Chương 10
- Ta nghỉ đi - Pilar bảo Robert Jordan - Ngồi xuống đây đi Maria,
ta nghỉ một chút.
- Chúng ta nên tiếp tục - Robert Jordan nói - Tới trên kia rồi
nghỉ. Tôi phải gặp người đó.
- Thế nào rồi đây đồng chí cũng gặp ông ta - Người đàn bà nói - Tôi
không vội gì. Ngồi xuống đây đi Maria.
- Thôi đi mà - Robert Jordan nói - Tới đỉnh rồi nghỉ.
- Tôi nghỉ ở đây. - Người đàn bà nói và ngồi xuống bên bờ suối.
Người con gái ngồi bên cạnh bà ta, trên đám hoa thạch thảo. Mặt trời chiếu lấp
lánh trên tóc nàng. Chỉ có Robert Jordan là đứng đó nhìn qua bãi cỏ trên núi
cao nơi có ngọn suối chảy qua. Có những cành hoa thạch thảo mọc ở chỗ chàng
đứng. Có những tảng đá màu xám nhô lên khỏi đám dương xỉ màu vàng thay cho
những khóm hoa thạch thảo ở những chỗ thấp hơn trên bãi cỏ và tận phía dưới là
rặng thông màu tối sẫm.
- Còn bao xa nữa thì tới chỗ của El Sordo? - Chàng hỏi.
- Không xa - Người đàn bà nói - Ngang qua khoảng đồng trống này
dưới thung lũng, phía trên đám cây ở đầu nguồn suối. Đồng chí cứ ngồi xuống đây
và bỏ cái vẻ quan trọng của đồng chí đi coi.
- Tôi muốn gặp ông ấy và tính cho xong việc.
- Tôi thì muốn rửa chân - Người đàn bà nói và cởi đôi giày vầi,
tuột đôi vớ len dày, bà ta cho chân mặt xuống giòng suối - Trời ơi! Lạnh!
- Lẽ ra mình nên đi bằng ngựa. - Robert Jordan bảo.
- Với tôi, thế này mà hay - Người đàn bà nói - Đây mới chính là
điều mà tôi cần. Đồng chí sao đó?
- Không sao cả. Có điều tôi rất gấp.
- À, vậy thì bình tĩnh đi. Còn chán thì giờ. Thật là một ngày tốt
dẹp và tôi quá vui thích khi không còn phải ở trong rừng thông. Đồng chí không
thể tưởng tượng được người ta chán ngán những cây thông đến bực nào rồi. Em
không chán những cây thông chứ, guapa?
- Thích lắm chớ. - Người con gái đáp.
- Em thích cái gì của chúng đây?
- Em thích mùi hương của chúng và cái cảm giác khi bắt gặp những lá
thông dưới chân mình. Em thích gió trên cây cao và tiếng kêu răng rắc khi những
cành cây cọ vào nhau.
- Cái gì em cũng thích - Pilar nói - Em sẽ là một món quà quý cho
bất cứ một người đàn ông nào nếu em có thể nấu ăn khá hơn. Nhưng rừng thông thì
thật buồn chán. Em chưa bao giờ biết một khu rừng cây dẻ gai, cây sồi, cây lật.
Đó mới là rừng. Trong những cánh rừng như vậy, mỗi cây mỗi khác, nó có bản sắc
và vẻ đẹp riêng của nó. Một cánh rừng thông là cả một sự buồn chán. Thế nào,
Inglés?
- Tôi cũng thích những cây thông.
- Pero, venga 1, cả hai người đều thích cả. Tôi cũng từng thích
những cây thông. Nhưng chúng tôi đã ở quá lâu giữa những cây thông này. Tôi
cũng đã chán những ngọn núi. Trên núi chỉ có hai hướng đi. Đi xuống và đi lên,
nhưng khi đi xuống người ta lại gặp đường cái và những thành phố của bọn phát
xít.
- Có bao giờ đồng chí đến Ségovie không?
- Qué va, với bộ mặt này à? Bộ mặt này thì đã chán người biết. Nếu
em là một cô gái xấu xí thì em sẽ nghĩ sao đây hở người đẹp? - Bà ta hỏi Maria.
- Chị đâu có xấu!
- Vamos, tôi không xấu à? Tôi sinh ra đã xấu xí rồi. Cả đời tôi,
tôi đã xấu xí. Còn đồng chí, Inglés người chẳng biết gì về đàn bà, đồng chí có
biết một người đàn bà xấu có cảm nghĩ như thế nào không? Đồng chí có biết xấu
cả đời mà bên trong vẫn thấy mình đẹp là sao không? Rất là kỳ cục. - Bà ta đặt
bàn chân kia xuống suối rồi rút lên - Trời, lạnh quá! Kìa, trông con chim chìa
vôi kìa - Bà ta nói và chỉ con chim màu xám đang bay từ hòn đá này sang hòn đá
nọ ngược theo giòng nước - Chẳng ích lợi gì. Không hót cũng không ăn. Chỉ lúc
lắc cái đuôi lên xuống. Cho tôi điếu thuốc, Inglés. - Bà ta lấy điếu thuốc,
châm lửa bằng chiếc hộp quẹt bò trong túi áo bờ-lu. Bà ta bập bập điếu thuốc,
nhìn Maria và Robert Jordan.
- Chuyện đời nghĩ cũng lạ thật - Bà ta nói và thở khói ra đằng mũi
- Lẽ ra tôi có thể là một người đàn ông tốt. Nhưng tôi lại là một người đàn bà
và tôi xấu xí. Tuy nhiên nhiều người đàn ông đã yêu tôi và tôi đã yêu nhiều
người. Lạ thật. Này Inglés, ông nghe đây, điều này thật lý thú. Hãy nhìn tôi,
xấu như tôi đây. Hãy nhìn cho gần, Inglés ạ.
- Đồng chí không xấu đâu!
- Qué no? 2 Đừng dối tôi - Bà cười ngất - Hay là cái đó bắt đầu có
tác dụng đối với ông rồi? Không. Nói đùa thôi. Không. Hãy nhìn vào cái vẻ xấu
xí này. Tuy nhiên người ta vẫn có được thứ tình cảm nó làm người đàn ông mù
quáng trong tình yêu. Với thứ tình cảm người ta làm hắn mù quáng và làm chính
mình mù quáng. Rồi một ngày, chẳng bởi một lý do nào, hắn nhìn thấy quả thật ta
xấu xí và hắn không còn mù quáng nữa và rồi ta nhận ra ta xấu xí như chính hắn
thấy, rồi ta mất người đàn ông, mất cả thứ tình cảm đó. Cô hiểu không cô bé? -
Bà vỗ vai người con gái.
- Không - Maria nói - Vì chị không xấu.
- Em đừng để tình cảm lấn át lý trí và hãy nghe đây - Pilar nói -
Tôi đang kể những điều rất lý thú. Nó có làm ông thích thú không Inglés?
- Có, nhưng chúng ta nên đi.
- Qué va, đi à? Ở đây tôi thấy thoải mái lắm. - Và rồi, bà ta lại
tiếp tục thuyết cho Robert Jordan nghe như thể đang nói trước một lớp học, gần
giống như đang giảng bài - Sau một thời gian, cái thứ cảm tưởng xuẩn ngốc rằng
mình đẹp lại bắt đầu lớn mạnh trở lại. Nó lớn lên như bắp cải. Và rồi khi cái
cảm tưởng đó trở lại, một người đàn ông khác gặp ta và cho ta đẹp. Tất cả tái
diễn lại. Bây giờ thì tôi cho là tôi đã qua cái thời ấy, nhưng nó cũng có thể
còn trở lại. Em có được cái may mắn, là không xấu, guapa ạ!
- Em xấu chớ. - Maria cả quyết.
- Hỏi ổng đi - Pilar nói - Đừng thọc chân xuống nước, bị lạnh cóng
bây giờ.
- Nếu Robert Jordan bảo chúng ta phải đi, em nghĩ là chúng ta nên
đi đi. - Maria nói.
- Nghe đây - Pilar nói - Chuyện này can hệ tới chị cũng như tới
Roberto. Nhưng chị bảo là hãy ở đây nghỉ cho khỏe. Và chúng ta còn chán thì
giờ. Hơn nữa chị muốn được nói. Đó là điều văn minh duy nhứt chúng ta có được.
Không thì biết làm sao cho khuây khỏa đây! Những chuyện tôi nói không có gì lý
thú đối với ông sao, Inglés?
- Đồng chí nói hay lắm. Nhưng còn nhiều chuyện khác làm tôi bận tâm
hơn là chuyện đẹp hay không đẹp.
- Vậy thì nói đến chuyện gì mà đồng chí thích thú đi.
- Lúc chiến tranh bộc phát thì đồng chí ở đâu?
- Tại thành phố của tôi.
- Avila?
- Qué va. Avila à?
- Pablo nói quê đồng chí ấy cũng tại Avila.
- Ông ta nói dối. Ông ta muốn nhận một thành phố lớn làm quê mình.
Thành phố của ông ta là... - Và bà ta nói tên một thành phố.
- Và cái gì đã xảy ra?
- Nhiều lắm - Người đàn bà nói - Nhiều lắm. Và toàn những chuyện
xấu xa. Ngay cả điều hiển hách cũng thế.
- Kể cho tôi nghe về chuyện đó đi. - Robert Jordan nói.
- Hung bạo lắm - Người đàn bà nói - Tôi không muốn kể trước mặt cô
bé.
- Cứ kể đi - Robert Jordan nói - Và nếu không phải là chuyện của cô
ấy thì cô ấy đừng nghe.
- Tôi nghe được chớ. - Maria nói. Nàng đặt bàn tay vào lòng bàn tay
của Robert Jordan - Không có chuyện gì là em không thể nghe được.
- Không phải là em có thể hay không có thể nghe, vấn đề là chị có
nên kể cho em nghe để tạo cho em những cơn ác mộng không?
- Em không khi nào có những cơn ác mộng vì một câu chuyện - Maria
nói - Sau những gì đã xảy ra cho chúng ta, chị còn nghĩ là em sẽ có những cơn
ác mộng vì một câu chuyện sao?
- Có thể nó sẽ gây cho Inglés những cơn ác mộng.
- Thử đi rồi sẽ thấy.
- Không, Inglés ạ. Tôi không đùa đâu. Đồng chí có trông thấy phong
trào nổi dậy tại một thành phố nhỏ nào không?
- Không. - Robert Jordan đáp.
- Vậy là đồng chí chưa thấy gì hết. Đồng chí đã thấy Pablo bây giờ
thảm hại ra sao. Nhưng đồng chí phải gặp được Pablo trong những ngày ấy.
- Kể nghe đi.
- Thôi. Tôi không muốn kể.
- Kể nghe.
- Thôi được. Tôi sẽ kể. Có sao tôi kể vậy. Nhưng cô bé, nếu tới chỗ
làm cho cô không chịu đựng nổi thì cho tôi biết nghen!
- Em sẽ không nghe nữa nếu thấy hết chịu được - Maria bảo - Chắc nó
không thể khủng khiếp hơn nhiều chuyện đã xảy ra đâu.
- Có thể lắm chớ - Người đàn bà nói - Cho xin một điếu thuốc nữa
chiến hữu Inglés, và vamonos 3.
Người con gái tựa lưng lên bờ dốc và Robert Jordan nằm dài ra vai
chạm mặt đất, đầu tựa lên một cây thạch thảo. Bàn tay chàng gặp bàn tay Maria,
chàng nắm lấy cọ vào những cành thạch thảo đến khi Maria xòe tay ra đặt hẳn lên
bàn tay chàng trong khi họ vẫn lắng nghe.
- Lúc bọn civiles trong trại đầu hàng thì trời vừa mới sáng. -
Pilar bắt đầu.
- Đồng chí đã tấn công trại lính? - Robert Jordan hỏi.
- Pablo đã bao vây doanh trại trong đêm, hắn đã cắt đứt các đường
dây điện thoại, đặt chất nổ dưới một bức tường và kêu bọn guardia civil đầu
hàng. Chúng nó không đầu hàng. Và lúc tảng sáng hắn cho nổ tung bức tường. Súng
nổ. Hai tên trong bọn chúng bị hạ. Bốn bị thương và bốn đầu hàng.
Tất cả chúng tôi nằm trên mái nhà, dưới đất và dưới chân tường của
các tòa nhà trong ánh nắng của buổi sáng, đám bụi do vụ nổ chưa tan vì chúng
bốc lên cao trên không và không có một cơn gió nào đến mang đi. Tất cả chúng
tôi nhả đạn về phía tòa nhà bị phá vỡ, chúng tôi nạp đạn và bắn tưới xượi vào
đám khói và trong ấy còn lóe lên mấy phát súng trường. Rồi từ trong đám khói có
tiếng kêu thôi bắn, và bốn tên civiles đi ra, tay giơ lên cao. Một khoảng lớn
của mái nhà bị đổ xuống và tường cũng đã bay mất.
Bọn chúng bước ra đầu hàng.
- Còn ai bên trong nữa không? - Pablo thét lên.
- Còn những người bị thương.
- Giữ mấy tên này lại - Pablo nói với bốn người trong bọn tôi vừa
ra khỏi chỗ đứng núp để bắn - Đứng đó, sát vào tường - Hắn ra lịnh cho bọn civiles. Bốn tên civiles đứng sát vào tường,
mình mẩy bẩn thỉu dính đầy bụi và khói với bốn người chĩa súng đứng canh, Pablo
và mấy người khác vào trong thanh toán mấy tên bị thương. Sau khi họ thanh toán
xong, không còn nghe tiếng của mấy tên bị thương nữa, tiếng rên tiếng la cũng
không còn, tiếng súng bên trong trại cũng không. Pablo và mấy người kia đi ra,
Pablo đeo súng trên vai, tay cầm một khẩu Mauser.
- Xem đây Pilar - Hắn nói - Cái này nằm trong tay của một tên sĩ
quan đã tự sát. Tôi chưa bao giờ bắn súng lục. Ê mày, - Hắn nói với một trong
bốn civiles - chỉ tao cách bắn coi.
Không, đừng chỉ, cắt nghĩa tao nghe đi.
Bốn tên civiles nãy giờ đứng sát vào tường, mồ hôi như tắm và không
nói một lời khi nghe những phát súng nổ trong doanh trại. Tất cả đều cao lớn,
gương mặt chúng rõ là mặt bọn civiles, giống như bộ mặt của tôi hôm nay đây,
chỉ khác ở chỗ mặt họ đầy những gốc râu của buổi sáng cuối cùng chưa kịp cạo,
và chúng đứng đó, lặng thinh.
- Mày - Pablo nói với tên đứng gần hắn nhứt - Làm sao bắn hở mày?
- Kéo cái cần nhỏ xuống - Tên đàn ông nói bằng một giọng nhợt nhạt
- Kéo cơ bẩm ra sau và buông cho nó chạy về phía trước.
- Cơ bẩm là cái gì?
- Bộ phận phía trên.
Pablo kéo nó ra, nhưng kẹt.
- Làm sao bây giờ? - Hắn hỏi - Kẹt rồi. Mày gạt tao.
- Kéo ra sau thêm hơn nữa rồi để nó từ từ đóng lại phía trước. -
Tên kia nói. Tôi chưa bao giờ nghe được một giọng như vậy. Nó buồn bã còn hơn
một buổi sáng không ánh mặt trời.
Pablo kéo và buông ra theo như lời người đàn ông kia chỉ và khối cơ
bẩm chạy về phía trước đúng vào vị trí và khẩu súng lục đã lên đạn, chó lửa nằm
ra phía sau. Một khẩu súng lục xấu xí, bá súng nhỏ tròn, nhưng nòng dẹp và to,
khó sử dụng. Suốt khoảng thời gian đó bọn civiles đứng im nhìn Pablo không nói
một lời.
- Ông sắp sửa làm gì chúng tôi đây? - Một người hỏi hắn.
- Bắn tụi bây. - Pablo nói.
- Chừng nào? - Người đàn ông hỏi bằng một giọng buồn bã âm u.
- Bây giờ. - Pablo đáp.
- Ở đâu? - Người đàn ông hỏi.
- Tại đây - Pablo nói - Tại đây. Bây giờ. Tại đây và bây giờ. Mày
còn gì để nói không?
- Nada - Tên kia nói - Không có gì nói hết. Nhưng thật là một điều
kinh tởm.
- Nhưng chính mày cũng đáng kinh tởm vậy. - Pablo nói - Mày, kẻ tàn
sát đồng bào nông dân. Không chừng mày cũng đã giết mẹ mày nữa.
- Tôi chưa hề giết một ai - Tên kia nói - Và xin đừng nói động tới
mẹ tôi.
- Nói tao biết người ta chết ra sao đi! Thằng kia, kẻ chẳng biết gì
ngoài việc giết người.
- Đừng nhục mạ chúng tôi vô ích - Một tên khác nói - Chúng tôi biết
cách chết mà.
- Quỳ gối xuống coi! Đầu kê sát vào tường! - Pablo ra lệnh. Bọn
chúng nhìn nhau.
- Tao bảo quỳ xuống - Pablo nói - Quỳ xuống đất.
- Thấy thế nào Paco? - Một tên civil nói với tên cao nhất, người đã
chỉ cho Pablo về cách dùng súng lục. Gã đeo cấp bậc trung sĩ trên hai tay áo,
mồ hôi ướt đẫm mặc dù buổi sáng hãy còn lạnh.
- Quỳ xuống đi cho xong - Gã đáp - Không có gì quan trọng.
- Thế này gần với đất hơn - Tên lên tiếng đầu tiên nói, cố pha trò.
Nhưng tất cả đều quá nghiêm trọng cho một câu pha trò. Và không ai hé được một
nụ cười.
- Mình quỳ gối xuống đi - Tên thứ nhất nói và cả bốn người quỳ
xuống vụng về, lúng túng vô cùng, chúng kê đầu sát vào tường, hai tay buông
xuôi. Pablo đi qua phía sau chúng và dùng khẩu súng lục bắn từng tên một, đi từ
tên này đến tên khác dí nòng súng vào đầu, từng tên ngã xuống khi hắn bắn. Tôi
còn có thể nghe tiếng súng lục chát chúa nhưng có vẻ như tắt nghẹn, tôi trông
thấy nòng súng nẩy ngược và chiếc đầu gục về phía trước. Người thì giữ đầu
ngẩng thẳng khi mũi súng chạm vào. Người thì đưa đầu về trước, trán gục vào
tường đá. Người thì toàn thân run lên và đầu lắc lư. Chỉ có một người đưa hai
tay lên che mắt và hắn là tên chót. Bốn xác chết đã rũ vào chân tường khi Pablo
quay lại phía chúng tôi với khẩu súng lục còn cầm trong tay.
- Giữ cái này cho anh, Pilar. - Hắn nói - Anh không biết làm sao
kéo cò xuống. - Hắn đưa tôi khẩu súng lục và đứng đó nhìn bốn tên civiles nằm
sát bờ tường của doanh trại. Tất cả những người đi theo chúng tôi cũng đứng đó,
đưa mắt nhìn, và không ai nói một lời nào.
Chúng tôi đã chiếm được thành phố, lúc bấy giờ hãy còn sớm, chưa ai
ăn sáng hoặc uống cà phê và chúng tôi nhìn nhau, người đầy bụi bặm do vụ nổ
doanh trại, trông như mấy người đập lúa. Tôi đứng cầm khẩu súng lục nặng nề
trong tay, tôi nghe nôn nao trong bụng khi nhìn mấy tên civiles chết bên bờ
tường, tất cả bọn chúng cũng đầy bụi bặm như chúng tôi, những xác chết vấy máu
trên đất khô nơi chân tường. Và lúc chúng tôi còn đứng đó, mặt trời đã lên cao
trên những ngọn đồi ngoài xa, chiếu xuống con đường nơi chúng tôi đang đứng,
chiếu xuống những bức tường màu trắng của doanh trại, và đám bụi trong không
khí chuyển sang màu vàng óng ả dưới những tia nắng đầu tiên. Người nông phu
đứng gần bên tôi nhìn bức tường, nhìn doanh trại và nhìn những xác người nằm
đàng kia rồi lại nhìn chúng tôi, nhìn mặt trời, đoạn cất tiếng :
- Vaya, một ngày bắt đầu.
- Bây giờ đi uống cà phê đi. - Tôi nói.
- Được rồi, Pilar, được rồi. - Hắn nói. Và chúng tôi kéo lên chợ,
đến tận plaza 4. Đó là những người sau
cùng bị bắn trong làng.
- Còn những tên khác thì sao? - Robert Jordan hỏi - Trong làng
không còn tên Phát xít nào nữa sao?
- Qué va, không còn ai là phát xít nữa à? Còn hơn hai chục. Nhưng
không ai bị bắn.
- Người ta làm thế nào?
- Pablo cho đập chết chúng bằng những cây đòn gánh rồi vứt xác từ
trên đồi cao xuống sông.
- Cả hai chục mạng như vậy hả?
- Tôi sẽ kể cho đồng chí nghe. Không phải đơn giản vậy đâu. Và
trong đời tôi không bao giờ tôi dám ước là có thể trông thấy cảnh dùng đòn gánh
đập chết người tại plaza nơi ngọn đồi trên dòng sông.
Thành phố xây trên một bờ sông cao, nơi đó có một công viên với một
hồ nước và những chiếc ghế dài, có những cây to rũ bóng. Các bao lơn đều nhìn
ra plaza. Sáu con đường tỏa ra từ plaza
và trừ một phía, chung quanh đều là nhà có cửa tò vò. Người ta có thể đi bộ
dưới bóng mát những cánh cửa tò vò khi trời nắng. Phía còn lại lối đi được che
mát bởi những tàng cây bên bờ đá mà tận phía dưới là dòng sông. Dòng sông nằm
dưới sâu ba trăm bộ.
Pablo tổ chức tất cả, như đã tổ chức cuộc tấn công trại lính. Trước
tiên các đầu đường đều bị phong tỏa bằng xe bò như để chuẩn bị cho một capea.
Một cuộc đấu bò tài tử. Tất cả những tên Phát xít đều bị giữ trong tòa Ayuntamiento, tòa thị sảnh, tòa nhà lớn nhất
nằm một bên plaza. Tại đây có chiếc đồng hồ gắn trên tường, và chính tòa nhà
dưới những ô cửa tò vò đó đã làm câu lạc bộ của bọn phát xít. Dưới những cửa tò
vò, ngay trên lối đi trước câu lạc bộ, chúng bày ra những chiếc bàn, những
chiếc ghế dựa. Chính nơi đây, trước khi phong trào bùng lên, bọn chúng có thói
quen đến dùng rượu khai vị. Bàn ghế làm bằng mây. Trông giống như một quán cà
phê nhưng lịch sự hơn.
- Nhưng các chiến hữu đã bắt giữ được bọn chúng mà không cần đến
một trận đánh phải không?
- Pablo đã bắt chúng trong đêm trước cuộc tấn công doanh trại.
Nhưng hắn đã bao vây doanh trại trước rồi. Bọn chúng tất cả đều bị bắt tại nhà
vào lúc doanh trại bắt đầu bị tấn công. Thật là tinh ma. Pablo đúng là một tay
tổ chức. Nếu không thì hắn đã bị đánh mạnh vào cạnh sườn và phía sau trong lúc
hắn tấn công doanh trại của bọn guardia civil.
Pablo rất thông minh nhưng rất tàn bạo. Hắn đã tổ chức và ra lệnh
rất kỹ về cuộc tấn công trong thành phố. Sau khi cuộc tấn công thành công, bốn
tên dân vệ đã đầu hàng và bị hắn bắn chết dưới chân tường, và sau khi uống cà
phê tại một chiếc quán luôn luôn mở cửa sớm nhất vào buổi sáng tại góc đường,
nơi chiếc xe buýt sớm rời bến, Pablo bắt đầu tiến hành theo kế hoạch. Các xe bò
được chất đống y như để chuẩn bị cho một cuộc capea, ngoại trừ phía bờ sông thì
không được vây kín. Nó được để trống. Kế đó, Pablo ra lịnh cho vị linh mục làm
lễ xưng tội và các phép thánh cần thiết cho mấy tên phát xít.
- Làm ở đâu?
- Trong tòa Ayuntamiento, như tôi đã nói. Bên ngoài người ta đông
nghẹt và trong khi công việc này được tiến hành bên trong với vị linh mục thì
bên ngoài có tiếng la ó, chửi tục, nhưng phần đông rất nghiêm chỉnh và đầy vẻ
kính cẩn. Những người pha trò là những người đã say vì uống mừng việc chiếm
được doanh trại, và những phần tử vô dụng mà bất cứ lúc nào cũng có thể say
được.
Trong lúc vị linh mục đang làm phận sự bên trong thì Pablo tập hợp
những người ngoài plaza lại thành hai hàng.
Hắn xếp người ta thành hai hàng như thể người ta xếp hàng để thi
kéo dây, hay đứng trong một thành phố để xem đua xe đạp lúc gần tới mức ăn
thua, chỉ chừa đủ chỗ cho các tay đua chạy qua, hoặc đứng xem một đám rước. Hai
hàng cách nhau hai mét và kéo dài từ của tòa Ayuntamiento chạy qua suốt quảng
trường tới tận bờ đá dốc, như vậy từ cửa tòa nhà nhìn ra quảng trường, một
người đang bước ra sẽ thấy hai hàng người đang chờ đợi.
Họ võ trang bằng những cây đòn gánh như những lúc họ đập lúa và
đứng xa nhau đúng một tầm đòn. Không phải ai cũng có đòn gánh, vì lẽ tìm không
đủ. Nhưng hầu hết đều cầm đòn gánh lấy từ trong kho của Don Guillermo Martin,
lão là tên Phát xít bán đủ loại nông cụ. Những ai không có đòn gánh thì cầm gậy
lùa bò. Có người đùng chĩa, những cái chĩa răng bằng gỗ dùng để tung lúa lép và
rơm lên sau khi dập lúa xong. Có người cầm lưỡi liềm phát cỏ và lưỡi hái cắt
lúa, nhưng những người này thì Pablo đặt đứng tuốt đằng cuối nơi hai hàng người
bên vách đá.
Những hàng người im lặng, hôm đó trời trong, trong như hôm nay, và
có những đám mây tận trên cao, như bây giờ đây, plaza chưa phủ bụi vì đêm qua
có sương nhiều, những cây cao đổ bóng lên những người đang đứng trong hàng và
người ta có thể nghe được tiếng nước chảy qua ống đồng trong miệng con sư tử đổ
vào hồ nước, nơi mà những người đàn bà vẫn hay mang thùng đến lấy nước.
Chỉ ở gần tòa Ayuntamiento, nơi vị linh mục đang làm lễ với mấy tên
Phát xít mới có tiếng ồn ào thô lỗ của mấy tên vô tích sự đã say mèm, bọn chúng
bu quanh cửa sổ, chõ mỏ qua song cửa, la ó tục tằn và pha trò bằng những câu vô
duyên. Hầu hết những người đứng trong hàng đang im lặng, chờ đợi và tôi nghe có
một người hỏi một người khác. Có đàn bà không? Và một người khác trả lời, lạy
Chúa đừng có. Rồi một người khác nói, vợ Pablo đây rồi. Chị Pilar này! Có đàn
bà không?
Tôi nhìn hắn, đó là một gã nông dân mặc áo vét ngày Chúa nhựt, mồ
hôi nhễ nhại, và tôi nói, không, Joaquin. Không có đàn bà. Chúng ta không giết
những người đàn bà. Tại sao lại phải giết vợ, mẹ và con gái của họ. Đoạn hắn
nói: Cám ơn Chúa, không có đàn bà! Và chừng nào khởi sự đây?
Tôi nói, ngay khi vị linh mục chấm dứt buổi lễ.
- Còn vị linh mục thì sao?
- Tôi không biết. - Tôi thấy mặt hắn run run và mồ hôi hắn chảy
trên trán - Tôi chưa bao giờ giết người. - Hắn nói.
- Rồi anh sẽ học - Người nông dân đứng kế hắn nói - Nhưng tôi không
tin là đập bằng cái này là giết được một người. - Rồi anh ta cầm cây đòn gánh
bằng hai tay và nhìn nó với vẻ nghi ngờ.
- Hay là ở chỗ đó - Một người nông dân khác nói - Phải đập nhiều
cái.
- Chúng đã chiếm Valladolid. Chúng đã kiểm soát Avila - Có người
nói - Tôi đã nghe chuyện đó trước khi chúng ta vào thành phố.
- Chúng sẽ không bao giờ chiếm được thành phố này. Thành phố này là
của chúng ta. Chúng ta đã đánh trước chúng - Tôi nói - Pablo không đợi chúng
đánh trước.
- Pablo có đủ sức - Một người khác nói - Nhưng trong cái vụ thanh
toán mấy tên civiles kia, ông ấy thật ích kỷ. Chiến hữu có nghĩ thế không
Pilar?
- Có - Tôi nói - Nhưng bây giờ thì tất cả đã tham dự vào công cuộc
này.
- Ừ - Hắn nói - Tổ chức chu đáo thật. Nhưng sao chúng ta không nghe
tin tức gì thêm về phong trào?
- Pablo đã cắt đứt mấy đường dây điện thoại trước khi tấn công vào
doanh trại. Bây giờ vẫn chưa sửa chữa lại.
- À - Hắn nói - Thì ra vì vậy mà chúng ta chẳng hay biết được gì.
Tôi nghe nhiều tin tức trong radio hồi sáng sớm này.
- Sao cái vụ này phải làm như vầy? - Hắn hỏi tôi.
- Để tiết kiệm đạn - Tôi nói - Và để cho mỗi người đều được chia xẻ
trách nhiệm.
- Vậy thì bắt đầu đi! Vậy thì bắt đầu đi! - Tôi nhìn hắn và thấy
hắn khóc.
- Sao đồng chí lại khóc, Joaquin? - Tôi hỏi hắn - Không phải chuyện
để khóc.
- Tôi không cầm được, Pilar à - Hắn nói - Tôi chưa từng giết ai.
- Nếu đồng chí chưa thấy được một ngày cách mạng tại một thành phố
nhỏ nơi mọi người đều biết nhau cả và lúc nào cũng quá hiểu nhau là chiến hữu
chưa biết gì ráo. Và ngày hôm ấy hầu hết những người đứng trong hai hàng người
chạy qua plaza kia đều mặc quần áo làm việc ngoài đồng, họ đã đến thành phố một
cách vội vàng, nhưng có một vài người không biết phải ăn mặc thế nào cho ngày
đầu của phong trào đã mặc những y phục dành cho ngày Chúa nhựt và ngày lễ, và những
người này thấy những kẻ khác, kể cả những người đã tấn công trại lính, mặc
những bộ đồ cũ nhứt của mình thì đâm ra xấu hổ vì ăn mặc không đúng cách. Nhưng
họ không thích cởi áo vét ra vì sợ mất hoặc bị mấy tên vô tích sự ăn cắp, cho
nên họ cứ đứng đó, mồ hôi nhễ nhại dưới ánh mặt trời và đợi cho việc ấy bắt
đầu.
Rồi gió nổi lên và bây giờ thì bụi bặm đã khô ráo trên plaza, người
ta đi, đứng, chà, lết làm tung bụi lên. Một người đàn ông trong chiếc áo ngày
Chúa nhựt màu xanh sậm hét lên. Angua! Angua! Nước! Nước! Người phu quét plaza
với công việc là dùng một vòi nước để tưới lên
plaza mỗi buổi sáng, đến quay vòi nước và bắt đầu dồn bụi từ bìa plaza vào giữa. Rồi hai hàng người lùi ra sau
để lão tưới bụi ở chính giữa plaza, vòi nước quét thành những vòng cung rộng và
nước lóng lánh dưới ánh mặt trời, những người đàn ông chống đòn gánh, hoặc gậy
gộc hoặc chĩa gỗ màu trắng đứng ngắm tia nước quét qua. Và rồi khi plaza đã
được thấm đều nước và bụi bặm đã lắng xuống, những hàng người được tái lập, và
có một người nông dân la lớn: Chừng nào chúng tôi mới có được tên phát xít đầu
tiên? Chừng nào tên thứ nhất chui ra đây?
- Có ngay - Pablo đáp từ cửa tòa Ayuntamiento - Tên thứ nhất sẽ ra
ngay. - Tiếng hắn khàn đi vì mải hò hét trong cuộc tấn công và vì khói trong
trại lính.
- Mắc cái gì mà chần chờ hoài vậy? - Có người hỏi.
- Còn bận với mấy cái tội của chúng. - Pablo nói to.
- Có tới hai mươi tên lận mà. - Một người nói.
- Hai mươi đứa thì có lắm tội để kể.
- Đúng, nhưng tôi nghĩ đây là một kế để câu giờ. Chắc chắn là trước
một tình thế nghiêm trọng như vầy, người ta không thể nhớ hết được tội lỗi của
mình, ngoại trừ cái tội lớn nhất.
- Vậy thì hãy kiên nhẫn đi, vì với hai mươi tên, có thừa những tội
lớn để làm mất một số giờ nào đó.
- Tôi có thừa kiên nhẫn, - Người kia nói - nhưng cũng nên chấm dứt
đi cho bọn chúng và bọn ta được nhờ. Bây giờ là tháng Bảy, và có thiếu gì công
việc. Chúng ta đã gặt lúa xong nhưng chưa đập. Chưa lúc để hội hè.
- Nhưng chính hôm nay ngày hội - Một người khác nói - Ngày Hội Tự
Do và kể từ ngày hôm nay, khi bọn này không còn nữa, thành phố này và đất đai
này là của chúng ta.
- Hôm nay chúng ta đập những tên phát xít - Một người nói - Và tự
do của làng này sẽ bay ra từ thứ rơm trấu kia.
- Ta phải quản lý nó cho tốt để được xứng đáng - Một người khác nói
- Pilar, - Hắn nói với tôi - chừng nào chúng ta mới có một cuộc hội họp để tổ
chức đây?
- Ngay khi xong vụ này - Tôi nói với hắn - Cũng trong tòa
Ayuntamiento này - Lúc đó tôi đang đội một chiếc mũ vành ba múi đánh vẹt ni của
bọn guardia civil để làm trò, tôi kéo
chó lửa của khẩu súng lục xuống giữ nó lại đồng thời kéo cò, có vẻ tự nhiên
lắm; khẩu súng lục cột vào sợi dây quấn ngang thắt lưng, nòng súng dài nhét vào
dây. Giắt súng như vậy xong tôi thấy thích thích và tiếc là đã không lấy bao
súng theo thay vì lấy chiếc nón. Có người bảo tôi. “Pilar à, tôi thấy cô em đội
cái nón đó coi không được. Bây giờ thì chúng ta đã dứt khoát với bọn guardia
civil rồi”.
- Vậy thì - Tôi nói - tôi sẽ lột nó xuống. - Và tôi lột mũ xuống.
- Đưa cho qua - Lão ta bảo - Nên thủ tiêu nó đi.
Và vì chúng tôi đứng ở cuối hàng, nơi có lối đi chạy dọc theo vách
đá cạnh bờ sông, lão cầm chiếc nón và ném nó xuống phía dưới bằng động tác của
người mục đồng ném đá để gom bò. Chiếc nón tung lên xa trong không gian và tôi
thấy nó càng lúc càng nhỏ đi, màu da vẹt ni ánh lên trong bầu không khí trong
sáng, chiếc nón bay lên xoay tròn đáp xuống dòng sông. Nhìn qua quảng trường,
trên các cửa sổ và bao lơn, tôi thấy người ta đông nghẹt và hai hàng người chạy
ngang qua quảng trường đến tận cửa tòa Ayuntamiento, đám đông lúc nhúc bên
ngoài, bu sát vào các cửa sổ của tòa nhà đó, có tiếng ồn ào của nhiều người nói
chuyện và rồi tôi nghe có tiếng reo lên và có người nói: “Tên thứ nhất kia
rồi”. Và đó là Don Benito Garcia, tên thị trưởng. Lão đi ra, đầu trần, bước từ
từ xuống những bực thềm, không việc gì xảy ra. Lão qua khỏi hai người, bốn
người, tám người, mười người, vẫn không việc gì xảy ra và lão bước đi giữa hai
hàng người, đầu ngẩng lên, khuôn mặt xám ngắt, mắt ngó thẳng phía trước, liếc
qua liếc lại hai bên rồi tiếp tục bước đi. Vẫn không việc gì xảy ra.
Trên bao lơn có người hô to: Qué passa, Cobardes? Cái gì vậy, quân
hèn nhát? Và Don Benito vẫn bước đi giữa hai hàng người, vẫn không chuyện gì
xảy ra. Đoạn tôi thấy một người ở cách chỗ tôi đứng ba thước, mặt hắn đanh lại,
hắn cắn môi, hai bàn tay trắng toát nắm chặt lấy cây đòn gánh của hắn. Tôi thấy
hắn nhìn về phía Don Benito, ngó lão đang tiến tới. Vẫn không có chuyện gì xảy
ra. Rồi khi Don Benito đến trước người đàn ông kia, hắn đưa cao cây đòn gánh
lên đến đụng người bên cạnh và giáng xuống một bên đầu của Don Benito một cây,
Don Benito ngó hắn, người đàn ông đập thêm và hét lên: Cho mi đây, đồ carbon.
Cú đánh trúng một bên mặt, Don Benito đưa tay lên ôm mặt. Và họ đập lão đến khi
lão té xuống. Người đàn ông đập lão đầu tiên kêu những người khác giúp sức hắn,
còn hắn thì kéo cổ áo lão, mấy người khác nắm hai tay, mặt lão úp xuống những
lớp bụi trong plaza. Và họ lôi lão xềnh xệch trên lối đi, đến bờ đá và vất lão
xuống sông. Người đàn ông đập lão đầu tiên quỳ xuống bên bờ đá nhìn lão và nói:
Đồ carbon! Đồ carbon! Ồ quân carbon! Hắn là một tá điền của Don Benito và họ
chẳng bao giờ thuận thảo nhau. Trước có chuyện cãi vã về miếng đất bên bờ sông
mà Don Benito đã lấy của hắn để cho một người khác mướn và hắn đã ghét lão từ
lâu. Hắn không trở lại hàng mà ngồi tại mé vách đá nhìn xuống chỗ Don Benito đã
rơi xuống.
Sau Don Benito chẳng có ai bước ra. Plaza bây giờ không một tiếng
động vì tất cả đang chờ đợi xem ai sẽ bước ra. Rồi bỗng một tên say rượu hét to
lên: “Lôi cổ chúng ra! Mau lên! Lôi cổ chúng ra”. Rồi một tên say rượu khác hét
lớn: “Qué salga el toro! Thả bò ra!”.
Đoạn, có người đứng gần mấy cánh cửa sổ của tòa Ayuntamiento thét
lên: “Tụi nó không nhúc nhích. Tụi nó đang cầu nguyện”.
Một tên say rượu khác la to: “Lôi cổ chúng ra. Mau lên, lôi cổ
chúng ra. Giờ cầu nguyện đã hết”. Không ai ra. Nhưng sau đó tôi thấy một người
đàn ông bước ra.
Đó là Don Federico Gonzalez, chủ nhà máy xay và chủ tiệm thực phẩm
súc vật; hắn là một tên phát xít hạng nặng. Lão cao và ốm, tóc chải tém qua một
bên để che cái đầu hói, và lão mặc một chiếc áo ngủ bỏ trong quần. Lão đi chân
đất như lúc bị bắt tại nhà và lão bước đi có Pablo theo sau, nòng súng dí sát
vào lưng lão cho đến khi Federico bước vào giữa hai hàng người. Nhưng khi Pablo
rời lão và trở vào cửa tòa thị chính, Don Federico không thể bước tới được và
đứng đó, mắt lão trợn ngược, hai tay giơ lên như muốn níu lấy bầu trời.
- Lão không có chân để đi. - Có người nói.
- Cái gì đó Don Federico? Không đi nổi à?
Có người lớn tiếng với lão. Nhưng Don Federico vẫn đứng đó, hai tay
giơ lên cao và chỉ có đôi môi mấp máy.
- Đi tới - Pablo từ bực thềm hét lên - Đi!
Don Federico vẫn đứng đó, không nhúc nhích. Một trong mấy tên say
rượu dùng cán đòn gánh thọt vào lưng lão. Don Federico nhảy dựng lên như ngựa
chứng, nhưng rồi vẫn đứng tại chỗ cũ, hai tay đưa lên cao và mắt ngước lên
trời.
Đoạn người nông dân đứng gần tôi nói: “Xấu hổ thật. Tôi chẳng có gì
chống đối lão nhưng cảnh như vầy phải chấm dứt”. Xong gã bước xuống khỏi hàng
và chen tới chỗ Don Federico đứng và nói: “Xin phép cụ” và bổ mạnh một cây vào
người lão.
Lúc bấy giờ Don Federico bỏ tay xuống, ôm lấy đỉnh đầu chỗ hói tóc,
đầu cúp xuống, mấy sợi tóc mịn, dài len qua các kẽ tay, lão chạy nhanh giữa hai
hàng người trong khi những cây đòn đập lúa bổ lên lưng, lên vai cho đến khi lão
ngã xuống và những người đứng ở cuối hàng hốt lão lên và tung lão qua bên kia
mé đá. Từ lúc bước ra với khẩu súng của Pablo dí sau lưng, lão chẳng hề hé môi.
Nỗi khó khăn duy nhất của lão là bước tới. Dường như lão đã không thể điều
khiển được cặp chân của lão.
Sau Don Federico tôi thấy những người hung hăng nhất bu lại ở cuối
hàng, nơi mé đá và tôi rời nơi đó để đến dưới những khung cửa tò vò của
tòa Ayuntamiento, tôi đẩy hai người say
rượu qua một bên và nhìn vào cửa sổ. Trong phòng lớn của tòa Ayuntamiento, tất
cả bọn chúng đang quỳ thành nửa vòng tròn và cầu nguyện, vị linh mục cũng đang
quỳ và cầu nguyện với chúng. Pablo và một người tên Cuato Dedos, Bốn Ngón, một
người thợ khâu giày đã gần gũi rất nhiều với Pablo trong thời gian ấy, cùng với
hai người khác đang cầm súng đứng đó. Pablo nói với vị linh muc: “Bây giờ tới
phiên ai?” Vị linh mục vẫn tiếp tục đọc kinh cầu nguyện và không trả lời hắn.
- Nghe đây - Pablo nói với vị linh mục bằng giọng khàn khàn của hắn
- Bây giờ tới phiên ai? Ai sẵn sàng đây?
Vị linh mục không trả lời Pablo và làm như hắn không có mặt ở đó.
Tôi thấy hắn nổi giận.
- Tất cả chúng tao cùng đi ra. - Don Ricardo Montalgo, một tên điền
chủ nói với Pablo, lão ngẩng đầu lên, ngưng cầu nguyện để cất lời.
- Qué va - Pablo nói - Từng người một, nếu tụi bây sẵn sàng.
- Vậy tao đi đây - Don Ricardo nói - Tao sẽ chẳng bao giờ sẵn sàng
hơn. - Vị linh mục làm phép lành cho lão trong lúc lão nói và làm phép lành cho
lão một lần nữa lúc lão đứng dậy, không ngừng cầu nguyện, và đưa thánh giá lên
cho Don Ricardo hôn. Don Ricardo hôn thánh giá đoạn quay qua nói với Pablo.
“Chẳng bao giờ sẵn sàng hơn nữa. Quân khốn kiếp. Đi mày!”.
Don Ricardo là một người lùn, tóc hoa râm, cổ to, lão mặc chiếc áo
sơ-mi không cổ. Chân lão khuỳnh ra vì cưỡi ngựa nhiều quá. Xin từ giã, lão nói
với tất cả những người đang quỳ. Đừng buồn. Chết chẳng là gì hết. Cái tệ duy
nhứt là chết trong tay bọn canalla 5 này. Đừng chạm đến ta, lão nói với Pablo.
Đừng chạm đến ta bằng cây súng của mi.
Lão bước ra trước tòa Ayuntamiento với mái tóc hoa râm, đôi mắt nhỏ
màu xám và chiếc cổ to, trông lão nhỏ thó và giận dữ. Lão nhìn hai hàng nông
dân và nhổ nước bọt xuống đất. Lão nhổ ra nước bọt thật sự, nước bọt, như chiến
hữu thừa biết, vốn rất hiếm hoi trong mấy lúc như vậy, và lão nói: “Arriba
Espana 6. Đả đảo nền Cộng Hba giả hiệu, sư cha chúng bây!”.
Rồi vì lời nguyền rủa đó, họ đập lão chết rất mau, đập lão ngay khi
lão bước đến bên người thứ nhất, họ đập lão trong khi lão cố bước tới, đầu
thẳng lên, họ đập lão cho đến khi lão ngã xuống và bầm lão bằng vòng hái, bằng
lưỡi liềm, nhiều người áp lại rinh lão đến mé đá vất đi, giờ thì vẫn còn máu
dính trên tay, trên quần áo họ, và họ bắt đầu có cảm giác là những người bước
ra đây đích thật là những kẻ thù cần phải giết chết.
Cho tới khi Don Ricardo bước ra với vẻ dữ tợn và những lời chửi
rủa, tôi tin chắc là trước lúc ấy có rất nhiều người trong hàng đã sốt ruột. Và
nếu có người hô to từ trong hàng: “Thôi, tha cho tụi còn lại đi. Bây giờ chúng
đã có được bài học rồi”. Thì tôi tin chắc hầu hết đã đồng ý.
Nhưng Don Ricardo, bằng tất cả sự bạo gan của lão, đã làm hại những
người khác. Vì lão khích động những người trong hàng nên dù trước đó người ta
chỉ hành động không mấy thích thú, bây giờ họ đã giận dữ, và người ta thấy rõ
sự việc đã đổi khác.
- Cho ông thầy tu ra là công việc được mau chóng hơn. - Có người
nói lớn.
- Cho ông thầy tu ra đi.
- Sau ba thằng ăn cắp, bây giờ đến lượt ông thầy tu đi.
- Hai thằng ăn cắp - Một anh nông dân lùn tịt nói với người đàn ông
vừa la lớn - Đó là hai thằng ăn cắp và Chúa của chúng ta!
- Chúa của ai? - Người đàn ông nói, mặt hắn giận dữ đến đỏ rần.
- Chúa của chúng ta là một cách nói.
- Không phải là Chúa của tôi, không, không đùa đâu. Và tốt nhứt là
anh nên giữ mồm giữ miệng nếu không muốn bước vào giữa hai hàng người.
- Tôi cũng là một con người Cộng Hòa tự do tốt như anh - Gã nông
dân lùn tịt nói - Tôi đã đập Don Ricardo ngay miệng, tôi đã đập Don Federico
ngay lưng, tôi đã đập hụt Don Benito. Nhưng tôi nói Chúa của chúng ta chỉ là
một cách nói để chỉ người được đề cập đến, và ta có hai tên ăn cắp.
- Tôi chửi cha cái thứ Cộng Hòa của anh. Anh còn kêu là Don này,
Don nọ nữa à.
- Ở đây người ta gọi tụi nó như thế.
- Tôi thì không gọi những thằng cabrones như thế. Và Chúa của anh
nữa... A kia! Có một tên mới đây rồi.
Và chính bây giờ tôi mới chứng kiến một cảnh chướng mắt, vì người
bước ra cửa tòa thị chính là Don Faustino Rivero, con trai lớn nhất của Don
Faustino Rivero, một chủ điền. Hắn cao và tóc vàng, tóc hắn vừa mới chải ngược
ra sau vì hắn luôn luôn mang theo trong túi một chiếc lược, và hắn vừa mới chải
đầu trước khi bước ra. Hắn là một tên tán gái có tiếng và là một tên hèn nhát,
hắn lúc nào cũng muốn trở nên một tay đấu bò tài tử. Hắn la cà với bọn du mục,
bọn đấu bò và những tay nuôi bò, hắn rất thích mặc y phục kiểu Andalou nhưng
lại nhát gan và được coi như một thứ trò hề. Có lần hắn được giới thiệu xuất
hiện trong một cuộc đầu bò tài tử để giúp viện dưỡng lão tại thành phố Avila,
và hắn phải giết một con bò mộng theo lối Andalou. Hắn đã bỏ rất nhiều thì giờ
để nghiên cứu luyện tập nhưng lúc hắn trông thấy dáng vóc con bò giao cho hắn
thay cho con bò nhỏ xíu, chân cẳng yếu ớt mà hắn đã lựa thì hắn cáo bịnh và có
người nói rằng hắn đã thọt sâu ba ngón tay vào cổ họng để ói.
Khi những hàng người trông thấy hắn thì họ bắt đầu la lớn: “Ê kìa
Don Faustino! Coi chừng ói nghe!”
- Nè Don Faustino! Có gái đẹp bên kia mé đá kìa.
- Don Faustino. Đợi một chút, chúng tôi sẽ đem ra cho ngài con bò
lớn hơn con kia.
Và có người khác nói, “Này Don Faustino, có bao giờ mày nghe nói
đến cái chết chưa?”
Don Faustino đứng đó, cố làm gan. Hắn hãy còn sống trong nỗi thôi
thúc đã khiến hắn tuyên bố với những tên khác là hắn sắp bước ra. Cũng chính sự
thôi thúc đó trước đây đã khiến hắn tuyên bố dự cuộc đấu bồ. Điều đó đã làm hắn
tin tưởng và hy vọng là hắn có thể là một tay đấu bò tài tử. Bây giờ thì hắn
lấy làm hứng khởi vì cái gương của Don Ricardo, và hắn đứng đó trông vừa đẹp
trai vừa can trường khiến cho bộ mặt hắn trông rất dễ ghét. Nhưng hắn không nói
được lời nào.
- Ra đây Don Faustino. - Có người trong hàng gọi hắn - Ra đây, Don
Faustino. Đây là con bò mộng lớn nhất.
Don Faustino nhìn vào bọn và tôi nghĩ trong lúc Don Faustino nhìn,
là chẳng ai trong hàng mảy may thương hại hắn. Tuy nhiên hắn vẫn đứng đó, trông
đẹp trai và đầy vẻ kiêu hãnh, nhưng thời gian ngắn dần và chỉ có một con đường
duy nhất cho hắn.
- Don Faustino! - Có người gọi - Mi còn đợi gì nữa, Don Faustino?
- Nó sắp ói. - Có người nói và những người trong hàng cười.
- Don Faustino! - Một người nông dân gọi - Ói đi nếu mày cần ói.
Với tao thì cũng vậy thôi.
Rồi trong sự chờ đợi của mọi người, Don Faustino nhìn dọc theo hai
hàng người, ngang qua quảng trường đến tận bờ đá, và khi thấy bờ đá và khoảng
trống ngoài xa, hắn quay nhanh lại và lủi trở vô của tòa Ayuntamiento.
Cả hai hàng người nhao nhao lên, có kẻ hét to, “Đi đâu đó, Don
Faustino? Mày đi đâu đó?”
- Hắn đi ói. - Một người khác la lớn và cả bọn lại cười rộ lên.
Rồi tôi thấy Don Faustino lại trở ra, phía sau có Pablo cầm khẩu
súng đi theo, tất cả cái dáng vẻ oai phong của hắn biến đi đâu mất và bây giờ
hắn đi ra với Pablo theo sau như thể Pablo đang quét đường và Don Faustino là
rác rến mà Pablo đùa ra phía trước. Bây giờ Don Faustino bước ra làm dấu thánh
giá, đọc kinh cầu nguyện, đưa hai tay lên che mắt và bước xuống các bậc thềm
tiến về phía hai hàng người, đôi môi mấp máy.
Không ai nói gì, không ai chạm đến hắn, đi được nửa đường thì hắn
không thể đi xa được nữa và sụp xuống trên hai đầu gối.
Không ai đánh hắn. Tôi đến đứng phía sau một trong hai hàng người
để xem việc gì xảy ra cho hắn, một người nông dân cúi xuống đỡ hắn lên và nói,
“Đứng dậy Don Faustino, đi tiếp đi chớ, con bò chưa ra mà”.
Don Faustino không thể đi một mình và người nông dân mặc áo bờ-lu
đen phải đỡ hắn một bên và một người nông dân khác trong chiếc áo bờ-lu đen và
đôi ủng mục đồng phải đỡ hắn bên kia, họ đỡ hai cánh tay hắn và Don Faustino
bước đi giữa hai hàng người, hai tay che mắt, môi mấp máy luôn, mái tóc của hắn
dán sát vào đầu, ánh lên dưới ánh mặt trời, và trong khi hắn đi qua những người
nông dân luôn mồm nói, “Don Faustino, buen provecho 7. Don Faustino, chúc mi ăn
ngon miệng”, và những người khác nói, “Don Faustino, a sus ordenes 8. Don
Faustino, xin tuân lệnh ngài”. Có người giả đò đánh hụt hắn theo kiểu đấu bò và
nói, “Don Faustino matador, a sus ordenes”. Một người khác lại nói. “Don
Faustino ơi, trên trời nhiều gái đẹp lắm”. Và họ dìu Don Faustino đi qua hai
hàng người, giữ chặt lấy hắn, đỡ hắn đứng thẳng lên trong khi hắn bước đi và
hai tay cứ che mắt. Nhưng có lẽ hắn đã nhìn thấy qua mấy kẽ ngón tay của hắn vì
khi họ dìu hắn vừa tới bờ đá, hắn lại quỳ sụp xuống, nằm vật xuống đất, vừa bám
vào mặt đất, níu lấy cỏ vừa nói, “Không, không. Tôi van các ông. Đừng! Đừng!”.
Đoạn mấy người nông dân đi với hắn và những tay hung hăng nhứt đứng
ở cuối hàng đã nhanh như chớp tóm phía sau hắn, lúc hắn đang quỳ, xô mạnh hắn tới
trước và hắn bay xuống sông mà chẳng hề bị đánh đập, và người ta còn nghe tiếng
kêu thất thanh của hắn trong lúc hắn rơi xuống.
Chính vào lúc bấy giờ, tôi thấy những người trong hàng đã trở thành
hung dữ. Trước tiên là những lời nguyền rủa của Don Ricardo và kế đến là sự hèn
nhát của Don Faustino đã làm cho họ thành ra như vậy.
- Mình làm một tên nữa đi! - Một người nông dân kêu to, một người
khác vỗ mạnh vào vai hắn và nói, “Don Faustino! Thứ đồ gì đâu mà bết quá. Don
Faustino!”
- Bây giờ thì hắn đã thấy được con bò mộng to lớn rồi - Một người
khác nói - Bây giờ thì hắn có ói mửa cũng vô ích.
- Trong đời tôi, Một người nông dân khác nói - trong đời tôi chưa
thấy cái thứ gì như tên Don Faustino.
- Còn nhiều nữa - Một người nông dân khác nói - Kiên nhẫn đi. Ai
biết được mình sẽ còn trông thấy thứ gì nữa đây.
- Có thể là những tên khổng lồ và những tên lùn - Người nông dân
thứ nhất nói - Có thể là những người da đen và những con thú hiếm có từ Phi
châu. Nhưng theo tôi sẽ không có thứ gì giống như Don Faustino. Nhưng chúng ta
làm một tên nữa đi chớ. Mau lên! Làm một tên nữa đi!
Những tên say rượu đang chuyền nhau mấy chai rượu hồi và cô nhác
cuỗm được trong câu lạc bộ của bọn phát xít, và chúng uống như uống rượu vang.
Nhiều tên trong hàng cũng đã bắt đầu chếnh choáng vì đã uống sau những cảm xúc
mạnh do Don Benito, Don Ricardo và nhất là Don Faustino mang tới. Những kẻ
không uống trong những chai rượu mạnh thì uống bằng những bình đựng rượu vang
được chuyền tay, có người đưa tôi bình rượu và tôi uống một hơi dài, để cho
rượu vang làm mát lạnh cổ họng vì tôi rất khát.
- Giết người dễ khát nước lắm. - Tên cầm bình rượu nói với tôi.
- Qué va, - Tôi nói - chiến hữu đã giết người chưa?
- Tôi đã giết bốn tên - Hắn nói, một cách hãnh diện - Không kể mấy
tên civiles. Có đúng là chiến hữu đã
giết một tên civile không, Pilar?
- Không phải một - Tôi nói - Tôi đã bắn vào trong đám khói như mấy
người khác lúc tường sập. Chỉ có vậy thôi.
- Đồng chí lấy đâu ra được cây súng lục vậy, Pilar?
- Của Pablo, Pablo đưa cho tôi sau khi dùng nó bắn vào mấy tên
civiles.
- Tôi xem chút có được không, Pilar? Tôi cầm nó một chút có được
không?
- Sao lại không, hombre. - Tôi nói và rút khẩu súng ra khỏi sợi dây
đưa cho hắn. Tôi tự hỏi sao không có tên nào khác bước ra, và đúng lúc đó, có
ai ra kìa? Chính Don Guillermo Martin, chủ nhân của những cây đòn gánh, những
cây gậy mục đồng và những cây chĩa mà người ta lấy từ kho của lão. Don
Guillermo chỉ có mỗi cái tội là làm phát xít, ngoài ra không có gì để oán trách
lão.
Đúng là lão đã trả rất rẻ cho những người làm ra mấy cây đòn gánh,
nhưng lão cũng đã bán chúng ra với giá rất thấp, và nếu có người không muốn mua
những cây đòn của lão Don Guillermo thì cũng có thể tự làm lấy và chỉ chịu tốn
tiền gỗ và tiền da thôi. Lão có lối ăn nói không được nhã nhặn mấy và lão là
một tên phát xít, đó là điều không chối cãi được, lão là một hội viên trong câu
lạc bộ của bọn chúng. Vào buổi chiều tối lão vẫn hay ngồi trên chiếc ghế mây
trong câu lạc bộ để đọc tờ El Debate, gọi người đến đánh giày, uống rượu
Vermouth với nước suối Seitz, ăn hạnh nhân rang, tôm khô và cá đối. Nhưng người
ta không giết lão vì chuyện đó và tôi chắc chắn rằng nếu không có những lời
nhục mạ của Don Ricardo Montalvo và cái cảnh thảm hại của Don Faustino, chuyện
say sưa tác động lên cảm xúc của nhiều người, hẳn có người sẽ kêu lên: “Thôi
cho lão Don Guillermo đó được yên đi. Chúng ta có mấy cây đòn của lão. Tha cho
lão đi”.
Vì dân chúng trong thành phố này ác thì có ác, nhưng hiền thì cũng
có hiền và họ có một tinh thần yêu chuộng lẽ phải và mong ước được làm điều
phải. Nhưng sự hung ác cũng như sự say xỉn đã thâm nhập vào hai hàng người, và
họ không còn được như lúc Don Benito bước ra nữa. Tôi không biết ở những xứ
khác thì thế nào và không ai khoái thú uống rượu hơn tôi; nhưng ở Tây Ban Nha
sự say rượu, khi nó do những yếu tố khác hơn là chính chất rượu, thì quả là một
điều thật thô bỉ và người ta có thể làm được những điều mà trước đó họ không hề
làm. Bên xứ đồng chí không có thế chớ, Inglés?
- Cũng vậy - Robert Jordan nói - Hồi tôi bảy tuổi và theo mẹ dự một
tiệc cưới ở tiểu bang Ohio, mà hôm đó tôi là đứa con trai trong cặp bé trai và
gái ôm hoa...
- Anh làm việc đó à? - Maria hỏi - Thích quá!
- Trong thành phố đó có một người da đen bị treo lên cột đèn và sau
đó bị đốt. Đó là một cây đèn hình cung. Cái đèn có thể hạ thấp xuống vỉa hè. Và
gã bị kéo lên cao bằng một bộ phận dùng đưa cây đèn lên nhưng nửa chừng bộ phận
đó gãy.
- Một người da đen? - Maria nói - Dã man quá!
- Những người đó có say không? - Pilar hỏi - Họ có say quá đến độ
có thể đốt được một người da đen không?
- Tôi không biết - Robert Jordan nói - Vì tôi chỉ nhìn thấy qua
phía dưới màn cửa sổ của ngôi nhà bên góc đường đối diện với cây đèn cánh cung.
Đường phố đầy người và khi họ kéo người da đen lên lần thứ hai...
- Nếu đồng chí mới có bảy tuổi và ở trong nhà thì chiến hữu không
biết được họ có say hay không đâu. - Pilar nói.
- Như tôi đã nói, khi họ kéo người da đen lên lần thứ hai, mẹ tôi
kéo tôi đi khỏi cửa sổ nên tôi không thấy được gì nữa - Robert Jordan nói -
Nhưng từ đó tôi đã chứng kiến nhiều chuyện cho thấy rằng sự say sưa nơi xứ tôi
thì cũng giống y vậy. Nó xấu xa, hung bạo.
- Bảy tuổi, nghĩa là lúc ấy anh còn quá nhỏ tuổi - Maria nói - Anh
còn bé bỏng quá đối với những chuyện như vậy. Em chưa bao giờ trông thấy được
một người da đen ngoại trừ trong một gánh xiệc. Ngoại trừ trường hợp người
Maure cũng đen.
- Có người đen, có người không - Pilar nói - Chị có thể nói cho em
nghe về giống người Maure.
- Không hơn em đâu - Maria nói - À, chị không thể biết hơn em đâu
nhé.
- Thôi bỏ chuyện đó đi - Pilar nói - Chẳng ích gì. Chúng ta kể đến
đâu rồi?
- Đến chỗ sự say xỉn của mấy người trong hàng - Robert Jordan nói -
Tiếp tục đi.
- Bảo là say xỉn thì cũng không đúng lắm - Pilar nói - Vì họ chưa
đến nỗi say. Nhưng đã có một sự thay đổi trong họ. Và khi Don Guillermo bước ra
đứng thẳng người, với hai mắt cận thị, đầu bạc hoa râm, tầm cao vừa phải, lão
đứng đó, làm dấu thánh giá và nhìn thẳng về phía trước, không có kiếng nên lão
chẳng thấy được gì nhiều, thế nhưng lão vẫn bước đi chững chạc và lặng lẽ. Lão
có cái dáng vẻ làm động lòng trắc ẩn người khác. Nhưng có người trong hàng hô
lên. “Lại đây Guillermo. Lại đây, Don Guillermo. Đi về phía này. Tụi tôi có đủ
loại sản phẩm của cụ đây!”
Họ đã bỡn cợt với Don Faustinon quá nhiều nên họ không còn thấy
được Don Guillermo là một cái gì khác, và nếu mà Don Guillermo có phải bị giết
đi thì cũng nên giết một cách mau chóng và với sự kính cẩn.
- Don Guillermo! - Một người khác gọi to - Tụi tôi có cần sai người
về nhà lấy mắt kiếng cho cụ không?
Nhà của Don Guillermo thật ra không phải là một cái nhà vì lão
không có nhiều tiền, lão chỉ làm Phát xít cho nó oai và để tự an ủi rằng lão
buộc phải kiếm sống một cách hèn mọn với cửa hàng bán nông cụ bằng gỗ. Lão còn
làm phát xít vì đạo của vợ lão mà lão vì thương vợ nên coi như đạo của chính
mình. Lão ở một căn trong tòa nhà nằm cách quảng trường ba căn về phía dưới. Và
lúc Don Guillermo đứng đó, nhìn hai hàng người bằng đôi mắt cận thị, lão biết
là khi lão bước, vào giữa hai hàng người đó thì một người đàn bà sẽ khóc ngất
lên từ bao lơn của căn nhà lão ở. Từ bao lơn, bà ta có thể nhìn thấy lão và bà
ta là vợ của lão.
- Guillermo! - Bà ta kêu lên - Guillermo. Chờ tôi, tôi sẽ theo ông.
Don Guillermo quay mặt về phía phát ra những tiếng gọi. Lão không
nhìn thấy được bà ta. Lão cố nói lên một điều gì nhưng rồi không nói được. Rồi
lão vẫy tay về phía người đàn bà đang lên tiếng gọi và bắt đầu đi vào giữa hai
hàng người.
- Guillermo! - Bà kêu lên - Guillermo. Ôi! Guillermo. - Hai tay bà
nắm chặt vào lan can bao lơn và lắc mạnh - Guillermo!
Don Guillermo vẫy tay một lần nữa về phía tiếng gọi và bước vào
giữa hai hàng người, đầu giữ thẳng và người ta không biết lão cảm thấy như thế
nào nếu không thấy sắc mặt của lão.
Đoạn có tên say rượu nào đó hét lên từ trong hàng, “Guillermo!” hắn
nhái giọng thật nhanh của người đàn bà và Don Guillermo chạy nhanh về phía
người đó, như mù quáng, nước mắt chảy dài trên má, và người đàn ông dùng đòn
gánh đập mạnh vào mặt lão. Don Guillermo ngồi phệt xuống đất vì sức mạnh của cú
đánh, và lão ngồi đó khóc, nhưng không phải vì sợ hãi, khi đó mấy tên say rượu
đập lão, một tên nhảy đè lên người lão, cưỡi lên vai lão và đập lên đầu lão
bằng cái vỏ chai.
Sau vụ đó nhiều người rời khỏi hàng, thay vào đó là mấy tên say
rượu vẫn bu quanh cửa sổ tòa Ayuntamiento để chế nhạo và pha trò với những câu
vô duyên.
- Chính tôi đã xúc động rất nhiều khi Pablo bắn bọn guardia civil -
Pilar nói - Thật là một việc ghê tởm, nhưng tôi nghĩ nếu phải như vậy thì cũng
đành phải vậy và ít ra ta không tàn nhẫn, đó chỉ là việc tước đoạt sự sống.
Điều ghê tởm chúng tôi biết được trong mấy năm gần đây lại là cần thiết nếu
chúng ta phải chiến thắng và bảo vệ chế độ Cộng Hòa.
Lúc quảng trường bị phong tỏa và những hàng người được tập họp, tôi
rất cảm kích và biết đó là ý kiến của Pablo, tuy nhiên tôi vẫn thấy có hơi quá
đáng, và tôi nghĩ tất cả những gì phải làm thì nên làm cho phải phép để người
ta đừng ghê tởm.
Thật ra nếu bọn phát xít cần phải để cho nhân dân xử tội thì tốt
hơn nên để cho tất cả dân chúng tham dự, và tôi cũng mong được chia sẻ trách
nhiệm với mọi người khi thành phố này thuộc về ta. Nhưng sau vụ Don Guillermo
tôi cảm thấy xấu hổ và ghê tởm, rồi khi mấy tên say rượu cùng bọn vô lại bước
vào trong hàng và nhiều người bỏ hàng ra đi như một cách phản đối sau vụ Don
Guillermo, tôi hoàn toàn không muốn dính líu gì đến những người trong hàng, và
tôi bỏ đi, băng qua quảng trường ngồi trên chiếc ghế dài dưới gốc mấy cây to
đang rũ bóng.
Hai người nông dân đang nói chuyện với nhau bước đến một người cất
tiếng hỏi tôi. “Chị sao đó, Pilar?”
- Có gì đâu, hombre. - Tôi bảo hắn.
- Có chớ - Hắn nói - Nói đi. Cái gì đã xảy ra?
- Chắc tôi đã ớn tới cổ rồi. - Tôi bảo hắn.
- Chúng tôi cũng thế. - Hắn nói và cả hai ngồi xuống ghế dài. Một
trong hai người cầm vò rượu đưa cho tôi.
- Uống đi! - Hắn nói. Người kia tiếp tục câu chuyện của họ - Tệ
nhất là việc đó sẽ đem lại điều xui xẻo. Không ai dám bảo rằng những việc như
cái kiểu giết Don Guillermo lại không mang đến chuyện xui xẻo.
Đoạn người kia nói: “Nếu cần phải giết cả bọn, và tôi vẫn không tin
là có sự cần thiết đó, thì cũng phải giết họ một cách đàng hoàng tử tế, không
nên chế nhạo họ làm gì”.
- Sự chế nhạo có thể hiểu được trong trường hợp Don Faustino -
Người nọ nói - Vì lẽ hắn lúc nào cũng là một tên hề, không bao giờ là một con
người đàng hoàng đứng đắn. Nhưng chế nhạo một con người có tư cách như Don
Guillermo thì không được.
- Tôi đã ớn đến cổ rồi. - Tôi bảo hắn, và quả tình là có thật như
vậy, vì tôi nghe bên trong tôi một sự khó ở, mồ hôi tôi tuôn ra và tôi muốn nôn
mửa như thể vừa nuốt phải món đồ biển đã thối.
- Vậy thì dứt khoát nhé - Một người trong bọn nói với tôi - Chúng
ta sẽ thôi không dự vào đó nữa. Nhưng tôi không biết việc gì lại xảy ra tại những
thành phố khác.
- Họ chưa sửa lại những đường dây điện thoại - Tôi nói - Nên lo
việc đó.
- Rõ ràng là vậy - Hắn nói - Ai biết được đâu rằng tốt hơn chúng ta
nên lo phòng thủ thành phố hơn là đi tàn sát với cả sự rề rà và tàn bạo này.
- Tôi sẽ đi nói với Pablo. - Tôi bảo họ và đứng dậy rời khỏi chiếc
băng, bước trên lối đi dưới những ô cửa tò vò dẫn đến cửa tòa Ayuntamiento.
Những hàng người bây giờ không còn trật tự gì nữa, những người say sưa bây giờ
rất đông và nhiều người thì say quắc cần câu. Hai người đàn ông té nằm dài giữa
quảng trường, đang chuyền chai rượu qua lại với nhau. Một người cứ mỗi lần tu
một ngụm rượu là hét lên, “Viva la anarquia!” 9, hắn cứ nằm ngửa ra đó mà hét
như một tên điên, cổ hắn quấn một chiếc khăn màu đỏ đen. Người kia thì la,
“Viva la libertad” 10. Hắn cũng quấn khăn đỏ đen, một tay hắn vẫy chiếc khăn và
một tay hắn đá chai rượu.
Một người nông dân đã rời những hàng người, đang đứng dưới những ô
cửa tò vò nhìn họ với vẻ kinh tởm và nói, “Đáng lẽ chúng phải hô lên là say rượu
muôn năm mới phải. Những gì chúng tin tưởng chỉ có thế”.
- Chúng lại cũng chẳng tin tưởng ngay cả ở chuyện đó - Một người
nông dân khác nói - Bọn đó thì chẳng hiểu biết gì cả và chẳng tin tưởng ở một
điều gì cả.
Ngay lúc đó, một trong hai tên say rượu đứng dậy, hai tay giơ cao,
bàn tay nắm chặt đưa lên khỏi đầu và hô to “Vô chánh phủ muôn năm! Tự do muôn
năm! Cộng Hòa chó chết!”
Tên say rượu kia, còn nằm ngửa, chộp lấy cổ chân tên đang đứng la,
hắn lăn tròn làm tên say rượu đang la hét té nhào lên hắn, hai người ôm nhau
lăn tròn, rồi ngồi dậy, đoạn tên kéo cẳng ôm cổ tên la hét và đưa cho hắn một
chai rượu, rồi hôn lên chiếc khăn đen đỏ của tên này và cả hai cùng uống.
Ngay lúc đó có tiếng hét lên trong hàng và khi nhìn lên lối đi tôi
chẳng thấy được ai đang bước ra vì đầu của người đó khuất dưới những cái đầu
của những kẻ đang chen chúc trước của tòa Ayuntamiento. Tôi chỉ thấy là có
người bị Pablo và Cuatro Dedos dùng mũi súng đẩy ra, nhưng tôi không thấy được
là ai, và tôi đến sát những hàng người đang chen chúc trước cửa để xem thử ai.
Bây giờ thì họ chen lấn quá dữ và bàn ghế trong các quán cà phê của
bọn phát xít bị lật nhào, trừ một chiếc bàn trên đó có một tên say rượu đang
nằm đầu trút xuống, mồm há ra. Tôi nhặt một chiếc ghế kê sát vào một cây cột và
leo lên để có thể nhìn qua đầu đám đông.
Người đang bị Pablo và Cuatro Dedos đẩy ra là Don Anastadio Rivas,
lão là một tên phát xít chánh hẩu và là người mập nhứt trong thành phố. Lão là
một tay buôn lúa và là nhân viên của nhiều công ty bảo hiểm, lão còn là một
người cho vay cắt cổ.
Đúng trên ghế tôi có thể trông thấy lão bước xuống các bực thềm, đi
về phía hai hàng người, chiếc cổ mập bự của lão to phình trên cổ sơ-mi, và
chiếc đầu hói của lão bóng lưỡng dưới ánh mặt trời, nhưng lão chẳng chịu bước
vào giữa hai hàng người vì có tiếng la hét, và lần này không phải là tiếng la ó
của nhiều người mà là tiếng thét đồng loạt của toàn thể. Một tiếng thét ghê
rợn. Những tên người say rượu hè nhau thét lên cùng một lúc, và hàng ngũ bị tan
rã vì người ta chay ùa về phía lão, tôi thấy Don Anastasio nằm vật xuống đất
hai tay ôm đầu, rồi người ta không còn nhìn thấy lão đâu nữa vì họ đè chồng lên
người lão. Và lúc người ta đứng dậy bỏ đi thì Don Anastasio đã chết, đầu bị dập
vào đá vệ đường, dưới những ô cửa tò vò, bây giờ thì không còn hàng lối gì nữa
mà chỉ còn một đám đông hỗn loạn.
- Mình nhào vô đi - Họ bắt đầu la - Vô tìm tụi nó đi!
- Thằng này nặng quá rinh không nổi - Một người đá vào xác của Don
Anastasio đang nằm úp mặt xuống đất - Để nó đó.
- Sao lại phải lôi cái cây thịt đó ra bờ đá? Bỏ mẹ nó đó đi.
- Ta sẽ thanh toán tụi bên trong - Một người la lên - Chúng ta vào
đi.
- Sao lại phải đợi cả ngày ngoài nắng! - Một người khác hét to -
Nè, tụi mình vào đi!
Đám đông hỗn loạn bây giờ dồn về lối đi dưới những ô cửa tò vò. Họ
hò hét, xô đẩy nhau như một bầy thú và tất cả đồng la lên, “Mở ra! Mở ra! Mở
ra!” vì mấy tên gác cửa đã đóng chặt cửa tòa Ayuntamiento lúc họ rã hàng.
Đứng trên ghế, tôi có thể nhìn qua khung cửa sổ song sắt, thấy tận
trong gian phòng lớn của tòa Ayuntamiento và trong đó, quang cảnh vẫn y như
trước. Vị linh mục đang đứng, và tất cả những người còn lại đang quỳ thành nửa
vòng tròn quanh ông, tất cả đang cầu ngyện. Pablo đang ngồi trên một chiếc bàn
to trước ghế bành của thị trưởng với khẩu súng đeo trên lưng. Hai chân hắn bỏ
thõng xuống từ trên bàn và hắn đang vấn một điếu thuốc. Cuatro Dedos thì đang
ngồi trong chiếc ghế của tên thị trưởng, chân gác lên mặt bàn và đang phì phà
một điếu thuốc.
Tất cả những người có bổn phận canh gác đều ngồi trong các chiếc
ghế của bọn viên chức, súng trong tay. Chiếc chìa khóa của cánh cửa cái nằm
trên mặt bàn bên cạnh Pablo.
Đám đông cứ la, “Mở ra! Mở ra! Mở ra” như đang hợp ca và Pablo vẫn
ngồi đó như không nghe gì. Hắn nói điều gì với vị linh mục nhưng tôi không nghe
được vì tiếng ồn ào của đám đông.
Vị linh mục vẫn không trả lời và tiếp tục cầu nguyện. Vì có nhiều
người xô lấn, tôi phải dời chiếc ghế sát vào tường, tôi đẩy chiếc ghế ra phía
trước trong lúc người ta xô lấn tôi từ phía sau. Tôi đứng lên ghế, mặt dán sát
vào song cửa sổ và tay bám chặt lấy mấy chấn song. Một người đàn ông cũng leo
lên ghế, đứng lên tay ôm choàng qua cánh tay tôi và nắm lấy mấy chấn song phía
ngoài.
- Gãy ghế bây giờ. - Tôi bảo hắn.
- Gãy thì gãy chứ ăn thua gì? - Hắn nói - Coi họ kìa. Coi tụi nó
cầu nguyện kìa. - Hơi thở của hắn phà vào cổ tôi sặc mùi của đám đông, của mấy
đống ói trên vỉa hè, và mùi say xỉn, đoạn hắn đút mỏ vào giữa mấy song của phía
trên vai tôi và la to. “Mở ra! Mở ra! Mở ra!”, và tôi nghe như cả một đám đông
đè lên lưng tôi, giống như lúc ta nằm mơ thấy ma đè.
Bây giờ thì đám đông lấn nghẹt về phía cửa đến nỗi những người phía
trước muốn dẹp ra, và từ quảng trường một tên say rượu to lớn mặc áo bờ-lu đen
quấn khăn đen đỏ chạy ùa tới càn đại vào đám đông, té ra phía trước đè lên mấy
người đang xô lấn, rồi đứng dậy, lùi ra xa rồi lại chạy ùa tới nhào lên mấy
người đang xô lấn và la to, “Tao muôn năm! Vô chánh phủ muôn năm!”.
Trong lúc tôi đang theo dõi thì người đàn ông này quay đi khỏi đám
đông, tìm chỗ ngồi và tu rượu từ trong chai, lúc ngồi xuống, trông thấy Don
Anastasio, vẫn còn nằm úp mặt trên lối đi, nhưng đã bị đạp nhừ. Tên say rượu
đứng dậy, bước tới chỗ Don Anastasio và cúi xuống đổ rượu lên đầu, lên quần áo
của lão rồi cho tay vào túi lấy hộp diêm, hắn đánh lên nhiều que diêm và cố
nhóm một đống lửa với Don Anastasio. Nhưng bây giờ gió thổi mạnh, mấy que diêm
bị tắt, một lát sau hắn ngồi xuống bên cạnh Don Anastasio, vừa lắc đầu vừa tu
rượu từ trong chai, thỉnh thoảng hắn lại nghiêng qua vỗ vai xác chết.
Trong khi đó đám đông hỗn loạn vẫn la hét đòi mở cửa, và người đàn
ông cùng đứng trên ghế với tôi cứ nắm chặt lấy song cửa mà réo mở cửa làm tôi
lùng bùng cả lỗ tai và cái hơi thở hôi hám của hắn cứ phà vào tôi, tôi thôi
không nhìn tên say rượu đang cố châm lửa vào Don Anastasio và quay lại nhìn vào
gian phòng rộng của tòa thị sảnh, vẫn y như cũ. Họ vẫn đọc kinh như trước, tất
cả những người đó đang quỳ, áo sơ-mi hở cổ, có người gục đầu xuống, có người
ngẩng đầu lên và sau lưng họ, Pablo với điếu thuốc bây giờ đã châm lửa, vẫn
ngồi đó, trên bàn, hai chân đong đưa, khẩu súng đeo trên vai và tay mân mê
chiếc chìa khóa.
Tôi thấy Pablo lại cúi xuống về phía trước để nói với vị linh mục,
và vì họ la ó quá nên tôi chẳng nghe được hắn nói gì! Nhưng vị linh mục không
trả lời mà tiếp tục đọc kinh. Rồi một người đứng dậy bước ra khỏi đám người quỳ
thành hình vòng cung, đang cầu nguyện. Tôi thấy lão muốn bước ra. Đó là Don
José Castro, người mà mọi người vẫn gọi là Don Pepe, một tên phát xít chánh
hiệu con nai vàng và là một tên lái ngựa; lão đứng dậy, trông dáng người gọn
gàng vén khéo, dù rằng râu lão chưa cạo, lão mặc chiếc áo pyjama cho vào trong
chiếc quần sọc xám. Lão hôn thánh giá, vị linh mục làm phép lành cho lão, lão
đứng dậy, nhìn Pablo và hất đầu về phía cửa.
Pablo lắc đầu, tiếp tục hút thuốc. Tôi có thể trông thấy Don Pepe
đang nói cái gì đó với Pablo nhưng không thể nghe được. Pablo không trả lời,
chỉ lắc đầu, và nhìn ra cửa.
Đoạn tôi thấy Don Pepe quay lại nhìn ra cửa, thì ra lão chưa hay là
cửa đã khóa. Pablo chỉ lão chiếc chìa khóa, lão đứng nhìn nó trong giây lát và
lão quay đi, đến quỳ trở lại. Tôi thấy vị linh mục nhìn Pablo chăm chú, Pablo
mỉm cười với ông ta và chỉ cho ông ta chiếc chìa khóa, vị linh mục dường như
chợt nhận ra là của đã khóa, và dường như ông định lắc đầu nhưng ông chỉ mới
nghiêng đầu qua một bên rồi lại tiếp tục cầu nguyện.
Tôi không biết tại sao họ lại không hiểu cửa đã khóa trừ phi họ quá
chú tâm đến việc cầu nguyện của họ và những ý nghĩ riêng tư của họ, bây giờ thì
chắc chắn họ đã hiểu, hiểu những tiếng la ó và hẳn họ đã hiểu rằng tất cả đã
thay đổi. Nhưng họ thì vẫn như trước.
Bây giờ thì tiếng la ó quá to đến nỗi người ta không còn nghe gì
được nữa, và tên say rượu cùng đứng trên ghế với tôi cố lắc mạnh mấy song cửa
và quát to “Mở ra! Mở ra! Mở ra!” đến lạc cả giọng.
Tôi nhìn Pablo nói chuyện với vị linh mục và vị linh mục không hé
miệng trả lời, tôi thấy Pablo lắc đầu. Đoạn hắn ngoái cổ lại nói với Cuatro
Dedos, và Cuatro Dedos ra lịnh cho mấy người canh gác, rồi tất cả đứng dậy và
lui xa cuối phòng, đứng nhìn xuống.
Tôi thấy Pablo nói cái gì đó với Cuatro Dedos và hắn lật hai cái
bàn và mấy chiếc ghế dài tạo nên một chướng ngại vật trong một góc phòng, mấy
người canh gác đứng phía sau, tay ghìm súng. Pablo cúi xuống dùng mũi súng gõ
nhẹ vào vai vị linh mục, vị linh mục lại cũng không để ý gì đến hắn, nhưng tôi
thấy Don Pepe nhìn hắn thì hắn lại lắc đầu, cầm chìa khóa đưa cao lên cho Don
Pepe thấy. Don Pepe hiểu ý, lão gục đầu xuống và bắt đầu cầu nguyện rất nhanh.
Pablo nhảy khỏi bàn, đi vòng lại chiếc ghế của viên thị trưởng đặt
trên bục cao sau chiếc bàn họp dài. Hắn ngồi vào ghế và vấn một điếu thuốc,
luôn đưa mắt theo dõi mấy tên phát xít đang cầu nguyện với vị linh mục. Trên
mặt hắn không biểu lộ một nét gì, chiếc chìa khóa vẫn nằm trên bàn, trước mặt
hắn. Đó là một chiếc chìa khóa to bằng sắt dài hơn ba tấc. Rồi Pablo kêu mấy
người canh gác lại dặn dò điều gì đó mà tôi không nghe được và một người canh
gác đi ra cửa. Tôi thấy họ đọc kinh nhanh hơn lúc nào hết và tôi biết là bây
giờ thì tất cả đều đã hiểu rõ.
Pablo nói điều gì đó với vị linh mục, nhưng vị linh mục vẫn không
trả lời. Rồi Pablo chồm tới lấy chiếc chìa khóa tung lên cho người canh gác ở
cửa. Người này bắt lấy và Pablo mỉm cười với hắn. Hắn tra chìa khóa vào cửa, mở
và kéo cửa về phía hắn đoạn nhảy thụt ra sau cánh cửa trong lúc đám đông hỗn
loạn tràn vào.
Tôi thấy họ tuôn vào và ngay lúc ấy tên say rượu cùng đứng chung
trên ghế với tôi bắt đầu hét to, “Hê! Hê!” và lủi đầu tới trước làm tôi không
thấy được gì, hắn lại la to, “Giết tụi nó! Đập tụi nó! Đập tụi nó. Ừ, vậy đó!
Đập tụi nó! Giết tụi nó! Đồ súc sinh! Đồ cabrones! Đồ cabrones!”
Tôi dùng khuỷu tay thúc mạnh vào hắn và nói: “Đồ cabron! Đồ say
rượu! Để tao coi nào!”
Rồi hắn lấy hai tay nhận đầu tôi xuống để trông thấy rõ hơn và chồm
lên đè cả lên đầu tôi và tiếp tục la, “Đập tụi nó! Ừ, vậy đó! Đập tụi nó!”
- Đập mày đây nè - Tôi nói và thúc mạnh vào chỗ nhược làm hắn đau
điếng, hắn buông tay khỏi đầu tôi và ôm vào chỗ đau, hắn nói: “No hay derecho,
mujer 11. Mụ này không được quyền làm vậy!”. Và lúc đó, nhìn qua các song cửa
sổ, tôi thấy gian phòng đầy người, họ đang dùng gậy mà nhịp, dùng đòn mà đập và
dùng chĩa mà chọt, mà đánh, mà đẩy, mà xeo lên và những chiếc chĩa bằng gỗ màu
trắng bây giờ đã thành màu đỏ, răng cỏ gãy hết. Cảnh đó diễn ra khắp phòng, chỗ
nào cũng có trong khi Pablo vẫn ngồi trong ghế bành với khẩu súng đặt trên hai
đầu gối, theo dõi; họ vừa la, vừa đập, vừa đâm, còn những người kia thì rú lên
như bầy ngựa trong cơn hỏa hoạn. Tôi trông thấy vị linh mục, áo xống tốc lên,
đang leo lên một chiếc ghế dài và mấy người rượt theo dùng lưỡi liềm, vòng hái
mà chém, có người chộp được áo ông, có tiếng thét lên, rồi lại có tiếng thét
lên và tôi thấy có hai người dùng lưỡi liềm và vòng hái chém vào lưng ông trong
lúc ba người khác giữ lấy vạt áo dài của ông, hai tay vị linh mục đưa lên cao,
bám vào thành một chiếc ghế; và chiếc ghế mà tôi đang đứng bỗng gãy, tôi và tên
say rượu té xuống vỉa hè nặc nồng mùi rượu, mùi ói mửa, tên say rượu chỉ ngón
tay vào mặt tôi và nói: “No hay derecho mujer, no hay derecho. Mụ này làm tôi
bị thương rồi”. Và người ta dẫm lên chúng tôi để vào tòa Ayuntamiento. Tôi chỉ
thấy toàn là chân của những người đang chạy ùa vào cửa, tên say rượu ngồi dậy
trên vỉa hè nhìn tôi vừa ôm chỗ đau.
Đó là đoạn kết của cuộc tàn sát bọn phát xít tại thành phố của tôi
và tôi lấy làm mừng là đã không, thấy được gì thêm, nhưng nếu không có tên say
rượu, chắc là tôi đã chứng kiến tất cả. Như vậy hắn cũng có ích ở chỗ nào đó.
Vì nếu chứng kiến những điều xảy ra trong tòa Ayuntamiento, chắc ta sẽ hối hận.
Nhưng tên say rượu ngoài quảng trường còn lạ hơn nữa. Lúc chúng tôi
đứng dậy sau khi chiếc ghế bị gãy, người ta còn bu đen trong tòa Ayuntamiento.
Tôi trông thấy tên say lúc nãy với chiếc khăn quàng đen đỏ đang đổ thứ gì đó
lên người của Don Anastisio. Hắn ngả đầu qua lại, hắn ngồi không muốn vững,
nhưng hắn vẫn tưới, rồi châm lửa, rồi tưới, rồi lại châm lửa. Tôi bước lại gần
hắn và nói, “Làm gì đó thằng nham nhở?”.
- Nada, mujer, nada. Làm gì đâu mụ! - Hắn nói - Để cho tôi yên coi
nào!
Và có lẽ vì tôi đứng đó, chân tôi che gió nên que diêm bắt lửa, một
ngọn lửa xanh bắt đầu chạy trên vai áo của Don Anastasio và lan ra phía sau cổ;
tên say rượu ngẩng đầu lên kêu to: “Tụi nó đốt thây ma! Tụi nó đốt thây ma!”.
- Ai? - Có người hỏi.
- Ở đâu? - Có kẻ khác hỏi to.
- Đây nè - Tên say rượu rống lên - Ngay đây nè.
Rồi có người dùng đòn đập mạnh vào đầu tên say rượu, hắn bật ngủa
ra, nằm dài dưới đất, hắn nhìn lên người vừa đánh hắn rồi nhắm mắt lại, tay
khoanh trước ngực, hắn nằm đó, bên cạnh Don Anastasio như nằm ngủ. Người đàn
ông thôi không đập hắn nữa và hắn vẫn còn nằm đó cho tới khi người ta nhặt xác
Don Anastasio và quăng hắn chung với những người khác trên một chiếc xe bò rồi
đem ném tất cả xuống sông vào chiều hôm đó, cùng với những tên khác bị thanh
toán xong phía bên trong tòa Ayuntamiento. Nếu mà họ đem vất đi chừng hai chục
hoặc ba chục tay say rượu thì thành phố hẳn phải khá hơn, nhứt là mấy tên quàng
khăn đen đỏ, và nếu có bao giờ chúng ta làm một cuộc cách mạng khác thì tôi tin
là chúng ta nên thủ tiêu bọn chúng ngay từ đầu. Nhưng hồi đó chúng tôi chưa
nhận ra điều này, ngày hôm sau chúng tôi mới vỡ lẽ ra.
Đêm hôm đó chúng tôi không biết chuyện gì sẽ xảy đến. Sau vụ tàn
sát tại tòa Ayuntamiento không còn một vụ giết chóc nào, nhưng đêm đó chúng tôi
không thể hội họp gì được bởi có quá nhiều người say rượu. Không thể nào có
được trật tự và cuộc hội họp đành phải dời lại ngày sau.
Đêm đó tôi ngủ với Pablo. Lẽ ra chị không nên kể điều này cho em
nghe, guapa ạ, nhưng về phương diện
khác, dầu sao em cũng nên biết mọi chuyện và ít ra thì những điều chị kể cho em
nghe đều có thật. Nghe đây Inglés à, chuyện này hay lắm.
Như tôi đã nói, đêm đó chúng tôi đi ăn, và thật lạ. Giống như sau
một cơn bão lụt hay một trận đánh, mọi người thấy mệt mỏi và không ai nói
nhiều. Riêng tôi, tôi nghe trống rỗng và khó chịu, lòng tràn đầy hối hận và xấu
hổ về việc làm sai lầm, tôi buồn bã hết sức và có cảm tưởng sẽ có điều không
lành xảy ra, như mấy chiếc máy bay hồi sáng này. Và quả nhiên điều không lành
đã xảy ra ba ngày sau đó.
Trong lúc ăn Pablo nói rất ít.
- Em thích như vậy không Pilar. - Sau cùng hắn hỏi tôi, miệng vẫn
còn ngậm miếng thịt dê quay. Chúng tôi đang ăn tại chiếc quán nơi trạm khởi
hành của xe buýt, phòng ăn đông nghẹt, người ta đang ca hát và việc chạy bàn
thành khó khăn.
- Không - Tôi nói - Trừ trường hợp của Don Faustino, em không thấy
thích chút nào.
- Anh thích. - Hắn nói.
- Tất cả à? - Tôi hỏi hắn.
- Tất cả - Hắn đáp và dùng dao cắt một miếng bánh mì thật to, chấm
nước sốt và nhai ngấu nghiến - Tất cả, ngoại trừ ông linh mục.
- Anh không vừa lòng về ông linh mục à? - Tôi biết hắn ghét linh
mục còn hơn cả ghét phát xít nữa.
- Lão làm anh vỡ mộng - Pablo nói. Có quá nhiều người ca hát đến
nỗi chúng tôi gần như phải la lớn mới có thể nghe nhau được.
- Tại sao vậy?
- Lão chết coi tệ quá - Pablo nói - Tư cách yếu quá.
- Sao? Anh muốn lão có tư cách đến cỡ nào nữa trong lúc lão bị săn
đuổi bởi đám đông thế kia? - Tôi nói - Em nghĩ lão có thừa tư cách trong suốt
khoảng thời gian trước đó. Tất cả tư cách mà một con người có thể có được.
- Đúng - Pablo nói - Nhưng ở phút chót lão đã lạnh cẳng dữ quá.
- Ai lại không lạnh cẳng? - Tôi hỏi - Anh có thấy người ta rượt lão
với những thứ gì không?
- Sao lại không - Pablo nói - Nhưng anh thấy lão đã chết một cách
tệ hại.
- Trong những trường hợp như vậy bất cứ ai cũng chết nhát hết - Tôi
bảo hắn - Phải thế nào mới đích đáng? Mọi việc xảy ra tại tòa Ayuntamiento thật
là tồi.
- Đúng - Pablo nói - Tổ chức kém. Nhưng một linh mục phải làm
gương.
- Em nghĩ anh không ưa mấy ông nhà tu.
- Đúng - Pablo nói và cắt thêm bánh mì - Nhưng một linh mục Tây Ban
Nha nên chết sao cho dẹp mắt.
- Em nghĩ lão đã chết đẹp mắt lắm - Tôi nói - Dù đã bị tước đoạt
hết mọi nghi thức.
- Không - Pablo nói - Lão đã làm anh quá thất vọng. Suốt ngày anh
trông đợi cái chết của lão linh mục. Anh những tưởng lão sẽ là kẻ sau cùng bước
vào giữa hai hàng người. Anh đã chờ đợi việc đó với tất cả sự sốt ruột, chờ đợi
như chờ đợi một đỉnh cao, anh chưa bao giờ trông thấy một linh mục chết.
- Còn thì giờ mà - Tôi nói với hắn một cách mỉa mai chua chát - Hôm
nay phong trào mới bắt đầu mà.
- Không - Hắn nói - Anh thất vọng rồi.
- Em cho là anh sắp mất niềm tin. - Tôi nói.
- Em không hiểu, Pilar à - Hắn nói - Lão là một linh mục Tây Ban
Nha.
- Ôi người Tây Ban Nha! Một dân tộc lạ lùng. - Tôi nói với hắn.
Họ là một dân tộc quá kiêu căng hở Inglés? Một dân tộc lạ lùng!
- Ta phải tiếp tục lên đường đi - Robert Jordan nói và nhìn lên mặt
trời - Gần trưa rồi.
- Vâng - Pilar nói - Chúng ta sẽ đi ngay bây giờ nhưng để tôi kể
cho đồng chí nghe về Pablo. Đêm đó hắn bảo tôi, “Pilar, đêm nay chúng ta sẽ
không làm gì cả”.
- Tốt - Tôi bảo hắn - Em thích thế.
- Anh sợ làm như vậy coi kỳ lắm, sau khi đã giết quá nhiều người.
- Qué va - Tôi bảo hắn - Anh làm như là thánh không bằng. Anh tưởng
sống mấy năm trời với mấy tên đấu bò em lại chẳng biết họ thế nào sau những lần
đấu bò à?
- Có thật thế không, Pilar? - Hắn hỏi tôi.
- Em có nói dối với anh bao giờ không? - Tôi bảo.
- Anh nói thật, Pilar à. Tối nay anh tiêu rồi, không còn gì nữa. Em
không trách anh chớ?
- Không, hombre - Tôi bảo hắn - Nhưng đừng giết người mỗi ngày
Pablo ạ!
Và đêm đó hắn ngủ như một đứa trẻ thơ và tôi đánh thức hắn vào lúc
hừng sáng. Nhưng đêm đó tôi lại không ngủ được, tôi thức dậy, ngồi trên chiếc
ghế dựa nhìn ra cửa sổ, và tôi trông thấy quảng trường dưới ánh trăng, nơi có
những hàng người đứng, và ở đầu quảng trường bên kia, tôi trông thấy hàng cây
lấp lánh dưới trăng và những cái bóng đen của chúng, những chiếc ghế dài cũng
rực lên dưới ánh trăng, những vỏ chai nằm rải rác lóng lánh và rìa bờ đá là nơi
chúng bị vứt đi. Không một âm thanh, chỉ có tiếng róc rách ngoài hồ nước, tôi
ngồi đó và nghĩ thầm là chúng tôi đã bắt đầu một cách sai lầm.
Cửa sổ mở và phía trên quảng trường, ở quán Fonda, tôi nghe tiếng
một người đàn bà đang khóc. Tôi bước ra bao lơn, đứng chân không trên sắt, vầng
trăng soi sáng mặt trước các tòa nhà nơi quảng trường và tiếng khóc phát ra từ
bao lơn của căn nhà Don Guillermo. Người đàn bà ấy là vợ của lão và bà ta đang
quỳ trên bao lơn mà khóc.
Đoạn tôi trở vào phòng và ngồi xuống. Tôi không muốn nghĩ ngợi vì
hôm đó là ngày xấu nhất trong đời tôi, cho tới khi ngày kia đến.
- Cái ngày kia thì sao? - Maria hỏi.
- Ba ngày sau, lúc bọn phát xít chiếm thành phố.
- Đừng cho tôi nghe chuyện đó - Maria nói - Em không muốn nghe. Thế
đủ rồi. Thế cũng đã quá nhiều rồi.
- Chị đã bảo là em không nên nghe mà. Đây rồi nằm mơ thấy chuyện dữ
cho mà coi.
- Không - Maria nói - Nhưng em không muốn nghe nữa.
- Tôi muốn lúc nào đó chiến hữu sẽ kể cho tôi nghe. - Robert Jordan
nói.
- Để rồi tôi sẽ kể - Pilar nói - Nhưng Maria nghe có hại.
- Em không muống nghe đâu. - Maria khẩn khoản - Chị Pilar à, nếu có
em đó thì chị đừng kể, vì lúc đó dù cho không muốn nghe, em vẫn phải nghe.
Môi nàng run run, và Robert Jordan nghĩ là nàng có thể bật khóc.
- Thôi, Pilar. Đừng kể.
- Đừng lo! Em bé à - Pilar nói - Đừng lo. Nhưng hôm nào chị sẽ kể cho
Inglés nghe.
- Nhưng em muốn có mặt với Inglés lúc đó - Maria nói - Ồ chị Pilar,
đừng có kể gì hết.
- Chị sẽ kể cho ông ấy nghe lúc em đang bận công việc.
- Đừng, đừng. Em xin. Thôi đừng nói gì hết về chuyện đó.
- Đúng ra là phải kể chuyện đó một khi chị đã kể những chuyện bọn
này đã làm, như vậy mới công bằng - Pilar nói - Nhưng em sẽ không bao giờ được
nghe.
- Không có chuyện gì vui để nói sao? - Maria hỏi - Mình có bắt buộc
phải kể đến những chuyện khủng khiếp mãi hay không?
- Chiều nay, - Pilar nói - em và Inglés, hai người muốn nói gì thì
nói.
- Vậy xin buổi chiều hãy đến - Maria nói - Xin buổi chiều hãy đến
mau.
- Buổi chiều sẽ tới - Pilar nói với nàng - Buổi chiều sẽ tới như
bay và cũng sẽ ra đi nhanh rồi ngày mai cũng sẽ đến như bay.
- Chiều nay, - Maria nói - chiều nay. Xin buổi chiều hãy đến mau.
--- ------ ------ ------ -------
1 Nhưng lại đây.
2 Không à?
3 Nào!
4 Quảng trường.
5 Bọn vô lại.
6 Tây Ban Nha muôn năm.
7 Tốt, có ích lắm.
8 Xin chờ lịnh.
9 Vô chính phủ muôn năm!
10 Tự do muôn năm!
11 Không đúng, mụ này.
Chương 11
Sau khi rời đồng cỏ trên cao để xuống khoảng thung lũng mọc đầy cây
cối, rồi leo lên đường mòn chạy dọc theo con suối và rời bỏ con đường mòn để
trèo lên một bờ đá dốc đứng cheo leo, giờ đây họ đang đi trong bóng râm của
rừng thông. Một người đàn ông cầm khẩu các bin bước ra từ một gốc cây.
- Đứng lại - Hắn nói - Hola, kìa Pilar! Đi với ai đó?
- Một ông người Inglés - Pilar nói - Nhưng có tên là Roberto. Đường
lên đây dốc quá xá vầy nè.
- Salud, Camarada, chào đồng chí - Người canh gác chào Robert
Jordan và đưa tay ra - Đồng chí mạnh giỏi chớ?
- Vâng, - Robert Jordan nói - còn đồng chí?
- Cũng thế. - Người canh gác nói. Hắn rất trẻ, tướng người mảnh
khảnh, mũi hơi quặp, lưỡng quyền cao, mắt xám. Hắn đầu trần, tóc den lõa xõa,
cái siết tay của hắn mạnh và thân mật. Đôi mắt của hắn cũng đầy vẻ thân thiện.
- Chào Maria, - Hắn nói với người con gái - đồng chí không mệt chứ?
- Qué va, Joaquin - Người con gái nói - Chúng tôi đã ngồi trò
chuyện nhiều hơn là đi.
- Có phải đồng chí là chuyên viên chất nổ đó không? - Joaquin hỏi -
Người ta bảo có đồng chí tới đây.
- Chúng tôi đã qua đêm tại chỗ của Pablo - Robert Jordan nói - Đúng
tôi là chuyên viên chất nổ đó.
- Chúng tôi mừng được gặp đồng chí nơi đây - Joaquin nói - Có phải
để tính chuyện đánh xe lửa không?
- Đồng chí có mặt trong lần đánh xe lừa cuối cùng chứ? - Robert
Jordan mỉm cười hỏi.
- Có chứ, không sao được - Joaquin nói - Chính tại đó tôi đã bắt
gặp được của này, - Hắn nhe răng cười với Maria - đồng chí đẹp lắm - Hắn nói
với Maria - Họ đã khen đồng chí đẹp đến thế nào chưa?
- Im mồm đi Joaquin, cám ơn nhiều đó - Maria nói - Đồng chí sẽ đẹp
ra nếu chịu khó đi hớt tóc.
- Tôi đã vác đồng chí - Joaquin bảo người con gái - Tôi đã vác đồng
chí trên vai, đồng chí quên rồi sao?
- Thì cũng như mấy người khác. - Pilar nói, trầm giọng - Ai mà khỏi
vác cô ta. Còn lão già đâu?
- Trong trại.
- Đêm qua lão ở đâu?
- Ở Ségovie.
- Lão có đem tin tức gì về không?
- Có - Joaquin nói - Có tin mới.
- Lành hay dữ?
- Có lẽ dữ.
- Đồng chí có thấy máy bay không?
- Ái chà! - Joaquin lắc đầu nói - Đừng nói với tôi chuyện đó. Này
đồng chí chuyên viên chất nổ, phi cơ gì vậy?
- Phóng pháo cơ Heinkel 111 và chiến đấu cơ Fiat. - Robert Jordan
bảo hắn.
- Mấy chiếc to có cánh thấp là gì vậy?
- Heinkel 111.
- Gọi chi cũng được, nhưng cái nào cũng nguy hiểm như nhau cả -
Joaquin nói - Nhưng tôi đã làm mất thì giờ mấy đồng chí quá. Tôi sẽ đưa mấy
đồng chí đến gặp chỉ huy trưởng.
- Chỉ huy trưởng? - Pilar hỏi.
Joaquin gật đầu một cách nghiêm trọng.
- Tôi thích tiếng đó hơn tiếng “sếp”, - Hắn nói - nghe nó nhà binh
hơn.
- Đồng chí đã bị quân phiệt hóa quá đi mất. - Pilar cười và bảo
hắn.
- Không - Joaquin nói - Nhưng tôi thích những danh từ quân sự, vì
lệnh đâu ra đấy và kỷ luật được khá hơn.
- Đúng sở thích đồng chí rồi đó, Inglés - Pilar nói - Đây là một
cậu trai đàng hoàng đứng đắn.
- Muốn tôi vác đồng chí không? - Joaquin hỏi người con gái. Hắn
choàng tay qua vai cô gái và nhìn vào mặt cô ta mỉm cười.
- Một lần đã đủ rồi - Maria bảo hắn - Dù sao cũng cám ơn đồng chí.
- Đồng chí con nhớ không? - Joaquin hỏi nàng.
- Tôi còn nhớ là mình được vác đi - Maria nói - Bởi đồng chí thì
không. Tôi nhớ tên du mục vì hắn làm tôi rớt xuống nhiều lần. Nhưng tôi cám ơn
đồng chí, Joaquin à, và để lúc nào đó tôi sẽ vác lại đồng chí.
- Tôi không nhớ rõ lắm - Joaquin nói - Tôi còn nhớ tôi nắm chặt hai
chân đồng chí và bụng đồng chí đè trên vai tôi, đầu đồng chí sau lưng tôi và
hai tay đồng chí thòng xuống dọc theo lưng tôi.
- Đồng chí nhớ dai quá - Maria nói và mỉm cười với hắn - Tôi không
nhớ gì về chuyện đó. Tay đồng chí, vai đồng chí, lưng đồng chí, không nhớ gì
cả.
- Đồng chí có muốn biết chuyện này không? - Joaquin hỏi nàng.
- Chuyện gì vậy?
- Tôi khoái được vác đồng chí trên lưng, trong lúc đạn đàng sau bắn
tới.
- Đồ heo - Maria nói - Có phải vì vậy mà tên du mục chịu khó vác
tôi rất lâu không?
- Vì chuyện đó và vì được ôm lấy chân đồng chí.
- Ôi những vị anh hùng của tôi! - Maria nói - Ôi những vị ân nhân
cứu tử của tôi!
- Nghe này, guapa - Pilar bảo nàng - Anh chàng này đã vác em quá
lâu, và lúc đó thì đôi chân của em chẳng nói với ai một lời nào. Trong những
giây phút đó chỉ có tiếng đạn reo là rõ. Và nếu họ bỏ em xuống thì họ có thể
thoát khỏi tầm đạn mau hơn.
- Em đã cám ơn rồi - Maria nói - Và một lúc nào đó em sẽ vác lại
đồng chí ấy. Cho phép em nói đùa một chút. Em không cần phải khóc lóc để bày tỏ
sự biết ơn chớ?
- Lẽ ra tôi đã bỏ đồng chí xuống. - Joaquin tiếp tục trêu nàng -
Nhưng tôi sợ Pilar sẽ bắn tôi.
- Tôi không bắn ai cả. - Pilar nói.
- No hace falta - Joaquin nói - Đồng chí không cần bắn. Nội cái mồm
của đồng chí cũng đủ làm cho người ta sợ đến chết rồi.
- Nói cho quá - Pilar bảo hắn - Hồi đó đồng chí là một cậu bé rất
lễ phép. Và trước chiến tranh đồng chí làm những gì, hở cậu bé?
- Rất ít - Joaquin nói - Hồi đó tôi mới mười sáu tuổi.
- Nhưng làm cái gì mới được?
- Thỉnh thoảng được mấy đôi giày.
- Đóng giày à?
- Không, đánh giày kìa.
- Qué va - Pilar nói - Hẳn không phải chỉ có thế thôi đâu. - Bà ta
nhìn vào gương mặt sạm nắng, thân hình nhỏ nhắn, mớ tóc bù xù, và dáng đi thoăn
thoắt của hắn - Sao đồng chí lại không thành công về vụ đó?
- Vụ nào?
- Vụ nào? Đồng chí biết vụ nào chứ. Đồng chí mọc đuôi rồi đó.
- Tôi chắc là tại sợ quá.
- Tướng tá đồng chí coi khá lắm - Pilar bảo hắn - Nhưng gương mặt
không được khá. Vậy là tại sợ phải không? Trong vụ đánh xe lửa đồng chí trông
được lắm.
- Bây giờ thì tôi không sợ chúng nữa - Người con trai nói - Không
sợ thứ nào hết. Chúng ta đã chứng kiến những thứ ghê gớm hơn và nguy hiểm hơn
cả bò mộng. Rõ ràng là không có một con bò mộng nào nguy hiểm bằng một khẩu
súng máy. Nhưng thí tỉ như bây giờ tôi đang ở trong vòng chiến đấu, không biết
là tôi có điều khiển được cặp giò tôi không nữa.
- Trước đây hắn muốn trở thành một tay đấu bò - Pilar giải thích
cho Robert Jordan - Nhưng hắn lại nhát gan.
- Đồng chí có thích bò mộng không hở đồng chí, chuyên viên chết nổ?
- Joaquin nhe răng cười, khoe hàm răng trắng hếu.
- Rất thích - Robert Jordan nói - Rất thích, thích ghê lắm.
- Ở Valladolid đồng chí có xem không? - Joaquin hỏi.
- Có, vào tháng Chín, lúc có hội chợ.
- Quê tôi đó - Joaquin nói - Thật là một thành phố xinh đẹp nhưng
những buena gente, những người dân hiền
lành trong thành phố ấy đã quá khổ vì trận giặc này. - Rồi mặt hắn sa sầm -
Người ta đã bắn chết cha tôi. Mẹ tôi. Anh rể tôi và bây giờ là chị tôi.
- Thật là bọn dã man. - Robert Jordan nói.
Biết bao lần chàng đã nghe điều này? Biết bao lần chàng đã nhìn
người ta nghẹn ngào kể ra điều này? Biết bao lần chàng đã trông thấy họ nước
mắt lưng tròng, cổ họng khô cứng khi nói đến mấy tiếng cha tôi, hoặc anh tôi,
hoặc mẹ tôi, hoặc chị tôi. Chàng không thể nào nhớ được bao nhiêu lần chàng đã
nghe họ nói đến những người thân đã chết của họ như thế này. Gần như lúc nào họ
cũng kể lại với một kiểu như gã con trai này vừa kể, và lần nào cũng thế, khi
nhắc tên một thành phố, người ta vẫn phải thốt lên: “Thật quân dã man!”.
Người ta chỉ hay tin về cái chết. Người ta không thấy được cha mình
ngã xuống, chết một cái chết giống như những tên phát xít mà Pilar mô tả lại
nơi đồng cỏ, bên dòng suối. Người ta hay tin cha mình chết nơi một góc sân,
hoặc bên một chân tướng nào đó, hoặc trên một thửa ruộng hay một miếng vườn,
hoặc trong đêm dưới ngọn đèn xe vận tải bên lề một con đường. Người ta đã trông
thấy những ánh đèn xe hơi trên các ngọn đồi, nghe tiếng súng nổ và sau đó người
ta đi xuống những con đường và tìm nhưng thấy những xác chết. Người ta không
chứng kiến được cảnh mẹ mình bị bắn chết; người ta được báo tin; người ta đã
nghe tiếng súng nổ và người ta đã trông thấy những xác chết.
Pilar đã giúp chàng trông thấy cái cảnh chết chóc đó nơi thành phố
kia. Chàng nghĩ phải chi người đàn bà kia có thể viết được. Chàng sẽ cố gắng
viết lại câu chuyện, và nếu chàng có được cái may mắn là có thể nhớ được hết
thì có lẽ chàng sẽ ghi lại y như lời người đàn bà kể. Trời ơi, sao mà Pilar có
thể kể lại một cách tài tình như vậy được! Bà ta khá hơn Quevedo, chàng nghĩ,
ông chưa bao giờ viết về cái chết của một tên Don Faustino nào một cách tài
tình như lối bà kể. Ước gì mình có đủ tài viết lách để ghi lại câu chuyện,
chàng nghĩ. Ghi lại những gì ta đã làm. Không phải những gì kẻ khác đã gây cho
ta. Chàng thừa biết câu chuyện kể trên. Chàng đã thừa biết những gì đã xảy ra sau
những chiến tuyến. Nhưng phải biết rõ mọi người trước đây. Phải biết lúc đó, ở
trong làng họ như thế nào.
Vì tính cách lưu động của chúng ta và vì chúng ta không bao giờ
phải ở lại sau đó để nhận lãnh sự trừng phạt nên chúng ta không bao giờ biết
được sự việc thật sự kết thúc như thế nào, chàng nghĩ. Chúng ta ở tại nhà một
người nông dân, trong gia đình hắn. Chúng ta đến lúc ban đêm và cùng ăn uống
với họ. Ban ngày chúng ta trốn và đêm sau là ta đi mất. Ta thi hành công tác và
thoát đi. Lần sau nếu có ghé qua, ta lại hay tin là họ đã bị bắn. Chỉ giản dị
như thế.
Nhưng luôn luôn là chuyện đó xảy ra lúc ta đã đi xa. Những du kích
quân đến phá hoại rồi bỏ đi. Những người nông dân thì ở lại để đón nhận sự
trừng phạt. Ta thừa biết như vậy, chàng nghĩ. Những gì ta gây cho chúng ngay từ
lúc đầu. Ta luôn luôn biết được điều đó và ta ghê tởm nó. Ta đã nghe nhắc tới
chuyện đó, trơ trẽn có, nhục nhã có, và người ta khoác lác, khoe khoang, bênh
vục, giải thích, hay chối bỏ nó. Nhưng chính mụ đàn bà kỳ lạ này đã làm ta
trông thấy nó y như thể lúc đó ta cũng có mặt tại nơi xảy ra câu chuyện.
Được, chàng nghĩ, âu cũng là một phần của sự giáo dục con người,
đến khi chung cuộc nó sẽ là một sự giáo dục hoàn toàn. Ta sẽ học hỏi được từ
cuộc chiến này nếu ta chịu lắng nghe. Phần đông chúng ta đã lắng nghe. Chàng
được cái may là đã sống ở Tây Ban Nha một thời của mười năm trước cuộc chiến.
Người ta tin tưởng vào ta phần lớn là ở cái ngôn ngữ. Họ tin cậy ở ta vì ta
rành ngôn ngữ của họ, sử dụng được cả những thành ngữ của họ và vì ta biết rõ
từng hang cùng ngõ hẻm trong xứ họ. Và cuối cùng một người Tây Ban Nha chỉ thật
sự trung thành với xóm làng của hắn. Trước tiên tự nhiên là với xứ Tây Ban Nha,
thứ đến là bộ tộc của chính hắn, gia đình hắn và cuối cùng là công việc làm ăn của
hắn. Nếu ta nói được tiếng Tây Ban Nha hắn sẽ có tiên kiến tốt về ta, nếu ta
biết được tỉnh lỵ nơi hắn ở thì càng tốt hơn, nhưng nếu ta biết được làng mạc
của hắn và nghề nghiệp của hắn thì ta có thể tiến xa tới mức tối đa mà một
người ngoại quốc có thể đạt đến. Khi nói tiếng Tây Ban Nha, người ta chẳng bao
giờ cảm thấy mình là người ngoại quốc. Và gần như chẳng bao giờ người ta đối xử
với mình như một người ngoại quốc, chỉ trừ trường hợp người ta chống lại ta.
Hẳn nhiên là họ thường chống lại ta như họ luôn chống lại mọi
người. Họ chống lại cả chính họ nữa. Hễ có được ba người thì có hai người họp
lại để chống một và rồi hai người đó lại khởi sự phản bội nhau, không phải là
luôn luôn, nhưng thường là như vậy. Đủ để đưa ta đến một kết luận.
Đấy không phải là một lối suy tư, nhưng ai kiểm duyệt được sự suy
tư của mình. Không ai ngoài chàng. Chàng chẳng bao giờ cho phép tnình có được
một tư tưởng chủ bại. Vấn đề trước tiên là phải thắng cho được trận giặc này.
Nếu ta không thắng thì sẽ mất tất cả. Chàng để ý, lắng nghe và ghi nhớ mọi sự.
Chàng đang phục vụ cho một cuộc chiến và chàng dâng hiến cho cuộc chiến này một
sự trung thành tuyệt đối và một sự hoạt động trọn vẹn nhất. Nhưng đầu óc chàng,
cũng như khả năng nghe thấy của chàng không dành riêng cho một ai, và nếu cần
phải có những phán đoán thì đó là chuyện về sau. Và chàng sẽ có đầy đủ dữ kiện
cho những phán đoán đó, chàng đã có nhiều dữ kiện rồi, có khi quá nhiều là
khác.
Hãy nhìn Pilar đây, chàng nghĩ. Dù có chuyện gì đi nữa, nếu có thì
giờ ta phải bảo bà ta kể hết phần còn lại của câu chuyện. Hãy nhìn bà ta bước
đi bên cạnh hai đứa trẻ kia. Ta không thể nào tìm ra ba sản phẩm đẹp mắt hơn
của xứ Tây Ban Nha. Bà ta giống như một trái núi, đứa con trai và đứa con gái
như những cây non. Tất cả những cây già bị đốn xuống và những cây non đang mọc
lên trong sáng như vậy đó. Mặc cho những gì đã xảy ra cho cả hai, chúng vẫn
tươi mát và trong sáng, mới mẻ và trinh nguyên như thể chúng chưa bao giờ nghe
nói đến điều bất hạnh. Nhưng theo Pilar thì Maria vừa mới khá trở lại. Trước đó
chắc trông nàng thiểu não lắm.
Chàng còn nhớ một thanh niên Bỉ, trong Lữ Đoàn Mười Một, đến đăng
lính cùng với năm người con trai khác ở cùng làng. Đó là một ngôi làng khoảng
hai trăm dân và người con trai trước đó chưa từng đi ra khỏi làng bao giờ. Lúc
chàng gặp hắn lần đầu tiên ngoài Tổng Hành Dinh của Lữ Đoàn Hans thì năm người
con trai kia đã chết và hắn trông thật thảm hại. Người ta đang dùng hắn làm hầu
bàn tại Câu lạc bộ của Tổng Hành Dinh. Hắn có gương mặt to và đỏ ửng của người
dân miền Flandre, hai bàn tay nông dân vụng về, kệch cợm. Hắn bưng dĩa đi chậm
chạp, vụng về như con ngựa kéo xe. Lại nữa hắn khóc luôn. Trong suốt bữa ăn hắn
cứ khóc rưng rức.
Cứ nhìn lên là thấy hắn khóc, đang khóc. Gọi rượu là hắn khóc. Đưa
dĩa lấy món ra gu, hắn lại khóc, và quay đầu ngó chỗ khác. Rồi hắn nín, nhưng
nếu người ta nhìn hắn thì là nước mắt hắn lại bắt đầu tuôn ra. Giữa khi đang ăn
thì hắn vô nhà bếp khóc. Ai nấy đều rất tốt với hắn. Nhưng cũng không giúp được
gì. Robert Jordan nghĩ là phải cố tìm hiểu xem hắn ra làm sao vậy, và xem hắn
có bao giờ bình tĩnh trở lại và có thể tiếp tục cầm súng nữa được không.
Bây giờ thì Maria đã khá lắm rồi. Dù sao thì nàng cũng có vẻ như
vậy. Nhưng chàng không phải là một bác sĩ tâm thần. Pilar mới là bác sĩ tâm
thần. Hẳn nhiên sự chung chạ trọn đêm qua đã đem lại điều tốt cho cả hai, cho
người con gái lẫn chàng. Chắc chắn là nó đã đem lại cho chàng điều tốt đẹp. Hôm
nay chàng thấy dễ chịu, sảng khoái và khỏe khoắn, không lo âu và sung sướng.
Tình cảnh khá bất lợi nhưng chàng đã quá may mắn. Chàng đã từng chứng kiến tình
cảnh tương tự của nhiều người khác và họ cho thấy là “không khá”. Cho thấy
là... chàng nghĩ bằng tiếng Tây Ban Nha. Maria thật đáng yêu.
Hãy nhìn nàng, chàng tự nhủ. Hãy nhìn nàng.
Chàng nhìn nàng tung tăng vui vẻ dưới ánh mặt trời. Chiếc sơ-mi ka
ki hở cổ. Nàng bước đi như con ngựa con, chàng nghĩ. Chưa ai có được cái may
mắn như vậy. Những chuyện như vậy không có trong thực tế. Có thể cũng chưa bao
giờ xảy ra trong chiêm bao, chàng nghĩ. Biết đâu rằng ta đã nằm mơ, đã tự tưởng
tượng ra chớ không có thật. Có thể nó cũng giống như những giấc mơ ta nằm thấy
có người đã gặp trong xi-nê, đến bên giường ta lúc đang đêm, thật dịu hiền,
thật đáng yêu. Chàng đã từng ngủ với tất cả những người đó như thế, những khi
ngon giấc trên giường. Chàng vẫn Còn nhớ Garbo và Harlow. Vâng, rất nhiều lần
với Harlow. Biết đâu rằng lần này cũng giống như những giấc mơ kia.
Nhưng chàng còn nhớ lúc Garbo vào giường chàng trong đêm trước cuộc
tấn công ở Pozoblanco, nàng mặc một chiếc áo len êm như lụa, khi chàng choàng
tay qua ôm nàng và khi nàng cúi xuống, tóc nàng đổ xuống phía trước, phủ lên
khuôn mặt chàng và nàng hỏi tại sao chàng chưa bao giờ nói yêu nàng trong khi
nàng đã yêu chàng từ lâu. Nàng không e thẹn không lạnh lùng, không xa cách,
nàng thật đáng yêu trong vòng tay chàng, dịu dàng và đáng yêu như những ngày
nào với Jack Gilbert. Và chuyện xảy ra y như có thật, và chàng đã yêu nàng thật
nhiều, hơn cả Harlow mặc dù Garbo chỉ đến có một lần trong khi Harlow thì...
biết đâu rồi chuyện này cũng giống như những giấc mơ kia.
Tuy nhiên cũng có thể là không phải như vậy, chàng tự nhủ. Có thể
ngay bây giờ đây ta đưa tay ra là có thể chạm được người cô bé Maria kia, chàng
tự nhủ. Liệu ta có dám không, chàng tự nhủ. Có thể ta sẽ nhận ra rằng điều đó
chưa hề xảy ra và không có thật, đó chỉ là điều do ta tưởng tượng ra như những
giấc mơ về những nữ tài tử điện ảnh, những người tình cũ vẫn trở lại ngủ trong
cái túi ngủ kia, trên những sàn nhà trần trụi, trong những ổ rơm, những vựa cỏ,
những chuồng ngựa, những công viên, những nông trại, những khu rừng, những nhà
xe, những chiếc xe vận tải và tất cả những núi đồi thuộc xứ Tây Ban Nha. Tất cả
đã đến trong cái túi ngủ kia, trong giấc ngủ của chàng và tất cả những người đó
đều xinh tươi hơn sự thật ngoài đời. Có thể lần này cũng vậy. Có thể ta sẽ sợ
hãi không dám chạm đến nàng để xem nàng có thật hay không. Có thể, có thể ta sợ
vì có lẽ đó chỉ là mộng mơ và tưởng tượng.
Chàng băng qua lối mòn và đặt bàn tay lên cánh tay người con gái.
Dưới những ngón tay của mình, chàng bắt gặp sự êm ái của cánh tay nàng qua làn
vải ka ki đã mòn cũ. Nàng nhìn chàng mỉm cười.
- Chào Maria. - Chàng nói.
- Chào Inglés. - Nàng đáp lại. Chàng nhìn người con gái, gương mặt
nàng đỏ ửng, đôi mắt màu tro, đôi môi đầy đặn tươi cười và mái tóc ngắn cháy
nắng, nàng ngửa mặt lên và cười trong ánh mắt chàng. Tất cả là sự thật, hoàn
toàn có thật đây mà.
Bây giờ thì họ đã trông thấy doanh trại của El Sordo dưới cuối rừng
thông, nơi có núi đá hình cái chậu to lật úp. Tất cả những núi đá vôi hình cái
chậu ở phía trên đó chắc đầy hang động, chàng nghĩ. Đàng kia, phía trước mặt có
hai cái hang. Những cây thông con mọc trên đá che kín lấy chúng. Chỗ này tốt,
có thể còn tốt hơn chỗ của Pablo.
- Vụ tàn sát những người trong gia đình đồng chí đã xảy ra như thế
nào? - Pilar hỏi Joaquin.
- Không có gì đặc biệt - Joaquin nói - Những người trong gia đình
tôi thuộc phe tả, như nhiều người khác trong thành phố Valladolid. Khi bọn phát
xít thanh lọc thành phố, chúng bắn cha tôi trước. Ông đã bỏ phiếu cho những
người theo xã hội chủ nghĩa. Rồi tụi nó bắn mẹ tôi. Bà cũng đã bỏ phiếu như
vậy. Đó là lần đầu tiên trong đời bà đi bỏ phiếu. Sau đó tụi nó bắn người chồng
của một trong hai người chị của tôi. Anh này là một đoàn viên trong nghiệp đoàn
tài xế xe điện. Hiển nhiên là ảnh sẽ không lái xe điện được nếu không có chân
trong nghiệp đoàn. Nhưng ảnh đâu có để ý gì tới chính trị. Tôi biết rõ điều đó.
Anh hơi nhu nhược nữa là đàng khác. Tôi lại cũng không tin ảnh có thể là một
đồng chí tốt nữa. Kế đó là chồng của người chị gái khác của tôi, cũng trong
nghiệp đoàn tài xế xe điện và cũng đã vào núi như tôi. Tụi nó tưởng chị biết
ảnh ở đâu. Nhưng thật ra chị không biết. Cho nên tụi nó bắn chị vì chị không
chịu khai chỗ ở của ảnh.
- Dã man quá - Pilar nói - El Sordo đâu? Tôi không thấy ông ta.
- Ông ta ở đây, có lẽ trong này. - Joaquin trả lời và ngừng lại,
chống báng súng xuống đất - Pilar này, và Maria nữa, xin các đồng chí tha lỗi
cho tôi, nếu tôi có làm hai người khó chịu khi kể những chuyện gia đình. Tôi
biết là tất cả đều có những phiền muộn và tốt hơn là đừng nói ra.
- Đồng chí cứ nói ra đi - Pilar nói - Chúng ta sinh ra để làm gì,
nếu không phải để giúp nhau. Lắng nghe và im lặng là sự giúp đỡ tối thiểu người
ta có thể làm được.
- Nhưng có thể Maria không chịu nổi. Cô ấy cũng có quá nhiều những
phiền muộn riêng tư lắm rồi.
- Qué va, - Maria nói - những phiền muộn của tôi như cái bầu mà
đồng chí có thể trút hết những ưu phiền của đồng chí vào đó cũng không làm đầy
được. Tôi xin chia buồn cùng đồng chí và mong rằng người chị của đồng chí còn
được mạnh khỏe.
- Cho tới bây giờ thì chị ấy vẫn được bình yên - Joaquin nói - Tụi
nó giam chị trong tù và hình như tụi nó không xử tệ với chị ấy lắm.
- Còn người nào trong gia đình nữa không? - Robert Jordan hỏi.
- Không - Người con trai đáp - Còn tôi thôi, không còn ai nữa.
Ngoại trừ người anh rể đã vào núi và tôi chắc ảnh chết rồi.
- Có thể anh ấy còn mạnh giỏi - Maria nói - Còn đang sống với một
nhóm người trên đó, trên những vùng núi khác.
- Theo tôi thì anh ấy đã chết. Hồi đó chẳng mấy khi anh ấy được
khỏe mạnh lắm. Anh ấy là tài xế xe điện, đâu có thích ứng được với núi rừng.
Tôi không chắc là anh ấy có thể sống nổi một năm. Vả lại phổi anh ấy hơi yếu.
- Nhưng biết đâu anh ấy vẫn được mạnh giỏi. - Maria choàng tay qua
vai người thanh niên.
- Đúng rồi, sao lại không. - Joaquin nói.
Trong lúc người con trai đứng đó, Maria với lên choàng tay qua cổ
hắn và hôn hắn. Joaquin quay đầu đi phía khác vì hắn đang khóc.
- Như là một người anh ruột - Maria nói với hắn - Tôi hôn đồng chí
như hôn một người anh ruột.
Người con trai lắc đầu và lặng lẽ khóc.
- Tôi là em gái của đồng chí - Maria nói - Tôi thương đồng chí và
như vậy đồng chí đã có một gia đình. Tất cả ở đây đều là người trong gia đình
của đồng chí.
- Kể cả Inglés - Pilar nói với giọng tở mở - Có phải thế
không, Inglés?
- Phải - Robert Jordan nói với người con trai - Tất cả chúng tôi
đều là những người trong gia đình của đồng chí, Joaquin à.
- Hắn là em đồng chí - Pilar nói - Phải không Inglés?
Robert Jordan choàng tay qua vai người con trai. “Chúng ta là anh
em với nhau”, chàng nói. Người con trai lắc đầu.
- Tôi xấu hổ là đã trót nói ra - Hắn nói - Nói về những chuyện như
vậy chỉ làm nhọc lòng mọi người. Tôi xấu hổ đã làm mọi người phải áy náy khó
chịu.
- Thôi dẹp cái xấu hổ của đồng chí lại đi cho được việc - Pilar nói
bằng một giọng đầm ấm - Và nếu Maria lại hôn đồng chí thì chính tôi đây cũng
bắt đầu hôn đồng chí đây. Mấy năm trôi qua rồi, tôi chưa được hôn một tay đấu
bò nào; ngay cả một tay đấu bò hạng bét đã trở thành con người cộng sản. Giữ
chặt lấy gã coi Inglés, để tôi hôn cậu ta một cái ngon lành coi.
- Qué va - Người con trai nói và quay phắt đi chỗ khác - Để tôi
yên. Tôi không sao cả và tôi thấy xấu hổ quá.
Hắn đứng đó, cố giữ bình tĩnh. Maria đặt tay vào lòng bàn tay của
Robert Jordan. Bấy giờ Pilar đứng chống nạnh nhìn người con trai một cách chế
giễu.
- Khi tôi hôn đồng chí - Bà ta nói - tôi sẽ không phải hôn như một
người chị đâu. Lại có cái trò hôn như một người chị nữa!
- Không cần phải pha trò - Người con trai nói - Tôi đã bảo là tôi
không sao, và tôi lấy làm tiếc là đã kể câu chuyện.
- À, vậy ta vào gặp ông già đi - Pilar nói - Tôi đã mệt vì những sự
mủi lòng này rồi.
Người con trai nhìn bà ta. Trong ánh mắt hắn ta có thể thấy là hắn
bị thương tổn đến tột độ.
- Không phải những sự mủi lòng của đồng chí - Pilar nói - Của tôi
kìa. Đồng chí thật hiền từ đối với một tay đấu bò.
- Tôi đã thua cuộc - Joaquin nói - Đồng chí không phải lặp đi lặp
lại chuyện đó.
- Đồng chí lại mọc đuôi rồi.
- Vâng, sao lại không. Những người lính chiến đem dùng vào việc đấu
bò là nhứt rồi còn gì nữa, về phương diện kinh tế. Nhiều người sẽ có việc làm.
Và nhà nước sẽ trông coi tất cả chuyện đó. Và biết đâu rằng lúc bấy giờ tôi
không còn hèn nhát nữa.
- Không chắc thế đâu - Pilar nói - Không chắc thế đâu.
- Sao chị lại có thể ăn nói một cách tàn nhẫn như vậy, Pilar? -
Maria hỏi bà ta - Em thương chị nhiều nhưng chị hành động dã man quá.
- Có thể là tôi dã man. - Pilar nói - Nhưng Inglés à, đồng chí có
biết mình sẽ nói gì với El Sordo không?
- Biết.
- Bởi vì ông ta không lắm lời, không giống như tôi, đồng chí và con
người giàu tình cảm này.
- Sao chị lại nói vậy? - Maria lại hỏi, vẻ giận dỗi.
- Chị không biết - Pilar nói và bỏ đi - Theo em thì tại sao vậy, em
biết không?
- Em không biết.
- Có những lúc nhiều chuyện làm chị mệt - Pilar nói một cách cau có
- Em hiểu không? Và một trong những chuyện đó là cái con số bốn mươi tám tuổi.
Em nghe rõ không? Bốn mươi tám tuổi với một gương mặt xấu xí. Và chuyện khác là
việc trông thấy cái nỗi sợ hãi trên nét mặt một tên đấu bò thất bại có khuynh
hướng cộng sản này khi tôi làm bộ nói là sẽ hôn hắn.
- Không phải vậy đâu, Pilar à - Người con trai nói - Không đúng vậy
đâu.
- Qué va, không đúng à? Dẹp mấy người đi. À, ông ta kia rồi. Hola,
Santiago! Qué tal?
Người đàn ông mà Pilar vừa cất tiếng chào có dáng người thấp nặng
nề, mặt nâu sậm, cằm bạnh, tóc hoa râm, đôi mắt màu vàng nâu và dang xa nhau,
chiếc mũi có sóng nhỏ và cong giống mũi người Ấn Độ, môi trên dài, miệng rộng
và mỏng, mày râu nhẵn nhụi. Ông ta từ trong cửa hang bước tới, chân đi chữ bát,
xứng với chiếc quần cụt và đôi ủng của người chăn bò.
Trời nóng nhưng ông ta mặc áo vét da phủ lớp lông cừu, gài nút lên
tận cổ. Ông ta giơ bàn tay kịch cợm sạm nắng ra cho Pilar. “Hola, bà chị” ông
ta nói “Hola” ông ta chào Robert Jordan, ông ta bắt tay chàng và nhìn chăm chú
vào mặt chàng. Robert Jordan thấy đôi mắt ông ta vàng như mắt mèo và phẳng như
mắt rắn. “Guapa” ông ta vừa nói vừa vỗ vai Maria.
- Ăn chưa? - Ông ta hỏi Pilar. Bà ta lắc đầu - Ăn nhé! - Ông ta nói
và nhìn Robert Jordan - Uống rượu nghe? - Ông ta hỏi, phác một cử chỉ bằng tay,
ra dấu rót rượu, ngón cái chỉ xuống.
- Vâng, cám ơn.
- Tốt - El Sordo nói - Huýt ky nghe?
- Đồng chí có cả huýt ky à?
El Sordo gật đầu.
- Người Anh à? Không phải người Nga chớ?
- Americano.
- Ở đây ít người Mỹ. - Ông ta nói.
- Bây giờ thì có nhiều.
- Càng tốt. Bắc hay Nam đây?
- Bắc.
- Coi cũng như dân Inglés. Chừng nào giựt cầu đây?
- Đồng chí biết chuyện cây cầu chứ?
El Sordo gật đầu.
- Sáng mốt.
- Tốt - El Sordo nói - Còn Pablo? - Ông ta hỏi Pilar.
Bà ta lắc đầu. El Sordo mỉm cười.
- Đi chỗ khác chơi đi - Ông ta bảo Maria, rồi lại mỉm cười - Thôi
trở lại đây - Ông ta kéo chiếc đồng hồ ra khỏi túi áo, cột bằng một sợi dây
da... - Nửa tiếng.
Ông ta ra dấu cho họ ngồi xuống trên một thân cây được đẽo gọt dùng
làm ghế ngồi và nhìn Joaquin, chỉ ngón tay cái xuống phía đường mòn về hướng họ
đã đến.
- Tôi đi xuống dưới với Joaquin và sẽ trở lại sau. - Maria nói.
El Sordo vào hang và trở ra với một chai huýt ky và ba cái ly. Chai
rượu cắp dưới nách, ba cái ly trong tay, mỗi ngón tay thọc trong một cái, tay
kia xách cổ một bình nước bằng đất nung. Ông để chai rượu và mấy cái ly lên
thân cây, và đặt bình nước dưới đất.
- Không có nước đá. - Ông ta nói với Robert Jordan và đưa cho chàng
chai rượu.
- Tôi không uống. - Pilar nói, vừa lấy tay đậy ly của mình đi.
- Đêm rồi có nước đá - El Sordo mỉm cười nói - Giờ tan hết rồi. Có
nước đá trên kia - El Sordo nói và chỉ tuyết trên những đỉnh núi trọc - Quá xa!
Robert Jordan bắt đầu rót rượu vào ly cho El Sordo nhưng người đàn
ông ù tai lắc đầu và ra dấu cho Robert Jordan tự rót lấy cho mình.
Robert Jordan rót thật nhiều rượu vào ly và El Sordo nhìn chàng một
cách thích thú. Khi chàng uống cạn, ông ta đưa bình nước và Robert Jordan
nghiêng chiếc bình đất nung cho nước lạnh từ vòi chảy vào đầy ly.
El Sordo rót cho mình nửa ly rượu rồi rót nước lạnh vào cho đầy.
- Rượu à? - Pilar hỏi.
- Không. Nước. Này, cầm lấy đi. - Ông ta nói.
- Không tốt, tôi quen nhiều người Anh. Lúc nào cũng uống nhiều huýt
ky.
- Ở đâu?
- Ranch - El Sordo nói - Mấy người bạn của xếp.
- Đồng chí kiếm đâu ra huýt ky này đây?
- Cái gì? - Ông ta không nghe.
- Phải nói lớn - Pilar nói - Bên lỗ tai kia. - El Sordo chỉ lỗ tai
khá hơn của mình và mỉm cười.
- Đồng chí kiếm đâu ra huýt ky này đây? - Robert Jordan hét lớn.
- Làm lấy. - El Sordo nói và thấy Robert Jordan dừng tay lại nửa
chừng khi đang đưa ly rượu lên môi - Không - El Sordo nói và vỗ vai chàng - Đùa
thôi. Từ La Granja đấy. Đêm qua nghe nói có đồng chí chuyên viên chất nổ tới.
Tốt. Tôi rất vui mừng. Bèn đi kiếm rượu. Cho đồng chí. Thích chứ?
- Rất thích - Robert Jordan nói - Huýt ky rất ngon.
- Tôi hài lòng - Sordo mỉm cười - Tối nay tôi muốn mang nó tới và
cho hay một tin.
- Tin gì?
- Nhiều cuộc chuyển quân.
- Ở đâu?
- Ségovie. Đồng chí có thấy phi cơ không?
- Có.
- Tin xấu hả?
- Xấu.
- Chuyển quân thế nào?
- Nhiều, giữa Villacastin và Ségovie. Trên đường Valladolid. Nhiều
giữa Vallacastin và San Rafael. Nhiều, nhiều lắm.
- Đồng chí nghĩ thế nào?
- Chúng ta sẽ chuẩn bị một cái gì chớ?
- Có thể.
- Chúng biết. Chúng cũng chuẩn bị.
- Có thể.
- Sao không giựt cầu đêm nay?
- Lệnh.
- Lệnh gì?
- Tổng Tham Mưu.
- Thì ra vậy.
- Thời điểm giựt cầu có quan trọng lắm không? - Pilar hỏi.
- Quan trọng nhứt.
- Nhưng nếu chúng chuyển quân lên thì sao?
- Tôi sẽ gởi Anselmo với báo cáo đầy đủ về tất cả những cuộc chuyển
quân và tập trung quân. Lão đang quan sát con đường.
- Đồng chí có cho người nào nằm trên con đường không? - Sordo hỏi.
Robert Jordan không biết ông ta nghe được tới đâu. Với một người
điếc thì không thể nào biết được hắn đã nghe được tới đâu.
- Có. - Chàng nói.
- Tôi cũng thế - El Sordo nói - Sao không giựt cầu ngay bây giờ?
- Tôi có lệnh.
- Tôi không thích thế - El Sordo nói - Cái này thì tôi không thích.
- Tôi cũng không. - Robert Jordan nói.
El Sordo lắc đầu và hớp một hớp rượu.
- Đồng chí cần đến tôi không?
- Đồng chí có được bao nhiêu người?
- Tám.
- Để cắt đường dây điện thoại, tấn công, chiếm đồn canh ở trạm lục
lộ và rút lên cầu.
- Dễ ợt.
- Tất cả sẽ được ghi chép rõ ràng.
- Đừng lo. Còn Pablo thì sao?
- Sẽ cắt đường điện thoại phía dưới, tấn công, chiếm đồn canh ở
trại cưa, và rút lên cầu.
- Và sau cùng làm sao để rút lui? - Pilar hỏi - Chúng tôi tất cả có
bảy người đàn ông, hai người đàn bà và năm con ngựa. Đồng chí có bao nhiêu? -
Bà ta hét vào tai của Sordo.
- Tám người với bốn con ngựa. Vậy thì thiếu ngựa - Ông ta nói -
Thiếu ngựa.
- Mười bảy người với chín con ngựa - Pilar nói - Chưa kể trường hợp
phải chở này chở nọ.
Sordo làm thinh.
- Không có cách nào kiếm thêm ngựa sao? - Robert Jordan nói vào lỗ
tai còn nghe được của Sordo.
- Một năm trời chiến đấu - Sordo nói - Kiếm được bốn con ngựa - Ông
ta đưa lên bốn ngón tay - Bây giờ đồng chí cần tám con cho ngày mai?
- Vâng - Robert Jordan đáp - Bây giờ đồng chí sắp sửa rời bỏ nơi
đây, không cần phải thận trọng như những khi còn sống ở đây nữa. Bây giờ ở đây
đồng chí không cần gìn giữ nữa. Đồng chí không thể lẻn xuống đánh cắp tám con
ngựa à?
- Có thể lắm chớ - Sordo nói - Có thể không được con nào. Có thể
nhiều hơn.
- Đồng chí có một khẩu tự động không? - Robert Jordan hỏi.
Sordo gật đầu.
- Đâu?
- Trên đồi.
- Loại nào?
- Không biết tên. Có nồi đạn.
- Bao nhiêu đạn?
- Năm nồi.
- Có ai biết sử dụng không?
- Tôi. Biết chút ít. Không bắn nhiều lắm. Ở đây không muốn gây
nhiều tiếng động. Không muốn dùng súng đạn.
- Tôi sẽ coi lại - Robert Jordan nói - Có lựu đạn ném tay không?
- Thiếu gì!
- Bao nhiêu?
- Một trăm rưởi. Có thể nhiều hơn nữa.
- Còn những người khác thì sao?
- Để làm gì?
- Để đủ lực lượng chiếm đồn canh và yểm trợ cây cầu trong lúc tôi
lo giựt sập nó. Chúng ta phải có gấp đôi cái ta hiện có.
- Chiếm đồn thì đừng lo. Vào lúc nào trong ngày?
- Buổi sáng.
- Đừng lo.
- Tôi có thể dùng thêm hai mươi người nữa, cho chắc. - Robert
Jordan nói.
- Không có người giỏi. Đồng chí có dùng được những người không đáng
tin cậy không?
- Không. Có bao nhiêu người có khả năng?
- Có lẽ bốn.
- Sao ít vậy?
- Không dám tin.
- Chỉ để giữ ngựa thôi à?
- Phải, đáng tin cậy lắm mới cho giữ ngựa.
- Tôi cần thêm mười người đáng tin cậy nếu có thể được.
- Bốn.
- Anselmo đã bảo tôi có hơn một trăm trên vùng đồi này mà!
- Tệ lắm.
- Đồng chí đã bảo là ba mươi - Robert Jordan nói với Pilar - Ba
mươi với một mức độ đáng tin cậy nào đó.
- Còn mấy người của Elias thì sao? - Pilar hét lớn cho El Sordo
nghe.
- Dở ẹt. - Ông ta lắc đầu.
- Đồng chí không tìm ra nổi một chục à? - Robert Jordan hỏi. Sordo
nhìn chàng với đôi mắt phẳng bẹt màu vàng và lắc đầu.
- Bốn. - Ông ta nói và giơ bốn ngón tay lên.
- Người của đồng chí ngon lành chớ? - Robert Jordan hỏi, chàng hối
hận là đã thốt lên câu đó.
Sordo gật đầu.
- Dentro de la gravedad - Ông ta nói bằng tiếng Tây Ban Nha - Trong
giới hạn của sự nguy hiểm - Ông ta mỉm cười - Gay đó hả?
- Có thể.
- Với tôi cũng thế thôi. - Sordo nói gọn lỏn, không vẻ gì khoác lác
- Bốn người giỏi còn hơn đông mà dở. Trong cuộc chiến này luôn luôn có quá
nhiều thứ dở, thứ hay thì ít. Cái thứ hay, thứ tốt ngày một ít đi. Còn Pablo? -
Ông ta nhìn Pilar.
- Như đồng chí biết đó - Pilar nói - Càng ngày càng tệ.
Sordo nhún vai.
- Uống đi - Sordo bảo Robert Jordan - Tôi sẽ đem người của tôi đến,
thêm bốn người nữa, thành ra được mười hai. Tối nay chúng ta sẽ tính qua tất
cả. Tôi có sáu chục thỏi cốt mìn. Đồng chí cần không?
- Thứ mấy phần trăm?
- Không rõ. Thứ cốt mìn thường. Tôi sẽ đem tới.
- Ta sẽ dùng nó để giựt sập cây cầu nhỏ phía trên - Robert Jordan
nói - Vậy là tốt lắm. Tối nay đồng chí xuống chứ? Đem theo thứ đó nghe. Tôi
không được lệnh về cây câu nhỏ đó nhưng nên giựt sập nó đi.
- Tối tôi đến. Rồi còn đi kiếm ngựa.
- Có hy vọng tìm ra ngựa không?
- Có thể, bây giờ ăn đi.
Có phải ông ta vẫn nói chuyện lối đó với mọi người chăng, Robert
Jordan tự hỏi. Hay theo ý ông ta thì phải làm thế để cho người ngoại quốc hiểu
được?
- Và xong vụ nay chúng ta sẽ đi đâu? - Pilar la lớn vào tai của El
Sordo.
Ông ta nhún vai.
- Phải lo liệu tất cả chứ. - Người đàn bà nói.
- Dĩ nhiên - Sordo nói - Sao lại không?
- Công việc khởi sự bết quá - Pilar nói - Phải tổ chức cho chu đáo
chứ?
- Đúng thế, đồng chí à. - Sordo nói - Đồng chí lo ngại về chuyện
gì?
- Mọi chuyện. - Pilar la lớn.
Sordo nhìn bà ta, nhe ràng cười.
- Đồng chí đã sống với Pablo khá lâu rồi đó. - Ông ta nói.
À thì ra ông ta chỉ nói thứ tiếng Tây Ban Nha bồi đó với người
ngoại quốc. Robert Jordan nghĩ. Tốt, ta hài lòng khi nghe ông ta nói một cách
xuôi tai như vậy.
- Đồng chí nghĩ chúng ta nên đi đâu? - Pilar hỏi.
- Đi đâu?
- Vâng, đi đâu?
- Thiếu gì chỗ - El Sordo nói - Thiếu gì chỗ. Đồng chí có biết
Gredos không?
- Ở đó đông người lắm. Tất cả những nơi đó sẽ bị thanh toán khi
chúng có thì giờ.
- Vâng. Nhưng đó là một vùng quê rộng lớn và hoang vu.
- Khó đến đó lắm. - Pilar nói.
- Cái gì cũng khó khăn cả - El Sordo nói - Chúng ta có thể tới
Gredos cũng như tới bất cứ nơi nào. Đi ban đêm. Bây giờ ở đây nguy hiểm lắm.
Chúng ta ở đây được thế này là một điều lạ. Ở Gredos thì an toàn hơn ở đây.
- Đồng chí có biết tôi muốn đi đâu không? - Pilar hỏi ông ta.
- Đâu? Paramera à? Không ích gì.
- Không - Pilar nói - Không phải tới Siera de Paramera đâu. Tôi
muốn tới vùng Cộng Hòa.
- Có thể chứ!
- Mấy người của đồng chí có đi không?
- Có, nếu có lịnh tôi.
- Người của tôi thì tôi không được biết - Pilar nói - Pablo sẽ
không ưng đi, dù rằng, thật ra, hắn có thể sẽ cảm thấy an toàn hơn khi sống ở
đó. Hắn quá già để đi lính, trừ phi người ta gọi thêm các lớp khác. Tên du mục
cũng sẽ không muốn đi. Mấy người khác thì tôi không biết.
- Vì lâu lắm rồi ở đây không có gì xảy ra nên người ta không thấy
được sự nguy hiểm. - El Sordo nói.
- Sau mấy chiếc máy bay, bữa nay người ta sẽ thấy rõ hơn - Robert
Jordan nói - Nhưng tôi nghĩ từ Gredos đồng chí có thể tung ra những hoạt động
rất ngoạn mục.
- Cái gì? - El Sordo nói và nhìn chàng với đôi mắt trao tráo. Không
có chút thân mật nào trong câu hỏi của ông ta.
- Từ đó đồng chí có thể mở những cuộc tấn công hữu hiệu hơn. -
Robert Jordan nói.
- À - El Sordo nói - Đồng chí biết Gredos à?
- Biết, từ đó đồng chí có thể tung ra những hoạt động nhằm vào
thiết lộ chính. Đồng chí có thể tiếp tục cắt đứt con đường trong khi chúng tôi
đánh sâu vào miền Nam tại Estremadura. Ở đó mà hoạt động thì có lợi hơn là trở
về vùng Cộng Hòa. Robert Jordan nói - Đồng chí ở đó có ích hơn.
Nghe chàng nói, cả hai có vẻ buồn.
Sordo nhìn Pilar rồi quay lại nhìn chàng.
- Đồng chí biết Gredos? - Sordo hỏi - Thật chứ?
- Thật. - Robert Jordan đáp.
- Đồng chí sẽ đi đâu?
- Phía trên Barco de Avila. Có những chỗ tốt hơn ở đây. Để tấn công
trục lộ chánh và thiết lộ giữa Béja và Plasencia.
- Rất khó. - Sordo nói.
- Chúng tôi đã từng phá một thiết lộ giống y thế ở vùng nguy hiểm
hơn tại Estremadura. - Robert Jordan nói.
- Chúng tôi là những ai?
- Toán du kích ở Estremadura.
- Các đồng chí có đông không?
- Khoảng bốn mươi.
- Cái anh chàng yếu thần kinh có cái tên kỳ lạ có phải gốc ở đó
không? - Pilar hỏi.
- Phải.
- Bây giờ hắn ở đâu?
- Chết rồi, như tôi đã kể cho đồng chí nghe.
- Hắn cũng từ đó đến à?
- Phải.
- Đồng chí hiểu ý tôi chứ? - Pilar hỏi chàng. Ta đã phạm một lỗi
lầm, Robert Jordan nghĩ. Ta đã lỡ bảo cho những người Tây Ban Nha rằng bọn ta
đã làm một điều gì đó hay hơn họ trong khi đúng luật là không bao giờ nói về
những chiến công hoặc khả năng riêng biệt của chính ta.
Trong khi lẽ ra phải tâng bốc họ, tôi đã trót bảo cho họ biết những
điều mà tôi nghĩ họ nên làm, và bây giờ họ đã nổi giận. Và rồi họ sẽ nguôi đi
hoặc giả vẫn còn giận mãi. Và thật ra ở Gredos họ sẽ có ích hơn ở đây nhiều.
Chứng cớ là ở đây, kể từ trận đánh xe lửa do Kachkine tổ chức đến nay họ đã
chẳng làm được điều gì? Và đó cũng chẳng phải là một thành công lớn lao gì cho
lắm. Nó chỉ gây thiệt hại cho bọn phát xít có một đầu máy xe lửa và vài tên
lính bị giết chết, nhưng tất cả bọn họ đều nói đến việc ấy như một cao điểm của
cuộc chiến. Có thể họ sẽ quyết định đến vùng Gredos. Vâng, nhưng cũng có thể là
tôi sẽ bị tống cổ ra khỏi chốn này. Và dù sao thì tình cảnh cũng chẳng đẹp gì để
mà trông đợi.
- Nghe đây, Inglés - Pilar bảo chàng - Thần kinh của đồng chí sao
đó?
- Không sao cả - Robert Jordan nói - Không sao cả.
- Bởi vì, người chuyên viên cốt mìn sau cùng được gởi đến làm việc
với chúng tôi trước đây, mặc dù là một chuyên viên tài giỏi phi thường, nhưng
phải cái tội là dễ bị kích động.
- Chúng ta không thiếu gì người dễ bị kích động. - Robert Jordan
nói.
- Tôi không bảo đồng chí ấy là một kẻ hèn nhát, vì đồng chí ấy đã
hành động rất đúng mức - Pilar tiếp tục - Nhưng hắn có cái lối ăn nói rất quái
lạ và bâng quơ. - Bà ta lên giọng - Có đúng như vậy không, Santiago, cái ông
chuyên viên cốt mìn vừa rồi, cái người đánh xe lửa ấy mà, hắn có vẻ hơi kỳ
quặc, có đúng không?
- Hơi lạ. - Người đàn ông điếc lác gật đầu, và đưa mắt nhìn vào
khuôn mặt của Robert Jordan, cái nhìn của ông ta làm chàng nhớ lại cái lỗ vòi
của một chiếc máy hút bụi, Si, algo raro, pero bueno 1.
- Murio - Robert Jordan nói lớn vào tai người điếc - Hắn chết rồi.
- Sao vậy? - Người đàn ông điếc hỏi, ông ta rời đôi mắt chàng để
nhìn vào đôi môi.
- Tôi đã bắn hắn. - Robert Jordan nói - Hắn bị thương nặng quá
không thể đi nổi, và tôi đã bắn hắn chết.
- Hắn lúc nào cũng nói đến cái chết - Pilar nói - Đó là mối ám ảnh
cố định của hắn.
- Como fué 2? - Người đàn ông điếc hỏi - Trong vụ xe lửa phải
không?
- Lúc quay về sau trận đánh xe lửa - Robert Jordan nói - Vụ chiếc
xe lửa thì thành công. Lúc trở về trong đêm chúng tôi đã gặp một toán tuần tiễu
của bọn phát xít và trong lúc bọn tôi tháo chạy hắn bị bắn trúng ở phần trên
lưng, không trúng xương sống mà trúng xương bả vai. Hắn đã đi được một khoảng
khá xa, nhưng vì vết thương nên không đi được nữa. Hắn không muốn bị bỏ lại một
mình và tôi đã bắn chết hắn.
- Memos mal - El Sordo nói - Vậy mà đỡ hơn.
- Đồng chí có cho rằng đầu óc mình bình thường không? - Pilar hỏi
Robert Jordan.
- Có - Chàng bảo bà ta - Tôi tin rằng đầu óc tôi sáng suốt và khi
tôi thanh toán xong cây cầu này thì các đồng chí nên kéo đến vùng Gredos.
Khi chàng nói thế, người đàn bà bắt đầu chửi xối xả vào mặt chàng.
Người đàn ông điếc ngó Robert Jordan lắc đầu và nhe răng cười đắc
chí. Ông ta tiếp tục lắc đầu một cách vui thích khi Pilar tiếp tục xỉ vả và
Robert Jordan biết rằng vậy mà lại êm chuyện. Cuối cùng bà ta thôi không chửi
nữa, với tay lấy bình nước, dốc bình uống một hơi và nói một cách điềm tĩnh.
“Hãy câm họng lại và đừng thắc mắc về cái mục chúng tôi phải làm gì sau đó có
được không, Inglés? Đồng chí rồi sẽ trở về vùng Cộng Hòa với ‘món hàng’ của
mình và bỏ mặc chúng tôi ở lại đây để quyết định xem chúng tôi sẽ chết tại nơi
nào giũa vùng đồi núi này”.
- Sống chớ - El Sordo nói - Bình tĩnh coi, Pilar.
- Sống và chết - Pilar nói - Tôi đã thấy rõ cái kết cuộc rồi. Tôi
quý đồng chí lắm, Inglés, nhưng xin đừng chõ mỏ vào những chuyện gì chúng tôi
phải làm khi công việc của đồng chí được hoàn tất.
- Đó là việc của đồng chí - Robert Jordan nói - Tôi không dám xen
vào.
- Nhưng đồng chí đã xen vào - Pilar nói - Hãy mang cái con đĩ đầu
trọc của đồng chí về vùng Cộng Hòa đi, nhưng đừng đóng cửa rút cầu với kẻ khác,
họ không phải là những người ngoại quốc và họ đã biết thương yêu xứ Cộng Hòa
của họ trong khi đồng chí miệng còn hôi sữa.
Maria đã leo lên theo lối mòn trong lúc hai người nói chuyện và
nàng nghe được câu chót khi Pilar thét to vào mặt Robert Jordan. Maria nhìn
Robert Jordan, lắc đầu lia lịa, và đưa ngón tay ra dấu bảo đừng. Pilar thấy
Robert Jordan nhìn người con gái mỉm cười. Bà ta quay lại và nói: “Ừ tao nói
mày là con đĩ. Mấy người rủ nhau mà về thành phố Valence đi. Bọn này về Gredos
gậm cứt dê khô được mà”.
- Em là một con đĩ nếu chị muốn thế, Pilar à - Maria nói - Chị nói
như vậy chắc là đúng đó. Nhưng hãy bình tĩnh. Chị sao vậy?
- Không sao cả - Pilar nói và ngồi phệt xuống chiếc băng, giọng của
bà ta dịu xuống, tất cả cái giọng chanh chua biến đâu mất - Chị không muốn nói
em như vậy. Nhưng chị ao ước được về vùng Cộng Hòa quá đi.
- Tất cả chúng ta có thể cùng đi. - Maria nói.
- Sao lại không? - Robert Jordan nói - Vì lẽ em có vẻ không ưa
Gredos.
Sordo nhìn chàng nhe răng cười.
- Để coi - Pilar nói, cơn giận dữ của bà ta đã biến mất - Cho tôi
một ly rượu kỳ khôi kia đi. Cơn giận làm tôi rát cả cổ. Để rồi xem. Để rồi xem
chuyện gì xảy ra.
- Đồng chí có thấy không - El Sordo giải thích - Chính cái buổi
sáng mới là lôi thôi. - Bây giờ thì ông ta không nói cái thứ tiếng Tây Ban Nha
bồi ấy và ông ta đang nhìn đôi mắt của Robert Jordan một cách bình tĩnh như
muốn phân bua, không phải dò xét cũng không phải nghi kỵ, không với vẻ e dè
cũng không với cái vẻ trịch thượng của một lão tướng có cái kiêu hãnh đã nhập
cuộc trước - Tôi hiểu được những nhu cầu của đồng chí, tôi biết là phải diệt
các đồn canh, và cây cầu phải được yểm trợ trong lúc đồng chí thi hành công
tác. Điều này thì tôi hiểu rất thấu đáo. Chuyện này có thể làm được dễ dàng
trước lúc trời sáng hoặc trước hừng đông.
- Đúng vậy - Robert Jordan nói - Đi chơi một chút đi, được không? -
Chàng nói với Maria, không quay lại nhìn nàng.
Người con gái đi xa đến chỗ không còn nghe được câu chuyện và ngồi
xuống, hai tay bắt tréo qua hai mắt cá.
- Đồng chí thấy không, - Sordo nói - chuyện đó không có gì rắc rối.
Nhưng phải rút lui sau đó và đi khỏi vùng này giữa ban ngày là cả một vấn đề.
- Hẳn là vậy - Robert Jordan nói - Tôi đã nghĩ đến chuyện đó. Tôi
cũng phải di chuyển giữa ban ngày vậy.
- Nhưng đồng chí có một mình - El Sordo nói - Bọn tôi thì đông.
- Ta cũng có thể trở về trại, và đợi trời sụp tối hãy ra đi. -
Pilar nói. Bà ta đưa chiếc ly lên môi rồi hạ xuống.
- Việc đó lại cũng rất nguy hiểm - El Sordo giải thích - Có thể còn
nguy hiểm hơn là đàng khác.
- Tôi có thể nghiên cứu chuyện đó. - Robert Jordan nói.
- Thanh toán cây cầu trong đêm thì lại dễ - El Sordo nói - Vì lẽ
đồng chí ra điều kiện là phải thanh toán lúc ban ngày thành ra nó lại đưa đến
những hậu quả trầm trọng.
- Tôi hiểu điều đó.
- Đồng chí không thể hành động vào lúc ban đêm sao?
- Làm vậy tôi sẽ bị xử bắn ngay.
- Nhưng nếu hành động giữa ban ngày thì rất có thể là cả bọn sẽ bị
bắn.
- Đối với cá nhân tôi thì việc đó cũng không quan trọng mấy một khi
chiếc cầu đã bị giựt sập - Robert Jordan nói - Nhưng tôi đã thấy được quan điểm
của đồng chí. Đồng chí không thể tính ra một cuộc rút lui giữa ban ngày sao?
- Đúng vậy - El Sordo nói - Chúng tôi sẽ tính ra một cuộc rút lui
như vậy. Nhưng tôi muốn cắt nghĩa cho đồng chí thấy tại sao người ta lo âu và
tại sao người ta lại đổ quạu. Đồng chí nói đến chuyện kéo về Gredos như đó là
một cuộc thao diễn quân sự. Tới được Gredos sẽ là một phép lạ.
Robert Jordan làm thinh không nói gì.
- Nghe đây - Người đàn ông điếc nói - Tôi nói nhiều quá. Nhưng có
như vậy chúng ta mới hiểu nhau. Chúng tôi còn tồn tại ở đây là nhờ một phép lạ.
Cái phép lạ của sự lười biếng và ngu đần của bọn phát xít và rồi theo thời gian
chúng sẽ sửa chữa. Dĩ nhiên chúng tôi rất thận trọng và chúng tôi không hề gây
một xáo trộn nào trong vùng này.
- Tôi biết.
- Nhưng bây giờ, với cái vụ này, chúng tôi phải đi. Chúng tôi phải
suy nghĩ thật nhiều về cách thức ra đi của chúng tôi.
- Hiển nhiên là vậy.
- Vậy thì, - El Sordo nói - bây giờ chúng ta ăn đi. Tôi đã nói quá
nhiều.
- Chưa bao giờ tôi nghe đồng chí nói nhiều như vậy - Pilar nói - Có
phải tại cái này không? - Bà ta đưa cao chiếc ly lên.
- Không - El Sordo lắc đầu - Không phải tại huýt ky. Tại chưa bao
giờ tôi có nhiều chuyện để nói như vậy.
- Tôi quý trọng sự giúp đỡ và lòng trung thực của đồng chí - Robert
Jordan nói - Tôi ghi nhận nỗi khó khăn gây ra do việc ấn định giờ giấc cho công
cuộc giựt sập cây cầu.
- Đừng nói đến chuyện đó - El Sordo nói - Chúng tôi có mặt ở đây để
làm hết khả năng của chúng tôi. Nhưng chuyện này thật rắc rối.
- Và trên giấy tờ thì rất giản dị - Robert Jordan mỉm cười - Trên
giấy tờ thì cây cầu bị giựt sập đúng vào lúc cuộc tấn công bắt dầu để cho không
có cái gì có thể tiến lên trên con đường được. Rất là giản dị.
- Ước gì người ta để cho chúng ta hành động trên giấy tờ - El Sordo
nói - Ước gì chúng ta được quan niệm và thực hiện một điều gì đó bằng giấy tờ.
- “Giấy tờ ít đổ máu” - Robert Jordan dẫn một câu châm ngôn.
- Nhưng nó rất hữu ích - Pilar nói - Es muy util. Điều tôi muốn làm
là dùng những mênh lệnh của đồng chí trong mục đích đó.
- Tôi cũng vậy - Robert Jordan nói - Nhưng chúng ta sẽ không bao
giờ thắng trận bằng cách đó.
- Không - Người đàn bà nói - Tôi cho là không. Nhưng đồng chí có
muốn biết tôi thích cái gì không?
- Về vùng Cộng Hòa - El Sordo nói. Ông ta đã chìa lỗ tai thính sát
vào lúc bà nói - Ya iras, mujer 3. Chúng ta hãy thắng trận giặc này đi và rồi
tất cả sẽ thuộc về Cộng Hòa.
- Được rồi - Pilar nói - Và bây giờ thì chúng ta ăn cho rồi đi.
--- ------ ------ ------ -------
1 Đúng, rất lạ nhưng tốt.
2 Xảy ra thế nào?
3 Mụ sẽ đi, mụ à.
Chương 12
Họ bắt tay từ giã El Sordo sau bữa cơm và bước xuống con đường mòn.
El Sordo tiễn chân họ tới tận đồn canh phía dưới.
- Chào nhé! - Ông ta nói - Hẹn tối nay.
- Chào đồng chí. - Robert Jordan nói với ông ta và cả ba bước xuống
con đường mòn trong khi ông ta đứng yên, dõi mắt nhìn theo. Maria quay đầu lại
và vẫy tay. El Sordo cũng vẫy tay vừa dùng cánh tay làm cái cử chỉ nhanh nhẹn
có ý nghĩa một sự tiễn biệt theo lối Tây Ban Nha, nhưng lại nhắc nhở nhiều hơn
tới việc ném một hòn đá. Trong suốt bữa ăn, ông ta đã không mở nút áo vét da
trừu và đã một mực tỏ ra lịch sự bằng cách luôn luôn cẩn thận quay đầu lại
trong khi lắng nghe, ông ta lại khởi sự dùng thứ tiếng Tây Ban Nha dung dị để
hỏi Robert Jordan một cách lễ độ về tình hình nền Cộng Hòa, nhưng điều trông
thấy rõ là ông ta không muốn bận tâm đến nó.
Trong lúc từ giã, Pilar đã hỏi ông ta: “Có gì không, Santiago?”
- Không có gì, đồng chí ạ - Người đàn ông điếc trả lời - Rất tốt
đẹp nhưng tôi đang suy nghĩ.
- Tôi cũng vậy. - Pilar nói và bây giờ bọn họ bước trên con đường
mòn, trong chuyến đi bộ đầy khỏe khoắn và vui vẻ, xuyên những rặng cây thông,
dọc theo con đường dốc mà mới đây họ đã nhọc nhằn leo lên, Pilar không nói gì.
Robert Jordan và Maria cũng lặng thinh, và cả ba người dồn bước đi nhanh. Họ
băng qua khoảng thung lũng có rừng cây thưa thớt, rồi vượt con dốc để tới một
rùng cây lớn sau cùng họ tới vùng đất cao phủ đầy những đồng cỏ.
Trời oi bức vào buổi xế chiều một ngày cuối tháng Năm, và đến cái
dốc sau cùng, người đàn bà bỗng dừng chân. Robert Jordan cũng đứng lại, quay
đầu lại nhìn, thấy mồ hôi đổ hột trên trán Pilar. Chàng thấy khuôn mặt rám nâu
của bà ta như xanh xao, nước da nhợt nhạt và đôi mắt thâm quầng. Chàng nói :
- Ta nghỉ một chút đi. Ta đi nhanh quá.
Bà ta bảo :
- Không. Ta tiếp tục đi thôi.
Maria nói :
- Chị hãy nghỉ mệt đi, Pilar - Maria nói - Trông chị không được
khỏe.
Bà ta lại tiếp tục leo dốc con đường mòn nhưng khi tới chóp, bà ta
bắt đầu thở dốc và người ta thấy rõ khuôn mặt dẫm mồ hôi của bà tái hẳn.
- Chị ngồi xuống đi, Pilar - Maria nói - Em van chị, em van chị,
ngồi xuống đi.
- Ừ. - Pilar nói.
Cả ba người ngồi dưới một gốc thông và phóng tầm mắt qua khỏi đồng
cỏ cao, nhìn những ngọn thông như trồi lên từ các thung lũng, phủ đầy một lớp
tuyết sẽ ánh lên trong mặt trời buổi xế chiều.
- Tuyết trông bẩn thỉu nhưng lại đẹp làm sao - Pilar nói - Nó dễ
gây ảo tưởng làm sao. - Bà quay sang Maria - Chị xin lỗi đã xử tệ với em,
guapa. Chị không biết cái gì nó bắt chị bây giờ nữa. Chị không được vui.
- Em không bao giờ để ý tới những gì chị nói trong lúc giận dữ -
Maria trả lời - Và chị thì thường hay giận dữ.
- Không, còn tệ hơn là giận dữ nữa lận. - Pilar vừa nói vừa nhìn về
phía những đỉnh cao.
- Chị không được khỏe. - Maria nói.
- Cũng không phải như vậy đâu - Người đàn bà nói - Đến đây, guapa,
kê đầu lên gối chị đây này.
Maria đến bên bà ta, dang tay ra, đoạn khoanh lại trong dáng điệu
của người ngủ không có gối và nàng kê đầu trên vai người đàn bà. Nàng ngẩng mặt
về phía Pilar và mỉm cười với bà ta, nhưng người đàn bà to khỏe thì mãi nhìn về
phía bên kia đồng cỏ, phía những ngọn núi xa. Bà ta vuốt ve mái đầu người thiếu
nữ trong khi vẫn không nhìn vào nàng, một ngón tay nhẹ lần lên trán, tiếp theo
là vành tai, tiếp theo là làn tóc mọc sau gáy.
- Đồng chí sẽ được nàng trong một chốc lát, Inglés ạ. - Bà ta nói.
Robert Jordan đang ngồi phía sau lưng bà.
- Chị đừng nói vậy. - Maria nói.
- Đúng vậy mà, hắn sẽ được cưng - Pilar nói và bà ta lần ngón tay
quanh trái tai của cô gái - Nhưng chị lại rất ghen tuông.
- Nhưng mà, Pilar - Maria nói - Chính chị đã giải thích với em rằng
giữa chúng ta không có chuyện đó.
- Luôn luôn có một cái gì giống như vậy - Người đàn bà nói - Luôn
luôn có một cái gì lẽ ra không nên có. Nhưng với chị thì không có chuyện gì
hết. Đúng ra, chị mong em có hạnh phúc và không mong gì khác hơn.
Maria im lặng và tiếp tục nằm dài như vậy, cố gượng để đầu nàng
khỏi đè nặng xuống.
- Nghe đây, guapa, - Pilar nói, và bây giờ ngón tay bà ta lướt đi,
e dè nhưng lại chính xác trên gò má - Nghe đây, em cưng, chị thương em, hắn có
thể sở hữu được em, chị không phải một tortillera 1 mà là một người đàn bà sính
đàn ông. Thật đó. Nhưng bây giờ thì chị khoái nói điều này giữa thanh thiên
bạch nhật, rằng chị thương em.
- Em cũng thương chị.
- Qué va, đừng nói bậy. Em không hiểu chị nói gì mà.
- Hiểu, em hiểu chớ.
- Sao. Em hiểu à. Em thuộc về ông Inglés. Nó phải như vậy mà. Đó là
điều chị mong muốn. Chị không cho phép điều gì khác. Chị không làm điều gì bậy
bạ. Chị chỉ nói lên một sự thật. Không có bao nhiêu người dám nói sự thật với
em, càng không có người đàn bà nào dám nói. Chị ghen và chị nói tuốt luốt cho
em nghe.
- Chị đừng nói vậy - Maria nói - Chị đừng nói vậy, chị Pilar.
- Por qué 2 không nói vậy được - Người đàn bà nói nhưng vẫn không
nhìn họ - Chị nói vậy cho tới khi nào chị không còn muốn nói nữa thì thôi. Và
(bây giờ bà ta nhìn xuống cô gái) lúc đó đã tới: chị không muốn nói nữa. Chị
không nói điều đó với em nữa, em hiểu chưa?
- Chị Pilar - Maria nói - Chị đừng nói vậy.
- Em là một con dê con kỳ cục - Pilar nói - Và bây giờ thì em hãy
nhấc đầu lên đi. Những câu chuyện nhảm nhí đã qua rồi.
- Đó không là chuyện nhảm nhí - Maria nói - Và em thích tựa đầu như
vầy.
- Không, nhấc đầu lên đi. - Pilar bảo nàng. Bà ta luồn đôi bàn tay
mập bự dưới đầu cô gái và nâng nó lên - Còn đồng chí thì sao, hở Inglés? - Bà
ta hỏi, hai tay vẫn nâng đầu cô gái và đôi mắt nhìn ra dãy núi xa - Bộ con mèo
nó ăn thụt lưỡi đồng chí rồi à?
- Không, không phải mèo. - Robert Jordan nói.
- Vậy thì con gì nào? - Bà ta đặt đầu cô gái xuống đất.
- Không phải con gì hết. - Robert Jordan bảo bà ta.
- Vậy thì đồng chí đã nuốt chửng nó rồi hả?
- Có thể.
- Ngon không? - Bây giờ thì Pilar quay sang phía chàng và mỉm cười
với chàng.
- Không ngon lắm đâu.
- Tôi nghĩ vậy - Pilar nói - Tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi trả lại con dê
con cho đồng chí đây. Hơn nữa, chị chưa bao giờ muốn đoạt hắn khỏi tay em đâu,
con dê con của chị. Cái tiếng này hợp với nàng lắm. Tôi đã nghe đồng chí gọi
nàng như vậy sáng nay.
Robert Jordan cảm thấy đỏ mặt, chàng bảo bà ta.
- Đồng chí là phụ nữ mà thô lỗ quá.
- Không - Pilar nói - Tôi đơn giản lắm và tôi cũng phức tạp lắm.
Đồng chí không phức tạp lắm chớ, Inglés?
- Không. Tôi cũng không đơn giản lắm.
- Tôi thích đồng chí, Inglés ạ - Pilar bảo. Đoạn bà ta mỉm cười và
nghiêng về phía trước, tiếp tục mỉm cười và lắc đầu - Và nếu tôi có thể đoạt
con dê con của đồng chí và đoạt đồng chí khỏi tay con dê con thì sao?
- Đồng chí không làm nổi.
- Tôi biết - Pilar nói và bà ta lại mỉm cười - Và tôi cũng không
muốn làm vậy nữa. Nhưng khi tôi còn trẻ tôi làm được.
- Tôi tin như vậy.
- Đồng chí tin như vậy à?
- Chắc rồi - Robert Jordan nói - Nhưng mà lối nói chuyện này nghe
vô nghĩa quá.
- Chị không quen nói vậy tí nào. - Maria nói.
- Bây giờ thì chị không giống với chính chị lắm đâu - Pilar nói -
Chị đã đổi khác lắm rồi. Cây cầu của đồng chí làm tôi nhức đầu đó, Inglés à!
- Người ta có thể gọi đó là cây cầu Nhức Đầu - Robert Jordan nói -
Nhưng mà tôi sẽ làm cho nó rơi vào khe núi như một cái lồng chim bị đập vỡ.
- Tốt lắm - Pilar nói - Hãy tiếp tục nói như vậy đi.
- Tôi sẽ làm nó ngã xuống như người ta bẻ một trái chuối sau khi đã
lột vỏ nó.
- Bây giờ tôi có thể ăn chuối được rồi - Pilar nói - Hãy tiếp tục
đi, Inglés. Hãy tiếp tục nói một cách
cương quyết như vậy.
- Không cần - Robert Jordan nói - Ta đi về trại đi.
- Nhiệm vụ của đồng chí, nó sẽ đến nhanh lắm - Pilar nói - Tôi đã
nói rằng tôi sẽ để hai người tự do với nhau.
- Không, tôi có nhiều điều phải làm.
- Cái đó cũng lắm việc vậy và nó không làm mất thì giờ nhiều đâu.
- Chị im đi Pilar - Maria nói - Chị ăn nói thô tục quá.
- Chị thô tục - Pilar nói - Nhưng chị cũng tế nhị lắm. Soy muy
delicada. Tôi để hai người tự do còn chuyện ghen tương kia là điều ngu xuẩn.
Chị giận dữ với Joaquin bởi vì chị thấy mình quá xấu xí trong con mắt của cậu
ta. Chị ghen bởi vì em mười chín tuổi, có vậy thôi. Đó không phải là cơn ghen
kéo dài. Em sẽ không mười chín tuổi mãi mãi đâu. Bây giờ chị đi đây.
Bà ta đứng dậy, chống tay bên hông, nhìn Robert Jordan cũng đã đứng
dậy. Maria tiếp tục ngồi dưới đất bên gốc cây, đầu cúi xuống thấp.
- Bọn mình cùng đi về trại đi. - Robert Jordan nói - Như vậy tốt
hơn và mình có nhiều việc phải làm.
Pilar ngẩng cằm về phía Maria đang ngồi dưới đất và quay mặt đi, im
lặng. Đoạn bà mỉm cười, khẽ nhún vai và nói :
- Các người biết đường đi chớ?
- Biết. - Maria nói, đầu tiếp tục cúi thấp.
- Pues me voy 3. Có mấy thức ăn bổ dưỡng cho đồng chí đó. Inglés à!
Bà ta băng qua đồng cỏ tiến về phía dòng nước lũ để tìm đường xuống
trại.
Robert Jordan gọi bà ta lại.
- Chờ chút. Tốt hơn là mình cùng về chung với nhau.
Maria vẫn ngồi, không nói gì.
Pilar không quay đầu lại.
- Sao đi chung với nhau, à? - Bà ta nói - Tôi sẽ gặp lại đồng chí
trong trại.
Robert Jordan đứng im. Chàng hỏi Maria :
- Bà ta khỏe chớ? Mới đây bà ta có vẻ bịnh hoạn.
Maria nói, đầu vẫn cúi xuống :
- Để chị ấy yên.
- Anh nghĩ mình nên theo bà ta.
- Để chị ấy yên. Để chị ấy yên.
--- ------ ------ ------ -------
1 Người làm món ăn tortilla.
2 Tại sao.
3 Thôi, tôi đi đây.
Chương 13
Họ bước đi, chân dẫm trên thảm cỏ của cánh đồng cỏ cao. Robert
Jordan cảm thấy đám thạch thảo cọ sát vào đôi chân chàng, sức nặng của khẩu
súng lục trên đùi, mặt trời trên đầu, chàng nghe lưng chàng thấm đẫm hơi mát
của cơn gió nhẹ ùa xuống từ các đỉnh cao tuyết phủ, và trong bàn tay chàng,
chàng nhận ra bàn tay rắn chắc khỏe mạnh của cô gái, và những ngón tay của họ
đan lẫn vào nhau. Từ lòng bàn tay kia ép sát vào lòng bàn tay chàng, từ những
ngón tay họ đan lẫn vào nhau, từ chiếc cổ tay khẽ chạm vào cổ tay chàng, một
cái gì bắt đầu từ bàn tay kia, từ những ngón tay kia và từ chiếc cổ tay kia lan
truyền tới chàng, một cái gì tươi mát như hơi gió đầu tiên đến từ biển cả, khẽ
làm gợn mặt nước lấp lánh, nhẹ nhàng như một cánh lông phớt nhẹ lên môi hoặc
như một chiếc lá đang buông rơi trong bầu không khí im lìm, một cảm giác nhẹ
nhàng chỉ có những ngón tay họ chạm vào nhau mới nghe thấy, nhưng nó lại ngào
ngạt và nặng nề làm sao, nó trở nên khẩn thiết, sôi nổi và mạnh mẽ bởi áp lực
của những ngón tay, của lòng bàn tay và của cổ tay họ đang siết chặt lấy nhau,
đến nỗi người thanh niên cứ ngỡ rằng có một luồng điện chạy dọc theo cánh tay
và xâm nhập vào cơ thể chàng trong một nỗi ước muốn nồng nàn, thấm thía. Mặt
trời chiếu trên mái tóc óng ả màu lúa chín của cô gái, trên khuôn mặt có màu
nâu vàng ánh, tròn và mịn, trên đường cong của vòng ngực nàng. Chàng nghiêng
đầu nàng ra phía sau, siết chặt nàng vào lòng, và nàng run lên trong đôi tay
ghì chặt của chàng, và chàng nhận ra đôi vú của nàng qua hai lần vải kaki,
chàng nhận ra chúng, nhỏ nhắn và cứng chắc, chàng đưa hai tay mở những chiếc
nút áo sơ-mi, đoạn nghiêng người xuống và hôn nàng. Nàng vẫn đứng, người run
rẩy, đầu ngửa ra sau, phó mặc cho đôi bàn tay ghì chặt lấy nàng. Sau đó, nàng
hạ thấp cằm nàng xuống sát vào đầu chàng, và chàng nhận ra hai bàn tay nàng
đang ôm lấy đầu chàng và ghì sát nó vào người nàng. Chàng đứng thẳng người lại và
ghì chật nàng trong đôi cánh tay, chặt đến nỗi nàng phải rướn người khỏi mặt
đất, dán chặt vào người chàng. Chàng nghe nàng run lên và nàng đặt môi lên cổ
chàng. Chàng vừa đặt nàng xuống đất trở lại vừa nói: “Maria, em Maria yêu mến
của anh”.
Đoạn chàng bảo :
- Đi đâu bây giờ em?
Nàng không đáp nhưng luồn tay nàng vào trong áo sơ-mi của Robert
Jordan, và chàng nhận ra nàng đang mở những nút áo của chàng: “Anh nữa. Em cũng
muốn hôn anh nữa”, nàng nói.
- Không được, con dê con của anh.
- Được. Được chớ. Đúng như anh đã làm vậy.
- Không được. Không thể được.
- Được, kìa anh. Ô! Kìa. Ô! Kìa. Ô!
Sau đó người ta nghe xông lên mùi cỏ bị vùi dập. Maria nhận ra vẻ
sần sùi của những thân cây nằm rạp dưới đầu nàng và mặt trời chói lọi trên đôi
mắt nàng nhắm nghiền lại. Còn chàng, trọn đời chàng hẳn sẽ còn nhớ mãi tới cái
hình ảnh của Maria với cái đầu ngửa lên trong đám thạnh thảo, với làn cong chạy
từ cổ xuống ngực, đôi môi lay động thật khẽ và những sợi lông mi chớp nhẹ trên
hai mắt nhắm nghiền dưới ánh mặt trời và trước mọi sự. Đối với nàng, chỉ còn có
màu đỏ, màu cam, chỉ có màu đỏ vàng ánh của mặt trời chiếu trên đôi mắt nàng
nhắm nghiền, và tất cả đều cùng một màu sắc đó, tất cả, sự sung mãn, sự chiếm
hữu, sự toại nguyện, tất cả đều có màu sắc đó, tất cả đều rực lên trong màu sắc
đó. Đối với chàng, đó là lối đi tăm tối không dẫn dắt về đâu, một lần nữa không
dẫn dắt về đâu, và một lần nữa không dẫn dắt về đâu, và rồi một lần nữa không
dẫn dắt về đâu, bao giờ cũng vậy, không ngừng nghỉ như vậy, không dẫn dắt về
đâu cả. Thân thể tựa trên hai khuỷu tay chống xuống mặt đất, điều đó không để
làm gì cả. Lối đi tăm tối và vô cùng tận, mãi mãi lơ lửng ở một hư vô không lối
thoát, lần này và lại thêm một lần khác nữa, luôn luôn không để làm gì cả, giờ
đây, a! Thôi không tái sinh một lần nữa rồi cũng không tới đâu; và giờ đây, ở
ngoài mọi điều mà người ta còn có thể chịu đụng được, lên cao hơn, nó đưa cao
hơn nữa, cao hơn nữa và không tới đâu cả. Thốt nhiên, người ta nghe một trạng
thái rạng rỡ, êm đềm, tất cả những gì tối tăm và rỗng không chợt biến mất, thời
gian tuyệt đối ngưng đọng, cả hai nằm đó trong khoảng thời gian đang lơ lửng,
và chàng nghe như mặt đất đang động đậy và đang tan biến dưới thân thể hai
người.
Sau đó, chàng xoay người nằm nghiêng, đầu chàng vùi sâu trong cỏ.
Chàng hít thở từ trong đám cỏ, mùi hương của rễ đất và nắng mặt trời trộn lẫn
với nhau, mặt đất sần sùi dưới đôi vai trần và cạnh sườn của chàng, cô gái nằm
dài bên cạnh chàng, hai mắt nhắm nghiền. Nàng mở mắt và mỉm cười với chàng.
Chàng nói rất khẽ, như đang nói từ một nơi nào rất xa xôi và tuy vậy rất gần
gũi: “Chào, dê con”. Nàng mỉm cười và ghé sát vào chàng, nói: “Chào, Inglés của em”.
- Anh không phải là một người Inglés - Chàng nói một cách uể oải.
- Ơ kìa, phải chớ, anh là chàng Inglés của em.
Nàng đưa tay nắm lấy hai tay của chàng và đặt một chiếc hôn lên
trán của chàng.
- Đó - Nàng nói - Như vậy được chưa, anh? Có phải em hôn anh khá
hơn không?
Sau đó, họ cùng thả bước đi dọc theo con suối và chàng nói. “Maria,
anh yêu em, em kỳ diệu, đáng yêu và đẹp tới độ khi gần em, anh có cảm tưởng
mình muốn chết. Đang lúc anh yêu em”.
- Ồ! - Nàng nói - Em thì lần nào em cũng đều chết cả. Còn anh, anh
không chết à?
- Không. Gần như vậy thôi. Nhưng mà em có cảm thấy đất động đậy
không?
- Có. Trong khi em chết lịm đi. Anh hãy đặt tay anh quanh người em
đi anh.
- Không. Anh đã có bàn tay em. Bàn tay em đủ rồi.
Chàng nhìn nàng đoạn nhìn lên phía trên đồng cỏ nơi một con chim
ưng đang bay lượn kiếm mồi. Bây giờ thì những đám mây to buổi xế chiều đã kéo
xuống đỉnh núi.
- Anh với những người khác không có như vậy hả? - Maria hỏi chàng,
trong khi họ bước bên nhau, tay nắm tay.
- Không. Đúng vậy.
- Anh đã yêu nhiều người khác lắm hở anh?
- Một vài người nhưng không giống em.
- Và không có như vậy hả anh? Đúng không anh?
- Đó là một khoái cảm, nhưng không thể sánh bằng.
- Và đất cát chuyển động. Trước đó đất cát không chuyển động với
anh à?
- Không. Đúng vậy đó em. Không bao giờ.
- A! - Nàng nói - Và ta chỉ có một ngày.
Chàng không nói gì.
- Nhưng dầu sao ta cũng có được điều đó - Maria nói - Và em có làm
anh vừa lòng không anh? Anh thấy em có được không anh? Sau này em sẽ đẹp hơn.
- Bây giờ em đã đẹp lắm rồi.
- Không - Nàng nói - Nhưng anh hãy đặt tay lên đầu em đi anh.
Chàng đặt bàn tay lên đầu nàng, nhận ra mái tóc ngắn, mịn màng, nằm
rạp xuống đoạn bung lên dưới những ngón tay chàng. Chàng đặt cả hai bàn tay lên
đầu nàng, lật ngửa khuôn mặt nàng ra phía sau và chàng hôn nàng.
- Em thích hôn lắm - Nàng nói - Nhưng mà em hôn không khéo.
- Em không cần phải biết hôn em ạ.
- Cần chớ, em cần phải biết hôn chớ anh. Nếu là vợ anh em phải biết
mang lại lạc thú cho anh bằng đủ mọi cách.
- Em làm anh lạc thú đủ lắm rồi. Không ai có thể làm hơn nữa.
- Nhưng rồi anh sẽ thấy - Nàng nói trong cơn hạnh phúc tràn trề -
Bây giờ, tóc em làm anh buồn cười vì nó dị hợm. Nhưng mà chúng sẽ mọc trở lại.
Chúng sẽ dài ra và lúc đó em không còn xấu xí nữa và có thể anh sẽ yêu em
nhiều.
- Em có một thân hình đẹp - Chàng nói - Một thân hình đẹp nhất thế
giới.
- Thân hình em trẻ trung và mảnh dẻ, thế thôi.
- Không phải vậy. Trong một thân hình đẹp, luôn luôn có cái gì như
là ma lực. Anh không hiểu tại sao thứ ma lực đó lại có ở một thân thể này thay
vì một thân thể khác. Nhưng em, em có ma lực đó.
- Dành cho anh đó. - Nàng nói.
- Không.
- Dành cho anh chớ. Dành cho anh, luôn luôn cho anh và riêng cho
anh. Nhưng cái đó không đủ. Em sẽ học cách săn sóc, nuông chiều anh. Nhưng mà
anh hãy nói sự thật cho em nghe, trước đây, anh chưa hề thấy đất cát chuyển động
sao?
- Chưa hề. - Chàng thành thật nói.
- Bây giờ thì em thấy em hạnh phúc. - Nàng nói - Bây giờ em hạnh
phúc thật sự. Và anh đang nghĩ tới chuyện khác à?
- Đúng, anh đang nghĩ tới công việc của anh.
- Em muốn mình có ngựa để cưỡi - Maria nói - Trong hạnh phúc của
em, em mong được ngồi trên lưng một con ngựa tốt và cho ngựa phi nhanh với anh
đang phi mỗi lúc một nhanh hơn. Ta luôn phi ngựa nhanh hơn nhưng sẽ không vượt
khỏi hạnh phúc của em được.
- Ta có thể cho hạnh phúc của em đi bằng máy bay. - Chàng lơ đãng
nói.
- Và cho nó lên cao, lên cao trên nền trời như những chiếc khu trục
sáng loáng dưới ánh mặt trời - Nàng nói - Đồng thời kết nó thành những bông hoa
thả xuống. Que bueno! - Nàng cười - Hạnh phúc của em cũng không thấy điều đó
nữa.
- Hạnh phúc của em có cái bao tử tốt đó. - Chàng nói. Chàng chỉ
thoáng nghe nửa câu nói của nàng.
Bởi lúc bây giờ Robert Jordan không còn ở đó nữa. Chàng bước bên
cạnh nàng nhưng đầu óc chàng mãi bận rộn với vấn đề cây cầu. Tất cả đều chắc
chắn, rõ ràng như lúc ống kính máy chụp hình đã được điều chỉnh. Chàng trông
thấy hai cái đồn canh và Anselmo cùng tên du mục đang canh chừng. Chàng nhìn
thấy con đường vắng vẻ và lại nhìn thấy những sinh hoạt trên đó. Chàng tìm ra
địa điểm mà chàng sẽ đặt hai khẩu súng tự động để có được một trường bắn lý
tưởng nhất. Và ai sẽ sử dụng chúng đây? Sau cùng là tôi, chàng nghĩ, nhưng để
bắt đầu là ai? Chàng đặt những thỏi thuốc nổ, chêm và cột chúng lại, tháo dây,
mắc chúng lại và trở lại địa điểm nơi chàng đã đặt cái hộp đựng bộ phận làm nổ,
đoạn chàng bắt đầu nghĩ tới tất cả những gì có thể xảy ra và tất cả những gì có
thể sai lạc đi. Chàng nhủ thầm vậy là đủ rồi. Mày đã làm tình với con bé đó,
giờ đây thì đầu óc mày đang minh mẫn, quá minh mẫn và mày khởi sự lo âu. Người
ta có thể nghĩ ngợi mà không cần phải lo âu gì cả. Đừng lo âu. Mày không được
lo âu. Mày biết tất cả những điều phải làm và mày biết điều gì có thể xảy tới.
Chắc chắn rồi, điều đó có thể xảy tới.
Mày đã vào cuộc đồng thời biết tại sao mày chiến đấu. Người ta
chiến đấu và người ta làm điều phải làm để có cơ hội thắng lợi. Chính vì vậy mà
giờ đây Robert Jordan bó buộc phải dùng những người mà chàng yêu mến như người
ta dùng những người chiến sĩ và không được có một tình cảm nào với họ nếu chàng
muốn thành công. Pablo hiển nhiên là người thông minh nhất trong cả bọn. Hắn đã
biết ngay công việc khó khăn, tệ hại tới đâu. Người đàn bà thì hoàn toàn thích
hợp với công tác, bà ta vẫn còn tiếp tục như vậy, nhưng mà ý thức về tầm vóc
thật sự của vấn đề đã dần dần xâm chiếm lấy tâm hồn bà ta và đã làm cho bà ta
thay đổi nhiều. Sordo đã hiểu ra tức thì và ông ta hẳn phải làm tất cả những gì
phải làm nhưng không hăng hái bằng chính Robert Jordan.
Vậy thì, chàng nghĩ, có phải mày bảo rằng mày bận tâm về điều có
thể xảy ra cho người đàn bà, cho cô gái và cho tất cả mọi người chớ không phải
bận tâm về điều có thể xảy ra cho mày à? Cho là đúng đi. Điều gì sẽ xảy ra cho
họ nếu mày không tới đây? Không nên nghĩ tới điều đó. Mày không trách nhiệm về
họ trong hành động. Lệnh không đến từ mày. Nó đến từ Golz, mà Golz là ai? Đó là
một ông tướng tốt. Ông tướng giỏi nhất mà mày được phục vụ dưới quyền. Nhưng mà
một người liệu có bổn phận phải thi hành những mệnh lệnh khó khăn cực cùng khi
biết chúng đưa mình đi tới đâu không? Ngay khi chúng phát xuất từ Golz, và Golz
chính là đảng, đồng thời lại là quân đội? Đúng. Chàng phải thực hiện chúng.
Không thử thì làm sao biết được? Ngay trong lúc đón nhận mệnh lệnh, nếu mọi
người đều bảo rằng đó là những mệnh lệnh không thể thực hiện được thì thử hỏi người
ta sẽ đi tới đâu? Chúng ta sẽ đi về đâu nếu chỉ biết nói “không thế được” mỗi
khi nhận lệnh?
Chàng đã từng biết tới nhiều cấp trên chỉ biết đưa ra những mệnh
lệnh không thể thực hiện được. Như tên đểu Gomez ở Estramadure chắng hạn. Chàng
đã từng biết tới những cuộc tấn công, trong đó cánh quân hai mạn sườn không
tiến lên được vì tiến lên là chuyện vô khả hữu. Không, chàng sẽ thi hành lệnh
trên nhưng chàng không được thương yêu những người cùng thực hiện công tác với
chàng.
Trong mỗi công tác cua họ, những du kích quân luôn mang lại bội
phần nguy hiểm và rủi ro cho những người có bổn phận che chở và giúp đỡ họ. Với
mục dích gì đây? Rốt cuộc lại là để cho đất nước được thoát khỏi gian nguy và
để mọi người có thể sống bình yên trên đó. Điều này đúng và nó có vẻ tầm thường
nữa.
Nếu phe Cộng Hòa thua trận thì những ai tin tưởng nơi nó sẽ không
sống được ở Tây Ban Nha này. Nhưng mà liệu có chắc như vậy không đấy? Chắc chắn
như vậy, chàng thừa hiểu điều đó căn cứ theo những gì xảy ra tại các vùng bị
phát xít chiếm đóng.
Pablo là một tay đểu cáng nhưng những người khác là những tâm hồn
cừ khôi đáng khen. Và thử hỏi khi bắt họ thi hành công tác này, điều này có
phải là phản bội lại họ hay không? Có thể, nhưng mà nếu không thì hai trung đội
kỵ binh sẽ tới đánh bật họ khỏi vùng núi này trong vòng một tuần lễ.
Không. Để họ yên, người ta chả được gì. Trừ phi phải để yên mọi
người và không quấy rầy ai. Chàng nghĩ, vậy thì mày tin thế à, mày tin rằng lý
tưởng nhất là để mọi người được yên thân à? Đúng, chàng tin như vậy. Nhưng rồi
sau đó, xã hội có tổ chức cùng tất cả những thứ khác thì sao? Đó là việc của kẻ
khác. Còn chàng thì chàng có việc khác để lo sau trận giặc này. Chàng hiện
chiến đấu trong trận giặc này bởi nó đã khởi sự trong một xứ sở mà chàng yêu
mến, bởi chàng tin tưởng ở nền Cộng Hòa và bởi nếu nó bị hủy diệt thì tất cả
những ai tin tưởng nơi nó sẽ khó sống được ở đây, tại nước Tây Ban Nha này,
chính những người cộng sản đã cung cấp thứ kỷ luật tốt đẹp nhất, thứ kỷ luật
hợp lý và lành mạnh nhất để theo đuổi chiến tranh. Chàng chấp nhận những huấn
điều của họ trong khoảng thời gian thi hành công tác bởi vì trong vấn đề chỉ
đạo chiến tranh, họ là đảng duy nhất có chương trình và kỷ luật khiến chàng nể
nang.
Nhưng những quan điểm chính trị của chàng thì sao? Bây giờ thì
chàng không có. Chàng nghĩ, nhưng mày đừng bảo ai biết điều đó. Đừng bao giờ
thú thật điều đó. Và mày sẽ làm gì sau này? Tôi sẽ trở về nước tôi và tôi sẽ
mưu sinh bằng việc dạy tiếng Tây Ban Nha như trước đây và tôi sẽ viết một cuốn
sách xác thật. Chàng nghĩ, tôi có cảm tưởng rằng việc đó không khó khăn gì.
Hẳn là chàng phải nói chuyện chính trị với Pablo. Chắc hẳn là chàng
sẽ lấy làm lý thú được biết tiến trình về chính trị của hắn. Rất có thể đó là
diễn biến cổ điển đi từ tả sang hữu phái. Giống như lão già Lerroux. Pahlo rất
giống Lerroux. Còn Prietro thì không bằng.
Pablo và Prieto có niềm tin tưởng gần như ngang nhau ở thắng lợi
sau cùng, cả hai cùng có quan điểm chính trị của kẻ ăn cắp ngựa. Chàng thì tin
ở nền Cộng Hòa như một hình thức chính phủ, nhưng nền Cộng Hòa phải thoát khỏi
bước đường cùng gặp phải khi cuộc nổi loạn dấy lên. Liệu đã có một dân tộc nào
mà giai cấp lãnh đạo thật sự là kẻ thù của nó như dân tộc này chưa?
Kẻ thù của dân tộc. Đó chính là một từ ngữ phải tránh, một sáo ngữ
phải dứt bỏ. Đó chính là hậu quả của cuộc chung chạ với Maria. Từ ít lâu nay,
những ý tưởng chính trị của chàng đã trở nên chật hẹp và công thức chẳng khác
gì một tâm hồn mê muội, và những từ ngữ như “kẻ thù của dân tộc” vẫn đến với
chàng trong sự lười biếng thụ động của chính chàng. Tất cả những sáo ngữ về
cách mạng và lòng ái quốc, tư tưởng chàng du nhập chúng mà không chỉ trích,
luận bàn. Quả thật là chúng đúng đó, nhưng có điều là chàng làm quen với chúng
một cách dễ dãi. Tuy nhiên, kể từ đêm trước và từ buổi chiều nay, tinh thần
chàng minh mẫn và thuần khiết hơn trước những vấn đề đó. Lòng mê muội kể cũng
kỳ cục. Để trở nên một người mê muội, người ta tuyệt đối phải chắc chắn rằng
mình có lý, và không gì cho ta sự xác tín - tình cảm về sự hợp lý của mình -
bằng sự tiết dục. Sự tiết dục là kẻ thù của tà thuyết.
Ý tưởng này liệu có gây khó khăn cho người ta không? Rất có thể là
những người cộng sản đã vịn vào đó mà buộc tội khá nhiều người dân du mục. Khi
người ta say rượu hay khi người ta phạm tội xác thịt hoặc tội ngoại tình, người
ta khám phá sự hư hỏng của mình ngay trong sự chuyển hóa linh động của niềm tin
giáo sĩ: đường lối của đảng. Đả đảo hạng người phóng đãng, tội lỗi của
Mayakovsky.
Nhưng Mayakovsky đã trở thành một ông thánh trở lại. Bởi vì ông đã
chết và đã được chôn cất, điều này đã hẳn như vậy rồi. Bây giờ thì thôi đừng
nghĩ dông dài nữa. Hãy nghĩ tới Maria.
Maria đã từng chống đối kịch liệt sự cuồng tín của chàng. Cho tới
giờ phút này, nàng không ảnh hưởng gì tới quyết định của chàng, nhưng chàng
không muốn chết tí nào. Chàng sẽ lấy làm vui sướng mà từ chối cái chết của một
ông thánh hay một kẻ tử vì đạo. Chàng không vọng tới trận Thermopyles, chàng
không thích làm một thứ Horatius của bất luận một cây cầu nào, cũng không muốn
làm một cậu bé Hòa Lan với ngón tay thọc vào trong một cái lỗ của con đê.
Không. Chàng khoái được sống một thời gian bên cạnh Maria. Chính đó là biểu
tượng đơn sơ nhất của những gì chàng ao ước. Chàng khoái sống với nàng trong
một khoảng thời gian thật lâu dài, trong một vĩnh cửu. Chàng không tin rằng còn
có một “vĩnh cửu” cho chàng trên mặt đất này, nhưng nếu có nó, chàng mong được
sống trọn vẹn với nàng. Ta có thể tới khách sạn và ghi tên là ông tấn sĩ và bà
Livingstone. Tại sao không? Chàng nhủ thầm.
Tại sao không cưới nàng làm vợ? Chàng nghĩ, chắc hẳn rồi, tôi sẽ
cưới nàng. Lúc đó, chúng tôi sẽ làm ông và bà Robert Jordan ở Sun Valley,
Idaho. Hoặc Corpus Christi, Texas, hoặc Bute, Montana.
Đàn bà Tây Ban Nha là những người vợ kỳ diệu. Tôi biết điều đó bởi
vì tôi chưa hề có vợ. Và khi tôi trở lại với công việc của tôi tại đại học,
nàng sẽ là một bà vợ giáo sư rất tốt, và khi bọn sinh viên Tây Ban Nha đến nhà
vào buổi chiều để hút thuốc và bàn thảo một cách tự do và bổ ích, về Quevedo,
Lope de Vega, Galdos cùng những người quá cố tuyệt vời khác. Maria có thể kể
lại cho họ nghe chuyện những quân thập tự của niềm tin đích thật mặc áo xanh,
đã ngồi trên đầu nàng trong khi những người khác vặn tay nàng, vén váy nàng lên
và nhét vào họng nàng ra sao.
Tôi tự hỏi bằng cách nào Maria có thể làm vừa lòng mọi người ở
Missoula, Montana trong trường hợp tôi tìm lại được việc làm ở Missoula. Tôi
giả dụ rằng hiện tôi bị chụp cho chiếc mũ đỏ và người ta sẽ liệt tôi vào một
danh sách đen, mặc dù đúng ra không ai biết được, không ai nói gì được. Họ
không có bằng cớ gì về hành tung của mọi người và ngoài ra cho dù người ta kể
lại cho họ nghe về điều đó, họ cũng không đời nào chịu tin. Giấy thông hành của
tôi có giá trị ở Tây Ban Nha trước khi ban hành những điều luật mới.
Tôi không thể trở về trước mùa thu năm 37. Tôi bỏ đi vào mùa hè năm
36 và thời gian nghỉ phép chỉ kéo dài trong một năm, và tôi không cần có mặt ở
đó trước khi mãn hạn kỳ vào năm tới. Từ bây giờ đến ngày đó, thì giờ hãy còn
lâu. Không, tôi không tin rằng mình phải lo lắng gì về công việc ở đại học. Mày
chỉ cần tới đó vào mùa thu và mọi việc sẽ êm xuôi. Hãy cố mà trở về kịp lúc đó.
Nhưng mà kỳ lạ thay, nếp sống mà mày đã kéo dài từ bấy lâu nay. Kỳ
lạ một cách nghiệt ngã! Tây Ban Nha chính là công việc của mày, nghề nghiệp của
mày, vậy thì mày có mặt ở Tây Ban Nha là chuyện tự nhiên rồi. Mày đã làm việc
suốt nhiều mùa hè về những dự án xây cất và những công tác kiểm lâm liên quan
tới việc làm đường xá. Mày đã học cách sử dụng thuốc nổ và những công tác phá
hoại của nó cũng bình thường và tự nhiên cho mày không kém. Luôn luôn phải hối
hả một chút, nhưng mà lại bình thường.
Một khi đã chấp nhận ý tưởng về phá hoại dưới hình thức một vấn đề,
người ta không còn vấn đề gì nữa. Nhưng những công cuộc phá hoại luôn kèm theo
những chi tiết sẽ làm cho chúng trở nên phức tạp hơn mặc dù là người ta xem
chúng nhẹ như không. Chàng nhủ thầm, có một nỗ lực cố định để tạo những điều
kiện tốt đẹp nhất nhằm thực hiện những cuộc ám sát khi kèm theo những công tác
phá hoại. Liệu những danh từ dao to búa lớn có biện giải được những hành động
đó không? Liệu chúng có giúp người ta giết người êm ái hơn không? Chàng nhủ
thầm, nếu mày cần một ý kiến, thì đây, mày làm được việc một cách dễ dàng. Và
mày thành cái gì, hay đúng hơn, điều gì phù hợp với mày khi mày rời khỏi công
tác của phe Cộng Hòa? Điều đó có vẻ như bấp bênh vô cùng, chàng nghĩ. Nhưng mà
có lẽ mày sẽ thoát khỏi tất cả những kỷ niệm này khi mày ném chúng lên giấy
trắng. Mày có một quyển sách hay để viết, nếu mày có khả năng viết. Hay hơn
quyển sách kia nhiều.
Nhưng trong khi chờ đợi, tất cả cuộc sống mà mày có được trong hiện
tại cũng như trong tương lai, đó chính là ngày hôm nay, là buổi chiều nay, là
ngày mai, hôm nay, chiều nay, ngày mai và mãi mãi như thế đến vô tận (hy vọng
như thế). Vậy thì tốt hơn hết là mày nên đón lấy cơ hội xảy đến và cám ơn số
phận. Và nếu vụ cây cầu không diễn ra tốt đẹp thì sao?.... Hiện bây giờ thì nó
khơi mào không sáng sủa gì lắm.
Nhưng mà Maria thì ngoan ngoãn. Có phải không? Ờ! Chàng nghĩ, nàng
đã ngoan ngoãn với mày biết bao. Đó có thể là điều mà cuộc đời dành riêng cho
tôi. Có thể đó chính là cuộc sống của tôi và thay vì kéo dài sáu mươi năm, nó
chỉ kéo dài trong sáu mươi tiếng đồng hồ. Hay đúng ra là bảy mươi hai tiếng
đồng hồ, trong ba ngày.
Tôi nghĩ người ta có thể sống trọn một đời người trong bảy mươi
tiếng đồng hồ cũng như trong bảy mươi năm... với điều kiện là đời sống bạn phải
tràn đầy cho tới lúc khởi đầu của bảy mươi tiếng đồng hồ và lúc người ta đã đạt
tới một tuổi nào đó.
Bậy thật! Chàng nghĩ. Cứ nghĩ ngợi một mình như vầy thì ngu xuẩn
thật. Đúng là ngu xuẩn. Có thể nó không đến nỗi ngu xuẩn đến như vậy, nghĩ cho
cùng. Thôi được, để rồi xem. Lần cuối cùng tôi ngủ với một đứa con gái, là ở
Madrid. Không, ở Escurial kìa. Tôi đã thức giấc vào nửa đêm, tưởng người đang
nằm bên cạnh mình là một người nào khác, và tôi đã vui sướng tới điên khùng
lên, mãi cho tới lúc nhận ra mình lầm, lần đó tôi đã chỉ khơi dậy một đống tro
tàn. Nhưng mà ngoài việc đó ra thì đêm đó không đến nỗi tệ lắm. Lần trước nữa
là ở Madrid. Tôi đã tự dối mình một chút và trong những trò nghịch ngợm, tôi đã
lai rai đùa giỡn về lai lịch cô gái. Rốt cuộc thì luôn luôn vẫn là cùng một câu
chuyện. Tôi không phải là kẻ ngưỡng mộ đầy lãng mạn trước người đàn bà Tây Ban
Nha và ngoài ra ở bất luận nước nào, tôi cũng vẫn luôn luôn xem một trò qua
đường là một trò qua đường. Thế mà tôi đã yêu Maria đến độ khi gần nàng, tôi
cảm thấy mình chết thật sự. Tôi không bao giờ tin rằng chuyện đó có thể xảy ra
được.
Bởi vậy cuộc đời mày có thể đổi bảy mươi năm lấy bảy mươi tiếng
đồng hồ: giờ đây tôi đã sở hữu được kho vàng quý báu đó và tôi may mắn được
chiêm ngưỡng nó. Nếu không có được những cái “lâu bền”, những cái “trọn đời”,
những cái “từ đây mãi mãi về sau”, mà chỉ có cái “bây giờ”, thì phải tạ ơn
chính cái giây phút hiện tại này và tôi lấy làm sung sướng với nó. Bây giờ:
ahora, now, heute. Bây giờ, một từ ngữ kỳ cục dùng chỉ cả một thế giới và một
đời sống. Đêm nay: tonight, esta noche, heute avend. Life và wife. Đời sống và
đàn bà. Vie, Marie, mari. Đời sống, Marie, chồng. Không, nghe không ổn à? Để
chỉ “bây giờ”, có tiếng now và frau, nhưng cũng không chứng tỏ được gì. Như
tiếng chết, người ta có mort, muerto và tot. Trong ba tiếng này chỉ có tiếng
tot là diễn tả ý tưởng về cái chết đúng hơn hết. Chiến tranh: guerre, guerra và
krieg. Tiếng krieg nghe gần gũi với ý nghĩa chiến tranh nhiều nhất. Không đúng
sao? Hay chính vì chàng biết tiếng Đức ít hơn những tiếng khác? Còn những tiếng
chỉ người tình như chérie, sweethart, prenda và schatz, những tiếng đó, chàng
luôn đổi chúng ra “Maria” cả. Maria, đúng đó là một cái tên.
Được lắm, chúng nhập vào cái tên đó hết thảy và bây giờ thì không
còn chi dài dòng nữa. Quả thật là vụ cây câu càng lúc càng cho thấy những triệu
chứng xấu. Đó là một công tác mà người ta không thể thực hiện một cách tốt đẹp
vào buổi sáng. Những vị trí không giữ nổi phải đợi tới đêm mới rời bỏ được.
Người ta cố gắng kéo dài cho tới đêm. Công việc sẽ êm xuôi với điều kiện là
người ta có thể đợi tới đêm để rút lui. Còn phải cầm cự từ sáng tới chiều... Và
ông già ngốc Sordo đáng thương kia nữa, ông ta đã bỏ cái thứ tiếng Tây Ban Nha
bồi để giải thích cặn kẽ cho chàng nghe. Như thể chàng đã không từng sống với ý
nghĩ cố định đầy khổ tâm đó kể từ đêm hôm kia chẳng khác gì một thứ bột khó
tiêu lúc nào cũng làm cho ta nặng bụng.
Chuyện kỳ cục! Trọn đời người ta tin rằng những cuộc phiêu lưu
tương tự có một ý nghĩa gì khá ghê gớm, và sau cùng chúng không có một ý nghĩa
gì cả. Chúng không hề có một ý nghĩa nào. Người ta tưởng sẽ không đời nào biết
tới điều đó. Để rồi trong một công việc đầy phiền toái như việc phối hợp hai
nhóm du kích quân vô tích sự để giúp người ta giựt sập một cây cầu trong những
điều kiện khó khăn vượt bực, để đập tan một cuộc phản công có thể đã khởi sự
rồi, người ta sa ngã trước một người đàn bà như con bé Maria kia. Quả thật việc
đó phải đến với mày. Mày đã yêu nàng hơi muộn, chỉ có thế thôi.
Vậy, một người đàn bà như Pilar kia đã thật sự đẩy con bé đó vào
trong túi ngủ của mày và cái gì xảy ra? Phải, cái gì xảy ra? Cái gì xảy ra? Hãy
vui lòng nói cái gì xảy ra. Ừ. Đó là điều xảy ra. Đó chính thật là điều đã xảy
ra.
Mày dối lòng với chính mày khi cho rằng Pilar đã đẩy con bé kia vào
túi ngủ của mày. Mày đừng gắng súc chối bỏ mọi sự hay bôi bẩn mọi sự làm chi cho
thất công. Mày đã bị hốt hồn ngay khi mày thấy mặt Maria. Lần đầu tiên khi nàng
mở miệng và nói chuyện với mày, thì đâu đó đã xong xuôi rồi, và mày biết như
thế rồi mà. Giờ đây khi mày đã nắm giữ được kho vàng quý báu trong tay rồi, mày
không có lý do gì để trách cứ, viện lẽ rằng mày đã chưa hề nghĩ tới một ngày
nào đó mày chiếm hữu được nó. Mày thừa hiểu rằng mày chiếm hữu lấy nó và thừa
hiểu ngay từ cái phút đầu tiên khi mày nhìn Maria, từ lúc nàng nghiêng người
bước ra ngoài, tay bưng cái mâm sắt nọ.
Điều đó đã hốt hồn mày ngay từ cái khoảnh khắc nọ và mày biết rõ
như thế, vậy thì tại sao mày lại dối lòng? Trong bụng mày, mày tự cảm thấy kỳ
lạ mỗi khi mày nhìn nàng hay nàng nhìn mày. Vậy thì tại sao lại không chịu nhìn
nhận chớ? Được rồi. Tốt lắm. Tôi nhìn nhận nó rồi đó. Và đến lượt Pilar khi đẩy
nàng tới trước mặt mày, Pilar chỉ xử sự như một người đàn bà thông minh: bà ta
đã săn sóc con bé kia khá chu đáo và bà ta thừa biết chuyện gì đang xảy ra ngay
từ cái phút con bé trở vào hang với cái mâm đồ ăn.
Sau đó, bà ta đã biến mọi sự thành dễ dàng. Bà ta đã biến mọi sự
thành dễ dàng để rồi mới xảy ra cái buổi chiều hôm qua và cái buổi xế chiều hôm
nay. Bà ta văn minh hơn mày quá đỗi và bà ta biết rõ giá trị của thời gian. Bà
ta đã chuồn êm bởi vì bà ta không muốn kẻ khác phải mất mát điều bà ta đã từng
mất mát. Sau đó, vì ý tưởng về sự mất mát lại vượt quá sự chịu đựng của mình,
bà ta muốn thối lui vào trong vùng đồi núi kia, và tôi nghĩ rằng chúng tôi đã
không giúp đỡ bà ta được gì.
Vậy thì đó là điều đang xảy đến và điều đã xảy đến cho mày. Mày có
thể chấp nhận nó một cách dễ dàng. Mày sẽ không bao giờ nữa trải qua hai đêm
trọn với nàng. Không có được một đời để sống trọn, không có được một đời để
sống chung với nhau, không có những điều rất bình thường của tất cả mọi người,
không có gì ráo trọi. Chỉ có một đêm đã sống qua, một lần vào buổi chiều nay,
một đêm sắp tới, có thể. Không đâu, ngài ạ.
Mày không có thì giờ, không có hạnh phúc, không có lạc thú, không
có con cái, không có nhà cửa, không có buồng tắm, không có đồ pyjama sạch sẽ,
không có tờ nhật báo buổi sáng, không có phút thức giấc rực lên với ý nghĩ rằng
nàng còn nằm bên cạnh đó và mình không cô đơn. Không có, không có tất cả những
thứ đó đâu. Nhưng bởi vì đó là tất cả những điều mày ước ao trong cuộc sống,
bởi vì mày đã tìm thấy nó, tại sao lại không có được đến một đêm, chỉ một đêm
thôi, nằm trên giường với những gối chăn ấm cúng?
Mày luôn đòi hỏi cái không thể xảy ra được. Mày luôn đòi hỏi chính
cái vô khả hữu. Vậy thì nếu mày yêu con bé đó như mày đã từng thú thật, tốt hơn
hết là mày nên yêu nó như vũ bão và hãy đặt trọn cho bằng được những gì mày
thiếu hụt trong thời gian và trong sự liên tục. Mày nghe chưa đó? Ngày xưa
người ta phó thác vào đó cả một đời người. Và bây giờ đây khi mày đã tìm thấy
nó, nếu mày có được hai đêm, mày tự hỏi sự may mắn từ đâu mà có. Hai đêm. Hai
đêm để thương yêu, ngưỡng vọng và trìu mến. Trong cái tốt đẹp nhất và trong cái
tồi tệ nhất. Trong bịnh hoạn và trong sức khỏe. Cho đến khi nào cái chết ngăn
cách chúng ta. Trong hai đêm. Có thể hơn nữa. Có thể hơn nữa, và bây giờ thì
mày hãy dứt bỏ những ý tưởng đó đi. Bây giờ mày có thể ngừng suy nghĩ. Cái đó
không tốt cho mày đâu. Đừng làm điều gì không tốt cho mày. Đừng làm điều gì
không tốt cho mày. Và chắc chắn là cái đó không tốt rồi.
Golz đã nói tới chính điều đó. Mỗi lúc, Golz càng tỏ ra thông minh.
Chính ông ta đã hỏi chàng về chuyện đó: sự đền bù cho một công tác bất thường.
Có phải Golz đã biết tới điều đó hay không, và có phải sự hối hả, sự khiếm
khuyết thì giờ và những hoàn cảnh đã tạo ra nó? Chàng có nghĩ rằng đó là cái gì
đặc biệt bởi vì nó đã xảy đến cho riêng chàng? Có phải Golz đã từng lăn lộn
trong giấc ngủ hối hả khi ông ta chỉ huy đội kỵ binh không chính quy của Hồng
Quân, phải lo phối trí những điều kiện, những hoàn cảnh khác biệt và tất cả
những công việc đó có giúp cho ông ta tìm thấy ở những người đàn bà kia một cái
gì giống như ở Maria không?
Dĩ nhiên là Golz, ông ta cũng thừa biết rõ điều đó và muốn quy định
cho ta phải sống trọn vẹn đời mình trong hai đêm mà mình được ban tặng; khi
phải sống như ta đang sống bây giờ, cần phải tập trung tất cả những gì ta cần
phải có trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà ta sở hữu được chúng.
Phương cách tốt. Nhưng chàng không tin rằng Maria hoàn toàn chỉ do
hoàn cảnh tạo nên. Dĩ nhiên, trừ phi nàng là phản ứng của những hoàn cảnh sống
của chính nàng cũng như những hoàn cảnh sống của chính chàng, về phần nàng,
những hoàn cảnh không lấy gì làm thuận tiện lắm, chàng nghĩ. Không. Không thuận
tiện lắm đâu.
Nếu cơ sự đã như thế thì chính vì nó như thế. Nhưng chàng không
thấy một quy luật nào buộc chàng phải nói rằng chàng thích điều đó. Chàng nghĩ,
tôi không biết liệu bao giờ mình còn có thể cảm nhận điều mình đã từng cảm nhận
hay không. Cũng không biết điều đó đã có thể xảy tới cho mình. Tôi muốn có nàng
bên cạnh suốt đời. Mày sẽ được nàng, một phần khác của chính con người chàng
nói vậy. Mày sẽ được nàng mà. Mày được nàng bây giờ đây, và cái bây giờ đây
chính là trọn vẹn cuộc đời mày rồi đó. Không còn có cái gì khác ngoài cái bây
giờ. Chắc chắn không có hôm qua, cũng không có ngày mai. Mày phải đợi tới bao
nhiêu tuổi trước khi biết điều đó? Chỉ mới hai ngày. Này, hai ngày, đó chính là
đời mày, và tất cả những gì sẽ xảy ra trong đó sẽ được tính theo tỷ lệ. Chính
bằng cái cách như thế mà người ta sống trọn một cuộc đời trong hai ngày. Và nếu
mày đừng có than van hay đòi hỏi cái không thể được thì mày sẽ sống được một
cuộc đời tốt đẹp. Một cuộc đời tốt đẹp không tính bằng thời gian trong kinh
Thánh.
Vậy thì bây giờ mày đừng lo nghĩ vẩn vơ nữa, hãy chấp nhận cái gì
xảy đến cho mày và lo hoàn tất công việc của mày. Và mày sẽ được sống lâu và
hạnh phúc. Cuộc sống chàng há không có hạnh phúc trong những lúc sau này hay
sao? Mày than phiền cái gì mới được chớ. Chàng nhủ thầm, với loại công việc này
thì phải như vậy đó. Chàng hài lòng với ý nghĩ của mình. Người ta không học hỏi
nhiều ở đó bằng ở những người mình gặp gỡ. Chàng lấy làm hài lòng bởi vì chàng
đang thích thú và chàng trở về với cô gái, chàng nói với nàng :
- Anh yêu em, con dê con của anh. Em nói gì đó?
Nàng bảo :
- Em nói rằng anh không nên lo phiền với công việc anh đang làm bởi
vì em sẽ không xen vào đó, em sẽ không quấy rầy anh. Nếu có việc gì em làm
được, anh nói cho em biết.
- Không có việc gì cả - Chàng nói - Công việc thật là đơn giản, em
ạ.
- Pilar sẽ dạy em phải làm gì để săn sóc một người đàn ông cho được
chu đáo, và em sẽ làm theo đó - Maria nói - Sau đó, trong khi học hỏi tự em
cũng sẽ thấy được nhiều thứ, và còn nhiều điều nữa mà anh có thể nói cho em biết.
- Không có gì để làm hết em ạ.
- Que va, hombre, không có gì hết à! Cái túi ngủ của anh đó, sáng
nay lẽ ra phải giũ nó cho khô ráo và máng nó ở nơi có nắng và rồi phải để nó
vào trong trước khi sương xuống.
- Nói tiếp đi, cưng!
- Phải giặt và phơi khô vớ của anh. Em lo cho anh được có hai đôi.
- Còn gì nữa?
- Nếu được anh chỉ bảo thì em sẽ chùi và lau đầu khẩu súng lục của
anh.
- Hôn anh đi em. - Robert Jordan nói.
- Đừng anh, em nói chuyện đứng đắn mà. Anh có chịu chỉ cho em cách
lau khẩu súng lục cho anh không? Pilar có nùi giẻ và dầu. Ở trong hang có một
chiếc đũa dùng được lắm.
- Xong rồi, anh sẽ chỉ cho em.
- Và sau đó, - Maria nói - nếu anh dạy em cách bắn súng thì một
trong hai đứa mình có thể bắn đứa kia và tự sát trong trường hợp có một đứa bị
thương và phải làm như vậy để khỏi bị bắt.
- Lý thú lắm - Robert Jordan nói - Em có nhiều ý nghĩ như vậy lắm
phải không em?
- Không nhiều lắm đâu - Maria nói - Nhưng ý nghĩ đó tốt. Pilar đã
cho em vật này và dạy em cách sử dụng. - Nàng mở túi áo sơ-mi và lấy ra cái bao
da giống như những cái bao dùng đựng lược giắt túi, đoạn nàng tháo cái băng cao
su ở hai đầu cái bao da và lấy ra một lưỡi dao cạo - Em luôn mang cái này trong
mình, chị Pilar nói phải cắt ở chỗ này, đúng phía sau lỗ tai, đồng thời rạch từ
ở chỗ đó. - Nàng dùng ngón tay phác nên cử chỉ đó - Chị ấy nói ở nơi đó có một
động mạch lớn và khi cắt nó trong cái hướng kia thì người ta không sẩy được
nữa. Chị ấy nói việc đó không ăn thua gì và người ta không phải làm gì cả khi
động mạch bị cắt đứt.
- Đúng vậy - Robert Jordan nói - Đó là động mạch cổ.
Chàng nghĩ, nàng luôn mang theo lưỡi dao trong người, như thể đã
chấp nhận và thấy trước việc gì xảy ra.
- Nhưng mà em lại muốn giết em hơn - Maria nói - Anh hãy hứa là khi
nào cần, anh sẽ giết em nghe anh?
- Đúng rồi - Robert Jordan nói - Anh xin hứa.
- Cám ơn anh nhiều - Maria bảo chàng - Em thừa biết rằng chuyện đó
không dễ gì đâu.
- Đúng. - Robert Jordan nói. Chàng nghĩ rằng mình đã quên phứt
những thứ đó. Chàng đã quên tất cả những vẻ đẹp của cuộc nội chiến khi chàng
quá lo nghĩ tới công việc của chàng. Mày đã quên điều đó. Lạ thật! Nó phải như
vậy mới được. Kachkine đã không quên được chuyện đó và chính vì vậy hắn đã hỏng
việc. Hay là mày không nghĩ rằng chàng thanh niên đó có một viên thuốc trong
người? Lạ chưa, bởi vì chàng tuyệt đối không thấy một xúc động nào khi bắn vào
Kachkine. Chàng nghĩ rằng điều đó có thể giúp ích cho hắn. Nhưng mà quả thật là
chàng tuyệt đối không cảm thấy gì hết.
- Nhưng em có thể giúp cho anh được nhiều việc. - Maria nói với
chàng vừa bước đi bên cạnh chàng, lúc ấy giờ trông nàng rất nghiêm trọng và
cũng rất đàn bà.
- Trừ chuyện giết anh à?
- Dạ. Em có thể vấn thuốc cho anh khi nào anh hết thuốc điếu có
ống. Chị Pilar đã dạy em vấn thuốc khéo lắm, vừa chắc vừa chặt vừa gọn.
- Giỏi lắm - Robert Jordan nói - Em tự liếm lấy chúng à?
- Dạ - Cô gái nói - Và nếu anh bị thương em sẽ săn sóc anh, em sẽ
băng bó những vết thương cho anh, em sẽ lau chùi tắm rửa cho anh, em sẽ làm
thức ăn cho anh.
- Chắc anh không để mình bị thương đâu. - Robert Jordan nói.
- Vậy thì nếu anh đau ốm thì em sẽ săn sóc cho anh, em sẽ nấu súp
cho anh, em sẽ tắm rửa cho anh, em sẽ làm đủ mọi sự cho anh. Và em sẽ đọc sách
báo cho anh nghe nữa.
- Có thể anh cũng không bịnh hoạn gì đâu!
- Vậy thì khi anh thức dậy, em sẽ mang cà phê tới bên giường anh...
- Có thể anh không thích uống cà phê. - Robert Jordan bảo nàng.
- Có chớ, anh thích nó mà - Cô gái vui vẻ nói - Anh đã uống đến hai
tách sáng nay rồi.
- Và nếu anh chán uống cà phê, nếu người ta không cần bắn anh, anh
không bị thương cũng không đau ốm gì, anh chê thuốc lá, anh chỉ có một đôi vớ,
và anh tự tay máng lấy cái túi ngủ của anh, thì sao hở con dê con? - Chàng vỗ
nhẹ vào lưng nàng - Thì sao, hở cưng?
- Thì em sẽ mượn kéo của chị Pilar và em cắt tóc anh.
- Anh không thích người ta cắt tóc anh.
- Em cũng vậy nữa. - Maria nói - Em thích tóc anh để như vầy. Nếu
em không làm gì được cho anh, thì em sẽ ngồi cạnh anh và em sẽ nhìn anh, rồi
thì ban đêm, mình làm tình với nhau.
- Tốt - Robert Jordan nói - Ý kiến sau cùng rất khôn ngoan.
- Em cũng thấy như vậy. - Maria mỉm cười - Ô! Inglés - Nàng bảo.
- Anh tên Roberto.
- Không. Em muốn gọi anh là Inglés kia, như Pilar vẫn gọi.
- Dẫu sao anh vẫn tên là Roberto.
- Không - Nàng nói - Bây giờ cho đến trọn ngày, em gọi là Inglés.
Này Inglés, em có thể giúp đỡ gì trong công việc của anh không?
- Không. Điều anh đang làm, anh làm lấy một mình, và tất cả đều đã
sẵn trong đầu anh rồi.
- Được rồi - Nàng nói - Bao giờ thì xong việc hở anh?
- Đêm nay, nếu anh may mắn.
- Tốt. - Nàng bảo.
Trước mặt họ, những hàng cây sau cùng chạy dài xuống trại.
- Cái gì đó? - Robert Jordan vừa hỏi vừa giơ ngón tay chỉ.
Ở mé dưới của đồng cỏ, nơi có những thân cây đầu tiên đứng sững,
người đàn bà đang ngồi gục đầu lên đôi cánh tay. Trong khoảng cách đó, trông bà
ta giống như một cái gói âm u, đen tối dựa vào thân cây màu nâu sẫm.
- Đi em. - Robert Jordan bảo, và chàng cắm đầu chạy về phía người
đàn bà. Cỏ gai cao tới đầu gối chàng và vướng víu lấy chân chàng. Đến một
khoảng cách nào đó, chàng chậm bước lại và bắt đầu bước. Người đàn bà tựa đầu
trên đôi tay khoanh lại và bà ta có vẻ to lớn, đen đũi bên thân cây. Chàng đến
bên bà ta và nói: “Pilar!” bằng một giọng dịu dàng.
Người đàn bà ngẩng đầu lên nhìn chàng.
- Ồ! - Bà ta nói - Các người đã xong rồi à?
- Đồng chí có chuyện gì buồn phiền à? - Chàng lên tiếng hỏi vừa cúi
người xuống bên bà ta.
- Qué va - Bà ta bảo - Tôi ngủ mà.
- Chị Pilar - Maria nói, nàng đã đến bên họ và đang quỳ gối xuống
bên cạnh bà ta - Sao vậy chị? Chị thấy khỏe không?
- Chị thấy khỏe lắm. - Pilar bảo. Nhưng bà ta vẫn không chịu đứng
dậy. Bà ta nhìn cả hai - Kìa, này Inglés - Bà ta nói - Đồng chí đã lại làm phận
sự đàn ông đó chớ?
- Đồng chí có thấy khỏe không? - Robert Jordan hỏi, không chú ý trả
lời câu hỏi của bà ta.
- Tại sao không. Tôi ngủ. Còn đồng chí?
- Không.
- Này, - Pilar bảo cô gái - em thấy cái đó đạt chớ?....
Maria thẹn đỏ mặt, không nói gì.
- Hãy để cho nàng yên. - Robert Jordan bảo.
- Không ai hỏi gì tới bản mặt đồng chí. - Pilar bảo chàng.
- Này Maria - Bà nói và giọng bà trở nên rắn rỏi. Cô gái không
ngước mắt nhìn lên.
- Maria - Người đàn bà lại nói - Em thấy cái đó đạt chớ?
- Hãy để cho nàng yên. - Robert Jordan lặp lại.
- Đồng chí câm họng lại đi - Pilar nói trong khi vẫn không nhìn
chàng - Nghe này, Maria, hãy nói với chị cái gì đi em.
- Không. - Maria nói, và nàng lắc đầu.
- Maria - Pilar nói và giọng của bà ta rắn rỏi không thua gì nét
mặt của bà ta lúc đó. Không có chút gì gọi là thân thiện trên khuôn mặt đó -
Hãy nói cho chị nghe một cái gì về chính em.
Cô gái lắc đầu.
Robert Jordan nghĩ: nếu tôi không có bổn phận phải làm việc chung
với con mụ đàn bà này, với cái thằng chồng say rượu của mụ và với đám người vô
tích sự của mụ, tôi sẽ tát mụ ta đến...
- Nói đi, kể cho chị nghe coi nào! - Pilar bảo cô gái.
- Không - Maria nói - Không.
- Hãy để nàng yên. - Robert Jordan nói, và giọng nói chàng không
còn bình thường nữa. Chàng nghĩ, tôi sắp sửa phải tát mụ ta rồi đây.
Pilar vẫn không trả lời chàng. Robert Jordan trông không có chút gì
giống một con rắn đang mê hoặc một con chim hoặc một con mèo đang rình rập con
mồi của nó. Chàng không thể nào tìm ra sự gian dối hay tính xấu xa. Trái lại
chàng có cảm tưởng mình đang đứng trước một tâm hồn cởi mở chẳng khác chi một
con rắn đang nhô đầu ra. Chàng cảm nghiệm được điều đó. Chàng có thể nhận ra
mối hăm dọa của sự cởi mở phơi bày. Dù vậy, sự phơi bày này dường như được
hướng dẫn bằng một bản năng khám phá hơn là bởi ước muốn làm điều xấu, Robert
Jordan nghĩ thầm rằng tốt hơn là mình đừng chứng kiến cảnh này. Dẫu sao điều đó
cũng không đáng cho một cái tát.
- Maria - Pilar nói - Chị sẽ không động tới em đâu. Bây giờ thì em
hãy tự ý kể cho chị nghe.
“De tu propia voluntad” 1, đó là những tiếng Tây Ban Nha.
Cô gái lắc đầu.
- Maria - Pilar nói - Bây giờ và tự ý em. Em nghe chị nói chớ? Em
hãy kể chuyện gì cũng được.
- Không - Cô gái nói một cách nhỏ nhẹ - Không và không.
- Bây giờ, em sắp sửa kể cho chị nghe rồi đây - Pilar bảo nàng -
Bất luận chuyện gì. Rồi em sẽ thấy mà. Bây giờ em sắp sửa kể cho chị nghe rồi
đây.
- Đất đã rung rinh - Maria nói. Không nhìn vào người đàn bà - Đúng
như vậy. Đó là điều mà em không thể nói cho chị nghe được.
- Có thế chớ. - Pilar nói, giọng nói của bà ta nghe nồng nàn trìu
mến và không có vẻ gì gọi là cưỡng ép trong đó. Nhưng Robert Jordan để ý tới
những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán và môi của bà ta. À! Đất rung rinh. Thì ra
sự thật như vậy.
- Đúng như vậy. - Maria nói, và nàng bậm môi lại.
- Dĩ nhiên là đúng như vậy - Pilar nói một cách hiền hòa - Nhưng mà
em đừng nói điều đó ra, ngay với gia đình em, bởi người ta sẽ không tin em đâu.
Đồng chí có máu Cali chớ, đồng chí Inglés?
Bà ta đứng dậy, Robert Jordan phải đỡ bà ta lên.
- Không - Chàng nói - Không, theo chỗ tôi biết.
- Maria cũng vậy, theo chỗ nàng biết - Pilar bảo - Lạ thật.
- Nhưng đó là chuyện đã xảy ra, chị Pilar ạ. - Maria nói.
- Como que no, hija? - Pilar nói - Tại sao không? Khi tôi con trẻ,
đất rung rinh đến nỗi người ta nghe nó trượt đi trong không gian và người ta sợ
nó tan biến đi mất dưới thân thể của mình. Đêm nào chuyện đó cũng xảy ra cả.
- Chị nói dối. - Maria bảo.
- Đúng vậy - Pilar nói - Chị nói dối. Người ta không bao giờ nghe
đất rung rinh quá ba lần trong đời mình. Nhưng mà nó có rung rinh thật không?
- Dạ có - Cô gái nói - Đúng vậy mà.
- Với đồng chí cũng vậy chớ, Inglés? Đừng nói dối.
- Đúng - Chàng nói - Đúng như vậy.
- Tốt - Pilar nói - Tốt. Khá lắm.
- Nhưng mà chị muốn nói gì với ba lần của chị? - Maria hỏi - Tại
sao chị lại nói vậy?
- Ba lần - Pilar nói - Với em thì đã một lần rồi.
- Chỉ có ba lần thôi à?
- Với phần đông mọi người thì không hề có - Pilar bảo nàng - Em
chắc chắn là nó rung rinh chớ?
- Em tưởng đã ngã ập xuống. - Maria bảo.
- Vậy thì nó đã rung rinh thật rồi - Pilar nói - Thôi đi em, chúng
ta về trại.
- Ba lần đó là cái quái gì? - Robert Jordan nói với người đàn bà to
con trong lúc mọi người cùng bước đi trong đám cây thông.
- Cái quái gì à? - Bà ta liếc xéo chàng - Đừng nói cái quái gì với
tôi, Inglés ạ.
- Có phải đó là một trò bùa chú, giống như những đường chỉ tay
không?
- Không, với dân du mục thì ai cũng biết rõ và minh chứng được điều
đó.
- Nhưng mà chúng tôi không phải là dân du mục.
- Không phải, nhưng các người có chút may mắn. Thỉnh thoảng những
người không thuộc dân du mục cũng có chút may mắn.
- Có đúng là đồng chí nghĩ về điều mình nói không? Những ba lần?...
Bà ta lại nhìn chàng một cách quái dị.
- Để tôi, Inglés - Bà ta nói - Đừng làm tôi bực mình. Đồng chí còn
quá trẻ để nghe tôi kể chuyện.
- Nhưng mà, chị Pilar... - Maria nói.
- Im đi - Pilar bảo nàng - Em chỉ biết mới có một lần, như vậy và
hãy còn đến hai lần cho em nữa trong cuộc đời này.
- Sao vậy chị? - Maria hỏi.
- Ồ! Im đi - Pilar bảo - Im đi... Chị mệt với Busness 2 của tuổi em
quá.
- Tại sao không phải là lần thứ ba? - Robert Jordan hỏi.
- Ồ! Đồng chí có chịu im đi không? - Pilar nói - Im đi.
Được rồi, Robert Jordan nhủ thầm. Chả sao cả. Tôi đã từng biết hàng
tá dân du mục và họ đều kỳ lạ. Nhưng mà chúng ta cũng kỳ lạ vậy. Có điều khác
là chúng ta phải kiếm sống lương thiện. Không ai biết chúng ta thuộc dòng dõi
bộ lạc nào, chúng ta có những đặc tính di truyền nào, cũng không ai biết trong
những khu rừng nơi xưa kia tổ tiên ta sống có những bí mật gì. Tất cả những gì
ta biết được là ta không biết gì. Ta không biết gì về những điều xảy đến cho ta
trong đêm tối. Nhưng khi chuyện đó xảy ra vào lúc ban ngày, thì đó là điều lạ.
Dẫu sao thì cơ sự đã như vậy rồi và giờ đây không những người đàn bà có bổn
phận buộc cô gái phải nói về điều đó trong khi nàng không muốn nói, mà bà ta
còn có bổn phận nắm lấy nó và biến nó thành chuyện của mình. Bà ta phải biến nó
thành một đề tài của dân du mục. Tôi nghĩ rằng bà ta đã lên núi sống và giờ đây
bà ta lại đóng vai bạo chúa. Nếu bà ta mượn điều đó để làm bậy thì hẳn bà ta
đáng tội chết. Nhưng đó không phải là điều bậy. Đó chỉ là ước muốn giúp cho bà
ta vững tin ở cuộc sống. Ước muốn bám lấy đời sống xuyên qua Maria.
Khi mày bước ra khỏi trận giặc này, mày có thể khởi công nghiên cứu
về đàn bà. Chàng tự nhủ thầm, mày có thể bắt đầu với Pilar. Bà ta đã tạo nên
cho mọi người một ngày sống khá phức tạp, nếu mày cần hỏi đến ý kiến của tao.
Cho tới bây giờ, bà ta chưa hề đưa ra những câu chuyện thuộc về dân du mục của
bà ta. Trừ chuyện bàn tay, chàng nghĩ. Dĩ nhiên là trừ chuyện bàn tay ra. Và
tôi không tin rằng bà ta đã ngụy tạo trong chuyện bàn tay. Dĩ nhiên bà không
muốn nói cho tôi biết điều bà trông thấy. Bất luận điều gì bà trông thấy được,
bà cũng đều tin là thật. Nhưng mà điều này không chứng tỏ được gì.
- Nghe này, Pilar. - Chàng nói với người đàn bà.
Pilar nhìn chàng và mỉm cười.
- Chuyện gì đó? - Bà ta hỏi.
- Đồng chí đừng có bí mật quá như vậy - Robert Jordan nói - Những
chuyện kỳ bí làm tôi mệt quá.
- Rồi sao? - Pilar nói.
- Tôi không tin chuyện chằn tinh, chuyện bói toán, cũng như chuyện
phù thủy của bọn du mục vất đi.
- Ồ! - Pilar kêu lên.
- Không. Và đồng chí có thể để cho cô gái được yên thân.
- Tôi sẽ đẽ cho cô ta yên.
- Và tất cả những chuyện kỳ bí đó nữa - Robert Jordan nói - Ta có
nhiều việc và nhiều điều để làm mà không cần làm cho chúng trở nên rối rắm thêm
với những trò vô tích sự. Bớt chuyện kỳ bí đi và làm việc nhiều hơn.
- Đồng ý. - Pilar nói vừa gật đầu biểu đồng tình - Nhưng mà hãy
nghe này, Inglés - Bà ta nói và mỉm cười
với chàng - Có phải là đất đã rung rinh?
- Đúng rồi, cái con khỉ giọc, nó đã rung rinh đó.
Pilar cất tiếng cười vang và dừng bước đứng lại, nhìn Robert Jordan
và càng cười già hơn nữa.
- Ô! Inglés, Inglés - Bà ta vừa nói vừa cười - Đồng chí trông tức
cười lắm - Bây giờ thì đồng chí phải làm việc nhiều lắm để lấy lại tư cách của
đồng chí đó.
Robert Jordan nghĩ, đồ quỷ dịch. Nhưng chàng im lặng.
Trong khi hai người đang nói chuyện thì mặt trời đã lẩn trong mây,
và khi người thanh niên ngoảnh nhìn những dãy núi phía sau, chàng thấy bầu trồi
đã trở nên xám xịt, nặng nề.
- Chắc chắn là sắp có tuyết. - Pilar vừa nói vừa nhìn trời.
- Bây giờ à? Gần tháng Sáu à?
- Tại sao không? Vùng núi không biết gì tới tháng nào là tháng nào
cả. Ta đang ở vào tuần trăng tháng Năm.
- Không thể nào có tuyết được - Chàng nói - Trời không thể có tuyết
được.
- Tuyết vẫn cứ rơi, Inglés. - Bà ta bảo chàng.
Robert Jordan ngẩng đầu nhìn lên bầu trời xám xịt nơi mặt trời đã
chuyển sang màu vàng nhạt và biến mất hắn. Màu xám lan rộng, nhợt nhạt và nặng
trĩu, màu xám giờ đây đã tô đậm hình các đỉnh núi.
- Đúng - Chàng nói - Có lẽ đồng chí có lý đó.
--- ------ ------ ------ -------
1 Tự ý em.
2 Chuyện.
Chương 14
Khi họ về tới trại thì tuyết đã rơi những bông tuyết rơi xiên xiên
trong đám thông lác đác trong rừng thông. Họ đổ dốc nghiêng nghiêng giữa những
hàng cây, những bông tuyết ban đầu còn thưa thớt và quay tròn, sau đó khi gió
lạnh bắt đầu thổi từ trên núi xuống, chúng bắt đầu cuốn xoáy và trở nên dày
kịt. Trong một cơn tức bực, Robert Jordan dừng bước trước hang để nhìn chúng.
- Tuyết sắp rơi nhiều. - Pablo nói.... Hắn có giọng nói nhừa nhựa
và đôi mắt đỏ ngầu, đục lờ.
- Tên du mục trở về chưa? - Robert Jordan hỏi hắn.
- Chưa - Pablo nói - Cả hắn lẫn lão già đều chưa về.
- Đồng chí có muốn đi với tôi lên đồn canh phía trên, nơi con đường
kia không?
- Không - Pablo nói - Tôi không muốn xen vào việc này.
- Vậy thì tôi lên đó một mình vậy.
- Trong trận bão này, đồng chí dễ đi lạc lắm. Bây giờ thì tôi không
đi đâu.
- Chỉ cần bước xuống con đường, và sau đó người ta nương theo dốc
của nó mà leo lên.
- Đồng chí có thể tìm và ra được, nhưng giờ này thì hai tên lính
canh sắp trở lên, với trời tuyết như vầy đồng chí sẽ lạc họ trên đường đi.
- Lão già đang đợi tôi.
- Không đâu. Lão sắp trở về ngay bây giờ đây với trời tuyết như
vầy. - Pablo nhìn tuyết đang rơi mau trước cửa hang, và nói - Đồng chí không
thích tuyết hả, Inglés?
Robert Jordan buột miệng chửi thề, Pablo nhìn chàng bằng đôi mắt
đục lờ của hắn và hắn bật cười.
- Trời như vầy thì công việc của đồng chí vất đi rồi, Inglés ạ -
Hắn bảo - Thôi ta vào trong hang đi, người của đồng chí sẽ tới ngay bây giờ.
Trong hang, Maria đang bận rộn bên bếp lửa và Pilar nơi bàn ăn. Lửa
bốc khói, cô gái cời lửa cho cháy bằng một thanh cây, đoạn phe phẩy quạt nó
bằng một tờ giấy xếp lại, sau đó ngọn lửa bùng lên và củi bắt đầu bốc cháy bằng
một ngọn lửa cao và sáng rực với cơn gió thổi vào qua cái lỗ trên mái.
- Còn tuyết kia - Robert Jordan nói - Đồng chí tưởng rằng nó sẽ rơi
xuống nhiều lắm à?
- Nhiều chớ - Pablo nói với một vẻ mãn nguyện. Đoạn hắn lên tiếng
gọi Pilar - Còn bà nữa, bà cũng không thích vậy à? Giờ đây khi bà đã chỉ huy,
bà không thích tuyết rơi như vầy à?
- A mi qué 1 - Pilar nói qua bờ vai - Tuyết rơi thì tuyết cứ rơi
chớ sao?
- Uống rượu đi Inglés - Pablo nói - Phần tôi thì tôi đã uống suốt
ngày trong khi đợi tuyết rơi.
- Cho tôi một tách đi. - Robert Jordan nói.
- Mừng tuyết rơi. - Pablo vừa nói vừa cụng tách với chàng. Robert
Jordan nhìn sâu vào đôi mắt hắn vừa cho tách chàng chạm vào tách hắn. Đồ đểu
cáng, thằng sát nhân với đôi mắt đục ngầu, chàng nghĩ. Tao muốn đập cái tách
này vào răng mày. Nhưng rồi chàng lại nhủ thầm, hãy bình tĩnh, hãy bình tĩnh.
- Tuyết rơi trông thật đẹp - Pablo nói - Tuyết rơi như vầy thì đồng
chí không thể ngủ ở ngoài được đâu!
Robert Jordan nghĩ, à! thì ra như vậy. Mày có nhiều mối lo âu quá
đi, Pablo ạ!
- Không được à? - Chàng lịch sự nói.
- Không được. - Pablo nói - Lạnh lẽo và ẩm ướt lắm.
Mày không biết tại sao những lớp chăn lông tơ kia trị giá tới 65
đô-la, Robert Jordan nghĩ. Tao muốn được một đô-la cho mỗi lần nằm ngủ ngoài
trời, dưới cơn mưa tuyết.
- Vậy thì tôi phải ngủ ở đây à? - Chàng lịch sự hỏi.
- Ừ.
- Cám ơn. - Robert Jordan nói - Tôi sẽ ngủ ở bên ngoài.
- Ngủ trong tuyết à?
- Ừ. (Mẹ kiếp đôi mắt lợn đỏ ngầu, vấy máu và cái bản mặt lợn với
những lông lợn của mày). Trong tuyết (trong cái thứ tuyết mẹ kiếp tai ác, bất
chợt và đầy chủ bại này).
Chàng tiến đến bên Maria đang vừa mới cho một thanh củi thông vào
lửa.
- Tuyết đẹp dữ. - Chàng nói với cô gái.
- Nhưng lại tai hại cho công việc, phải không? - Nàng hỏi chàng -
Anh không lo ngại à?
- Sao lại lo ngại - Chàng bảo - Lo ngại không ích lợi gì cả. Bao
giờ thì buổi cơm chiều sẵn sàng đây em?
- Tôi chắc là đồng chí sẽ ăn ngon - Pilar nói - Đồng chí có cần ăn
một miếng pho mách trong khi chờ đợi không?
- Được lắm. - Chàng nói. Bà ta cắt miếng pho mách bao trong một lớp
vải lưới treo lủng lẳng trên trần, và trao cho chàng một lát dầy. Chàng đứng
ăn. Phó mách có mùi vị hơi gắt.
- Maria! - Từ chỗ ngồi nơi bàn, Pablo kêu lên.
- Chi đó? - Cô gái hỏi.
- Lau bàn đi, Maria. - Pablo vừa nói và mỉm cười với Robert Jordan.
- Ông hãy lau lấy - Pilar bảo hắn - Trước hết hãy lo chùi cằm và áo
của ông rồi sau đó hãy lau bàn.
- Maria! - Pablo gọi.
- Em đừng để ý tới hắn. Hắn say nhừ tử rồi. - Pilar nói.
- Maria! - Pablo gọi - Tuyết vẫn rơi, tuyết trông thật đẹp mắt.
Robert Jordan nghĩ, hắn không biết cái túi ngủ này. Cái con mắt lợn
đó không biết tại sao tôi đã phải trả cái túi này tới sáu mươi lăm đô-la tại
tiệm Woods. Ngay khi tên du mục trở về đây, tôi sẽ đi tìm lão già. Lẽ ra tôi
phải tới đó bây giờ nhưng rất có thể là tôi lạc mất họ. Tôi không biết lão ở
đâu nữa.
- Đồng chí có muốn ném tuyết không? - Chàng nói với Pablo - Đồng
chí có muốn chơi đánh giặc bằng những hòn tuyết không?
- Cái gì? - Pablo hỏi - Đồng chí rủ rê cái gì?
- Không. - Robert Jordan nói - Đồng chí đã đậy kỹ mấy cái yên ngựa
của đồng chí chưa?
- Rồi.
Đoạn Robert Jordan nói bằng tiếng Anh: “Đồng chí cho mấy con ngựa
của đồng chí ăn hay là cứ buộc chúng lại và để chúng đào xới kiếm ăn?”
- Cái gì?
- Không. Đó là việc của đồng chí, đồng chí ạ. Phần tôi thì tôi sẽ
rời khỏi nơi này bằng chân.
- Tại sao đồng chí lại nói tiếng Anh? - Pablo hỏi.
- Tôi cũng không hiểu nữa - Robert Jordan nói - Đôi lúc tôi nói
tiếng Anh khi nào quá mệt. Hoặc khi nào tôi quá chán chường. Hoặc thối chí, nói
cho đúng. Khi tôi quá đỗi thối chí, tôi trâm tiếng Anh để nghe cái âm thanh của
nó. Đó là tiếng rủ rỉ rù rì làm cho người ta yên tâm. Đồng chí phải thử xem,
một ngày nào đó.
- Đồng chí nói cái quái gì vậy hở Inglés? - Pilar hỏi - Nghe ra có
vẻ thú vị lắm, nhưng mà tôi chả hiểu cái mẹ gì cả.
- Không có gì cả, Robert Jordan nói. Tôi nói “không có gì cả” bằng
tiếng Anh đấy.
- Nào, bây giờ thì đồng chí hãy nói tiếng Tây Ban Nha đi - Pilar
nói - Nói tiếng Tây Ban Nha nó ngắn, gọn và đơn giản hơn.
- Chắc chắn rồi. - Robert Jordan nói. Nhưng mà trời đất, chàng
nghĩ, ồ Pablo, ồ Maria, ồ các người, hai anh em trong góc mà tôi đã quên mất
tên nhưng lại phải nhớ, và lắm lúc tôi mệt mỏi với điều đó. Với điều đó, với
các người, với tôi, với cuộc chiến tranh, và hơn nữa, tại sao tuyết lại rơi bây
giờ? Mẹ kiếp, dù sao như thế cũng quá lắm rồi. Không. Không quá lắm đâu. Không có
cái gì gọi là quá lắm cả. Phải chấp nhận và tìm cách thoát khỏi nghịch cảnh. Và
bây giờ thì mày đừng có viển vông nữa, hãy chấp nhận việc tuyết rơi, sau đó hãy
lắng nghe báo cáo của tên du mục và hãy đi đón lão già về đây. Nhưng mà tuyết
rơi, bây giờ đây, vào giữa tháng này! Chàng nhủ thầm, thôi đủ rồi. Đủ rồi và
mày hãy chấp nhận. Cái cốc.... Cái cốc... đó là cái quái gì, chuyện cái cốc?
Robert Jordan nghĩ, tốt hơn là vận dụng trí nhớ hoặc đừng bao giờ tìm kiếm
những đoạn dẫn chứng lôi thôi, bởi vì khi người ta quên mất một đoạn thì sau đó
những manh mối của nó lại nhảy múa không ngớt trong đầu. Vậy thì chuyện cái cốc
đó là cái quái gì?
- Làm ơn cho tôi rượu đi - Chàng nói bằng tiếng Tây Ban Nha. Đoạn
nói tiếp - Tuyết nhiều lắm hả? Ê - Chàng gọi Pablo - Tuyết nhiều lắm hả?
Tên say rượu ngước mắt nhìn chàng và mỉm cười. Hắn ngẩng đầu lên và
lại mỉm cười.
- Không có tấn công. Không có avioines 2, không có chuyện phá cầu.
Chỉ có tuyết. - Pablo nói.
- Đồng chí tưởng tình trạng này có thể kéo dài à? - Robert Jordan
ngồi kế bên hắn. Đồng chí tưởng tuyết rơi xuống đầu ta trọn mùa hè sao Pablo,
đồng chí của tôi?
- Trọn mùa hè thì không - Pablo nói - Nhưng đêm nay và ngày mai thì
có.
- Do đâu mà đồng chí nghĩ như vậy?
- Có hai thứ bão - Pablo nói bằng một giọng nghiêm trọng - Một thứ
đến từ vùng nui Pyrénées. Những trận bão đó mang hơi lạnh tới. Nhưng mà mùa
màng tới sớm hơn.
- Đúng - Robert Jordan nói - Luôn luôn như vậy.
- Còn trận bão kia, nó đến từ Cantebrico - Pablo nói - Nó đến từ
vùng biển. Với gió thổi về hướng này thì đó là trận bão lớn với rất nhiều
tuyết.
- Đồng chí học điều đó ở đâu vậy hở đồng chí tiền bối. - Robert
Jordan hỏi.
Giờ đây khi cơn giận dữ đã qua, trận bão kia lại khuấy động chàng
như bất luận một trận bão nào khác. Trong một trận gió, một cơn giông, một cơn
mưa rào bất chợt, một cơn mưa nhiệt đới hay một cơn bão mùa hạ thổi qua núi,
chàng nghe một kích thích lạ mà chàng không tìm thấy ở một trường hợp nào khác.
Nó giống như sự kích thích thuần túy nhất đẩy người ta vào cuộc chiến đấu. Có
một thứ gió nếu nung lòng chiến đấu, nhưng đó lại là thứ gió nóng sốt, nóng sốt
và khô ran như mồm mép con người, nó thổi nghe nặng nề, nóng sốt và bẩn thỉu,
nó nổi lên và tàn theo chuyện hung kiết trong ngày. Robert Jordan đã từng biết
rõ thứ gió đó.
Nhưng một trận bão tuyết thì trái lại hẳn, khi tuyết rơi thành cơn
bão, người ta đến gần các loài dã thú và chúng không biết sợ sệt là gì. Chúng
đi qua miền thôn dã một cách ngu ngơ, không biết phương hướng là gì, và con
hoẵng thỉnh thoảng dừng bước dưới mái hiên ngôi nhà ván.
Trong một trận bão tuyết, người ta cưỡi ngựa sải về phía một con
hươu, nó tưởng ngựa là một con hươu khác và cứ đâm bổ vào. Trong một trận bão
tuyết, gió có thể thổi hàng loạt, những luồng gió tinh khiết đượm màu tuyết
trắng và không khí lúc bấy giờ đầy những luồng trắng trùng điệp, tất cả đều
biến dạng và khi tàn cơn gió thì trời tĩnh lặng hẳn.
Đây đúng là một trận bão lớn và chàng nghĩ, hãy cứ vui đùa với nó.
Nó phá hủy tất cả nhưng ít ra người ta có thể vui đùa với nó.
- Tôi đã từng xuôi ngược đây đó trong nhiều năm trời - Pablo nói -
Người ta chở hàng hóa trên những chiếc xe bò lớn băng qua những trái núi trước
khi có xe cam nhông. Nhờ công việc đó người ta học được cách đoán thời tiết.
- Đồng chí đã gia nhập phong trào bằng cách nào?
- Tôi thì lúc nào cũng thuộc về phe tả - Pablo nói - Chúng tôi tiếp
xúc nhiều với những người ở Asturies, nơi mà về mặt chính trị họ rất tiến bộ.
Tôi luôn luôn ủng hộ nền Cộng Hòa.
- Nhưng mà trước khi gia nhập phong trào đồng chí làm gì?
- Thời đó tôi giúp việc cho một người buôn ngựa ở Saragosese. Hắn
cung cấp ngựa trong các cuộc đấu bò và cho các cuộc chuyển vận của quân đội.
Chính vào thời đó tôi đã gặp Pilar lúc bấy giờ đang sống với anh chàng đấu bò
tên Finito, như bà ta đã nói với đồng chí.
Hắn nói điều đó với rất nhiều tự phụ.
- Hắn không sáng giá gì cho lắm với tư cách một tay đấu bò. - Một
trong hai anh em đang ngồi nơi bàn vừa nói vừa nhìn vào lưng Pilar đang đứng
trước cái chảo.
- Không à? - Pilar nói vừa quay đầu lại nhìn người đàn ông - Hắn
không sáng giá gì cho lắm với tư cách một tay đấu bò à?
Bây giờ thì trong cái góc hang đó, bên ngọn lửa bếp, bà ta đang
mường tượng lại người chồng cũ của mình, với thân hình tầm thước và nước da xạm
nâu, với khuôn mặt sắc nét, đôi mắt buồn, đôi má hóp, với mái tóc đen uốn xoăn,
rịn ướt trên trán đúng vào nơi chiếc mũ đấu bò hằn lên một đường đỏ ửng mà
không một ai khác nhận ra được. Bà ta mường tượng ra hắn dang đối diện với con
bò mộng năm tuổi, đối diện với cặp sừng đã từng hất tung những con ngựa, với
chiếc cổ to đã hất con ngựa lên cao, lên cao mãi trong không khí, trong lúc
người ngồi trên lưng ngựa thúc sâu ngọn giáo vào chiếc cổ đó, và tiếp tục đẩy
nó lên cao mãi cho đến khi con ngựa rơi ập xuống và người cỡi ngựa bổ nhào vào
hàng rào cây trong lúc con bò mộng phục trên hai chân trước, chiếc cổ to lại
phóng cặp sừng về phía trước, húc vào con ngựa và tìm cách giết nó chết. Giờ
đây thì bà ta trông thấy Finito, tên đấu bò tồi, đang đứng trước con bò mộng và
quay cạnh sườn về phía nó. Bà ta lại trông thấy hắn rõ mồn một đang cuộn tròn
tấm vải dày màu đỏ quanh cây gậy, tấm vải dính đầy máu mà hắn dùng để quét trên
đầu và vai con bò mộng.
Bà ta mường tượng thấy cái bướu loang máu và lưng con bò mộng trong
khi nó vừa giãy giụa vừa lắc lư những mũi giáo ghim trên cổ nó. Bà ta thấy
Finito nghiêng người đứng sững ở năm bước cách đầu con vật nặng nề, bất động,
đoạn hắn chầm chậm giơ cao thanh gươm cho đến khi mũi gươm ở ngang vai nó, và
nghiêng lưỡi gươm vào một điểm mà hắn không trông thấy được, vì đầu con bò mộng
cao hơn đôi mắt hắn. Hắn tìm cách cho con bò mộng hạ thấp đầu nó xuống bằng
cách vẩy tấm vải ướt át nặng nề trong tay trái hắn. Nhưng bây giờ thì hắn đang
nhón gót lùi lại từ từ và nhìn dọc theo lưỡi gươm, đứng nghiêng trước chiếc
sừng bị sứt của con bò, trong lúc con bò đang thở hổn hển và nhìn chăm chăm vào
tấm vải.
Bây giờ thì bà ta trông thấy hắn thật rõ ràng, bà ta nghe cái giọng
nói nhỏ nhẹ trong trẻo của hắn khi hắn quay đầu nhìn về phía hàng ghế đầu tiên
của đấu trường ở bên trên hàng rào sơn đỏ, hắn nói: “Nhìn xem, tôi có thể giết
nó như thế này không!”.
Bà ta nghe hắn nói và tưởng chừng đang trông thấy chàng đấu bò rùn
gối tiến tới trước. Bà ta nhìn hắn bước thắng tới cặp sừng con bò đang hạ thấp
xuống một cách kỳ diệu trong khi mõm con vật đang hướng về tấm dạ đỏ quét trên
mặt đất, cổ tay nhỏ và chắc của hắn điều khiển cặp sừng hạ thấp xuống và chế
ngự lấy chúng trong khi lưỡi gươm thọc sâu vào khối thịt âm u trên bướu vai của
nó.
Bà ta trông thấy lưỡi gươm thọc vào một cách nhẹ nhàng và chắc chắn
như thể cơn xô đẩy của con bò mộng chỉ làm cho lưỡi gươm đâm sâu thêm vào người
nó trước khi tước nó ra khỏi tay người đấu bò. Bà ta nhìn lưỡi gươm thọc sâu
mãi cho tới khi người đàn ông nhỏ thó và nâu sẫm, với hai mắt không rời khỏi chỗ
lưỡi gươm cắm phập vào, bây giờ đã xê cái bụng bị thương tích của mình ra khỏi
chiếc sừng và đang ra xa con vật để đứng thẳng người, tay trái cầm cây gậy quấn
tấm dạ, tay phải giơ cao đồng thời nhìn con bò mộng giẫy chết.
Bà ta trông thấy hắn đứng sừng sững, hai mắt chăm chăm nhìn con bò
mộng đang cố hết sức chồm dậy, đang lắc lư như một thân cây sắp ngã, đang vận
dụng toàn lực để đứng lên, trong khi bàn tay hắn giơ cao trong một cử chỉ đắc
thắng. Bà ta trông thấy hắn đứng đó, mình mẩy đẫm mồ hôi, trong niềm vui sướng,
khuây khỏa không bờ, hắn nhẹ nhõm nhìn con bò mộng giẫy chết, hắn nhẹ nhõm đã
không gặp một sự va chạm hay một nhát sừng nào lúc nhảy thoát ra xa, thế rồi
khi hắn còn đứng thẳng người ở đó, thì con bò mộng ngã lăn ra chết, chỏng bốn
cẳng lên trời, và bà ta thấy người đàn ông nhỏ thó, nâu sẫm lần bước về phía bờ
rào, mệt nhoài và không nở nổi một nụ cười.
Bà ta thừa hiểu rằng hắn không thể chạy băng qua đấu trường bởi hắn
có thể chết lắm, và bà ta nhìn hắn bước chầm chậm về phía bờ rào, cầm chiếc
khăn lau miệng, nhìn vào chiếc khăn và lắc đầu, đoạn lau mặt và bắt đầu đi vòng
quanh đấu trường khoe chiến thắng vẻ vang.
Bà ta trông thấy hắn chầm chậm tiến tới, chân kéo lê từng bước
quanh đấu trường. Hắn mỉm cười, vẫy chào mọi người, rồi lại mỉm cười, đi trước
những người phụ tá của hắn, cúi xuống lượm những điếu xì gà, ném trả lại những
chiếc nón, đi vòng đấu trường, mỉm cười với đôi mắt buồn bã để kết thúc chuyến
đi vòng quanh dưới mắt bà ta. Bà ta vẫn tiếp tục nhìn và bây giờ thì bà ta trông
thấy hắn ngồi trên bực hàng rào bằng cây với một chiếc khăn ấp vào miệng.
Bà ta trông thấy tất cả khi bà ta đứng đó, cạnh bếp lửa, và bà ta
nói :
- Vậy chớ hắn ta không phải là một tay đấu bò cừ khôi à? Vậy tôi
hiện đang sống với hạng người nào đây?
- Đó là một tay đấu bò cừ khôi - Pablo nói - Nhưng mà hắn khó chịu
với vóc người nhỏ thó của hắn.
- Và chắc chắn là hắn bị bịnh lao. - Primitivo nói.
- Lao à? - Pilar nói - Ai mà không bị lao sau khi đã chịu đựng tất
cả những gì hắn đã chịu đựng? Trong cái đất nước mà một kẻ nghèo không thể nào
hy vọng được kiếm sống no đủ trừ phi phải làm sát nhân như Juan March hoặc làm
tên đấu bò trên sân khấu nhạc kịch hoặc một tên ca sĩ hát giọng tê no? Làm sao
hắn không mang bịnh lao mới được chớ? Trong cái xứ sở mà bọn trưởng giả ăn
nhiều đến phải đau dạ dày, chúng không thể sống nếu thiếu chất muối diêm trong
khi kẻ nghèo thì bị đói kém ngay từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới ngày chết mới
thôi, thử hỏi làm sao hắn không mang bịnh lao cho được chớ? Nếu đồng chí đã
từng du lịch bằng cách trốn chui trốn nhủi dưới những hàng ghế trong các toa
hạng ba để đi từ hội chợ này sang hội chợ khác mà khỏi cần phải mua vé, giống
như lũ trẻ con học nghề đấu bò ngay trên mặt đất, đầu vùi trong cát bụi bẩn
thỉu với những bãi đờm còn tươi hay đã khô, liệu đồng chí có tránh khỏi bịnh
lao không nếu đồng chí bị sừng bò mộng húc vào ngực?
- Dĩ nhiên rồi - Primitivo nói - Tôi chỉ nói hắn bị lao thôi mà.
- Dĩ nhiên là hắn bị lao - Pilar nói trong khi bà ta vẫn đứng thẳng
người với chiếc muỗng lớn cầm trong tay - Hắn nhỏ người, ăn nói nhỏ nhẹ và rất
sợ bò mộng. Tôi chưa hề thấy một ai lại sợ hãi, nhát gan đến thế trước giờ giao
đấu và tôi cũng chưa hề thấy ai lại gan lì đến thế một khi đã bước vào đấu
trường. Còn ông, - Bà ta nói với Pablo - ông đang mãi sợ chết. Ông quan trọng
hóa công việc. Nhưng mà Finito, lúc nào hắn cũng lo sợ. Và trong đấu trường thì
hắn là một con sư tử.
- Hắn nổi tiếng gan dạ mà. - Một người trong hai anh em nói.
- Tôi chưa thấy ai nhát gan đến thế - Pilar nói - Hắn không muốn có
cả một cái đầu bò mộng trong nhà. Một lần nọ, trong kỳ hội chợ ở Valladolid,
hắn đã giết một con bò mộng của Pablo Romero thật kỹ...
- Tôi nhớ ra rồi - Người kia trong hai anh em nói - Tôi có mặt ở đó
mà. Đó là một con bò mộng màu vàng xám, trán xoắn và sừng thật cao, nặng hơn
30 arrobas. Đó là con bò mộng sau cùng
mà hắn hạ được ở Valladolid.
- Đúng vậy - Pilar nói - Và sau đó, hội những người ái mộ đã họp
nhau tại quán cà phê Colon và đã chọn tên hắn để đặt cho hội và họ cũng đã nhồi
rơm vào đầu con bò mộng để tặng hắn trong một tiệc nhỏ tại quán Colon. Trong
bữa ăn, đầu con bò mộng được máng trên vách nhưng lại phủ bằng một lớp vải. Tôi
có mặt ở đó và còn có nhiều người khác nữa, có Pastora là một cô gái xấu hơn
tôi, có Nina de los Peines và nhiều phụ nữ du mục cùng gái điếm hạng sang nữa.
Đó là một bữa tiệc nhỏ nhưng lại rất huyên náo, đến độ gần như là dữ dội với
cuộc cãi vã xảy ra giữa Pastora và một trong số những gái điếm nổi danh vào bực
nhứt về một vấn đề xã giao. Tôi thì chưa bao giờ sung sướng đến như thế. Tôi
ngồi cạnh Finito và tôi để ý thấy hắn luôn tránh để khỏi nhìn vào đầu con bò
mộng phủ bằng một lớp vải màu tía trông giống như hình ảnh các vị thánh nơi nhà
thờ trong tuần lễ khổ nạn của Chúa. Finito ăn ít, bởi trong cuộc đấu hàng năm ở
Saragosse hắn đã nhận một palotazo, một nhát sừng quẹt vào, hắn đã lịm người
một hồi lâu, và ngay trong lúc đó, hắn không thể nào giữ yên được thức ăn trong
dạ dày. Hắn đưa mù xoa lên miệng thỉnh thoảng hắn đã phải khạc máu vào đó trong
suốt bữa tiệc. Tôi muốn kể cho các đồng chí điều gì quên mất rồi kìa?
- Đầu con bò mộng - Primitivo nói - Đầu con bò mộng nhồi rơm.
- Phải rồi, Pilar. Phải rồi. Nhưng mà tôi phải kể cho các đồng chí
biết rõ hơn. Các đồng chí thừa biết Finito không được vui tính gì lắm. Đúng ra
hắn luôn có vẻ trầm trọng và tôi không hề thấy hắn tự nhiên lại thốt lên cười
mỗi khi còn có hai đứa chúng tôi với nhau. Hắn thiếu cả óc trào phúng. Lúc nào
hắn cũng đạo mạo hết. Hắn đạo mạo gần như là Fernando vậy. Nhưng mà trong bữa
tiệc kia do hội những tay aficionados 3 đãi hắn và sau đó lập nên hội Finito,
dĩ nhiên hắn phải tỏ ra vui vẻ và lịch sự, do đó mà trong suốt bữa ăn, hắn luôn
mỉm cười và nói nhiều điều dễ thương, và chỉ có tôi là trông thấy hắn đang làm
gì với chiếc mù xoa của hắn. Hắn có cả thảy ba chiếc mù xoa trong người hắn và
hắn đã làm ướt đẫm cả ba. Sau đó hắn nói với tôi thật khẽ, “Pilar, anh không
chịu được nữa. Có lẽ anh phải về”. “Nào thì mình cùng về vậy”, tôi nói. Bởi tôi
trông hắn khổ sở lắm. Trong lúc đó, người ta vui cười tở mở chung quanh bàn và
tiếng ồn ào trở nên ầm ĩ khó chịu.
- Không. Anh không thể nào bỏ đi được - Finito nói - Dầu sao đây là
một cái hội mang danh nghĩa của anh và anh có nhiều ràng buộc.
- Nếu anh bịnh, thì ta chuồn. - Tôi bảo.
- Không - Hắn nói - Anh ở lại. Rót rượu manzanilla cho anh đi.
Tôi nhận thấy về phía hắn, hắn không nên uống rượu, với dạ dày của
hắn đang trong trạng thái nọ, nhưng dĩ nhiên là hắn không thể chịu đựng lâu hơn
nữa những cuộc vui đùa, những tràng cười cùng tất cả những tiếng động ồn ào
kia. Sau đó tôi nhìn hắn uống thật nhanh gần trọn một chai manzanilla đầy. Hắn
đã xài hết khăn mù xoa, bây giờ thì hắn dùng tới chiếc khăn ăn của hắn.
Giờ đây thì buổi tiệc đã trở nên cuồng nhiệt, một vài cô gái điếm
nhẹ người được cổ võ và chuyền đi quanh bàn trên vai các hội viên. Người ta yêu
cầu Pastora lên ca. El Nino Ricardo đánh đàn guitare. Bầu không khí thật vui
vẻ, cảm động và tràn ngập tình bằng hữu. Tôi chưa bao giờ trông thấy một quang
cảnh cuồng nhiệt đặc biệt flamenco 4 đến như vậy trong một buổi tiệc. Tuy nhiên
người ta vẫn chưa vén mở cái đầu bò mộng ra, và đó chính là lý do của buổi tiệc
đó.
Tôi đã được dịp vui đùa thỏa thích, tôi phải vỗ vào tay luôn để phụ
họa với tiếng đàn của Ricardo và giúp vào việc tổ chức nhóm người phụ họa cho
tiếng hát của Nina de los Peines. Lúc bấy giờ tôi chợt nhận ra Finito đã khạc
đầy vào chiếc khăn ăn của hắn và hắn đã giựt lấy chiếc khăn của tôi. Hắn vẫn
uống rượu manzanilla, hắn có đôi mắt thiệt sáng và ngẩng đầu nhìn từng người
một cách hài lòng. Hắn không nói chuyện được nhiều bởi vì bất cứ lúc nào khi
nói, hắn buộc lòng phải lấy chiếc khăn ăn ra, nhưng hắn tỏ ra vô cùng thích
thú, và dù sao chính vì vậy mà hắn có mặt ở đó.
Cứ như vậy mà buổi tiệc tiếp diễn và người ngồi cạnh tôi là ông bầu
cũ của Rafael el Gallo, hắn kể cho tôi nghe một câu chuyện kết thúc như vầy:
Rồi thì Rafael đến bên tôi và nói: “Anh là thằng bạn tốt bụng nhất và cao quý
nhất của tôi trên đời này. Tôi thương anh như một thằng anh và tôi muốn tặng
anh một món quà”. Đoạn hắn trao cho tôi một cây kẹp cà vạt bằng kim cương, hắn
hôn tôi ở hai bên má, và cả hai chúng tôi đều cảm động vô cùng. Sau đó Rafael
el Gallo bước ra khỏi quán, và tôi nói với Renata đang ngồi nơi bàn tôi: “Cái
thằng du mục bẩn thỉu đó vừa ký hợp đồng với một ông bầu khác”. Renata hỏi tôi,
“Anh muốn nói cái gì? Tôi đã làm ông bầu của hắn trong mười năm nay rồi và hắn
chưa hề tặng quà cho tôi”. Ông bầu của El Gallo đã bảo như vậy. Điều đó không
có ý nghĩa nào khác. Nó hoàn toàn đúng như vậy và đó là cách mà El Gallo đã rời
bỏ hắn.
Nhưng trong lúc đó, Pastora lại xen vào câu chuyện, hẳn không phải
để binh vục tiếng tăm Rafael, bởi không ai nói xấu hắn nhiều bằng cô ả, nhưng
bởi vì ông bầu đã miệt khinh bọn du mục bằng cách nói “tên du mục bẩn thỉu”. Cô
ả xen vào câu chuyện một cách dữ tợn và bằng những tiếng mà ông bầu không dám
dùng. Tôi cũng dự vào câu chuyện để trấn an Pastora và một ả du mục khác nữa
cũng lại đến trấn an tôi. Vì có nhiều tiếng la lối om sòm nên không thể nghe
người ta nói gì trừ tiếng “điếm” là nổi bật lên hơn cả, cho tới khi quang cảnh
được yên lặng trở lại, ba người thuộc bọn chúng tôi đã xen vào chuyện kẻ khác
lúc bấy giờ mỗi người đang ngồi nhìn ly rượu của mình. Và tôi thấy Finito với
một vẻ hãi hùng trên mặt, đang nhìn đầu con bò mộng hãy con bọc trong lớp vải
đỏ.
Đúng vào lúc đó, viên chủ tịch hội bắt đầu đọc diễn văn trước khi
mở cái đầu bò mộng ra, trong suốt bài diễn văn được tán thưởng vang dậy với
những tiếng “hoan hô” và những tiếng đập bàn, tôi nhìn thấy Finito đang dùng chiếc
khăn ăn của hắn, không, của tôi, ngồi tuột trong ghế, và hãi hùng nhìn lên cái
đầu được bao lại của con bò mộng đang đối diện của hắn, trông hắn như bị mê
hoặc, hốt hồn.
Ở phần chót diễn văn, Finito khởi sự lắc đầu và luôn ngồi tuột sâu
trong ghế.
“Sao, khá chớ cưng?” Tôi hỏi hắn và khi hắn nhìn tôi, hắn không
nhận ra tôi, hắn chỉ gật đầu và nói “Không, không, không”.
Viên chủ tịch đã chấm dứt bài diễn văn và sau đó mọi người đều hoan
hô hắn khi hắn bước lên một chiếc ghế để cắt sợi dây buộc vào miếng vải đỏ. Hắn
chậm rãi vén mở cái đầu bò, nhưng miếng vải mắc vào một cái sừng. Hắn tháo
miếng vải ra và cặp sừng nhọn hoắc, láng lẩy hiện ra. Con bò mộng to lớn màu
vàng chĩa cặp sừng đen bóng, bén nhọn về phía trước, cặp sừng với những mũi
nhọn bén ngót giống như những cây kim nhọn của loài nhím. Trông nó giống như
cái đầu con bò còn sống, trán nó vẫn xoắn như lúc nào, hai lỗ mũi mở toang, hai
mắt sáng quắc: nó ở đó và nó nhìn thẳng vào mặt Finito.
Mọi người hò hét và vỗ tay ầm ĩ, trong khi Finito vẫn lùi lại và
ngồi tuột sâu trong ghế. Và rồi mọi người im bặt và nhìn hắn: hắn nói không,
không, hắn nhìn đầu con bò mộng, hắn lùi ra sau nữa và nói “không” thật lớn, và
máu cuồn cuộn tuôn ra. Hắn không dùng đến chiếc khăn ăn và máu chảy xuống cằm
hắn, hắn vẫn nhìn đầu con bò mộng và nói: “Trọn mùa, đồng ý. Để lãnh tiền, đồng
ý. Để ăn, đồng ý. Nhưng tôi không thể ăn được. Các người nghe không? Tôi đau dạ
dày. Và bây giờ mùa đấu bò đã mãn: Không! Không! Không!”. Hắn nhìn quanh bàn,
đoạn hắn nhìn đầu con bò mộng và hắn nói “Không” một lần nữa và cúi đầu xuống,
đặt chiếc khăn ăn lên cằm. Sau đó hắn ngồi lì ở đó trong dáng ngồi như vậy,
không nói gì thêm nữa. Buổi tiệc đã khởi sự tốt đẹp bao nhiêu, lẽ ra phải là
một ngày đáng ghi nhớ mãi trong lịch sử vui đùa và bằng hữu, đã không mang lại
một kết quả nào.
- Sau đó bao lâu thì hắn chết? - Primitivo hỏi.
- Ngay mùa đông năm ấy - Pilar nói - Hắn không bao giờ bình phục
lại được sau khi lãnh nhát sừng bò mộng ở Saragosse. Điều đó còn tệ hơn là bị
sừng bò húc nữa, vì vết thương thuộc phần bên trong và không chạy chữa được.
Gần như là hắn đã nhận một nhát tương tự như vậy mỗi lần hạ thủ một con bò
mộng, và chính vì vậy, hắn không được thành công hơn. Hắn phải vất vả tránh
sừng vì lẽ vóc người hắn nhỏ. Gần như lần nào cũng vậy, hắn để cạnh sừng chạm
tới hắn. Nhưng đương nhiên, hầu hết đều là những nhát nhẹ.
- Nếu hắn nhỏ người thì lẽ ra hắn không nên làm nghề đấu bò mộng. -
Primitivo nói.
Pilar nhìn Jordan và ngẩng đầu lên. Đoạn bà ta cúi đầu nhìn xuống
cái nồi sắt và lại tiếp tục ngẩng đầu lên.
Dân tộc gì lạ thật, bà ta nghĩ thầm. Lạ thật, cái dân Tây Ban Nha
này! Và “Nếu hắn nhỏ người thì lẽ ra hắn không nên làm nghề đấu bò”. Tôi nghe
và tôi không nói gì. Điều đó không đủ làm tôi giận dữ và khi tôi giải thích
xong, tôi im lặng. Thật là đơn giản khi người ta chẳng hiểu gì! Qué sencillo! 5
Khi người ta chẳng hiểu gì, người ta nói: “Hắn chẳng sáng giá bao nhiêu trong
tư cách của một tay đấu bò mộng”. Cũng không hiểu gì, một kẻ khác lại nói: “Hắn
bị bịnh lao”. Và khi có người nào giải thích xong xuôi cho họ hiểu, thì một kẻ
khác lại nói: “Nếu hắn nhỏ người thì lẽ ra hắn không nên làm nghề đấu bò”.
Giờ đây, cúi xuống bếp lửa, bà ta thấy lại hắn đang nằm trên
giường, tấm thân trần trụi, nâu sẫm với những vết sẹo phù lên ở hai bên đùi,
vết thương lõm sâu đã kéo da non ở dưới cạnh sườn và vết thương trắng từ bên
sườn chạy dài tới tận nách. Bà ta trông thấy đôi mắt cùng với khuôn mặt trầm
trọng, mái tóc đen và xoắn hất ra phía sau. Bà ta ngồi cạnh hắn trên giường,
xoa chân hắn, đấm bóp những bắp thịt sưng phồng nơi mông hắn, bà ta nắn nót
chúng, buông chúng ra, đoạn dùng hai tay chắp lại vỗ nhẹ vào chúng.
- Sao, khá không? - Bà ta bảo hắn - Chân cẳng thế nào, hở cưng?
- Khá lắm, Pilar ạ. - Hắn nói trong khi mắt vẫn nhắm nghiền.
- Anh có cần em xoa bóp ngực anh không?
- Không, Pilar. Đừng đụng vào đó.
- Thôi thì xoa bóp đùi anh nghe?
- Không. Anh đau lắm.
- Nhưng mà nếu em xoa bóp với dầu nóng thì nó sẽ làm cho ấm và anh
sẽ bớt đau.
- Không, Pilar, cám ơn em. Anh thích tốt hơn hết là đừng đụng vào
các chỗ đó.
- Để em dùng rượu lau mình cho anh nghe!
- Ừ. Nhẹ thôi nghe em.
- Với con bò mộng sau cùng, anh đấu chì lắm. - Bà ta bảo hắn.
- Ừ, anh đã giết nó rất kỹ.
Sau đó khi đã lau chùi hắn sạch sẽ và dùng tấm ra đắp lên người
hắn, bà ta nằm bên cạnh hắn trên giường và hắn nắm tay bà ta, bảo: “Pilar, em
là một người đàn bà tuyệt diệu”. Chưa bao giờ hắn đùa cợt vui vẻ đến như vậy và
thông thường, sau trận đấu, hắn vẫn ngủ vùi. Và rồi bà ta vẫn nằm đó, nắm lấy
bàn tay Finito trong hai bàn tay của bà ta và nghe hắn thở.
Hắn thường sợ hãi trong lúc ngủ. Bà ta nghe thấy bàn tay hắn co lại
và trông thấy mồ hôi rịn trên trán hắn. Mỗi lần hắn thức giấc, bà ta bảo hắn:
“Không có gì”, và rồi hắn lại nhắm mắt ngủ. Bà ta vẫn sống như vậy với hắn
trong suốt năm năm trời và bà ta đã không hề, hay gần như không hề lừa dối hắn.
Và sau đó, khi chôn cất hắn xong, bà ta bắt đầu sống với Pablo là người dẫn
ngựa cho các kỳ thủ trong đấu trường và trông giống tất cả các con bò mộng mà
Finito đã trải qua trọn một đời người để hạ thủ. Nhưng mà sức mạnh lẫn lòng can
đảm của loại bò mộng đều chẳng bền vững. Bây giờ đây bà ta đã hiểu được điều
đó. Vậy thì cái gì mới bền vững được đây? Tôi sống bền bỉ. Phải, tôi đã sống
một cách bền bỉ. Nhưng tại sao mới được?
- Maria - Bà ta nói - Coi chừng đó nghe. Em nhóm lửa bếp chớ không
phải đốt nhà.
Trong lúc đó, tên du mục xuất hiện trên ngưỡng cửa. Người hắn phủ
đầy tuyết. Hắn cầm trong tay khẩu các bin và đang dậm chân để giũ tuyết.
- Sao?
- Cứ sáu giờ thay lính gác một lần, có hai người cùng gác trên cây
cầu lớn - Tên du mục nói - Có tám người và một tên cai trong cái chòi của phu
lục lộ. Đó là thời biểu mà đồng chí cần biết.
- Còn cái đồn ở trại cưa thì sao?
- Lão già đang ở đó. Lão có thể cùng lúc quan sát đồn canh lẫn con
đường.
- Và con đường? - Robert Jordan nói.
- Sinh hoạt bình thường - Tên du mục nói - Không có gì lạ. Nhiều xe
chạy.
Tên du mục có vẻ lạnh cóng, mặt hắn hóp lại vì lạnh và hai bàn tay
hắn đỏ ửng. Hắn vẫn đứng nơi cửa vào hang, cởi áo và giũ tuyết. Hắn nói :
- Tôi đã ở đó cho tới khi chúng đổi phiên gác. Một phiên gác dài.
Cũng may là tôi không có mặt trong quân đội chúng.
- Mình đi tìm lão già đi. - Robert nói vừa khoác chiếc áo da vào
người.
- Không có tôi - Tên du mục nói - Tôi bây giờ thì chỉ cần lửa và
súp nóng. Tôi sẽ nói với một trong đám người kia biết lão ta ở đâu để hắn có
thể đưa đồng chí đi. Ê, bọn ăn bám, - Hắn kêu về phía bọn người đang ngồi nơi
bàn - ai muốn dẫn Inglés tới chỗ lão già đang nằm quan sát con đường đây?
- Tôi đi cho - Fernando đứng dậy - Cho tôi biết ở đâu đi.
- Nghe này - Tên du mục bảo - Ở chỗ kia kìa... - Và hắn giải thích
cho biết lão già đang ở đâu.
--- ------ ------ ------ -------
1 Thế thì sao?
2 Máy bay.
3 Tay đấu bò tài tử.
4 Một điệu nhạc vùng Andalousie.
5 Thật đơn giản!
Chương 15
Anselmo đang ngồi chồm hổm trong cái hốc của một thân cây lớn. Ở
hai bên lão, tuyết bay lác đác trong gió. Lão nép sát vào thân cây. Hai bàn tay
lão giấu trong túi áo vét, và lão cố hết sức rúc đầu vào cổ áo. Nếu tôi còn ở
đây lâu, lão nghĩ, có lẽ tôi sẽ chết cóng đi mất, và công việc chả nên trò
trống gì. Inglés đã bảo tôi cứ ở đây cho tới khi nào có người tới đón, nhưng mà
lúc đó, hắn không biết có trận bão tuyết này. Không có biến động bất thường nào
trên mặt lộ và tôi đã biết rõ những cách bố trí và những quy luật áp dụng trong
đồn canh tại trại cưa. Bây giờ có lẽ tôi phải về trại. Lão nghĩ, tôi sẽ tiếp
tục đợi thêm một chút nữa và sau đó tôi sẽ về trại. Lỗi ở mệnh lệnh quá cứng
rắn. Người ta không chịu tiên liệu gì cả trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi.
Lão dùng chân cọ lên nhau. Đoạn lão cho tay ra ngoài túi áo, nghiêng người về
phía trước, cọ chân vào nhau cho máu chạy đều. Trời đã bớt lạnh, lão ngồi tránh
gió trong hốc cây một cách khá an toàn, nhưng lão phải về ngay. Trong lúc đó
lão nghe có tiếng xe chạy dưới đường, với nhựng tiếng khua vang. Chiếc xe leo
lên con đường dốc phủ đầy tuyết trắng, sơn màu xanh và nâu với những mảng to
tướng, với những cánh cửa sổ bôi màu xanh để che giấu phần bên trong, với chỉ
một khung kính hình bán nguyệt trong suốt để người trong xe nhìn ra ngoài. Đó
là một chiếc Rolls Royce cũ độ hai năm, một chiếc xe trong thành phố được ngụy
trang, theo nhu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng Anselmo không biết điều đó. Lão
ta không thể trông thấy ba tên sĩ quan mặc áo choàng ngồi trong xe. Hai người
ngồi ở phía sau và một người ngồi ở băng trước. Khi chiếc xe qua khỏi chỗ
Anselmo đang nấp, tên sĩ quan nhìn qua khung kính màu xanh hình bán nguyệt.
Nhưng Anselmo không trông thấy hắn. Cả hai đều không trông thấy nhau.
Chiếc xe chạy trong tuyết ngay phía dưới lão. Anselmo trông thấy
tên tài xế mặt đỏ gay, đầu dội mũ sắt, cả khuôn mặt và chiếc mũ nhô lên khỏi
chiếc áo choàng may bằng vải làm mền quấn lấy người hắn. Lão trông thấy họng
súng tiểu liên của tên lính ngồi cạnh tên tài xế. Rồi thì chiếc xe biến mất và
Anselmo thọc tay mò mẫm phía bên trong áo vét, lão móc từ túi áo sơ-mi hai tờ
giấy xé ra từ cuốn sổ tay của Robert Jordan và đánh một dấu trước hình vẽ một
chiếc xe hơi. Đó là chiếc xe thứ mười leo lên con đường dốc ngày hôm ấy. Sáu
chiếc đã trở xuống. Bốn chiếc hãy còn ở phía trên. Đó không phải là một số
lượng bất thường, nhưng Anselmo không phân biệt những chiếc Ford, Opel,
Renault, Citroën thuộc Bộ Tham Mưu Sư đoàn đang đóng trên các con đường đèo và
trục giao thông trên núi, cùng với những chiếc Rolls Royce, Lancia, Mercedes,
Isolta thuộc Tổng Hành Dinh. Hẳn Robert Jordan biết phân biệt những thứ xe đó
và nếu chàng ở vào địa vị của lão già, chàng sẽ biết ngay ý nghĩa của những
chiếc xe đang leo dốc. Nhưng mà chàng ta không có ở đó và lão già đành phải
đánh một cái dấu vào tờ giấy cho mỗi chiếc xe leo dốc.
Bây giờ thì Anselmo nghe lạnh đến nỗi lão ta quyết định tốt hơn hết
là trở về trại trước khi đêm xuống. Lão ta không sợ lạc nhưng lão nghĩ không
nên ở lại lâu nơi đây làm gì vô ích. Gió càng lúc càng thổi mạnh và tuyết vẫn
rơi dày đặc. Tuy nhiên khi lão ta đúng dậy, vừa nhịp chân vừa nhìn con đường
xuyên qua những nắm tuyết rơi dầy, lão vẫn chưa chịu cất bước mà vẫn tiếp tục
đứng đó, tựa vào gốc thông.
Ông Inglés đã bảo tôi ở lại, lão nghĩ thầm. Trong lúc này đây, có
thể hắn đang trên đường tới đây. Nếu tôi đi, có thể hắn sẽ đi lạc trong tuyết
khi tìm kiếm tôi. Trong suốt trận giặc này, ta đã khổ nhiều vì thiếu kỷ luật và
vì bất tuân thượng lịnh, tôi sẽ đợi ông Inglés thêm một chút nữa. Nhưng nếu hắn
không đến ngay, có lẽ tôi đành bỏ đi vậy, mặc dù đã có lịnh, bởi vì tôi cần báo
cáo ngay và tôi còn phải làm nhiều việc trong những ngày này, lại nữa, người ta
không nên đứng chết cóng nơi này một cách vô bổ.
Bên kia đường, tại trại cưa, có khói bay lên từ ống khói, và
Anselmo cảm thấy gió thổi bật nó về phía lão. Bọn phát xít lúc nào cũng sống
trong cảnh ấm cúng, lão nghĩ, bọn chúng lúc nào cũng có đầy đủ tiện nghi. Vào
chiều mai, chúng tôi sẽ giết sạch bọn chúng. Thật là một công việc lạ kỳ, và
tôi không thích nghĩ tới nó. Tôi đã trải qua trọn một ngày để quan sát chúng,
họ cũng là người như bọn tôi chớ chẳng khác gì. Tôi tin rằng tôi có thể tới
trại cưa và gõ cửa, tôi sẽ được tiếp đón ân cần trừ khi nào chúng được lịnh hỏi
giấy tất cả mọi người. Chúng ta bị chi phối bởi lịnh này lịnh nọ. Bọn người đó
không phải là phát xít. Tôi gọi chúng là phát xít, kỳ thật không phải vậy. Đó
là những con người khốn khổ đáng thương như chúng tôi. Lẽ ra bọn chúng không
đời nào chống lại chúng tôi cả, và tôi không thích cái ý tưởng giết người.
Những người ở trong đồn đó đều thuộc miền Galice. Tôi biết được
điều đó sau khi nghe được câu chuyện của bọn chúng vào buổi xế chiều hôm nay.
Chúng không thể đào ngũ được bởi người ta sẽ mang những người trong gia đình
của chúng ra bắn. Dân miền Galice thường hoặc rất thông minh, hoặc thật đần độn
và tàn bạo. Tôi biết rõ hai hạng người đó. Lister cũng là dân Galice, thuộc
cùng một thành phố với Franco. Không biết bọn người đó nghĩ gì khi thấy tuyết
rơi giũa mùa này. Bọn chúng sống trong vùng không có núi non cao ngất như ở
đây. Ở xứ sở của bọn chúng, trời mưa dầm dề và cỏ cây lúc nào cũng xanh tươi.
Từ cánh cửa sổ của trại cưa, đèn đã bật sáng. Anselmo rùng mình và
rủa thầm, thằng Inglés phải gió này! Kìa là dân Galice đang sống phề phỡn trong
nhà êm cửa ấm ngay trên đất nước của chúng tôi, còn tôi, tôi phải chịu tê cóng
vì lạnh sau một gốc cây như vầy, và bọn tôi phải sống trong một cái hang đá
chẳng khác gì loài vật trên núi. Lão nghĩ, nhưng mà ngày mai này, những con vật
sẽ ra khỏi hang, và bọn người trong lúc này đang sống đầy đủ thừa mứa sẽ chết
trong chăn ấm nệm êm của chúng. Như những kẻ đã chết trong đêm chúng tôi tấn
công Otero. Lão không muốn nhớ lại vụ Otero chút nào.
Tại Otero, đêm đó, lần đầu tiên, lão đã giết người, và lão sẽ không
phải giết nữa. Chính ở Otero, Pablo đã đâm chết tên lính gác trong khi Anselmo
chụp chiếc mền lên đầu hắn. Tên lính gác bị quấn tròn lại trong chiếc mền và bị
kềm cứng dưới chân Anselmo, kêu thét lên những tiếng thất thanh, hãi hùng.
Anselmo mò mẫm bên trong chiếc mền và cầm dao đâm vào người hắn cho tới khi hắn
xuội lơ và im bặt. Lão đã dùng đầu gối chận ngang cổ họng của hắn để bắt hắn im
khi Pablo ném bom vào căn phòng qua khung của sổ nơi tất cả bọn người trong đồn
đều ngủ say. Khi tiếng nổ phát ra người ta tưởng cả thế giới đang nổ tung dưới
mắt, và hai trái bom khác được Pablo ném vào tiếp theo đó qua ngả cửa sổ. Bọn
chúng nếu không chết ngay trên giương ngủ thì cũng chết vì tiếng nổ của trái
bom thứ nhì khi chúng lạng quạng đứng dậy. Đó là thời vàng son của Pablo, thời
mà hắn gây sôi sục khắp nơi như một tên giặc Mông Cổ và là thời mà không có một
đồn bót Phát xít nào được an toàn vào ban đêm.
Và bây giờ, Anselmo nghĩ, hắn tàn tạ và bất lực chẳng khác gì một
con heo giống bị thiến. Người ta thiến xong thì tiếng kêu la cũng chấm dứt,
người ta ném hai cái hòn d... đi, và con heo giống, lúc bấy giờ cũng không còn
là con heo giống nữa, đến bên chúng, phồng mũi ngửi và lục lạo, sau đó nó không
ngần ngại ăn lấy chúng; không, Anselmo nghĩ thầm vừa mỉm cười, hắn không tệ đến
đỗi đâu, người ta có thể nói quá, ngay cả với Pablo. Dù sao phải nói là hắn đã
thay đổi và trở nên xấu xí, tệ hại.
Trời quá lạnh, lão nghĩ, cần nhất là ông Inglés tới đây. Cần nhất
là tôi không phải giết người trong cái đồn canh đó. Bốn tên thuộc miền Galice
kia và tên cai của chúng, tất cả dành cho những kẻ thích giết chóc. Ông Inglés bảo vậy. Tôi sẽ làm vậy nếu có bổn phận
phải làm, nhưng mà ông Inglés đã bảo tôi
sẽ ở lại với hắn trên cây cầu, còn chuyện giết chóc thuộc phần vụ của kẻ khác.
Trên cầu sẽ xảy ra trận đánh nhau và lúc đó tôi sẽ làm tất cả những gì một ông
già có thể làm được trong cuộc chiến này. Nhưng mà phải chi ông Inglés đến ngay
bây giờ thì tốt quá bởi vì tôi đang chịu lạnh và cứ tưởng tượng bọn người đang
sống ấm cúng trong trại cưa dưới kia, tôi càng thấy lạnh hơn nữa. Tôi mong được
sống trong ngôi nhà của mình và cuộc chiến này chấm dứt cho rồi. Nhưng mà, lão
lại nghĩ, mày đâu có nhà cửa gì. Mày chỉ có thể trở về sau khi đã thắng trận
giặc này.
Bên trong trại cưa, một tên lính đang ngồi trên bộ ván và đánh bóng
đôi giày ống của hắn. Một tên khác đang nằm dài ra ngủ. Một tên thứ ba đang làm
bếp và tên cai thì đang xem báo. Những chiếc nón máng trên tường. Những khẩu
súng dựng bên vách ván.
- Cái xứ sở gì mà kỳ lạ, chưa tới tháng Sáu đã có tuyết rơi đầy
trời rồi. - Tên lính ngồi trên phản buột miệng nói.
- Lạ thật. - Tên cai nói.
- Mới đang vào tuần trăng tháng Năm - Tên lính đang làm bếp nói -
Tuần trăng tháng Năm vẫn chưa hết.
- Xứ sở gì mà có tuyết vào tháng Năm? - Tên lính ngồi trên phản gằn
giọng.
- Trên vùng núi này, tuyết rơi vào tháng Năm không phải là chuyện
lạ đâu - Tên cai nói - Ở miền Castille này, tháng Năm là tháng nóng dữ nhưng
cũng có thể lạnh gắt.
- Hoặc là mưa - Tên lính ngồi trên phản nói - Tháng Năm này, trời
mưa gần như mỗi ngày.
- Đâu có mưa - Tên lính đang làm bếp nói - Vả lại tháng Năm này hãy
còn tuần trăng của tháng Tư mà.
- Tao muốn điên đầu với những tuần trăng của mày - Tên cai bảo -
Mày dẹp những tuần trăng của mày giùm tao coi nào.
- Tất cả những ai ở gần biển hoặc ở miệt đồng ruộng đều tính theo
tuần trăng chớ không phải theo tháng - Tên lính làm bếp nói - Thí dụ như bây
giờ đúng là bắt đầu tuần trăng tháng Năm đây. Tuy nhiên lại sắp tới tháng Sáu
rồi.
- Vậy thì tại sao người ta lại không trễ nải mùa màng? Tao điên đầu
với tất cả câu chuyện này.
- Ông ở thành phố. Ông ở Lugo, ông biết gì về biển và đồng ruộng
chớ?
- Ở thành phố người ta biết nhiều chuyện hơn là bọn analfabetos 1
chúng mày ở miền biển và đồng ruộng.
- Chính với tuần trăng này mà từng đàn cá mòi khổng lồ kéo tới. Với
tuần trăng này, người ta sửa soạn những tàu đánh cá mòi. Trong khi cá cháy thì
xuôi về miền Bắc.
- Tại sao mày không vào hải quân, bởi mày từ Noya tới? - Tên cai
hỏi.
- Tôi đâu có đăng ở Noya, tôi đăng ở Negreira, nơi tôi sinh trưởng.
Và ở Negreira, ở cái thành phố trên bờ sông ấy, người ta tóm ông vào quân đội
không sẩy được.
- Rủi quá há! - Tên cai nói.
- Đừng tưởng vào hải quân mà không có nguy hiểm - Tên lính ngồi
trên phản nói - Ngay lúc không có đánh nhau, đây là một bờ biển nguy hiểm vào
mùa đông.
- Không có gì tệ hơn là quân đội. - Tên cai nói.
- Ông làm cai mà ông ăn nói như vậy đó hả? - Tên lính làm bếp nói.
- Không - Tên cai nói - Tao nói về những hiểm nguy. Tao nói về
những cuộc dội bom, những cuộc tấn công, về đời sống chui rúc dưới hầm.
- Ở đây không có những chuyện đó. - Tên lính trên bộ ván nói.
- Nhờ Trời - Tên cai nói - Nhưng ai biết được bao giờ thì những thứ
đó rơi xuống đầu mình đây? Chắc chắn là người ta không để mình yên ổn hoài như
vậy đâu.
- Không biết mình còn phải tiếp tục công việc này tới bao giờ đây?
- Không biết - Tên cai nói - Nhưng tao muốn tình trạng này kéo dài
tới hết chiến tranh.
- Sáu giờ gác, quá nhiều. - Tên lính đang làm bếp nói.
- Nếu trận bão này còn tiếp tục, mình sẽ gác trong ba giờ. Cho nó
được bình thường.
- Những chiếc xe kia của Bộ Tham Mưu làm gì đó? - Tên lính trên
phản nói - Tôi không ưa những chiếc xe đó tí nào.
- Tao cũng vậy - Tên cai nói - Đó là dấu hiệu không tốt.
- Còn không quân - Tên lính đang làm bếp nói - Không quân: lại một
dấu hiệu xấu.
- Nhưng mà phe ta có một lực lượng không quân ác liệt lắm - Tên cai
nói - Bọn Đỏ không bằng ta. Những chiếc máy bay sáng nay làm khoái mắt mọi
người.
- Tôi đã từng trông thấy phi cơ của bọn Đỏ trong những lúc nghiêm
trọng - Tên lính trên bộ ván nói - Tôi đã trông thấy những chiếc oanh tạc cơ
hai máy, cũng khiếp đảm lắm chớ không vừa đâu.
- Đúng rồi. Nhưng chúng không ác liệt bằng không quân ta đâu - Tên
cai nói - Phe ta có một không lực vô địch.
Trong trại cưa, bọn chúng đã nói với nhau như vậy, trong lúc
Anselmo ngồi đợi dưới bão tuyết vừa trông chừng con đường và ánh sáng từ khung
cửa sổ trại cưa.
Anselmo nghĩ, tôi hy vọng rằng mình không phải có mặt trong trại
cưa. Có lẽ sau chiến tranh, người ta phải sám hối nhiều. Sau chiến tranh, nếu
người ta không còn tin vào tôn giáo nữa, có lẽ người ta phải tổ chúc một thứ lễ
sám hối cho mọi công dân để tẩy uế những ám ảnh giết chóc nơi họ, nếu không thì
người ta sẽ không bao giờ có được một căn bản nhân đạo và chính thật để sống
cả. Tôi thừa biết người ta cần phải giết chóc, nhưng dù sao đó là điều xấu xa
cho mỗi cá nhân, và tôi nghĩ rằng khi tất cả tấn tuồng này chấm dứt và khi ta
đã thắng trận, ta phải thực hiện một cuộc lễ sám hối để rửa tội cho tất cả mọi
người.
Anselmo quả thật là một con người rất tốt và mỗi khi lão ngồi lâu
một mình ở đâu, thông thường lão vẫn lẻ loi như vậy, vấn đề giết chóc lại ám
ảnh, giày vò lão.
Lão nghĩ, tôi không hiểu nổi cái anh chàng Inglés nọ. Hắn bảo tôi
là hắn không chút quan tâm gì tới chuyện đó. Vậy mà hắn rất nhạy cảm và tốt
bụng. Đối với tuổi trẻ, có thể chuyện giết chóc không quan trọng gì. Với người
ngoại quốc, hoặc với kẻ không cùng tín ngưỡng với bọn tôi, có lẽ tình cảm không
còn nữa. Nhưng tôi tin rằng tất cả những ai đã giết người sớm muộn gì rồi cũng
sẽ khổ tâm vì đó, và mặc dù là chuyện thiết yếu, nhưng đó lại là một trọng tội
và sau đó người ta phải chịu đền tội rất nặng.
Trời đã vào đêm, Anselmo nhìn ánh sáng từ bên kia đường và lão ta
vỗ vào cạnh sườn cho bớt lạnh. Lão nghĩ bây giờ thì mình phải về trại đây,
nhưng một cái gì cầm chân lão lại nơi đó, cạnh gốc cây, ở phía trên con đường.
Tuyết rơi dữ hơn, và Anselmo lại nghĩ: phải chi đêm nay người ta có thể phá sập
cây cầu. Gặp phải một đêm như đêm nay, chiếm đồn canh và phá cầu là những việc
sẽ xong xuôi ngay. Gặp phải một đêm như đêm nay, người ta có thể làm bất luận
điều gì.
Lão tiếp tục ở đó, đứng tựa vào thân cây, khẽ nhịp chân, và lão
không nghĩ tới chuyện cây cầu nữa. Cảnh đêm lặng lẽ buông xuống lúc nào cũng
gây cho lão một cảm giác cô đơn, và đêm nay, lão thấy mình cô đơn đến nỗi lão
nghe thấy một khoảng trống tương tự như cơn đói.
Xưa kia, lão có thể trừ khử được cái cảm giác cô đơn kia bằng những
lời cầu nguyện. Thông thường, khi đi săn về, lão lẩm rẩm đọc nhiều lần một bài
kinh là lão cảm thấy đỡ ngay. Nhưng từ lúc phong trào nổi dậy, lão không còn
cầu nguyện lần nào nữa. Lão không cầu nguyện nữa, nhưng hắn lão cảm thấy mình
không lương thiện và đạo đức giả nếu phải tiếp tục cầu nguyện. Lão không muốn
có một ân huệ đặc biệt nào, lão không muốn sự ưu đãi nào khác hơn tất cả mọi
người.
Không, lão nghĩ, tôi chỉ sống một mình, một thân. Và mọi người đều
như vậy cả, tất cả những chiến sĩ và những kẻ đã mất gia đình, thân quyến. Tôi
không có vợ, nhưng tôi hài lòng vì bà ấy đã chết trước khi phong trào nổi dậy.
Bà ta hẳn không hiểu được điều đó. Tôi không có con và sẽ không bao giờ có con.
Tôi trơ trọi một mình vào những ngày không làm việc, và khi bóng tối trở về,
lúc đó tôi mới thấy mình cô đơn ghê gớm. Nhưng tôi có được một điều mà không kẻ
nào cũng như Trời Phật nào có thể tước đoạt: tôi phục vu đắc lực cho nền Cộng
Hòa. Tôi đã phục vụ trong gian khổ cho những giá trị mà mọi người sẽ thụ hưởng
sau này. Tôi đã phục vụ hết sức mình ngay từ đầu phong trào và tôi đã không làm
điều gì đáng xấu hổ.
Duy có điều tôi tiếc, đó là sự giết chóc. Nhưng chắc hẳn người ta
có cách cứu gỡ, bởi vì với một tội lỗi như vậy, người ta phải tìm ra một phương
thức xá miễn thích đáng. Tôi rất muốn nói cho Inglés biết, điều đó, nhưng mà
hắn còn trẻ quá, chắc hắn không hiểu gì đâu. Chính hắn đã từng nói về sự giết
chóc. Hay thật ra chính tôi đã khơi chuyện trước tiên? Chắc hẳn hắn đã giết
nhiều người, nhưng hắn có vẻ không thích thú việc đó chút nào. Ở những kẻ nào
còn thích giết chóc, luôn luôn có một cái gì thối nát, tệ hại.
Lão nghĩ, đó phải là một tội tày trời. Cho dù có cần thiết, chắc
chắn đó lại là điều người ta không có quyền làm. Nhưng ở Tây Ban Nha, người ta
giết người quá dễ, và thường giết một cách không cần thiết. Như vậy tức nhiên
là người ta không kịp sửa đổi nữa. Tốt hơn đừng nghĩ nhiều tới chuyện đó. Tôi
mong được sám hối ngay bởi vì trong đời tôi, đó là hành động duy nhất làm tôi
phải khổ tâm những lúc sống trong cô đơn. Và tất cả những điều còn lại thì được
xá miễn. Người ta may mắn được bôi xóa những lỗi lầm của mình bằng cách sống
một cuộc đời lương thiện tốt lành. Nhưng mà tôi cho rằng cuộc chém giết kia
phải là một trọng tội và tôi muốn trang trải nó. Sau này hẳn có ngày người ta
sẽ phục vụ cho quốc gia hoặc người ta sẽ làm nhiều việc để bôi xóa cái dấu vết
đó, có thể đó là điều người ta có bổn phận phải trả như vào thời của Giáo hội.
Lão nghĩ vậy và mỉm cười. Giáo hội đã được tổ chức khá chu đáo để lo lắng cho
tội lỗi mọi người. Ý nghĩ này khiến lão thích thú và lão mỉm cười trong bóng
tối khi Robert Jordan bước tới. Chàng tới thật lặng lẽ và lão già chỉ biết vào
giây phút chót.
- Hola, viejo 2 - Robert Jordan nói thật nhỏ vừa vỗ vào lưng lão
già - Thế nào?
- Lạnh quá xá đi. - Anselmo nói (Fernando đang đứng trong khoảng
hơi xa, quay lưng về phía tuyết vẫn rơi đều).
- Đi - Robert Jordan thì thầm - Đi về trại để hơ cho ấm đi. Để đồng
chí đứng đây quá lâu thật là bậy.
- Ánh sáng của bọn chúng kìa! - Anselmo đưa tay chỉ.
- Tên lính canh đâu?
- Đứng đây không thấy. Nó ở khúc quanh bên kia.
- Kệ xác bọn chúng - Robert Jordan nói - Đồng chí sẽ kể cho tôi
nghe khi về trại. Bây giờ thì đi. Mình đi ngay đi.
- Để tôi chỉ cho đồng chí xem.
- Tôi sẽ xem xét vào sáng mai - Robert Jordan nói - Này, uống một
hớp đi.
Chàng đưa chai rượu cho lão già. Anselmo uống một ngụm.
- Ái cha! - Lão nói, và lão đưa tay quẹt lên miệng - Đúng là lửa.
- Đi - Robert Jordan nói trong bóng tối - Mình đi đi.
Bây giờ thì trời tối hẳn. Người ta chỉ còn phân biệt những nắm
tuyết bay trong gió, và những thân cây thông chạy dài thành con đường thẳng.
Fernando đang đứng ở trên cao hơn một chút. Hãy nhìn tên da đỏ trên hộp xì gà
kìa. Robert Jordan nhủ thầm. Có lẽ phải cho hắn uống.
- Ê Fernando! - Chàng nói vừa đến bên hắn - Một ngụm nghe.
- Không - Fernando nói - Cám ơn.
Chính ta phải cám ơn ông bạn chớ, chàng nghĩ thầm. Thật đáng mừng
khi bọn da đỏ trên hộp xì gà lại không uống rượu, Robert Jordan lại nghĩ, tôi
sung sướng gặp lại lão già này. Chàng nhìn Anselmo và vỗ lưng lão một lần nữa.
Họ bắt đầu leo lên con đường dốc.
- Gặp đồng chí tôi khoái quá, viejo à! - Chàng bảo Anselmo - Mỗi
khi tôi chán nản, chỉ cần trông thấy đồng chí là tôi đủ lên tinh thần rồi. Đi,
mình đi nhanh lên đi.
Họ bước trong tuyết.
- Mình về biệt thự Pablo đi. - Robert Jordan nói với lão già. Tiếng
Tây Ban Nha, câu đó nghe kêu thật.
- El Palacio del Miedo - Anselmo nói - Biệt thự của tên nhát gan.
- La cueva de los huevos perdidos - Robert Jordan nói một cách vui
vẻ - Cái hang của những quả trứng lạc loài.
- Những quả trứng nào? - Fernando hỏi.
- Không biết - Robert Jordan nói - Hãy lật sách ra mà tìm. Hãy hỏi
Pilar - Đoạn chàng quàng tay qua người lão ta vừa bước - Nghe đây, - Chàng nói
- tôi khoái gặp đồng chí lắm đồng chí nghe không? Đồng chí không biết người ta
nghĩ sao về xứ sở này khi gặp lại một người đúng vào chỗ mà người ta đã đặt
hắn?
Cách phê bình này chính là một bằng cớ hùng hồn về lòng tin cậy và
sụ thân tình.
- Tôi hài lòng gặp lại đồng chí - Anselmo nói - Nhưng tôi sắp sửa
bỏ đi rồi đó.
- Đồng chí nói sao đó chớ - Robert Jordan vui vẻ nói - Đồng chí
suýt chết cóng thì đúng hơn.
- Ở trên đó ra làm sao? - Anselmo hỏi.
- Tốt - Robert Jordan nói - Tất cả đều tốt đẹp.
Chàng tiếp nhận cái cảm giác sung sướng bất chợt và hiếm hoi kia có
thể xâm chiếm tràn ngập tâm hồn của bất luận một người chỉ huy nào trong lực
lượng cách mạng. Đó là thứ hạnh phúc được thấy một bên sườn của mình được vũng
chắc. Nếu cả hai bên đều vững chắc, điều này có lẽ quá nhiều để người ta có thể
chịu đựng được. Tôi tự hỏi mình có thể chịu đựng được điều đó không. Và một bên
sườn, bất luận một bên sườn nào, lúc nào cũng tận cùng bằng một con người.
Phải, chỉ một con người thôi.
Đó không là một tiền đề chàng mong muốn. Nhưng chàng đã có lão già
này dưới tay mình. Một người, chỉ có một người, nhưng là một người đúng nghĩa.
Đồng chí sẽ là cạnh sườn trái của tôi lúc lâm trận, chàng nghĩ. Tốt hơn không
nên nói điều đó bây giờ. Đây là một trận rất nhỏ nhưng cũng rất cam go. Nào,
tôi vẫn luôn mong được một trận như thế. Từ vụ Azincourt, tôi luôn có một quan
niệm riêng của tôi về những gì sai lạc, hư hỏng nơi kẻ khác. Trận này phải tiến
hành tốt đẹp. Nó sẽ tầm thường, bé nhỏ, nhưng nó lại rất sáng giá. Nếu phải làm
điều gì mà tôi nghĩ lẽ ra mình phải làm, đương nhiên đây là một trận sáng giá.
- Nghe này - Chàng bảo Anselmo - Tôi rất hài lòng gặp lại đồng chí.
- Tôi cũng vậy. - Lão già nói.
Họ leo dốc trong đêm tối, gió quất lên lưng họ, bão tố vây phủ lấy
họ, Anselmo không còn thấy đơn độc nữa. Lão không còn thấy cô đơn nữa kể từ lúc
hắn vỗ lên vai lão. Hắn có vẻ sung sướng và hài lòng. Và cả hai đều vui đùa
thích thú. Hắn đã nói rằng mọi sự tốt đẹp và hắn không lo âu gì cả. Rượu trong
dạ dày khiến lão nóng ran, và chân lão cũng nóng ran khi leo lên dốc.
- Trên đường không có gì đáng kể. - Lão nói.
- Tốt. Đồng chí sẽ cho tôi biết khi về tới trại.
Bây giờ thì Anselmo lấy làm sung sướng, và lão khoan khoái đã ở lại
địa điểm quan sát.
Nếu lão trở về trại, điều này cũng rất hợp lý, Robert Jordan nghĩ
trong hoàn cảnh đó, lão làm đúng. Nhưng lão tiếp tục ở lại nơi ta chỉ định cho
lão. Chính đó là điều hiếm thấy nhất ở Tây Ban Nha, chàng nghĩ. Tiếp tục ở lại
trong bão tuyết, sự kiện này nói lên rất nhiều điều. Không phải vô lý mà bọn
Đức đã dùng tiếng bão tố để chỉ một cuộc tấn công. Chắc hẳn tôi có được hai
người như vậy. Tôi tin rằng có, tôi tự hỏi tên Fernando có thể ở lại như lão
già không. Có thể. Rốt cuộc, chính hắn mới đây đã đề nghị tới đây. Liệu hắn có ở
lại không? Được vậy thì hay lắm. Có thể hắn hơi cứng đầu. Tôi phải tìm hiểu hắn
một chút. Không biết tên da đỏ trên hộp xì gà kia đang nghĩ gì trong lúc này.
- Đồng chí đang nghĩ gì đó hở, Fernando? - Robert Jordan hỏi.
- Tại sao hỏi vậy?
- Tò mò. Tôi bình sinh rất tò mò.
- Tôi nghĩ tới bữa ăn tối.
- Đồng chí khoái ăn lắm à?
- Ừ, khoái lắm.
- Pilar làm bếp ra thế nào?
- Trung bình.
Đây chính là một Coolidge thứ nhì đây, Robert Jordan nghĩ. Nhưng
với tất cả những điều hắn mới nói, tôi cho rằng hắn sẽ ở lại như lão già.
Trong mưa tuyết, cả ba leo lên ngọn núi.
--- ------ ------ ------ -------
1 Dốt, mù chữ.
2 Chào cụ.
Phụ lục:
Phụ lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét