BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 45
Một cảnh vợ chồng.
Như Athos đã đoán
trước, một lát sau Giáo chủ đã đi xuống, ông mở của căn phòng mấy chàng ngự lâm
chờ ở đó, thấy Porthos đang chơi xúc xắc mất còn với Aramis. Liếc nhanh mắt
khắp phòng thấy thiếu một người, ông hỏi:
- Ông Athos đi đâu
rồi?
Porthos trả lời:
- Thưa Đức ông, anh
ấy đi trinh sát, vì căn cứ vào mấy lời của chủ quán, anh ấy nghĩ con đường
không được an toàn.
- Còn ông, ông làm
gì, ông Porthos?
- Tôi được Aramis năm pítxtôn.
- Và bây giờ, các ông có thể trở về với
ta!
- Xin tuân lệnh Đức ông.
- Lên ngựa đi! Muộn rồi.
Viên tùy tùng đứng ở cửa, tay dắt cương
ngựa của Giáo chủ.
Xa hơn một chút, một nhóm hai người và
ba con ngựa thấp thoáng trong bóng tối, hai người này là những người phải dẫn
Milady đến pháo đài La Poăng và lo việc xuống tàu cho nàng.
Viên tùy tùng xác nhận với Giáo chủ
những gì hai chàng ngự lâm đã nói về Athos. Giáo chủ ra hiệu tỏ vẻ hoan nghênh
và tiếp tục lên đường trở về cũng hết sức thận trọng như khi ra đi.
Lại nói về Athos, khoảng trăm bước đầu
tiên, chàng cho ngựa đi đều đều, nhưng khi đã khuất, chàng cho ngựa rẽ phải rồi
quay ngoắt lại, được khoảng hai mươi bước, liền vào một khu rừng thưa, rình chờ
tốp nhỏ đi qua, rồi khi đã nhận ra những chiếc mũ rộng vành của các bạn mình và
những tua nạm vàng chiếc áo khoác của Giáo chủ, chàng đợi cho những kỵ sĩ khuất
hẳn ở khúc ngoặt mới phi nước đại về quán trọ, người ta mở cửa ngay vì chủ quán
đã nhận ra chàng, Athos nói:
- Vị sĩ quan của tôi quên không dặn bà
ở tầng một, một việc quan trọng. Ông ấy sai tôi đến để dặn lại.
- Ông cứ lên - chủ quán nói - Bà ấy vẫn
còn ở trong phòng đấy!
Athos liền nhẹ nhàng bước lên cầu thang
lên đến bậc nghỉ, qua cánh cửa hé mở, chàng thấy Milady đang buộc lại dải mũ.
Chàng bước vào phòng và đóng cửa lại.
Nghe tiếng cài chốt cửa, Milady quay lại, Athos đứng trước cửa, mình trùm kín
áo khoác, mũ sụp xuống mắt.
Thấy bộ mặt câm lặng và trơ tơ như pho
tượng, Milady hoảng sợ và kêu to:
- Ông là ai? Cần gì tôi?
"Đúng mụ rồi!" Athos lẩm bẩm.
Và buông rơi chiếc áo choàng, kéo mũ
lên, tiến lại phía Milady, chàng hỏi:
- Bà nhận ra tôi chứ?
Milady tiến lên một bước rồi lùi lại
như thấy một con rắn:
- Thế nào - Athos nói - Tôi thấy bà đã
nhận ra tôi.
- Bá tước de la Fe! - Milady lẩm bẩm,
tái nhợt đi và lùi lại đến sát tường.
- Đúng, Milady ạ - Athos trả lời - Bá
tước de La Fe bằng xương bằng thịt từ thế giới bên kia hiện ra sờ sờ để có được
niềm vui nhìn thấy bà đây. Nào ta ngồi xuống rồi nói chuyện như kiểu Giáo chủ
nói ấy.
Milady bị khống chế bởi một nỗi kinh
hoàng khó tả, không nói nổi một lời.
- Bà là một con quỷ được phái xuống
trần gian! - Athos nói - Thế lực của bà rất mạnh, ta biết lắm. Nhưng bà cũng
biết với sự giúp đỡ của Chúa, con người thường thắng được lũ yêu quái ghê gớm
nhất. Bà đã từng hiện ra trên đường đời ta, ta vẫn tưởng đã đè bẹp bà, nhưng
hoặc ta đã nhầm, hoặc địa ngục đã cho bà hồi sinh.
Nghe những lời nói ấy, những kỷ niệm
rùng rợn như trỗi dậy, Milady cúi đầu cất một tiếng rên khan.
- Phải, địa ngục đã cho bà hồi sinh -
Athos nhắc lại - địa ngục đã làm cho bà giàu có, đã cho bà một cái tên khác, đã
hầu như tạo cho bà một bộ mặt khác, nhưng địa ngục đã không xóa đi những nhơ
nhớp trong tâm hồn bà, không xóa đi sự tàn tạ trên thân xác bà.
Milady bật dậy như một chiếc lò xo, đôi
mắt long lên như tóe lửa, Athos vẫn ngồi.
- Bà tưởng ta chết, phải không? Cũng
giống như ta tưởng bà đã chết? Và cái tên Athos che giấu tên Bá tước de la Fe,
giống như cái tên Milady Clerics đã che giấu Anne đờ Bơi! Chẳng phải tên bà như
thế khi người anh đáng kính của bà làm lễ cưới cho chúng ta sao? Vị trí của
chúng ta thật là kỳ lạ - Athos vừa cười vừa nói tiếp - Chúng ta còn sống được
cho đến nay, bởi người này cứ tưởng người kia đã chết, và vì một kỷ niệm thôi
thì vẫn đỡ bức bối hơn là một con người bằng xương bằng thịt, cho dù kỷ niệm
đôi khi vẫn là một điều vò xé lòng ta.
- Nhưng rốt cuộc - Milady nói bằng một
giọng khô khan - ai đưa ông đến chỗ tôi? Và ông muốn gì ở tôi?
- Ta muốn bảo bà rằng trong khi bà hoàn
toàn mất hút tăm hơi ta, thì ta lại không mất hút bà!
- Ông biết những gì tôi đã làm?
- Ta có thể kể cho bà nghe từng ngày,
từng ngày một những hành động của bà từ khi bà làm việc cho Giáo chủ cho tới
buổi tối nay.
Một nụ cười nghi hoặc thoáng trên đôi
môi nhợt nhạt của Milady.
- Nghe đây, chính bà, người đã cắt mất
hai nút kim cương trên vai Quận công De Buckingham, chính bà là người đã cho
bắt cóc bà Bonacieux, chính bà, si mê ông De Wardes và tin rằng đã qua đêm với
ông ta, lại mở cửa phòng bà cho ông D' Artagnan, chính bà tưởng De Wardes đã
lừa dối bà, nên đã muốn giết ông ta bằng tay tình địch của ông ta. Chính bà,
khi gã tình địch ấy phanh phui cái bí mật đê mạt của bà, lại muốn giết hắn bởi
hai sát thủ mà bà đã phái đi theo, chính bà, khi biết đạn đã bắn hụt liền gửi
rượu pha thuốc độc cùng một bức thư giả để nạn nhân của bà tưởng nhầm là rượu
của các bạn gửi đến. Cuối cùng, chính bà đến đây, trong căn phòng này, ngồi
trên chiếc ghế ta đang ngồi, cam kết với Giáo chủ Richelieu tổ chức ám sát Quận
công De Buckingham để đổi lấy lời hứa của ông ta cho phép bà ám sát D'
Artagnan.
Milady tái mét lại và nói:
- Vậy ông là quỷ satan ư?
- Có thể lắm - Athos nói - nhưng dẫu
sao hãy nghe đây đã: Ám sát hoặc cho ám sát quận công De Buckingham, ta mặc xác
Ta không quen biết ông ta. Hơn nữa, đó là một người Anh. Nhưng chớ có đụng đầu
ngón tay vào chỉ một sợi tóc của D' Artagnan, một người bạn chung thủy của ta
mà ta yêu, ta bảo vệ, nếu không, ta thề trên linh hồn của cha ta, tội ác mà bà
sắp phạm phải sẽ là tội ác cuối cùng.
Milady nói bằng một giọng khô khan:
- D'Artagnan đã làm nhục tôi tàn tệ,
D'Artagnan phải chết.
- Thực tế, như thế có thể gọi là làm
nhục bà không? - Athos vừa nói vừa cười - Ông ta đã làm nhục bà và ông ta sẽ
chết ư?
- Hắn sẽ chết - Milady nhắc lại - Trước
hết là mụ ấy rồi đến hắn.
Athos như bị choáng. Nhìn cái con người
không còn một chút gì tính đàn bà nữa. Nó gợi lại cho chàng những kỷ niệm xé
lòng.
Chàng nghĩ tới một hôm, trong một tình
thế không nguy hiểm bằng tình thế này, chàng đã muốn hy sinh người đàn bà này
vì danh dự của mình. Lòng khát khao giết người lại trở lại cháy bỏng và xâm
chiếm lòng chàng như một cơn sốt bừng bừng. Đến lượt chàng đứng lên, đưa tay
vào đai lưng rút súng ngắn và lên cò.
Milady nhợt nhạt như một thây ma, muốn
kêu, nhưng lưởi đông cứng lại, chỉ có thể thốt ra được một tiếng khàn khàn
không có vẻ gì là tiếng người mà giống như tiếng kêu khan của một con thú
hoang. Dán người vào tấm thảm tối màu, tóc xõa tung, mụ hiện ra như một hình
ảnh khiếp đảm của nỗi kinh hoàng.
Athos từ từ nâng súng, chĩa gần sát vào
trán Milady, rồi bằng một giọng còn khủng khiếp hơn của một sự bình thản đến
cao độ của một quyết định không thể lay chuyển, chàng nói:
- Bà kia, hãy trao ngay cho ta mẩu giấy
mà Giáo chủ đã ký, nếu không ta thề sẽ bắn vỡ sọ bà.
Với một người khác, Milady có lẽ còn
giữ đôi chút nghi ngờ, nhưng mụ biết Athos, tuy nhiên mụ vẫn đứng im.
Bà có một giây để quyết định - chàng
nói.
Nhìn thấy cơ mặt chàng co rút và sắp
bắn, vội vàng đưa tay lên ngực rút tờ giấy ra đưa cho Athos và nói:
- . Đây cầm lấy, đồ quỷ tha ma bắt!
Athos cầm tờ giấy, cài súng vào đai
lưng, đưa lại gần đèn để đảm bảo đúng là tờ giấy đó, chàng mở ra và đọc.
"Theo lệnh của ta và vì quyền lợi
quốc gia, người cầm giấy này đã làm điều người đó phải làm"
Ngày 3 tháng 12 năm 1627
Richelieu- Và bây giờ - Athos vừa nói
vừa khoác lại áo khoác, đội lại mũ lên đầu - bây giờ ta đã nhổ răng mày, đồ rắn
độc, cắn đi nếu mày có thể.
Rồi chàng ra khỏi phòng không thèm
ngoái lại đằng sau.
Ra đến cửa, chàng gặp hai ngươi và con
ngựa họ dắt trong tay.
- Các vị - chàng nói - lệnh của Đức
ông, các ông biết đó, là dẫn người đàn bà này đến pháo đài La Poăng và chỉ được
rời khỏi bà ấy khi bà ấy đã tới bến.
Vì những câu nói ấy hoàn toàn phù hợp
với lệnh họ nhận được, họ nghiêng đầu tỏ ý tán thành.
Còn Athos, chàng nhẹ nhàng lên yên rồi
phi nước đại, có điều, đáng lẽ đi theo đường cái, chàng thúc ngựa băng qua đồng
ruộng, thỉnh thoảng dừng lại để nghe ngóng.
Trong một lần dừng ngựa, chàng nghe
thấy trên đường nhiều tiếng vó ngựa. Chàng tin chắc đó là Giáo chủ và đoàn tùy
tùng của ông ta. Lập tức chàng vọt lên phía trước theo một hướng khác mặc cho
ngựa bị cành cây lá cây bụi rậm cọ vào, phi ra chắn ngang đường cách doanh trại
khoảng gần hai trăm bước.
- Ai đó? - Chàng quát lên từ xa khi
nhìn thấy các kỵ sĩ.
- Ta tin là chàng ngự lâm dũng cảm của
chúng ta đấy - Giáo chủ nói.
- Vâng, thưa Đức ông - Athos trả lời -
Chính hắn đây.
- Ông Athos - Richelieu nói - Ông hãy
nhận những lời cảm ơn của ta vì công việc bảo vệ cẩn thận ông đã làm. Các vị,
thế là chúng ta đã về đến nơi. Hãy đi theo cổng bên trái, mật khẩu là Vua và
Rê.
Vừa nói Giáo chủ vừa gật đầu chào ba
người bạn và đi theo cổng phải, có viên tùy tùng đi theo, bởi đêm đó, chính ông
ngủ ở doanh trại.
- Thế nào! - Cả Porthos và Aramis cùng
nói khi Giáo chủ đã ở ngoài tầm nghe thấy - Thế nào hẳn ông ta đã ký giấy mà mụ
ta yêu cầu?
- Tôi biết chứ - Athos điềm tĩnh nói -
vì nó đây này.
Và cả ba không trao đổi thêm một lời
nào nữa trừ nói khẩu lệnh cho lính canh cho đến khi về đến phân trại của họ.
Họ chỉ làm mỗi một việc là sai ngay
Mousqueton đến bảo Planchet là yêu cầu chủ nó khi rời khỏi chiến hào hãy đến
ngay chỗ ở của ngự lâm quân.
Mặt khác, như Athos đã tiên đoán,
Milady khi gặp hai người đàn ông ngoài cổng đang đợi mình mụ đã lẳng lặng đi
theo họ, tuy có lúc đã muốn họ dẫn trở về gặp Giáo chủ, kể hết với ông, nhưng
nếu lộ chuyện Athos ra thì cũng dẫn đến việc Athos tiết lộ hết về mụ. Mụ sẽ bảo
Athos đã từng treo cổ mụ thì Athos cũng sẽ bảo mụ đã bị đóng dấu chín.
Mụ nghĩ tốt nhất là nên im đi, kín đáo
lên đường, dùng sự khôn khéo vốn có hoàn thành nhiệm vụ khó khăn đã được trao
cho, rồi khi mọi việc đã được hoàn tất, Giáo chủ hài lòng, sẽ đến lúc thỉnh cầu
Giáo chủ trả thù cho mụ.
Sau khi đã đi suốt
đêm, bẩy giờ sáng hôm sau, mụ đã ở pháo đài La Poăng, lúc tám giờ mụ xuống tàu,
và chín giờ, con tàu, với những chứng chỉ của Giáo chủ, được kiểm tra cho phép
đi Bayon, lại nhổ neo căng buồm sang Anh quốc.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 46
Pháo thành Saint
Giécve.
- Đến nơi, D' Artagnan
thấy ba người tụ họp trong một căn phòng. Athos đang nghĩ ngợi, Porthos vê ria
mép. Aramis đang đọc kinh trong một cuốn sách nhỏ đẹp, bì bọc nhung xanh.
- Mẹ kiếp, ôi các
vị! - Chàng nói - Tôi hy vọng các vị có chuyện gì nói với tôi cho nó bõ công,
nếu không, tôi báo trước tôi không tha thứ cho các vị đã gọi tôi đến đây, nhẽ
ra tôi đã được nghỉ ngơi sau suốt đêm tấn công và phá tung một pháo thành. Chà,
thế mà các vị không có ở đấy! Ác liệt ra phết!
Porthos vừa trả lời
vừa gấp ngược ria mép lên, vốn là tật riêng của chàng:
- Bọn mình ở chỗ
khác, ở đấy cũng không lạnh lẽo đâu.
- Suỵt! Athos nói.
- Ồ, ồ, - D'
Artagnan hiểu ra ngay khi Porthos khẽ cau mày - có vẻ như có chuyện gì mới ở
đây?
- Aramis - Athos
nói - Hôm kia cậu ăn điểm tâm ở quán ăn Pácpayô phải không?
- Phải.
- Ở đấy thế nào?
- Ồ, theo ý tôi,
tôi đã ăn một bữa rất tệ. Hôm kia là ngày ăn chay, thế mà họ chỉ có thịt.
- Sao cơ? - Athos
nói - Ở một hải cảng mà lại không có cá ư?
- Họ nói - Aramis
vừa trả lời vừa đọc kinh tiếp - con đê mà Giáo chủ cho đắp đã xua hết chúng ra
ngoài khơi.
Nhưng đó không phải
là điều tôi hỏi cậu, Aramis, tôi hỏi cậu có được thoải mái không, và có ai quấy
rầy cậu không cơ?
- Hình như cũng
không bị làm phiền mấy, Athos này, thật ra, về điều anh muốn nói ấy, ta cứ đến
Pácpayô, là biết ngay.
- Vậy thì đến
Pácpayô! - Athos nói - bởi ở đây vách mỏng như tờ giấy!
D' Artagnan vốn
quen với cung cách của bạn mình, và chỉ cần một câu nói, một cử chỉ, một dấu
hiệu là đã hiểu ngay ra tình thế nghiêm trọng, liền khoác tay Athos đi ra không
nói một lời. Porthos chệnh choạng theo sau cùng với Aramis.
Dọc đường, họ gặp
Grimaud, Athos ra hiệu cho gã đi theo.
Grimaud theo thói
quen, im lặng vâng theo, gã trai tội nghiệp gần như đã quên mất cả nói.
Họ đến quán Pácpayô
vào lúc bẩy giờ, ngày đã bắt đầu rạng, ba người bạn(1) đặt ăn điểm tâm và vào
một phòng theo như chủ quán nói, chắc không bị quấy rầy.
Chẳng may, giờ này
lại không thích hợp với một cuộc thương nghị. Tiếng trống hiệu ban mai vừa
điểm, ai nấy tỉnh dậy sau giấc ngủ ban đêm đều đến uống tí chút ở quầy rượu để
xua cái lạnh ẩm buổi sáng - lính long kỵ, lính Thụy Sĩ, cận vệ, ngự lâm, khinh
kỵ nối tiếp nhau kéo đến mau đến nỗi chỉ có lợi cho việc kinh doanh của chủ
quán, nhưng lại làm chướng mắt bốn người.
Vì vậy mà họ đáp
lại rất nhấm nhẳng những lời chào hỏi, chúc uống, và bông đùa của các đồng đội
khác.
Athos nói:
- Chúng ta rồi cũng
rơi vào tình trạng cãi lộn mất thôi, mà ta lại không muốn có chuyện đó lúc này,
D' Artagnan, cậu hãy kể chuyện đêm qua của cậu đi, rồi chúng mình sẽ kể chuyện
bọn mình.
Một lính khinh kỵ,
tay cầm cốc rượu mạnh, vừa lảo đảo từ từ nếm rượu vừa nói:
- Đúng là các ông
đã ở chiến hào tối qua, các ông cận vệ ạ, và tôi thấy hình như các ông đã kiếm
cớ gây sự với bọn La Rochelle phải không?
D' Artagnan đưa mắt
hỏi Athos có cần trả lời cái tay nhiễu sự đi xen vào chuyện người khác không.
- Này, cậu không
hiểu ông De Buyxinhi đây đang hân hạnh ngỏ chuyện với cậu ư? Cứ kể hết những gì
diễn ra đêm qua đi, một khi các vị này đang khao khát muốn biết.
- Chẳng phải các
ông kiếm được một páo tành ư? - Một lính Thụy Sĩ uống rượu room trong một cái
cốc uống bia hơi nói.
- Vâng, thưa ông -
D' Artagnan nghiêng mình trả lời - chúng tôi có cái vinh dự đó, chúng tôi còn
đưa vào dưới một góc thành cả một thùng thuốc nổ, khi nổ, như các ông có thể
nghe thấy đấy, đã tạo thành một lỗ hổng tuyệt đẹp, không kể pháo thành không
còn nguyên vẹn như hôm qua nữa, mà toàn bộ nền móng đều bị rung chuyển mạnh.
- Và đó là pháo
thành nào? - Một lính long kỵ binh lấy kiếm xiên ruột con ngỗng đem đi quay hỏi
chàng.
Pháo thành Saint
Giécve - D' Artagnan trả lời - Đằng sau pháo thành, bọn Rochelle gây khó khăn
cho bọn đào công sự chúng ta.
- Và đánh nhau ác
liệt chứ?
- Ồ tất nhiên. Bên ta chết năm. Bọn
Rochelle tám đến mười đứa.
- Mẹ kiếp! - Người lính Thụy Sĩ văng
tục, mặc dầu anh ta có hẳn một mớ câu chửi bằng tiếng Đức, vẫn có thói quen
chửi thề bằng tiếng Pháp.
- Nhưng có thể sáng nay - Người lính
khinh kỵ nói - Bọn chúng phái công binh đến gia cố lại pháo thành.
- Đúng, có thể lắm - D' Artagnan nói.
- Các vị - Athos nói - Cược nào!
- Cát ông! Tánh cuộc ư? - Lính Thụy sĩ
nói.
- Cuộc gì nào? - Lính khinh kỵ hỏi.
- Khoan đã - Người lính long kỵ đặt
kiếm như cái xiên chả lên cái vỉ lớn trên bếp lò nói - Tôi cược, ông chủ quán
chết người ơi, đưa ngay cho tôi cái chảo, tôi không chịu mất một giọt mỡ nào
của con chim quý này đâu.
- Ông có lý tấy, - Người lính Thụy Sĩ
nói - Mớ ngỗn ăn với mứt ngon lám.
- Thế chứ - Người lính long kỵ nói -
Bây giờ xem cược thế nào. Chúng tôi nghe đây, ông Athos!
- Đúng, cược đi? -
Người lính khinh kỵ nói.
- Thế này nhé? Ông
De Buyxinhi, tôi cược với ông - Athos nói - Rằng bốn người lính ngự lâm chúng
tôi, các ông Porthos, Aramis và D' Artagnan và tôi, chúng tôi sẽ điểm tâm trong
pháo thành Saint Giécve, và sẽ ở đấy trong một tiếng đồng hồ, bất kể quân thù
dùng biện pháp gì để đánh bật chúng tôi đi.
Porthos và Aramis
nhìn nhau, họ bắt đầu hiểu ra mọi chuyện.
- Nhưng anh định
làm chúng ta chết cả lũ mà không thương tiếc ư? - D' Artagnan ghé tai Athos
hỏi.
Athos trả lời:
- Không đến đó thì
chúng ta còn chết hơn.
Porthos ngả người
tựa lưng vào ghế vừa vê ria mép nói:
- Các vị ạ, thật
tình, đây là một cuộc đánh cược rất hay đó, tôi hy vọng thế.
- Vậy, tôi nhận
cược - Ông De Buyxinhi nói - Bây giờ vấn đề là cược gì Athos:
- Các ông bốn,
chúng tôi bốn, một bữa tối thả cửa cho tám người, ông thấy có được không?
- Tuyệt vời - Ông De Buyxinhi nói.
- Miễn chê - Người lính long kỵ nói.
- Tui thấy được lắm - Người lính Thụy
Sĩ nói.
Người thính giả thứ tư từ đầu đến cuối
chuyện cược vẫn chỉ lặng im, gật đầu tỏ ý tán thành đề xuất đó.
Chủ quán nói:
- Bữa điểm tâm của các vị đã sẵn sàng.
- Vậy mang đến đây! - Athos nói.
Chủ quán vâng lời. Athos gọi Grimaud,
chỉ cho gã cái thúng lớn đặt ở góc phòng và ra hiệu gói các món thịt vào khăn
ăn.
Grimaud hiểu ngay đây là bữa điểm tâm
ngoài trời, liền cầm thúng gói thịt lại cho vào thúng và cho thêm mấy chai rượu
vào rồi cắp thúng lên.
- Nhưng các ông định ăn điểm tâm ở đâu?
- Chủ quán hỏi:
- Không việc gì đến ông, miễn là người
ta trả tiền cho ông.
Rồi chàng ném hai đồng pítxôn vàng lên
bàn.
- Có phải trả lại không, thưa ông sĩ
quan? - Chủ quán hỏi.
- Không, chỉ thêm hai chai Sămpanhơ
thôi, còn lại là tiền khăn ăn.
Lúc đầu chủ quán đã tưởng bở, nhưng ông
ta gỡ lại bằng cách thay hai chai Sămpanơ bằng loại vang Ăngju cho bốn thực
khách.
- Thưa ông De Buyxinhi - Athos nói -
Mong ông chỉnh đồng hồ của ông cho đúng với đồng hồ tôi hoặc cho phép tôi chỉnh
của tôi so với ông cũng được.
- Được lắm, thưa ông! - Người lính
khinh kỵ, rút từ một chiếc túi nhỏ ra một chiếc đồng hồ rất đẹp xung quanh nạm
kim cương - Bảy giờ rưỡi.
- Bảy giờ ba nhăm -Athos nói - Của tôi
nhanh hơn của ông năm phút.
- Và chào mấy người đánh cược đang trợn
tròn mắt, bốn người lên đường tới pháo thành Saint Giécve, theo sau có Grimaud
bưng thúng, không hiểu mình đang đi đến đâu, vì quen vâng lời Athos thụ động
nên không buồn hỏi nữa.
Lúc vẫn còn trong phạm vi chiến tuyến
quân Pháp bốn người không trao đổi với nhau một lời, vả lại có nhiều người hiếu
kỳ đi theo, hiểu rõ việc đánh cược, muốn xem bốn người gỡ khỏi ra sao. Nhưng
một khi đã ra khỏi phòng tuyến bao vây, và ở giữa chốn đồng không mông quạnh,
D' Artagnan hoàn toàn chưa hiểu phải làm gì, liền cho rằng đã đến lúc phải yêu
cầu giải thích.
- Nào bây giờ, anh Athos thân mến -
Chàng nói - Vì tình cảm bạn bè, cho tôi biết chúng ta đi đâu thế này?
- Thì cậu biết rõ rồi đấy - Athos nói -
Đi đến pháo thành.
- Nhưng đến đấy để làm gì?
- Thì cậu hiểu rồi đấy, chúng ta ăn điểm
tâm ở đấy.
- Nhưng tại sao chúng ta không ăn ở
Pácpayô?
- Bởi vì chúng ta có những điều quan
trọng để nói với nhau, và không thể chuyện trò trong năm phút thôi trước cái
bọn phá đám đi đi lại lại, chào hỏi, lân la đến gần. Ở đây, ít nhất - Athos vừa
nói vừa chỉ pháo thành - họ cũng sẽ không đến quấy rầy chúng ta.
D' Artagnan với tính thận trọng đi đôi
một cách tự nhiên và rất thích hợp với tính can trường thái quá, nói:
- Tôi thấy có lẽ chúng ta có thể tìm
một địa điểm xa xa ra trong các đụn cát ở bờ biển.
- Ở đấy chẳng khác gì mời người ta nhìn
thấy chúng mình hội họp với nhau, rồi thì chỉ trong vòng mươi lăm phút là Giáo
chủ đã được bọn gián điệp của ông ta cho biết.
- Đúng Aramis nói - Anh Athos nói đúng.
Animadvertuntur in desertis(2)
- Sa mạc thì không tồi đâu - Porthos
nói - Nhưng kiếm đâu ra sa mạc.
- Không có nơi hoang vắng nào mà chim
lại không thể bay qua đầu, cá không nhảy lên nổi mặt nước, thỏ không thể ra
khỏi tổ được và tôi tin, chim, cá, thỏ, tất cả đều tự nguyện làm gián điệp cho
Giáo chủ. Tốt nhất là cứ làm theo toan tính táo tợn của chúng ta. Vả lại, bây
giờ ta không thể lùi bước mà không hổ thẹn được nữa rồi. Chúng ta đã đánh cược,
một cuộc cá cược không thể tiên đoán và tôi đố bất cứ ai đoán ra nguyên nhân
đích thực. Để thắng cuộc, chúng ta sẽ phải trụ vững một tiếng đồng hồ trong
pháo thành. Hoặc chúng ta sẽ bị tấn công hoặc không bị. Nếu không bị, ta sẽ có
đủ thì giờ để bàn bạc, và sẽ chẳng ai nghe thấy chúng ta, bởi tôi đảm bảo những
bức tường của pháo thành không có tai. Nếu bị tấn công ta vẫn sẽ bàn bạc được
công việc của chúng ta, và thêm nữa, chống cự được, như vậy chúng ta càng vinh
quang. Các cậu có thấy đằng nào cũng có lợi không.
- Đúng - D' Artagnan nói - nhưng chắc
chắn chúng ta sẽ xơi đạn.
- Ồ, bạn thân mến - Athos nói - Cậu
thừa biết những viên đạn đáng sợ nhất không phải là đạn của kẻ thù.
- Nhưng chơi cái trò mạo hiểm này, đáng
lẽ ít nhất chúng ta phải mang theo súng trường.
- Cậu ngốc lắm Porthos ạ, tại sao ta
lại phải cõng theo cái gánh nặng không cần thiết ấy?
- Tôi chẳng thấy vô ích khi có một khẩu
súng trường cỡ đạn lớn với mười hai viên đạn, một gói thuốc súng trước mặt quân
thù đâu.
- Này, Athos nói - cậu không nghe D'
Artagnan đã nói gì à?
- D' Artagnan nói gì? - Porthos hỏi.
- D' Artagnan đã nói trong cuộc tấn
công đêm ấy, có tám đến mười quân Pháp chết và cũng ngần ấy bọn Rochelle ư?
- Thì sao?
- Người ta không kịp vơ vét hết của họ,
có phải không? Vì lúc đó, họ còn có những việc khác khẩn cấp hơn phải làm.
- Rồi thế nào?
- Thế này, chúng ta sẽ tìm súng, thuốc
súng, và đạn của họ, thế là đáng lẽ bốn khẩu súng trường và mười hai viên đạn,
chúng ta sẽ có mười lăm khẩu và hàng trăm phát đạn.
- Ồ, Porthos - Athos nói - Anh đúng là
một vĩ nhân!
Porthos gật đầu tỏ ý tán thành.
Chỉ có mỗi D' Artagnan là tỏ vẻ chưa
tin lắm.
- Chắc là Grimaud cũng nghĩ như D'
Artagnan, vì khi thấy mọi người đi tiếp về phía pháo thành, điều mà đến lúc đó
gã vẫn nghi ngờ, gã kéo vạt áo chủ mình và hỏi bằng cách ra hiệu:
- Chúng ta đi đâu thế này?
Athos chỉ pháo thành.
- Nhưng - gã Grimaud câm lặng vẫn nói
bằng thứ biệt ngữ ấy - chúng ta sẽ bỏ xác ở đấy mất thôi.
Athos ngước mắt và chỉ tay lên trời.
Grimaud đặt thúng thức ăn xuống đất và
lắc đầu.
Athos rút súng ngắn ở đai lưng ra nhìn
xem đã mồi thuốc chưa, bẻ cò và dí nòng súng vào tai Grimaud.
Grimaud đứng phắt dậy như một chiếc lò
xo.
Athos liền ra hiệu cho gã bê thúng lên
và đi ở phía trước.
Grimaud vâng lời.
Tất cả những gì mà Grimaud kiếm được ở
màn kịch câm chóng vánh ấy là đã được chuyển từ vị trí hậu vệ sang vị trí tiên
phong.
Đến pháo thành, bốn người cùng quay đầu
lại.
Hơn ba trăm binh lính thuộc mọi thứ
quân tụ tập ở trước cửa doanh trại, và trong một toán đứng tách riêng ra, có
thể thấy ông De Buyxinhi, chàng long kỵ binh, chàng lính Thụy Sĩ và người cá
cược thứ tư.
Athos liền bỏ mũ ra đặt trên mũi gươm
và vẫy vẫy.
Tất cả những khán giả đều chào lại
chàng kèm theo cừ chỉ lịch sự đó là một tiếng hoan hô vang dội đến tận chỗ họ.
Sau đó, cả bốn biến mất vào trong pháo
thành, có Grimaud dẫn đầu.
Chú thích:
(1) Tác giả quên: bốn người chứ không phải ba
(2) Tiếng Latinh có nghĩa: ở nơi sa mạc càng dễ thấy.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 47
Hội nghị ngự lâm
quân.
Như Athos tiên
đoán, pháo thành chỉ có mười hai người chết cả Pháp lẫn Rochelle.
Athos giữ vị trí
chỉ huy cuộc hành quân nói:
- Thưa các vị,
trong khi Grimaud chuẩn bị bữa ăn, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc thu lượm súng
đạn, vả lại chúng ta vừa có thể bàn bạc vừa hoàn thành việc đó. Các vị này -
Athos chỉ những xác chết nói thêm - không nghe chúng ta nói đâu.
- Nhưng ta có thể
ném họ xuống hố - Porthos nói - tuy nhiên sau khi chúng ta được đảm bảo họ
không còn gì trong túi.
- Đúng - Athos nói
- đó là việc của Grimaud.
- Ồ! Vậy thì cứ để
Grimaud lục soát họ và ném họ qua tường thành.
- Giữ họ lại thì
hơn - Athos nó - Họ có thể phục vụ chúng ta.
- Những xác chết có
thể phục vụ ta ư? - Porthos hỏi - Ái chà, anh điên rồi, bạn thân mến ạ.
- "Chớ có phán
xử liều", Kinh Thánh và cả Giáo chủ đều nói thế - Athos trả lời - bao
nhiêu súng, các vị?
- Mười hai - Aramis trả lời.
- Bao nhiêu đạn?
- Một trăm.
- Thế là đủ cho chúng ta rồi - Nhồi
thuốc đi!
Bốn người tiến hành nhồi thuốc. Khi
nhồi xong khẩu súng cuối cùng thì Grimaud ra hiệu bữa điểm tâm cũng vừa xong.
Athos trả lời, vẫn luôn bằng điệu bộ,
tốt lắm, và chỉ một góc pháo thành và Grimaud hiểu là mình phải đứng canh ở đó.
Có điều để làm vơi nỗi buồn phiền khi canh gác, Athos cho gã mang theo một cái
bánh, hai dẻ sườn rán và một chai vang.
- Và vây giờ ta ngồi chén thôi - Athos
nói.
Bốn người ngồi xuống đất, chân xếp bằng
tròn như người Thổ Nhĩ Kỳ hoặc các bác phó may.
- Nào, bây giờ - D'Artagnan nói - Anh
không sợ ai nghe thấy nữa, mong anh cho chúng tôi biết bí mật của anh đi.
- Tôi hy vọng đem lại cho các vị sự hài
lòng và cả vinh quang nữa. - Athos nói - Tôi đã đem lại cho các vị một cuộc dạo
chơi thú vị, đây là một trong những bữa điểm tâm ngon lành nhất, và năm trăm
con người ngoài kia mà các vị có thể nhìn thấy họ qua lỗ châu mai, đang cho
chúng ta là những thằng điên hay là những bậc anh hùng, hai hạng ngu ngốc này
đều khá giống nhau.
- Nhưng còn cái bí mật ấy? - D'Artagnan
nói.
- Bí mật - Athos nói - đó là hôm qua
tôi đã gặp Milady.
D'Artagnan đang đưa cốc rượu lên môi,
nhưng vừa nghe thấy cái tên Milady, tay chàng đã run bắn lên, khiến chàng phải
đặt xuống đất để khỏi sánh rượu ra ngoài.
- Anh đã gặp vợ…
Athos ngắt lời:
- Im nào? Cậu quên rằng các vị đây chưa
được am tường như cậu về cái bí mật của nội bộ gia đình mình hay sao - Ừ mình
đã gặp Milady.
- Và ở đâu? - D'Artagnan hỏi.
- Cách đây chưa đến hai dặm, ở quán trọ
Chuồng chim câu Đỏ
- Nếu thế thì tôi toi mất! - D'Artagnan
nói.
- Không, chưa hoàn toàn thế đâu - Athos
lại nói - bởi vì giờ này, mụ chắc đã rời bờ biển nước Pháp rồi.
D'Artagnan thở phào.
Porthos hỏi:
- Nhưng rút cục, cái mụ Milady này là
thế nào?
- Một người đàn bà duyên dáng - Athos
vừa nói vừa nhấp một cốc rượu vang sủi bọt. Tên chủ quán chó má! - Chàng hét
lên - Nó tráo rượu sămpanhơ bằng vang Ăngju, và tưởng cánh ta dùng mà không
biết gì! Phải - chàng tiếp tục - một phụ nữ duyên dáng, đã đối xử rất tử tế với
D'Artagnan của chúng ta thế mà anh chàng chẳng biết đã làm điều gì hắc ám với
nàng khiến nàng cố tìm cách trả thù, cách đây một tháng định cho bắn chết anh
chàng, và tám ngày gần đây định đầu độc chàng ta, còn hôm qua thì hỏi xin Giáo
chủ cái thủ cấp của chàng.
- Thế nào? Hỏi xin Giáo chủ cái thủ cấp
của tôi? D'Artagnan hỏi, tái xanh vì sợ hãi.
Porthos nói:
- Việc đó, đúng như kinh Phúc âm rồi.
Tôi nghe thấy tận tai điều đó
- Tôi cũng vậy Aramis nói.
- Thế thì - D'Artagnan buông thõng hai
cánh tay chán nản nói - đánh nhau thêm làm gì cho phí công, thà tôi cứ tự bắn
vỡ óc mình còn hơn và thế là chấm hết tất cả.
Athos nói:
- Thế thì đấy là điều xuẩn ngốc cuối
cùng cần phải làm vì đó là cách duy nhất vô phương cứu chữa.
- Nhưng với loại kẻ thù như thế tôi
không phải bao giờ cũng thoát khỏi đâu. Trước tiên, kẻ xa lạ ở Măng, tiếp đến
là De Wardes, kẻ tôi đã đâm cho ba nhát gươm, rồi Milady mà tôi nắm được bí mật
của mụ, cuối cùng là Giáo chủ mà tôi đã làm cho việc trả thù của ông ta thất
bại.
- Này cậu! - Athos nói - Tất cả như thế
mới là bốn và chúng ta có bốn, một chọi một. Mẹ kiếp! Nếu chúng ta tin vào
những gì mà Grimaud đang ra hiệu cho chúng ta, thì chúng ta sắp sửa có chuyện
với một số đông kẻ khác đây. Có chuyện gì vậy Grimaud? - Athos nói - Căn cứ vào
tình hình nghiêm trọng, ta cho phép anh nói, anh bạn ạ, nhưng xin anh vắn tắt
thôi. Anh nhìn thấy gì?
- Một toán.
- Độ bao nhiêu?
- Hai chục người.
- Loại người nào?
- Mười sáu công binh, bốn lính.
- Cách khoảng bao nhiêu bước?
- Năm trăm bước.
- Tốt, chúng ta còn đủ thì giờ để chén
nốt con ngỗng này và uống một cốc vang chúc sức khỏe cậu, D'Artagnan!
- Chúc sức khỏe cậu! - Porthos và
Aramis cùng nói theo.
- Vậy thì, chúc sức khỏe tôi? Cho dù
tôi không tin lời chúc của các anh giúp tôi được gì nhiều.
- Ô hay! - Athos nói - Thượng đế vô
biên, như các tín đồ của Mahômét thường nói, và tương lai nằm trong tay Người.
Rồi, uống nốt cốc vang, đặt cốc bên
cạnh, Athos uể oải đứng lên, vơ lấy khẩu súng đầu tiên và lại gần một lỗ châu
mai.
Porthos, Aramis, và D'Artagnan đều làm
theo như thế.
- Còn Grimaud thì nhận lệnh đứng phía
sau để nạp lại thuốc súng.
Một lát sau, họ thấy toán người đó xuất
hiện, bọn chúng đi theo một đường hào ống ăn thông giữa thành phố vào pháo
thành.
- Mẹ kiếp! - Athos nói - Thật không bõ
công chúng ta thanh toán hai chục tên vô lại trang bị bằng cuốc bàn, cuốc chim,
xẻng.
Grimaud chỉ việc vẫy tay ra hiệu cho
chúng đi đi, tôi tin chắc chúng sẽ để ta yên.
- Tôi thì lại ngờ chuyện đó đấy -
D'Artagnan nói - bởi chúng tiến rất kiên quyết. Vả lại, cùng với bọn lính thợ
còn có bốn lính chiến đấu và một toán trưởng, đều trang bị súng hỏa mai.
- Chính vì chúng không trông thấy bọn
ta đấy - Athos nói.
Aramis nói:
- Thú thật, tôi cảm thấy tởm lợm khi
phải bắn vào lũ thị dân đáng thương này.
- Một thày tu tồi mới đi thương bọn tà
đạo.
- Thật ra, Athos nói - Aramis nói đúng
đấy, tôi sẽ báo trước cho họ.
- Anh định làm trò quỷ gì vậy? -
D'Artagnan nói - Anh định làm bia À, anh Athos thân mến.
Nhưng Athos không chút để ý đế ý kiến
ấy, trèo lên lỗ hổng, một tay cầm súng, tay kia cầm mũ, và nói với bọn lính và
bọn lính thợ đang kinh ngạc trước sự xuất hiện của chàng, và dừng lại cách pháo
thành khoảng năm mươi bước lại còn chào chúng rất lịch thiệp:
- Các vị, chúng tôi gồm mấy người bạn
và tôi, đang ăn điểm tâm trong pháo thành. Mà các vị biết rằng không gì khó
chịu bằng bị làm phiền trong khi đang ăn điểm tâm, vì vậy chúng tôi yêu cầu các
vị hãy đợi chúng tôi ăn xong, nếu các vị thấy nhất định phải làm việc ở đây thì
xin để sau hãy đến, trừ khi các vị có thiện ý rời bỏ bọn phiến loạn và đến uống
cùng chúng tôi chúc sức khỏe nhà Vua Pháp.
Coi chừng, Athos! - D'Artagnan kêu lên
- Anh không thấy chúng đưa súng lên ngắm ư?
- Thấy quá chứ - Athos nói - Nhưng đấy
toàn là thị dân bắn tồi lắm và như tránh bắn vào mình ấy.
Quả nhiên, cùng một lúc bốn phát súng
nổ, và những viên đạn đều dính bẹt vào xung quanh Athos và chẳng viên nào trúng
vào người chàng.
Bốn phát bắn trả lại hầu như đồng thời
nhưng đều ngắm trúng hơn bọn xâm lược, ba tên hnh ngã lăn ra chết thẳng cẳng và
một lính thợ bị thương.
- Grimaud, đưa khẩu khác! Athos vẫn
đứng ở lỗ hổng nói.
Grimaud vâng lệnh ngay. Về phía ba
người kia, họ tự nhồi thuốc lấy - loạt bắn thứ hai tiếp theo loạt thứ nhất,
viên toán trưởng và hai lính công binh ngã ra chết, số còn lại bỏ chạy.
- Nào, các vị ra thôi - Athos nói.
- Và cả bốn người bạn lao ra khỏi pháo
thành, đến tận chỗ quân Rochelle giao chiến, nhặt lấy bốn khẩu hỏa mai và cây
giáo ngắn của tên toán trưởng. Tin chắc bọn chạy trốn phải về đến thành phố mới
dừng lại, bốn người cùng trở lại pháo thành, mang theo chiến lợi phẩm.
- Nạp thuốc vào súng đi, Grimaud, Athos
nói - và chúng ta các vị ạ, ta lại chén bữa điểm tâm và tiếp tục câu chuyện của
chúng ta. Chuyện đến đâu rồi nhỉ?
D'Artagnan nói:
- Tôi nhớ câu chuyện đến chỗ đang bận
tâm xem lộ trình mà Milady phải theo như thế nào.
Athos trả lời:
- Mụ đi sang Anh với mục đích gì?
- Mục đích ám sát hay cho người ám sát
Buckingham.
D'Artagnan thốt lên một tiếng kêu kinh
ngạc và tức tối:
- Nhưng thế thì thật đê tiện!
- Ồ! Về chuyện đó - Athos nói - tôi xin
cậu hãy tin là tôi chẳng quan tâm mấy đâu. Bây giờ Grimaud, người đã nạp xong
rồi, hãy cầm lấy cây giáo ngắn của tay toán trưởng, buộc vào đấy chiếc khăn và
cắm lên đỉnh pháo thành để cho bọn phản nghịch Rochelle thấy được là chúng đã
gặp phải những binh sĩ can trường và trung thành của nhà Vua.
Grimaud vâng lời mà không trả lời. Một
lát sau, lá cờ trắng phấp phới bay bên trên đầu bốn người bạn. Tiếng hoan hô
vang dậy như sấm, chào mừng sự xuất hiện lá cờ, một nửa doanh trại đổ ra xem.
- Thế nào? - D'Artagnan nhắc lại - Anh
không quan tâm mấy việc mụ giết hay cho người giết Buckingham ư?
- Nhưng quận công là bạn của chúng ta.
- Quận công là người Anh, Quận công
đánh lại chúng ta, vậy mặc xâc mụ muốn làm gì Quận công thì làm, tôi chỉ quan
tâm đến việc ấy như một cái chai hết nhẵn rượu thôi.
Và Athos quăng cái chai chàng đang cầm
và vừa rót hết nhẵn sang một cái bình ra xa chàng hai nhăm bước.
- Một giây thôi - D'Artagnan nói - tôi
cũng không bỏ rơi ông ta như thế, ông ta đã tặng chúng ta những con tuấn mã.
- Và nhất là những bộ yên cương cực đẹp
nữa - Porthos nói, và ngay lúc đó thôi, áo khoác của chàng vẫn còn đeo cái ngự
của chiếc yên đó.
- Thêm nữa - Aramis nói - Chúa muốn sự
cải hối chứ không phải là cái chết của tội đồ.
- Amen - Athos nói - để sau chúng ta
hãy quay lại chuyện đó, nếu đó là sở thích của các vị, còn lúc này, điều làm
tôi lo lắng hơn cả và tôi tin cậu sẽ hiểu tôi, D'Artagnan ạ, là đoạt lại ở mụ
đàn bà ấy tấm bạch thư mà mụ đã bóp nặn được ở Giáo chủ và nhờ bức thư ấy mụ sẽ
thanh toán được cậu và có thể cả bọn tôi nữa.
- Thế thì nó là một con quỷ chứ không
phải là người nữa.
D'Artagnan hỏi:
- Tờ bạch thư ấy vẫn trong tay mụ chứ?
- Không, nó đã chuyển sang tay tôi rồi.
Tôi không bảo là không vất vả đâu, bởi như thế sẽ là nói dối.
- Anh Athos thân mến - D'Artagnan nói -
Tôi không đếm nổi những lần anh cứu sống tôi.
- Vậy ra để đến gặp mụ nên anh bỏ lại
chúng tôi? Aramis hỏi.
- Đúng thế.
- Và anh có tấm bạch thư ấy của Giáo
chủ? D'Artagnan hỏi.
- Nó đây này - Athos nói.
Và chàng rút mẩu giấy quý giá đó ra
khỏi túi áo khoác.
D'Artagnan mở thư, cũng chẳng buồn giấu
đôi tay run rẩy, và đọc:
"Theo lệnh của ta và vì lợi ích
của quốc gia, người mang tờ gìấy này đã làm điều người đó phải làm".
3 tháng 12 năm 1627
Richelieu
Quả là một sự miễn trừ đối với mọi điều
luật - Aramis nói.
D'Artagnan cảm thấy như đọc bản án treo
cổ chính mình, chàng nói:
- Phải xé mảnh giấy này đi!
- Hoàn toàn trái lại - Athos nói - Ta
phải giữ nó như một báu vật. Phủ đầy vàng, tôi cũng không cho mảnh giấy này
đâu.
- Và bây giờ mụ sẽ làm gì được nữa nào?
- D'Artagnan hỏi.
- Ồ - Athos hững hờ nói - Có thể mụ ta
sẽ viết thư cho Giáo chủ rằng một tên ngự lâm trời chu đất diệt tên là Athos đã
dùng vũ lực tước đoạt tờ thông hành vạn năng của mụ, trong thư, mụ cũng sẽ
khuyên nên trừ khử đồng thời cả tên Athos lẫn hai bạn nó là Porthos và Aramis.
Giáo chủ sẽ nhớ ra ông luôn chạm trán với những con người đó trên đường đi của
mình, rồi một buổi sáng ngày kia, ông sẽ cho bắt giữ D'Artagnan, và để cho hắn
khỏi phải buồn phiền một mình, ông ta sẽ phái cả lũ chúng ta đến bầu bạn với
hắn trong ngục Bastille.
Porthos nói:
- Ôi, anh đùa mà nghe cứ não cả ruột,
Athos ạ!
- Tôi không đùa đâu.
- Anh có biết không - Porthos nói - thà
cắn cổ cái con Milady trời đánh đó còn nhẹ tội hơn cắn cổ cái bọn Tin lành khốn
khổ chả bao giờ mắc tội gì khác là đi hát Thánh ca bằng tiếng Pháp chứ không
bằng tiếng Latinh như chúng ta.
- Ngài nói sao, tu viện trưởng? - Athos
bình thản hỏi Aramis.
- Tôi nói tôi tán thành ý kiến Porthos
- Aramis trả lời.
- Tôi cũng thế - D'Artagnan nói.
- Cũng may mà mụ ấy ở xa - Porthos nói
- bởi tôi thú thật, nếu mụ ở đây thì ngứa ngáy chân tay tôi lắm.
- Mụ làm phiền tôi ở Anh cũng như ở
Pháp - Athos nói.
- Mụ làm phiền tôi ở khắp nơi -
D'Artagnan nói.
- Nhưng khi cậu tóm được mụ, - Porthos
hỏi - cậu không dìm chết, bóp cổ, treo cổ mụ lên chứ? Chỉ có chết rồi, mụ mới
không trở lại được.
- Cậu tin vậy ư? Porthos? - Athos hỏi
với một nụ cười u tối mà chỉ D'Artagnan mới hiểu.
- Tôi có một ý kiến - D'Artagnan nói.
- Nói xem nào? - Cả mấy người cùng bảo
chàng.
Grimaud bỗng hét lên:
- Cầm súng!
Lần này một toán nhỏ khoảng hai mươi
đến hai nhăm người, nhưng không còn là lính thợ nữa đó là bọn lính đồn trú.
Porthos nói:
- Ta quay về doanh trại chăng? Tôi thấy
có vẻ không cân sức.
- Không được - Athos trả lời - vì ba lý
do. Thứ nhất, chúng ta chưa xong bữa điểm tâm. Thứ hai, chúng ta vẫn còn những
điều quan trọng phải bàn. Thứ ba, còn thiếu mười phút nữa mới hết hạn cược.
- Vậy thì, Aramis nói - phải vạch ra
một kế hoạch tác chiến chứ.
- Rất đơn giản - Athos nói - ngay khi
quân địch ở đúng tầm, là ta bắn. Nếu chúng tiếp tục tiến, ta bắn nữa cho kỳ hết
súng đã nạp sẵn, nếu bọn còn lại muốn leo lên xung phong, chúng ta để cho bọn
vây ta xuống đến tận hào, lúc đó ta mới đẩy những vạt tường đã lung lay chỉ còn
trụ lại nhờ ở thế cân bằng kỳ quái lên đầu chúng.
- Hoan hô! - Porthos nói - Athos ạ,
nhất định anh sinh ra là để làm tướng rồi, và Giáo chủ cứ tưởng mình là nhà
quân sự đại tài cũng chưa nước mẹ gì so với anh.
- Thưa các vị - Athos nói - Đừng lải
nhải vô tích sự nữa, tôi xin đấy, mỗi người hãy nhằm một tên đi.
- Tôi nhằm tên của tôi rồi - D'Artagnan
nói.
- Tôi cũng có rồi - Porthos nói.
- Tôi cũng thế - Aramis nói.
- Vậy bắn! - Athos nói.
Bốn phát súng cùng nổ thành một tiếng
và bốn tên ngã.
Lập tức tiếng trống đánh thúc giục tốp
lính xông lên theo nhịp trống.
- Thế là tiếng súng nối tiếp nhau nổ,
lúc mau lúc thưa, nhưng luôn luôn chính xác. Tuy nhiên vì biết được sự yếu thế
về quân số của bọn họ, quân Rochelle tiếp tục tiến bước.
Cứ ba phát bắn ra thì hai tên ngã,
nhưng việc tiến quân của những tên còn vững vẫn không chịu chậm lại. Đến chân
pháo thành, quân thù còn mười hai hay mười lăm tên gì đó, một loạt đạn cuối
cùng bắn ra đón chúng nhưng chúng không hề dừng lại, chúng nhảy xuống hào và
chuẩn bị leo lên lỗ hổng.
- Bây giờ, các bạn - Athos nói - Một
đòn nữa cho xong đi, ra chỗ tường, ra chỗ tường đi!
Và bốn người, có Grimaud giúp, lấy nòng
súng bẩy tường, một mảng tường khổng lồ ngả xuống như bị gió đẩy, long khỏi
chân, rơi đánh rầm xuống hào thành một tiếng khủng khiếp, rồi người ta nghe
thấy tiếng kêu thét lớn, một đám mây bụi bốc lên cao - và thế là hết.
- Liệu chúng có cho bẹp dí từ đứa đầu
đến đứa cuối không? - Athos hỏi.
- Tôi thấy hình như thế - D'Artagnan
nói.
- Không - Porthos nói - có hai ba đứa
đang bò lê chạy trốn kia kìa.
Quả nhiên ba bốn tên khốn khổ, người
đầy bùn và máu chạy trốn trên con đường trống vắng về thành phố, đó là tất cả
những gì còn lại của toán nhỏ ấy.
Athos nhìn đồng hồ rồi nói:
- Thưa các vị, chúng ta ở đây đã được
một giờ rồi, và đã thắng cược. Nhưng chúng ta phải là những tay chơi đẹp. Hơn
nữa D'Artagnan còn chưa nói ý kiến của mình.
- Và chàng ngự lâm, với vẻ bình tĩnh
vốn có, ra ngồi trước những món ăn còn lại của bữa điểm tâm.
- Ý kiến của tôi ư? - D'Artagnan nói.
- Phải, cậu đã nói cậu có một ý kiến
kia mà - Athos nói.
- À, phải rồi! - D'Artagnan nói tiếp -
tôi sẽ qua bên Anh lần thứ hai, tôi sẽ tìm Buckingham.
- Cậu sẽ không làm điều đó được,
D'Artagnan - Athos lạnh lùng nói.
- Tại sao vậy? Tôi đã từng sang đó mà?
- Phải, lần đó, chúng ta không đang có
chiến tranh, ông De Buckingham là một đồng minh chứ không phải là một kẻ thù.
Điều cậu định làm sẽ bị quy là phản bội.
D'Artagnan hiểu sức mạnh của lý lẽ đó
nên im mất.
- Nhưng - Porthos nói - hình như tôi
cũng có ý kiến đây!
- Im để nghe ý kiến của Porthos nào!
-Aramis nói.
- Tôi xin ông De Treville nghỉ phép,
viện một cái cớ nào đó mấy người sẽ tìm hộ, vì tôi không giỏi về chuyện viện
cớ. Milady không biết tôi, tôi đến gần mụ, mụ cũng không nghi ngại gì, và khi
tôi tìm được người đẹp, tôi sẽ bóp chết mụ.
- Ờ được đấy! Athos nói - có thể chấp
thuận ý kiến ấy được.
- Thôi đi! - Aramis nói - Giết một
người đàn bà ư! Không, nghe đây, tôi có một ý kiến thiết thực.
Athos vốn rất tôn trọng chàng ngự lâm
trẻ này nên nói:
- Để xem ý kiến của Aramis nào!
- Phải báo trước cho Hoàng hậu.
- Hay! Phải rồi - cả Porthos lẫn
D'Artagnan đều reo lên -
- Thế là cũng đã có cách rồi.
- Báo trước cho Hoàng hậu ư? - Athos
nói - Và báo thế nào?
- Chúng ta có ai thân thích trong triều
không? Ta có thể cử ai đến Paris mà ở doanh trại người ta không biết không? Đây
đến Paris là bốn trăm dặm. Thư của chúng ta chưa tới Ănggiê thì chúng ta đã bị
tống vào hầm tối rồi.
- Về việc làm thế nào để chuyển thư an
toàn cho Hoàng hậu - Aramis đỏ mặt nói - tôi xin đảm nhiệm, tôi quen một người
ở Tours rất khôn khéo.
Aramis thấy Athos mỉm cười liền dừng
lại.
- Thế nào, anh Athos, anh không chấp
nhận cách đó ư? - D'Artagnan nói.
- Tôi không hoàn toàn bác bỏ - Athos
nói - nhưng chỉ muốn lưu ý Aramis là không thể rời khỏi doanh trại được, mà mọi
người khác ngoài chúng ta đều không an toàn, chỉ cần hai giờ sau khi phái viên
ra đi là bọn tu sĩ dòng Frăngxít, bọn mật vụ, bọn mũ nồi đen của Giáo chủ đã thuộc
lòng bức thư, và người ta sẽ bắt giữ cậu cùng với con người khôn khéo của cậu
nữa.
- Chưa kể - Porthos nói - Hoàng hậu sẽ
cứu De Buckingham nhưng không cứu chúng ta đâu.
- Thưa các vị - D'Artagnan nói - điều
Porthos nói đầy ý nghĩa đấy.
- Ơ kìa? Có chuyện gì xảy ra trong
thành ấy nhỉ! - Athos hỏi.
- Chúng đánh trống ra quân.
Bốn người lắng tai nghe, và tiếng trống
vang đến tận chỗ họ.
- Các cậu sẽ thấy chúng sắp phái cả một
binh đội đến đánh chúng ta đấy - Athos nói.
- Anh không định chống chọi với cả một
binh đội đấy chứ?
Porthos hỏi.
- Tại sao không? - Chàng ngự lâm quân
đáp - Tôi cảm thấy mình đang hăng máu đây. Và tôi sẽ trụ vững trước cả một đạo
quân, chỉ cần chúng ta phòng bị trước bằng cách có thêm mười hai chai rượu nữa.
D'Artagnan nói:
- Tôi thề là tiếng trống đang đến gần
đấy. Cứ để cho nó đến gần - Athos nói - Đường đi từ đây đến thành phố chỉ mất
mười lăm phút và do đó từ thành phố đến đây cũng vậy. Còn khối thì giờ để ta
vạch ra kế hoạch của ta. Nếu đi khỏi đây, chẳng bao giờ chúng ta còn tìm lại
được một chỗ thuận lợi như thế. Và xem này, đúng là mình vừa có một ý rất hay,
các vị ạ.
- Nói xem nào.
Cho phép mình ra lệnh cho Grimaud một
vài điều cần thiết.
Athos ra hiệu cho người hầu của mình
lại gần.
- Grimaud - Athos chỉ những người chết
nằm yên trong pháo thành - Anh đem những vị này dựng lên tựa vào tường thành,
đội mũ lên đầu họ, và đặt súng vào tay họ(1).
- Ôì, vĩ nhân! - D'Artagnan nói - Tôi
hiểu anh rồi - Cậu hiểu ư? - Porthos hỏi - Còn anh, Grimaud, anh có hiểu không?
Aramis nói.
Grimaud ra hiệu có hiểu.
- Chỉ cần có thế thôi - Aramis nói - ta
trở lại ý kiến của tôi đã.
- Tôi muốn hiểu cặn kẽ cơ - Porthos
nói.
- Không cần thiết.
- Có chứ, có chứ, phải hiểu cặn kẽ ý
kiến của anh Athos chứ? cả D'Artagnan và Aramis cùng nói.
- Cái mụ Milady ấy, mụ đàn bà ấy, con
súc sinh ấy, con quỷ ấy có một gã em chồng, theo như cậu nói với tôi có phải
không, D'Artagnan?
- Phải, tôi còn biết ông ta rất rõ nữa,
và tôi cũng tin ông ta không có cảm tình mấy với chị dâu mình.
- Điều đó không phải là dở, nhưng nếu
ông ta ghét mụ thì tốt hơn.
- Trong trường hợp đó, chúng ta càng
được việc.
- Thế nhưng - Porthos nói - tôi vẫn
muốn biết Grimaud làm cái gì?
- Tên gã em chồng là gì?
- Huân tước De Winter.
- Bây giờ hắn ở đâu?
- Trở về London
ngay khi có tin chiến tranh rồi.
- Thế thì, đó chính
là người mà chúng ta cần, Athos nói - đó chính là người thích hợp với cậu để
báo trước. Chúng ta sẽ cho ông ta biết là chị dâu ông ta đang định ám sát ai
đó, và chúng ta sẽ yêu cầu ông ta đừng rời mắt khỏi mụ ta. Tôi hy vọng ở London
chắc cũng có một cơ sở nào đó chứa những mụ đàn bà con gái sa ngã để hoàn
lương, để ông ta tống chị dâu mình vào đó, thế là ta yên tâm.
- Yên tâm -
D'Artagnan nói - cho đến khi mụ ta ra khỏi đây.
- Chà, thật tình -
Athos nói - cậu đòi hỏi nhiều quá đấy, D'Artagnan à, tôi đã hiến cho cậu tất cả
những gì tôi có, và xin báo trước thế là cạn túi rồi.
- Tôi thì tôi lại
thấy thế này tốt hơn - Aramis nói, chúng ta báo trước cho cả Hoàng hậu lẫn Huân
tước De Winter.
- Đúng, nhưng chúng
ta sẽ nhờ ai mang thư đến thành Tours và đến London?
- Tôi đảm bảo Bazin
đi được - Aramis nói.
- Và tôi, là Planchet - D'Artagnan nói.
Porthos nói:
- Quả là nếu chúng ta không thể rời
doanh trại, thì những người hầu của chúng ta có thể rời đi lắm chứ.
- Hẳn rồi - Aramis nói - và ngay hôm
nay, ta viết thư, ta sẽ cho họ tiền và họ ra đi.
- Chúng ta cho họ tiền? - Athos hỏi lại
- vậy các cậu có tiền không?
Bốn người nhìn nhau, và một áng mây
lướt trên trán họ vừa mới rạng ra được một lúc.
- Báo động! - D'Artagnan hét lên - tôi
thấy những chấm đen và những chấm đỏ đang động đậy dưới kia, vậy mà anh nói là
một binh đội được ư, Athos, cả một đạo quân đấy!
- Phải, chúng đấy! - Athos đáp - Cậu
thấy lũ thâm hiểm này đang đến không kèn, không trống chứ? A, làm xong rồi hả
Grimaud?
Grimaud ra hiệu xong rồi, và chỉ mười
hai xác chết hắn đã đặt trên những độ cao rất ngoạn mục số này thì cầm súng, số
kia thì nhắm bắn, số khác tay cầm gươm.
- Hoan hô? - Athos nói - trí tưởng
tượng của người như thế là đáng tôn vinh đó.
- Thì cũng đến thế thôi - Porthos nói -
Tôi muốn hiểu cặn kẽ cơ.
- Hãy chuồn đã - D'Artagnan nói - anh
sẽ hiểu sau.
- Khoan tí đã các vị! Khoan một tí cho
Grimaud có thì giờ dọn dẹp đi đã.
- Này này! - Aramis nói - Những chấm
đen và chấm đỏ mỗi lúc một to thêm và trông rõ quá rồi, tôi đồng ý với
D'Artagnan, tôi tin chúng ta không còn dềnh dàng việc rút về doanh trại được
nữa đâu.
- Thì tôi có gì để chống lại việc rút
lui nữa đâu. Chúng ta đánh cược một giờ, ta đã ở đây một giờ rưỡi, có gì đáng
nói nữa, đi thôi, các vị, đi thôi.
Grimaud bê thúng thức ăn thừa đi trước.
Bốn người đi sau gã cách khoảng mươi
bước.
- Ê này các vị - Athos nói - Chúng ta
làm cái quỷ gì thế?
- Anh quên cái gì ư? - Aramis hỏi.
- Mẹ kiếp, còn lá cờ? Không thể để cờ
lọt vào tay quân thù được, ngay cả khi nó chỉ là một cái khăn ăn.
Và Athos lao trở lại pháo thành, leo
lên bậc thềm, nhổ lấy lá cờ lên, có điều quân Rochelle đã đến đúng tầm bắn,
chúng bắn chát chúa vào phía chàng đang phơi mình ra như một thú vui.
Athos vừa vẫy cờ vừa quay lưng lại bọn
Rochelle và chào những người của doanh trại. Từ hai mặt tiếng reo hò vang dội,
một mặt là những tiếng la hét giận dữ, mặt kia lại là những tiếng reo cuồng
nhiệt.
Một loạt đạn thứ hai tiếp theo loạt thứ
nhất và ba viên khoan thủng biến chiếc khăn ăn thành một lá cờ thực sự. Tiếng
la vang lên từ khắp doanh trại.
- Xuống đi, xuống đi!
Athos đi xuống. Các bạn đang rất đỗi lo
âu đợi chàng, rất vui mừng thấy chàng trở lại.
- Nào, nào - D'Artagnan nói - Bước dài
chân ra, mau lên, giờ thì chúng ta đã giải quyết được tất cả rồi, trừ mỗi tiền
thôi, để bị giết thì ngu ngốc quá.
Nhưng Athos vẫn bước một cách đường
hoàng, mặc kệ những lời chỉ trích của các đồng đội, rồi thấy chỉ trích cũng vô
ích, họ đành phải bước theo kiểu đường hoàng theo chàng.
Grimaud bê thúng đi trước đã ra khỏi
tầm bắn.
Một lát sau lại vang lên tiếng súng bắn
tới.
- Thế là thế nào? - Porthos hỏi - Chúng
bắn vào cái gì vậy?
- Tôi không nghe thấy tiếng đạn réo và
chẳng nhìn thấy ai cả.
- Chúng bắn vào những xác chết đấy -
Athos trả lời.
- Nhưng những xác chết của chúng ta sẽ
không đáp lại.
- Đúng thế, thế là chúng liền tưởng là
một ổ phục kích, chúng sẽ bàn bạc, rồi sẽ cử một tên đến thương nghị, và khi
chúng nhận ra đó là một trò đùa, chúng ta đã ở ngoài tầm bắn.
- Bởi thế làm gì phải vội vã cho nó hết
hơi.
- Ồ, tôi hiểu rồi? - Porthos kinh ngạc
nói.
- Thế thì sung sướng quá! - Athos nhún
vai nói.
Về phía mình, những người Pháp thấy bốn
người bạn lững thửng trở về, reo lên cuồng nhiệt.
Cuối cùng một loạt đạn súng trường lại
vang lên, và lần này đạn tới bệt dí trên sỏi đá xung quanh bốn người bạn, và
réo lên thê thảm bên tai họ. Bọn Rochelle cuối cùng cũng đã chiếm được pháo
thành.
- Đúng là một lũ vụng về - Athos nói -
Chúng ta giết được bao nhiêu đứa? Mười hai phải không?
- Hoặc mười lăm gì đó.
- Bao nhiêu đứa bị chết bẹp?
- Từ tám đến mười đứa.
- Mất tất cả ngần ấy mà không đổi lại
được một vết xước ư?
- Chà! Khá thật? Cậu làm sao ở tay vậy,
D'Artagnan? Máu ư?
- Không sao cả - D'Artagnan nói.
- Một viên đạn lạc?
- Không phải đâu.
- Vậy là cái gì?
Như đã nói, Athos yêu D'Artagnan như
con mình, và cái tính u trầm và cứng rắn đôi khi đối với chàng trai trẻ lại như
những chăm sóc của người cha.
- Vết xước da thôi - D'Artagnan đáp -
những ngón tay tôi lại bị kẹp giữa hai hòn đá, một hòn ở bức tường và một viên
trên chiếc nhẫn, thế là da bị rách ra.
- Thế mới biết thế nào là có kim cương,
ông chủ ạ - Athos nói mỉa.
- Và phải rồi - Porthos reo lên - Quả
là có một viên kim cương cơ mà, vậy thì tại cái quỷ gì mà một khi đã có một
viên kim cương lại cứ phàn nàn là không có tiền?
- Ừ, phải rồi! - Aramis nói.
- Thế là may quá rồi, Porthos, lần này
mới thật là một ý kiến.
- Hẳn rồi - Porthos gân cổ lên nói
trước sự khen ngợi của Athos - một khi có kim cương, ta bán béng nó đi.
- Nhưng - D'Artagnan nói - Đó là kim
cương của Hoàng hậu.
- Càng đáng bán - Athos nói tiếp -
Hoàng hậu cứu Buckingham người tình của mình, không gì đúng hơn thế.
- Hoàng hậu cứu chúng ta, những người
bạn của bà, không gì đạo lý hơn, bán cái nhẫn kim cương đi. Ngài nghĩ sao, cha
tu viện trưởng? Tôi không hỏi ý kiến Porthos nữa, cậu ấy đã nói rồi.
- Còn tôi thì nghĩ - Aramis đỏ mặt lên
nói - vì chiếc nhẫn không phải do người tình tặng và do đó không phải là tín
vật của tình yêu nên D'Artagnan có thể bán nó.
- Bạn thân mến, anh nói như một nhà
thần học bằng xương, bằng thịt vậy. Như thế ý kiến của anh là…
- Là bán cái nhẫn kim cương - Aramis
trả lời.
- Thế thì! - D'Artagnan vui vẻ nói - Ta
bán chiếc nhẫn kim cương đi và đừng bàn bạc gì nữa.
Loạt súng mới tiếp tục nổ, nhưng mấy
người đã ra khỏi tầm bắn và quân Rochelle chỉ còn bắn để khỏi trái với lương
tâm của họ.
- Quả thật tôi thấy ý kiến của Porthos
đưa ra thật đúng lúc.
- Giờ đây ta đã ở doanh trại. Như vậy,
thưa các vị, không nói ra nói vào một câu nào nữa về mọi chuyện này. Người ta
đang quan sát chúng ta, sẽ đến gặp gỡ chúng ta, chúng ta sẽ được công kênh vì
chiến thắng.
Quả nhiên, toàn doanh trại đùng đùng
chuyển động, hơn hai nghìn người đã tham dự một trò bịp bợm như một màn kịch,
một trò bịp bợm may mắn của bốn người bạn mà còn lâu người ta mới nghi ngờ động
cơ thực sự của nó. Người ta chỉ còn nghe thấy những tiếng hò "Cận vệ muôn
năm! Ngự lâm muôn năm".
Ông De Buyxinhi là người đầu tiên đến
siết tay Athos, nhận đã thua cược. Chàng long kỵ binh và chàng lính Thụy sĩ đi
theo ông ta, tất cả các bạn hữu đều đi theo chàng Long kị binh và chàng Thụy
Sĩ. Khen ngợi bắt tay, ôm hôn không dứt, những chuỗi cười đối với bọn Rochelle
không tắt, cuối cùng là một sự náo động lớn đến nỗi Giáo chủ tưởng có nổi loạn
phải sai La Huđinie, viên đại úy cận vệ đến xem có chuyện gì.
Mọi việc được kể lại cho vị phái viên
với tất cả sự tưng bừng cuồng nhiệt.
- Thế nào? - Giáo chủ hỏi khi thấy La
Hyđinie.
- Ồ, thưa Đức ông - người này nói - đó
là ba chàng ngự lâm quân và một cận vệ đánh cược với ông De Buyxinhi đến ăn
điểm tâm trong pháo thành Saint Giécve, và vừa ăn vừa chống chọi trong hai giờ
đồng hồ với quân thù và tôi không biết đã giết được bao nhiêu quân Rochelle.
- Ông có hỏi tên ba người đó không?
- Có, thưa Đức ông.
- Tên là gì?
- Đó là các ông Athos, Porthos, và
Aramis.
- Vẫn là mấy tay can trường của ta -
Giáo chủ lẩm bẩm - Và tay cận vệ?
- Ông D'Artagnan.
- Vẫn luôn là gã quỷ non của ta! Dứt
khoát bốn con người ấy phải thuộc về ta.
Ngay tối ấy, Giáo chủ nói với ông De
Treville về chiến công buổi sáng khiến cả doanh trại phải bàn tán. Ông De
Treville đã nắm được câu chuyện phiêu lưu ấy từ chính miệng của những nhân vật
từng là anh hùng đó, liền kể lại hết đến từng chi tiết, không quên đoạn chiếc
khăn cho Giáo chủ nghe.
- Tốt lắm, ông De Treville ạ - Giáo chủ
nói - Làm ơn cho tôi được giữ chiếc khăn. Tôi sẽ cho thêu ba bông huệ bằng vàng
lên đó, và tôi sẽ trao lại cho đại đội ngài để làm quân kỳ.
- Thưa Đức ông - Ông De Treville nói -
Như thế sẽ bất công đối với quân cận vệ. Ông D'Artagnan không thuộc quân tôi mà
thuộc ông des Essarts.
- Thế thì, ông hãy lấy anh ta sang đại
đội ông đi - Giáo chủ nói - Một khi bốn chiến binh can trường yêu quý nhau đến
thế mà lại không phục vụ trong cùng một đại đội há chẳng bất công sao.
Ngay tối đó, ông De Treville báo cáo
tin ấy cho ba chàng ngự lâm và D'Artagnan và mời cả bốn người hôm sau tới ăn
điểm tâm.
D'Artagnan không đủ sức để gánh nổi vui
mừng nữa. Uớc mơ suốt đời chàng là trở thành một ngự lâm quân.
- Thật tình! - D'Artagnan nói với Athos
- Ý của anh đã làm nên chiến thắng đó, và như anh đã nói đấy, chúng ta đã có
thể gắn nó với một cuộc bàn bạc quan trọng bậc nhất.
- Ta lại còn có thể trở lại câu chuyện
đó lúc này mà không bị ai nghi ngờ, bởi nhờ Chúa phù hộ, từ nay chúng ta chuyển
sang phe Giáo chủ rồi.
Ngay tối đó, D'Artagnan tới để tỏ lòng
tôn kính ông des Essarts và báo tin cho ông mình đã được đề bạt.
Ông des Essarts rất yêu D'Artagnan liền
ngỏ ý tặng chàng một số thứ, vì sự thay đổi đơn vị sẽ dẫn đến những khoản chi
tiêu sắm sửa quân trang.
D'Artagnan từ chối, nhưng không bỏ lỡ
dịp tốt, chàng nhờ ông đánh giá giúp chiếc nhẫn kim cương trao cho ông mà chàng
muốn đổi thành tiền.
Tám giờ sáng hôm sau, tên hầu của ông
des Essarts đến chỗ D'Artagnan và trao cho chàng một túi vàng bẩy nghìn livres.
Đó là giá chiếc nhẫn kim cương của
Hoàng hậu.
Chú thích:
(1) Tác giả áp đặt quá đáng tình tiết này: Người đã chết không thể giữ
súng trong tay, và bao nhiêu việc như thế làm sao có thể thực hiện trong mười
lăm phút.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 48
Việc gia đình.
Athos đã tìm ra
được từ: Việc gia đình. Việc gia đình không chịu sự điều tra của Giáo chủ. Việc
gia đình không liên quan đến ai. Người ta có thể lo việc gia đình công khai
trước mọi người.
Thế là Athos đã tìm
ra được từ: Việc gia đình.
Aramis tìm ra ý
tưởng: những tên hầu.
Porthos nghĩ phương
kế. nhẫn kim cương.
Chỉ có D'Artagnan
chẳng nghĩ ra kế gì, nhưng lại vẫn thường là người có nhiều sáng kiến nhất
trong bốn người. Nhưng cũng phải nói, chỉ riêng cái tên Milady đủ làm chàng tê
liệt.
- À mà có chứ,
chàng đã tìm được người mua nhẫn kim cương.
Bữa điểm tâm ở nhà
ông De Treville là một chuyện vui mừng mê ly. D'Artagnan đã có đồng phục ngự
lâm. Vì cùng vóc người với Aramis vì Aramis được chủ hiệu sách trả hậu cho bài
thơ của chàng, nên cái gì cũng sắm một đôi, và chàng đã nhường cho bạn mình một
bộ quân trang hoàn chỉnh. D'Artagnan có lẽ đã tràn trề thỏa mãn ước nguyện nếu
như chàng không nhìn thấy Milady vẫn ló ra như một đám mây đen ở chân trời.
Sau bữa điểm tâm họ
thỏa thuận sẽ họp mặt tại lều của Athos và ở đó sẽ bàn nốt công việc.
D'Artagnan suốt
ngày hôm đó đi khắp doanh trại để phô bộ trang phục ngự lâm quân.
Buổi tối, theo giờ
đã ấn định, bốn người bạn tụ hội lại. Chỉ còn ba điều phải quyết định:
- Viết gì cho em
chồng Milady. Viết gì cho con người khôn khéo ở Tours.
Những gã hầu nào sẽ
mang thư đi.
Mỗi người đều hiến
người hầu của mình. Athos nói về tính kín đáo của Grimaud, chỉ nói khi chủ tháo
chỉ khâu ở miệng.
Porthos khoe sức
lực của Mousqueton ở tầm cỡ có thể quật đổ bốn người bình thường. Aramis tin
tưởng ở sự khôn khéo của Bazin, ca tụng bốc trời ứng viên của mình. Cuối cùng,
D'Artagnan hoàn toàn tin tưởng vào sự can trường của Planchet, và nhắc lại
chuyện hắn đã xử trí thế nào trong vụ việc gai góc ở Bulônhơ.
Bốn đức tính ấy
giành giật nhau hồi lâu trong cuộc thi tuyển ngoạn mục.
- Không may thay -
Athos nói - ta lại cần phái đi một người hội đủ cả bốn đức tính ấy.
- Nhưng tìm đâu ra
được một người hầu như thế?
- Không thể tìm nổi
- Athos nói - Tôi biết rõ mà. Ta lấy Grimaud vậy.
- Lấy Mousqueton.
- Lấy Bazin.
- Lấy Planchet:
Planchet dũng cảm và khôn khéo, thế là có hai trong bốn phẩm chất rồi.
- Thưa các vị -
Aramis nói - cái chính không phải là biết ai trong bốn gã là người kín đáo
nhất, khỏe nhất, khôn khéo nhất, hoặc can trường nhất, cái chính là phải biết
xem kẻ nào thích tiền nhất.
- Điều mà Aramis
nói thật đầy ý nghĩa - Athos nói tiếp - Ta nên lợi dụng những tật xấu của con
người chứ không phải là đức hạnh của họ - Thưa cha tu viện trưởng, ngài đúng là
một nhà đạo đức học lớn?
- Hẳn rồi - Aramis
nói - bởi không những ta cần được phục vụ tốt sao cho thành công, mà còn không
để thất bại. Bởi trường hợp thất bại, lại là chuyện cái đầu, không phải đầu của
người hầu đâu.
- Khẽ chứ, Aramis!
- Athos nói.
- Đúng thế, không
phải đầu bọn người hầu- Aramis nói tiếp - mà đầu người chủ và đầu cả mấy người
chủ nữa! Bọn người hầu của chúng ta liệu có trung thành đến mức liều đời vì
chúng ta không? Không!
- Tôi tin -
D'Artagnan nói - tôi hầu như đảm bảo cho Planchet.
- Thế thì! Bạn thân
mến, bạn hãy thêm vào lòng trung thành tự nhiên của hắn một món sộp vào làm cho
hắn sống dễ chịu một chút, thay vì đảm bảo một lần, làm thế là đảm bảo gấp đôi
đấy.
- Ôi, lạy Chúa? Dẫu
sao các cậu cũng nhầm cả rồi - Athos vốn lạc quan khi đụng đến sự vật, lại bi
quan khi đụng đến con người, nói - Họ sẽ hứa tràn đi để có tiền, và dọc đường
nỗi sợ hãi sẽ ngăn họ hành động. Một khi đã cầm tiền, họ sẽ nắm lấy nó cho thật
chắc. Nắm chắc rồi, họ sẽ thú nhận. Mẹ kiếp! Chúng ta không phải lũ con nít! Để
sang được nước Anh (Athos hạ giọng) phải đi qua gần khắp nước Pháp nhan nhản
bọn gián điệp và bọn chó má của Giáo chủ, phải có hộ chiếu để xuống tàu, phải
biết tiếng Anh để hỏi đường tới London. Xem xem, tôi thấy điều này khó lắm.
- Chả khó tí nào -
D'Artagnan kiên quyết chủ trương phải làm việc này cho kỳ được nói - Trái lại,
tôi thấy dễ thôi. Mẹ kiếp, tất nhiên, nếu ta viết cho Huân tước De Winter những
điều vượt qua chuyện nhà cửa, những nỗi hãi hùng về Giáo chủ.
- Khẽ chứ? - Athos
nói.
- Những âm mưu
những bí mật quốc gia, - D'Artagnan tiếp tục nói nhỏ theo lời nhắc nhở của
Athos - Tất nhiên chúng ta sẽ bị bánh xe nghiến tươi tất cả(1) nhưng lạy Chúa,
đừng quên, như anh đã nói, Athos ạ, chúng ta với mục đích duy nhất để khi
Milady đặt chân tới London, ông ta loại ngay mụ không cho hại chúng ta. Tôi sẽ
viết cho ông ta một bức thư đại khái như thế này…
- Để xem nào -
Aramis nói, mặt đã sẵn vẻ phê phán
"Thưa ngài bạn
thân mến"…
- À, hay lắm, bạn
thân mến, với một người Anh - Athos ngắt lời mở đầu khá lắm! Hoan hô,
D'Artagnan! Riêng với câu ấy cậu đã bị phanh thây thay cho bị nghiến sống rồi.
- Thế thì, thế này
vậy: "Thưa ngài", gọn thế thôi.
- Cậu cứ gọi là
"Thưa Huân tước" - Athos nắm vững các nghi thức nói.
"Thưa Huân
tước, ngài còn nhớ khu vườn kín thả dê ở Luxembourg chứ?"Hay thật! Vườn
Luxembourg lúc này ư? Người ta lại tưởng bóng gió Thái hậu?
- Viết thế mới thật
là khéo! - Athos nói.
- Thế thì, đơn giản
thôi vậy "Thưa Huân tước, ngài có nhớ một bãi kín nhỏ nào đó mà người ta
đã tha mạng ngài?"
- D'Artagnan ơi là
D'Artagnan - Athos nói - Cậu sẽ chỉ mãi mãi là một biên tập viên tồi, "Mà
người ta đã tha mạng ngài".
- Thôi đi! - Ai lại
đi viết thế. Người ta không nhắc những việc đó với một người lịch sự. Trách
quên ơn là gây thù oán đó.
- Ôi! Bạn thân mến,
- D'Artagnan nói - anh thật không thể chịu nổi, và nếu cứ phải viết dưới sự
kiểm duyệt của anh, nói thật nhé, tôi thèm vào nữa.
- Cậu làm thế là
đúng. Cậu hãy điều khiển cây súng và lưỡi gươm, bạn thân mến ạ, hai ngón đó thì
cậu rất hào hoa, còn cây bút hãy chuyển cho ngài tu viện trưởng, nó liên quan
đến ngài nhiều hơn.
- Ờ, đúng, phải rồi
- Porthos nói - hãy chuyển bút cho Aramis, hắn ta viết luận văn bằng cả tiếng
Latinh kia mà.
- Thôi được -
D'Artagnan nói - Aramis, anh soạn thảo bức thư này đi. Nhưng thề có Đức Thánh
cha giáo hoàng! Hãy viết cho chặt chẽ, bởi đến lượt tôi, tôi cũng sẽ vặt lông
anh đấy, xin báo trước như vậy.
- Tôi không đòi hỏi
gì hơn - Aramis nói với niềm tin ngây thơ mà mọi thi sĩ vốn có sẵn trong mình -
Nhưng phải cho tôi biết rõ đã, tôi mới chỉ được nghe chỗ này, chỗ kia mỗi chỗ
một tí, rằng con chị dâu đó là một con gian manh tôi cũng đã có bằng chứng khi
nghe nó nói chuyện với Giáo chủ.
- Khẽ chứ nào, đồ
quỷ! - Athos nói.
- Nhưng - Aramis
tiếp tục - tôi không nắm được chi tiết.
- Tôi cũng vậy - D'Artagnan nói.
D'Artagnan và Athos im lặng nhìn nhau
một lúc. Cuối cùng Athos sau khi đã tĩnh tâm lại và tái người đi hơn thường lệ
vốn đã như thế, ra hiệu đồng ý, D'Artagnan hiểu mình có thể nói ra.
- Thế thì! Đây là điều phải nói ra -
D'Artagnan nói tiếp - "Thưa Huân tước, chị dâu ngài là một mụ đàn bà hiểm
độc, đã từng muốn giết ngài để hưởng gia tài của ngài. Nhưng mụ không thể lấy
anh trai ngài, vì đã cưới chồng ở Pháp, và đã bị…
D'Artagnan dừng lại nhìn Athos như thể
muốn tìm một từ.
- "Bị chồng đuổi", - Athos
nói.
- "Bởi vì mụ đã từng bị đóng dấu
chín" - D'Artagnan tiếp tục.
- Sao, mụ định giết người em chồng ư? Porthos
kêu lên - - Không thể thế.
- Phải, thế đấy.
- Mụ đã từng có
chồng? Aramis hỏi.
- Phải.
- Và chồng mụ đã
phát hiện ra dấu bông huệ đóng chín trên vai mụ? - Porthos kêu lên.
- Phải.
Ba tiếng
"phải" đều do Athos nói, mỗi tiếng giọng càng u uất hơn.
- Và ai đã nhìn
thấy cái dấu hoa huệ đó? Aramis hỏi.
- D'Artagnan và
tôi, hay đúng hơn, nếu theo trật tự niên giám là tôi và D'Artagnan - Athos trả
lời.
- Và người chồng
của con mụ ghê tởm đó còn sống? Aramis hỏi.
- Ông ta còn sống.
- Anh có chắc không?
- Tôi chắc chứ.
Một phút im lặng lạnh lùng, trong khi
đó mỗi người đều cảm nhận riêng theo bản tính của mình. Athos là người đầu tiên
phá vỡ sự im lặng, chàng nói:
- Lần này, D'Artagnan đã đưa ra cho
chúng ta một chương trình hành động rất hay và trước hết ta phải viết thế đã.
- Anh nói đúng, Athos ạ - Aramis nói -
và việc biên tập mới gai góc đây. Bản thân ông chánh án cũng sẽ bối rối khi
soạn thảo một bức thư mạnh mẽ như thế, trong khi đó ông ta soạn thảo một bản án
một cách dễ dàng. Thôi được, các người im đi để tôi viết Thế là Aramis cầm lấy
bút, nghĩ vài phút, viết liền một mạch tám đến mười dòng, bằng nét chữ mềm mại
duyên dáng của đàn bà, rồi bằng một giọng dịu dàng và chậm rãi như thể mỗi từ
đã được cân nhắc chu đáo, chàng đọc:
"Thưa Huân tước,
Người viết mấy dòng chử này cho ngài đã
có vinh dự được đọ gươm với ngài trong một mảnh đất kín ở phô Âm ty. Từ đó vì
ngài đã từng nhiều lần muốn kết bạn với người đó, người đó có nghĩa vụ phải
nhận ra tình bạn bằng một lời khuyên chân thành. Hai lần ngài suýt nữa đã trở
thành nạn nhân của người họ hàng gần nhất mà ngài tin là người thừa kể, bởi vì
ngài không biết trước khi kết hôn ở Anh, người đó đã từng cưới chồng ở Pháp. Nhưng
lần thứ ba, tức lần này, ngài có thể bị giết hại. Mụ họ hàng đó ra đi từ La Rochelle
trong đêm tối tới nước Anh. Ngài hãy giám sát mụ khi mụ tới, bởi mụ có những
mưu toan to lớn và khủng khiếp. Nếu ngài nhất thiết muốn biết mụ ta có khả năng
làm chuyện gì, xin ngài hãy xem cái quá khứ của mụ trên vai trái…"- Ồ, thế
là tốt lắm rồi, Athos nói - cậu đúng là một cây bút cỡ đổng lý văn phòng Nhà
nước, Aramis ạ. Bấy giờ Huân tước De Winter sẽ cảnh giác cao, đương nhiên nếu
thư này đến tay ông ta, và không may nó có rơi vào tay Giáo chủ, thì chúng ta
cũng sẽ không bị phương hại gì. Nhưng vì gã người hầu ra đi có thể chỉ dừng lại
ở Saterlơrôn mà làm cho chúng ta tin đã đến London, ta chỉ trao bức thư và nửa
số tiền, và hứa đưa nốt nửa kia, nếu có thư trả lời. Cậu vẫn còn cái nhẫn chứ?
- Còn hơn cả thế kia, tôi có tiền rồi.
- Và D'Artagnan ném cái túi lên bàn,
nghe tiếng vàng kêu xủng xoảng, Aramis ngước mắt nhìn, Porthos giật mình, còn
Athos vẫn bình thản như không. Chàng hỏi:
- Có bao nhiêu trong túi?
- Bẩy nghìn livrơ toàn tiền mười hai
quan.
- Bảy nghìn livres? - Porthos kêu lên -
Cái viên kim cương nhỏ hạng xoàng ấy mà giá bảy nghìn livrơ cơ à?
- Chắc là như thế - Athos nói - vì tiền
một đống đây. Tôi không cho là anh bạn D'Artagnan của chúng ta bỏ thêm tiền của
mình vào đâu.
- Nhưng, các vị ạ, trong mọi chuyện
này, chúng ta không nghĩ gì đến Hoàng hậu. Vậy chúng ta hãy chăm lo một chút
đến sức khỏe của ông Buckingham thân yêu của bà. Đó là điều tối thiểu ta phải
làm.
- Chính thế - Athos nói -nhưng việc này
liên quan đến Aramis.
Chàng ta đỏ mặt dáp:
- Thế thì tôi phải làm gì nào?
- Ồ - Athos nói tiếp - thật quá đơn
giản - soạn thảo một bức thư thứ hai cho con người khôn khéo sống ở Tours.
Aramis lại cầm bút, lại nghĩ, và viết
những dòng thư lập tức được các bạn hoan nghênh nhiệt liệt như sau: "Cô em
họ thân mến…
- A! - Athos nói - ra con người khôn
khéo đó là họ hàng của cậu - Em con cô ấy mà - Aramis nói.
- Vậy tiếp tục với em họ cậu đi!
Aramis tiếp tục đọc:
"Cô em họ thân mến, Đức ông Giáo
chủ mà Chúa dành cho hạnh phúc của nước Pháp và sự lúng túng của kẻ thù vương
quốc đang sắp kết liễu bọn phản nghịch tà đạo ở La Rochelle. Có thể hạm đội cứu
viện quân Anh sẽ không đến kịp để tận mắt nhìn thấy. Tôi cũng không dám nói
rằng tôi tin chắc ông De Buckingham sẽ bị ngăn trở bởi một sự cố lớn nào đó. Đức
ông là một nhà chính trị lỗi lạc nhất trong thời gian qua. Ngài sẽ dập tắt mặt
trời, nêu mặt trời làm vướng chân ngài. Hãy báo những tin vui này cho bà chị
em, em thân mến ạ. Anh mơ thấy gã người Anh đáng nguyền rủa ấy bị chết. Anh
không thể nhớ lại được là bởi dao găm hay thuốc độc. Có điều anh tin chắc là
anh đã mơ thấy hắn bị chết, và như em đã biết đấy, những giấc mơ của anh không
đánh lừa anh bao giờ. Em hãy yên tâm, không lâu nữa anh sẽ trở về".
- Tuyệt lắm - Athos nói - cậu là vua
của các nhà thơ, Aramis thân mến ạ, cậu nói như Apôcalíp(2) ấy và cậu nói đúng
như kinh Phúc âm. Giờ cậu chỉ còn việc ghi địa chỉ vào nửa thôi.
Dễ thôi mà - Aramis nói.
Chàng gập bức thư lại một cách tình tứ
rồi viết: "Gửi cô Mítsông, cô thợ may ở thành Tours".
Cả ba người bạn cùng nhìn nhau cười: họ
bị lừa, Aramis nói:
- Bây giờ, các vị đã hiểu chỉ Bazin mới
có thể mang thư này đi. Cô em họ chỉ quen biết Bazin và chỉ tin anh ta. Bất kỳ
ai khác đều làm hỏng việc. Hơn nữa, Bazin nhiều tham vọng và thông thái. Bazin
đã đọc lịch sử, các vị ạ, hắn biết Xích Canh đã trở thành giáo hoàng sau khi đã
từng chăn lợn con. Hắn cũng tính chuyệnthụ giáo như tôi chẳng qua vẫn hy vọng
đến lượt hắn cũng trở thành giáo hoàng hoặc ít nhất cũng Giáo chủ. Các vị hiểu
một người đã có những mục tiêu như thế sẽ không để bị tóm, hoặc nếu bị tóm, sẽ
chịu tử đạo còn hơn khai ra.
- Tốt, tốt lắm - D'Artagnan nói - Tôi
hoàn toàn đồng tình anh chọn Bazin. Nhưng anh ủng hộ tôi chọn Planchet đi. Ngày
nào Milady đã dùng gậy phang hắn tống ra khỏi cửa mà Planchet thì nhớ dai lắm,
và tôi xin đảm bảo, nếu gã thấy có thể trả thù được, thì thà hắn chịu để đánh
gãy sống lưng chứ không chịu bỏ cuộc đâu! Nếu việc đi Tours là việc của anh,
Athos ạ, việc đi London cũng là việc của tôi. Vậy tôi mong các vị hãy chọn
Planchet, hơn nữa hắn đã từng đến London với tôi và biết nói rất chuẩn mấy câu:
"London, sir, if want please and My master, lord D'Artangman"
(London, thưa ngài, mong ngài làm ơn chỉ giúp và ông chủ tôi, ngài D'Artagnan).
Với những điều đó, xin các vị yên tâm, hắn sẽ biết đường đi, đường về.
- Trong trường hợp ấy - Athos nói -
Planchet cần được nhận bẩy trăm livrơ tiền đi và bẩy trăm livrơ tiền về còn
Bazin ba trăm livres tiền đi và ba trăm livrơ tiền về. Như thế sẽ còn lại năm
nghìn livres, mỗi người chúng ta cầm một nghìn livrơ để chi dùng riêng, còn để
lại quỹ một nghìn livrơ mà cha tu viện trưởng sẽ giữ để chi những trường hợp
đặc biệt hoặc nhu cầu chung. Như thế có được không?
- Anh Athos thân mến - Aramis nói - Anh
nói cứ như ông Nétxto mà ai cũng biết là một nhà thông thái bậc nhất của Hy Lạp
ấy.
- Vậy thì! Dứt khoát nhé - Athos nói
lại - Planchet và Bazin sẽ đi. Tóm lại, tôi hoàn toàn vui vẻ giữ lại Grimaud, hắn
đã quen tính nết chủ, tôi biết thế. Hôm qua chắc hắn đã hết vía, chuyến đi này
sẽ chỉ làm hại hắn.
Họ cho gọi Planchet đến và cho hắn
những chỉ dẫn. Hắn cũng đã được D'Artagnan báo trước, đầu tiên là vinh quang,
tiếp đến là tiền bạc rồi đến hiểm nguy.
- Tôi sẽ giấu thư vào mép áo - Planchet
nói - nếu bị bắt tôi sẽ nuốt ngay.
D'Artagnan nói:
- Ồ, thế thì anh không thể làm nổi
nhiệm vụ này rồi.
- Vậy tối nay ông sao cho tôi một bản,
mai tôi sẽ thuộc lòng.
D'Artagnan nhìn các bạn như muốn nói:
"Thế nào! Tôi đã hứa với các anh mà?"
- Bây giờ - Chàng tiếp tục căn dặn
Planchet - Anh có tám ngày để đến gặp Huân tước De Winter và có tám ngày để trở
về đây, tổng cộng mười sáu ngày. Nếu đến ngày thứ mười sáu sau khi khởi hành,
tám giờ tối, anh chưa về đến nơi, sẽ không có tiền, dù là tám giờ năm phút.
- Vậy thì ông chủ - Planchet nói - mua
cho tôi một cái đồng hồ!
- Cầm lấy cái này! - Athos vừa nói vừa
đưa cho hắn chiếc đồng hồ của mình rất hào hiệp vô tư - Và hãy là một chàng
trai can trường. Hãy nghĩ rằng nếu ngươi nói, nếu ngươi ba hoa, nếu ngươi la
cà, ngươi sẽ làm chủ ngươi bị chặt cổ, mà chủ ngươi lại hết sức tin tưởng ở
long trung thành của ngươi và đảm bảo cho ngươi. Nhưng cũng cần nghĩ nếu do lỗi
của ngươi, gây tai họa cho D'Artagnan, ta sẽ tìm lại được ngươi ở bất cứ nơi
đâu, và sẽ phanh thây ngươi.
- Ồ, thưa ông - Planchet nói, vừa thấy
tủi vì bị nghi ngờ và nhất là hoảng sợ về sự bình thản của Athos.
- Và ta - Porthos trợn tròn mắt lên -
nên biết ta sẽ lột da mày.
- Ôi, thưa ông!
- Còn ta - Aramis nói bằng một giọng
dịu dàng và du dương ta sẽ thiêu người dưới lửa nhỏ như một tên mọi rợ.
- Ôi, thưa ông!
Và Planchet òa khóc, không biết do sự
hãi trước những lời hăm dọa đối với hắn hay vì cảm kích khi thấy bốn người bạn
gắn bó chặt chẽ với nhau đến thế.
D'Artagnan cầm tay và ôm hôn hắn và
bảo:
- Thấy chưa, Planchet, các ông ấy nói
với ngươi như vậy là vì quý ta, nhưng trong thâm tâm lại yêu mến ngươi.
- Ôi thưa ông? - Planchet nói - hoặc
tôi sẽ hoàn thành hoặc cứ cắt tôi ra làm bốn. Cứ việc cắt tôi ra làm bốn, ông
cứ tin là không còn sót mảnh nào chịu khai báo đâu.
Chàng quyết định tám giờ sáng hôm sau,
Planchet sẽ ra đi cốt để như Planchet đã nói với chàng, đêm có thể học thuộc
lòng bức thư. Vậy là hắn có mười hai tiếng đồng hồ để lo việc học. Và phải trở
về lúc 8 giờ tối ngày thứ mười sáu.
Sáng hôm sau lúc hắn sắp lên ngựa,
D'Artagnan trong lòng vẫn cảm thấy lo lắng cho Quận công De Buckingham, kéo Planchet
ra một chỗ và bảo hắn:
- Nghe đây, khi anh đã trao thư cho
Huân tước De Winter và khi ông ấy đã đọc xong, anh bảo thêm ông ấy: "Xin
ngài hãy canh chừng cho ngài Huân tước De Buckingham, bởi vì người ta muốn ám
sát ngài ấy". Này Planchet, điều này rất nghiêm trọng, rất cần thiết đến
mức ta cũng chẳng muốn thú nhận với các bạn ta là ta tin trao cho anh bí mật
này và đối với một nhiệm vụ hàng đầu như thế, ta cũng không muốn viết cho anh
mang đi.
- Xin ông yên tâm - Planchet nói - Rồi
ông sẽ thấy có thể tin cậy vào tôi.
Và cưỡi trên một con tuấn mã, gã phải
đi hai mươi dặm rồi bỏ ngựa lại để đổi ngựa trạm, Planchet phi nước đại, lòng
hơi thắt lại vì ba lời hẹn ước của ba chàng ngự lâm quân nhưng dẫu sao cũng
trong tình trạng tốt đẹp nhất trên đời.
Bazin ra đi sáng hôm sau đến Tours và
có tám ngày để hoàn thành nhiệm vụ.
Bốn người bạn, trong suốt thời gian
vắng mặt hai gã ấy, hơn bao giờ hết phải để mắt canh chừng, phải mũi đánh hơi,
tai nghe ngóng. Ngày ngày phải thử xem liệu có bắt gặp người ta nói gì không,
phải rình rập điệu bộ, dáng dấp của Giáo chủ, phải đánh hơi các xe thư vừa tới.
Nhiều lần, không tránh khỏi run lên khi họ bị gọi lên vì một công việc đột xuất
nào đó. Vả lại họ cũng phải giữ sao cho được an toàn cho chính họ. Milady là
một con ma, khi nó đã hiện hình với ai, nó sẽ không để cho người đó ngủ yên.
Sáng ngày thứ tám, mặt mày tươi tỉnh
như vẫn thường thấy, Bazin mỉm cười theo thói quen bước vào tửu quán Pácpayô,
đúng lúc bốn người bạn đang ăn điểm tâm, và nói theo đúng quy ước:
- Thưa ông Aramis, đây là thư trả lời
của cô em họ.
Bốn người bạn đưa mắt nhìn nhau vui
sướng, nửa phần công việc đã được làm xong, tất nhiên đây là phần việc tốn ít
thời gian và dễ dàng hơn.
Aramis cầm bức thư, nét chữ thô kệch và
sai chính tả, không tránh khỏi đỏ mặt.
- Lạy chúa! - Chàng vừa cười vừa reo
lên - dứt khoát là tôi thất vọng rồi. Chả bao giờ cái cô Mítsông tội nghiệp
viết được như ông De Voatuya.
- Thế nghĩa là thế nào, cái cô Migiông
tội nghiệp ấy - Người lính Thụy sĩ đang trò chuyện với bốn người bạn thì thư
đến liền hỏi.
- Ồ, Chúa ơi! Có gì đâu - Aramis nói -
một cô thợ may bé nhỏ duyên dáng mà tôi rất yêu và tôi yêu cầu cô ấy viết cho
mấy dòng để làm kỷ niệm ấy mà.
- Nói thật nhé - Người lính Thụy Sĩ nói
- Nếu nàng là một mệnh phụ như cái chữ viết của nàng, thì ông đúng là có phúc
lớn đấy ônh bạn của tôi ạ!
Aramis đọc thư rồi chuyển cho Athos và
bảo:
- Athos, anh xem cô ấy viết gì này.
Athos liếc nhìn qua bức thư và muốn dập
tắt mọi sự nghi ngờ có thể phát sinh, đọc to lên:
"Anh họ của em ạ, chị em và em
đoán rất giỏi những giấc mơ, và chúng em cũng có nỗi sợ khủng khiếp về những
giấc mơ ấy. Nhưng về giấc mơ của anh, có thể nói, em hy vọng là mọi mộng mị đều
là giả dối. Tạm biệt! Mong anh luôn khỏe và thỉnh thoảng cho chúng em biết tin
về anh".
Aglaê Mítsông(3)
- Cô ta nói về giấc mơ nào thế? - Người
lính long kỵ xán lại gần trong khi đọc, hỏi.
- Phải, giấc mơ gì vậy? - Người lính
Thụy Sĩ nói.
- Ồ, mẹ kiếp - Aramis nói - thì đơn
giản nó là một giấc mơ tôi mơ rồi kể cho cô ấy nghe chứ còn cái của nợ gì nữa.
- Ồ, phải, mẹ kiếp! Vì đơn giản là kể
lại giấc mơ, nhưng tôi không mơ bao giờ cả!
Athos vừa đứng dậy vừa nói:
- Thế thì anh may quá đấy, tôi những
mong có thể nói được như anh thôi!
- Không bao giờ! - Người lính Thụy sĩ
lắp lại và tỏ ra rất sung sướng vì một người như Athos lại thèm muốn một điều
gì đó ở mình - Không bao giờ! Không bao giờ!
Thấy Athos đứng dậy, D'Artagnan cũng
đứng lên theo, khoác tay Athos đi ra.
Porthos và Aramis ở lại để đối mặt với
những lời giễu cợt của tay lông kỵ binh và người lính Thụy Sĩ.
Còn Bazin, anh chàng ra nằm ngủ khoèo
trên một ổ rơm, và anh ta có nhiều óc tưởng tượng hơn anh chàng Thụy Sĩ, nên mơ
thấy Aramis trở thành giáo hoàng, và đội lên đầu anh chiếc mũ hồng y Giáo chủ.
Nhưng dù trở về may mắn Bazin cũng
không cất được một phần nỗi lo đang châm đốt bốn người bạn. Những ngày chờ đợi
dài dằng dặc, và nhất là D'Artagnan những muốn đánh cược ngày bây giờ dài bốn
tám giờ. Chàng quên mất những sự chậm trễ buộc phải có của công việc chạy tàu. Chàng
phóng đại thế lực của Milady. Chàng gán cho mụ đàn bà đối với chàng giống như
một con quỷ đó, có lũ tay chân cũng siêu nhiên như mụ, chàng tưởng tượng ra từ
mỗi tiếng động nhỏ nhất người ta tới bắt giữ chàng và người ta dẫn Planchet về
để đối chứng với chàng và các bạn chàng. Còn hơn thế nữa, lòng tin của chàng
xưa kia lớn lao đến thế, vào cái gã xứ Picađy ấy, ngày một giảm sút. Sự lo âu
ấy lớn đến nỗi lan sang cả Porthos và Aramis. Chỉ còn mỗi Athos vẫn bình thản
như không, như thể chẳng có mối hiểm nguy nào động đậy xung quanh chàng và
chàng vẫn hít thở không khí như mọi ngày thường.
Nhất là ngày thứ mười sáu, những dấu
hiệu bồn chồn ở D'Artagnan và hai người bạn kia thể hiện rõ đến nỗi họ đứng
ngồi không yên và lang thang như những cái bóng trên con đường mà Planchet sẽ
phải trở về.
Athos bảo họ:
- Thật đúng là, các cậu không phải là
những người lớn nữa mà là một lũ trẻ con, đến nỗi một con mụ đàn bà này làm cho
các cậu sợ hãi ghê gớm đến thế. Và tóm lại, có chuyện gì nào? Bị cầm tù ư? Thì
người ta sẽ lôi chúng ta ra khỏi tù. Người ta đã từng kéo bà Bonacieux ra khỏi
tù như chơi đó sao. Bị chặt đầu ư? Nhưng ngày ngày trong chiến hào chúng ta vẫn
vui vẻ phơi mình ra cho những chuyện còn tệ hơn, bởi một viên đạn trái phá có
thể làm gãy chân ta và tôi tin rằng một nhà giải phẫu cắt đùi ta còn làm ta đau
hơn tên đao phủ chặt đầu ta. Vậy hãy bình tĩnh chờ đợi. Hai giờ, bốn giờ, sáu
giờ, hoặc chậm hơn nữa, Planchet sẽ ở đây. Hắn đã hứa như vậy. Và tôi, tôi có
một niềm tin rất lớn vào những lời hứa của Planchet, một người mà tôi thấy là
một chàng trai rất can trường.
- Nhưng nếu hắn không tới? - D'Artagnan
nói.
- Ồ nếu hắn không tới, đó là có lẽ hắn
bị chậm, có thế thôi.
- Hắn có thể bị ngã ngựa, hắn có thể bị
lộn nhào qua cầu, có thể chạy quá nhanh nên bị mắc chứng sưng phổi. Thế đấy.
Các vị ạ, ta phải tính đến phần của các sự cố chứ. Đời là một chuỗi tràng hạt
những nỗi khổ đau nho nhỏ mà nhà triết học vừa cười vừa lần những hạt khổ dau. Hãy
là nhà triết học như tôi, các vị ạ, hãy ngồi vào bàn và uống, chẳng có gì làm
hiện ra tương lai màu hồng như ta nhìn nó qua một cốc rượu sămbéctanh.
- Đúng lắm, - D'Artagnan trả lời -
Nhưng tôi mệt mỏi vì cứ sợ rằng, thứ rượu vang đó lại lấy ra từ hầm rượu của
Milady, ngay khi uống.
- Cậu khó tính quá - Athos nói - một
người đàn bà đẹp đến như thế?
- Một mụ đàn bà bị đóng dấu! - Porthos
cười hô hố.
Athos giật mình đưa tay lên trán lau mồ
hôi cũng đứng dậy không kìm nổi một động tác căng thẳng.
Trong khi ấy ngày vẫn cứ trôi và chiều
tối đến chậm hơn nhưng cuối cùng vẫn đến. Các quầy rượu đầy ắp khách uống.
Athos rủng rỉnh trong túi phần chia
tiền bán kim cương, không rời quán Pácpayô nữa. Chàng đã tìm thấy trong ông De
Buyxinhi người chung quy đã khao bọn chàng một bữa tiệc thịnh soạn, một đối thủ
cờ bạc ngang tầm với chàng. Họ chơi với nhau như thường lệ tới khi đồng hồ điểm
bẩy tiếng và người ta nghe thấy tiếng chân lính tuần tra đến thay phiên các
trạm, rồi bảy giờ rưỡi vang lên tiếng kèn thu quân.
- Chúng ta nguy rồi - D'Artagnan rỉ rai
Athos.
- Cậu muốn nói chúng ta đã thua chứ gì?
- Athos bình tĩnh vừa nói vừa rút trong túi ra bốn đồng pítxtôn vàng ném lên
bàn, rồi tiếp tục - Các vị, kèn thu quân rồi, ta về ngủ thôi.
Và Athos, theo sau là D'Artagnan ra
khỏi quán Pácpayô, Aramis khoác tay Porthos đi đằng sau. Aramis lải nhải mấy
vần thơ, và Porthos thỉnh thoảng lại nhổ vài chiếc ria mép tỏ ý thất vọng.
Nhưng kìa, bất thình lình từ trong bóng
đêm, một bóng người hiện ra, mà hình dạng có vẻ thân quen với D'Artagnan và một
giọng nói rất quen thuộc nói với chàng:
- Thưa ông, tôi mang đến cho ông áo
khoác của ông vì tối nay trời lạnh.
- Planchet! - D'Artagnan reo lên, mừng
vui đến phát rồ.
- Planchet! - Porthos và Aramis nhắc
lại.
- Ờ, đúng là Planchet - Athos nói - Thế
thì có gì lạ? Hắn đã hứa trở về lúc tám giờ, và bây giờ là tám giờ. Hoan hô,
Planchet người là một chàng trai biết giữ lời hứa, và nếu bao giờ người thôi
làm cho chủ ngươi, ta vẫn dành một chỗ để ngươi giúp ta đấy.
- Ồ, không, không bao giờ - Planchet
nói - không bao giờ tôi rời bỏ ông D'Artagnan.
Đồng thời D'Artagnan cảm thấy Planchet
nhét một mẩu thư ngắn vào tay mình.
D'Artagnan rất muốn ôm hôn Planchet lúc
trở về cũng như chàng đã từng ôm hôn anh ta lúc ra đi. Nhưng chàng lại ngại sự
biểu lộ tràn trề đối với người hầu như thế giữa nơi phố xá có vẻ kỳ cục đối với
người qua lại đành phải kiềm chế.
- Tôi có thư - chàng nói với Athos và
các bạn.
- Tốt lắm - Athos nói - Ta về chỗ mình
thôi và ta sẽ đọc bức thư.
Bức thư nóng bỏng trong tay D'Artagnan
chàng muốn rảo bước, nhưng Athos kéo tay chàng và khoác vào tay mình, buộc
chàng phải đi cùng nhịp với bạn mình.
Cuối cùng họ bước vào lều bạt, thắp đèn
lên, trong khi đó Planchet đứng gác trước cửa để đề phòng bốn người bị bắt quả
tang, D'Artagnan tay run run, bẻ xi niêm phong mở bức thư mong đợi bấy lâu nay.
Thư chỉ có nửa dòng, nét chữ hoàn toàn
của người Anh, ngắn gọn và dứt khoát:
"Thank you, be aesy"
Có nghĩa là "Cám ơn, hãy yên
tâm"
Athos giật lấy bức thư trong tay
D'Artagnan, đưa lại gần đèn và đốt và chỉ buông ra khi nó đã hoàn toàn biến
thành tro. Rồi gọi Planchet, và bảo hắn:
- Bây giờ chú em, chú có thể đòi bẩy
trăm livrơ của chú được rồi, một bức thư như thế này rồi thì chú em không phải
lo gì nữa đâu. Thế mà tôi đã phải nghĩ ra biết bao nhiêu cách để giữ bằng được
nó - Planchet nói.
- Vậy thì kể lại cho bọn ta nghe nào -
D'Artagnan nói.
- Trời ơi! Dài lắm, thưa ông.
- Anh nói đúng đấy Planchet ạ - Athos
nói - Hơn nữa, trống điểm quân đã báo rồi, chúng ta sẽ bị để ý khi để đèn lâu
hơn người khác.
- Thôi được, - D'Artagnan nói - Ta đi
ngủ vậy. Ngủ ngon nhé! Planchet!
- Thú thật, đây là giấc ngủ đầu tiên từ
mười sáu ngày nay đấy, thưa ông.
- Ta cũng vậy? D'Artagnan nói.
- Ta cũng thế - Porthos nói.
- Cả ta nữa! - Aramis nói Thế thì các
cậu có muốn tôi thú nhận sự thực không? Thật tình thì tôi cũng thế! - Athos
nói.
Chú thích:
(1) Hình phạt thời trung cổ cho bánh xe nghiến nát chân tay như ép mía
(2) Tiếng Hy Lạp có nghĩa là linh ứng. Chương cuối cùng của Tân ước, có
tính chất tượng trưng, huyền bí, rất tối nghĩa, nhưng lại đầy chất thơ.
(3) Đây là sự sơ xuất của tác giả vì bức thư không hề sai chính tả
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 49
Định mệnh
Trong khi đó Milady
điên cuồng giận dữ, gầm lên trên boong tàu như một con sư tử cái bị đưa xuống
tàu, đã định lao xuống biển để trở vào bờ, bởi nàng không thể chịu nổi ý nghĩ
bị D'Artagnan làm nhục, bị Athos đe dọa và phải rời nước Pháp và không trả thù
được họ. Chả mấy chốc, ý nghĩ ấy hành hạ nàng đến mức mặc cho những gì khủng
khiếp có thể đến với mình, nàng đã van nài viên thuyền trưởng ném nàng lên bờ
nhưng thuyền trưởng đang lo trốn thoát khỏi tình thế giả mạo đặt giữa những hạm
tàu Pháp và Anh, như con dơi giữa đàn chuột và bầy chim(1), đang hết sức vội vã
sang tới nước Anh, một mực từ chối không tuân theo cái thói thất thường của đàn
bà, mà chỉ hứa với người nữ hành khách, vốn được Giáo chủ đặc biệt gừi gắm, là
nếu biển thuận và quân Pháp cho phép sẽ để bà ta cặp bến ở Brơtanhơ hoặc cảng
Loriăng hoặc Brétx. Nhưng trong khi chờ đợi, gió lại ngược, biển động mạnh,
phải cắt gió đi vát bờ.
Chín ngày sau khi
ra khỏi Sarâng, Milady mặt tím lại vì buồn bực và điên giận, chỉ thấy hiện ra
vùng bờ biển xanh nhạt của vùng Finítxte.
Nàng tính toán để
đi xuyên qua cái góc này của nước Pháp để trở về bên Giáo chủ, ít nhất phải mất
ba ngày, thêm một ngày lên bờ thành bốn, thêm bốn ngày này vào chín ngày kia
thành mười ba ngày mất toi, mười ba ngày trong khi đó biết bao sự biến quan
trọng có thể diễn ra ở London, nàng nghĩ chắc chắn Giáo chủ sẽ giận dữ thấy
nàng quay về và hậu quả là ông sẽ sẵn sàng nghe những lời khiếu nại chống nàng
hơn là những cáo buộc nàng chống lại kẻ khác. Vậy nên nàng để mặc cho tàu đi
qua Loriăng và Brétx không khẩn nài viên thuyền trưởng nữa, còn về phần ông ta,
ông ta cũng dè chừng chẳng muốn đánh thức nàng Milady tiếp tục hành trình của
mình. Cũng đúng ngày hôm Planchet xuống tàu ở cảng Portsmouth trở về nước Pháp,
thì vị nữ phái viên của Đức ông cặp cảng đó một cách thành công.
Toàn thành phố xôn
xao vì một hoạt động lạ thường, bốn hạm tàu lớn mới đóng xong vừa được hạ thủy.
Người ta thấy ông Buckingham đứng trên cầu tàu, choáng lộn, lòe loẹt, đầy vàng,
kim cương, đá quý theo thói quen, mũ dạ trang điểm một chiếc lông trắng cong
vut xuống tận vai, xung quanh là bộ tham mưu hầu như cũng choáng lộn như ông.
Đó là một trong
những ngày đông đẹp trời và hiếm có mà nước Anh chợt nhớ ra mình cũng có một
mặt trời. Vị tinh tú đó đã nhạt đi tuy vẫn còn rực rỡ đang lặn xuống chân trời,
nhuộm tía cả bầu trời lẫn mặt biển bằng những vạt lửa và ném lên trên các đỉnh
tháp và những ngôi nhà già nua của thành phố những tia nắng vàng, cuối cùng làm
các ô cửa kính lấp lánh như ánh lửa một đám cháy. Milady hít thở không khí biển
càng gần đất liền càng tươi mát và thơm hơn, vừa ngắm nhìn sức mạnh của những
phương tiện chiến tranh ấy mà nàng được trao trách nhiệm phải phá hủy, toàn bộ
sức mạnh của cái đạo quân mà nàng phải chiến đấu bằng một mình nàng - một mình
người đàn bà là nàng cùng với mấy túi vàng, nàng thầm tự sánh mình với Judita,
người đàn bà Do Thái khủng khiếp, khi lọt sang chiến tuyến quân Atxyri, chỉ gẩy
tay một cái đã làm tan tành tất cả thành mây khói.
Tàu vào vụng, nhưng
khi người ta sắp thả neo thì một tàu khu trục nhỏ, súng ống khủng khiếp, sáp
gần chiếc tàu buôn, nhân danh tuần tra duyên hải, thả xuống biển một chiếc
xuồng tiến lại cầu thang tàu buôn. Xuồng có một sĩ quan, một viên cai và tám
tay chèo. Chỉ một mình sĩ quan lên tàu buôn, và được tiếp đón trọng thể theo
đồng phục cấp bậc sĩ quan.
Viên sĩ quan trao
đổi vài phút với chủ tàu buôn, đọc cho người này nghe vài tờ giấy ông ta mang
theo và theo lệnh của thuyền trưởng tàu buôn, tất cả thủy thủ đoàn của tàu,
thủy thủ và hành khách được gọi lên trên boong tàu.
Khi việc điểm danh
đã được tiến hành, viên sĩ quan lớn tiếng hỏi về địa điểm khởi hành, lộ trình,
ghé bờ ở đâu, mọi câu hỏi thuyền trưởng đều trả lời trôi chảy, không chút khó
khăn. Lúc đó, viên sĩ quan mới đi kiểm tra tất cả mọi người, người nọ sau người
kia và dừng lại trước mặt Milady, nhìn nàng rất kỹ, nhưng không hề nói với nàng
một lời nào.
Rồi ông ta quay về
chỗ thuyền trưởng, nói thêm với ông này vài câu, và từ lúc đó con tàu như thể
thuộc quyền chỉ huy của ông ta, ông ta ra lệnh, đoàn thủy thủ thi hành ngay.
Thế là con tàu lại lên đường luôn có chiếc tàu khu trục hộ tống chạy song song,
nòng sáu khẩu đại bác nhằm vào sườn tàu buôn uy hiếp, trong khi đó chiếc xuồng
bơi theo rạch nước của chiếc chiến hạm như một chấm nhỏ bên một khối khổng lồ.
Trong khi viên sĩ
quan chăm chú quan sát Milady, thì về phía mình, Milady cũng nhìn lại như ăn
tươi nuốt sống người kia. Nhưng người đàn bà có đôi mắt lửa, vốn quen đọc thấu
trong tim những kẻ mà nàng có nhu cầu đoán ra những bí mật, lần này chỉ thấy bộ
mặt vẫn trơ trơ, không khám phá ra được bất cứ điều gì mà nàng cần dò xét.
Người sĩ quan đã dừng lại trước mặt nàng và vẫn đang lặng lẽ nghiên cứu về nàng
rất cẩn thận có thể chỉ độ hai nhăm hai sáu tuổi, với đôi mắt xanh tươi hơi
sâu, cái miệng nhỏ và rất đẹp, không hề nhúc nhích trong những đường nét rất
chuẩn xác, cái cằm nhô ra nhiều biểu lộ một ý chí mạnh mẽ, mà nếu ở trong giới
người Anh hạ lưu thường cllỉ biểu hiện sự ương bướng, vầng trán hơi ngả về phía
sau thích hợp với trán các nhà thơ, những người cuồng nhiệt và các binh sĩ, bị
bộ tóc cắt ngắn và thưa hơi che đi, màu hạt dẻ sẫm giống như màu bộ râu cằm
phía dưới mặt.
Lúc tàu cặp bến thì
trời đã tối. Sương mù làm bóng tối dày đặc thêm tối và tạo thành xung quanh
những đèn hiệu và đèn chiếu kè biển những vành tròn tương tự như vành tròn bao
quanh mặt trăng khi trời muốn mưa. Không khí người ta hít thở, buồn, ẩm và
lạnh.
Milady, người đàn
bà mạnh mẽ đến thế cũng không tránh khỏi thấy rùng mình.
Viên sĩ quan yêu
cầu Milady cho biết đâu là những bọc gói của nàng rồi cho chuyển hành lý của
nàng xuống xuồng và khi mọi việc đã xong, ông ta vừa mời nàng xuống xuồng vừa
chìa tay dắt nàng Milady nhìn người đàn ông và ngập ngừng rồi hỏi:
- Thưa ông, ông là
ai mà lại chiếu cố chăm sóc quá đặc biệt đến tôi như vậy?
- Ồ, thưa bà, nhìn
bộ quân phục tôi mặc - bà phải thấy chứ, tôi là sĩ quan hải quân Anh - người
đàn ông trẻ tuổi trả lời.
- Nhưng rút cục, có
phải sĩ quan quân Anh có lệ ra lệnh cho đồng bào của mình khi họ cặp bến đất
Anh và lịch sự đến mức áp tải họ vào bờ?
- Vâng, thưa bà,
đây là thông lệ, không phải do lịch sự mà do cảnh giác nên trong thời chiến,
những người ngoại quốc đều được dẫn đến một khách sạn đã chỉ định, cốt để họ
được đặt dưới sự giám sát của Nhà nước cho tới khi có được những thông tin đầy
đủ về họ.
Những lời lẽ đó
được nói ra một cách lịch thiệp chuẩn xác nhất, và với một sự bình thản hoàn
hảo nhất. Nhưng nó lại không khiến cho Milady được yên tâm chút nào.
- Nhưng tôi đâu có
phải người nước ngoài, thưa ông - Milady nói bằng một giọng đặc Anh chưa hề
được nghe thấy từ Portsmouth đến Manchetser - Tôi là phu nhân Clerics, và cái
thể thức này…
- Thể thức này là
chung thôi, thưa bà, bà có định phá lệ cũng vô ích thôi.
- Thưa ông, vậy tôi
sẽ theo ông.
Cầm tay viên sĩ
quan, nàng bắt đầu xuống thang và phía dưới là chiếc xuồng đang đợi. Viên sĩ
quan đi theo nàng. Một áo choàng lớn được rải ở phía buồng lái, viên sĩ quan
bảo nàng ngồi trên cái áo choàng đó rồi ngồi cạnh nàng và bảo thủy thủ:
- Bơi đi!
Tám mái chèo cùng
buông tõm xuống biển và nhất loạt chèo chiếc xuồng như bay trên mặt nước.
Trong vòng năm phút
xuồng đã cặp bờ.
Viên sĩ quan nhảy
lên kè và đưa tay cho Milady. Một chiếc xe đang đợi sẵn.
- Xe này là dành
cho chúng ta? - Milady hỏi.
- Vâng, thưa bà -
Viên sĩ quan trả lời.
- Khách sạn có xa
lắm không?
- Ở đầu kia thành
phố thôi.
- Ta đi thôi -
Milady nói.
Rồi nàng cả quyết
bước lên xe.
Viên sĩ quan theo
dõi cho đến khi những gói đồ được buộc cẩn thận phía sau thùng xe và khi mọi
việc đã xong, ông ta lên ngồi bên Milady và đóng cửa xe lại.
Lập tức, chẳng cần
phải để ra lệnh và cũng chẳng cần phải bảo đi về địa chỉ nào, gã đánh xe cho
ngựa phi nước đại đi sâu vào các phố trong thành phố.
Một sự đón tiếp lạ
lùng như vậy hẳn phải làm cho Milady suy nghĩ rất nhiều, cho nên thấy viên sĩ
quan không hề tỏ ra sẵn sàng bắt chuyện, nàng tựa khuỷu vào một góc xe, lần
lượt xem lại mọi giả thiết nảy ra trong đầu.
Tuy nhiên, được độ
mươi phút, nàng lấy làm ngạc nhiên vì đường xa đến thế, liền ngả người về phía
cửa xe để xem người ta đưa mình đi đâu, thì không thấy nhà cửa nữa, chỉ có cây
cối hiện ra trong bóng đêm như những con ma lớn đen ngòm, con nọ chạy sau con
kia.
Milady rùng mình và
nói:
- Nhưng chúng ta
không còn trong thành phố nữa, thưa ông.
Viên sĩ quan vẫn
ngồi im.
- Tôi không đi xa
thêm nữa đâu, nếu ông không nói ông dẫn tôi đi đâu, tôi báo trước cho ông đấy.
Lời đe dọa ấy vẫn
chẳng nhận được câu trả lời nào.
- Ôi! Thế này thì
quá lắm! - Milady kêu lên - Cứu với! Cứu với!
- Không một tiếng
đáp lại. Chiếc xe tiếp tục lăn bánh nhanh và viên sĩ quan vẫn tựa như pho
tượng.
Milady nhìn viên sĩ
quan với một nét mặt đặc biệt khủng khiếp và hiếm khi không có hiệu quả. Cơn
giận làm đôi mắt nàng long lanh trong bóng tối.
Milady định mở cửa
xe và lao ra.
- Coi chừng đấy,
thưa bà ~ người đàn ông trẻ lạnh lùng nói - bà nhảy ra là tự giết mình đấy.
Milady lại ngồi
xuống, tức sùi bọt mép. Viên sĩ quan ngả người đến lượt mình cũng nhìn Milady
tỏ vẻ ngạc nhiên thấy khuôn mặt vừa rồi còn đẹp đến thế, vì sôi lên giận dữ đã
trở nên hầu như xấu xí. Người đàn bà gian manh ấy hiểu rằng nếu để người ta
nhìn sâu trong tâm hồn mình như thế là tự hại mình, liền tươi tỉnh lại nói bằng
một giọng thương tâm:
- Có Chúa trời
chứng giám! Thưa ông, xin ông, xin hãy nói cho biết tôi phải gán việc tôi bị
đối xử bằng bạo lực như thế này cho ông, cho Chính phủ của ông hay cho một kẻ
thù nào?
- Không ai dùng bạo
lực với bằng, thưa bà, và việc xảy ra cho bà chỉ là kết quả của biện pháp hoàn
toàn đơn giản mà chúng tôi buộc phải áp dụng đối với tất cả mọi người cặp bến ở
nước Anh.
- Thưa ông, thì ra
ông không biết tôi?
- Đây là lần đầu
tiên tôi hân hạnh được gặp bà.
- Và ông có thể cam
đoan ông không có chuyện gì hiềm khích với tôi chứ?
- Không có gì, tôi
xin thề với bà.
Giọng nói của người
đàn ông trẻ vừa hết sức trong trẻo, bình thản lại dịu dàng nữa khiến Milady yên
tâm.
Cuối cùng, sau gần
một giờ, xe mới dừng lại trước hàng rào lưới sắt, đi vào một con đường trống
vắng dẫn đến một tòa lâu đài bề ngoài nghiêm trang, nặng nề và heo hút. Lúc đó,
bánh xe lăn trên cát mịn nên Milady nghe thấy tiếng sóng gầm của biển vỗ vào bờ
đá lởm chởm.
Chiếc xe đi dưới
hai vòm cổng, cuối cùng dừng lại trong một cái sân vuông và tối, cửa xe vừa mở,
người đàn ông trẻ tuổi đã nhảy ngay xuống theo, khá bình tĩnh.
Milady nhìn xung
quanh rồi dồn mắt nhìn viên sĩ quan trẻ với nụ cười duyên dáng nhất và nói:
- Vậy, tôi vẫn cứ
là một tù nhân, nhưng chắc sẽ không lâu đâu, tôi tin chắc như thế - Rồi nàng
thêm - Thưa ông, lương tâm tôi và sự lịch sự của ông đảm bảo với tôi như thế.
Dù tán tụng và ve
vãn như vậy, viên sĩ quan vẫn không trả lời, mà chỉ rút từ đai lưng ra một
chiếc còi bằng bạc mà những viên cai vẫn dùng trên tàu chiến, thổi lên ba hồi
theo ba giai điệu khác nhau. Thế là mấy người hiện ra tháo lũ ngựa đang thở phì
phì và đưa xe vào một cái nhà kho.
Viên sĩ quan vẫn
thái độ lịch sự điềm đạm mời tù nhân của mình vào trong nhà. Người đàn bà vẫn
với bộ mặt tươi cười, vịn tay viên sĩ quan, đi vào cùng với ông ta qua một
chiếc cửa thấp thắt giữa, vòm cửa chỉ được chiếu sáng từ sâu mãi bên trong, dẫn
tới một cầu thang bằng đá xoắn theo một trụ đá, đi lên, rồi dừng lại trước một
chiếc cửa nặng nề. Sau khi người kia tra chìa khóa mang theo vào ổ, cánh cửa
nặng nề quay trên bản lề để lộ ra lối vào một căn phòng dành cho Milady.
Thoáng nhìn qua,
người nữ tù nhân đã nắm được hết các chi tiết nhỏ nhất của căn nhà.
Đó là một căn buồng
mà nội thất vừa quá sạch đối với một nhà tù và cũng quá sạch đối với một chỗ ở
của một con người sống tự do. Tuy nhiên những song sắt của sổ và những chốt
ngoài của cửa ra, lại thiên về một nhà tù.
Trong giây lát,
toàn bộ nghị lực của con người từng được tôi luyện trong những mạch nguồn mạnh
mẽ nhất tiêu tan hết.
Nàng buông mình
xuống ghế tựa, khoanh tay, cúi đầu chờ đợi từng phút một để thấy một thẩm phán
đi vào thẩm vấn nàng.
Nhưng chẳng có ai
vào mà chỉ có vài ba lính thủy mang rương hòm tới, xếp vào một góc rồi lại rút
lui không nói một lời.
Viên sĩ quan điều
khiển mọi chi tiết với vẻ bình thản mà Milady thấy vẫn nguyên như trước, chẳng
nói một lời mà chỉ lấy tay ra hiệu hoặc thổi còi cho bọn lính tuân theo.
Có thể nói giữa con
người này và những kẻ dưới quyền, ngôn ngữ nói không tồn tại hoặc trở nên vô
ích…
Cuối cùng Milady
không chịu nổi thêm nữa, liền phá vỡ sự im lặng và kêu lên:
- Có trời cao chứng
kiến, thưa ông. Tất cả những gì diễn ra thế này là thế nào? Nói toạc móng heo
xem có chuyện gì nào. Tôi có đủ can đảm đối mặt với mọi hiểm nguy mà tôi thấy
trước, mọi bất hạnh mà tôi thấu hiểu. Tôi đang ở đâu và ở đây làm gì? Tôi có
còn được tự do không, tại sao lại có những song sắt và những cái cửa ấy? Tôi có
phải tù nhân không và tôi mắc tội gì?
- Bà ở đây trong
một căn phòng được dành cho bà. Tôi được lệnh phải giữ bà từ ngoài biển và dẫn
bà đến tòa lâu đài này. Và tôi tin tôi đã hoàn thành nhiệm vụ với tất cả sự
nghiêm túc của một quân nhân và phong độ của một nhà quý tộc. Giờ đây đã kết
thúc, ít ra là cho đến lúc này, trách nhiệm tôi phải làm tròn đối với bà, phần
còn lại liên quan đến một người khác.
- Thế cái người
khác đó là ai vậy? - Milady hỏi - Ông không thể nói tên người ấy ra với tôi ư?
- Đúng lúc đó, có
tiếng đinh thúc ngựa ầm ầm phía cầu thang.
- Có mấy tiếng
người rồi lại im ngay, và tiếng bước chân một mình ai đó lại gần chiếc cửa.
- Cái người đó đến
đây rồi, thưa bà - Vừa nói viên sĩ quan vừa chỉ ra lối đi, vừa đứng dẹp sang
một bên với thái độ kính trọng và phục tùng.
Đồng thời cửa mở,
một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa.
Người này không đội
mũ, đeo gươm, tay đang vò một chiếc khăn tay.
Milady tin mình
nhận ra bóng người đó trong bóng tối. Nàng chống bàn tay lên thành ghế tựa,
vươn đầu ra như để đón trước cái điều đã chắc chắn rồi.
- Người lạ từ từ
tiến lại và khi ông ta tiến sâu vào vùng ánh sáng từ chiếc đèn chiếu ra, Milady
bất giác lùi lại.
Rồi khi không còn
chút nghi ngờ gì nữa, nàng kêu lên đầy vẻ kinh hoàng:
- Kìa sao? Em tôi?
Chú đấy ư?
- Vâng, thưa quý
bà! - Huân tước Winter làm điệu bộ chào nửa phong nhã, nửa hài hước.
- Tôi đây! Nhưng
sao, tòa lâu đài này?
- Là của tôi.
- Căn phòng này?
- Là của bà!
- Tôi là tù nhân của ông ư?
- Gần như vậy.
- Nhưng đó là một sự lấy thịt đè người
ghê tởm?
- Đừng có ngoa ngoắt. Ta hãy ngồi xuống
chuyện trò với nhau bình tĩnh đã, như thế thích hợp giữa ông em và bà chị hơn.
Rồi quay về phía cửa, thấy viên sĩ quan
đang đứng đợi những mệnh lệnh cuối cùng, ông ta nói:
- Tốt lắm! Xin cám ơn ông. Bây giờ để
mặc chúng tôi, ông Felten.
Chú thích:
(1) Ngụ ngôn Êdốp: Dơi đến với chuột bị chuột đuổi vì cho dơi thuộc loài
chim, đến với chim bị chim đánh vì cho dơi thuộc loài chuột
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 50
Chuyện trò giữa ông
em chồng với chị dâu
Trong lúc Huân tước
De Winter đóng cửa, khép cánh cửa sổ lại và kéo một chiếc ghế đến ngồi gần
chiếc ghế bành của người chị dâu thì Milady mơ màng dọi mát vào trong sâu thẳm,
mong có khả năng khám phá ra toàn bộ âm mưu mà chính nàng không thể thấy nổi dù
chỉ lơ mơ, chừng nào nàng còn chưa biết mình bị rơi vào tay ai. Nàng biết rõ
ông em chồng vốn nhà quý tộc thực sự, mê săn bắn, một con bạc lì lợm, táo tợn
với đàn bà, nhưng về chuyện mưu mô thì còn dưới cả mức trung bình. Làm sao ông
ta lại có thể phát hiện việc nàng tới đây, và cho bắt giữ nàng? Tại sao lại giữ
nàng tại đây?
Athos đã nói hở với
nàng vài câu chứng tỏ cuộc chuyện trò giữa nàng và Giáo chủ đã lọt vào tai
người ngoài. Nhưng nàng không thể chấp nhận Athos lại có thể đào hố chống mình
nhanh chóng và táo tợn đến thế.
Nàng sợ hơn cả là
những hoạt động trước đây của mình trên đất Anh đã bị khám phá. Buckingham có
thể đoán chính nàng đã cắt mất hai nút kim cương và trả thù sự phản trắc nhỏ bé
này. Nhưng Buckingham không thể đối xử quá đáng đối với một người đàn bà nhất
là người đàn bà ấy được coi như là đã hành động bởi một tình cảm ghen tuông.
Giả thiết này đối
với nàng có vẻ có lý hơn cả. Nàng thấy hình như người ta muốn trả thù cái đã là
quá khứ, chứ không phải để đón trước tương lai. Dẫu sao nàng cũng mừng thầm là
đã rơi vào tay người em chồng, mà nàng cho là đã gặp may, hơn là vào tay một kẻ
thù trực tiếp và khôn ngoan.
- Vâng, ta nói
chuyện, chú ạ - nàng vui vẻ nói và quyết định phải rút ra bằng được trong cuộc
trò chuyện, mặc dầu De Winter có thể che giấu, những gì có thể làm sáng tỏ
những điều cần biết để điều chỉnh thái độ sắp tới cho thích hợp.
- Vậy là bà đã
quyết định trở lại nước Anh. - Huân tước De Winter nói - mặc dầu bà thường ngỏ
ý với tôi ở Paris rằng bà quyết định không bao giờ đặt chân trở lại đất Anh
nữa.
Milady trả lời câu
hỏi đó bằng một câu hỏi:
- Trước hết, ông
hãy cho tôi biết ông đã cho người rình rập theo dõi tôi nghiêm ngặt đến thế nào
để có thể biết trước được không những việc tôi đến mà cả ngày, giờ và cảng nào
tôi đến nữa?
De Winter áp dụng
ngay cái chiến thuật của Milady, nghĩ rằng chị dâu mình đã dùng nó ắt hẳn phải
hay:
- Nhưng bà chị thân
mến, bà cũng phải nói cho tôi biết bà định làm gì ở đất Anh đã chứ.
- Nhưng tôi sang
thăm ông mà - Milady nói tiếp mà không biết câu trả lời đó đã làm trầm trọng
thêm biết bao những ngờ vực nảy sinh trong đầu người em chồng từ bức thư của
D'Artagnan. Thật ra nàng nói dối chỉ để cốt thu hút được thiện ý của ông ta.
- Chà, sang thăm
tôi? - Wintern hỏi một cách thâm hiểm.
- Hẳn rồi, thăm
ông. Việc đó lạ lắm sao?
- Và bà sang Anh
không ngoài mục đích nào khác là thăm tôi?
- Không.
- Như thế, chỉ vì
mỗi mình tôi mà bà phải nhọc công vượt biển Măngssơ?
- Vì mỗi ông thôi.
- Chà, tình cảm gớm
nhỉ, bà chị dâu ơi!
- Thế chị không
phải họ hàng gần nhất của chú sao? - Milady hỏi bằng một giọng ngây thơ và cảm
động nhất.
- Và còn là người
thừa kế duy nhất của em nữa chứ, có phải không? - De Winter nhìn chăm chăm vào
mắt Milady mà hỏi.
Dù có nghị lực làm
chủ được mình đến mấy, Milady không tránh khỏi giật mình, và vì vừa nói ra
những câu ấy. De Winter vừa đặt tay lên cánh tay người chị dâu, nên sự rùng
mình ấy không tránh khỏi ông ta nhận thấy.
Quả là miếng đòn
vừa giáng thẳng lại vừa thâm. Milady chợt nghĩ bị Ketty phản bội, và con bé này
đã kể hết với Huân tước về mối ganh ghét về lợi lộc do vô ý nàng đã để lộ ra
những dấu hiệu trước người hầu gái. Nàng cũng nhớ ra là mình đã tỏ ra giận dữ
và bất cẩn chống lại D'Artagnan thế nào khi chàng tha chết cho em chồng mình.
Để tranh thủ thời
gian làm cho đối thủ phải nói ra, nàng nói:
- Thưa Huân tước,
tôi không hiểu chú định nói gì? Có ẩn ý gì giấu sau lời nói của chú chăng?
- Ồ không, Chúa ơi!
- Huân tước De Winter làm ra vẻ thật thà phúc hậu nói - Chị có lòng muốn thăm
tôi và chị sang tận Anh. Tôi hiểu tấm lòng đó, hay đúng hơn tôi ngờ rằng chị
cảm thấy như vậy, và để tránh cho mọi sự phiền phức và mọi vất vả phải cặp bến
ban đêm, tôi đã phái một sĩ quan của tôi tới đón trước chị, đưa cho ông ta một
cỗ xe để đưa chị về đây trong tòa lâu đài mà tôi là chủ nhân này. Ngày ngày tôi
sẽ đến và để thỏa lòng mong muốn gặp nhau của cả hai chúng ta tôi đã cho sắp
xếp cho chị một căn buồng. Có gì trong tất cả những điều tôi nói đó lại lạ lùng
hơn những gì chị nói với tôi sao?
- Không, điều tôi
thấy lạ, là chú biết trước việc tôi sang đây cơ
- Đó lại là điều
đơn giản nhất đấy bà chị thân mến ạ. Chị không thấy lúc tàu vào vịnh, viên
thuyền trưởng của tàu chị đã phái một chiếc xuồng nhỏ vào trước mang theo sổ
nhật ký hàng hải và danh sách của tàu, người ta mang sổ sách đến trình tôi, tôi
nhận ra tên chị. Trái tim tôi mách bảo tôi điều mà chị vừa khẳng định với tôi,
nghĩa là chị đã tự dấn thân vào bao gian nan của một vùng biển đầy sóng gió
hiểm nguy hoặc ít nhất cũng đầy vất vả trong lúc này với mục đích gì, và tôi đã
phái một tàu khu trục ra đón trước. Phần còn lại, chị đã rõ.
Milady hiểu rằng
Huân tước De Winter nói dối và chỉ càng sợ hơn.
- Chú ơi - nàng
tiếp tục - phải chăng người tôi trông thấy đứng trên đập tối nay lúc cặp bờ là
Huân tước De Buckingham?
- Chính ông ta đấy. À! Tôi hiểu việc
trông thấy ông ta khiến chị xúc động mạnh - De Winter nói tiếp - Chị đến từ một
đất nước mà ở đấy người ta hẳn quan tâm rất nhiều đến ông ta, và tôi biết việc
dấy binh của ông ta chống nước Pháp khiến Giáo chủ bạn chị rất lo lắng.
- Giáo chủ bạn tôi! - Milady kêu lên
thấy rõ trên điểm này, cũng như điểm khác, De Winter hình như đã hiểu rõ tất
cả.
- Ông ta không phải là bạn chị thật ư? Huân
tước hững hờ nói tiếp - Ồ, xin lỗi, tôi lại cứ tưởng như vậy. Mà thôi, để sau
ta hãy trở lại chuyện của Quận công, ta đừng lạc đề câu chuyện đang diễn ra hết
sức tình cảm nữa; chị nói chị đến đây để thăm tôi?
- Vâng.
- Thế thì…! Tôi đã trả lời chị rằng chị
sẽ ước sao được vậy, và ngày nào chúng ta cũng sẽ gặp nhau.
- Vậy tôi cứ phải ở đây vĩnh viễn ư? Milady
hỏi với một sự hãi hùng nào đấy.
- Chị thấy ở đây không tốt ư, chị dâu? Chị
cứ việc yêu cầu những gì chị thiếu, và tôi sẽ cho người mang tới cho chị ngay.
- Nhưng tôi không có đàn bà, đàn ông
giúp việc…
- Bà sẽ có tất cả, thưa bà, bà cứ nói
cho biết người chồng đầu của bà đã dựng cho bà loại nhà như thế nào, cho dù tôi
chỉ là em chồng của bà, tôi cũng sẽ dựng cho bà loại nhà như thế.
- Người chồng đầu của tôi! - Milady kêu
lên, nhìn Huân tước De Winter bằng đôi mắt hãi hùng.
- Vâng, người chồng Pháp của bà ấy. Tôi
không nói về anh tôi Hơn nữa, nếu bà đã quên ông ta, vì ông ta vẫn còn sống,
tôi có thể viết cho ông ấy, ông ấy sẽ giúp tôi biết tỉ mỉ về chuyện này.
Một lớp mồ hôi lạnh đầm đìa trán
Milady.
- Ông đùa rồi - nàng nói bằng một giọng
khàn khàn.
- Tôi có vẻ đùa à? - Huân tước vừa hỏi
vừa đứng lên, lùi lại một bước về phía sau.
- Hay đúng hơn là ông lăng mạ tôi -
nàng tiếp tục, vừa bóp chặt hai bàn tay co quắp lên hai thành ghế, chống tay
đứng phắt lên.
- Tôi lăng mạ bà ư! - De Winter khinh
bỉ nói - Thật ra bà tin có thể thế được ư?
- Thật ra, thưa ông
- Milady nói - Ông say hay phát rồ rồi. Ra đi, và gửi cho tôi một hầu phòng.
- Đàn bà rất hay
bép xép, bà chị ạ! Tôi không thể phục vụ bà như một thị nữ được ư? Làm như thế
mọi bí mật gia đình sẽ nguyên vẹn.
- Đồ hỗn láo! -
Milady thét lên và bật lên như một chiếc lò xo, nhẩy xổ vào Huân tước vẫn đang
đứng đợi, hai tay khoanh lại, nhưng bàn tay vẫn giữ chuôi gươm.
- Chà chà! - Ông ta
nói - Tôi biết là bà vẫn có thói quen ám sát mọi người, nhưng tôi báo trước cho
bà biết, tôi sẽ chống cự lại, dù là chống lại bà.
- Ố, ông có lý -
Milady nói - và ông làm cho tôi thấy ông khá hèn hạ khi đang tay chống với một
người đàn bà.
- Có thể thế đấy.
Vả lại, tôi có cớ để làm thế này. Bàn tay tôi sẽ không phải là bàn tay đàn ông
đầu tiên đặt lên người bà, tôi nghĩ như vậy.
Và Huân tước, bằng
một cử chỉ chậm rãi và buộc tội, chỉ vào vai trái Milady, hầu như chạm hẳn ngón
tay vào đấy.
Milady thất lên một
tiếng gầm khàn, lùi lại tận góc phòng, như một con báo cái tự lùi vào thế bí để
lao tới.
- Ồ! Bà cứ việc gầm
thét - De Winter nói to - nhưng chớ có định cắn, bởi tôi báo trước sự việc sẽ
xoay ngược lại làm hại bà đấy ở đây không có các ông biện lý để tính trước các
khoản thừa kế, không có hiệp sĩ lang thang đến để gây sự với tôi vì một người
đàn bà đẹp mà tôi giữ làm tù nhân. Nhưng tôi đã có sẵn những quan tòa sẽ phán
xử một mụ đàn bà hai chồng khá trơ trẽn đến luồn vào giường Huân tước De
Winter, anh cả tôi(1) và những viên quan tòa ấy, tôi xin báo trước cho bà, sẽ
tống bà cho đao phủ và đao phủ sẽ làm cho hai vai bà được giống nhau.
Hai mắt Milady ném
ra những tia sáng long lanh khiến cho dù là đàn ông và được vũ trang trước một
mụ đàn bà không vũ khí ông ta vẫn cảm thấy lạnh thấu con tim vì sợ hãi. Ông vẫn
tiếp tục nhưng với nỗi giận dữ tăng lên.
- Phải, tôi hiểu,
sau khi được thừa hưởng của anh tôi, nếu được thừa hưởng cả tôi nữa thì ngon
lành thật, nhưng phải biết trước rằng, bà có thể giết tôi, hoặc cho người giết
tôi, nhưng tôi đã đề phòng cả rồi. Không một xu nào của tôi chuyển sang tay bà
đâu. Bà chẳng phải đã giàu có rồi sao, bà sở hữu gần bạc triệu, mà vẫn không
thể dừng lại trên con đường định mệnh của mình ư, hay là bà làm điều ác chỉ để
bản thân thỏa thích cao độ và đến tận cùng? Ồ, hãy nhớ lấy điều tôi nói đây,
nếu không vì lòng tưởng nhớ thiêng liêng của tôi đối với anh tôi, bà sẽ bị thối
rữa trong hầm tối quốc gia, hoặc làm thỏa mãn sự tò mò của thủy thủ ở Tybum(2)
rồi. Tôi sẽ câm miệng, nhưng bà, bà hãy chịu đựng cảnh giam cầm một cách bình
tĩnh. Trong vòng mười lăm hai mươi ngày nữa, tôi sẽ đi La Rochelle cùng với
quân đội. Nhưng trước hôm tôi đi, một con tàu sẽ đến đón bà, tôi sẽ nhìn nó ra
đi mang bà tới những thuộc địa ở phương Nam, và bà hãy yên tâm, tôi sẽ cho một
người bạn đi phụ giúp bà sẵn sàng bắn bà vỡ sọ ngay khi bà có ý định đầu tiên
liều lĩnh trở về nước Anh hay lục địa.
Milady lắng nghe
chăm chú, trợn tròn đôi mắt nảy lửa.
- Phải, giờ này -
Huân tước De Winter tiếp tục - bà ở yên vị trong tòa lâu đài này. Tường bao rất
dày, các cổng cửa đều rất kiên cố, chấn song chắc chắn, vả lại cửa sổ phòng bà
trông thẳng xuống biển, những người của tôi đều trung thành sống chết với tôi
canh gác xung quanh lâu đài và giám sát mọi lối ra sân. Ra sân rồi bà còn phải
vượt qua ba hàng rào kẽm gai. Nội dung phạt giam rất rõ ràng: Một bước chân,
một cử chỉ, một lời nói tỏ ra ý định vượt ngục là người ta sẽ bắn vào bà. Nếu
người ta bắn chết, tôi hy vọng công lý Anh quốc sẽ chịu ơn tôi vì đã tránh cho
họ cái nhiệm vụ nặng nề. A, nét mặt bà đã bình thản lại rồi, bộ mặt bà đã có vẻ
yên tâm hơn. Mười lăm hai mươi ngày!
Bà nói:
- Được!
"Từ nay đến
đấy, ta vốn có đầu óc sáng kiến, thế nào chả tìm được ý tưởng nào hay, ta có
tâm hồn ma quỷ, ta sẽ tìm được nạn nhân. Từ nay đến mười lăm ngày nữa, bà tự
bảo mình, ta sẽ ra khỏi nơi đây. Chà chà! Cứ thử xem".
Milady thấy bị đoán
ra ý nghĩ của mình, liền bấm móng tay cho vào da thịt để chế ngự mọi cử động có
thể đem lại cho bộ dạng mình dấu hiệu nào đó khác với sự lo âu.
Ông De Winter tiếp
tục:
- Viên sĩ quan duy
nhất chỉ huy ở đây lúc tôi vắng mặt, bà đã gặp và đã biết rồi đó. Ông ta như bà
thấy đấy, biết giám sát một lệnh phạt giam, bởi vì, tôi biết, đi từ cảng
Portsmouth đến đây bà không phải không cố tìm cách làm cho ông ta nói về việc
đó. Bà nói sao về việc này? Một pho tượng đá hoa cương chưa chắc đã trơ và câm
lặng hơn ông ta phải không? Bà đã thử cái sức mạnh của những nét quyến rũ của
bà với bao nhiêu người đàn ông và khốn nạn thay, bà đã luôn luôn thành công.
Nhưng bà cứ thử với ông ta xem, mẹ kiếp! Nếu bà thành công với ông ta, tôi
tuyên bố với bà, ông ta cũng là quỷ nốt.
Ông De Winter đi
tới cửa, mở bật ra và nói:
- Gọi cho ta ông
Felten, bà đợi đây một lát, tôi sẽ trao bà cho ông ta trông nom.
Một sự im lặng kỳ
lạ diễn ra giữa hai người, trong khi đó người ta nghe thấy tiếng bước chân khoan
thai đều đặn lại gần, rồi trong bóng tối hành lang hiện ra một dáng người, đó
chính là viên trung úy trẻ lúc trước, ông ta dừng lại ở ngưỡng cửa đợi lệnh của
Huân tước.
- Vào đi, John thân
mến - Huân tước De Winter nói - vào đi rồi đóng cửa lại.
Viên sĩ quan trẻ
vào.
- Bây giờ - Huân
tước nói - Ông hãy nhìn người đàn bà này, bà ta trẻ đẹp, có tất cả những nét
quyến rũ trên đời, vậy mà, đó lại là một con quỷ ở tuổi hai nhăm, đã phạm không
biết bao nhiêu tội ác mà ông có thể đọc trong một năm trong kho lưu trữ các tòa
án của chúng ta, giọng nói bà ta rào đón bằng sự lấy lòng khôn khéo, sắc đẹp bà
ta dùng làm mồi cho các nạn nhân, thân xác bà ta cũng đem trả cho những điều đã
hứa. Bà ta sẽ tìm cách quyến rũ ông, có thể còn tìm cách giết ông nữa. Ông
Felten, tôi đã kéo ông ra khỏi cảnh nghèo khổ, tôi đã phong ông chức trung úy,
tôi đã một lần cứu sống ông, ông biết rõ trong hoàn cảnh nào rồi, tôi không
những là người bảo hộ cho ông mà còn là bạn ông, không những là một ân nhân mà
còn là một người cha, mụ đàn bà này đến nước Anh âm mưu ám hại tôi, tôi đã giữ
được con rắn ấy trong tay, vì thế, tôi cho gọi ông để nói với ông: "Anh
bạn Felten, John, con ta ạ, hãy canh giữ cho ta, nhất là phải canh chừng cho
bản thân anh con mụ đàn bà này, hãy thề trừng phạt mụ ta xứng đáng để cứu lấy
bản thân anh, John Felten, ta tin ở lời thề của anh, John Felten, ta tin ở lòng
trung thành của anh".
- Thưa Huân tước -
Viên sĩ quan trẻ nói, con mắt chứa chất đơn thuần toàn bộ nỗi căm hờn cảm thấy
trong lòng - Tôi xin thề với ngài mọi việc sẽ được làm đúng như ngài mong muốn.
Milady nhẫn nhục
chịu đựng cái nhìn đó như một nạn nhân.
- Không thể nhìn
thấy một vẻ mặt nào chịu khuất phục và dịu dàng hơn những gì đang ngự trị trên
bộ mặt kiều diễm của nàng, đến nỗi chính ông De Winter cũng khó lòng nhận ra
con hổ cái một lát trước đây ông sẵn sàng chiến đấu với nó.
- Mụ ta sẽ không
bao giờ được ra khỏi cái buồng này, hiểu chưa John - Nam tước tiếp tục - mụ sẽ
không được liên hệ với bất cứ ai, mụ chưa được nói với ông, nếu ông có ý định
ban cho mụ vinh dự ngỏ lời trước với mụ.
- Thế là đủ, thưa
Huân tước, tôi đã thề.
- Và bây giờ, thưa
bà, hãy cố ôn hòa với Chúa, và bà bị phán xử bởi Người.
Milady mặc cho đầu
gục xuống như thể cảm thấy bị sự phán xử ấy đè bẹp. Huân tước De Winter vừa ra
hiệu cho Felten theo sau và đóng cửa lại.
Một lát sau trong
hành lang có tiếng bước chân nặng nề của một chàng lính thủy đi tuần, chiếc rìu
giắt ở đai lưng và súng hỏa mai trong tay.
Milady ngồi im
trong tư thế ấy trong mấy phút, bởi nàng nghĩ người ta theo dõi mình qua lỗ
khóa, rồi nàng từ từ ngẩng đầu lên, lấy lại vẻ hăm dọa khủng khiếp và vẻ thách
thức, chạy đến nghe ở cửa, nhìn qua cửa sổ, rồi lại quay vào vùi mình trong
chiếc ghế bành, suy nghĩ.
Chú thích:
(1) Đến đây tác giả gọi người chồng thứ hai của Milady là "anh cả
tôi" (monfrèe âiné) qua lời nói của Huân tước De Winter
(2) Tybum, quảng trường, nơi thi hành án tử hình, một pháp trường nổi
tiếng thời đó ở London
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 51
Sĩ quan.
Trong khi đó, Giáo
chủ mong đợi những tin tức từ nước Anh nhưng chẳng thấy gì nếu không phải những
tin tức gây bực mình hoặc hăm dọa.
Cho dù La Rochelle
có bị vây chặt và thành công có vẻ đã chắc trong tay nhờ những biện pháp phòng
ngự và nhất là con đê, không cho bất cứ con thuyền nào lọt vào thành phố bị bao
vây, thì cuộc vây hãm vẫn cứ phải kéo dài thêm nữa và đó là một nỗi nhục lớn
đối các binh chủng của nhà Vua, một sự bực mình lớn đối với Giáo chủ khiến ông
ta không thiết gây rắc rối giữa Louis XIII và Anne Autriche nữa, đúng vậy, vì
chuyện đó đã xong rồi, mà phải hàn gắn mối bất hòa giữa ông Bassompirre với
Quận công Angoulême.
Còn Hoàng đệ, người
mở đầu cuộc bao vây nay để mặc Giáo chủ lo việc hoàn tất.
Thành phố, mặc dầu
sự kiên gan không thể tưởng tượng nổi của viên thị trưởng, vẫn toan tính nổi
loạn để đầu hàng. Viên thị trưởng đã cho treo cổ những kẻ bạo loạn. Việc hành
hình đó đã làm dịu bớt những cái đầu bất trị nhất, họ quyết định thôi đành chết
đói. Cái chết đó luôn có vẻ chậm chạp hơn và kém chắc chắn hơn cái chết bị treo
cổ.
Về phía mình, thỉnh
thoảng quân vây thành lại bắt được những phái viên của quân Rochelle phái đến
Buckingham hoặc những điệp viên mà Buckingham gửi tới cho quân Rochelle. Đối
với cả loại này lẫn loại kia, bản án được đưa ra nhanh chóng.
Giáo chủ chỉ nói
mỗi một câu: Treo cổ! Người ta mời nhà Vua xem treo cổ. Nhà vua đến, người mệt
lử, ngồi ở một chỗ tốt để xem rõ từng chi tiết việc hành quyết. Việc đó luôn
làm Ngài khuây khỏa đôi chút và khiến Ngài kiên nhẫn hơn trong việc bao vây
nhưng không ngăn nổi Ngài phiền muộn rất nhiều, và lúc nào cũng nói đến việc
trở về Paris, thành thử nếu bọn phái viên và điệp viên không xuất hiện, thì Đức
ông, mặc dù sức tưởng tượng phong phú của mình, cũng thấy rất lúng túng.
Song, thời gian cứ
trôi đi, quân Rochelle không đầu hàng. Tên gián điệp cuối cùng bị bắt là một kẻ
mang một bức thư. Bức thư nói rõ với Buckingham là thành phố đã chịủ đựng đến
cùng rồi, nhưng đáng lẽ thêm rằng: "Nếu việc cứu viện của ngài, trước mười
lăm ngày nữa, không đến, chúng tôi sẽ đầu hàng" lại chỉ đơn giản như sau:
"Nếu trong vòng mười lăm ngày việc cứu viện của ngài không tới, thì khi
tới chúng tôi đã chết đói hết rồi?"
- Vậy là quân
Rochelle chỉ hy vọng vào Buckingham.
Buckingham là chúa
cứu thế của họ. Rõ ràng là nếu một ngày nào đó họ biết một cách chắc chắn rằng
không nên trông cậy vào Buckingham nữa, thì lòng dũng cảm của họ sẽ rơi rụng
cùng với hy vọng của họ.
Cho nên Giáo chủ
rất nóng lòng mong đợi những tin tức từ nước Anh đáng lẽ phải thông báo là
Buckingham sẽ không đến nữa.
Vấn đề chiếm thành
phố bằng sức mạnh thường được tranh luận trong hội nghị của nhà Vua, luôn bị
gạt bỏ. Trước hết vì La Rochelle có vẻ không thể đánh chiếm, rồi Giáo chủ, cho
dù ông đã nói, ông biết thừa nỗi kinh hoàng vì máu đổ trong cuộc đối đầu này
nơi người Pháp phải chiến đấu chống người Pháp, là một thoái trào chính trị tới
sáu mươi năm. Mà Giáo chủ vào thời kỳ này lại được người ta gọi là một con
người cấp tiến. Quả thật cuộc cướp phá thành La Rochelle và vụ tàn sát ba bốn
nghìn người theo giáo phái Canvanh năm 1628 quá giống cuộc thảm sát Saint
Báctêlêmy năm 1572(1), và rồi trên tất những cái đó cái thủ đoạn cực đoan mà
nhà vua, một tín đồ Cơ đốc ngoan đạo không ghê tay luôn bị thất bại trước lý lẽ
của các tướng lĩnh vây thành: ngoài nạn đói ra, La Rochelle không thể nào bị
chiếm.
Giáo chủ không thể
gạt ra khỏi trí não nỗi sợ mà người nữ mật sứ đáng sợ đã gieo vào, bởi ông,
chính ông cũng hiểu sự mất cân bằng kỳ lạ, lúc là rắn lúc là sư tử của người
đàn bà này. Mụ ta đã phản bội? Mụ chết rồi chăng? Dẫu sao ông cũng khá hiểu rõ
mụ để biết rằng trong khi hành động cho ông hoặc chống lại ông, là bạn hay là
thù của ông, mụ cũng không chịu im ắng như thế nếu không gặp những trở ngại
lớn. Nhưng từ đâu ra những trở ngại ấy? Đó là điều ông chưa thể biết.
Vả chăng, ông vẫn
có lý do để trông cậy vào Milady, ông đã đoán ra trong quá khứ, người đàn bà ấy
đã có những chuyện đáng sợ mà chỉ chiếc áo đỏ Giáo chủ của ông thôi mới có thể
che đậy và ông cảm thấy rằng, vì một nguyên nhân này hay nguyên nhân khác,
người đàn bà đã thuộc về ông ấy chỉ có thể tìm thấy ở ông một chỗ dựa vượt lên
trên mối nguy đang đe dọa mụ, vì vậy, ông quyết định tiến hành chiến tranh một
mình mình và chỉ trong đợi vào mọi thành công còn xa lạ với ông như người ta
trông đợi một vận may. Ông tiếp tục cho nâng cao thêm con đê nổi tiếng để làm
đói La Rochelle, trong khi chờ đợi ông phóng mắt nhìn cái thành phố khốn khổ,
chất chứa bao nỗi khốn cùng sâu xa cũng như bao đức tính anh hùng và nhớ đến
câu nói của vua Louis XI, bậc tiền bối chính trị của ông, cũng như bản thân ông
lại là bậc tiền bối của Rôbétxpie, ông lại nhớ câu châm ngôn của cha đỡ đầu của
Trítxtăng(2) "chia để trị".
Henri IV khi vây
hãm Paris đã cho ném qua tường thành bánh mì và thực phẩm. Ở đây Giáo chủ cho
ném truyền đơn vào trong đó trình bầy cho dân Rochelle rõ cách đối xử bất công
ích kỷ, dã man của bọn chỉ huy, bọn chỉ huy thừa mứa lúa mì mà không đem chia
cho họ, bọn chúng áp dụng phương châm ấy, bởi chính bọn chúng cũng có những
phương châm, rằng phụ nữ, trẻ con và người già có chết cũng chẳng sao, miễn là đàn
ông bảo vệ thành lũy thì phải sống khỏe mạnh và được ăn mặc đầy đủ. Cho đến lúc
này, do vì nghĩa vụ hoặc do bất lực không phản ứng lại được, cái phương châm đó
không được chấp nhận về đại thể, tuy nhiên đã chuyển từ lý thuyết thành thực
hành. Nhưng những tờ truyền đơn bay tới cũng có tác dụng công kích. Những
truyền đơn nhắc nhở những người đàn ông rằng trẻ con, đàn bà, người già bị bỏ
chết ấy chính là con cái họ, vợ họ và cha họ, rằng sẽ công bằng hơn nếu mỗi
người đều chịu chung cảnh khốn cùng, có cùng chung cảnh ngộ thì mới có được
những quyết định thống nhất.
Những tờ truyền đơn
đó đã phát huy hiệu quả mà những người viết ra có thể trông đợi. Một số đông cư
dân đã quyết định mở những cuộc thương lượng riêng với quân đội nhà Vua.
Nhưng đúng lúc Giáo
chủ thấy phương sách của mình đã có hiệu quả và lấy làm mừng vì đã áp dụng
phương sách đó thì một cư dân của La Rochelle đã có thể vượt qua những phòng
tuyến quân đội hoàng gia như thế nào có trời mới biết, dù cho những kiểm soát
gắt gao của các ông Bassompirre, De Xkombéc, Công tước Ănggulêm, và rồi chính
họ lại bị Giáo chủ giám sát, một cư dân ở La Rochelle đến từ cảng Portsmouth và
nói rằng, trước đây tám ngày thấy một hạm đội hùng hậu sẫn sàng giương buồm.
Thêm nữa, Buckingham đã thông báo cho ông thị trưởng rằng một liên minh to lớn
chống nước Pháp sắp sửa ra mắt, và vương quốc Pháp sắp bị quân Anh, Tây Ban Nha
và đế quốc Áo xâm lược.
Bức thông điệp được
đọc công khai trên tất cả các quảng trường, các bản sao được dán ở các góc phố,
và ngay những người đã bắt đầu mở những cuộc thương lượng cũng đình lại, quyết
định chờ cứu viện như đã được huyênh hoang công bố.
Tình thế bất ngờ đó
khiến cho Richelieu bắt đầu lo lắng, buộc ông bất đắc dĩ phải quay mặt nhìn về
phía bên kia bờ biển.
Trong khi đó, bất
chấp những lo lắng của vị chỉ huy đích thực và duy nhất, binh lính quân đội nhà
vua vẫn sống vui tươi, thực phẩm không thiếu ở doanh trại, tiền bạc cũng vậy,
mọi đơn vị đối đầu nhau xem ai gan dạ và vui chơi thỏa thích hơn ai. Bắt gián
điệp và đem treo cổ, tiến hành đột kích trên đê hay trên biển, tưởng tượng ra
những trò rồ dại rồi thực hiện một cách lạnh lùng, đó là những trò giết thì giờ
để tìm cách rút ngắn thời gian trong quân ngũ quá dài, còn quá dài chẳng những
với dân Rochelle đang bị nạn đói và nỗi lo âu gậm nhấm mà cả với Giáo chủ đang
vây hãm họ rất ác liệt.
Đôi khi, khi Giáo
chủ cưỡi trên lưng ngựa như một gã cảnh sát quân sự cuối cùng của quân đội, đưa
con mắt đăm chiêu nhìn những công trình mà ông đã ra lệnh huy động các kỹ sư
của khắp nước Pháp đến đây để tôn cao lên, lại diễn ra quá chậm trễ không theo
mong muốn của ông, nếu khi đó, gặp một lính ngự lâm của đại đội ông De
Treville, ông liền lại gần, nhìn người đó một cách lạ thường, và nếu nhận ra đó
không phải là một trong bốn người bạn, ông lại để con mắt thâm trầm và ý nghĩ
mung lung hướng về nơi khác.
Một hôm, không còn
hy vọng vào những cuộc điều đình với thành phố, không chút tin tức gì từ nước
Anh, bị nỗi phiền muộn chết người gậm nhấm, Giáo chủ đi ra ngoài không có mục
đích nào khác là chỉ để ra ngoài, cùng đi chỉ có Cahuxắc và Lahuđinie. Ông đi
dọc theo bờ cát và hòa trộn những giấc mơ bao la của mình vào sự bao la của đại
dương. Ông thong thả cho ngựa đi bước một lên một ngọn đồi, trên đỉnh đồi đằng
sau một hàng giậu, ông bắt gặp bẩy người, xung quanh là những chai rượu rỗng,
nằm dài trên cát đón những tia nắng mặt trời hiếm hoi trong tiết mùa đông này.
Bốn người trong số đó là bốn chàng ngự lâm quân đang chuẩn bị nghe đọc một bức
thư mà trong người trong bọn họ vừa nhận được. Bức thư này rất quan trọng đến
nỗi nó làm cho họ bỏ mặc cả những lá bài và quân xúc xắc trên mặt trống.
Ba người khác lo
việc mở nắp một bình rượu vang Côkina khổng lồ. Đó là mấy người hầu của mấy
người kia.
Giáo chủ đang u
sầu, và trong tâm trạng ấy, không gì làm tăng gấp bội nỗi bực tức bằng sự vui
tươi của những người khác.
Vả lại, ông vốn có
một thiên kiến kỳ quái, đó là luôn tin rằng chính nỗi buồn của ông là nguyên
nhân làm cho những kẻ khác vui thích.
Ra hiệu cho La
Huđinie và Cahuxắc dừng lại, ông xuống ngựa lại gần những kẻ cười cợt đáng ngờ,
hy vọng nhờ đi trên cát, nên tiếng bước chân không bị nghe thấy và hàng giậu
che khuất ông đi đến, ông có thể nghe được vài câu của cuộc chuyện trò này đối
với ông có vẻ rất thú vị. Đến cách hàng giậu chỉ mươi bước ông đã nhận ra giọng
thổ ngữ Gascogne, và vì đã biết những người này đều là ngự lâm quân, ông chẳng
còn ngờ gì nữa là ba người kia là những người mà người ta gọi là ba chàng nối
khố, nghĩa là Athos, Porthos, Aramis.
Việc phát hiện ra
mấy chàng này chỉ làm Giáo chủ tăng thêm ham muốn được nghe thấy cuộc trò
chuyện. Đôi mắt ông lạ hẳn đi, với bước chân của loài mèo rừng ông tiến đến bờ
giậu nhưng ông chỉ vừa nghe thấy những âm tiết mơ hồ, không có nghĩa nào rõ
rệt, thì một tiếng kêu thất thanh làm ông giật bắn mình và khiến mấy chàng ngự
lâm chú ý.
- Sĩ quan! -
Grimaud kêu váng lên.
- Ai cho anh nói?
Đồ khốn! - Athos chống tay nhổm dậy nhìn Grimaud bằng con mắt nảy lừa làm anh
ta ngẩn ra.
Grimaud không nói
thêm một lời nào nữa, đành chỉ tay về phía hàng giậu phát giác Giáo chủ và tùy
tùng.
Bốn chàng ngự lâm
chồm ngay dậy và đứng nghiêm chào kính cẩn.
Giáo chủ hình như
có vẻ giận dữ. Ông nói:
- Hình như các vị
ngự lâm quân bố trí những người này canh phòng cho mình? Phải chăng bọn Anh đến
bằng đường bộ, hay các ông ngự lâm quân tự coi mình là sĩ quan cao cấp?
- Thưa Đức ông -
Athos trả lời, bởi giữa lúc tất cả cùng hoảng sợ, chỉ còn mỗi mình chàng là vẫn
giữ được tính điềm đạm và thản nhiên của một bậc đại lãnh chúa không bao giờ
thiếu được ở chàng - Thưa Đức ông, những người lính ngự lâm khi không bận làm
nhiệm vụ hoặc khi đã làm xong nhiệm vụ, họ uống rượu và chơi xúc xắc và họ là
những sĩ quan rất cao cấp đối với những người hầu của họ.
- Những người hầu!
- Giáo chủ càu nhàu - những người hầu được lệnh báo cho chủ mình khi có ai đó
đi qua, đó không hề là những người hầu, đó là những tên lính gác.
- Tuy nhiên Đức ông
thấy quá rõ, nếu không đề phòng trước như vậy, thì chúng tôi đã để ngài đi qua
mà không được bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn vì ngài đã ban cho chúng tôi
được xum họp cùng nhau - Athos tiếp tục - D'Artagnan, vừa nãy, anh vẫn mong có
dịp bày tỏ lòng biết ơn với Đức ông, giờ Đức ông đã đến đây, hãy lợi dụng cơ
hội này đi.
Athos nói ra những
câu ấy với vẻ thản nhiên bình lặng thường làm tôn bật chàng lên trong những giờ
phút hiểm nguy và sự lễ độ thái quá ấy đôi lúc thường làm chàng như một ông vua
còn đường bệ hơn cả những ông vua dòng dõi.
D'Artagnan lại gần
và ấp úng mấy câu cám ơn rồi tịt mất trước cái nhìn sa sầm lại của Giáo chủ.
Giáo chủ không tỏ
ra bị lạc hướng ý đồ ban đầu của mình bởi sự phá bĩnh của Athos nêu lên, liền
tiếp tục:
- Không sao, các
vị, không sao, ta chỉ không thích thấy những gã mới là lính thôi, bởi thấy mình
hơn người, được phục vụ trong một đơn vị được biệt đãi lại làm ra vẻ các đại
lãnh chúa như thế và kỷ luật thì đối với họ cũng vẫn là kỷ luật chung cho mọi
người.
Athos để cho Giáo
chủ nói xong xuôi, liền nghiêng đầu tỏ vẻ đồng tình, đến lượt mình nói tiếp:
- Kỷ luật, thưa Đức
ông, tôi hy vọng, bất cứ mặt nào, chúng tôi cũng không sao lãng. Chúng tôi chưa
được giao nhiệm vụ và chúng tôi nghĩ rằng, vì không làm nhiệm vụ, chúng tôi có
thể bố trí thời gian sao cho tốt nhất với mình. Nếu như có đôi chút may mắn được
Đức ông trao cho một mệnh lệnh đặc biệt nào đó, chúng tôi sẵn sàng tuân lệnh
ngay - Athos vừa tiếp tục nói vừa cau mày lại bởi cái lối thẩm vấn đó bắt đầu
làm chàng cáu bực - Đức ông cũng thấy, để sẵn sàng, kể cả trước những báo động
nhỏ nhất, chúng tôi đã ra ngoài không rời vũ khí.
Và chàng chỉ cho
Giáo chủ bốn khẩu hỏa mai bó lại bên cái trống, trên trống lăn lóc quân xúc xắc
và quân bài.
- Mong Đức ông tin
rằng - D'Artagnan nói thêm - chúng tôi đâu có cho rằng Đức ông lại đến với
chúng tôi bằng một đoàn bé nhỏ như thế này, nếu biết thế chúng tôi đã ra nghênh
đón trước ngài rồi.
Giáo chủ cắn ria
mép rồi cắn môi, nói:
- Các ông có biết
giống ai không, luôn luôn tụ họp, như bây giờ đây này, vũ khí trong tay, người
hầu canh phòng, các ông giống như bốn kẻ đồng mưu.
- Ồ! Về việc này,
thưa Đức ông, đúng là như vậy - Athos nói - Chúng tôi đang mưu tính, như Đức
ông có thể thấy buổi sáng hôm nào đó, chỉ để chống lại bọn Rochelle.
- Này, các nhà
chính trị!- Giáo chủ đển lượt mình cũng cau mày lại nói tiếp - có lẽ người ta
sẽ tìm thấy trong đầu các ông biết bao điều bí mật còn chưa được biết, nếu như
người ta có thể đọc được ở trong đó như các ông đọc trong bức thư mà các ông đã
giấu đi khi thấy ta đến.
Mặt Athos đỏ bừng
lên, chàng bước một bước tiến lại gần Giáo chủ.
- Thưa Đức ông,
ngài nghi ngờ chúng tôi thực mất rồi, và chúng tôi đang phải chịu một cuộc thẩm
vấn đích thực. Nếu đã như vậy, xin Đức ông hạ cố giải thích cho để ít nhất
chúng tôi cũng biết cách xử sự.
- Và khi nào đây là
một cuộc thẩm vấn - Giáo chủ nói tiếp - thì là những kẻ khác chứ không phải các
ông phải chịu thẩm vấn và phải trả lời, ông Athos ạ.
- Thế cho nên, thưa
Đức ông, tôi đã chẳng nói với Đức ông là ngài cứ việc hỏi và chúng tôi sẵn sàng
trả lời là gì.
- Bức thư mà các
ông định đọc là bức thư gì, mà ông đã giấu đó, ông Aramis?
- Thưa Đức ông, thư
đàn bà.
- Ồ ta hiểu - Giáo
chủ nói - những loại thư ấy thì phải kín đáo rồi. Nhưng tuy nhiên người ta có
thể đưa cho cha xưng tội xem, và ông biết đấy, ta có quyền ấy.
- Thưa Đức ông -
Athos nói với một vẻ bình thản còn đáng sợ hơn cả việc mình đem đầu ra đặt vào
câu trả lời này - bức thư đó là của một người đàn bà nhưng không ký tên Marion
Delorme, cũng không ký tiểu thư De Eghiông(3).
Giáo chủ tái mặt
lại như da người chết, một tia mắt thú dữ lóe lên trong mắt ông, ông quay phắt
lại như thể ra lệnh cho Cahuxắc và La Huđinie, Athos thấy động thái độ liền
bước lại ngay chỗ để súng. Ba người kia mắt cũng chăm chăm nhìn súng ở tư thế
không chịu để bị bắt giữ. Về phía giáo chủ, ông chỉ có ba. Ngự lâm quân kể cả
người hầu là bẩy. Giáo chủ nghĩ ngay, dù Athos và đồng bọn có âm mưu thực sự
thì vẫn cứ không cân sức, ông lật ngược ngay tình thế và ông vẫn luôn luôn như
thế, mọi sự tức giận tan biến thành một nụ cười.
- Thôi nào, thôi
nào! - Ông nói - Các ông là những chàng trai trẻ can trường, kiêu hãnh trước
mặt trời, chung thủy trong bóng tối, chẳng có điều gì xấu khi chăm lo cho mình,
sau khi đã chăm lo đầy đủ cho người khác. Các ông ạ, ta không hề quên cái đêm
mà các ông đã hộ tống ta đến quán Chuồng chim câu Đỏ. Nếu như có điều gì nguy
hiểm đáng sợ trên con đường ta sắp đi đây, ta sẽ yêu cầu các ông đi cùng ta,
nhưng vì không có chuyện gì, các ông cứ việc ở lại, uống nốt những chai rượu,
chơi nốt ván bài và đọc xong bức thư đi. Tạm biệt các ông.
Rồi, nhảy lên lưng
con ngựa Cahuxắc vừa dắt đến, ông giơ tay chào mọi người và đi mất.
Mọi người nhìn
nhau.
Ai nấy mặt mũi đều
bàng hoàng bởi mặc dầu bề ngoài chào thân thiện, nhưng tất cả đều hiểu trong
lòng, Giáo chủ điên lên lúc ra đi.
Chỉ mỗi Athos là
mỉm cười, một nụ cười mạnh mẽ và khinh thị. Khi Giáo chủ đã ra khỏi tầm nhìn và
tầm nghe, Porthos nói to:
- Cái thằng Grimaud
này báo chậm quá! - Porthos muốn trút nỗi bực bội lên một ai đó.
Grimaud định trả
lời để bào chữa, Athos giơ ngón tay lên và Grimaud im mất.
D'Artagnan hỏi:
- Aramis, anh định đưa bức thư à?
- Mình ư, - Aramis nói bằng một giọng
véo von - mình đã quyết định nếu ông ta cứ nằng nặc đòi đưa cho ông ta bức thư,
thì một tay mình đưa thư, tay kia mình sẽ đưa gươm của mình xuyên qua người ông
ta.
- Mình cũng nghĩ y như vậy - Athos nói
- Vì vậy mà mình đã lao vào ngăn giữa cậu và ông ta. Thật ra, con người đó ăn
nói như thế với người khác là quá dại. Nghe nói bao giờ ông ta cũng chỉ gây
chuyện với đàn bà và trẻ con.
- Anh Athos thân mến - D'Artagnan nói -
Tôi phục anh đấy. Nhưng rút cuộc, chúng ta cũng sai đấy.
- Sao, sai ư? - Athos nói - Vậy cái
không khí mà chúng ta thở này là của ai? Của ai cái đại dương mà tầm mắt của
chúng ta trải ra xa tắp? Lớp cát chúng ta nằm này là của ai? Bức thư của người
tình của cậu này là gửi cho ai? Của Giáo chủ hẳn? Mình thề là cái con người đó
cứ tưởng cả thế giới này đều thuộc về mình. Cậu đứng đó, ấp úng, hoang mang,
kinh hồn. Làm như Bastille lù lù trước mắt cậu và nữ thần khổng lồ Mêđuydơ(4)
biến cậu thành đá. Xem nào, si tình mà lại là âm mưu ư? Cậu si mê một người đàn
bà mà Giáo chủ đã cho giam lại, cậu muốn kéo nàng ra khỏi bàn tay của Giáo chủ.
Đây là một canh bạc cậu chơi với Đức ông. Bức thư đó, là nước bài của cậu. Tại
sao cậu lại phô nước bài của mình ra cho đối phương? Không thể làm thế được ông
ta cứ việc đoán, tốt thôi. Chúng ta cũng đoán nước bài của ông ta
- Suy đến cùng - D'Artagnan nói - Athos
ạ, những điều anh vừa nói mang nhiều ý nghĩa lắm.
Đã vậy thì không còn vấn đề vừa xảy ra
nữa, và Aramis đọc tiếp bức thư của cô em họ mà Giáo chủ làm đứt đoạn đi.
Aramis rút bức thư từ trong túi ra, ba
người bạn chụm lại và ba người hầu cũng lại quây vào bên cái bình rượu.
- Anh mới đọc được một vài dòng thôi -
D'Artagnan nói - Anh đọc lại từ đầu đi.
- Xin sẵn sàng! - Aramis nói.
"Anh họ thân mến, em tin thế nào
em cũng sẽ đi Xtơnay nơi chị em đã đưa cô hầu gái bé nhỏ của chúng ta vào ở
trong tu viện của những nữ tu sĩ thuộc giáo phái Cácme(5). Cô bé tội nghiệp đó
phải cam chịu, nó biết rằng nó không thể sống ở nơi nào khác mà sự cứu rỗi linh
hồn nó không bị nguy hiểm. Tuy nhiên nếu những công việc trong gia đình chúng
em được thu xếp ổn thỏa như chúng em mong muốn, em tin rằng cô bé thoát khỏi
nguy cơ gánh kiếp đọa đày, sẽ được trở lại bên những người cô bé nhớ tiếc, nhất
là nó lại biết người ta luôn nghĩ đến nó. Trong khi chờ đợi cô bé cũng không
đến nỗi khốn khổ lắm đâu. Tất cả những gì nó mong ước đó là một bức thư của
người hẹn ước. Em biết những loại vật phẩm như thế rất khó vượt qua lưới sắt. Nhưng
rút cục như em đã cho anh những bằng chứng, anh họ thân mến, em không đến nỗi
quá vụng về và em sẽ đảm nhiệm việc đó. Chị em cảm ơn anh về kỷ niệm tốt và
vĩnh hằng của anh. Có lúc chị em cũng rất lo lắng. Nhưng cuối cùng bây giờ chị
ấy cũng đã đôi chút yên tâm và đã phái người tới đó để không xảy ra một điều gì
bất ngờ. Tạm biệt, anh họ thân mến, cho chúng em biết tin tức về anh càng
thường xuyên càng tốt, nghĩa là bất cứ lúc nào mà anh tin có thể gửi đi chắc
chắn.
Hôn anh.
Marie Mítsông
- Ôi! Aramis! Tôi phải chịu ơn anh
nhiều lắm! - D'Artagnan kêu lên - Constance yêu dấu! Thế là ta cũng đã có được
tin tức của em rồi. Em còn sống. Em được an toàn trong một tu viện, em ở
Xtơnay? Xtơnay ở đâu anh Athos?
- Ở Loren, cách vùng biên giới Andátx
mấy dặm. Một khi cuộc vây hãm này được rỡ bỏ, chúng ta có thể làm một chuyến
đến đấy.
- Cũng không lâu đâu, phải hy vọng thế -
Porthos nói - Bởi sáng nay đã treo cổ một tên gián điệp, tên này khai bọn
Rochelle đã phải ăn cả da giầy. Giả dụ sau khi ăn hết da, chúng phải ăn đến đế
giầy, rồi hết đế thì còn gì để ăn, trừ phi chúng ăn lẫn nhau.
- Những kẻ dại dột đáng thương - Athos
và nói vừa uống cạn cốc rượu vang Boócđô trứ danh, hồi đó còn chưa nổi tiếng
như ngày nay, nhưng không phải hạng xoàng - Những kẻ dại dột đáng thương! Làm
như Cơ đốc giáo không phải là thứ tôn giáo lợi lộc nhất và dễ chịu nhất trong
các tôn giáo ấy? Mà cũng thế thôi - chàng chặc lưỡi nói tiếp - Đó là những
chàng trai trẻ can trường. Mà cậu làm cái quái gì thế hả Aramis? - Athos tiếp
tục - cậu khư khư ôm lấy cái thư trong túi cậu ư?
- Phải đấy - D'Artagnan nói - anh Athos
nói đúng đấy, phải đốt đi thôi. Phải đốt đi đốt lại ấy, ai biết đâu nhỡ Giáo
chủ có bí quyết hỏi cung được tàn tro?
- Ông ta hẳn là có đấy - Aramis nói -
Vậy anh định làm thế nào bức thư ấy? - Porthos hỏi.
- Lại đây, Grimaud
- Athos nói.
Grimaud đứng lên và
tuân lệnh.
- Để phạt ngươi tội
nói không xin phép, anh bạn ạ, ngươi phải nuốt mẩu giấy này, rồi để thưởng cho
ngươi đã giúp chúng ta một việc tốt, ngươi hãy uống tiếp cốc rượu vang này. Bức
thư đây nhai thật kỹ vào.
Grimaud mỉm cười,
đôi mắt dán vào chiếc cốc mà Athos vừa rót đầy tràn, gã nghiền nát mẩu giấy và
nuốt chửng.
- Hoan hô, thầy
Grimaud - Athos nói - Và bây giờ cầm lấy cốc rượu này. Tốt lắm, không cần cám
ơn đâu.
Grimaud lặng lẽ
uống cốc vang Boócđô nhưng mắt lại ngước lên trời nói bằng thứ ngôn ngữ như thể
người câm nhưng không kém biểu cảm trong cả quãng thời gian kéo dài cái việc
làm dễ chịu này.
- Và bây giờ -
Athos nói - trừ phi ngài Giáo chủ nghĩ ra chuyện mổ bụng Grimaud, còn thì tôi
tin chúng ta có thể yên tâm được rồi.
Trong khi đó, Giáo
chủ đang tiếp tục cuộc dạo chơi u trầm, miệng lẩm bẩm giữa hai hàng ria:
- Dứt khoát, bốn
con người ấy phải thuộc về ta.
Chú thích:
(1) Vụ thảm sát những giáo đồ Tin lành dưới triều vua Charles IX theo sự
thúc ép của mẹ là Catherine de Medicis đêm 23 tháng 8 năm 1572 và hôm sau là lễ
cưới của Henri de Navarre (sau này trở thành Hanri IV, bố của Louis XIII) với
Marguerite, em gái Vua Charles IX. Vua Charles IX trước đòi hỏi của mẹ mình đã
trả lời: "Mẹ muốn vậy à? … thì giết, nhưng giết tất!". "Tất"
đây ý nói cả Henri de Navarre, nhưng vì tuyên thệ bỏ đạo nên được tha chết. Hậu
quả vụ thảm sát là cuộc nội chiến thứ 5.
(2) Tristan L' Hermite: Hiến binh của các thống chế Pháp (như chánh cảnh
sát) thời Henri VII và Louis XI - Tàn bạo, bất chấp các nguyên tắc công lý -
Cha đỡ đầu của Tristan đây ý nói là Vua Louis XI
(3) Marion Delorme- một phụ nữ nổi tiếng về sắc đẹp và những cuộc phiêu
lưu tình ái (1611-1659) - Vị Hygo đã viết một vở kịch thơ cùng tên Nữ Công tước
D'aguillon - tên đầy đủ: Marie Madeleine De Vignerot, cháu gái của Richelieu
(1604-1675). Người ta đồn cả hai
đều là người tình của Richelieu
(4) Mêđuydơ - một trong ba nữ quái, đẹp hiếm có, có bộ tóc đẹp lộng lẫy, đã
xúc phạm nữ thần Minécvơ. Nữ thần tức giận đã biến tóc mụ thành những đàn rắn,
và mắt mụ nhìn ai người ấy hóa đá. Pécsê đã chém đầu mụ mang theo cuộc viễn
chinh để dọa kẻ thù
(5) Giáo phái của những tu sĩ khất thực ở Palestine, thế kỷ 12, du nhập
vào Pháp dưới triều Louis IX
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 52
Ngày đầu tiên trong
cảnh giam cầm.
Trở lại chuyện
Milady, nàng vẫn trong tình trạng tuyệt vọng, tự đào cho mình một vực thẳm của
những ý nghĩ tối tăm, một địa ngục tối tăm mà nàng đã hầu như bỏ lại niềm hy
vọng ở cửa, bởi đây là lần đầu tiên nàng hoài nghi, lần đầu tiên nàng biết sợ.
Cả hai trường hợp,
nàng đều không gặp may, cả hai trường hợp nàng đều bị phát hiện và bị phản bội,
và cả hai trường hợp nàng đều thất bại chống lại thần định mệnh chắc hẳn do
Thượng đế sai xuống để đánh nàng. D'Artagnan đã thắng nàng, kẻ đại diện cho sức
mạnh vô địch của cái ác.
Chàng đã lợi dụng
nàng trong tình yêu, làm nhục niềm kiêu hãnh, lừa dối nàng trong tham vọng của
nàng và giờ đây, chàng làm cho số phận nàng nguy khốn, tước đoạt tự do của
nàng, đe dọa cả mạng sống của nàng. Nhưng, tệ hơn nữa, chàng đã lột bỏ một phần
cái mặt nạ của nàng, là tấm da dê nàng quấn quanh người khiến nàng mạnh đến
thế.
D'Artagnan đã làm
cho Buckingham, người mà nàng căm ghét như thể căm ghét tất cả những gì mình đã
từng yêu, thoát khỏi cơn bão táp mà Richelieu uy hiếp ông ta thông qua Hoàng
Hậu. D'Artagnan vờ giả làm De Wardes, người mà nàng đã có một cơn giở chứng của
loài hổ cái bất trị mà những người đàn bà có cùng tính cách thường làm như vậy.
D'Artagnan đã biết được cái điều bí mật mà nàng đã thề không ai biết nổi nếu
không bị chết. Cuối cùng, lúc nàng có được tờ giấy toàn quyền hành động, nhờ nó
nàng có thể báo thù, tờ giấy đó lại bị giật mất khỏi tay và chính D'Artagnan là
người cầm tù nàng và đẩy nàng đến một vịnh Botany(1) không dấu chân người, một
thứ Thaibơn(2) nhục nhã nào đó ở Ấn Độ Dương.
Chắc chắn tất cả
những gì xảy ra với nàng đó đều do D'Artagnan mà ra cả. Do ai mà bao nhiêu nỗi
hổ nhục chồng chất lên đầu nàng nếu không phải hắn? Chỉ có hắn mới có thể
chuyển cho Huân tước De Winter tất cả những bí mật kinh khủng hắn đã lần lượt
phát hiện ra do định mệnh. Hắn quen biết em chồng nàng. Hắn đã viết cho kẻ kia
tất cả.
Biết bao căm hờn
nàng nghiền ngẫm! Ngồi đó, bất động, đôi mắt chăm chăm, cháy bỏng trong căn
phòng hoang vắng, như những âm vang của những tiếng gầm khan đôi khi thoát ra
cùng hơi thở từ sâu trong ngực, hòa cùng với tiếng sóng đang dâng, đang gào
thét, gầm rú rồi tới đập vào bờ đá, trên đó là tòa lâu đài u ám và kiêu ngạo,
vỡ tan ra như một sự tuyệt vọng vĩnh cửu và bất lực. Trong những ánh chớp của
cơn điên giận giông bão làm lóe sáng trí não nàng, nàng thai nghén những dự
định trả thù đồ sộ chống lại bà Bonacieux, Buckingham, nhất là D'Artagnan,
nhưng rồi tất cả đều mất tăm mất tích trong cái xa xôi vô tận của tương lai!
Đúng, nhưng để trả
thù phải được tự do đã, và để được tự do khi là một tù nhân thì phải đục tường,
bẻ song sất, khoét sàn, với sự quyết tâm chỉ những người đàn ông kiên trì và
khỏe mạnh mới có thể đẩy đến cùng, còn trước những cái đó thì sự giận dữ của
một người đàn bà mảnh mai chỉ có thất bại. Vả lại, để làm được mọi điều đó, cần
phải có thời gian, năm tháng, và nàng… nàng chỉ có mười đến mười hai ngày, như
De Winter, tên em chồng đao phủ khủng khiếp kia đã nói với nàng.
Và trong khi đó,
nếu nàng là một người đàn ông, nàng sẽ thử làm mọi việc ấy, biết đâu lại chẳng
thành công. Tại sao ông trời lại nhầm lẫn đặt một linh hồn nam tử vào tấm thân
mềm yểu và mảnh mai như vậy.
Vì thế, những
khoảnh khắc đầu tiên của cảnh giam cầm thật là khủng khiếp. Mấy cơn vùng vẫy
điên cuồng mà nàng không thể vượt qua đã trả giá cho món nợ của thân phận đàn
bà đối với tạo hóa. Nhưng dần dần nàng đã vượt qua được những tiếng nổ của cơn
điên giận, những cơn điên giận run người cũng biến mất và giờ đây nàng thu mình
lại như một con rắn mệt mỏi cần nghỉ ngơi.
"Thôi đi, thôi
đi, ta điên nên mới nổi nóng như thế - Nàng vừa tự nhủ vừa soi gương, trong
gương một cái nhìn rực cháy như thể nàng đang tự bảo mình - Không dùng bạo lực
nữa. Bạo lực là bằng chứng của sự yếu đuối. Trước hết ta chưa bao giờ thành
công được bằng phương thức ấy. Có lẽ nếu ta dùng sức mạnh của ta chống lại đàn
bà, may ra ta thấy họ còn yếu hơn ta, do đó ta thắng họ. Nhưng đấu tranh chống
lại đàn ông, ta chỉ là một người đàn bà đối với họ. Vậy đấu tranh với tư cách
đàn bà, sức mạnh của ta là ở trong sự yếu đuối của ta".
Thế là, như để kiểm
tra xem liệu mình có thể làm biến đổi được bộ mặt rất biểu cảm, rất linh hoạt
không, nàng liền lần lượt sắm đủ các vai, từ nét mặt giận dữ cau có mặt mày đến
nét mặt dịu hiền nhất, đáng yêu nhất, và nụ cười quyến rũ nhất.
Rồi mớ tóc nàng
được đôi tay khéo léo lần lượt uốn thành những búp sóng mà nàng tin có thể làm
cho bộ mặt mình thêm duyên dáng. Cuối cùng nàng thấy tự thỏa mãn và lẩm bẩm:
"Ồ, chẳng bị mất đi cái gì cả. Ta vẫn luôn luôn đẹp".
Lúc đó đã gần tám
giờ tối, Milady thấy có cái giường. Nàng nghĩ nghỉ ngơi mấy tiếng đồng hồ sẽ
làm dịu mát không những cái đầu và ý nghĩ của mình và còn cả da dẻ mình nữa.
Tuy nhiên, trước khi đi nằm, một ý nghĩ rất tuyệt chợt đến với nàng.
Nàng đã nghe nói
đến việc ăn tối. Nàng đã ở trong cái buồng này được một tiếng đồng hồ, người ta
không thể chậm trễ mang cơm cho nàng. Nữ tù nhân không muốn mất thời gian, nàng
quyết định ngay tối nay thử thăm dò địa thế, nghiên cứu tính cách những con
người được giao nhiệm vụ canh giác ở đây.
Một luồng sáng hiện
ra dưới chân cửa, báo hiệu bọn cai ngục đang trở lại, Milady đang đứng vội gieo
mình xuống chiếc ghế bành, đầu ngả ra sau, bộ tóc đẹp xõa tung, bộ ngực trần
phơi ra một nửa dưới những nếp ren nhàu nát, một tay đặt lên ngực trái và tay
kia thõng xuống.
Người ta mở chốt
cửa, bản lề rít lên kin kít, tiếng bước chân rầm rập trong phòng và lại gần.
- Đặt trên chiếc
bàn này - Một giọng nói cất lên và người nữ tù nhân nhận ra giọng nói của
Felten.
Lệnh được thi hành
ngay, Felten tiếp tục:
- Anh mang mấy ngọn
nến vào rồi đổi gác đi.
- Cái lệnh kép mà
viên trung úy trẻ ban ra cho vẫn cùng một người chứng tỏ với Milady rằng những
người phục vụ và những người canh gác vẫn chỉ là một, nghĩa là lính cả.
Mệnh lệnh của
Felten được thi hành mau lẹ và lặng lẽ, chứng tỏ viên trung úy duy trì kỷ luật
rất tốt.
Cuối cùng thì
Felten, còn chưa ngó tới Milady, đã quay lại phía nàng:
- À! - Felten nói -
Bà ta ngủ, thôi được, thức dậy, bà ta sẽ ăn tối! - Và chàng ta bước mấy bước
định đi ra.
- Nhưng, thưa trung
úy! - Một người lính có lẽ đỡ nghiệt ngã hơn chỉ huy của mình, lại gần Milady -
Bà ta không ngủ đâu.
- Sao, bà ta không
ngủ! - Felten nói - Vậy bà ta làm gì?
- Bà ta ngất, mặt
rất xanh và tôi đã nghe hoài không thấy thở.
- Anh nói đúng -
Felten sau khi đứng tại chỗ nhìn Milady, không bước thêm một bước về phía nàng,
liền bảo - Đi báo cho ngài De Winter là nữ tù nhân của ông ta bị ngất, bởi tôi
không biết làm thế nào, trường hợp này đã không tính trước.
Người lính tuân lệnh
đi ra, Felten ngồi đợi ở chiếc ghế bành vô tình kê gần cửa không nói một lời,
cũng không động đậy, Milady vốn có cái tài lớn đã được đám đàn bà dày công
nghiên cứu là có thể nhìn qua lớp lông mi dài mà lại làm như không phải mở mi.
Nàng thấy Felten ngồi quay lưng lại. Nàng tiếp tục nhìn chàng sĩ quan khoảng
gần mươi phút và trong mươi phút ấy người ngồi gác vẫn trơ trơ không hề ngoái
lại lấy một lần.
Nàng nghĩ có lẽ
Huân tước De Winter cũng sắp đến, và sự có mặt của ông ta sẽ đem lại một sức
mạnh mới cho viên giám ngục của mình. Cuộc thử nghiệm đầu tiên của nàng đã bị
thất bại.
Nàng đành chịu điều
đó như một người đàn bà vững tin ở những khả năng trời phú cho đàn bà.
Thế là nàng ngẩng
đầu lên, mở mắt và khẽ thở dài.
Nghe tiếng thở dài,
Felten rút cục cũng quay lại.
- Kìa, bà đã dậy
rồi? - Chàng ta nói - Tôi không còn việc gì ở đây nữa? Nếu bà cần gì, bà cứ lắc
chuông.
- Ôi trời ơi! Trời
ơi! Sao tôi đau đớn đến thế này! - Milady thầm thì bằng một giọng du dương
giống như những mụ yêu tinh thời xưa làm mê hồn tất cả những người nào nó muốn
hại.
Rồi nàng ngồi thẳng
lên trên ghế bành, ở một tư thế duyên dáng nhất và còn buông thả hơn cả khi
nàng đang nằm.
Felten đứng lên và
nói:
- Bà sẽ được phục
vụ như thế ba lần mỗi ngày, buổi sáng, chín giờ, buổi trưa, một giờ và buổi
tối, tám giờ. Nếu không thích hợp với bà, bà có thể định giờ cho mình, người ta
sẽ làm theo ý bà.
- Nhưng tôi cứ phải
luôn đơn độc trong căn buồng rộng và buồn tẻ này vậy sao? - Milady hỏi.
- Một người đàn bà
vùng lân cận đã được báo, ngày mai sẽ ở lâu đài và lúc nào bà muốn bà ta sẽ
đến.
- Tôi xin cảm ơn
ông - nữ tù nhân trả lời khiêm tốn.
Felten khẽ chào và
đi về phía cửa. Đúng lúc chàng ta sắp bước qua ngưỡng cửa, Huân tước De Winter
xuất hiện trong hành lang, theo sau là người lính đi báo cho ông ta cái tin
Milady bị ngất. Ông ta cầm trong tay một lọ muối.
- Thế nào? Có
chuyện gì nào? Chuyện gì diễn ra ở đây? - Ông ta vừa nhìn nữ tù nhân của mình
đang ớứng và Felten đang sắp bước ra vừa nói bằng một giọng châm biếm - Cái
người chết ấy đã sống lại rồi ư? Mẹ kiếp, Felten, chú bé ơi, vậy là anh không
thấy người ta coi anh là một gã tập toạng vào nghề sao mà người ta vừa mới diễn
cái màn đầu của vở hài kịch cho anh xem ư? Chắc hẳn thế nào chúng ta chẳng có
được cái thú vị theo dõi tất cả những màn tiếp theo của vở kịch?
- Thưa Huân tước,
tôi cũng đã nghĩ lắm chứ - Felten nói - Nhưng, rút cục, vì tù nhân là phụ nữ
nên dẫu sao tôi cũng muốn có sự kiêng nể với bà ta như mọi người dòng dõi đối
xử với phụ nữ, nếu không vì họ thì ít nhất cũng vì bản thân người đó.
Milady rùng hết cả
người. Những lời nói của Felten giống như một dòng nước đá chảy trong khắp các
mạch máu của nàng.
De Winter vừa cười
vừa nói tiếp:
- Vậy là, những mớ
tóc đẹp xõa ra khéo léo, làn da trắng, và cái nhìn yểu điệu kia còn chưa quyến
rũ nổi anh ư, hở trái tim sắt đá?
- Không, thưa Huân
tước - chàng trai sắt đá trả lời - xin ông cứ tin tôi Phải là cái gì hơn những
thủ đoạn quỷ quyệt và những lối đỏm dáng của đàn bà mới làm sa ngã được tôi.
- Nếu đã vậy, chàng
trung úy dũng cảm của tôi, hãy để Milady tìm xem có gì hơn không, và ta đi ăn
tối đã. Mà anh cứ yên tâm. Bà ta có trí tưởng tượng phong phú, và màn thứ hai
sẽ sớm ra mắt tiếp màn đầu ngay.
Nói xong, Huân tước
De Winter khoác tay Felten vừa cười vừa lôi anh ta đi.
"Ồ, rồi ta sẽ
tìm được cái cần cho mi thôi - Milady lẩm bẩm qua kẽ răng - Cứ yên tâm, tên
thày tu hụt khốn kiếp, tên lính khốn kiếp cải đạo lấy áo thày tu may thành áo
lính kia ạ".
- Nhân tiện - De
Winter dừng lại ở ngưỡng của nói tiếp Milady, đừng nên để sự thất bại này làm
cho ăn mất ngon, hãy nếm thử món gà giò, và những con cá mà tôi không bảo cho
thuốc độc vào đâu, tôi thề danh dự đấy. Tôi khá hợp với đầu bếp của tôi, và vì
nó không được thừa kế gì ở tôi, nên tôi hoàn toàn và đầy tin tưởng vào hắn. Hãy
làm như tôi đi. Tạm biệt bà chị thân mến! Hẹn đến lần ngất sau của bà.
Đó là tất cả những
gì Milady có thể chịu đựng. Hai bàn tay bấu vào tay ghế, răng nghiến khan, mắt
dõi nhìn cánh cửa đóng lại đằng sau Winter và Felten. Và khi thấy chỉ còn có
một mình, một cơn khủng hoảng về nỗi tuyệt vọng lại xâm chiếm nàng.
Nàng liếc mắt nhìn
lên bàn, thấy lấp lánh con dao liền lao tới và vồ lấy. Nhưng sự thất vọng của
nàng thật tàn nhẫn: lưỡi dao tròn, không sắc và bằng bạc nên mềm.
Một tràng cười vang
sau cánh cửa khép hở và cửa mở toang.
- Chà, chà, - Huân
tước De Winter kêu lên - Anh thấy rõ chưa, chàng Felten tử tế của ta, anh thấy
những gì ta đã nói với anh chưa: con dao ấy là dành cho anh đấy, chú em ạ, mụ
ta đã định giết anh, anh thấy chưa, đấy mới là một trong những thói điên cuồng
của mụ ta để bằng cách này hay cách khác, thanh toán những người làm vướng chân
mụ. Nếu ta nghe anh, con dao đã phải sắc nhọn và bằng thép, thế là hết đời
Felten, mụ ta đã cắt cổ anh rồi, và sau anh là tất cả mọi người. Nhìn xem,
John, mụ ta sử dụng dao có cừ không.
Quả thật Milady vẫn
còn cầm con dao tấn công trong bàn tay co quắp, nhưng nghe những câu nói cuối
cùng ấy, một sự lăng mạ đến cực điểm ấy, bàn tay nàng, sức lực nàng và cả ý chí
nàng nữa đều rã rời ra.
Con dao rơi xuống
đất.
- Thưa Huân tước, ông
nói phải - Felten nói bằng một giọng tởm lợm sâu sắc vang tới tận đáy lòng
Milady - Ông nói phải lắm, và chính tôi đã lầm.
Và cả hai lại đi
ra.
Nhưng lần này,
Milady lắng tai chăm chú hơn lần trước và nàng thấy bước chân họ xa dần và im
mất ở cuối hành lang.
- Ta nguy rồi -
nàng lẩm bẩm - Thế là ta đã bị đặt dưới quyền lực của những kẻ mà ta chẳng còn
cách gì hơn để tác động đến họ như là trước những pho tượng bằng đồng hoặc bằng
đá hoa cương. Chúng hiểu thấu tận tim gan ta và như đeo giáp sát trước mọi vũ
khí của ta. Tuy nhiên mọi việc không thể kết thúc như chúng quyết định.
Quả vậy, ý nghĩ
cuối cùng đã là như thế thì hy vọng lại trở lại theo bản năng trong cái tâm hồn
xấu xa mà nỗi sợ và những tình cảm yếu đuối không sống lâu nổi. Milady ngồi vào
bàn, ăn nhiều món, nhưng chỉ một chút rượu vang Tây Ban Nha và cảm thấy mọi
quyết tâm của mình đã trở lại.
Trước khi đi ngủ,
nàng đã lý giải, phân tích, lật đi lật lại các mặt, xem xét tất cả các khía
cạnh, lời nói, cử chỉ, bước đi, dấu hiệu cho đến cả sự im lặng của những kẻ đối
đáp với mình và từ sự nghiên cứu sâu sắc, khéo léo, và thông thái này, có thể
rút ra, Felten dẫu sao cũng là kẻ dễ bị xâm hại hơn trong hai kẻ đang ngược đãi
nàng.
Trên tất cả, người
nữ tù nhân nhớ lại câu nói mà De Winter đã nói với Felten: "Nếu ta đã nghe
anh".
Như vậy tức là
Felten khi nói đã có ý ưu ái với nàng, vì thế, De Winter mới không muốn nghe
Felten.
- Dù sáng hay mờ -
Milady nhắc lại - từ con người đó cũng lóe lên một ánh thương hại trong tâm hồn
hắn, từ đốm sáng này ta sẽ tạo thành một đám cháy nuốt sống hắn.
- Còn tên kia, hắn
biết ta, sợ ta và biết điều gì đợi hắn nếu ta thoát khỏi tay hắn, cho nên dụ dỗ
hắn chỉ vô ích. Nhưng Felten lại là chuyện khác, đó là một gã trai tơ ngây thơ
trong trắng, và có vẻ có đức hạnh. Tên này, sẽ có cách hại hắn.
- Và Milady đi nằm
rồi ngủ với nụ cười trên môi. Nếu ai đó thấy nàng ngủ như thế hẳn đã bảo đó là
một thiếu nữ đang mơ đến một vành hoa mà nàng phải đội quanh trán trong ngày
hội tới.
Chú thích:
(1) Vịnh Bôtany, ở gần Sidney (Australia) nơi lưu đày các tù nhân Anh.
(2) Tybum, quảng trường, nơi thi hành án tử hình, một pháp trường nổi
tiếng thời đó ở London
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 53
Ngày thứ hai bị
giam cầm
Milady mơ thấy cuối
cùng mình đã tóm được D'Artagnan, nàng tham dự cuộc hành quyết, và chính việc
nhìn thấy dòng máu hôi tanh của chàng chảy dưới lưỡi rìu của đao phủ đã phác
nên nụ cười duyên dáng trên môi nàng.
Nàng ngủ như một
người tù được ru bằng niềm hy vọng đầu tiên.
Hôm sau, khi người
ta vào trong buồng nàng, nàng vẫn còn nằm trên giường. Felten ở ngoài hành
lang. Anh ta dẫn theo người đàn bà đã nói đêm trước vừa mới tới. Người đàn bà
đó vào buồng và lại gần giường Milady và ngỏ ý phục vụ nàng.
Milady thường
thường da vẫn tái xanh, làm cho người gặp nàng lần đầu dễ bị nhầm lẫn.
- Tôi bị sốt - Nàng
nói - Tôi không ngủ được lấy một phút trong suốt cái đêm dài dặc này. Tôi đau
đớn khủng khiếp lắm. Bà sẽ nhân đức với tôi hơn người ta đối xử với tôi hôm qua
chứ? Tất cả những gì tôi yêu cầu là cho phép tôi được nằm.
- Bà có muốn cho
gọi thầy thuốc không? - Người đàn bà nói.
Felten nghe cuộc
đối thoại không nói một lời.
Milady suy nghĩ,
người ta càng cho nhiều người đến, nàng càng có nhiều người hơn đoái thương
nàng, nhưng ông De Winter lại càng tăng cường giám sát. Vả lại, thầy thuốc có
thể tuyên bố bệnh là giả vờ, và Milady sau khi bị thua keo đầu không muốn bị
thua trận thứ hai.
- Đi tìm thầy thuốc
ư? - Nàng nói - Để làm gì? Hôm qua các vị ấy tuyên bố bố bệnh tôi chỉ là trò
hề, vậy hôm nay cũng thế thôi, bởi vì từ tối hôm qua, người ta đã có đủ thì giờ
để gọi bác sĩ.
Felten sốt ruột
nói:
- Vậy bà hãy nói
xem bà muốn điều trị thế nào?
- Lạy Chúa! Làm sao
tôi biết được? Tôi cảm thấy tôi đau, có thế thôi, muốn cho tôi cái gì thì cho,
tôi chẳng cần.
Felten mệt mỏi vì
những lời phàn nàn lẽo nhẽo mãi:
- Đi tìm ông De
Winter thôi.
- Ồ, không, không,
- Milady kêu lên - không, thưa ông, đừng gọi ông ta, tôi xin ông đấy, tôi không
sao cả, tôi không cần gì hết, đừng gọi ông ta.
Nàng tuôn ra một
tràng hùng biện vừa quyết liệt kỳ lạ vừa lôi cuốn vô cùng khiến Felten cũng
phải xiêu lòng bước mấy bước vào trong căn buồng Milady nghĩ "Hắn đã
tới".
- Tuy nhiên, thưa
bà - Felten nói - Nếu bà đau ốm thực sự, người ta sẽ cho tìm thầy thuốc, và nếu
bà lừa chúng tôi, nghe đây, sẽ mặc xác bà, nhưng ít nhất về phía chúng tôi,
chúng tôi sẽ không có gì phải ân hận.
Milady không trả
lời gì, mà ngửa cái đầu xinh đẹp của mình ra trên gối, òa lên nức nở, nước mắt
đầm đìa.
Felten nhìn nàng
một lát trơ trơ như thường lệ, rồi thấy nguy cơ cơn điên có thể kéo dài, anh
chàng đi ra. Người đàn bà nhìn theo. Vẫn không thấy ông De Winter đâu.
- Ta tin ta đã bắt đầu
thấy rõ - Milady lẩm bẩm với một nỗi mừng vui hoang dại, vùi mình vào trong
chăn để che giấu tất cả những ai có thể chợt bắt gặp sù bột phát thỏa mãn nội
tâm ấy.
Hai giờ trôi qua.
"Giờ là lúc
cơn bệnh phải dừng lại - nàng nói - hãy đứng lên và thu lấy chút thành công nào
đó kể từ hôm nay. Ta chỉ có mười ngày, và tối nay, thế là đã trôi mất hai
ngày".Buổi sáng, lúc vào buồng Milady, người ta đã mang đến cho nàng bữa
điểm tâm. Nàng nghĩ họ sẽ sớm đến dọn đi và lúc đó nàng sẽ gặp lại Felten.
Milady đã không
nhầm, Felten đã trở lại, không hề để ý đến việc có hay không đụng đến bừa ăn,
ra hiệu cho mang ra khỏi phòng, vẫn còn nguyên như khi mang đến.
Felten là người ở
lại cuối cùng, tay vẫn cầm cuốn sách.
Milady nằm ngả
người trong chiếc ghế bành gần lò sưởi, đẹp, xanh xao, nhẫn nhục, như một thánh
nữ đồng trinh đang chờ tử đạo.
Felten lại gần nàng
và nói:
- Huân tước De
Winter cũng là tín đồ Cơ đốc như bà, đã nghĩ rằng sự lược bỏ những nghi thức và
giáo lễ của tôn giáo bà có thể làm bà khổ tâm. Ông đồng ý cho bà được hàng ngày
đọc kinh Misa của bà và đây là cuốn sách có bài kinh ấy.
Trước cung cách
Felten đặt cuốn sách lên chiếc bàn nhỏ gần chỗ Milady, nghe giọng nói khi chàng
ta đọc lên mấy tiếng kinh Misa của bà, với nụ cười khinh thị đi kèm, Milady
ngẩng đầu và nhìn chăm chú hơn viên sĩ quan.
Thế là, với bộ tóc
tai nghiêm túc, bộ quần áo giản dị tới mức thái quá, cái trán nhẵn bóng như đá
cẩm thạch, nhưng rắn chắc và khó lọt vào như chàng ta, Milady nhận ra đây là
một trong những tín đồ Thanh giáo u sầu mà nàng đã từng gặp quá thường xuyên
lúc ở triều đình vua Jắc cũng như ở triều đình vua Pháp, ở đó mặc dầu vụ thảm
sát xanh Báctêlêmy, đôi khi họ vẫn đến tìm nơi lánh nạn.
Nàng bỗng có một
cảm hứng bất ngờ mà chỉ có những bậc thiên tài mới có được trong những cơn
khủng hoảng tinh thần lớn, trong lúc lâm chung, nó quyết định số phận hoặc sinh
mạng họ.
Mấy tiếng kinh Misa
của bà và chỉ liếc mắt nhìn Felten cũng đủ biểu lộ tầm quan trọng của câu trả
lời mà nàng sắp nói ra.
Nhưng với sự thông minh
nhanh nhạy riêng nàng mới có, câu trả lời ấy đã hình thành sẵn ở trên môi:
- Tôi ư? - Nàng nói
với một thái độ khinh thị sao cho thích hợp với giọng nói nàng đã nhận thấy ở
viên sĩ quan trẻ - Tôi ư, thưa ông, kinh Misa của tôi ư! Huân tước De Winter,
gã tín đồ Cơ đốc đồi trụy ấy biết thừa tôi không cùng tôn giáo với hắn ta, và
đó là một cái bẫy hắn muốn chăng ra với tôi?
- Vậy thưa bà, bà
theo tôn giáo nào? - Felten ngạc nhiên hỏi, đến mức bất chấp việc chàng thường
tự kiềm chế được mình, không giấu nổi hoàn toàn sự ngạc nhiên đó.
Milady giả vờ phấn
khích kêu lên:
- Tôi sẽ nói ra
điều đó vào một ngày tôi quá đủ đau khổ vì đức tin của mình.
Cái nhìn của Felten
mở ra cho Milady cả một không gian bao la mà nàng vừa hé mở ra chỉ bằng một câu
nói.
Tuy nhiên viên sĩ
quan trẻ vẫn câm lặng và không nhúc nhích, chỉ con mắt là cất tiếng nói thôi.
- Tôi đang trong
tay kẻ thù của mình - nàng tiếp tục bằng cái giọng sôi nổi mà nàng biết nó
thường quen thuộc với dân Thanh giáo - cứ để Chúa cứu tôi, hoặc tôi chết vì
Chúa! Đó là câu trả lời mà tôi xin ông nói lại với ông De Winter. Còn về cuốn
sách - nàng vừa nói thêm vừa lấy ngón tay chỉ cuốn sách kinh không hề được động
đến, như thể sợ mình cũng bị nhơ bẩn lây - Ông có thể mang về dùng cho bản thân
ông, bởi vì chắc chắn ông đã hai lần đồng lõa với Huân tước De Winter, đồng lõa
trong chuyện ngược đãi, đồng lõa trong tà đạo của ông ta.
Felten không trả
lời gì, cầm lấy cuốn sách với cùng một thái độ ghê tởm mà chàng ta đã từng biểu
lộ và rút lui với vẻ mặt trầm ngâm.
Huân tước De Winter
đến vào lúc năm giờ chiều. Milady, đã có cả một ngày trời để vạch một kế hoạch
xử sự. Nàng tiếp ông ta với tư cách một phụ nữ đã nắm được tất cả mọi lợi thế
của đàn bà.
Nam tước ngồi vào
chiếc ghế bành đối diện với Milady uể oải gác chân lên lò sưởi và nói:
- Hình như chúng ta
đang định bỏ đạo?
- Thưa ông, ông
muốn nói sao?
- Tôi muốn nói rằng
kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, bà đã thay đổi tôn giáo rồi. Tình cờ bà
đã lấy người chồng thứ ba theo đạo Tin lành chăng?
- Huân tước, ông
hãy giải thích cho tôi - nữ tù nhân nói một cách chững chạc - Bởi vì tôi tuyên
bố tôi nghe thấy lời ông nói nhưng tôi chẳng hiểu gì cả.
De Winter cười gằn:
- Được thôi, đó là
bà chẳng có thứ tôn giáo nào cả! Tôi lại thích thế hơn đấy.
- Chắc chắn là hơn
theo những nguyên tắc của ông rồi - Milady lạnh lùng nói tiếp.
- Ồ, tôi xin thú
thực với bà, điều đó đối với tôi hoàn toàn vô nghĩa.
- Ồ, ông sẽ chẳng
thú nhận sự lạnh nhạt tôn giáo ấy đâu, Huân tước ạ, nhưng những việc đồi bại và
tội ác của ông làm cho phải tin như vậy.
- Hả, bà nói về
những chuyện đồi bại ư, bà Messaline, Mácbét phu nhân(1), hay tôi nghe nhầm,
hoặc, mẹ kiếp, bà quá vô liêm sỉ!
- Ông nói như thế
bởi vì ông biết người ta đang lắng nghe chúng ta - Milady lạnh lùng trả lời -
và ông muốn tác động đến bọn giám ngục và đao phủ của ông chống lại tôi.
- Giám ngục của
tôi? Đao phủ của tôi? Gớm chưa, bà lại nói bằng cái giọng thơ phú rồi và tấn
hài kịch hôm qua tối nay lại quay ngoắt sang bi kịch. Rút cục thì tám ngày nữa
là bà cũng sẽ ở nơi bà phải ở và tôi sẽ xong nhiệm vụ.
- Nhiệm vụ đê tiện!
Nhiệm vụ vô luận! - Milady nói tiếp với thái độ nóng nảy của nạn nhân khiêu
khích quan tòa của mình.
Huân tước De Winter
đứng dậy và nói:
- Ta tin con mụ vô
lại này phát rồ rồi! Ta thề vậy đấy. Thôi nào, thôi nào, bình tĩnh lại nào,
thưa bà Thanh giáo, nếu không ta phải nhất bà vào hầm kín thôi. Mẹ kiếp, rượu
vang Tây Ban Nha của ta bốc lên đầu bà rồi không phải thế sao. Nhưng cứ yên
tâm, cơn say đó không nguy hiểm và không có hậu quả xấu đâu.
Và Huân tước De
Winter vừa lui ra vừa chửi thề vốn là một thói quen hoàn toàn mang tính cách
dân kỵ sĩ thời bấy giờ.
Felten lúc đó đứng
sau cánh cửa và không để sót một câu nào trong cảnh tượng đó.
Milady đã đoán
đúng.
- Được cứ đi đi, -
Nàng nói vớỉ em chồng - Hậu quả đang tới gần, và trái hẳn lại, rồi mày sẽ thấy,
đồ súc sinh, khi chẳng còn thời gian để tránh chúng.
Tất cả lại trở nên
yên tĩnh. Hai giờ nửa trôi qua. Người ta mang bữa tối đến và thấy Milady đang bận đọc
to những câu kinh cầu nguyện của nàng, mà nàng học được ở ông lão bộc của người
chồng thứ hai, một tín đồ Thanh giáo thuộc loại khắc kỷ nhất. Nàng làm như đang
đê mê ngây ngất và không còn chú ý đến những gì diễn ra xung quanh nữa. Felten
ra hiệu đừng ai quấy rầy nàng và khi tất cả đã đâu vào đấy, anh chàng lẳng lặng
đi ra cùng với mấy người lính.
Milady biết nàng có thể bị rình rập nên
tiếp tục đọc kinh cho đến hết và nàng thấy hình như người lính đang canh phòng
ngoài cửa không đi lại thêm bước nào nữa mà còn lắng tai nghe.
Tới lúc ấy, nàng không còn muốn gì hơn
nữa, liền vùng dậy, ngồi vào bàn ăn ít thôi và chỉ uống nước.
Một giờ sau, người ta đến dọn bàn ăn,
nhưng Milady nhận thấy lần này Felten không đi cùng bọn lính.
Vậy là anh ta sợ gặp nàng quá nhiều.
Nàng quay mặt vào tường để mỉm cười,
bởi trong nụ cười ấy có một biểu hiện thành công nào đó khiến chỉ riêng nó đã
đủ làm nàng lộ chân tướng.
Nàng để cho nửa giờ nữa trôi qua, và vì
lúc đó, cái lâu đài cũ kỹ đã hoàn toàn yên tĩnh, người ta chỉ còn nghe tiếng
sóng rì rào vô tận, tiếng thở bao la của đại dương, nàng bèn cất lên bằng một
giọng trong trẻo, du dương và ngân nga đoạn đầu của bài thánh thi thời đó, được
mọi tín đồ Thanh giáo ưa thích.
"Ôi Chúa, Người bỏ chúng con
Để thử xem liệu chúng con đủ mạnh
Nhưng rồi bàn tay thiên giới của Người
Lại ban thắng lợi vẻ vang cho nỗ lực
của chúng con"Những câu thơ đó không hay lắm, còn phải cố gắng nhiều nhưng
như người ta biết, dân Thanh giáo đâu có tự hào về thi ca.
Vừa ngân nga, Milady vừa lắng nghe. Người
lính gác ở cửa đã dừng hẳn lại như thể biến mình thành đá. Milady vậy là có thể
đánh giá hiệu quả do mình đã tạo ra.
Thế là nàng lại tiếp tục cất giọng hát
với một lòng tin cuồng nhiệt và một tình cảm không thể diễn tả nổi. Nàng thấy
dường như những âm thanh lan tỏa mãi ra xa dưới những mái vòm như một phép mầu
nhiệm, làm dịu những trái tim của bọn cai ngục. Song người lính đi tuần hẳn một
là tín đồ Cơ đốc giáo nhiệt tín, lại chối bỏ phép mầu, nói chõ vào trong:
- Bà có im đi không! Bài ca của bà buồn
như bài cầu hồn ấy(2). Và nếu như ngoài việc phải bằng lòng đồn trú ỏ đây, lại
phải nghe thêm những điều như vậy nữa, ai mà chịu nổi.
- Thôi! - Một giọng trầm trầm mà Milady
nhận ra ngay là giọng Felten cất lên - Sao anh xen vào chuyện này, đồ vô lại! Người
ta ra lệnh cho anh cấm người đàn bà đó hát à? Không, người ta bảo anh canh gác
bà ta, bắn vào bà ta nếu bà ta tìm cách chạy trốn. Vậy hãy canh gác bà ta, nếu
bà ta trốn, cứ giết. Nhưng đừng thay đổi gì chuyện phạt giam.
Khuôn mặt Milady rạng rỡ vẻ vui mừng
khôn tả, nhưng vẻ mặt ấy có vẻ lén lút như phản xạ của một ánh chớp và không để
lộ ra là đã nghe thấy cuộc đối thoại mà nàng không bỏ sót một lời nàng lại tiếp
tục đem tất cả vào giọng hát của mình sự mê hồn, sức mạnh và sự cám dỗ yêu
quái…
"Biết bao nước mắt, bao nỗi đắng
cay
Trong xiềng gông và trong cảnh lưu đày…
Ta lại có tuổi xanh và lời cầu nguyện.
Chúa sẽ bù cho đau khổ của ta
thôi…"Giọng ca với sức mạnh chưa từng thấy và sự đam mê tột đỉnh, đem lại
cho chất thơ thô thiển và nghèo nàn của bàì Thánh thi một ma lực và một biểu
hiện mà những ngươi Thanh giáo cuồng nhiệt nhất hiếm khi thấy trong những tiếng
hát các đạo hữu của mình, và họ buộc phải tô điểm thêm bằng tất cả nguồn sức
mạnh của trí tưởng tượng của họ: Felten tưởng như một vị thiên sứ hát ru ba
người Hêbrơ(3) trong vạc dầu.
Milady lại tiếp tục:
"Nhưng rồi ngày giải thoát sẽ đến
với chúng con,
Chúa công minh đầy sức mạnh
Nếu Chúa lừa hy vọng của chúng con
Vẫn luôn còn tuẫn đạo và cái
chết".Khổ thơ mà mụ pháp sư đáng sợ đã cố đem hết tâm hồn mình vào đó,
cũng hoàn thành việc đem đến sự xáo trộn trong lòng người sĩ quan non trẻ. Chàng
bất thình lình mở tung cửa và Milady thấy chàng vẫn xanh xao như luôn thế,
nhưng đôi mắt nồng nàn và hầu như lạc hẳn đi.
- Tại sao bà cứ hát như thế? - chàng
nói - và với một cái giọng như thế?
- Xin lỗi ông - Milady dịu dàng nói -
tôi quên khuấy là tiếng hát của tôi không phù hợp trong ngôi nhà này. Có lẽ tôi
đã xúc phạm đến đức tin của ông. Nhưng tôi xin thề với ông, tôi đâu muốn thế. Hãy
tha thứ cho tôi một lỗi có lẽ là lớn đấy, nhưng chắc chắn chỉ vô tình.
Milady lúc này sao đẹp thế, trạng thái
đê mê tín ngưỡng mà nàng đang đắm mình vào, đem lại một vẻ đẹp trên khuôn mặt
nàng, đến nỗi Felten như quáng mắt, tưởng rằng đấy chính là vị thiên sứ mà
chàng vừa nghe lúc nãy.
- Phải, phải lắm - chàng trả lời - đúng
là bà đã làm bối rối, đã khuấy động mọi người sống trong tòa lâu đài này.
- Và anh chàng mất trí đáng thương cũng
không nhận thấy những lời nói thiếu mạch lạc của bản thân mình, trong khi đó
Milady thọc sâu con mắt mèo rừng vào nơi sâu kín nhất của trái tim chàng.
- Tôi sẽ im - Milady vừa nói vừa cúp mắt
xuống với tất cả sự dịu dàng nàng có thể đem lại cho giọng nói của mình và với
tất cả sự nhẫn nhục có thể biểu lộ ra trong cách xử sự của mình.
- Không, không, thưa bà - Felten nói -
có điều, bà hát nhỏ hơn, nhất là ban đêm thôi.
Nói rồi, Felten, cảm thấy mình không
thể giữ mãi vẻ nghiêm khắc đối với người nữ tù nhân nữa, liền lao ra khỏi
phòng.
- Ông làm thế đúng lắm, trung úy ạ -
người lính nói - Những tiếng hát đó làm đảo lộn tâm hồn. Tuy nhiên rồi người ta
cũng quen đi, giọng hát bà ta sao mà tuyệt thế?
Chú thích:
(1) Messaline - người vợ đầu của Hoàng đế La mã Clốt đệ nhất, nổi tiếng đồi
trụy bị giết năm 48.
Mácbét: Vua xứ Ecốt - Kịch cùng tên của Sếchxpia: Mácbét ám sát vua Đăncan.
Khi vua đang ngủ, phu nhân Mácbét đi vào, lấy ngón tay nhúng vào máu nạn nhân
bôi lên mặt và bàn tay của hai thị vệ, đổ tội cho hai người này.
(2) De Profondis, tiếng Latinh có nghĩa là "những chiều sâu vực
thẳm" trong bài kinh cầu nguyện cho người chết
(3) Tức người Do Thái
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 54
Ngày thứ ba bị giam
cầm.
Felten đã cắn câu.
Nhưng còn một bước nữa phải làm. Phải giữ hắn lại, hoặc đúng hơn là hắn phải ở
lại một mình. Và Milady mới chỉ nhìn thấy mờ mờ cái phương cách dẫn nàng đến
kết quả ấy Phải hơn thế ấy chứ. Phải làm cho hắn phải há miệng để mình còn nói
được với hắn. Bởi vì, Milady thừa biết sự cám dỗ lớn nhất ở nàng là giọng nói,
có thể lướt trên tất cả các cung bậc âm thanh một cách tài tình từ giọng nói
nhân gian đến ngôn ngữ thiên thần.
- Và tuy nhiên, mặc
cho mọi sức quyến rũ ấy, Milady vẫn có thể thất bại, bởi vì Felten đã được báo
trước để phòng ngừa, và điều đó chống lại sự may rủi. Từ lúc đó, nàng cẩn thận
giữ gìn mọi hành động, lời nói cho đến cả từng cái nhìn đơn giản, từng cử chỉ, từng
hơi thở mà người ta có thể lắm chuyện bảo là tiếng thở dài. Rút cuộc, nàng phải
nghiên cứu tất cả như một diễn viên hài kịch tài ba phải làm khi người ta trao
cho một vai mới chưa quen đóng.
Đối diện với Huân
tước De Winter, cách xử sự của nàng dễ dàng hơn. Việc đó đã được vạch ra từ tối
hôm trước rồi. Trước mặt hắn ta, hãy như câm và tỏ ra chững chạc, thỉnh thoảng
lại chọc giận hắn ta bằng vẻ khinh khỉnh đáng yêu, bằng một câu khinh bỉ đẩy
hắn ra đến những việc hăm dọa và hung bạo trái hẳn với sự nhẫn nhục của nàng,
đó chính là ý đồ của nàng, Felten sẽ thấy, có thể sẽ chẳng nói gì, nhưng sẽ
thấy hết.
Buổi sáng, Felten
đến như thường lệ, nhưng Milady cứ để mặc cho chàng ta điều khiển sắp xếp bữa
điểm tâm mà không nói với chàng ta lời nào. Vì thế, lúc anh chàng sắp sửa rút
lui, trong nàng đã lóe lên một tia hy vọng nhỏ bởi nàng tưởng chính anh ta sẽ
nói trước. Nhưng đôi môi anh ta chỉ mấp máy mà không một lời nào thốt ra khỏi
miệng, và cố kiềm chế bản thân, anh ta khép kín những lời đính nói trong trái tim
mình và đi ra.
Đến trưa, Huân tước
De Winter đi vào.
Đó là một ngày mùa
đông đẹp trời, và một tia nắng mặt trời nhợt nhạt của nước Anh lóe sáng, nhưng
không ấm áp, lọt qua những song sắt của phòng tù.
Milady nhìn qua cửa
sổ, làm ra vẻ không nghe thấy tiếng cửa mở.
Huân tước De Winter
nói:
- A, a, sau khi đã
diễn trò hàỉ kịch, rồi diễn trò bi kịch, giờ ta chơi trò u buồn.
Nữ tù nhân không
trả lời. De Winter tiếp tục:
- Phải, phải, tôi
hiểu. Bà muốn được tự do trên bờ biển kia lắm. Bà muốn lắm trên một con tàu rẽ
sóng biển xanh như ngọc bích. Bà muốn lắm, hoặc trên đất liền, hoặc trên đại
dương, dựng lên cho tôi một cuộc phục kích hay hay nho nhỏ mà bà biết cách phối
kết rất tài. Hãy kiên nhẫn! Hãy kiên nhẫn! Bốn ngày nữa thôi là bờ biển kia bà
sẽ được phép, biển sẽ mở ra cho bà, còn mở rộng hơn là bà mong muốn ấy chứ, bởi
bốn ngày nữa, nước Anh sẽ tống khứ được bà.
Milady chắp hai tay
lại và ngước đôi mắt đẹp lên nhìn trời:
- Thượng đế! Ôi!
Thượng đế! - Nàng nói với dáng điệu và giọng nói ngọt ngào thiên sứ - Hãy tha
thứ cho con người đó, cũng như bản thân con cũng tha thứ cho ông ta.
Nam tước De Winter
hét lên:
- Ừ, cứ cầu xin đi,
đồ thối tha, lời cầu nguyện của mụ xem ra càng bao dung hơn chừng nào mụ còn
trong quyền lực của một người sẽ không tha thứ cho mụ, ta thề như thế đấy.
Và ông ta bỏ đi.
- Đúng lúc ông ta đi ra, Milady đưa cặp
mắt sắc nhọn nhìn qua khe cửa và thấy Felten vội lánh sang một bên để nàng khỏi
nhìn thấy.
Thế là nàng lại quỳ ngay xuống và cầu
nguyện:
- Lạy Chúa! Lạy Chúa! Người biết rõ con
đau khổ vì lẽ thánh nào, vậy xin Người hãy cho con sức mạnh để con đau khổ.
Cửa mở khẽ. Người đẹp đang cầu nguyện
làm như không nghe thấy tiếng động, và bằng một giọng tràn đầy nước mắt, nàng
tiếp tục:
- Lạy Đức Chúa báo hận! Lạy Đức Chúa
nhân từ! Người nỡ để mặc cho con người đó hoàn thành những ý đồ ghê tởm của hắn
ư?
Chỉ đến lúc đó nàng mới vờ nghe thấy
tiếng bước chân Felten và đứng bật ngay dậy, đỏ mặt lên như thể xấu hổ vì bị
bắt gặp đang quỳ.
- Tôi không thích quấy rối những ai
đang cầu nguyện chút nào, thưa bà - Felten nghiêm trang nói - vậy xin bà đừng
bận tâm vì tôi, tôi cầu xin bà đấy.
- Làm sao ông biết tôi đang cầu nguyện,
thưa ông? - Milady hỏi bằng một giọng ngột ngạt vì thổn thức - Ông nhầm rồi,
thưa ông, tôi không cầu nguyện đâu?
- Bà nghĩ thế ư, thưa bà - Felten trả
lời vẫn với giọng nghiêm trang, cho dù có vẻ dịu dàng hơn - bà nghĩ rằng tôi
tin là tôi có quyền ngăn cản một sinh linh quỳ lạy trước Chúa sáng thế ư? Chúa
không bằng lòng thế đâu! Vả lại, sự hối hận rất phù hợp với những kẻ phạm tội. Dù
mắc phải tội ác đến thế nào đi nữa, kẻ phạm tội đã quỳ dưới chân của Chúa đối
với tôi đều thiêng liêng.
- Tôi, tội phạm ư? - Milady nói với một
nụ cười có thể tước bỏ vũ khí của thiên thần trong phiên chung thẩm - Tội phạm?
Chúa ơi, chỉ có Người mới biết con có phải là tội phạm không? Thưa ông, hãy bảo
tôi bị kết tội, thế mới đúng. Nhưng ông biết đấy Chúa thương những người tuẫn
đạo, đôi khi cũng cho phép kết án người vô tội.
Felten trả lời:
- Dù bà bị kết tội, dù bà tuẫn đạo, bà
càng có lý do để cầu nguyện và bản thân tôi, tôi cũng sẽ giúp bà cầu nguyện.
Milady quỳ sụp xuống chân chàng ta và
kêu lên:
- Ôi, ông đúng là một bậc công minh. Ông
ơi, tôi không thể chịu nổi lâu thêm nữa đâu, bởi tôi sợ không còn sức lực lúc
tôi cần vững vàng tranh đấu và tuyên bố đức tin của mình. Vậy xin ông hãy lắng
nghe lời khẩn cầu của một người đàn bà đang tuyệt vọng. Thưa ông, người ta lợi
dụng ông, nhưng không phải là vấn đề đó, tôi xin ông một ân huệ và nếu như ông
đồng ý ban cho tôi, tôi nguyện sẽ cầu chúc cho ông cả trong thế giới này lẫn
thế giới bên kia.
- Thưa bà, bà hãy nói với ông chủ -
Felten tôi không may mắn được ủy thác tha thứ hay trừng phạt. Thượng đế trao
trách nhiệm đỏ cho người cao cấp hơn tôi.
- Không, chỉ với ông, với ông thôi. Xin
hãy nghe tôi, còn hơn là tham gia vào việc hại tôi, tham gia vào việc làm tôi ô
nhục.
- Nếu bà xứng đáng với nỗi hổ nhục đó,
thưa bà, nếu bà gây ra nỗi ô nhục đó, thì phải chịu và hiến dâng nó cho Thượng
đế.
- Ông nói sao? Ồ, ông không hiểu tôi
rồi! Khi tôi nói đến ô nhục, ông tưởng tôi nói về một sự trừng phạt nào đó ư,
về nhà tù, về cái chết ư? Xin tùy ở Chúa! Với tôi, cái chết hay nhà tù, nghĩa
lý gì đâu?
- Thưa bà, chính tôi cũng không hiểu
nổi bà nữa!
- Hay là làm ra không hiểu nữa, thưa
ông - Nữ tù nhân trả lời với nụ cười hoài nghi.
- Không thưa bà, thề danh dự của một
quân nhân, thề trên đức tin của một tín đồ!
- Sao cơ? Ông không biết những ý đồ của
ông De Winter với tôi thật ư?
- Tôi không biết.
- Không thể thế, ông là người tâm phúc
của ông ta!
- Thưa bà, tôi không bao giờ nói dối.
- Ồ, ông ta có che giấu gì nhiều lắm
đâu mà ông không đoán ra nổi?
- Tôi không tìm cách để đoán gì hết,
thưa bà. Tôi mong người ta tin cẩn tôi, và ngoài phần ông ta nói với tôi trước
mặt bà, ông ta không thổ lộ gì với tôi hết.
- Nhưng - Milady kêu bằng cái giọng
thực thà không thể tưởng tượng nổi - Vậy thì ông không phải là kẻ đồng lõa của
ông ta rồi, thế ra ông không biết ông ta gán cho tôi một nỗi ô nhục mà tất cả
những hình phạt trên trái đất này không thể xứng với sự khủng khiếp của nó sao?
- Thưa bà, bà nhầm rồi - Felten vừa nói
vừa đỏ mặt lên - Huân tước De Winter không thể phạm một tội ác như vậy.
"Tốt lắm! - Milady tự bảo mình -
chẳng biết nó như thế nào mà gã ta đã gọi đó là một tội ác rồi?"
Rồi nói to:
- Bạn của kẻ đê tiện có thể làm được
tất!
- Bà gọi ai là kẻ đê tiện? - Felten
hỏi.
- Vậy ở nước Anh liệu có hai người
thích hợp với cái tên tương tự như thế không?
- Bà muốn nói về Gorge Villiers? -
Felten hỏi, mà mắt như nảy lửa.
- Về người mà bọn tà giáo, bọn quý tộc
vô đạo gọi là Quận công De Buckingham ấy! - Milady lại tiếp - Tôi không tin
rằng còn có một người Anh trong khắp nước Anh này lại cần đến một sự giải thích
dài dòng đến như thế mới nhận ra kẻ tôi muốn nói!
- Bàn tay của Chúa sẽ vươn tới hắn -
Felten nói - hắn sẽ không thoát khỏi bị trừng phạt thích đáũg.
Felten chỉ biểu lộ thái độ phỉ nhổ mà
mọi người Anh thể hiện đối với con người mà bản thân những người Cơ đốc giáo
cũng gọi là tên hút máu, tên ăn hối lộ, tên đồi trụy, còn những người Thanh
giáo gọi hoàn toàn đơn giản là quỷ satan.
- Ôi, lạy Chúa! Lạy Chúa! - Milady kêu
lên - Khi con cầu xin Người giáng sự trừng phạt xuống con người đó xứng với tội
hắn phải chịu, Người biết rằng không phải con theo đuổi mối thù riêng mà là con
van xin Người giải thoát cho cả một dân tộc.
- Bà quen biết ông ta chứ? - Felten
hỏi.
"Cuối cùng gã đã hỏi ta" -
Milady tự nhủ, lòng tràn ngập vui sướng vì đạt kết quả nhanh đến thế.
Rồi nàng trả lời:
- Ồ có chứ! Tôi quen biết ông ta chứ? Thế
tôi mới bất hạnh, bất hạnh suốt đời thế này?
- Và nàng vặn vẹo hai cánh tay như thể
nỗi đau đã lên đến cực điểm. Trong thâm tâm, Leltel cảm thấy mình cũng rã rời,
liền bước vài bước về phía cửa, nữ tù nhân vẫn không ngừng để mắt tới chàng ta,
chồm theo sau và ngăn lại:
- Thưa ông - Nàng la lên - Xin hãy nhân
từ, xin hãy bao dung, hãy nghe lời cầu xin của tôi. Cái con dao mà ông Huân
tước thận trọng như thể do định mệnh đã tước đoạt mất của tôi bởi ông ta biết
tôi định dừng vào việc gì. Ôi, xin ông nghe tôi nói rõ ngọn ngành đã! Con dao
đó, xin hãy trả lại tôi, chỉ một phút thôi, xin làm ơn, xin hãy thương tôi! Tôi
xin quỳ xuống hôn chân ông. Nào, ông hãy đóng cửa lại đi. Đâu phải ông là người
mà tôi căm thù. Trời ơi! Căm thù ông ư? Căm thù con người công minh chính trực,
tốt, và nhân từ duy nhất tôi đã gặp ư? Căm thù ông, có thể là cứu tinh của tôi
ư? Con dao ấy, một phút, chỉ một phút thôi, tôi sẽ trả lại ông qua ô cửa. Chỉ
một phút thôi, ông Felten, và ông sẽ cứu được danh dự cho tôi!
- Để bà tự sát! - Felten hoảng hồn kêu
lên, quên cả rút tay mình ra khỏi đôi bàn tay của nữ tù nhân - Để bà tự sát?
- Thưa ông, tôi đã nói - Milady hạ
giọng vừa thầm thì vừa cố ý ngã quỵ xuống sàn nhà - Tôi đã nói hết bí mật của
tôi rồi? Ông ta đã biết tất! Trời ơi! Tôi chết mất!
Felten vẫn cứ đứng, bất động, ngẩn
người ra.
"Gã vẫn còn ngờ, Milady nghĩ, ta
đã không đúng lắm chăng?"
Có tiếng người đang bước trong hành
lang. Milady nhận ra tiếng chân của Huân tước De Winter. Felten cũng thấy thế
và bước một bước về phía cửa.
Milady lao theo và
nói như nén giọng:
- Ồ, đừng có nói gì
đấy. Đừng một lời nào cho con người ấy về những gì tôi đã nói với ông, nếu
không tôi chết mất, và chính ông, ông…
Rồi, vì những bước
chân tới gần, nàng im lặng, sợ người ta nghe thấy giọng nói của mình, áp bàn
tay xinh đẹp đang run, lên miệng Felten. Felten khẽ đẩy Milady ra. Nàng chạy ra
ngồi phịch xuống chiếc ghế tựa dài.
Huân tước De Winter
đi qua cửa mà không dừng lại, rồi tiếng chân xa dần.
Felten xanh như một
người chết, vẫn để tai nghe ngóng vài phút rồi khi tiếng chân tắt hẳn, chàng ta
thở phào như một người vừa ra khỏi một giấc mơ và lao ra khỏi căn phòng.
- A - Milady nói và
đến lượt mình cũng lắng nghe tiếng chân của Felten đang xa dần về hướng đối
diện hướng đi của De Winter - Cuối cùng thì mi đã thuộc về ta!
Rồi trán nàng lại
sa sầm xuống.
- Nếu hắn nói với
Huân tước - nàng nói - thì ta chết mất bởi gã Nam tước ấy biết thừa là ta sẽ
không tự tử đâu, và đặt dao vào tay ta trước mặt gã trung úy, và ông ta sẽ thấy
hết tất cả nỗi tuyệt vọng lớn lao ấy chỉ là một trò hề.
Nàng đến đứng trước
gương và ngắm nhìn mình chưa bao giờ thấy mình đẹp đến thế.
- Ồ! Nàng mỉm cười
nói - gã sẽ không nói ra với ông Huân tước đâu!
Buổi tối, ông De
Winter đi cùng bọn mang đến bữa tối.
Milady bảo ông ta:
- Thưa ông, sự có
mặt của ông phải chăng là một phụ khoản bắt buộc của việc giam cầm tôi, và ông
không thể tha tôi cái việc gia tăng khổ hình mà những cuộc thăm viếng của ông
gây cho tôi ư?
- Sao lại thế được,
bà chị thân mến? - De Winter nói - Thế chẳng phải cái miệng xinh đẹp nhưng hôm
nay lại quá ư tàn nhẫn với tôi đã từng tuyên bố một cách thân ái rằng bà đến
nước Anh với mục đích duy nhất là để thăm tôi cho nó thỏa lòng sao? Bà còn nói
với tôi bà cảm thấy quá ư mạnh mẽ sự thiếu thốn niềm vui được gặp gỡ tôi, cho
nên bà mới bất chấp tất cả, nào say sóng, bão tố, giam cầm? Thế thì, tôi đây,
bà hãy hài lòng đi! Vả lại lần này tôi đến thăm bà là có lý do đấy.
Milady rùng mình.
Nàng tưởng Felten đã nói. Có lẽ chưa bao giờ trong đời, người đàn bà đã từng trải
qua những xúc động mạnh mẽ và đối lập nhau lại cảm thấy tim mình đập mạnh đến
thế.
Nàng vẫn ngồi. Huân
tước De Winter kéo một chiếc ghế bành đến cạnh nàng, ngồi xuống lấy ra một tờ
giấy, từ từ mở ra và bảo nàng:
- Nghe đây, tôỉ
muốn giới thiệu với bà loại hộ chiếu tôi đã tự soạn thảo và từ nay bà sẽ dùng
làm số điểm danh trong cuộc đời bà mà tôi bằng lòng dành cho bà.
Rồi đưa mắt nhìn từ
Milady sang tờ giấy, ông ta đọc:
- "Lệnh dẫn độ
đến… Tên vùng để trống - De Winter dừng đọc nói - nếu bà thích chỗ nào hơn,
miễn là đừng ít hơn một nghìn dặm tính từ London, yêu cầu của bà sẽ được đáp
ứng - Tôi đọc lại nhé: "Lệnh dẫn độ đến… người đàn bà có tên là Sáclôt
Bêchxơn bị tòa án vương quốc Pháp thích dấu chín, nhưng đã được thả tự do sau
khi chịu tội. Phạm nhân sẽ phải cư trú tại nơi đó không bao giờ được phép đi xa
quá ba dặm. Trường hợp toan tính chạy trốn, sẽ áp dụng tội tử hình, phạm nhân
sẽ được 5 silinh mỗi ngày cho việc ăn ở".
Milady lạnh lùng
trả lời:
- Lệnh đó chẳng
liên quan gì tới tôi vì trong đó mang tên người khác chứ không phải tên tôi.
- Tên ư? Thì ra bà
cũng có một cái tên?
- Tôi mang tên của anh ông.
- Bà nhầm rồi, anh tôi chỉ là người
chồng thứ hai và người chồng thứ nhất còn đang sống. Bà hãy nói tên người ấy và
tôi sẽ thay vào cái tên Sáclốt Bếchxơn. Không à?… Bà không muốn à?
- Bà im lặng à? Được thôi! Bà sẽ bị
đăng ký số tù bằng cái tên Sáclốt Bếchxơn.
Milady vẫn lặng im. Có điều, lần này
không còn là do giả bộ nữa mà là do khiếp sợ. Nàng tưởng lệnh đã sẵn sàng được
thi hành. Nàng nghĩ ông De Winter đã đẩy thời hạn ra đi lên sớm hơn. Nàng tưởng
sẽ bị xử đi đày ngay tối nay. Trong giây lát nàng mất hết tinh thần, thì bất
ngờ nàng lại nhận ra lệnh chưa mang chữ ký của một ai.
Nỗi mừng vui khi phát hiện ra điều đó
lớn đến nỗi nàng không thể che giấu nổi.
- Phải, phải - Huân tước De Winter đã
nhận thấy điều gì diễn ra trong nàng, ông nói - chưa mất hết cả đâu, một khi
lệnh đó chưa được ký, người ta giơ ra là để dọa tôi, có thế thôi. Nhưng bà nhầm
rồi, ngày mai, lệnh đó sẽ được gửi lên Huân tước De Buckingham. Ngày kia lệnh
sẽ được gửi lại do chính tay Huân tước ký và đóng dấu, và hai bơn giờ sau,
chính tôi sẽ đảm nhiệm bắt đầu thi hành lệnh đối với bà. Tạm biệt bà, đó là tất
cả những gì tôi cẩn nói với bà.
- Và tôi tôi sẽ trả lời ông rằng việc
lạm dụng quyền hành, rằng việc đày ải một người dưới một cái tên giả định là
một hành động đê tiện.
- Bà có thích được treo cổ dưới cái tên
thật hơn không, Milady? Bà biết đó, luật pháp nước Anh rất nghiêm khắc đối với
việc bội ước trong hôn nhân, bà hãy giải thích thẳng thắn chuyện đó. Cho dù tên
tôi hoặc đúng hơn là tên của anh tôi bị dính líu vào mọi chuyện đó, tôi cũng
đành mang tiếng mang tai trong một vụ án công khai để đoán chắc tôi sẽ loại bỏ
được bà.
Milady không trả lời gì, nhưng nhợt
nhạt như một cái thây ma.
- Ồ, tôi biết bà thích viễn du hơn mà. Càng
tốt, thưa bà. Một ngạn ngữ cổ nói rằng du hành rèn luyện tuổi trẻ. Thật tình
tôi thấy dẫu sao bà cũng không nhầm, và sống vẫn tốt hơn. Chính vì lẽ đó mà tôi
không lo bà vứt cái lệnh của tôi đi. Thôi hãy nghĩ tính toán lo chuyện năm
silinh đi. Tôi tỏ ra hơi bủn xỉn, có phải không? Cái đó chẳng qua là tôi lo xa
bà sẽ làm bọn coi giữ sa đọa thôi. Hơn nữa, bà vẫn luôn còn duyên sắc để cám dỗ
họ kia mà. Bà hãy đem nó ra dùng nếu sự thất bại của bà với Feltơn không làm bà
tởm lợm những toan tính loại ấy.
"Felten không hề nói gì - Milady
tự nhủ - Thế là chưa có gì nguy cả".
- Và bây giờ, hẹn gặp lại bà. Ngày mai
tôi sẽ đến báo cho bà biết giờ khởi hành của phái viên của tôi.
Ông De Winter đứng lên, châm biếm chào
Milady và đi ra.
Milady thở phào. Nàng vẫn còn bốn ngày
nữa, bốn ngày đủ để nàng hoàn tất việc quyến rũ Felten.
- Tuy nhiên một ý nghĩ khủng khiếp đến
với nàng, đó là nhỡ ông De Winter sai chính Felten đi để lấy chữ ký của
Buckingham, như thế thì Felten sẽ tuột khỏi tay nàng, muốn thành công, nữ tù
nhân phải có ma thuật để tiếp tục cám dỗ.
Tuy nhiên, một điều làm nàng yên tâm:
Felten không nói gì.
Nàng không muốn tỏ ra xúc động trước
những lời hăm dọa của Huân tước De Winter, liền ngồi vào bàn và ăn.
Rồi, như đã làm bữa trước, nàng lại quỳ
xuống và nhắc lại thật to những câu nguyện cầu của mình. Như bữa trước, người
lính thôi đi lại và dừng chân để lắng nghe.
Lát sau, nàng nghe thấy tiếng bước chân
nhẹ nhàng hơn của tên lính tuần canh từ cuối hành lang đi đến và dừng lại trước
cửa.
- Chính gã rồi! - Nàng nói. Và nàng lại
bắt đầu vẫn cái tiếng hát thánh ca bữa trước đã làm Felten phấn khích tới cao
độ.
Nhưng, cho dù cái giọng hát êm dịu,
tràn đầy và vang động có ngân lên du dương hơn, não lòng hơn bao giờ hết, cửa
vẫn cứ đóng. Liếc nhìn trộm về phía ô cửa nhỏ, qua tấm lưới sắt đan dầy, Milady
hình như thấy đôi mắt nồng cháy của chàng trai trẻ. Nhưng dù đó là một thực tế
hay một ảo ảnh, lần này, gã ta cũng giữ được nghị lực để không đi vào.
Có điều, vài phút
sau khi nàng đã hát xong thánh ca Milady tin rằng đã bắt gặp một tiếng thở dài
não ruột. Rồi vẫn những bước chân đã lại gần lại xa dần một cách từ từ như vẫn
còn lưu luyến.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 55
Ngày thứ tư bị giam
cầm.
Hôm sau, khi Felten
vào phòng Milady, thì thấy nàng đang đứng trên chiếc ghế bành, tay cầm một
chiếc thừng bện lại bằng mấy chiếc khăn tay lanh xé ra làm nhiều mảnh dài và
nối với nhau. Nghe tiếng Felten mở cửa, Milady nhẹ nhàng nhẩy từ trên ghế xuống
đất và cố tình che giấu chiếc thừng ứng biến vẫn cầm trong tay ra đằng sau.
Chàng thanh niên
còn xanh xao hơn mọi khi, mắt đỏ lên vì mất ngủ, chứng tỏ anh ta đã trải qua
một đêm quằn quại.
- Tuy nhiên vẻ mặt
anh ta lại nghiêm trang một cách khắc nghiệt hơn bao giờ hết.
- Anh ta từ từ tiến
lại Milady lúc này đã ngồi xuống, cầm lấy đầu sợi dây tết chết người kia do vô
tình hay cố ý nàng để hở ra.
- Cái này là cái
gì, thưa bà? - Chàng ta lạnh lùng hỏi.
- Cái này, chẳng là
cái gì - Milady vừa nói vừa mỉm nụ cười mà nàng khéo biết cách làm cho nó có
dáng dấp đau đớn - Sự phiền muộn là tử thù của các tù nhân, tôi buồn phiền nên
tết chiếc thừng này để lấy vui thôi.
Felten đưa mắt nhìn
về phía tường nhà, trước tường, chàng ta thấy vừa rồi Milady đứng trên ghế bành
và bây giờ đang ngồi, và phía trên đầu nàng, thấy một chiếc móc mạ vàng gắn vào
tường dùng để treo quần áo hoặc vũ khí.
Chàng giật mình và
nữ tù nhân nhìn thấy cái giật mình đó, bởi cho dù đã cúp cuống, nhưng không gì
thoát khỏi mắt nàng.
- Bà đứng trên ghế
định làm gì? - Chàng ta hỏi.
- Can gì đến ông? -
Milady trả lời.
- Nhưng - Felten
vẫn nói - tôi muốn biết.
- Xin đừng căn vặn
tôi - nữ chủ nhân nói - Ông thừa biết với những tín đồ đích thực như chúng ta,
thì cấm không được nói dối.
- Thế thì? - Felten
nói - Tôi sẽ nói cho bà vậy, việc bà định làm, hay đúng hơn là bà sắp làm, là
bà định kết thúc cái việc làm tai hại vẫn được bà nuôi dưỡng trong đầu - Bà hãy
nghĩ kỹ đi. Nếu Chúa cấm dối trá, người còn cấm tự vẫn ngặt hơn.
- Khi Chúa thấy một
trong sinh linh do Người sáng tạo bị ngược đãi bất công, bị đặt giữa tự vẫn và
sự ô danh, xin ông hãy tin tôi - Milady bằng giọng của niềm tin sâu sắc - Chúa
sẽ tha thứ cho nó việc tự vẫn, bởi vì lúc đó tự vẫn chính là tuẫn đạo.
- Bà lại nói quá
lời hoặc quá ít rồi. Bà hãy nhân danh Chúa mà nói, hãy giải thích rõ ra.
- Tôi kể cho ông
nghe những nỗi bất hạnh của tôi, để ông lại bảo đó là những chuyện bịa ư? Tôi
nói cho ông hay những dự định của tôi để ông đi tố cáo với kẻ ngược đãi tôi ư,
không đâu thưa ông. Vả lại sự sống hay cái chết của một kẻ khốn nạn bị kết án
thì can gì đến ông? Ông chỉ chịu trách nhiệm về phần xác của tôi thôi, phải thế
không? Thế thì miễn là ông có trình một xác chết và người ta nhận ra là xác
tôi, người ta sẽ chẳng đòi hỏi gì hơn ở ông và có thể, ông còn được thưởng gấp
đôi là khác.
- Tôi ư, thưa bà,
tôi ư? - Felten kêu lên - Bà nghĩ tôi lại đi nhận tiền thưởng về sinh mạng bà
ư? Ồ, bà không nghĩ như bà nói đâu.
- Cứ để mặc tôi,
ông Felten, xin để mặc tôi - Được thể, Milady càng hăng máu - Mọi quân nhân
chắc đều đầy tham vọng, có phải không? Ông là trung úy chứ gì? Ông sẽ đi theo
đám tang tôi với quân hàm đại úy.
- Nhưng tôi đã làm
gì nào - Felten núng thế nói - để bà gán cho tôi một trách nhiệm như thế trước
con người và trước Chúa? Mấy ngày nữa thôi bà là đã ra khỏi đây, cuộc sống của
bà sẽ không còn dưới sự canh giữ của tôi nữa - chàng thở dài nói thêm - Lúc đó
bà muốn làm gì tùy bà.
Milady hét lên như
thể không chống lại được một sự phẫn nộ thiêng liêng:
- Thế nghĩa là, ông
một người sùng đạo, một người mà người ta gọi là một người công minh chính
trực, ông chỉ yêu cầu một điều là không hề bị quy kết và ân hận gì về cái chết
của tôi!
- Tôi phải trông
coi đến tính mạng của bà, và tôi sẽ phải làm như thế.
- Nhưng ông có hiểu
cái nhiệm vụ mà ông làm tròn không?
- Nếu tôi phạm tội
thật, thì thế cũng là tàn nhẫn rồi, nhưng nếu tôi vô tội thì ông sẽ gọi nó là
cái nhiệm vụ gì. Chúa sẽ đặt cho nó cái tên gì?
- Tôi là quân nhân,
thưa bà, và tôi phải hoàn thành những mệnh lệnh được giao.
- Ông có tin tới
ngày phán xử cuối cùng Chúa sẽ phân ra những tên đao phủ mù quáng với những
quan tòa tối bất công không? Ông không muốn tôi tự giết chết phần thể xác mình,
nhưng ông lại tự biến mình thành tay chân của kẻ muốn giết chết linh hồn tôi!
- Nhưng tôi xin
nhắc lại với bà - Felten nao núng nhắc lại - không có mối hiểm nguy nào đe dọa
bà, và tôi xin đảm bảo điều ấy nhân danh ông De Winter cũng như bản thân tôi.
- Mất trí rồi! -
Milady hét lên - Hỡi con người mất trí đáng thương, dám đảm bảo nhân danh một
người khác trong khi những bậc đại hiền triết, những người gần Chúa nhất cũng
phải do dự đảm bảo cho chính bản thân mình và con người ấy lại tự xếp mình vào
phe phái kẻ mạnh nhất, sung sướng nhất để đè nén người đàn bà yếu đuối nhất và
bất hạnh nhất?
- Không thể thế,
thưa bà, không thể thế - Felten lẩm bẩm, trong thâm tâm cảm thấy lập luận của
nàng có phần đúng lý - Là tù nhân, bà sẽ không tìm lại được tự do thông qua
tôi, là người còn sống không phải do tôi mà bà sẽ mất mạng.
- Phải - Milady kêu
lên - Nhưng tôi sẽ mất những gì quý giá nhất đời tôi, tôi sẽ mất danh dự, ông
Felten ạ. Và chính ông, tôi sẽ buộc ông phải chịu trách nhiệm trước Thượng đế
và trước nhân loại về sự hổ nhục và sự đê mạt của tôi.
Lần này, Felten,
vốn hoàn toàn sắt đá hoặc làm ra như thế, không thể cưỡng nổi cái ảnh hưởng
thầm kín đã xâm chiếm bản thân mình. Nhìn người đàn bà quá đẹp, trong trắng như
một ảo ảnh thuần khiết, nhìn nàng hết than khóc lại hăm dọa đứng trước nỗi đau
dâng lên cùng sắc đẹp, tất cả trở thành quá sức đối với một kẻ không thực tế,
quá sức đối với một khối óc mỏi mòn dần vì những cơn mơ nồng cháy của sự chân
thành mê muội, quá sức đối với trái tim bị ăn mòn vừa bởi tình yêu Thượng đế
đang ngùn ngụt, vừa bởi hận thù con người đang vò xé.
Milady nhìn thấy sự
rối loạn ấy, bằng trực giác, nàng cảm thấy ngọn lửa của những đam mê đối lập
nhau đang bùng cháy cùng với máu trong huyết quản chàng thanh niên cuồng tín.
Và như một tướng tài, thấy kẻ thù chuẩn bị lùi bước, liền tién tràn lên và hô
vang chiến thắng, nàng liền đứng dậy, đẹp như nữ tu sĩ thời tiền sử, gợi cảm
như một nữ tín đồ đồng trinh, cánh tay dang ra, cổ phơi trần, tóc xõa ra, một
tay e lệ kéo áo lên che ngực, cái nhìn lấp lánh ngọn lửa đã gây nên sự rối loạn
tâm thần của gã trai Thanh giáo. Nàng tiến lại phía gã, cất lên với một vẻ dừ
dội cái giọng vốn rất dịu dàng nhưng trong trường hợp này, nàng đem lại cho nó
một âm sắc khủng khiếp:
"Nộp nạn nhân
cho Baal đi!(1)
Cứ ném cho sư tử
người tuẫn đạo
Chúa sẽ làm cho
ngươi phải ăn năn
Từ vực thẳm ta kêu
lên với Chúa".Felten dừng lại trước đoạn thơ kêu gọi kỳ dị này và như hóa
đá.
- Bà là ai, bà là
ai? - chàng ta chắp hai tay và kêu lên - bà là sứ giả của Thượng đế hay là tay
sai của Diêm vương, bà là thiên thần hay quỷ sứ, bà tên là Êlôa hay
Átxtáctê(2).
- Felten, anh không
nhận ra em ư? Em không phải là thiên thần, cũng không phải quỷ sứ, em là một cô
gái trên trần thế, em là cô em gái có cùng tín ngưỡng với anh, có thế thôi.
- Phải, phải -
Felten nói - Trước tôi còn ngờ, giờ tôi tin rồi.
- Anh tin, thế mà
anh lại là kẻ đồng lõa của đứa con của Bêlian mà người ta gọi là Huân tước De
Winter! Anh tin, thế mà anh lại bỏ mặc em trong tay kẻ thù của em, và kẻ thù
của nước Anh, kẻ thù của Chúa! Anh tin, thế mà anh giao nộp em cho kẻ đang làm
nhơ bẩn và tràn ngập thế giới lý thuyết tà giáo và những sự đồi trụy của hắn,
nộp em cho tên Xácđanapan(3) đê tiện mà kẻ đui mù gọi hắn là Quận công De
Buckingham còn các tín đồ thì gọi là tên phản Chúa.
- Tôi, nộp bà cho
Buckingham ư? Tôi ư? Bà nói gì vậy?
- Chúng có mắt mà
như mù, có tai mà như điếc.
- Phải, phải -
Felten vừa nói vừa đưa tay lau mồ hôi trên trán như để dứt hẳn mối nghi ngờ
cuối cùng - Phải, tôi nhận ra giọng nói, nói với tôi trong những giấc mơ, phải,
tôi nhận ra những nét vẻ của vị thiên thần hiện ra đêm đêm kêu gọi linh hồn
không thể ngủ của tôi: "Hãy tấn công, hãy cứu lấy nước Anh, cứu lấy bản
thân, bởi ngươi có chết cũng không làm Thượng đế nguôi giận!". Nói đi, nói
nữa đi! - Felten kêu lên - Bây giờ tôi có thể hiểu được bà rồi.
Một ánh chớp vui
sướng khủng khiếp, nhưng nhanh như ý nghĩ, lóe ra trong đôi mắt của Milady.
Cho dù cái ánh mắt
sát nhân đó có vụng trộm đến đâu chăng nữa, Felten cũng thấy và giật mình như
thể ánh mắt đó soi sáng những vực thẳm sâu trong trái tim người đàn bà này.
Felten chợt nhớ lại
những lời cảnh cáo của Huân tước De Winter, những cám dỗ của Milady, những toan
tính đầu tiên của nàng từ khi anh ta mới tới. Anh ta lùi lại một bước và cúi
đầu, nhưng vẫn không ngừng nhìn nàng, như thể bị thôi miên bởi cái sinh linh kỳ
lạ này, ánh mắt anh ta không thể tách ra khỏi mắt nàng.
Milady đâu phải
hạng đàn bà bị nhầm lẫn trước sự phân vân đó. Dưới những xúc động bề ngoài,
không bao giờ thiếu vắng sự bình tĩnh lạnh như băng. Trước khi Felten trả lời
nàng, nàng buộc phải nối lại cuộc nói chuyện khó có thể cứ giữ mãi cái giọng
điệu phấn khích trước nữa, nàng liền buông thõng hai cánh tay và thế là sự yếu
đuối của đàn bà lại vượt lên trên sự bồng bột của con người đa cảm.
- Ồ không - Nàng
nói - Tôi đâu được như Judita đã giải phóng thành phố Bêthuli khỏi tay tên
Hôlôphecnơ(4). Thanh kiếm của Thượng đế vĩnh hằng quá nặng đối với cánh tay
tôi. hãy cho tôi được chết để tránh khỏi mất danh dự. Hãy cho tôi được ẩn náu
trong việc tuẫn đạo. Tôi không xin ông được tự do như một tội phạm thường làm,
cũng không xin được trả thù như một kẻ tà đạo vẫn xin. Xin hãy để tôi được chết,
thế thôi. Tôi van ông, tôi quỳ xuống cầu xin ông hãy để tôi được chết, và hơi
thở cuối cùng của tôi sẽ là một lời cầu phúc đối với cứu tinh của tôi.
Trước giọng nói dịu
dàng và cầu khẩn ấy, trước cái nhìn e lệ và thất vọng ấy, Felten bước lại gần.
Mụ phù thủy, dần dần, lấy lại được và khoác cho mình cái bộ dạng ma quái, tạm
rời bỏ có chủ định, nghĩa là sắc đẹp, sự dịu dàng, nước mắt và nhất là nét hấp dẫn
không cưỡng nổi của cái khoái cảm huyền bí là thứ khó cưỡng nổi nhất, day dứt
nhất, trong các thứ khoái cảm.
- Than ôi! - Felten
nói - Tôi chỉ có thể làm được một điều là khiếu nại cho bà nếu bà chứng minh
cho tôi rõ bà là một nạn nhân. Nhưng ông De Winter lại oán hận bà rất dữ. Bà là
con chiên, bà là giáo hữu của tôi, tôi cảm thấy bị bà lôi cuốn, tôi là người
xưa nay chỉ yêu quý ân nhân của mình, và chỉ gặp trong đời những quân phản trắc
và lũ vô đạo. Nhưng bà, bà quá đẹp trong thực tế, bà quá trong trắng ở vẻ bề
ngoài, mà Huân tước De Winter lại truy đuổi bà đến thế, ắt hẳn bà đã phạm những
chuyện bất chính?
- Chúng có mắt -
Milady nhắc lại bằng giọng điệu đau khổ khôn tả - mà như mù, chúng có tai mà
như điếc.
- Thế thì - Viên sĩ
quan trẻ kêu lên - Bà nói đi, nói đi xem nào!
- Thổ lộ với ông
nỗi nhục của tôi ư? - Milady kêu lên, mặt đỏ bừng vì thẹn - bởi vì thường
thường tội ác của kẻ này lại là nỗi nhục của người khác, thổ lộ với ông nỗi ô
nhục của tôi, khi ông là đàn ông còn tôi là đàn bà ư? - Ồ - nàng vừa tiếp tục
vừa e lệ lấy tay đưa lên đôi mắt đẹp - Ồ, không bao giờ, không bao giờ, tôi
không thể.
- Không thể với tôi
ư? Với một đạo hữu ư? - Felten hét lên.
Milady nhìn chàng
ta khá lâu với vẻ mặt khiến viên sĩ quan trẻ coi là ngờ vực, nhưng thật ra chỉ
là quan sát và nhất là để khuynh đảo chàng.
Felten đến lượt
mình chắp hai tay khẩn cầu.
- Thôi được? -
Milady nói - Tôi tin người anh em của tôi. Tôi sẽ liều vậy!
Trong lúc đó, có
tiếng bước chân của Huân tước De Winter.
Vậy là lần này
người em chồng ghê gớm của Milady không chịu bỏ đi, sau khi đến ngang trước cửa
như đêm trước, mà lại dừng lại ngang trước cửa như đêm trước, mà lại dừng lại
trao đổi mấy câu với người lính canh, rồi cửa mở và ông ta hiện ra.
Trong khi ông ta
trao đổi mấy câu, Felten đã vội lùi lại và khi ông ta vào thì chàng ta đã đứng
cách xa nữ tù nhân mấy bước.
Nam tước từ từ bước
vào, đưa con mắt dò xét hết nữ tù nhân sang đến viên sĩ quan trẻ, và nói:
- John! Thế là ông
ở đây khá lâu đấy nhỉ. Người đàn bà đó đã kể cho ông nghe những tội ác của bà
ta rồi đấy nhỉ? Thảo nào chuyện trò lâu đến thế.
Felten rùng mình.
Còn Milady cảm thấy mình nguy mất nếu không cứu anh chàng thanh giáo đang thất
sắc kia.
- À, ông sợ nữ tù
nhân của ông trốn thoát khỏi ông? - Nàng nói - Vậy thì, ông cứ hỏi viên giám
ngục quý hóa của ông ngay lúc này xem tôi khẩn cầu ông ta ân huệ gì.
- Bà xin một ân
huệ? - Huân tước hỏi với vẻ ngờ vực.
- Vâng, thưa Huân
tước - chàng trai trẻ bối rối trả lời.
- Và ân huệ gì? -
Ông Winter hỏi.
- Con dao - Felten
trả lời - Một phút sau khi nhận được bà ấy sẽ trả lại tôi qua ô cửa có lưới
sắt.
Huân tước De Winter
hỏi tiếp bằng một giọng cợt nhạo và khinh bỉ:
- Vậy ra có kẻ nào
đó ẩn nấp ở đây nên con người yêu kiều này muốn cắt cổ!
- Có tôi đấy -
Milady trả lời.
- Tôi đã cho bà
được chọn giữa châu Mỹ và Tybum (pháp trường London). - Ông De Winter nói tiếp
- Bà hãy chọn Tybum đi, hãy tin tôi, thừng ở đấy còn chắc hơn dao.
Felten tái người bước
lên một bước, nghĩ tới lúc mình bước vào Milady đang cầm thừng.
Người tù nói:
- Ông có lý. Và tôi
đã nghĩ đến điều đó rồi - Rồi nàng tiếp bằng một giọng như tắc lại - Tôi sẽ còn
nghĩ đến điều ấy.
Felten cảm thấy ớn
lạnh đến tận xương tủy, có thể ông De Winter nhận ra thấy điều đó. Ông nói:
- John, hãy cảnh
giác, anh bạn ạ, ta tin cậy ở anh, anh hãy coi chừng? Ta đã báo trước cho anh
rồi! Vả lại, hãy can đảm lên, chú em ạ, ba hôm nữa thôi là chúng ta được giải
thoát khỏi con quái vật này và ở nơi ta gửi nó đến, nó sẽ không hại được ai
nữa.
- Nghe thấy chưa? -
Milady hét to.
Ông Huân tước tưởng
rằng nàng nói với trời, còn Felten lại hiểu là nói với mình.
Felten cúi đầu và
mơ màng.
Nam tước vừa nắm
cánh tay kéo viên sĩ quan vừa ngoái cổ lại để không rời mắt khỏi Milady cho tới
khi đã ra hẳn ngoài.
Khi cửa đã đóng
lại, nữ tù nhân nói một mình:
"Xem nào, mình
còn chưa tiến tới mức như mình tưởng, Winter đã thay đổi cách ngốc nghếch thường
ngày của ông ta bằng một sự thận trọng mới lạ, lòng khao khát trả thù nó là như
thế đó. Và cái lòng khao khát ấy nó lại rèn luyện con người ta? Còn Felten, gã
ngần ngại. Hừm, đó không phải là một đấng mày râu như tên D'Artagnan khốn kiếp.
Một gã Thanh giáo chỉ tôn thờ những nữ đồng trinh và chắp hai tay lại mà tôn
thờ họ. Một ngự lâm quân lại thích những người đàn bà và khoanh tay yêu họ.
Tuy nhiên, Milady
vẫn sốt ruột đợi chờ, bởi nàng vẫn ngờ rằng ngày hôm nay không thể trôi qua mà
nàng lại không gặp lại Felten. Cuối cùng, một giờ sau cảnh tượng đó, nàng nghe
thấy tiếng nói khẽ ngoài cửa, rồi thì cửa mở và nàng nhận ra Felten. Nàng nói:
- Ông muốn gì tôi?
- Nghe đây - Felten
khẽ trả lời - Tôi vừa đuổi tên lính canh đi để có thể ở lại đây mà người ta
không biết tôi đến, để nói với bà mà người ta không nghe được điều tôi nói.
Huân tước vừa kể cho tôi nghe một chuyện rùng rợn.
Milady nặn ra một
nụ cười của nạn nhân chịu oan ức và lắc đầu.
- Hoặc bà đúng là
một con quỷ - Felten tiếp tục - Hoặc Huân tước ân nhân của tôi, cha tôi là yêu
tinh - Tôi mới biết bà được bốn ngày, tôi yêu ông ấy đã hai năm - Vậy tôi có
thể phân vân giữa hai người lắm chứ. Bà đừng hoảng sợ về những điều tôi nói với
bà. Tôi cần được tin chắc. Đêm nay, sau nửa đêm, tôi sẽ đến gặp bà, và bà sẽ
làm cho tôi tin.
- Không, Felten,
không, người anh em ạ - Nàng nói - Sự hy sinh này lớn quá, và tôi cảm thấy nó
quá đắt với ông. Không, tôi sẽ chết, nhưng đừng chết với tôi. Cái chết của tôi
sẽ hùng hồn hơn cái sống của tôi nhiều và sự câm lặng của thây ma sẽ làm ông
tin hơn nhiều những lời nói của một nữ tù nhân.
- Bà im đi và đừng
nói với tôi như thế. Tôi đến đây để bà hứa danh dự với tôi, để bà thề với tôi
trên những gì thiêng liêng nhất rằng bà sẽ không mưu hại đời bà.
- Tôi không muốn hứa
- Milady nói - bởi không ai hơn tôi lại tôn trọng lời thề và nếu tôi đã hứa,
thì tôi sẽ phải giữ lời.
- Vậy thì bà chỉ
cam đoan thôi bà sẽ giữ như thế cho đến lúc gặp lại tôi vậy. Nếu khi bà đã gặp
lại tôi bà vẫn khăng khăng như thế, thì, được thôi, bà sẽ tự do và chính tôi,
tôi sẽ đưa cho bà vũ khí mà bà yêu cầu tôi.
- Thế thì… - Milady
nói - Vì ông, tôi sẽ đợi.
- Bà thề đi.
- Tôi xin thề trước
đức Chúa của chúng ta. Ông bằng lòng chưa?
- Tốt lắm - Felten
nói - Hẹn đêm nay!
Và chàng ta lao ra
khỏi căn phòng rồi đóng cửa lại và đợi ở bên ngoài, tay cầm ngọn đoản giáo của
tên lính như thể đang đứng gác thay.
Người lính quay
lại, Felten trả lại ngọn giáo cho anh ta.
Lúc đó, qua ô lưới
cửa, mà nàng đã lại gần, Milady thấy chàng trai trẻ đang say sưa cuồng nhiệt
làm dấu rồi theo hành lang đi khỏi với vẻ mừng vui đến tột đỉnh.
Về phần nàng, nàng
quay lại chỗ mình ngồi với nụ cười man rợ khinh bỉ trên môi, rồi nàng vừa nhắc
lại vừa báng bổ cái tên đáng sợ là Chúa mà nàng đã thề trên đó, mà chẳng bao
giờ cần biết nó là cái gì.
- Chúa tôi ư? -
Nàng nói - Hỡi tên cuồng tín rồ dại! Chúa tôi! Đấy là ta, chính ta là người
sẽ giúp ta trả thù.
Chú thích:
(1) Baal (hay Bél hay Bélus Belial), thần linh xứ Phênixi
(2) Êlôa - Bài thơ cùng tên của nhà thơ A. Đờvinhy. Trong đó Êlôa là một nữ
thần được sinh ra từ giọt nước mắt của Chúa trên thi thể của Larazus. Nàng bị
giết vì tội cố ý dùng tiền chuộc lại Satan và Átxtáctê. Được dùng để chỉ những
nữ thánh theo tà đạo.
Átxtáctê nữ thánh Do Thái được tôn vinh vì hiến tế.
(3) Theo dã sử, là một hoàng tử đồi trụy, hèn nhát và yếu ớt, ẻo lả.
(4) Judita - nữ anh hùng Do Thái đã quyến rũ tưởng địch Hôlôphécnơ, rồi
chặt đầu y và giải phóng thành phố Béthulie
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 56
Ngày thứ năm bị
giam cầm.
Tuy nhiên Milady
cũng đã đạt được một nửa thắng lợi và kết quả thu được đã làm tăng sức mạnh của
nàng lên gấp bội.
Cho đến lúc này,
nàng đã chinh phục như thế không khó khăn gì những người đàn ông dễ buông thả
cho nàng cám dỗ và bị lối giáo dục phong trình của triều đình lôi nhanh vào
bẫy.
Milady lại khá đẹp
nên họ khó cưỡng lại được sự thèm muốn về phần xác thịt và nàng cũng khá khôn
ngoan để lôi cuốn họ vượt qua những trở ngại về tinh thần.
Nhưng lần này, nàng
phải đấu tranh với một bản tính hoang dã, nén chịu, vô cảm vì quá khắc khổ. Tôn
giáo và sự ăn năn đã biến Felten thành một kẻ trơ trơ trước những quyến rũ
thông thường. Trong cái đầu đang bốc đồng ấy, những chương trình rộng lớn, những
dự tính hỗn loạn đang quay cuồng đến nỗi không còn chỗ cho bất cứ mối tình nào.
Đó là thứ tình cảm thất thường hoặc vốn đã như thế, tự dưỡng bằng nhàn hạ và
lớn lên bởi sự đồi trụy. Vậy là Milady bằng sự đạo đức giả, đã đột phá được vào
tư tưởng của một gã đàn ông đã được phòng ngừa trước kịch liệt chống lại nàng,
và bằng sắc đẹp, nàng đã đột phá được vào trái tim và tình cảm của một người
đàn ông trinh trắng và trong sạch. Rốt cuộc, nàng đã lao theo những biện pháp,
những thủ đoạn cho đến nay vẫn còn xa lạ với nàng, cho cuộc thí nghiệm tiến
hành trên một chủ thể bất trị nhất mà tạo hóa và tôn giáo đành để nàng nghiên
cứu.
Thế nhưng suốt buổi
tối, nhiều lần nàng đã thấy thất vọng về số phận và bản thân mình. Nàng không
kêu cầu Chúa, nhưng lại tin ở thần ác, cái quyền lực tối cao bao la ngự trị
trong một ngóc ngách của cuộc sống, và như trong ngụ ngôn Ả Rập, chỉ một hạt
lựu cho cái quyền lực ấy cũng đủ để xây dựng lại một thế giới đã mất.
Milady sau khi đã
chuẩn bị rất cẩn thận để tiếp Felten, tha hồ vạch ra những kế hoạch cho ngày
hôm sau. Nàng biết mình chỉ còn có hai ngày, một khi lệnh đã được Buckingham ký
và Buckingham lại càng ký quá dễ dàng cái lệnh mang một tên giả và ông ta cũng
chẳng thể nhận ra người đàn bà đang định giết mình. Một khi lệnh đã ký, Huân
tước sẽ đưa nàng lên tàu ngay tức khác, và nàng cũng biết những người đàn bà bị
tội lưu đày sử dụng vũ khí quyến rũ yếu hơn những người được cho là đức hạnh,
lại được mặt trời thế gian làm rạng rỡ thêm sắc đẹp, cùng giọng nói kiểu cách
phô trương dòng dõi, và ánh xạ quý tộc nạm vàng thêm những tia sáng mê hồn của
họ. Một người đàn bà bị tội hình khốn nạn và đê nhục không phải ở chỗ bị ngăn
không cho đẹp, mà luôn có một trở ngại để không bao giờ lại trở nên mạnh mẽ.
Như những người thực sự có tài, Milady hiểu rõ môi trường nào thì thích hợp với
bản chất và những thủ đoạn của mình. Sự nghèo khó làm cho nàng thấy ghê tởm. Sự
hèn hạ làm giảm hai phần ba sự vĩ đại của nàng. Milady chỉ là nữ hoàng trong số
các nữ hoàng. Nàng cần phải có khoái lạc, lòng kiêu hãnh được thỏa mãn trong
khi trị vì. Điều khiển những kẻ thấp kém hơn đối với nàng là một sự sỉ nhục hơn
là một khoái lạc.
Chắc chắn nàng sẽ
trở lại từ chốn lưu đày, không một phút giây nào nàng nghi ngờ điều đó. Nhưng
cuộc lưu đầy này sẽ kéo dài bao lâu? Đối với một bản tính năng động và đầy tham
vọng như Milady, những ngày mà người ta không thiết gì ngoi lên nữa là những
ngày tệ hại. Vậy thì hãy tìm xem có cái từ nào để đặt tên cho những ngày mà
người ta dùng để tụt xuống hay không? Mất một năm, hai năm, ba năm, có nghĩa là
vĩnh viễn.
Trở về khi
D'Artagnan và các bạn mình sung sướng và chiến thắng, đón nhận phần thưởng của
hoàng hậu, xứng với công lao họ đã phục vụ bà ta, đó là những ý nghĩ vò xé mà
một người đàn bà như Milady không thể chịu nổi. Hơn nữa, cơn giông tố gầm thét
trong lòng nàng làm tăng gấp đôi sức mạnh, nếu như thể xác nàng có được một
giây lát thôi cái sức vóc của trí tuệ nàng, có lẽ nàng đã cho nổ tung những bức
tường của cái phòng tù giam nàng này rồi.
Rồi giữa mọi cái đó
lại còn kỷ niệm về Giáo chủ cũng thôi thúc nàng. Ông Giáo chủ đa nghi cả nghĩ
và luôn ngờ vực đó nghĩ gì, nói gì về sự im lặng của nàng. Giáo chủ, chỗ dựa
duy nhất của nàng, người duy nhất ủng hộ nàng, người che chở duy nhất cho nàng trong
hiện tại, mà còn là công cụ chính của vận mệnh nàng và sự báo thù của nàng
trong tương lai. Nàng hiểu ông ta. Nàng biết rằng khi trở về, sau một cuộc hành
trình vô ích, nàng có đổ cho việc vì tù tội, có khoa trương thêm những đau khổ
phải chịu cũng chỉ vô ích, Giáo chủ sẽ trả lời với vẻ dửng dưng giễu cợt của kẻ
theo chủ nghĩa hoài nghi đầy quyền lực vừa bởi sức mạnh lẫn thiên tài:
"Không nên để bị bắt mới phải?".
Thế là Milady liền
dồn hết nghị lực lại thầm gọi trong thâm tâm cái tên Felten, thứ ánh sáng mặt
trời duy nhất còn lọt được tới nàng ở đáy địa ngục nơi nàng đã sa xuống. Và
giống như một con rắn cuộn lại các đốt thân rồi duỗi ra etể tự lường sức mình,
nàng đã cuộn trước Felten vào hàng ngàn các nếp gấp của trí tưởng tượng sáng
tạo của mình.
Tuy nhiên, thời
gian trôi đi, giờ này. qua giờ khác lại nhừ đánh thức cái chuông khi đi qua và
mỗi tiếng nện vào đồng thau lại ngân vang trong lòng nữ tù nhân. Lúc chín giờ,
Huân tước De Winter lại đến thăm như thường lệ, nhìn cửa sổ và song sắt, dò xét
sàn nhà và tường bao, kiểm tra lò sưởi và các cửa đi, và trong suốt cuộc thăm
viếng lâu dài và tỉ mỉ đó, cả ông lẫn Milady không thốt lên một lời nào.
Chắc hẳn cả hai đều
hiểu tình thế đã trở nên quá nghiêm trọng, không nên để mất thời gian vào những
câu nói vô ích và giận dữ vô hiệu quả.
- Tốt rồi! - Huân
tước rời khỏi căn phòng và nói - Đêm nay thì bà chưa trốn thoát được đâu?
Lúc mười giờ Felten
tới xếp lính canh. Milady nhận ra bước chân chàng ta. Lúc này nàng đoán ra được
bước chân của chàng ta như một tình nương đoán được bước chân của người tình
mình yêu bằng hết con tim, trong khi ấy Milady vừa ghét vừa khinh kẻ cuồng tín
hèn yếu đó, chưa đến giờ hẹn, Felten không vào.
Hai giờ sau, chuông
điểm nửa đêm, lính canh được thay phiên.
Lần này là đúng giờ
rồi. Vì thế, từ lúc ấy, Milady nóng lòng mong đợi.
Người lính canh mới
bắt đầu đi dạo trong hành lang.
Mười phút sau,
Felten đến.
Milady lắng tai
nghe.
- Nghe đây - viên
sĩ quan trẻ bảo người lính canh - bất cứ chuyện gì, anh cũng không rời xa chiếc
cửa này, bởi anh cũng biết đêm trước một lính canh đã bị Huân tước phạt vì đã
rời vị trí trong giây lát, và trong khi ấy chính tôi, trong lúc anh ta vắng mặt
khoảng thời gian ngắn, đã phải gác thay.
- Vâng, tôi biết -
người lính nói.
- Vậy tôi nhắc anh
phải canh giữ cho nghiêm. Còn tôi, tôi sẽ vào kiểm tra lại lần nửa căn buồng
của mụ đàn bà này, sợ rằng mụ vẫn toan tính tự hại mình và tôi được lệnh phải
trông coi.
- Tốt - Milady, lẩm
bẩm - thế là tên Thanh giáo khắc kỷ đã nói dối rồi!
Còn về người lính,
anh ta cười trừ và nói:
- Mẹ kiếp! Thưa
trung úy. Ông không thấy khốn khổ khi được giao nhiệm vụ như thế sao, nhất là
nếu Huân tước lại cho phép ông được nhòm vào tận giường mụ ta nữa.
Felten đỏ mặt,
trong trường hợp khác chắc chàng ta đã quở mắng người lính dám đùa cợt như vậy,
nhưng ý thức của chàng lại lớn tiếng thầm thì khiến miệng chàng không dám nói.
- Nếu tôi gọi -
chàng ta nói - thì anh đến, còn nếu có ai đến, nhớ gọi tôi.
- Vâng, thưa trung
úy - người lính nói.
Felten vào phòng
Milady, Milady đứng dậy.
- Ông đấy ư? - Nàng
nói.
- Tôi đã hứa với bà
sẽ đến - Felten nói - và tôi đã đến.
- Ông còn hứa với
tôi một điều khác nữa.
- Điều gì vậy? Chúa
ơi! - Chàng trai trẻ nói và mặc dầu cố làm chủ mình chàng ta vẫn cảm thấy hai
đầu gối cứ run lên và mồ hôi lấm tấm trên trán.
- Ông đã hứa mang
đến cho tôi con dao và sau khi chúng ta trao đổi hãy để mặc tôi.
- Đừng nói thế,
thưa bà - Felten nói - Không có cảnh ngộ nào dù cho có khủng khiếp đến đâu, cho
phép một sinh linh của Chúa được tự giết mình. Tôi đã suy nghĩ, không bao giờ
tôi cho phép mình phạm một tội như thế.
- À, ông đã nghĩ
rồi! - Nữ tù nhân vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế bành với nụ cười khinh thị -
và tôi nữa, tôi cũng đã nghĩ rồi.
- Đến điều gì?
Nghĩ rằng tôi chẳng
có gì để nói với một con người không giữ lời hứa.
- Ôi, Chúa ơi! -
Felten lẩm bẩm.
- Ông có thể rút
lui - Milady nói - tôi sẽ không nói nữa đâu.
- Đây dao đây! -
Felten nói và rút từ trong túi ra thứ vũ khí mà chàng ta đã hứa sẽ mang đến
nhưng lại ngần ngại trao lại cho nữ tù nhân.
- Đưa cho tôi xem
đã.
- Để làm gì?
- Thề danh dự, tôi
sẽ trả lại ông ngay tức khắc. Ông cứ để trên bàn ấy và ông vẫn sẽ đứng giữa con
dao và tôi kia mà.
Felten chìa con dao
cho Milady. Nàng chăm chú quan sát nước thép và ướm thử mũi dao bằng đầu ngón
tay.
- Tốt lắm - nàng
vừa nói vừa trả lại con dao cho viên sĩ quan trẻ - Con dao này toàn bằng thép
tốt. Felten, ông đúng là một người bạn chung thủy.
Felten cầm lại con
dao và đặt nó lên bàn tay như vừa thỏa thuận với nữ tù nhân.
Milady đưa mắt nhìn
theo và tỏ ra hài lòng. Nàng nói:
- Bây giờ, nghe tôi
nói đây.
Sự yêu cầu này là
vô ích, viên sĩ quan trẻ đứng trước mặt nàng đang đợi nàng nói để ngốn ngấu
từng lời.
Milady nói với một
vẻ trang trọng đầy sầu muộn:
- Felten, nếu em
gái ông, con gái của cha ông bảo ông: "Từ khi còn trẻ, lại không may khá
đẹp, người ta đã cho em sa bẫy, em đã chống cự lại, người ta tăng gấp bội cạm
bẫy và bạo lực xung quanh em, em vẫn chống lại, người ta liền lăng mạ tôn giáo
em theo, lăng mạ đức Chúa em tôn thờ, bởi em cầu cứu đến đức Chúa và tôn giáo
ấy, em chống lại, thế là họ thả sức làm nhục em, và vì họ không thể làm hại
linh hồn em, họ định làm nhơ nhuốc thể xác em mãi mãi, rốt cuộc…"
Milady dừng lại và
một nụ cười cay đắng lướt trên môi.
- Rốt cuộc - Felten
nói – rốt cuộc họ đã làm gì em?
- Rốt cuộc, một
buổi tối, người ta quyết định làm tê liệt tinh thần phản kháng mà người ta
không thể thắng được đó. Một buổi tối, người ta hòa vào nước uống của em một
liều thuốc mê mạnh, em vừa ăn xong bữa cơm, đã cảm thấy mình dần dần rơi vào
một trạng thái hôn mê xa lạ. Cho dù em chẳng một chút nghi ngờ, một nỗi sợ hãi
mơ hồ vẫn xâm chiếm em, em cố chống lại cơn buồn ngủ, em đứng dậy, em muốn chạy
đến cửa sổ kêu cứu nhưng chân em không chịu cất bước, em thấy hình như trần nhà
hạ thấp xuống đầu em và đè nặng lên em. Em dang hai tay ra, em cố nói, em chỉ
có thể thốt ra mấy tiếng ú ớ, toàn thân em tê dại không thể nào cưỡng nổi, em
bíu vào chiếc ghế bành, cảm thấy mình sắp ngã, nhưng rồi cánh tay em rã rời
không đủ sức vịn vào ghế nữa, em quỵ một gối xuống, rồi cả hai, em muốn cầu
nguyện, lưỡi em đã cứng lại rồi. Hẳn là Chúa không trông thấy cũng không nghe
thấy em, em nằm soài trên sàn nhà và làm mồi cho giấc ngủ mê như chết.
Em không còn nhớ gì
về tất cả những điều diễn ra trong giấc ngủ và giấc ngủ kéo dài trong thời gian
bao lâu. Điều duy nhất em còn nhớ là khi tỉnh dậy thấy mình nằm trong một căn
buồng tròn, đồ đạc sang trọng, và ánh sáng chỉ lọt vào qua lỗ cửa sát trần nhà.
Vả chăng, hình như cũng chẳng có chiếc cửa ra vào nào. Có thể nói đây là một
phòng tù lộng lẫy.
Phải rất lâu, em
mới có thể nhận ra mình đang ở đâu, và nhớ lại được mọi tình tiết. Đầu óc em
như thể vật lộn một cách vô ích để xua đi những bóng tối nặng nề của giấc ngu
mà em vẫn chưa thể dứt ra hẳn. Em có những cảm giác mơ hồ về quãng đường đã đi
qua, về tiếng bánh xe lăn, về một giấc mơ rùng rợn trong đó sức lực em bị cạn
kiệt, nhưng tất cả những cái đó đều quá mờ tối, quá lơ mơ trong ý nghĩ của em,
cứ như thể những biến cố đó thuộc về một cuộc sống khác với cuộc sống của em,
tuy nhiên lại hòa trộn vào cuộc sống của em bởi một tính nhị nguyên kỳ quặc.
Đôi lúc, em ở trong
trạng thái đến lạ lùng, em cứ tưởng như mình đang mơ. Em đứng lên lảo đảo, quần
áo em ở ngay bên em, vắt lên thành ghế, em cũng chẳng nhớ mình đã cởi bỏ quần
áo cũng chẳng nhớ việc mình đã nằm ngủ. Thế rồi dần dần thực tế hiện ra trước
em đầy nỗi kinh hoàng về trinh tiết. Em không còn trong ngôi nhà em vẫn cư trú
nữa. Cứ theo như ánh sáng mặt trời mà đoán, có thể ngày đã xế chiều, thế là em
đã ngủ suốt cả tối hôm trước đến chiều hôm sau, gấâc ngủ kéo dài gần hai mươi
bốn giờ. Cái gì đã diễn ra trong suốt giấc ngủ dài như thế?
Em vội mặc quần áo
nhanh chừng nào hay chừng ấy. Mọi cử động của em đều chậm chạp và tê cứng chứng
tỏ ảnh hưởng của thuốc mê chưa hoàn toàn tan hết. Hơn nữa, căn buồng lại chỉ
trang bị để tiếp nhận một phụ nữ, và cô gái ưa đỏm dáng nhất còn chưa kịp muốn
gì, thì khi lướt mắt nhìn quanh căn phòng, đã thấy ước muốn ấy được hoàn tất
rồi.
Chắc chắn, em không
phải là người con gái đầu tiên bị nhốt trong cái nhà tù tráng lệ này. Nhưng
Felten, anh cũng hiểu, nhà tù càng đẹp, em càng hoang mang.
Phải, đó là một cái
nhà tù, bởi em càng cố thoát ra cũng vô ích. Em dò tìm cả bốn bức tường để phát
hiện ra một chiếc cửa, cả bốn bức tường đều phát lại tiếng kêu bịch bịch chắc
nịch.
Em đi vòng quanh
căn phòng có lẽ đến hai chục lượt để tìm một lối ra nào đó mà không có. Em
buông mình xuống chiếc ghế bành, suy sụp vì mệt mỏi và hãi hùng.
Trong khi đó đêm
xuống rất nhanh, nỗi kinh hoàng của em càng tăng lên. Em không biết liệu có nên
ngồi im ở đấy hay không, em thấy hình như em sắp ngã đến nơi. Cho dù em không
ăn một chút gì từ đêm trước, nhưng vì quá sợ nên em cũng chẳng cảm thấy đói.
Không có lấy một
tiếng vang nào từ bên ngoài lọt vào khiến em tính được thời gian. Em chỉ đoán
phỏng chừng có thể là bẩy hoặc tám giờ tối, bởi lúc đó là tháng mười nên đã tối
hoàn toàn.
Bất thình lình
tiếng cánh cửa quay trên bản lề làm em giật mình, một quả cầu lửa hiện ra bên
trên ô cửa kính sát trần, rọi ánh sáng chói chang vào phòng và em kinh hãi nhận
thấy một người đàn ông đứng cách em mấy bước.
Một bàn ăn đủ các
món cho hai suất tối đã dọn sẵn như do ma thuật được kê ở giữa phòng.
Người đàn ông đó là
kẻ đã theo đuổi em từ một năm nay, đã thề làm nhục em và mấy câu đầu tiên từ
cửa miệng hắn, em hiểu ngay hắn đã hoàn thành cái việc làm nhục em đêm trước.
- Tên đê mạt! -
Felten lẩm bẩm.
- Ồ đúng, tên đê
mạt! - Milady kêu lên và thấy rõ viên sĩ quan quan tâm đến câu chuyện ly kỳ này
đến mức linh hồn như thể bị treo trên đầu lưỡi mất rồi - Đúng hắn là một tên đê
mạt? - Hắn tưởng chỉ cần thắng được em trong giấc ngủ là xong được lời thề. Hắn
đến, hy vọng em chấp nhận nỗi ô nhục của em, vì nỗi ô nhục ấy được làm tròn
rồi. Hắn đến dâng tài sản của hắn cho em để đổi lấy tình yêu.
Con tim cao thượng
của người phụ nữ có thể khinh bỉ và miệt thị bao nhiêu, em đều trút lên đầu
hắn. Nhưng chắc hắn đã quen bị trách mắng như thế bởi hắn vẫn thản nhiên nghe
em, hai tay khoanh trước ngực mỉm cười. Rồi khi hắn tưởng em đã nói hết, hắn
tiến lại phía em, em chồm lại cái bàn, cầm lấy con dao, dí vào ngực mình mà
nói: "Tiến lên một bước thôi thì ngoài nỗi ô nhục của tôi, ông sẽ còn phải
ân hận về cái chết của tôi nữa".
Chắc là trong mắt
em, giọng nói của em, trong toàn bộ người em, cử chỉ, tư thế, âm sắc đều toát
lên vẻ chân thực khiến những kẻ có tà tâm nhất cũng phải tin, bởi hắn đã dừng
lại và nói: "Cái chết của nàng ư? Ồ, không, nàng là một người tình yêu
kiều nhất, ta lại chịu để chết đi như thế, sau khi mới chỉ được một lần có được
cái hạnh phúc chiếm hữu nàng sao. Tạm biệt, giai nhân của ta! Ta sẽ đợi, tinh
thần, tâm lý nàng khá hơn, ta sẽ trở lại thăm nàng".
Nói rồi, hắn thổi
một tiếng còi, quả cầu lửa chiếu sáng phòng em, nâng lên rồi biến mất, em lại
hoàn toàn trong bóng tối. Một lát sau vẫn tiếng kẹt cửa đã mở ra nay lại đóng
vào, và quả cầu sáng chói lại hạ xuống, em chỉ còn trơ lại một mình.
Khoảnh khắc ấy thật
ghê rợn, nếu như em còn đôi chút nghi ngờ về nỗi bất hạnh của mình, thì những
nghi ngờ ấy đã tàn lụi trong một thực tế tuyệt vọng. Em đã ở trong tay một kẻ
không những em ghét bỏ mà còn khinh bỉ nữa, một kẻ có khả năng làm tất cả mọi
điều và đã từng chứng tỏ với em một cách tàn nhẫn những gì hắn có thể làm.
- Nhưng cái con
người ấy là kẻ nào vậy? - Felten hỏi.
- Em ngồi suốt đêm
trên cái ghế, nghe tiếng động nhỏ cũng giật mình, bởi gần nửa đêm, đèn tắt, em
lại ngồi trong bóng tối nhưng rồi đêm qua đi không có thêm một toan tính mới
nào của kẻ ngược đãi em nữa. Ngày lại tới. Chiếc bàn đã biến mất, có điều em
vẫn còn con dao trong tay. Con dao, đó là niềm hy vọng của em.
Em rã rời vì mệt
mỏi. Sự mất ngủ làm mắt em đỏ lên, em lại không dám ngủ lấy một giây. Ban ngày
làm em yên tâm, em chạy lại buông mình xuống giường không rời con dao giải
thoát mà em giấu dưới gối.
Khi em thức dậy,
một bàn ăn mới đã được dọn ra.
Lần này, mặc dầu
bao nỗi hãi hùng, bất chấp những mối lo âu, em cảm thấy một cái đói cào cấu. Đã
bốn tám giờ em không ăn một chút gì. Em ăn chiếc bánh, một ít trái cây, rồi lại
nhớ đến thuốc mê hòa vào nước em uống hôm trước, em không động đến một giọt bày
trên bàn nữa mà ra chỗ tắm rừa, rót đầy một cốc ở vòì nước đá hoa gắn ở tường.
Tuy nhiên, mặc dầu
đã đề phòng như vậy, em vẫn trong tình trạng lo ngại ghê gớm khá lâu, nhưng lần
này những mối sợ đã không có cơ sở. Suốt ngày hôm ấy, em không thấy gì giống
như em lo sợ.
Em đã thận trọng đổ
bớt nửa bình nước để họ không biết em nghi ngờ.
Tối buông xuống
cùng với bóng đêm, tuy nhiên, dù như bưng như bít, mắt em bắt đầu quen dần.
Giữa bóng đêm em trông thấy chiếc bàn thụt sâu xuống dưới sàn, mười lăm phút
sau nó lại hiện lên mang cho em bữa tối. Một lát sau vẫn nhờ cái đèn ấy, phòng
em lại sáng choang.
Em quyết định chỉ
ăn những loại thức ăn mà người ta không thể trộn lẫn thuốc ngủ: hai quả trứng
và ít trái cây là đủ bữa cơm cho em, rồi em lại rót một cốc nước ở cái vòi nước
bảo trợ mà uống.
Mấy ngụm đầu, em
thấy nó không giống như vị ban sáng, em nghi ngờ ngay và dừng lại, nhưng em
cũng đã uống mất nửa cốc rồi.
Em đổ phần còn lại
đi hãi hùng chờ đợi, mồ hôi vã ra trán.
Chắc hẳn, có một
nhân chứng vô hình đã nhìn thấy em uống nước ở chiếc vòi ấy và đã lợi dụng lòng
tin của em để hại em cho em chắc chắn hơn, và kẻ đó đã quyết định một cách lạnh
lùng, theo đuổi rất chi tàn bạo.
Chưa được nửa giờ
sau, vẫn những triệu chứng cũ lại xảy ra.
Có điều, lần này em
mới chỉ uống có nửa cốc nước, nên em chống lại được lâu hơn, và đáng lẽ hoàn
toàn ngủ thiếp đi, em rơi vào tình trạng chập chờn thức tỉnh, vẫn cảm nhận được
những gì diễn ra xung quanh em, nhưng không còn đủ sức để tự vệ hoặc chạy trốn
nữa.
Em lê người đến
giường để tìm phương tiện bảo vệ duy nhất còn lại, đó là con dao cứu mạng.
Nhưng em chỉ đến được đầu giường là quỵ gối xuống, hai tay em bám chặt lấy chân
giường, thế là em hiểu rằng em nguy mất.
Felten tái người
một cách ghê rợn, một cơn run rẩy co quắp chạy khắp toàn thân. Milady tiếp tục,
lạc giọng đi như thể vẫn còn cảm thấy mối lo trong cái khoảnh khắc hãi hùng đó:
- Điều ghê rợn nhất
là lần này em có ý thức về mối nguy đang đe dọa mình, là em có thể nói linh hồn
mình vẫn thức trong cái thể xác đã ngủ thiếp, là em đã trông, đã nghe thấy,
đúng là tất cả những cái đó như trong một cơn mơ, nhưng đó lại chỉ là một cơn
mơ hãi hùng nhất.
Em thấy ngọn đèn
dâng lên rồi dần dần để em lại trong bóng tối, rồi em nghe thấy tiếng động quen
thuộc của chiếc cửa, cho dù nó mới chỉ được mở ra có hai lần.
Bằng bản năng, em
cảm thấy người ta lại gần em, giống như một kẻ không may lạc trong những sa mạc
châu Mỹ cảm thấy con rắn đến gần.
Em muốn cố làm một
điều gì đó, em đã thử kêu lên, bằng một quyết tâm không thể tưởng tượng nổi, em
đã vùng đứng lên được nhưng rồi lại ngã xuống ngay và ngã vào hai cánh tay tên
ngược đãi em.
- Hãy nói cho tôi
biết kẻ đó là ai đi! - Viên sĩ quan trẻ kêu lên.
Chỉ cần liếc mắt
cái, Milady đã thấy hết nỗi đau đớn của Felten mà nàng đã gợi ra cho anh ta,
nàng xem xét lại từng chi tiết của câu chuyện kể, không định tha cho anh ta bất
kỳ một sự cắn rứt nào kết. Càng làm cho cõi lòng anh ta tan nát bao nhiêu, càng
chắc chắn anh ta sẽ báo thù cho nàng bấy nhiêu. Nàng tiếp tục, làm như không
nghe thấy tiếng kêu than của anh ta, hoặc cũng có thể nàng nghĩ chưa đến lúc
trả lời câu hỏi đó.
- Có điều, lần này
không còn là chuyện tên đê tiện giở trò với một cái xác bất động, không một
chút tình cảm nào như lần trước nữa. Như đã nói với anh đấy, tuy không thể tìm
lại được sự thuần thục của các khả năng của mình nữa, em vẫn còn cảm nhận được
mối nguy, em chống lại bằng toàn bộ sức lực của mình, và dù sức đã yếu lắm rồi,
em vẫn chống lại được khá lâu, bởi em nghe thấy tiếng hắn kêu lên: "Lũ đàn
bà Thanh giáo khốn kiếp! Ta thừa biết chúng thường làm cho lũ đao phủ của chúng
phải mệt nhoài, nhưng ta cứ tưởng chúng yếu hơn khi cưỡng lại những người tình
của chúng!".
Than ôi, cuộc chống
cự tuyệt vọng ấy không thể kéo dài mãi, em cảm thấy sức lực mình cạn kiệt dần,
và lần này, không phải tên đê tiện lợi dụng em trong giấc ngủ nữa mà là lúc em
bị xỉu đi.
Felten lắng nghe,
không thất ra một lời nào ngoài một tiếng gầm khan, duy chỉ có mồ hôi đầm đìa
trên vầng trán lạnh như đá, và bàn tay giấu trong áo cấu xé ngực mình.
- Khi tỉnh dậy,
hành động đầu tiên của em là tìm dưới gối con dao mà em đã không với đến được.
Nếu như nó đã không dùng gì được cho việc tự vệ, ít ra nó cũng có thể dùng cho
việc chuộc tội. Nhưng cầm con dao, Felten ạ, một ý nghĩ khủng khiếp chợt đến
với em. Em đã thề nói hết với ông, vậy em sẽ nói hết. Em đã hứa với ông nói hết
sự thật, vậy em sẽ nói ra sự thật, dù sự thật đó có thể hại em.
- Ý nghĩ sẽ trả thù
tên đàn ông đó, có phải không? - Felten hỏi.
- Vâng, đúng thế
đấy - Milady nói - ý nghĩ đó không xứng với một tín đồ, em biết thế, chắn hẳn
tên kẻ thù vĩnh viễn của linh hồn chúng ta, con sư tử đực gầm thét không ngừng
xung quanh chúng ta đã thổi vào đầu óc em cái ý nghĩ đó. Rốt cuộc, em biết nói
gì với ông đây, Felten? - Milady tiếp tục với giọng điệu một người đàn bà tự
buộc tội mình - Ý nghĩ ấy đến với em và chắc chắn sẽ không bao giờ rời khỏi em
nữa. Chính là do cái ý nghĩ sát nhân đó mà giờ đây em đang phải chịu trừng
phạt.
- Tiếp tục đi, tiếp
tục - Felten nói - Tôi đang mong đến đoạn báo thù.
- Ồ, Em quyết định
việc trả thù tiến hành càng sớm càng tốt, em tin chắc đêm sau thế nào hắn cũng
đến. Ban ngày, em chẳng có gì phải sợ. Vì vậy, tới giờ ăn sáng, em cứ việc
thoải mái ăn uống. Bữa tối em quyết định giả vờ ăn nhưng chẳng ăn gì cả. Muốn
vậy em phải lấy việc ăn bữa sáng chống chọi lại cái đói bữa tối.
- Có điều, em phải
bớt một cốc nước bữa sáng giấu đi, cái khát đã từng làm em khổ sở, nhất là khi
em bốn tám tiếng đồng hồ không ăn không uống.
Ngày trôi đi không
có một chút tác động nào đến em, ngoài việc càng quyết tâm hơn ý định trả thù.
Có điều em cần giữ sao cho vẻ mặt mình không phản lại ý nghĩ thầm kín trong
lòng, bởi em tin chắc em sẽ bị quan sát, nhiều lúc, em còn cảm thấy có cả nụ
cười trên môi mình nữa. Felten ạ, em không dám nói ra với ông em mỉm cười vì đã
nghĩ gì đâu, em sợ ông kinh tởm em vì điều đó.
- Tiếp tục đi, tiếp
tục đi - Felten nói - bà biết rõ tôi đang lắng nghe mà và tôi đang nóng ruột
nghe nó đi đến đâu.
- Rồi trời lại tối,
những sự cố thông thường lại được hoàn tất. Trong bóng tối, như thường lệ, bữa
tối lại được dọn ra, rồi đèn lại thắp sáng, em ngồi vào bàn ăn.
Em chỉ ăn mấy trái
cây thôi, em vờ như rót nước từ bình nước nhưng chỉ uống nước em đã trữ sẵn
trong cốc, hơn nữa, việc đánh tráo được tiến hành rất khéo khéo khiến cho những
kẻ rình mò không một chút nghi ngờ.
Sau bữa tối, em làm
như có những dấu hiệu lơ lơ như đêm trước, nhưng lần này, em làm như không
thắng nổi mệt mỏi hoặc như thể đã quen với hiểm nguy, em lê người tới giường
cởi váy áo và đi nằm.
Lần này, em tìm lại
được con dao dưới gối, giả vờ ngủ, tay nắm chặt chuôi dao.
Hai giờ trôi qua
không xảy ra chuyện gì mới cả. Lần này, ô, Chúa ơi! Tối qua đâu có chuyện đó!
Em bắt đầu lo hắn không đến.
Cuối cùng, em cũng
thấy đèn nâng lên nhẹ nhàng và biến mất trong chiều sâu của trần nhà, căn buồng
em toàn là bóng tối nhưng em cố sức nhìn xuyên qua bóng đêm.
Khoảng gần mười
phút trôi qua. Em chẳng nghe thấy tiếng gì khác ngoài tiếng đập của trái tim
mình.
Em cầu trời cho hắn
tới. Cuối cùng, em cũng nghe thấy tiếng động cửa quen thuộc mở ra và đóng lại.
Mặc dầu thảm trải khá dầy, em vẫn nghe thấy tiếng sàn nhà kêu khẽ. Mặc dầu bóng
đêm dày đặc, em vẫn nhìn thấy một bóng người lại gần giường em.
- Nhanh lên, nhanh
lên nào! - Felten nói - Bà không thấy mỗi lời nói của bà đều như thiêu đốt lòng
tôi ư?
- Thế là - Milady
tiếp tục - em tập trung hết sức lực, em nhớ ra đây là lúc trả thù hay đúng hơn,
tiếng chuông công lý đã điểm. Em tự coi mình như một nàng Judita khác, em thu
mình lại, dao trong tay và khi em đã thấy hắn ở bên em và đang dang rộng hai
tay để tìm nạn nhân của hắn, thế là thét một tiếng cuối cùng đau đớn và tuyệt
vọng, em phóng dao vào ngực hắn.
Tên khốn kiếp! Hắn
đã đề phòng. Ngực hắn đã che một tấm lưới sắt Con dao quằn lại.
"Chà!" - Hắn kêu lên, nắm lấy cánh tay em, giật lấy con dao đã chẳng
làm nổi việc gì. "Chà, người đẹp Thanh giáo, nàng định giết ta ư? Nhưng
thế thì còn hơn cả căm hận, như thế là sự bội bạc! Thôi nào, hãy bình tĩnh lại,
cô bé xinh đẹp của ta? Ta cứ tưởng nàng đã dịu dàng lên rồi. Ta đâu phải một
tên bạo chúa dùng sức mạnh để giữ chặt đàn bà. Nàng không yêu ta. Ta vốn tự phụ
nên không tin điều đó. Giờ thì ta tin chắc rồi. Ngày mai nàng sẽ được tự
do"
Em chỉ có một ước
muốn, đó là hắn giết em đi vì vậy em bảo hắn: "Hãy coi chừng, bởi tự do
của tôi, chính là sự ô nhục của ông" - " Nói rõ ra xem nào, cô đồng
bóng xinh đẹp của ta" "Đúng thế đấy, bởi ra khỏi đây một cái, là tôi
sẽ nói hết, tôi sẽ nói ông đã dùng bạo lực đối với tôi, tôi sẽ nói việc tôi bị
giam cầm, tôi sẽ tố cáo cái lâu đài đê nhục này, ông quyền quý cao sang thật
đấy, nhưng hãy biết run sợ! Trên ông còn có Vua, trên Vua còn có Thượng
đế".
Kẻ ngược đãi em có
vẻ tự chủ đến thế, mà cũng không tránh khỏi hầm hầm giận dữ. Em không thể nhìn
rõ nét mặt hắn, nhưng em cảm thấy cánh tay hắn run lên trong bàn tay em.
"Thế thì nàng
sẽ không ra khỏi đây nữa!" - Hắn nói thế. Em kêu lên: "Được, được
thôi! Thế thì nơi tôi bị khổ hình cũng sẽ là nấm mồ của tôi. Được, tôi sẽ chết
ở đây. Và ông sẽ thấy liệu một hồn ma tố cáo ông có khủng khiếp hơn một người
sống hàm dọa ông không". - "Người ta sẽ không để lại cho nàng một thứ
vũ khí nào để mà tự sát!". "Có một thứ vũ khí mà sự tuyệt vọng đã đặt
trong tầm tay của bất cứ kẻ nào có đủ dũng khí dùng đến nó. Tôi sẽ để mình chết
đói". Tên khốn nạn nói: "Nghĩ xem, hòa bình lại không hơn là chiến
tranh? Ta sẽ trả tự do cho nàng ngay tức khắc. Ta ban tiết hạnh cho nàng, ta
tôn nàng lên hàng Lucrét của nước Anh(1). "Còn tôi, tôi bảo ông là một tên
Xếchtútx, tôi sẽ vạch mặt ông trước mọi người, như tôi đã từng vạch mạch ông
trước Chúa, và nếu cần phải như Lucrét, ký vào bản cáo trạng bằng máu của mình,
tôi sẽ ký". Kẻ thù của em nói bằng một giọng nhạo báng: "Ồ, đó lại là
chuyện khác. Thật ra, suy cho cùng, nàng ở đây cũng tốt, nàng chẳng thiếu thứ
gì và nếu như nàng muốn nhịn cho chết đói thì đó là lỗi của nàng".
Nói rồi, hắn rút lui. Em nghe thấy
tiếng cửa mở rồi lại đóng và em xin thú thật, em vẫn còn chìm đắm trong nỗi
đau, nhưng vẫn không bằng việc chưa trả được thù.
Hắn giữ lời hứa với em. Suốt cả ngày
rồi cả đêm hôm sau trôi qua mà em không gặp lại hắn. Nhưng em cũng giữ lời, em
không ăn, không uống, em quyết định, như đã nói với hắn, sẽ để mình chết đói.
Đêm ngày em cầu nguyện bởi em hy vọng
Chúa sẽ tha tội tự sát cho em.
Đêm thứ hai, cửa mở, em nằm lăn dưới
đất sức lực rời rã. Nghe tiếng động, em chống tay ngồi dậy. "Thế nào! -
Một giọng nói rung lên khủng khiếp bên tai em khiến em không nhận ra ai nữa -
Thế nào? Chúng ta đều mát tính bớt một chút rồi chứ? Và nàng sẽ trả giá cho tự
do của mình bằng một lời hứa sẽ lặng im chứ? Nghe đây, ta vốn là một ông hoàng
tốt bụng - hắn nói thêm - cho dù không ưa bọn Thanh giáo, ta vẫn công bằng với
họ, với đàn bà Thanh giáo khi họ đẹp, cũng thế thôi. Vậy nàng hãy thề một chút
trước cây thánh giá, ta không đòi hỏi gì hơn đâu?" "Thề trên thánh
giá ư?" - Em vừa đứng dậy vừa kêu lên, bởi nghe cái giọng ghét độc ghét
địa ấy, em lại lấy lại được mọi sức lực – "Trên thánh giá ư? Tôi thề không
hứa hẹn nào, không hăm dọa nào, không tra khảo nào bịt nổi miệng tôi, đấy, thề
trên thánh giá như thế đấy! Tôi thề sẽ vạch mặt ông ở khắp nơi là một kẻ sát
nhân, một gã sở khanh, một tên hèn hạ. Trên thánh giá, tôi thề nếu bao giờ tôi
có thể thoát được khỏi đây, tôi sẽ nhân danh toàn bộ giống người đòi trả thù
ông". "Coi chừng đấy!" - giọng nói với vẻ đe dọa em chưa từng
nghe thấy cất lên - "Ta có một biện pháp tối hậu, cùng lắm ta mới phải
dùng đến để khóa miệng nàng lại hoặc ít nhất cũng ngăn không cho mọi người tin
dù chỉ một lời của nàng".
Em thu hết sức lực để trả lời hắn bằng
một tràng cười.
Hắn thấy từ nay giữa em và hắn sẽ là
chiến tranh vĩnh viễn, cuộc chiến sinh tử "Nghe đây - hắn nói - Ta cho
nàng nốt đêm nay và ngày mai. Nghĩ cho kỹ, và hãy hứa câm miệng. Sự giàu có,
danh giá, và cả danh dự nữa sẽ quây quanh nàng. Dọa nạt tố giác, ta sẽ xử nàng
tội ô nhục" - "Ngươi - Em kêu lên - Ngươi xử ư?" "Tội ô
nhục suốt đời, không xóa được"! - "Ngươi ư?" - Em nhắc lại.
Ôi, ông Felten, em ngỡ là hắn điên cơ! "Đúng
ta sẽ làm thế!" - Hắn nhắc lại. "Này, để mặc tôi - Em nói với hắn -
Ra đi, nếu ngươi không muốn tận mắt ngươi, ta đập đầu vào tường" -
"Hay lắm - Hắn nhắc lại - nàng đã muốn thế - Hẹn tối mai!" -
"Thì tối mai!" - Em vừa trả lời vừa ngã xuống cắn xé tấm thảm như
phát dại.
Felten phải tựa mình vào ghế, và Milady
thấy có lẽ chàng ta không còn đủ sức nữa trước khi câu chuyện kết thúc.
Chú thích:(1)
Xếchtútx Táckiníut, con trai của Táckiníut Xúppécbútx. Ông vua thứ bẩy của La
Mã, bắt cóc nàng Lucrét tiết hạnh, sự tự sát của nàng tiếp đó là nguyên nhân sự
lật đổ cả ngôi vua và thay thế bằng chế độ cộng hòa La mã năm 509 trước CN.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 57
Một thủ pháp bi
kịch cổ điển.
Sau một lát im lặng
để quan sát chàng trai trẻ, Milady tiếp tục:
- Gần ba ngày trời
em không uống không ăn, chịu những cực hình tàn khốc, đôi khi như có những đám
mây thít chặt lấy trán em, bịt kín mắt em, đó là lúc em mê sảng.
Tối đến, em quá yếu
đến nỗi mỗi lúc em ngất đi là mỗi lần em cảm ơn Chúa, bởi em tưởng mình sắp
chết.
Giửa một lần đang
ngất đi như thế, em nghe thấy tiếng cửa mở, nỗi hãi hùng làm em tỉnh lại.
Hắn vào phòng em,
theo sau là một tên đeo mặt nạ, hắn cũng đeo mặt nạ, nhưng em nhận ra tiếng
chân hắn, giọng nói hắn em nhận ra cái vẻ oai phong mà địa ngục đã đem lại cho
con người hắn để hắn đem lại bất hạnh cho nhân loại. Hắn bảo em: "Thế nào?
Nàng đã quyết định thề với ta như ta đã yêu cầu chưa?" - "Ông đã từng
nói, dân Thanh giáo chỉ nói một lời. Lời tôi nói, ông đã nghe rồi, đó là trên
trái đất sẽ theo ông đến tòa án của con người, lên trên trời, sẽ đưa ông ra tòa
của Chúa!". "Vậy là nàng vẫn ngoan cố!" - "Tôi thề trước
Đức Chúa thấu hiểu lòng tôi, là tôi sẽ đem toàn nhân loại ra làm chứng cho tội
ác của ông, và vẫn làm như thế cho đến khi tìm được một người báo thù! -
"Ngươi là một con điếm - hắn gầm lên như sấm - ngươi sẽ phải chịu cực hình
cho loài đĩ điếm! Ngươi sẽ được bêu riếu trước mắt cái nhân loại mà ngươi định
viện dẫn, ngươi hãy cố chứng tỏ cho cái nhân loại ấy biết là ngươi không hề
phạm tội, cũng chẳng điên rồ!". Rồi, hắn nói với kẻ đi theo hắn: "Đao
phủ, làm nhiệm vụ của người đi!"
- Ôi, tên hắn, tên
hắn là gì? - Felten kêu lên - Tên hắn, nói cho tôi biết đi!
- Thế là, mặc cho
em kêu thét, mặc cho em kháng cự, bởi em bắt đầu hiểu ra sắp có chuyện tệ hại
với em còn hơn cả cái chết, tên đao phủ túm lấy em, đè ngửa em ra sàn nhà, ghì
chặt lấy em. Em khóc nức nở, gần như ngạt thở, như bất tỉnh, cầu Chúa, Chúa
không nghe, bất thình lình em hét lên một tiếng khủng khiếp đau đớn và hổ nhục:
lừa cháy rừng rực, thanh sắt nung đỏ, thanh sắt của đao phủ in lên vai em.
Felten gầm lên một
tiếng.
- Thế đấy - Milady
vừa nói vừa đứng lên uy nghi như một bà hoàng - Thế đấy, Felten ạ, ông đã thấy
người ta phát minh ra một cực hình mới như thế nào đối với một thiếu nữ trong
trắng tuy nhiên lại là nạn nhân của sự tàn bạo của một kẻ hung ác nham hiểm.
Ông hãy học cách hiểu lòng dạ con người và từ nay ông đừng có dễ dàng biến mình
thành công cụ của những cuộc báo thù bất chính của họ.
Milady cởi phắt áo
dài ra, xé toang miếng vải lanh mịn che ngực, mặt bừng bừng vờ giận dữ và hổ
nhục, chỉ cho chàng trai trẻ cái dấu chín không thể xóa nổi làm nhơ nhuốc một
bên vai tuyệt đẹp của nàng.
- Nhưng - Felten
kêu lên - tôi thấy đó là bông hoa huệ cơ mà!
- Sự xấu xa chính
lại là ở chỗ ấy. Milady trả lời - Nếu là dấu chín ô nhục của Anh quốc. Tôi sẽ
phải làm rõ tòa án nào buộc tội tôi như thế và tôi sẽ công khai khiếu nại với
tất cả các tòa án của vương quốc. Nhưng mà là dấu chín ô nhục của nước Pháp. Ôi
nếu của nước Pháp, bởi nước Pháp, thì tôi thực sự bị đóng dấu chín rồi.
Như thế là quá mức
với Felten.
Tái xanh, bất động,
bị dồn ép bởi sự phát giác rùng rợn, bị choáng mắt bởi sắc đẹp siêu nhiên mà
người đàn bà đó đã vén toang ra cho chàng hết sức trơ trẽn nhưng chàng ta lại
thấy là cao cả, cuối cùng chàng ta quỳ gối trước mặt nàng giống như những tín
đồ Thiên Chúa đầu tiên quỳ gối trước những nữ thánh tuẫn đạo trong trắng bị các
hoàng đế bạo ngược ném vào trong các hí trường làm trò dâm dục đẫm máu cho đám
hạ lưu. Cái dấu chín ô nhục biến mất, chỉ sắc đẹp là còn lại.
- Xin lỗi, xin thứ
lỗi! - Felten kêu lên -hãy thứ lỗi cho tôi!
Milady đọc trong
đôi mắt gã: Tình yêu, tình yêu.
- Xin lỗi cái gì -
Nàng hỏi.
- Xin lỗi vì đã
liên kết với những kẻ ngược đãi nàng.
Milady chìa bàn tay
ra cho gã.
- Quá đẹp, quá trẻ!
- Felten vừa nói vừa tới tấp hôn.
Milady nhìn gã bằng
con mắt như thể hoán cải gã từ một tên nô lệ thành một quân vương.
Felten là một tín
đồ Thanh giáo. Gã buông tay người đàn bà để hôn chân nàng.
Không phải là yêu
nữa mà là hắn tôn thờ nàng.
Khi cơn khủng hoảng
đó đã qua đi, khi Milady ra vẻ đã bình tĩnh trở lại, tuy chưa bao giờ mất, thì
Felten cũng thấy kho báu tình yêu khép lại dưới tấm màn trinh bạch, cái kho báu
mà người ta cất giấu rất kỹ khiến cho càng thêm khát mãnh liệt hơn.
- Thôi, bây giờ tôi
chỉ còn một điều để hỏi nàng - gã nói - đó là tên của tên đao phủ đích thực,
bởi đối với tôi, chỉ có một tên thôi, tên kia là công cụ, thế thôi.
- Sao thế anh! -
Milady kêu lên - em lại còn phải nói đích danh ra cho anh ư? Anh không đoán ra
ư?
- Sao! - Felten lắp
lại - Hắn ư… lại là hắn!… Vẫn là hắn…
- Sao? Tên tội phạm
chính tông.
- Tên tội phạm
chính tông -Milady nói - Đó là kẻ tàn phá nước Anh, kẻ ngược đãi những tín đồ
chân chính, kẻ hèn hạ đánh cắp danh dự của biết bao phụ nữ, kẻ có thói ngược
ngạo của con tim đồi bại sắp làm đổ bao nhiêu máu cho nước Anh, hôm nay che chở
cho những người Tin lành và nay mai sẽ phản bội họ.
- Buckingham! Đúng
là Buckingham rồi! - Felten nổi giận hét lên.
Milady giấu mặt vào
hai tay như thể không chịu nổi nỗi ô nhục khi nhắc tới cái tên ấy.
- Buckingham, tên
đao phủ của nữ thiên thần này! - Felten kêu lên - Ôi Chúa, sao Người không
giáng sấm sét lên đầu nó - - Người lại còn để nó được cao sang, tôn vinh, hùng
mạnh để gây hại cho mọi người chúng con!
- Chúa bỏ mặc kẻ
buông thả chính mình - Milady nói.
Felten càng phấn
khích hơn, tiếp tục nói:
- Nhưng Chúa lại
muốn đổ lên đầu hắn sự trừng phạt dành cho những kẻ bị nguyền rủa? Chúa muốn sự
trả thù của con người đến trước sự công bằng của Chúa!
- Con người sợ hắn
và tha cho hắn.
- Ồ, tôi - Felten
nói - Tôi không sợ hắn và tôi sẽ không tha cho hắn!
Milady thấy tâm hồn
mình như được tắm trong niềm vui địa ngục.
- Nhưng làm sao
Huân tước De Winter, người đỡ đầu của tôi, cha của tôi - Felten hỏi - lại đi
xen lẫn vào mọi chuyện này?
- Nghe đây, Felten
- Milady nói tiếp - bởi bên cạnh những con người hèn hạ và đáng khinh, vẫn còn
những bản tính lớn lao và quảng đại. Em có một vị hôn phu, một người em yêu và
cũng yêu em, một tấm lòng như của ông, Felten ạ, một người như ông. Em đến với
ông ta, và em kể cho ông ta tất cả. Ông ta hiểu em và không hề nghi ngờ chút
nào. Đó là một đại lãnh chúa. Đó là một người đàn ông mọi mặt đều tương xứng
với Buckingham.
Ông ấy không nói
gì, chỉ đeo gươm vào, khoác áo choàng lên và đi đến lâu đài Buckingham.
- Phải, phải -
Felten nói - Tôi hiểu, cho dù với những hạng người như thế, không nên dùng gươm
mà phải dùng dao găm.
Buckingham đã đi
khỏi từ hôm trước, hắn được phái đi làm đại sứ ở Tây Ban Nha để hỏi công chúa
nước này cho vua Charles đệ nhất lúc đó mới là hoàng tử xứ Gan. Vị hôn phu của
em quay về bảo em: "Nghe đây, con người ấy đã đi mất rồi, do đó, lúc này
anh chưa thể trả thù được. Nhưng trong khi chờ đợi, chúng ta hãy kết hôn như
cần phải làm thế, rồi em hãy dựa vào Huân tước De Winter(1) để giữ danh dự cho
ông ta và vợ ông ta, tức bản thân em".
- Huân tước De
Winter! - Felten kêu lên.
- Phải - Milady nói
- Huân tước De Winter, và bây giờ ông hẳn đã hiểu cả phải không? Buckingham
vắng mặt gần một năm. Tám ngày trước khi hắn trở lại nước Anh, Huân tước De
Winter chết đột tử để lại gia tài cho em là người thừa kế duy nhất. Từ đâu xảy
ra chuyện ấy. Chúa là người biết tất, chắc sẽ biết, riêng em, em không buộc tội
ai…
- Ôi, vực thẳm khôn
lường, đúng là vực thẳm khôn lường! - Felten kêu lên.
- Huân tước De
Winter chết mà không một lời trăng trối cho em mình. Cái bí mật khủng khiếp ấy
chắc đã được che giấu đối với tất cả cho tới khi nó nổ tung như một tiếng sét
trên đầu tên tội phạm. Người cha đỡ đầu của ông trước đó đã từng phiền lòng về
cuộc hôn nhân của anh cả mình với một thiếu nữ không tài sản. Vì vậy em cảm
thấy không trông cậy gì được vào con người bị thất vọng trong chuyện kế thừa
tài sản ấy. Em sang Pháp, quyết định ở lại đấy trong suốt quãng đời còn lại.
Nhưng tất cả tài sản của em đều ở Anh. Chiến tranh làm giao thông bị bế tắc, em
thiếu thốn đủ thứ, buộc phải quay về. Thế là em ghé cảng Portsmouth đã được sáu
ngày rồi.
- Ra thế? - Felten
hỏi.
- Thế đấy? Chắc là
Buckingham biết em quay về, hắn nói về em với Huân tước De Winter, là người sẵn
thành kiến chống lại em, rằng chị dâu ông ta là một con điếm, một con đàn bà bị
đóng dấu ô nhục. Tiếng nói cao quý và trong trắng của chồng em đâu còn nữa để
bênh vực em. Ông Winter tin tất cả những gì hắn nói quá dễ dàng, vì càng tin
càng có lợi cho mình. Ông ta cho bắt em, cho đưa em đến đây, đặt em dưới sự
canh giữ của ông. Phần còn lại, ông biết rõ rồi. Ngày kia ông ấy trục xuất, ông
ấy lưu đày em rồi, ngày kia ông ấy quăng em vào lũ xấu xa đê mạt rồi. Ôi, quỷ
kế xếp đặt tài tình, âm mưu thật là khéo, danh dự em vì thế sẽ đi đời. Ông đã
thấy em nên chết chưa, Felten? Felten, đưa em con dao?
Nói rồi, làm như
thể mọi sức lực của mình đã cạn kiệt, nàng lảo đảo lả người vào trong hai cánh
tay viên sĩ quan trẻ đang say sưa trong tình yêu, trong giận dữ và trong những
khoái cảm xa lạ, sướng quá vội đón lấy nàng, ghì chặt nàng vào ngực mình, toàn
thân run lên trước hơi thở của cái miệng quá ư xinh đẹp, và lạc hẳn hồn đi khi
chạm phải bầu vú cứ rung rung lên đến thế.
- Không, không -
chàng ta nói - em sẽ sống trong danh dự và trong trắng, em sẽ sống để chiến
thắng kẻ thù của em.
Milady lấy tay khẽ
đẩy, nhưng mắt lại hút chàng ta lại.
Nhưng Felten, đến
lượt mình, lại giữ chặt lấy nàng, van xin nàng như với một Đấng thiêng liêng.
- Ôi! Phải chết!
Phải chết! - Nàng vừa nói vừa lấy tay che miệng và mi mắt - Ồ, chết còn hơn là
ô nhục, Felten anh của em, bạn của em, em xin anh đấy.
- Không Felten kêu
lên - không, em sẽ sống, em phải sống để trả thù.
- Felten, em mang
bất hạnh cho mọi người quanh em? Felten hãy rời bỏ em ra? Felten, hãy để em
chết.
- Đã vậy chúng ta
cùng chết! - Felten vừa kêu lên vừa áp môi mình vào môi nữ tù nhân.
Nhiều tiếng gõ cửa,
lần này Milady đẩy anh chàng ra thực.
- Nghe nào, - Nàng
nói - họ nghe thấy hết chúng ta rồi, họ đã đến. Thế là xong chuyện. Chúng ta
toi rồi?
- Không - Felten
nói - đó là tên lính canh báo cho anh có một đội tuần tra đang đến thôi mà.
- Thế thì anh chạy
nhanh ra cửa và tự mở cửa ra đi.
Felten nghe theo.
Người đàn bà đó đã hút hết hồn anh ta rồi.
Anh ta thấy trước
mặt mình một viên đội chỉ huy một đội tuần tra.
- Này, có chuyện gì
vậy?
- Ông dặn tôi mở
cửa nếu nghe tiếng kêu cứu -người lính nói - nhưng ông lại quên để chìa khóa
cho tôi, tôi có nghe thấy ông kêu nhưng không hiểu ông nói gì, tôi muốn mở cửa
nhưng cửa lại khóa ở bên trong, cho nên tôi phải gọi ông đội.
- Và tôi đã có mặt
ở đây - viên đội nói Felten, điếng người, gần như phát điên, không nói nổi điều
gì.
Milady hiểu rằng
chính mình phải nắm lấy tình thế, liền chạy đến bàn vớ lấy con dao mà Felten đã
để lên đấy.
- Và ông lấy quyền
gì ngăn tôi không được chết? - Nàng nói.
- Trời ơi! - Felten
kêu lên khi nhìn thấy con dao sáng loáng trong tay nàng.
Đúng lúc ấy, một
tràng cười mỉa mai vang lên ở hành lang.
Huân tước, bị thu
hút bởi tiếng động, vẫn mặc áo ngủ, gươm cầm trong tay chạy đến đứng ở ngưỡng
cửa và nói:
- Chà, hay lắm! Màn
cuối của bi kịch đây! Thấy chưa, Felten, vở diễn đã theo đúng các đoạn cảnh mà
tôi đã chỉ ra. Nhưng yên tâm đi, máu sẽ không chảy đâu.
Milady hiểu rằng
mình sẽ nguy to nếu không tức khắc đem đến cho Felten một bằng chứng khủng
khiếp về lòng dũng cảm của mình.
- Ông nhầm đấy,
Huân tước ạ, máu sẽ chảy và cầu cho máu ấy có thể rơi xuống mặt những kẻ làm
cho nó chảy.
Felten thét lên một
tiếng và nhẩy bổ vào nàng. Nhưng đã quá muộn. Milady đã tự đâm mình.
Nhưng con dao may
sao, phải nói là khéo sao mới đúng, chỉ đâm phải tấm sắt uốn cong mà vào thời
đó được dùng như một thứ áo giáp che ngực cho phụ nữ, mũi dao bị trượt đi làm
rách áo và đâm xiên vào thịt giữa hai giẻ xương sườn. Áo của Milady loang đầy
máu.
Milady ngã vật ra
và hình như bị ngất.
Felten rút con dao
ra, sa sầm mặt lại và nói:
- Thưa Huân tước,
ngài xem, đây là người đàn bà được tôi canh giữ và đã tự sát!
- Yên tâm, Felten -
Ông De Winter nói - bà ta không chết đâu, lũ yêu ma không dễ chết như thế, cứ
yên tâm, về đợi ở phòng tôi.
- Nhưng thưa Huân
tước…
- Đi đi, tôi ra
lệnh cho anh đấy.
Lệnh của cấp trên,
Felten phải tuân theo, nhưng khi ra, gã thủ con dao trong ngực mình.
- Còn ông De Winter
đành phải cho gọi người hầu phòng của Milady đến giao nữ tù nhân vẫn đang ngất
cho bà, bỏ mặc hai người ở đấy.
- Tuy nhiên, mặc
dầu vẫn nghi ngờ, nhưng đại để vết thương có thể nặng, ông ta liền sai một
người cưỡi ngựa ngay tức khắc đi tìm thầy thuốc.
Chú thích:
(1) Ý nói anh cả của Huân tước De Winter, cũng tên là De Winter
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 58
Vượt ngục
Như ông De Winter
nghĩ, vết thương của Milady không nguy hiểm, cho nên ngay từ lúc chỉ còn lại
với người đàn bà mà Huân tước đã cho gọi người này vội cởi áo của nàng ra, nàng
đã mở mắt.
Tuy nhiên, cần phải
chơi trò đau yếu, mà cái trò này lại không khó đối với một diễn viên hài như
Milady. Vì vậy người đàn bà đáng thương này hoàn toàn bị nữ tù nhân lừa bịp,
mặc dầu nàng nài nã nói không cần nhưng bà ta vẫn cưỡng lại, thức suốt đêm
trông coi.
Nhưng sự có mặt của
người đàn bà đó không ngăn nổi Milady suy nghĩ.
"Không còn
chút nghi ngờ nào nữa, Felten đã bị thuyết phục, Felten đã thuộc về nàng. Với
trạng thái tâm lý như hiện nay thì ngay một thiên thần có hiện ra để buộc tội
Milady, chàng ta cũng sẽ coi là tay sai của quỷ sứ".
Nghĩ vậy Milady mỉm
cười, bởi từ này Felten chính là nguồn hy vọng duy nhất, phương tiện duy nhất
để cứu nàng.
Nhưng Huân tước De
Winter có thể đã nghi ngờ chàng ta và giờ đây Felten có thể bị chính ông giám
sát.
Vào khoảng bốn giờ
sáng, thầy thuốc tới, nhưng từ lúc Milady tự đâm, vết thương nay đã kín miệng,
thầy thuốc chẳng thể xác định được nông sâu, xiên xẹo ra sao, ông ta chỉ nhận
ra sau khi bắt mạch là vết thương không có gì trầm trọng.
Sáng ra, Milady vin
cớ suốt đêm không ngủ, cần được nghỉ ngơi, đuổi người đàn bà chăm nom cho mình
đi.
Nàng có một hy
vọng, đó là Felten tới, lúc ăn điểm tâm.
Nhưng Felten lại
không tới.
Những điều nàng lo
sợ thành sự thật rồi chăng? Felten do bị Huân tước nghi ngờ sẽ thiếu vắng trong
khoảnh khắc quyết định chăng? Nàng chỉ còn có một ngày. Huân tước thông báo
ngày nàng xuống tàu là 28 mà lúc này đã sáng ngày 22.
Tuy nhiên nàng vẫn
kiên nhẫn đợi cho tới bữa trưa.
Cho dù nàng không
ăn sáng, bữa trưa vẫn được dọn tới đúng giờ thường lệ, Milady lúc này kinh hãi
nhận thấy đồng phục của bọn lính canh giữ đã thay đổi.
Milady hỏi cầu âu
xem Felten ra sao. Họ trả lời Felten đã cưỡi ngựa đi đâu đó trước đây một giờ
rồi.
Nàng lại hỏi thăm
liệu Huân tước vẫn ở lâu đài chứ. Người lính trả lời vẫn đấy, và anh ta được
báo cho ông ta biết nếu người tù muốn gặp.
Milady trả lời lúc
này nàng còn yếu lắm và nguyện vọng duy nhất của nàng là được ở một mình.
Người lính ra, để
lại bữa cơm trưa.
Felten đã bị tách
ra rồi, bọn lính thủy cũng được thay. Vậy là người ta đã nghi ngờ Felten. Đó là
đòn cuối cùng đánh vào nữ tù nhân.
Còn lại một mình,
nàng ngồi dậy. Chiếc giường do thận trọng nàng đã nằm lỳ ở đấy để người ta
tưởng nàng bị thượng nặng, lúc này thiêu đốt nàng như than hồng rực lửa. Nàng
liếc mắt nhìn về phía cửa. Huân tước đã cho đóng một tấm ván bịt kín ô cửa
lưới. Chắc hẳn ông sợ, qua lỗ cửa ấy, bằng một thủ đoạn ma quái nào đấy màng
lại quyến rũ được bọn lính gác.
Milady mỉm cười vui
sướng. Vậy là có thể phó mặc cho nỗi lòng mình mà không bị quan sát. Nàng đi
quanh phòng, lồng lộn như một con điên đang giận dữ hoặc một con hổ cái bị nhốt
trong lồng sắt. Chắc chắn, nếu còn con dao, nàng nghĩ đến chuyện không phải tự
giết mình nữa mà lần này, giết ông Huân tước Lúc sáu giờ, Huân tước De Winter
vào, trang bị vũ khí đến tận răng. Cái con người mà trước đây nhìn vào, Milady
chỉ thấy là một nhà quý tộc ngốc nghếch nay đã trở thành viên cai ngục đáng
phục. Ông ta hình như biết trước, đoán trước, liệu trước được hết mọi điều.
Chỉ một cái liếc
nhìn về phía Milady là ông ta đã hiểu được điều gì diễn ra trong đầu nàng. Ông
nói:
- Ồ, thế là, hôm
nay bà lại chưa giết được tôi rồi, bà không còn vũ khí nữa, hơn nữa, tôi lại tự
canh giữ. Bà mới chỉ bắt đầu làm hư hỏng anh chàng Felten tội nghiệp của tôi.
Anh ta đã chịu cái ảnh hưởng âm ty địa ngục của bà, nhưng tôi muốn cứu anh ta,
anh ta sẽ không gặp bà nữa, tất cả đã chấm dứt, hãy gói ghém áo quần của bà
lại, ngày mai bà sẽ lên đường. Tôi đã ấn định ngày xuống tàu là 24, nhưng tôi
đã nghĩ lại, càng làm sớm hơn càng an toàn. Trưa mai, tôi sẽ có lệnh lưu đày bà
do ông Buckingham ký. Nếu bà nói một câu với bất cứ ai trên tàu, viên đội của
tôi sẽ bắn vỡ sọ bà, ông ta đã được lệnh như thế. Nếu trên tàu, bà nói một câu
với bất kỳ ai mà chưa được thuyền trưởng cho phép, thuyền trưởng sẽ cho quẳng
bà xuống biển, đã thỏa thuận như thế cả rồi. Tạm biệt, đó là những gì hôm nay
tôi cần nói với bà. Ngày mai tôi sẽ gặp lại bà để chào vĩnh biệt!
Nói rồi Huân tước
đi ra.
Milady nghe cả một
tràng đe nẹt ấy với nụ cười khinh thị trên môi, nhưng với cơn điên dại trong
lòng.
Người ta dọn bữa tối. Milady cảm thấy
mình cần phải có đủ sức, nàng không biết điều gì có thể diễn ra trong cái đêm
đầy đe dọa đang đến gần này, bởi từng đám mây lớn đang cuồn cuộn trên trời và
những ánh chớp xa báo hiệu có cơn giông.
Cơn giông nổi lên lúc mười giờ tối,
Milady cảm thấy niềm an ủi được thiên nhiên chia sẻ những rối loạn trong lòng. Sét
gầm thét trong không trung như những cơn giận trong tư tưởng của nàng. Hình như
mỗi trận gió đi qua làm rối tung tóc nàng trên trán giống như nó vật vã cành
cây và cuốn lá bay đi. Nó gầm rú như bão tố, và tiếng gầm rú đó tan lẫn vào
tiếng kêu lớn của tự nhiên, như thể chính tự nhiên hình như cũng than vãn và
tuyệt vọng.
Bất thình lình nàng nghe thấy tiếng gõ
vào cửa kính và trong ánh chớp, nàng nhìn thấy một khuôn mặt người đàn ông hiện
ra sau song cửa.
Nàng chạy đến cửa sổ và mở ra.
- Felten - nàng reo lên - Em được cứu
rồi!
- Đúng thế - Felten nói - nhưng im nào,
im nào! Phải có thì giờ để cưa chấn song, có điều nàng hãy coi chừng bọn chúng
nhìn thấy nàng qua ô cửa lưới.
- Ồ, đó là một bằng chứng Thượng đế đã
giúp chúng ta, Felten ạ - Milady nói tiếp - họ đã bịt kín ô cửa lưới bằng một
tấm ván rồi.
- Tốt lắm. Chúa đã làm cho chúng mất
trí hết rồi!
- Nhưng em phải làm gì đây? - Milady
hỏi.
- Không gì cả. Chỉ đóng cửa sổ lại
thôi. Đi nằm ngủ hoặc ít nhất cũng mặc nguyên quần áo đi nằm. Khi nào xong tôi
sẽ gõ lên ô kính. Nhưng nàng có thể đi theo nổi tôi không?
- Ô, có chứ.
- Thế vết thương?
- Làm em đau, nhưng không ngăn nổi em
bước.
- Vậy hãy chuẩn bị sẵn sàng có ám hiệu
là đi ngay.
Milady đóng cửa sổ lại, tắt đèn và làm
đúng như lời Felten dặn, nằm thu lu trên giường. Nàng nghe thấy tiếng giũa cưa
ken két vào song cửa, và cứ trong mỗi ánh chớp nàng lại nhìn thấy Felten sau ô
kính.
Nàng trải qua một giờ nín thở, hổn hển,
mồ hôi đầm đìa trên trán. Mỗi khi nghe thấy một tiếng động nào ngoài hành lang
là tim nàng lại thót lại, hoảng hồn.
Mỗi giờ như dài bằng một dặm.
Khoảng một giờ sau, Felten lại gõ cửa.
Milady chồm khỏi
giường và ra mở. Hai chấn song bị cưa mất tạo thành một lỗ hổng vừa một người
chui.
- Nàng đã sẵn sàng
chưa? - Felten hỏi.
- Rồi. Em có nên
mang theo vài thứ gì không?
- Vàng, nếu nàng
có.
- Có, may sao, họ
lại để nguyên số vàng em có.
- Càng tốt, bởi tôi
đã sử dụng tất cả những gì tôi có để thuê một chiếc thuyền rồi.
- Chàng cầm lấy -
Milady vừa nói vừa đặt tay Felten một chiếc túi đầy đồng louis vàng.
Felten cầm chiếc
túi và ném xuống chân tường và nói:
- Bây giờ, nàng đến
đó chứ?
- Em đã sẵn sàng
đây rồi.
Milady trèo lên
chiếc ghế bành và chui cả người qua cửa sổ.
Nàng thấy viên sĩ
quan trẻ đu người trên một chiếc thang dây bên trên vực thẳm.
Lần đầu tiên, một
nỗi kinh hoàng nhắc nàng nhớ ra mình là đàn bà. Khoảng trống làm nàng khiếp
đảm.
- Tôi không tin
nàng lại sợ đâu - Felten nói.
- Không sao, không
sao - Milady nói - Em sẽ nhắm mắt leo xuống.
- Em có tin tưởng ở
tôi không? - Felten nói.
- Chàng lại phải
hỏi thế ư?
- Chụm hai bàn tay
lại, khoác vào nhau! Được rồi!
Felten lấy khăn tay
trói hai tay nàng lại rồi trên lượt khăn trói tiếp bằng một chiếc thừng.
Milady ngạc nhiên
hỏi:
- Chàng làm gì vậy?
Luồn hai cánh tay
qua cổ tôi và đừng sợ gì hết.
Nhưng em sẽ làm
chàng mất thăng bằng và chúng ta cả hai sẽ tan xương.
- Em yên tâm, tôi
là thủy thủ mà.
- Không để mất một
giây, Milady quàng hai cánh tay qua cổ Felten và luồn ra ngoài cửa sổ.
Felten bắt đầu từ
từ leo xuống từng bậc thang một, bất chấp sức nặng của hai cơ thể và cuồng
phong làm đung đưa chiếc thang dây.
Bỗng Felten dừng
lại.
- Có chuyện gì vậy?
- Milady hỏi.
- Im nào - Felten
nói - tôi nghe tiếng chân.
- Chúng ta bị phát
hiện rồi?
Vẫn thấy im lặng.
- Không - Felten
nói - không có chuyện gì.
- Nhưng rút cuộc đó
là tiếng động gì vậy?
Tiếng bọn tuần tra
trên đường đi tuần.
- Đương đi tuần ở
đâu?
- Ngay phía dưới
chúng ta.
- Bọn chúng sẽ phát
hiện ra chúng ta.
- Không, nếu không
có chớp.
- Bọn chúng sẽ chạm
phải chân thang.
- May sao nó lại bị
ngắn mất gần hai mét.
- Bọn chúng kia
kìa, lạy Chúa?
- Im nào!
Cả hai vẫn treo lơ
lửng, bất động, và không thở, khoảng sáu mét cách mặt đất. Trong khi đó bọn
lính phía dưới đang cười đùa.
- Thật là một
khoảnh khắc khủng khiếp đối với cả hai kẻ chạy trốn.
Bọn tuần canh đi qua. Tiếng bước chân
xa dần và tiếng rì rầm cũng yếu dần.
- Bây giờ - Felten nói - chúng ta thoát
rồi.
Milady thở phào và
ngất đi.
Felten tiếp tục
trèo xuống. Xuống đến cuối thang, không còn chỗ để chân nữa, chàng ta phải bíu
chặt hai tay vào dây thang mà tụt xuống, đến bậc thang cuối cùng, phải dùng hai
tay đu mình rồi buông xuống đất. Sau đó, cúi nhặt túi tiền vàng và lấy răng cắn
chặt. Rồi bế thốc Milady lên, nhanh chóng đi về phía đối diện với lối đi của
bọn tuần tra. Lát sau, chàng ta đã rời khỏi con đường tuần tra, qua các mỏm đá
lởm chởm tới bờ biển rồi thổi một tiếng còi.
Một tín hiệu tương
tự đáp lại. Năm phút sau, một chiếc thuyền với bốn tay chèo hiện ra.
Chiếc thuyền vào
sát tận gần bờ, nhưng nước không sâu lắm nên không tới hẳn bờ được. Felten lội
xuống nước đến tận thắt lưng, không muốn trao cho ai món hàng nặng quý giá.
May sao, giông bão
bắt đầu tan, tuy biển còn động mạnh.
Chiếc thuyền con
nhấp nhô trên sóng như một chiếc vỏ dừa, Felten nói:
- Chèo nhanh lên ra
thuyền buồm.
Bốn người miết tay
chèo, nhưng biển động quá mạnh, nên không đi được bao nhiêu.
- Tuy nhiên cũng xa
được lâu đài rồi. Đó là điều chính yếu.
Đêm tối mù tối mịt.
Từ thuyền hầu như không thể nhìn rõ bờ nữa, lại càng không thể từ bờ nhìn rõ
được thuyền.
Một chấm đen chao
đảo trên biển.
Đó là chiếc thuyền buồm.
Trong khi con thuyền hết sức lao đi
bằng bốn tay chèo, Felten cởi thừng rồi cởi khăn tay buộc hai tay Milady ra. Rồi
chàng ta lấy nước biển vẩy lên mặt nàng. Milady thốt lên một tiếng thở dài và
mở mắt ra.
- Tôi đang ở đâu thế này? - Nàng nói.
- Thoát rồi - Viên sĩ quan trẻ trả lời.
- Ôi, thoát rồi, thoát rồi ư? - Nàng
reo lên - Đúng, đây là trời, đây là biển rồi? Cái không khí tôi đang thở là
không khí tự do rồi ôi… cám ơn Felten, cám ơn!
Chàng trai trẻ ghì chặt nàng vào ngực
mình.
- Nhưng tay em làm sao thế này? -
Milady hỏi - Cứ như bị kẹp vỡ ra thế này?
Quả thật, khí Milady nhắc hai cánh tay,
hai cổ tay tím bầm như chết.
- Ôi! Felten vừa nói vừa nhìn đôi bàn
tay đẹp khẽ lắc đầu.
- Ồ không sao, không sao! - Milady vội
nói - Bây giờ em nhớ ra rồi.
Milady đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm. Felten
đá chân vào túi tiền vàng nói:
- Nó đây này.
Họ đã tới gần thuyền buồm. Người thủy
thủ đứng gác trên boong réo gọi, chiếc thuyền con đáp lại.
- Chiếc thuyền buồm nào vậy? - Milady
hỏi.
- Thuyền tôi thuê cho em đấy.
- Đưa em đi tới đâu?
- Đến đâu tùy em, miễn là tôi, em hãy
ném tôi lên Portsmouth.
- Anh định làm gì ở
Portsmouth?
- Hoàn thành mệnh
lệnh của Huân tước De Winter - Felten nói với một nụ cười sầm tối.
- Lệnh gì? - Milady
hỏi.
- Em không hiểu
thật ư? - Felten nói.
- Không, anh nói rõ
ra đi, em xin anh đấy.
- Vì ông ta không
tin anh nữa, ông ta muốn tự canh giữ lấy, và sai anh thay mặt ông ta mang lệnh
lưu đày em cho Buckingham ký.
- Nhưng đã không
tin anh, sao còn trao cho anh lệnh đó?
- Chẳng phải cái
lệnh tôi mang đi đã bị niêm phong rồi hay sao.
- Đúng vậy. Và anh
đến Portsmouth?
- Tôi không còn
thời gian nữa. Mai đã là 23 và Buckingham đã lên đường cùng với hạm đội của
mình rồi.
- Hắn đi ngày mai,
nhưng đi đâu?
- Đến La Rochelle.
- Không được để hắn
đi! - Milady kêu lên, mất hết bình tĩnh như thường lệ.
- Em yên tâm -
Felten trả lời -hắn sẽ không đi đâu.
Milady vui mừng đến
phát run lên. Nàng vừa đọc được trong sâu thẳm trái tim chàng trai trẻ cái chết
của Buckingham được viết rất rõ nét.
- Felten… - Nàng
nói - Anh vĩ đại như (1).
- Nếu anh chết, em
sẽ chết cùng anh. Đó là tất cả những gì em có thể nói với anh!
- Im nào! - Felten
nói - Chúng ta đến nơi rồi.
Quả thật họ đã đến
chiếc thuyền buồm.
Felten leo lên
thang trước và đưa tay kéo Milady, trong khi mấy người thủy thủ đỡ nàng lên, vì
biển còn động mạnh.
Một lát sau họ đã ở
trên boong.
- Ông thuyền trưởng
- Felten nói - đây là người mà tôi đã nói với ông, ông phải đưa bà ấy về Pháp
an toàn, nguyên vẹn.
- Thỏa thuận với
nhau là một nghìn đồng pítxtôn vàng - viên thuyền trưởng nói.
- Tôi đã đưa trước
cho ông năm trăm.
- Đúng vậy - Thuyền
trưởng nói.
- Và đây là năm
trăm nữa - Milady nói tiếp, thò tay vào túi tiền vàng.
- Không - thuyền
trưởng nói - Tôi đã hứa với chàng thanh niên này khi nào tới Bulônhơ, tôi mới
lấy nốt năm trăm.
- Và chúng ta sẽ tới chứ?
- Hoàn toàn bình yên vô sự - Thuyền
trưởng nói - cũng đúng như tên tôi là Jéc Butler vậy(2).
- Này ông? - Milady nói - Nếu ông giữ
đúng lời hứa, thì không phải là năm trăm mà tôi sẽ trả ông một nghìn nữa.
- Thế thì hoan hô bà, phu nhân kiều
diễm ạ - viên thuyền trưởng hét lên - cầu trời luôn gừi cho tôi những khách
thuê thuyền như quý bà!
- Trong khi chờ đợi - Felten nói - hãy
đưa chúng tôi vào cái vịnh nhỏ…, ông nhớ đã thỏa thuận đưa chúng tôi vào đấy.
Viên thuyền trưởng đáp lại bằng cách ra
lệnh điều khiển thuyền theo hướng đó và bẩy giờ sáng, con thuyền nhỏ đã cắm neo
ở cái vịnh đã nói.
Suốt lúc thuyền đi, Felten đã kể lể với
Milady, đáng lẽ đi London, anh ta đã thuê con thuyền này thế nào, đã trở về thế
nào, đã leo tường bằng cách leo đến đâu, lại đặt móc dẫm chân vào kẽ đá đến đấy
thế nào, và cuối cùng đã đến được song sắt, đã buộc được thang dây ra sao. Phần
còn lại, Milady đã biết.
Về phần mình, Milady cố khích lệ Felten
trong dự định của anh ta. Nhưng vừa thốt ra mấy lời đầu tiên, nàng đã nhận thấy
ngay chàng thanh niên cuồng tín đó cần được làm cho ôn hòa hơn là làm cho quyết
liệt hơn.
Hai người thỏa thuận Milady đợi Felten
đến mười giờ. Nếu mười giờ chàng ta không quay lại, nàng cứ đi.
Lúc đó, giả dụ anh chàng được tự do,
anh ta sẽ sang Pháp, gặp lại nàng ở tu viện nữ tu sĩ Cácmel ở Bêtuyn.
Chú thích:
(1) Juda Maccabcus - Một chiến binh anh hùng Do thái đã lãnh đạo thành công
cuộc nổi dậy chống ách thống trị của Xyri thế kỷ thứ 2 trước Cóng nguyên, gần
thành phố Jeruxalem.
(2) Butler (tíếng Anh) - có nghĩa là quản gia, sẽ chăm lo mọi việc chu
đáo
Thư mục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét