Cái Chết Của Ba Người Lính Ngự
Lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Thể loại: Cổ Đại, Phương Tây
Alexandre Dumas-Cha và cái chết
của Ba người lính ngự lâm
Độc giả Pháp có câu đùa. "Ba
chàng ngự lâm… mà là bốn" vì bốn nhân vật trong Ba chàng ngự lâm pháo thủ
là Aramis, Athos, Porthos và d Artagnan đều là lính ngự lâm, có điều d Artagnan
về sau mới gia nhập vào bộ ba có trước. Ở hai bộ truyện tiếp theo: Hai mươi năm
sau. Tử tước de Bragelonne. Cái chết của ba người lính ngư lâm cùng bốn nhân
vật ấy tung hoành trên nước Pháp lan qua nước Anh) của thế kỷ XVII và được độc
giả mến mộ không khác gì thời họ còn trai trẻ. A. Dulmas được các nhà phê bình
văn học lưu tâm đến các kịch bản còn người bình thường lại hoan nghênh các
tiểu thuyết lịch sử của ông, loại "làm vui cho số đông". Người ta vẫn
còn nhớ câu trả lời lý thú của ông để đối lại câu trách: A. Dumas đã đẻ ra
những đứa con hoang khoẻ mạnh hơn đứa con thực của lịch sử:
"Lịch sử là gì? Đó chỉ là
cái đinh để tôi treo các bức họa của tôi thôi".
Cho nên ta cũng lại gặp trong Hai
mươi năm sau bốn chàng lính ngự lâm được tác giả cho tiếp tục tham dự vào biến
cố ở nước Pháp dưới thời Nhiếp chính với Hoàng thái hậu Anne d Autriche, Tể
tướng Hồng y Mazarin, và thời thành lập nền cộng hòa ở Anh.
Ở Pháp, Louis XIV còn nhỏ. Tể tướng
Mazarin phải đương đầu với Nghị viện và các ông hoàng dấy động loạn là Fronde
(1648-1953) thco chiều hướng lịch sử thời đại là sự tập trung vào vương quyền
sẽ lên đến cao độ khi Louis XIV thực sự nắm chính quyền. Ở Anh, Olivier
Cromwell đánh tan quân của nhà vua Charles I và bắt ông đem xử tử. Trên tất cả
những biến cố làm nền dó, A. Dumas cho bốn chàng ngự lâm quân cũ của chúng ta
tang hoành. D Artagnan vẫn là ngự lâm quân, Porthos đã là bá tước du Vallon,
Arthos – bá tước de la Fère, Aramis làm giám mục, hai người đầu phục vụ
Mazarin, hai người sau giúp loạn quân cầm đầu bởi giáo chủ de Retz, công tước
de Beaufort, phu nhân Longlleville. Thế mà tình bạn không sứt mẻ, bốn người gặp
nhau ở nước Anh cứu Charles I không được lại có dịp thanh toán một kẻ cựu thù,
con của Milady bị giết trong "Ba người lính ngự lâm".
Ở Cái chết của ba người lính ngự
lâm ta gặp nước Pháp với Louis XIV thời thanh niên, Hồng y Mazarin, các ông
Fouquet, Cobert, ta gặp khung cảnh cllính trị nước Anh có thể gọi là thời hậu:
Cromwell, và d Artagnan, Arthos được tác giả cho đóng vai trò quyết định trong
hậu trường để Charles II trở lại ngôi vua nước Anh, Aramis chen vào chuyện nội
cung, triều đình, bắt Louis XIV bỏ vào ngục Bastille kinh khiếp.
Trong "Cái chết của ba người
lính ngự lâm" các ông vua cao vòi vọi trở thành những người tầm thường,
bất lực, kêu khóc, ông Hồng y Mazarin vẫn bủn xỉn, keo kiệt đến tức cười - hơn
cả sự thật. Ngôi giáo hoàng tôn kính đối với các tín đồ là thế mà có một anh
cựu ngự lâm quân sau khi chui vào hàng ngũ làm giám mục, liền bày ra một âm mưu
chính trị để toan tính cướp về mình.
Đọc "Cái chết của ba người
lính ngự lâm" - cũng như các tiểu thuyết lịch sử khác của A. Dumas, chúng
ta bị cuốn hút theo câu chuyện với những màn đối thoại hênh hoang một cách dễ
dung thứ, dáng tinh ranh thật ý nhị, với những tình tiết có vẻ vô lí mà không
xa sự thực từ những con người ở địa vị thấp mà tầm vóc cao, tất cả khiến chúng
ta như đang bước trên đường lịch sử có bạn đường là ông A. Dumas sức khoẻ tràn
trề, tâm tính xuề xòa vui vẻ đã làm vui hàng triệu người trên thế giới cả gần
một thế kỷ rưỡi nay.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
1: Người đưa tin
Giữa
tháng tư năm 1660, vào lúc chín giờ sáng, khi mặt trời đã đủ ấm để làm khô
những giọt sương trên các cây đinh hương và tại lâu đài thành Blois, một đoàn
kỵ sĩ gồm ba người cùng hai người hầu tiến lên cây cầu dẫn vào thành phố mà
không gây một sự chú ý nào cho những người đang dạo mát, ngoại trừ động tác đầu
tiên là giơ tay lên đầu chào và động tác thứ hai là uốn lưỡi để diễn tả bằng
giọng văn trong sáng nhất nước Pháp:
"Đó
là Đức ông đi săn về".
Có vậy
thôi.
Tuy
nhiên khi đoàn người ngựa leo lên con dốc dẫn từ bờ sông vào lâu đài thì một
vài gã bán hàng mập ú mon men tiến lại gần con ngựa đi cuối có treo lủng lẳng
nhiều loại chim trên cốt yên.
Thấy kết
quả chuyến đi săn nghèo nàn như vậy, các gã hiếu kỳ tỏ ra khinh khi, và sau khi
bàn tán hồi lâu về sự bất lợi của việc săn chim, ai nấy lại quay trở về với
công việc của mình. Chỉ còn một gã có thân hình béo tròn với cặp má phúng
phính, tính tình vui vẻ là còn thắc mắc tại sao Đức ông có nhiều lợi tức, do đó
không thiếu gì cách vui chơi lại đi chọn cái trò giải trí thảm hại này.
Có người
đã trả lời hắn:
- Ủa, bộ
mày không biết trò giải trí chính của Đức ông là sự ưu phiền sao?
Gã mập ú
nhún vai, vẻ dứt khoát.
- Nếu
vậy thì thà tớ làm Jean phì lũ còn hơn làm ông Hoàng.
Rồi mọi
người lại tiếp tục công việc. Còn Đức ông thì tiếp tục đoạn cuối cuộc hành
trình với vẻ mặt vừa buồn rười rượi vừa oai nghi. Chắc sẽ có người ngắm nhìn
ngài một cách thán phục, - nếu có khán giả. Nhưng các trưởng giả thành Blois đã
không tha thứ cho Đức ông cái tội đã chọn thành phố tươi vui của họ để mặc sức
ưu phiền. Cho nên, mỗi khi phải trông thấy con người vừa oai nghiêm vừa u sầu đó,
họ quay mặt đi chỗ khác hoặc thụt đầu vào trong để tránh bị ảnh hưởng bởi vẻ
buồn ngủ của khuôn mặt dài tái xanh, của đôi mắt lúc nào cũng đẫm ướt và của cả
cái dáng dấp uể oải chán chường. Thành thử, ông hoàng đáng kính của chúng ta
mỗi khi phi ngựa tới đâu đều cũng chỉ thấy toàn đường phố vắng ngắt.
Như vậy
là dân thành Blois quả có tội bởi vì, sau Đức vua, và có khi trên cả vua nữa là
đằng khác, Đức ông là một nhà quý tộc lớn nhất trong triều.
Thật
vậy, nếu Thượng đế đã cho Louis XIV - đang trị vì - cái diễm phúc được là con
của Louis XIII thì ngài cũng ban cho Đức ông cái vinh hạnh được nhận Henri IV
là cha.
Thành
thử, dân chúng ở đây ít ra cũng phải coi là có được một vinh dự không nhỏ khi
Gaston d Orléans - Tôn Đức ông. (Đoạn tiếp theo ám chỉ các biến cố xảy ra về
trước) tập hợp đám tuỳ tùng của ông trong toà lâu đài. "Các đẳng cấp"
cổ kính nơi thành phố Blois này. Nhưng cái nghiệp của ông hoàng vĩ đại này là
không hấp dẫn được quần chúng. Cho nên Đức ông lâu dần cũng thành quen!
Có lẽ vì
thế mà ngài ưu phiền một cách trầm lặng. Cuộc đời Đức ông rất bận rộn. Chẳng ai
chịu để hàng chục người bạn thân nhất của mình bị cứa cổ mà không thấy lo âu
chút nào! Mà Mazarin khi nắm quyền bính trong tay thì chẳng thích cắt đầu ai
cả. Vì thế Đức ông không còn bận rộn nữa và tinh thần của ngài cũng chịu ảnh
hưởng lây.
Vậy nên
cuộc sống của vị hoàng thân khốn khổ này thật là đáng buồn. Sau cuộc săn nhỏ
vào buổi sáng bên bờ sông Beuvron (Bơ-vrông) hoặc trong rừng Chiverny , Đức ông
vượt sông Loire, đến dùng cơm trưa tại Chamberd , bữa ngon bữa không, và cả
thành Blois sẽ không còn nghe nhắc nhở gì đến vị thủ lãnh của mình nữa cho đến
buổi săn bắn sau.
Đó là
những ưu phiền phơi bên ngoài, còn những nỗi buồn sâu kín chúng tôi sẽ cống
hiến cho độc giả nếu quý vị chịu khó cùng với chúng tôi theo đoàn người ngựa
tiến đến chiếc cổng uy nghiêm của lâu đài "Các đẳng cấp".
Đức ông
cưỡi một con ngựa vóc dáng bé nhỏ, ngồi trên chiếc yên rộng bọc bằng nhung đỏ
xứ Flandre có bàn đạp giống như một chiếc hia. Con ngựa màu hung hung; bộ quần
áo bó chẽn bằng nhung đỏ thẫm, hoà lẫn với chiếc khăn choàng cùng một màu với
những thứ trang bị trên con ngựa, và nhờ toàn bộ cái gì cũng đỏ này mà người la
có thể phân biệt được Đức ông với hai bạn đồng hành của Ngài, một người thì
toàn tím trong khi người kia toàn lục. Người phi ngựa bên trái ăn vận màu tím
là người hầu ngựa, bên phải có người vận màu lục coi bầy chó săn.
Một
người hầu mang theo đôi chim ưng đong đưa trên cái đu người kia cầm chiếc còi
săn, phùng má thổi một cách uể oải rời rạc khi đoàn kỵ sĩ chỉ còn cách toà lâu
đài vài chục bước.
Mọi kẻ
bao quanh ông hoàng uể oải này đều uể oải làm những gì cần phải làm.
Sau hiệu
còi, tám gã lính gác cổng đang rong chơi trên chiếc sân vuông vức của toà lâu
đài vội chạy đi tìm vũ khí. Thế là Đức ông oai vệ tiến vào toà lâu đài.
Khung
cảnh thật vắng vẻ.
Đức ông
lặng lẽ nhảy xuống ngựa, rảo bước vào phòng để người hầu thay quần áo; và vì Bà
lớn chưa ra hiệu ăn trưa nên ngài nằm duỗi dài trên ghế đánh một giấc ngon lành
như giấc ngủ buổi tối vậy.
Còn tám
gã lính hầu thì hiểu rằng nhiệm vụ trong ngày của chúng đến đây là chấm dứt,
chúng bèn rủ nhau nằm ườn trên ghế đá dưới ánh nắng mặt trời ấm áp. Gã mã phu
(người trông nom, chăm sóc ngựa) dẫn đoàn ngựa vào trong truồng và ngoại trừ
mấy chú chim đang chíu chít chòng ghẹo nhau trong các bụi cây đinh tử hoa,
người ta có cảm tưởng như vạn vật đều ngủ say như Đức ông vậy.
Khi hồi
chuông rung báo hiệu Bà lớn đã trang điểm xong và đang chờ Đức ông cùng bước
vào phòng ăn thì có tiếng vó câu lộp cộp trước cổng vào.
Kìa! Một
chàng kỵ sĩ điển trai.
Đó là
một trang thanh niên trông khoảng tuổi hai mươi bốn, hai mươi lăm, thân hình
dong dỏng, cường tráng, khoác trên mình bộ quân phục đẹp đẽ của thời đó. Bằng
đôi tay thon chàng kềm ngựa dừng giữa sân rộng, tháo chiếc mũ lông dài che
gương mặt vừa cương nghị vừa ngây thơ của chàng.
Tiếng
ngựa làm bọn lính choàng tỉnh và mau lẹ đứng lên.
Chàng
trai trẻ chờ cho tên lính gác lại gần mới nghiêng mình nói bằng giọng trong
trẻo và rõ ràng khiến hai cô gái trẻ đẹp núp sau cánh cửa nghe rõ mồn một.
- Có tin
cho Điện hạ.
- À ra
thế? - người lính gác kêu lên - Ngài sĩ quan đâu rồi? Có người đưa tin!
Những gã
lính này thừa biết sẽ chẳng có ngài sĩ quan nào ra cả vì viên sĩ quan duy nhất
đang ở mãi cuối toà lâu đài, trong một căn phòng nhỏ giữa vườn hoa.
Bởi vậy
gã vội vàng tiếp:
- Thưa
ngài, viên sĩ quan đang đi tuần tra; nhưng chúng tôi sẽ báo cáo cho ngài quản
gia De Saint Remy (De Xanh Rơ-mi) hay.
- ông De
Saint Remy à! - Người kỵ sĩ đỏ mặt lẩm bẩm nhắc lại.
- Ngài
có quen biết ông ta?
- Vâng,
xin nhờ anh báo cho ông ta biết là tôi muốn gặp Điện hạ gấp.
- Việc
có gấp gáp lắm không?- Gã lính gác lẩm bẩm như muốn nói với chính mình nhưng
lại mong đợi câu trả lời của người đối diện.
Người
đưa tin gật đầu. Gã lính lại nói:
- Trong
trường hợp này thì chính tôi sẽ đi kiếm ngài quản gia.
Chàng
trai nhảy xuống ngựa và trong khi đám lính đang tò mò ngắm nghía từng cử động
của con ngựa đẹp đẽ đã mang chàng tới thì gã lính ban nãy đã quay lại nói:
- Xin
lỗi tôi chưa biết quý danh?
- Tử
tước Bragelonne đến đây theo lệnh của Hoàng thân De Condé.
Gã lính
vái dài và như thể tên người chiến thắng trận Rocroi và Lenz làm cho gã mọc
thêm cánh, gã chạy như bay qua các bậc thềm.
Tử tước
De Bragelonne chưa kịp cột ngựa vào khung sắt bên thềm thì ông Saint Remy đã
hớt hải chạy ra, một tay đỡ cái bụng phê, tay kia thì quậy quậy như mái chèo rẽ
nước vậy.
- Ồ,
ngài tử tước cũng đến Blois à? Thật tuyệt diệu? Xin kính chào ngài, ngài Raoul.
- Rất
hân hạnh được gặp ngài, ngài De Saint Remy.
- Phu
nhân De La Vall, xin lỗi, tôi muốn nói phu nhân De Saint Remy sẽ thật sung
sướng khi được gặp lại ngài? Nhưng xin mời lại đây. Điện hạ đang dùng bữa, tôi
có cần làm rộn ngài không? Vấn đề có nghiêm trọng lắm không?
- Có và
không, thưa ngài De Saint Remy. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, nếu để trễ có thể
Điện hạ sẽ bực lắm đấy!
- Nếu
vậy thì phải phá lệ thôi, thưa tử tước. Lại đây, vả lại hôm nay Đức ông rất vui
vẻ. Mà, ngài có tin lạ cho chúng tôi không?
- Tin
quan trọng, thưa ngài De Saint Remy.
- Chắc
là lành chứ?
- Tuyệt
vời.
- Thế
thì lại đây. Lại đây nhanh lên? - Người quản gia vừa nói vừa vuốt lại quần áo.
Raoul
cầm mũ đi theo, hơi giật mình khi nghe chính tiếng gót giầy của mình nện vang
trên sàn nhà thênh thang.
Chàng
trai vừa khuất trong lâu đài thì nơi khung cửa sổ ban nãy lại thấp thoáng bóng
người, tiếng xì xào chứng tỏ hai cô gái đang bị kích động mạnh. Họ nhanh chóng
quyết định vì một trong hai khuôn mặt biến đi. Cô gái còn lại, núp sau những
đoá hoa trên bệ cửa sổ, quan sát qua kẽ lá những bậc thềm mà ngài De Bragelonne
đã đi qua.
Trong
khi đó, nhân vật đã khiến cho mọi người chú ý vẫn tiếp tục nối gót người quản
gia. Tiếng chân bước nhộn nhịp, mùi rượu, mùi thịt nồng đậm, tiếng lích kích
của chén đĩa thuỷ tinh cho biết rằng chàng sắp tới nơi.
Các
người hầu, các sĩ quan đang tụ tập nơi một căn phòng trước phòng ăn tiếp đón
Raoul với sự lễ phép đã trở thành huyền thoại của xứ này. Có người biết Raoul
và tất cả đều biết chàng vừa từ Paris tới. Có thể nói, sự xuất hiện của chàng
trai trẻ đã làm mọi hoạt động ngưng lại trong chốc lát. Chứng cớ là một người
hầu đang tiếp rượu cho Đức ông, nghe tiếng giầy đinh khua vang bên thềm sảnh đã
tò mò quay đầu lại xem, như một đứa trẻ, quên bẵng đi rằng anh ta không còn rót
rượu vào ly của Đức ông nữa mà là rót lênh láng ra bàn.
Bà lớn
vì không bận bịu như đức lang quân oai vệ của mình nên thấy rõ sự lơ đễnh của
người hầu. Bà nói:
- Kìa.
Đức ông
lặp lại: "Kìa", rồi ngạc nhiên.
- Cái gì
thế?
Cùng lúc
ông De Saint Remy ló đầu vào, gặp ngay cơ hội thuận tiện.
- Sao
lại quấy rầy tôi? - Vừa nói Caston vừa gắp bỏ vào đĩa một khúc cá thật to, phần
thịt của một con cá hồi ngược sông Loire lớn chưa từng thấy, chưa từng bị đánh
bắt giữa Paimboeuf và Saint-Nazaire
- Thưa
có một người đưa tin từ Paris tới. Nhưng mà, xin Điện hạ cứ tiếp tục dùng bữa,
để sau vẫn còn thừa thì giờ.
Đức ông
la lên và để rơi cái đĩa xuống bàn.
- Từ
Paris à? Một người đưa tin từ Paris, đúng không? Ai sai hắn tới?
- Theo
lệnh của ngài Hoàng thân. - Người quản gia hấp tấp trả lời.
Ai cũng
biết đó là biệt danh của ngài De Condé (De Công- đê)
- Một
người đưa tin của ngài Hoàng thân à? - Gaston lẩm bẩm. Vẻ lo âu thoáng hiện
trong ánh mắt càng gợi thêm trí lò mò của mọi người.
Đức ông
như sống lại những giây phút sung sướng của thời kỳ mưu đồ chính trị và mỗi
tiếng động khẽ ngoài cửa cũng khiến ngài hồi hộp, mỗi bức thư có thể chứa đựng
một bí mật quốc gia, mỗi tin loan báo đều là để dùng vào những âm mưu đen tối,
phức tạp. Cũng có thể cái tên lừng danh của Hoàng thân đã lan truyền dưới vòm
lâu đài thành Blois như bóng dáng của một con ma.
Đức ông
đẩy đĩa ăn ra. Ông De Saint Remy hỏi:
- Thưa,
hay là xin để người đưa tin chờ?
Cái liếc
của Đức bà làm Gaston dạn dĩ hẳn lên, ông ta nói:
- Đừng
cho hắn vào đây ngay. Mà này ai vậy?
- Một
nhà quý tộc, sinh trưởng tại vùng này, tử tước De Bragelonne.
- À nếu
vậy thì tốt lắm, kêu hắn vào đi, De Saint Remy.
Sau khi
thết ra những lời lẽ trang trọng như thông lệ, ngài đưa mắt nhìn đám thuộc hạ
của mình khiến cả bọn cận thần, sĩ quan lính hầu rời bộ khăn, dao, muỗng, nĩa
mà bước nhanh ra ngoài, gần như hỗn độn.
Đạo quân
nhỏ bé này tự động tách thành hai khi Raoul De Bragelonne theo ông De Saint
Remy bước vào phòng ăn.
Khoảng
thời gian yên tĩnh ngắn ngủi do sự rút lui của đám quân hầu để lại đủ khiến cho
Đức ông lấy được phong độ của một nhà ngoại giao. Ông không quay đầu lại, chờ
cho người quản gia dẫn người đưa tin đến trước mặt mình.
Raoul
dừng ở phía cuối bàn ăn để được đứng giữa Đức ông và Đức bà. Chàng lễ phép cúi
đầu chào rồi thẳng lưng chờ Đức ông lên tiến trước.
Còn Đức
ông thì chờ cho cửa ra vào được khép kín. Ngài không muốn quay đầu lại vì như
vậy không xứng đáng với địa vị của mình, nhưng ngài hết sức lắng đợi tiếng khoá
cửa lách cách để thấy ít ra cũng là có giữ bí mật.
Cửa đã
đóng kín Đức ông mới ngước mắt nhìn Tử tước De Bragelonne và nói:
- Hình
như ông từ Paris lại?
- Thưa
Đức ông tôi vừa mới tới.
- Hoàng
thượng có được an khang không?
- Thưa
Đức ông, ngài rất khoẻ.
- Còn
chị dâu tôi?
- Hoàng
thái hậu vẫn còn hay đau ngực. Tuy nhiên, cách đây một tháng, sức khỏe của ngài
có phần đỡ hơn.
- Người
ta bảo ông được Hoàng thân phái đến đây. Họ không lầm chứ?
- Thưa
vâng, chính Hoàng thân đã phái tôi đến đây trình lên ngài một bức thư, và tôi
chờ phúc đáp.
Raoul
hơi xúc động trước lối tiếp đón lạnh lùng và tỉ mỉ này. Giọng chàng trầm hẳn
xuống.
Đức ông
như chợt nhớ lại câu chuyện và nỗi lo sợ lại đến với ngài. Ngài nhìn bức thư
của Hoàng thân bằng cặp mắt hung dữ và cẩn thận bóc nó như bóc một món đồ khả
nghi. Và đề cho không ai biết sự thay đổi diện mạo của mình vì bức thư, ngài
xây lưng lại đọc.
Đức bà
lo âu theo dõi từng cử chỉ của bậc trượng phu.
Còn
Raoul thì thản nhiên và hơi thoải mái vì mình không còn bị chú ý nữa. Từ chỗ
đứng, chàng đưa mắt nhìn, qua khung cửa rộng, các khu vườn và các bức tường
dựng lên trong ấy.
Đức ông
chợt kêu lên với nụ cười rạng rỡ nở trên môi.
- A!
Thật là một nỗi bất ngờ đầy thú vị và một bức thư thật khả ái của Hoàng thân.
Đây, bà xem đi.
Bàn quá
rộng không đủ để Đức ông trao thư tận tay cho bà lớn Raoul hấp tấp chuyển giúp.
Chàng thực hiện công việc này một cách hết sức duyên dáng và khéo léo khiến Đức
bà hết sức đẹp ý.
Gaston
quay hỏi Raoul:
- Chắc
ông biết nội dung lá thư này.
- Thưa
ông, Hoàng thân tính nhắn miệng với tôi, nhưng sau đó ngài suy nghĩ lại và lấy
giấy bút thảo ra.
- Chữ
đẹp quá, nhưng tôi không đọc được. - Đức bà nói.
Hầu tước
(tức Gaston) lên tiếng.
- Ông có
thể đọc giùm Bà lớn được không, ông De Bragelonne?
Raoul
bắt đầu đọc trong khi Đức ông, một lần nữa lại chăm chú nghe.
Thư như
sau:
"Kính
thưa Ngài,
Hoàng
thượng đang đi ra biên giới; hẳn ngài cũng biết hôn lễ của Người sắp được tiến
hành. Hoàng thượng đã phong cho tôi làm trưởng đội kỵ binh trong chuyến đi này,
và tôi biết Người thích dừng chân tại thành Blois, vậy xin ngài cho phép tôi
được đánh dấu trước nơi nghỉ lại của Hoàng thượng.
Nếu yêu
cầu của tôi quá đột ngột gây phiền toái cho ngài, xin ngài làm ơn báo cho biết
qua tử tước De Bragelonne một nhà quý tộc làm việc với tôi đây. Chương trình
của chúng tôi sẽ tuỳ thuộc vào quyết định của Điện hạ và nếu không có ghé
Blois, tôi sẽ đổi lộ trình về Veldôme hay Romorantin. Tôi hy vọng Điện hạ sẽ
cứu xét lời thỉnh cầu đầy thành tâm nhiệt ý của tôi biểu lộ lòng trung thành
không giới hạn của tôi đối với ngài và lòng mong muốn được ngài đẹp dạ mãi
mãi".
- Thật
chẳng có gì sung sướng cho chúng ta hơn, - Đức bà nói sau khi đã hơn một thăm
dò ý tứ qua ánh mắt của chồng trong lúc bức thư được đọc lên. "Hoàng
thượng tới đây!" - Bà kêu lên, có lẽ hơi lớn khó mà bảo toàn được bí mật.
Đến lượt Đức ông nói:
- Thưa
ông, xin ông làm ơn trình Hoàng thân lòng chân thành biết ơn của tôi đối với sự
ưu ái mà ngài đã dành cho tôi.
Raoul
nghiêng mình đáp lễ.
- Ngày
nào Hoàng thượng giá lâm? - Đức ông tiếp tục hỏi.
- Thưa
ngài, nếu tôi không lầm thì Hoàng thượng sẽ tới ngay tối nay.
- Như
vậy thì làm sao người ta hay được câu trả lời của tôi trong trường hợp tôi từ
chối?
- Tôi có
nhiệm vụ, thưa ngài, là phải lập tức quay về Beaugency (Bô-giăng-xi) để thông
báo cho người đưa tin và anh này quay trở lại phía sau trình cho Hoàng thân.
Hoàng thượng ở Orléans. Hiện giờ có lẽ ngài đã ở Meung.
- Cả
triều thần cùng đi với ngài à?
- Thưa
vâng.
- Còn
điều này nữa, tôi quên hỏi thăm tin tức về Đức Hồng Đức ngài có vẻ tràn đầy sức
khoẻ, thưa ngài. Chắc các cháu gái ngài cũng đi theo phải không?
- Thưa
ngài không, Đức ngài đã ra lệnh cho tiểu thư Marie De Mancini đi Brouage. Tiểu
thư đi bên mặt sông Loire trong khi triều thần từ bên trái tới.
- Sao?
Tiểu thư De Mancini cũng rời triều đình à? Đức ông lên tiếng hỏi và sự dè dặt
gần như không còn nữa.
- Vâng,
trước tiên tiểu thư De Mancini, - Raoul tế nhị trả lời.
Một nụ
cười thoáng qua gợi lại dấu vết của một bộ óc chứa đầy những âm mưu rối rắm,
làm sáng lên đôi má nhợt nhạt của Đức ông.
- Xin
cảm ơn ông De Bragelonne. Có lẽ ông sẽ từ chối không muốn nhận nhiệm vụ mà tôi
muốn giao cho ông là trình lên Hoàng thân biết rằng tôi rất cảm mến người đưa
tin của ngài. Nhưng tôi sẽ tự làm lấy công việc này.
Raoul
lại nghiêng mình cảm tạ vinh hạnh mà Đức ông đã dành cho mình. Đức ông ra dấu
cho Đức bà gõ vào chiếc chuông bên mặt.
Ông De
Saint Remy bước vào ngay lập tức và phòng ăn lại đông nghẹt người.
Đức ông
nói:
- Thưa
quý vị, chúng ta sẽ được hân hạnh tiếp đón Hoàng thượng tại Blois, tôi hy vọng
rằng Hoàng thượng, cháu tôi, sẽ không hối tiếc về đặc ân mà ngài đã ban cho
tôi.
- Hoàng
thượng vạn tuế!- Các sĩ quan hầu cận la lên đầy nhiệt tình, đặc biệt nhất là
ông De Saint Remy.
Gaston
khẽ cúi đầu, buồn u uẩn: cả đời ngài đã từng được nghe hay đúng hơn là phải
nghe tiếng kêu "Hoàng thượng vạn tuế" này lướt qua đầu mình. Từ lâu,
không còn phải nghe như thế nữa, đôi tai ngài tưởng đã được nghỉ ngơi. Thế rồi,
một vương quyền mới, trẻ trung hơn, sinh động hơn, xán lạn hơn bỗng xuất hiện
trước mặt ngài, như một sự khiêu khích mới, đau đớn hơn.
Đức bà
hiểu rõ nỗi đau đớn mà trái tim nhút nhát và u uất kia phải chịu đựng, bà rời
bàn ăn, Đức ông cũng làm theo một cách máy móc, và các tuỳ tùng như một bầy ong
vỡ tổ, bao quanh lấy Raoul hỏi han rối rít.
Đức bà
thấy lộn xộn liền kêu ông De Saint Remy và bảo với giọng của một chủ nhân đang
cáu giận:
- Bây
giờ không phải lúc bép xép, làm việc đi!
Ông De
Saint Remy hối hả giải tán đám đông bu quanh Raoul do đó chàng mới bước được ra
tiền sảnh.
Đức bà
quay về phía ông De Saint Remy nói tiếp.
- Tôi
mong ông lo liệu cho nhà quý tộc đó.
Ông này
lập tức chạy theo Raoul, nói:
- Đức bà
giao cho tôi nhiệm vụ chiêu đãi ngài tại đây, ngài sẽ nghỉ ngơi ở một căn phòng
dành riêng trong lâu đài này.
- Xin
cảm ơn ngài De Saint Remy, - De Bragelonne trả lời - chắc ngài biết tôi nóng
ruột muốn gặp ngài bá tước cha tôi tới mức nào.
- Đúng
thế, đúng thế. Nhân tiện xin ngài chuyển giùm lời kính thăm của tôi đối với cha
ngài.
Raoul
thoát được nhà quý tộc già và đi tiếp tục.
Khi
chàng còn nắm cương ngựa đi dưới cổng thì một giọng nói êm ái vang lên phía
cuối hành lang tối tăm:
- Thưa
ngài Raoul!
- Chàng
trai giật mình quay lại thấy một cô gái trẻ, tóc nâu đen, một ngón tay đặt lên
môi và tay kia đưa về phía chàng.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
2: Hai cha con
Raoul
theo con đường rất quen thuộc, và luôn khơi gợi chàng tình thương mến, - con
đường dẫn từ thành Blois đến ngôi nhà của Bá tước De La Fère (De La Fe-rơ).
Chàng
thấy từ xa tầng mái nhà nhọn, hai khung tháp nhỏ, chiếc chuồng chim nấp trong
lá cây du, và từng đàn bồ câu bay quanh khối chọp nón xây bằng gạch. Chúng
không ngưng nghỉ mà cứ quấn quít lấy nhau tựa như những kỷ niệm êm đềm liệng
quanh một tâm hồn thanh thản.
Hơn một
năm nay Raoul chưa về thăm cha. Trong suốt thời gian đó chàng sống bên Hoàng
thân.
Thật
vậy, sau tất cả những xáo động gây ra bởi cuộc loạn La Fronde, Louis De Condé
và triều đình đã làm hoà một cách công khai, long trọng và thẳng thắn.
Trong
suốt thời gian ly khai với triều đình, Hoàng thân vốn từ lâu có thiện cảm với
De Bragelonne - đã tìm đủ mọi cách để chiêu dụ chàng nhưng hoài công, Bá tước
De La Fère, luôn luôn thay mặt con chối từ vì vẫn tin tưởng vào những nguyên
lắc về sự trung thành và về vương quyền.
Hơn thế
nữa, thay vì theo ông De Condé trong vụ phản loạn, Tử tước lại phục vụ De
Turenne (De Tuya-ren), chiến đấu vì Đức vua. Rồi sau đó, khi thấy ông De
Turenne có vẻ đi ngược lại lý tưởng hoàng gia, chàng lại lìa bỏ ông này như đã
từng từ chối đề nghị của De Condé. Vì cả Condé lẫn Turenne chỉ có thể chiến
thắng khi phục vụ dưới lá cờ hoàng gia, nên kết quả là Bragelonne, tuy còn rất
trẻ đã có mười chiến công lừng lẫy để ghi vào lý lịch và không có một vụ chiến
bại nào khiến lương tâm và lòng can đảm của chàng bị tổn thương.
Như vậy
là Raoul theo ý nguyện của cha mình, đã phục vụ một cách tích cực và chịu đựng
cho cơ nghiệp của vua Louis XIV, mặc cho những chuyện trở gió xoay, cờ liên
miên mà ta có thể nói là không tránh khỏi vào thời đó.
Ngài De
Condé khi được sủng ái lại đã dùng tất cả những đặc quyền để đòi hỏi rất nhiều
thứ ông được hưởng trước đó, gồm cả việc đòi Raoul. Ngay lập tức, bá tước De La
Fère, với lòng tin không lay chuyển vào lẽ phải đã gửi Raoul cho ông hoàng De
Condé.
Một năm
trôi qua kể từ khi hai cha con chia tay nhau, vài bức thư đã làm dịu bớt nhưng
không xoá hẳn nỗi đau buồn phải xa người con.
Raoul
cũng để lại Blois một mối tình khác ngoài tình phụ tử. Nhưng cũng phải công
bằng mà nói rằng Raoul vẫn phi ngựa về nhà cha chàng - Có thể ngoái cổ nhìn lại
đôi chút, nhưng không hề dừng ngựa, dẫu có thấy De La Vallière (De La Va-li-e)
đưa tay cho chàng.
Nhận
thấy cổng vào vườn mở, chàng cho ngựa phi thẳng vào mà không chú ý tới nắm tay
giận dữ của một ông lão mặc áo len tím, đầu đội chiếc mũ nhung rách.
Ông lão
đang nhổ cỏ trên một bãi trồng hoa hồng lùn và hoa cúc, rất lấy làm tức giận
khi thấy một con ngựa cả gan giẫm lên lối đi trải cát đã được sàn cào cẩn thận.
Ông ta
còn phát ra một tiếng nạt giận dữ, khiến chàng kỵ sĩ phải quay đầu lại. Và tình
thế bỗng nhiên thay đổi hẳn: ngay khi vừa trông thấy Raoul, ông lão đã vụt đứng
dậy, chạy ù vào nhà, miệng phát ra những tiếng lằm bằm mà có lẽ đối với ông là
một cách biểu lộ niềm vui mãnh liệt đã lên đến cực điểm. Raoul tới chuồng giao
ngựa cho một gã hầu và bước dài lên bậc thềm một cách mạnh mẽ, hẳn là có thể
khiến cho cha chàng hãnh diện.
Chàng
bước vào tiền sảnh, phòng ăn và phòng khách mà chẳng gặp một ai: sau cùng, tới
trước cửa phòng bá tước De La Fère, chàng nóng nảy nhào tới và bước vào mà
chẳng cần chờ nghe tiếng "Mời vào!" cất lên bằng một giọng nói vừa
trịnh trọng vừa dịu dàng.
Bá tước
đang ngồi trước cái bàn chứa đầy giấy tờ và sách vở. Cũng vẫn con người đẹp đẽ
và quý phái thời trước, nhưng thời gian đã khiến vẻ đẹp, vẻ quý phái này trở
nên trịnh trọng rõ rệt hơn. Một vầng trán cao không một nếp nhăn dưới mái tóc
bạc nhiều hơn đen, đôi mắt sắc và dịu dàng dưới cặp lông mày của một người trẻ
tuổi, bộ râu mảnh và hơi bạc trên cặp môỉ thanh tao như không bao giờ mím chặt
trước những đam mê chết người, một thân hình vươn thẳng và dẻo dai, đôi bàn tay
không chê vào đâu được nhưng hơi gầy. Đó là tất cả những gì còn lại của một nhà
quý tộc lừng danh mà biết bao cửa miệng đã không tiếc lời khen ngợi. Đó chính
là Athos.
Ông đang
sửa những trang bản thảo do chính tay mình viết. Raoul nắm lấy vai, ôm lấy cổ
cha hôn một cách trìu mến và nhanh đến nỗi bá tước không đủ sức cũng như thời
gian để gỡ ra, để trấn áp những cảm xúc của tình phụ tử.
- A con
đây, con đấy phải không Raoul, có thể như vậy được không nhỉ?
- Ô,
thật vô cùng sung sướng được gặp lại phụ thân!
- Ông
chưa trả lời tôi, Tử tước ạ. Ông được phép về Blois hay là lại có chuyện gì
không may xảy ra tại Paris?
- Nhờ ơn
trên, thưa ngài, - Raoul trả lời, chàng dần lấy lại được bình tĩnh, - Chỉ có
toàn chuyện vui; Hoàng thượng sắp cưới vợ, như con đã có dịp kể cho cha trong
bức thư gần đây nhất, và ngài đi Tây Ban Nha sẽ ghé qua Blois.
- Để
viếng Đức ông?
- Vâng,
thành thử vì ngại Đức ông bị bất ngờ hoặc muốn tỏ tình thân ái đặc biệt, ngài
Hoàng thân đã phái con tới đây để chuẩn bị trước.
- Con đã
gặp Đức ông chưa? - Bá tước đột ngột hỏi con.
- Con đã
được vinh dự đó.
- Tại
lâu đài à?
- Thưa
vâng - Raoul cúi mặt khi trả lời vì chàng nhận thấy những câu hỏi của bá tước
hàm chứa một điều gì khác hơn là sự tò mò.
- Ồ thật
vậy sao, Tử tước? Ta có lời ngợi khen.
Raoul
nghiêng mình đáp lễ.
- Nhưng
con còn gặp ai tại Blois nữu không?
- Thưa
cha, con còn gặp Đức bà phu nhân.
- Rất
tốt. Nhưng không phải ta muốn đề cập tới Đức bà.
Mặt mũi
Raoul đỏ gay, chàng không nói được câu nào.
- Hình
như ông không nghe thấy lời tôi, thưa ông Tử tước? - Bá tước De La Fère nhấn
mạnh câu hỏi của mình nhưng không lớn tiếng, ông chỉ làm tình hình nghiêm trọng
hơn bằng ánh mắt của mình.
- Thưa,
con nghe rất rõ, nếu con chuẩn bị câu trả lời của mình thì chẳng phải để nói
dối, chắc ngài cũng rõ rồi.
- Tôi
biết ông không bao giờ nói dối. Tôi lấy làm ngạc nhiên là vì sao ông mất thời
giờ quá lâu để trả lời "có" hoặc "không" thôi.
- Con
chỉ trả lời được khi con hiểu rõ câu hỏi của cha, và con hiểu rõ cha sẽ buồn
khi nghe những câu đầu tiên của con. Chắc cha không vui, nếu con thưa rằng con
đã gặp…
- Tiểu
thư De La Vallière phải không?
- Con
biết rõ là cha chỉ muốn ám chỉ tới nàng, thưa Bá tước, - Raoul nói bằng giọng
êm dịu không thể tả nổi.
- Còn
tôi thì tôi muốn hỏi rằng ông đã gặp cô ta chưa?
- Thưa
ngài, con hoàn toàn không hay biết khi tới lâu đài sẽ gặp tiểu thư De La
Vallière, chỉ lúc quay về, khi hoàn thành nhiệm vụ tốt, một sự tình cờ đã khiến
con hội ngộ với nàng. Con mong được bày tỏ cùng nàng lòng kính trọng của mình.
- Sự
tình cờ nào đã xui khiến con gặp tiểu thư De La Vallière?
- Thưa
tiểu thư De Montalais (De Mông-ta-le).
- Cô ta
là ai?
- Một
nhân vật trẻ tuổi mà con không hề quen biết, chưa hề gặp mặt lần nào. Cô ta là
thị nữ của Đức bà.
- Ông Tử
tước, tôi lấy làm ân hận không muốn để cuộc đối đáp này kéo dài quá lâu và đi
xa hơn nữa. Tôi đã yêu cầu ông lánh mặt tiểu thư De La Vallière và chỉ nên gặp
cô ta khi được phép của tôi thôi. Ô, tôi biết là ông không nói dối, là ông
không hề có ý đồ tìm cách gần gũi cô ta. Sự tình cờ này đã làm tôi rất phật ý,
nhưng tôi không trách ông. Thành thử tôi chỉ xin ông nhớ tới những gì tôi đã
nói về cô ta. Tôi không trách gì cô ta, có thượng đế làm chứng. Tuy nhiên tôi
không hề muốn ông lân la đến nhà cô ta. Một lần nữa, tôi yêu cầu ông nghe kỹ
điều này, Raoul thân mến ạ.
Đôi mắt
trong trẻo tinh anh của Raoul như mờ đi vì những lời này. Bá tước nói tiếp với
nụ cười hiền dịu và giọng nói bình thường.
- Thôi
bây giờ ta hãy nói chuyện khác, có lẽ ông quay về nhiệm sở chớ?
- Thưa
ngài không, hôm nay chỉ còn có việc ở lại bên ngài. Rất may là Hoàng thân không
giao phó cho con nhiệm vụ nào khác ngoài nhiệm vụ này, rất phù hợp với nguyện
vọng của con.
- Hoàng
thượng có được an khang không?
- Thưa
cha, tuyệt vời.
- Và cả
Hoàng thân nữa chứ?
- Như
bình thường, thưa ngài.
Bá tước
theo một thói quen đã có từ lâu, quên bẵng tể tướng Mazarin.
- Này
Raoul, vì bây giờ con chỉ là của cha, cha sẽ dành trọn ngày hôm nay cho con.
Con hãy hôn cha đi nữa, nữa. Đây là nhà của con, Tử tưởc ạ. À, Grimaud thân
mến? Lại đây, Grimaud, ông Tử tước cũng muốn hôn nhân nhà ngươi nữa đấy!
Ông lão
cao lớn không để nhắc nhở, lão chạy lại, hai tay dang rộng. Raoul dỡ hộ lão một
đoạn đường.
Bây giờ
con có muốn chúng ta cùng ra vườn không? Cha sẽ chỉ gian phòng mới mà cha cho
xây để dành lúc con về phép và vừa xem các cây trồng mùa đông vừa qua cũng như
đôi ngựa cha mới đánh đổi xong, con sẽ vừa cho cha biết tin tức bạn bè chúng ta
tại Paris.
Bá tước
đóng tập bản thảo lại, khoác tay Raoul cùng đi ra vườn Grimaud buồn rầu ngắm
nhìn Raoul bước đi, và khi đầu chàng suýt đụng khung cửa, lão vừa vuốt ve chòm
râu bạc vừa buột miệng: "Chóng lớn quá!".
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
3: Người lạ mặt
Trong
khi bá tước De La Fère dẫn Raoul đi thăm dãy nhà mới xây, những con ngựa mới
sắm, xin độc giả hãy cùng chúng tôi trở lại thành Blois để chứng kiến những
biến đổi bất thường đang làm náo động thành phố này.
Chính
các khách sạn là nơi đã chịu tác động nhiều nhất vì những tin tức Raoul mang
lại.
Thật vậy
Đức vua và triều thần đến Blois có nghĩa là hàng trăm kỵ sĩ, hàng chục cỗ xe và
không biết bao nhiêu là kẻ hầu người hạ, cái tập thể đó sẽ tá túc nơi đâu? Còn
các nhà quý tộc các vùng lân cận, họ sẽ đến đây trong vòng hai hoặc ba tiếng
đồng hồ nữa, sẽ ăn ở ra sao?
Tin tức
lan truyền nhanh như những gợn sóng toả ra khi một hòn gạch được ném vào giữa
mặt nước ao tù phẳng lặng.
Như
chúng ta đã thấy, thành Blois, vào buổi sáng còn êm ả như mặt hồ êm ả nhất, khi
có tin tức loan truyền về sự có mặt của Hoàng gia bỗng trở nên ồn ào náo nhiệt.
Tất cả
các lính hầu trong lâu đài, dưới sự giám sát của các sĩ quan, được huy động lên
thành phố mua thực phẩm và hàng chục người đi ngựa về những kho tồn trữ lương
thực tại Chamberd để kiếm thịt rừng, về khu ngư nghiệp Beuvron để kiếm cá, các
khu vườn ở Chavemy để lấy hoa và trái cây.
Người ta
lôi ra từ các hộc tủ những tấm thảm quý những bộ giá đèn mạ vàng. Một đạo quân
nghèo khổ quét dọn các sân và lau chùi các mặt tiền xây bằng đá trong khi vợ
con họ sục sạo trong các vùng tận bên kia sông Loire để dọn cỏ và hoa đồng nội.
Cả đến thành phố cũng không chịu kém phần sạch sẽ và thế là chổi, bàn chải, các
chậu đựng nước được huy động ráo riết. Dòng suối tại phố Trên là nơi hứng chịu
những luồng nước dơ bẩn này nhiều nhất, đến nỗi khi chảy tới phố Dưới nó đã
biến thành sông.
Sau
cùng, âm nhạc cũng được chuẩn bị. Các hộc tủ hàng vơi dần: người ta mang về các
tiệm buôn nào là sáp, mơ, ruy-băng để cột vào đốc kiếm: các bà nội trợ thì tích
trữ thêm thịt, bánh mì và đồ gia vị. Ngay cả một số lớn các vị trưởng giả, mà
nhà cửa đã tích trữ lương thực đầy đủ giống như để chống lại một cuộc bao vây
lâu dài, nghĩa là chẳng còn phải bận tâm gì nữa, thế mà cũng khoác lên mình
những bộ y phục đại lễ và tiến về phía cổng thành để được là người đầu tiên báo
hiệu hoặc trông thấy phái đoàn Hoàng gia. Họ thừa biết rằng Đức vua chỉ tới kịp
vào lúc đêm hay sáng hôm sau. Nhưng chờ đợi là gì nếu không phải là một trạng
thái điên loạn và điên loạn phải chăng là do tràn trề hy vọng?
Tại phố
Dưới cách lâu đài "Các đẳng cấp" chưa tới trăm bước, giữa lối đi dạo
và lâu đài, trên con đường khá đẹp tục gọi là đường Già nua - mà có lẽ là già
nua thật, - có một toà nhà cổ kính, chóp nhọn, dáng thấp lùn nhưng rộng rãi.
Tầng thứ nhất của ngôi nhà có ba cửa sổ trông ra đường, tầng thứ hai thì có hai
cửa sổ và tầng thứ ba chỉ có một lỗ tò vò để quan sát.
Bên cạnh
của khu vực tam giác này, người ta vừa xây xong một khu hình bình hành khá rộng
và lấn cả ra đường theo tập quán rất quen thuộc của hội đồng thị xã lúc đó. Con
đường bớt rộng đi một phần tư nhưng ngôi nhà rộng thêm ra một nửa, đó chẳng
phải là một sự bù trừ thoả đáng là gì?
Theo
truyền thống vào thời vua Henri III, ngôi nhà có chóp nhọn này do một vị cố vấn
"Các đẳng cấp" trú ngụ và Nữ hoàng Catherine đã đến đây để thăm viếng
- có người nói rằng để bóp cổ ông ta. Dù sao đi nữa thì bậc mệnh phụ tốt bụng
này chắc cũng đã có lần kín đáo đặt gót ngọc lên thềm nhà.
Thế rồi
sau khi vị cố vấn chết - chết vì bị bóp cổ hay chết một cách tự nhiên, điều đó
không có gì quan hệ cả, - ngôi nhà này đã được bán đi, bị bỏ hoang phế, để rồi
sau cùng được cách ly với các ngôi nhà khác trong phố. Vào giữa thời vua Luois
XIII, một người Ý tên là Cropople (Crô-pôn-lơ) Sau khi bếp núc cho ngài thống
chế d Acre (Đăng-crơ), tới lập nghiệp tại ngôi nhà này. Ông ta lập nên một
khách sạn nhỏ có món macaroni nổi tiếng đến nỗi các khách thập phương đổ xô đến
để mua hay để thưởng thức.
Nhờ danh
tiếng bảng hiệu Aux Médicis (Ô Mê-đi-xti) khách sạn ngày càng làm ăn phát đạt.
Cropole
con rất ham lợi nhuận: tin vua Louis XIV đến khiến hắn mừng như hoá điên.
Hắn, vợ
hắn và hai phụ bếp hạng bét đi thâu mua tất cả các "cư dân" trong
những chuồng chim bồ câu, các sân nuôi gà vịt, các chuồng thỏ. Thành thử phía
sau nhà bếp khách sạn bọn Médicis cũng tràn đầy những tiếng kêu rên.
Hiện tại
Croppople chỉ có một người khách duy nhất.
Đó là
một người đàn ông chưa tới 30 tuổi, đẹp trai cao lớn, khắc khổ, đúng hơn là hơi
buồn rầu trong mỗi cử chỉ, ánh mắt.
Chàng
mặc bộ đồ nhung đen với những đường viền đen nhánh, cổ áo trắng, giản dị như
một tu sĩ khắc khổ nhất, làm lộ chiếc cổ tràn đầy nhựa sống, tái và thanh. Bộ
ria vàng mảnh che lấp phần nào đôi môi mấp máy đầy vẻ kiêu ngạo.
Chàng
nhìn thẳng vào mặt người đối thoại khi nói chuyện, có lẽ đúng là không đằm
thắm, nhưng cũng không mặc cảm, khiến người ta khó có thể chịu đựng nổi ánh mắt
xanh biếc của chàng.
Vào thời
buổi mà nhân loại tuy cùng được Thượng đế tạo nên nhưng vì thành kiến lại phân
chia thành hai đẳng cấp rõ rệt là quý tộc và thường dân, như họ đã phân biệt
hai giống da đen và da trắng, con người mà chúng ta vừa mô tả đó phải được coi
như một nhà quý tộc thuộc dòng dõi thanh cao nhất. Chỉ việc ngắm nhìn bàn tay
thon dài và trắng của chàng mà, ứng với mỗi cử động, mỗi bắp thịt, mỗi sợi gân
đều hiện rõ dưới làn da, mỗi cái siết dù cho nhỏ bé đến đâu cũng làm các đốt
ngón tay đỏ hồng.
Nhà quý
tộc này đã đến chỗ Cropole có một mình. Chàng không chút do dự, có thể nói là
không chút suy nghĩ khi chọn dãy phòng quan trọng nhất mà chủ nhân đã đề nghị
với mình.
Có người
bảo là Cropole có ý đồ tham lam đáng chê trách, cũng có người bảo hành động đó
là đáng ca ngợi vì cho rằng Cropole đúng là có tài xét đoán con người qua cử
chỉ, diện mạo. Dãy phòng này bao gồm toàn bộ phía trước của gian nhà cổ hình
tam giác này: một phòng khách được chiếu sáng bằng hai cửa sổ ở tầng thứ nhất,
một phòng nhỏ ở kế bên, một phòng nữa phía trên.
Từ khi
đến khách sạn, nhà quý tộc không hề đụng tới bữa ăn mà người ta đã dọn riêng
trong phòng. Ông ta chỉ dặn Cropole rằng sẽ có người khách tên là Parry tới tìm
ông và nên để cho ông ta vào.
Sau đó
ông ta lặng lẽ đến nỗi Cropole phải bất mãn vì gã là người khoái có bầu bạn.
Sau
cùng, vào hôm bắt đầu câu chuyện này, nhà quý tộc thức dậy sớm, ra cửa sổ phòng
khách, ngồi trên bệ gạch, tì tay vào thành ban công, buồn bã ngó đăm đăm hai
bên hè phố để ngóng người khách mới mà ông ta đã loan báo với chủ nhà.
Nhờ vậy,
ông đã chứng kiến cảnh đoàn kỵ sĩ của Đức ông đi săn về, sau đó lại mòn mỏi đợi
chờ, tâm trí chìm đắm trong cái yên lặng sâu thẳm của thành phố.
Thế rồi,
bất thần nổi lên những náo động gây ra bởi những người nghèo đi ra đồng, những
người đưa tin qua lại, những người lau chùi hè phố, những người đem đồ ăn thức
uống về lâu đài, những người bán hàng béo mập hung dữ lắm điều, những cỗ xe
phóng đi, những người làm đến sở và những đám lính hầu đi dọn cỏ. Sự ồn ào náo
nhiệt này làm ông ta ngạc nhiên nhưng không hề làm mất đi vẻ uy nghiêm bình
thản và thanh cao chỉ thấy có trong ánh mắt lạnh lùng và khinh khi của con chim
đại bàng hay sư tử sa cơ trước bọn thợ săn cùng những kẻ hiếu kỳ đứng hò reo
giậm chân, giậm cẳng.
Rồi
tiếng kêu la của những con vật bị cắt tiết ở sau bếp, tiếng chân hối hả của bà
Cropole bước lên chiếc thanh gỗ rấp hẹp và cũng rất âm vang, tất cả những thứ
này khiến người khách lạ bắt đầu ngạc nhiên và sốt ruột.
Khi ông
ta đứng dậy để tìm hiểu thì cửa phòng bật mở.
Ông ngỡ
người ta dẫn lại người khách rất được mong đợi. Ông hấp tấp bước nhanh về phía
cửa.
Nhưng
thay vì gương mặt mà ông vẫn trông đợi, gã Cropole lại hiện ra, và sau lưng
lão, trong vùng tranh sáng tranh tối là gương mặt của bà Cropole khá duyên dáng
nhưng bần tiện vì tò mò. Bà ta nhìn nhà quý tộc đẹp trai rồi biến đi.
Cropole,
tay cầm chóp mũ nghiêng mình đến độ gần như cúi gập, vẻ mặt tươi tắn.
Người
khách lạ ra hiệu muốn hỏi anh ta mà không thốt một lời nào.
- Thưa
ngài, tôi xin không biết tôi phải kêu thế nào cho tiện: thưa quý nhân hay là
thưa bá tước, hầu tước?
- Cứ gọi
thưa ngài, và nhanh lên, - người khách lạ trả lời bằng thứ giọng đài các và
không hề có ý định bàn cãi lôi thôi.
- Tôi
định hỏi thăm ngài tối qua có ngủ ngon không và còn có ý định giữ lại phòng này
không?
- Có
- Thưa
ngài, chúng tôi không tiên liệu việc vừa xảy ra.
- Việc
gì?
- Đức
Hoàng thượng Louis XIV sẽ tới thành phố của chúng tôi và có thể nghỉ tại đây
trong một hoặc hai ngày.
Vẻ sửng
sốt hiện rõ trên nét mặt người khách lạ.
- Vua
nước Pháp đến Blois à.
- Thưa,
Hoàng thượng đang lên đường.
- Như
vậy là tôi có thêm lý do để ở lại. - Người khách lạ trả lời.
- Rất
tốt, thưa ngài, nhưng ngài vẫn giữ toàn bộ dãy phòng?
- Tôi
không hiểu ông muốn nói gì. Tại sao bây giờ tôi lại cần ít hơn hôm qua?
- Bởi
vì, thưa ngài, xin quý nhân cho phép tôi được nói, hôm qua khi ngài chọn chỗ ở,
đáng lẽ tôi không nên đặt một cái giá nào đó khiến quý nhân nghĩ rằng tôi có
thành kiến với khả năng của quý nhân còn bây giờ thì…
Người
khách lạ đỏ mặt. Ông ta đột ngột nghĩ rằng người ta cho mình là nghèo khổ và
bây giờ đến sỉ nhục mình. Ông ta lạnh lùng nói:
- Còn
bây giờ thì, bây giờ thì ông có thành kiến phải không?
- Thưa
ngài, tôi là một người tao nhã, xin cám ơn Thượng đế! Tuy là chủ quán trọ nhưng
trong người tôi có dòng máu quý tộc, cha tôi là sĩ quan hầu cận của cố Thống
chế D Ancre, xin Thượng đế che chở linh hồn ông ta!
- Thưa
ông, tôi không dám phủ nhận điều này, nhưng xin ông cho tôi biết rõ ngay ý đồ
của ông.
- Thưa
ngài, ngài quá khiêm tốn nên không hiểu rằng thành phố của chúng tôi rất nhỏ
bé, rằng cả triều đình sẽ tràn ngập nơi này, rằng các nhà cửa sẽ tràn ngập
người thuê bao và do vậy các quán trọ sẽ có giá trị đáng kể.
Mặt
người khách lạ càng đỏ thêm. Ông ta nói:
- Ồng
hãy ra điều kiện đi.
- Tôi
rất thận trọng, thưa ngài, bởi vì tôi tìm cách làm ăn lương thiện, tôi muốn
kinh doanh thẳng thắn và không tỏ ý đồ thô bỉ. Mà dãy phòng ngài đang trú ngụ
lại quá rộng rãi, và ngài thì chỉ có một mình.
- Mặc kệ
tôi.
- Ồ, rất
đúng, vì vậy tôi không muốn xua đuổi ngài.
Máu như
dồn lên hai thái dương người khách lạ, ông ta quắc mắt nhìn anh chàng Cropole
đáng thương, con cưng một sĩ quan của Thống chế D Ancre, cái nhìn khiến anh ta
có lẽ đã bị bắn lọt vào dưới tảng đá hoa lót lò sưởi nếu vấn đề lợi lộc không
vít cứng anh ta tại chỗ.
- Ông
muốn tôi ra đi phải không? - ông ta nói - Hãy giải thích đi, nhưng lẹ lên.
- Thưa
ngài, thưa ngài, ngài không hiểu tôi. Điều tôi làm thật quá tế nhị, nhưng có lẽ
tôi phát biểu dở quá hoặc có lẽ vì ngài là người ngoại quốc, như tôi đã nhận ra
trong giọng nói của ngài.
Thật vậy
người khách lạ nói tiếng Pháp hơi đớt theo cách phát âm của người Anh cho dù
người Anh nói tiếng Pháp giỏi nhất cũng thế thôi.
Có lẽ vì
ngài là người ngoại quốc nên ngài không hiểu thấu đáo tất cả những gì tôi đã
nói. Tôi chỉ muốn nói ngài có thể từ bỏ một hoặc hai trong ba căn phòng mà ngài
đã thuê, khiến tiền thuê có thể hạ đi nhiều và lương tâm tôi cũng bớt day dứt.
Thật vậy, thật là khổ công khi phải tăng một cách không hợp lý giá phòng mà
chúng tôi đã có hân hạnh định giá phải chăng rồi.
- Tiền
thuê hôm qua là bao nhiêu?
- Thưa
ngài một đồng louis, gồm cả thức ăn và tiền săn sóc ngựa.
- Được
rồi. Thế còn bây giờ?
- À đây
mới là nỗi khó khăn của tôi. Hôm nay là ngày Hoàng thượng tới, nếu triều đình
đến vào lúc chập tối, vấn đề sẽ được đặt ra. Giá thuê hai louis mỗi phòng thì
ba phòng vị chi là sáu louis Hai louis thì không đáng kể, nhưng tới sáu luois
thì hơi nhiều.
Sắc mặt
người khách lạ đang từ đỏ bỗng trở nên tái xanh.
Ông ta
lấy hết can đảm rút từ túi ra một ví tiền có thêu huy hiệu mà ông ta giấu kín
trong lòng bàn tay. Ví tiền lép kẹp, nhão nhẹt, trống trơn này không thoát khỏi
đôi mắt soi mói của Cropole.
Người
khách lạ dốc hết túi ra tay. Tất cả là ba louis - kép nghĩa là có giá trị bằng
sáu louis.
Tuy
nhiên, Cropole đòi tới bảy.
Gã nhìn
người khách lạ như để hỏi: sao nữa?
- Thiếu
một louis phải không, chủ quán?
- Thưa
vâng, nhưng…
Người lạ
mặt lục lọi trong túi quần nịt và kéo hết ra: một cái bóp nhỏ, một chìa khoá
bằng vàng và vài đồng bạc trắng.
Chỗ tiền
đó tổng cộng bằng một louis. Cropole nói:
- Cám ơn
ngài. Bây giờ thì tôi còn muốn biết ngài còn muốn ở dãy nhà cho tới mai nữa
không? Để tôi giữ lại cho ngài; còn ngược lại, nếu ngài không muốn nữa tôi sẽ
cho những người đi theo Hoàng thượng thuê.
Người
khách lạ trả lời sau một hồi suy nghĩ.
- Ông
nói phải. Tôi thì đã hết tiền như ông đã thấy, nhưng lại muốn tiếp tục giữ dãy
phòng này, thành thử tôi yêu cầu ông bán dùm tôi viên kim cương này trong thành
phố hoặc cầm thế cho tôi vậy.
Cropole
ngắm nghía viên kim cương khá lâu khiến người khách lạ phải vội nói:
- Tôi
muốn ông bán nó vì nó đáng giá ba trăm pistoles (Tiền vàng xưa của nước Pháp,
giá bằng nửa đồng louis). Một tên Do Thái, thành Blois có người Do Tháí nào
không? Hắn sẽ trả cho ông từ hai trăm, đến hai trăm năm mươi nữa là khác, giữ
lấy hết đi, coi như là tiền phòng thôi cũng được. Đi đi!
- Ồ!
thưa ngài, - Cropole kêu lên, xấu hổ vì sự thấp kém đột ngột của mình trước
hành động vừa quý phái vừa vô vị lợi, cũng như trước sự nhẫn nại bền bỉ để đối
phó với biết bao sự nghi ngờ kỳ kèo của mình.
- Ồ!
Thưa ngài, tôi nghĩ rằng ở Blois người ta sẽ không ăn cắp như ngài tưởng và
viên kim cương sẽ được định giá đúng như ngài nói.
Người lạ
mặt lại quắc ánh mắt xanh biết nhìn Cropole. Gã kêu lên:
- Thưa
ngài, tôi không biết thật mà!
Người lạ
nói:
- Nhưng
những người buôn bán kim hoàn thì biết đấy, hỏi họ đi. Bây giờ thì hết nợ với
ông rồi phải không, ông chủ quán?
- Thưa
ngài đúng, tôi xin lỗi, vì tôi ngại rằng đã xúc phạm tới ngài!
- Chẳng
sao cả, - người khách lạ trả lời với vẻ uy nghiêm của người có quyền chức tối
cao.
- Hoặc
có vẻ như làm thịt một vị khách quý phái. Thưa, đó chỉ là vì tình thế bắt buộc
thôi.
- Thôi,
bỏ qua vấn đề ấy đi và hãy để tôi yên.
Cropole
kính cẩn cúi chào và di ra với dáng vẻ lạc lõng của một người có trái tim tuyệt
vời và đang thành thật hối hận.
Người
khách lạ tự đóng lấy cửa. Khi chỉ còn một mình, ông nhìn tận đáy túi đựng tiền
của mình, nơi ông đã lấy ra bọc lụa chứa viên hột xoàn, gia tài duy nhất còn
lại.
Ông ta
cũng lọc túi quần, ngắm mớ giấy tờ trong bóp để nhận ra sự trơ trụi tàn mạt của
mình.
Thế là
ông ngước mắt nhìn lên trời với thái độ trầm tĩnh và tuyệt vọng sâu xa, rồi đưa
bàn tay run rẩy lên quyệt những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán và cúi nhìn xuống
đất bằng ánh mắt mà ngày xưa đã chan chứa vẻ uy nghiêm vòi vọi.
Ông ta
đến bên cửa sổ, ngồi lại chỗ cũ trên gác thượng và yên lặng cho tới khi trời
bắt đầu tối, khi những bó đuốc đầu tiên đi qua đường phố thơm tho để chuẩn bị
thắp sáng tất cả các cửa sổ trong thành phố.
Trong
khi người khách lạ chăm chú ngắm những ánh đuốc và lắng nghe mọi tiếng động
trên hè phố, thì người chủ quán và hai tên hầu phòng bước vào dọn bàn ăn. Người
lạ không mảy may chú ý đến họ. Cropole phải lại gần người khách, kính cẩn nói nhỏ
vào tai ông ta:
- Thưa
ngài, viên kim cương đã được định giá xong.
- Thế à!
Bao nhiêu? - Người khách lạ hỏi.
- Bẩm
ngài, người thợ kim hoàn của Đức ông đòi trả hai trăm tám mươi pistoles.
- Ông
lấy tiền chưa?
- Tôi
nghĩ là phải nên lấy, thưa ngài; tuy nhiên tôi cũng ra điều kiện là viên kim
cương sẽ được trao lại ngài khi nào ngài có tiền chuộc nó.
- Đâu
có, tôi đã bảo ông bán đi mà.
- Và tôi
đã chấp thuận hoặc gần như vậy, vì tuy không bán hẳn đi, tôi cũng đã nhận tiền
rồi.
- Ông
lấy tiền phòng đi, người lạ tiếp.
- Thưa
ngài, tôi sẽ giữ lại vì đó là điều ngài bắt buộc.
Một nụ
cười buồn thoáng hiện trên môi nhà quý tộc. Ông vừa quay mặt đi vừa nói, tay
chỉ cái tủ:
- Nhờ
ông để giùm số tiền còn lại lên trên đó.
Cropole
đặt xuống một cái túi khá lớn mà trong đó ông ta đã trích ra một ít tiền thuê
phòng rồi. Ông ta nói:
- Bây
giờ thì xin ngài đừng làm chúng tôi buồn khi từ chối bữa ăn này. Bữa trưa đã
không được đụng tới rồi, thật là một điều sỉ nhục đối với nhà hàng dòng Médices
này. Đó, ngài thấy không, cơm đã dọn sẵn và xin mạn phép nói rằng nó không dở
lắm đâu.
Người
khách lạ hỏi lấy một ly rượu, miếng bánh mì và đứng ăn uống, vẫn không rời cửa
sổ.
Chẳng
mấy chốc, người ta nghe thấy tiếng quân nhạc và kèn thổi, những tiếng la cất
lên từ đằng xa, những tiếng ồn ào tràn ngập khu phố dưới, và tiếng động rõ ràng
đầu tiên đập vào tai người khách lạ là tiếng vó ngựa đang tiến lại gần. Một đám
đông ồn ào và hối hả nhắc đi nhắc lại:
- Đức
vua! Đức vua!
"Đức
vua!", Cropole cũng nhắc lại và rời bỏ vị khách quý cũng như những ý tưởng
tế nhị để thoả mãn tính hiếu kỳ của mình.
Rồi
Cropole, bà Cropole, những người phụ bếp, những người hầu va chạm chen vai thúc
cánh nhau trên thang gác chật hẹp.
Đám rước
đi chầm chậm, tiến lên dưới ngàn ánh đuốc chiếu từ hai bên đường và từ trên các
cửa sổ.
Theo sau
toán ngự lâm pháo thủ và đoàn quý tộc rất đông là chiếc xe của Đức Hồng y giáo
chủ Mazarin có bốn con ngựa ô kéo.
Những
gia nhân của Đức Hồng y giáo chủ đi phía sau.
Rồi đến
cỗ xe của Thái hậu, các nàng hầu bám bên khung cửa, các tuỳ tùng của bà phi
ngựa phò hai bên.
Sau đó
là Đức vua, ngài ngồi lên lưng con tuấn mã bờm dài dòng saxe; khuôn mặt quý
phái, thanh nhã của ngàị sáng rõ bên những bó đuốc của đám lính hầu khi ngài
giơ tay đáp lại tiếng hoan hô nồng nhiệt phát ra lừ một vài cửa sổ.
Bên Đức
vua, nhưng hơi tụt về phía sau một chút là Hoàng thân De Condé. Ông Dangeau
(Đăng-giô) và hai mươi triều thần cùng với các lính hầu và hành lý. Họ kếl thúc
cuộc diễu hành đầy long trọng theo nghi thức quân sự.
Chỉ một
vài triều thần luống tuổi là mặc y phục đi đường; hầu như tất cả đều mặc quân
phục. Người ta thấy nhiều người mang cổ cao và miếng da trâu y như thời Henri
IV và Louis XIII.
Người
khách lạ nghiêng mình ra phía trước bao lơn để trông cho rõ. Ông chống tay lên
cằm để che bớt khuôn mặt mình và cảm thấy con tim đau nhói khi nhà vua đi ngang
qua.
Tiếng
kèn đồng làm ông ta như mê mẩn, những tiếng hoan hô làm tai ông ta như ù đi, và
trong chốc lát ông không nghĩ được gì cả giữa những luồng ánh sáng chói chang,
giữa những tiếng ồn ào và những hình ảnh rực rỡ. "Hắn là vua đấy?",
ông ta lẩm bẩm thứ giọng tuyệt vọng và đầy nỗi lo âu.
Rồi
trước khi ông ta kịp quay về với thực tại thì mọi hoạt động, mọi tiếng ồn, tất
cả những vẻ hào nhoáng đều đã tan biến đi.
Phía góc
phố, dưới chân người khách lạ, chỉ còn lại vài tiếng hô lạc lõng, khản đặc:
"Hoàng thượng vạn tuế".
Cũng còn
lại sáu bó đuốc mà các cư dân ở quán trọ Médices đang cầm: hai bó của vợ chồng
Cropole và mỗi người phụ bếp một bó.
Cropole
không ngừng nhắc đi nhắc lại:
- Trông
Đức vua thật là đàng hoàng, ngài thật giống người cha trứ danh đã quá cố!
- Và
gương mặt ngài đầy kiêu hãnh? Bà Cropole thêm vào và bắt đầu lân la con cà con
kê với các ông các bà lối xóm.
Cropole
tiếp tục đưa ra những nhận xét riêng của mình mà không để ý tới một ông già đi
bộ, dắt theo một con ngựa Ireland, đang cố gắng len lỏi trong đám đông nam phụ
lão ấu tụ tập trước thềm quán Médicis.
Nhưng
đúng lúc ấy, giọng nói của người khách lạ từ cửa sổ vọng xuống.
- Xin
ông chủ quán tránh để cho người ta vào nhà!
Cropole
quay lại, thấy ông già và né một bên. Cánh cửa sổ khép lại Người đến bước vào
mà không nói một câu nào.
Người
khách lạ đón ông già tại bậc thềm, giang tay ôm lấy ông và dẫn ông tới ghế
ngồi. Nhưng ông già co mình lại, nói:
- Ồ,
không, không được, thưa ngài. Ai lại ngồi trước mặt ngài bao giờ.
Nhà quý
tộc kêu lên:
- Parry
ơi, tôi van ông, ông từ nước Anh tới xa xôi quá! Hãy nghỉ mệt một chút đi.
- Tôi
cần phải phúc đáp ngài gấp, kính thưa ngài.
- Parry
tôi xin ông, đừng nói gì bây giờ cả. Vì nếu tin có vui thì ông đã chẳng mở đầu
như thế. Ông nói vòng vo, thì chỉ có tin buồn thôi.
- Bẩm
ngài, xin ngài đừng vội bi quan như vậy. Tôi hy vọng tình thế không hoàn toàn
tuyệt vọng đâu, cần phải có nghị lực, kiên trì, nhất là lòng nhẫn nại.
- Parry
ơi, - người trẻ tuổi trả lời, - ta đã tới đây một mình, trải qua trăm nghìn cạm
bẫy và hiểm nguy: ngươi có tin nghị lực của ta không? Ta đã chuẩn bị chuyến đi
này từ mười năm nay, mặc những lời cản ngăn và những chướng ngại: ngươi có tin
ở lòng kiên nhẫn của ta không? Ta đã bán đi hồi chiều viên hột xoàn cuối cùng
của cha ta, vì ta chẳng còn gì để trả tiền thuê phòng cả và chủ nhà đã định
đuổi ta đi.
Parry
phác một cử chỉ phẫn uất mà người trẻ tuổi đáp lại bằng một cái siết tay và nụ
cười.
- Ta hãy
còn hai trăm bảy mươi tư đồng vàng pistole, và ta đang giàu đấy, ta không bi
quan đâu Parry, ngươi có tin ở lòng nhẫn lại của ta không?
Ông già
đưa đôi bàn tay run rẩy lên trời. Người khách lạ nói:
- Thôi
đừng giấu ta chi hết, chuyện gì thế?
- Tôi
xin rất ngắn gọn, nhưng lạy Chúa, xin ngài đừng run như vậy nữa!
- Tại ta
nóng lòng quá đấy thôi. Parry à. Nào, xem Đại tướng đã nói gì với ông?
- Đầu
tiên, Đại tướng không chịu tiếp tôi.
- Ông ta
tưởng ông là gián điệp đấy.
- Thưa
ngài đúng như vậy, nhưng tôi đã viết cho ông ta một bức thư.
- Thế
rồi sao?
- Ông ta
đã nhận được và đã đọc, thưa ngài.
- Bức
thư này có nói rõ thế đứng và ước muốn của ta không?
- Thưa
có chứ, - Parry buồn rẩu trả lời.- Nó diễn tả hết sức trung thực ý tưởng của
ngài.
- Thế
rồi sao, Parry?
- Thế
rồi Đại tướng sai người tuỳ tùng trả lại bức thư cho tôi và dặn rằng nếu hôm
sau mà tôi còn lẩn quẩn tại vùng thuộc quyền ông ta, ông ta sẽ cho bắt tôi.
- Bắt à?
- Người trẻ tuổi lẩm bẩm, - bắt ngươi, người hầu cận trung thành nhất của ta!
- Thưa
ngài vâng.
- Mà ông
đã ký đúng tên Parry chứ?
- Thưa
rõ từng chữ một; và người sĩ quan tuỳ tùng đã từng biết tôi trước ở Saint-
James (Xanh Giêm), - ông già vừa thở dài vừa thêm, từng ở Whitehall?
Người
trẻ tuổi khẽ nghiêng mình, vẻ tư lự, ủ dột.
Đó là
điều mà ông ta phải làm khi có mặt người của ông ta tại đó.
Vừa nói
chàng vừa cố đổi thế ngồi:
- Nhưng
còn riêng tư, lúc chỉ còn ông với ông ta, ông ta làm gì? Trả lời đi!
- Than
ôi, thưa ngài, ông ta đã phái bốn kỵ sĩ đem lại cho tôi con ngựa mà ngài đã
thấy. Các kỵ sĩ này đã hối hả dẫn tôi tới một cảng nhỏ ở Tenby (Ten-bi), ném
tôi hơn là đưa tôi xuống chiếc tàu đánh cá đi Bretagne (Brơ-ta-nhơ) và bây giờ
thì tôi ở đây, trước mặt ngài.
Người
trẻ tuổi "ồ" lên một tiếng rồi vừa thở dài vừa dùng đôi bàn tay co
giật nắm lấy chiếc cổ để vọng lên một tiếng nấc.
- Hết
rồi à, hết thật rồi à. Parry?
- Vâng
thưa ngài, hết thật rồi!
Sau câu
trả lời ngắn ngủi của Parry là một khoảng thời gian im lặng thật dài; người ta
chỉ còn nghe tiếng giày của người trẻ tuổi giận dữ nện dọc ngang trên sàn gác.
Ông già
muốn đổi sang chuyện khác vì câu chuyện cũ đã dẫn tới những ý tưởng qua đen
tối.
- Thưa
ngài, vừa rồi sao lại ồn ào náo nhiệt thế? Những người la hét "Hoàng
thượng vạn tuế", là ai vậy? Đức vua nào vậy, và vì sao lại có đèn đuốc
sáng trưng như thế này?
- Ồ!
Parry, bộ ông không hay sao, - Người trẻ tuổi chua chát trả lời.- Đó là vua
nước Pháp đi thăm viếng thành Blois đẹp đẽ của ông ta. Tất cả những kèn đồng đó
là để dành cho ông ta, tất cả những áo choàng lóng lánh là của ông ta, tất cả
những nhà quý tộc, tất cả những thanh gươm sáng loáng đó là của ông ta hết. Mẹ
ông ta đi trước trên một cỗ xe tuyệt vời cẩn vàng bạc!
- Thật
là một người mẹ sung sướng! Vị tể tướng thu về cho ông ta hàng triệu bạc và dẫn
ông ta kết hôn với một người thật giàu.
- Thế là
cả dân tộc này đều sung sướng, họ yêu mến Đức vua của họ, vuốt ve ngài bằng
những tiếng vạn tuế và họ kêu lên "Hoàng thượng vạn tuế, Hoàng thượng vạn
tuế".
- Dạ,
dạ, đúng vậy, thưa ngài - Parry nói, trong lòng lo lắng vì những đột biến của
đề tài mới này hơn là vì câu chuyện cũ.
Người
trẻ tuổi tiếp lời.
- Ông có
biết không, trong khi mẹ ruột ta, chị ta không còn tiền, không còn cơm ăn thì
tất cả vinh dự đều dồn cả vào vua Louis XIV; ông ấy có biết ta sẽ trở thành kẻ
nghèo khổ và sẽ bị đuổi ra khỏi nơi đây trong vòng mười lăm ngày khi cả châu Âu
hay được những điều nhà ngươi vừa tiết lộ! Parry có trường hợp nào mà một người
ở địa vị như ta.
- Ôi,
tôi van ngài!
- Ông có
lý, Parry, tôi quả là một thằng hèn, và nếu chính ta chẳng chịu lo gì cho mình
cả thì Chúa làm được gì? Không không, Parry ôi, ta có đôi tay, ta có thanh
gươm.
Và ông
ta vỗ mạnh vào cánh tay của mình rồi đến tháo thanh gươm treo trên tường.
- Ngài
định làm gì, thưa ngài?
- Ta sẽ
làm gì à, Parry? Đó là điều mà cả gia đình ta đã làm. Mẹ ta là ăn mày, chị ta
ăn xin hộ mẹ ta, ta cũng có đâu đó vài người anh em đang ăn xin, ta là anh cả,
ta cũng sẽ làm như tất cả bọn họ, ta sẽ đi ăn xin!.
Giọng
nói tới đây bị đứt quãng bởi tiếng cười dữ dội và nóng nảy, người trẻ tuổi thắt
thanh gươm ngang mình, nhặt chiếc nón trên nóc tủ, khoác tấm áo choàng rộng màu
đen mà ông ta đã đem theo trong suốt cuộc hành trình, rồi nắm chặt tay ông già
đang lo lắng nhìn mình.
- Parry
yêu quý của ta ơi, hãy đốt lửa lên, ăn uống rồi nghỉ ngơi đi, hãy sung sướng
lên đi chúng ta hãy sung sướng lên, hỡi người bạn trung thành của ta ơi, người
bạn duy nhất của ta, chúng ta giàu lắm như vua chúa vậy đó.
Ông ta
đấm mạnh vào túi tiền khiến nó rớt mạnh xuống đất và cất lên tiếng cười thê
thảm làm Parry vô cùng hoảng sợ.
Thế là
trong lúc cả quán đang gọi nhau ơi ới, ca hát và chuẩn bị tiếp rước các khách
trọ có người hầu tới trước thì người trẻ tuổi lặng lẽ, qua ngả phòng lớn, bước
ra đường, trong khi ông già bước ra cửa sổ ngó xuống nhìn bóng chủ mất hút
trong một phút sau đó.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
4: Nơi người lạ lộ danh tính
Qua câu
chuyện ta biết rằng Louis XIV vào thành phố Blois đã dấy lên một cảnh tượng ồn
ào, nổi bật khiến nhà vua trẻ thật thoả mãn.
Khi qua
cổng lâu đài "Các đẳng cấp", nhà vua thấy ông Hoàng Quận công Gaston
d Orléans giữa đám vệ binh và các nhà quý tộc thuộc hạ. Nét mặt Đức vua vốn
ngày thường cũng đã khá trang nghiêm, quan trọng nay lại toát thêm một dáng vẻ
sáng rực và nghiêm chỉnh mới mẻ.
Đức bà
vận lễ phục uy nghi đứng trên một bao lơn lui vào trong để đón chào người cháu
mình. Mọi cửa sổ của toà lâu đài xưa cũ lúc thường vắng vẻ và đìu hiu nay sáng
rực dưới ánh đuốc với các bà ăn mặc lộng lẫy.
Tiếng
trống, tiếng kèn, tiếng hoan hô nổi lên khi nhà vua trẻ bước qua ngưỡng cửa toà
lâu đài bảy mươi hai năm về trước Henri III phải vận dụng đến cả phản bội, mưu
sát để giữ được chiếc vương miện trên đầu mình và cho gia đình mình - chiếc
vương miện đã có lần trượt sang một gia đình khác.
Mọi con
mắt sau khi ngắm nhìn nhà vua trẻ của nước Pháp, trông thật là đẹp trai, duyên
dáng, sang trọng, lại quay sang phía ông vua Pháp thứ hai, thật khác với ông
vua đầu, thật già nua, xanh xao, còm cõi mà người ta vẫn gọi là Hồng y Mazarin.
Đương
thời, Louis XIV có đẩy đủ những tính cách trời cho của một người quý phái hoàn
toàn: mắt sáng và hiện một màu xanh biếc. Những nhà tướng số giỏi giang nhất,
khó đi sâu vào tâm hồn người nhất,nhưng khi nhìn được vào mắt nhà vua cũng
không thể dò được đến tận đáy của cái nhìn dịu dàng sâu thẳm ấy. Đó chỉ vì đôi
mắt nhà vua giống như màu xanh của trời cao thăm thẳm, hay hơn nữa như là màu
xanh ghê rợn, thu hút của biển Địa Trung Hải phía dưới lườn các chiếc tàu lướt
sóng trong một ngày mùa hạ đẹp, trải ra như một tấm gương vĩ đại kht thì lấp
lánh ánh sao, khi thì dập dồn giông bão.
Nhà vua
thấp người, chỉ vừa chừng năm bộ hai tấc nhưng sự tươi trẻ đã xoá bớt khuyết
điểm ấy nhờ cung cách khéo léo toát lên một vẻ quý phái sang cả khi ngài đi
đứng, nói năng.
Đúng
vậy, lúc bấy giờ ngài đã xứng đáng là ông vua rồi, có lẽ còn vượt trên cả ý
tưởng về vua trong thời đại của kính trọng, tôn sùng theo truyền thống này nữa,
nhưng chỉ vì từ lâu người ta ít để cho dân chúng chiêm ngưỡng ngài, còn với
những người được thấy thì lại thấy ngài bên cạnh người mẹ cao lớn, cạnh Đức
hồng y oai nghi nên trông như ngài ít đáng bậc vua và thường nói "Đức vua
không cao bằng Đức hồng y".
Dù ở
Kinh đô người ta có bàn tán ít nhiều về thân xác của nhà vua như thế, dân chúng
thành phố Blois cũng đón vua như một vị thần và được Đức ông, Đức bà - cô chú
vua, chủ nhân toà lâu đài đón rước ngài gần đúng bậc vua chúa.
Dù sao
phải nói rằng, khi nhìn thấy trong phòng khách có những chiếc ghế bằng nhau
dành cho ngài, cho Thái hậu, cho Đức hồng y, cho cô chú ngài, kín đáo khéo léo
xếp bao nửa vòng tròn của chỗ hội, Louis XIV thấy tức giận đỏ mặt và nhìn quanh
dò xét dáng mặt của những người tham dự xem sự xếp đặt có vẻ hạ nhục ấy có phải
là cố ý không, nhưng rốt lại Đức hồng y, Thái hậu và những người khác không ai
tỏ thái độ gì hết, nên ngài phải nén giận ngồi xuống và cố ý ngồi trước cả mọi
người.
Các nhà
quý tộc và phu nhân được lần lượt giới thiệu với nhà vua và Đức hồng y.
Nhà vua
nhận ra rằng Thái hậu và ngài thật ít biết tên những người được giới thiệu
trong khi trái lại Đức hồng y lại tỏ ra có trí nhớ và lanh trí lạ lùng để tiếp
chuyện họ, nói về lãnh địa, ông bà và con cái họ, có khi kể ra cả tên một vài
người, khiến những viên thuộc hạ đáng kính đó rất đỗi vui mừng và vững tin rằng
chính vị này mới thật là vua của họ, người biết hết thần dân: mà cũng vì một lẽ
khác, là mặt trời chỉ có một và đang soi sáng rờ rỡ, sưởi ấm cả thế gian.
Mọi
người không ai nghi ngờ rằng nhà vua đang quan sát kỹ càng, đang tiếp tục xem
thử trên những khuôn mặt ban đầu đối với ngài thật vô nghĩa, thật tầm thường
bây giờ có gì thay đổi không.
Một bữa
ăn nhẹ được dọn ra. Nhà vua đang nóng ruột đợi nó vì không dám đòi hỏi nơi
Hoàng thúc. Cho nên, lần này, vinh dự tiếp đón dù không đúng với thứ bậc của
ngài ít ra cũng thoả mãn được cái bụng thích ăn ngon của ngài.
Còn về
phía Đức hồng y, ngài chỉ đưa đôi môi héo hắt lướt qua món cháo đựng trong cái
chén vàng thôi. Vị đại thần có toàn quyền cực kỳ tuyệt đối này vốn từng lấy
quyền nhiếp chính từ khi Thái hậu và hiện nắm vương quyền qua nhà vua, thế
nhưng lại tỏ ra có cái bụng không tốt lắm.
Thái
hậu, Anne d Autriche cũng không ăn được nhiều như Hồng y vì đau ung thư, căn
bệnh khiến bà phải chết vào sáu bảy năm sau.
Đức ông
chẳng ăn được gì cả vì đang cuống cuồng lên với sự kiện vĩ đại này chưa từng có
trong cuộc sống nơi tỉnh lẻ.
Chỉ có
Đức bà đại diện dân Lorraine (Lo-ren) là ngồi đối đầu với nhà vua. Thế nên
Louis XIV không người tranh chấp thành ra kẻ độc nhất phải ăn gần hết bữa tiệc,
làm thoả dạ cho bà cô trước tiên và sau nữa là ông De Saint Remy, người quản
gia rất độc đáo.
Bữa ăn
xong, thấy Đức hồng y gật đầu đồng ý, nhà vua đứng dậy và theo lời mời của bà
cô, ngài đi vòng quanh khắp những người đến hội hôm nay.
Các bà
vẫn là những người có nhận xét tốt nhất, dù ở Paris hay ở Blois cũng vậy. Các
bà nhận xét rằng Luois XIV hôm nay có cái nhìn bất thần, táo bạo, hứa hẹn giá
trị của một người biết xét đoán sâu sắc. Còn các ông thì thấy rằng Nhà vua có
dáng kiêu hãnh, cao kỳ, thích ai nhìn vào mắt ngài lâu và thẳng, đều phải cúi
xuống tránh, điều đó báo hiệu ở ngài dáng dấp của một vị chủ nhân.
Louis
XIV thăm vừa khoảng một phần ba số người thì thoáng nghe một tiếng từ miệng Đức
hồng y đang nói chuyện với Đức ông.
Tiếng đó
là tên một người phụ nữ. Louis nghe lọt tên đó là không thèm nghe gì nữa cả và
ngài chẳng kể đến phần vòng cung tiếp theo đang chờ đón, ngài cứ mong bước
thẳng về phía đầu bên kia.
Đức ông
lúc bấy giờ tỏ dáng lịch sự đang hỏi thăm Hồng y về sức khỏe các cháu gái của
ngài. Năm sáu năm về trước ba cô cháu gái từ Ý đến thăm Hồng y. Đó là các tiểu
thư Hortense (Oóc tăng-xơ), Olympe (ô-lim-pơ) và Marie De Mancini. Vậy thì, bây
giờ Đức ông đang hỏi thăm sức khỏe của các cháu gái Hồng y, ngài nói rằng thật
tiếc là đã không được tiếp các tiểu thư vào trường hợp này, bây giờ chắc các cô
đã lớn đẹp và duyên dáng lắm rồi như vóc người các cô đã từng hứa hẹn ở lần gặp
gỡ trước.
Điều làm
nhà vua chú ý là quan điểm trái ngược giữa hai người đang tán chuyện. Giọng của
Đức ông thì bình tĩnh như thường ngày khi nói như trên, còn giọng của ngài
Mazarin thì vụt tăng lên một bực rưỡi so với thường ngày để trả lời lại.
Người ta
cứ tưởng rằng ngài nói như thế cốt để cho người đang còn ở cuối phòng xa có thể
nghe được.
- Thưa
Đức ông, tiểu thư De Mancini còn phải được giáo huấn cho xong đã, còn phải làm
bổn phặn và phải học hỏi đúng với vị thế của mình. Cuộc sống ở một triều đình
son trẻ và hào nhoáng sẽ làm mờ nhạt một ít những điều ấy đi.
Louis
nghe mà cười buồn. Triều đình đúng là son trẻ, nhưng vị Hồng y keo kiệt đã thu
xếp tất cả để không thể nào gọi là hào nhoáng được. Lúc đấy, Đức ông trả lời:
- Chắc
là ngài không có ý cấm cung các tiểu thư ấy hay là làm cho họ quê mùa đi chứ
gì?
- Không
đời nào. -Vị Hồng y tiếp lời mà nhấn mạnh cái ý của ngài khiến cho từ giọng êm
như nhung bỗng trở nên gắt gỏng chối tai. Không đời nào, tôi vẫn có ý gả chồng
cho nó và càng cao càng tốt.
Đức ông
trả lời độ lượng theo kiểu lái buôn dụ khách hàng.
- Khách
đông sàng không thiếu người chầu chực đâu?
- Tôi
cũng mong như thế vì cháu nó vừa đẹp đẽ, vừa duyên dáng mà cũng vừa hiền thục
nữa.
Trong
khi họ nói chuyện, Louis XIV được Đức bà tháp tùng, đi dọc hàng người chào đón.
Bà hoàng chỉ một người con gái 22 tuổi tóc hoe, to lớn có dáng như một thôn nữ
đi dự hội làng.
- Đây là
tiểu thư Amoux (Ac-nu), con gái bà thầy âm nhạc của tôi.
Nhà vua
mỉm cười và Đức bà chẳng làm cho ngài mở lời nhiều hơn nên tiếp tục:
- Tiểu
thư Anne De Montalais, cô gái đức hạnh và làm việc nhà giỏi.
Lần này
thì chẳng phải vua cười mà chính là cô gái được giới thiệu, vì đây là lần đầu
tiên trong đời cô nghe Đức bà nói về một đức tính đáng kính như thế.
Cùng lúc
ấy, Nhà vua thoáng giật mình vì nghe lọt một tiếng.
- Tiểu
thư thứ ba tên là gì ạ? - Đức ông hỏi.
Hồng y
trả lời:
- Marie.
Chắc
trong tiếng này có một sức mạnh thần bí nào đó vì như ta đã nói, Nhà vua giật
nẩy mình và lôi Đức bà đến giữa vòng người như là để tâm sự, nhưng thật ra là
để đến gần Hồng y hơn. Ngài cười nói nho nhỏ:
- Cô ơi,
thầy giáo địa lý không chịu dạy tôi rằng Blois xa Paris quá chừng.
- Gì
thế, cháu - Bởi vì phải đi xa như thế vài năm mới đuổi kịp thời trang.
- Cô
trông các tiểu thư kia kìa - mấy cô đẹp quá.
- Nói
khe khẽ một chút cháu à. Họ nghe thấy thì điên lên mất.
Nhà vua
mỉm cười nói:
- Khoan
đã, thưa cô. Câu thứ hai của tôi sẽ chữa cho câu thứ nhất. Thế này, có một vài
tiểu thư hình như đã già và một vài cô xấu đi vì thời trang mười năm trước đây.
- Ồ,
Hoàng thượng, Blois chỉ cách Paris có năm ngày đường thôi mà.
Nhà vua
nói:
- Như
thế thì tính ra mỗi ngày trễ hai năm.
- Hoàng
thượng thấy thật thế sao? Lạ thật, tôi không nhận ra?
Louis
XIV tiến về phía Mazarin lấy cớ tìm điểm ngắm, và nói:
- Cô
trông những thứ trang sức xưa rích với cái đầu tóc kiểu cách kia, rồi nhìn cái
áo dài trắng nọ. Chắc đó là của một thị nữ của Thái hậu, chắc như vậy, dù rằng
tôi không nhận ra cô ta: Hãy xem cái dáng hình giản dị, cái cung cách duyên
dáng đó! Một phụ nữ là như thế đó, còn các cô kia chỉ là áo quần mà thôi.
Đức bà
cười trả lời:
- Cháu thân
mến của tôi ơi, lần này thì cái khoa tướng số của ngài sai bét rồi. Người mà
Hoàng thượng chỉ không phải dân Paris mà là một cô gái ở Blois.
Louis
ngờ vực:
- Ô,
thực sao, thưa cô?
- Louise
lại đây!
Và cô
gái bước tới, thẹn thùng, đỏ mặt, gần như cúi gập mình vì bắt gặp cái nhìn
vương giả.
Đức bà
long trọng nói:
- Đây là
tiểu thư Louis - Francoise De La Baume - Leblanc con gái của hầu tước De La
Vallière.
Cô gái
uyển chuyển cúi mình chào trong dáng điệu bối rối thẹn thùng cùng cực trước Nhà
vua khiến cho ngài vì nhìn nàng mà mất một vài tiếng trong câu chuyện giữa Hồng
y và Đức ông. Tiếng Đức bà tiếp tục:
- Đây là
dâu của ông De Saint Remy, quản gia của tôi, người chủ trì công việc sửa soạn
cho món gà tây nhồi nấm mà Hoàng thượng hết sức khen đó.
Lời giới
thiệu đó thật có tác dụng hơn bất cứ sự duyên dáng, đẹp đẽ, tươi trẻ nào. Nhà
vua mỉm cười. Dù lời nói của Đức bà chỉ là một lời nói đùa hay khờ khạo thì nó
là ngọn lửa tàn nhẫn đốt cháy hết tất cả những gì Louis vừa thấy là duyên dáng,
thơ mộng nơi cô gái kia. Tiểu thư De La Vallière, qua ý tưởng của Đức bà, rồi
chuyển qua Nhà vua, chỉ còn là dâu của một người có tài hơn người về việc nấu
cơm gà tây nhồi nấm thôi.
May mắn
là Louis cúi xuống quá thấp nên không nghe được lời của Đức bà và cũng không
thấy được cả cái cười mỉm của Nhà vua. Cô bé khốn khổ kia vì có khiếu hay vì
may mắn chỉ có mình là chọn màu trắng giữa các phụ nữ nơi đây, cô bé ngây thơ
như chim câu dễ dàng xúc động đó, nếu cô nghe được những lời ác độc của Đức bà,
nếu cô thấy được nụ cười lạnh nhạt ích kỷ của Nhà vua, hẳn là cô phải ngã xỉu
đi ma chết mất thôi. Nhưng như chúng ta đã nói, Louis đang ù tai, quáng mắt
không nghe, không thấy gì hết, trong khi Nhà vua vội vã quay về lắng nghe câu
chuyện giữa Hồng y và Đức ông. Đúng vào lúc đó, Mazarin chấm dứt câu chuyện.
- Marie
và các chị em nó lúc này đang đi Brouage. Tôi bảo chúng đi dọc sông Loire phía
bờ đối diện với đường chúng tôi đã đi, cho nên nếu chúng theo lời tôi thì chỉ
ngày mai là tới Blois rồi.
Những
lời ấy đưa ra với một kiểu cách tế nhị, mực thước, một giọng đầy tự tin, cố ý
và có tầm mức sâu xa khiến cho ngài Giulio Mazarin đúng là người kịch sĩ đứng
bậc nhất trên thế giới. Những lời ấy thẳng vào trái tim của Louis XIV.
Hồng y
chỉ cần quay lại khi nghe tiếng chân của Nhà vua bước tới là thấy ngay hiệu quả
trên mặt của đồ vệ mình, nơi đôi mắt ngượng ngùng long lanh. Nhưng mà con cáo
già trong hai mươi năm nay đã lừa mọi nhà ngoại giao châu Âu, bây giờ đang
giương cái bẫy gì đó?
Hình như
là từ khi nghe những lời sau cùng đó, ông vua trẻ đã bị ghim một gai độc. Ngài
không đứng yên được và đưa mắt nhìn khắp mọi người trong phòng. Có đến hai mươi
lần ngài dò hỏi nơi Thái hậu, nhưng vị quốc mẫu này đang vui chuyện với cô em
dâu và cũng bị cái liếc của Mazarin hấp dẫn nên không thể nhận ra cái nhìn cầu
khẩn của người con.
Tù đó
thì âm nhạc, hoa, ánh sáng, các nàng, tất cả đều trở nên xấu xí, vô nghĩa đối
với Louis XIV. Sau khi cắn môi cả hàng trăm lần, duỗi tay chân kiểu như một đứa
bé có giáo dục không muốn ngáp trước mặt mọi người, nhưng là để bầy tỏ hết mọi
sự chán nản cùng cực, ngài bèn đưa cặp mắt tuyệt vọng nhìn về phía cửa, nghĩa
là phía của giải thoát.
Ngài
bỗng thấy trên khung cửa nổi lên một khuôn mặt nâu sạm và chứng tỏ một dáng đẹp
hùng dũng với chiếc cổ áo cao lấp loáng phản chiếu mọi ánh sáng rọi vào đó.
Người sĩ quan này đội chiếc mũ màu tro có giắt bông đỏ chứng tỏ rằng ông tới
đây là vì công việc chứ không phải vì vui chơi. Nếu là ham vui mà tới, nếu ông
là triều thần chứ không phải lính tráng, thì ông phải cầm mũ nơi tay theo lẽ
thường là có hưởng thụ thì phải chịu luỵ một chút.
Điều
khác chứng tỏ rằng ông đến vì công việc và đang thi hành phận sự quen thuộc, đó
là ông khoanh tay, dáng điệu thản nhiên đến mức lạnh lùng đứng nhìn cuộc lễ hội
có vui vẻ xen lẫn buồn chán này.
Người
lính lâu năm nào thì cũng thành triết nhân và người này, có vẻ hiểu rất rõ
những nỗi chán nản hơn là sự vui tươi, biết ngày vui bao giờ cũng chóng tàn và
chỉ còn nỗi chán chường ở lại thôi.
Ông đứng
đó, dựa vào khung cửa chạm trổ và tình cờ bắt gặp cái nhìn buồn bã, mệt mỏi của
Nhà vua.
Có vẻ
không phải đây là lần đầu người sĩ quan bắt gặp đôi mắt ấy để hiểu đầy đủ ý
nghĩa những gì chúng biểu lộ, cho nên ngay sau khi lướt qua dáng hình của Louis
XIV, thấy rõ tâm trạng của Nhà vua, ông hiểu là đến lúc phải phục vụ và mạnh
dạn kêu to như khi đứng giữa một đoàn kỵ binh nơi chiến trường:
- Ngự
lâm quân đâu?
Tiếng
kêu vang như sấm chuyển qua suốt cả ban nhạc, đoàn ca, cả những tiếng rì rầm,
những người đang đi dạo qua lại khiến cho Thái hậu và Hồng y phải ngạc nhiên
nhìn Nhà vua.
Louis
XIV, xanh mặt nhưng quyết tâm vì thấy người sĩ quan ngự lâm đã đoán được ý mình
và thay mình ra lệnh nên đứng dậy và bước ra cửa. Thái hậu hỏi:
- Con đi
đấy à?
Trong
khi đó Hồng y chỉ đưa mắt nhìn dò hỏi, đôi mắt xuyên suốt nên không thể nào làm
dáng dìu dàng được. Nhà vua trả lời:
- Thưa
mẹ, vâng. Con thấy mệt và cũng muốn ghi chép ít việc tối nay.
Trên môi
của viên đại thần thoáng một nụ cười và hình như ông gật đầu chào vua. Đức ông
và Đức bà vội vã gọi các nhân viên đến trình lời tiễn biệt.
Nhà vua
chào xong, bước qua phòng và ra đến cửa.
Trước
cửa có hàng rào hai mươi lính ngự lâm đợi chờ. Nơi đầu hàng quân là viên sĩ
quan cứng cỏi nọ, tay cầm kiếm. Nhà vua đi qua, mọi người cố kiễng gót để được
nhìn rõ mặt. Mười ngự lâm quân dẹp đám đông ở phòng ngoài và nơi các bậc thềm
để nhường lối cho Nhà vua. Còn mười người khác thì tháp tùng Nhà vua và Đức ông
đi tiễn.
Những
người phục vụ sau rốt.
Đoàn hộ
vệ nhỏ bé này theo Nhà vua đến tận căn phòng dành sẵn. Gaston nói:
- Căn
phòng thật không làm sao xứng đáng được với ngài, nhưng xin Hoàng thượng vui
lòng cho.
Ông
hoàng trẻ trả lời:
- Xin
chúc điều tốt lành cho chú khi đã tiếp đón tôi như thế này.
Gaston
chào, được hôn từ giã, rồi bước đi.
Trong
hai mươi người lính ngự lâm đi theo Nhà vua, mười người lại đưa đức ông trở về
phòng tiếp tân vẫn còn dày đặc người tuy rằng Nhà vua không còn ở đấy nữa. Mười
người còn lại được chia các vị trí canh gác và người sĩ quan cứ mỗi năm phút
lại đi tuần tra các vọng gác với đôi mắt lạnh lùng thành thạo. Khi xếp đặt
xong, ông đặt bản doanh nơi tiền phòng có sẵn một chiếc ghế dựa lớn, một cây
đèn, có rượu, có nước và bánh mì khô. Ông vặn đèn cao lên, uống nửa ly rượu
vang, ngồi trong chiếc ghế bành và cố sức dỗ giấc ngủ.
Người sĩ
quan đang ngủ hay đang cố ngủ ấy trông có dáng không ưu tư, nhưng thật ra là
mang một trọng trách lớn. Làm phó quan tổ chức ngự lâm quân, ông điều khiển cả
đại đội ngự lâm mang từ Paris đến gồm một trăm hai mươi người. Hai mươi người
đang theo nhà vua, còn trăm người khác là lo bảo vệ cho Thái hậu và Hồng y.
Ngài Giulio Mazarin hà tiện bớt số tiền phải chi tiêu cho toán hộ vệ riêng của
ngài bằng cách sử dụng các ngự lâm quân và sử dụng rộng rãi là khác, vì ngài
dùng đến năm mươi người theo một mức độ đặc biệt quá lộ liễu, quá khiếm nhã đối
với một người ngoại quốc được ân huệ của triều đình này.
Chuyện
càng khiếm nhã thêm, nếu không nói là quá lạ lùng đối với người ngoại quốc này,
là phía lâu đài dành riêng cho ngài Hồng y lại sáng choang, nhộn nhịp. Lính ngự
lâm gác từng tốp trước các cửa và chặn lại không cho ai vào hết, trừ những
người truyền tin lúc nào cũng đi theo Hồng y để chuyển lệnh, cả những khi nghe
ngài đi dạo.
Hai mươi
người làm việc phía Thái hậu, còn ba mươi người thì để ngày mai thay phiên các
bạn mình.
Trái
lại, phía lầu Nhà vua thì tối tăm lặng lẽ và cô tịch.
Cửa đóng
lại rồi thì chẳng còn có dáng gì là của Hoàng đế cả.
Người
hầu cận cứ từ từ rút đi hết. Ông hoàng Gaston có sai người đến hỏi xem Nhà vua
có cần gì ông không, và sau tiếng không nhạt nhẽo của người sĩ quan ngự lâm vốn
từng quen những câu hỏi đáp như thế rồi, tất cả căn lều đều ngập chìm vào trong
giấc ngủ như ở nhà một bậc trưởng lão tốt bụng vậy.
Nhưng từ
phần lầu vua ở này, có thể dễ dàng nghe được tiếng nhạc của lễ hội, và nhìn
được các cửa sổ sáng choang đủ màu sắc của phòng hội. Mười phút sau khi về,
Louis XIV có thể nhận thấy Hồng y ra về, vì ngài có cái lối ra đi náo nhiệt
riêng biệt, mang theo một số rất lớn các nhà quý tộc, các bà tiễn đưa.
Với lại
chuyện đó thì cũng chỉ cần nhìn qua cánh cửa sổ không khép là đã thấy hết.
Bậc tôn
quý đi qua sân có Đức ông cầm đuốc dẫn rồi sau đó là Thái hậu có Đức bà thân
mật cầm tay, cả hai thì thầm tâm sự trên suốt đoạn đường. Phía sau hai cặp này
là các mệnh phụ, cận thần, quan chức kéo dài đoàn diễn, các cây đuốc bập bùng
sáng rực như trong một đám cháy, thế rồi những bước chân, tiếng nói cười tắt
dần trong các tầng lầu trên cao, chẳng ai còn nghĩ đến ông vua chống khuỷu tay
trên cửa sổ đang buồn bã ngồi nhìn cả làn sóng ấy trôi qua, nghe những tiếng ồn
ấy xa dần. Chẳng ai cả, chỉ trừ người khách lạ trong quán trọ Médices mặc chiếc
áo choàng đen vừa bước ra.
Nét mặt
buồn bã, ông ta tiến thẳng đến toà lâu đài, đi rảo quanh cung điện vẫn còn
người. Thấy không ai giữ cửa, giữ cổng, - chắc vì tên lính của Đức ông đang tán
tỉnh làm quen với lính nhà vua, nghĩa là đang nhậu lén - mà chẳng lén gì cả,
người lạ len lỏi qua đám đông, vượt khoảng sân, tiến đến tận bậc thềm đẫn lên
lầu mà Hồng y đang ngủ.
Ông ta
hướng về đấy có lẽ vì đèn đuốc sáng choang, vì các cận thần và quan chức tụ tập
ồn ào. Nhưng một loạt tiếng các khẩu súng lắc cắc chuyền dài và tiếng người
lính canh la lên khiến ông ta phải đứng sững lại.
- Đi đâu
đấy ông bạn?
Người lạ
bình tĩnh trả lời:
- Tôi
đến gặp Hoàng thượng.
Người
lính báo với một sĩ quan của bậc quý nhân; người này nói với giọng của người
tuỳ phái văn phòng Bộ đưa ra khi có ai đến cầu việc:
- Qua
thang lầu đối diện bên kia kìa.
Thế rồi,
chẳng cần quan tâm đến khách lạ nữa, ông ta quay về tiếp tục câu chuyện đang bỏ
dở.
Người
khách lạ cũng chẳng buồn mở miệng, cứ bước theo lời chỉ dẫn. Phía này chẳng có
ai cười nói, chẳng có đèn đuốc. Chỉ có cảnh tối mò, trong đó một người lính gác
đi lại như chiếc bóng. Sự yên tĩnh tới mức người ta có thể nghe tiếng bước chân
qua lại và tiếng miếng sắt thúc ngựa vang lên trên lớp gạch lát nhà.
Người
lính gác này thuộc số hai mươi ngự lâm quân phục vụ vua đang lên phiên theo
kiểu một bức tượng cứng nhắc và vô tình. Hắn hỏi:
- Ai
đấy?
- Bạn -
Người lạ trả lời.
- Muốn
gì?
- Nói
chuyện với Hoàng thượng.
- Ồ, ồ,
không thể được nữa rồi, ông khách thân mến ạ.
- Sao
thế?
- Vì
Hoàng thượng ngủ rồi.
- Ngủ
rồi?
- Ừ
- Kệ,
làm sao tôi cũng cần gặp.
- Nhưng
tôi đã nói là không thể được mà.
- Nhưng…
- Thôi
đi đi!
- Lệnh
như thế à?
- Tôi
chẳng phải cần báo cáo với anh. Đi đi!
Và lần
này người lính gác tỏ cử chỉ đe doạ theo với lời nói, nhưng người lạ vẫn không
nhúc nhích như thể là chân đã mọc rễ rồi. Ông ta nói:
- Thưa
ngài ngự lâm, có phải ngài thuộc hàng quý tộc không?
- Rất
hân hạnh.
- Thế
thì, tôi cũng vậy, và giữa những nhà quý tộc với nhau thì phải nể mặt nhau chút
ít.
Người
lính gác hạ súng xuống trước những lời thuyết phục đáng nể vì ấy. Anh ta nói:
- Thưa
ông, cứ nói đi, nếu sức tôi có thể làm được thì…
- Cám
ơn. Có sĩ quan ở đây không?
- Thưa
ông có.
- Thế
thì cho tôi nói chuyện với ông ấy.
- Dễ
thôi. Mời ông bước lên.
Người
khách lạ trịnh trọng chào người lính gác và bước lên thềm trong khi tiếng kêu:
"Phó quan có khách" chuyển từ người gác này qua người khác đi trước
kẻ lạ và làm xáo động nhóm người của viên sĩ quan.
Ông ta
kéo lê đôi bết, dụi mắt và gài vội cái áo choàng để tiến tới đón người lạ, hỏi:
- Có
việc gì cần đến tôi đây, thưa ông?
- Ông là
sĩ quan trực, phó quan ngự lâm!
- Rất
hân hạnh.
- Thưa
ông, tôi rất cần được gặp Hoàng thượng.
Người
phó quan nhìn kỹ kẻ lạ mặt và dù chỉ mới thoáng qua ông cũng vẫn thấy rõ điều
ông muốn biết, đó là một dáng vẻ đặc biệt ẩn sâu bên trong bộ áo ngoài bình
thường. Ông nói:
- Không
thể cho là ông điên khùng được, nhưng chắc là ông phải có lý do vào hầu chuyện
Hoàng thượng mà chưa có sự đồng ý chứ?
- Thưa
ông, rồi Hoàng thượng sẽ đồng ý.
- Thưa
ông, chưa chắc. Hoàng thượng vừa mới trở về phòng một khắc trước đây và bây giờ
chắc đang thay áo. Vả lại, lệnh đã ra rồi.
Người
khách lạ ngẩng đầu lên trả lời:
- Khi
Hoàng thượng biết tôi là ai thì ngài sẽ rút lệnh ấy lại.
Viên sĩ
quan càng lúc càng ngạc nhiên, càng lúc càng bị thuyết phục.
- Nếu
tôi vào báo thì chắc tôi cũng phải được biết quý danh tính?
- Ông
vào báo tôi là Hoàng đế Charles II, vua nước Anh, Scotland và Ireland.
Viên sĩ
quan thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc lùi lại và trên khuôn mặt nâu sạm hiện rõ
những nét xúc động sâu sắc của những con người có nghị lực thường cố gắng che giấu
tận trong tâm hồn.
- Ồ,
vâng, thưa ngài; đáng lẽ tôi phải nhận ngay là ngài đấy ông đã thấy hình tôi
rồi à?
- Thưa
chưa.
- Hay là
ông đã thấy tôi ở triều đình, trước khi người ta đuổi tôi qua Pháp?
- Thưa
ngài, cũng không phải vậy.
- Thế
thì làm sao ông biết được tôi?
- Thưa
ngài, tôi đã gặp Hoàng đế cha ngài vào một thời điểm kinh khiếp. Ngày mà…
- Thưa
vâng.
Một áng
mây mờ thoáng qua. Trên trán ông hoàng, rồi ông ta khoát tay, nói:
- Sao
còn có gì trở ngại nữa không?
Người sĩ
quan đáp:
- Thưa
ngài, xin lỗi, tôi không thể tưởng được một ông vua đưới hình dạng đơn sơ như
thế này. Với lại, lúc nãy tôi đã nói là tôi có dịp trông thấy Hoàng đế Charles
I… À mà xin lỗi, để tôi vào báo.
Rồi ông
lại quay lui, hỏi:
- Chắc
Hoàng thượng muốn giữ kín buổi hội kiến này phải không ạ?
- Tôi
không đòi hỏi, nhưng nếu có thể được thì.
- Được
chứ ạ, vì tôi có thể vào thẳng nơi vua ở, không phải qua viên cận thần túc
trực. Nhưng xin Hoàng thượng để tôi giữ thanh kiếm.
- Đúng
vậy. Tôi quên là không ai được mang kiếm trong cung vua Pháp.
- Hoàng
thượng là ngoại lệ, nhưng như vậy thì tôi phải chia bớt trách nhiệm cho viên
nội thần.
- Kiếm
tôi đây, thưa ông. Bây giờ thì ông vui lòng vào báo rồi chứ?
- Chỉ
một lát thôi, thưa ngài.
Thế rồi
viên sĩ quan chạy vào gõ cánh cửa và người hầu phòng ra mở. Ông hô lớn:
- Hoàng
đế nước Anh đến!
Người
hầu phòng lập lại:
- Hoàng
đế nước Anh đến!
Nghe
tiếng hô, một cận thần ra mở toang hai cánh cửa và người ta thấy Louis XIV,
không mũ, không gươm, áo chưa kịp cài, hấp tấp bước tới, dáng điệu ngạc nhiên
hết sức.
- Kìa,
người anh em của tôi! Không ngờ người lại có mặt ở Blois này, - Louis XIV kêu
lên, vừa khoát tay đuổi viên cận thần qua phòng bên cạnh.
Charles
II trả lời:
- Thưa
ngài, tôi đi Paris hy vọng gặp Hoàng thượng, không ngờ tiếng đồn rằng ngài sắp
tới đây, nên tôi nán ở lại vì có chuyện muốn thưa cùng ngài.
- Căn
phòng này có vừa ý ngài không, hỡi người anh em của tôi!
- Thưa
ngài, rất hợp, tôi chỉ sợ có ai nghe thấy.
Tôi đã
đuổi người cận thần và người gác đêm qua phòng bên rồi. Sau bức vách này là một
phòng trống có lớp tiền phòng, ngài đã thấy chỉ có một người sĩ quan thôi. Đúng
không?
- Thưa
ngài, vâng.
- Thế
thì, người anh em hãy nói đi, tôi nghe đây.
- Thưa
Hoàng thượng, tôi bắt đầu đây và mong ngài xót thương đến gia đình điêu linh
của chúng tôi.
Nhà vua
nước Pháp đỏ mặt và kéo chiếc ghế ngồi đến bên ông vua nước Anh. Charles II
nói:
- Thưa
Hoàng thượng, tôi không rõ ngài có biết những chi tiết về cuộc đời khốn khổ của
tôi không?
Louis
XIV đỏ mặt hơn lần trước rồi nắm lấy tay vua Anh, nói:
- Người
anh em ạ, nói ra thì xấu hổ, nhưng quả thực Hồng y rất ít khi nói chuyện chính
trị với tôi. Tệ hơn nữa là ngày xưa tôi có nhờ gã hầu phòng Laporte đọc cho
nghe chuyện lịch sử, nhưng ông ta lấy Laporte của tôi đi, không cho đọc nữa, vì
thế tôi phải xin phép người anh em kể lại hết cho tôi nghe cứ như nói với một
người chẳng biết gì hết.
- Thế
thì, thưa Hoàng thượng, phải kể lại từ đầu, chắc là tôi lại có may mắn gợi thêm
lòng thông cảm của ngài.
- Nói
đi, người anh em cứ nói đi.
- Thưa
ngài, hẳn ngài biết rằng năm 1650, trong khi Cromwell cầm quân ở Irlande, tôi
được mời về Edimbourg và lên ngồi ở Stone. Một năm sau, Cromwell tấn công vào
chúng tôi sau khi bị thương ở một tỉnh thành đã chiếm. Mục đích của tôi là đối
đầu với hắn ta và tôi cũng muốn đi khỏi xứ Scotland.
-
Scotland hầu như là nơi chôn nhau cắt rốn của ngài vậy người anh em ạ.
- Vâng,
nhưng dân Scotland đúng là những đồng bào hung tợn. Thưa ngài, họ bắt tôi từ bỏ
tôn giáo của cha mẹ tôi, họ treo cổ Lord Montrose, người giúp việc trung thành
nhất của tôi chỉ vì người này không phải là người cùng bọn. Người tử vì đạo đó,
theo ân huệ được ban trước khi chết, đã mong rằng thân xác của ông được chia
đều cho khắp các thành phố của Scotland để ai cũng thấy lòng trung thành của
ông và do đó đi đâu tôi cũng gặp một mảnh xương thịt của con người đã hành
động, chiến đấu từng hơi thở của chính tôi.
Theo một
cuộc hành quân táo bạo, tôi đi xuyên qua đạo quân của Cromwell và tiến thẳng về
Anh. Người Bảo trợ (Cromwell được tôn là Người bảo trợ nền cộng hoà) rượt đuổi
theo, cố theo kịp bước đường trốn chạy lạ lùng của chúng tôi nhắm vào ngai vàng
là chính. Nếu tôi tới London trước hắn thì chắc chắn phần thưởng của cuộc chạy
đua ấy sẽ về tôi, nhưng hắn chặn tôi được ở Worcester.
Thần
thánh nước Anh không ở về phía chúng tôi nữa mà ở phía hắn. Thưa ngài, ngày
3-9-1651, đúng ngày kỷ niệm trận chiến Dumbar khốn khổ cho dân Scotland, tôi
lại bị thất bại nữa. Hai ngàn người đổ gục quanh tôi trong lúc tôi quyết chiến
không chịu lùi bước. Cuối cùng phải chạy thôi. Từ đó thì chuyện tôi trở thành
tiểu thuyết. Tôi bị truy đuổi đến cùng cực, tôi phải cắt tóc ngắn, cải trang
thành người tiều phu. Có bữa tôi phải leo lên một cây sồi trốn cả ngày và do đó
có tên Cây sồi của vua còn đến bây giờ. Chuyện phiêu lưu phong hầu quốc De
Stafford tôi mang trên yên ngựa người con gái của hầu tước, chuyện ấy người ta
vẫn loan truyền lại trong một đêm không ngủ. Thưa ngài, đến một ngày nào đó tôi
sẽ viết lại mọi chuyện, để dạy dỗ những vị vua anh em của tôi.
Chẳng
hạn, tôi sẽ kể lại rằng, khi đến nhà ông Norton tôi gặp một ông mục sư của
triều đình mải mê xem trò chơi ném chai, gặp một người hầu cận cũ kêu tên tôi
mà nước mắt chảy ròng ròng và vì lòng trung thành mà suýt giết tôi như là một
kẻ khác mang lòng phản bội hại tôi. Sau rốt, tôi sẽ nói về những nỗi kinh hoàng
của tôi.
- Thưa
ngài, vâng, nhưng nỗi kinh hoàng khi tôi đang ở nhà đại tá Windham thì một tay
thợ bịt móng đến quan sát ngựa của chúng tôi, tuyên bố rằng đã được đóng móng
tận miền Bắc.
Louis
XIV lẩm bẩm:
- Thật
lạ là tôi không biết gì hết. Tôi chỉ biết là ngài đổ bộ ở Brighelmsted và ở
Normandie thôi.
Charles
II kêu lên:
- Ôi lạy
chúa, nếu vua không biết chuyện của nhau thì làm sao cứu nhau được?
Louis
XIV tiếp tục:
- Nhưng
người anh em ơi, như ngài đã bị đối xử tàn nhẫn ở xứ Anh như thế thì vì lẽ gì
ngài hy vọng vào cái xứ khốn khổ này với đám dân chúng ham chống đối này?
- Ồ,
thưa ngài, đó là vì từ trận chiến Worcester, mọi việc đã đổi thay nhiều.
Cromwell chết đi sau khi ký một hiệp ước với nước Pháp và trong đó hắn ký tên
ngay phía trên ngài. Hắn chết ngày 3-9-1658, lại một ngày kỷ niệm nữa của các
trận chiến Worcester và Dunbar.
- Con
hắn ta lên thay rồi.
- Nhưng
thưa ngài, nhiều người có gia đình con cái mà không có vẻ như được nối nghiệp.
Gia tài của Olivier quá nặng nề đối với Richard. Richard không phải thuộc phe
Dân chủ mà cũng không phải là Bảo hoàng. Richard để mặc cho những người hộ vệ
ăn chặn bữa cơm của hắn ta, và để các phụ tá chia nhau cai trị đất nước.
Richard đã từ chức hôm 22-4-1659, hơn một năm rồi đấy, thưa ngài. Từ lúc ấy,
nước Anh chỉ là cái sòng bạc mà người ta lấy chiếc vương miện của cha tôi đem
ra làm giải. Hai tay chơi lâu nhất là Lambert và Monck. Thưa ngài, bây giờ đến
lượt tôi, tôi cũng muốn chen vào hội, để tranh áo bào.
- Thưa
ngài, cần một triệu để làm sa đoạ các tay đánh bạc này, để tôi có đồng minh hay
có thể là cần hai trăm nhà quý tộc của ngài để đuổi họ ra khỏi cung White-Hall
của tôi, như xưa kia Jesus đã đuổi các tay buôn thần, bán thánh.
Louis
XIVgiật mình:
- Thế
nghĩa là ngài đến để hỏi tôi…
- Nhờ
ngài giúp đỡ, nghĩa là không phải như bổn phận của các ông vua với nhau mà còn
như những người Thiên chúa giáo bình thường nữa. Thưa ngài, giúp đỡ hoặc bằng
liền bạc, hoặc bằng nhân lực. Ngài giúp, chỉ khoảng chừng một tháng, tôi sẽ
dùng Lambert chống Monck hay dùng Monck chống Lambert và tôi chiếm lại được tài
sản ông cha của tôi mà không tốn thêm một guinée (ghi-nê) của đất nước tôi, một
giọt máu của thần dân tôi, bởi vì bọn kia đang say sưa với cách mạng, với bảo
hộ và dân chủ và không muốn gì hơn là ngất ngưởng, ngủ say trên ngai vàng.
Hoàng thượng giúp thì tôi sẽ hàm ơn hơn cả cha tôi. Người cha khốn khổ đã phải
trả giá đắt vì sự tàn tạ của gia đình! Ngài thấy đây, tôi khốn khổ như thế này,
tôi tuyệt vọng hết mực, vì thế mà tôi phải nặng lời với cha tôi?
Charles
II ấp mặt vào hai bàn tay nhưng khuôn mặt tái nhợt ấy bỗng đỏ lên, lựa như xấu
hổ vì những lời bất hiếu ấy.
Ông vua
trẻ Louis XIV cũng khổ sở không kém. Ông cựa quậy trong chiếc ghế bành mà không
nói lên được tiếng nào, cuối cùng, Charles II, vì lớn hơn 10 tuổi, đè nén được
cảm xúc dễ hơn, nên lên tiếng trước:
- Thưa
ngài, ngài trả lời thế nào? Tôi chờ ngài như một người tử tội chờ ngưng xử. Tôi
đành chịu chết chăng?
Ông
hoàng Pháp trả lời Charles II:
- Người
anh em ơi, ngài hỏi tôi vay một triệu, mà lại hỏi nơi tôi đấy? Nhưng một phần
tư số đó tôi cũng chẳng có nữa là! Tôi chẳng có gì hết. Tôi chẳng phải vua nước
Pháp cũng như ngài chẳng phải là vua nước Anh vậy. Tôi chỉ là một cái tên, một
con số mặc áo quần thêu hoa gấm, chỉ có thế thôi. Tôi ngồi trên một cái ngai ai
cũng thấy, đó là điểm tôi hơn ngài còn tiền, tôi không có gì hết, tôi không làm
được gì hết.
Charles
II kêu lên:
- Đúng
thế sao?
Louis hạ
thấp giọng:
- Người
anh em của tôi ơi, tôi chịu đựng nghèo khổ còn hơn quần thần nghèo nhất của tôi
nữa. Nếu Laporte đáng thương của tôi còn ở đây, hắn sẽ kể cho ngài nghe rằng
tôi ngủ, chân tôi thọc qua tấm nệm rách. Hắn sẽ kể cho ngài nghe rằng, sau này,
khi tôi cầm chiếc long xa, thì người ta sẽ đem lại cho tôi mấy cái xe ngựa bị
chuột gặm hết một nửa rồi. Hắn sẽ kể cho ngài nghe, khi tôi bảo dọn bữa, người
ta sẽ đến nhà bếp của Hồng y để hỏi còn có gì cho vua ăn không. Và ngài hãy xem
kìa, ngay ngày hôm nay, ngày tôi được hai mươi tuổi, ngày tôi đủ tuổi trưởng
thành với địa vị chúa tế, đáng lẽ tôi phải nắm được chìa khoá kho tàng, điều
khiển được guồng máy chính trị, quyết định được hoà hay chiến, thế mà chung
quanh tôi đây có cái gì không: chỉ có sự bỏ rơi, sự khinh miệt, sự im lặng
trong khi ngài xem đằng kia, bao nhiêu là nhộn nhịp, bao nhiêu là ánh sáng, bao
nhiêu là tung hô! Ngài thấy đó, đó mới chính thực là ông vua nước Pháp, người
anh em của tôi ạ.
- Đằng
điện của Hồng y?
- Vâng,
đằng điện Hồng y?
- Thưa
ngài, thế thì tôi chịu chết rồi.
Louis
XIV không trả lời.
- Đúng
là chịu chết bởi vì chẳng bao giờ tôi đi cầu xin những người đã để cho mẹ tôi,
em tôi, nghĩa là con cháu của Henri IV phải chịu chết vì đói và lạnh nếu ngài
De Retz và nghị viện không chịu gởi cho họ củi và bánh mì.
Louis
XIV khẽ thốt lên.
- Chết.
Ông vua
Anh tiếp tục:
- Còn kẻ
khốn khổ là Charles II, cháu của Henri IV như ngài, vì không có nghị viện cũng
không có Hồng y De Retz, cũng sẽ chết như mẹ và em hắn suýt bị như vậy.
Louis nhíu
mày, vân vê mãi, chiếc cổ tay áo ren. Dáng điệu lặng yên, không nói lên lời ấy
rõ ràng là dấu hiệu của một cơn xúc động đè nén từ bên trong, khiến cho Charles
II phải động lòng đưa ra nắm tay ông vua trẻ, nói:
- Cảm ơn
người anh em của tôi. Ngài thông cảm giùm tôi, đối với tôi thế cũng là đủ trong
hoàn cảnh như thế này của ngài.
Louis
XIV bỗng ngửng đầu lên nói:
- Thưa,
có phải ngài cần một triệu bạc hay hai trăm người như ngài nói không ạ?
- Thưa
ngài, một triệu là đủ.
- Ít
quá!
- Đưa
cho một người như thế là đã quá nhiều. Thường thì lòng tin không đắt đến thế
đâu, lâu nay tôi chỉ tiếp xúc với toàn những kẻ vụ lợi thôi.
- Ngài
nghĩ xem, hai trăm người chỉ là hơn một đại đội thôi.
- Thưa
ngài, trong gia đình chúng ta đã có truyền thống, đó là chuyện bốn người, bốn
nhà quý tộc Pháp trung thành với cha tôi, suýt nữa đã cứu được cha tôi, người
bị một nghị viện kết án, chung quanh có cả quân đội canh gác, cả một chính
quyền bao vây.
Thế là
nếu tôi có thể đưa một triệu hay hai trăm người, thì ngài sẽ thoả mãn và sẽ coi
tôi là người anh em xứng đáng phải không?
- Sẽ coi
ngài là người cứu vớt tôi, và nếu tôi lấy lại ngôi được, thì chừng nào tôi còn
làm vua, nước Anh sẽ là anh em của nước Pháp như ngài với tôi vậy.
Louis
đứng dậy, nói:
- Việc
nhà tôi không muốn làm cho mình, không làm được cho mình, tôi sẽ cố làm cho
ngài. Tôi sẽ tìm ông vua nước Pháp kia, con người giàu có, con người đầy quyền
uy đó, để tìm một triệu đồng hai hai trăm người cần thiết.
Charles
kêu lên:
- Ôi
ngài đúng là một người bạn tốt, một người có tấm lòng của Chúa ban! Ngài đã cứu
tôi và lúc nào ngài cần đến cái mạng sống này thì cứ bảo tôi.
Louis
nói thật nhỏ:
- Suỵt!
Suỵt người anh em ạ. Coi chừng người ta nghe dược. Chưa xong việc đâu! Đi hỏi
tiền ở Mazarin còn khó hơn đi qua được một khu rừng yêu tinh mà mỗi một cái cây
là có một con trấn giữ; còn hơn là đi chinh phục cả thế giới kia!
- Nhưng,
thưa ngài, nếu như chính ngài hỏi xin!
- Tôi đã
nói với ngài là chẳng bao giờ tôi hỏi xin cả!
Louis
trả lời với một giọng kiêu hãnh làm xanh mặt ông vua nước Anh. Và khi thấy
Charles II muốn rút lui có lẽ vì bị chạm tự ái, ông vội tiếp:
- Xin
lỗi người anh em, tôi không có một người mẹ, người em gái đang phải chịu khốn
khổ, chiếc ngai của tôi không êm và trống trơn, nhưng tôi đang thật sự ngồi
trên ngai. Xin lỗi, người anh em chớ chấp, vừa rồi chỉ là lời nói của một kẻ
ích kỷ. Tôi sẽ tìm cách đền bù lại. Tôi sẽ đi gặp ông Hồng y. Xin đợi một lát
rồi tôi trở về.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
5: Các con số và đường lối chính trị của ngài De Mazarin
Trong
khi Nhà vua vội vã đi về phía toà lâu đài Hồng y đang ở, đi theo chỉ có người
hầu phòng, thì viên sĩ quan ngự lâm bước ra, hít thở như một người bị nín lâu
trong căn phòng mà Louis đã tưởng là không người. Căn phòng nhỏ này lúc trước
là một với phòng vua ở, chỉ cách nhau bằng một vách ngăn mỏng, che được mắt
nhưng không ngăn được tiếng nói lọt qua.
Thế thì
chắc chắn là người phó quan ngự lâm ấy đã nghe hết tất cả những gì phía bên Nhà
vua. Những lời nói sau cùng của ông vua trẻ báo trước câu chuyện đã hết, nên
viên này ra kịp lúc đón Nhà vua đi qua, và đưa mắt nhìn đến khi ngài khuất về
phía hành lang.
Viên sĩ
quan lắc đầu theo cách riêng ông mới có và nói theo một giọng mà bốn mươi năm
xa cách xứ Gascon vẫn còn để cho người ta nhận ra ông là dân Gascon:
- Công
việc chán quá! Ông chủ chán quá!
Nói
xong, người phó quan trở về ghế ngồi, duỗi chân, nhắm mắt lại như người đang
ngủ hay đang trầm tư.
Trong
khi ấy thì một cảnh khác lại xảy ra bên phòng Hồng y, lúc Nhà vua đang len lỏi
trong các hành lang của toà lâu đài cổ.
Mazarin
đã lên giường, hơi bị cảm cúm nhưng vì là một người ngăn nắp, dù đau bệnh vẫn
làm việc, nên ông định lúc còn thức thì cứ tiếp tục. Cho nên ông sai Bernouin,
người hầu phòng, mang lên cái hộp đi đường để làm chỗ tựa mà viết ngay trên
giường nằm.
Nhưng
bệnh cúm không phải là một địch thủ dễ trị nên càng làm việc, bệnh từ âm ỉ càng
trở nên nặng nề hơn. Ông hỏi Bemouin:
-
Brienne có ở đây không?
- Thưa
Đức ông, không. Ông De Brienne đã đi nghỉ khi ngài cho phép rồi, nhưng nếu Bậc
tôn quý muốn thì tôi đánh thức ông ta ngay.
- Không,
không cần lắm. Này ông hãy xem đây? Các con số thật đáng buồn!
Rồi Đức
Hồng y thử bấm đếm trên các ngón tay mà trí óc để tận đâu đâu. Bernouin nói:
- Ồ! Mấy
con số! Nếu Bậc tôn quý mà lo mấy con tính thì sáng mai ngài sẽ nhức đầu dữ đội
cho mà xem. Ông Guénaud (Ghê-nô) lại chẳng có ở đây!
- Phải
đấy, Bemouin ạ. Này ông sắp thay thế Brienne đấy.
Thật ra,
đáng lẽ ta phải đem theo ông Colbert. Người trai trẻ ấy khá lắm, Bemouin ạ, khá
lắm. Một tay ngăn nắp.
Người
hầu phòng trả lời:
- Tôi
không biết gì cả. Nhưng tôi không ưa cái bản mặt hắn, cái người trẻ tuổi
"khá lắm" của ngài đó.
- Thôi
đi, Bernouin. Ta không cần ông góp ý. Lại đây, cầm bút và viết đi.
- Thưa
Đức ông xong rồi. Tôi viết gì đây?
Này,
đúng rồi, chỗ tiếp theo hai dòng đã viết rồi đó.
- Viết
đi Bảy trăm sáu mươi ngàn đồng louis.
- Xong.
- Lấy ở
Lyon.
Mazarin
hình như do dự. Bernouin lặp lại.
- Ba
triệu chín trăm ngàn đồng louis.
- Thưa
Đức ông, xong.
- Lấy ở
Bordeaux bảy triệu.
- Bảy,
Bernouin lặp lại.
Giáo chủ
vui vẻ nói:
- Ờ,
bảy.
Rồi như
giật mình, tiếp:
-
Bemouin, ông biết rồi. Đây là tiền phải tiêu về sau.
- Thưa
Đức ông, tiêu hay chất vào kho thì chẳng quan hệ gì đến tôi vì tất cả số triệu
đồng này chẳng đồng nào là của tôi hết.
- Tiền
của Nhà vua đó. Ta phải tính toán tiền bạc cho vua.
- Này,
chúng ta đến đâu rồi. Ông cứ ngắt quãng hoài.
- Bảy
triệu, lấy từ Bordeaux.
- Ờ,
vâng, đúng đấy, lấy từ Madrid bốn. Ta sẽ giải thích cho ông tiền ấy thuộc về
ai, vì một người ngu ngốc cứ tưởng ta là tỷ phú. Ta, ta ghê tởm sự ngu ngốc ấy.
Một đại thần chẳng có cái gì là của mình cả. Này, thôi tiếp tục. Tổng thu nhập
bảy triệu. Tài sản, chín triệu. Ông có viết không đấy, ông Bernouin?
- Thưa
Đức ông có ạ.
- Chứng
khoán, sáu trăm ngàn louis; tổng giá khác, hai triệu. À ta quên: còn tiền động
sản ở các lâu đài.
Bemouin
hỏi:
- Có cần
phải viết thêm là của Hoàng gia không?
- Không,
vô ích, ngầm hiểu là đủ. Ông có viết không đấy?
- Thưa
có ạ.
- Các con
số thế nào?
- Trên,
dưới thứ tự lắm ạ.
- Cộng
lại đi, Bernouin.
- Thưa,
ba mươi chín triệu hai trăm sáu mươi ngàn louis.
- Ô!
Chưa đến bốn mươi triệu?
Bemouin
cộng lại lần nữa.
- Chưa
ạ, còn thiếu, bảy trăm bốn mươi ngàn.
Mazarin
bảo đưa xem và chăm chú tính. Bernouin nói:
- Dù sao
thì ba mươi chín triệu hai trăm sáu mươi ngàn cũng là khá lắm đấy.
-
Bernouin ạ, đó là điều ta muốn cho vua đấy.
- Bậc
tôn quý vừa nói với tôi rằng tiền đó là của Hoàng thượng.
- Nhất
định rồi, nhưng mà phải là rành rẽ, chắc chắn. Ba mươi chín triệu này đều đã
đem đầu tư và rồi còn tăng hơn nữa!
Bemouin
cười nụ theo cách của kẻ chỉ tin những gì mình muốn tin thôi, và đi pha cốc
nước uống buổi tối cho giáo chủ rồi trải gối ra. Khi người hầu phòng bước đi
khuất, Mazarin lẩm bẩm:
- Ôi,
chưa tới bốn mươi triệu. Nhưng nhất định ta phải tới con số dự tính là bốn mươi
lăm triệu. Chẳng biết có kịp nữa hay không. Ta suy nhược, ta qua đời thì không
bao giờ được. Nhưng mà biết đâu ta sẽ moi được hai hay ba triệu nơi các ông bạn
Tây Ban Nha tốt bụng. Họ tìm ra được xứ Pérou rồi, chắc phải còn cho họ một ít
gì đó.
Trong
khi Giáo chủ nói và đang bận tâm với những con số quên cả cảm cúm đã bị đẩy lui
vì một thứ lo toan bám sát nhất, thì Bemouin chạy ùa vào phòng, hoảng hốt.
Giáo chủ
hỏi:
- Gì
đấy?
- Hoàng
thượng, thưa ngài, Hoàng thượng.
Mazarin
giấu vội lập giấy.
- Sao,
nhà vua à! Chỗ này, giờ này mà còn vua! Ta tưởng ngài đã ngủ lâu rồi chứ. Có
việc gì thế không biết?
Louis
XIV hẳn nghe được các lời cuối và thấy được vẻ hoảng hốt bất chợt của Giáo chủ,
vì lúc đó ngài đã bước vào phòng.
- Chẳng
có gì đâu ngài Hồng y ạ, chẳng có gì phải rối lên. Tôi chỉ thông báo với ngài
một việc quan trọng tối nay, thế thôi.
Mazarin
nghĩ ngay đến sự lưu tâm đặc biệt của Nhà vua lúc nghe những lời dính dáng đến
tiểu thư De Mancini, và chuyện thông báo tối nay chắc là bắt nguồn từ ấy. Ông
yên lâm lại ngay và lấy dáng thật thanh nhã, đổi thay, đến mức ông vua trẻ thấy
vui khôn cùng. Khi Louis XIV ngồi xong, ông nói:
- Thưa
đáng lẽ tôi phải đứng hầu chuyện Hoàng thượng, nhưng tôi phải cảm.
Louis
XIV nói giọng tình cảm:
- Thôi
giữa chúng ta thì khỏi cần lễ nghi gì hết. Bây giờ tôi là học trò của ngài chứ
không phải ông vua, ngài biết đấy, và nhất là tối nay tôi tới với tính cách một
người yêu cầu một người, lời thỉnh ý rất mong được chấp thuận tốt đẹp.
Mazarin
thấy Nhà vua đỏ mặt lại càng tin rằng mình đã đoán đúng, nghĩa là các lời nói
của Nhà vua vừa đưa ra chắc là do một mối tình thúc đẩy. Lần này thì tay chính
khách ranh ma, tài tình cho mấy cũng đã lầm. Sự ngượng ngùng này không phải do
một xúc cảm trẻ dại thúc đẩy mà chỉ là sự kiêu hãnh của một ông vua bị ép uổng
đau đớn mà thôi.
Mazarin
vỗ về để mở đường tâm sự.
- Ngài
nói đi. Hoàng thượng muốn trong một lúc quên tôi là thuộc hạ đã gọi tôi là
thầy, là người hướng dẫn thì tôi xin được tỏ hết lòng trung thành và ưu ái.
- Cám ơn
ngài Hồng y. Chuyện của tôi cầu nơi Bậc tôn quý thì chẳng xứng đáng mấy để mong
được đền đáp lại.
Giáo chủ
vội vã trả lời:
- Đâu có
chi, thưa ngài. Tôi mong được Hoàng thượng đòi hỏi tôi làm một việc quan trọng
và dù phải hy sinh đi nữa Hoàng thượng yêu cầu điều gì, tôi cũng sẵn sàng làm
đẹp lòng ngài.
Nhà vua
nói:
- Thế
thì chuyện thế này. Tôi vừa mới tiếp người anh em của tôi, vua nước Anh đấy.
Mazarin
nhảy nhổm trên giường như là mới vừa chạm phải chai điện Leyte hay bình pin
Vonta. Sự kinh ngạc và thất vọng rõ rệt hiện ra nơi nét mặt giận dữ của ông
khiến Louis XIV dù chẳng quen giao tiếp lắm cũng thấy rõ rằng viên đại thần
mong nghe một thứ gì khác.
Mazarin
trầm giọng, môi bĩu ra:
-
Charles II! Ngài vừa tiếp Charles II.
- Vua
CharlesII, - Louis trả lời, thêm cho người cháu của Henri IV cái chức mà
Mazarin cố tình bỏ quên - Vâng ngài Hồng y ạ, ông hoàng khốn khổ ấy làm tôi cảm
động khi kể cho tôi nghe những nỗi lao đao mà ông ta phải chịu. Nỗi đau thương
của ông ta thật lớn lao, vì thế tôi thật khó dửng dưng, tôi, người đã từng bị
tranh ngôi, đã từng trải qua những ngày dồn dập, bị buộc phải bỏ Kinh thành.
Tôi đã từng chịu khốn đốn, thật khó mà bỏ rơi một người anh em mất cơ nghiệp,
phải trốn chui trốn nhủi như thế.
Giáo chủ
trả lời với giọng khinh miệt:
- Nếu
ông ta được như ngài, có một Jule Mazarin bên cạnh thì hẳn là đã vững vàng trên
ngai rồi.
Nhà vua
kiêu hãnh trả lời:
- Tôi
biết cả gia đình tôi chịu ơn Bậc tôn quý như thế nào rồi và về phần tôi chẳng
bao giờ tôi quên. Đúng vậy, chỉ vì ông vua anh em với tôi không có bên cạnh một
thiên tài tuyệt vời đã cứu tôi, chính vì thế mà tôi muốn ông ta nhờ thiên tài
ấy giúp đỡ và xin cánh tay ngài hãy vươn tới nơi hắn. Ngài Hồng y ơi, chắc rằng
khi hai cánh tay ngài chỉ chạm vào ông ta thì chiếc vương miện nằm dưới chân
chiếc máy chém đã giết người cha sẽ đặt lại lên đầu của người con đấy.
Mazarin
trả lời:
- Xin
cám ơn ngài có ý niệm tốt về tôi, nhưng chúng ta không có gì phải làm ở bên kia
được hết: họ là thứ điên đã chối từ Thượng đế và cắt đầu vua. Họ nguy hiểm lắm,
ngài thấy đó, dơ bẩn lắm, từ khi họ tắm mình trong máu vua và trong vũng bùn
Ước thệ (Tập hợp những người Scotland năm 1638 thời chiến đấu bảo vệ phái
Calvin và lập Giáo hội Scotland). Thứ chính trị đó không hợp với tôi, tởm lắm.
- Như
thế là ngài đồng ý giúp chúng tôi thay thế bằng một nền chính trị khác?
- Cái
nào?
- Ví dụ
như phục hưng cho Charles chẳng hạn.
Mazarin
kêu lên:
- Chúa
ơi, ngài Hoàng thượng khốn khổ của tôi đang có ảo tưởng gì thế?
Louis
trả lời, tuy vẫn thoáng thấy những khó khăn, trở ngại cho kế hoạch dự tính
trước sự vững vàng của viên đại thần:
- Có
thật đấy. Ông ta nói chỉ cần một triệu thôi.
- Chỉ
bấy nhiêu thôi. Chỉ một triệu thôi mà - Giáo chủ trả lời một cách mỉa mai và
nhấn mạnh cái giọng Ý của ông ta- Người anh em cho một triệu thôi. Đúng là cả
một gia đình ăn mày!
Louis
ngửng đầu lên;
- Hồng y
à, cái gia đình ăn mày đó là một nhánh của gia đình tôi đấy?
- Thưa
ngài, ngài có tiền để đưa cả triệu bạc cho người khác không? Ngài có tiền triệu
không?
Louis
XIV kêu lên một tiếng "ôi" đầy đau khổ nhưng lại cố nén cho khỏi hiện
trên nét mặt.
- Ôi
thưa ngài Hồng y, tôi tiếc rằng tôi nghèo, nhưng chiếc ngai vàng nước Pháp cũng
đáng một triệu và vì muốn làm một hành động xứng đáng, tôi có thể cầm thế chiếc
ngai ấy. Tôi sẽ đi tìm một tên Do Thái thì chắc là được.
Mazarin
hỏi:
- Như
thế là ngài rất cần một triệu?
- Vâng,
tôi đã nói rồi.
- Ngài
lầm lạc quá nhiều, ngài còn cần đến nhiều triệu hơn nữa. Đây này, tôi sẽ cho
biết là ngài còn cần bao nhiêu. Bemouin?
Nhà vua
nói:
- Này
Giáo chủ, sao ngài lại hỏi ý kiến của tên hầu cận về công việc của tôi?
Giáo chủ
vẫn gọi "Bernouin" mà không tỏ vẻ gì chú ý đến nỗi ngượng ngùng của
ông vua trẻ.
- Lại
đây, nói cho ta biết con số ta cần lúc nãy.
Louis
tức giận tái mặt:
- Giáo
chủ, Giáo chủ không nghe ta nói gì sao?
- Xin
Hoàng thượng bớt giận. Tôi đưa ra công khai các việc kinh doanh của Hoàng
thượng. Mọi người Pháp đều biết, sổ sách tôi rõ ràng cập nhật hoá đầy đủ.
Bemouin, lúc nãy ta bảo ông làm cái gì?
- Thưa,
ngài bản làm bài tính cộng.
- Ông
làm rồi phải không?
- Thưa
Đức ông vâng.
- Cộng
sổ để biết Hoàng thượng cần bao nhiêu lúc này phải không? Ta đã nói với ông như
thế phải không?
- Đức
ông nói với tôi như vậy.
- Thế
thì số tiền ấy là bao nhiêu.
- Hình
như là bốn mươi lăm triệu.
- Thế mà
gom hết tài sản của chúng ta thì được bao nhiêu?
- Ba
mươi chín triệu hai trăm sáu mươi ngàn quan.
-
Bemouin, đúng đấy. Ta chỉ muốn biết thế thôi, anh lui ra.
Giáo chủ
quắc mắt nhìn ông vua trẻ đang sững sờ. Louis lắp bắp:
- Nhưng
mà ồ, ngài vẫn còn nghi ngờ đấy ư? Thế thì ngài hãy xem chứng cớ đây này.
Rồi
Mazarin rút dưới gối ra tờ giấy đầy những con số đưa cho vua, nhưng ông ngoảnh
mặt đi, lòng đau xé.
- Thưa
ngài, nếu như lính cả một triệu ngài muốn nữa thì Hoàng thượng cần tất cả là
bốn mươi sáu triệu. Vậy thì trên đời này chẳng có tên Do Thái nào cho ngài mượn
số tiền ấy cả, dù là ngài đem cầm chiếc ngài vàng nước Pháp đi nữa cũng vậy.
Nhà vua,
nắm chặt tay giấu kín trong lần vải áo, đẩy chiếc ghế đứng dậy:
- Thôi
được, người anh em vua nước Anh của tôi chắc sẽ chết đói rồi.
Mazarin
trả lời một giọng như cũ:
- Thưa,
xin ngài nhớ câu thành ngữ tôi nói ra đây để chỉ hướng cho một hành động đúng
đắn: nên an phận thủ thường.
Louis
trầm ngâm trong một lúc, đồng thời tò mò, liếc vào tấm giấy ló một góc ra ngoài
chiếc gối dài. Ông nói:
- Vậy là
tôi không hỏi được số tiền ấy phải không ngài Hồng y?
- Hoàn
toàn không.
- Ngài
có nghĩ rằng nếu sau này hắn lên ngôi thì tôi có một kẻ thù không?
Giáo chủ
vội vã noi:
- Xin
Hoàng thượng cứ an tâm không phải lo sợ gì cả.
- Được
tôi không hỏi nữa.
Giáo chủ
đặt tay lên nhà vua:
- Thưa
ngài, ngài nghe theo tôi chứ?
- Vâng
chịu hết.
- Nếu
ngài hỏi chuyện khác thì tôi mong sẽ làm Hoàng thượng vui lòng để đền bù lời từ
chối lúc nãy.
- Chuyện
gì khác hở ngài?
- À
chẳng phải là tôi đã tận tuỵ phục vụ Hoàng thượng đấy ư?. Ê! Bemouin, gọi hộ vệ
mang đuốc đưa Hoàng thượng về nghỉ!
- Khoan
đã, vì ngài sẵn lòng với tôi, tôi cũng muốn chiều lòng ngài để xin một việc.
- Cho
ngài chăng? - Giáo chủ hỏi mà lòng thì nghĩ rằng câu chuyện sẽ trở lại về đứa
cháu của ông.
Louis
trả lời:
- Không
phải cho tôi, nhưng để dành cho người anh em Charles của tôi.
Gương
mặt Mazarin tối sầm lại, ông càu nhàu vài tiếng, Nhà vua nghe không rõ.
Một khắc
trước, lúc đến gặp Hồng y, Nhà vua còn tỏ vẻ do dự, và tuy bị chống lại, bị bẻ
gãy, nhưng trong đôi mắt ông vẫn còn lưu giữ nỗi đau đớn vì thất bại, như một
vết thương trong tâm khảm. Nhưng bây giờ thì người ta thấy trong đôi mắt ông
hiện ra sự quyết tâm.
- Thưa
ngài Hồng y, lần này thì dễ dàng hơn là chuyện kiếm một triệu bạc.
- Hoàng
thượng chắc thế à?
- Chắc,
khi ngài biết tôi xin cái gì
- Ngài
chắc là tôi không biết chứ gì?
- Ngài
đã biết tôi sắp nói điều gì à?
- Đúng
vậy, những lời của chính ông vua Charles là…
- Ơ kìa!
- Thế
này. Ông ta nói: "Nếu tên hà tiện đó, nếu thằng Ý khiếp nhược đó… "
- Giáo
chủ?
- Nếu
lời không như thế, thì ý cũng thế thôi. Chúa ơi! Tôi không muốn gọi ông ta như
thế, ai cũng có quan điểm riêng của họ. Vậy thì chắc ông ta đã nói…
- …
"và nếu thằng Ý khiếp nhược đó từ chối không cho tôi mượn triệu bạc, nếu
vì không có tiền để đeo đuổi mặt trận ngoại giao, thì chúng ta hãy hỏi hắn giúp
cho năm trăm nhà quý tộc…".
Nhà vua
giật nẩy mình, vì giáo chủ chỉ nói sai con số mà thôi. Viên tể tướng cao giọng
đắc thắng:
- Có
phải thế không?
Rồi ông
ta sẽ thêm ít lời vuốt ve và tiếp: - "Tôi có nhiều bạn ở bên kia eo biển,
các bạn bè đó chỉ thiếu một người cầm đầu và cây cờ chính nghĩa. Một khi họ
thấy tôi, thấy lá cờ nước Pháp, họ sẽ theo tôi vì biết tôi được ngài giúp đỡ.
Sắc màu chiến binh Pháp đáng giá ngang với triệu bạc mà ông Mazarin chắc chắn
sẽ từ chối (vì ông ta biết trước sau gì tôi cũng không cho mượn triệu bạc ấy).
Có năm trăm nhà quý tộc ấy tôi sẽ thắng và vinh quang sẽ về ngài, Hoàng đế
ạ".
- Ông ta
nói như thế, gần gần như thế phải không? Nói có thêm những hình ảnh hoa hòe hoa
sói kèm theo nữa phải không?
Gia đình
ấy ba hoa nổi tiếng! ông vua cha đến trước máy chém mà còn nói mà!
Louis
toát mồ hôi vì hổ thẹn. Ông cố gượng nói:
- Giáo
chủ ạ, có điều không phải năm trăm mà hắn chỉ xin có hai trăm thôi.
- Tôi
đoán đúng quá rồi.
- Thưa
ngài, chẳng bao giờ tôi phủ nhận cái nhìn sắc sảo của ngài. Chính vì thế mà tôi
chắc ngài không từ chối một lời cầu xin giản dị, dễ giải quyết như thế. Nhân
anh ông ta, hay đúng hơn, nhân danh tôi, tôi mong ngài chấp nhận.
Mazarin
nói:
- Thưa
ngài, tôi làm chính trị đã ba mươi năm rồi. Tôi làm việc với Ngài Hồng y De
Richelieu, rồi làm một mình. Phải nhận rằng cái chính trị ấy chẳng sạch sẽ gì
lắ~l, nhưng chẳng bao giờ lầm lỡ. Thế mà điều người ta vừa đề nghị với Hoàng
thượng thì vừa nhơ bẩn, vừa sai lầm.
- Nhơ
bẩn sao, thưa ngài!
- Thưa,
ngài vừa ký một hiệp ước với ngài Cromwell
- Vâng,
và trong ấy Cromwell ký phía trên tôi.
- Ai bảo
ngài ký tận phía dưới làm gì? Ngài Cromwell có được chỗ tốt thì chiếm ngay theo
thói quen của ông ta. Vâng, tôi trở lại với Cromwell. Ngài ký một hiệp ước với
ông ta, nghĩa là với nước Anh, vì khi hiệp ước ký, Cromwell là nước Anh.
- Ngài
Cromwell chết rồi.
- Ngài
tưởng thế?
- Đúng,
vì người con Richard thay thế ông ta và cũng đã từ chức rồi.
- Điểm
này đúng. Richard nối nghiệp Cromwell đã chết và nước Anh nối tiếp sau khi
Richard từ vị. Hiệp ước thuộc về tài sản thừa kế dù là ở trong tay ngài Richard
hay trong tay nước Anh đi nữa cũng vậy. Hiệp ước vẫn còn có giá trị, mãi mãi.
- Tại
sao ngài lại lẩn tránh vấn đề? Có gì thay đổi đâu? Điều chúng ta không muốn
mười năm trước, bây giờ Charles II lại đòi hỏi. Nhưng đây là trường hợp đã được
dự tính. Ngài là đồng minh của nước Anh chứ không phải của Charles II. Ở quan
điểm dòng họ, đúng là bất lương khi ký một hiệp ước với người chặt đầu dượng
của ngài, lập liên minh với một nghị viện mà bây giờ ở bên kia người ta gọi là
nghị viện xương cụt.
- Tôi
đồng ý là bất lương, nhưng về mặt chính trị thì không vụng về, sai lầm vì nhờ
hiệp ước ấy mà tôi đã giúp Hoàng thượng, lúc bấy giờ còn nhỏ tuổi, tránh phải đương
đầu với một cuộc chiến với bên ngoài, trong khi bên trong ngài còn phải mệt với
cuộc nổi loạn Fronde, ngài còn nhớ cuộc loạn đó chớ (ông vua trẻ cúi đầu
xuống). Và vì thế tôi mới chứng minh cho Hoàng thượng thấy rằng bây giờ thay
đổi đường lối mà không báo cho bạn đồng minh biết thì vừa bất lương vừa sai lầm
một cách ấu trĩ. Chiến tranh sẽ xảy ra mà lỗi ở ta, chúng ta đáng cho người ta
đánh lắm, chúng ta gây chiến mà lại sợ chiến tranh, bởi vì cho phép năm trăm
người đánh, hai trăm người, năm mươi người, mười người đi nữa thì cũng vẫn là
gây chiến. Một người Pháp là cả đất nước, một bộ đồng phục là cả quân đội. Thưa
ngài, giả dụ rằng, ngài đánh nhau với Hà Lan, chuyện trước sau gì cũng đến đó
hay đánh nhau với Tây Ban Nha nếu hôn ước không thành (Mazarin nhìn lâu vào nhà
vua) - có cả hàng ngàn lý do để hôn ước không thành - thế thì ngài có chịu cho
nước Anh gởi đến Hà Lan hay Tây Ban Nha một trung đoàn, một đại đội hay chỉ một
tiểu đội những nhà quý tộc không? Ngài có thấy họ thành thật chịu ép mình trong
khuôn khổ hiệp ước không?
Louis
ngồi lắng nghe. Lạ có điều là Mazarin, con người của chính trị ma giáo, lại nói
chuyện với sự thành thật. Ông nói:
- Nhưng
dù không có lệnh chính thức thì tôi cũng không thể ngăn những nhà quý tộc của
ta đi qua bên Anh theo ý thích của họ được.
- Lúc đó
thì ngài phải ngăn không cho họ trở về hay ít ra là phản đối họ đã cư xử thù
địch với nước đồng minh của ta.
- Nhưng,
ngài Hồng y ạ, ngài là một thiên tài vượt chúng, xin ngài hãy tìm cách nào giúp
ông vua khốn khổ ấy mà không làm chúng ta mang tiếng.
Mazarin
nói:
- Chính
đó là điều tôi không muốn. Hoàng thượng kính yêu ạ Nước Anh mà hành động theo
như ý tôi muốn thì cũng chẳng hơn gì. Ngồi ở đây tôi cũng không có cách nào
khác hơn để điều khiển nước Anh. Theo cách cai trị ở đó, nước Anh bây giờ đối
với châu Âu là một cái ổ luôn luôn bị lên án. Hà Lan đang che chở Charles II,
thây kệ Hà Lan. Chúng sẽ nổi giận, chúng sẽ choảng nhau. Bây giờ, chúng là hai
cường quốc trên mặt biển, để chúng tiêu diệt lẫn nhau, rồi chúng ta sẽ đóng tàu
bằng các xác tàu của chúng, với điều kiện là chúng ta có đủ tiền để mua đinh
kia?
- Ồ ngài
Hồng y, mọi chuyện ngài nói sao mà tồi tàn tủn mủn quá.
- Nhưng
thưa Hoàng thượng, phải nhận điều đó là đúng.
- Còn
hơn là đúng nữa: tôi nhận là có lúc ta có thể thất hứa và lãng quên hiệp ước.
Chuyện đó thường quá rồi, nhưng chỉ là khi ta có điều gì lợi hơn hay khi bị
hiệp ước ràng buộc ta quá thôi.
- Ngài
cứ cho phép các nhà quý tộc của ta đi. Cây cờ nước Pháp, hay nước Pháp thì cũng
thế thôi, sẽ vượt eo biển để chiến đấu.
- Rồi
nước Pháp sẽ thất trận.
- Tại
sao thế?
- Tại
sao à? Tại Hoàng đế Charles II là một viên tướng cừ khôi! Trận Worcester là
bằng chứng hùng hồn đấy?
- Ông ta
không phải chống với Cromwell nữa, Giáo chủ ạ.
- Đúng,
nhưng ông ta phải đương đầu với Monck thì cũng thế thôi. Cái anh chàng buôn
rượu bia dũng cảm ấy là một tay hiếu thắng có những lúc khích động, rạng rỡ,
căng phồng lên và nứt như cái thùng bia quá đầy. Từ các kẽ nứt, rượu nhỉ ra cho
chúng ta biết vài giọt tư tưởng của hắn, rồi nếu cứ để dồn lại thì chúng ta sẽ
biết hết toàn bộ ý nghĩ của hắn. Chúng ta cũng biết Cromwell bằng cách ấy,
Cromwell mà người ta tưởng là mang đến ba bộ giáp đồng, nói theo kiểu nhà thơ
Horace. Nhưng chớ hòng với Monck. Thưa Hoàng thượng, tôi mong ngài đừng chơi
trò chính trị với ngài Mock! Cả năm nay tôi bạc đầu vì hắn đây. Monck không
phải là một kẻ khùng vì hiếu thắng, hắn là một nhà chính trị, thật là điều khốn
khổ cho chúng ta. Hắn không vỡ toang ra mà sau đó khép lại. Từ mười năm nay,
hắn theo đuổi một mục đích chưa ai đoán ra được hết.
Cứ mỗi
sáng, theo kiểu Louis Xl dặn dò, hắn lại đốt cái mũ trùm đầu đêm trước. Thế là
những điều hắn suy nghĩ dự tính cẩn thận, vững chãi một ngày nào đó sẽ bung ra,
đầy đủ điều kiện thành công mà không ai lường trước được.
- Thưa
ngài, đó là anh chàng Monck, con người mà ngài chắc chưa nghe, chắc chưa biết
đến cả tên tuổi, trước khi người anh em Charles II của ngài biết rõ mà nhắc ra.
Người đó là cả một sự kỳ diệu phối hợp cả sâu sắc lẫn ngoan cường, hai đức tính
mà nếu đem trí tuệ và nhiệt thành ra đối phó thì chỉ có nước cùn nhụt thôi.
Thưa ngài, tôi cũng có lòng nhiệt thành lúc còn trẻ, còn trí tuệ thì bây giờ
vẫn còn. Tôi xác nhận tôi hãnh diện với điều này và người ta lại chê trách tôi
cũng vì nó. Với hai đức tính ấy, tôi đã mở đường thênh thang mà đi, vì nhờ
chúng, tôi đã từ con một người đánh cá ở Piscanna trở thành tể lướng của vua
nước Pháp và cũng nhờ đó, tôi đã làm được một vài việc cho Hoàng thượng. Thế
mà, thưa ngài, nếu tôi gặp phải Monck thay vì gặp ngài De Beaufort, ngài De
Retz, ngài Hoàng thân, thì chúng ta thua là cái chắc. Ngờ nghệch tấn công vào,
ngài sẽ bị người lính chính khách ấy quắp chặt. Cái đói rách của Monck, thưa
ngài, là cái hòm sắt giấu kín những ý nghĩ của hắn ta, không ai có được chìa
khoá hết. Cho nên, bên hắn ta, hay đúng hơn, trước mặt hắn ta, tôi chỉ xin
nghiêng mình bái phục, tôi ngài biết rồi, tôi chỉ có cái mũ nhung tôn giáo trên
đầu thôi.
- Theo ý
ngài thì Monck muốn gì?
- Ôi,
nếu tôi biết được thì tôi đã không bảo ngài phải tránh xa hắn, bởi vì tôi hơn
hẳn rồi. Nhưng với hắn ta thì tôi lại càng sợ phải đoán ra. Ngài hiểu chữ
"đoán ra" chứ? Hễ cứ tưởng là đoán ra được là tôi sẽ dừng lại ở một ý
tưởng rồi chứ thế mà tuột theo dòng ý tưởng ấy. Từ lúc con người ấy lên nắm
quyền ở bên kia, tôi cứ như là những hồn ma dưới địa ngục của thi sĩ (ám chỉ
Đăng-tơ) đang bị quỷ Satan vặn cổ, đi thì liến về trước mà mặt thì quay lại
đằng sau: Tôi hướng về Madrid, mà cứ ròm chừng London. Đoán định nơi con người
ấy là lầm lạc, mà lầm lạc thì thua rồi.
Nhờ ơn
Chúa ngăn không cho tôi tìm cách đoán xem hắn nghĩ gì, tôi chỉ tìm cách dò xem
hắn làm gì, thế cũng vừa đủ. Theo cách đó, tôi chắc rằng hắn đang rất muốn thay
thế Cromwell. Charles II của ngài đã từng nhờ mười người đến đưa đề nghị cho
hắn. Hắn không làm gì khác hơn là đuổi mười tay môi giới ấy kèm theo một câu
"Cút đi, không thì tao treo cổ bây giờ?". Con người này là cả một mộ
phần. Lúc này đây, Monck đang tận tân phục vụ cái nghị viện xương cụt. Cái
chuyện tận tâm này thì không đánh lừa được tôi đâu. Monck chẳng muốn bị ám sát
tí nào. Bị ám sát tức là bỏ dở sự nghiệp nửa chừng mà hắn ta thì muốn hoàn
thành sự nghiệp. Cho nên, thưa ngài, tôi tin rằng - mà, thưa ngài, chớ tin điều
tôi tin, tôi chỉ nói theo thói quen thôi - tôi tin rằng Monck đang o bế nghị
viện để rồi sẽ đập nát nó ra. Người ta mượn gươm của ngài là gặp phải Monck đấy
- xin Chúa ngăn ta đừng đánh nhau với Monck vì như thế thì Monck sẽ thắng ta mà
Monck thắng ta thì thưa ngài, tôi hận suốt đời. Tôi chắc rằng Monck chờ đợi
chiến thắng đó đã mười năm rồi. Thưa ngài, xin Charles II hãy vì Chúa, vì tình
bạn với ngài, nếu không nói là vì kính nể ngài, mà đừng gây sự gì hết! Hoàng
thượng hãy kiếm cho hắn một ít lợi tức ở đây, cho hắn một lâu đài của ngài
chẳng hạn. Ờ! Mà không được? Tôi vừa nhắc đến hiệp ước xong, một toà lâu đài
Hoàng thượng cũng không được phép cho hắn?
- Sao
thế?
- Đúng,
đúng Hoàng thượng đã cam kết không cho vua Charles II trú ngụ, sẽ đuổi ông ta
ra khỏi nước Pháp. Vì thế chúng ta đã mời đi và nay ông ta lại trở về. Thưa,
mong rằng ngài sẽ cho người anh em ngài biết, ông ta không thể ở lại đây, rằng
chúng ta không thể dây vào chuyện đó được. Hay là để tôi…
Louis
XIV đứng dậy:
- Thôi,
đủ rồi ông? Ông không cho tôi một triệu là quyền của ông, tiền của ông đấy. Ông
không cho tôi hai trăm nhà quý tộc cũng là quyền của ông vì ông là tể tướng
phải chịu trách nhiệm về hoà hay chiến của nước Pháp. Nhưng nếu ông có ý ngăn
vua là tôi đây, không được để chỗ trú cho cháu của Henri IV, người anh em họ
của tôi, người bạn thời thơ ấu của tôi, thì ông đã đi quá quyền hạn của ông rồi
đó. Đây là quyền của tôi!
Mazarin
mừng rỡ vì ông lý luận dài dòng là chỉ mong được có thế:
- Thưa
ngài, lúc nào tôi cũng gập mình tuân theo ý chỉ Đức vua của tôi, xin ngài giữ
ông vua nước Anh ở trong một toà lâu đài của ngài. Mazarin biết điều đó, nhưng
vị tể tướng không biết đâu!
Louis
XIV nói:
- Thôi
chúc ngài ngủ ngon. Tôi thật lấy làm thất vọng.
Mazarin
trả lời:
- Thất
vọng nhưng mà phải chịu là đúng. Thưa ngài, tôi chỉ mong được thế thôi.
Nhà vua
không đáp lại, ra về mà lòng đầy ưu tư. Ông bị thuyết phục không phải bởi những
lời của Mazarin vừa nói mà ở những điều ông ta không nói ra. Louis XIV tin rằng
phải tìm hiểu kỹ về tài sản của mình và tình hình cả châu Âu, vì ông thấy chúng
thật tối mò mò.
Louis
gặp ông vua Anh vẫn ngồi chỗ cũ. Ông hoàng Anh vụt đứng dậy nhưng chỉ thoáng
qua ông đã thấy sự thất vọng in hằn lên trán của người anh em họ. Ông vội lên
tiếng trước như là để tránh cho Louis bớt khó khăn khi phải thú nhận:
- Dù thế
nào đi nữa thì tôi cũng không bao giờ quên tất cả lòng tốt, tình thân mà ngài
dành cho tôi.
Louis
XIV trả lời nặng nề:
- Than
ôi, lòng tốt chẳng đi đến đâu hết người anh em ạ
Charles
II mặt tái xanh, đưa bàn tay lạnh ngắt lên trán và cố gượng chống cự cơn choáng
váng đang dâng lên. Ông nói:
- Tôi
hiểu. Không còn hy vọng gì nữa.
Louis
nắm tay Charles nói:
- Người
anh em hãy chờ đợi, đừng hấp tấp, rồi tình hình sẽ thay đổi. Thường thì nôn
nóng là hỏng việc. Hãy đợi thêm một năm cực nhọc nữa trong số những năm tháng
mà ngài đã chịu đựng. Vì chưa cần ngay, thay vì bây giờ, ngài hãy hành động vào
một dịp khác. Vậy hãy ở lại với tôi trong một nơi nào đó của tôi mà ngài thích.
Chúng ta sẽ cùng nhau theo dõi tình hình, cùng nhau chuẩn bị hành động về sau.
Thôi, hãy can đảm lên đi, người anh em ạ!
Charles
Il rút tay ra khỏi tay Louis XIV và lùi lại để có thể chào thật trịnh trọng.
- Xin
cảm ơn ngài hết mực. Tôi đã cầu khẩn mà không được việc ở ông vua lớn nhất thế
gian này thì bây giờ chỉ còn trông nơi phép lạ mà thôi.
Rồi
không muốn nghe một lời nào nữa, ông bước ra, đầu ngước cao, tay run rẩy, mặt
ro rúm lại vì đau đớn và mắt âm u như muốn đưa lời cầu xin đến nơi thế giới vô
hình sau khi thất bại ở cõi đời này.
Viên sĩ
quan ngự lâm trông thấy ông vua bước qua mặt xanh mướt, vội vã nghiêng mình
chào một cách lễ phép đến mức gần như quỳ xuống vậy. Ông cầm cây đuốc, gọi hai
người lính ngự lâm rồi đi xuống thang gác vắng vẻ với ông vua khốn khổ tay cầm
chiếc mũ kéo lê các lông chim trên những bậc cấp.
Khi đến
cửa, người sĩ quan hỏi ông vua đi hướng nào để bảo lính ngự lâm dẫn đường.
Charles II nói nhỏ:
- Thưa
ông, ông nói rằng ông có biết cha tôi, vậy có khi nào ông cầu nguyện cho Người
không? Nếu có, thì hãy thêm tên tôi vào các lời cầu nguyện ấy. Bây giờ tôi đi
một mình, xin chớ theo và chớ cho người hộ tống thêm nữa.
Người sĩ
quan nghiêng mình tuân lệnh và bảo hai người lính ngự lâm lui vào cung. Nhưng
ông vẫn đứng một lúc dưới cổng để nhìn theo Charles II đi khuất vào bóng tối ở
một khúc quanh. Ông lẩm bẩm:
- Tất cả
dành cho người này, cũng như đối với người cha xưa kia. Athos mà ở đây chắc
cũng sẽ nói "Kính chào vị Hoàng đế mất ngôi!".
Ông quay
lên thang gác, vừa đi vừa lẩm bẩm: "Ôi! Phục vụ cái gì mà thật là tồi tệ!
Cái ông chủ thật đáng thương! Sống như thế này thì không thể chịu được nữa rồi,
ta dứt khoát phải quyết định ngay đi! Chẳng còn gì là lòng độ lượng, chẳng còn
gì là nghị lực nữa cả. Đúng là ông thầy đã thành công còn người học trò cứ quặt
quẹo suốt đời Chán quá! Ta không chịu đựng được nữa!".
Rồi tiếp
tục khi bước vào phòng:
- Các
anh kia, các anh làm gì mà nhìn tôi thế? Tắt đuốc về chỗ đi. À! Các anh bảo vệ
tôi? Các anh trông coi tôi? Mấy anh khờ tốt bụng! Thôi đi đi, tôi chẳng phải là
hầu tước De Guise, chẳng ai giám ám sát tôi trong cái xó hành lang này đâu.
Rồi hạ
giọng:
- Với
lại đây là một quyết định. Từ khi Đức Hồng y De Richelieu chết đi thì chẳng ai
giám quyết định hết. Ôi đó mới thật đúng như là một con người đấy. Xong rồi,
ngày mai là ta ném áo ngự lâm lên cây!
Rồi đổi
ý, ông nói:
- Ồ chưa
được. Tôi còn một thử thách cuối cùng phải làm, phải làm - nhất định là thử
thách cuối cùng, nhất định, chán quá!
Ông dứt,
lời thì có tiếng gọi từ trong căn phòng của Nhà vua:
- Thưa
ngài phó quan! Hoàng thượng có chuyện muốn nói với ngài.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
6: Nhà vua và viên phó quan
Khi Nhà
vua thấy viên sĩ quan đến gần, ông cho người hầu phòng và viên cận thần rút
lui.
- Ông
phó quan!
- Thưa
tôi đây! Sao hồi tối trong phòng hội ông kêu to: "Người hầu cận của vua,
ngự lâm quân của Hoàng đế!".
- Thưa,
bởi vì Hoàng thượng ra lệnh cho tôi.
- Ta?
- Vâng
chính ngài.
- Ta
thực không có nói lời nào hết.
- Thưa
ngài, lệnh ban ra có thể là một dấu hiệu, một cử chỉ, một nháy mắt vẫn rõ ràng,
chính xác như là một lời nói.
Người
phục vụ mà chỉ có con mắt thì chỉ phân nửa người làm việc tốt thôi.
- Thế
thì đôi mắt ông sáng lắm!
- Thưa
ngài, sao ạ?
- Vì ông
đã thấy cái chẳng có gì hết.
- Thưa
ngài, đúng cậy, mắt tôi vẫn tốt mặc dù đã phục vụ các ông chủ đã lâu, cho nên
khi có dịp thấy gì là tôi sẵn sàng ngay. Lúc tối này, mắt tôi thấy Hoàng thượng
đỏ mặt vì cố nín ngáp dài, thấy ngài rõ ràng có vẻ cầu khẩn, nhìn Bậc tôn quý
trước tiên, rồi đến Thái hậu rồi nhìn các cửa bước ra. Mắt tôi thấy hết, thấy
cả đôi môi Hoàng thượng mấp máy: "Ai đem ta ra khỏi chỗ này?"
- Ông
này!
- Thưa
ngài, hay ít ra cũng là những lời này: "Ngự lâm quân đâu!" cho nên
tôi không ngần ngại nữa. Cái nhìn đó dành cho tôi, lời nói đó hướng vào tôi,
tôi kêu lên ngay: "Ngự lâm quân của Hoàng thượng!", với lại chuyện rõ
rệt là Hoàng thượng không cho tôi là trái mà còn bước ra ngay, chứng tỏ tôi làm
đúng.
Nhà vua
quay mặt đi để giấu nụ cười, rồi vài giây sau lại nhìn gương mặt thông minh làm
sao, táo bạo và cương quyết làm sao, giống như là dáng vẻ cương nghị, kiêu hãnh
của con đại bàng nhìn thẳng vào mặt trời. Đôi mắt sáng ấy vẫn không chớp, một
lúc sau, Nhà vua đành nói: "Tốt lắm!".
Viên sĩ
quan nghiêng mình, hỏi:
- Hoàng
thượng không còn gì để hỏi nữa?
- Không,
ông ạ, thôi ông về chỗ đi.
- Ngài
cho phép tôi thưa một chuyện trước khi đi ra?
- Ông có
chuyện gì nói thế? Cứ nói đi.
- Thưa
ngài, một chuyện không quan trọng đối với ngài, nhưng tôi thì tôi lưu ý đến nó
lắm. Xin ngài bỏ lỗi về chuyện này. Nếu không khẩn cấp, không cần thiết thì tôi
không thưa và tôi sẽ lẳng lặng thu mình nhỏ lại rồi biến đi, theo thói quen của
tôi.
- Cái gì
mà biến đi? Ta không hiểu.
- Thưa
ngài nói gọn lại là tôi xin Hoàng thượng cho được nghỉ.
Nhà vua
hơi giật mình, còn viên sĩ quan lại vẫn đứng yên như một pho tượng.
- Ông
xin nghỉ? Thế trong bao lâu?
- Thưa,
nghỉ luôn ạ.
Louis
nói với một cử chỉ không phải chỉ là ngạc nhiên:
- Sao,
ông không giúp ta nữa à?
- Thưa
ngài, tôi lấy làm tiếc.
- Không
thể được.
- Thưa
ngài, tôi thấy mình đã già rồi, tôi kéo cày đã ba mươi bốn, ba mươi lăm năm
rồi, lưng mỏi gối chùn, phải nhường cho lớp trẻ thôi. Tôi không phải là người
của thế kỷ mới, tôi vướng vào thời đại cũ, cho nên tôi thấy cái gì cũng lạ hết,
tôi bị quay tít đến chóng mặt. Nói gọn, là tôi muốn xin Hoàng thượng cho nghỉ.
Nhà vua
nhìn viên sĩ quan khoác trang phục ngự lâm thung dung như một chàng trai trẻ.
- Thưa
ông, ông còn mạnh mẽ, khoẻ khoắn hơn là ta đấy!
Viên sĩ
quan mỉm cười cố ra vẻ khiêm nhượng.
- Ồ,
Hoàng thượng nói thế là vì mắt tôi còn sáng, chân tôi còn vững, còn cỡi ngựa
được, hàm râu còn đen. Nhưng thưa ngài, tất cả đó chỉ là sự huênh hoang vô lối,
chỉ là ảo tưởng, là bề ngoài, là khói mây mà thôi. Thưa ngài, tôi có dáng trẻ,
nhưng đã già trong tận cùng con người rồi, chắc chỉ sáu tháng nữa thôi là tôi
sẽ rã rời, đau nhức xương cốt, sẽ lê lết què quặt. Cho nên, xin ngài.
Nhà vua
lộ cử chỉ vừa ưu ái và oai nghiêm, nói:
- Thưa
ông, ông chưa cho ta biết sự thật. Ông muốn nghỉ, đúng rồi, nhưng ông giấu lý
do của quyết định đó.
- Thưa
ngài, thật mà.
- Không,
thấy thì biết ông ạ. Ta thấy một con người cương nghị, mạnh khoẻ, nhanh nhẹn,
người lính ưu tú nhất của nước Pháp, thế mà định thuyết phục ta để xin được
nghỉ ngơi thì đừng hòng.
Viên phó
quan chua chát nói:
- Ôi!
Thưa ngài tán tụng tôi quá. Thực ra, Hoàng thượng lầm rồi! Cương nghị, mạnh
khỏeẻ minh mẫn, can đảm, lính ưu tú nhất của nước Pháp! Hoàng thượng khen quá
làm tôi không dám nhận dù tôi muốn nói tốt về tôi thế nào đi nữa cũng vậy. Nếu
tôi tệ đến nỗi chỉ nghe theo lời Hoàng thượng có một nửa thì tôi cũng đủ coi
mình là một con người quý báu, không thể thiếu được, tôi sẽ nói rằng một người
giúp việc gồm thâu trong mình được bấy nhiêu đức tính ấy thì sẽ là cả một kho
tàng vô giá. Thế mà, thưa ngài chỉ trừ bữa nay thôi, còn suốt cả cuộc đời, tôi
thấy là mình bị đánh giá rất thấp. Xin phép nói lại là Hoàng thượng đã nâng cao
tôi quá đáng.
Nhà vua
nhíu mày vì thấy trong lời của viên sĩ quan như có một nét cười nhạo báng chua
cay. Ông nói:
- Thôi
thì nói thật vấn đề đi ông ạ. Có phải là công việc ở đây không thích hợp với
ông không? Thôi đừng nói quanh, ta muốn ông trả lời mạnh dạn, thành thực đấy.
Nghe
thế, người sĩ quan từ nãy giờ đang xoay xoay cái nón với điệu bộ khá lúng túng,
liền ngẩng đầu lên nói:
- Thưa
ngài, ngài làm cho tôi thấy thật thoải mái. Câu hỏi đưa ra đã thành thực thì
tôi cũng xin đáp lại thành thực. Nói thật bao giờ cũng tốt, phần thì người ta
trút bớt được những gì đè nặng trong lòng, phần khác thì vì chuyện nói thật rất
hiém xảy ra. Tôi sẽ xin nói thật với Hoàng đế của tôi, chỉ xin ngài bỏ qua cho
sự thành thật của một người lính già.
Louis
XIV nhìn viên sĩ quan của mình mà cử chỉ thì bộc lộ một sự băn khoăn đến cực
điểm, ông nói:
- Thế
thì ông nói đi. Ta rất nôn nóng nghe những điều mà ông bảo là thành thật đấy.
Viên sĩ
quan bỏ chiếc mũ lên bàn và khuôn mặt lúc trước đầy vẻ thông minh và cứng rắn
bây giờ bỗng trở lên nghiêm trang, đầy quyền uy lạ thường. Ông nói:
- Thưa
ngài, tôi rời bỏ nhiệm vụ vì tôi bất mãn. Vào lúc như thế này, người đày tớ có
thể kính cẩn đến bên ông chủ như tôi bây giờ và đưa cho ông chủ tờ giấy ghi
những gì anh ta đã làm, tính số tiền đã ghi, trả lại dụng cụ và nói: "Ông
chủ, tôi hết làm rồi, trả tiền tôi cho tôi đi?".
Nhà vua
kêu lên giọng tức giận:
- Ông!
Ông…
Viên sĩ
quan hơi hạ đầu gối xuống, trả lời:
- Ồ,
chẳng có tên đầy tớ nào kính tọng chủ hơn tôi, đối với Hoàng thượng, nhưng ngài
vừa bảo tôi nói sự thực. Tôi nói ra thì ngài nổi giận dù là ngài đã bảo như
vậy.
Những
bắp thịt trên mặt ông co lại tỏ vẻ cương quyết khiến Nhà vua thấy không cần bảo
ông nói tiếp. Ông nói tiếp thực, trong khi Nhà vua đứng nhìn với vẻ tò mò pha
lẫn vì nể.
- Thưa
ngài, như tôi đã nói, tôi phục vụ Hoàng gia nước Pháp đến đây là ba mươi lăm
năm rồi. Ít ai đã phải mòn gươm trong công việc như tôi, tuy gươm tôi là thuộc
loại tốt.
- Thưa
ngài, vua cha ngài thấy tôi đã xứng làm người lớn trong khi tôi còn là một đứa
trẻ, không biết gì hết, ngoài việc bộc lộ lòng can đảm. Khi tôi thành người lớn
thì Hồng y De Richelieu thấy tôi là một kẻ thù của ông ta - ông ta cũng xác
nhận điều đó. Câu chuyện lịch sử về mối hiềm khích đó giữa con kiến và con sư
tử, ngài có thể đọc từ trang đầu đến trang cuối trong đống giấy tờ của gia đình
ngài. Nếu có, lúc nào ngài muốn biết thì cứ lục ra. Ngài sẽ thấy rằng con sư tử
cuối cùng mệt mỏi, rã rời, thở dốc xin tha, và cũng nên công bằng mà nói, con
sư tử ấy cũng tha thứ cho kẻ khác (những chuyện được kể ở Ba chàng lính ngự
lâm).
Ôi, cái
thời xưa tươi đẹp ấy, cái thời thỉnh thoảng lại có đánh nhau trong chuyện của
Le Tasse hay của L Arioste! Chuyện kỳ diệu vào thời ấy bây giờ đối với chúng ta
thật khó tin, nhưng là chuyện thường ngày của chúng tôi. Suốt cả năm năm ngày
nào tôi cũng được coi là anh hùng, ít ra theo lời một số nhân vật đáng tin cậy
nói. Thưa ngài hãy tin đi, làm người anh hùng căng ra trong năm năm, thật dài
làm sao! Tôi tin ở xác nhận đó vì những người nói là những nhân vật danh tiếng:
Ngài De Richelieu, ngài De Buckingham, ngài De Beaufort, ngài De Retz, ngài này
cũng là một tay chiến đấu trên đường phố rất cừ. Xác nhận như thế có cả Louis
XIII và Hoàng hậu, đấng thân mâu của ngài, có một hôm đã nói với tôi: "Cám
ơn?". Tôi chẳng biết là đã được hân hạnh phục vụ Thái hậu bao nhiêu lần
rồi. Xin lỗi, nếu tôi đã nói quá bạo; nhưng thưa ngài, chuyện kể như tôi đã nói
với Hoàng thượng, đó là lịch sử, chuyện của dĩ vãng.
Nhà vua
cắn môi và ngồi phịch xuống ghế. Viên phó quan nói tiếp:
- Tôi
quấy quả Hoàng thượng rồi. Nhưng sự thực là như thế đấy. Nó như một người bạn
đường cứng cỏi, tua tủa mũi nhọn, chạm ai thì làm bị thương người nấy, ngay cả
đến kẻ nói ra.
Nhà vua
trả lời:
- Không
sao đâu, thưa ông, ta đã mời ông nói, xin cứ nói đi.
- Thưa
ngài, sau khi phục vụ Nhà vua và Giáo chủ, lại đến lúc phục vụ thời Nhiếp chính
(Chuyện ở Hai mươi năm sau). Tôi cũng đã chiến đấu dữ dội trong thời loạn
Fronde, tuy là ít hơn. Con người đã bắt đầu kém cỏi hơn. Nhưng mà tôi cũng đã
cùng với ngự lâm quân của Hoàng thượng trải qua một ít hiểm nguy, hẳn là có ghi
trong nhật ký của binh đội. Tôi có số thật may vì tôi được làm người thân cận
của ngài De Mazarin: ông phó quan ở phía này, ông phó quan về phía kia, ông phó
quan bên phải? Ông phó quan bên trái? Ông ta chẳng đưa ra cú đấm nào trên nước
Pháp mà không chia cho tôi. Thế rồi Hồng y lại không bằng lòng với chuyện chỉ
dùng tôi ở nước Pháp. Ông ta gửi tôi qua Anh tính sổ với ngài Cromwell. Lại
thêm một tay chẳng nhu tí nào, và tôi đã làm thoả mãn ngài rồi. Tôi đã có hân
hạnh biết ông ta nên đánh giá đúng ông ta. Cho nên khi tôi được việc hơn cả những
sĩ quan người ta sai phái, tôi được tưởng thưởng xứng đáng, vì người ta phong
cho tôi là chưởng quan ngự lâm quân, chức vụ ở triều đình được mọi người thèm
muốn nhất, chức vụ hơn cả thống soái nước Pháp vì đúng như thế, chưởng quan ngự
lâm quân là tinh hoa của quân đội, ông hoàng của những bậc dũng cảm!
Nhà vua
đáp lời:
- Thưa
ông, chưởng quan à, chắc ông lầm rồi, ông muốn nói phó quan chứ gì?
- Không
thưa ngài, tôi không lầm đâu. Xin Hoàng thượng nhớ cho tôi ở điểm đó: Ngài De
Mazarin đã cấp hàm chức cho tôi rõ ràng.
- Thế
sao?
- Nhưng
ngài thừa biết hơn ai hết là ngài Mazarin không phải lúc nào cũng cho, đã cho
rồi vẫn còn đòi lại. Lúc hòa bình trở lại, ông ấy lấy hàm chức của tôi và không
dùng tôi nữa. Tất nhiên là tôi không xứng đáng thay thế ông De Tréville, nhưng
mà dù sao ông ta cũng đã hứa với tôi, đã cho tôi thì phải giữ lời chứ!
- Chính
vì chuyện ấy mà ông bất mãn phải không? Thế thì để ta hỏi lại. Ta thích cái gì
cũng phải công bằng và lời khiếu nại của ông tuy gay gắt nhưng ta không phiền lòng
đâu.
Viên sĩ
quan nói:
- Ồ,
Hoàng thượng hiểu lầm rồi, bây giờ tôi không khiếu nại chuyện đó đâu.
- Ông tế
nhị quá, rồi đây ta sẽ lưu ý đến công việc của ông và sẽ…
- Ôi
thưa ngài, sẽ…? Ba mươi năm nay tôi thấy nơi chữ ấy những điều thật tốt lành, nghe
được từ miệng của những nhân vật tai to mặt lớn và rồi lại đến ngài vừa thốt ra
xong. Chỉ vì chữ sẽ ấy mà tôi mang hai mươi vết thương và đến tuổi năm mươi bốn
tôi chẳng có một đồng xu dính túi, chẳng có ai che chở trên đường đời trong khi
tôi đã che chở cho biết bao nhiêu người rồi. Thưa ngài, khi người ta nói với
tôi sẽ tôi muốn trả lời: Ngay tức khắc. Bây giờ tôi chỉ xin nghỉ ngơi. Thưa
ngài có thể nhận lời rất dễ dàng, không tốn hao gì hết.
- Thưa
ông, ta tưởng không phải nghe được những lời như thế, nhất là từ miệng một
người luôn luôn sống gần các bậc quyền quý. Ông quên rằng ông đang nói chuyện
với vua, với một nhà quý tộc có lẽ cũng thuộc dòng họ đáng giá như ông, khi ta
nói sẽ, tức là có thật đấy.
- Thưa
ngài, tôi không dám nghi ngờ gì hết. Và đây là điềm kết của cái sự thực kinh
khiếp mà tôi tỏ bày: Khi tôi thấy trên bàn này có chiếc gậy thống chế, lưỡi
gươm nguyên soái, chiếc vương miện xứ Ba Lan thì xin thề với ngài, thay vì tôi
sẽ, thì tôi cả quyết ngay tức khắc. Ô, xin lỗi ngài, tôi là thần dân của ông
Henri IV của ngài: tôi không thường hay nói nhưng nói gì thì phải nói cho hết.
Louis
nghiêm nghị hỏi:
- Hình
như trong tương lai, triều đình của ta đối với ông không có vẻ hứa hẹn gì lắm
phải không?
Viên sĩ
quan kiêu hãnh kêu lên:
- Khắp
nơi, khắp chốn, người người đều quên nhau. Ông chủ quên người giúp việc và do
đó người giúp việc phải quên ông chủ. Thưa ngài, tôi phải sống trong một thời
đại khốn khổ. Tôi thấy thanh niên đầy chán nản và sợ hãi, tôi thấy họ rụt rè,
trần trụi trong lúc đáng lẽ họ phải giàu có và có quyền uy. Ví dụ mới rồi đây
tôi mở cửa cho ông vua nước Pháp đón ông vua nước Anh. Tôi, kém cỏi như thế
này, mà suýt cứu được ông vua cha, nếu Chúa không chống lại tôi, Nếu Chúa không
nâng đỡ cho Cromwell. Tôi nói gì nhỉ, tôi mở cánh cửa này, nghĩa là mở cửa lâu
đài của một người anh em đón một người anh em và cái tôi thấy, thưa ngài, thật
là đau lòng. Tôi thấy viên tể tướng của ông vua này đuổi kẻ lưu đày ra và làm
nhục đấng chúa tể của ông ta bằng cách để cho một ông vua khác, bằng vai với
ông vua ta, phải lâm vào cảnh bần cùng. Rồi tôi thấy ông hoàng trẻ, đẹp, dũng
cảm đầy lòng nhân đạo và cương quyết của tôi run lên trước một lão già cười
nhạo ông sau bức màn the, nằm trên giường tiêu phí bao nhiêu là vàng bạc của
nước Pháp, trút chúng vào những hòm xiểng không biết chôn giấn nơi đâu. Thưa
ngài, tôi hiểu cái nhìn của ngài. Tôi đã táo gan đến bất kính, tôi đã nói với
vị chúa tể của tôi những lời mà nếu có kẻ nào nói như thế với tôi thì tôi tống
hết vào họng hắn. Nhưng ngài đã muốn tôi đưa ra hết những gì nằm tận đáy lòng
thì tôi phải phơi bày gan ruột tôi ra cũng như nếu Hoàng thượng muốn thì tôi sẽ
sẵn sàng chịu đổ máu vì ngài.
Nhà vua
không nói một lời, chỉ chùi dòng mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên thái dương.
Phút
giây im lặng sau những lời giãi bày nồng nhiệt đó là cả thế kỷ đau lòng cho
người nói lẫn kẻ nghe. Cuối cùng Nhà vua nói:
- Thưa
ông, ông đã thốt ra chữ quên và ta chỉ nhớ có mỗi một chữ ấy, và sẽ trả lời
chừng ấy mà thôi. Nhiều người dễ quên, nhưng ta không quên. Chứng cớ là ta nhớ
lại một ngày bạo loạn, dân chúng nổi giận gầm thét như sóng biển, tràn ngập
cung điện ta, ta phải giả vờ ngủ thì một người, chỉ một người, gươm tuốt trần,
núp phía chân giường, trông chừng cho ta dù phải nguy hiểm đến tính mạng vì ta,
như bao lần ông đã liều mình cho những người của gia đình ta. Thưa ông, có phải
nhà quý tộc ấy tên là d Artagnan không, ông nói đi?
Viên sĩ
quan lạnh lùng:
- Hoàng
thượng có trí nhớ tốt lắm.
Nhà vua
tiếp tục:
- Ông
thấy không, nếu lúc nhỏ ta còn có trí nhớ tốt như thế thì khi lớn lên ta còn có
thể nhớ nhiều hơn nữa.
Viên sĩ
quan vẫn cùng một giọng:
- Hoàng
thượng đúng là người được ơn Chúa.
Louis
tiếp tục, nét mặt xúc động:
- Này
ông d Artagnan, ông không kiên nhẫn bằng ta sao? Ông không chịu làm như ta sao?
- Thưa,
ngài làm gì?
- Ta chờ
đợi.
- Hoàng
thượng có thể làm như thế vì ngài còn trẻ. Nhưng tôi không chờ đợi được: tuổi
già đang đứng trước cửa nhà tôi, theo sau là thần chết đang đứng nhìn xuyên
suốt căn nhà tôi rồi. Hoàng thượng đang bắt đầu cuộc đời, đầy hy vọng và tương
lai xán lạn, nhưng tôi, tôi đã ở tận chân trời phía bên kia. Chúng ta cách nhau
xa quá cho nên chẳng bao giờ tôi chờ Hoàng thượng đến với tôi được nữa.
Louis đi
vòng khắp phòng, luôn luôn mồ hôi trám chảy ròng ròng - những giọt mồ hôi có
thể khiến viên ngự y phải giật mình nếu được chứng kiến. Thế rồi Louis XIV lên
tiếng dứt khoát:
- Thôi
được rồi, ông muốn về hưu phải không? Ông muốn từ chức phó quan ngự lâm quân
phải không?
- Tôi
xin thành khẩn để chiếc áo ngự lâm dưới chân Hoàng thượng.
- Đủ
rồi. Ta sẽ ra lệnh tính tiền hưu cho ông.
- Muôn
nghìn đội ơn Hoàng thượng.
Louis cố
gắng một lần chót:
- Thưa
ông, chắc ông sẽ mất một chủ nhân tốt.
- Thưa,
tôi tin chắc như thế.
- Ông có
chắc tìm được người như thế để phục vụ không?
- Ồ tôi
biết rằng Hoàng thượng là kẻ độc nhất trên đời này cho nên tôi sẽ không phục vụ
ông vua nào khác và chẳng có chủ nhân nào khác ngoài Hoàng thượng ra.
- Thế à?
- Xin
thề với Hoàng thượng như thế.
- Ta ghi
nhớ lời ông.
D
Artagnan nghiêng mình cảm tạ. Nhà vua nói tiếp:
- Và ông
cũng nên nhớ rằng ta có trí nhớ tốt.
- Vâng.
Nhưng tôi cũng xin Hoàng thượng quên những phút giây này đi, quên những điều
khốn khổ tôi vừa trình bày xong với ngài. Hoàng thượng cao cả trên mọi kẻ khốn
cùng, hèn mọn, cho nên.
- Ta
đây, như mặt trời, thấy hết cả lớn lẫn nhỏ, cả giàu lẫn nghèo, chiếu sáng người
này, sưởi ấm người khác, mãi mãi trên đời này. Thôi, ông được tự do rồi đấy.
Ông d Artagnan ạ.
Nhà vua
nấc nghẹn một tiếng trong cổ họng, bước nhanh vào phòng bên cạnh.
Và d
Artagnan nhặt chiếc nón mà ông vừa ném lên bàn bước ra ngoài.
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
7: Kẻ lưu đày
Chúng ta
sẽ biết ngay rằng d Artagnan sử dụng thời gian tự do của ông ta như thế nào.
Còn bây
giờ thì nếu độc giả cho phép, chúng ta hãy quay trở về nơi quán trọ Medicis có
một cánh cửa sổ mở ra khi ở toà lâu đài kia vừa phát lệnh báo Nhà vua ra đi.
Cánh cửa
sở mở ra đó là cửa phòng ông hoàng Charles. Cả đêm, ông hoàng khốn khổ này ôm
đầu chống tay lên bàn ngồi trầm mặc trong khi Parry ngủ mê mệt trong một góc
phòng.
Cuộc đời
của người hầu cận trung thành này thật lạ lỳ, anh ta vừa thấy cả chuỗi biến
động kinh khủng đã xảy ra ở thế hệ thứ nhất nay lại bắt đầu cho thế hệ thứ hai.
Lúc
Charles II suy nghĩ về chuyến thất bại thứ hai của mình, lúc ông thấy rõ nỗi cô
đơn hoàn toàn một khi cả mối hy vọng mới nhóm lên đã lùi mãi về phía sau, ông
thấy choáng váng cả người và từ trên thành ghế ngã vật xuống chỗ ngồi.
Thế rồi,
Thượng đế thương tình cho ông hoàng khốn khổ bèn đưa ông vào giấc ngủ - người
anh em vô tội của cái chết đấy. Đến sáu giờ rưỡi ông mới tỉnh dậy, căn phòng đã
rực nắng ban mai, còn Parry thì không dám đứng dậy sợ ông tỉnh giấc và đang đau
khổ ngắm kỹ chàng thanh niên có đôi mắt đỏ chạch vì thiếu ngủ, đôi gò má xanh
xao vì sầu muộn và thiếu ăn.
Tiếng
động của những chiếc xe nặng nề lọc cọc đi xuống bến sông Loire đánh thức
Charles dậy. Ông đứng lên, nhìn quanh quất như một người đã quên hết mọi sự ở
đời. Thế rồi ông nhận ra Parry, bắt tay ông ta và bảo đi thanh toán tiền nong
với chủ quán. Cropole bị bắt buộc phải làm việc với Parry nên tính toán một
cách thật sòng phẳng. Ông ta chỉ lưu ý Parry, theo thông lệ của ông ta, rằng
hai người lữ khách không ăn ở đây thật là uống tới hai lần, một là khiến cho
nhà bếp ông phải tủi hổ và hai là khiến ông bắt buộc phải tính thêm một bữa ăn
không dùng đến. Parry chẳng biết nói sao và cứ tính toán cho xong.
Ông
hoàng nói:
- Ta hy
vọng rằng mấy con ngựa sẽ không phải chịu thiệt như thế. Ngựa không thuộc vào
phần người phải trả. Những người khách đi đưòng dài như chúng ta mà phải leo
lên mấy con ngựa gầy còm thì thật là khốn khổ.
Nhưng
Cropole lấy vẻ nghiêm trang để xoá tan mối nghi ngờ đó và trả lời rằng chuồng
ngựa nhà Medicis cũng chiều khách như nhà ăn vậy.
Ông
Hoàng nhảy lên ngựa, người hầu cũng làm theo rồi cả hai lên đường hướng về
Paris. Cả trên các lộ cũng như trong các khu phố đều vắng ngắt.
Đối với
ông hoàng thì chuyện vừa xảy ra càng khắc nghiệt vì đây cũng là một cuộc lưu
đày mới. Những người bất hạnh thường cố bám lấy bất cứ một tia hy vọng nào đó
giống như người sung sướng bám lấy hạnh phúc to lớn và khi phải rời nơi có
nhiều hy vọng nuôi dưỡng họ thì họ cảm thấy nuối tiếc cùng cực như người bị ám
khi đặt chân lên chuyến tàu đưa họ đến nơi lưu đày. Một tâm hồn nhiều lần chịu
đau thương rõ ràng chỉ bị một vết chích nhỏ cũng thấy đau đớn, và khi hắn ta
thấy chỉ một lúc nào đó hết khốn khổ thì đã coi như là được hạnh phúc rồi. Rõ
ràng là trong những lúc cùng cực nhất, Thượng đế đã lại ban cho chút hy vọng
như giọt nước nhỏ mà tên nhà giàu xấu bụng ở địa ngục đã cầu khẩn nơi Lazarre
(1).
Có lúc
sự hy vọng của Charles tưởng đã là một niềm vui không phải chỉ thoáng qua. Đó
là khi ông thấy người anh em Louis tiếp đón nồng hậu. Hy vọng thành rồi ngỡ sắp
thành sự thật. Thế nhưng sự chối từ của Mazarin khiến cho điều sắp trở thành
hiện thực đó chỉ còn là mơ mộng. Lời hứa của Louis XIV lại trở thành trò giễu
cợt, như ngai vàng, vương trượng, như bạn bè của ông, như tất cả những gì vây
quanh thời niên thiếu vương giả của ông mà nay đã rời bỏ ông trong quãng đời
thanh xuân chịu bị lưu đày này.
Thật là
khôi hài! Tất cả đối với Charles II đều là khôi hài trừ nơi yên nghỉ lạnh lẽo,
đen tối của cái chết hứa hẹn đem đến cho mà thôi.
Đó là
điều của ông hoàng khốn khổ nghĩ suy trong khi ông buông lỏng dây cương, nằm
trên mình ngựa, đi dưới ánh mặt trời ấm áp tháng năm mà trong đầu óc thì lại
chán ghét nhân loại.
Một kỵ
sĩ phóng nhanh trên con đường ngược lên Blois mà chàng vừa rời khỏi nửa tiếng
đồng hồ trước đó, đi ngược tới giáp mặt hai lữ khách và dù đang hấp tấp, chàng
cũng giở nón chào họ. Ông hoàng không chú ý lắm đến chàng tuổi trẻ nọ vì chàng
kỵ sĩ chỉ độ hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi. Chàng thỉnh thoảng quay lại ra
dấu với một người đàn ông đứng trước cổng một ngôi nhà thấp sơn màu trắng và
đỏ, xây bằng gạch, đá, lơp ngói đen nằm phía trái trên con đường ông hoàng đi.
Người
đàn ông nọ đã già, cao to ốm yếu, tóc bạc trắng, đáp lại cái chào của chàng
tuổi trẻ bằng những cử chỉ giã từ âu yếm như của một người cha. Chàng tuổi trẻ
vừa khuất sau một khúc quanh có hàng cây xanh đẹp che khuất, ông già sửa soạn
đóng cổng vào nhà thì chợt lưu ý đến hai người khách đi đường vừa kịp đến trước
cổng.
Chúng ta
đã nói là ông hoàng trong khi đi đầu cúi gầm, tay buông thõng dây cương để mặc
cho con ngựa tự ý thong thả từng bước một. Còn Parry đi sau thì để đầu trần cho
nắng ấm chiếu trên mình, và đưa mắt nhìn ngang ngửa hai bên đường.
Mắt lão
bắt gặp cái nhìn của ông già đứng tựa vào cổng và ông già như thấy một chuyện
kỳ lạ, bỗng thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên rồi bước tới gần hai người khách.
Đôi mắt
ông nhìn lướt qua Parry rồi dừng lại nơi ông hoàng. Vẻ dò xét đó, dù chỉ một
thoáng thôi cũng biểu lộ trên khuôn mặt của ông già. Vì ông vừa nhận ra người
trẻ hơn trong hai lữ khách. Chúng tôi nói nhận ra vì phải nhận biết rõ mới có
thể dẫn đến một cử chỉ: ông già giật mình chắp hai tay lại một cách thành kính,
rồi giở nón ra cúi chào sát xuống như sắp quỳ lạy vậy. Dù ông hoàng đang phải
trầm tư đến mức lơ đãng cũng nhận thấy cái chào đó nên ông đừng ngựa lại và
quay sang Parry.
- Chúa
ơi, Parry, người chào ta như thế là ai vậy? Chẳng lẽ hắn nhận ra ta?
Parry
hốt hoảng đến xanh mặt vội thúc ngựa bước về phía cổng; lão dừng ngựa cách ông
già vẫn còn quỳ chừng năm, sáu bước.
- Thưa
ngài, ngài thấy tôi cũng ngạc nhiên đấy, vì tôi hình như đã thấy ông cụ này ở
đâu rồi. À đúng, đúng là ông ta. Xin Hoàng thượng cho phép tôi nói với ông ta
vài lời.
- Nói
đi.
Parry
hỏi:
- Có
phải là ông không, ông Grimaud?
- Vâng,
tôi đây. - Ông già đứng dậy nhanh vẫn không bỏ vẻ cung kính.
- Tâu
Hoàng thượng, - Parry nói, - tôi không lầm đâu, ông là người hầu của Bá tước De
La Fère là nhà quý tộc tôi thường hay nói với Hoàng thượng. Chắc Hoàng thượng
còn nhớ không phải chỉ trong trí mà là cả trong tâm khảm đấy.
- Có
phải là người chứng kiến giờ phút cuối cùng của cha ta đấy không? - Charles hỏi
và giật mình nhớ tới chuyện ấy.
- Tâu
Hoàng thượng đúng thế.
- Ôi!
Rồi ông
quay sang Grimaud đang nhìn như dò xét ý nghĩ của ông với đôi mắt sáng láng
thông minh.
- Ông
bạn ơi, chủ ông, Bá tước De La Fère ở gần đâu đây phải không?
- Thưa ở
đây, - Grimaud trả lời, tay đưa về phía sau chỉ cánh cổng ngôi nhà màu trắng và
đỏ.
- Ngài
Bá tước có nhà không?
- Thưa ở
phía sau, dưới mấy cây dẻ.
- Parry,
- Ông hoàng nói, - ta không muốn bỏ lỡ cơ hội vàng ngọc này cám ơn nhà quý tộc
mà gia đình ta phải chịu ơn phục vụ tận tuỵ của ông ta. Giữ giùm ngựa cho ta,
ông bạn?
Ông
hoàng ném dây cương vào tay Grimaud, một mình bước vào nhà Athos bình dị như
vào nhà người bằng vai. Charles đã biết chỗ qua mấy lời vắn tắt của Grimaud nên
bỏ qua căn nhà trên mà bước thẳng vào nơi đã chỉ. Chuyện thật dễ dàng vì cách
cây dẻ to lớn có ngọn vươn lên trên các cây khác và đầy hoa lá.
Hai bên
lối đi xen kẽ những vạt đất hình thoi màu sáng hoặc sẫm ứng với phần tán lá
thưa hoặc dày. Ông hoàng trẻ nhận ra nhà quý tộc đang chắp tay sau lưng đi dạo
với dáng bộ trầm tư tỉnh táo. Charles II bước thẳng đến nơi. Nghe tiếng bước
chân. De La Fère ngẩng đầu lên, thấy một người lạ dáng vẻ thanh tú, quý phái
bước lại, bèn giở nón ra, đứng đợi. Charles II đến cách ông vài bước, cũng lấy
nón cầm tay và nói, như để trả lời cho câu hỏi trong im lặng của Bá tước:
- Chào
Bá tước, tôi đến để làm tròn bổn phận với ông. Từ lâu tôi muốn bày tỏ lòng cảm
ơn sâu sắc đối với ông. Tôi là Charles II, con của ông Charles Stuart, người
cai trị nước Anh và đã chết trên đoạn đầu đài.
Nghe cái
tên danh tiếng ấy, Athos như cảm thấy cả tim mạch run rẩy, như khi nhìn thấy
ông hoàng trẻ đứng đầu trần và giơ tay ra với ông, đôi mắt đẹp của ông mờ đi vì
hai giọt nước mắt ứa ra.
Ông kính
cẩn nghiêng mình, nhưng ông hoàng đã nắm lấy tay ông và nói:
- Bá
tước xem, tôi khốn khổ đến chừng nào. Chỉ nhờ sự tình cờ tôi mới gặp được Bá
tước, than ôi! Sao tôi không thể ở gần những người tôi yêu mến, kính trọng mà
lại chỉ giữ được tên tuổi họ trong đầu óc và công lao của họ trong trái tim của
tôi thôi? Nếu như không có người hầu của ông nhận ra tôi thì tôi đi qua trước
cửa nhà ông như đối với một người xa lạ rồi.
- Đúng
vậy, - Athos lên tiếng xác nhận tình cảnh của ông hoàng rồi cúi chào.
- Đúng
vậy, Hoàng thượng đã trải qua những ngày thật gian khổ.
Charles
nói tiếp:
- Than
ôi, chắc sẽ lại còn những ngày gian khổ hơn đến tiếp theo đấy?
- Thưa
ngài, chúng ta nên ráng hy vọng.
Charles
lắc đầu:
- Bá
tước ơi, cho tới chiều hôm qua tôi vẫn còn mang hy vọng. Tôi thề với Bá tước
như vậy, đúng với tư cách một con chiên ngoan đạo.
Athos
nhìn ông hoàng như dò hỏi. Charles nói:
- Ôi
chuyện giản dị lắm: tôi là người bị lưu đày, không còn chút gì cả, bị mọi người
coi thường, cho nên dù ghê tởm mình đến đâu đi nữa, tôi vẫn cố gắng một lần
cuối để xây dựng lại cơ đồ của tôi. Có phải chăng Thượng đế đã phán quyết tất
cả gia đình tôi, tất cả hạnh phúc cũng như nỗi đau khổ của tôi đều từ nước Pháp
đưa đến? Bá tước ôi, chắc ông có biết một vài điều gì đó vì ông là một trong
những người Pháp mà người cha khốn khổ của tôi đã gặp dưới chân máy chém. Sau
những năm tháng trên chiến trường có các ông bên cạnh.
- Thưa
ngài, - Athos nhũn nhặn trả lời, - chẳng phải chỉ một mình tôi mà cả các bạn
tôi, trong trường hợp đó chúng tôi chỉ làm tròn bổn phận của người quý tộc
thôi. Nhưng nếu như Hoàng thượng muốn nghe lại thì.
- Đúng
vậy, tôi được sự che chở. Xin Bá tước tha lỗi vì tôi phải ngập ngừng, vì Bá
tước đã hiểu đủ chuyện. Bá tước biết rằng đối với một người trong dòng họ chúng
tôi, nói lên lời đó thật là một điều khổ tâm. Vâng tôi được sự che chở của tổng
trấn nước Hà Lan, người anh em họ của tôi. Nhưng nếu không có sự can thiệp hay
ít ra, không có sự cho phép của nước Pháp thì viên tổng trấn không thể có sáng
kiến gì cả. Tôi đành phải đi tìm vua Pháp xin phép và tôi bị từ chối?
- Nhà
vua đã từ chối, thưa ngài?
- Ôi
chẳng phải ông ta đâu, phải nói một cách công bằng cho người anh em họ trẻ tuổi
của tôi. Nhưng ông Mazarin…
Athos
cắn chặt môi. Charles nhận ra ngay ý nghĩa của cử chỉ đó.
- Chắc
ông nghĩ là tôi đáng lẽ phải thấy trước như vậy?
Bá tước
kính cẩn trả lời:
- Đúng
như ý tôi nghĩ, thưa ngài. Tôi biết kỹ tên tuổi người đó lắm.
- Thế
rồi tôi quyết định giải quyết cho xong và để xem rõ số phận tôi như thế nào.
Tôi nói với Louis rằng muốn nước Pháp, nước Hà Lan khỏi dính dấp đến, thì để
tôi xin tự lo liệu như tôi đã từng làm, với hai trăm nhà quý tộc ông ta giúp
tôi và với một triệu đồng ông ta cho tôi vay.
- Thế
rồi sao, thưa ngài?
- Thưa
ông, lúc bấy giờ tôi cảm thấy một điều lạ, tôi thấy sự thoả mãn trong tuyệt
vọng. Tôi cũng như một số người khác, tôi thấy có sự thoả mãn thực sự khi biết
chắc rằng tôi sẽ mất tất cả và đã đến lúc phải tàn tạ rồi.
- Ôi,
Athos kêu lên, - tôi mong rằng Hoàng thượng chưa đến lúc phải bi quan quá vậy.
- Thưa
Bá tước, khi ông nói với tôi như thế là để tôi giữ lại chút hy vọng, nhưng ông
không biết rõ những điều tôi vừa nói với ông, Bá tước ơi, tôi vừa đến Blois để
xin vay của người anh em tên là Louis của tôi một triệu đồng làm nguồn hy vọng
thu xếp công việc, và người anh em Louis đã từ chối. Bá tước đã rõ là chẳng còn
gì nữa cả rồi!
- Hoàng
thượng có cho phép tôi bày tỏ một ý ngược lại không?
- Sao,
Bá tước cho là đầu óc tôi tầm thường đến mức không thể nhận ra hoàn cảnh của
mình chăng?
- Thưa
ngài, theo tôi thì ngược lại, bao giờ trong các hoàn cảnh tuyệt vọng cũng nảy
ra những bước chuyển biến đem đến may mắn cho con người.
- Cám ơn
Bá tước. Thật là hân hạnh được gặp người như ông, được gặp những người đủ tin
vào Thượng đế và vào nền quân chủ để khỏi phải tuyệt vọng dù là tình cảnh của
Hoàng gia bị sa sút đến đâu cũng vậy. Nhưng than ôi, những lời của ông giống
như các thang thuốc gọi là thần diệu mà thực ra chỉ chữa được các vết thương có
thể lành, còn bây giờ chẳng có gì cứu được tôi ông bạn ôi, chắc chắn rằng tôi
phải lên đường lưu đày với ông bạn già Parry của tôi, tôi sẽ quay về nghiền
ngẫm nỗi đau thương trong một tu viện nào đó ở Hòa Lan. Bá tước ơi, rồi ở đó mọi
sự sẽ tới hồi kết cuộc và cái chết sẽ đến rất nhanh với cái thân xác mỏi mòn
này và tâm hồn này vẫn mong đợi ngày về thiên đường.
- Hoàng
thượng có mẹ, có em trai, em gái, Hoàng thượng là trưởng gia đình, ngài phải
cầu xin Thượng đế cho sống lâu hơn là mong chóng chết. Hoàng thượng bị lưu đày,
trốn chạy, nhưng gia đình ngài có quyền đòi hỏi được chiến đấu, được lăn vào
nguy hiểm, vào công việc chứ không phải là yên nghỉ trên thiên đường.
Charles
đáp bằng một nụ cười buồn khôn xiết:
- Bá
tước ơi, có bao giờ ông thấy một vị vua lấy lại vương quốc của mình bằng sức
của một người già như Parry và với số tiền ba trăm đồng écus mà người hầu này
mang trong túi hay không?
- Không,
thưa ngài. Nhưng tôi đã hơn một lần có nghe nói rằng một ông vua bị mất ngôi đã
lấy lại đất nước bằng một tấm lòng cương quyết, bằng sự bền bỉ, nhờ bạn bè và
nhờ một triệu đồng francs khéo sử dụng.
- Nhưng
ông chưa hiểu tôi nói gì sao? Người anh em Louis của tôi đã từ chối không giúp
đỡ một triệu đồng mà?
Athos
nói:
- Thưa,
Hoàng thượng có cho phép tôi trình bày trong vài phút một đôi điều không?
Charles
II chăm chú nhìn Athos và nói:
- Sẵn
sàng ông ạ.
- Thế
thì tôi sẽ chỉ đường cho Hoàng thượng.
Bá tước
vừa nói vừa đi về phía ngôi nhà, hướng dẫn ông hoàng vào văn phòng và mời ngồi:
- Thưa
Hoàng thượng, ngài vừa mới nói rằng với tình trạng hiện nay ở nước Anh thì một
triệu quan là vừa đủ để chiếm lại ngai vàng phải không ạ?
- Đó là
để thử làm thôi và cũng để chết như một ông vua, nếu tôi không thành công.
- Thế
thì, thưa Hoàng thượng, xin ngài hãy nghe tôi nói đây!
Charles
gật đầu đồng ý. Athos đi thẳng ra vửa, nhìn quanh quất bên ngoài xem có ai ở
gần đó không rồi khoá chết cửa và trở về chỗ.
- Thưa
Hoàng thượng, hẳn ngài còn nhớ rằng tôi đã giúp một tay cho vua Charles I rất
cao cả và rất khốn khổ, khi bọn đao phủ dẫn ngài từ St. James đến White Hall?
- Vâng
tôi còn nhớ và chắc chắn sẽ còn nhớ suốt đời việc đó
- Thưa
ngài, làm thân người con mà phải nghe lại câu chuyện thảm thương đó thì thật là
khổ tâm tuy ngài chắc đã được nghe nhiều lần rồi. Nhưng tôi bắt buộc phải thuật
lại lần nữa mà không để quên chi tiết nào.
- Cứ nói
đi, thưa ông.
- Khi
vua cha ngài bước lên máy chém, hay đúng hơn, khi ngài bước qua căn phòng để bị
đưa vào máy chém đặt bên ngoài cửa sổ, thì chúng tôi đã sẵn sàng tất cả để giải
thoát Người. Gã đao phủ bị loại rồi, miếng ván dưới căn phòng đã được khoét một
lỗ và tôi ngồi phía dưới đã nghe tiếng răng rắc dưới chân Người.
- Parry
đã kể cho tôi nghe mọi chi tiết kinh hoàng đó.
Athos
nghiêng mình và tiếp tục:
- Đây là
đoạn mà ông ta không biết được. Thưa ngài, vì đây là chuyện chỉ xảy ra giữa
Thượng đế, cha ngài và tôi mà thôi. Chuyện này chưa được kể với ai hết ngay cả
với các bạn thân của tôi. Ông khổ chủ thượng thặng nói với gã đao phủ bịt mặt:
"Tránh ra một chút đi. Một chút thôi vì ta biết rằng ta thuộc về người
rồi. Nhưng nên nhớ khi ta làm dấu thì hãy ra tay. Để ta đọc kinh một
mình".
- Xin
lỗi, - Charles xanh mặt nói, - xin lỗi Bá tước, ông đã biết thật nhiều chi tiết
của sự việc thê thảm, những chi tiết như ông vừa nói là chưa hề kể cho ai nghe
hết, thế thì ông có biết tên của gã đao phủ hiểm độc đó không, tên của kẻ hèn
mạt đã giấu mặt để chém ông vua mà khỏi bị trừng phạt đó không?
Athos
hơi tái mặt đáp:
- Tên
hắn ta? Vâng, tôi biết nhưng không thể nói ra được.
- Bây
giờ hắn ra sao?
- Ở Anh
không ai biết số phận hắn sau này như thế nào cả. Hắn đã chết rồi.
- Có ai
là không chết trên giường, không chết bình thường, yên ổn, không chết như một
người lương thiện?
- Riêng
về phần hắn phải chịu cái chết thê thảm trong một đêm kinh hoàng, giữa sự tức
giận của người và bão tố của trời đất. Thân xác hắn bị đâm nhiều nhát rồi bị
dìm dưới biển sâu.
- Cầu
thượng đế tha thứ cho kẻ giết hắn!
- Thôi,
chúng ta hãy quên chuyện đó đi. - Charles II nói sau khi thấy Bá tước không
chịu nói thêm nữa.
- Vua
nước Anh, sau khi nói như tôi đã kể, liền tiếp: "Nhà ngươi chỉ chém khi ta
giơ tay lên nói "Remember", nhớ không?"
- Đúng
thế, - Charles nói với giọng khàn khàn.
- Đúng,
đó là lời nói cuối cùng của người cha khốn khổ của tôi. Nhưng để làm gì, nói
cho ai?
- Nói
với nhà quý tộc Pháp đang ở phía dưới.
- Cho
ông à?
- Vâng,
thưa ngài. Và cả những lời nói của ngài qua các tấm ván có phủ vải đen, cho tới
bây giờ vẫn âm vang trong tai tôi. Nhà vua quỳ một gối xuống đất nói: "Bá
tước De La Fère ông có ở đó không?" - "Thưa ngài có". Tôi trả
lời như thế. Rồi nhà vua cúi xuống.
Charles
II tuy hết sức đau khổ nhưng do nôn nóng cũng nghiêng mình về phía Athos để
nhận lấy từng tiếng một những lời đầu tiên Bá tước nói ra. Đầu ông kề sát Athos
trong khi Athos đang tiếp tục:
- Thế
rồi Nhà vua cúi xuống: "Bá tước De La Fère, tôi không thể để cho ông cứu.
Tôi không chịu như thế. Để chống đỡ cho một chính nghĩa tôi cho là không xâm
phạm được, tôi đã làm mất ngai vàng của cha ông tôi để lại và làm tản lạc gia
sản của các con tôi rồi".
Charles
II giấu mặt trong lòng bàn tay và dòng nước mắt xé lòng chảy qua các ngón tay
trắng trẻo, gầy guộc của ông.
-
"Tôi còn một triệu đồng vàng. - Nhà vua nói tiếp. - Tôi đã chôn trong hầm
dưới lâu đài Newcastle vào lúc tôi rời thành phố đó".
Charles
II ngẩng đầu lên, lẩm bẩm:
- Một
triệu! Ôi, Bá tước ơi!
-
"Số tiền đó, chỉ mình ông được biết, ông hãy sử dụng nó khi ông thấy rằng
đã đến lúc cần sử dụng một cách phải phép nhất cho người con trưởng của
tôi". Thôi Bá tước De La Fère, hãy nói lời vĩnh biệt với tôi đi -
"Vĩnh biệt, xin chào vĩnh biệt ngài", tôi kêu lên.
Charles
II đứng dậy áp vầng trán nóng hổi vào cạnh cửa sổ Athos tiếp tục:
- Chính
vào lúc đó, ông vua đã thốt lên tiếng "Remember" dành cho tôi. Thưa
ngài, ngài thấy rõ là tôi đã nhớ mãi.
Charles
không kiềm chế được xúc động. Athos thấy hai vai của ông hoàng rung lên bần
bật. Ông nghe tiếng thổn thức trong lồng ngực kia. Ông nín lặng vì cũng xúc
động bởi cả những kỷ niệm chua xót mà ông vừa gợi nên cho ông hoàng trẻ tuổi
Charles II gắng gượng tột bực để rời khung cửa sổ, nuốt nước mắt đến ngồi cạnh
Athos. Bá tước nói:
- Thưa
ngài, cho đến nay tôi vẫn tưởng là chưa đến lúc dùng tới số tiền đó, nhưng khi
tôi đăm đăm nhìn vào đất Anh, tôi đoán lúc đó đến gần rồi. Mai đây, tôi định
cho người tìm xem Hoàng thượng ở đâu và đi tìm ngài. Nay ngài lại đến tôi thì
đúng là Thượng đế đã ở về phía ta rồi.
Charles
nói với một giọng ngắt quãng bởi cảm động:
- Thưa
ông, ông như một thiên thần của Thượng đế gởi đến tôi, ông là người cứu tôi do
thân phụ tôi sống từ mồ trỗi dậy nhưng ông thấy không, từ mười năm nay, xứ sở
tôi đã lại chịu nội chiến tàn phá, đảo lộn lòng người, xáo trộn đất đai. Chắc
không còn chút vàng nào trong đất của tôi cũng như cllẳng còn tình yêu thương
nào trong lòng người dân của tôi đâu.
- Thưa
ngài, nơi Hoàng thượng chôn một triệu đó tôi biết rất rõ và chắc chắn rằng
chẳng ai có thể tìm ra được hết. Vả lại, chắc gì lâu đài Newcastle đã sập hết
rồi không? Có phải người ta đã triệt hạ từng viên đá và đào xới từng tấc đất
không?
- Không,
nó còn ở đó và là chỗ đóng quân của tướng Monck. Ông thấy không, nơi duy nhất
mà tôi chờ đợi, nơi tôi có nguồn lợi thì lại bị kẻ thù của tôi chiếm mất rồi.
- Thưa
ngài, tướng Monck không thể khám phá ra kho vàng tôi nói đó.
- Đúng
vậy, nhưng chẳng lẽ tôi lại đi nạp mình cho Monck để có được kho vàng? Bá tước
ơi, ông thấy đó, thôi thì hãy bằng lòng với số phận bởi vì cứ mỗi lần tôi ngẩng
đầu lên thì nó lại đạp tôi xuống. Chỉ với Parry là người giúp việc, với Parry
mà có lần Monck đã đuổi đi thì làm cách nào? Thôi, thôi, Bá tước ơi, đành phải
nhận cú giáng cuối cùng này vậy thôi.
- Điều
mà Hoàng thượng không làm được, Parry không làm được, tôi có làm được không?
- Ông,
ông Bá tước.
Athos
ngả nón chào.
- Tôi sẽ
đi, nếu Hoàng thượng cho phép, vâng tôi sẽ đi.
- Nhưng
ở đây Bá tước đang sống hạnh phúc.
- Thưa
ngài, tôi sẽ không bao giờ thấy được hạnh phúc nếu còn chưa làm tròn bổn phận,
thế mà việc vua cha của ngài giao cho tôi trông coi tài sản lại là một bổn phận
tối thượng. Cho nên, bây giờ ngài chỉ ra lệnh là tôi đi ngay với ngài.
Ông
hoàng quên cả lễ nghi cách biệt, nhảy lại choàng cổ Athos:
- Bá
tước! Ông làm tôi thấy rằng còn có Thượng đế ở trên trời và đôi khi ngài cũng
đưa thiên sứ xuống với những con người khốn khổ ở trần thế này.
Athos
xúc động trước sự nồng nhiệt của chàng trẻ tuổi nên tỏ dấu cảm ơn, rồi bước đến
cửa sổ gọi ra:
-
Grimaud, thắng ngựa đi.
Ông
hoàng thốt lên:
- Sao,
ngay bây giờ ư? Đúng ông là một con người kỳ diệu?
- Thưa
ngài, - Athos trả lời,
- Đối
với tôi, việc gấp nhất là phục vụ Hoàng thượng. - Rồi ông mỉm cười nói tiếp -
Vả lại tôi đã tập theo thói quen từ lâu, từ lúc làm việc cho Hoàng hậu. cô của
ngài và Hoàng thượng cha ngài rồi. Thế thì làm sao tôi lại mất thói quen vào
lúc phải phục vụ ngài?
Ông
hoàng lẩm bẩm:
- Con
người thật đáng vị nể!
Rồi sau
một lúc suy nghĩ, ông nói:
- Nhưng
không, thưa Bá tước, tôi không thể để ông lăn lưng vào gian khổ thiếu thốn như
vậy. Tôi chẳng có gì để đền ơn công cán cao cả của ông.
Athos
cười:
- Ôi
Hoàng thượng nhạo tôi, ngài có một triệu đồng mà.
- Nếu
tôi chỉ được một nửa như thế là tôi có thể lập cả một trung đoàn. Nhưng cảm ơn
Thượng đế, tôi vẫn còn vài vòng vàng và một ít kim cương của gia đình.
- Mong
rằng Hoàng thượng xài chung với người tớ trung thành này.
- Chung
với một người bạn. Vâng, thưa Bá tước, với điều kiện là ông bạn đó sau này phải
chịu chia phần với tôi.
Athos
kéo một ngăn tủ rút ra tiền vàng và đồ trang sức.
- Thưa
ngài, bây giờ chúng ta giàu rồi. May là chúng ta có tới bốn người để chống với
kẻ trộm.
Nỗi vui
mừng làm đôi má Charles hồng lên. Ông thấy Grimaud mang giày ủng đi đường, dắt
hai con ngựa đến hàng cột hành lang.
- Này
Blaisois, mang thư này cho tử tước De Bragelonne. Ai có hỏi thì nói ta đi
Paris. Anh trông nhà, Blaisois ạ.
Chú thích:
(1) một nhân vật trong Kinh thánh
(2) Hãy ghi nhớ
CÁI CHẾT
CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương
8: D'Artagnan đi tìm Aramis và Porthos ở đâu?
Chưa đầy
hai giờ đồng hồ kể từ khi chủ nhân rời nhà lên đường đi Paris trong cái nhìn
hút theo của Blaisois, thì một kỵ sĩ cưỡi ngựa khoang béo tốt đến dừng trước
cánh cổng sắt và thét lên tiếng "hê!" vang dội.
Các mã
phu, những người làm vườn còn đang vây quanh Blaisois, anh chàng "sử
gia" quen thuộc của bọn tôi tớ trong nhà. Tiếng "hê" rất quen
với Blaisois nên anh ta ngoảnh lại, kêu:
- Ô!
Ngài d Artagnan. Các anh kia mau mở cửa ra!
Cả một
tốp tám người lao đến cánh cổng mở ra, nhẹ nhàng như lôi một chiếc lông vũ và
ai nấy cũng đều tíu tít chào thưa vì họ đã từng thấy chủ nhân tiếp đón người
bạn thân này nồng nhiệt như thế nào rồi.
Ngài d
Artagnan nhún mình trên bàn đạp rồi bước xuống đất, mỉm cười hòa nhã:
- Thế
nào? Ông Bá tước thân yêu đâu rồi?
- Ô,
ngài thấy đó, thật rủi ro cho ngài, - Blaisois nói, - ngài Bá tước chủ tôi cũng
thật rủi ro không được tiếp ngài. Ngài Bá tước vừa ra đi không quá hai tiếng
đồng hồ rồi.
D
Artagnan không ngạc nhiên lắm, nói:
- Tốt,
ta thấy là anh nói giọng Pháp thuần nhã nhất thế giới, anh phải dạy ta học văn
phạm và lối nói quý phái để ta chờ chủ anh về.
- Không
được đâu, thưa ngài, - Blaisois nói, - ngài phải chờ lâu lắm.
- Ông ta
không trở về trong ngày sao?
- Thưa
ngài, ngày mai, ngày kia cũng không. Ngài Bá tước đi du lịch.
- Du
lịch!- D Artagnan nói. - Anh kể chuyện nằm mơ đấy
- Thưa
ngài, đúng đấy ạ. Bá tước cho phép tôi trông coi nhà cửa và còn nói thêm với
giọng oai nghi và êm ái - đối với tôi thì đó cũng chỉ là một: "Ai hỏi thì
ngươi nói ta đi Paris".
D
Artagnan kêu lên:
- Thế
thì ta chỉ cần biết ông ta đi Paris là đủ rồi, ta bắt đầu từ đó ông ta đi hai
giờ trước ta phải không?
- Thưa
ngài, vâng.
- Chắc
ta bắt kịp được. Ông ta đi một mình?
- Không,
thưa ngài.
- Ai đi
với ông ta?
- Có một
nhà quý tộc tôi không biết tên, một ông già và ông Grimaud.
- Bấy
nhiêu người đó không thể chạy nhanh hơn ta được. Ta đi!
Blaisois
áp nhẹ mình vào cương ngựa:
- Ngài
nghe tôi một chút được không?
- Được,
miễn là anh nói nhanh lên, đừng dài dòng.
- Thế
thì, thưa ngài, cái chữ Paris đó chỉ là để đánh lừa.
D Artagnan
nghiêm nét mặt lại:
- Ô?
Đánh lừa?
- Thưa
vâng, và ngài Bá tước không đi Paris đâu, tôi chắc là như thế.
- Ai cho
anh biết?
Thế này
này. Ông Gimaud luôn luôn biết ông chủ đi đâu và đã hứa với tôi là ngay lần đi
Paris đầu tiên, ông sẽ mang giùm một ít tiền gởi cho vợ tôi.
- À? Thế
ra anh có vợ rồi?
Vợ tôi
người ở đây nhưng Bá tước thấy nó rộng miệng quá nên tôi gửi nó đi Paris. Có
lúc thì bất tiện đấy nhưng cũng có lúc dễ chịu.
- Ta
hiểu rồi, nhưng nói nốt đi. Anh nói là không tin Bá tước đi Paris à?
- Vâng,
thưa ngài, vì như thế thì Grimaud đã thất hứa. Ông ta đã thề thốt rồi, không
thể được?
- Không
thể được, - D Artagnan lặp lại, vẻ mơ màng vì ông cũng tin như thế,
- Thôi
được, anh Blaisois thân mến, cảm ơn anh.
Blaisois
nghiêng mình cảm tạ.
- Này,
anh biết rằng anh ta không có tính tò mò. Ta rất cần gặp ông chủ anh. Anh vốn
rất khéo nói, anh nên nói một chút gì đó để ta có thể hiểu được. Một chút xíu
thôi còn lại thì để ta đoán.
- Thưa
xin thề với ngài là tôi không làm được. Tôi hoàn toàn không biết về mục đích
chuyến đi của Bá tước. Còn nói chuyện nghe lén nơi cửa sổ thì xấu hổ quá, vả
lại điều này ở đây bị cấm.
D
Artagnan nói:
- Anh
bạn, điều gì cũng được, ít ra anh cũng biết ngày Bá tước về chứ?
- Chẳng
hơn là biết ông ta đi đâu chút nào.
- Cứ
tiếp tục đi! Blaisois lục trí nhớ thử coi!
- Như
vậy là ngài nghi ngờ sự thành thật của tôi! Ôi ngài làm tôi buồn phiền lắm đó.
- Quỷ
tha ma bắt cái lưỡi dẻo quẹo của anh ta, - D Artagnan lẩm bẩm. - Thôi từ giã.
D
Artagnan ném cái nhìn về phía ngôi nhà, quay ngựa đi, vẻ thản nhiên như chẳng
có gì phải bận tâm hay tức giận cả.
Khi đến
đầu tường thành và ngoài tầm mắt của mọi người ông mới bật thở ra.
- Hãy
xét lại coi. Athos có ở nhà không? Không. Mấy tên chó chết khoanh tay chơi
trong sân nếu bị chủ bắt gặp thì ha hồ no đòn. Athos đi du lịch? Khó tin được.
Chuyện này thật kỳ bí. Mà này, không, đây không phải là người ta muốn tìm. Ta
cần một tay ranh ma, kiên trì, phải đi tìm ở Melun, nơi các xứ đạo ta quen. Bốn
mươi lăm dặm đường. Bốn ngày rưỡi!
Thôi,
trời đẹp còn ta thì muốn làm gì cũng được. Thôi rút lẹ đường Thế rồi ông quất
ngựa phi về phía Paris. Ngày thứ tư ông đến Melun đúng như ý ông muốn.
D
Artagnan có thói quen là không bao giờ hỏi đường một người nào hay hỏi một việc
gì tầm thường. Đối với mấy chi tiết ấy, trừ khi có sai quá còn, thì ông tin ở
khả năng nhạy cảm của mình, ở kinh nghiệm ba mươi năm sống, và ở thói quen phân
biệt được dáng dấp của các mái nhà cũng như trên các khuôn mặt người một cách
chuẩn xác.
Ở Melun,
d Artagnan tìm ra ngay nhà thờ đạo - là một ngôi nhà duyên dáng quét vôi trắng
trên lớp gạch đỏ, với các dây nho leo dọc theo ống máng và cây thập tự giá cắm
trên đỉnh gác chuông.
Từ căn
phòng thấp của ngôi nhà ấy, có một tiếng động, hay nói đúng hơn một loại âm
thanh tuôn ra như tiếng chim con vừa nở kêu ríu rít. Rõ ra là trong ấy có tiếng
đánh vần chữ cái.
Một
giọng vừa trầm vừa cao lên tiếng la rầy những kẻ chuyện trò ồn ào và sửa lại
giọng đọc của người kia.
D
Artagnan nhận ra giọng nói ấy, và vì cửa sổ căn phòng thấp được mở ra, nên ông
ngồi trên mình ngựa, nghiêng mình dưới tàn nhò và kêu to lên:
- Bazin,
Bazin thân mến, mạnh giỏi không?
Một
người thấp, béo, khuôn mặt dẹt, đầu tóc hoa râm hớt kiểu thầy tu và đội mũ dạ
đen đứng lên khi nghe tiếng d Artagnan. Nói đứng lên thì không đúng, phải nói
là nhảy dựng lên. Bazin nhảy lên làm cái ghế ngồi đổ xuống và lũ trẻ giành nhau
dựng dậy tựa như lính Hy Lạp giành thây Patrocle với lính thành Troie vậy.
Không phải chỉ nhảy lên mà Bazin còn đánh rơi quyển sách vần và cây roi cầm nơi
tay khi nghe tiếng d Artagnan. Ông nói:
- Ơ
ngài, ngài d Artagnan?
- Vâng,
tôi đây, Aramis ở đâu. Không phải, ngài hiệp sĩ d Herblay, không tôi lại lộn
nữa, ngài trợ tế, ở đâu?
Bazin
trả lời nghiêm chỉnh:
- Ồ!
Thưa ngài, Đức ông ở Giáo phận của ngài.
- Ông ta
vui không? - D Artagnan hỏi.
Bazin
lập lại câu nói trước:
- Ái
chà? Aramis có giáo phận rồi à?
- Thưa
ngài, vâng. Tại sao lại không?
- Vậy
thì ông ta đã làm giám mục rồi sao?
- Nhưng
ngài ở đâu mà không biết mấy chuyện này? - Bazin trả lời với giọng hơi bất nhã.
- Anh
Bazin thân mến ơi, bọn ta là dân võ biền, bọn ta có thể biết rõ ai là đại tá
hay tư lệnh mặt trận, thống chế, nhưng nếu ai đó là Giám mục, Hồng y hay Giáo
hoàng, thì ta đếch biết, cho dù tin tức đã đi hết ba phần tư trái đất cũng vậy.
Bazin
trợn tròn mắt:
- Suỵt!
Suỵt! Chớ làm hư mấy đứa bé, tôi đang dạy chúng những lời của thánh hiền.
Bọn trẻ
quả đang đi vòng quanh d Artagnan ngắm nghía con ngựa, thanh gươm to tướng,
giải tua và dáng hùng dũng của ông. Chúng ngưỡng mộ giọng nói sang sảng của ông
đến nỗi khi ông nhấn mạnh tiếng chửi thề thì cả trường đều la lớn "Đếch
biết", cùng lúc với tiếng cười vui vẻ ầm ĩ, tiếng giậm chân ồn ào khiến
cho người lính ngự lâm rất hả dạ còn ông giáo già thì lại muốn điên cả đầu. Ông
ta la lên:
- Im đi,
lũ nhỏ này! Này, ngài d Artagnan ơi, ngài tới đây, thế là các nguyên tắc tốt
đẹp của tôi đã dạy bị tiêu ma hết rồi. Ôi trời đất ơi! Đồ khùng, đồ điên!
Thế là
bậc thầy đáng kính Bazin lập tức nhập vào đám học trò để dạy chúng đổi tánh,
nhưng chỉ càng làm chúng la ồn hơn lên. Ông nói:
- Thôi
ngài hết người để làm hư hỏng ở đây nữa rồi.
D
Artagnan mỉm cười khiến Bazin thấy rùng mình:
- Có
chắc không? Giáo phận của chủ anh ở đâu?
- Đức
ông René làm giáo mục ở Vannes.
- Ai
phong cho ông ta?
- Thì
ngài tổng giám, bạn láng giềng của chúng tôi đấy.
- Ông
Fouquet à?
- Đích
thị.
- Armis
thân với ông ta sao?
- Đức
ông chủ nhật nào cũng làm lễ ở nhà ngài tổng giám ở Vaux (Vô), rồi sau đó hai
người đi săn với nhau.
- À hèn
chi.
- Và Đức
ông thường viết bài giảng không, bài thuyết giáo với ngài tổng giám.
- Và rồi
do dó mà Aramis được ở Vannes.
- Ở
Vannes, thuộc sứ Bretagne đấy.
- Anh
láu lắm Bazin à. Không đúng vậy đâu.
- Ngài
coi, các phòng trong nhà thờ đều trống trơn kìa?
D Artagnan
nhận ra căn phòng vắng ngắt.
- Anh
nói đúng thật.
- Nhưng
Đức ông có báo tin được phong chức cho ngài mà!
- Báo
bao lâu rồi?
- Một
tháng.
- Thế
thì, chẳng cần phải mất thì giờ làm gì nữa,Aramis không còn cần tới ta nữa.
Nhưng này, Bazin, sao anh không làm giáo sĩ?
- Thưa
ngài, không được, tôi bận việc.
D
Artagnan tự nhủ: "Đúng như thế rồi. Chẳng nên cho những người này lạc
lõng" - Rồi nói to:
- Bazin
kiếm cái gì cho ta ăn đi.
- Vâng,
tôi làm ngay đây, thưa ngài.
- Con gà
giò, tô xúp, và chai rượu là đủ.
Bazin
nói:
- Hôm
nay thứ bảy, ngày chay.
- Ta
được miễn mà, - D Artagnan nói.
Bazin
quay vào bảo đứa học trò lớn nhất đi báo với nhà bếp. Trong khi đó, d Artagnan
nhìn vào nhà thờ và nói một cách khinh thường.
- Trời
ơi chỗ Đức ông ăn ở tồi tàn quá.
- Chúng
tôi có lâu đài Vaux(1) rồi.
D
Artagnan càu nhàu:
- Chắc
là lớn như Bảo tàng viện Le Louvre.
Bazin
cũng ngang nhiên trả lời:
- Còn
lớn hơn nữa.
- Úi
chà!
Có lẽ d
Artagnan còn kéo dài cuộc tranh luận và nhất quyết cho rằng Le Louvre còn to
hơn, nhưng ông chợt thấy con ngựa mình cỡi đang cột ở ngoài cửa nên la lên:
- Trời!
Cho ngựa ta ăn đi. Ông giám mục chủ anh chắc không có con ngựa nào như thế đâu.
- Ngài
tổng giám có cho Đức ông bốn con trong chuồng của ngài và chỉ một trong bốn con
đó cũng bằng bốn con của ngài rồi.
D
Artagnan tức đến đỏ mặt. Tay chân ngứa ngáy, ông nhìn xem trên đầu Bazin có chỗ
nào tiện đặt quả đấm của mình không. Nhưng thoáng chốc ông quên đi và chỉ nói:
- Ôi
trời, ta nghĩ rằng thôi không phục vụ Nhà vua nữa là đúng đấy. Ông Bazin đáng
trọng nể ơi, ngài tổng giám có bao nhiêu lính ngự lâm?
Bazin
khép sách lại và huơ roi ra hiệu cho bọn trẻ giải tán:
- Ngài
có đủ tiền để thu nhận tất cả lính ngự lâm của vương quốc.
- Trời!
Trời! - D Artagnan hết ý kiến rồi.
Người ta
báo cơm đã dọn, d Artagnan theo bà đầu bếp vào phòng ăn đã sẵn sàng. Ông ngồi
vào bàn, chộp nhai ngay con gà giò người ta quên vỗ béo.
- Hình
như là ta đã sai lầm khi không đi phục vụ cho ông chủ này. Ngài tổng giám có vẻ
đúng là một lãnh chúa đầy quyền uy. Thế mà bọn ta ở triều đình, bọn ta không
biết gì hết. Ánh nắng mặt trời đã ngăn chúng ta không thấy mấy ngôi sao lớn vốn
cũng là những mặt trời nhưng phải cái tội là cách xa chúng ta đấy thôi.
D
Artagnan vốn khoái theo nguyên tắc là bắt mọi người nói chuyện về điều ông ta
ưa nên ông chĩa mũi dùi vào Bazin.
Nhưng
thật vô ích. Anh chàng này, ngoài những lời tâng bốc tán tụng ông tổng giám tài
chính còn thì lo giữ mồm giữ miệng chỉ đáp lại sự tò mò của d Artagnan bằng
những lời nhạt phèo khiến ông bực mình và ăn xong liền đòi đi nghỉ ngay.
D
Artagnan được Bazin dẫn vào một căn phòng hơi bê bối có giường chiếu khá tồi
tàn. Nhưng ông không phải là người khó tính. Bazin nói Aramis đã mang chìa khoá
phòng riêng đi rồi và vì d Artagnan biết rằng Aramis là một con người ngăn nắp,
trong phòng thường cất giữ rất nhiều đồ đạc, nên ông chẳng ngạc nhiên tí nào.
Cái giường tương đối cứng hơn con gà giò nhưng ông nhào tới nó cũng hăng hái
như khi chộp con kia và vì dễ ăn dễ ngủ nên ông thiếp ngay, nhanh như khi ông
mút đến cái xương rô ti cuối cùng.
Từ khi
không phải phục vụ cho ai hết, ông đã định rằng nếu ngày xưa ngủ tỉnh bao nhiêu
thì nay phải say bấy nhiêu.
Nhưng dù
dùng đủ cách, đến nửa đêm, ông vẫn bật tỉnh dậy vì tiếng xe ngựa và tiếng mã
phu ngoài đường. Vách phòng ông đột nhiên sáng chói lên, ông vụt nhảy ra khỏi
giường và chạy ra cửa sổ ông dụi mắt: "Nhà vua trở về chăng? Cả đoàn người
và xe kia chỉ có thể là của Hoàng gia thôi".
- Ngài
tổng giám muôn năm?
Có tiếng
kêu, hay đúng hơn là tiếng gào từ cửa sổ tầng dưới vang ra mà d Artagnan nhận
ra ngay là của Bazin đang đứng ở đấy, vừa la hét vừa cầm khăn vẫy vẫy và tay
kia cầm cây đen cầy to tướng.
Thế rồi
d Artagnan thấy cái gì như một bóng người nghiêng ra ngoài cánh cửa sổ chính;
đồng thời trong khi đó có cả tràng tiếng cười dài - có lẽ do khuôn mặt kỳ quặc
của Bazin tạo nên - tung ra từ cỗ xe ấy và như một nỗi vui kéo dài theo đoàn
người ngựa vụt qua d Artagnan nói:
- Đáng
lẽ ta phải thấy ngay là không phảỉ vua đấy. Không ai cười như thế khi Nhà vua
đi qua đâu.
Rồi ông
gọi Bazin lúc này đang chồm đến ba phần tư thân mình qua cửa sổ để ngóng theo
đoàn xe.
- Cái gì
thế, Bazin?
- Ông
Fouquet đấy. - Bazin nói với giọng kể cả.
- Còn
mấy người kia?
- Triều
đình ngài Fouquet đấy.
- Úi dà,
- D Artagnan kêu lên, - ngài Mazarin mà nghe thấy thế thì anh ăn nói làm sao
với ngài?
Và ông
quay lại giường ngủ tiếp trong mơ màng, với ý nghĩ không biết bằng cách nào mà
Aramis được hưởng sự che chở mãi mãi của con người quyền uy nhất của vương
quốc.
"Hắn
may hơn ta hay ta ngu hơn hắn? Lạ thật".
Đây là
những chữ dùng để kết thúc câu và ý từ khi d Artagnan trở nên biết chuyện hơn.
Ngày xưa, ông nói "chán quá như một tiếng gây khích động, bây giờ già rồi,
ông chỉ lẩm bẩm "lạ thật", như một triết gia cam phận dùng để chặn
nỗi ham muốn của mình lại.
Khi d
Artagnan biết chắc rằng ông D Herblay thực không có ở đây thì ông giã từ Bazin
không hối tiếc và thâm trầm liếc nhìn toà lâu đài Vaux đang sáng lên rực rỡ đến
độ tàn tạ. Ông thúc con ngựa trong khi cắn chặt môi như một con người đầy hoài
nghi, bi quan và nói:
- Thôi
đi đi ta sẽ tìm được con người và cái tủ sắt khá lớn ở Pierrefonds. Ta chỉ cần
thế thôi, vì ta đã có sẵn phương hướng rồi.
Xin các
độc giả bỏ qua cho những chuyện lặt vặt dọc đường của d Artagnan cho đến sáng
thứ ba, lúc ông tới Pierrefonds. Từ xa ông đã thấy toà lâu đài của Porthos đứng
trên bờ một hồ lớn kế bên một khu rừng xinh đẹp.
Sau khi
nhìn thấy những hàng cây cối sum sê, thấy ánh mặt trời tháng Năm chiếu vàng
trên các ngọnn đồi xanh tươi, và những cánh rừng kéo dài đến mãi tận Compiègne,
d Artagnan chợt nhận ra trên một chiếc xe là một cái nhà hộp khá lớn có hai gia
nhân đẩy và hai người kéo đi. Trong hộp ấy có hai vật to tướng màu xanh lá và
vàng chói lắc qua lắc lại theo sức đẩy và kéo trên các lối đi tươi mát của công
viên. Cái vật đó nếu ta đứng đằng xa thì không thể thấy rõ và chẳng hiểu gì cả;
đến gần, mới biết đó là một cái thùng phuy phủ dạ màu xanh lá cây có viền kim
tuyến, gần hơn nữa thì rõ là một con người hay nói đúng hơn, một con lật đật,
phần dưới choáng đầy cái nhà hộp; lại gần nữa thì chính là Mousqueton.
Mousqueton
tóc bạc trắng và mặt đỏ gay như chú rối Polichinell.
D
Artagnan kêu lên:
- Kìa!
Đích thị ông Mousqueton thân mến rồi.
- A! -
Con người to tròn kia hét lên.
- Ô!
Hạnh phúc thay! Sung sướng thay! Đúng là ngài d Artagnan! Dừng lại… bọn ranh -
Cái từ cuối là để dành cho những gia nhân đang kéo và đẩy xe.
Cái hộp
dừng lại. Bốn người hầu, nhanh nhẹn hết sức như lính nhà nghề, đồng loạt giở
nón viền kim tuyến ra và đứng xếp hàng phía sau hộp.
Mousqueton
nói:
Bazin
trợn tròn mắt:
- Suỵt!
Suỵt! Chớ làm hư mấy đứa bé, tôi đang dạy chúng những lời của thánh hiền.
Bọn trẻ
quả đang đi vòng quanh d Artagnan ngắm nghía con ngựa, thanh gươm to tướng,
giải tua và dáng hùng dũng của ông. Chúng ngưỡng mộ giọng nói sang sảng của ông
đến nỗi khi ông nhấn mạnh tiếng chửi thề thì cả trường đều la lớn "Đếch
biết", cùng lúc với tiếng cười vui vẻ ầm ĩ, tiếng giậm chân ồn ào khiến
cho người lính ngự lâm rất hả dạ còn ông giáo già thì lại muốn điên cả đầu. Ông
ta la lên:
- Im đi,
lũ nhỏ này! Này, ngài d Artagnan ơi, ngài tới đây, thế là các nguyên tắc tốt
đẹp của tôi đã dạy bị tiêu ma hết rồi. Ôi trời đất ơi! Đồ khùng, đồ điên!
Thế là
bậc thầy đáng kính Bazin lập tức nhập vào đám học trò để dạy chúng đổi tánh,
nhưng chỉ càng làm chúng la ồn hơn lên. Ông nói:
- Thôi
ngài hết người để làm hư hỏng ở đây nữa rồi.
D
Artagnan mỉm cười khiến Bazin thấy rùng mình:
- Có
chắc không? Giáo phận của chủ anh ở đâu?
- Đức
ông René làm giáo mục ở Vannes.
- Ai
phong cho ông ta?
- Thì
ngài tổng giám, bạn láng giềng của chúng tôi đấy.
- Ông
Fouquet à?
- Đích
thị.
- Armis
thân với ông ta sao?
- Đức
ông chủ nhật nào cũng làm lễ ở nhà ngài tổng giám ở Vaux (Vô), rồi sau đó hai
người đi săn với nhau.
- À hèn
chi.
- Và Đức
ông thường viết bài giảng không, bài thuyết giáo với ngài tổng giám.
- Và rồi
do dó mà Aramis được ở Vannes.
- Ở
Vannes, thuộc sứ Bretagne đấy.
- Anh
láu lắm Bazin à. Không đúng vậy đâu.
- Ngài
coi, các phòng trong nhà thờ đều trống trơn kìa?
D
Artagnan nhận ra căn phòng vắng ngắt.
- Anh
nói đúng thật.
- Nhưng
Đức ông có báo tin được phong chức cho ngài mà!
- Báo
bao lâu rồi?
- Một
tháng.
- Thế
thì, chẳng cần phải mất thì giờ làm gì nữa,Aramis không còn cần tới ta nữa.
Nhưng này, Bazin, sao anh không làm giáo sĩ?
- Thưa
ngài, không được, tôi bận việc.
D
Artagnan tự nhủ: "Đúng như thế rồi. Chẳng nên cho những người này lạc
lõng" - Rồi nói to:
- Bazin
kiếm cái gì cho ta ăn đi.
- Vâng,
tôi làm ngay đây, thưa ngài.
- Con gà
giò, tô xúp, và chai rượu là đủ.
Bazin
nói:
- Hôm
nay thứ bảy, ngày chay.
- Ta
được miễn mà, - D Artagnan nói.
Bazin
quay vào bảo đứa học trò lớn nhất đi báo với nhà bếp. Trong khi đó, d Artagnan
nhìn vào nhà thờ và nói một cách khinh thường.
- Trời
ơi chỗ Đức ông ăn ở tồi tàn quá.
- Chúng
tôi có lâu đài Vaux(1) rồi.
D
Artagnan càu nhàu:
- Chắc
là lớn như Bảo tàng viện Le Louvre.
Bazin
cũng ngang nhiên trả lời:
- Còn
lớn hơn nữa.
- Úi
chà!
Có lẽ d
Artagnan còn kéo dài cuộc tranh luận và nhất quyết cho rằng Le Louvre còn to
hơn, nhưng ông chợt thấy con ngựa mình cỡi đang cột ở ngoài cửa nên la lên:
- Trời!
Cho ngựa ta ăn đi. Ông giám mục chủ anh chắc không có con ngựa nào như thế đâu.
- Ngài
tổng giám có cho Đức ông bốn con trong chuồng của ngài và chỉ một trong bốn con
đó cũng bằng bốn con của ngài rồi.
D
Artagnan tức đến đỏ mặt. Tay chân ngứa ngáy, ông nhìn xem trên đầu Bazin có chỗ
nào tiện đặt quả đấm của mình không. Nhưng thoáng chốc ông quên đi và chỉ nói:
- Ôi
trời, ta nghĩ rằng thôi không phục vụ Nhà vua nữa là đúng đấy. Ông Bazin đáng
trọng nể ơi, ngài tổng giám có bao nhiêu lính ngự lâm?
Bazin
khép sách lại và huơ roi ra hiệu cho bọn trẻ giải tán:
- Ngài
có đủ tiền để thu nhận tất cả lính ngự lâm của vương quốc.
- Trời!
Trời! - D Artagnan hết ý kiến rồi.
Người ta
báo cơm đã dọn, d Artagnan theo bà đầu bếp vào phòng ăn đã sẵn sàng. Ông ngồi
vào bàn, chộp nhai ngay con gà giò người ta quên vỗ béo.
- Hình
như là ta đã sai lầm khi không đi phục vụ cho ông chủ này. Ngài tổng giám có vẻ
đúng là một lãnh chúa đầy quyền uy. Thế mà bọn ta ở triều đình, bọn ta không
biết gì hết. Ánh nắng mặt trời đã ngăn chúng ta không thấy mấy ngôi sao lớn vốn
cũng là những mặt trời nhưng phải cái tội là cách xa chúng ta đấy thôi.
D
Artagnan vốn khoái theo nguyên tắc là bắt mọi người nói chuyện về điều ông ta
ưa nên ông chĩa mũi dùi vào Bazin.
Nhưng
thật vô ích. Anh chàng này, ngoài những lời tâng bốc tán tụng ông tổng giám tài
chính còn thì lo giữ mồm giữ miệng chỉ đáp lại sự tò mò của d Artagnan bằng
những lời nhạt phèo khiến ông bực mình và ăn xong liền đòi đi nghỉ ngay.
D
Artagnan được Bazin dẫn vào một căn phòng hơi bê bối có giường chiếu khá tồi
tàn. Nhưng ông không phải là người khó tính. Bazin nói Aramis đã mang chìa khoá
phòng riêng đi rồi và vì d Artagnan biết rằng Aramis là một con người ngăn nắp,
trong phòng thường cất giữ rất nhiều đồ đạc, nên ông chẳng ngạc nhiên tí nào.
Cái giường tương đối cứng hơn con gà giò nhưng ông nhào tới nó cũng hăng hái
như khi chộp con kia và vì dễ ăn dễ ngủ nên ông thiếp ngay, nhanh như khi ông
mút đến cái xương rô ti cuối cùng.
Từ khi
không phải phục vụ cho ai hết, ông đã định rằng nếu ngày xưa ngủ tỉnh bao nhiêu
thì nay phải say bấy nhiêu.
Nhưng dù
dùng đủ cách, đến nửa đêm, ông vẫn bật tỉnh dậy vì tiếng xe ngựa và tiếng mã
phu ngoài đường. Vách phòng ông đột nhiên sáng chói lên, ông vụt nhảy ra khỏi
giường và chạy ra cửa sổ ông dụi mắt: "Nhà vua trở về chăng? Cả đoàn người
và xe kia chỉ có thể là của Hoàng gia thôi".
- Ngài
tổng giám muôn năm?
Có tiếng
kêu, hay đúng hơn là tiếng gào từ cửa sổ tầng dưới vang ra mà d Artagnan nhận
ra ngay là của Bazin đang đứng ở đấy, vừa la hét vừa cầm khăn vẫy vẫy và tay
kia cầm cây đen cầy to tướng.
Thế rồi
d Artagnan thấy cái gì như một bóng người nghiêng ra ngoài cánh cửa sổ chính;
đồng thời trong khi đó có cả tràng tiếng cười dài - có lẽ do khuôn mặt kỳ quặc
của Bazin tạo nên - tung ra từ cỗ xe ấy và như một nỗi vui kéo dài theo đoàn
người ngựa vụt qua d Artagnan nói:
- Đáng
lẽ ta phải thấy ngay là không phảỉ vua đấy. Không ai cười như thế khi Nhà vua
đi qua đâu.
Rồi ông
gọi Bazin lúc này đang chồm đến ba phần tư thân mình qua cửa sổ để ngóng theo
đoàn xe.
- Cái gì
thế, Bazin?
- Ông
Fouquet đấy. - Bazin nói với giọng kể cả.
- Còn
mấy người kia?
- Triều
đình ngài Fouquet đấy.
- Úi dà,
- D Artagnan kêu lên, - ngài Mazarin mà nghe thấy thế thì anh ăn nói làm sao
với ngài?
Và ông
quay lại giường ngủ tiếp trong mơ màng, với ý nghĩ không biết bằng cách nào mà
Aramis được hưởng sự che chở mãi mãi của con người quyền uy nhất của vương
quốc.
"Hắn
may hơn ta hay ta ngu hơn hắn? Lạ thật".
Đây là
những chữ dùng để kết thúc câu và ý từ khi d Artagnan trở nên biết chuyện hơn.
Ngày xưa, ông nói "chán quá như một tiếng gây khích động, bây giờ già rồi,
ông chỉ lẩm bẩm "lạ thật", như một triết gia cam phận dùng để chặn
nỗi ham muốn của mình lại.
Khi d
Artagnan biết chắc rằng ông D Herblay thực không có ở đây thì ông giã từ Bazin
không hối tiếc và thâm trầm liếc nhìn toà lâu đài Vaux đang sáng lên rực rỡ đến
độ tàn tạ. Ông thúc con ngựa trong khi cắn chặt môi như một con người đầy hoài
nghi, bi quan và nói:
- Thôi
đi đi ta sẽ tìm được con người và cái tủ sắt khá lớn ở Pierrefonds. Ta chỉ cần
thế thôi, vì ta đã có sẵn phương hướng rồi.
Xin các
độc giả bỏ qua cho những chuyện lặt vặt dọc đường của d Artagnan cho đến sáng
thứ ba, lúc ông tới Pierrefonds. Từ xa ông đã thấy toà lâu đài của Porthos đứng
trên bờ một hồ lớn kế bên một khu rừng xinh đẹp.
Sau khi
nhìn thấy những hàng cây cối sum sê, thấy ánh mặt trời tháng Năm chiếu vàng
trên các ngọnn đồi xanh tươi, và những cánh rừng kéo dài đến mãi tận Compiègne,
d Artagnan chợt nhận ra trên một chiếc xe là một cái nhà hộp khá lớn có hai gia
nhân đẩy và hai người kéo đi. Trong hộp ấy có hai vật to tướng màu xanh lá và
vàng chói lắc qua lắc lại theo sức đẩy và kéo trên các lối đi tươi mát của công
viên. Cái vật đó nếu ta đứng đằng xa thì không thể thấy rõ và chẳng hiểu gì cả;
đến gần, mới biết đó là một cái thùng phuy phủ dạ màu xanh lá cây có viền kim
tuyến, gần hơn nữa thì rõ là một con người hay nói đúng hơn, một con lật đật,
phần dưới choáng đầy cái nhà hộp; lại gần nữa thì chính là Mousqueton.
Mousqueton
tóc bạc trắng và mặt đỏ gay như chú rối Polichinell.
D
Artagnan kêu lên:
- Kìa!
Đích thị ông Mousqueton thân mến rồi.
- A! - Con
người to tròn kia hét lên.
- Ô!
Hạnh phúc thay! Sung sướng thay! Đúng là ngài d Artagnan! Dừng lại… bọn ranh -
Cái từ cuối là để dành cho những gia nhân đang kéo và đẩy xe.
Cái hộp
dừng lại. Bốn người hầu, nhanh nhẹn hết sức như lính nhà nghề, đồng loạt giở
nón viền kim tuyến ra và đứng xếp hàng phía sau hộp.
Mousqueton
nói:
- Ôi
ngài d Artagnan, tiếc rằng tôi không thể ôm hôn gối ngài được, ngài thấy đấy,
tôi bị què rồi.
- Tội
nghiệp không, anh Mousqueton thân mến ơi, tại tuổi già đấy.
- Không
phải đâu thưa ngài, không phải tại tuổi già. Tại tật bệnh, tại buồn khổ.
D
Artagnan làm một vòng quanh cái hộp:
-
Mousqueton, anh mà buồn à? Ơn Chúa, anh khỏe mạnh như một cây sồi ba trăm năm
đấy.
Người
hầu cận trung thành nói:
- Cái
chân, thưa ngài, đôi chân của tôi.
- Sao,
đôi chân làm sao?
- Điều
này thì chúng không có gì phiền trách tôi hết. Chúng không muốn cõng cái thân
tôi nữa rồi.
- Đồ bội
ơn bạc nghĩa. Nhưng theo ta thì tại anh đã nuôi nấng chúng quá kỹ càng đấy.
Mousqueton
thở dài:
- Vâng,
đối với thân xác bao giờ tôi cũng hết lòng. Tôi không ích kỷ được.
Rồi
Mousqueton lại thở dài. D Artagnan nhủ thầm: "Hay là Mousqueton muốn làm
Nam tước?"
Mousqueton
nói sau khi dứt mình ra khỏi cơn mơ mộng nặng nề:
- Chúa
ơi. Chắc là Đức ông vui sướng được ngài nghĩ tới đây!
- Bạn
Porthos tốt bụng,- D Artagnan kêu lên - Tôi muốn được ôm hôn hắn ngay.
Mousqueton
mủi lòng:
- Ồ để
tôi viết thư cho.
D"Artagran
kêu lên.
- Anh
phải viết thư cho ông ta?
- Ngay
ngày hôm nay, không chậm trễ chút nào.
- Anh ta
không ở đây à?
- Không,
thưa ngài.
- Ở gần
hay ở xa?
- Làm
sao tôi biết được?
- Là
sao? - Người lính ngự lâm giận chân la lớn - Chán quá, rủi cho ta rồi. Porthos
trụ mình mãi, thế mà…
- Thưa
ngài, không ai ở một chỗ như Đức ông tôi, nhưng mà…
- Mà
sao?
- Khi
một người bạn thúc giục.
- Bạn?
- Đúng
rồi? Ngài D Herblay kính mến đấy.
- Aramis
hối thúc Porthos?
- Chuyện
thế này này, thưa ngài d Artagnan. Ngài D Herblay viết thư cho Đức ông.
- Thực
không?
- Một
bức thư được đưa tới như lửa cháy mày!
D
Artagnan nói:
- Kể ta
nghe đi. Nhưng trước hết hãy bảo bọn này lánh đi!
Mousqueton
la lên một tiếng "Cút đi, đồ ăn lại" từ trong lồng ngực vụt ra, to
đến mức chỉ cần hơi thở, không cần lời nói cũng đủ làm bay tuốt bốn người gia
nhân. D Artagnan ngồi trên đòn khiêng và lắng tai nghe Mousqueton nói:
- Thưa
ngài, Đức ông có nhận một bức thư từ ngài tổng giám mục cách nay tám hay chín
ngày gì đó. Đó là ngày vui chơi nơi thôn dã, vâng, đúng là thứ tư.
D
Artagnan ngạc nhiên.
- Cái gì
thế? Ngày vui thôn dã là cái gì?
- Thưa
ngài, chúng tôi ở đây có nhiều thú vui lắm, dồn dập chồng chất đến nỗi chúng
tôi phải phân ra để tuần tự hưởng thụ.
- Ôi,
đúng là tính ngăn nắp của Porthos. Ta không nghĩ được như thế đâu. Ta không bao
giờ có điều hưởng thụ nhiều đến bị tràn ngập.
- Ây!
Chúng tôi bị như thế đấy - Mousqueton nói.
D
Artagnan hỏi:
- Thế
thì các anh thu xếp làm sao?
- Kể ra
thì hơi dài.
- Chẳng
sao đâu, chúng ta còn thừa thì giờ. Vả lại anh bạn Mousqueton thân mến ơi, anh
nói hay lắm nên ta rất thích nghe.
Mousqueton
tỏ vẻ bằng lòng với lời khen đúng ấy.
- Thật
ra là tôi đã được học hỏi nhiều trong khi đi chung với Đức ông.
- Ta
đang đợi các trò vui được sắp đặt đó, Mousqueton ạ.
- Mà nôn
nóng lắm. Để coi thử có phải ta đến nhằm ngày tốt không?
Mousqueton
buồn bã trả lời:
- Ôi,
thưa ngài d Artagnan, từ hôm Đức ông ra đi trò vui bay mất hết rồi.
- Thôi
thì, anh Mousqueton thân mến ơi, hãy kể lại đi cũng được.
- Ngài
muốn tôi bắt đầu từ ngày nào?
- Trời
ạ! Thôi bắt đầu ngày chủ nhật, ngày của Chúa đấy.
- Chủ
nhật, thú vui tôn giáo. Đức ông đi lễ, nhận bánh Thánh, nghe diễn từ và giáo
huấn của vị linh mục. Chẳng vui gì lắm, nhưng chúng tôi đang đợi bổ về một tu
sĩ dòng Carmes (2) nghe đồn ăn nói giỏi lắm để đánh thức chúng tôi dậy chứ còn
cái ông linh mục hiện tại cứ khiến chúng tôi ngủ đứng ngủ ngồi mãi. Vậy thì
ngày chủ nhật là hưởng thú vui tôn giáo. Thứ hai, hưởng thú vui trần tục.
D
Artagnan kêu lên:
- À! à!
Mousqueton, anh hiểu thế là thế nào. Cho ta biết vài thú vui trần tục đi.
- Thưa
ngài, thứ hai, chúng tôi gặp nhau, tiếp nhau, đi thăm nhau, thổi kèn sáo, nhảy,
đi thơ thẩn rồi đốt một ít hương thơm để…
Người
lính ngự lâm phải hết sức lên gân nơi bắp thịt quai hàm để bặm miệng khỏi cười
bung ra.
- Đồ mắc
dịch! Đó là thói ga lăng quá quắt.
- Thứ
ba, thú vui trí thức.
- Ồ! Tốt
- D Artagnan nói, - vui cái gì? Mousqueton thân mến, nói cụ thể cho ta nghe đi.
- Đức
ông mua một quả cầu. Chốc nữa, tôi sẽ chỉ cho ngài xem, - quả cầu choáng cả cái
tháp lớn trừ ra chỗ của cái hành lang nằm phía trên quả cầu. Mặt trăng, mặt
trời thì được treo gần đấy bằng các sợi chỉ hay các sợi đồng thau. Quả cầu
xoay. Đẹp lắm. Đức ông chỉ cho tôi các vùng biển, vùng đất nơi xa xôi. Chúng
tôi đã hứa là chẳng bao giờ đến đó cả. Thật là đầy thích thú.
- Đầy thích
thú, dùng từ đúng thật - D Artagnan lặp lại.
- Còn
thứ tư?
- Thú
vui đồng quê. Tôi có hân hạnh được trình với ngài hiệp sĩ rồi. Chúng tôi ngắm
đàn cừu và dê của Đức ông. Chúng tôi cho các cô chăn cừu nhảy với các ống sáo
và kèn da dê, giống như trong một quyển sách Đức ông có trong thư viện của
ngài, tên là Mục ca. Tác giả vừa mới chết, cách đây một tháng thôi.
- Hình
như là ông Racan phải không? - D Artagnan hỏi.
- Vâng
đúng thế, ông Racan. Nhưng chưa hết đâu. Chúng tôi còn đi câu cá trên một con lạch
nhỏ, sau đó chúng tôi cùng ngồi quây quần ăn uống, cổ quàng đầy vòng hoa. Ngày
thứ tư như thế đó.
D
Artagnan nói:
- Đồ mắc
dịch? Sắp đặt cho thứ tư như thế là khá lắm đấy.
- Còn
thứ năm? Còn có gì cho ngày thứ năm tồi tàn này không?
Mousqueton
mỉm cười:
- Thưa
ngài, thứ năm chẳng kém đâu. Thứ năm là ngày hội điền kinh. Ô! Thưa ngài, thật
là vĩ đại. Chúng tôi gọi về tất cả những người thuộc hạ trẻ tuổi của Đức ông
rồi bắt họ thi ném đĩa hoặc chạy bộ. Đức ông ném đĩa không thua một ai hết. Và
khi ngài tung ra một cú đấm thì ôi, thật bất hạnh?
- Sao mà
bất hạnh?
- Đúng,
thưa ngài. Trận đấu không được phép mang găng nên Đức ông đánh bể đầu, đạp gãy
xương quai hàm, thủng cả xương sườn, vào thấu phổi người ta. Cuộc thi tài thật
là thú, nhưng từ đó không ai dám đọ sức với Đức ông nữa.
- Thế
thì cái cổ tay?
- Ồ thưa
ngài, cổ tay Đức ông vẫn rắn chắc như từ hồi nào. Đức ông có thú nhận là chân
ngài hơi yếu, nhưng sức đó chạy vào cánh tay, cho nên.
- Cho
nên ngài đánh gục được bò như hồi xưa.
- Thưa
ngài, hơn thế nữa kia. Đức ông đấm thủng cả tường. Và rồi, sau khi ăn nhẹ bữa
nơi nhà một tá điền, - ngài cũng biết. Đức ông bình dân và tốt lắm, - sau bữa
ăn ngài đùa bỡn và đấm vào tường, tường sập xuống tôi theo mái ngói đè nghẹt ba
người đàn ông và một bà già.
- Trời
ơi, Mousqueton. Thế còn chủ anh thì sao?
- Ồ,
không sao, Đức ông chỉ hơi bị trầy da đầu thôi. Chúng tôi chỉ phải rửa cho ngài
bằng thứ nước của các bà dì đem tới thôi. Còn nắm tay thì không sao hết.
- Không
sao hết?
- Không
sao hết, thưa ngài.
- Thú
vui điền kinh tởm quá! Chắc phải tốn nhiều tiền lắm vì có các bà góa, các đứa
trẻ mồ côi?
- Chu
cấp cho họ chỉ tốn có một phần mười lợi tức của Đức ông thôi.
- Thôi
qua thứ sáu đi, - D Artagnan nói.
- Thứ
sáu là những thứ vui của người quý phái và chiến sĩ. Chúng tôi đi săn, chúng
tôi rèn vũ khí, nuôi dạy chim ưng, luyện ngựa cho thuần. Và thứ bảy là các thú
vui tinh thần. Chúng tôi lo phần hồn, ngắm hình và tượng của Đức ông, chúng tôi
viết sách và lập hoạ đồ, cuối cùng là chúng tôi bắn súng đại bác của Đức ông.
- Anh
lập họa đồ, anh bắn súng?
- Vâng,
đúng vậy, thưa ngài.
- Ông
bạn của ta ơi. - D Artagnan nói, - Ngài Du Vallon đúng là có khối óc tinh tế và
đáng yêu nhất như ta được biết, nhưng theo ta, anh kể còn thiếu một thú vui
nữa.
Mousqueton
lo lắng hỏi dồn.
- Thứ
gì, thưa ngài.
- Các
thú vui vật chất.
Mousqueton
đỏ mặt cúi xuống.
- Ngài
có ý nói gì thế?
- Ta
muốn nói là mâm cỗ, rượu ngon, cả buổi tối bận rộn với mấy cái chai.
- Ồ,
thưa ngài, chuyện đó không đáng kể vì chúng tôi hưởng hằng ngày mà?
D
Artagnan tiếp lời:
- Bạn
Mousqueton ơi, xin lỗi, ta mải nghe anh bạn nói chuyện hay quá mà quên mất điểm
chính của chúng ta là không biết ngài tổng giám mục D Herblay đã viết gì cho
chủ anh thế?
- Thưa
ngài, đúng vậy. Các thú vui khiến chúng ta trở thành đãng trí rồi. Thế này,
thưa ngài, cả câu chuyện là đây.
- Ta
nghe đây, anh bạn Mousqueton thân mến ạ.
- Hôm
thứ tư, một bức thư gửi tới, ông nhận ra là chữ của ai và cầm tận tay đưa cho
Đức ông. Ngài đọc và la lên: "Mang ngựa, kiếm! Mau lên!".
D
Artagnan nói:
- Ồ chắc
là có đánh nhau rồi.
- Thưa
ngài, không. Chỉ có mấy lời này thôi: "Bạn Porthos thân mến ơi, nếu bạn
muốn đến trước thu phân thì lên đường mau lên. Tôi đợi bạn đấy".
D
Artagnan nói giọng mơ màng:
- Chán
quá, hình như là gấp lắm.
Mousqueton
tiếp tục:
- Chắc
vậy Vì Đức ông đi ngay trong ngày với người giúp việc.
- Kịp
không?
- Chắc
kịp. Đức ông nói luôn mồm: "Trời ơi, thu phân là thế nào? Thây kệ, cái gã
kỳ quặc ấy phải có ngựa tốt mới đến trước ta được?".
D Artagnan
hỏi:
- Như
thế anh tin rằng Posthos đến trước?
Chắc
chắn lắm. Cái tiên "thu phân" ấy dù cho giàu đến đâu đi nữa cũng
không thể có ngựa chạy hay như của Đức ông đâu.
D
Artagnan cố sức nín cười, vì còn phải bận tâm đến bức thư ngắn ngủi của Aramis.
Ông đi theo Mousqueton, đến tận toà lâu đài. Ông ngồi bên một chiếc bàn sang
trọng, được tiếp đãi như ông hoàng, nhưng không thể hỏi được gì ở Mousqueton để
biết thêm hết: người tớ trung thành chỉ biết khóc mà thôi.
D
Artagnan qua một đêm trên chiếc giường êm ấm, nghĩ mãi đến bức thư của Aramis,
băn khoăn về mối liên hệ giữa ngày phân điểm và công việc của Porthos. Thế rồi
ông lại rời bỏ Pierrefonds như đã rời Melun, đã từ giã lâu đài của bá tước De
La Fère chẳng vì lẽ gì hết, ngoài việc đi tìm những thú tuần tự qua đường để
cho ngày cũng khuây koả như đêm. Tuy nhiên, đây thật là một trong những lúc
buồn nhất trong đời của d Artagnan. Ông bỏ thõng chân, đầu cúi xuống, mắt thẫn
thờ đăm đăm, và sôi nổi nói với mình trong lúc tâm trí mơ màng dâng lên ý nghĩ từ
trong sâu kín tâm hồn.
Không
bạn bè, không tương lai, không còn gì nữa cả. Sức lực ta đã gẫy đổ cũng như sự
đoàn kết ngày xưa nay đã tan vỡ.
Ôi tuổi
già đến rồi một cách lạnh lùng, không cưỡng nổi, tuổi già cả như cái áo quan
bọc kín những gì ngày xưa là tuổi trẻ sáng loáng ướp hương thơm, rồi xốc tất cả
lên vai mang đi nhận chìm vào đáy hang thăm thẳm của cái chết.
Người
con xứ Gascon rùng mình, lòng se lại, con người vẫn còn đầy can đảm, đầy sức
mạnh để chống chọi lại những bất hạnh của cuộc đời, thế mà có lúc vẫn thấy mây
trời đen hơn, thấy đất trơn trợt và nhão nhẹt như đất của nghĩa trang.
Ông tự
nhủ: "Mình đi đâu, muốn gì? Cô đơn một mình, không gia đình, không bè bạn.
Ôi!".
Ông kêu
lên một tiếng rồi thúc mạnh hai chân. Con ngựa chẳng thấy gì buồn với mớ kiều
mạch ngon ở Pierrefonds nên nhân chủ cho phép, bèn phấn chấn phóng một hơi đến
hai dặm đường.
Ngày hôm
sau d Artagnan đến Paris. Chuyến đi này dài tới mười ngày.
Chú thích:
(1) lâu đài Vaux do Louis XIV sai cất riêng
cho Fouquet
(2) Dòng tu có tác động đến cuộc cải cách Giáo
hội La Mã thế kỷ XVIII
CÁI CHẾT CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 9: Công việc d'Artagnan ở Paris
D Artagnan bước xuống ngựa trước một cửa hàng ở phố
Lombards có bảng hiệu "Đùi gà vàng". Một người dáng dễ coi mang tấm tạp
dề trắng, bàn tay to lớn xoa hàm ria xám, vội vàng kêu lên khi trông thấy con
ngựa khoang:
- Ngài hiệp sĩ, a! Đúng ngài rồi!
D Artagnan khom lưng xuống để đi vào cửa hiệu, trả lời:
- Chào Planchet!
Planchet kêu to:
- Nhanh lên, một đứa lo cho con ngựa của ngài d Artagnan,
một đứa lo dọn phòng đi, một đứa dọn ăn!
- Cảm ơn Planchet, chào các con. - D Artagnan nói với lũ
trẻ đang lăng xăng.
Planchet nói:
- Xin ngài cho phép tôi mang cà phê, mật đường và mứt nho
này đi. Cho văn phòng ngài Tổng giám đấy!
- Gởi đi! Gởi đi!
- Chỉ chốc lát thôi, rồi chúng ta sẽ ăn nhẹ.
D Artagnan nói:
- Sắp xếp sao cho chúng ta có bữa riêng một mình, ta có
việc muốn nói với anh.
Planchet nhìn ông chủ cũ với đôi mắt dò hỏi.
D Artagnan vội nói:
- Ồ! chẳng có gì đâu, chuyện thú vị đấy.
- Càng hay, càng hay.
Planchet thở hắt ra nhẹ nhõm trong khi d Artagnan giản dị
ngồi xuống đống nút chai và quan sát chung quanh. Tiệm đầy hàng, có mùi gừng
thơm, mùi quế và mùi bột tiêu nồng gắt mũi d Artagnan.
Bọn trẻ cảm thấy sung sướng được ở gần một người lính
danh tiếng, được ở gần một sĩ quan ngự lâm từng sống sát bên mình vua. Chúng
hăng hái làm việc như điên và khi được sai việc gì thì hấp tấp làm việc nấy,
bất kể, chẳng cần ai hết.
Planchet thu và đếm tiền, thỉnh thoảng lại tỏ vài cử chỉ
lễ phép với ông chủ cũ. Đối với khách hàng, Planchet nói cộc lốc và tỏ dáng kẻ
cả của một nhà buôn giàu có quen thói phục vụ tất cả mọi người chứ không kiêng
gì ai. D Artagnan nhận xét sắc thái ấy mà lòng nảy ra niềm vui sẽ được giải
thích sau. Đêm dần dần đến. Cuối cùng Planchet dẫn ông lên căn phòng chứa đầy
thùng trên tầng một, có dọn đặt sẵn bữa ăn trên một cái bàn sạch sẽ chờ đợi hai
người.
D Artagnan lợi dụng một lúc rảnh để nhìn lại khuôn mặt
Planchet xa cách đã một năm nay. Planchet lanh lợi nay đã hơi có bụng, nhưng
mặt chưa phì nộn. Tia nhìn vẫn tinh sáng long lanh trong hốc mắt sâu, và chất
mỡ thường san bằng tất cả những chỗ lồi trên mặt người, vẫn chưa lấp gò má, -
cái dấu hiệu của sự phỉnh phờ, tham lam, chưa lấp cái cằm nhọn, - dấu hiệu của
sự tinh thế và kiên nhẫn.
Planchet ngồi chủ toạ bên bàn ăn cũng đĩnh đạc như khi
ngồi ngoài cửa hàng. Ông dọn cho chủ một bữa ăn đơn giản, nhưng tất cả đều theo
kiểu Paris: Gia cầm rô ti trong lò bánh mì, có dưa cải và đồ tráng miệng lấy
ngay trong cửa hiệu.
D Artagnan thích thú khi thấy Planchet rút ra từ sau đống
củi một chai rượu vang xứ Anjou mà ông thích nhất trên đời.
Planchet hiền hậu mỉm cười nói:
- Thưa ngài, ngày xưa thì tôi uống rượu nhờ của ngài, bây
giờ tôi được hân hạnh mời lại.
- Cám ơn Chúa, bạn Planchet ạ, tôi mong còn uống lâu hơn
nữa vì lúc này tôi còn rảnh rang.
- Rảnh? Ngài được nghỉ phép?
- Vô thời hạn?
Planchet sững sờ.
- Ngài được giải ngũ à?
- Ừ ta nghỉ rồi.
- Còn vua thì sao? - Planchet la lên như vậy vì không thể
tưởng tượng được Nhà vua lại có thể bỏ qua không dùng một người như d Artagnan.
- Thì ông vua tìm người khác. Nhưng thôi bây giờ chúng ta
đã ăn ngon xong, anh đang có hứng, anh muốn ta nói chuyện tâm tình thì được,
ngóng lỗ tai lên nghe đi.
- Tôi đang mở ra đây.
Rồi Planchet cười thật thà mà không giấu chút ranh ma,
với tay mở nút chai vang trắng.
- Thôi hãy để cho ta tỉnh.
- Ô, khi ngài quên thì…
- Lúc này đầu óc ta còn tỉnh thì ta phải sử dụng hết mức.
Trước hết nói chuyện tài chính đã. Tiền của ta ra làm
sao?
- Khá lắm, thưa ngài. Số hai mươi ngàn lúc tôi nhận được
của ngài đã đem làm vốn buôn bán, lời được chín phần trăm, chia cho ngài bảy
phần, còn thì tôi được nhờ cậy ngài.
- Anh không thắc mắc phải không?
- Được lắm. Ngài có đem thêm cho tôi không?
- Nhiều hơn thế nữa. Nhưng anh có cần không đã?
- Ồ không. Bây giờ ai cũng muốn gởi tiền cho tôi. Tôi
đang làm ăn khấm khá.
- Thì đúng với dự định ngày xưa của anh đó.
- Tôi chơi trò nhà băng. Tôi mua hàng của các đồng nghiệp
cần bán, tôi ứng tiền cho những người gặp khó khi thu vào.
- Không cắt cổ?
- Ồ, thưa ngài, tuần qua tôi hai lần hẹn ở đại lộ chỉ vì
ba chữ mà ngài vừa nói ra đấy?
- Chuyện gì thế?
- Thế này. Chuyện cho mượn người mượn tiền đem thế bằng
đường đen, nếu đến kỳ không trả thì tôi được tôi bán. Tôi cho mượn một ngàn
louis. Hắn không trả, tôi bán đường được một ngàn ba trăm louis. Hắn hay được
và đòi lại ba trăm louis. Tất nhiên tôi từ chối viện lẽ rằng nếu tôi bán chỉ có
chín trăm louis thì sao?
Hắn bảo là tôi cho vay cắt cổ. Tôi mời hắn lập lại lời
này ở chỗ dịch sâu vào phía trong đường cái. Tay này là dân vệ binh cũ nên hắn
nhận lời liền và tôi lấy kiếm của ngài cho hắn một mũi xuyên qua đùi trái!
D Artagnan kêu lên:
- Úi? Cái nhà băng gì lạ vậy?
Planchet trả lời:
- Hễ cứ trên mười ba phần trăm là tôi phải đánh nhau,
tính tôi là thế.
D Artagnan nói:
- Thôi cứ lấy mười hai phần trăm đi, một phần trăm còn
lại để dành cho lãi suất và môi giới.
- Thưa ngài, đúng đấy. Còn công việc làm ăn của ngài ra
sao?
- Ồ! Planchet, chuyện dài lắm và cũng hơi khó nói.
D Artagnan gãi cằm như một người đang lúng túng vừa muốn
thổ lộ vừa muốn giữ kín chuyện mình.
Planchet hỏi:
- Chuyện đầu tư à?
- Ờ đúng.
- Có sinh lời khá không?
- Khá lắm, bốn trăm phần trăm, Planchet ạ.
- Planchet đập mạnh xuống bàn làm cái chai nảy lên như
cũng phải sợ hãi.
- Có thực không?
D Artagnan lạnh lùng nói:
- Hình như là còn hơn, mà ta chỉ muốn nói bớt đi.
Planchet xích lại gần:
- Lạ thế nhưng thưa ngài, tuyệt đấy! Có cần phải nhiều
tiền lắm không?
- Mỗi người hai chục ngàn louis, Planchet ạ.
- Đó là cả số tiền ngài có. Phải đưa trong bao lâu?
- Một tháng thôi.
- Và như thế thì sẽ sinh ra - Năm
chục ngàn louis mỗi phần. Cứ tính đi thì biết.
- Thật phi thường. Chuyện này thì
phải đánh nhau ra trò mới được.
D Artagnan vẫn điềm tĩnh nói:
- Thì ta cũng biết là phải có đánh
khá lắm, nhưng Planchet ạ, lần này thì tuy có cả hai chúng ta, nhưng để ta chịu
đòn một mình thôi.
- Thưa ngài, tôi chịu được.
- Không được đâu Planchet ơi, anh
không thể rời công việc buôn bán này được.
- Mối hàng không ở Paris sao?
- Ở Anh.
- Xứ của đầu cơ, đúng rồi. Tôi biết
nó lắm. Nếu không cho là tôi tò mò thì ngài cho biết là công việc gì thế?
- Phục hồi, Planchet ạ.
- Đền đài cung điện?
- Vâng, chúng ta phục hồi điện White
Hall.
- Thật là quan trọng. Mà một tháng
có xong không?
- Chuyện đó có ta lo.
- Đó là chuyện của ngài. Cứ mỗi lần ngài nhúng tay vào
thì…
- Đúng của ta, ta biết rõ lắm. Nhưng ta muốn hỏi ý kiến
anh.
- Rất hân hạnh. Có điều tôi không biết nhiều về kiến
trúc.
- Planchet anh lầm rồi, anh là một kiến trúc sư đại tài,
về chuyện này thì anh cũng giỏi như ta vậy.
- Cảm ơn.
- Phải thú nhận là ta định bàn với các ngài kia, nhưng họ
đi vắng hết. Đáng tiếc quá, ta chẳng biết ai can đảm và lanh lẹ hơn họ cả.
- Úi dà! Chắc là phải có tranh giành mới được.
- Ừ, Planchet nói đúng đấy.
- Thưa ngài, tôi nóng muốn biết chi tiết quá chừng.
- Thế này, Planchet ạ. Anh đi đóng cửa lớn lại và mở cửa
sổ ra, tiếng động của người đi ngoài đường và của xe cộ sẽ che lấp tiếng của
chúng ta và không ai nghe thấy được hết.
Planchet nghe lời lại mở cửa sổ. Cả loạt tiếng la hét,
tiếng xe cộ, chó sủa, tiếng bước chân xô ùa vào phòng làm điếc tai d Artagnan
theo ý ông muốn.
Thế rồi ông nốc một ly vang trắng và bắt đầu.
- Planchet, ta có ý kiến này.
Người chủ tiệm tạp hoá hồi hộp xúc động.
- Ô! Thưa ngài, tôi biết ý kiến của ngài thế nào cũng rất
là hay rồi.
Sau một lúc im lặng để suy nghĩ lại không phải một ý mà
toàn bộ ý nghĩ. D Artagnan lên tiếng:
- Anh bạn Planchet thân mến ạ, chắc anh có nghe nói về
ông hoàng nước Anh, Charles I, phải không?
- Than ôi, có nhớ đấy, vì chính ngài đã rời nước Pháp để
đi cứu ông vua đó mà không dược, suýt nữa còn bị vạ lây.
- Đúng thế, anh Planchet có trí nhớ tốt lắm.
- Mà! Thưa ngài. Trí nhớ tôi dù kém cỏi đến đâu cũng phải
giữ lại. Mất nó thì mới là chuyện tai hại đấy! Khi nghe anh chàng Grimaud vốn
ít nói mà kể chuyện cái đầu ông vua Charles rơi xuống như thế nào, chuyện ngài
đây phải đi suốt cả nửa đêm trong một chuyến xe tồi tàn như thế nào và rồi thấy
cái thây gã Mordaunt(1) khả ái nổi lên thế nào với lưỡi dao găm cán vàng còn
ngập vào ngực, nghe kể những chuyện như thế thì không thể nào quên được cả.
- Thế mà có những kẻ đã quên đấy Planchet ạ!
- Vâng, đó là những kẻ không chứng kiến câu chuyện hay
không được nghe Grimaud kể chuyện.
- Ồ thây kệ họ, miễn anh đã nhớ là được. Ta chỉ cần nhắc
nhở anh một điều: đó là, vua Charles có một người con trai.
Planchet nói:
- Có tới hai người kia! Tôi đã thấy người thứ hai ở Paris,
thấy ngài hầu tước York hôm ông ấy đi đến Paris – Royal và người ta đã cam
quyết với tôi rằng đó là người con thứ hai của Charles I. Còn người con trưởng
thì tôi chỉ biết tên mà không được hân hạnh biết mặt.
- Planchet đúng, ta đang nói về chuyện người ấy đó. Đúng
là người con trưởng đó, xưa gọi là Hoàng thái tử Galles(2), nay là Charles II,
vua nước Anh.
- Vua không ngai, thưa ngài. - Planchet trả lời nghiêm
chỉnh.
- Đúng đấy Planchet ạ. Và anh có thể nói thêm là ông
hoàng đó khốn khổ, khốn khổ còn hơn một người dân lăn lộn trong các vùng tồi
tàn nhất của Paris này.
Planchet tỏ vẻ thương cảm theo lỗi thông thường như người
ta vẫn bày tỏ đối với những người lạ tưởng không bao giờ có thể gặp lại được.
Với lại, anh ta không thấy trong các câu chuyện chính trị xen tình cảm này có
chút gì là dính dấp đến vấn đề buôn bán của d Artagnan trong lúc đầu óc của anh
lại đang tập trung hết vào đó. D Artagnan vốn quen biết việc và hiểu người, nên
hiểu rõ Planchet. Ông nói:
- Chuyện tới rồi đây. Ông hoàng xứ Gallas ấy, ông vua
không ngai đúng như người ta gọi, là người ta lưu tâm đấy, Planchet. Ta thấy
ông ta cầu khẩn tên hợm hĩnh Mazarin, xin ông vua Louis trẻ con cứu giúp. Con
người ấy, theo ta hiểu qua đôi mắt thông minh của một ông vua bị hạ bệ, trong
cái dáng cao quý vượt lên tất cả mọi sự khốn cùng, rõ ra một con người có lòng
và thật đáng vì vua.
Planchet lặng lẽ đồng ý: mấy chuyện này cũng chẳng có
chuyện gì làm sáng tỏ ý định của d Artagnan. Ông tiếp:
- Đây là lý lẽ của ta, Planchet hãy nghe cho rõ, chúng ta
sắp đến hồi kết cuộc rồi đó.
- Tôi nghe kỹ đây.
- Vua chúa trên trái đất này không lúc nhúc như là dân
chúng đâu. Thế mà ông vua mất ngai này, ta thấy đúng là một hạt cây chờ nảy mầm
nở hoa vào một mùa nào đó miễn là có một bàn tay khéo léo, cẩn thận và mạnh bạo
biết đem gieo vào đất, đúng chỗ đúng lúc.
Planchet luôn luôn gật đầu, chứng tỏ rằng anh ta vẫn
không hiểu gì hết.
- Tội nghiệp cho cái hạt giống sẽ lên làm vua đó! Ta tự
nghĩ và ta đau buồn thực sự, cho nên Planchet ạ, ta nghĩ rằng ta đã dính líu
vào một chuyện bơ vơ nên mới phải hỏi ý kiến anh, anh bạn ạ.
Planchet đỏ mặt vì sung sướng hãnh diện.
- Tội nghiệp cho cái hạt giống sẽ làm vua đó! Ta sẽ nhặt
nó lên và sẽ kiếm đất tốt gieo xuống.
- Chúa ơi? - Planchet vừa nói vừa nhìn đăm đăm vào người
chủ cũ, không biết ông ta có mất trí không.
D Artagnan hỏi:
- Này? Chuyện gì mất lòng anh đó?
- Không có chuyện gì đâu, thưa ngài.
- Anh vừa nói "Chúa ơi" đó mà!
- Ngài nghĩ thế à?
- Chắc lắm. Anh đã hiểu rồi chứ?
- Thưa ngài d Artagnan, phải nhận là tôi sợ.
- Sợ hiểu?
- Vâng.
- Hiểu rằng ra sẽ đem ông hoàng Charles không ngai nên bệ
rồng? Đúng chứ?
Planchet từ trên ghế nhảy dựng lên, hốt hoảng la lớn:
- À! à! Thế là cái mà gọi là "phục hồi" đấy ư?
Thì đúng nhưng ngài suy nghĩ kỹ rồi chăng?
- Nghĩ cái gì?
- Nghĩ phía bên kia?
- Có cái gì ở đó, Planchet?
- Trước hết xin lỗi ngài đã xem vào câu chuyện này. Nó
chẳng phải là việc của tôi nhưng tại vì ngài bàn bạc với tôi. Bàn bạc chuyện
làm ăn phải không ạ?
- Khá lắm, Planchet.
- Ngài bàn chuyện làm ăn thì tôi phải tranh luận.
- Cứ tranh luận đi - cãi cho ra lẽ mà!
- Thế thì, vì ngài cho phép, tôi có ý kiến là ở bên kia
còn có quốc hội là chuyện đầu tiên.
- Thế rồi sao?
- Và quân đội nữa.
- Còn nhà nước.
- Hết chưa?
- Nhà nước đó đã đồng ý lật đổ và giết ông vua cũ, cha
người kia, và họ sẽ không muốn cải chính lại điều đó.
D Artagnan nói:
- Anh bạn Planchet ạ, anh lý luận một chiều thôi. Nhà
nước đó bây giờ đang chán mấy ngài mang tên ngoại quốc mọi rợ và hát những bài
thánh ca. Tôi thấy nếu ca để mà ca thì Nhà nước muốn có những câu cà chía hơn
là bài hát trơn. Anh hãy nhớ lại cuộc nổi loạn Fronde, thời ấy người ta cũng
"ca" lắm đấy chứ! Thế mà, thời thịnh vượng đó?
- Chớ nói, chớ nói nữa, lúc ấy tôi suýt bị treo cổ đấy.
- Và anh đã bắt đầu sự nghiệp giữa mấy bài ca đó.
- Đúng thế.
- Còn gì nữa không?
- Thôi. Tôi trở lại vấn đề quân đội và nghị viện.
- Ta đã nói rằng ta mượn hai chục ngàn louis của ông
Planchet và thêm hai chục ngàn louis của ta nữa là thành lập một đạo quân.
Planchet chắp hai tay lại. Anh ta thấy d Artagnan nói
chuyện quan trọng quá, nên tin chắc rằng ông chủ đúng là điên rồi. Anh ráng
cười cho thật hấp dẫn để khỏi làm cho lão điên này bị kích thích, nổi cơn giận
lên:
- Cả một đạo quân! Đạo quân. Đông không?
- Bốn mươi người, - D Artagnan nói.
- Bốn mươi chống bốn mươi ngàn, chưa đủ đâu. Một mình
ngài bằng cả ngàn người, đúng vậy. Nhưng tìm đâu ra chín người nữa như ngài?
Còn nếu tìm ra thì tiền đâu để trả cho họ?
- Khá lắm, Planchet ạ. Mẹ kiếp! Anh lại nịnh ta rồi.
- Thưa ngài, không, tôi nói điều tôi nghĩ thôi. Tôi nghĩ
là lần đầu dàn quân bốn mươi người của ngài, tôi chỉ sợ…
Anh chàng Gascon cười:
- Ta không dàn quân đâu. Thời xa xưa, chúng ta có những
chuyện hay về việc rút lui và tiến quân khéo léo nhằm tránh địch hơn là chạm
trán với chúng. Planchet, anh phải biết điều đó, anh đã từng điều khiển người
Paris ngày mà họ chống lại bọn ngự lâm quân và đã từng tấn công và rút lui hay
tới lỗi anh không rời được quảng trường Royale đấy mà.
Planchet cũng cười, trả lời:
- Thực ra nếu bốn mươi của ngài lẩn lút giỏi, không vụng
về lắm thì khỏi thua là cái chắc, nhưng rồi kết quả sẽ ra sao?
- Nhất định phải có. Theo ý ta thì cách thức đem Charles
II lên ngôi tức khắc là thế này.
Planchet hết sức chú ý, la lên:
- Tốt, xem thử cách đó ra sao. Nhưng hình như chúng ta đã
quên một điều.
- Gì thế?
- Chúng ta đã gạt sang một bên hệ thống nhà nước ưa hát
lảm nhảm hơn là tấu thánh ca; bỏ đi quân đội chúng ta không thèm đánh, thế còn
Quốc hội, cái thứ không hát hò gì đó cả thì sao?
- Thứ này cũng chẳng đánh đấm gì hết. Tại sao một người
như anh, thông minh như thế, lại bận tâm với cả đám la ó gọi nhau là bọn phao
câu, bọn xương cụt đó? Quốc hội chẳng làm ta bận tâm chút nào, Planchet ạ.
Nếu họ không làm ngài bận tâm thì cho qua đi.
- Ừ, bây giờ thì nói đến kết quả. Anh nhớ tới Cromwell
không? Tay này chiến đấu cừ đấy.
- Còn là tay ăn nhậu ra trò.
- Thế nghĩa là gì?
- Chỉ một thoáng ông ta đã nuốt cả nước Anh.
- Planchet nghĩ xem, nếu ngay bữa sau lúc Cromwell nuốt
nước Anh có người nuốt Cromwell thì sao?
- Ô, thưa ngài. Đó là nguyên lý toán học đầu tiên cái
chứa phải lớn hơn vật bị chứa.
- Tốt lắm! Đó là công việc của chúng ta phải làm đấy,
Planchet ạ.
- Nhưng ông Cromwell đã chết mất rồi và bây giờ chỉ còn cái
nấm mồ là vật chứa ông ta thôi.
- Planchet thân mến ơi, ta khoái là thấy anh không những
đã trở thành nhà toán học mà còn là triết gia nữa đấy.
- Thưa ngài, trong khi bán tạp hoá, tôi dùng giấy in bọc
giấy hàng nên học hỏi được nhiều điều.
- Hoan hô! Anh học được toán, triết lý rồi thì chắc cũng
phải có một ít sử. Vậy thì anh biết sau lưng anh chàng Cromwell tài ba như thế
là một anh chàng tầm thường, kém cỏi chứ gì?
- Vâng, hắn tên là Richard và hắn cũng làm như ngài, ngài
d Artagnan ạ, nghĩa là hắn đã từ chức rồi.
- Đúng, rất đúng. Sau khi người hùng chết đi, người hèn
từ chức thì phải có một người thứ ba. Hắn tên là Monck. Đó là một viên tướng
rất khéo cư xử, có nghĩa là hắn chẳng bao giờ đánh đấm gì cả. Đó là một tay
ngoại giao giỏi vì chẳng bao giờ há miệng ra; nếu buổi sáng phải nói lời chào
đón một người thì hắn suy nghĩ đúng mười hai giờ đồng hồ để vừa kịp chúc người
ta lên giường thôi. Có trời mà cứu, với điều kiện là trời cũng phải xuống đúng
lúc mới kịp.
- Đúng đấy, hắn giỏi thật. Nhưng tôi biết cũng có một
chính khách cũng rất giống như người này.
- Ngài De Mazarin phải không?
- Đích thị.
- Planchet anh có lý đấy. Nhưng có
điều khác là ngài De Mazarin không thèm ngôi vua nước Pháp và như vậy thì khác
hẳn. Thế là anh chàng Monck nọ, vốn có cả nước Anh rô ti sẵn trên bàn và chỉ có
việc há miệng lùa vào, anh chàng Monck ấy đã nói với những người của phe
Charles II và cả chính Charles II rằng: "Nescio vos"
Planchet vội nói:
- Tôi không biết tiếng Anh.
- Ta biết. Nescio vos nghĩa là: tôi không biết ông. Anh
chàng Monck đó, tay quan trọng của nước Anh đó, khi hắn nuốt nước Anh xong rồi.
- Thì sao? - Planchet hỏi.
- Thì, anh bạn ạ, thì ta qua bên ấy, đem bốn mươi người,
bắt cóc hắn, mang về Pháp cho hai phe đối diện nhau dưới cặp mắt khoái trá của
ta.
Planchet lấy làm thích thú kêu lên:
- Cả của tôi nữa. Chúng ta sẽ nhốt hắn vào lồng, đem
trưng bày cho công chúng xem để lấy tiền vào cửa.
- Ô! Planchet, đó là phe thứ ba ta chưa nghĩ tới mà anh
đã tìm ra rồi.
- Dự định của ta ra sao?
- Thứ nhất, ta bắt chuộc.
- Bao nhiêu?
- Chúa ơi! Tay sừng sỏ như thế thì phải đến một trăm ngàn
louis.
- Hay?
- Hay tốt hơn là ta đem đưa cho vua Charles. Ông này
chẳng còn sợ viên tư lệnh nào hết, chẳng còn có nhà ngoại giao nào để lừa lọc
hết thì tự lên ngôi và khi leo lên ngai vàng xong, ông ta sẽ trả cho ta trăm
ngàn louis đó. Ý kiến của ta là thế, Planchet xem có được không?
- Thưa ngài, ý tưởng thật tuyệt vời. Nhưng…
- Ôi, còn nhưng gì nữa?
- Xin lỗi. Nhưng điều này giống như chuyện cái da con gấu
đẹp mà ngài đã biết, muốn bán da gấu cần phải bắt được gấu đã. Còn muốn bắt
ngài Monck thì phải ẩu đả.
- Nhất định rồi, ta mang cả đạo quân đi.
- Đúng, đúng, tôi biết đi bắt cóc. Ô! Thế là ngài thắng
vì chẳng ai hơn ngài về việc này cả.
D Artagnan nói, hơi nhũn nhặn để giấu lòng tự kiêu:
- Đúng là về việc này ta đã thành công nhiều. Anh hiểu là
nếu ta có mấy ông bạn: Athos thân mến. Porthos gan dạ và Aramis láu lỉnh thì
chuyện dễ thôi. Nhưng họ đã mất hút, biết tìm họ ở phương trời nào? Thôi thì
đành làm một mình vậy. Nào, anh thấy đầu tư trong vụ kinh doanh này có lời
không?
- Lời quá đi mất!
- Sao?
- Cái gì quá thì cũng không thể nào xảy ra.
- Nhất định xảy ra, chứng cớ là ta đã nhúng tay vào,
Planchet ạ.
Planchet kêu lên:
- Thưa ngài, khi tôi nghĩ là chuyện dự tính vĩ đại như
thế mà bàn bạc giữa mấy thùng đường, giữa mấy quả ô mai, mấy khúc quế ở đây thì
chắc cái cửa hiệu tôi là một toà lâu đài mất thôi!
- Coi chừng! Đề phòng kỹ, Planchet ạ. Chuyện này mà lộ ra
thì cả hai cùng vào ngục Bastille nằm đấy, vì đây là một âm mưu phản loạn. Ngài
Monck là đồng minh với ngài De Mazarin. Coi chừng đấy.
- Thưa ngài, khi người ta có hân hạnh thuộc về ngài thì
không sợ gì hết và khi có ai chia xẻ lợi lộc với ngài thì người đó phải biết
nín thinh.
- Tốt lắm, cho rằng tám ngày nữa ta đã ở Anh thì phải coi
đó là công việc kinh doanh của anh hơn là của ta đấy.
- Đi đi ngài đi ngay càng sớm càng tốt.
- Sao, tiền bạc sẵn chưa?
- Ngày mai sẽ có. Ngày mai chính tôi sẽ đưa cho ngài.
Ngài muốn lấy vàng hay bạc?
- Vàng tiện nhất. Nhưng ta tính với nhau làm sao đây?
- Ồ, giản dị lắm? Ngài cho tôi một biên nhận, hết.
D Artagnan phản đối:
- Không được, không được. Cái gì cũng phải theo quy tắc,
luật lệ.
- Thì tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng với ngài d Artagnan.
- Nếu như ta chết ở bên kia, nếu ta bị một phát đạn tử
thương, nếu ta uống bia đến vỡ bụng, thì sao?
- Thưa ngài, ngài hãy tin rằng lúc đó tôi tiếc thương
ngài đến độ không nghĩ gì đến tiền bạc nữa cả.
- Cảm ơn Planchet. Nhưng chuyện này không ngăn chúng ta
làm việc liếp. Chúng ta làm như hai tay thư ký của người nhận uỷ nhiệm, chúng
ta cùng làm một chứng từ tạm, gọi là giấy hợp đồng làm ăn.
- Đồng ý.
Planchet đi tìm cây viết, mực và giấy đem lại d Artagnan
viết:
"Một bên là ngài d Artagnan, cựu sĩ quan ngự lâm
quân, hiện nay ở đưòng Tiquetonne, khách sạn "Dê cái con".
Một bên là ông Planchet, bán tạp lloá, ở đường Lombard,
bảng hiệu Đùi gà vàng.
Hai bên thoả thuận như sau:
- Một tổ hợp có vốn bốn mươi ngàn louis được thành lập để
khai thác một ý kiến của ngài d Artagnan đề ra.
Ông Planchet được biết rõ ý kiến này và đồng ý mọi điềm,
sẽ góp vào hai mươi ngàn louis cho ngài d Artagnan.
- Ông sẽ không đòi hỏi hoàn vốn lại, hay đòi tiền lời gì
cả trước khi ngài d Artagnan đi Anh trở về.
Về phía mình, ngài d Artagnan cĩng sẽ góp hai mươi ngàn
louis chung với hai mươi ngàn louis của ông Planchet.
Ngài d Artagnan tạm quyền sử dụng số tiền bốn mươi ngàn
louis ấy theo lý do ghi sau đây.
Ngày nào ngài d Artagnan lập được ngôi vua cho ông hoàng
Charles II ở nước Anh, thì sẽ giao tận tay ông Planchet một số tiền lớn
là…".
D Artagnan hơi ngừng tay, Planchet chất phác vội vã đọc.
- Số tiền một trăm năm mươi ngàn louis.
- Khốn khổ thay! Không được, chia đôi không được.
Planchet phản đối yếu ớt:
- Nhưng chúng ta mỗi người góp một nửa mà.
- Đúng, nhưng anh Planchet thân mến ơi, hãy nghe các điều
khoản và nếu anh thấy điểm nào không đúng thì cứ xoá bỏ.
Và d Artagnan viết:
"Nhưng vì ngài d Artagnan ngoài số vốn hai mươi ngàn
louis còn góp vào đó thì giờ ý kiến, sự khéo léo và cả thân xác là những thứ
ngài đánh giá cao, nhất là thứ sau cùng này, nên ngài d Artagnan sẽ lấy hai
trăm ngàn louis trên tổng số ba trăm ngàn louis, nghĩa là lấy hai phần
ba".
- Đúng lắm, Planchet nói.
- Một trăm ngàn louis là đủ cho anh bằng lòng phải không?
- Mẹ kiếp! Tốt! Trăm ngàn louis từ hai mươi ngàn louis
mà! Nhưng nên nhớ là chỉ trong một tháng đấy!
- Sao? Một tháng sao?
- Đúng ta chỉ cần trong một tháng.
Planchet ra vẻ hào hiệp:
- Thưa ngài, tôi cho ngài sáu tuần để hành động.
Người lính ngự lâm lịch sự nói:
- Cám ơn!
Rồi cả hai lý vào giấy, d Artagnan nói:
- Theo cách này thì ta không sợ ai hết.
- Nhưng tôi thì sợ ngài, - Planchet nói.
- Không, Planchet à, dù có muốn giữ gìn đến mấy đi nữa ta
cũng có thể chết mất xác ở bên kia và anh thì trắng tay. À! Thật khổ chuyện này
khiến ta phải nghĩ đến một điều khoản chính, không thể thiếu được, để ta ghi
tiếp:
"Trong trường hợp ngài d Artagnan bị chết coi như đã
thanh toán xong nợ và ngay từ bây giờ ông Planchet giữ sổ số tiền hai mươi ngàn
đã góp vào tổ hợp này".
Planchet nhíu mày khi đọc điều khoản cuối cùng này.
Nhưng khi nhìn thấy người hợp tác mắt long lanh, tay nổi
thịt bắp, xương sống dẻo dai và vững chắc, thì ông lấy lại can đảm và quệt một
nét ký nhận ngay điều khoản này. D Artagnan cũng làm được như vậy. Rồi
Planchet, trút chai rượu vang Anjou vào ly d Artagnan.
- Bây giờ thì thôi, thầy đi ngủ đi.
D Artagnan trả lời:
- Không được đâu, chuyện khó nhất
còn chưa làm thì chưa ngủ được.
- Ồ tôi tin tưởng ở ngài lắm, đến
nỗi tôi có thể đưa một trăm ngàn louis mà chỉ đòi về chín chục ngàn thôi.
- Thôi, thây kệ! Anh có lý đấy.
Nói xong, d Artagnan cầm cây đèn,
bước lên phòng và đặt lưng xuống ngủ ngay.
Chú thích:
(1)
Mordount, con trai của Milady, nhân vật ở tập "Hai mươi năm sau", bị
nhóm ngự lâm quân giết
(2) Hoàng
thái tử nước Anh thường được phong là ông hoàng xứ Galles
CÁI CHẾT CỦA BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 10: Chuyến đi của d'Artagnan
D Artagnan thao thức suốt đêm để
phác kế hoạch cho tới hừng sáng hôm sau.
- Thế là xong! - ông vừa nói vừa bật
dậy ngồi trên giường, bàn tay đỡ cằm, cùi chỏ chống gối, - Thế là xong! Mình sẽ
tìm bốn mươi người đàn ông tín cẩn, khỏe mạnh, tuyển mộ trong đám người gây
phiền nhiễu chút ít nhưng có kỷ luật. Mình sẽ hứa trả cho họ năm trăm louis một
tháng, nếu họ trở về được, còn nếu không, không trả gì hết, hoặc sẽ trả phân
nửa cho bà con họ. Về phần nơi ăn chốn ở thì đó là việc của bọn Anh. Họ có bò
đầy đồng, thịt muối đầy thùng, gà đầy chuồng và thóc đầy vựa. Mình sẽ đưa đội
quân này đến ra mắt đại tướng Monck. Ngài sẽ rất bằng lòng với mình. Mình sẽ
được ngài tin cẩn và mình sẽ chụp lấy thời cơ sớm nhất.
Nhưng nghĩ tới đó d Artagnan lắc đầu
và ngưng lại.
- Không, - ông lại nói, - mình sẽ
không bàn kế này với Athos bởi nó không mấy cao thượng. Phải dùng bạo lực, -
ông nói tiếp,- chắc chắn như thế để khỏi dính dấp gì đến lòng trung tín của
mình. Với bốn mươi người, mình sẽ tung hoành khắp chốn theo lối du kích. Phải,
đúng đấy! Nhưng nếu mình đụng đầu không phải với bốn chục ngàn quân Anh như
Planchet đã nói, mà là bốn trăm ngàn thì sao? Mình sẽ bị đánh bại, vì lý do
trong bốn mươi chiến sĩ của mình có ít ra là mười tên ăn hại hoặc mười lên khác
lập tức bị giết chết chỉ vì ngu ngốc.
Không! Đúng vậy, khó mà có bốn mươi
người đàn ông tin cậy được. Thôi, phải bằng lòng với con số ba mươi vậy.
Bớt đi mười người, quân số ít ỏi
chắc mình tránh được đụng độ, và cho dù có đụng độ đi nữa, thì ba mươi người
được chọn lựa kỹ hẳn bảo đảm hơn bốn mươi. Ngoài ra, mình còn tiết kiệm được
năm ngàn louis - nghĩa là một phần tám số vốn của mình, như vậy cũng đáng công
đấy chứ? Vậy là đã quyết định mình sẽ chỉ có ba mươi người. Mình sẽ chia họ ra
làm ba nhóm, bọn mình sẽ rải ra khắp xứ, và sẽ có lệnh tụ tập lại vào một lúc
nào đó. Với cách đó, với từng nhóm mười người, bọn mình sẽ không bị nghi ngờ và
đi trót lọt. Phải rồi, phải rồi, ba mươi, con số tuyệt vời. Ba lần mười. Con số
ba đúng là con số kỳ diệu.
Đúng vậy, một đội quân ba mươi người
tập họp lại sẽ rất khá.
- Nhưng hỡi ôi? Thật khổ cho thân
tôi! - D Artagnan lại tiếp tục nói, - còn cần phải có ba chục con ngựa. Thế thì
vỡ nợ? Rõ khỉ, cái đầu mình để đâu mà quên bẵng đi mất mấy chục con ngựa? Ai mà
có thể tưởng tượng nổi rằng làm một cú như vậy mà không có ngựa? Thôi, thây kệ,
đành chịu vậy, khỏi phải dùng ngựa ở xứ đó tuy chúng chẳng tồi lắm đâu. A, còn
quên!
Ba nhóm, vậy là cần phải có ba nhóm
trưởng. Đó mới là điều ngặt nghèo. Trong ba người, mình có sẵn một rồi, đó
chính là mình. Phải. Nhưng còn hai nhóm trưởng kia thì chỉ tốn cho riêng họ
thôi cũng mất gần bằng số tiền của cả đội. Không được, dứt khoát là không được.
Chỉ cần mỗi một nhóm trưởng thôi.
Vậy thì trong trường hợp này, mình
bớt quân số trong đoàn đi còn hai mươi người thôi. Mình biết hai mươi người thì
ít thật đấy, nhưng mà bởi vì với ba mươi người mình đã quyết định không kiếm
chuyện với ai thì với con số hai mươi, tình hình chác sẽ khác hẳn hơn nữa. Hai
mươi, số tính thật tròn. Ta bớt đi được mười con ngựa, chuyện đáng xem xét đấy.
Và thế là với một chàng nhóm trưởng giỏi.
Chán quá! Thế mà cũng phải mất bao
nhiêu là kiên trì và tính toán! Có phải là mình đổ bộ với quân số bốn mươi và
bây giờ đây mình bớt xuống còn hai mươi mà kết quả thì cũng y như nhau không?
Tiết kiệm được những mười ngàn louis và lại còn chắc ăn hơn! Tốt lắm? Giờ thì
thử tính coi: chỉ còn có mỗi một việc là kiếm cho ra anh chàng nhóm trưởng đó.
Phải kiếm cho ra anh ta và rồi tôi, đâu có dễ gì? Mình cần anh ta phải giỏi,
phải gan dạ như mình đây. Phải, nhưng mà anh ta lại phải biết điều bí mật của
mình và vì cái điều bí mật này đáng giá bạc triệu, và trong khi mình chỉ trả
cho anh ta có một ngàn hoặc một ngàn rưởi louis hơn, anh ta sẽ bán cái bí mật
này cho tên Monck.
Chán quá, không được, không có nhóm
trưởng gì cả?
Thêm nữa, dù anh chàng câm như hến,
hắn cũng sẽ chọn một tên lính mà hắn ưa thích nhất trong nhóm để làm phụ tá.
Tên phụ tá này sẽ biết được điều bí
mật của viên nhóm trưởng, trong trường hợp anh này này ngay thẳng, không muốn
bán nó đi. Thế là tên phụ tá, íl liêm khiết, ít tham vọng hơn này sẽ bán tuốt
luốt với giá năm chục ngàn louis. Thôi, thôi, không thể được. Nhất định là
không có đội trưởng! Nhưng như vậy thì làm sao mình có thể chia đôi quân của
mình ra làm hai được, làm sao mình có thể hành động ở hai nơi cùng một lúc?
Nhưng có ích gì mà mình phải hành động ở hai ba nơi trong lúc mình chỉ cần tóm
cổ có một người? Ích lợi gì mà mình phải làm suy yếu một đội quân bằng cách
phân tán một ít đằng này và một ít đằng kia? Một đội quân duy nhất thôi.
Chán quá! Chỉ một đội thôi, và do d
Artagnan chỉ huy.
Hay lắm! Nhưng mà một nhóm hai mươi
người thì dễ bị mọi người người dòm ngó. Không nên để người ta nhìn thấy một
nhóm hai mươi kỵ sĩ đi chung một chỗ, người ta sẽ phái một đại đội lính tới để
hỏi mật khẩu, rồi nếu như thấy ta lúng túng, họ sẽ nổ súng bắn ông d Artagnan
và đội quân của ông ta như bắn thỏ. Vậy thì mình bớt đi mười người, bằng cách
đó mình hành động một cách đơn giản hơn mà lại chặt chẽ hơn. Mình sẽ bị bắt
buộc phải thận trọng và đó là một nửa sự thành công trong các loại công việc mà
mình đang thi hành đây.
Quân đông thì dễ có hành động rồ dại.
Lại khỏi phải đi mua, đi bắt mười con ngựa. Ô! Ý kiến tuyệt diệu! Lòng mình yên
ổn biết bao! Hết sợ bị nghi kỵ, hết sợ mật khẩu, hết sợ nguy hiểm nữa. Mười
người: đó là bọn dầy tớ hay kẻ thừa hành. Mười người cỡi mười con ngựa chở đầy
hàng hoá linh tinh đi đâu cũng sẽ được người ta chấp nhận và tiếp đãi tử tế.
Mười người đi cho tổ hợp Planchet và Công ty từ nước Pháp.
Không có gì phải bàn. Mười người đàn
ông này được ăn mặc như những công nhân, với một con dao săn bắn sắc bén, một
súng ngắn tốt giấu sau đôi ngựa, một súng lục trong bao yên ngựa. Họ không để
ai phải lo sợ vì họ không có ý đồ xấu.
Có lẽ họ cũng có chút máu buôn bán,
nhưng mà có hại gì đâu, người buôn lậu cũng như kẻ đa thê đâu có phải bị treo
cổ. Cái điều tệ có thể xảy ra cho bọn mình là người ta sẽ tịch thu hàng hoá của
mình, mà một khi hàng hoá đã bị tịch thu rồi, ôi thôi, đúng là trúng mánh. Ờ!
ờ! Đó là diệu kế! Chỉ có mười người thôi, mười người mà mình tuyển chọn làm
việc cho mình, mười người sẽ giải quyết công việc như bốn mươi người thế mà
mình sẽ chỉ tốn tiền như cho bốn mươi, và để cho thật bảo đảm an toàn, với họ
mình sẽ không hé môi về ý định của mình và với họ mình sẽ chỉ nói gọn lỏn:
"Này các bạn, chúng ta sắp đi làm một cú". Bằng cách đó, quỷ Satan có
ma mãnh mấy đi nữa cũng chẳng giở trò gì được. Tiết kiệm được mười lăm ngàn
louis. Thật tuyệt vời!
Thế là d Artagnan được khích lệ bởi
sự tính toán khôn khéo của ông, bèn thôi không tiếp tục nghĩ thêm và quyết định
không thay đổi gì nữa cả. Ông đã có xong trong trí nhớ minh mẫn một danh sách
tên của mười người có tiếng trong giới giang hồ đã từng bị số mệnh bạc đãi hay
pháp luật quan tâm. Sau đó, d Artagnan đứng lên và đi tìm họ tức khắc, không
quên dặn Planchet đừng chờ cơm trưa và cũng có thể cả cơm chiều. Sau một ngày
và một buổi lặn lội trong hang cùng ngõ hẻm của thành phố Paris, d Artagnan
thấy kết quả thu được đã tạm đủ.
Ông không cho ai biết được ai hết.
Thế là không đầy ba mươi tiếng đồng
hồ ông đã chọn lựa, lấy người này bỏ người kia và tập trung được một bộ sưu tập
khả ái những bộ mặt bất hảo nói tiếng Pháp còn dở hơn thứ tiếng Anh mà họ sắp sửa
phải dùng đến. Phần lớn trong số họ là những vệ binh mà d Artagnan có thể công
nhận tài năng trong những cuộc đụng độ khác nhau hoặc vì say rượu, hoặc do
những nhát kiếm rủi ro, những lần được bạc to lớn bất ngờ, những cuộc chỉnh lý
kinh tế của ngài Mazarin mà họ buộc lòng phải đi tìm bóng tối và sự cô đơn -
hai kẻ an ủi thấu hiểu. Diện mạo của họ đều mang những dấu vết ưu tư sầu muộn
mà họ đã lừng trải qua và quần áo của họ đều rách rưới.
D Artagnan cấp bách giải thoát những
nỗi khốn cùng này bằng cách phân chia khôn khéo những đồng écus của xã hội cho
họ, và sau khi đã trông chừng họ dùng tiền này sắm sửa quần áo để làm đẹp bộ mã
bên ngoài của đội quân, d Artagnan mới hẹn gặp đám tân binh này ở phía Bắc nước
Pháp, giữa Berghe và Saint-Omer. Thời hạn hẹn là sáu ngày, và d Artagnan vốn
biết khá rõ về lòng nhiệt thành, tính khí dễ chịu, sự chân thật tương đối của
đám tân binh nổi tiếng này, nên chắc chắn rằng sẽ không có một người nào trong
bọn sai hẹn cả.
Xong xuôi rồi, d Artagnan đi gặp
Planchet để từ biệt và còn phải trả lời câu hỏi về đám binh sĩ của ông. D
Artagnan không nói gì với Planchet về vấn đề cắt giảm bớt quân số mà ông đã
giải quyết xong.
Ông ngại làm thương tổn đến lòng tin
tưởng của người góp vốn. Planchet thật vui mừng khi được biết rằng đội quân đã
được tuyển đủ, và rằng chính lão, Planchet đây, sẽ được kể như một ông vua một
nửa ngồi trên ngai vàng - bàn giấy tuyển mộ một đạo quân đặc biệt dành riêng đi
gây chiến với cái xứ Anh xảo trá kia.
Planchet giao cho d Artagnan phần
của gã hai mươi ngàn louis bằng đồng louis "kép" xinh đẹp, và thêm
hai mười ngàn louis trả cho d Artagnan, cũng vẫn những đồng louis
"kép" xinh đẹp.
D Artagnan chia đều số tiền bỏ vào
túi xách và thử nhấc mỗi túi trong tay nói:
- Mấy cái đồng tiền này, coi bộ rắc
rối dữ hả anh bạn Planchet thân mến? Hơn ba chục ký lô đấy chứ?
- Gì! Con ngựa của ngài sẽ mang nó
đi như mang một cọng lông gà thôi!
D Artagnan lắc đầu:
- Chớ nói thế, Planchet ạ. Một con
ngựa mà chở nặng thêm ba chục kí lô nữa ngoài cái áo khoác và người kĩ sĩ thì
không dễ gì qua nổi một con sông, không thể phóng một cách nhẹ nhàng qua một
bức tường hay một cái hố, và thế là không còn ngựa, không còn kỵ sĩ gì ráo.
Đúng là anh không biết mấy thứ đó, Planchet ạ, vì anh suốt đời chỉ là lính bộ.
- Vậy thì, thưa ngài làm sao bây
giờ?
D Artagnan nói:
- Nghe đây, ta sẽ trả lương cho đội
quân khi họ trở về gia đình. Hãy cất giữ dùm số tiền hai mươi ngàn louis của ta
để sinh lợi trong lúc ta đi vắng.
- Còn phân nửa của tôi? - Planchet hỏi.
- Thì ta mang theo.
- Thật vinh dự được lòng tin của ngài, nhưng nếu ngài
không trở về thì sao?
- Cũng có thể, mà cũng không đúng hẳn như thế. Vậy thì
Planchet ạ, để đề phòng trường hợp ta không quay về, hãy đưa giấy bút đây ta
viết chúc thư cho anh.
Nói xong d Artagnan cầm bút viết trên một tờ giấy thường:
"Tôi, d Artagnan, sở hữu của hai mươi ngàn louis, là
tiền dành dụm từng đồng xu từ ba mươi năm qua mà tôi đã phụng sự Đức Hoàng
thượng vua nước Pháp. Trong số tiền này, tôi biếu Arthos năm ngàn, Porthos năm
ngàn, Armis năm ngàn để họ mang biếu cho bạn tôi là Raoul, Tử tước De
Bragelonne. Còn năm ngàn còn lại tôi biếu Planchet để anh ta không cảm thấy hối
tiếc khi mang mười năm ngàn louis kia cho bạn của tôi.
Tôi chứng ký dưới đây làm bằng
D Artagnan"
Planchet tỏ vẻ rất tò mò muốn biết d Artagnan đã viết
những gì. Người lính ngự lâm bảo Planchet:
- Đây, đọc đi!
Đọc xong, Planchet rơi nước mắt.
- Bộ ông tưởng không có mấy chữ đó rồi tôi không đưa tiền
ra sao? Nếu vậy thì tôi không nhận năm ngàn louis của ông đâu
D Artagnan mỉm cười:
- Cứ nhận đi Planchet, nhận đi, và như vậy thì anh sẽ chỉ
mất có mười năm ngàn louis thôi thay vì mất hai chục ngàn, và anh cũng sẽ phải
khỏi mang cái tội cố ý nhục mạ chữ ký của chủ anh mà cũng là bạn anh, khi anh
tìm cách không để mất đồng nào hết.
Để khởi sự, d Artagnan bắt đầu lên đường vào một ngày rất
đẹp: trời không mây, đầu óc không vẩn đục, vui vẻ khỏe khoắn, tâm trí bình yên
và cương quyết. Phần chủ yếu đã giải quyết xong, đương nhiên ông cảm thấy như
được uống một nguồn năng lực mạnh gấp mười lần và nguồn sức mạnh đó, qua dây
thần kinh toả lan đi khắp cơ thể.
Một lần nữa ông lại lên yên như trong thời xa xưa, cũng
trên con đường này, con đường đầy kỷ niệm về những phiêu lưu đã đưa ông đến
Boulogne. Lần này là lần thứ tư, đi trên đường, ông ngỡ như có thể nhận ra
những dấu chân cũ trên vỉa hè và dấu vết của những cú đấm mà mình đã để lại
trên các cửa lữ quán.
Ký ức của ông, luôn luôn sôi động và tỉnh táo, đã làm
sống lại cái thời thanh xuân đó mà dù đã ba mươi năm qua, vẫn còn trong tấm
lòng hào hiệp và cú đấm thép của ông.
Ôi, bản chất của con người này thuần hậu biết bao! Ông có
tất cả mọi đam mê, sôi nổi, cả thói hư tật xấu lẫn mọi sự yếu mềm, và cái tính
khí tương phản quen thuộc trong đầu óc đã đổi tất cả những khuyết điểm đó thành
những ưu điểm tương xứng.
D Artagnan, nhờ trí tưởng tượng không ngừng lang thang đó
đây của ông, như cảm thấy lo sợ nên bước tới chỗ bóng đen đó và thế là ông trở
nên hết sức gan dạ nếu sự nguy hiểm trở thành thực tế. Lại nữa, tất cả trong
ông đều là do xúc động và từ đó là lạc thú nảy sinh. Ông yên mọi người nhưng
không bao giờ chán nản về mình, và đôi lần, nếu có ai quan sát lúc ông một
mình, người ta sẽ thấy ông kể lể, giễu cợt mình hoặc là cười với những trò hề
tưởng tượng chừng năm phút trước lúc gặp sự phiền nhiễu.
Lần này, d Artagnan có lẽ không cảm thấy vui vẻ như trước
kia, như với viễn ảnh sẽ gặp được vài người bạn tốt ở Calais, mà thay vào đó
lại là mười tên vô lại khoác lác. Những lúc này nỗi buồn không đến viếng ông
quá một lần mỗi ngày, và hình như có năm lần thăm viếng ngắn ngủi của vị thần
ảm đạm này trước khi ông nhận ra bờ biển dẫn đến Boulogne.
Lúc này d Artagnan có linh cảm đã gần kề trận chiến; mọi
tình cảm nào khác ngoài lòng tự tin đều tan biến hết.
Từ Boulogne ông đi dọc theo bờ biển Calais, Calais là
điểm hẹn chung, ông đã ra lệnh cho mỗi tên lính của ông đến quán trọ Grand
Monarque là nơi giá sinh hoạt không quá đắt đỏ, nơi bọn thuỷ thủ cũng như những
gã trai tráng mang kiếm trong bao da ùn ùn lui tới. Tất nhiên họ sẽ tạm dừng
bước ăn uống và sau cùng là hưởng thú vui êm ái của cuộc đời chỉ có ba mươi xu
một ngày.
D Artagnan dự định sẽ bất chợt bắt gặp họ trong cảnh sống
phiêu bạt để xét đoán họ từ dáng vẻ bên ngoài xem họ có thể là những người bạn
đồng hành tốt hay không.
Quán trọ Grand Monarque nằm trên một con đường nhỏ song
song với bến cảng mà không trông thẳng ra đó. Vài ngõ hẻm chạy băng qua như
những bậc ngang của chiếc thang mà hai đường song song là đường cái và con lộ
lớn trước bến cảng.
Theo các ngỏ hẻm, người ta đổ xô ra bến cảng và ngược
lại, vào đường cái.
D Artagnan đến bến cảng, đi vào một con đường hẻm đó và
bất thình lình xuất hiện trước cửa quán trọ Grand Monarque.
D Artagnan đến thật đúng lúc và điều đó làm ông nhớ lại
thuở trước tại quán trọ Franc-Maunier ở Meung. Bọn thuỷ thủ đang cãi nhau và
hầm hè nhau một cách kịch liệt. Ông chủ quán, bà chủ quán và hai chú hầu bàn
đang lo ngại trông chừng cái đám cờ bạc xấu máu có vẻ như sẵn sàng dao búa xông
vào nhau trong trận sống mái.
Tuy nhiên sòng bài vẫn tiếp tục.
Hai người đàn ông ngồi trên băng đá có vẻ như trông chừng
cửa ra vào, tám gã khác thì chiếm bốn cái bàn đặt ở cuối phòng. Cả người ngồi
trên băng đá lẫn người ngồi ở bàn không ai tham gia vào trận gây gổ lẫn cuộc đỏ
đen cả. D Artagnan nhận ra ngay đám thuộc hạ của ông dưới lớp vỏ khán giả lạnh
lùng và thờ ơ đó.
Trận gây gổ sắp bùng lên. Mọi đam mê đều như biển cả, có
thủy triều lúc lên lúc xuống. Một thủy thủ hăng tiết hất cái bàn mà trên đó có
cả tiền. Bàn đổ, tiền lăn tung tóe. Lập tức nhiều ông khách trong quán đổ xô ra
lượm tiền, "thủ" một số lớn những đồng bạc trắng rồi chuồn đi mất
trong khi bọn thuỷ thủ mắc lo xâu xé nhau.
Hai người ở băng đá và tám người ở trong phòng, mặc dù tỏ
vẻ xa lạ với nhau, nhưng hình như đã ra hiệu giữ thái độ thản nhiên giữa những
tiếng kêu la inh ỏi đầy thịnh nộ cùng với tiếng các đồng tiền va nhau leng
xẻng. Riêng có hai người chợt dùng chân đẩy mấy tên ẩu đả bị té lăn dưới gầm
bàn của họ ra.
Sau đó hai người nữa đành rút tay ra khỏi túi còn hơn là
nhào vô tham gia với đám huyên náo. Rồi thêm hai người nữa leo lên bàn họ đang
ngồi như những người sợ bị tạt nước bất ngờ nên phải tránh.
D Artagnan tự nhủ, mắt không bỏ sót bất cứ một chi tiết
nào mà chúng ta vừa kể qua:
- Ồ, khá lắm: họ kín đáo trầm tĩnh, quá quen thuộc với
cảnh ồn ào, đánh đá. Khỉ gió! Mình được tay bài đỏ thật.
Thình lình, ông chú ý đến một góc trong căn phòng.
Bọn thủy thủ vừa giảng hoà với nhau xong liền quay sang
chửi mắng hai người đã dùng chân đẩy mấy người bạn họ.
Một gã nửa say vì giận nhưng say khướt vì bia, bằng một
giọng hăm doạ, đến hỏi người nhỏ con trong hai người đó rằng anh ta lấy quyển
gì mà dám dùng chân đụng vào đám môn hạ của Chúa Trời như đạp chó vậy. Vừa chất
vấn, gã vừa cố ý đưa thẳng quả đấm gân guốc của gã đến ngay trước mũi chàng
lính mộ của ngài d Artagnan.
Anh chàng này tái mặt đi không rõ là vì sợ hay vì giận.
Thấy vậy gã thủy thủ kết luận là vì sợ, nên gã giơ quả
đấm lên với ý định rõ rệt là sẽ cho rớt xuống đầu người lạ mặt. Nhưng mặc dầu
không ai thấy người bị hăm doạ nhúc nhích gì cả, bất thình lình anh ta phóng
một quả đấm dữ dội vào bụng gã thủy thủ làm gã lăn cù đến tận cuối phòng và kêu
la thảm thiết. Lúc ấy, những bạn bè của kẻ chiến bại theo tinh thán đồng đội
liền đổ xô vào người chiến thắng.
Anh này, cũng phớt tỉnh, thản nhiên như trước đó, không
dại dột dùng đến khí giới mà lại tóm lấy một bình bia có nắp thiếc rồi đập gục
hai hay ba kẻ đang xông vào. Thế rồi, thấy anh ta có vẻ sắp bị đè bẹp vì số
đông bảy người ở trong phòng vẫn lặng thinh kia giờ hiểu ra rằng chính nghĩa
của họ đang bị đe doạ nên lập tức xông vào cứu bạn.
Đồng thời hai con người thờ ơ với thế sự ngồi ngoài cửa
kia cũng quay vào, nhíu mày chứng tỏ có ý định rõ ràng là sẽ đánh úp đối phương
nếu chúng không chịu ngưng chiến.
Ông chủ quán, mấy chú hầu bàn và hai cảnh sát trực đêm đi
ngang qua vì tò mò đã bước sâu vào quán và tất cả cũng bị bao vây trong trận
chiến, và bị ăn đòn nhừ tử.
Đám người Paris đánh nhau thật dữ dội theo những lối đánh
rất đẹp mắt. Sau đó, khi bắt buộc phải tháo lui trước số người quá đông, họ
đứng thủ thế phía sau cái bàn lớn mà bốn người hất dựng lên, trong khi đó hai
người còn lại mỗi người cầm một con ngựa gỗ và sử dụng chúng như thứ dụng cụ
của một lò sát sinh khổng lổ. Chỉ một lần đập cái máy bắn đá gớm ghiếc đó, họ
đã làm tám gã thủy thủ cùng lúc té sóng ngoài.
Trên bàn, người bị thương nằm la liệt và trong căn phòng
thì đầy bụi, đầy tiếng la ó. D Artagnan thấy thoả mãn với bằng chứng trước mắt
bèn bước tới khẽ đập đốc kiếm vào những ai còn ngẩng đầu lên và ông quát lên
một tiếng, làm trận chiến ngưng tức khắc.
Ông dồn hết mọi người lại để mình đứng tách riêng ra, làm
chủ tình hình.
- Cái gì thế? Ông cất giọng hỏi đám người bu quanh, oai
nghiêm như Thần Biển khi truyền Quos cgo(1).
Sau đó, như kiểu ẩn dụ của Virgile đã viết, ngay từ lúc
nghe tiếng quát mỗi người lính mộ đều biết ông chủ tối cao của họ, liền thu lại
cả cơn nóng giận lẫn con ngựa gỗ.
Về phía bọn thủy thủ, khi thấy thanh gươm tuốt trần cùng
khí phách hùng dũng và cánh tay lanh lẹ qua vóc dáng một người có vẻ quen chỉ
huy đến tiếp cứu kẻ thù, họ liền thu nhặt đám bị thương cùng mớ nồi niêu song
chảo của họ và mang đi.
Đám người Paris lau mồ hôi trán và kính cẩn cúi thủ lãnh.
D Artagnan được chủ quán trầm trồ khen ngợi. Ông đón nhận
theo cách thức của người biết rằng "chuyện ấy cũng thường thôi", xong
ông tuyên bố rằng ông đi dạo một vòng trên bến để chờ bữa ăn tối.
Mỗi người trong đám lính mộ hiểu ngay hiệu lệnh, liền
phủi bụi trên áo quần, đi theo d Artagnan.
D Artagnan trong khi lững thững đi dạo tuy để ý đến mọi
chuyện xung quanh nhưng vẫn không dừng bước. Ông tiến về phía đồi cát, còn mười
người kia hoang mang nhận thấy cùng đi chung một đường, bên trái, bên phải sau
lưng đều có người đồng hành không ngờ đang nối gót nhau và cùng hằm hè nhìn
nhau đầy giận dữ.
Chỉ khi đến chỗ trũng nhất của đụn cát thấp nhất, khi đã
bỏ xa họ, d Artagnan mới mỉm cười quay lại vẫy tay ra hiệu hoà giải.
- Ô kìa, các ông! Đừng cấu xé nhau. Các ông được sinh ra
để sống với nhau, để thông cảm nhau về mọi phương diện chứ không phải để ăn
tươi nuốt sống lẫn nhau.
Thế là chấm dứt mọi ngại ngùng. Họ thở phào như vừa được
tôi ra khỏi quan tài và họ thích thú nhìn ngắm nhau. Xong họ đưa mắt nhìn sang
chủ tướng của họ. Người mà từ lâu đã biết rõ cái nghệ thuật vĩ đại về cách ăn
nói với những người đàn ông được tôi luyện đến mức này, liền ứng khẩu một bài
diễn văn ngắn như sau, giọng đầy nhiệt tình đặc biệt của xứ Gascon:
- Này, tất cả các ông đều biết tôi là ai rồi. Tôi đã thu
nhận các ông, biết rõ các ông là những con người dũng cảm và mong muốn các ông
hợp tác với tôi trong một cuộc viễn hành đầy vinh quang. Hãy nghĩ rằng các ông
làm việc với tôi tức là các ông phụng sự cho Đức vua. Tôi chỉ báo cho các ông
biết rằng nếu các ông để lộ ra chút gì về điều đó thì tôi sẽ tức khắc đập vỡ
đầu các ông ra bằng cách nào tôi thấy thích hợp nhất. Các ông ạ, các ông thừa
hiểu rằng bí mật quốc gia thì cũng như thuốc độc vậy, chừng nào thuốc độc này
còn nằm trong hộp và hộp được đậy kín thì nó không hại gì cả. Còn ra khỏi hộp
nó làm chết người ngay. Bây giờ xin các ông hãy lại gần đây và các ông sẽ được
biết điều bí mật mà tôi có thể nói ra được.
Tất cả tò mò tiến gại gần d Artagnan. Ông nói tiếp:
- Các ông lại gần dây. Chúng ta cần phải biết và báo cáo
về cho ngài Tổng giám tài chánh rõ bọn buôn lậu Anh đang làm hại các nhà buôn
Pháp như thế nào. Ta sẽ đột nhập nhiều nơi và nhìn thấy mọi thứ.
Chúng ta là những người dân nghèo xứ Picard bị bão tố
thảy lên bờ. Khỏi phải nói rằng chúng ta sẽ bán cá rành rẽ không thua gì ngư
dân thật sự. Chỉ một điều là khi mà người ta đoán ra chúng ta là ai và làm
chúng ta lo ngại, thì lúc đó chúng ta lập tức sẵn sàng ứng chiến để tự vệ. Đó
là lý do tại sao tôi đã chọn các ông, những người nhạy bén và can đảm, chúng ta
sẽ sống bình thường và không lo nguy hiểm gì lắm, vì rằng đằng sau chúng ta là
một vị đỡ đầu có thế lực nhờ đó mà chúng ta không sợ bị rắc rối. Tôi chỉ không
bằng lòng có một điều, nhưng tôi mong rằng sau một lời giải thích ngắn ngủi,
các ông sẽ gỡ rối cho tôi. Cái điều làm tôi phật lòng đó là đã mang theo một
đoàn ngư dân ngu ngốc. Một đoàn người như vậy sẽ gây khó khăn khá lớn cho chúng
ta. Trừ phi, ngẫu nhiên ở đây có ai đã từng thấy mặt biển ra sao.
- Ồ! Cái đó không hề chi! - Một tay lính mộ la lên. - Tôi
đây đã từng là tù binh của bọn hải tặc ở Tunis trong ba năm và tôi biết cách
lái tàu như một đô đốc vậy.
- Đấy, thấy chưa? - D Artagnan nói, - sự ngẫu nhiên thật
là tuyệt diệu?
D Artagnan thốt lên với một giọng hiền khô vì ông thừa
biết rằng cái tên nạn nhân của hải tặc này là một tên cướp biển cũ và ông đã
thuê hắn ta chỉ vì biết rõ gốc gác đó. Nhưng d Artagnan chẳng nói gì hơn điều
cần phải nói để người ta khỏi nghi ngờ. Ông không cần giải thích và tiếp nhận
kết quả mà không tỏ vẻ bận tâm gì về lý do. Một người thứ hai nói:
- Còn tôi, tôi may mắn có một người chú điều hành quảng
trường ở bến cảng La Rocchelle. Từ thuở nhỏ tôi dã đùa bỡn với thuyền bè rồi. Chèo
và căng buồm thì tôi dám cá ăn thua với bất cứ tay thủy thủ lành nghề nào.
Tên này nói dóc cũng chẳng kém gì tên trước, hắn đã sống
kiếp tù khổ sai trên chiến thuyền của Đức vua trong sáu năm ở La Ciolat.
Hai người kế tiếp thì thành thật hơn. Họ thú nhận ngay
rằng họ đã phục vụ trên một chiến thuyền như những tù khổ sai, họ không thấy
phải xấu hổ về điều đó, d Artagnan thấy rằng mình giờ đây là chủ tướng của mười
chiến binh và bốn thuỷ thủ, cả bộ lẫn thuỷ, đó là điều chắc sẽ đưa Planchet lên
tận mây xanh nếu như Planchet biết được chi tiết này.
Bây giờ thì không còn là lệnh chung nữa mà rành rẽ, cụ
thể hơn. Ông bảo họ chuẩn bị sẵn sàng lên đường đi La Have, một số theo đường
biển đến Breskens, còn số kia đi bằng đường bộ tới Anvers.
Tính theo đường bộ thì ngày giờ hẹn là mười lăm ngày sau
đó, nơi quảng trường chính của La Haye.
D Artagnan dặn họ phải thi hành từng cặp, từng cặp hai
người. Riêng ông, ông chọn từ những gương mặt ít gớm ghiếc nhất lấy ra hai
người ông đã quen biết trước kia, hai người này chỉ có cái tội cờ bạc và nhậu. Họ
tuy vậy cũng không đến nỗi mất cả tư cách, và dưới lớp áo sạch sẽ, trái tim của
họ sẽ bắt đầu đập đều lại d Artagnan cho đám người kia đi trước để tránh gây đố
kị.
D Artagnan tỏ vẻ tuyệt đối tôn trọng lòng tin cẩn đối với
hai người này, nên tiết lộ một sự bí mật giả để bảo đảm cho sự thành công của
chuyến viễn hành. Ông thú nhận với họ rằng thực ra không phải là để tìm hiểu
xem bọn buôn bán lậu Anh làm thiệt hại như thế nào cho giới thương mại Pháp mà
trái lại xem bọn buôn lậu Pháp làm thiệt hại thế nào cho giới thương mại Anh. Hai
người này có vẻ bị thuyết phục thật sự.
D Artagnan tin chắc rằng khi gặp độ ăn nhậu đầu tiên và
lúc họ đã say bí tỉ rồi thì một trong hai người sẽ tiết lộ điều bí mật cốt yếu
này ra cho cả bọn tiết. Trò đùa này có vẻ rất hiệu nghiệm.
Mười lăm ngày sau những gì chúng ta đã thấy diễn ra ở
Calais cả đội quân đều tập trung lại La Haye.
D Artagnan nhận ngay ra rằng cả đám thuộc hạ khá thông
minh của ông đã cải trang thành những thuỷ thủ ít nhiều cũng có dáng xơ xác vì
biển cả.
D Artagnan để họ nghỉ ngơi trong một căn phòng tồi tàn ở
Newkerkestret còn ông thì trú nơi sạch sẽ đứng đắn hơn ở mạn kênh lớn.
D Artagnan hay tin ông hoàng nước Anh đã trở về Hòa Lan
với đồng minh Guillaume. Ông cũng biết thêm rằng việc Louis XIV từ chối giúp đỡ
khiến Charles II cũng không được bảo trợ đúng mức nữa nên phải ru rú trong một
ngôi nhà nhỏ trong làng Scheveningen, giữa vùng đụn cát bên bờ biển, cách La
Haye khoảng một dặm.
Con người bị lưu đày khốn khổ kia tự an ủi bằng cách nhìn
về biển Bắc mênh mông, nơi đã chia cách ông với nước Anh của ông, cũng như xưa
kia nó đã từng chia cách Marie Stuart với nước Pháp khiến cho nỗi buồn của ông
đã trở thành truyền thống đặc biệt trong dòng họ ông. Ở đó, đằng sau các thân
cây trong cánh rừng Scheveningen xinh đẹp, trên mặt các đụn cát mịn màng có
những cây thạch thảo chói vàng ánh nắng, Charles II cũng sống vật vờ như chúng,
vì ông luôn luôn hy vọng rồi lại bị thất vọng. Có một lần d Artagnan đến tận
Scheveningen để biết chắc chắn những gì người ta nói về ông hoàng đó. Ông thấy
đúng là Charles II trở nên trầm mặc và thường đi ra ngoài một mình qua cánh cửa
nhỏ thông ra rừng rồi đi bách bộ dọc theo bờ biển dưới ánh nắng chiều mà không
gây nên sự chú ý nào của đám ngư dân vừa đánh cá về đây kéo xuồng lên bãi cát
như những thuỷ thủ xưa kia ở vùng quần đảo.
D Artagnan nhận ra Charles II. Ông thấy ngài đưa ánh mắt
buồn bã nhìn đăm đăm trên mặt nước bao la và gương mặt tái nhợt của ngài chìm
đắm trong ánh chiều tà vốn đỏ rực bã nhợt nhạt nơi chân trời sẩm tối. Sau đó,
Charles II trở về căn nhà cô quạnh, vẫn đơn độc vẫn lừ đừ và buồn thảm, chỉ có
niềm vui được nghe tiếng cát mềm chuồi dưới bước chân.
Ngay đêm đó, d Artagnan thuê một chiếc thuyền đánh cá với
giá mười ngàn louis mặc dù đúng ra giá chỉ khoảng bốn ngàn.
Mười ngàn louis đó ông trả bằng tiền mặt và ông ký gởi ba
ngàn louis nữa cho ông xã trường. Xong đâu đấy, ông xuống thuyền trong đêm tối
mịt mùng cùng với sáu người của toán quân bộ và vào ba giờ sáng - lúc thủy
triều lên, ông đã ra khơi, vững tin vào khả năng của người lái nguyên là tù khổ
sai trên chiến thuyền cũng như trước đó đã an tâm với người thuỷ thủ đầu tiên
gặp trên bến cảng.
Chú thích:
(1)Lời của
thi sĩ Virgile gán cho thần Neptune tức giận nói ra khi bị gió thổi làm khó
chịu, có ý nghĩa đe doạ của một số người có quyền lực
Thư mục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét