BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 28
Trở về.
D' Artagnan vẫn choáng váng về câu chuyện tâm tình của Athos, tuy
nhiên còn khá nhiều điều hình như vẫn còn mập mờ trong sự bộc lộ nửa vời đó.
Trước hết là chuyện do một người hoàn toàn say túy lúy kể cho một người nửa
tỉnh nửa say, và mặc dầu hơi men của vài ba chai rượu Buốcgônhơ làm mịt mù cả
đầu óc D' Artagnan, sáng hôm sau khi thức dậy, vẫn thấy mỗi lời Athos nói còn
in trong ký ức như thể ra khỏi miệng bạn đến đâu, là in vào tâm trí chàng đến
đấy. Tất cả nỗi nghi ngờ ấy chỉ khiến chàng càng khao khát mạnh hơn đi đến một
sự tường tận, và chàng sang phòng bạn với ý đồ quyết tâm nối lại cuộc trò
chuyện đêm qua, nhưng chàng thấy Athos thần trí hoàn toàn ổn định, nghĩa là con
người tinh tế và bí hiểm nhất.
Hơn nữa, người lính ngự lâm đó sau khi bắt tay chàng, đã đón trước
được ý nghĩ của chàng.
- Hôm qua tôi say quá, D' Artagnan thân mến ạ - Athos nói - Sáng
nay tôi vẫn còn cảm thấy cơn say ở đầu lưỡi tôi, nó vẫn cứ bì bì, và mạch tôi
vẫn còn đập mạnh lắm. Tôi cược rằng tôi đã nói muôn vàn điều bậy bạ lăng nhăng.
Vừa nói, Athos vừa nhìn bạn mình chằm chằm khiến D' Artagnan bối
rối.
- Nhưng không phải thế đâu - D' Artagnan cãi lại - và nếu như tôi
nhớ không nhầm thì anh chẳng nói gì ngoài những chuyện thường tình.
- Ồ, cậu làm tôi ngạc nhiên đấy, tôi nghĩ tôi đã kể cho cậu nghe
một chuyện thương tâm nhất.
Và anh nhìn chàng trai trẻ như muốn đọc thấu tâm can của bạn mình.
D' Artagnan nói:
- Thật tình, hình như tôi còn say hơn cả anh, vì tôi chẳng nhớ được
điều gì hết.
Athos chẳng thèm để ý đến câu nói ấy, và anh tiếp tục:
- Cậu không phải là không nhận thấy, bạn thân mến ạ, mỗi người có
một kiểu say, buồn hay vui. Tôi say kiểu buồn, mà một khi tôi đã say, tôi có
cái thói kể ra mọi chuyện tang thương mà bà vú nuôi ngớ ngẩn của tôi đã khắc
vào trí não tôi. Đó là tật xấu của tôi, tật xấu cơ bản, tôi đồng ý như vậy.
Nhưng ngoài tật đó, tôi là tay uống cừ.
Athos nói ra điều đó, quá tự nhiên, khiến cho niềm tin của D'
Artagnan bị lung lay. Chàng cố nắm bắt lại sự thật và nói:
- Ồ, thì ra là như thế, quả thật tôi cũng nhớ ra là như thế, vả lại
nó giống như ta nhớ lại một giấc mơ ấy mà, tôi nhớ chúng ta đã nói về những
người bị treo cổ.
- À cậu biết đấy - Athos vừa nói vừa tái người đi tuy nhiên vẫn cố
cười - Tôi cam đoan những người bị treo cổ là cơn ác mộng của tôi, của chính
tôi.
- Phải phải, - D' Artagnan nói tiếp - tôi nhớ ra rồi - Phải, chuyện
đề cập đến… khoan đã nào… đề cập đến một phụ nữ…
- À, đấy là một chuyện hay nhất của tôi - Athos trả lời, mặt xanh
đi - về một người đàn bà tóc hoe vàng và khi tôi kể chuyện đó là lúc tôi đang
say muốn chết.
- Phải, chính thế - D' Artagnan nói - chuyện về một phụ nữ tóc vàng
hoe, cao lớn và đẹp, có đôi mắt xanh.
- Phải, và bị treo cổ.
- Bởi người chồng là một vị lãnh chúa quen biết anh - D' Artagnan
vừa tiếp tục nói vừa nhìn thẳng vào mặt Athos.
- Ồ, cậu thấy đấy, trong khi người ta không còn biết mình đang nói
gì nữa, thì người ta có thể làm tổn hại đến phẩm giá một con người lắm chứ -
Athos vừa nói vừa nhún vai như thể mình đang thương hại chính bản thân mình -
Nhất định là tôi không muốn say nữa, D' Artagnan? Đó là một thói quen quá xấu.
D' Artagnan im lặng không nói gì.
Rồi Athos chuyển phắt sang đề tài khác, và nói:
- Nhân tiện, xin cảm ơn cậu về con ngựa mà cậu đã mang đến cho tôi.
- Có hợp với anh không? - D' Artagnan hỏi.
- Hợp, nhưng đó không phải là một con ngựa dai sức.
- Anh nhầm rồi. Tôi đã cưỡi nó chạy mười dặm trong một tiếng rưỡi
đồng hồ mà cứ như thể mới chạy vòng quanh quảng trường Saint-Sulpice ấy.
- Thế à? Thế thì cậu làm cho tôi tiếc mất rồi.
- Tiếc cái gì?
- Tiếc vì tôi bán nó mất rồi.
- Thế là thế nào?
- Là thế này. Sáng nay tôi thức dậy lúc sáu giờ, cậu vẫn ngủ như
chết, tôi chả biết làm gì, tôi vẫn còn ngẩn ngơ về việc quá chén của chúng ta
hôm qua, tôi bèn đi xuống đại sảnh và thấy một trong hai người Anh đang mặc cả
mua một con ngựa với người lái ngựa, ngựa của hắn bị chết hôm qua vì bị trúng
gió.
- Tôi lại gần hắn và vì thấy hắn đang trả một trăm đồng vàng con
tuấn mã màu tía. Tôi bảo hắn: "Này nhà quý tộc, tôi cũng có một con muốn
bán".
- Và còn rất đẹp nữa - hắn nói - tôi thấy hôm qua rồi, người hầu
của bạn ông đang dắt nó.
- Ông thấy nó đáng một trăm chứ?
- Vâng và ông muốn bán cho tôi với giá ấy à?
- Không, tôi chơi bạc nó với ông.
- Ông chơi bạc với tôi?
- Đúng.
- Chơi loại gì?
- Xúc xắc. Nói sao làm vậy, và tôi mất con ngựa, à nhưng mà, -
Athos tiếp tục tôi đã gỡ lại được bộ đồ trang sức trên mình ngựa.
D' Artagnan tỏ ra rất bực.
- Trái ý cậu lắm à? - Athos nói.
- Chứ sao, tôi thú thật với anh - D' Artagnan nói tiếp - Con ngựa
đó là để chúng ta nhận ra nhau khi xung trận, đó là một tín vật, một kỷ niệm.
Athos, anh sai rồi.
- Ôi, bạn thân mến, cậu hãy ở vào địa vị tôi - người lính ngự lâm
nói tiếp - tôi buồn muốn chết, thêm nữa, tôi thề danh dự đấy, tôi không thích
ngựa Anh. Mà nếu chỉ để nhận ra nhau thôi thì cái yên là đủ, nó có thể nhận ra
lắm chứ. Còn con ngựa, ta sẽ tìm một cớ gì đó để biện giải cho việc nó biến
mất. Mà đếch gì! Nó chết, ngựa nào mà chả chết, cứ coi như con của tôi bị chết
vì xổ mũi hoặc lở loét.
D' Artagnan vẫn cau có.
- Điều đó làm tôi áy náy lắm - Athos tiếp tục - vì cậu quan tâm đến
những con vật ấy đến thế, vì tôi đã kể hết chuyện đâu.
- Thế anh còn làm những gì nữa?
- Sau khi đã mất con ngựa của tôi, chín điểm thua mười, cậu thấy ức
không, tôi bèn nảy ra ý nghĩ chơi con của cậu.
- Ờ, nhưng tôi mong mới chỉ dừng lại ở ý nghĩ của anh thôi.
- Không đâu, tôi thực hiện ngay lúc ấy.
- À! Hay thật đấy! - D' Artagnan kêu lên lo lắng.
- Tôi chơi và thua.
- Thua con ngựa của tôi?
- Con của cậu, bẩy chọi tám, thua có một điểm… Cậu biết câu ngạn
ngữ …
- Athos, tôi xin thề là anh không tỉnh rồi!
- Bạn thân mến, đấy là hôm qua, khi tôi kể cho cậu nghe những
chuyện vớ vẩn, tôi phải nói như vậy, chứ không phải sáng nay. Tôi thua hết cả
ngựa lẫn yên cương.
- Thế thì ghê tởm quá?
- Khoan đã nào cậu đã nghe hết đâu. Tôi sẽ là một tay chơi sành sỏi
nếu tôi không cay cú, nhưng tôi lại cay cú, giống như khi tôi uống ấy, tôi cũng
cay cú…
- Nhưng làm sao anh còn chơi nổi nữa, anh có còn cái gì đâu?
- Có chứ? Có quá đi chứ, anh bạn ạ! Chúng ta vẫn còn cái nhẫn kim
cương lấp lánh trên ngón tay cậu mà tôi đã thấy hôm qua.
- Cái nhẫn kim cương này ư? - D' Artagnan kêu lên và đưa tay giữ
chặt lấy cái nhẫn.
- Và vì tôi là kẻ sành chơi, và cũng đã từng có mấy chiếc trong tài
sản riêng, tôi ước lượng nó phải có giá một nghìn đồng vàng.
D' Artagnan chết điếng người vì kinh hãi nghiêm nghị nói:
- Tôi hy vọng anh chưa động gì đến chiếc nhẫn kim cương của tôi đấy
chứ?
- Trái lại đấy, bạn ơi. Chiếc nhẫn kim cương là tài sản duy nhất
của chúng ta. Với nó, tôi có thể gỡ lại được yên cương, ngựa, và thêm nữa, tiền
lộ phí.
- Athos, anh làm tôi run lên đây này? - D' Artagnan kêu lên.
- Vậy là tôi nói về cái nhẫn kim cương với con bạc của tôi. Hắn
cũng đã để ý thấy cái nhẫn. Mà quỷ ạ, cậu đeo ở ngón tay cậu một ngôi sao trên
trời lại muốn người ta không chú ý ư? Không thể được?
- Nói nốt đi, ông bạn quý, nói nốt đi! - D' Artagnan nói- Bởi vì
thề danh dự đấy! Với sự bình tĩnh của anh, anh làm tôi chết mất đấy?
- Thế là chúng tôi chia cái nhẫn kim cương ra làm mười phần, mỗi
phần một trăm đồng vàng.
- À anh định đùa và thử tôi đấy à? - D' Artagnan nói, mà cơn giận
bắt đầu túm lấy tóc chàng giống như thần Minéc túm lấy Akin trong Iliát(1).
- Không, tôi không đùa đâu, mẹ kiếp! Tôi chỉ muốn biết cậu sẽ ra
sao trong tình cảnh ấy thôi? Đã mười lăm ngày tôi không được giáp mặt ai và cứ
ở đó đàm đạo với những chai rượu cho đến trì độn người đi.
- Đó không phải là lý do đem nhẫn kim cương của tôi ra chơi bạc,
thế đó! - D' Artagnan vừa trả lời vừa nắm chặt tay lại, thần kinh co giật bắn
người lên.
- Vậy cậu, nghe nốt đã. Mười phần, mỗi phần một trăm đồng vàng, mỗi
phần chơi làm mười ván, không chơi gấp thiếc để gỡ, mười ba ván tôi thua tất.
Mười ba ván, con số 13 luôn luôn xúi quẩy với tôi, đó là ngày mười ba tháng bẩy
mà…
- Mẹ kiếp! - D' Artagnan la lên và đứng lên khỏi bàn, chuyện lúc
này khiến chàng quên cả chuyện đêm qua.
- Kiên nhẫn nào - Athos nói - tôi có một kế hoạch. Tên người Anh là
một tay độc đáo, sáng nay tôi thấy hắn trò chuyện Grimaud, và Grimaud báo với
tôi là hắn đề nghị với Grimaud phục vụ hắn. Tôi đánh luôn với hắn bằng Grimaud
và cũng chia Grimaud ra làm mười phần.
- Trời, lại còn thế nữa? - D' Artagnan không giữ nổi phá lên cười.
- Chính bản thân gã Grimaud, cậu hiểu không nào? Và với mười phần
của Grimaud mà tất cả cũng chưa đáng một đucatông vàng tôi gỡ lại cái nhẫn kim
cương. Giờ thì cậu thử nói xem lòng kiên nhẫn có phải là một đức hạnh không?
- Thật tình, tôi chỉ thấy quái gở! - D' Artagnan đã khuây khỏa, vừa
nói vừa ôm bụng cười.
- Cậu hiểu chứ, thấy mình đang vận đỏ, tôi lại chơi tiếp ngay bằng
nhẫn kim cương.
- Ôi quỷ sứ! - D' Artagnan nói và lại sa sầm mặt lại.
- Tôi đã gỡ lại được yên cương của cậu, rồi ngựa của cậu rồi yên
cương của tôi, ngựa của tôi, rồi lại thua. Tóm lại tôi lấy lại được yên cương
của cậu, rồi của tôi. Đó, bây giờ chúng ta chỉ có thế. Đó là một ván chơi tuyệt
đẹp, vì vậy tôi dừng ở đó thôi.
D' Artagnan thở phào như thể người ta vừa cất bỏ cả cái lữ quán này
đè lên ngực chàng.
- Rốt cuộc, tôi vẫn còn nhẫn kim cương chứ? - D' Artagnan rụt rè
hỏi.
- Nguyên si! Bạn thân mến ạ. Thêm nữa là những bộ yên cương của con
chiến mã của cậu và của tôi.
- Nhưng chúng ta sẽ làm gì với những yên cương mà không có ngựa?
- Tôi đã có ý kiến về chúng đây.
- Athos, anh làm tôi run đấy.
- Nghe đây, D' Artagnan, đã lâu rồi cậu không chơi có phải không?
- Nhưng tôi không thèm chơi chút nào cả.
- Đừng có vội tuyên bố như thế - Từ lâu rồi, cậu không chơi, cậu
chắc chắn sẽ gặp may cho mà xem.
- Thế thì sao?
- Thế thì tên người Anh và bạn hắn vẫn còn ở đây. Tôi nhận thấy hắn
tiếc mấy bộ yên cương lắm. Còn cậu, cậu có vẻ tiếc con ngựa của cậu. Ở địa vị
cậu tôi sẽ chơi bộ yên cương lấy con ngựa.
- Nhưng hắn sẽ không muốn một bộ thôi đâu.
- Thì chơi cả hai, mẹ kiếp! Tôi không phải là người ích kỷ như cậu
đâu.
- Anh chơi thật chứ? - D' Artagnan ngần ngừ nói, sự tin tưởng của
Athos đã bắt đầu làm chàng xiêu lòng.
- Chơi một ván thôi, thề danh dự đấy.
- Nhưng chính vì đã mất mấy con ngựa, tôi lại càng muốn giữ lấy mấy
bộ yên cương.
- Thế thì chơi bằng nhẫn kim cương vậy.
- Ồ, cái đó lại là chuyện khác, không bao giờ, không bao giờ cả.
- Mẹ kiếp! - Athos nói - Tôi muốn đề nghị cậu chơi bằng thằng
Planchet lắm, nhưng cách đó đã làm rồi, thằng người Anh có lẽ không muốn nữa
đâu.
- Này Athos thân mến - D' Artagnan nói - tôi thích tốt nhất là đừng
có liều nữa làm gì.
- Đáng tiếc đấy! - Athos lạnh lùng nói - Thằng người Anh đó có rất
nhiều tiền vàng. Trời ơi! Cứ thử một cái. Một ván thôi mà!
- Và nếu tôi thua?
- Cậu sẽ thắng.
- Nhưng nếu tôi thua?
- À thì… Coi như cậu cho nó mấy bộ yên cương.
- Thì làm một ván - D' Artagnan nói.
Athos liền đi tìm gã người Anh và thấy hắn ở chuồng ngựa đang ngắm
nghía mấy bộ yên cương bằng con mắt thèm khát.
- Thật đúng dịp. Athos đặt điều kiện: Hai bộ yên ăn một con ngựa
hay một trăm đồng vàng, tùy ý chọn. Tên người Anh tính toán rất nhanh: hai bộ
yên cương đáng giá ba trăm đồng vàng, hắn bằng lòng ngay.
D' Artagnan vừa run vừa ném mấy con xúc xắc và đạt ba điểm. Chàng
tái người đi khiến Athos đâm sợ lây, đành vui vẻ nói:
- Một ván xúi quẩy rồi, ông bạn. Ông đến có lũ ngựa yên cương đầy
đủ mất thôi.
Tên người Anh đắc chí, chẳng bỏ công xóc quân xúc xắc, ném luôn ra
bàn không thèm nhìn, tin chắc phần thắng thuộc về mình. D' Artagnan quay mặt đi
để giấu vẻ bực tức.
- Khoan, khoan, khoan đã. - Athos nói bằng một giọng điềm tĩnh -
một ván xúc xắc cực kỳ lạ lùng, và tôi chỉ thấy bốn lần trong đời đấy: hai con
một!
Tên người Anh nhìn vô cùng kinh ngạc, D' Artagnan cũng nhìn và rất
đỗi vui mừng.
- Phải, - Athos tiếp tục - chỉ bốn lần thôi: một lần ở nhà ông De
Crêquy, một lần ở nhà tôi, ở vùng thôn quê, tại lâu đài… khi tôi còn chiếc lâu
đài, lần thứ ba ở nhà ông De Treville, làm cả lũ chúng ta phải ngạc nhiên, cuối
cùng lần thứ tư ở một quán rượu, lần này giã đúng vào tôi, khiến tôi thua một
trăm đồng louis vàng và một bữa nhậu tối.
- Thế là ông gỡ lại được con ngựa của mình rồi - gã người Anh nói.
- Hẳn rồi - D' Artagnan nói.
- Không chơi gỡ ư?
- Chúng ta đã giao hẹn là không chơi gỡ. Ông nhớ chứ?
- Đúng vậy, con ngựa sẽ trả lại cho người hầu của ông.
- Khoan chút đã - Athos nói, - xin phép cho tôi nói với bạn tôi một
câu.
- Ông cứ tự nhiên.
Athos kéo D' Artagnan ra một chỗ. D' Artagnan nói:
- Thế nào! Anh muốn gì nữa ở tôi, hỡi tên cò mồi, anh muốn tôi chơi
nữa, có phải không?
- Không, tôi muốn cậu suy nghĩ thôi.
- Về cái gì?
- Cậu định lấy lại con ngựa có phải không?
- Hẳn rồi.
- Cậu nhầm rồi, tôi lấy một trăm đồng vàng cơ.
- Thôi đi, tôi lấy con ngựa.
- Và cậu nhầm rồi, tôi xin nhắc lại như vậy. Làm gì được với một
con ngựa cho hai người chúng ta, tôi không thể cưỡi lên mông ngựa và chúng ta
có vẻ như hai con trai nhà Âymông (2) bị chết. Cậu cũng không thể đang tâm cưỡi
tuấn mã để tôi đi bộ bên cạnh được. Tôi, không cân nhắc lôi thôi gì cả, tôi lấy
một trăm đồng vàng, chúng ta đang cần tiền để trở về Paris.
- Athos, tôi vẫn muốn lấy ngựa.
- Ôi cậu nhầm rồi, bạn ơi. Một con ngựa đi vòng kiềng, một con ngựa
vấp chân, trẹo gối, một con ngựa ăn chung máng với con ngựa sổ mũi, đó một con
ngựa như thế chỉ có mất toi một trăm đồng vàng. Rồi lại còn chủ thì phải nuôi
ngựa, đằng này trái lại, một trăm đồng vàng nó nuôi chủ.
- Nhưng chúng ta trở về thế nào?
- Trên lũ ngựa của bọn người hầu của chúng ta. Mẹ kiếp!
- Người ta nhìn hình dạng chúng ta sẽ thấy ngay chúng ta là những
người gặp phải hoàn cảnh không may.
- Cái bộ dạng đẹp đẽ của chúng ta trên lưng hai con nghẽo, còn
Porthos và Aramis thì tưng tưng trên hai con ngựa chứ!
- Aramis, Porthos ư! - Athos la lên và bật cười.
- Cười gì? - D' Artagnan hỏi, chàng chẳng hiểu tại sao bạn mình lại
hô hố cười.
- Không có gì đâu, ta tiếp tục thôi - Athos nói.
- Như thế, ý kiến của anh?…
- Là lấy một trăm đồng vàng, D' Artagnan ạ, với một trăm đồng vàng,
chúng ta sẽ phè phỡn cho đến cuối tháng, chúng ta đã trải qua bao nhiêu gian
lao vất vả, cậu thấy không, nghỉ ngơi một chút sẽ tốt chứ.
- Tôi nghỉ ngơi ư? Ồ, không, Athos, đến Paris một cái là tôi lập
tức đi tìm người đàn bà tội nghiệp ấy ngay.
- Được rồi! Thế cậu tưởng con ngựa của cậu sẽ có ích cho cậu trong
việc đó hơn là những đồng vàng quý giá ư? Cậu hãy lấy một trăm đồng vàng ấy đi!
bạn ạ, hãy lấy một trăm đồng vàng.
D' Artagnan chỉ cần một lý do để đầu hàng. Lý lẽ này có vẻ xuất sắc
Vả lại chống chọi mãi, chàng sợ mình có vẻ ích kỷ trong con mắt Athos. Chàng
gật đầu, và chọn một trăm đồng vàng gã người Anh đếm ngay tại chỗ.
Rồi họ chỉ còn nghĩ tới việc ra đi. Hòa ước đã ký ngoài con ngựa
già của Athos phải trả thêm sáu đồng vàng cho chủ quán.
D' Artagnan và Athos chiếm lấy ngựa của Planchet và Grimaud, hai
người hầu đội hai bộ yên lên đầu và đi bộ theo.
Dù cưỡi ngựa tồi, đôi bạn vẫn vượt trước hai người hầu và đến Vỡ
Tim. Từ xa họ đã gặp Aramis đang âu sầu tựa cửa sổ, và giống như chị Anne tôi,
nhìn bụi rắc phía chân trời(3).
Đôi bạn hô vang lên:
- Ê này! Aramis, cậu đang làm cái quái gì thế?
- À, cậu đấy ư, D' Artagnan, và anh nữa, Athos - chàng trai trẻ nói
- Tôi đang nghĩ của cải trên đời sao nó ra đi nhanh đến thế và con ngựa Anh của
tôi cũng đi xa và vừa biến mất trong lốc bụi, đối với tôi là một hình ảnh sinh
động về sự mong manh của mọi vật trên đời. Cuộc đời cũng vậy, có thể quy lại
bằng ba từ "Erat, est, fuit"(4).
- Thật ra thế nghĩa là thế nào? - D' Artagnan hỏi và bắt đầu nghi
ngờ sự thật.
- Nghĩa là tôi vừa bị lừa một quả sáu mươi đồng louis vàng lấy một
con ngựa mà chỉ nhìn cách nó di chuyển thôi cũng đoán ra nó phi nước kiệu năm
dặm một giờ.
D' Artagnan và Athos phá lên cười.
- D' Artagnan thân mến - Aramis nói - đừng giận tôi quá nhé, tôi
xin cậu đấy, vì nhu cầu thì bất chấp luật lệ. Vả lại, trước hết tôi đã bị trừng
phạt rồi, vì cái tên lái ngựa bất lương ấy đã xoáy mất của tôi ít nhất năm mươi
louis vàng. Mà các vị cũng là những người điều hành giỏi đấy chứ, các vị đến
đây bằng ngựa của bọn hầu và bắt bọn hầu dắt tay những con ngựa quý của các vị,
nhẹ nhàng, từng quãng một.
Cũng vào lúc ấy một xe chở hàng từ phía Amiêng đã hiện ra được một
lúc bây giờ đã tới nơi và dừng lại, rồi Planchet và Grimaud ra khỏi xe với bộ
yên cương đội trên đầu.
Chiếc xe chở hàng đi không về Paris, và hai chàng hầu ta đã điều
đình cho đi nhờ xe và sẽ đãi người đánh xe giải khát suốt dọc đường.
- Thế là thế nào? - Aramis thấy cung cảnh vừa diễn ra liền hỏi -
Sao lại chỉ có mỗi yên thôi?
- Bây giờ cậu hiểu rồi chứ? - Athos nói.
- Các bạn tôi ơi, thế thì đúng như tôi rồi. Tôi cũng giữ lại yên
cương, theo linh tính thôi. Ê này, Bazin! Mang bộ yên cương mới của ta xếp cạnh
những bộ của mấy ông đây.
- Và anh làm thế nào với mấy vị mục sư của anh? - D' Artagnan hỏi.
- À, hôm sau tôi mời họ ăn trưa - Aramis nói - Ở đây có loại vàng
hảo hạng, đại khái như thế. Tôi cho họ uống say khướt cò lả. Thế là lão mục sư
liền chống lại tôi rời bỏ đồng phục ngự lâm, còn ông giáo sĩ dòng Tên thì lại
yêu cầu tôi xin giúp ông ta vào ngự lâm quân.
- Súp món luận văn đi! - D' Artagnan hô lên - Súp luận văn đi? Tôi
yêu cầu bãi bỏ luận văn đấy.
- Từ khi ấy - Aramis tiếp tục - tôi sống thoải mái. Tôi bắt đầu làm
một thi khúc một vần. Cũng khó khăn đấy. Nhưng giá trị của mọi thứ là trong sự
khó khăn. Tính cách bài thơ có đôi chút khuynh nữ. Tôi sẽ đọc khổ đầu cho các
bạn nghe, có tất cả bốn trăm câu và chỉ kéo dài một phút.
D' Artagnan ghét thi ca hầu như ngang với tiếng Latinh liền bảo:
- Thật tình, anh Aramis thân mến ạ, hãy thêm giá trị của sự ngắn
gọn vào cái giá trị của sự khó khăn, anh sẽ tin chắc ít nhất thơ anh sẽ có hai
giá trị.
- Rồi các bạn sẽ thấy. - Aramis tiếp tục - Nó toát ra những niềm
đắm say chân thực - Ơ kìa, các bạn, chúng ta quay về đến Paris rồi ư? Hoan hô,
mong mãi đây. Thếlà chúng ta lại sắp gặp Porthos rồi. Thế mới tuyệt. Các bạn
không thể tưởng được tôi nhớ cái tay đại ngô nghê này thế nào đâu. Hắn có nhẽ
không bán ngựa như cánh ta đâu cho dù giá một vương quốc. Tôi những muốn thấy
hắn đang ngồi trên yên ngựa. Tôi tin chắc sẽ giống như Đại đế Môgôn(5).
Họ dừng lại một tiếng đồng hồ cho ngựa nghỉ. Aramis thanh toán tiền
cho Bazin lên ngồi xe hàng cùng với các bạn rồi lại tiếp tục lên đường để gặp
lại Porthos.
Mọi người thấy chàng đang đứng, đỡ xanh xao hơn D' Artagnan gặp lần
trước, rồi thấy ngồi vào bàn ăn dù dọn cho một mình chàng, cũng có thể hình
dung ra một bữa trưa cho cả bốn người, một bữa trưa gồm thịt nấu nướng rất
ngon, rượu nho kén chọn và quả cây tuyệt ngon.
- À, mẹ kiếp! - Chàng vừa đứng lên vừa nói - Các bác đến thật
tuyệt, tôi mới chỉ đụng đến món xúp, ăn trưa với tôi thôi.
- Ồ, ồ, - D' Artagnan nhận xét - Không phải Mousqueton dùng thòng
lọng quăng những chai rượu này chứ - Lại còn thịt bọc mỡ nướng và thăn bò nữa…
- Tôi đang ăn trả bữa mà - Porthos nói - tôi ăn trả bữa.
- Không gì làm suy yếu bằng cái món trẹo xương chết tiệt đó, anh đã
bị trẹo xương bao giờ chưa, Athos?
- Chưa bao giờ. Chỉ có tôi nhớ trong cuộc hỗn chiến ở phố Fréjus
ngày nào, tôi bị một nhát gươm, cũng phải mất mười lăm mười tám ngày gì đó,
khiến tôi bị ốm yếu hệt như cậu ấy.
- Nhưng bữa trưa này không phải dọn cho một mình anh đấy chứ
Porthos? - Aramis nói.
- Không - Porthos đáp - Tôi đợi mấy nhà quý tộc quanh đây nhưng họ
vừa đến bảo là không đến được, các bác thay họ vậy, vẫn thế cả thôi mà. Ê này,
Mousqueton? Ghế đâu, và mang gấp đôi rượu ra đây.
- Các cậu có biết chúng ta ăn gì ở đây không? Chừng mươi phút sau,
Athos hỏi mọi người.
- Mẹ kiếp! - D' Artagnan trả lời - tôi ăn thịt bê nấu chua với tủy
và rau cácđông.
- Và tôi thăn cừu non - Porthos nói.
- Còn tôi lườn gà - Aramis nói.
- Các vị nhầm tất - Athos nghiêm nghị nói - các vị ăn ngựa đấy.
- Ngựa thì ngựa! - D' Artagnan nói.
- Thịt ngựa ư! - Aramis cau mặt lợm giọng nói.
Porthos ngồi im không trả lời.
- Phải, ăn ngựa? Có phải không, Porthos chúng ta đang ăn ngựa? Có
khi ăn cả yên cương cũng nên!
- Không đâu, các bác ạ, yên cương thì tôi giữ lại - Porthos nói.
- Thì ra chúng ta kẻ tám lạng, người nửa cân cả. - Aramis nói - Cứ
như ta bàn trước với nhau ấy.
- Biết làm thế nào - Porthos nói - con ngựa ấy làm cho mấy vị khách
của tôi phải xấu hổ, mà tôi thì lại không muốn làm họ xấu hổ!
- Rồi lại thêm cái bà nữ Công tước của anh vẫn cứ ở vùng suối nóng,
có phải không? - D' Artagnan nói tiếp.
- Vẫn thế - Porthos trả lời - Mà thật tình cái lão trấn thủ tỉnh
này, một trong những vị quý tộc tôi mời ăn trưa hôm nay ấy cứ thèm con ngựa quá
cơ, cho nên tôi đã cho lão ta.
- Cho ư? - D' Artagnan kêu lên.
- Ồ, trời ơi, phải cho lão! Đấy là cách nói thôi! - Porthos nói -
bởi giá con ngựa phải đến một trăm năm mươi louis vàng và cái tên bủn xỉn ấy
chỉ muốn trả tôi có tám mươi.
- Không yên chứ? - Aramis nói.
- Ừ, không yên.
- Các vị nhận thấy chưa - Athos nói - Hóa ra Porthos lại bán được
giá hơn tất cả chúng ta.
- Thế là tất cả phá lên cười hô hố làm cho Porthos cứ ngây người
ra. Nhưng mọi người giải thích cho chàng ngay lý do mọi người cười, khiến chàng
ầm ĩ chia sẻ ngay theo thói quen của mình.
- Thành thử mọi người chúng ta đều sẵn vốn cả? - D' Artagnan hỏi.
- Mình thì không - Athos nói - Mình thấy món rượu nho Tây Ban Nha
của Aramis ngon quá, thế là mình cho chất sáu mươi chai lên chiếc xe hàng của
bọn người hầu, thành ra nhẵn túi rồi.
- Còn tôi - Aramis nói - các bạn thử tưởng tượng xem tôi đã cúng
đến đồng xu cuối cùng cho nhà thờ Môngđiđiơ và cho các giáo sĩ dòng Tên ở
Amiêng, ngoài ra tôi có những cam kết buộc phải giữ những lễ misa cho tôi và
cho các vị mà tôi tin chắc nhờ thế, chúng ta mạnh khỏe may mắn hơn.
- Và tôi, - Porthos nói - cái chỗ trẹo gối của tôi, các anh tưởng
không tốn kém hay sao? Không kể thương tích của Mousqueton mà tôi buộc phải mời
thầy giải phẫu đến mỗi người hai lần, lão ta bắt tôi phải trả tiền thăm khám
gấp đôi viện cớ cái tên Mousqueton ngu ngốc ấy đã để cho một viên đạn bắn trúng
vào chỗ mà người ta thường chỉ cho thầy thuốc xem thôi. Cho nên tôi đã phải căn
dặn nó kỹ càng lần sau đừng để bị thương ở chỗ ấy nữa.
Athos cười nháy với D' Artagnan và Aramis rồi nói:
- Chà, chà, tôi thấy cậu xử sự với gã hầu tội nghiệp quá hào phóng
đấy. Đúng là một ông chủ tốt.
- Tóm lại - Porthos tiếp tục - trả hết mọi khoản chi tiêu, chắc
chắn tôi chỉ còn ba mươi êqui vàng.
- Và tôi chừng mươi đồng - Aramis nói.
- Xem nào, - Athos nói - hình như chúng ta đều là những vua Crésus
cả(6) Một trăm đồng pítxtôn vàng của cậu còn bao nhiêu hở D' Artagnan?
- Một trăm của tôi ư? Trước hết, tôi đã cho anh năm chục rồi.
- Cậu tin vậy ư?
- Mẹ kiếp!
- À đúng, tôi nhớ ra rồi.
- Rồi tôi trả sáu đồng cho chủ quán.
- Cái tên chủ quán chó má ấy ư! Tại sao cậu lại cho nó sáu đồng.
- Thì chính anh bảo tôi cho nó còn gì.
- Đúng là tôi quá tốt với nó. Tóm lại, còn bao nhiêu?
- Còn hai nhăm đồng - D' Artagnan nói.
- Và tôi Athos vừa nói vừa móc túi ra mấy xu lẻ - tôi…
- Anh, sạch sành sanh.
- Thú thực, ít quá, chẳng bõ góp vào của chung.
- Bây giờ, ta tính thử xem còn bao nhiêu tất cả nào?
- Porthos?
- Ba mươi đồng êqui.
- Aramis?
- Mười đồng pítxtôn.
- Còn cậu D' Artagnan?
- Hai mươi lăm.
- Tất cả là bao nhiêu? - Athos nói.
- Bốn trăm bẩy nhăm đồng livrơ! - D' Artagnan, tính toán giỏi như
Acsimét nói.
- Đến Paris, có lẽ chúng ta còn chừng bốn trăm, lại còn yên cương
nữa - Porthos nói.
- Nhưng những con ngựa kỵ binh của chúng ta thì sao đây? - Aramis
nói.
- Thế này nhé! bốn con ngựa của bọn người hầu, ta sẽ lấy hai con
cho chủ bằng cách gắp thăm. Số bốn trăm livrơ ta sẽ lấy một nửa mua một con cho
một cậu chưa có ngựa, rồi còn bao nhiêu ta sẽ vét túi đưa cho D' Artagnan, cậu
ấy mát tay, để chơi luôn ngay ở sòng bạc ta gặp. Thế đó.
- Thôi ăn đã, - Porthos nói - Nguội hết cả rồi.
Bốn người bạn từ lúc đó tạm yên tâm về những ngày sắp tới, liền ăn
uống thỏa thuê, chỗ còn thừa dành cho các vị Mousqueton, Bazin, Planchet và
Grimaud.
Đến Paris, D' Artagnan thấy một bức thư của ông De Treville báo cho
chàng biết, thể theo lời cầu xin của ông, nhà Vua vừa mới gia ân cho chàng được
xung vào ngự lâm quân.
Vì đó là tất cả những gì D' Artagnan mong ước ở trên đời, đã đành
chưa kể sự khao khát được gặp lại bà Bonacieux, chàng sướng run người chạy đến
nhà các bạn vừa mới chia tay nhau được nửa tiếng đồng hồ, và chàng thấy họ đều
rất buồn và rất ưu tư. Họ họp bàn ở nhà Athos, điều đó luôn luôn chỉ rõ những
tình thế nghiêm trọng nào đó đang xảy ra.
- Ông De Treville cũng vừa báo cho họ biết quyết định dứt khoát của
Hoàng thượng là mở chiến dịch vào ngày một tháng năm. Họ phải lập tức chuẩn bị
quân trang.
Bốn triết gia sửng sốt nhìn nhau, ông De Treville không đùa về mặt
quân kỳ.
- Các anh thử tính xem những bộ quân trang ấy mất bao nhiêu tiền? -
D' Artagnan nói.
- Ồ, chẳng có gì để nói cả - Aramis trả lời - chúng ta vừa mới tính
toán chi ly chặt chẽ rồi, và mỗi người chúng ta phải có một nghìn năm trăm đồng
livrơ.
- Bốn lần mươi lăm là sáu mươi, tức sáu nghìn livrơ - Athos nói.
- Tôi thấy hình như chỉ với một nghìn livrơ mỗi một người…
D' Artagnan nói - Đúng là tôi không nói theo kiểu chặt chẽ mà theo
kiểu biện lý(7)
Cái tiếng biện lý làm thức tỉnh Porthos. Chàng nói:
- Thôi được, tôi sực nghĩ ra một điều.
- Hẳn là một điều hay ho rồi, còn như tôi, thậm chí một nửa điều
cũng không xong - Athos lạnh lùng nói - còn như D' Artagnan thưa các vị, hạnh
phúc từ nay được là dân ngự lâm như chúng ta làm cho hắn phát điên. Một nghìn
livrơ ư! Tôi tuyên bố riêng tôi thôi, tôi cần phải hai nghìn.
Aramis liền nói tiếp:
- Bốn lần hai thành tám. Vậy cần phải tám nghìn livrơ cho chúng ta
để mua sắm quân trang. Đúng là chúng ta mới chỉ có yên cương.
- Thêm nữa - Athos vừa nói vừa chờ D' Artagnan đi cám ơn ông De
Treville, rồi đóng cửa lại - Thêm nữa, cái nhẫn kim cương tuyệt đẹp lấp lánh ở
ngón tay anh bạn chúng ta. Mẹ kiếp D' Artagnan là người bạn quá tốt không thể
để anh em trong cơn túng quẫn khi hắn đeo ở ngón giữa một món tiền có thể chuộc
được cả một ông vua.
Chú thích:
(1) Nữ thần Minéc, còn gọi là
nữ thần Palátx, nữ thần Atêna, con gái của thần Jớtx, nữa thần của sự thông
thái và nghệ thuật Trong Iliat, cơn giận khủng khiếp của Akin là do Atêna hay
Minéc giật tóc.
(2) Bốn con trai nhà Âymông
trong tiểu thuyết võ hiệp thế kỷ 12 gồm 14.489 cảu thơ, là Rơnô, Ghitxca, Ala và
Rítsa, cả bốn cùng cưỡi trên một con ngựa thần kỳ Baya chống lại Hoàng đế
Charlesma.
(3) Trong truyện cổ tích con
yêu Râu xanh của Perault. Anne là chị của người vợ cuối cùng của con yêu Râu
xanh. Con yêu báo giờ tận số của ngườỉ vợ này vì phạm tội hở chuyện. Anne đứng
trên đỉnh tháp. Cô em gọi "Chị Anne ơi, chị không thấy ai đến ư?".
"Chị chẳng thấy ai mà chỉ thấy mặt trời đang rắc bụi sáng và cỏ mọc xanh
rờn!".
(4) Tiếng Latinh có nghĩa: sẽ
sinh ra, tồn tại, biến mất. Ở đây Dumas có lẽ định dùng từ Erit (sẽ tồn tại)
chứ không phải Erat (đã từng tồn tại, tức biến mất rồi).
(5) Đại đế Môgôn (1483-1530)
triều đại do Baberơ, chắt của Taméclan dòng dõi Thành Cát Tư Hãn sáng lập bao
gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ và xứ Hindu.
(6) Crésus: quốc vương cuối
cùng của Lyđi vùng Tiểu Á, nổi tiếng về những tài nguyên là cát có lẫn hạt vàng
ở Pắc tôn. Sau bị Xyarút đánh bại và bị bắt làm tù binh. kinh đô bị đốt (thế kỷ
6, trước công nguyên)
(7) Procureur - biện lý, cũng
gọi là kiểm sát trưởng - nghĩa ở đây là kiểm sát nhưng ở đây còn có sự chơi chữ
nữa là Procurcuse - bà biện lý, cũng có nghĩa là tú bà, trùm đĩ (trên đã chú
thích)
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 29
Săn tìm quân trang.
Người băn khoăn lo lắng nhất trong số bốn người bạn chắc chắn phải
là D' Artagnan, cho dù với tư cách cận vệ quân(1) chàng dễ trang bị hơn là mấy
tướng ngự lâm quân, đều là các lãnh chúa nhưng chàng thực tập sinh cận vệ
Gátxcông vốn tính lo xa đến mức keo cú đồng thời lại huênh hoang chẳng thua gì
Porthos. Cùng với mối bận tâm xuất phát từ tính phù phiếm, lúc này còn có cả
một sự lo âu ít vị kỷ hơn. Chàng đã hết sức đi thăm dò tin tức bà Bonacieux mà
vẫn biệt tăm hơi. Ông De Treville đã nói chuyện này với Hoàng hậu. Hoàng hậu
cũng không biết bà vợ trẻ ông hàng xén ở đâu và hứa sẽ cho tìm.
Nhưng lời hứa thật mơ hồ và chẳng làm D' Artagnan yên tâm mấy.
Athos không ra khỏi phòng mình. Chàng kiên quyết chả tội gì phải đi
đâu để trang bị cho mình. Chàng nói với bạn bè:
- Chúng ta còn mười lăm ngày nữa phải không? Nếu trong mười lăm
ngày ấy, tôi không tìm thấy gì hoặc đúng hơn là không có gì đến tìm tôi, vì tôi
vốn rất ngoan đạo, không thể dùng súng ngắn tự bắn vỡ đầu mình, tôi sẽ tìm cách
gây sự khéo với bốn tay cận vệ của Đức Giáo chủ hoặc tám thằng người Anh, đánh
nhau cho đến khi có một đứa giết chết tôi, chúng đông thế, điều đó chắc không
tránh khỏi. Lúc đó người ta sẽ nói tôi chết vì nhà Vua, thành ra tôi vẫn phục
vụ mà không cần trang bị gì.
Porthos, hai tay sau lưng, tiếp tục đi đi lại lại và gật gù nói:
- Ta sẽ làm theo cái cách của ta.
Aramis thì lo lắng, đầu tóc rối bù và chẳng nói gì.
Qua những chi tiết thảm hại ấy, có thể thấy được một cảnh não nề
đang ngự trị cái cộng đồng này.
Những người hầu về phía mình, giống như những con chiến mã của
Hypôlít(2) cũng chia sẻ nỗi buồn phiền của chủ.
Mousqueton làm lương khô. Bazin vẫn luôn luôn mộ đạo không rời khỏi
các nhà thờ. Planchet nhìn ruồi bay và Grimaud mà sự quẫn bách nói chung không
thể quyết định gã phá vỡ sự yên tĩnh mà chủ gã đã thiết lập, chỉ thốt lên những
tiếng thở dài khiến đá cũng phải mềm ra.
Ba người bạn, vì Athos đã thề không rời một bước chân để trang bị
cho mình, một buổi sớm đã ra khỏi nhà và trở về rất muộn. Họ lang thang trên
các đường phố, nhìn từng viên đá lát đường xem liệu ai đó khi đi qua có đánh
rơi túi tiền nào không.
Đi đến đâu họ cũng chăm chăm chú chú như thể đang bám theo dấu chân
ai vậy. Khi gặp nhau, họ nhìn nhau thất vọng như muốn nói: đằng ấy có vớ được
cái gì không?
Tuy nhiên, vì Porthos đã tìm cho mình một ý tưởng riêng và vì chàng
kiên trì theo đuổi nó, chàng là người đầu tiên bắt tay hành động. Một hôm D'
Artagnan bắt gặp chàng đi về phía nhà thờ Thánh Lơ, theo bản năng liền bám theo
chàng. Chàng bước vào đất Thánh sau khi đã vuốt ria mép vểnh lên và vuốt mượt
râu cằm, điều đó luôn luôn báo hiệu chàng đang có những ý đồ chinh phục rõ rệt
nhất. Vì D' Artagnan đã có ý phòng ngừa khỏi bị lộ mặt, nên Porthos tin rằng
không ai thấy mình, D' Artagnan vào theo sau. Porthos đến tựa lưng vào một
chiếc cột. D' Artagnan vẫn không để bị bắt gặp, tựa lưng vào chiếc cột khác.
Đúng lúc đang có một bài thuyết giáo, khiến trong nhà thờ có rất
đông người. Porthos lợi dụng tình thế ấy để liếc nhìn phụ nữ. Nhờ sự chăm sóc
chu đáo của Mousqueton, mã ngoài của chàng cách xa sự cùng quẫn bên trong. Mũ
dạ tuy có hơi sởn thật, lông mũ có đôi chút bạc màu, các đường thêu đã hơi mở,
những tua ren đã rạn, nhưng ở nơi tranh tối tranh sáng, mọi thứ lặt vặt ấy đều
tiêu biến, và Porthos vẫn cứ là chàng Porthos bảnh bao.
D' Artagnan nhận thấy trên chiếc ghế dài kê gần chỗ Porthos và
chàng tựa cột nhất, một thứ sắc đẹp đã chín nẫu hơi ngả vàng, hơi khô héo,
nhưng giương giương kiêu kỳ dưới những lớp khăn mũ đen. Đôi mắt của Porthos lén
lút nhìn xuống người đàn bà đó, rồi chập chờn liệng dần ra xa tới gian giữa của
giáo đường.
Về phần mình, vị phu nhân đó thỉnh thoảng lại đỏ mặt lên, liếc
nhanh như ánh chớp về phía chàng Porthos chấp chới, và ngay tức khắc đôi mắt
của Porthos càng lượn lờ giận dữ. Rõ ràng đây là một trò ma mãnh cốt chọc tức
phát điên bà trùm đồ đen, bởi vì bà ta cắn môi đến bật máu, gãi sống mũi và cứ
loay hoay một cách tuyệt vọng trên chỗ ngồi của mình.
Thấy thế, Porthos lại vê ngược ria mép, và vuốt râu cằm và bắt đầu
ra hiệu với một người đàn bà đẹp ngồi cạnh dàn đồng ca, không những là một phu
nhân kiều diễm, mà còn chắc chắn là một bậc mệnh phụ, bởi vì bà ta có một thằng
bé da đen bưng theo một chiếc nệm gối để mình quỳ và một thị nữ cầm một chiếc
túi thêu gia huy đựng sách lễ để đọc kinh.
Bà đội khăn mũ đen theo dõi cái nhìn đảo đi đảo lại của Porthos và
nhận thấy con mắt chàng dừng lại ở vị phu nhân có nệm gối nhung, có thị đồng,
thị nữ theo hầu.
Trong khi ấy, Porthos chơi riết hơn, thôi thì đủ thứ, mắt chấp cha
chấp chới, ngón tay để lên môi, những nụ cười nửa miệng sát nhân và thực tế
đang sát hại người đẹp bị khinh miệt.
Vì vậy dưới danh nghĩa mêâ culpâ(3) bà ta đấm ngực thốt lên một
tiếng "hừm" to đến nỗi mọi người kể cả người đàn bà có nệm gối đỏ đều
quay lại phía bà ta Porthos vẫn trơ trơ. Tuy chàng thừa hiểu. Nhưng chàng làm
như điếc.
Người đàn bà có nệm gối đỏ vì quá đẹp nên đã tác động mạnh đến bà
đội khăn mũ đen khi thấy ở con người kia một mối cừu địch thực sự đáng sợ, cũng
tác động mạnh đến Porthos khi thấy nàng xinh đẹp hơn bà đội khăn mũ đen rất
nhiều, còn tác động mạnh đến cả D' Artagnan khi nhận ra đó là người đàn bà
Măng, ở Cale và ở Đuvrơ mà kẻ ngược đãi chàng, có sẹo mặt, đã chào bằng cái tên
Milady.
D' Artagnan không rời mắt khỏi người đàn bà có đệm gối đỏ, vẫn tiếp
tục theo dõi trò ma của Porthos khiến chàng rất thích thú. Chàng đoán chắc
người đàn bà đội khăn mũ đen chính là bà biện lý ở phố Lũ Gấu, mà nhất định như
thế vì nhà thờ Thánh Lơ không xa phố ấy lắm.
Bằng suy luận D' Artagnan đoán Porthos đang tìm cách trả thù cho
lần thất bại ở Săngtily, lúc đó bà biện lý đã tỏ ra quá cứng rắn về túi tiền.
Nhưng giữa tất cả đám người đó, D' Artagnan cũng nhận thấy không có
một gương mặt nào tương xứng với những lối bướm hoa của Porthos, chỉ là những
quái tượng và ảo tưởng mà thôi. Nhưng đối với một tình yêu đích thực, một sự
ghen tuông thật sự, liệu có hiện thực nào khác với những ảo tưởng và những quái
tượng không?
Bài thuyết giáo kết thúc. Bà biện lý tiến lại chậu nước phép.
Porthos đã đến trước và đáng lẽ chỉ nhúng một ngón tay, lại nhúng
cả bàn tay. Bà biện lý mỉm cười tưởng rằng vì bà mà Porthos trở nên quá bối rối
nhưng bà ta đã nhận ra ngay mình đã nhầm một cách tai hại. Khi bà ta chỉ còn
cách chàng không quá ba bước chân, chàng đã quay mặt nhìn không chớp vào người
đàn bà có nệm gối đỏ cũng đã đứng lên và tiến gần lại, theo sau là thằng bé da
đen và cô gái hầu phòng.
Khi người đàn bà này đến sát Porthos, chàng liền rút bàn tay ướt
đẫm nước thánh ra. Người đẹp mộ đạo chấm bàn tay thon thả của mình vào bàn tay
to lớn của Porthos, rồi vừa mỉm cười vừa làm dấu thánh và ra khỏi nhà thờ.
- Thật là quá quắt đối với bà biện lý. Bà ta không nghi ngờ gì nữa
là người đàn bà kia và Porthos đã tống tình nhau. Nếu bà ta là một mệnh phụ thì
bà sẽ ngất mất. Nhưng vì bà chỉ là một bà biện lý(4), bà đành nén giận nói với
chàng lính ngự lâm:
- Này, ông Porthos, ông không biếu tôi nước thành à?
Nghe giọng nói ấy, Porthos làm như giật nảy mình, như thể một người
vừa thức dậy sau một giấc ngủ trăm năm.
- B…à... bà đấy à! - Chàng kêu lên - Đúng là bà đấy ư? - Ông chồng
bà, ông Cơkơna yêu quý ấy có được khỏe không? Ông ấy vẫn cứ keo cú như xưa đấy
chứ? Không biết mắt tôi để đâu mà suốt hai tiếng đồng hồ thuyết pháp tôi lại
không nhìn thấy bà đấy nhỉ?
- Thưa ông, tôi ở cách ông hai bước chân thôi - người đàn bà trả
lời - nhưng ông không thấy được tôi vì ông chỉ để mắt ông đến người đàn bà đẹp
mà ông vừa cho nước thánh ấy.
Porthos giả vờ bối rối:
- À, ra bà cũng để ý…
- Có mà mù mới không trông thấy.
- Vâng - Porthos hờ hững nói - đó là một nữ công tước trong số các
bà bạn tôi mà tôi phải vất vả lắm mới gặp được vì thói ghen tuông của ông
chồng, và bà ấy đã báo trước cho tôi hôm nay sẽ tới đây, chỉ cốt để gặp tôi
trong cái nhà thờ nhỏ bé ở cái khu phố khuất vắng này.
- Ông Porthos này - bà biện lý nói - liệu ông có lòng tốt cho tôi
được khoác tay trong dăm phút không? Tôi sẵn sàng trò chuyện với ông đây.
- Sao lại thế được thưa bà - Porthos vừa nói vừa nháy mắt với chính
mình như một tay chơi bạc đang cười vì nước bạc bịp mình sắp đánh.
Trong khi đó, D' Artagnan đang bám theo Milady. Chàng liếc nhìn về
phía Porthos và thấy cái nháy mắt đắc thắng ấy.
"Ề, ề, - chàng vừa tự nhủ vừa lý giải theo hướng của thứ đạo
lý dễ dãi lạ lùng của cái thời đại bướm ong ấy - cứ kiểu này thì sẽ có một tên
có thể trang bị đúng thời hạn được đây".
Porthos đành chịu cho cánh tay của bà biện lý níu xuống như một con
thuyền chịu theo tay lái, đi đến nhà tu kín Thánh Magloa, một lối đi ít người
qua lại, hai đầu khép lại bằng hai cửa quay, ở đây, ban ngày chỉ thấy ăn mày
đang ăn hoặc trẻ con đang chơi đùa.
Bà biện lý thấy yên tâm vì không có bất cứ người xa lạ nào ngoài
đám dân thông thường của địa phương có thể trông thấy hoặc nghe thấy, liền kêu
lên:
- Ôi, ông Porthos! Có vẻ như ông là một tay đại thắng rồi!
- Tôi ư, thưa bà! - Porthos vừa nói vừa vênh váo - Mà tại sao lại
thế được?
- Thì chốc chốc lại ra hiệu, và nước thánh ấy? Nhưng ít nhất cũng
phải là một Quận chúa, cái bà với thằng bé da đen và cô gái hầu phòng ấy!
- Bà nhầm rồi, lạy Chúa, không- Porthos trả lời - chỉ là một nữ
Công tước thôi mà.
- Thế còn tên hầu chạy theo đợi ngoài cửa và cỗ xe với tên đánh xe
mặc quần áo xà ích ngồi đợi trên ghế đánh xe?
Porthos chẳng hề nhìn thấy tên hầu chạy theo xe cũng chẳng nhìn
thấy cỗ xe, nhưng cứ nhìn người đàn bà đang ghen tuông này, chàng biết bà
Coquenard đã nhìn thấy hết.
Porthos đâm tiếc ngay lúc đầu đã không tâng người đàn bà có đệm gối
đỏ lên hàng Quận chúa.
- À, thế là ông thành con cưng của các người đẹp rồi, ông Porthos!
- Bà biện lý thở dài nói tiếp.
- Nhưng - Porthos trả lời - Bà cũng hiểu với cái tướng mạo tạo hóa
phú cho tôi, tôi thường hay gặp vận may mà.
- Lạy Chúa! Sao cái giống đàn ông họ chóng quên đến thế! - Bà biện
lý vừa than vừa ngước mắt nhìn lên trời.
- Tôi lại thấy, còn không chóng bằng đàn bà đâu - Porthos trả lời -
bởi thưa bà, rất cuộc, tôi có thể nói chính tôi từng là nạn nhân của bà, khi bị
tử thương, bị bọn thầy phẫu thuật bỏ rơi, tôi, hậu duệ của một dòng họ danh
tiếng, kẻ đã từng tin cậy vào tình bạn của bà, thế mà tôi suýt chết trước hết
vì thương tích, tiếp đến vì đói, trong một quán trọ tồi tàn ở Săngtily, đã thế
lại còn chẳng thèm trả lời những bức thư cháy bỏng tôi viết cho bà.
- Nhưng ông Porthos ơi - Bà biện lý thầm thì và cảm thấy nếu phán
xét theo cách xử sự của các bậc mệnh phụ thời bấy giờ thì bà quả đã sai.
- Tôi, người đã vì bà mà hy sinh cả nữ Nam tước…
- Tôi biết quá chứ.
- Rồi nữ Bá tước…
- Ông Porthos, đừng trách cứ tôi thêm nữa.
- Và nữ Công tước…
- Ông Porthos, hãy đại lượng nào?
- Bà nói đúng, thưa bà, và tôi sẽ không nói nốt ra đâu.
- Nhưng vì ông chồng tôi ông ấy không muốn nghe nói đến chuyện vay,
mượn…
- Bà Coquenard - Porthos nói - bà có nhớ bức thư đầu tiên bà đã
viết cho tôi mà tôi vẫn ghi khắc trong ký ức không?
Bà biện lý thốt ra một tiếng kêu rên. Bà nói:
- Nhưng cũng vì món tiền ông hỏi mượn hơi quá lớn.
- Bà Coquenard ạ, tôi đã thích hỏi bà hơn. Chứ tôi chỉ việc biên
thư cho bà nữ Công tước… Tôi không muốn nói tên bà ấy ra, bởi tôi không biết
làm tổn hại đến danh giá một phụ nữ nghĩa là thế nào. Nhưng điều tôi biết là
tôi chỉ việc viết cho bà ấy mấy chữ là bà ấy gửi ngay cho tôi một nghìn năm trăm
đồng.
Bà biện lý rơi một giọt nước mắt. Bà nói:
- Ông Porthos ạ, tôi xin thề là ông đã trừng phạt tôi nặng lắm rồi
và nếu như mai sau ông gặp phải cảnh ngộ tương tự, ông cứ việc nói cho tôi
biết.
- Thôi đi, thưa bà? - Porthos làm ra vẻ bực bội nói - Thôi đừng nói
đến chuyện tiền bạc nữa, tôi xin bà, nhục nhã lắm.
- Như thế là ông không yêu tôi nữa rồi! - Bà biện lý chậm rãi và
buồn rầu nói.
Porthos im lặng một cách oai vệ.
- Ông trả lời tôi như thế ư? Than ôi! Tôi hiểu rồi.
- Bà hãy nghĩ đến việc bà đã xúc phạm tôi, nó vẫn còn ở đây này -
Porthos vừa nói vừa để tay lên trái tim mình và vừa ấn thật mạnh.
- Tôi sẽ sửa chữa. Thôi nào, ông Porthos thân mến của tôi!
- Vả lại, nào tôi đòi hỏi bà gì nào. - Porthos đai lại bằng một
động tác đầy vẻ chất phác - chỉ vậy thôi chứ có gì khác đâu. Dẫu sao, tôi đâu
phải một kẻ cố cùng. Tôi biết bà không giầu, bà Coquenard ạ, và tôi biết là
chồng bà phải hút máu(5) của dân khiếu kiện đáng thương để bòn rút lấy mấy đồng
êqui quèn. Ôi, nếu như bà là nữ Bá tước, Hầu tước hay Công tước thì lại là
chuyện khác và sẽ không thể tha thứ được.
Bà biện lý tự ái, nói:
- Ông phải biết rằng, ông Porthos ạ, cái két sắt của tôi, cứ cho là
két sắt của bà biện lý đi, có khi còn chứa nhiều hơn két sắt của mọi mụ đàn bà
õng ẹo hư hỏng của ông đấy.
- Thế là bà lại xúc phạm gấp đôi tôi rồi - Porthos vừa nói vừa gỡ
cánh tay của bà biện lý dưới cánh tay mình ra - Bởi vì bà giầu, bà Coquenard,
thế thì việc bà chối từ tôi là không thể tha thứ nữa.
- Khi tôi nói giầu - bà biện lý nói chữa lại vì thấy chót đã đi quá
xa - không nên hiểu theo nghĩa đen của từ ấy - Tôi rõ ràng là không giàu. Tôi
chỉ dễ chịu thôi.
- Thôi nào bà - Porthos nói - ta không nói về việc ấy nữa, tôi xin
bà đấy. Bà không hiểu tôi rồi. Mọi tình cảm giữa chúng ta đã tắt!
- Ông là đồ bội bạc!
- A, tôi khuyên bà cứ việc oán trách đi! - Porthos nói.
- Vậy thì ông đi luôn với cái bà nữ Công tước xinh đẹp của ông đi!
Tôi không giữ ông nữa đâu.
- Này, tôi tin bà ta chưa đáng bị giày vò thế đâu!
- Thế thì, thưa ông Porthos, một lần nữa, cũng là lần cuối cùng,
ông có còn yêu tôi nữa không?
- Than ôi! Thưa bà - Porthos nói bằng một giọng bi ai nhất mà chàng
có thể tạo được - khi chúng tôi sắp bước vào chiến dịch, trong một chiến dịch mà
những linh cảm của tôi bảo tôi rằng tôi sẽ bị giết.
- Ôi, xin ông đừng nói những chuyện như thế - Bà biện lý òa lên nức
nở.
- Một điều gì đó nói với tôi - Porthos tiếp tục mỗi lúc càng bi ai
hơn.
- Thà ông cứ nói ông có một mối tình mới còn hơn.
- Không đâu. Tôi thành thực nói với bà đấy. Không có một đối tượng
nào khiến tôi động lòng và tôi vẫn còn cảm thấy ở đây, trong đáy lòng tôi, một
cái gì đó nói cho bà. Nhưng chỉ trong mười lăm ngày nữa như bà đã biết hoặc có
khi bà không biết cũng nên, cái chiến dịch tàn khốc vẫn cứ mở ra! Tôi sắp phải
lo lắng ghê gớm về món quân trang của tôi. Rồi, tôi sắp phải khởi hành về gia
đình tôi ở mãi cuối vùng Brơtanhơ để thực hiện món tiền cần thiết cho việc tòng
chinh.
Porthos nhận thấy trận chiến cuối cùng giữa tình yêu và tình keo
kiệt đang diễn ra.
- Và vì - chàng tiếp tục - nữ công tước mà bà vừa thấy ở nhà thờ,
có những đất đai cạnh đất đai của nhà tôi, chúng tôi sẽ cùng khởi hành. Những
cuộc hành trình, bà biết đấy, khi ta đi có đôi, hình như nó cũng đỡ dài hơn.
- Vậy ông không có ai là bạn bè ở Paris ư, ông Porthos? - bà biện
lý hỏi.
- Tôi cứ tưởng là mình cũng có - Porthos vừa nói vừa làm ra vẻ sầu
não - nhưng tôi thấy rõ tôi đã lầm.
- Ông có đấy, ông Porthos, ông có đấy - Bà biện lý lắp lại trong
cơn bốc đồng khiến chính bà ta cũng phải ngạc nhiên - Ngày mai ông cứ đến nhà -
Ông sẽ là con trai của cô tôi do đó là anh họ tôi. Ông từ Noayông đến Picađy.
Ông có nhiều việc kiện tụng ở Paris mà lại không có biện lý. Ông nhớ tất cả
những điều đó chứ?
- Rất nhớ, thưa bà.
- Ông đến vào giờ ăn trưa.
- Rất tốt.
- Và phải vững trước chồng tôi, mặc dầu đã bẩy sáu tuổi, nhưng vẫn
tinh quái lắm.
- Bẩy mươi sáu! Chết tiệt! Tuổi vàng đấy!
- Ông Porthos, ông muốn nói tuổi cao chứ gì. Cho nên, con người tội
nghiệp thân yêu đó bất cứ lúc nào cũng có thể để tôi góa bụa - bà biện lý vừa
ném cái nhìn đầy ý nghĩa về phía Porthos vừa nói tiếp - May sao hôn ước của
chúng tôi là chuyên hết của cải cho người còn sống.
- Chuyển tất cả? - Porthos hỏi.
- Tất cả?
- Bà đúng là loại đàn bà biết lo xa, tôi thấy ngay mà, bà Coquenard
thân mến của tôi ạ - Porthos vừa nói vừa trìu mến siết tay bà biện lý.
- Thế là chúng ta lại giải hòa với nhau xong rồi, có phải không ông
Porthos? - bà biện lý vừa nói vừa õng ẹo.
- Đến trọn đời - Porthos đáp lại cũng với dáng điệu ấy.
- Vậy tạm biệt, kẻ phản bội của tôi.
- Tạm biệt, nàng dễ quên của tôi.
- Mai nhé, thiên thần của em.
Mai nhé, ngọn lừa của đời anh.
Chú thích:
(1) Ở đây tác gíả có sự nhầm
lẫn, vì ngay cuối chương trước, tác giả đã cho ông De Treville báo cho D'
Artagnan biết đã được nhà Vua gia ân cho xung vào ngự lâm quân chứ không còn là
cận vệ quân nữa.
(2) Hypôlít - Nữ chúa của các
nữ chiến binh dân Amazôn vùng Tiểu Á rất thiện chiến (Thần thoại Hy Lạp)
(3) Meâ Culpâ: tôi có tội
(4) procurcuse ngoài nghĩa bà
biện lý còn có nghĩa trùm nhà thổ. mụ tú bà
(5) Ở đây có sự chơi chữ
sangsurer hút máu, đồng âm với censurer kiểm duyệt, khiển trách. Ý nói đến việc
làm không trong sáng của ông biện lý, còn gọi là viện trưởng kiểm sát và của
ngành tư pháp nói chung!
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 30
Milady
D' Artagnan vẫn bám theo Milady mà không để cho nàng biết được.
Chàng thấy nàng lên xe và nghe thấy tiếng ra lệnh cho tên đánh xe đi về cửa ô
Saint-Germain.
Nhưng thật là vô ích khi cố chạy bộ bám theo một chiếc xe chạy nước
kiệu do hai con ngựa lực lưỡng kéo, D' Artagnan đành trở về phố Fréjus.
- Ở phố Sông Sein chàng gặp Planchet đang dừng chân trước cửa hàng
bánh ngọt và có vẻ còn đang đê mê với một ổ bánh mì sữa hình dáng rất ngon
lành.
Chàng ra lệnh cho gã đóng yên hai con ngựa trong chuồng ngựa của
ông De Treville, một con cho chàng, một con cho gã rồi đến gặp chàng ở nhà
Athos. Ông De Treville đã cho phép chàng muốn dùng ngựa của ông lúc nào cũng
được.
Planchet đi về phía phố Chuồng chim câu, và D' Artagnan về phố
Fréjus. Athos vẫn ở nhà, đang ngồi buồn uống cạn những chai rượu nho Tây Ban
Nha nổi tiếng chàng mang về trong chuyến đi tới Picađi. Chàng ra hiệu cho
Grimaud mang một cốc cho D' Artagnan và Grimaud vâng lời theo thường lệ.
D' Artagnan kể lại cho Athos nghe tất cả những gì đã diễn ra ở nhà
thờ giữa Porthos và bà biện lý, và có thể, lúc này, người bạn của họ đang đi
sắm quân trang như thế nào.
Nghe hết chuyện, Athos trả lời:
- Còn tôi, tôi hoàn toàn yên trí sẽ không phải là đàn bà bỏ ra trả
tiền yên cương cho tôi đâu.
- Nhưng tuy nhiên, đẹp trai, lịch thiệp, đại lãnh chúa như anh, thì
sẽ chẳng công chúa, hoàng hậu nào thoát khỏi những mũi tên tình ái của anh đâu.
- Ôi cái cậu D' Artagnan trẻ người non dạ này! - Athos vừa nói vừa
nhún vai.
Và chàng ra hiệu cho Grimaud mang chai rượu thứ hai đến.
Cùng lúc đó, Planchet thập thò qua chiếc cửa hé mở báo cho chủ mình
biết hai con ngựa đã tới đây.
- Ngựa nào vậy? - Athos hỏi.
- Hai con ông De Treville cho tôi mượn để đi dạo và với lũ ngựa này
tôi sẽ làm một chuyến đến Saint-Germain.
- Và cậu định làm gì ở chỗ Saint-Germain? - Athos lại hỏi thêm.
- Thế là D' Artagnan liền kể cuộc gặp gỡ trong nhà thờ, và chàng đã
gặp lại cái người đàn bà đi cùng vị lãnh chúa mặc áo choàng đen và có sẹo ở
thái dương như thế nào, người đàn bà đó là mối bận tâm vĩnh viễn của chàng.
- Có nghĩa là cậu đã phải lòng người đàn bà này cũng như đối với bà
Bonacieux chứ gì - Athos vừa nói vừa nhún vai khinh thị như thể chàng lấy làm
thương hại cho sự yếu đuối của con người.
- Tôi hả, không đời nào! - D' Artagnan hét lên - Tôi chỉ tò mò muốn
làm sáng tỏ cái bí mật mà bà ta gắn kết với nó. Tôi không biết tại sao tôi cứ
hình dung ra người đàn bà tôi hoàn toàn không quen biết đó và con người mặc áo
choàng đen cũng hoàn toàn không quen biết tôi lại có ảnh hưởng đến đời tôi.
- Thật ra, cậu có lý đấy - Athos nói - tôi không biết một người đàn
bà nào đang để bõ công đi tìm khi nàng đã mất tăm mất tích. Bà Bonacieux đã mất
tăm, thì mặc kệ bà ta, rồi bà ta sẽ tìm được đường về.
- Không, Athos, anh nhầm rồi! - D' Artagnan nói - Tôi yêu nàng
Constance đáng thương của tôi hơn bao giờ hết và nếu tôi biết nàng ở nơi đâu,
dù ở tận cùng thế giới tôi cũng sẽ đi ngay để cứu thoát nàng khỏi bàn tay kẻ
thù của nàng. Nhưng tôi không biết ở đâu, mọi sự tìm kiếm của tôi đều vô ích.
Anh còn muốn gì nào? Thì cũng phải giải khuây đã chứ.
- Vậy thì đi mà giải khuây với Milady, D' Artagnan thân mến ạ, nếu
việc đó làm cậu thích thú, thì tôi xin hết lòng mong cho cậu đấy.
- Nghe đây, anh Athos - D' Artagnan nói - vì anh cứ tự nhốt kín
mình ở đây như là bị cầm tù ấy, hãy lên ngựa cùng đi dạo với tôi đến Saint-Germain
có hơn không.
- Bạn thân mến - Athos đáp - Tôi lên ngựa khi nào tôi có ngựa, nếu
không tôi cuốc bộ.
- Thôi đi! - D' Artagnan vừa trả lời vừa mỉm cười về cái giọng chán
đời của Athos, mà nếu là của một người khác chắc hẳn đã làm chàng bị tổn thương
- Tôi không kiêu hãnh như anh đâu, tôi cưới bất cứ con ngựa nào tôi gặp. Thôi
thế, đành tạm biệt vậy, anh Athos thân mến.
- Tạm biệt, - chàng ngự lâm quân vừa nói vừa ra hiệu cho Grimaud mở
nút chai rượu gã vừa mang tới.
D' Artagnan và Planchet cùng nhảy lên yên vừa thẳng đường tới
Saint-Germain.
Suốt dọc đường, những gì mà Athos nói về bà Bonacieux lại trở lại
trong tâm trí chàng. Cho dù D' Artagnan tính tình không đa cảm mấy, cô hàng xén
xinh đẹp vẫn để lại một ấn tượng thật sự trong trái tim chàng. Và như chàng đã
nói, chàng sẵn sàng đi đến tận cùng thế giới để tìm nàng. Nhưng thế giới lại có
nhiều chỗ tận cùng, sở dĩ như vậy vì nó tròn, thành thử chàng không biết quay
về phương nào mà tìm.
Trong khi chờ đợi, chàng đang muốn cố hiểu xem Milady kia là người
thế nào. Milady đã nói với người mặc áo choàng đen.
Vậy là nàng quen biết hắn. Thế mà trong tâm trí D' Artagnan, chính
tên mặc áo choàng đen đã bắt cóc bà Bonacieux lần thứ hai, cũng như hắn đã từng
bắt cóc nàng lần thứ nhất. Như vậy là D' Artagnan chỉ nói dối một nửa, tức
chẳng nói dối bao nhiêu khi chàng nói đi tìm kiếm Milady cũng là đồng thời tìm
kiếm nàng Constance.
Vừa đi vừa nghĩ như thế, vừa thỉnh thoảng thúc ngựa, D' Artagnan đi
hết đoạn đường và đã đến Saint-Germain.
Chàng đi men theo tòa nhà mà mười năm sau Louis XIV ra đời ở đó Rồi
chàng đi xuyên qua một phố vắng, nhìn trái, nhìn phải xem có nhận ra dấu vết gì
của mỹ nhân người Anh không, thì ở tầng trệt một ngôi nhà xinh đẹp, theo thói
quen thời buổi đó không có cửa sổ trông ra đường phố, chàng thấy xuất hiện một
gương mặt quen quen. Gương mặt quen đó đang đi dạo trên một loại thềm cây đang
nở hoa. Planchet nhận ra hắn trước liền nói với D' Artagnan:
- Này ông chủ, ông không nhớ ra bộ mặt đang ngơ ngơ ngác ngác kia ư?
- Không - D' Artagnan nói - Tuy nhiên ta tin chắc đây không phải là
lần đầu ta nhìn thấy gương mặt ấy.
- Mẹ kiếp, tôi thì tôi tin chắc - Planchet nói - đấy chính là tên
Luybanh tội nghiệp, người hầu của Bá tước De Wardes mà cách đây một tháng, ông
đã sắp xếp cho ông ta rất là chu đáo ở Cale, trên đường tới dã thự của ông trấn
thủ ấy.
- À, phải rồi - D' Artagnan nói - giờ thì ta nhận ra hắn rồi.
- Anh có tin hắn cũng nhận ra anh không?
- Ông chủ ạ, lúc đó nó đang rối tinh, rối mù, tôi ngờ nó khó có thể
nhớ được một điều gì rõ ràng về tôi.
- Này, thế thì đến gạ chuyện với hắn đi - D' Artagnan nói - và thăm
dò xem liệu chủ hắn có ngoẻo không.
Planchet xuống ngựa, đi thẳng đến chỗ Luybanh. Quả nhiên hắn không
nhận ra gã, và hai chàng hầu trò chuyện với nhau với tình hữu hảo nhất trên
đời. Trong khi đó, D' Artagnan xua hai con ngựa vào trong một ngõ hẻm rồi đi
vòng theo một ngôi nhà để trở lại đứng sau hàng rào cây phỉ tham dự cuộc chuyện
trò của hai người kia.
Quan sát sau hàng rào được một lúc, chàng nghe thấy tiếng xe ngựa
và thấy chiếc xe của Milady đỗ lại ngay trước mặt chàng. Không còn nhầm vào đâu
được, Milady đang ngồi trong xe, D' Artagnan cúi người xuống nấp sau cổ ngựa để
trông thấy hết mà không bị lộ diện.
Milady thò đầu tóc vàng hoe ra khỏi cửa xe ra lệnh cho cô gái hầu
phòng của mình.
Cô gái xinh đẹp khoảng hai mươi đến hăm hai tuổi, hoạt bát, lanh
lợi, xứng đáng là người hầu gái của bậc mệnh phụ, đang ngồi ở chỗ bậc lên xe
theo tục lệ thời đó, liền nhảy xuống đi về phía cái thềm cây hoa nơi D'
Artagnan bắt gặp Luybanh.
D' Artagnan đưa mắt nhìn theo cô người hầu và thấy cô đi về phía
cái thềm. Nhưng vô tình trong nhà có lệnh gọi Luybanh, thành thử còn trơ lại
Planchet đang nhìn quanh bốn phía xem chủ mình biến đi đằng nào.
Cô gái hầu phòng đến gần Planchet mà cô tưởng nhầm là Luybanh và
đưa cho gã một thư ngắn:
- Gửi cho chủ anh đấy - Cô nói.
- Cho chủ tôi? - Planchet ngạc nhiên hỏi lại.
- Vâng và rất vội đấy. Vậy cầm lấy mau lên.
- Thế rồi, nàng như chạy trốn về phía cỗ xe lúc này đã quay đầu lại
về phía đã đến. Cô gái nhảy lên bậc xe và cái xe đi mất.
Planchet lật đi lật lại mẩu giấy, rồi theo thói quen vâng lời một
cách thụ động, gã nhảy từ bậc thềm xuống luồn vào ngõ hẻm, và được độ hai mươi
bước chân thì gặp D' Artagnan đã chứng kiến hết và đang đến trước mặt gã.
- Ông chủ, gửi cho ông đây - Planchet nói và giơ bức thư ra.
- Cho ta? - D' Artagnan nói. - Anh có chắc không?
- Mẹ kiếp! Tôi chắc quá đi chứ, con hầu gái nó bảo: "Gửi cho
chủ anh đấy!". Tôi có chủ nào khác ngoài ông nào? Thế đấy… Cái con gái hầu
ấy, quả tình, nó xinh và thanh mảnh quá đi mất.
D' Artagnan mở thư ra đọc những hàng chữ sau:
"Một người quan tâm đên ông hơn cả những gì người ấy có thể
nói ra, muốn biêt ngày nào ông sẽ thích dạo chơi trong rừng. Ngày mai, ở khách
sạn Cánh đồng tấm thảm vàng, một tên hầu mặc áo đỏ quần đen sẽ đợi thư trả lời
của ông".
- Ồ, ồ! - D' Artagnan tự nhủ - thế là hơi rõ rồi đây. Hình như
Milady và ta đều nhọc lòng vì sức khỏe của cùng một con người thì phải.
- Này Planchet, cái ông De Wardes quý hóa ấy ra sao rồi? Ông ta
không ngoẻo đấy chứ?
- Không, thưa ông, ông ta khỏe như một người có thể chịu nổi bốn
nhát gươm đâm vào người, bởi ông đã xỉa bốn nhát miễn chê cho vị quý tộc thân
mến ấy và ông ấy vẫn còn yếu vì mất nhiều máu quá. Như tôi đã nói với ông chủ
đấy. Luybanh không nhận ra tôi, nên đã kể cho tôi nghe từ đầu đến cuối cuộc mạo
hiểm của chúng ta.
- Tốt lắm, Planchet, anh đúng là vua của những người hầu đó, bây
giờ lên ngựa thôi và đuổi kịp cỗ xe.
Cũng không lấy gì làm lâu lắm, chỉ độ dăm phút họ đã bắt gặp chiếc
xe dừng lại bên trái vệ đường. Một kỵ sĩ ăn mặc sang trọng đứng ở cửa xe.
Câu chuyện giữa Milady và người kỵ sĩ đó rất sôi nổi đến nỗi D'
Artagnan dừng ngựa phía bên kia cỗ xe mà không ai ngoài cô hầu gái xinh đẹp
biết chàng có mặt.
Cuộc nói chuyện được diễn ra bằng tiếng Anh, thứ tiếng D' Artagnan
chẳng hiểu gì, nhưng cứ theo giọng điệu, chàng tin là mình đoán được mỹ nhân
người Anh đang rất tức giận. Nàng dứt chuyện bằng một điệu bộ khiến chàng chẳng
còn nghi ngờ gì nữa về bản chất của cuộc chuyện trò: đó chính là cú đập quạt
mạnh đến nỗi cái đồ mỹ nghệ nhỏ bé của phụ nữ ấy bay lên thành nghìn mảnh.
Người kỵ sĩ phá lên cười chừng như càng làm Milady thêm tức tối D'
Artagnan nghĩ đây là lúc nên can thiệp. Chàng lại gần cửa xe bên kia, lễ phép
ngả mũ chào:
- Thưa bà, bà cho phép tôi được phục vụ bà chứ? Tôi thấy hình như
ông kỵ sĩ đây làm bà tức giận. Thưa bà, bà chỉ cần nói một tiếng, tôi xin đảm
nhiệm trừng phạt ông ta về tội thiếu lịch sự với bà.
Mới nghe, Milady đã quay lại ngạc nhiên nhìn chàng trai trẻ và khi
chàng vừa nói dứt thì nàng nói bằng một thứ tiếng Pháp rất sõi:
- Thưa ông, tôi sẽ rất cảm động được đặt mình dưới sự che chở của
ông nếu người cãi nhau với tôi không phải là em tôi.
- À, vậy xin thứ lỗi cho tôi - D' Artagnan nói - thưa bà, bà cũng
hiểu là tôi không rõ chuyện đó.
- Người kỵ sỹ mà Milady đã chỉ ra là họ hàng đó cúi xuống ngang tầm
cửa xe hét lên:
- Cái tên bố nhắng ấy làm sao lại xen chuyện vào; tại sao nó không
xéo đi theo đường của nó.
D' Artagnan về phía mình, cũng cúi xuống cổ ngựa trả lời chõ vào
cửa xe.
- Có ông mới là đồ bố nhắng ấy. Ta không đi đường của ta vì ta
thích dừng lại ở đây.
Người kỵ sỹ nói một câu tiếng Anh với chị gái.
- Ta nói với ông bằng tiếng Pháp - D' Artagnan nói - Ta yêu cầu ông
vui lòng trả lời ta bằng thứ tiếng ấy. Ông là em của bà ấy thì mặc ông, nhưng
may thay ông lại không phải là em của ta.
Người ta đã tưởng rằng Milady cũng sợ sệt như phụ nữ thường tình,
sẽ xen vào ngay từ lúc bắt đầu có chuyện khích bác để ngăn không cho nàng nhảy
tọt vào mãi tít trong cuối xe và lạnh lùng bảo tên đánh xe:
- Về ngay khách sạn.
Cô hầu gái xinh đẹp liếc mắt nhìn lo lắng về phía D' Artagnan mà
dáng vẻ khôi ngô của chàng hình như đã ảnh hưởng đến cô.
Cỗ xe phóng đi để lại hai người đàn ông đối mặt nhau không còn trở
ngại vật chất nào ngăn cách họ nữa.
- Người kỵ sĩ định quay người đi theo chiếc xe, nhưng D' Artagnan,
cơn giận đã sôi lên và càng tăng thêm nữa khi nhận ra ở hắn là tên người Anh ở
Amiêng đã thắng chàng con ngựa và suýt nữa đã thắng Athos cả chiếc nhẫn kim
cương của chàng liền nhảy tới nắm lấy cương ngựa ngăn hắn lại.
- Này, ông ơi - chàng nói - Ông hình như còn bố nhắng hơn ta bởi
ông làm ra vẻ đã quên giữa chúng ta đã có một cuộc cãi nhau nho nhỏ.
- À, à! - Tên người Anh nói - Chính là ông, thầy cờ bạc. Vậy là ông
cứ luôn luôn phải chơi hoặc trò này hoặc trò khác hay sao?
- Phải, và việc đó khiến ta nhớ ra là ta phải gỡ lại. Rồi chúng ta
sẽ thấy mà, ông bạn thân mến, ông chơi gươm cũng khéo như chơi hộp xúc xắc đấy
chứ?
- Ông thấy rõ là tôi không mang theo gươm - Tên người Anh nói - Ông
định tỏ ra can trường để chống lại một người không vũ khí chăng?
- Ta hy vọng ông để nó ở nhà - D' Artagnan đáp lại - Dẫu sao ta
cũng có hai thanh và nếu ông muốn, ta sẽ chơi với ông bằng một trong hai thanh.
- Vô ích thôi. Tôi cũng mang theo đủ mọi dụng cụ đó.
- Vậy thì? Ông quý tộc danh giá của ta ơi - D' Artagnan nói tiếp
ông hãy chọn thanh dài nhất ấy và tối nay hãy mang đến cho ta xem…
- Ông thích ở đâu?
- Đằng sau vườn Luýchxămbua, đó là một khu rất đẹp cho những cuộc
dạo chơi thuộc loại mà ta đề nghị với ông.
- Được, sẽ có mặt!
- Ông thích mấy giờ?
- Sáu giờ.
- Nhân thể, ông cũng có thể có một vài người bạn chứ?
- Ồ, tôi có những ba đều sẽ rất vinh dự được chơi cùng bên với tôi.
- Ba à? Càng tốt! Thế là tương ngộ rồi! - D' Artagnan nói - Cũng
đúng số bên này.
- Bây giờ ông là ai? - Tên người Anh hỏi.
- Ta là D' Artagnan, quý tộc Gascogne, phục vụ trong cận vệ đội,
đại đội ông des Essarts. Còn ông?
- Ta là Huân tước De Winter, nam tước vùng Sépfin(1).
- Vậy thì thưa ông Nam tước, ta sẽ xin hầu ông - D' Artagnan nói -
cho dù ông có những cái tên rất khó nhớ.
Rồi chàng thúc ngựa phi nước đại, theo con đường phóng về Paris.
D' Artagnan xuống ngựa ngay tại nhà Athos như chàng vẫn thường làm
trong những trường hợp tương tự.
Chàng thấy Athos đang nằm trên một chiếc ghế dài để đợi quân trang
tự nó phải tìtn đến mình như anh đã nói.
Chàng liền kể hết cho anh chuyện vừa xảy ra chỉ trừ có bức thư của
ông De Wardes.
Athos rất vui thích khi biết mình sắp được đánh nhau với một tên
người Anh. Có thể nói đó là giấc mơ của anh.
Họ cho người hầu đi tìm ngay Porthos và Aramis và cho mấy người này
biết rõ tình hình.
Porthos rút gươm ra khỏi vỏ và đâm chém bức tường, thỉnh thoảng lại
lùi lại, nhún nhảy như một vũ công, Aramis vẫn luôn làm thơ, chui vào thư phòng
của Athos và yêu cầu đừng quấy rầy mình nữa cho đến lúc phải tuốt gươm khỏi vỏ.
Athos ra hiệu cho Grimaud bê một chai rượu ra. Còn D' Artagnan thì
đang tự mình vạch một kế hoạch nhỏ sau đây sẽ thực hiện, một kế hoạch hứa hẹn
một chuyến phiêu lưu thú vị biểu hiện bằng những nụ cười chốc chốc lại hiện lên
làm rạng rỡ bộ mặt mơ màng.
Chú thích:
(1) Trong hàng ngũ quý tộc
Vương quốc Anh chỉ có thể có Bá tước, Công tước vùng nào đó, còn Nam tước là
tước hiệu gắn với tên người, tên chức vụ, không có Nam tước vùng.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 31
Người Anh và người Pháp
Đến giờ hẹn, bọn họ cùng với bốn người hầu đi đến một mảnh đất rào
kín thả dê, phía sau vườn Luychxămbua, Athos cho người chăn dê một đồng tiền để
y lánh ra nơi khác. Bọn người hầu được giao việc canh phòng.
Một lúc sau, một toán cũng lặng lẽ đến gần, vào đó, gặp mấy người
lính ngự lâm, rồi theo những thủ tục nước ngoài, hai bên giới thiệu nhau.
Bọn Anh đều là những người thuộc phẩm trật cao, nên những cái tên
kỳ quái của địch thủ không những làm họ ngạc thiên, mà còn lo ngại nữa.
Nghe ba người xưng tên, Huân tước De Winter nói:
- Những tên như thế thì chúng tôi biết các ông là ai, và chúng tôi
sẽ không giao chiến với những cái tên như thế đâu. Đó là tên của lũ chăn cừu.
- Huân tước, ông đoán đúng đấy, đấy là những tên giả cả thôi -
Athos nói.
- Như thế chỉ càng khiến chúng tôi muốn biết những tên thật? - Gã
người Anh nói.
- Các ông đã đánh bạc với chúng tôi mà có biết tên chúng tôi tâu
Athos nói - với danh hiệu gì các ông thắng của chúng tôi hai con ngựa nào?
- Đúng vậy, nhưng lúc ấy chúng tôi chỉ liều những đồng vàng thôi.
Lần này chúng tôi đem máu ra liều. Người ta chơi bạc với cả thiên hạ, nhưng
người ta chỉ giao chiến với những người cùng đẳng cấp.
- Đúng lắm! - Athos nói. - Và chàng túm lấy một kẻ trong bốn người
Anh sẽ phải đấu với chàng rồi nói nhỏ tên mình cho gã.
Porthos và Aramis cùng làm như thế.
- Như thế đã thỏa mãn ông chưa? - Athos nói với đấu thủ - Và ông
thấy ta đã là một đại lãnh chúa để cho phép ta được so gươm với ông chứ?
- Phải, thưa ông - Tên người Anh vừa nói vừa nghiêng mình đáp lễ
- Vậy thì, bây giờ, ông có muốn ta nói cho ông một điều không? -
Athos lạnh lùng nói tiếp.
- Điều gì? - Gã người Anh hỏi.
- Là điều nhẽ ra ông đừng đòi ta cho biết tên thì tốt hơn.
- Tại sao vậy.
- Bởi người ta tưởng ta đã chết, vì ta có những lý do để mong muốn
người ta không biết ta còn đang sống và ta sẽ buộc lòng phải giết ông để bí mật
của ta khỏi tung tóe ra.
Gã người Anh nhìn Athos tưởng chàng đùa, nhưng Athos không đùa một
chút nào.
- Các vị! - Athos vừa nói với đồng đội vừa tới phía các địch thủ -
Chúng ta sẵn sàng cả rồi chứ?
- Rồi - Cả người Anh và người Pháp đồng thanh trả lời.
- Vậy, hãy phòng thủ - Athos nói, và lập tức tám thanh gươm lóe
sáng trong ánh trời tà và cuộc giao chiến bắt đầu với một sự ác liệt hoàn toàn
đương nhiên giữa những kẻ từng hai lần thù địch.
Athos xỉa gươm đúng phép và bình tĩnh như trong phòng luyện.
Porthos chắc chắn đã sửa chữa được cái bệnh quá chủ quan trong cuộc
phiêu lưu ở Săngtily, chơi những đường kiếm rất hiểm và rất thận trọng.
Aramis còn phải làm cho xong đoạn ba thi khúc của mình nên tỏ ra
rất vội, muốn xong chóng vánh.
Athos là người đầu tiên giết chết địch thủ: chàng chỉ đâm hắn có
một mũi, nhưng như chàng đã báo trước, đó là một mũi tử thương, mũi gươm xuyên
qua tim.
Porthos là người thứ hai hạ đối thủ của mình lăn xuống cỏ.
Chàng đã đâm thủng đùi hắn. Vì gã người Anh này không tiếp tục
kháng cự nữa, gã đã trao gươm cho chàng nên Porthos hai tay dìu gã và đưa gã
lên xe.
Aramis dồn ép đối thủ mãnh liệt, và sau khi đã bị vỡ thế trận năm
chục bước, cuối cùng hắn co cẳng chạy và biến mất trước những tiếng hò reo chế
giễu của bọn người hầu. Còn D' Artagnan, chàng chỉ hoàn toàn đánh phòng thủ,
rồi khi thấy đối thủ đã quá mệt, bằng một cú đánh tạt cực mạnh chàng làm bay
gươm đối thủ. Gã nam tước, thấy bị mất gươm nhảy lùi hai ba bước về phía sau,
nhưng trượt chân, ngã lộn ngửa.
D' Artagnan nhảy phọt tới tì mũi gươm vào họng gã.
- Ta có thể giết ông - Chàng nói với người Anh - và ông đã hoàn
toàn trong tay ta, nhưng vì tình yêu với chị gái ông, ta tha chết cho ông.
D' Artagnan vui sướng đến cực độ. Chàng vừa thực hiện xong kế hoạch
đã vạch trước, và sự tiến triển của kế hoạch làm rạng rỡ những nụ cười trên
khuôn mặt chàng.
Người Anh, vui mừng được xử lý việc này với một con người rất chi
cao thượng, liền ôm siết D' Artagnan trong vòng tay và không ngớt mồm tâng bốc
mấy chàng ngự lâm quân. Rồi vì đối thủ của Porthos đã ở trong xe, còn tên của
Aramis đã biến vô tăm tích, mọi người chỉ còn nghĩ đến kẻ đã chết.
Vì Porthos và Aramis lột quần áo hắn ra hy vọng vết thương không
gây tử vong, một túi tiền lớn rơi ra khỏi đai lưng.
D' Artagnan nhặt và đưa cho Huân tước De Winter. Gã người Anh nói:
- Ông muốn tôi làm cái chết tiệt gì với túi tiền này?
- Ông trả cho gia đình ông ta - D' Artagnan nói.
- Gia đình ông ta quan tâm lắm đến món vặt ấy ư? Họ được thừa hưởng
mười lăm nghìn louis vàng lợi tức. Ông cứ giữ lấy cho các người hầu của các
ông.
D' Artagnan đút túi tiền vào túi mình.
- Và bây giờ, ông bạn trẻ của tôi, bởi tôi hy vọng ông cho phép tôi
được gọi ông như vậy - Huân tước De Winter nói - ngay tối nay, nếu ông muốn,
tôi sẽ giới thiệu ông với chị gái tôi, phu nhân Clericss, bởi vì tôi muốn đứng
về phía chị ấy, chị ấy cũng hết lòng ưu ái với ông, và vì chị ấy không phải là
kém cỏi lắm ở trong triều, có thể trong tương lai chị ấy chỉ nói một tiếng,
không phải là không có ích với ông đâu.
D' Artagnan khoái trí đến đỏ mặt, nghiêng mình tỏ ý hoan nghênh.
Trong khi đó, Athos lại gần nói nhỏ vào tai D' Artagnan:
- Cậu định làm gì với cái túi tiền đó?
- Ồ, tôi định trả lại anh thôi mà, anh Athos thân mến.
- Trả tôi hả? Tại sao vậy?
- Khỉ, anh giết hắn, đó là chiến lợi phẩm của anh.
- Tôi, thừa kế của kẻ thù ư! - Athos nói - Cậu coi tôi là hạng
người nào?
- Đó là lệ của chiến tranh - D' Artagnan nói - Tại sao không coi đó
là lệ của quyết đấu?
- Ngay cả ở trên chiến trường - Athos nói - Tôi cũng không bao giờ
làm như thế.
Porthos nhô vai lên. Aramis mấp máy môi, tán thành Athos.
- Thế thì - D' Artagnan nói - ta cho bọn người hầu số tiền này như
Huân tước De Winter bảo nên làm thế.
- Đúng, - Athos nói - nhưng cho lũ người hầu của bọn Anh chứ không
phải người hầu của chúng ta.
Cách xử sự cao cả ấy của một con người không còn một xu dính túi
khiến bản thân Porthos cũng phải xúc động và lòng hào hiệp Pháp, đã được Huân
tước De Winter và bạn mình kể lại, đâu đâu cũng trầm trồ khen ngợi chỉ trừ có
các chú chàng Grimaud, Mousqueton, Planchet và Bazin.
Huân tước De Winter khi chia tay D' Artagnan đã cho chàng địa chỉ
chị dâu mình. Nàng cư trú ở quảng trường Hoàng gia bấy giờ là khu phố rất thời
thượng và ở nhà số 6. Hơn nữa ông ta còn ngỏ ý đến đón chàng đi để giới thiệu.
D' Artagnan hẹn với ông ta lúc tám giờ ở nhà Athos.
Việc ra mắt Milady chiếm hết tâm trí chàng Gascogne.
Chàng nhớ lại người đàn bà ấy cho đến nay đã xen vào số phận mình
một cách kỳ lạ như thế nào. Chàng tin chắc, đó là người của Giáo chủ, nhưng
chàng vẫn cảm thấy không thể cưỡng nổi bị nàng lôi cuốn bởi một thứ tình cảm
không phân định rõ ràng được Điều e sợ duy nhất của chàng là Milady nhận ra
chàng là người ở Măng và ở Đuvrơ. Lúc đó, nàng sẽ biết chàng là bạn của ông De
Treville và do đó linh hồn và thể xác chàng thuộc về nhà vua, dẫn đến việc làm
mất một phần lợi thế của chàng, vì một khi, hai bên đều hiểu nhau như thế, cuộc
chơi sẽ ở tư thế ngang nhau. Về sự khởi đầu dan díu giữa nàng với Bá tước De
Wardes, anh chàng tự phụ này lại không lo lắng mấy mặc dầu vì Hầu tước(1) này
vừa trẻ, đẹp, giàu và có ưu thế mạnh trong sự sủng ái của Giáo chủ. Nhưng khi
người ta mới hai mươi tuổi, nhất lại là dân Tácbơ thì không phải những cái đó
chẳng là gì hết.
D' Artagnan bắt đầu bằng việc về nhà, ăn mặc thật choáng lộn rồi trở
lại nhà Athos và theo thói quen kể lại hết cho Athos, Athos lo lắng nghe những
dự định của chàng rồi lắc đầu và khuyên chàng phải cẩn thận, bằng một vẻ chua
chát.
- Sao? Cậu vừa bị mất một người đàn bà cậu bảo tất, duyên dáng,
hoàn hảo và bây giờ cậu đã vội chạy theo một người đàn bà khác ư?
D' Artagnan cảm thấy sự trách móc ấy thật xứng đáng.
- Tôi yêu bà Bonacieux bằng trái tim, còn Milady, tôi yêu bằng lý
trí. Để người ta dẫn tôi đến nhà nàng, trên hết là tôi tìm cách làm sáng tỏ vai
trò của nàng ở triều đình.
- Vai trò của nàng ư? Mẹ kiếp! Sau tất cả những gì cậu nói với mình
có khó khăn gì mà không đoán ra. Chỉ là thứ con mồi nào đó của Giáo chủ, một mụ
đàn bà dụ cậu chui vào trong một cái bẫy, và cậu sẽ mất đầu ở đấy như chơi.
- Quỷ ạ? Anh Athos thân mến, tôi thấy hình như anh nhìn cái gì cũng
thành màu đen cả.
- Cậu em thân mến, mình không tin đàn bà, biết làm thế nào! Mình đã
'phải trả giá về chuyện đó, và nhất là loại đàn bà tóc hung vàng. Milady tóc
hung vàng, cậu chẳng bảo mình thế ư?
Nàng có bộ tóc hung vàng đẹp chưa từng thấy.
- Ôi, cậu D' Artagnan đáng thương của tôi - Athos nói.
- Anh nghe đây. Tôi muốn làm sáng tỏ. Rồi khi tôi biết rõ điều tôi
muốn biết, tôi sẽ lánh xa. cậu cứ việc làm sáng tỏ - Athos nói một cách lạnh
lùng.
Huân tước De Winter đến đúng giờ. Athos được báo trước đã chuyển
sang phòng bên. Winter thấy có một mình D' Artagnan, và vì đã gần tám giờ, Huân
tước dẫn chàng đi.
Một cỗ xe sang trọng đang chờ ở phía dưới và vì xe được thắng hai
con ngựa ưu tú, nên chỉ một lát sau mọi người đã ở quảng trường Hoàng gia.
Milady Clericss trịnh trọng đón tiếp D' Artagnan. Cư xá của nàng
tráng lệ xa hoa đặc biệt, và cho dù phần lớn người Anh bị chiến tranh xua đuổi,
đã rời khỏi hoặc đang rời nước Pháp, Milady lại vừa chi những khoản mới tại
ngay cư xá của mình. Điều đó chứng tỏ phương sách nói chung dùng để xua đuổi
người Anh về nước không làm cho nàng quan tâm.
Huân tước De Winter giới thiệu D' Artagnan với chị mình.
- Chị xem, đây là nhà quý tộc trẻ đã nắm tính mạng tôi trong tay,
và không hề muốn lạm dụng lợi thế của mình, cho dù chúng tôi đã từng hai lần là
kẻ thù của nhau, vì chính tôi đã xúc phạm ông ấy, và vì tôi là người Anh. Chị
hãy cảm ơn ông ấy đi nếu chị còn có chút tình với tôi.
Milady hơi cau mày. Một lớp mây thoáng hiện qua trên trán nàng, và
một nụ cười rất lạ lùng hiện lên trên môi nàng khiến chàng trai trẻ cùng một
lúc nhìn thấy ba sắc dạng ấy không khỏi rùng mình.
Người em nàng không nhìn thấy gì cả. Ông ta quay đi để đùa với con
khỉ yêu quý của Milady, đang kéo áo chẽn của ông ta.
Milady bằng một giọng nói đặc biệt dịu dàng trái hẳn với những biểu
hiện khó chịu mà D' Artagnan vừa nhận thấy, bảo chàng:
- Thưa ông, rất hân hạnh được đón ông. Hôm nay ông đã có được những
quyền bắt tôi phải mãi mãi biết ơn ông.
Người Anh kia bấy giờ mới quay lại và kể hết trận chiến không bỏ
một chi tiết. Milady lắng nghe hết sức chăm chú, tuy nhiên dù nàng đã hết sức
che giấu những cảm xúc của mình, người ta vẫn thấy được dễ dàng câu chuyên
không hề làm cho nàng thích thú chút nào. Máu dồn lên mặt nàng và bàn chân nhỏ
nhắn của nàng cứ bứt rứt không yên dưới làn váy áo.
Huân tước De Winter không nhận thấy gì hết. Rồi khi đã kể xong, ông
ta lại gần cái bàn, trên có một cái khay để một chai rượu nho Tây Ban Nha và
mấy cái cốc. Ông ta rót đầy hai cốc, ra hiệu mời D' Artagnan uống.
D' Artagnan hiểu rằng từ chối một người Anh không chạm cốc với họ
là làm họ phật ý ghê gớm. Vì vậy chàng lại gần bàn và cầm lấy cốc thứ hai. Song
chàng không hề rời mắt khỏi Milady, và trong gương chàng bắt gặp sự biến đổi
vừa xảy ra trên khuôn mặt nàng. Giờ đây nàng tưởng không bị ai nhìn nữa, một
nét hung tợn lồ lộ trên khuôn mặt nàng. Nàng nghiến chặt răng cắn chiếc khăn
tay.
Cô gái hầu xinh tươi nhỏ nhắn mà D' Artagnan đã để ý tới lúc này
bước vào, cô nói bằng tiếng Anh mấy câu với Huân tước De Winter. Ông ta lập tức
xin phép D' Artagnan, và nhờ người chị xin lỗi.
D' Artagnan bắt tay Huân tước Winter và quay lại bên Milady. Mặt
nàng với một sự linh hoạt kỳ lạ, đã lấy lại được nét duyên dáng, duy chỉ có mấy
vết máu nhỏ thấm rải rác trên chiếc khăn tay là chỉ rõ nàng đã cắn môi mình đến
bật máu.
Đôi môi nàng tuyệt đẹp, người ta bảo như màu san hô.
Cuộc trò truyện có vẻ vui nhộn hẳn lên. Milady hình như đã hoàn
toàn trở lại bình thường. Nàng kể Huân tước De Winter chỉ là em chồng nàng chứ
không phải em nàng. Nàng đã lấy người con út(2) trong gia đình, người đó đã qua
đời để lại nàng góa bụa với một đứa con. Đứa bé ấy là người thừa kế duy nhất
của Huân tước De Winter, nếu Huân tước không lấy ai. Tất cả những cái đó khiến
cho D' Artagnan thấy như có một tấm màn phủ lên một đicu gì đó, nhưng chàng lại
chưa nhìn rõ cái gì dưới tấm màn.
Hơn nữa, sau nửa giờ chuyện trò, D' Artagnan chắc Milady là đồng
bào của mình, nàng nói tiếng Pháp rất tinh tế và bay bướm khiến không thể còn
chút nghi ngờ gì về việc nàng là người Pháp. D' Artagnan không ngớt tán tỉnh và
cam đoan chung thủy.
Trước tất cả những câu ngớ ngẩn tuôn ra từ chàng trai Gascogne,
nàng chỉ mỉm cười đầy thiện chí. Giờ rút lui đã tới.
D' Artagnan cáo biệt Milady và ra khỏi phòng khách như một người
sung sướng nhất trên đời.
Trên cầu thang chàng gặp cô hầu gái xinh đẹp, cô gái khi đi qua khẽ
cọ vào người chàng và đỏ bừng mặt lên xin lỗi vì đã đụng phải chàng, bằng một
giọng rất hiền dịu khiến lời xin lỗi lập tức được chấp nhận ngay.
Hôm sau D' Artagnan trở lại và còn được đón tiếp nhiệt tình hơn đêm
trước. Huân tước De Winter không có đó, và lần này chính là Milady đã hết sức
hân hạnh tiếp chàng suốt cả buổi tối.
Nàng tỏ ra vẻ rất thích chàng, hỏi chàng hiện ở đâu, ai là những
bạn bè của chàng và liệu đôi khi chàng có nghĩ đến chuyện phụng sự Đức Giáo chủ
không.
D' Artagnan như đã biết, là người quá thận trọng so với tuổi hai
mươi, liền nhớ lại những ngờ vực của mình về Milady.
Chàng hết sức ca ngợi Đức ông và bảo nàng thay vì xung vào đội cận
vệ của nhà vua, chàng đã không hề để lỡ chút nào xung vào đội cận vệ của Giáo
chủ, nếu ví dụ chàng quen biết ông De Cavoa thay vì quen biết ông De Treville.
Milady chuyển ngay sang chuyện khác chẳng một chút gượng gạo và hỏi
D' Artagnan một cách hững hờ nhất trần đời là chàng đã bao giờ ở nước Anh chưa.
D' Artagnan trả lời rằng chàng đã được ông De Treville phái sang
đấy để xử lý vấn đề nâng cấp ngựa, và chàng cũng đã mang về bốn con để làm mẫu.
Milady, trong khi nói chuyện, hai ba lần mím môi. Nàng vấp phải một
gã Gascogne chơi rất kín kẽ.
Cũng bằng giờ đêm trước, D' Artagnan rút lui. Trong hành lang chàng
lại gặp cô hầu Ketty xinh đẹp. Cô gái nhìn chàng bằng thái độ đầy thiện cảm mà
chàng không thể nhầm chút nào.
Nhưng D' Artagnan lại quá quan tâm tới nữ chủ nhân, nên chàng tuyệt
đối chẳng nhận thấy gì ngoài những điều đến từ nữ chủ nhân.
Hôm sau D' Artagnan lại đến nhà Milady rồi hôm sau nửa và mỗi tối
Milady lại đón tiếp chàng thịnh tình hơn.
Mỗi tối, lần trong tiền sảnh, lần ở hành lang, lần trên cầu thang,
chàng đều gặp cô hầu gái xinh đẹp.
Nhưng như đã nói, D' Artagnan không hề chú ý đến sự kiên tâm của
nàng Ketty tội nghiệp.
Chú thích:
(1) Lại một sự nhầm lẫn của
tác giả, vì vừa dòng trên ông còn gọi là bá tước De Wardes, nay đã thành Hầu
tước rồi.
(2) Chỗ này tác giả dùng từ
Cadet (út, thứ), nhưng về sau gẩn cuối lại gọi là frère ainé (anh cả). Chúng
tôi coỉ chồng thứ hai của Milady là anh cả của Huân tước De Winter
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 32
Bữa ăn trưa nhà ông biện lý.
Tuy nhiên cuộc quyết đấu, trong đó Porthos đóng một vai trò chói
lọi không làm chàng quên bữa ăn trưa của bà biện lý của chàng. Hôm sau khoảng
một giờ, sau khi để Mousqueton chải chuốt bộ cánh áo của mình lần nữa, chàng đi
về phố Lũ gấu bằng bước chân của một kẻ hai lần gặp may.
Trái tim chàng đập mạnh, nhưng không giống như D' Artagnan với một
mối tình trẻ trung và nôn nóng. Không, một lợi ích vật chất hơn đang giục giã
máu chàng, cuối cùng chàng cũng sắp vượt qua cái ngưỡng cửa bí ẩn ấy, để bước
lên bậc thang xa lạ mà những đồng vàng cũ kỹ của thày cãi Coquenard đã từng một
đồng một leo lên.
Chàng sắp được nhìn tận mắt cái hòm sắt mà có đến hai chục lần
chàng thấy hình ảnh nó trong mơ, cái hòm dài và sâu, khóa móc, chốt then, niêm
phong dưới đất, cái hòm chàng thường được nghe nói, mà đôi bàn tay hơi khô
quắt, đúng vậy, của bà biện lý sắp mở ra trước đôi mắt ngưỡng mộ của chàng.
Và rồi chàng nữa, kẻ lang thang phiêu bạt khắp đó đây, kẻ không tài
sản, không gia đình, một quân nhân nhẵn mặt nơi quán trọ, tửu quán và lữ điếm,
một kẻ sành ăn mà phần lớn thời gian phải gặp đâu ăn đấy, nay sắp được nếm bữa
cơm gia đình, được hưởng bầu không khí gia đình ấm cúng, phó mặc cho những sự
cưng chiều nho nhỏ mà người ta càng khô khan chừng nào, càng thích thú chừng ấy
như mấy bác lính già đã nói. với tư cách người anh họ, ngày ngày đến ngồi vào
chiếc bàn, ăn ngon lành, làm bớt nhăn vầng trán bủng beo nhăn nhúm của ông biện
lý già, vặt lông đôi chút mấy chú thư ký trẻ bằng cách dạy họ những trò đê
tiện, trò ba xúc xắc, bài Đức, trong những ngón thực hành ma mãnh, để thu về
mỗi giờ dạy bằng cả khoản dành dụm trong cả tháng của họ, tất cả những điều đó
đang mỉm cười thoải mái với Porthos.
Chàng ngự lâm ta liền nhớ lại, chỗ này, chỗ kia, mỗi chỗ một tí
những tiếng đồn đại về các ông biện lý, từ thời nảo thời nào, dù chết rồi nhưng
tiếng vẫn còn, về thói keo bẩn, thói xà xẻo, những ngày ăn chay, trừ việc tiết
kiệm thái quá mà Porthos luôn thấy là rất không đúng lúc, rốt cuộc, đối với một
bà biện lý, thì bà biện lý này vẫn cứ là khá hào phóng và chàng hy vọng sẽ gặp
một ngôi nhà ở mức làm cho người ta hài lòng.
Thế nhưng, ngay tại cửa, chàng đã thấy ngờ ngợ. Càng tới gần càng
thấy chẳng có gì đáng để thu hút mọi người, lối đi hôi hám và tối om, cầu thang
nhờ nhờ chiếu sáng qua những song sắt từ ánh sáng sân nhà láng giềng. Ở tầng
một, một chiếc cửa thấp đóng những đinh sắt khổng lồ như cổng chính Tòa pháo
đài lớn Satơlê.
Porthos giơ ngón tay gõ khẽ. Một chú học nghề ký lục cao lớn, xanh
xao, tóc rậm rạp như một rừng nguyên sinh ra mở cửa và chào với vẻ miễn cưỡng
phải kính nể một người cũng có vóc dáng to lớn lộ rõ sức mạnh, lại mặc binh
phục biểu lộ địa vị hiện thời, và nước da hồng hào chứng tỏ mức sống phong lưu.
Một chú học nghề khác nhỏ hơn đằng sau gã này, và một gã khác cao
hơn đằng sau gã thứ hai, và một chú loong toong mười hai tuổi sau gã thứ ba.
Tất cả là ba chàng học nghề rưỡi, điều đó chỉ ra đây là một môn học
đắt hàng nhất thời bấy giờ.
Cho dù chàng ngự lâm một giờ mới phải đến nhưng từ giữa trưa bà
biện lý đã trông ngóng và mong ở tấm lòng, cũng có thể cả ở dạ dày tình lang
của bà để chàng đến sớm hơn.
Bà Coquenard từ cửa buồng đi ra hầu như cùng một lúc với vị thực
khách của bà từ cửa cầu thang đi lên và sự xuất hiện của vị phu nhân danh giá
đó khiến chàng hết sức bối rối. Bọn học nghề nhìn chàng bằng con mắt tò mò, còn
chàng không biết nói sao về cái trò leo lên leo xuống này, đành đứng lặng câm.
- Anh họ tôi đấy? - Bà biện lý reo lên - Anh vào đi, vào đi, anh
Porthos.
Cái tên Porthos có ảnh hưởng ngay đến bọn học nghề khiến họ bật
cười, nhưng Porthos quay lại, mọi bộ mặt lại trở lại nghiêm trang.
Vào phòng ông biện lý là phải qua tiền sảnh nơi bọn học nghề có lẽ
học ở đó. Cái phòng này là một loại phòng tối om và ngổn ngang giấy lộn. Ra
khỏi phòng học, đi qua nhà bếp ở bên phải là đi vào phòng tiếp khách.
Tất cả các phòng đều thông sang nhau, và không gây được một ý nghĩ
tốt đẹp nào cho Porthos. Cửa phòng mở thì từ xa đã nghe thấy tiếng nói. Rồi khi
đi qua, chàng liếc nhanh mắt xem bếp núc ra sao, chàng đành phải tự thú nhận
lấy làm xấu hổ cho bà biện lý và trót dại cho bản thân mình, vì không thấy lửa
bếp, và vẻ tấp nập, nhộn nhịp thường có trong một bữa ăn ngon, đúng hơn là
thường ngự trị trong thánh đường của những món ăn ngon miệng.
Ông biện lý chắc hẳn đã được báo trước cuộc viếng thăm này vì ông
chẳng tỏ ra ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy Porthos tiến về phía ông, với vẻ
khá thoải mái và nho nhã chào ông.
- Chúng ta là họ hàng, hình như thế phải không, ông Porthos? - Ông
biện lý chống tay lên chiếc ghế bành bằng trúc, nhổm dậy hỏi.
Một ông lão, bọc kín trong một chiếc áo chẽn đen rộng thùng thình
và tấm thân lòng khòng, xanh xao, khô đét lọt thỏm trong đó. Đôi mắt nhỏ màu
xám sáng như hai viên lựu ngọc với cái miệng nhăn nhó hình như là phần sinh sắc
duy nhất còn lại trên khuôn mặt ông ta. Khốn nạn thay, đôi chân ông lại bắt đầu
từ chối việc phục vụ của cái cỗ máy xương xẩu đó từ năm sáu tháng nay rồi, và
từ khi ngửi thấy mùi suy sụp ấy, ông biện lý đáng kính đã gần như trở thành nô
lệ của vợ mình.
Người anh họ chẳng qua được tiếp nhận một cách bất đắc dĩ thôi.
Thầy kiện Coquenard nếu còn quắc thước thì đã xin lỗi mọi thứ họ hàng với ông
Porthos rồi.
- Vâng, thưa ông, chúng ta là họ hàng - Porthos đáp chẳng hề lúng
túng, hơn nữa chàng đâu có tính chuyện được người chồng tiếp đón nồng nhiệt.
- Về phía các bà à?
Ông biện lý hỏi một cách tinh quái. Porthos đã chẳng hề cảm thấy là
sự mỉa mai, lại còn coi đó như một sự hồn nhiên khiến chàng phát buồn cười sau
hàng ria rậm. Bà Coquenard thì biết thừa làm gì có chuyện ông biện lý hồn nhiên
trong trường hợp đó, cũng hơi cười tủm nhưng lại đỏ mặt nhiều hơn.
Từ lúc Porthos đến, thầy kiện Coquenard vẫn lo lắng đưa mắt nhìn về
phía chiếc tủ lớn kê trước chiếc bàn giấy bằng gỗ sồi của ông ta. Porthos hiểu
rằng chiếc tủ ấy cho dù không giống với hình dạng chiếc hòm chàng thấy trong mơ
vẫn cứ là chiếc hòm may mắn, và còn mừng thầm vì cái tủ thực này còn cao hơn
cái trong mơ gần hai mét.
Thầy kiện Coquenard không đẩy xa việc điều tra gia hệ thêm nữa mà
đưa mắt lo lắng từ cái tủ sang Porthos, và đành bảo:
- Ông anh họ chúng ta, trước khi ông ra trận chắc sẽ chiếu cố dùng
cơm trưa một lần với chúng ta, phải không, bà Coquenard?
Lần này, Porthos cảm thấy như vừa nhận một đòn đánh trúng dạ dày,
và hình như về phía bà Coquenard cũng không phải không cảm thấy điều đó vì bà
nói thêm:
- Ông anh họ tôi sẽ không trở lại nữa nếu chúng ta xử sự tồi với
anh ấy. Nhưng trong trường hợp trái lại, cho tới khi ra trận anh ấy cũng có quá
ít thời giờ để qua được Paris, do đó không phải bất cứ lúc nào cũng có thể thu xếp
để đến thăm chúng ta được đâu ôi! Đôi chân tôi! Đôi chân khốn khổ của tôi! Mày
ở đâu rồi? - Ông Coquenard lẩm bẩm.
Và ông cố nở một nụ cười.
Porthos cảm thấy vô cùng biết ơn bà biện lý đã kịp thời cứu chàng
đúng lúc chàng bị tấn công trong những niềm hy vọng tiêu hóa thức ăn của mình.
Chỉ lát sau, giờ ăn trưa đã tới. Mọi người đi sang phòng ăn, một
phòng lớn tối tăm đối diện với bếp.
Bọn học nghề ký lục hình như cũng cảm thấy trong nhà những mùi thơm
khác thường, tăm tắp như nhà binh, tay cầm ghế đẩu sẵn sàng ngồi. Người ta thấy
trước được những quai hàm này nhai rau ráu với những dự tính đáng sợ.
Của nợ! - Porthos vừa nghĩ vừa liếc nhìn ba kẻ đói khát bởi chú
loong toong không được phép vinh dự ngồi cùng bàn thầy kiện. Của nợ? Ở địa vị
ông anh họ mình, mình sẽ không để cho lũ của nợ hau háu kia ngồi cùng - cứ như
lũ đắm tàu sáu tuần không được ăn rồi ấy!
Thầy kiện Coquenard đi vào trên chiếc ghế bành có bánh lăn do bà
Coquenard đẩy, Porthos thấy thế cũng giúp một tay đẩy xe đến bàn ăn.
Mới thoạt vào, ông ta cũng hít hít mũi và trệu trạo hàm bắt chước
bọn học nghề ký lục, rồi nói:
- Ồ! Ồ cái món canh này chắc ngon đây.
"Mẹ kiếp món canh này có cái cóc khô gì đặc biệt khiến họ cảm
thấy vậy?" Porthos nghĩ thầm trước món canh lõng bõng, chẳng có mùi gì
ngoài lềnh bềnh mấy viên bột bao thịt băm như những đảo nổi trên một quần đảo.
Bà Coquenard mỉm cười và ra hiệu mời mọi người ngồi xuống, mọi
người vội làm theo.
Thầy Coquenard được phục vụ đầu tiên, rồi đến Porthos. Tiếp đó bà
Coquenard múc đầy đĩa mình và phân đều viên thịt bao bột cho lũ học nghề đang
sốt ruột.
Cùng lúc đó, cửa phòng ăn cọt kẹt tự mở ra, và Porthos qua cánh cửa
hé mở thấy chú nhỏ loong toong không được phép dự tiệc cùng, đang nhai bánh
trước mùi bếp và mùi phòng ăn.
Sau món canh, người hầu gái mang ra một gà mái luộc. Món ăn xa xỉ
này làm rãn căng mi mắt các thực khách đến nỗi hình như sẵn sàng nứt toác ra.
- Bà có vẻ yêu quý họ hàng nhà mình gớm nhỉ, bà Coquenard - ông
biện lý nói với một cụ cười hầu như thê thảm - Rõ ràng đây hẳn phải là sự ân
cần chiều chuộng của bà với ông anh họ của bà.
Con gà mái khốn khổ gầy giơ xương nhưng vẫn không chọc thủng nổi
lớp da quá dầy, chắc người ta phải tìm mãi mới thấy nó đậu ở cái xó nó đã lui
về đấy để đợi chết già.
"Mẹ kiếp! - Porthos nghĩ - Như thế mới thật quá buồn, ta kính
trọng tuổi già, nhưng mình ít ra không thích thấy nó được đem luộc hoặc
quay".
Và chàng nhìn khắp lượt xem có ai cùng ý kiến với mình không, nhưng
trái hẳn với chàng, chàng chỉ thấy những cặp mắt rực lửa như đang ngốn ngấu
trước con gà mái tuyệt vời, nhưng lại là đối tượng của sự khinh thị của chàng.
- Bà Coquenard kéo đĩa gà lại gần mình, khéo léo gỡ hai chiếc chân
đen to đặt vào đĩa chồng, cắt cổ và đầu vào phần mình, nhấc chiếc cánh gà cho
Porthos và trao nó lại cho cô hầu gái vừa mới mang nó lên, con vật lúc này trở
về hầu như vẫn còn nguyên rồi biến mất trước khi chàng lính ngự lâm kịp quan
sát những biến đổi do tuyệt vọng trên các khuôn mặt tùy theo đặc điểm và tính
khí của mỗi người.
Thay cho con gà ranh, một đĩa đậu hạt được bưng ra, một đĩa khổng
lồ trong đó có lẫn mấy cái xương cừu, lúc đầu tưởng còn dính thịt, nhưng chỉ
làm ra như vậy thôi.
Nhưng bọn học nghề ký lục không bị bịp bởi cái trò tráo trở đó, và
bộ dạng thảm hại của họ trở thành những bộ mặt cam chịu.
Bà Coquenard phân phát món ăn đó cho các chàng trai trẻ với mức vừa
phải của một bà nội trợ đảm đang.
Rồi đến lượt rượu vang. Thầy kiện Coquenard rót từ một chiếc chai
sành bé tí một phần ba ly cho mỗi chàng học việc, rót cho bản thân xấp xỉ như
thế, rồi cái chai chuyển sang chỗ Porthos và bà Coquenard.
Bọn con trai pha đầy nước vào chỗ một phần ba rượu vang ấy, rồi khi
đã uống xong nửa ly họ lại pha tiếp đầy ly và cứ làm mãi như thế cho đến cuối
bữa và nuốt một thứ nước uống màu hồng ngọc chuyển thành màu hoàng ngọc cháy.
Porthos ăn rụt rè chiếc cánh gà và rùng mình khi cảm thấy dưới gậm
bàn, đầu gối bà biện lý đang tìm kiếm đầu gối mình.
Chàng cũng uống nửa ly của thứ vang quá chặt chẽ ấy, và nhận ra đó
là thứ rượu thổ sản vùng Môngtrơi tởm lợm, nỗi kinh hoàng của thói sành rượu.
Thầy kiện Coquenard nhìn chàng nuốt rượu không pha thở dài.
- Anh ăn cái món đậu đi chứ, người anh họ Porthos của em?
Bà Coquenard nói bằng một giọng như muốn bảo: tin em đi, đừng có mà
ăn cái món đó.
- Có mà cho quỷ nó nếm! - Porthos lẩm bẩm rất khẽ.
Rồi chàng cao giọng:
- Cám ơn cô em họ của tôi, tôi no mất rồi.
Im lặng mất một lúc. Porthos không biết làm thế nào. Ông biện lý
nhắc đi nhắc lại:
- Ôi bà Coquenard! Tôi xin có lời khen ngợi bà, bữa trưa hôm nay
đúng là một bữa tiệc. Chúa ơi! Tôi ăn mới khiếp chứ?
Thầy kiện Coquenard đã ăn canh, đôi chân đen của con gà mái, và mỗi
một chiếc xương cừu còn dính một tí thịt.
Porthos tin mình bị người ta chơi trò lừa, và bắt đầu vểnh ria lên,
cau mày lại, nhưng đầu gối bà Coquenard tìm kiếm khẽ chạm vào chàng khuyên
chàng nên kiên nhẫn.
Sự im lặng và việc ngừng phục vụ ấy vẫn còn là khó hiểu đối với
Porthos thì ngược lại, lại có một ý nghĩa khủng khiếp đối với bọn học việc.
Thấy ông biện lý đưa mắt kèm theo nụ cười của bà Coquenard, họ từ tốn đứng lên
khỏi bàn, còn từ tốn gấp lại khăn ăn rồi chào và đi ra.
Ông biện lý nghiêm trang nói:
- Đi đi, các chàng trai trẻ, đi làm việc đi cho nó dễ tiêu.
Bọn học nghề đi rồi, bà Coquenard đứng lên và lấy ở tủ đồ ăn ra một
mẩu pho mát, một ít mứt quả mộc qua và một chiếc bánh ngọt bà tự làm bằng hạnh
nhân và mật ong.
Thầy kiện Coquenard cau mày vì nhìn thấy quá nhiều món.
Porthos bậm môi bởi chàng không thấy có gì để ăn trưa nữa.
Chàng nhìn xem đĩa hạt đậu có còn đó không nhưng nó cũng đã biến
mất.
- Dứt khoát là tiệc rồi - thầy kiện Coquenard vừa kêu lên vừa cựa
quậy trên chiếc ghế của mình - yến tiệc thực sự epulae epularum (1), Luculútx
ăn ở nhà Luculútx mất rồi(2).
Porthos nhìn cái chai để cạnh mình và chàng hy vọng với rượu vang,
với bánh với phó mát, chàng sẽ lại tiếp tục ăn trưa, nhưng rượu đã cạn, chai
rỗng không, cả ông bà Coquenard có vẻ như chả hề biết đến chuyện đó.
Porthos tự nhủ: "Tốt lắm, đấy là mình đã được báo trước
đấy".
Chàng đưa lưỡi thử nếm một thìa nhỏ mứt và bị dính răng vào thứ bột
quánh của bà Coquenard.
"Giờ đây, lễ hiến tế đã xong - chàng tự nhủ. Ôi, giá như ta
không có hy vọng được cùng bà Coquenard nhìn vào cái tủ của ông chồng!"
Thầy kiện Coquenard, sau khi được khoái miệng vì bữa ăn như thế mà
ông gọi là thái quá, cảm thấy nhu cầu được ngủ trưa.
Porthos hy vọng việc đó có nhẽ được thực hiện tức khắc và tại chỗ,
nhưng cái lão biện lý phải gió kia lại không chịu nghe ai nhất định đòi đưa về
phòng mình và chừng nào lão chưa ở trước cái tủ của lão, và để cẩn thận hơn,
phải ghếch chân lên thành tủ, thì lão còn kêu.
Bà biện lý dẫn Porthos sang phòng bên cạnh và người ta bắt đầu đề
ra những điểm cơ bản cho việc hòa giải.
- Ông có thể đến ăn trưa ba lần một tuần - Bà biện lý nói.
- Cám ơn, tôi không thích lợi dụng. Vả lại tôi cần phải nghĩ đến
việc trang bị kia.
- Đúng vậy - bà biện lý vừa nói vừa rên rỉ - cái thứ trang bị khốn
kiếp đó.
- Than ôi? Vâng - Porthos nói - Chính là nó đấy.
- Nhưng món trang bị ấy bao gồm những thứ gì, ông Porthos?
- Ồ! Nhiều thứ lắm - Porthos nói - Những ngự lâm quân, bà biết đấy,
là những quân nhân ưu tú, và họ cần có rất nhiều vật dụng mà đối với quân cận
vệ hoặc quân Thụy Sĩ lại là vô tích sự.
- Thì hãy kể từng thứ ra nào.
- Nhưng như thế có thể tới… Porthos thích nói tới tổng số hơn bảng
liệt kê từng món.
Bà biện lý run lên chờ đợi và hỏi:
- Tới bao nhiêu? Em hy vọng nó không vượt quá… Bà dừng lại không
nói nổi nữa.
- Ồ, không - Porthos nói - không vượt quá hai nghìn năm trăm quan
đâu. Tôi tin nếu tiết kiệm, với hai nghìn quan cũng ổn.
- Chúa ơi, hai nghìn quan! - Bà hét lên - nhưng đó là cả một gia
sản.
Porthos nhăn mặt đầy ý nghĩa khiến bà Coquenard hiểu ngay:
- Em yêu cầu chi tiết cơ mà - bởi vì em có rất nhiều bà con và
những người quen biết trong thương trường, em hầu như tin chắc trăm phần trăm
sẽ mua được những thứ ông anh tự mua với giá thấp hơn.
- À, à, - Porthos nói - thì ra cô em muốn nói như vậy.
- Vâng, ông anh Porthos thân yêu! Như thế là trước tiên anh cần một
con ngựa.
- Phải rồi, một con ngựa.
- Được thôi! Đúng là em đã nghĩ đến việc ấy rồi.
- A! - Porthos nói, mặt mày rạng rỡ hẳn lên - thế là xong cái khoản
ngựa đã. Tiếp đến cần phải có yên cương đầy đủ gồm những thứ mà chỉ lính ngự
lâm mới có thể mua, hơn nữa, nó cũng không vượt quá ba trăm đâu.
- Ba trăm quan. Thôi được, cứ cho là ba trăm đi - Bà biện lý vừa
nói vừa thở dài.
Porthos mỉm cười, chàng nhớ mình đã có bộ yên từ ông Buckingham đem
tới, thế là chàng đã ngấm ngầm đút túi được ba trăm quan.
- Rồi - Chàng tiếp tục - còn phải ngựa cho người hầu của tôi và
chiếc vali cho tôi nữa. Còn về vũ khí không cần bà phải lo, tôi đã có rồi.
- Một con ngựa cho người hầu của anh ư? - Bà biện lý ngập ngừng
nhắc lại - nhưng như thế là đại lãnh chúa mất rồi, bạn tôi ạ!
- Ề, thưa bà! - Porthos kiêu hãnh nói - Võ tình, tôi thành kẻ lạc
loài ư?
- Không, em chỉ định nói với ông anh là một con la con xinh xắn đôi
khi trông lại hay hơn một con ngựa thôi mà, và em thấy hình như kiếm một con la
xinh xắn cho Mútxtông…
- Cho là con la xinh xắn đi! - Porthos nói - Cô em có lý đấy. Tôi
cũng đã thấy những bậc đại lãnh chúa Tây Ban Nha mà cả đoàn tùy tòng đều cưỡi
la con cả. Nhưng mà này, bà Coquenard ạ, bà phải hiểu một con la con với đầy đủ
trang sức và nhạc cổ đấy nhé.
- Ông yên tâm - Bà biện lý nói.
- Còn chiếc vali - Porthos nhắc lại.
- Ồ, cái đó thì ông anh khỏi phải lo - Bà Coquenard reo lên - chồng
em có đến dăm sáu chiếc. Ông cứ việc chọn chiếc nào tốt nhất. Có một chiếc ông
ta rất thích mang đi du lịch, rất to, tha hồ chứa.
Porthos thật thà hỏi:
- Nó rỗng à, cái vali ấy?
Bà Coquenard cũng thật thà đáp:
- Chắc chắn là rỗng rồi.
- Ồ, nhưng mà chiếc vali mà tôi cần là chiếc vali đầy ắp cơ, bà em
thân yêu ạ.
Bà Coquenard lại thở dài. Môlie còn chưa viết xong vở: "Kẻ keo
bẩn" thế mà bà Coquenard đã dẫm lên chân Hácpagông rồi.
Cuối cùng phần còn lại của đồ trang bị đều được kế tiếp nhau bàn
cãi theo kiểu đó và kết quả của cuộc hội đàm là bà cho chàng tám trăm quan bằng
tiền, và cấp một con ngựa và một chú la non có vinh dự đem lại vinh quang cho
Porthos và Mousqueton.
Các điều kiện đã ấn định xong, Porthos cáo biệt bà Coquenard.
- Bà ta muốn giữ chàng lại bằng đôi mắt hiền dịu đưa tình, nhưng
Porthos mượn cớ những đòi hỏi của việc quân, bà biện lý nên nhường bước cho nhà
vua.
Chàng ngự lâm quân trở về nhà với cái đói phát điên, phát cuồng.
Chú thích:
(1) Tiếng Latinh có nghĩa:
"Một bữa tiệc giữa các bữa tiệc "hoặc" một bữa tiệc chấm dứt mọi
bữa tiệc, ý nói xa hoa quá.
(2) Tướng La Mã điều khiển
cuộc chiến chống Mithiridate ở Pompeé. một hôm ngườì quản lý dọn cho một mình
ông ta ăn không được ưng ý. Ông ta kiêu hãnh nói: "Thế người không biết
Luculútx tối nay ăn tối ở nhà Luculútx hay sao?"
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 33
Cô hầu gái và nữ chủ nhân
Trong khi đó, mặc dầu những tiếng kêu thét của lương tâm và những
lời khuyên chín chắn của Athos, D' Artagnan mỗi lúc càng trở nên si mê Milady
hơn. Cho nên chả bỏ lỡ ngày nào không đến ve vãn. Chàng Gascogne ưa mạo hiểm
tin chắc sớm muộn gì nàng cũng không thể không đền đáp lại.
Một buổi tối chàng đến, mặt vênh lên, phơi phới như một người đang
đợi một cơn mưa vàng, thì gặp cô hầu gái ở dưôi cửa xe, nhưng lần này nàng
Ketty xinh đẹp không chịu chỉ chạm vào người chàng khi đi qua mà còn nhẹ nhàng
nắm hẳn lấy tay chàng.
"Tốt! - D' Artagnan tự nhủ - cô gái này chắc được nữ chủ nhân
giao việc nhắn tin gì đó cho ta đây, chắc sắp ấn định một cuộc hẹn nào đó cho
ta nên mới không dám nói to chứ gì".
Và chàng nhìn cô bé xinh đẹp với vẻ đắc thắng tột bậc.
Cô hầu gái ấp úng:
- Thưa ông hiệp sĩ, em muốn nói với ông đôi lời.
- Nói đi, em gái, nói đi, ta nghe đây.
- Ở đây không được, điều em muốn nói với ông, dài dòng lắm và nhất
là bí mật lắm.
- Ồ, thế thì phải làm thế nào đây?
- Nếu như ông hiệp sĩ đi theo em được - Ketty dụt dè nói.
- Em muốn đi đâu cũng được, em gái xinh đẹp của ta ạ.
- Thế thì, theo em.
Và Ketty không rời bàn tay D' Artagnan lôi chàng đi qua một cầu
thang nhỏ tối, và ngoắt ngoéo, và sau khi leo lên mười lăm bậc, mở cửa ra và
nói:
- Vào đây, ông hiệp sĩ, ở đây chỉ có mỗi mình chúng ta, và ta có
thể chuyện trò.
- Nhưng đây là cái phòng nào, cô em xinh đẹp? - D' Artagnan hỏi.
Phòng của em, ông hiệp sĩ ạ. Nó ăn thông với phòng bà chủ bằng
chiếc cửa này. Nhưng ông yên tâm, bà ấy sẽ không thể nghe được những gì chúng
ta nói đâu. Bao giờ cũng đến nửa đêm bà ấy mới đi ngủ.
D' Artagnan đưa mắt nhìn xung quanh mình. Căn phòng nhỏ này thật
duyên dáng về mặt thẩm mỹ và sạch sẽ, nhưng mặc dầu vậy mắt chàng vẫn gắn vào
chiếc cửa mà Ketty bảo dẫn sang phòng Milady.
Ketty đã đoán được điều gì đang diễn ra trong tâm trí chàng trai và
buông một tiếng thở dài:
- Ông hiệp sĩ, chắc là ông yêu bà chủ em lắm nhỉ?
- Ồ, còn hơn cả những gì ta có thể nói ra. Ketty ạ, ta yêu phát
điên!
Ketty lại buông thêm một tiếng thở dài:
- Than ôi! Thưa ông, thật đáng tiếc!
- Em thấy rất đáng tiếc là cái quái gì vậy? - D' Artagnan hỏi.
- Là vì, thưa ông - Ketty láy lại - bà chủ em chẳng hề yêu ông chút
nào.
- Hả? - D' Artagnan nói - em được bảo nói với ta như thế hay sao?
- Ồ không đâu, thưa ông! Nhưng là vì em quan tâm đến ông nên quyết
định nói ra điều đó với ông.
- Cám ơn, em Ketty tốt bụng, nhưng chỉ là ý đồ thôi, bởi việc em
tâm sự như vậy là không hay đâu.
- Có nghĩa là ông chẳng tin vào điều em vừa nói chút nào, phải thế
không?
- Người ta luôn khó tin vào những điều như vậy, cô em xinh đẹp ạ,
ngay cả vì tự ái.
- Tức là ông không tin em?
- Thú thực chỉ đến khi em chịu đưa ra cho tôi bằng chứng nào đấy.
- Ông nói sao về cái bằng chứng này?
Và Ketty rút từ ngực mình ra một bì thư.
- Cho tôi ư? - D' Artagnan vừa nói vừa giật mạnh bức thư.
- Không, cho người khác.
- Cho người khác ư?
- Vâng.
- Tên hắn! Tên hắn! - D' Artagnan kêu lên.
- Ông nhìn địa chỉ ấy.
"Bá tước De Wardes".
Kỷ niệm về cảnh tượng ở Saint-Germain hiện lên ngay tức thì trong
óc chàng Gascogne tự phụ. Thoắt một cái chàng xé phăng bì thư, mặc cho Ketty
kêu váng lên khi thấy chàng định xé hay đúng hơn chàng đang xé. Cô nói:
- Ôi chúa ơi! Ông hiệp sĩ, ông làm gì vậy?
- Tôi ư, làm gì đâu.
Nói rồi chàng đọc thư:
"Ông đã không trả lời bức thư đầu tiên của tôi. Ông vẫn còn
đau ư, hay là ông có nhẽ quên ông đã nhìn tôi như thế nào trong buổi khiêu vũ ở
nhà phu nhân De Ghidơ. Đây là cơ hội đấy Bá tước! Đừng để tuột mất".
D' Artagnan tái người đi. Lòng tự ái của chàng đã bị tổn thương.
Chàng tưởng như tình yêu của mình cũng bị tổn thương.
- Ông D' Artagnan thân mến tội nghiệp! - Ketty nói bằng một giọng
đầy cảm thông và lại nắm lấy tay chàng trai trẻ.
- Em thương tôi ư, em bé tốt bụng! - D' Artagnan nói.
- Ồ, vâng, và bằng tất cả trái tim em! Bởi em biết tình yêu là thế
nào.
- Em biết thế nào là tình yêu ư? - D' Artagnan vừa nói vừa nhìn cô,
lần đầu tiên chăm chú như thế.
- Ôi thật đấy!
- Thế thì, đáng lẽ thương xót tôi, tốt hơn em hãy giúp tôi trả thù
bà chủ của em.
- Ông định trả thù kiểu nào đây?
- Tôi muốn chiếm được bà ta, nẫng tay trên địch thủ của ông.
- Em sẽ không bao giờ giúp ông việc ấy, ông hiệp sĩ ạ! - Ketty trả
lời thẳng thừng.
- Tại sao lại thế? - D' Artagnan hỏi.
- Vì hai lẽ.
- Những lẽ gì?
- Thứ nhất, chính vì không bao giờ bà chủ em yêu ông.
- Sao em biết?
- Ông đã làm tổn thương trái tim bà ấy.
- Ta ư? Ta có thể làm tổn thương ở chuyện gì, ta, từ khi quen biết
nàng, đã chịu sống dưới chân nàng như một nô lệ! Em nói đi, ta van em đấy.
- Em sẽ không bao giờ nói ra với ai ngoại trừ người… đọc thấu tâm
can em.
D' Artagnan nhìn cô lần thứ hai. Người thiếu nữ đẹp và tươi tắn đến
mức biết bao bà Quận chúa có nhẽ muốn đem cả danh phận của mình ra để mua lấy
sắc đẹp đó.
- Ketty này - chàng nói - anh sẽ đọc thấu tận đáy lòng em khi nào
em muốn. Có khó gì đâu, em bé bỏng thân mến?
Rồi chàng hôn cô một cái, và cô bé tội nghiệp đỏ bừng mặt lên như
màu anh đào chín.
- Ồ không! - Ketty kêu lên - Ông không yêu em? Bà chủ em mới là
người ông yêu, ông chẳng vừa bảo em như thế hay sao?
- Và điều đô ngăn em không cho tôi biết lẽ thứ hai ư?
- Lẽ thứ hai, thưa ông hiệp sĩ - Ketty lúc này đã trở nên mạnh dạn
hơn trước hết vì nụ hôn, tiếp đó vì đôi mắt đưa đẩy của chàng trai trẻ - là
trong tình yêu ai nấy đều vì mình.
Chỉ đến lúc đó D' Artagnan mới nhớ lại cái nhìn rũ héo của Ketty,
những lần gặp nhau ở tiền sảnh, trên cầu thang, trong hành lang, những cái cọ
tay mỗi lần gặp chàng và những tiếng thở dài kìm nén của nàng. Nhưng vì còn đắm
đuối bởi cái ham muốn làm đẹp lòng người đàn bà quyền quý, chàng đã xem thường
cô hầu gái. Kẻ đi săn chim ưng, để ý gì đến chim chích.
Nhưng lần này, chàng Gascogne chỉ thoáng nhìn đã thấy có thể rút ra
những lợi ích cho mình từ mối tình mà Ketty vừa thổ lộ rất ngây thơ hoặc rất
táo tợn. Đó là chặn đứng những bức thư gửi cho Bá tước de Oátđơ, nắm được mọi
tin tức xảy ra, và ra vào phòng của Ketty liền kề phòng bà chủ nàng bất cứ lúc
nào.
Gã tráo trở này ngay trong ý nghĩ đã hy sinh cô gái đáng thương để
đoạt cho kỳ được Milady dẫu nàng có muốn hay không.
- Được rồi! - D' Artagnan nói với cô gái - Ketty thân mến của anh,
em có muốn anh cho em một bằng chứng của tình yêu mà em còn ngờ vực không?
- Tình yêu nào? - Cô gái hỏi.
- Tình yêu mà anh sẵn sàng cảm nhận đối với em ấy.
- Thế bằng chứng là cái gì?
- Em có muốn tối nay anh ở bên em suốt cả thời gian mà anh vẫn
thường cùng với bà chủ của em không?
- Ồ, vâng - Ketty vừa nói vừa vỗ tay - em xin sẵn sàng?
- Thế thì, em bé của anh ạ - D' Artagnan vừa nói vừa ngồi vào chiếc
ghế bành - Em hãy lại đây để anh nói với em rằng em là cô hầu gái xinh đẹp nhất
anh chưa hề thấy bao giờ!
Và chàng nói đủ thứ và khéo đến mức cô bé tội nghiệp không mong gì
hơn là có thể tin chàng và đã tin chàng… Tuy nhiên, D' Artagnan cũng phải hết
sức ngạc nhiên là cô gái Ketty xinh đẹp tự bảo vệ mình khá quyết liệt.
Thời gian trôi nhanh khi diễn ra thành chuyện tấn công và phòng
thủ.
Nửa đêm đã điểm, và đồng thời chiếc chuông nhỏ trong phòng Milady
cũng rung lên.
- Chết mất thôi! - Ketty kêu lên - Bà chủ gọi em đấy! Anh đi đi! Đi
mau lên!
D' Artagnan đứng lên, cầm mũ như có ý làm theo, rồi mở nhanh cửa
chiếc tủ lớn thay vì mở cửa cầu thang, lẩn vào bên trong giữa đống váy áo của
Milady.
- Anh làm cái gì vậy? - Ketty kêu lên.
D' Artagnan đã cầm trước chìa khóa, tự nhốt mình vào trong tủ và
không trả lời.
- Ơ hay? - Milady kêu lên. - Đã ngủ rồi hay sao mà ta rung chuông
không thấy đến thế?
Và D' Artagnan nghe thấy tiếng mở cửa thông sầm sầm.
- Em đây, thưa phu nhân, em đây mà! - Ketty vừa kêu lên vừa lao
sang gặp bà chủ của mình.
Cả hai cùng trở về phòng ngủ và vì cửa thông vẫn mở, D' Artagnan có
thể nghe thêm tiếng Milady mắng cô gái hầu, rồi cuối cùng cũng dịu lại và câu
chuyện chuyển sang chàng trong khi Ketty sửa soạn chăn gối cho chủ mình, Milady
nói:
- Lạ thật? Tối nay ta không thấy anh chàng Gascogne của chúng ta?
- Sao ạ, thưa phu nhân - Ketty nói - Ông ta không đến ư! Chả nhẽ
ông ta đã thay đổi trước khi được nếm mùi hạnh phúc?
- Ồ không? Chắc là bị ông De Treville hoặc ông des Essarts ngăn
trở. Ta biết rõ mà, Ketty. Và ta đã nắm được gã đó.
- Bà chủ sẽ làm gì với ông ta?
- Ta sẽ làm gì ư?… Yên tâm, Ketty ạ, có một chuyện giữa người ấy và
ta mà người ấy không biết… Hắn suýt làm ta mất tín nhiệm với Đức Giáo chủ… Ồ,
ta sẽ trả thù!
- Em tưởng bà chủ yêu ông ta?
- Ta yêu hắn ư? Ta ghét hắn thì có. Một thằng ngố, hắn đã nắm trong
tay mạng sống của Huân tước De Winter mà lại không giết làm ta mất toi ba trăm
nghìn quan lợi tức thường niên!
- Đúng vậy - Ketty nói - Con trai bà chủ là người thừa kế duy nhất
của chú ruột mình, bà chủ lẽ ra đã được hưởng tài sản đó cho đến khi cậu trưởng
thành.
D' Artagnan rùng mình đến tận xương tủy khi nghe cái sinh linh ngọt
ngào đó quở trách mình bằng cái giọng the thé mà người đàn bà này thường phải
rất khó khăn mới giấu nổi trong khi chuyện trò, là đã không giết một người tràn
đầy tình thân thiết với mụ.
- Cho nên - Milady tiếp tục - Ta đã trả thù chính hắn rồi, nếu như
không hiểu tại sao Giáo chủ lại dặn ta nương tay với hắn.
- Ồ, vâng, nhưng phu nhân đã không hề nương tay với người đàn bà
mảnh mai mà ông ta yêu.
- Ồ, cái con mụ hàng xén ở phố Phu đào huyệt! Chẳng phải hắn đã
quên nhắc mụ ta từng tồn tại sao? Một sự trả thù tuyệt đẹp, ta thề đấy?
Một lớp mồ hôi lạnh toát trên trán D' Artagnan. Mụ đàn bà đúng là
một con quỷ rồi.
Chàng lại tiếp tục lắng nghe. Nhưng không may việc sửa soạn giường
ngủ đã xong.
- Tốt lắm - Milady nói - em về phòng mình đi và ngày mai cố gắng để
có được thư trả lời bức thư ta đã đưa cho em.
- Cho ông De Wardes phải không ạ?
- Phải rồi, cho ông De Wardes.
- Đó là một con người - Ketty nói - em thấy có vẻ hoàn toàn trái
ngược với cái ông D' Artagnan tội nghiệp kia.
- Thôi ra đi, quý nương ạ - Milady - ta không thích những câu bình
luận.
D' Artagnan nghe thấy cửa đóng lại rồi tiếng hai chốt cửa, Milady
cài lại để được một mình ở bên trong.
Về phần mình, Ketty hết sức nhẹ nhàng khóa một vòng chiếc cửa lại.
Lúc đó, D' Artagnan mới đẩy cửa tủ ra.
- Ôi Chúa ơi! - Ketty nói rất khẽ - Có chuyện gì vậy? Sao anh tái
người đi thế?
- Một con mụ tởm lợm? - D' Artagnan lẩm bẩm.
- Im nào! Im nào! Anh ra đi! - Ketty nói - Chỉ có mỗi một vách ngăn
giữa phòng em và phòng bà Milady. Bên này nói gì là bên kia nghe thấy hết.
- Chính vì thế mà anh sẽ không ra đâu. D' Artagnan nói.
- Sao cơ? - Ketty vừa nói vừa đỏ mặt lên.
- Hoặc ít nhất anh sẽ ra… muộn hơn.
Và chàng kéo Ketty lại với mình. Không còn cách nào để cưỡng lại.
Cưỡng lại sẽ gây ra tiếng động! Thế là Ketty đành chịu vậy.
Đó là một hành động trả thù Milady. D' Artagnan thấy người ta có lý
khi nói rằng trả thù là niềm hoan lạc của các thiên thần. Vì vậy chỉ cần có một
chút tấm lòng, D' Artagnan sẽ hài lòng về cuộc chinh phục mới này, nhưng D'
Artagnan chỉ có tham vọng và sự kiêu ngạo.
- Tuy nhiên cũng phải khen chàng đã biết dùng ảnh hưởng của mình ể
làm cái việc đầu tiên là cố sao biết được bà Bonacieux bây giờ ra sao. Nhưng cô
gái tội nghiệp làm dấu thề rằng cô hoàn toàn không biết gì cả, bà chủ cô bao
giờ cũng chỉ cho biết một nửa bí mật của bà thôi, nhưng cô đảm bảo bà Bonacieux
không chết.
Còn lý do làm Milady mất tín nhiệm với Giáo chủ, Ketty cũng không
biết gì hơn. Nhưng lần này, D' Artagnan còn tiến xa hơn cô. Chàng đã bắt gặp
Milady trên một con tàu bị hãm lúc chàng rời nước Anh và chàng ngờ rằng đó
chính là vấn đề những nút kim cương.
Nhưng điều rõ ràng hơn cả trong mọi chuyện chính là mối căm hờn
đích thực, căm hờn sâu xa, mối căm hờn không thể tránh khỏi của Milady đối với
chàng là ở chỗ chàng đã không giết em chồng mụ.
Hôm sau, D' Artagnan lại quay lại nhà Milady. Sắc mặt nàng trông
rất dữ trợn, D' Artagnan ngờ rằng không thấy thư trả lời của ông De Wardes nên
nàng điên tiết, Ketty đi vào, nhưng Milady tiếp cô rất cứng rắn. Cô liếc nhìn
D' Artagnan như muốn nói: "Anh đã thấy em đau khổ vì anh thế nào
chưa!"
Tuy nhiên, cuối buổi chuyện tối, con sư tử cái mỹ miều đã dịu bớt,
nó vừa mỉm cười vừa nghe những mẩu chuyện ngọt ngào của D' Artagnan, lại còn
đưa cả tay cho chàng hôn.
D' Artagnan ra về, không biết nghĩ thế nào nữa. Nhưng vì vẫn là một
chàng trai, nên không dễ bị rối trí, vẫn vừa tán tỉnh Milady, vừa vạch trong
đầu một kế hoạch riêng.
Chàng gặp Ketty ở cửa, và vẫn như đêm trước, chàng leo lên buồng
cô. Ketty bị mắng rất ghê vì bị gán cho tội lơ đãng. Milady nào có hiểu gì về
sự im lặng của Bá tước De Wardes đâu, nên đã ra lệnh cho cô chín giờ sáng đến
phòng mình để đem bức thư thứ ba đi. D' Artagnan bắt Ketty hứa sáng hôm sau
phải mang đến cho chàng bức thư ấy. Cô gái tội nghiệp hứa tất cả những gì người
tình của mình muốn. Cô đang yêu phát điên.
Mọi sự lại lặp lại như đêm trước. D' Artagnan lại chui vào trong
tủ. Milady gọi, sửa soạn đi nằm, đuổi Ketty ra vùng đóng cửa lại. Cũng như đêm
trước, D' Artagnan chỉ trở về nhà vào lúc năm giờ sáng.
Mười một giờ, chàng thấy Ketty đến. Cô cầm trong tay một bức thư
mới của Milady. Lần này cô bé tội nghiệp chẳng buồn tranh cãi gì với D'
Artagnan, cô để mặc chàng làm gì thì làm. Cả tâm hồn lẫn thể xác cô đã thuộc về
chàng lính đẹp trai của mình.
D' Artagnan bóc thư và đọc:
"Thế là lần thử ba tôi viết cho ông để nói rằng tôi yêu ông.
Hãy coi chừng đừng để tôi viết bức thư thứ tư cho ông để nói rằng tôi ghét ông.
Nêú như ông hối hận về cung cách ông đã xử sự với tôi, cô gái
chuyển bức thư này cho ông sẽ nói cho ông biết một người đàn ông phong tình
phải làm thế nào để được tha thứ".
Mặt D' Artagnan lúc đỏ lên, lúc tái lại khi đọc thư.
- Ôi, anh vẫn yêu bà ta! - Ketty, không lúc nào rời mắt khỏi khuôn
mặt chàng trai, nói.
- Không, Ketty, em nhầm rồi, anh không còn yêu mụ nữa. Nhưng anh
muốn trả thù sự khinh thị của mụ đối với anh.
- Vâng, em biết anh muốn trả thù. Anh đã nói với em điều đó rồi.
- Thôi nào, Ketty! Em thừa biết anh chỉ yêu mỗi em thôi.
- Làm sao để biết được điều đó?
- Bằng việc anh khinh bỉ mụ ta.
Ketty thở dài.
D' Artagnan cầm bút và viết:
"Thưa bà, cho đến tận lúc này tôi vẫn ngờ hai bức thư trước
của bà chưa chắc đã phải gửi cho tôi. Vì chưa dám tin mình xứng với vinh dự ấy.
Hơn nữa tôi vẫn còn đau lắm nên dẫu sao tôi vẫn ngần ngại trả lời bà.
Nhưng hôm nay, tôi hẳn phải tin bà đã quá tốt vì không những thư bà
mà cả người thị nữ của bà đều khẳng định rằng tôi có diễm phúc được bà yêu.
Cô gái không cần phải bảo tôi một người đàn ông phong tình phải làm
thể nào để có thể được tha thứ. Tối nay, lúc mười một giờ, tự tôi sẽ đến xin
được tha thứ. Giờ đây, trong con mắt tôi, chậm một ngày thôi cũng là làm cho bà
bị xúc phạm.
Kẻ được bà biến thành người sung sướng nhất trong những người đàn
ông.
Bá tước De Wardes".
Bức thư đó trước hết là một bức thư giả mạo, sau đó là một sự thô
bỉ, mà về mặt phong hóa hiện thời của chúng ta, là một cái gì đấy giống như một
sự đê tiện, nhưng ở thời đó người ta dễ dãi hơn thời bây giờ. Hơn nữa D'
Artagnan biết rõ Milady qua những lời tự thú của nàng, đã phạm tội phản bội cả
những thủ lĩnh quan trọng nhất, và chàng thật ra đâu có coi trọng nàng mấy. Và
trong khi đó, mặc dầu chàng không mấy coi trọng nàng, chàng vẫn cảm thấy một sự
đam mê đến mất trí người đàn bà đó thiêu đốt chàng. Một sự đam mê cuồng say,
bất chấp.
Nhưng đam mê hay khát, nói sao cũng được.
Ý đồ của D' Artagnan thật đơn giản: qua phòng của Ketty chàng sẽ
sang phòng Milady. Chàng sẽ lợi dụng khoảnh khắc đầu tiên vừa sửng sốt vừa xấu
hổ, vừa kinh hoàng để chinh phục nàng. Có thể chàng sẽ thất bại, nhưng cũng
phải cầu may chứ. Tám ngày nữa là chiến dịch đã mở và chàng phải đi ra, D'
Artagnan không còn đủ thì giờ để theo đuổi một mối tình hoàn hảo. Chàng trao
bức thư đã niêm phong cho Ketty và bảo:
- Em cầm lấy và đưa bức thư này cho Milady. Đây là thư trả lời của
ông De Wardes.
Nàng Ketty đáng thương không biết trong thư viết gì, tái nhợt người
đi như một người chết.
- Nghe đã nào, em bé thân yêu của anh - D' Artagnan bảo cô - Em
cũng hiểu mọi việc phải kết thúc cách này hay cách khác. Milady có thể phát
hiện ra em đã chuyển bức thư đầu tiên cho người hầu của anh thay vì phải chuyển
cho người hầu của Bá tước và chính anh đã bóc mấy bức thư sau chứ không phải
ông De Wardes bóc, lúc đó Milady sẽ đuổi em, và em đã biết mụ ta rồi đấy đó
không phải là một người đàn bà biết giới hạn sự trả thù đâu!
- Than ôi! - Ketty nói - Vì ai mà em ra nông nỗi này?
- Vì anh, anh biết quá đi chứ, em vô cùng xinh đẹp của anh ạ thế
cho nên anh rất biết ơn em, anh thề với em đấy.
- Nhưng rốt cuộc, trong thư viết gì?
- Milady sẽ nói với em.
- A, anh không yêu em! - Ketty kêu lên - Sao tôi khốn khổ thế này?
Với những câu than thân trách phận như thế bao giờ cũng có một câu
trả lời khiến đàn bà luôn nhầm lẫn. D' Artagnan đã trả lời theo cách khiến
Ketty rơi vào tình trạng sai lầm to lớn nhất.
- Tuy nhiên cô đã khóc rất nhiều trước khi quyết định trao bức thư
đó cho bà chủ của mình. Nhưng cuối cùng, cô cũng quyết định. Đó là tất cả những
gì mà D' Artagnan mong muốn.
Hơn nữa, chàng cũng hứa với cô, chàng sẽ lên với cô ngay, bằng cách
ra khỏi chỗ Milady sớm.
Lời hứa đó rốt cuộc cũng làm cho cô Ketty tội nghiệp yên lòng.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 34
Việc trang bị cho Aramis và Porthos đã được xử lý ở đâu.
Từ khi bốn người bạn mỗi người một ngả săn tìm đồ trang bị cho
mình, thì không còn một cuộc họp mặt nào được ấn định giữa họ nữa. Người ta ăn
có người này lại không có người khác, gặp đâu ăn đấy hoặc đúng hơn đâu có thể
ăn là ăn. Bản thân việc quân cũng chiếm một phần thời gian quý báu đang trôi
rất nhanh. Họ đành thỏa thuận tuần một lần vào lúc một giờ tại nhà Athos, bởi
lẽ chàng đã thề không ra khỏi cửa.
Ngày họp mặt lại đúng ngày Ketty đến nhà tìm D' Artagnan. Ketty vừa
đi khỏi, D' Artagnan đến phố Fréjus ngay.
Chàng thấy Athos và Aramis đang triết lý. Aramis đang giở chứng
muốn trở lại với chiếc áo thầy tu. Athos, theo thói quen của chàng, không can
ngăn, cũng không khuyến khích. Athos chủ trương để mặc mỗi người tự quyết định
đời mình. Chàng không bao giờ khuyên ai điều gì nếu không yêu cầu chàng. Thậm
chí phải van nài đến hai lần chàng mới nói.
- Nói chung, người ta chỉ yêu cầu khuyên bảo người ta - chàng nói -
để không theo hoặc nếu có theo thì cũng chỉ để có ai đó để có thể trách móc lại
đi khuyên họ như thế.
Porthos đến sau D' Artagnan một lúc. Thế là bốn người bạn lại quây
quần với nhau.
Bốn bộ mặt biểu lộ bốn trạng thái tình cảm khác nhau: Porthos thì
bình tâm, D' Artagnan hy vọng, Aramis lo lắng, và Athos vô tư lự.
Chuyện trò được một lúc và Porthos đang hé ra có một nhân vật quyền
thế rất cao muốn gánh vác giúp chàng khỏi lúng túng thì Mousqueton vào.
Hắn đến yêu cầu Porthos về nhà ngay, và bằng một giọng vô cùng
thiểu não, nói thêm rằng sự có mặt của chàng rất khẩn thiết.
- Là chuyện đồ trang bị của ta ư? - Porthos hỏi.
- Đúng và không. - Mousqueton trả lời.
- Nhưng rốt cuộc, mày không thể nói…?
- Về đã thưa ông.
Porthos đứng lên, chào các bạn rồi về theo Mousqueton.
Một lát sau, Bazin hiện ra ở ngưỡng cửa.
- Muốn gì ở ta đây, anh bạn? - Aramis nói với thứ ngôn ngữ dịu dàng
mà người ta nhận thấy ở chàng mỗi khi tư tưởng chàng lại dẫn chàng về với nhà
thờ.
Bazin trả lời:
- Có một người đang đợi ông chủ nhà.
- Một người? Người nào?
- Một người ăn mày.
- Thì bố thí cho người ta và bảo người ta hãy cầu nguyện cho một kẻ
tội lỗi đáng thương.
- Người hành khất đó muốn nói chuyện và cho rằng ông sẽ rất hài
lòng khi gặp ông ta.
- Hắn không nói điều gì đặc biệt cho ta ư?
- Có chứ. Hắn nói: Nếu như ông Aramis ngại ngùng về gặp tôi, cứ báo
tôi từ Tours đến.
- Từ Tours ư? - Aramis reo lên - Thưa các vị, ngàn lần xin lỗi,
nhưng chắc chắn con người đó mang đến cho tôi những tin tức tôi đang mong đợi.
Rồi lập tức đứng lên và vội vã đi ngay.
Còn lại mỗi Athos và D' Artagnan.
- Tôi tin mấy gã ấy đã tìm được chỗ giải quyết. Cậu nghĩ thế nào D'
Artagnan? - Athos nói.
- Tôi biết Porthos đang thuận lợi, - D' Artagnan nói - còn như
Aramis, nói cho đúng, tôi chưa bao giờ thật sự phải quá lo lắng cho anh ấy,
nhưng còn anh, anh Athos thân mến, anh đã hào hiệp phân phát hết số tiền vàng
của cái người Anh lẽ ra đã trở thành của cải hợp pháp của anh, anh định làm gì
đây?
- Tôi rất hài lòng đã giết chết tên vô lại đó, chú em ạ, coi như
giết một tên Anh là được ăn bánh thánh, nhưng nếu tôi lại đút những đồng tiền
vàng của nó vào túi, thì nó sẽ đè nặng và cấn rứt lương tâm tôi.
- Thôi đi nào, anh Athos thân mến! Anh đúng là có những ý nghĩ
không thể chấp nhận được.
- Sang chuyện khác thôi! Nói sang chuyện khác! Cậu có biết ông
Treville hôm qua chiếu cố đến thăm mình đã bảo mình rằng có phải cậu đang lui
tới mấy tên người Anh khả nghi được Giáo chủ che chở không?
- Nghĩa là tôi đang lui tới một phụ nữ người Anh, người mà tôi đã
nói với anh ấy.
- Ờ, phải, người đàn bà tóc hung vàng mà tôi đã khuyên cậu, mặc
nhiên cậu đã không nghe theo.
- Tôi đã giải thích với anh.
- Phải, cứ theo như cậu đã nói với tôi, tôi tin là cậu trông mong ở
đó có được đồ trang bị cho cậu.
- Không đúng chút nào? Tôi đã có thể chắc chắn người đàn bà đó có
liên quan gì đó đến việc bắt cóc bà Bonacieux.
- Phải, tôi hiểu, để tìm lại được một người đàn bà, cậu ve vãn một
người đàn bà khác. Đó là con đường dài nhất nhưng lại thú vị nhất.
D' Artagnan đã định kể hết cho Athos, nhưng có một điểm ngăn chàng
lại. Athos là một nhà quý tộc rất nghiêm túc trong vấn đề danh dự, mà trong
toàn bộ cái kế hoạch nhỏ mà gã si tình đã vạch ra đối với Milady, có một số
điều chàng tin chắc sẽ không được sự đồng cảm của con người thuần khiết đó.
Chàng thấy giữ im lặng thì hơn và vì Athos là người ít tò mò nhất trên đời, tâm
sự của D' Artagnan chỉ dừng lại ở đấy.
Về phần Aramis, nghe tin người muốn nói chuyện với mình từ thành
Tours đến, chàng vội vàng đi theo, hay đúng hơn là vượt trước cả Bazin, vèo một
cái đã từ phố Frêru về đến phố Vôgira.
Vừa bước vào nhà, quả nhiên chàng đã thấy ngay một người tầm vóc
nhỏ, đôi mắt thông minh, nhưng ăn mặc rách rưới.
- Chính ông muốn hỏi gì tôi ư? - Chàng ngự lâm quân nói.
- Nghĩa là tôi muốn hỏi ông Aramis, có phải tên ông là như vậy
không?
- Chính tôi đây. Ông có điều gì muốn nói lại với tôi ư?
- Vâng, nếu ông cho tôi xem chiếc khăn tay thêu.
- Khăn đây - Aramis vừa nói vừa rút từ ngực mình ra một chiếc chìa
khóa và mở một cái hộp nhỏ bằng gỗ mun khảm xà cừ - Nó đây, ông cầm lấy.
- Tốt lắm - Người ăn mày nói - Bảo người hầu của ông ra ngoài đi.
Quả vậy, Bazin tò mò muốn biết người ăn mày muốn ở chủ điều gì đã
bám sát chủ và hầu như cùng về đến nhà một lúc, nhưng sự nhanh nhảu này cũng
chẳng giúp được gì cho gã. Theo yêu cầu của người ăn mày, chủ gã đã ra hiệu cho
gã rút lui và gã buộc phải vâng lời.
Bazin đi rồi, người ăn mày đưa mảt nhìn quanh rất nhanh để chắc
chắn không có ai nhìn thấy nghe thấy, rồi phanh chiếc áo khoác rách khép hờ
bằng một đai lưng da, và tháo đường khâu phía trên chiếc áo chẽn lấy ra một bức
thư. Aramis reo lên vui sướng khi nhìn thấy con dấu đóng bì thư, hôn lên nét
chữ và với vẻ thành kính gần như tôn nghiêm, chàng mở thư ra đọc:
"Bạn ạ, số phận muốn chúng ta phải xa nhau một thời gian nữa,
nhưng những ngày đẹp nhất của tuổỉ xuân không mất đi mà không trở lại đâu,
chàng hãy làm tròn nghĩa vụ nơi chiến trường. Em sẽ làm nghĩa vụ của em. Chàng
hãy cầm lấy những gì người mang thư trao cho chàng, chàng hãy tham gia chiến
trận như một nhà quý tộc đẹp trai và cao quý, và hãy nghĩ tới em đang trìu mên
hôn lên đôi mắt đen của chàng.
Vĩnh biệt (đúng hơn là tạm biệt).
- Người ăn mày vẫn tháo đường khâu. Hắn rút ra từ bộ áo bẩn thỉu
của mình từng đồng, từng đồng một, một trăm năm mươi đồng vàng đôi Tây Ban Nha
xếp thành dãy trên bàn rồi hắn mở cửa, chào và đi ra trước khi chàng trai trẻ
đang bàng hoàng kịp nói được một lời với hắn.
Aramis liền đọc lại bức thư và nhận thấy còn có phần tái bút.
T.B. Chàng có thể tiếp đón người mang thư vốn là Bá tước và đại gia
Tây Ban Nha.
- Mộng vàng đây! - Aramis reo lên - Ôi? Đời đẹp thế! Phải, chúng ta
còn trẻ! Phải, chúng ta sẽ còn có những ngày hạnh phúc! Ôi! cho em, cho em tình
yêu của ta, máu của ta, cuộc sống của ta. Tất tất. Người tình kiều diễm của ta.
Và chàng hôn bức thư say đắm, không cả nhìn vàng đang lấp lánh trên
bàn.
Bazin gãi cánh cánh cửa. Aramis không còn lý do gì để bắt gã đứng
ngoài. Chàng cho phép vào. Thấy đống vàng đó, Bazin cứ ngây ra quên cả việc báo
D' Artagnan đến. Chàng này tò mò muốn biết gã ăn mày kia là thế nào nên đã ra
khỏi nhà Athos đến nhà Aramis ngay.
D' Artagnan thường không cần giữ ý với Aramis nên thấy Bazin quên
không báo, chàng liền xồng xộc đi vào.
- Ôi quỷ ơi! Anh Aramis thân mến - chàng nói - Nếu đây là những quả
mận người ta gửi từ Tours đến cho anh, anh cho tôi gửi lời khen ngợi người làm
vườn đã thu hái được.
- Cậu nhầm rồi - Aramis vốn luôn luôn kín đáo trả lời - Đó là ông
chủ hiệu sách vừa mới gửi tiền nhuận bút bài thơ một vần tôi bắt đầu làm ở đó
mà.
- À, ra thế! - D' Artagnan nói - Này, cái ông hiệu sách của anh
quảng đại thật, anh Aramis thân mến ạ, đó, tôi chỉ có thể nói với anh được như
thế thôi.
- Sao, thưa ông! - Bazin kêu lên - một bài thơ mà bán được đắt đến
thế ư! Không thể tưởng được! Ồ, thưa ông! Ông muốn làm gì thì làm, ông có thể
trở thành ngang tầm với ông De Voatuya hay ông De Băngxêrát. Tôi còn thích thế
hơn. Một thi sĩ, cũng gần như ông tu viện trưởng. Ôi, thưa ông Aramis, ông cứ
làm béng thi sĩ đi, tôi xin ông đấy.
- Bazin, bạn ta ơi - Aramis nói - ta tin anh đang xen vào chuyện
của chúng ta đấy.
Bazin hiểu rằng mình sai, liền cúi đầu đi ra. D' Artagnan mỉm cười
bảo Aramis:
- Chà, anh bán những sản phẩm của anh theo cân trọng vàng. Anh
sướng quá đấy, nhưng hãy cẩn trọng, anh sắp mất bức thư nó tòi ra khỏi chiếc áo
choàng của anh và chắc hẳn cũng là bức thư của chủ hiệu sách.
Aramis đỏ bừng mặt lên và nhét sâu bức thư xuống và cài lại khuy áo
chẽn của mình.
- D' Artagnan thân mến - chàng nói - nếu cậu muốn, chúng ta sẽ đi
tìm các bạn của chúng ta, và vì tôi giàu rồi, từ hôm nay, chúng ta lại bắt đầu
ăn trưa cùng nhau trong khi đợi các bạn cùng lần lượt giàu có như tôi.
D' Artagnan vô cùng khoái trá nói:
- Nói thật nhé! Lâu lắm rồi chúng ta không được chén một bữa ra trò
và vì tối nay tôi đang tính làm một cuộc chinh đoạt hơi có phần may rủi, tôi xin
thú thực, tôi sẽ không bực mình nếu được bốc đầu lên bằng vài chai Buốcgônhơ
lâu năm.
- Thì cứ việc Buốcgônhơ lâu năm, mình cũng không ghét nó nữa đâu -
Aramis nói, số vàng sờ sờ kia đã như một bàn tay bốc mất những ý nghĩ giải ngũ
của chàng.
Và chàng đút ba bốn đồng tiền vàng đôi vào túi đủ đáp ứng những nhu
cầu lúc này, còn lại bỏ vào chiếc hộp nhỏ bằng gỗ mun khảm xà cừ trong đó đã có
sẵn chiếc khăn tay dùng làm bùa hộ mệnh cho chàng.
Đôi bạn trước tiên đến nhà Athos đã. Athos trung thành với lời nguyền
không ra khỏi nhà, đảm nhiệm việc đặt ăn tại nhà mình. Vì Athos sành sỏi đến
từng chi tiết các món ăn, nên Aramis và D' Artagnan thấy nhẹ tênh cả người khi
trao việc quan trọng đó cho Athos.
Rồi hai người đến nhà Porthos. Khi đi đến góc phố Bến phà thì gặp
Mousqueton với bộ mặt thiểu não đang xua một con la và một con ngựa đi trước
hắn.
D' Artagnan thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc không phải không xen
lẫn niềm vui:
- A! Chú ngựa lông vàng của ta! - Chàng reo lên - Aramis, anh hãy
nhìn con ngựa xem.
- Ôi một con nghẽo kinh tởm! - Aramis nói.
- Bạn thân mến - D' Artagnan nói tiếp - đó là con ngựa tôi cưỡi đến
Paris đấy.
- Sao, ông cũng quen con ngựa đó ư? - Mousqueton nói.
- Nó có màu lông độc đáo thật - Aramis nhận xét - chưa bao giờ tôi
thấy thứ lông như thế đấy.
- Tôi cũng tin như thế mà - D' Artagnan tiếp - cho nên tôi bán nó
với giá ba đồng êquy vàng, giá ấy chẳng qua làm giá bộ lông đấy thôi, chứ bộ
xương hom của nó có mà mười tám quan cũng chẳng nổi. Nhưng làm sao con ngựa đó
lại lọt vào tay anh hở Mousqueton?
- Ôi, - người hầu nói - thôi xin ông đừng nói với tôi về chuyện ấy
nữa. Một vố chơi khăm của ông chồng bà Công tước đấy.
- Thế là thế nào, Mousqueton?
- Vâng, chúng tôi được tiếp đón rất tử tế bởi một bà danh giá, một
nữ Công tước… Nhưng xin lỗi! Ông chủ tôi đã dặn phải kín đáo. Bà ấy ép chúng
tôi phải nhận một kỷ niệm nhỏ, một tuấn mã Tây Ban Nha và một con la vùng
Ăngđaludi trông thật sướng mắt. Ông chồng biết chuyện đã tịch thu hai con vật
tuyệt đẹp mà người ta gừi cho chúng tôi đó ở ngay giữa đường và thay thế những
con vật tởm lợm này!
- Anh đem trả lại à? - D' Artagnan nói.
- Đúng vậy! Ông thừa hiểu chúng tôi không thể chấp nhận loại ngựa
nghẽo như thế thay cho những con mà người ta đã hứa với chúng tôi.
- Không, mẹ kiếp, cho dù ta cũng muốn trông thấy Porthos trên lưng
con ngựa lông vàng của ta. Như thế sẽ làm cho ta có ý nghĩ trông ta như thế nào
khi tới Paris. Nhưng chúng ta sẽ không ngăn anh đâu. Mousqueton ạ. Anh cứ làm
theo việc chủ anh giao cho đi. Ông ấy có nhà không?
- Có thưa ông - Mousqueton nói - nhưng đang cáu bẳn lắm.
- Và anh ta tiếp tục đi về phía đường bờ sông phố Đại Thánh
Augustin, trong khi hai người bạn đến rung chuông cửa nhà Porthos bất hạnh.
Porthos đã nhìn thấy họ đi qua sân, nhưng chẳng buồn mở cửa. Hai người cứ rung
chuông một cách vô ích.
Trong khi đó, Mousqueton tiếp tục lộ trình, qua cầu Mới, vẫn lùa
hai con nghẽo còm đi trước, rồi đến phố Lũ gấu. Đến đó theo lệnh của chủ mình,
anh ta buộc cả ngựa và la vào cái búa gõ cửa nhà ông biện lý. Thế rồi, chẳng
thèm quan tâm đến số phận tương lai của chúng ra sao, anh ta trở về tìm Porthos
báo với chàng, đã hoàn thành nhiệm vụ.
Một lúc sau, hai con vật khốn khổ từ sáng sớm chưa được ăn gì, chồm
lên làm cái búa gõ cửa bổ xuống ầm ầm khiến ông biện lý phải ra lệnh cho chú
loong toong đi hỏi láng giềng xem con ngựa và con la ấy là của nhà ai.
Bà Coquenard nhận ra món quà của mình, lúc đầu chẳng hiểu sao nó
lại bị trả lại. Nhưng chỉ một lát sau khi Porthos đến thăm là bà vỡ lẽ tất cả.
Cơn phẫn nộ long sòng sọc trong đôi mắt chàng ngự lâm quân, mặc dầu chàng cố
kiềm chế vẫn làm cho bà tình nhân nhậy cảm hoảng sợ. Quả thật, Mousqueton,
không hề giấu giếm chủ mình là anh ta đã gặp D' Artagnan và Aramis và D'
Artagnan đã nhận ra con ngựa lông vàng chính là con nghẽo vùng Bearn mà chàng
đã cưỡi đến Paris rồi bán nó với giá ba êquy.
Porthos ra về sau khi đã ấn định cuộc hẹn với bà biện lý ở nhà tu
kín Saint-Magloa. Ông biện lý thấy Porthos đi, liền mời chàng ăn trưa, nhưng
chàng đã từ chối rất chi kẻ cả.
Bà Coquenard đi đến nhà tu kín Saint-Magloa mà người cứ run lên, vì
bà đã đoán ra những lời trách cứ đang chờ bà. Nhưng bà cứ mê đi trước cung cách
cao ngạo của Porthos.
Tất cả những gì mà một người đàn ông khi lòng tự ái bị tổn thương
có thể trút những lời nguyền rủa và trách móc lên đầu một người đàn bà, Porthos
đem ra trút hết xuống cái đầu cúi gằm của bà biện lý.
- Than ôi! - Bà nói - Em đã làm sao cho tốt nhất. Một trong những
khách hàng của em là lái ngựa. Hắn nợ tiền học nghề và tỏ ra chây ì. Em đã bắt
nợ con la và con ngựa ấy. Hắn đã hứa với em là hai con ngựa loại hoàng gia.
- Thế thì, thưa bà! - Porthos nói - Nếu như nó nợ bà năm êquy thôi,
thì thằng lái ngựa của bà vẫn là thằng ăn cắp.
- Có ai cấm tìm nơi mua rẻ đâu, ông Porthos - bà biện lý vừa nói
vừa tìm cách bào chừa cho mình.
- Không, thưa bà, kẻ nào tìm chỗ mua rẻ phải cho phép người khác
tìm những người bạn hào phóng hơn. - Và Porthos quay gót bước một bước định rút
lui.
- Ông Porthos! Ông Porthos! - Bà biện lý kêu lên - Tôi sai, tôi
nhận ra tôi sai rồi, nhẽ ra tôi không được cò kè khi động đến việc trang bị cho
một kỵ sĩ như ông!
Porthos không thèm trả lời, bước thêm một bước nữa định rút lui.
Bà biện lý tưởng như đang thấy chàng trong một đám mây lấp lánh bâu
đầy những nữ Công tước, nữ hầu tước đang ném những túi vàng xuống chân chàng.
- Đứng lại đã, trời ơi, ông Porthos! - Bà kêu lên - Dừng lại ta nói
chuyện đã!
- Nói chuyện với bà chỉ đem đến bất hạnh cho tôi thôi - Porthos
nói.
- Nhưng, ông hãy nói cho em nghe, ông yêu cầu gì nào?
Bà biện lý đu người vào cánh tay Porthos và trong nỗi đau mỗi lúc
một tăng, bà kêu lên:
- Ông Porthos, em có biết gì về những thứ đó đâu. Em có biết thế
nào là ngựa, là yên cương đâu!
- Thế thì bà phải nói ra với tôi chứ, tôi mới biết phải thế nào,
thưa bà, nhưng bà lại muốn dè sẻn, và do đó, cho vay cắt cổ.
- Em sai rồi, ông Porthos, em thề danh dự là sẽ sửa chữa mà.
- Sửa chữa thế nào?
- Nghe đây. Tối nay ông Coquenard đến nhà Công tước de Sôn. Công
tước triệu ông ấy đến để thẩm vấn ít nhất cũng kéo dài hai tiếng đồng hồ. Ông
hãy đến. Chỉ có mỗi đôi ta, chúng ta sẽ tính toán mọi khoản.
- Sẽ đến sớm! Nói thế mới là nói chứ, bạn thân mến ạ!
- Ông sẽ tha thứ cho em chứ?
- Để xem sao đã - Porthos nói một cách kẻ cả.
Và hai người chia tay nhau và cùng nói: "Tối nay nhé!".
"Con tườu! - Porthos vừa đi vừa nghĩ, - cuối cùng hình như
mình cũng đã đến gần hơn cái tủ của thầy kiện Coquenard".
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 35
Ban đêm mèo nào cũng xám
Buổi tối mà cả Porthos lẫn D' Artagnan cùng nóng lòng mong đợi cuối
cùng đã tới.
Theo thường lệ, D' Artagnan có mặt ở nhà Milady lúc chín giờ. Chàng
thấy nàng rất dễ thương. Chưa bao giờ nàng tiếp đón chàng niềm nở đến thế. Ngay
cái nhìn đầu tiên, chàng Gascogne đã biết thư mình viết đã được chuyển tới và
chắc đã có tác dụng.
Ketty vào mang theo mấy cốc kem trái cây. Nữ chủ nhân của cô tỏ vẻ
tươi cười với cô và bằng nụ cười duyên dáng nhất.
Nhưng than ôi! Cô gái đáng thương lại quá buồn đến nỗi không cả
nhận ra thiện ý của Milady.
D' Artagnan lần lượt nhìn cả hai người đàn bà và chàng buộc phải
thú nhận với mình, tạo hóa đã nhầm khi tạo tác ra họ, người đàn bà quyền quý
thì lại cho một tâm hồn tham lam ty tiện và cô hầu gái lại có tấm lòng của một
nữ Công tước.
Đến mười giờ Milady bắt đầu tỏ ra lo lắng. D' Artagnan hiểu điều đó
nghĩa là thế nào. Nàng nhìn đồng hồ, đứng lên, rồi lại ngồi xuống, mỉm cười với
D' Artagnan có vẻ như muốn nói: "Ông hẳn là rất đáng yêu, nhưng ông sẽ dễ
thương nếu ông về đi".
D' Artagnan đứng lên, cầm lấy mũ. Milady đưa tay cho chàng. Chàng
trai trẻ cảm thấy nàng siết chặt tay mình và hiểu rằng đó không phải là việc
tình tứ mà chỉ là biết ơn vì chàng đã đi khỏi.
- Nàng yêu hắn dữ dội thật - chàng lẩm bẩm. Rồi đi ra.
Lần này Ketty không hề đợi chàng, không trong phòng đợi, không ở
hành lang, cũng không dưới chiếc cửa lớn. D' Artagnan phải tự tìm lấy cầu thang
và căn phòng nhỏ.
Ketty đang ngồi, ôm mặt khóc.
Cô nghe thấy tiếng D' Artagnan vào, nhưng cô không thèm ngẩng đầu
lên. Chàng trai trẻ đến bên cô, cầm lấy hai tay cô.
- Thế là cô òa lên nức nở.
Như D' Artagnan đã suy đoán, Milady nhận được thư, trong cơn vui
sướng đã kể hết với thị nữ của mình, rồi lại còn thưởng cho cô lần này đã làm
tốt nhiệm vụ một túi tiền.
Ketty lúc trở về tới phòng mình đã ném túi tiền vào góc nhà và túi
tiền đã xổ ra vung vãi ba bốn đồng vàng trên thảm lót sàn. Cô gái tội nghiệp
được D' Artagnan vuốt ve âu yếm, đã ngẩng đầu lên. Chính D' Artagnan cũng phải
kinh hãi trước sự hoảng loạn trên khuôn mặt cô. Cô chắp hai tay giơ lên vẻ van
xin nhưng không dám nói ra lời nào.
Cho dù trái tim của D' Artagnan có sắt đá đến đâu, chàng cũng cảm
thấy bị mềm lòng vì nỗi đau câm lặng ấy. Nhưng chàng lại quá kiên định với
những dự tính của mình và nhất là với gã Bá tước nọ. để không có gì thay đổi
trong chương trình chàng đã tính toán trước. Vì vậy chàng không để cho Ketty
một chút hy vọng nào làm chàng xao xuyến. Chàng chỉ trình bày với cô hành động của
chàng chỉ đơn thuần là một sự trả thù.
Sự trả thù này hơn nữa lại càng dễ vì Milady chắc chắn để che giấu
sự xấu hổ với người tình, đã dặn Ketty tắt hết cả mọi ánh sáng trong nhà và cả
chính phòng mình nữa. Trước khi trời sáng, ông De Wardes phải ra về, vẫn trong
bóng tối.
Một lát sau có tiếng của Milady trở về phòng mình. D' Artagnan lập
tức lao ngay vào tủ. Chàng nấp vào xong thì chiếc chuông nhỏ rung lên.
Ketty vào phòng bà chủ, không để cửa mở, nhưng vách ngăn quá mỏng,
người ta có thể nghe được hầu như tất cả những gì hai người đàn bà nói với
nhau.
Milady hình như phát cuồng vì vui sướng, bắt Ketty nhắc lại từng
chi tiết nhỏ của cuộc cứ cho là gặp gỡ đi giữa cô hầu gái với ông De Wardes,
ông ta đã nhận thư thế nào, trả lời ra sao, vẻ mặt ông ta thế nào, hiện ông có
vẻ si tình không. Cô Ketty khốn khổ buộc phải trả lời tất cả những câu hỏi ấy
một cách làm như thoải mái và bằng một giọng cố kìm nén để cho bà chủ không
nhận ra sắc điệu đau đớn, vì hạnh phúc thường là ích kỷ.
Cuối cùng, vì giờ đàm đạo với Bá tước sắp đến, Milady quả nhiên cho
tắt hết đèn trong phòng mình và ra lệnh cho Ketty trở về phòng cô và khi nào
ông De Wardes có mặt thì dẫn ngay vào.
Ketty chẳng phải đợi lâu. D' Artagnan nhìn qua lỗ khóa vừa thấy
trong nhà tối om là nhào ngay ra khỏi chỗ trú, đúng lúc Ketty đang đóng lại cửa
thông.
- Cái gì ầm ầm thế? Milady hỏi.
- Tôi đây - D' Artagnan khe khẽ nói - Tôi, Bá tước De Wardes đây!
- Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa? - Ketty lẩm bẩm - Chàng không đợi được
ngay cả giờ chính chàng đã ấn định nữa?
- Thôi nào! - Milady nói giọng run rẩy - Tại sao không vào đi? Bá
tước, ông thừa biết em đang đợi ông!
Nghe tiếng mời chào ấy, D' Artagnan khẽ đẩy Ketty ra và lao vào
trong buồng.
Nếu như cơn điên dại và nỗi đau buồn cứ phải hành hạ một tâm hồn
thì đó là tâm hồn của một người tình đang phải núp dưới cái tên của tình địch
may mắn, để nhận những lời cam kết yêu đương tỏ bầy với hắn.
D' Artagnan đang ở trong tình cảnh đau đớn mà chàng không ngờ
trước, lòng ghen tuông cắn xé trái tim chàng và chàng đau khổ gần như ngang với
cô Ketty đáng thương lúc này đang khóc trong gian phòng bên cạnh.
- Vâng, Bá tước ạ - Milady vừa nói bằng một giọng dịu dàng nhất vừa
trìu mến siết chặt tay chàng trong hai bàn tay mình - Vâng, em sung sướng vì
tình yêu được biểu lộ trong khóc mắt và trong lời nói của chàng mỗi lần chúng
ta được gặp nhau. Em cũng vậy. Em yêu chàng. Ôi! Ngày mai, ngày mai, em muốn có
một tín vật của chàng chứng tỏ chàng luôn nghĩ đến em, và vì chàng có thể quên
em, chàng cầm lấy cái này.
Và nàng tháo chiếc nhẫn ở ngón tay nàng đeo vào ngón tay D'
Artagnan.
D' Artagnan vẫn nhớ đã từng trông thấy chiếc nhẫn ấy ở tay Milady.
Đó là một chiếc nhẫn mặt saphia lộng lẫy xung quanh nạm kim cương.
Động tác đầu tiên của D' Artagnan là trả lại nàng, nhưng Milady nói
tiếp:
- Không, không, hãy giữ lấy chiếc nhẫn đó vì tình yêu với em. - Rồi
nàng nói tiếp bằng một giọng xúc động - Hơn nữa, nhận nó là chàng đã giúp em
một việc vô cùng lớn lao mà chàng không thể tưởng tượng nổi đâu.
"Con mụ này đầy những bí hiểm?" - D' Artagnan tự nhủ
thầm. Ngay lúc đó, chàng tự cảm thấy sẵn sàng nói toẹt ra tất cả. Chàng mở
miệng định nói chàng là ai và với mục đích trả thù cho ai mà chàng đến đây thì
nàng lại nói tiếp:
- Thiên thần tội nghiệp của em, suýt nữa thì con quỷ Gascogne ấy đã
giết chàng.
Con quỷ ấy là chính chàng.
- Ôi! Milady lại tiếp - Những vết thương ấy vẫn còn làm chàng đau
đớn ư?
D' Artagnan không biết trả lời sao, nói bừa:
- Ừ đau lắm.
- Chàng yên tâm! - Milady thầm thì - Em sẽ trả thù cho chàng và sẽ
thật tàn bạo.
"Đồ ôn dịch! - D' Artagnan tự nhủ - Chưa đến lúc tâm sự
đâu!"
Phải mất một lúc, D' Artagnan mới bình tĩnh trở lại sau cuộc đối
thoại nho nhỏ ấy. Nhưng mọi ý nghĩ trả thù chàng mang theo đã hoàn toàn tiêu
tan. Người đàn bà đó đã tác động lên chàng một sức mạnh không tưởng tượng nổi,
chàng vừa căm ghét vừa ngưỡng mộ nàng. Chàng chưa bao giờ tưởng tượng nổi hai
tình cảm đối địch nhau đến thế lại có thể cùng tồn tại trong cùng một trái tim,
và trong khi liên kết lại đã tạo thành một tình yêu kỳ lạ mang một vẻ gì đó rất
ma quái.
- Tuy nhiên đồng hồ đã điểm một giờ. Phải xa nhau thôi.
D' Artagnan lúc chia tay Milady chỉ còn cảm thấy rất luyến tiếc
phải xa nàng và trong lúc đằm thắm giã biệt họ lại ngỏ ý gặp nhau vào tuần tới.
Cô gái Ketty khốn khổ hy vọng có thể nói với chàng đôi lời khi chàng đi qua
buồng mình nhưng Milady lại tự mình tiễn chàng trong bóng tối và đến tận cầu
thang mới chịu rời xa.
Sáng hôm sau, D' Artagnan chạy đến nhà Athos, chàng đã lao mình và
một cuộc phiêu lưu rất chi là đặc biệt nên muốn xin Athos những lời khuyên.
Chàng kể lại tất cả. Athos nhiều lần cau mày và bảo chàng:
- Cái ả Milady của cậu tôi thấy hình như là một loại người đê mạt.
Nhưng cậu sẽ không kém sai lầm khi đánh lừa ả đâu. Đằng nào thì bây giờ cậu
cũng có một mụ kẻ thù khủng khiếp rồi.
Và vừa nói với chàng, Athos vừa chăm chú nhìn cái mặt saphia viên
kim cương đang đeo ở ngón tay D' Artagnan ở vị trí chiếc nhẫn của Hoàng hậu ban
đã được cất cẩn thận vào hộp đồ kim hoàn.
- Anh nhìn cái nhẫn à? - Gã Gascogne nói với vẻ hoàn toàn hãnh diện
về món quà đắt tiền đến thế đang phô ra trước mắt bạn mình.
- Ừ, nó gợi cho mình nhở đến một đồ nữ trang của gia đình.
- Nó đẹp đấy chứ, phải không? - D' Artagnan nói.
- Tuyệt đẹp? - Athos trả lời - Tôi không tin lại có hai viên saphia
có sắc đẹp đến thế. Cậu đã đổi chiếc nhẫn kim cương của cậu lấy nó à?
- Không - D' Artagnan nói - đây là món quà tặng của người đẹp Anh
quốc, hay đúng hơn là người đẹp Pháp của tôi. Bởi vì cho dù tôi không hề hỏi
nàng về chuyện nàng, tôi vẫn tin chắc nàng sinh ra ở Pháp.
- Chiếc nhẫn này là do Milady tặng cậu ư? - Athos kêu lên bằng một
giọng rõ ràng là hết sức xúc động.
- Vâng, chính nàng, nàng đã tặng tôi đêm vừa rồi.
- Cho tôi xem chiếc nhẫn nào - Athos nói.
- Nhẫn đây - D' Artagnan vừa trả lời vừa tháo khỏi tay.
Athos ngắm nghía chiếc nhẫn và tái hẳn người đi, rồi chàng thử vào
ngón đeo nhẫn bàn tay trái. Chiếc nhẫn vừa khít như thể đã được làm cho chàng
vậy. Một lớp mây giận dữ và hận thù lướt trên vầng trán bình thường rất trầm
tĩnh của nhà quý tộc.
- Không thể lại là chính cô ta - Chàng nói - Làm sao chiếc nhẫn này
lại ở trong tay của Milady Clericss được? Song thật khó có thể có sự giống nhau
đến thế giữa hai chiếc nhẫn.
- Anh biết chiếc nhẫn này à? - D' Artagnan hỏi.
- Tôi cứ tưởng là nhận ra! - Athos nói - nhưng chắc tôi nhầm.
- Và chàng đưa trả D' Artagnan, song vẫn không ngừng nhìn nó. Lát
sau chàng nói:
- D' Artagnan này, cậu cất chiếc nhẫn đi hoặc quay mặt saphia vào
trong, nó gợi cho tôi quá nhiều kỷ niệm tàn nhẫn khiến đầu óc tôi không còn
bình thường nữa để chuyện trò với cậu. Không phải cậu đến để hỏi tôi khuyên
cậu, không phải cậu không hề nói với tôi rằng cậu đang bối rối vì không biết
làm thế nào cho phải sao?… Nhưng khoan đã… hãy đưa cho tôi xem lại cái nhẫn
saphia. Cái nhẫn mà tôi muốn nói ấy chắc phải có một mặt bị rạch do bị tai nạn.
D' Artagnan lại tháo nhẫn đưa cho Athos.
Athos giật bắn người và bảo D' Artagnan:
- Này xem xem, có lạ không!
Và chàng chỉ cho D' Artagnan cái vết xước mà chàng nhớ ắt phải có.
- Nhưng chiếc nhẫn saphia này là của ai cho anh, Athos?
- Của mẹ tôi, và do bà ngoại tôi cho mẹ tôi. Như tôi đã nói với cậu
đấy, đó là bảo vật lâu đời của gia đình… không được để lọt ra ngoài.
- Và anh đã… bán nó… - D' Artagnan ngập ngừng hỏi.
- Không! Athos đáp với một nụ cười kỳ lạ - Tôi đã đem tặng nó trong
một đêm ân ái, giống như nó được tặng cho cậu ấy!
D' Artagnan đến lượt mình cũng trở nên đăm chiêu. Chàng hình như
thấy trong tâm hồn Milady những vực sâu thẳm, tối tăm, bí hiểm. Chàng không đeo
nhẫn nữa mà đút vào túi.
- Cậu phải biết - Athos vừa nói vừa nắm lấy tay D' Artagnan - D'
Artagnan ạ, cậu chắc đã biết tôi yêu cậu biết mấy. Nếu tôi có được một đứa con
trai, tôi cũng sẽ không yêu nó hơn cậu đâu. Nghe đây, hãy tin tôi, hãy từ bỏ
người đàn bà đó đi. Tôi không quen biết cô ta, nhưng một thứ trực giác bảo tôi
rằng đó là một con người bỏ đi, và có một cái gì đó như tai ương trong mụ.
- Và anh nói đúng - D' Artagnan nói - Cho nên tôi phải rời bỏ thôi.
Tôi xin thú thực với anh, mụ đàn bà này làm bản thân tôi cũng thấy sợ đấy.
- Cậu có đủ can đảm không? - Athos hỏi.
- Tôi sẽ có - D' Artagnan trả lời - và ngay lúc này.
- Đúng lắm, chú em ạ, cậu làm thế là đúng - Nhà quý tộc siết chặt
tay chàng Gascogne với một tình cảm gần như cha con - Cầu Chúa cho người đàn bà
ấy mới chợt bước vào đời cậu và không để lại một dấu vết khủng khiếp nào!
Và Athos gật đầu chào D' Artagnan ngụ ý không muốn bị làm phiền và
được còn lại một mình để suy nghĩ.
Trong khi trở về nhà. D' Artagnan thấy Ketty đang ngồi đợi chàng.
Một tháng sốt liên miên cũng không làm cô bé tội nghiệp qua một đêm mất ngủ và
đau đớn thay đổi hơn thế.
Nàng đã bị bà chủ sai đến nhà De Wardes giả. Bà chủ này đang điên
dại vì tình yêu, phát cuồng vì vui sướng. Nàng muốn biết bao giờ người tình của
mình sẽ cho mình một đêm thứ hai ân ái.
Và cô gái Ketty khốn khổ, xanh xao và run rẩy đợi câu trả lời cả D'
Artagnan.
Athos đã có một ảnh hưởng lớn đến chàng trai trẻ. Những lời khuyên
của người bạn mình kết nối với những tiếng kêu của con tim chính mình đã khiến
chàng, giờ đây lòng kiêu căng đã được cứu vớt, và sự trả thù đã được thỏa mãn,
quyết định không gặp lại Milady nữa. Thay cho mọi trả lời, chàng cầm bút và
viết bức thư sau.
"Thưa bà, xin đừng trông chờ ở tôi một cuộc hẹn hò sắp tới.
Từ khi bình phục, tôi bận bịu quá nhiều về những việc kiểu như thế
khiến tôi phải sắp xếp cuộc nào trước, cuộc nào sau. Khi nào tới lượt bà, tôi
sẽ hân hạnh báo để bà biết.
Hôn tay bà
Bá tước De Wardes
- Không một lời động đến chiếc nhẫn saphia. Chàng Gascogne muốn giữ
lại một vũ khí chống Milady chăng? Hay là, hãy thẳng thắn một chút, chẳng phải
chàng muốn giữ chiếc nhẫn saphia làm cái vốn cuối cùng cho việc trang bị hay
sao?
Vả chăng người ta có lẽ thường nhầm lẫn khi phán xử những hành động
của thời đại này theo quan điểm của một thời đại khác. Điều mà ngày nay sẽ bị
coi như là một điều hổ nhục đối với một người đàn ông hào hoa thì vào thời ấy
lại là một điều hoàn toàn bình thường, hoàn toàn tự nhiên và những chàng con út
của những gia đình danh giá nói chung vẫn thường để cho các cô nhân tình của họ
chu cấp.
D' Artagnan chuyển lá thư để ngỏ cho Ketty. Lúc đầu cô đọc mà chẳng
hiểu gì, nhưng khi đọc lại, cô suýt phát điên vì vui sướng.
Ketty không thể tin nổi niềm hạnh phúc đó. D' Artagnan buộc phải
nói to ra bằng lời cho cô nghe những đảm bảo đã được viết trong thư. Và, mặc
cho tính tình dễ nổi nóng đến đâu của Milady, mặc cho mối nguy hiểm có thể đổ
lên đầu cô gái tội nghiệp khi trao bức thư đó cho bà chủ của mình, Ketty vẫn ba
chân bốn cẳng phóng thẳng về quảng trường Hoàng gia.
Trái tim của người đàn bà nhân hậu nhất vẫn cứ là nhẫn tâm trước
những đau khổ của tình địch của mình.
Milady cuống quýt mở thư ngang với Ketty cuống quít mang thư về.
Nhưng vừa đọc được câu đầu, mặt nàng đã xám ngắt và vò nát ngay tờ giấy. Rồi
quay phắt lại Ketty mắt nẩy lửa.
- Bức thư này là thế nào?
- Nhưng đó là thư trả lời thư của bà chủ - Ketty trả lời mà người
cứ run bắn lên.
- Không thể thế được! - Milady hét lên - Không thể có chuyện một
nhà quý tộc lại viết một bức thư như thế!
Rồi bất ngờ giật bắn người lên và nói:
- Trời ơi! Chả lẽ ông ta lại biết…
Và nàng dừng ngay lại.
Răng nghiến ken két, người nàng xám lại như tro. Nàng muốn bước lại
gần cửa sổ, nhưng không thể vươn nổi cánh tay ra, hai chân rời rã, và ngã,
xuống chiếc ghế bành.
Ketty tưởng nàng khó ở liền nhào tới để tháo nịt ngực ra.
Nhưng Milady đứng phắt dậy hỏi:
- Mày muốn làm gì ta vậy? Và tại sao dám để tay lên người ta?
- Em nghĩ bà chủ khó ở nên em muốn đến giúp - Cô gái hầu trả lời,
hoảng sợ trước vẻ mặt khủng khiếp của bà chủ lúc đó.
- Ta khó ở ư? Ta mà lại thế ư? Mày nghĩ ta là hạng đàn bà ủy mị ư?
Khi người ta lăng mạ ta, ta không khó ở đâu, mà ta trả thù, hiểu không?
- Và nàng giơ tay ra hiệu cho Ketty lui ra.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 36
Mộng báo thù
Tối đến, Milady ra lệnh nếu D' Artagnan theo thói quen có đến, phải
dẫn ngay chàng vào. Nhưng chàng không đến.
Hôm sau, Ketty lại đến thăm chàng và kể lại tất cả những gì đã diễn
ra đêm trước. D' Artagnan mỉm cười. Cơn giận dữ ghen tuông của Milady chính là
sự trả thù của chàng.
Tối đó, Milady còn nóng lòng mong đợi hơn cả đêm trước.
Nàng lại ra lệnh thêm lần nữa về chàng Gascogne. Nhưng cũng giống
như đêm trước, nàng chờ đợi vô ích.
Hôm sau, Ketty lại có mặt ở nhà D' Artagnan, không còn vui vẻ và
hoạt bát như hai hôm trước nữa mà trái lại buồn chết được.
D' Artagnan hỏi cô gái đáng thương xem có chuyện gì, nhưng cô gái
thay cho việc trả lời, rút từ trong túi ra một bức thư trao cho chàng.
Bức thư mang nét chữ của Milady, chỉ lần này mới gửi tới địa chỉ
của D' Artagnan chứ không tới địa chỉ của ông De Wardes nữa.
Chàng mở thư ra đọc:
"Ông D' Artagnan thân mến! Chểnh mảng với bạn bè như thế là
không tốt đâu, nhất là lại vào lúc mà người ta sắp phải xa nhau rất lâu. Em
chồng tôi và tôi đã chờ ông hôm qua và cả hôm kia nữa vô ích.
Liệu tối nay có vẫn thế không đây?
Người rất chịu ơn ông
Phu nhân Clerics
- Cũng dễ hiểu thôi - D' Artagnan nói - Ta đoán trước thế nào cũng
có bức thư này mà. Uy tín ta càng tăng thì của Bá tước De Wardes càng giảm.
- Anh sẽ đi chứ? - Ketty hỏi.
- Nghe đây, em bé yêu quý của anh - Chàng Gascogne tìm cách bào
chữa cho mình trong con mắt của chính mình vì đã thất hứa với Athos, nói với
Ketty - Em cũng hiểu sẽ là vô lối nếu khước từ một lời mời tha thiết đến thế.
Milady thấy anh không đến, sẽ không hiểu sao anh lại dứt hẳn không đến thăm rồi
có thể nghi ngờ có chuyện gì đó, và ai có thể biết được sự trả thù của mụ đàn
bà đầy sát khí đó sẽ đi đốn đâu?
- Ôi, chúa ơi! - Ketty nói - Anh luôn biết cách trình bày mọi việc
sao cho bao giờ anh cũng đúng. Nhưng anh vẫn còn muốn ve vãn bà ta. Và nếu lần
này anh làm cho bà ta hài lòng dưới cái tên thực của anh, bộ mặt thật của anh,
thì còn tệ hại hơn nhiều so với lần trước?
Linh tính khiến cô gái tội nghiệp đoán được phần nào việc gì sắp
đến.
D' Artagnan càng cố làm cô yên tâm và hứa với cô sẽ trở ra trước
những cám dỗ của Milady.
Chàng nhờ Ketty trả lời hộ chàng không thể làm gì để biết ơn hơn
lòng tốt của bà chủ và sẽ tuân theo lệnh của bà. Nhưng chàng không dám viết ra
sợ rằng dưới đôi mắt sành sỏi của Milady, không thể giả mạo nổi nét chữ của
chàng.
Đúng chín giờ, D' Artagnan đã ở quảng trường Hoàng gia.
Rõ ràng là mấy tên đầy tớ đang đợi ở tiền sảnh đã được cho biết
trước, bởi vì D' Artagnan vừa hiện ra, trước cả khi chàng kịp hỏi có được vào
thăm Milady không, thì một tên đã chạy vào bẩm báo.
- Mời ông ấy vào - Milady nói vắn gọn nhưng the thé khiến D'
Artagnan đứng ngoài tiền sảnh cũng nghe thấy.
Người ta dẫn chàng vào.
- Ta không tiếp ai nữa! - Milady nói - không ai nữa, hiểu chưa.
Người hầu đi ra.
D' Artagnan đưa mắt tò mò nhìn Milady. Nàng xanh xao và đôi mắt mệt
mỏi, có thể vì khóc, hoặc vì mất ngủ. Người ta đã chủ ý giảm bớt ánh sáng
thường lệ, tuy nhiên thiếu phụ vẫn không thể giấu nổi những dấu vết của cơn sốt
đã giày vò nàng suốt hai ngày trời.
D' Artagnan sán lại gần nàng với phong cách tình tứ vốn có của
chàng. Nàng phải cố gắng đến tột độ để đón nhận, nhưng không bao giờ một bộ mặt
điên đảo nhất lại không trái nghịch với nụ cười dễ thương nhất.
Về những câu hỏi của D' Artagnan đến sức khỏe, nàng đáp:
- Tồi, tồi lắm.
- Ồ thế thì - D' Artagnan nói - tôi thật vô ý, bà cần phải nghỉ
ngơi, tôi phải cáo lui thôi.
- Không đâu - Milady nói - Trái lại, ông phải ở lại chứ ông D'
Artagnan, chuyện trò thân mật với ông sẽ làm tôi khuây khỏa mà.
"Ôi, ôi! - D' Artagnan nghĩ - chưa bao giờ nàng lại yêu kiều
đến thế! Phải coi chừng thôi".
Milady cố hết sức mình để tạo dáng vẻ dễ thương và cố làm cho cuộc
chuyện trò được giòn giã. Đồng thời cơn sốt tình đã buông tha nàng được giây
lát lại quay trở lại làm mắt nàng long lanh, má nàng hồng lên và môi nàng thắm
lại. D' Artagnan như thấy lạ; mụ Circé(1) đã từng vây bọc chàng bằng những bùa
mê phép lú. Tình yêu, chàng tưởng đã tắt thật ra chỉ vơi dịu đi, nay lại bừng
dậy trong tim chàng. Milady mỉm cười và D' Artagnan cảm thấy mình sẽ tự đầy đọa
vì nụ cười ấy.
Dần dần Milady càng trở nên tâm tình hơn. Nàng hỏi D' Artagnan đã
có tình nhân chưa.
- Than ôi? - D' Artagnan nói với vẻ tình cảm nhất mà chàng có thể
tạo được - Bà có thể tàn nhẫn đến thế để hỏi tôi một câu như vậy ư? Tôi, từ khi
gặp bà chỉ còn biết khao khát bà và sống vì bà thôi.
Milady cười một nụ cười rất lạ.
- Vậy là ông yêu tôi? - Nàng nói.
- Có cần tôi phải nói ra với bà không, chả nhẽ bà không hề nhận ra
ư?
- Có chứ, nhưng ông biết đấy, những trái tim càng kiêu hãnh bao
nhiêu, càng khó chiếm đoạt bấy nhiêu.
- Ồ, khó khăn không làm tôi sợ hãi đâu - D' Artagnan nói - chỉ có
những cái bất khả mới làm tôi hoảng sợ.
- Chẳng có gì là bất khả - Milady nói - đối với một tình yêu đích
thực.
- Không có gì ư, thưa bà?
- Không gì hết - Milady lặp lại.
"Quỷ ơi! - D' Artagnan tiếp tục nghĩ về phần mình - Giọng điệu
đổi rồi đây. Chả lẽ mụ đồng bóng này ngẫu nhiên lại phải lòng ta, và liệu mụ có
sẵn sàng tặng cho chính ta một chiếc nhẫn saphia khác giống như chiếc mụ đã
tặng cho ta mà tưởng nhầm ta là De Wardes không?"
D' Artagnan xích ngay ghế lại gần ghế của Milady.
- Xem nào - Nàng nói - Ông sẽ làm gì để chứng tỏ mối tình ông nói
nào?
- Tất cả những gì người ta đòi hỏi ở tôi. Nào, cứ ra lệnh đi, tôi
đã sẵn sàng.
- Làm tất cả?
- Tất cả!- D' Artagnan hét lên. Chàng thừa biết chẳng có việc gì
lớn lao phải mạo hiểm nên cứ hứa tràn như thế.
- Được rồi? Ta hãy chuyện trò với nhau một chút đã - Milady vừa
nói, vừa kéo chiếc ghế bành của mình lại gần ghế tựa của D' Artagnan.
- Thưa bà, tôi nghe bà đây - chàng nói.
Milady đăm chiêu một lát có vẻ ngần ngại, rồi có vẻ đã quyết định,
nàng nói:
- Tôi có một kẻ thù.
- Bà ư, thưa bà! - D' Artagnan kêu lên, vờ làm ra ngạc nhiên - Chúa
ơi có thể thế được sao? Đẹp và tốt đến như bà?
- Một kẻ tử thù.
- Thật sao?
- Một kẻ thù đã lăng mạ tôi rất tàn nhẫn đến mức giữa tôi và hắn là
một cuộc chiến sinh tử. Liệu tôi có thể trông chờ ở ông như một cánh tay đắc
lực không?
D' Artagnan hiểu ngay con người mang đầy thù hận đó muốn đi đến
đâu.
- Bà có thể lắm chứ, thưa bà - chàng khoa trương nói - cánh tay tôi
và mạng sống của tôi thuộc về bà cũng như tình yêu của tôi.
- Thế thì - Milady nói - Một khi ông đã hào hiệp cũng như si tình
đến thế…
Nàng dừng lại.
- Thì sao? - D' Artagnan hỏi.
- Thì - Milady nói tiếp sau một phút im lặng - Từ nay thôi đừng nói
đến những cái bất khả nữa.
- Xin đừng làm tôi chìm nghỉm trong hạnh phúc - D' Artagnan vừa kêu
lên vừa quỳ sụp xuống hôn tới tấp lên đôi bàn tay thả ra cho chàng.
"Hãy trả thù tên De Wardes đê tiện kia cho ta - Nàng nghiến
răng lại tự nhủ - Và ta thừa biết cách rũ bỏ ngươi tiếp đó, tên hai lần ngốc,
lưỡi gươm sống ạ?".
Về phần mình, D' Artagnan cũng nghĩ thầm: "Hãy tự nguyện ngã
vào vòng tay ta sau khi đã giễu cợt ta một cách vô liêm sỉ, hỡi mụ đàn bà đạo
đức giả và nguy hiểm kia, rồi sau đó ta sẽ cười vào mũi mụ cùng với kẻ mà mụ
muốn giết hắn bằng bàn tay ta".
Nghĩ rồi, D' Artagnan ngẩng đầu lên nói:
- Tôi đã sẵn sàng.
- Vậy chắc ông đã hiểu tôi, ông D' Artagnan thân mến?
- Nhìn mắt bà tôi đoán ra tất cả.
- Như vậy có nghĩa ông sẽ dùng tay gươm nổi tiếng của ông giúp tôi
chứ?
- Ngay lúc này cũng được.
- Nhưng tôi - Milady nói - biết lấy gì để trả công ông một việc như
thế? Tôi biết những kẻ si tình. Đó là những người sẽ không làm gì nếu không
được gì.
- Và thừa biết câu trả lời duy nhất của tôi mà tôi khao khát, duy
nhất xứng đáng với bà và với tôi.
Và chàng nhẹ nhàng kéo nàng vào sát người mình.
Nàng cưỡng lại một cách chiếu lệ.
- Lợi dụng, đấy! - Nàng vừa nói vừa tủm tỉm cười.
- Thế ư! - D' Artagnan kêu lên, cảm thấy thực sự bị lôi cuốn bởi
nỗi ham muốn mà người đàn bà được trời phú cho cái tài nhen nhóm lên trong trái
tim chàng - Ôi, chính vì hạnh phúc đối với tôi thật khó tin, và vì luôn luôn sợ
thấy nó bay mất như một giấc mơ, nên tôi phải vội biến nó thành hiện thực.
- Ồ, vậy thì ông đáng được hưởng cái gọi là hạnh phúc ấy đấy!
- Tôi đang đợi lệnh của bà đây - D' Artagnan nói.
- Chắc chắn chứ? - Milady vẫn còn chút nghi ngờ hỏi lại.
- Bà hãy chỉ mặt vạch tên kẻ vô lại đã làm đôi mắt đẹp của bà phải
khóc đi.
- Ai bảo ông là tôi khóc nào? - Nàng nói.
- Tôi thấy hình như vậy.
- Những phụ nữ như tôi không khóc đâu - Milady nói.
- Càng tốt! Vậy bà nói cho tôi biết tên hắn là gì đi?
- Cứ cho tên hắn là cả bí mật của tôi đi!
- Tuy nhiên, tôi cần phải biết tên hắn.
- Phải, cần phải thế, ông thấy tôi tin ông đến thế nào chưa?
- Bà làm tôi tràn trề vui sướng. Tên hắn là gì.
- Ông biết rồi đấy.
- Thật không?
- Thật.
- Không phải một trong số bạn tôi đấy chứ? - D' Artagnan chơi trò
hú tim để nàng tin mình chẳng hay biết gì cả.
- Nếu đó là một trong số bạn ông, ông sẽ ngần ngại ư? - Milady kêu
lên. Và mắt nàng ánh lên đe dọa.
- Không, ngay cả là anh tôi! - D' Artagnan làm như đang bồng bột
hét lên.
Chàng Gascogne cứ dấn tới mà không lo chi vì chàng đã biết mình
đang đi đến đâu.
- Tôi yêu lòng nhiệt thành của ông - Milady nói.
- Than ôi! Bà chỉ yêu cái đó trong tôi thôi ư? - D' Artagnan hỏi.
- Tôi yêu cả ông nữa, yêu ông được chưa - Nàng vừa nói vừa cầm lấy
tay D' Artagnan.
Cái siết tay nồng nhiệt ấy làm D' Artagnan rùng mình, như thể khi
tiếp xúc, cơn sốt đang thiêu đất Milady cháy lan sang cả chàng.
- Bà yêu tôi, bà ư? - Chàng kêu lên - Ôi, nếu quả như thế, tôi sẽ
phát điên thôi.
Và chàng vòng tay ôm lấy nàng. Nàng không hề cố ý gỡ môi ra khi
chàng hôn, có điều không hôn lại.
Đôi môi nàng lạnh giá. D' Artagnan thấy như mình vừa hôn một pho
tượng.
Tuy vậy, chàng không kém phần nồng say vui sướng và đê mê vì tình.
Chàng hầu như tin Milady trìu mến thật, hầu như tin De Wardes có tội thật. Nếu
như De Wardes lúc này ở trong tay chàng, chàng sẽ giết thật.
Milady nắm lấy cơ hội. Nàng nói ra luôn:
- Hắn tên là…
- De Wardes, tôi biết rồi - D' Artagnan nói to lên.
- Và tại sao chàng biết hắn? - Milady vừa hỏi vừa nắm lấy hai bàn
tay chàng và cố nhìn vào mắt để hiểu thấu tận đáy lòng chàng.
D' Artagnan cảm thấy chàng đã để bị lôi cuốn và đã phạm một lỗi
lầm.
- Nói, nói đi, nói đi nào! - Milady lắp đi, lắp lại - Làm sao chàng
biết là hắn?
- Làm sao tôi biết ư? - D' Artagnan nói.
- Phải.
- Tôi biết, bởi vì hôm qua, trong một phòng khách, De Wardes đã cho
tôi xem chiếc nhẫn mà hắn nói có được từ bà.
- Quân khốn nạn? - Milady hét lên.
Cái tiếng rủa ấy vang dội đến tận đáy lòng D' Artagnan.
- Thế nào? - Nàng tiếp tục.
- Thì thế đấy! - Tôi sẽ trả thù tên khốn nạn ấy cho bà -
D' Artagnan nói với điệu bộ như chàng ĐônJaphét của Ácmênia(2)
- Cám ơn ông bạn tử tế của tôi! - Milady nói - Và khi nào tôi sẽ
được trả thù?
- Mai, hoặc ngay lập tức, khi nào bà muốn.
Milady định thét lên "ngay lập tức", nhưng nàng nghĩ một
sự hấp tấp như thế sẽ không mấy nhã nhặn đối với D' Artagnan. Hơn nữa, nàng còn
phải đề phòng trăm nghìn thứ, còn phải căn dặn người bảo vệ cho mình hàng nghìn
điều để tránh khỏi phải giải thích với Bá tước trước những người làm chứng, tất
cả những trò đó đã được D' Artagnan đoán trước và nói gọn trong một câu:
- Ngày mai, bà sẽ được trả thù hoặc tôi sẽ chết.
- Không! - Nàng nói - Ông sẽ trả thù cho em nhưng ông không chết
đâu. Đó là một thằng hèn thôi mà.
- Có thể với đàn bà thôi chứ không với đàn ông đâu. Tôi biết qua
qua thế mà.
- Nhưng tôi thấy hình như trong cuộc đấu này với hắn, ông chẳng có
gì đáng ngại về sự may rủi cả.
- May rủi là một gái giang hồ, hôm qua vuốt ve chiều chuộng, ngày
mai đã có thể quay lưng lại với tôi.
- Có nghĩa bây giờ ông ngần ngại?
- Không, tôi không ngần ngại. Chúa phù hộ cho tôi? Nhưng liệu có
công bằng không khi để mặc tôi có thể đi đến cái chết mà lại không cho tôi ít
nhất một chút gì đó hơn là hy vọng suông?
Milady trả lời bằng một ánh mắt như muốn nói: Không phải chuyện đó
chứ? Nói thẳng ra xem nào. Rồi tiếp theo ánh mắt là những lời cắt nghĩa thêm.
- Đúng quá! - Nàng dịu dàng nói.
- Ôi, nàng quả là một thiên thần! - Chàng trai trẻ nói.
- Thế là thỏa thuận xong cả rồi đấy nhé! - Nàng nói.
- Trừ điều tôi yêu cầu nàng, tâm hồn yêu quý ạ!
- Nhưng khi em đã nói với ông là ông có thể tin vào sự trìu mến của
em…?
- Tôi không có ngày mai để chờ đợi.
- Im nào? Tôi nghe thấy tiếng ông em tôi? Không cần thiết để ông ấy
thấy ông ở đây.
Nàng rung chuông và Ketty vào.
- Ông ra bằng cửa này. - Nàng vừa nói vừa đẩy chiếc cửa bí mật - và
mười một giờ hãy quay lại. Chúng ta sẽ bàn nốt cho xong việc này. Ketty sẽ dẫn
ông vào.
Cô bé đáng thương nghĩ mình có thể ngã vật ra khi nghe những câu
như thế.
- Ơ kìa? Cô làm gì vậy, sao ngây ra như phỗng thế, tiểu thư? Nghe
đây, dẫn ông hiệp sĩ này đến vào mười một giờ tối nay, hiểu chưa!
Hình như những cuộc hẹn của nàng đều vào lúc mười một giờ. Đó là
một thói quen rồi. D' Artagnan nghĩ vậy.
Milady chìa tay ra cho chàng hôn trìu mến.
Chàng vừa rút lui vừa tự nhủ như để trả lời những trách móc của
Ketty: "Này, này, đừng có làm một thằng ngốc, nhất định con mẹ này là một
con đại gian ác rồi, phải coi chừng".
Chú thích:
(1) Circé: Một mụ phù thủy
trong Ôđítxê của Hôme, đã cho những đồng đội của Uylítxơ uống một thứ nước phép
biến họ thành những con lợn con khi chàng ghé thuyền vào đảo. Uylítxơ làm cho
mụ yêu mình và bắt mụ phải giải phép để họ trở thành người.
(2) Đôn Japhét là nhân vật
huênh hoang khoác lác trong hài kịch Đôn Japhét xứ Ácmênia của nhà văn, nhà
viết hài kịch Pháp Scarron (1610-1660) sinh ở Paris, chuẩn bị cho sự xuất hiện
Môlie.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 37
Bí mật của Milady
Đáng lẽ lên ngay phòng Ketty, D' Artagnan lại ra khỏi tòa nhà, mặc
cho những lời nằn nì của cô gái, vì hai lẽ, thứ nhất làm như thế sẽ tránh được
những lời trách móc, cãi lý, van xin, thứ hai để được thư thái xem lại tư tưởng
của mình một chút và nếu có thể của cả mụ đàn bà kia nữa.
Rõ hơn cả trong chuyện đó là D'Artagnan yêu Milady như một thằng
điên và nàng lại không một chút yêu chàng. Có lúc, D' Artagnan cho rằng, tốt
nhất là trở về nhà viết một bức thư dài cho Milady, trong thư thú thực chàng và
De Wardes cho đến lúc này vẫn chỉ là một, do đó, chàng không thể cam tâm giết
chết De Wardes vì như thế chính là tự sát. Nhưng chính chàng cũng bị kích thích
bởi một ham muốn dữ tợn trả thù, chàng muốn chiếm đoạt người đàn bà đó dưới cái
tên của chính mình và vì sự trả thù đó đối với chàng hình như lại có vẻ ngọt
ngào êm dịu nên chàng không hề muốn từ bỏ nó chút nào.
Chàng đi quanh quảng trường Hoàng gia năm sáu lần, cứ mươi bước lại
ngoái lại nhìn xem ánh sáng căn nhà của Milady lọt qua những tấm mành che cửa
sổ. Rõ ràng lần này người đàn bà không vội vã như lần trước khi trở về phòng
ngủ.
Cuối cùng ánh đèn biến mất.
Cùng với ánh đèn, cũng tắt ngấm luôn nỗi băn khoăn cuối cùng trong
trái tim D'Artagnan. Chàng nhớ lại những tình tiết của cái đêm đầu tiên và trái
tim như chồm lên, đầu bốc nóng, chàng quay lại ngôi nhà và nhẩy bổ lên phòng
Ketty.
Cô gái xanh xao như người chết, toàn thân run lên, muốn ngăn người
tình lại. Nhưng Milady vẫn rình nghe, đã nghe thấy tiếng chân D' Artagnan liền
mở cửa:
- Vào đi! - Nàng nói.
Tất cả việc đó diễn ra một cách trơ trẽn không thể tưởng tượng nổi,
một cách vô liêm sỉ quá ư ma quái đến mức D' Artagnan khó có thể tin được những
gì mình trông thấy và những gì mình nghe thấy. Chàng tin bị lôi cuốn vào một
trong những trò chim chuột kỳ quặc nào đấy mà người ta chỉ thực hiện được trong
mơ.
Chàng lao theo về phía Milady chẳng kém gì nam châm hút sắt. Cửa
đóng lại đằng sau họ.
Ketty cũng lao theo đến bên cửa.
Sự ghen tuông, sự hờn giận, lòng kiêu hãnh bị tổn thương.
Cuối cùng là tất cả những ham muốn đang giằng xé nhau trong trái
tim của một người đàn bà si tình đang đẩy cô đến chỗ nói toạc ra tất cả. Nhưng
cô sẽ nguy khốn nếu cô thú nhận đã nhúng tay vào việc xếp đặt ấy và trên hết,
cô sẽ mất D' Artagnan. Nghĩ vậy cô đành tự nhủ hãy hy sinh thêm lần cuối cùng
này nữa.
D' Artagnan về phần mình, đã đạt đến tột đỉnh của mọi ước muốn.
Không phải chuyện yêu một tình địch trong bản thân chàng nữa mà có vẻ như yêu
chính bản thân chàng. Một tiếng nói thầm kín tận đáy lòng bảo chàng rằng chàng
chỉ là một công cụ để trả thù, mà người ta vừa vuốt ve mơn trớn nó vừa chờ đợi
nó đem đến chết chóc. Nhưng lòng kiêu hãnh, lòng tự ái, sự điên rồ đã làm tiếng
nói ấy câm đi, đã làm lời thầm thì kia phải nghẹn lại. Rồi chàng Gascogne với
liều lượng tự tin cao, đa so sánh mình với De Wardes và tự hỏi rút cuộc tại sao
người ta lại không yêu chàng, ừ, yêu chàng, chính chàng.
- Thế là chàng phó mặc hoàn toàn cho những cảm giác lúc đó.
Milady đối với chàng không còn là mụ đàn bà với những ý đồ gieo rắc
tái ương đã có lúc làm chàng kinh hãi nữa, mà đó là một người tình nồng nhiệt
và say đắm hoàn toàn thả mình cho một tình yêu mà hình như chính bản thân nàng
cũng nghiệm thấy. Gần hai giờ đồng hồ trôi đi như thế. Song cơn hoan lạc của
đôi tình nhân đã lắng dịu lại.
Milady không cùng những động cơ với D' Artagnan để quên đi, là
người đầu tiên trở lại với thực tế và hỏi chàng trai trẻ liệu những phương sách
cần phải tiến hành ngày mai giữa chàng và De Wardes cho cuộc chạm trán đã được
hoạch định trước trong đầu chàng chưa.
Nhưng D' Artagnan, mọi ý nghĩ lại đang trôi theo một dòng khác, như
một kẻ lú lẫn, chàng quên mất cả chính mình, trả lời một cách tình tứ rằng muộn
quá rồi, không phải lúc tính chuyện đấu gươm được.
Sự lạnh nhạt đối với những quan tâm duy nhất của Milady khiến nàng
hảng sợ và nàng càng dồn dập hỏi D' Artagnan.
D'Artagnan không bao giờ suy nghĩ một cách nghiêm túc đến cuộc
quyết đấu bất khả thi này, lúc này muốn lái câu chuyện sang hướng khác nhưng
chàng không còn đủ sức nữa.
Milady giữ chặt lấy chàng trong những giới hạn mà nàng đã vạch ra
trước với tinh thần bất khả kháng và ý chí sắt thép của nàng.
Khuyên Milady tha thứ cho De Wardes mà từ bỏ những chủ định điên
khùng mà nàng đã thiết lập, D'Artagnan tưởng rằng mình làm như thế là khôn
ngoan nhất.
Nhưng vừa mới nói ra được mấy câu, người đàn bà đó đã giật mình và
tách hẳn ra.
- Anh sợ rồi ư, D'Artagnan thân yêu? - Nàng hỏi bằng một giọng chua
loét và cợt nhạo vang lên lạ lùng trong bóng đêm.
- Em đừng nghĩ như thế, em thân yêu ạ! - D' Artagnan trả lời nhưng
rốt cuộc, nếu như cái ông Bá tước tội nghiệp De Wardes đó đắc tội ít hơn là em
nghĩ thì sao?
- Dẫu sao hắn cũng đã lừa dối em - Milady nghiêm nghị nói - và lúc
hắn đã lừa dối em, hắn đáng tội chết rồi.
- Vậy hắn sẽ chết, một khi em đã xử tội chết! - D' Artagnan nói
bằng một giọng kiên quyết khiến Milady thấy có vẻ như đấy là sự biểu lộ cao độ
lòng chung thủy.
Lập tức nàng lại nằm sát vào người chàng.
Đối với Milady, không biết đêm đã kéo dài được thời gian bao lâu
nhưng D'Artagnan tưởng như đã nằm ở bên nàng được khoảng hai tiếng đồng hồ, khi
mà ánh sáng ban mai đã hiện ra qua khe những rèm cửa rồi tràn ngập trong phòng
một thứ ánh sáng mờ nhạt.
Thấy D'Artagnan sắp từ biệt mình, Milady liền nhắc lại lời chàng đã
hứa trả thù De Wardes cho nàng.
- Anh rất sẵn sàng - D' Artagnan nói - nhưng trước hết, anh muốn
được chắc chắn về một điều.
- Điều gì - Milady hỏi.
- Là được em yêu.
- Em tưởng em đã cho anh bằng chứng về điều đó rồi?
- Phải, anh cũng như thế với em cả thể xác lẫn tâm hồn.
- Cám ơn người tình tử tế của em! Nhưng em đã chứng tỏ tình yêu của
em với anh thì anh cũng sẽ phải chứng tỏ tình yêu của anh với em, có phải
không?
- Chắc chắn rồi. Nhưng nếu em yêu anh như em nói - D' Artagnan nhắc
lại - em không sợ chút nào cho anh ư?
- Em có thể sợ gì cơ chứ?
- Nhưng rút cuộc, anh có thể bị thương nặng, cả chết nữa.
- Không thể thế - Milady nói - Anh là một con người rất can trường,
và một tay gươm hiểm hóc.
- Vậy là em không thích - D' Artagnan hỏi tiếp - không thích chút
nào một phương sách vẫn có thể trả thù cho em mà lại không cần thiết phải giao
đấu?
Milady lặng đi nhìn người tình của mình. Cái ánh sáng nhàn nhạt của
những tia sáng đầu tiên ban mai đem lại trong đôi mắt nàng một vẻ thê lượng kỳ
lạ.
- Đúng vậy - Nàng nói - Em tin bây giờ anh do dự mất rồi.
- Không, anh không do dự đâu. Nhưng chính vì cái tay Bá tước De
Wardes tội nghiệp kia thực sự làm cho anh ái ngại kể từ khi em không yêu hắn
nữa, và anh thấy hình như nếu bị mất tình yêu của em là đã bị trừng phạt tàn
nhẫn lắm rồi, chẳng cần đến một hình phạt khác nữa.
- Ai bảo anh rằng em đã yêu ông ta? - Milady hỏi.
- Ít nhất bây giờ anh cũng có thể tin mà không quá hợm hĩnh rằng em
đã yêu một người khác - Chàng trai trẻ trả lời bằng một giọng mơn trớn - và anh
nhắc lại với em rằng anh quan tâm đến ông Bá tước.
- Anh?
- Phải, anh?
- Và tại sao lại anh?
- Bởi vì chỉ mỗi anh biết…
- Biết cái gì?
Biết ông ta còn xa mới đáng bị hoặc đúng hơn đã bị quy là phạm tội
như vậy đối với em.
- Thật thế sao? - Milady nói vẻ lo lắng - anh hãy giải thích rõ xem
nào bởi vì thực ra em không hiểu anh muốn nói gì.
Và nàng nhìn D' Artagnan vẫn đang ôm nàng, với đôi mắt hình như
đang dần dần rực cháy lên.
- Phải, anh là một người đàn ông trăng hoa, đúng vậy! - D'Artagnan
nói và đã quyết định giải quyết cho xong mọi chuyện - và từ khi chắc chắn chiếm
được tình yêu của em, bởi anh đã chiếm được, phải không nào?
- Chiếm hoàn toàn. Tiếp tục đi!
- Thế là! Anh cảm thấy mình được vô cùng hoan lạc, và một việc cần
thú nhận đè nặng lòng anh.
- Thú nhận!
- Nếu anh còn nghi ngờ tình yêu của em, anh đã không cần phải thú
nhận. Nhưng em yêu anh, cô người tình kiều diễm của anh, có phải không? Em yêu
anh chứ?
- Chắc chắn rồi.
- Vậy nếu vì quá yêu em mà anh mắc tội với em, em có tha thứ cho
anh không?
- Có thể!
Với nụ cười dịu dàng nhất, D' Artagnan thử áp môi mình vào môi
Milady, nhưng nàng tránh ra.
- Thú nhận đi đã - Nàng vừa nói vừa tái nhợt người đi - Thú nhận
xem thế nào đã?
- Em đã hẹn với De Wardes thứ năm tuần trước, vẫn trong căn phòng
này, có phải không?
- Em ư, không! Không phải thế - Milady nói bằng một giọng rất kiên
quyết và bằng vẻ mặt quá bình thản nếu D'Artagnan không hoàn toàn chắc chắn về
điều đó, sẽ nghĩ mình ngờ oan.
- Thôi đừng dối nữa, thiên thần kiều diễm của anh! - D'Artagnan vừa
nói vừa cười - Vô ích thôi.
- Sao thế được? Nói đi nào? Anh làm tôi chết mất!
- Ồ, em cứ yên tâm, em có tội gì với anh đâu, và anh cũng đã tha
thứ cho em rồi?
- Rồi sao nữa? Sao nữa!
- De Wardes không thể hãnh diện về bất cứ điều gì.
- Tại sao? Chính mồm anh đã nói với tôi rằng cái nhẫn ấy…
- Cái nhẫn ấy, tình yêu của anh ơi, chính anh nhận được nó. Bá tước
De Wardes hôm thứ năm và D'Artagnan hôm nay chỉ là một thôi.
Anh chàng bất cẩn ấy vẫn ngỡ rằng nàng sẽ sửng sốt và thẹn thùng và
sẽ có một cơn giông nhỏ diễn ra bằng nước mắt, nhưng chàng đã nhầm một cách lạ
lùng, và sự nhầm lẫn ấy không kéo dài.
Tái người đi và dữ tợn, Milady vùng dậy, đẩy một cái thật mạnh vào
ngực D'Artagnan rồi lao ra khỏi giường.
Lúc này trời gần như đã sáng hẳn.
D'Artagnan túm lấy vạt áo ngủ bằng loại toan mịn Ấn Độ để van xin
nàng tha lỗi. Nhưng nàng giằng mạnh ra, kiên quyết cố chạy trốn. Thế là vải
toan mịn toạc ra để lộ đôi vai trần và trên một trong đôi vai tròn và trắng
muốt, D'Artagnan ngớ hẳn người, nhận ra bông huệ, một dấu vết không thể tẩy xóa
được mà bàn tay gia hình của đao phủ đã in lên đấy.
- Trời đất ơi! - D'Artagnan vừa kêu lên vừa buông áo ngủ ra và
chàng lặng đi, bất động và lạnh người trên giường.
Nhưng chính Milady cũng cảm thấy mình đã bị phát giác bởi chính
ngay sự kinh hoàng của D'Artagnan. Chắc chắn chàng đã nhìn thấy hết, giờ đây chàng
trai trẻ đã biết hết bí mật của nàng, cái bí mật khủng khiếp mà tất cả mọi
người đều không hay biết, trừ chàng.
Nàng quay phắt lại, không còn như một người đàn bà giận dữ nữa, mà
như một con báo bị thương.
- Ôi, quân khốn nạn - Nàng nói - Mày đã phản bội tao một cách hèn
hạ, đã thế mày lại còn nắm được bí mật của tao! Mày sẽ phải chết!
Và nàng chạy ngay tới một chiếc hộp khảm đặt trên bàn trang điểm,
tay giận run bắn lên mở hộp rút ra một con dao găm nhỏ chuôi bằng vàng, lưỡi
sắc và mỏng, nhảy chồm đến D' Artagnan vẫn nửa trần truồng.
Cho dù chàng trai trẻ can trường, chàng vẫn hoảng hồn trước bộ mặt
dữ tợn, đôi mắt long lên vô cùng khiếp sợ, hai má tái nhợt và đôi môi bật máu.
Chàng lùi lại đến tận khe giường như chạy trốn một con rắn đang trườn về phía
mình, rồi vơ lấy thanh gươm bằng bàn tay nhớp nhúa mồ hôi và rút gươm khỏi vỏ.
Nhưng bất chấp thanh gươm, Milady cố nhảy lên giường để đâm chàng và nàng chỉ
dừng lại khi thấy mũi gươm tì vào cổ họng mình.
Thế là bằng hai tay nàng cố đoạt lấy gươm. Nhưng D' Artagnan luôn
rút được gươm ra khỏi hai bàn tay ghì chặt ấy, và lúc thì dí mũi gươm vào mặt
nàng, lúc vào ngực nàng, rồi trườn khỏi chiếc giường, tìm cách rút lui về phía
cửa thông sang phòng Ketty.
Milady trong khi đó, nhẩy bổ vào chàng với những cơn cuồng nộ ghê
rợn và gầm thét lên khủng khiếp.
Tuy nhiên việc đó giống như một trận quyết đấu, vì thế D' Artagnan
dần dần trấn tĩnh lại.
- Được lắm, người đẹp, được lắm! - Chàng nói - Nhưng mẹ kiếp, bình
tĩnh lại đi, hoặc tôi sẽ rạch một bông huệ thứ hai trên đôi má xinh đẹp đấy.
- Đồ hạ lưu! Quân đê tiện! - Milady rít lên.
Nhưng D' Artagnan vẫn vừa tìm cách đến gần cửa vừa chống đỡ.
Nghe tiếng động ầm ầm này lật đổ đồ đạc để vồ lấy chàng, còn chàng
lại toàn nấp sau đồ đạc để tránh đòn, Ketty ra mở cửa. D'Artagnan không ngừng
xoay xở để lại gần chiếc cửa đó và lúc này chỉ còn cách ba bước chân. Thế là
chàng lao thẳng từ phòng Milady sang phòng cô thị nữ và nhanh như chớp, chàng
khép cửa và quay lưng chẹn cửa bằng cả sức nặng của cơ thể mình trong khi Ketty
đẩy chốt cửa lại.
Thế là Milady liền cố lật nhào cái vòm cuốn cửa đang nhốt nàng
trong phòng mình, với sức mạnh vượt xa sức mạnh của đàn bà, rồi khi cảm thấy
không thể được, liền lấy dao găm đâm lỗ chỗ cánh cửa, một vài nhát xuyên qua
gỗ.
Mỗi nhát lại kèm theo một lời nguyền rủa khủng khiếp.
- Nhanh, nhanh lên Ketty - D' Artagnan nói khẽ khi chốt cửa đã đóng
- giúp anh ra khỏi nhà đi. Nếu chúng ta để mụ có đủ thời gian để xoay xở, mụ sẽ
sai bọn người hầu giết anh mất.
- Nhưng anh không thể trần truồng ra ngoài như thế - Ketty nói.
- Đúng vậy - D' Artagnan nói, chỉ lúc này mới biết trên người mình
đang mặc gì - Đúng vậy, em mặc cho anh thế nào thì mặc, và nhanh nhanh lên, em
hiểu không, sống hay chết là ở lúc này đây!
Ketty thừa hiểu như vậy. Loáng một cái, cô mặc phát cho chàng một
váy áo hoa, một mũ rộng vành và một áo khoác ngắn, cô cho chàng một đôi dép
trong nhà chàng phải đi chân trần không tất, rồi cô dẫn chàng xuống các bậc
thang. Đúng lúc đó, Milady đã rung chuông đánh thức toàn bộ người trong nhà.
Người gác cổng kéo dây thừng nâng cổng đúng lúc Milady cũng nửa
trần truồng thò đầu qua cửa sổ kêu lên:
- Đừng mở!
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 38
Không mất công xoay xở, Athos vẫn có được quân trang.
Chàng trai trẻ trốn mất còn nàng vẫn giơ nắm đấm lăm dọa chàng một
cách bất lực. Đến lúc không còn trông thấy chàng nữa, Milady ngã bất tỉnh trong
phòng mình.
D' Artagnan bối rối đến nước không còn lo lắng đến Ketty sẽ ra sao
nữa, chàng vừa đi vừa chạy xuyên qua cả nửa Paris và chỉ dừng lại trước cửa nhà
Athos. Hoang mang, sợ hãi, rồi thêm vào là tiếng thét của bọn lính tuần tra
rượt đuổi, tiếng hò la của mấy người qua đường đi làm sớm càng khiến chàng chạy
cuống cuông.
Chàng đi qua sân, lên hai tầng gác và đập đến vỡ cửa nhà Athos.
Grimaud mắt còn díp lại vì buồn ngủ ra mở cửa. D' Artagnan lao vào
phòng mạnh đến nỗi xô ngã cậu ta.
Mặc dầu hàng ngày vốn lầm lì, lần này anh chàng đáng thương cũng
phải mở miệng:
- Ái chà chà? - Anh ta kêu toáng lên - Muốn gì đây, cô gái giang
hồ? Đòi cái gì nào, đồ đĩ điếm?
D' Artagnan kéo mũ và khăn trùm đầu lên, gỡ áo khoác ngắn ra, để lộ
ria mép và gươm trần, anh chàng tội nghiệp mới nhận ra mình đang nói chuyện với
một người đàn ông.
Thế là anh ta tưởng đó là một kẻ sát nhân liền kêu toáng lên:
- Cứu với! Cứu! Cứu!
- Cám đi, đồ khốn! - Chàng trai trẻ nói - Ta là D' Artagnan, anh
không nhận ra ta ư? Chủ anh đâu?
- Ông, ông là ông D' Artagnan! - Grimaud vẫn kêu lên! - Không thể
thế được.
- Grimaud! - Athos từ phòng mình ra, vẫn còn mặc áo ngủ nói - Tôi
thấy anh quá lời rồi đó.
Athos nhận ra bạn mình. Xưa nay vốn rất phớt đời chàng vẫn phải phá
lên cười trước lối giả trang kỳ quặc trước mắt mình, khăn mũ xiêu vẹo, váy
thõng tận gót, tay xắn lên, râu ria dựng ngược vì xúc động.
- Đừng cười thế bạn tôi ạ - D' Artagnan kêu lên - Trời ơi, đừng
cười, tôi thề trước linh hồn tôi là không có gì đáng cười cả.
Và chàng thốt ra những câu ấy rất đỗi trang nghiêm và với một sự
hoảng loạn thật sự khiến Athos phải nắm lấy hai tay chàng mà kêu lên:
- Cậu bị thương ư? Trông cậu xanh xao quá!
- Không, nhưng vừa xảy ra một sự cố kinh khủng với tôi. Có mỗi mình
anh thôi đấy chứ, Athos?
- Mẹ kiếp, thế cậu muốn ai ở nhà tôi vào cái giờ này?
- Tốt, tốt rồi.
Và D' Artagnan chạy bổ vào phòng Athos.
- Nào, nói đi! - Athos đóng cửa cài chết lại để khỏi bị quấy rầy -
Nhà Vua bị chết? Cậu đã giết Giáo chủ ư? Cậu hoàn toàn rối trí rồi, nào, nói
đi, tôi thực lo đến chết được đây.
- Athos này - D' Artagnan vừa nói vừa cởi bỏ quần áo đàn bà và còn
trơ chiếc áo lót - Anh hãy chuẩn bị mà nghe một chuyện không thể tưởng tượng
nổi, chưa từng nghe thấy bao giờ nhé.
- Trước hết hãy khoác chiếc áo mặc trong nhà này vào đã.
D' Artagnan choàng chiếc áo lên người, ống tay nọ nhầm ống tay kia,
chưa hết xúc động.
- Sao nào? - Athos nói.
- Thế này? - D' Artagnan cúi xuống ghé tai Athos hạ giọng nói -
Milady bị đóng dấu bông huệ trên vai.
A! - Chàng ngự lâm quân thét lên như vừa bị một viên đạn bắn vào
tim.
- Nào. - D' Artagnan nói - anh có chắc con người kia đã chết thật
rồi không?
- Người kia ư? - Athos nói bằng một giọng nghẹn lại đến nỗi D'
Artagnan chỉ hơi nghe rõ.
- Phải, người đàn bà mà một hôm anh đã nói với tôi ở Amiêng ấy.
Athos buông một tiếng rên rồi gục mặt vào hai bàn tay.
- Mụ này - D' Artagnan tiếp tục - khoảng hai sáu đến hai tám tuổi.
- Tóc hung vàng - Athos nói - phải thế không?
- Phải.
- Đôi mắt xanh nhạt, ánh lên kỳ lạ, lông mi và lông mày đen?
- Đúng?
- Người cao, thân hình tuyệt đẹp? Mất một chiếc răng hàm gần hốc
mắt trái.
- Đúng!
- Bông huệ nhỏ màu đỏ quạch và gần như bị xóa đi bởi những lớp kem
trát lên đấy.
- Đúng.
- Nhưng cậu bảo mụ ta là đàn bà Anh?
- Người ta gọi mụ là Milady, nhưng có lẽ mụ là người Pháp. Mặc dầu
vậy Huân tước De Winter chỉ là em chồng mụ.
- Tôi muốn nhìn thấy mụ, D' Artagnan.
- Coi chừng, anh Athos, coi chừng. Anh đã từng muốn giết mụ, mụ là
một con đàn bà sẽ trả miếng lại anh và không chừa anh đâu.
- Mụ sẽ không dám nói gì đâu, bởi như thế tức là tự vạch mặt.
- Mụ có thể làm tất cả! Anh đã bao giờ thấy mụ lên cơn điên giận
chưa?
- Chưa! Athos nói.
- Một con hổ cái, một con báo cái! Ôi, anh Athos thân mến của tôi!
Tôi rất sợ đã lôi kéo cả hai chúng ta vào một sự trả thù khủng khiếp.
D' Artagnan liền kể lại hết: cơn giận dữ cuồng điên của Milady và
những lời hăm dọa giết người của mụ.
- Cậu nói đúng và tôi xin thề trước linh hồn tôi, tôi lại đi đổi cả
mạng sống của mình lấy một sợi tóc hay sao - Athos nói - May sao, ngày kia
chúng ta sẽ đi khỏi Paris, rất có khả năng chúng ta sẽ đến La Rochelle và một
khi đã đi khỏi.
- Mụ sẽ theo anh đến cùng trời cuối đất, Athos, mụ sẽ nhận ra anh.
Vậy hãy để mụ căm hận riêng một mình tôi thôi.
- Ôi, bạn thân mến. Mụ có giết mình thì cũng có sao đâu! - Athos
nói - Cậu đã thấy lúc nào mình lo cho mạng sống của mình chưa?
- Anh Athos này, có một cái gì đó bí ẩn khủng khiếp trong mọi
chuyện này, tôi tin chắc mụ đàn bà này là con gián điệp của Giáo chủ.
- Nếu như vậy thì chính cậu phải coi chừng. Nếu Giáo chủ không hâm
mộ lắm về vụ việc London của cậu, thì ông ta căm hận cậu lắm đấy. Nhưng rút cục
vì không thể công khai trách phạt cậu điều gì, nên phải diễn ra chuyện căm hận,
nhất là khi lại là mối căm hận của Giáo chủ, thì cậu hãy coi chừng! Nếu đi đâu
ra ngoài, đừng ra ngoài một mình, nếu đi ăn, hãy phòng ngừa, rút cục phải nghi
ngờ tất, ngay cả cái bóng của mình.
- May sao - D' Artagnan nói - chỉ phải lo từ nay đến tối ngày kia
không xảy ra chuyện gì, bởi vì một khi đã ở trong quân đội, tôi hy vọng chúng
ta sẽ chỉ còn phải sợ đàn ông thôi.
- Trong khi chờ đợi - Athos nói - tôi sẽ từ bỏ việc cấm cung mà sẽ
đi bất cứ đâu với cậu. Cậu nên về nhà, về phố Phu đào huyệt đi, mình sẽ đi cùng
với cậu.
- Nhưng dù là đến đó rất gần thôi - D' Artagnan nói - Tôi cũng
không thể ăn mặc như thế này mà về được.
- Đúng vậy - Athos nói.
Và chàng rung chuông.
Grimaud bước vào.
- Athos ra hiệu hãy đến nhà D' Artagnan và mang quần áo tới đây.
Grimaud cũng ra hiệu đã hiểu rồi đi ra. Athos bảo D' Artagnan:
- Thế đó, chúng ta chẳng tiến thêm được bước nào trong việc lo sắm
trang thiết bị, cậu ạ, bởi nếu tôi không lầm, cậu đã để lại tất cả quần áo của
cậu ở nhà Milady rồi và chắc hẳn mụ ta sẽ chẳng để ý đến việc gửi trả lại cậu.
May sao cậu còn có cái nhẫn saphia.
- Nhẫn saphia là của anh, Athos yêu quý? Anh chẳng bảo tôi đấy là
cái nhẫn gia truyền ư?
- Phải, cha tôi đã mua nó với giá hai nghìn êquy vàng. Theo như ông
đã nói với tôi trước kia(1), là khoản tặng vật ngày cưới cho mẹ tôi. Nó thật
lộng lẫy. Mẹ tôi cho tôi, và tôi động rồ, tốt hơn phải giữ gìn như một thánh
tích, lại đem cho con mụ khốn nạn ây.
- Vậy thì anh Athos thân mến, anh hãy cầm lại chiếc nhẫn, tôi hiểu
anh cần phải giữ lấy nó.
- Tôi, cầm lại chiếc nhẫn, sau khi nó đã qua tay con đê tiện ấy ư!
Không đời nào, chiếc nhẫn đã bị ô uế rồi, D' Artagnan ạ.
- Vậy thì bán nó đi.
- Bán một báu vật vốn là của mẹ mình ư? Tôi phải thú thật với cậu
tôi sẽ coi đó như một sự bất kính.
- Thế thì đem cầm vậy, họ sẽ cho vay may ra cũng trên một nghìn
đồng êquy. Với số tiền đó, thừa sức mua sắm trang bị, rồi khi nào có tiền một
cái là anh đem chuộc lại ngay, và nó đã qua tay bọn cho nặng lãi rồi, nên nó đã
được tẩy sạch những vết nhơ, anh có thể giữ lấy.
Athos mỉm cười:
- Cậu đúng là một đồng đội quý hóa, D' Artagnan thân mến ạ. Bằng
tính tình vui tươi vĩnh viễn của mình cậu đã vực dậy những linh hồn tội nghiệp
khỏi nỗi ưu sầu. Thôi được, ta đem cầm chiếc nhẫn nhưng với một điều kiện.
- Điều kiện gì?
- Là cậu năm trăm êquy và mình năm trăm.
- Anh lại nghĩ thế ư, Athos? Tôi không cần đến một phần tư số tiền
đó, tôi ở trong quân cận vệ, bán bộ yên cương đi đã đủ rồi. Tôi còn cần gì nữa
nào? Một con ngựa cho Planchet. Có thế thôi. Mà anh quên tôi cũng có một chiếc
nhẫn ư?
- Tôi cho rằng cậu phải giữ chiếc nhẫn đó còn hơn là tôi giữ chiếc
của tôi. Ít ra tôi cũng nhận ra điều đó.
- Phải, bởi trong tình thế cùng cực nó không những kéo chúng ta ra
khỏi những lúng túng lớn mà còn cả mối nguy lớn nào đó nữa, đấy không phải chỉ
là một đồ kim cương quý mà còn là một bùa hộ mệnh đầy phép mầu.
- Tôi không hiểu cậu định nói gì, nhưng tôi tin ở những gì cậu nói.
Vậy hãy trở lại chuyện cái nhẫn của tôi, đúng hơn là của cậu. Hoặc là cậu nhận
nửa số tiền, hoặc tôi ném nó xuống sông Xen và biết đâu, giống như Pôlycrát(2),
lại có một con cá nào đó chiều người đem trả chúng ta.
- Thôi được, tôi nhận vậy! - D' Artagnan nói.
Vừa lúc đó Grimaud trở về đem theo cả Planchet - Planchet lo cho
chủ và tò mò muốn biết điều gì đã xảy ra, bèn lợi dụng tình thế, tự mình mang
quần áo đến.
D' Artagnan mặc quần áo vào, Athos cũng vậy. Rồi khi cả hai đã sẵn
sàng đi ra, Athos ra hiệu cho Grimaud, có người đang nhằm bắn vào hắn, hắn liền
tháo ngay khẩu súng trường xuống và chuẩn bị đi theo chủ.
Họ đến phố Phu đào huyệt mà không gặp phải tai họa gì.
Bonacieux đang đứng trước cửa, lão nhìn D' Artagnan với vẻ chế nhạo
và nói:
- Này, ông bạn thuê nhà thân mến, mau mau lên. Một cô gái xinh đẹp
đang đợi trên nhà ông đó, và đàn bà, ông biết đấy, người ta không thích bắt
phải đợi đâu?
- Chính là Ketty rồi! - D' Artagnan kêu lên.
Và chàng lao vào lối đi.
Quả nhiên, trên bậc nghỉ trước phòng chàng, chàng thấy cô bé tội
nghiệp tựa lưng vào cửa, người run bắn lên. Vừa trông thấy chàng cô đã nói:
- Ông hứa ông bảo vệ em, ông hứa ông cứu em khỏi cơn điên giận của
bà ấy - Ông phải nhớ chính ông đã làm hại em chứ!
- Phải, hẳn vậy rồi - D' Artagnan nói - Ketty, em bình tĩnh nào.
Nhưng đã xảy ra chuyện gì khi anh đi?
- Em có biết gì đâu! - Ketty nói - Nghe tiếng bà ta gào thét, bọn
người hầu chạy tới. Bà ta điên khùng giận dữ. Có bao nhiêu kiểu chửi rủa trên
đời bà ta đều mửa lên đầu ông. Thế là em nghĩ bà ta sẽ nhô ra chính là qua
phòng em mà ông đã lọt vào phòng bà ta, và khi đó bà ấy sẽ nghĩ em là kẻ đồng
lõa với ông, em cầm lấy một ít tiền mình có, mấy bộ quần áo quý nhất rồi bỏ
trốn.
- Em bé tội nghiệp? Nhưng anh sẽ làm gì cho em được đây. Ngày kia
anh phải đi rồi.
- Làm thế nào tùy ông, ông hiệp sĩ. Giúp em đi khỏi Paris, khỏi
nước Pháp cũng được.
- Song anh không thể mang em theo đến vây thành La Rochelle được.
- Không, nhưng ông có thể gửi em ở một bà nào quen biết ông ở tỉnh
lẻ, ở quê ông chẳng hạn.
- Ồ cô bạn thân mến của tôi ơi! Ở quê tôi các bà không hề có hầu
phòng. Nhưng, xem nào, ta có việc đây, Planchet, đi tìm Aramis cho ta, bảo ông
ấy đến ngay lập tức. Chúng ta có một chuyện rất quan trọng cần nói với ông ấy.
- Tôi hiểu rồi - Athos nói - Nhưng tại sao lại không Porthos?
- Tôi thấy hình như nữ Hầu tước của cậu ta…
Nữ Hầu tước của Porthos đã có bạn học nghề ký lục giúp việc khăn áo
rồi - D' Artagnan vừa nói vừa cười - Hơn nữa, Ketty không muốn ở phố Lũ gấu
đâu, phải không Ketty?
- Em ở đâu cũng được - Ketty nói - Miễn là em được giấu kín, không
ai biết em ở đâu.
- Giờ đây, chúng ta sắp phải xa nhau, do đó em không còn ghen về
tôi nữa…
- Ông hiệp sĩ, dù ở gần, ở xa - Ketty nói - em vẫn sẽ yêu ông.
Athos lầm bầm: "Còn có chỗ cóc khô nào để cho lòng kiên trinh
đến làm tổ nữa đây?"
- Anh, cũng vậy, D' Artagnan nói - Anh cũng vậy. Anh sẽ luôn yêu
em, em cứ yên tâm. Nhưng xem nào, em hãy trả lời anh một câu hỏi rất quan
trọng, đã bao giờ em nghe thấy nói về một thiếu phụ bị bắt cóc giữa ban đêm
chưa?
- Đợi một chút đã… Ồ, Chúa ơi! Ông hiệp sĩ, ra ông vẫn còn yêu
người đàn bà ấy ư?
- Không, đó là một người bạn của anh yêu bà ta. Chính là cái ông
Athos kia kìa.
- Tôi ư! - Athos kêu lên như một người thấy mình sắp giẫm lên một
con rắn nước.
- Chắc chắn là anh rồi! - D' Artagnan vừa nói vừa bấm tay Athos -
Em thừa biết là cả hai chúng tôi đều quan tâm đến cái bà Bonacieux bé nhỏ đáng
thương ấy. Hơn nữa Ketty sẽ không nói ra đâu, phải không em, Ketty? Em hiểu
không, em bé - D' Artagnan tiếp tục - Đó là vợ của cái ông phỗng tởm lợm mà em
thấy ở cửa khi vào đây ấy.
- Ôi Chúa ơi! - Ketty kêu lên - Ông nhắc đến làm em lại sợ, miễn là
lão ta đừng nhận ra em?
- Sao, nhận ra em? Vậy ra em cũng đã từng gặp lão! Lão đến nhà bà
Milady hai lần.
- Thế ư? Vào hồi nào?
- Chừng độ mười lăm, mười tám ngày gì đó.
- Đúng rồi.
- Và tối qua lão cũng đến.
- Tối qua ư?
- Vâng, một lúc trước khi ông đến ấy.
- Anh Athos thân mến, chúng ta bị vây trong một mạng lưới gián điệp
rồi! Và em tin lão cũng nhận ra em, Ketty?
- Em đã kéo sụp khăn xuống trước mặt, nhưng có lẽ đã quá muộn.
- Anh Athos, anh xuống đi, anh ít bị nó nghi hơn tôi, anh xuống xem
nó còn đứng ở cửa không.
Athos xuống rồi lại lên ngay.
- Nó đi rồi - Chàng nói - Cửa nhà đóng.
Nó đi báo cáo, rằng lúc này mấy con chim câu đang ở trong chuồng
cả.
- Vậy thì, ta phải vù đi thôi - Athos nói -và chỉ để lại Planchet ở
đây để báo tin cho chúng ta.
- Đợi đã! Thế còn Aramis đã.
Đúng lúc đó, Aramis bước vào.
Họ trình bày lại sự việc với Aramis và nói với chàng việc khẩn
thiết thế nào để tìm được một chỗ cho Ketty trong số những người thân quen
quyền quý.
Aramis nghĩ một lát và đỏ mặt:
- Việc đó thực sự giúp ích cho cậu chứ, D' Artagnan?
- Tôi sẽ mang ơn suốt đời tôi.
- Vậy thế này? bà De Bois-Tracy có yêu cầu tôi tìm cho một bà bạn ở
tỉnh lẻ một cô hầu phòng tin cẩn. Và nếu cậu có thể, D' Artagnan thân mến, đảm
bảo cô…
- Ồ thưa ông! - Ketty reo lên - Xin ông tin chắc, em sẽ hết lòng
tận tụy với bà nào giúp em rời khỏi Paris.
- Ồ, - Aramis nói - Vậy thì càng tốt.
Chàng ngồi vào bàn viết vắn tắt mấy chữ rồi đóng dấu niêm phong
bằng mặt nhẫn và đưa bức thư cho Ketty.
- Bây giờ, em bé - D' Artagnan nói - em ở đây lúc nào cũng sẽ chẳng
tốt đẹp gì cho bọn anh, cũng như cho em lúc ấy. Vậy chúng ta chia tay nhau
thôi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong những ngày tốt đẹp hơn.
- Và dù bao giờ, ở đâu, ta gặp lại nhau - Ketty nói - Ông cũng sẽ
lại thấy em vẫn yêu ông như em yêu ông hôm nay.
- Lời thề của con bạc - Athos nói trong khi D' Artagnan đưa Ketty
xuống cầu thang.
Một lát sau, ba người bạn chia tay nhau và hẹn bốn giờ gặp nhau ở
nhà Athos, để lại Planchet coi nhà.
Aramis trở về nhà còn Athos và D' Artagnan đi lo cầm chiếc nhẫn
saphia.
Như chàng Gascogne đã đoán trước, họ dễ dàng vay được ba trăm đồng
pitxtôn vàng cho chiếc nhẫn đem cầm. Lão chủ Do Thái bảo nếu bán đứt lão sẽ trả
năm trăm, vì chiếc nhẫn đem đánh thành tòng teng của hai hoa tai rất đẹp.
Athos và D' Artagnan với tính năng động của hai người lính và sự
hiểu biết của hai tay sành sỏi, chưa đến ba giờ đồng hồ đã mua xong toàn bộ đồ
trang bị của ngự lâm quân.
Hơn nữa Athos vốn sinh trưởng nơi dòng dõi, và đại lãnh chúa đến
tận đầu móng tay, nên mỗi khi vừa ý, chàng thường thường trả luôn theo giá nói
mà không hề mặc cả. D' Artagnan những muốn đưa ra nhận xét, nhưng Athos đã đặt
tay lên vai chàng mỉm cười và D' Artagnan hiểu rằng đối với một tiểu quý tộc
người Gascogne như chàng thì mặc cả là cần thiết, nhưng với một người có dáng
dấp một ông hoàng thì không.
Chàng ngự lâm quân tìm được một con ngựa tuyệt đẹp vùng Ăngđaludi
sáu tuổi, đen tuyền, lỗ mũi như bốc lửa, chân nhỏ và bay bướm. Chàng quan sát
kỹ và không thấy có một khuyết tật nhỏ nào. Người bán đòi một nghìn quan.
Trong khi D' Artagnan đang tranh cãi về giá với tên lái ngựa, Athos
đã đếm ngay một trăm pítxtôn (tương đương một nghìn quan hoặc livrơ) đặt lên
bàn.
Grimaud được một con ngựa xứ Picácđi khỏe, mập giá ba trăm quan.
Nhưng sau khi mua nốt yên cương cho con ngựa đó và vũ khí cho Grimaud, số một
trăm năm mươi pitxtôn của Athos không còn lấy một xu.
D' Artagnan ngỏ ý bảo bạn mình cắn một miếng nhỏ phần chia của
chàng, sau này có sẽ trả. Nhưng Athos thay cho không trả lời chỉ nhún vai hỏi
chàng:
- Lão Do Thái bảo sẽ trả bao nhiêu nếu bán đứt cho hắn cái nhẫn
saphia?
- Năm trăm pitxtôn.
- Có nghĩa được thêm hai trăm pitxtôn, cậu một trăm, tôi một trăm.
Ồ thế xem ra cũng là một tài sản thực sự rồi. Hãy quay lại thằng cha Do Thái
thôi.
- Sao, anh muốn…
- Chiếc nhẫn đó, dứt khoát chỉ gợi cho tôi những kỷ niệm quá đau
buồn. Rồi thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có ba trăm để hoàn lại cho nó, thành
thử chúng ta mất toi hai nghìn quan cho cái việc mua bán này. Đến bảo lão cái
nhẫn là của lão đi, D' Artagnan, và quay lại với hai trăm pitxtôn.
- Nghĩ lại đi, anh Athos.
- Đồng tiền lấy sớm là đồng tiền khôn. Và cũng cần biết hy sinh
chứ.
- Thôi đi đi, D' Artagnan, Grimaud sẽ mang súng đi cùng.
Nửa giờ sau, D' Artagnan trở về với hai nghìn quan và không xảy ra
chuyện gì.
Athos đã tìm được nguồn tiền mà chàng không tính đến, cho việc sắm
sửa của mình như thế đó.
Chú thích:
(1) Ở đây tác giả lại nhầm vì
trên kia Athos đã nói là của bà ngoại cho mẹ
(2) Pôlycrát - Bạo chúa ở
Xamốt (322- trước CN) cho rằng có thể tránh được cừu thù bằng một sự mất mát
đáng kể, liền ném một nhẫn quý xuống biển. Chiếc nhẫn lại được tìm thấy trong
bụng một con cá. Quả nhiên Oronte, phó tướng của Darius chiếm Xamốt, bắt
Pôlycrát và đóng đinh chữ thập y.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 39
Ảo ảnh.
Lúc bốn giờ, bốn người bạn lại tụ tập ở nhà Athos. Những băn khoăn
lo lắng của họ về việc mua sắm quân trang đã hoàn toàn biến mất. Trên khuôn mặt
mỗi người chỉ còn lại những nét ưu tư thầm kín riêng tư nữa mà thôi, vì đằng
sau mọi hạnh phục hiện thời lại ẩn giấu một nỗi lo sẽ tới.
Bất thình lình Planchet bước vào mang theo hai bức thư gửi cho D'
Artagnan.
Một bức là một thư ngắn gấp rất lịch sự theo chiều dài với dấu xi
màu xanh in một con bồ câu ngậm một nhánh cỏ xanh.
Bức kia là một tờ giấy vuông rất to và chói lòa những huy hiệu
khủng khiếp của Đức ông Giáo chủ Quận công.
Vừa nhìn thấy bức thư nhỏ trái tim D' Artagnan đã nhảy lên bởi
chàng đã nhận ra nét chữ, và cho dù mới chỉ được nhìn nét chữ ấy có một lần, nó
vẫn còn được ghi nhớ tận đáy lòng đấy.
Chàng cầm lấy bức thư nhỏ, bóc ngay ra đọc:
"Thứ tư tới, ông hãy đi dạo từ sáu đến bảy giờ tối, trên đưòng
Sayô, và chú ý nhìn vào những xe ngựa bốn bánh đi qua nhưng nếu ông quan tâm
đến tính mạng của mình và đến tính mạng của những con người yêu ông, thì đừng
nói một câu, đừng làm một hành động gì để có thể làm người ta tin rằng ông đã
nhận ra người đang dám hứng chịu mọi điều để được nhìn thấy ông một lát".
Không ký tên.
Một cái bẫy đấy - Athos nói - Đừng đi, D' Artagnan.
- Thế nhưng hình như tôi nhận ra nét chữ.
- Có thể là giả mạo thôi - Athos nói tiếp - Vào lúc sáu bảy giờ,
lúc đó đường Sayô vắng ngắt, chả khác gì cậu đi dạo ở rừng Bôngđy.
- Nhưng nếu đi tất cả chúng ta? - D' Artagnan nói - Mẹ kiếp!
- Chả lẽ chúng ăn tươi nuốt sống được cả bốn chúng ta, lại còn bốn
người hầu, rồi ngựa, rồi vũ khí nữa?
- Mà cũng sẽ là dịp để cho biết quân trang của ta chứ - Porthos
nói.
- Nhưng nếu đúng là một người đàn bà viết - Athos nói - và người
đàn bà ấy lại không muốn bị nhìn thấy, thử nghĩ xem như vậy có phải là làm hại
người ta không, D' Artagnan, cái đó không xứng với tư cách một nhà quý tộc.
- Thì chúng ta sẽ đứng ở phía sau, một mình D' Artagnan tiến lên
trước.
- Nhưng nhỡ một phát súng ngắn sẽ bắn ra từ một eỗ xe phi nước đại
phóng qua.
- Ồ, - D' Artagnan nói - Bắn trúng thế nào được tôi, và chúng ta sẽ
đuổi kịp chiếc xe, sẽ giết sạch những đứa trong xe. Như thế lại càng bớt đi kẻ
thù.
- Cậu ấy nói đúng đấy - Porthos nói - Đánh nhau thôi! Ta thử vũ khí
một thể.
- Ờ thì vui vẻ một chút vậy? - Aramis nhẹ nhàng và uể oải nói.
- Tùy các cậu thôi - Athos nói.
- Thưa các vị - D' Artagnan nói - Bây giờ là bốn giờ rưỡi. Chúng ta
còn kịp vào lúc sáu giờ đã ở trên đường Sayô.
- Mà, nếu chúng ta ra đấy muộn quá, họ sẽ không gặp chúng ta, thế
thì tiếc lắm. Vậy chuẩn bị đi là vừa.
- Nhưng còn bức thư thứ hai - Athos nói - cậu quên rồi à, tôi thấy
hình như dấu xi cũng tỏ ra đáng bóc ra xem rồi. Còn như tôi, D' Artagnan thân
mến ạ, tôi tuyên bố với cậu là mình quan tâm đến nó hơn là mẩu giấy lăng nhăng
cậu vừa luồn nhẹ vào ngực cậu đấy.
D' Artagnan đỏ mặt nói:
- Thôi được. Để xem Đức ông muốn gì ở tôi nào.
Rồi bóc thư đọc:
"Ông D' Artagnan, vệ binh của nhà Vua, thuộc đại đội ông des
Essarts, có mặt tại dinh Đức Giáo chủ lúc tám giờ.
La Hudnie
Đại úy cận vệ.
- Mẹ kiếp! - Athos nói - Một cuộc hẹn đáng gờm khác hẳn cuộc hẹn
kia.
- Xong cuộc hẹn kia, tôi sẽ đến cuộc hẹn này - D' Artagnan nói -
Một cuộc lúc bảy giờ. Một cuộc lúc tám giờ. Vẫn đủ thì giờ để đến cả hai.
- Hừm! Tôi thì tôi không đi đâu - Aramis nói - Một kỵ sĩ hào hoa
không thể để lỡ hẹn với một người đàn bà. Nhưng một nhà quý tộc thận trọng có
thể cáo lỗi để khỏi đến gặp Đức ông, nhất là khi lại có lý do nào đấy để tin là
không phải đến để được ban khen.
- Tôi tán thành ý kiến của Aramis - Porthos nói.
D' Artagnan trả lời:
- Thưa các vị, tôi đã nhận được lời mời tương tự của Đức ông do ông
De Cavoa chuyển đến, tôi đã phớt lờ và hôm sau tôi gặp ngay một đại bất hạnh!
Nàng Constance biến mất. Muốn ra sao thì ra, tôi cũng cứ đến.
- Đã nhất định như thế - Athos nói - thì cứ đi.
- Nhưng còn ngục Bastille? - Athos nói.
- Thế ư? Thế thì các anh sẽ lôi tôi ra.
- Chắc chắn rồi - Aramis và Porthos cùng trả lời thẳng băng như thể
không có gì đơn giản hơn thế - Chắc chắn là chúng mình phải lôi cậu ra rồi.
Nhưng, trong khi chờ đợi, vì ngày kia chúng ta phải đi rồi, tốt nhất cậu đừng
có đùa với ngục Bastille đó.
- Ta làm thế này tốt hơn - Athos nói - Không rời khỏi cậu ấy tối
nay. Mỗi người đợi cậu ấy ở một cửa lâu đài kèm thêm ba lính ngự lâm đằng sau
nữa. Nếu ta thấy một chiếc xe nào đi ra mà cửa xe đóng hoặc đáng ngờ, là ta
nhẩy bổ lên. Mà cũng đã lâu rồi ta không kiếm cớ sinh sự với bọn cận vệ của
Giáo chủ, ông De Treville lại tưởng chúng ta chết cả rồi.
- Dứt khoát Athos sinh ra là để làm đại tướng rồi - Aramis nói -
Các vị thấy kế hoạch ấy thế nào?
- Tuyệt vời! - Tất cả đều đồng thanh hô lên.
- Vậy thì! - Porthos nói - Tôi chạy về dinh trại, báo cho các bạn
tôi chuẩn bị sẵn sàng vào lúc tám giờ cho cuộc hẹn sẽ diễn ra ở quảng trường
Lâu đài Giáo chủ, còn các anh, bảo bọn người hầu gióng yên cương đi.
- Nhưng tôi, tôi không có ngựa - D' Artagnan nói - Tôi sẽ mượn một
con ở chỗ ông De Treville vậy.
- Không cần thiết - Aramis nói - Cậu lấy một con ở chỗ tôi.
- Vậy anh có những bao nhiêu đấy - D' Artagnan hỏi.
- Ba con - Aramis mỉm cười trả lời.
- Bạn thân mến, Athos nói - thế thì cậu chắc chắn là nhà thơ cao
giá nhất nước Pháp và xứ Nava rồi. Nghe đây, Aramis thân mến, cậu không biết
làm gì với những ba con ngựa, có phải không? Thế thì tôi không hiểu sao cậu lại
đi mua những ba con.
- Không, con thứ ba mới được dắt đến cho tôi do một gia nhân không
mặc quần áo hầu cũng không muốn nói mình là người của ai, mà chỉ khẳng định là
tuân lệnh của ông chủ…
- Ông chủ hay bà chủ - D' Artagnan ngắt lời.
- Chuyện đó không quan trọng - Aramis đỏ mặt lên - Và khẳng định
với tôi, tôi muốn nói, tuân lệnh của bà chủ buộc con ngựa đó vào chuồng ngựa
của tôi, không được nói nó từ đâu đến.
- Chỉ đối với những nhà thơ, mới có được những chuyện đó! - Athos
nghiêm trang nói.
- Thôi được, trường trường hợp ấy, D' Artagnan nói - Anh sẽ cưỡi
con nào, con anh mua hay con người ta tặng?
- Tất nhiên con người ta tặng rồi. Cậu hiểu chứ, tôi không thể làm
cái chuyện vô sỉ ấy…
- Với người trao tặng xa lạ - D' Artagnan nói tiếp.
- Hay người đàn bà trao tặng bí ẩn - Athos nói.
- Vậy con anh đã mua trở nên không cần thiết?
- Gần như thế.
- Và tự anh chọn lấy?
- Một cách cẩn thận nhất. Cậu biết đấy, sự an toàn của một kỵ sĩ
hầu như luôn phụ thuộc vào con ngựa của mình.
- Vậy thì, anh hãy để lại cho tôi với giá anh mua?
- Tôi đang định tặng cậu, D' Artagnan thân mến ạ, chuyện vặt, bao
giờ cậu trả tôi thì trả.
- Anh mua giá bao nhiêu?
- Tám trăm quan.
- Vậy đây là bốn mươi đồng pitxtôn đôi bạn thân mến - D' Artagnan
vừa nói vừa lấy tiền trong túi ra - Tôi biết tiền này là tiền trả cho thơ của
anh.
- Cậu giàu gớm nhỉ? - Aramis nói.
- Giàu, đại phú ấy chứ!
- Và D' Artagnan lắc số pitxtôn còn lại xủng xoảng trong túi.
- Sai đem bộ yên của cậu đến dinh trại Ngự lâm quân, rồi đưa ngay
ngựa của cậu về đây.
- Tốt lắm. Nhưng sắp năm giờ rồi. Ta mau lên thôi.
Mười lăm phút sau, Porthos hiện ra ở đầu phố Fréjus trên con ngựa
nòi Tây Ban Nha cực đẹp. Mousqueton theo sau trên con ngựa vùng Ôvécnhơ, nhỏ
nhưng rất đẹp, Porthos rạng rõ mềm vui và kiêu hãnh.
Đồng thời Aramis cũng hiện ra ở đầu phố đằng kia, trên một con
thiên lý mã Anh quốc tuyệt đẹp. Bazin theo sau trên con ngựa đốm dắt theo một
con ngựa Mếchklembua Đức vạm vỡ, chính là con của D' Artagnan.
Hai chàng ngự lâm gặp nhau ở cửa nhà Athos và D' Artagnan qua cửa
sổ đang nhìn họ.
- Quỷ thật! - Aramis nói - Porthos thân mến, cậu có con ngựa thật
lộng lẫy.
Porthos trả lời:
- Ử nó chính là con ngựa người ta phải gửi cho mình ngay lúc đầu.
Lão chồng giở trò đểu thay nó bằng con khác, nhưng lão ta đã bị trừng phạt và
mình đã hoàn toàn toại nguyện.
Planchet và Grimaud cũng lần lượt xuất hiện, tay dắt ngựa của chủ,
D' Artagnan và Athos đi xuống, nhảy lên yên, đến gần các đồng đội, rồi cả bốn
cùng lên đường. Athos trên lưng ngựa nhờ nhẫn của vợ, Aramis trên con ngựa
người tình trao, Porthos, ngựa lấy của bà biện lý, và D' Artagnan trên con ngựa
có được nhờ vận may của người tình coi là tốt nhất.
Những người hầu đi theo.
Như Porthos đã nghĩ, cuộc diễu hành người ngựa có hiệu quả tốt. Và
nếu bà Coquenard gặp Porthos đường bệ trên con tuấn mã Tây Ban Nha, có nhẽ bà
ta sẽ không tiếc việc bà ta đã làm rỉ máu chiếc két sắt của chồng mình.
Đến gần điện Louvre, bốn người bạn gặp ông De Treville, từ cửa ô
Saint Jean Germain trở về. Ông ngăn họ lại để chúc mừng việc sắm sửa quân trang
của họ. Một lát thôi, đã có hàng trăm kẻ vô công rồi nghề xúm lại quanh họ.
D' Artagnan nhân dịp này nói với ông De Treville về bức thư có dấu
niêm phong đỏ lớn và có gia huy tước công. Tất nhiên về bức thư kia, chàng
không hé một lời.
Ông De Treville tán thành quyết định của chàng và bảo đảm với
chàng, nếu ngày mai không thấy chàng trở về ông sẽ có cách, tìm chàng dù bất kỳ
chàng ở đâu.
Đúng lúc đó, đồng hồ nhà thờ Samaritain điểm sáu giờ, bốn người bạn
vin cớ có cuộc hẹn, cáo lui ông De Treville.
Phi ngựa một lúc họ đã ở trên con đường Sayô. Trời bắt đầu tà, xe
cộ đi qua đi lại, D' Artagnan giữ khoảng cách với các bạn vài bước, phóng mắt
nhìn sâu vào trong các cỗ xe, chẳng thấy một khuôn mặt quen thuộc nào cả.
Cuối cùng, sau mười lăm phút chờ đợi, và hoàng hôn đã buông xuống
hoàn toàn, một chiếc xe hiện ra từ đường Sevre phi nước đại đến. Một dự cảm báo
trước cho D' Artagnan rằng chiếc xe đó có người đã hẹn chàng. Chàng trai trẻ
hết sức ngạc nhiên khi cảm thấy tim mình đập mạnh đến thế. Hầu như ngay tức
thì, đầu một người đàn bà thò ra khỏi cửa xe, hai ngón tay đưa lên miệng như
thể dặn dò hãy lặng im hoặc như để gửi một cái hôn, D' Artagnan khẽ kêu lên một
tiếng vui mừng, người đàn bà đó, hay đúng hơn là sự hiện diện đó, bởi chiếc xe
vút qua quá nhanh như một ảo ảnh, đó là bà Bonacieux.
D' Artagnan nhớ lại lời dặn dò đó: "Nếu ông quan tâm đến mạng
sống của ông và của những người yêu ông, ông hãy lặng im như thể ông không
trông thấy cái gì hết".
Chàng dừng lại, run lên không phải vì mình mà là vì người đàn bà rõ
ràng dám xả thân trong hiểm họa lớn lao để trao cho chàng cuộc hẹn hò này.
Chiếc xe tiếp tục đường đi của nó với hết tốc lực về phía Paris và
biến mất.
D' Artagnan vẫn đứng đó, ngớ ra, và không biết nghĩ thế nào nữa.
Nếu đó đúng là bà Bonacieux và nếu nàng trở về Paris thật, tại sao lại là cuộc
hẹn hò trốn tránh, tại sao lại chỉ là một sự trao đổi đơn thuần trong ánh mắt,
tại sao chỉ chiếc hôn gió mà thôi? Mặt khác, nếu không phải là nàng, mà có thể
thế lắm chứ, vì trời không còn sáng mấy làm cho rất dễ nhìn nhầm, nếu không
phải là nàng, chẳng phải đây là sự bắt đầu một thủ đoạn dựng lên chống lại
chàng bằng cái mồi là người đàn bà mà người ta biết chàng yêu hay sao?
Ba người bạn lại gần chàng. Cả ba hoàn toàn trông thấy đầu người
đàn bà hiện ra ở cửa xe, nhưng không ai trong họ, trừ Athos, quen biết bà
Bonacieux. Ý kiến của Athos, thì đúng là nàng nhưng chàng ít quan tâm hơn D'
Artagnan đến bộ mặt xinh đẹp đó mà còn tin là đã nhìn thấy một cái đầu thứ hai,
đầu đàn ông ở tít mãi trong xe.
- Nếu là như vậy - D' Artagnan nói - chắc là chúng chuyển nàng từ
nhà tù này sang nhà tù khác. Nhưng chúng định làm gì con người đáng thương ấy,
và làm thế nào để tôi gặp lại được nàng đây?
- Cậu bạn này - Athos nghiêm trang nói - Hãy nhớ chỉ có người chết
mới không gặp được ở trên đời thôi. Cậu cũng biết ít nhiều về chuyện đó như
tôi, có phải không? Mà nếu người tình của cậu không chết, nếu nàng chính là
người mà chúng ta vừa nhìn thấy thì ngày một ngày hai cậu sẽ tìm lại được nàng.
Và có lẽ Chúa ơi - chàng nói tiếp với cái giọng chán đời riêng có ở chàng - có
lẽ còn gặp sớm hơn là cậu muốn cũng nên.
Đồng hồ điểm bẩy giờ rưỡi, chiếc xe đến chậm hai mươi phút. Các bạn
nhắc D' Artagnan, chàng còn có một cuộc thăm viếng nữa, đồng thời lưu ý chàng
vẫn còn thì giờ để hủy bỏ.
Nhưng D' Artagnan vứa bướng bỉnh vừa tò mò. Chàng nghĩ nhất định
mình sẽ đến Lâu đài Giáo chủ và chàng sẽ biết được Đức ông muốn nói gì với
mình. Vậy nên không gì có thể làm chàng thay đổi được quyết định của mình.
Đến phố Thánh Ônôrrê và quảng trường Lâu đài Giáo chủ, cả mười hai
người lính ngự lâm được mời đến đang dạo quanh chờ đồng bạn. Chỉ tới đây, họ
mới giải thích cho những người này vấn đề là chuyện gì.
D' Artagnan được biết đến rất nhiều trong đơn vị ngự lâm được trọng
vọng của nhà Vua, và họ đều biết sẽ có ngày chàng đứng vào hàng ngũ đó. Họ đã
coi chàng như một đồng đội trước rồi. Từ những tiền lệ ấy, ai nấy đều nhiệt
tình nhận nhiệm vụ mình được mời làm, hơn nữa, rất có thể, được dịp trả đũa
Giáo chủ và bọn người của ông ta một vố, và đối với những việc chinh chiến như
thế, các nhà quý tộc uy tín ấy bao giờ cũng sẵn sàng.
Athos chia họ làm ba nhóm, chàng chỉ huy một nhóm, nhóm thứ hai
giao cho Aramis và nhóm thứ ba cho Porthos rồi mỗi nhóm phục kích ở trước một
lối ra.
D' Artagnan về phần mình hiên ngang đi vào qua cổng chính.
Cho dù cảm thấy được yểm trợ mạnh mẽ, chàng không phải không lo
lắng khi leo từng bước lên cầu thang lớn. Việc chàng đối xử với Milady ít nhiều
giống như một sự phản bội, và chàng ngờ có những mối quan hệ chính trị giữa
người đàn bà đó với Giáo chủ. Thêm nữa, De Wardes, người mà chàng suýt giết
chết lại là một trong số người trung thành với Đức ông, và D' Artagnan biết nếu
như Đức ông tàn bạo với kẻ thù, thì với bạn bè, ông lại rất gắn bó.
D' Artagnan lắc đầu tự nhủ: "Nếu De Wardes đã kể hết mọi việc
của bọn ta với Giáo chủ, mà chắc là như thế, và nếu Giáo chủ nhận ra, có thể
như thế lắm, ta phải coi mình gần như một kẻ đã bị tuyên án. Nhưng tại sao ông
ta lại chờ đến tận hôm nay? Hoàn toàn đơn giản thôi, Milady chắc đã khiếu nại
chống ta, làm bộ vô cùng đau khổ khiến càng thêm dễ thương. Và thế là cái tội
cuối cùng này chắc sẽ làm tràn bình nước.
May thay, chàng nghĩ thêm, những bạn tốt của ta đều ở dưới kia. Họ
sẽ không để chúng mang ta đi mà không bảo vệ ta. Tuy nhiên đại đội ngự lâm quân
của ông De Treville không thể tự mình gây chiến với Giáo chủ, kẻ bố trí lực
lượng của toàn nước Pháp, và đứng trước ông ta, Hoàng hậu thì bất lực, và nhà
Vua cũng không đủ quyết tâm. D' Artagnan, này anh bạn, cậu can trường, cậu có
những phẩm tính ưu việt, nhưng đàn bà sẽ làm cậu nguy khốn!"
Chàng đi đến kết luận đáng buồn ấy, khi bước vào tiền sảnh.
Chàng trao bức thư của mình cho nha môn, người này dẫn chàng vào
phòng đợi, rồi vào sâu mãi phía trong.
Trong phòng đợi, có năm hoặc sáu vệ binh của Giáo chủ, và đều nhận
ra D' Artagnan và biết chính là chàng đã làm bị thương De Jussac, nhìn chàng
bằng một nụ cười đặc biệt.
Nụ cười đó có vẻ là một điềm gở. Có điều, chàng Gascogne không phải
dễ bị dọa nạt, hoặc đúng hơn nhờ lòng kiêu hãnh lớn bẩm sịnh của dân xứ ấy,
chàng không dễ để nhận ra những gì đang diễn ra trong tâm hồn mình, khi mà cái
điều đang diễn ra ấy giống như một sự sợ hãi. Chàng hiên ngang đứng trụ, tay
chống nạnh, thái độ không thiếu vẻ đường bệ.
Viên nha môn quay lại và ra hiệu cho D' Artagnan đi theo hắn. Chàng
thấy hình như khi nhìn chàng đi khỏi, bọn cận vệ xì xào gì với nhau.
Chàng đi theo một hành lang, xuyên qua một phòng khách vào một thư
viện và thấy trước mặt là một người ngồi trước một bàn giấy và đang viết.
Viên nha môn dẫn chàng vào rồi rút lui không nói một câu.
D' Artagnan vẫn đứng và quan sát người kia.
Lúc đầu, D' Artagnan cứ tưởng mình có việc với một nhân viên thẩm
phán nào đó đang nghiên cứu hồ sơ của mình, nhưng chàng thấy người ngồi bàn
giấy viết hoặc đúng hơn là đang chữa những câu dài ngắn khác nhau, vừa ngắt
nhịp các từ theo các ngón tay. Chàng thấy mình đang đứng trước mặt một nhà thơ.
Một lát sau, nhà thơ gấp lại bản thảo trong một bìa ngoài có đề
"Miaram, bi kịch năm hồi" và ngẩng đầu lên.
D'Artagnan nhận ra là Giáo chủ.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 40
Một ảo ảnh khủng khiếp.
Giáo chủ chống khuỷu tay lên bản thảo, tỳ tay lên má, và nhìn chàng
trai trẻ một lát. Không ai có cái nhìn soi mói sâu hút như Giáo chủ Richelieu
và D' Artagnan bị cái nhìn ấy chạy dọc mạch máu mình như một cơn sốt.
Tuy nhiên chàng vẫn giữ được bình tĩnh, tay cầm mũ, và chờ đợi thái
độ dễ chịu hơn của Giáo chủ, không quá kiêu hãnh mà không quá khúm núm.
- Ông kia, - Giáo chủ bảo chàng - Ông có phải D' Artagnan xứ Bearn
không?
- Vâng, thưa Đức ông.
- Có nhiều chi họ D' Artagnan ở Tácbơ và ở vùng phụ cận - Giáo chủ
nói - Ông thuộc chi nào?
- Tôi là con trai người đã từng tham gia chiến tranh tôn giáo với
Đại đế Henri, phụ thân của Hoàng thượng.
- Đúng là như thế. Chính ông, khoảng bảy tám tháng trước đây đã từ
xứ xở mình ra đi, để tìm vận may trong kinh thành?
- Vâng, thưa Đức ông.
- Ông đi qua Măng đến, ở đấy ông đã gặp một chuyện gì đó, tôi không
nhớ lắm, nhưng rút cục là một chuyện gì đấy.
- Thưa Đức ông - D' Artagnan nói - Chuyện xảy ra với tôi là như thế
này…
- Không cần thiết, không cần thiết - Giáo chủ đáp lại với một nụ
cười tỏ ra ông đã biết hết chuyện chẳng kém gì người định kể cho ông nghe - Ông
đã được tiến cử với ông De Treville, phải không?
- Vâng, thưa Đức ông, nhưng đúng ra, trong vụ việc lôi thôi ở Măng…
- Bức thư đã bị mất - Đức ông tiếp - phải, ta biết việc đó.
- Nhưng ông De Treville là một nhà tướng diện học có tài nhìn qua
người là đã biết ngay, và ông ấy đã xếp ông vào đại đội em vợ ông ấy, ông des
Essarts, để ông hy vọng ngày một ngày hai ông sẽ vào được ngự lâm quân.
- Đức ông biết hết mọi chuyện - D' Artagnan nói.
- Từ buổi đó, đã xảy ra với ông nhiều chuyện. Một hôm ông đã đi dạo
sau dãy Sáctrơ(1) mà giá như ông ở chỗ khác thì tốt hơn. Rồi ông đã cùng các
bạn ông du hành đến suối nóng Foócgiơ. Các bạn ông bị dừng lại ở dọc đường.
Nhưng ông, ông đã tiếp tục chuyến đi. Thật hoàn toàn đơn giản, ông có công việc
ở Anh quốc.
- Thưa Đức ông - D' Artagnan lặng người đi -Tôi đi…
- Đi săn, ở Uynxơ hay đâu đó, điều đó cũng chẳng quan hệ gì. Ta
biết chuyện đó, ta, bởi ở cương vị ta, ta phải biết hết. Lúc trở về, ông đã
nhận được từ một nhân vật chí tôn và ta rất thú vị khi thấy ông vẫn giữ được
cái kỷ niệm mà người ấy đã ban tặng.
D' Artagnan lấy tay che cái nhẫn kim cương nhận được của Hoàng hậu
và vội xoay mặt nhẫn vào trong nhưng đã quá muộn.
- Sau hôm đó, ông Cavoa có tới thăm ông - Giáo chủ nói tiếp - Ông
ấy định yêu cầu ông đến dinh phủ. Ông đã không đáp lại, và ông đã sai lầm.
- Thưa Đức ông, tôi sợ chuốc lấy sự ghét bỏ của Đức ông.
- Ồ! Sao thế được? Vì đã tuân theo mệnh lệnh của cấp trên, với trí
thông minh và lòng dũng cảm mà người khác không có nổi lại chuốc lấy sự ghét bỏ
trong khi ông xứng đáng được ngợi khen ư? Chỉ có những kẻ không tuân lệnh, ta
mới trừng phạt chứ không phải những người như ông rất mực… tuân lệnh - và bằng
chứng, đấy, ông hãy nhớ lại cái ngày ta cho gọi ông đến gặp ta, và ông hãy tìm
xem trong trí nhớ của ông điều gì đã xảy ra ngay tối hôm đó.
Đó chính là tối bà Bonacieux bị bắt cóc, D' Artagnan rùng mình và
chàng nhớ lại nửa giờ trước đây, người đàn bà đáng thương còn diễu qua trước
mắt chàng, và còn bị mang đi vẫn do cùng một thế lực đã bắt cóc nàng.
Giáo chủ nói tiếp:
- Cuối cùng, vì ta không nghe thấy nói về ông ít lâu nay, ta muốn
biết ông đang làm chuyện gì. Vả lại ông còn phải cảm tạ ta ấy chứ, tự ông, ông
cũng nhận ra ông đã nhúng tay vào bao nhiêu chuyện.
D' Artagnan nghiêng mình kính cẩn.
Giáo chủ lại nói tiếp:
- Điều đó xuất phát không chỉ từ một tình cảm về sự công bằng tự
nhiên mà còn từ một kế hoạch ta vạch ra liên quan đến ông.
D' Artagnan mỗi lúc thêm ngạc nhiên.
- Ta định giải thích kế hoạch đó với ông từ hôm mà ông được mời đến
lần đầu kia, nhưng ông không đến. May sao không có gì thiệt hại về sự chậm trễ
đó, và hôm nay ông đã đến nghe. Ngồi xuống đi, trước mặt ta, ông D' Artagnan.
Ông là một nhà quý tộc tốt không đáng để phải đứng nghe ta nói.
Và Giáo chủ chỉ một chiếc ghế tựa cho chàng trai trẻ đang quá đỗi
ngạc nhiên trước những gì vừa diễn ra đến nỗi phải chờ người đang cật vấn mình
ra hiệu lần thứ hai mới dám ngồi.
- Ông can trường, ông D' Artagnan ạ - Đức ông tiếp tục - Ông lại
thận trọng, đáng quý lắm. Ta thích những con người có đầu óc và tâm huyết. Đừng
sợ - Giáo chủ cười nói - Những người tâm huyết, ta nghĩ đó là những người dũng
cảm. Nhưng tí tuổi như ông, và vừa mới bước vào đời mà đã có những kẻ thù hùng
mạnh, nếu ông không cẩn thận, họ sẽ cho ông toi đời
- Than ôi, thưa Đức ông? - Chàng trai trả lời - việc đó chắc hẳn
quá dễ thôi, bởi vì họ mạnh lại có chỗ dựa tốt, còn như tôi, tôi chỉ đơn độc
một mình!
- Phải, đúng thế. Nhưng đơn độc như ông, ông đã làm được rất nhiều,
và ta tin chắc sẽ còn làm được nhiều nữa. Tuy nhiên, ta tin rằng ông cần được
dìu dắt trong nghề nghiệp phiêu lưu mà ông dốc tâm theo đuổi, bởi nếu ta không
nhầm, ông đến Paris với tham vọng lập nghiệp.
- Thưa Đức ông, tôi đang ở tuổi có những cuồng vọng - D' Artagnan
nói.
- Này ông, chỉ có những thằng ngu mới có những cuồng vọng, còn ông
là một người có trí tuệ. Xem nào, ông nói sao về chức thiếu úy trong đội cận vệ
của ta, và về một đại đội sau khi kết thúc chiến dịch.
- Ôi, thưa Đức ông!
- Ông nhận chứ phải không nào?
- Thưa đức ông... - D' Artagnan nhắc lại bối rối.
- Sao, ông từ chối à? - Giáo chủ kêu lên kinh ngạc.
- Tôi đã ở trong đội cận vệ của Hoàng thượng, thưa Đức ông, và tôi
không có lý do gì để không bằng lòng.
- Nhưng hình như - Đức ông nói - cận vệ của ta cũng là cận vệ Hoàng
thượng, và miễn là phục vụ trong một đơn vị quân Pháp, tức là phục vụ nhà Vua.
- Thưa Đức ông, Đức ông hiểu lầm tôi nói rồi.
- Ông muốn tìm một cớ để thoái thác chứ gì? Ta hiểu. Thế thì, cái
cớ ấy, ông có rồi đấy. Chiến dịch mở, sự thăng chức, cơ hội ta dành cho ông,
thế là đủ với mọi người. Đối với ông, nhu cầu được bảo hộ chắc chắn, bởi vì tốt
nhất ông nên biết, ông D' Artagnan ạ, ta nhận được những khiếu nại nghiêm trọng
chống lại ông rằng ông không ngày đêm dốc lòng phụng sự Đức Vua đâu.
D' Artagnan đỏ mặt.
- Hơn nữa - Giáo chủ, vừa nói tiếp, vừa để tay lên một tập giấy tờ
- Ta có đây cả một tập hồ sơ liên quan đến ông, nhưng trước khi đọc nó, ta muốn
nói chuyện với ông đã. Ta biết ông là một con người quyết đoán và những việc
phục vụ của ông nếu được điều khiển tốt, đáng lẽ dẫn ông đến sự tồi tệ, lại có
thể đem lại nhiều thứ cho ông. Nào suy nghĩ và quyết định đi.
- Thưa Đức ông, lòng nhân từ của Đức ông làm tôi bối rối - D'
Artagnan trả lời - và tôi nhận thấy trong Đức ông một tâm hồn cao cả khiến tôi
cảm thấy mình càng nhỏ bé như loài giun dế. Nhưng chung quy một khi Đức ông cho
phép tôi được nói thẳng - D' Artagnan dừng lại.
- Được, nói đi.
- Vậy thì, tôi sẽ nói với Đức ông rằng tất cả các bạn tôi đều ở ngự
lâm quân và cận vệ của nhà Vua, còn những kẻ thù của tôi, do định mệnh không
thể lý giải nổi, đều là người của Đức ông, vì vậy nếu tôi nhận đặc ân Đức ông
ban cho tôi thì tôi sẽ bị bên này khinh thường và bên kia tẩy chay.
- Có nhẽ ông đã có cái ý nghĩ kiêu căng là ta không đãi ông cho
xứng với ông chăng? - Giáo chủ hỏi với nụ cười miệt thị.
- Thưa Đức ông, Đức ông quá tốt với tôi gấp trăm lần và trái lại
tôi nghĩ còn chưa làm gì để tạm gọi là xứng đáng với lòng tốt của Đức ông. Cuộc
bao vây thành La Rochelle sắp mở, thưa Đức ông, tôi sẽ phục vụ dưới sự quan sát
của Đức ông, và nếu tôi may mắn xử sự trong cuộc vây hãm này để sao cho xứng
đáng với sự quan tâm của Đức ông, thì sau đó ít nhất tôi cũng sẽ có được một
chiến tích chói lọi để chứng minh sự che chở của Đức ông. Mọi việc đều phải
được làm đúng lúc, thưa Đức ông, có thể sau này, tôi sẽ có quyền hiến thân, còn
lúc này làm thế là tôi tự bán mình.
- Có nghĩa là ông từ chối phục vụ ta - Giáo chủ nói bằng một giọng
hờn dỗi nhưng vẫn có vẻ coi trọng - Vậy ông cứ việc tự do và giữ lấy những hận
thù và cảm tình của ông.
- Thưa Đức ông…
- Được được - Giáo chủ nói - ta không giận ông đâu. Nhưng ông hiểu
đấy, người ta bảo vệ cho bạn và thưởng công cho họ là đủ lắm rồi. Không ai phải
làm việc đó với kẻ thù đâu. Tuy nhiên, ta sẽ khuyên ông một điều, hãy giữ mình
cẩn thận, ông D' Artagnan ạ, bởi khi ta đã rút bàn tay khỏi sự che chở cho ông,
thì tính mạng ông một xu nhỏ ta cũng sẽ không mua đâu.
- Tôi sẽ cố gắng, thưa Đức ông - chàng Gascogne trả lời bằng vẻ quả
quyết đáng trân trọng.
- Sau này nếu lúc nào đó xảy đến điều gì không may - Richelieu nói
với dụng ý - hãy nhớ chính ta là người đã từng tìm ông và ta đã làm những gì ta
có thể để cái điều không may ấy không xảy ra với ông.
- Dù xảy ra chuyện gì… - D' Artagnan vừa nói vừa để tay lên ngực và
nghiêng mình - tôi vẫn sẽ vĩnh viễn chịu ơn Đức ông về những điều đã làm cho
tôi trong lúc này.
- Thôi được. Ông D' Artagnan, như ông nói, chúng ta sẽ gặp lại nhau
sau chiến dịch vậy. Ta theo dõi ông chặt chẽ, bởi ta sẽ ở đấy - Giáo chủ vừa
nói tiếp vừa giơ ngón tay chỉ cho D' Artagnan bộ áo giáp lộng lẫy ông ta sẽ
khoác lên vai - Thôi khi nào trở về, chúng ta sẽ bàn tính với nhau.
- Ôi! Thưa Đức ông! - D' Artagnan kêu lên - Xin Đức ông tha cho tôi
đừng trút sự ghét bỏ lên tôi. Xin Đức ông đừng thiên vị nếu thấy tôi hành động
như một kẻ hào hoa.
- Chàng trai trẻ - Richelieu nói - Nếu ta có thể nói với ông một
lần nữa cái điều mà ta đã nói với ông hôm nay, thì ta hứa ta sẽ nói.
Câu nói sau cùng này của Richelieu biểu lộ một mối nghi ngờ khủng
khiếp. Nó làm cho chàng khiếp sợ hơn cả nếu ông ta hăm dọa, bởi đây là một lời
cảnh báo. Giáo chủ vậy là vẫn tìm cách phòng tránh cho chàng khỏi một sự bất
hạnh nào đó đe dọa chàng. Chàng mở miệng định trả lời, nhưng bằng một động tác
cao ngạo, Giáo chủ đuổi chàng ra.
D' Artagnan đi ra. Nhưng ra đến cửa, chàng như mất hết tinh thần
suýt nữa thì đã quay lại. Nhưng một bộ mặt trang trọng và nghiêm khắc hiện ra
với chàng. Nếu chàng thỏa thuận với Giáo chủ theo điều ông ta đưa ra, Athos sẽ
không cộng tác với chàng nữa, Athos sẽ chối bỏ chàng.
Nỗi sợ đó đã ngăn chàng lại, đúng là một phẩm cách cao cả bao giờ
cũng có một ảnh hưởng mạnh mẽ đến xung quanh.
D' Artagnan đi xuống vẫn chiếc cầu thang mà chàng đã đi lên và thấy
trước cửa Athos và bốn người lính ngự lâm đang đợi chàng quay ra và đã bắt đầu
lo lắng. D' Artagnan nói vắn tảt cho mọi người vững tâm, còn Planchet chạy đi
báo cho các trạm khác, không cần thiết phải cảnh giới lâu hơn nữa vì chủ mình
ra đã ra khỏi lâu đài Giáo chủ bình yên vô sự.
Về đến nhà Athos, Aramis và Porthos hỏi nguyên nhân của cuộc hẹn hò
lạ lùng đó. Nhưng D' Artagnan chỉ nói qua với họ rằng Giáo chủ Richelieu cho
gọi chàng đến để đề nghị chàng xung vào đội cận vệ của ông ta với chức thiếu úy
và chàng đã từ chối.
- Cậu làm thế là đúng! - Cả Porthos lẫn Aramis đều đồng thanh nói.
Athos mơ mơ màng màng không nói sao nhưng khi chỉ còn lại hai người,
chàng nói:
- Cậu đã làm cái việc cậu phải làm, D' Artagnan ạ, nhưng có thể cậu
đã sai lầm.
D' Artagnan buông một tiếng thở dài. Bởi câu nói đó đã đáp ứng một
tiếng nói thầm kín trong lòng chàng, bảo cho chàng biết những bất hạnh lớn đang
chờ đợi chàng.
Suốt ngày hôm sau dành cho những việc chuẩn bị lên đường.
D' Artagnan đến chào từ biệt ông De Treville. Đén lúc đó, người ta
vẫn tin việc phân tách quân cận vệ và ngự lâm quân sẽ chỉ là tạm thời, nhà Vua
họp Nghị viện ngay ngày hôm đó và hôm sau đã phải lên đường. Ông De Treville
đành chỉ hỏi D' Artagnan xem chàng có cần gì ở ông không, nhưng D' Artagnan
kiêu hãnh trả lời chàng đã có tất cả những gì cần có.
Ban đêm, tất cả các chiến hữu của đại đội cận vệ của ông des
Essarts và đại đội ngự lâm của ông De Treville họp lại giao hữu. Họ chia tay
nhau và sẽ gặp lại nhau khi nào Chúa thương và nếu Chúa thương. Đêm, vì vậy vô
cùng ầm ĩ, cũng dễ hiểu thôi, bởi trong hoàn cảnh ấy, người ta chỉ có thể dẹp
bỏ sự băn khoăn lo lắng cực điểm bằng việc thả sức vô tư.
Hôm sau, nghe tiếng kèn đầu tiên, những người bạn chia tay nhau.
Ngự lâm quân về dinh trại ông De Treville, cận vệ dinh trại ông des Essarts.
Mỗi ông đại úy dẫn ngay tức khắc đại đội của mình đến điện Louvre để nhà vua
duyệt binh.
Nhà Vua buồn rầu và có vẻ ốm yếu làm mất đi một phần vẻ oai phong.
Quả vậy, hôm trước nhà Vua lên cơn sốt lúc đang điều khiển một phiên chầu ngay
giữa Nghị viện. Nhà Vua không vì thế mà kém dứt khoát ra đi ngay buổi tối. Và
mặc những lời can ngăn, Ngài vẫn muốn ra duyệt binh, hy vọng bằng một đòn mạnh
mẽ, đẩy lui được cơn bệnh bắt đầu xâm chiếm.
Duyệt binh đã xong, quân cận vệ tiến bước một mình, ngự lâm quân
phải đợi lên đường cùng với nhà Vua, việc đó cho phép Porthos với đồ quân trang
tuyệt vời của mình làm một vòng đến phố Lũ gấu.
Bà biện lý nhìn thấy chàng diễu qua trong bộ đồng phục mới toanh và
trên con tuấn mã. Bà ta yêu Porthos quá nên không thể để chàng ra đi như thế,
liền ra hiệu cho chàng xuống ngựa và đến bên bà. Porthos thật là lộng lẫy, đinh
thúc ngựa vang vang, áo giáp lấp lánh, thanh gươm đập một cách ngạo nghễ vào
ống chân. Lần này trông Porthos có vẻ như một kẻ chuyên xẻo tai, nên bọn học
nghề ký lục không ai còn muốn cười nữa.
Chàng ngự lâm quân được dẫn vào chỗ ông Coquenard, con mắt ti hí
màu xám của ông long lên giận dữ khi thấy người anh họ của mình, cái gì cũng
chói lòa và mới. Tuy nhiên có một điều thầm an ủi ông, đó là đâu đâu người ta
cũng nói chiến dịch sẽ gay go khốc liệt, ông thoáng hy vọng trong thâm tâm
Porthos sẽ bị giết chết trong chiến dịch này.
Porthos chúc mừng thầy kiện Coquenard và chào từ biệt. Thầy
Coquenard cũng chúc chàng mọi sự thuận lợi. Còn như bà Coquenard, bà không thể
ngăn nổi rơi nước mắt, nhưng người ta cũng không quy kết gì xấu cho sự đau đớn
của bà, người ta biết bà rất gắn bó với họ hàng và thường có những cuộc cãi
nhau dữ dội với chồng mình vì họ.
Nhưng việc chia tay thực sự lại diễn ra trong buồng bà Coquenard. Ở
đây mới tan nát cõi lòng.
Bà biện lý dõi mắt nhìn theo người tình, ngả đầu ra ngoài cửa sổ,
vẫy vẫy khăn tay tưởng như bà đang muốn nhào theo.
Porthos nhận mọi dấu hiệu ấy như một gã đàn ông chai xạn với những
trò như thế, chỉ mãi tới khi rẽ ngoặt góc phố, chàng mới nhấc mũ vẫy chào từ
biệt.
Về phần mình, Aramis viết một bức thư dài. Cho ai? Không ai biết gì
hết. Trong phòng bên cạnh, Ketty cũng phải ra đi ngay tối nay đến Tours, người
ta đang chờ nàng.
Athos uống từng ngụm nhỏ chai rượu vang Tây Ban Nha cuối cùng.
Trong khi đó D' Artagnan đang hành quân với đại đội của mình.
Đến ngoại ô Saint-Antoine, chàng quay đầu lại, vui vẻ nhìn ngục
Bastille. Nhưng vì chàng chỉ nhìn ngục Bastille thôi, nên không hề thấy Milady
cưỡi lên con ngựa màu hạt dẻ đang chỉ tay cho hai kẻ tướng mạo xấu xí đang tiến
sát đến hàng quân để nhận mặt chàng. Bọn chúng đưa mắt nhìn có ý hỏi.
Milady ra hiệu trả lời đó chính là chàng. Rồi, sau khi đã đinh ninh
mệnh lệnh của mình sẽ được thi hành không thể nhầm lẫn, Milady thúc ngựa và
biến mất.
Hai người đàn ông kia liền đi theo đại đội và khi ra khỏi ngoại ô,
liền nhảy lên hai con ngựa đã được chuẩn bị đầy đủ do một tên đầy tớ không mặc
áo người hầu dắt tay và chờ bọn họ.
Chú thích:
(1) Địa danh này chưa thấy
nói ở trên
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 41
Cuộc vây thành La Rochelle.
Cuộc vây thành La Rochelle là một trong
những sự kiện chính trị trọng đại dưới triều Vua Louis XIII, và là một trong
những sự nghiệp quân sự lớn của Giáo chủ. Vì vậy sẽ thú vị và cần thiết nữa để
nói đôi điều về việc đó. Vả lại nhiều tình tiết của cuộc vây hãm này liên hệ
rất quan trọng đến câu chuyện này không thể bỏ qua.
Những quan điểm chính trị của Giáo chủ,
khi ông quyết định cuộc vây hãm này rất quan trọng. Trước hết hãy trình nó ra,
rồi sẽ chuyển sang những quan điểm riêng biệt có lẽ không kém ảnh hưởng đến
Giáo chủ hơn những quan điểm trước của chính ông.
Những thành phố quan trọng mà Henri IV
dành cho những người theo đạo Canvanh như những vị trí an toàn nay chỉ còn lại
mỗi thành Rochelle, vị trí cuối cùng của giáo phái Canvanh này, cái mầm mống nguy
hiểm không ngừng dính líu với những việc kích động nội loạn hay chiến tranh với
nước ngoài.
Người Tây Ban Nha, người Anh, người Ý
đều bất bình, khách lục lâm giang hồ, những binh lính gặp may của đủ mọi loại
quân nghe thấy lời kêu gọi đầu tiên, đã đổ đến dưới cá cờ của bọn Tin lành, và
tổ chức thành một hiệp hội rộng lớn mà các chi hội thoải mái phân nhánh trên
khắp các điểm của châu Âu.
La Rochelle giữ một tầm quan trọng mới
từ sự sụp đổ của những thành phố Canvanh khác, đã trở thành cái lò của những
mối bất hòa và những tham vọng. Còn thêm nữa, hải cảng của nó là chiếc cửa cuối
cùng mở ra cho bọn Anh vào vương quốc Pháp và nếu đóng nó lại với bọn Anh, kẻ
thù vĩnh viễn của chúng ta, thì Giáo chủ sẽ hoàn tất được sự nghiệp của Janđa
(1) và Công tước de Ghidơ, vậy nên, Bassompirre(2) vừa là Tin lành vừa Cơ đốc
giáo, Tin lành trong tín ngưỡng và Cơ đốc giáo vì được ban tặng huân chương
Thánh Trí tuệ(3). Bát xompie là người giữ vai trò chỉ huy đặc biệt cuộc bao vây
thành La Rochelle, lại đi nhồi vào đầu nhiều lãnh chúa Tin lành khác như mình
câu nói sau:
- Rồi các vị sẽ thấy là chúng ta khá
ngu ngốc khi đánh chiếm thành La Rochelle!
Và Bassompirre đã đúng: Trận đại bác nã
vào đảo Rê đã là khúc dạo đầu cho những vụ thảm sát ở Xêven(4) và việc đánh
chiếm La Rochelle là phần lời tựa cho sắc lệnh Nante.
Nhưng như đã nói, bên cạnh những quan
điểm của vị Thủ trướng muốn san bằng giai cấp, và đơn giản hóa bộ máy Nhà nước,
thuộc về lịch sử, còn phải nhặn ra những mục tiêu nho nhỏ của một người đàn ông
si tình và một tình địch cả ghen.
Richelieu đã từng si mê Hoàng hậu. Mối
tình ấy ở ông là một mục đích chính trị hay chỉ hoàn toàn tự nhiên là một trong
những mê đắm sâu sác mà Anne d' Autriche đem lại cho mọi người xung quanh? Đó
là điều chúng ta không thể nói sao cho đúng.
Nhưng dẫu sao, qua những sự phát triển
trước đây của chuyện này, người ta cũng thấy Buckingham đã nẫng tay trên mất
của Richelieu trong vài ba trường hợp và đặc biệt trong chuyện những nút kim
cương, nhờ sự tận tâm của ba chàng ngự lâm và lòng can đảm của D' Artagnan, đã
chơi ông một vố tàn bạo.
Vì vậy đối với Richelieu, đây không
những là tống cổ kẻ thù ra khỏi nước Pháp mà còn là trả hận một địch tình. Hơn
nữa việc rửa hận phải lớn lao, rạng rỡ và hoàn toàn xứng đáng với một người nắm
trong tay toàn bộ lực lượng vũ trang của vương quốc như thanh gươm chiến của
mình.
Richelieu biết rằng trong khi chiến đấu
với Anh quốc tức chiến đấu với Buckingham, thắng Anh quốc ông thắng luôn
Buckingham, cuối cùng làm nhục nước Anh trước con mắt châu Âu cũng là làm nhục
Buckingham trước mặt Hoàng hậu.
Về phía Buckingham, trong khi đặt danh
dự nước Anh lên trước hết, cũng bị lay chuyển bởi những lợi ích tương đồng với
những lợi ích riêng của Giáo chủ. Buckingham cũng theo đuổi một cuộc trả thù
đặc biệt, Buckingham không thể viện được bất cứ cớ nào để có thể vào nước Pháp
như một sứ thần, ông ta định vào đó như một kẻ chiến thắng.
Kết luận là khoản được thua đích thực
trong canh bạc mà hai vương quốc hùng mạnh nhất chơi với nhau theo trò hứng trí
của hai kẻ si tình chỉ đơn giản là cái liếc nhìn của Anne d' Autriche.
Lợi thế ban đầu thuộc về Công tước De
Buckingham.
Bất ngờ có mặt ở đảo Rê với chín mươi
chiến hạm và khoảng hai mươi nghìn quân, ông ta đột kích Bá tước de Toiras,
người thay mặt nhà Vua trấn giữ đảo. Sau một trận giao chiến đẫm máu,
Buckingham đã đổ bộ được lên đảo. Và Nam tước de Săngtan đã tử trận ở đây, để
lại cô con gái mồ côi mười tám tháng tuổi, chính là nữ nhà văn De Xêvinhê sau
này.
Bá tước De Toiras rút lui vào thành
Saint-Martin, cùng với quân đồn trú và tung một trăm quân vào một pháo đài nhỏ
mà người ta gọi là pháo đài De La Prê.
Biến cố đó đẩy nhanh những quyết định
của Giáo chủ. Trong khi chờ đợi nhà Vua, và đích thân mình chỉ huy cuộc bao vây
thành La Rochelle, Giáo chủ đã phái Hoàng đệ chỉ huy những trận đánh đầu tiên,
và đưa tất cả các đạo quân có thể bố trí lên sân khấu chiến tranh.
D' Artagnan có mặt trong đạo quân tiên
phong đó.
Nhà Vua, như đã nói, đáng lẽ đã đi
theo, ngay khi họp xong Nghị viện, nhưng vừa đứng lên sau khi họp xong, ngày 23
tháng sáu, ông bị lên cơn sốt, không phải không muốn ra đi, nhưng thể trạng xấu
thêm, buộc phải dừng lại ở Vilơroa.
Mà, nhà Vua dừng ở đâu, thì ngự lâm
quân dừng ở đó, kết quả là D' Artagnan vốn chỉ đơn thuần là quân cận vệ ít ra
đã tạm thời bị tách rời khỏi các bạn tốt của mình là Athos, Porthos và Aramis. Cuộc
xa cách này chỉ là một sự bực dọc đối với chàng, chắc chắn đã trở thành một mối
lo nghiêm trọng nếu như chàng đoán được những hiểm nguy chưa biết đang vây bọc
quanh chàng.
Chàng vẫn đến được doanh trại thiết lập
trước thành La Rochelle mà không gặp tai họa nào vào ngày 10 tháng 9 năm 1627.
Mọi việc vẫn trong tình trạng cũ. Quận
công De Buckingham và quân Anh, làm chủ đảo Rê, tiếp tục bao vây không có kết
quả thành Saint-Martin và pháo đài La Prê, và những trận giao chiến với La
Rochelle đã bắt đầu từ vài ba hôm, nhân một pháo đài Quận công vừa cho xây dựng
gần thành phố.
Quân cận vệ, dưới quyền chỉ huy của ông
des Essarts đóng ở Minim. Nhưng D' Artagnan vẫn băn khoăn với tham vọng được
chuyển sang Ngự lâm quân, ít thân mật với đồng đội, chàng thấy mình cô đơn, và
đắm mình trong những suy nghĩ riêng tư.
Những suy nghĩ ấy không lấy gì làm vui
vẻ lắm. Chàng đến Paris đã được hai năm. Chàng đã hòa mình vào những việc công.
Những việc riêng tư như tình yêu và hạnh vận đều không được suôn sẻ lắm.
Về tình yêu, người đàn bà duy nhất
chàng yêu là bà Bonacieux thì đã biến mất không để cho chàng khám phá ra được
nàng đã ra sao.
Về hạnh vận, nhỏ nhoi như chàng mà lại
biến mình thành kẻ thù của Giáo chủ, nghĩa là một con người mà đứng trước ông
ta những bậc quyền quý nhất vương quốc bắt đầu từ nhà Vua, cũng phải run sợ.
Con người đó có thể nghiền nát chàng,
tuy nhiên, ông ta lại không làm thế. Đối với một trí tuệ minh mẫn như D' Artagnan,
sự độ lượng đó như một ánh sáng qua đó chàng nhìn vào một tương lai tốt đẹp
hơn.
Thế rồi, chàng lại biến mình thành kẻ
thù của một kẻ khác ít đáng sợ hơn, chàng nghĩ vậy, tuy nhiên linh tính báo cho
chàng biết không thể coi thường, đó là Milady.
Đổi lại tất cả những điều đó chàng có
được sự che chở và sự ưu ái của Hoàng hậu, nhưng sự ưu ái của Hoàng hậu chả mấy
chốc lại là cái cớ để thêm nhiều ngược đãi, và sự che chở của bà lại rất tồi,
bằng chứng là Cale(5) và bà Bonacieux.
Cái mà chàng kiếm được rõ rệt nhất
trong mọi chuyện đó lại là cái nhẫn kim cương đáng giá năm sáu nghìn quan chàng
vẫn đeo trên tay. Và còn nữa, cái nhẫn kim cương ấy, giả dụ D' Artagnan trong
những dự định đầy tham vọng của mình, giữ nó để một ngày nào đó minh chứng cho
lòng biết ơn Hoàng hậu thì trong khi chờ đợi, vì không thể đem bán nó đi được,
nên nó cũng chỉ có giá trị như viên sỏi lăn dưới chân chàng.
Nói tới viên sỏi lăn dưới chân chàng,
bởi D' Artagnan đang một mình dạo chơi trên con đường nhỏ đẹp từ doanh trại đến
làng Ănggúttanh, vừa đi vừa suy nghĩ. Suy nghĩ miên man khiến đi quá xa mà cũng
không biết, trời bắt đầu tà, trong tia nắng cuối cùng của mặt trời xế bóng,
chàng như trông thấy lóe lên đằng sau một bờ giậu một họng súng hỏa mai.
D' Artagnan mắt tinh và nhanh trí, hiểu
ngay khẩu súng hỏa mai không đến đó một mình và kẻ đang mang nó không phải nấp
sau bờ giậu với ý đồ thân thiện. Chàng quyết định lánh xa ra, thì bên kia
đường, sau một tảng đá, chàng thấy đầu một nòng súng hỏa mai thứ hai.
Rõ ràng là một cuộc phục kích.
Chàng đưa mắt nhìn khẩu súng thứ nhất,
có phần lo ngại khi thấy nó đang hạ xuống hướng về phía mình, nhưng ngay khi
thấy họng súng bất động, chàng vội nằm sấp xuống đất. Vừa kịp lúc súng nổ và
chàng nghe thấy tiếng đạn réo qua đầu.
Không để mất một phút, D' Artagnan vùng
ngay dậy và ngay lúc đó viên đạn của khẩu hỏa mai kia làm bay những viên sỏi
đúng nơi chàng vừa nằm xuống đất.
D' Artagnan không phải là một kẻ can
trường vô ích đi tìm cái chết lố lăng để được người ta nói là hạng người không
chịu lùi một bước. Vả lại không phải chuyện can đảm ở đây.
D' Artagnan đã rơi vào một âm mưu sát
hại. Chàng tự nhủ, nếu có phát thứ ba, mình chết rồi!
Thế là ngay lập tức chàng vắt chân lên
cổ chạy trốn về phía doanh trại, với tốc độ nổi tiếng của dân xứ chàng. Nhưng
dù có chạy nhanh đến đâu, thì tên bắn trước đã kịp nhồi lại thuốc súng và bắn
chàng phát thứ hai khá trúng. Viên đạn xuyên qua mũ chàng và làm bay mũ xa đến
mươi bước.
Thế nhưng D' Artagnan không còn chiếc
mũ nào khác, nên chàng phải vừa chạy vừa nhặt lấy mũ, vừa chạy vừa thở, mặt tái
nhợt đi, về đến nơi trú quân, rồi ngồi xuống lẳng lặng bắt đầu suy nghĩ.
Sự cố đó có thể có ba nguyên nhân.
Nguyên nhân đầu tiên và cũng là tự
nhiên nhất, có thể đây là một ổ phục kích của bọn Rochelle, chắc chẳng thấy
phiền lòng khi giết một cận vệ của nhà Vua, trước hết bởi ít nhất đấy cũng là
một kẻ thù, và kẻ thù biết đâu lại không có một bọc vàng trong túi.
D' Artagnan cầm mũ, xem lỗ thủng viên
đạn và lắc đầu.
- Không phải đạn súng hỏa mai, đó là
viên đạn của loại súng có bệ tì, sự chính xác của viên đạn khiến chàng nghĩ nó
phải được bắn ra từ một vũ khí đặc biệt, đây không phải một ổ phục kích quân sự
một khi viên đạn không thuộc cỡ súng quân dụng.
Đó cũng có thể là một kỷ niệm quý hóa
của Giáo chủ. Chàng nhớ lại lúc đó, nhờ có một tia sáng mặt trời may mắn, chàng
mới nhìn thấy cái nòng súng và lấy làm ngạc nhiên về tính kiềm chế của Đức ông
trong chuyện này.
Nhưng rồi D' Artagnan lại lắc đầu. Đối
với những kẻ mà Đức ông chỉ cần giơ tay ra, ông hiếm khi phải dùng đến những
thủ đoạn đó.
Có thể đó là sự trả thù của Milady. Có
thể có khả năng này hơn.
Chàng tìm cách nhớ lại những nét dạng
hay trang phục những tên sát thủ nhưng vô ích. Chàng chạy quá nhanh để thoát
khỏi chúng, còn thì giờ đâu để chú ý đến điều gì.
- Ôi các bạn chia sẻ đắng cay của tôi
ơi - D' Artagnan lẩm bẩm - các bạn ở đâu? Sao tôi nhớ các bạn đến thế!
D' Artagnan trải qua một đêm thật là
tồi tệ. Ba bốn lần chàng giật mình tỉnh dậy, như thấy có người lại gần giường
cầm dao đâm mình. Tuy nhiên cho đến rạng sáng bóng đêm không đem đến sự cố gì.
Nhưng D' Artagnan ngờ rằng cái công
việc bị trì hoãn này không phải đã mất đi.
Suốt ngày chàng không ra khỏi nơi trú
quân, tự bào chữa cho mình vì trời xấu.
Ngày hôm sau nữa, khoảng chín giờ, hai
bên đánh nhau.
Quận công De Oóclêăng đi thị sát các vị
trí chiến đấu, quân cận vệ vơ lấy vũ khí tập hợp lại, D' Artagnan xếp hàng giữa
các đồng ông Hoàng thị sát mặt trận. Các sĩ quan cao cấp, ông des Essarts, đại
úy cận vệ, cũng như những người khác đến bên ông Hoàng để chúc tụng.
Một lát sau hình như ông des Essarts ra
hiệu cho D' Artagnan lại gần mình, chàng sợ mình hiểu nhầm, đang đợi ông ra
hiệu lần nữa, quả nhiên ông ra hiệu lần nữa, chàng liền chạy ra khỏi hàng ngũ,
tiến lên để nhận lệnh.
- Đức ông yêu cầu một số người tình
nguyện làm một nhiệm vụ nguy hiểm, và sẽ thưởng huân chương cho người nào hoàn
thành nhiệm vụ. Và ta đã ra hiệu cho ông hãy sẵn sàng.
- Xin cám ơn, ông đại uý! - D' Artagnan
trả lời, không đòi hỏi gì hơn là được tỏ ra nổi trội trước mặt ông trung tướng.
Quả thật, bọn Rochelle đã ra khỏi thành
ban đêm và đã chiếm lại được một pháo lũy mà quân đội bảo hoàng đã chiếm trước
đây hai ngày. Vấn đề là cần phải tung một nhóm trinh sát quyết tử để xem quân
đối phương phòng thủ pháo lũy đó ra sao.
Một lát sau Đức ông cất cao giọng nói:
- Để làm nhiệm vụ này, ta cần ba bốn
người tình nguyện do một người chín chắn điều khiển.
- Thưa Đức ông, về con người chín chắn,
tôi đã có sẵn trong tay - Ông des Essarts vừa nói vừa chỉ D' Artagnan, còn về
bốn năm người tình nguyện, Đức ông chỉ việc cho biết ý đồ của ngài, người sẽ
không thiếu đâu.
D' Artagnan vung gươm nói:
- Bốn người quyết tâm cao sẵn sàng chết
cùng tôi!
Hai trong số bạn cận vệ đồng ngũ lao ra
ngay và hai người lính khác cũng ra theo họ, quân số yêu cầu đã đủ, D' Artagnan
từ chối mọi người khác dành ưu tiên cho mấy người trước.
Không biết liệu sau khi chiếm lại được
pháo lũy, bọn Rochelle đã sơ tán hết hay để quân lại đồn trú, vậy nên phải đến
rất gần địa điểm đã định để quan sát mới xác định được thực hư thế nào.
D' Artagnan ra đi cùng bốn đồng đội,
theo một đường hào, hai cận vệ đi ngang hàng với chàng và hai người lính đi
phía sau.
Được che lấp bằng những lớp tường bao,
họ cứ như thế tiến bước đến chỗ cách pháp lũy một trăm bước, tới đây, D'
Artagnan ngoảnh lại, thấy hai người lính biến mất. Chàng tưởng họ sợ đã tụt lại
phía sau, nên tiếp tục tiến bước.
Tới chỗ ngoặt của bức tường bao ngoài,
họ chỉ còn cách pháo lũy khoảng sáu mươi bước. Họ chẳng nhìn thấy ai và pháo
lũy như thể bị bỏ hoang.
Ba người ngơ ngác bàn nhau có nên tiến
nữa hay không, bất thình lình một vành khói bao quanh pháo lũy bằng đá khổng
lồ, và một tá đạn véo véo xung quanh D' Artagnan và hai đồng ngũ của chàng.
Thế là họ đã biết được điều họ muốn
biết: pháo thành vẫn được canh giữ. Trụ lâu tại vị trí nguy hiểm này là một sự
bất cẩn không cần thiết, D' Artagnan và hai cận vệ quân quay lại, bắt đầu rút
lui giống như một sự chạy trốn.
Đi đến góc hào có tác dụng với họ như
một chiến lũy, một cận vệ quân ngã xuống, một viên đạn xuyên qua ngực. Người
kia không việc gì tiếp tục chạy về trận tuyến của mình.
D' Artagnan không muốn bỏ rơi đồng ngũ
của mình liền cúi xuống nâng anh ta dậy và dìu trở về chiến tuyến của mình.
Nhưng cùng lúc đó hai phát súng bắn ra,
một viên đạn bắn vỡ đầu người lính cận vệ đã bị thương, và viên khác bay đến
bẹt ra trên một tảng đá, sau khi sượt qua D' Artagnan hai đốt ngón tay.
Chàng quay phắt lại, bởi cuộc tấn công
này không từ pháo lũy mà từ chỗ này ngay góc chiến hào. Nghĩ tới hai tên lính
đã bỏ rơi chàng, chàng liền nhớ lại hai tên sát thủ hôm trước nữa.
Thế là chàng quyết định lần này phải
tìm cho ra nguyên cớ, và ngã lên thi thể người bạn làm như mình đã chết.
Chàng thấy ngay hai cái đầu ngóc lên
trên một công sự bỏ hoang cách đó ba mươi bước chân, đó chính là đầu hai người
lính đã đi theo chàng.
D' Artagnan đã không nhầm, hai tên đó
đi theo chỉ để ám sát chàng, hy vọng sẽ đổ được cái chết của chàng trai trẻ cho
kẻ thù.
- Có điều sợ rằng chàng có thể chỉ bị
thương và sẽ tố cáo tội ác của chúng, chúng phải đến gần để kết liễu đời chàng.
May sao, bị lừa bởi mưu kế của D' Artagnan, bọn chúng không nạp lại thuốc súng.
Khi chúng đến cách chàng mười bước, D'
Artagnan khi vờ ngã vẫn cẩn thận không rời khỏi tay gươm, bất thình lình đứng
vụt dậy và nhẩy phắt đến bên chúng.
Những tên sát thủ hiểu rằng nếu chúng
chạy trốn về phía phòng tuyến quân Pháp mà chưa giết chết được người định giết,
thì sẽ bị tố cáo. Cho nên ý nghĩ đầu tiên đến với chúng là nhảy sang hàng ngũ
kẻ thù. Một trong hai tên cầm nòng súng quay ngược lại dùng làm cây chùy và
phang một đòn khủng khiếp vào D' Artagnan, chàng nhảy sang một bên và tránh
thoát, nhưng do vậy, chàng đã để lối thoát cho tên cướp lao ngay về phía pháo
lũy.
Vì bọn Rochelle canh giữ không biết rõ
ý đồ của kẻ chạy đến với chúng, chúng nhả đạn về phía tên này. Y ngã xuống vì
bị trúng một phát đạn vỡ vai.
Trong khi đó, D' Artagnan đã nhảy vào
tên thứ hai, dùng gươm tấn công hắn, trận đấu không kéo dài, tên kia chỉ chống
đỡ bằng khẩu súng có bệ tì chưa nạp thuốc, mũi gươm của chàng cận vệ lướt qua
nòng súng đã trở nên bất lực và xuyên qua đùi tên sát thủ. Hắn ngã xuống. D'
Artagnan dí ngay mũi gươm và họng hắn.
- Ôi! Đừng giết tôi! - Tên cướp kêu lên
- xin tha chết, xin tha chết, ngài sĩ quan? Tôi sẽ nói ra hết với ngài.
Chàng dừng tay lại hỏi:
- Bí mật của mày có bõ công tao tha
chết cho mày không?
- Có, có, nếu ông coi cuộc sống còn
đáng chút gì đó khi người ta mới hăm hai tuổi như ông và đẹp trai, can trường
như ông, và có thể đạt tới mọi điều tốt đẹp.
- Đồ khốn! - D' Artagnan nói - Có nói
mau lên không nào, ai sai mày ám sát tao?
- Một người đàn bà tôi không quen biết,
nhưng người ta gọi là Milady.
- Nhưng nếu mày không biết mụ ấy, làm
sao mày lại biết tên?
- Bạn tôi biết bà ta và gọi tên như
vậy, và bà ta làm việc với hắn chứ không phải với tôi. Hắn còn có trong túi hắn
một bức thư của bà ta, chắc phải rất quan trọng đối với ông theo như tôi được
nghe hắn nói.
- Nhưng làm sao mày lại dự phần một nửa
trong cuộc mai phục đó?
- Hắn đề nghị tôi hai người cùng làm và
tôi đã nhận lời.
- Và mụ ta đã trả cho chúng mày bao
nhiêu cho cuộc mạo hiểu đẹp đẽ này?
- Một trăm louis.
- Thế à, trả hậu đấy! - Chàng vừa nói
vừa cười - Mụ cho là tao cũng đáng giá đấy chứ, những một trăm louis cơ mà -
Một số tiền lớn cho hai tên khốn kiếp chúng mày, vì vậy tao hiểu tại sao chúng
mày nhận, và tao tha chết cho mày với một điều kiện?
- Điều kiện gì? - Tên cướp hỏi và lo
lắng vì thấy mọi chuyện chưa xong.
- Mày phải đi lấy bức thư trong túi bạn
mày cho tao.
- Nhưng - Tên cướp kêu lên - Đó là cách
khác để giết tôi. Làm sao tôi có thể đi tìm bức thư ấy dưới hỏa lực của pháo
luỹ?
- Tuy nhiên mày vẫn phải đi tìm, nếu
không tao thề sẽ tự tay tao giết chết mày.
Tên cướp quỳ sụp xuống và chống tay lên
vì bắt đầu yếu sức do mất máu và kêu lên:
- Xin tha tội chết! Thưa ngài, xin rủ
lòng thương! Hãy vì người đàn bà trẻ mà ngài yêu và vẫn tưởng có lẽ đã chết,
nhưng không phải thế!
- Và do đâu mày biết có một người đàn
bà trẻ tao yêu và tao tưởng người ấy đã chết? - D' Artagnan hỏi.
- Do bức thư trong
túi bạn tôi.
- Thế thì mày càng
thấy tao cần bức thư thế nào - D' Artagnan nói - như vậy đừng chậm trễ thêm
nữa, đừng ngần ngừ thêm nữa, nếu không cho dù tao có ghê tởm đến đâu phải nhúng
mũi gươm của tao lần thứ hai vào máu một tên khốn kiếp như mày, tao xin thề
trước lòng tin của một người lương thiện…
Nói đến đấy, D'
Artagnan làm một động tác hăm dọa khủng khiếp khiến kẻ bị thương vội đứng dậy,
nỗi khiếp hãi khiến y lấy lại được can đảm, cuống cuồng kêu lên:
- Xin dừng lại! xin
dừng lại! Tôi sẽ đi… Tôi sẽ đi!…
D' Artagnan cầm lấy
súng của tên lính, bắt nó đi trước, tỳ mũi gươm vào mạng mỡ đẩy nó đến chỗ bạn
nó.
- Thật là một điều
ghê rợn khi nhìn tên khốn kiếp để lại trên đường nó đi qua một vệt máu dài, mặt
tái nhợt vì cầm bằng cái chết, cố lê đi để không bị phát hiện tới chỗ xác tên
đồng mưu nằm chết cách đó hai mươi bước! Nỗi khiếp hãi in lên trên khuôn mặt
lạnh toát mồ hôi, khiến D' Artagnan động lòng thương, chàng nhìn y một cách
khinh bỉ và bảo y:
- Nghe đây, ta sẽ
tỏ ra cho mày thấy sự khác nhau giữa một con người dũng cảm và một kẻ hèn nhát
như mày. Mày cứ ở lại, tao đi tiếp.
Và với bước chân
nhanh nhẹn, mắt theo dõi, quan sát những động thái của quân thù, lợi dụng những
địa hình lồi lõm, chàng đến được chỗ tên lính thứ hai.
- Có hai cách đạt
được mục đích của mình: lục soát ngay tại chỗ hoặc lôi hắn đi dùng hắn như một
cái khiên che thân chàng rồi lục soát hắn trong đường hào.
D' Artagnan thích
dùng cách thứ hai hơn và xốc tên sát thủ lên vai vừa đúng lúc hỏa lực của địch
quân bắn ra. Một cái giật nhẹ, tiếng kêu đục của ba viên đạn cắm vào thịt, một
cái rùng mình hấp hối đã chứng tỏ cho D' Artagnan thấy kẻ địch ám sát chàng vừa
cứu mạng chàng.
D' Artagnan về tới
đường hào, ném cái thây ma xuống cạnh tên bị thương cũng nhợt nhạt như một
người chết.
Ngay tức khắc chàng
bắt đầu lục soát xác chết: một ví da, một túi tiền đương nhiên có một nửa số
tiền tên cướp đã nhận được, một ống sừng gieo xúc xắc và mấy con xúc xắc, hợp
thành tài sản của kẻ bị chết.
Chàng để mặc ống
gieo và xúc xắc rơi ra đất, ném túi tiền cho tên bị thương và mở ví ra.
Giữa vài thứ giấy
tờ không quan trọng, chàng tìm thấy bức thư, chính là bức thư chàng đã liều
mạng để tìm ra.
"Một khi các
anh đã mất dấu vết của mụ đàn bà và bây giờ mụ đang an toàn trong một tu viện
mà các anh đáng lẽ không được để mụ đến đó, vậy hãy cố ít nhất đừng để hụt gã
đàn ông. Nếu không, các anh sẽ biết ta có bàn tay dài như thế nào và các anh sẽ
phải trả đắt món một trăm đồng louis nhận của ta".
Không có chữ ký.
Tuy nhiên rõ ràng bức thư là của Milady.
Do đó, chàng giữ nó
như một tang chứng và để an toàn, chàng tiến hành thẩm vấn tên bị thương ở góc
chiến hào. Tên này thú nhận cùng với bạn mình, vẫn cái tên vừa bị giết ấy, được
giao trách nhiệm bắt cóc một thiếu phụ sẽ phải ra khỏi Paris qua trạm La Vilét
nhưng vì dừng lại chén chú chén anh trong một quán rượu, chúng tóm hụt chiếc xe
mươi phút.
- Nhưng chúng bay
sẽ làm gì người đàn bà ấy? - D' Artagnan lo lắng hỏi.
- Chúng tôi phải
giao người ấy cho một tòa nhà ở quảng trường Hoàng gia - Tên bị thương nói.
- Đúng rồi! Đúng
rồi! - D' Artagnan lẩm bẩm - Đúng là như vậy, đến chính nhà Milady.
Lúc đó, D' Artagnan
mới rùng mình hiểu ra cơn khát trả thù khủng khiếp đã đẩy mụ đàn bà đó đến mức
làm hại chàng và cả những người rất mực yêu chàng, và một khi mụ đã phát hiện
ra tất cả như thế, đủ biết mụ thông thạo công việc triều chính đến thế nào.
Chắc chắn mụ phải lấy những tin tức Từ Giáo chủ.
Nhưng ở giữa tất cả
mọi cái đó, chàng hiểu, với một tình cảm vui mừng thực sự là Hoàng hậu cuối
cùng đã tìm ra nhà tù mà nàng Bonacieux tội nghiệp vì tận tậm hết sức phải
chịu, và đã giải thoát nàng khỏi nhà tù đó. Vậy là bức thư chàng nhận được của
thiếu phụ và việc nàng đi qua con đường Sayô, đi qua như một sự hiện hình đã
được giải thích rõ.
Từ đó, như Athos đã
tiên đoán, có thể tìm lại được bà Bonacieux và một tu viện không phải là không
với tới được.
Nghĩ vậy nên lòng
độ lượng trở lại với chàng. Chàng quay lại tên bị thương đang lo lắng theo dõi
những biểu hiện khác nhau trên nét mặt chàng và chìa cánh tay ra bảo:
- Vịn vào đây rồi
cùng trở về chiến tuyến, tao không muốn bỏ lại mày như thế.
- Vâng - Tên bị
thương không tin nổi có sự đại lượng đến thế - Nhưng không phải để treo cổ tôi
lên đấy chứ?
- Mày đã được tao
hứa rồi - Chàng nói - và lần thứ hai, tao hứa tha chết cho mày.
Tên bị thương liền
quỳ xuống và lại hôn chân lần nữa người đã tha mạng hắn, nhưng D' Artagnan
không có lý do nào để cảm nhận quá gần kẻ thù như thế, liền cắt phăng những
biểu lộ biết ơn ấy đi.
Người lính cận vệ
trở về sau loạt súng đầu tiên của pháo lũy đã báo bốn đồng đội bị chết cả, nay
thấy chàng trai trẻ lại hiện ra bình an vô sự, mọi người trong binh đoàn đều
hết sức ngạc nhiên và vui sướng.
D' Artagnan giải
thích vết gươm đâm của tên đồng đội bằng cách bịa ra chuyện phá vây. Chàng kể
lại cái chết của tên lính kia và những nguy hiểm mà họ đã trải qua. Câu chuyện
kể lại đối với chàng là một cuộc khải hoàn đích thực. Toàn đơn vị nói suốt ngày
về cuộc trinh sát này và Đức ông đã gửi lời khen ngợi và chúc mừng chàng.
Hơn nữa, vì mọi
hành động đẹp đẽ đều đáng được phần thưởng của chính nó nên hành động đẹp đẽ
của D' Artagnan cũng có kết quả là trả lại cho chàng sự bình yên đã mất. Quả
vậy, D' Artagnan tin có thể được bình yên, vì hai kẻ thù, một đã bị chết, và kẻ
kia trở nên trung thành với chàng.
Sự bình yên này
chứng tỏ một điều, là D' Artagnan còn chưa hiểu hết Milady.
Chú thích:
(1) Nữ anh hùng Pháp thế kỷ 15 chống lại quân Anh xâm lược và bị thiêu
sống.
(2) Bassompirre. Thống chế và là nhà ngoại giao Pháp, giữ rất nhiều
trách nhiệm khác nhau ở Thụy Sĩ, Italia và Anh quốc. Bị tống giam trong ngục
Bastille 12 năm vì đã có âm mưu chống lại Giáo chủ Richelieu. Để lại những tập
hồi ký rất thú vị.
(3) Huân chương do vua Henri III đặt ra năm 1578 trong cuộc chiến giữa
liên minh tôn giáo với giáo phái Canvanh
(4) Cuộc thảm sát người Tin lành ở miền Trung nước Pháp, nhất là ở vùng
Cêven trước và sau sắc lệnh Nante.
(5) Hầu tước De Taleiran de Cale, sủng thần của Louis XIII bị buộc tội
âm mưu chống lại Giáo chủ Richelieu, bị bắt ở Nante và bị chặt đầu năm 1626
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 42
Rượu vang Ăngju. 1
Sau những tin gần
như thất vọng về nhà Vua, tin đồn Ngài đã bình phục lại bắt đầu lan ra khắp
chiến tuyến, và vì nhà Vua rất vội thân chinh tới vòng vây, người ta còn nói,
cưỡi nổi ngựa là nhà vua lên đường ngay.
Trong khi đó, Hoàng
đệ biết rằng sớm muộn gì ngài cũng bị mất chức tổng chỉ huy hoặc bởi Quận công
Ănggulêm, hoặc ông Bassompirre hay Xkombéc đang tranh giành nhau chức ấy, nên
Ngài không làm gì mấy, thường cứ mất hàng ngày trời vào những việc thăm dò, và
không dám mở một trận đánh lớn để đuổi quân Anh khỏi đảo Rê, nơi chúng đang bao
vây thành Saint-Martin và pháo đài Laprê, trong khi về phía mình, quân Pháp vây
thành Rochelle.
D' Artagnan như đã
nói, trở nên điềm tĩnh hơn lúc bình thường, sau trận nguy hiểm đã qua, và khi
mối nguy đã hình như tàn lụi - lúc đó chàng chỉ còn một điều lo lắng là không
hề được tin tức gì về các bạn mình.
Nhưng, một buổi
sáng đầu tháng mười một, tất cả đều được giải thích bằng một bức thư gửi từ
Vilroa.
"Thưa ông D'
Artagnan.
Các ông Athos,
Porthos, và Aramis, sau một bữa tiệc lớn tại chỗ tôi, đã quá vui và gây chuyện
ầm ĩ khiến ông hiên binh của pháo đài, một người rất cứng rắn đã phạt cấm trại
họ mấy ngày.
Nhưng tôi phải hoàn
tất lệnh của mấy ông trao cho tôi là gửi đến ông một tá chai vang Ăngju của tôi
mà các ông ấy rất ngưỡng mộ. Họ muốn ông uống thử rượu vang các ông ấy chuộng
để chúc sức khỏe các ông ấy.
Tôi đã làm việc đó
và xin trân trọng kính chào ông.
Kẻ rất hân hạnh
được phục vụ ông tận tình
Gôđô,
Chủ lữ quán của các
ngài ngự lâm quân".
- Tuyệt vời! -
D'Artagnan reo lên - họ nghĩ đến ta trong lúc họ vui chơi, không như ta nghĩ
đến họ lúc ta phiền muộn. Nhất định ta sẽ uống chúc sức khỏe họ với tất cả tấm
lòng của ta nhưng ta sẽ không uống một mình.
- Và D'Artagnan
chạy đến hai chàng cận vệ thân thiết với chàng hơn cả mời họ uống với chàng món
Ăngju mê hồn gửi từ Vilơroa đến. Nhưng một người đã được mời ngay tối đó, còn
người kia được mời hôm sau mất rồi, đành để ngày hôm sau nữa tụ hội với nhau
vậy.
Khi trở về,
D'Artagnan sai đem gửi mười hai chai vang tại quầy rượu của quân cận vệ, dặn họ
giữ cẩn thận cho. Rồi đến ngày long trọng, bữa trưa được ấn định lúc mười hai
giờ trưa.
Từ chín giờ, D'
Artagnan đã sai Planchet chuẩn bị đầy đủ.
Planchet hoàn toàn
kiêu hãnh đã được nâng lên hàng quản gia, quyết định hoàn thành nhiệm vụ của
mình như một người thông minh. Để làm việc đó có hiệu quả, gã nhờ một người hầu
của một thực khách của chủ mình đến phụ giúp, tên là Fuarô và cái tên lính giả
mạo đã từng muốn giết D' Artagnan, không thuộc đơn vị nào, đã vào phục vụ D'
Artagnan hay đúng hơn là phụ việc cho Planchet, từ khi D' Artagnan cứu mạng
hắn.
Giờ dự tiệc đã tới,
hai thực khách đến ngồi vào chỗ, các món ăn được bày thành hàng trên bàn,
Planchet tay khoác khăn đứng hầu, Fuarô mở nút chai, và Bridơmông, tên của kẻ
đã bình phục chuyển rượu vang bị nổi bọt do sóc ở dọc đường sang một cái bình
nhỏ. Chai rượu đầu tiên hơi bị cặn ở đáy chai, Bridơmông rót chỗ rượu cặn vào
một cốc, D' Artagnan cho phép hắn uống cốc vang cặn vì thấy tên tội nghiệp đó
vẫn còn yếu quá.
Thực khách sau khi
chén món xúp khai vị, vừa đưa cốc lên môi thì bất thình lình, tiếng đại bác
đùng đoàng ở pháo đài Louis và pháo đài Nớp.
Mấy người lính cận
vệ tin là một cuộc đột kích của bọn bị bao vây hoặc của quân Anh, vồ lấy gươm.
D' Artagnan không kém nhanh nhẹn, cũng làm như họ, rồi cả ba cùng chạy về vị
trí của mình.
Nhưng vừa ra khỏi
quầy rượu, họ thấy ngay nguyên nhân tiếng nổ đó. Những tiếng hô: "Đức Vua
muôn năm! Giáo chủ muôn năm!" vang động khắp bốn bề và tiếng trống khua
khắp mọi hướng.
Quả vậy, nhà Vua
sốt ruột như người ta nói, đã đi gấp đôi các chặng đường, vừa mới tới với cả
triều đình và mười nghìn quân tiếp viện, ngự lâm quân đi trước và theo sau.
D'Artagnan đứng làm hàng rào cùng với đại đội của mình, ra hiệu chào các bạn
mình cũng đang dõi mắt nhìn chàng. Và ông De Treville nhận ra chàng trước tiên.
Lễ đón tiếp đã
xong, bốn người bạn ôm chầm lấy nhau.
- Mẹ kiếp! -
D'Artagnan kêu lên - Không thể nào đến đúng lúc hơn thế này nữa. Thịt còn chưa
kịp nguội! Phải thế không các vị?
Chàng quay lại hai
người lính cận vệ hỏi và giới thiệu với các bạn mình.
- Chà chà! - Hình
như chúng ta chén tiệc thì phải Porthos nói.
- Mình hy vọng -
Aramis nói - không có đàn bà trong bữa chén.
- Có món rượu khớ
khớ nào trong lều của cậu không? Athos nói.
- Ồ mẹ kiếp! Có
rượu của chính bọn anh mà, bạn thân mến ạ! D' Artagnan trả lời.
- Rượu của bọn
mình? - Athos ngạc nhiên.
- Phải, loại các
anh gửi cho tôi ấy.
- Bọn mình gửi cho
cậu rượu vang ư?
- Thôi đi, các anh
biết quá rồi, cái thứ vang từ nho đồi Ăngju ấy?
- Phải, mình thừa
biết loại vang cậu định nói.
- Thứ vang anh
thích ấy.
- Chắc chắn rồi,
khi mình không có sâmbanh sămbéctanh.
- Vậy thì, do không
có sâmbanh hay sămbéctanh, thì anh bằng lòng tạm loại này vậy.
- Vậy bọn mình, lũ
sành rượu gừi vang Ăngju đến cho cậu thật à?
- Ồ không, đó là
vang mà nhân danh các anh, người ta gửi cho tôi.
- Nhân danh bọn
mình? - Cả ba người ngự lâm cùng hỏi. - Là cậu ư, Aramis - Athos - cậu đã gửi
vang đến?
- Không, còn cậu,
Porthos?
- Không, còn anh
thế nào, Athos?
- Không.
- Nếu không phải
các anh - D' Artagnan nói - thì là chủ quán của các anh.
- Chủ quán của bọn
mình?
- Chứ gì nữa! Chủ
quán của các anh, lão Gôđô, chủ lữ quán ngự lâm.
Porthos nói:
- Mẹ kiếp, của đếch
ai chẳng được, cần cóc gì, cứ nếm thử, nếu ngon thì ta uống.
- Không được -
Athos nói - không được uống thứ rượu vang không rõ nguồn gốc.
- Anh nói đúng,
Athos - D' Artagnan nói - Không ai trong các anh trao cho chủ quán việc gửi
vang cho tôi phải không?
- Không! Thế mà nó
lại nói bọn mình bảo gửi cho cậu? Bức thư đây! - D' Artagnan nói và đưa mẩu thư
ngắn cho các bạn xem.
- Không phải chữ
của hắn? - Athos nói - Tôi biết chữ hắn mà.
- Chính tôi trước
khi đi đã thanh toán cho cả bọn với hắn.
Porthos nói:
- Thư giả mạo, bọn
mình có bị phạt cấm trại đâu.
D' Artagnan -
Aramis nói bằng giọng trách móc - làm sao cậu có thể tin được bọn mình lại làm
ầm ĩ?
D' Artagnan tái
người, chân tay run lên bần bật.
- Mày làm tao sợ
đấy - Athos nói và chỉ mày tao trong những trường hợp trọng đại - Có chuyện gì
xẩy ra vậy?
- Chạy thôi, chạy
thôi, các bạn! - D' Artagnan kêu lên - một mối nghi ngờ khủng khiếp vừa lọt qua
đầu tôi. Lại vẫn là sự trả thù của mụ đàn bà đó chăng?
Đến lượt Athos cũng
tái mặt.
D' Artagnan lao đến
quầy rượu, ba người ngự lâm và hai người cận vệ đi theo.
Vật đầu tiên đập
vào mắt D' Artagnan khi bước vào phòng ăn là Bridơmông đang nằm lăn dưới đất,
lăn lóc và quằn quại dữ dội.
Planchet và Fuarô
tái nhợt như những xác chết đang cố cứu hắn, nhưng rõ ràng mọi sự cứu giúp đều
vô ích. Nét mặt kẻ sắp chết co giật trong cơn hấp hối.
- A? - khi thấy D'
Artagnan hắn kêu lên - A, thật ghê tởm, ông làm như đã tha tội cho tôi rồi đầu
độc tôi!
- Tao! - D'
Artagnan kêu lên - Tao ư, đồ khốn kiếp! Nhưng mày nói gì vậy?
- Tôi nói rằng
chính ông đã cho tôi uống thứ rượu vang đó, tôi nói rằng chính ông đã bảo tôi
uống nó, tôi nói rằng ông định trả thù tôi, tôi nói rằng thế là ghê tớm quá!
- Đừng nghĩ như
thế, Bridơmông - D' Artagnan nói - Đừng tin như thế - Ta xin thề với anh, ta
cam kết với anh…
- Ồ nhưng có Chúa ở
đó! Chúa sẽ trừng phạt ông! Chúa ơi, cầu Chúa có ngày cho ông ta đau đớn như
con đang đau đớn!
- Thề trên Kinh
Thánh - D' Artagnan vừa kêu lên vừa nhảy xổ đến bên người sắp chết - tôi xin
thề với anh rằng tôi không biết rượu vang đó bị cho thuốc độc và tôi cũng sắp
uống nó như anh!
- Tôi không tin ông
- người kia nói.
Và anh ta thở hắt
ra sau khi bị đau đớn gấp bội.
- Khủng khiếp quá!
- Khủng khiếp quá! - Athos lẩm bẩm, trong khi đó Porthos đập vỡ các chai rượu
và Aramis ra lệnh hơi chậm, đi tìm một thày tu rửa tội.
- Ôi các bạn của
tôi ơi! - D' Artagnan nói - Các bạn lại đến cứu mạng tôi một lần nữa, không
những tôi mà còn cả mấy vị đây nữa. Thưa các vị - Chàng tiếp tục nói với mấy
người lính cận vệ - Tôi xin các vị giữ kín mọi chuyện này, những nhân vật quyền
thế có thể nhúng vào những việc mà các vị đã nhìn thấy, và điều tồi tệ sẽ rơi
lên đầu chúng ta.
- Ôi thưa ông –
Planchet như người chết rồi, ấp úng - Ôi thưa ông, may mà tôi thoát đấy!
- Sao, đồ khốn - D'
Artagnan nói to - Ra mày cũng định uống rượu vang của tao?
- Để chúc sức khỏe
nhà Vua mà thưa ông, tôi đang định uống một cốc vơi thôi nếu Fuarô không bảo có
người gọi tôi.
- Than ôi! - Fuarô
nói, răng vẫn run cầm cập vì sợ hãi - Tôi cũng định đẩy cậu ta đi để uống một
mình!
- Thưa các vị - D'
Artagnan nói với mấy người bạn cận vệ - Các vị cũng hiểu một bữa tiệc như thế
chỉ có thể rất đáng buồn sau những gì vừa xảy ra, như vậy xin nhận cho mọi lời
xin lỗi của tôi và xin khất bữa tiệc vào một ngày khác.
Hai người lính cận
vệ lịch thiệp nhận lời xin lỗi của D' Artagnan và hiểu bốn người muốn được ở
riêng với nhau, họ rút lui.
Khi chỉ còn lại bốn
người, họ nhìn nhau như muốn nói ai nấy đều hiểu tình cảnh nghiêm trọng.
- Trước hết - Athos
nói - Ta hãy ra khỏi cái phòng này - Dây dưa với người chết chỉ có dại, lại
chết vì bạo lực nữa.
- Planchet! - D'
Artagnan nói - Ta giao cho anh thi thể của con người xấu số này. Phải được chôn
nơi đất thánh. Anh ta phạm một tội. Đúng vậy. Nhưng anh ta đã hối hận rồi.
Và bốn người bạn ra
khỏi phòng, để mặc Planchet và Fuarô lo việc mai táng cho Bridơmông.
Chủ quán đưa họ tới
một phòng khác, đem lên món trứng nhúng lòng đào và nước thì Athos tự mình đi
múc ở suối về.
Bằng vài câu thôi,
Porthos và Aramis đều hiểu ngay được tình thế.
- Thế đấy? - D'
Artagnan bảo Athos - Anh thấy đấy, bạn thân mến, đây là một cuộc chiến sinh tử.
Athos lắc đầu:
- Phải - Chàng nói
- tôi thấy rõ lắm, nhưng cậu tin đúng là mụ ta.
- Tôi tin chắc.
- Thế mà tôi xin
thú thực với cậu tôi còn ngờ đấy.
- Nhưng còn bông
huệ trên vai thì sao?
- Đó là một mụ đàn
bà người Anh mắc tội gì đó ở Pháp, và người ta đóng dấu chín để ghi tội phạm
đó.
- Athos, đó là vợ
anh, tôi bảo thật anh đấy - D' Artagnan nhắc lại, vậy anh không nhớ hai cái dấu
chín ấy giống nhau đến thế nào ư?
- Thế nhưng mình
vẫn tin là cô kia chết rồi, mình đã treo cổ ả rất cẩn thận cơ mà.
Đến lượt D' Artagnan phải lắc đầu.
- Nhưng chung quy phải làm gì nào? -
chàng trai trẻ hỏi.
- Sự thể là người ta không thể cứ để
một thanh gươm treo mãi trên đầu mình như thế - Athos nói - Phải thoát ra khỏi
tình cảnh này.
- Nhưng thoát ra
thế nào?
- Nghe đây, cố gắng
nối lại với mụ và giải thích với mụ, hãy bảo mụ: Hòa bình hay chiến tranh đây!
Ta lấy danh dự một nhà quý tộc thề với nàng rằng sẽ không bao giờ nói động đến
nàng, sẽ không bao giờ làm gì chống lại nàng, về phía nàng, hãy long trọng thề
sẽ trung lập đối với ta. Nếu không ta sẽ tìm ông chánh án, ta sẽ tìm đến tận
đức Vua, ta sẽ tìm đao phủ, ta sẽ kích động triều đình chống lại nàng, ta sẽ tố
cáo nàng đã bị đóng dấu chín, ta sẽ đưa nàng ra tòa, và nếu người ta tha tội
cho nàng, Ồ, ta sẽ giết nàng, ta thề danh dự của một nhà quý tộc, giết nàng ở
xó xỉnh nào đó như giết một con chó dại.
- Tôi cũng thích
cách ấy đấy - D' Artagnan nói - Nhưng làm thế nào liên hệ được với mụ?
- Thời gian, bạn
thân mến, thời gian đem lại cơ hội. Cơ hội, đó là canh bạc tố thêm tiền của con
người. Càng tố thêm, lại càng được bẫm nếu người ta biết chờ đợi.
- Được, nhưng chờ
đợi, khi xung quanh đầy sát thủ và những kẻ đầu độc mình ư?
- Chứ sao? - Athos
nói - Chúa đã canh giữ cho ta đến nay, Chúa sẽ còn canh giữ cho chúng ta.
- Phải, chúng ta,
vả lại chúng ta, chúng ta là những thằng đàn ông, chấp nhận tất, không kể chi
đến tính mạng, nhưng mà nàng? - Chàng nói thêm bằng giọng khe khẽ.
- Nàng nào? - Athos
hỏi.
- Constance ấy.
- Bà Bonacieux ư!
A, đúng rồi! - Athos nói - Anh bạn đáng thương! Tôi quên là cậu đang si tình.
- Khoan nào -
Aramis nói - thế cậu đã chẳng xem bức thư cậu tìm thấy ở tên khốn kiếp bị chết
là nàng đang ở trong một tu viện ư? Ở tu viện thì yên tâm lắm rồi - Chừng nào
cuộc bao vây thành La Rochelle kết thúc ngay tức khắc về phần mình, mình xin
hứa với cậu…
- Tốt! - Athos -
Tốt lắm! Phải, Aramis thân mến ạ, chúng mình biết nguyện vọng của cậu là hướng
về tôn giáo.
- Tôi chỉ là ngự
lâm quân tạm thời thôi - Aramis nhã nhặn nói.
- Có vẻ như đã lâu
anh chàng không nhận được tin tức của người tình - Athos nói rất khẽ - nhưng
đừng bận tâm, chúng mình đều biết chuyện đó mà.
- Ồ! Porthos nói -
Tôi thấy hình như có một cách rất đơn giản.
- Cách gì? - D'
Artagnan hỏi
- Nàng ở trong một
tu viện, cậu nói thế phải không? - Porthos hỏi lại.
- Phải - Thế thì,
cuộc bao vây kết thúc một cái, chúng ta bốc ngay nàng ra khỏi tu viện.
- Nhưng còn phải
biết tu viện nào đã chứ?
- Đúng vậy, -
Porthos nói.
- Nhưng tôi nghĩ
rồi - Athos nói - Này D' Artagnan, có phải cậu cho là chính Hoàng hậu đã chọn
tu viện ấy cho nàng không?
- Đúng, ít ra tôi
cũng tin như thế.
- Thế thì Porthos
sẽ giúp được chúng ta trong chuyện này rồi.
- Vậy làm thế nào,
làm ơn nói cho biết?
- Thì bằng bà Hầu
tước, bà Công tước, bà Quận chúa của cậu, bà ấy chắc phải có cánh tay dài.
- Suỵt! - Porthos
để ngón tay lên môi - mình tin nàng thuộc phái Giáo chủ và chắc không biết gì
đâu.
- Vậy thì - Aramis
nói - tôi xin đảm nhiệm, sẽ có được tin tức.
- Cậu, Aramis ư? -
Cả ba cùng reo lên - Cậu ư và làm thế nào?
- Qua thày tư tế
của Hoàng hậu, người có quan hệ mật thiết với tôi Aramis vừa nói vừa đỏ mặt.
Và được đảm bảo như
thế, bốn người bạn đã ăn xong bữa cơm đạm bạc, liền chia tay nhau và hứa ngay tối
đó sẽ lại gặp nhau.
D'rtagnan quay lại
Minim, và ba người ngự lâm thì trở về khu nhà Vua ngự.
Chú thích
Rượu vang Ăngju : Rượu D'Anjou
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 43
Quán trọ chuồng bồ
câu đỏ
Trong khi đó, nhà
Vua vừa mới đến, đã rất vội vã giáp mặt kẻ thù với lý do giống hệt như Giáo chủ
và chia sẽ cùng Giáo chủ mối căm hận chống lại Buckingham, muốn bố trí tất cả
mọi lực lượng, trước hết để đánh đuổi quân Anh khỏi đảo Rê, tiếp đó siết chặt
thêm vòng vây La Rochelle. Nhưng dù muốn vậy, nhà Vua vẫn không vội được do
những bất hòa đã nổ ra giữa các vị
De Bassompirre và
Skombéc chống lại Quận công Ănggulêm.
De Bassompirre và
Xkombée là Thống chế nước Pháp và họ đòi quyền chỉ huy quân đội dưới mệnh lệnh
của nhà Vua, nhưng Giáo chủ lại sợ Batxompie, trong lòng mang tinh thần giáo
phái Tin lành sẽ không cho quân ép mạnh bọn Anh và bọn La Rochelle, những giáo
hữu của ông ta, nên Giáo chủ trái lại đã đẩy Quận công Ănggulêm lên xui Vua
phong ông ta chức trung tướng. Kết quả là vì lo Bassompirre và Xkombée làm suy
yếu tinh thần quân đội, người ta buộc phải để mỗi người chỉ huy một mặt trận
riêng.
Bassompirre giữ các
khu phía bắc thành phố từ sông La Lơ đến Đôngpie, Quận công Ăngulêm phía đông
và Xkombéc cánh quân trung tâm từ Pêrfmky đến Ăngutanh. Hành dinh của Hoàng đệ
ở Đôngpie.
Hành dinh của nhà
Vua lúc ở Éttrê lúc ở Lajari.
Cuối cùng hành dinh
của Giáo chủ là trên các đụn cát ở cầu La Pie, trong một ngôi nhà đơn giản
không có công sự.
Theo cách đó Hoàng
đệ sẽ giám sát Bassompirre, nhà Vua giám sát Công tước Ăngulêm và Giáo chủ giám
sát ông Xkombéc.
Sau khi đã bố trí
như vậy xong, họ lập tức lo chuyện đánh đuổi quân Anh khỏi đảo Rê.
Thời cơ đang thuận
lợi. Quân Anh trước hết cần phải có lương thực thực phẩm tốt cho binh lính tốt,
lại chỉ được ăn thịt ướp muối, và lương khô tồi, đã có những người bị ốm trong
doanh trại. Đã thế, vào mùa này trong năm, biển động dữ dội khắp ven bờ đại
dương, ngày nào cũng làm những thuyền nhỏ hư hỏng và bãi biển từ mũi Eghiông
đến chiến hào mỗi khi thủy triều lên lại phủ đầy những mảnh vỡ của thuyền thoi,
xuồng và thuyền buồm có tay chèo. Kết quả là binh lính của nhà Vua cũng phải ở
lì trong trại, đương nhiên Buckingham, vẫn còn trụ lại ở đảo do bướng bỉnh buộc
lòng sớm muộn phải bỏ vây.
Nhưng vì ông De
Toiras lại loan tin doanh trại quân thù đang chuẩn bị một cuộc tập kích mới,
nhà Vua quyết định phải thanh toán chuyện này và ban những mệnh lệnh cần thiết
để giải quyết dứt điểm việc này.
Cuộc tấn công thành
công đến mức khiến nhà Vua vô cùng kinh ngạc và đem lại vinh quang lớn cho Giáo
chủ. Quân Anh bị đẩy lùi từng bước, bị đánh bại trong mọi cuộc giáp chiến, bị
đè bẹp trên con đường qua đảo Loa buộc phải xuống tàu, bỏ lại trên chiến trường
hai nghìn người trong đó có năm đại tá, ba trung tá, hai trăm năm mươi đại úy,
và hai mươi nhà quý tộc danh giá, bốn khẩu đại bác và sáu mươi lá cờ được Clốt
de Saint-Simon đem về Paris trang trí dưới các vòm cửa nhà thờ Đức Thánh ca tạ
ơn được hát khắp mọi nơi và rồi từ đó lan ra khắp nước Pháp.
Giáo chủ vì vậy
được tự do theo đuổi cuộc bao vây, tạm thời ít ra cũng không phải e ngại về
phần quân Anh nữa.
Nhưng sự nghỉ ngơi
chỉ là tạm thời.
Một phái viên của
Công tước De Buckingham, tên là Môngtequy bị bắt giữ và người ta đã thu được
bằng chứng một sự liên minh giữa các đế chế Tây BanNha, Anh quốc và vùng Loren.
Liên minh đó hướng
vào việc chống nước Pháp.
Thêm nữa, trong
hành dinh của Buckingham mà ông ta buộc phải vội vã bỏ lại một cách không ngờ
tới, người ta tìm thấy những giấy tờ khẳng định liên minh đó và như giáo chủ
cam đoan trong những tập hồi ký của mình, đều phương hại nhiều đến bà De
Chevreuse và do đó cả Hoàng hậu nữa.
Trách nhiệm đè nặng
lên chính Giáo chủ, bởi không thể là một Thủ tướng chuyên chế mà lại không chịu
trách nhiệm. Vì thế đầu óc của thiên tài rộng lớn của ông ngày đêm bị căng ra,
và bận rộn nghe ngóng từng tin đồn nhỏ bung ra từ một trong những vương quốc
của châu Âu.
Giáo chủ biết rõ
hoạt động và nhất là lòng hận thù của Buckingham. Nếu liên minh đe dọa nước
Pháp thắng lợi, mọi ảnh hưởng của ông sẽ tiêu tan, chính trị Tây Ban Nha và
chính trị Áo quốc sẽ có những đại diện trong triều đình Louvre, nơi lúc này họ
mới chỉ có những tên bè phái. Chính ông, Richelieu, thủ tướng Pháp, một Thủ
tướng ưu tú của quốc gia cũng tiêu ma.
Nhà Vua hoàn toàn
phục tùng ông, căm ghét ông như một đứa trẻ như nó căm ghét ông thầy của mình
và sẽ bỏ rơi ông, mặc cho Hoàng đệ và Hoàng hậu trả thù. Vậy là ông sẽ đi toi,
và có thể cả nước Pháp theo ông. Phải ngăn chặn lại tất cả những cái.
Vì thế, người ta
thấy những phu trạm mỗi lúc một nhiều hơn ngày đêm kế tiếp nhau đến ngôi nhà
nhỏ ở cầu Pi-e nơi Giáo chủ thiết lập hành dinh của mình.
Đó là những thày tu
khoác vụng về chiếc áo tu hành mà người ta dễ nhận ra họ hầu hết thuộc giáo
phái Thánh chiến, là những phụ nữ hơi vụng về trong y phục thị đồng mà những
ống quần không thể che nổi hoàn toàn vẻ ngoài mũm mĩm, cuối cùng là những nông
dân với hai bàn tay đen nhẻm, nhưng chân lại mảnh mai và cách xa một dặm đã sặc
mùi phẩm giá.
Rồi còn những cuộc
thăm viếng khác kém thi vị hơn, bởi hai ba lần từ đấy loan ra tin đồn Giáo chủ
bị ám sát hụt.
Đúng là những kẻ
thù của Đức ông đã tuyên bố chính Đức ông đã từng phái những sát thủ vụng về đi
hành thích, cốt để khi lâm sự có quyền sử dụng việc báo thù. Nhưng không nên
tin vào các vị bộ trưởng nói cũng như chẳng nên tin vào những gì kẻ thù đã nói
ra.
Vả lại điều đó cũng
không ngăn nổi Giáo chủ, mà những kẻ phỉ báng ông gay gắt nhất cũng chưa bao
giờ bác bỏ lòng can trường của ông, khi ông tiến hành những chuyến đi đêm khi
thì để thông báo cho Quận công Ănggulêm những mệnh lệnh quan trọng, khi thì để
đến thống nhất với nhà Vua, khi thì đến hội đàm với một sứ giả nào đó mà ông
không muốn người ta để viên này đến chỗ ông.
Về phần mình, những
ngự lâm quân chẳng có việc gì lớn phải làm trong cuộc vây thành, nên không bị
quản lý nghiêm ngặt lắm, và được sống thảnh thơi vui vẻ. Điều đó đối với ba
chàng lại càng dễ dàng hơn, nhất là họ đều là những người thân thiết của ông De
Treville, họ được ông cho phép dễ đàng về muộn và được lưu lại bên ngoài sau
giờ cấm trại với sự cho phép đặc biệt.
Một tối, D'
Artagnan phải ở chiến hào không thể đi theo họ được, Athos, Porthos và Aramis
cưỡi trên ba con ngựa chiến, mặc áo khoác nhà binh, tay để trên cò súng ngắn,
từ một quán rượu ra về, cái quán rượu đó, Athos đã phát hiện ra hai ngày trước
đây trên đường Lajari và người ta gọi là quán Chuồng chim câu Đỏ. Họ đi theo
con đường dẫn về doanh trại, luôn ở tư thế phòng bị vì sợ bị phục kích, khi đến
cách làng Boana khoảng một phần tư dặm, họ nghe tiếng vó ngựa phi về phía họ.
Cả ba liền dừng ngay lại, đứng sát vào nhau ở giữa đường và đợi xem chuyện gì.
Một lát sau, khi trăng vừa ló ra khỏi một đám mây, họ thấy ở chỗ ngoặt của con
đường hai kỵ sĩ. Thấy họ, hai người này cũng dừng lại, hình như bàn với nhau cứ
tiếp tục lên đường hay quay lại phía sau. Sự ngập ngừng đó khiến ba người bạn
nghi ngờ, và Athos tiến lên mấy bước, quát lên bằng một giọng đanh thép:
- Ai?
- Vậy chính các
người là ai? - Một trong hai kỵ sĩ trả lời.
- Thế không phải là
trả lời! - Athos nói - Ai? Nói ngay không chúng ta bắn.
Thế là một giọng
ngân lên có vẻ như đã quen với việc ra lệnh:
- Hãy coi chừng
điều đang định làm đấy, các vị!
- Hình như đó là
một sĩ quan cao cấp nào đó đi tuần đêm - Athos nói - Các vị muốn làm gì?
- Các ông là ai đã?
- Vẫn cái giọng chỉ huy ấy nói - hãy trả lời đi, nếu không các ông có thể gặp
chuyện không may vì tội không phục tùng đó.
- Ngự lâm quân của
nhà Vua - Athos nói, mỗi lúc càng tin hơn người đang hỏi bọn chàng có cái quyền
đó.
- Đại đội nào?
- Đại đội ông De Treville.
- Tiến lên theo lệnh ta, và báo cáo rõ
các người làm gì ở đây vào giờ này.
Cả ba người bạn cùng tiến lên, tai hơi
cúp xuống, bởi cả ba lúc này đều tin là họ đang gặp chuyện với những người mạnh
hơn họ.
Một trong hai kỵ sĩ, người lần sau lên
tiếng đó tiến lên mười bước trước người đồng bọn. Athos ra hiệu cho Porthos và
Aramis cứ ở lại phía sau, rồi một mình tiến lên.
- Xin lỗi, ngài sĩ quan! - Athos nói -
nhưng chúng tôi không biết chúng tôi đang tiếp chuyện ai, và ngài có thể thấy
chúng tôi phải đề phòng rất cẩn thận.
- Tên ông? - Viên sĩ quan nói, và che
mặt bớt đi bằng áo khoác.
- Nhưng tên ông đã, thưa ông - Athos
nói, và bắt đầu nổi cáu trước sự lục vấn này - Xin ông hãy cho tôi rõ bằng
chứng ông có quyền thẩm vấn tôi.
- Tên ông? - Kỵ sĩ vừa nhắc lại câu
hỏi, vừa buông rơi áo khoác để lộ mặt ra.
- Đức ông Giáo chủ! - Chàng ngự lâm
bàng hoàng kêu lên.
- Tên ông? - Đức ông nhắc lại lần thứ
ba.
- Athos - Chàng ngự lâm trả lời.
Giáo chủ ra hiệu cho viên tùy tùng lại
gần.
- Ba lính ngự lâm này sẽ theo ta - Ông
nói khẽ - Ta không muốn ai biết ta ra khỏi doanh trại, và trong khi đi theo
chúng ta, chúng ta tin chắc họ sẽ không nói ra với ai.
- Thưa Đức ông, chúng tôi là những nhà
quý tộc - Athos nói - - Xin Đức ông yêu cầu chúng tôi hứa một lời là Đức ông
không còn phải lo gì hết. Ơn Chúa, chúng tôi biết giữ bí mật mà.
Giáo chủ chằm chằm đôi mắt sắc nhìn vào
kẻ đối thoại dầy dạn:
- Ông Athos, ông có đôi tai thính lắm -
Giáo chủ nói - nhưng bây giờ, nghe đây: nếu nghi ngờ ta đã không yêu cầu ông đi
theo ta, mà chính để ta được an toàn. Chắc hẳn hai người bạn kia của ông là
Porthos và Aramis?
- Vâng, thưa Đức ông - Athos nói, trong
khi đó hai chàng ngự lâm ở lại phía sau cũng lại gần, tay ngả mũ ra chào.
- Các vị, ta hiểu các vị - Giáo chủ nói
- ta biết các vị không hoàn toàn thuộc loại các bạn ta và ta lấy làm phiền lòng
vì điều đó, nhưng ta biết các vị là những nhà quý tộc trung thực và can trường,
có thể tin cậy được. Ông Athos, hãy cho ta vinh dự tháp tùng ta, cả ông và hai
bạn ông, và thế là ta bỗng có một đoàn hộ tống khiến Hoàng thượng cũng phải
ghen thầm nếu chúng ta gặp Người.
Ba người ngự lâm quân cúi rạp mình
xuống tận cổ ngựa, Athos nói:
- Ồ, tôi xin lấy danh dự tin rằng Đức
ông có lý khi mang chúng tôi đi theo. Chúng tôi đã gặp trên đường những bộ mặt
ghê rợn và chúng tôi cũng đã cãi lộn với bốn tên có những bộ mặt ấy ở quán
Chuồng chim câu Đỏ.
- Một cuộc cãi lộn à, và tại sao, các
vị? - Giáo chủ nói - Ta không thích những cuộc cãi lộn, các ông biết rồi đấy.
- Chính vì thế mà tôi có vinh dự được
báo trước cho Đức ông những gì vừa xảy ra, Đức ông có thể biết được điều đó qua
người khác chứ không phải qua chúng tôi, và trên cơ sở một báo cáo sai, ngài có
thể tưởng rằng chúng tôi có lỗi.
Giáo chủ nhíu lông mày hỏi:
- Và kết quả của cuộc cãi lộn?
- Dạ, ông bạn Aramis của tôi đây bị mỗi
một mũi gươm nhẹ vào cánh tay, điều đó sẽ không thể ngăn nổi ông ấy, như Đức
ông có thể thấy, ngày mai ông ấy vẫn leo lên xung phong nếu Đức ông ra lệnh
công thành.
- Nhưng các ông không phải những người
dễ bị gươm đâm như thế - Giáo chủ nói - nào, nói thực đi, các vị, các vị chắc
đã trả đũa được vài tên, thú nhận đi, các vị biết ta có quyền đặc xá mà.
- Thưa Đức ông, tôi đâu có được gươm
trong tay, nhưng tôi túm lấy kẻ có chuyện với tôi trong hai cánh tay và ném nó
qua cửa sổ, hình như khi rơi - Athos tiếp giọng ngập ngừng, - nó bị gẫy đùi.
- Chà, chà! - Giáo chủ nói - Còn ông,
Porthos?
- Tôi, thưa Đức ông, tôi biết quyết đấu
bị cấm, tôi cầm chiếc ghế dài và tôi choang cho tên cướp một đòn, tôi tin nó bị
gãy vai.
- Được - Giáo chủ nói - Còn ông, ông
Aramis?
- Tôi, thưa Đức ông, vì tôi bẩm tính
rất hiền lành và hơn nữa, có thể Đức ông chưa biết, tôi đang định thụ giáo, tôi
muốn ngăn các bạn tôi ra, thì một tên trong lũ khốn kiếp ấy đã phản trắc đâm
tôi một mũi gươm vào tay trái, thế là tôi không kiên nhẫn được nữa, tôi cũng
tuốt gươm ra và vì nó lại xông vào tấn công, tôi cảm thấy khi chồm lên tôi, nó
bị gươm xuyên qua người, tôi chỉ biết nó ngã lăn ra và hình như người ta khênh
nó và hai tên đồng bọn đi.
- Đồ quỷ, lũ các ông! - Giáo chủ nói -
ba người bị loại khỏi vòng chiến đấu vì một cuộc cãi lộn nơi quán rượu, các ông
không nhẹ tay được sao, mà về chuyện gì đến nỗi sinh cãi nhau?
- Bọn khốn ấy say - Athos nói - và biết
có một người đàn bà đã đến tửu quán lúc tối, chúng định phá cửa phòng.
- Phá cửa phòng? - Giáo chủ nói - và để
làm gì?
- Chắc để cưỡng bức - Athos nói - tôi
đã có vinh dự nói với Đức ông là bọn khốn kiếp ấy say.
- Và người đàn bà đó trẻ và đẹp không?
- Giáo chủ hỏi, hơi có vẻ lo lắng.
- Thưa Đức ông, chúng tôi không nhìn
thấy bà ta - Athos nói.
- Các ông không nhìn thấy bà ta, chà! Tốt
lắm! - Giáo chủ nhanh nhảu nói tiếp - các ông bảo vệ danh dự một phụ nữ như vậy
là rất tốt, và vì chính là quán Chuồng chim câu Đỏ, ta phải đích thân đến, ta
sẽ biết liệu các ông có nói đúng sự thực với ta không.
- Thưa Đức ông - Athos kiêu hãnh nói -
Chúng tôi là những nhà quý tộc và dù để cứu mình khỏi mất đầu, chúng tôi cũng
không nói dối một câu.
- Như vậy, ta chẳng còn gì để nghi ngờ
điều ông nói nữa, ông Athos ạ, một giây thôi ta cũng không nghi ngờ gì nữa,
nhưng… - ông nói thêm để chuyển hướng câu chuyện - người phụ nữ ấy chỉ có một
mình à?
- Người phụ nữ ấy có một kỵ sĩ giấu
mình trong phòng với bà ta - Athos nói - nhưng mặc cho những tiếng xô xát, gã
kỵ sĩ ấy vẫn không ló mặt, có thể cho gã là một thằng hèn.
Giáo chủ đáp lại:
- Kinh thánh nói: "Đừng xét đoán
liều!"
Athos nghiêng mình.
- Và bây giờ, tốt lắm - Giáo chủ tiếp
tục - ta biết điều ta muốn biết rồi, các ông hãy theo ta.
Ba người lính ngự lâm đi đằng sau Giáo
chủ.
Giáo chủ lại kéo áo khoác lên che mặt
và cho ngựa đi thong thả, giữ cự ly chừng tám chín bước đằng trước bốn người
đồng hành.
Chẳng mấy chốc họ đến chiếc quán trọ im
lìm và đơn độc, chắc chắn chủ quán đã biết mình đang chờ một vị khách danh
tiếng, do đó, đã tống khứ hết bọn quấy rối đi rồi.
Đến trước cửa quán mươi bước, Giáo chủ
ra hiệu cho viên tùy tùng của mình và ba lính ngự lâm dừng ngựa. Một con ngựa
yên cương sẵn sàng buộc ở cửa chắn gió, Giáo chủ gõ ba tiếng theo ám hiệu
riêng.
Một người khoác áo choàng ra ngay và
trao đổi nhanh vài câu với Giáo chủ, sau đó lại lên ngựa ra đi về hướng Xuagerơ
cùng hướng về Paris.
- Tiến lên, các ông - Giáo chủ nói -
các ông đã nói đúng sự thật, mấy nhà quý tộc của ta ạ - Ông nói thêm với ba
chàng lính ngự lâm - Cuộc chạm trán giữa chúng ta tối nay có lợi hay không cho
các ông, không phụ thuộc vào ta, trong khi chờ đợi, hãy theo ta.
Giáo chủ xuống ngựa. Ba chàng cùng
xuống ngựa theo. Giáo chủ ném cương cho viên tùy tòng, ba chàng buộc ngựa mình
vào cửa chắn gió.
Chủ quán đứng đón ở ngưỡng cửa, với
hắn, Giáo chủ chỉ là một viên sĩ quan đến thăm một người đàn bà.
- Ông có một cái phòng nào đó ở tầng
trệt mà các ông này có thể đợi ta bên lò sưởi ấm không? - Giáo chủ hỏi.
Chủ quán liền mở cửa một căn phòng lớn,
trong phòng người ta vừa thay chiếc lò sưởi tồi bằng một lò sưởi mới và rất
tốt.
- Tôi có chiếc phòng này.
- Tốt lắm - Giáo chủ nói - Vào đi, các
vị và đợi ta, ta sẽ không lâu hơn nửa giờ đâu.
- Và trong khi ba
chàng ngự lâm vào căn phòng ở tầng trệt đó, Giáo chủ chẳng cần hỏi han gì thêm
nữa, lên thẳng cầu thang như một người không cần phải chỉ đường.
BA NGƯỜI LÍNH NGỰ
LÂM
Chương 44
Tiện ích của ống
khói lò sưởi.
Rõ ràng là do lòng
hào hiệp và ưa mạo hiểm, không ngờ mấy chàng ngự lâm lại trở nên được việc cho
một nhân vật nào đấy được Giáo chủ vinh dự che chở đặc biệt.
- Nhưng kẻ đó là ai? Đó là vấn đề trước
tiên ba chàng ngự lâm đặt ra. Rồi vì không một câu trả lời nào có thể thỏa mãn
được họ bằng óc phán đoán: Porthos gọi chủ quán và hỏi quân xúc xắc.
Porthos và Aramis ngồi vào bàn chơi xúc
xắc. Athos vừa đi đi lại lại vừa suy nghĩ, vô tình đi qua chiếc lò sưởi bị gãy
một nửa, nửa trên thông với phòng trên. Và mỗi lần đi qua đi lại, chàng lại
nghe thấy tiếng thì thầm khiến chàng đâm chú ý.
Athos lại gần và phân biệt được vài câu
có vẻ rất đáng quan tâm nên chàng ra hiệu cho các bạn im đi rồi khòng người áp
tai vào lỗ dưới của ống khói.
- Nghe đây, Milady - Giáo chủ nói -
việc quan trọng đấy, ngồi xuống đi, rồi ta nói chuyện.
"Milady
ư?" - Athos lẩm bẩm.
- Tôi đang hết sức
chăm chú nghe Đức ông đây - Một giọng đàn bà trả lời làm chàng ngự lâm giật nảy
mình.
- Một tàu nhỏ với
thủy thủ người Anh, nhưng thuyền trưởng là của ta đang đợi bà ở pháo đài La
Poăng tại cửa sông Sarăng. Sáng mai sẽ giương buồm.
- Vậy tôi phải đến
đấy đêm nay?
- Ngay bây giờ,
nghĩa là khi bà đã nhận được chỉ thị của ta. Hai người bà sẽ gặp ngoài cửa khi
đi ra sẽ hộ tống bà, bà để ta ra trước, nửa giờ sau bà hãy ra.
- Vâng, thưa Đức
ông. Bây giờ, trở lại nhiệm vụ Đức ông định trao cho tôi. Và vì tôi mong tiếp
tục xứng đáng với lòng tin của Đức ông, xin chiếu cố trình bày rõ ràng chính
xác cho tôi để sao tôi không phạm bất cứ một sai lầm nào.
Hai người im lặng
một lúc lâu. Rõ ràng Giáo chủ đang cân nhắc trước ngôn từ mình sắp nói và
Milady đang tập trung hết khả năng trí tuệ để hiểu được những điều ông sắp nói
ra và ghi khắc chúng trong trí nhớ của mình.
Athos lợi dụng lúc
đó để bảo hai bạn khóa trái cửa lại và ra hiệu đến nghe cùng chàng.
Hai chàng ngự lâm
kia thích được thoải mái, mỗi người mang theo một chiếc ghế và thêm một chiếc
cho Athos. Cả ba cùng ngồi, đầu chụm lại, tai rình nghe.
- Bà sẽ đi London -
Giáo chủ tiếp tục - Đến London, bà sẽ đi tìm Buckingham.
- Tôi xin lưu ý Đức
ông - Milady nói - từ khi có vụ những nút kim cương, Quận công luôn nghi ngờ tôi,
và không còn mặn mà với tôi mấy.
- Vì vậy lần này -
Giáo chủ nói - vấn đề không phải là lấy lại lòng tin của ông ta mà là ra mắt
một cách thẳng thắn và trung thực với tư cách một nhà thương thuyết.
- Thẳng thắn và
trung thực? - Milady nhắc lại với vẻ mặt hai mang khó tả.
- Phải, thẳng thắn
và trung thực - Giáo chủ lắp lại cùng một giọng điệu - Toàn bộ cuộc thương
thuyết đó phải được công khai.
- Tôi sẽ tuân theo
từng chữ những chỉ dụ của Đức ông và tôi đang đợi ngài trao cho tôi.
- Bà sẽ thay mặt ta
tìm gặp Buckingham nói với ông ta rằng, ta biết hết những chuẩn bị ông ta tiến
hành, nhưng ta không lo lắng mấy đâu, bởi vì nếu ông ta liều lĩnh, thì ngay từ
hành động đầu tiên của ông ta, ta sẽ làm cho Hoàng hậu điêu đứng.
- Liệu ông ta có
tin Đức ông sẵn sàng hoàn tất lời đe dọa của mình không?
- Có chứ, bởi ta có
những bằng chứng.
- Tôi có nên cho
ông ta biết những bằng chứng ấy không?
- Hẳn rồi, và bà
hãy nói với ông ta rằng ta sẽ cho công bố báo cáo của Boa Rôbe và Hầu tước de
Bôtơruy về cuộc gặp gỡ giữa ông ta và Hoàng hậu tại nhà của phu nhân thống
tướng, cái buổi tối mà phu nhân tổ chức vũ hội hóa trang. Bà hãy bảo để ông ta
đừng ngờ gì cả, rằng ông ta đến đó bằng trang phục của Đại đế Môgôn(1) mà đáng
ra ông hiệp sĩ De Ghiơ phải mặc, và ông ta đã mua nó với giá thỏa thuận là ba
nghìn đồng vàng Pítxtơn.
- Hay lắm, thưa Đức
ông.
- Mọi chi tiết về
việc ông ta ra vào hoàng cung cái đêm ông ta đội lốt tên thầy bói người Italia,
bà sẽ bảo cho ông ta biết đừng có nghi ngờ gì nữa về độ chính xác những tin tức
của ta, rằng ông ta mặc trong áo khoác một chiếc áo dài trắng lác đác những
giọt lệ đen và đầu lâu xương chéo, bởi vì trong trường hợp bất ngờ bị bắt, ông
ta phải làm ra như con ma Đàn bà áo trắng, như mọi người đồn đại, lại trở lại
điện Louvre mỗi lần có sự cố lớn sắp xảy ra.
- Có thế thôi, thưa
Đức ông?
- Bảo ông ta rằng
ta biết mọi chi tiết của cuộc phiêu lưu ở Amiêng và ta sẽ viết thành cuốn tiểu
thuyết nhỏ, được sắp xếp một cách khéo léo với bố cục của mảnh vườn và chân
dung những diễn viên chính của cái kịch cảnh ban đêm đó.
- Tôi sẽ nói cho
ông ta nghe điều đó.
- Bảo thêm với ông
ta rằng ta tóm được Môngteguy, rằng Môngteguy đã ở trong ngục Bastille, rằng
người ta không bắt quả tang bức thư nào trên người hắn, đúng vậy, nhưng cực
hình có thể làm hắn khai những gì hắn biết và cả những gì hắn… không biết.
- Tuyệt diệu.
- Cuối cùng hãy
thêm rằng Huân tước trong lúc cuống cuồng cuốn gói khỏi đảo Rê, đã để quên
trong hành dinh mình bức thư nào đó của bà De Chevreuse, phương hại đặc biệt
đến Hoàng hậu ở chỗ nó chứng tỏ không những Hoàng hậu có thể yêu những kẻ thù
của nhà Vua, mà bà còn âm mưu với kẻ thù của nước Pháp. Bà nhớ kỹ được tất cả
những gì ta nói với bà, phải không?
- Đức ông cứ việc
thử xem: vũ hội ở chỗ phu nhân thống tướng, đêm ở điện Louvre này, chiều tối ở
chỗ Amiêng, rồi việc bắt giữ Môngteguy, bức thư của bà De Chevreuse.
- Là thế đấy - Giáo
chủ nói - là những chuyện ấy đấy, Milady, bà có trí nhớ tốt lắm.
- Nhưng - Người vừa
được Giáo chủ tâng bốc nói tiếp - nếu mặc dầu tất cả những lý lẽ đó, Quận công
vẫn không chịu và tiếp tục đe dọa nước Pháp?
- Quận công si tình
như một thằng điên hoặc đúng hơn là một thằng đần - Richelieu nói tiếp bằng một
giọng vô cùng chua chát – giống như lũ hiệp sĩ giang hồ thời xưa, ông ta lao
vào cuộc chiến này chẳng qua chỉ để chiếm được mắt những của người đẹp. Nếu ông
ta biết rằng cuộc chiến này có thể đáng giá danh dự và có lẽ cả tự do của người
đàn bà vương vấn trong tâm trí ông ta như ông ta nói, ta đảm bảo với bà ông ta
sẽ quan tâm tới chuyện đó gấp đôi.
Milady muốn thấy rõ
ngọn ngành nhiệm vụ sắp được giao nên vẫn gặng hỏi:
- Tuy nhiên nếu ông
ta vẫn một mực như thế?
- Nếu ông ta một
mực - Giáo chủ nói -… không thể như thế.
- Có thể đấy -
Milady nói.
- Nếu ông ta một
mực… - giáo chủ dừng một lúc rồi nói tiếp - Nếu ông ta một mực, thì nghe đây,
ta sẽ hy vọng vào một trong sự kiện làm thay đổi bộ mặt các quốc gia.
Milady nói:
- Nếu Đức ông vui
lòng kể ra cho tôi một vài sự biến như thế trong lịch sử, có thể tôi sẽ chia sẻ
niềm tin của Đức ông vào tương lai chăng.
- Thì đấy! Đấy nhé,
ví dụ vào năm 1610 – Richelieu nói - do một nguyên nhân gần giống như nguyên
nhân khiến Quận công Anh quốc dấy quân, vua Henri IV lưu danh muôn thuở đã xâm
lược đồng thời cả xứ Flăngđrơ và nước Ý để tấn công nước Áo đồng thời cả hai
mặt, thế là, chẳng phải đã xảy ra một sự biến đã cứu nước Áo ư? Tại sao nhà Vua
nước Pháp lại không có được cái may như hoàng đế Áo nào?
- Đức ông, muốn nói
đến nhát dao găm ở phố Hàng sắt(2).
- Đúng thế!
- Đức ông không e
việc hành hình Ravayắc làm cho những kẻ thoáng có ý nghĩ bắt chước việc đó
hoảng sợ sao?
- Ở bất cứ thời kỳ
nào và trong bất cứ nước nào, nhất là nếu những nước đó bị chia rẽ về tôn giáo,
sẽ có những tên cuồng tín không đòi hỏi gì hơn là được tử đạo, mà này, đúng lúc
ta nhớ ra là các tín đồ Thanh giáo đang giận dữ chống lại Quận công Buckingham
và các nhà truyền giáo của họ gọi ông ta là tên phản Chúa.
- Rồi sao ạ? -
Milady hỏi.
- Rồi sao ư? - Giáo
chủ tiếp tục vẻ hửng hờ - Ví dụ lúc này tìm được một người đàn bà đẹp, trẻ,
khôn khéo, có thù riêng phải trả với Quận công. Có thể gặp một người đàn bà như
thế lắm. Quận công là một người thường gặp may trong tình ái và nếu như ông ta
đã gieo rắc những mối tình bằng những lời nguyện ước chung thủy suốt đời, ông
ta hẳn cũng đã gieo bấy nhiêu mối hận thù về sự bội bạc vĩnh hằng của ông ta.
- Chắc chắn sẽ gặp
được một người đàn bà như thế - Milady lạnh lùng nói.
- Ồ vậy thì một
người đàn bà như thế sẽ đặt vào tay một kẻ cuồng tín con dao găm của
Jắcclêmăng(3) hay của Ravayxắc, và sẽ cứu nước Pháp.
- Vâng, nhưng nàng
sẽ là kẻ đồng mưu của một vụ sát nhân.
- Đã ai biết những
kẻ đồng mưu của Ravayxắc hay Jắcclêmăng bao giờ chưa?
- Chưa, nhưng có lẽ
những kẻ đồng mưu ấy ở địa vị quá cao sang nên người ta không dám truy tìm nơi
vị thế của họ. Người ta không đốt cháy tòa công lý vì tất cả mọi người, thưa
Đức ông.
- Bà tin rằng đám
cháy của tòa công lý có nguyên nhân khác với nguyên nhân rủi ro sao? - Giáo chủ
hỏi bằng một giọng không có gì là quan trọng.
- Thưa Đức ông, tôi
- Milady trả lời - tôi không tin gì cả tôi chỉ kể ra một sự kiện, có thế thôi.
Có điều, tôi nói nếu tôi là công nương Môngpăngsiê(4) hay Hoàng hậu Marie đờ
Médicis(5) tôi sẽ ít phải đề phòng hơn, khi tên tôi đơn giản chỉ là phu nhân
Clerics.
- Đúng thế -
Richelieu nói - Vậy ý bà định thế nào?
- Tôi muốn có một
lệnh phê chuẩn trước tất cả những gì tôi tin phải làm cho quyền lợi tối cao của
nước Pháp.
- Nhưng trước hết
phải tìm được người đàn bà mà ta đã nói là phải trả thù ông Quận công.
- Người đàn bà ấy
đã được tìm thấy - Milady nói.
- Rồi còn phải tìm
ra tên khốn kiếp cuồng tín sẽ dùng như một công cụ cho công lý của Chúa.
- Sẽ tìm được thôi.
- Vậy thì! - Quận
công nói - sẽ kịp thỉnh cầu lệnh mà bà vừa yêu cầu thôi.
- Đức ông nói đúng
- Milady nói - Và chính tôi đã nhầm khi nhìn vào nhiệm vụ mà ngài đã vinh dự
trao cho tôi khác hẳn trong thực tế, nghĩa là phải nhân danh Đức ông báo cho
Huân tước rằng ngài biết rõ những trò cải trang khác nhau, nhờ chúng, ông ta đã
đạt được việc đến gần Hoàng hậu trong đêm vũ hội do phu nhân thống tướng tổ
chức, rằng ngài có những bằng chứng về cuộc gặp mặt của Hoàng hậu với nhà chiêm
tinh người Ý không ai khác ngoài Quận công Buckingham, ở điện Louvre, rằng ngài
đã đặt một cuốn tiểu thuyết nhỏ, loại sắc sảo nhất về cuộc phiêu lưu ở Amiêng
với bố cục là khu vườn mà cuộc mạo hiểm ấy đã diễn ra, và chân dung những diễn
viên đã hiện diện, rằng Môngteguy đã ở ngục Bastille và cực hình có thể khiến
hắn nói ra những điều hắn nhớ ra và cả những điều hán có nhẽ đã quên, cuối cùng
là ngài đã chiếm hữu được bức thư nào đó của bà De Chevreuse, tìm thấy trong
hành dinh của Huân tước sẽ phương hại đặc biệt không những đến người đã viết nó
mà còn cả người có tên được viết tới trong bức thư. Rồi nếu như ông ta khăng
khăng bất chấp tất cả những cái đó, như nhiệm vụ của tôi giới hạn ở những điều
tôi vừa nói, thì tôi sẽ chỉ còn biết cầu Chúa tạo ra một kỳ tích để cứu nước
pháp. Có phải thế không, thưa Đức ông, và tôi không có việc gì khác phải làm
nữa chứ?
- Có thế thôi -
Giáo chủ trả lời cộc lốc.
- Và bây giờ - Tôi
đã nhận được những chỉ thị của Đức ông về những kẻ thù của ngài, Đức ông có cho
phép tôi được nói đôi điều về những kẻ thù của tôi không?
- Vậy ra bà cũng có
những kẻ thù? - Richelieu hỏi.
- Vâng, thưa Đức
ông, những kẻ thù mà chống lại chúng tôi phải dựa vào Đức ông, bởi tôi đã biến
họ thành kẻ thù khi phục vụ Đức ông.
- Và những tên nào?
- Quận công đáp lại.
- Trước hết là con
mụ Bonacieux nhỏ bé lắm mưu nhiều kế.
- Nó đang bị giam
trong nhà tù ở Nante kia mà.
- Nghĩa là nó từng
bị giam ở đấy - Milady lắp lại - nhưng Hoàng hậu đã nhận được lệnh của nhà Vua,
nhờ đó, đã cho chuyển mụ ta đến một tu viện.
- Đến một tu viện?
- Giáo chủ nói.
- Vâng trong một tu viện.
- Trong tu viện nào?
- Tôi không biết, bí mật được giữ gìn
cẩn thận lắm.
- Ta sẽ biết.
- Và Đức ông sẽ nói với tôi mụ ta ở
trong tu viện nào?
- Ta không thấy có gì bất tiện trong
việc này - Giáo chủ nói.
- Thế thì tốt rồi. Bây giờ tôi có một
kẻ thù khác nữa còn đáng sợ hơn là cái mụ Bonacieux bé nhỏ đó đối với tôi.
- Là ai?
- Người tình của mụ.
- Tên là gì?
- Ồ, Đức ông biết nó quá mà - Milady la
lên, bừng bừng giận dữ - đó chính là tên ác thần của cả hai chúng ta, chính là
kẻ trong cuộc chạm trán với quân cận vệ của Đức ông đã quyết định chiến thắng
về phần ngự lâm quân của nhà Vua, là kẻ đã đâm De Wardes, phái viên của Đức
ông, ba nhát gươm và đã làm thất bại vụ nút kim cương, cuối cùng chính là kẻ biết
tôi đã bắt cóc mụ Bonacieux của hắn và thề sẽ giết tôi.
- À, à! - Giáo chủ nói - Ta biết bà nói
về ai rồi.
- Tôi muốn nói về tên D' Artagnan khốn
kiếp.
- Đó là một tay đồng ngũ táo tợn - Giáo
chủ nói.
- Thì chính vì nó là một tên táo tợn
nên nó càng đáng sợ hơn.
- Cần phải có một bằng chứng về sự tư
thông của nó với Buckingham.
- Một bằng chứng ư? - Milady hét lên -
Tôi có đến mười cơ.
- Vậy thì, đó là điều đơn giản nhất
trên đời, hãy cho ta bằng chứng ấy, ta sẽ tống nó vào ngục Bastille.
- Thưa Đức ông, rồi tiếp đó?
- Khi đã ở ngục Bastille thì không có
tiếp đó nữa - Giáo chủ nói bằng một giọng bí hiểm - Chà, mẹ kiếp! Nếu ta thanh
toán kẻ thù của ta cũng dễ như ta thanh toán kẻ thù của bà, và nếu như chính
đối những kẻ như thế mà bà lại xin ta xá tội?
- Thưa Đức ông, có đi có lại mà, mạng
đổi mạng, người đổi người. Cho tôi kẻ này, tôi sẽ cho lại kẻ kia.
- Ta không hiểu bà muốn nói gì - Giáo
chủ lặp lại - và cũng chẳng muốn hiểu nữa - Nhưng ta lại mong làm vừa lòng bà
và không thấy bất cứ sự trở ngại nào để đáp ứng những gì bà yêu cầu đối với một
tên vô danh tiểu tốt ấy, huống hồ bà đã nói với ta cái tên D' Artagnan ranh con
đó là một kẻ vô sừng sẹo, một tên chuyên thách đấu, một tên phản trắc.
- Một tên đê tiện, thưa Đức ông, một
tên đê tiện!
- Đưa giấy bút mực đây cho ta.
- Đây thưa Đức ông.
Một phút im lặng, chắc Giáo chủ bận tìm
ngôn từ để viết.
Athos không bỏ sót một lời nào cuộc nói
chuyện, hai tay kéo hai bạn ra đầu phòng bên kia.
- Ơ hay? - Porthos nói - Anh muốn gì,
tại sao không để chúng tôi nghe nốt câu chuyện?
Khẽ chứ! - Athos hạ giọng nói - Chúng
ta đã nghe được mọi điều cần thiết phải nghe, vả lại, tôi không ngăn cậu nghe
nốt chuyện đâu, nhưng bây giờ tôi phải đi đây.
- Anh phải đi! - Porthos nói - Nhưng
nếu Giáo chủ hỏi anh, chúng tôi sẽ trả lời ra sao cậu đừng đợi ông ta hỏi tôi,
cậu nói luôn ra trước tôi phải đi trinh sát tiền trạm bởi vài câu nói của chủ
quán khiến tôi nghĩ con đường không an toàn lắm. Trước hết tôi sẽ nói đôi lời
với viên tùy tùng của Giáo chủ, còn lại mặc tôi, đừng lo gì hết.
- Hãy cẩn thận, anh
Athos - Aramis nói.
- Yên tâm - Athos
trả lời - Cậu biết đấy, tôi rất bình tĩnh.
Porthos và Aramis
trở lại chỗ cũ bên ống khói lò sưởi.
Còn Athos, chàng đi
ra hoàn toàn công khai, tháo ngựa buộc ở cửa quay, thuyết phục viên tùy tùng bằng
mấy câu về sự cần thiết phải đi tiền trạm cho đường về. Chàng làm bộ xem xét
lại mồi súng ngắn, cắn gươm, như một quyết tử quân theo con đường trở về doanh
trại.
Chú thích:
(1) Đại đế Môgôn (1483-1530) triều đại do Baberơ, chắt của Taméclan dòng
dõi Thành Cát Tư Hãn sáng lập bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ và xứ Hindu.
(2) Vua Henri IV cha của vua Louis XIII, sắp đánh nước Áo từ hai phía
như trên đã nói, thì bị một tên cuồng tín theo đạo Tin lành đâm chết ở phố Hàng
Sắt
(3) Thày tu dòng Dominique, ám sát vua Henri III năm 1529, sau bị quân
cận vệ giết chết.
(4) Nữ Công tước, em gái De Ghidơ, bị buộc tội xúi bảy Clêmăng giết
Henri III
(5) Marie de Médicis, vợ vua Henri IV, mẹ Louis XIII, khi chổng chết
được nghị viện cử làm nhiếp chính, bà đã đuổi nhưng bộ trưởng thời Henri IV,
tin dùng Côngcini, cưới Anne d' Autriche cho Louis XIII, chiếm hết quyền lực
cho đến khi thống chế De Ăngcrơ bị ám sát. Tiến hành chiến tranh với con trai
từ nãm 1617 đến 1620, cuối cùng thỏa thuận với vua Louis XIII cho vị giáo sĩ tư
tế của mình là Richelieu làm thủ tướng (1624). Bị đi đày và chết ở Côlônhơ năm
1642
Thư mục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét