THUỶ HỬ
TRUYỆN
Tác giả:
Thi Nại
Am
Mục sách
:
Võ Hiệp
Văn học
kinh điển
Thủy Hử
là một trong Tứ đại danh tác của nền văn học cổ điển Trung Quốc. Qua giọng văn
sống động của tác phẩm, một trăm linh tám anh hùng Lương Sơn mỗi người một vẻ,
một xuất thân, một tính cách, một cuộc đời hiện lên qua từng trang sách. Trong
quá trình tụ nghĩa Lương Sơn, họ gặp quan tham thì chống, gặp ác bá thì trừng,
đặt chữ “nghĩa” làm phương châm hành động. Lối hành động không câu nệ và tính
cách hào sảng ấy nơi các nhân vật đã quyện xoắn những mẩu chuyện rời thành một
thế giới võ lâm thu nhỏ, tạo cảm giác sảng khoái trong từng câu chữ.
“Văn
chương Thủy Hử không “dệt gấm thêu hoa” như Tây Sương Ký, không “nhả ngọc phun
châu” như Hồng Lâu Mộng mà là “nhạc trỗi chuông ngân”, hùng hồn, dồn dập. Văn
chương Thủy Hử thì vẫn gần gũi với truyện kể dân gian. Tác phẩm Thủy Hử giữ
được tính sống động của nhân vật trong ngôn ngữ gần gũi với đời sống hằng ngày,
trong lối hành văn ít trang sức tô điểm.”
- Giáo
sư Lương Duy Thứ.
Chương 1: Vương Giáo Đầu, phủ Duyên lánh gót
Cửu Văn Long, thôn sử ra tay
Về đời
nhà Tống, Triết Tôn Hoàng Đế làm vua, cách với đời của vua Nhân Tôn Hoàng Đế đã
xa; Giữa phủ Khai Phong, ở ngay Đông Kinh, thuộc khu của thành Tuyên Vũ Quân
nảy nồi một tên con nhà lông bông mất dạy, là dòng họ Cao, bày hàng đứng vào
thứ hai. Anh ta thuở nhỏ không chịu làm ăn, chỉ thích múa thương đánh gậy, và
đá cầu rất giỏi, bởi thế trong Kinh Sư gọi anh ta là Cao Cầu, đổi gọi Cao Nhị.
Đoạn chữ cầu có chữ Mao là lông ở bên cạnh, sau phát tích khá lên, mới đổi chữ
Cầu có chữ Nhân là người đứng cạnh.
Anh
chàng này lại giỏi thổi sáo múa bộ, chơi bời nghịch ngợm đủ lối, mà còn học đòi
thơ phú, võ vẽ sách vở, nhưng nói đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, hạnh trung
lương, thì tuyệt nhiên không hiểu chút gì.
Suốt
ngày anh ta chỉ ở trong thành ngoài thành Đông Kinh, bám vào những tay du thủ
du thực, đánh đu với một anh con trai Sinh Thiết Vương Viên Ngoại, để kiếm tiền
tiêu xài, đĩ bợm với nhau.
Bất đồ
không bao lâu bị Viên Ngoại có đơn thưa kiện Cao Cầu trong phủ Khai Phong, quan
Phủ cho bắt Cao Cầu kết án phạt đánh 20 trượng, trục xuất ra khỏi Đông Kinh,
cấm nhân dân ở trong thành không ai được dung túng ở trong nhà.
Cao Cầu
vô kế khả thi, đành phải đi sang miền Hoài Tây, chạy vào bám ở một nơi sòng bạc
của Liễu Đại Lang gần đó. Anh này nguyên tên là Liễu Thế Quyền, bình sinh chỉ
quen kết nạp những hạng bơ biếng phỉnh phờ, bao nhiêu hạng dông dài bợm bãi đâu
đâu, cũng đều chứa chấp hết thẩy.
Cao Cầu
tới đó được tới ba năm, nhân gặp khi Triết Tôn Thiên Tử đi lễ Nam Giao, cảm
thấy mưa hòa gió thuận, gia ơn đại xá cho các tội tù, Cao Cầu cũng dự vào hạng
ấy.
Được tin
ân xá, Cao Cầu nhân muốn trở về Đông Kinh, liền nói cho Thế Quyền hay. Liễu Thế
Quyền vốn có một người bà con, tên là Đổng Trương Sĩ mở hàng thuốc sống ở phía
cầu Kim Lương trong Đông Kinh liền viết một phong thư và thu xếp ít tiền lộ
phí, giới thiệu cho Cao Cầu sang ở với Đổng.
Cao Cầu
được thư giới thiệu, từ giã Liễu Đại Lang đeo khăn gói tìm lối quay về Đông
Kinh, thẳng đến cầu Kim Lương, kiếm hàng thuốc Bắc Đổng Sinh, đưa thư trình
diện.
Đổng
Trương Sĩ trông thấy Cao Cầu, lại thấy bức thư của Liễu Thế Quyền, trong bụng
nghĩ thầm:
Thằng
cha Cao Cầu này, nhà ta dung làm sao được. Nếu phải hắn là người có chí hướng
thành thực, thì cũng có thể cho ở đây, quanh quẩn ra vào, kèm dạy cho mấy đứa
nhỏ... Nhưng hắn lại là một tay du thu du thực, con nhà mất dạy, không một chút
tín nghĩa gì, hơn nữa trước đây đã phạm tội phát phối, thì chứng cũ đã chừa sao
được?
Nay ta
để luôn trong nhà, không khỏi con trẻ tập theo những thói vô loại, rồi đây biết
làm sao kịp? Mà nếu không dung hắn ở đây, thì đối với Liễu Đại Lang cũng hơi có
điều bất tiện...
Nhân thế
phải làm ra bộ vui vẻ tươi cười, hãy lưu Cao Cầu ở lại trong nhà, và hằng ngày
cung đốn rượu chè rất là tử tế.
Cách 10
hôm sau, Đổng Trương Sĩ chợt nghĩ được ra một kế liền sắm sửa quần áo mới, viết
một phong thư rồi bảo Cao Cầu:
- Nhà đệ
ở đây, như ánh sáng của con đom đóm, không thể soi rõ được người, chỉ sợ sau
này lầm lỡ cho túc hạ, nay tôi xin tiến túc hạ sang chỗ quan Học Sĩ Tiểu Tô,
sau này sẽ có đường xuất thân cho túc hạ chẳng hay túc hạ nghĩ sao?
Cao Cầu
nghe nói mừng rỡ mà cảm tạ Trương Sĩ, Trương Sĩ liền trao quần áo cho Cao Cầu
mặc, và sai người mang thư sang phủ Học Sĩ.
Khi tới
nơi môn lại vào báo cho Học Sĩ ra, sau khi trông thấy Cao Cầu, và đọc qua bức
thư, Học Sĩ hiểu Cao Cầu là hạng người phù phiếm phỉnh phờ, liền nghĩ thầm:
- Nhà ta
đây dụng hạng này thế nào được? Chi bằng ta lưu chút nhân tình, tiến cử anh ta
sang phủ Phò Mã Vương Tấn Khanh, để làm người hầu thân tùy. Ông này vẫn thường
gọi là Tiểu Vương, Đô Thái Úy, tất là ông ta ưa thích những hạng người này...
"Liền viết thư trả lời cho Đổng Trương Sĩ, rồi lưu Cao Cầu ở trong phủ một
đêm.
Sáng hôm
sau, viết một bức trình, sai một tên gia nhân mẫn cán đưa dẫn Cao Cầu sang phủ
Tiểu Vương Đô Thái Úy.
Vị Thái
Úy này nguyên là chồng của bà chị Triết Tôn Hoàng Đế, và là phò mã vua Thần Tôn
khi trước vốn là người thích những bọn phong lưu phóng đãng xưa nay, khi nhận
được thư Học Sĩ đưa Cao Cầu đến, thì trong lòng lấy làm mừng rỡ liền viết thư
trả lời quan Học Sĩ, mà lưu Cao Cầu ở phủ, để cho hầu hạ trân trọng.
Từ đó
Cao Cầu được Đô Úy tin dùng, khi ăn ở lúc ra vào, chả khác chi người nhà thân
mật vậy.
Một hôm
gặp ngày sinh nhật Đô Thái Úy, trong phủ bày đặt yến tiệc để mời Đoan Vương
sang dự tiệc. Đoan Vương là con trai thứ II vua Thần Tôn, là em vua Triết Tôn,
và là em vợ Đô Thái Úy, hiện giữ chức Đông giá, bài hiệu là Cửu Thiên Vương,
vốn là người thông minh tuấn tú, am hiểu mọi cách chơi bời, những sự du nhàn,
không gì là không thích, các ngón cầm kỳ, thi, họa, ca vũ, thanh âm, cùng là
ngón múa gậy đá cầu là ngón chơi sở thiùch nhất cả.
Hôm đó
Đoan Vương sang dự tiệc ở phủ Đô Thái Úy, khi rượu đã vài tuần rồi, đứng dậy
chạy vào thư viện để xem. Chợt trông thấy trên bàn sách có một đôi sư tử chặn
giấy làm bằng thứ ngọc dương chi rất là tinh hảo, liền cầm tay ngắm nghía hồi
lâu mà luôn mồm khen ngợi.
Vương Đô
Úy thấy Đoan Vương có ý ưa thích liền nói:
- Ở đây
có một cái giá bút rồng bằng ngọc, cũng một người thợ ấy chế ra, để mai xin đem
sang dâng ngài dùng. Đoan Vương mừng rỡ tạ ơn, rồi lại cùng nhau quay ra dự
tiệc, mãi đến chiều tan tiệc mới lui về vương phủ.
Ngày hôm
sau, Tiểu Vương Đô Thái Úy, lấy đôi sư tử và cái giá bút rồng bằng ngọc, bỏ vào
cái hộp nhỏ bằng vàng, lấy lụa bọc ngoài, và viết một phong thư sai Cao Cầu đưa
sang vương phủ.
Cao Cầu
vâng lệnh đem các lễ vật sang phủ Đoan Vương.
Khi tới
cổng, báo cho người canh cổng vào bẩm báo với Đoan Vương.
Người
canh cổng vào một lúc rồi chạy ra bảo Cao Cầu rằng:
- Có
phải là ngươi bên phủ Phò Mã, thì cứ vào trong sân điện kia, ngài đương đánh
cầu ở đấy.
Cao Cầu
nghe nói, liền nhờ dẫn vào.
Khi tới
sân điện, thấy Đoan Vương đầu đội mũ Sài Tiến, mình mặc áo long bào hoa tía,
lưng thắt đai văn vũ, tay cầm một bên áo xốc lên, chân đi đôi giày bít gót,
thêu phượng bay bằng kim tuyến, cùng với năm bảy tiểu môn đá cầu, Cao Cầu thấy
vậy đứng núp đàng sau đám hoàng môn mà không dám thò mặt ra.
Chợt khi
ấy quả cầu ở trên không rơi xuống đất. Đoan Vương đón không được, lại bắn đến
bên cạnh Cao Cầu, chàng ta liều gan đá luôn một quả về cho Đoan Vương, Đoan
Vương lấy làm thích, gọi đến gần mà hỏi là: Ngươi ở đâu?
Cao Cầu
quì xuống đất kêu rằng:
- Con là
người bên phủ Đô Thái Úy, sai đưa sang mấy bộ đồ ngọc, và bức thư sang dâng đại
vương.
Nói đoạn
liền lấy thư đưa lên, Đoan Vương xem xong mỉm cười ra dáng vui mừng, không kịp
xem đến các đồ ngọc ngoạn, vội sai quân hầu đem cất đi, và lại hỏi luôn Cao Cầu
rằng:
- Nhà
ngươi tên là gì? Cũng biết đá cầu hay sao?
Cao Cầu
cung kính bảo rằng:
- Con
tên là Cao Cầu, thủa nhỏ cũng có học đôi chút.
Đoan
Vương cười mà bảo rằng:
- Nếu
vậy ngươi thử đá chơi với ta một chút xem sao?
- Con
đâu dám vô lễ.
- Việc
chơi phải như thế mới vui, cho phép ngươi cứ đá thử ngại chi?
Cao Cầu
từ chối năm bảy lượt, Đoan Vương nhất định không nghe, sau bất đắc dĩ phải xin
lỗi để vào đá.
Cao Cầu
vừa mới đá luôn được mấy quả, Đoan Vương đã vỗ tay khen giỏi.
Bây giờ
chàng mới giở hết tài bình sinh đá đông đỡ tây, tung cao hứng thấp, làm cho quả
cầu kia hết lên lại xuống hết dọc lại ngang, con mắt nhanh nhẹn đến đâu cũng
không theo kịp; Đoan Vương reo to lên lấy làm thích chí, rồi giữ riết Cao Cầu ở
đấy mà không cho trở về nữa.
Về phần
Đô Thái Úy từ khi sai Cao Cầu đi rồi mong mỏi suốt ngày hôm ấy, cũng không thấy
về, trong lòng lấy làm nghi ngại, không hiểu cớ làm sao?
Chợt
thấy sáng hôm sau, người nhà Đoan Vương đưa giấy đến mời sang vương phủ.
Đô Thái Úy
thấy vậy vội vàng dóng ngựa đi ngay. Khi tới nơi Đoan Vương mừng rỡ đón chào,
trước hết tạ ơn về những tặng đãi ngọc ngoạn, rồi sau mời vào dự tiệc.
Chè chén
hồi lâu, Đoan Vương nói với Đô Thái Úy rằng:
- Tên
Cao Cầu ở bên quý phủ có tài đá cầu rất giỏi, ý tôi muốn lưu hắn ở lại đây, để
sớm khuya thưởng thức cho vui, chẳng hay Thái Úy có ưng thế cho chăng?
Đô Thái
Úy vui cười đáp rằng:
- Nếu
điện hạ bằng lòng cho hắn ở đây thì tôi đâu lại không thuận vậy từ nay xin cho
hắn theo hầu.
Đoan
Vương nghe nói tỏ lòng mừng rỡ, cảm ơn Đô Thái Úy, rồi cùng nhau chè chén, mãi
khi mặt trời lặn mới tan.
Từ đó
Đoan Vương để cho Cao Cầu hầu hạ thân mật ở trong cung cấm, ngày đêm một bước
không rời, cái cảnh tao tế của cậu đãng tử ngày xưa, nay đã bội phần vinh hạnh.
Được
ngót hai tháng sau, vì Triết Tôn Hoàng Đế không có con trai, các quan trong
triều thương nghị lập Đoan Vương lên làm Thiên Tử, xưng đế hiệu là Huy Tôn, gọi
là Ngọc Thành Giáo Chủ, Vi Diệu Hoàng Đế.
Sau khi
đã lên ngôi Thiên Tử, liền triệu Cao Cầu đến mà bảo rằng:
- Trẫm
cũng muốn đãi ngươi lên quan chức, song tất phải đợi có công lao mới được, nay
trẫm hãy giao cho viện Khu Mật, biên tên ngươi vào danh sách tùy giá thiên
chuyển, rồi sẽ liệu thăng dần.
Nhân thế
mới trong nửa năm trời, Cao Cầu đã thăng lên chức Điện Súy Thái Úy, liền chọn
ngày lành tháng tốt để đến phủ nhận việc quan.
Khi đó
các hàng nha thuộc cùng các quân lính mã bộ đều hết thẩy phải vào bái yết quan
Điện Súy mới.
Quan
Điện Súy tra kiểm các hàng đủ mặt, duy còn thiếu tên Giáo đầu là Vương Tiến vì
mắc bệnh hơn nửa tháng nay không thể vào hầu được.
Điện Súy
ra oai giận dữ sai Bài Hầu đi bắt Vương Tiến đến ngay.
Bài Hầu
vâng lệnh đến báo cho Vương Tiến biết, và giục phải vào hầu ngay, nếu không thì
Điện Súy tất là quở trách.
Vương
Tiến bây giờ tuy yếu đau mới khỏi, song thấy mệnh lệnh thúc bách như vậy, phải
gượng vào soái phủ để yết kiến.
Khi tới
nơi vừa mới cúi lạy được bốn lạy, thì Cao Cầu đã cất tiếng hỏi ngay rằng:
- Tên
nầy có phải là con Vương Thắng, làm đồ quân Giáo Đầu không?
- Bẩm
vâng.
Cao Cầu
quát to lên rằng:
- Mầy là
đồ bán thuốc múa lao ở đầu đường xó chợ, còn biết võ nghệ gì, các quan trước đã
suy cử xằng cho mầy làm chức Giáo Đầu, thế mà nay mầy dám khinh bỉ ta, không
chịu đến đây để kiểm duyệt là nghĩa làm sao?
Mầy cậy
thần thế ai mà dám tự do như vậy?
Vương
Tiến cúi đầu kêu rằng:
- Con
đâu dám thế, thực là con bị bệnh chưa khỏi.
Cao Thái
Úy không đợi nói hết, vội ngắt mắng ngay rằng:
- Mày đã
đau bệnh chưa khỏi, sao mày còn đi được đến đây?
- Bẩm
thấy lệnh cho đòi, nên con đã cố gượng dậy để đến hầu.
Cao Thái
Úy không phân biệt phải trái, vội nổi giận thét tả hữu lôi cổ Vương Tiến đánh
mấy chục roi, bấy giờ các nha tướng cùng các quân chính tư, thấy Thái Úy toan
đánh Vương Tiến, liền đổ xô đến can rằng:
- Ngày
hôm nay là ngày Thái Úy mới đến phó nhậm ở đây, xin ngài hãy rộng tha cho Giáo
Đầu để được trọn sự vui mừng buổi mới.
Thái Úy
thấy nhiều người khuyên giải thì gượng nguôi giận mà bảo Vương Tiến rằng:
- Ta nể
mặt các tướng khuyên can, hôm nay ta hãy tạm tha cho người rồi mai sẽ liệu.
Vương
Tiến lạy tạ, ngẩng đầu lên trông rõ mặt Điện Súy, thì bỗng ngạc nhiên run sợ,
vừa bước chân lui ra vừa lẩm bẩm thở dài một mình:
- Trời
ơi! Tưởng rằng Cao Điện Súy là ai, té ra chính là bác Cao Cầu ngày xưa, bác ta
học múa gậy, bị phụ thân ta đánh cho một gậy, nằm sệt mãi đến ba bốn tháng
không dậy được, vì thế bác ta sinh ra hiềm khích với nhà mình? Nay không biết
bác ta vì cớ chi mà bác ta đã làm tới chức Điện Súy như thế? Nếu vậy thì tất là
tính mệnh ta khó lòng mà chu toàn với hắn ta được.
Nhân thế
trong lòng lo âu phiền muộn, lững thững về đến nhà lúc nào không biết. Vương
Tiến vốn không có vợ con, chỉ có một bà mẹ già đã ngoài sáu mươi cùng ở.
Khi đó
chàng về tới nhà, liền đem đầu đuôi câu chuyện thuật cho bà mẹ nghe, hai người
lấy làm ách vận đến nơi, khó lòng mà thoát khỏi.
Bà mẹ
sụt sùi than khóc hồi lâu, rồi bảo Vương Tiến rằng:
- Con
ơi. Ba mươi sáu chước, chước nào là hơn? Bất nhược mẹ con ta trốn trước là ổn.
- Vâng,
có lẽ kế ấy là tiện hơn cả.
- Đành
vậy, nhưng con ơi biết tránh vào đâu bây giờ?
- Thưa
mẹ, có quan Kinh Lược ở phủ Duyên An, các hàng quan quân của ngài, thường khi
qua tới kinh sư, vẫn thích cái lối võ nghệ của con, vậy nay thử liều sang ở đó
thì may ra cũng có cơ an thân mà lập nghiệp được.
Bà mẹ
lấy làm phải, quyết kế trốn sang phủ Duyên An, nhưng lại nghĩ đi nghĩ lại mà
bảo con rằng:
- Ở đây
có hai tên Bài Quân là Trương và Lý là do Điện Súy cắt ra để hầu, nay nếu ta
muốn đi, mà lở hai tên ấy biết thì làm thế nào cho thoát.
Vương
Tiến cười mà đáp rằng:
- Cái đó
con đã có cách xử trí, xin mẫu thân chớ lo.
Chiều
hôm ấy, Vương Tiến gọi tên Trương Bài lên cho ăn cơm trước mà bảo rằng:
- Dạo
trước ta yếu, có đến cầu Nhạc Miếu tại ngoài của Toan Tảo, ngày nay bệnh khỏi
ta định sáng mai đi trả lễ, vậy ngươi ăn song phải đến đó trước, bảo Thủ Từ
quét tước sạch sẽ, và làm lễ tam sinh để sáng mai ta ra lễ tạ.
Trương
Bài vâng lời, cơm nước xong rồi, đi đến Nhạc Miếu trước.
Đêm hôm
ấy hai mẹ con Vương Tiến sửa soạn hành lý; gói ghém tiền nong buộc làm hai túi
rất to, chờ đến canh năm Vương Tiến gọi Lý Bài dậy, phân phó rằng: Ngươi mang
lạng bạc này đến Nhạc Miếu, cùng với Trương Bài mua lễ tam sinh, làm cho sạch
sẽ cẩn thận, để chờ ở đó, rồi ta đến sau.
Nói đoạn
đưa tiễn cho Lý Bài đi, vào khoảng giữa trống canh năm trời còn sẩm tối, Vương
Tiến soạn xong hành lý, khoác hai túi vào hai bên mình ngựa, buộc bịu cẩn thận
đâu đấy, còn các đồ vật nặng nề, bỏ lại ở nhà, khóa chặt cửa lại, rồi dắt mẹ
lên ngựa. Mình thì gánh một gánh hành lý nhỏ lén ra cửa Tây Hoa, trông đường đi
về hướng Duyên An Phủ.
Sáng hôm
sau hai tên bài quân Trương và Lý sắm các lễ vật sẵn sàng, đợi Vương Giáo Đầu
mãi gần trưa cũng không thấy tới, tên Lý Bài lấy làm sốt ruột, mới chạy về nhà
để tìm Vương Tiến.
Khi tới
nơi thấy cửa đóng then cài, mà kiếm đâu cũng không ra Vương Tiến. Được một lát
Trương Bài cũng sốt ruột ra về.
Sáng hôm
sau hai tên quân bài lại đến khắp các nhà thân thích để tìm kiếm mẹ con Vương
Tiến, song bóng hồng đã tếch tềnh tang, còn biết đâu là tung tích.
Sau bất
đắc dĩ hai tên quân bài phải vào báo cho Điện Súy biết là mẹ con Vương Tiến đã
khoá cửa bỏ nhà, mà trốn đi đâu mất.
Cao Thái
Úy nghe báo cả giận mà rằng:
- Quân
này gớm thật, để ta xem rõ nó trốn đi đâu?
Nói
đoạn, sai viết văn thư tư đi các châu, để truy nã hai mẹ con Vương Tiến.
- Về
phần Vương Tiến sau khi đi khỏi Đông Kinh thì đêm ngủ trọ ngày lên đường, dãi
gió dầm sương, hai mẹ con rất là vất vả.
Đường đi
được hơn một tháng, nghe chừng gần tới Duyên An, hai mẹ con lấy làm vui mừng,
mãi nói chuyện với nhau, bất giác trời tối lúc nào không biết. Khi quay ra toan
tìm chỗ trọ thì độ đường đã lỡ, không còn hàng quán đâu đây, trong bụng đã có
phần lo sợ. May đâu chợt thấy đàng xa có khu rừng con, lại có bóng đèn sáng
chiếu lập lòe, chắc rằng ở đó có nhà trọ được, liền cùng nhau rảo bước đến xem.
Tới nơi,
quả nhiên là một trang viện lớn, có tường đất bao bọc chung quanh ngoài trồng
toàn liễu, có tới ba bốn trăm cây, xanh biết chẳng khác chi một khu rừng tùng
vậy.
Bây giờ
hai người lần đến trang viện, gọi cửa hồi lâu, mới thấy người chạy ra hỏi.
Vương
Tiến hạ gánh hành lý ở trên vai xuống, chắp tay vào người kia mà nói rằng:
- Thưa
người, bà con tôi chẳng mai đi mất lỡ mất độ đường, không có quán hàng để trọ,
vậy chúng tôi muốn phiền người cho vào ngủ trọ ở đây một tối, sáng mai xin nộp
tiền trọ cẩn thận, có được chăng?
Người
kia nói:
- Để tôi
vào nói trang chủ xem sao, nếu được thì sẽ mời vào nghỉ.
Nói rồi
vào trong nhà một lát chạy ra bảo Vương Tiến rằng:
- Ông
chủ tôi đã ưng lời rồi, xin cứ vào trong nhà.
Vương
Tiến quảy gánh lên vai, dắt ngựa đi theo người kia, vào bên cạnh chỗ nhà lúa,
đặt gánh xuống rồi đỡ mẹ xuống ngựa, và dắt ngựa ra buộc gốc cây liễu gần đó.
Đoạn cùng vào thảo đường để chào chủ nhân. Chủ nhân này đã ngoài sáu mươi tuổi,
râu tóc bạc phơ, mình mặc áo rộng, chân mang giầy da, trông ra giống một ông
trưởng giả, khi thấy mẹ con Vương Tiến tới nơi liền mời ngồi tử tế và hỏi tên
họ.
Vương
Tiến nói dối là người họ Trương, vốn ở kinh sư, vì buôn bán thua lỗ, phải đi
tìm bà con ở phủ Duyên An để nương nhờ, nhân lỡ bước xin vào để trọ.
Người
chủ nghe nói cũng yên chí cho là thực, liền sai người dọn cơm cho mẹ con Vương
Tiến ăn.
Cơm nước
xong rồi, chủ nhân đưa hai người sang phòng để nghỉ, Vương Tiến nói với chủ
nhân rằng:
- Có con
ngựa của mẹ tôi cưỡi, nhờ người bảo người nhà cho ăn uống cẩn thận, tôi xin tạ
ơn sau.
Chủ nhân
cười và đáp rằng:
- Được,
nhà tôi cũng có ngựa để tôi bảo nó dắt ra chuồng cho ăn uống một thể.
Nói đoạn
đi vào phòng nghỉ.
Sáng hôm
sau khi mặt trời mọc đã cao, mà chưa thấy mẹ con Vương Tiến dậy, sau người chủ
đi đến phòng khách, thấy tiếng mẹ Vương Tiến kêu rên mà cửa phòng chưa mở, liền
hỏi lên rằng:
- Trời
sáng đã lâu rồi mà các ngài chưa dậy hay sao?
Vương
Tiến nghe tiếng hỏi, vội vàng chạy ra vái chủ nhân mà nói rằng:
- Thưa
ngài chúng tôi dậy đã lâu, nhưng mẹ tôi đi đường mỏi mệt, hôm qua sinh chứng
đau bụng, cho nên tôi chưa dám mở cửa đi ra.
Trang
chủ nghe nói liền bảo Vương Tiến rằng:
- Nếu
thế thì ông nói với cụ cứ yên tâm ở lưu lại đây mấy hôm, để tôi tìm thầy thuốc
đến chữa.
Vương
Tiến vui mừng cảm tạ, rồi lưu mẹ ở đó để phục thuốc, cách năm sáu hôm bệnh của
mẹ đã khỏi.
Vương
Tiến liền thu thập hành lý để sắp sửa ra đi. Khi ra ngoài tầu nom ngựa, thì
thấy có một chàng thiếu niên cởi trần mặc quần đùi, to béo phục phịch, đương
múa roi một mình ở sau sân.
Vương
Tiến đứng xem một lát, bất giác bật miệng nói lên rằng:
- Roi
múa đã khá lắm. Nhưng còn nhiều chỗ hớ hên, chưa có thể gọi là hảo hán được.
Người
thiếu niên nghe nói, ngẩng lên thấy Vương Tiến, bỗng nổi giận quát:
- Anh là
người nào, dám chê võ nghệ của ta? Ta đi học võ đã bảy tám ông thầy, có lẽ lại
không bằng anh hay sao? Có giỏi vào đây đánh thử với ta vài hiệp xem sao?
Đương
khi quát tháo ầm ĩ , thì thấy trang chủ ở đâu chạy ra mắng thiếu niên rằng:
- Mầy
không được vô lễ thế.
Người
thiếu niên nói:
- Anh ta
là người nào, mà dám chê võ nghệ của con?
Trang
chủ quay lại hỏi Vương Tiến rằng:
- Khách
cũng biết đánh roi gậy chăng?
Vương
Tiến đáp:
- Tôi có
biết đôi chút nhưng thiếu niên kia là người nào?
- Thưa
hắn là con của lão đấy.
- Nếu
vậy thì tôi xin sửa giúp cho cậu ấy, nhưng không biết cậu ấy có bằng lòng hay
không?
Trang
chủ nói:
- Ngài
có lòng như thế, thì còn gì hơn nữa?
Nói xong
liền gọi chàng thiếu niên ấy đến bái chào Vương Tiến làm sư phụ. Thiếu niên
nhất định không nghe, lại ra dáng tức giận mà rằng.
- Cha
đừng nghe anh ta nói liều, nếu anh ta giỏi. Thì xin ra đây hãy đánh với con vài
hiệp, có được thì con xin bái làm sư phụ ngay.
Vương
Tiến đáp luôn rằng:
- Được.
Nếu cậu muốn thi tài, thì có khó gì.
Chàng
thiếu niên nghe Vương Tiến nói, liền múa vung roi chạy thẳng tới chổ Vương Tiến
mà nói rằng:
- Bác có
giỏi cứ ra đây.
Vương
Tiến thấy chàng ta hăng hái quá vậy, chỉ cười không nói gì.
Sau
trang chủ quay sang nói với Vương Tiến:
- Nếu
ngài có lòng bảo giúp cháu, thì xin ngài cứ thử cho nó biết tay, có ngại gì.
- Nhưng
tôi e lỡ ra không tiện cho cậu ấy.
- Xin
ngài cứ thử xem, nếu nó có gẫy chân gẫy tay, thì cũng là tại nó; còn kêu ai
được nữa đây.
Vương
Tiến bất đắc dĩ, phải ra chỗ giá cắm gậy, rút lấy một cây roi, đi ra giữa sân,
múa qua mấy vòng cho thiếu niên xem.
- Chàng
thiếu niên xem một lát, rồi cũng cầm roi xông ra đánh, Vương Tiến chạy giật
lùi, rồi giơ tay ra đỡ, chứ không đánh lại.
Chàng
thiếu niên lại sấn đến gần Vương Tiến. Vương Tiến liền giơ roi ra bộ đánh rất
mạnh, chàng thiếu niên giơ roi vội lên đỡ, Vương Tiến lại trở đầu roi dí vào
bụng thiếu niên, đẩy một cái thật mạnh, làm cho thiếu niên không kịp phòng bị,
ngã một cái rất nên thân, Vương Tiến vội vất roi ra đất, chạy lại nâng người
thiếu niên dậy, cười nói khuyên giải mấy câu.
Người
thiếu niên bị một ngọn roi ấy, mới phục tài Vương Tiến, lóp ngóp bò dậy, vái
lấy vái để mà rằng:
- Thưa
ngài, thực là tôi đã uổng công học tập bao thầy, mà rút cục không thấm vào đâu
với sư phụ cả. Vậy xin ngài tha lỗi mà dạy bảo cho?
Vương
Tiến cười mà rằng:
- Tôi
đến đây quấy quá cũng nhiều, không biết lấy gì đền ơn cho được. Nếu cậu muốn
học tập thêm thì tôi xin hết lòng bảo giúp, không dám tiếc chi.
Trang
chủ nghe nói cũng lấy làm mừng, bắt con trai đi theo Vương Tiến vào trong nhà,
rồi sai gia nhân giết dê và dọn rượu, thiết đãi mẹ con Vương Tiến. Trong khi dự
tiệc, trang chủ cất tiếng mời Vương Tiến rồi hỏi rằng:
- Tôi
xem ngài võ nghệ cao cường như vậy, tất là ngài đã làm chức Giáo Đầu thì phải?
Bố con nhà tôi thực là có mắt mà không trông thấy núi, xin ngài xá lỗi cho.
Vương
Tiến cười mà đáp rằng:
- Chẳng
dám dấu chi cụ, tôi nay thực không phải là người họ Trương, mà chính là Giáo
Đầu Vương Tiến dạy tám mươi vạn Cấm Binh ơ Đông Kinh. Chỉ suốt ngày múa đao cầm
gậy, còn kém chi ai. Nay nhân vì Cao Thái Úy mới đến nhậm chức có lòng thù ghét
với tôi. Tôi tự nghĩ mình không địch lại nổi, cho nên hai mẹ con phải bất đắc
dĩ trốn sang phủ Duyên An, để vào hầu quan Trung Kinh Lược. Bất đồ lỡ bước tới
đây nhờ được lão nhân có lòng hậu đãi, lại mời thầy chữa bệnh cho mẹ tôi, như
thế thật là nghĩa nặng ơn sâu, biết lấy gì báo đáp. Nếu công tử nhà có muốn học
tập cho hoàn toàn, thì tôi xin bảo giúp cho, còn như những ngón gậy đó, chẳng
qua chỉ trông cho đẹp mắt, chứ đến khi ra trận, thì chẳng vào đâu.
Trang
chủ nghe nói càng bội phần trân trọng, gọi con trai bảo rằng:
- Nếu
vậy con phải lạy tạ sư phụ lần nữa mới được?
Chàng
thiếu niên đứng dậy lạy tạ Vương Tiến rồi lại cùng ngồi dự tiệc.
Trang
chủ kể chuyện lại với Vương Tiến rằng:
- Nguyên
tổ phụ tôi từ xưa vẫn ở địa hạt huyện Hoa Âm này, đàng trước có dãy núi Thiếu
Hoa, thôn này tên gọi là Sử Gia Thôn, có tới bốn trăm nhà ở, đều là họ Sử ở cả.
Nhà tôi chỉ được thằng cháu đây, nhưng tính nó du đãng, không chịu cày cấy làm
ăn, chỉ thích múa côn đánh gậy, mẹ nó ngăn mãi không được, thành ra lo quá mà
chết, còn tôi đây cũng phải chìu lòng nó vậy. Từ xưa đến nay phí tổn kể biết
bao nhiêu tiền, để đón thầy học võ, rồi lại thuê thợ chế cho một chiếc áo giáp,
đằng trước có thêu chín con rồng rực rỡ, nhân thế ở quanh đây, ai cũng gọi nó
là Cửu Văn Long Sử Tiến. May nay lại được ngài quá bộ đến đây, vậy xin ngài làm
phúc dạy dỗ giúp cho, lão tôi xin hết lòng cảm tạ.
Vương
Tiến cả mừng đáp rằng:
- Vâng
cụ đã dạy thế, thì từ nay tôi xin lưu lại đây, để bảo giúp cho cậu ấy thành
tài, rồi tôi sẽ xin từ biệt.
Khi cơm
rượu xong, trang chủ lưu hai mẹ con Vương Tiến ở lại đó, để cho con học tập.
Từ đó,
hàng ngày Vương Tiến bắt Sử Tiến học tập mười tám thứ võ nghệ, giảng dạy kỹ
càng, luật phép nghiêm chỉnh, thắm thoát trong nữa năm trời, không gì mà không
tinh không kín đáo.
Được ít
lâu Vương Tiến thấy Sử Tiến khá rồi, mọi môn đều giỏi cả, tự nghĩ mình ở đây
lưu luyến mãi thì không tiện, liền ngỏ lời với trang chủ và Sử Tiến cáo từ, để
sang Duyên An Phủ kiếm kế lập thân.
Trang
chủ cùng con là Sử Tiến cố ý vật nài lưu lại, song Vương Tiến nhất định không
nghe, bất đắc dĩ phải đặt tiệc tiễn hành, và đưa ra mấy tấm vải đoạn cùng hai
trăm lạng bạc, để tặng Vương Tiến lên đường.
Sáng hôm
sau Vương Tiến sửa soạn hành lý, chỉnh đốn cung ngựa, từ giã hai bố con Sử Tiến
ra đi, Sử Tiến bắt người gánh đồ hành lý, hết trong một ngày, đưa chân mẹ con
thầy học, ra khỏi 10 dặm rồi mới bái biệt trở về.
Sử Tiến
từ khi sư phụ đi rồi, thì ngày ngày luyện tập một mình, hết đao lại thương, hết
cung lại ngựa, có khi nửa đêm diễn võ ở vườn sau, có lúc ban ngày múa chơi ở
sân trước, tháng ngày lẩn thẩn, cơ hồ quên cả tấm thân.
Cách nửa
năm sau, trang chủ bị cảm rất nặng Sử Tiến sai người đi đón thầy thuốc khắp mọi
nơi, chữa chạy không thiếu gì phương cách, nhưng mình già tuổi yếu, bệnh thế
triền miên, được mấy hôm thì ông về nơi tiên giới. Sử Tiến đau đớn khóc thương,
nhất diện sắm sanh khâm niệm quách quan, nhất diện đón thầy về làm chay cúng
Phật, cho tĩnh độ siêu sinh, rồi chọn tháng tốt ngày lành, làm lễ mai táng ở
ngọn núi bên tây.
Từ đó Sử
Tiến trong lòng buồn bã, lại càng không thiết đến công việc nông, chỉ đêm ngày
lẩn thẩn tìm ngươi đấu võ thi tài làm thích.
Một hôm
vào khoảng trung tuần tháng sáu, trời đang bức nực lạ thường, Sử Tiến vác cái
ghế ra gốc cây liễu ở gần cạnh bục thóc để ngồi hứng mát. Chợt thấy ở dưới gốc
cây tùng bên kia, có người ngấp nghé nom dòm, chàng lấy làm ngạc nhiên quát hỏi
lên rằng:
- Quái!
Anh nào nom dòm nhà ta thế kia?
Hỏi
đoạn, đứng dậy chạy ra xem, thì thấy tên Lý Cát, là tay đi săn đương đứng ở đó.
Sử Tiến lại hỏi luôn rằng:
- Lý
Cát! Ngươi nấp nom gì đấy? Hay là muốn thử võ với ta chăng?
Lý Cát
dạ! Mà đáp lại rằng:
- Thưa
cậu, tôi đến đây để săn mấy con cầy, để kiếm rượu, nhưng thấy cậu ngồi đó, nên
tôi không dám vào.
- Sao
dạo trước săn bắn được cái gì, anh cũng mang đế đây bán, tôi chưa từng chịu
tiền của anh bao giờ? Thế mà lâu nay không thấy mang đến đây bán cho tôi nữa.
Hay là anh khinh tôi không có tiền chăng?
- Có đâu
dám thế, vì dạo này săn không được cái gì, cho nên không dám đến đây thôi.
Sử Tiến
quát lên rằng:
- Anh
nói cuội, núi Thiếu Hoa rộng lớn như vậy, mà lại không có con vật gì hay sao.
Lý Cát
nói rằng:
- Thưa
cậu, Nguyên ở núi Thiếu Hoa bây giờ, có một bọn cướp đến đóng, người đầu đảng
là Thần Cơ quân sư Chu Vũ, tự xưng làm Đại Vương; người thứ hai là Khiếu Giản
Hổ Trần Đạt; còn người thứ ba là Bạch Hoa Sà Dương Xuân, tụ đến năm bảy trăm
lâu la, và mấy trăm cỗ ngựa, để đi cướp bóc kiếm ăn. Quan huyện Hoa Âm cấm mãi
không được, phải treo giải ba nghìn quan tiền để thưởng người bắt cướp, nhưng
nào có ai dám đụng đến chúng nó đâu? Bởi thế lâu nay chúng tôi không dám lên
núi, nên không kiếm được gì.
Sử Tiến
lắc đầu nói rằng:
- Ta
cũng thấy nói có bọn cướp ở đấy, nhưng không ngờ nó hống hách như vậy. Lý Cát
ôi! Hôm nay nếu có kiếm được cái gì, thì ngươi phải mang đến đây bán cho ta mới
được.
Lý Cát
vâng dạ luôn mồm rồi đi.
Sử Tiến
quay vào nhà trong suy nghĩ một mình:
Bọn cướp
nó lộng hành như vậy, thì tất nhiên có phen quấy rối đến chỗ ta, vậy bất nhược
ta phải phòng bị ngay mới được.
Chàng
nghĩ như vậy, liền sai người nhà mổ thịt hai con trâu, rồi cho mời mấy trăm nhà
trong thôn đến chén.
Khi dưới
trên đã tề tựu cả rồi, Sử Tiến cất chén rượu mời, nói với hàng thôn rằng:
- Tôi
nghe thấy trộm cướp đến đóng trên núi Thiếu Hoa, đây quân gia có tới năm bảy
trăm người, sức mạng người đông, không ai cản nổi thế tất sau này phải quấy
nhiễu đến ta, vậy tôi muốn mời đồng dân đến đây, để bàn kế phòng bị, kẻo lỡ khi
nguy hiểm đến nơi, khó lòng tránh khỏi. Từ nay các nhà ở trong hàng thôn, ai ai
cũng phải phòng bị khí giới, và đặt mõ làm hiệu, nếu có động dạng gì cứ đánh mõ
lên, thì các nhà khác phải đổ đến ứng cứu cho mau.
Các thôn
dân nghe nói, đều đồng thanh rằng:
- Chúng
tôi là nông dân, không biết chút gì, vậy các việc xin nhờ Đại Lang tất cả, hễ
có động dạng ở đâu, chúng tôi xin vâng lời đến cứu.
Khi chè
chén xong rồi, các dân thôn đâu đấy về nhà, sửa soạn võ khí theo như lời Sử
Tiến đã dặn, còn Sử Tiến thì sửa sang cổng ngõ ngăn ngừa giậu vách, và sắp sẵn
các đồ đai giáp cung ngựa, để dự bị chống giặc.
Nguyên
bọn giặc này, đến đóng ở núi Thiếu Hoa, có ba người làm trùm, một người tên là
Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ, vốn người ở đất Định Viễn, sai khiến hai cây song đao,
võ nghệ dẫu không ra gì, song cũng biết ít nhiều trận pháp, lại mưu lược cũng
hơi thông. Một người tên là Trần Đạt; quê ở Nghiệp Thành, vốn hay dùng cây
cương sang để ra trận; còn một người thứ ba tên là Dương Xuân, người đất Bồ
Châu, huyện Giải Lương, thường cầm một thanh đại đao rất lớn.
Một hôm
Chu Vũ bảo với Trần Đạt, Dương Xuân rằng:
- Nghe
nói huyện Hoa Âm có treo giải ba nghìn quan tiền để thưởng người tróc nã bọn
ta, vậy thì bất nhật tất có quan quân kéo đến, thế mà trong trại ta lương thảo
không có là bao, chỉ e khi binh hỏa đến nơi, thì khó lòng chống cự. Nay nhân
khi nhàn hạ, sao ta không liệu kế đi tảo vác lấy lương thảo đem về mà phòng bị,
sẵn sàng cho vững dạ.
Khiêu
Giản Hổ Trần Đạt gật đầu đáp rằng:
- Phải
lắm, bất nhược ta đến huyện Hoa Âm mượn ngay họ một ít lương thảo, xem họ xử
trí ra sao đã.
Bạch Hoa
Sà Dương Xuân gạt ngay đi rằng:
- Ta
không nên đến huyện Hoa Âm cứ kéo vào Bồ Thành có lẽ lại thanh thỏa hơn.
Trần Đạt
nói:
- Huyện
Bồ Thành người thưa lương ít, lấy được bao nhiêu, chi bằng đến huyên Hoa Âm
nhân dân giàu có, tiền thóc sẵn sàng, có thú hơn không?
Dương
Xuân nói:
- Đành
vậy, nhưng anh phải biết rằng, đường đi Hoa Âm, tất phải qua thôn Sử gia, ở đấy
có anh Cửu Văn Long Sử Tiến cũng là một tay đại bợm, nếu không trừ được nó, thì
sao nó để cho đi.
Trần Đạt
làm bộ mạnh bạo mà rằng:
- Sao
chú bé mật thế; một thằng nhãi con còn sợ, thì địch thế nào nổi với quân quan.
Dương
Xuân nói:
- Anh
chớ nên khinh người ấy mới được.
Chu Vũ
nói:
- Tôi
cũng nghe thấy nói hắn ta anh hùng mà võ nghệ rất giỏi, có lẽ đừng nên phạm vào
đấy thì hơn.
Trần Đạt
có ý không bằng lòng:
- Các
ông thật là chỉ biết tâng bốc chí khí người ta, mà làm nhụt mất cả uy phong của
mình, nó bất quá là người, chứ có ba đầu sáu tay gì mà sợ.
Nói
đoạn, thét ngay đám lâu la:
- Chúng
bay sắp ngựa đem đến đây, ta hãy phá thôn Sử Gia rồi lấy huyện Hoa Âm cho mà
xem.
Chu Vũ
và Dương Xuân thấy vậy, tỏ ý can ngăn, song Trần Đạt nhất định không nghe, vác
thương lên ngựa, dẫn hơn một trăm lâu la, đánh trống khua chiêng, thẳng vào
thôn họ Sử. Sử Tiến đương khi chuẩn bị sẵn sàng để chờ giặc đến, bỗng nghe tin
báo, thì khua mõ ra lệnh cho thôn dân đổ đến.
Khi thôn
dân nghe tiếng hiệu, thì ba bốn trăm nhà đều tay gươm tay gậy bảo nhau kéo đến
cứu ứng, tới nơi thấy Sử Tiến đầu đội khăn chữ nhất, mình mặc áo giáp hồng,
chân đi giày tía, lưng thắc dây da, trước sau ngực đều có kính yểm tâm, lưng
đeo bao tê, tay cầm cây đao ba mũi, rất là oai vệ. Bấy giờ người nhà dắt ra một
con ngựa đỏ, Sử Tiến nhảy lên mình ngựa, đàn trước có hơn bốn mươi gia nhân
tráng kiện dàn hàng, lại có tám chín mươi người thôn trang khỏe mạnh đi kèm hai
bên, còn bao nhiêu thôn dân đi theo sau cùng kéo ra cửa thôn. Vừa đi tới chỗ
sườn núi đã thấy Trần Đạt đầu đội khăn hồng, mình mặc áo giáp sắt bọc vàng,
chân đi đôi giày ống, cưỡi con ngựa trắng cao đầu, tay vác thanh cương mâu, dẫn
lâu la kéo tới.
Sử Tiến
trông thấy quát lên hỏi rằng:
- Các
ngươi ở đâu dám đến đất này quấy nhiễu lương dân? Tội ấy cũng đã đáng chết, nay
còn muốn cả gan xâm phạm đến chỗ ta ở hay sao?
Trần Đạt
ngồi trên mình ngựa đáp rằng:
- Vì
trong trại chúng tôi thiếu ăn, muốn sang huyện Hoa Âm để vay lương thực, đường
đi qua quý thôn đây, muốn phiền ngài cho đi nhờ, khi trở về tôi xin hậu tạ.
Sử Tiến
nghe dứt lời quát lên rằng :
- Các
ngươi nói dễ chưa, ta đây đương tính đi tróc nã các ngươi, nay mi tự dẫn đến
đây, tất là không thể nào tha ra được.
Trần Đạt
lại nói:
- Ngài
ơí! Trong bốn bể đều là anh em hết cả, hẹp chi mà ngài không cho chúng tôi mượn
lối để đi?
Sử Tiến
cười đáp:
- Đành
vậy, nhưng có một vật kia, nó không chịu cho các ngươi mượn đường để đi, ngươi
thử hỏi xem nó có bằng lòng, thì ta sẽ dung cho các ngươi.
Trần Đạt
nghe nói cả giận mà rằng:
- Anh
này giỏi, anh bảo ta hỏi ai?
- Ngươi
hỏi thanh đao trong tay ta đây này, xem nó có bằng lòng không?
Trần Đạt
hầm hầm không đợi nói dứt lời, vội múa cương sang xông vào, đánh thẳng. Bên kia
Sử Tiến cũng giơ đao, xông ngựa ra chống cự.
Đôi bên
đánh lộn bậy hồi lâu, Sử Tiến giả cách hớ hênh, Trần Đạt liền cầm thương nhằm
Sử Tiến đâm một nhát thật mạnh. Sử Tiến quất ngựa nhảy rất nhanh, để tránh mũi
thương, rồi quay ngoắt ngay vào Trần Đạt, Trần Đạt còn luống cuống toan quay
đầu để đỡ bỗng bị Sử Tiến quăng dây nhợ quấn chặt lấy mình, giật ngã xuống
ngựa. Bọn lâu la thấy chủ tướng đã thua, đứa nào đứa nấy đều thục thân mà chạy
cả. Sử Tiến hô tụi thôn trang khiêng Trần Đạt về trói ở sân, để đợi khi bắt
được hai tên kia, thì sẽ giải quan một thể, đoạn rồi đem rượu thịt khao thưởng
tại thôn trang rất là vui vẻ.
Bên kia
Chu Vũ, Dương Xuân từ khi Trần Đạt đem lâu la ra đi, trong lòng vẫn áy náy
không yên, hai người còn đương bàn bạc nghĩ ngợi, thì bỗng thấy một lũ lâu la
hớt ha hớt hải, chạy về đem chuyện Trần Đạt bị bắt, giải bày cho nghe.
Chu Vũ
nghe nói biến sắc mặt kêu lên rằng:
- Hắn
không nghe lời ta, quả nhiên tai họa tới nơi, còn làm sao cho kịp?
Chu Vũ
lắc đầu mà rằng:
- Khó
lòng, Sử Tiến không phải là người vừa, anh em ta địch làm sao nổi?
- Bây
giờ tôi có một khổ kế này, nếu mà không cứu được Trần Đạt ra thì tôi với anh
cũng là chịu chết cả thôi.
- Khổ kế
là thế nào?
Chu Vũ
ghé vào tai Dương Xuân nói thầm mấy câu, rồi lại bảo rằng:
- Trừ
phi như thế, thì may ra có thể được mà thôi.
Dương
Xuân hơi có dáng mừng mà rằng:
- Nếu
vậy thì ta phải mau lên, chứ trì hoãn làm sao được nữa?
Nói đoạn
hai người cùng đi.
Bấy giờ
Sử Tiến khao thưởng trong thôn, vừa đoạn, trong lòng đương nóng nảy mong bắt
được hai tên kia, để cùng đem với Trần Đạt giải quan một thể. Bỗng thấy tráng
đinh vào báo rằng:
- Có hai
người đến ngoài cổng, nói là Dương Xuân, Chu Vũ đến hầu.
Sử Tiến
nghe nói cả mừng rằng:
-
"Nếu vậy thì ta thành công rồi, hai thằng ấy có lên trời cũng không thoát
được" đoạn nhất diện sai người đánh hiệu cho dân thôn kéo đến, nhất diện
sai lấy ngựa để ra cổng trại xem sao? Đương khi sắp sửa cung ngựa, thì đã thấy
Dương Xuân cùng Chu Vũ đi bộ bước vào hiên trại, quỳ xuống đất khóc sướt mướt
mà không nói gì?
Sử Tiến
thấy vậy quát hỏi:
- Các
ngươi định làm kế sách gì ở đây? Chu Vũ sụt sùi nói rằng:
- Thưa
ngài: Ba anh em chúng tôi chỉ vì nhiều khi bị quan trên ức hiếp, bất đắc dĩ
phải đem nhau đi cướp bóc kiếm ăn. Kỳ thủy có nguyện với nhau, không cầu được
cùng một ngày sống, mà chỉ cầu sao được cùng chết một ngày, tình thân ái của ba
chúng tôi không dám đâu ví với Đào Viên Tam Nghĩa, song sự tử sinh cố kết, thì
cũng hơi giống như nhau. Nay em Trần Đạt chúng tôi, chỉ vì không nghe lời tôi
bảo, thuận tiện tới đây, phạm đến uy ngai, để ngài bắt được, sự ấy tự nó làm
ra, đành là tự thân phải chịu, không còn kêu thán được ai. Vì vậy chúng tôi xin
đến đây để nộp thân cho ngài, ngài nghĩ đến tình cố kết cùa chúng tôi mà cho
đem nộp quan trên tất cả, để anh em chúng tôi được cùng trông thấy nhau, tức là
hạnh phúc cho chúng tôi lắm. Chúng tôi được chết về tay một người anh hùng như
ngài, không dám có một điều chi là hối hận.
Sử Tiến
nghe nói, tự nghĩ một mình:
- Ừ ba
thằng này nó có nghĩa khí với nhau như thế, nay nếu ta đem bắt mà giải quan,
thì tất nhiên bọn hảo hán ở đời phải cười ta là người hẹp lượng, xưa nay thường
nói, làm đấng anh hùng phải dung kẻ dưới, việc này có lẽ ta phải xử trí sao
đây?
Nghĩ
đoạn liền bảo hai người kia rằng:
- Các
ngươi đi theo ta vào trong này,
Chu Vũ,
Dương Xuân ung dung đi theo Sử Tiến vào đến nhà sau; rồi lại quì xuống mà kêu
xin chịu trói. Sử Tiến đôi ba phen bảo cứ đứng dậy, xong hai người nhất định
không nghe, cứ chăm chăm quì nguyên như trước.
Sử Tiến
thấy vậy trong lòng rất cảm động không yên, liền sẽ bảo hai người rằng:
- Các
ngươi đã có nghĩa khí đối đãi với nhau như thế, ta đây cũng không nỡ bắt làm
chi? Vậy ta muốn tha cho Trần Đạt trở về, thì các ngươi nghĩ sao?
Chu Vũ
nói:
- Có đâu
chúng tôi lại để lụy anh hùng như thế? Thà rằng xin ngài cứ giải chúng tôi mà
lấy thưởng còn hơn.
Sử Tiến
nghe nói, lại càng mủi lòng, liền kéo hai người đứng dậy, rồi tha trói cho Trần
Đạt, sai người đem rượu thịt ra cho ba người cùng uống và hứa cho về.
Khi uống
rượu say sưa, ba người cùng ân cần tạ ơn Sử Tiến rồi quay về trại. Tới trại,
Chu Vũ bảo hai người kia rằng:
- Nếu ta
không làm cái khổ kế như vậy, thì khó lòng mà cứu được tính mạng cho toàn.
Nhưng thế nào mặc lòng, Sử Đại Lang cũng là một tay nghĩa khí lạ thường, cho
nên mới đãi chúng ta như thế. Vậy nay mai ta phải kiếm lễ vật gì, mà tạ ơn
người ấy mới được.
Cách
mươi hôm sau, Chu Vũ sai mấy tên lâu la, vào hồi chập tối, mang ba mươi nén
vàng đến để tạ ơn Sử Tiến. Thoạt tiên, Sử Tiến thấy vậy còn từ chối không nhận.
Sau thấy tên lâu la kêu nài thảm thiết, thì cũng cảm lòng tốt mà thu lấy. Đoạn,
sai lấy cơm rượu cho tên lâu la ăn uống, mà thưởng tiền cho về.
Vào
khoảng nửa tháng sau, lũ Chu Vũ kiếm được một hạt minh châu rất lớn, cũng lại
sai người đến dâng Sử Tiến.
Sử Tiến
nhận minh châu trong lòng lấy làm nghĩ ngợi: Ba người này thành thực trọng đãi
ta như thế, nếu ta không có gì xử lại với họ thì tất nhiên họ không tâm phục
vớí mình.
Nghĩ
đoạn liền sai người nhà đi mua gấm, đặt may ba cái áo, để tặng ba người. Cách
mấy hôm sau áo đã may xong, Sử Tiến lại mua ba con dê béo, quay chín tử tế rồi
cho tên Vương Tứ đem áo gấm và dê béo vào trại, để tặng bọn Chu Vũ, Dương Xuân,
vương tứ là một tay người nhà rất thông thạo ở trong trang viện, nhân thế Sử
Tiến mới tin dùng mà sai đến những việc bì mật như vậy.
Vương Tứ
tới sơn trại, bọn Chu Vũ nhận được lễ vật mừng rỡ cảm tạ, đoạn rồi cũng sai lấy
rượu ngon thịt béo cho Vương Tứ ăn, và lại thưởng cho mươi lạng bạc đem về.
Từ đó Sử
Tiến cùng với bọn Chu Vũ thường tặng đưa lễ vật cho nhau, tình ý xem ra cũng
hơi có chiều thân mật.
Ngày đi
tháng lại, mọt hôm gần đến tết Trung thu, Sử Tiến muốn tìm bọn Chu Vũ đến để
nói chuyện cho vui, liền viết một bức thư sai Vương Tứ đưa sang sơn trại, hẹn
với Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt, đến hôm giữa tết Trung thu, thì cùng đến
thôn trang để trông trăng đánh chén. Chu Vũ nhận được thư, trong lòng mừng rỡ
vô cùng, liền viết thư đáp, xin đến hôm ấy thì cả ba anh em cùng y lời phó ước.
Viết xong thư đưa cho Vương Tứ, sai lấy rượu cho uống, và thưởng cho năm nén
bạc rồi mới cho về. Vương Tứ bỏ phong thư vào túi vái tạ ba người. Vừa ra đến
cổng bỗng gặp một tên lâu la vẫn hay đưa lễ vật sang trang viên xưa nay. Tên ấy
trông Vương Tứ thì vội mừng hớn hở, lôi kéo vào hàng rượu con con ở gần đấy để
thiết đãi, Vương Tứ vừa mới uống rượu của bọn Chu Vũ thưởng xong, lại bị tên
lâu la ép luôn mươi chén nữa, thì thấy chếnh choáng muốn say, liền đứng dậy từ
giã lâu la vội vã ra về.
Khi đi
được mấy bước, thấy hơi rượu ngày càng bốc, dần dần choáng váng ngả nghiêng như
muốn ngã, Vương Tứ cố gượng toan đi về đến nhà. Bất đồ mới đi độ mươi dặm được,
đến một khu rừng con gần đó, thì mê mệt say sưa, nằm vật ngay xuống, không biết
trời đất chi nữa.
Bấy giờ
có tên Lý Cát đương đi săn ở khu rừng ấy, khi thấy động, chạy đến xem, thì biết
ngay Vương Tứ là người nhà của Sử Tiến, liền cố sức dìu dậy muốn đưa về, song
dù làm thế nào, cũng không dìu dắt đi được, bất đắc dĩ phải đành mặc đấy. Dè
đâu Vương Tứ say quá đến nỗi có mấy lạng bạc của bọn Chu Vũ cho, và bức thư trả
lời của bọn họ cũng đánh rơi cả ra mà không biết. Lý Cát bất thình lình nom
thấy, liền tự nghĩ trong bụng: " Ta làm gì một lúc mà được bằng nầy tiền,
bất nhược gặp cơ hội này, ta thủ phăng của anh nầy, để mà chè chén, có thú hơn
không? "Nghĩ xong nhặt lấy tiền đút vào túi, rồi lại cất lấy phong thư để
xem. Lý Cát cũng hơi võ vẽ được năm ba chữ, mở thư ra xem thấy trên đề:
"Chúng tôi Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt, ở Thiếu Hoa Sơn, kính thưa ông
Sử Tiến..."Còn ở dưới, liên chi hồ điệp, không hiểu là chữ nghĩa gì, trong
bụng nghĩ thầm, nói lẩm bẩm một mình:" Cái này chắc ba chú ở Thiếu Hoa Sơn
lại kết giao với Sử Tiến, mà thông tin tức cho nhau đây hẳn? Ưø Sử Tiến, hôm nọ
ta đến qua sơn trang hắn còn giậm dọa quát tháo với ta, ai ngờ chính hắn lại
thông đồng với bọn giết người lấy của, mà nạt chúng ta? Được lắm; ta cứ giữ
nghề thả lưới mò trăng mãi, thì đến bao giờ cho phú quý? Âu là đương dịp quan
trên đương thưởng tiền bắt cướp, ta đem bức thư ra tố giác, họa may có cơ hội
tốt thì cũng nên". Nghĩ đoạn liền đút luôn bức thư vào túi, đi ngay lên
huyện Hoa Âm để tố cáo.
Khi
Vương Tứ cựa mình tỉnh dậy, mở mắt trông thấy trăng sáng lờ mờ, bốn bên toàn là
cỏ cây rừng núi, bấy giờ mới biết là mình bị chén đã quá say, mà nằm ở đó, liền
đứng dậy sờ đến túi, thì tiền không thấy mà giấy cũng không. Trong bụng bàng
hoàng tìm khắp chung quanh không còn tăm hơi chi cả? " Trời ơi! Không biết
đứa nào tinh khôn đến thế, ai xui cho nó đến đây mà lấy cả của mình? Ừ thì tiền
nong mất chẳng cần chi, nhưng còn bức thư kia, ngộ nhỡ ra đứa nào biết đến thì
sao?
Vương Tứ
nghĩ vậy, vò đầu vò tóc, tính quẩn toan quanh, chợt nghĩ ra một kế: "Nếu
bây giờ ta nói thực với Sử Đại Lang thì tất là không yên được, vậy bất nhược ta
phải nói phăng là không có thư từ gì cả là xong"
Định kế
xong rồi, đi thẳng một mạch, vào khoảng đầu trống canh năm về tới nhà, vào báo
cho Sử Tiến biết, Sử Tiến thấy Vương Tứ về liền hỏi:
- Sao
ngươi đi lâu lắm vậy?
- Dạ!
Bẩm cậu, con đi vào đến đó, ba ông ấy còn lưu lại cho con uống rượu thật say,
cho nên bây giờ con mới về được.
- Có
giấy má gì không?
- Bẩm
không! Các ông ấy toan viết thư trả lời, nhưng sợ lỡ đi đường say rượu, mà đánh
rơi mất thì khốn. Vì thế con bảo các ông ấy cứ dặn miệng thôi cũng được, vậy
các ông ấy có dặn con nói để cảm tạ Đại Lang, và hẹn rằng hôm ấy thế nào cũng
đến sớm.
Sử Tiến
khen rằng:
- Anh
tinh lắm, nếu thế thì không phụ lòng ta tin cậy thực; nhưng đã vậy, thì mai sớm
phải đi lên huyện mà sắm sửa hoa quả, và các thức rượu chè sẵn cho ta.
Vương Tứ
vâng lời lui ra, cách mấy hôm đến ngày Rằm tháng tám, khí trời mát mẻ, cảnh vật
em đềm, lũ Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt, giao việc trại cho bọn lâu la coi
sóc, rồi đem mấy người thân tín đều dắt đỏan đao thủ thân mà cùng sang Sử thôn
phó ước.
Buổi
chiều hôm ấy, ở nhà Sử Tiến đã bày tiệc sẵn sàng để đợi. Khi bọn Chu Vũ tới
nơi, Sử Tiến rất mừng rỡ, đón rước mời chào, cùng nhau đàm đạo hồi lâu, rồi mới
rước vào dự tiệc. Bấy giờ vừa khi sẩm tối, bốn bên mây tạnh trời quang, bóng
Hằng Nga vằng vặc ở phương đông đã lù lù kéo đến, soi sáng vào bàn tiệc Trung
thu, Sử Tiến cùng bọn Chu Vũ, Dương Xuân cất chén thù tạc với nhau, rất là đắc
chí, chợt đâu có tiếng người ồn ào, ở phía ngoài tường, đoạn rồi thấy đóm đuốc
sáng quắc tứ bề, Sử Tiến ngạc nhiên kinh lạ, đứng dậy bảo với ba người kia
rằng: - Ba bác hãy ngồi đây xơi rượu, để tôi chạy ra xem việc chi huyên náo thế
kia? Nói xong chạy ra quát người nhà đóng chặt cổng người ngõ lại, rồi lấy
thang trèo lên tường nom, thì thấy quan Huyện Úy huyện Hoa Âm đương ngồi trên
mình ngựa, dẫn hai tên Đô Đầu, Đốc Xuất và ba bốn trăm thổ binh vây bọc quanh
nhà mình, Sử Tiến thấy vậy, chạy vào báo cho ba người kia biết, ai nấy đều kinh
hoàng sợ hãi, chưa biết định kế ra sao?
Rượu còn
chếnh choáng,
Người đã
xôn xao,
Vì không
tỏ mặt anh hào,
Bỗng
nhưng đâu có lụy vào đến thân?
Đã nên
có dũng có nhân,
Nặng
lòng nghĩa hiệp, nhẹ cân bạc tiền,
Nước non
đã vực anh tài,
Sá chi
luồn cuối thiệt đời bồng tang;
Tiếng
hào còn để làm gương,
Trăm năm
thẹn chết những phường tham ngu.
Lời bàn
của Thánh Thán:
Một bộ
sách lớn gồm bảy mươi hồi, sắp tả ra một trăm linh tám anh hùng. Khi mới mở đầu
câu chuyện không thề tả ngay ra hết, hãy tả một người Cao Cầu như khởi điểm.
Nếu chẳng tả Cao Cầu, lại tả ngay một trăm linh tám vị anh hùng, thì ra mối
loạn bắt đầu tự lũ dưới. Nay chẳng tả ngay lũ anh hùng ấy, mà tả Cao Cầu trước,
thì thấy mối loạn sinh ra vốn tự người trên. Xét loạn tự lũ dưới sinh ra, sao
dung thứ được? Đó là điều kiêng kị của tác giả đối với mọi chuyện. Nay mối loạn
tự người trên sinh ra, không nên để cho to lớn, đó cũng là điều lo sâu của tác
giả đối với mọi chuyện. Một bộ sách lớn bảy mươi hồi, mở đầu thấy tả Cao Cầu
mới viết vậy.
Cao Cầu
trở lại Đông Kinh đắc dụng, khiến Vương Tiến bỏ quan chức trốn đi, Vương Tiến
kia là bậc thế nào? Vốn người chẳng bỏ nghiệp cha, khéo nuôi chí mẹ, tức là con
hiếu đấy! Khiến ta càng nhớ đến câu: Muốn cầu tôi trung, phải xem ở đám con
hiếu. Như thế Vương Tiến cũng bậc tôi trung, từ xưa con hiếu tôi trung, được
coi như tường lân oai phượng, hay như ngọc bích tròn, với ngọc khuê vuông, tìm
khắp bốn bể chưa lấy nổi một người, thế mà đánh sịch một cái lại có đây, thì
đáng tôn quý, đáng vinh dự lắm chứ? Sao mà sinh sự oán ghét, lại toan đánh
mắng, đến điều muốn giết chết, bức bách cho phải bỏ đi, thế là tại đâu? Đó là
Vương Tiến bỏ đi, đem lại một trăm linh tám người tới vậy.
Như thế
Cao Cầu khởi xướng cho một trăm lẻ tám người sinh chuyện. Vì sau Vương Tiến bỏ
đi, lại tiếp đến Sử Tiến, chữ Sử là họ kia cũng chữ sử là sách sử vậy, ý nói
quan Tỳ Sử cũng chỉ chép sử. Hỡi ơi! Từ xưa có sử để mà chép mọi việc, thì nay
quan Tỳ Sử chép gì, hãy chép việc của một trăm lẻ tám người vậy, chép đám người
ấy, cũng cho là sử ư? Cho là sử vì lời bàn của dân chúng, cũng là sử được, kể
ra dân chúng đâu dám cãi bàn việc nước, bấy lâu nay dân chúng đâu dám cãi bàn,
một khi dân chúng chẳng dám cãi bàn, mà lại cứ dám cãi bàn, thì tại đân nhỉ?
Theo như thiên hạ có đạo, thì dân nào dám cãi bàn, thì cũng đủ biết thiên hạ
không còn đạo nữa! Cũng như Vương Tiến phải bỏ đi, vì Cao Cầu được trở lại vậy.
Họ Sử
cũng như sách sử vậy, vốn có chuyện vậy, còn Tiến thì nghĩa sao đây? Xét rằng
kẻ kia vốn tự hứa ra tên, dù chẳng phải quan Tỳ Sử chép truyện, song đã tiến
dẫn thành sử vậy, ngươi Sử Tiến để tiến dẫn truyện thành ra sử, vốn có vậy. Còn
Vương Tiến là nghĩa làm sao? Xét rằng phải được người như thế, ngõ hầu bậc
thánh ở ngôi vua, để dạy dân tiến lên vương đạo, phải là như người Vương Tiến,
rồi dạy dân tiến lên vương đạo, thế thì một trăm lẻ tám người kia, theo vương
đạo phải đem giết bỏ.
Một trăm
lẻ tám người kia, theo vương đạo phải đem giết bỏ, sao còn cho hiện lẫn ra một
Vương Tiến đáng là dân của bậc thánh minh? Xét rằng Vương Tiến chẳng bỏ nghiệp
cha, khéo nuôi chí mẹ, đáng xuất hiện trung gian, để làm gương lắm? Thế rồi
chẳng hiện ở trung gian như điểm danh chẳng tới, chẳng thấy từ đâu diễn mãi ra,
trốn một bước Diên An; Lại chẳng thấy hiện ra sau cuối nữa, chả có từ đầu tới
cuối, cũng như con thần long đó ư? Để cho một trăm lẻ tám người kia, đều hiện
ra hết, ta thấy rằng họ khỏi với tội chết vậy, nhưng vẫn chưa bằng Vương Tiến,
một trăm tám người kia, xét chưa bằng ấy, vậy sau mới biết khó làm nổi như
Vương Tiến. Xét, chẳng hiện làm đầu, để bảo cho người ta, đời loạn nên ẩn, chớ
xuất đầu ra; Xét chảng hiện ra cuối nữa cũng bảo cho người ta, đời loạn quyết không
thu tàn cục.
Một bộ
sách bảy mươi hồi, với một trăm lẻ tám người, theo 36 vị Thiên cương, thì ngôi
sao Tống Giang làm chủ; mà khi trước làm trộm cướp vậy, lại theo 72 vị Địa Sát,
có ngôi sao Chu Vũ, dẫu rằng bút lục tung hoành của tác giả rất khéo, song cũng
ngược với đạo trời mà làm ra vậy.
Thứ diễn
đến Khiêu Giản Hổ Trần Đạt, Bạch Hoa Sà Dương Xuân là ẩn nhiên bao quát một bộ
sách bảy mươi hồi, có một trăm lẻ tám người đều như hùm, như rắn, chả quý gì mà
biết tới. Đã biết sự ẩn quát một bộ sách bảy mươi hồi, với trăm lẻ tám người,
thì dùng để làm gì? Nói rằng đấy là Khế Tử, để diễn ra một bộ sách, mà Thợ Trời
hoá hiện, mới có một rắn một hùm, khiến độc giả thấy Trần Đạt, Dương Xuân, làm
danh hiệu bao gồm một trăm lẻ tám vị anh hùng hảo hán vậy.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 2: Sử Đại Lang nửa đêm đốt trại Lỗ Đề
Hạt giữa chợ giết người
Sử Tiến
hỏi Chu Vũ rằng:
- Bây
giờ các bác tính làm sao cho tiện?
Chu Vũ
đứng lên nói:
- Ngài
là một người lương thiện vô tội, chỉ vì chúng tôi làm cho liên lụy đến người,
vậy xin ngài cứ trói ba chúng tôi đem nộp cho quan Huyện, thế là không còn lôi
thôi nữa?
Sử Tiến
lắc đầu đáp rằng:
- Nếu
làm thế, thì ra tôi đánh lừa đến đây, để bắt các bác mà lấy thưởng hay sao? Đại
trượng phu ở đời có đâu như thế, mà để tiếng chê cười cho thiên hạ hậu thế, vậy
bây giờ chỉ có là sống cùng sống, mà chết cùng chết là hơn, được các bác cứ
ngồi đó, để tôi ra hỏi lại xem sao, rồi chúng ta sẽ liệu.
Nói đoạn
chạy ra bờ tường, trèo lên thang quát hỏi:
- Bớ các
ngươi, đêm hôm khuya khoắt, các ngươi định đến đây cướp phá nhà ta đó, hay sao?
Hai tên
Đô Đầu ở ngoài thấy tiếng Sử Tiến liền đáp:
- Đại
Lang ơi! Đại Lang không cần hỏi, đã có tên nguyên cáo là Lý Cát ở đây.
Sử Tiến
quát lên rằng:
- Tôi có
biết gì đâu? Nhân hôm nọ tôi nhặt được cái thư của Vương Tứ, đánh rơi ở trong
rừng, tôi vội đem lên nộp quan, thì ngài sai tôi dẫn đến đây để bắt đấy thôi.
Sử Tiến
nghe nói cả giận, quay lại quát hỏi Vương Tứ rằng:
- Sao
ngươi bảo với ta, không có thư trả lời, mà bây giờ lại xảy ra như thế?
Vương Tứ
luống cuống trả lời:
- Đại
Lang tha lỗi cho tôi, hôm ấy vì say rượu đánh rơi mất thư lúc nào không biết.
Sử Tiến
bầng bầng quát mắng rằng:
- Quân
súc sinh này, như thế còn tin cậy được việc gì nữa?
Rồi quay
ra bảo với lũ Đô Đầu ở ngoài rằng:
- Nếu
vậy thì hãy cứ đợi ở ngoài, để tôi sẽ trói phạm nhân đem ra nộp vậy.
Ngoài
kia hai tên Đô Đầu sợ uy thế của Sử Tiến, cũng đành phải vâng lời đứng ở ngoài,
không ai dám ho he gì cả.
Sử Tiến
nói xong, quay xuống gọi Vương Tứ ra vườn sau, đưa cho một nhát dao vào cổ,
chết thẳng còng queo, rối trở vào gọi người nhà thu xếp các đồng tiền nong tế
nhuyễn, gói lấy một ít vào tay nải, còn thì vất để nguyên cả đó. Đoạn rồi cùng
với bọn Chu Vũ, mỗi người dắt một con dao sau lưng, sai các gia nhân đều cầm
dao cầm gậy, khoác tay nải lên vai, lấy lửa đốt trang viện, rồi mở thẳng cổng
xông ra. Sử Tiến đi trước, Chu Vũ, Dương Xuân đi giữa, còn Trần Đạt cùng với
bọn lâu la và gia nhân đi chặn sau. Vừa ra khỏi cổng, thì bắt gặp ngay hai tên
Đô Đầu và Lý Cát đương luống cuống ở đó, Lý Cát thất kinh toan chạy, bị Sử Tiến
đưa một dao chém làm hai đoạn. Còn hai tên Đô Đầu cũng bị Dương Xuân, Chu Vũ
tặng cho mỗi kẻ một đao kết quả hai tính mạng.
Huyện Úy
thấy vậy, sợ hãi kinh hoàng, tế ngựa chạy trốn, không dám quay cổ lại nữa, bọn
dân thổ cũng tản mác chạy mau cho thoát mạng nốt?
Sử Tiến
cùng bọn Chu Vũ chạy về trại Thiếu Hoa Sơn để nghỉ. Khi về tới trại, Chu Vũ sai
lâu la giết dê trâu làm tiệc ăn mừng, rồi lưu Sử Tiến ở đó, Sử Tiến ở được mấy
hôm, chợt trong bụng nghĩ: "Mình chỉ vì cứu ba người này, mà nhất đán đốt
mất cả cửa nhà cơ nghiệp, lại gây vạ với thổ quan, thì bây giờ ở đây, sao cho
tiện". Nhân nói với Chu Vũ rằng:
- Tôi có
ông sư phụ là Vương Giáo Đầu, hiện theo ở bên phủ Kinh Lược Châu Quan Tây, tôi
định ý đi tìm đã lâu, song ngặt vì phụ thân mới mất, cho nên tôi chưa quyết
định xong, tới nay đã xảy ra câu chuyện thế này, dẫu muốn không đi không được.
Vậy tôi xin từ giã anh em để đi tìm sư phụ.
Chu Vũ
va hai người kia đều có ý muốn lưu lại:
- Xin
quan bác hãy tạm ở đây ít bữa để bàn định xem sao? Nếu quan bác không thích cái
nghề lạc thảo này, thì xin đợi khi yên lặng rồi, chúng tôi sẽ theo về sửa sang
trang viện để liệu cách làm ăn có được không?
Sử Tiến
nói:
- Đành
vậy, nhưng bây giờ tôi nóng lòng muốn tìm thấy ngay sư phụ, mà kiếm xem có kế
gì xuất thân, để được hả lòng một chút.
- Vậy
thì quan bác ở đây làm ông Trại Chủ, lại chẳng khoát hoạt lắm sao? Chỉ e trại
đây nhỏ hẹp, không đủ cho quan bác ở thôi.
- Có lẽ
nào thế? Ông cha tôi khi xưa vốn là người lương thiện, nay tôi đem thân đến
đây, làm cho ô nhục hay sao? Cái đó xin đừng nói đến nữa.
Bọn Chu
Vũ thấy vậy cũng không dám lưu lại, Sử Tiến để cho bọn trang đinh ở lại đó, còn
mình thu thập hành lý gói vào khăn gói mà sắp sửa đi tìm Vương Tiến. Bấy giờ Sử
Tiến đầu đội mũ dương chiên lớn, có cái mào đỏ ở trên, mình mặc áo chiến bào,
lưng thắt dây đay đỏ rất lớn, chân đi đôi giày gai, đeo khăn gói lên vai, giắt
dao lưng vào mình, rồi từ biệt Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt mà lên đường. Lũ
Chu Vũ đưa chân đến tận dưới núi, gạt hai hàng nước mắt, bái biệt mà về.
Sử Tiến
đi đường được nửa tháng trời, tới đất Vị Châu, ở đấy cũng có dinh quan Kinh
Lược, Sử Tiến ngờ là sư phụ Vương Giáo Đầu ở đó, liền tìm vào một hàng nước, để
tạm nghĩ và thăm hỏi dò la. Sử Tiến vào tìm ngồi một chỗ bàn ghế sạch sẽ, gọi
nhà hàng pha nước uống rồi hỏi:
- Phủ
Kinh Lược đây ở vào phía nào?
Nhà hàng
đáp:
- Ở phía
đàng trước mặt.
- Trong
phủ Kinh Lược, có ông Giáo Đầu tên là Vương Tiến phải không?
- Trong
đó có nhiều ông Giáo Đầu mà cũng có tới ba bốn ông họ Vương, nhưng không hiểu
ông nào là Vương Tiến.
Nhà hàng
vừa nói dứt lời, thì có một người lực lưỡng ở ngoài đi sồng sộc bước vào, Sử
Tiến ngẩng lên trông người ấy, mặt tròn tai lớn, mũi thẳng mồm vuông, hai bên
mép có một hàng râu xoăn xoắn, mình cao tám thước, vai rộng đẫy ôm, cách ăn mặc
ra đàng một tay quan võ.
Người ấy
vừa vào đến trong, thì nhà hàng vội trỏ vào bảo Sử Tiến rằng:
- Nếu
ngài muốn hỏi viên Giáo Đầu nào, thì cứ hỏi ông Đề Hạt đây sẽ biết.
Sử Tiến
nghe vậy, vội vàng đứng dậy chấp tay vái chào mà nói:
- Xin
rước ngài vào ngồi xơi nước.
Người ấy
thấy Sử Tiến mặt mũi khôi ngô, sức lớn mình cao, võ vẻ đường đường hảo hớn, thì
cũng chấp tay đáp lễ, rồi cùng ngồi uống nước một bên. Sử Tiến hỏi:
- Tôi
thế này là không phải, nhưng xin dám hỏi cao tính đại danh ngài là gì?
Người
kia đáp:
- Tôi họ
Lỗ, tên là Đạt Tư, hiện làm Đề Hạt ở phủ Kinh Lược gần đây, vậy dám hỏi quan
bác là thế nào?
- Tôi họ
Sử tên Tiến muốn đi tìm sư phụ là ông Vương Tiến, trước đã từng làm chức Giáo
Đầu, dạy tám vạn quân ở đất Đông Kinh, ngày nay không biết rằng có ở trong phủ
Kinh Lược đây không?
Lỗ Đề
Hạt ân cần ra ý hỏi:
- Chẳng
hay có phải ngài là Cửu Văn Long Sử Đại Lang ở Sử Gia Thôn đó chăng?
Sử Tiến
cúi đầu đáp:
- Vâng!
Chính tôi đây.
Lỗ Đề
Hạt vội mừng cung kính mà nói rằng:
- Người
ta thường nói, nghe tên không bằng thấy mặt, thấy mặt gấp mấy nghe tên, nay mới
biết quả nhiên như thế. Nhưng nay ngài muốn tìm ông Vương Tiến, có phải là ông
Vương Tiến bị quan Cao Cầu Thái Úy ở Đông Kinh ghét đó chăng?
- Chính
phải!
- Tôi
cũng nghe danh ông ấy, nhưng mà không có ở đây. Nghe nói ông ấy hình như ở bên
phủ Kinh Lược Lão Trung ở Diên An thì phải, chứ dinh quan Kinh Lược Tiểu Trung
tôi đây không có.
Đoạn rồi
bảo Sử Tiến rằng:
- Ngài
đã là Sử Đại Lang, tôi thường nghe ngài là tay hảo hán vậy mời ngài ra phố uống
với tôi vài chén rượu đã.
Nói đoạn
dắt tay Sử Tiến đi ra, bảo nhà hàng rằng:
- Tiền
nước để đó, rồi sau ta sẽ trả.
Nhà hàng
vâng dạ, ï mà bảo rằng:
- Xin Đề
Hạt cứ tự nhiên cho.
Hai
người dắt tay nhau ra phố, ước chừng dăm ba mươi bước, thì chợt một đám người
đứng bao bọc xúm xít vào một chỗ, Sử Tiến bảo với Lỗ Đề Hạt rằng:
- Ta thử
vào đây xem họ làm gì?
Nói đoạn
gạt rẽ đám đông mà vào thì thấy có một người, tay cầm một nắm gậy, trên mặt đất
bảy mươi thứ thuốc cao, lại có một cái bàn dán đặc giấy giao hàng ở đó.
Sử Tiến
trông thấy nhận nhận ra là một người, tên gọi Đả Hổ Tướng Lý Trung, vẫn xưa nay
múa gậy bán thuốc dong duổi giang hồ, mà trước kia đã từng dạy cho mình học võ,
liền đứng ở ngoài mà gọi lên rằng:
- Sư phụ
ơi! Sao lâu nay không được gặp thế?
Lý Trung
nghe tiếng ngẩng đầu lên nom, bỗng hớn hở mà rằng:
- Kìa;
Hiền Đệ đi dâu mà lại tới đây?
Đề Hạt
đứng bên cạnh, thấy hai người nhận nhau là sư đệ, thì bảo rằng:
- Nếu có
phải ông là sư phụ Sử Đại Lang thì xin mời cùng đi với chúng tôi, xơi vài chén
rượu cho vui.
Lý Trung
đáp:
- Vâng!
Xin để cho tôi bán ít thuốc cao, kiếm lấy ít tiền, rồi xin theo Đề Hạt cùng đi.
- Ai mà
đứng đây đợi được, có đi thì xin đi một thể cho vui.
- Đành
vậy, nhưng cơm áo của tiểu đệ, trông cậy vào đâu, xin mời Đề Hạt cứ đi trước,
tôi sẻ tìm đến sau, Sử Tiến hiền đệ cứ theo Đề Hạt đi trước đi.
Lỗ Đạt
nghe nói nóng ruột, không sao chịu được, vội gạt đuổi những người đứng xem
chung quanh mắng rằng:
- Chỉ tại
lũ thối thây này, xúm xít vào đây. Ta lại đánh tuốt cho một mẻ bây giờ.
Bọn
người đứng xem thấy vậy đều tránh gạt đi mất, còn Lý Trung thấy Đề Hạt ra dáng
hung tợn, thì cũng hơi có ý giận, song không dám nói ra, chỉ cười gượng nói
rằng:
- Đề Hạt
nóng tính quá.
Đoạn rồi
thu thập thuốc men gói gấp gửi để một nơi cẩn thận, mà cùng với Lỗ Đề Hạt và Sử
Tiến, đến phố Châu Kiều. Khi tới nơi Lỗ Đề Hạt đưa vào nhà tửu điếm họ Phan, là
một hàng rượu có tiếng ở đó, tìm một gian sạch sẽ để cùng ngồi.
Lỗ Đề Hạt
ngồi chủ vị, Lý Trung ngồi đối diện, còn Sử Tiến thì ngồi vai dưới, tên tửu bảo
trông thấy bọn khách Đề Hạt tới nơi, thì vội vội vàng vàng đến bẩm rằng:
- Kính
chào đề Hạt, dùng bao nhiêu rượu?
Lỗ Đạt
nói:
- Hãy
lấy bốn chai rượu, và các rau quả đến đây!
Tửu bảo
lại hỏi:
- Các
quan xơi cơm gì?
Lỗ Đạt
gắt mà rằng:
- Hỏi gì
lắm thế? Có thì cứ mang đây, ăn rồi ta trả tiền chứ sao, mày lắm điều quá.
Tửu bảo
cúi cổ đi ra, một lát đem rượu thịt bày la liệt trên bàn, rồi ba người cùng
nhau đánh chén, rượu được vài tuần, ai nấy có vẻ chếch choáng hơi men, bây giờ
mới giở các món côn quyền ra khoe lẫn với nhau rất là đắc chí.
Bỗng đâu
bên kia vách, ở gần bàn rượu có tiếng người rền rỉ khóc than, Lỗ Đề Hạt nghe
thấy lấy làm bực mình, liền cầm ngay chén rượu còn đang uống, mà vất xuống sàn
gác, đánh soảng một cái.
Tửu bảo
nghe tiếng vội vang chạy đến, nom thấy Đề Hạt có ý hầm hầm giận dữ, thì đem
giọng ngọt mà hỏi rằng:
- Quan
muốn truyền mua thức gì, để nhà hàng tôi đem đến.
Lỗ Đạt
quát lên rằng:
- Ta
muốn thức gì? Ngươi không biết ta hay sao? Sao dám cho đứa nào đến bên kia khóc
lóc, làm nhiễu cả cuộc rượu anh em ta thế? Xưa nay ta có thiếu tiền không?
Tửu bảo
vội lễ phép nói rằng:
- Chúng
tôi đâu dám xuôi ai đến đây khóc, để quấy nhiễu đến tai ngài, đây chẳng qua là
hai cha con đứa hát bên kia, nó không biết có ngài ở đây, cho nên nó thở than
khóc lóc với nhau, xin ngài tha lỗi cho.
Lỗ Đề
Hạt trừng mắt nói:
- Nói
làm gì quái lạ thế? Bây gọi nó sang đây ta xem.
Tửu bảo
vâng lời đi, một lát đã thấy dẫn một người con gái chừng 18- 19 tuổi đi theo
một ông lão già, vào trạc 60 tuổi, tay cầm bộ phách, cùng đến đó.Người con gái
trông cũng tầm thường không lấy gì nhan sắc cho lắm, khi đến trước mặt Đề Hạt,
thì lấy tay lau nước mắt, rồi cúi chào Vạn Phúc; Đề Hạt hỏi:
- Bây
người ở đâu, làm gì ở đây khóc lóc như thế? Người con gái nói:
- Bẩm
ngài, nguyên chúng tôi là người ở Đông Kinh theo cha mẹ sang Vị Châu để tìm
người họ, bất đồ sang tới nơi thì người họ đã dọn sang ở Nam Kinh mất, đoạn rồi
mẹ tôi bị bệnh giữa đường mà chết, thành ra hai cha con tôi phải lưu lacï đến
đây, khi đến đây trót nhờ ông tài chủ là Trấn quan Tây Trịnh đại nhân giúp đỡ
ít chút, sau ông ấy thấy tôi còn trẻ tuổi, có ý muốn ép làm lẽ liền bắt cha tôi
viết bức văn tự bán tôi là 3.000 quan, mà sau rút cục không đồng tiền nào cả,
sau bắt tôi ở đấy được non ba tháng, bị người vợ cả ghen tuông quá đỗi, bắt
duổi tôi phải đi nơi khác, mà không cho lẩn quẩn trong nhà, đoạn rồi đem văn tự
ra đòi tiền cho kỳ được, cha tôi đã già yếu, không có kế chi chống lại được với
y, vả chăng khi trước không nhận được của y một đồng tiền nào, thì ngày nay lấy
đâu mà trả được. May sao thuở xưa cha tôi có dạy cho tôi một vài bản hát, nay
bất đắc dĩ phải tìm đến tửu lâu bên kia, để quanh co hát xướng, kiếm lấy ít
tiền, mà trả bớt cho người ta, còn thì cha con đùm bọc lấy nhau, nhưng chẳng
may, mấy ngày hôm nay khách hàng thưa vắng, không sao kiếm được đồng nào, chỉ
sợ đến hẹn mà không có tiền đưa trả, thì phải khổ với người ta, bởi vậy cha con
tôi lo khóc, không ngờ lại xúc phạm đến uy ngài, xin ngài rộng ơn mà tha thứ.
Lỗ Đạt
lại hỏi:
- Tên họ
nhà ngươi là gì? Ở Tửu điểm nào? Trấn quan Tây Trịnh đại nhân là người nào? Ở
đâu?
Lão già
khép nép thưa lên:
- Chúng
tôi tên là Kim Nhị, con cháu tên là Thúy Liên, trọ ở hàng rượu đối diện bên
đông kia, còn Trịnh đại nhân tức ông Trịnh Đồ, bán hàng thịt ở dưới cầu Trạng
Nguyên.
Lỗ Đạt
nghe nói tắc lưỡi mà rằng:
- Ta vẫn
tưởng Trịnh quan nhân nào; té ra chính là thằng Trịnh Đồ bán hàng thịt lợn.
Thằng gớm thực? Nó nhờ thế quan Kinh Lược ta được mở cái hàng thịt lợn ở đó, ai
ngờ nay dám lộng quyền đến láo quá chừng.
Nói đoạn
quay lại bảo Lý Trung, Sử Tiến rằng:
- Các
ông hãy ngồi đây, đợi tôi một lát, tôi đi sửa cho thằng này một trận, rồi lại
xin đến đây ngay.
Sử Tiến,
Lý Trung đều dìu lại mà khuyên rằng:
- Quan
bác hãy nguôi giận, để sáng mai sẽ hay.
Hai
người khuyên giải đến năm bảy lượt rồi, Lỗ Đạt mới chịu thôi, lại quay bảo bố
con Kim Nhị rằng:
- Tôi
đãi tiền cho lão già, ngày mai về Đông Kinh được không?
Hai bố
con Kim Nhị nói:
- Nếu
ngài cứu cho được về cố hương, thì thực ơn bằng cha mẹ, song làm thế nào được
chủ hàng cơm cho đi, và nếu khi Trịnh đại nhân theo đuổi đòi tiền thì biết làm
sao?
Lỗ Đề
Hạt nói:
- Cái đó
không cần, tôi sẽ có cách xử trí cho.
Nói đoạn
móc tay vào túi lấy ra lạng bạc, để trên bàn, rồi bảo Sử Tiến rằng:
- Tôi có
ít tiền quá, quan bác có đấy cho tôi mượn thêm một ít, rồi sáng mai tôi xin trả
lại.
Sử Tiến
cười mà rằng:
- Có thì
bác lấy, đáng bao nhiêu mà nói chuyện trả.
Nói
xong, lấy một đỉnh bạc ra để trên bàn, Đề Hạt lại trông Lý Trung mà bảo rằng:
- Bác có
cho mượn thêm đây mới đủ.
Lý Trung
móc túi mãi, mới được có hai lạng đưa ra. Lỗ Đạt cầm lấy đưa cho Kim lão 15
lạng bạc mà bảo rằng:
- Tiền
này cha con giữ để tiêu dùng, rồi thu xếp hành lý cẩn thận, để sáng mai tôi đến
đây sớm, tôi sẽ bảo cách cho mà đi, xem đứa nào giữ lại được nữa?
Hai cha
con Kim lão nhận tiền rồi, lạy tạ mà lui ra, Lỗ Đạt đưa hai lạng bạc trả lại
cho Lý Trung, rồi lại cùng nhau uống rượu một lúc lâu rồi mới tan. Khi đứng dậy
Lỗ Đạt lại gọi nhà hàng đến mà bảo rằng:
- Tiền
rượu để sáng mai ta sẽ trả.
Chủ hàng
vâng lời rằng:
- Xin Đề
Hạt để đến bao giờ cũng được.
Đoạn ba
người dắt tay đi chơi phố, hồi lâu Lý Trung, Sử Tiến mới từ giã Lỗ Đạt mà đi
tìm chỗ trọ riêng.
Cha con
Kim lão từ khi nhận được món tiền của Lỗ Đề Hạt, liền trở về trang trải tiền
cơm nước vặt vãnh, rồi lại ra ngoài thành thuê một cỗ xe, và sắp sửa các đồ
hành lý, để sáng hôm sau đi sớm.
Sáng hôm
sau vào khoảng đầu trống canh năm, thì hai cha con Kim lão trở dậy ăn cơm nước
xong xuôi, rồi đợi Lỗ Đề Hạt đến, thì sẽ cất gói ra đi. Khi trời vừa tảng sáng,
đã thấy Lỗ Đề Hạt ở đâu sồng sộc bước vào, gọi tên hầu ở nhà hàng mà bảo rằng:
- Kim
lão trọ ở phòng nào?
Tiểu nhị
nghe tiếng, vội vàng gọi Kim lão, mà bảo ra tiếp ứng. Kim lão nghe nói, liền mở
cửa phòng, rồi mời Lỗ Đề Hạt vào ngồi chơi.
Đề Hạt
ra dáng vội vàng mà nói:
- Thôi,
cần chi ngồi chơi, cha con nhà ông có đi thì đi ngay chứ, còn chờ đợi đến bao
giờ nữa.
Kim lão
vâng lời quảy hành lý lên vai, rồi dắt con gái ra bái tạ Đề Hạt mà đi ra. Vừa
bước chân tới cữa thì tên tiểu nhị giữ lại mà hỏi rằng:
- Kim
lão đi đâu bây giờ thế?
Lỗ Đề
Hạt thấy vậy mà quát hỏi:
- Lão ấy
còn thiếu tiền trọ của ngươi hay sao?
- Bẩm,
tiền trọ thì hôm qua ông ta tính trả rồi, song ông ta còn nợ của Trịnh đại quan
nhân đàng kia, ngài có giao cho tôi để đòi hỏi cho nên tôi phải giữ lại ở đây.
Lỗ Đề
Hạt mắng rằng:
- Tiền
của Trịnh Đồ để rồi ta trả nó, mày cứ để cho lão ấy đi mới được.
Tên tiểu
nhị dùng dằng không chịu cho Kim lão đi, Lỗ Đề Hạt cả giận giơ tay tát tiểu nhị
một cái hộc máu mồm ra, rồi lại tát luôn cho vài cái nữa, gãy phăng mất hai cái
răng cửa; tiểu nhị thấy vậy kinh sợ chạy lủi vào trong nhà, không dám thò mặt
ra ngoài để ngăn trở, hai cha con Kim lão liền thừa thế chạy thẳng ra thành,
lên xe đi cho mau thoát.
Lỗ Đề
Hạt thấy Kim lão đi rồi, lại e khi tên tiểu nhị ở điếm còn tức mà đuổi theo, để
quấy nhiễu, liền bắc ghế trước cửa điếm ngồi giữ ở đó, ước chừng khi Kim lão đi
xa rồi, mới đứng dậy mà đi sang cầu Trạng Nguyên, để tìm vào nhà Trịnh Đồ.
Bây giờ
Trịnh Đồ đương đứng ở bên quầy, để trông nom cho mấy đứa đồ tể bán thịt, chợt
nghe tiếng Lỗ Đề Hạt đến nơi, liền quay ra ra chào hỏi, rồi kéo ghế mời vào
ngồi chơi nói chuyện.
Lỗ Đề
Hạt ngồi phịch xuống ghế bảo Trịnh Đồ rằng:
- Ta
thừa lệnh quan Kinh lược truyền ra lấy 10 cân thịt nạc, thái nhỏ ra từng miếng,
mà phải không có một tý mỡ nào dính vào mới được.
Trịnh Đồ
vâng lời, rồi sai gọi lũ đồ tể ra cắt thịt. Đề Hạt không nghe mà nói:
- Không
để cho chúng nó được, ngươi phải đứng lên cắt ngay cho ta. Trịnh Đồ không dám
trái lời, phải đứng dậy đi thái 10 cân thịt. Bây giờ tiểu nhị ở hàng cơm kia,
dương lon ton chạy lại nhà Trịnh Đồ, toan báo chuyện Kim lão cho Trịnh Đồ biết,
bất đổ vừa đến cửa đã trông thấy Lỗ Đề Hạt, ngồi chễm chệ ở đó, liền đứng thụt
ở bên ngoài, mà không dám thò mặt vào nữa.
Khi
Trịnh Đồ cắt thịt xong, rồi lấy lá sen gói bọc cẩn thận, đem đến đưa Lỗ Đề Hạt
mà nói:
- Thịt
đây xin Đề Hạt cho mang về.
Lỗ Đạt
nói:
- Mang
đi đâu? Phải cắt lấy 10 cân thịt mỡ nữa, rồi cũng thái nhỏ ra, nhưng không dính
một tý thịt nạc nào mới được.
Trịnh Đồ
lấy làm lạ mới hỏi:
- Trong
phủ dùng thịt nạc để nấu nướng thì tốt, chứ thịt mỡ dùng sao được?
Đề Hạt
trừng mắt nói:
- Tướng
công truyền như vậy, ai dám vào đấy mà hỏi được.
Trịnh Đồ
đành phải vâng lời, lại đi ra thái 10 cân thịt mỡ, gói bọc tử tế rồi gọi người
nhà bảo cầm theo Đề Hạt để đưa vào trong phủ.
Lỗ Đạt
lại quát lên rằng:
- Lấy
mười cân sườn nữa thái nhỏ ra, không cho một tý thịt nào bám được.
Trịnh Đồ
thấy vậy liền hỏi rằng:
- Chẳng
hay Đề Hạt đùa tôi hẳn?
Lỗ Đạt
nghe nói vội đứng dậy, tay cầm hai gói thịt, rồi trợn mắt nhìn Trịnh Đồ nói:
- Ta lại
đùa với lũ ngươi hay sao?
Nói xong
cầm hai gói thịt ném toét vào mặt Trịnh Đồ. Trịnh Đồ bừng bừng nổi giận không
sao chịu được, liền với lên bàn thịt cầm lấy con dao nhọn, nhảy sả vào toan
đâm, Lỗ Đề Hạt thấy vậy lùi bước đi thẳng ra ngoài phố, hai bên phố xá cùng bọn
đồ tể ở trong không ai dám bén mảng đến can ngăn gì cả, bao nhiêu những khách
bộ hành đều đứng lại để xem, còn tên tiểu nhị ở hàng cơm đến đấy cũng kinh sợ
vô cùng.
Trịnh Đồ
tay hữu cầm dao, tay tả thì níu lấy Lỗ Đạt chạy theo toan đánh. Lỗ Đạt thừa thế
nắm lấy tay tả Trịnh Đồ, đá vào bụng dưới một cẳng chân ngã lăn xuống phố, rồi
lại xông vào giở quả đấm ra hiệu mà bảo rằng:
- Tao
đây theo hầu quan Kinh lược Đại tướng, làm đến chức quan tây Ngũ Lộ Liêm Phóng
Sứ mới được gọi là Trấn Quan Tây, còn như mày chỉ là một đứa cầm dao bán thịt,
thân danh như một con chó, thế mà cũng học đòi gọi Trấn quan tây, rồi lại lừa
đảo ép nài bố con Thúy Liên là nghĩa làm sao?
Nói đoạn
đánh cho một đấm vào giữa mũi, vẹo về một bên, máu chảy ra lênh láng. Trịnh Đồ
không sao bò dậy được, bỏ vất con dao ra mặt đất, trong mồm chỉ lẩm bẩm nói:
- Được
lắm! Đánh giỏi!
Lỗ Đạt
mắng luôn rằng:
- Mày
lại há miệng ra nữa đấy à?
Nói xong
lại đánh cho một đấm chính giữa mí mắt, lòi cả con ngươi ra ngoài, rồi lại đấm
vào thái dương một cái rất mạnh.
Đoạn
thấy Trịnh Đồ nằm sóng soạt ra đất, chỉ thở hơi ra, không hít vào được nữa, Lỗ
Đạt liền nói tảng đi rằng:
- Mày
giả cách chết à? Ông đánh cho một chập nữa bây giờ.
Dè đâu
trông sắc mặt Trịnh Đồ càng ngày càng tái nhợt mãi đi. Lỗ Đạt biết là tất chết,
trong bụng nghĩ:
- Ta chỉ
định đánh cho đau đớn, ai ngờ mới có ba cái đấm, mà nó đã chết hay sao? Nếu thế
thì ta bị quan Tư giam chấp, thì lấy ai đưa cơm nước cho ta? Âu là bất nhược ta
liệu trước là xong.
Nghĩ
đoạn, rảo bước ngoắt đi, lại còn quay lại trỏ vào xác Trịnh Đồ mà nói rằng:
- Mầy
giả cách chết, để rồi tao liệu cho mầy.
Lỗ Đạt
miệng thì tức mắng, chân thì cất gót cho mau, phố xá xóm giềng không ai còn dám
đến ngăn cản nữa. Khi về tới nhà trọ, thu nhặt tiền nong gói vào một gói. Tay
cầm một cái gậy đỏan rồi lén bước ra cửa Nam môn rồi cút đi thẳng.
Lũ đồ tể
thấy Lỗ Đạt đi rồi, liền cùng với tiểu nhị và xóm làng, túm vào khua gọi Trịnh
Đồ mà đỡ dậy. Không ngờ kêu gọi đến nửa ngày trời cũng không thấy tỉnh, than
ôi!
Biết đâu
cái đánh vô tình
Xuôi hồn
biển tử tan tành như chơi!
Các
người lân bang thấy vậy, vội làm đơn đi trình quan Phủ.
Quan Phủ
xem đơn trình, biết Lỗ Đề Hạt là người nhà quan Kinh Lược, không dám thiện tiện
bắt ngay, bèn lên kiệu vào phủ Kinh lược để trình.
Quan
Kinh Lược nghe lời trình của quan Phủ, thì giật mình kinh lạ mà tự nghĩ:
- Lỗ Đạt
tuy võ nghệ giỏi, nhưng tính tình vẫn thô mãng xưa nay, nay lại xảy ra có việc
án mạng thế này, thì ta che chở làm sao cho tiện, bất nhược ta cứ giao mặc cho
tra hỏi là xong.
Liền bảo
với quan Phủ rằng:
- Tên Lỗ
Đạt vốn là quân quan ở bên dinh Kinh Lược phụ thân tôi, nhưng vì tôi thiếu
người sai dùng, cho nên mượn hắn sang đây để làm chức Đề Hạt, nay chẳng may lại
phạm việc án mạng như thế, xin cứ theo phép công mà đòi hỏi, xem hắn khai báo
ra sao? Rồi sẽ định tội. Nhưng thế nào cũng phải cho phụ thân tôi biết trước,
rồi mới quyết đoán được, kẻo nhất lỡ sau này phụ thân tôi cho gọi đến hắn thì
thêm rầy.
Quan phủ
vâng lời mà rằng:
- Chúng
tôi xin tra hỏi căn do, đệ trình lên quan Lão Kinh Lược tướng công, rồi mới dám
thi hành, chứ có đâu chúng tôi lại tự xử ngay được.
Quan Phủ
Doãn chào quan Kinh Lược, rồi lên kiệu về nha, sai thảo công văn giao cho bọn
bộ tập đi bắt Lỗ Đạt. Bấy giờ Vương Quan Sát lĩnh công văn dẫn hai mươi tên
công sai, đi đến nhà trọ của Lỗ Đạt, thì thấy chủ nhà nói rằng:
- Lỗ Đạt
vừa mới khoác khăn gói, cầm gậy đỏan ra đi lúc nãy. Chúng tôi vẫn tưởng là có
công sai gì, cho nên không dám hỏi han đến nữa.
Vương
Quan Sát sai phá cửa phòng của Lỗ Đạt ra xem, thì chỉ thấy có một ít quần áo
tồi tàn, và chiếu chăn còn bỏ lại ở đó, liền bắt chủ hàng dẫn đi các nơi để tìm
bắt, nhưng nào có thấy tung tích ở đâu? Vương Quan Sát bất đắc dĩ phải bắt hai
tên lân bang, cùng chủ trọ của Lỗ Đạt mà đem về giải phủ.
Quan Phủ
Doãn ra hỏi đầu đuôi xong, nhất diện phái người khám xét tử thi Trịnh Đồ, nhất
diện làm thành án văn, viết tên tuổi tướng mạo Lỗ Đạt cho đi dán khắp nơi, nếu
ai bắt được phạm nhân sẽ thưởng tiền 2.000 quan, còn các nguyên cáo cùng xóm
giềng đều cho về cả.
Lỗ Đạt
từ khi đi khỏi Vị Châu rồi, vội vàng hất hải, đi đến chỗ nọ chỗ kia, không biết
nơi đâu là định sở, thực là đói không chọn cơm, rét không chọn áo, lạc không
chọn đường, nghèo không chọn vợ, tình cảnh bấy giờ thật là nan bách. Mê man vơ
vẫn vừa nửa tháng trời mới tới Huyện Nhạn Môn, bước chân vào trong thành thấy
phố phường náo nhiệt, xe ngựa tưng bừng, các hàng quán bán buôm rất là tề
chỉnh, tuy là một chốn huyện thành, mà lại có phần hơn mọi châu phủ.
Lỗ Đạt
đương đi lững thững một mình, bỗng thấy một đám đông người xô lại vào bên
đường, để xem bảng yết thị, nên cũng len bước vào xem.
Lỗ Đạt
tuy không biết chữ nhưng cũng lắng tai nghe thấy người ta đọc rằng:
-
"Châu huyện Nhạn Môn, vâng lệnh quan phủ Thái Nguyên, yết thị cho nhân dân
biết: Tên Lỗ Đạt tức là viên Đề Hạt ở phủ quan Kinh Lược Vị Châu, phạm tội đánh
chết Trịnh Đồ, rồi trốn mất, ai mà chứa chấp trong nhà, quan trên bắt tội sẽ xử
tội như phạm nhân, bằng ai bắt được đem ra nộp thì sẽ được thưởng 1.000 quan
... "
Lỗ Đạt
vừa nghe đến đó, chợt thấy đàng sau lưng có người kêu to lên rằng:
- Trương
Đại Ca ôi! Bác đi đâu đến đây?
Đoạn rồi
người ấy ôm lưng Lỗ Đạt mà kéo đi ra khỏi đám người đông đúc. Mới hay:
Anh hùng
tiếng đã gọi rằng.
Giữa
đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
Bốn
phương đâu chẳng là nhà.
Sao cho
thảo mộc sơn hà biết tên?
Chắc đâu
là họa là duyên,
Chắc đâu
oán trả ơn đền là đâu?
Ở đời
thấm thoát bao lâu,
Biết
nhau tế độ cho nhau mới là ...
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi này
vừa tả xong Sử Tiến anh hùng, tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt anh hùng. Vừa tả xong Sử
Tiến thô tháo; Tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt thô tháo. Vừa tả xong Sử Tiến quên Lợi,
tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt quên lợi; Vừa tả xong Sử Tiến nóng nảy, tiếp tay tả
luôn Lỗ Đạt nóng nảy. Tác giả gặp chỗ bí chạy theo đường nghẽn, cho rõ tài bút
lục của mình, độc giả cũng nên xem xét từng chỗ, để phân định hai kẻ khác nhau,
không phải chỉ tả một thứ con người, mới khỏi phụ lòng khốn khổ của nhà viết
nên sử!
Một trăm
lẻ tám vị anh hùng, kể đầu từ Sử Tiến, một kẻ xuất danh lãnh chúng sau này. Thế
mà tác giả chép ở Thiếu Hoa Sơn, một đoạn văn đặc biệt, rằng:" Ông cha tôi
khi xưa, vốn là người lương thiện, có đâu tôi đem thân đến đây, mà làm ô nhục
hay sao? ... " Điều đó há phải sơ tâm riêng một con người như Sử Tiến sự
thực cũng là sơ tâm của một trăm lẻ tám người kia. Chỉ vì một tay tài điệu,
không chỗ giở ra một thân khí lực, không nơi dùng đến, mà tíng con thuồng luồng
đâu chịu chết khô trên ruộng cạn, lại thêm những cái oán của đời gian giảo, mới
nổi lên một đám với nhau, như vậy con nhà lương thiện đã chả được dùng đến,
phải đành chịu tiếng nhơ ở trong thanh giá, cũng chả tiếc được nữa, khiến một
trăm lẻ tám người, lạc cả vào Bến Nước. Hỡi ôi! Những tài điệu kia, đều tài
điệu của triều đình, những khí lực kia, đều khí lực cho chiến trận, đã phải bất
đắc dĩ sa vào Bến Nước (Thủy Hử),đó là lỗi tại ai? ? ?
Chủ đề
về Sử Tiến hồi này, cốt tìm tới chốn Lão Trung quan Tướng Công Kinh Lược, để
hỏi thăm sư phụ Vương Tiến, chợt đâu biến thể, trật ra ngoài nơi Lão Trung Kinh
Lược Tướng Công, mà chuyển sang chốn Tiểu Trung Kinh Lược Tướng Công, ngoài sự
tìm sư phụ Vương Tiến, lại hóa hiện ra một sư phụ Lý Trung, đọc đến đây thấy
như bức mây đỏ trên vòm trời biến hiện muôn hình vạn trạng, chả phải cứ nhìn
theo một con mắt, mà để nhận ra đâu.
Tả cái
chỗ làm người của Lỗ Đạt, một bầu máu nóng phát ra, càng thẹn cho những kẻ thư
sinh ăn bám của người, chưa dám thò tay liều giúp ai một việc. Đức Khổng Tử
nói:Đọc Kinh Thi có thể nổi lên, thì ta với các Tỳ quan, cũng thấy hay lắm vậy!
Đánh
chết Trịnh Đồ, thực vội vàng lắm thay, chỉ thêm vào từng chỗ tên tiểu nhị báo
tin, làm cho sốt ruột, thấy một lần đầu tiểu nhị nói ra, lần thứ hai ngoài tiểu
nhị ra, lại thêm sự mua thịt nữa, lần thứ ba lại thêm ra những kẻ đi đường ...
Không ngờ tình văn như lụa, tình sự lại như gương, khiến ta muốn vạch ra mà xem
tới trong lòng vậy.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 3: Triệu Viên Ngoại sửa lại Văn Thù
Viện Lỗ Trí Thâm khua động Ngũ Đài Sơn
Lỗ Đạt thấy người ôm mình mà kéo đi, liền quay
lại xem thì té ra chính là Kim Lão, gặp ở tửu quán đất Vị Châu khi trước.
Kim Lão
kéo Lỗ Đạt ra quãng vắng mà bảo rằng:
- Sao ân
nhân to gan thế? Người ta đương yết thị thưởng tiền để bắt mình, mà mình lại
đứng đây xem bảng, ngộ lỡ ra quan quân biết đến thì sao?
Lỗ Đạt
nói:
- Chẳng
dấu gì ông lão, chỉ vì việc của ông lão hôm ấy, mà thành ra tôi đến dưới cầu
Trạng Nguyên, gặp tên Trịnh Đồ, đánh cho hắn có ba quyền chết tươi thẳng cẳng, rồi
thì tôi phải trốn tránh đến đây.Còn ông lão thì làm sao không về Đông Kinh, mà
lại cũng gặp ở đây như thế?
Kim Lão
đáp:
- Từ
phen được ân nhân cứu thoát, cha con thuê một cỗ xe, định về Đông Kinh, song
lại e nhất lỡ bọn kia theo đuổi, mà ân nhân không có ở đấy, thì nguy hiểm không
chơi, vì thế tôi phải rẽ đường sang bắc, may sao gặp được người hàng xóm cũ,
buôn bán ở đây, liền dắt cha con tôi về cùng ở, rồi sao làm mối cho con cháu
một ông Viên Ngoại họ Triệu kia, nhà rất phong lưu phú quý, vì thế sự ăn tiêu
chi phí không thiếu thức gì. Ông ta cũng thích nghề quyền võ, một đôi khi con
cháu nó kể đến chuyện ân nhân, thì ông ta lại thán phục, mà mong sao được gặp
mặt một lần mới thỏa, vậy tiện đây xin đón ân nhân hãy tạm đến nhà tôi nghỉ đó
mấy hôm sau rồi sẽ liệu.
Nói xong
rồi, dẫn Lỗ Đạt cùng đi.
Đường đi
ngót nửa ngày trời, khi tới nơi, Kim Lão bước vào cửa cuốn mành mành lên, gọi
con gái ra bảo rằng:
- Ân
nhân đến đấy con ạ.
Bấy giờ
người con gái ăn mặc lịch sự ở trong nhà chạy ra đón Lỗ Đạt vào. Lỗ Đạt vừa
vào, đặt xuống ngồi, thì người con gái thụp lạy sáu lạy, mà nói rằng:
- Nếu
không có ân nhân cứu vớt, thì cha con tôi đâu lại có được như ngày nay.
Nói xong
mời Lỗ Đạt lên gác để nghỉ.
Lỗ Đạt
nói rằng:
- Tôi
không ở đây lâu được, phải sắp sửa đi thôi.
Kim Lão
không bằng lòng mà nói:
- Ân
nhân đã đến đây, có lẽ nào chúng tôi lại để đi ngay.
Đoạn rồi
đem khăn gói và gậy lên gác, mà mời Lỗ Đạt lên.
Bây giờ
Kim Lão cho con gái ngồi tiếp chuyện Lỗ Đạt, rồi tự mình xuống đem đầy tớ đi
chợ, để mua các đồ hoa quả rượu chè, về làm cơm. Khi cơm rượu xong dọn lên bàn
rồi, hai bố con rót rượu, ngồi tiếp Lỗ Đạt.
Rượu
được vài tuần, bỗng Kim Lão đứng dậy thụp xuống lạy, Lỗ Đạt ngạc nhiên nói
rằng:
- Sao
lão nhân làm như thế, thực tôi không bằng lòng chút nào.
Kim Lão
nói:
- Chẳng
dám dấu gì ân nhân, từ khi cha con tôi đến ở đất này, vẫn cảm đến ơn cứu sống
của ngài, mà làm bài vị tên ngài bằng mảnh giấy hồng, để sớm khuya đèn hương
khấn vái, vậy mà ngày nay được trông thấy ngài, thì có lẽ nào không lạy tạ ân
nhân?
Nói xong
lại ngồi lên tiếp rượu. Ba người ung dung chén tạc chén thù, mãi đến khi trời
đã xế hôm, thì chợt nghe có tiếng ồn ào dưới cửa. Lỗ Đạt chạy ra cửa sổ gác để
nom, thấy ở dưới lầu có tới ba mươi người tay roi tay gậy, lại có một người ra
dáng quan nhân, cưỡi trên mình ngựa mà quát to lên rằng:
- Chớ để
cho quân giặc chạy thoát.
Lỗ Đạt
nghe nói, biết là sự không hay, liền quay vào vớ lấy cái ghế, toan ném xuống,
Kim Lão thấy vậy, vội vàng đứng dậy xem rồi can lại mà bảo rằng:
- Xin
ngài chớ động vội.
Nói xong
đi thẳng xuống dưới gác, đứng bên cạnh người cưỡi ngựa, mà bảo thầm chi đó?
Đoạn rồi thấy người ngồi trên mình ngựa vui cười, mà thét bảo bọn kia đi hết.
Người ấy xuống ngựa đi vào trong nhà, rồi cho mời Lỗ Đạt xuống, vái lạy mà nói:
- Nghe
tiếng sao bằng thấy người, thấy người bằng mấy nghe tiếng, dám xin nghĩa sĩ
nhận lễ cho.
Lỗ Đạt
không hiểu sao, liền hỏi Kim Lão:
- Quan
nhân đây là ai, từ xưa chưa quen biết bao giờ; mà lạy chào như thế?
Kim Lão
đáp:
- Thưa
ngài. Chính đây là Triệu Viên Ngoại, bạn với con cháu nhà tôi đó, vừa rồi hắn
vẫn tưởng là anh nào chè chén ở đây, cho nên toan đem trang khách đến để đánh,
nhưng sau nghe nói là ngài đến đây, thì lấy làm vui mừng quá đỗi.
Nói xong
lại mời Lỗ Đạt lên trên lầu, sai người nhà thay các món ăn để TriệuViên Ngoại
cùng ngồi bồi tiếp.
Triệu
Viên Ngoại mời Lỗ Đạt ngồi cánh trên, Lỗ Đạt nhất định không nghe. Triệu Viên
Ngoại cố ý nhường Lỗ Đạt ngồi trên mà nói:
- Tôi
nghe tiếng ngài là một người anh hùng hào hiệp, trong lòng hâm mộ đã lâu, nay
trời xanh run rủi được gặp ở đây, thực là may lắm!
Lỗ Đạt
cười đáp rằng:
- Tôi là
một người thô lỗ vô tài, lại đương mắc tội, trốn tránh đến đây, nếu Viên Ngoại
có rộng lòng mà kết làm tương thức, thì sau đây có cần đến việc chi, tôi xin
hết sức.
Triệu
Viên Ngoại cả mừng, hỏi thăm về việc đánh chết Trịnh Đồ, rồi lại kể các nghề
côn kiếm, trò chuyện chè rượu, mãi đến nủa đêm mới tan.
Sáng hôm
sau Triệu Viên Ngoại dậy sớm nói với Lỗ Đạt rằng:
- Ở đây
tai mắt rất nhiều có khi không tiện, vậy xin đón Đề Hạt về ở trong nhà tôi ít
bữa, có lẽ cẩn thận hơn.
- Nhà
Viên Ngoại có gần đây không?
- Chỗ
tôi ở là Thất Bảo Sơn, cách đây 10 dặm đường.
- Nếu
vậy thì tiện lắm.
Triệu
Viên Ngoại liền sai người về lấy thêm con ngựa nữa, để mời Lỗ Đạt đi. Trưa hôm
ấy có ngựa tới nơi, Viên Ngoại sai người nhà mang khăn gói của Lỗ Đạt, rồi hai
người từ giã bố con Kim Lão, mà lên ngựa ra về.
Khi tới
nơi Triệu Viên Ngoại cùng Lỗ Đạt xuống ngựa, rồi dắt tay mời vào thảo đường,
nhất diện sai người làm cơm thiết đãi.
Lỗ Đạt ở
đó được dăm bảy ngày, một hôm cùng với Triệu Viên Ngoại đang ngồi ở thư viện,
nói chuyện với nhau, thì bỗng thấy Kim Lão đến chơi.
Kim Lão
có dáng cấp bách, nhằm lúc vắng người mà nói rằng:
- Dám
thưa ân nhân, hôm nọ ân nhân qua đến nhà tôi, vì Triệu Viên Ngoại không biết
đầu đuôi, vội đem người nhà đến toan vây bắt, làm ồn ào cho phố xá ai cũng có
lòng ngờ vực, cho nên đến hôm qua có mấy tên công sai lảng vảng dò la xem chừng
khẩn lắm, vì sợ khi họ biết ngài ở đây mà đến bắt, thì không tiện cho ân nhân.
Lỗ Đạt
nói:
- Nếu
vậy thì tôi xin đi chỗ khác cho rảnh.
Viên
Ngoại có dáng ân cần mà nói:
- Bây
giờ giữ Đề Hạt ở đây, cũng e có điều không tiện thực, song nếu cho ngài đi, thì
chúng tôi lại càng không phải lắm, vậy tôi có một kế này, có thể tạm yên mà
lánh nạn được, nhưng chẳng hay Đề Hạt có ưng ý hay không?
- Tôi
bây giờ đang lúc tội nợ đến nơi, nếu lại được chỗ yên thân, thì còn gì mà không
ưng ý?
- Nếu
như vậy thì hay lắm, cách đây vào khoảng 30 dặm, có một tòa núi gọi là Ngũ Đài
Sơn, trong có viện Văn Thù tức là chùa Đạo Tràng văn Thù Bồ Tát, có năm bảy
trăm vị sư tu hành ở đó. Trước đây các cụ tôi bỏ tiền ra tu bổ chùa ấy, công
đức rất to mà sư cụ chùa ấy ở đây là Trí Chân Trưởng Giả, lại chính là anh em
thân thích với tôi, vậy nếu Đề Hạt có bằng lòng sang ấy, mà cắt tóc đi tu, thì
bao nhiêu phí tổn chi tiêu, tôi xin chịu tất.
Lỗ Đạt
nghĩ một lúc rồi nói:
- Bây
giờ tôi cũng không biết đi đâu cho được, vậy đành phải theo kế ấy là hơn.
Đêm hôm
ấy bàn soạn xong rồi, sắm sửa các đồ hành trang lễ vật, rồi đến sáng hôm sau
hai người cùng đi sang Văn Thù Viện. Vào khoảng trưa hôm sau đi đến chân núi
Ngũ Đài, Lỗ Đạt và Triệu Viên Ngoại đi kiệu lên núi, sai đầy tớ vào chùa báo
cho sư cụ biết.
Sư cụ
nghe tin vội vàng dẫn đồ đệ đi ra tiếp đón. Khi vào đến phương trượng, sư cụ
mời Triệu Viên Ngoại ngồi trên khách vị, còn Lỗ Đạt thì ngồi ở ghế một bên đối
diện với sư cụ.
Triệu
Viên Ngoại gọi Lỗ Đạt đến bên cạnh bảo thầm rằng:
- Ông định
xuất gia, sao lại ngồi đối diện với sư cụ thế?
Lỗ Đạt
nói:
- Nào
tôi có hiểu ra thế nào ở đâu?
Nói
xong, chạy đến ngồi ở phía dưới Triệu Viên Ngoại, còn các vị sư Giám Tự và Thư
ký trong chùa, đều theo thứ tự mà ngồi cả hai bên.
Bấy giờ
người nhà Triệu Viên Ngoại đem các thứ lễ vật đến bày ở trên mặt án, trước chỗ
sư cụ ngồi. Sư cụ trông thấy cười bảo Viên Ngoại rằng:
- Sao
người cho lễ vật luôn như thế, thực là phiền cho người lắm.
- Gọi là
có chút lễ mọn xin Hòa thượng nhận cho, có chi mà dám nói là nhiều, vả lại tôi
có một việc muốn sang kêu với ngài, xin ngài từ mẫn đi cho. Nguyên là tôi có
một người biểu đệ họ Lỗ, trước đây đã theo đòi việc quân ở Quan nội, vì nay
thấy chuyện đơiø man mác lắm nỗi đắng cay, muốn tình nguyện để xuất gia đầu
Phật. Vậy dám mong Hòa thượng lấy lòng từ bi quảng đại mà chấp nhận cho, còn
các việc phí tổn thế nào, tôi xin cáng đáng.
- Nếu
vậy cũng là vẻ vang cho cửa Phật, lão sư tôi xin vui lòng nghinh tiếp ngay, bây
giờ xin mời các vị xơi nước đã.
Uống
nước xong rồi, sư cụ gọi lũ Giám Tự và Thư Ký, đến bàn chuyện cho người vào đầu
Phật, và sai dọn cơm chay để thiết đãi hai người.Khi ấy chư tăng bàn vụng với
nhau:
- Anh
chàng này trông hai con mắt hung ác thế kia thì tu hành sao được? Ta nên vào
bẩm với sư cụ để người xét kỹ xem sao.
Đoạn rồi
chư tăng cử một người vào mời Triệu Viên Ngoại và Lỗ Đạt ra ngồi ở khách sạn,
rồi cùng vào bẩm riêng với sư cụ rằng:
- Người
vừa rồi trông dáng dữ tợn hung hăng, mặt mũi thô bỉ như thế, nếu sư cụ cho ở
chùa này, chỉ e sau đây sinh sự khó chịu gì chăng?
Sư cụ
nói:
- Người
ấy là anh em của Triệu Viên Ngoại, công đức ở chùa ta, có lẽ nào mà không nhận
được, các ngươi cứ an tâm, để ta xem thử ra sao?
Nói xong
thắp một nén hương, ngồi xếp bằng tròn, miệng đọc mấy câu thần chú, rồi nhắm
mắt ngồi im một lúc, đến khi cháy hết nén hương, mới mở mắt bảo chư tăng rằng:
- Được
rồi, các ngươi không ngại, người ấy tuy bây giờ trông dáng hung hăng như thế,
song trên ứng với Thiên Tinh mà giữ lòng ngay thẳng, sau này chứng quả rất to,
có lẽ các ngươi không bằng được, vậy chớ nên trở ngại làm chi?
Chư tăng
nghe vậy, không dám nói năng gì nữa, sư cụ liền sai dọn cơm lên mời khách thụ
trai, thụ trai xong rồi, Viên Ngoại bỏ tiền ra sai người sắm sửa lễ vật, và may
mũ áo, sắm giầy dép nhà chùa cho Lỗ Đạt.
Ngày hôm
sau các vật liệu đã chuẩn bị sẵn sàng, chư tăng ăn mặc lễ phục, đội mũ pháp
giới, mặc áo cà sa, ngồi sắp hàng hai bên pháp tọa, còn sư cụ thì ngồi trước
Phật đài, bày các đồ lễ phẩm lên trên, rồi thỉnh chuông niệm Phật mà đọ sớ dâng
hương, khi đọc sớ xong, đạo đồng dẫn Lỗ Đạt đến trước pháp tọa, bỏ khăn mũ đi
rồi, đạo đồng lấy dao cắt tóc.
Bấy giờ
Lỗ Đạt đã thấy đầu trọc lóc, duy còn mấy cái râu cong ngược ở mép về cằm, thì
ra dáng đắc chí mà rằng:
- Phải,
để mấy cái râu này cho mỗ thì thú lắm?
Chư tăng
nghe nói buồn cười đến chết, song có sư cụ ở trên, cho nên không ai dám hở răng
nữa.
Sư cụ
cùng chư tăng lại đồng thanh đọc mấy câu kệ, rồi đạo đồng cắt xoẹt cả râu ria
Lỗ Đạt, không còn để lại chút gì.
Đoạn rồi
sư cụ đặt pháp danh Lỗ Đạt là Trí Thâm, và giao cho các đồ pháp giới cà sa cùng
gậy, giầy nhà Phật.
Trí Thâm
ăn bận nhà chùa tử tế, rồi Giám Tự dắt vào trước pháp tọa, sư cụ làm phép mà
đọc rằng:
- Phép
tu hành: Điều thứ nhất, phải noi theo Phật tính; Điều thứ nhì, giữ gìn khuôn
phép; Điều thứ ba, phải theo bạn theo thầy; thế gọi là Tam quy. Còn như ngũ
giới thì: Một là không được giết loài sống; Hai là không được trộm cắp; Ba là
không được tà dâm; Bốn là không được ham rượu; Năm là không được nói càn, năm
điều ấy có giữ được không?
Trí Thâm
bỏm bẻm trả lời:
- Đã,
tôi nhớ rồi.
Chư tăng
ai cũng bật cười không nhịn được.
Bấy giờ
các lễ đã xong, Triệu Viên Ngoại mời tất cả các chư tăng ra chỗ Vân Đường rồi
đồ tự dẫn Trí Thâm, đi chào các sư huynh sư đệ khắp cả một lượt đến chiều mới
xong.
Sáng hôm
sau Triệu Viên Ngoại sắp sửa ra về, sư cụ cùng tất cả tăng đồ đều đưa chân
xuống cửa núi, Viên Ngoại quay lại nói với chư tăng rằng:
- Em Trí
Thâm xưa nay vốn tính thô mãng ăn nói tục tằn vậy, trong khi ở đây ăn mày lộc
Phật, lỡ có điều không phải, dám xin hòa thượng, và dưới các sư phụ đều lấy
lòng từ mẫn thương đến tôi, mà tha thứ tội đi cho, thì tôi được đội ơn vạn bội.
Sư cụ
đáp:
- Viên
Ngoại cứ yên tâm, tiểu tăng tôi xin hết lòng uốn nắn dần dần mới được.
Viên
Ngoại lại gọi Trí Thâm ra dưới gốc cây tùng, mà dặn nhỏ rằng:
- Hiền
đệ ở đây không phải chỗ bình thường, phàm việc gì cũng nên cẩn thận chớ để lỡ
ra mà khó xử trí về sau. Còn tiền nong áo xống, thì tôi khắc xin chu tất cả
cho.
Trí Thâm
gật đầu nói:
- Việc
ấy quan bác không phải dặn, tôi đây xin y lời được cả.
Khi đó
Triệu Viên Ngoại bái từ sư cụ cùng các tăng đồ, và Trí Thâm mà trở về nhà.
Lỗ Trí
Thâm thấy viên ngoại về rồi, một mình vơ vẫn đi vào Phật đài, nằm vật xuống sập
mà ngủ ngay một giấc.
Các tăng
đồ thấy vậy, thì túm đến dựng dậy mà bảo rằng:
- Đã
xuất gia thì phải học ngồi, chứ nằm thế này không được.
Trí Thâm
giận mà nói:
- Việc
ta ta ngủ, có can gì đến các ngươi?
Nói xong
lại nằm vật xuống ngủ, không ai còn ngăn cản được.
Sáng hôm
sau bọn tăng đồ toan lên mách với Hòa thượng, nhưng có một người gạt đi mà
rằng:
- Sư cụ
đã nói về sau tất hắn hơn cả chúng ta vậy ngày nay có nói cũng vô ích thôi mặc
quách hắn là xong.
Trí Thâm
không thấy ai nói đến càng tự do hơn trước, cứ chưa tối thì đã nằm sóng sượt ra
sập để ngủ, tiếng gáy ầm ầm như sấm động, rồi lại phóng uế ra khắp cả đằng sau
điện, làm cho bẩn thỉu không ai chịu được. Lũ tăng bất đắc dĩ phải vào bẩm với
sư cụ.
Sư cụ
gạt đi rằng:
- Thôi,
nên nể mặt Triệu Viên Ngoại, cứ để cho hắn ở đây, rồi sau hắn phải sửa đổi dần
đi.
Từ đó
không ai dám nói đến Trí Thâm nữa.
Lỗ Trí
Thâm ở Ngũ Đài Sơn được 4, 5 tháng trời, rất lấy làm khó chịu, một hôm gặp buổi
mát trời, chàng ta mặc áo thắt đai chân vận đôi giày thầy chùa, đi lững thững
ra mái đình, ở lưng chừng sườn núi, ngồi chơi vơ vẫn một mình. Trong bụng chợt
nghĩ:
"Ta
mọi khi vẫn cứ rượu ngon thịt béo ăn uống luôn mồm, thế mà bỗng dưng dắt ngay
vào đây làm một bác thầy chùa, ăn không được ăn, uống không được uống, như thế
có tức hay không? Lão Triệu Viên Ngoại mấy hôm nay cũng không thấy sai người
đưa gì đến đây, cho ta chén cả, không biết làm cách gì có rượu uống cho đỡ thèm
bây giờ?".
Đương
nghĩ vẫn vơ như vậy, thì thấy một anh chàng quẩy hai thùng rượu ở chân núi đi
lên, miệng hát nghêu ngao:
Non xa
có phải chiến trường?
Mục đồng
nhặt ngọn gươm tàn ngày xưa.
Gió dồn
ngọn nước sông ô,
Nỉ non
như tiếng Ngu Cơ biệt chồng.
Lỗ Trí
Thâm thấy anh chàng đi vừa hát, khi lên đến mái đình, thì đặt gánh xuống ngồi
nghỉ, liền cất tiếng hỏi rằng:
- Anh
kia gánh những gì trong thùng đó?
- Thưa
tôi gánh rượu đây?
- Rượu
bao nhiêu tiền?
- Hòa
thượng hỏi đùa làm gì thế?
- Ta lại
đùa với ngươi hay sao? Ta hỏi thực đó.
- Rượu
này tôi gánh lên trên núi, để bán cho đám kiệu phu, đám nhà bếp, cùng các nàng
quán họ mua, chứ như ở trong chùa, thì sư cụ đã có lệnh cấm, nếu ai bán rượu
cho các vị sư, tất là bị phạt tất cả tiền rượu, mà còn bị đuổi đi ngay lập tức,
vậy hòa thượng hỏi làm chi?
Lỗ Trí
Thâm cáu lên mà rằng:
- Thế
thì ngươi không bán cho ta hay sao?
- Hòa
thượng giết, tôi cũng không dám bán.
- Ta
không giết ngươi để làm gì, ta chỉ hỏi mua rượu của ngươi để uống thôi.
Anh kia
xem chừng núng thế, không cự nổi được hòa thượng, liền nhắc gánh lên vai mà
chạy, Trí Thâm vùng dậy đuổi theo, nắm lấy gánh rượu, rồi đá cho anh chàng kia
một cái, ngã lăn queo xuống đất, rồi hai tay xách hai thùng rượu, đi lên mái
đình, ngồi khật khà khật khưỡng một mình múc rượu mà uống. Được một lát uống
hết hẳn một bên thùng rượu, liền gọi tên bán rượu mà bảo rằng:
- Rượu
ta mới uống có một thùng, sáng mai đến đây mà lấy tiền.
Bấy giờ
anh kia mới lóp ngóp bò dậy, vừa đau đớn vì bị đá, vừa phần sợ sư cụ biết, thì
khổ tới thân, đành phải im hơi.
Khi ấy
Lỗ Trí Thâm nghe trong mình đã say sưa nóng nảy, liền cổi áo bỏ mũ cho mát, rồi
khệnh khạng đi thẳng về chùa.
Vừa khi
lên tới cổng chùa, hai tên canh cửa cầm roi chạy ra ngăn lại mà cự rằng:
- Anh là
người tu hành, mà sao lại say sưa như thế? Sư cụ đã ra lệnh cho các hòa thượng,
nếu ai phá giới uống rượu thì phạt đánh 40 roi, bằng những người canh cổng để
cho các sư say rượu vào chùa thì cũng phải phạt đòn một chục. Vậy anh đi xuống
ngay đi, thì tôi tha cho mấy chục roi đòn ấy.
Lỗ Trí
Thâm vừa bước chân vào cửa thiền môn, tính cũ vẫn còn hăng hái, nay nghe thấy
lũ kia nói vậy, thì trừng mắt lên mà nói rằng:
- A!
Quân này gớm thực, bây muốn đánh nhau, thì ta đánh nhau, cho mà xem.
Hai tên
kia thấy vậy, thì một tên chạy vội vào trong chùa, còn một tên giả cách giơ roi
ra để giữ Trí Thâm lại. Trí Thâm sốt ruột sấn vào gạt hất đầu roi đi, rồi tát
cho tên kia một cái, lộn chúi vào trong cổng. Tên kia vừa ngóc đầu toan dậy,
lại bị Trí Thâm đánh cho một quyền ngã gục xuống đất, kêu ám ỹ cả, rồi Trí Thâm
vừa vội vội vàng vàng vừa chạy vào chùa, vừa quay lại nói rằng:
- Ông
hãy tha cho mầy đấy.
Trong
kia Giám Tự nghe thấy tên canh cửa vào bảo, thì vội vàng gọi những tên nhà bếp
cùng là phu kiệu, tất cả tới hai ba mươi người đều cầm roi vác gậy đổ ra ngăn
cản Trí Thâm.
Trí Thâm
thấy vậy thét lên một tiếng như sấm vang trên núi rồi phóng bộ vào toan đánh.
Đám kia thấy Trí Thâm ra dáng hung tợn thì ai nấy đều sợ hãi cùng nhau nấp vào
trong điện mà khép cửa lại. Trí Thâm đẩy sấn vào trong điện đánh cho anh nào
anh ấy chạy tháo chân không kịp. Giám Tự thấy nguy cấp đến nơi, hớt hải chạy
vào báo cho sư cụ biết.
Sư cụ
nghe nói mải mốt, dẫn mấy tên đồ đệ chạy đến chỗ Lỗ Trí Thâm mà nạt rằng:
- Trí
Thâm không được vô lễ ở đây.
Lỗ Trí
Thâm tuy bấy giờ say rượu, nhưng cũng biết sợ sư cụ một chút liền chạy đến gần
trước mặt vái chào sư cụ rồi trỏ xuống dưới điện mà thưa rằng:
- Trí
Thâm nầy uống có mấy hớp rượu, cũng không chọc ghẹo đến ai thế mà họ lại kéo
nhau đến đánh là nghĩa gì vậy?
Sư cụ
kiếm lời đấu dịu mà rằng:
- Ngươi
hãy nghe lời ta mà đi ngủ đi, rồi đến mai sẽ hay.
Trí Thâm
vâng lời rồi nói một mình rằng:
- Nếu ta
không nể lời sư cụ thì tất là đánh chết chúng bây mới thôi.
Nói đoạn
sư cụ sai đồ đệ đưa Trí Thâm về tăng phòng để nghỉ.
Bấy giờ
chư tăng lại phàn nàn với sư cụ rằng:
- Hôm
nay sư cụ nghĩ thế nào? Phỏng có dung người ấy ở trong chùa để làm loạn thanh
quý nữa hay không?
- Bây
giờ vẫn biết rằng như thế, nhưng sau này làm thế nào hắn cũng có ứng quả to, vả
chăng mình cũng phải nể mặt ông Triệu Viên Ngoại, mà hãy dung thứ cho hắn, rồi
mai ta sẽ dặn bảo hắn thì tất là hắn cũng tỉnh ra dần dần.
Chư tăng
nghe nói ai cũng cười thầm, mà không dám nói gì.
Sáng hôm
sau sư cụ sai người gọi Lỗ Trí Thâm đến mà bảo rằng:
- Triệu
Viên Ngoại đưa ngươi đến đây, để ăn chay niệm Phật, ta đã răn bảo các lẽ, phàm
nhà tu hành là không được sát sinh, hai là không được trộm cướp, ba là không tà
dâm, bốn là không được ham rượu, năm là không được nói càn, có giữ được năm
điều ấy, mới là đắc đạo; nay ngươi mới tới đây được ít lâu, mà đã rượu chè be
bét, đánh hết người này đến người kia, làm cho ầm ĩ cả chùa lên, như thế là
nghĩa làm sao?
Trí Thâm
quỳ xuống mà đáp rằng:
- Từ nay
không dám như thế nữa.
Sư cụ
lại nghiêm trách rằng:
- Một
người xuất gia đầu Phật, mà rượu chè be bét, làm hại đến thanh quý như thế, nếu
ta không nể lòng Triệu Viên Ngoại, thì ta không dung ở chùa này nữa, vậy từ nay
ngươi hãy liệu thân mà chừa đi mới được.
Trí Thâm
cung kính vâng lời mà đoan rằng:
- Không
bao giờ dám làm như thế nữa.
Đoạn rồi
sư cụ lưu Trí Thâm ở phương trượng, cho cùng ngồi ăn cơm, mà lấy lời khuyên bảo
mơn man, khiến cho trong lòng tự hối mà tỉnh ngộ ra dần. Cho hay:
Cương
cường bạo ác đến đâu,
Nước mưa
đạo đức tưới lâu cũng mềm.
Lỗ Trí
Thâm từ khi phải một bữa say hôm ấy, rồi đến ba tháng trời không hề dám bước
chân ra khỏi cửa chùa nữa. Chợt có một hôm chiều trời ấm áp, đương độ tháng
hai, một mình ngồi buồn bã ở chốn tăng phòng, liền lững thững dạo ra chơi mát.
Khi đi đến sườn núi Ngũ Đài đương đứng xem phong cảnh làm vui, bỗng nghe thấy
tiếng lóp đóp lát chát ở đàng xa đưa đến, Trí Thâm vội về tăng phòng, lấy thêm
ít tiền bỏ vào túi rồi lững thững ra đi.
Một mình
vơ vẫn đi mãi đến núi Ngũ Đài thì thấy cửa nhà đông đúc, hàng quán xôn xao, uyển
nhiên là một nơi thành thị, Trí Thâm tự nghĩ tự bụng:
- Nếu ta
sớm biết đây có phố xá hàng quán thế này, thì những khi cao hứng phải xuống đây
đánh chén, can chi mà phải cướp rượu của ai.
Bụng
nghĩ chân đi, vừa đến trước một cửa hàng thợ rèn, có mấy người đương ngồi đánh
rèn tại đó, Trí Thâm liền đi thẳng vào trong hàng quán mà hỏi rằng:
- Các
anh làm thợ rèn ở đây, có thép tốt hay không?
Anh thợ
rèn ngẩng trông lên thấy Lỗ Trí Thâm, tuy ăn mặc lối nhà chùa, song mặt mũi dữ
tợn, mà mái tóc lại giở ngắn giở dài, trong bụng cũng có phần kinh sợ, bèn mời
Trí Thâm ngồi mà hỏi rằng:
- Chẳng
hay hòa thượng muốn đánh vật gì để dùng?
- Ta
muốn đánh một cây thuyền trượng, và một thanh giới đao, nhưng không biết rằng
có thép tốt hay không?
- Bẩm
có, hòa thượng định dùng bao nhiêu cân, để đánh thuyền trượng?
- Ta
muốn đánh cây thuyền trượng nặng 100 cân, có thép tốt hay không?
Phó rèn
cười mà đáp rằng:
- Bạch
hòa thượng, thế nào mà tôi đánh không được, nhưng chỉ sợ hòa thượng không dùng
nổi mà thôi, đến như cây đại đao của đức Thánh Quan ngày trước, cũng chỉ có 80
cân nữa là...
Trí Thâm
cau trán mắng rằng:
- Ta đây
lại không bằng Quan Công à? Hắn cũng là người chứ gì?
- Cứ như
ý chúng tôi, chỉ đánh vào khoảng 40, 50 cân, cũng nặng lắm rồi.
- Ừ thôi
ta cũng nghe lời anh, cứ đánh 80 cân và nặng bằng cây đao của Quan Công cũng
được.
Phó rèn
nghĩ một lát rồi nói:
- Tôi
thiết tưởng sư phụ to béo như thế, mà cầm cái cây gậy nặng quá thì không tốt,
vậy tôi xin chọn thứ thép tốt đánh độ 62 cân cũng được, còn thanh giới đao thì
tôi hiểu rồi, bất tất phải nói nữa.
Trí Thâm
gật đầu nói:
- Cũng
được, tất cả hai cái ấy, ngươi lấy bao nhiêu tiền?
- Tôi
không nói thách, xin sư phụ cứ cho đủ năm lạng bạc mới được.
Trí Thâm
đưa tiền mà nói:
- Được,
5 lạng ta cũng trả cho anh, nếu anh đánh được tốt, thì ta thưởng thêm cho.
Phó rèn
nhận tiền rồi nói:
- Chúng
tôi xin đánh cẩn thận cho sư phụ.
Lỗ Trí
Thâm lại bảo với phó rèn rằng:
- Ta còn
ít tiền lẻ ở đây, anh đi mua rượu về uống với ta một thể cho vui.
Phó rèn
nghe nói từ chối rằng:
- Tôi
bận việc làm ăn, không thể hầu rượu ngài được, vậy xin sư phụ cứ tự tiện cho.
Trí Thâm
đứng dậy, ra khỏi nhà lò rèn, được dăm ba mươi bước thì thấy có hàng rượu ở đó
liền bước rảo cẳng, vào hỏi mua rượu để uống.
Nhà hàng
thấy vậy, không dám bán mà nói rằng:
- Sư cụ
trên chùa đã truyền lệnh, chúng tôi không được bán rượu cho cho các vị sư, nếu
mà bắt được bán vụng thì tất phải phạt, mà tịch ký cả tiền, vậy xin sư phụ tha
lỗi cho, không khi nào chúng tôi dám như thế.
Trí Thâm
thấy vậy, đành phải ra đi, tìm hàng khác. Ngờ đâu đi đến dăm bảy hàng, mà không
hàng nào bán cả, Trí Thâm lấy làm tức giận, lẩm bẩm nói một mình rằng:
- Ta
không nghĩ được kế gì mà uống rượu lấy một bữa, thì tức quá.
Chợt đâu
trông thấy phía cuối chợ đằng xa, phảng phất có Hạnh Hoa Thôn ở đó, Trí Thâm
nghĩ ngay ra một kế, rồi xăm xăm đến hàng rượu vắng vẻ quạnh quẽ bước vào ngồi
ở gần cạnh cửa sổ gọi chủ hàng mà bảo rằng:
- Tôi ở
đằng xa qua tới chốn này, muốn mua rượu uống chơi, xin chủ nhân bán cho tôi một
ít.
Chủ hàng
nhìn Trí Thâm một lượt rồi hỏi rằng:
- Hòa
thượng ở đâu mới tới đây?
- Tôi là
người tăng lữ ở đường xa đi qua đây thôi.
- Nếu có
phải người tu hành ở trên chùa Ngũ Đài, thì tôi không bán.
- Không
phải, cứ đem rượu ra đây bán cho tôi.
Chủ hàng
nhận kỹ Trí Thâm, vừa phần lạ mặt, vừa phần lạ tiếng thổ dân thì cũng tin cho
là thực, liền hỏi ngay rằng:
- Người
định lấy bao nhiêu rượu?
- Không
cần phải hỏi, hãy cứ mang cho tôi mấy be lớn đã.
Chủ hàng
đem rượu đến, Trí Thâm uống luôn mấy mươi be một lúc rồi quay ra hỏi chủ hàng
rằng:
- Ở đây
có thịt thà gì đem bán cho tôi một thể?
Chủ hàng
nói:
- Thưa
ngài, sáng hôm nay hàng tôi vẫn có thịt bò nhưng bây giờ bán hết cả rồi.
Vừa nói
xong thì Lỗ Trí Thâm ngửi thấy mùi thịt thơm xông đặc lên mũi, liền đứng dậy
chạy vào sân trong, thấy bên cạnh tường có nồi thịt chó đương nấu bèn bảo với
chủ hàng rằng:
- Trong
nhà có thịt chó sao bác không bán cho tôi?
- Thưa
ngài, tôi sợ những người xuất gia không xơi được thịt chó, cho nên không dám
bán cho ngài.
Trí Thâm
nói:
- Tôi có
tiền đây, sao lại không ăn được?
Nói xong
liền lấy tiền đưa cho chủ hàng mà bảo rằng:
- Tiền
đây hãy bán cho tôi nửa quầy.
Chủ hàng
mãi mốt lấy nửa quầy thịt chó mang ra để trước mặt bàn. Trí Thâm trông thấy cả
mừng giơ tay cầm lấy đùi chó vừa xé vừa ăn, lại vừa uống hết mươi be rượu nữa.
Khi ấy trong bụng hãy còn thòm thèm liền gọi chủ hàng ra để mua thêm.
Chủ hàng
có ý ngần ngại mà từ chối rằng:
- Bạch
ngài chỉ còn có ngần ấy mà thôi.
Trí Thâm
nghe nói tức giận quắc mắt lên mà hỏi:
- Ta ăn
không của ngươi hay sao? Mà ngươi hạn cho ta có bằng ấy?
Chủ hàng
nghe giọng hòa thượng đã có hơi rượu thì không dám dùng dằng, liền hỏi ngay
rằng:
- Ngài
định mua bao nhiêu nữa?
- Ngươi
cứ đem một thùng nữa ra đây.
Chủ hàng
bất đắc dĩ lại phải mang một thùng rượu nữa ra. Trí Thâm gật gù ngồi uống mãi
đến hết cả thùng rượu mới thôi. Bấy giờ còn thừa lại nửa quầy thịt nữa, Trí
Thâm lại đút túi để mang về. Khi ra đến cửa còn quay lại mà bảo chủ hàng rằng:
- Ngày
mai nếu có tiền, thì tôi lại đến đây nhé?
Nói xong
quay gót sồng sộc đi thẳng về lối Ngũ Đài Sơn, chủ hàng trông thấy chỉ lắc đầu
le lưỡi mà không dám nói làm sao cả.
Trí Thâm
đi về đến mái đình ở lưng chừng núi ngồi đó một hồi, nghe hơi rượu đã bốc lên
nồng nực, liền đứng dậy mà nói một mình:
- Ta lâu
nay không đi bài côn bài quyền nào, nghe trong mình không được khỏe mạnh, bây
giờ tiện đây thử giở vài ngón xem sao?
Nói đoạn
đi xuống sân đình, xắn hai tay áo lên, rồi đánh bên nọ đánh bên kia, hắt lên đá
xuống, lấy sức lấy gân, múa may một mình, đoạn rồi chạy lên đánh vào các cột ở
góc đình một quyền rất mạnh, làm cho các cột gãy hẳn ra đôi đoạn, mà một bên
góc mái đình cũng đổ khịu xuống.
Bấy giờ
bọn canh cổng ở trên nghe thấy tiếng đánh sầm giữa lưng chừng núi, ngó cổ ra
nom thì thấy Lỗ Trí Thâm đương chân thấp chân cao đi sồng sộc lên núi, bèn cùng
lắc đầu mà bảo nhau rằng:
- Khổ
chưa! Thằng súc sinh hôm nay lại say quá chén nữa rồi, chúng ta phải đóng cổng
lại mới được.
Nói đoạn
họ khép hai cánh cổng chùa, khóa chặt lại tử tế, rồi cùng đứng vào chỗ khe cửa
mà nom ra, thì thấy Lỗ Trí Thâm vừa đi tới nơi giơ tay đập cửa mà gọi ầm ầm lên
như hổ thét.
Lũ canh
cỗng cứ đứng yên đó, không ai dám mở cổng ra.
Trí Thâm
lại đập gõ hồi lâu không ai chịu mở, quay cổ ra phía cổng bên tả, thấy có pho
tượng Kim Cương ở đó, liền quát lên rằng:
- Thằng
quái này to lớn như thế, mày không mở cử cho ta, lại còn giơ quyền để dọa ta à?
Nói thiệt ta đây không sợ mày đâu?
Nói dứt
lời rồi nhảy tót lên bệ, vớ thanh củi nhằm cẳng tượng mà vụt lấy vụt để, bao
nhiêu những phấn son sơn nhựa, đều long bật ra cả.
Lũ canh
cổng nom thấy vậy cả kinh, mải mốt bảo nhau chạy vào báo với sư cụ.
Ngoài
kia Trí Thâm đứng đợi hồi lâu, không có ai ra mở cửa, lại quay cổ nom sang bên
hữu cũng thấy pho tượng Kim Cương ở đó, rất tức giận quát to lên rằng:
- Lại
thằng này cũng há hốc miệng mà cười ta nữa hay sao?
Đoạn rồi
cũng nhảy lên bệ, đá luôn vào cẳng pho tượng mấy cái đổ lăn đùng xuống đất, mà
đứng cười ha hả một mình.
Khi đó
lũ canh cổng chạy vào báo với sư cụ, thì sư cụ gạt đi mà bảo rằng:
- Thôi
các ngươi cứ ra đi, để đấy mặc hắn.
Vừa nói
xong thì lại thấy lũ Giám Tự và Thủ Tự chạy mải mốt vào mà bạch rằng:
- Thằng
khốn nạn hôm nay lại say rượu quá, hắn đã đánh đổ cả mái đình, và đương phá hủy
hai pho tượng Kim Cương ở ngoài kia.
Sư cụ
nghe nói vậy, cũng chỉ ung dung mà đáp lại rằng:
- Xưa
nay đến ông Thiên Tử còn sợ thằng say rượu, huống chi chỉ là lũ thầy chùa? Còn
như hai pho tượng Kim Cương cùng mái đình kia, nếu hắn có đánh hỏng ở đâu, thì
đã có Triệu Viên Ngoại làm đền ở đấy, can chi mà nói cho phiền.
Chư tăng
có ý không bằng lòng mà nói:
- Pho
tượng Kim Cương là chúa tể ở cửa rừng cửa núi, có lẽ nào mà thay đổi dễ dàng
như thế được?
Sư cụ
lại cười mà đáp:
- Cứ gì
pho tượng Kim Cương, cho đến hắn phá hỏng ngay tòa Phật Tam Thế cũng mặc lòng
hắn vậy, chứ còn biết làm sao được? Các ngươi không nhớ chuyện hung tợn bữa
trước hay sao?
Lỗ Trí
Thâm đứng ở ngoài đợi mãi không có ai mở cửa cho thì nóng tiết mà quát:
- Đồ ăn
mày kia, không mở cửa cho ta vào, thì ta cho một mồi lửa đốt tiệt cả chùa chiền
bây giờ.
Chúng
tăng nghe thấy vậy, thì anh nào anh nấy đều phải kinh sợ gọi người canh cổng
bắt mở cửa cho Trí Thâm vào.
Lũ canh
cửa cũng rung sợ khiếp kinh, sẽ rón rén đến rút cái then khóa ra, rồi bỏ mặc
cửa khép đấy mà chạy trốn mất cả.
Bấy giờ
chúng tăng cũng bỏ mà chạy trốn cả, Lỗ Trí Thâm sốt ruột không thể nào đợi
được, liền giơ hai tay mà đẩy cửa một cái thật mạnh. Dè đâu then cửa ở trong đã
tháo ra rồi, cho nên vừa đẩy tay vào một cái thì cánh cổng mở tung hẳn làm cho
Trí Thâm ngã ngay sấp mặt vào trong cổng, đoạn rồi lại mải mốt đứng dậy, mà xoa
đầu xoa mặt, chạy sộc vào trong phòng.
Khi ấy
có mấy vị sư đương ngồi ở trai đường với nhau, bỗng thấy Trí Thâm ở đâu lập cập
bước vào, mặt đỏ bầng bầng như nước tượng sơn son, thì ai nấy kinh ngạc đều cúi
đầu xuống, mà không dám ngẩng đầu lên nhìn, đoạn rồi thấy Trí Thâm chạy vào đến
giường nằm vật xuống đấy, mà ghé cổ ra đất nôn mửa thốc tháo; làm cho mọi người
ngồi đấy, đều bưng mũi lắc đầu không sao nhịn được.
Trí Thâm
nôn mửa hồi lâu, rồi lại ngồi chổm lên giường cởi áo bỏ mũ, bứt đứt cả thắt
lưng, rồi lại lấy quầy thịt chó giắt ở trong bọc ra, mà nói một mình rằng:
- Tốt
lắm! Bây giờ bụng lại đương đói đây, ta đem ra mà nhắm đi thôi.
Nói xong
vừa xé thịt chó vừa ăn nhồm nhoàm ở miệng, rồi quay trước quay sau trông thấy
mấy vị sư đương lấy vạt áo bịt mũi ngồi gần ở đó, liền giơ miếng thịt chó sang
một bên kia mà bảo rằng:
- Các
bác có ăn thịt chó không?
Vị sư ấy
mải mốt nhảy xuống giường toan chạy, bất đồ bị Trí Thâm nắm tay kéo lại mà nhét
cả vào mũi vào mồm không sao cựa được. Các sư kia thấy vậy túm đến để gỡ ra,
thì Trí Thâm giơ ngay cẳng tay đánh vung xích chó, làm cho chư tăng và các
khách nhà chùa đều chạy tán loạn.
Giám Tự
thấy vậy, không đợi nói cho sư cụ biết, liền cho gọi tất cả nhà bếp phu kiệu,
cùng các vị chức vụ ở trong chùa, có tới hai trăm người đều cầm côn gậy đi vào
tăng đường để chống cự lại.
Trí Thâm
trông thấy thế, thì thét lên một tiếng rất to, rồi chạy ngay vào Phật đường, vớ
ngay cái án thư ở trước điện, mà bẻ lấy hai cái chân án làm khí giới xông ra để
đánh, chư tăng thấy khí lựcTrí Thâm mạnh tợn quá chừng, thì anh nào cũng chùn
tay lại, mà không dám địch; Trí Thâm thừa thế đuổi tràn cho đến pháp đường, mà
đánh vung cả lên, không còn nể sợ điều chi.
Vừa khi
ấy thì thấy sư cụ ở pháp đường quát lên rằng:
- Trí
Thâm không được vô lễ thế! Các sư cũng phải im đi.
Chư tăng
nghe sư cụ nói, thì tản mát mỗi người đi mỗi nơi, không dám vẫn vơ quanh đấy.
Còn Trí Thâm thấy chúng tăng đã tản mát rồi, cũng vất vả hai cái chân án xuống
mà nói rằng:
- Xin sư
cụ làm chứng cho tôi.
Bấy giờ
sư cụ thấy Trí Thâm đã hơi có dáng tỉnh rượu, liền bảo rằng:
- Ngươi
là phiền lụy ta quá! Mới hôm nọ say rượu làm ầm cả lên, ta phải gửi giấy cho
Triệu Viên Ngoại để viết thư sang tạ lỗi với chúng tăng, thế mà hôm nay lại say
sưa làm loạn đến thanh quý đánh gãy cả tượng Kim Cương, đổ cả mái đình ở ngoài
núi, rồi lại đánh nhau với chư tăng, như thế thì tội ác biết đâu mà kể! Đạo
Tràng Văn Thù Bồ Tát ở núi Ngũ Đài đây, là một nơi hương lửa thanh tĩnh biết
mấy ngàn năm trời, nay có thể nào dung một người bậy bạ như thế mãi được! Ngươi
hãy theo ta vào đây, rồi ta liệu cho ngươi ở một chỗ khác mới được.
Trí Thâm
theo sư cụ vào trong phương trượng, sư cụ liền nhất diện sai gọi khách nhà chùa
cho đâu vào đấy, nhất diện sai gọi chư tăng đi yên nghĩ hẳn hoi, rồi giữ Trí
Thâm ngủ ở đó một tối.
Sáng hôm
sau sư cụ mưu cùng chư tăng, viết thư sang kể hết đầu đuôi cho Triệu Viên Ngoại
biết, và hứa xin cho Trí Thâm đi một nơi khác.
Triệu
viên Ngoại tiếp được thư của sư cụ, liền viết giấy trả lời, hẹn xin các nơi phá
hoại đều sẽ xuất tiền tu bổ đền, còn Trí Thâm thì tùy ý sư cụ xử cho.
Sư cụ
xem thư của Triệu Viên Ngoại, liền sai đồ đệ lấy ra mấy bộ mũ áo của nhà sư, và
10 lạng bạc, rồi gọi Lỗ Trí Thâm đến mà bảo rằng:
- Ngươi
ở đây đã mấy phen say sưa chè rượu, lỗi đạo tu hành như thế, ta không thể nào
dung túng được nữa, song ta cũng nể chút lòng Triệu Viên Ngoại bên kia, vậy ta
cho ngươi một bức thư này, để đi tìm một chỗ mà yên thân, từ sau phải tỉnh hối
dần đi mới được. Đây ta có câu đoán trước để về sau ngươi sẽ nghiệm dần.
Cho hay:
Cửa thiền
vừa thuở vui chơi,
Cũng
toan chợp mắt sự đời bỏ qua,
Hay đâu
trần hải phong ba,
Lửa lòng
hồ dễ ai mà tưới tan?
Một bầu
nhiệt huyết chan chan,
Thân nầy
nợ với giang san còn nhiều,
Sá chi
mặt nước cánh bèo,
Nam nhi
hồ thỉ biết liều mới gan...
Lời bàn
của Thánh Thán:
Xem sách
cần phải tinh ý, không thể đọc qua văn rồi chẳng nghĩ đến. Như hồi này tả Lỗ
Đạt gặp Kim Lão, rồi xoay đến vào chùa Ngũ Đài Sơn. Xét Kim Lão làm gì đưa nổi
Lỗ Đạt đến Ngũ Đài Sơn? Đấy là sự bất đắc dĩ, chỉ cậy vào thân phận của Thúy
Liên, mà nảy ra một Triệu viên Ngoại. Sở dĩ có Triệu Viên Ngoại, cốt làm cho Lỗ
Đạt đi Ngũ Đài Sơn, chứ phải đâu ở huyện Nhạn Môn Đại châu, lại có một Viên
Ngoại tốt đến như thế? Cho nên trong văn tự phải quay lại phía Lỗ Đạt mà xuất
hiện ra, tả chỗ Viên Ngoại rất yêu chuộng những tay côn quyền mà nghĩa khí mới
được. Phải xét đến đoạn văn Kim Lão cho biết, cháu gái thường thường nói với
Viên Ngoại, về ân nhân là người như thế nào, khiến Triệu Viên Ngoại kính mến.
Đó chỉ là dụng tình một ái thiếp, mà nên như vậy. Đoạn văn sau Lỗ Đạt làm loạn
Ngũ Đài Sơn, Viên Ngoại không nói câu gì phàn nàn thấy tấm lòng Viên Ngoại đã
hết sức. Độc giả nếu không xét tới, thì chả còn biết ngựa trâu, cái đực thế
nào?
Tả nhà
Kim Lão chỉ là phụ, tả Ngũ Đài Sơn lại là chính, thực là bút Sử mã phục sinh.
Tả Lỗ
Đạt hai lần dùng rượu, cho rõ ra bản ngã con người, viết làm sao chương cú
không ai ngờ tới? Thực khó lắm thay? Thế mà tác giả tả nổi, việc rất khó ở
trong rất khó kia, khéo tả hai lần dùng rượu tiếp liên, phải làm cho cách
quãng, nếu không tả cách quãng, thì Lỗ Đạt chỉ ngày ngày dùng được rượu hay
sao? Nay làm cho độc giả đã thấy một lần bị cấm, lại thấy một lần sau nữa hiện
ra, khiến cho tai mắt không tưởng tượng nổi, vậy phải tả cách quãng, liệu bút
chép ra, vì Chân Trí Trưởng Lão thường khuyên Lỗ Đạt theo cấm giới của kẻ tu
hành, nay đột nhiên trật ra ngoài đề, tưởng không còn uống được nữa, thế mà
xuống núi Ngũ Đài Sơn, lại sinh ra chuyện uống rượu, mới hay tác giả bút lực
tài tình
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 4: Chàng bé gan kinh hồn nơi ngọc
trướng Chàng to bụng ra sức xóm đào hoa
Bấy giờ
Trí Thâm đang đứng trước mặt sư cụ mà nói rằng:
- Sư phụ
dạy sao, cũng xin theo mệnh, nhưng không biết rằng sư phụ cho ở nơi đâu?
Sư cụ
nói:
- Ta có
một người anh em, gọi là Trí Thanh thiền sư, hiện đương trụ trì ở chùa Đại
Tướng Quốc bên Đông Kinh, vậy ta cho ngươi cầm một phong thư này, sang đó rồi ở
đấy mà tu hành mới được. Còn bốn câu kệ ta đọc ra đây, ngươi nên nhớ lấy, mà
suy nghiệm về sau.
Nói xong
liền đọc bốn câu kệ rằng:
"Gặp
rừng thì dấy,
Thấy núi
thì giầu,
Qua non
thì mau,
Đến sông
thì khá."
Trí Thâm
nghe bốn câu kệ, nhận thuộc lòng tử tế, rồi lạy từ tạ sư cụ thu thập khăn gói
hành lý, và từ giã chúng tăng mà đi xuống núi Ngũ đài.
Bâng
khuâng giã cảnh, giã thầy,
Trời cao
đất rộng thân nầy bốn phương
Các sư ở
chùa thấy Trí Thâm đi rồi, thì ai nấy cũng có vẻ mừng. Cách đấy vài hôm Triệu
Viên Ngoại đem tiền nong thợ thuyền đến núi Ngũ Đài để sửa chữa lại mái đình,
và sửa sang hai pho tượng Kim Cương cho được hoàn nguyên như cũ.
Còn về
phần Trí Thâm sau khi đã từ biệt, giã cảnh, giã chùa, liền xăm xăm đi xuống nhà
thợ rèn ở dưới chân chùa, để lấy giới đao cùng thuyền trượng. Khi thợ rèn đã
đánh xong rồi, Trí Thâm mua một cái bao dao để bỏ giới đao vào đó, và lại mua
sơn để sơn thuyền trượng cho cẩn thận, đoạn rồi thưởng tiền cho thợ rèn, và khoác
khăn gói, vác đao trượng đi sang Đông Kinh.
Trong
nửa tháng trời Trí Thâm đi đường không hề vào một nhà nào để trọ, chỉ đến bữa
ăn thì tìm vào hàng rượu hàng thịt, mà chén no say rồi lại một mình thui thủi
ra đi. Một khẩu giới đao, một thanh thuyền trượng, bốn phương non nước như đón
khách tang bồng, cái cảnh nhà sư bây giờ thật là thỏa chí, không bó buộc như
lúc ở chùa.
Một hôm
Trí Thâm đi lững thững trên đường, trông ra bốn bên một mầu nước biếc non xanh
rất nên ngoạn mục, bèn vừa đi vừa ngắm một mình, mà mặt trời sắp lặn non tây
không biết. Bấy giờ mới hoảng hốt đi tìm chỗ trọ, nhưng đường xa quãng vắng,
chung quanh lạnh ngắt hơi người, không biết vào đâu cho được, bất đắc dĩ lại
phải cố đi để tìm nơi khác. Chàng đi tới hai ba mươi dặm đường, qua một cái
cầu, rồi đến một nơi trang viện, xung quanh cây cối um tùm, mà đằng sau toàn là
non núi.
Trí Thâm
đi đến trước cửa trang viện, thấy những người ở trong đó đang rộn rịp tưng
bừng, như là nhà đám, liền vào tận cổng, gọi trang khách ra để hỏi.
Vừa khi
cất mồm toan hỏi, thì đã thấy trang khách nói trước lên rằng:
- Nhà sư
đi đâu mà tối tăm lần mò đến đây?
Trí Thâm
chống cây trượng xuống đất mà đáp rằng:
- Tôi đi
đến đây lỡ độ đường, xin vào ngủ trọ một tối.
- Trong
trang tôi có việc, không thể vào trọ được.
- Tôi
chỉ trọ một tối, rồi sáng mai lại đi, sao mà không được?
- Thôi
nhà sư đi tìm chỗ khác, chứ ở đây không trọ được đâu, trọ để mà chết hay sao?
- Nói
lạ? Trọ một đêm mà chết cái gì?
Trang
khách gắt lên rằng:
- Có đi
thì đi đi, không thì trói vào kia bây giờ.
Trí Thâm
nghe nói tức mình sấn cổ lên mà mắng rằng:
- Thằng
nhà quê này vô lý quá, ta làm gì mà mi bảo trói ta?
Lũ trang
khách thấy vậy, thì đổ xô đến, đứa thì mắng đứa thì đuổi, đứa thì khuyên bảo
nên đi. Bấy giờ Trí Thâm đã cáu tiết, toan giơ thuyền trượng để đánh, chợt có
ông lão trạc ngoài 60 tuổi, chống một cái gậy rất dài, ở trong nhà đi ra hỏi lũ
trang khách rằng:
- Chúng
bây làm gì ầm ầm lên thế?
Trang
khách đáp rằng:
- Bẩm có
lão sư nào toan đến đánh chúng tôi ở đây.
Trí Thâm
không đợi dứt lời, liền nói ngay rằng:
- Tôi là
sư ở Ngũ Đài Sơn đi sang Đông Kinh có việc, nhân trời tối qua đây ngủ nhờ quý
trang một tối, ai ngờ đám người nhà vô lễ, cứ toan những trói với đánh là nghĩa
lý làm sao?
Ông lão
nghe vậy bèn bảo Trí Thâm rằng:
- Nếu
người có phải là ở bên Ngũ Đài Sơn, thì xin mời vào trong nầy.
Nói xong
dẫn Trí Thâm vào trong nhà mời ngồi rồi nói rằng:
- Xin sư
phụ tha lỗi cho, lũ người nhà chúng nó ngu si, không biết cho nên xấc láo như
vậy, chứ chúng tôi đây xưa nay vẫn kính phật thờ trời, có đâu dám thế. Ngày nay
dẫu trong nhà tôi đây có việc, song để sư phụ nghỉ chơi một tối cũng chẳng hại
gì.
- Chẳng
hay quý trang đây là nơi nào?
- Thưa
người, tôi đây là người họ Lưu, đây gọi xóm Đào Hoa, cho nên người ta thường
gọi tôi là Đào Hoa Trang Lưu Thái Công. Vậy dám hỏi sư phụ pháp hiệu là gì?
- Tôi
nguyên người họ Lỗ, sau theo sư cụ Trí Chân tôi ở chùa Ngũ Đài, cho nên người
đặt pháp hiệu là Lỗ Trí Thâm.
- Bây
giờ đã tối, xin sư phụ ngồi nghỉ, rồi xơi cơm, nhưng chẳng hay sư phụ có dùng
được đồ mặn hay không?
- Tôi
đây bất cứ là chay hay mặn, hễ có rượu thì thịt trâu bò tôi ăn cũng được.
- Nếu
vậy thì tôi xin bảo người nhà, dọn rượu sư phụ xơi.
Nói đoạn
gọi trang khách lấy rượu thịt và các thứ rau quả cơm nước lên, để thiết đãi nhà
sư.
Trí Thâm
bỏ tay nải, cổi bao đao ra để một bên, rồi gắp thịt ăn uống tự do một lúc, hết
sạch cả cơm rượu và một mâm thịt, làm cho Lưu Thái Công trông thấy phải kinh
sợ.
Được một
lát Lưu Thái Công bảo trang khách, dọn một trang phòng ở bên ngoài, để cho Trí
Thâm nghỉ mà dặn rằng:
- Sư phụ
cứ đi nghỉ nếu đêm nay ở đây có xẩy ra huyên náo, thì sư phụ cũng mặc đấy mới
được.
Lỗ Trí
Thâm liền hỏi:
- Vậy
thì ở quý trang có việc chi làm vậy?
- Việc
đó các ngài đã tu hành, thì không nên hỏi đến làm chi?
Trí Thâm
lại hỏi:
- Tôi
trông Thái Công làm sao mà không được vui vẻ như thế? Chẳng hay vì tôi đến đây
phiền nhiễu đến Thái Công, thì sáng mai tôi sẽ tính tiền trả lại Thái Công.
- Sư phụ
nói làm gì vậy? Nhà tôi đây thiết đãi chư tăng cũng nhiều, có đâu một mình ngài
lại không chu tất nổi hay sao? Tôi đây sở dĩ phiền muộn là chỉ vì hôm nay gả
chồng cho đứa con gái đó thôi.
Trí Thâm
cười mà đáp rằng:
- Lạ
chưa? Con trai lớn thì lấy vợ, con gái lớn thì lấy chồng, đó là lẽ thường trong
trời đất, can chi mà cụ phải lo?
- Đành
vậy, nhưng việc hôn nhân này, có phải là tôi ưng thuận ở đâu?
Trí Thâm
lại cười mà nói rằng:
- Ông cụ
này mới lạ chứ! Đã không bằng lòng, thì sao lại gả chồng cho nó?
- Tôi
xin kể nguyên ủy, để sư phụ nghe:
Nguyên
tôi chỉ có một đứa con gái, năm nay 19 tuổi, chưa dám gả chồng. Nhân gần đây ở
trên núi Đào Hoa Sơn, có hai ông Đại Vương đến đóng trại ở đó, tụ đến năm bảy
trăm người để cướp bóc dân gian, mà quan quân trị mãi không nổi. Sau có một
người biết nhà tôi có đứa con gái, liền đưa sang đây 20 lạng vàng, và mấy tấm
lụa, mà bắt ép phải gả, đã hẹn đến hôm nay là làm lễ thành hôn. Tôi đã định từ
chối, song thế mình yếu đuối không làm gì được, đành phải chịu vậy, vì thế cho
nên tôi phiền não thế thôi.
Trí Thâm
nghe dứt lời liền nói:
- À! Té
ra câu chuyện như thế đấy, nếu vậy thì tôi có cách để khuyên giải, cho người ấy
hồi tâm hướng đạo được. Cụ ơi! Cụ đừng lo nghĩ thêm phiền!
- Chết
nỗi! Khuyên giải chi? Hạng ấy họ ăn thịt người không tanh, làm thế nào làm cho
họ hồi tâm hướng đạo được?
- Tôi ở
Ngũ Đài Sơn, nhờ sư phụ tôi dạy được một phép mầu, dẫu đến sắt đá cũng có thể
chuyển được chẳng lo là người. Bây giờ cụ cứ bảo cho cô dâu ẩn đi một chỗ khác,
còn trong phòng cứ mặc cho tôi vào đây, rồi tôi sẽ có cách khuyên giải người
kia.
Lưu Thái
Công hơi có vẻ mừng mà rằng:
- Nếu
vậy thì hay lắm! Nhưng chỉ sợ chạm phải râu hùm, thì hơi nguy hiểm mà thôi.
- Không
hề chi! Cụ cứ để mặc tôi, tôi sẽ xử được.
Bây giờ
trang khách đứng đấy, đều lấy làm kinh lạ. Đoạn rồi Lưu Thái Công lại nói với
Trí Thâm rằng:
- Nếu
vậy thì nhà tôi thực có phúc, mới gặp được đức Phật giáng thế mà cứu độ cho;
Nhưng chẳng hay sư phụ có xơi cơm nữa hay không?
- Cơm
thì không cần nữa, nhưng có rượu cho tôi một ít cũng hay.
Lưu Thái
Công vâng dạ luôn mồm, rồi sai trang khách lấy một con thịt quay và một bình
rượu lớn lên cho Trí Thâm uống.
Trí Thâm
ngồi xuống hai ba mươi bình rượu, lại ăn hết cả con vịt quay, rồi đứng dậy hỏi
Thái Công rằng:
- Cụ đã
cho cô con gái đi trốn chưa?
- Bẩm
đã.
- Nếu
vậy thì cụ cho dẫn tôi vào phòng đợi tân lang đến.Nói đoạn sai người nhà vác
khăn gói và tự cầm đao trượng đi theo Thái Công vào trong phòng. Khi tới nơi Lỗ
Trí Thâm bảo cho Thái Công trở ra; để một mình ở trong phòng, đoạn rồi đem các
bàn ghế về một bên để đao với trượng lên giường, rồi cổi quần áo nhảy lên
giường để ngồi chồm chổm ở đó.
Ngoài
kia Lưu Thái Công, vừa mới bày biện bàn tiệc xong thì đã xa trong thấy đèn đuốc
sáng trưng, người ngựa tấp nập, ở đằng xa kéo đến, liền mải mải mốt mốt chạy ra
cổng để đón. Khi toán ấy gần tới nơi thì thấy cờ quạt phất phới, sáng choang,
một lũ tiểu lâu la đầu đội khăn đỏ lưng thắt dây đỏ, cầm hai hàng đèn lồng đi trước,
rồi đến vị Đại Vương cưỡi con ngựa trắng lông quăn đi giữa.
Lưu Thái
Công thấy Đại Vương xuống ngựa, thì vội vàng quỳ ngay xuống đất, rồi rót rượu
để dâng.
Đại
Vương thấy vậy chạy đến nắm tay Thái Công dắt dậy mà rằng:
- Bây
giờ cụ là nhạc phụ tôi, sao lại quỳ như thế?
Lưu Thái
Công nói:
- Thưa
ngài tôi là thuộc hạ của ngài, có đâu dám vô lễ được?
Bấy giờ
Đại Vương hơi có dáng say, liền bảo Thái Công rằng:
- Cụ
được người con rể như tôi, tưởng không còn gì hơn nữa?
Nói xong
uống luôn ba chén rượu, rồi đi thẳng vào trong nhà ngồi nghỉ, và gọi lũ lâu la
đến trước thềm, để hòa nhạc khua trống làm vui. Đại Vương hỏi Lưu Thái Công
rằng:
- Dám
thưa trượng nhân, phu nhân nhà tôi đâu?
- Thưa
ngài, cháu nó còn thẹn, chưa dám ra đây nghinh tiếp.
Đại
Vương cười nói rằng:
- Đem
rượu đây, để ta mời trượng nhân đã.
Nói đoạn
tay cầm chén rượu đưa mời Thái Công mà nói:
- Xin
phép trượng nhân, để tôi vào chào phu nhân, rồi sẽ ra đây uống rượu.
Bấy giờ
trong bụng Thái Công đương chăm chăm mong cho Đại Vương đến mau, để nhà sư
khuyên giải hộ, liền tay cầm lấy cây nến, rồi đưa Đại Vương đi qua bức bình
phong, thẳng tới phòng cô dâu mới.
Khi tới
nơi Thái Công trỏ lối cho Đại Vương vào trong phòng rồi cầm cây nến chạy ngoắt
ra ngoài để trốn, chưa biết hay, dở, dữ, lành ra sao?
Đại
Vương đẩy cửa phòng đi vào, thì thấy tối mịt như bưng không có đèn đuốc chi cả,
liền nói:
- Quái
lạ! Sao ông cụ lại không cho thắp đèn đóm, mà để cho phu nhân ta phải ngồi chỗ
tối tăm như vậy? Ngày mai ta bảo lâu la mang sang một thùng dầu để thắp mới
được.
Khi ấy
Lỗ Trí Thâm ngồi yên ở trong màn, nghe nói thì cố bấm bụng nhịn cười mà không
dám nói.
Đại
Vương sờ lần tới màn rồi hỏi:
- Phu
nhân ở đâu, sao không ra đón tiếp ta? Có việc gì mà thẹn, ngày mai đã là một bà
phu nhân áp trại rồi.
Đại
Vương vừa nói vừa giơ tay vén màn lên, rồi lần mò sờ soạng vào trong giường.
Vừa hay cái tay vô tình kia, sờ ngay vào bụng Trí Thâm, Trí Thâm liền nắm lấy
khăn và đai, mà giật ngã xuống bên giường, đánh cho một đấm mà mắng rằng:
- Quân
ăn cướp nầy!
Nói xong
lại đấm luôn cho mấy đấm nữa vào giữa mang tai, Đại Vương kinh hoảng mà kêu lên
rằng:
- Sao
lại đánh ông như thế?
Trí Thâm
cũng đáp lại rằng:
- Bà làm
cho biết tay bà đấy.
Đoạn rồi
vật ngã Đại Vương ra bên giường, đánh đã luôn mấy cái nữa, làm cho Đại Vương
phải gào to lên, kêu người cầu cứu!
Lưu Thái
Công ở ngoài nghe thấy vậy, thì rụng rời sợ hãi, không hiểu nhà sư giảng thuyết
ra sao, mà lại có tiếng người kêu cứu như vậy liền hất hơ hất hải đưa đám lâu
la cầm đèn đuốc vào xem. Khi vào tới nơi thấy một ông sư phệ bụng cổi trần
truồng, đương cưỡi trên bụng Đại Vương, thì ai nấy kinh sợ tức giận mà thét
nhau vào cứu Đại Vương.
Trí Thâm
thấy bọn lâu la đều vác gậy vác giáo xông vào, thì bỏ Đại Vương đấy, mà vớ lấy
thuyền trượng bổ ra để đánh.
Lũ lâu
la thấy thế lực nhà sư hung tợn như thế, thì đổ xô nhau chạy không anh nào dám
sấn vào nữa. Đại Vương thừa thế được chạy thoát ra ngoài, liền vội vàng ra cổng
bẻ một cành liễu, nhảy tót lên mình ngựa toan chạy, ngờ đâu khi đã bước lên
mình ngựa, đánh lấy đánh để mấy chục roi, mà ngựa cứ quanh co không chạy được,
Đại Vương lấy làm kinh sợ chắc rằng:
- Vận
mệnh đến nơi, cho nên ngựa cũng khinh người mà mà không chạy nữa!
Than ôi!
Ví không
vướng chút nợ tình
Thời chi
đến nỗi dẫn mình chông gai?
Sau Đại
Vương xem rõ mới biết là tại cái dây buộc ngựa vẫn chưa cởi ra, cho nên người
ngựa không sao chạy được. Đại Vương thấy vậy, mải mốt bứt đứt cả dây ra, mà
quất roi cho ngựa chạy tế về sơn trại. Khi đi đường, trong bụng vẫn oán thầm
Lưu Thái Công là người phản trắc, nhất định có phen báo lại mới nghe.
Về phần
Lưu Thái Công thấy Đại Vương đi rồi, liền bảo Lỗ Trí Thâm rằng:
- Sư phụ
làm như thế thì khổ cho nhà tôi lắm!
Trí Thâm
cười mà nói rằng:
- Xin cụ
tha lỗi cho tôi, để tôi mặc quần rồi xin thưa chuyện.
Thái
Công để Lỗ Trí Thâm mặ quần áo xong rồi, kéo đi ra ngoài mà bảo rằng:
- Trước
tôi vẫn tưởng rằng: Sư phụ khuyên bảo thế nào, ai ngờ sư phụ lại đánh hắn như
thế, tất nhiên hắn về sơn trại mang thêm quân ngựa đến đây, giết hết nhà tôi
mất.
Trí Thâm
ung dung đáp:
- Cụ ơi!
Cụ chớ có ngại, tôi đây chính là Lỗ Đề Hạt ở dinh quan Kinh Lược đất Vị Châu,
vì đánh chết người mới phải xuất gia đầu Phật đây. Lũ nó dẫu có tới một hai
nghìn binh mã tới đây, tôi cũng không coi vào đâu cả, nếu không tin thì xin
nhắc thử cây thuyền trượng kia sẽ biết.
Lũ trang
khách nghe nói, anh nào anh ấy, cũng chạy lại nhắc thử cây trượng xem sao,
nhưng không ai nhắc nổi, đến lúc Trí Thâm cầm lên tay, thì nhẹ nhõm tựa hồ một
cây bấc vậy. Thái Công thấy thế, lấy làm mừng rỡ mà nói rằng:
- Nếu
thế thì sư phụ hãy ở đây cứu giúp tôi mới được.
- Cái đó
chắc hẳn rồi, khi nào dám bỏ cụ mà đi ngay.
Lưu Thái
Công hớn hở vui cười mà rằng:
- Bây
giờ tôi xin bảo lấy rượu để sư phụ xơi, nhưng ngài chớ uống say quá chén mà
nguy mất.
Trí Thâm
nói:
- Cụ
không biết tính tôi, tôi uống một phần rượu thì khỏe một phần, chứ uống mười
phần rượu lại khỏe thêm lên mười phần, có say bao giờ mà sợ.
- Thế
thì còn gì hơn nữa, nhà tôi đây còn rượu thịt, xin sư phụ cứ xơi cho.
Lưu Thái
Công nói xong, liền sai người dọn thêm rượu thịt ra, để Trí Thâm đánh chén.
Bên kia
Đại Vương phóng ngựa chạy về đến sơn trại, trông thấy Đại Đầu Lĩnh, liền xuống
ngựa mà kêu lên rằng:
- Đại Ca
ơi! Đại Ca có cứu tôi không?
- Người
Đầu Lĩnh trông ra thấy Đại Vương, đầu không khăn, lưng không giải, bơ phờ hoảng
hốt như người mất vía liền hỏi:
- Làm
sao mà như thế?
Anh kia
đem đầu đuôi thuật lại cho nghe, rồi bảo với Đại Đầu Lĩnh rằng:
- Anh
phải nghĩ cách làm sao mà cứu cho tôi mới được.
Đại Đầu
Lĩnh nghe nói nổi giận mà rằng:
- Nếu
vậy anh em cứ nghỉ ở nhà, để tôi đi bắt thằng ấy đến đây mới được.
Nói xong
quay ra gọi lâu la, đóng ngựa sắp thương để đi, Đại Đầu Lĩnh nhảy lên mình
ngựa, tay cầm ngọn thương thét lâu la trong trại, phải nhất tề đi xuống trang
viện, uy thế ầm ầm như bể sôi núi chuyển, ai cũng phải kinh. Bấy giờ Lỗ Trí
Thâm đương ngồi đánh chén một mình, bỗng thấy trang khách vào báo rằng:
- Đại
Đầu Lĩnh ở núi Hoa Đào hiện đã dẫn các lâu la đến kia.
Trí Thâm
nghe báo thì bảo với trang khách rằng:
- Các
ngươi cứ im lặng để ta đánh ngã được đứa nào, thì các ngươi trói lại để giải
quan lấy tiền thưởng. Các ngươi mang giới đao đây cho ta.
Nói đoạn
đứng dậy chống thuyền trượng cắp giới đao ra đi, khi gần tới cổng đã thấy đóm
đuốc sáng trưng, một tên Đại Đầu Lĩnh cưỡi ngựa cầm thương ở ngoài quát rằng:
- Đứa
nào giỏi nấp ở trong ấy, ra đây quyết trận với ta xem sao?
Trí Thâm
cũng hầm hầm giận dữ quát lên rằng:
- Bay
chửa biết ta sao? Để ta đánh cho một trận mà xem.
Đoạn rồi
múa thuyền trượng xông ra toan đánh. Bỗng Đại Đầu Lĩnh bên kia dừng thương lại
mà bảo rằng:
- Hòa
thượng hãy khoan tay, nói tên họ cho tôi biết, tôi nghe thấy tiếng hòa thượng
quen lắm.
- Ta đây
chính là Đề Hạt Lỗ Đạt ở dinh quan Kinh Lược ngày trước đây.
Người
kia nghe nói liền cười to lên mà rằng:
- Tưởng
là ai té ra Lỗ Đại Ca đó.
Nói xong
xuống ngựa vất thương ra, rồi chấp tay lạy chào mà hỏi rằng:
- Chẳng
hay lâu nay đại các có khỏe không? Ai ngờ nhị đệ nhà tôi lại chạm phải tay
ngài, thực là nực cười quá.
Trí Thâm
nghe nói vẫn còn ngờ ngợ chưa tin, liền đứng lui vào mấy bước, rồi nhìn kỹ ra
mới biết là tên Đả Hổ Tướng Lý Trung, gặp ở Vị Châu khi trước.
Lý Trung
chào Lỗ Trí Thâm xong rồi, liền đến gần mà hỏi rằng:
- Sao
quan bác lại xuất gia ăn mặc như thế? Làm cho tôi khó lòng mà nhận được.
Trí Thâm
đáp rằng:
- Chuyện
tôi còn dài, hãy vào trong này ngồi chơi, rồi tôi sẽ nói.
Nói xong
dắt tay Lý Trung vào nhà.
Bấy giờ
Lưu Thái Công thấy Lỗ Trí Thâm lại cùng vào một bọn như thế thì trong lòng rất
là sợ hãi, không dám thò mặt ra để ứng tiếp. Trí Thâm đưa Lý Trung vào nhà mời
ngồi, và gọi Thái Công ra để nói chuyện.
Thái
Công sợ hãi lúng túng không dám bước ra, Trí Thâm liền nói:
- Chúng
tôi cũng là anh em cả, xin cụ cứ ra chơi, đừng ngại.
Thái
Công thấy nói là anh em, thì lại càng sợ hãi, nhưng không ra tiếp đãi thì không
được, đành phải rón rén bước ra, mà ngồi hầu tiếp chuyện. Lỗ Trí Thâm ngồi ung
dung đem chuyện mình từ khi từ giã Lý Trung, cho tới cái mục đích ngày nay, kể
cho hai người nghe, rồi lại hỏi Lý Trung rằng:
- Chẳng
hay anh chàng đã gặp tôi lúc nãy là ai, mà sao anh lại ở đây với hắn?
Lý Trung
nói:
- Từ
ngày tiểu đệ từ biệt Ca ca ở tửu điếm Vị Châu, rồi lại cùng Sử Tiến chia tay
mỗi người một nơi; Sau nghe tin Đại Ca đánh chết Trịnh Đồ, tiểu đệ muốn tìm Sử
Tiến để bàn kế cứu nhau, song không biết hắn đâu mà tìm được nữa. Kế đến lúc
nghe tin quan quân truy nã lạ thường, đệ lại bỏ Vị Châu đi nơi khác. Khi tới
qua núi Đào Hoa đây, bị Tiểu Bá Vương Chu Thông, chính là anh chàng lúc nãy,
đem người xuống đón đường đánh cướp, đệ liền ra oai đánh cho hắn ta thua một
trận; Hắn thấy vậy bèn mời đệ lên sơn trại, mà nhường quyền coi giữ quân lương,
bởi thế mà tiểu đệ mới làm chủ trại ở đó.
Trí Thâm
cười mà bảo rằng:
- Nếu có
phải là anh em ta ở đấy, thì cái việc hôn nhân đây tất phải thôi đi. Ôâng cụ
đây chỉ có một người con gái để dưỡng lão về sau, nếu ta ép uổng lứa đôi, thì
thân già ấy còn trông cậy vào đâu được?
Lưu Thái
Công nghe nói cả mừng, liền sai dọn rượu thiết đãi hai người, và thưởng cho bọn
lâu la ăn uống.
Khi ăn
uống xong Thái Công mang số tiền ra, để gửi nộp Chu Thông, Trí Thâm bảo với Lý
Trung rằng:
- Số
tiền bác hãy nhận lấy mà mang về, còn việc hôn nhân là ở tay bác đấy.
Lý Trung
nhận món tiền rồi nói:
- Vâng
việc ấy không ngại gì, bây giờ hãy đón Đại Ca lên chơi qua trại tôi, và Lưu
Thái Công cũng nên lên chơi một thể.
Thái
Công vâng lời, sai người mang đao trượng và hành lý cho Lỗ Trí Thâm, rồi hai
người đi hai cỗ kiệu, mà theo Lý Trung lên núi. Bấy giờ trời mới sáng, thì ba
người đã cùng đến sơn trại, Lý Trung xuống ngựa đón Trí Thâm và Thái Công vào
chơi trong dinh, rồi gọi Chu Thông lên nói chuyện.
Chu
Thông chạy đến trông thấy nhà sư ở đấy, thì cả giận mà bảo Lý Trung rằng:
- Sao
bác không báo thù cho tôi, mà lại mời người ta đến đó?
Lý Trung
cười mà hỏi rằng:
- Chú
không biết vị hòa thượng nầy hay sao?
- Nếu
tôi có biết, thì không đến nỗi bị đánh.
- Thôi,
phàn nàn làm chi. Vị hòa thượng này tức là người đánh ba cẳng tay chết anh Trần
Quan Tây Trịnh Đồ mà tôi vẫn nói với chú đấy.
Chu
Thông nghe nói xoa đầu xoa óc thở dài một tiếng, chấp tay cúi chào Trí Thâm.
Trí Thâm
cũng đáp lễ lại rồi nói rằng:
- Tôi
trót lỡ xin ngài thứ tội cho.
Bấy giờ
ba bốn người cùng ngồi, rồi Lỗ Trí Thâm bảo với Chu Thông rằng:
- Bác
Chu ơi! Việc hôn nhân ở nhà Lưu Thái Công, không nên ép nữa, vì ông ta chỉ có
một người con gái dưỡng lão, mà nếu mình ức hiếp lấy ngay thì thực là bất tiện,
vậy bất nhược ta lấy lại tiền, mà tìm đám khác thì hơn, bác nghĩ sao?
Chu
Thông nói:
- Ngài
đã dạy thế, thì tôi xin vâng lời, không dám nghĩ đến nữa.
Trí Thâm
nói:
- Đại
trượng phu ở đời, đã làm việc gì không nên nói đi nói lại, thế mới hay.
Chu
Thông liền bẻ mũi tên để thề, đoạn rồi Lưu Thái Công nộp lại số tiền cưới, mà
bái tạ ra về. Lý Trung, Chu Thông sai giết trâu dê làm tiệc, rồi đưa Trí Thâm
đi xem phong cảnh trong trại. Non cao cây rậm, hình thế cheo leo, bốn chung
quanh toàn là hiểm tuấn, Trí Thâm xem xong lấy làm khen ngợi vô cùng.
Được năm
ba hôm, Lỗ Trí Thâm xem chừng bọn Lý Trung, cũng không phải là người khẳng
khái, mà tính khí nhiều điều biển lận khó chịu, liền từ giã xin đi. Lý Trung,
Chu Thông lưu lại không được liền nói:
- Nếu
quan bác không chịu ở đây, thì xin cố lưu đến mai, để chúng tôi đi xoay xem có
được chút gì sẽ đưa lại lộ phí.
Sáng hôm
sau Lý Trung, Chu Thông đặt rượu tiễn hành, đem các đồ chén ngọc đĩa vàng ra để
bày tiệc.Đương khi chén tạc chén thù, thì bỗng có lâu la vào báo:
- Có mấy
mươi người đương áp hộ hai cổ xe, đương đi dưới chân núi.
Hai
người nghe báo, vội vàng cắt một tên lâu la ở lại để hầu Lỗ Trí Thâm và nói
rằng:
- Xin
quan bác hãy cứ ngồi uống rượu, để cho chúng tôi đi xuống núi tảo ít lộ phí, để
tặng quan bác đã.
Nói xong
hò lũ lâu la cùng đi, Lỗ Trí Thâm thấy hai người đi rồi, thì tự nghĩ rằng:
- Hai
thằng này láo thực, chúng nó có biết bao nhiêu đồ ngọc ở đây, thế mà còn phải
đợi kiếm được của đâu, rồi mới tặng mình, thành ra của thế gian đãi người ngoan
thiên hạ, chẳng qua chỉ khổ sở kẻ khác mà thôi. Vậy bất nhược tiện đây, ta hãy
làm cho nó một mẻ xem sao?
Nghĩ
đoạn gọi tên lâu la đứng hầu, đến gần trước mặt, mà đánh cho một cái ngã lăn
queo xuống, rồi lấy giẻ nhét vào mồm, mà trói lại để đó. Đoạn rồi mở khăn gói
hành lý ra, bọc các đồ vàng đồ bạc vào gói, đeo thẳng lên vai, rồi lấy đao lấy
trượng lẻn ra đi trốn. Khi ra đến sau trại trông thấy thế núi tuy hiểm hóc,
nhưng cũng có thể mà nhảy ra được, Trí Thâm liền tháo khăn gói, và đao trượng
mà vất xuống trước, rồi cất mình nhảy một cái thật mạnh xuống sau. Nhờ được bãi
cỏ ở chân núi cho nên Trí Thâm nhảy xuống không bị đau đớn chi cả, chàng liền
mải mốt lại khoác khăn gói cầm đao trượng, mà cút đi cho chóng.
Bấy giờ
Lý Trung, Chu Thông dẫn lâu la, xuống đến chân núi thì vừa gặp bọn người áp tải
đi đến, anh nào cũng có khí giới trong tay, hai chàng liền múa thương xông tới,
bọn kia cũng giơ khí giới lên đỡ, rồi cùng Lý Trung đánh nhau có tới mười mấy
hiệp không chịu thua. Chu Thông thấy vậy sốt ruột, thét bọn lâu la hò reo ầm
lên, rồi kéo sang để đánh. Bên kia biết thế không địch nổi, bèn bỏ các đồ đạc
xe cộ mà chạy tháo lấy thân, song cũng mất đến 7, 8 người thiệt mạng.
Lý
Trung, Chu Thông đắc thắng cả mừng, sai các lâu la khuân đem đồ đạc về trại.
Hay đâu về đến trại, thì chỉ thấy tên lâu la bị trói nằm cò quăm ở đất, trông
trên bàn thì chén ngọc đĩa vàng đều biến đi đâu mất hết, mà Lỗ Trí Thâm cũng
chẳng thấy đâu; Hai người đều lấy làm kinh ngạc, cổi trói cho tên lâu la, mà
hỏi hết đầu đuôi. Sau biết rõ Trí Thâm đã thâu các đồ bảo vật, mà nhảy đi lối
sau trốn đi mất rồi thì Chu Thông lấy làm căm tức, mà bảo với Lý Trung rằng:
- Sơn
trại của ta kín đáo như thế, mà lão ta còn nhảy ra được thì gớm thật, bây giờ
ta biết làm sao?
Lý Trung
nói:
- Chúng
ta phải đi đuổi hắn, mà làm cho hắn xấu hổ một phen mới được.
- Thôi
không ăn thua, mình đuổi thế nào được nó, mà nếu có đuổi được nó, nhưng nó
không trả thì làm sao? Như thế có phải sinh câu chuyện lôi thôi mà khổ đến
mình, vậy bất nhược đề cho hắn, dễ làm một chút về sau mà lại hóa hay.
Nói xong
đem các đồ vật cướp được, chia ra làm ba phần, Lý Trung, Chu Thông mỗi người
một phần, còn một phần thì chia thưởng cho các lâu la. Lý Trung từ chối rằng:
- Vì tôi
dắt lão sư lên đây, để đến nỗi thiệt hại mất nhiều, thì cái phần này của tôi,
tôi xin nhường bác cả.
Chu
Thông nói:
- Tôi
với bác đã thề với nhau rằng, cùng sống cùng chết, có khi nào tôi lại nhận phần
như thế?
Nói xong
chia làm ba phần tử tế, mà cùng nhận bằng nhau.
Mới hay:
Đã thề
cốt nhục tử sinh.
Tấm
xương tuy trắng chút tình dám sai;
Thế gian
mấy mặt làng chơi,
Xưa nay
trọng nghĩa khinh tài được bao?
Hỏi ai
chung đỉnh ra vào,
Trông
gương thiên cổ nghĩ sao bây giờ?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Trí Thâm
nhận thư của Trí Chân Trưởng Lão, nếu cứ đi đường một tháng, sớm tới chùa Đại
Tướng Quốc ở Đông Kinh thì ở luôn trong chùa làm một ông hòa thượng, còn chỗ
nào thấy cái tài rồng hổ nhảy và nằm? Câu chuyện có gì làm thú; Hồi này chép
xẩy chuyện giữa đường, vì sự vào ngủ trọ, chợt vào buồng của tân hôn, không
thành một ông thầy chùa nữa, nếu không chuyện vào buồng của một cô dâu, thì tác
giả tả làm sao ra tài rồng hổ nhảy và nằm, có đâu những chuyện lý thú? Hỡi ôi!
Thi Nại Am một bậc người tài tử chân chính vậy. Trong lòng chân chính tài tử
kia, há phải thường tình mà dòm thấy được đâu? Mà hồi này gặp Lý Trung, hồi sau
gặp Sử Tiến, đều dùng một lối bút pháp, chia ra chương pháp hai thiên, khiến
độc giả thấy hai lối sự tình, hai phần cục diện, bút lực đến thế, không thể nào
nói ra cho hết.
Làm một
cô gái, là một sự đùa, đã làm đùa hòa thượng tự Ngũ Đài Sơn mà dẫn tới đây, khi
đã thành hòa thượng xuống núi, lại làm một cô gái, lại từng phen đóng vai đùa
chơi, hỡi ôi! Con gái chẳng phải con gái, Lỗ Đạt không ngờ; đùa với chẳng đùa,
Lỗ Đạt đâu ngờ trước được? Hòa thượng chẳng ra hòa thượng, Lỗ Đạt cũng không ngờ,
cho đến lên non với xuống non, Lỗ Đạt đều không biết nữa? Chỉ biết rằng: Gặp
rượu thì uống, thấy việc thì làm, gặp yếu thì bênh, gặp mạnh (dữ) thì đả, như
thế mà thôi, chứ có biết đâu bỗng nhiên làm hòa thượng, bỗng nhiên làm cô dâu,
ngày trước bỡn mà lên núi, ngày nay xuống núi, cũng bỡn mà ra.
Lỗ Đạt
với Võ Tòng hai chuyện, trong ý tác giả, viết cách nhau để đối với nhau, cho
nên chép chuyện, cũng nhiều chỗ giống nhau mục đích, như Lỗ Đạt cứu nhiều cô
gái, Võ Tòng giết nhiều cô gái? Lỗ Đạt say rượu phá Kim Cương, Võ Tòng say rượu
đánh mãnh hổ; Lỗ Đạt đánh chết Trấn Quan Tây, Võ Tòng đánh chết Tây Môn Khánh;
Lỗ Đạt ở chùa Ngõa Quan thử thiền trượng, Võ Tòng ở núi Ngô Công thử giới đao;
Lỗ Đạt đánh Chu Thông, vừa say vừa có bổ phận, Võ Tòng đả Tưởng Môn Thần, cũng
vừa say vừa có bổn phận; Lỗ Đạt lên núi Đào Hoa, lấy lén tửu khí, nhảy xuống
núi đi, Võ Tòng lên lầu Uyên Ương, lấy lén tửu khí nhảy xuống thành đi... đều
một mục đích mà làm ra độc giả chẳng phải chẳng biết.
Còn có
chi tiêu, phải lấy lén đồ dùng, cần phải trốn đi, phải nhảy liều xuống núi,
người đời cho rằng: Đường đường một đấng trượng phu, sao đến nỗi lấy lén của
dùng nhảy xuống núi trốn? Xét ra một xử sự này, thì đường đường trượng phu, có
ngại gì lấy lén của dùng, và nhảy xuống núi trốn, càng thấy Lỗ Đạt đạt lý khác
thường, xem một hồi này, thấy Lỗ Đạt làm hòa thượng, nên rằng từng chỗ nhận ra,
như ngồi ở trong trướng cô dâu, và nhảy xuống bãi cỏ ở núi, sáng suốt nhận ra
làm một người như thế, thực là kỳ diệu không thể nói hết được ra.
Lỗ Đạt
lấy lén tửu khí, rồi trốn luôn đi, tiếp tả luôn những lời của hai người Lý, Chu
chia của, đại nhân với tiểu nhân thế nào, dù đàn bà con trẻ xem tới, cũng thấy
rõ ra, tác giả tả ra thấy hết thần diệu.
Ở đời
đại nhân làm việc đại nhân, tự biết rằng thiên hạ đời sau xét tới; tiểu nhân
làm việc tiểu nhân, chỉ cần tự trong mồm khôn khéo nói ra, dù chơi với đồng
bói, cũng thò tay mặt đặt tay trái, để giữ lấy phần, xem ở việc Lỗ Đạt lấy lén
của, và Lý, Chu chia của, chẳng thấy thú ư?
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 5: Rừng Xích Tòng, Cửu Văn Long ra oai,
Chùa Ngõa Quan, Lỗ Trí Thâm phóng lửa
Lỗ Trí
Thâm từ khi bước chân khỏi núi Đào Hoa một mình mải miết đi từ sáng đến trưa có
tơi năm sáu mươi dặm đường, trong bụng đã hơi hơi đói, muốn tìm vào một hàng
quán ăn cơm, nhưng trông xung quanh không thấy. Chợt đâu nghe có tiếng leng
keng gần đó, chàng liền đoán chắc là tất có chùa chiền cung quán chi đây; liền
vơ vẫn loanh quanh tìm kiếm, vừa qua một cái sườn núi kia, chợt trông thấy có
một khu rừng thông lớn, lại có một con đường núi đi vào. Chàng ta theo con
đường núi ấy, được chừng nửa dặm, ngẩng trông lên thì thấy có một cái toà chùa
cũ kỹ tồi tàn, bị gió thổi rung rinh ở đó. Lại gần tới cổng, có treo một bức
biển sơn son thiếp vàng đề ba chữ "Chùa Ngõa Quan", đã mờ cũ rích.
Chàng lại đi mươi bước nữa, qua một cái cầu đá con vào đến cửa Tam Quan, thì
thấy cánh cửa không có, mà vắng ngắt vắng tanh không ai cả. Chàng lấy làm ngạc
nhiên, "một chùa lớn mà sao bỏ tồi tàn như thế? "Liền lững thững đi
vào phương trượng thì thấy ngổn ngang bẩn thỉu, toàn là cứt chim, mà khóa cửa
thì chăng toàn tơ nhện.
Bấy giờ
Trí Thâm lấy thiền trượng đập xuống đất mà kêu lên rằng:
- Có ai
trong ấy cho sư tôi vào trọ.
Chàng
kêu đến mấy tiếng đồng hồ, cũng không thấy ai thưa, bèn lững thững đi mãi cho
vào đến bếp. Vào thấy nồi niêu không có, đầu rau đầu lóc cũng không, vắng ngắt
như chùa Bà Đanh vậy. Trí Thâm bèn cởi khăn gói ra để xuống trước mặt bàn thờ
Giám Trai Sứ Giả, rồi xách cây trượng đi lùng khắp cả mọi nơi.
Khi đến
đằng sau chùa, thấy một gian nhà cỏ, có mấy vị sư già đương ngồi, trông mặt
người nào người ấy vàng vọt xanh xao, bất thành hình thể. Trí Thâm liền quát
lên rằng:
- Các sư
ở đây vô lý quá, tôi gọi mãi sao không ai thèm trả lời cả?
Lũ sư ấy
tay vẫy mà bảo rằng:
- Chớ
nói to.
Trí Thâm
nói:
- Tôi là
sư nhà chùa ở xa đến đây, có việc gì mà sợ?
- Chúng
tôi ba hôm nay không có hạt cơm nào vào bụng, còn lấy đâu mà đãi người.
- Tôi ở
tận Ngũ Đài Sơn sang đây, nếu có cháo lão gì, cho tôi một bát cho đỡ đói vậy.
- Người
qua đến đây, lẽ ra chúng tôi phải thiết cơm là phải, người ngặt vì trong chùa
chúng tôi các sư bỏ đi mất cả, không còn có một hột lương nào, cho nên chúng
tôi cũng phải nhịn đói đến ba hôm rồi đấy.
- Các sư
nói lạ? Một cảnh chùa to thế này, mà lại không có lương thực hay sao?
- Đây
vẫn đã đành không phải một cảnh tầm thường, nhưng mới đây bị một ông hòa
thượng, dẫn một người đạo nhân đến phá hoại mất cả, rồi đuổi những chúng tăng
đi, duy còn mấy chúng tôi già yếu, cho nên chịu nằm chết đói ở đây mà thôi.
- Không
có lẽ một ông sư với một đạo nhân, thì làm sao được? Sao các sư lại không lên
quan mà tố cáo tội họ?
- Người
không rõ, ở đây xa phủ xa huyện, quan quân cũng không cấm nổi họ, cho nên chỉ
đánh giết ức người ta, hiện bây giờ đương ở đằng sau phương trượng đó.
- Tên
tuổi họ là gì?
Ông sư
đó tên là Thôi Đạo Thành, pháp hiệu Sinh Thiết Phật, còn đạo nhân tên là Khưu
Tiểu Ất, hiệu là Phi Thiên Đích Thoa, hai người ấy chẳng qua là mượn tiếng nhà
chùa, che mắt thế gian để cướp bóc thế thôi.
Trí Thâm
đương nghe chuyện, thì thấy có mùi thơm thoang thoảng liền vác trượng đi đến
lối sau, chợt thấy trên bếp có cái nồi đậy lá, hơi nước bốc lên ngùn ngụt, bèn
mải mốt cất lên để xem, thì té ra cháo đương hầm ở đó. Trí Thâm cả giận mắng
rằng:
- Các sư
tệ quá, vừa rồi nói rằng: Ba hôm nay không được ăn, sao mà nồi cháo ở đó? Người
tu hành mà dám ăn không nói có như thế sao?
Lũ sư
thấy vậy thì luống cuống kêu cứu, rồi vội vàng vác bát vác thùng đến mà cướp
cháo đi.Trí Thâm không biết làm sao được, nhìn quanh nhìn quẩn thấy một cái
chậu vỡ bỏ ở bên cạnh bếp, liền chạy vào nhặt nắm lá lau sạch cái chậu rồi bưng
nồi cháo mà trút tuộc cả vào đấy. Các sư kia chạy đến tranh múc, thì bị Trí
Thâm đá lộn cả ra ngoài, rồi vừa bưng chậu cháo lên, vừa hút sùm sụp. (soàn
soạt).
Lũ sư
thấy vậy phàn nàn rằng:
- Nhịn
đói ba ngày trời, nay mới kiếm được mấy hột gạo nấu cháo, mà người ta lại ăn cả
như thế, thì thực khổ cho chúng tôi.
Trí Thâm
vừa húp được mấy húp, nghe thấy các sư phàn nàn như thế, liền đặt xuống mà
không ăn nữa.
Chợt ở
phía ngoài có tiếng hát nghêu ngao, Trí Thâm bèn lau tay sạch sẽ, cầm lấy cây
trượng, chạy xoăn xoăn ra chỗ tường thủng để nom, thì thấy một đạo nhân gánh
một cái gánh, một bên có cái rổ thò con cá ra ngoài và có gói thịt để ở trên,
còn một bên là bình rượu đậy cái lá sen cẩn thận. Đạo nhân vai thì gánh, miệng
thì lên bổng xuống trầm, vừa đi vừa hát rằng:
"Đấy
đông, đây ở bên tây,
Đấy thì
không vợ, đây nay không chồng.
Con trai
không vợ đã xong
Con gái
không chồng buồn lắm em ơi!"
Bấy giờ
lão sư cũng ở trong đổ xô ra, lấy tay trỏ mà bảo Trí Thâm rằng:
- Người
đạo nhân ấy chính là Phi Thiên Đích Thoa đó.
Trí Thâm
nghe nói liền vác gậy chạy theo sau đạo nhân, đạo nhân không biết, cứ xăm xăm
đi vào tường phía sau phương trượng, Trí Thâm lẻn vào thì có một cái bàn, kê
dưới gốc cây hòe, trên bàn mấy món đồ ăn, ba cái chén ba đôi đũa, một vị hòa
thượng to béo ngồi ở giữa, một người con gái trẻ ngồi bên, còn một bên thì đạo
nhân, đặt gánh rồi ngồi ở đó. Khi ấy hòa thượng trông ra thấy Lỗ Trí Thâm, giật
mình đứng dậy nói rằng:
- Xin
mời sư huynh ngồi chơi một thể uống rượu cho vui.
Trí Thâm
giở thuyền trượng ra, mà bảo nhà sư kia rằng:
- Sao
nhà ngươi lại dám phá hoại chùa chiền đây như thế?
- Xin sư
huynh đây hãy bớt giận, ngồi chơi tiểu tăng kể chuyện người nghe.
Trí Thâm
trợn mắt hỏi:
- Chuyện
sao, ngươi nói mau?
- Nguyên
trước chùa đây vẫn là sang trọng, mà ruộng đất cũng nhiều, sau chẳng may bị lũ
sư già, đương ngồi dưới chùa kia, chỉ uống rượu nuôi gái, sư cụ cấm họ không
nổi, rồi họ tức mình đuổi cả sư cụ đi. Bởi thế chư tăng bỏ đi mất cả, còn chùa
chiền ngày một tan hoang, ruộng đất cũng không còn nữa, hiện nay tiểu tăng cùng
đạo nhân này đến đây, là cốt mong để sửa lại đó mà thôi.
- Vậy
thì người đàn bà nầy là thế nào? Mà lại uống rượu ở đây?
- Thưa
sư huynh người đàn bà nầy là con gái ông Vương Kim Hữu ở làng gần đây, nguyên
trước ông ta bố thí vào chùa rất nhiều, nay chẳng may nhà cửa sa sút, mà chồng
nàng lại bị đau ốm, cho nên nàng phải chạy sang đây vay gao. Vì thế chúng tôi
cũng nghĩ đến công đức ngày xưa, mà mời xơi chén rượu, chứ không có điều chi khác
cả, xin sư huynh đừng có nghe lũ súc sinh kia, họ thêm đặt nói càn dở lắm.
Trí Thâm
thấy nhà sư nói năng ra vẻ thực thà, cẩn thận thì cũng hơi có lý, thì lại xăm
xăm vác gậy mà quay sang lối nhà bếp, để đi tìm lũ sư già.
Bấy giờ
lũ sư già vừa mới ăn cháo xong còn ngồi ở đó, Trí Thâm hằm hằm đi đến trỏ vào
mặt mà nói rằng:
- Té ra
chính lũ các anh phá hoại chùa nầy, thế mà các anh còn nói dối ta đó.
Lũ sư
già cả kinh nói rằng:
- Chết
nỗi! Sư huynh chớ nghe lão sư ấy, chính lão ta đương nuôi người con gái ở trong
chùa ấy. Vừa rồi sư huynh đến nơi mà họ không dám làm gì, là vì họ trông thấy
khẩu giới đao, và cây thuyền trượng, mà trong tay họ không sẵn khí giới đấy
thôi, không tin sư huynh thử đến lần nữa xem sao? Vả chăng bọn họ còn có thật
thà chè chén như thế, chứ chúng tôi đây cháo cũng không có mà ăn, còn lấy đâu
mà phung phí.
Trí Thâm
nghe nói, cho là bọn này nói phải, liền mải mốt vác trượng đến chỗ cũ xem sao?
Quả nhiên khi tới nơi thì cửa đã đóng chặt, không sao mà mở ra được.Trí Thâm cả
giận lấy chân người đạp một cái, tung hẳn cửa ra rồi bước thẳng vào.
Bấy giờ
Sinh Thiết Phật Thôi Đạo Thành, thấy Trí Thâm vào, liền chống thanh đao từ dưới
gốc cây hòe hiện ra để chống cự.
Trí Thâm
thét lên một tiếng rất to giơ trượng lên đánh, đôi bên địch nhau có tới 14, 15
hiệp, bên kia Thôi Đạo Thành biết thế không thể địch nổi, chỉ che đỡ quanh co
thừa cơ chạy thoát, Khưu Đạo Nhân thấy vậy, liền vác đao xông ra đằng sau Trí
Thâm để đánh.
Trí Thâm
nghe có tiếng người chạy ra đằng sau, liền quay lại nom thấy Đạo Nhân thì quát
lên " Được " rồi lại múa gậy đánh nhau với cả hai người, có tới 10
hiệp nữa.
Bấy giờ
Lỗ Trí Thâm vừa phần trong bụng đương đói, vừa phần đường sá mệt nhọc, lại vừa
phần đối địch với hai người đương sức, thì khó lòng mà thắng được, liền thừa cơ
quay trượng đỡ lui trở ra.
Hai
người kia vác đao đuổi đến cổng ngoài, Trí Thâm quay lại đánh nhau mấy hiệp
nữa, rồi chạy, hai tên kia lại đuổi mãi đến Cầu Đá mới thôi. Trí Thâm chạy được
quãng xa, thì tinh thần đã hơi yên định, thì chợt nghĩ đến cái khăn gói còn để
ở chỗ bàn thờ Giám Trai Sứ Giả, nếu không lấy được, thì tất là nguy hiểm đến
nơi, mà nếu trở lại thì khó lòng mà sống thoát được, với hai tay ấy.
Chàng
vừa nghĩ vừa đi lững thững qua mấy dặm đường, đến một khu rừng lớn, trông rất
rậm rạp gớm ghê, liền đứng dừng lại để xem. Chợt trông thấy có người nom dòm, ở
trong rừng mà khạc ra một tiếng to, rồi lại đi ngoặt trở vào; Trí Thâm thấy
vậy, liền tự nghĩ một mình rằng:
- Thằng
cha này có lẽ nó nấp nom để cướp bóc ở đây, nhưng nom thấy ta là nhà sư thì chả
ăn thua gì, cho nên khạc nhổ đây hẳn? A được! Ta đương bực xả trong mình, nó
gặp ta thì hay lắm, để ta vào thử xem sao?
Nghĩ
xong vung cây trượng đi thẳng vào trong rừng, quát to lên mà hỏi rằng:
- Thằng
nào ở trong rừng ấy ra đây!
Anh
chàng nọ ở trong rừng nghe thấy tiếng hỏi, thì cả cười mà bảo rằng:
- Ta đã
im tiếng, thế mà nó lại còn tìm đến ta à? Được lắm!
Nói xong
vác đao sồng sộc đi ra, rồi cũng quát lên rằng:
- Thằng
kia! Mầy tất chết, tự nhiên vô cớ thế, mà mầy tìm đến tao, chứ tao không tìm
đến mầy nhé!
Trí Thâm
nge nói liền vác trượng xông vào đánh, mà nói rằng:
- Rồi
mầy sẽ biết tay tao.
Bên kia
cũng đưa đao ra đỡ, song lại hơi có ý rụt rè mà bảo rằng:
- Tôi
nghe tiếng nhà sư quen lắm, không biết rằng tên họ là chi?
Trí Thâm
cáu lên mà nói rằng:
- Ta hãy
đấu với ngươi 300 hiệp đã, rồi hãy nói tên.
Anh kia
cũng phát giận, múa đao đánh luôn không nể, đôi bên đánh nhau độ 10 hiệp, thì
anh kia kêu lên rằng:
- Hãy
khoan, tôi nói câu này đã.
Nói xong
hai người cùng nhảy xa nhau, rồi anh chàng kia lại hỏi:
- Anh
tên họ là gì, tôi nghe tiếng quen lắm, anh hãy nói cho nghe.
Bấy giờ
Trí Thâm kể đến tên họ cho anh kia nghe, anh kia liền vất đao xuống đất vái
chào mà nói rằng:
- Quan
bác có nhận được Sử Tiến đây không?
Trí Thâm
nghe nói cả cười mà bảo rằng:
- Tưởng
là ai; té ra Sử Đại Lang đấy à?
Đoạn rồi
vái chào Sử Tiến, và hai người cùng dắt vào rừng mà nói chuyện.
Trí Thâm
hỏi:
- Từ khi
ở Vị Châu tương biệt, rồi quan bác đi đâu thế?
Sử Tiến
đáp:
- Hôm đó
từ biệt với ngài, rồi nghe nói hôm sau ngài đánh chết Trịnh Đồ, mà đảng công
sai lại dò hỏi có tình nghi cho tôi, vậy phải bỏ đất Vị Châu mà sang Diên An
Phủ. Bất đồ đi tới Diên An không gặp sư phụ tôi ở đó, lại đành phải sang Bắc
Kinh, ở được ít lâu, thì tiền lương cạn hết, nên phải đến đây kiếm lợi. Còn về
chuyện quan bác thì sao?
Trí Thâm
liền kể đầu đuôi chuyện mình, nói cặn kẽ cho Sử Tiến nghe.
Sử Tiến
nghe nói biết rằng Trí Thâm hiện chưa có cơm ăn, liền đem thịt khô bánh nướng
đưa cho Trí Thâm ăn mà bảo rằng:
- Ăn
xong ta sẽ vào chùa mà lấy khăn gói về, bằng lũ kia có ngăn trở thì ta kết quả
ngay cho nó một lượt là xong.
Trí Thâm
gật gù khen phải, liền cùng ngồi ăn bánh với Sử Tiến. Khi ăn uống xong, hai
người đều mang theo khí giới đi thẳng đến chùa Ngõa Quan. Vừa tới chỗ cầu Đá,
đã thấy Thôi Hòa Thượng và Khưu Đạo Nhân còn ngồi ở đó. Trí Thâm liền quát lên
rằng:
- Chúng
bây đến đây, bây giờ ta quyết sống mái với chúng bây một phen.
Thôi Hòa
Thượng nghe nói thì cười mà đáp rằng:
- Ngươi
chính là đứa bại tướng trong tay ta, thế mà dám về đây nữa à?
Nói vừa
dứt lời, thì Trí Thâm đã múa trượng xông lên cầu đẻ đánh, bên kia hòa thượng
cũng chạy xuống múa đao để đỡ. Bấy giờ Trí Thâm vừa phần có Sử Tiến đi đón, lại
vừa phần bụng đã hơi no, cho nên tinh thần khí lực hăng hái hơn trước, anh kia
không thể nào địch nổi được nữa.
Đánh
nhau độ 8, 9 hiệp, Thôi Hòa Thượng nghe thế hơi núng, toan giật lùi để kiếm
đường mà tháo. Bấy giờ Khưu Đạo Nhân thấy vậy liền múa đao ra đánh cứu Thôi Hòa
Thượng, bất đồ bên này Sử Tiến đương đứng nấp ở gốc cây, nhảy bổ ra thét lên
rằng:
- Đánh
chết hai thằng nầy đi.
Nói xong
múa đao đến đanh Khưu Đạo Nhân, Trí Thâm được Sử Tiến ra giúp, gắng sức thét
lên một tiếng, rồi vung tay đánh cho Thôi Hòa Thượng một thuyền trượng ngã lăn
xuống cầu. Khưu Đạo Nhân thấy hòa thượng bị ngã, thì trong bụng hơi núng, không
có ý ham đánh, liền thừa cơ toan nhảy ra để chạy, bất đồ bị Sử Tiến thét lên,
đâm một nhát vào lưng ngã lăn xuống đất. Đằng kia Trí Thâm thấy hòa thượng bị
ngã lăn xuống cầu, thì mải mốt chạy theo, đánh xuống cho mấy gậy nữa, chết cứng
ra đấy mới thôi.
Mới hay:
Những
quân tàn ác trên đời,
Mình làm
mình chịu tội trời ai mang?
Gươm
hùng còn vết sáng choang,
Nghìn
thu khiến kẻ vô lương kinh hồn!
Bấy giờ
Trí Thâm cùng Sử Tiến trói hai cái xác vô lương kia vất xuống khe núi, rồi hai
người cùng đi vào chùa, thẳng xuống dưới bếp lấy tay nải, khoác lên vai mà quảy
ra đi, tìm vào chỗ gốc cây hòe trước.
Khi vào
tới nơi thì người đàn bà lúc nãy đã đâm đầu xuống giếng tự tử. Đoạn hai người
đi lần vào tới một chỗ 7, 8 gian nhà bỏ không vắng vẻ, thì chỉ thấy mấy đống
xống áo vất lung tung ra ờ giường. Sử Tiến giở gói ra xem, thấy toàn thị áo
xiêm vàng bạc ở trong, bèn chọn lấy một gói cẩn thận, rồi quay vào gian bếp ở
đây, lục lấy cá thịt và mọi thứ đem ra nấu nướng ăn uống với nhau.
Ăn uống
xong rồi, hai người đem lửa ra đốt cháy chùa Ngõa Quan, làm sáng rực góc trời,
vì sơn tự tồi tàn, bị những ác tăng lui tới làm bậy, nên đốt bỏ không tiếc, rồi
hai người kéo nhau ra ngoài, mỗi người một gói, khoác lên vai, đi khỏi sơn tự.
Đêm
khuya nước thẳm non sâu,
Thanh
gươm cây trượng biết đâu là nhà?
Hai
người lần mò suốt đêm hôm ấy, mãi tới lúc trời tảng sáng mới đến một nơi xóm
làng kia, liền tìm vào một tửu điếm ở bên cầu để trọ, khi vào tửu điếm liền sai
tửu bảo đem rượu thịt lên, hai người ngồi đánh chén nói chuyện với nhau.
Ăn uống
xong rồi, Trí Thâm hỏi Sử Tiến:
- Bác
định đi đâu bây giờ?
- Tôi
bây giờ có lẽ lại phải về Thiếu Hoa Sơn ở với đám Chu Vũ, Dương Xuân ít bữa,
rồi thế nào sẽ liệu về sau.
Trí Thâm
nghe nói, liền mở khăn gói, lấy ít đồ vàng bạc đưa thêm cho Sử Tiến, rồi trả
tiền hàng mà cùng nhau ra đi. Ước chừng dăm bảy dăm đường, mới tới một nơi ngã
ba gần đó, Trí Thâm đứng dừng lại bảo Sử Tiến rằng:
- Đến
đây là nơi chia bước, tôi sang Đông Kinh lối này, mà bác về Thiếu Hoa Sơn lối
ấy, vậy sau đây nếu có cơ hội gì, ta sẽ thông tin cho nhau cùng biết.
Sử Tiến
liền bái biệt Trí Thâm, rồi mỗi người chia tay một ngả.
Cho hay
là kiếp giang hồ,
Nay tan
mai hợp hẹn hò biết đâu?
Từ khi
Lỗ Trí Thâm chia tay cùng Sử Tiến, rồi đi 7, 8 ngày đường nữa mới tới Đông
Kinh, liền hỏi thăm vào chùa Đại Tướng Quốc, để đưa thư lên yết kiến sư cụ.
Khi vào
tới chùa, Tri Khách Tăng, trông thấy Trí Thâm mặt mũi hung tợn, vác một cây
thuyền trượng bằng sắt, đeo một thanh giới đao, khoác một khăn gói rất lớn,
trong bụng đã gờm gờm kinh sợ liền hỏi:
- Sư
huynh ở đâu tới đây?
Trí Thâm
đặt khăn gói thuyền trượng xuống, rồi vái chào mà nói rằng:
- Tôi ở
Ngũ Đài Sơn có giấy của sư cụ Trí Chân tôi gửi sang, để xin việc sư cụ ở đây!
- Nếu có
giấy của sư cụ Trí Chân, thì xin mời sư huynh vào trong phương trượng.
Nói đoạn
dẫn Trí Thâm vào phương trượng.
Tới nơi
Trí Thâm cổi khăn gói lấy bức thơ ra cầm ở tay để đợi sư cụ đến. Tri Khách Tăng
thấy vậy, bảo Trí Thâm rằng:
- Bây
giờ sư cụ đã sắp đến, sao sư huynh không cởi bỏ giới đao ra, mà cầm hương ở tay
cho có phép.
Trí Thâm
nghe nói mới mải mốt cởi giới đao ra, để vào một chỗ lấy hương ra đốt cầm ở tay
mà đứng đợi. Khi sư cụ Trí Thanh đến phương trượng, Tri Khách Tăng liền đưa Trí
Thâm đến trước mặt bảo quỳ xuống mà đưa thư lên. Sư cụ cầm lấy thư, bốc ra xem
thấy trong thư kể đầu đuôi công việc Lỗ Trí Thâm, và xin thế nào cũng cho một
việc làm ở trong chùa đó.
Sư cụ
Trí Thanh xem thư xong, quay ra bảo Trí Thâm rằng:
- Nhà sư
hãy ra nghĩ ờ tăng đường ăn cơm nước đã.
Trí Thâm
nghe nói lạy tạ sư cụ, rồi vác khăn gói và giới đao, thuyền trượng, theo đạo
đồng đi ra tăng đường.
Bấy giờ
sư cụ Trí Thanh cho gọi chư tăng, đến tất cả phương trượng mà đem tình ý trong
thư, và nguyên ủy chuyện Trí Thâm, thuật kỹ cho chư tăng nghe và nói:
- Việc
nầy nếu ta không nhận, tất là không tiện với sư huynh Trí Chân, mà nếu nhận ra
thì làm sao cho ổn? Trong thư sư huynh kể hết lỗi của Trí Thâm, khi còn ở Kinh
Lược thì giết người như ngóe, đến khi xuất gia tu hành, thì lại say sưa rượu
chè, mấy phen náo động chúng tăng, nhưng lại dặn đi dặn lại nhờ ta thế nào cũng
phải thu nạp mới xong, vậy thì các ngươi định sao?
Tri
Khách Tăng nói:
- Cứ như
con xem dáng anh ấy, không có chút gì ra vẻ tu hành hết thẩy, như vậy thì chùa
ta dung làm sao được?
Đô Tự
lại nói:
- Chúng
con thiết nghĩ: Hiện nay ở nhà Giải Vũ ngoài cửa Toan Tảo, có một khu vườn rau
của nhà chùa, xưa nay thường bị đám quân lính ở trong dinh, cùng hai mươi mấy
đứa vô loại ở đây quấy nhiễu đuổi dê ngựa ra phá hoại cũng nhiều, nhà sư già ở
đây khó lòng mà giữ nổi. Vậy bất nhược sư cụ sai người này đến ở đấy, thì có lẽ
được việc chăng?
Sư cụ
Trí Thanh khen phải, liền cho người xuống tăng đường, triệu Trí Thâm lên. Khi
Trí Thâm cơm nước vừa xong, thì đã thấy đạo đồng đến gọi, liền mải mốt lên hầu
sư cụ.
Lên tới
phương trượng, sư cụ gọi Trí Thâm đến mà bảo rằng:
- Ta
vâng lời sư huynh bên ấy giới thiệu, cho ngươi sang đây để làm việc, vậy hiện
nay chùa ta có một vườn rau lớn ở bên kia nhạc miếu ngoài cửa thành, ta cho
ngươi ra đấy coi giữ, cứ mỗi ngày bắt đám trồng vườn, phải nộp vào đây mười
gánh rau, bao nhiêu thì để cho ngươi chi dụng, ngươi nghĩ sao?
Trí Thâm
nói:
- Sư cụ
cho tôi sang đây, sao người không cho tôi một chức Đô Thủ, Giám Tự gì, mà lại
bắt tôi làm đứa coi vườn như thế?
Bấy giờ
một vị sư đứng bên cạnh đỡ lời sư cụ rằng:
- Sư
huynh không biết! Sư huynh mới đến đây chưa có công lao gì, đã làm chức Giám
Tự, Đô Thủ sao được?
- Đành
vậy, nhưng tôi không muốn làm anh coi vườn, dẫu chót nữa cũng làm chức Đô Thủ,
Giám Tự thì mới thích.
- Sư
huynh ở đó một năm có khá, thì mới được thăng làm chức Tháp Đầu, rồi một năm
nữa có khá, mới thăng Dục Thủ, lại một năm nữa có khá mới thăng làm Giám Thị.
Trí Thâm
gật đầu nói:
- Nếu
quả có ngày xuất thân được, thì tôi cũng chịu khó làm vậy.
Sư cụ
thấy Lỗ Trí Thâm đã ưng thuận liền lưu ở phương trượng, rồi sai người viết bảng
yết thị ra ngoài Giải Vũ để hôm sau bàn giao công việc.
Sáng hôm
sau sư cụ viết thiếp pháp giao cho Lỗ Trí Thâm rồi sai hai nhà sư, đưa ra vườn
sau ngoài Giải Vũ gần nơi cửa thành.
Về phía
bên tả vườn rau có 2, 3 tên du đãng cờ bạc, vẫn lẫn khuất loanh quanh để ăn cắp
rau mà nuôi thân, chợt hôm ấy sang ăn cắp rau, trông thấy bảng yết thị:
"Trong chùa Tướng Quốc sẽ cắt vị sư mới là Lỗ Trí Thâm ra trụ trì coi giữ,
bắt đầu từ ngày mai trở đi, cấm không ai được ra vào đấy nữa". Liền tụ
nhau lại mà bàn định rằng:
- Lão sư
này mới đến, tất phải làm cho nó một trận rất kịch liệt, hễ thò ra là phải đánh
ngay, để cho nó phục chúng ta mới được.
Trong
bọn đó có anh nói rằng:
- Tôi có
một cách nầy rất dịu, hắn mới đến đây, không lẽ nào mà kéo hắn ra đánh ngay
được, vậy chúng ta cứ lặng yên tử tế, dụ hắn ra cạnh thùng phân, giả cách chào
lạy tử tế, rồi chạy đến nắm cẳng dúng xuống thùng phân, thế là nhanh nhẹn nhất.
Trong
đảng nghe nói đều vỗ tay cho là phải, liền dự bị với nhau, để đợi khi Lỗ Trí
Thâm tới.
Khi Trí
Thâm ra đến Giải Vũ, mang đồ hành lý và đao trượng cất vào một phòng, rồi các
người làm vườn đều đến chào hỏi, mà giao các chìa khóa và các đồ vật cho Trí
Thâm nhận lấy. Đoạn rồi hai vị sư đưa đường cho Trí Thâm, cùng các vị sư trụ
trì ở đấy trước, đều từ giã đi về mà lưu Trí Thâm ở lại.
Bấy giờ
một mình Trí Thâm đi lững thững ra vườn dạo nom phong cảnh, chợt có 2, 3 mươi
người, kẻ cầm rượu người cầm rau, tươi cười hớn hở mà nói với Trí Thâm rằng:
- Chúng
tôi ở gần xóm đây, nghe tin người mới tu hành ở cảnh chùa vậy anh em rủ nhau
đến chào mừng sư phụ.
Trí Thâm
nghe nói, không biết là kế thuật gì, liền bảo rằng:
- Các
anh có lòng tốt đến chào, thì xin mời vào trong Giải Vũ nói chuyện.
Khi đó
hai tên đầu đảng đám kia, là Nhai Lão Thử Trương Tam, và Thanh Thảo Sà Lý Tứ
đứng gần chỗ thùng phân, sụp xuống đất lạy, và mong cho Lỗ Trí Thâm đến đỡ dậy,
là thi hành cách kia.
Lỗ Trí
Thâm thấy vậy, trong lòng hơi ngờ mà nghĩ thầm rằng:
- Quân
nầy lạ? Nó chào ta mà không đến gần ta, chẳng hay nó muốn vuốt râu hùm đây
chăng? Nếu vậy thì ta thử đến xem sao, rồi sẽ liệu cho một mẻ, để nó biết tay
mới được.
Nghĩ
đoạn liền xăm xăm đi đến chỗ gần thùng phân. Bấy giờ Trương Tam, Lý Tứ cả mừng
nói rằng:
- Anh em
chúnh tôi lại mừng sư phụ xin sư phụ chứng giám cho.
Hai anh
vừa nói vừa sán gần vào, anh thì bá chân bên nọ, anh thì bá tay bên kia, toan
vật nhau xuống hố. Bất đồ hai anh chưa kịp giở chân tay đã bị Trí Thâm đá một
cái, Lý Tứ ngã xuống thùng phân trước, còn Trương Tam co cẳng toan chạy, cũng
bị Trí Thâm đá một cái nữa xuống sau, đầy sùng sục ở trong thùng phân như bọ
vậy.
Lũ kia
trông thấy vậy, đều sợ hết hồn toan kéo nhau để chạy, Trí Thâm quát lên rằng:
- Hễ đứa
nào chạy là ta ném cả xuống thùng phân.
Bọn kia
nghe thấy thế đều đứng im, không dám cựa quậy chi nữa.
Tấm thân
trải mấy ba đào
Những
phường ruồi nhặng ra vào sá chi?
Mấy phen
sấm sét ra uy,
Chờ cho
biết mặt Từ Bi mới là,
Rồi đây
muôn dặm một nhà,
Tao
phùng còn lắm phồn hoa còn nhiều
Cửa
thiền gió thổi thông reo
Tòa sen
ai có đợi chiều ai không!
Lời bàn
của Thánh Thán:
Tôi nói
trước tả hai hồi này, không muốn cho liên tiếp ở đám bụi rừng, nhân biến ảo ra
chuyện trong phòng cô dâu, để cách quãng ra vậy. Tác giả e ngại rằng tả hai hồi
xẩy chuyện liên tiếp ở trong rừng, thì phải có một hồi với nhiều đoạn văn chẳng
ở trong rừng, để cách quãng ra, đó là cái tài của tài tử viết ra văn vậy? Nếu
cứ tả hai hồi liên tiếp chuyện xẩy ra lại không một hồi ở quãng giữa khác đi,
thì đâu phải cái tài của tài tử? Xét một hồi này thấy tài bút pháp của tác giả
Thi Nại Am trước sau đều tả chuyện xẩy trong rừng, lại khéo lánh đi, không để
phạm đến nhau có xem kỹ mới biết là khéo vậy.
Ta đọc
một thiên tả chùa Ngõa Quan, khôn xiết ngán ngao mà thán phục! Hỡi ôi! Việc của
thế gian, cũng như thế ư? Nại Am bỗng dưng tả ra chùa Ngõa Quan, khiến độc giả
ngàn sau đọc đến, ai không biết đến Ngõa Quan; Nại Am lại bỗng dưng tả đốt chùa
Ngõa Quan, khiến độc giả ngàn sau đọc đến, ai không biết đến cảnh thiêu chùa
Ngõa Quan? ? ? Thế mà một hồi không bao nhiêu trang giấy, vì đâu có chuyện Ngõa
Quan, lại vì đâu hết chuyện Ngõa Quan chỉ trong phút chốc mấy đời cũng trong
tấn kịch đó ư! Lại như cầm sách này để ở trên bàn, ngồi ghế mà đọc, chỗ ngồi
xem truyện với chỗ để truyện, có cách bao xa khi xem thế bỗng dưng thấy chuyện
Ngõa Quan tráo trở đến như không, thì non sông cũng trong giấc mộng đó ư! Hỡi
ôi! Đem sách của họ Đại Hùng vậy phàm nhân đọc thì bảo rằng câu "Hương
phong lăng hoa",khá đem vào thi liệu; Đem sách Bắc Tây Sương, cho thánh
nhân xem, thì bảo rằng khúc "Lâm Khứ Thu Ba",tỉnh ngộ trùng
huyền...Hỡi ơi! Bậc hiền với kẻ ngu, dụng ý khác nhau, trong khi xem sách đã
phân biệt như thế, thì sách của Thi Nại Am, cũng tùy người mà đọc nổi vậy.
Suốt
thiên này chỉ tả bước hành trình của Lỗ Đạt, mà đột nhiên thấy Sử Tiến ở đâu
bay lại, rồi đột nhiên Sử Tiến lại bay đi, chẳng phải Lỗ Đạt sức làm không nổi,
phải nhờ đến sức Đại Lang, chỉ vì trước kia ở Cao Lâu Châu Vị, ba người chia
tay, mãi đến nay đều không biết đi đâu hết cả, vừa rồi tuy ở núi Đào Hoa, gặp
được Lý Trung, song Lý Trung với Đại Lang còn kẻ trọng với người khinh, nào
phải cách nhau gang tất, thì Lý Trung đã được gặp rồi, còn Đại Lang ở góc trời
kia, đối với nước Tống mênh mông, tìm đâu cho thấy ra ngay? Huống chi qua đây
một lượt tới Đông Kinh, lại có một chuyện của Báo Tử Đầu Lâm Xung xẩy tới nữa,
nên tác giả hồi này, khéo điểm xuyết thêm, chứ không rỗi bút rỗi lòng, cùng tả
hết lượt, mà bất đắc dĩ cho hiện ra ở chùa Ngõa Quan một chút. Hỡi ôi! Ai bảo
rằng viết sử dễ dàng, như tả 108 vị anh hùng chuyện này, lần lượt diễn ra thấy
khó!
Trí Chân
Trưởng Giả nói: Dù hắn có phá tới tòa Tam Bảo, lão tăng cũng phải thôi đi...Hay
thay! Đại Đức! Thực đáng gọi là sáng suốt đến tướng phúc tội, soi thấu mười
phương, khác hẳn Trí Thanh Trưởng Lão, thì nói rằng: Nếu để hao thiệt vườn rau
thì không thể được...Hỡi ôi! Lấy vườn rau làm của chùa, lấy chúng sinh làm oan
gia, con người như thế cũng đòi làm sư trong đám tu hành, thì cũng quái thực?
Xét tòa Phật Tam Bảo đối với vườn rau, thì cách nhau xa quá, Tam Bảo Phật cũng
thôi đi, thì đủ biết cái gì mà chẳng bỏ được? Nay vườn rau cố giữ, thì Trí
Thanh Trưởng Lão còn dám đi đâu một mẩy lông? Tác giả dụng ý ở hồi này vậy, với
hai việc Ngũ Đài Sơn và Tướng Quốc Tự cho hiện ra một Pháp sư thanh lương và
một quang côn náo nhiệt, cách nhau một vực một trời.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 6: Hoa Hòa Thượng nhổ bậc gốc thùy
dương Báo Tử Đầu toạ vào nhà Bạch Hổ
Bấy giờ
Trương Tam, Lý Tứ bị Trí Thâm đá lăn vào thùng phân, đầu tóc mặt mũi bẩn thỉu
be bét, toan ngóc đầu để lên, nhưng không sao mà lên được. Trí Thâm quát lũ kia
mà bảo rằng:
- Chúng
bây túm vào lôi hai đứa ấy lên, thì ta tha cả cho.
Lũ kia
vâng lời, chạy ra lôi hai anh em nọ lên, anh nào anh nấy hôi hám dơ bẩn, không
sao mà chịu được. Trí Thâm trông thấy bật cười mà bảo rằng:
- Bây
hãy đi tắm rửa sạch sẽ, rồi vào đây ta bảo.
Trương
Tam, Lý Tứ liền đi ra cái ao gần đấy, tắm rửa xong rồi, anh em đưa quần áo
khác, cho mặc vào hầu sư.
Bấy giờ
Trí Thâm gọi tất cả vào trong Giải Vũ mà bảo rằng:
- Lũ
nhãi con, sức chúng bây được bao nhiêu, mà dám đến đây xấc láo với ta.
Lũ
Trương Tam, Lý Tứ quỳ xuống mà kêu rằng:
- Bẩm sư
phụ, chúng con từ đời ông cha ở đây đã lâu, xưa nay chỉ cờ bạc kiếm ăn, cái
vườn này tức là cơm áo của chúng con đó. Trước đây chùa Đại Tướng Quốc đã mấy
phen sai người đến cấm đoán chúng con không được, ngày nay sư phụ đến đây, thực
chúng con chưa được biết uy ngài, xin ngài tha tội cho.
Trí Thâm
nói:
- Bây
không biết, ta đây là Đề Hạt phủ Kinh Lược Diên An khi trước, chỉ vì giết người
nhiều quá, cho nên mới tình nguyện đi tu. Ta chính là nhà sư Lỗ Trí Thâm ở Ngũ
Đài Sơn, mới đến đây vậy. Bây phải biết trong đám muôn quân ngần ngựa, ta đây
cũng ra vào đánh giết như chơi, huống chi lũ trẻ nhép chúng bây, độ vài mươi
đứa thì đã thấm vào đâu. Từ nay phải liệu hồn mới được.
Lũ kia
vâng dạ, rồi lạy tạ ra đi, ngày hôm sau tụi Trương Tam, Lý Tứ bàn định với nhau
mua được bình rượu, mổ một con lợn đem đến Giải Vũ để mời đãi Trí Thâm.
Bấy giờ
Trí Thâm ngồi giữa, tụi kia ngồi làm hai bên hầu rượu, Trí Thâm liền hỏi:
- Các
anh bày biện làm chi thế này thêm tốn?
Lũ kia
nói:
- Chúng
con nay nhờ được có sư phụ ở đây, xin người làm chủ để dạy bảo cho, có chi mà
ngại tốn.
Trí Thâm
nghe nói cũng hơi hả lòng, cất chén cùng bọn Trương Tam, Lý Tứ cũng uống rượu
cho vui. Khi chén đã ngà say rồi, kẻ thì vỗ tay, kẻ thì nói chuyện, kẻ thì
nghiêng ngả vui cười rất là huyên náo.
Chợt
nghe có kêu tiếng oa oa ở ngoài, lũ kia liền lắng tai nghe, rồi bảo nhau rằng:
- Điều
lành thì ở, điều dữ thì đi.
Trí Thâm
nghe nói không hiểu đầu đuôi ra sao liền hỏi:
- Các
anh nói câu gì thế?
- Bẩm
ngài, ở ngoài kia có tiếng quạ kêu, e khi lại có sự khẩu thiệt gì chăng?
Khi đó
có người làm vườn cười mà nói rằng:
- Khẩu
thiệt gì? Trên cây dương liễu ở góc tường kia, có một tổ quạ mới làm, nó kêu
suốt ngày như thế đấy.
Chúng
nghe liền bàn với nhau rằng:
- Nếu
thế thì ta vác thang ra phá cái tổ quạ ấy đi cho rảnh.
Nói xong
đứng dậy cùng đi ra ngoài vườn, Trí Thâm bấy giờ đã chếnh choáng hơi men, thấy
chúng đứng dậy, thì cũng cao hứng chạy ra xem chơi.
Khi ra
tới nơi quả nhiên thấy trên cành dương liễu có một tổ quạ rất to, chúng liền kẻ
thì toan lấy thang để trèo, vói lên để bẻ. Trí Thâm không đợi chúng, bèn hăm
hăm đi đến gốc cây, cởi phăng áo ra, tay hữu với xuống nắm dưới gốc cây dương
liễu, tay tả giơ lên nắm về phía trên, rồi xoay lưng vặn đi một cái thật manh,
nhổ cây lẫn gốc lên như chơi.
Chúng
thấy vậy, sụp lạy cả xuống một lượt mà kêu rằng:
- Sư phụ
thực là La Hán hiện thân không ai có sức mạnh được như thế!
Trí Thâm
cười đáp rằng:
- Thế đã
thấm vào đâu, để hôm nào ta diễn võ cho các anh xem.
Nói đoạn
lại cùng vào uống rượu đến chiều mới tan.
Từ đấy
trở đi chúng càng khâm phục Trí Thâm, cứ hàng ngày lại đem rượu thịt mời Trí
Thâm ăn uống, rồi lại xem diễn võ đánh quyền.
Cách ít
lâu Trí Thâm thấy chúng thiết đãi luôn, mà không trả lại bữa nào thì không
tiện, liền sai người mua dê lợn rượu và các thức hoa quả về để thiết đãi lũ
kia, hôm ấy đương vào dạo tháng ba, khí trời bức nóng, Trí Thâm bèn sai trải
chiếu dọn rượu ở dưới gốc cây hòe, mà mời bọn kia đến quây quần đánh chén.
Khi ăn
uống đã no say,chúng nói với Trí Thâm rằng:
- Từ khi
sư phụ đến đây, anh em vẫn phục ngài là bậc vô địch ở đời, nhưng hiềm vì chưa
được xem ngài diễn lại bài roi gậy bao giờ? Vậy tiện đây xin sư phụ rộng phép
cho xem thì thực là may mắn.
Trí Thâm
gật đầu ưng thuận, liền vào phòng lấy cây thuyền trượng dài 5 thước, nặng 62
cân ra, đưa cho chúng xem. Chúng xem đến đều kinh ngạc mà nói:
- Nếu
hai cánh tay mà không khỏe bằng sức con trâu lớn, thì vác làm sao nổi cái
trượng này?
Trí Thâm
cầm lấy cây trượng ra chỗ rộng, múa lên đánh xuống, một lúc lâu trông vun vút
như gió bay mây cuốn, anh nào anh ấy vỗ tay khen ngợi luôn mồm. Đương khi ngọn
gậy xuống lên, rất khoái hoạt, thì bỗng thấy có người reo bên đường nói lên
rằng:
- Gậy
múa giỏi thực.
Trí Thâm
nghe nói, bèn dừng tay gậy lên, rồi nom ra thấy một người, đầu đội khăn xéo
xanh, đằng sau gáy cài vòng bạch ngọc, mình mặc áo chiến bào đơn, mầu lục, lưng
thắt đai bạc chạm một dải lưng rùa, chân đi đôi hài mõm vuốt, tay cầm cái quạt
Tứ Xuyên, đầu báo mặt tròn, râu hùm, hàm én thân cao tám thước, tuổi ngoại ba mươi,
đương đứng góc tường khuyết dòm sang. Người ấy thấy Trí Thâm ngẩng cổ lên thì
cười mà nói rằng:
- Sư phụ
đánh gậy xuất sắc lắm, không ai bằng được.
Lũ kia
nghe thấy người ấy nói, thì bảo nhau rằng:
- Giáo
Đầu đã khen thì tất không phải tầm thường.
Trí Thâm
quay lại hỏi chúng rằng:
- Người
ấy là ai?
- Người
ấy là ông Giáo Đầu Lâm Xung, dạy 80 vạn cấm binh ở Đông Kinh đó.
Trí Thâm
nghe nói là Giáo Đầu liền bảo chúng rằng:
- Sao
các ngươi không mời ông ấy sang đây?
Vừa nói
dứt lời thì Lâm Giáo Đầu đã vượt tường sang đến chỗ Lỗ Trí Thâm đứng, chắp tay
chào mà nói:
- Kính
chào sư phụ, chẳng hay sư phụ ở đâu mới tới đây, pháp hiệu ngài là gì mà chúng
tôi không được biết?
Trí Thâm
cũng vái chào mà đáp rằng:
- Tôi là
Trấn Quang Tây Lỗ Đạt mới đến tu hành ở đây, khi tôi còn nhỏ qua tới Đông Kinh
cũng có được biết quan Lâm Đề Hạt sinh ra ngài ngày trước.
Lâm Xung
nghe nói cả mừng liền bái kết anh em mà tôn Lỗ Trí Thâm làm đàn anh.
Trí Thâm
lại hỏi Lâm Xung rằng:
- Hôm
nay Giáo Đầu đi đâu mà lại tới đây?
- Thưa
ngài, hôm nay nhân tôi cùng đàn bà nhà tôi đi ra lễ ở nhạc miếu gần đây, sau
nhác trông thấy sư huynh múa gậy lấy làm thích mắt bèn để cho đàn bà nhà tôi đi
vào miếu với con đỏ, mà lẻn ra đây để bất đồ được gặp sư huynh thực là may quá.
- Tôi
mới đến đây chưa quen biết với ai, chỉ có các anh này ngày làm bạn cho vui, nay
lại được Giáo Đầu có lòng chiếu cố, mà kết làm anh em, thì còn gì hơn nữa?
Nói xong
lại rót rượu mời Lâm Xung Giáo Đầu cùng uống.
Vừa khi
uống được ba chén, thì đã thấy đứa con hầu đỏ bừng mặt mũi đứng ở góc tường
khuyết bên kia mà kêu lên rằng:
- Xin
ngài đứng dậy mau, bà đương cãi nhau ở trong miếu kia.
Lâm Xung
nghe nói, vội hỏi rằng:
- Cãi
nhau ở chỗ nào?
- Bẩm ở
trên lầu Ngũ Nhạc Miếu đi xuống, thì gặp người nào giữ lại, rồi cãi nhau ở đấy
luôn.
Lâm Xung
mải mốt đứng dậy vái Trí Thâm mà rằng:
- Xin sư
huynh tha lỗi cho, tôi phải sang bên kia một lúc.
Nói xong
nhảy tót ra bên kia tường, cùng với con hầu, đi thẳng sang lầu Ngũ Nhạc. Khi
tới nơi thấy mấy người đứng dưới ở vòng bao lơn, một người thiếu niên thì đang
đứng giữa thang ngăn vợ Lâm Xung lại mà bảo rằng:
- Nàng
hãy lên trên lầu, để tôi nói chuyện đã.
Bấy giờ
mặt mũi vợ Lâm Xung đỏ tím lại hẳn mà kêu lên rằng:
- Đương
lúc thanh bình thế giới, mà dám đùa bỡn với vợ con nhà tử tế, là thế nào?
Lâm Xung
thấy vậy, dùng dằng tức giận chạy lên thang lầu nắm lấy vai anh chàng thiếu
niên mà giật một cái rồi bảo rằng:
- Anh
dám đùa bỡn vợ con nhà tử tế, thì có đáng tội hay không?
Chàng
nói xong vừa mới giơ tay toan đánh, bất đồ trông đến mặt, thì té ra chính là
cậu ấm Cao, con nuôi Cao Thái Úy nhà mình, liền chùn tay lại mà không đánh nữa.
Nguyên Cao Cầu mới phát tích được làm Thái Úy, mà con cái chưa có, bèn nuôi con
người em là Cao Tam làm con, để sớm ngày bè bạn cho vui. Nhân thế Cao Cầu rất
là yêu quý, cho nên cậu ấm cứ ỷ quyền cậy thế, mà phóng túng, chơi bời gặp vợ
con ai cũng là đùa bỡn, người ta đã thường gọi là Hoa Hoa Thái Tuế xưa nay.
Khi đó
cậu ấm Cao, thấy Lâm Xung dừng tay không đánh, nhưng cũng chưa biết người đàn
bà ấy là vợ Lâm Xung, liền quay cổ lại mà hỏi rằng:
- Lâm
Xung có việc gì đến ngươi, mà ngươi lôi thôi vào đây?
Những
người ở gần đấy thấy vậy, thì xúm nhau đến khuyên giải Lâm Xung rằng:
- Thôi
Giáo Đầu đừng nói nữa, cậu ấm không biết cho nên mới lỡ ra như thế.
Cậu ấm
nghe tới đó mới biết là vợ Lâm Xung, và lại bị người ta khuyên giải cản ngăn,
mới bất đắc dĩ, phải ra miếu lên ngựa mà về.
Lâm Xung
tuy vậy trong lòng vẫn còn tức giận, trừng mắt nhìn theo cậu ấm một lúc rồi mới
đưa vợ ra về.
Vừa đi
tới cửa thì đã thấy Lỗ Trí Thâm tay cầm thuyền trượng, cùng với hai ba mươi tên
đãng tử kia đi sồng sộc vào miếu. Lâm Xung liền hỏi:
- Sư
huynh đi đâu đấy?
Trí Thâm
đứng dừng lại mà đáp rằng:
- Tôi
định đi đến đấy, xem đứa nào láo, thì giúp anh mà đánh cho nó một mẻ đấy.
- Có
phải ai đâu, đấy là cậu ấm con quan Thái Úy, vì không biết là vợ con tôi, cho
nên mới vô lễ như thế, tôi đã toan đánh cho một trận, nhưng lại sợ đối với Cao
Thái Úy, có điều không tiện, cho nên phải thôi.
- Bác sợ
Thái Úy nhà bác, chứ tôi sợ gì, giá tôi mà gặp nó thì hãy đãi cho nó vài trăm
cái thuyền trượng này cho biết tay đã.
Lâm Xung
thấy Trí Thâm hơi có dáng say, liền cười mà đáp rằng:
- Sư
huynh nói cũng phải, nhưng tôi bây giờ bị người ta can ngăn cho nên hãy tạm tha
cho nó đấy.
- Nếu
sau có việc gì, xin cứ đến bảo tôi, tôi sẽ đi với.
Bây giờ
lũ kia thấy Trí Thâm ra bộ say sưa thì cũng gạt rằng:
- Thôi
xin sư huynh hãy về, để lần sau sẽ liệu cho nó.
Trí Thâm
nghe nói, liền giơ gậy lên bảo vợ Lâm Xung rằng:
- Bà chị
đừng cười tôi nhé!
Nói xong
bái biệt Lâm Xung, rồi cùng bọn kia, trở về Giải Vũ.
Nói về
Cao Nha Nội (tức cậu ấm Cao) từ khi dẫn lũ nhân đãng đi chơi, trông thấy vợ Lâm
Xung nhan sắc đẹp đẽ, lại bị Lâm Xung ngăn trở tự do, thì trong bụng sinh ra mê
mẫn bồn chồn, mà khi về phủ cứ băn khoăn khó chịu.
Cách mấy
hôm sau lũ nhàn hán đến hầu Nha Nội, thấy nét mặt có vẻ buồn bã, thì anh nào
cũng ngờ vực, không hiểu vì lẽ làm sao, rồi lại tan cả hội họp. Duy có một tay
thân mật là Cao Ô Đầu Phú An, có biết được tâm sự của Nha Nội, liền nhân khi
vắng vẻ một mình, lẻn vào trong phủ mà bảo Nha Nội rằng:
- Mấy
hôm nay trông nhan sắc có phần hơi kém tất là ở trong bụng có điều gì không
vuui, xin Nha Nội cho tôi được biết?
Nha Nội
liền hỏi:
- Tại
sao mà ngươi biết?
- Bẩm
tôi đoán chắc như thế hẳn.
- Vậy
ngươi thử đoán xem, tại việc gì mà ta không vui?
- Bẩm có
lẽ Nha Nội lại chỉ tơ tưởng về chữ "Song Mộc"mà thôi.
Nha Nội
nghe nói mỉm cười mà rằng:
- Sao
ngươi đoán đúng thế? Nhưng ta không biết làm cách gì được đây?
- Nha
Nội tưởng có gì là khó, Lâm Xung tuy là một tay hảo hán, nhưng còn thuộc quyền
Thái Úy đây, bảo sao phải nghe vậy, nếu phật ý Thái Úy, nhẹ ra thì cũng bị đày
ải đi nơi xa, mà nặng ra thì mất mạng, chớ chẳng chơi đâu. Bởi thế tôi có kế
này, làm cho Nha Nội, khả dĩ gặp người ấy được.
- Ta từ
xưa gặp con gái cũng nhiều, nhưng chưa thấy có ai mà ta lại mê như người ấy, vì
thế cho nên vẫn buồn bã không yên, nay nếu ngươi có kế gì làm cho ta gặp mặt,
thì sau này ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.
- Bẩm
ngài, Lục Ngu Hầu Lục Khiêm là người tâm phúc ở trong phủ mà nhà ở liền đây,
xưa nay chơi với Lâm Xung thân lắm, vậy Nha Nội chỉ nên dặn Lục Ngu Hầu mời Lâm
Xung đánh chén một nơi rất kín, ở Phàn Lâu, rồi nhất diện sai người bày tiệc ở
gác nhà Ngu Hầu, để Nha Nội vào nấp ở trong đó, chờ cho hai bác kia đi được hồi
lâu, sẽ sai người đến nhà nói với vợ Lâm Xung, là chồng uống rượu ở nhà Ngu Hầu
bị cảm nặng, chết ngất ra đó, thì tất nhiên phải đến cứu đỡ, khi tới nơi lên
gác rồi, Nha Nội sẽ ở đấy mà dỗ dành ngon ngọt, là hắn phải nghe. Vả chăng đàn
bà vốn Thủy Tính xưa nay, mà lại trông thấy Nha Nội trẻ trung sang trọng, như
thế có lẽ nào cầm lòng cho đặng, vậy kế ấy Nha Nội nghĩ sao?
Cao Nha
Nội nghĩ một lúc, vỗ tay cười mà nói rằng:
- Diệu
kế! Diệu kế! Nếu vậy chiều nay ta phải tìm Ngu Hầu vào dặn bảo, rồi mai thi
hành mới được.
Nói đoạn
sai người sang gọi Lục Ngu Hầu sang, bảo rõ đầu đuôi cho biết. Ngu Hầu tuy chơi
với Lâm Xung cũng có phần thân mật, song đến điều sở thích của Nha Nội, thì
cũng phải bỏ tình bè bạn chiều chuộng cho xong, liền vâng lời về sắp sửa, để
sáng hôm sau thi kế.
Lâm Xung
từ khi gặp Cao Nha Nội vô lễ tới nay thì trong lòng tức giận, không muốn đi tới
đâu. Chợt hôm ấy đương ngồi ở nhà, thì thấy ngoài cửa có người đến bảo rằng:
- Lâm Giáo
Đầu có ở nhà không?
Lâm Xung
nghe nói mải miết chạy ra xem, thì là người anh em bạn thân là Lục Ngu Hầu,
liền vái chào mà hỏi:
- Ngu
Hầu đi đâu đến đây thế?
Ngu Hầu
cười mà đáp rằng:
- Mấy
hôm nay mong mỏi, sao mà không thấy quan bác đi chơi đâu?
- Mấy
hôm nay trong bụng không được vui, nên không muốn đi đâu cả.
- Bây
giờ mời quan bác sang tôi chơi, uống mấy chén rượu cho đỡ buồn đi.
- Quan
bác hãy vào đây uống tạm chén nước rồi sẽ đi.
Khi uống
xong rồi, hai người đứng dậy ra đi, Lục Ngu Hầu lại quay lại nói với vợ Lâm
Xung rằng:
- Thưa
bác tôi đoán bác trai sang nhà tôi uống mấy chén rượu, rồi đi về ngay.
Nói
xong, hai người cùng ra đi vòng quanh trong phố một lát, rồi Ngu Hầu bảo Lâm
Xung rằng:
- Bây
giờ ta đừng về nhà nữa, cứ đến Phàn lâu đánh chén, có lẽ thú hơn.
Lâm Xung
vâng lời, cùng nhau đến gác Phàn Lâu, tìm nơi tĩnh mịch để ngồi, gọi tửu bảo
lấy rượu và thức nhắm lên để cùng uống.
Trong
khi uống rượu, thỉnh thoảng Lâm Xung lại thở dài một tiếng, Ngu Hầu nghe thấy
liền hỏi:
- Chẳng
hay về việc gì mà bác thở dài như thế?
- Tôi
nghĩ làm thằng con trai ở đời, tài sức chẳng kém gì ai, thế mà không gặp được
người minh chủ, đành phải khuất dưới kẻ tiểu nhân, rồi lại bị người ta trêu
tức, thì có khó chịu hay không?
- Hiện
nay ở Đông Kinh, đã có mấy người Giáo Đầu tài sức như bác, vả quan Thái Úy cũng
có lòng coi như người ta, vậy còn ai trêu tức bác được nữa?
Lâm Xung
liền đem chuyện Cao Nha Nội ở Nhạc Miếu hôm trước, nói cho Ngu Hầu nghe, Ngu
Hầu nghe nói, liền gạt đi rằng:
- Tưởng
chuyện chi, cứ như việc ấy chắc là Cao Nha Nội không biết, cho nên mới lỡ ra
thế thôi, có việc gì mà bác lo nghĩ cho phiền! Ta cứ phó mặc tự nhiên mà uống
rượu có hơn không?
Lâm Xung
uống xong mười chén rượu, rồi đứng dậy bảo Ngu Hầu rằng:
- Bác
hãy xơi rượu, để tôi vào rửa mặt, rồi lại xin ra tiếp ngay.
Nói xong
toan chạy đi phía ngõ bên đông.
Vừa khi
Lâm Xung bước tới đầu ngõ, thì thấy đứa trẻ ở nhà, chạy hất hải bảo rằng:
- Quan
Nhân ơi! Sao ngài lại ở đây, làm cho tôi tìm mãi?
Lâm Xung
lấy làm ngạc nhiên, hỏi vội lên rằng:
- Việc
gì?
- Vừa
rồi ngài đi với Ngu Hầu được một lúc, thì có một anh chạy lật đật đến bảo với
bà tôi rằng: "Ngài uống rượu ở nhà Ngu Hầu, không biết vì cớ gì mà bỗng
dưng ngã vật xuống, bà phải sang ngay xe sao mới được". Bà nghe vậy, vội
vàng gửi nhà Vương Bà coi giúp, rồi cùng tôi được đến thẳng nhà Ngu Hầu, khi
lên đến gác, chỉ thấy bàn rượu bày ra chững chạc ở đó, mà ngài thì chẳng thấy đâu,
bà tôi liền vội vàng quay xuống thì ai ngờ bị người thiếu niên ở Nhạc Miếu hôm
nọ, ngờ đâu đâm bổ ra mà bảo rằng: "Bà hãy ngồi đây, ông ấy đến bây giờ
đấy." Đoạn rồi tôi bước xuống khỏi thang, thì nghe tiếng bà tôi kêu
"giết người", ầm ĩ cả lên. Bởi vậy tôi vội vàng đi tìm mãi mà chẳng
thấy ngài đâu, sau gặp Trương Tiên Sinh bảo rằng: Ngài đương ngồi uống rượu với
ai ở Phàn Lâu, tôi liền chạy mãi đến đây tìm ngài, xin ngài đi đến mau xem sao
mới được.
Lâm Xung
nghe nói, rụng rời kinh ngạc, không đợi con trẻ cùng đi, mà chạy ba chân bốn
cẳng, đến ngay nhà Ngu Hầu trèo lên trên gác để xem. Khi tới nơi thì cửa gác đã
đóng chặt, mà vẫn có tiếng đàn bà kêu gọi ở trong rằng:
- Đời
thuở nhà ai, mà dám đem vợ con nhà tử tế nhốt vào đây không?
Đoạn rồi
lại nghe thấy tiếng Cao Nha Nội nói khẽ rằng:
- Xin
nương tử thương tôi với, nương tử có phải là gỗ đá đâu, mà tôi nói thế nào cũng
không chuyển được?
Lâm Giáo
Đầu nghe rõ từng lý, liền nổi giận xung thiên quát lên rằng:
- Mở cửa
cho ta.
Trong
kia người đàn bà nghe tiếng biết là chồng mình đã đến liền cố bứt chạy ra mở
cửa, còn cậu ấm Cao biết thế nguy hiểm đến nơi thì mở cửa sổ nhảy qua tường
trốn thoát.
Lâm Xung
lên đến gác, tìm Cao Nha Nội, thì đã mất rồi, sau hỏi đến vợ cặn kẽ, mới biết
là trúng kế gian nhân, mà cũng may chưa hề phạm tới, song trong lòng thì căm
tức Ngu Hầu vô hạn, liền đập phá nhà Ngu Hầu tan nát cả, rồi đưa vợ cùng con
trẻ ra về.
Khi đưa
về đến nhà rồi, Lâm Xung lại vác đao, đi thốc đến Phàn Lâu, tìm Ngu Hầu, nhưng
Ngu Hầu đã trốn đi đâu mất, chàng lại đến tận cổng để đón đánh, mà suốt ngày
hôm ấy cũng không thấy đâu cả.
Lúc về
nhà Lâm Xung vẫn còn căm tức, nhưng vợ gạt đi mà can rằng:
- Tôi
tuy mắc lừa, song cũng chưa đứa nào dám phạm đến, thì còn sinh sự làm chi?
Lâm Xung
cứ khẳng khái mà rằng:
- Quân
súc sinh mồm thì xoen xoét nào anh nào tôi, ai ngờ nó lại đánh lừa như thế? Tất
nhiên ta phải trị ngay nó mới được!
Vợ Lâm
Xung thấy chồng mình hăng hái, thì cố sức can ngăn mà giữ riết ở trong nhà,
không cho đi đâu, còn Ngu Hầu thì cũng trốn ở trong phủ Thái Úy, mà không dám
về đến nhà nữa.
Cách ba
bốn hôm sau, Lỗ Trí Thâm đến chơi nhà Lâm Xung mà hỏi rằng:
- Chẳng
hay mấy hôm nay vì cớ gì, mà không thấy quan anh đến chơi vậy?
Lâm Xung
nói:
- Tiểu
đệ vì bận chút việc riêng, cho nên không đến chơi với sư huynh được, nay sư
huynh quá bộ đến đây, giá mời ngài ở chơi xơi chén rượu thì phải, nhưng ngặt vì
trong nhà không được sẵn sàng, vậy xin đón sư huynh ra chơi ngoài phố, rồi ta
tìm cái hàng nào uống mấy chén rượu cho vui, sư huynh nghĩ sao?
Lỗ Trí
Thâm cười mà đáp lại rằng:
- Cũng
được.
Nói đoạn
hai người cùng đi ra phố, tìm vào hàng rượu với nhau, rồi lại hẹn hò đến mấy
hôm sau tương hội. Từ đó ngày nào Lâm Xung cũng đi chén với Trí Thâm, dần dần
khuây khỏa nỗi lòng, mà không nghĩ đến gì nữa.
Nói về
Cao Nha Nội khi còn ở nhà Ngu Hầu, bị một phen kinh sợ, phải nhảy qua tường mới
thoát được nạn, về tới nhà không dám nói với Cao Thái Úy, rồi cứ tấm tức trong
lòng, mà ngơ ngẩn thành bệnh.
Lục
Khiêm và Phú An thấy vậy liền hỏi Cao Nha Nội rằng: - Chẳng hay Nha Nội vì sao
mà tinh thần bỗng kém đi làm vậy?
- Không
dấu gì các ngươi, chỉ vì hai lần không được gặp giai nhân, lại bị một phen kinh
sợ, cho nên đau đớn trong lòng mà sinh bệnh đó thôi.
- Việc
ấy xin Nha Nội cứ an tâm, thế nào chúng tôi cũng có thể làm cho kỳ được, chỉ
trừ ra có tự tử mất thì thôi.
Đương
khi nói chuyện, thì có tên Đô Quản già, cùng vào thăm Nha Nội ở đó. Đô Quản hỏi
thăm bệnh thế qua loa rồi, vừa quay ra thì thấy Lục Khiêm, Phú An dắt đến chỗ
vắnh vẻ mà bảo nhau rằng:
- Bây
giờ ta muốn cho Nha Nội được khỏi bệnh, thì tất nhiên phải làm sao tán hót với
Thái Úy kết quả anh Lâm Xung đi, rồi đem vợ hắn về cho Nha Nội, thế là diệu
hơn. Bằng không thì tính mạng Nha Nội tất là không toàn được nữa.
Lão Đô
Quản nghe nói liền đáp lại rằng:
- Việc
gì, chứ việc ấy thì dễ lắm, để chiều hôm nay lão sẽ bẩm với Thái Úy là được.
- Chúng
tôi đã định kế sẵn rồi, nếu bác kêu với Thái Úy được, thì tôi sẽ nói. Lão Đô
Quản nhận lời mà lui ra.
Chiều
hôm ấy lão Đô Quản lên so vai rụt cổ tâu với Thái Úy rằng:
- Bẩm
ngài, bệnh của Nha Nội, có vì cớ gì đâu, chỉ vì người vợ Lâm Xung đó thôi.
Cao Cầu
đã biết nết đứa con nuôi liền hỏi:
- Nó gặp
vợ Lâm Xung từ bao giờ?
- Bẩm
Nha Nội được gặp ở Nhạc Miếu hôm 28 tháng trước, đến nay đã được hơn một tháng
rồi.
Nói đoạn
liền đem chuyện Nha Nội lập kế đến nhà Ngu Khiêm, rồi bị một trận kinh hoàng,
kể hết cho Thái Úy nghe.
Thái Úy
nghe xong nhăn nhó mặt, ra vẻ nghĩ ngợi mà bảo rằng:
- Như
thế thì làm thế nào được, nếu tiếc một thằng Lâm Xung, thì tính mệnh con ta tất
là nguy mất? Nghĩ sao cho tiện đây?
- Bẩm,
Lục Khiêm và An Phú đã có kế thi hành, vậy ngài thử đòi hỏi xem sao?
Thái Úy
gật đầu bảo Đô Quản đi gọi Phú An và Lục Khiêm đến.
Khi hai
tên ấy đến, Cao Thái Úy liền trỏ bảo rằng:
- Nha
Nội đương bị bệnh như thế, các ngươi có kế gì khiến Nha Nội khỏi được bệnh
ngay, thì ta sẽ cất nhắc lên cho.
Lục
Khiêm so vai rụt cổ bẩm rằng:
- Việc
ấy trừ phi như thế...như thế...thì không có thể được.
- Đã như
thế, thì ngày mai các ngươi phải làm ngay đi mới được.
Lũ kia
vâng dạ, mà xin ra để thi hành.
Lâm Xung
từ khi có Lỗ Trí Thâm, cứ ngày ngày chè rượu làm vui, thì trong lòng khuây khỏa
phó mặc chuyện ngoài không nghĩ, chợt một hôm hai người đương đi ở trên phố
Duyệt Võ, thì thấy một người to lớn, đầu đội khăn mỏ rìu, mình mặc áo chiến bào
cũ, tay cầm cây đao có bao lưỡi cẩn thận, đương đứng ở trên phố mà nói lảm nhảm
một mình rằng:
- Uổng
phí cả thanh bảo đao của mình, không có một ai biết cả!
Lâm Xung
nghe thấy vậy, cứ điềm nhiên, chỉ cúi đầu cúi cổ, cùng với Trí Thâm vừa chuyện
vừa đi, mà không nhìn thèm đến. Người kia cứ đi theo đằng sau, mà nói luôn
miệng nói rằng:
- Thanh
bảo đao tốt như thế này, mà không biết đến, đáng tiếc chưa?
Lâm Xung
lại mặc kệ đi ngoắt vào trong ngõ; người kia cũng lại theo sau, mà cứ nói một
mình rằng:
- Quái
lạ! Cả một chỗ kinh đô rộng lớn như thế này, mà không có ai biết đến đồ dùng binh
hay sao?
Lâm Xung
nghe nói đến câu ấy, thì phải quay đầu nom lại xem. Anh kia biết ý liền tuốt
thanh đao sáng nhoáng ra cầm ở tay.
Lâm Xung
trông thấy choáng mắt, liền bảo người ấy rằng:
- Đem
lại đây tôi xem.
Người
kia cầm đao đưa đến, Lâm Xung cầm lấy, cùng với Trí Thâm xem ngắm hồi lâu, bất
giác buột miệng khen rằng:
- Thanh
đao tốt thực anh định bán bao nhiêu?
Người
kia nói:
- Đao
này đáng giá 3000 quan, nhưng thực ra 2000 quan tôi mới bán.
- Phải,
đáng giá 2000 quan, nhưng mấy ai đã biết được? Nếu anh có chịu bán 1000 quan
thì tôi mua cho?
- Tôi
bây giờ đương cần tiền tiêu, vậy nếu ông định mua, thì xin ông bớt đi 500 quan,
còn ông phải trả 1500 quan mới được.
- Chỉ có
1000 quan, có bán thì tôi cố mua vậy.
Người
kia thở dài đáp rằng:
- Thôi
cần tiền đành bán rẻ vậy, nhưng phải trả đủ tiền mới được.
- Đi,
anh theo tôi về nhà lấy tiền.
Lâm Xung
nói xong, quay lại bảo Lỗ Trí Thâm rằng:
- Quan
bác hãy đến Xái Phòng đợi tôi, rồi chốc tôi xin đến.
Trí Thâm
nói:
- Thôi
để tôi về, sáng mai ta lại gặp.
Đoạn hai
người chào nhau, Lâm Xung đưa người bán đao về nhà lấy tiền.
Khi trả
tiền xong, Lâm Xung lại hỏi người bán đao rằng:
- Thanh
đao này anh làm gì mà có?
- Nguyên
của ông cha tôi để lại cho, nhưng đến nay túng kiết, mới phải bán đi.
- Ông
cha anh người trước thế nào?
- Thưa
ngài, tôi nói ra bây giờ lại thêm tủi thân lắm thôi. Lâm Xung nghe nói vậy, thì
để mặc hắn đi, mà không hỏi nữa. Bấy giờ lại cầm thanh đao ngắm nghía luôn tay,
mà khen ngợi một mình rằng:
- Cái
đao này tốt thực, trong phủ Thái Úy cũng có một thanh đao báu, xưa nay vẫn làm
bộ không cho ai xem đến, để rồi ta thử đem đọ xem sao?
Chàng
khen lấy khen để, rồi xem đi xem lại mãi đến đêm mới treo lên vách mà đi nghỉ.
Sáng hôm sau lại đến trông ngắm thanh đao mà khen mãi không thôi.
Trưa hôm
ấy chợt thấy hai tên lính, chạy đến bảo với Lâm Xung rằng:
- Quan
Thái Úy nghe nói Giáo Đầu mới mua được thanh đao tốt, ngài truyền chúng tôi ra
bảo ông đem vào để đọ xem. Thái Úy hiện đang đợi ở trong phủ đó.
Lâm Xung
nghe nói, thì lẩm nhẩm trong bụng rằng:
- Thằng
ranh nào lại bợm thế! Nó đã mỏng môi tâu nộp được ngay rồi.
Nghĩ
đoạn mặc áo đội khăn vác thanh đao đi theo hai tên lính.
Khi đi
đường Lâm Xung hỏi hai tên lính rằng:
- Các
ngươi có ở trong phủ, mà sao ta chưa biết mặt bao giờ?
Hai tên
lính nói:
- Chúng
tôi hầu ở nhà trong, cho nên ông ít khi gặp.
Vừa nói
dứt câu chuyện, thì đã đi tới nhà công đường phủ Thái Úy, Lâm Xung liền đứng
dừng lại đấy.
Hai tên
lính nói:
- Quan
Thái Úy ngồi đợi ở nhà trong, mời ông đi vào.
Lâm Xung
đi thẳng vào nhà trong, không thấy quan Thái Úy, lại đứng dừng lại. Hai tên
lính lại giục:
- Ở nhà
trong nữa, mời ông cứ đi vào đi.
Lâm Xung
lại theo hai tên lính được quanh co mấy lần cửa, đến một chỗ xung quanh toàn
thị lan can tím. Hai tên lính đưa Lâm Xung đến ở thềm mà rằng:
- Ông
đứng đợi ở đây, để tôi vào bẩm Thái Úy ra đây.
Hai tên
lính nói xong liền quay trở vào, Lâm Xung đứng đợi mấy phút đồng hồ, không thấy
ai đến, trong bụng hơi nghi, liền ngó cổ vào trong rèm nom thấy cái biển viết
ba chữ: "Bạch Hổ Đường"xanh xanh, thì giật nẩy mình nghĩ ra rằng:
- Đây là
chổ thương nghị quân cơ đại sự, mà sao nó tự nhiên vô cố, nó lại dắt ta vào
đây? Chết nỗi! Có phép đâu được thế!
Chàng
nghĩ như vậy, vừa toan quay bước trở ra, thì đã thấy tiếng giày lẹt xẹt ở ngoài
đi vào, liền ngẩng cổ lên nom, thì chính là Cao Thái Úy đến đó. Lâm Xung thấy
Cao Thái Úy vào, thì mải mốt cắp thanh đao, rồi chắp tay vái chào Thái Úy.
Thái Úy
làm bộ ngạc nhiên quát lên mà hỏi dồn luôn rằng:
- Có ai
sai bảo gì, mà vào Bạch Hồ Đường như thế? Ngươi có biết pháp luật gì không mà
cầm đao vào đây? Hay là định mưu hại ta chăng? Có người nói với ta rằng: Mấy
hôm nay ngươi vẫn vác đao, đến chực chõm ở trước phủ. Chắc là có bụng phản trắc
chi đây?
Lâm Xung
cúi mình bẩm rằng:
- Bẩm ân
tướng, vừa rồi có hai tên lính, truyền gọi Lâm Xung đem đao vào để ân tướng đọ
xem, cho nên hạ nhân mới dám tới đây.
- Lính
nào? Đâu?
- Bẩm
hai tên đi vào nhà trong rồi?
- Nói
lạ! Lính nào dám vào phủ đường ta? Tả hữu đâu trói tên nầy lại cho ta.
Nói chưa
dứt lời, thì thấy mấy mươi tên lính ở đâu đổ ra bắt Lâm Xung mà trói lại.
Cho hay:
Mấy
người trí dũng xưa nay,
Trời làm
chi đến nỗi nầy thì thôi;
Lạ cho
là giống ở đời;
Đỉnh
chung sao để những nòi bất nhân?
Bắc
thang lên hỏi hồng quân.
Xưa nay
tay Tạo cầm cân thế nào?
Xây chi
những cuộc ba đào?
Nước non
luống để anh hào biết gan?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi này
dụng bút viết ra rất khó, vì sau trước khác nhau, nếu trước sau tả xuôi một
việc, thì có dư bút mà lây sang một việc kia, cũng nhân việc này mà nảy ra việc
khác. Nay hồi này tả Lâm Xung mới nhận được Lỗ Đạt, thân nhiệt khác ra, liên
tiếp một việc Nha Nội, đấu khí khác ra, nay chỉ tả Lỗ Đạt, thì tạm gác một bên
câu chuyện Nha Nội, mà tả Nha Nội, thì tạm gác một bên câu chuyện Lỗ Đạt, thực
là thấy trong sự diễn tả, cũng đôi đường tiến thoái lưỡng nan. Huống chi trong
sự tả Nha Nội, lại cốt chia hai lần, một lần chép ở nhà họ Lâm (mua đao), một
lần ở phủ họ Cao, tả Cao Phủ thì nhằm vào họ Lâm, mà tả họ Lâm nhằm vào Cao
Phủ, trong lúc tả lắm chuyện như thế, lại thêm một anh chàng vườn rau, luôn
luôn lui tới, nếu anh chàng vườn rau như mọi người thì khác hẳn, đàng này lại
là một tay hảo hán, lúc nào cũng sẵn sàng can thiệp những chuyện bất bằng, ngay
gữa đường đi, đã từng đánh ba quyền chết Trấn Quan Tây ở nơi Châu Vị, nếu tả Lỗ
Đạt biết đến chuyện ở nhà Ngu Hầu, thì tác giả tả làm sao cho hết câu chuyện mưu
toan thâm ác của đám quân phiệt, như Cao Cầu vốn bất chính lại nuông con làm
trắng trợn hơn? Đọc tới đây không phục tài tác giả, thì chưa xem nổi văn chương
diễn tả của người xưa, khéo léo dùng bút.
Hồi này
nhiều bút pháp lạ lùng, như vợ Lâm Xung chịu nhục, ắt phải làm cho Lâm Xung tức
khí, rồi người khác khuyên thôi, xảy đâu Lỗ Đạt hùng hùng hổ hổ, lại đến Lâm
Xung khuyên thôi, đó là một chuyện; Đến chuyện bán đao ở phường Duyệt Võ, anh
chàng cứ khích khí cho người ta, mua đao, Lâm Xung, Lỗ Đạt chỉ nói chuyện
phiến, cang làm cho kẻ bán đao thở ra những giọng tiếc cho đao, mà Lâm, Lỗ vẫn
đưa ra câu chuyện phiến coi thường, càng thấy kẻ kia coi thường, lại càng than
tiếc, khác nào hai ngọn núi đối nhau, thế rồi đi đến gặp nhau, đó là hai
chuyện; Khi trả tiền đao, xong việc thì thôi, lại tả Lâm Xung quý mến bảo đao,
thế rồi hỏi đến căn đoạn của kẻ có đao, chàng bán đao sẽ nói là ai? ? ? Nên Lâm
Xung hỏi đến, khéo tả thoái thác, rằng nói đến tổ phụ với bảo đao này thêm
nhục, câu đó làm cho độc giả đoán ra văn tứ lâm ly đến thấy đó là ba chuyện
vậy; Bạch Hổ Tiết Đường, không nên tới vậy, nay Lâm Xung vào lầm, đó là xuất kỳ
bất ý, bị dỗ dẫn vào, rồi dừng gót, lần tới bình phong hậu đường, lại dừng gót
nữa, thế rồi lần lượt đưa đến Tiết Đường (Bạch Hổ) đó là bốn chuyện vậy, kỳ văn
đến thế, thì dù Tư Mã Thiên viết sử phục sinh, cũng không hơn thế được.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 7: Đất Thương Châu Lâm Giáo Đầu chịu
nhục; Rừng Dã Trư Hoa Hòa Thượng xung gan
Bấy giờ
lũ kia đổ xô vào trói Lâm Xung, rồi Cao Thái Úy thét quân lính dàn hàng, để đem
Lâm Xung ra chém.
Lâm Xung
kinh sợ kêu là oan uổng, thì Cao Thái Úy lại quát lên rằng:
- Oan
gì? Ngươi tự tiện đi vào Bạch Hổ Đường có việc chi? Bây giờ trong tay vẫn cầm
đao đấy, không phải là ngươi định hại ta hay sao?
- Bẩm
Thái Úy không cho đòi, thì khi nào tôi dám vào? Hiện có hai tên dẫn tôi vào đây
lúc nãy.
- Trong
phủ ta có lính nào ta chả biết, ta sai đi hay không, ta lại không biết à? Tả
hữu đâu? Hãy đem nó ra phủ Khai Phong, bảo quan Phủ tra xét việc này thế nào
rồi sẽ xử quyết cho nó.
Nói xong
sai một người thân mật lấy thanh đao của Lâm Xung phong vào cẩn thận, rồi giải
ra phủ Khai Phong. Tên người nhà giải Lâm Xung và thanh đao ra phủ Khai Phong,
lại đem lời Thái Úy bẩm cho quan Phủ biết.
Quan Phủ
nghe nói liền hỏi Lâm Xung rằng:
- Lâm
Xung làm chức Giáo Đầu, sao không biết pháp luật, mà cầm đao đi vào Bạch Hổ
Đường như thế? Tội có đáng chết hay không?
Lâm Xung
chấp tay kêu rằng:
- Xin ân
tướng xét cho, việc này thực là oan ức, chúng tôi dốt nát thô lỗ, song cũng
biết đôi chút pháp luật có đâu dám thiện tiện vào Bạch Hổ Đường như thế? Việc
này chẳng qua vì một lẽ riêng, chúng tôi có thể đoán ra rằng, xin ân tướng xét
kỹ cho.
- Vì lẽ
chi ngươi cứ nói?
Lâm Xung
bèn thuật đầu đuôi từ khi Cao Nha Nội gặp vợ mình ở Nhạc Miếu, cho đến khi lập
kế ở nhà Ngu Hầu, lại đến lúc mua thanh đao, và hai tên lính gọi vào trong phủ
Thái Úy, rồi vì sao mà đến thế này, nhất nhất phải kể cho Phủ Doãn nghe.
Phủ Doãn
nghe xong, nhất diện viết công văn về trình Thái Úy, rồi nhất diện hãy cho gông
cổ Lâm Xung, mà giam vào ngục.
Vì đâu
nên nỗi nước này!
Anh hùng
trái vận đắng cay chăng trời?
Bên kia
bố vợ Lâm Xung là Trương Giáo Đầu, biết tin con rể mắc nạn liền kiếm tiền của
đến nói với người tra án, để châm chước giúp cho. Người này họ Tôn tên Định,
vốn tính hiếu thiện, xưa nay hay che chở giúp đỡ cho người, nhân thế người ta
thường gọi là Tôn Phật Nhi.
Tôn Định
biết đầu đuôi là Lâm Xung oan khuất, liền kêu với quan Phủ rằng:
- Việc
này xét ra Lâm Xung thực là oan khuất, xin quan lớn che chở cho hắn thì hơn.
Quan Phủ
lắc đầu mà phán rằng:
- Tội
này là hắn làm ra, quan Thái Úy đã phê chấp vào tội "vô cố cầm đao tới
Bạch Hổ Đường định sát hại quan trên" như thế, còn che chở sao được?
- Bẩm
ngài, nếu vậy thì phủ Khai Phong đây, đã thuộc về nha tư của quan Thái Úy họ
Cao, chứ không phải thuộc về triều đình nữa hay sao?
- Nói
lạ!
- Xưa
nay ai không biết rằng Cao Thái Úy đã ỷ quyền ỷ thế, làm lắm điều xằng, thế mà
phủ Khai Phong lại hùa vào làm đảng nữa, thôi thì bảo giết là giết, bảo mổ là
mổ, như vậy há không phải phủ nha riêng của Thái Úy sao?
- Đành
vậy, nhưng việc nầy biết làm thế nào cho được?
- Cứ ý
chúng tôi xem ra thì Lâm Xung vô tội, nhưng chỉ có một điều là bây giờ không bắt
đâu được hai tên lính dẫn hắn vào Bạch Hổ Đường thì cũng hơi khó lòng một chút,
vậy chỉ nên khép tội cho hắn là cầm đao đi lầm vào Bạch Hổ Đường, thì phạt 20
trượng, và bắt đi xung quân ở một nơi xa, thế là đủ rồi.
Phủ Doãn
nghe nói có lẽ, liền đem việc ấy vào bẩm cho Cao Thái Úy biết. Cao Thái Úy nghe
lời Tri Phủ nói, cũng biết là việc mình làm xằng hụt lý, và cũng hơi e lòng Tri
Phủ, nên ưng lời mà phê phó ngay.
Hôm đó
Tri Phủ trở về Phủ, cho đòi Lâm Xung lên tháo các đồ gông ra, đánh phạt 20 trượng,
rồi gọi thợ thích chữ vào mặt, rồi lại gông vào cẩn thận, mà viết công văn trao
cho hai tên công sai giải tù, sang đài ở Thương Châu. Hai tên công sai là Đổng
Siêu và Tiết Bá, vâng lĩnh giấy má rồi đem Lâm Xung ra khỏi phủ Khai Phong. Bấy
giờ hàng xóm láng giềng, cùng bố vợ Lâm Xung là Trương Giáo Đầu, cùng đến cửa
phủ, để đón tiếp, rồi đưa cả nhau vào một cái hiệu ở bên cầu để nói chuyện.
Lâm Xung
phàn nàn với Trương Giáo Đầu, rồi lại nói rằng:
- May
nhờ Tôn Phật Nhi có lòng che chở giúp đỡ, cho nên đòn cũng đỡ đau, chứ không
thì có lẽ không đi được nữa.
Trương
Giáo Đầu nghe nói nửa cảm nửa thương, liền gọi tửu bảo lấy rượu ra đãi hai
người giải tù cùng uống cho vui. Rượu được vài tuần, thì Trương Giáo đầu lấy ra
mấy lạng bạc đưa cho tên công sai, rồi dặn dò để trông nom giúp đỡ.
Bấy giờ
Lâm Xung đứng dậy chấp tay nói với trượng nhân rằng:
- Con
chẳng may gặp ngày xung tháng hạn, bỗng dưng nên nổi nước này, vậy con có mấy
lời tâm sự xin trượng nhân thương đến, từ khi vợ chồng con sum họp với nhau,
đến nay đã được ba năm, tuy rằng trời chưa cho con một chút con nào, song sự ăn
ở với nhau, thực chưa hề có điều gì là trái ý, tới nay con phải đi đày ải xa
khơi, sau này mất còn chả biết, nếu mà để vợ con ở góa một mình, thì thực trong
lòng không ổn! Vả chăng vợ chồng con cũng còn đương trạc thanh xuân, e khi ở
lại trong nhà, lỡ bị Cao Nha Nội lại đem lòng ức hiếp, thì bấy giờ sẽ xử ra
sao? Việc ấy quyết nhiên không nên vì con mà để mất con đường thân thế, vậy
tiện đây đông đủ xóm giềng, con xin viết tờ giấy hưu thư, để cho vợ con tùy
tiện lấy chồng, như thế thì con mới yên lòng đi được.
Trương
Giáo Đầu gạt đi rằng:
- Chết
nỗi! Sao hiền tế lại nói như vậy. Bây giờ chẳng may gặp phải cơn đang vận túng,
đành hãy đến Thương Châu mà lánh nạn ít lâu, rồi sau này tất nhiên trời kia
thương lại, cũng còn vợ chồng sum họp với nhau, chứ có điều chi mà ngại! Nhà
lão đây nghèo cũng còn kiếm được để nuôi hai thầy trò nó, trong năm ba năm mà
đợi khi sắc cầm tái hợp về sau. Còn như Cao Nha Nội có ý lôi thôi, thì ta sẽ
cấm con gái ta ở nhà, còn gặp ở đâu mà sinh sự được nữa. Việc ấy hiền tế cứ an
tâm, đi sang Thương Châu ở đó, rồi thỉnh thoảng viết giấy về cho ta, quần áo ta
đây sẽ chu cấp gửi sang, chớ nghĩ quanh quẩn, làm cho thêm khổ?
- Đành
vậy, con xin cảm tạ trượng nhân song không thể nào yên tâm để cho vợ con lỡ
làng như thế được! Nếu trượng nhân có lòng thương tôi, mà nhận lấy lời cho, thì
tôi chết đi mới được yên hồn nơi chín suối, xin với trựơng nhân biết cho.
Trương
Giáo Đầu nghe vậy lại càng cảm động, nhất định không ưng lời, đoạn rồi xóm làng
túm vào mà khuyên can, không nên như thế.
Lâm Xung
quả quyết đáp rằng:
- Nếu
trượng nhân không nghe lời tôi, thì sau này có được về đây, tôi quyết không
đoàn tụ với nhau được nữa!
Trương
Giáo Đầu nghe nói, không biết trả lời ra sao, liền bảo Lâm Xung rằng:
- Nếu
vậy tùy ý hiền tế, muốn viết sao cứ viết, nhưng tôi đây không gả chồng cho con
gái tôi thì thôi.
Nói đoạn
sai tửu bảo lấy bút và mượn người đến viết hộ. Trong thư viết như sau:
- Tôi là
Lâm Xung làm chức Giáo Đầu ở Đông Kinh, nhưng vì mắc tội phải đi đày ở Thương
Châu, sau nầy sống chết thế nào chưa biết! Vậy nhân lập hưu thư tình nguyện cho
vợ là Trương Thị trở về xuất giá, từ nay không can thiệp điều chi? Việc này tự ý
định làm, không ai bức bách, sợ sau không tiện, nên viết để làm tin...
Ngày...tháng...năm...Lâm
Xung ký tên và in tay ở dưới.
Vừa khi
Lâm Xung ký xong, toan đưa cho Trương Giáo Đầu, thì thấy người vợ vừa gào vừa
khóc, ở đâu đi đến lại có cả con trẻ cắp gói quần áo đi theo sau nữa. Lâm Xung
trông thấy, liền quay ra bảo vợ rằng:
- Nàng
ơi! Tôi có một câu chuyện, đã thưa với trượng nhân rồi, hiện nay tôi bị vận nạn
thế này, chưa biết về sau còn sống chết hay không, vậy nàng còn đương xuân xanh
tuổi trẻ, phải nên sớm liệu mà kiếm chỗ để nương thân, tôi đã viết bức hưu thư
ở đây, nàng giữ lấy làm tin, không nên vì tôi để lỡ độ xuân xanh mới được.
Trương
Thị nghe nói lại khóc nức nở mà rằng:
- Trời
ơi! Tôi có điều chi thậm tệ, mà phu quân nỡ bỏ tôi như thế?
Lâm Xung
an ủi rằng:
- Đó là
lòng tốt của tôi, không muốn để cho bó buộc làm lỡ cả nhau, chuyện nên mới viết
bức thư này, xin nàng cứ an tâm, đừng nghĩ nữa thêm phiền.
Trương
Giáo Đầu quay lại bảo với con gái rằng:
- Thôi,
con cứ lặng yên, để cho chồng con viết, sau đây ta không gả chồng cho con nữa
thì thôi, mà vạn nhất chồng con nó không về đây nữa, thì sau nầy ta sẽ kiếm kế
sinh nhai, cho con yên ấm một đời mà yên lòng thủ tiết, thế là cũng được chứ
sao?
Trương Thị
nghe nói đã cay đắng trong lòng, lại trông thấy phong thư ở đó, thì khóc lên
một tiếng mà ngã ngất ra đây. Than ơi!
Vì đâu
mưa gió bất bình
Để ai
chia rẽ gánh tình vì ai?
Ngán
thay là kiếp ở đời,
Anh hùng
khi cũng thua trời mới căm!
Trương
Giáo Đầu cùng Lâm Xung thấy vậy, thì đổ xô vào kêu gọi, hồi lâu mới tỉnh, đoạn
rồi những đàn bà hàng xóm, cùng túm vào khuyên giải, mà dìu dắt Trương Thị ra
về.
Bấy giờ
Trương Giáo Đầu lại bảo Lâm Xung rằng:
- Hiền
tế đi chuyến này, phải bảo trọng lấy thân, nếu có cơ hội gì, thì phải về đây
mới được, còn vợ con ở nhà, thì tôi sẽ đem về cùng ở với tôi, để chớ khi tái
hợp, hiền tế chớ nên phiền nghĩ làm chi. Nếu có ai đi về thì hiền tế năng gửi
thư luôn cho tôi được biết.
Nói đoạn
thì Lâm Xung lạy từ nhạc phụ Trương Giáo Đầu cùng lân bang, rồi khoác khăn gói,
theo hai tên công sai ra đi. Hai tên công sai dẫn Lâm Xung về tới phòng Sứ Thần
ký giam ở đó, rồi cùng nhau về nhà để sửa soạn hành lý. Khi đó hai tên công sai
là Đổng Siêu và Tiết Bá đều người nào trở về nhà ấy, để sắp sửa đồ hành trang,
có một tên tửu bảo ở tửu điếm gần đó, chạy đến nhà Đổng Siêu mà nói rằng:
- Có một
vị quan nhân người ở hàng tôi, bảo mời ông đến chơi nói chuyện.
Đổng
Siêu hỏi:
- Ai
thế?
- Bẩm
không biết là ai, ông ấy bảo cứ mời ông đến chơi thì biết.
Đổng
Siêu nghe nói, liền theo tên tửu bảo, đi đến tửu điếm xem ai. Khi tới một gian
gác ở tửu điếm ấy, thì thấy người kia ra vái chào Đổng Siêu mà nói rằng:
- Xin
mời ông vào ngồi chơi.
Đổng
Siêu thấy lạ mặt liền hỏi:
- Tôi
trông ngài hình như chưa được quen biết bao giờ? Chẳng hay ngài có việc chi mà
cho gọi đến đây?
Người
kia cười mà đáp rằng:
- Xin
ông cứ ngồi chơi, rồi một lát sẽ biết.
Nói xong
kéo Đổng Siêu ngồi xuống một bên, sai tửu bảo gọi rượu và thức nhắm lên, rồi
lại nói luôn rằng:
- Không
biết rằng ở nhà ông Tiết Bá ở đâu?
Đổng
Siêu đáp:
- Ở ngay
ngõ trước kia.
Người
kia nghe nói, liền sai tửu bảo chạy ba chân bốn cẳng đi mời Tiết Bá đến. Khi
Tiết Bá đến nơi, Đổng Siêu liền quay ra bảo rằng:
- Vị
quan nhân nầy mời chúng ta đến đây, không biết rằng nói chuyện gì?
Người
kia nghe nói biết ngay rằng Tiết Bá, liền đứng lên mời ngồi.
Tiết Bá
hỏi:
- Chúng
tôi xin hỏi khí không phải, quý hiệu ngài là chi xin cho biết.
- Xin
ông hãy ngồi xơi rượu với tôi rồi sẽ biết.
Nói đoạn
sai tửu bảo rót rượu ba người cùng uống. Một lát người ấy móc túi ra lấy 10
lạng bạc, để ra bàn mà nói rằng:
- Món
tiền này xin hai bác nhận cho, tôi có câu chuyện muốn phiền hai ông đây.
Đổng
Siêu, Tiết Bá thấy vậy đều ngạc nhiên, không hiểu mà nói rằng:
- Chúng
tôi không có được biết ngài, đau mà dám nhận tiền của ngài?
- Có
phải hai ông sắp đi Thương Châu nay mai đó không?
- Vâng,
chúng tôi vâng lời quan sắp giải Lâm Xung đến đấy.
- Bởi
vậy tôi muốn phiền hai ông một chút, tôi là Lục Ngu Hầu người nhà quan Cao Thái
Úy đây.
- Chết
nỗi! Nếu vậy sao chúng tôi dám ngồi uống rượu với ngài?
- Không
hề chi, các ông có hiểu việc Lâm Xung đối với quan Thái Úy thế nào không? Bây
giờ ngài sai tôi đưa món tiền này để biếu các ông, các ông cứ nhận mà hết sức
giúp cho. Cứ đến chỗ nào vắng vẻ, thì các ông giết phăng tên Lâm Xung ấy đi,
rồi sau đi phủ Khai Phong, nếu có việc gì, thì quan Thái Úy sẽ đảm nhận cho,
không ngại chi cả.
Đổng
Siêu nghe nói liền đáp rằng:
- Việc
ấy chỉ sợ không làm được! Vì trong công văn của phủ, chỉ nói là giải sang
Thương Châu, chứ không nói gì đến sự giết hắn cả. Vả chăng ông ta còn đương
khỏe mạnh, có thể nào hạ thủ ngay được, ngộ vạn nhất có xảy ra thế nào thì
không tiện lắm.
Tiết Bá
nói:
- Lão
Đổng ơi! Lão vớ vẫn quá! Quan Thái Úy bảo thế nào mà ta không phải theo? Huống
chi ngài đã ủy Ngu Hầu ra bảo mình, và lại cho tiền ở đây, thì anh còn từ nan
thế nào được. Thôi anh em ta cứ chia lấy mà nhận lời thì hơn.
Nói đoạn
hai người chia nhau lấy mười lạng bạc, rồi bảo Lục Khiêm rằng:
- Được,
xin ngài cứ an tâm, chỉ trong mấy độ đường, là chúng tôi liệu ngay thôi.
Lục
Khiêm cả mừng nói rằng:
- Hễ khi
các ông làm xong, thì mang cái kim ấn ở mặt Lâm Xung về đây, để cho tôi biết
làm tin. Gọi là có mấy lạng bạc đấy, các ông đừng chê ít mà cố sức cho, tôi xin
đợi ở nhà đó.
Đoạn ba
người lại uống một lúc nữa, bấy giờ Lục Khiêm mới trả tiền hàng, mà cùng nhau
từ giả chia đường.
Khi đó
Đổng Siêu, Tiết Bá đem tiền về giao để ở nhà, rồi khoác khăn gói hành lý, mỗi
người vác một thanh gậy đến phòng Sứ Thần đem Lâm Xung giải đi.
Đời nhà
Tống có lệ, phàm những quân lính giải tù, đi đến đâu ngủ trọ đều không phải trả
tiền. Hôm ấy hai người đi hơn 30 dặm đường thì trời sắp tối, liền tìm vào một
hàng cơm để trọ, rồi sáng hôm sau lại ăn uống mà đi thực sớm.
Bấy giờ
đương độ tháng 6, tiết trời nóng bức lạ thường, mấy hôm trước Lâm Xung mới bị
đòn, còn chưa việc gì, tới nay mới được vài hôm, bị khí trời nung nóng, làm cho
các chỗ bị đánh đều sưng tất cả lên, đau đớn quá đỗi không làm soa đi được.
Tiết Bá
thấy Lâm Xung đi chậm thì mắng rằng:
- Từ đây
tới Thương Châu những 2000 dặm đường, mà đi như thế, thì bao giờ cho tới nơi
được!
Lâm Xung
phàn nàn rằng:
- Tôi
chỉ vì bị mấy chục trượng, bây giờ trời nóng phát lên, cho nên không thể nào mà
đi nhanh được, xin các ông thứ cho.
Đổng
Siêu thấy vậy thì bảo rằng:
- Thôi
thong thả vậy, không nói làm gì nữa.
Tiết Bá
thì vừa đi vừa chưởi rủa, lảm nhảm xuốt cả ngày không thôi, khi trời đã sắp
tối, vào một cái hàng kia, Lâm Xung biết thân phải giở khăn gói lấy ra ít tiền,
bảo nhà hàng dọn rượu, để mời hai anh kia cùng uống. Bấy giờ hai anh đổ rượu
cho Lâm Xung uống thật say, nằm vật xuống một xó, rồi Tiết Bá đi đun một nồi
nước sôi, đổ ra cái chậu rửa chân, đem đến gọi Lâm Xung dậy mà bảo rằng:
- Giáo
Đầu hãy dậy rửa chân đã rồi hãy ngủ.
Lâm Xung
nghe nói toan dậy, song bị cai gông làm vướng không sao mà co mình dậy được,
Tiết Bá liền bảo rằng:
- Để tôi
rửa chân hộ cho vậy.
Lâm Xung
vội gạt mà rằng:
- Có đâu
dám thế!
Tiết Bá
nói:
- Chỗ lữ
thứ này cần gì, để tôi rửa đỡ cho.
Lâm Xung
tin thực, thò chân cho Tiết Bá rửa hộ, Tiết Bá cầm chân Lâm Xung dúng vào một
cái trong chậu nước sôi. Lâm Xung giật mình kéo cẳng lên, thì đã bỏng hai bàn
chân, liền rên rỉ mà kêu rằng:
- Như
thế thì sống sao được?
Tiết Bá
làm bộ nói rằng:
- Xưa
nay người có tội phải hầu công sai chứ, công sai phải hầu người có tội bao giờ?
Bây giờ người ta đã có lòng tốt rửa chân cho tử tế, lại còn ỏe họe nước nóng
nước lạnh, thực là làm phúc phải tội là thế.
Nói đoạn
lại lẩm nhẩm mắng nhiếc suốt đêm, Lâm Xung không dám mở miệng nói câu gì cả.
Sáng hôm sau Tiết Bá dậy sớm giục nhà hàng làm cơm ăn, Lâm Xung thì đau đớn nằm
vật ra đấy, mà không ăn được, khi hai người ăn cơm xong, thấy Lâm Xung không đi
được, thì Đổng Siêu đưa cho một đôi giầy đay để đi, Lâm Xung bất đắc dĩ phải xỏ
chân vào giầy, rồi tính tiền tả tiền hàng, mà theo hai người lên đường.
Bấy giờ
vào khoảng trống canh năm, Lâm Xung mới đi được chừng vài ba dặm đường, thì hai
bên chân đi đôi giầy mới sát vào toạc hẳn cả ra, rồi máu chảy đầm đìa, đành chỉ
kêu gọi ầm ĩ mà không sao đi được nữa.
Tiết Bá
quay lại mắng rằng:
- Có đi
thì đi mau, mà không thì gậy đánh vào đít bây giờ đấy.
Lâm Xung
kêu vang rằng:
- Khốn
nạn! Tôi dám lười đâu! Vì hai chân đau quá, không sao đi được nữa, xin các ông
xét cho.
Đổng
Siêu nói:
- Nếu
vậy để tôi dắt cho mà đi.
Nói xong
đến dắt Lâm Xung đi, khi đi được độ 4, 5 dặm đường, thì xem chừng Lâm Xung lại
mỏi mệt quá, không sao mà bước đi được nữa. Bấy giờ trông đằng trước đằng sau
đã có mấy khu rừng lớn cây cối um tùm, khói mây mờ mịt, tục gọi tên là Dã Trư
Lâm, là một nơi rất hiểm ác quạnh hiu, xưa nay những kẻ vô lương, thường đút
tiền cho đám không sai để kết quả tính mệnh biết bao tay hảo hán ở đó.
Khi ấy
hai tên công sai cố dìu dắt cho Lâm Xung đi đến khu rừng ấy rồi Đổng Siêu thở
dài mà nói rằng:
- Đi
suốt cả ngày không được mươi dặm đường, thì bao giờ cho đến Thương Châu?
Tiết Bá
nói:
- Tôi
cũng mệt lắm không sao đi được nữa, hãy ngồi đây nghỉ một lát vậy.
Nói đoạn
ba người cùng vất khăn gói hành lý xuống gốc cây, rồi mằm vật xuống để nghỉ. Vừa
đi nằm chợp được một tí, thì bỗng thấy hai tên công sai kêu to lên một tiếng,
mà nhảy choàng dậy, Lâm Xung thấy vậy, thì hỏi:
- Các
ông làm sao thế?
Tiết Bá,
Đổng Siêu bảo Lâm Xung rằng:
- Chúng
tôi đương chợp mắt toan nghỉ một tí, nhưng lại sợ không có khóa xích gì, lỡ bác
trốn mất thì sao?
- Tôi là
thằng hảo hán ở đời, đã bị thế này, thì chịu vậy chứ có khi nào thèm chạy trốn
mà chi!
Tiết Bá
nói:
- Đành
vậy, nhưng chúng tôi không yên tâm, muốn rằng trói bác vào đây thì mới tiện.
- Tùy ý
các ông, muốn trói thì trói, chứ tôi có nói gì đâu?
Tiết Bá
liền lấy thừng trói Lâm Xung vào gốc cây cẩn thận, rồi cùng với Đổng Siêu vớ
lấy gậy, cầm ở tay giơ thẳng cánh lên nhắm ở giữa ót Lâm Xung để đánh. Hỡi ơi!
Hóa nhi
thực có nỡ lòng,
Đang tay
vùi dập anh hùng mà chơi!
Lấy ai
xoay đất chuyển trời,
Trăm năm
càng thấy chuyện đời càng đau!
Cây xanh
lá biếc một màu,
Hỏi hồn
nghĩa hiệp về đâu bây giờ?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi này
gồm hai đoạn văn tự, tả Lâm giáo sư với sự hưu thư, và tả Dã Trư Lâm với sự roi
vọt, một đoạn thấy rõ nhi nữ tình thâm, và một đoạn thấy rõ anh hùng khí đỏan,
hãy xem tác giả tả văn, những chỗ khác nhau.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 8: Mở cánh cổng Sài Tiến đón tân khách
Thử ngón gậy Lâm Xung hạ Giáo Đầu
Khi đó
Tiết Bá giơ gậy nhằm giữa đầu Lâm Xung để đánh, thì bỗng dưng thấy một người
thét như sấm ở đằng sau, rồi thấy thanh thuyền trượng đánh vút một cái bắn
phăng ngay gậy của Tiết Bá đi lăng lắc đâu mất, đoạn rồi có một vị hòa thượng ở
đâu hiện thân đến mà quát rằng:
- Tao ở
rừng nầy, nghe hai chúng bây nói đã lâu.
Nói đoạn
múa thuyền trượng giơ giới đao, toan đánh hai công sai.
Bấy giờ
Lâm Xung mở bừng mắt ra trông thấy vị hòa thượng mình mặc áo trắng, một tay cầm
giới đao, một tay cầm thuyền trượng, thì nhận ra ngay là Lỗ Trí Thâm, liền kêu
lên rằng:
- Sư
huynh hãy khoan tay đừng đánh vội, để tôi nói câu nầy đã.
Trí Thâm
nghe nói, dừng tay đao trượng, rồi trừng hai con mắt nhìn Đổng Siêu, Tiết Bá
bằng một cách nghiêm khắc đáng kinh. Hai anh ấy thấy vậy thì đứng nhũn người
ra, không còn cựa quậy được nữa.
Lâm Xung
nói:
- Việc
nầy là tại Cao Thái Úy bảo Lục Ngu Hầu sai họ giết tôi, chứ không phải tội tự
họ đâu? Nếu sư huynh giết họ thì oan cho họ lắm!
Trí Thâm
liền quay sang cắt thừng trói ra, mà dắt Lâm Xung dậy rồi kể chuyện rằng:
- Từ khi
tương biệt ở chỗ mua bảo đao rồi, sau nghe bác bị Cao Cầu ức hiếp, bắt đi đày ở
Thương Châu, tôi liền đến phủ Khai Phong để tìm mà không gặp. Đến lúc biết tin
bị giam ở phòng Sứ Thần, thì tôi đã toan đến đấy, song lại thấy có một tên tửu
bảo, đi tìm hai đứa công sai này, để đến bàn thì thầm, to nhỏ với một người nữa
tôi liền có bụng ngờ, chắc là nó toan hại bác, cho nên phải cố đi theo. Tối hôm
qua vào hàng cơm, thấy hai thằng ăn mày này nó làm trời làm đất, nhúng chân bác
vào chậu nước sôi, tôi cũng biết cả, đã tính giết ngay lúc bấy giờ, nhưng lại
sợ hàng quán đông người không tiện, cho nên phải thôi. Sáng hôm nay lúc đầu
trống canh năm, bác sắp ra đi tôi đã đến đây trước, đoán chắc đến đây tất nhiên
quân này nó hại bác, thì tôi sẽ giết đi, ai ngờ quả nhiên thế thực. Giá tôi
không sớm ở đây, thì tính mạng bác còn đâu với nó được nữa! Bác cứ yên lặng để
tôi giết phăng chúng nó là xong.
- Thôi
bây giờ sư huynh đã cứu được tôi rồi, còn giết người ta làm gì nữa.
Trí Thâm
quát bảo hai tên công sai rằng:
- Nếu ta
không nể anh em bạn, thì ta xé xác chúng bay ra làm mắm đấy.
Nói xong
bỏ giới đao vào bao và ra lệnh rằng:
- Hai
thằng ăn mày này phải dắt bạn ta đi theo ta mới được.
Hai tên
công sai nghe nói cúi đầu cúi cổ nhặt lấy khăn gói cho Lâm Xung rồi hai người
lại cùng đỡ Lâm Xung, để đi theo Lỗ Trí Thâm.
Khi ra
khỏi rừng được ba bốn dặm đường, thấy có một hàng rượu con con ở đó, Trí Thâm
liền dẫn bầy người vào nghỉ. Đoạn gọi tửu bảo lấy bánh và rượu thịt lên để cùng
nhau ăn uống.
Bấy giờ hai
tên công sai mới khép nép mà hỏi rằng:
- Bẩm sư
phụ, người trụ trì ở chùa nào, chúng con chưa được biết?
Lỗ Trí
Thâm cười mà đáp rằng:
- Các
anh hỏi ta làm gì, định về tâu nộp với Cao Cầu phải chăng? Ta nói thiệt, ai sợ
hắn, chứ ta đây không sợ gì đâu? Nếu ta có gặp hắn, thì ta cũng đãi hắn mấy
trăm cái thuyền trượng nầy đã.
Hai tên
công sai nghe vậy thì câm như miệng hến, không dám nói năng gì nữa. Được một
lát cơm rượu xong rồi, liền cùng tính trả tiền hàng, mà cùng nhau trở ra, Lâm
Xung hỏi Lỗ Trí Thâm rằng:
- Sư
huynh định đi đâu bây giờ?
Trí Thâm
đáp rằng:
- Giết
người phải lấy máu, cứu người thì phải tới nơi, vậy tất nhiên tôi phải đưa bác
sang đến tận Thương Châu, chứ không đành lòng mà để bác đi một mình được.
Hai tên
công sai nghe thấy vậy, thì cay đắng trong lòng, chắc rằng mưu kế của mình
không thi hành được nữa, nhưng cũng đành chịu vậy thôi. Từ đó các cụ nhất nhất
theo ở Trí Thâm, bảo đi thì đi, bảo đứng thì đứng, tử tế ra thì mắng nhiếc, láo
xấc ra thì roi vọt, không anh nào dám ho he gì cả. Cách ít lâu thuê được cỗ xe,
Trí Thâm để cho Lâm Xung ngồi trên xe mà mình đi đất với hai tên công sai.
Trong
khi đi đường, Lỗ Trí Thâm thường mua các thứ rượu thịt cho Lâm Xung ăn, và cả
hai tên công sai được ăn ké vào đó. Duy mỗi khi đến hàng quán để nghỉ, thì Trí
Thâm lại bắt hai tên công sai phải thổi cơm, hầu hạ luôn cạnh không anh nào dám
cưỡng.
Thỉnh
thoảng hai anh lại bàn thầm với nhau rằng:
- Việc
nầy, khi ta trở về đến Đông Kinh, mà Cao Thái Úy hỏi đến, thì ta biết nói làm
sao cho được?
Tiết Bá
bàn định một kế rằng:
- Mới
đây nghe nói ở vườn rau Giải Vũ thuộc chùa Tướng Quốc, có một lão sư mới đến,
tên gọi Lỗ Trí Thâm, có lẽ chính là anh nầy đây hẳn. Nếu quả vậy thì khi ta trở
về, ta cứ nói thực với Thái Úy rằng:
-
"Chúng tôi định giết Lâm Xung ở rừng Dã Trư, nhưng chẳng may bị lão sư ấy
nó ngăn cản, mà nó lại đưa sang đến tận Thương Châu, cho nên không sao mà hạ
thủ được". Đoạn rồi hai ta trả lại 10 lạng bạc cho Lục Khiêm cũng được chứ
gì.
Hai anh bàn
định cẩn thận với nhau, rồi lại chăm chăm theo Lỗ Trí Thâm, mà không hề có một
điều gì cưỡng trái.
Khi đi
được 17, 18 ngày đường, Lỗ Trí Thâm dò biết là ở đó cách Thương Châu còn có dăm
bảy dặm nữa, mà lại toàn là nơi đông đúc sầm uất, chứ không vắng vẻ như trước,
thì trong bụng đã hơi yên vững, liền tìm vào một chỗ ngồi nghỉ và bảo với Lâm
Xung rằng:
- Từ đây
đến Thương Châu đường xá đã đông vui, mà cũng không còn xa mấy nữa, vậy tôi xin
từ biệt bác, để rồi khi khác sẽ gặp nhau.
Lâm Xung
bồi hồi cảm tạ mà nói rằng:
- Bây
giờ sư huynh có về, thì xin nói chuyện đi đường cho nhà tôi được biết, còn tôi
đây nếu trời còn cho sống, thì tất nhiên có ngày trả nghĩa sư huynh.
Trí Thâm
lại lấy ra mấy lạng bạc đưa cho Lâm Xung, và lại đưa cho đám công sai mấy lạng
mà dặn rằng:
- Lũ bây
đáng lẽ ta chém cổ đi rồi, nhưng vì ta nể mặt anh em bạn mà tha cho đấy, vậy từ
đây trở đi, chúng bay phải nên cẩn thận, đừng trở bụng chó má ấy ra nữa, mà
nguy hiểm đến thân nghe chưa?
Hai tên
công sai giơ tay ra đỡ lấy tiền, và đáp rằng:
- Bẩm
ngài, đó là quan Thái Úy bắt như vậy, chứ chúng tôi đây có bao giờ đem lòng tàn
nhẫn mà cư xử với ai!
Nói đoạn
vừa mới toan chia tiền với nhau, thì Lỗ Trí Thâm lại trừng mắt nhìn hai tên
công sai, rồi lại trông sang gốc cây thông gần đó mà hỏi rằng:
- Đầu
chúng bây có rắn bằng cây gỗ thông này không?
- Bẩm
ngài, đầu chúng con là thịt da cha mẹ sinh thành, có đâu mà rắn như thế được.
Lỗ Trí
Thâm phăm phăm vác cây thuyền trượng đánh vào gốc thông một cái thật mạnh, sâu
vào đến hai ba tấc gãy răng rắc xuống một lượt, rồi quay ra thét bảo hai tên
công sai rằng:
- Bây
trông đó, nếu mà mang tâm phản trắc, thì ta cho đầu chúng bây cũng như cây
thông ấy.
Lũ công
sai thấy vậy, thì hoa mặt choáng người, mà không dám thở nữa.
Đoạn rồi
Trí Thâm đeo đao vác trượng, từ biệt Lâm Xung mà quay trở về. Lâm Xung thấy Trí
Thâm quay về rồi, liền bảo đám công sai rằng:
- Bây
giờ chúng ta đi đi thôi.
Bấy giờ
hai tên công sai vừa tỉnh hồn, định mắt lại mà hỏi Lâm Xung rằng:
- Gớm,
nhà sư ấy sao mà khỏe đến thế, đánh gãy hẳn cây thông dễ như bỡn vậy.
- Thế đã
thấm vào đâu, đến như cây liễu ở chùa Tướng Quốc ông ấy còn nhổ được cả gốc lẫn
rễ lên nữa.
Đổng
Siêu, Tiết Bá nghe nói lại trông nhau, lắc đầu le lưỡi mà kinh sợ vô cùng. Đoạn
ba người cùng kéo nhau đi.
Trưa hôm
ấy đến một tửu điếm ở gần bên cạnh đường cái quan, Lâm Xung bèn mời Đổng Siêu,
Tiết Bá vào nghỉ. Khi vào tới nơi, thấy hai ba tên tửu bảo rót rượu mang thịt,
đưa hến nơi này đến nơi khác, mà chỗ Lâm Xung ngồi, thì không ai nhìn đến. Lâm
Xung đợi mãi một hồi lâu, cũng không thấy gì cả, lấy làm sốt ruột, liền đập tay
xuống bàn mà hỏi rằng:
- Chủ
nhân đâu? Ngươi khinh ta là kẻ phạm nhân mà không thèm tiếp đến là nghĩa lý gì?
Ta có ăn quịt của nhà ngươi đâu?
Chủ nhân
nghe nói liền đáp:
- Các
ngươi không biết, tôi có lòng tử tế đãi các người đấy.
- Tử tế
gì? Khách đến không thèm tiếp, còn gì là tử tế.
- Để tôi
nói cho mà nghe: Trong thôn kia có một ông đại tài chủ, tên gọi là Sài Tiến, ở
đây thường gọi là Sài Đại Quan Nhân, mà đám giang hồ thì vẫn gọi là Tiểu Đoàn
Phong Sài Tiến, vốn là con cháu Sài Thế Tôn nhà Đại Chu khi trước. Từ khi Trần
Kiều binh biến nhường ngôi cho Thái Tổ rồi. Vũ Đức hoàng đế mới sắc phong cho
thề thư thiết khoán ở nhà ông ta, vì thế mà không ai dám khinh rẻ. Ông ta thích
chiêu hào những hảo hán trên đời, cho nên trong nhà lúc nào cũng nuôi đến năm
bảy mươi người ở đó! Lại thường dặn ở nhà tôi, nếu thấy những người nào mắc tội
đày ải qua đây, thì đưa vào để ông ta giúp đỡ, bởi vậy nên tôi không dám bán
rượu cho các người, sợ khi uống rượu đỏ mặt vào, mà tới nơi, thì ông ta lại cho
là phong lưu, mà không giúp đỡ nữa chăng!
Lâm Xung
nghe nói quay lại bảo với Đổng Siêu, Tiết Bá rằng:
- Khi
tôi còn làm Giáo Đầu ở Đông Kinh, vẫn thường nghe thấy tiếng Sài Đại Quan Nhân,
nhưng ngày nay mới biết là ở đây, vậy bất nhược ta thử vào đấy xem sao?
Đổng
Siêu, Tiết Bá nghĩ một lát rồi nói:
- Như
vậy có thiệt hại gì đến ta mà không đi.
Nói đoạn
liền thu thập hành lý, mà đến hỏi chủ hàng rằng:
- Nhà
Sài Đại Quan Nhân ở chỗ nào, xin chỉ giúp cho, chúng tôi đương tìm đến đấy.
Chủ hàng
trỏ về phía trước mặt mà bảo rằng:
- Cách
đây độ hai ba dặm đường, đi qua cái cầu đá lớn, rồi đến một chỗ góc đường gần
quanh, thì có một nơi trang viện lớn, tức là ở đó.
Lũ Lâm
Xung bèn tạ chủ nhân rồi cùng nhau theo lối ấy mà đi. Quả nhiên đi độ 2, 3 dặm
đường thì đến một tòa cầu đá lớn, đoạn rồi thấy đường rộng thênh thang, chẳng
khác gì một nơi quan lộ, gần trông có một đám tơ liễu xanh rì, hiện ra một tòa
trang viện rất to, chung quanh toàn là hào rãnh đào sâu, mà trên bờ trồng tinh
dương liễu. Ba người dẫn nhau đi theo con đường lớn, vòng quanh sang mặt tả,
thì đến một nơi cầu nhỏ cổng trong.
Bấy giờ
có ba bốn tên trang khách, đương ngồi hóng mát ở đó. Lâm Xung cùng hai tên công
sai liền vái chào mà nói rằng:
- Dám
chào các ông, xin phiền các ông vào nói với Quan Nhân rằng: "Có tên Lâm
Xung là phạm nhân ở Đông Kinh qua đây, xin chào yết kiến".
Lũ trang
khách nghe nói thì đáp rằng:
- Các
ông hôm nay thực là đen lắm, giá có gặp Quan Nhân ở nhà, thì ít ra cũng phải có
rượu thịt tiền nong để đãi, nhưng tiếc vì ngài lại mới đi săn sáng hôm nay rồi.
- Bẩm
ngài đi săn bao giờ mới về?
- Cái đó
không biết đâu là chừng, chỉ sợ ngài lại đi sang nghĩ bên Đông Trang, thì khó
lòng gặp được!
Lâm Xung
thở dài mà than rằng:
- Nếu
vậy, thì chúng tôi kém phúc đức quá! Thôi, xin chào các ông, chúng tôi đi vậy!
Nói xong
ba người thui thủi đi ra.
Dặm
nghìn nước thẳm non xa,
Tiền đồ
man mác ai là tương tri?
Lạ thay
trong lúc gian nguy?
Cơn đen
đen cả đường đi lối về.
Bấy giờ
trong bụng Lâm Xung hơi có phần buồn bã, trách thương cho số phận long đong, đi
đến đâu cũng lỡ làng không gặp. Chợt đâu vừa đi được nửa dặm đường, thì thấy
một bọn đương cưỡi ngựa ở quãng rừng xa trở lại, đằng trước có một người sang
trọng, vào trạc ngoài 30 tuổi, lưng đeo một cây cung, một túi tên, cưỡi con
ngựa trắng lông quăn, mà dẫn lũ sau đi về trang viện.
Lâm Xung
thấy vậy trong bụng đã đoán chắc là Sài Đại Quan Nhân về đó, song còn ngờ ngợ
chưa dám hỏi ngay.
Đương
lúc trù trừ chưa quyết, thì đã thấy người ấy phóng ngựa đến trước mặt Lâm Xung
mà hỏi rằng:
- Người
đeo gông là ai đó?
Lâm Xung
thấy hỏi liền cúi đầu chào mà đáp rằng:
- Tôi là
Cấm Quân Giáo Đầu Lâm Xung ở Đông Kinh, bị quan Cao Thái Úy ức hiếp, bắt đi đày
sang Thương Châu, nhân qua đây thấy nói có quan Sài Đại Quan Nhân là tay hảo
hán, hay chiêu hiền nạp sĩ xưa nay, cho nên muốn vào yết kiến, nhưng chẳng may
lại không được gặp.
Lâm Xung
vừa nói dứt lời, thì người kia vội nhảy xuống ngựa đi gần đến tận nơi mà nói
rằng:
- Nếu
vậy thì tôi xin lỗi, không nghênh tiếp được ngài, xin ngài tha thứ cho.
Nói xong
cúi rạp xuống đất mà lạy, đoạn rồi dắt Lâm Xung đi vào trang viện.
Khi vào
tới nhà khách, Sài Tiến mời Lâm Xung ngồi chơi rồi nói:
- Chúng
tôi được nghe danh Giáo Đầu đã lâu, nay ngài lại đến đây cho tôi được thừa
tiếp, thì thực là thỏa lòng khát vọng vô cùng.
- Lâm
Xung tôi vẫn biết tiếng Quan Nhân, khắp trong bốn bể ai ai cũng có lòng kính
phục, nhưng hiềm vì chưa có dịp nào mà bái yết tôn nhan, nay vì bước oan khổ
lưu ly, mà lại được tới đây để hầu ngài như thế, thì thực may lắm.
Sài Tiến
khiêm tốn hồi lâu, rồi gọi trang khách sai dọn rượu để uống.
Lâm Xung
có ý từ chối mà rằng:
- Quan
Nhân có lòng hạ cố như thế là quá đáng, còn đâu dám phiền nhiễu làm chi!
Sài Tiến
nhất định không nghe, đáp rằng:
- Mấy
khi Giáo Đầu đến đây, có lẽ nào lại vô lễ như thế được.
Nói đoạn
thúc trang khách lấy rượu lên, rót luôn ba chén mời Lâm Xung. Lâm Xung uống ba
chén, lại rót ba chén để tạ lại Sài Tiến. Đoạn rồi Sài Tiến tháo cung bỏ tên,
đưa người nhà cất đi, mà ngồi tiếp rượu Lâm Xung. Sài Tiến nhường Lâm Xung ngồi
khách vị mà tự mình ngồi chủ vị, còn hai tên công sai thì ngồi dưới Lâm Xung.
Được một lát mặt trời đã lặn non tây, người nhà lại bày các thực phẩm la liệt
trên bàn, nào là hải vị sơn hào, không gì là không có.
Sài Tiến
cất chén mời Lâm Xung uống rượu, lấy các món nhắm rồi giở chuyện giang hồ, đàm
luận với nhau rất là vui thú.
Đương
khi chén tạc chén thù, thì thấy trang khách vào báo rằng:
- Có
Hồng Giáo Sư sang chơi.
Sài Tiến
quay bảo trang khách rằng:
- Bây
mời vào đây, uống rượu một thể cho vui.
Đoạn rồi
sai người kê thêm bàn ghế, để ngồi tiếp vào đó.
Khi Hồng
Giáo Sư vào, Lâm Xung đoán chắc là thầy dạy Sài Tiến liền đứng dậy cúi đầu mà
chào rằng:
- Tôi
Lâm Xung kính chào Giáo Sư.
Hồng
Giáo Đầu nghe thấy Lâm Xung chào, thì cứ lặng yên không chào lại, mà cũng không
thèm để mắt tới. Lâm Xung thấy vậy, thì cúi mặt xuống mà không dám ngẩng đầu
lên. Sài Tiến trỏ vào Lâm Xung mà bảo Hồng Giáo Đầu rằng:
- Ông
này là Lâm Xung Giáo Đầu, dạy 80 vạn cấm quân ở Đông Kinh đấy, xin giới thiệu
để ngài biết.
Lâm Xung
thấy Sài Tiến nói xong, liền cúi rạp xuống đất, lạy chào Hồng Giáo Sư. Bấy giờ
Hồng Giáo Sư cũng không đáp lễ, mà chỉ nói một câu rằng:
- Thôi
đừng lạy nữa.
Sài Tiến
thấy vậy, trong lòng có ý không thích, song cũng không dám nói ra, Lâm Xung lạy
xong rồi, nhường Hồng Giáo Sư ngồi lên trên, mà lui xuống ghế dưới, Hồng Giáo
Đầu cũng cứ ngồi phăng ghế trên, mà không khiêm tốn một chút gì cả, Sài Tiến
thấy vậy, trong lòng lấy làm khó chịu, không bằng lòng chút nào cả, song không
muốn nói ra.
Hồng
Giáo Sư ngồi một lát rồi mới hỏi Sài Tiến rằng:
- Hôm
nay làm sao Đại Quan Nhân lại hậu đãi một kẻ đi đày như thế?
Sài Tiến
nói:
- Ông
nầy là Giáo Đầu dạy 80 vạn Cấm binh ở Kinh Sư, chứ chẳng phải là người thường
đâu?
- Chết
nỗi! Đại Quan Nhân lầm rồi, vì ngài hay thích chơi võ nghệ, cho nên bao nhiêu
bọn tù tội qua đây, cũng nói hươu nói vượn, mượn tiếng Giáo Đầu mà kiếm chén đó
thôi, Quan Nhân tưởng họ là thực hay sao?
Lâm Xung
nghe vậy, cứ ngồi lặng yên, không nói gì hết cả.
Sài Tiến
bảo Hồng Giáo Đầu rằng:
- Người
ta giả mạo sao được, ông chớ coi khinh nữa, mà...
Hồng
Giáo Đầu nghe đến đó, thì đứng phắt ngay dậy mà nói rằng:
- Tôi
chẳng khinh ai, nhưng nếu hắn có dám đi với tôi một bài gậy, thì mới có thể
biết là Giáo Đầu hay không được.
Sài Tiến
cả cười mà rằng:
- Tốt
lắm! Tốt lắm! Lâm Võ Sư nghĩ sao?
Lâm Xung
ra dáng khiêm tốn mà đáp rằng:
- Chúng
tôi có đâu dám thế.
Hồng
Giáo Đầu thấy vậy, đoán chắc là Lâm Xung không biết gì, liền làm bộ thách thức
già lên. Bấy giờ Sài Tiến vừa phần muốn xem võ nghệ của Lâm Xung, có giỏi hay
không, vừa phần thì cũng muốn Lâm Xung đánh đổ Hồng Giáo Đầu, để cho hết múa
mép, liền nói lên rằng:
- Được
lắm! Hãy xin uống rượu đã, để chốc nữa trăng mọc rồi sẽ hay.
Nói xong
hai người cùng ngồi uống rượu. Khi uống được năm bảy chén, thì bóng Nga đã vằng
vặc rạng soi trước cửa, Sài Tiến liền đứng dậy mà nói rằng:
- Bây
giờ hai vị Giáo Đầu, thử đấu một ngọn xem sao?
Lâm Xung
nghe nói, cũng muốn đấu chơi, nhưng lại e khi đánh ngã ông Giáo Sư ấy, thì dối
với Sài Tiến có điều gì không tiện, nên đành phải ngồi im, không dám nói gì cả.
Sài Tiến
biết Lâm Xung có ý trù trừ, liền nói lên rằng:
- Hồng
Giáo Sư cũng mới đến ở đây, song vùng này không có ai là địch thủ, vậy Lâm Võ
Sư đấu thử xem sao? Không có điều chi mà ngại! Vả tôi cũng muốn nhân đây được
xem võ nghệ của các ngài một thể, xin ngài chớ từ nan.
Lâm Xung
nghe Sài Tiến nói câu ấy, mới hiểu rõ ý tứ, liền muốn đứng dậy để đánh thử
ngay. Bấy giờ Hồng Giáo Đầu lại đứng lên trước mà thách thức rằng:
- Nào,
mau lên, thử đấu với ta một bài xem sao!
Nói xong
nhảy ra sân cởi áo ngoài ra, rồi lấy một cây gậy múa may xoay xở, mà kêu lên rằng:
- Ra
đây, mau, mau!
Sài Tiến
thấy Hồng Giáo Đầu ra dáng cấp bách, liền nói với Lâm Xung rằng:
- Võ Sư
cứ thử đi một bài có ngại chi!
Khi đó
Lâm Xung làm ra dáng rụt rè mà nói:
- Xin
Quan Nhân chớ cười mới được.
Nói xong
liền lấy một cây gậy chạy ra sân, bảo Hồng Giáo Đầu rằng:
- Xin
ngài tha lỗi cho.
Hồng
Giáo Đầu thấy Lâm Xung bước ra, thì trong bụng tức giận, muốn nuốt sống được
ngay mới thích, liền vác gậy đến đấu luôn, mà không nói năng gì cả. Hai người mới
quần nhau được độ năm bảy hiệp, thì Lâm Xung bỗng nhảy ra ngoài mà kêu lên
rằng:
- Hãy
khoan!
Sài Tiến
thấy vậy, chạy đến hỏi Lâm Xung rằng:
- Sao Võ
Sư đương đấu lại thôi thế?
- Thưa
ngài, có lẽ tôi thua mất.
- Có lẽ
đâu vừa đánh mấy hiệp mà đã thua ngay thế được.
- Thưa
ngài, vì tôi còn bị gông trói vướng mắc, tất nhiên không thể nào đấu được.
Sài Tiến
nghe vậy, liền cười mà nói rằng:
- Trời
ôi! Tôi quên đi mất đấy, được có khó gì đâu.
Nói đoạn
sai người lấy 10 lạng bạc liền đưa cho đám công sai mà bảo rằng:
- Thế
nầy thì không phải, tôi phiền hai ông làm ơn hãy tạm tháo gông cho Lâm Giáo Đầu
một lúc. Rồi sáng mai đi, sẽ lại lắp vào tử tế, nếu có xảy chuyện gì, trách
nhiệm tôi xin chịu cả? Mười lạng bạc đây xin bác nhận lấy cho.
Đổng
Siêu, Tiết Bá thấy Sài Tiến là tay lỗi lạc phi thường, thì cũng không dám trái
ý, vả chăng lại được 10 lạng bạc bỏ túi, mà Lâm Xung cũng không có lẽ trốn ngay
đi đâu được, vậy thì làm gì không nhận cho xong, liền nhận ngay lấy tiền, mà
tháo gông cho Lâm Xung lập tức.
Sài Tiến
cả mừng mà reo lên rằng:
- Nào
bây giờ hai ông Giáo Sư thử một keo xem sao?
Khi đó
Hồng Giáo Đầu thấy tay gậy của Lâm Xung lúc trước cũng hơi có vẻ rối loạn, thì
trong bụng đã coi thường, mà cho là không thấm vào đâu, liền xăm xăm chạy toan
ra để đánh.
Sài Tiến
lại dìu Hồng Giáo Đầu khoan lại, rồi gọi trang khách lấy lên 25 lạng bạc, mà
nói rằng:
- Món
tiền này gọi là tạm làm tặng vật, vậy nếu ngài nào được, thì xin thu lấy cả
cho.
Hồng
Giáo Đầu thấy vậy, lại múa mang đầu gậy diễn ra một thế "Bả hỏa siêu
thiên" để nạt Lâm Xung kinh sợ, bên kia Lâm Xung hiểu ý Sài Tiến muốn cho
mình được, nên mới quăng tiền ra như vậy, liền cũng múa gậy mà diễn thế
"Bát thảo tâm sà"một lúc.
Bấy giờ
Hồng Giáo Đầu thét lên một tiếng, rồi vác gậy xông vào đánh Lâm Xung, Lâm Xung
lùi về đằng sau một bước, Hồng Giáo Đầu sấn lên một bước, rồi giơ gậy vụt luôn
một cái nữa.
Lâm Xung
xem những cách tiến thoái của Hồng Giáo Đầu hơi loạn, liền giơ gậy lia từ mặt
đất lia lên một cái rất mạnh, Hồng Giáo Đầu không kịp giở tay đỡ, bị đầu gậy
của Lâm Xung đánh vào đầu một cái nên thân, đoạn rồi bật hẳn cây gậy ở trong
tay đi, mà ngã xuống đất.
Sài Tiến
thấy vậy mừng reo lên, rồi gọi người lấy rượu ra rót mừng Lâm Xung một chén,
còn Hồng Giáo Đầu thì ngã xuống sân mà gượng mãi không sao dậy được, chúng thấy
thế ai cũng cười ầm cả lên, rồi túm vào để đỡ Hồng Giáo Đầu dậy. Hồng Giáo Đầu
bò được dậy lấy làm hổ thẹn quá chừng vội lẻn cút đi lúc nào, không ai biết
nữa.
Bấy giờ
Sài Tiến dắt tay Lâm Xung vào nhà trong, mời ngồi đánh rồi lại sai đem tiền
thưởng cho Lâm Xung, Lâm Xung từ chối không được, sau bất đắc dĩ phải cảm ơn,
mà nhận lấy cho xong. Đoạn rồi Sài Tiến lưu Lâm Xung ở luôn trong trại năm bảy
hôm nữa, thiết đãi rất là long trọng. Sau đám công sai thấy lưu luyến quá lâu,
bèn có ý thúc giục, để cho Lâm Xung ra đi.
Sài Tiến
biết thế không lưu được, liền đặt tiệc tiễn hành, và viết hai phong thư đưa cho
Lâm Xung mà dặn rằng:
- Quan
Đại Doãn ở Thương Châu đối với tôi rất là tử tế, mà thấy người Quản doanh hay
là Sai Bát ở đấy thì lại là thân mật với tôi lắm, vậy tôi gửi hai phong thư
này, xin ngài cứ đưa cho họ, tất là họ phải biệt nhãn đãi ngài.
Nói đoạn
lấy 25 lạng bạc đưa tặng Lâm Xung, và lấy 5 lạng bạc tặng lũ công sai một thể.
Sáng hôm sau cơm nước xong rồi, Sài Tiến sai trang khách quảy hành lý đi theo
ba người, bấy giờ Lâm Xung lại đeo gông như trước, và từ biệt Sài Tiến để lên
đường.
Sài Tiến
tiễn chân ra đến cổng trang, mà dặn rằng:
- Bây
giờ ngài sang đây phải bảo trọng lấy thân, rồi đến mùa đông thì tôi xin đưa
quần áo rét sang để ngài dùng cẩn thận.
Lâm Xung
bái tạ mà rằng:
- Tấm
lòng nhân hậu của Quan Nhân, bao giờ tôi báo được.
Đoạn rồi
hai tên công sai cũng bái tạ Sài Tiến mà đi.
Ân cần
trong lúc chia tay,
Anh hùng
ly biệt cho hay khác thường!
Trưa hôm
ấy, ba người đi tới thành Thương Châu, liền cho đám trang khách trở về, rồi ba
người cùng mang lấy khăn gói hành lý mà vào chầu nha để đệ trình công văn.
Khi Châu
Doãn xem xong, rồi phê một đạo hồi văn giao cho hai tên trở về Đông Kinh, còn
Lâm Xung thì giao xuống phòng đề lao để đợi lệnh.
Lâm Xung
bước vào phòng đợi ở đề lao, đã thấy bao nhiêu những tội nhân, lao xao chạy
đến, bảo với Lâm Xung rằng:
- Ở đây
có một người Quản Doanh và một người Sai Bát, đều là những tay ghê gớm bất nhân
cả. Nếu có tiền nong đút lót thì họ còn cho được tử tế, bằng không thì họ đút
ngay vào nhà hầm làm cho khốn nạn không sao mà chịu được nữa. Lại còn có một
cách, nếu mình có tiền cho họ, thì khi bắt đầu vào đỡ phải chịu 100 roi ra oai,
chỉ nói dối là có bệnh cũng được, thế mà không có tiền, thì làm thế nào họ cũng
đánh đủ 100 roi ấy, dẫu có sống được cũng đến tồi tàn đau đớn mới thôi.
Lâm Xung
nghe nói liền hỏi:
- Như
vậy thì phải đưa bao nhiêu tiền mới xong?
- Muốn
được cho tử tế, thì hai người ấy, tất phải đưa mỗi người 5 lạng bạc mới xong.
Đương
khi nói chuyện, thì đã thấy tên Sai Bát đến hỏi rằng:
- Tên
nào là tên phạm tội sung quân mới đến? Đâu?
Lâm Xung
thấy hỏi vậy, bèn đứng lên nói rằng:
- Thưa
chúng tôi đây ạ.
Sai Bát
thấ Lâm Xung nói vậy, mà không có tiền nong gì đưa ra, liền biến hẳn sắc mặt
đi, rồi trỏ vào Lâm Xung mà mắng rằng:
- Thằng
nầy gớm thực, sao mầy trông thấy tao mà mầy không lạy? Mầy có biết khi ở Đông
Kinh làm nên tội ác thế nào? Thế mà đến đây mầy còn lên mặt với tao à? Tao nom
mặt thằng nầy xám xì lại, như thế là đời mầy không có lúc nào mà ngóc cổ lên
được đâu? Mầy là đồ băm không đứt, đánh không chết, mà lại lạc vào tay ta, để
rồi chốc nữa ta cho mầy biết.
Sai Bát
vừa nói vừa mắng, tháo thốc luôn một hồi, mắng lấy mắng để làm cho Lâm Xung
muốn nói cũng không biết nói vào đâu được nữa! Lũ tội nhân đương đứng quanh
đấy, thấy vậy thì lảng vảng cút cả mỗi anh một nơi.
Bấy giờ
còn một mình Lâm Xung đứng lại, đợi cho hết cơn gắt, liền lấy ra 5 lạng bạc đưa
cho tên Sai Bát rồi làm bộ vui cười mà nói rằng:
- Thưa
bác, tôi có 5 lạng bạc gọi là có chút lòng thành xin bác nhận giúp cho.
Sai Bát
trông thấy 5 lạng bạc liền hỏi:
- Cái
này là đưa cho ông Quản Doanh với tôi nữa đây, có phải không?
- Không,
đây là tôi kính tặng riêng ngài, còn ông Quản Doanh thì tôi đã có mười lạng bạc
đây, để tôi phiền bác đưa giúp hộ cho.
Bấy giờ
tên Sai Bát nhìn Lâm Xung rồi cười mà bảo rằng:
- Lâm
Giáo Đầu, tôi nghe tiếng Giáo Đầu đã lâu, thực là một tay hảo hán ở đời, chẳng
qua Cao Thái Úy thù hằn mà hãm hại đấy thôi, nhưng thế nào mặc lòng, sau này
tất nhiên cũng khá, vì một người tướng mạo đường đường, mà lại có tiếng tăm
lừng lẫy như Giáo Đầu thì làm chi mà chẳng phen chức trọng quyền cao uy quyền
to tát... !
Lâm Xung
nghe đến đó đã chán cả tai, liền nói lên rằng:
- Vâng,
thôi trăm sự nhờ ở bác cả, đây tôi có bức thư Sài Đại Quan Nhân gửi đến, phiền
bác làm ơn đưa cho ông Quản Doanh giúp hộ.
Nói đoạn
đưa bức thư ra cho viên Sai Bát.
Sai Bát
nói:
- Được
lắm, có bức thư của Sài Đại Quan Nhân, thì cũng như thêm 10 lạng bạc nữa rồi
còn ngại điều chi? Nhưng nếu lát nữa Quản Doanh có đến đây, gọi đánh 100 roi ra
oai, thì Giáo Đầu cứ bảo là mới ốm dậy, để rồi tôi nói đỡ cho, như thế thì
người khác họ khỏi ngờ.
Nói xong
nhận lấy thư và tiền rồi đi ra.
Lâm Xung
thấy thế thì thở dài, than một mình rằng:
-
"Tha hồ nghĩa nặng tình sâu, Anh em máu mủ chẳng đâu bằng tiền" thế
gian nói không sai câu gì cả!
Bấy giờ
tên Sai Bát nhận 10 lạng bạc và một bức thư của Lâm Xung, thì chàng ăn xén đứt
đi 5 lạng, chỉ còn có 5 lạng, đưa lên cho Quản Doanh, mà tán tỉnh Lâm Xung là
tay giỏi tay tài, chỉ vì Cao Thái Úy giá vạ vừa oan, chứ chẳng có tội chi là
nặng, vả chăng lại có thư của Sài Đại Quan Nhân gửi đến đây, thì tất nhiên phải
xử lý cho khác người ta mới được.
Quản
Doanh xem thư xong, rồi cho người đòi Lâm Xung lên điểm danh. Khi Lâm Xung lên
tới nơi Quản Doanh bảo ngay rằng:
- Anh là
phạm nhân ở bên Đông Kinh mới đến đây phải không? Theo như luật cũ có đức Thái
Tổ Vũ Đức Hoàng Đế, phàm người nào mới đến sung quân, tất phải chịu 100 roi đòn
ra oai trước đã, vậy tả hữu đâu, đem tên phạm mới ra đánh cho ta!
Lâm Xung
nhớ lời Sai Bát dặn liền kêu lên rằng:
- Bẩm,
chúng tôi đi đường xa bị bệnh chưa được khỏi, xin hãy cho tạm khất ít bữa, sẽ
xin theo lệnh.
Tên Sai
Bát đứng bên đỡ lên rằng:
- Người
y hiện đương có bệnh thực, xin ngài hãy khoan thứ cho hắn.
Quản
Doanh nghe nói truyền rằng:
- Hiện
nay người khán thủ ở Thiên Vương Đường mắc hạn đã lâu, vậy để cho Lâm Xung sang
thay người đó.
Quản
Doanh cũng ưng thuận liền, phê giấy cho Sai Bát đưa Lâm Xung sang Thiên Vương
Đường. Sai Bát dẫn Lâm Xung vào phòng đề lao, lấy hành lý rồi cùng ra đi mà bảo
rằng:
- Giáo
Đầu ôi! Tôi thực là hết lòng hết sức, mới để cho Giáo Đầu ở Thiên Vương Đường
này, chỉ sớm khuya quét tước dầu đèn, rất là nhàn hạ. Giáo Đầu thử xem những
người khác xem, có phải là làm vất vả cả ngày, mà không được yên không? Lại còn
những anh không có gì, thì còn đút vào trong hầm đất, chết không ra chết, sống
không ra sống, thế thì khổ biết bao nhiêu!
Lâm Xung
nghe nói thì cảm ơn, rồi đưa mấy lạng bạc nữa cho Sai Bát mà bảo rằng:
- Phiền
bác làm ơn giúp tôi thế nào cho tôi được tháo gông ra một thể?
Sai Bát
vâng lấy vâng để, rồi về kêu với Quản Doanh, mà tháo gông cho Lâm Xung ngay lập
tức.
Từ đó
Lâm Xung coi giữ ở Thiên Vương Đường, sớm hôm chỉ đèn hương quét tước trong
nhà, không có việc chi là khó nhọc. Quản Doanh với Sai Bát, anh nào cũng đã vớ
được ít tiền của Lâm Xung đút lót, cho nên cũng phó mặc tự do mà không sai
khiến đến. Thỉnh thoảng Sài Đại Quan Nhân lại gửi sang cho ít quần áo tiền
nong, để Lâm Xung chi dụng, thành ra đôi khi Lâm Xung lại được dư dật, mà cứu đỡ
cho bọn tù túng thiếu đói chung quanh.
Sớm hôm
thay đổi, ngày tháng lân la, cái thân hào hiệp giang hồ dẫu bó buộc vào nơi
cương tỏa, nhưng một mình ăn ở ra vào, cũng chẳng có điều cho là thúc bách băn
khoăn, bởi thế mà hạ hết đông sang, cảnh trời đã xoay chuyển thế nào không
biết.
Một hôm
vào khoảng giữa buổi trưa, Lâm Xung lững thững ra ngoài cửa đình, đi bách bộ
chơi, chợt thấy có người gọi ở phía sau mà hỏi rằng:
- Lâm
Giáo Đầu! Ngài đi đâu mà lại ở đây?
- Lâm
Xung nghe gọi lấy làm ngạc nhiên, không hiểu là ai, liền quay đầu lại xem.
Ngậm
ngùi nước thẳm non xa,
Nào ai
quen biết đâu mà hỏi han?
Chẳng
hay con Tạo đa đoan
Còn mang
oan nghiệt mà toan ghẹo người?
Thôi
thôi chấp hết chuyện đời
Gan già
nuốt lệ gượng cười đã quen
Bốn
phương trăng gió giáp gìn,
Đi đâu
mà chẳng là duyên giang hồ?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Văn
chương là một thứ lạ, ví như mây mái trên trời non sông dưới đất, hoa cỏ thú
cầm...thiên hình vạn trạng, biến ảo khôn lường...Hỡi ôi văn chương diễn đạt hay
là sáng tác, nếu không như muôn hình biến ảo thì không bao giờ lộ ra hết những
cái hay cái thú của văn chương?
Ta nói
thế là sao? Như chuyện đánh Lâm Xung ở giữa rừng, mà Trí Thâm tới cứu, nhà sư
đâu đến như ở trên trời xuống vậy. Nay xem phép tả thuật, sao mà thấy biến ảo
như thế? Đoạn thứ nhất, mới thấy thuyền trượng đưa đến, đoạn thứ hai, một hòa
thượng nhảy ra, đoạn thứ ba, nhà sư áo trắng dùng thuyền trượng giới đao, đoạn
thứ tư mới rõ là Trí Thâm. Nếu đem họ Công Cốc, Đại Đái hai nhà danh sử viết ra,
cũng nói từ thuyền trượng, đến nhà sư...song chưa bằng ở đây chép ra rất đột
ngột, mà có thứ tự, đương lúc nguy nan của truyệïn nhân, chợt đâu một chuyện
diễn ra, hoãn lại, khiến độc giả cũng kinh tâm loạn mục huống chi lũ công sai
khi ấy khiếp sợ không dám hỏi tên họ, bút pháp đến thế rất là biến ảo.
Lại như
hồi trên tả Lâm Xung, không thể không gác chuyện Trí Thâm vì về bước sinh ly
của Lâm Xung phải tả luôn cho thấy thống khổ. Đó là cái khéo của phép hành văn,
cho đến hồi này mới tả theo miệng Trí Thâm thuật lại, là kể từ lúc Lâm Xung gặp
nạn đúng như lời thuật của Trí Thâm đã dự biết rồi khác nào mưa rừng theo gió
vậy.
Lại lúc
công sai tức giận Trí Thâm, lẽ nào chẳng hỏi, vừa hỏi đã bị ngay Trí Thâm chặn
họng không dám hỏi nữa. Độc giả cũng không biết rõ là ai. Cho đến lúc Trí Thâm
khoe thuyền trượng, Lâm Xung nhân đó nói ra như người ấy đã nhổ cây dương liễu
tại chùa Đại Tướng Quốc đã trả lời gián tiếp công sai hỏi từ trước, mà không
được trả lời, một nhân sự đâu tới biết rằng phải hỏi đến thì không nói, thế mà
sau không hỏi, lại có sự nói ra, khác nào Rồng ở trên cây, thấy giải đằng đông
thấy móng đằng tây, thật là ngòi bút kỳ diệu!
Lại như
Hồng Giáo Đầu muốn đấu võ, lại gặp Sài Quan Nhân mời uống rượu, đấy đã một lần
nhụt lại khiến người ta trong bụng không vui, mà Lâm Võ Sư ngần ngừ chưa dám,
đến lúc đấu võ, được bốn năm hiệp, Lâm Giáo Đầu nhảy ra, nói rằng còn bị đóng
gông, xin ngừng lại tháo gông, khiến Sài Tiến xin tháo gông xong đã, hai ba lần
nhụt lại thò ra, khiến độc giả bút phép viết lên kỳ tuyệt.
Lại như
lúc Hồng Giáo Đầu vào tỷ thí, một phần tả Hồng Giáo Đầu, một phần tả Lâm Giáo
Sư, một phần tả Sài Đại Quan Nhân, có thể gọi là rất phức tạp và rất vội vàng,
thế mà trung gian còn tả thêm hai người công sai, thì tác giả phải tĩnh tâm nhanh
việc mới nổi.
Lại như
Sai Bát nói ra mấy lời lật mặt, sau tiếp tả luôn Sai Bát mấy lời vui vẻ biết
người, văn tự so lên, trở nên hài hước, đó là ba lan của văn chương, cần ỡ sự
xẩy ra gần mới hay, nếu xảy ra xa nhau, không lấy gì làm thú! Nếu như bỗng dưng
thấy thuyền trượng xẩy đến, rồi sau thuyền trượng ra đi, ba lan chỉ ở một thiên
đầu với cuối; Lâm Xung khi đến, Sài Tiến đi săn, Lâm Xung ra đi, Sài Tiến trở
về, chỉ trong một truyện từ đầu tới cuối. Đó lại là một điều nhận ra như thế.
Những
chuyện như thế, đều như máy mài, non sông, cỏ hoa, cầm thú...kia biến ảo khôn
lường, truyện Thủy Hử phép văn như vậy, nên xét cho ra.
Trong
một hồi này, ngoài chính văn ra, tả đến bàng văn, xem chuyện đút của, mấy lần
chí ý; như Lục Ngu Hầu lót cho công sai 10 lạng bạc còn hứa khi xong việc, thì
thêm 10 lạng nữa, 1 lần đáng ngán; Ôi! Lục Ngu Hầu là người thế nào, mà lót 10
lạng bạc, mà 10 lạng bạc có đáng kể đâu, mà cần có một người tới đút, khiến Lỗ
Trí Thâm biết mà cứu tới nơi, công sai không làm gì nổi, 2 lần đáng ngán: Ôi 10
lạng bạc, toan tính với nhau, mà tính mạng Lâm Xung chẳng kể, rồi hai người bàn
bạc đánh trả lại 10 lạng bạc cho xong, 3 lần đáng ngán; Bốn người ở trong hàng
mà hai người tính vụng ngoài 10 lạng bạc, không có việc gì hơn hỏi thăm Sài Tiến
đi vắng, trang khách cũng không nói săn đón, lại rằng: Các ông chẳng may, nếu
Sài Quân ở nhà, thì phải có cơm rượu tiền nong đối đãi, 4 lần đáng ngán; Rượu
thịt tiền nong, đối với tiểu nhân mới nên nói rủi may, mà Hồng Giáo Đầu khinh
miệt Võ Sư, cũng rằng đến gạt rượu cơm tiền nong, 5 lần đáng ngán; Ôi tiểu nhân
khinh miệt quân tử chẳng phải vật chất, mà thôi, Võ Sư muốn tháo gông, Sài Tiến
lót 10 lạng bạc, công sai cũng bằng lòng, 6 lần đáng ngán; Bạc kia để sẵn, phép
luật triều đình, cũng đến nể nang, mà Hồng Giáo Đầu thua cuộc, đoạn Đại Quan
Nhân đem 25 lạng bạc khiến nên, 7 lần đáng ngán; Của sẵn để đấy, thân phận danh
dự không tiếc, Sài Tiến nêu ra, do 25 lạng bạc, 8 lần đáng ngán; Dẫu rằng thánh
hiền hào kiệt, có tâm sự quang minh, cũng phải do đấy kính yêu, nếu bằng không
thì rất là nhạt nhẽo, hai công sai cũng vì 5 lạng bạc, cho nên ra khỏi, Lâm Võ
Sư tạ ơn, hai công sai cũng tạ ơn, 9 lần đáng ngán; Có của ấy thì thù ghét cũng
thân, thú vật cũng mến, hết sức ra ngoài thân phận, Sai Bát tranh lấy, đã tranh
của Quản Doanh 5 lạng bạc, thế mà khi chửa đưa, thì ra mặt chửi mắng khi đã đưa
tiền, thì giở mặt khen lao, 10 lần đáng ngán; Ngần xưa tin nhau, không đổi lòng
ngay, Võ Sư lót 10 lạng bạc cho Quản Doanh, Sai Bát ngắt 5 lạng, chỉ đưa 5
lạng, 11 lần đáng ngán; Có của thì cái gì mà chẳng trọn vẹn, không có của còn
ai giúp sức, bọn tù được Lâm Xung giúp đỡ, 12 lần đáng ngán, chỉ vì có của cho
người, mà cảm Lâm Xung ân nghĩa, ai cũng ngợi khen, tiếng khen đoạn của tạo nên
thì kẻ sĩ thường nghèo, chẳng dám ở nhà học đạo, mà theo với thế gian thì chẳng
biết gì thời vụ, há chẳng đáng thương thay!
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 9: Một mũi dao, moi gan quân tàn ác; Ba
chén rượu, say tít cả giang sơn
Bấy giờ
Lâm Xung thấy người gọi, liền quay lại xem, thì nhận ra là Lý Tiểu Nhị, ở Đông
Kinh khi trước, liền hỏi lên rằng:
- Kìa
Tiểu Nhị! Nhà ngươi cũng ở đây sao?
Nguyên
tên Tiểu Nhị khi trước còn làm công cho một tửu điếm ở Đông Kinh, thỉnh thoảng
lại được Lâm Xung giúp đỡ cho ít nhiều, sau tên ấy ăn cắp tiền của chủ, bị
người ta bắt được đem đến nộp quan, Lâm Xung lại che chở cho, rồi cho tiền để
đến hồi thoát nạn. Đến khi tên ấy không muốn ở Đông Kinh nữa, thì Lâm Xung lại
cho tiền nong làm vốn, để đi kiếm chỗ khác mà làm ăn.
Khi ấy
Lý Tiểu Nhị thấy Lâm Xung quay lại hỏi; liền cúi xuống lạy chào mà rằng:
- Thưa
ân nhân, từ khi được ân nhân cứu vớt cho đi, sau lại bị lênh đênh không gặp, mà
lần lữa đến mãi Thương Châu, tìm vào một tửu điếm họ Vương để ở, khi ở đấy được
ít lâu, thì hàng quán một ngày một phát đạt, mà khách hàng ăn ai cũng đến khen
là làm ăn sạch sẽ. Bởi vậy chủ nhân có lòng yêu dấu mà gả con gái và bắt gửi rể
ở luôn ngay đó. Tới nay hai ông bà ấy chết đi rồi, mà con trai không có, cho
nên vợ chồng con được thừa hưởng ngôi hàng ấy mà buôn bán ở đây, vậy dám hỏi ân
nhân có việc gì, mà cũng đến đất này như thế?
Lâm Xung
trỏ lên cái kim ấn ở trên mặt mà đáp rằng:
- Ta chỉ
vì lão Cao nó không bằng lòng, cho nên nó sinh sự bắt sung quân ở đây, hiện nay
quan sai ta giữ Thiên Vương Đường đó.
Lý Tiểu
Nhị nghe nói, liền mời Lâm Xung về tửu điếm, bắt vợ ra lạy chào mà nói:
- Vợ
chồng chúng tôi ở đây đương buồn về nỗi không có ai là người thân thích, thế mà
nay lại được ân nhân đến đây, thì thực là hạnh phúc vô cùng.
Lâm Xung
thấy vậy liền đáp rằng:
- Tôi
bây giờ đương cơn hoạn nạn thế này, chỉ e có điều làm giảm mất danh giá của vợ
chồng anh thôi.
- Sao
ngài dạy thế, tiếng ngài lừng lẫy khắp cả mọi nơi, còn ai không biết đến bao
giờ, nay ngài ở gần đây, nếu có quần áo gì, xin cứ đưa ra ngoài này, để nhà tôi
vá khâu giặt giũ, không hề dám quản công.
Nói đoạn
liền dọn rượu ra thiết đãi Lâm Xung, rồi mãi đến tối mới đưa về Thiên Vương
Đường để nghỉ. Từ đó Lý Tiểu Nhị thỉnh thoảng lại mời Lâm Xung ra chơi uống
rượu, hoặc khi lại đưa các thức ăn uống vào trại cho Lâm Xung, còn các thức
quần áo giặt giũ, vá may đều nhờ ở tay vợ chồng Tiểu Nhị, nhân thế Lâm Xung
cũng được thư nhàn dễ chịu, mà đôi khi có được đồng nào lại đưa cho vợ chồng
Tiểu Nhị, để thêm làm vốn buôn.
Tháng
ngày thấm thoát, một hôm vào giữa mùa đông, Lý Tiểu Nhị đương đứng ở cửa, chợt
trông thấy có một người đi vào trong hàng ngồi đó, rồi lại có một người nữa nối
gót theo vào sau. Người đi trước trông ra dáng một viên chức quan quân, mà
người đi sau thì ra vẻ tên lính hầu chi đó.
Khi hai
người vào cùng ngồi ở một bàn, Lý Tiểu Nhị liền hỏi:
- Các
ngài xơi cơm rượu chăng?
Người
kia đưa ra một lạng bạc cho Lý Tiểu Nhị mà bảo rằng:
- Bác
hãy cất tiền này đi, rồi cho tôi bốn bình rượu ngon ra đây, rồi lúc nào có
khách sẽ bày các món ăn lên, không cần phải hỏi.
- Ngài
định mời ai đến đây?
- Tôi
phiền bác vào trong dinh mời giúp ông Quản Doanh và ông Sai Bát ra đây giúp.
Nếu các ông ấy có hỏi là ai mời thì bác cứ nói rằng: "Có Quan Nhân ngồi
đợi có việc cần"nhé.
Lý Tiểu
Nhị vâng lời, một lát hai người cùng đến.
Khi tới
nơi hai người kia đứng lên chào Quản Doanh và Sai Bát, rồi mời ngồi. Quản Doanh
có ý rụt rè mà hỏi rằng:
- Chẳng
hay các ngài ở đâu tới, chúng tôi không được biết?
- Xin
các ngài hãy ngồi chơi, rồi một lát ngài xem thư đây sẽ biết.
Nói xong
quay ra báo Tiểu Nhị lấy rượu, và bày các thứ lên. Đoạn rồi rót rượu mời hai
người kia uống, rồi quay lại bảo Lý Tiểu Nhị rằng:
- Thôi
anh cứ đi chỗ khác, để đây còn nói chuyện riêng, nếu có việc gì đây sẽ gọi.
Tiểu Nhị
vâng lời, rồi quay ra ngoài cửa, sẽ bảo với vợ rằng:
- Hai
người nầy ta lấy làm lạ lắm.
- Sao mà
lấy làm lạ?
- Ta xem
hai người cùng nói tiếng Đông Kinh, mà cũng biết đến Quản Doanh và Sai Bát cả.
Sau khi ta vào rót rượu, thì chỉ nghe Sai Bát nói câu gì lại có ba chữ
"Cao Thái Úy" ở đấy? Chẳng hay việc này có quan hệ đến Giáo Đầu Lâm
Xung chăng? Để ta ở đây, đằng ấy thử ra lối sau nghe lóng xem sao?
- Hay là
gọi Lâm Giáo Đầu ra đây, để nhận xem có phải không?
- Chết
nỗi. Ôâng ấy nóng tính, hơi một tí là đốt nhà giết người ngay, nếu bây giờ ông
ấy ra đây, mà quả là người đối thủ với ông ấy, thì tất nhiên là sinh sự lôi
thôi lụy cả đến mình chứ không chơi. Thôi cứ vào đấy nghe xem sao đã.
Người vợ
lấy làm phải, liền chạy vào nghe ngóng một lúc, rồi chạy ra bảo với Tiểu Nhị
rằng:
- Ba bốn
anh đó nói thì thầm gì, không nghe được câu nào cả, về sau người kia đưa ra một
gói bạc cho Quản Doanh và Sai Bát, ý hẳn tiền nong cho đó. Rồi thấy Sai Bát gật
gù bảo rằng:
- Được,
việc ấy cứ để mặc tôi, thế nào tôi cũng kết quả được tính mạng nó.
Vừa nói
đến đó, thì đã thấy trong kia gọi món ăn lên, Lý Tiểu Nhị chạy vào đưa món nấu
lên, thì thấy trong tay Quản Doanh hãy còn cầm một phong thư ở đó. Bấy giờ mấy
người quay ra ăn cơm xong tính tiền hàng đưa trả cẩn thận rồi, Quản Doanh, Sai
Bát đứng dậy về trước, còn hai người kia đi ra sau.
Vừa đi
được một lát, thì Lâm Xung ở đâu chạy đến. Tiểu Nhị liền mời vào điếm ngồi
chơi, rồi đem các câu chuyện vừa rồi kể rõ từng ly từng tý cho Lâm Xung nghe,
rồi lại nói rằng:
- Việc
ấy nghe chừng có quan hệ đến ân nhân, cho nên tôi đương định tìm để nói cho ân
nhân biết.
Lâm Xung
nghe nói liền hỏi Tiểu Nhị rằng:
- Người
ấy tướng dạng ra thế nào?
- Bẩm
người ấy vào trạc 30 tuổi, tướng ngũ đoản, mặt trắng bệch, mà không có râu ria
gì cả.
Lâm Xung
nghe nói kinh ngạc mà rằng:
- Nếu
vậy thì chính thằng Lục Ngu Hầu rồi, thằng ăn mày ấy lại muốn đến đây hại ta
hay sao? Trời ơi! Nếu ta gặp nó bây giờ, thì phải làm cho nó nát thịt tan xương
nó mới yên được! Nói xong hằm hằm đứng dậy mà đi ra phố, mua một con dao găm
rồi giắt vào lưng, rồi đi khắp các nơi để tìm Lục Ngu Hầu.
Vợ chồng
Tiểu Nhị thấy vậy lấy là kinh sợ, mà nghe ngóng suốt ngày hôm ấy, cũng không
thấy tin tức gì cả.
Sáng hôm
sau Lâm Xung lại dậy sớm, giắt dao đi lùng khắp cả mọi nơi tìm Ngu Hầu không
thấy mà trong dinh cũng không có điều chi là khác, liền chạy ra hàng bảo với
Tiểu Nhị rằng:
- Đến
hôm nay cũng chưa việc gì là làm sao?
Tiểu Nhị
nói:
- Nếu
vậy, thì càng hay lắm, ân nhân cứ phóng tâm mặc đấy là xong.
Sau Lâm
Xung lại đi tìm Lục Ngu Hầu đến ba bốn hôm luôn, mà cũng không thấy đâu, thì
trong bụng đã nguôi nguôi dần mà không nghĩ đến nữa.
Chợt đến
hôm thứ sáu, Quản Doanh gọi Lâm Xung đến mà bảo rằng:
- Ngươi
ở đây đã lâu, mà Sài Đại Quan Nhân cũng không tiến cử cho ngươi được, vậy có
một chỗ Thảo Đường ngoài cửa Đông Môn 15 dặm, xưa nay vẫn nộp cỏ tháng để lấy
tiền, có một tên lính già coi giữ ở đó, nay ta muốn đài cử cho ngươi ra thay,
để lão lính già lại về ở Thiên Vương Đường, vậy ngươi nên thu xếp, rồi ta sẽ
bảo Sai Bát đưa ra.
Lâm Xung
vâng lời, rồi đi ra ngoài phố bảo với vợ chồng Lý Tiểu Nhị rằng:
- Hôm
nay lão Quản Doanh cắt ta ra coi ở thảo trường, là ý làm sao?
Tiểu Nhị
nói:
- Ở đó
lại tốt hơn ở Thiên Vương Đường, vì mỗi khi thu cỏ, thì lại được tiền thường lệ
để tiêu. Xưa nay nếu không đút lót cho họ, thì bao giờ lại được làm những việc
như thế?
- Họ
không mưu hại ta, mà lại sai ta ra chỗ tốt, là nghĩa làm sao?
- Cái đó
cũng cần phải nghĩ, ân nhân cứ đi, hễ không việc gì là tốt rồi, duy có một điều
là ân nhân đi xa thế, thì chúng tôi lại không năng được hầu hạ mà thôi.
Nói đoạn
dọn rượu ra mời Lâm Xung uống, Lâm Xung uống rượu xong, lại trở về Thiên Vương
Đường, lấy khăn gói và hành lý, giắt dao găm vào lưng rồi vác một cây gậy con
mà theo Sai Bát đi ra thảo trường.
Bây giờ
đương độ nghiêm đông lưng trời mây kín, gió bấc đìu hiu, mưa tuyết âm thầm, rất
chiều lạnh lẽo. Lâm Xung theo Sai Bát đến thảo trường, thấy ở ngoài đắp toàn
tường đất, giữa có cổng lớn đi vào. Khi vào tới nơi thấy có bảy tám gian lá,
xung quanh xếp toàn cỏ ngựa, giữa có hai gian thảo sanh, người lính già đương
đốt lửa sưởi ở trong đó.
Khi đó
Sai Bát bảo với tên lính già rằng:
- Quản
Doanh sai tôi dẫn Lâm Xung ra đây để thay cho lão về coi ở Thiên Vương Đường,
lão lập tức đi ngay.
Lão già
nghe nói, liền lấy chìa khóa, dẫn Lâm Xung đi khắp nơi, mà giao phó rằng:
- Trong
kho đây có quan biển ký, mà mấy đống có đều có số hiệu cả, tôi xin giao đủ từng
ly, và tất cả các chìa khóa đây nữa.
Nói xong
đếm mấy đống cỏ chỉ cho Lâm Xung biết rồi trở vào thảo sảnh thu thập gói áo để
đi. Khi sắp ra đi lại bảo với Lâm Xung rằng:
- Ở đây
có đủ các thức mâm bát, nồi niêu và hỏa lò, tôi xin để đây cho ông dùng.
Lâm Xung
vâng, nhận rồi bảo lão già rằng:
- Bên
Thiên Vương Đường tôi cũng có đủ, ông đến đấy lại xin dùng những thứ của tôi.
Lão già
lại trỏ lên cái bầu lớn treo ở vách mà rằng:
- Nếu
khi uống rượu, thì cứ đi về phía đông cách đây chừng 2, 3 dặm thì có hàng rượu
ở đó.
Nói xong
rồi từ biệt Lâm Xung, mà cùng với Sai Bát ra về.
Bấy giờ
Lâm Xung cổi để các đồ chăn áo, vào ngồi một nơi, rồi ngồi bên cạnh đống lửa để
sưởi. Một mình trông trước trông sau thấy nhà cửa tồi tàn dột nát mà mỗi khi
gió thổi, thì lại chuyển đi ầm ầm, liền nói lẩm bẩm rằng: "Cái nhà này khó
lòng mà giữ cho qua được mùa đông, vậy khi nào hết tuyết ta phải vào trong
thành tìm anh thợ đất nó sửa lại ngay cho mới được."
Nói đoạn
lại quay vào đống lửa để sưởi, Khi được một lát, thấy trong mình hãy còn rét
lạnh, lại nhớ đến lời dặn của lão già khi nãy; có thể mua rượu được, liền xăm
xăm dậy, đậy đống lửa lại, lấy một ít tiền giắt vào lưng, rồi đeo bầu khoác nón
bước ra nhoài cổng, khóa chặt cửa lại mà đi sang bên phía đông.
Khi ấy
gió lạnh căm căm, Lâm Xung dày đạp đống tuyết mà đi, chẳng khác gì ngọc vỡ châu
rơi ở trên đường vậy. Vừa đi được nửa dặm đường thấy có một tòa miếu làm ngay
đó, Lâm Xung bèn đứng lại cúi đầu lễ mà khấn thầm rằng:
- Dám
xin thần minh phù hộ cho tôi, rồi sau tôi xin đốt vàng lễ tạ.
Khấn
xong lại đi một lúc nữa, đã đến một chỗ có nhà cửa đông đúc, Lâm Xung liền tìm
một hàng rượu đi vào.
Khi tới
nơi chủ hàng hỏi Lâm Xung rằng:
- Khách
ở đâu đến đây?
Lâm Xung
trỏ vào cái bầu mà nói rằng:
- Nhà
ngươi có nhớ cái bầu này không?
Chủ hàng
xem ra cái bầu mà nói:
- Cái
này của lão quân ở trong thảo trường phải không?
- Chính
phải đó.
- Nếu
vậy thì xin mời ông ngồi đây uống rượu mấy chén cho đỡ lạnh đã.
Nói xong
lại thái một đĩa thịt bò ra, rót một hồ rượu nóng lên mời Lâm Xung. Lâm Xung ăn
uống xong lại mua thêm một miếng thịt, và một bầu rượu nữa, rồi tính tiền trả
chủ hàng mà về.
Bấy giờ
gió càng to, mưa tuyết xuống lại càng nhiều lắm. Lâm Xung đi lật đật về tới
thảo trường, mở khóa cổng đi vào thì bỗng ngạc nhiên mà kêu lên rằng:
"Trời ơi! Cái thảo trường kia đổ mất rồi, ta ở vào đâu cho được!"Đoạn
rồi lại e đống lửa ở trong chưa tắt, mà lỡ ra bốc cháy thì nguy, liền lách tay
vào sờ xem, thì thấy nước tuyết tưới vào lạnh như tro tàn vậy, Lâm Xung lại lần
vào sờ lên giường kéo được một cái chăn khoác lên trên mình, thì thấy mặt trời
sắp tối, bèn nghĩ vẫn vơ một mình, không biết nghỉ đâu cho tiện?
Đương
cơn nhà nát vách tan
Đem thân
mưa gió tồi tàn thêm nguy!
Mới hay
vận mạng bất kỳ
Phút nào
được mấy họa thì đến luôn
Lâm Xung
đương ngần ngại lo âu, chợt nhớ đến tòa miếu ở bên đường, thì nghĩ ngay ra một
cách đến nằm tạm một đêm, liền chống gậy khoác khăn vác cả đồ đạc rồi khóa cổng
lại tử tế, mà đi đến đó. Khi tới nơi bước vào trong cổng miếu, thấy bên cạnh có
một hòn đá lớn, chàng liền vần hòn đá lại, đè chặt cánh cổng mà đi vào trong
miếu.
Trong
miếu có một tòa Sơn Thần Tượng, ngồi ở bên điện, hai bên có hai vị Phán Quan,
và một tên tiểu quỷ đứng hầu, lại có giấy vàng bỏ lung tung một đống ở đó, Lâm
Xung để gậy và bầu rượu lên trên đống giấy, rồi giũ sạch tuyết ở trên mình, cổi
bỏ áo ngoài và nón ra, mà để lên trên bàn thờ. Nói đoạn ngồi xuống đó kéo chăn
đắp nửa chân dưới mà lấy rượu thịt ra đánh chén.
Đêm
khuya tuyết giá, trời đông,
Rượu bầu
lạnh ngắt lửa lòng nóng gan
Cơn say
say cả giang san,
Hỏi chi
họa phúc tuần hoàn uổng công!
Đương
khi Lâm Xung uống rượu một mình, thì bỗng nghe tiếng nổ lốp bốp ở gần đấy,
chàng liền ngó cổ ra chỗ vách miếu để xem, thì thấy bên thảo trường lửa cháy
rần rật bốc lên, chẳng khác gì trận Xích Bích hỏa công, mà Tào Tháo bị khốn với
Chu Lang vậy.
Chàng
thấy vậy liền vớ cây gậy chạy ra cổng, toan mở cửa để đi cứu hỏa, bất đồ lại
nghe thấy có tiếng người nói lao xao ở đằng kia đi đến, chàng liền nấp ở trong
cổng để nghe xem sao? Bấy giờ nghe kỹ thấy tiếng chân ba người đi đến trước
cổng miếu, đẩy cổng toan vào nhưng lại bị hòn đá đè chặn ở trong, cho nên đẩy
mấy lần cũng không được liền cùng nhau đứng ở thềm cổng, mà xem lửa ở bên thảo
trường.
Đoạn rồi
nghe thấy có một người ở trong đám ấy nói rằng:
- Làm
mẹo thế có kỳ diệu hay không?
Lại có
người nói rằng:
- Cái đó
là nhờ Quản Doanh và Sai Bát, có lòng chịu khó giúp cho, mới được như thế, để
về Đông Kinh tôi sẽ kêu Thái Úy cho ngài được thăng chức chuyến này.
Lại có
kẻ nói rằng:
- Phen
này thì Lâm Giáo Đầu tất chết, chứ chẳng sai, thế là bệnh Nha Nội có thể khỏi
được rồi đó.
Anh kia
lại nói:
- Thằng
Trương Giáo Đầu gớm lắm, ba bốn phen nhờ người đến nói, nó nhất định không
nghe! Nay con rể chết rồi, thì phỏng có giữ được không? Ấy cũng chỉ vì lão
Trương Giáo Đầu không thuận mà bệnh thế Nha Nội càng ngày càng nặng, cho nên
chúng tôi mới phải sang đây, nhờ đến các ngài đó.
Một anh
thì lại nói:
- Bây
giờ tôi nhảy vào trong tường, cứ mỗi đống củi lại cho một bó lửa, tính tất cả
đến mười mấy bó lửa, rồi còn chạy đi đâu được nữa?
Anh kia
lại ra dáng đắc ý mà rằng:
- Có
trốn được thoát hôm nay thì cái tội đốt thảo trường cũng đến chết thôi.
Bấy giờ
một anh nói rằng:
- Thôi
bây giờ chúng ta đi về trong thành đi.
Một anh
lại giữ lại mà rằng:
- Khoan,
ta hãy xem một lúc nữa, rồi ta nhặt một vài cái xương của nó đem về, để cho
Thái Úy biết là chúng ta thạo việc.
Khi đó
Lâm Xung nghe rõ tiếng ba người, biết là một tên Sai Bát, cùng Lục Ngu Hầu và
Phú An ở đó, thì trong bụng tự nghĩ rằng:
- Gớm
thực, quân nầy định sát hại ta đây. Nếu nay trời không thương ta, mà cái nhà
kia không đổ, thì có lẽ ta bị quân này đốt chết chẳng chơi. Quân súc sinh nầy
để nó làm chi làm hại thế gian nữa?
Nghĩ
đoạn, sẽ vần hòn đá đè chặn cánh cổng, để ra một bên, rồi cầm gậy mở cánh cổng
bước ra, mà quát lên rằng:
- Quân
súc sinh nầy, mầy chạy đi đâu được nữa không?
Ba anh
kia nghe thấy vậy, thì kinh chạy, nhưng lại cuống cẳng không sao chạy được, Lâm
Xung liền giơ gậy đánh cho Sai Bát một cái gậy ngã quay ra đấy. Lục Ngu Hầu
kinh sợ rụng rời kêu xin tha tội, còn tên Phú An thì giơ cẳng chạy cho mau để
thoát. Bất đồ chạy được mươi bước, thì Lâm Xung đã nhảy theo, đánh cho một gậy
ngã lăn xuống đất, rồi quay lại quát Lục Ngu Hầu rằng:
- Thằng
xỏ lá kia, mầy chạy đi đâu?
Nói
xong, xông đến dí đầu gậy vào bụng Lục Ngu Hầu ngã sóng soài ra đất, rồi lấy
chân đè chận lên bụng, rút thanh dao găm ra trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Đồ
khốn nạn nầy, ta với mầy có thù hận gì, mà mầy làm hại ta đến thế? Mầy phải
biết giết người còn có thể tha được, chứ cái lòng độc ác ấy không thể nào mà
dung thứ được đâu?
Lục Ngu
Hầu rên rỉ kêu rằng:
- Ngài
ôi! Việc ấy là Thái Úy sai tôi, chứ bỗng dưng tôi đâu dám thế?
Lâm Xung
cả giận mắng rằng:
- Quân
chó đểu nầy, ta chơi với mày từ thuở bé đến giờ, nay sao nỡ mưu kế hại ta, thế
mà còn chối xoen xoét là không phải tại mầy... được mầy hãy nếm con dao ta xem.
Nói đoạn
liền cởi phăng áo Lục Ngu Hầu ra, rồi đưa dao sả từ trên bụng sả xuống, rồi lấy
ruột gan ra cầm ở tay.
Khi nom
thấy Sai Bát cựa cạy toan chạy, Lâm Xung lại cầm dao đến bảo rằng:
- Thằng
nầy nữa, mày cũng hùa đảng vi nó, để ta cho một dao nhân thể.
Đoạn rồi
giơ dao cắt đầu Sai Bát bêu lên trên gậy, rồi lại quay lại cắt cả đầu Phú An,
và đầu Lục Ngu Hầu, mà buộc túm tóc ba cái đầu vào với nhau, xách vào để ở bàn
thờ trong miếu. Bấy giờ Lâm Xung lại mặc áo đội nón, đem rượu ở trong bầu rót
ra uống hết, rồi vất bầu và chăn ra đấy, mà vác gậy giắt đao đi ra.
Vừa đi
được 2, 3 dặm, thì thấy thôn dân đương lao xao kẻ thừng người gậy, kẻ câu liêm
đổ xô ra thảo trường để chữa cháy, Lâm Xung gặp bọn ấy liền bảo rằng:
- Các
ngươi cứ đến đấy mà chữa cháy để ta đi báo quan.
Nói đoạn
vác gậy chạy đi thực nhanh. Bấy giờ mưa tuyết càng ngày càng mạnh, Lâm Xung cắm
đầu cắm cổ đi mãi về phía đông, ước chừng gần hai trống canh, nghe trong mình
lạnh rét quá chừng, liền đứng dừng quay cổ lại xem, thì đi cách thảo trường đã
xa lắm rồi. Vời trông đằng trước hãy còn một khu rừng cây cối um tùm, trong đó
có mấy gian nhà lá, bị tuyết đè xiêu vẹo, lại có bóng đèn ở trong vách soi ra.
Lâm Xung
mải mốt chạy đến đấy, đẩy cửa bước vào thấy một lão nhà quê già, cùng dăm ba
đứa trẻ ngồi quây quần xung quanh đống lửa để sưởi, chàng lại chạy đến gần mà
nói rằng:
- Xin
chào các ngài, tôi là lính ở trong Thương Thành, đi qua đây bị tuyết mưa ướt
lạnh, xin vào ngồi nhờ, để hơ nóng một chút, xin các ngài rộng cho.
Lão nhà
quê nói:
- Bác cứ
ngồi đấy mà hơ nóng, có ai cấm đâu.
Lâm Xung
liền ngồi gần lại vào đống lửa để vừa sưởi vừa hơ áo. Được một lúc trông thấy
bên cạnh đống tro để một vò rượu, hơi bốc sặc cả lên, Lâm Xung liền nói với lão
nhà quê rằng:
- Tôi có
tiền lẻ đây, nhờ ngài để cho ít rượu để uống.
Lão già
không thuận mà đáp rằng:
- Ở đây
chúng tôi phải thay đổi nhau để canh kho thóc, trời rét mướt như thế này, mà có
bằng ấy rượu, đến chúng tôi cũng không đủ uống, còn lấy đâu để lại được nữa.
Lâm Xung
lại vật nài mà nói rằng:
- Cụ bớt
ra cho tôi vài ba chén rượu uống qua loa cho đỡ rét vậy.
- Lão
nhà quê nhất định không nghe mà bảo Lâm Xung rằng:
- Thôi,
ông đừng lôi thôi nữa tôi không để lại được đâu.
Bấy giờ
Lâm Xung thấy hơi rượu xông lên mũi, thì trong bụng thèm quá, lại hỏi luôn lão
nhà quê rằng:
- Thế
thì các ông không để lại cho tôi thực à?
- Quái
lạ cái bác này, người ta đã tử tế cho vào sưởi ở đây, lại còn đòi rượu uống
sao?
Có đi
ngay ra không, không thì chúng tôi kéo ra bây giờ đấy.
Lâm Xung
nghe nói, nổi giận mà rằng:
- Các
anh này vô lễ thực.
Nói xong
giơ gậy, lấy thanh củi đương cháy, giơ vào mặt lão già, làm cho râu ria cháy
nhẵn nhụi cả một lượt. Lũ nhà quê thấy vậy, thì đứng ùa cả lên, Lâm Xung liền
vung gậy đánh rối tít mù làm cho anh nào anh nấy đều chen nhau mà chạy tháo cả.
Lâm Xung thấy bọn ấy chạy rồi, thì nói một mình rằng: "Được lắm, chúng bay
chạy cả, thì ông mang rượu ra uống một mình vậy". Nói đoạn trông lên vách
có hai cái gáo dừa treo ở đó, liền với lấy xuống một cái, rồi nghiêng vò múc
rượu ra uống một mình. Uống một lúc còn thừa một nửa, lại bỏ lại đấy, rồi chân
cao chân thấp, vác gậy ra cửa mà đi. Đi được hai dặm đường, thì hơi rượu ngấm
ra mà say sưa mê mệt, lại bị cơn gió bấc thổi mạnh quá, làm cho chàng ngã lăn
xuống khe núi, mà không động đậy được nữa.
Bấy giờ
lũ trẻ nhà quê chạy đi lấy được roi gậy về, mà không thấy Lâm Xung đâu nữa,
liền đổ xô nhau đi tìm. Khi tìm đến chỗ khe núi, thấy anh chàng đương nằm khô
khoăm ở đó, mà gậy thì vất ra một bên; lũ nhà quê liền reo ầm lên, rồi đem
thừng đến trói Lâm Xung, mà bảo nhau đi giải nộp chủ nhân.Mới hay:
Bước
chân chưa thoát nạn kia
Mà đâu
nạn nọ đã kề tới nơi!
Ông xanh
nghĩ cũng nực cười,
Công đâu
đùa bỡn với đời mãi rượu?
Buồn
tênh cho lũ thôn phu
Trông
non Thái cũng như gò cỏn con
Hùm
thiêng khi nấp mạn cồn.
Vùng cơn
tỉnh dậy phỏng còn xác chăng?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Trong
phép văn chương diễn tả, há phải chỉ tả luôn một
mạch của
một việc mà thôi, có việc trước gợi mối ra sau, có việc đi qua cũng gợi mối ra
sau, như thế há đâu chỉ nói ra một việc. Ôi! Văn tả từ trước, nhằm đích về sau,
thì phải biết văn này đương gợi mối văn sau, chẳng phải riêng của hồi này vậy.
Đoạn văn còn rớt sau, mà nhằm theo đích trước, thì phải biết văn trước chưa
hết, thuộc của tiền văn, chẳng phải hậu văn, có như thế khiến trong lòng độc
giả xét thấy như có kim có chỉ mà tin tác giả đã biến ra hai ba việc được, tả
việc nào đứt đi việc ấy, thì sao thấy sâu xa, của sự diễn tả trong phép văn
chương?
Như vợ
chồng tên Lý Tiểu Nhị, đâu phải gặp ngay Lâm Xung trong lao thành, một sự tình
cờ được ngộ cố tri, đi lại thân mật, cũng chỉ chú ý ở lúc đứng nghe trộm đằng
sau, câu chuyện của đám khách nói, một đoạn kỳ văn, chẳng thể chẳng viết trước
ra làm cái mối đầu, đó là việc trước mà gợi ra sau vậy.
Như ở
trang gia chẳng chịu về ngay; lại còn uống rượu, khi uống rượu xong thấy cháy
thảo trường, thế rồi phải tìm vào miếu nghỉ, để nghe ra manh mối, ứng với câu
chuyện hoài nghi bấy nay, và rõ tin tức ở Đông Kinh qua lời Lục Khiêm nói, để
từ trong miếu giết bỏ kẻ thù, đấy là đoạn văn tả việc đương xẩy mà gợi mối sau.
Lục
Khiêm, Phú An, Quản Doanh, Sai Bát bốn người, bàn việc trong quán hàng, không
rõ nói gì, tường chẳng được tường, bỏ đi không thể bỏ đi, nay ở trong tai mắt
vợ chồng Tiểu Nhị, chỉ nghe lỏm ba tiếng Cao Thái Úy, đã nhằm vào một đích gì
đây, lại thấy hẹn nhau biếu tiền, sau Tiểu Nhị đem thức ăn lên, lại thấy trong
tay Quản Doanh cầm một phong thư, nửa kín nửa hở, nửa giấu nửa phô...như văn
cảm, không thể vạch ra, như chữ bia tàn, không thể đọc được, nhưng thâm tâm con
nhà hiếu cổ, có thể lấy ý ngoài mà xét nổi, như một đoạn ấy, có thể bảo là
Thánh làm văn, và qủy làm văn vậy.
Khi giết
tù trong cửa miếu ra, đã dùng gậy đánh ngã Sai Bát, tiếp tả Lục Khiêm, tả giết
Lục Khiêm chưa xong, tả ngay đánh luôn Phú An hai đứa đã ngã, quay lại rượt Lục
Khiêm để giết, vừa mổ xong bụng Lục Khiêm, thấy Sai Bát cựa dậy, mới cắt luôn
đầu Sai Bát, treo trên đầu gậy, quay lại cắt cổ luôn Lục Khiêm, Phú An, như thế
ba bốn lần để giết ba người, rất có thứ tự, rất có cách quãng, và rất có phương
pháp, khúc chiết chẳng hoang mang, chẳng thiếu sót... , đó là Thánh làm văn và
quỷ làm văn.
Chuyện
xưa nói lại, khi trời oi bức treo tranh mùa rét, khi trời mùa lạnh, treo tranh
mùa bức, khiến khách ngồi chơi xem đến mà có ảnh hưởng, thực câu chuyện đáng buồn
cười! Nhưng chưa thần kỳ bằng một hồi này, Thi Nại Am tác giả, tả một bức tranh
vừa nóng lại vừa lạnh, tả tuyết thì rét thấu xương, tả lửa thì nóng rát mặt,
khác nào xưa có vị sư đau bệnh, khi chúng tăng hỏi đến khí hậu thế nào, thì
rằng: Khi hàn thì bằng giết Đồ Lê, khi nóng thì cũng bằng giết Đồ Lê (tên nhà
sư), nay đọc thiên này, tả hàn cũng hàn bằng giết độc giả, mà tả nhiệt cũng
nhiệt bằng giết độc giả, một đoạn văn chương, thực là kỳ tuyệt trong rừng văn
nghệ.
Sau vách
nhà hàng, nghe bốn người nói, không nghe được kỹ càng rất khéo ở chỗ không nghe
được kỹ càng; Trong miếu sơn thần, nghe ba người nói, nghe được kỹ càng, rất
khéo ở chỗ nghe được kỹ càng, tuy rằng sau vách nhà hàng, trong miếu sơn thần,
hai phen nghe chuyện, đều nghe ra cả, cũng đáng cho đời thấy lối bí của oan
gia, thế mà đời nay có bao kẻ ngu khuất mặt nói xấu người ta, thì đâu phải
riêng bọn Lục Khiêm này mưu kế.
Trong
văn tả tình tả cảnh, nên nhận xét kỹ xem, như hai lần lửa cháy thì rõ chẳng
phải lỗi làm cháy tự Lâm Xung, chỉ mang chăn áo đến ở, thấy rõ Lâm Xung phải
đến thảo trường vì tính kế một đêm ấy, để vừa tội giết người, đó là ý tứ của
người viết chuyện.
THUỶ HỬ
TRUYỆN
Chương 10:
Giả dạng giao du; thoát người hảo hán Đề thơ cảm khái; kết bạn Lương Sơn
Lũ nhà quê đem Lâm Xung giải đến một
nơi trang viện, rồi bảo trang khách vào báo với chủ nhân. Bấy giờ chủ nhân còn
ngủ chưa dậy, lũ nhà quê bèn đem Lâm Xung đến chỗ bóp gác mà để nằm ở đó. Đến
lúc Lâm Xung tỉnh rượu, mở bầng mắt trông ra thấy mình nằm một nơi trang viện
rất lớn, thì lấy làm lạ quá mà kêu lên rằng:
- Đứa nào mang ta đến đây thế nầy?
Lũ nhà quê thấy Lâm Xung kêu, thì
cầm gậy đến mà bảo rằng:
- Liệu hồn, mầy còn to mồm nữa kia
à?
Bấy giờ có cả lão già bị đốt râu
cũng ở đấy, mặt hằm hằm bảo với chúng rằng:
- Nói lôi thôi với nó làm gì, cứ
đánh thật lực đi, để chốc nữa quan nhân dậy, sẽ hỏi tội nó.
Nói xong túm vào đánh lấy đánh để,
làm cho Lâm Xung không thể nào cựa quậy được nữa. Đương khi nguy cấp, khốn đốn,
thì bỗng thấy một tên trang khách kêu lên rằng:
- Quan nhân đã đến đây kia.
Lâm Xung nghe nói, thì lờ mờ nom
thấy một vị quan nhân, đương khoanh tay ra sau lưng mà lững thững đi đến, rồi
hỏi lũ kia:
- Bây đánh ai thế?
Lũ nhà quê bẩm rằng:
- Đêm hôm qua chúng con bắt được
thằng ăn cắp nầy, xin đem đến để nộp ngài.
Vị quan nhân ấy đi gần tới nơi trông
thấy Lâm Xung thì ngạc nhiên kinh lạ, vội thét đuổi lũ kia, mà tự đến cởi trói
cho Lâm Xung rồi hỏi rằng:
- Chết nỗi! Giáo Đầu đi đâu, mà bị
chúng đem đến đây như thế?
Lũ kia thấy quan nhân xử sự như vậy,
thì bảo nhau bỏ đấy mà chạy cút, mỗi đứa mỗi nơi. Bấy giờ Lâm Xung mới liếc mặt
nom lên, thì chính là Tiểu Toàn Phong Sài Tiến ở đó liền nói:
- Đại quan nhân cứu tôi với.
Sài Tiến lại hỏi:
- Tại làm sao mà Giáo Đầu lại đi đến
đây để đến nỗi chúng làm như thế được?
- Thưa ngài, chuyện tôi nói ra dài
lắm, vậy xin ngài hãy cho vào nhà trong, xin kể ngài nghe.
Nói đoạn, Sài Tiến mời Lâm Xung vào
trong nhà, ngồi chơi. Lâm Xung liền đem câu chuyện đầu đuôi, từ khi Lục Ngu Hầu
cùng mưu với Quản Doanh, Sai Bát để đốt thảo trường cho đến khi chạy trốn đến
đây, thuật rõ cho Sài Tiến nghe.
Sài Tiến nghe rõ căn nguyên liền thở
dài mà rằng:
- Nếu vậy thì vận quan anh còn bĩ
lắm. Nay trời xui khiến lại cho tiểu đệ được gặp quan anh đây, thì xin tạm ở
với tiểu đệ ít lâu, rồi ta sẽ liệu đường tiến thủ.
Nói đoạn sai trang khách lấy áo xiêm
sạch sẽ ra cho Lâm Xung thay, rồi thiết đãi rượu chè, mà cho Lâm Xung ở đó. Bên
kia Quản Doanh dò biết câu chuyện Lâm Xung, liền lập mưu vào báo với Châu Doãn,
là chính tay Lâm Xung đã giết Sai Bát, Lục Ngu Hầu, và Phú An, rồi đốt thảo
trường mà trốn đi đâu mất.
Châu Doãn nghe báo cả kinh, lập tức
cho vẽ hình kê tên, treo thưởng 3.000 quan, để thưởng người bắt được Lâm Xung,
rồi phái các viên thám tử đi khắp các chốn thành thị thôn quê để dò la tầm nã
rất là cấp bách, bấy giờ Lâm Xung ở nhà Sài Tiến được dăm bảy hôm, bỗng nghe
tin thì trong lòng nóng nảy băn khoăn mà nói với Sài Tiến rằng:
- Quan nhân có lòng tốt lưu cho tiểu
đệ ở đây, thực tiểu đệ lấy lòng vui lắm, song ngặt vì ngày nay quan quân đương
hết sức tầm nã, để truy bắt, ngộ vạn nhất họ lần mò dò bắt ở đây, thì lại thêm
phiền lụy đến quan nhân không tiện, vậy tiểu đệ muốn rằng quan nhân sẽ lấy lòng
quảng đại mà giúp cho ít tiền, để tiểu đệ tìm đi nơi khác là hơn, ngày sau trời
cho có còn sống được, tiểu đệ xin làm thân trâu ngựa, mà đền nghĩa trúc mai.
- Nếu Giáo Đầu có ý e ngại, mà không
muốn ở đây, thì tôi có một phong thư để giới thiệu sang một chỗ kia có được
không?
- Ngài có lòng tốt như thế, thì còn
gì bằng! Nhưng chẳng hay ngài định giới thiệu cho ở đâu?
- Ở Tế Châu thuộc quận Sơn Đông, có
một chỗ gọi là Lương Sơn Bạc. Vừng quang rộng hơn 800 dặm, khoảng giữa có thành
Uyển Tử và vùng Liễu Nhi; Hiện nay có ba người hảo hán là Bạch Y Tú Sĩ, Vương
Luân làm đầu, Mô Tước Thiên Đỗ Thiên làm thứ hai, và Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn
làm thứ ba, tụ họp có tới bảy tám trăm lâu la ở đấy. Xưa nay thường có những
người nặng tội phạm, trốn tránh vào đấy, thì họ đều dung nạp cả? Bọn ba người
ấy đối xử với tôi, cũng hơi có lòng trung hậu, nếu tôi viết thư để quan bác vào
đấy, thì tất là được ngay, ngài nghĩ sao?
Lâm Xung gật đầu đáp rằng:
- Ngài có lòng tốt như thế còn gì
hơn nữa.
Sài Tiến lại nói:
- Có một điều hơi khó là hiện nay
quan quân truy nã bắt ngặt, mà ở chỗ cửa quan con đường đây đi sang châu khác,
thì lại có hai viên quan canh cửa giữ tra hỏi luôn luôn, như thế thì khó lòng
đi cho lọt được.
Sài Tiến nói xong cúi đầu nghĩ một
lát mà ngẩng lên mà bảo rằng:
- Được rồi, tôi có kế này, khả dĩ
thoát cho quan bác đi được.
Nói đoạn gọi một tên trang khách lên
sai mang một gói hành lý đi trước, ra khỏi cửa quan, đi một quãng xa đứng đợi ở
đấy, rồi la sai mấy chục con ngựa và sắp sửa các đồ cung tên để đi săn. Đoạn
rồi bảo Lâm Xung cưỡi lên mình ngựa, cùng đi lẫn vào đám đi săn, mà theo Sài
Tiến đi ra quan ải. Khi đến cửa quan mấy viên quan coi giữ ở đó, vốn quen biết
Sài Tiến đã lâu, liền đứng lên chào hỏi Sài Tiến mà rằng:
- Quan Chầu lại đi săn hôm nay phải
không?
Sài Tiến xuống ngựa cúi chào rồi lại
hỏi luôn rằng:
- Các ngài có việc chi mà phải canh
giữ cẩn thận ở đây?
- Chúng tôi vâng lệnh quan trên Châu
Doãn ở đây để tra bắt tên Lâm Xung, phàm các thương khách đi qua đều phải khám
hỏi tất cả.
Sài Tiến thấy vậy, liền cười mà bảo
rằng:
- Trong bọn tôi cũng có tên Lâm Xung
đây, sao các ngài không nhận ra mà bắt lấy.
Hai viên quan liền cùng cười mà đáp
rằng:
- Ngài là người biết pháp luật, có
bao giờ lại làm như thế! Xin các ngài cứ đi đi cho.
Sài Tiến lại cười mà nói rằng:
- Các ngài lại có lòng tin tôi như
thế thì hay lắm, để tôi đi săn có được con gì, xin đem đến biếu các ngài.
Nói xong bái biệt mà lên ngựa, dẫn
lũ sau cùng đi.
Khi ra ngoài cửa quan ước chùng mươi
lăm dặm thì đã thấy tên trang khách vác khăn gói đứng đợi ở đấy. Sài Tiến liền
bảo Lâm Xung xuống ngựa, thay bộ quần áo đi săn, rồi mặc bộ quần áo thường, đội
nón dắt dao găm khoác khăn gói, vác thanh đao lớn trên vai, đoạn rồi hai người
từ biệt cùng nhau, để Sài Tiến quanh đi săn, mà Lâm Xung thì lên đường trốn
sang Tế Châu.
Một lời đã biết đến nhau,
Trăm ngàn nguy hiểm dễ hầu tiếc
công?
Bâng khuâng lòng những giận lòng,
Nước non biết mẹo anh hùng này chưa
Trời đông tuyết giá, dặm khách thân
cô, từ khi bái biệt Sài Đại quan nhân rồi một mình vơ vẫn trên đường, sớm nghỉ
tối đi, trong mười mấy ngày trời, rất là buồn bã. Một hôm trời đã chiều hôm,
Lâm Xung đi gần đến một khoảng hồ rộng, chợt trông thấy bên cạnh hồ có một hàng
rượu thập thò trong ánh tuyết, chàng liền mải mốt tìm vào để trọ.
Khi vào tới nơi, chàng vừa mới giũ
sạch tuyết bám trên áo, bỏ nón và hành lý ra, dựng thanh đao vào một bên, để
đặt mông xuống ngồi, thì đã thấy một tên tửu bảo chạy đến mà hỏi rằng:
- Ngài xơi rượu phải không?
- Phải, lấy hai nai rượu ra đây?
Tửu bảo vâng lời lấy hai nai rượu
ra, Lâm Xung lại hỏi:
- Có gì nhắm không?
Tửu bảo đáp rằng:
- Có thịt bò tươi, thịt bò chín và
thịt ngỗng béo gà non, ngài muốn xơi gì?
- Hãy thái hai cân thịt bò chín ra
đây.
Tửu bảo chạy vào một lát, mang ra
một miếng thịt bò tướng, và các thứ rau quả để lên trên bàn, rồi rót rượu ra
chén. Lâm Xung uống mấy chén rằng rồi đưa mắt trông vào thấy một người, đương
khoanh tay đàng lưng, lững thững ở trong đi ra cửa xem tuyết, rồi hỏi tửu bảo:
- Người nào uống rượu ở đấy?
Lâm Xung nghe nói lặng yên, ngồi
uống luôn mấy chén rượu nữa, rồi bảo tên tửu bảo rằng:
- Ngươi đến đây uống một chén với ta
cho vui.
Tửu bảo cám ơn, uống một chén rượu
rồi, Lâm Xung lại hỏi rằng:
- Từ đây đến Lương Sơn Bạc còn xa
hay gần.
- Bẩm, đây đi Lương Sơn Bạc, chỉ còn
có dặm đường nữa, nhưng phải đi đường thủy, chứ không có đường bộ. Nếu ngài có
muốn đi thì phải dùng thuyền mới được.
- Ngươi có thể tìm cho ta một chiếc
thuyền không?
- Bẩm ngài, trời sắp tối, mà tuyết
xuống ầm ầm thế kia, thì tìm đâu được thuyền?
Lâm Xung nói:
- Ta đưa nhiều tiền đây, người cố
tìm cho ta một chiếc thuyền để ta đi.
Tửu bảo nhất định từ nan mà rằng:
- Bây giờ thực là không tìm đâu
được.
Lâm Xung nghe nói trong bụng lấy làm
khó chịu, lại cất rượu uống luôn mấy chén nữa. Bấy giờ một mình nghĩ trông
trước trông sau, càng thấy buồn tênh buồn ngắt, đoạn rồi lại nghĩ ngẫm mà tự ân
hận rằng: "Khi trước ta ở kính sư, làm chức Giáo Đầu, cứ hàng ngày lại đi
rong chơi phường phố, chè chén vui cười, biết bao nhiêu là thú vị! Thế mà ai
ngờ ngày nay lại bị thằng cọp già Cao Cầu kia nó hãm hại ta, làm cho đến nỗi
phải chạm dấu vào mặt, đày ải phương xa, rồi lại lênh đênh đến tận chốn này,
khiến cho ta có nước không được về, có nhà không được ở, đem ngày những âm thầm
mà chứa chất kể biết bao cay đắng, thế thì có đáng giận hay không?" Nghĩ
đoạn liền gọi tửu bảo mượn bút với nghiêng rồi nhân khi tửu hứng, giơ lên vách
vôi, mà viết tám câu thơ rằng:
Khẳng khái thay! Lâm Xung,
Trung nghĩa dốc một lòng
Giang hồ từng nổi tiếng,
Thiên hạ khét anh hùng.
Thân thế thường chìm nổi.
Công danh ngán bấp bông!
Ngàn sau như thỏa chí,
Lừng lẫy Thái Sơn Đông.
Viết xong vất bút xuống rồi lại ngồi
uống rượu ngẫm nghĩ một mình. Chợt đâu thấy người xem tuyết lúc nãy chạy vào,
cầm cánh tay Lâm Xung mà nói rằng:
- Bác này to gan thực! Bác ở Thương
Châu, làm ra những tội tày đình, hiện quan tư còn đương thưởng tiền để bắt, thế
mà lại dám đến đây à?
Lâm Xung quay lại hỏi rằng:
- Bác biết tôi là ai?
- Bác là Báo Tử Đầu Lâm Xung chứ ai!
Lâm Xung tảng lờ đáp rằng:
- Không phải tôi là họ Trương kia mà.
Người kia cười mà rằng:
- Thôi, bác đừng nói lòe tôi nữa, tên bác vừa mới viết
trên vách, hãy còn kim ấn đây kia, bác chối sao được.
Lâm Xung biết thế không thể chối được, liền hỏi:
- Anh bắt tôi hay sao?
Người kia lại cười mà đáp:
- Tôi bắt bác để làm gì, bác hãy tôi
theo vào trong Thủy Đình này, ngồi chơi rồi sẽ nói chuyện.
Nói xong lại gọi tửu bảo thắp đèn
trong Thủy Đình, rồi mời Lâm Xung vào cùng ngồi mà nói rằng:
- Vừa rồi tôi thấy quan bác muốn
thuê thuyền đi vào Lương Sơn Bạc, nhưng ở đấy là một cái trại của đám cường
hào, quan bác định đến để làm gì?
- Không dấu gì bác, tôi bây giờ bị
quan trên truy riết, không trốn vào đâu được, cho nên tôi phải vào đấy mà nhập
bọn với họ cho xong.
- Đành vậy, nhưng tất là có ai tiến
cử cho bác đây hẳn?
- Có người bạn cũ của tôi ở quân
Hoàng Hải, thuộc về Thương Châu tiến cử cho tôi đến đó.
- Có phải là ông Tiểu Toàn Phong Sài
Tiến chăng?
- Sao ngài lại biết ông ấy?
- Nguyên ông ấy với các Đại Vương ở
trong trại cũng chơi thân với nhau, thỉnh thoảng lại có thư từ đi lại luôn
luôn, ngày trước khi Vương Luân mới thi hỏng về, có cùng với ông Đỗ Thiên đến ở
nhà ông Sài Tiến được ít lâu, rồi đến lúc đứng dậy ra đi, ông ấy lại tặng đãi
tiền nong tử tế.
Lâm Xung nghe nói đến đó, đoán chắc
rằng người kia cũng là một tụi ở Lương Sơn, liền hỏi bằng cách lễ phép rằng:
- Thưa ngài tôi thực là có mắt mà
không trông thấy Thái Sơn xin ngài tha lỗi, mà cho biết đại danh là gì?
Người kia vội đáp lễ mà rằng:
- Thưa ngài, tôi là thủ túc của
Vương Đầu Lĩnh, tên là Chu Quý, nguyên người ở phủ Nghi Châu, huyện Nghi Thủy,
đám giang hồ thường gọi tôi là Hãn Địa Hốt Luật xưa nay. Nay trong sơn trại cắt
tôi ra giả danh mở một ngôi hàng ở đây, chỉ cốt để thám thính những kẻ qua
người lại, ai có tiền của thì lên báo với sơn trại, mà ai côi cút không có gì
thì để mặc cho đi, kẻ nào có của cải đến đây, nhẹ ra thì cho uống thuốc mê, mà
nặng ra thì tất phải kết quả tính mạng, rồi thái thịt phơi khô mà lấy mỡ đốt
đèn ngay lập tức. Vừa rồi vì thấy ngài hỏi thăm đường vào Lương Sơn Bạc, cho
nên không dám hạ thủ, sau thấy ngài viết tên lên vách, bấy giờ tôi mới biết
ngài là bậc anh hùng có tiếng đã lâu, cũng may mà tôi được gặp ở đây, thực là
vạn phúc. Vả chăng lại có Sài Đại Quan Nhân tiến cử, thì ngài tới nơi, tất là
được trọng dụng chớ chẳng chơi.
Nói xong sai tửu bảo lại dọn rượu
thiết đãi Lâm Xung. Hai người cùng ngồi ở Thủy Đình uống rượu hồi lâu, rồi Lâm
Xung hỏi Chu Quý rằng:
- Bây giờ làm sao có thuyền mà đi
vào Lương Sơn Bạc được?
- Ngài cứ nghỉ ngơi đây một tối, rồi
sáng mai khắc có thuyền để tôi cùng đi với.
Đoạn rồi hai người cùng đi nghỉ.
Sáng hôm sau vào khoảng trống canh năm, Chu Quý đã gọi Lâm Xung dậy, súc miệng
rửa mặt rồi cùng nhau uống dăm ba chén rượu, ăn qua loa một chút điểm tâm. Lúc
bấy giờ trời còn lờ mờ chưa sáng thực, Chu Quý đi ra Thủy Đình, mở cánh cửa rồi
lấy một cái cung, đặt tên nhắm vào thẳng một đám lau lách ở trong bến nước mà
bắn ra một phát. Lâm Xung thấy vậy, hỏi Chu Quý rằng:
- Bắn như thế là ý gì?
- Đó là hiệu tên của sơn trại ở đây,
bắn thế một lát có thuyền bây giờ.
Được một lát, quả nhiên có năm bảy
tên lâu la nhỏ, chèo một cái thuyền đến bên cạnh Thủy Đình, Chu Quý liền vẫy
Lâm Xung mang các đồ đao trượng hành lý mà xuống thuyền. Thuyền chèo vào vũng
Kim Sơn, mà đi đến bến, Chu Quý cùng Lâm Xung bước lên trên bờ để mấy đứa tiểu
lâu la, đeo khăn gói vác đao trượng đi theo sau lên sơn trại, còn mấy đứa tiểu
lâu la, chèo thuyền tấp về một chỗ.
Lâm Xung lên đến bờ, nom hai bên
toàn thị cây lớn đẫy ôm, rồi thấy một tòa Đoạn Kim Đình ở ngay lưng chừng núi.
Đi một lát nữa đến một tòa cổng lớn, mặt trước bày dàn các đồ gươm giáo cung nỏ
mác phạng roi...toàn xếp những gỗ súc đá đạn rất là oai vệ. Hai bên lối đi dàn
các hiệu cờ đội ngũ, rồi lại đi qua hai lần cổng nữa, mới tới cửa trại. Bấy giờ
Lâm Xung nhìn khắp bốn mặt non cao, ba tòa cửa rộng, lại có miếng đất phẳng lỳ
như mặt kính, chu vi chừng ba bốn trăm trượng. Ở giữa, ngay giữa chỗ khe núi
vào là tòa cửa chính còn hai cái phòng xép ở ra hai bên, Chu Quý đưa Lâm Xung
đi qua cửa vào đến Tụ Nghĩa Sảnh, thấy khoảng giữa kê một cái ghế chéo, Bạch Y
Tú Sĩ Vương Luân ngồi đấy. Bên tả cũng một cái ghế chéo, Mô Tước Thiên Đỗ Thiên
ngồi, còn bên hữu một cái ghế nhỏ, Vận Lý Kim Cương Tống Vạn ngồi. Chu Quý đưa
Lâm Xung đến trước mặt chào ba người, rồi Lâm Xung đứng bên cạnh Chu Quý.
Chu Quý nói với ba người kia rằng:
- Ông này là ông Lâm Xung làm chức
Giáo Đầu dạy 80 vạn Cấm Quân ở bên Đông Kinh, tên hiệu Báo Tử Đầu Lâm Xung vì
Cao Thái Úy hãm hại, phải đi đày sang Thương Châu, rồi lại bị người lập kế đốt
mất thảo trường, cho nên bất đắc dĩ phải giết chết ba người mà đi trốn vào nhà
ông Sài Tiến. Nay ông Sài Tiến có đưa thư tiến cử để nhập đảng vào đây, xin
trình để chư huynh biết...
Lâm Xung thấy Chu Quý nói liền lấy
thư đưa ra, Vương Luân cầm lấy thư bóc xem rồi, mời Lâm Xung ngồi vào ghế thứ
tư, còn Chu Quý thì ngồi vào ghế thứ năm. Nhất diện lại sai tiểu lâu la đem
rượu lên rót ba tuần rồi mới hỏi thăm đến chuyện Sài Đại quan nhân.
Lâm Xung thấy hỏi đáp rằng:
- Sài Đại quan nhân chỉ ngày ngày đi
ra ngoài nội săn bắn làm vui, không có việc chi là lạ.
Vương Luân hỏi han hồi lâu, rồi tự
nghĩ một mình rằng:
- Mình là một anh học trò thi hỏng,
chỉ vì bực chí mà dắt Đỗ Thiên lên đây lạc thảo, rồi sau mới có Tống Vạn đem
được ít binh mã mà tụ họp thêm vào. Nhưng khốn vì mình đây võ nghệ cũng chẳng
biết gì, mà Đỗ Thiên, Tống Vạn thì cũng loàng nhoàng chẳng được bằng ai, vậy mà
lại rước một anh này đến đây, trước anh ta đã làm chức Giáo Đầu, tất cao cường
võ nghệ, ngộ sau này biết thóp mà tranh chiếm chúng mình, thì cự địch làm sao
cho nổi? Âu là ta
chối phắt cho hắn đi chỗ khác là hơn. Như thế thì cũng có điều hơi ngại với Sài
Đại quan nhân, mà mang tiếng là thằng bội bạc, song cũng không thể nào mà dung
được hắn ở đây.
Nghĩ đoạn liền sai đặt tiệc để thiết, Lâm Xung cùng các
bạn hảo hán trên trại. Khi ăn tiệc xong, Vương Luân sai tiểu lâu la lấy một cái
mâm 50 lạng bạc, và cây lụa lên, rồi đứng dậy mà nói với Lâm Xung rằng:
- Không mấy khi Sài Đại quan nhân lại giới thiệu cho Giáo
Đầu đến tiểu trại chúnh tôi, để vào đảng, thực chúng tôi lấy làm may mắn. Song
hiềm vì chúng tôi ở đây trại nhỏ, lương ít, nhà cửa chật hẹp, sức vóc yếu đuối,
sợ sau này lại lỡ mất đường tiến thủ của ngài. Vậy nay gọi có chút lễ mọn xin
ngài chấp nhận lấy, và ngài liệu đi tìm chỗ khác mà lập chí, thì có lẽ tiện
hơn. Xin ngài chớ lấy làm lạ mà ngờ bụng chúng tôi.
Lâm Xung nghe nói liền từ chối mà rằng:
- Chúng tôi nghìn dặm tìm danh nhân, muôn dặm tìm minh
chủ, nay nhờ được Sùài Đại quan nhân tiến cử đến đây, để cùng các ngài theo
đuổi, vậy chúng tôi tuy tài hèn mọn, cũng xin hết sức bình sinh, không có điều
chi siểm nịnh, dám xin các ngài rộng lòng cho ở lại đây. Chúng tôi thực không
phải là cốt đến đây để lấy tiền tặng của các ngài, xin Đầu Lĩnh xét cho.
- Hãy hay rằng vậy, nhưng ở đây nhỏ hẹp thế này, để ngài
ở làm sao được. Ngài chớ nghĩ chúng tôi có bụng gì đâu.
Chu Quý nghe Vương Luân nói liền can rằng:
- Dám thưa Ca Ca tôi nói câu này, xin Ca Ca thứ lỗi cho,
trong trại ta đây lương thực tuy ít, cũng có thể lấy thêm được ở các nơi, nhà
cửa tuy không chỉnh đốn, cũng có thể lấy gỗ lạt trong rừng mà làm thêm được. Vậy
thì Sài Đại quan nhân đã tiến cử Lâm Giáo Đầu sang đây, có lẽ lại để người đi
đâu cho tiện? Vả lại Sài Đại quan nhân trước đã có ơn với sơn trại ta đây, nay
nếu làm như vậy, mà quan nhân biết ra tất là mang tiếng không hay. Huống chi
Lâm Giáo Đầu lại là một người giỏi về võ nghệ, ở đây hẳn cũng làm được việc
hay, vậy có điều chi mà ngại?
Đỗ Thiên cũng nói rằng:
- Trong sơn trại ta hẹp gì một người mà không thu lưu
được! Nếu Ca Ca làm thế, e khi Sài Đại quan nhân biết đến, thì tất là đeo điều
bội nghĩa vong ân. Phương chi ngày trước ta nhờ vả cũng nhiều, thế mà ngày nay
tiến cử một người đến đây, mà ta lại thoái thác không nhận, thì nghe sao cho
xuôi?
Tống Vạn cũng khuyên Vương Luân rằng:
- Ta nên nể lòng Sài Đại quan nhân mà lưu Lâm Giáo Đầu
làm chức Đầu Lĩnh ở đây là phải, nếu không thì bọn giang hồ người ta tất nhiên
cười ta là lũ vô nghĩa không ra gì.
Bấy giờ Vương Luân quay ra bảo các người cùng đảng rằng:
- Anh em không biết, người ta ở Thương Châu, đã gây ra
những tội tầy trời, nay lại lên sơn trại ta đây, ngộ nhỡ ra không phải là người
tâm phúc, mà định đến để dò xét thực hư, thì ta làm thế nào?
Lâm Xung nói:
- Tôi vì phạm tử tội, trốn tránh đến đây một mình, còn có
điều chi mà các ngài lấy làm ngờ nữa.
Vương Luân nói:
- Nếu quả thực là có lòng vào đảng với chúng tôi, thì xin
nộp một đầu danh trạng để làm tin.
- Vâng, chúng tôi cũng biết vọc vạch được dăm ba chữ, xin
cho đem giấy bút đây, để tôi viết đầu danh trạng.
Chu Quý nghe nói cười bảo Lâm Xung rằng:
- Không phải thế, Lâm Giáo Đầu ơi! Phàm đám hảo hán muốn
nhập bọn với nhau, tất phải có đầu danh trạng, đầu danh trạng này là xuống núi
giết được một người mà lấy thủ cấp lên đây, cho mọi người đều tin theo bụng
mình, chứ có phải là giấy đầu danh đâu?
Lâm Xung nói:
- Cái đó thì cũng dễ, để tôi xuống núi, xem có ai là tôi
làm được ngay, nhưng chỉ sợ không có ai đi qua lại thì làm thế nào?
Vương Luân ra lệnh rằng:
- Tôi hẹn cho ông trong ba ngày, nếu có đầu danh trạng,
thì xin lưu lại ở đây, bằng không thì ông đừng trách chúng tôi nữa.
Lâm Xung cúi đầu vâng lời. Đêm hôm ấy chè chén, xong rồi,
Chu Quý lại trở về tửu điếm, còn Lâm Xung thì đem các đồ hành lý đao trượng mà
đến ngủ ở phòng khách.
Sáng hôm sau Lâm Xung dậy cơm nước xong, rồi gọi một tên
lâu la chở thuyền đưa ra ngoài núi, đến một chỗ đường con vắng vẻ để đợi khách
qua lại, mà lấy đầu danh trạng. Đợi suốt từ sáng đến tối, không có một người
nào qua lại ở đó, Lâm Xung lấy làm buồn bã, lại phải cùng tiểu lâu la mà cùng
trở về sơn trại.
Khi về tới trại, Vương Luân hỏi rằng:
- Đầu danh trạng ở đâu?
Lâm Xung đáp:
- Ngày hôm nay không có một ai qua lại, cho nên chưa làm
sao lấy được.
- Nếu ngày mai không có nữa, thì khó lòng mà ở đây được.
Lâm Xung nghe vậy, thì không dám nói gì, song trong lòng
hơi buồn bực không vui.
Sáng hôm sau cơm nước xong, lại cùng tên tiểu lâu la
xuống núi, tiểu lâu la lại đưa Lâm Xung sang mạn núi bên nam, nấp ở trong rừng,
đợi suốt từ sáng đến trưa, cũng không thấy một ai cả.
Mãi sau có bọn tới 300 người, liền lũ với nhau qua đó,
Lâm Xung thấy vậy, đành giương mắt nhìn họ đi mà không dám hạ thủ. Đoạn rồi lại
rình mãi đến tối, cũng không có một người nào đi qua nữa.
Lâm Xung lấy làm bực dọc, bảo với tiểu lâu la rằng:
- Vận ta đen quá, đến nỗi hai ngày hôm nay không có một
mống nào, đi lẻ loi ở đây cả, như thế biết làm sao bây giờ?
Tiểu lâu la nói:
- Ngài hãy cứ khoan tâm, còn một ngày mai nữa, tôi xin
đưa ngài sang mạn núi bên đông kia, thì may ra có thể kiếm được.
Nói đoạn cùng trở về sơn trại.
Khi về tới nơi, Vương Luân lại nói rằng:
- Hôm nay thế nào, đầu danh trạng đâu?
Lâm Xung chỉ biết thở dài, mà không biết trả lời làm sao
được. Vương Luân lại cười mà bảo rằng:
- Ngày nay lại không có rồi! Thôi tôi hẹn ba ngày, mà nay
đã hết hai rồi, còn một ngày mai nữa, nếu không có, thì xin ngài cứ đi đâu cho,
chứ không nên gặp nhau nữa.
Lâm Xung nghe thấy vậy, thì trong lòng lấy làm phiền não,
chỉ trông trời mà than thở một mình. Hết một đêm hôm ấy, lại đến sáng hôm sau,
Lâm Xung lại ăn qua loa một ít cơm, rồi sắp cả khăn gói vào lưng, và vác cây
thanh đao lớn, cùng với tiểu lâu la đi xuống phía núi bên đông để đón.
Khi tới sườn núi, đứng nấp ở bên trong khu rừng, ước từ
sáng đến trưa, tịch không một ai qua lại.
Bấy giờ gặp buổi tuyết tàn mới tạnh, bóng ác sáng soi,
Lâm Xung bảo với tiểu lâu la:
- Vận ta thế nầy đen thực, còn mặt mũi nào trở lại sơn
trại nữa. Vậy bất nhược ngay bây giờ mặt trời chưa tối, ta tiện đây thu lấy
hành lý, mà đi tìm nơi khác là hơn!
Vừa nói dứt lời, thì thấy tên tiểu lâu la trỏ tay ra mà
bảo rằng:
- Kia kìa! Có phải có một người đi đến kia không?
Lâm Xung quay ra nom, thì quả nhiên có một người đang lừ
lừ ở góc núi đàng xa đi đến, chàng liền thở dài một tiếng, ra dáng bất đắc dĩ
trong lòng, rồi vác đao nhảy xổ ra.
Người đi đường trông thấy Lâm Xung nhảy ra, thì kêu một
tiếng rồi vất gánh xuống đường mà vùng chạy tháo thân? Lâm Xung vội vàng đuổi
theo đến chỗ góc núi, thì anh kia chạy ngoắt đi đâu mất không sao bắt được. Bấy
giờ Lâm Xung quay lại bảo với tên lâu la rằng:
- Ngươi xem vậy ta thế có ngán không? Đợi ba ngày mới gặp
một người, thì nó lại chạy mất, còn làm thế nào được nữa?
Tiểu lâu la nói:
- Không hề chi ngài dẫu không giết được người, nhưng đã
có gánh lụa đây cũng có thể thay vào được.
- Nếu thế thì ngươi gánh về trại trước, để ta đứng đây
đợi lúc nữa xem sao?
Tiểu lâu la vâng lời, gánh gánh lụa đi về trại trước. Chợt
đâu lại có một người to lớn vác một thanh đao ở đâu lù lù đến, Lâm Xung đã mừng
thầm trong bụng: "Chắc là trời giúp cho ta phen này hẳn? "
Vừa nghĩ vậy, thì người kia cầm thanh đao đi đến, quát
lên như sấm vang rằng:
- Đồ ăn cướp kia, muốn sống thì đem trả hành lý của ta. Chính
ta đương muốn bắt chúng bây, nay chúng bây lại còn muốn nhổ râu hùm nữa sao?
Nói đoạn giơ đao nhảy sấn vào mà đánh Lâm Xung, mới hay:
Già gan mới biết gan già,
Giang hồ vùng vẫy ai mà kém ai?
Tuốt gươm đứng dậy hỏi trời:
Nam nhi này chịu thua thời được sao
Không gan ai gọi anh hào,
Không lên, ai biết non cao mấy trùng
Dấn thân trong đám bụi hồng
Một liều bảy, tám, chín lung lung ta
quyết liều.
Lời bàn của Thánh Thán:
Toàn Phong là gió dữ, sức nó quay
tròn từ đất nổi lên, mới đầu thì những bụi than hợp lai, dần dần làm cho đá
chạy cát bay, khiến trời đất tối tăm, người vật đều kinh khiếp, mới gọi là
toàn, tức cơn gió Lốc, ý nói gió Lốc vơ những thứ ác dơ bẩn, quét đi một nơi
như thế vậy. Bến nước có một số người, cũng từ Lâm Xung tới vậy. Mà vợ Lâm Xung
về Bến Nước, thì ra sức của Sài Tiến làm nên. Xét tên của Sài Tiến gọi là Toàn
Phong, thì thấy lời kia dữ lắm, thế mà lại cho làm Tiểu (Toàn Phong) là sao? Ví
Sài Tiến đối với đám người Bến Nước, cũng ví như một cánh bèo, rồi đến Lý Quỳ
cũng vào Bến Nước, khiến trên dưới phân ngôi, làm cho nhật nguyệt đôi vầng
không sáng láng, cho nên lấy làm dữ dội những cơn gió, mà gọi là Hắc Toàn Phong
(tên Lý Quỳ) nay một kẻ kia là Hắc, thì Sài Tiến lại là Tiểu vậy, mới gọi Sài
Tiến làm Tiểu Toàn Phong.
Hồi này một nửa về trước, chỉ bình
thường không lạ, song chép việc cũng đơn giản đủ ý, đến nửa hồi sau, tả Lâm võ
sư uống rượu trong hàng nét bút như qủy lạ, tự đầu muốn lại vồ người, dẫu ngồi
trong lầu gác đọc qua, cũng không thể chẳng vỗ bàn mà kêu khóc vậy.
Tiếp tay tả Vương Luân ghen ghét, đó
cũng là thói quen của lũ ấy, chẳng nói làm chi, chỉ duy chỗ ba ngày sang sông,
mỗi ngày một tả khác, văn bút như vậy, cũng thấy ly kỳ! Rất kỳ là ngày thứ nhất
không thấy bóng người qua; Ngày thứ nhì có đám 300 người qua, làm không đám
động tay; Ngày thứ ba sao thấy một người, lại bị chạy mất, phải đợi đến lần thứ
hai, mới nảy ra một tay đại hán, đều là những đoạn văn kỳ ảo đặc biệt, không thể
bỏ qua. Trong văn có từng chỗ tả tuyết, khéo điểm xuyết ly kỳ...
Ta đọc trong đoạn văn ngày thứ ba,
đến chỗ đánh cướp lấy gánh hàng, với câu trời còn chưa tối, thấy rằng Nại Am là
một bậc tài tử chính đáng, độc giả đời sau, xem nên lưu ý, cho rõ lối hành văn.
Phụ Lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét