MẬT MÃ DA VINCI
Chương 36
Thậm chí với vận tốc khiêm tốn 60km/h, cái giảm xóc treo lủng lẳng
phía trước của chiếc xe tải bọc thép vẫn quẹt cành cạch vào mặt đường ngoại ô
vắng tanh, làm bắn những tia lửa lên mui xe.
Chúng ta phải ra khỏi con đường này, Langdon nghĩ bụng. Ông thậm
chí không rõ họ đang đi về đâu nữa. Chiếc đèn pha duy nhất còn sáng bị va lệch
tâm, giờ đây chiếu xiên xẹo vào cánh rừng ven đường cao tốc. Rõ ràng, tính từ
bọc thép trong cụm từ "xe tải bọc thép" chỉ đúng với thùng chứa hàng
chứ đâu có đúng với phần đằng trước.
Sophie ngồi ở ghế hành khách, thẫn thờ nhìn chiếc hộp gỗ.
"Cô vẫn ổn đấy chứ?" Langdon hỏi.
Sophie có vẻ run: "Anh có tin ông ta không?".
"Về chuyện có ba người nữa bị sát hại ư? Tôi hoàn toàn tin.
Điều đó giải đáp cho một loạt vấn đề - tình trạng tuyệt vọng của ông cô khi
muốn truyền lại viên đá đỉnh vòm cũng như chuyện tay cảnh sát Fache đang ráo
riết săn lùng tôi".
"Không, tôi muốn nói về việc Vernet cố gắng bảo vệ ngân hàng
của ông ta".
Langdon liếc nhìn: "Đối lập với…?".
"Ông ta muốn chiếm lấy viên đá đỉnh vòm cho riêng mình".
Langdon trước đó thậm chí không hề tính đến chuyện đó:
"Làm sao ông ta có thể biết chiếc hộp chứa cái gì?".
"Thì ngân hàng của ông ta cất giữ chiếc hộp này mà. Ông ta
biết ông tôi. Có thể ông ta biết nhiều điều đấy. Có lẽ ông ta đã quyết định
đoạt lấy Chén Thánh cho riêng mình".
Langdon lắc đầu. Vernet không thể là loại người này. "Theo
tôi, chỉ có hai lí do khiến nhiều người đeo đuổi việc tìm kiếm Chén Thánh. Một
là họ rất ngây thơ và tin rằng họ đang kiếm tìm cái Chén của Chúa Jesus đã bao
lâu mất tích…".
"Còn lí do kia".
"Hoặc là họ biết sự thật và bị chính sự thật đó đe doạ. Trong
suốt chiều dài lịch sử, nhiều nhóm đã tìm cách huỷ Chén Thánh".
Sự im lặng giữa hai người càng làm nổi bật tiếng chiếc giảm sóc
quệt trên mặt đường. Họ đã đi được vài cây số, và trong khi quan sát những tia
lửa bắn tóe trước đầu xe, Langdon tự hỏi liệu điều đó có nguy hiểm không. Đằng
nào cũng vậy, nếu họ đi ngang một chiếc xe khác, điều này chắc chắn sẽ thu hút
sự chú ý. Langdon bèn quyết định.
"Để tôi xem có thể nắn lại chiếc giảm sóc được không".
Tạt vào vệ đường, ông đỗ xe lại.
Cuối cùng, yên tĩnh đã trở lại.
Khi Langdon bước về phía đầu xe, ông cảm thấy mình lanh lẹ một cách
đáng ngạc nhiên. Việc phải đối diện với một nòng súng khác nữa đêm nay đã tiếp
cho ông một hơi thở mới. Ông hít mạnh không khí trong lành ban đêm và cố gắng
tập trung trí lực minh mẫn. Kèm theo tình thế nghiêm trọng của kẻ bị săn đuổi,
Langdon bắt đầu cảm thấy gánh nặng của trách nhiệm, cái viễn cảnh là ông và
Sophie có thể đang thực sự nắm giữ một loạt chỉ dẫn mã hóa đưa tới một trong
những bí mật bền lâu nhất của mọi thời.
Cứ như thể nhiệm vụ này vẫn chưa đủ nặng nề, giờ đây Langdon nhận
ra rằng mọi khả năng tìm cách hoàn trả viên đá đỉnh vòm cho Tu viện Sion vừa bị
tiêu tan. Tin có thêm ba vụ sát hại mang những ngụ ý khốc liệt. Tu viện Sion đã
bị kẻ địch cài người vào. Họ đã bị phản. Rõ ràng hội kín này đã bị theo dõi
hoặc là có nội ứng trong hàng ngũ. Điều đó giải thích tại sao Saunière lại trao
viên đá đỉnh vòm cho Sophie và Langdon vốn là người ngoài tổ chức, những người
mà ông biết rằng họ không thỏa hiệp. Chúng ta không dễ gì trả lại viên đá đỉnh
vòm cho hội này được. Thậm chí nếu Langdon biết cách tìm ra được một thành viên
của Tu viện Sion thì cũng rất có thể người đứng ra nhận viên đá đỉnh vòm lại
chính là kẻ thù. Lúc này, chí ít viên đá đỉnh vòm cũng ở trong tay Langdon và
Sophie cho dù họ có muốn hay không.
Phía đầu chiếc xe tải trông còn tệ hơn cả trong tưởng tượng của
Langdon. Chiếc đèn pha bên trái đã tắt ngúm, còn chiếc bên phải nom như một con
ngươi long ra khỏi hốc mắt.
Langdon gắn thẳng chiếc đèn lại nhưng nó lại long ra. Điều đáng
mừng duy nhất là chiếc giảm sóc đằng trước đã tả tơi, gần rụng. Langdon đá vào
đó một cái thật mạnh và cảm thấy ông có thể bẻ nó rời ra hoàn toàn.
Trong khi ông liên tục đá vào thanh sắt cong queo, Langdon nhớ lại
câu chuyện trước đó với Sophie. "Ông tôi đã để lại một tin nhắn thông qua
chiếc máy điện thoại di động". Sophie tiết lộ. "Ông bảo rằng ông cần
phải kể cho tôi nghe về bí mật của gia đình".
Khi ấy, điều đó chẳng có nghĩa gì, nhưng giờ đây khi biết Tu viện
Sion cũng có liên quan, Langdon cảm thấy nổi lên một khả năng mới đáng kinh
ngạc.
Chiếc giảm sóc đột nhiên gẫy đánh cách. Langdon ngừng lại để thở.
Ít ra thì chiếc xe cũng không còn giống pháo hoa ngày mồng bốn tháng bảy (1)
nữa. Ông túm lấy chiếc giảm sóc và kéo nó quắng vào rừng cho khuất mắt. Ông tự
hỏi sau đây họ sẽ đi đâu. Họ không biết làm thế nào để mở hộp mật mã hoặc tại
sao Saunière lại giao cho họ viên đá đỉnh vòm. Khốn thay, sự sống còn của họ
trong đêm nay dường như lại phụ thuộc vào việc tìm ra câu trả lời cho chính
những câu hỏi trên.
Chúng ta cần có sự giúp đỡ, Langdon quyết định. "Một sự giúp
đỡ mang tính chuyên môn.
Trong thế giới của Chén Thánh và trong Tu viện Sion, sự giúp đỡ ấy
chỉ có thể tìm thấy ở một người duy nhất. Tất nhiên, thách thức ở đây sẽ là làm
sao thuyết phục được Sophie về ý tưởng ấy.
Bên trong chiếc xe bọc thép, trong khi chờ Langdon quay trở lại,
Sophie cảm thấy sức nặng của chiếc hộp trên lòng mình và cô hậm hực. Tại sao
ông lại giao cái này cho mình? Cô hoàn toàn không biết phải làm gì với nó.
Suy nghĩ đi, Sophie. Hãy sử dụng cái đầu của mày. Ông mày đang cố
nói điều gì với mày đấy!
Mở chiếc hộp lớn ra, cô xem xét các đĩa quay của hộp mật mã. Một
trắc nghiệm để chứng minh giá trị. Cô cảm thấy bàn tay của ông mình đang làm
việc. Viên đá đỉnh vòm là một bản đồ mà chỉ những người xứng đáng mới lần theo
được. Nghe đặc khẩu khí của ông cô.
Nâng hộp mật mã ra khỏi chiếc hộp lớn, Sophie đặt những ngón tay
của mình lên trên những đĩa quay. Năm chữ cái. Cô quay lần lượt từng chữ cái
một. Cơ cấu hoạt động trơn tru. Cô sắp những đĩa sao cho các chữ cái cô đã chọn
thẳng hàng giữa hai mũi tên bằng đồng ở mỗi đầu hình trụ. Những đĩa quay lúc
này chắp vần thành một từ năm chữ cái mà Sophie biết rằng nó quá hiển nhiên đến
mức phi lí.
G-R-A-I-L(2).
Cô nhẹ nhàng cầm hai đầu hình trụ rồi kéo nó để từ từ gây ra một áp
suất. Hộp mật mã vẫn không nhúc nhích gì cả. Cô nghe thấy dấm chảy òng ọc phía
trong và ngửng kéo. Rồi cô lại thử một từ khác.
V-I-N-C-I
Vẫn chẳng thấy chuyển động gì.
V-O-U-T-E (3)
Chẳng thấy gì. Hộp mật mã vẫn đóng chặt.
Chau mày, cô đặt nó trở vào trong chiếc hộp gỗ hồng rồi đậy nắp
lại. Phóng mắt ra ngoài nhìn Langdon, Sophie cảm thấy biết ơn trời đã cho
Langdon ở bên cô đêm nay. P.S. Hãy tìm Robert Langdon Langdon. Suy lý của ông
cô nhằm kéo Langdon vào cuộc giờ đây đã trở nên rõ ràng. Sophie không được
trang bị đầy đủ kiến thức để hiểu những ý đồ của ông, vậy nên ông đã chỉ định
Robert Langdon làm người hướng dẫn cho cô. Một vị thầy để kèm cặp cô. Không may
cho Langdon, đêm nay hoá ra ông còn Có trách nhiệm hơn cả một người thầy. Ông
đã trở thành cái đích săn lùng của tay cảnh sát Bezu Fache… và một lực lượng vô
hình đang ráo riết muốn sở hữu Chén Thánh.
Bất kể Chén Thánh hóa ra là cái gì.
Sophie tự hỏi liệu việc tìm ra Chén Thánh có bõ để cô liều mạng
sống của mình hay không.
Khi chiếc xe tải lại tăng tốc, Langdon lấy làm hài lòng thấy nó
chạy êm ru: "Cô có biết đường đến Versailles không?".
Sophie đưa mắt nhìn: "Anh muổn đi ngắm cảnh?".
"Không, tôi có một kế hoạch. Tôi biết một sử gia chuyên nghiên
cứu về tôn giáo, ông ta sống gần vùng Versailles. Tôi không nhớ chính xác nơi ông
ấy sống. Nhưng chúng ta có thể tìm ra. Tôi đã đến thăm điền trang của ông ấy
một vài lần.
Tên ông ấy là Leigh Teabing. Trước đây ông từng là một sử gia thuộc
Hoàng gia Anh".
"Và ông ta sống ở Paris?".
"Đam mê cả đời của Teabing là Chén Thánh. Khi những xì xào về
viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion nổi lên khoảng mười lăm năm về trước, ông đã
chuyển tới Pháp nhằm tìm kiếm trong các nhà thờ với hi vọng sẽ tìm thấy nó. Ông
đã viết một vài cuốn sách về viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion và Chén Thánh.
Ông có thể giúp chúng ta mở được hộp mật mã và gợi ý cho chúng ta nên làm gì
với nó".
Mắt Sophie tỏ vẻ thận trọng: "Anh có thể tin ông ta
sao?".
"Về mặt nào? Về việc ông ta sẽ không đánh cắp thông
tin?".
"Và không nộp chúng ta cho cảnh sát".
"Tôi không có ý định nói cho ông ấy biết cảnh sát đang truy
lùng chúng ta. Tôi hy vọng ông ấy sẽ cho chúng ta tá túc cho đến khi chúng ta
làm rõ mọi chuyện".
"Robert này, anh có nghĩ tới việc mọi đài truyền hình trên đất
Pháp có thể đã sẵn sàng phát đi hình ảnh của chúng ta hay không? Bezu Fache
luôn biết cách lợi dụng các phương tiện truyền thông. Hắn sẽ không để chúng ta
tự do đi hết nơi này đến nơi khác mà không bị phát hiện".
"Tuyệt vời, Langdon nghĩ bụng. Cuộc ra mắt của mình trên
Truyền hình Pháp sẽ mang tiêu đề "Kẻ bị săn lùng ráo riết nhất
Paris". Chí ít Jonas Faukman cũng sẽ hài lòng: mỗi khi Langdon được đưa
tin trên báo đài, số lượng sách bán ra của ông ta đều tăng vọt lên.
"Ông ta có phải là một người bạn tốt không?". Sophie hỏi.
Langdon không tin Teabing là người ham theo dõi tivi, nhất là vào
giờ này, nhưng dẫu sao câu hỏi đó của Sophie cũng đáng cân nhắc. Linh tính mách
bảo Langdon rằng Teabing là một người hoàn toàn đáng tin cậy. Một bến đậu an
toàn lí tưởng.
Xét hoàn cảnh cụ thể, Teabing có thể sẽ vượt lên bản thân để giúp
họ đến mức tối đa có thể. Không chỉ vì ông ta chịu ơn Langdon mà còn vì ông là
một chuyên gia nghiên cứu về Chén Thánh, mà Sophie thì khẳng định rằng ông cô
là Đại sư của Tu viện Sion. Nếu Teabing nghe thấy điều này, ông ta ắt thèm nhỏ
dãi muốn được giúp họ tháo gỡ chuyện này.
"Teabing có thể là một đồng minh đầy quyền năng", Langdon
nói. "Điều đó còn phụ thuộc vào việc cô muôn kể cho ông ta nghe những
gì".
"Fache có thể sẽ treo thưởng bằng tiền".
Langdon cười: "Hãy tin tôi, tiền là thứ chót hạng mà tay này
cần đến". Leigh Teabing giàu theo cái cách giàu của những nước nhỏ. Là hậu
duệ của quận công đầu tiên của dòng họ Lancaster lại Vương quốc Anh, Teabing
nhận được của cải theo cái cách cổ xưa - thừa kế. Điền trang của ông ta ở vùng
ngoại thành Paris là một cung điện thế kỉ XVII với hai con hồ riêng.
Langdon gặp Teabing lần đầu tiên cách đây một vài năm thông qua Đài
phát thanh Anh quốc BBC. Teabing đã tiếp cận BBC với đề nghị làm một bộ phim
tài liệu lịch sử, trong đó, ông sẽ giới thiệu lịch sử đầy xung đột của Chén
Thánh với khán giả xem truyền hình. Những nhà sản xuất chương trình của BBC rất
thích giả thuyết sốt dẻo của Teabing, cũng như công việc nghiên cứu uy tín và
năng lực của ông, nhưng người ta lo ngại rằng khái niệm này gây sốc và khó nuốt
đến mức, chung cuộc, nó có thể làm hoen ố danh tiếng của đài với tư cách là một
cơ quan báo chí có chất lượng cao. Theo gợi ý của Teabing, hãng BBC đã giải tỏa
được nỗi sợ mất uy tín ấy bằng cách thỉnh cầu một số nhà sử học được khắp thế giới
kính nể tham gia vào ba đoạn phim đặc biệt, tất cả họ đều xác định tính chất lạ
kì của bí mật về Chén Thánh, dựa trên nghiên cứu của riêng từng người.
Langdon ở trong số những nhân vật được lựa chọn ấy.
Đài BBC đã đưa Langdon đến điền trang của Teabing ở Paris bằng máy
bay để quay phim. Langdon ngồi trước máy quay trong phòng khách sang trọng của
Teabing và tham gia vào câu chuyện của ông ta, thừa nhận thái độ hoài nghi ban
đầu của mình khi nghe câu chuyện dị bản về Chén Thánh, rồi miêu tả những năm nghiên
cứu đã thuyết phục mình như thế nào để đi đến tin rằng câu chuyện đó là thật.
Cuối cùng, Langdon trình bày một vài trong số những nghiên cứu của riêng mình -
một loạt các mối liên hệ kí tượng học hỗ trợ mạnh mẽ cho những giả thuyết gây
tranh cãi ấy.
Khi chương trình phát ở Anh quốc, bất chấp thành phần tham dự và
những bằng chứng thông qua các tài liệu xác thực, giả thuyết này đã đụng chạm
mạnh với nếp tư duy Cơ đốc phổ biến đến nỗi lập tức vấp phải một cơn bão tố thù
địch tẩy chay.
Chương trình này chưa bao giờ được phát ở Mỹ, nhưng ảnh hưởng của
nó lại vang vọng khắp cả Đại Tây Dương. Ít lâu sau, Langdon nhận được một tấm
thiếp từ một người bạn cũ - vài chữ đơn giản: "Et tu, Robert?" (Cả
anh sao, Robert?)
"Robert này" Sophi hỏi "Anh chắc chắn là chúng ta có
thể tin người này chứ?".
"Tôi hoàn toàn chắc chắn. Chúng tôi là những đồng nghiệp, ông
ta không cần tiền đâu và tình cờ tôi biết được rằng ông ấy rất khinh thường
giới cầm quyền Pháp. Chính phủ Pháp đã đánh thuế ông đến mức phi lý bởi vì ông
đã mua một điểm mốc lịch sử (4). Ông ấy sẽ không vội vã hợp tác với Fache
đâu".
Sophie nhìn sâu vào con đường tối đen như mực: "Nếu chúng ta
tìm gặp ông ta, anh muốn cho ông ta biết đến đâu?".
Langdon có vẻ chẳng lo lắng chút nào: "Hãy tin tôi đi, Leigh Teabing
là người am hiểu tường tận về Tu viện Sion và Chén Thánh hơn bất kì ai trên
đời".
Sophie nhìn Langdon: "Hơn cả ông tôi sao?".
"Ý của tôi là anh ấy am hiểu chuyện này hơn bất kì ai ở ngoài
hội kín đó".
"Làm sao anh có thể biết được Teabing không phải là một thành
viên của tổ chức này?".
Teabing đã bỏ cả đời để tìm cách phổ biến sự thật về chiếc Chén
Thánh. Trong khi lời thề của Tu viện Sion là giấu kín bản chất thật sự của Chén
Thánh".
"Theo tôi, điều đó nghe như một sự xung đột về lợi ích
vậy".
Langdon hiểu những lo lắng của cô. Saunière đã trực tiếp trao lại
cho cô hộp mật mã, mặc dù cô chẳng biết nó đựng gì hoặc phải làm gì với nó, nên
cô rất ngần ngại khi phải dính dáng đến một người hoàn toàn xa lạ. Trong việc
đánh giá những thông tin còn bí ẩn, bản năng bao giờ cũng là một phương pháp có
hiệu quả. "Chúng ta chưa cần nói ngay với Teabing về viên đá đỉnh vòm.
Hoặc thậm chí không nói gì hết.
Ông ấy sẽ cho chúng ta một nơi trú ẩn, cả thời gian để suy ngẫm và
có thể, khi chúng ta nói chuyện với ông ấy về Chén Thánh, biết đâu cô sẽ vỡ lẽ
ra tại sao ông cô lại trao cho cô viên đá đỉnh vòm".
Cho chúng ta chứ", Sophie sửa lại.
Langdon cảm thấy một niềm tự hào khiêm tốn và một lần nữa ông lại
tự hỏi tại sao ông Saunière cố ý gán ông vào chuyện này.
"Anh biết ít nhiều về nơi ở của Teabing chứ?".
"Điền trang của ông ấy được gọi là Château Villette".
Sophie quay lại với vẻ không tin: "Chính Château Villette
sao?".
"Đúng vậy".
"Bạn oách đấy".
"Cô biết điền trang ấy?".
"Tôi đã đi qua đó. Nó nằm trong một vùng toàn các lâu đài.
Cách đây hai mươi phút lái xe".
Langdon cau mày: "Xa đến vậy sao?".
"Đúng thế, ngần ấy thời gian đủ cho anh nói cho tôi biết Chén
Thánh thực ra là cái gì".
Langdon dừng lại: "Tôi sẽ kể cho cô nghe tại nhà Teabing. Ông
ta và tôi chuyên về những lĩnh vực khác nhau của huyền thoại này, cho nên, nghe
cả hai chúng tôi, cô sẽ nắm được đầy đủ câu chuyện về Chén Thánh". Langdon
mỉm cười. "Ngoài ra, Chén Thánh là cả cuộc đời Teabing, nên nghe Leigh
Teabing kể chuyện Chén Thánh cũng giống như nghe thuyết tương đối từ chính
miệng Einstein".
Hy vọng Leigh không phản đối khách đến vào lúc đêm khuya".
Nói cho chính xác, đó đích thị là ngài Leigh. Langdon chỉ mắc lầm
lẫn này có một lần. "Teabing quả là một tính cách đặc biệt. Nữ hoàng đã phong
tước hiệu Hiệp sĩ cho ông cách đây mấy năm sau khi ông soạn một bộ lịch sử kì
vĩ về Ngôi nhà ở xứ York".
Sophie nhìn Langdon: "Anh đang đùa, phải không? Chúng ta sắp
tới thăm một Hiệp sĩ ư?".
Langdon mỉm cười vụng về: "Sophie ạ, chúng ta đang đi tìm Chén
Thánh. Còn ai có thể giúp chúng ta đắc lực hơn một hiệp sĩ?".
Chú thích:
(1) Quốc khánh Mỹ.
(2) Tiếng Anh: Chén Thánh
(3) Tiếng Pháp: viên đá đỉnh vòm.
(4) Điền trang của ông là một cung điện thế kỷ XVII.
Khu đất rộng 185 mẫu của Château Villette nằm ở vị trí 25 tây bắc
Paris trong vùng ngoại ô Versailles. Được thiết kế bởi kiến trúc sư Francois
Mansart cho Bá tước Aufflay vào năm 1668, đây là một trong những lâu đài lịch
sử quan trọng nhất ở Paris. Hoàn chỉnh với hai con hổ hình chữ nhật và những
khu vườn do kiến trúc sư Le Nôtre thiết kế, Château Villette là một toà lâu đài
khiêm nhường hơn là uy nghi lộng lẫy. Người ta âu yếm mệnh danh cho nó là
Petite Versailles- Versailles nhỏ.
Langdon hãm phanh và chiếc xe tải bọc thép rùng mình dừng lại ở
chân đường xe vào lâu đài dài tới một dặm. Bên kia chiếc cổng bảo vệ uy nghi,
tòa dinh thự của Ngài Leigh Teabing nổi lên xa xa trên một bãi cỏ. Tấm biển
trên cổng ghi bằng tiếng Anh: PRIVATE PROPERTY. NO TRESPASSING (Tài sản tư
nhân. Không được phép xâm phạm).
Như để tuyên bố rằng tự bản thân nhà mình là một đảo Anh quốc trên
đất Pháp, Teabing không chỉ trương biển bằng tiếng Anh, mà còn cho đặt hệ thống
liên lạc từ cổng vào ở phía bên phải của chiếc xe tải - ở tất cả các quốc gia
châu Âu phía này là phía ghế hành khách, ngoại trừ nước Anh.
Sophie nhìn hệ thống liên lạc đặt sai chỗ bằng con mắt lạ lùng:
"Nếu như ai đó tới đây mà không chở hành khách thì sao?".
"Đừng hỏi", Langdon có trải nghiệm này với Teabing,
"Ông ấy thích mọi thứ vẫn theo cách bên quê nhà".
Sophie hạ cửa xe bên phía cô: "Anh nên nói thì hơn".
Langdon xoay người đổi tư thế và vươn mình ra qua Sophie để bấm nút
trên hệ thống liên lạc: Thoảng một mùi nước hoa quyến rũ từ Sophie phả vào mũi
ông và ông nhận ra họ đang kề sát bên nhau biết bao. Ông vẫn đợi trong tư thế
ngả người bất tiện ấy, trong khi chuông điện thoại bắt đầu reo trên chiếc micrô
nhỏ.
Cuối cùng thì hệ thống liên lạc cũng kêu lạo xạo và một giọng Pháp
cáu kỉnh lên tiếng: "Château Villette đây. Ai đang gọi đấy?".
"Tôi là Robert Langdon". Langdon nói to, vẫn xoài người
trên lòng Sophie, "Tôi là một người bạn của ngài Leigh Teabing.
Tôi cần sự giúp đở của ông ấy".
Ông chủ tôi đang ngủ. Cũng như tôi đây. Ông có công chuyện gì với
ông chủ tôi?".
"Đây là chuyện riêng. Một vấn đề ông ấy đặc biệt quan
tâm".
"Vậy thì tôi chắc chắn rằng ông chủ sẽ vui lòng tiếp ngài vào
sáng mai!".
Langdon xoay người đi một chút: "Chuyện này rất quan trọng
đấy".
"Giấc ngủ của ngài Leigh cũng rất quan trọng. Nếu ông là bạn,
thì hắn phải biết rằng ngài không được khoẻ chứ".
Ngài Leigh Teabing bị bại liệt từ hồi nhỏ, và bây giờ vẫn phải đeo
nẹp chân và dùng nạng để đi lại, nhưng Langdon thấy ông vẫn tràn trề nhựa sống
trong lần gặp trước đến nỗi khó có thể coi đó là một tật nguyền. "Làm ơn
nói với ngài là tôi đã phát hiện được thông tin mới về Chén Thánh. Mà thông tin
ấy không thể chờ đến sáng mai được".
Một quãng ngừng kéo dài.
Sophie và Langdon đợi, động cơ xe tải vẫn ì ầm chạy không tải.
Cả một phút trôi qua.
Cuối cùng ai đó lên tiếng: "Ôi ông bạn của tôi, tôi dám cá là
anh vẫn đang theo giờ tiêu chuẩn ở Harvard", giọng nói mạnh mẽ và nhẹ
nhàng.
Langdon toét miệng cười khi nhận ra chất giọng Anh đặc sệt ấy:
"Leigh à, xin lỗi vì đã đánh thức ông vào cái giờ khiếm nhã này".
"Người giúp việc của tôi nói rằng không những anh đang ở Paris
mà còn muốn tiết lộ thông tin về Chén Thánh nữa".
"Tôi nghĩ điều đó có thể lôi ông ra khỏi giường mà".
"Thì thế đấy".
"Liệu có cơ may là ông mở cửa tiếp một người bạn cũ
không?".
"Những ai kiếm tìm sự thực thì còn hơn cả bạn bè. Họ là anh em
ruột thịt".
Langdon đảo mắt nhìn Sophie, quá quen với cái thói thích diễn kịch
của Teabing.
"Thực ra tôi sẽ mở cửa thôi", Teabing tuyên bố,
"nhưng trước tiên tôi phải xác định tấm lòng chân thật của anh đã. Một bài
kiểm tra sát hạch về danh dự đối với anh. Anh phải trả lời ba câu hỏi".
Langdon rên rỉ rồi thì thầm với Sophie: "Hãy chịu đựng cùng
tôi nhé. Tôi đã nói trước rồi mà, ông ấy là một tính cách đặc biệt".
"Câu hỏi đầu tiên của anh đây", Teabing tuyên bố, giọng
điệu như Hercule. "Tôi phải đãi anh cà phê hay trà?".
Langdon biết Teabing rất ghét cà phê Mỹ: "Trà đi. Hiệu Earl
Grey".
"Rất tốt. Câu hỏi thứ hai. Anh dùng dường hay sữa?".
Langdon đắn đo.
"Sữa đi", Sophie thì thầm bên tai ông. "Tôi nghĩ
người Anh sẽ dùng sữa".
"Sữa", Langdon nói.
Im lặng.
"Đường được không?".
Teabing không nói gì.
Khoan! Giờ thì Langdon đã nhớ ra thứ đồ uống đăng đắng mà ông đã
được mời trong cuộc đến thăm lần thước và nhận ra câu hỏi này là một cái mẹo.
"Chanh!" ông tuyên bố. "Earl Grey với chanh".
"Quả vậy". Giờ đây Teabing có vẻ rất khoái. "Và cuối
cùng, tôi sẽ hỏi anh một câu nghiêm túc nhất". Teabing dừng lại rồi sau đó
nói bằng một giọng rất trịnh trọng. "Lần cuối cùng một vận động viên chèo
thuyền của trường Harvard thắng một tay đua của trường Oxford tại giải Henley
là vào năm nào?".
Langdon không biết, nhưng ông có thể mường tượng ra lí do duy nhất
câu hỏi được đưa ra: "Một trò hề lố bịch như thế chưa bao giờ xảy ra
cả".
Cửa bật mở: "Trái tim anh chân thật, anh bạn của tôi. Anh có
thể vào".
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 37
"Ngài Vernet!" Người quản lí trực đêm của Ngân hàng ký
thác Zurich nhẹ cả người khi nghe thấy giọng của ông chủ tịch ngân hàng trên
điện thoại. "Ngài vừa đi đâu thế ạ? Cảnh sát đang ở đây. Tất cả mọi người
đều đang đợi ngài!".
"Tôi đang gặp một rắc rối nhỏ", ông chủ tịch ngân hàng
nói, giọng nghe có vẻ khổ sở. "Tôi cần ông giúp ngay".
Ngài đang gặp chuyện nghiêm trọng hơn một rắc rối nhỏ nhiều, người
quản lí nghĩ thầm. Cảnh sát đã phong toả toàn bộ ngân hàng và đang doạ rằng
đích thân tay đại uý của DCPJ sẽ đến với lệnh khám xét mà ngân hàng đòi hỏi
phải xuất trình. "Tôi có thể giúp ngài bằng cách nào?".
"Chiếc xe tải bọc thép số ba. Tôi cần phải tìm ra nó".
Bối rối, người quản lí kiểm tra lịch phân phát hàng: "Nó vẫn
còn ở đây mà. Tại bãi bốc dỡ tầng một".
"Thực tế là không phải vậy đâu. Hai kẻ bị cảnh sát truy lùng
đã đánh cắp chiếc xe tải đó rồi".
"Cái gì? Làm sao chúng có thể lái xe ra khỏi ngân hàng được cơ
chứ?".
"Tôi không thể nói chi tiết trên điện thoại được, nhưng chúng
ta gặp một tình huống có thể cực kì bất lợi cho ngân hàng".
"Ngài cần tôi giúp gì đây?".
"Tôi muốn ông khởi động hệ thống phát tín hiệu khẩn cấp của
chiếc xe tải đó".
Người quản lí trực đêm dõi mắt vào hộp điều khiển LoJack đằng kia
căn phòng. Cũng giống như rất nhiều chiếc xe bọc thép khác, mỗi chiếc xe tải
của ngân hàng đều được trang bị một hệ thống được kiểm soát từ ngân hàng thông
qua máy radio, hệ thống này có thể được khởi động từ ngân hàng. Người quản lí
mới chỉ sử dụng hệ thống báo động này có một lần, sau mỗi vụ cướp, và nó đã
hoạt động một cách hoàn mĩ không thể chê vào đâu được - xác định vị trí của
chiếc xe tải và tự động truyễn toạ độ về các nhà chức trách. Tuy nhiên, tối nay
người quản lí lại có cảm giác rằng ông chủ tịch đang hy vọng mình sẽ hành động
thận trọng hơn mọi ngày. "Thưa ngài, ngài phải hiểu rằng nếu tôi khởi động
LoJack thì hệ thống báo động sẽ ngay lập tức thông báo cho các nhà chức trách
biết chúng ta đang gặp rắc rối".
Vernet im lặng trong vài giây: "Phải, tôi hiểu. Dù sao cũng cứ
làm thế đi. Xe tải số ba. Tôi sẽ giữ máy. Tôi cần biết vị trí chính xác của
chiếc xe tải đó ngay sau khi ông xác định được".
"Tôi sẽ làm ngay, thưa ngài".
***
Ba mươi giây sau đó, cách ngân hàng bốn mươi cây số, một hệ thống
báo động nhỏ xíu được giấu kín dưới gầm chiếc xe tải bọc thép bắt đầu khởi động
nhấp nháy.
Khi Langdon và Sophie lái chiếc xe tải bọc thép trên đoạn đường
ngoằn ngoèo giữa hai hàng cây dương về phía toà nhà, Sophie đã có thể cảm thấy
cơ bắp mình thư giãn. Thật nhẹ người khi thoát ra khỏi đường giao thông công
cộng, và cô nghĩ ít có nơi nào trú chân an toàn hơn là khu điền trang kín cổng
cao tường của người nước ngoài vui tính này.
Họ rẽ vào đoạn đường xoáy vòng tròn và Château Villêtte hiện ra
trước mắt họ ở phía bên phải. Tòa nhà cao ba tầng và dài ít nhất mười sáu mét,
mặt tiền bằng đá xám, chiếu sáng bởi những trụ đèn chiếu đặt bên ngoài. Mặt
tiền thô nháp này kề sát và tương phản với những khu vườn cảnh tinh khiết và hồ
nước như gương soi.
Đèn trong nhà lúc này vừa bật lên.
Thay vì lái xe đến cửa trước, Langdon lái vào khu đỗ xe náu dưới
những cây vạn niên thanh. "Chẳng tội gì phơi nó ra để từ ngoài đường cái
cũng nhìn rõ mồn một", ông nói. "Hoặc là để Leigh thắc mắc tại sao
mình lại đến trong chiếc xe bọc thép tả tơi thế này".
Sophie gật đầu: "Chúng ta làm gì với chiếc hộp mật mã này đây?
Có lẽ không nên để nó lại trong xe, nhưng nếu Leigh nhìn thấy nó, chắc chắn ông
ta sẽ muốn biết đó là cái gì".
"Đừng lo", Langdon nói, rồi cởi áo khoác khi bước ra khỏi
chiếc xe. Ông cuộn chiếc áo khoác bằng vải tuýt quanh chiếc hộp rồi ôm bọc đó
trong tay như ẵm trẻ vậy.
Sophie có vẻ vẫn hoài nghi: "Tinh vi".
"Teabing không bao giờ tự ra mở cửa, ông ta thích bước vào khi
khách đã yên vị. Tôi sẽ tìm thấy một nơi nào đó bên trong nhà để cất giấu cái
này trước ông ấy gặp chúng ta". Langdon dừng lại. "Thực ra, có lẽ tôi
nên dặn cô điều này trước khi chúng ta nói chuyện với ông ấy. Ngài Leigh là
người có khiếu hài hước mà mọi người thường cảm thấy hơi… kì dị một chút".
Sophie không tin là còn có điều gì đêm nay có thể khiến cô coi là
kỳ dị.
Lối đi dẫn tới cửa vào chính được rải sỏi. Nó lượn tới một cánh cửa
bằng gỗ sồi chạm trổ và gỗ anh đào, với một chiếc vòng gõ cửa bằng đồng to như
quả bưởi. Trước khi Sophie nắm lấy chiếc vòng đó, cánh cửa đã mở tung ra từ bên
trong.
Một người quản gia nghiêm trang và thanh lịch đứng trước mặt họ,
chỉnh lại lần cuối chiếc cà vạt trắng và bộ tuxedo mà rõ ràng ông ta vừa mới
mặc vào. Trông ông ta trạc ngũ tuần, nét mặt tao nhã và vẻ nghiêm khắc cho thấy
rành là ông ta chẳng khoái gì sự hiện diện của họ ở đây.
"Ngài Leigh sẽ xuống ngay bây giờ", ông ta nói dõng dạc
bằng chất giọng Pháp đặc sệt. "Ông chủ đang mặc trang phục.
Ông ấy không muốn tiếp đãi khách trong khi đang bận đồ ngủ.
Tôi có thể giúp ông cầm chiếc áo khoác được không?" Ông ta
gườm gườm nhìn bọc vải tuýt trong tay Langdon.
"Cám ơn, tôi cầm được mà".
"Tất nhiên là được. Xin mời đi lối này".
Người quản gia dẫn họ đi xuyên qua một phòng chờ sang trọng lát cẩm
thạch rồi vào một phòng khách trang trí tuyệt đẹp dưới ánh sáng êm dịu từ những
ngọn đèn rủ tua kiểu Victoria. Không khí trong nhà có vẻ rất cổ xưa và cách nào
đó lại có chất vương giả với mùi thuốc lá tẩu, mùi lá trà, mùi rượu vang Tây
Ban Nha đang nấu và cả mùi đất của kiến trúc đá.
Trên nền bức tường phía xa, giữa hai bộ áo giáp sáng lấp lánh là
một lò sưởi xù xì đủ lớn để nướng cả một con bò đực. Bước tới lò sưởi, người
quản gia quỳ xuống và đánh một que diêm, Châm vào mớ củi gỗ sồi đã xếp sẵn và
nhóm lò lên. Một ngọn lửa nhanh chóng bùng lên lách tách.
Người quản gia đứng lên và vuốt phăng chiếc áo vét của mình:
"Ông chủ tôi đề nghị quí khách cứ tự nhiên như ở nhà". Nói rồi, ông
đi khỏi, để Langdon và Sophie ở lạỉ một mình.
Sophie phân vân không biết nên ngồi lên thứ gì trong số những đồ cổ
kê cạnh lò sưởi - chiếc đivăng nhung thời Phục hưng, chiếc xích đu hình móng
đạỉ bàng hay là đôi ghế nguyện bằng đá nom như vừa được khuân ra từ một điện
thờ Byzantine nào đó.
Langdon lôi hộp mật mã ra khỏi chiếc áo khoác, đoạn tiến tới chiếc
đivăng nhung kia và luồn chiếc hộp gỗ xuống gầm đivăng, khuất hẳn tầm nhìn. Rồi
rũ mạnh chiếc áo, ông mặc nó trở lại, vuốt phẳng ve áo và vừa mỉm cười với
Sophie vừa ngồi ngay lên chỗ vừa cất giấu kho báu.
Chiếc đi văng này đây, Sophie nghĩ bụng rồi ngồi xuống bên cạnh
Langdon.
Trong khi đăm đăm nhìn ngọn lửa đang to dần, tận hưởng hơi ấm toả
ra, Sophie có cảm giác ông cô ắt rất thích căn phòng này. Ván lát tường bằng gỗ
màu đen được trang trí bằng những bức hoạ của các bậc thầy thời xưa, trong số
đó cô nhận ra một bức Poussin - người hoạ sĩ ưa thích thứ hai của ông cô. Trên
mặt lò sưởi, một bức tượng bán thân nữ thần Isis đang quan sát toàn bộ căn
phòng.
Ngay sát dưới nữ thần Ai Cập, ở bên trong lò sưởi, có hai máng xối
nước hình đầu thú được dùng làm vỉ lò, miệng của chúng há hốc để lộ ra cổ họng
rỗng toác đầy đe doạ. Hồi bé, những chiếc máng xối nước hình thú như vậy bao
giờ cũng khiến cho Sophie hoảng sợ, cho mãi tới khi ông cô chữa cho cô khỏi cảm
giác sợ hãi ấy bằng cách đưa cô bé lên nóc Nhà thờ Đức Bà trong một cơn mưa
giông. "Công chúa, cháu hãy nhìn vào những con vật ngốc nghếch này",
nói rồi ông chỉ về phía những máng xối nước mưa hình thú với những cái miệng
đang phun nước tung toé kia. "Cháu có nghe thấy cái tiếng ngồ ngộ trong
cuống họng chúng không?". Sophie gật gật đầu, rồi mỉm cười khi nghe thấy
tiếng nước chảy ồng ộc trong cổ họng của những con thú ấy. "Bọn chúng đang
xúc miệng đấy", ông nói với cô bé. "Ôi những con thú biết xúc miệng -
Cargariser!" Và đó cũng chính vì thế mà người ta đặt những cái tên thật
ngớ ngẩn cho những con thú ấy.
Từ đó Sophie không bao giờ còn sợ chúng nữa.
Kí ức thân yêu ấy khiến Sophie cảm thấy quặn đau khi thực tế nghiệt
ngã của vụ giết người lại bóp chặt tlm cô. Ông đã ra đi rồi. Cô hình dung hộp
mật mã ở dưới đivăng và tự hỏi không biết Leigh Teabing có cách nào để mở nó
hay không. Hay là ta cứ hỏi thẳng ông ấy. Lời trăng trối của ông cô đã dặn cô
tìm Robert Langdon. Ông chẳng nói gì về chuyện kéo thêm ai khác vào cuộc. Chúng
ta cần có một nơi để trốn. Sophie tự nhủ và quyết định sẽ tin tưởng vào nhận
định của Robert.
"Ngài Robert", một giọng nói oang oang đâu đó phía sau
họ, "Tôi thấy là ngài đi cùng với một thiếu nữ".
Langdon đứng lên. Sophie cũng bật dậy. Giọng nói ấy vọng xuống từ
đầu cầu thang vòng cung, uốn khúc lên tầng hai chìm trong bóng tối. Trên đầu
cầu thang, một hình người chuyển động trong bóng tối, chỉ thấy được vóc dáng mà
thôi.
"Xin chào", Langdon nói vọng lên, "Ngài Leigh, tôi
xin giới thiệu đây là cô Sophie Neveu".
"Rất hân hạnh", Teabing hiện ra dưới ánh đèn.
"Cảm ơn ngài đã tiếp chúng tôi", Sophie nói, lúc này đã
thấy rõ ông ta mang nẹp chân bằng kim loại và dùng nạng để di chuyển. Ông ta
đang bước từng bậc một xuống cầu thang, "Tôi biết giờ đã rất khuya".
"Bạn thân mến, khuya quá hóa sớm!" ông mỉm cười:
"Vous ri etes pas Americaine?" (1).
Sophie lắc đầu: "Parisienne"(2).
"Tiếng Anh của cô rất tuyệt đấy".
"Cám ơn ngài. Tôi đã học tại trường Hoàng gia Holloway".
"Ra thế, thảo nào", Teabing tập tễnh bước xuống bậc bậc
dưới. "Có lẽ Robert đã kể cho cô biết tôi đã từng giảng dạy ở
Oxford", Teabing nở một nụ cười tinh quái với Langdon. "Tất nhiên tôi
cũng đã nộp đơn xin dạy ở Harvard, xem như trường an toàn của tôi".
Vị chủ nhân đã tới chân cầu thang, Sophie thấy ông chẳng có vẻ hiệp
sĩ gì hơn Ngài Elton John (3). Với vóc dáng bệ vệ và khuôn mặt hồng hào,
Teabỉng có mái tóc rậm hung dỏ, cặp mắt màu nâu vui tươi dường như lúc nào cũng
lấp lánh mỗi khi ông cất lời ông mặc quần chiết li và sơ mi lụa rộng bên trong
chiếc vét có hoạ tiết hình cánh hoa. Mặc dù phải dùng nẹp chân bằng nhôm, nhưng
ông đi thẳng thớm, nhún nhảy với cái vẻ đường hoàng tựa như kế truyền từ dòng
dõi quí tộc hơn là do nỗ lực một cách hữu thức.
Teabing tới và chìa tay cho Langdon: "Robert này, anh giảm cân
đi nhiều đấy".
Langdon nhoẻn miệng cười: "Còn ngài thì có tăng trọng một
chút".
Teabing cười nồng hậu, vỗ vỗ cái bụng tròn trịa của mình:
Touché!"(4). Dạo này, lạc thú thể xác duy nhất của tôi dường
như chỉ là ăn uống". Quay sang Sophie, ông dịu dàng cầm lấy tay cô, khẽ
cúi đầu hôn nhẹ lên những ngón tay cô và ngánh mắt đi: "Quý nương".
Sophie liếc nhìn Langdon, không biết mình đã trở lui về thời xa xưa
hay vừa bước vào một nhà thương điên.
Người quản gia lúc nãy mở cửa đón họ, giờ bước vào với một bộ đồ
trà mà ông ta xếp lên một chiếc bàn trước lò sưởi.
"Đây là Rémy Legaludec", Teabing giới thiệu, "quản
gia của tôi".
Người quản gia mảnh mai gật đầu cứng nhắc và lại biến mất.
"Rémy là Lyonnais"(5), Teabỉng thì thào như thể người
Lyon là một bệnh dịch vậy, "nhưng ông ta nấu nước sốt rất ngon".
Nom Langdon có vẻ thích chí: "Tôi những tưởng ngài sẽ nhập
khẩu cả một đội ngũ nhân viên người Anh cơ đấy?".
"Trời, không đâu! Tôi sẽ không cầu cho bất cứ ai vô phúc vớ
phải một đầu bếp người Anh, trừ bọn thu thuế người Pháp".
Ông liếc nhìn Sophie. "Pardonnez-moi (6), thưa cô Neveu. Xin
cô hãy tin rằng rằng ác cảm của tôi đối với nước Pháp chỉ mở rộng đến chính trị
và sân bóng đá mà thôi. Chính phủ nước cô đã cuỗm mất tiền của tôi, và đội bóng
nước cô thì vừa mới hạ nhục chúng tôi".
Sophie mỉm cười thoải mái.
Teabing quan sát cô một lúc rồi lại nhìn Langdon: "Có chuyện
gì đó vừa xảy ra. Cả hai bạn đều có vẻ xáo động".
Langdon gật đầu: "Chúng tôi đã có một đêm hay ho đấy, ngài
Leigh ạ".
"Không nghi ngờ gì nữa. Nửa đêm, anh đến đập cửa nhà tôi không
báo trước, lại đem chuyện Chén Thánh ra làm quà. Hãy nói cho tôi biết, thực ra
chuyện này có liên quan đến chiếc Chén Thánh hay không? Hay đơn giản anh nói
như vậy chỉ vì anh biết rõ rằng đó là chủ đề duy nhất sẽ đánh thức được tôi vào
nửa đêm thế này?".
Cả hai, mỗi thứ một chút, Sophie nghĩ thầm, hình dung tới hộp mật
mã bên dưới chiếc đivăng.
"Ngài Leigh này", Langdon nói, "chúng tôi muốn nói chuyện
với ngài về Tu viện Sion".
Cặp lông mày rậm rạp của Teabing uốn cong lên, lộ vẻ tò mò.
"Những người gìn giữ Chén Thánh. Vậy ra hai người đến đây về chuyện Chén
Thánh thật. Anh nói có mang một số thông tin tới. Có gì mới không,
Robert?".
"Có thể. Chúng tôi cũng không dám chắc lắm đâu. Chúng tôi có
thể biết rõ hơn nếu như chúng tôi nhận được thông tin từ phía ngài trước
đã".
Teabing dứ dứ ngón tay: "Vẫn cái thói ranh ma của người Mỹ.
Một trò có đi có lại. Tốt thôi. Tôi sẵn sàng phục vụ các bạn. Tôi có thể nói
cho các bạn biết về điều gì đây?".
Langdon thở dài: "Tôi hy vọng ngài sẽ sẵn lòng giải thích cho
cô Neveu đây về bản chất thực của Chén Thánh".
Teabing có vẻ sửng sốt: "Cô ấy chưa biết sao?".
Langdon lắc đầu.
Một nụ cười dần nở trên mặt Teabing, nó gần như tục tĩu:
"Robert này, thì ra anh mang đến cho tôi một trinh nữ".
Langdon cau mặt, liếc nhìn Sophie: "Trinh nữ là một thuật ngữ
mà những người say mê Chén Thánh dùng để mô tả bất kì ai chưa bao giờ nghe câu
chuyện thật về Chén Thánh".
Teabing sốt sắng quay sang Sophie: "Cô biết đến đâu
rồi?".
Sophie nhanh chóng phác qua những gì trước đây Langdon đã giải
thích cho cô hay - Tu viện Sion, các Hiệp sĩ Templar, tài liệu Sangreal và cả
Chén Thánh mà nhiều người cho rằng đó không chỉ là một chiếc chén… mà đúng hơn
là một thứ gì đó đầy quyền lực.
"Chỉ có vậy thôi sao?". Teabing ném về phía Langdon một
cái nhìn công phẫn. "Robert này, tôi cứ tưởng anh là một quý ông cơ đấy.
Anh đã tước mất của cô gái này đoạn cao trào!"(7).
"Tôi biết, tôi nghĩ ngài và tôi có thể…" Rõ ràng là
Langdon thấy phép ẩn dụ khiếm Teabing dùng đã đi quá xa và như thế là quá đủ
rồi.
Teabing đã khiến Sophie bị cột chặt vào cái nhìn long lanh của ông:
"Cô bạn thân mến, cô là một trinh nữ về Chén Thánh. Và hãy tin tôi, cô sẽ
không bao giờ quên lần đầu tiên của mình đâu".
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cô không phải là người Mỹ?
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Người Paris.
(3) Danh ca Anh cũng được phong tặng danh hiệu hiệp sĩ.
(4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Trúng đích.
(5) Tiếng Pháp trong nguyên bản: người Lyon
(6) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Thứ lỗi cho tôi.
(7) Chơi chữ: climax trong tiếng Anh vừa có nghĩa là đoạn cao trào,
phần có ý nghĩa nhất của một câu chuyện nhưng cũng có nghĩa là phút cực khoái
trong giao hợp.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 38
Nằm trên chiếc đivăng bên cạnh Langdon, Sophie uống tách trà và ăn
bánh nướng, cảm thấy tác động dễ chịu của chất cafein và đồ ăn. Ngài Leigh
Teabing tươi rói trong khi vụng về dạo bước phía trước lò sưởi để ngỏ, những
chiếc nẹp chân lách cách trên nền đá.
"Chén Thánh", Teabing nói, giọng giảng giải, "hầu
hết mọi người chỉ hỏi tôi là hiện nó ở đâu. Tôi e rằng đó chính là câu hỏi tôi
sẽ không bao giờ trả lời được". Ông quay lại nhìn thẳng vào mặt Sophie.
"Tuy nhiên… câu hỏi thích đáng nhất chính là: Chén Thánh là gì?".
Sophie cảm thấy một vẻ rào đón mang tính học thuật ở cả hai người
bạn nam của mình.
"Để có thể hiểu một cách đầy đủ về Chén Thánh", Teabing
tiếp tục trước tiên chúng ta cần phải hiểu Kinh thánh đã. Cô hiểu như thế nào
về Tân ước?".
Sophie nhún vai: "Thực sự, tôi chẳng hiểu gì cả. Người nuôi
dạy tôi nên người lại rất sùng kính Leonardo Da Vinci".
Teabing có vẻ vừa sửng sốt vừa hài lòng: "Một tâm hồn sáng
láng. Tuyệt! Thế thì chắc chắn cô phải biết rất rõ Leonardo là một trong số
những người nắm giữ bí mật về Chén Thánh. Và ông ta còn cất giấu những đầu mối
về bí mật đó trong nghệ thuật của mình".
"Vâng, Robert đã nói cho tôi như vậy".
"Thế những quan điểm của Da Vinci về Tân ước thì sao?".
"Tôi không biết".
Mắt Teabing trở nên vui thích khi ông khoát tay về phía giá sách ở
đầu kia phòng: "Robert này, phiền anh được không? Ở ngăn dưới cùng ấy.
Cuốn La stora di Leonardo" (Truyện về Leonardo.
Langdon băng ngang qua căn phòng, ông tìm thấy một cuốn sách khổ
lớn về nghệ thuật, đem nó lại, đặt lên mặt bàn giữa hai người. Xoay cuốn sách
về phía Sophie, Teabing lật mở tấm bìa dày và chỉ vào một loạt những lời trích
dẫn bên trong bìa sau. "Trích từ sổ tay của Da Vinci về luận chiến và suy
biện", Teabing vừa nói vừa chỉ tay vào một đoạn trích cụ thể. "Tôi
nghĩ cô sẽ thấy đoạn trích này phù hợp với cuộc thảo luận của chúng ta".
Sophie đọc những dòng chữ đó lên.
Nhiều người đã buôn bán những ảo tưởng và những phép màu giả mạo,
lừa gạt đám đông ngu ngốc.
LEONARDO DA VINCI.
"Đây là một đoạn khác", Teabing vừa nói vừa chỉ tay một
đoạn trích khác.
Sự ngu dốt mù loà đưa chúng ta lầm đường lạc lối.
Hỡi lũ người trần tục khôn khổ, hãy mở mắt ra!
LEONARDO DA VINCI.
Sophie cảm thấy hơi ớn lạnh: "Da Vinci nói về Kinh Thánh đấy
ư?".
Teabing gật đầu: "Những cảm giác của Leonardo về Kinh Thánh
liên quan trực tiếp tới Chén Thánh. Thực tế, Da Vinci đã vẽ chiếc Chén Thánh
đích thực, mà lát nữa tôi sẽ chỉ cho cô xem, nhưng chúng ta phải nói về Kinh Thánh
trước đã". Teabing mỉm cười: "Và tất cả những gì cô cần biết về Kinh
Thánh đã được tổng kết bởi vị Tiến sĩ, Giáo sĩ vĩ đại Martyn Percy".
Teabing hắng giọng và tuyên bố. "Kinh Thánh không đến từ thiên đàng bằng
đường fax đâu".
"Xin lỗi tôi không hiểu?".
"Bạn thân mến, Kinh Thánh là một sản phẩm của con người. Chứ
không phải là của Chúa. Kinh Thánh không phải rơi xuống từ những đám mây bằng
phép mầu. Con người đã sáng tạo ra Kinh Thánh như một hồ sơ lịch sử ghi lại
những thời đại loạn lạc và nó đã triển hóa qua vô số những bản dịch, bổ sung,
và sửa chữa. Lịch sử chưa bao giờ có một bản chính dứt khoát của cuốn sách
này!".
"Tôi hiểu rồi".
Chúa Jesus Christ là một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng chấn động,
có lẽ là người lãnh đạo bí hiểm nhất và đem lại nhiều nguồn cảm hứng nhất mà
thế giới từng thấy. Với tư cách là vị Chúa Cứu Thế được báo trước, Jesus lật đổ
các vị vua, khơi gợi cảm hứng cho hàng triệu người và đã sáng lập ra nhiều nền
triết học. Với tư cách là người kế tục dòng dõi của các vị vua Salomon và
David, Jesus có quyền chính đáng đòi ngôi Quân vương của người Do Thái. Thật dễ
hiểu là cuộc đời của Người được hàng nghìn tín đồ trên khắp các vùng đất ghi
chép lại". Teabing dừng lại một chút để nhấm nháp tách trà rồi đặt nó trở
lại trên mặt lò sưởi. "Có hơn tám mươi bản phúc âm được xem xét để soạn
Tân ước, nhưng chỉ có một số tương đối ít được chọn để đưa vào - Matthew, Mark,
Luke, và John".
"Ai là người lựa chọn những bản phúc âm đó để đưa vào Tân
ước?" Sophie hỏi.
"Aha!". Teabing bốc lên. "Điều mỉa mai cơ bản của
Thiên Chúa giáo! Cuốn Kinh thánh mà chúng ta biết ngày nay được tập hợp và
chỉnh lý bởi Constantine Đại đế - một hoàng đế La Mã ngoại đạo".
"Tôi tưởng Constantine là một tín đồ Thiên Chúa giáo",
Sophie nói.
"Đâu có", Teabing chế giễu, "Ông ta cả đời là một kẻ
ngoại đạo mãi đến khi nằm trên giường lâm chung, quá yếu không thể phản đối
được, mới chịu lễ rửa tội. Dưới thời Constantine, quốc giáo của La Mã thờ thần
Mặt trời - thờ Sol Invictus tức là Mặt trời không gì thắng nổi - và Constantine
chính là tu sĩ đứng đầu quốc giáo đó. Rủi cho ông ta, một cuộc náo loạn tôn
giáo ngày càng dữ dội đã tràn ngập La Mã. Ba thế kỉ sau khi Chúa Jesus Christ
bị đóng đinh câu rút, số tín đồ của Người đã tăng bội lên theo cấp luỹ thừa.
Những tín đồ Thiên Chúa giáo và những người ngoại đạo bắt đầu gây chiến với
nhau, và cuộc xung đột phát triển đến mức đe doạ chia cắt La Mã làm hai.
Constantine quyết định phải làm một điều gì đó. Vào năm 325 sau Thiên Chúa
Giáng Sinh, ông ta quyết tâm thống nhất La Mã dưới hình thức một tôn giáo duy
nhất. Đó chính là Thiên chúa giáo".
Sophie ngạc nhiên: "Tại sao một hoàng đế ngoại đạo lại lựa
chọn đạo Thiên chúa làm quốc giáo?".
Teabing cười khúc khích: "Constantine là một nhà kinh doanh
rất giỏi. Ông ta thấy rõ Thiên chúa giáo ở xu thế đang lên, và đơn giản là ông
ta ủng hộ con ngựa thắng cuộc. Các sử gia lấy làm thán phục sự xuất sắc của
Constantine trong việc cải đạo cho những người thờ thần Mặt Trời thành những
tín đồ Thiên chúa giáo. Bằng việc phối quyện những biểu tượng, ngày tháng, nghi
lễ ngoại đạo vào truyền thống Thiên chúa giáo đang ngày càng phát triển, ông đã
tạo ra một thứ tôn giáo lai tạo có thể chấp nhận được với cả hai phía".
"Thần thông biến hóa", Langdon nói. "Những dấu tích
của dị giáo trong những biểu tượng của Thiên chúa giáo là không thể chối cãi
được. Đĩa mặt trời Ai Cập thành hào quang quanh đầu các thánh Thiên Chúa giáo.
Những hình diễn đạt nữ thần Isis cho Horus bú, đứa con trai được thụ thai một
cách kì diệu, đã trở thành mẫu phác thảo cho các hình vẽ hiện đại thể hiện Đức
Mẹ Đồng Trinh Mary cho Chúa Hài Đồng Jesus bú. Và gần như mọi yếu tố trong các
nghi lễ của Ki tô giáo như mũ tế, bàn thờ thánh, thánh ca, lễ ban thánh thể
cũng như nghi thức rước mình Thánh Chúa đều được lấy thẳng từ những nghi lễ bí
nhiệm dị giáo có từ trước đó".
Teabing rên rỉ: "Đừng có để một nhà ký tượng học bắt đầu giảng
những bức tượng thánh Thiên chúa giáo. Chẳng có gì trong Thiên chúa giáo là
chính gốc. Mithras - mà người ta vẫn quen gọi là Con trai của Thượng đế và Anh
sáng của thế giới - là một vị thần tiền - Thiên chúa giáo chào đời vào ngày 25
tháng 12, và khi chết được chôn trong một ngôi mộ bằng đá, rồi tái sinh sau đó
ba ngày. Tiện đây xin nói ngày 25 tháng 12 cũng được coi là ngày sinh của
Orisis, Adonis và Dionysus. Thần Krishna lúc mới sinh ra đã được dâng tặng
vàng, trầm hương và cả nhựa trầm hương. Thậm chí ngày thánh hàng tuần của Cơ
đốc giáo cũng là thứ đánh cắp từ những người ngoại đạo".
"Ý ông muốn nói gì?".
"Thoạt kỳ thuỷ". Teabing nói, "Thiên chúa gỉáo tôn
vinh ngày hành lễ thứ Bảy Sabbath của người Do Thái, nhưng Constantine đã
chuyển ngày lễ đó cho trùng với ngày lễ thần Mặt Trời của người ngoại
đạo". Ông dừng lạí và cười. "Cho đến tận bây giờ, những con chiên đi
lễ chầu sáng Chủ nhật vẫn không mảy may biết rằng họ ở đó để dự tế thần Mặt
Trời hàng tuần của người ngoại đạo - Chủ nhật có nghĩa là ngày của mặt trời
mà".
Sophie cảm thấy đầu óc quay cuồng: "Và tất cả những điều này
đều liên quan đến Chén Thánh?.
"Quả vậy", Teabing nói, "hãy tiếp tục cùng tôi.
Trong thời kì hợp nhất tôn giáo ấy, Constantine cẫn tăng cường truyền thống mới
trong Thiên chúa giáo và triệu tập một cuộc họp toàn giáo hội nổi tiếng gọi là
Hội đồng Nicaea".
Sophie có nghe nói đến Hội đồng Nicaea nhưng chỉ biết đó là nơi ra
đời của Kinh tin kính Nicene.
"Tại cuộc họp này", Teabing nói, "nhiều khía cạnh
của Thiên chúa giáo đã được mang ra tranh cãi và biểu quyết như lễ Phục sinh
vai trò của các giám mục, việc quản lí các nghi lễ và tất nhiên, cũng bao gồm
cả tính thiên giới của Jesus".
"Tôi không hiểu. Tính thiên giới của Jesus nghĩa là
sao?".
"Bạn thân mến ơi", Teabing tuyên bố, "cho đến thời
điểm đó trong lịch sử, các tín đồ của Jesus vẫn chỉ coi Người như một nhà tiên
tri trần tục… nghĩa là một con người vĩ đại và đầy uy lực nhưng dù sao mặc lòng
vẫn là một con người. Một kẻ trần tục".
"Không phải là Con trai của Chúa trời sao?".
"Đúng vậy", Teabing nhận xét, "việc cố tình công
nhận Jesus là Con trai của Chúa trời được đề xuất chính thức và biểu quyết bởi
Hội đồng Nicaea".
"Hượm đã. Ông nói tính thiên giới của Jesus là kết quả của một
cuộc bỏ phiếu biểu quyết?".
"Mà lại là một cuộc biểu quyết tương đối hẹp nữa chứ",
Teabing bổ sung, "Dù sao đi nữa, việc khẳng định tính thiên giới của
Christ có tính quyết định đối với việc thống nhất đế chế La Mã và cơ sở quyền
lực mới của Vatican. Bằng việc chính thức xác nhận Jesus là Con trai của Chúa
Trời, Constantine đã biến Jesus thành một vị thần tồn tại ngoài phạm vi thế
giới loài người, một thực thể với quyền uy vượt qua mọi thách thức. Điều này
không chỉ ngăn chặn những thách thức mới đối với Thiên Chúa giáo từ phía những
người ngoại đại, mà giờ đây những tín đồ của Christ còn có thể tự cứu chuộc
mình thông qua con đường linh thiêng duy nhất đã được chế định - nhà thờ Thiên
Chúa giáo La Mã".
Sophie liếc nhìn Langdon, ông nhẹ nhàng gật đầu khẳng định.
"Tất cả đều có liên quan đến quyền lực", Teabing tiếp
tục, "Christ, với tư cách là Chúa Cứu thế, có tầm quan trọng quyết định
đối với sự vận hành của nhà thờ cũng như của nhà nước. Nhiều học giả tuyên bố
rằng Nhà thờ sơ khởi đã đánh cắp Jesus theo nghĩa đen từ những tín đồ ban đầu
của ông, cưỡng doạt thông điệp nhân văn của ông, trùm lên thông điệp đó một tấm
màn dày đặc là tính thiên giới và sử dụng nó để mở rộng quyền lực của riêng họ.
Tôi đã viết một vài cuốn sách về đề tài này".
"Tôi đồ rằng hắn các tín đồ Thiên chúa giáo mộ đạo ngày nào
cũng gửi cho ông những bức thư hằn học?".
"Tại sao họ phải làm thế?". Teabing phản bác. "Đại
đa số những tín đồ Thiên chúa có học vấn đều biết lịch sử tín ngưỡng của mình.
Quả thực, Jesus là một con người vĩ đại và giàu sức mạnh. Những thủ đoạn chính
trị lừa lọc của Constantine không làm giảm sút sự vĩ đại của Jesus. Không ai
nói rằng Christ là một vụ gian trá hay chối cãi rằng ông đã đi khắp thế gian và
gieo vào lòng hàng triệu người khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chúng
tôi chỉ nói Constantine đã lợi dụng tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn lao của
Christ. Làm như vậy, ông ta đã tạo ra diện mạo của Thiên chúa giáo như chúng ta
biết ngày nay".
Sophie liếc nhìn cuốn sách nghệ thuật nằm trước mặt cô, háo hức
muốn giở tiếp để xem bức hoạ của Da Vinci về Chén Thánh.
"Sự xoay chuyển là thế này", Teabing lúc này nói nhanh
hơn, "bởi vì Constantine nâng vị thế của Jesus sau khi Jesus qua đời gần
bốn thế kỉ, nên đã có hàng ngàn tài liệu ghi chép lại cuộc đời của Jesus như là
một con người trần tục. Để chỉnh biên lại những cuốn sách lịch sử này,
Constantine biết mình cần làm một cú táo bạo. Do vậy, đã nẩy sinh thời điểm sâu
sắc nhất trong lịch sử Thiên chúa giáo". Teabing dừng lại và nhìn Sophỉe.
"Constantine đã tài trợ và đặt người viết một cuốn Kinh Thánh mới, trong
đó tước bỏ những bản phúc âm mô tả những nét con người trần thế của Christ và
tô điểm những bản thể hiện Christ như một vị thần. Những sách phúc âm trước đó
bị coi là bất hợp pháp, phải thu gom lại và đốt sạch".
"Một lưu ý thú vị", Langdon bổ sung, "bất kì ai chọn
những bản phúc âm bị cấm thay vì bản của Constantine đều bị coi là dị giáo. Từ
dị giáo phát sinh từ thời điểm lịch sử này. Trong tiếng Latinh từ haereticus có
nghĩa là "sự lựa chọn". Những ai lựa chọn, lịch sử khởi nguyên của
Christ đều là những kẻ dị giáo đầu tiên của thế giới".
"Cũng may cho các sử gia", Teabing nói, "một vài
trong số những phúc âm mà Constantine cố gắng thủ tiêu vẫn còn sót.
Vào những năm 1950, người ta đã tìm thấy những bản ghi chép về vùng
Biển Chết cuộn trong ống được giấu trong một cái hang gần Qumran trong sa mạc
Judean. Và tất nhiên, phải kể đến những ống giấy Coptic mà người ta đã tìm thấy
vào năm 1945 tại Nag Hammadi. Thêm vào việc kể câu chuyện thật về Chén Thánh,
những văn bản này đều nói đến chức năng dẫn dắt của Christ bằng những lời lẽ
rất người. Tất nhiên, phù hợp với truyền thống bóp méo thông tin của mình,
Vatican đã ra sức dẹp việc lưu hành những ống giấy này. Tại sao lại không cơ
chứ? Những ống giấy đó đã phanh phui sự bịa đặt và những sai trật rành rành về
lịch sử, khẳng định rõ ràng rằng cuốn Kinh thánh ngày nay được soạn thảo và
biên tập bởi những người có sẵn một đề cương chính trị: đề cao tính thiên giới
của con người trần Jesus Christ và lợi dụng ảnh hưởng của Người để củng cố cơ
sở quyền lực của chính họ.
"Tuy nhiên", Langdon phản đối, "cần phải nhớ rằng
mong muốn của Nhà Thờ hiện đại - xóa bỏ những tài liệu ấy - xuất phát từ một
niềm tin chân thành vào quan điểm đã chế định về Christ. Vatican bao gồm những
người mộ đạo sâu sắc thực sự tin rằng những tài liệu đối lập kia chỉ là những
chứng cứ giả mạo mà thôi".
Teabing cười tủm khi ông ngồi vào chiếc ghế đối diện với Sophie:
"Như cô thấy đấy, vị giáo sư của chúng ta thông cảm với Roma hơn tôi
nhiều. Tuy nhiên, ông ấy đúng khi nói giới tu sĩ hiện đại tin rằng những tài
liệu chống đối kia là chứng cứ giả mạo. Điều đó hoàn toàn có thể hiểu được.
Cuốn Kinh thánh của Constantine đã là chân lý của họ suốt nhiều thế kỉ. Chẳng
có ai được truyền giáo triệt để hơn những người truyền giáo".
"Điều ông ấy muốn nói", Langdon nói, "là chúng ta
thờ các vị thần của cha ông chúng ta".
"Điều tôi muốn nói", Teabing phản đối, "là hầu hết
những điều ông cha chúng ta dạy chúng ta về Christ là sai. Cũng như những câu
chuyện về Chén Thánh".
Sophie nhìn lại đoạn trích của Da Vinci ở trước mặt cô. Sự ngu dốt
mù loà đưa chúng ta lầm đường lạc lối. Hỡi lũ người trần tục khôn khổ, hãy mở mắt
ra!
Teabing với tay lấy cuốn sách và lật đến trang giữa: "Và cuối
cùng, trước khi tôi chỉ cho cô thấy những bức hoạ của Da Vinci về Chén Thánh,
tôi muốn cô hãy xem qua cái này". Ông giở tới một bức đồ hoạ màu in tràn
cả hai trang. "Tôi cho rằng cô nhận ra bức bích họa này chứ?".
Ông ta đang đùa, đúng không? Sophie nhìn chăm chú vào bức bích họa
nổi tiếng mọi thời đại -Bữa ăn tối cuối cùng - bức tranh huyền thoại của Da
Vinci trên tường nhà thờ Santa Maria della Grazie ở Milan. Bức bích họa đang hư
nát ấy mô tả cảnh Jesus và các tông đồ của mình vào lúc Jesus thông báo rằng
một tông đồ đã phản bội ông.
"Vâng, tôi biết bức tranh tường này".
"Vậy thì có lẽ cô sẽ cho phép tôi làm một trò nhỏ này nhé? Xin
cô hãy nhắm mắt lại".
Lưỡng lự rồi cô nhắm mắt lại.
"Jesus ngồi ở đâu?", Teabing hỏi.
"Ở giữa".
"Tốt. Và ông cùng với các tông đồ đang ăn thứ gì vậy?".
"Bánh mì". Rõ ràng là thế.
"Tuyệt. Thế họ uống gì?".
"Rượu. Họ uống rượu".
"Tuyệt. Câu hỏi cuối cùng đây. Có bao nhiêu cốc rượu trên mặt
bàn?".
Sophie dừng lại nhận ra đây là câu hỏi bẫy. Sau bữa tối, Jesus đã
cầm chiếc cốc rượu của mình lên, uống cùng với các tông đồ. "Một
chiếc", cô trả lời. "Chiếc cốc. Chiếc cốc của Christ. Chén
thánh". Jesu chỉ truyền tay với họ một cốc rượu vang thôi giống như những
người Thiên chúa giáo hiện đại làm trong lễ Thánh Thể".
Teabing thở dài: "Cô mở mắt ra được rồi".
Cô mở mắt. Teabing cười tự mãn. Sophie xoáy mắt vào bức tranh, và
ngạc nhiên thấy mọi người ngồi ở bàn ấy đều có một ly rượu vang, kể cả Christ
nữa. Mười ba chiếc ly. Hơn nữa, những chiếc ly này đều nhỏ, không có chân và
bằng thuỷ tinh. Không hề có một chiếc chén thiêng nào trong bức tranh này.
Không có Chén Thánh.
Mắt Teabing lấp lánh: "Hơi lạ lùng đấy, cô không nghĩ như vậy
sao, vì cả Kinh Thánh lẫn giai thoại về Chén Thánh đều tôn vinh thời điểm này
như là sự xuất hiện chính thức của Chén Thánh. Kì thay, Da Vinci có vẻ như đã
quên không vẽ chiếc Chén thiêng của Christ".
"Chắc chắn các học giả nghiên cứu nghệ thuật sẽ phải lưu ý đến
điều này".
"Cô sẽ bị sốc khi biết rằng những điều bất thường mà Da Vinci
đưa vào bức tranh này, hầu hết các học giả hoặc là không nhìn ra hoặc là cố
tình phớt lờ đi. Trên thực tế, bức tranh này chính là toàn bộ chìa khoá để mở
ra bí mật Chén Thánh. Da Vinci đã phơi bày ra cả trong Bữa tối cuối cùng".
Sophie hăm hở rà mắt trên bức tranh: "Bức bích họa này cho
chúng ta biết thực sự Chén Thánh là cái gì sao?".
"Không phải là cái gì", Teabing thì thào. "Mà là ai
mới đúng. Chén Thánh không phải là một vật. Trên thực tế, đó là một…
người".
Sophie đăm đăm nhìn Teabing hồi lâu, rồi quay sang Langdon:
"Chén Thánh là một người thật sao?".
Langdon gật đầu: "Thực tế, đó là một phụ nữ". Bằng vào
cái nhìn đờ đẫn trên khuôn mặt Sophie, Langdon có thể nói họ đã làm cô hoang
mang. Langdon chợt nhớ ra ông cũng có phản ứng như vậy khi lần đầu tiên nghe
lời khẳng định ấy. Mãi tới khi ông hiểu ra biểu tượng đằng sau Chén Thánh thì
mối liên hệ với tính nữ ấy mới trở nên rõ ràng.
Rõ ràng Teabing cũng có suy nghĩ tương tự như vậy: "Robert
này, có lẽ đây là lúc nhà ký tượng học làm sáng tỏ vấn đề, đúng không?".
Bước tới một cái bàn gần đấy, ông tìm thấy một mảnh giấy và đặt nó trước mặt
Langdon.
Langdon rút từ trong túi áo ra một chiếc bút máy: "Sophie, cô
biết biểu tượng hiện đại dành cho nam và nữ chứ?". Ông vẽ kí tượng nam và
kí tượng nữ".
"Tất nhiên", cô trả lời.
"Những hình này", ông nói nhẹ nhàng, "không phải là
biểu tượng ban đầu của nam và nữ đâu. Nhiều người đã lầm khi cho rằng biểu
tượng nam bắt nguồn từ một cái khiên và một cái thương, còn biểu tượng nữ là
một tấm gương phản chiếu vẻ đẹp. Thực ra những biểu tượng này bắt nguồn từ
những biểu tượng trong thiên văn cổ xưa là nam thần Hỏa tinh và nữ thần Kim
tinh. Những biểu tượng ban đầu bao giờ cũng đơn giản hơn nhiều".
Langdon vẽ lên mẩu giấy một kí tượng khác.
"Đây là biểu tượng ban đầu dành cho nam", ông giảng giải
cho Sophie biết, "Một chiếc dương vật ở dạng thô sơ".
"Rất thích đáng", Sophie nhận xét.
"Có thể nói thế". Teabing bổ sung.
Langdon tiếp tục: "Biểu tượng này chính thức được biết đến như
là lưỡi gươm, và nó tượng trưng cho sự hiếu chiến và nam tính. Trong thực tế,
biểu tượng dương vật chính xác này ngày nay vẫn được sử dụng trên đồng phục của
quân đội để chỉ cấp bậc".
"Thực thế", Teabing nhe răng ra cười, "anh càng lắm
dương vật cấp bậc anh càng cao. Nam nhi vẫn là nam nhi mà".
Langdon cau mày lại: "Tiếp tục, biểu tượng nữ, như cô có thể
hình dung, là hoàn toàn ngược lại". Ông lại vẽ một biểu tượng khác lên mẩu
giấy, "Biểu tượng này được gọi là chiếc ly".
Sophie ngước lên, vẻ ngạc nhiên.
Langdon có thề thấy cô đã nhận ra mối liên hệ: "Chiếc
ly", Langdon nói vậy, "giống hình một cái cốc hay một chiếc bát, và
quan trọng hơn, nó giống hình tử cung đàn bà. Biểu tượng này biểu đạt tính nữ,
tính chất đàn bà và tính phồn thực". Lúc này Langdon nhìn thẳng vào
Sophie. "Sophie, truyền thuyết bảo chúng ta rằng Chén Thánh là một chiếc
ly - một loại cốc. Nhưng sự mô tả Chén Thánh như một chiếc ly thực chất là một
phép phóng dụ để bảo vệ bản chất đích thực của Chén Thánh mà thôi. Có nghĩa là
truyền thuyết dùng hình ảnh chiếc ly như một ẩn dụ cho một cái gì quan trọng
hơn nhiều".
"Một phụ nữ?" Sophie hỏi.
"Chính xác", Langdon mỉm cười, "chiếc Chén, theo
nghĩa đen, là biểu tượng cổ xưa của tính chất đàn bà và Chén Thánh biểu thị
tính nữ thiêng liêng và nữ thần, điều này tất nhiên hiện nay đã mai một, thực
tế đã bị Nhà Thờ loại bỏ. Quyền năng của người nữ và khả năng sản sinh ra sự
sống đã từng được coi là linh thiêng, nhưng sự linh thiêng ấy đe doạ sự thăng
tiến của Nhà Thờ mà đại đa số thành phần là nam, và thế là tính nữ thiêng liêng
bị cho là quỷ quyệt và không trong sạch. Chính con người, chứ không phải Chúa,
đã tạo ra khái niệm "tội tổ tông truyền", theo đó Eve đã ăn quả táo
và gây ra sự sa đọa của loài người. Đàn bà trước đây là người đem lại sự sống
thiêng liêng thì giờ đây lại trở thành kẻ thù".
"Tôi nên bổ sung một chút", Teabing hùn vào, "khái
niệm về đàn bà với tư cách là người đem lại sự sống chính là nền tảng của tôn
giáo cổ xưa. Sinh nở là huyền bí và đầy quyền năng.
Buồn thay, triết lý Thiên Chúa giáo sau này đã quyết định biển thủ
quyền năng tạo sinh của người nữ bằng cách không đếm xỉa đến sự thật sinh học
ấy và biến đàn ông thành Đấng Sáng Tạo. Sáng Thế Ký (1) dạy chúng ta rằng Eve
được tạo ra từ chỉếc xương sườn của Adam. Và từ đó người phụ nữ đã trở thành
một nhánh phụ của người đàn ông. Đã thế lại là một nhánh phụ tội lỗi nữa. Sáng
Thế Ký là điểm khởi đầu cho sự kết thúc đối với các nữ thần".
"Chén thánh", Langdon nói, "tượng trưng cho hình ảnh
nữ thần tiêu vong. Khi Thiên chúa giáo lớn mạnh, các tôn giáo ngoại đạo cổ xưa
cũng không chết dễ dàng. Các truyền thuyết về các hiệp sĩ đi tìm Chén Thánh bị
thất lạc trên thực tế là những truyện kể về cuộc tìm kiếm tính nữ thiêng liêng
bị thất lạc một cuộc tìm kiếm bị cấm. Những hiệp sĩ tuyên bố "kiếm tìm
Chén Thánh", thực ra đang nói theo cách mã hóa như là một phương thức để
bảo vệ an toàn cho chính họ trước thế lực của Nhà Thờ - thế lực đã chế ngự phụ
nữ, loại trừ nữ thần, thiêu sống những người không tin Chúa và cấm việc tôn
sùng tính nữ linh thiêng của những người ngoại đạo".
Sophie lắc đầu: "Tôi xin lỗi, khi anh nói rằng Chén Thánh là
một con người. Tôi cứ đinh ninh rằng anh định nói đó là một con người có trong
thực tế hẳn hoi".
"Đúng vậy", Langdon trả lời.
"Và không phải bất kì người nào nhé", Teabing bật ra và
phấn khích đứng dậy một cách khó khăn, "một người phụ nữ mang theo mình
một bí mật; bí mật này hàm chứa một quyền năng ghê gớm đến nỗi nếu bị tiết lộ,
nó có thể phá huỷ chính nền tảng của Thiên chúa giáo!".
Sophie có vẻ bị choáng ngợp: "Người phụ nữ này có nổi tiếng
trong lịch sử không?".
"Rất nổi tiếng". Teabing lượm lấy đôi nạng và chỉ về phía
hành lang. "Bạn thân mến, nếu chúng ta rời đến thư phòng của tôi, tôi sẽ
rất vinh dự chỉ cho bạn thấy bức hoạ của Da Vinci về người đàn bà ấy".
Cách đó hai phòng, trong nhà bếp, người hầu Rémy Lagadulec đứng
lặng trước một cái tivi. Đài truyền hình đang phát đi bức ảnh một người đàn ông
và một phụ nữ. Chính hai người khách mà Rémy vừa mới phục vụ trà.
Chú thích:
(1) Phần đầu tiên của Kinh Cựu ước
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 39
Đứng ở chỗ rào chắn đường bên ngoài Ngân hàng Ký thác Zurich, Trung
uý Collet tự hỏi không biết điều gì khiến Fache mãi chưa lấy được lệnh khám
xét. Rõ ràng, người trong ngân hàng này đang che giấu một điều gì đó. Họ khai
rằng Langdon và Sophie đã đến đây sớm hơn và đã bị ngân hàng từ chối vì không
đủ giấy tờ chứng nhận tài khoản hợp thức. Vậy thì tại sao họ lại không để chúng
ta vào ngó qua một cái?
Cuối cùng, điện thoại di động của anh cũng reo lên. Cú điện được
gọi từ sớ chỉ huy đặt tại Louvre. "Đã có lệnh khám xét chưa?". Collet
hỏi.
"Quên cái ngân hàng ấy đi, trung uý", người nhân viên
nói. Chúng tôi vừa nhận được một tin trình báo. Chúng tôi đã có địa điểm chính
xác, nơi Langdon và Sophie đang lẩn trốn".
Collet ngồi phịch xuống mui xe: "Ông đang đùa chắc".
"Tôi đã có được địa chỉ ở vùng ngoại ô. Một nơi nào đó gần
Versailles".
"Đại uý Fache đã biết chưa?".
"Chưa đâu. Ông ta đang bận trả lời một cuộc gọi quan trọng".
"Tôi lên đường đây. Hãy bảo ông ta gọi lại cho tôi ngay sau
khi nói chuyện điện thoại xong". Collet ghi lại địa chỉ rồi nhảy vào xe.
Khi rời khỏi ngân hàng, Collet chợt nhận ra anh đã quên không hỏi xem ai đã báo
nơi lẩn trốn của Langdon cho DCPJ. Điều ấy không quan trọng lắm. Chúa đã ban
cho anh cơ may để chuộc lại những lỗi bất cẩn khi trước cùng thái độ hoài nghi
của mình. Anh sắp làm cuộc bắt giữ nổi đình đám nhất trong sự nghiệp cảnh sát
của mình.
Collet gọi qua sóng radio thêm năm chiếc xe nữa để tiếp ứng:
"Không rúc còi báo động, anh em. Tay Langdon không thể biết rằng chúng ta
đang đến".
***
Cách đó bốn mươi cây số, một chiếc Audi màu đen rời khỏi con đường
quê và đỗ dưới bóng tối bên rìa một cánh đồng. Silas bước ra khỏi xe và nhòm
qua những chấn song của hàng rào sắt vây quanh một khu liên hợp rộng lớn trước
mặt. Hắn đăm đăm nhìn con dốc đầy ánh trăng dẫn tới toà lâu đài phía xa xa.
Đèn dưới nhà đều sáng trưng. Kỳ lạ vào giờ này, Silas mỉm cười nghĩ
thầm. Thông tin Thầy Giáo vừa cho hắn rõ ràng là chính xác. "Mình sẽ không
rời khỏi toà nhà này nếu không có viên đá đỉnh vòm, hắn thề. Mình sẽ không làm
Đức Giám mục và Thầy Giáo phải thất vọng.
Sau khi đã kiểm tra băng đạn mười ba viên trong khẩu Heckler &
Koch của mình, Silas đẩy khẩu súng qua chấn song để nó rơi trên nền đất phủ đầy
rêu phía trong. Rồi hắn nắm chặt lấy phía trên hàng rào, đu người lên, băng qua
và buông mình xuống nền đất phía bên kia. Không đếm xỉa đến những vết đau do
hành xác, hắn nhặt lại khẩu súng và bắt đầu đi trên triền dốc phủ cỏ.
Thư phòng của Teabing chẳng glống với bất kì phòng làm việc nào mà
Sophie từng thấy trước đó. Lớn gấp sáu - bảy lần những văn phòng thuộc loại
sang trọng nhất, cabinet de travail (1) của ngài hiệp sĩ giống như một thứ lai
tạp vụng về giữa phòng thí nghiệm khoa học, thư viện lưu trữ và chợ trời trong
nhà vậy. Dưới ánh sáng của ba chiếc đèn chùm, sàn nhà lát đá rộng mênh mông như
mặt biển lác đác từng cụm đảo là những bàn làm việc lấp dưới những đống nào
sách, nào tác phẩm nghệ thuật, nào đồ tạo tác, và la liệt máy móc thiết bị điện
tử nhiều đến kinh ngạc - máy vi tính, máy chiếu, kính hiển vi, máy photo copy
và máy quét.
"Tôi đã cải biến phòng khiêu vũ thành thế này", Teabing
giới thiệu, có vẻ ngượng khi lệt xệt bước vào phòng. "Vì tôi ít có dịp
khiêu vũ mà".
Sophie có cảm giác như thể toàn bộ bóng đêm đã biến thành một vùng
tranh sáng tranh tối trong đó không một thứ gì giống như cô chờ đợi. "Tất
cả những thứ này là để phục vụ cho công việc của ông?".
"Khám phá sự thực đã trở thành mối tình của đời tôi",
Teabing nói. "Và Chén Thánh chính là người tình cưng nhất của tôi".
Chén Thánh là một người phụ nữ. Sophie nghĩ thầm, đầu óc cô như một
mớ hỗn độn những ý tưởng đan bện vào nhau dường như chẳng có nghĩa gì cả.
"Ông nói có một bức hoạ vẽ người phụ nữ mà ông khẳng định người đó là Chén
Thánh?".
"Đúng vậy, nhưng không phải tôi là người khắng định bà ấy là
Chén Thánh. Đích thân Christ đã khẳng định điều đó".
"Thế đó là bức nào vậy?" Sophie hỏi, đáo mắt tìm khắp bốn
bức tường.
"À, Teabing giả bộ như đã quên béng mất điều đó. "Chén
Thánh. Sangreal. Chiếc ly", ông đột ngột quay phắt người, chỉ vào bức
tường cuối phòng trên đó có treo một phiên bản in dài khoảng hai mét rưỡi của
bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng giống hệt hình ảnh Sophie vừa xem lúc nãy.
"Bà ấy đó!".
Sophie chắc chắn đã bỏ sót một chi tiết nào đó: "Nó giống hệt
với bức tranh mà ông vừa cho tôi xem".
Ông nháy mắt: "Tôi biết, nhưng bản phóng to li kì hơn nhiều.
Cô không nghĩ thế sao?".
Sophie quay sang Langdong cầu cứu: "Tôi rất hoang mang".
Langdon mỉm cười: "Như đã vỡ lẽ ra, Chén Thánh quả đã xuất
hiện trong bức hoạ Bữa ăn tối cuối cùng. Leonardo đã thể hiện bà ấy thật nổi
bật".
"Khoan", Sophie nói, "Ông bảo tôi Chén Thánh là một
phụ nữ. Nhưng Bữa ăn tối cuối cùng là một bức tranh gồm mười ba người đàn
ông".
"Thật sao?", Teabing nhíu mày. "Cô hãy nhìn kỹ hơn
nữa đi".
Phân vân, Sophie tiến đến gần bức tranh hơn, nhìn kỹ vào mười ba
người - Jesus Christ ngồi ở giữa, sáu tông đồ ngồi bên trái và sáu người nữa
ngồi bên phải. "Tất cả bọn họ đều là đàn ông", Sophie khắng định.
"Thế à?". Teabing nói. "Thế còn người ngồi ở vị trí
danh dự phía tay phải của Chúa thì sao?".
Sophie xem kĩ lại người ngồi ngay bên phải Jesus tập trung vào đó.
Khi cô quan sát khuôn mặt và thân hình người đó, một nỗi ngạc nhiên cuộn lên
trong cô. Người này có mái tóc đỏ lượn sóng, hai tay chắp lại nhỏ nhắn, và
thoáng nét vồng lên của bộ ngực. Không còn nghi ngờ gì đó là… một người đàn bà.
"Đó là một người đàn bà?". Sophie thốt lên.
Teabing cười vang: "Ngạc nhiên, ngạc nhiên hả. Tin tôi đi,
không có sai sót gì đâu. Leonardo rất điêu luyện trong việc thể hiện sự khác
biệt về giới tính đấy".
Sophie không sao rời mắt khỏi người đàn bà ngồi bên cạnh Christ.
Bữa ăn tối cuối cùng đúng ra phải thể hiện mười ba người đàn ông. Người đàn bà
này là ai? Mặc dù Sophie đã nhiều lần xem bức hoạ kinh điển này, nhưng chưa một
lần nào cô để ý thấy sự trật lấc rành rành này.
"Mọi người đều bỏ sót đỉều này", Teabing nói. "Tiên
kiến hình thành sẵn trong ta về cảnh này mạnh đến mức trí óc ta loại trừ điều
lạc lõng đó và bất chấp con mắt ta".
"Người ta gọi đó là ám thị", Langdon bổ sung. "Bộ óc
đôi khi lấn át thị giác đối với cả những biểu tượng rất rõ".
"Một lí do khác khiến cô bỏ qua người đàn bà này",
Teabing nói tiếp, "đó là rất nhiều ảnh trong các cuốn sách nghệ thuật được
chụp trước năm 1954, khi đó những chi tiết còn bị lấp dưới những lớp bụi bẩn và
một số lần phục chế lại do những đôi tay vụng về ở thế kỉ thứ XVIII. Giờ đây,
rốt cuộc thì bức bích hoạ này cũng đã được làm sạch tới lớp vẽ ban đầu của Da
Vinci".
Ông đi về phía bức tranh. "Và đây!".
Sophie tiến lại gần hình ảnh đó hơn nữa. Người đàn bà phía tay phải
Jesus còn trẻ, vẻ sùng đạo, khuôn mặt e lệ, mái tóc đẹp màu đỏ, và tay chắp lại
nhẹ nhàng. Đây là người đàn bà có thể một mình làm sụp đổ cả Giáo hội sao?
"Người đàn bà này là ai vậy?" Sophie hỏi.
"Bạn thân mến ơi, đó chính là", Teabing đáp lại,
"Mary Magdalene".
Sophie quay ngoắt người: "Là ả điếm đó sao?".
Teabing hít một hơi, cứ như thể cái từ ấy làm tổn thương chính ông
ta vậy: "Magdalene không phải là thế đâu. Quan niệm sai lầm đáng tiếc ấy
chính là hậu quả của chiến dịch bôi nhọ thanh danh Magdalene được Giáo hội
trước đây phát động.
Giáo hội cần phải phỉ báng Mary Magdalene để che giấu bí mật nguy hiểm
của bà - vai trò của bà với tư cách là Chén Thánh".
"Vai trò của bà ấy?".
"Như tôi đã đề cập ở trên", Teabing nói rõ hơn,
"Giáo hội cần thuyết phục cả thế giới tin rằng nhà tiên tri trần tục Jesus
là người thuộc thiên giới. Vì vậy, mọi phúc âm mô tả những khía cạnh trần tục
trong cuộc đời của Jesus đều bị loại bỏ khỏi Kinh Thánh. Không may cho các nhà
biên tập thời xưa, một chủ đề trần tục đặc biệt rắc rối cứ trở đi trở lại trong
các bản phúc âm. Đó chính là Mary Magdalene", ông dừng lại. "Cụ thể
hơn, đó là cuộc hôn nhân của bà với Jesus Christ".
"Xin ông làm ơn nhắc lại?" Mắt Sophie lia sang Langdon
rồi quay trở lại Teabing.
"Đây là một vấn đề ghi chép lịch sử", Teabing nói tiếp.
"Chắc chắn Da Vinci đã biết sự việc này. Bữa ăn tối cuối cùng gần như chỉ
cho người xem thấy Jesus và Magdalene là một cặp".
Sophie quay lại nhìn bức hoạ.
"Hãy chú ý rằng Jesus và Magdalene mặc đồ như thể người này là
hình ảnh của người kia trong gương vậy". Teabing chỉ tay vào hai người ở
vị trí trung tâm của bức tranh.
Sophie như bị hút hồn. Chắc chắn là quần áo của họ có màu đảo
nghịch nhau. Jesus mặc áo thụng dài màu đỏ và khoác áo choàng màu xanh trong
khi Mary Magdalene mặc áo thụng dài màu xanh và khoác áo choàng màu đỏ. Dương
và âm.
"Đi sâu vào một điều kì quặc hơn", Teabing nói, "hãy
chú ý là Jesus cùng cùng vị hôn thê của mình tựa như hông gắn vào nhau và mỗi
người ngả sang một phía như thể để tạo ra cái khoảng tiêu cực được vạch ra rõ
ràng giữa họ".
Trước cả khi Teabing vạch nét đó cho cô thấy, Sophie đã kịp nhận ra
hình không thể chối cãi được ở chính tâm điểm của bức tranh. Đó chính là kí
tượng mà Langdon đã vẽ lúc nãy biểu trưng cho Chén Thánh, chiếc ly và cả tử
cung của người đàn bà.
"Cuối cùng", Teabing nói, "nếu cô nhìn Jesus và
Magdalene như là những yếu tố bố cục chứ không phải như những con người, cô sẽ
thấy một hình khác rất hiển nhiên đập vào mắt cô". Ông ta dừng lại.
"Một chữ trong bảng chữ cái".
Sophie nhìn thấy nó ngay tức thì. Nói rằng chữ cái ấy đập vào mắt
Sophie còn chưa đủ. Chữ cái đó bỗng nhiên là tất cả những gì Sophie nhìn thấy.
Lồ lộ ở chính giữa bức tranh là nét vạch rành rành một chữ M to tướng, tạo hình
thật hoàn hảo.
"Quá hoàn hảo đối với một sự trùng hợp, chẳng phải cô định nói
như vậy sao?". Teabing hỏi Sophie.
Sophie rất đỗi ngạc nhiên: "Tại sao lại có chứ M ở đấy?".
Teabing nhún vai: "Những nhà lý thuyết về âm mưu sẽ nói với cô
rằng chữ M thay cho Matrimonio hay Mary Magdalene. Thành thực mà nói, chả ai
dám chắc cả. Điều duy nhất chúng ta dám chắc là: chữ M ẩn giấu đó không phải là
một lỗi. Vô số các tác phẩm liên quan đến Chén Thánh đều chứa chữ M ẩn tàng -
hoặc dưới dạng hoa văn chìm, hoặc nằm ở lớp sơn lót, hoặc như là thành phần bố
cục. Và rõ rành nhất đương nhiên là chữ M được dùng để trang trí bàn thờ trong
nhà thờ Đức Bà Paris ở Luân Đôn, do một cựu Đại Sư của Tu viện Sion, Jean
Cocteau, thiết kế".
Sophie cân nhắc kỹ lưỡng những thông tin này: "Tôi thừa nhận
rằng chữ M giấu rất gợi tò mò, mặc dù tôi đồ rằng không ai dám thẳng định nó là
bằng chứng về cuộc hôn nhân của Jesus với Magdalene".
"Không, không", Teabing nói, đi tới chiếc bàn đầy sách
cạnh đó, "như tôi đã nói lúc nãy, cuộc hôn nhân của Jesus và Magdalene là
một phần trong những ghi chép lịch sử". Ông bắt đầu lục lọi trong bộ sưu
tập sách của mình. "Hơn nữa, Jesus với tư cách là một người có vợ hắn sẽ
hợp lý hơn nhiều so với quan điểm chuẩn mực trong Kinh thánh của chúng ta về
một Jesus độc thân".
"Tại sao?". Sophie hỏi.
"Bởi vì Jesus là một người Do Thái", Langdon giảng giải,
trong khi Teabing tìm kiếm cuốn sách của ông, "Và chuẩn mực xã hội vào
thời đó thực tế không cho phép đàn ông Do Thái sống độc thân. Theo phong tục
của người Do Thái, việc sống độc thân bị lên án, và bổn phận của mỗi ông bố
người Do Thái là phải tìm bằng được một cô vợ thích hợp cho con trai mình. Nếu
Jesus không kết hôn, thì chí ít phải có một trong những phúc âm của Kinh thánh
đề cập đến điều này và đưa ra lời giải thích về tình trạng độc thân trái tự
nhiên của Người".
Teabing tìm thấy một cuốn sách to tướng và kéo nó về phía mình.
Cuốn sách đóng bìa da khổ bằng một tấm áp phích, giống như một bộ bản đồ Atlas
lớn. Dòng chữ tít trên bìa: Tuyển tập phúc âm ngộ đạo. Teabing mở sách ra,
Langdon và Sophie xán lại Sophie có thể thấy nó bao gồm những ảnh chụp những
đoạn được phóng to trong các tài liệu cổ - văn bản viết tay trên giấy papyrut
đã rách tả tơi. Cô không hiểu được thứ ngôn ngữ cổ đó, nhưng những trang đối
diện có in lời dịch.
Đây là những bản photocopy từ những ống giấy được tìm thấy ở vùng
Biển Chết và Nag Hammadi mà tôi đã nhắc đến lúc nãy", Teabing nói,
"Những bản ghi chép cổ nhất của đạo Thiên Chúa. Rắc rối là ở chỗ: chúng
lại không khớp với những phúc âm trong Kinh Thánh". Lật tới gỉữa cuốn
sách, Teabing chỉ tay vào một đoạn văn. "Phúc âm của Philip bao giờ cũng
là điểm khởi đầu tốt".
Sophie đọc to đoạn văn lên:
"Và người bạn đồng hành của Chúa Cứu thế chính là Mary
Magdalene. Christ yêu nàng hơn tất cả những tông đổ của mình, và thường hôn lên
miệng nàng. Những tông đồ khác lấy thế làm điều xúc thạm và bày tỏ sự phản đối.
Họ nói với Chúa: "Tại sao Ngài lại yêu cô ta hơn cả chúng con".
Lời chữ ấy khiến Sophie ngạc nhiên, nhưng xem ra hầu như không
khắng định gì. "Đoạn này chẳng nói gì đến hôn nhân".
"Au contrare"(2), Teabing mỉm cười rồi chỉ tay vào dòng
đầu tiên, "bất kỳ nhà nghiên cứu ngôn ngữ Aram nào cũng sẽ nói cho cô
biết, thời đó, từ bạn đồng hành nghĩa đen là vợ hoặc chồng".
Langdon gật đầu đồng tình.
Sophie đọc lại dòng đầu tiên. Và người bạn đồng hành của Chúa Cứu
thế chính là Mary Magdalene.
Teabing lật tiếp sang trang và chỉ ra một vài đoạn văn khác ngụ ý
rõ ràng, trước sự ngạc nhiên của Sophie, rằng Magdalene và Jesus có một mối
quan hệ lãng mạn. Khi cô đọc những đoạn văn này, Sophie chợt nhớ đến một tu sĩ
phẫn nộ đã đập cửa nhà ông ngoại khi cô còn là một nữ sinh.
"Đây có phải là nhà ông Jacques Saunère không?" Người tu
sĩ hỏi, chằm chằm nhìn xuống bé Sophie khi cô mở cửa. "Ta phải nói chuyện
với ông ấy về cái bài xã luận mà ông ấy đã viết", Người tu sĩ giơ một tờ
báo lên.
Sophie mời ông ngoại ra, và hai người đàn ông biến vào trong phòng
làm việc rồi đóng cửa lại. Ông mình viết điều gì trên báo nhỉ? Sophie lập tức
chạy tới nhà bếp và lật tờ báo sáng. Cô bé tìm thấy tên của ông ngoại ờ một bài
báo trong trang hai.
Cô bé đọc bài báo. Sophie không hiểu tất cả, nhưng có vẻ như, dưới
áp lực của các tu sĩ, chính phủ Pháp đã đồng ý cấm một bộ phim Mỹ được gọi là
Cám dỗ cuối cùng của Christ nói về chuyện Jesus có quan hệ với một cô gái tên
là Mary Magdalene Bài báo của ông cô nói rằng Giáo hội quá ngạo mạn và sai lầm
khi đòi cấm bộ phim ấy.
Thảo nào ông cha cô phát khùng, Sophie nghĩ bụng.
"Đó là phim con heo? Tội phạm thánh!" Người tu sĩ gào
lên, ra khỏi phòng làm việc của ông cô rồi lao ra cửa chính. "Làm sao ông
có thể chấp nhận điều đó được! Tay người Mỹ Martin Scorsese là một kẻ báng bổ,
và Giáo hội sẽ không cho phép hắn chầu lễ tại Pháp đâu!" Người tu sĩ đóng
sầm cửa lại trên đường ra khỏi nhà.
Khi ông ngoại vào nhà bếp và thấy Sophie đang cầm tờ báo, ông cau
mày. "Cháu cũng khá nhanh đấy".
Sophie trả lời: "Ông nghĩ Jesus Christ có một người
tình?".
"Không, cháu yêu, ông chỉ nói: không nên để Nhà Thờ được phép
bảo chúng ta những ý tưởng nào là có thể ấp ủ hay cấm kị".
"Jesus có một người tình hay không?".
Ông cô im lặng hồi lâu rồi bất chợt hỏi: "Nếu có thì có là xấu
không?".
Sophie nghĩ một lúc rồi nhún vai trả lời: "Cháu sẽ không phản
đối".
Ngài Leigh Teabing vẫn tiếp tục nói: "Tôi sẽ không làm cô chán
ngấy với vô số những tham chiếu về cuộc hợp nhất của Jesus và Magdalene. Điều
đó đã được các sử gia hiện đại khảo sát đến phát buồn nôn. Tuy nhiên, tôi muốn
vạch ra điều sau đây". Ông chỉ tay vào một đoạn khác. "Đoạn này trích
từ Phúc âm của Mary Magdalene".
Sophie chưa bao giờ biết là có một bản phúc âm bằng lời chữ của
Mary trên cõi đời này. Cô đọc đoạn văn ấy:
Và Peter nói: "Liệu rằng Chúa Cứu thế có thực sự đã nói chuyện
với một người đàn bà mà chúng ta không hề hay biết.
Liệu chúng ta có phải quay lại và cùng lắng nghe cô ta nói không?
Ngài yêu mến cô ta hơn chúng ta thật sao?".
Và Levi trả lời: "Này, Peter, anh bao giờ cũng nóng nảy.
Giờ đây tôi thấy anh đang đối phó với người đàn bà đó như kẻ thù
vậy. Nếu Chúa Cứu thế thấy người đàn bà xứng đáng để chọn thì anh thực sự là
cái thá gì mà bác bỏ cô ta? Chắc chắn Chúa Cứu thế biết rất rõ về người đàn bà
này. Đó là lý do Người yêu mến cô ấy hơn chúng ta".
"Người đàn bà mà họ nhắc đến", Teabing giải thích,
"là Mary Magdalene. Peter ghen tị với bà ấy".
"Bởi vì Jesus yêu mến Mary hơn à?".
"Không chỉ có thể. Cái được-mất ở đây còn lớn tình yêu đơn
thuần, lớn hơn nhiều. Tới điểm này trong các Phúc âm, Jesus đã ngờ ngợ rằng
chẳng bao lâu nữa Người sẽ bị bắt và đóng đinh câu rút. Vậy nên Người mới dặn
dò Magdalene phải duy trì Giáo hội của Người như thế nào sau khi Người qua đời.
Và kết quả là, Peter tỏ ra rất bất mãn vì phải phụ tá cho một người đàn bà. Tôi
dám nói rằng Peter có chút phân biệt giới tính".
Sophie cố gắng theo cho kịp: "Đây chính là Thánh Peter. Hòn đá
tảng mà Jesus đã xây dựng Giáo hội của Người trên đó".
"Chính ông ta, ngoại trừ một điểm khúc mắc. Theo những phúc âm
không bị chỉnh sửa này, người được Christ chỉ đạo để tạo lập Giáo hội Thiên
Chúa giáo không phải là Peter mà chính là Mary Magdalene".
Sophie nhìn Teabing: "Ông nói rằng Giáo hội Thiên chúa giáo đã
có thể được giao lại cho một người đàn bà?".
Đó chỉ là theo dự kiến. Jesus là người đầu tiên bảo vệ nữ quyền.
Người chủ định đặt tương lai Giáo hội vào tay Mary Magdalene".
"Và Peter đã rất bực bội về điều này", Langdon vừa nói
vừa chỉ tay vào bức hoạ Bữa ăn tối cuối cùng. "Kia chính là Peter. Cô có
thể thấy Da Vinci biết rất rõ Peter có ác cảm với Mary Magdalene".
Một lần nữa Sophie lại không thốt nên lời. Trong bức tranh, Peter
ngả người đầy vẻ đe doạ về phía Mary Magdalene và dứ bàn tay như lưỡi dao ngang
cổ bà. Cử chỉ đe doạ này cũng giống như trong tác phẩm Madonna of the Rocks!
"Và đây nữa", Langdon vừa nói vừa chỉ tay vào đám tông đồ
ngồi gần Peter, "không phải là một điềm gở hay sao?".
Sophie nheo mắt và nhận thấy một bàn tay giơ lên từ trong đám tông
đồ: "Có phải bàn tay đó đang vung một con dao găm không?".
"Đúng vậy. Kì lạ hơn nữa, nếu cô đếm những cánh tay, cô sẽ
nhận ra rằng, bàn tay này không thuộc về…bất kỳ ai có mặt trong bức tranh. Nó
tách rời cơ thể. Khuyết danh".
Sophie bắt đầu cảm thấy ngợp: "Xin lỗi, tôi vẫn chưa hiểu làm
sao tất cả những chuyện này lại dẫn đến chỗ khiến Mary Magdalene trở thành Chén
Thánh".
"Aha!" Teabing một lần nữa lại thốt lên. "Cái khó là
ở chỗ đó! Ông ta một lần nữa quay lại chiếc bàn và lôi ra một sơ đồ khá rộng
rồi trải nó ra trước mặt Sophie. Đó chính là một sơ đồ phả hệ rất tỉ mỉ.
"Ít người nhận chân được rằng Mary Magdalene, ngoài việc là cánh tay phải
của Jesus, còn là một người phụ nữ đầy quyền lực".
Sophie có thể thấy tiêu đề của cây phả hệ đó.
BỘ LẠC BENJAMIN
"Mary Magdalene ở đây", Teabing nói, chỉ tay gần vào đỉnh
cây phả hệ.
Sophie ngạc nhiên: "Bà ấy là người của dòng họ Benjamin
sao?".
"Quả vậy", Teabing nói tiếp, "Mary Magdalene có dòng
dõi hoàng gia".
"Nhưng tôi lại có cảm giác rằng Magdalene là người
nghèo".
Teabing lắc đầu: "Người ta đã biến Magdalenen thành một con
điếm để xóa bỏ bằng chứng về những mối quan hệ huyết thống đầy quyền lực của
bà".
Sophie thấy mình một lần nữa lại liếc sang Langdon, và Langdon lại
gật đầu. Cô quay lại Teabing: "Nhưng tại sao Giáo hội ban đầu lại quan
ngại nếu như Magdalene thuộc dòng máu hoàng gia?".
Teabing mỉm cười: "Ôi con gáỉ của ta, huyết thống hoàng gia
của bà không làm cho Giáo hội lo sợ bằng vỉệc bà chung sống với Jesus, mà Jesus
cũng có dòng máu hoàng gia. Như cô biết, Sách Phúc âm của Matthew cho chúng ta
hay Jesus là người của dòng họ David. Một hậu duệ của đức vua Solomon - vua của
người Do Thái. Bằng việc kết hôn với người thuộc dòng họ Benjamin đầy quyền
lực, Jesus đã kết nối hai dòng họ hoàng gia lại với nhau, tạo ra một liên minh
chính trị hùng mạnh với khả năng đưa ra yêu sách chính đáng đòi quyền kế vị
ngôi báu và khôi phục dòng vua truyền nối như dưới thời Solamon".
Sophie cảm thấy cuối cùng Teabing cũng đi đến điểm chính.
Lúc này, trông Teabing có vẻ rất phấn khích: "Truyền thuyết về
Chén Thánh là một truyền thuyết về dòng máu hoàng gia.
Khi truyền thuyết về Chén Thánh nói đến "chiếc ly hứng máu của
Christ"… thực ra là nói về Magdalene - cái tử cung mang dòng máu hoàng gia
của Jesus".
Những lời đó dường như vang khắp phòng khiêu vũ và dội trở lại
trước khi đầu óc Sophie kịp ghi nhận. Mary Magdalene đã mang trong người dòng
máu hoàng gia của Jesus Christ? "Nhưng bằng cách nào Christ có được dòng
máu ấy trừ phi…?", Cô dừng lại và nhìn Langdon.
Langdon mỉm cười dịu dàng: "Trừ phi họ có con với nhau".
Sophie đứng sững sờ.
"Nhìn đây", Teabing tuyên bố, "bí mật lớn nhất trong
lịch sử loài người. Jesus không chỉ kết hôn mà Người còn là một người cha. Bạn
thân mến, Mary Magdalene là Chén Thánh linh thiêng.
Bà là chiếc ly mang trong mình dòng máu của Jesus Christ. Bà là
chiếc tử cung mang dòng dõi của Jesus, và cây nho từ đó nẩy sinh những trái quả
thiêng!".
Sophie cảm thấy sởn da gà: "Nhưng làm sao một bí mật lớn như
thế lại có thể giữ im ỉm trong suốt chừng ấy năm?".
"Ôi trời?" Teabing nói. "Nó tuyệt nhiên khong hề im
ỉm. Dòng dõi hoàng gia của Jesus Christ là nguồn gốc của truyền thuyết lâu bền
nhất của mọi thời đại - Chén Thánh. Trong nhiều thế kỉ, câu chuyện về Magdalene
đã vang vọng tới khắp hang cùng ngõ hẻm thể hiện trong mọi loại ẩn dụ và ngôn
ngữ. Câu chuyện về bà hiện diện ở khắp mọi nơi, một khi cô mở to mắt mà
nhìn!".
"Thế còn những tài liệu Sangreal?" Sophie nói.
"Người ta bảo chúng chứa đựng bằng chứng rằng Jesus có dòng máu hoàng gia
phải không?".
"Đúng thế".
"Vậy là toàn bộ truyền thuyết Chén Thánh là về dòng máu hoàng
gia?".
"Hoàn toàn chính xác", Teabing nói, "Từ Sangreal
phát sinh từ San Greal - tức là Chén thánh. Nhưng ở trong dạng cổ xưa nhất, từ
Sangreal lại phân chia ở một điểm khác". Teabing viết lên một mảnh giấy
lộn rồi đưa cho Sophie.
Sophie đọc dòng chữ Teabing vừa mới viết.
Sang Real
Cuối cùng, Sophie cũng nhận ra được sự chuyển dịch ấy.
Sang Real nghĩa đen là Dòng máu hoàng gia.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: phòng làm việc.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Trái lại.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 40
Nam nhân viên lễ tân ở sảnh của trụ sở Opus Dei trên đại lộ
Lexington, thành phố New York, ngạc nhiên khi nghe thấy giọng của giám mục
Aringarosa trên điện thoại. "Xin chào ngài".
"Tôi có tin nhắn gì không?" Giám mục hỏi bằng giọng lo
lắng một cách khác thường.
"Có thưa ngài. Tôi rất mừng thấy ngài gọi về. Tôi đã gọi đến
nhà mà không gặp được ngài. Ngài có một tin nhắn khẩn cấp qua điện thoại khoảng
nửa tiếng đồng hồ trước đây".
"Thật hả?" ông có vẻ nhẹ cả người khi nghe tin đó.
"Thế người gọi có để lại tên không?".
"Không, thưa ngài, họ chỉ để lại số thôi", người nhân
viên tổng đài chuyển số.
"Mã 33 à? Đó là mã của nước Pháp, đúng không?".
"Vâng thưa ngài, đó chính là mã của Paris. Người gọi nhắn lại
rằng ngài rất cần liên lạc với họ ngay lập tức".
"Cám ơn. Tôi đang chờ cuộc gọi này". Aringarosa nhanh
chóng cúp máy.
Trong khi gác ống nghe, nhân viên lễ tân tự hỏi tại sao đường dây
điện thoại của Aringarosa lại lạo xạo đến thế. Thời gian biểu hàng ngày của
giám mục cho thấy ông đang ở New York trong tuần này nhưng có vẻ như ông đang ở
tận đầu kia thế giới. Người phục vụ nhún vai. Trong những tháng gần đây, giám
mục Aringarosa hành xử rất kì lạ.
Máy di động của ta chắc đã không nhận được tin, Aringarosa nghĩ khi
chiếc Fiat đến gần lối ra của sân bay Ciampino Charter tại Roma. Thầy Giáo đang
cố tìm gặp mình đây. Mặc dù e ngại vì đã lỡ mất cuộc gọi quan trọng đó,
Arinbarosa vẫn thấy phấn khởi vì Thầy Giáo cảm thấy đủ tin cậy để gọi thẳng đến
trụ sở Opus Dei.
Mọi chuyện hẳn phải diễn ra tốt đẹp ở Paris hôm nay.
Khi Aringarosa bắt đầu bấm số, ông cảm thấy phấn chấn khi biết rằng
ông sẽ sớm ở Paris. Ta sẽ hạ cánh trước bình minh. Một chiếc máy bay phản lực
thuê riêng đang chờ để chở Aringarosa trên chuyến bay ngắn tới Pháp. Máy bay
thương mại không phải là một lựa chọn vào giờ này, nhất là xét những gì chứa
bên trong chiếc cặp số của ông.
Điện thoại reo.
Một giọng nữ đáp: "Direction Centrale Police
Judiciaire"(1).
Aringarosa cảm thấy mình ngần ngừ. Điều này thật bất ngờ.
"À vâng…người ta yêu cầu tôi gọi theo số máy này đúng
không?".
"Qui etes-vous?"(2), người phụ nữ hỏi: "Tên ông là
gì?".
Aringarosa phân vân không biết có nên xưng tên hay không.
Cảnh sát tư pháp của Pháp.
"Tên của ông?", Người phụ nữ nhấn mạnh.
"Giám mục Manuel Aringarosa".
"Un moment"(3). Có tiếng cách trên đường dây.
Sau hồi chờ đợi, một người đàn ông khác tiếp máy, giọng thô kệch và
lo lắng: "Thưa giám mục, tôi rất mừng vì cuối cùng tôi cũng tiếp cận được
ngài. Ngài và tôi có nhiều điều để bàn".
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: Cục Cảnh sát tư pháp trung ương.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: ông là ai?
(3) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: Xin chờ một lát.
Sangreal… Sang Real… San Greal… Dòng máu hoàng gia Chén Thánh.
Tất cả cứ xoắn quện với nhau.
Chén Thánh chính là Mary Magdalene… người mẹ của dòng máu hoàng gia
của Jesus Christ. Sophie cảm thấy một đợt lạc hướng mới khi cô đứng trong tĩnh
lặng của phòng khiêu vũ và đăm đăm nhìn Robert Langdon. Langdon và Teabing càng
đặt thêm nhiều mảnh lên bàn thì trò đố chắp hình lại càng trở nên không thể
đoán được.
"Như bạn thấy đấy, bạn thân mến", Teabing nói, tập tễnh
tiến về phía giá sách, "Leonnardo không phải là người duy nhất cố gắng nói
với thế giới sự thật về Chén Thánh. Hàng mấy chục nhà sử học đã ghi chép hết
sức chi tiết về dòng máu hoàng gia của Jesus vào sử biên niên". Ông lướt
ngón tay lên gáy một dãy hàng tá sách.
Sophie nghiêng đầu, điểm các tiêu đề:
KHẢI HUYỀN TEMPLAR
Những người bí mật bảo vệ nhân thân đích thực của Christ.
NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI CHIẾC BÌNH NGỌC THẠCH.
Mary Magdalence và Chén Thánh.
NỮ THẦN TRONG SÁCH PHÚC ÂM.
Đòi lại tính nữ thỉêng liêng.
"Có lẽ đây là bộ sách nổi tiếng nhất", Teabing nói, lôi
từ đống sách ra một quyển bìa cứng rách nát và đưa cho cô.
Ngoài bìa in dòng chữ:
DÒNG MÁU THIÊNG LIÊNG, CHÉN THÁNH.
Ấn phẩm quốc tế bán chạy nhất rất được tán thưởng.
Sophie ngước mắt lên: "Ấn phẩm quốc tế bán chạy nhất? Sao tôi
chưa bao giờ nghe nhắc đến nó".
"Khi đó cô còn bé. Quyển sách này đã gây náo động trong những
năm 1980. Theo khẩu vị của tôi, các tác giả đã đưa ra một số tín niệm đáng ngờ
khó chứng minh được trong phân tích của họ, nhưng giả thuyết cơ bản thì rất hợp
lí, và chung cuộc, họ đã thực hiện được việc đưa ý tưởng về dòng máu của Christ
vào dòng chủ lưu".
"Nhà Thờ phản ứng thế nào với cuốn sách?".
"Bị xúc phạm, tất nhiên. Nhưng điều đó không có gì là bất ngờ.
Nói cho cùng, đó là bí mật mà Vatican cố chôn vùi vào thế kỷ thứ tư. Đó chính
là một phần của cái mà các cuộc Thập Tự Chinh nhằm tới. Thu gom và tiêu huỷ
thông tin. Mối đe doạ từ Mary Magdalene đối với những người của Giáo hội sơ
khởi ẩn chứa sự phá huỷ tiềm tàng. Bà không chỉ là người phụ nữ được Jesus ký
thác nhiệm vụ thành lập Giáo hội mà còn là bằng chứng vật thể rằng vị thiên
chúa mới tấn phong của nhà thờ đã sinh ra dòng máu trần tục. Giáo hội, để tự
bảo vệ chống lại sức mạnh của Magdalene, đã bôi nhọ vĩnh viễn hình ảnh của bà
như một gái điếm và chôn vùi những bằng chứng về cuộc hôn phối giữa Christ và
bà, do đó đã tháo ngòi nổ bất cứ lời tuyên bố nào về việc Christ có một huyết
thống vẫn tiếp tục tồn tại và là một nhà tiên tri trần tục".
Sophie ngước nhìn Langdon, ông gật đầu: "Sophie, những bằng
chứng lịch sử khắng định điều này là rất nhiều".
"Tôi thừa nhận rằng", Teabing nói, "những điều khẳng
định nói trên là kinh khủng, nhưng cô nên biết rằng Giáo hội có những động cơ
rất mạnh mẽ để tiến hành sự che giấu này. Họ tất không thể tồn tại sau khi công
chúng biết là có một huyết thống từ Christ. Một người con của Jesus sẽ hủy hoại
ý niệm về tính thiên giới của Christ và do đó hủy hoại cả Nhà Thờ Thiên Chúa
Giáo vốn tự xưng là nguồn mạch duy nhất qua đó nhân loại có thể tiếp cận với
thiên giới và tìm được đường vào nước thiên đàng".
"Bông hoa hồng năm cánh", Sophie nói, đột nhiên chỉ vào
gáy một quyển sách của Teabing. Hệt như hoa văn khảm trên chiếc hộp bằng gỗ
hồng mộc.
Teabing liếc nhìn Langdon, nhoẻn miệng cười: "Cô ấy có con mắt
rất tinh đời". Ông quay lại phía Sophie. "Đó là biểu tượng của Tu viện
Sion để chỉ Chén Thánh. Mary Magdalene. Vì Nhà Thờ cấm nhắc đến tên bà nên Mary
Magdalene được bí mật biết đến dưới nhiều bí danh khác nhau - Cốc rượu Thánh -
Chén Thánh và Hoa Hồng". Ông ngừng lại. "Hoa Hồng có những mối liên
hệ với hình sao năm cánh của thần Venus và la bàn Hoa Hồng chỉ hướng. Nhân tiện
xin lưu ý, từ rose (hoa hồng) là y như nhau trong tiếng Anh, Pháp, Đức và nhiều
ngôn ngữ khác nữa".
"Rose - Hoa Hồng", Langdon bổ sung thêm, "cũng là
dạng đảo chữ của từ Eros, thần tình dục trong thần thoại Hy Lạp".
Sophie nhìn Langdon ngạc nhiên trong khi Teabing nói tiếp:
"Hoa Hồng luôn luôn là biểu tượng đầu tiên của tính dục nữ. Trong tục lệ
thờ nữ thắn thời nguyên thuỷ, năm cánh hoa đại diện cho năm chặng trong cuộc
đời người nữ: ra đời, bắt đầu có kinh, làm mẹ, mãn kinh và chết. Thời nay, liên
hệ giữa một bông hoa đang nở với đặc tính đàn bà được nhìn nhận dưới góc độ thị
giác nhiều hơn". Ông liếc nhìn Robert: "Có lẽ nhà ký tượng học có thể
giải thích điều này rõ hơn?".
Robert ngập ngừng. Một khoảnh khắc dài.
"Ôi trời!". Teabing thở hắt ra. "Người Mỹ các bạn
thật hay cả thẹn". Ông quay lại nhìn Sophie. "Điều làm cho Robert
lúng túng là việc một bông hoa đang nở giống bộ phận sinh dục của nữ giới, đóa
hoa tuyệt diệu mà từ đó toàn nhân loại bước vào thế giới. Và nếu cô đã từng xem
bất kì bức tranh nào của Georgia O Keeffe(1), cô sẽ biết chính xác tôi định nói
gì".
"Vấn đề ở đây", Langdon nói, chỉ về phía giá sách,
"là tất cả những cuốn sách này đều chứng minh cùng một lời khắng định mang
tính lịch sử".
"Rằng Jesus là một người cha?" Sophie vẫn không chắc chắn
lắm.
"Phải", Teabing nói, "và rằng Mary Magdalene đã mang
thai giọt máu hoàng gia của Người. Tu viện Sion, đến nay, vẫn thờ Mary
Magdalene như một nữ thần, Chén Thánh, Hoa Hồng và Thánh Mẫu".
Sophie bỗng hồi tưởng lại nghi thức diễn ra trong tầng hầm.
"Theo Tu viện Sion", Teabing tiếp tục, "Mary
Magdalene có mang vào chính thời điểm Jesus bị đóng đinh câu rút. Vì sự an toàn
của đứa con chưa được ra đời, bà không còn cách lựa chọn nào khác là phải trốn
khỏi Đất Thánh. Với sự giúp đỡ của người bác đáng tin cậy của Jesus, Joseph,
Joseph xứ Arimathea, Mary Magdalene đã bí mật tới Pháp, rồi lấy tên Gaul. Bà
tìm thấy một nơi trú ẩn an toàn trong cộng đồng người Do Thái. Chính tại đây
trên đất Pháp, bà đã sinh một bé gái đặt tên là Sarah".
Sophie ngước lên: "Họ thực sự biết tên của đứa trẻ ư?".
"Còn hơn thế nữa. Những người Do Thái bảo vệ Magdalene và
Sarah đã ghi chép hết sức tỉ mỉ cuộc sống của họ. Hãy nhớ rằng con của
Magdalene thuộc dòng dõi các vua của người Do Thái - David và Solomon. Vì lý do
đó, người Do Thái ờ Pháp coi Magdalene là thuộc hoàng tộc thiêng liêng và tôn
thờ bà như là tổ mẫu dòng máu hoàng gia của các vị vua. Vô số học giả thời đó
đã ghi chép về thời kì Mary Magdalene ở Pháp, bao gồm cả sự ra đời của Sarah và
gia phả sau này".
Sophie giật mình: "Có cây gia hệ của Jesus Christ ư?".
"Đúng thế. Và nó là một trong những nền tảng của tài liệu
Sangreal. Một bảng phả hệ hoàn chỉnh về con cháu dòng dõi của Christ".
"Nhưng một bảng phả hệ trên cơ sở tài liệu về dòng dõi của
Christ thì ích gì?" Sophie hỏi. "Nó không thể là bằng chứng. Các nhà
sử học không thể khẳng định tính xác thực của tài liệu".
Teabing cười tủm tỉm: "Không nhiều hơn mức mà họ có thể khẳng
định là xác thực trong Kinh Thánh".
"Nghĩa là…?".
"Nghĩa là lịch sử bao giờ cũng được viết bởi những kẻ chiến
thắng. Khi hai nền văn hoá va chạm nhau, người thua cuộc sẽ bị xóa bỏ, và kẻ
chiến thắng sẽ viết những cuốn sách lịch sử - những cuốn sách vinh danh sự
nghiệp của chính họ và miệt thị kẻ thù bị chinh phục. Như Napoleon đã có lần
nói rằng: "Lịch sử là gì, nếu không phải là một thứ ngụ ngôn được thoả
thuận?". Ông cười. "Do bản chất của nó, lịch sử bao giờ cũng là bản
tường tnnh thiên lệch về một phía".
Sophie chưa bao giờ nghĩ về lịch sử theo cách ấy.
"Tài liệu Sangreal chỉ đơn giản kể nốt phía kia của câu chuyện
về Christ. Cuối cùng, việc bạn tin phía nào của câu chuyện sẽ lại là vấn đề của
đức tin và khảo sát cá nhân, nhưng dù gì thì thông tin này cũng đã tồn tại.
Những tài liệu Sangreal gồm hàng chục ngàn trang. Các bản tường trình của những
nhân chứng về kho báu Sangreal mô tả rằng nó được chở trong bốn chiếc hòm lớn.
Nghe đồn trong các hòm đó là những Tài liệu thuần túy - hàng ngàn trang chưa bị
sửa đổi từ thời tiền Constantine do các đệ tử ban đầu của Jesus viết, họ tôn
kính Người như một bậc thầy và nhà tiên tri hoàn toàn nhân bản.
Cũng theo lời đồn đại thì một phần của kho báu là Tài liệu
"Q". huyền thoại - một bản thảo chép tay mà cả Vatican cũng thừa nhận
họ tin là đang tồn tại. Người ta cho rằng đó là một quyển sách ghi những lời
răn dạy của Jesus, có thể do chính tay Người viết ra".
"Do đích thân Christ viết?".
"Tất nhiên", Teabing nói, "tại sao Jesus lại không
ghi biên niên kí về mục sự của Người? Hầu hết mọi người đều làm thế trong những
ngày đó. Một tài liệu khác có khả năng gây bùng nổ, mà người ta cho rằng cũng ở
trong kho báu đó, là một bản viết tay có tên là Nhật kí Magdalene - trong đó có
những ghi chép cá nhân của Mary Magdalene về mối quan hệ của bà với Christ,
việc Người bị đóng đinh trên cây thập ác và thời gian bà ở Pháp".
Sophie yên lặng hồi lâu: "Bốn chiếc hòm tài liệu đó có phải là
kho báu mà các Hiệp sĩ Templar đã tìm thấy dưới đền thờ Solomon không?".
"Đích thị. Những tài liệu này đã làm cho các Hiệp sĩ Templar
hùng mạnh đến vậy. Những tài liệu này đã trở thành đối tượng của vô số các cuộc
tìm kiếm Chén Thánh trong suốt lịch sử!".
"Nhưng ông đã nói rằng Chén Thánh chính là Mary Magdalene. Nếu
một ai đó tìm kiếm những tài liệu này thì tại sao ông lại gọi đó là cuộc tìm
kiếm Chén Thánh?".
Teabing nhìn cô, vẻ mặt dịu đi: "Bởi vì nơi cất giấu Chén
Thánh bao gồm một chiếc quan tài đá".
Bên ngoài, gió gào rú trên những ngọn cây.
Giờ đây, Teabing nói bình tĩnh hơn: "Cuộc tìm kiếm Chén Thánh
chính xác là cuộc tìm kiếm để quì trước nắm xương tàn của Mary Magdalene. Một
cuộc hành trình để cầu nguyện dưới chân kẻ bị ruồng bỏ, cái chất nữ thiêng
liêng bị đánh mất".
Sophie cảm thấy một nỗi ngạc nhiên bất ngờ: "Nơi giấu Chén
Thánh thực ra là… một ngôi mộ?".
Đôi mắt màu hạt dẻ của Teabing chợt như phủ sương: "Đúng thế.
Một ngôi mộ lưu giữ thi thể của Mary Magdalene và những tài liệu kể câu chuyện
thực về đời bà. Về cốt lõi, cuộc tìm kiếm Chén Thánh xưa nay bao giờ cũng là
cuộc tìm kiếm Magdalene - vị nữ hoàng bị đổ tiếng xấu, bị chôn vùi dưới mộ cùng
với những bằng chứng về yêu cầu chính đáng của gia tộc mình đối với quyền
lực".
Sophie đợi một lát trong khi Teabing bình tĩnh lại. Rất nhiều điều
về ông cô vẫn chưa được làm sáng tỏ. "Các thành viên của Tu viện
Sion", cuối cùng cô nói, "suốt những năm qua gánh trách nhiệm bảo vệ
tài liệu Sangreal và mộ Mary Magdalene phải không?".
"Phải, nhưng hội kín này còn có một bổn phận khác quan trọng
hơn - bảo vệ chính dòng máu hoàng gia. Dòng dõi của Christ luôn luôn bị đe dọa.
Giáo hội sơ khởi sợ rằng nếu dòng máu này được phép sinh sôi nẩy nở thì cuối
cùng bí mật về Jesus và Magdalene sẽ bị phơi bày và thách thức học thuyết cơ
bản của Thiên Chúa Giáo - học thuyết về một Đấng Cứu Thế giáng trần không ăn ở
với phụ nữ hay giao hợp". Ông ngừng một lát. "Tuy nhiên, dòng dõi của
Christ vẫn âm thầm phát triển bí mật ở Pháp cho đến khi có một bước đột phá táo
bạo vào thế kỉ thứ V, khi nó hôn phối với dòng máu hoàng gia Pháp để tạo ra
dòng dõi được gọi là dòng dõi vương triều Merovingien".
Tin này làm Sophie ngạc nhiên. Merovingien là một từ mà tất cả các
sinh viên ở Pháp đều đã học - "Gia tộc Merovingien lập nên Paris".
"Phải. Đó là một trong những lí do khiến truyền thuyết về Chén
Thánh lại phong phú như vậy ở Pháp. Nhiều cuộc tìm kiếm Chén Thánh của Vatican
ở Pháp thực chất là những công vụ lén lút nhằm xoá sổ các thành viên của hoàng
tộc này. Cô đã bao giờ nghe nói về vua Dagobert chưa?".
Sophie mơ hồ nhớ lại cái tên này từ một câu chuyện ghê rợn trong
lớp học lịch sử: "Dagobert là một vị vua thuộc vương triều Merovinge phải
không? Ông bị đâm vào mắt trong lúc đang ngủ?".
"Chính xác. Ông bị ám sát bởi Vatican với sự thông đồng với
Pepin d Heristal. Cuối thế kỷ thứ VII. Với vụ mưu sát Dagobert, dòng họ
Merovingien hầu như bị tuyệt diệt. May sao, con trai của Dagobert, Sigisbert,
đã bí mật trốn thoát khỏi cuộc tấn công và tiếp tục duy trì dòng dõi của mình,
sau này dòng họ đã sản sinh Gedefroi de Bouillon - người sáng lập Tu viện
Sion".
"Cũng chính con người này", Langdon nói, "đã ra lệnh
cho các Hiệp sĩ Templar thu hồi lại tài liệu Sangreal từ bên dưới đền thờ
Solomon và do vậy cung cấp bằng chứng về mối liên hệ kế truyền của dòng họ
Merovingien với Jesus Christ".
Teabing gật đầu, trút một tiếng thở dài: "Tu viện Sion hiện nay
có một nhiệm vụ rất trọng đại. Trách nhiệm của họ có ba phần. Hội kín này phải
bảo vệ tài liệu Sangreal. Họ phải bảo vệ ngôi mộ của Mary Magdalene. Và, tất
nhiên, họ cũng phải nuôi dưỡng và bảo vệ dòng dõi của Jesus Christ - số ít ỏi
thành viên của dòng dõi hoàng gia Merovingien còn sống sót đến ngày nay".
Lời ông lơ lửng trong khoảng không rộng lớn, và Sophie cảm thấy một
rung động kì lạ như thể một thứ chân lí mới đang dọi vào đến tận xương cốt cô.
Những hậu dụê của Jesus còn tồn tại đến ngày nay. Tiếng ông cô lại như đang thì
thầm bên tai cô.
"Công chúa, ta phải nói cho cháu sự thực về gia đình
cháu".
Sophie cảm thấy rùng mình.
Dòng máu hoàng tộc.
Cô không thể tưởng tượng được.
Công chúa Sophie.
***
"Thưa ngài Leigh?" Tiếng người hầu nam vang lên lạo xạo
qua hệ thống thông tin nội bộ trên tường, và Sophie giật nảy người. "Ngài
có thể gặp tôi trong bếp một lát không?".
Teabing cau mặt vì sự chen ngang không đúng lúc này. Ông đi tới hệ
thống thông tin nội bộ và ấn nút: "Rémy, anh biết đấy, tôi đang bận với
khách. Nếu đêm nay chúng tôi cần gì khác nữa từ nhà bếp, chúng tôi sẽ tự phục
vụ. Cám ơn anh và chúc ngủ ngon".
"Chỉ một lời với ngài thôi trước khi tôi lui, thưa ngài. Nếu
ngài vui lòng".
Teabing càu nhàu và ấn nút. "Vậy thì nhanh lên, Rémy".
"Chỉ là vấn đề trong nhà thôi, thưa ngài, không đáng để các vị
khách phải nghe".
Teabing có vẻ hoài nghi: "Không thể để đến sáng mai được
ư?".
"Không, thưa ngài. Câu hỏi của tôi không mất đến một phút
đâu".
Teabing tròn mắt nhìn Langdon và Sophie: "Thỉnh thoảng, tôi cứ
tự hỏi không biết ai đang phục vụ ai đây?". Ông lại ấn nút. "Tôi sẽ
đến ngay, Rémy. Tôi có thể mang đến cho anh cái gì không?".
"Chỉ cần giải phóng khỏi áp bức thôi, thưa ngài".
"Rémy, anh biết rằng món steak au poivre (2) của anh là lí do
duy nhất để anh vẫn làm việc cho tôi".
"Tôi biết rồi, khổ lắm, ngài cứ nói mãi".
Chú thích:
(1) Georgia O Keeffe (1887-1986), nữ danh họa Mỹ chuyên vẽ hoa.
Trong tác phẩm của bà, hoa luôn được đồng nhất với bộ phận sinh dục của đàn bà.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: bí tết hạt tiêu
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 41
Sophie cảm thấy trống rỗng khi lắng nghe tiếng nạng lách cách của
Teabing nhỏ dần trong hành lang. Tê dại, cô quay lại và đối mặt với Langdon
trong phòng khiêu vũ vắng tanh. Ông lắc đầu như thể đọc thấy ý nghĩ của cô.
"Không, Sophie", ông thầm thì, đôi mắt vỗ về trấn an,
"cũng ý nghĩ đó đến trong đầu tôi khi tôi hiểu ra rằng ông cô cũng ở trong
Tu viện Sion, và cô nói rằng ông muốn nói cho cô nghe một bí mật về gia tộc cô.
Nhưng điều đó là bất khả". Langdon ngừng lại một lát. "Saunière không
phải là một họ thuộc hệ Merovingien".
Sophie không biết chắc mình nên cảm thấy nhẹ nhõm hay thất vọng.
Trước đó, Langdon có hỏi qua một câu không bình thường về cái tên thời con gái
của mẹ cô. Chauvel. Bây giờ, cô mới hiểu tại sao ông hỏi vậy. "Còn cái tên
Chauvel?" Cô hỏi một cách lo lắng.
Ông lại lắc đầu: "Tôi rất tiếc. Tôi biết điều đó sẽ giải đáp
một vài câu hỏi cho cô. Chỉ có hai nhánh trực hệ của dòng họ Merovingien là còn
duy trì. Hai họ đó là Plantard và Saint-Clair.
Cả hai tộc này vẫn sống lẩn trốn, có lẽ dưới sự che chở của Tu viện
Sion".
Sophie thầm nhắc lại những họ này trong óc rồi lắc đầu.
Không một ai trong gia đình cô mang họ Plantard hay Saint-Clair.
Một con sóng ngầm mệt mỏi như đang co kéo cô. Cô chợt nhận ra, so với lúc ở
Louvre, cô vẫn chưa tiến gần thêm tới cái đích là hiểu xem sự thật mà ông cô
muốn tiết lộ cho cô biết là cái gì. Sophie ước gì ông cô chưa bao giờ nhắc tới
gia đình cô chiều hôm đó. Ông đã khơi mở lại những vết thương cũ tới nay vẫn
còn đau đớn như bao giờ. Họ đã chết Sophie. Họ không thể quay trở lại. Cô chợt
nghĩ đến người mẹ hằng đêm hát ru cô ngủ, người bố kiệu cô trên vai, người bà
và đứa em trai đang cười với cô với đôi mắt xanh nồng nhiệt. Tất cả đã bị cướp
mất. Chỉ còn lại độc trọi người ông.
Và bây giờ ông cũng đã ra đi. Còn trơ lại một mình mình.
Sophie lặng lẽ quay trở lại bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng, chăm
chú nhìn mái tóc đỏ dài và đôi mắt tĩnh lặng của Magdalene. Có một cái gì đó
trong vẻ mặt của người phụ nữ gợi đến nỗi mất mát một người thân yêu. Sophie
cũng cảm thấy điều đó.
"Robert?" Cô khẽ gọi.
Ông bước lại gần.
"Tôi biết Leigh nói rằng câu chuyện về Chén Thánh ở khắp quanh
ta, nhưng tối nay là lần đầu tiên tôi nghe thấy những điều này".
Langdon có vẻ như muốn đặt một bàn tay an ủi lên vai cô nhưng tự
kiềm chế lại: "Cô đã nghe câu chuyện về bà ấy trước đây, Sophie. Tất cả
mọi người đều đã nghe. Có điều, khi nghe, chúng ta không nhận chân ra đấy
thôi".
"Tôi không hiểu".
"Chuyện Chén Thánh có ở tất cả mọi nơi nhưng bị che giấu. Khi
Nhà Thờ cấm nói về việc Mary Magdalene bị xa lánh thì câu chuyện và tầm quan
trọng của bà ấy lại được lưu truyền qua những kênh kín đáo hơn… những kênh nuôi
dưỡng phép ẩn dụ và chủ nghĩa tượng trưng".
"Tất nhiên. Các môn nghệ thuật".
Langdon chỉ bức Bữa ăn tối cuối cùng: "Một ví dụ hoàn hảo. Một
số tác phẩm mỹ thuật, văn học, âm nhạc lâu bền nhất còn lại cho đến ngày nay đã
kín đáo kể lại câu chuyện giữa Mary Magdalene và Jesus".
Langdon kể nhanh cho cô nghe về những tác phẩm của Da Vinci
Botticelli, Poussin, Bernini, Mozart và Victor Hugo, tất cả đều thầm thì điều
gì đó về cuộc tìm kiếm để phục hồi lại địa vị cho người phụ nữ thần thánh bị
xua đuổi. Những truyền thuyết trường tồn như Ngài Gawain và Hiệp sĩ Green, Vua
Arthur và nàng công chúa ngủ trong rừng. đều là những ngụ ngôn về Chén Thánh.
Tác phẩm Thằng gù ở nhà thờ Đức Bà của Victor Hugo và Cây sáo kỳ diệu, của
Mozart đầy những biểu tượng của hội Tam Điểm và bí mật Chén Thánh.
"Một khi cô mở mắt mở lòng với Chén Thánh", Langdon nói,
"cô sẽ thấy Magdalene hiện diện ở khắp nơi. Hội hoạ, âm nhạc, sách. Thậm
chí cả trong phim hoạt hình, công viên giải trí theo chủ đề và những bộ phim
nổi tiếng".
Langdon đưa chiếc đồng hồ chuột Mickey ra làm ví dụ và nói với cô
rằng Walt Disney đã xác định sự nghiệp của cuộc đời lặng lẽ của mình là lưu
truyền câu chuyện Chén Thánh cho các thế hệ tương lai. Trong suốt toàn bộ cuộc
đời mình, Disney đã được hoan nghênh như một "Leonardo Da Vinci hiện đại".
Cả hai đã đi trước thời đại của họ tới mấy thế hệ, là những nghệ sĩ có tài năng
vô song, hội viên của những hội kín, và đáng chú ý nhất, những người ham thích
đùa nghịch. Giống như Leonardo, Walt Disney rất thích lồng những thông điệp và
biểu tượng ẩn tàng vào trong nghệ thuật của mình. Đối với những nhà kí tượng
học được đào tạo, xem một bộ phim của Disney cũng giống như đứng trước một con
thác ào ào những ám chỉ và ẩn dụ.
Hầu hết những thông điệp ẩn giấu của Disney đều liên quan tới tôn
giáo, huyền thoại thế tục và những câu chuyện về nữ thần bị khuất phục. Đâu
phải vì lầm lẫn mà Disney đã kể lại theo cách mới những câu chuyện như Lọ Lem,
Nàng công chúa ngủ trong rừng và Bạch Tuyết - tất cả đều đề cập đến việc hạ
ngục tính nữ thiêng liêng. Cũng không cần thiết phải có kiến thức về chủ nghĩa
tượng trưng để hiểu được rằng Bạch Tuyết - nàng công chúa bị thất sủng sau khi
ăn quả táo tẩm độc - là một ám chỉ rành rành đến sự sa ngã của Eve trong vườn
Địa đàng. Hoặc trong Người đẹp ngủ trong rừng, Công chúa Aurora - mật danh là
"Hoa Hồng" - được che giấu trong rừng để bảo vệ nàng khỏi nanh vuốt
của mụ phù thuỷ độc ác, chính là câu chuyện Chén Thánh cho trẻ con.
Mặc dù hình ảnh mang tính tập thể, hãng Disney vẫn có được một yếu
tố khôn ngoan và tinh nghịch trong các nhân viên và các hoạ sĩ của họ vẫn tiêu
khiển bằng cách lồng những biểu tượng ẩn giấu vào trong các sản phẩm Disney.
Langdon sẽ không bao quên chuyện một sinh viên của ông mang đến lớp một đĩa DVD
phim hoạt hình Vua sư tử và cho dừng hình để chỉ ra một khuôn hình tĩnh trong
đó từ SEX (giới tính, tình dục) hiện rõ mồn một, được tô đậm bởi đám bụi bồng
bềnh trên đầu của Simba. Mặc dầu Langdon ngờ rằng đấy chỉ là trò tinh nghịch
kiểu học sinh của một nhà làm phim hoạt hình chứ không phải bất kì cách bóng
gió thông minh nào nhằm vào dục tính thế tục của con người, ông cũng đã học
được cách không đánh giá thấp khả năng nắm vững biểu tượng của Disney. Nàng
tiên cá là một tấm thảm hút hồn với những biểu tượng tâm linh liên quan với
giới nữ thần một cách cụ thể đến nỗi không thể là trùng hợp ngẫu nhiên được.
Lần đầu tiên xem Nàng tiên cá, Langdon đã thực sự hức lên thành
tiếng khi nhận thấy bức tranh trong ngôi nhà dưới nước của Ariel không phải là
gì khác ngoài tác phẩm Magdalene sám hối của hoạ sĩ Georges de la Tour thế kỷ
XVII - một sự tôn vinh trứ danh dành cho Mary Magdalene - một nét trang trí phù
hợp vì bộ phim dài chín mươi phút này hoá ra là một tác phẩm collage với những
biểu tượng rành rành quy chiếu về tính thần thánh bị tước đoạt của những Isie,
Eva, Pisces, và lặp đi lặp lại nhiều lần, Mary Magdalene. Tên của nàng tiên cá,
Ariel, có những ràng buộc chặt chẽ với tính nữ thiêng liêng và, trong Sách của
Isaiah, nó đồng nghĩa với "Thánh địa bị bao vây". Tất nhiên, mái tóc
đỏ mềm mại của nàng tiên cá chắc chắn cũng không phải là sự trùng hợp ngẫu
nhiên.
Tiếng nạng lách cách của Teabing trong hành lang tiến lại gần, bước
chân ông nhanh nhẹn một cách không bình thường. Khi chủ nhân bước vào phòng làm
việc, vẻ mặt ông nghiêm nghị.
"Anh nên có lời giải thích, Robert", Teabing lạnh lùng
nói, "Anh đã không trung thực với tôi".
"Tôi bị oan, Leigh", Langdon nói, cố gắng giữ bình tĩnh,
"Ngài biết rõ con người tôi mà. Tôi không phải hạng giết người".
Giọng Teabing không hề dịu đi: "Robert, anh đang trên tivi,
lạy Chúa. Anh có biết nhà chức trách đang truy lùng anh không? Anh đã lạm dụng
lòng tin của tôi. Tôi rất ngạc nhiên là anh nỡ đặt tôi vào tình thế nguy hiểm
bằng cách đến đây và đòi tôi nói lan man về Chén Thánh để anh có thể ẩn náu
trong nhà tôi".
"Tôi không giết ai cả".
"Jacques Saunière đã chết, và cảnh sát nói rằng anh làm điều
đó", Teabing nói, vẻ buồn bã. "Một người đóng góp cho nghệ thuật như
vậy mà…".
"Thưa ngài?" Người hầu lúc này đã xuất hiện, đứng ngay
sau Teabing trong khung cửa phòng làm việc, cánh tay khoanh lại.
"Tôi chỉ cho họ lối ra chứ?".
"Để tôi", Teabing tập tễnh bước ngang qua phòng làm việc,
mở khóa một loạt cánh cửa kính lớn; cửa mở chúng ra một bãi cỏ cạnh nhà.
"Hãy lấy xe của anh, và đi đi!".
Sophie không hề nhúc nhích: "Chúng tôi có thông tin về clef de
voute - viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion".
Teabing nhìn cô chằm chằm trong vài giây và cười giễu cợt:
"Một mánh khoé vớt vát. Robert biết tôi đã tìm kiếm nó như thế
nào".
"Cô ấy nói thật đấy", Langdon nói. "Đó là lí do tại
sao chúng tôi đến gặp ngài tối nay. Để nói cho ngài biết về viên đá đỉnh
vòm".
Người quản gia xen vào: "Đi đi, kẻo tôi sẽ gọi nhà chức
trách".
"Leigh", Langdon thì thầm, "chúng tôi biết nó ở
đâu".
Teabing hơi ngập ngừng.
Rémy cứng cỏi dấn bước ngang qua căn phòng: "Đi ngay? Kẻo tôi
buộc…".
"Rémy?", Teabing quay lại, gắt người quản gia. "Hãy
để riêng chúng tôi một lát".
Người phục vụ há hốc mồm: "Thưa ngài? Tôi buộc phải phản đối
những người này…".
"Tôi sẽ xử lý việc này", Teabing chỉ ra phía hành lang.
Sau một lát im lặng sửng sốt, Rémy lủi ra như một con chó bị xua
đuổi.
Làn gió mát nhẹ buổi tối ùa vào qua cánh cửa mở rộng, Teabing quay
lại phía Sophie và Langdon, vẻ mặt vẫn cảnh giác:
"Tốt hơn là hãy biết điều. Các bạn biết gì về viên đá đỉnh
vòm?".
***
Trong bụi cây dầy bên ngoài phòng làm việc của Teabing, Silas nắm
chặt khẩu súng lục và nhìn chằm chằm qua cánh cửa kính.
Chỉ cách đây một lát thôi, hắn đã đi vòng quanh ngôi nhà và thấy
Langdon cùng người phụ nữ đang trò chuyện trong phòng làm việc rộng thênh
thang. Trước khi hắn kịp vào trong, một người đi nạng đã bước vào, lớn giọng
với Langdon, mở cửa và yêu cầu các vị khách rời đi. Sau đó người phụ nữ nhắc
tới viên đá đỉnh vòm, và tất cả mọi sự đã thay đổi. Tiếng quát tháo biến thành
những tiếng thầm thì. Bầu không khí dịu xuống. Và những cánh cửa kính mau chóng
được đóng lại.
Bây giờ, ngồi co ro trong bóng tối, Silas dòm qua cánh cửa.
Viên đá đỉnh vòm ở đâu đó trong ngôi nhà. Silas có thể cảm thấy
điều đó Vẫn trong bóng tối, hắn nhích lại gần cửa kính, háo hức nghe xem họ
đang nói chuyện gì. Hắn sẽ để cho họ năm phút. Nếu họ không hé lộ nơi họ giấu
viên đá đỉnh vòm, Silas sẽ phải vào và thuyết phục họ bằng vũ lực.
Bên trong phòng làm việc, Silas có thể thấy thái độ hoang mang của
người chủ.
"Đại sư?", Teabing tắc nghẹn, ông nhìn Sophie.
"Jacques Saunière?".
Sophie gật đầu, thấy rõ vẻ bị sốc trong mắt ông.
"Nhưng cô không cách nào biết được điều đó?".
"Jacques Saunière là ông tôi".
Teabing loạng choạng lùi lại trên đôi nạng, phóng một cái nhìn về
phía Langdon, ông này gật đầu. Teabing quay trở lại phía Sophie: "Thưa cô
Neveu, tôi không còn biết nói sao. Nếu quả thực là thế, thì tôi xin thành thật
chia buồn với cô. Tôi xin thú thực rằng, trong cuộc tìm kiếm của mình, tôi đã
lên danh sách những người ở Paris, những người mà tôi nghĩ có thể dính líu với
Tu viện Sion. Jacques Saunière cũng ở trong danh sách này cùng với nhiều người
khác nữa. Nhưng là Đại Sư, cô nói vậy ư? Thật khó lường". Teabing yên lặng
một lát và sau đó lắc đầu "Nhưng vẫn chưa rõ ràng lắm. Thậm chí nếu ông cô
là Đại Sư của Tu viện và chính bản thân ông đã tạo ra viên đá đỉnh vòm thì ông
cũng sẽ không bao giờ nói cho cô biết cách làm thế nào để tìm thấy nó. Viên đá
đỉnh vòm tiết lộ đường dẫn tới kho báu tối hậu của hội kín này. Dù có là cháu
gái hay không, cô cũng không thể được chọn để nhận loại thông tin như
vậy".
"Ông Saunière đang hấp hối khi ông truyền lại thông tin
này", Langdon nói, "Ông chẳng còn mấy lựa chọn".
"Ông ấy không cần lựa chọn", Teabing cãi. "Có ba
ssénéchal cũng biết về bí mật này. Đó là cái hay trong hệ thống của họ.
Khi một trong ba người đó lên chức Đại Sư, họ sẽ bổ nhiệm một pháp
quan mới và cùng chia sẻ bí mật về viên đá đỉnh vòm".
"Tôi đoán là ông không xem toàn bộ bản tin phát thanh",
Sophie nói, "Cùng với ông tôi, ba người Paris lỗi lạc khác cũng đã bị sát
hại hôm nay. Tất cả đều theo cùng một cách. Tất cả đều có vẻ như đã bị tra
hỏi".
Cằm Teabing trễ xuống: "Và cô nghĩ họ là…".
"Những pháp quan", Langdon nói.
"Nhưng bằng cách nào? Một tên sát thủ không cách nào biết được
nhân thân của tất cả bốn thành viên đứng đầu Tu viện Sion! Hãy xem tôi đây, tôi
đã tìm kiếm họ hàng thập kỉ nay, và tôi thậm chí không biết tên một thành viên
nào của Tu viện Sion. Thật khó có thể tin rằng cả ba pháp quan và Đại Sư lại có
thể bị phát hiện và giết trong cùng một ngày".
"Tôi không tin rằng thông tin này được thu thập chỉ trong một
ngày", Sophie nói. "Nó có vẻ giống như một cú decapiter (1) đã được
lên kế hoạch cẩn thận. Đó là một kỹ thuật chúng tôi thường dùng để đánh những
nghiệp đoàn tội phạm có tổ chức.
Nếu DCPJ muốn xoá sổ một băng nào đó, họ sẽ lặng lẽ nghe ngóng và
theo dõi trong nhiều tháng liền, xác định tất cả những tên đầu sỏ, rồi sau đó
mới vào cuộc và bắt cả bọn cùng một lúc.
Đó là chặt đầu. Không còn thủ lĩnh, băng sẽ hỗn loạn và để lộ những
thông tin khác nữa. Có thể là một kẻ nào đó đã kiên nhẫn theo dõi Tu viện Sion
và sau đó mới tấn công với hy vọng những người đứng đầu sẽ tiết lộ nơi giấu
viên đá đỉnh vòm".
Teabing có vẻ vẫn chưa tin: "Nhưng những thành viên khác sẽ
không bao giờ nói. Họ đã thề giữ bí mật. Thậm chí cả khi đối mặt với cái
chết".
"Chính xác", Langdon nói. "Nghĩa là, nếu họ không
tiết lộ bí mật, và họ bị giết…".
Teabing há hốc miệng: "… thì viên đá đỉnh vòm sẽ bị mất vĩnh
viễn?".
"Và cùng với nó", Langdon nói, "là cả Chén
Thánh".
Thân hình Teabing như chao đảo dưới trọng lượng những lời của
Langdon. Rồi, như thể quá mệt mỏi để đứng lâu hơn nữa, ông buông mình trên
chiếc ghế, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ.
Sophie bước tới, giọng êm dịu: "Xét tình thế gay go của ông
tôi rất có thể là trong hoàn toàn tuyệt vọng ông đã cố gắng truyền lại bí mật
cho một ai đó ngoài hội kín của mình. Một ai đó mà ông nghĩ là mình có thể tin
cậy trong gia đình ông".
Mặt Teabing tái đi: "Nhưng cái kẻ có khả năng tấn công… phát
hiện được nhiều như vậy về những người trong hội kín đó", ông ngừng lời,
để lộ ra mối lo sợ mới. "Chỉ có thể là một thế lực. Việc thâm nhập kiểu
này chỉ có thể tiến hành bởi kẻ thù lâu đời nhất của Tu viện Sion".
Langdon ngước lên: "Giáo hội?".
"Còn ai khác? Roma cũng tìm kiếm Chén Thánh suốt nhiều thế kỷ
nay".
Sophie hoài nghi: "Ông nghĩ là Giáo hội đã giết ông
tôi?".
Teabing trả lời: "Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử
Giáo hội giết người để tự bảo vệ. Những tài liệu đi kèm với Chén Thánh là thùng
thuốc nổ, và Giáo hội muốn huỷ chúng từ bao năm nay".
Langdon cũng thấy khó chấp nhận giả thuyết của Teabing rằng Giáo
hội đã trắng trợn giết người để giành được những tài liệu này. Đã tửng gặp Giáo
hoàng mới và nhiều vị trong số các hồng y giáo chủ, Langdon biết họ là những
con người tâm linh sâu sắc họ ắt không bao giờ dung túng thủ đoạn ám sát.
Bất kể cái được-mất là gì.
Sophie dường như cũng nghĩ vậy: "Không có khả năng những thành
viên này bị giết bởi một kẻ nào đó bên ngoài Giáo hội sao? Một ai đó không biết
Chén Thánh thực ra là cái gì?
Chiếc Chén của Chúa Jesus, nói cho cùng, vẫn là một vật báu hấp
dẫn. Chắn chắn những kẻ săn tìm báu vật đã từng giết người vì những thứ ít đáng
giá hơn nhiều".
"Theo kinh nghiệm của tôi", Teabing nói, "con người
ta sẵn sàng làm những điều ghê gớm hơn nhiều để tránh cái họ sợ hơn là để có
cái mà họ mong muốn. Tôi cảm thấy sự tuyệt vọng trong cuộc tấn công này vào Tu
viện Sion".
"Leigh", Langdon nói, "lập luận này thật nghịch lí.
Tại sao những thành viên của giới giáo sĩ Thiên chúa Giáo lại mưu sát những
thành viên của Tu viện Sion trong nỗ lực tìm ra và phá huỷ những tài liệu mà dù
sao họ cũng tin là bằng chứng giả mạo".
Teabing cười tủm tỉm: "Tháp ngà của Harvard đã làm anh đâm khờ
khạo, Robert. Phải, giới giáo sĩ ở Roma được Chúa ban cho niềm tin mãnh liệt,
và chính bởi điều này, tín ngưỡng của họ có thể vượt qua bất cứ cơn dông bão
nào, kể cả những tài liệu phủ nhận tất cả mọi thứ mà họ tôn thờ. Nhưng phần còn
lại của thế giới thì sao? Những người không được ban cho đức tin tuyệt đối?
Những người chứng kiến sự tàn bạo trên thế giới và lên tiếng, Chúa
đang ở đâu? Những người chứng kiến những bê bối của Giáo hội và lên tiếng hỏi,
những kẻ mạo xưng là mình nói sự thật về Thiên Chúa thế nhưng lại dối trá để
che đậy sự lạm dụng tình dục trẻ em do chính tu sĩ của họ làm, những kẻ đó là
ai?".
Teabing ngừng lại. "Chuyện gì xảy ra với những người đó,
Robert, nếu những bằng chứng khoa học đầy sức thuyết phục chỉ ra rằng lời giải
thích của Giáo hội về câu chuyện Chúa Jesus là không chính xác và rằng câu
chuyện vĩ đại nhất từng được kể, trên thực tế, chỉ là câu chuyện bịp vĩ đại
nhất".
Langdon không đáp.
"Tôi sẽ nói cho các bạn biết chuyện gì xảy ra nếu những tài
liệu này lọt ra ngoài", Teabing nói. "Toà thánh Vatican sẽ phải đối
mặt với cuộc khủng hoảng đức tin chưa từng thấy trong lịch sử suốt hai thiên
niên kỷ của mình".
Sau hồi lâu yên lặng, Sophie nói: "Nhưng nếu Giáo hội phải
chịu trách nhiệm về cuộc tấn công này thì tại sao đến bây giờ họ mới hành động?
Sau bao nhiêu năm? Tu viện Sion vẫn giấu kín những tài liệu Sangreal. Họ không
đem lại sự đe doạ tức thời đối với Giáo hội".
Teabing trút một tiếng thở dài lo ngại và liếc nhìn Langdon:
"Robert, tôi đồ rằng anh biết rất rõ trách nhiệm cuối cùng của Tu viện
Sion?".
Langdon cảm thấy nghẹn thở khi nghĩ đến điều đó: "Tôi
biết".
"Cô Neveu", Teabing nói, "Giáo hội và Tu viện Sion
đã có sự thoả thuận ngầm từ nhiều năm nay. Đó là, Nhà thờ không tấn công Tu
viện, và ngược lại Tu viện Sion tiếp tực giữ kín những tài liệu Sangreal".
Ông ngừng lời. "Tuy nhiên, một phần lịch sử Tu viện Sion luôn luôn bao gồm
một kế hoạch phơi bày bí mật này.
Đến một ngày cụ thể nào đó trong lịch sử, hội kín này dự định sẽ
phá vỡ sự im lặng và hoàn tất thắng lợi cuối cùng của mình bằng cách phơi bày
tài liệu Sangreal cho thế giới biết và lớn tiếng công bố câu chuyện thực sự về
Jesus cho tất cả mọi người biết".
Sophie đăm đăm nhìn Teabing trong yên lặng. Cuối cùng, cô ngồi
xuống: "Ông nghĩ rằng ngày ấy sắp đến? Và Giáo hội biết thế?".
"Chỉ là suy đoán thôi", Teabing nói."Nhưng chắc chắn
nó sẽ tạo động lực cho Giáo hội tiến hành một cuộc tấn công tổng lực để tìm ra
những tài liệu đó trước khi quá muộn".
Langdon có cảm giác không dễ chịu là Teabing có lí: "Ông có
nghĩ rằng Giáo hội có khả năng phát hiện ra những bằng chứng về cái ngày đó của
Tu viện Sion?".
"Tại sao không? - Nếu chúng ta cho rằng Giáo hội có thể khám
phá ra nhân thân của các thành viên của Tu viện Sion, thì chắc chắn họ cũng có
thể biết được kế hoạch này. Và thậm chí nếu không biết thời gian chính xác thì
sự dị đoan cũng có thể thắng thế ở họ.
"Dị đoan?" Sophie hỏi.
"Theo lối nói tiên tri", Teabing nói, "thì hiện nay
chúng ta đang ở trong một thời kì của những thay đổi lớn lao. Thiên niên kỉ hai
vừa mới trôi qua và cùng với nó là sự kết thúc kỉ nguyên chiêm tinh Song Ngư
kéo dài 2000 năm và cũng chính là sao chiếu mệnh của Jesus. Như bất cứ nhà
chiêm tinh - ký tượng học nào đều sẽ nói với cô, lý tưởng của cung Song Ngư tin
rằng con người cần phải được chỉ bảo những điều cần làm bởi những quyền lực cao
hơn vì con người không có khả năng tự suy nghĩ.
Do đó kỉ nguyên Song Ngư là thời kì của lòng nhiệt thành tôn giáo.
Tuy nhiên, bây giờ, chúng ta đang bước vào Kỷ của Cung Bảo Bình - người mang
nước - lí tưởng cung này cho rằng con người sẽ biết được sự thực và có khả năng
tự suy nghĩ cho bản thân. Sự thay đổi về hệ tư tưởng đó rất lớn, và ngay bây
giờ sự thay đổi này đang diễn ra".
Langdon cảm thấy rùng mình. Lời tiên tri của các chiêm tinh chưa
bao giờ dành được nhiều sự quan tâm hay tín nhiệm của ông, nhưng ông biết có
những người trong Giáo hội rất tin tưởng nó. "Giáo hội gọi giai đoạn
chuyển đổi này là Ngày Tận Cùng".
Sophie có vẻ hoài nghi: "Giống như tận thế? Giống như những sự
kiện trong sách Khải Huyền?".
"Không", Langdon trả lời, "đó là một quan niệm sai
lầm thông thường. Có nhiều tôn giáo nói đến Ngày Tận Cùng. Nó không chỉ sự tận
thế, mà chỉ sự kết thúc kỷ nguyên hiện tại của chúng ta - kỷ nguyên Song Ngư,
bắt đầu từ khi Christ ra đời, kéo dài 2000 năm, và tàn lụi vào lúc chuyển giao
thiên niên kỷ. Bây giờ, khi chúng ta đã bước vào kỷ nguyên Bảo Bình, Ngày Tận
Cùng đã đến".
"Nhiều nhà sử học về Chén Thánh", Teabing bổ sung,
"tin rằng nếu Tu viện Sion quả thật định công bố sự thật thì thời điểm này
trong lịch sử sẽ là thời điểm thích hợp mang ý nghĩa tượng trưng. Hầu hết các
học giả nghiên cứu về Tu viện Sion, trong đó có cả tôi, đã đoán trước rằng thời
điểm hội kín này công bố sự thực sẽ trùng khít với sự chuyển giao thiên niên
kỷ. Hiển nhiên là điều đó đã không xảy ra. Phải thừa nhận rằng lịch Roman không
khớp hoàn toàn với lịch chiêm tinh, cho nên có một vùng mơ hồ nào đó trong tiên
đoán này. Tôi không biết bây giờ Giáo hội đã có thông tin nội bộ về ngày giờ
chính xác chưa hay chỉ lo sợ vì lời tiên tri của các nhà chiêm tinh. Dù sao đi
nữa, nó vẫn là phi vật chất. Cả hai kịch bản trên đều giải thích động cơ thúc
đẩy Giáo hội mờ một cuộc tấn công phủ đầu chống lại Tu viện Sion". Teabing
cau mày. "Và hãy tin tôi đi, nếu Giáo hội tìm thấy Chén Thánh, họ sẽ huỷ
nó. Những tài liệu cũng như thánh tích của Mary Magdalene". Ánh mắt ông
trở nên nặng trĩu. "Sau đó, bạn thân mến, cùng với sự tiêu vong của những
tài liệu Sangreal, tất cả các bằng chứng cũng sẽ mất theo. Quá khứ sẽ bị xoá
sạch vĩnh viễn".
Chậm rãi, Sophie kéo chiếc chìa khoá hình thập giá khỏi chiếc áo
len chui cổ, đưa cho Teabing.
Teabing cầm lấy chiếc chìa khoá, xem xét: "Trời, con dấu của
Tu viện Sion. Cô lấy nó ở đâu vậy?".
"Ông tôi giao lại cho tôi tối nay, trước khi ông chết".
Teabing rờ ngón tay lên hình chữ thập. "Chìa khoá của một nhà
thờ?
Cô hít một hơi sâu: "Chìa khoá này mở đường tới viên đá đỉnh
vòm".
Teabing hất đầu lên, mặt dại đi vì không tin: "Không thể. Tôi
đã bỏ sót nhà thờ nào nhỉ? Tôi đã lùng sục mọi nhà thờ tại Pháp!".
"Nó không ở trong nhà thờ", Sophie nói. "Nó ở trong
một ngân hàng kí thác Thuỵ Sĩ".
Vẻ kích động của Teabing nhạt đi: "Viên đá đỉnh vòm ở trong
một nhà băng?".
"Một hầm két", Langdon nói rõ thêm.
"Một hầm két nhà băng?" Teabing lắc đầu thật mạnh.
"Không thể. Viên đá đỉnh vòm phải được giấu dưới dấu hiệu Hoa
Hồng".
"Đúng vậy!" , Langdon nói. "Nó được đựng trong một
cái hộp bằng gỗ hồng mộc có khắc bông hồng năm cánh".
Teabing như bị sét đánh: "Anh đã nhìn thấy viên đá đỉnh
vòm?".
Sophie gật đầu: "Chúng tôi đã đến nhà băng".
Teabing tiến lại chỗ họ, đôi mắt dại đi vì sợ hãi: "Các bạn
của tôi, chúng ta phải làm một điều gì đó. Viên đá đỉnh vòm đang gặp nguy hiểm!
Chúng ta có nhiệm vụ phải bảo vệ nó. Ngộ nhỡ có những chiếc chìa khác thì sao?
Những chiếc có lẽ đã bị đánh cắp từ những pháp quan bị giết? Ngộ nhỡ Giáo hội
có thể vào được nhà băng như các bạn…".
"Thì đã quá muộn rồi", Sophie nói. "Chúng tôi đã di
chuyển viên đá đỉnh vòm".
"Cái gì! Các bạn đã đem nó khỏi nơi cất giấu rồi sao?".
"Đừng lo!", Langdon nói, "viên đá đỉnh vòm đã được
cất giấu an toàn".
"Cực kỳ an toàn, tôi hy vọng thế?".
"Thực ra", Langdon nói, không giấu nổi nụ cười, "điều
đó phụ thuộc vào việc ông có thường xuyên quét bụi dưới gầm đi văng của mình
hay không?".
***
Gió bên ngoài Château Villette đã mạnh lên, và chiếc áo chùng của
Silas tốc lên trong khi hắn khom người gần cửa sổ. Mặc dầu hắn chỉ nghe được
lõm bõm, nhưng từ viên đá đỉnh vòm đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong câu
chuyện.
Nó ở bên trong.
Những lời của Thầy Giáo vẫn còn tươi nguyên trong tâm trí hắn. Hãy
vào Château Villette. Lấy viên đá đỉnh vòm. Đừng đả thương ai.
Bây giờ, Langdon cùng những người kia đã đột nhiên rời sang một
phòng khách tắt đèn phòng làm việc trước khi đi.
Giống như một con báo đang rình mồi. Silas lẻn đến cửa kính.
Cửa không khoá, hắn lẻn vào bên trong và đóng lại lặng lẽ phía sau.
Hắn vẫn có thể nghe thấy những tiếng nói bị nghẹt lại từ một phòng khác vẳng
tới. Silas rút súng lục khỏi túi, tháo chốt an toàn và lần theo hành lang.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: chặt đầu
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 42
Trung uý Collet đứng một mình ở cuối đoạn đường dẫn vào nhà Leigh
Teabing và ngước nhìn lên toà nhà đồ sộ. Biệt lập tối om. Địa hình địa vật tốt.
Collet nhìn nửa tá trợ thủ của mình lặng lẽ toả ra dọc theo chiều dài của hàng
rào. Họ có thể vượt qua hàng rào và bao vây ngôi nhà chỉ trong vài phút.
Langdon không thể chọn một nơi lý tưởng hơn cho quân của Collet mở một cuộc đột
kích.
Collet toan gọi cho Fache thì chuông điện thoại của anh reo. Tiếng
Fache nghe có vẻ không hài lòng với những tiến triển mới như Collet tưởng:
"Tại sao không ai nói cho tôi biết chúng ta đã có manh mối về
Langdon?".
"Lúc ấy ông đang gọi điện thoại và…".
"Chính xác là anh đang ở đâu, Trung uý Collet?".
Collet cho ông ta địa chỉ: "Đó là điền trang của một người
quốc tịch Anh tên là Teabing. Langdon đã lái xe từ xa tới đây, và chiếc xe bây
giờ nằm bên trong cánh cổng an toàn, không có dấu hiệu của việc phá cửa đột
nhập, cho nên có thể thấy Langdon biết người chủ ngôi nhà".
"Tôi đến ngay đây", Fache nói, "đừng hành động gì
cả. Tôi sẽ đích thân xử lý việc này".
Collet há hốc miệng: "Nhưng thưa Đại úy, ông ở cách đây hai
mươi phút chạy xe! Mà chúng ta lại nên hành động ngay lập tức. Tôi đã cho người
theo dõi hắn. Tôi có tám người tất cả. Bốn trong bọn tôi có súng trường đã
chiến và số còn lại có súng ngắn".
"Đợi tôi".
"Thưa Đại úy, chuyện gì sẽ xảy ra nếu Langdon có con tin trong
đó? Chuyện gì xảy ra nếu hắn thấy chúng ta và quyết định chạy bộ khỏi đây.
Chúng ta cần hành động ngay bây giờ! Người của tôi đã vào vị trí và sẵn sàng
hành động".
"Trung uý Collet, anh phải đợi tôi tới trước khi hành động.
Đây là mệnh lệnh", Fache cúp máy.
Kinh ngạc, Trung uý Collet ngắt điện thoại. Tại sao Fache lại bắt
mình đợi nhỉ? Collet biết câu trả lời. Fache vừa nổi tiếng là có linh tính
nhạy, lại vừa khét tiếng sĩ diện. Fache muốn việc bắt giữ này là thành tích của
mình. Sau khi đưa chân dung của người Mỹ đó lên truyền hình, Fache muốn chắc
chắn khuôn mặt mình cũng xuất hiện với thời lượng tương đương. Công việc của
Collet đơn giản chỉ là kiểm soát hiện trường cho đến khi ông chủ thực sự có mặt
ở đó để tranh công.
Trong khi đứng ở đó, Collet bật nghĩ ra cách thứ hai khả dĩ giải
thích cho sự trì hoãn này. Khống chế thiệt hại. Trong việc thực thi luật pháp,
việc chần chừ bắt giữ kẻ bỏ trốn chỉ xảy ra khi không chắc chắn về tội lỗi của
kẻ bị tình nghi. Phải chăng Fache đang suy nghĩ lại về khả năng Langdo đúng là
người cần bắt. Ý nghĩ này thật đáng sợ. Đêm nay Đại uý Fache đã liều lĩnh dùng
nhiều biện pháp nhằm bắt Robert Langdon - surveillance caché (1), Interpol, và
bây giờ là truyền hình nữa. Ngay cả Bezu Fache vĩ đại cũng sẽ khó trụ nổi trước
ảnh hưởng chính trị khốc hại nếu ông ta đã lầm lẫn trương ảnh một nhân vật Mỹ
lỗí lạc lên truyền hình Pháp, khẳng định đó là một kẻ giết người. Nếu giờ đây
Fache nhận ra mình đã mắc sai lầm, thì việc ông ta bảo Collet không được hành
động là hoàn toàn có lí. Điều Fache cần tránh nhất là để Collet xông vào điền
trang riêng của một người Anh vô tội và chĩa súng vào Langdon.
Hơn thế nữa, Collet nhận ra rằng, nếu Langdon vô tội, thì điều này
sẽ giải thích cho một trong những nghịch lý lạ lùng nhất của vụ này: Tại sao
Sophie Neveu, cháu gái của nạn nhân, lại giúp cho kẻ bị nghi là hung thủ trốn
thoát? Trừ phi Sophie biết Langdon bị kết tội oan. Đêm nay Fache đã đưa ra mọi
cách giải thích dể giải thích ứng xử kì lạ của Sophie, kể cả việc Sophie, với
tư cách là người thừa kế duy nhất của Saunière, đã thuyết phục người tình bí
mật của mình - Robert Langdon - giết phăng Saunière vì tiền thừa kế. Có thể
Saunière, nếu như ông ngờ ngợ như thế, đã để lại cho cảnh sát lời nhắn Tái bút.
Tìm Robert Langdon. Collet dám chắc là một điều gì khác đang diễn ra ở đây. Xem
ra Sophie Neveu với cá tính mạnh mẽ có thừa ắt không thể dính líu vào một
chuyện bẩn thỉu như vậy.
"Trung uý?" Một trong những cảnh sát đã chiến chạy đến.
"Chúng tôi tìm thấy một chiếc xe hơi".
Collet theo viên cảnh sát đi quá đoạn đường vào độ năm mươi mét. Gã
này chỉ vào một khoảng rộng bên kia đường. Ở đó đỗ trong đám bụi rậm, gần như
ngoài tầm nhìn, là một chiếc Audi đen. Biển số xe thuê. Collet sờ mũi xe. Vẫn
còn ấm.
Thậm chí còn nóng.
"Chắc Langdon đã tới đây bằng xe này", Collet nói.
"Hãy gọi cho công ty cho thuê xe. Xem nó có phải là chiếc xe bị đánh cắp
hay không?".
"Vâng, thưa trung uý".
Một nhân viên khác vẫy Collet quay lại phía hàng rào. "Trung
uý, nhìn này".
Anh ta đưa cho Collet một chiếc ống nhòm có thể nhìn được vào ban
đêm: "Ở lùm cây gần đỉnh đoạn đường vào".
Collet hướng ống nhòm lên đồi và điều chỉnh độ nét. Những hình khối
xanh lục từ từ lọt vào tiêu cự. Anh tìm thấy chỗ của đoạn đường vào và từ từ
nhích lên, lia tới lùm cây. Tất cả những gì anh có thể làm là nhìn chằm chằm
vào đó. Ở đó, khuất sau những tán lá xanh là một chiếc xe tải bọc thép. Chiếc
xe giống hệt chiếc mà Collet đã cho phép rời khỏi tầng hầm Nhà băng ký thác
Zurich lúc tối. Anh cầu nguyện cho điều này chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên kì
dị, nhưng anh biết là không phải thế.
"Có vẻ như rõ ràng là", người nhân viên nói,
"Langdon và Neveu đã thoát khỏi nhà băng bằng chiếc xe tải này".
Collet không thốt lên lời. Anh nghĩ đến người lái chiếc xe tải bọc
thép mà anh đã chặn lại ở rào chắn đường. Chiếc đồng hồ Rolex. Sự nôn nóng của
người này chỉ mong sớm được đi khỏi. Mình đã không kiểm tra khoang chở hàng.
Hoài nghi, Collet nhận ra rằng ai đó trong nhà băng đã nói dối DCPJ
về tung tích của Langdon và Sophie và sau đó giúp họ trốn thoát. Nhưng ai? Và
tại sao? Collet phân vân có lẽ đây là lí do tại sao Fache bảo anh chưa được
hành động. Có lẽ Fache nhận ra rằng đêm nay có nhiều người dính líu tới việc
này, ngoài Langdon và Sophie ra. Và nếu Langdon và Neveu đến bằng chiếc xe tải
bọc thép này thì ai lái chiếc Audi?
***
Cách vài trăm dặm về phía nam, một chiếc máy bay Beechcraft Baron
58 thuê riêng đang hướng về phía bắc qua biển Tyrrhenian. Mặc dù bầu trời yên
tĩnh, giám mục Aringarrosa vẫn nắm chặt chiếc túi nôn, tin chắc mình có thể ốm
bất cứ lúc nào. Cuộc đàm thoại với Paris đã không như ông tưởng.
Một mình trong cabin nhỏ, Aringarosa xoay xoay chiếc nhẫn vàng trên
ngón tay và cố tìm cách làm dịu bớt cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng choán ngợp.
Mọi sự ở Paris đều hỏng bét. Nhắm mắt lại, Aringarosa cầu nguyện rằng Bezu
Fache sẽ có cách sửa chữa điều này.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên
bản: giám sát bí mật.
Teabing ngồi trên đivăng, ôm chiếc hộp gỗ trong lòng, chiêm ngưỡng
hoạ tiết Hoa Hồng tinh xảo khảm trên nắp hộp. Đêm nay đã trở thành đêm lạ lùng
nhất và kỳ diệu nhất trong đời mình.
"Hãy nhấc cái nắp lên", đứng cạnh Langdon, Sophie cúi
xuống ông thì thầm.
Teabing mỉm cười. Đừng giục tôi. Sau hơn một thập kỷ tìm kiếm viên
đá đỉnh vòm này. Ông muốn thưởng thức từng phần nghìn giây của khoảnh khắc này.
Ông xoa lòng bàn tay lên chiếc nắp gỗ, cảm nhận kết cấu của họa tiết khảm trên
đó.
"Hoa Hồng", ông thì thầm. Hoa Hồng là Magdalene,
Magdalene là Chén Thánh. Hoa Hồng là chicc la bàn dẫn đường. Teabing cảm thấy
mình thật ngốc nghếch. Bao nhiêu năm, ông đã đi tới rất nhiều thánh đường và
nhà thờ trên toàn đất Pháp, trả tiền để được vào những nơi đặc biệt, xem xét
hàng trăm chiếc cổng vòm bên dưới những cánh cửa sổ hoa hồng, tìm kiếm một viên
đá đỉnh vòm đã mã hoá. La clef de voute - viên đá đỉnh vòm bên dưới dấu hiệu
Hoa Hồng.
Teabing chậm rãi tháo móc cài và mở nắp.
Cuối cùng khi mắt ông dõi vào vật đựng bên trong, ông biết ngay nó
chỉ có thể là viên đá đỉnh vòm. Ông nhìn chằm chằm vào viên đá hình trụ, được
gia công với những đĩa chữ thông liên với nhau. Đồ chế tác này có vẻ quen thuộc
với ông một cách kì lạ.
"Được thiết kế theo những ghi chép trong nhật kí của Da
Vinci", Sophie nói. "Ông tôi đã làm những thứ này như một thú tiêu
khiển".
Tất nhiên rồi. Teabing hiểu. Ông đã thấy những phác thảo và thiết
kế. Chìa khoá để tìm ra Chén Thánh năm bên trong viên đá này. Teabing nhấc hộp
mật mã ra khỏi chiếc hộp ngoài, cầm nó một cách nhẹ nhàng. Mặc dầu không biết
làm thế nào để mở hình trụ đá, nhưng ông cảm thấy số mệnh của chính mình nằm
trong đó. Trong những khoảng khắc thất bại, Teabing đã từng tự hỏi liệu công
sức tìm kiếm của cả đời mình có bao giờ được đền đáp. Giờ đây những nghi ngờ
này đã vĩnh viễn tan biến. Ông có thể nghe thấy những tiếng cổ xưa… nền tảng
của truyền thuyết Chén Thánh.
Vous ne trouvz pas le Saint - Graal, C est le Saint - Graal qui
vous trouve.
Không phải bạn tìm thấy Chén thánh, chính Chén Thánh tìm ra bạn.
Và tối nay, thật khó tin, chìa khoá để tìm ra Chén Thánh đã đi
thẳng vào nhà ông qua cửa trước.
***
Trong lúc Sophie và Teabing ngồi với cái hộp mật mã và trò chuyện
về dấm, đĩa chữ và đoán mật khẩu thì Langdon mang chiếc hộp gỗ hồng mộc tới một
cái bàn sáng đèn ở đầu kia phòng để xem cho rõ hơn. Một điều Teabing vừa nói
lướt qua tâm trí ông.
Chìa khoá để mở Chén Thánh được giấu bên dưới dấu hiệu Hoa Hồng.
Langdon giơ chiếc hộp gỗ lên ánh đèn và xem xét kĩ biểu tượng Hoa
Hồng khảm trên nắp. Mặc dầu hiểu biết nghệ thuật của ông không bao gồm chế tác
gỗ hoặc đồ khảm, ông vừa nhớ lại cái trần nhà lát gạch men nổi tiếng của tu
viện Tây Ban Nha ở ngoại ô Madrid, nơi ba thế kỷ sau khi xây dựng, gạch men
trên trần bắt đầu rơi ra để lộ những văn bản thiêng liêng do các tu sĩ ghi
nguệch ngoạc trên lớp vữa bên dưới.
Langdon nhìn lại bông Hoa Hồng.
Bên dưới Hoa Hồng-
Sub Rosa.
Bí mật.
Một tiếng va đập ở hành lang đằng sau lưng làm Langdon quay lại.
Ông không thấy gì ngoài những vạt bóng tối. Có lẽ người quản gia của Teabing đã
đi qua. Langdon quay lại với cái hộp. Ông di ngón tay theo mép nhẵn của hình
khảm, phân vân không biết có thể cậy Hoa Hồng ra được không, nhưng kĩ thuật
khảm quả là hoàn hảo. Ông ngờ là thậm chí một lưỡi dao cạo mỏng cũng khó lách
được vào giữa hoạ tiết Hoa Hồng và chỗ hõm được khoét cẩn thận để khảm lên.
Mờ chiếc hộp ra, ông xem xét bên trong nắp. Nó hoàn toàn trơn nhẵn.
Khi ông xoay nó đi một chút, ánh sáng làm xuất hiện một lỗ nhỏ ở mặt dưới của
chiếc nắp, ngay chính giữa. Langdon đóng nắp lại và xem lại biểu tượng khảm ở
mặt trên. Không có cái lỗ nào cả.
Nó không xuyên qua nắp.
Đặt cái hộp lên trên bàn, ông nhìn quanh phòng và thấy một chồng
giấy với một cái kẹp giấy trên đó. Mượn chiếc kẹp, ông quay trở lại chiếc hộp
mở ra, và xem kĩ lại cái lỗ. Rất cẩn trọng, ông uốn thẳng chiếc kẹp giấy và
luồn một đầu vào trong lỗ.
Ông gẩy nhẹ một cái. Không cần phải cố gắng nhiều lắm. Ông nghe
thấy một cái gì đó chạm khẽ xuống mặt bàn. Langdon đóng nắp lại để xem. Đó là
một mẩu gỗ nhỏ giống như miếng trong trò chơi chắp hình. Hoa Hồng bằng gỗ tuột
khỏi chiếc nắp rơi xuống mặt bàn.
Không một lời, Langdon nhìn chằm chằm vào chỗ trống do bông Hoa
Hồng để lại trên nắp. Ở đó, khắc sâu trong gỗ, bởi một bàn tay tinh xảo có bốn
dòng chữ viết bằng một thứ ngôn ngữ ông chưa bao giờ thấy.
Những chữ hơi giông chữ Semitic, Langdon tự nhủ, tuy nhiên mình
chưa nhậ ra là tiếng gì.
Một chuyển động đột ngột phía sau chợt làm ông chú ý.
Từ đâu chẳng rõ, một cú phang mạnh vào đầu làm Langdon quỵ gối.
Khi ngã, trong một khoảng khắc, ông nghĩ mình nhìn thấy một bóng ma
tái nhợt lơ lửng bên trên ông, với một khẩu súng trong tay. Rồi tất cả tối sầm
lại.
Chú thích:
(1) Thanh gươm của vua
Arthur.
(2) Thành ngữ Anh có nghĩa để
lộ rõ tình cảm ra ngoài mặt, ở đây có nghĩa: để lộ tung tích rành rành.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 43
Sophie Neveu mặc dầu làm trong ngành thừa hành luật pháp, cho đến
trước tối nay vẫn chưa bao giờ bị ai chĩa súng vào người. Hầu như không thể
tường tượng nổi, khẩu súng mà lúc này cô đang dán mắt vào nằm trong bàn tay bợt
bạt của một gã hộ pháp bạch tạng với mái tóc dài, trắng trợt. Hắn nhìn cô bằng
đôi mắt đỏ ngầu toát ra một vẻ kinh dị và quái đản.
Mặc một chiếc áo thụng len với thắt lưng bằng dây thừng, trông hắn
giống như một giáo sĩ thời trung cổ. Sophie không hình dung nổi hắn là ai, tuy
nhiên, cô bỗng cảm thấy một sự kính phục mới có đối với sự nghi ngờ của Teabing
khi cho rằng Giáo hội đứng sau vụ này.
"Các người biết tôi đến đây là vì cái gì", gã thầy tu
nói, giọng ồm ồm.
Sophie và Teabing ngồi trên đi-văng, tay giơ lên theo lệnh của kẻ
tấn công. Langdon nằm rên trên sàn. Cặp mắt của gã thầy tu ngay lập tức dừng
trên viên đá đỉnh vòm trong lòng Teabing.
Giọng Teabing đầy thách thức: "Ông sẽ không mở được nó đâu,,
"Thầy tôi rất thông thái", gã thầy tu đáp, nhích lại gần, khẩu súng
lia qua lia lại giữa Teabing và Sophie.
Sophie không biết người phục vụ của Teabing ở đâu. Ông ta không
nghe thấy Robert ngã sao?
"Thầy của ông là ai?" Teabing hỏi. "Có lẽ chúng ta
có thể đạt được một thoả thuận về tài chính".
"Chén Thánh là vô giá", hắn ta tiến lại gần hơn.
"Ông đang chảy máu kìa", Teabing nhận xét một cách bình
tĩnh, hất đầu về phía mắt cá chân bên phải của gã thầy tu, nơi một vệt máu đang
chảy xuống từ chân hắn, "và ông đang đi tập tễnh".
"Cũng như ông thôi", gã thầy tu trả lời, chỉ vào những
chiếc nạng bằng kim loại bên cạnh Teabing. "Bây giờ, hãy đưa cho tôi viên
đá đỉnh vòm".
"Ông cũng biết về viên đá đỉnh vòm?" Teabing hỏi, giọng
ngạc nhiên.
"Đừng bận tâm đến cái mà tôi biết. Hãy đứng lên từ từ và đưa
nó cho tôi".
"Đứng lên là một việc rất khó khăn đối với tôi".
"Đích thị. Tôi ưng là đửng có ai cố thử di chuyển nhanh".
Teabing luồn tay phải qua một chiếc nạng và nắm viên đá đỉnh vòm
trong tay trái. Loạng choạng trên đôi chân của mình, ông đứng thẳng lên, giấu
viên đá hình trụ nặng trong lòng tay trái, và tựa tay phải chông chênh lên
chiếc nạng.
Gã thầy tu sáp lại cách ông không tới một mét, khẩu súng nhằm thắng
vào đầu Teabing. Sophie nhìn, cảm thấy tuyệt vọng khi gã thầy tu với tay ra để
lấy viên trụ đá.
"Ông sẽ không thành công", Teabing nói. "Chỉ những
người xứng đáng mới có thể mở khoá viên đá đỉnh vòm".
Chỉ có Chúa mới phán xét được ai là người xứng đáng, Silas nghĩ.
"Nó nặng đấy", người đàn ông chống nạng nói, cánh tay
chao đi, "Nếu ông không cầm lấy nó ngay, tôi sợ là tôi sẽ làm rơi nó
mất!" Ông lảo đảo.
Silas bước nhanh tới để lấy hòn đá, và trong khi đó, người chống
nạng mất thăng bằng. Chiếc nạng trượt đi bên dưới ông và ông ngã nghiêng về bên
phải. Không! Silas lao tới để đỡ lấy viên đá, khẩu súng hạ thấp xuống trong quá
trình đó. Nhưng viên đá đỉnh vòm đang lăn ra xa hắn. Khi ngã về bên phải, tay
trái Teabing vung về phía sau và hình trụ tuột khỏi lòng bàn tay lăn về phía
đi-văng. Cùng lúc ấy, cái nạng bằng kim loại vừa trượt đi bên dưới ông chợt như
được tăng tốc, quét một vòng cung rộng trong không khí nhằm vào cẳng Silas.
Cơn đau như xé cơ thể Silas khi chiếc nạng đập trúng chiếc thắt
lưng hành xác, ấn những chiếc ngạnh của nó vào da thịt vốn đã trầy xước của
hắn. Oằn người lại, Silas khuyu gối làm cho cái thắt lưng thít sâu hơn. Khẩu
súng lục cướp cò với một tiếng nổ chói tai vang lên, viên đạn cắm vào ván sàn
khi Silas ngã. Trước khi hắn kịp nâng súng lên và bắn tiếp, bàn chân của người
phụ nữ đã phi trúng cằm hắn.
***
Ở dưới chân đoạn đường vào, Collet nghe thấy tiếng súng.
Tiếng nổ bặt nhỏ làm anh hoảng hốt. Với việc Fache đang trên đường
đến đây, Collet đã từ bỏ hi vọng lập được thành tích cá nhân trong việc tìm ra
Langdon tối nay. Nhưng Collet quyết không thể để Fache đưa anh trước Hội đồng
Kỷ luật Bộ vì tội sao lãng thủ tục cảnh sát.
Một tiếng súng nổ bên trong một ngôi nhà tư. Và anh thì đứng đợi ở
chân đoạn đường vào?
Collet biết cơ hội lặng lẽ tiếp cận đã qua từ lâu. Anh cũng biết
nếu mình đứng vô công rồi nghề thêm một giây nữa, thì toàn bộ sự nghiệp của anh
sẽ thành chuyện xa xưa ngay sáng mai. Nhìn cánh cổng sắt của điền trang, anh
quyết định.
"Hãy buộc dây và kéo đổ cánh cổng".
***
Trong ngóc ngách tâm trí ngất ngư, Robert Langdon nghe thấy tiếng
súng nổ. Cả một tiếng thét đau đớn nữa. Của mình ư?
Một cái khoan đang khoan lỗ đằng sau sọ ông. Đâu đó rất gần, có
tiếng người đang nói chuyện.
"Anh đã ở nơi quái quỷ nào vậy?" Teabing quát.
Người quản gia hớt hải chạy vào: "Chuyện gì vậy? Ôi lạy Chúa
tôi! Hắn là ai? Tôi sẽ gọi cảnh sát ngay đây!".
"Quỷ tha ma bắt anh đi! Đừng gọi cảnh sát. Hãy tỏ ra mình có
ích và kiếm cho chúng tôi cái gì đó để trói con quái vật này lại".
"Và một ít đá", Sophie nói với theo.
Langdon lại cảm thấy như đang trôi bồng bềnh. Thêm nhiều âm thanh
nữa. Chuyển động. Bây giờ thì ông được đặt trên đi-văng. Sophie chườm túi đá to
lên đầu ông. Đầu ông rất đau.
Khi Langdon bắt đầu nhìn rõ, ông thấy mình đang nhìn chằm chằm vào
một cơ thể bất động trên sàn. Mình đang có ảo giác sao? Cơ thể to lớn của gã
thầy tu bạch tạng nằm sóng xoài và bị một mảnh băng dính bịt miệng. Cằm bị rách
và áo chùng đẫm máu ở chỗ đùi phải. Cả hắn hình như cũng đang hồi tỉnh.
Langdon quay về phía Sophie: "Ai vậy? Chuyện gì… đã xảy
ra?".
Teabing tập tễnh tiến lại: "Anh đã được cứu bởi một hiệp sĩ
vung thanh Escalibur (1) do Khoa chỉnh hình hạng nhất chế tạo".
"Hả?" Langdon cố gắng ngồi dậy.
Bàn tay Sophie run rẩy nhưng âu yếm: "Hãy nghỉ một phút,
Robert".
"Tôi e rằng", Teabing nói, "tôi vừa mới chứng minh
cho tiểu thư bạn anh thấy cái lợi do thể trạng bất hạnh của tôi. Hình như mọi
người đều đánh giá thấp anh".
Từ chỗ ngồi trên đi-văng. Langdon nhìn gã tu sĩ và cố gắng hình
dung xem chuyện gì đã xảy ra.
"Hắn mang chiếc cilice", Teabing giải thích.
"Một cái gì?".
Teabing chỉ một đai da đẫm máu có ngạnh trên sàn nhà: "Một
chiếc thắt lưng hành xác. Hắn đã đeo nó trên đùi. Tôi đã nhắm cẩn thận trước
khi hành động".
Langdon xoa xoa đầu. Ông có biết về loại đai lưng hành xác này:
"Nhưng… làm sao ngài lại biết?".
Teabing cười rất tươi: "Thiên Chúa giáo thuộc lĩnh vực nghiên
cứu của tôi, Robert, và có những giáo phái mang trái tim mình trên ống tay áo
(2). Ông chỉ cái nạng vào chỗ máu thấm qua áo thụng của gã tu sĩ. "Như thế
này".
"Opus Dei", Langdon thì thầm, nhớ lại những tin tức gần
đây trên các phương tiện truyền thông về vài doanh nhân Boston - thành viên của
Opus Dei. Những cộng sự lo sợ đã công khai tố cáo sai lạc là những người này
mang những thắt lưng hành xác - cilice - dưới bộ trang phục ba mảnh. Thực ra,
ba người đó không làm như vậy. Như nhiều thành viên của Opus Dei, họ đang trong
giai đoạn "dư thừa" và không thực hành lệ hành xác. Họ là những tín
đồ Thiên Chúa giáo sùng đạo là những người cha chăm lo cho con cái, và những
thành viên tận tụy với cộng đồng. Không có gì đáng ngạc nhiên, các phương tiện
truyền thông chỉ nêu rõ ngắn gọn sự tận tụy tinh thần của họ trước khi chuyển
sang những hoạt động gây sốc của tổ chức này với những thành viên
"nội" khắc kỉ hơn… như gã tu sĩ đang nằm trên sàn trước mắt Langaon.
Teabing xem xét chiếc thắt lưng đẫm máu: "Nhưng tại sao Opus
Dei lại cố gắng tìm cho ra Chén Thánh?".
Langdon vẫn đang quá choáng váng để có thể xem xét vấn đề này.
"Robert", Sophie nói, đi tới chiếc hộp gỗ, "đây là
cái gì?" Cô đang cầm miếng hình Hoa Hồng khảm mà Langdon đã gỡ khỏi nắp
hộp.
"Nó che một bản khắc chữ trên chiếc hộp. Tôi nghĩ đoạn văn bản
này có thể cho chúng ta biết cách để mở viên đá đỉnh vòm".
Trước khi Sophie và Teabing kịp đáp lời, một loạt ánh đèn xanh nhấp
nháy và còi báo động từ xe cảnh sát đã tràn ngập chân đồi và bắt đầu lượn ngoằn
ngoèo lên đoạn đường vào dài nửa dặm.
Teabing cau mày: "Các bạn thân mến, xem ra chúng ta phải quyết
định rồi. Và chúng ta nên làm điều đó thật nhanh lên".
Chú thích:
(1) Thanh gươm của vua
Arthur.
(2) Thành ngữ Anh có nghĩa để
lộ rõ tình cảm ra ngoài mặt, ở đây có nghĩa: để lộ tung tích rành rành.
Collet và quân của anh ta xông qua cửa trước trang viên của ngài
Leigh Teabing, súng lăm lăm trên tay. Tỏa ra, họ bắt đầu lục soát tất cả các
phòng ở tầng một. Họ phát hiện ra một lỗ đạn trên sàn phòng khách, những dấu
hiệu của một cuộc vật lộn, một ít máu, một dây da lạ có ngạnh và một cuộn băng
dính dùng dở. Toàn bộ tầng này dường như vắng tanh.
Đúng vào khi Collet định chia quân ra để lục soát tầng hầm và các
khu đất đằng sau ngôi nhà, anh bỗng nghe thấy tiếng người ở tầng trên.
"Họ ở trên gác".
Lao lên chiếc cầu thang rộng, Collet cùng quân của mình đi từ phòng
này sang phòng khác của ngôi nhà lớn, những phòng ngủ và hành lang tối đen khi
họ lại gần hơn những tiếng nói.
âm thanh dường như phát ra tử căn phòng ngủ cuối cùng nằm trên một
đoạn hành lang cực kỳ dài. Đám cảnh sát lần theo hành lang, bịt tất cả các lối
ra.
Khi lại gần căn phòng cuối cùng, Collet thấy cánh cửa mở rộng. Âm
thanh đã ngưng đột ngột và được thay thế bằng một tiếng ầm ì kì lạ, như thể
tiếng động cơ.
Giơ súng lên, Collet ra hiệu lệnh. Lặng lẽ tiến tới cánh cửa, anh
thấy công tắc đèn và bật lên. Lao vào phòng với đám quân ùa theo sau, Collet
quát và chĩa súng vào… trống không.
Một phòng ngủ dành cho khách hoàn toàn trống vắng. Sạch như li như
lau.
Tiếng ầm ì của động cơ xe hơi phát ra từ cái bảng điện tử màu đen
trên tường cạnh giường ngủ. Collet đã nhìn thấy những thứ này ở mấy chỗ khác
trong nhà. Một loại hệ thống liên lạc nội bộ. Anh chạy tới. Chiếc bảng có
khoảng một tá nút bấm có dán nhãn.
PHÒNG LÀM VIỆC … BẾP… PHÒNG GIẶT… HẦM RƯỢU …
Vậy thì mình nghe thấy tiếng xe hơi ở chỗ quái nào nhỉ?
Nhà để xe. Collet xuống gác trong vòng vài giây, chạy ra phía cửa
sau, tóm lấy một nhân viên anh gặp trên đường. Họ băng qua thảm cỏ bên cạnh và
thở không ra hơi khi tới trước một nhà để xe xám xịt màu phong sương. Ngay cả
trước khi bước vào, Collet vẫn có thể nghe thấy tiếng động cơ xe tắt dần. Anh
rút súng, lao vào và bật đèn.
Phía bên phải nhà để xe là một cái xưởng thô sơ, máy xén cỏ dụng cụ
tự động, đồ làm vườn. Một bảng thông tin liên lạc nội bộ quen thuộc treo trên
bức tường gần đó. Một trong những chiếc nút đã được gạt xuống, đang truyền tín
hiệu.
PHÒNG NGỦ DÀNH CHO KHÁCH II
Collet quay ngoắt lại, cơn giận trào lên. Chúng đã dụ ta lên gác
bằng hệ thống liên lạc nội bộ. Tìm kiếm phía bên kia nhà để xe, anh thấy một
dãy dài chuồng ngựa. Nhưng không có ngựa.
Rõ ràng chủ nhân thích một loại mã lực khác hơn; các chuồng này
được biến thành một nơi để xe đầy ấn tượng. Một bộ sưu tập đáng kinh ngạc - một
chiếc Ferrari đen, một chiếc Roll-Royce cổ, một chiếc xe thể thao cổ hai chỗ
hiệu Aston Martin, một chiếc Porsche 356 cũ.
Chuồng cuối cùng trống không.
Collet chạy tới và nhìn thấy vết dầu trên sàn. Họ không thể thoát
khỏi khu vực có hàng rào vây quanh. Đường vào nhà và cổng vẫn được hai chiếc xe
tuần tra chắn để ngăn chặn tình hương này xảy ra.
"Sếp?" Người nhân viên chỉ xuôi theo chiều dài dẫy
chuồng.
Cửa trượt phía sau nhà để xe mở rộng, nhường chỗ cho một triền dốc
tối, lầy lội với những cánh đồng gồ ghề trải dài trong đêm. Collet chạy tới
cánh cửa, cố gắng nhìn vào trong bóng tối.
Không thấy ánh đèn pha. Thung lũng đầy rừng này có lẽ nhằng nhịt
hàng tá đường mòn săn bắn không ghi trên bản đồ, nhưng Collet tin rằng con mồi
của anh không bao giờ vào rừng. "Gọi vài người triển khai phía đó. Chắc
chắn họ đang bị kẹt ở nơi nào đó gần đấy. Những chiếc xe sang trọng này không
thể vượt địa hình được".
"Ưm, thưa sếp?" Người trợ lý chỉ vào một cái giá mắc gần
đó nơi treo những bộ chìa khoá. Nhãn trên chìa khoá mang những cái tên quen
thuộc.
DAIMLER… ROLLS-ROYCE… ASTON MARTIN… PORSCHE..
Cái móc cuối cùng hoàn toàn trống.
Khi Collet đọc cái nhãn trên chiếc móc đó, anh hiểu là mình đang gặp
rắc rối.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 44
Xe Ranger Rover được coi là viên ngọc trai đen Java, xe bốn bánh,
hộp truyền động chuẩn, đèn polypropylen cực mạnh, đèn hậu chùm bán cố định, tay
lái bên phải.
Langdon mừng là mình không phải lái xe.
Người phục vụ của Teabing, Rémy, theo lệnh chủ, đang làm một việc
đầy ấn tượng là điều khiển chiếc xe băng qua cánh đồng tràn ngập ánh trăng phía
sau Château Villette. Không bật đèn pha, ông ta đã lái qua một cái gò trống
trải và giờ đang xuống một con dốc dài, ngày càng xa điền trang. Có vẻ như ông
ta đang hướng tới một khu rừng in bóng lô xô ở đằng xa.
Langdon ngồi ghế hành khách, ôm viên đá đỉnh vòm, quay lại nhìn
Teabing và Sophie ngồi ở ghế sau.
"Đầu anh thế nào rồi, Robert?" Sophie hỏi, giọng lo lắng.
Langdon nén đau gượng cười: "Cám ơn, đỡ rồi". Kỳ thực
đang đau muốn chết.
Bên cạnh cô, Teabing đưa mắt qua vai nhìn gã thầy tu bị bịt miệng
đang nằm trên khoang hành lý chất đống đằng sau hàng ghế dưới. Teabing đặt khẩu
súng của gã tu sĩ trên lòng, trông ông giống như bức ảnh cũ chụp một thợ săn
safari người Anh đứng bên con mồi vừa hạ được.
"Rất vui về cuộc đến thăm bất ngờ của anh tối nay,
Robert", Teabing nói, cười tươi như thể đây là lần đầu tiên sau nhiều năm
ông mới có dịp vui vẻ thế.
"Xin lỗi vì đã lôi ngài dính líu vào cuộc này, Leigh".
"Ồ tôi đã chờ đợi cả đời để được vào cuộc này mà".
Teabing phóng mắt qua Langdon, nhìn ra ngoài kính chắn gió, về phía cái bóng
của một hàng rào dài. Ông vỗ nhẹ vào vai Rémy từ đằng sau. "Hãy nhớ đừng
đạp phanh để đèn hậu bật lên. Nếu cần thì dùng phanh khẩn cấp. Tôi muốn vào sâu
trong rừng một chút.
Không lí do gì phải liều lĩnh để họ nhìn thấy chúng ta từ
nhà".
Rémy cho xe sáp lại chậm như bò và lái qua một khoảng trống trong
hàng rào. Khi chiếc Range Rover lắc lư đi vào một con đường mòn lút cỏ, hầu như
ngay lập tức những vòm cây trên đầu che khuất hết ánh trăng.
Mình không nhìn thấy bất cứ cái gì! Langdon nghĩ, căng mắt ráng
phân biệt những hình thù đằng trước họ. Trời tối đen như mực. Những cành cây cọ
vào sườn trái xe, và Rémy phải chỉnh sang hướng khác. Giữ cho tay lái tương đối
thẳng, ông ta nhích dần về phía trước khoảng ba mươi mét.
"Làm tốt đấy, Rémy". Teabing nói. "Có lẽ đủ xa rồi,
Robert, anh làm ơn ấn hộ cái nút màu xanh ngay dưới lỗ thông hơi.
Thấy không?".
Langdon sờ thấy cái nút và ấn vào đó.
Một làn ánh sáng vàng dịu tỏa ra trên vạt đường phía trước, làm
hiện lên những bụi cây thấp rậm rạp ở cả hai bên con đường mòn. Đèn xuyên xương
mù. Langdon nhận ra. Loại đèn này cho ánh sáng vừa đủ để rọi đường và lúc này
họ đã tiến sâu vào trong rừng đủ để ánh sáng không làm lộ họ.
"Tốt, Rémy", Teabing phụ hoạ thêm một cách hài lòng,
"có ánh sáng rồi. Mạng sống của chúng tôi nằm trong tay anh đấy".
"Chúng ta đi đâu bây giờ?" Sophie hỏi.
"Con đường mòn này đi sâu vào rừng khoảng ba kilômét",
Teabing nói. "Nó cắt ngang qua điền trang rồi vòng lên phía Bắc. Miễn là
chúng ta không vấp phải thác nước hay bất cứ cái cây đổ nào, chúng ta sẽ ra tới
mặt đường cao tốc không sứt mẻ".
Không sứt mẻ. Cái đầu của Langdon thì lại bày tỏ sự không đồng
tình. Ông nhìn xuống lòng mình, nơi viên đá đỉnh vòm vẫn nằm an toàn trong
chiếc hộp gỗ. Hình khảm Hoa Hồng trên nắp trở lại vị trí của nó, và mặc dầu đầu
còn mụ mị, Langdon vẫn háo hức muốn gỡ nó ra để xem xét những chữ khắc bên
dưới. Ông mở móc cài và đang bắt đầu nâng nắp lên thì Teabing đặt tay lên vai
ông từ đằng sau.
"Hãy kiên nhẫn, Robert", Teabing nói. "Đường gập
ghềnh và tối chúa cứu ta nếu ta giải được điều gì đó. Nếu anh không nhận ra thứ
ngôn ngữ đó trong ánh sáng thì anh cũng không thể làm tốt hơn trong bóng tối.
Ta hãy tập trung vào việc thoát khỏi nơi này nguyên vẹn đã, được chứ? Sẽ đến
lúc dành cho cái đó rất sớm thôi".
Langdon biết Teabing nói phải. Cật đầu, ông đặt chiếc hộp vào chỗ
cũ.
Gã thầy tu ở phía sau giờ đây đang rên rỉ, vật lộn với những dây
trói. Bất thình lình, hắn giẫy đạp điên cuồng.
Teabing xoay người lại và chĩa khẩu súng qua ghế ngồi:
Thưa ngài, tôi không thể hiểu ngài còn phàn nàn cái nỗi gì. Ngài
đột nhập vào nhà tôi và để lại một vết bầm gớm ghiếc trên đầu người bạn thân
của tôi. Tôi hoàn toàn có quyền bắn ngài ngay lúc này và để ngài rữa xác trong
khu rừng kia".
Gã thầy tu im lặng.
"Ngài có chắc là chúng ta nên đem hắn theo cùng không?",
Langdon hỏi.
"Chắc quá đi chứ?". Teabing thốt lên. "Anh đang bị
truy nã vì tội giết người, Robert. Tên khốn kiếp này là chiếc vé mở cánh cổng
tự do cho anh. Cảnh sát rõ ràng là muốn bắt anh lắm nên mới bám theo anh đến
tận nhà tôi".
"Lỗi tại tôi", Sophie nói, "Chiếc xe bọc sắt chắc
chắn có thiết bị truyền tín hiệu".
"Vấn đề không phải ở đó", Teabing nói. "Tôi không
ngạc nhiên là cảnh sát phát hiện ra anh nhưng tôi thật ngạc nhiên thấy tên hội
viên tổ chức Opus Dei này tìm ra anh. Bằng vào tất cả những gì anh nói cho tôi
nghe, tôi không thể tưởng tượng nổi làm sao tên này bám được theo anh tới nhà
tôi trừ phi hắn có tay trong ở Cảnh sát tư pháp hoặc ở Nhà băng ký thác
Zurich".
Langdon suy ngẫm về điều này. Xem ra Bezu Fache chắc chắn đang rất
muốn tìm được một kẻ làm bung xung cho những vụ giết người tối nay. Và Vernet
đã quay lại chống họ khá bất ngờ, mặc dù xét việc Langdon bị kết tội giết bốn
người, sự thay lòng đổi dạ của tay giám đốc nhà băng dường như có thể hiểu
được.
"Tên thầy tu này không hành động một mình đâu, Robert",
Teabing nói, "và cho đến khi anh biết được ai đứng sau toàn bộ chuyện này,
thì cả anh và cô Sophie vẫn còn đang ở trong vòng nguy hiểm. Nhưng tin tốt
lành, bạn thân mến, là bây giờ anh đang ở thế mạnh. Con quái vật đằng sau tôi
nắm giữ những thông tin đó, và bất cứ ai đang giật dây hắn chắc ngay giờ đây
cũng phải lo lắng".
Rémy đang tăng tốc, thoải mái hơn trên đường mòn. Xe băng qua những
vũng nước, leo lên một cái gò nhỏ, và lại bắt đầu đi xuống.
"Robert, anh vui lòng đưa cho tôi điện thoại chứ?" Teabing
chỉ vào chiếc bộ đàm trên bảng đồng hồ. Langdon đưa nó ra sau và Teabing bấm
số. Ông đợi một lúc rất lâu trước khi nghe thấy tiếng ai đó trả lời:
"Richard? Tôi có làm anh thức giấc không? Ồ, tất nhiên là có rồi. Một câu
hỏi ngốc nghếch. Tôi xin lỗi. Tôi gặp một rắc rối nhỏ. Tôi cảm thấy hơi bệnh.
Rémy và tôi cần về Anh đột xuất để điều trị. Phải, ngay lập tức, thật vậy. Xin
lỗi vì báo quá gấp. Anh có thể cho Elizabeth sẵn sàng trong hai mươi phút được
không? Tôi biết, hãy cố gắng hết sức.
Hẹn sớm gặp lại". Ông cúp máy.
"Elizabeth?" Langdon thắc mắc.
"Máy bay của tôi. Tôi đã mua nó với giá ngang món tiền chuộc
một Nữ hoàng".
Langdon quay cả người lại nhìn ông.
"Cái gì?" Teabing hỏi. "Hai người không thể mong ở
lại Pháp với toàn bộ Cảnh sát tư pháp đuổi theo sau. London sẽ an toàn hơn
nhiều".
Sophie cũng quay sang Teabing: "Ngài nghĩ chúng tôi nên rời
khỏi đất nước à?".
"Các bạn của tôi ơi, tôi có nhiều thế lực ở thế giới văn minh
hơn ở đây, tại Pháp. Thêm nữa, người ta tin rằng Chén Thánh ở Anh. Nếu chúng ta
mở được viên đá đỉnh vòm, tôi chắc chắn chúng ta sẽ khám phá ra một bản đồ chỉ
ra rằng chúng ta đã đi đúng hướng".
"Ngài liều lĩnh quá", Sophie nói, "bởi vì việc giúp
đỡ chúng tôi sẽ làm ngài không kết bạn được với cảnh sát Pháp".
Teabing phẩy tay ra vẻ chán ngấy: "Tôi đã xong chuyện với nước
Pháp. Tôi đến đây cốt tìm viên đá đỉnh vòm. Bây giờ công việc ấy đã hoàn thành.
Sau này dù có dịp thấy lại Château Villette nữa hay không, tôi cũng bất
cần".
Giọng Sophie nghe có vẻ không chắc chắn lắm: "Làm thế nào
chúng ta có thể qua được an ninh sân bay?".
Teabing cười tủm tỉm: "Tôi bay từ Le Bourget - một phi trường
không xa đây. Các bác sĩ Pháp không làm tôi yên tâm cho nên hai tuần một lần,
tôi bay theo hướng bắc để về Anh điều trị. Tôi trả tiền để có một số đặc quyền
ở cả hai bên. Một khi chúng ta đã ở trên không, các bạn có thể quyết định xem
các bạn có muốn để ai đó ở sứ quán Mỹ đến gặp chúng ta hay không!" .
Đột nhiên, Langdon không muốn dây dưa gì với sứ quán. Điều duy nhất
ông có thể nghĩ đến lúc này là: viên đá đỉnh vòm, những dòng chữ khắc, và những
thứ đó có dẫn đến Chén Thánh hay không. Ông tự hỏi không biết Teabing có đúng
khi quyết định về Anh hay không. Phải thừa nhận rằng hầu hết những truyền
thuyết hiện đại đều cho Chén Thánh ở nơi nào đó tại Vương quốc Anh. Thậm chí,
giờ đây người ta còn tin rằng Đảo Avalon huyền thoại có Chén Thánh của vua
Arthur không ở đâu khác ngoài Glastonbury, Anh. Dù Chén Thánh ở đâu, Langdon
cũng chưa bao giờ tưởng tượng là có ngày ông sẽ thực sự tìm kiếm nó. Tài liệu
Sangreal. Chuyện thật về Jesus, ngôi mộ của Mary Madolene. Đột nhiên ông cảm
thấy như đêm nay mình đang sống trong một cõi minh phủ… một cái bong bóng mà ở
đó thế giới thực không với tới ông được.
"Thưa ngài?" Rémy nói. "Ngài có thực sự nghĩ đến
chuyện về Anh hắn không?".
"Rémy, anh khỏi phải lo!" , Teabing đảm bảo. "Chỉ
bởi vì tôi quay trở về vương quốc của Nữ hoàng không có nghĩa là tôi định bắt
lưỡi tôi phải nếm xúc xích và khoai tây nghiền nhừ trong phần còn lại của cuộc
đời mình. Tôi mong anh sẽ nhập bọn với tôi thường xuyên ở đó. Tôi đang định mua
một biệt thự tráng lệ ở Devonshire, và chúng ta sẽ cho chuyển tất cả mọi thứ
của anh đến ngay lập tức. Một cuộc phiêu lưu! Rémy. Tôi nói, nó là một cuộc
phiêu lưu".
Langdon không khỏi mỉm cười. Trong khi Teabing huyên thuyên về kế
hoạch đắc thắng trở về Anh Quốc, Langdon cũng cảm thấy lây niềm phấn hứng của
ông.
Lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ, Langdon quan sát những cánh rừng đang
lướt qua, nhợt nhạt một cách ma quái trong ánh sương mù vàng vọt. Chiếc gương
chiếu hậu ngoặt vào trong, bị quệt lệch đi bởi những cành cây, và Langdon nhìn
thấy hình ảnh phản chiếu Sophie đang ngồi im lặng ở ghế sau. Ông ngắm cô hồi
lâu và bỗng thấy trào lên một cảm giác hài lòng bất ngớ.
Bất chấp những rắc rối của ông tối nay, Langdon biết ơn hoàn cảnh
đã run rủi cho ông có người bạn đồng hành tốt như vậy. Sau vài phút, như chợt
cảm thấy tỉa nhìn của ông, Sophie cúi về phía trước, đặt tay lên vai ông, xoa
nhẹ: "Anh ổn chứ?".
"Vâng", Langdon nói, "Cách nào đó.".
Sophie ngổi trở lại trên ghế của mình, và Langdon nhìn thấy một nụ
cười lặng lẽ thoáng qua trên môi cô. Ông chợt nhận ra mình cũng đang mỉm cười.
Bị chẹn vào phía sau của chiếc Range Rover, Silas hầu như không thở
được, cánh tay bị bẻ quặt ra sau và cột chặt vào mắt cá chân bằng dây và băng
dính. Mỗi cú xóc trên đường đều làm đôi vai bị vặn xoắn của hắn đau điếng. Chí
ít những người bắt hắn cũng đã tháo chiếc thắt lưng hành xác ra. Không thể hít
vào qua mảnh băng dán trên mồm, hắn chỉ có thể thở qua lỗ mũi mà nó lại đang
tắc dần bởi bụi bặm của phần chứa hàng hoá phía sau, nơi hắn bị nhét vào. Hắn
bắt đầu ho.
"Tôi nghĩ là hắn ta ngạt thở", người tài xế Pháp nói,
giọng quan ngại.
Ông già người Anh đã quật Silas bằng cái nạng bấy giờ mới quay lại,
cau mày ngó qua thành ghế, lạnh lùng nhìn hắn. "May cho anh, những người
Anh chúng tôi nhận định trình độ văn minh của con người bằng vào lòng thương
cảm không phải đối với bạn bè mà là đối với kẻ thù". Nói rồi ông với
xuống, gỡ chiếc băng dính trên miệng Silas. Bằng một động tác nhanh, ông giật
nó ra.
Silas cảm thấy môi mình như vừa bắt lửa, nhưng luồng không khí đang
ùa vào phổi hẩn thì quả là do Chúa gửi đến.
"Anh làm việc cho ai?" ông già người Anh hỏi.
"Tôi làm việc cho Chúa", Silas làu bàu, hàm đau buốt vì
bị người phụ nữ đá vào.
"Anh thuộc tổ chức Opus Dei", Teabing nói. Đó không phải
là một câu hỏi.
"Ông chẳng biết được tôi là ai đâu".
"Tại sao Opus Dei lại muốn có viên đá đỉnh vòm?".
Silas không có ý định trả lời. Viên đá đỉnh vòm là cầu nối với Chén
Thánh, và Chén Thánh là chìa khoá để bảo vệ đức tin.
"Tôi làm công việc của Chúa, Đạo đang lâm nguy".
Lúc này, trong chiếc xe Range Rover, vật lộn với những dây trói,
Silas sợ mình đã vĩnh viễn không làm tròn bổn phận đối với Thầy Giáo và Giám
mục. Hắn không cớ cách nào liên lạc để báo cho họ biết về diễn biến khủng khiếp
này. Những kẻ bắt giữ ta đã có được viên đá đỉnh vòm. Họ sẽ tìm được Chén Thánh
trước chúng ta! Trong bóng tối ngột ngạt. Silas cầu nguyện. Hắn để nỗi đau thể
xác tiếp lửa cho lời van xin của mình.
Một phép màu, lạy Chúa. Con cần một phép màu. Silas không cách chi
biết được từ giờ phút này trở đi, hắn sẽ có một phép màu.
"Robert?" Sophie vẫn đang quan sát Langdon. "Một vẻ
gì lạ lùng vừa thoáng hiện trên mặt anh".
Langdon ngoảnh lại nhìn cô, nhận ra hàm mình đang nghiến chặt và
tim đang đập dồn. Một ý không thể tin được vừa nảy ra trong đầu ông. Có thật
lời giải thích lại có thể đơn giản đến thế không? "Tôi cần dùng điện thoại
của cô, Sophie".
"Ngay bây giờ ư?".
"Tôi nghĩ tôi vừa mới phát hiện ra một điều gì đó".
"Cái gì thế?".
"Tôi sẽ nói cho cô nghe trong một phút nữa. Tôi cần điện thoại
của cô!".
Sophie có vẻ thận trọng: "Tôi không chắc là Fache có theo dõi
các cuộc gọi hay không, nhưng để đề phòng trường hợp ấy, anh chỉ được gọi dưới
một phút thôi". Cô đưa điện thoại cho ông.
"Bấm số gọi về Mỹ như thế nào?".
"Anh cần gọi theo phương thức người nhận trả tiền. Dịch vụ của
tôi không phủ sóng sang bên kia Đại Tây Dương".
Langdon bấm số không, biết rằng sáu mươi giây tiếp theo có thể trả
lời câu hỏi đã làm ông bối rối cả tối nay.
Biên tập viên nhà xuất bản New York Jonas Fankman vửa mới trèo lên
giường định ngủ thì chuông điện thoại reo. Ai mà gọi muộn thế, nhỉ! Ông càu
nhàu, nhấc máy.
Tiếng người trực tổng đài điện thoại hỏi ông: "Ông có vui lòng
trả tiền cho cuộc gọi điện thoại của Robert Langdon không?".
Bối rối, Jonas bật đèn: "Ờ… tất nhiên, đồng ý".
Đường dây đã được nối: "Jonas à?".
"Robert? Cậu đánh thức tôi dậy và bắt tôi trả tiền cho cuộc
gọi?".
"Jonas, tha lỗi cho tôi", Langdon nói, "Tôi sẽ nói
ngắn gọn. Tôi thực sự cần biết về bản thảo tôi đã đưa cho ông. Ông có…".
"Robert, tôi xin lỗi, tôi biết tôi đã nói sẽ gửi bản biên tập
cho cậu tuần này, nhưng tôi bận bù đầu. Thứ hai tuần sau vậy. Tôi hứa
đấy".
"Tôi không lo về chuyện đó. Tôi cần biết ông có gửi bản copy
lời giới thiệu nào ra ngoài mà không cho tôi biết không?".
Faukman lưỡng lự. Bản thảo mới nhất của Langdon - một khảo sát về
lịch sử việc thờ nữ thần - bao gồm vài phần về Mary Magdalene có thể sẽ gây
ngạc nhiên lớn. Mặc dầu bản thảo này có tài liệu chứng minh tốt và đã được
những người khác đề cập đến nhưng Faukkman không có ý định in những bản đọc
trước (1) mà không ít nhất có được sự xác nhận của một số nhà sử học và nghệ thuật
học danh tiếng. Jonas đã chọn mười tên tuổi lớn trong giới nghệ thuật trên thế
giới và gửi cho họ toàn bộ bản thảo này cùng với một lá thư lịch sự hỏi xem họ
có sẵn lòng viết vài lời nhận xét cho bìa sách hay không. Theo kinh nghiệm của
Faukman, hầu hết những người này đều chộp lấy cơ hội để thấy tên mình in trên
sách.
"Jonas?" Langdon giục. "Ông có gửi bản thảo của tôi
ra ngoài, phải không?".
Faukman cau mày, cảm thấy Langdon không vui về điều đó: "Bản
thảo vẫn nguyên vẹn, Robert, và tôi chỉ muốn làm cậu ngạc nhiên với một vài lời
giới thiệu thật oách thôi!".
Một khoảng khắc im lặng: "Ông có gửi một bản cho ông phụ trách
bảo tàng Paris Louvre không?".
"Cậu nghĩ gì vậy? Bản thảo của cậu có mấy lần tham chiếu tới
bộ sưu tập Louvre của ông ta, sách của ông ta nằm trong thư mục của cậu, và ông
ta có ảnh hướng lớn đối với việc bán sách ở nước ngoài. Gửi cho Saunière là
điều quá dễ hiểu?".
Im lặng kéo dài ở đầu dây bên kia: "Ông gửi nó khi nào?".
"Khoảng một tháng trước đây. Tôi cũng nói với ông ta là cậu sắp
sang Paris và hai người nên gặp nhau trò chuyện. Ông ta đã gọi hẹn gặp cậu
chưa?". Faukman ngừng lại, rụi mắt. "Khoan, chẳng phải là theo kế
hoạch, cậu sẽ có mặt ở Paris tuần này sao?".
"Tôi đang ở Paris".
Faukman ngồi thẳng dậy: "Cậu gọi cho tôi từ Paris?".
"Hãy trừ cước cuộc gọi này vào tiền nhuận bút của tôi, Jonas.
Ông có nhận được hồi âm gì từ Saunière không? Ông ấy có thích bản thảo đó
không?".
"Tôi không biết. Tôi chưa được tin gì tử ông ta".
"Thôi được, đừng có nín thở. Tôi phải đi đây, nhưng cuộc gọi
này đã làm sáng tỏ rất nhiều điều. Cám ơn".
"Robert…".
Nhưng Langdon đã cúp máy.
Faukman gác máy, lắc đầu như không thể tin được. Cáibọn tác giả
này, ông nghĩ. Kể cả những tay minh mẫn nhất cũng chập cheng.
Trong chiếc Range Rover, Leigh Teabing bật cười ha hả:
"Robert, anh nói anh đã viết một bản thảo đi sâu vào một hội kín, và người
biên tập đã gửi một bản sao tới chính tổ chức bí mật ấy?".
Langdon gục xuống: "Rõ ràng là thế!".
"Một sự trùng hợp tai ác, anh bạn của tôi!".
Đâu phải là chuyện trùng hợp. Langdon biết thế. Nhờ Jacques
Saunière xác nhận một bản thảo viết về thờ cúng nữ thần thì cũng giống như nhờ
Tiger Woods (2) đề tựa cho một cuốn sách dạy đánh golf. Hơn nữa, hầu như chắc
chắn rằng bất cứ quyển sách nào viết về việc thờ cúng nữ thần đều phải nhắc tới
Tu viện Sion.
"Đây là câu hỏi trị giá hàng triệu đôla", Teabing nói,
vẫn tủm tỉm cười. "Quan điểm của anh đối với Tu viện Sion thế nào, ủng hộ
hay phản đối?".
Langdon có thể nghe thấy rành rõ ý nghĩa thực sự trong câu hỏi của
Teabing. Nhiều nhà sử học cũng đã từng đặt câu hỏi tại sao Tu viện Sion vẫn
giấu kín tài liệu Sangreal. Một vài người còn cảm thấy thông tin này nên được
chia sẻ với thế giới từ lâu rồi. Tôi không chọn quan điểm nào đối với những
hành động của Tu viện Sion cả".
"Anh muốn nói là không có lập trường!".
Langdon nhún vai. Teabing rõ ràng đứng về phe muốn công bố các tài
liệu này. "Đơn giản là tôi chỉ cung cấp lịch sử của cái hội kín này và
miêu tả họ như là một tổ chức hiện đại thờ nữ thần, những người giữ Chén Thánh
và bảo vệ các thư tịch cổ".
Sophie nhìn ông: "Anh có nói đến viên đá đỉnh vòm
không?".
Langdon nhăn mặt. Ông có nói. Nhiều lần. "Tôi nói về viên đá
đỉnh vòm giả định như là một ví dụ về quyết tâm của Tu viện Sion đi đến cùng để
bảo vệ thư tịch Sangreal".
Sophie có vẻ ngạc nhiên: "Tôi đoán vì thế mà có đoạn Tái bút.
Hãy tìm Robert Langdon".
Langdon cảm thấy thực ra còn có một cái gì khác trong bản thảo của
ông kích thích sự quan tâm của Saunière, nhưng đây là một đề tài mà ông sẽ trao
đổi riêng với Sophie.
"Vậy là". Sophie nói, "anh đã nói dối đại uý
Fache".
"Cái gì?" Langdon hỏi.
"Anh nói với ông ta rằng anh chưa bao giờ trao đổi thư từ với
ông tôi".
"Đúng thế. Người biên tập của tôi đã gửi cho ông cô bản
thảo".
"Hãy nghĩ về điều này, Robert. Nếu đại uý Fache không tìm thấy
phong bì đựng bản thảo do người biên tập gửi, ông ta sẽ phải kết luận rằng
chính anh đã gửi nó". Cô ngừng lời. "Hoặc tệ hơn, rằng anh đã tự tay
trao nó và nói dối về điều này".
***
Khi chiếc xe Range Rover đến phi trường Le Bourget, Rémy lái xe tới
một nhà để máy bay ở cuối đường bay. Khi họ đến gần, một người đàn ông tóc tai
bù xù trong bộ đồ kaki nhàu nát vội vàng bước ra, vẫy tay và kéo cánh cửa kim
loại kếch sù mở ra, để lộ một chiếc máy bay phản lực trắng bóng bên trong.
Langdon nhìn chằm chằm vào thân máy bay bóng loáng: "Đó là
chiếc Elizabeth?".
Teabing nhoẻn miệng cười: "Đánh bại loại Channel khốn kiếp
đấy".
Người đàn ông trong bộ đồ kaki vội vàng bước về phía họ, nheo mắt
trong ánh sáng đèn pha: "Gần xong rồi, thưa ngài".
Anh ta nói bằng giọng Anh. "Tôi xin lỗi vì sự chậm trễ này,
nhưng ngài gọi đột xuất quá và…!". Anh ngừng bặt khi thấy nhóm người đang
xuống xe. Anh ta nhìn Sophie và Langdon, rồi lại nhìn Teabing.
Teabing nói: "Các bạn của tôi và tôi có công việc khẩn cấp ở
London, chúng tôi không có thời gian để lãng phí đâu. Xin chuẩn bị xuất phát
ngay lập tức". Vừa nói, Teabing vừa lấy khẩu súng ra khỏi xe đưa cho
Langdon.
Người phi công trợn tròn mắt khi nhìn thấy khẩu súng. Anh ta bước
về phía Teabìng và thì thầm: "Thưa ngài, xin cúi đầu tạ lỗi nhưng máy bay
ngoại giao chỉ được phép chở ngài và người phục vụ của ngài. Iôi không thể nhận
những vị khách kia".
"Richard", Teabing nói, mỉm cười nồng hậu, "hai ngàn
đồng bảng Anh và khẩu súng đã lên đạn này nói rằng anh có thể chở các vị khách
của tôi", ông ra hiệu về phía chiếc Range Rover, "Và cả anh bạn bất
hạnh ở phía sau xe kia nữa".
Chú thích:
(1) Các nhà xuất bản ở Mỹ
thưởng in thử một số bản đọc trước gọi là advance reading copy hay pre-print
copy để kiểm tra lần cuối trước khi in chính thức.
(2) Vô địch thế giớỉ về môn
golf trong nhiều năm liền, ngưởi Mỹ.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 45
Hai động cơ Hawker 731 và Fiarrett TFE-731 ầm ầm đưa máy bay cất
cánh lên trời với lực đẩy cực mạnh. Bên ngoài cửa sổ sân bay Le Bourget rớt
xuống nhanh lạ lùng.
Mình đang chạy trốn khỏi quê hương. Sophie nghĩ bụng, ngả người vào
chiếc ghế da. Cho đến trước giờ phút này, cô vẫn tin rằng trò chơi mèo vờn
chuột của mình với Fache có thể biện hộ được cách này hay cách khác trước Bộ
quốc phòng. Mình đã cố gắng bảo vệ một người vô tội. Mình đã cố gắng hoàn thành
ước nguyện lúc lâm chung của ông. Cánh cửa mở ra cơ hội ấy, Sophie biết, vừa
đóng lại rồi. Cô đang rời bỏ đất nước mà không có những tài liệu để làm bằng
chứng, đi cùng với một người bị truy nã, và chở theo một con tin. Nếu có một
"ranh giới của lý trí" thì cô vừa vượt qua nó rồi. Gần như với tốc độ
của âm thanh.
Sophie ngồi cùng với Langdon và Teabing gần phía trước cabin - mẫu
thiết kế máy bay phản lực ưu tú, theo như chiếc huy chương vàng gắn trên cửa.
Những chiếc ghế quay sang trọng họ đang ngồi được cài chốt vào đường ray trên
sàn để có thể di chuyển và cố định xung quanh một chiếc bàn gỗ cứng hình chữ
nhật. Một phòng họp mini cho hội đồng quản trị. Tuy nhiên, khu vực đàng hoàng
này chẳng làm gì mấy để nguỵ trang cái tình trạng ít đàng hoàng hơn ở đằng sau
máy bay, nơi mà, trong một khu riêng gần phòng vệ sinh, người phục vụ của
Teabing-
Rémy ngồi với khẩu súng trong tay, đang miễn cưỡng thi hành lệnh
của Teabing là canh giữ gã thầy tu mình mẩy vấy máu, bị trói gô nằm dưới chân
ông ta như một thứ hành lý.
"Trước khi quay trở lại vấn đề viên đá đỉnh vòm", Teabing
nói, "tôi phân vân không biết các bạn có cho phép tôi nói một vài lời
không". Giọng ông nghe lo lắng, như một ông bố đang sắp sửa giảng những
điều cơ bản về tình dục cho lũ con. "Các bạn của tôi, tôi nhận ra mình chỉ
là khách trong cuộc hành trình này, và tôi rất lấy làm vinh dự về điều đó.
Vâng, với tư cách là một kẻ đã dành cả cuộc đời cho việc tìm kiếm Chén Thánh,
tôi cảm thấy mình phải có nhiệm vụ cảnh báo các bạn rằng các bạn đang sắp bước
vào một con đuờng mà đã đi là không thể trờ lui, bất kể nguy hiểm nhường
nào". Ông quay về phía Sophie. "Thưa cô Neveu, ông cô đã trao cho cô
chiếc hộp mật mã này với hy vọng cô sẽ giữ bí mật về Chén Thánh sống mãi".
"Vâng".
"Có thể hiểu được rằng, cô cảm thấy có nghĩa vụ đi theo con
đường đó tới bất cứ nơi đâu mà nó dẫn đến".
Sophie gật đầu, mặc dù cô cảm thấy một động cơ thứ hai vẫn cháy
bỏng trong cô. Sự thực về gia đình mình. Bất chấp lời cam đoan của Langdon rằng
viên đá đỉnh vòm không liên quan gì đến quá khứ của cô, Sophie vẫn cảm thấy có
cái gì đó rất cá nhân quyện bên trong bí ẩn này, cứ như thể chiếc hộp mật mã do
chính tay ông cô tạo ra đang cố gắng nói với cô và đưa ra cách giải quyết cho
sự trống rỗng đã ám ảnh cô suốt những năm qua.
"Ông cô và ba người khác đã chết tối nay", Teabing tiếp
tục, "và họ làm như vậy để giữ cho viên đá đỉnh vòm không lọt vào tay Giáo
hội. Đêm nay, chút xíu nữa thì Opus Dei đã chiếm được nó. Tôi hi vọng cô hiểu
rằng điều này đặt cô vào một vị thế mang trách nhiệm đặc biệt. Cô được trao cho
một ngọn đuốc. Một ngọn lửa cháy suốt 2000 năm không được phép để cho tắt. Ngọn
đuốc này không thể để rơi vào những bàn tay đen tối", ông tạm dừng, nhìn
vào cái hộp bằng gỗ hồng mộc. "Tôi nhận thấy cô không có sự lựa chọn trong
vấn đề này, thưa cô Neveu, nhưng, xét những gì có thể mất hay còn trong cuộc
này, thì hoặc là cô phải gánh trọn trách nhiệm này… hoặc trao nó cho một người
khác".
"Ông tôi đã trao chiếc hộp mật mã cho tôi. Tôi chắc ông nghĩ
rằng tôi có thể đảm đương trách nhiệm đó".
Teabing có vẻ phấn chấn nhưng vẫn chưa tin hẳn: "Tốt. Một ý
chí mạnh mẽ là cần thiết. Tuy nhiên tôi muốn biết liệu cô có hiểu rằng việc
giải mã thành công viên đá đỉnh vòm sẽ kéo theo một thử thách còn lớn hơn nữa
không?".
"Như thế nào cơ?".
"Cô bạn thân mến, hãy tưởng tượng là bạn bỗng có trong tay bản
đồ tiết lộ vị trí của Chén Thánh. Lúc đó, bạn sẽ sở hữu một sự thật có khả năng
thay đổi lịch sử mãi mãi. Bạn sẽ là người gìn giữ một sự thật mà con người đã
tìm kiếm suốt bao thế kỷ nay. Bạn sẽ phải đối mặt với trách nhiệm phơi bày sự
thật ấy với thế giới. Cá nhân người làm việc đó sẽ được nhiều người tôn sùng và
nhiều kẻ khinh miệt. Câu hỏi đặt ra là bạn có nghị lực cần thiết để thực hiện
nhiệm vụ này không?".
Sophie ngừng một lát rồi nói: "Tôi không chắc người có phận sự
quyết định thế có phải là tôi hay không".
Lông mày Teabing nhướn lên: "Không ư? Nếu không phải là người
sở hữu viên đá đỉnh vòm thì còn là ai?".
"Tu viện Sion, những người bao lâu đã bảo vệ thành công bí mật
đó".
"Tu viện Sion ư?" Teabing có vẻ hoài nghi. "Nhưng
làm thế nào? Đêm nay, cái hội kín đó đã tan tành. Bị chặt đầu, như cô đã dùng
chữ rất đắt. Họ đã bị thâm nhập bằng nghe trộm hay qua một tên gián điệp trong
hàng ngũ của họ, điều đó chúng ta không hề biết, nhưng thực tế là có kẻ đã nhằm
vào họ và tiết lộ nhân thân của bốn thành viên đứng đầu. Tôi không tin bất kì
ai từ trong tổ chức này đứng ra lãnh trách nhiệm ấy vào thời điểm này".
"Vậy thì ngài gợi ý thế nào?", Langdon hỏi.
"Robert, anh cũng như tôi đều biết rằng Tu viện Sion không bảo
vệ sự thật suốt bao nhiêu năm qua chỉ để cho nó tích đầy bụi cho đến thiên thu.
Họ chờ đợi đến đúng thời điểm thích hợp trong lịch sử để chia sẻ bí mật của họ.
Thời điểm mà thế giới sẵn sàng đón nhận sự thật".
"Và ngài tin rằng thời điểm đó đã đến?" Langdon hỏi.
"Tuyệt đối là như vậy. Không thể nào hiển nhiên hơn. Tất cả
những dấu hiệu lịch sử đều đã đâu vào đó, và nếu Tu viện Sion không định sớm
công bố bí mật của họ thì tại sao Giáo hội lại tấn công?".
Sophie cãi: "Gã thầy tu đó chưa nói với chúng ta về mục đích
của hắn".
"Mục đích của hắn là mục đích của Giáo hội", Teabing đáp,
"Phá huỷ những tài liệu phơi trần cuộc đạỉ lừa bịp. Tối nay, Giáo hội đã
vươn tới gần mục đích hơn bao giờ hết của mình, và Tu viện Sion đã đặt sự tin
cậy vào cô, thưa cô Neveu. Nhiệm vụ bảo vệ Chén Thánh rõ ràng bao gồm cả việc
thực hiện nguyện ước cuối cùng của Tu viện Sion là chia sẻ sự thật với thế
giới".
Landon xen vào: "Leigh, yêu cầu Sophie phải quyết định là một
gánh nặng đối với một người chỉ cách đây một giờ đồng hồ mới biết về sự tồn tại
của tài liệu Sangreal".
Teabing thở dài: "Tôi xin lỗi nếu tôi đang thúc hối cô, cô
Neveu. Rõ ràng là xưa nay tôi vẫn tin rằng những tài liệu này nên được công bố,
nhưng chung cuộc, việc quyết định vẫn thuộc về cô. Tôi chỉ đơn giản cảm thấy cô
cần bắt đầu suy nghĩ về những gì sẽ xảy ra nếu chúng ta thành công trong việc
mở viên đá đỉnh vòm".
"Thưa các quý ông", Sophie nói giọng quả quyết, "để
dẫn lời của ngài "Bạn không tìm thấy Chén Thánh đâu, chính Chén Thánh tìm
thấy bạn". Tôi tin rằng Chén Thánh đã tìm thấy tôi, và khi nào đúng thời
đúng lúc, tôi sẽ biết mình phải làm gì".
Cả hai đều có vẻ sửng sốt.
"Vậy thì", cô nói, chỉ vào chiếc hộp, "hãy tiến
tới".
Đứng trong phòng tranh của Château Villette, trung uý Collet nhìn
ngọn lửa đang tàn và cảm thấy rất nản. Đại uý Fache đã đến trước đó ít phút và
bây giờ đang ở phòng bên, la hét vào điện thoại, cố gắng điều phối để xác định
vị trí chiếc Range Rover mất tích.
Bây giờ có thể ở bất cứ đâu, Collet nghĩ.
Sau khi làm trái mệnh lệnh trực tiếp của Fache và để tuột Langdon
lần thứ hai, Collet thấy biết ơn bộ phận giám định đã xác định được vị trí lỗ
đạn trên sàn nhà, ít nhất nó có thể chứng minh lời khẳng định của Collet rằng
đã nghe thấy tiếng súng nổ. Tuy nhiên, Fache rất tức tối và Collet cảm thấy sẽ
có hậu quả khốc hại khi tình hình lắng xuống.
Rủi thay, những manh mối tìm ra được ở đây không rọi được chút ánh
sáng nào vào sự việc đã diễn ra hoặc những người dính líu. Chiếc Audi đen đậu
bên ngoài được thuê dưới cái tên và số tài khoản giả, và dấu tay trong xe không
trùng khớp với bất cứ dấu tay nào trong hồ sơ của Interpol.
Một nhân viên khác hớt hải chạy vào phòng khách, đôi mắt dáo dác:
"Đại uý Fache đâu?".
Collet hầu như không buồn ngước lên khỏi những viên than hồng đang
âm ỉ cháy: "Ông ấy đang gọi điện".
"Tôi gọi xong rồi", bước vào phòng, Fache gắt. "Có
tin gì vậy?".
Người nhân viên thứ hai nói: "Thưa Đại úy, Trung tâm vừa mới
nhận được tin của André Vernet ở Nhà băng Ký thác Zurich. Ông ta muốn nói
chuyện riêng với Đại uý. Ông ta thay đổi lời khai".
"Ồ thật sao?". Fache nói.
Bấy giờ Collet mới ngước lên.
"Vernet thú nhận rằng Langdon và Neveu đã ở khá lâu trong nhà
băng tối nay".
"Chúng ta đã đoán được điều đó", Fache nói, "Nhưng
tại sao Vernet lại nói dối?".
"Ông ta nói ông ta chỉ nói chuyện với Đại úy thôi, nhưng ông
ta đồng ý hợp tác hết mình".
"Để đổi lấy cái gì?".
"Giữ cho tên nhà băng của ông ta khỏi bị nêu trên báo chí và
giúp ông ta lấy lại tài sản bị mất. Nghe có vẻ như Langdon và Neveu đã đánh cắp
cái gì đó trong tài khoản của Saunière".
"Cái gì?", Collet bật ra. "Như thế nào?".
Fache chưa hế nao núng, đôi mắt như đóng đinh vào người nhân viên:
"Họ đã lấy cắp cái gì?".
"Vernet không nói rõ, nhưng nghe như ông ta sẵn sàng làm bất
cứ gì để tìm lại nó".
Collet cố gắng hình dung xem sự việc đã diễn ra như thế nào.
Có lẽ Langdon và Neveu đã dí súng vào một nhân viên nhà băng chăng?
Có lẽ họ đã ép Vernet phải mở tài khoản của Saunière và giúp họ trốn thoát
trong chiếc xe tải bọc thép. Dù chuyện ấy là có thể, Collet vẫn khó tin rằng
Sophie Neveu có thể dính líu vào những điều như thế này.
Từ bếp, một nhân viên khác gọi Fache: "Đại uý? Tôi đang rà
soát những số mà ông Teabing đã gọi, và đang nói chuyện với sân bay Le Bourget.
Tôi có vài tin xấu đây".
***
Ba mươi giây sau, Fache đã gói ghém và chuẩn bị rời khỏi Château
Villette. Ông ta vừa mới biết rằng Teabing đã giữ một chiếc máy bay phản lực
riêng ở sân bay gần Le Bourget và chiếc máy bay đó vừa cất cánh cách đây nửa
giờ.
Người đại diện Bourget trả lời điện thoại nói là không biết có
những ai trên máy bay và nó bay đi đâu. Máy bay cất cánh ngoài chương trình và
không có kế hoạch bay nào được ghi vào sổ nhật ký. Rất bất hợp pháp, ngay cả
đối với một sân bay nhỏ.
Fache chắc chắn rằng bằng cách gây sức ép đúng cách, ông ta có thể
có câu trả lời cho điều ông ta đang tìm kiếm.
"Trung uý Collet", Fache quát, tiến về phía cửa.
"Tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc trao anh cho hội đồng kỉ luật
quân đội điều tra. Hãy cố gắng làm một cái gì đúng cho nó khác đi”
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 46
Khi chiếc Hawker bay ở tầm trung, nhằm
hướng nước Anh, Langdon thận trọng nhấc chiếc hộp bằng gỗ hồng mộc lên từ trong
lòng - nơi ông bảo vệ nó trong suốt thời gian cất cánh của máy bay. Trong khi
đặt nó lên bàn, ông cảm thấy Sophie và Teabing cũng cúi về phía trước, đón đợi.
Tháo chốt nắp và mở hộp, Langdon không
hướng sự chú ý tới những cái đĩa có kí tự mà tới cái lỗ nhỏ xíu ở mặt dưới nắp
hộp. Dùng đầu nhọn của một cái bút, ông thận trọng nạy hình khảm Hoa Hồng để lộ
ra đoạn văn tự bên dưới. Sub Rosa-Dưới Hoa hồng, ông trầm ngâm suy nghĩ, hi
vọng việc xem lại lần nữa có thể làm sáng tỏ văn bản trên. Tập trung hết năng
lực, Langdon tìm hiểu dòng kí tự lạ lẫm.
Sau vài giây xem xét, ông bắt đầu cảm
thấy nỗi thất vọng như lần đầu: "Leigh, tôi chịu không thể đoán ra".
Từ chỗ Sophie ngồi mé bên kia bàn, cô
không thể trông thấy đoạn văn tự, nhưng việc Langdon không thể nhận ra ngay
ngôn ngữ đó làm cô ngạc nhiên. Ông mình lại biết một ngôn ngữ bí hiểm đến mức
một nhà kí tượng học cũng không nhận ra được ư? Cô nhanh chóng nhận ra mình
không nên coi đó là lạ. Đây đâu phải là bí mật đầu tiên mà Jacques Saunière
giấu cháu gái.
Ngược lại với Sophie, Leigh Teabing cảm
thấy mình sắp nổ tung. Hăm hở vì cơ hội được thấy những kí tự lạ, ông run lên
vì phấn khích, cúi người, cố nhìn quanh Langdon đang khom mình trên chiếc hộp.
"Tôi không biết", Langdon thì
thầm náo nức, "dự đoán đầu tiên của tôi là kiểu kí tự Semitic nhưng bây
giờ tôi không chắc lắm. Phần lớn kí tự Semitic nguyên thủy đều có neckkudot.
Nhưng văn tự này lại không có.
"Chắc là rất cổ", Teabing gợi
ý.
"Neckkudot?". Sophie hỏi.
Teabing không hề rời mắt khỏi chiếc
hộp: "Đa số bảng chữ cái Semitic hiện đại không có nguyên âm, mà dùng
nekkudot - những chấm nhỏ và gạch ngang được viết bên dưới hoặc ở giữa các phụ
âm - để chỉ rõ âm của nguyên âm nào đi kèm với chúng. Nói theo quan điểm lịch
sử, neckkudot là một bổ sung tương đối hiện đại cho ngôn ngữ".
Langdon vẫn cắm cúi trên bản khắc:
"Có lẽ một bản phiên tự chữ Sephardic chăng…?".
Teabing không thể đợi lâu hơn được nữa:
"Có lẽ nếu tôi…". Với qua bàn, ông thận trọng đỡ lấy cái hộp và kéo
nó về phía mình. Không nghi ngờ về việc Langdon hiểu biết sâu sắc các ngôn ngữ
cổ chuẩn mực - Hy Lạp, Latinh, Roman - nhưng mới nhìn thoáng qua thứ ngôn ngữ
này, Teabing nghĩ nó có vẻ chuyên môn hơn, có thể là chữ thảo Rashi hoặc
STA"M với hình mũ miện.
Hít một hơi thật sâu, Teabing thích thú
ngắm nhìn hình khắc. Ông không nói gì hồi lâu. Mỗi giây qua đi, Teabing lại cảm
thấy sự tự tin của mình càng xẹp xuống. "Tôi rất kinh ngạc", ông nói,
"ngôn ngữ này không giống bất cứ thứ gì tôi từng thấy".
Langdon ngồi phịch xuống.
"Tôi có thể xem được không?"
Sophie hỏi.
Teabing giả vờ như không nghe thấy:
"Robert, lúc nãy anh nói rằng anh đã từng thấy một cái gì giống như
thế?".
Langdon có vẻ bực bội: "Tôi đã
nghĩ vậy, tôi không chắc lắm. Cách nào đó, thứ chữ này trông quen quen".
"Leigh?" Sophie nhắc lại, rõ
ràng không muốn bị gạt ra ngoài cuộc thảo luận. "Tôi có thể xem qua cái
hộp do ông tôi làm không?".
"Ồ, tất nhiên, cô bạn thân
mến", Teabing nói, đẩy cái hộp về phía cô. Ông không có ý định tỏ ra coi
thường cô, tuy nhiên, Sophie Neveu đã đi quá xa khỏi địa hạt của mình. Nếu một
nhà sử học Hoàng gia Anh và một nhà kí tượng học Harvard mà còn không thể nhận
dạng được ngôn ngữ này thì…
"Aha!". Sophie kêu lên, mấy
giây sau khi xem kĩ chiếc hộp, "lẽ ra tôi phải đoán ra ngay chứ!".
Teabing và Langdon cùng quay phắt lại,
nhìn cô chằm chằm.
"Đoán ra cái gì?", Teabing
hỏi.
Sophie nhún vai: "Đoán ra rằng đây
ắt là ngôn ngữ mà ông tôi sử dụng".
"Cô nói là cô có thể đọc được văn
bản này?", Teabing thốt lên.
"Dễ ợt", Sophie nói lanh
lảnh, rõ ràng là rất thích thú với bản thân. "Ông đã dạy tôi ngôn ngữ này
từ khi tôi mới sáu tuổi. Tôi thành thạo nó". Cô cúi người qua mặt bàn và
xoáy vào Teabing một cái nhìn trách cứ. "Thẳng thắn mà nói, thưa ngài, xét
vì lòng trung thành của ngài với Nữ hoàng, tôi hơi ngạc nhiên thấy ngài không
nhận ra nó!".
Loáng một cái, Langdon hiểu ra.
Thảo nào cái thứ chữ này trông quen
thế!
Mấy năm trước, Langdon có dự một sự
kiện ở bảo tàng Fogg của Harvard. Bill Gates (1), người đã bỏ học nửa chừng ở
Harvard, trở lại trường cũ để cho bảo tàng mượn một trong những bảo vật vô giá
của ông - mười tám tờ giấy mà ông đã mua được trong buổi bán đấu giá ở Điền
trang Armand Hammer.
Ông đã giành được khi lạnh lùng đưa ra
cái giá 30.8 triệu $.
Tác giả của những trang giấy đó là
Leonardo Da Vinci.
Tổng số mười tám trang - giờ đây được
gọi là Cuốn sách chép tay Leiccster của Leonardo, đặt theo tên cựu chủ nhân nổi
tiếng của chúng - bá tước Leicester - là tất cả những gì còn lại của một trong
những sổ ghi chép hấp dẫn nhất của Leonardo: những tiểu luận cùng kí họa cho
thấy khái quát những lý thuyết tiến bộ của Da Vinci về thiên văn học, địa chất
học, khảo cổ học và thủy động học.
Langdon không bao giờ quên phản ứng của
mình sau khi xếp hàng đợi và cuối cùng được nhìn thấy những tờ giấy da vô giá
đó. Hoàn toàn thất vọng. Những trang này không thể hiểu được. Mặc dầu được bảo
quản tuyệt vời và viết rõ từng nét đến độ hoàn hảo - mực đỏ thẫm trên giấy màu
kem - cuốn sách chép tay này trông giống như trò vẽ lăng nhăng. Thoạt đầu,
Langdon tưởng có thể đọc được bởi vì Da Vinci thường ghi sổ bằng tiếng Ý cổ.
Nhưng sau khi xem xét kĩ hơn, ông nhận ra mình không thể xác định được lấy một
từ Ý nào, hoặc thậm chí một chữ cái.
"Hãy thử cách này xem, thưa
ngài", nữ hướng dẫn viên ở chỗ tủ trưng bày thầm thì. Cô chỉ một cái gương
cầm tay được để trước vật trưng bày trên ghế. Langdon cầm lấy để xem văn bản
qua hình ảnh phán chiếu trong đó.
Lập tức, tất cả trở nên rõ ràng.
Langdon đã quá hăm hở nghiên cứu một số
ý tưởng của nhà tư tưởng vĩ đại đến nỗi quên mất một trong nhiều tài của
Leonardo là khả năng viết kiểu chữ phản chiếu trong gương, rất khó đọc với bất
cứ ai ngoài chính ông. Các nhà sử học vẫn còn tranh luận xem Da Vinci đã viết
theo cách này đơn giản là để giải trí hay để giữ cho mọi người khỏi nhòm ngó
qua vai ông và đánh cắp ý tưởng của ông, nhưng vấn đề vẫn chưa ngã ngũ. Da
Vinci đã làm như ông thích.
Sophie cười thầm khi thấy Robert hiểu ý
cô: "Tôi có thể đọc vài từ đầu tiên, cô nói. "Đó là tiếng Anh".
Teabing vẫn còn lắp bắp: "Cái gì
đang diễn ra vậy?".
Chữ viết ngược", Langdon nói,
"chúng ta cần một cái gương".
"Không, không cần đâu".
Sophie nói. "Tôi cá là cái vỏ này đủ mỏng". Cô nâng cái hộp bằng gỗ
hồng mộc lên ánh sáng đèn trên tường và bắt đầu xem xét mặt dưới nắp. Ông cô
không thể viết ngược được, cho nên bao giờ ông cũng dùng mẹo bằng cách viết một
cách bình thường và sau đó lật tờ giấy để tô lại.
Suy đoán của Sophie là ông đã dùng
phương pháp khắc lửa để viết chữ bình thường lên một lát gỗ và sau đó dùng máy
mài mài mặt sau của lát gỗ cho đến khi nó mỏng như tờ giấy và những chữ khắc
lửa có thể thấy được xuyên qua gỗ. Sau đó đơn giản là ông lật xấp lát gỗ và đặt
nó vào chỗ.
Khi Sophie đưa cái nắp lại gần ngọn
đèn, cô thấy mình đã đúng. Tia sáng rọi qua lớp gỗ mỏng và những dòng chữ xuất
hiện đảo ngược ở mặt dưới chiếc nắp.
Lập tức trở nên đọc được.
"Tiếng Anh", Teabing rền rĩ,
đầu rũ xuống vì xấu hổ, "tiếng mẹ đẻ của mình".
***
Ở đằng sau máy bay, Rémy Legaludec cố
sức để nghe qua tiếng động cơ đang rung ầm ầm, nhưng vẫn không thể nghe thấy
được đoạn đối thoại phía trước. Rémy không thích cách tiến triển của sự việc.
Không một chút nào. Ông ta nhìn gã tu sĩ nằm dưới chân. Người đàn ông này vẫn
nằm yên hoàn toàn như thể đành chấp nhận, hay có lẽ, đang lặng lẽ cầu nguyện để
được giải thoát.
Chú thích:
(1) Tỷ phú Mỹ nổi tiếng thế giới.
Ở độ cao năm nghìn mét trên bầu trời,
Robert Langdon cảm thấy thế giới vật chất như mờ dần khi tất cả suy nghĩ của
Ông đều tập trung vào bài thơ chiếu-gương của Saunière, hiện sáng qua nắp hộp.
Sophie nhanh chóng tìm thấy một tờ giấy
và chép lại bằng chữ viết thường. Khi cô chép xong, ba người lần lượt đọc đoạn
văn: Nó giống như một thứ ô chữ khảo cổ… Một câu đố hứa hẹn tiết lộ cách mở hộp
mật mã. Langdon chậm rãi đọc đoạn thơ.
Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn
giấy này… Và giúp ta giữ vẹn toàn dòng họ của nàng. Một tấm bia Templar ca ngợi
là chìa khóa… Và Atbash sẽ tiết lộ sự thật cho người.
Trước khi Langdon kịp ngẫm nghĩ xem mật
khẩu cổ xưa mà đoạn thơ cố gắng tiết lộ là gì, ông đã cảm thấy một cái gì đó
còn cơ bản hơn vang vọng trong lòng mình - thể thơ ngũ bộ mười âm theo nhịp
iabic(1).
Langdon đã thường xuyên gặp thể thơ này
qua những năm tháng nghiên cứu về các hội kín ở khắp Châu Âu, kể cả năm ngoái,
khi tiếp cận kho Lưu trữ tư liệu bí mật của Vatican. Suốt hàng thế kỷ nay, thể
thơ ngũ bộ mười âm tiết theo nhịp iambic đã trở thành thể thơ ưa thích của các
văn nhân bộc trực ở khắp hành tinh, từ nhà văn thời cổ Hy Lạp Archilochus tới
Shakespeare, Milton, Chaucer và Voltaire - những tâm hồn quả cảm, những người
chọn viết những bình luận xã hội của mình bằng một thể thơ mà nhiều người cùng
thời tin là có những thuộc tính huyền bí. Thể thơ ngũ bộ theo nhịp iambic có
nguồn gốc thế tục sâu xa.
Thể thơ ngũ bộ theo nhịp iambic. Hai âm
tiết với sự nhấn âm ngược nhau. Nhấn và không nhấn. Dương và âm. Một cặp cân
bằng được sắp xếp thành những dãy năm. Số năm cho hình sao năm cánh của Venus
và tính nữ thiêng liêng.
"Đó là thể thơ ngũ bộ?". Teabing
thốt lên, quay sang Langdon. "Và thơ bằng tiếng Anh! La lingua
purat"(2).
Langdon gật đầu. Tu
viện Sion, giống như nhiều hội kín khác ở châu Âu chống đối Giáo hội, đã xem
tiếng Anh là ngôn ngữ châu Âu tinh khiết duy nhất trong nhiều thế kỷ. Không
giống như tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý có nguồn gốc Latinh - tiếng
mẹ đẻ của Giáo hội - tiếng Anh bị loại bỏ khỏi bộ máy tuyên truyền của Roma, và
do đó đã trở nên một thứ tiếng bí mật, thiêng liêng đối với các hội kín có đủ
học vấn để học nó.
"Bài thơ
này", Teabing bật ra, "đề cập tới không chỉ Chén Thánh mà cả các Hiệp
sĩ Templar và gia đình bị ly tán của Mary Magdelene? Chúng ta còn có thể đòi
hỏi gì hơn?".
"Mật
khẩu", Sophie nói, nhìn lại bài thơ, "nghe có vẻ như chúng ta cần một
loại từ cổ thông thái nào đó".
"Thần chú
chăng?" Teabing đoán liều, mắt lấp lánh.
Một từ gồm có năm
chữ cái, Langdon nghĩ, cân nhắc số lượng khổng lồ những từ cổ có thể được coi
là từ thông thái - chọn lọc từ các tụng ca huyền bí, những lời tiên tri chiêm
tinh, những lời sấm của các hội kín, những câu thần chú Wicca, những câu thần
chú ma thuật của người Ai Cập, những câu thần chú của người ngoại đạo - danh
sách đó là vô tận.
"Mật khẩu
này", Sophie nói, "hình như có liên quan gì đó đến các Hiệp sĩ
Templar". Cô đọc to lại câu: "Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa
khóa".
"Leigh".
Langdon nói, "ngài là chuyên gia về các Hiệp sĩ Templar. Ngài có ý tưởng
gì không?".
Teabing im lặng vài
giây rồi thở dài: "Phải, một tấm bia hiển nhiên là vật để đánh dấu mộ. Có
thể bài thơ đề cập đến một phiến đá mà các Hiệp sĩ Templar ca ngợi ở ngôi mộ
của Magdalene, nhưng điều này cũng chẳng giúp gì nhiều cho chúng ta bởi vì
chúng ta chẳng biết mộ của bà ấy ở đâu".
"Câu
cuối", Sophie nói, "nói rằng Atbash sẽ hé mở sự thật. Tôi đã nghe
thấy từ này. Atbash".
"Tôi chẳng
ngạc nhiên", Langdon đáp, "chắc cô đã nghe thấy nó trong cuốn Những
ẩn ý khó hiểu 101. Mật mã Atbash là một trong những mật mã cổ xưa nhất mà con
người đã từng biết đến".
Tất nhiên rồi! Sophie nghĩ. Hệ thông mã
hóa Hebre nổi tiếng.
Mật mã Atbash thực ra là một phần trong
khóa huấn luyện mật mã của Sophie. Mật mã này ra đời từ năm 500 trước Công
nguyên và đến bây giờ vẫn được dùng như một ví dụ tại lớp về cách cơ bản thay
thế luân phiên. Là một dạng thức phổ biến trong tài liệu được mã hoá của người
Do Thái, mật mã Atbash là một loại mật mã thay thế đơn giản dựa trên bảng chữ
cái Hebrew gồm hai mươi hai kí tự chữ cái. Trong mật mã Atbash, chữ cái đầu
tiên được thay thế bằng chữ cái cuối cùng, chữ cái thứ hai được thay thế bằng
chữ cái kế tiếp chữ cái cuối cùng và cứ như vậy.
"Mật mã Atbash thật là thích
hợp", Teabing nói, "văn bản được mã hóa với hệ thống mật mã Atbash
được tìm thấy ở cuộn giấy Kabbala, vùng biển Chết, và thậm chí cả kinh Cựu ước.
Các học giả Do Thái về chúc thư cổ và
những nhà mặc khải thần linh vẫn đang tìm kiếm ý nghĩa ẩn giấu trong việc sử
dụng mật mã này. Tu viện Sion chắc chắn sẽ coi mật mã Atbash như một phần trong
những giáo huấn của họ".
"Vấn đề duy nhất", Langdon
nói, "là chúng ta không có bất cứ cái gì để áp dụng mật mã này".
Teabing thở dài: "Chắc chắn phải
có một từ mật mã trên tấm bia. Chúng ta phải tìm ra tấm bia được các Hiệp sĩ
Templar ca ngợi".
Qua vẻ nghiêm nghị trên mặt Langdon,
Sophie cảm thấy việc tìm tấm bia của các Hiệp sĩ Templar sẽ không phải là một
thành tích nhỏ.
Atbash là chìa khóa, Sophie nghĩ. Những
chúng ta không có cánh cửa.
Sau ba phút, Teabing thốt ra một tiếng
thở dài thất vọng và lắc đầu: "Các bạn của tôi, tôi hoàn toàn bế tắc. Hãy
để tôi suy nghĩ thêm về điều này trong lúc tôi kiếm vài thứ ăn vặt và kiểm tra
Rémy cùng vị khách của chúng ta". Ông đứng dậy tiến về đằng sau máy bay.
Sophie cảm thấy mệt mỏi khi cô nhìn ông
đi.
Bên ngoài cửa sổ máy bay, bóng tối
trước bình minh vẫn ngự trị. Sophie cảm thấy như mình lạc trong không gian và
không biết sẽ hạ cánh xuống đâu. Vốn từ bé đến lớn đã quen giải những câu đố
của ông mình, cô cảm thấy khó chịu khi mà ngay lúc này đây, bài thơ chứa đựng
thông tin nằm trước mắt họ mà họ không nhìn ra.
Ở đây còn có cái gì nữa cơ, cô tự nhủ.
Tàng ẩn rất tài tình … nhưng dù sao vẫn hiện diện.
Tâm tư cô còn bị một nỗi sợ hãi khác
quấy rối: cái mà chung cuộc họ tìm thấy bên trong hộp mật mã có thể không chỉ
đơn giản là "bản đồ dẫn tới Chén Thánh". Mặc dầu Teabing và Langdon
tin rằng sự thật nằm ngay trong viên đá cẩm thạch hình trụ, nhưng Sophie đã
chơi trò săn tìm báu vật của ông mình quá đủ để hiểu rằng Jacques Saunière
không bao giờ dễ dàng từ bỏ bí mật của mình.
Chú thích:
(1) Nhịp iambic: tiết tấu hai âm tiết theo kết cấu một âm dài đi theo một
âm ngắn hoặc một mạnh đi theo một yếu.
(2) Ngôn ngữ tinh khiết.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 47
Nhân viên kiểm soát không lưu ca đêm
của sân bay Bourget đang gà gật trước màn hình radar trống trơn thì viên đại úy
Cảnh sát tư pháp đập cửa phòng.
"Chiếc phản lực của Teabing",
Bezu Face quát om sòm, xăm xăm bước vào đài quan sát nhỏ, "nó đi
đâu?".
Phản ứng ban đầu của người kiểm soát
viên là một cố gắng yếu ớt, ấp a ấp úng nhằm bảo vệ sự riêng tư của vị khách
hàng người Anh - một trong những khách hàng đắt giá nhất của sân bay. Cố gắng
này đã thất bại thảm hại.
"Được thôi", Fache nói.
"Tôi sẽ bắt giữ anh vì đã cho phép một chiếc máy bay tư cất cánh mà không
đăng ký lịch trình bay". Fache ra hiệu cho một sĩ quan khác, người này
tiến lại với chiếc còng tay và kiểm soát viên không lưu cảm thấy trào lên một
nỗi sợ hãi. Anh ta nghĩ đến một bài báo bàn về chủ đề: đại úy cảnh sát quốc gia
là một người anh hùng hay một mối đe doạ? Câu hỏi đó vừa được giải đáp.
"Khoan!". Người kiểm soát
viên nghe thấy giọng mình thảng thốt khi nhìn thấy chiếc còng. "Tôi có thể
nói với ông điều này.
Ông Leigh Teabing thường bay tới London
để trị bệnh. Ông ta có một nhà chứa máy bay ở sân bay Biggin Hill
Executive ở Kent. Nó ở ngoại ô London".
Fache vẫy tay ta
hiệu cho người cầm chiếc còng lui ra: "Biggin Hill là đích đến của ông ta
đêm nay?".
"Tôi không
biết", người kiểm soát viên thật thà nói, "máy bay đã xuất phát theo
hướng mọi khi, và liên lạc radar lần cuối cùng cũng chỉ tới Vương quốc Anh.
Biggin Hill là một phỏng đoán cực kỳ hợp lí".
"Có những
người khác cùng lên máy bay không?".
"Tôi thề là
tôi không có cách nào để biết điều đó. Những khách hàng của chúng tôi có thể đi
thẳng tới nhà chứa máy bay của họ và chất hàng tùy ý họ. Ai cùng lên máy bay là
trách nhiệm của nhân viên hải quan ở phòng lễ tân sân bay".
Fache xem đồng hồ
và nhìn ra những máy bay đậu rải rác trước nhà ga: "Nếu đi tới Biggin Hill
thì bao lâu sẽ hạ cánh?".
Nhân viên kiểm soát
lật lật sổ ghi: "Đó là một chuyến bay ngắn. Máy bay của ông ta có thể hạ
cánh vào… khoảng sáu giờ ba mươi. Mười lăm phút nữa tính từ bây giờ".
Fache cau mày và
quay về phía một trong những cộng sự của mình: "Hãy sắp xếp chuyến bay cho
tôi. Tôi sẽ bay tới London. Và liên lạc với cảnh sát địa phương ở Kent cho tôi.
Đửng liên lạc với MI5 của Anh. Tôi muốn chuyện này kín đáo. Cảnh sát địa phương
Kent thôi. Nói với họ là tôi muốn chuyến bay của Teabing được phép hạ cánh. Sau
đó tôi muốn nó bị bao vây trên đường băng. Không ai được rời khỏi máy bay cho
đến khi tôi tới".
"Cô lặng lẽ
quá!". Langdon nói, nhìn Sophie ngồi đối diện với mình trong cabin của
chiếc Hawker.
"Tôi chỉ mệt
thôi", cô trả lời. "Vì bài thơ nữa. Tôi không biết".
Langdon cũng cảm
thấy giống như vậy. Tiếng động cơ ro ro và nhịp đu đưa nhè nhẹ như ru ngủ, và
đầu ông vẫn giần giật ở chỗ bị gã thầy tu đánh. Teabing vẫn còn ở đằng sau máy
bay, Langdon quyết định tận dụng cơ hội có một mình với Sophie để nói với cô về
một điều đã và đang làm ông suy nghĩ: "Tôi nghĩ mình biết một phần lý do
khiến ông cô sắp đặt cho chúng ta đến với nhau nhau. Tôi nghĩ có điều gì đó ông
muốn tôi giải thích cho cô".
"Lịch sử về
Chén Thánh và Mary Magdalene vẫn chưa đủ sao?".
Langdon cảm thấy
phân vân không biết tiếp tục thế nào: "Sự rạn nứt giữa hai ông cháu. Đó là
lý do khiến cô đã không nói chuyện với ông trong suốt mười năm qua. Tôi nghĩ có
lẽ ông hy vọng tôi có thể giải được mối bất hòa ấy bằng cách nói cho cô biết
điều gì đã chia rẽ hai ông cháu".
Sophie vặn vẹo
người trên ghế: "Tôi chưa kể với anh chuyện gì đã làm chúng tôi xa
nhau".
Langdon nhìn cô
chăm chú: "Cô đã chứng kiến một lễ thức giới tính, phải không?".
Sophie co người
lại: "Làm sao anh biết điều đó?".
Sophie, cô đã từng
nói với tôi rằng cô đã chứng kiến sự việc gì đó làm cô tin rằng ông cô ở trong
một hội kín. Và điều cô nhìn thấy đủ làm cô xáo đảo đến mức không nói chuyện
với ông cô từ đó. Tôi biết khá nhiều về các hội kín. Cũng không cần đến bộ óc
của Da Vinci để đoán ra cô nhìn thấy cái gì".
Sophie nhìn đăm
đăm.
"Nó diễn ra
vào mùa xuân". Langdon hỏi. "Thời gian vào khoảng xuân phân? Giữa
tháng ba?".
Sophie nhìn ra
ngoài cửa sổ: "Tôi có được kỳ nghỉ xuân ở trường đại học. Tôi về nhà sớm
một vài ngày".
"Cô muốn kể
cho tôi nghe chuyện đó không?".
"Tôi không
muốn". Cô đột ngột quay về phía Langdon, đôi mắt rưng rưng xúc động.
"Tôi không biết mình nhìn thấy cái gì".
"Có cả đàn ông
và phụ nữ hiện diện phải không?".
Sau một nhịp, cô
gật đầu.
"Mặc đồ trắng
và đen?".
Cô lau nước mắt rồi
gật đầu, dường như cới mở hơn một chút: "Phụ nữ mặc váy trắng mỏng… với
giày vàng. Họ cầm những quả cầu vàng. Đàn ông mặc áo dài thắt ngang lưng màu
đen, đi giày đen".
Langdon ráng che
giấu sự xúc động của mình, tuy nhiên ông không tin nổi điều mình đang nghe
thấy. Sophie Neveu đã vô tình chứng kiến một nghi lễ thiêng liêng có lịch sử
2000 năm.
"Đeo mặt
nạ?", ông hỏi, cố gắng giữ giọng bình tĩnh. "Mặt nạ không phân biệt
giới tính?".
"Phải, tất cả
mọi người. Những chiếc mặt nạ y hệt nhau. Trắng cho phụ nữ. Đen cho đàn
ông".
Langdon đã từng đọc
bản mô tả nghi lễ này và hiểu gốc rễ huyền bí của nó. "Nó được gọi là
Hieros Gamos", ông nói nhẹ nhàng. "Nó có từ cách đây hơn 2000 năm.
Các tu sĩ Ai Cập, nam và nữ, thường xuyên tiến hành nghi lễ này để tôn vinh sức
mạnh sinh sản của nữ giới". Langdon ngừng lời, ngả người về phía cô:
"Và nếu cô chứng kiến lễ Hieros Clamos mà không được chuẩn bị đầy đủ để có
thể hiểu hết ý nghĩa của nó, tôi có thể tưởng tượng được là nó đã gây sốc cho
cô như thế nào".
Sophie không nói
gì.
"Hieros Gamos
là tiếng Hy Lạp", ông tiếp tục, "nó có nghĩa là hôn nhân thần
thánh".
"Nghi lễ tôi
nhìn thấy không phải là hôn nhân".
"Hôn nhân theo
nghĩa hợp nhất, Sophie".
"Anh muốn nói
theo nghĩa tình dục?".
"Không".
"Không
ư?", Cô hỏi, đôi mắt màu ô-liu nhìn ông dò xét.
Langdon sửa lại:
"Ô… phải, cũng là một cách nói, nhưng không như chúng ta hiểu nó ngày
nay". Ông giải thích rằng mặc dầu cái cô nhìn thấy có vẻ giống như một
nghi thức tình dục nhưng Hieros Gamos không có gì liên quan gì đến tính khiêu
dâm. Nó là một hành động tâm linh. Về mặt lịch sử mà nói, giao hợp là hành vi
mà qua đó nam và nữ nghiệm sinh Thượng đế. Người xưa tin rằng đàn ông còn bất
túc về tâm linh cho đến khi anh ta có được hiểu biết nhục dục về nữ tính thiêng
liêng. Sự hợp nhất về thể xác với nữ giới là cách duy nhất qua đó người nam có
thể hoàn thiện về mặt tâm linh và cuối cùng đạt được ngộ đạo - hiểu biết tính
thần thánh. Từ thời đại của Iris, những lễ thức tình dục đã được xem như là cầu
nối duy nhất của con người từ mặt đất đến thiên giới. "Bằng cách hòa đồng
với phụ nữ", Langdon nói, "đàn ông có thể đạt tới giây phút đỉnh điểm
khi trí óc anh ta hoàn toàn trống trơn và khi đó anh ta có thể nhìn thấy Chúa
Trời".
Sophie có vẻ hoài
nghi: "Sự cực khoái như lời cầu nguyện?".
Langdon nhún vai
không khắng định, mặc dầu Sophie cơ bản là đúng: Nói theo sinh lý học, kèm theo
cao điểm của nam giới là một phần giây sạch trơn mọi ý nghĩ. Một thoáng trống
rỗng tinh thần. Một thời điểm tường minh trong đó người ta có thể thoáng thấy
Chúa Trời. Các bậc guru nhập thiền đã đạt đến trạng thái không ý nghĩ tương tự
mà không cần đến tình dục và thường miêu tả Nirvana - Niết Bàn như một sự cực
khoái tâm linh bất tận.
"Sophie",
Langdon điềm đạm nói, "cần phải nhớ rằng quan điểm của người xưa về tình
dục hoàn toàn đối lập với chúng ta ngày nay. Tình dục sinh ra sự sống mới - cái
phép màu tối hậu - và phép màu này chỉ có thể được thực hiện bởi một vị thần.
Khả năng của người
phụ nữ có thể sản sinh ra sự sống từ tử cung của mình khiến nàng trở nên thiêng
liêng. Một vị thần.
Giao hợp là sự hợp
nhất tôn kính của hai nửa tinh thần nhân loại - nam và nữ - mà qua đó người nam
có thể tìm thấy sự trọn vẹn về mặt tâm linh thần và hòa đồng với Thượng Đế. Cái
mà cô nhìn thấy không thuộc về tình dục, nó thuộc về tâm linh. Nghi lễ Hieros
Gamos không phải là một sự đồi trụy. Nó là một nghi lễ thiêng liêng sâu
xa".
Những lời của ông
dường như đã đánh trúng một huyệt thần kinh. Sophie đã tỏ ra rất tự chủ suốt cả
buổi tối, nhưng giờ đây, lần đầu tiên, Langdon thấy vẻ điềm tĩnh ấy bắt đầu rạn
nứt.
Nước mắt lại ứa ra
và cô lấy ống tay áo chấm.
Ông để cô yên một
lát. Phải thú nhận rằng khái niệm tình dục như là con đường dẫn tới Thượng Đế,
thoạt đầu thật đáng kinh ngạc. Các sinh viên người Do Thái của Langdon thường
sững sờ khi lần đầu nghe ông giảng rằng truyền thống Do Thái xưa bao gồm cả
tình dục trong nghi lễ. Trong thánh đường, không hơn không kém. Người Do Thái
cổ xưa tin rằng nội điện của đền thờ Solomon không chỉ là chỗ ở của Chúa mà còn
là chỗ ở của người phụ nữ hùng mạnh bằng vai phải lứa với Người, Srekinah.
Những người đàn ông tìm kiếm sự trọn vẹn về tâm linh đến Đền Thờ thăm những nữ
tu - hay hierodule (1) - để làm tình với họ và nghiệm sinh tính thần thánh qua
sự hợp nhất thể xác. Từ Do Thái bốn chữ cái YHWH - tên thiêng của Chúa Trời -
thực ra là phát sinh từ Jehovah, một hợp nhất vật thể lưỡng tính giữa cái tên
Jah điển hình nam tính và cái tên thuộc ngôn ngữ tiền Hebrơ cho Eva (2), Havah.
"Đối với Giáo
hội thời xưa", Langdon giải thích với giọng nhẹ nhàng, "Việc con
người dùng tình dục để giao cảm trực tiếp với Chúa Trời gây ra một đe dọa
nghiêm trọng đối với nền tảng quyền lực của Thiên Chúa Giáo. Nó đặt Giáo hội ra
ngoài cuộc, phá hoại cái địa vị tự xưng là con đường duy nhất dẫn tới Chúa.
Vì những lý do hiển
nhiên này, họ đã ra sức bỉ báng tình dục là ma quỷ và xuyên tạc nó như một hành
động ghê tởm và tội lỗi. Những tôn giáo lớn khác cũng làm như vậy".
Sophie im lặng,
nhưng Langdon cảm thấy cô đang bắt đầu hiểu ông mình hơn. Mỉa mai thay, Langdon
đã đề cập đến chính điểm này trong một bài giảng vào đầu học kỳ này. "Có
đáng ngạc nhiên không khi chúng ta cảm thấy xung đột về tình dục?". Ông
hỏi các sinh viên: "Di sản cổ xưa và chính ngành sinh lý học của chúng ta
đều nói rằng tình dục là tự nhiên - một con đường thú vị dẫn tới sự viên mãn về
tinh thần - và tôn giáo hiện đại lại coi nó như một cái gì đó đáng xấu hổ, răn
dạy chúng ta sợ những khao khát tình dục của mình như sợ bàn tay của ma
quỷ".
Langdon quyết định
không gây sốc cho sinh viên với cái thực tế là hơn một tá hội kín - phần nhiều
rất có thể lực - trên khắp thế giới hiện vẫn thực hành các nghi lễ tình dục và
giữ cho truyền thống cổ xưa này sống mãi. Nhân vật của Tom Cruise trong bộ phim
Eyes Wide Shut đã khám phá ra điều này một cách khó khăn khi anh ta lẻn vào một
cuộc họp kín của giới tinh hoa siêu hạng ở Manhattan chỉ để thấy mình chứng
kiến nghi lễ Hieros Gamos. Buồn thay, các nhà làm phim đã hiểu sai hầu hết
những đặc thù, nhưng lõi cốt cơ bản thì vẫn ở đó - một hội kín giao hòa để tôn
vinh ma lực của hợp nhất tình dục.
"Thưa giáo sư
Langdon?". Một sinh viên nam ở cuối phòng giơ tay, giọng đầy hi vọng:
"Phải chăng thầy nói thay vì đi tới nhà nguyện, chúng ta nên có nhiều hoạt
động tình dục hơn?".
Langdon tủm tỉm
cười, không mắc mồi. Qua những gì ông nghe thấy về các cuộc liên hoan ở
Harvard, thì đám trẻ này đã có quá nhiều tình dục rồi. "Thưa quý
ông", ông nói, biết rằng mình đang ở trong vấn đề nhạy cảm, "liệu tôi
có thể đưa ra một gợi ý cho tất cả chăng. Không quá táo bạo để dung thứ tình
dục trước hôn nhân và cũng không quá ngờ nghệch để nghĩ rằng tất cả các bạn đều
là những thiên thần trong trắng, tôi xin hiến các bạn lời khuyên nhỏ này về đời
sống tình dục".
Tất cả các nam sinh
viên đều vươn người ra phía trước, chăm chú lắng nghe.
"Lần sau, khi
các bạn thấy mình ở bên một phụ nữ, hãy nhìn vào trái tim mình, thử xem liệu
các bạn có thể không tiếp cận tình dục như một hành động tâm linh huyền bí hay
không. Hãy thách thức bản thân để tìm ra cái tia sáng của thiên giới mà người
đàn ông chỉ có thể đạt được qua việc hợp nhất với tính nữ thiêng liêng".
Các nữ sinh viên
cười tỏ vẻ hiểu biết, gật gù.
Còn các nam sinh
viên trao đổi với nhau những câu thì thầm đáng ngờ trong tiếng cười khúc khích.
Langdon thở dài. Dù
sao sinh viên đại học thì vẫn còn là những cậu bé.
Sophie cảm thấy
lạnh khi cô áp trán vào cửa sổ máy bay và đờ đẫn nhìn vào khoảng không, cố gắng
suy ngẫm những gì Langdon vừa nói với cô. Cô cảm thấy một nỗi hối tiếc mới trào
lên trong lòng. Mười năm. Cô hình dung lại hàng chồng thư không mở ra mà ông cô
đã gửi cho cô. Mình sẽ kể cho Robert tất cả. Không quay lại khỏi cửa sổ, Sophie
bắt đầu nói. Điềm tĩnh. Ghê rợn.
Khi cô bắt đầu
thuật lại chuyện đã xảy ra đêm hôm đó, cô cảm thấy mình trôi ngược về quá khứ…
xuống xe ở cánh rừng bên ngoài tòa lâu đài vùng Normandie của ông cô… bối rối
sục tìm khắp ngôi nhà vắng teo… nghe thấy những tiếng nói phía dưới cô… và sau
đó tìm thấy cánh cửa bí mật. Cô lần xuống chiếc cầu thang đá, từng bước một,
vào trong cái hang ở tầng hầm. Cô thấy không khí có mùi vị đất. Mát và dịu nhẹ.
Đó là vào tháng ba. Trong bóng tối nơi cô náu mình trên cầu thang, cô dõi theo
những người lạ lắc lư, cầu kinh trong ánh nến màu da cam bập bùng.
Mình đang mơ,
Sophie tự nhủ. Đây là một giấc mơ. Có thể là cái gì khác được nhỉ?
Nữ và nam đứng xen
kẽ, đen, trắng, đen, trắng. Những tà áo dài nữ đẹp và mỏng dính rập rờn khi họ
giơ cao trong tay phải quả cầu vàng và kêu lên đồng thanh. "Ta đến cùng
con trong sự khởi đầu, trong ánh bình minh của tât cả những gì thiêng liêng, ta
sinh ra con từ tử cung trước khi một ngày mới bắt đầu".
Đám phụ nữ hạ thấp quả
cầu của họ, và tất cả mọi người lắc lư từ đằng sau ra đằng trước như thể nhập
đồng. Họ đang cúng bái một cái gì đó ở tâm vòng tròn.
Họ nhìn cái gì vậy?
Tiếng cầu kinh lúc
này dồn dập lên. To hơn. Nhanh hơn.
"Người nữ
ngươi nhìn ngắm chính là tình yêu?" Đám phụ nữ xướng lên, lại giơ cao quả
cầu.
Đám đàn ông đáp
lại: "Nàng trú ngụ trong vĩnh cửu".
Tiếng cầu lại trở
nên đều đặn liên tục. Nhanh. Như sấm rền. Nhanh hơn. Những người tham dự bước
vào trong và quỳ xuống.
Trong khoảnh khắc
đó, cuối cùng Sophie cũng thấy họ đang nhìn cái gì.
Trên một bàn thờ
thấp trang hoàng lộng lẫy ở giữa vòng tròn, một người đàn ông đang nằm. Ông ta
hoàn toàn khoả thân, được đặt nằm ngửa và đeo mặt nạ đen. Sophie lập tức nhận
ra thân thể và vết bớt trên vai ông. Cô suýt òa khóc.
Grand-pere!(3) chỉ
riêng hình ảnh đó đã đủ làm Sophie bàng hoàng không tin được, vậy mà còn nhiều
hơn thế nữa.
Cưỡi trên người ông
cô là một phụ nữ trần truồng đeo mặt nạ trắng, mái tóc bạch kim dày xõa xuống
sau lưng. Cơ thế cô ta phốp pháp, còn xa mới đến mức hoàn hảo, và cô ta đang
uốn éo theo nhịp kinh cầu - làm tình với ông của Sophie.
Sophie muốn quay đi
và bỏ chạy, nhưng không thề. Những bức tường đá của căn phòng - hang động như
cầm cô khi bài kinh cầu ré lên tới cao độ như phát sốt. Vòng tròn những người
tham gia lúc này gần như đang hát, tiếng ồn cứ to dần lên tới mức điên cuồng.
Với một tiếng gầm rú đột ngột, toàn bộ căn phòng như bùng nổ đến cao trào.
Sophie không thở được. Cô nhận ra mình đang nức nở không ra tiếng. Cô quay lại,
loạng choạng bước lặng lẽ lên cầu thang, ra khỏi ngôi nhà, và run rẩy lái xe
quay về Paris.
Chú thích:
(1) Nữ nô lệ phục vụ trong các đền thờ cổ Hy Lạp.
(2) Theo Kinh Thánh, ngưởi đàn bà đầu tiên do Chúa Trời tạo ra cùng với
Adam.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: ông tôi.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 48
Chiếc máy bay cánh quạt thuê đang bay
ngang qua những ánh đèn sáng lấp lánh của Monaco khi Aringonosa chấm dứt cuộc
nói chuyện điện thoại với Fache lần thứ hai. Ông lại với lấy cái túi nôn nhưng
cảm thấy quá kiệt sức đến không còn buồn nôn nữa.
Thôi thì cứ để nó xong béng đi!
Tin tức cập nhật nhất của Fache dường
như khôn lường nổi, đêm nay hầu như chẳng có gì ra sao cả. Chuyện gì đang diễn
ra? Mọi thứ rối tinh rối mù lên ngoài tầm kiểm soát. Mình đã đẩy Silas vào việc
gì thế này? Mình đã đẩy bản thân vào cái gì thế này?
Đôi chân run rẩy, Anngarosa đi tới
buồng lái: "Tôi cần thay đổi nơi đến".
Người phi công ngoái nhìn qua vai và
cười: "Cha đang nói đùa phải không?".
"Không. Tôi phải với London ngay
lập tức".
"Thưa Cha, đây là chuyến bay thuê
theo hợp đồng, không phải taxi".
"Tất nhiên, tôi sẽ trả thêm. Bao
nhiêu? London chỉ quá lên phía bắc một giờ đồng hồ và hầu như không đòi hỏi đổi
hướng, cho nên… ".
"Không phải vấn đề tiền bạc, thưa
Cha, còn có những vấn đề khác nữa".
"Mười ngàn euro. Ngay bây
giờ".
Người phi công quay lại, đôi mắt mở to
vì kinh ngạc: "Bao nhiêu? Loại tu sĩ nào có thể mang theo từng ấy tiền
mặt?".
Aringarosa quay lại chỗ chiếc cặp da
đen, mở nó và rút ra một trong những tờ séc. Ông đưa nó cho người phi công.
"Cái gì đây?", Người phi công
hỏi.
"Tờ séc mười nghìn euro rút từ nhà
băng Giáo hội Thiên Chúa Giáo Vatican".
Người phi công có vẻ hoài nghi.
"Nó có giá trị như tiền mặt".
"Tiền mặt là tiền mặt", người
phi công nói, trả lại tờ séc.
Aringarosa cảm thấy yếu lả đi khi dựa
mình vào cửa buồng lái. "Đây là vấn đề sống còn. Anh phải giúp tôi. Tôi
cần tới London".
Người phi công nhìn chiếc nhẫn vàng của
vị Giám mục:
"Kim cương thật à?".
Aringonosa nhìn chiếc nhẫn: "Đây
là vật bất ly thân".
Người phi công nhún vai, quay lại và
tập trung về phía ngoài kính chắn gió.
Aringonosa cảm thấy một nỗi buồn sâu
sắc. Ông nhìn chiếc nhẫn. Dù sao đi nữa, Gám mục cũng sắp mất hết mọi thứ mà nó
đại diện cho. Sau một lúc lâu, ông tháo chiếc nhẫn khỏi ngón tay và đặt nó nhẹ
nhàng lên bảng điều khiển.
Aringonosa lách mình ra khỏi buồng lái
và quay về chỗ ngồi xuống. Mười lăm giây sau, ông cảm thấy người phi công điều
chỉnh thêm vài độ bay về hướng bắc.
Dù vậy, giây phút vinh quang của
Aringonosa vẫn cứ là tan vỡ.
Tất cả đã bắt đầu như là một sự nghiệp
thiêng liêng. Một kế hoạch được xây dựng xuất sắc. Bây giờ, thì giống như ngôi
nhà bằng quân bài, nó đang tự sụp đổ… và đoạn kết còn mù mịt chưa thấy đâu cả.
Có thể thấy Sophie vẫn còn run rẩy do
việc kể lại trải nghiệm của mình với nghi lễ Hieros Gamos. Về phần ông, Langdon
cũng ngạc nhiên về những gì nghe được. Sophie không chỉ chứng kiến toàn bộ nghi
lễ đó mà còn thấy ông mình là người chủ tế… Đại sư của Tu viện Sion. Đó là
những người thông minh sáng láng. Da Vinci, Botticelli, Isaac Newton, Victo
Hugo, Jean Coccau,…và Jacques Saunière.
"Tôi không biết mình có thể nói gì
thêm với cô", Langdon nói nhẹ nhàng.
Cặp mắt Sophie lúc này xanh thăm thẳm,
đẫm lệ "Ông tôi đã nuôi dạy tôi như con gái ruột".
Bây giờ Langdon mới nhận ra nỗi xúc
động trào dâng trong đôi mắt cô trong khi họ nói chuyện. Đó là sự hối hận. Xa
xôi mà sâu sắc. Sophie Neveu đã xa lánh ông cô và giờ đây, cô đang nhìn ông
dưới ánh sáng hoàn toàn khác.
Bên ngoài, bình minh đang lên nhanh,
quầng sáng đỏ thắm tập trung bên mạn phải máy bay. Trái đất vẫn một màu đen bên
dưới họ.
"Thức ăn đồ uống đây, các bạn thân
mến?". Teabing quay trở lại hoan hỉ, chìa ra một vài lon Coca và một hộp
bánh quy giòn.
Vừa phân phối, ông vừa xin lỗi rối rít
vì thức ăn có hạn. "Người bạn của chúng ta - gã thầy tu vẫn không nói
gì", ông nói, "Nhưng hãy cho anh ta thời gian". Ông cắn một cái
bánh quy và liếc nhìn bài thơ. "Này, bạn yêu quý, có tiến triển chút nào
không?". Ông đưa mắt nhìn Sophie. "Ông cô đang cố gắng nói với chúng
ta điều gì ở đây? Tấm bia ấy đang ở nơi quỉ quái nào? Tấm bia được các Hiệp sĩ
Templar ca ngợi ấy".
Sophie lắc đầu và vẫn yên lặng.
Trong khi Teabing lại chúi vào bài thơ,
Langdon bật nắp một lon Coca và quay mặt về phía cửa sổ suy nghĩ của ông miên
man với những hình ảnh về nghi thức bí ẩn và mật mã chưa được giải đáp. Một tấm
bia Templar ca ngợi là chìa khóa. Ông uống một hơi dài lon Coca. Một tấm
bia Templar ca ngợi. Nước Coca thật ấm.
Màn đêm dường như
tan biến nhanh chóng và khi quan sát sự thay đổi đó, Langdon thấy đại dương
lung linh trải rộng bên dưới họ. Eo biển anche. Không còn lâu nữa.
Langdon mong ánh
sáng ban ngày sẽ mang đến một sự rọi sáng mới, nhưng bên ngoài càng sáng lên
thì ông càng cảm thấy mình xa sự thật hơn. Ông nghe thấy nhịp điệu của thể thơ
năm ngũ bộ iambic và tiếng tụng ca, nghi lễ Hieros Gamos và các nghi lễ thiêng
liêng khác lẫn với tiếng ầm ì của máy bay phản lực.
Một tấm bia Temlar
ca ngợi.
Máy bay lại bay
trên đất liền khi một tia sáng loé lên trong đầu ông. Langdon đặt lon Coca
xuống: "Chắc các vị không tin đâu ông nói, hướng về phía những người khác,
"Tấm bia Templar… tôi đã đoán ra".
Teabing tròn xoe
mắt: "Anh biết tấm bia ở đâu?".
Langdon cười:
"Không phải ở đâu mà là cái gì".
Sophie rướn người
lên để nghe.
"Tôi nghĩ tấm
bia - headstone - phải hiểu theo nghĩa đen của từ stone head nghĩa là đầu
đá", Langdon giải thích, thường thức niềm phấn khích quen thuộc trước mỗi
đột phá về học thuật.
"Không phải là
cái để đánh dấu mộ".
"Một đầu
đá?", Teabing hỏi.
Sophie có vẻ cũng
bối rối.
"Leigh",
Langdon nói, quay lại, trong Toà án dị giáo, Giáo hội đã kết tội các Hiệp sĩ
Templar về đủ mọi thứ tà đạo, đúng không?".
"Chính xác. Họ
bịa đặt ra tất cả mọi tội. Tình dục đồng giới, tiểu tiện lên thánh giá, thờ
cúng quỷ ác, cả một danh sách dài". Và trong danh sách đó có cả việc thờ
cúng ngẫu tượng, đúng không? Đặc biệt hơn, Giáo hội đã kết tội các Hiệp sĩ
Templar vì đã bí mật tiến hành nghi lễ cầu nguyện trước một cái đầu đá được
đẽo… vị thần ngoại giáo…".
"Baphomet!"
Teabing buột mồm. "Trời, Robert, anh đã đoán đúng! Một tấm bia Templar ca
ngợi?".
Langdon nhanh chóng
giải thích cho Sophie rằng Baphomet là một vị thần ngoại giáo tượng trưng cho
sự phồn thực, gắn với sức mạnh sáng tạo trong sinh sản. Cái đầu của Baphomet
được thể hiện như đầu cừu đực hay đầu dê, một biểu tượng chung cho sự sinh sôi
nảy nở và sự mắn đẻ. Các Hỉệp sĩ Templar tôn vinh Baphomet bằng cách đi vòng
quanh mô hình cái đầu bằng đá của ông ta và hát kinh cầu nguyện.
"Baphomet",
Teabing cười gằn, "nghi lễ này tôn vinh điều sáng tạo kì diệu của việc hợp
nhất giới tính, nhưng Giáo hoàng Clement lại thuyết phục mọi người rằng cái đầu
của Baphomet trên thực tế là quỷ dữ. Giáo hoàng sử dụng chiếc đầu này như chứng
cớ chủ chốt trong vụ án các Hiệp sĩ Templar".
Langdon đồng tình.
Tín ngưỡng hiện đại nhằm vào một con quỷ có sừng gọi là Satan có thể truy
nguyên từ Baphomet và từ những mưu toan của Giáo hội nhằm bóp méo vị thần phồn
thực có sừng thành một biểu tượng của cái ác. Rõ ràng Giáo hội đã thành công
tuy chưa phải là hoàn toàn. Trên những bàn ăn trong ngày lễ Tạ ơn truyền thống
ở Mỹ vẫn có những thứ mang sừng, biểu tượng ngoại giáo của sự phồn thực. Chiếc
sừng dê kết hoa quả, được gọi là "sừng sung túc", là một biểu hiện
tôn kính đối với tính phồn thực của Baphomet, nó bắt nguồn từ câu chuyện Zeus
bú sữa một con dê thế rồi sừng nó gẫy ra và đầy ắp hoa quả bởi phép mầu.
Baphomet cũng xuất hiện trong các bức ảnh chụp chung khi những kẻ thích đùa giơ
hai ngón tay sau đầu bạn mình theo hình chữ V tượng trưng cho sừng, chắc chắn
rất ít người hay đùa như vậy biết rằng những cử chỉ chế nhạo của họ trên thực
tế là quảng cáo cho sự dồi dào tinh trùng của nạn nhân.
"Phải,
phải", Teabing nói với vẻ thích thú, bài thơ ắt phải nhằm ám chỉ Baphomet.
Một cái đầu bằng đá được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi!".
"Được",
Sophie nói, "nhưng nếu Baphomet là cái đầu đá được các Hiệp sĩ Templar ca
ngợi thì chúng ta lại rơi vào một tình thế khó xử mới", Sophie chỉ vào những
cái đĩa của hộp mật mã, "Baphomet có tám chữ cái. Hiện nay chúng ta chỉ có
chỗ cho năm chữ cái!".
Teabing cười toác
miệng: "Bạn thân mến, đấy chính là chỗ mật mã Atbash phát huy tác
dụng".
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 49
Langdon thán phục. Teabing vừa viết ra
xong toàn bộ 22 chữ cái của bảng chữ cái Hebrew - alef-bet - theo trí nhớ. Đành
rằng ông đã dùng kí tự La Mã tương đương thay vì chính chữ cái Hebrew, tuy
nhiên, giờ đây ông đọc qua chúng với cách phát âm không chút sai sót.
A B G D H V Z Ch T
Y K L M N S O P Tz Q R Sh Th "Alef, Belt, Gimel, Dalet, Hei, Vav, Zayin,
Chet, let, Yud, Kaf, Lamed, Mem, Nun, Samcch, Ayin, Pel, Tradik, Kuf, Reishs
Shin va Tav".
Teabing lau trán và
tiếp tục: "Trong chính tả Hebrew chính thức, nguyên âm không được viết ra.
Do đó, khi chúng ta dùng chữ cái Hebrew để viết từ Bahome, nó sẽ mất đi ba
nguyên âm và chúng ta còn lại…".
"Năm chữ cái", Sophie bật ra.
Teabing gật đầu và bắt đầu viết lại:
"Được, đây là Baphomet viết đúng chính tả bằng chữ cái Hebrew. Tôi sẽ phác
luôn cả những nguyên âm khuyết diện để cho rõ ràng hơn".
B a P V o M e Th.
"Tất nhiên, hãy nhớ", ông bổ
sung thêm, "rằng tiếng Hebrew thường được viết theo chiều hướng ngược,
nhưng chúng ta có thể dễ dàng sứ dụng mật mã Atbash theo cách này. Bước tiếp
theo, tất cả những gì chúng ta phải làm là tạo ra cách sắp xếp thay thế bằng
cách viết lại toàn bộ bảng chữ cái theo trật tự đảo ngược với bảng chữ cái ban
đầu".
"Có một cách dễ hơn", Sophie
nói, lấy bút từ tay Teabing, nó hiệu nghiệm đối với mọi mật mã thay thế phản
chiếu, kể cả mật mã Atbash. Một mẹo nhỏ tôi học được ở Royal Holloway".
Sophie viết nửa bảng chữ cái đầu từ trái qua phải, sau đó bên dưới, viết phần
còn lại của bảng chữ cái từ phải qua trái. "Người giải mật mã gọi nó là
fold-over. Giảm nửa phần phức tạp. Nhưng lại rõ ràng gấp đôi".
A
B
G
D
H
V
Z
Ch
T
Y
K
Th
Sh
R
Q
Tz
P
O
S
N
M
L
Teabing nhìn bảng
kẻ bằng tay của cô và cười khúc khích:
"Cô đã đúng.
Rất vui được thấy là các chàng trai ở Holloway làm tốt công việc của họ".
Nhìn vào ma trận
thay thế của Sophie, Langdon cảm thấy một nỗi rộn ràng mỗi lúc một tăng mà ông
nghĩ có thể sánh với nỗi rộn ràng của các nhà học giả khi lần đầu tiên họ đùng
mật mã Atbash để giải mã Bí mật Sheshach, một bí mật giờ đây đã trở nên nổi
tiếng. Suốt nhiều năm, các học giả về tôn giáo đã bối rối khó hiểu những chỗ
trong Kinh Thánh quy chiếu đến một thành phố mang tên Sheshach. Thành phố này
không xuất hiện trên bất cứ bản đồ nào hay bất cứ tài liệu nào nhưng lại được
đề cập đến trong Sách của Jememiah - vị vua của Sheshach, thành phố Sheshach,
nhân dân Shesbach. Cuối cùng, một học giả đã áp dụng mật mã Atbash vào từ này,
và kết quả công việc của ông làm mọi người ngớ ra. Mật mã tiết lộ rằng Sheshach
trên thực tế là một từ mã hóa cho một thành phố rất nổi tiếng khác. Quá trình
rất đơn giản.
Sheshach, trong
tiếng Hebrew được phát âm là: Sh - Sh - K
Sh - Sh - K khi
được thay thế trong ma trận trở thành B - B - L
B - B - L, trong
ngôn ngữ Hebrew, phát âm là Babel
Thành phố bí ẩn
Sheshach được tiết lộ là thành phố Babel, và tiếp đó một phong trào rộ lên như
điên: xem xét lại Kinh Thánh. Trong vòng nhiều tuần, nhiều từ mật mã Atbash đã
được phát hiện trong Kinh Cựu ước, phơi bày vô số ý nghĩa ẩn giấu mà các học
giả cũng không biết là có ở đó.
"Chúng ta ang
đến gần", Langdon thì thầm, không thể kiểm soát niềm phấn khích của mình.
"Vài phân nữa,
Robert ạ", Teabing nói. Ông ngước nhìn Sophie và cười. "Cô sẵn sàng
chưa?".
Cô gật đầu.
Được rồi, Baphomet
trong ngôn ngữ Hebrew không nguyên âm viết là: B - P - V - M - Th. Bây giờ
chúng ta chỉ cần đối chiếu với ma trận thay thế Atbash để dịch những bí từ này
sang mật khẩu năm chữ của chúng ta".
Tim Langdon đập
thình thịch: B - P - V - M - Th. Ánh mặt trời đang tràn qua cửa sổ. Ông nhìn vào
bảng ma trận đối chiếu của Sophie và chậm rãi thay thế. B là Sh. P là V…
Teabing cười toe
toét như một cậu học sinh trong mùa Giáng sinh: "Và mật mã Atbash hé
lộ…". Ông dừng lại một lát, "Chúa ơi!". Gương mặt ông trắng bệch
đi.
Langdon ngẩng phắt
đầu lên.
"Có chuyện gì
không ổn?" Sophie hỏi.
"Cô không tin
được đâu", Teabing đưa mắt nhìn Sophie, "đặc biệt với cô".
"Ông định nói
gì?". Cô nói.
"Điều này…
thật là tài tình", ông thì thầm: "Cực kỳ tài tình!".
Teabing viết lại
trên giấy. "Nổi trống lên! Đây là mật khẩu của quý vị,, ông giơ cho họ
thấy cái ông đã viết.
Sh - V - P - Y - A
Sophie cau mặt: "Nó là cái
gì?".
Langdon cũng không nhận ra.
Gịong Teabing như run lên vì kính sợ:
"Bạn ạ, đây thực sự là một từ thông thái cổ xưa!".
Langdon đọc lại những chữ đó. Một từ
thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Lát sau, ông hiểu ra. Ông đã không thấy
điều này tới. Một từ thông thái cổ!".
Teabing cười: "Theo nghĩa
đen!".
Sophie nhìn từ này và sau đó nhìn đĩa
chứ. Ngay lập tức, cô nhận ra là Langdon và Teabing đã không thấy một trục trặc
nghiêm trọng: "Khoan! Đây không thể là mật khẩu", cô cãi.
Hộp mật mã không có Sh trên đĩa chữ. Nó
dùng bảng chữ cái La Mã truyền thống".
"Đọc từ này lên", Langdon
giục. "Hãy nhớ hai điều. Trong ngôn ngữ Hebrew, kí tự cho âm Sh cũng có
thể được phát âm như S, phụ thuộc vào trọng âm. Cũng như chữ cái P có thể đọc
là F".
SVFYA? Cô nghĩ, bối rối.
"Thiên
tài!". Teabing chêm vào. "Chữ cái V thường thay thế cho nguyên âm
O!".
Sophie lại nhìn vào
các chữ cái, cố đọc lên thành âm chuẩn.
"S… o… f… y…
a".
Cô nghe thấy chính
tiếng mình, và không thể tin vào cái mình vừa thốt ra. "Sophia? Chữ này
phát âm như Sophia?".
Langdon gật đầu:
"Phải! Sophia nghĩa đen là thông thái trong tiếng Hy Lạp. Tên gốc của cô,
Sophie, là một "từ thông thái".
Sophie bỗng nhớ ông
mình da diết. Ông đã mã hóa viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion bằng tên của
mình. Cổ họng cô nghẹn lại. Tất cả dường như rất hoàn hảo. Nhưng khi cô quay
lại nhìn vào năm đĩa chữ trong hộp mật mã, cô nhận thấy vẫn còn điều gì đó
không ổn. "Nhưng khoan đã… Sophia có sáu chữ cái".
Nụ cười của Teabing
dường như không bao giờ tắt: "Hãy xem lại bài thơ. Ông cô đã viết
"Một từ thông thái cổ".
"Nghĩa
là?".
Teabing nháy mắt:
"Trong tiếng Hy Lạp cổ, thông thái được viết là S-O-F-I-A".
Sophie cảm thấy một
nỗi háo hức cuồng dại khi cô đặt hộp mật mã vào lòng và bắt đầu quay đĩa chữ
cái. Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Langdon và Teabing như
ngừng thở khi họ đứng nhìn.
S…O…F
"Cẩn
thận", Teabing nài nỉ, "thật cẩn thận vào!".
I…A
Sophie xoay đĩa chữ
cuối cùng vào thẳng hàng: "Được rồi!". Cô thì thầm, ngước nhìn hai
người kia. "Tôi sẽ kéo rời nó ra".
"Chú ý, nhớ
cái lọ dấm đấy", Langdon nói, phấn khởi pha lẫn sợ hãi. "Hãy cẩn
thận".
Sophie biết rằng
nếu hộp mật mã này giống những hộp cô đã từng mở trong thời niên thiếu, tất cả
những gì cô cần làm là nắm chặt hai đầu hình trụ, ngay mé ngoài chồng đĩa, và
từ từ kéo đều tay về hai phía ngược nhau. Nếu chồng đĩa thẳng hàng đúng mật
khẩu, thì một trong hai dầu sẽ trượt mở, giống như nắp một ống kính máy ảnh, và
cô có thể với vào bên trong lấy cuộn tài liệu viết trên giấy papyrus, quấn
quanh lọ dấm nhỏ. Tuy nhiên, nếu mật khẩu mà họ nhập không đúng, lực kéo ra của
Sophie đối với hai đầu hình trụ sẽ truyền tới một đòn bẩy có lắp bản lề ở bên
trong, đòn bẩy này sẽ xoay xuống lọt vào cái hốc và tạo áp lực trên chiếc lọ
thủy tinh, cuối cùng làm nó vỡ tan nếu cô kéo quá mạnh.
Kéo nhẹ nhàng, cô
tự nhủ.
Cả Teabing và
Langdon đều cúi về phía Sophie khi cô nắm hai đầu chiếc ống hình trụ trong lòng
bàn tay. trong niềm hứng khởi vì đã giải được từ mật mã, Sophie hầu như quên
mất cái mà họ mong tìm thấy bên trong. Đó là viên đá đỉnh vòm của Tu viện
Sion. Theo Teabing, nó chứa đựng một bản đồ chỉ dẫn tới Chén Thánh, tiết lộ
ngôi mộ của Mary Maygdalene và kho báu Sangreal… kho báu tối hậu của sự thật bí
mật.
Lúc này, tay nắm chặt ống trụ đá,
Sophie kiểm tra lại để đảm bảo tất cả các chữ cái đều đã thẳng hàng với con
trỏ. Sau đó, chậm rãi, cô kéo. Không có gì xảy ra. Cô kéo mạnh hơn. Đột nhiên,
hòn đá trượt ra giống như một ống kính viễn vọng tinh xảo.
Miếng ghép ở đầu tách rời ra trong tay
cô. Langdon và Teabing gần như nhảy lên. Nhịp tim của Sophie đập đồn dập khi cô
đặt cái nắp lên trên bàn và nghiêng ống trụ để nhòm vào bên trong.
Một cuộn giấy!
Nhòm vào trong cuộn giấy, Sophie thấy
nó được quấn quanh vật hình trụ - cái lọ dấm, cô đoán. Tuy nhiên, lạ thay, tờ
giấy bọc xung quanh lọ dấm không phải là thứ giấy mỏng thông thường - papyus mà
là giấy da. Thật kì lạ, cô nghĩ, dấm không thể hòa tan giấy bằng da cừu. Cô
nhìn lại vào lòng cuộn giấy và nhận ra vật ở giữa cuộn giấy không phải là lọ
dấm. Nó là một vật hoàn toàn khác.
"Có gì không ổn sao?",
Teabing hỏi. "Kéo cuộn giấy ra đi".
Cau mày, Sophie nắm lấy cuộn giấy da và
vật được gói bên trong, kéo cả hai ra khỏi ống đựng.
"Không phải
giấy papyrus", Teabing nói. "Nó quá nặng".
"Tôi biết. Nó
là thứ để đệm lót".
"Cho cái gì?
Cho lọ dấm à?".
"Không!"
Sophie mờ cuộn giấy ra, để lộ cái gì được gói bên trong. "Cho cái
này".
Khi Langdon nhìn
thấy vật bên trong cuộn giấy da, tim ông trĩu xuống.
"Chúa hãy giúp
chúng ta?". Teabing nói. "Ông cô quả là một kiến trúc sư tàn
nhẫn".
Langdon ngỡ ngàng
nhìn trăn trối. Mình thấy Saunière không có ý định làm cho điều này dễ dàng.
Một cái ống trụ thứ
hai được đặt trên bàn. Nhỏ hơn. Làm bằng mã não đen. Được đặt nằm gọn trong ống
thứ nhất. Đam mê của Saunière đối với thuyết nhị nguyên. Hai ống trụ. Mọi thứ
đều thành đôi. Nghĩa là nước đôi. Đực - cái. Đen nằm bên trong trắng.
Langdon cảm thấy
mạng biểu tượng đang triển khai.
Trắng sinh ra đen.
Tất cả đàn ông đều
sinh ra từ đàn bà.
Trắng - đàn bà.
Đen - đàn ông.
Với lấy cái hộp mật
mã nhỏ hơn, Langdon nâng nó lên. Nó trông giống hệt cái hộp thứ nhất, ngoại trừ
nó chỉ bằng một nửa về kích cỡ, có màu đen. Ông nghe thấy tiếng ùng ục quen
thuộc. Có vẻ như cái lọ dấm mà họ đã nghe trước đây nằm bên trong cái ống trụ
nhỏ này.
"Tốt,
Robert", Teabing nói, đẩy trang giấy da về phía Langdon. "Các bạn sẽ
hài lòng khi nghe thấy rằng chí ít chúng ta cũng đang bay đúng hướng".
Langdon xem xét
miếng giấy da dày. Đó là bốn câu thơ khác được viết bằng một kiểu chữ hoa mĩ.
Lại là thể thơ ngũ bộ iambic. Bài thơ thật bí hiểm, nhưng Langdon chỉ cần đọc
câu đầu tiên cũng thấy được rằng kế hoạch của Teabing bay tới Anh là đắc sách.
Ở LONDON YÊN NGHỈ
MỘT HIỆP SĨ ĐƯỢC GIÁO HOÀNG MAI TÁNG
Phần còn lại của
bài thơ hàm ý rằng mật khẩu để mở cái ống trụ thứ hai có thể được tìm thấy bằng
cách đến thăm ngôi mộ của hiệp sĩ này, ở đâu đó trong thành phố.
Langdon náo nức
quay về phía Teabing: "Ngài có biết bài thơ này nhắc đến hiệp sĩ nào
không?".
Teabing cười:
"Tuyệt đối không. Nhưng tôi biết đích xác chúng ta nên tìm ở hầm mộ
nào".
Vào lúc đó cách
mười lăm dặm, sáu chiếc xe cảnh sát ở Kent phóng rất nhanh trên những con phố
ẩm ướt mưa, hướng về phía sân bay Biggin Hill Executive.
MẬT MÃ DA VINCI
Chương 50
Trung uý Collet tự rót cho mình một ly
Perrier từ tủ lạnh của Teabing và sải bước qua phòng khách trở ra ngoài. Thay
vì theo Fache tới London là hiện trường hành động, giờ đây anh phải làm
"vú em" trông coi đội PTS đang rải ra khắp Château Villette.
Cho tới giờ, các bằng chứng họ phát
hiện được không giúp ích gì cho lắm: một viên đạn găm trên sàn nhà, một tờ giấy
với các biểu tượng được vẽ nguệch ngoạc kèm theo những từ lưỡi dao và thắt lưng
hành xác và một dây lưng có ngạnh đẫm máu mà PTS nói với Collet rằng nó gắn
liền với giáo đoàn Thiên Chúa giáo bảo thủ Opus Dei, nhóm này gần đây đã gây
chấn động khi một chương trình tin tức vạch trần việc họ tuyển mộ người rất
hung hãn ở Paris.
Collet thở dài. Chúc may mắn để hiểu ra
được cái mớ hỗn tạp này.
Đi theo hành lang sang trọng, Collet
bước vào phòng khiêu vũ rất rộng, nơi người kiểm tra chính của PTS đang bận rộn
thu thập dấu vân tay. Anh ta là một người to béo mặc quần có dây đeo.
"Có gì
không?", Collet bước vào hỏi.
Người kiểm tra lắc
đầu: "Không có gì mới. Nhiều bộ dấu tay khớp với những dấu tìm được khắp ở
phần còn lại của ngôi nhà".
"Dấu tay trên
chiếc đai hành xác thì sao?".
"Interpol vẫn đang làm việc. Tôi
đã nạp vào máy vi tính tất cả những thứ chúng ta tìm thấy".
Collet chỉ vào hai cái túi đựng bằng
chứng đã niêm phong ở trên bàn: "Còn những thứ này thì sao?".
Người kia nhún vai: "Sức mạnh của
thói quen. Tôi bỏ vào túi tất cả những gì có vẻ đặc biệt".
Collet bước lại. Đặc biệt
"Thật là một người Anh kỳ
lạ", người kiểm tra nói. "Hãy nhìn cái này mà xem". Anh ta lục
trong các túi đựng vật chứng và chọn ra một thứ, đưa cho Collet.
Bức ảnh thể hiện cổng chính của một
thánh đường theo kiến trúc Gothic - một cổng tò vò truyền thống với những chỗ
hõm, hẹp dần lại qua nhiều lớp có gờ nối tới một khung cửa nhỏ.
Collet nghiên cứu bức ảnh và hỏi lại:
"Đây là thứ đặc biệt. Hãy lật lại".
Ở mặt sau tấm ảnh, Collet thấy những
ghi chú nguệch ngoạc bằng tiếng Anh, mô tả gian giữa trống và dài của một nhà
thờ lớn như là một sự bí mật bày tỏ lòng tôn kính đối với tử cung người đàn bà.
Điều này thật lạ lùng. Tuy nhiên, lời ghi chú mô tả cửa vào của một thánh
đường, mới là cái làm anh giật mình.
"Này! Ông ta nghĩ cửa vào thánh
đường biểu hiện cái… của đàn bà".
Người nhân viên kiểm tra gật đầu:
"Đầy đủ cả mép âm hộ lẹm vào và một cái âm vật nhỏ xinh bên trên khung
cửa". Anh thở dài: "Kiểu như khêu gợi ta muốn quay trở về nhà
thờ".
Collet cầm chiếc túi đựng vật chứng thứ
hai lên. Qua lớp nhựa, anh có thể nhìn thấy một tấm ảnh lớn có vẻ như là tài
liệu cổ. Trên đầu bức ảnh ghi:
Les Dossiers Secrets - Number 4° lm 249
(1)
Cái gì đây?". Collet hỏi.
"Tôi không biết. Ông ta có những
bản sao như vậy ở khắp nhà nên tôi cho nó vào trong túi".
Collet nghiên cứu tài liệu này.
RIEURE DE SIOIU - LES NAUTONIERS/ GRAND
MASTERS (2)
JEAN DE GISORS 1188-1220
MARLE DE SAINT-CLAIR 1220-1266
GUILLAUME DE GISORS 1266-1307
EDOUARD DE BAR 1307-1336
JEAN DE BAR 1336-1351
JEAN DE SAINT-CLAIR 1351-1366
BLANCE D EVREUX 1366-1398
NICOLAS FLAMEL 1398-1418
RENE D ANJOU 1418-1480
IOLANDE DE BAR 1480-1483
SANDRO BOTTICELLI 1483-1510
LEONARDO DA VINCI 1510-1519
CONNETABLE DE BOURBON 1519-1527
FERDINAND DE GONZAQUE 1527-1575
LOUIS DE NEVERS 1575-1595
ROBERT FLUID
1595-1637
J. VALENTIN ANDREA
1637-1654
ROBERT BOYLE 1654-1691
ISAAC NEWTON 1691-1727
CHARLES RADCLYFFE 1727-1746
CHARLES DE LORRAINE 1746-1780
MAXIMILIAN DE LORRAINE 1780-1801
CHARLES NODIER 1801-1844
VICTOR HUGO 1844-1885
CLAUDE DEBUSSY 1885-1914
JEAN COCTEAU 1918-1963
Prieuré de Sion? Collet
phân vân.
"Trung
úy?". Một nhân viên thò đầu vào. "Tổng đài có một cú điện khẩn cho
đại úy Fache, nhưng họ không liên lạc được với đại uý, ông có nhận điện
không?".
Collet quay trở lại
nhà bếp và nhận cuộc gọi.
Đó là André Vernet.
Âm sắc tao nhã của
ông chủ nhà băng không đủ để che đậy sự căng thẳng trong giọng nói của ông:
"Tôi nghĩ Đại úy Fache nói là sẽ gọi điện cho tôi, nhưng tôi vẫn chưa nhận
được tin tức gì từ ông ta".
"Đại úy đang
bận", Collet trả lời. "Tôi có thể gỉúp gì cho ngài?".
Người ta cam đoan
với tôi rằng tôi sẽ được cập nhật về diễn tiến công việc của các ông đêm
nay".
Trong khoảnh khắc,
Collet nghĩ anh đã nghe thấy giọng nói của người đàn ông này ở đâu đó, nhưng
không xác định được cụ thể. "Ngài Vernet, tôi đang chịu trách nhiệm điều
tra ở Paris.
Tôi là trung úy Collet".
Có một quãng ngưng dài trên đường dây:
"Trung úy, xin lỗi, tôi có một cuộc điện thoại khác đang chờ. Tôi sẽ gọi cho
ông sau". Ông ta gác máy.
Trong vài giây,
Collet vẫn giữ ống nghe. Sau đó mọi thứ trở nên rõ ràng trong đầu anh.
"Mình biết mình đã nhận ra giọng nói này! Phát hiện này làm anh há hốc
miệng vì kinh ngạc.
Người lái chiếc xe
bọc thép Với chiếc Rolex giả.
Bây giờ thì Collet
mới hiểu tại sao ông chủ nhà băng lại vội vã cúp máy như vậy. Vernet đã nhớ ra
cái tên trung úy Collet - người sĩ quan mà ông ta đã nói dối trắng trợn hồi đầu
tối nay.
Collet ngẫm nghĩ về
mối liên quan của diễn biến kì lạ này.
Vernet có dính líu.
Theo bản năng, anh biết mình nên gọi cho Fache. Theo cảm tính, anh biết sự khám
phá may mắn này sẽ là thời điểm để anh toả sáng.
Ngay lập tức anh
gọi cho Interpol và yêu cầu tất cả những thông tin mà họ có thể tìm thấy về Nhà
băng Ký thác Zurich và chủ tịch của nó, André Vernet.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp
trong nguyên bản: Những hồ sơ bí mật - Số 40 lm 249.
(2) Tiếng Pháp
trong nguyên bản: Tu viện Sion - Những người cầm lái, các Đại Sư
"Thắt dây an
toàn", phi công của Teabing thông báo khi chiếc Hawker 731 hạ độ cao đi
vào một đám mưa bụi ảm đạm buổi sáng. "Chúng ta sẽ hạ cánh sau năm phút
nữa".
Teabing cảm thấy
niềm vui của người trở về cố hương khi ông nhìn thấy những ngọn đồi mù sương
của Kent trải rộng dưới chiếc máy bay đang thấp dần. Từ Anh đến Paris chưa đầy
một giờ bay, vậy mà như cách nhau cả một thế giới. Sáng nay, màu xanh đẫm mưa
sương của mùa xuân quê hương như đặc biệt chào đón ông. Thời gian của ta ở Pháp
đã hết. Ta đang trở về nước Anh trong tư thế chiến thắng. Viên đá đỉnh vòm đã
được tìm ra. Tất nhiên, vẫn còn câu hỏi là viên đá đỉnh vòm đó cuối cùng sẽ dẫn
đến đâu. Một nơi nào đó trên Vương quốc Anh. Chính xác là đâu, Teabing chưa
biết nhưng ông đang nếm hương vị chiến thắng rồi.
Trong khi Langdon
và Sophie nhìn theo, Teabing đứng dậy, đi sang mé bên kia cabin, rồi kéo một
tấm ván tường sang bên để lộ một chiếc két được giấu kín sau tường. Ông quay số
và mở két an toàn, lấy ra hai tấm hộ chiếu. "Giấy tờ cho Rémy và cho
tôi". Sau đó, ông rút ra một tập dầy toàn tiền năm mươi bảng. "Và
giấy tờ cho hai bạn".
Sophie có vẻ cảnh
giác: "Một khoản hối lộ?".
"Ngoại giao
sáng tạo mà. Các sân bay hành chính thường có chút chiếu cố. Một nhân viên hải
quan Anh sẽ đón chúng ta tại nhà chứa máy bay của tôi cũng được lên máy bay
kiểm tra.
Thay vì cho phép
anh ta lên, tôi sẽ bảo anh ta là tôi đi cùng một nữ danh nhân Pháp, cô ấy không
muốn ai biết mình có mặt ở Anh - báo chí hay làm rùm beng, bạn biết đấy - và
tôi sẽ tặng nhân viên đó món tiền boa hậu hĩnh này để cảm ơn về sự kín đáo của
anh ta".
Langdon có vẻ ngạc
nhiên: "Và người nhân viên hải quan sẽ nhận?".
"Không phải
với bất kỳ ai, bình thường thì họ sẽ không nhận, nhưng tất cả những người này
đều biết tôi. Tôi không phải là một người buôn vũ khí, lạy Chúa! Tôi được phong
hiệp sĩ cơ mà". Teabing mỉm cười. "Tư cách thành viên Hoàng gia có
đặc quyền của nó".
Lúc này, Rémy theo
lối đi giữa các hàng ghế tiến lại gần, khẩu Heckler & Koch trong tay:
"Thưa ngài, nhiệm vụ của tôi là gì?".
Teabing liếc nhìn
người thân bộc: "Tôi cần anh ở lại trên máy bay với vị khách của chúng ta
cho đến khi chúng tôi quay lại. Chúng tôi không thể kéo lê hắn đi theo khắp
London được".
Sophie có vẻ cảnh
giác: "Leigh. Tôi thực sự lo rằng cảnh sát Pháp sẽ tìm thấy chiếc máy bay
của ngài trước khi chúng ta trở lại".
Teabing cười:
"Phải, hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của họ nếu họ lên máy bay và thấy
Rémy".
Sophie có vẻ ngạc
nhiên về thái độ xàm xỡ của ông: "Leigh, ngài đã vận chuyển một con tin bị
trói qua biên giới quốc tế.
Điều này là nghiêm
trọng đấy".
"Các luật sư
của tôi cũng nghiêm túc" ông đưa mắt nhìn về hướng gã thầy tu ở sau máy
bay. "Đồ súc vật này đột nhập vào nhà tôi và suýt giết tôi. Đó là sự thật
và Rémy sẽ làm chứng".
"Nhưng ông đã
trói anh ta và chở anh ta bằng máy bay tới London?", Langdon nói.
Teabing giơ bàn tay
phải lên và phác một cử chỉ như khi thề ở toà án: "Thưa quý tòa, xin hãy
tha thứ cho một hiệp sĩ già lập dị về định kiến ngu ngốc của ông ta đối với hệ
thống toà án của Anh. Tôi nhận ra là tôi nên gọi đến các nhà chức trách Pháp,
nhưng tôi là một kẻ hợm mình và không tin những người Pháp laise-farei(1) đó.
Có thể xử một cách đúng đắn. Người đàn ông này đã suýt giết tôi. Và tôi đã có
một quyết định liều lĩnh là bắt người hầu của tôi phải giúp tôi đưa hắn ta về
Anh, nhưng tại lúc đó tôi đang chịu áp lực quá lớn. Mea culpa. Mea
culpai"(2).
Langdon có vẻ hoài
nghi: "Leigh, từ miệng ngài nói ra, điều ấy có thể cho qua".
"Thưa
ngài?" Viên phi công gọi. "Đài không lưu vừa mới gọi. Họ có vấn đề gì
đó về việc duy tu bảo dưỡng ở gần nhà chứa máy bay của chúng ta và yêu cầu tôi
đưa máy bay thẳng tới chỗ ga hành khách của sân bay thay vì đến thẳng nhà chứa
máy bay".
Teabing thường
xuyên đã bay tới Biggin Hill trong hơn một thập kỷ nay và đây là lần đầu tiên
có chuyện như thế này. "Họ có nói vấn đề đó là gì không?".
"Người kiểm
soát không lưu rất mơ hồ. Điều gì đó về việc khí ga rò rỉ ở trạm bơm xăng thì
phải? Họ yêu cầu tôi đỗ phía trước ga hành khách và giữ mọi nguời ở trên máy
bay cho đến khi có lệnh khác. Đề phòng về an toàn đấy ạ. Chúng ta không đuợc ra
khỏi máy bay cho đến khi chúng ta được những người có thẩm quyền ở sân bay cho
phép".
Teabing nghi ngờ.
Chắc phải là một vụ rò rỉ khí ga kinh thiên động địa. Trạm bơm xăng cách nhà
chứa máy bay của ông những nửa dặm cơ mà.
Rémy cũng có vẻ lo
lắng: "Thưa ngài, chuyện này nghe rất trái lẽ thường".
Teabing quay sang
Sophie và Langdon: "Các bạn của tôi, tôi có mối nghi ngờ chẳng thú vị gì
là chúng ta sắp được cả một uỷ ban đón tiếp".
Langdon khẽ thở
dài: "Tôi đoán Fache vẫn nghĩ tôi là đối tượng của ông ta".
"Hoặc là như
vậy", Sophie nói, "hoặc là ông ấy dấn sâu quá mức vào vụ này để có
thể thú nhận sai lầm của mình".
Teabing không lắng
nghe. Bất kể sự cố chấp của Fache thì vẫn cần phải hành động gấp. Không được
rời mắt khỏi mục tiêu cuối cùng. Chén Thánh. Chúng ta đã ở rất gần. Bên dưới
họ, càng máy bay đã hạ xuống với một tiếng cạch.
"Leigh",
Langdon nói, giọng nghe đầy hối hận. "Tôi nên tự nộp mình và tìm cách giải
quyết việc này theo pháp luật. Để ông đứng ngoài toàn bộ chuyện này".
"Ôi trời,
Robert!" Teabing khoát tay. "Anh thực sự nghĩ là họ sẽ thả những
người còn lại trong chúng ta sao? Tôi vừa mới vận chuyển các bạn trái phép. Cô
Neveu giúp anh trốn thoát từ Louvre, và chúng ta có một gã bị trói ở đằng sau
máy bay. Quả thật, tất cả chúng ta cùng hội cùng thuyền mà".
"Có thể có một
phi cảng khác?". Sophie nói.
Teabing lắc đầu:
"Nếu bây giờ chúng ta đổi hướng thì vào lúc chúng ta được phép hạ cánh
xuống bất cứ nơi nào khác, đoàn chào mừng chúng ta sẽ bao gồm cả xe tăng quân
sự!".
Sophie ngồi phịch
xuống.
Teabing cảm thấy
rằng nếu họ có cơ may trì hoãn việc đối mặt với các nhà chức trách Anh đủ lâu
để tìm Chén Thánh thì phải hành động táo bạo hơn. "Chờ tôi một phút",
ông nói và đi khập khiễng về phía buồng lái.
"Ông đang làm
gì vậy?". Langdon hỏi.
"Họp bàn
chuyện mua bán", Teabing nói, tự hỏi không biết phải chi bao nhiêu để
thuyết phục phi công của mình thực hiện một chiêu thức hết sức bất thường.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: làm việc kiểu buông xuôi, để mặc.
(2) Tiếng Latin trong nguyên bản: Lỗi tại tôi, một câu thường trờ đi trở
lại trong những bài kinh sám hối.
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét