi những lời răn dạy của Jesus, có thể do chính tay Người viết ra".

"Do đích thân Christ viết?".

"Tất nhiên", Teabing nói, "tại sao Jesus lại không ghi biên niên kí về mục sự của Người? Hầu hết mọi người đều làm thế trong những ngày đó. Một tài liệu khác có khả năng gây bùng nổ, mà người ta cho rằng cũng ở trong kho báu đó, là một bản viết tay có tên là Nhật kí Magdalene - trong đó có những ghi chép cá nhân của Mary Magdalene về mối quan hệ của bà với Christ, việc Người bị đóng đinh trên cây thập ác và thời gian bà ở Pháp".

Sophie yên lặng hồi lâu: "Bốn chiếc hòm tài liệu đó có phải là kho báu mà các Hiệp sĩ Templar đã tìm thấy dưới đền thờ Solomon không?".

"Đích thị. Những tài liệu này đã làm cho các Hiệp sĩ Templar hùng mạnh đến vậy. Những tài liệu này đã trở thành đối tượng của vô số các cuộc tìm kiếm Chén Thánh trong suốt lịch sử!".

"Nhưng ông đã nói rằng Chén Thánh chính là Mary Magdalene. Nếu một ai đó tìm kiếm những tài liệu này thì tại sao ông lại gọi đó là cuộc tìm kiếm Chén Thánh?".

Teabing nhìn cô, vẻ mặt dịu đi: "Bởi vì nơi cất giấu Chén Thánh bao gồm một chiếc quan tài đá".

Bên ngoài, gió gào rú trên những ngọn cây.

Giờ đây, Teabing nói bình tĩnh hơn: "Cuộc tìm kiếm Chén Thánh chính xác là cuộc tìm kiếm để quì trước nắm xương tàn của Mary Magdalene. Một cuộc hành trình để cầu nguyện dưới chân kẻ bị ruồng bỏ, cái chất nữ thiêng liêng bị đánh mất".

Sophie cảm thấy một nỗi ngạc nhiên bất ngờ: "Nơi giấu Chén Thánh thực ra là… một ngôi mộ?".

Đôi mắt màu hạt dẻ của Teabing chợt như phủ sương: "Đúng thế. Một ngôi mộ lưu giữ thi thể của Mary Magdalene và những tài liệu kể câu chuyện thực về đời bà. Về cốt lõi, cuộc tìm kiếm Chén Thánh xưa nay bao giờ cũng là cuộc tìm kiếm Magdalene - vị nữ hoàng bị đổ tiếng xấu, bị chôn vùi dưới mộ cùng với những bằng chứng về yêu cầu chính đáng của gia tộc mình đối với quyền lực".

Sophie đợi một lát trong khi Teabing bình tĩnh lại. Rất nhiều điều về ông cô vẫn chưa được làm sáng tỏ. "Các thành viên của Tu viện Sion", cuối cùng cô nói, "suốt những năm qua gánh trách nhiệm bảo vệ tài liệu Sangreal và mộ Mary Magdalene phải không?".

"Phải, nhưng hội kín này còn có một bổn phận khác quan trọng hơn - bảo vệ chính dòng máu hoàng gia. Dòng dõi của Christ luôn luôn bị đe dọa. Giáo hội sơ khởi sợ rằng nếu dòng máu này được phép sinh sôi nẩy nở thì cuối cùng bí mật về Jesus và Magdalene sẽ bị phơi bày và thách thức học thuyết cơ bản của Thiên Chúa Giáo - học thuyết về một Đấng Cứu Thế giáng trần không ăn ở với phụ nữ hay giao hợp". Ông ngừng một lát. "Tuy nhiên, dòng dõi của Christ vẫn âm thầm phát triển bí mật ở Pháp cho đến khi có một bước đột phá táo bạo vào thế kỉ thứ V, khi nó hôn phối với dòng máu hoàng gia Pháp để tạo ra dòng dõi được gọi là dòng dõi vương triều Merovingien".

Tin này làm Sophie ngạc nhiên. Merovingien là một từ mà tất cả các sinh viên ở Pháp đều đã học - "Gia tộc Merovingien lập nên Paris".

"Phải. Đó là một trong những lí do khiến truyền thuyết về Chén Thánh lại phong phú như vậy ở Pháp. Nhiều cuộc tìm kiếm Chén Thánh của Vatican ở Pháp thực chất là những công vụ lén lút nhằm xoá sổ các thành viên của hoàng tộc này. Cô đã bao giờ nghe nói về vua Dagobert chưa?".

Sophie mơ hồ nhớ lại cái tên này từ một câu chuyện ghê rợn trong lớp học lịch sử: "Dagobert là một vị vua thuộc vương triều Merovinge phải không? Ông bị đâm vào mắt trong lúc đang ngủ?".

"Chính xác. Ông bị ám sát bởi Vatican với sự thông đồng với Pepin d Heristal. Cuối thế kỷ thứ VII. Với vụ mưu sát Dagobert, dòng họ Merovingien hầu như bị tuyệt diệt. May sao, con trai của Dagobert, Sigisbert, đã bí mật trốn thoát khỏi cuộc tấn công và tiếp tục duy trì dòng dõi của mình, sau này dòng họ đã sản sinh Gedefroi de Bouillon - người sáng lập Tu viện Sion".

"Cũng chính con người này", Langdon nói, "đã ra lệnh cho các Hiệp sĩ Templar thu hồi lại tài liệu Sangreal từ bên dưới đền thờ Solomon và do vậy cung cấp bằng chứng về mối liên hệ kế truyền của dòng họ Merovingien với Jesus Christ".

Teabing gật đầu, trút một tiếng thở dài: "Tu viện Sion hiện nay có một nhiệm vụ rất trọng đại. Trách nhiệm của họ có ba phần. Hội kín này phải bảo vệ tài liệu Sangreal. Họ phải bảo vệ ngôi mộ của Mary Magdalene. Và, tất nhiên, họ cũng phải nuôi dưỡng và bảo vệ dòng dõi của Jesus Christ - số ít ỏi thành viên của dòng dõi hoàng gia Merovingien còn sống sót đến ngày nay".

Lời ông lơ lửng trong khoảng không rộng lớn, và Sophie cảm thấy một rung động kì lạ như thể một thứ chân lí mới đang dọi vào đến tận xương cốt cô. Những hậu dụê của Jesus còn tồn tại đến ngày nay. Tiếng ông cô lại như đang thì thầm bên tai cô.

"Công chúa, ta phải nói cho cháu sự thực về gia đình cháu".

Sophie cảm thấy rùng mình.

Dòng máu hoàng tộc.

Cô không thể tưởng tượng được.

Công chúa Sophie.

***

"Thưa ngài Leigh?" Tiếng người hầu nam vang lên lạo xạo qua hệ thống thông tin nội bộ trên tường, và Sophie giật nảy người. "Ngài có thể gặp tôi trong bếp một lát không?".

Teabing cau mặt vì sự chen ngang không đúng lúc này. Ông đi tới hệ thống thông tin nội bộ và ấn nút: "Rémy, anh biết đấy, tôi đang bận với khách. Nếu đêm nay chúng tôi cần gì khác nữa từ nhà bếp, chúng tôi sẽ tự phục vụ. Cám ơn anh và chúc ngủ ngon".

"Chỉ một lời với ngài thôi trước khi tôi lui, thưa ngài. Nếu ngài vui lòng".

Teabing càu nhàu và ấn nút. "Vậy thì nhanh lên, Rémy".

"Chỉ là vấn đề trong nhà thôi, thưa ngài, không đáng để các vị khách phải nghe".

Teabing có vẻ hoài nghi: "Không thể để đến sáng mai được ư?".

"Không, thưa ngài. Câu hỏi của tôi không mất đến một phút đâu".

Teabing tròn mắt nhìn Langdon và Sophie: "Thỉnh thoảng, tôi cứ tự hỏi không biết ai đang phục vụ ai đây?". Ông lại ấn nút. "Tôi sẽ đến ngay, Rémy. Tôi có thể mang đến cho anh cái gì không?".

"Chỉ cần giải phóng khỏi áp bức thôi, thưa ngài".

"Rémy, anh biết rằng món steak au poivre (2) của anh là lí do duy nhất để anh vẫn làm việc cho tôi".

"Tôi biết rồi, khổ lắm, ngài cứ nói mãi".

Chú thích:

(1) Georgia O Keeffe (1887-1986), nữ danh họa Mỹ chuyên vẽ hoa. Trong tác phẩm của bà, hoa luôn được đồng nhất với bộ phận sinh dục của đàn bà.

(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: bí tết hạt tiêu

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 41

Sophie cảm thấy trống rỗng khi lắng nghe tiếng nạng lách cách của Teabing nhỏ dần trong hành lang. Tê dại, cô quay lại và đối mặt với Langdon trong phòng khiêu vũ vắng tanh. Ông lắc đầu như thể đọc thấy ý nghĩ của cô.

"Không, Sophie", ông thầm thì, đôi mắt vỗ về trấn an, "cũng ý nghĩ đó đến trong đầu tôi khi tôi hiểu ra rằng ông cô cũng ở trong Tu viện Sion, và cô nói rằng ông muốn nói cho cô nghe một bí mật về gia tộc cô. Nhưng điều đó là bất khả". Langdon ngừng lại một lát. "Saunière không phải là một họ thuộc hệ Merovingien".

Sophie không biết chắc mình nên cảm thấy nhẹ nhõm hay thất vọng. Trước đó, Langdon có hỏi qua một câu không bình thường về cái tên thời con gái của mẹ cô. Chauvel. Bây giờ, cô mới hiểu tại sao ông hỏi vậy. "Còn cái tên Chauvel?" Cô hỏi một cách lo lắng.

Ông lại lắc đầu: "Tôi rất tiếc. Tôi biết điều đó sẽ giải đáp một vài câu hỏi cho cô. Chỉ có hai nhánh trực hệ của dòng họ Merovingien là còn duy trì. Hai họ đó là Plantard và Saint-Clair.

Cả hai tộc này vẫn sống lẩn trốn, có lẽ dưới sự che chở của Tu viện Sion".

Sophie thầm nhắc lại những họ này trong óc rồi lắc đầu.

Không một ai trong gia đình cô mang họ Plantard hay Saint-Clair. Một con sóng ngầm mệt mỏi như đang co kéo cô. Cô chợt nhận ra, so với lúc ở Louvre, cô vẫn chưa tiến gần thêm tới cái đích là hiểu xem sự thật mà ông cô muốn tiết lộ cho cô biết là cái gì. Sophie ước gì ông cô chưa bao giờ nhắc tới gia đình cô chiều hôm đó. Ông đã khơi mở lại những vết thương cũ tới nay vẫn còn đau đớn như bao giờ. Họ đã chết Sophie. Họ không thể quay trở lại. Cô chợt nghĩ đến người mẹ hằng đêm hát ru cô ngủ, người bố kiệu cô trên vai, người bà và đứa em trai đang cười với cô với đôi mắt xanh nồng nhiệt. Tất cả đã bị cướp mất. Chỉ còn lại độc trọi người ông.

Và bây giờ ông cũng đã ra đi. Còn trơ lại một mình mình.

Sophie lặng lẽ quay trở lại bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng, chăm chú nhìn mái tóc đỏ dài và đôi mắt tĩnh lặng của Magdalene. Có một cái gì đó trong vẻ mặt của người phụ nữ gợi đến nỗi mất mát một người thân yêu. Sophie cũng cảm thấy điều đó.

"Robert?" Cô khẽ gọi.

Ông bước lại gần.

"Tôi biết Leigh nói rằng câu chuyện về Chén Thánh ở khắp quanh ta, nhưng tối nay là lần đầu tiên tôi nghe thấy những điều này".

Langdon có vẻ như muốn đặt một bàn tay an ủi lên vai cô nhưng tự kiềm chế lại: "Cô đã nghe câu chuyện về bà ấy trước đây, Sophie. Tất cả mọi người đều đã nghe. Có điều, khi nghe, chúng ta không nhận chân ra đấy thôi".

"Tôi không hiểu".

"Chuyện Chén Thánh có ở tất cả mọi nơi nhưng bị che giấu. Khi Nhà Thờ cấm nói về việc Mary Magdalene bị xa lánh thì câu chuyện và tầm quan trọng của bà ấy lại được lưu truyền qua những kênh kín đáo hơn… những kênh nuôi dưỡng phép ẩn dụ và chủ nghĩa tượng trưng".

"Tất nhiên. Các môn nghệ thuật".

Langdon chỉ bức Bữa ăn tối cuối cùng: "Một ví dụ hoàn hảo. Một số tác phẩm mỹ thuật, văn học, âm nhạc lâu bền nhất còn lại cho đến ngày nay đã kín đáo kể lại câu chuyện giữa Mary Magdalene và Jesus".

Langdon kể nhanh cho cô nghe về những tác phẩm của Da Vinci Botticelli, Poussin, Bernini, Mozart và Victor Hugo, tất cả đều thầm thì điều gì đó về cuộc tìm kiếm để phục hồi lại địa vị cho người phụ nữ thần thánh bị xua đuổi. Những truyền thuyết trường tồn như Ngài Gawain và Hiệp sĩ Green, Vua Arthur và nàng công chúa ngủ trong rừng. đều là những ngụ ngôn về Chén Thánh. Tác phẩm Thằng gù ở nhà thờ Đức Bà của Victor Hugo và Cây sáo kỳ diệu, của Mozart đầy những biểu tượng của hội Tam Điểm và bí mật Chén Thánh.

"Một khi cô mở mắt mở lòng với Chén Thánh", Langdon nói, "cô sẽ thấy Magdalene hiện diện ở khắp nơi. Hội hoạ, âm nhạc, sách. Thậm chí cả trong phim hoạt hình, công viên giải trí theo chủ đề và những bộ phim nổi tiếng".

Langdon đưa chiếc đồng hồ chuột Mickey ra làm ví dụ và nói với cô rằng Walt Disney đã xác định sự nghiệp của cuộc đời lặng lẽ của mình là lưu truyền câu chuyện Chén Thánh cho các thế hệ tương lai. Trong suốt toàn bộ cuộc đời mình, Disney đã được hoan nghênh như một "Leonardo Da Vinci hiện đại". Cả hai đã đi trước thời đại của họ tới mấy thế hệ, là những nghệ sĩ có tài năng vô song, hội viên của những hội kín, và đáng chú ý nhất, những người ham thích đùa nghịch. Giống như Leonardo, Walt Disney rất thích lồng những thông điệp và biểu tượng ẩn tàng vào trong nghệ thuật của mình. Đối với những nhà kí tượng học được đào tạo, xem một bộ phim của Disney cũng giống như đứng trước một con thác ào ào những ám chỉ và ẩn dụ.

Hầu hết những thông điệp ẩn giấu của Disney đều liên quan tới tôn giáo, huyền thoại thế tục và những câu chuyện về nữ thần bị khuất phục. Đâu phải vì lầm lẫn mà Disney đã kể lại theo cách mới những câu chuyện như Lọ Lem, Nàng công chúa ngủ trong rừng và Bạch Tuyết - tất cả đều đề cập đến việc hạ ngục tính nữ thiêng liêng. Cũng không cần thiết phải có kiến thức về chủ nghĩa tượng trưng để hiểu được rằng Bạch Tuyết - nàng công chúa bị thất sủng sau khi ăn quả táo tẩm độc - là một ám chỉ rành rành đến sự sa ngã của Eve trong vườn Địa đàng. Hoặc trong Người đẹp ngủ trong rừng, Công chúa Aurora - mật danh là "Hoa Hồng" - được che giấu trong rừng để bảo vệ nàng khỏi nanh vuốt của mụ phù thuỷ độc ác, chính là câu chuyện Chén Thánh cho trẻ con.

Mặc dù hình ảnh mang tính tập thể, hãng Disney vẫn có được một yếu tố khôn ngoan và tinh nghịch trong các nhân viên và các hoạ sĩ của họ vẫn tiêu khiển bằng cách lồng những biểu tượng ẩn giấu vào trong các sản phẩm Disney. Langdon sẽ không bao quên chuyện một sinh viên của ông mang đến lớp một đĩa DVD phim hoạt hình Vua sư tử và cho dừng hình để chỉ ra một khuôn hình tĩnh trong đó từ SEX (giới tính, tình dục) hiện rõ mồn một, được tô đậm bởi đám bụi bồng bềnh trên đầu của Simba. Mặc dầu Langdon ngờ rằng đấy chỉ là trò tinh nghịch kiểu học sinh của một nhà làm phim hoạt hình chứ không phải bất kì cách bóng gió thông minh nào nhằm vào dục tính thế tục của con người, ông cũng đã học được cách không đánh giá thấp khả năng nắm vững biểu tượng của Disney. Nàng tiên cá là một tấm thảm hút hồn với những biểu tượng tâm linh liên quan với giới nữ thần một cách cụ thể đến nỗi không thể là trùng hợp ngẫu nhiên được.

Lần đầu tiên xem Nàng tiên cá, Langdon đã thực sự hức lên thành tiếng khi nhận thấy bức tranh trong ngôi nhà dưới nước của Ariel không phải là gì khác ngoài tác phẩm Magdalene sám hối của hoạ sĩ Georges de la Tour thế kỷ XVII - một sự tôn vinh trứ danh dành cho Mary Magdalene - một nét trang trí phù hợp vì bộ phim dài chín mươi phút này hoá ra là một tác phẩm collage với những biểu tượng rành rành quy chiếu về tính thần thánh bị tước đoạt của những Isie, Eva, Pisces, và lặp đi lặp lại nhiều lần, Mary Magdalene. Tên của nàng tiên cá, Ariel, có những ràng buộc chặt chẽ với tính nữ thiêng liêng và, trong Sách của Isaiah, nó đồng nghĩa với "Thánh địa bị bao vây". Tất nhiên, mái tóc đỏ mềm mại của nàng tiên cá chắc chắn cũng không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Tiếng nạng lách cách của Teabing trong hành lang tiến lại gần, bước chân ông nhanh nhẹn một cách không bình thường. Khi chủ nhân bước vào phòng làm việc, vẻ mặt ông nghiêm nghị.

"Anh nên có lời giải thích, Robert", Teabing lạnh lùng nói, "Anh đã không trung thực với tôi".

"Tôi bị oan, Leigh", Langdon nói, cố gắng giữ bình tĩnh, "Ngài biết rõ con người tôi mà. Tôi không phải hạng giết người".

Giọng Teabing không hề dịu đi: "Robert, anh đang trên tivi, lạy Chúa. Anh có biết nhà chức trách đang truy lùng anh không? Anh đã lạm dụng lòng tin của tôi. Tôi rất ngạc nhiên là anh nỡ đặt tôi vào tình thế nguy hiểm bằng cách đến đây và đòi tôi nói lan man về Chén Thánh để anh có thể ẩn náu trong nhà tôi".

"Tôi không giết ai cả".

"Jacques Saunière đã chết, và cảnh sát nói rằng anh làm điều đó", Teabing nói, vẻ buồn bã. "Một người đóng góp cho nghệ thuật như vậy mà…".

"Thưa ngài?" Người hầu lúc này đã xuất hiện, đứng ngay sau Teabing trong khung cửa phòng làm việc, cánh tay khoanh lại.

"Tôi chỉ cho họ lối ra chứ?".

"Để tôi", Teabing tập tễnh bước ngang qua phòng làm việc, mở khóa một loạt cánh cửa kính lớn; cửa mở chúng ra một bãi cỏ cạnh nhà. "Hãy lấy xe của anh, và đi đi!".

Sophie không hề nhúc nhích: "Chúng tôi có thông tin về clef de voute - viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion".

Teabing nhìn cô chằm chằm trong vài giây và cười giễu cợt:

"Một mánh khoé vớt vát. Robert biết tôi đã tìm kiếm nó như thế nào".

"Cô ấy nói thật đấy", Langdon nói. "Đó là lí do tại sao chúng tôi đến gặp ngài tối nay. Để nói cho ngài biết về viên đá đỉnh vòm".

Người quản gia xen vào: "Đi đi, kẻo tôi sẽ gọi nhà chức trách".

"Leigh", Langdon thì thầm, "chúng tôi biết nó ở đâu".

Teabing hơi ngập ngừng.

Rémy cứng cỏi dấn bước ngang qua căn phòng: "Đi ngay? Kẻo tôi buộc…".

"Rémy?", Teabing quay lại, gắt người quản gia. "Hãy để riêng chúng tôi một lát".

Người phục vụ há hốc mồm: "Thưa ngài? Tôi buộc phải phản đối những người này…".

"Tôi sẽ xử lý việc này", Teabing chỉ ra phía hành lang.

Sau một lát im lặng sửng sốt, Rémy lủi ra như một con chó bị xua đuổi.

Làn gió mát nhẹ buổi tối ùa vào qua cánh cửa mở rộng, Teabing quay lại phía Sophie và Langdon, vẻ mặt vẫn cảnh giác:

"Tốt hơn là hãy biết điều. Các bạn biết gì về viên đá đỉnh vòm?".

***

Trong bụi cây dầy bên ngoài phòng làm việc của Teabing, Silas nắm chặt khẩu súng lục và nhìn chằm chằm qua cánh cửa kính.

Chỉ cách đây một lát thôi, hắn đã đi vòng quanh ngôi nhà và thấy Langdon cùng người phụ nữ đang trò chuyện trong phòng làm việc rộng thênh thang. Trước khi hắn kịp vào trong, một người đi nạng đã bước vào, lớn giọng với Langdon, mở cửa và yêu cầu các vị khách rời đi. Sau đó người phụ nữ nhắc tới viên đá đỉnh vòm, và tất cả mọi sự đã thay đổi. Tiếng quát tháo biến thành những tiếng thầm thì. Bầu không khí dịu xuống. Và những cánh cửa kính mau chóng được đóng lại.

Bây giờ, ngồi co ro trong bóng tối, Silas dòm qua cánh cửa.

Viên đá đỉnh vòm ở đâu đó trong ngôi nhà. Silas có thể cảm thấy điều đó Vẫn trong bóng tối, hắn nhích lại gần cửa kính, háo hức nghe xem họ đang nói chuyện gì. Hắn sẽ để cho họ năm phút. Nếu họ không hé lộ nơi họ giấu viên đá đỉnh vòm, Silas sẽ phải vào và thuyết phục họ bằng vũ lực.

Bên trong phòng làm việc, Silas có thể thấy thái độ hoang mang của người chủ.

"Đại sư?", Teabing tắc nghẹn, ông nhìn Sophie. "Jacques Saunière?".

Sophie gật đầu, thấy rõ vẻ bị sốc trong mắt ông.

"Nhưng cô không cách nào biết được điều đó?".

"Jacques Saunière là ông tôi".

Teabing loạng choạng lùi lại trên đôi nạng, phóng một cái nhìn về phía Langdon, ông này gật đầu. Teabing quay trở lại phía Sophie: "Thưa cô Neveu, tôi không còn biết nói sao. Nếu quả thực là thế, thì tôi xin thành thật chia buồn với cô. Tôi xin thú thực rằng, trong cuộc tìm kiếm của mình, tôi đã lên danh sách những người ở Paris, những người mà tôi nghĩ có thể dính líu với Tu viện Sion. Jacques Saunière cũng ở trong danh sách này cùng với nhiều người khác nữa. Nhưng là Đại Sư, cô nói vậy ư? Thật khó lường". Teabing yên lặng một lát và sau đó lắc đầu "Nhưng vẫn chưa rõ ràng lắm. Thậm chí nếu ông cô là Đại Sư của Tu viện và chính bản thân ông đã tạo ra viên đá đỉnh vòm thì ông cũng sẽ không bao giờ nói cho cô biết cách làm thế nào để tìm thấy nó. Viên đá đỉnh vòm tiết lộ đường dẫn tới kho báu tối hậu của hội kín này. Dù có là cháu gái hay không, cô cũng không thể được chọn để nhận loại thông tin như vậy".

"Ông Saunière đang hấp hối khi ông truyền lại thông tin này", Langdon nói, "Ông chẳng còn mấy lựa chọn".

"Ông ấy không cần lựa chọn", Teabing cãi. "Có ba ssénéchal cũng biết về bí mật này. Đó là cái hay trong hệ thống của họ.

Khi một trong ba người đó lên chức Đại Sư, họ sẽ bổ nhiệm một pháp quan mới và cùng chia sẻ bí mật về viên đá đỉnh vòm".

"Tôi đoán là ông không xem toàn bộ bản tin phát thanh", Sophie nói, "Cùng với ông tôi, ba người Paris lỗi lạc khác cũng đã bị sát hại hôm nay. Tất cả đều theo cùng một cách. Tất cả đều có vẻ như đã bị tra hỏi".

Cằm Teabing trễ xuống: "Và cô nghĩ họ là…".

"Những pháp quan", Langdon nói.

"Nhưng bằng cách nào? Một tên sát thủ không cách nào biết được nhân thân của tất cả bốn thành viên đứng đầu Tu viện Sion! Hãy xem tôi đây, tôi đã tìm kiếm họ hàng thập kỉ nay, và tôi thậm chí không biết tên một thành viên nào của Tu viện Sion. Thật khó có thể tin rằng cả ba pháp quan và Đại Sư lại có thể bị phát hiện và giết trong cùng một ngày".

"Tôi không tin rằng thông tin này được thu thập chỉ trong một ngày", Sophie nói. "Nó có vẻ giống như một cú decapiter (1) đã được lên kế hoạch cẩn thận. Đó là một kỹ thuật chúng tôi thường dùng để đánh những nghiệp đoàn tội phạm có tổ chức.

Nếu DCPJ muốn xoá sổ một băng nào đó, họ sẽ lặng lẽ nghe ngóng và theo dõi trong nhiều tháng liền, xác định tất cả những tên đầu sỏ, rồi sau đó mới vào cuộc và bắt cả bọn cùng một lúc.

Đó là chặt đầu. Không còn thủ lĩnh, băng sẽ hỗn loạn và để lộ những thông tin khác nữa. Có thể là một kẻ nào đó đã kiên nhẫn theo dõi Tu viện Sion và sau đó mới tấn công với hy vọng những người đứng đầu sẽ tiết lộ nơi giấu viên đá đỉnh vòm".

Teabing có vẻ vẫn chưa tin: "Nhưng những thành viên khác sẽ không bao giờ nói. Họ đã thề giữ bí mật. Thậm chí cả khi đối mặt với cái chết".

"Chính xác", Langdon nói. "Nghĩa là, nếu họ không tiết lộ bí mật, và họ bị giết…".

Teabing há hốc miệng: "… thì viên đá đỉnh vòm sẽ bị mất vĩnh viễn?".

"Và cùng với nó", Langdon nói, "là cả Chén Thánh".

Thân hình Teabing như chao đảo dưới trọng lượng những lời của Langdon. Rồi, như thể quá mệt mỏi để đứng lâu hơn nữa, ông buông mình trên chiếc ghế, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ.

Sophie bước tới, giọng êm dịu: "Xét tình thế gay go của ông tôi rất có thể là trong hoàn toàn tuyệt vọng ông đã cố gắng truyền lại bí mật cho một ai đó ngoài hội kín của mình. Một ai đó mà ông nghĩ là mình có thể tin cậy trong gia đình ông".

Mặt Teabing tái đi: "Nhưng cái kẻ có khả năng tấn công… phát hiện được nhiều như vậy về những người trong hội kín đó", ông ngừng lời, để lộ ra mối lo sợ mới. "Chỉ có thể là một thế lực. Việc thâm nhập kiểu này chỉ có thể tiến hành bởi kẻ thù lâu đời nhất của Tu viện Sion".

Langdon ngước lên: "Giáo hội?".

"Còn ai khác? Roma cũng tìm kiếm Chén Thánh suốt nhiều thế kỷ nay".

Sophie hoài nghi: "Ông nghĩ là Giáo hội đã giết ông tôi?".

Teabing trả lời: "Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội giết người để tự bảo vệ. Những tài liệu đi kèm với Chén Thánh là thùng thuốc nổ, và Giáo hội muốn huỷ chúng từ bao năm nay".

Langdon cũng thấy khó chấp nhận giả thuyết của Teabing rằng Giáo hội đã trắng trợn giết người để giành được những tài liệu này. Đã tửng gặp Giáo hoàng mới và nhiều vị trong số các hồng y giáo chủ, Langdon biết họ là những con người tâm linh sâu sắc họ ắt không bao giờ dung túng thủ đoạn ám sát.

Bất kể cái được-mất là gì.

Sophie dường như cũng nghĩ vậy: "Không có khả năng những thành viên này bị giết bởi một kẻ nào đó bên ngoài Giáo hội sao? Một ai đó không biết Chén Thánh thực ra là cái gì?

Chiếc Chén của Chúa Jesus, nói cho cùng, vẫn là một vật báu hấp dẫn. Chắn chắn những kẻ săn tìm báu vật đã từng giết người vì những thứ ít đáng giá hơn nhiều".

"Theo kinh nghiệm của tôi", Teabing nói, "con người ta sẵn sàng làm những điều ghê gớm hơn nhiều để tránh cái họ sợ hơn là để có cái mà họ mong muốn. Tôi cảm thấy sự tuyệt vọng trong cuộc tấn công này vào Tu viện Sion".

"Leigh", Langdon nói, "lập luận này thật nghịch lí. Tại sao những thành viên của giới giáo sĩ Thiên chúa Giáo lại mưu sát những thành viên của Tu viện Sion trong nỗ lực tìm ra và phá huỷ những tài liệu mà dù sao họ cũng tin là bằng chứng giả mạo".

Teabing cười tủm tỉm: "Tháp ngà của Harvard đã làm anh đâm khờ khạo, Robert. Phải, giới giáo sĩ ở Roma được Chúa ban cho niềm tin mãnh liệt, và chính bởi điều này, tín ngưỡng của họ có thể vượt qua bất cứ cơn dông bão nào, kể cả những tài liệu phủ nhận tất cả mọi thứ mà họ tôn thờ. Nhưng phần còn lại của thế giới thì sao? Những người không được ban cho đức tin tuyệt đối?

Những người chứng kiến sự tàn bạo trên thế giới và lên tiếng, Chúa đang ở đâu? Những người chứng kiến những bê bối của Giáo hội và lên tiếng hỏi, những kẻ mạo xưng là mình nói sự thật về Thiên Chúa thế nhưng lại dối trá để che đậy sự lạm dụng tình dục trẻ em do chính tu sĩ của họ làm, những kẻ đó là ai?".

Teabing ngừng lại. "Chuyện gì xảy ra với những người đó, Robert, nếu những bằng chứng khoa học đầy sức thuyết phục chỉ ra rằng lời giải thích của Giáo hội về câu chuyện Chúa Jesus là không chính xác và rằng câu chuyện vĩ đại nhất từng được kể, trên thực tế, chỉ là câu chuyện bịp vĩ đại nhất".

Langdon không đáp.

"Tôi sẽ nói cho các bạn biết chuyện gì xảy ra nếu những tài liệu này lọt ra ngoài", Teabing nói. "Toà thánh Vatican sẽ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng đức tin chưa từng thấy trong lịch sử suốt hai thiên niên kỷ của mình".

Sau hồi lâu yên lặng, Sophie nói: "Nhưng nếu Giáo hội phải chịu trách nhiệm về cuộc tấn công này thì tại sao đến bây giờ họ mới hành động? Sau bao nhiêu năm? Tu viện Sion vẫn giấu kín những tài liệu Sangreal. Họ không đem lại sự đe doạ tức thời đối với Giáo hội".

Teabing trút một tiếng thở dài lo ngại và liếc nhìn Langdon: "Robert, tôi đồ rằng anh biết rất rõ trách nhiệm cuối cùng của Tu viện Sion?".

Langdon cảm thấy nghẹn thở khi nghĩ đến điều đó: "Tôi biết".

"Cô Neveu", Teabing nói, "Giáo hội và Tu viện Sion đã có sự thoả thuận ngầm từ nhiều năm nay. Đó là, Nhà thờ không tấn công Tu viện, và ngược lại Tu viện Sion tiếp tực giữ kín những tài liệu Sangreal". Ông ngừng lời. "Tuy nhiên, một phần lịch sử Tu viện Sion luôn luôn bao gồm một kế hoạch phơi bày bí mật này.

Đến một ngày cụ thể nào đó trong lịch sử, hội kín này dự định sẽ phá vỡ sự im lặng và hoàn tất thắng lợi cuối cùng của mình bằng cách phơi bày tài liệu Sangreal cho thế giới biết và lớn tiếng công bố câu chuyện thực sự về Jesus cho tất cả mọi người biết".

Sophie đăm đăm nhìn Teabing trong yên lặng. Cuối cùng, cô ngồi xuống: "Ông nghĩ rằng ngày ấy sắp đến? Và Giáo hội biết thế?".

"Chỉ là suy đoán thôi", Teabing nói."Nhưng chắc chắn nó sẽ tạo động lực cho Giáo hội tiến hành một cuộc tấn công tổng lực để tìm ra những tài liệu đó trước khi quá muộn".

Langdon có cảm giác không dễ chịu là Teabing có lí: "Ông có nghĩ rằng Giáo hội có khả năng phát hiện ra những bằng chứng về cái ngày đó của Tu viện Sion?".

"Tại sao không? - Nếu chúng ta cho rằng Giáo hội có thể khám phá ra nhân thân của các thành viên của Tu viện Sion, thì chắc chắn họ cũng có thể biết được kế hoạch này. Và thậm chí nếu không biết thời gian chính xác thì sự dị đoan cũng có thể thắng thế ở họ.

"Dị đoan?" Sophie hỏi.

"Theo lối nói tiên tri", Teabing nói, "thì hiện nay chúng ta đang ở trong một thời kì của những thay đổi lớn lao. Thiên niên kỉ hai vừa mới trôi qua và cùng với nó là sự kết thúc kỉ nguyên chiêm tinh Song Ngư kéo dài 2000 năm và cũng chính là sao chiếu mệnh của Jesus. Như bất cứ nhà chiêm tinh - ký tượng học nào đều sẽ nói với cô, lý tưởng của cung Song Ngư tin rằng con người cần phải được chỉ bảo những điều cần làm bởi những quyền lực cao hơn vì con người không có khả năng tự suy nghĩ.

Do đó kỉ nguyên Song Ngư là thời kì của lòng nhiệt thành tôn giáo. Tuy nhiên, bây giờ, chúng ta đang bước vào Kỷ của Cung Bảo Bình - người mang nước - lí tưởng cung này cho rằng con người sẽ biết được sự thực và có khả năng tự suy nghĩ cho bản thân. Sự thay đổi về hệ tư tưởng đó rất lớn, và ngay bây giờ sự thay đổi này đang diễn ra".

Langdon cảm thấy rùng mình. Lời tiên tri của các chiêm tinh chưa bao giờ dành được nhiều sự quan tâm hay tín nhiệm của ông, nhưng ông biết có những người trong Giáo hội rất tin tưởng nó. "Giáo hội gọi giai đoạn chuyển đổi này là Ngày Tận Cùng".

Sophie có vẻ hoài nghi: "Giống như tận thế? Giống như những sự kiện trong sách Khải Huyền?".

"Không", Langdon trả lời, "đó là một quan niệm sai lầm thông thường. Có nhiều tôn giáo nói đến Ngày Tận Cùng. Nó không chỉ sự tận thế, mà chỉ sự kết thúc kỷ nguyên hiện tại của chúng ta - kỷ nguyên Song Ngư, bắt đầu từ khi Christ ra đời, kéo dài 2000 năm, và tàn lụi vào lúc chuyển giao thiên niên kỷ. Bây giờ, khi chúng ta đã bước vào kỷ nguyên Bảo Bình, Ngày Tận Cùng đã đến".

"Nhiều nhà sử học về Chén Thánh", Teabing bổ sung, "tin rằng nếu Tu viện Sion quả thật định công bố sự thật thì thời điểm này trong lịch sử sẽ là thời điểm thích hợp mang ý nghĩa tượng trưng. Hầu hết các học giả nghiên cứu về Tu viện Sion, trong đó có cả tôi, đã đoán trước rằng thời điểm hội kín này công bố sự thực sẽ trùng khít với sự chuyển giao thiên niên kỷ. Hiển nhiên là điều đó đã không xảy ra. Phải thừa nhận rằng lịch Roman không khớp hoàn toàn với lịch chiêm tinh, cho nên có một vùng mơ hồ nào đó trong tiên đoán này. Tôi không biết bây giờ Giáo hội đã có thông tin nội bộ về ngày giờ chính xác chưa hay chỉ lo sợ vì lời tiên tri của các nhà chiêm tinh. Dù sao đi nữa, nó vẫn là phi vật chất. Cả hai kịch bản trên đều giải thích động cơ thúc đẩy Giáo hội mờ một cuộc tấn công phủ đầu chống lại Tu viện Sion". Teabing cau mày. "Và hãy tin tôi đi, nếu Giáo hội tìm thấy Chén Thánh, họ sẽ huỷ nó. Những tài liệu cũng như thánh tích của Mary Magdalene". Ánh mắt ông trở nên nặng trĩu. "Sau đó, bạn thân mến, cùng với sự tiêu vong của những tài liệu Sangreal, tất cả các bằng chứng cũng sẽ mất theo. Quá khứ sẽ bị xoá sạch vĩnh viễn".

Chậm rãi, Sophie kéo chiếc chìa khoá hình thập giá khỏi chiếc áo len chui cổ, đưa cho Teabing.

Teabing cầm lấy chiếc chìa khoá, xem xét: "Trời, con dấu của Tu viện Sion. Cô lấy nó ở đâu vậy?".

"Ông tôi giao lại cho tôi tối nay, trước khi ông chết".

Teabing rờ ngón tay lên hình chữ thập. "Chìa khoá của một nhà thờ?

Cô hít một hơi sâu: "Chìa khoá này mở đường tới viên đá đỉnh vòm".

Teabing hất đầu lên, mặt dại đi vì không tin: "Không thể. Tôi đã bỏ sót nhà thờ nào nhỉ? Tôi đã lùng sục mọi nhà thờ tại Pháp!".

"Nó không ở trong nhà thờ", Sophie nói. "Nó ở trong một ngân hàng kí thác Thuỵ Sĩ".

Vẻ kích động của Teabing nhạt đi: "Viên đá đỉnh vòm ở trong một nhà băng?".

"Một hầm két", Langdon nói rõ thêm.

"Một hầm két nhà băng?" Teabing lắc đầu thật mạnh.

"Không thể. Viên đá đỉnh vòm phải được giấu dưới dấu hiệu Hoa Hồng".

"Đúng vậy!" , Langdon nói. "Nó được đựng trong một cái hộp bằng gỗ hồng mộc có khắc bông hồng năm cánh".

Teabing như bị sét đánh: "Anh đã nhìn thấy viên đá đỉnh vòm?".

Sophie gật đầu: "Chúng tôi đã đến nhà băng".

Teabing tiến lại chỗ họ, đôi mắt dại đi vì sợ hãi: "Các bạn của tôi, chúng ta phải làm một điều gì đó. Viên đá đỉnh vòm đang gặp nguy hiểm! Chúng ta có nhiệm vụ phải bảo vệ nó. Ngộ nhỡ có những chiếc chìa khác thì sao? Những chiếc có lẽ đã bị đánh cắp từ những pháp quan bị giết? Ngộ nhỡ Giáo hội có thể vào được nhà băng như các bạn…".

"Thì đã quá muộn rồi", Sophie nói. "Chúng tôi đã di chuyển viên đá đỉnh vòm".

"Cái gì! Các bạn đã đem nó khỏi nơi cất giấu rồi sao?".

"Đừng lo!", Langdon nói, "viên đá đỉnh vòm đã được cất giấu an toàn".

"Cực kỳ an toàn, tôi hy vọng thế?".

"Thực ra", Langdon nói, không giấu nổi nụ cười, "điều đó phụ thuộc vào việc ông có thường xuyên quét bụi dưới gầm đi văng của mình hay không?".

***

Gió bên ngoài Château Villette đã mạnh lên, và chiếc áo chùng của Silas tốc lên trong khi hắn khom người gần cửa sổ. Mặc dầu hắn chỉ nghe được lõm bõm, nhưng từ viên đá đỉnh vòm đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong câu chuyện.

Nó ở bên trong.

Những lời của Thầy Giáo vẫn còn tươi nguyên trong tâm trí hắn. Hãy vào Château Villette. Lấy viên đá đỉnh vòm. Đừng đả thương ai.

Bây giờ, Langdon cùng những người kia đã đột nhiên rời sang một phòng khách tắt đèn phòng làm việc trước khi đi.

Giống như một con báo đang rình mồi. Silas lẻn đến cửa kính.

Cửa không khoá, hắn lẻn vào bên trong và đóng lại lặng lẽ phía sau. Hắn vẫn có thể nghe thấy những tiếng nói bị nghẹt lại từ một phòng khác vẳng tới. Silas rút súng lục khỏi túi, tháo chốt an toàn và lần theo hành lang.

Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: chặt đầu

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 42

Trung uý Collet đứng một mình ở cuối đoạn đường dẫn vào nhà Leigh Teabing và ngước nhìn lên toà nhà đồ sộ. Biệt lập tối om. Địa hình địa vật tốt. Collet nhìn nửa tá trợ thủ của mình lặng lẽ toả ra dọc theo chiều dài của hàng rào. Họ có thể vượt qua hàng rào và bao vây ngôi nhà chỉ trong vài phút. Langdon không thể chọn một nơi lý tưởng hơn cho quân của Collet mở một cuộc đột kích.

Collet toan gọi cho Fache thì chuông điện thoại của anh reo. Tiếng Fache nghe có vẻ không hài lòng với những tiến triển mới như Collet tưởng: "Tại sao không ai nói cho tôi biết chúng ta đã có manh mối về Langdon?".

"Lúc ấy ông đang gọi điện thoại và…".

"Chính xác là anh đang ở đâu, Trung uý Collet?".

Collet cho ông ta địa chỉ: "Đó là điền trang của một người quốc tịch Anh tên là Teabing. Langdon đã lái xe từ xa tới đây, và chiếc xe bây giờ nằm bên trong cánh cổng an toàn, không có dấu hiệu của việc phá cửa đột nhập, cho nên có thể thấy Langdon biết người chủ ngôi nhà".

"Tôi đến ngay đây", Fache nói, "đừng hành động gì cả. Tôi sẽ đích thân xử lý việc này".

Collet há hốc miệng: "Nhưng thưa Đại úy, ông ở cách đây hai mươi phút chạy xe! Mà chúng ta lại nên hành động ngay lập tức. Tôi đã cho người theo dõi hắn. Tôi có tám người tất cả. Bốn trong bọn tôi có súng trường đã chiến và số còn lại có súng ngắn".

"Đợi tôi".

"Thưa Đại úy, chuyện gì sẽ xảy ra nếu Langdon có con tin trong đó? Chuyện gì xảy ra nếu hắn thấy chúng ta và quyết định chạy bộ khỏi đây. Chúng ta cần hành động ngay bây giờ! Người của tôi đã vào vị trí và sẵn sàng hành động".

"Trung uý Collet, anh phải đợi tôi tới trước khi hành động. Đây là mệnh lệnh", Fache cúp máy.

Kinh ngạc, Trung uý Collet ngắt điện thoại. Tại sao Fache lại bắt mình đợi nhỉ? Collet biết câu trả lời. Fache vừa nổi tiếng là có linh tính nhạy, lại vừa khét tiếng sĩ diện. Fache muốn việc bắt giữ này là thành tích của mình. Sau khi đưa chân dung của người Mỹ đó lên truyền hình, Fache muốn chắc chắn khuôn mặt mình cũng xuất hiện với thời lượng tương đương. Công việc của Collet đơn giản chỉ là kiểm soát hiện trường cho đến khi ông chủ thực sự có mặt ở đó để tranh công.

Trong khi đứng ở đó, Collet bật nghĩ ra cách thứ hai khả dĩ giải thích cho sự trì hoãn này. Khống chế thiệt hại. Trong việc thực thi luật pháp, việc chần chừ bắt giữ kẻ bỏ trốn chỉ xảy ra khi không chắc chắn về tội lỗi của kẻ bị tình nghi. Phải chăng Fache đang suy nghĩ lại về khả năng Langdo đúng là người cần bắt. Ý nghĩ này thật đáng sợ. Đêm nay Đại uý Fache đã liều lĩnh dùng nhiều biện pháp nhằm bắt Robert Langdon - surveillance caché (1), Interpol, và bây giờ là truyền hình nữa. Ngay cả Bezu Fache vĩ đại cũng sẽ khó trụ nổi trước ảnh hưởng chính trị khốc hại nếu ông ta đã lầm lẫn trương ảnh một nhân vật Mỹ lỗí lạc lên truyền hình Pháp, khẳng định đó là một kẻ giết người. Nếu giờ đây Fache nhận ra mình đã mắc sai lầm, thì việc ông ta bảo Collet không được hành động là hoàn toàn có lí. Điều Fache cần tránh nhất là để Collet xông vào điền trang riêng của một người Anh vô tội và chĩa súng vào Langdon.

Hơn thế nữa, Collet nhận ra rằng, nếu Langdon vô tội, thì điều này sẽ giải thích cho một trong những nghịch lý lạ lùng nhất của vụ này: Tại sao Sophie Neveu, cháu gái của nạn nhân, lại giúp cho kẻ bị nghi là hung thủ trốn thoát? Trừ phi Sophie biết Langdon bị kết tội oan. Đêm nay Fache đã đưa ra mọi cách giải thích dể giải thích ứng xử kì lạ của Sophie, kể cả việc Sophie, với tư cách là người thừa kế duy nhất của Saunière, đã thuyết phục người tình bí mật của mình - Robert Langdon - giết phăng Saunière vì tiền thừa kế. Có thể Saunière, nếu như ông ngờ ngợ như thế, đã để lại cho cảnh sát lời nhắn Tái bút. Tìm Robert Langdon. Collet dám chắc là một điều gì khác đang diễn ra ở đây. Xem ra Sophie Neveu với cá tính mạnh mẽ có thừa ắt không thể dính líu vào một chuyện bẩn thỉu như vậy.

"Trung uý?" Một trong những cảnh sát đã chiến chạy đến. "Chúng tôi tìm thấy một chiếc xe hơi".

Collet theo viên cảnh sát đi quá đoạn đường vào độ năm mươi mét. Gã này chỉ vào một khoảng rộng bên kia đường. Ở đó đỗ trong đám bụi rậm, gần như ngoài tầm nhìn, là một chiếc Audi đen. Biển số xe thuê. Collet sờ mũi xe. Vẫn còn ấm.

Thậm chí còn nóng.

"Chắc Langdon đã tới đây bằng xe này", Collet nói. "Hãy gọi cho công ty cho thuê xe. Xem nó có phải là chiếc xe bị đánh cắp hay không?".

"Vâng, thưa trung uý".

Một nhân viên khác vẫy Collet quay lại phía hàng rào. "Trung uý, nhìn này".

Anh ta đưa cho Collet một chiếc ống nhòm có thể nhìn được vào ban đêm: "Ở lùm cây gần đỉnh đoạn đường vào".

Collet hướng ống nhòm lên đồi và điều chỉnh độ nét. Những hình khối xanh lục từ từ lọt vào tiêu cự. Anh tìm thấy chỗ của đoạn đường vào và từ từ nhích lên, lia tới lùm cây. Tất cả những gì anh có thể làm là nhìn chằm chằm vào đó. Ở đó, khuất sau những tán lá xanh là một chiếc xe tải bọc thép. Chiếc xe giống hệt chiếc mà Collet đã cho phép rời khỏi tầng hầm Nhà băng ký thác Zurich lúc tối. Anh cầu nguyện cho điều này chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên kì dị, nhưng anh biết là không phải thế.

"Có vẻ như rõ ràng là", người nhân viên nói, "Langdon và Neveu đã thoát khỏi nhà băng bằng chiếc xe tải này".

Collet không thốt lên lời. Anh nghĩ đến người lái chiếc xe tải bọc thép mà anh đã chặn lại ở rào chắn đường. Chiếc đồng hồ Rolex. Sự nôn nóng của người này chỉ mong sớm được đi khỏi. Mình đã không kiểm tra khoang chở hàng.

Hoài nghi, Collet nhận ra rằng ai đó trong nhà băng đã nói dối DCPJ về tung tích của Langdon và Sophie và sau đó giúp họ trốn thoát. Nhưng ai? Và tại sao? Collet phân vân có lẽ đây là lí do tại sao Fache bảo anh chưa được hành động. Có lẽ Fache nhận ra rằng đêm nay có nhiều người dính líu tới việc này, ngoài Langdon và Sophie ra. Và nếu Langdon và Neveu đến bằng chiếc xe tải bọc thép này thì ai lái chiếc Audi?

***

Cách vài trăm dặm về phía nam, một chiếc máy bay Beechcraft Baron 58 thuê riêng đang hướng về phía bắc qua biển Tyrrhenian. Mặc dù bầu trời yên tĩnh, giám mục Aringarrosa vẫn nắm chặt chiếc túi nôn, tin chắc mình có thể ốm bất cứ lúc nào. Cuộc đàm thoại với Paris đã không như ông tưởng.

Một mình trong cabin nhỏ, Aringarosa xoay xoay chiếc nhẫn vàng trên ngón tay và cố tìm cách làm dịu bớt cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng choán ngợp. Mọi sự ở Paris đều hỏng bét. Nhắm mắt lại, Aringarosa cầu nguyện rằng Bezu Fache sẽ có cách sửa chữa điều này.

Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: giám sát bí mật.

Teabing ngồi trên đivăng, ôm chiếc hộp gỗ trong lòng, chiêm ngưỡng hoạ tiết Hoa Hồng tinh xảo khảm trên nắp hộp. Đêm nay đã trở thành đêm lạ lùng nhất và kỳ diệu nhất trong đời mình.

"Hãy nhấc cái nắp lên", đứng cạnh Langdon, Sophie cúi xuống ông thì thầm.

Teabing mỉm cười. Đừng giục tôi. Sau hơn một thập kỷ tìm kiếm viên đá đỉnh vòm này. Ông muốn thưởng thức từng phần nghìn giây của khoảnh khắc này. Ông xoa lòng bàn tay lên chiếc nắp gỗ, cảm nhận kết cấu của họa tiết khảm trên đó.

"Hoa Hồng", ông thì thầm. Hoa Hồng là Magdalene, Magdalene là Chén Thánh. Hoa Hồng là chicc la bàn dẫn đường. Teabing cảm thấy mình thật ngốc nghếch. Bao nhiêu năm, ông đã đi tới rất nhiều thánh đường và nhà thờ trên toàn đất Pháp, trả tiền để được vào những nơi đặc biệt, xem xét hàng trăm chiếc cổng vòm bên dưới những cánh cửa sổ hoa hồng, tìm kiếm một viên đá đỉnh vòm đã mã hoá. La clef de voute - viên đá đỉnh vòm bên dưới dấu hiệu Hoa Hồng.

Teabing chậm rãi tháo móc cài và mở nắp.

Cuối cùng khi mắt ông dõi vào vật đựng bên trong, ông biết ngay nó chỉ có thể là viên đá đỉnh vòm. Ông nhìn chằm chằm vào viên đá hình trụ, được gia công với những đĩa chữ thông liên với nhau. Đồ chế tác này có vẻ quen thuộc với ông một cách kì lạ.

"Được thiết kế theo những ghi chép trong nhật kí của Da Vinci", Sophie nói. "Ông tôi đã làm những thứ này như một thú tiêu khiển".

Tất nhiên rồi. Teabing hiểu. Ông đã thấy những phác thảo và thiết kế. Chìa khoá để tìm ra Chén Thánh năm bên trong viên đá này. Teabing nhấc hộp mật mã ra khỏi chiếc hộp ngoài, cầm nó một cách nhẹ nhàng. Mặc dầu không biết làm thế nào để mở hình trụ đá, nhưng ông cảm thấy số mệnh của chính mình nằm trong đó. Trong những khoảng khắc thất bại, Teabing đã từng tự hỏi liệu công sức tìm kiếm của cả đời mình có bao giờ được đền đáp. Giờ đây những nghi ngờ này đã vĩnh viễn tan biến. Ông có thể nghe thấy những tiếng cổ xưa… nền tảng của truyền thuyết Chén Thánh.

Vous ne trouvz pas le Saint - Graal, C est le Saint - Graal qui vous trouve.

Không phải bạn tìm thấy Chén thánh, chính Chén Thánh tìm ra bạn.

Và tối nay, thật khó tin, chìa khoá để tìm ra Chén Thánh đã đi thẳng vào nhà ông qua cửa trước.

***

Trong lúc Sophie và Teabing ngồi với cái hộp mật mã và trò chuyện về dấm, đĩa chữ và đoán mật khẩu thì Langdon mang chiếc hộp gỗ hồng mộc tới một cái bàn sáng đèn ở đầu kia phòng để xem cho rõ hơn. Một điều Teabing vừa nói lướt qua tâm trí ông.

Chìa khoá để mở Chén Thánh được giấu bên dưới dấu hiệu Hoa Hồng.

Langdon giơ chiếc hộp gỗ lên ánh đèn và xem xét kĩ biểu tượng Hoa Hồng khảm trên nắp. Mặc dầu hiểu biết nghệ thuật của ông không bao gồm chế tác gỗ hoặc đồ khảm, ông vừa nhớ lại cái trần nhà lát gạch men nổi tiếng của tu viện Tây Ban Nha ở ngoại ô Madrid, nơi ba thế kỷ sau khi xây dựng, gạch men trên trần bắt đầu rơi ra để lộ những văn bản thiêng liêng do các tu sĩ ghi nguệch ngoạc trên lớp vữa bên dưới.

Langdon nhìn lại bông Hoa Hồng.

Bên dưới Hoa Hồng-

Sub Rosa.

Bí mật.

Một tiếng va đập ở hành lang đằng sau lưng làm Langdon quay lại. Ông không thấy gì ngoài những vạt bóng tối. Có lẽ người quản gia của Teabing đã đi qua. Langdon quay lại với cái hộp. Ông di ngón tay theo mép nhẵn của hình khảm, phân vân không biết có thể cậy Hoa Hồng ra được không, nhưng kĩ thuật khảm quả là hoàn hảo. Ông ngờ là thậm chí một lưỡi dao cạo mỏng cũng khó lách được vào giữa hoạ tiết Hoa Hồng và chỗ hõm được khoét cẩn thận để khảm lên.

Mờ chiếc hộp ra, ông xem xét bên trong nắp. Nó hoàn toàn trơn nhẵn. Khi ông xoay nó đi một chút, ánh sáng làm xuất hiện một lỗ nhỏ ở mặt dưới của chiếc nắp, ngay chính giữa. Langdon đóng nắp lại và xem lại biểu tượng khảm ở mặt trên. Không có cái lỗ nào cả.

Nó không xuyên qua nắp.

Đặt cái hộp lên trên bàn, ông nhìn quanh phòng và thấy một chồng giấy với một cái kẹp giấy trên đó. Mượn chiếc kẹp, ông quay trở lại chiếc hộp mở ra, và xem kĩ lại cái lỗ. Rất cẩn trọng, ông uốn thẳng chiếc kẹp giấy và luồn một đầu vào trong lỗ.

Ông gẩy nhẹ một cái. Không cần phải cố gắng nhiều lắm. Ông nghe thấy một cái gì đó chạm khẽ xuống mặt bàn. Langdon đóng nắp lại để xem. Đó là một mẩu gỗ nhỏ giống như miếng trong trò chơi chắp hình. Hoa Hồng bằng gỗ tuột khỏi chiếc nắp rơi xuống mặt bàn.

Không một lời, Langdon nhìn chằm chằm vào chỗ trống do bông Hoa Hồng để lại trên nắp. Ở đó, khắc sâu trong gỗ, bởi một bàn tay tinh xảo có bốn dòng chữ viết bằng một thứ ngôn ngữ ông chưa bao giờ thấy.

Những chữ hơi giông chữ Semitic, Langdon tự nhủ, tuy nhiên mình chưa nhậ ra là tiếng gì.

Một chuyển động đột ngột phía sau chợt làm ông chú ý.

Từ đâu chẳng rõ, một cú phang mạnh vào đầu làm Langdon quỵ gối.

Khi ngã, trong một khoảng khắc, ông nghĩ mình nhìn thấy một bóng ma tái nhợt lơ lửng bên trên ông, với một khẩu súng trong tay. Rồi tất cả tối sầm lại.

Chú thích:
(1) Thanh gươm của vua Arthur.
(2) Thành ngữ Anh có nghĩa để lộ rõ tình cảm ra ngoài mặt, ở đây có nghĩa: để lộ tung tích rành rành.

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 43

Sophie Neveu mặc dầu làm trong ngành thừa hành luật pháp, cho đến trước tối nay vẫn chưa bao giờ bị ai chĩa súng vào người. Hầu như không thể tường tượng nổi, khẩu súng mà lúc này cô đang dán mắt vào nằm trong bàn tay bợt bạt của một gã hộ pháp bạch tạng với mái tóc dài, trắng trợt. Hắn nhìn cô bằng đôi mắt đỏ ngầu toát ra một vẻ kinh dị và quái đản.

Mặc một chiếc áo thụng len với thắt lưng bằng dây thừng, trông hắn giống như một giáo sĩ thời trung cổ. Sophie không hình dung nổi hắn là ai, tuy nhiên, cô bỗng cảm thấy một sự kính phục mới có đối với sự nghi ngờ của Teabing khi cho rằng Giáo hội đứng sau vụ này.

"Các người biết tôi đến đây là vì cái gì", gã thầy tu nói, giọng ồm ồm.

Sophie và Teabing ngồi trên đi-văng, tay giơ lên theo lệnh của kẻ tấn công. Langdon nằm rên trên sàn. Cặp mắt của gã thầy tu ngay lập tức dừng trên viên đá đỉnh vòm trong lòng Teabing.

Giọng Teabing đầy thách thức: "Ông sẽ không mở được nó đâu,, "Thầy tôi rất thông thái", gã thầy tu đáp, nhích lại gần, khẩu súng lia qua lia lại giữa Teabing và Sophie.

Sophie không biết người phục vụ của Teabing ở đâu. Ông ta không nghe thấy Robert ngã sao?

"Thầy của ông là ai?" Teabing hỏi. "Có lẽ chúng ta có thể đạt được một thoả thuận về tài chính".

"Chén Thánh là vô giá", hắn ta tiến lại gần hơn.

"Ông đang chảy máu kìa", Teabing nhận xét một cách bình tĩnh, hất đầu về phía mắt cá chân bên phải của gã thầy tu, nơi một vệt máu đang chảy xuống từ chân hắn, "và ông đang đi tập tễnh".

"Cũng như ông thôi", gã thầy tu trả lời, chỉ vào những chiếc nạng bằng kim loại bên cạnh Teabing. "Bây giờ, hãy đưa cho tôi viên đá đỉnh vòm".

"Ông cũng biết về viên đá đỉnh vòm?" Teabing hỏi, giọng ngạc nhiên.

"Đừng bận tâm đến cái mà tôi biết. Hãy đứng lên từ từ và đưa nó cho tôi".

"Đứng lên là một việc rất khó khăn đối với tôi".

"Đích thị. Tôi ưng là đửng có ai cố thử di chuyển nhanh".

Teabing luồn tay phải qua một chiếc nạng và nắm viên đá đỉnh vòm trong tay trái. Loạng choạng trên đôi chân của mình, ông đứng thẳng lên, giấu viên đá hình trụ nặng trong lòng tay trái, và tựa tay phải chông chênh lên chiếc nạng.

Gã thầy tu sáp lại cách ông không tới một mét, khẩu súng nhằm thắng vào đầu Teabing. Sophie nhìn, cảm thấy tuyệt vọng khi gã thầy tu với tay ra để lấy viên trụ đá.

"Ông sẽ không thành công", Teabing nói. "Chỉ những người xứng đáng mới có thể mở khoá viên đá đỉnh vòm".

Chỉ có Chúa mới phán xét được ai là người xứng đáng, Silas nghĩ.

"Nó nặng đấy", người đàn ông chống nạng nói, cánh tay chao đi, "Nếu ông không cầm lấy nó ngay, tôi sợ là tôi sẽ làm rơi nó mất!" Ông lảo đảo.

Silas bước nhanh tới để lấy hòn đá, và trong khi đó, người chống nạng mất thăng bằng. Chiếc nạng trượt đi bên dưới ông và ông ngã nghiêng về bên phải. Không! Silas lao tới để đỡ lấy viên đá, khẩu súng hạ thấp xuống trong quá trình đó. Nhưng viên đá đỉnh vòm đang lăn ra xa hắn. Khi ngã về bên phải, tay trái Teabing vung về phía sau và hình trụ tuột khỏi lòng bàn tay lăn về phía đi-văng. Cùng lúc ấy, cái nạng bằng kim loại vừa trượt đi bên dưới ông chợt như được tăng tốc, quét một vòng cung rộng trong không khí nhằm vào cẳng Silas.

Cơn đau như xé cơ thể Silas khi chiếc nạng đập trúng chiếc thắt lưng hành xác, ấn những chiếc ngạnh của nó vào da thịt vốn đã trầy xước của hắn. Oằn người lại, Silas khuyu gối làm cho cái thắt lưng thít sâu hơn. Khẩu súng lục cướp cò với một tiếng nổ chói tai vang lên, viên đạn cắm vào ván sàn khi Silas ngã. Trước khi hắn kịp nâng súng lên và bắn tiếp, bàn chân của người phụ nữ đã phi trúng cằm hắn.

***

Ở dưới chân đoạn đường vào, Collet nghe thấy tiếng súng.

Tiếng nổ bặt nhỏ làm anh hoảng hốt. Với việc Fache đang trên đường đến đây, Collet đã từ bỏ hi vọng lập được thành tích cá nhân trong việc tìm ra Langdon tối nay. Nhưng Collet quyết không thể để Fache đưa anh trước Hội đồng Kỷ luật Bộ vì tội sao lãng thủ tục cảnh sát.

Một tiếng súng nổ bên trong một ngôi nhà tư. Và anh thì đứng đợi ở chân đoạn đường vào?

Collet biết cơ hội lặng lẽ tiếp cận đã qua từ lâu. Anh cũng biết nếu mình đứng vô công rồi nghề thêm một giây nữa, thì toàn bộ sự nghiệp của anh sẽ thành chuyện xa xưa ngay sáng mai. Nhìn cánh cổng sắt của điền trang, anh quyết định.

"Hãy buộc dây và kéo đổ cánh cổng".

***

Trong ngóc ngách tâm trí ngất ngư, Robert Langdon nghe thấy tiếng súng nổ. Cả một tiếng thét đau đớn nữa. Của mình ư?

Một cái khoan đang khoan lỗ đằng sau sọ ông. Đâu đó rất gần, có tiếng người đang nói chuyện.

"Anh đã ở nơi quái quỷ nào vậy?" Teabing quát.

Người quản gia hớt hải chạy vào: "Chuyện gì vậy? Ôi lạy Chúa tôi! Hắn là ai? Tôi sẽ gọi cảnh sát ngay đây!".

"Quỷ tha ma bắt anh đi! Đừng gọi cảnh sát. Hãy tỏ ra mình có ích và kiếm cho chúng tôi cái gì đó để trói con quái vật này lại".

"Và một ít đá", Sophie nói với theo.

Langdon lại cảm thấy như đang trôi bồng bềnh. Thêm nhiều âm thanh nữa. Chuyển động. Bây giờ thì ông được đặt trên đi-văng. Sophie chườm túi đá to lên đầu ông. Đầu ông rất đau.

Khi Langdon bắt đầu nhìn rõ, ông thấy mình đang nhìn chằm chằm vào một cơ thể bất động trên sàn. Mình đang có ảo giác sao? Cơ thể to lớn của gã thầy tu bạch tạng nằm sóng xoài và bị một mảnh băng dính bịt miệng. Cằm bị rách và áo chùng đẫm máu ở chỗ đùi phải. Cả hắn hình như cũng đang hồi tỉnh.

Langdon quay về phía Sophie: "Ai vậy? Chuyện gì… đã xảy ra?".

Teabing tập tễnh tiến lại: "Anh đã được cứu bởi một hiệp sĩ vung thanh Escalibur (1) do Khoa chỉnh hình hạng nhất chế tạo".

"Hả?" Langdon cố gắng ngồi dậy.

Bàn tay Sophie run rẩy nhưng âu yếm: "Hãy nghỉ một phút, Robert".

"Tôi e rằng", Teabing nói, "tôi vừa mới chứng minh cho tiểu thư bạn anh thấy cái lợi do thể trạng bất hạnh của tôi. Hình như mọi người đều đánh giá thấp anh".

Từ chỗ ngồi trên đi-văng. Langdon nhìn gã tu sĩ và cố gắng hình dung xem chuyện gì đã xảy ra.

"Hắn mang chiếc cilice", Teabing giải thích.

"Một cái gì?".

Teabing chỉ một đai da đẫm máu có ngạnh trên sàn nhà: "Một chiếc thắt lưng hành xác. Hắn đã đeo nó trên đùi. Tôi đã nhắm cẩn thận trước khi hành động".

Langdon xoa xoa đầu. Ông có biết về loại đai lưng hành xác này: "Nhưng… làm sao ngài lại biết?".

Teabing cười rất tươi: "Thiên Chúa giáo thuộc lĩnh vực nghiên cứu của tôi, Robert, và có những giáo phái mang trái tim mình trên ống tay áo (2). Ông chỉ cái nạng vào chỗ máu thấm qua áo thụng của gã tu sĩ. "Như thế này".

"Opus Dei", Langdon thì thầm, nhớ lại những tin tức gần đây trên các phương tiện truyền thông về vài doanh nhân Boston - thành viên của Opus Dei. Những cộng sự lo sợ đã công khai tố cáo sai lạc là những người này mang những thắt lưng hành xác - cilice - dưới bộ trang phục ba mảnh. Thực ra, ba người đó không làm như vậy. Như nhiều thành viên của Opus Dei, họ đang trong giai đoạn "dư thừa" và không thực hành lệ hành xác. Họ là những tín đồ Thiên Chúa giáo sùng đạo là những người cha chăm lo cho con cái, và những thành viên tận tụy với cộng đồng. Không có gì đáng ngạc nhiên, các phương tiện truyền thông chỉ nêu rõ ngắn gọn sự tận tụy tinh thần của họ trước khi chuyển sang những hoạt động gây sốc của tổ chức này với những thành viên "nội" khắc kỉ hơn… như gã tu sĩ đang nằm trên sàn trước mắt Langaon.

Teabing xem xét chiếc thắt lưng đẫm máu: "Nhưng tại sao Opus Dei lại cố gắng tìm cho ra Chén Thánh?".

Langdon vẫn đang quá choáng váng để có thể xem xét vấn đề này.

"Robert", Sophie nói, đi tới chiếc hộp gỗ, "đây là cái gì?" Cô đang cầm miếng hình Hoa Hồng khảm mà Langdon đã gỡ khỏi nắp hộp.

"Nó che một bản khắc chữ trên chiếc hộp. Tôi nghĩ đoạn văn bản này có thể cho chúng ta biết cách để mở viên đá đỉnh vòm".

Trước khi Sophie và Teabing kịp đáp lời, một loạt ánh đèn xanh nhấp nháy và còi báo động từ xe cảnh sát đã tràn ngập chân đồi và bắt đầu lượn ngoằn ngoèo lên đoạn đường vào dài nửa dặm.

Teabing cau mày: "Các bạn thân mến, xem ra chúng ta phải quyết định rồi. Và chúng ta nên làm điều đó thật nhanh lên".

Chú thích:
(1) Thanh gươm của vua Arthur.
(2) Thành ngữ Anh có nghĩa để lộ rõ tình cảm ra ngoài mặt, ở đây có nghĩa: để lộ tung tích rành rành.

Collet và quân của anh ta xông qua cửa trước trang viên của ngài Leigh Teabing, súng lăm lăm trên tay. Tỏa ra, họ bắt đầu lục soát tất cả các phòng ở tầng một. Họ phát hiện ra một lỗ đạn trên sàn phòng khách, những dấu hiệu của một cuộc vật lộn, một ít máu, một dây da lạ có ngạnh và một cuộn băng dính dùng dở. Toàn bộ tầng này dường như vắng tanh.

Đúng vào khi Collet định chia quân ra để lục soát tầng hầm và các khu đất đằng sau ngôi nhà, anh bỗng nghe thấy tiếng người ở tầng trên.

"Họ ở trên gác".

Lao lên chiếc cầu thang rộng, Collet cùng quân của mình đi từ phòng này sang phòng khác của ngôi nhà lớn, những phòng ngủ và hành lang tối đen khi họ lại gần hơn những tiếng nói.

âm thanh dường như phát ra tử căn phòng ngủ cuối cùng nằm trên một đoạn hành lang cực kỳ dài. Đám cảnh sát lần theo hành lang, bịt tất cả các lối ra.

Khi lại gần căn phòng cuối cùng, Collet thấy cánh cửa mở rộng. Âm thanh đã ngưng đột ngột và được thay thế bằng một tiếng ầm ì kì lạ, như thể tiếng động cơ.

Giơ súng lên, Collet ra hiệu lệnh. Lặng lẽ tiến tới cánh cửa, anh thấy công tắc đèn và bật lên. Lao vào phòng với đám quân ùa theo sau, Collet quát và chĩa súng vào… trống không.

Một phòng ngủ dành cho khách hoàn toàn trống vắng. Sạch như li như lau.

Tiếng ầm ì của động cơ xe hơi phát ra từ cái bảng điện tử màu đen trên tường cạnh giường ngủ. Collet đã nhìn thấy những thứ này ở mấy chỗ khác trong nhà. Một loại hệ thống liên lạc nội bộ. Anh chạy tới. Chiếc bảng có khoảng một tá nút bấm có dán nhãn.

PHÒNG LÀM VIỆC … BẾP… PHÒNG GIẶT… HẦM RƯỢU …

Vậy thì mình nghe thấy tiếng xe hơi ở chỗ quái nào nhỉ?

Nhà để xe. Collet xuống gác trong vòng vài giây, chạy ra phía cửa sau, tóm lấy một nhân viên anh gặp trên đường. Họ băng qua thảm cỏ bên cạnh và thở không ra hơi khi tới trước một nhà để xe xám xịt màu phong sương. Ngay cả trước khi bước vào, Collet vẫn có thể nghe thấy tiếng động cơ xe tắt dần. Anh rút súng, lao vào và bật đèn.

Phía bên phải nhà để xe là một cái xưởng thô sơ, máy xén cỏ dụng cụ tự động, đồ làm vườn. Một bảng thông tin liên lạc nội bộ quen thuộc treo trên bức tường gần đó. Một trong những chiếc nút đã được gạt xuống, đang truyền tín hiệu.

PHÒNG NGỦ DÀNH CHO KHÁCH II

Collet quay ngoắt lại, cơn giận trào lên. Chúng đã dụ ta lên gác bằng hệ thống liên lạc nội bộ. Tìm kiếm phía bên kia nhà để xe, anh thấy một dãy dài chuồng ngựa. Nhưng không có ngựa.

Rõ ràng chủ nhân thích một loại mã lực khác hơn; các chuồng này được biến thành một nơi để xe đầy ấn tượng. Một bộ sưu tập đáng kinh ngạc - một chiếc Ferrari đen, một chiếc Roll-Royce cổ, một chiếc xe thể thao cổ hai chỗ hiệu Aston Martin, một chiếc Porsche 356 cũ.

Chuồng cuối cùng trống không.

Collet chạy tới và nhìn thấy vết dầu trên sàn. Họ không thể thoát khỏi khu vực có hàng rào vây quanh. Đường vào nhà và cổng vẫn được hai chiếc xe tuần tra chắn để ngăn chặn tình hương này xảy ra.

"Sếp?" Người nhân viên chỉ xuôi theo chiều dài dẫy chuồng.

Cửa trượt phía sau nhà để xe mở rộng, nhường chỗ cho một triền dốc tối, lầy lội với những cánh đồng gồ ghề trải dài trong đêm. Collet chạy tới cánh cửa, cố gắng nhìn vào trong bóng tối.

Không thấy ánh đèn pha. Thung lũng đầy rừng này có lẽ nhằng nhịt hàng tá đường mòn săn bắn không ghi trên bản đồ, nhưng Collet tin rằng con mồi của anh không bao giờ vào rừng. "Gọi vài người triển khai phía đó. Chắc chắn họ đang bị kẹt ở nơi nào đó gần đấy. Những chiếc xe sang trọng này không thể vượt địa hình được".

"Ưm, thưa sếp?" Người trợ lý chỉ vào một cái giá mắc gần đó nơi treo những bộ chìa khoá. Nhãn trên chìa khoá mang những cái tên quen thuộc.

DAIMLER… ROLLS-ROYCE… ASTON MARTIN… PORSCHE..

Cái móc cuối cùng hoàn toàn trống.

Khi Collet đọc cái nhãn trên chiếc móc đó, anh hiểu là mình đang gặp rắc rối.

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 44

Xe Ranger Rover được coi là viên ngọc trai đen Java, xe bốn bánh, hộp truyền động chuẩn, đèn polypropylen cực mạnh, đèn hậu chùm bán cố định, tay lái bên phải.

Langdon mừng là mình không phải lái xe.

Người phục vụ của Teabing, Rémy, theo lệnh chủ, đang làm một việc đầy ấn tượng là điều khiển chiếc xe băng qua cánh đồng tràn ngập ánh trăng phía sau Château Villette. Không bật đèn pha, ông ta đã lái qua một cái gò trống trải và giờ đang xuống một con dốc dài, ngày càng xa điền trang. Có vẻ như ông ta đang hướng tới một khu rừng in bóng lô xô ở đằng xa.

Langdon ngồi ghế hành khách, ôm viên đá đỉnh vòm, quay lại nhìn Teabing và Sophie ngồi ở ghế sau.

"Đầu anh thế nào rồi, Robert?" Sophie hỏi, giọng lo lắng.

Langdon nén đau gượng cười: "Cám ơn, đỡ rồi". Kỳ thực đang đau muốn chết.

Bên cạnh cô, Teabing đưa mắt qua vai nhìn gã thầy tu bị bịt miệng đang nằm trên khoang hành lý chất đống đằng sau hàng ghế dưới. Teabing đặt khẩu súng của gã tu sĩ trên lòng, trông ông giống như bức ảnh cũ chụp một thợ săn safari người Anh đứng bên con mồi vừa hạ được.

"Rất vui về cuộc đến thăm bất ngờ của anh tối nay, Robert", Teabing nói, cười tươi như thể đây là lần đầu tiên sau nhiều năm ông mới có dịp vui vẻ thế.

"Xin lỗi vì đã lôi ngài dính líu vào cuộc này, Leigh".

"Ồ tôi đã chờ đợi cả đời để được vào cuộc này mà". Teabing phóng mắt qua Langdon, nhìn ra ngoài kính chắn gió, về phía cái bóng của một hàng rào dài. Ông vỗ nhẹ vào vai Rémy từ đằng sau. "Hãy nhớ đừng đạp phanh để đèn hậu bật lên. Nếu cần thì dùng phanh khẩn cấp. Tôi muốn vào sâu trong rừng một chút.

Không lí do gì phải liều lĩnh để họ nhìn thấy chúng ta từ nhà".

Rémy cho xe sáp lại chậm như bò và lái qua một khoảng trống trong hàng rào. Khi chiếc Range Rover lắc lư đi vào một con đường mòn lút cỏ, hầu như ngay lập tức những vòm cây trên đầu che khuất hết ánh trăng.

Mình không nhìn thấy bất cứ cái gì! Langdon nghĩ, căng mắt ráng phân biệt những hình thù đằng trước họ. Trời tối đen như mực. Những cành cây cọ vào sườn trái xe, và Rémy phải chỉnh sang hướng khác. Giữ cho tay lái tương đối thẳng, ông ta nhích dần về phía trước khoảng ba mươi mét.

"Làm tốt đấy, Rémy". Teabing nói. "Có lẽ đủ xa rồi, Robert, anh làm ơn ấn hộ cái nút màu xanh ngay dưới lỗ thông hơi.

Thấy không?".

Langdon sờ thấy cái nút và ấn vào đó.

Một làn ánh sáng vàng dịu tỏa ra trên vạt đường phía trước, làm hiện lên những bụi cây thấp rậm rạp ở cả hai bên con đường mòn. Đèn xuyên xương mù. Langdon nhận ra. Loại đèn này cho ánh sáng vừa đủ để rọi đường và lúc này họ đã tiến sâu vào trong rừng đủ để ánh sáng không làm lộ họ.

"Tốt, Rémy", Teabing phụ hoạ thêm một cách hài lòng, "có ánh sáng rồi. Mạng sống của chúng tôi nằm trong tay anh đấy".

"Chúng ta đi đâu bây giờ?" Sophie hỏi.

"Con đường mòn này đi sâu vào rừng khoảng ba kilômét", Teabing nói. "Nó cắt ngang qua điền trang rồi vòng lên phía Bắc. Miễn là chúng ta không vấp phải thác nước hay bất cứ cái cây đổ nào, chúng ta sẽ ra tới mặt đường cao tốc không sứt mẻ".

Không sứt mẻ. Cái đầu của Langdon thì lại bày tỏ sự không đồng tình. Ông nhìn xuống lòng mình, nơi viên đá đỉnh vòm vẫn nằm an toàn trong chiếc hộp gỗ. Hình khảm Hoa Hồng trên nắp trở lại vị trí của nó, và mặc dầu đầu còn mụ mị, Langdon vẫn háo hức muốn gỡ nó ra để xem xét những chữ khắc bên dưới. Ông mở móc cài và đang bắt đầu nâng nắp lên thì Teabing đặt tay lên vai ông từ đằng sau.

"Hãy kiên nhẫn, Robert", Teabing nói. "Đường gập ghềnh và tối chúa cứu ta nếu ta giải được điều gì đó. Nếu anh không nhận ra thứ ngôn ngữ đó trong ánh sáng thì anh cũng không thể làm tốt hơn trong bóng tối. Ta hãy tập trung vào việc thoát khỏi nơi này nguyên vẹn đã, được chứ? Sẽ đến lúc dành cho cái đó rất sớm thôi".

Langdon biết Teabing nói phải. Cật đầu, ông đặt chiếc hộp vào chỗ cũ.

Gã thầy tu ở phía sau giờ đây đang rên rỉ, vật lộn với những dây trói. Bất thình lình, hắn giẫy đạp điên cuồng.

Teabing xoay người lại và chĩa khẩu súng qua ghế ngồi:

Thưa ngài, tôi không thể hiểu ngài còn phàn nàn cái nỗi gì. Ngài đột nhập vào nhà tôi và để lại một vết bầm gớm ghiếc trên đầu người bạn thân của tôi. Tôi hoàn toàn có quyền bắn ngài ngay lúc này và để ngài rữa xác trong khu rừng kia".

Gã thầy tu im lặng.

"Ngài có chắc là chúng ta nên đem hắn theo cùng không?", Langdon hỏi.

"Chắc quá đi chứ?". Teabing thốt lên. "Anh đang bị truy nã vì tội giết người, Robert. Tên khốn kiếp này là chiếc vé mở cánh cổng tự do cho anh. Cảnh sát rõ ràng là muốn bắt anh lắm nên mới bám theo anh đến tận nhà tôi".
"Lỗi tại tôi", Sophie nói, "Chiếc xe bọc sắt chắc chắn có thiết bị truyền tín hiệu".

"Vấn đề không phải ở đó", Teabing nói. "Tôi không ngạc nhiên là cảnh sát phát hiện ra anh nhưng tôi thật ngạc nhiên thấy tên hội viên tổ chức Opus Dei này tìm ra anh. Bằng vào tất cả những gì anh nói cho tôi nghe, tôi không thể tưởng tượng nổi làm sao tên này bám được theo anh tới nhà tôi trừ phi hắn có tay trong ở Cảnh sát tư pháp hoặc ở Nhà băng ký thác Zurich".

Langdon suy ngẫm về điều này. Xem ra Bezu Fache chắc chắn đang rất muốn tìm được một kẻ làm bung xung cho những vụ giết người tối nay. Và Vernet đã quay lại chống họ khá bất ngờ, mặc dù xét việc Langdon bị kết tội giết bốn người, sự thay lòng đổi dạ của tay giám đốc nhà băng dường như có thể hiểu được.

"Tên thầy tu này không hành động một mình đâu, Robert", Teabing nói, "và cho đến khi anh biết được ai đứng sau toàn bộ chuyện này, thì cả anh và cô Sophie vẫn còn đang ở trong vòng nguy hiểm. Nhưng tin tốt lành, bạn thân mến, là bây giờ anh đang ở thế mạnh. Con quái vật đằng sau tôi nắm giữ những thông tin đó, và bất cứ ai đang giật dây hắn chắc ngay giờ đây cũng phải lo lắng".

Rémy đang tăng tốc, thoải mái hơn trên đường mòn. Xe băng qua những vũng nước, leo lên một cái gò nhỏ, và lại bắt đầu đi xuống.

"Robert, anh vui lòng đưa cho tôi điện thoại chứ?" Teabing chỉ vào chiếc bộ đàm trên bảng đồng hồ. Langdon đưa nó ra sau và Teabing bấm số. Ông đợi một lúc rất lâu trước khi nghe thấy tiếng ai đó trả lời: "Richard? Tôi có làm anh thức giấc không? Ồ, tất nhiên là có rồi. Một câu hỏi ngốc nghếch. Tôi xin lỗi. Tôi gặp một rắc rối nhỏ. Tôi cảm thấy hơi bệnh. Rémy và tôi cần về Anh đột xuất để điều trị. Phải, ngay lập tức, thật vậy. Xin lỗi vì báo quá gấp. Anh có thể cho Elizabeth sẵn sàng trong hai mươi phút được không? Tôi biết, hãy cố gắng hết sức.

Hẹn sớm gặp lại". Ông cúp máy.

"Elizabeth?" Langdon thắc mắc.

"Máy bay của tôi. Tôi đã mua nó với giá ngang món tiền chuộc một Nữ hoàng".

Langdon quay cả người lại nhìn ông.

"Cái gì?" Teabing hỏi. "Hai người không thể mong ở lại Pháp với toàn bộ Cảnh sát tư pháp đuổi theo sau. London sẽ an toàn hơn nhiều".

Sophie cũng quay sang Teabing: "Ngài nghĩ chúng tôi nên rời khỏi đất nước à?".

"Các bạn của tôi ơi, tôi có nhiều thế lực ở thế giới văn minh hơn ở đây, tại Pháp. Thêm nữa, người ta tin rằng Chén Thánh ở Anh. Nếu chúng ta mở được viên đá đỉnh vòm, tôi chắc chắn chúng ta sẽ khám phá ra một bản đồ chỉ ra rằng chúng ta đã đi đúng hướng".

"Ngài liều lĩnh quá", Sophie nói, "bởi vì việc giúp đỡ chúng tôi sẽ làm ngài không kết bạn được với cảnh sát Pháp".

Teabing phẩy tay ra vẻ chán ngấy: "Tôi đã xong chuyện với nước Pháp. Tôi đến đây cốt tìm viên đá đỉnh vòm. Bây giờ công việc ấy đã hoàn thành. Sau này dù có dịp thấy lại Château Villette nữa hay không, tôi cũng bất cần".

Giọng Sophie nghe có vẻ không chắc chắn lắm: "Làm thế nào chúng ta có thể qua được an ninh sân bay?".

Teabing cười tủm tỉm: "Tôi bay từ Le Bourget - một phi trường không xa đây. Các bác sĩ Pháp không làm tôi yên tâm cho nên hai tuần một lần, tôi bay theo hướng bắc để về Anh điều trị. Tôi trả tiền để có một số đặc quyền ở cả hai bên. Một khi chúng ta đã ở trên không, các bạn có thể quyết định xem các bạn có muốn để ai đó ở sứ quán Mỹ đến gặp chúng ta hay không!" .

Đột nhiên, Langdon không muốn dây dưa gì với sứ quán. Điều duy nhất ông có thể nghĩ đến lúc này là: viên đá đỉnh vòm, những dòng chữ khắc, và những thứ đó có dẫn đến Chén Thánh hay không. Ông tự hỏi không biết Teabing có đúng khi quyết định về Anh hay không. Phải thừa nhận rằng hầu hết những truyền thuyết hiện đại đều cho Chén Thánh ở nơi nào đó tại Vương quốc Anh. Thậm chí, giờ đây người ta còn tin rằng Đảo Avalon huyền thoại có Chén Thánh của vua Arthur không ở đâu khác ngoài Glastonbury, Anh. Dù Chén Thánh ở đâu, Langdon cũng chưa bao giờ tưởng tượng là có ngày ông sẽ thực sự tìm kiếm nó. Tài liệu Sangreal. Chuyện thật về Jesus, ngôi mộ của Mary Madolene. Đột nhiên ông cảm thấy như đêm nay mình đang sống trong một cõi minh phủ… một cái bong bóng mà ở đó thế giới thực không với tới ông được.

"Thưa ngài?" Rémy nói. "Ngài có thực sự nghĩ đến chuyện về Anh hắn không?".

"Rémy, anh khỏi phải lo!" , Teabing đảm bảo. "Chỉ bởi vì tôi quay trở về vương quốc của Nữ hoàng không có nghĩa là tôi định bắt lưỡi tôi phải nếm xúc xích và khoai tây nghiền nhừ trong phần còn lại của cuộc đời mình. Tôi mong anh sẽ nhập bọn với tôi thường xuyên ở đó. Tôi đang định mua một biệt thự tráng lệ ở Devonshire, và chúng ta sẽ cho chuyển tất cả mọi thứ của anh đến ngay lập tức. Một cuộc phiêu lưu! Rémy. Tôi nói, nó là một cuộc phiêu lưu".

Langdon không khỏi mỉm cười. Trong khi Teabing huyên thuyên về kế hoạch đắc thắng trở về Anh Quốc, Langdon cũng cảm thấy lây niềm phấn hứng của ông.

Lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ, Langdon quan sát những cánh rừng đang lướt qua, nhợt nhạt một cách ma quái trong ánh sương mù vàng vọt. Chiếc gương chiếu hậu ngoặt vào trong, bị quệt lệch đi bởi những cành cây, và Langdon nhìn thấy hình ảnh phản chiếu Sophie đang ngồi im lặng ở ghế sau. Ông ngắm cô hồi lâu và bỗng thấy trào lên một cảm giác hài lòng bất ngớ.

Bất chấp những rắc rối của ông tối nay, Langdon biết ơn hoàn cảnh đã run rủi cho ông có người bạn đồng hành tốt như vậy. Sau vài phút, như chợt cảm thấy tỉa nhìn của ông, Sophie cúi về phía trước, đặt tay lên vai ông, xoa nhẹ: "Anh ổn chứ?".

"Vâng", Langdon nói, "Cách nào đó.".

Sophie ngổi trở lại trên ghế của mình, và Langdon nhìn thấy một nụ cười lặng lẽ thoáng qua trên môi cô. Ông chợt nhận ra mình cũng đang mỉm cười.

Bị chẹn vào phía sau của chiếc Range Rover, Silas hầu như không thở được, cánh tay bị bẻ quặt ra sau và cột chặt vào mắt cá chân bằng dây và băng dính. Mỗi cú xóc trên đường đều làm đôi vai bị vặn xoắn của hắn đau điếng. Chí ít những người bắt hắn cũng đã tháo chiếc thắt lưng hành xác ra. Không thể hít vào qua mảnh băng dán trên mồm, hắn chỉ có thể thở qua lỗ mũi mà nó lại đang tắc dần bởi bụi bặm của phần chứa hàng hoá phía sau, nơi hắn bị nhét vào. Hắn bắt đầu ho.

"Tôi nghĩ là hắn ta ngạt thở", người tài xế Pháp nói, giọng quan ngại.

Ông già người Anh đã quật Silas bằng cái nạng bấy giờ mới quay lại, cau mày ngó qua thành ghế, lạnh lùng nhìn hắn. "May cho anh, những người Anh chúng tôi nhận định trình độ văn minh của con người bằng vào lòng thương cảm không phải đối với bạn bè mà là đối với kẻ thù". Nói rồi ông với xuống, gỡ chiếc băng dính trên miệng Silas. Bằng một động tác nhanh, ông giật nó ra.

Silas cảm thấy môi mình như vừa bắt lửa, nhưng luồng không khí đang ùa vào phổi hẩn thì quả là do Chúa gửi đến.

"Anh làm việc cho ai?" ông già người Anh hỏi.

"Tôi làm việc cho Chúa", Silas làu bàu, hàm đau buốt vì bị người phụ nữ đá vào.

"Anh thuộc tổ chức Opus Dei", Teabing nói. Đó không phải là một câu hỏi.

"Ông chẳng biết được tôi là ai đâu".

"Tại sao Opus Dei lại muốn có viên đá đỉnh vòm?".

Silas không có ý định trả lời. Viên đá đỉnh vòm là cầu nối với Chén Thánh, và Chén Thánh là chìa khoá để bảo vệ đức tin.

"Tôi làm công việc của Chúa, Đạo đang lâm nguy".

Lúc này, trong chiếc xe Range Rover, vật lộn với những dây trói, Silas sợ mình đã vĩnh viễn không làm tròn bổn phận đối với Thầy Giáo và Giám mục. Hắn không cớ cách nào liên lạc để báo cho họ biết về diễn biến khủng khiếp này. Những kẻ bắt giữ ta đã có được viên đá đỉnh vòm. Họ sẽ tìm được Chén Thánh trước chúng ta! Trong bóng tối ngột ngạt. Silas cầu nguyện. Hắn để nỗi đau thể xác tiếp lửa cho lời van xin của mình.

Một phép màu, lạy Chúa. Con cần một phép màu. Silas không cách chi biết được từ giờ phút này trở đi, hắn sẽ có một phép màu.

"Robert?" Sophie vẫn đang quan sát Langdon. "Một vẻ gì lạ lùng vừa thoáng hiện trên mặt anh".

Langdon ngoảnh lại nhìn cô, nhận ra hàm mình đang nghiến chặt và tim đang đập dồn. Một ý không thể tin được vừa nảy ra trong đầu ông. Có thật lời giải thích lại có thể đơn giản đến thế không? "Tôi cần dùng điện thoại của cô, Sophie".

"Ngay bây giờ ư?".

"Tôi nghĩ tôi vừa mới phát hiện ra một điều gì đó".

"Cái gì thế?".

"Tôi sẽ nói cho cô nghe trong một phút nữa. Tôi cần điện thoại của cô!".

Sophie có vẻ thận trọng: "Tôi không chắc là Fache có theo dõi các cuộc gọi hay không, nhưng để đề phòng trường hợp ấy, anh chỉ được gọi dưới một phút thôi". Cô đưa điện thoại cho ông.

"Bấm số gọi về Mỹ như thế nào?".

"Anh cần gọi theo phương thức người nhận trả tiền. Dịch vụ của tôi không phủ sóng sang bên kia Đại Tây Dương".

Langdon bấm số không, biết rằng sáu mươi giây tiếp theo có thể trả lời câu hỏi đã làm ông bối rối cả tối nay.

Biên tập viên nhà xuất bản New York Jonas Fankman vửa mới trèo lên giường định ngủ thì chuông điện thoại reo. Ai mà gọi muộn thế, nhỉ! Ông càu nhàu, nhấc máy.

Tiếng người trực tổng đài điện thoại hỏi ông: "Ông có vui lòng trả tiền cho cuộc gọi điện thoại của Robert Langdon không?".

Bối rối, Jonas bật đèn: "Ờ… tất nhiên, đồng ý".

Đường dây đã được nối: "Jonas à?".

"Robert? Cậu đánh thức tôi dậy và bắt tôi trả tiền cho cuộc gọi?".

"Jonas, tha lỗi cho tôi", Langdon nói, "Tôi sẽ nói ngắn gọn. Tôi thực sự cần biết về bản thảo tôi đã đưa cho ông. Ông có…".

"Robert, tôi xin lỗi, tôi biết tôi đã nói sẽ gửi bản biên tập cho cậu tuần này, nhưng tôi bận bù đầu. Thứ hai tuần sau vậy. Tôi hứa đấy".

"Tôi không lo về chuyện đó. Tôi cần biết ông có gửi bản copy lời giới thiệu nào ra ngoài mà không cho tôi biết không?".

Faukman lưỡng lự. Bản thảo mới nhất của Langdon - một khảo sát về lịch sử việc thờ nữ thần - bao gồm vài phần về Mary Magdalene có thể sẽ gây ngạc nhiên lớn. Mặc dầu bản thảo này có tài liệu chứng minh tốt và đã được những người khác đề cập đến nhưng Faukkman không có ý định in những bản đọc trước (1) mà không ít nhất có được sự xác nhận của một số nhà sử học và nghệ thuật học danh tiếng. Jonas đã chọn mười tên tuổi lớn trong giới nghệ thuật trên thế giới và gửi cho họ toàn bộ bản thảo này cùng với một lá thư lịch sự hỏi xem họ có sẵn lòng viết vài lời nhận xét cho bìa sách hay không. Theo kinh nghiệm của Faukman, hầu hết những người này đều chộp lấy cơ hội để thấy tên mình in trên sách.

"Jonas?" Langdon giục. "Ông có gửi bản thảo của tôi ra ngoài, phải không?".

Faukman cau mày, cảm thấy Langdon không vui về điều đó: "Bản thảo vẫn nguyên vẹn, Robert, và tôi chỉ muốn làm cậu ngạc nhiên với một vài lời giới thiệu thật oách thôi!".

Một khoảng khắc im lặng: "Ông có gửi một bản cho ông phụ trách bảo tàng Paris Louvre không?".

"Cậu nghĩ gì vậy? Bản thảo của cậu có mấy lần tham chiếu tới bộ sưu tập Louvre của ông ta, sách của ông ta nằm trong thư mục của cậu, và ông ta có ảnh hướng lớn đối với việc bán sách ở nước ngoài. Gửi cho Saunière là điều quá dễ hiểu?".

Im lặng kéo dài ở đầu dây bên kia: "Ông gửi nó khi nào?".

"Khoảng một tháng trước đây. Tôi cũng nói với ông ta là cậu sắp sang Paris và hai người nên gặp nhau trò chuyện. Ông ta đã gọi hẹn gặp cậu chưa?". Faukman ngừng lại, rụi mắt. "Khoan, chẳng phải là theo kế hoạch, cậu sẽ có mặt ở Paris tuần này sao?".

"Tôi đang ở Paris".

Faukman ngồi thẳng dậy: "Cậu gọi cho tôi từ Paris?".

"Hãy trừ cước cuộc gọi này vào tiền nhuận bút của tôi, Jonas. Ông có nhận được hồi âm gì từ Saunière không? Ông ấy có thích bản thảo đó không?".

"Tôi không biết. Tôi chưa được tin gì tử ông ta".

"Thôi được, đừng có nín thở. Tôi phải đi đây, nhưng cuộc gọi này đã làm sáng tỏ rất nhiều điều. Cám ơn".

"Robert…".

Nhưng Langdon đã cúp máy.

Faukman gác máy, lắc đầu như không thể tin được. Cáibọn tác giả này, ông nghĩ. Kể cả những tay minh mẫn nhất cũng chập cheng.

Trong chiếc Range Rover, Leigh Teabing bật cười ha hả: "Robert, anh nói anh đã viết một bản thảo đi sâu vào một hội kín, và người biên tập đã gửi một bản sao tới chính tổ chức bí mật ấy?".

Langdon gục xuống: "Rõ ràng là thế!".

"Một sự trùng hợp tai ác, anh bạn của tôi!".

Đâu phải là chuyện trùng hợp. Langdon biết thế. Nhờ Jacques Saunière xác nhận một bản thảo viết về thờ cúng nữ thần thì cũng giống như nhờ Tiger Woods (2) đề tựa cho một cuốn sách dạy đánh golf. Hơn nữa, hầu như chắc chắn rằng bất cứ quyển sách nào viết về việc thờ cúng nữ thần đều phải nhắc tới Tu viện Sion.

"Đây là câu hỏi trị giá hàng triệu đôla", Teabing nói, vẫn tủm tỉm cười. "Quan điểm của anh đối với Tu viện Sion thế nào, ủng hộ hay phản đối?".

Langdon có thể nghe thấy rành rõ ý nghĩa thực sự trong câu hỏi của Teabing. Nhiều nhà sử học cũng đã từng đặt câu hỏi tại sao Tu viện Sion vẫn giấu kín tài liệu Sangreal. Một vài người còn cảm thấy thông tin này nên được chia sẻ với thế giới từ lâu rồi. Tôi không chọn quan điểm nào đối với những hành động của Tu viện Sion cả".

"Anh muốn nói là không có lập trường!".

Langdon nhún vai. Teabing rõ ràng đứng về phe muốn công bố các tài liệu này. "Đơn giản là tôi chỉ cung cấp lịch sử của cái hội kín này và miêu tả họ như là một tổ chức hiện đại thờ nữ thần, những người giữ Chén Thánh và bảo vệ các thư tịch cổ".

Sophie nhìn ông: "Anh có nói đến viên đá đỉnh vòm không?".

Langdon nhăn mặt. Ông có nói. Nhiều lần. "Tôi nói về viên đá đỉnh vòm giả định như là một ví dụ về quyết tâm của Tu viện Sion đi đến cùng để bảo vệ thư tịch Sangreal".

Sophie có vẻ ngạc nhiên: "Tôi đoán vì thế mà có đoạn Tái bút. Hãy tìm Robert Langdon".

Langdon cảm thấy thực ra còn có một cái gì khác trong bản thảo của ông kích thích sự quan tâm của Saunière, nhưng đây là một đề tài mà ông sẽ trao đổi riêng với Sophie.

"Vậy là". Sophie nói, "anh đã nói dối đại uý Fache".

"Cái gì?" Langdon hỏi.

"Anh nói với ông ta rằng anh chưa bao giờ trao đổi thư từ với ông tôi".

"Đúng thế. Người biên tập của tôi đã gửi cho ông cô bản thảo".

"Hãy nghĩ về điều này, Robert. Nếu đại uý Fache không tìm thấy phong bì đựng bản thảo do người biên tập gửi, ông ta sẽ phải kết luận rằng chính anh đã gửi nó". Cô ngừng lời. "Hoặc tệ hơn, rằng anh đã tự tay trao nó và nói dối về điều này".

***

Khi chiếc xe Range Rover đến phi trường Le Bourget, Rémy lái xe tới một nhà để máy bay ở cuối đường bay. Khi họ đến gần, một người đàn ông tóc tai bù xù trong bộ đồ kaki nhàu nát vội vàng bước ra, vẫy tay và kéo cánh cửa kim loại kếch sù mở ra, để lộ một chiếc máy bay phản lực trắng bóng bên trong.

Langdon nhìn chằm chằm vào thân máy bay bóng loáng: "Đó là chiếc Elizabeth?".

Teabing nhoẻn miệng cười: "Đánh bại loại Channel khốn kiếp đấy".

Người đàn ông trong bộ đồ kaki vội vàng bước về phía họ, nheo mắt trong ánh sáng đèn pha: "Gần xong rồi, thưa ngài".

Anh ta nói bằng giọng Anh. "Tôi xin lỗi vì sự chậm trễ này, nhưng ngài gọi đột xuất quá và…!". Anh ngừng bặt khi thấy nhóm người đang xuống xe. Anh ta nhìn Sophie và Langdon, rồi lại nhìn Teabing.

Teabing nói: "Các bạn của tôi và tôi có công việc khẩn cấp ở London, chúng tôi không có thời gian để lãng phí đâu. Xin chuẩn bị xuất phát ngay lập tức". Vừa nói, Teabing vừa lấy khẩu súng ra khỏi xe đưa cho Langdon.

Người phi công trợn tròn mắt khi nhìn thấy khẩu súng. Anh ta bước về phía Teabìng và thì thầm: "Thưa ngài, xin cúi đầu tạ lỗi nhưng máy bay ngoại giao chỉ được phép chở ngài và người phục vụ của ngài. Iôi không thể nhận những vị khách kia".

"Richard", Teabing nói, mỉm cười nồng hậu, "hai ngàn đồng bảng Anh và khẩu súng đã lên đạn này nói rằng anh có thể chở các vị khách của tôi", ông ra hiệu về phía chiếc Range Rover, "Và cả anh bạn bất hạnh ở phía sau xe kia nữa".

Chú thích:
(1) Các nhà xuất bản ở Mỹ thưởng in thử một số bản đọc trước gọi là advance reading copy hay pre-print copy để kiểm tra lần cuối trước khi in chính thức.
(2) Vô địch thế giớỉ về môn golf trong nhiều năm liền, ngưởi Mỹ.

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 45

Hai động cơ Hawker 731 và Fiarrett TFE-731 ầm ầm đưa máy bay cất cánh lên trời với lực đẩy cực mạnh. Bên ngoài cửa sổ sân bay Le Bourget rớt xuống nhanh lạ lùng.

Mình đang chạy trốn khỏi quê hương. Sophie nghĩ bụng, ngả người vào chiếc ghế da. Cho đến trước giờ phút này, cô vẫn tin rằng trò chơi mèo vờn chuột của mình với Fache có thể biện hộ được cách này hay cách khác trước Bộ quốc phòng. Mình đã cố gắng bảo vệ một người vô tội. Mình đã cố gắng hoàn thành ước nguyện lúc lâm chung của ông. Cánh cửa mở ra cơ hội ấy, Sophie biết, vừa đóng lại rồi. Cô đang rời bỏ đất nước mà không có những tài liệu để làm bằng chứng, đi cùng với một người bị truy nã, và chở theo một con tin. Nếu có một "ranh giới của lý trí" thì cô vừa vượt qua nó rồi. Gần như với tốc độ của âm thanh.

Sophie ngồi cùng với Langdon và Teabing gần phía trước cabin - mẫu thiết kế máy bay phản lực ưu tú, theo như chiếc huy chương vàng gắn trên cửa. Những chiếc ghế quay sang trọng họ đang ngồi được cài chốt vào đường ray trên sàn để có thể di chuyển và cố định xung quanh một chiếc bàn gỗ cứng hình chữ nhật. Một phòng họp mini cho hội đồng quản trị. Tuy nhiên, khu vực đàng hoàng này chẳng làm gì mấy để nguỵ trang cái tình trạng ít đàng hoàng hơn ở đằng sau máy bay, nơi mà, trong một khu riêng gần phòng vệ sinh, người phục vụ của Teabing-

Rémy ngồi với khẩu súng trong tay, đang miễn cưỡng thi hành lệnh của Teabing là canh giữ gã thầy tu mình mẩy vấy máu, bị trói gô nằm dưới chân ông ta như một thứ hành lý.

"Trước khi quay trở lại vấn đề viên đá đỉnh vòm", Teabing nói, "tôi phân vân không biết các bạn có cho phép tôi nói một vài lời không". Giọng ông nghe lo lắng, như một ông bố đang sắp sửa giảng những điều cơ bản về tình dục cho lũ con. "Các bạn của tôi, tôi nhận ra mình chỉ là khách trong cuộc hành trình này, và tôi rất lấy làm vinh dự về điều đó. Vâng, với tư cách là một kẻ đã dành cả cuộc đời cho việc tìm kiếm Chén Thánh, tôi cảm thấy mình phải có nhiệm vụ cảnh báo các bạn rằng các bạn đang sắp bước vào một con đuờng mà đã đi là không thể trờ lui, bất kể nguy hiểm nhường nào". Ông quay về phía Sophie. "Thưa cô Neveu, ông cô đã trao cho cô chiếc hộp mật mã này với hy vọng cô sẽ giữ bí mật về Chén Thánh sống mãi".

"Vâng".

"Có thể hiểu được rằng, cô cảm thấy có nghĩa vụ đi theo con đường đó tới bất cứ nơi đâu mà nó dẫn đến".

Sophie gật đầu, mặc dù cô cảm thấy một động cơ thứ hai vẫn cháy bỏng trong cô. Sự thực về gia đình mình. Bất chấp lời cam đoan của Langdon rằng viên đá đỉnh vòm không liên quan gì đến quá khứ của cô, Sophie vẫn cảm thấy có cái gì đó rất cá nhân quyện bên trong bí ẩn này, cứ như thể chiếc hộp mật mã do chính tay ông cô tạo ra đang cố gắng nói với cô và đưa ra cách giải quyết cho sự trống rỗng đã ám ảnh cô suốt những năm qua.

"Ông cô và ba người khác đã chết tối nay", Teabing tiếp tục, "và họ làm như vậy để giữ cho viên đá đỉnh vòm không lọt vào tay Giáo hội. Đêm nay, chút xíu nữa thì Opus Dei đã chiếm được nó. Tôi hi vọng cô hiểu rằng điều này đặt cô vào một vị thế mang trách nhiệm đặc biệt. Cô được trao cho một ngọn đuốc. Một ngọn lửa cháy suốt 2000 năm không được phép để cho tắt. Ngọn đuốc này không thể để rơi vào những bàn tay đen tối", ông tạm dừng, nhìn vào cái hộp bằng gỗ hồng mộc. "Tôi nhận thấy cô không có sự lựa chọn trong vấn đề này, thưa cô Neveu, nhưng, xét những gì có thể mất hay còn trong cuộc này, thì hoặc là cô phải gánh trọn trách nhiệm này… hoặc trao nó cho một người khác".

"Ông tôi đã trao chiếc hộp mật mã cho tôi. Tôi chắc ông nghĩ rằng tôi có thể đảm đương trách nhiệm đó".

Teabing có vẻ phấn chấn nhưng vẫn chưa tin hẳn: "Tốt. Một ý chí mạnh mẽ là cần thiết. Tuy nhiên tôi muốn biết liệu cô có hiểu rằng việc giải mã thành công viên đá đỉnh vòm sẽ kéo theo một thử thách còn lớn hơn nữa không?".

"Như thế nào cơ?".

"Cô bạn thân mến, hãy tưởng tượng là bạn bỗng có trong tay bản đồ tiết lộ vị trí của Chén Thánh. Lúc đó, bạn sẽ sở hữu một sự thật có khả năng thay đổi lịch sử mãi mãi. Bạn sẽ là người gìn giữ một sự thật mà con người đã tìm kiếm suốt bao thế kỷ nay. Bạn sẽ phải đối mặt với trách nhiệm phơi bày sự thật ấy với thế giới. Cá nhân người làm việc đó sẽ được nhiều người tôn sùng và nhiều kẻ khinh miệt. Câu hỏi đặt ra là bạn có nghị lực cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này không?".

Sophie ngừng một lát rồi nói: "Tôi không chắc người có phận sự quyết định thế có phải là tôi hay không".

Lông mày Teabing nhướn lên: "Không ư? Nếu không phải là người sở hữu viên đá đỉnh vòm thì còn là ai?".

"Tu viện Sion, những người bao lâu đã bảo vệ thành công bí mật đó".

"Tu viện Sion ư?" Teabing có vẻ hoài nghi. "Nhưng làm thế nào? Đêm nay, cái hội kín đó đã tan tành. Bị chặt đầu, như cô đã dùng chữ rất đắt. Họ đã bị thâm nhập bằng nghe trộm hay qua một tên gián điệp trong hàng ngũ của họ, điều đó chúng ta không hề biết, nhưng thực tế là có kẻ đã nhằm vào họ và tiết lộ nhân thân của bốn thành viên đứng đầu. Tôi không tin bất kì ai từ trong tổ chức này đứng ra lãnh trách nhiệm ấy vào thời điểm này".

"Vậy thì ngài gợi ý thế nào?", Langdon hỏi.

"Robert, anh cũng như tôi đều biết rằng Tu viện Sion không bảo vệ sự thật suốt bao nhiêu năm qua chỉ để cho nó tích đầy bụi cho đến thiên thu. Họ chờ đợi đến đúng thời điểm thích hợp trong lịch sử để chia sẻ bí mật của họ. Thời điểm mà thế giới sẵn sàng đón nhận sự thật".

"Và ngài tin rằng thời điểm đó đã đến?" Langdon hỏi.

"Tuyệt đối là như vậy. Không thể nào hiển nhiên hơn. Tất cả những dấu hiệu lịch sử đều đã đâu vào đó, và nếu Tu viện Sion không định sớm công bố bí mật của họ thì tại sao Giáo hội lại tấn công?".

Sophie cãi: "Gã thầy tu đó chưa nói với chúng ta về mục đích của hắn".

"Mục đích của hắn là mục đích của Giáo hội", Teabing đáp, "Phá huỷ những tài liệu phơi trần cuộc đạỉ lừa bịp. Tối nay, Giáo hội đã vươn tới gần mục đích hơn bao giờ hết của mình, và Tu viện Sion đã đặt sự tin cậy vào cô, thưa cô Neveu. Nhiệm vụ bảo vệ Chén Thánh rõ ràng bao gồm cả việc thực hiện nguyện ước cuối cùng của Tu viện Sion là chia sẻ sự thật với thế giới".

Landon xen vào: "Leigh, yêu cầu Sophie phải quyết định là một gánh nặng đối với một người chỉ cách đây một giờ đồng hồ mới biết về sự tồn tại của tài liệu Sangreal".

Teabing thở dài: "Tôi xin lỗi nếu tôi đang thúc hối cô, cô Neveu. Rõ ràng là xưa nay tôi vẫn tin rằng những tài liệu này nên được công bố, nhưng chung cuộc, việc quyết định vẫn thuộc về cô. Tôi chỉ đơn giản cảm thấy cô cần bắt đầu suy nghĩ về những gì sẽ xảy ra nếu chúng ta thành công trong việc mở viên đá đỉnh vòm".

"Thưa các quý ông", Sophie nói giọng quả quyết, "để dẫn lời của ngài "Bạn không tìm thấy Chén Thánh đâu, chính Chén Thánh tìm thấy bạn". Tôi tin rằng Chén Thánh đã tìm thấy tôi, và khi nào đúng thời đúng lúc, tôi sẽ biết mình phải làm gì".

Cả hai đều có vẻ sửng sốt.

"Vậy thì", cô nói, chỉ vào chiếc hộp, "hãy tiến tới".

Đứng trong phòng tranh của Château Villette, trung uý Collet nhìn ngọn lửa đang tàn và cảm thấy rất nản. Đại uý Fache đã đến trước đó ít phút và bây giờ đang ở phòng bên, la hét vào điện thoại, cố gắng điều phối để xác định vị trí chiếc Range Rover mất tích.

Bây giờ có thể ở bất cứ đâu, Collet nghĩ.

Sau khi làm trái mệnh lệnh trực tiếp của Fache và để tuột Langdon lần thứ hai, Collet thấy biết ơn bộ phận giám định đã xác định được vị trí lỗ đạn trên sàn nhà, ít nhất nó có thể chứng minh lời khẳng định của Collet rằng đã nghe thấy tiếng súng nổ. Tuy nhiên, Fache rất tức tối và Collet cảm thấy sẽ có hậu quả khốc hại khi tình hình lắng xuống.

Rủi thay, những manh mối tìm ra được ở đây không rọi được chút ánh sáng nào vào sự việc đã diễn ra hoặc những người dính líu. Chiếc Audi đen đậu bên ngoài được thuê dưới cái tên và số tài khoản giả, và dấu tay trong xe không trùng khớp với bất cứ dấu tay nào trong hồ sơ của Interpol.

Một nhân viên khác hớt hải chạy vào phòng khách, đôi mắt dáo dác: "Đại uý Fache đâu?".

Collet hầu như không buồn ngước lên khỏi những viên than hồng đang âm ỉ cháy: "Ông ấy đang gọi điện".

"Tôi gọi xong rồi", bước vào phòng, Fache gắt. "Có tin gì vậy?".

Người nhân viên thứ hai nói: "Thưa Đại úy, Trung tâm vừa mới nhận được tin của André Vernet ở Nhà băng Ký thác Zurich. Ông ta muốn nói chuyện riêng với Đại uý. Ông ta thay đổi lời khai".

"Ồ thật sao?". Fache nói.

Bấy giờ Collet mới ngước lên.

"Vernet thú nhận rằng Langdon và Neveu đã ở khá lâu trong nhà băng tối nay".

"Chúng ta đã đoán được điều đó", Fache nói, "Nhưng tại sao Vernet lại nói dối?".

"Ông ta nói ông ta chỉ nói chuyện với Đại úy thôi, nhưng ông ta đồng ý hợp tác hết mình".

"Để đổi lấy cái gì?".

"Giữ cho tên nhà băng của ông ta khỏi bị nêu trên báo chí và giúp ông ta lấy lại tài sản bị mất. Nghe có vẻ như Langdon và Neveu đã đánh cắp cái gì đó trong tài khoản của Saunière".

"Cái gì?", Collet bật ra. "Như thế nào?".

Fache chưa hế nao núng, đôi mắt như đóng đinh vào người nhân viên: "Họ đã lấy cắp cái gì?".

"Vernet không nói rõ, nhưng nghe như ông ta sẵn sàng làm bất cứ gì để tìm lại nó".

Collet cố gắng hình dung xem sự việc đã diễn ra như thế nào.

Có lẽ Langdon và Neveu đã dí súng vào một nhân viên nhà băng chăng? Có lẽ họ đã ép Vernet phải mở tài khoản của Saunière và giúp họ trốn thoát trong chiếc xe tải bọc thép. Dù chuyện ấy là có thể, Collet vẫn khó tin rằng Sophie Neveu có thể dính líu vào những điều như thế này.

Từ bếp, một nhân viên khác gọi Fache: "Đại uý? Tôi đang rà soát những số mà ông Teabing đã gọi, và đang nói chuyện với sân bay Le Bourget. Tôi có vài tin xấu đây".

***

Ba mươi giây sau, Fache đã gói ghém và chuẩn bị rời khỏi Château Villette. Ông ta vừa mới biết rằng Teabing đã giữ một chiếc máy bay phản lực riêng ở sân bay gần Le Bourget và chiếc máy bay đó vừa cất cánh cách đây nửa giờ.

Người đại diện Bourget trả lời điện thoại nói là không biết có những ai trên máy bay và nó bay đi đâu. Máy bay cất cánh ngoài chương trình và không có kế hoạch bay nào được ghi vào sổ nhật ký. Rất bất hợp pháp, ngay cả đối với một sân bay nhỏ.

Fache chắc chắn rằng bằng cách gây sức ép đúng cách, ông ta có thể có câu trả lời cho điều ông ta đang tìm kiếm.

"Trung uý Collet", Fache quát, tiến về phía cửa. "Tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc trao anh cho hội đồng kỉ luật quân đội điều tra. Hãy cố gắng làm một cái gì đúng cho nó khác đi”

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 46

Khi chiếc Hawker bay ở tầm trung, nhằm hướng nước Anh, Langdon thận trọng nhấc chiếc hộp bằng gỗ hồng mộc lên từ trong lòng - nơi ông bảo vệ nó trong suốt thời gian cất cánh của máy bay. Trong khi đặt nó lên bàn, ông cảm thấy Sophie và Teabing cũng cúi về phía trước, đón đợi.

Tháo chốt nắp và mở hộp, Langdon không hướng sự chú ý tới những cái đĩa có kí tự mà tới cái lỗ nhỏ xíu ở mặt dưới nắp hộp. Dùng đầu nhọn của một cái bút, ông thận trọng nạy hình khảm Hoa Hồng để lộ ra đoạn văn tự bên dưới. Sub Rosa-Dưới Hoa hồng, ông trầm ngâm suy nghĩ, hi vọng việc xem lại lần nữa có thể làm sáng tỏ văn bản trên. Tập trung hết năng lực, Langdon tìm hiểu dòng kí tự lạ lẫm.

Sau vài giây xem xét, ông bắt đầu cảm thấy nỗi thất vọng như lần đầu: "Leigh, tôi chịu không thể đoán ra".

Từ chỗ Sophie ngồi mé bên kia bàn, cô không thể trông thấy đoạn văn tự, nhưng việc Langdon không thể nhận ra ngay ngôn ngữ đó làm cô ngạc nhiên. Ông mình lại biết một ngôn ngữ bí hiểm đến mức một nhà kí tượng học cũng không nhận ra được ư? Cô nhanh chóng nhận ra mình không nên coi đó là lạ. Đây đâu phải là bí mật đầu tiên mà Jacques Saunière giấu cháu gái.

Ngược lại với Sophie, Leigh Teabing cảm thấy mình sắp nổ tung. Hăm hở vì cơ hội được thấy những kí tự lạ, ông run lên vì phấn khích, cúi người, cố nhìn quanh Langdon đang khom mình trên chiếc hộp.

"Tôi không biết", Langdon thì thầm náo nức, "dự đoán đầu tiên của tôi là kiểu kí tự Semitic nhưng bây giờ tôi không chắc lắm. Phần lớn kí tự Semitic nguyên thủy đều có neckkudot. Nhưng văn tự này lại không có.

"Chắc là rất cổ", Teabing gợi ý.

"Neckkudot?". Sophie hỏi.

Teabing không hề rời mắt khỏi chiếc hộp: "Đa số bảng chữ cái Semitic hiện đại không có nguyên âm, mà dùng nekkudot - những chấm nhỏ và gạch ngang được viết bên dưới hoặc ở giữa các phụ âm - để chỉ rõ âm của nguyên âm nào đi kèm với chúng. Nói theo quan điểm lịch sử, neckkudot là một bổ sung tương đối hiện đại cho ngôn ngữ".

Langdon vẫn cắm cúi trên bản khắc: "Có lẽ một bản phiên tự chữ Sephardic chăng…?".

Teabing không thể đợi lâu hơn được nữa: "Có lẽ nếu tôi…". Với qua bàn, ông thận trọng đỡ lấy cái hộp và kéo nó về phía mình. Không nghi ngờ về việc Langdon hiểu biết sâu sắc các ngôn ngữ cổ chuẩn mực - Hy Lạp, Latinh, Roman - nhưng mới nhìn thoáng qua thứ ngôn ngữ này, Teabing nghĩ nó có vẻ chuyên môn hơn, có thể là chữ thảo Rashi hoặc STA"M với hình mũ miện.

Hít một hơi thật sâu, Teabing thích thú ngắm nhìn hình khắc. Ông không nói gì hồi lâu. Mỗi giây qua đi, Teabing lại cảm thấy sự tự tin của mình càng xẹp xuống. "Tôi rất kinh ngạc", ông nói, "ngôn ngữ này không giống bất cứ thứ gì tôi từng thấy".

Langdon ngồi phịch xuống.

"Tôi có thể xem được không?" Sophie hỏi.

Teabing giả vờ như không nghe thấy: "Robert, lúc nãy anh nói rằng anh đã từng thấy một cái gì giống như thế?".

Langdon có vẻ bực bội: "Tôi đã nghĩ vậy, tôi không chắc lắm. Cách nào đó, thứ chữ này trông quen quen".

"Leigh?" Sophie nhắc lại, rõ ràng không muốn bị gạt ra ngoài cuộc thảo luận. "Tôi có thể xem qua cái hộp do ông tôi làm không?".

"Ồ, tất nhiên, cô bạn thân mến", Teabing nói, đẩy cái hộp về phía cô. Ông không có ý định tỏ ra coi thường cô, tuy nhiên, Sophie Neveu đã đi quá xa khỏi địa hạt của mình. Nếu một nhà sử học Hoàng gia Anh và một nhà kí tượng học Harvard mà còn không thể nhận dạng được ngôn ngữ này thì…

"Aha!". Sophie kêu lên, mấy giây sau khi xem kĩ chiếc hộp, "lẽ ra tôi phải đoán ra ngay chứ!".

Teabing và Langdon cùng quay phắt lại, nhìn cô chằm chằm.

"Đoán ra cái gì?", Teabing hỏi.

Sophie nhún vai: "Đoán ra rằng đây ắt là ngôn ngữ mà ông tôi sử dụng".

"Cô nói là cô có thể đọc được văn bản này?", Teabing thốt lên.

"Dễ ợt", Sophie nói lanh lảnh, rõ ràng là rất thích thú với bản thân. "Ông đã dạy tôi ngôn ngữ này từ khi tôi mới sáu tuổi. Tôi thành thạo nó". Cô cúi người qua mặt bàn và xoáy vào Teabing một cái nhìn trách cứ. "Thẳng thắn mà nói, thưa ngài, xét vì lòng trung thành của ngài với Nữ hoàng, tôi hơi ngạc nhiên thấy ngài không nhận ra nó!".

Loáng một cái, Langdon hiểu ra.

Thảo nào cái thứ chữ này trông quen thế!

Mấy năm trước, Langdon có dự một sự kiện ở bảo tàng Fogg của Harvard. Bill Gates (1), người đã bỏ học nửa chừng ở Harvard, trở lại trường cũ để cho bảo tàng mượn một trong những bảo vật vô giá của ông - mười tám tờ giấy mà ông đã mua được trong buổi bán đấu giá ở Điền trang Armand Hammer.

Ông đã giành được khi lạnh lùng đưa ra cái giá 30.8 triệu $.

Tác giả của những trang giấy đó là Leonardo Da Vinci.

Tổng số mười tám trang - giờ đây được gọi là Cuốn sách chép tay Leiccster của Leonardo, đặt theo tên cựu chủ nhân nổi tiếng của chúng - bá tước Leicester - là tất cả những gì còn lại của một trong những sổ ghi chép hấp dẫn nhất của Leonardo: những tiểu luận cùng kí họa cho thấy khái quát những lý thuyết tiến bộ của Da Vinci về thiên văn học, địa chất học, khảo cổ học và thủy động học.

Langdon không bao giờ quên phản ứng của mình sau khi xếp hàng đợi và cuối cùng được nhìn thấy những tờ giấy da vô giá đó. Hoàn toàn thất vọng. Những trang này không thể hiểu được. Mặc dầu được bảo quản tuyệt vời và viết rõ từng nét đến độ hoàn hảo - mực đỏ thẫm trên giấy màu kem - cuốn sách chép tay này trông giống như trò vẽ lăng nhăng. Thoạt đầu, Langdon tưởng có thể đọc được bởi vì Da Vinci thường ghi sổ bằng tiếng Ý cổ. Nhưng sau khi xem xét kĩ hơn, ông nhận ra mình không thể xác định được lấy một từ Ý nào, hoặc thậm chí một chữ cái.

"Hãy thử cách này xem, thưa ngài", nữ hướng dẫn viên ở chỗ tủ trưng bày thầm thì. Cô chỉ một cái gương cầm tay được để trước vật trưng bày trên ghế. Langdon cầm lấy để xem văn bản qua hình ảnh phán chiếu trong đó.

Lập tức, tất cả trở nên rõ ràng.

Langdon đã quá hăm hở nghiên cứu một số ý tưởng của nhà tư tưởng vĩ đại đến nỗi quên mất một trong nhiều tài của Leonardo là khả năng viết kiểu chữ phản chiếu trong gương, rất khó đọc với bất cứ ai ngoài chính ông. Các nhà sử học vẫn còn tranh luận xem Da Vinci đã viết theo cách này đơn giản là để giải trí hay để giữ cho mọi người khỏi nhòm ngó qua vai ông và đánh cắp ý tưởng của ông, nhưng vấn đề vẫn chưa ngã ngũ. Da Vinci đã làm như ông thích.

Sophie cười thầm khi thấy Robert hiểu ý cô: "Tôi có thể đọc vài từ đầu tiên, cô nói. "Đó là tiếng Anh".

Teabing vẫn còn lắp bắp: "Cái gì đang diễn ra vậy?".

Chữ viết ngược", Langdon nói, "chúng ta cần một cái gương".

"Không, không cần đâu". Sophie nói. "Tôi cá là cái vỏ này đủ mỏng". Cô nâng cái hộp bằng gỗ hồng mộc lên ánh sáng đèn trên tường và bắt đầu xem xét mặt dưới nắp. Ông cô không thể viết ngược được, cho nên bao giờ ông cũng dùng mẹo bằng cách viết một cách bình thường và sau đó lật tờ giấy để tô lại.

Suy đoán của Sophie là ông đã dùng phương pháp khắc lửa để viết chữ bình thường lên một lát gỗ và sau đó dùng máy mài mài mặt sau của lát gỗ cho đến khi nó mỏng như tờ giấy và những chữ khắc lửa có thể thấy được xuyên qua gỗ. Sau đó đơn giản là ông lật xấp lát gỗ và đặt nó vào chỗ.

Khi Sophie đưa cái nắp lại gần ngọn đèn, cô thấy mình đã đúng. Tia sáng rọi qua lớp gỗ mỏng và những dòng chữ xuất hiện đảo ngược ở mặt dưới chiếc nắp.

Lập tức trở nên đọc được.

"Tiếng Anh", Teabing rền rĩ, đầu rũ xuống vì xấu hổ, "tiếng mẹ đẻ của mình".

***

Ở đằng sau máy bay, Rémy Legaludec cố sức để nghe qua tiếng động cơ đang rung ầm ầm, nhưng vẫn không thể nghe thấy được đoạn đối thoại phía trước. Rémy không thích cách tiến triển của sự việc. Không một chút nào. Ông ta nhìn gã tu sĩ nằm dưới chân. Người đàn ông này vẫn nằm yên hoàn toàn như thể đành chấp nhận, hay có lẽ, đang lặng lẽ cầu nguyện để được giải thoát.

Chú thích:
(1) Tỷ phú Mỹ nổi tiếng thế giới.

Ở độ cao năm nghìn mét trên bầu trời, Robert Langdon cảm thấy thế giới vật chất như mờ dần khi tất cả suy nghĩ của Ông đều tập trung vào bài thơ chiếu-gương của Saunière, hiện sáng qua nắp hộp.

Sophie nhanh chóng tìm thấy một tờ giấy và chép lại bằng chữ viết thường. Khi cô chép xong, ba người lần lượt đọc đoạn văn: Nó giống như một thứ ô chữ khảo cổ… Một câu đố hứa hẹn tiết lộ cách mở hộp mật mã. Langdon chậm rãi đọc đoạn thơ.

Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này… Và giúp ta giữ vẹn toàn dòng họ của nàng. Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa khóa… Và Atbash sẽ tiết lộ sự thật cho người.

Trước khi Langdon kịp ngẫm nghĩ xem mật khẩu cổ xưa mà đoạn thơ cố gắng tiết lộ là gì, ông đã cảm thấy một cái gì đó còn cơ bản hơn vang vọng trong lòng mình - thể thơ ngũ bộ mười âm theo nhịp iabic(1).

Langdon đã thường xuyên gặp thể thơ này qua những năm tháng nghiên cứu về các hội kín ở khắp Châu Âu, kể cả năm ngoái, khi tiếp cận kho Lưu trữ tư liệu bí mật của Vatican. Suốt hàng thế kỷ nay, thể thơ ngũ bộ mười âm tiết theo nhịp iambic đã trở thành thể thơ ưa thích của các văn nhân bộc trực ở khắp hành tinh, từ nhà văn thời cổ Hy Lạp Archilochus tới Shakespeare, Milton, Chaucer và Voltaire - những tâm hồn quả cảm, những người chọn viết những bình luận xã hội của mình bằng một thể thơ mà nhiều người cùng thời tin là có những thuộc tính huyền bí. Thể thơ ngũ bộ theo nhịp iambic có nguồn gốc thế tục sâu xa.

Thể thơ ngũ bộ theo nhịp iambic. Hai âm tiết với sự nhấn âm ngược nhau. Nhấn và không nhấn. Dương và âm. Một cặp cân bằng được sắp xếp thành những dãy năm. Số năm cho hình sao năm cánh của Venus và tính nữ thiêng liêng.

"Đó là thể thơ ngũ bộ?". Teabing thốt lên, quay sang Langdon. "Và thơ bằng tiếng Anh! La lingua purat"(2).

Langdon gật đầu. Tu viện Sion, giống như nhiều hội kín khác ở châu Âu chống đối Giáo hội, đã xem tiếng Anh là ngôn ngữ châu Âu tinh khiết duy nhất trong nhiều thế kỷ. Không giống như tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý có nguồn gốc Latinh - tiếng mẹ đẻ của Giáo hội - tiếng Anh bị loại bỏ khỏi bộ máy tuyên truyền của Roma, và do đó đã trở nên một thứ tiếng bí mật, thiêng liêng đối với các hội kín có đủ học vấn để học nó.

"Bài thơ này", Teabing bật ra, "đề cập tới không chỉ Chén Thánh mà cả các Hiệp sĩ Templar và gia đình bị ly tán của Mary Magdelene? Chúng ta còn có thể đòi hỏi gì hơn?".

"Mật khẩu", Sophie nói, nhìn lại bài thơ, "nghe có vẻ như chúng ta cần một loại từ cổ thông thái nào đó".

"Thần chú chăng?" Teabing đoán liều, mắt lấp lánh.

Một từ gồm có năm chữ cái, Langdon nghĩ, cân nhắc số lượng khổng lồ những từ cổ có thể được coi là từ thông thái - chọn lọc từ các tụng ca huyền bí, những lời tiên tri chiêm tinh, những lời sấm của các hội kín, những câu thần chú Wicca, những câu thần chú ma thuật của người Ai Cập, những câu thần chú của người ngoại đạo - danh sách đó là vô tận.

"Mật khẩu này", Sophie nói, "hình như có liên quan gì đó đến các Hiệp sĩ Templar". Cô đọc to lại câu: "Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa khóa".

"Leigh". Langdon nói, "ngài là chuyên gia về các Hiệp sĩ Templar. Ngài có ý tưởng gì không?".

Teabing im lặng vài giây rồi thở dài: "Phải, một tấm bia hiển nhiên là vật để đánh dấu mộ. Có thể bài thơ đề cập đến một phiến đá mà các Hiệp sĩ Templar ca ngợi ở ngôi mộ của Magdalene, nhưng điều này cũng chẳng giúp gì nhiều cho chúng ta bởi vì chúng ta chẳng biết mộ của bà ấy ở đâu".

"Câu cuối", Sophie nói, "nói rằng Atbash sẽ hé mở sự thật. Tôi đã nghe thấy từ này. Atbash".

"Tôi chẳng ngạc nhiên", Langdon đáp, "chắc cô đã nghe thấy nó trong cuốn Những ẩn ý khó hiểu 101. Mật mã Atbash là một trong những mật mã cổ xưa nhất mà con người đã từng biết đến".

Tất nhiên rồi! Sophie nghĩ. Hệ thông mã hóa Hebre nổi tiếng.

Mật mã Atbash thực ra là một phần trong khóa huấn luyện mật mã của Sophie. Mật mã này ra đời từ năm 500 trước Công nguyên và đến bây giờ vẫn được dùng như một ví dụ tại lớp về cách cơ bản thay thế luân phiên. Là một dạng thức phổ biến trong tài liệu được mã hoá của người Do Thái, mật mã Atbash là một loại mật mã thay thế đơn giản dựa trên bảng chữ cái Hebrew gồm hai mươi hai kí tự chữ cái. Trong mật mã Atbash, chữ cái đầu tiên được thay thế bằng chữ cái cuối cùng, chữ cái thứ hai được thay thế bằng chữ cái kế tiếp chữ cái cuối cùng và cứ như vậy.

"Mật mã Atbash thật là thích hợp", Teabing nói, "văn bản được mã hóa với hệ thống mật mã Atbash được tìm thấy ở cuộn giấy Kabbala, vùng biển Chết, và thậm chí cả kinh Cựu ước.

Các học giả Do Thái về chúc thư cổ và những nhà mặc khải thần linh vẫn đang tìm kiếm ý nghĩa ẩn giấu trong việc sử dụng mật mã này. Tu viện Sion chắc chắn sẽ coi mật mã Atbash như một phần trong những giáo huấn của họ".

"Vấn đề duy nhất", Langdon nói, "là chúng ta không có bất cứ cái gì để áp dụng mật mã này".

Teabing thở dài: "Chắc chắn phải có một từ mật mã trên tấm bia. Chúng ta phải tìm ra tấm bia được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi".

Qua vẻ nghiêm nghị trên mặt Langdon, Sophie cảm thấy việc tìm tấm bia của các Hiệp sĩ Templar sẽ không phải là một thành tích nhỏ.

Atbash là chìa khóa, Sophie nghĩ. Những chúng ta không có cánh cửa.

Sau ba phút, Teabing thốt ra một tiếng thở dài thất vọng và lắc đầu: "Các bạn của tôi, tôi hoàn toàn bế tắc. Hãy để tôi suy nghĩ thêm về điều này trong lúc tôi kiếm vài thứ ăn vặt và kiểm tra Rémy cùng vị khách của chúng ta". Ông đứng dậy tiến về đằng sau máy bay.

Sophie cảm thấy mệt mỏi khi cô nhìn ông đi.

Bên ngoài cửa sổ máy bay, bóng tối trước bình minh vẫn ngự trị. Sophie cảm thấy như mình lạc trong không gian và không biết sẽ hạ cánh xuống đâu. Vốn từ bé đến lớn đã quen giải những câu đố của ông mình, cô cảm thấy khó chịu khi mà ngay lúc này đây, bài thơ chứa đựng thông tin nằm trước mắt họ mà họ không nhìn ra.

Ở đây còn có cái gì nữa cơ, cô tự nhủ. Tàng ẩn rất tài tình … nhưng dù sao vẫn hiện diện.

Tâm tư cô còn bị một nỗi sợ hãi khác quấy rối: cái mà chung cuộc họ tìm thấy bên trong hộp mật mã có thể không chỉ đơn giản là "bản đồ dẫn tới Chén Thánh". Mặc dầu Teabing và Langdon tin rằng sự thật nằm ngay trong viên đá cẩm thạch hình trụ, nhưng Sophie đã chơi trò săn tìm báu vật của ông mình quá đủ để hiểu rằng Jacques Saunière không bao giờ dễ dàng từ bỏ bí mật của mình.

Chú thích:
(1) Nhịp iambic: tiết tấu hai âm tiết theo kết cấu một âm dài đi theo một âm ngắn hoặc một mạnh đi theo một yếu.
(2) Ngôn ngữ tinh khiết.

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 47

Nhân viên kiểm soát không lưu ca đêm của sân bay Bourget đang gà gật trước màn hình radar trống trơn thì viên đại úy Cảnh sát tư pháp đập cửa phòng.

"Chiếc phản lực của Teabing", Bezu Face quát om sòm, xăm xăm bước vào đài quan sát nhỏ, "nó đi đâu?".

Phản ứng ban đầu của người kiểm soát viên là một cố gắng yếu ớt, ấp a ấp úng nhằm bảo vệ sự riêng tư của vị khách hàng người Anh - một trong những khách hàng đắt giá nhất của sân bay. Cố gắng này đã thất bại thảm hại.

"Được thôi", Fache nói. "Tôi sẽ bắt giữ anh vì đã cho phép một chiếc máy bay tư cất cánh mà không đăng ký lịch trình bay". Fache ra hiệu cho một sĩ quan khác, người này tiến lại với chiếc còng tay và kiểm soát viên không lưu cảm thấy trào lên một nỗi sợ hãi. Anh ta nghĩ đến một bài báo bàn về chủ đề: đại úy cảnh sát quốc gia là một người anh hùng hay một mối đe doạ? Câu hỏi đó vừa được giải đáp.

"Khoan!". Người kiểm soát viên nghe thấy giọng mình thảng thốt khi nhìn thấy chiếc còng. "Tôi có thể nói với ông điều này.

Ông Leigh Teabing thường bay tới London để trị bệnh. Ông ta có một nhà chứa máy bay ở sân bay Biggin Hill Executive ở Kent. Nó ở ngoại ô London".

Fache vẫy tay ta hiệu cho người cầm chiếc còng lui ra: "Biggin Hill là đích đến của ông ta đêm nay?".

"Tôi không biết", người kiểm soát viên thật thà nói, "máy bay đã xuất phát theo hướng mọi khi, và liên lạc radar lần cuối cùng cũng chỉ tới Vương quốc Anh. Biggin Hill là một phỏng đoán cực kỳ hợp lí".

"Có những người khác cùng lên máy bay không?".

"Tôi thề là tôi không có cách nào để biết điều đó. Những khách hàng của chúng tôi có thể đi thẳng tới nhà chứa máy bay của họ và chất hàng tùy ý họ. Ai cùng lên máy bay là trách nhiệm của nhân viên hải quan ở phòng lễ tân sân bay".

Fache xem đồng hồ và nhìn ra những máy bay đậu rải rác trước nhà ga: "Nếu đi tới Biggin Hill thì bao lâu sẽ hạ cánh?".

Nhân viên kiểm soát lật lật sổ ghi: "Đó là một chuyến bay ngắn. Máy bay của ông ta có thể hạ cánh vào… khoảng sáu giờ ba mươi. Mười lăm phút nữa tính từ bây giờ".

Fache cau mày và quay về phía một trong những cộng sự của mình: "Hãy sắp xếp chuyến bay cho tôi. Tôi sẽ bay tới London. Và liên lạc với cảnh sát địa phương ở Kent cho tôi. Đửng liên lạc với MI5 của Anh. Tôi muốn chuyện này kín đáo. Cảnh sát địa phương Kent thôi. Nói với họ là tôi muốn chuyến bay của Teabing được phép hạ cánh. Sau đó tôi muốn nó bị bao vây trên đường băng. Không ai được rời khỏi máy bay cho đến khi tôi tới".

"Cô lặng lẽ quá!". Langdon nói, nhìn Sophie ngồi đối diện với mình trong cabin của chiếc Hawker.

"Tôi chỉ mệt thôi", cô trả lời. "Vì bài thơ nữa. Tôi không biết".

Langdon cũng cảm thấy giống như vậy. Tiếng động cơ ro ro và nhịp đu đưa nhè nhẹ như ru ngủ, và đầu ông vẫn giần giật ở chỗ bị gã thầy tu đánh. Teabing vẫn còn ở đằng sau máy bay, Langdon quyết định tận dụng cơ hội có một mình với Sophie để nói với cô về một điều đã và đang làm ông suy nghĩ: "Tôi nghĩ mình biết một phần lý do khiến ông cô sắp đặt cho chúng ta đến với nhau nhau. Tôi nghĩ có điều gì đó ông muốn tôi giải thích cho cô".

"Lịch sử về Chén Thánh và Mary Magdalene vẫn chưa đủ sao?".

Langdon cảm thấy phân vân không biết tiếp tục thế nào: "Sự rạn nứt giữa hai ông cháu. Đó là lý do khiến cô đã không nói chuyện với ông trong suốt mười năm qua. Tôi nghĩ có lẽ ông hy vọng tôi có thể giải được mối bất hòa ấy bằng cách nói cho cô biết điều gì đã chia rẽ hai ông cháu".

Sophie vặn vẹo người trên ghế: "Tôi chưa kể với anh chuyện gì đã làm chúng tôi xa nhau".

Langdon nhìn cô chăm chú: "Cô đã chứng kiến một lễ thức giới tính, phải không?".

Sophie co người lại: "Làm sao anh biết điều đó?".

Sophie, cô đã từng nói với tôi rằng cô đã chứng kiến sự việc gì đó làm cô tin rằng ông cô ở trong một hội kín. Và điều cô nhìn thấy đủ làm cô xáo đảo đến mức không nói chuyện với ông cô từ đó. Tôi biết khá nhiều về các hội kín. Cũng không cần đến bộ óc của Da Vinci để đoán ra cô nhìn thấy cái gì".

Sophie nhìn đăm đăm.

"Nó diễn ra vào mùa xuân". Langdon hỏi. "Thời gian vào khoảng xuân phân? Giữa tháng ba?".

Sophie nhìn ra ngoài cửa sổ: "Tôi có được kỳ nghỉ xuân ở trường đại học. Tôi về nhà sớm một vài ngày".

"Cô muốn kể cho tôi nghe chuyện đó không?".

"Tôi không muốn". Cô đột ngột quay về phía Langdon, đôi mắt rưng rưng xúc động. "Tôi không biết mình nhìn thấy cái gì".

"Có cả đàn ông và phụ nữ hiện diện phải không?".

Sau một nhịp, cô gật đầu.

"Mặc đồ trắng và đen?".

Cô lau nước mắt rồi gật đầu, dường như cới mở hơn một chút: "Phụ nữ mặc váy trắng mỏng… với giày vàng. Họ cầm những quả cầu vàng. Đàn ông mặc áo dài thắt ngang lưng màu đen, đi giày đen".

Langdon ráng che giấu sự xúc động của mình, tuy nhiên ông không tin nổi điều mình đang nghe thấy. Sophie Neveu đã vô tình chứng kiến một nghi lễ thiêng liêng có lịch sử 2000 năm.

"Đeo mặt nạ?", ông hỏi, cố gắng giữ giọng bình tĩnh. "Mặt nạ không phân biệt giới tính?".

"Phải, tất cả mọi người. Những chiếc mặt nạ y hệt nhau. Trắng cho phụ nữ. Đen cho đàn ông".

Langdon đã từng đọc bản mô tả nghi lễ này và hiểu gốc rễ huyền bí của nó. "Nó được gọi là Hieros Gamos", ông nói nhẹ nhàng. "Nó có từ cách đây hơn 2000 năm. Các tu sĩ Ai Cập, nam và nữ, thường xuyên tiến hành nghi lễ này để tôn vinh sức mạnh sinh sản của nữ giới". Langdon ngừng lời, ngả người về phía cô: "Và nếu cô chứng kiến lễ Hieros Clamos mà không được chuẩn bị đầy đủ để có thể hiểu hết ý nghĩa của nó, tôi có thể tưởng tượng được là nó đã gây sốc cho cô như thế nào".

Sophie không nói gì.

"Hieros Gamos là tiếng Hy Lạp", ông tiếp tục, "nó có nghĩa là hôn nhân thần thánh".

"Nghi lễ tôi nhìn thấy không phải là hôn nhân".

"Hôn nhân theo nghĩa hợp nhất, Sophie".

"Anh muốn nói theo nghĩa tình dục?".

"Không".

"Không ư?", Cô hỏi, đôi mắt màu ô-liu nhìn ông dò xét.

Langdon sửa lại: "Ô… phải, cũng là một cách nói, nhưng không như chúng ta hiểu nó ngày nay". Ông giải thích rằng mặc dầu cái cô nhìn thấy có vẻ giống như một nghi thức tình dục nhưng Hieros Gamos không có gì liên quan gì đến tính khiêu dâm. Nó là một hành động tâm linh. Về mặt lịch sử mà nói, giao hợp là hành vi mà qua đó nam và nữ nghiệm sinh Thượng đế. Người xưa tin rằng đàn ông còn bất túc về tâm linh cho đến khi anh ta có được hiểu biết nhục dục về nữ tính thiêng liêng. Sự hợp nhất về thể xác với nữ giới là cách duy nhất qua đó người nam có thể hoàn thiện về mặt tâm linh và cuối cùng đạt được ngộ đạo - hiểu biết tính thần thánh. Từ thời đại của Iris, những lễ thức tình dục đã được xem như là cầu nối duy nhất của con người từ mặt đất đến thiên giới. "Bằng cách hòa đồng với phụ nữ", Langdon nói, "đàn ông có thể đạt tới giây phút đỉnh điểm khi trí óc anh ta hoàn toàn trống trơn và khi đó anh ta có thể nhìn thấy Chúa Trời".

Sophie có vẻ hoài nghi: "Sự cực khoái như lời cầu nguyện?".

Langdon nhún vai không khắng định, mặc dầu Sophie cơ bản là đúng: Nói theo sinh lý học, kèm theo cao điểm của nam giới là một phần giây sạch trơn mọi ý nghĩ. Một thoáng trống rỗng tinh thần. Một thời điểm tường minh trong đó người ta có thể thoáng thấy Chúa Trời. Các bậc guru nhập thiền đã đạt đến trạng thái không ý nghĩ tương tự mà không cần đến tình dục và thường miêu tả Nirvana - Niết Bàn như một sự cực khoái tâm linh bất tận.

"Sophie", Langdon điềm đạm nói, "cần phải nhớ rằng quan điểm của người xưa về tình dục hoàn toàn đối lập với chúng ta ngày nay. Tình dục sinh ra sự sống mới - cái phép màu tối hậu - và phép màu này chỉ có thể được thực hiện bởi một vị thần.

Khả năng của người phụ nữ có thể sản sinh ra sự sống từ tử cung của mình khiến nàng trở nên thiêng liêng. Một vị thần.

Giao hợp là sự hợp nhất tôn kính của hai nửa tinh thần nhân loại - nam và nữ - mà qua đó người nam có thể tìm thấy sự trọn vẹn về mặt tâm linh thần và hòa đồng với Thượng Đế. Cái mà cô nhìn thấy không thuộc về tình dục, nó thuộc về tâm linh. Nghi lễ Hieros Gamos không phải là một sự đồi trụy. Nó là một nghi lễ thiêng liêng sâu xa".

Những lời của ông dường như đã đánh trúng một huyệt thần kinh. Sophie đã tỏ ra rất tự chủ suốt cả buổi tối, nhưng giờ đây, lần đầu tiên, Langdon thấy vẻ điềm tĩnh ấy bắt đầu rạn nứt.

Nước mắt lại ứa ra và cô lấy ống tay áo chấm.

Ông để cô yên một lát. Phải thú nhận rằng khái niệm tình dục như là con đường dẫn tới Thượng Đế, thoạt đầu thật đáng kinh ngạc. Các sinh viên người Do Thái của Langdon thường sững sờ khi lần đầu nghe ông giảng rằng truyền thống Do Thái xưa bao gồm cả tình dục trong nghi lễ. Trong thánh đường, không hơn không kém. Người Do Thái cổ xưa tin rằng nội điện của đền thờ Solomon không chỉ là chỗ ở của Chúa mà còn là chỗ ở của người phụ nữ hùng mạnh bằng vai phải lứa với Người, Srekinah. Những người đàn ông tìm kiếm sự trọn vẹn về tâm linh đến Đền Thờ thăm những nữ tu - hay hierodule (1) - để làm tình với họ và nghiệm sinh tính thần thánh qua sự hợp nhất thể xác. Từ Do Thái bốn chữ cái YHWH - tên thiêng của Chúa Trời - thực ra là phát sinh từ Jehovah, một hợp nhất vật thể lưỡng tính giữa cái tên Jah điển hình nam tính và cái tên thuộc ngôn ngữ tiền Hebrơ cho Eva (2), Havah.

"Đối với Giáo hội thời xưa", Langdon giải thích với giọng nhẹ nhàng, "Việc con người dùng tình dục để giao cảm trực tiếp với Chúa Trời gây ra một đe dọa nghiêm trọng đối với nền tảng quyền lực của Thiên Chúa Giáo. Nó đặt Giáo hội ra ngoài cuộc, phá hoại cái địa vị tự xưng là con đường duy nhất dẫn tới Chúa.

Vì những lý do hiển nhiên này, họ đã ra sức bỉ báng tình dục là ma quỷ và xuyên tạc nó như một hành động ghê tởm và tội lỗi. Những tôn giáo lớn khác cũng làm như vậy".

Sophie im lặng, nhưng Langdon cảm thấy cô đang bắt đầu hiểu ông mình hơn. Mỉa mai thay, Langdon đã đề cập đến chính điểm này trong một bài giảng vào đầu học kỳ này. "Có đáng ngạc nhiên không khi chúng ta cảm thấy xung đột về tình dục?". Ông hỏi các sinh viên: "Di sản cổ xưa và chính ngành sinh lý học của chúng ta đều nói rằng tình dục là tự nhiên - một con đường thú vị dẫn tới sự viên mãn về tinh thần - và tôn giáo hiện đại lại coi nó như một cái gì đó đáng xấu hổ, răn dạy chúng ta sợ những khao khát tình dục của mình như sợ bàn tay của ma quỷ".

Langdon quyết định không gây sốc cho sinh viên với cái thực tế là hơn một tá hội kín - phần nhiều rất có thể lực - trên khắp thế giới hiện vẫn thực hành các nghi lễ tình dục và giữ cho truyền thống cổ xưa này sống mãi. Nhân vật của Tom Cruise trong bộ phim Eyes Wide Shut đã khám phá ra điều này một cách khó khăn khi anh ta lẻn vào một cuộc họp kín của giới tinh hoa siêu hạng ở Manhattan chỉ để thấy mình chứng kiến nghi lễ Hieros Gamos. Buồn thay, các nhà làm phim đã hiểu sai hầu hết những đặc thù, nhưng lõi cốt cơ bản thì vẫn ở đó - một hội kín giao hòa để tôn vinh ma lực của hợp nhất tình dục.

"Thưa giáo sư Langdon?". Một sinh viên nam ở cuối phòng giơ tay, giọng đầy hi vọng: "Phải chăng thầy nói thay vì đi tới nhà nguyện, chúng ta nên có nhiều hoạt động tình dục hơn?".

Langdon tủm tỉm cười, không mắc mồi. Qua những gì ông nghe thấy về các cuộc liên hoan ở Harvard, thì đám trẻ này đã có quá nhiều tình dục rồi. "Thưa quý ông", ông nói, biết rằng mình đang ở trong vấn đề nhạy cảm, "liệu tôi có thể đưa ra một gợi ý cho tất cả chăng. Không quá táo bạo để dung thứ tình dục trước hôn nhân và cũng không quá ngờ nghệch để nghĩ rằng tất cả các bạn đều là những thiên thần trong trắng, tôi xin hiến các bạn lời khuyên nhỏ này về đời sống tình dục".

Tất cả các nam sinh viên đều vươn người ra phía trước, chăm chú lắng nghe.

"Lần sau, khi các bạn thấy mình ở bên một phụ nữ, hãy nhìn vào trái tim mình, thử xem liệu các bạn có thể không tiếp cận tình dục như một hành động tâm linh huyền bí hay không. Hãy thách thức bản thân để tìm ra cái tia sáng của thiên giới mà người đàn ông chỉ có thể đạt được qua việc hợp nhất với tính nữ thiêng liêng".

Các nữ sinh viên cười tỏ vẻ hiểu biết, gật gù.

Còn các nam sinh viên trao đổi với nhau những câu thì thầm đáng ngờ trong tiếng cười khúc khích.

Langdon thở dài. Dù sao sinh viên đại học thì vẫn còn là những cậu bé.

Sophie cảm thấy lạnh khi cô áp trán vào cửa sổ máy bay và đờ đẫn nhìn vào khoảng không, cố gắng suy ngẫm những gì Langdon vừa nói với cô. Cô cảm thấy một nỗi hối tiếc mới trào lên trong lòng. Mười năm. Cô hình dung lại hàng chồng thư không mở ra mà ông cô đã gửi cho cô. Mình sẽ kể cho Robert tất cả. Không quay lại khỏi cửa sổ, Sophie bắt đầu nói. Điềm tĩnh. Ghê rợn.

Khi cô bắt đầu thuật lại chuyện đã xảy ra đêm hôm đó, cô cảm thấy mình trôi ngược về quá khứ… xuống xe ở cánh rừng bên ngoài tòa lâu đài vùng Normandie của ông cô… bối rối sục tìm khắp ngôi nhà vắng teo… nghe thấy những tiếng nói phía dưới cô… và sau đó tìm thấy cánh cửa bí mật. Cô lần xuống chiếc cầu thang đá, từng bước một, vào trong cái hang ở tầng hầm. Cô thấy không khí có mùi vị đất. Mát và dịu nhẹ. Đó là vào tháng ba. Trong bóng tối nơi cô náu mình trên cầu thang, cô dõi theo những người lạ lắc lư, cầu kinh trong ánh nến màu da cam bập bùng.

Mình đang mơ, Sophie tự nhủ. Đây là một giấc mơ. Có thể là cái gì khác được nhỉ?

Nữ và nam đứng xen kẽ, đen, trắng, đen, trắng. Những tà áo dài nữ đẹp và mỏng dính rập rờn khi họ giơ cao trong tay phải quả cầu vàng và kêu lên đồng thanh. "Ta đến cùng con trong sự khởi đầu, trong ánh bình minh của tât cả những gì thiêng liêng, ta sinh ra con từ tử cung trước khi một ngày mới bắt đầu".

Đám phụ nữ hạ thấp quả cầu của họ, và tất cả mọi người lắc lư từ đằng sau ra đằng trước như thể nhập đồng. Họ đang cúng bái một cái gì đó ở tâm vòng tròn.

Họ nhìn cái gì vậy?

Tiếng cầu kinh lúc này dồn dập lên. To hơn. Nhanh hơn.

"Người nữ ngươi nhìn ngắm chính là tình yêu?" Đám phụ nữ xướng lên, lại giơ cao quả cầu.

Đám đàn ông đáp lại: "Nàng trú ngụ trong vĩnh cửu".

Tiếng cầu lại trở nên đều đặn liên tục. Nhanh. Như sấm rền. Nhanh hơn. Những người tham dự bước vào trong và quỳ xuống.

Trong khoảnh khắc đó, cuối cùng Sophie cũng thấy họ đang nhìn cái gì.

Trên một bàn thờ thấp trang hoàng lộng lẫy ở giữa vòng tròn, một người đàn ông đang nằm. Ông ta hoàn toàn khoả thân, được đặt nằm ngửa và đeo mặt nạ đen. Sophie lập tức nhận ra thân thể và vết bớt trên vai ông. Cô suýt òa khóc.

Grand-pere!(3) chỉ riêng hình ảnh đó đã đủ làm Sophie bàng hoàng không tin được, vậy mà còn nhiều hơn thế nữa.

Cưỡi trên người ông cô là một phụ nữ trần truồng đeo mặt nạ trắng, mái tóc bạch kim dày xõa xuống sau lưng. Cơ thế cô ta phốp pháp, còn xa mới đến mức hoàn hảo, và cô ta đang uốn éo theo nhịp kinh cầu - làm tình với ông của Sophie.

Sophie muốn quay đi và bỏ chạy, nhưng không thề. Những bức tường đá của căn phòng - hang động như cầm cô khi bài kinh cầu ré lên tới cao độ như phát sốt. Vòng tròn những người tham gia lúc này gần như đang hát, tiếng ồn cứ to dần lên tới mức điên cuồng. Với một tiếng gầm rú đột ngột, toàn bộ căn phòng như bùng nổ đến cao trào. Sophie không thở được. Cô nhận ra mình đang nức nở không ra tiếng. Cô quay lại, loạng choạng bước lặng lẽ lên cầu thang, ra khỏi ngôi nhà, và run rẩy lái xe quay về Paris.

Chú thích:
(1) Nữ nô lệ phục vụ trong các đền thờ cổ Hy Lạp.
(2) Theo Kinh Thánh, ngưởi đàn bà đầu tiên do Chúa Trời tạo ra cùng với Adam.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: ông tôi.

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 48

Chiếc máy bay cánh quạt thuê đang bay ngang qua những ánh đèn sáng lấp lánh của Monaco khi Aringonosa chấm dứt cuộc nói chuyện điện thoại với Fache lần thứ hai. Ông lại với lấy cái túi nôn nhưng cảm thấy quá kiệt sức đến không còn buồn nôn nữa.

Thôi thì cứ để nó xong béng đi!

Tin tức cập nhật nhất của Fache dường như khôn lường nổi, đêm nay hầu như chẳng có gì ra sao cả. Chuyện gì đang diễn ra? Mọi thứ rối tinh rối mù lên ngoài tầm kiểm soát. Mình đã đẩy Silas vào việc gì thế này? Mình đã đẩy bản thân vào cái gì thế này?

Đôi chân run rẩy, Anngarosa đi tới buồng lái: "Tôi cần thay đổi nơi đến".

Người phi công ngoái nhìn qua vai và cười: "Cha đang nói đùa phải không?".

"Không. Tôi phải với London ngay lập tức".

"Thưa Cha, đây là chuyến bay thuê theo hợp đồng, không phải taxi".

"Tất nhiên, tôi sẽ trả thêm. Bao nhiêu? London chỉ quá lên phía bắc một giờ đồng hồ và hầu như không đòi hỏi đổi hướng, cho nên… ".

"Không phải vấn đề tiền bạc, thưa Cha, còn có những vấn đề khác nữa".

"Mười ngàn euro. Ngay bây giờ".

Người phi công quay lại, đôi mắt mở to vì kinh ngạc: "Bao nhiêu? Loại tu sĩ nào có thể mang theo từng ấy tiền mặt?".

Aringarosa quay lại chỗ chiếc cặp da đen, mở nó và rút ra một trong những tờ séc. Ông đưa nó cho người phi công.

"Cái gì đây?", Người phi công hỏi.

"Tờ séc mười nghìn euro rút từ nhà băng Giáo hội Thiên Chúa Giáo Vatican".

Người phi công có vẻ hoài nghi.

"Nó có giá trị như tiền mặt".

"Tiền mặt là tiền mặt", người phi công nói, trả lại tờ séc.

Aringarosa cảm thấy yếu lả đi khi dựa mình vào cửa buồng lái. "Đây là vấn đề sống còn. Anh phải giúp tôi. Tôi cần tới London".

Người phi công nhìn chiếc nhẫn vàng của vị Giám mục:

"Kim cương thật à?".

Aringonosa nhìn chiếc nhẫn: "Đây là vật bất ly thân".

Người phi công nhún vai, quay lại và tập trung về phía ngoài kính chắn gió.

Aringonosa cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc. Ông nhìn chiếc nhẫn. Dù sao đi nữa, Gám mục cũng sắp mất hết mọi thứ mà nó đại diện cho. Sau một lúc lâu, ông tháo chiếc nhẫn khỏi ngón tay và đặt nó nhẹ nhàng lên bảng điều khiển.

Aringonosa lách mình ra khỏi buồng lái và quay về chỗ ngồi xuống. Mười lăm giây sau, ông cảm thấy người phi công điều chỉnh thêm vài độ bay về hướng bắc.

Dù vậy, giây phút vinh quang của Aringonosa vẫn cứ là tan vỡ.

Tất cả đã bắt đầu như là một sự nghiệp thiêng liêng. Một kế hoạch được xây dựng xuất sắc. Bây giờ, thì giống như ngôi nhà bằng quân bài, nó đang tự sụp đổ… và đoạn kết còn mù mịt chưa thấy đâu cả.

Có thể thấy Sophie vẫn còn run rẩy do việc kể lại trải nghiệm của mình với nghi lễ Hieros Gamos. Về phần ông, Langdon cũng ngạc nhiên về những gì nghe được. Sophie không chỉ chứng kiến toàn bộ nghi lễ đó mà còn thấy ông mình là người chủ tế… Đại sư của Tu viện Sion. Đó là những người thông minh sáng láng. Da Vinci, Botticelli, Isaac Newton, Victo Hugo, Jean Coccau,…và Jacques Saunière.

"Tôi không biết mình có thể nói gì thêm với cô", Langdon nói nhẹ nhàng.

Cặp mắt Sophie lúc này xanh thăm thẳm, đẫm lệ "Ông tôi đã nuôi dạy tôi như con gái ruột".

Bây giờ Langdon mới nhận ra nỗi xúc động trào dâng trong đôi mắt cô trong khi họ nói chuyện. Đó là sự hối hận. Xa xôi mà sâu sắc. Sophie Neveu đã xa lánh ông cô và giờ đây, cô đang nhìn ông dưới ánh sáng hoàn toàn khác.

Bên ngoài, bình minh đang lên nhanh, quầng sáng đỏ thắm tập trung bên mạn phải máy bay. Trái đất vẫn một màu đen bên dưới họ.

"Thức ăn đồ uống đây, các bạn thân mến?". Teabing quay trở lại hoan hỉ, chìa ra một vài lon Coca và một hộp bánh quy giòn.

Vừa phân phối, ông vừa xin lỗi rối rít vì thức ăn có hạn. "Người bạn của chúng ta - gã thầy tu vẫn không nói gì", ông nói, "Nhưng hãy cho anh ta thời gian". Ông cắn một cái bánh quy và liếc nhìn bài thơ. "Này, bạn yêu quý, có tiến triển chút nào không?". Ông đưa mắt nhìn Sophie. "Ông cô đang cố gắng nói với chúng ta điều gì ở đây? Tấm bia ấy đang ở nơi quỉ quái nào? Tấm bia được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi ấy".

Sophie lắc đầu và vẫn yên lặng.

Trong khi Teabing lại chúi vào bài thơ, Langdon bật nắp một lon Coca và quay mặt về phía cửa sổ suy nghĩ của ông miên man với những hình ảnh về nghi thức bí ẩn và mật mã chưa được giải đáp. Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa khóa. Ông uống một hơi dài lon Coca. Một tấm bia Templar ca ngợi. Nước Coca thật ấm.

Màn đêm dường như tan biến nhanh chóng và khi quan sát sự thay đổi đó, Langdon thấy đại dương lung linh trải rộng bên dưới họ. Eo biển anche. Không còn lâu nữa.

Langdon mong ánh sáng ban ngày sẽ mang đến một sự rọi sáng mới, nhưng bên ngoài càng sáng lên thì ông càng cảm thấy mình xa sự thật hơn. Ông nghe thấy nhịp điệu của thể thơ năm ngũ bộ iambic và tiếng tụng ca, nghi lễ Hieros Gamos và các nghi lễ thiêng liêng khác lẫn với tiếng ầm ì của máy bay phản lực.

Một tấm bia Temlar ca ngợi.

Máy bay lại bay trên đất liền khi một tia sáng loé lên trong đầu ông. Langdon đặt lon Coca xuống: "Chắc các vị không tin đâu ông nói, hướng về phía những người khác, "Tấm bia Templar… tôi đã đoán ra".

Teabing tròn xoe mắt: "Anh biết tấm bia ở đâu?".

Langdon cười: "Không phải ở đâu mà là cái gì".

Sophie rướn người lên để nghe.

"Tôi nghĩ tấm bia - headstone - phải hiểu theo nghĩa đen của từ stone head nghĩa là đầu đá", Langdon giải thích, thường thức niềm phấn khích quen thuộc trước mỗi đột phá về học thuật.

"Không phải là cái để đánh dấu mộ".

"Một đầu đá?", Teabing hỏi.

Sophie có vẻ cũng bối rối.

"Leigh", Langdon nói, quay lại, trong Toà án dị giáo, Giáo hội đã kết tội các Hiệp sĩ Templar về đủ mọi thứ tà đạo, đúng không?".

"Chính xác. Họ bịa đặt ra tất cả mọi tội. Tình dục đồng giới, tiểu tiện lên thánh giá, thờ cúng quỷ ác, cả một danh sách dài". Và trong danh sách đó có cả việc thờ cúng ngẫu tượng, đúng không? Đặc biệt hơn, Giáo hội đã kết tội các Hiệp sĩ Templar vì đã bí mật tiến hành nghi lễ cầu nguyện trước một cái đầu đá được đẽo… vị thần ngoại giáo…".

"Baphomet!" Teabing buột mồm. "Trời, Robert, anh đã đoán đúng! Một tấm bia Templar ca ngợi?".

Langdon nhanh chóng giải thích cho Sophie rằng Baphomet là một vị thần ngoại giáo tượng trưng cho sự phồn thực, gắn với sức mạnh sáng tạo trong sinh sản. Cái đầu của Baphomet được thể hiện như đầu cừu đực hay đầu dê, một biểu tượng chung cho sự sinh sôi nảy nở và sự mắn đẻ. Các Hỉệp sĩ Templar tôn vinh Baphomet bằng cách đi vòng quanh mô hình cái đầu bằng đá của ông ta và hát kinh cầu nguyện.

"Baphomet", Teabing cười gằn, "nghi lễ này tôn vinh điều sáng tạo kì diệu của việc hợp nhất giới tính, nhưng Giáo hoàng Clement lại thuyết phục mọi người rằng cái đầu của Baphomet trên thực tế là quỷ dữ. Giáo hoàng sử dụng chiếc đầu này như chứng cớ chủ chốt trong vụ án các Hiệp sĩ Templar".

Langdon đồng tình. Tín ngưỡng hiện đại nhằm vào một con quỷ có sừng gọi là Satan có thể truy nguyên từ Baphomet và từ những mưu toan của Giáo hội nhằm bóp méo vị thần phồn thực có sừng thành một biểu tượng của cái ác. Rõ ràng Giáo hội đã thành công tuy chưa phải là hoàn toàn. Trên những bàn ăn trong ngày lễ Tạ ơn truyền thống ở Mỹ vẫn có những thứ mang sừng, biểu tượng ngoại giáo của sự phồn thực. Chiếc sừng dê kết hoa quả, được gọi là "sừng sung túc", là một biểu hiện tôn kính đối với tính phồn thực của Baphomet, nó bắt nguồn từ câu chuyện Zeus bú sữa một con dê thế rồi sừng nó gẫy ra và đầy ắp hoa quả bởi phép mầu. Baphomet cũng xuất hiện trong các bức ảnh chụp chung khi những kẻ thích đùa giơ hai ngón tay sau đầu bạn mình theo hình chữ V tượng trưng cho sừng, chắc chắn rất ít người hay đùa như vậy biết rằng những cử chỉ chế nhạo của họ trên thực tế là quảng cáo cho sự dồi dào tinh trùng của nạn nhân.

"Phải, phải", Teabing nói với vẻ thích thú, bài thơ ắt phải nhằm ám chỉ Baphomet. Một cái đầu bằng đá được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi!".

"Được", Sophie nói, "nhưng nếu Baphomet là cái đầu đá được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi thì chúng ta lại rơi vào một tình thế khó xử mới", Sophie chỉ vào những cái đĩa của hộp mật mã, "Baphomet có tám chữ cái. Hiện nay chúng ta chỉ có chỗ cho năm chữ cái!".

Teabing cười toác miệng: "Bạn thân mến, đấy chính là chỗ mật mã Atbash phát huy tác dụng".

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 49

Langdon thán phục. Teabing vừa viết ra xong toàn bộ 22 chữ cái của bảng chữ cái Hebrew - alef-bet - theo trí nhớ. Đành rằng ông đã dùng kí tự La Mã tương đương thay vì chính chữ cái Hebrew, tuy nhiên, giờ đây ông đọc qua chúng với cách phát âm không chút sai sót.

A B G D H V Z Ch T Y K L M N S O P Tz Q R Sh Th "Alef, Belt, Gimel, Dalet, Hei, Vav, Zayin, Chet, let, Yud, Kaf, Lamed, Mem, Nun, Samcch, Ayin, Pel, Tradik, Kuf, Reishs Shin va Tav".

Teabing lau trán và tiếp tục: "Trong chính tả Hebrew chính thức, nguyên âm không được viết ra. Do đó, khi chúng ta dùng chữ cái Hebrew để viết từ Bahome, nó sẽ mất đi ba nguyên âm và chúng ta còn lại…".

"Năm chữ cái", Sophie bật ra.

Teabing gật đầu và bắt đầu viết lại: "Được, đây là Baphomet viết đúng chính tả bằng chữ cái Hebrew. Tôi sẽ phác luôn cả những nguyên âm khuyết diện để cho rõ ràng hơn".

B a P V o M e Th.

"Tất nhiên, hãy nhớ", ông bổ sung thêm, "rằng tiếng Hebrew thường được viết theo chiều hướng ngược, nhưng chúng ta có thể dễ dàng sứ dụng mật mã Atbash theo cách này. Bước tiếp theo, tất cả những gì chúng ta phải làm là tạo ra cách sắp xếp thay thế bằng cách viết lại toàn bộ bảng chữ cái theo trật tự đảo ngược với bảng chữ cái ban đầu".

"Có một cách dễ hơn", Sophie nói, lấy bút từ tay Teabing, nó hiệu nghiệm đối với mọi mật mã thay thế phản chiếu, kể cả mật mã Atbash. Một mẹo nhỏ tôi học được ở Royal Holloway". Sophie viết nửa bảng chữ cái đầu từ trái qua phải, sau đó bên dưới, viết phần còn lại của bảng chữ cái từ phải qua trái. "Người giải mật mã gọi nó là fold-over. Giảm nửa phần phức tạp. Nhưng lại rõ ràng gấp đôi".

A

B

G

D

H

V

Z

Ch

T

Y

K

Th

Sh

R

Q

Tz

P

O

S

N

M

L

Teabing nhìn bảng kẻ bằng tay của cô và cười khúc khích:

"Cô đã đúng. Rất vui được thấy là các chàng trai ở Holloway làm tốt công việc của họ".

Nhìn vào ma trận thay thế của Sophie, Langdon cảm thấy một nỗi rộn ràng mỗi lúc một tăng mà ông nghĩ có thể sánh với nỗi rộn ràng của các nhà học giả khi lần đầu tiên họ đùng mật mã Atbash để giải mã Bí mật Sheshach, một bí mật giờ đây đã trở nên nổi tiếng. Suốt nhiều năm, các học giả về tôn giáo đã bối rối khó hiểu những chỗ trong Kinh Thánh quy chiếu đến một thành phố mang tên Sheshach. Thành phố này không xuất hiện trên bất cứ bản đồ nào hay bất cứ tài liệu nào nhưng lại được đề cập đến trong Sách của Jememiah - vị vua của Sheshach, thành phố Sheshach, nhân dân Shesbach. Cuối cùng, một học giả đã áp dụng mật mã Atbash vào từ này, và kết quả công việc của ông làm mọi người ngớ ra. Mật mã tiết lộ rằng Sheshach trên thực tế là một từ mã hóa cho một thành phố rất nổi tiếng khác. Quá trình rất đơn giản.

Sheshach, trong tiếng Hebrew được phát âm là: Sh - Sh - K

Sh - Sh - K khi được thay thế trong ma trận trở thành B - B - L

B - B - L, trong ngôn ngữ Hebrew, phát âm là Babel

Thành phố bí ẩn Sheshach được tiết lộ là thành phố Babel, và tiếp đó một phong trào rộ lên như điên: xem xét lại Kinh Thánh. Trong vòng nhiều tuần, nhiều từ mật mã Atbash đã được phát hiện trong Kinh Cựu ước, phơi bày vô số ý nghĩa ẩn giấu mà các học giả cũng không biết là có ở đó.

"Chúng ta ang đến gần", Langdon thì thầm, không thể kiểm soát niềm phấn khích của mình.

"Vài phân nữa, Robert ạ", Teabing nói. Ông ngước nhìn Sophie và cười. "Cô sẵn sàng chưa?".

Cô gật đầu.

Được rồi, Baphomet trong ngôn ngữ Hebrew không nguyên âm viết là: B - P - V - M - Th. Bây giờ chúng ta chỉ cần đối chiếu với ma trận thay thế Atbash để dịch những bí từ này sang mật khẩu năm chữ của chúng ta".

Tim Langdon đập thình thịch: B - P - V - M - Th. Ánh mặt trời đang tràn qua cửa sổ. Ông nhìn vào bảng ma trận đối chiếu của Sophie và chậm rãi thay thế. B là Sh. P là V…

Teabing cười toe toét như một cậu học sinh trong mùa Giáng sinh: "Và mật mã Atbash hé lộ…". Ông dừng lại một lát, "Chúa ơi!". Gương mặt ông trắng bệch đi.

Langdon ngẩng phắt đầu lên.

"Có chuyện gì không ổn?" Sophie hỏi.

"Cô không tin được đâu", Teabing đưa mắt nhìn Sophie, "đặc biệt với cô".

"Ông định nói gì?". Cô nói.

"Điều này… thật là tài tình", ông thì thầm: "Cực kỳ tài tình!".

Teabing viết lại trên giấy. "Nổi trống lên! Đây là mật khẩu của quý vị,, ông giơ cho họ thấy cái ông đã viết.

Sh - V - P - Y - A

Sophie cau mặt: "Nó là cái gì?".

Langdon cũng không nhận ra.

Gịong Teabing như run lên vì kính sợ: "Bạn ạ, đây thực sự là một từ thông thái cổ xưa!".

Langdon đọc lại những chữ đó. Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Lát sau, ông hiểu ra. Ông đã không thấy điều này tới. Một từ thông thái cổ!".

Teabing cười: "Theo nghĩa đen!".

Sophie nhìn từ này và sau đó nhìn đĩa chứ. Ngay lập tức, cô nhận ra là Langdon và Teabing đã không thấy một trục trặc nghiêm trọng: "Khoan! Đây không thể là mật khẩu", cô cãi.

Hộp mật mã không có Sh trên đĩa chữ. Nó dùng bảng chữ cái La Mã truyền thống".

"Đọc từ này lên", Langdon giục. "Hãy nhớ hai điều. Trong ngôn ngữ Hebrew, kí tự cho âm Sh cũng có thể được phát âm như S, phụ thuộc vào trọng âm. Cũng như chữ cái P có thể đọc là F".

SVFYA? Cô nghĩ, bối rối.

"Thiên tài!". Teabing chêm vào. "Chữ cái V thường thay thế cho nguyên âm O!".

Sophie lại nhìn vào các chữ cái, cố đọc lên thành âm chuẩn.

"S… o… f… y… a".

Cô nghe thấy chính tiếng mình, và không thể tin vào cái mình vừa thốt ra. "Sophia? Chữ này phát âm như Sophia?".

Langdon gật đầu: "Phải! Sophia nghĩa đen là thông thái trong tiếng Hy Lạp. Tên gốc của cô, Sophie, là một "từ thông thái".

Sophie bỗng nhớ ông mình da diết. Ông đã mã hóa viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion bằng tên của mình. Cổ họng cô nghẹn lại. Tất cả dường như rất hoàn hảo. Nhưng khi cô quay lại nhìn vào năm đĩa chữ trong hộp mật mã, cô nhận thấy vẫn còn điều gì đó không ổn. "Nhưng khoan đã… Sophia có sáu chữ cái".

Nụ cười của Teabing dường như không bao giờ tắt: "Hãy xem lại bài thơ. Ông cô đã viết "Một từ thông thái cổ".

"Nghĩa là?".

Teabing nháy mắt: "Trong tiếng Hy Lạp cổ, thông thái được viết là S-O-F-I-A".

Sophie cảm thấy một nỗi háo hức cuồng dại khi cô đặt hộp mật mã vào lòng và bắt đầu quay đĩa chữ cái. Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Langdon và Teabing như ngừng thở khi họ đứng nhìn.

S…O…F

"Cẩn thận", Teabing nài nỉ, "thật cẩn thận vào!".

I…A

Sophie xoay đĩa chữ cuối cùng vào thẳng hàng: "Được rồi!". Cô thì thầm, ngước nhìn hai người kia. "Tôi sẽ kéo rời nó ra".

"Chú ý, nhớ cái lọ dấm đấy", Langdon nói, phấn khởi pha lẫn sợ hãi. "Hãy cẩn thận".

Sophie biết rằng nếu hộp mật mã này giống những hộp cô đã từng mở trong thời niên thiếu, tất cả những gì cô cần làm là nắm chặt hai đầu hình trụ, ngay mé ngoài chồng đĩa, và từ từ kéo đều tay về hai phía ngược nhau. Nếu chồng đĩa thẳng hàng đúng mật khẩu, thì một trong hai dầu sẽ trượt mở, giống như nắp một ống kính máy ảnh, và cô có thể với vào bên trong lấy cuộn tài liệu viết trên giấy papyrus, quấn quanh lọ dấm nhỏ. Tuy nhiên, nếu mật khẩu mà họ nhập không đúng, lực kéo ra của Sophie đối với hai đầu hình trụ sẽ truyền tới một đòn bẩy có lắp bản lề ở bên trong, đòn bẩy này sẽ xoay xuống lọt vào cái hốc và tạo áp lực trên chiếc lọ thủy tinh, cuối cùng làm nó vỡ tan nếu cô kéo quá mạnh.

Kéo nhẹ nhàng, cô tự nhủ.

Cả Teabing và Langdon đều cúi về phía Sophie khi cô nắm hai đầu chiếc ống hình trụ trong lòng bàn tay. trong niềm hứng khởi vì đã giải được từ mật mã, Sophie hầu như quên mất cái mà họ mong tìm thấy bên trong. Đó là viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion. Theo Teabing, nó chứa đựng một bản đồ chỉ dẫn tới Chén Thánh, tiết lộ ngôi mộ của Mary Maygdalene và kho báu Sangreal… kho báu tối hậu của sự thật bí mật.

Lúc này, tay nắm chặt ống trụ đá, Sophie kiểm tra lại để đảm bảo tất cả các chữ cái đều đã thẳng hàng với con trỏ. Sau đó, chậm rãi, cô kéo. Không có gì xảy ra. Cô kéo mạnh hơn. Đột nhiên, hòn đá trượt ra giống như một ống kính viễn vọng tinh xảo.

Miếng ghép ở đầu tách rời ra trong tay cô. Langdon và Teabing gần như nhảy lên. Nhịp tim của Sophie đập đồn dập khi cô đặt cái nắp lên trên bàn và nghiêng ống trụ để nhòm vào bên trong.

Một cuộn giấy!

Nhòm vào trong cuộn giấy, Sophie thấy nó được quấn quanh vật hình trụ - cái lọ dấm, cô đoán. Tuy nhiên, lạ thay, tờ giấy bọc xung quanh lọ dấm không phải là thứ giấy mỏng thông thường - papyus mà là giấy da. Thật kì lạ, cô nghĩ, dấm không thể hòa tan giấy bằng da cừu. Cô nhìn lại vào lòng cuộn giấy và nhận ra vật ở giữa cuộn giấy không phải là lọ dấm. Nó là một vật hoàn toàn khác.

"Có gì không ổn sao?", Teabing hỏi. "Kéo cuộn giấy ra đi".

Cau mày, Sophie nắm lấy cuộn giấy da và vật được gói bên trong, kéo cả hai ra khỏi ống đựng.

"Không phải giấy papyrus", Teabing nói. "Nó quá nặng".

"Tôi biết. Nó là thứ để đệm lót".

"Cho cái gì? Cho lọ dấm à?".

"Không!" Sophie mờ cuộn giấy ra, để lộ cái gì được gói bên trong. "Cho cái này".

Khi Langdon nhìn thấy vật bên trong cuộn giấy da, tim ông trĩu xuống.

"Chúa hãy giúp chúng ta?". Teabing nói. "Ông cô quả là một kiến trúc sư tàn nhẫn".

Langdon ngỡ ngàng nhìn trăn trối. Mình thấy Saunière không có ý định làm cho điều này dễ dàng.

Một cái ống trụ thứ hai được đặt trên bàn. Nhỏ hơn. Làm bằng mã não đen. Được đặt nằm gọn trong ống thứ nhất. Đam mê của Saunière đối với thuyết nhị nguyên. Hai ống trụ. Mọi thứ đều thành đôi. Nghĩa là nước đôi. Đực - cái. Đen nằm bên trong trắng.

Langdon cảm thấy mạng biểu tượng đang triển khai.

Trắng sinh ra đen.

Tất cả đàn ông đều sinh ra từ đàn bà.

Trắng - đàn bà.

Đen - đàn ông.

Với lấy cái hộp mật mã nhỏ hơn, Langdon nâng nó lên. Nó trông giống hệt cái hộp thứ nhất, ngoại trừ nó chỉ bằng một nửa về kích cỡ, có màu đen. Ông nghe thấy tiếng ùng ục quen thuộc. Có vẻ như cái lọ dấm mà họ đã nghe trước đây nằm bên trong cái ống trụ nhỏ này.

"Tốt, Robert", Teabing nói, đẩy trang giấy da về phía Langdon. "Các bạn sẽ hài lòng khi nghe thấy rằng chí ít chúng ta cũng đang bay đúng hướng".

Langdon xem xét miếng giấy da dày. Đó là bốn câu thơ khác được viết bằng một kiểu chữ hoa mĩ. Lại là thể thơ ngũ bộ iambic. Bài thơ thật bí hiểm, nhưng Langdon chỉ cần đọc câu đầu tiên cũng thấy được rằng kế hoạch của Teabing bay tới Anh là đắc sách.

Ở LONDON YÊN NGHỈ MỘT HIỆP SĨ ĐƯỢC GIÁO HOÀNG MAI TÁNG

Phần còn lại của bài thơ hàm ý rằng mật khẩu để mở cái ống trụ thứ hai có thể được tìm thấy bằng cách đến thăm ngôi mộ của hiệp sĩ này, ở đâu đó trong thành phố.

Langdon náo nức quay về phía Teabing: "Ngài có biết bài thơ này nhắc đến hiệp sĩ nào không?".

Teabing cười: "Tuyệt đối không. Nhưng tôi biết đích xác chúng ta nên tìm ở hầm mộ nào".

Vào lúc đó cách mười lăm dặm, sáu chiếc xe cảnh sát ở Kent phóng rất nhanh trên những con phố ẩm ướt mưa, hướng về phía sân bay Biggin Hill Executive.

MẬT MÃ DA VINCI
Chương 50

Trung uý Collet tự rót cho mình một ly Perrier từ tủ lạnh của Teabing và sải bước qua phòng khách trở ra ngoài. Thay vì theo Fache tới London là hiện trường hành động, giờ đây anh phải làm "vú em" trông coi đội PTS đang rải ra khắp Château Villette.

Cho tới giờ, các bằng chứng họ phát hiện được không giúp ích gì cho lắm: một viên đạn găm trên sàn nhà, một tờ giấy với các biểu tượng được vẽ nguệch ngoạc kèm theo những từ lưỡi dao và thắt lưng hành xác và một dây lưng có ngạnh đẫm máu mà PTS nói với Collet rằng nó gắn liền với giáo đoàn Thiên Chúa giáo bảo thủ Opus Dei, nhóm này gần đây đã gây chấn động khi một chương trình tin tức vạch trần việc họ tuyển mộ người rất hung hãn ở Paris.

Collet thở dài. Chúc may mắn để hiểu ra được cái mớ hỗn tạp này.

Đi theo hành lang sang trọng, Collet bước vào phòng khiêu vũ rất rộng, nơi người kiểm tra chính của PTS đang bận rộn thu thập dấu vân tay. Anh ta là một người to béo mặc quần có dây đeo.

"Có gì không?", Collet bước vào hỏi.

Người kiểm tra lắc đầu: "Không có gì mới. Nhiều bộ dấu tay khớp với những dấu tìm được khắp ở phần còn lại của ngôi nhà".

"Dấu tay trên chiếc đai hành xác thì sao?".

"Interpol vẫn đang làm việc. Tôi đã nạp vào máy vi tính tất cả những thứ chúng ta tìm thấy".

Collet chỉ vào hai cái túi đựng bằng chứng đã niêm phong ở trên bàn: "Còn những thứ này thì sao?".

Người kia nhún vai: "Sức mạnh của thói quen. Tôi bỏ vào túi tất cả những gì có vẻ đặc biệt".

Collet bước lại. Đặc biệt

"Thật là một người Anh kỳ lạ", người kiểm tra nói. "Hãy nhìn cái này mà xem". Anh ta lục trong các túi đựng vật chứng và chọn ra một thứ, đưa cho Collet.

Bức ảnh thể hiện cổng chính của một thánh đường theo kiến trúc Gothic - một cổng tò vò truyền thống với những chỗ hõm, hẹp dần lại qua nhiều lớp có gờ nối tới một khung cửa nhỏ.

Collet nghiên cứu bức ảnh và hỏi lại: "Đây là thứ đặc biệt. Hãy lật lại".

Ở mặt sau tấm ảnh, Collet thấy những ghi chú nguệch ngoạc bằng tiếng Anh, mô tả gian giữa trống và dài của một nhà thờ lớn như là một sự bí mật bày tỏ lòng tôn kính đối với tử cung người đàn bà. Điều này thật lạ lùng. Tuy nhiên, lời ghi chú mô tả cửa vào của một thánh đường, mới là cái làm anh giật mình.

"Này! Ông ta nghĩ cửa vào thánh đường biểu hiện cái… của đàn bà".

Người nhân viên kiểm tra gật đầu: "Đầy đủ cả mép âm hộ lẹm vào và một cái âm vật nhỏ xinh bên trên khung cửa". Anh thở dài: "Kiểu như khêu gợi ta muốn quay trở về nhà thờ".

Collet cầm chiếc túi đựng vật chứng thứ hai lên. Qua lớp nhựa, anh có thể nhìn thấy một tấm ảnh lớn có vẻ như là tài liệu cổ. Trên đầu bức ảnh ghi:

Les Dossiers Secrets - Number 4° lm 249 (1)

Cái gì đây?". Collet hỏi.

"Tôi không biết. Ông ta có những bản sao như vậy ở khắp nhà nên tôi cho nó vào trong túi".

Collet nghiên cứu tài liệu này.

RIEURE DE SIOIU - LES NAUTONIERS/ GRAND MASTERS (2)

JEAN DE GISORS 1188-1220

MARLE DE SAINT-CLAIR 1220-1266

GUILLAUME DE GISORS 1266-1307

EDOUARD DE BAR 1307-1336

JEAN DE BAR 1336-1351

JEAN DE SAINT-CLAIR 1351-1366

BLANCE D EVREUX 1366-1398

NICOLAS FLAMEL 1398-1418

RENE D ANJOU 1418-1480

IOLANDE DE BAR 1480-1483

SANDRO BOTTICELLI 1483-1510

LEONARDO DA VINCI 1510-1519

CONNETABLE DE BOURBON 1519-1527

FERDINAND DE GONZAQUE 1527-1575

LOUIS DE NEVERS 1575-1595

ROBERT FLUID 1595-1637

J. VALENTIN ANDREA 1637-1654

ROBERT BOYLE 1654-1691

ISAAC NEWTON 1691-1727

CHARLES RADCLYFFE 1727-1746

CHARLES DE LORRAINE 1746-1780

MAXIMILIAN DE LORRAINE 1780-1801

CHARLES NODIER 1801-1844

VICTOR HUGO 1844-1885

CLAUDE DEBUSSY 1885-1914

JEAN COCTEAU 1918-1963

Prieuré de Sion? Collet phân vân.

"Trung úy?". Một nhân viên thò đầu vào. "Tổng đài có một cú điện khẩn cho đại úy Fache, nhưng họ không liên lạc được với đại uý, ông có nhận điện không?".

Collet quay trở lại nhà bếp và nhận cuộc gọi.

Đó là André Vernet.

Âm sắc tao nhã của ông chủ nhà băng không đủ để che đậy sự căng thẳng trong giọng nói của ông: "Tôi nghĩ Đại úy Fache nói là sẽ gọi điện cho tôi, nhưng tôi vẫn chưa nhận được tin tức gì từ ông ta".

"Đại úy đang bận", Collet trả lời. "Tôi có thể gỉúp gì cho ngài?".

Người ta cam đoan với tôi rằng tôi sẽ được cập nhật về diễn tiến công việc của các ông đêm nay".

Trong khoảnh khắc, Collet nghĩ anh đã nghe thấy giọng nói của người đàn ông này ở đâu đó, nhưng không xác định được cụ thể. "Ngài Vernet, tôi đang chịu trách nhiệm điều tra ở Paris.

Tôi là trung úy Collet".

Có một quãng ngưng dài trên đường dây: "Trung úy, xin lỗi, tôi có một cuộc điện thoại khác đang chờ. Tôi sẽ gọi cho ông sau". Ông ta gác máy.

Trong vài giây, Collet vẫn giữ ống nghe. Sau đó mọi thứ trở nên rõ ràng trong đầu anh. "Mình biết mình đã nhận ra giọng nói này! Phát hiện này làm anh há hốc miệng vì kinh ngạc.

Người lái chiếc xe bọc thép Với chiếc Rolex giả.

Bây giờ thì Collet mới hiểu tại sao ông chủ nhà băng lại vội vã cúp máy như vậy. Vernet đã nhớ ra cái tên trung úy Collet - người sĩ quan mà ông ta đã nói dối trắng trợn hồi đầu tối nay.

Collet ngẫm nghĩ về mối liên quan của diễn biến kì lạ này.

Vernet có dính líu. Theo bản năng, anh biết mình nên gọi cho Fache. Theo cảm tính, anh biết sự khám phá may mắn này sẽ là thời điểm để anh toả sáng.

Ngay lập tức anh gọi cho Interpol và yêu cầu tất cả những thông tin mà họ có thể tìm thấy về Nhà băng Ký thác Zurich và chủ tịch của nó, André Vernet.

Chú thích:

(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Những hồ sơ bí mật - Số 40 lm 249.

(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Tu viện Sion - Những người cầm lái, các Đại Sư

"Thắt dây an toàn", phi công của Teabing thông báo khi chiếc Hawker 731 hạ độ cao đi vào một đám mưa bụi ảm đạm buổi sáng. "Chúng ta sẽ hạ cánh sau năm phút nữa".

Teabing cảm thấy niềm vui của người trở về cố hương khi ông nhìn thấy những ngọn đồi mù sương của Kent trải rộng dưới chiếc máy bay đang thấp dần. Từ Anh đến Paris chưa đầy một giờ bay, vậy mà như cách nhau cả một thế giới. Sáng nay, màu xanh đẫm mưa sương của mùa xuân quê hương như đặc biệt chào đón ông. Thời gian của ta ở Pháp đã hết. Ta đang trở về nước Anh trong tư thế chiến thắng. Viên đá đỉnh vòm đã được tìm ra. Tất nhiên, vẫn còn câu hỏi là viên đá đỉnh vòm đó cuối cùng sẽ dẫn đến đâu. Một nơi nào đó trên Vương quốc Anh. Chính xác là đâu, Teabing chưa biết nhưng ông đang nếm hương vị chiến thắng rồi.

Trong khi Langdon và Sophie nhìn theo, Teabing đứng dậy, đi sang mé bên kia cabin, rồi kéo một tấm ván tường sang bên để lộ một chiếc két được giấu kín sau tường. Ông quay số và mở két an toàn, lấy ra hai tấm hộ chiếu. "Giấy tờ cho Rémy và cho tôi". Sau đó, ông rút ra một tập dầy toàn tiền năm mươi bảng. "Và giấy tờ cho hai bạn".

Sophie có vẻ cảnh giác: "Một khoản hối lộ?".

"Ngoại giao sáng tạo mà. Các sân bay hành chính thường có chút chiếu cố. Một nhân viên hải quan Anh sẽ đón chúng ta tại nhà chứa máy bay của tôi cũng được lên máy bay kiểm tra.

Thay vì cho phép anh ta lên, tôi sẽ bảo anh ta là tôi đi cùng một nữ danh nhân Pháp, cô ấy không muốn ai biết mình có mặt ở Anh - báo chí hay làm rùm beng, bạn biết đấy - và tôi sẽ tặng nhân viên đó món tiền boa hậu hĩnh này để cảm ơn về sự kín đáo của anh ta".

Langdon có vẻ ngạc nhiên: "Và người nhân viên hải quan sẽ nhận?".

"Không phải với bất kỳ ai, bình thường thì họ sẽ không nhận, nhưng tất cả những người này đều biết tôi. Tôi không phải là một người buôn vũ khí, lạy Chúa! Tôi được phong hiệp sĩ cơ mà". Teabing mỉm cười. "Tư cách thành viên Hoàng gia có đặc quyền của nó".

Lúc này, Rémy theo lối đi giữa các hàng ghế tiến lại gần, khẩu Heckler & Koch trong tay: "Thưa ngài, nhiệm vụ của tôi là gì?".

Teabing liếc nhìn người thân bộc: "Tôi cần anh ở lại trên máy bay với vị khách của chúng ta cho đến khi chúng tôi quay lại. Chúng tôi không thể kéo lê hắn đi theo khắp London được".

Sophie có vẻ cảnh giác: "Leigh. Tôi thực sự lo rằng cảnh sát Pháp sẽ tìm thấy chiếc máy bay của ngài trước khi chúng ta trở lại".

Teabing cười: "Phải, hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của họ nếu họ lên máy bay và thấy Rémy".

Sophie có vẻ ngạc nhiên về thái độ xàm xỡ của ông: "Leigh, ngài đã vận chuyển một con tin bị trói qua biên giới quốc tế.

Điều này là nghiêm trọng đấy".

"Các luật sư của tôi cũng nghiêm túc" ông đưa mắt nhìn về hướng gã thầy tu ở sau máy bay. "Đồ súc vật này đột nhập vào nhà tôi và suýt giết tôi. Đó là sự thật và Rémy sẽ làm chứng".

"Nhưng ông đã trói anh ta và chở anh ta bằng máy bay tới London?", Langdon nói.

Teabing giơ bàn tay phải lên và phác một cử chỉ như khi thề ở toà án: "Thưa quý tòa, xin hãy tha thứ cho một hiệp sĩ già lập dị về định kiến ngu ngốc của ông ta đối với hệ thống toà án của Anh. Tôi nhận ra là tôi nên gọi đến các nhà chức trách Pháp, nhưng tôi là một kẻ hợm mình và không tin những người Pháp laise-farei(1) đó. Có thể xử một cách đúng đắn. Người đàn ông này đã suýt giết tôi. Và tôi đã có một quyết định liều lĩnh là bắt người hầu của tôi phải giúp tôi đưa hắn ta về Anh, nhưng tại lúc đó tôi đang chịu áp lực quá lớn. Mea culpa. Mea culpai"(2).

Langdon có vẻ hoài nghi: "Leigh, từ miệng ngài nói ra, điều ấy có thể cho qua".

"Thưa ngài?" Viên phi công gọi. "Đài không lưu vừa mới gọi. Họ có vấn đề gì đó về việc duy tu bảo dưỡng ở gần nhà chứa máy bay của chúng ta và yêu cầu tôi đưa máy bay thẳng tới chỗ ga hành khách của sân bay thay vì đến thẳng nhà chứa máy bay".

Teabing thường xuyên đã bay tới Biggin Hill trong hơn một thập kỷ nay và đây là lần đầu tiên có chuyện như thế này. "Họ có nói vấn đề đó là gì không?".

"Người kiểm soát không lưu rất mơ hồ. Điều gì đó về việc khí ga rò rỉ ở trạm bơm xăng thì phải? Họ yêu cầu tôi đỗ phía trước ga hành khách và giữ mọi nguời ở trên máy bay cho đến khi có lệnh khác. Đề phòng về an toàn đấy ạ. Chúng ta không đuợc ra khỏi máy bay cho đến khi chúng ta được những người có thẩm quyền ở sân bay cho phép".

Teabing nghi ngờ. Chắc phải là một vụ rò rỉ khí ga kinh thiên động địa. Trạm bơm xăng cách nhà chứa máy bay của ông những nửa dặm cơ mà.

Rémy cũng có vẻ lo lắng: "Thưa ngài, chuyện này nghe rất trái lẽ thường".

Teabing quay sang Sophie và Langdon: "Các bạn của tôi, tôi có mối nghi ngờ chẳng thú vị gì là chúng ta sắp được cả một uỷ ban đón tiếp".

Langdon khẽ thở dài: "Tôi đoán Fache vẫn nghĩ tôi là đối tượng của ông ta".

"Hoặc là như vậy", Sophie nói, "hoặc là ông ấy dấn sâu quá mức vào vụ này để có thể thú nhận sai lầm của mình".

Teabing không lắng nghe. Bất kể sự cố chấp của Fache thì vẫn cần phải hành động gấp. Không được rời mắt khỏi mục tiêu cuối cùng. Chén Thánh. Chúng ta đã ở rất gần. Bên dưới họ, càng máy bay đã hạ xuống với một tiếng cạch.

"Leigh", Langdon nói, giọng nghe đầy hối hận. "Tôi nên tự nộp mình và tìm cách giải quyết việc này theo pháp luật. Để ông đứng ngoài toàn bộ chuyện này".

"Ôi trời, Robert!" Teabing khoát tay. "Anh thực sự nghĩ là họ sẽ thả những người còn lại trong chúng ta sao? Tôi vừa mới vận chuyển các bạn trái phép. Cô Neveu giúp anh trốn thoát từ Louvre, và chúng ta có một gã bị trói ở đằng sau máy bay. Quả thật, tất cả chúng ta cùng hội cùng thuyền mà".

"Có thể có một phi cảng khác?". Sophie nói.

Teabing lắc đầu: "Nếu bây giờ chúng ta đổi hướng thì vào lúc chúng ta được phép hạ cánh xuống bất cứ nơi nào khác, đoàn chào mừng chúng ta sẽ bao gồm cả xe tăng quân sự!".

Sophie ngồi phịch xuống.

Teabing cảm thấy rằng nếu họ có cơ may trì hoãn việc đối mặt với các nhà chức trách Anh đủ lâu để tìm Chén Thánh thì phải hành động táo bạo hơn. "Chờ tôi một phút", ông nói và đi khập khiễng về phía buồng lái.

"Ông đang làm gì vậy?". Langdon hỏi.

"Họp bàn chuyện mua bán", Teabing nói, tự hỏi không biết phải chi bao nhiêu để thuyết phục phi công của mình thực hiện một chiêu thức hết sức bất thường.

Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: làm việc kiểu buông xuôi, để mặc.
(2) Tiếng Latin trong nguyên bản: Lỗi tại tôi, một câu thường trờ đi trở lại trong những bài kinh sám hối.

Xem tiếp:


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét