XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2019

Ba người lính ngự lâm (Chương 1-14)




Ba Người Lính Ngự Lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Thể loại: Cổ Đại, Phương Tây
D'Artagnan là hậu duệ một dòng dõi quý tộc đã sa sút ở xứ Gascony. Năm 18 tuổi, chàng rời nhà trên một con ngựa còm để đến Paris với mong ước trở thành một lính ngự lâm của vua Louis XIII. Dọc đường, d'Artagnan làm mất lá thư tiến cử của cha mình với ông De Treville, đội trưởng lính ngự lâm, do đó ông này đón tiếp anh không mấy nhiệt tình.

Tiếp đó, d'Artagnan húc trúng vào cái vai đang bị thương của Athos, một lính ngự lâm đầy phong cách quí tộc. Anh này đòi quyết đấu với d'Artagnan vào giữa trưa và được đồng ý ngay. Ngay sau đó, d'Artagnan gặp Porthos, một lính ngự lâm khác rất đô con và mang một dải đeo kiếm cực xịn nhưng d'Artagnan khám phá ra rằng chỉ có mặt ngoài là đẹp thôi, còn bên trong làm bằng da bò. Thế là d'Artagnan có cuộc quyết đấu thứ 2 vào sau buổi trưa.

Cuối cùng d'Artagnan nhặt được một chiếc khăn tay của một lính ngự lâm đẹp trai tên Aramis (khăn của tình nhân của anh này), cãi nhau, và có cuộc hẹn đấu kiếm thứ 3 trong ngày. Đến các buổi hẹn đấu kiếm, d'Artagnan thấy 3 người kia đi cùng nhau, họ là bạn thân. Tuy nhiên luật hồi đó cấm đấu kiếm, và các vệ sĩ của Giáo chủ de Richelieu đến bắt họ. Một cuộc chiến diễn ra và d'Artagnan về phe các ngự lâm quân. Họ chiến thắng và d'Artagnan trở thành bạn thân của ba chàng lính ngự lâm kia. Phương châm của họ là "Một người vì tất cả, tất cả vì một người", một câu mà vế thứ hai được d'Artagnan lợi dụng rất tốt.

Tuy có những cái tên thật ghê tởm và không quí tộc chút nào hết, rõ ràng cả ba anh lính ngự lâm đều là quí tộc và họ dùng tên giả. Athos tỏ ra là một quí tộc cỡ bự, và là người rất quí phái. Porthos thuộc loại thích khoe mẽ, còn Aramis là một anh lăng nhăng nhưng muốn làm mục sư. Tuy chơi với ba anh lính ngự lâm nổi tiếng, d'Artagnan không thể trở thành lính ngự lâm ngay được mà phải đi làm lính gác của ông Des Essart để có kinh nghiệm. d'Artagnan thuê một căn phòng, mướn một tên hầu là Planchet, và đem lòng yêu bà chủ nhà, bà Bonacieux. Bà này còn rất trẻ so với ông chồng già, và là chỗ quen biết với hoàng hậu Anne. Hoàng hậu không yêu đức vua Louis XIII, mà lại lăng nhăng với Quận công Buckingham. Bà đã đem chiếc chuỗi hạt kim cương mà đức vua tặng đem tặng lại cho người yêu. Hồng y giáo chủ de Richelieu biết được chuyện này và dùng kế nói đức vua buộc hoàng hậu phải đeo chuỗi hạt đi dự vũ hội. Thông qua bà Bonacieux, hoàng hậu nhờ d'Artagnan đi lấy lại chuỗi hạt. Thế là d'Artagnan cùng ba người bạn lên đường đi nước Anh, nhưng dọc đường cả 3 đều bị rớt lại do những lí do khác nhau, chỉ mỗi d'Artagnan đến được nước Anh và đem chuỗi hạt về. Đêm dạ hội, hoàng hậu đeo chuỗi hạt và ông giáo chủ bẽ mặt.

d'Artagnan lại quay lại để tìm các bạn mà anh bỏ lại dọc đường. Nhưng ông giáo chủ de Richelieu không phải là người dễ tha thứ, và bà Bonacieux bị bắt cóc. d'Artagnan không thể tìm được bà, nhưng lại gặp Milady de Winter, em dâu của bá tước người Anh de Winter, và là một phụ nữ quyến rũ. Như thế là anh kiếm được tình nhân đầu tiên. Tuy nhiên d'Artagnan sớm khám phá ra Milady có một bông hoa huệ trên vai, dấu ấn của một tội phạm, và cô ta chẳng phải người Anh mà là một gián điệp. d'Artagnan lăng nhăng với cô hầu của Milady và lợi dụng cô này để vạch mặt Milady và ăn cắp được một chiếc nhẫn sapphire. Milady nổi khùng cầm dao dí d'Artagnan nhưng anh chạy thoát được.Giáo chủ de Richelieu ở La Rochelle.



La Rochelle nổi loạn và d'Artagnan phải lên đường ra trận trong khi lính ngự lâm vẫn chưa xuất phát. Cả 4 người đều nghèo đói và chuẩn bị quân trang là một thử thách lớn. d'Artagnan bán chiếc nhẫn chôm được của Milady và chia đôi với Athos. Athos nhận ra chiếc nhẫn này là cái mà anh tặng vợ cũ của mình. Porthos đi lừa tiền của bà biện lý, bà này mê tít Porthos và lấy tiền của ông chồng già cho Porthos, cộng với con ngựa còm mà d'Artagnan trước đó đã bán đi. Aramis cũng kiếm được tiền từ các tình nhân của anh. Ở La Rochelle, họ phát hiện ra Milady được lệnh đi ám sát Quận công Buckingham, để đổi lại cô ta muốn giáo chủ de Richelieu giết d'Artagnan. d'Artagnan phái tên hầu là Planchet đi báo tin cho Buckingham, và Milady bị tóm cổ ở Anh. Ở La Rochelle, d'Artagnan và ba người bạn đi ăn sáng và chống lại cả một "quân đoàn" của địch. Với chiến tích này, anh được lên chức làm ngự lâm quân. Hoàng hậu giải cứu được Constance Bonacieux và họ lập tức đi đến nơi cô bị giam giữ.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 1

Ba tặng vật của ông D' Artagnan bố.

Ngày thứ hai đầu tiên của tháng tư năm 1625, thị xã Măng (1) nơi sinh tác giả của cuốn Tiểu thuyết Hoa hồng dường như trong một cơn cách mạng như thể người theo giáo phái Canvanh(2) lần thứ hai lại tới vây hãm Pháo thành La Rochelle(3). Nhiều thị dân thấy đàn bà ở phố lớn chạy trốn, trẻ con kêu khóc nơi ngưỡng cửa, liền vội vã khoác chiến bào, và bằng một khẩu hỏa mai hoặc ngọn giáo để củng cố lòng dũng cảm, hướng về phía lữ quán Chủ cối xay. Trước lữ quán, một nhóm người chen chúc, mỗi lúc một đông thêm, nhốn nháo, ồn ào và đầy vẻ tò mò.

Thời buổi ấy, những cơn hoảng loạn luôn xảy ra, không mấy khi lại không có thành phố này, thị trấn nọ ghi ký vào sổ lưu trữ của mình một sự kiện nào đó thuộc loại ấy. Các lãnh chúa chinh phạt lẫn nhau. Quốc vương khai chiến với Giáo chủ. Tây Ban Nha khai chiến với Quốc vương. Rồi thì, ngoài những cuộc chiến thầm lặng hoặc công khai, bí mật hoặc đường hoàng, lại còn bọn trộm cắp, lũ ăn mày, bọn giáo phái Canvanh, lũ sói, bọn lính hầu khai chiến với tất cả mọi người. Thị dân luôn vũ trang chống bọn trộm cướp, chống lại lũ sói, chống lũ lính hầu, cũng thường chống lại các lãnh chúa và bọn giáo phái Canvanh, đôi khi chống cả nhà Vua, nhưng không bao giờ chống lại Giáo chủ và nước Tây Ban Nha. Do đã quen như vậy nên ngày thứ hai tháng tư năm 1625 nói trên, nghe thấy tiếng náo động nhưng không thấy màu cờ vàng và đỏ(4) eũng chẳng thấy bóng dáng đồng phục gia binh của Quận công Richelieu, đám thị dân liền đâm bổ về phía lữ quán Chu cối xay. Đến đó rồi, ai cũng thấy và nhận ra nguyên nhân sự náo động.

Một chàng trai trẻ, hãy phác chân dung chàng bằng một nét bút thôi: Các bạn hãy hình dung một Đông Kihôtê(5) mười tám tuổi, Đông Kihôtê bị lột vỏ, không áo giáp, không xà cạp, chỉ mặc áo chẽn ngắn bằng len màu xanh lơ đã biến thành một màu nâu, tả giữa cặn rượu vang và da trời. Mặt dài sạm nâu, gò má cao, dấu hiệu của sự giảo hoạt, quai hàm bành rộng, nhân dạng không lẫn được của người Gátxcong ngay cả khi không có mũ nồi, mà chàng trai trẻ của ta lại đội mũ nồi gắn lông chim, mắt mở to và thông minh, mũi khoằm, nhưng thanh tú, có vóc người quá to đối với chàng trai sắp thành niên, mà một con mắt ít từng trải hẳn đã cho đó là con trai một chủ trại đi du hành, nếu không có thanh gươm dài treo lơ lửng trên dải đeo bằng da, đập vào bắp chân người chủ khi đi bộ và đập vào lớp lông dựng đứng của con vật cưỡi.

Do chàng trai trẻ có một con ngựa và con vật đó rất chi đặc biệt khiến người ta phải chú ý: đó là một con nghèo nhỏ vàng Bearn khoảng mười hai hoặc mười bốn tuổi, màu vàng áo, không bờm đuôi, nhưng không phải không có chai ở các vó và khi đi, đầu thõng xuống quá dưới gối, khiến cho việc thắng cương đai trở nên vô ích mà vẫn đi nổi tám dặm một ngày. Không may thay, những phẩm chất của con nghẽo lại bị che giấu hết dưới bộ lông kỳ dị và dáng đi khiếm nhã của nó, khiến cho trong cái thời mà mọi người đều sành ngựa, thì việc một con nghẽo nhỏ con của xứ Măng nói trên, mười lăm phút trước đây, qua cửa ô Bôgiăngxi, lọt vào xuất hiện ở đây đã tạo nên một cảm giác thiếu thiện cảm lan sang cả tới chủ nhân của nó.

Và cái cảm giác ấy lại còn nặng nề hơn đối với chàng D' artagnan trẻ tuổi (được mệnh danh là chàng Đông Kihôtê của con ngựa Rốtxirăngtê khác là vì như thế đến nỗi chàng chẳng hề giấu mình cái khía cạnh lố lăng đem đến cho chúng, dù chàng có là một kỵ sĩ cừ khôi đến mấy với con nghẽo như thế, cũng như chàng đã thườn thượt thở dài khi nhận món quà mà ông D' artagnan bố đã ban tặng. Chàng không phải không biết một con vật như thế ít ra cũng đáng giá hai mươi đồng vàng, còn những lời lẽ kèm theo món quà thì là vô giá.

- Này con!

Vị quý tộc xứ Gascogne nói bằng thứ tiếng thuần Bearn mà Vua Henri IV chẳng bao giờ có thể nói khác nổi:

"Con ngựa này sinh ra trong ngôi của cha con, đã sống ở đây từ bấy đến nay, sắp tròn mười ba tuổi, sẽ khiến con phải yêu quý nó. Đừng bao giờ bán nó, hãy để nó được chết già trong danh dự và lặng lẽ. Nếu con đi đường cùng nó, hãy đối xử với nó như với một lão bộc. Tới triều đình - Ông D' Artagnan bố nói tiếp - nếu có vinh dự đến đó, thật ra vinh dự thì dòng dõi quý tộc lâu đời của con đã cho con quyền đó rồi, hãy bảo vệ xứng đáng danh hiệu quý tộc của con, danh hiệu mà tổ tiên đã giữ nó một cách xứng đáng hơn năm trăm năm nay, hãy bảo vệ nó vì con và vì những người thân của con, ý cha muốn nói đấy là cha và bạn bè con. Đừng bao giờ ủng hộ ai mà chỉ với Giáo chủ và nhà Vua. Hãy nghe cho rõ, thời buổi bây giờ, một người quý tộc chỉ lập nghiệp bằng lòng dũng cảm, chỉ riêng lòng dũng cảm của mình thôi. Kẻ nào run sợ trong giây phút có thể để tuột mất cơ may mà chỉ đúng trong giây phút đó vận may mới chìa tay với họ. Con còn trẻ, con phải can trường bởi hai lẽ: thứ nhất, chính vì con là dân Gátxcông và thứ hai, con là con bố. Đừng sợ những cơ hội và hãy tìm kiếm những cuộc phiêu lưu. Bố đã cho con học múa gươm. Con có khoeo chân sắt, cổ tay thép, hãy chiến đấu vào mọi lúc, các cuộc quyết đấu càng bị cấm đoán, do đó càng phải chiến đấu bằng gấp đôi lòng dũng cảm. Con trai ạ, ta chỉ có mười lăm đồng vàng, con ngựa của ta và những lời khuyên như con vừa nghe để cho con. Mẹ con sẽ thêm vào đó cách chế một món thuốc cao học được của một bà Bôhêmiêng, có một công năng kỳ lạ chữa khỏi mọi vết thương không chạm vào tim. Hãy tận dụng mọi cái, và hãy sống hạnh phúc và trường thọ, ta chỉ còn một điều nữa để nói thêm, đó chính là tấm gương ta nêu với con, không phải của ta, bởi ta chưa bao giờ có mặt ở triều đình, mà ta chỉ tình nguyện tham gia chiến tranh tôn giáo, mà ta muốn nói đến ông Treville xưa từng là láng giềng của ta, người đã có vinh dự khi còn tấm bé đã chơi với Vua Louis XIII của chúng ta. Đôi khi trò chơi của họ chuyển thành các trận choảng nhau, và trong những trận chiến ấy nhà Vua không phải lúc nào cũng là kẻ mạnh hơn.

Những miếng đòn nhà Vua nhận được khiến Ngài càng thêm khâm phục, và thân thiết nhiều hơn với ông Treville. Sau này lần đầu tiên trong chuyến đến Paris, ông Treville đã chiến đấu chống lại những kẻ khác năm lần. Từ eái chết của nhà Vua quá cố đến khi nhà Vua trẻ trưởng thành, không kể các cuộc chiến tranh và các cuộc vây thành, ông chiến đấu bảy lần, và từ khi nhà Vua trưởng thành đến nay, có lẽ tới trăm lần. Vì vậy, mặc dầu những pháp lệnh, những chỉ dụ, những sắc lệnh(6) thế mà thấy không, ông vẫn cứ là đại úy ngự lâm quân, có nghĩa là chỉ huy binh đội Céda mà nhà Vua chủ yếu dựa vào đó, còn Giáo chủ thì kiêng nể, vị Giáo chủ như mọi người đều biết, có kiêng nể điều gì đâu.

Hơn nữa, ông Treville kiếm mười nghìn đồng tiền vàng mỗi năm, vậy là cỡ một đại lãnh chúa mạnh rồi. Ông ta cũng khởi đầu như con. Hãy đến gặp ông cùng với bức thư này, và hãy noi gương ông để làm sao được như ông".

Tới đây, ông D' Artagnan bố đeo thanh kiếm của mình, cho con trai, trìu mến ôm hôn chàng lên hai bên má và cầu phúc cho chàng.

Rời khỏi phòng cha, chàng trai thấy mẹ mình đang đợi mình với phương thuốc trứ danh, theo lời dặn dò của ông bố sẽ luôn luôn cần đến cho chàng. Cuộc giã biệt ở đây lâu la hơn và trìu mến hơn "cuộc giã biệt" vừa rồi, chẳng phải vì ông D' Artagnan bố không yêu con trai, kẻ nối dõi độc nhất của mình, nhưng ông ta là một người đàn ông và sẽ bị xem là không xứng đáng khi phó mặc mình cho cảm xúc, còn như bà D' Artagnan, bà là đàn bà, hơn nữa là mẹ. Bà khóc sướt mướt, và phải khen chàng D' Artagnan con, đã cố gắng để tỏ ra cứng rắn như một ngự lâm quân tương lai cần phải thế, nhưng bản năng cuốn chàng theo khiến nước mắt chàng lã chã tuôn rơi, khó khăn lắm mởi giấu đi được một nửa.

Cùng ngày hôm ấy, chàng trai trẻ lên đường mang theo ba tặng vật của cha như đã nói, gồm mười lăm đồng vàng, con ngựa và bức thư cho ông Treville, hơn nữa có cả những lời khuyên nữa.

Với một hành trang như vậy, D' Artagnan thấy mình về tinh thần cũng như thể xác, như một bản sao chính xác nhân vật của Xécvăngtéc mà ta đã đem ra so sánh một cách rất chi thích đáng, khi mà nhiệm vụ của một sử gia buộc chúng tôi cần thiết phải phác họa chân dung chàng. Đông Kihôtê coi những cối xay gió như những gã khổng lồ và lũ cừu là nhứng đoàn quân, còn D' artagnan lại coi mỗi nụ cười là một sự lăng mạ và mỗi cái nhìn là một sự khiêu khích. Vì vậy, dọc đường từ Tarbes (7) đến Măng, chàng luôn giữ chặt nắm đấm, và tay kia vì lý do này khác đặt lên đốc gươm đến mươi lần trong ngày, tuy nhiên nắm đấm chưa hề quai xuống hàm ai và gươm cũng không hề tuốt ra khỏi vỏ. Không phải con nghẽo con màu vàng hãm tài kia không gây cười trên khuôn mặt khách qua đường, mà chính vì bên sườn con ngựa còi ấy còn lạch phạch một thanh gươm dài đáng nể, và bên trên long lanh con mắt nom có vẻ dữ tợn hơn là kiêu hãnh, khách qua đường vì vầy thường cố nén để không rũ ra cười, hoặc dù cẩn tắc cũng không nén nổi, cũng phải cố chỉ cười nửa miệng giống như nhửng vai hề cổ. Cho nên D' Artagnan vẫn đường đường oai phong, không sao trước cái tính nóng nảy cố hữu cho tới khi đến cái thị trấn Măng khốn khổ này.

Nhưng nơi đây khi chàng vừa xuống ngựa trước cửa lữ quán Chủ cối xay, chẳng người nào, từ chủ quán, hầu bàn, người coi ngựa, tới giữ bàn đạp ngựa cho chàng ở bậc lên xuống ngựa.

D' artagnan trông thấy ở khuôn cửa sổ hé mở của tầng trệt một nhà quý tộc, vóc dáng đẹp, vẻ kiêu kỳ, tuy nét mặt hơi cau có đang nói gì đó với hai người đang nghe một cách kính nể. Theo thói quen, D' Artagnan hoàn toàn tự nhiên tin rằng mình là đối tượng của câu chuyện và lắng nghe. Lần này chàng chỉ nhầm có một nửa: vấn đề không phải là chàng mà là con nghẽo của chàng. Gã quý tộc như đang liệt kê cho đám người nghe tất cả các thuộc tính của con nghẽo và như vì đã nói, người nghe xem ra rất kính nể người kể chuyện, mỗi lúc họ lại phá lên cười. Mà chỉ một nửa nụ cười cũng đủ khơi dậy cái tính dễ nổi cáu của chàng trai trẻ, sẽ hiểu ngay những chuỗi cười ầm ĩ như thế sẽ tạo nên hiệu quả thế nào đối với chàng.

Thế nhưng D' artagnan trước hết muốn thấy rõ được bộ mặt của kẻ hỗn xược đang nhạo mình. Chàng găm cái nhìn kiêu hãnh vào kẻ lạ mặt và nhận ra một người đàn ông khoảng bốn mươi, bốn nhăm tuồi, đôi mắt đen và sắc nhọn nước da xanh tái, mũi rất cao, ria mép đen, tỉa xén hoàn hảo. Hắn ta mặc áo chẽn ngắn và quần ống túm màu tím có tua cùng màu, không có bất kỳ trang sức nào ngoài những rãnh xẻ quen thuộc để luồn áo lót qua đó. Quần ống túm và áo chẽn màu dù còn mới, lại có vẻ dầu dãi như những trang phục du hành xếp kín lâu trong valy lớn.

D' artagnan tiếp nhận tất cả những đặc điểm đó với sự mau lẹ của một quan sát viên tỉ mỉ nhất và chắc chắn bởi một linh tính mách bảo chàng rằng con người xa lạ kia ắt có một ảnh hưởng lớn đến đời chàng sau này.

Đúng lúc D' Artagnan chăm chăm nhìn vào nhà quý tộc mặc áo chẽn tím, hắn ta đưa ra một nhận xét hóm hỉnh nhất và sâu sắc nhất về xứ sở của con nghẽo còi vùng Bearn, hai thính giả của hắn phá lên cười, còn bản thân hắn, trái với thói quen thường lệ, cũng để lộ cho mọi người thấy, lướt qua một nụ cười nhợt nhạt trên bộ mặt hắn. Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa, D' artagnan đã thực sự bị lăng nhục. Vì thế, tin chắc như vậy, kéo mũ xuống tận mắt, và cố bắt chước một số điệu bộ trong chốn triều đình mà chàng bất ngờ bắt gặp ở những bậc vương công du hành qua vùng Gátxcông, chàng tiến lên, một tay đặt vào chuôi gươm và tay kia chống háng. Khốn nỗi, càng tiến lên, cơn giận mỗi lúc càng làm chàng thêm mù quáng, đáng lẽ phải có một khẩu khí trang trọng và kiêu hãnh mà chàng đã chuẩn bị để phô diễn sự thách thức của mình, chàng chỉ còn thấy nơi đầu lưỡi ngôn từ của một nhân cách thô lỗ kèm theo cách hành xử cuồng dại.

- Này, ông kia! - Chàng hét lên - Cái ông nấp sau cánh cửa sổ kia! Phải, chính ông, hãy nói ta nghe xem ông cười cái gì nào, rồi chúng ta sẽ cùng cười.

Nhà quý tộc chậm rãi đưa mắt nhìn từ con ngựa lên chàng kỵ sỹ, như thể cần phải có thời gian ấy để hiểu rằng những lời trách móc lạ lùng đến thế chính là dành cho mình, rồi không thể nghi ngờ gì nữa, đôi lông mày hơi cau lại, và sau khoảng lâu dừng lại, hắn ta trả lời D' artagnan bằng một giọng mỉa mai và xấc xược không thể tả được:

- Tôi không nói với ông, thưa ông.

- Nhưng ta, ta nói với ông!

Chàng trai trẻ giận sôi lên và hét to, trước thái độ vừa xấc xược vừa nhã nhặn, vừa lịch thiệp vừa khinh thị pha lẫn với nhau.

Kẻ xa lạ còn nhìn chàng một lát rồi với nụ cười thoáng qua rồi ra khỏi cửa sổ, từ từ ra khỏi lữ quán đi về phía D' Artagnan cách hai bước chân rồi đứng thẳng đối mặt với con nghẽo. Thái độ bình tĩnh và vẻ mặt châm biếm của hắn càng khiến cho bọn người vừa chuyện trò với hắn, vẫn ở nơi cửa sổ cười to gấp đôi.

D' Artagnan thấy hắn tiến đến, liền rút gươm nhích ra khỏi vỏ hơn một gang tay.

- Con ngựa này chắc chắn, hay đúng hơn lúc trẻ từng có màu vàng cúc áo.

Kẻ xa lạ tiếp tục lặp lại những soi mói đã từng bắt đầu với bọn người nghe của y ở cửa sổ, tựa như không thèm để ý đến cơn điên giận sôi lên của D' Artagnan lúc đó đã đứng ở giữa y và họ.

Đó là một màu rất quen thuộc của thực vật học, nhưng đến nay rất hiếm thấy ở loài ngựa.

Đệ tử của ông Treville giận giữ thét lên:

- Kẻ cười giễu con ngựa là kẻ không dám cười chủ nó!

- Tôi thường không hay cười, thưa ông. - Kẻ lạ mặt tiếp - Tự ông, ông cũng có thể thấy như thế trên vẻ mặt của tôi, song tôi vẫn bảo lưu đặc quyền được cười khi tôi thích.

- Còn ta - D' Artagnan - ta không muốn người ta cười khi nó làm ta khó chịu.

- Thật thế ư, thưa ngài? - Kẻ lạ mặt tiếp tục với vẻ càng bình tĩnh hơn bao giờ hết - Thế thì, chí lí quá đi rồi?

Rồi quay gót, hắn đang định trở vào lữ quán theo lối cửa lớn mà dưới cửa, khi D' Artagnan đến đây đã thấy một con ngựa đóng sẵn yên cương.

Nhưng D' Artagnan không phải loại dễ bỏ qua như thế với một kẻ đã hỗn xược chế nhạo mình.

- Quay lại! Quay lại nào, ông hay châm biếm, ta không muốn đánh ông phía sau lưng đâu.

- Đánh tôi, tôi ấy à? - Người kia vừa nói vưa quay gót lại nhìn chàng trai trẻ hết sức ngạc nhiên cũng như khinh bỉ - Chà, thế kia đấy. Ông bạn quý, anh điên rồi.

Rồi hạ giọng như thể nói với chính mình:

- Phiền thật. - Y tiếp tục - thế mà Hoàng Thượng cứ phải đi tìm những kẻ can trường ở những đâu đâu để trưng tuyển vào ngự lâm quân của ngài!

Người lạ vừa nói dứt, D' Artagnan đã vươn tay xỉa tới một mũi gươm thịnh nộ đến nỗi nếu không nhanh chân nhảy lùi lại, có lẽ đây sẽ ìà lần cuối cùng hắn được bông đùa. Người lạ mặt lúc đó thấy sự thể đã vượt qua trò nhạo báng, liền rút gươm ra chào địch thủ và nghiêm trang thư thế. Nhưng cũng đúng lúc ấy, hai thính giả của y, kèm theo chủ quán nhảy bổ vào D' artagnan phang chàng bằng những đòn gậy, xẻng, và que gắp than. Điều đó làm chệch hướng thật nhanh chóng, thật hoàn hảo cuộc tấn công, khiến cho trong khi D' artagnan quay lại đối mặt với trận mưa đòn, đối thủ của chàng cũng tra gươm vào vỏ với cùng độ chính xác, và đang suýt là một diễn viên nay lại trở thành khán giả của trận chiến, một vai mà hắn rất thạo với vẻ bình thản thường tình của mình, tuy vẫn không ngớt làu bàu:

- Cái giống Gascogne ôn dịch! Bê hắn lên con ngựa vàng cam của hắn và để hắn xéo đi.

- Không trước khi ta giết mi đâu, đồ hèn! - D' Artagnan vừa hét vừa đem hết sức đối địch, không lùi một bước trước ba kẻ thù, đang phang chàng túi bụi.

- Lại một thói Gascogne ! - Nhà quý tộc lẩm bẩm - Ta thề đấy, lũ Gascogne này đều là lũ bất trị! Nó đã muốn vậy, cứ để nó tiếp tục múa may. Khi nào nó mệt nó sẽ nói nó múa thế đủ rồi.

Nhưng người lạ mặt còn chưa hiểu mình đang phải đương đầu với một kẻ ương bướng đến mức nào, D' Artagnan không bao giờ là người chịu xin thua. Cuộc đấu tiếp tục thêm mấy giây nữa, cuối cùng D' artagnan kiệt sức để tuột gươm, một nhát gậy đánh gãy gươm làm đôi. Một đòn khác nện chàng vào trán gần như cùng một lúc làm chàng lộn nhào. Máu chảy đầm đìa, gần như bất tỉnh.

Chính vào lúc đó, từ mọi phía người ta chạy đến nơi đang xảy ra chuyện. Chủ quán sợ tai tiếng, với sự giúp đỡ của mấy gã hầu bàn, khiêng kẻ bị thương vào bếp, chăm sóc qua loa.

Còn nhà quý tộc thì đã trở lại chỗ cũ bên cửa sổ nhìn đám đông ấy một cách bồn chồn, có vẻ như việc họ cứ đứng ỳ ra đấy làm cho hắn rất bực bội.

- Thế nào, thằng điên ấy ra sao rồi? Hắn quay lại khi nghe tiếng cửa mở, hỏi chủ quán vừa bước vào thăm sức khỏe của hắn.

- Thưa đại nhân, ngài không sao chứ ạ? - Chủ quán hỏi.

- Phải, hoàn toàn vô sự, ông chủ quán thân mến ạ và chính tôi đang muốn hỏi ông chàng trai trẻ của chúng ta ra sao rồi?

- Hắn đang khá hơn. Vừa rồi bất tỉnh hoàn toàn.

- Thật thế ư?

- Nhưng trước khi ngất, hắn còn thu hết tàn lực réo tên ngài và vừa réo vừa thách thức ngài.

- Thế thì cái gã táo tợn ấy đúng là quỷ hiện hình rồi.

- Ồ không! Thưa đại nhân, không phải là quỷ - Chủ quán vừa nói vừa nhăn mặt tỏ ý khinh bỉ - Vì trong khi hắn mê man, chúng tôi đã lục soát hắn, và hắn chỉ có trong bọc hành lý một áo lót và trong túi tiền mười hai đồng vàng. Điều đó không ngăn hắn ta trong khi sắp ngất nói ra rằng nếu sự việc như thế diễn ra ở Paris, ngài sẽ phải hối tiếc ngay tức khắc, còn ở đây ngài sẽ thấy hối tiếc sau này.

- Thế thì - Người lạ mặt lạnh lùng - hắn dòng dõi bậc hoàng thân nào đó cải trang.

- Thưa tôn ông, tôi nói với ngài điều đó - Chủ quán nói tiếp - là để ngài đề phòng.

- Và trong cơn điên giận hắn không nói rõ tên ai?

- Có chứ, hắn vỗ túi nói: "Rồi sẽ thấy ngài Treville sẽ nghĩ thế nào về việc lăng mạ này đối với người được ngài bảo vệ".

- Ông Treville ư? - Người lạ vừa nói vừa đăm chiêu - Hắn vỗ túi và thốt ra tên ông Treville ư? Xem nào, ông chủ quán thân mến, trong khi gã trai trẻ bất tỉnh, tôi tin chắc, ông lại chẳng không nhìn vào chiếc túi đó ư. Túi có gì?

- Một phong thư gửi ngài De Treville, đại úy ngự lâm quân.

- Thật vậy ư?

- Thưa đại nhân, đúng như tôi có vinh dự được nói điều đó với ngài.

Chủ quán, vốn không được phú cho đầu óc mẫn tiệp, không hề nhận thấy những lời nói của mình khiến cho vẻ mặt người lạ thay đổi thế nào. Người đó rời bậc cửa, nơi vẫn chống khuỷu tay, chau mày ra chiều lo lắng.

- Quỷ thật! - hắn thầm thì qua kẽ răng - Treville chả nhẽ lại gửi đến ta tên Gátxcông này? Hắn non trẻ quá! Nhưng một đường gươm vẫn là một đường gươm, bất kể tuổi tác của người vung gươm, và người ta ít coi chừng một đứa trẻ hơn bất kỳ kẻ nào khác. Đôi khi chỉ cần một trở ngại nhỏ để cản phá một mưu đồ lớn.

Người lạ trở nên trầm tư trong ít phút.

- Này chủ quán - hắn nói - có phải ông sẽ không loại bỏ giúp ta cái tên cuồng loạn này? Trong thâm tâm, ta không thể giết hắn, thế nhưng - hắn thêm bằng vẻ đe dọa lạnh lùng - thế nhưng hắn chướng mắt ta lắm. Hắn đang ở đâu?

- Trong phòng vợ tôi - Người ta đang băng bó cho hắn ở tầng gác một.

- Quần áo và bọc hành lý vẫn ở chỗ hắn chứ! Hắn không rời chiếc áo chẽn chứ?

- Trái lại, tất cả đều ở dưới bếp. Nhưng một khi tên nhãi rồ ấy làm phiền ngài...

- Hẳn rồi. Hắn gây ra trong lữ quán của ông một vụ bê bối mà người tử tế không thể chịu nổi. Lên phòng ông đi, thanh toán mọi khoản cho ta, rồi bảo cho người hầu của ta.

- Sao! Ngài rời khỏi chúng tôi à?

- Ông thừa biết đấy, ta chẳng đã ra lệnh thắng yên ngựa của ta ư? Không tuân lệnh ta ư?

- Quá chứ ạ! Như đại nhân có thể thấy đấy, ngựa của ngài ở dưới cửa chính, tất cả đã sẵn sàng để lên đường.

- Tốt lắm, hãy làm cái việc ta đã bảo ông đi.

"Lạ thật! - Chủ quán tự nhủ - Chả lẽ ông ta lại sợ thằng nhãi?".

Nhưng một cái nhìn quyền thế của người lạ kia đã chặn đứng ngay chủ quán. Chủ quán khúm núm chào và đi ra.

Người lạ tự bảo:

- Không nên để Milady bị tên kỳ quặc kia bắt gặp. Thế nào nàng cũng sắp qua đây, vì lúc này coi như đã đến muộn. Tốt hơn là ta cứ lên ngựa đến đón gặp nàng trước. Giá như ta có thể biết bức thư gửi Treville nội dung thế nào? Con người này vừa làu bàu vừa đi về phía bếp.

Trong khi đó, chủ quán tin rằng chính sự hiện diện của gã trai trẻ khiến người lạ mặt kia phải bỏ đi, ông ta liền đi tới phòng vờ mình và thấy D' artagnan đã tỉnh lại. Thế rồi, ông ta giảng giải cho chàng hiểu rằng cảnh sát có thể gây phiền phức cho chàng vì chàng đã gây chuyện với một bậc đại thần, vì theo ý ông ta, người lạ mặt chỉ có thể là một vị đại thần, rồi ông ta thúc ép chàng dẫu còn yếu, cũng nên cố vùng dậy tiếp tụe cuộc hành trình.

D' Artagnan vẫn còn choáng váng, mình không áo chẽn, đầu quấn đầy băng, đứng lên, bị chủ quán vừa kéo vừa đẩy, đành bước xuống thang gác. Nhưng vừa xuống tới bếp, vật đầu tiên chàng trông thấy chính là kẻ đã khiêu khích chàng, hắn đang bình thản nói chuyện ở bậc lên xuống của một cỗ xe nặng thắng hai con ngựa lớn nòi Normande.

Người đàn bà trò chuyện với hắn, đầu tựa như được viền trong khung cửa xe, là một phụ nữ từ hai mươi đến hăm hai tuổi. Chúng ta đã từng nói tới khả năng nắm bắt diện mạo nhanh nhạy của D' artagnan, nên vừa thoạt nhìn, chàng đã thấy ngay người đàn bà trẻ đẹp. Mà cái sắc đẹp ấy lại hoàn toàn xa lạ ở cái xứ sở phương Nam nơi chàng vẫn sống, càng khiến chàng bị choáng. Đó là một phụ nữ, nước da trắng xanh, tóc hung vàng, xõa thành những chuỗi dài xuống hai vai, đôi mắt xanh to u hoài, đôi môi hồng và hai bàn tay như bạch ngọc.

Nàng trò chuyện sôi nổi với người lạ kia.

- Vậy, Đức ông lệnh cho tôi... - Người đàn bà nói.

- Phải quay lại nước Anh ngay tức khắc và trực tiếp báo trước cho ngài (8) nếu Quận công (9) rời London.

- Thế còn những chỉ thị khác cho tôi? - Khách lữ hành xinh đẹp hỏi.

- Tất cả được bọc kín trong chiếc hộp này, và chỉ được mở khi đã ở bờ bên biển Măngsơ.

- Rất tốt. Còn ông, ông làm gì?

- Tôi, tôi trở lại Paris.

- Không trị tội thằng nhãi con hỗn xược sao? - Người đàn bà hỏi.

Người lạ định trả lời, nhưng vừa mở miệng, D' Artagnan đã nghe thấy hết, lao mình tới ngưỡng cửa và hét lên:

- Chính thằng nhãi hỗn xược mới trừng trị kẻ khác. Và ta hy vọng lần này kẻ mà thằng nhóc trừng trị sẽ không thoát khỏi như lần đầu.

- Sẽ không thoát khỏi ư? - Người lạ cau mặt cau mày hỏi.

- Không, trước một phụ nữ, ta cho là ông sẽ không dám trốn.

Milady kêu to khi thấy nhà quý tộc để tay lên gươm:

- Hãy nghĩ kỹ đã, hãy nghĩ, chậm một tý thôi có thể mất hết.

- Nàng có lý - nhà quý tộc nói - Vậy nàng hãy đi theo con đường nàng. Ta đi đường ta.

Và khẽ gật đầu chào người đàn bà, người đó nhảy phắt lên yên ngựa, người đánh xe của cỗ xe cũng quất mạnh đôi ngựa thắng. Hai bên đều phi nhanh về phía ngược nhau trên đường phố.

- Này, còn tiền chi phí. - Chủ quán với gọi, lòng mến khách đối với người lạ đã chuyển thành sự khinh bỉ sâu sắc khi thấy hắn xa dần mà không thanh toán tiền trọ.

- Trả đi, đồ đê tiện! - Người lạ mặt vừa phi ngựa vừa quát tên hầu.

Tên này quăng xuống chân chủ quán vài ba đồng bạc rồi cùng phi theo chủ.

D' artagnan đến lượt mình cùng lao theo tên hầu và la:

- A, đồ hèn! Đồ, khốn nạn! Quý tộc rởm.

Nhưng người bị thương còn quá yếu không thể chịu nổi một cú lao mạnh như vậy. Mới được mươi bước, tai chàng đã ù, đầu hoa lên, máu như dồn lên mắt khiến chàng ngã lăn ra đường phố, nhưng miệng vẫn còn la:

- Hèn! Hèn! Hèn!

- Quả là hắn rất hèn! - Chủ quán vừa lẩm bẩm vừa tới gần D' artagnan, cố nịnh bợ để làm lành với chàng trai tội nghiệp giống như con sếu với con ốc sên buổi tối trong chuyện ngụ ngôn(10).

- Phải, quá hèn - D' Artagnan lẩm bẩm - nhưng nàng, quá đẹp!

- Ai, nàng nào? - Chủ quán hỏi.

D' Artagnan ấp úng:

- Milady ấy.

Rồi chàng lại ngất lần thứ hai.

- Thế là hòa - Chủ quán nói - Ta mất hai, nhưng lại còn được tên này, mà ta tin chắc sẽ giữ lại được ít nhất mấy ngày. Vẫn cứ kiếm được mười một đồng vàng đi.

Mười một đồng vàng vừa đúng là số tiền còn lại trong túi tiền của D' Artagnan.

Chủ quán đã tính theo mười một ngày bệnh, với giá một đồng vàng một ngày, nhưng tính vắng mặt khách trọ. Sáng hôm sau lúc năm giờ, D' artagnan thức dậy, tự mình xuống bếp, yêu cầu cho chàng rượu vang, dầu, cây hương thảo, ngoài các vị thuốc khác ta không nắm được tên, và tay cầm đơn thuốc mẹ chàng cho, chế thành một loại cao, rồi xoa lên các vết thương đầy người, tự thay mới băng gạc và không muốn chấp nhận bất cứ thày thuốc nào giúp chữa. Chắc hẳn nhờ công dụng của loại cao Bôhêm và có lẽ cũng nhờ sự vắng mặt của mọi loại bác sĩ, ngay tối hôm ấy chàng đã tự đi lại được và hôm sau gần như khỏi hẳn.

Nhưng lúc trả tiền cây hương thảo, dầu và rượu vang, khoản chi duy nhất của chủ, gần như tuyệt đối không ăn, thì ngược lại con nghẽo vàng, theo như chủ quán nói, ít ra cũng đã ăn gấp ba lần mức mà người ta coi như hợp lý so với tầm vóc của nó, D' artagnan chỉ thấy trong túi áo mình cái túi đựng tiền bằng nhung đã sờn mười một đồng tiền vàng, còn phong thư ngài De Treville đã biến mất.

Chàng trai trẻ kiên nhẫn tìm bức thư, lộn đi lộn lại đến hai mươi lần những túi áo lớn nhỏ, lục đi lục lại bọc hành lý, mở rồi lại đóng túi đựng tiền, nhưng khi tin chắc không thấy được nữa, lần thứ ba chàng lại rơi vào cơn điên giận suýt nữa lại một phen làm đi tong món dầu thơm và rượu vang. Bởi vì thấy cái đầu kẻ tồi tệ kia bốc nóng và đe dọa đập phá hết đồ nội thất nếu không tìm ra cho chàng bức thư, chủ quán đã vơ lấy một ngọn giáo, vợ y, cán chổi và lũ hầu bàn vẫn những đòn gậy đã sử dụng hôm trước.

Bức thư tiến cử của ta! - D' artagnan gào lên - Bức thư tiến cử của ta! Mẹ kiếp! Nếu không, ta sẽ xiên chả tất cả như nướng chim ngói cho mà xem!

Khốn nỗi, một tình thế đã chống lại chàng trai trẻ, không cho chàng làm được điều đe dọa. Như đã nói, gươm của chàng từ trận đầu đã bị gãy làm đôi mà chàng đã hoàn toàn quên mất. Vì vậy, khi chàng muốn tuốt gươm, chàng chỉ thấy đơn giản trơ một mẩu gươm dài khoảng một gang tay mà chủ quán đã cẩn thận tra vào vỏ. Phần còn lại của lưỡi gươm, tay chủ quán đã khéo léo sửa thành một cái xiên nướng thịt.

Song nỗi thất vọng đó chưa chắc đã ngăn nổi chàng trai hung hăng của chúng ta nếu như chủ quán không nghĩ việc người khách lạ đòi hỏi y là hoàn toàn chính đáng. Hắn hạ mũi giáo xuống hỏi:

- Nhưng thật ra bức thư ấy ở đâu?

- Phải, bức thư ấy ở đâu? - D' artagnan hét - Trước hết ta báo cho ông biết, bức thư ấy là gửi cho ngài De Treville, và nó phải được tìm thấy. Hoặc nếu không tìm thấy, chính ngài sẽ biết cách tìm ra!

Lời đe dọa khiến chủ quán hoảng sợ. Sau Nhà Vua và Giáo Chủ, ngài Treville là người tên tuổi luôn được nhắc đến nhiều nhất trong giới nhà binh và cả trong dân phố nữa. Hẳn là có Đức cha Jôdép nữa, nhưng tên ông không bao giờ được nhắc đến trừ phi thấy giọng thôi để cho thấy nỗi kinh hoàng mà Đức ông xám, kẻ thân cận của Giáo chủ được mệnh danh như vậy, gây ra thế nào.

Thế là chủ quán vứt giáo, ra lệnh cho vợ mình và bọn gia nhân cũng làm theo, vứt hết gậy gộc, tự mình nêu gương cần mẫn đi tìm bức thư. Sau một hồi tìm kiếm không kết quả, chủ quán nói:

- Bức thư đó có cái gì quý giá ư?

Chàng Gátxcông vẫn trông mong bức thư sẽ mở đường cho chàng vào triều đình trả lời:

- Ta tin chắc như vậy. Nó chứa đựng vận mệnh của ta.

- Những ngân phiếu thanh toán ở Tây Ban Nha ư? - chủ quán lo lắng hỏi.

- Những ngân phiếu trong ngân khố đặc biệt của Hoàng thượng - D' artagnan đáp như vậy vì cho rằng nhờ bức thư tiến cử ấy chàng có thể vào phục vụ nhà Vua, câu trả lời có đôi chút mạo muội, nhưng không phải là dối trá.

- Chết cha! - Chủ quán nói, hoàn toàn thất vọng.

- Nhưng không sao! - D' artagnan tiếp tục với vẻ bộc trực vốn có của dân xứ chàng - Không sao, tiền không là gì. Thư mới là tất cả, ta thà mất nghìn bạc còn hơn mất bức thư.

Chàng chẳng ngại nói tới hai mươi nghìn, nhưng một sự e dè non trẻ nào đó đã ngăn chàng lại.

Đầu óc chủ quán đang mụ mị đi vì không tìm thấy gì bỗng lóe lên một tia sáng và reo lên:

- Bức thư không hề mất!

- Hả! - D' artagnan hỏi. - Không mất? Ai lấy?

- Lão quý tộc hôm ấy. Lão đã xuống bếp nơi để chiếc áo chẽn của ông. Lão ở đấy có một mình. Tôi cuộc chính lão lấy cắp bức thư.

- Ông tin vậy à? D' artagnan chưa tin lắm hỏi lại. Chàng biết rõ hơn bất cứ ai tầm quan trọng hoàn toàn có tính chất cá nhân của bức thư, và không hề thấy ở bức thư cái gì có thể khêu gợi máu tham cả.

Sự thể là bất kỳ lũ người hầu, hoặc khách trọ có mặt nào cũng sẽ chẳng kiếm được chút lợi lộc gì khi chiếm hữu tờ giấy đó. D' artagnan tiếp:

- Vậy ông nói ông ngờ lão quý tộc xấc xược ấy ư?

- Tôi nói rằng tôi cam đoan như vậy. Khi tôi báo cho lão ta biết quý ông là người được ngài Treville bảo trợ và quý ông có bức thư gửi cho ngài quý tộc lẫy lừng đó, thì lão tỏ ra rất lo lắng, liền hỏi tôi bức thư đó ở đâu rồi lập tức đi xuống bếp, nơi lão biết có chiếc áo chẽn của quý ông.

- Vậy, đó chính là tên kẻ cắp của ta rồi! - D' artagnan đáp - Ta sẽ khiếu nại với ngài De Treville, và ngài sẽ khiếu nại chuyện này với Đức Vua.

Nói rồi chàng oai vệ rút ra hai đồng tiền vàng đưa cho chủ quán. Chủ quán tay cầm mũ, tiễn chàng đến tận cửa. Chàng lại cưỡi lên con nghẽo màu vàng đi tới tận cổng ô Saint-Antoine ở Paris không gặp một tai họa khác nào. Đến đây chủ nó bán nó lấy ba đồng vàng, như vậy là với giá quá cao rồi, bởi D' artagnan đã làm nó quá mệt trong đoạn đường cuối. Người lái ngựa mà D' artagnan đã nhượng lại con nghẽo, trả giá ba đồng vàng không hề giấu giếm chàng trai trẻ là mình đã đưa ra cái giá quá đắt ấy chẳng qua chỉ vì màu lông độc đáo của nó.

Vậy là D' artagnan đi bộ vào Paris, tay xách một bọc nhỏ, cuốc bộ mãi tới khi tìm thuê được một phòng phù hợp với khoản tiền ít ỏi của mình. Gian phòng là loại phòng sát mái ở phố Phu đào huyệt, cạnh vườn Luychxămbua.

Trả xong khoản tiền chùa (11), D' Artagnan nhận phòng ở, suốt thời gian còn lại trong ngày, chàng ngồi khâu vào áo chẽn và quần nịt những mảnh ren viền mà mẹ chàng đã tháo từ chiếc áo chẽn hầu như còn mới của ông D' artagnan bố, rồi giấu giếm đưa cho chàng. Tiếp đó chàng đến phố Thợ rèn đặt làm một lưỡi gươm, rồi trở lại điện Louvre hỏi thăm người lính ngự lâm đầu tiên chàng gặp, vị trí dinh quán của ngài De Treville, hóa ra ở ngay phố Chuồng chim câu cũ, nghĩa là đúng ngay cạnh phòng D' artagnan tìm thuê: một cảnh ngộ có vẻ một sự mở đầu may mắn cho sự thành công của cuộc hành trình.

Sau đó, hài lòng về cách ứng xử của mình ở thị trấn Măng, không chút hối hận về việc đã qua, tin vào hiện tại và tràn trề hy vọng trong tương lai, chàng đi nằm và ngủ giấc ngủ của một dũng sĩ.

Giấc ngủ đầy chất tỉnh lẻ, kéo chàng đến tận chín giờ sáng, giờ chàng phải dậy để đến nhà ngài De Treville danh tiếng, nhân vật thứ ba của vương quốc theo sự đánh giá của bố chàng.

Chú thích:
(1) Măng: Thị trấn thuộc lưu vực sông Loa nước Pháp. ( Le Mans )
(2) Giáo phái Canvanh: Giáo phái do Han Canvanh làm Giáo chủ, một giáo phái Tin lành cải cách - phát triển mạnh ở Pháp và Thụy Sĩ, đã từng tổ chức một nưởc Cộng hòa Tin lành ở Giơnevơ (1509-1564)
(3) Pháo thành La Rochelle: Thủ phủ của quận Chafente. Maritime, bên bờ Đại dương cách Paris về phía Tây Nam 470 km.
(4) Màu cờ vàng và đỏ: Màu cờ Tây Ban Nha.
(5) Đông Kihôtê: Nhân vật chính đồng thời cũng là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Cervatès nhà văn người Tây Ban Nha.
(6) Cấm những cuộc quyết đấu: nhưng không có ý này trong nguyên bản cũng như bản tiếng Anh.
(7) Tarbe - Thị trấn thuộc tỉnh Gascogne, quê hương của dòng họ D' Artagnan - thuộc vùng Thượng Pyrenée.
(8) Ý nói Giáo chủ Richelieu.
(9) Quận công De Buckingham.
(10) Truyện ngụ ngôn của La Fontaine - con sếu muốn thò mỏ vào trong cái vỏ cứng của ốc sên để ăn thịt nó.
(11) Denier à Diedomné - tiển thu được ở trong chiếc đĩa của nhà thờ

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 2

Tiền sảnh nhà ông De Treville.

Ông De Troavin, gia đình ông vẫn còn gọi ông như thế, còn ông, cuối cùng ông lại tự gọi mình là De Treville. Thực tế ông cũng khởi nghiệp như D' artagnan, nghĩa là không một xu dính túi, mà với cái vốn táo gan, trí tuệ và tài ứng biến, nó làm cho gã quý tộc quèn Gátxcông nghèo khó nhất thường hy vọng nhận được sự thừa kế dòng dõi còn hơn cả một quý tộc giàu có nhất ở Pêrigoóc(1) hay Beri(2) nhận được trong thực tế. Lòng quả cảm phi thường và niềm hạnh phúc còn phi thường hơn trong một thời mà đòn giáng như mưa đá, đã kéo ông lên tận đỉnh cao của nấc thang khó khăn mà người ta gọi là sự sủng ái của triều đình, mà ông đã từng leo lên bốn bậc một.

Ông là bạn của nhà Vua, như mọi người đều biết nhà Vua rất coi trọng ký ức về vua cha Henri IV của mình. Cha của ông De Treville đã phục vụ trung thành vị tiên vương trong những cuộc chiến chống lại Liên minh(3) đến nỗi do rắc rối về tiền mặt, thứ mà dân Bearn suốt đời túng thiếu ông mãi mãi trả nợ bằng vật duy nhất không cần phải đi vay, nghĩa là bằng tinh thần. Vua Henri IV đã trao cho ông quyền được mang gia huy con sư tử vàng trên men sứ đỏ chói với dòng châm ngôn: Trung thành và dũng mãnh, sau khi Paris đầu hàng. Thế là quá nhiều vinh dự, nhưng lại quá tầm thường để sống dễ chịu, ông để lại cho con trai tài sản duy nhất: thanh gươm và châm ngôn ấy của mình. Nhờ hai tặng vật đó và cái tên không một vết nhơ đi kèm, ông De Treville được nhận vào dinh ông hoàng tử trẻ, ở đó ông đã phụng sự quá tốt bằng thanh gươm của mình và quá ư trung thành với châm ngôn ấy, đến mức vua Louis XIII, một trong những lưỡi gươm cừ khôi của vương quốc thường quen nói rằng, nếu Ngài có một người bạn muốn đấu, Ngài sẽ khuyên bạn mình chọn người trợ thủ trước hết là nhà Vua, rồi sau đó là De Treville, mà có thể Treville trước cả nhà Vua nữa.

Vì thế, Louis XIII gắn bó thật sự với Treville, một sự gắn bó vua tôi một sự gắn bó ích kỷ, đúng vậy, nhưng không hề giảm đi chút nào gắn bó. Chính là trong thời buổi nhiễu nhương ấy, người ta hay tìm những người được tôi luyện như Treville để tập hợp quanh mình. Nhiều người có thể dùng tính ngữ dũng mãnh làm châm ngôn, tuy chỉ là phần thứ hai của chữ khảm nhưng một số ít nhà quý tộc lại đòi phần thứ nhất là trung thành. De Treville là một trong số ít ấy. Đó là một trong tổ chức hiếm hoi, có sự thông minh ngoan ngoãn như của loài chó ngao, một lòng can đảm mù quáng, có con mắt nhanh nhạy, bàn tay mẫn cán, với họ con mắt là chỉ để xem liệu nhà Vua có bất bình về ai không, và bàn tay là để nện kẻ chướng tai gai mắt nào đó, một Bétxmơ, Môrơve hay Pontrốt de Mêrê hoặc một Vittry(4). Cuối cùng ở Treville, tới khi đó, ông chỉ còn thiếu có cơ hội, nhưng ông rình rập nó, và ông tự hứa sẽ tóm ngay óc nó nếu lúc nào nó đến tầm tay ông. Vì vậy, Louis XIII phong ông De Treville là đại úy đội ngự lâm của Ngài, đội ngự lâm hết lòng tận tâm hoặc đúng hơn cuồng tín đối với Louis XIII, cũng giống như các đội thường binh đối với Henri III và đội cận vệ Xcốt đối với Louis XI.

Về phía mình, và về phương diện này, Giáo chủ không chịu kém nhà Vua. Khi đã thấy đám hảo hán đáng gờm mà vua Louis XIII tập hợp quanh mình, vị phó vương hoặc đúng hơn, vua nhất của nước Pháp cũng muốn mình có đội cận vệ. Vậy là Giáo chủ cũng có ngự lâm, giống như ngự lâm quân của Vua Louis XIII và người ta thấy hai lực lượng thù địch ấy chọn nhặt khắp các tỉnh nước Pháp và cả các nước ngoài nữa, những con người nổi tiếng về kiếm pháp để phục vụ mình. Vì vậy, Richelieu và Louis XIII luôn cãi nhau khi chơi cờ buổi tối, về tài cán lũ thủ hạ của mình. Bên nào cũng khoe khoang cách ứng xử và lòng can đảm của thủ hạ mình. Và mặc dầu vẫn lớn tiếng chống lại các cuộc quyết đấu và những vụ ẩu đả, cả hai lại ngấm ngầm xúi giục nện nhau rồi thực sự phiền muộn hoặc không nén mừng vui về sự thất bại hoặc chiến thắng của thủ hạ mình. Ít nhất thì hồi ký của một người đã từng trong một vài trận thất bại và trong nhiều lần chiến thắng như thế đã nói vậy.

Treville đã nắm lấy mặt yếu của chủ mình, và chính nhờ sự khéo léo, ông đã chiếm được ân sủng lâu dài và bền vững của một ông vua không hề để lại tiếng tăm đã từng rất chung thủy với bạn bè. Ông cho quân ngự lâm của mình diễu hành trước Giáo chủ Armand Đuyplétxít (5) với bộ điệu ranh quái khiến ria mép xám của Đức ông dựng lên như lông nhím vì giận dừ.

Treville am hiểu một cách đáng nể chiến tranh thời kỳ này, thời kỳ mà khi không sống bám vào chi phí của quân thù, thì người ta sống bám vào đồng bào của mình: lũ quân lính của ông hợp thành một đội kiêu binh vô kỷ luật với tất ca trừ ông.

Lôi thôi, say mềm, xây xước, lũ ngự lâm của nhà Vua hay đúng hơn là của ông Treville tràn vào các quán rượu, trong các cuộc dạo chơi, các trò chơi công cộng, gào thét, vểnh ria lên, khua gươm, khoái trá đụng độ với bọn cận vệ của Giáo chủ, khi họ chạm trán nhau. Rồi tuốt gươm ngay giữa phố, làm đủ trò, đôi khi bị giết, nhưng chắc chắn trong trường hợp đó sẽ được khóc thương và báo thù. Luôn giết nhau, nhưng chắc chắn không bị chết rũ trong tù, ông Treville sẽ tới đó để đòi họ. Vì vậy, ông De Treville được những con người đó tôn thờ, ca ngợi hết lời.

Bọn họ, toàn lũ vô sừng vô sẹo, bán trời không văn tự nhưng vẫn run sợ trước mặt ông, như học trò trước thầy mình, nhất nhất vâng lời, và sẵn sàng dám chết để rửa sạch điều quở trách dù nhỏ nhẹ.

Ông De Treville đã sử dụng cái đòn bẩy hùng mạnh đó trước hết vì nhà Vua và bạn bè của nhà Vua, rồi cho chính bản thân và bè bạn của mình. Vả chăng, thời buổi đó đã để lại khá nhiều tập hồi ký, nhưng chẳng trong một hồi ký nào, ta thấy vị quý tộc đáng kính đó bị lên án ngay cả bởi các kẻ thù mà ông không thiếu kể cả trong giới cầm bút cũng như giới cầm gươm cũng chẳng hề thấy ông bị lên án đã nhận tiền hối lộ trong việc hợp tác vởi bọn thủ hạ của mình. Một thiên bẩm hiếm có về mưu cơ, đã khiến ông ngang hàng với những mưu sĩ tài danh nhất, mà ông vẫn cứ là người lương thiện. Thêm nữa, mặc dầu những mũi gươm tập đâm đến sái hông, và những buổi tập luyện nặng nhọc, ông vẫn trở thành một trong những kẻ săn gái trong ngõ hẻm cỡ bự, một trong những người ăn nói cầu kỳ, bóng gió nhất của thời đại. Người ta nói đến những vận may của ông Treville cũng như từng hai mươi năm trước đã nói về vận may của ông Bassompirre(6) và nói không phải ít. Vị đại úy ngự lâm quân vậy là vừa được ngưỡng mộ, vừa đáng sợ và yêu mến, điều tạo nên sự tột đỉnh của vận mệnh con người.

Vua Louis (7) thu tất cả những tinh tú nhỏ của triều đình mình vào trong ánh hào quang bao la của mình. Nhưng cha ông, vầng mặt trời Pluribus impar (bất khả so sánh) lại dành ra vẻ huy hoàng riêng tư cho mỗi sủng thần, giá trị cá nhân cho mỗi triều thần của mình. Bên cạnh những nghi lễ thức dậy của nhà vua và của Giáo chủ, ở Paris lúc đó người ta đếm được tới hơn hai trăm nghi lễ nhỏ hơi có có vẻ cầu kỳ. Trong số hai trăm đó, nghi lễ thức dậy của ông Treville là một trong số được hâm mộ nhất.

Cái sân của dinh quán ở phố Chuồng chim câu cũ của ông giống như một doanh trại từ sáu giờ sáng mùa hè, mười giờ sáng mùa đông. Năm đến sáu chục lính ngự lâm như thể thay phiên nhau ở đó để phô trương một quân số luôn oai phong lẫm liệt, không ngừng đi đi lại lại, vũ trang như thời chiến, và sẵn sàng với mọi sự. Dọc theo một trong những cầu thang lớn, trên chỗ ấy, nền văn minh của chúng ta nhẽ ra có thể xây dựng cả một tòa nhà, những kẻ cầu cạnh ở Paris leo lên leo xuống cầu xin một ưu đãi nào đó, những gã quý tộc tỉnh lẻ thèm khát được trưng tuyển, những tên hầu quần áo lòe loẹt đủ màu mang thừ của chủ đến ông De Treville. Trong tiền sảnh, thêm những chiếc ghế dài nhỏ quây tròn, những kẻ đắc tuyển, nghĩa là được triệu mời, ngồi nghỉ. Tiếng rì rầm ở đó kéo dài suốt từ sáng đến tối, trong khi đó phòng làm việc liền kề tiền sảnh, ông De Treville tiếp khách, lắng nghe những khiếu nại, ra mệnh lệnh và giống như nhà Vua trên lan can điện Louvre, chỉ việc ra nơi cửa sổ để duyệt người và vũ khí của mình.

Hôm D' artagnan tới trình diện, cử tọa trông thật uy nghi, nhất là đối vởi một dân tỉnh lẻ vừa mới đến. Đúng là dân tỉnh lẻ, ấy là một gã Gátxcông, và nhất là vào thời kỳ mà dân đồng hương của D' artagnan đã từng nổi tiếng là không dễ để cho người khác nạt nộ. Quả nhiên, vừa bước qua cánh cửa đồ sộ tua tủa những đinh dài đầu bốn cạnh, người ta như bị rơi vào giữa một đám người mang gươm kiếm gặp gỡ nhau ở trong sân. Ơi ới gọi nhau, cãi cọ nhau và chơi đùa với nhau. Để vạch được một lối đi giữa tất cả những lớp sóng cồn ấy, phải là một sĩ quan, một đại lãnh chúa hoặc một mỹ nhân.

Vậy là chàng trai trẻ của chúng ta tim đập mạnh đã tiến vào giữa cái đám ồn ào và hỗn độn đó, kéo sát thanh gươm dài vào bên chân mảnh khảnh, một tay cầm vành mũ dạ, với nụ cười nửa miệng của một gã tỉnh lẻ lúng túng, lại muốn làm ra vẻ đàng hoàng. Đi qua một toán, chàng mới thở được dễ dàng hơn, nhưng lại biết họ đang quay lưng lại nhìn mình, D' artagnan cho đến hôm đó vẫn là người khá tự tin thì đây là lần đầu tiên trong đời thấy mình lố lăng.

Lúc tới cầu thang, còn tồi tệ hơn, ở những bậc thang đầu tiên bốn lính ngự lâm đang tiêu khiển bằng một trò luyện tập, trong khi mươi mười hai đồng đội trên bậc nghỉ chờ đến lượt mình tham gia.

Một trong số họ, đứng ở bậc cao hơn, gươm tuốt trần trong tay ngăn hoặc ít nhất cố gắng không cho ba người kia lên.

Ba người kia xỉa gươm chống lại bằng những đường gươm khá điêu luyện. D' artagnan thoạt đầu nghĩ rằng những gươm sắt đó đều là những gươm tập, đầu gắn bi tròn. Nhưng rồi chàng nhận ra ngay một vài vết đâm do mỗi thanh gươm, trái lại đều rất sắc nhọn, và cứ mỗi vết đâm xây xát, không chỉ người xem mà cả diễn viên đều cười phá lên như lũ điên.

Người đang chiếm vị trí cao lúc đó đã cầm giữ ngoạn mục các đối thủ của mình khiến tất cả phải kính nể. Mọi người vây quanh bọn họ. Điều kiện nâng tới mức, người bị một phát gươm đâm phải, phải bỏ cuộc, mất luôn cả lượt bái kiến cho người đâm trúng. Trong năm phút, cả ba đều bị đâm trúng, người vào cổ tay, người vào cằm, người khác vào tai, còn bản thân người ở bậc trên chống giữ không bị dính mũi nào, theo đúng luật chơi, sự điêu luyện của người này được ba lần ưu tiên.

Cái trò giết thì giờ này không đến nỗi quá khó khăn, mà chỉ muốn được người ta kinh ngạc, thì nó đã làm cho du khách trẻ của chúng ta kinh ngạc. Chàng đã thấy ở tỉnh mình cái vùng đất hâm nóng rất nhanh những cái đầu thường hay khơi mào cho những cuộc quyết đấu và cái trò Gátxcông của bốn tay chơi này đối với chàng tỏ ra còn mạnh mẽ hơn tất cả những trò chàng đã được nghe nói, ngay cả ở Gátxcông. Chàng tưởng như mình được đưa đến trong xứ sở trứ danh của những gã khổng lồ nơi Gulivơ đến xưa kia và quá ư sợ hãi. Và tuy vậy, chàng vẫn còn chưa đi tới đích, vẫn còn cái bậc nghỉ và tiền sảnh.

Trên bậc nghỉ người ta không đánh nhau nữa, mà kể những chuyện đàn bà, và trong tiền sảnh, chuyện triều đình.

Trên bậc nghỉ, D' artagnan đỏ mặt, trong tiền sảnh, chàng run rẩy. óc tưởng tượng linh hoạt và lông bông của chàng, khi ở Gátxcônhơ khiến chàng đáng sợ đối với những thiếu nữ hầu phòng và đôi khi cả với những nữ chủ nhân trẻ, nhưng chưa từng mơ tới, ngay những lúc say sưa nhất, phân nửa những mối tình tuyệt vời này và một phần tư thôi những kỳ tích trai lơ, lại được tôn thêm bằng những tên tuổi quá đỗi quen thuộc và những tình tiết ít được che đậy nhất. Nhưng nếu như tình yêu của chàng đối với thuần phong mỹ tục bị chướng tai nơi bậc nghỉ, thì lòng kính trọng với Giáo chủ lại bị bôi nhọ trong tiền sảnh. Ở đó chàng rất đỗi ngạc nhiên khi nghe thấy người ta cao giọng chỉ trích thứ chính trị làm châu Âu run rẩy và đời tư của Giáo chủ mà bao nhiêu bậc vương công quyền thế đã bị trửng phạt vì đã dám thọc sâu vào. Bậc vĩ nhân được ông D' artagnan bố sùng bái đó được đem dùng làm trò cười cho quân ngự lâm của ông De Treville, họ cợt nhạo đôi chân vòng kiềng và chiếc lưng gù của Giáo chủ! Một vài người hát Thánh ca Giáng sinh về phu nhân De Eghiông, tình nhân của ông, và phu nhân Combalê, cháu gái ông, trong khi những người khác chắp nối những câu đùa lại để chống lũ thị đồng và bọn cận vệ của Quận công Giáo chủ, đủ thứ xem ra đối với D' artagnan là những điều không thể có, thật là khủng khiếp.

Thế nhưng, khi tên của nhà Vua đôi khi bất chợt xen vào giữa tất cả những chuyện báng bổ Giáo chủ kia, lập tức như có ngay một miếng giẻ nút ngay cả những cái miệng nhạo báng kia lại. Người ta e dè nhìn quanh mình như thể lo sợ vách phòng ông De Treville không kín. Nhưng rồi ngay lúc đó một câu bóng gió đưa câu chuyện trở lại với Đức ông và lúc đó những tràng cười lại nổ ra vui vẻ hơn, và soi mói không nương nhẹ đối với bất kỳ hành vi nào của Giáo chủ.

"Chắc chắn, những kẻ đó sẽ sớm bị tống vào ngục Bastille và đem treo cổ thôi - D' artagnan hoảng hồn nghĩ vậy - Và ta, không nghi ngờ gì nữa sẽ cùng với họ, bởi lúc ta nghe nói, ta sẽ bị coi như kẻ đồng mưu của họ. Cha ta sẽ nói sao? Người đã dặn dò ta rất kỹ phải kính trọng Giáo chủ, nếu như Người biết ta cùng hội cùng thuyền với bọn tà giáo như thế?"

Vì vậy, D' artagnan không dám tham gia vào cuộc trò chuyện mà chỉ dồn hai mắt nhìn, vểnh tai ìên nghe, căng hết ngũ quan ra hau háu để khỏi mất một tí nào. Mặc dầu vẫn tin vào những lời khuyên răn của cha, nhưng chàng vẫn cảm thấy mình bị cuốn theo sở thích và bị bản năng lôi kéo, đến chỗ ca ngợi hơn là trách cứ những điều chưa hề được nghe nói đang diễn ra ở đây.

Tự nhiên, vì chàng là kẻ tuyệt đối xa lạ với đám thủ hạ của ông Treville, và đây là lần đầu tiên họ bắt gặp chàng ở đây, họ đến hỏi xem chàng muốn gì. D' artagnan nhã nhặn xưng tên, rồi dựa vào danh nghĩa đồng hương, chàng xin người hầu phòng vừa đến hỏi chàng, thỉnh cầu giúp chàng ông De Treville cho chàng được bái yết một lúc. Người hầu bằng một giọng che chở hứa sẽ chuyển lời đến đúng nơi, đúng lúc.

D' artagnan không còn ngạc nhiên mấy như lúc đầu, có được chút rảnh rang để nghiên cứu đôi chút những trang phục và diện mạo.

Trung tâm của nhóm sôi động nhất là một ngự lâm quân tầm vóc cao lớn, vẻ mặt cao ngạo, và mặc một bộ quần áo kỳ quái khiến mọi người phải chú ý. Lúc này, anh ta không mặc cái áo khoác đồng phục, vả lại, cũng không tuyệt đối bắt buộc trong các thời kỳ tự do thì ít nhưng độc lập nhiều hơn, mà mặc một áo sát thân xanh da trời, hơi bạc màu và sờn cũ và trên áo có một dải đeo gươm rất đẹp, thêu bằng sợi vàng, lấp lánh như vây cá trong nước dưởi ánh nắng mặt trời. Một áo khoác dài bằng nhung đỏ sẫm buông một cách duyên dáng trên hai vai để lộ ra phía trước dải đeo lộng lẫy của một thanh gươm dài khổng lồ.

Tay lính ngự lâm ấy vừa mới xong phiên gác, phàn nàn là bị cúm và thỉnh thoảng lại làm bộ húng hắng ho. Vì vậy anh ta phải mặc áo choàng, anh ta nói với người xung quanh như vậy.

Và trong khi anh ta ngẩng cao đầu vừa nói vừa khinh khỉnh vân vê ria mép, mọi người trầm trồ ngưỡng mộ dải đeo gươm thêu vàng và D' artagnan thì còn hơn cả mọi người.

- Các cậu muốn gì - người lính nói - mốt bây giờ là thế. Một sự điên rồ, mình biết chứ. Nhưng đó là mốt. Vả lại, cũng nên dùng vào việc gì đó khoản tiền được thừa kế của cha mẹ chứ?

- À, Porthos - một người trong bọn nói to - đừng hòng làm cho bọn mình tin rằng cái dải đeo gươm kia là do sự hào phóng của bố cậu đâu nhé. Chính cái bà mặt đeo mạng tớ đã gặp chủ nhật trước ở cửa ô Thánh Ônôrê, đã cho cậu.

Người được gọi bằng tên Porthos trả lời:.

- Không, thề danh dự đấy, lấy danh dự nhà quý tộc, tớ thề đã tự mua lấy, và bằng tiền của chính tớ mà.

- Phải, giống như tớ mua ấy mà - một lính ngự lâm khác nói tớ mua cái ví tiền mới này, bằng thứ mà người tình của tớ nhét vào chiếc ví cũ.

- Thật đấy - Porthos nói - và bằng chứng là mình đã phải trả mười hai đồng.

Sự ngưỡng mộ tăng gấp đôi, nhưng ngờ vực tiếp tục còn đó.

- Phải không Aramis? - Porthos quay lại hỏi một ngự lâm quân khác.

Chàng ngự lâm này vẻ hoàn toàn ngược lại với người vừa hỏi, và được gọi bằng cái tên Aramis. Đó là một chàng trai tuổi mới hăm hai hăm ba, với bộ mặt dịu dàng thơ ngây, mắt đen và hiền, hai má hồng và mịn mượt như trái đào mùa thu, ria mép thanh tú trên môi trên vẽ thành một đường nét chính trực hoàn chỉnh. Hai bàn tay như thể sợ buông xuống ngại mạch máu sẽ nổi lên, thỉnh thoảng lại bấm dái tai để giữ cho nó có màu phớt dịu và trong. Theo thói quen, chàng nói ít và từ tốn, hay chào, cười không thành tiếng và chỉ để hở hàm răng rất đẹp hình nhù chàng chăm chút nhất như một chút của riêng chàng. Chàng trả lời bằng cái gật đầu khẳng định câu hỏi của bạn mình.

Sự khẳng định này hình như đã chặn đứng mọi nghi ngờ về cái dải đeo gươm. Người ta tiếp tục ngưỡng mộ chàng, nhưng không nói về nó nữa. Và câu chuyện nhanh chóng quay ngoắt sang một đề tài khác.

- Các cậu nghĩ sao về điều mà viên kỵ sỹ tháp tùng của ông Sale (6) kể - Một lính ngự lâm khác hỏi không trực tiếp với người nào, mà trái lại như cho tất cả mọi người.

- Mà ông ta kể gì chứ? - Porthos hỏi, giọng tự mãn.

- Kể là ông ta thấy ở Bruxelles tay Rochefort, linh hồn tội lỗi của Richelieu, cải trang thành thày dòng Capúxanh, cái tên Rochefort chó chết ấy nhờ sự cải trang ấy đã lừa được ông Đơ Legơ như một gã ngốc.

- Như một gã ngốc thực sự - Porthos hỏi - Nhưng chắc không?

- Mình nghe ở Aramis mà - Người lính ngự lâm này trả lời.

- Thật chứ?

Aramis nói:

- Ê cậu thừa biết, Porthos, mình cũng đã kể với chính cậu hôm qua rồi còn gì, thôi không nói chuyện này nữa.

- Không nói nữa ư, đây là ý kiến của cậu thôi - Porthos nói tiếp - không nói chuyện này nữa! Cậu kết luận mau thế, ôn dịch! Sao nào? Giáo chủ sai một tên phản bội, một tên cướp, một thằng du côn do thám một nhà quý tộc, đánh cắp thư từ của người ta, rồi nhờ tên gián điệp ấy và những thư từ của ông ta, chặt đầu ngài Salê, dưới cái cớ ngớ ngẩn là ngài muốn giết Vua và cưới Hoàng hậu cho ngài(9). Không một ai biết tý gì về nghịch lý đó, hôm qua cậu cho bọn mình biết, tất cả đều rụng rời, và khi bọn mình còn hoàn toàn sửng sốt về cái tin đó, hôm nay cậu lại đến bảo: Đừng nói đến chuyện này nữa!

- Vậy thì cứ nói đi, nếu cậu muốn thế - Aramis đành nói vậy.

- Tên Rochefort ấy - Porthos nói to - Nếu mình là viên kỵ sĩ tháp tùng của ông Salê đáng thương ấy, sẽ khốn đốn với mình.

- Và cậu, cậu sẽ không thoát khỏi mười lăm phút thảm sầu với Công tước Đỏ (tức Richelieu - ND) - Aramis đáp.

- A! Công tước Đỏ! Hoan hô, hoan hô Công tước Đỏ! - Porthos vừa trả lời vừa vỗ tay, vừa gật đầu tán thưởng - Công tước Đỏ thì tuyệt rồi. Mình sẽ truyền đi cái biệt danh ấy, yên tâm, bạn thân mến ạ. Thằng cha Aramis này tài thật! Thật bất hạnh cho cậu đã không thể theo đuổi thiên hướng ấy, anh bạn thân mến ạ. Nhẽ ra cậu đã là một tu viện trưởng ngon lành đấy.

- Ồ, đó chỉ là một sự muộn màng nhất thời thôi - Aramis đáp - Cậu thừa biết, một ngày nào đó, tớ sẽ là tu viện trưởng mà, Porthos này, vì lẽ đó rồi mình sẽ tiếp tục học thần học đấy.

- Hắn sẽ làm như hắn nói - Porthos nói - Sớm muộn gì hơn cũng sẽ làm.

- Sớm thôi! - Aramis nói.

- Hắn chỉ còn đợi một điều để quyết định dứt khoát và mặc lại chiếc áo thày tu được treo sau bộ quần áo lính của hắn - một ngự lâm quân nói tiếp.

Một người hỏi:

- Vậy hắn chờ chuyện gì?

- Hắn chờ hoàng hậu cho ra đời người kế vị ngai vàng nước Pháp.

- Này quý vị, xin đừng đùa quá mức - Porthos nói - Nhờ trời, Hoàng hậu còn đang tuổi sinh đẻ mà.

- Người ta đồn ông Đỏ Buckingham(10) đang ở Pháp - Aramis nói tiếp với một tiếng cười tinh quái khiến câu nói bề ngoài quá đỗi bình thường, lại có một ý nghĩa hơi bê bối.

- Aramis, bạn tôi ơi, lần này thì cậu lầm rồi - Porthos ngắt lời - và cái trò tinh quái của cậu luôn dẫn cậu đi quá chừng mực. Nếu ngài De Treville nghe thấy cậu sẽ khốn vì nói như thế đó.

- Cậu định dạy mình đấy hả, Porthos? - Aramis nói to, trong đôi mắt hiền dịu, người ta thấy thoáng qua như một tia chớp.

Porthos nói:

- Bạn thân mến, hãy là lính ngự lâm hay là tu viện trưởng. Hãy là người này, hoặc người kia, nhưng đừng là cả người này lẫn người kia. Hãy nhớ, Athos một hôm còn bảo cậu bắt cá hai tay. Kìa ta đừng giận nhau, mình xin cậu đấy, cậu thừa biết giữa cậu, mìln và Athos đã thỏa thuận với nhau thế nào. Cậu cứ việc đến nhà bà De Eghiông và tán tỉnh bà ta, cậu đến nhà bà De Tracy, em họ bà De Chevreuse, và cậu ở thế mạnh trước những cơn mưa móc của bà ta. Ôi, trời ơi, đừng thú nhận diễm phúc của cậu, người ta không khảo bí mật của cậu đâu, họ biết tính kín đáo của cậu mà. Nhưng một khi cậu mang đức tính ấy, thì quỷ ơi, hãy dùng nó đối với Hoàng thượng. Quan tâm đến ai cũng được kể cả với nhà Vua và Giáo chủ, nhưng Hoàng hậu là thiêng liêng, nếu như có nói đến, nói sao cho tốt đẹp.

- Porthos, cậu hợm mình như Nacxits(11), mình báo cho cậu biết vậy - Aramis trả lời - cậu biết mình ghét nói đạo lý, trừ phi khi nó được Athos nói tới. Còn về cậu, bạn thân mến ơi, cậu có một dải đeo kiếm quá lộng lẫy để trở nên quá mạnh ở điều đó. Mình sẽ là tu viện trưởng khi nào thích hợp. Trong khi chờ đợi, mình là lính ngự lâm. Với tư cách đó, mình nói những gì mình thích và lúc này đây mình thích nói rằng cậu làm mình bực đấy.

- Aramis!

- Porthos!

- Này, các vị. Các vị! - Mọi người xung quanh nhao nhao - Ngài De Treville đang đợi ông D' artagnan - Người hầu vừa mở cửa văn phòng vừa ngắt lời.

Lời thông báo được phát ra trong khi cửa mở rộng, mọi người im bặt, và giữa sự im lặng bao trùm, chàng trai trẻ Gátxcông đi xuyên qua tiền sảnh một đoạn dài rồi bước vào phòng của đại úy ngự lâm quân, trong lòng hớn hở vì đã thóát khỏi đúng lúc đoạn kết của cuộc đấu khẩu kỳ quặc kia.

Chú thích:
(1) Perigord: Nay là quận Dordogne nước Pháp.
(2) Berry: Nay là quận Cher và L' Indre nước Pháp.
(3) Liên minh thần thánh của giáo phái Gia Tô do Quận công De Guise lập năm 1576 với chủ định chống lại giáo phái Canvanh nhưng tbực tế là để lật đổ Vua Henri III, bị Henri IV dẹp tan.
(4) Besme: - Charle Daniowitz - người Bôhêmiêng: ăn lương của Quận công De Guise, ám sát Coligny đêm lễ Thánh Barthelemy, rồi bị người Tin lành giết năm 1576.
Poltrốt de Méré: quý tộc phái Tin lành ám sát Quân công De Guise.
Vitry: Đại úy đội cận vệ của Louis XIII giết Concini và được phong hàm thống chế Pháp (Đây thực sự là đại úy ngự lâm quân thời Louis XIII - Còn Treville chỉ là nhân vật tiểu thuyết - ND)
(5) Tên kéo dài của Giáo chủ Richelieu
(6) Bassompirre. Thống chế và là nhà ngoại giao Pháp, giữ rất nhiều trách nhiệm khác nhau ở Thụy Sĩ, Italia và Anh quốc. Bị tống giam trong ngục Bastille 12 năm vì đã có âm mưu chống lại Giáo chủ Richelieu. Để lại những tập hồi ký rất thú vị.
(7) Con của Louis XIII
(8) Chalais. Hầu tước Henri de Talleyrand - sủng thẩn của vua Louis XIII bị cáo buộc âm mưu chống lại Giáo chủ Richelieu – Bị bắt ở Nantes và bị chặt đầu.
(9) Monsicur: Không rõ là ai. Cả bản dịch ra tiếng Anh của Nhà xuất bản Wordsworth 1993 cũng vậy - Có thể là Hoàng đệ, em vua Louis XIII chăng?
(10) Công tước Buckingham - Sủng thần của các vua Jacques 1 và Charle 1 nước Anh, đang định cứu viện cho giáo phái Calvin ở thành La Rochelle thị bị Fetton ám sát
(11) Narcisse. Trong thần thoại Hy Lạp nổi tiếng đẹp trai, say mê sắc đẹp của mình, khi soi mình xuống nước thấy bóng người dưới nước đẹp quá, nhảy xuống ôm rồi chết đuối hóa thành một bông hoa đẹp mang tên Narcisse , chính là hoa Thủy tiên ngày nay.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 3

Sự ra mắt.

Ông De Treville lúc đó trông rất dừ tợn, tuy nhiên ông vẫn lịch sự chào chàng trai đang rạp mình xuống đất. Ông mỉm cười nhận lời chúc tụng mang giọng miền Bearn, khiến ông vừa nhớ lại tuổi trẻ vừa nhớ đến quê hương, một kỷ niệm khiến con người dù ở lứa tuổt nào cũng phải mỉm cười. Nhưng vừa giơ tay ra hiệu cho D' artagnan như muốn yêu cầu chàng cho phép làm việc với người khác trước khi với chàng, ông tức khắc bước lại gần tiền sảnh, gọi lên ba lần, mỗi câu lại to giọng hơn như thể vượt qua nấc thang trung gian giùa giọng mệnh lệnh và giọng tức giận:

- Athos! Porthos! Aramis!

Hai lính ngự lâm mà chúng ta đã được làm quen, đáp lại hai tiếng gọi sau cùng của ba cái tên ấy rồi lập tức rời ngay nhóm người họ vừa tham gia và bước tới văn phòng. Vừa bước chân khỏi ngưỡng cửa, cửa đã đóng sập sau lưng họ. Thái độ của họ mặc dầu không bình tĩnh lắm, song vẻ tỉnh bơ tràn đầy tự trọng vừa tuân phục khiến lòng ngưỡng mộ của D' Artagnan cũng bị kích thích khi nhìn thấy trong những con người ấy, những vị bán thần và trong thủ lĩnh của họ, một thần Juypite của núi Ôlempơ vũ trang toàn bằng sấm sét.

Hai người ngự lâm đã đi vào, cửa đã đóng kín sau lưng họ, tiếng gọi vừa đừợc ban ra chắc chắn đem lại cho tiếng thì thầm lao xao trong tiền sảnh một dế mục mởi. Ông De Treville di đi lại lại ba bốn lán dọc chiều dài căn phòng qua trước mặt Porthos và Aramis. Cả hai thẳng đơ và câm miệng như trong buổi diễu binh. Cuối cùng ông bất thình lình dừng lại trước mặt họ, đưa mắt nhìn họ suốt từ đầu đến chân tức giận và hét lên:

- Các vị có biết nhà Vua nói gì với tôi không, và vừa mới tối qua thôi, có biết không các vị?

- Không, - cả hai đều đáp sau một phút im lặng - không, thưa ngài, chúng tôi không biết.

Rồi Aramis bằng một giọng lễ phép nhất và tôn kính nhất nói thêm:

- Nhưng tôi hy vọng ngài làm ơn nói cho chúng tôi biết.

- Nhà Vua bảo tôi từ nay Người sẽ tuyển mộ ngự lâm quân trong số lính cận vệ của Đức Giáo chủ!

- Trong số cận vệ của Đức Giáo chủ ư? Tại sao lại thế? - Porthos hỏi lại ngay.

- Bởi nhà Vua thấy rõ món vang chua của mình cần phải làm cho sắc nước hơn bằng việc pha thêm vang quý.

Hai chàng trai ngự lâm đỏ mặt lên đến tận lòng trắng đôi mắt. D' artagnan không biết mình đang ở đâu nữa và chỉ muốn chui xuống đất.

- Phải, phải - Ông De Treville tiếp tục một cách sôi nổi - và Hoàng thượng có lý, bởi, ta thề danh dự đúng là ngự lâm quân đã tạo nên bộ mặt đáng buồn trong triều. Hôm qua Đức Giáo chủ chơi bài với nhà Vua đã kể lại với vẻ chia buồn làm ta rất khó chịu, rằng tối hôm kia những tên ngự lâm khốn kiếp, lũ quỷ hiện thành người ấy, Giáo chủ nhấn mạnh những từ đó bằng một giọng mỉa mai khiến ta càng bực mình hơn, những tên cắt xẻo thịt người ấy, ông ta vừa thêm vừa nhìn ta bằng con mắt mèo rừng, la cà ở phố Fréjus trong một quán rượu, và rồi một toán cận vệ của ông ta, ta tưởng như ông ta sắp cười vào mũi ta, buộc lòng phải bắt giữ những tên càn quấy. Trời ơi? Các anh phải biết gì đó về việc ấy chứ? Bắt giữ ngự lâm quân? Các anh trong bọn họ, các anh ấy, đừng có mà chống chế, người ta đã nhận ra các anh và Giáo chủ đã chỉ đích danh các anh. Rõ ràng là lỗi của ta, phải lỗi của ta, một khi chính ta chọn người. Xem nào, Aramis, vì chuyện quái quỷ gì mà anh ta lại xin ta mặc áo lính, khi ta sắp sửa quá ư thích hợp dưới cái áo thày tu? Còn anh, Porthos anh đã chẳng có một chiếc dải đeo gươm thêu vàng chỉ để đeo một thanh gươm bằng dạ ư? Còn Athos nữa? Ta không thấy Athos. Anh ta ở đâu?

- Thưa ngài - Aramis trả lời buồn bã - Ông ấy ốm, ốm nặng.

- Ốm, ốm nặng! Anh bảo thế sao? Bệnh gì?

- Thưa ngài, e là bệnh đậu mùa nhẹ, - Porthos trả lời, đến lượt mình cũng muốn xen vào câu chuyện - sẽ rất đáng buồn, bởi chắc chắn sẽ làm xấu bộ mặt ông ta.

- Bệnh đậu mùa ư? Lại thêm một chuyện tuyệt luân anh kể ta nghe đấy, Porthos ạ? Ốm vì bệnh đậu mùa ở tuổi ông ta ư?

- Không đâu?.. Nhưng bị thương là cái chắc. Có thể bị giết nữa. Chà! Nếu ta biết chắc! Trời ơi! Thưa các vị ngự lâm quân, ta không bằng lòng việc các vị lui tới những nơi tồi tệ ấy, không bằng lòng các vị cãi cọ nhau trên đường phố và đọ gươm ở các ngã tư. Ta không muốn, cuối cùng bị đem làm trò cười cho bọn cận vệ của Đức Giáo chủ. Là những con người dũng cảm, điềm đạm, khôn khéo, không bao giờ để bị rơi vào trường hợp bị bắt giữ, hơn nữa chính họ cũng chẳng chịu để bị bắt giữ, ta tin chắc như vậy. Họ thích thà chết ngay tại chỗ còn hơn lùi một bước. Chạy trốn, lủi, tránh, thật đẹp mặt cho ngự lâm quân của nhà Vua, thế đấy! Porthos và Aramis giận run lên, có nhẽ họ sẵn sàng bóp cổ ông De Treville, nếu như trong sâu thẳm của chuyện này, họ không cảm thấy tình yêu lớn lao ông dành cho họ nên mới nói họ như vậy. Họ dậm chân lên thảm trải, cắn môi đến bật máu và dùng hết sức siết chặt chuôi gươm.

Như đã nói, phía bên ngoài người ta đã nghe thấy gọi Athos, Porthos và Aramis, và đã đoán ra qua giọng nói của ông De Treville là ông đang tức giận tột cùng. Mươi cái đầu tò mò áp vào tấm thảm bọc cửa, tái đi vì giận giữ, vì tai họ dính vào cánh cửa không để sót một lời nào, trong khi miệng họ nhắc lại lần lượt những lời sỉ vả của ông đại úy cho tất cả mọi người ngoài tiền sảnh nghe.

Trong phút chốc từ ngoài cửa văn phòng đến cửa mở ra phố, tất cả tòa nhà sôi lên sùng sục.

- A, lính ngự lâm của nhà Vua lại để cho bọn cận vệ của Giáo chủ bắt giữ! - Ông De Treville cũng giận dữ như quân lính ngự lâm của mình tiếp tục nhưng giật giọng từng lời, và có thể nói như đâm từng nhát ngần ấy mũi dao vào ngực thính giả của mình. - Mẹ kiếp sáu cận vệ của Đức ông bắt giữ sáu ngự lâm quân của Hoàng thượng! Trời đất! Ta đã quyết định rồi. Ta sẽ đến thẳng điện Louvre, ta sẽ xin từ chức đại úy ngự lâm quân của nhà Vua để xin được làm phó úy trong cận vệ của Giáo chủ, và nếu ngài từ chối, mẹ kiếp, ta sẽ làm tu viện trưởng.

Trước những lời lẽ đó, tiếng thì thào phía ngoài trở thành một tiếng nổ. Đâu đâu người ta cũng chỉ nghe thấy tiếng chửi rủa và phỉ báng. Những tiếng mẹ kiếp! Khốn kiếp! Chết mẹ chúng bay đi! Vấp nhau trong không khí. D' artagnan kiếm một tấm thảm treo; núp sau đó và tự cảm thấy một sự ham muốn vô hạn là rúc dưới gầm bàn.

Porthos không kiềm chế nổi nữa nói:

- Thế nào, ngài đại úy của tôi, sự thật là sáu chọi sáu đấy, nhưng chúng tôi bị phản và trước khi chúng tôi kịp rút gươm thì hai người chúng tôi đã bị giết chết, và Athos thì bị thương nặng, cũng chẳng hơn gì mấy. Bởi vì ngài cũng biết đấy, thưa đại úy, Athos đã hai lần cố vùng dậy rồi lại ngã xuống hai lần. Tuy vậy, chúng tôi không đầu hàng, không. Chúng dùng sức mạnh lôi chúng tôi đi. Dọc đường chúng tôi chạy thoát. Còn Athos chúng tưởng chết nên để mặc trên bãi chiến trường, không nghĩ bõ công mang đi, chuyện là thế. Quỷ chưa thưa đại uý! Người ta không thể trận nào cũng thắng đâu. Pompê vĩ đại (1) đã thua ở Phác Xan, và vua Frăngxoa đệ nhất, tôi nghe nói ngang tài thiên hạ tuy vậy cũng bị thất bại ở Pavi(2).

- Và tôi có vinh dự cam đoan với ngài tôi đã giết chết một tên bằng chính gươm của nó - Aramis nói - bởi gươm của tôi bị gãy ngay từ miếng đánh đầu tiên. Giết hay đâm bằng dao găm, thưa ngài, ngài thích thế nào xin tùy.

Ông De Treville đáp giọng hơi dịu bớt:

- Ta không biết việc đó. Theo như ta thấy, Đức Giáo chủ đã cường điệu thêm.

Aramis thấy đại úy của mình đã nguôi ngoai đánh bạo đưa ra một thỉnh cầu:

- Nhưng xin ngài, ngài làm ơn đừng nói chính Athos chứ không ai khác bị thương. Việc đó đến tai nhà Vua sẽ làm ngài thất vọng, và vì vết thương vào loại nặng nhất, sau khi đã xuyên qua vai, nó đâm sang ngực, sẽ đáng ngại đấy.

Đúng lúc ấy màn cửa được nâng lên, và một khuôn mặt đẹp và cao quý, nhưng xanh xao khủng khiếp hiện ra dưới mép rèm.

- Athos! - Hai chàng ngự lâm kêu lên.

- Athos!- Bản thân ông De Treville cũng nhắc lại.

- Thưa ngài, ngài cho đòi tôi - Athos nói với ông De Treville bằng một giọng yếu ớt, nhưng hoàn toàn bình thản. Theo các bạn tôi nói, ngài đã cho đòi tôi, và tôi vội đến nhận lệnh của ngài. Vậy thưa ngài muốn gì ở tôi?

Vừa nói, người lính ngự lâm quần áo chỉnh tề và nai nịt như thường lệ này cả quyết bước vào trong văn phòng. Ông De Treville xúc động đến tận đáy lòng trước bằng chứng của tính can trường, nhảy bổ đến người này, và nói:

- Tôi đang nói với các vị này rằng tôi cấm binh lính ngự lâm của tôi không được phơi mạng mình ra một cách không cần thiết, bởi những con người dũng cảm rất quý đối với nhà Vua, và nhà Vua biết những ngự lâm quân của mình là những người dũng cảm nhất trên trái đất. Nào Athos xin bắt tay ông.

Và không đợi người mới đến tự mình đáp lại bằng chứng của sự thân thương, ông De Treville nắm bắt bàn tay phải và siết rất mạnh, không nhận thấy Athos dù đang hết sức kiềm chế bản thân vẫn không thoát khỏi một biểu hiện đau đớn và lại tái người đi, điều mà người ta có thể tin không thể có được.

Cửa vẫn còn hé mở, mặc dầu bí mật được giữ kín, nhưng vết thương mọi người vẫn biết, và Athos vừa đến đã gây ra xúc động cho mọi người. Một tiếng xôn xao thỏa mãn hoan nghênh những lời nói cuối cùng của đại úy, và vài ba cái đầu bị lông nhiệt tình cuốn theo đã hiện ra ở mấy chỗ cửa rèm, chắc chắn ông De Treville đang định quở trách sự vi phạm luật lệ về lễ nghi này bằng những lời lẽ gay gắt thì bất thình lình ông cảm thấy bàn tay của Athos co quắp trong bàn tay ông và khi ngước nhìn lên, ông thấy Athos, đang sắp ngất. Cũng ngay lúc ấy, Athos thu hết sức lực để đấu tranh chống lại sự đau đớn, cuối cùng đã bị thua, ngã vật xuống sàn nhà như đã chết.

- Một nhà phẫu thuật - Ông De Treville kêu to - Của ta, tốt hơn là của nhà Vua! Một phẫu thuật gia? Chó chết? Athos dũng cảm của ta sắp gay rồi.

Nghe tiếng kêu của ông De Treville, mọi người đổ xô vào văn phòng của ông, ông cũng chẳng còn bụng dạ nào đóng cửa ngăn ai, ai nấy đều chạy đến xung quanh người bị thương. Nhưng mọi người xăng xái đều vô ích nếu như bác sĩ được yêu cầu không được tìm thấy ngay trong dinh quán. Ông ta rẽ đám người ra, lại gần Athos vẫn đang mê man và vì tất cả ồn ào và nháo nhào kia gây trở ngại lớn cho ông ta, ông ta yêu cầu việc đầu tiên và cũng là khẩn thiết nhất là người lính ngự lâm phải được khênh sang phòng bên cạnh. Ông De Treville ngay tức khắc mở một cái cửa và chỉ đường cho Porthos và Aramis khênh bạn mình đi, theo sau là nhà phẫu thuật và cuối cùng cánh cửa khép lại sau nhà phẫu thuật. Lúc đó văn phòng của ông De Treville, cái địa điểm thường ngày được tôn kính thế, tạm thời trở thành một phòng phụ của tiền sảnh. Người thuyết giải, ba hoa, to tiếng, chửi bới văng tục, coi Giáo chủ và lũ cận vệ của ông là một lũ quỷ tha ma bắt.

Một lát sau, Porthos và Aramis trở ra. Chỉ còn nhà phẫu thuật và ông De Treville còn lại bên người bị thương.

Cuối cùng ông De Treville đến lượt mình cũng ra. Người bị thương đã tỉnh, nhà phẫu thuật tuyên bố tình trạng của người lính ngự lâm không có gì có thể khiến bạn bè mình phải lo lắng, sự ốm yếu của ông ta chỉ là tạm thời do mất máu.

Rồi ông De Treville giơ tay ra hiệu, mọi người rút lui trừ D' artagnan, không hề quên mình phải yết kiến và với tính kiên trì của dân Gátxcông, chàng ở nguyên tại chỗ.

Khi mọi người đã ra hết và cửa đã được đóng lại, ông Treville quay lại và thấy chỉ còn riêng mình với chàng trai trẻ. Sự kiện vừa qua khiến ông lãng quên đôi chút dòng suy nghĩ của mình.

Ông hỏi người thỉnh cầu gan bướng này muốn gì ở ông, D' artagnan lúc đó mới xưng tên, và ông De Treville lập tức nhớ lại mọi kỷ niệm của hiện tại và quá khứ của mình và hiểu ra ngay vị thế trong mình.

- Xin lỗi - Ông vừa nói vừa cười - xin lỗi anh bạn đồng hương thân mến của ta, ôi ta quên khuấy mất anh. Anh muốn gì nào?

Một đại úy chẳng khác gì một người cha trong gia đình, có một trách nhiệm lớn lao hơn một người cha trong gia đình thông thường nhiều. Binh lính là những đứa con lớn, nhưng vì ta phải giữ sao cho những mệnh lệnh của nhà Vua, nhất là của Đức ông Giáo chủ phải được thi hành...

D' artagnan không giấu nổi một nụ cười. Thấy nụ cười đó ông De Treville cho rằng chả tội gì lôi thôi với một thằng ngốc, nên đi thẳng vào việc và xoay hẳn câu chuyện sang hướng khác.

- Ta rất quý cụ thân sinh ra anh. Ta có thể làm gì cho người con của cụ đây? Vào nhanh lên, thời gian không cho phép ta đâu?

- Thưa ngài - D' artagnan nói - tôi rời Tácbơ đến đây là cốt để xin ngài, vì tình bằng hữu mà ngài sẽ không quên, ban cho tôi chiếc áo ngự lâm quân, nhưng sau mọi chuyện mà tôi vừa chứng kiến hai tiếng đồng hồ trước đây, tôi hiểu ra rằng một sự ưu ái như thế sẽ là rất lớn lao, và tôi run lên vì sợ mình không chủt xứng đáng.

- Đó quả là một sự ưu ái, anh bạn trẻ ạ - Ông De Treville đáp - nhưng nó có thể không vượt quá tầm anh như anh tưởng hoặc có vẻ như anh tưởng đâu. Tuy nhiên một đạo dụ của Hoàng Thượng đã tiên liệu trường hợp này. Và ta lấy làm tiếc mà báo cho anh biết, người ta không nhận bất kỳ ai làm ngự lâm quân trước khi có sự thử thách tiên quyết trong một vài trận đánh, một số chiến công sáng chói hoặc tại ngũ hai năm trong một binh đoàn nào khác kém ưu ái hơn binh đoàn của chúng ta.

D' artagnan nghiêng mình không đáp. Chàng cảm thấy còn khao khát được khoác lên mình bộ đồng phục ngự lâm hơn cả khi chàng thấy có bao nhiêu khó khăn lớn lao để đạt được.

- Nhưng - Ông Treville nói tiếp vừa nhìn thẳng vào người đồng hương bằng con mắt sắc nhọn, như thể muốn đọc sâu trong tim gan chàng - Nhưng, thể tình cha anh, người bạn đồng ngũ cũ của ta, như ta đã nói với anh, ta muốn làm một cái gì đó cho anh, anh bạn ạ. Những người lính trẻ miền Bearn chúng ta thường không giàu có gì và ta ngờ rằng từ khi ta đi khỏi tỉnh nhà, mọi sự không được cải thiện mấy. Vậy với số tiền anh mang theo, hẳn là anh không có thừa thãi để đủ sống.

D' artagnan vươn thẳng người với một vẻ kiêu hãnh như muốn nói rằng chàng không hỏi xin bố thí của ai.

- Được lắm, anh bạn trẻ, được lắm - Ông Treville tiếp tục - Ta thừa hiểu cái thói ấy: Ta đến Paris với bốn đồng tiền vàng trong túi và ta sẽ đánh nhau với bất kỳ ai bảo ta rằng, lấy gì mà mua nổi điện Louvre.

D' artagnan mỗi lúc càng thẳng người lên. Nhờ bán con ngựa chàng vào nghề với bốn đồng vàng nhiều hơn ông De Treville khi bắt đầu sự nghiệp của mình.

- Vậy ta nói cho anh hay, anh cần dành dụm cái mà anh có, dù món tiền đó lớn đến mấy, nhưng anh cũng cần luyện tập để tự hoàn thiện sao cho xứng với một người quý tộc. Ngay hôm nay, ta sẽ viết cho ông giám đốc Hàn lâm viện hoàng gia, và ngay ngày mai ta sẽ nhận anh không mất chút thù lao nào. Đừng có từ chối sự ưu ái nhỏ bé này. Những nhà quý tộc dòng dõi cao quý nhất và giàu có nhất đôi khi mong được thế mà không được đấy. Anh sẽ học điều khiển ngựa, đấu gươm và khiêu vũ? Ở đây, anh sẽ được làm quen với những người tốt, thỉnh thoảng anh trở lại gặp ta cho ta biết anh đã tiến bộ đến đâu, và ta có thể làm điều gì đó giúp anh.

D' artagnan còn hoàn toàn xa lạ với cung cách nơi triều đình, cảm thấy sự lạnh nhạt trong tiếp đón.

- Than ôi, thưa ngài - chàng nói - lúc này tôi mới thấy bức thư giới thiệu viết cho ngài mà cha tôi đã trao cho tôi gây hại cho tôi đến mức nào!

Ông Treville đáp:

- Quả thật, ta ngạc nhiên là anh đã làm một cuộc hành trình dài đến thế mà lại không cỏ thứ bánh thánh bắt buộc ấy, phương sách duy nhất của người Bearn chúng ta.

- Tôi có chứ, thưa ngài, có Chúa chứng giám, đúng thể thức - D' artagnan kêu lên - nhưng họ đã tráo trở lột mất của tôi.

Và chàng kể lại mọi chuyện ở Măng, tả lại gã quý tộc không quen biết với những chi tiết nhỏ nhất một cách sôi nổi và thật thà khiến ông De Treville rất mê.

- Thế thì lạ nhỉ - Ông trầm ngâm nói - Tức là anh đã gióng tên tôi lên?

- Vâng, thưa ngài, chắc hẳn tôi đã mắc phải một điều bất cẩn. Nhưng ngài bảo sao, một cái tên như tên ngài phải được dùng như một cái khiên cho tôi trên đường đi. Ngài thử xét xem liệu tôi có luôn được che chở không?

Sự tâng bốc thật quả đúng lúc, và ông De Treville cũng thích sự tán tụng như một ông vua và như một Giáo chủ. Ông không kìm giữ nổi một nụ cười lộ vẻ thỏa mãn, nhưng nụ cười lại sớm tắt ngay, và chính ông lại quay lại câu chuyện phiêu lưu ở Măng.

- Nào, anh nói xem, cái gã quý tộc ấy không có một vết sẹo ở má chứ?

- Có chứ ạ, như một vết đạn xước.

- Không phải là một người phong độ nho nhã chứ?

- Phải ạ.

- Người cao lớn?

- Vâng.

- Da tái râu tóc nâu?

- Vâng, vâng, chính thế đó. Thưa ngài. Làm thế nào ngài lại biết được con người đó? Chà, nếu bao giờ tôi gặp hắn, mà tôi sẽ gặp lại, tôi xin thề với ngài đấy, dù ngay ở địa ngục...

- Hắn đợi một phụ nữ! - Ông Treville tiếp tục.

- Ít nhất hắn cũng chuyện trò một lúc với người đàn bà hắn đợi rồi mới ra đi.

- Anh không biết câu chuyện của họ xoay quanh chủ đề gì ư?

- Hắn đưa cho người đàn bà một cái hộp, và bảo trong hộp có những chỉ thị của hắn và dặn đến London mới được mở.

- Người đàn bà đó là người Anh?

- Hắn gọi là Milady.

- Chính hắn! - Ông Treville lẩm bẩm - Đúng hắn? Ta cứ ngỡ hắn còn ở Bruxelles?

- Ồ thưa ngài, nếu ngài biết kẻ đó là ai - D' artagnan kêu lên. - Xin hãy chỉ rõ tên hắn là gì, hắn ở đâu, tôi sẽ bỏ hết những điều tôi xin ngài, kể cả lời hứa của ngài cho tôi xung vào ngự lâm quân, bởi trên hết mọi điều, tôi muốn trả thù.

- Hãy cẩn thận đấy, chàng trai trẻ - Ông Treville nói - Trái lại, nếu như thấy hắn ta đến từ đầu phố này, hãy qua ngay sang đầu phố kia! Chớ có húc đầu vào tảng đá ấy. Nó sẽ đập vỡ anh như một hòn thủy tinh.

- Điều đó không ngăn nổi có ngày tôi gặp lại hắn.

- Trong khi chờ đợi - Ông Treville nói - đừng có đi tìm hắn, ta có lời khuyên anh đấy.

Bất ngờ, ông Treville dừng lại, bàng hoàng vì một mối nghi ngờ đột ngột. Hận thù lớn lao mà chàng du khách trẻ đã lớn tiếng bày tỏ với cái kẻ, có lẽ phần nào đúng, đã tước đoạt bức thư của cha chàng, lòng hận thù ấy liệu có không che giấu một sự tráo trở nào chăng? Con người trẻ tuổi này liệu có phải do Đức ông phái đến không? Anh ta không đến để giăng bẫy ông chứ? Cái kẻ giả vờ là D' artagnan này phải chăng là một mật sứ của Giáo chủ tìm cách lọt vào nhà ông, để ở gần ông, chiếm lấy lòng tin của ông rồi về sau hại ông, như đã được áp dụng hàng nghìn lần rồi? Ông chăm chú nhìn D' artagnan lần này kỹ hơn lần đầu. Ông không được yên tâm lắm trước bộ mặt ánh lên vẻ giảo hoạt và sự khiêm nhường dễ thương.

Ông nghĩ. Ta biết thừa hắn người Gátxcông nhưng hắn có thể tốt cho ta cũng như cho Giáo chủ. Để xem, hãy thử thách hắn đã.

- Anh bạn này - Ông từ tốn nói - vì anh là con trai ông bạn cũ của ta, ta coi chuyện mất thư là chuyện thực, để sửa chữa vẻ lạnh nhạt lúc đầu anh nhận thấy trong sự tiếp đón của ta. Ta muốn phơi bày cho anh biết những bí mật về chính sách của chúng ta. Nhà Vua và Giáo chủ là những người bạn tốt nhất. Những vẻ ngoài tưởng như kỵ nhau của họ chỉ là để lừa những tên ngốc. Ta không muốn một người đồng hương, một kỵ sĩ đẹp trai dũng cảm đầy sức thăng tiến lại bị lừa bởi những trò vờ vĩnh đó rồi chui vào lưới như một kẻ ngớ ngẩn, theo sau biết bao kẻ khác đã đâm đầu vào. Hãy nghĩ rằng ta trung thành với cả hai vị chúa tể quyền lực vô biên đó, và rằng những bước đi nghiêm túc của ta bao giờ cũng không ngoài mục đích phụng sự nhà Vua, và Đức Giáo chủ, một trong những thiên tài lỗi lạc nhất mà nước Pháp đã sinh ra. Giờ đây, anh bạn trẻ hãy xử sự đúng như thế, và nếu như vì gia đình, họ hàng hoặc do ngay cả bản năng, anh có mang một trong những mối hận thù nào đó chống lại Giáo chủ, giống như chúng ta thấy bùng nổ ở những chàng quý tộc vừa rồi, thì hãy vĩnh biệt ta rồi chia tay nhau: Ta sẽ giúp anh trong mọi tình thế nhưng không ràng buộc anh với bản thân ta. Ta hy vọng lòng thành thật của ta dẫu sao cũng sẽ khiến anh thành bạn ta, bởi cho đến nay anh là chàng trai trẻ duy nhất mà ta cho biết những điều như vừa rồi.

Treville lại tự nhủ:

"Nếu như Giáo chủ phái đến ta con cáo non này, chắc hẳn lão đã không quên dặn tên gián điệp của lão cách tốt nhất để tán tỉnh ta là bôi nhọ lão, vì lão thừa biết ta ghét lão độc địa đến mức nào. Cho nên mặc dầu những phản kháng của ta, thằng cha nham hiểm này hẳn sẽ trả lời ta hắn kinh hãi Đức ông".

Nhưng hoàn toàn khác hẳn điều ông Treville mong đợi, D' artagnan trả lời quá giản dị:

- Thưa ngài, tôi đến Paris với những ý định hoàn toàn như vậy. Cha tôi đã khuyên răn tôi chỉ chịu đựng nhà Vua, Đức Giáo chủ và ngài mà ông coi như ba người đứng đầu nước Pháp.

D' artagnan đã đưa thêm ông Treville vào hai người kia, nhưng chàng nghĩ việc thêm thắt này chẳng hại gì và nói tiếp:

- Vậy nên tôi rất tôn sùng Đức Giáo chủ và kính trọng sâu sắc những hành vi của người. Thưa ngài, nếu như ngài nói với tôi với lòng thành thực như ngài nói thì càng hay cho tôi, bởi ngài làm cho tôi được vinh dự tự hào về sự giống nhau về sở nguyện này, nhưng nếu ngài còn có chút nghi ngại nào, cũng là tự nhiên thôi, thì tôi cảm thấy mình dại dột khi nói lên sự thật. Nhưng không sao, rồi ngài sẽ không tránh khỏi quý mến tôi đâu. Đấy chính là điều tôi phải giữ hơn tất cả mọi thứ ở trên đời.

Ông De Treville bị ngạc nhiên tới cực điểm. Bấy nhiêu thăm dò, bấy nhiêu thành thực, cuối cùng chàng trai đã gây được lòng ngưỡng mộ, nhưng chưa hoàn toàn gạt đi hết những mối nghi ngờ của ông. Chàng trẻ tuổi này càng ở mức trên những chàng trai trẻ khác bao nhiêu ông càng sợ mình bị nhầm lẫn bấy nhiêu. Tuy nhiên ông siết chặt tay D' artagnan và bảo:

- Anh là một chàng trai trung thực, nhưng trong lúc này, ta chỉ có thể làm được điều mà ta đã hứa với anh lúc nãy. Nhà ta luôn mở rộng cửa với anh. Sau này, có thể yêu cầu gặp ta bất cứ giờ nào và do đó hãy nắm lấy thời cơ, có thể anh sẽ đạt được điều anh muốn đạt.

- Thưa ngài, có nghĩa là ngài đợi tôi trở nên xứng đáng với điều đó? - D' artagnan nói thêm với lối thân mật của dân Gátxcông - Vậy, ngài yên tâm, ngài không đợi lâu đâu.

Rồi chàng chào và rút lui, như thể từ nay phần còn lại là trông mong ở chính mình.

- Nhưng đợi đã - Ông De Treville vừa nói vừa ngăn chàng lại - Ta đã hứa gửi một bức thư cho ông giám đốc Viện Hàn lâm. Anh có quá kiêu hãnh mà không nhận nó không, nhà quý tộc trẻ của ta?

- Không, thưa ngài - D' artagnan nói - Tôi xin trả lời ngài rằng sẽ không có chuyện bức thư này như bức thư trước đâu. Tôi sẽ giữ nó thật cẩn thận, nó sẽ đến đúng địa chỉ, tôi xin thề với ngài đó, và sẽ bất hạnh cho kẻ nào định tước đoạt nó của tôi.

Ông Treville mỉm cười trước sự huênh hoang đó và để người đồng hương trẻ chờ ở khung cửa sổ nơi họ gặp nhau và nói chuyện với nhau, ông bắt đầu viết thư giới thiệu như đã hứa.

Trong lúc đó, D' artagnan không có việc gì để làm, bèn nện gót trên gạch lát nền, nhìn những ngự lâm quân, người nọ nối người kia đi khỏi đấy. chàng đưa mắt nhìn theo tới khi họ biến mất ở chỗ ngoặt của đường phố.

Viết xong và niêm phong bức thư, ông đứng lên, đến gần và đưa nó cho chàng. Nhưng đúng lúc D' artagnan chìa tay ra nhận, ông De Treville hết sức lạ lùng thấy con người được ông che chở nhảy vọt lên, bừng bừng giận dữ và vừa lao ra khỏi văn phòng vừa la hét:

- A! Đồ chết dẫm! Lần này nó không thoát khỏi tay ta đâu.

- Mà ai mới được chứ? - Ông De Treville hỏi.

- Nó, tên ăn cắp của tôi! - D' artagnan trả lời - A, đồ phản!

Rồi chàng biến mất.

- Tên điên này! - Ông De Treville lẩm bẩm - Tuy nhiên trừ phi - ông thêm - đó chỉ là một thủ đoạn khôn khéo để chuồn, khi thấy mình đã bị lộ.

Chú thích:
(1) Pompeé - Tướng La Mã, cùng với Caesar và Crassus họp thành tam hùng chống lại hạ viện, sau đối địch với Caesar, người được hạ viện và giới quý tộc nưởc Cộng hòa ủng hộ. Sau một cuộc chiến khủng khiếp bị bại ở Pharsale và khi đến Ai Cập tìm nơi trú thân thì bị ám sát
(2) Pavi: Nơi François I, bị người Tây Ban Nha đánh bại và bị bắt làm tù binh ngày 24-2-1525 viết thư cho mẹ: "Tất cả bị mất hết trừ danh dự".

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 4

Vai của Athos, dải đeo gươm của Porthos và chiếc khăn tay của Aramis.

D' Artagnan giận dữ bằng ba bước nhảy đã vượt qua tiền sảnh và lao xuống cầu thang, chàng đang định xuống bốn bậc một thì mải chạy, đầu húc phải một lính ngự lâm vừa ra khỏi nhà ông De Treville bằng một cửa thoát, trán chàng va phải vai người đó khiến người đó kêu rú lên, đúng hơn là thét lên.

- Tôi xin lỗi - D' artagnan vừa nói vừa chạy tiếp - tôi xin lỗi, nhưng tôi vội quá.

Chàng vừa xuống bậc thang đầu tiên, thì một bàn tay sắt đã nắm lấy đai áo chàng và giữ chàng lại. Người lính ngự lâm nhợt nhạt như tấm vải liệm nói to:

- Ông vội, vội nên ông húc tôi. Ông nói: "Xin lỗi" và ông tưởng thế là đủ ư? Không đâu, ông bạn trẻ của tôi ạ. Ông tưởng rằng hôm nay ông De Treville nói với chúng tôi hơi lính tẩy một chút, mà ông có thể xử sự với chúng tôi như ông Treville ư? Tỉnh lại đi, ông bạn. Ông không phải là ông Treville, ông hiểu chưa.

D' Artagnan nhận ra Athos sau khi được thầy thuốc băng bó đang trở về nhà, liền đáp:

- Tôi xin thề, tôi thề tôi không cố ý, tôi đã nói: "Tôi xin lỗi".

- Tôi tưởng thế là đủ. Tuy nhiên, tôi xin nhắc lại, và lần này có lẽ là quá đủ, thề danh dự, tôi đang vội, rất vội. Vậy hãy buông tôi ra, để tôi đi đến nơi tôi có việc.

Athos buông chàng ra nói:

- Thưa ông, ông không lịch sự. Người ta thấy ông từ nơi xa đến.

D' Artagnan đã bước được ba bốn bậc, thấy Athos nhận xét như vậy chàng dừng lại ngay trả lời:

- Quái nhỉ, thưa ông! Tôi có ở xa mấy đến đây, cũng không cần ông dạy tôi bài học về phép lịch sự, xin nói để ông biết.

- Có thể chứ? - Athos nói.

- Chà! Nếu như tôi không rất vội! - D' Artagnan nói to - Và nếu như tôi không đuổi theo một kẻ...

- Thưa người đang vội, tôi, ông sẽ thấy tôi không chạy đâu. Ông hiểu chứ?

- Và ở đâu xin vui lòng?

- Gần Cácmơ Đềsô.

- Mấy giờ?

- Lúc trưa.

- Lúc trưa. Được lắm. Tôi sẽ đến.

- Cố gắng đừng làm tôi phải đợi, bởi mười hai giờ mười lăm phút là tôi sẽ đuổi theo cắt tai ông đấy.

- Được! D' artagnan hét to - Sẽ ở đó lúc mười hai giờ kém mười lăm phút.

Và chàng bắt đầu chạy như ma đuổi, hy vọng tìm lại được người lạ mặt mà bước chân thong thả chắc chưa đưa hắn đi quá xa.

Nhưng tới chỗ cửa mở ra phố, Porthos đang chuyện trò với một lính gác. Giữa hai người đang trò chuyện, có một khoảng trống vừa đúng một người. D' artagnan tưởng khoảng trống ấy đủ cho chàng và chàng lao qua như một mũi tên bay giữa hai người. Nhưng D' artagnan đã không tính đến sức gió lúc chàng sấp qua, gió lùa sâu vào áo khoác dài của Porthos làm nó bung lên và D' artagnan nhào thẳng vào tấm áo. Chắc hẳn Porthos có những lý do để không thả cái phần thiết yếu của chiếc áo, bởi đáng lẽ để mặc cái tà áo chàng đang giữ, chàng lại kéo sát vào người mình làm cho D' artagnan bị quấn trong tấm áo nhung bởi một động tác xoay tròn, áo Porthos bướng bỉnh cưỡng lại.

D' artagnan nghe thấy tiếng người ngự lâm chửi rủa, muốn chui ra khỏi chiếc áo choàng đang che hết mắt chàng mà tìm lối ra trong nếp áo. Chàng sợ nhất là làm tổn hại đến vẻ tươi tắn của dải đeo gươm lộng lẫy. Nhưng khi e dè mở mắt thì chàng thấy mũi mình dính vào khoảng giữa hai vai của Porthos, nghĩa là đúng vào dải đeo gươm.

Than ôi! Giống như mọi vật trên đời này chỉ có được cái mã bề ngoài, dải đeo gươm chỉ có vàng phía trước, mặt sau đơn giản là da trâu. Porthos, thật là thích hào nhoáng nhưng không thể có nổi dải đeo gươm toàn bằng vàng, ít nhất cũng có được một nửa. Từ đó người ta hỉểu sự cần thiết của bệnh cúm và sự khẩn thiết của chiếc áo choàng.

- Con tiều! - Porthos vừa kêu lên, vừa dùng hết sức mình để gỡ khỏi D' artagnan đang lục đục trong lưng áo - Cậu hóa dại hay sao mà đâm nháo đâm nhào như thế vào người ta?

D' artagnan chui ra từ dưới vai người khổng lồ nói:

- Tôi xin lỗi, nhưng tôi vội quá, tôi chạy theo một kẻ...

- Do tình cờ mà anh để quên mắt trong khi chạy chăng? - Porthos hỏi.

- Không - D' artagnan bị chọc tức trả lời - Mà nhờ có mắt tôi mới thấy được cả cái mà người khác không thấy.

Porthos hiểu hay không hiểu, nhưng vẫn luôn như thế, đùng đùng nổi giận ngay:

- Thưa ông, tôi báo để ông biết, nếu ông cứ cọ người vào một lính ngự lâm như thế, ông sẽ tự cọ lông(1) mình đấy.

- Cọ lông ư, thưa ông! - D' artagnan nói - Tiếng đó thô quá?

- Chính nó mới hợp với người quen nhìn thẳng vào mặt kẻ thù?

- A, mẹ kiếp? Tôi biết thừa ông không quay lưng lại kẻ thù của ông đâu.

Và chàng trai trẻ thích chí về câu nói xỏ xiên của mình, vừa bước đi vừa cười rũ rượi.

Porthos giận sùi bọt mép chuẩn bị nhảy bổ vào D' artagnan.

- Để sau, để sau đã - D' artagnan hét to - khi nào ông không mặc áo choàng nữa đã.

Vậy lúc một giờ, đằng sau vườn Luxembourg.

- Tốt lắm, lúc một giờ - D' artagnan vừa đáp vừa ngoặt theo góc phố.

Nhưng trên đường phố chàng vừa chạy qua lẫn nơi chàng đưa mắt nhìn khắp, đều chẳng thấy bóng ai. Cho dù kẻ lạ mặt có đi thong thả, hắn cũng đã đi đường hắn mất rồi, có lẽ hắn đã rẽ vào một ngôi nhà nào đó. D' artagnan hỏi thăm về hắn, tất cả những người chàng gặp, xuống tận bến phà, lên phố Sông Sen và phố Hồng thập tự. Nhưng không thấy gì, tuyệt đối không. Tuy nhiên cuộc chạy đuổi cũng có lợi cho chàng với ý nghĩa mồ hôi càng đầm đìa trên trán, con tim chàng càng nguội bớt đi.

Chàng bắt đầu suy nghĩ về những sự kiện vừa xảy ra, vừa rất nhiều vừa xúi quẩy. Đã sắp mười một giờ trưa, và cả buổi sáng thế là đã đem lại cho chàng sự thất sủng của ông De Treville, không tránh khỏi thấy cung cách D' artagnan đã từ giã ông có đôi chút lính tráng Ngoài ra, chàng đã thu lượm được hai cuộc quyết đấu ra trò với hai con người có thể giết tới ba D' artagnan mỗi người, rất cuộc với hai lính ngự lâm, nghĩa là với hai trong số những người mà chàng đánh giá quá mạnh đến mức trong tư tưởng và trong trái tim chàng, chàng đã đặt lên trên tất cả mọi người khác.

Tình thế thật đáng buồn. Chắc chắn sẽ bị Athos giết. Chàng trai trẻ không lo lắng nhiều lắm về Porthos. Tuy nhiên, vì hi vọng là điều cuối cùng lụi tắt trong trái tim con người, nên chàng ván cứ hi vọng có thể sống sót qua hai trận đấu với những vết thương khủng khiếp đã đành rồi, và trong trường hợp sống sót trong tương lai chàng sẽ tự trách mắng mình như sau:

"Sao ta điên khùng và thô lỗ đến thế? Cái con người Athos dũng cảm và khốn khổ kia bị thương đúng vào vai mà ta, chính ta khi đi ra lại húc đầu đúng vào chỗ đó như một con cừu đực. Có điều là sao ông ta không giết quách ta đi, ông ta có quyền mà và sự đau đớn ta gây ra cho ông ta chắc là dữ dội lắm. Còn về Porthos, quả thật còn vớ vẩn hơn".

Và mặc dầu không muốn, chàng vẫn cứ bật cười, tuy nhiên vẫn vừa cười vừa nhìn xem có ai thấy cái cười một mình vô cớ ấy không, và liệu có xúc phạm đến một khách qua đường nào đó không.

"Còn như Porthos, còn kỳ quái hơn, nhưng ta cũng chẳng kém một tên đểnh đoảng, khốn khổ. Đâm đầu vào người ta như thế mà không báo trước! Không! Và lại đi nhòm người ta dưới chiếc áo khoác để thấy cái gì không có! Chắc chắn anh ta đã tha thứ cho ta nếu như ta đã không cạnh khóe về cái dải đeo gươm chó chết ấy. Đúng vậy? Phải, cạnh khóe đến gay go? Ôi ta đúng là một tên Gátxcông khốn kiếp. Lại đi làm chuyện cố dí dóm trong chảo rán. Nào, D' artagnan, anh bạn của ta ơi - chàng tiếp tục nói với mình bằng cả sự ôn hòa mình tin phải thế - nếu cậu lại thoát khỏi tình cảnh này, chắc là không được đâu, thì về sau, phải hết sức lịch thiệp. Từ nay, phải để cho người ta ngưỡng mộ, người ta kể ra như một hình mẫu. ân cần và lịch thiệp không phải là hèn nhát. Tốt hơn hãy xem Aramis, đấy là sự dịu dàng, hiện thân của sự phong nhã. Thế mà có kẻ nào dám bảo Aramis là một thằng hèn không? Không, chắc chắn thế, và từ nay ta muốn noi gương chàng về mọi mặt. Mà, đúng là chàng ta đây rồi.

D' artagnan chân bước, mồm độc thoại, chỉ còn mấy bước nữa là đến dinh phủ Eghiông, và thấy Aramis, đang vui vẻ chuyện trò với ba nhà quý tộc vệ sĩ của nhà Vua. Về phía mình, Aramis cũng thấy D' artagnan. Nhưng vì không hề quên. chính trước chàng trai trẻ này, ông De Treville đã đùng đùng nổi giận buổi sáng nay và chàng nọ là kẻ chứng kiến những lời trách móc những người lính ngự lâm phải chịu, điều này thật không hay ho gì đối với Aramis, nên chàng làm như không nhìn thấy.

D' artagnan đang hết mình với kế hoạch hòa giải và lễ độ, tiến lại gần bốn chàng trai trẻ, cúi rạp chào họ, kèm theo một nụ cười duyên dáng. Aramis khẽ nghiêng đầu, nhưng không hề cười. Thêm nữa, cả bốn người ngừng ngay tức khắc cuộc trò chuyện của họ.

D' artagnan không đến nỗi quá ngớ ngẩn để không nhận thấy mình là thừa. Nhưng chàng còn chưa đến mức vứt bỏ cung cách ứng xử của giới thượng lưu để thoát ra một cách lịch sự khỏi một tình thế giả tạo như đã xảy ra, về đại thể, nó như tình thế của một người muốn hòa vào những người mình không quen biết mấy và vào cuộc trò chuyện chẳng liên quan gì đến mình.

Vậy là chàng đang tìm cho mình một cách rút lui ít vụng về nhất, nhận thấy Aramis đánh rơi chiếc khăn tay và chắc hẳn do vô ý đã giẫm chân lên, cho rằng cơ hội để sửa chữa khiếm nhã của mình hình như đã tới, chàng liền cúi xuống, và với nụ cười nhã nhặn nhất có thể, rút chiếc khăn tay dưới chân chàng ngự lâm, dù người này đang cố giữ lại, rồi vừa trả vừa bảo:

- Thưa ông, đây là chiếc khăn tay mà mất nó ông sẽ không vui!

Chiếc khăn tay quả được thêu sang trọng mang tước hiệu và gia huy ở một góc - Aramis đỏ bừng mặt lên, cầm lấy, đúng hơn giật lấy từ tay chàng Gátxcông.

- Chà - một lính cận vệ kêu lên - này Aramis thâm trầm, cậu có còn nói cậu đang khủng khỉnh với bà Boa-Tracy nữa không, khi vị phu nhân duyên dáng đó lại sốt sắng cho cậu mượn khăn tay của nàng?

Aramis nhìn D' artagnan như thể cho chàng hiểu chàng vừa chuốc lấy một kẻ thù đấy, rồi lấy lại vẻ hiền từ nói:

- Các vị nhầm rồi! Chiếc khăn này không phải của tôi. Và tôi không biết tại sao ông đây lại nghĩ ra chuyện lạ, thay vì đưa cho một trong các vị lại đưa cho tôi, và bằng chứng điều tôi nói đây, đây mới là chiếc khăn của tôi trong túi của tôi.

- Vừa nói chàng vừa rút chiếc khăn của chính mình ra, một chiếc khăn cũng rất sang, và bằng vải lanh mịn, mặc dầu vào thời đó vải lanh rất đắt, nhưng là khăn không thêu, không gia huy và chỉ được trang trí bằng ký tự duy nhất, ký tự của chủ nó.

Lần này, D' artagnan không nói nửa lời, chàng đã nhận ra sự hớ hênh của mình. Nhưng những người bạn của Aramis không chịu tin những lời phủ nhận của chàng, và một trong số họ nói với chàng với một điệu bộ ra vẻ nghiêm trang:

- Nếu là như thế, như cậu nói ấy, tôi buộc lòng phải xin lại cậu chiếc khăn, Aramis thân mến của tôi ạ, bởi như cậu biết đấy, ông Boa-Tracy là một trong số bạn thân của tôi, và tôi không muốn người ta lấy đồ vật của vợ ông làm chiến tích.

- Cậu đòi hỏi như thế bậy rồi - Aramis trả lời - Và hoàn toàn công nhận việc đòi hỏi của cậu là chí lý về căn bản, nhưng mình sẽ từ chối vì về mặt thể thức.

D' artagnan rụt rè xen vào:

- Sự thật là tôi không trông thấy chiếc khăn rơi từ túi ông.

Aramis. Ông giẫm phải, có thế thôi, và tôi nghĩ một khi ông đã giẫm lên, thì chiếc khăn là của ông.

- Và ông đã nhầm, quý ông thân mến - Aramis trả lời một cách lạnh lùng, thờ ơ với việc sửa chữa thái độ của D' artagnan.

Rồi quay lại phía người cận vệ tuyên bố là bạn của Boa - Tracy:

- Vả lại, ông bạn thân mến của Boa - Tracy quý hóa này, tôi nghĩ rằng tôi cũng là bạn của ông ta không kém mến thương như cậu đâu, cho nên nói cho cùng thì chiếc khăn cũng có thể rơi từ túi của cậu ra như túi của tôi.

- Không, mình thề danh dự đấy! - Người lính cận vệ của Hoàng thượng kêu lên.

- Cậu thề danh dự, còn mình thề trên lương tâm. Vậy thì rõ ràng một trong hai chúng ta nói dối. Này, Môngtarăng, tốt nhất là làm thế này, mỗi người một nửa.

- Chiếc khăn á?

- Ừ!

Hai người cận vệ khác reo lên:

- Hay lắm. Cách xét xử của vua Xalômông đấy. Aramis, cậu lõi đời thật.

Những chàng trai trẻ phá lên cười, và như người ta quen nghĩ sự việc đến đây là hết. Một lát sau, cuộc trò chuyện chấm dứt, ba người cận vệ và người lính ngự lâm sau khi thân thiết siết chặt tay nhau rút lui, ba người cận vệ đi về một ngả, Aramis đi về một ngả.

"Đây là lúc ta hòa giải với con người lịch thiệp này".

D' artagnan tự nhủ, chàng vẫn còn đứng tách ra suốt trong phần cuối của câu chuyện.

Và với thiện ý ấy, chàng lại gần Aramis đang rời xa không hề để ý đến chàng.

- Thưa ông - chàng nói - tôi hi vọng ông sẽ thứ lỗi cho tôi.

Al ông - Aramis ngắt lời - cho phép tôi nhận xét ông rằng ông không hề xừ sự trong tình huống đó như một người lịch thiệp cần làm.

- Sao, ông? - D' artagnan kêu lên - Ông cho…

- Thưa ông, tôi cho ông là một tên ngốc và ông thừa biết, dù từ Gátxcông đến, người ta cũng không vô cớ bước lên những khăn bỏ túi. Quỷ thật, Paris không hề được lát đường bằng vải lanh.

D' artagnan lúc này bản tính hiếu chiến bắt đầu nói to những quyết định hòa bình, liền bảo:

- Thưa ông, ông đã nhầm khi tìm cách hạ nhục tôi. Tôi là dân Gátxcông, đúng vậy, và một khi ông đã biết thế, có nhẽ tôi không cần nói cho ông rằng người Gátxcông ít kiên nhẫn, thành thử khi họ đã một lần nhận lỗi, dù là một sự dại dột, họ cũng tin rằng đã làm quá nửa việc họ phải làm.

- Thưa ông, điều tôi nói với ông - Aramis trả lời - không hề để kiếm cớ gây sự với ông. Nhờ trời tôi không phải là người đi kiếm chuyện quyết đấu, và chỉ làm lính ngự lâm tạm thời thôi, tôi chỉ đánh nhau khi bị buộc lòng, và luôn luôn với một sự ghê tởm khôn cùng. Nhưng lần này, việc thật nghiêm trọng, bởi đây là một phu nhân bị tổn thương danh dự bởi ông.

- Bởi chúng ta! Thế đấy? - D' artagnan nói to.

- Tại sao ông lại vụng về đưa trả tôi chiếc khăn tay?

- Tại sao ông lại vụng về để rơi nó?

- Tôi đã nói và tôi nhắc lại chiếc khăn không hề rơi ra từ túi tôi.

- Thưa ông, vậy thì ông đã hai lần nói dối, bởi chính tôi đã trông thấy nó rơi ra?

- A, ông lại nói cái giọng đó, thưa ông Gátxcông, vậy thì tôi sẽ dạy ông cách sống.

- Và tôi, tôi sẽ tống ông về các cuộc lễ, thưa ông tu viện trưởng! Tuốt gươm ra, nếu ông thích, ngay bây giờ.

- Không đâu, xin vui lòng, ông bạn vàng của tôi, ít ra không ở đây đâu ông không thấy chúng ta đang ở trước dinh phủ Eghiông à, đầy người của Giáo chủ trong này. Ai bảo tôi rằng không phải Đức ông sai ông lấy đầu tôi? Mà tôi lại coi đó là chuyện lố lăng vì vẫn đinh ninh rằng đầu tôi hình như lại quá thuận với hai vai tôi. Vậy là tôi muốn giết ông, bình tĩnh nào, nhưng giết ông một cách dịu dàng trong một nơi nào kín, um tùm, ở đó ông sẽ không thể khoe cái chết của mình với bất cứ ai.

- Tôi muốn được thế lắm, nhưng chớ có tự tin thế, và hãy mang theo chiếc khăn tay của ông, dù của ông hay không, nhưng có lẽ ông sẽ có dịp dùng đến nó đấy.

- Ông là dân Gátxcông? - Aramis hỏi.

- Phải. Quý ông không vì quá thận trọng mà lui lại cuộc hẹn chứ?

- Sự thận trọng, thưa ông, là một đức tính khá vô ích với người lính ngự lâm, tôi biết vậy, nhưng lại rất cần thiết đối với người của nhà thờ. Và vì tôi là ngự lâm tạm thời, tôi vẫn phải thận trọng. Vào lúc hai giờ, tôi sẽ có vinh dự đợi ông ở dinh quán ông De Treville. Đến đó, tôi sẽ chỉ cho ông những chỗ tốt.

Hai chàng trai trẻ chào nhau, rồi Aramis rời xa, đi ngược lên dãy phố đầu vườn Luxembourg, còn D' artagnan thấy thì giờ đang trôi nhanh, vừa đi theo đường Cácmơ Đềsô, vừa nhủ thầm:

"Chắc chắn, ta sẽ không thể thoát nổi, nhưng ít nhất nếu ta bị giết, ta sẽ chết bởi một lính ngự lâm".

Chú thích:
(1) Etriller (tiếng Pháp): Cọ lông ngựa bằng bàn chải sắt - nghĩa bóng: đánh đập.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 5

Ngự lâm quân của nhà vua và cận vệ quân của đức Giáo chủ

D' Artagnan không quen ai ở Paris. Vì vậy chàng đến nơi hẹn với Athos không mang theo người làm chứng, quyết định sẽ bằng lòng với những người mà đối thủ của mình đã chọn. Vả lại, ý định của chàng đã rành rành là sẽ hết lời xin lỗi đúng mức người ngự lâm dũng cảm, nhưng không hèn yếu, sợ rằng xảy ra trong cuộc quyết đấu này điều luôn xảy ra đáng tiếc trong những vụ thuộc loại này, khi một người trẻ khỏe đánh lại một đối thủ bị thương và ốm yếu; nếu bại sẽ tăng gấp đôi chiến thắng của đối phương, thắng, sẽ bị cáo buộc phạm tội và can trường rởm.

Thêm nữa, hoặc chúng ta đã phơi bày không đúng tính cách của khách phiêu lưu, hoặc độc giả đã phải nhận ra D' artagnan không hề là một con người tầm thường, cho nên vẫn cứ vừa tự nhắc đi nhắc lại cái chết của mình là không tránh khỏi, chàng vẫn không hề cam chịu chết một cách êm thắm như người khác kém dũng cảm và kém biết điều khi ở địa vị chàng. Chàng nghĩ ngợi về những tính cách khác nhau của những người sắp đấu với mình và bắt đầu nhìn rõ hơn cảnh ngộ của mình, chàng hi vọng nhờ những lời xin lỗi chân thành dành cho Athos, sẽ trở thành bạn của chàng, người có phong độ như một vị đại vương hầu và dáng vẻ khắc khổ khiến chàng ưa thích vô cùng. Chàng tự đắc sẽ làm cho Porthos sợ với sự phiêu lưu của dải đeo gươm, nếu như không bị giết chết tươi, chàng sẽ kể cho mọi người câu chuyện khéo đưa đẩy cho hiệu quả, chắc sẽ làm cho Porthos trở thành trò cười. Cuối cùng về cái tay tẩm ngẩm, tầm ngầm Aramis thì không có gì đáng sợ lắm, giả dụ còn đến được với hắn, chàng sẽ tự đảm nhiệm tiễn gọn hắn chầu trời hoặc ít nhất cũng đánh vào mặt hắn, như Xêda ra lệnh làm với quân lính của Pompê, cho nát tan cái vẻ khôi ngô mà hắn từng quá kiêu hãnh.

Sau nữa ở D' artagnan có một đức tính cả quyết không thể lay chuyển mà những lời khuyên nhủ của người cha đã thiết lập trong trái tim chàng, thực chất là: "Không chịu ai, ngoài nhà Vua, Giáo chủ và ngài De Treville". Vậy nên chàng tốt nhất là bay hơn là chạy về phía tu viện Các mơ tháo giày(1) hoặc đúng hơn là đề sô (des chauxvôi) như người ta nói thời bấy giờ, một tòa nhà không cửa sổ, xung quanh là những đồng cỏ cằn cỗi, nhánh của Prê-ô Cléc (Pré-aux - Clers - đồng cỏ cho giáo đồ - ND) và thường dùng cho những cuộc gặp gỡ của những người không có thì giờ để mất.

Khi D' artagnan đến gần và nhìn mảnh đất trống nhỏ trải ra đến tận chân tu viện, Athos mới đợi được năm phút, và đồng hồ điểm trưa. Vậy là ông ta đúng giờ như đồng hồ nhà thờ Xamnariten, và nhà thần học ngụy lý(2) nhất coi trọng các cuộc quyết đấu không còn gì để nói.

Athos, vết thương vẫn còn đau dữ dội dù đã được nhà giải phẫu của ông De Treville băng bó, lại ngồi đợi địch thủ của mình trên một phiến đá với thái độ yên bình và vẫn cái phong độ đường bệ không bao giờ rời chàng. Thấy D' artagnan, Athos đứng lên và lịch sự tiến mấy bước đến trước mặt chàng. Về phần mình, D' artagnan tiếp cận địch thủ bằng cánh tay ngả mũ ra, và lông mũ quệt tận đất.

- Thưa ông - Athos nói - Tôi đã bảo cho hai người bạn của tôi để làm người làm chứng cho tôi, nhưng hai người bạn ấy còn chưa thấy tới. Tôi lấy làm lạ vì họ đến muộn, đó không phải thói quen của họ.

- Tôi không có người làm chứng, tôi, thưa ngài - D' artagnan nói - bởi chỉ hôm qua mới tới Paris, tôi còn chưa quen biết ai ngoài ngài De Treville mà cha tôi đã giới thiệu, vì ông có vinh dự là chỗ bạn bè.

Athos nghĩ ngợi một lúc rồi hỏi:

- Ông chỉ quen mỗi ngài De Treville?

- Vâng, thưa ông, tôi chỉ quen mỗi ngài.

- À ra thế! Nhưng - Athos tiếp tục nửa nói với chính mình nửa nói với D' artagnan - Ra thế, nhưng nếu tôi giết ông, tôi sẽ giống như một kẻ ăn hiếp trẻ con!

- Thưa ông, không đến nỗi thế - D' artagnan vừa nói vừa trịnh trọng cúi chào - không quá thế đâu, một khi ông bạn cho tôi vinh dự tuốt gươm chống lại tôi, với một vết thương khiến ông chắc rất chi là khó chịu.

- Rất khó chịu, tôi xin thú thật như vậy, và ông đã làm tôi bị một cú điếng người, tôi phải nói như vậy. Nhưng tôi sẽ dùng tay trái, đó là thói quen của tôi trong trường hợp tương tự. Vậy ông đừng tưởng là tôi nhường ông, tôi chơi tốt cả hai tay. Có thể còn bất lợi cho ông nữa đấy. Một người thuận tay trái sẽ rất phiền toái cho người nào không được báo trước. Tôi tiếc không để ông biết sớm hơn về trường hợp này.

D' artagnan lại nghiêng mình nói:

- Ông đúng là rất lịch thiệp, tôi hết sức biết ơn ông.

- Ông làm tôi bối rối - Athos trả lời với phong độ quý tộc - Vậy ta hãy nói về chuyện khác trừ phi điều đó làm ông không hài lòng. Ái! Chết tiệt! Ông làm tôi đau quá! Vai tôi nhức buốt lên.

- Nếu ông vui lòng cho phép… D' artagnan rụt rè nói.

- Chuyện gì thưa ông?

- Tôi có một loại cao kỳ diệu chữa vết thương, một loại cao truyền từ mẹ tôi mà bản thân tôi đã dùng thử.

- Rồi sao?

- À thế này! Tôi tin chắc không tới ba ngày cao đó sẽ chữa lành cho ông. Và sau ba ngày, khi ông đã khỏi, sẽ vẫn luôn là một vinh dự lớn lao cho tôi được là người hầu ông.

D' artagnan nói những lời đó với một vẻ bình dị khiến phong độ lịch thiệp của chàng càng đáng trân trọng mà không hề chạm đến lòng dũng cảm của mình.

- Trời ơi, thưa ông - Athos nói - đó là một đề nghị làm tôi rất vui, không những tôi chấp nhận, mà cách xa một dặm đã cảm thấy phong vị quý tộc rồi. Chính các chiến binh thời vua Sáclơma đã nói và làm như thế, và bất cứ kỵ sĩ nào cũng phải tìm cách noi gương, không may thay, chúng ta không ở thời của Đại đế, chúng ta ở trong thời đại của Giáo chủ, và ở nơi đây, ba ngày nữa người ta sẽ biết dù bí mật có được giữ rất kín, người ta sẽ biết, tôi nói vậy là chúng ta phải đấu nhau, và người ta sẽ chống lại cuộc chiến đấu của chúng ta. A, thế đấy! Mấy tay la cà ấy vậy là sẽ không đến chăng?

- Thưa ông, nếu ông vội - D' artagnan nói với Athos vẫn với thái độ bình dị như một phút trước đây, chàng đã đề nghị hoãn lại cuộc quyết đấu ba ngày - Nếu ông vội và nếu ông thích kết liễu đời tôi ngay lập tức, xin ông đừng băn khoăn.

- Lại thêm một lời làm tôi mát lòng - Athos vừa nói vừa gật đầu thân thiện với D' artagnan - không phải lời nói của một người mất trí chút nào, và chắc chắn là của một người có lòng tốt. Thưa ông, tôi yêu những con người có khí phách như ông, và tôi thấy nếu như chúng ta không giết nhau, sau này tôi sẽ rất vui được làm bạn với ông. Ta hãy đợi các vị kia, tôi cũng không vội đâu và như vậy sẽ hợp lệ hơn. À, mà một người kia rồi.

Quả vậy, ở đầu phố Vôgira, thấy xuất hiện gã khổng lồ Porthos.

- Sao! - D' artagnan kêu lên - người làm chứng thứ nhất của ông là Porthos ư?

- Phải, điều đó trái ý ông ư?

- Không, không chút nào.

- Và đây là người thứ hai.

D' artagnan quay lại phía Athos chỉ tay, nhận ra Aramis:

- Sao? - Chàng kêu lên, giọng còn kinh ngạc hơn lần trước:

- Người làm chứng thứ hai của ông là ông Aramis à?

- Chắc hẳn rồi! Ông không biết rằng người ta không bao giờ nhìn thấy chúng tôi người này không có người khác và người ta gọi chúng tôi trong ngự lâm quân và cận vệ quân, trong triều và trong thành phố là Athos, Porthos, và Aramis, hoặc bộ ba không thể tách rời hay sao. Như thế chắc, vì ông từ Đắc hay Pô đến.

- Từ Tácbơ - D' artagnan nói.

- Ông có thể không cần biết tới chi tiết này - Athos nói.

- Thật lòng - D' artagnan - các vị rất xứng danh như vậy. Và sự liều lĩnh của tôi, nếu như có gây nên chuyện ầm ĩ nào đó, ít nhất cũng chứng tỏ sự thống nhất của các vị không hề thiết lập trên những tương phản.

Trong khi đó, Porthos đã tới gần, giơ tay chào Athos, rồi quay về phía D' artagnan, đứng ngây ra kinh ngạc. Và khi lại đây chàng ta đã thay đai đeo gươm và bỏ áo choàng đi.

- A, a? Thế này là thế nào?

- Chính ông đây là người tôi đấu đấy - Athos vừa nói vừa giơ tay chỉ D' artagnan, và cũng giơ tay chào Porthos.

Porthos nói:

- Tôi cũng đấu với ông ta.

D' artagnan đáp:

- Và cả tôi nữa, tôi cũng đấu với chính ông đây - Aramis nói, khi vừa đến nơi.

- Nhưng chỉ đến hai giờ chiều - D' artagnan vẫn bình tĩnh nói.

- Nhưng anh đấu vì chuyện gì, hở Athos? - Aramis hỏi.

- Thật lòng tôi cũng không hiểu lắm, ông ta làm đau ở vai tôi, thế còn cậu, Porthos?

- Thú thật, tôi đấu bởi vì tôi đấu - Porthos đỏ mặt trả lời.

Athos, không bỏ qua điều gì, thấy thoáng một nụ cười trên môi chàng Gátxcông. Chàng nói:

- Chúng tôi cãi nhau về chuyện ăn mặc.

- Còn cậu, Aramis? - Athos hỏi.

- Tôi à, tôi đấu vì lý do thần học - Aramis vừa trả lời vừa ra hiệu cho D' artagnan, yêu cầu giữ kín nguyên nhân cuộc đấu.

Athos lại nhìn thấy một nụ cười nữa trên môi D' artagnan, ông nói:

- Đúng vậy chứ?

- Vâng - chàng Gátxcông nói - về một điểm của thánh Augustin, chúng tôi bất đồng với nhau.

- Hẳn vậy rồi, đó là một người thông tuệ - Athos lẩm bẩm.

- Và giờ đây, thưa các vị, các vị đã tập hợp cả ở đây, cho phép tôi được xin lỗi các vị - D' artagnan nói.

Nghe những tiếng xin lỗi, một đám mây lướt qua vầng trán của Athos, một nụ cười cao ngạo lướt trên môi của Porthos và một dấu hiệu không tán thành là câu trả lời của Aramis.

- Thưa các vị, các vị không hiểu rồi - D' artagnan vừa nói vừa ngẩng mặt lên, để một tia nắng mặt trời nhuộm vàng chói những nét thanh tú và rắn rỏi trên đó - Tôi xin lỗi các vị trong trường hợp tôi không thể trả món nợ của tôi cho cả ba, bởi ông Athos là người đầu tiên có quyền giết ông, điều này tước mất nhiều giá trị món nợ của ông, ông Porthos, và cũng làm món nợ của ông gần như mất sạch, ông Aramis ạ. Và bây giờ các vị, tôi xin nhắc lại với các vị, thứ lỗi cho tôi, nhưng chỉ có thế thôi và hãy thử thế!

Nói dứt lời, bằng một động tác rõ ràng là hiệp sĩ nhất chàng rút gươm ra.

Máu đã dồn lên đầu D' artagnan, và lúc này chàng như đã rút gươm chống lại toàn bộ ngự lâm quân của vương quốc, khi chàng vừa làm để chống lại Athos, Porthos và Aramis.

Đã mười hai giờ mười lăm. Mặt trời đã ở đỉnh đầu, và địa điểm chọn để thành sàn đấu phơi ra dưới nắng gắt.

- Trời nóng quá! - Athos vừa nói vừa rút gươm - và trong khi ấy tôi lại không thể cởi bỏ áo chẽn, bởi, mới đây thôi, tôi còn cảm thấy vết thương của mình chảy máu, và tôi sợ làm phiền ông đây khi để ông thấy máu không phải do chính ông đâm tôi.

- Đúng vậy thưa ông - D' artagnan nói - và do tôi hay do người khác đâm, tôi cũng cam đoan với ông rằng, tôi cũng sẽ luôn nhìn với vô cùng tiếc nuối dòng máu của một nhà quý tộc dũng cảm đến thế. Vậy tôi cũng mặc áo chẽn mà đấu như ông.

- Thôi nào, thôi nào - Porthos nói - xin đủ những lời khách sáo ấy đi, và hãy nghĩ chúng tôi đang đợi đến lượt mình đây.

- Hãy nói cho riêng phần cậu thôi, Porthos - Aramis ngắt lời khi cậu phải nói ra những điều khiếm nhã như vậy. Về phần tôi, tôi lại thấy những điều mà các vị ấy nói với nhau lại rất chững chạc và hoàn toàn xứng đáng với hai nhà quý tộc.

- Khi nào ông muốn, thưa ông - Athos vừa nói vừa thủ thế.

- Tôi xin đợi hầu ông - D' artagnan vừa nói vừa vung gươm.

Nhưng khi hai thanh gươm vừa vang lên khi chạm nhau, một toán cận vệ của Đức ông do ông De Jussac chỉ huy hiện ra ở góc tu viện.

- Bọn cận vệ của Giáo chủ! - cả Porthos lẫn Aramis đều cùng la lên - tra gươm vào vỏ, các vị! Tra ngay vào vỏ!

Nhưng quá muộn rồi. Hai đấu thủ đã bị nhìn thấy trong một tư thế không cho phép hoài nghi về ý đồ của họ.

- Ê này? - Jussac la lên, vừa lao về phía bọn họ vừa ra hiệu cho người của mình lao theo - Ê này! Bọn ngự lâm quân, đánh nhau ở đây ư? Còn các lệnh cấm, chúng ta tính sao đây?

- Thưa các vị cận vệ, các vị rất đại lượng - Athos nói, lòng đầy hận thù, bởi Jussac là một trong những kẻ gây chiến ngày hôm kia - Nếu chúng tôi thấy các ông đánh nhau. Tôi xin hứa với ông, tôi sẽ không ngăn cản đâu. Vậy hãy mặc chúng tôi làm gì thì làm, và các ông sẽ được mua vui mà chẳng nhọc nhằn gì.

- Thưa các vị - Jussac nói - Rất tiếc phải tuyên bố với các vị là việc ấy không thể được. Nhiệm vụ của chúng tôi trên hết. Vậy hãy tra gươm vào, và xin vui lòng đi theo chúng tôi.

Aramis nói, nhại giọng Jussac:

- Thưa ông, nếu điều đó phụ thuộc vào chúng tôi. Nhưng khốn nỗi điều đó lại không thể: ông De Treville đã cấm chúng tôi đi theo các ông. Vậy ông hãy đi theo đường ông, đấy chính là điều tốt nhất ông nên làm.

Sự cợt nhạo đó làm Jussac nổi tam bành. Hắn nói:

- Vậy chúng ta sẽ cưỡng chế các người nếu các người không tuân theo.

- Bọn chúng năm - Athos nói nhỏ - và chúng ta chỉ có ba, chúng ta sẽ lại thua. Ta nên chết ở đây thôi, bởi tôi xin thề sẽ không gặp lại đại úy nếu thua trận.

Athos, Porthos và Aramis ngay lúc đó đứng sát vào nhau, trong khi Jussac dàn quân của mình.

Chỉ trong khoảnh khắc đó, đủ để D' artagnan quyết định mình phải làm gì. Đây là một trong những biến cố quyết định cuộc sống của con người, đây là một sự lựa chọn phải làm giữa nhà Vua và Giáo chủ. Khi đã lựa chọn rồi, phải kiên trì với nó.

Đánh nhau nghĩa là bất tuân luật pháp, là liều đời, là đùng một cái trở thành kẻ thù của một vị Thủ tướng quyền lực lớn hơn cả chính nhà Vua. Đó là điều chàng trai hé nhìn thấy, ta nói ra điều đó là để ca ngợi chàng. Chàng không do dự một giây. Quay lại phía Athos và các bạn ông, chàng nói:

- Thưa các vị, xin vui lòng cho tôi sửa lại một điều trong câu nói của các vị. Các vị nói có ba, nhưng với tôi, tôi cho hình như chúng ta có bốn.

- Nhưng ông không phải là người của chúng tôi - Porthos nói.

- Đúng vậy - D' artagnan đáp - tôi không có trang phục, nhưng tôi có tấm lòng, tôi là ngự lâm quân, tôi cảm thấy hoàn toàn như vậy, ông ạ, và điều đó làm tôi mê say.

- Tránh ra, gã thiếu niên - Jussac hét lên, chắc hẳn qua cử chỉ và nét mặt đã đoán ra ý định của D' artagnan. Chúng ta bằng lòng để cậu có thể rút lui. Hãy giữ lấy mạng mình, nào nhanh lên?

D' artagnan không hề nhúc nhích.

- Ông quả là một chàng trai tuyệt vời - Athos vừa nói vừa siết chặt tay chàng trai trẻ.

- Nào, nào? - Jussac nhắc lại - quyết định đi.

- Sao, - Porthos và Aramis nói - Ta phải làm cái gì chứ.

- Ông đây quả đầy lòng độ lượng - Athos nói.

Nhưng cả ba đều nghĩ đến sự non nớt của D' artagnan và sợ cho sự thiếu kinh nghiệm của chàng.

- Chúng ta sẽ chỉ có ba, mà một bị thương, cộng thêm một đứa trẻ - Athos nhắc lại - và người ta vẫn sẽ nói rằng chúng ta có bốn người.

- Phải, nhưng rút lui! - Porthos nói.

- Sẽ khó khăn - Athos nói tiếp.

D' artagnan hiểu sự phân vân của họ, chàng nói:

- Các vị hãy thử tôi xem nào, và tôi xin thề danh dự là không muốn đi khỏi đây nếu chúng ta thua.

- Anh tên là gì, con người dũng cảm của tôi? Athos hỏi.

- Thưa ông, D' artagnan.

- Nào! Athos, Porthos, Aramis và D' artagnan? - Athos hét - Tiến lên.

- Thế nào các vị quyết định xong rồi chứ? - Lần thứ ba Jussac hét lên.

- Xong rồi, các ông ạ! - Athos nói.

Aramis một tay ngả mũ, một tay tuốt gươm trả lời:

- Chúng tôi sắp hân hạnh tấn công các ông.

A, kháng cự phỏng? - Jussac la lên.

- Mẹ kiếp, ông ngạc nhiên ư?

Rồi chín chiến binh chồm vào nhau cuồng nộ không trừ một thế gươm nào.

Athos chọn một tên Cahuxắc nào đó, một sủng tướng của Giáo chủ. Porthos với Bieara, và Aramis thấy mình đối mặt hai địch thủ.

Còn D' artagnan lao vào chống lại chính Jussac.

Trái tim chàng trai trẻ đập đến vỡ lồng ngực không phải vì sợ, ơn Chúa, một thoáng cũng không, mà chỉ là đua tranh.

Chàng đánh như một con hổ đang cuồng nộ, xoay người lần quanh địch thủ, đổi hai mươi lần miếng giữ và thế trận. Jussac như thiên hạ đồn thủa đó, một tay gươm sắc sảo và vô cùng lão luyện. Tuy nhiên hắn lại muôn vàn vất vả để chống lại một địch thủ khéo léo, nhảy nhót, bất cứ lúc nào cũng bỏ qua những đường gươm sách vở, cùng một lúc tấn công từ mọi phía, vừa tránh đỡ như một người quyết không để bị xước da của mình.

Rốt cuộc cuộc chiến đấu ấy khiến Jussac mất kiên nhẫn.

Giận dữ vì không làm gì nổi một kẻ mà hắn coi như một đứa trẻ con, hắn sôi lên và bắt đầu mắc lỗi. D' artagnan mắc nhược điểm ít thực hành, nhưng lại có được lý thuyết sâu sắc, tăng gấp đôi sự linh hoạt của mình. Jussac muốn dứt điểm, nhoài hẳn người ra, đâm một nhát chí tử về phía địch thủ, nhưng chàng đã tránh trước, và trong khi Jussac thu người lại đứng lên, chàng trườn như con rắn dưới lưỡi gươm của hắn, xỉa một nhát xuyên qua người hắn. Jussac đổ xuống như một khối thịt.

Sau đó D' artagnan đưa mắt lo lắng nhìn nhanh chiến trường.

Aramis đã giết một trong hai địch thủ của mình, nhưng tên kia áp đảo chàng rất ghê. Tuy nhiên, Aramis vẫn trong tình thế tốt và còn có thể kháng cự.

Bicara và Porthos vửa trả miếng nhau, Porthos bị một nhát gươm đâm xuyên qua cánh tay và Bicara bị một nhát xuyên qua đùi. Nhưng vì không vết thương nào nặng, họ chỉ càng đâm chém ác liệt hơn.

Athos lại bị thương nữa bởi Cahuyxắc, trông tái nhợt, nhưng chàng không lùi một gót giầy. Chàng chỉ đổi tay cầm gươm và đánh bằng tay trái.

D' artagnan theo luật quyết đấu thời đó, có thể đến cứu giúp ai đó. Trong khi đưa mắt tìm đồng đội cần giúp sức chàng bất chợt gặp cái nhìn của Athos. Cái nhìn ấy nói lên hùng hồn sự can trường. Athos thà chết còn hơn là cầu cứu. Nhưng chàng có thể nhìn, và từ cái nhìn toát ra sự yêu cầu giúp đỡ. D' artagnan đoán ra nhảy phọt tới cạnh sườn Cahuxắc và hét lên:

- Với tôi nào ông cận vệ, tôi giết ông!

Cahuxắc quay lại. Thật đúng lúc. Athos trụ được chỉ vì lòng dũng cảm tột độ, lúc này khụy một gối xuống.

- Chó chết! - Athos hét lên với D' artagnan - Đừng giết hắn, tôi xin anh đấy, anh bạn trẻ, tôi có việc cũ phải giải quyết xong với hắn, khi tôi khỏi và khỏe mạnh rồi. Tước vũ khí của hắn thôi. Khóa gươm hắn lại. Như thế. Tốt! Tốt lắm!

Mấy tiếng "tốt lắm" Athos kêu lên đúng lúc gươm của Cahuxắc bị văng đi đến hai mươi bước. D' artagnan và Cahuxắc cùng lao theo, kẻ để nhặt lại gươm, người muốn đoạt ấy, nhưng D' artagnan lanh lợi hơn đến trước và giẫm châm lên.

Cahuxắc chạy đến chỗ tên cận vệ bị Aramis giết, chiếm lấy gươm của tên này và muốn trở lại với D' artagnan. Nhưng trên đường đi, hắn gặp Athos được nghỉ ngơi chốc lát, đã lấy lại sức, sợ D' artagnan giết mất kẻ thù của mình, chàng muốn lại chiến đấu tiếp D' artagnan hiểu sẽ là không tuân chiều Athos nếu không để ông làm việc đó. Quả nhiên, vài giây sau, Cahuxắc ngã xuống, họng bị gươm đâm xuyên qua. Cùng lúc đó Aramis tỳ lưỡi gươm lên ngực tên địch thủ đã bị đánh ngã, và bắt hắn phải xin tha.

Còn lại Porthos và Bicara. Porthos vừa đánh vừa huênh hoang hàng đống chuyện, hỏi Bicara bây giờ là vào khoảng mấy giờ. Chúc mừng hắn vì anh hắn vừa được phong chỉ huy một đại đội trong binh đoàn Nava. Nhưng cợt nhạo như thế cũng chẳng được lợi lộc gì. Bicara là một con người sắt, chỉ có chết mà thôi.

Song lại cần phải kết thúc. Đội tuần tra có thể tới và bắt giữ tất cả các chiến binh dù bị thương hay không, thuộc phái Nhà Vua hay phái Giáo chủ. Athos, Aramis và D' artagnan quây quanh Bicara thúc hắn đầu hàng. Dù chỉ một mình chống lại tất cả và với một vết thương đâm qua đùi, Bicara vẫn muốn chiến đấu Nhưng Jussac đã chống tay lên được, kêu hắn đầu hàng.

Bicara cũng là dân Gátxcông như D' artagnan. Hắn làm như điếc và cười trừ, và giữa hai miếng đỡ, có một thời gian dùng đầu mũi gươm vạch một chỗ trên đất và nhại lại một câu trong Kinh thánh:

- Nơi đây Bicara sẽ chết, một mình thôi trong những người cùng với hắn.

- Nhưng họ bốn người chống lại anh, thôi đi thôi, ta ra lệnh cho anh đấy.

- À, nếu anh ra lệnh, lại là chuyện khác - Bicara nói - vì anh là đội trưởng của tôi, tôi phải tuân lệnh.

Và nhảy lùi một bước về phía sau, hắn tỳ gối bẻ gẫy gươm ném mảnh gãy qua tường tu viện để không giao nộp rồi khoanh hai tay, huýt một điệu sáo của phái theo Giáo chủ.

Lòng dũng cảm luôn đáng trân trọng, ngay cả trong kẻ thù.

Những người lính ngự lâm vung gươm chào Bicara rồi lại tra vào vỏ D' artagnan cũng làm như vậy. Rồi chàng nhờ Bicara, đối thủ duy nhất còn đứng vững, khênh Jussac, Cahuxắc và tên địch thủ của Aramis mới bị thương, vào cổng mái che của tu viện. Người thứ tư thì đã chết. Rồi họ gióng chuông, mang theo bốn trong số năm thanh gươm, họ đi về phía dinh quán ngài De Treville, lòng lâng lâng tràn trề vui sướng.

Người ta thấy họ giăng tay nhau chiếm hết lòng đường, ghé sát mỗi người lính ngự lâm họ gặp, đến nỗi lúc cuối làm thành một cuộc khải hoàn. Trái tim D' artagnan như bơi trong men say, chàng đi giữa Athos và Porthos, trìu mến ôm chặt lấy họ, rồi nói với các bạn mới của mình khi bước qua cổng dinh ông De Treville:

- Nếu như tôi còn chưa phải là lính ngự lâm, ít ra thế là tôi cũng được nhận như người tập việc.

Chú thích:
(1) couventdeo Carmes déchaussés-Déchaussés: cởi, tháo giầy - Tu viện của những tu sĩ chân đất.
(2) Một thuyết lý thần học.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 6

Nhà vua Louis thứ mười ba

Câu chuyện lan ra ầm ĩ. Ông De Treville to tiếng quát mắng rất lớn tiếng những lính ngự lâm của mình nhưng lại thấp giọng khen ngợi họ. Nhưng vì không thể để chậm mới tâu lên nhà Vua, ông vội đi đến điện Louvre. Lúc ấy đã quá muộn. Nhà Vua đóng kín cửa với Giáo chủ. Người ta bảo ông Treville là nhà Vua đang làm việc và không tiếp ai trong lúc này. Buổi tối ông De Treville tới đám bạc của nhà Vua. Nhà Vua thắng và vì Đấng chí tôn rất keo kiệt, ngài rất hồ hởi. Vì vậy từ rất xa, nhà Vua đã nhận ra ông Treville.

- Lại đây, ông đại úy. Lại đây để ta quở trách ông. Ông có biết Đức Giáo chủ đã đến khiếu nại với ta về các ngự lâm quân của ông, và xúc động đến mức tối nay Đức Giáo chủ đổ bệnh không? À thế đấy? Nhưng cái lũ ngự lâm của ông, đúng là lũ trời đánh, thánh vật, đáng đem treo cổ!

- Không, tâu Bệ hạ - Ông Treville đáp, khi thoạt nhìn ông đã biết sự việc sắp xoay chuyển - không, hoàn toàn ngược lại. Đó là những sinh linh lương thiện, hiền như cừu non và chỉ có mỗi một ước vọng, thần xin bảo đảm, đó là gươm của họ chỉ tuốt ra khỏi vỏ để phục vụ Hoàng thượng. Nhưng Bệ hạ muốn sao, lũ cận vệ của Giáo chủ không ngừng tìm cớ gây sự với họ, và cũng vì danh dự của toàn đội, những con người trẻ tuổi đáng thương đó buộc phải tự vệ.

- Nghe đã, ông De Treville! - Nhà Vua nói - Nghe đã! Khanh không đang nói về một giáo đoàn đấy chứ? Đại úy thân mến của ta này, thực tế, ta muốn tước bỏ chức vụ của khanh và trao cho cô De Kêmơrôn, người mà ta hứa chức tu viện trưởng. Nhưng đừng nghĩ ta tin như vậy ở lời khanh đâu. Người ta gọi là Louis chí công, ông De Treville ạ, và lát nữa, lát nữa chúng ta sẽ thấy.

- À chính vì thần tin ở công lý đó, tâu Hoàng thượng, mà thần sẽ kiên nhẫn và bình tĩnh chờ đợi thánh ý.

- Vậy cứ đợi, ông ạ, cứ đợi - Nhà Vua nói - ta sẽ không để ông phải đợi lâu đâu.

Quả nhiên, vận may đã xoay chiều, và vì nhà Vua bắt đầu bị thua hết những gì ngài đã được, ngài chẳng nề hà tìm một cái cớ để làm Đại đế Sáclơmanhơ (một thuật ngữ của những tay cờ bạc mà chúng tôi thú thật không rõ xuất xứ). Một lát sau, nhà Vua đứng lên và đút túi số bạc ở trước mặt ngài phần lớn do được bạc, rồi bảo:

- La Viơvin, ngồi vào chỗ ta, ta cần nói chuyện với ông De Treville về vấn đề quan trọng. À, ta có tám mươi đồng louis trước nặt ta. Ông hãy đặt cũng số tiền đó, để sao cho những người bị thua khỏi phàn nàn, công bằng trên hết.

Rồi quay về phía ông De Treville và đi cùng với ông tới một khung cửa sổ:

- Thế nào ông! - Nhà Vua tiếp tục - Ông nói rằng chính là bọn cận vệ Đức ông đã tìm cách gây sự với ngự Iâm quân của ông?

- Vâng, tâu Bệ hạ, luôn luôn như vậy.

- Thế à, vậy đầu đuôi câu chuyện thế nào? Bởi vì, ông biết đấy, ông đại úy thân mến của tôi ạ, cần phải có một phán quan nghe cả hai bên.

- Ôi, trời ơi, thì nó xảy ra một cách đơn giản nhất và tự nhiên nhất chứ sao. Ba người trong số lính ưu tú nhất của thần, mà Hoàng thượng biết tên và đã nhiều lần đề cao lòng tận tâm của họ và thần có thể khẳng định với Đức Vua họ đã phục vụ hết lòng. Ba người lính ưu tú của thần, các ông Athos, Porthos và Aramis đang chơi vui với một chàng thiếu niên người Gátxcông mà thần vừa giới thiệu với họ lúc sáng. Cuộc vui sẽ diễn ra ở Saint-Germain thì phải, và họ hẹn hò nhau ở Cácmơ Đềsô, thì bị ông De Jussac và các ông Cahuxắc, Bicara và hai lính cận vệ khác đến phá rối, chắc hẳn có ý đồ xấu chống lại các sắc lệnh, nếu không đã không kéo đến đông đến thế.

- Ờ, ờ, khanh làm ta nghĩ đến điều đó - Nhà Vua nói - chắc hẳn họ đến để đánh lộn lẫn nhau.

- Tâu Bệ hạ, thần không buộc tội họ, nhưng thần xin để Bệ hạ xét đoán xem, năm người trang bị vũ khí trong một nơi hoang vắng như là vùng phụ cận tu viện Cácmơ, có thể sẽ làm.

- Phải, Treville, ông có lý, ông có lý.

- Thế là, khi họ nhìn thấy lính ngự lâm của thần, họ liền thay đổi ý và họ đã quên mối thù riêng bằng mối thù binh đội. Bởi Bệ hạ chẳng lạ gì ngự lâm quân, họ thuộc về Đức Vua, và chỉ của Đức Vua, là kẻ thù tự nhiên của lính cận vệ thuộc Đức Giáo chủ.

- Phải, Treville, phải - nhà Vua nói một cách rầu rĩ - và thật đáng buồn. tin ta đi, khi thấy hai đảng phái như thế ở nước Pháp, hai nguyên thủ ở vương quyền; nhưng tất cả cái đó sẽ chấm dứt, Treville, tất cả cái đó sẽ chấm dứt. Vậy khanh nói rằng bọn cận vệ đã tìm cách gây sự với ngự lâm quân?

- Thần nói có thể mọi việc đã diễn ra như thế, nhưng tâu Bệ hạ, thần không thể như thế. Bệ hạ biết rõ, nhận ra sự thật khó đến chừng nào, và trừ phi được thiên phú cho cái linh khiếu kỳ diệu khiến được mệnh danh là Louis XIII chí công…

- Và ông có lý, Treville ạ. Nhưng họ không đơn độc, bọn ngự lâm của ông, họ còn có thêm một đứa trẻ cùng với họ?

- Vâng, thưa Bệ hạ. và một người bl thương, đến nỗi ba lính ngự lâm của nhà Vua. mà một người lại bị thương và một đứa trẻ, không những đã đương đầu với năm trong số cận vệ khủng khiếp nhất của Giáo chủ, mà còn hạ gục bốn người.

- Nhưng, đó là một chiến thắng! - Nhà Vua reo lên rạng rỡ - một chiến thắng hoàn toàn.

- Vâng, tâu Bệ hạ, thắng hoàn toàn như chiến thắng ở cầu Xê.

- Ông nói, bốn người, một bị thương, một trẻ con?

- Một gã gần là người lớn, nhưng cậu ta lại xử sự thật là tuyệt vời trong trường hợp đó, khiến thần dám mạo muội tiến cử cậu ta lên Bệ hạ.

- Hắn tên là gì?

- Là D' artagnan. Tâu Bệ hạ, đó là con trai một trong những bạn cũ của thần, con trai một người đã đi theo Đức Tiên vương tiến hành chiến tranh du kích, lưu danh rạng rỡ.

- Và ông nói cậu ta xử sự rất chững chạc à? Kể cho ta nghe nào, Treville, ông biết ta thích những chuyện chiến tranh và chiến đấu mà.

Và Louis XIII tay chống nẹ, kiêu hãnh vểnh tai lên.

- Tâu, - Treville nói tiếp - như thần đã nói, D' artagnan hầu như còn là một đứa trẻ, và vì chưa được vinh dự là ngự lâm quân, ăn mặc theo lối thị dân. Đám cận vệ của Giáo chủ nhận thấy cậu ta non trẻ, thêm nữa còn chưa quen với việc quân, đã mời cậu ta rút lui trước khi họ tấn công.

- Đấy ông thấy nhé, Treville - Nhà Vua ngắt lời - chính họ đã tấn công.

- Tâu, chính thế, không nghi ngờ gì nữa, họ cảnh cáo cho cậu ta rút lui, nhưng cậu ta trả lời mình là ngự lâm ở trong tim và hết lòng vì Hoàng thượng, vì vậy, cậu ta đã ở lại với các ngự lâm quân.

- Một chàng trai can trường. - Nhà Vua lẩm bẩm.

- Quả vậy, cậu ta ở lại với họ. Và Hoàng thượng đã có được một nhà vô địch kiên cường, và chính cậu ta đã đâm cho Jussac một nhát gươm khủng khiếp khiến Giáo chủ giận sôi lên.

- Chính cậu ta đâm bị thương Jussac? - Nhà Vua reo lên -

- Một đứa trẻ! Treville, không thể thế được!

- Đúng như thần được vinh dự nói điều ấy với Hoàng thượng.

- Jussac, một trong những tay gươm hàng đầu của vương quốc!

- Nhưng tâu, hắn lại gặp một bậc thầy.

- Ta muốn gặp chàng trai trẻ đó, Treville, ta muốn gặp hắn. Và nếu có thể làm được một điều gì đấy! Được, chúng ta sẽ tính sau.

- Khi nào Bệ hạ cố cho cậu ta tiếp kiến?

- Trưa mai, Treville ạ.

- Thần dẫn một mình cậu ta đến?

- Không, dẫn cả bốn đến cho ta. Ta muốn cảm ơn tất cả một thể. Những con người trung nghĩa hiếm lắm Treville, và phải thưởng cho lòng trung nghĩa của họ.

- Tâu Bệ hạ, trưa mai, chúng thần sẽ đến điện Louvre.

- Này, đi lối cầu thang nhỏ, Treville, lối cầu thang nhỏ, không cần thiết để Giáo chủ biết…

- Thưa vâng.

- Treville này, ông hiểu chứ, một sắc lệnh vẫn chỉ luôn là một sắc lệnh. Rốt cuộc, là cấm đánh nhau.

Nhưng cuộc chạm trán nay đã hoàn toàn ra khỏi mọi điều kiện thông thường của một quyết đấu, đó là một cuộc xô xát, bằng chứng là bọn họ là năm lính cận vệ của giáo chủ chống lại ba lính ngự lâm của thần với cậu D' artagnan.

- Đúng thế - Nhà Vua nói - Nhưng mặc kệ, Treville, vẫn cứ phải đến bằng cầu thang nhỏ.

Treville mỉm cười. Nhưng như thế cũng đã là quá nhiều với ông vì đã đạt được việc làm cho đứa trẻ này (tức Louis XIII - ND) nổi dậy chống lại ông thầy của mình (tức Giáo chủ - ND) ông kính cẩn chào nhà Vua, và hớn hở cáo lui.

Ngay lúc tối, ba người lính ngự lâm được báo trước vinh dự ban cho họ. Vì họ từ lâu đã quen biết nhà Vua, nên cũng không háo hức lắm. Nhưng D' artagnan với trí tưởng tượng của dân Gátxcông, thấy vận may đã đến, và suốt đêm mơ những giấc mơ vàng. Vì vậy mới tám giờ sáng chàng đã đến nhà Athos.

D' artagnan thấy những người lính ngự lâm này đã ăn mặc chỉnh tề và chuẩn bị ra đi. Vì cuộc hẹn ở cung vua là giữa trưa, nên Athos đã cùng Porthos và Aramis dự định tổ chức một cuộc chơi bóng ném ở một sòng chơi gần khu chuồng ngựa vườn Luxembourg. Athos mời D' artagnan đi cùng họ, và mặc dầu không biết chơi, vì chưa hề chơi bao giờ, chàng vẫn nhận lời, vì không biết làm gì từ khoảng gần chín giờ sáng đến trưa.

Hai người lính ngự lâm kia đã đến trước và đang chơi bóng cùng nhau. Athos là người rất mạnh về tất cả các môn rèn luyện thân thể, cùng với D' artagnan đi sang phía đối diện và thách thức họ. Nhưng mới thử một động tác đầu tiên, dù chơi bằng tay trái, ông hiểu rằng vết thương của mình vẫn như vừa mới bị xong, không cho phép mình chơi trò đó. Còn lại một mình D' artagnan, và vì chàng tuyên bố chàng quá vụng về không thể chơi đúng luật, người ta chỉ tiếp tục ném bóng không tính thắng thua. Nhưng một trong những trái bóng ném từ bàn tay đại lực sĩ của Porthos đi sượt qua mặt D' artagnan khiến chàng nghĩ, nếu nó không trượt, mà lại giáng thẳng vào mặt, thì sẽ lỡ mất việc bái yết vì hoàn toàn không còn khả năng bái kiến nhà Vua.

Mà vì trong trí tưởng tượng Gátxcông tương lai của chàng phụ thuộc hoàn toàn cuộc bái yết đó, chàng liền lễ phép chào Porthos và Aramis, tuyên bố chỉ chơi lại môn này khi nào đủ sức đối chọi với họ, và chàng ra ngồi gần chỗ thừng chăng trong hành lang.

Không may cho D' artagnan, trong số những người xem có một tên lính cận vệ của Đức ông, tên này còn đang sôi máu vì sự đại bại của đồng ngũ mới chỉ xảy ra hôm trước, vẫn tự hứa với mình sẽ nắm lấy cơ hội để báo thù. Hắn tin là cơ hội đã đến và nói với người ngồi bên:

- Cũng chẳng lấy làm lạ khi cái gã thiếu niên kia lại sợ một quả bóng, chắc hẳn là một tên ngự lâm tập sự.

D' artagnan quay phắt lại như bị rắn cắn và nhìn thẳng vào mặt tên cận vệ vừa nói một cách hỗn hào.

- Khiếp chưa? - Tên này nói, vừa vuốt cong ria mép một cách xấc xược - Này ông nhỏ, muốn thì cứ việc nhìn ta, còn ta, ta cứ nói điều ta nói.

D' artagnan trả lời khẽ:

- Và vì điều ông nói quá rõ không cần giải thích, tôi yêu cầu ông đi theo tôi.

- Khi nào? - Tên cận vệ hỏi vẫn với vẻ nhạo báng.

- Ngay bây giờ, mong ông vui lòng.

- Chắc hẳn biết ta là ai đấy chứ?

- Tôi ư, hoàn toàn không biết, và không quan tâm mấy.

- Và cậu nhầm rồi, bởi nếu cậu biết tên ta, có lẽ cậu sẽ bớt vội hơn.

- Vậy tên ông là gì?

- Bécnaju, sẵn sàng phục vụ cậu.

- Vậy thì Bécnaju - D' artagnan bình thản nói - Tôi sẽ đợi ông ở cổng.

- Nào đi luôn, ta đi theo ông.

- Đừng có vội vã thế, thưa ông, để người ta khỏi thấy chúng ta cùng ra một lúc. Ông cũng hiểu về điều chúng ta sắp làm, nhiều người sẽ ngăn cản chúng ta.

- Tốt lắm - Tên cận vệ trả lời và lấy làm lạ vì tên mình không gây được hiệu quả gì cho chàng trai trẻ.

Thật ra, cái tên Bécnaju được tất cả mọi người biết đến có lẽ chỉ trừ mỗi D' artagnan, bởi đó là một trong những cái tên mà tất cả những sắc lệnh của nhà Vua và của Giáo chủ đều không thể trấn áp.

Porthos và Aramis đang quá mải chơi và Athos cũng xem họ quá chăm chú, nên cũng không nhìn thấy người đồng đội trẻ của họ đi ra. D' artagnan nói vậy với tên cận vệ của Đức ông rồi dừng lại ở cổng; một lát sau tên này đến lượt mình cùng đi xuống. Vì D' artagnan không có nhiều thì giờ do sắp phải tiếp kiến nhà Vua ấn định vào lúc trưa, chàng đưa mắt nhìn xung quanh và thấy phố phường vắng vẻ, nên nói với địch thủ:

- Thật lòng, may cho ông đấy, dù ông tên là Bécnaju, là chỉ mắc chuyện với một kẻ tập sự ngự lâm quân, song, hãy bình tĩnh, tôi sẽ chơi hết mình đấy. Coi chừng!

- Nhưng - kẻ bị D' artagnan khiêu khích nói - Ta thấy hình như đã chọn nhầm địa điểm và có lẽ phía sau tu viện Saint-Germain hay Prê-ô-Cléc sẽ tốt hơn.

- Điều ông nói thật đầy ý nghĩa - D' artagnan trả lời - Khốn nỗi tôi vì có cuộc hẹn lúc đúng trưa, nên rất ít thì giờ. Vậy hãy phòng thủ, ông ạ, phòng thủ đi!

Bécnaju không phải là người phải để cho người ta lắp lại đến hai lần lời mời mọc như thế. Cùng lúc ấy, thanh gươm của y lóe lên trong tay và nhảy bổ lên địch thủ, mà y hy vọng có thể làm cho hoảng sợ vì còn quá non nớt.

Nhưng D' artagnan đã tập việc hôm trước, và chiến thắng thu được còn tươi rói, tràn trề ân sủng tương lai, nên quyết định không lùi một bước. Vì thế, hai lưỡi gươm giao đấu tới tận đốc gươm và vì D' artagnan đứng vững tại chỗ, nên chính địch thủ của chàng phải lui một bước về phía sau. Nhưng D' artagnan nắm ngay cơ hội, lưỡi gươm của Bécnaju bị chệch hướng, chàng gỡ ra, chồm lên và đâm địch thủ trúng vai. Ngay tức khắc, D' artagnan đến lượt mình, lùi lại một bước và giơ gươm lên.

Còn Bécnaju hét lên không hề gì, và điên rồ lao vào chàng và tự mình đâm vào gươm của D' artagnan. Tuy nhiên, vì y chưa ngã, chưa chịu chấp nhận thua, mà chỉ dứt ra lùi về phía dinh quán ông De La Trênui, nơi y có một người họ hàng làm việc. Chính D' artagnan cũng không rõ vết thương y vừa nhận trầm trọng thế nào, càng áp đảo mạnh và chắc chắn sắp kết liễu đời y bằng một nhát thứ ba thì tiếng ầm ĩ nổi lên ở ngoài phố lan đến chỗ chơi bóng ném, hai trong số bạn của Bécnaju đã nghe được y điều qua tiếng lại với D' artagnan và thấy y đi ra sau đó, liền rút gươm nhảy bổ ra khỏi sòng chơi và bổ xuống người chiến thắng. Nhưng ngay tức khắc, Athos, Porthos và Aramis đến lượt họ cũng xuất hiện, và vào lúc hai tên cận vệ tấn công người đồng đội trẻ của họ, vì bọn cận vệ chỉ có hai chống lại bốn, chúng liền kêu lên: "Người nhà ông De la Trênui ơi, cứu chúng tôi!".

Nghe tiếng kêu, tất cả trong dinh quán đổ ra đâm bổ lên bốn người, về phía mình cũng hô hoán: "Ngự lâm quân! Cứu chúng tôi""

Tiếng kêu đó thường được ủng hộ, bởi người ta biết những lính ngự lâm là kẻ thù của Đức ông và người ta yêu mến họ vì mối căm ghét đối với Giáo chủ. Vì thế, những lính cận vệ của những đại đội khác với các đơn vị thuộc Giáo chủ Đỏ, như Aramis từng gọi, trong những loại xung đột như thế này, thường đứng về phía ngự lâm quân. Hai trong số ba cận vệ thuộc đại đội ông des Essarts đi qua thấy thế đã đến giúp bốn người, người còn lại chạy thẳng đến dinh ông De Treville hô hoán: "Ngự lâm quân đâu, cứu chúng tôi". Như thường lệ, dinh quán của De Treville lúc nào cũng đầy lính ngự lâm, nghe kêu cứu, họ chạy đến chi viện cho đồng đội của mình. Cuộc hỗn chiến diễn ra nhưng sức mạnh thuộc về quân ngự lâm. Lính cận vệ và gia nhân nhà De la Trênui rút lui vào dinh quán, kịp thời đóng chặt cửa ngăn kẻ thù tràn vào cùng với họ. Còn kẻ bị thương thì đã được khênh đi ngay từ lúc đầu, tình trạng rất xấu.

Sự khích động trong đám ngự lâm quân và những đồng minh của họ lên tới củc điểm và người ta đã thảo luận xem có nên phóng hỏa đốt dinh quán De la Trênui để trừng phạt bọn gia nhân nhà này đã đổ ra hỗn láo với ngự lâm quân của Nhà Vua không. Đề xuất đó đã được tán thành và hoan nghênh nồng nhiệt, may sao mười một giờ đã điểm. D' artagnan và đồng đội của mình sực nhớ ra cuộc bái yết và vì thấy tiếc rằng người ta sắp làm một quả đẹp đến thế mà không có họ, họ bèn làm dịu bớt những cái đầu kia. Vậy là người ta bằng lòng với việc choang vài phiến đá lát vào cánh cổng, nhưng cánh cổng vẫn trơ trơ, nên cũng thấy nan. Hơn nữa, những người được coi như là thủ lĩnh cũng đã rời nhóm được một lúc và đang đi về dinh quán nơi ông De Treville đã biết về vụ om sòm này, đang chờ đợi họ. Ông nói:

- Nào nhanh lên, đến điện Louvre ngay, đến ngay Louvre đừng để mất một phút. Và cố gắng gặp nhà Vua trước khi Ngài được Giáo chủ báo cho biết. Chúng ta sẽ kể cho Ngài nghe việc này như là một chuỗi của vụ việc hôm qua, và cả hai sẽ được giải quyết cùng nhau.

Ông De Treville với bốn chàng trai trẻ đi cùng, tiến về phía điện Louvre. Nhưng người ta báo cho ông biết nhà Vua đi săn nai trong rừng Saint-Giécanh khiến ông đại úy ngự lâm quân hết sức ngạc nhiên; ông De Treville làm cho người ta phải nhắc lại hai lần cái tin đó và mỗi lần những người cùng đi lại thấy mặt ông tối sầm lại. Ông hỏi:

- Vậy chứ Hoàng thượng ngay từ hôm qua đã có dự định tiến hành cuộc đi săn này chăng?

- Không, thưa đại nhân - viên hầu cận nhà Vua trả lời - Chủ chó săn đến báo với Ngài sáng nay rằng ông đã làm lạc hướng được một con nai theo ý đồ của mình. Lúc đầu nhà Vua trả lời sẽ không đi, rồi Ngài lại không thể cưỡng nổi cái thú đi săn đó và cơm trưa xong là Ngài đi.

- Và nhà Vua đã gặp Giáo chủ chưa? - ông Treville hỏi.

- Có thể lắm - viên hầu cận đáp - bởi sáng nay tôi trông thấy những con ngựa của cỗ xe của Đức ông, tôi đã hỏi xe đi đâu và người ta trả lời tôi: Đi Saint-Germain.

- Chúng ta bị uống nước đục rồi - Ông De Treville nói - các vị, tối nay ta sẽ đến gặp nhà Vua. Nhưng còn các vị, ta khuyên các vị đừng thử vận may nữa.

Ý kiến quá hợp lý, nhất là lại xuất phát từ một người hiểu nhà Vua quá rõ, nên bốn người không dám chống lại. Ông De Treville yêu cầu họ người nào về nhà nấy và đợi tin của ông.

Bưởc vào nhà, ông De Treville thấy ngay phải tranh thủ thời gian khiếu nại trước. Ông phái một trong những gia nhân của mình tới nhà ông De la Trênui mang theo một bức thư, trong đó ông yêu cầu hãy tống cổ ra khỏi nhà tên cận vệ của Giáo chủ, và trách phạt những kẻ đã táo tợn đổ ra khỏi nhà chống lại ngự lâm quân. Nhưng ông De la Trênui đã được người coi chuồng ngựa là bà con của Bécnaju báo trước nên đã trả lời: không phải ông De Treville cũng chẳng phải bọn ngự lâm quân có quyền khiếu nại, mà hoàn toàn trái lại, ông ta mới có quyền đối với những người lính ngự lâm, những kẻ chẳng những đã đánh gia nhân của ông ta mà còn định đốt nhà ông ta. Vì cuộc tranh cãi giữa hai vị quan nhân có thể kéo dài, mỗi bên tất nhiên khăng khăng giữ ý kiến của mình, ông De Treville nghĩ ra một kế với mục đích chấm dứt mọi chuyện, đó là tự ông đến tìm ông De la Trênui.

Ông liền đi ngay đến nhà ông này và yêu cầu báo tin.

Hai vị đại quan lịch sự chào nhau, bởi nếu như không thân thiết với nhau, ít ra họ cũng nể trọng nhau. Cả hai đều là ngùời tử tế và trọng danh dự. Và vì ông De la Trênui theo đạo Tin lành, hiếm khi gặp nhà Vua, không thuộc đảng phái nào, nói chung trong những mối quan hệ xã hội ông không mang theo thiên kiến nào. Tuy nhiên, lần này, sự tiếp đón của ông, cho dù lịch thiệp, vẫn cứ lạnh lùng hơn thường lệ.

- Thưa ông - Ông De Treville nói - chúng ta nghĩ rằng chúng ta có chuyện trách cứ lẫn nhau, và tự tôi đến đây để chúng ta cùng nhau làm sáng tỏ vụ việc này.

- Xin sẵn sàng - Ông De la Trênui trả lời - nhưng tôi báo trước cho ông rằng tôi đã được thông tin đầy đủ, và mọi lỗi là thuộc lính ngự lâm của ông.

- Ông là một người rất công minh, chính trực, thưa ông, - ông De Treville nói - chắc sẽ chấp nhận đề xuất sắp nói ra.

- Ông cứ nói, tôi nghe đây.

- Ông Bécnaju, người bà con của người coi ngựa của ông ấy hiện thế nào?

- Ồ, thưa ông, tệ hại lắm. Ngoài nhát gươm bị đâm vào cánh tay không phải là không nguy hiểm, ông ta còn bị bồi một nhát khác xuyên qua phổi khiến thầy thuốc nói đến những điều không hay.

- Nhưng người bị thương còn tỉnh chứ?

- Hoàn toàn tỉnh táo.

- Vẫn nói được?

- Nói khó khăn, nhưng vẫn nói được.

- Vậy thì, thưa ông, chúng ta hãy đến bên ông ta, khẩn cầu ông ta, hãy nhân danh Chúa có lẽ ông ta sắp về chầu nói ra sự thật. Tôi sẽ coi ông ta như một phán quan tự xét xử mình và thưa ông, tôi sẽ tin tất cả những gì ông ta sẽ nói ra.

Ông De la Trênui nghĩ một lát, rồi vì khó có thể tìm ra một đề xuất hợp lý hơn, ông chấp nhận.

Cả hai cùng đi xuống căn phòng người bị thương. Người này, nhìn thấy hai vị đại quan tôn quý thăm mình, cố từ trên giường ngồi dậy, nhưng quá yếu và lịm đi vì cố sức, lại ngã xuống hầu như bất tỉnh.

Ông De la Trênui lại gần và cho người này hít một thứ muối khiến cho tỉnh lại. Lúc đó, ông De Treville không muốn người ta cáo buộc ông đã làm ảnh hưởng đến người ốm, nên mời ông Trênui tự mình thẩm vấn người này.

Điều mà ông De Treville tiên đoán đã xảy ra. Trong tình trạng giữa cái sống và cái chết như Bécnaju, ông ta không còn ý định giấu giếm sự thật thêm chút nào nữa Và ông ta đã kể lại cho hai vị đại quan nghe mọi điều đúng như nó đã xảy la.

Đó là tất cả những gì ông De Treville mong muốn. Ông chúc Bécnaju chóng bình phục, xin phép ông De la Trênui được cáo lui, trở về dinh xá của mình và lập tức báo cho bốn người bạn rằng ông đang chờ họ đến ăn cơm trưa.

Ông De Treville tiếp đãi nhóm người ưu tú nhất, nhưng tất nhiên hoàn toàn chống Giáo chủ. Vậy nên câu chuyện suốt trong bữa ăn đều xoay quanh hai cuộc đại bại mà bọn cận vệ của Đức ông vừa nếm trải. Vì D' artagnan đã thành người hùng của hai ngày ấy, cho nên những lời chúc tụng của Athos, Porthos và Aramis thi nhau trút xuống cho chàng không những với tư cách những người bạn tốt mà còn là những người luôn được hưởng niềm vui đó, nay đến lượt họ dành cho chàng.

Khoảng sáu giờ, ông De Treville cho biết ông đã định đến điện Louvre, nhưng vì giờ tiếp kiến nhà Vua chuẩn y đã qua, đáng lẽ yêu cầu đi vào bằng cầu thang nhỏ, ông và bốn chàng trai trẻ ngồi trong phòng đợi. Nhà Vua còn chưa đi săn về. Mấy người ngồi đợi, lẫn trong đám quần thần, khoảng gần nửa giờ, thì mọi cửa đều mở ra, và người ta thông báo Hoàng thượng đã nghe thông báo vậy, D' artagnan cảm thấy rùng mình đến tận xương tủy. Giây phút sắp tiếp theo, chắc sẽ quyết định quăng đời còn lại của chàng. Vì vậy, mắt chàng chăm chăm lo lắng nhìn vào chiếc cửa mà nhà Vua sẽ đi vào.

Louis XIII hiện ra trước tiên. Ông mặc bộ đồ săn còn đầy bụi, đi đôi ủng lớn, tay cầm roi. Thoạt nhìn, D' artagnan đoán ngay nhà Vua đang hầm hầm nổi giận. Tính khí ấy thường rõ ở Hoàng thượng vẫn không ngăn được quần thần xếp hàng trên lối Ngài đi. Trong những tiền sảnh của cung điện, thà bị nhìn bằng con mắt giận dữ còn hơn không được nhìn thấy chút nào, vậy nên ba chàng ngự lâm không ngần ngại tiến lên một bước trong khi D' artagnan trái lại vẫn nấp đằng sau họ. Nhưng cho dù nhà Vua biết rõ từng người Athos, Porthos, Aramis, ngài vẫn đi qua trước mặt mà không nhìn họ, không nói gì với họ như thể chưa từng bao giờ gặp họ. Còn như ông De Treville, khi đôi mắt nhà Vua dừng lại giây lát nơi ông, ông chống đỡ cái nhìn ấy hết sức kiên cường, và chính nhà Vua phải nhìn đi nơi khác.

Sau đó, Hoàng thượng mồm không ngớt lầu nhầu trở về cung thất.

- Mọi chuyện không ổn rồi - Athos vừa nói vừa mỉm cười - và lần này bọn ta sẽ chưa được ban tặng huân chương hiệp sĩ đâu.

- Hãy đợi đây mười phút - Ông De Treville nói - Và nếu trong vòng mười phút, các người không thấy ta quay ra, hãy trở về dinh xá của ta, bởi chờ thêm cũng vô ích.

- Bốn chàng trai trẻ đợi mười phút, mười lăm, hai mươi phút.

- Và thấy ông De Treville không hề trở lại, họ ra về lòng đầy lo lắng về điều sắp xảy ra.

Ông De Treville rắn rỏi đi vào tư phòng của nhà Vua, và thấy Hoàng thượng ngồi trên ghế tựa, vẻ mặt rất dữ tợn, đang đập cán roi vào đôi ủng, điều đó cũng không ngăn nổi ông vấn an sức khỏe nhà Vua, một cách hết sức bình thản.

- Tồi lắm, ông ạ, tồi lắm - Nhà Vua trả lời - ta đang phiền muộn.

Đó quả thật là căn bệnh tệ hại nhất của Louis XIII, Ngài thường túm lấy một triều thần, kéo đến bên khung cửa sổ và bảo người này: "Này, ông gì ơi! hãy buồn phiền cùng nhau nào".

- Sao! Hoàng thượng phiền muộn ư? - Ông De Treville nói - Vậy hôm nay Ngài đi săn không vui à?

- Vui quá đi chứ! Ta tin rằng, tất cả xuống cấp rồi. Và ta không biết liệu chứ con mồi đã biến mất tăm hay lũ chó không còn mũi nữa. Chúng ta khởi động bằng một con nai mươi nhánh gạc, đuổi theo nó sáu tiếng đồng hồ, và khi sắp tóm được nó, khi Saint Ximông đã đưa tù và lên miệng để báo hiệu "chết này", thì đùng một cái, cả lũ chó ngửi thấy mùi khác, đổi hướng, đuổi theo một con hươu con. Rồi ông sẽ thấy ta sẽ buộc phải từ bỏ săn đuổi bằng chó như đã tửng từ bỏ lối săn bằng chim ưng thôi! Ôi, ta là một ông vua rất là bất hạnh, ông Treville ạ! Ta chỉ còn mỗi con chim ưng thì nó đã chết hôm kia rồi.

- Tâu Bệ hạ, quả vậy, và thần hiểu nỗi thất vọng của Bệ hạ, nỗi bất hạnh thì lớn, nhưng Ngài vẫn còn hình như vô số chim cắt, chim ó và chim hâu.

- Và không có người huấn luyện chúng. Những người dạy chim săn mồi đã bỏ đi, chỉ còn lại mỗi ta biết nghệ thuật săn bằng chó. Cùng với ta, mọi thứ sẽ mất và sau đó nghề săn chỉ còn với những bẫy, những cạm, những sập. Nếu ta có thì giờ để đào tạo một lũ học trò nhỉ? Mà phải, Giáo chủ ở đó, chẳng để ta thảnh thơi một lát, nói với ta về Tây Ban Nha, về nước Áo, nước Anh! À, nhân nói vể Giáo chủ, ông Treville này, ta không hài lòng về ông đâu.

Ông De Treville chỉ đợi nhà Vua chuyển sang chuyện này. Ông biết nhà Vua từ lâu. Ông hiểu tất cả những điều nhà Vua phàn nàn chỉ là đoạn giáo đầu, một loại kích thích để tự trấn an mình, và đâu là chỗ nhà Vua đã đi đến, cuối cùng nhà Vua muốn đi đến đâu.

Ông De Treville giả vờ hết sức kinh ngạc và hỏi:

- Thần đã chẳng may làm Bệ hạ bất hạnh ở điêm nào?

- Này ông, thế ông điều hành công việc như thế sao? - Nhà Vua tiếp tục mà không trực tiếp trả lời câu hỏi của Treville - Phải chăng ta phong ông chức đại úy ngự lâm quân của ta để bọn này sát hại một người, làm náo loạn cả một khu phố và muốn đốt cả Paris mà ông không nói được một lời ư? Nhưng - Nhà Vua tiếp - chắc là ta đã vội vã buộc tội ông, chắc là những kẻ gây rối loạn đã ở trong tù và ông đến báo với ta công pháp đã được thi hành.

- Tâu Bệ hạ - Ông De Treville bình tĩnh trả lời - thần đến để xin Ngài điều ngược lại.

- Và chống lại ai? - Nhà Vua quát.

- Chống lại bọn vu khống - Ông De Treville nói.

- A, thế thì lại mới rồi - Nhà Vua tiếp - Ông không định nói với ta rằng ba tên ngự lâm trời đánh của ông, Athos, Porthos và Aramis, và cái tên nhãi con ở Bearn của ông đã không nhẩy xổ như một lũ điên vào ông Bécnaju khốn khổ và đã hành hạ ông ta tới mức có thể vào giờ này đang hấp hối rồi? Ông không định nói, tiếp đó, bọn chúng không vây chặt tư dinh Công tước De la Trênui và chúng không hề muốn thiêu cháy nó hay sao? Vào thời chiến có thể điều đó không phải là nỗi bất hạnh quá lớn, coi như đó là một cái tổ của bọn tân giáo Canvanh, nhưng trong thời bình, đó là một tấm gương tệ hại. Nói xem, ông định chối tất cả những cái đó hay sao?

- Và ai đã kể cho Hoàng thượng câu chuyện hay ho đó? - Ông De Treville bình tĩnh hỏi.

- Ai đã kể ta nghe câu chuyện hay ho đó ư? Và ông muốn người đó phải là ai, nếu không phải là người đã thức trong khi ta ngủ, đã làm việc khi ta vui chơi, đã đối nội, đối ngoại cho vương quốc, ở nước Pháp cũng như ở châu Âu?

- Chắc hẳn Hoàng thượng muốn nói đến Chúa Trời rồi! - Ông De Treville nói - Bởi thần chỉ biết là Chúa Trời mới ở trên Hoàng thượng xa đến thế.

- Không, ông ơi, ta muốn nói về trụ cột quốc gia, về người tôi hiền duy nhất, người bạn duy nhất của ta, Đức Giáo chủ.

- Tâu, Đức ông đâu phải Đức chí thánh (ý nói Giáo hoàng - ND).

- Ý ông nói thế nào?

- Dạ, là chỉ có Đức Giáo Hoàng mới không thể sai lầm, và sự bất khả lầm lẫn ấy không lan đến các Giáo chủ.

- Ông muốn nói Giáo chủ lừa ta, ông muốn nói ông ta phản ta. Vậy là ông buộc tội Giáo chủ rồi. Xem nào, nói đi, thành thật thú nhận ông buộc tội ông ta đi?

- Không, tâu Bệ hạ, nhưng thần nói là chính Giáo chủ đã nhầm. Thần nói là ông ta đã bị đưa thông tin sai lạc. Thần nói là ông ta đã vội vã cáo buộc những lính ngự lâm của Hoàng thượng. Ông ta đã bất công với họ, và ông ta đã không nắm được những tin tức đáng tin cậy.

- Sự cáo buộc này là do từ ông De la Trênui, do từ chính công tước. Ông trả lời sao điều này?

- Tâu, thần có thể trả lời, ông ta quá dính líu đến vấn đề này nên không thể là một nhân chứng vô tư. Nhưng thần đã không nghĩ như thế, tâu Bệ hạ, thần biết Công tước là một nhà quý tộc trung thực, nên sẵn sàng trông mong vào Công tước, với một điều kiện.

- Điều kiện gì?

- Là Hoàng thượng sẽ triệu ông ấy đến, thẩm vấn ông ấy, đích thân Hoàng thượng, mặt đối mặt, không nhân chứng và sau khi Hoàng thượng đã tiếp kiến Công tước, thần sẽ tái yết Hoàng thượng ngay.

- Chà chà! - Nhà Vua nói - Và ông sẽ tin vào những gì ông De la Trênui sẽ nói chứ?

- Vâng, thưa Hoàng thượng.

- Ông chấp nhận sự phán xử của ông ta?

- Chắc chắn thế.

- Và ông sẽ chịu những bồi khoản mà ông ta đòi hỏi?

- Hoàn toàn.

- La Sétxnay đây, La Sétxnay!

Người hầu cận tin cẩn của Louis XIII luôn đứng ở cửa đi vào.

Nhà Vua nói:

- La Sétxnay? Đến triệu ngay ông De la Trênui, ta muốn nói chuyện với ông ấy tối nay.

- Hoàng thượng hứa với thần là sẽ không tiếp ai giữa ông Trênui và thần chứ?

- Không ai, lời hứa của nhà quý tộc.

- Vậy, tâu Bệ hạ, xin đến mai.

- Ừ, ngày mai.

- Lúc mấy giờ, xin Hoàng thượng vui lòng?

- Giờ nào ông muốn cũng được.

- Nhưng đến quá sớm, thần e làm thức giấc Hoàng thượng.

- Thức giấc ta ư? Ta ngủ ư? Ta không ngủ được nữa ông ạ.

- Đôi khi ta mơ màng, thế thôi. Vậy ông cô thể đến sáng sớm nếu ông muốn, lúc bẩy giờ, nhưng ông coi chừng, nếu bọn ngự lâm quân của ông là lũ tội phạm.

- Nếu những lính ngự lâm của thần phạm tội, những kẻ phạm tội sẽ được trao vào tay Hoàng thượng, xử họ ra sao là theo ý của Hoàng thượng. Hoàng thượng còn đòi hỏi điều gì thêm nữa.

- Không, không, và người ta gọi là ta Louis chí công không phải không có lý. Vậy ngày mai nhé.

- Cầu Chúa phù hộ cho Hoàng thượng?

- Nhà Vua có ngủ ít mấy, ông De Treville còn khó ngủ hơn.

Ngay lúc tối ông đã sai báo cho ba người lính ngự lâm và đồng đội của họ phải có mặt ở nhà ông từ sáu rưỡi sáng. Ông dẫn họ theo, không khẳng định với họ điều gì cũng không hứa hẹn điều gì và không giấu giếm họ ân sủng của họ và ngay cả của ông đang trông vào một nước bài.

Đến chân cầu thang nhỏ, ông để họ đợi. Nếu Nhà Vua vẫn giận họ, họ sẽ biến ngay không để bị nhìn thấy. Nếu nhà Vua bằng lòng tiếp họ, chỉ việc cho gọi họ.

Đến phòng đợi đặc biệt của nhà Vua, ông De Treville thấy La Sétxnay cho biết người ta không gặp Công tước De la Trênui tối hôm qua ở tư dinh ông ta, ông ta về nhà quá muộn nên không có mặt ở điện Louvre được, và ông ta chỉ vừa mới đến và lúc này đang ở chỗ nhà Vua.

Tình thế xảy ra làm ông De Treville rất thích, vì như vậy chắc chắn sẽ không có bất cứ một sự gợi ý bên ngoài nào xen vào lời khai của ông De la Trênui và ông.

Quả nhiên, chưa đầy mười phút sau, cánh cửa cung thất mở và ông De Treville thấy ông De la Trênui đi ra, ông này đến gặp ông và bảo:

- Thưa ông De Treville, Hoàng thượng vừa triệu tôi để biết mọi chuyện đã diễn ra hôm qua ở nhà tôi thế nào. Tôi đã nói với Ngài sự thật, nghĩa là lỗi thuộc người của tôi và tôi sẵn sàng xin lỗi ông. Một khi đã được gặp ông thế này, xin ông nhận cho và xin coi tôi luôn như là một trong những người bạn của ông.

- Thưa Công tước - Ông De Treville nói - Tôi đầy lòng tin tưởng vào sự trung thực của ngài đến mức tôi chẳng muốn ai khác làm người bào chữa cho tôi hơn là chính ngài trước Hoàng thượng. Tôi thấy rõ tôi đã không bị lầm, và tôi xin cám ơn ngài về việc hãy còn một người ở nước Pháp, mà người ta có thể nói về người đó mà không bị nhầm như điều tôi đã nói về ngài.

- Hay lắm, tốt lắm! - Nhà Vua nói, vì đã nghe được tất cả những lời khen ngợi nhau của họ - Có điều hãy nói với ông ta, Treville ạ, vì ông ta tự coi là một trong những người bạn của ông, thì cả ta nữa, ta cũng muốn là bạn của ông ta, nhưng ông ta lại nhạt nhẽo với ta, có đến ba năm ta không gặp ông ấy và ta chỉ gặp được khi nào ta cho tìm. Hãy nói cho ông ta biết tất cả cái đó hộ ta, bởi đó là những việc mà một ông vua không thể tự nói ra được.

- Xin cảm tạ Bệ hạ, xin cảm tạ - Công tước nói - nhưng Bệ hạ hay tin rằng không phải những người mà lúc nào Bệ hạ cũng gặp là những người tận tụy với Bệ hạ nhất, cố nhiên thần không hề nói điều ấy, đối với ông De Treville.

- À! Ông cũng đã nghe điều ta nói rồi. Càng tốt, ông Công tước, càng tốt - Nhà Vua vừa nói vừa tiến ra đến tận cửa - A, ông đấy ư? Thế các ngự lâm quân của ông đâu? Hôm kia ta đã bảo ông đem theo họ đến kia mà, tại sao ông không làm thế?

- Tâu, họ ở phía dưới, Bệ hạ cho phép, ông La Sét-xnay sẽ xuống bảo họ lên.

- Phải, phải, bảo họ lên ngay. Sắp tám giờ còn gì. Chín giờ ta lại có khách. Ông Công tước, ông đi đi và nhớ trở lại. Vào đi ông Treville.

Công tước chào và đi ra. Đúng lúc ông mở cửa, ba người ngự lâm và D' artagnan do La Sét-xnay dẫn đường, hiện ra ở phía trên cầu thang.

- Lại đây, những con người dũng cảm của ta - Nhà Vua nói - lại đây ta có chuyện quở mắng các ngươi đây.

Những người ngự lâm nghiêng mình lại gần, D' artagnan đi sau họ.

- Quỷ nhà trời ạ! - Nhà Vua tiếp tục - chỉ với bốn người các khanh mà bẩy cận vệ của Đức ông bị loại khỏi vòng chiến đấu! Quá đấy, các vị ạ, quá đấy. Cứ đà này, Đức ông sẽ buộc phải tân trang đại đội của mình trong ba tuần, và ta phải áp dụng các sắc lệnh hết sức nghiêm ngặt. Một, do không may ta không nói làm gì, nhưng bẩy người trong hai ngày, ta nhắc lại, thế là quá, là quá nhiều.

- Cho nên, tâu Bệ hạ! Người thấy họ hết sức ăn năn hối hận đến tạ tội với Bệ hạ đấy ạ.

- Hết sức ăn năn hối hận ư! Hừm! - Nhà Vua nói - Ta chẳng tin chút nào vào những bộ mặt đạo đức giả của họ. Nhất là cái bộ mặt Gátxcông kia kìa. Nào lại đây, ông trẻ.

D' artagnan hiểu lời khen chính là ban cho chàng, tiến lại làm ra vẻ thất vọng nhất.

- Này ông! Thế này mà ông bảo ta là một chàng trai ư? Là một đứa trẻ, ông Treville ạ, một đứa trẻ thật sự! Và chính tay trẻ con này đã tặng cho Jussac một nhát gươm chí mạng?

- Và hai nhát gươm tuyệt chiêu cho Bécnaju.

- Thật thế ư? Không kể - Athos nói - nếu chàng ta không cứu thần khỏi bàn tay cả Bicara, chắc chắn là thần đã không có được vinh dự lúc này được tỏ lòng vô cùng tôn kính Hoàng thượng.

- Ồ, thế thì cái gã Bearn này đúng là một con quỷ thực sự rồi, như phụ vương ta thường nói, phải không ông Treville? Ở cái nghề này, là phải nhiều áo chẽn bị đâm thương và đánh gãy nhiều lưỡi gươm. Thế mà, dân Gátxcông thường nghèo, có phải không?

- Tâu Bệ hạ, thần phải nói rằng người ta còn chưa tìm thấy mỏ vàng trong những dãy núi của họ, dù Đấng toàn năng đáng lẽ phải ban cho họ phép mầu ấy, để thưởng công cho họ đã ủng hộ những cao vọng của Đức tiên vương.

- Nói như thế có nghĩa chính những người Gátxcông đã làm cho ta thành vua, phải không ông Treville, vì ta là con trai của cha ta? Ồ, ta có bảo là không phải đâu. La Sétxnay, hãy xem xem, lục tất cả các túi áo của ta xem, ngươi sẽ thấy bốn mươi đồng pítxtôn, thấy thì đem ra đây. Và bây giờ, chàng trai trẻ, hãy nói thật đi, chuyện đó xảy ra thế nào?

D' artagnan kể lại cuộc phiêu lưu mạo hiểm hôm trước với đủ mọi tình tiết: không ngủ được vì vui mừng sắp được thấy Hoàng thượng, nên đã đến nhà các bạn mình sớm hơn ba tiếng đồng hồ trước giờ bái yết, rồi họ đã cùng nhau đến sân chơi thế nào, rồi về sự sợ hãi chàng để lộ ra khi nhận một trái bóng ném sượt mặt, bị Bécnaju nhạo báng, và ông ta suýt đã phải trả giá sự nhạo báng bằng tính mạng của mình, và ông De la Trênui hoàn toàn vô tư, suýt bị mất cả cư dinh của mình.

- Đúng là như vậy - Nhà Vua lẩm bẩm - Ông Công tước cũng kể với ta y như vậy. Ngài Giáo chủ tội nghiệp! Bẩy người trong hai ngày và là những người thân quý nhất ông ta. Nhưng thế là đủ rồi. Thế là các ông đã rửa hận ở phố Fréjus rồi, và còn vượt mức nữa. Các ông chắc đã thỏa lòng.

- Nếu như Hoàng thượng thỏa lòng - Ông Treville nói - Chúng thần cũng như vậy.

- Phải, ta cũng vậy - nhà Vua vừa nói thêm vừa vốc một vốc tiền vàng trên tay La Sétxnay và đặt vào tay D' artagnan.

- Và đây, một bằng chứng về sự thỏa mãn của ta.

Thời buổi đó những ý tưởng về tự trọng còn chưa phải là mất sống như ngày nay. Một nhà quý tộc nhận tiền từ tay nhà Vua không có gì là nhục nhã. Vì vậy D' artagnan đút luôn bốn mươi đồng vàng vào túi mà không nề hà gì, trái lại còn hết lòng cảm tạ Hoàng thượng.

- Kìa - Nhà Vua vừa nói nhìn đồng hồ treo - Đã tám rưỡi rồi, các ông về đi, bởi như ta nói, ta đợi một người lúc chín giờ. Cảm ơn lòng tận tâm của các vị. Ta có thể trông cậy được đấy chứ, phải không?

- Ồ tâu Bệ hạ - cả bốn người cùng hô lên. Chúng thần sẵn sàng xả thân thành từng mảnh vì Bệ hạ.

- Tốt, tốt lắm, nhưng hãy giữ được vẹn toàn. Như thế tốt hơn, và sẽ hữu ích hơn. Ông Treville này, - trong khi những người kia rút lui nhà Vua nói khẽ thêm - vì ngự lâm quân không còn chỗ, hơn nữa để xung vào binh đội ấy, chúng ta đã quyết định phải qua một thời kỳ tập sự, vậy ông hãy cho cậu ta vào đại đội cận vệ của ông des Essarts, em rể ông. Chà, trời ơi! Treville ạ, ta khoái vì sự nhăn nhó sắp tới đây của ông Giáo chủ. Ông ấy sẽ nổi cơn thịnh nộ, nhưng ta cóc cần, ta có quyền của ta.

Rồi nhà Vua vẫy tay chào Treville đang đi rạ để đuổi kịp mấy lính ngự lâm của mình, và ông thấy họ đang chia nhau với D' artagnan món bốn mươi đồng tiền vàng.

Còn Giáo chủ, đúng như nhà Vua đã nói, quả nhiên vô cùng tức giận, đến mức suốt tám ngày bỏ cả chơi bài với nhà Vua, điều đó không hề ngăn nhà Vua thể hiện thái độ vồn vã nhất trên đời với Giáo chủ và mỗi khi gặp ông ta, nhà Vua lại hỏi han ông bằng một giọng ân cần nhất:

- Thế nào, ngài Giáo chủ, mấy cái tay Bécnaju và Jussac tội nghiệp ấy của khanh ra sao rồi?

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 7

Nội tình mấy chàng ngự lâm quân

Khi D' Artagnan ra khỏi điện Louvre và hỏi ý kiến các bạn nên dùng vào việc gì - phần chia của mình số bốn mươi đồng vàng đó Athos khuyên chàng nên đặt một bữa ăn ngon ở Pom de Panh, Porthos khuyên nên thuê một người hầu, còn Aramis khuyên nên có một cô nhân tình ưng ý.

Bữa chén được thực hiện ngay hôm ấy, và người hầu đã phục vụ ngay. Bữa chén được Athos đặt, còn người hầu, Porthos kiếm giúp. Đó là một gã Pica mà chàng ngự lâm huênh hoang này thuê được ngay ngày hôm ấy và đúng dịp ấy, trên cầu De la Tuốcnen trong khi gã ta đang vừa đi quanh quẩn vừa nhổ xuống nước.

Porthos đã cho rằng việc gã ta làm là bằng chứng của một tư chất chín chắn và thâm trầm và chàng đã mang gã theo mà không cần ai giới thiệu. Bộ dạng bệ vệ của chàng quý tộc mà Planchet, tên gã Pica(1) tưởng mình sẽ hầu hạ chàng ta, khiến gã mê ngay, nhưng gã hơi thất vọng khi thấy vị trí đó đã có một chiến hữu tên là Mousqueton, và khi Porthos cắt nghĩa cho gã là nhà mình tuy lớn, nhưng không kham nổi hai người đầy tớ và gã phải vào phục vụ D' artagnan. Tuy nhiên khi gã tham dự bữa trưa mà chủ gã thết đãi và gã thấy ông chủ rút từ túi một nắm tiền vàng ra trả, gã tin đã gặp vận và cảm ơn Trời cho gã rơi vào tay một ông vua Crésus(2). Gã kiên trì giữ ý kiến ấy cho tới sau bữa tiệc mà những đồ ăn thừa đã khiến gã bù lại những bữa nhịn đói nhịn khát dài ngày. Nhưng đến tối, khi sửa soạn giường ngủ cho chủ, những ảo mộng của Planchet tàn lụi. Đồ nội thất chỉ duy nhất có cái giường và căn nhà chỉ có phòng đợi và phòng ngủ. Planchet ngủ trong phòng đợi trên một cái chăn lôi từ giường của D' artagnan mà chàng đã bỏ không dùng.

Athos về phần mình cũng có một chàng hầu tên là Crimô, được chàng huấn luyện cho công việc phục vụ một cách rất đặc biệt. Athos, một tôn ông danh giá, là một người lặng lẽ ít nói. Đã năm hoặc sáu năm chàng sống trong tình bạn bè thân thiết và sâu sắc nhất với các đồng đội của mình là Porthos và Aramis, những người này nhớ rõ luôn thấy chàng mỉm cười nhưng không bao giờ nghe thấy tiếng chàng cười. Lời lẽ chàng nói thường vẫn tắt và biểu cảm, luôn chỉ nói những gì muốn nói, không thêm gì, không mua vui, không màu mè hoa mỹ, không kiểu cách. Cuộc chuyện trò của chàng là một sự việc, không thêm mắm thêm muối.

Cho dù Athos mới xấp xỉ ba mươi, có một thân hình và trí tuệ tuyệt vời, không ai thấy chàng có tình nhân. Chàng không bao giờ nói tới đàn bà. Có điều chàng không ngăn người khác nói về đàn bà trước mặt chàng, dù thật dễ nhận thấy về loại chuyện đó, nếu chàng có xen vào thì cũng chỉ là những lời lẽ chua cay, những quan niệm chán đời, và chàng hoàn toàn khó chịu. Sự kín đáo tính lẩn tránh xã hội, và sự lầm lì biến chàng thành gần như một ông già. Để khỏi làm đảo lộn thói quen của chàng, Grimaud vậy là cũng phải quen với việc vâng lời chàng chỉ bằng một cử chỉ hoặc đơn giản chỉ là một cái máy môi. Chàng chỉ nói thành lời với hắn trong những trường hợp cực kỳ quan trọng.

Đôi khi Grimaud, kẻ vừa sợ chủ như sợ lửa, lại vừa hoàn toàn gắn bó và vô cùng kính trọng tài năng của chủ, tưởng rằng mình hoàn toàn hiểu chủ muốn gì, lao ngay đi thi hành mệnh lệnh, lại hóa ra làm ngược lại. Lúc đó Athos chỉ nhún vai, chẳng hề nổi giận, tẩn cho Grimaud mấy cái. Những hôm đó chàng mới nói một ít.

Porthos, như người ta có thể thấy, tính cách đối lập hẳn với Athos, không những nói nhiều, mà còn nói to, tuy với chàng chẳng quan trọng gì. Công bằng mà nói, dù người ta nghe hay không, chàng nói vì khoái được nói và khoái được nghe. Chàng nói về tất cả mọi thứ trừ khoa học, vin cớ từ hồi nhỏ ở lĩnh vực này, nhưng đã có mối căm ghét thâm căn cố đế các nhà bác học.

Chàng không được uy nghi bằng Athos, và cái cảm nghĩ về sự thấp kém của mình về chuyện đó, đã làm chàng thường bất công với con người quý tộc này ngay từ buổi ban đầu mới quen biết nhau, khiến chàng vì vậy thường cố chơi trội bằng những trang phục lộng lẫy. Nhưng, chỉ với chiếc áo choàng ngự lâm giản dị và chỉ riêng bằng cách ngẩng đầu ra sau và tiến bước, Athos ngay tức khắc đã giữ được vị trí xứng đáng với mình và đẩy anh chàng Porthos xuống hạng dưới rồi. Porthos tự an ủi bằng cách phao tin ầm ĩ ở phòng đợi của ông De Treville và trong các đơn vị cận vệ của điện Louvre về những vận may của mình mà Athos không bao giờ nói tới. Và lúc này, sau khi đã chuyển từ giới quý tộc nghi lễ sang giới quý tộc kiếm cung, từ triều phục sang tước Nam, chẳng còn vấn đề gì hơn với Porthos là một công chúa nước ngoài mong muốn đem đến cho chàng một tài sản khổng lồ.

Một ngạn ngữ cổ nói "Thầy nào, tớ ấy". Ta hãy chuyển từ người hầu của Athos sang người hầu của Porthos, từ Grimaud sang Mousqueton.

Mousqueton là người Noócmăng mà chủ của hắn đã đổi từ cái tên hòa bình là Bonlface(3) thành một cái tên cực kỳ kêu hơn là Mousqueton(4). Hắn vào phục vụ Porthos với điều kiện chỉ được mặc và ở, nhưng thật sang. Hắn chỉ đòi được dành cho hai giờ mỗi người để cống hiến cho một công nghệ có thể cưng cấp cho hắn những nhu cầu khác. Porthos thỏa thuận như thế, càng tốt cho chàng. Chàng may cho Mousqueton những áo chẽn bằng những áo cũ và áo choàng thay đổi của mình, và nhờ một gã thợ may rất thông minh chữa lại cho hắn những đồ cũ của chàng thành mới bằng cách lộn trong ra ngoài, gã này còn có một mụ vợ thường bị nghi ngờ là muốn hạ thấp những thói quen quý tộc của Porthos. Mousqueton với những quần áo chữa lại ấy, mặt mũi tươi cười đi theo hầu chàng:

Còn về Aramis, thì tính cách đã được phơi bày đầy đủ, cái tính cách này, thật ra cũng giống như các đồng đội của mình, chúng ta có thể theo dõi sự phát triển của nó qua tên hầu của chàng là Bazin. Bởi niềm hy vọng rằng chủ hắn một ngày nào đó lại thụ giáo, nên hắn luôn mặc đồ đen như kẻ hầu của một tu sĩ. Đó là một tay người miền Bêrích, khoảng ba nhăm tới bốn mươi tuổi, hiền lành, ôn hòa, mập mạp, giữ việc đọc các sách kinh mà chủ dành cho những giờ nhàn rỗi, bần cùng lắm mới phải làm cho họ một bữa trưa, ít món nhưng thật ngon. Ngoài ra, câm, mù, điếc, và nhất mực trung thành.

Giờ thì chúng ta đã biết ít ra cũng là bề ngoài, chủ và tớ, ta chuyển sang nơi ở của họ.

Athos sống ở phố Fréjus, cách vườn Luxembourg mấy bước chân. Cơ ngơi của chàng gồm hai phòng nhỏ, bài trí rất tinh tươm, trong một ngôi nhà cho thuê sẵn đồ đạc mà nữ chủ nhân còn trẻ và còn thật đẹp, đôi mắt hiền đưa tình với chàng một cách vô ích. Vài mảnh còn lại của một thời huy hoàng đã qua, chói lọi đây đó trên các dãy tường của một nơi ở khiêm nhường; đó là một thanh gươm chẳng hạn, giàu hoa văn Đamát(5) gợi cho người ta nhớ đến thời Frăngxoa đệ nhất, và chỉ chuôi gươm thôi, nạm nhiều đá quý có thể đã đáng giá hai trăm đồng tiền vàng mà vào những lúc túng quẫn nhất, Athos cũng không bao giờ chịu cầm cố hay đem bán. Thanh gươm đó từ lâu đã là tham vọng của Porthos, Porthos có thể cho đi mười năm tuổi thọ để có được thanh gươm đó.

Một hôm Porthos có một cuộc hẹn hò với một nữ Quận chúa, chàng cố thử mượn thanh gươm ấy của Athos. Athos, không nói gì dốc hết túi, nhặt tất cả những đồ trang sức, túi tiền, tua ngự và chuỗi vòng vàng, biếu cả cho Porthos. Còn về thanh gươm, Athos bảo chàng, nó đã được gắn liền vào chỗ của nó, và chỉ rời khỏi đấy khi chủ nó cũng rời khỏi nơi của mình. Ngoài thanh gươm ra, còn có một bức chân dung vẽ một quý ông thời Vua Henri III, sắc phục sang trọng nhất, và chân dung đó có một số nét giống Athos, một số nét tương đồng về gia hệ, chứng tỏ vị đại thần đó, hiệp sĩ phục vụ nhà Vua, là tổ tiên của chàng.

Cuối cùng, một cái hộp bằng kim hoàn lộng lẫy, có cùng gia huy như thanh gươm và bức chân dung đặt trên giữa lò sưởi, vênh váo khủng khiếp với những đồ bầy biện còn lại. Athos luôn mang theo chìa khóa chiếc hộp đó trong người. Nhưng một hôm chàng mở cái hộp trước mặt Porthos và Porthos đã có thể tin rằng cái hộp chỉ đựng các bức thư và các giấy tờ, những bức thư tình và giấy tờ của gia đình, chắc thế.

Porthos ở một căn nhà rất rộng và bề ngoài rất hào nhoáng ở phố Chuồng chim câu cũ. Mỗi lần chàng cùng một người bạn nào đó đi qua những cửa sổ nhà mình, Mousqueton bao giờ cũng quần áo hầu tươm tất ở bên một cửa sổ, và Porthos lại vênh mặt giơ tay nói: Nơi mình ở đó! Nhưng không bao giờ người ta thấy chàng ở nhà, không bao giờ chàng mời ai lên đấy, và chẳng ai có thể nghĩ cái vẻ bề ngoài hào nhoáng ấy bên trong thực sự có những của cải gì.

Còn về Aramis, chàng sống ở một căn nhà nhỏ gồm khuê phòng, một phòng ăn và một phòng ngủ, phòng này ở tầng trệt trông ra một vườn nhỏ xanh tươi bóng mát, hàng xóm không thể nhìn qua được.

Về D' artagnan, chúng ta biết chàng ở thế nào rồi, và ta đã làm quen với người hầu của chàng, gã Planchet.

D' artagnan bản tính tò mò như những người được phú cho cái tài đa mưu túc kế, đem hết sức để tìm hiểu xem Athos, Porthos và Aramis đúng ra là người thế nào. Bởi dưới những cái tên chinh chiến đó, mỗi người đều giấu một cái tên quý tộc của mình, nhất là Athos cách xa hàng dặm đã thấy được mùi của một bậc đại công hầu. Vì vậy chàng hỏi Porthos để có được những thông tin về Athos và Aramis, và hỏi Aramis để biết Porthos.

Khốn thay bản thân Porthos cũng chỉ biết về cuộc đời của người bạn thầm lặng của mình qua những gì toát ra mà thôi.

Người ta đồn Athos đã gặp phải những bất hạnh lớn trong những chuyện yêu đương, và một sự phản bội ghê tởm đã đầu độc mãi mãi cuộc đời của con người hào hoa này. Sự phản bội ấy như thế nào? Mọi người đều không biết.

Còn như Porthos, ngoại trừ cái tên thật của chàng mà chỉ ông De Treville mới biết, cũng như tên thật của hai người bạn mình, cuộc đời của chàng thật dễ hiểu. Tự phụ và tuềnh toàng, người ta nhìn suốt được qua chàng như qua một tấm pha lê.

Điều duy nhất khiến có thể làm người điều tra sai lạc là việc người ta đi tin vào tất cả mọi điều hay cái tốt chàng nói về mình.

Aramis có vẻ chẳng có một bí mật nào, lại là một chàng trai ngấm ngầm những bí mật, ít trả lời những câu hỏi về người khác và lẩn tránh những câu người ta hỏi về mình. Một hôm, D' artagnan sau khi đã hỏi Aramis rất lâu về Porthos, từ đó biết được cái tin đồn về vận đỏ của chàng ngự lâm với một nàng công chúa, lại cũng muốn biết những chuyện phiêu lưu tình ái của người đang đối thoại với mình như thế nào, liền hỏi:

- Thế còn anh, người đồng đội thân mến của tôi, anh nói về các nữ Nam tước, nữ Bá tước và công chúa nương nương của những người khác, còn anh thì sao?

- Xin lỗi - Aramis ngắt lời - tôi nói bởi vì Porthos tự nói ra, bởi vì anh ấy toang toang nói ra những điều hay ho đó trước mặt tôi. Nhưng quý cậu D' artagnan thân mến ạ, hãy tin rằng, nếu tôi nắm được những chuyện đó từ một nguồn tin khác, hoặc anh ấy thổ lộ ra với tôi sẽ chẳng có một vị nghe thú tội nào kín tiếng hơn tôi đâu.

- Tôi tin như thế mà - D' artagnan nói tiếp - nhưng rốt cuộc, tôi thấy hình như, bản thân anh, anh cũng khá quen thuộc với các gia huy, bằng chứng là chiếc khăn tay thêu ấy và nhờ nó tôi có vinh dự làm quen với anh.

Aramis lần này chẳng hề tức giận, mà chàng giữ thái độ nhã nhặn nhất, thân ái trả lời:

- Bạn thân mến, đừng quên tôi vẫn muốn thuộc nhà thờ, và tôi trốn tránh tất cả những cơ hội đàng điếm. Cái khăn tay cậu thấy không hề được trao cho tôi mà là bị một trong những người bạn tôi bỏ quên ở nhà tôi. Tôi phải nhặt lấy để khỏi làm tổn hại đến thanh danh của bạn tôi và người đàn bà mà anh ấy yêu.

- Còn như tôi, tôi không hề có, và không hề muốn có nhân tình, noi theo tấm gương rất chí lý về mặt đó của Athos, người cũng chẳng có gì hơn tôi.

- Nhưng quỷ ạ? Anh đâu phải là tu viện trưởng, mà là ngự lâm quân kia mà.

- Tạm thời là ngự lâm quân như Giáo chủ nói thôi, ngự lâm quân bất đắc dĩ, mà người của nhà thờ lại ở trong tim, tin tôi đi.

- Athos và Porthos đã nhét tôi vào đấy, chiểm lĩnh tôi. Lúc sắp được thụ phong, tôi đã có một va vấp nhỏ với… Nhưng việc đó không liên can gì mav tới cậu, và tôi đã chiếm mất thì giờ quý báu của cậu rồi.

- Không hề gì, việc đó làm tôi thích lắm - D' artagnan nói to và lúc này, tôi tuyệt nhiên không có việc gì để làm.

- Phải, nhưng tôi, tôi còn một quyển kinh phải đọc - Aramis trả lời - rồi lại còn mấy vần thơ phải làm mà bà De Eghiông yêu cầu tôi rồi tiếp đến, tôi phải qua phố Saint Ônôrê, để mua son cho bà De Chevreuse. Cậu thấy đấy, bạn thân mến, nếu như cậu chẳng vội gì, tôi lại rất vội.

Và Aramis thân mật chìa tay cho người đồng đội trẻ của mình xin được cáo lui.

Dù dày công đến mấy, D' artagnan vẫn không thể biết gì hơn về ba người bạn mới của mình. Chàng đành hiện thời hãy cứ tin vào tất của những gì họ nói về quá khứ của họ, hy vọng vào những phát hiện chắc chắn hơn và sâu rộng hơn trong tương lai. Trong khi chờ đợi, chàng coi Athos như Akin Porthos như Ajắc(6) và Aramis như Jôdép(7), vả chăng, cuộc sống của bốn chàng trai trẻ rất vui tươi.

Athos cờ bạc, và luôn đen đủi. Song, chàng không vay các bạn một xu, cho dù túi tiền của chàng không ngừng phục vụ họ và khi chơi chịu, chàng luôn đánh thức chủ nợ lúc sáu giờ sáng để trả món nợ đêm trước.

Porthos hay chơi hăng máu. Những hôm đó, nếu được, người ta thấy chàng ăn mặc lộng lẫy, thái độ ngạo mạn, nếu thua, chàng biến mất mấy ngày liền không thấy tăm hơi, sau đó chàng xuất hiện, mặt nhợt nhạt, bộ dạng thuỗn ra, nhưng có tiền trong túi.

Còn Aramis, chàng không bao giờ bài bạc. Chàng đích thị là một lính ngự lâm tồi nhất và một thực khách vô duyên nhất.

Chàng luôn có nhu cầu làm việc. Đôi khi, giữa một bữa ăn trưa, trong hơi men của rượu vang, trong chuyện trò đang sôi nổi, khi ai nấy đều tin còn phải ngồi tại bàn vài ba tiếng nữa, thì Aramis xem đồng hồ, đứng lên với nụ cười niềm nở xin phép mọi người phải đi để thỉnh giáo một nhà thần học ngụy lý(8) mà chàng đã có hẹn. Những lần khác chàng trở về cái tổ của mình để viết một luận văn, và yêu cầu các bạn đừng làm mình bị phân tâm.

Trong khi đó Athos mỉm một nụ cười dễ thương man mác, rất thích hợp với bộ mặt cao quý của mình, và Porthos thì vừa uống vừa rủa rằng Aramis sẽ mãi mãi chỉ là một mục sư cỡ thôn xóm.

Planchet, người hầu của D' artagnan đeo đuổi vận may của mình một cách lịch sự. Hắn nhận ba mươi xu mỗi ngày. Và trong một tháng hai ngày hắn về nhà vui như chim sáo và niềm nở với chủ. Nhưng khi cơn gió hẩm hiu bắt đầu thổi lên khoản gia chánh ở phố Phu đào huyệt, nghĩa là khi số bốn mươi đồng vàng của Vua Louis XIII đã bị ngốn hết hoặc gần như thế, hắn bắt đầu ca cẩm khiến Athos thấy lợm giọng, Porthos thấy hỗn láo và Aramis thấy lố bịch. Athos khuyên D' artagnan thải tên vô lại ấy Porthos muốn phải đánh đã và Aramis cho rằng một ông chủ phải được nghe những lời ca ngợi mình.

- Nói như các anh thì dễ - D' artagnan nói - Athos, anh sống câm lặng với Grimaud, cấm hắn nói, do đó, không bao giờ nặng lời với hắn. Còn anh, Porthos, anh sống vương giả, anh như một vị thánh đổi tên Mousqueton của anh. Cuối cùng anh, Aramis luôn luôn phân tâm bởi những nghiên cứu thần học, anh tạo cảm hứng sùng kính sâu sắc cho bác hầu Bazin của anh, một con người hiền lành ngoan đạo. Nhưng tôi là kẻ không địa vị chắc chắn, không tài sản, không phải ngự lâm quân mà cũng chẳng quân cận vệ, làm sao tôi gây được lòng yêu mến, sự nể sợ hoặc lòng kính trọng của Planchet?

- Sự việc nghiêm trọng rồi! - Ba người bạn trả lời - Đó là công việc nội tình. Với người hầu cũng phải như với đàn bà thôi, phải tỏ ngay mình là chủ, nếu muốn giữ họ ở lại với mình. Cậu hãy nghĩ kỹ đi!

D' artagnan suy nghĩ và cho rằng trước hết hãy tạm đánh cho Planchet một trận rồi hắn sẽ làm việc một cách có ý thức thôi. Thế rồi, sau khi đã nện hắn, chàng cấm hắn không được rời khỏi công việc nếu không được phép, chàng nói thêm: "Bởi vì ta không thể cứ xúi quẩy mãi, ta đang mong đợi không gì lay chuyển nổi những vận hội tốt đẹp hơn. Vận may của người cũng sẽ đến nếu còn ở bên ta. Và ta là một ông chủ quá tất nên không để người lỡ vận may bằng cách chấp nhận cho nghỉ việc như người yêu cầu đâu.

Cách xử sự đó khiến mấy người bạn đều rất phục. Planchet cũng phục và không nói đến chuyện ra đi nữa.

Bốn người bạn trẻ như sống trong một cộng đồng.

D' artagnan chưa mắc thói quen nào khi từ tính nhỏ đến và rơi vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ với mình, noi theo ngay những thói quen của các bạn.

Mùa đông, dậy lúc tám giờ, mùa hè, sáu giờ đến nhà ông Treville nhận khẩu lệnh và nghe ngóng công việc. D' artagnan, dù chưa phải ngự lâm quân, vẫn thực hiện công việc với giờ giấc chính xác đáng khen. Chàng luôn đi gác, vì luôn đi theo một trong ba người đến phiên gác của họ. Cả doanh trại ngự lâm quân, mọi người đều biết chàng là ai cũng coi chàng là một đồng đội tốt. Ông De Treville ngay buổi tiếp xúc ban đầu đã đánh giá cao chàng và thật lòng yêu mến, không ngừng tiến cử chàng với nhà Vua.

Về phần mình, ba chàng ngự lâm rất yêu quý người bạn trẻ. Tình bạn đã liên kết bốn con người lại với nhau và nhu cầu ngày gặp nhau ba bốn lần hoặc cho việc quyết đấu, hoặc vì công việc, hoặc để vui chơi, khiến họ không ngừng chạy theo nhau như hình với bóng và người ta luôn gặp những con người không thể tách rời nhau ấy tìm nhau từ vườn hoa Luychxămbua đến quảng trường Saint-Sulpice hoặc từ phố Chuồng chim câu cũ đến vườn Luxembourg.

Trong khi chờ đợi, những lời hứa hẹn của ông De Treville cũng được xúc tiến. Rồi một hôm, nhà Vua hạ lệnh cho ông Hiệp sĩ des Essarts lấy D' artagnan vào làm thiếu sinh quân trong đại đội cận vệ của ông. D' artagnan thở dài khoác bộ quần áo cận vệ mà chàng những muốn các thêm mười năm tuổi thọ để đổi lấy chiếc áo ngự lâm quân. Nhưng ông De Treville hứa sự ưu ái đó sau hai năm tập sự, vả chăng, việc tập sự có thể rút ngắn nếu D' artagnan có cơ hội lại làm một việc gì hữu ích cho nhà Vua hoặc lập được một chiến công chói lọi. Sau khi được hứa hẹn như vậy D' artagnan rút lui và từ ngày hôm sau, bắt đầu việc quân ngũ.

- Thế là đến lượt Athos, Porthos và Aramis đi gác với D' artagnan khi đến phiên chàng. Đại đội của Hiệp sĩ des Essarts nhận cả bốn người như thế, thay vì một người, hôm nhận D' Artagnan.

Chú thích:
(1) Dân thuộc tỉnh Picardy ở Tây Bắc nước Pháp, nổi tiếng ương bướng
(2) Crésus: vua của Lydia vùng Tiểu Á, thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, nổi tiếng giàu có.
(3) Bonlface: tên các giáo hoàng thế kỷ 8, không hiếu chiến
(4) Mousqueton - khẩu súng trường
(5) Damas: thuộc Syrie, nổi tiếng về nhưng kiếm lưỡi cong nhất là đoản kiếm
(6) Achile: Akin; Aiax, Ajắc - Những nhân vật anh hùng nhất và nhì trong thần thoại Hy Lạp trong việc chiếm thành Troie.
(7) Joseph: Ý nói cha Jôdép mệnh danh Đức ông xám của Giáo chủ Richelieu - thích hợp với lòng sùng tín của Aramis và việc muốn trở lại nhà thờ của chàng.
(8) Thần học quan tâm đến việc giảl quyết những trường hợp của ý thức

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 8

Một âm mưu trong triều

Tuy nhiên, bốn mươi đồng vàng của Vua Louis XIII, cũng như tất cả mọi thứ trên đời này sau khi đã có khởi đầu, phải có kết thúc, và từ lúc nó kết thúc, bốn người đồng ngũ của chúng ta rơi vào cảnh khó khăn. Lúc đầu, ảnh hưởng dùng tiền riêng của mình cưu mang cả hội được ít lâu, Porthos kế tiếp và nhờ một trong những cuộc đi biệt tăm mọi người đã quen, chàng chu cấp cho nhu cầu của mọi người thêm được nửa tháng. Cuối cùng đến lượt Aramis, chàng vui vẻ thực hiện, và theo chàng nói, nhờ bán những cuốn sách thần học đã kiếm được mấy đồng vàng.

Vậy là như thường lệ, họ phải cầu cứu ông De Treville xin ông tạm ứng trước một phần tiền lương, nhưng số tiền tạm ứng đó không thể giúp gì mấy cho ba chàng ngự lâm đang mắc những món nợ nóng quá hạn, và một chàng cận vệ chưa mắc nợ.

Cuối cùng, khi thấy sắp hoàn toàn rỗng rúi, bằng một nỗ lực cuối cùng, họ gom góp được tám hay mười đồng vàng để Porthos chơi bạc. Khốn nạn thay, chàng đang canh đen, thua sạch, thêm hai nhăm đồng vàng đánh chịu.

Thế là khó khăn trở thành túng quẫn, người ta thấy những kẻ đói ăn có kẻ hầu đi theo chạy đốn các bến sông và các đơn vị cận vệ kiếm chác tại nhà bạn hữu ở bên ngoài tất cả những bữa trưa có thể kiếm được, bởi theo ý kiến Aramis, trong lúc sung túc phải rắc các bữa ăn ra bốn phía để thu lại một vài bữa lúc cơ nhỡ.

Athos được mời ăn bốn lần, lần nào cũng kéo theo các bạn và lũ người hầu. Porthos có sáu cơ hội và cũng để các bạn cùng hưởng. Aramis được tám. Đó là một người mà người ta đã có thể nhận ra, nói ít làm nhiều.

Còn về D' artagnan, chưa quen biết một ai trong kinh thành chỉ tìm được một bữa điểm tâm bằng sôcôla tại nhà một ông linh mục người cùng quê, và một bữa trưa tại nhà một tay lính kèn của đội cận vệ. Chàng dẫn theo đoàn quân của mình đến nhà ông linh mục, ngốn sạch lượng thức ăn dự trữ của ông trong hai tháng, và tại nhà người lính kèn được anh ta đãi rất thịnh soạn.

Nhưng, như Planchet nói, ngay cả khi ăn căng bụng ra, vẫn chỉ là một lần ăn.

D' artagnan cảm thấy khá hổ thẹn vì chỉ có được một bữa rưỡi, bởi bữa điểm tâm tại nhà ông linh mục chỉ có thể tính là nửa bữa để khoản đãi các đồng đội của mình, đáp lại những bữa tiệc linh đình mà Athos, Porthos và Aramis kiếm được. Chàng tin mình là gánh nặng cho cả hội, trong thiện tâm hoàn toàn thơ trẻ của mình, quên rằng mình đã nuôi cả hội trong vòng một tháng, và băn khoăn day dứt rất nhiều. Chàng nghĩ mối liên kết này của bốn con người trẻ tuổi, dũng cảm, táo bạo và năng động, phải có một mục đích khác những cuộc dạo chơi, bại háng, những bài học đấu gươm và những lời nhạo báng ít nhiều dí dỏm.

Quả vậy, bốn người như họ, bốn con người hết lòng với nhau từ tiền nong đến tính mạng, bốn con người luôn nâng đỡ nhau không bao giờ lùi bước thực thi riêng rẽ hoặc cùng nhau những quyết định chung, bốn cánh tay uy hiếp bốn phương trời hoặc quy tụ về một hướng, tất yếu phải mở ra một con đường tới cái đích muốn đạt được, hoặc ngấm ngầm hoặc công khai, hoặc bằng mìn nổ hòặc bằng hào rãnh, hoặc bằng cơ mưu, hoặc bằng sức mạnh… dù cái đích còn xa hay được bảo vệ vững chắc. Điều duy nhất khiến D' artagnan lấy làm lạ là các bạn đồng ngũ không hề nghĩ đến điều đó. Chàng đang nghĩ tới điều đó, riêng chàng còn nghiêm túc nữa, đào sâu trong óc mình để tìm một hướng đi cho cái sức mạnh duy nhất được nhân lên bốn lần, và với nó, chàng tin chắc như chiếc đòn bẩy mà ácsimét đi tìm, có thể nâng bổng cả thế giới. Đang nghĩ vậy thì có tiếng gõ cửa khẽ. D' artagnan đánh thức Planchet và ra lệnh mở cửa.

Nói đến câu "D' artagnan đánh thức Planchet" bạn đọc đừng nghĩ đang đêm hoặc trời chưa sáng. Không! Bốn giờ chiều vừa điểm. Hai giờ trước đó, Planchet đến xin ông chủ ăn trưa, ông chủ trả lời bằng ngạn ngữ : "Đi ngủ là người ấy ăn trưa" và Planchet ăn trưa bằng cách ngủ.

Một người được dẫn vào nhà, dáng vẻ giản dị và có vẻ là một thị dân.

Planchet thay cho món tráng miệng, rất muốn được nghe lỏm chuyện, nhưng người thị dân tuyên bố với D' artagnan rằng, điều mà người này định nói với chàng là quan trọng và phải giữ kín, nên muốn chỉ còn hai người với nhau.

D' artagnan đuổi Planchet ra và mời khách ngồi.

Phải mất đến một lúc yên lặng, hai người chỉ nhìn nhau như để làm quen trước đã, sau đó D' artagnan mới nghiêng mình tỏ ý chàng đang chờ nghe. Người thị dân nói:

- Tôi nghe nói ông D' artagnan như một chàng trai trẻ vô cùng dũng cảm và cái danh tiếng mà ông xứng đáng được hưởng đã khiến tôi quyết định thổ lộ với ông một điều bí mật.

- Xin ông cứ nói - D' artagnan bảo, trong lòng linh cảm thấy một điều gì có lợi - Ông nói đi.

Người thị dân lại ngừng một lúc rồi tiếp tục:

- Thưa ông, tôi có một người vợ là người chăm lo khăn áo cho Hoàng hậu, một người không thiếu ngôn ngoan và sắc đẹp. Người ta xui tôi cưới nàng thế là đã được ba năm, dù nàng chỉ có một chút vốn nhỏ, bởi vì ông De la Porte, người mặc áo bào cho Hoàng hậu là cha đỡ đầu của nàng và che chở cho nàng…

- Rồi sao nữa, thưa ông? - D' artagnan hỏi.

- Rồi thì! - Người thị dân tiếp - Rồi thì! Thưa ông, vợ tôi bị bắt cóc sáng hôm qua, khi vừa ra khỏi phòng làm việc.

- Và ai đã bắt cóc vợ ông?

- Tôi không biết chắc lắm, thưa ông, nhưng tôi ngờ một người.

- Cậy chứ cái kẻ ông ngờ ấy là người nào?

- Một người, đã theo đuổi nàng từ lâu.

- Chết tiệt?

- Nhưng ông có muốn tôi nói ra với ông - người thị dân tiếp tục rằng tôi tin trong chuyện này, ít vấn đề tình ái hơn là chính trị.

- Ít tình ái hơn là chính trị ư? - D' artagnan lặp lại với vẻ đang suy nghĩ rất nhiều - Vậy ông nghi ngờ gì?

- Tôi không biết liệu tôi có nên nói với ông điều tôi nghi ngờ không?

- Thưa ông, ông sẽ thấy tôi tuyệt đối chẳng đòi hỏi gì ông cả. Chính ông là người đã đến đây. Chính ông đã nói với tôi rằng ông có một bí mật muốn thổ lộ với tôi. Vậy ông cứ làm theo ý ông, còn thì giờ để ông rút lui mà.

- Không, thưa ông, đối với tôi, ông có vẻ một chàng trai lương thiện, và tôi tin tưởng ở ông. Vậy là tôi tin rằng không phải tại tình yêu của vợ tôi mà nàng bị bắt giữ, mà là do tình yêu của một vị phu nhân quyền thế hơn vợ tôi nhiều.

- À, à, hẳn là tại những mối tình của phu nhân De Bois-Tracy chăng? - D' artagnan nói, muốn tỏ vẻ hiểu những việc triều đình, trước mặt người thị dân.

- Cao hơn, thưa ông, cao hơn.

- Của phu nhân De Eghiông?

- Còn cào hơn nữa.

- Của phu nhân De Chevreuse?

- Cao hơn, cao hơn nhiều!

- Của nương… - D' artagnan dừng lại.

- Vâng, thưa ông - người thị dân trả lời rất khẽ, đủ để nghe thấy, tỏ vẻ hoảng sợ.

- Và với ai?

- Còn với ai được nếu không phải với Công tước de…

- Công tước de…

- Vâng, thưa ông! - người thị dân trả lời, cố làm cho giọng mình câm hơn.

- Nhưng làm sao ông biết mọi chuyện đó?

- Chà, làm sao tôi biết ư?

- Phải, làm sao ông biết được? Không có chuyện tâm sự nửa vời ấy, hoặc, ông hiểu đấy.

- Tôi biết được là do vợ tôi, thưa ông, do chính vợ tôi.

- Vợ ông biết chuyện… nhưng do ai?

- Do ông De la Porte. Tôi đã chẳng nói với ông nàng là con gái đỡ đầu của ông De la Porte, người tin cẩn của Hoàng hậu sao?

- Thế đấy? Ông De la Porte đã sắp đặt nàng bên cạnh Nương nương để cho Hoàng hậu tội nghiệp của chúng ta bị nhà Vua bỏ rơi, bị Giáo chủ do thám, bị tất cả phản bội như thế, có người để tâm sự.

- À, à! Thế là rõ ra rồi! - D' artagnan nói.

- Mà, thưa ông, vợ tôi về nhà cách đây đã bốn ngày. Một trong những điều kiện của nàng trong hôn lễ của chúng tôi là một tuần nàng phải về gặp tôi hai lần, bởi vì như tôi vinh dự cho ông biết vợ tôi yêu tôi lắm. Và hôm ấy vợ tôi về thổ lộ với tôi là Hoàng hậu trong lúc này đang có những nỗi lo sợ lớn.

- Thật vậy ư?

- Vâng, Giáo chủ hình như đang theo dõi và ngược đãi bà hơn bao giờ hết. Ngài không thể tha thứ cho và về chuyện sarabande(1). Ông biết chuyện sarabande chứ?

- Ôi dào, tôi biết chứ! - D' artagnan trả lời, thật ra là chả biết gì cả, nhưng muốn làm ra vẻ thông thạo.

- Đến nỗi, bây giờ, không còn là căm ghét nữa mà là trả thù.

- Thật thế à?

- Và Hoàng hậu tin…

- Sao, Hoàng hậu tin gì?

- Bà tin rằng người ta đã mạo tên bà viết thư cho Công tước De Buckingham.

- Mạo tên Hoàng hậu?

- Vâng, để làm cho Công tước phải đến Paris, và một khi đã đến Paris, sẽ lôi ông ta vào một cái bẫy nào đó.

- Quỷ sứ? Nhưng vợ ông, thưa ông thân mến, bà ấy có liên can gì đến mọi chuyện này?

- Người ta biết cô ấy hết lòng tận tụy với Hoàng hậu và người ta muốn tách cô ấy ra khỏi Nương nương hoặc hăm dọa cô ấy để nắm được những bí mật của Nương nương, hoặc dụ dỗ cô ấy để sử dụng như một tên gián điệp.

- Có thể lắm - D' artagnan nói - nhưng cái người bắt cóc bà ấy, ông biết chứ?

- Tôi đã nói với ông tôi tin là biết hắn.

- Tên hắn?

- Tôi không biết tên, điều tôi biết chỉ là hắn chính là thuộc hạ của Giáo chủ, kể bán linh hồn cho ông ta.

- Nhưng ông đã nhìn thấy hắn chứ?

- Vâng, một hôm vợ tôi đã chỉ cho tôi.

- Hắn ta có dấu hiệu gì đặc biệt để người ta có thể nhận ra không?

- Ồ, có chứ, đó là một quý ông, bộ dạng kiêu kỳ, râu tóc đen, da sạm, mắt sắc, răng trấng và một cái sẹo ở thái dương.

- Một sẹo ở thái dương! - D' artagnan kêu lên và cùng với cái đó là răng trắng, mắt sắc, da sạm, râu tóc đen, dáng vẻ kiêu kỳ, chính là cái người ở Măng của ta rồi!

- Ông nói, người của ông?

- Phải, phải, nhưng cái đó chẳng liên can gì đến chuyện này.

- Không tôi nhầm, cái đó trái lại đơn giản hóa vấn đề rất nhiều.

- Nếu người của ông cũng là người của tôi, thì bằng một đòn, tôi sẽ hai lần trả thù, có thế thôi. Nhưng biết tìm hắn ở đâu?

- Tôi chẳng biết ở đâu cả.

- Ông không có nguồn tin nào về nơi ở của hắn ư?

- Không tí nào. Một hôm tôi đưa vợ tôi đến điện Louvre, cô ấy vừa vào thì hắn đi ra, và cô ấy đã chỉ hắn cho tôi.

- Quỷ thật? Quỷ thật! - D' artagnan lẩm bẩm - Tất cả cái ấy đều mơ hồ. Do ai mà ông biết vợ ông bị bắt cóc.

- Do ông De la Porte.

- Ông ta cho ông biết một chi tiết nào đó chứ?

- Chẳng một chi tiết nào.

- Và ông không biết gì từ một nguồn tin nào khác à?

- Có chứ, tôi nhận được…

- Được cái gì?

- Nhưng tôi không biết liệu mình không phải đã phạm vào một sự đại bất cẩn chứ?

- Ông lại quay lại với chuyện đó rồi. Tuy nhiên tôi sẽ lưu ý ông rằng, lần này, cố lùi thì cũng hơi chậm rồi.

- Vì vậy tôi không lùi đâu, mẹ kiếp! - Người thị dân kêu lên và chửi thề để thêm khí thế - Vả lại, thề có Bonacieux.

- Ông tên là Bonacieux? - D' artagnan hỏi.

- Phải, đó là tên tôi.

- Vậy là ông nói, thề có Bonacieux! Xin lỗi nếu tôi đã ngắt lời ông. Nhưng hình như tôi thấy cái tên quen quen.

- Có thể đấy, thưa ông. Tôi là chủ nhà của ông.

- Chà, ra thế! - D' artagnan vừa nói vừa nhổm nửa người lên chào - Ra ông là chủ nhà của tôi?

- Vâng, thưa ông. Và vì từ ba tháng nay ông đã ở nhà tôi, và chắc hẳn bị phân tâm vì những công việc lớn, ông đã quên trả tiền thuê nhà và như tôi nói đấy, tôi có quấy quả ông lúc nào đâu tôi nghĩ rằng ông cũng sẽ quan tâm tới sự tế nhị của tôi.

- Vậy thì sao nào, ông Bonacieux thân mến của tôi - chàng nói tiếp - xin ông tin rằng tôi rất biết ơn ông đã đối đãi như thế và như tôi đã nói ông, nếu tôi có thể có ích cho ông về điều gì…

- Tôi tin chứ thưa ông, tôi tin ông chứ, và Bonacieux xin thề là tin ông về điều tôi sắp nói ra đây.

- Vâng ông nói ra đi.

Người thị dân rút ở túi ra một tờ giấy và đưa cho D' artagnan.

- Một bức thư?

- Mà tôi nhận sáng nay.

D' artagnan mở ra, và vì trời đã bắt đầu tà, chàng lại gần cửa sổ. Người thị dân đi theo chàng. D' artagnan đọc:

"Đừng tìm vợ ông. Cô ấy sẽ được trả cho ông, khi nào người ta không còn cần cô ấy nữa. Nếu ông tiến hành chỉ một bước nào thôi để tìm kiếm vợ ông là ông toi đời".

- Thế là rõ rồi - D' artagnan tiếp tục - nhưng rút cục chỉ là một lời hăm dọa.

- Vâng, nhưng lời hăm dọa ấy làm tôi kinh sợ tôi, thưa ông, rút cục tôi đâu phải là một tay gươm, tôi sợ ngục Bastille…

- Hừm! - D' artagnan nói - nhưng tôi, chính tôi cũng có không lo ngục Bastille hơn gì ông đâu. Nhưng nếu vấn đề chỉ là một nhát gươm thì được thôi.

- Tuy nhiên, thưa ông, tôi lại quá trông cậy vào ông trong cơ hội này.

- Thế ư?

- Thấy ông không ngừng quây quần với những ngự lâm quân uy nghi đường bệ, và biết rằng những vị ngự lâm quân đó đều là người của ông De Treville, do đó là kẻ thù của Giáo chủ, tôi nghĩ rằng ông và các bạn ông trong khi đem lại công bằng cho Hoàng hậu tội nghiệp của chúng ta, sẽ khoái trá chơi lại cho Đức ông một vố điếng người.

- Chắc chắn rồi.

- Và rồi tôi nghĩ việc ba tháng tiền thuê nhà phải trả tôi mà tôi không bao giờ nói đến với ông…

- Vâng, vâng, ông đã đưa ra cho tôi cái lý do đó và tôi thấy nó thật tuyệt vời.

- Thêm nữa, chừng nào ông còn đem lại vinh dự cho tôi là ở lại nhà tôi, ông đừng bao giờ nói đến tiền thu nhà nữa.

- Tốt lắm.

- Và thêm vào đó, nếu cần, tôi định biếu ông năm mươi đồng vàng, biết đâu, trong lúc này ông đang thấy khó khăn.

- Càng tuyệt? Nhưng chắc chắn ông phải giầu lắm, ông Bonacieux thân mến của tôi!

- Tôi cũng dễ chịu, thưa ông, đúng là như vậy. Tôi thu nhập khoảng chừng hai hoặc ba nghìn đồng vàng lợi tức trong việc buôn bán tạp hóa và nhất là bỏ vốn vào cuộc hành trình mới đây của nhà hàng hải nổi tiếng Jăng Mốckê, thành thử, ông hiểu đấy thưa ông… À, nhưng mà - nhà tư sản kêu lên.

- Gì thế? - D' artagnan hỏi.

- Tôi nhìn thấy cái gì kia nhỉ?

- Đâu?

- Ở ngoài phố, đối diện với cửa sổ nhà ông, trong cái khung cửa kia kìa, một người khoác áo choàng.

- Chính hắn! - Cả D' artagnan và nhà tư sản cùng kêu lên, mỗi người đồng thời nhận ra kẻ thù của mình.

- A, lần này thì - D' artagnan vừa kêu vừa nhảy bổ tới thanh gươm của mình - lần này thì nó sẽ không thoát khỏi tay tôi.

- Và rút gươm ra khỏi vỏ, chàng chồm ra khỏi căn nhà của mình.

Trên cầu thang, chàng gặp Athos và Porthos đến thăm chàng. Họ giãn ra, D' artagnan vụt qua họ như một tia chớp.

- Ơ kìa! Cậu chạy đi đâu thế? - Cả hai người lính ngự lâm đều kêu lên.

- Thằng cha ở Măng! - D' artagnan trả lời và biến mất.

D' artagnan đã nhiều lần kể cho các bạn về câu chuyện ly kỳ của mình với kẻ xa lạ đó, cũng như sự xuất hiện của nữ du khách xinh đẹp mà con người kia đã trao cho nàng một bức thư rất ư quan trọng.

Ý kiến của Athos và D' artagnan đã đánh mất bức thư của mình trong khi ẩu đả. Một nhà quý tộc, theo chàng và theo như D' artagnan tả lại chân dung kẻ lạ mặt thì chỉ có thể là một nhà quý tộc không thể đê tiện đến mức ăn cắp một bức thư.

Porthos lại chỉ nhìn thấy trong mọi chuyện đó một cuộc hẹn hò tình ái của một phu nhân với một kỵ sĩ hoặc của một kỵ sĩ với một phu nhân, và đã bị sự có mặt của D' artagnan và con ngựa vàng của chàng phá đám.

Aramis thì nói những loại chuyện như thế là bí hiểm, tất nhất đừng có dính mũi vào.

Vì vậy, qua vài tiếng D' artagnan thốt ra, họ hiểu ngay là chuyện gì, và vì họ nghĩ sau khi đuổi kịp con ngựa kia hoặc mất hút, D' artagnan cuối cùng sẽ về nhà mình, họ tiếp tục đi lên.

Khi họ vào trong phòng của D' artagnan thì căn phòng trống không. Chủ nhà e sợ hậu quả của cuộc chạm trán giữa chàng trai và kẻ lạ mặt chắc chắn sẽ xảy ra, sau khi đã tự mình trình bày đặc điểm của người lạ ấy, ông ta thận trọng tính bài chuồn.

Chú thích:
(1) sarabande - Một vũ điệu Tây Ban Nha. Ở đây Dumas cường điệu ý tưởng nghi ngờ nhưng biểu hiện mến thương của Giáo chủ Richelieu bị Hoàng hậu Anne d' Autriche khinh thị, nói đến việc Giáo chủ đã ăn mặc giả trang một thảng hề nhảy điệu đó trước mặt Hoàng hậu mà không có kết quả gì.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 9

D' Artagnan thể hiện bản lĩnh

Như Athos và Porthos đã tiên đoán, trong vòng nửa tiếng, D' Artagnan trở về. Lần này nữa, chàng lại để hụt kẻ thù của mình, hắn đã biến mất như phù phép. D' Artagnan tay cầm gươm chạy khắp các phố lân cận, nhưng chàng chẳng thấy ai giống như kẻ mình đang tìm, cuối cùng chàng đành phải trở lại với điều đáng lẽ phải bắt đầu từ đó, tức là gõ cửa, cái cửa mà kẻ kia đứng tựa nhưng cái búa đập cửa đập ầm ầm đến nlươi mười hai lần vẫn chỉ vô ích, chẳng có ai thưa, và hàng xóm thấy tiếng ầm ầm đều chạy ra ngưỡng cửa hoặc chõ mũi ra cửa sổ, đều cam đoan với chàng rằng ngôi nhà mà cửa giả đều đóng im ỉm đó đã từ sáu tháng nay không có người ở.

Trong khi D' Artagnan chạy khắp các phố và gõ cửa các nhà, Athos đã đuổi kịp hai đồng đội thành thử về đến nhà D' Artagnan đã thấy cuộc họp mặt đầy đủ.

- Thế nào? - Cả ba thấy D' Artagnan bước vào, mồ hôi đầy trán và sắc mặt còn bừng bừng giận dữ đều cất tiếng hỏi.

D' Artagnan ném gươm xuống giường, nói to:

- Còn thế nào nữa? Thằng cha ấy phải là quỷ hiện thành người. Nó biến mất như một con ma, như một cái bóng, như một quái tượng.

- Cậu có tin những chuyện hiện hình không? - Athos hỏi Porthos.

- Tôi hả, tôi chỉ tin cái gì tôi trông thấy, và vì tôi chưa bao giờ thấy việc hiện hình, nên tôi không tin.

- Thánh kinh - Aramis nói - đã đề ra cho chúng ta một luật để tin: Bóng của Samuel hiện ra với Saul(1), và đó là một tín điều mà tôi sẽ giận nếu thấy ai nghi ngờ đấy Porthos ạ. Trong tất cả các trường hợp, người hay quỷ, xác hay hồn, ảo ảnh hay thực tế, con người đó sinh ra là để ám tôi, vì sự trốn thoát của hắn làm lỡ của chúng ta một vụ việc tuyệt đẹp đấy, các vị ạ, một vụ việc có thể kiếm trăm đồng tiền vàng, có lẽ còn hơn nữa đấy.

- Việc thế nào? - Cả Porthos và Aramis cùng hỏi.

Còn Athos, trung thành với chế độ câm lặng của mình, chỉ đưa mắt hỏi Aramis.

- Planchet! - D' Artagnan gọi tên đầy tớ đang thập thò nơi cánh cửa hé mở để cố nghe lỏm những mẩu rời rạc của câu chuyện - Đi xuống chỗ ông chủ nhà, ông Bonacieux ấy và bảo ông ấy gửi cho chúng ta nửa tá vang Beaugency, thứ ta thích ấy.

- Ái chà! Nhưng cậu đã mở tài khoản chỗ chủ nhà của cậu đấy à? - Porthos hỏi.

- Ừ! - D' Artagnan trả lời - kể từ nay, các anh cứ yên tâm đi, nếu vang của ông ấy tồi, chúng ta sẽ gửi trả lấy rượu khác.

- Nên sử dụng chứ không lạm dụng - Aramis nghiêm nghị nói.

- Tôi vẫn luôn bảo rằng D' Artagnan là cái đầu khôn nhất trong bốn chúng ta mà - Athos nhận xét, rồi sau khi D' Artagnan cúi chào đáp lại, Athos lại rơi ngay vào cơn trầm lặng quen thuộc.

- Nhưng mà cuối cùng, là chuyện gì mới được chứ? - Porthos hỏi.

- Phải đấy - Aramis nói - hãy tiết lộ ra đi, anh bạn thân mến, trừ phi danh dự của một phu nhân nào đó không có lợi trong việc tâm sự này, trong trường hợp ấy tốt nhất cậu hãy giữ kín cho riêng cậu.

- Bình tĩnh nào - D' Artagnan trả lời - chẳng danh dự của ai phải phàn nàn về điều tôi sẽ kể cho các anh.

- Và thế là, chàng kể lại đúng từng lời cho các bạn về điều vừa diễn ra giữa chàng và ông chủ nhà, và kẻ đã bắt cóc vợ ông chủ đáng kính lại chính là kẻ đã xô xát với chàng từ khi ở lữ quán Chủ cối xay gió.

Athos, sau khi nếm thử rượu vang với tư cách người sành rượu, gật gù tỏ ý rượu ngon, liền nói:

- Vụ việc của cậu không tồi, và ta có thể rút ra ở con người nghĩa khí kia năm sáu chục đồng vàng. Giờ đây, tính xem liệu năm mươi đến sáu mươi đồng vàng có bõ liều bốn cái đầu không.

- Nhưng hãy chú ý - D' Artagnan kêu lên - có một người đàn bà trong vụ việc này đấy, một người đàn bà bị bắt cóc, một người đàn bà chắc chắn bị hăm dọa, có lẽ còn bị tra khảo nữa, và tất cả chỉ vì nàng trung thành với nữ chủ nhân của mình!

- Coi chừng, D' Artagnan, coi chừng đấy - Aramis nói - Theo ý tôi, cậu hơi bốc quá về số phận của bà Bonacieux đấy. Đàn bà được sinh ra là để chúng ta mất mát và chính vì họ mà mọi nỗi khốn khổ đến với chúng ta.

Athos chau mày và cắn môi trước câu châm ngôn của Aramis.

- Không phải tôi lo lắng cho bà Bonacieux đâu - D' Artagnan nói to - mà là Hoàng hậu, người bị Nhà Vua bỏ rơi, bị Giáo chủ ngược đãi, và đang nhìn thấy những cái đầu của tất cả bạn bè mình đang rơi, cái nọ tiếp cái kia.

- Nhưng tại sao bà lại đi yêu cái mà chúng ta ghét nhất trên đời bọn Tây Ban Nha và bọn Anh?

- Tây Ban Nha là tổ quốc bà - D' Artagnan trả lời - và việc bà yêu những người Tây Ban Nha là những đứa con của cùng xứ sở với bà là hoàn toàn dễ hiểu. Còn về điều thứ hai anh trách bà, tôi nghe nói bà không yêu bọn Anh mà là một người Anh.

- Thật tình - Athos nói - phải thú nhận cái người Anh đó quả rất đáng yêu. Tôi chưa thấy người nào dáng bộ cao quý như thế.

- Chưa kể cách ăn mặc hoàn hảo không ai có được - Porthos nói - Tôi đã có mặt ở điện Louvre, hôm ông ta vung vãi ngọc, mẹ kiếp, tôi đã nhặt được hai viên và bán phéng đi lấy mười đồng tiền vàng. Còn Aramis, cậu biết ông ta chứ?

- Cũng kha khá như các vị, bởi tôi là những người đã chặn ông ta lại ở khu vườn Amiêng, nơi ông De Puytăng, giám mã của Hoàng hậu đã dẫn tôi vào. Thời kỳ đó tôi đang ở tu viện và chuyện phiêu lưu này đối với tôi là tàn nhẫn đối với Nhà Vua.

- Nếu như tôi biết Công tước De Buckingham ở đâu - D' Artagnan nói - điều đó sẽ không ngăn tôi dắt tay ông dẫn đến bên Hoàng hậu, cho dù việc đó có làm cho Giáo chủ hóa điên.

Bởi vì kẻ thù thực sự duy nhất và vĩnh viễn của chúng ta chính là Giáo chủ và nếu như chúng ta có thể tìm cách chơi lại ông ta một quả thật tàn bạo, tôi thú thật tôi xin tình nguyện hiến cái đầu mình.

Athos nói tiếp:

- Và, ông hàng xén nói với cậu là Hoàng hậu nghĩ rằng người ta đã dụ ông Buckingham đến dựa trên những tin tức giả mạo, phải không D' Artagnan?

- Bà sợ là như vậy.

- Khoan đã - Aramis nói.

- Chuyện gì? - Porthos hỏi.

- Thôi được, cứ nói tiếp đi, tôi đang tìm cách nhớ lại những tình huống đã xảy ra - Aramis nói.

- Và giờ thì tôi tin chắc - D' Artagnan nói - việc bắt cóc người đàn bà của Hoàng hậu gắn chặt với những biến cố mà chúng ta nói và có thể là với sự có mặt của ông De Buckingham ở Paris.

Cái tay Gascogne này, ý kiến phong phú gớm! - Porthos nói bằng vẻ ngưỡng mộ.

- Tôi thích nghe cậu ta nói - Athos nói - cái giọng địa phương của cậu ta khiến tôi thích nghe.

- Thưa các vị - Aramis nói tiếp - xin nghe chuyện này.

- Nghe Aramis nói nào - Cả ba cùng nói.

- Hôm qua, tôi có mặt ở nhà một nhà bác bọc, tiến sĩ thần học mà đôi khi tôi vẫn đến nhờ tham vấn cho những nghiên cứu của tôi.

Athos mỉm cười. Aramis tiếp tục:

- Ông cư trú ở một khu phố vắng vẻ. Những sở thích và nghề nghiệp của ông đòi hỏi như vậy. Lúc tôi ra khỏi nhà ông…

Đến đây, Aramis dừng lại.

- Rồi thế nào? - Những người nghe hỏi - Vào lúc anh ra khỏi nhà ông ta?

Aramis hình như phải cố gắng vượt lên bản thân, như một người đang thao thao nói dối thấy mình bị chặn lại bằng một chướng ngại bất ngờ, nhưng mắt các đồng đội đang chăm chăm nhìn mình, tai họ dỏng lên chờ đợi, khiến chàng không có cách nào lùi nữa.

- Ông tiến sĩ ấy có một cháu gái - Aramis tiếp tục.

- A, ông ta có một cháu gái! - Porthos ngắt lời.

- Một phu nhân rất đáng trọng - Aramis nói.

Cả ba người bạn phá lên cười.

- A, nếu các cậu cười hoặc nếu các cậu nghi ngờ - Aramis lại tiếp các cậu sẽ không biết gì hết.

Athos nói:

- Bọn mình tin như những tín đồ Mohamét và câm như những nơi quàn linh cữu ấy chứ…

- Vậy tôi tiếp tục nhé. Người cháu gái thỉnh thoảng đến thăm chú mình. Hôm qua, tình cờ cô ta có mặt ở đó cùng lúc với tôi. Tôi buộc phải ngỏ ý xin dẫn cô ra xe của cô.

- Chà! Cô ta có một cỗ xe, cô cháu gái ông tiến sĩ - Porthos ngắt lời, mà một trong những tật của chàng là líu lưỡi nặng - Quen biết tuyệt đấy, anh bạn ạ.

- Porthos - Aramis nói - mình đã lưu ý nhiều lần rằng cậu quá trống miệng, cái đó hại cậu khi gần đàn bà đấy.

- Các vị các vị, - D' Artagnan hé thấy cái lõi của câu chuyện ly kỳ đó - chuyện nghiêm túc đấy, hãy cố đừng đùa tếu nữa. Tiếp tục đi Aramis, tiếp tục đi.

- Chợt một người đàn ông cao lớn, da sạm nâu, cung cách quý tộc. xem nào, như loại của cậu ấy, D' Artagnan ạ.

- Có khi vẫn là hắn - chàng Gátxcông nói.

- Có thể - Aramis tiếp tục… - lại gần tôi, theo sau có năm sáu người đi cùng cách độ chục bước, và với giọng lễ phép nhất: "Thưa Công tước, - hắn nói với tôi - và thưa phu nhân nữa, - hắn tiếp tục và nói với người đàn bà đang khoác tay tôi".

- Với cháu gái của tiến sĩ?

- Im nào, Porthos! - Athos nói - cậu thật không thể chịu nổi.

"Xin lên chiếc xe này và đừng cố cưỡng lại một chút nào, và đừng kêu một tiếng nhỏ".

- Hắn tưởng anh là Buckingham - D' Artagnan kêu lên.

- Tôi tin là như thế - Aramis trả lời.

Còn người đàn bà? - Porthos hỏi.

- Hắn tưởng là Hoàng hậu! - D' Artagnan nói.

- Đúng thế - Aramis trả lời.

- Tay Gátxcông này quỷ thật! - Athos kêu lên - Không gì thoát được khỏi hắn.

- Sự thể là - Porthos nói - Aramis dáng người tầm vóc có nét gì đó hao hao giống ông công tước đẹp trai, nhưng trong khi ấy tôi thấy hình như bộ quần áo ngự lâm quân…

- Tôi mặc chiếc áo choàng khổng lồ - Aramis nói.

- Vào tháng bảy ư, ma quỷ? - Porthos nói - Ông tiến sĩ e cậu bị lộ diện ư?

- Tôi còn hiểu rằng - Athos nói - Tên do thám không để bị tóm vì thay hình đổi dạng nhưng còn cái mặt…

- Tôi che bằng cái mũ lớn - Aramis nói.

- Ối trời ơi? - Porthos kêu lên - phải phòng bị bao nhiêu thứ đến thế để nghiên cứu thần học!

- Các vị, các vị… - D' Artagnan nói - thôi chúng ta đừng mất thì giờ để đùa giỡn nữa. Chúng ta hãy phân tán ra và đi tìm vợ ông hàng xén, đó là chìa khóa của âm mưu này.

- Một người đàn bà vị trí thấp kém đến thế sao! Cậu tin vậy hở D' Artagnan? - Porthos vừa nói vừa trều môi ra khinh bỉ.

- Con gái đỡ đầu ông De la Porte, viên hầu cận thân tín của Hoàng hậu, tôi đã chẳng nói rồi sao, các vị? Vả lại, cũng có thể là một phép tính của Nương nương, lần này tìm những chỗ dựa thấp kém. Mũ cao thường bị nhìn thấy từ xa mà Giáo chủ lại tinh mắt lắm.

- Thôi được! - Porthos nói - Bây giờ ta hãy làm giá với tay hàng xén đã, và giá thật cao.

- Không cần thiết - D' Artagnan nói - bởi tôi tin nếu ông ta không trả cho chúng ta, chúng ta cũng sẽ được trả từ một nguồn khác.

- Đúng lúc đó, tiếng bước chân vội vã vang lên trên cầu thang, cánh cửa sầm mở và ông hàng xén khốn khổ lao vào trong căn phòng đang hội họp.

- Ôi các vị ông ta kêu lên - hãy cứu tôi, trời đất ơi, hãy cứu tôi? Có bốn người đang đến để bắt tôi. Cứu tôi với, cứu tôi với!

Porthos và Aramis đứng lên.

- Khoan đã! - D' Artagnan vừa nói to vừa ra hiệu hãy tra gươm vừa rút nửa chừng vào vỏ - Khoan đã, không cần lòng dũng cảm ở đây, mà là cần sự thận trọng.

- Tuy nhiên - Porthos nói - chúng ta sẽ không để…

- Anh hãy để D' Artagnan làm - Athos nói - tôi nhắc lại - cậu ấy là người khôn khéo nhất trong chúng ta và về phần tôi, tôi tuyên bố sẽ phục tùng cậu ấy - D' Artagnan, cậu hãy làm gì cậu thích.

Đúng lúc ấy, bốn lính cận vệ hiện ra ở cửa phòng đợi, và nhìn thấy bốn ngự lâm quân đang đứng, gươm đeo cạnh người, cũng ngại ngùng không dám bước thêm.

- Vào đi, các vị, các vị vào đi! - D' Artagnan gọi to - các vị ở nhà tôi đây mà, lũ chúng tôi đều là đầy tớ trung thành của nhà Vua và Giáo chủ cả.

- Vậy thưa các vị, các vị sẽ không chống lại việc chúng tôi thi hành mệnh lệnh được trao chứ? - Người có vẻ là đội trưởng hỏi.

- Trái lại, thưa các vị và nếu cần, chúng tôi sẵn sàng giúp các vị một tay đắc lực.

- Nhưng hắn nói cái gì vậy? - Porthos lẩm bẩm.

- Im nào, cậu là một thằng ngốc! - Aramis nói.

- Nhưng các ông đã hứa với tôi… - Ông hàng xén nói rất khẽ.

D' Artagnan cũng trả lời ngay rất khẽ:

- Chúng tôi chỉ có thể cứu được ông, nếu chúng tôi vẫn được tự do, và nếu tôi tỏ ý bảo vệ ông, họ sẽ bắt chúng tôi cùng với ông.

- Tuy nhiên, hình như tôi thấy…

- Lại đây, các vị, lại đây. Tôi không có lý do gì để bảo vệ ông đây Đây là lần đầu tiên tôi gặp ông ta, và chính ông ta sẽ nói với các ông, ông ta đến đòi tôi tiền thuê nhà trong trường hợp nào. Đúng thế không, thưa ông Bonacieux? Kìa ông trả lời đi!

- Hoàn toàn đúng như vậy - Ông hàng xén nói to - nhưng ông đây không nói với các ông…

- Im, đừng nói gì về tôi, về các bạn tôi, nhất là về Hoàng hậu, nếu không ông sẽ mất tất cả mọi người mà không cứu nổi mình đâu. Nào, các ông dẫn người này đi.

Nói rồi, D' Artagnan đẩy ông hàng xén đang hết sức hoang mang vào tay bọn cận vệ, vừa bảo ông:

- Ông là đồ đểu giả, ông bạn ạ, ông đến đòi tiền tôi. Đòi một ngự lâm quân như tôi ư? Vào tù? Các vị, một lần nữa xin các vị dẫn hắn vào tù. Và giam chặt, càng lâu càng tốt, như thế sẽ cho tôi thời gian để trả.

Bọn cảnh vệ rối rít cảm ơn và dẫn con mồi đi.

Lúc chúng đi xuống, D' Artagnan vỗ vai tên dội trưởng:

- Không uống để tôi chúc sức khỏe ông và ông chúc sức khỏe tôi ư? - Vừa nói chàng vừa rót đầy hai cốc vang Beaugency lấy ở ông Bonacieux hào phóng.

- Thật là quá vinh dự cho tôi - viên đội trưởng cảnh vệ nói -

- Tôi xin nhận với lòng biết ơn.

- Vậy, xin chúc ông, thưa ông - tên ông là gì nhỉ?

- Boarơna(2).

- Thưa ông Boarơna!

- Chúc ông, nhà quý tộc của tôi. Cũng xin ông vui lòng cho biết quý danh chứ?

- D' Artagnan.

- Xin chúc ông!

- Và trên hết mọi lời chúc đó - D' Artagnan ngẫu hứng hô lên - Chúc nhà Vua và Giáo chủ.

Đội trưởng cảnh vệ có lẽ đã hoài nghi sự thành thật của D' Artagnan nếu rượu vang tồi, nhưng vang lại ngon, nên hắn tin.

Khi tên đội trưởng đã theo kịp đồng đội và chỉ còn bốn người bạn với nhau, Porthos nói:

- Cậu vừa làm cái chuyện tồi tệ quỷ gì thế? Thối chưa! Bốn lính ngự lâm lại để cho chúng bắt giữ giữa chính bọn họ, một kẻ khốn khổ đang kêu cứu. Một nhà quý tộc chạm cốc với một tên sai nha!

- Porthos này! - Aramis nói - Athos đã bảo trước rằng cậu là một thằng ngố, tôi tán thành ý kiến đó. D' Artagnan, cậu là một vĩ nhân, và khi nào cậu ở địa vị ông De Treville, tôi sẽ xin cậu bảo trợ giúp tôi có được một tu viện.

- À ra thế! - Porthos nói - các cậu tán thành những gì D' Artagnan vừa làm ư? Tôi đến chết mất.

- Tán thành quá đi chứ! - Athos nói - Không những tôi tán thành, mà tôi còn khen ngợi nữa.

- Và bây giờ, các vị - D' Artagnan nói, không buồn giải thích việc xử sự của mình cho Porthos nghe - tất cả vì một người, một người vì tất cả, đó là phương châm của chúng ta, phải không?

- Tuy nhiên… - Porthos nói.

- Giơ tay ra và thề đi? - Cả Athos lẫn Aramis đồng thời hô lên.

Bị chinh phục bởi tấm gương, vẫn khẽ làu bàu, Porthos chìa bàn tay ra và cả bốn người bạn đồng thanh nhắc lại cái định thức do D' Artagnan đề xướng: "Tất cả vì một người, một người vì tất cả".

- Tốt lắm, giờ ai về nhà nấy - D' Artagnan nói như thể mình sinh ra để không làm gì khác ngoài việc suốt đời ra lệnh - và hãy coi chừng, bởi từ lúc này trở đi, chúng ta thế là đã đối đầu với Giáo chủ rồi đó.

Chú thích:
(1) Samuel - Phán quan Israel tìm Saul để tôn lên làm vua, sau gọi là David để lãnh đạo dân tộc Israel và đánh đuổi bọn Philitxtanh
(2) Bois renard (tiếng Pháp) là rừng cáo - Tác giả cố ý gây cười ở đây

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 10

Cái bẫy chuột thế kỷ 17

Không phải đến thời đại chúng ta, người ta mới sáng chế ra chiếc bẫy chuột. Ngay khi xã hội được hình thành, và phát minh ra một bộ máy cảnh sát nào đó, bộ máy cảnh sát đó đã chế ra những bẫy chuột.

Có thể các bạn đọc chưa quen với tiếng lóng của phố Jerujalem(1) và từ khi chúng tôi làm nghề viết, kể ra đã đến mười lăm năm rồi, đây là lần đầu tiên chúng tôi dùng từ ấy với cái nghĩa đó, vậy chúng ta hãy giải thích cho độc giả thế nào là một cái bẫy chuột.

Khi trong một ngôi nhà, dù nó thế nào, người ta đã bắt giữ một người bị tình nghi mác một tội nào đó, người ta giữ kín việc bắt giữ. Người ta bố trí bốn năm người phục kích trong căn phòng đầu, người ta mở cho tất cả những ai gõ cửa, rồi đóng sập lại sau lưng họ rồi bắt giữ theo cung cách đó. Khoảng vài ba ngày, người ta giữ hầu như tất cả những người thân của ngôi nhà.

Cái bẫy chuột nó là như thế. Vậy là, người ta đặt một cái bẫy chuột ở ngôi nhà ông Bonacieux. Và ai xuất hiện ở đây liền bị giữ và bị người của Giáo chủ thẩm vấn. Nhưng có một lối đi riêng dẫn lên tầng một nơi D' Artagnan cư trú, những ai đi lên nhà chàng đều được miễn trừ. Hơn nữa, chỉ có ba chàng ngự lâm đến đó. Họ đã chia nhau đi điều tra, mỗi người một ngả, mà chẳng thấy gì, chẳng phát hiện ra điều gì. Athos tới mức còn hỏi cả ông De Treville, điều đó làm ông đại úy rất đỗi ngạc nhiên vì ông quen thấy bản tính câm lặng thường ngày của chàng ngự lâm chững chạc này.

Nhưng ông chẳng biết gì hết, trừ lần gần đây nhất ông gặp cả Giáo chủ, nhà Vua và Hoàng hậu, Giáo chủ có vẻ rất lo lắng, nhà Vua thì bồn chồn, và Hoàng hậu hai mắt đỏ lên, tỏ ra bà đã thức đêm hoặc đã khóc. Nhưng tình tiết này không làm ông quan tâm vì từ sau khi cưới, Hoàng hậu vẫn thức và khóc nhiều.

Dẫu sao, ông De Treville cũng dặn dò Athos phải phụng sự nhà Vua nhất là Hoàng hậu và yêu cầu chàng nhắc nhở các bạn mình như vậy.

- Còn D' Artagnan, chàng ở im tại nhà mình, biến căn phòng của mình thành một trạm quan sát. Từ cửa sổ, chàng nhìn thấy những người đi đến để bị bắt. Rồi cậy gạch lát sàn nhà, khoét bớt ván để chỉ còn lại một lớp trần mỏng ngăn cách phòng phía dưới nơi tiến hành các cuộc thẩm vấn, chàng nghe thấy hết những gì đang diễn ra giữa người hỏi cung và bị cáo.

Những cuộc thẩm vấn tiếp nối sự khám xét tỉ mỉ người bị bắt giữ luôn là mấy câu sau:

- Bà Bonacieux có nhờ ông chuyển cho chồng bà hoặc một người nào khác cái gì không?

- Ông Bonacieux có nhờ ông chuyển cho bà ấy hoặc cho một người nào khác cái gì không?

- Một người này hay người khác có buột miệng nói với ông chuyện gì không?

D' Artagnan tự nhủ: "Nếu bọn chúng biết được điều gì đó rồi thì chúng sẽ không hỏi như thế. Giờ đây chúng muốn tìm hiểu điều gì nào? Muốn biết liệu có phải Công tước De Buckingham không hề có mặt ở Paris và đã không diễn ra hoặc chưa hề có dự định diễn ra một cuộc hội kiến giữa ông với Hoàng hậu không?".

D' Artagnan dừng lại trước ý nghĩ đó, vì sau tất cả những gì chàng nghe được, không phải không có khả năng xảy ra những điều đó. Trong khi chờ đợi, cái bẫy chuột không ngừng hoạt động và tinh thần cảnh giác của chàng cũng vậy.

Buổi tối sau hôm ông Bonacieux tội nghiệp bị bắt giữ, lúc Athos vừa chia tay D' Artagnan để tới nhà ông De Treville, thì cũng là lúc đồng hồ điểm chín giờ, và vì Planchet còn chưa dọn giường ngủ nên bắt đầu công việc của mình, người ta nghe tiếng gõ của ở ngoài phố. Cửa mở ra ngay rồi lại đóng lại: một kẻ nào đó vừa bị rơi vào bẫy chuột.

D' Artagnan lao ngay về phía gạch cậy, nằm áp bụng xuống lắng nghe.

- Lát sau, tiếng kêu thét vang lên rồi đến tiếng rên rỉ mà người ta tìm cách bịt lại. Không phải chúyện thẩm vấn.

- Mẹ kiếp! - D' Artagnan tự nhủ - ta thấy hình như là một phụ nữ, chúng lục soát và người này cưỡng lại - chúng cưỡng bức, quân khốn nạn!

Và D' Artagnan mặc dầu thận trọng, vẫn phải cố kiềm chế để không xen vào cảnh đang diễn ra ngay phía dưới chàng.

Người đàn bà bất hạnh kêu lên:

- Nhưng tôi đã nói với các ông tôi là chủ nhân của ngôi nhà này. Tôi đã bảo các ông tôi là bà Bonacieux. Tôi đã bảo tôi là người của Hoàng hậu?

- Bà Bonacieux? - D' Artagnan thầm thì - chả nhẽ ta lại may mắn đến mức đã tìm thấy người mà mọi người đang tìm?

- Thì chính là chúng ta đang đợi bà - Bọn thẩm vấn nhắc lại.

Tiếng nói mỗi lúc một trở nên ngột nghẹt: một tiếng động ầm ầm làm rung chuyển những ván gỗ lát tường. Người đàn bà chống cự ngang sức một người đàn bà có thể chống nổi bốn người đàn ông.

- Xin lỗi các ông, xin… - giọng nói thầm thì chỉ còn nghe được những âm thanh rời rạc.

- Chúng nhét giẻ vào mồm. Chúng sắp lôi đi - D' Artagnan vừa kêu lên vừa bật dậy như một chiếc lò xo. - Gươm ta đâu.

- Tốt, nó ngay cạnh ta. Planchet đâu?

- Ông gọi ạ?

- Chạy ngay đi tìm Athos, Porthos và Aramis. Một trong ba người chắc đang ở nhà, có thể cả ba sẽ về. Bảo họ mang theo vũ khí, họ đến ngay, bảo họ chạy tới. À, ta nhớ ra rồi, Athos đang ở nhà ông De Treville.

- Nhưng ông đi đâu, ông chủ, ông đi dâu?

- Ta xuống theo lối cửa sổ, để đến được sớm. Còn mày xếp lại những viên gạch, quét sàn nhà đi, rồi ra theo lối cửa và chạy đến nơi ta đã bảo.

Planchet kêu lên:

- Ôi, ông ơi là ông ơi? Ông tự giết mình mất.

- Câm đi, đồ ngu.

Rồi bám tay vào bờ cửa sổ, chàng thả người từ tầng gác một xuống, cũng may không cao lắm, không bị sây sát gì.

Rồi chàng tới gõ cửa, miệng lẩm bẩm:

- Đến lượt ta sắp sa vào bẫy chuột đây, và khốn nạn cho những con mèo cọ sát với loại chuột này.

Cái búa gõ cửa trong tay chàng trai trẻ vừa đập cộc cộc vào cánh cửa thì tiếng ầm ầm bên trong cũng dừng lại, những bước chân lại gần, cửa mở và D' Artagnan, gươm tuốt trần lao thẳng vào ngôi nhà ông Bonacieux, mà cánh cửa, chắc hẳn chuyển động bằng lò xo tự đóng lại sau chàng.

Thế là, những người còn cư trú trong ngôi nhà bất hạnh của ông Bonacieux, và những người láng giềng gần đấy nhất liền nghe thấy tiếng kêu lớn, tiếng chân rậm rịch, tiếng gươm va chạm và tiếng đồ gỗ đổ gãy kéo dài. Rồi một lúc sau, một số người kinh ngạc vì tiếng ầm ầm đó, đến bên cửa sổ để biết nguyên nhân, liền thấy cửa lại tự mở ra và bốn người mặc đồ đen, không phải đi ra mà là bay ra như lũ quạ hoảng loạn, để rơi trên đất và các góc bàn, những lông cánh của chúng, nghĩa là tơi tả những mảnh áo và những mảnh áo choàng.

- Phải nói rằng, D' Artagnan chiến thắng không mấy khó khăn bởi chỉ có mỗi tên đội trưởng cảnh vệ mang vũ khí, còn chống cự lấy lệ. Đúng là ba tên kia đã định phang chết chàng trai trẻ bằng những chiếc ghế, ghế đẩu, và chai lọ gốm sứ, nhưng hai hay ba nhát đâm bằng thanh gươm dài của chàng Gátxcông khiến chúng hoảng sợ. Mười phút đã đủ làm chúng thất bại, và D' Artagnan giữ thế chủ chiến trường.

Những người láng giềng đã mở cửa sổ với sự bình tĩnh đặc biệt của dân Paris trong thời buổi những cuộc nổi dậy và loạn đả không ngừng, lại đóng cửa lại ngay khi trông thấy bốn người mặc đồ đen chạy trốn. Linh tính bảo họ rằng lúc này mọi cái đã kết thúc.

D' Artagnan, còn lại mỗi mình với bà Bonacieux, quay lại phía người đàn bà. Người đàn bà tội nghiệp bị lộn nhào trên một cái ghế bành và nửa tỉnh nửa mê. D' Artagnan đưa mắt nhanh quan sát người đàn bà.

Đó là một người đàn bà duyên dáng chừng hai nhăm hai sáu tuổi tóc nâu, mắt xanh, mũi hơi hếch, răng tuyệt đẹp, nước da như hồng thạch và mã não. Tuy nhiên, những nét vẻ có thể làm người đàn bà này lẫn với một phu nhân quyền quý, đã dừng ở đó, đôi bàn tay trắng nhưng không thanh tú. Đôi chân cũng không phải của một phụ nữ danh giá. May thay, D' Artagnan còn chưa quan tâm những chi tiết này.

Trong lúc D' Artagnan đang ngắm nghía bà Bonacieux, và tới đôi chân như đã nói, chàng thấy dưới đất một chiếc khăn tay bằng vải lanh, theo thói quen, nhặt lên, ở góc khăn, chàng nhận ra vẫn cái ký tự chàng nhìn thấy ở chiếc khăn suýt làm chàng đứt họng với Aramis.

Từ khi ấy, dè chừng những chiếc khăn tay thêu gia huy, chẳng nói chẳng rằng, chàng lại nhét chiếc khăn đã nhặt vào túi bà Bonacieux.

Nhưng vào lúc đó, bà Bonacieux cũng đã tỉnh lại. Người đàn bà mở mắt, nhìn xung quanh với vẻ kinh hoàng, thấy ngôi nhà trơng không và chỉ có mỗi mình mình với người giải phóng mình. Người đàn bà mỉm cười nắm lấy tay chàng, mà lại là nụ cười duyên dáng nhất trên đời.

- Ôi, thưa ông! - Nàng nói - chính ông là người đã cứu tôi, cho phép tôi cảm ơn ông.

- Thưa bà, - D' Artagnan nói - tôi chỉ làm điều mọi nhà quý tộc ở địa vị tôi đều phải làm, bà không cần phải cảm ơn tôi đâu.

- Có chứ, thưa ông, và tôi hy vọng chứng tỏ với ông rằng, ông đã không làm phúc cho một kẻ vô ơn đâu. Nhưng vậy chứ cái lũ người mà thoạt tiên tôi cho là lũ trộm cắp đó muốn gì ở tôi, và tại sao ông Bonacieux lại không hề ở đây.

- Thưa bà, lũ người đó nguy hiểm hơn lũ trộm cắp nhiều, bở đó là những nhân viên của Giáo chủ, còn như chồng bà, ông ấy không có ở đây vì hôm qua, bọn chúng đã tới đây bắt ông ấy đưa vào ngục Bastille.

- Chồng tôi ở ngục Bastille ư? - Bà Bonacieux kêu lên? - Ôi, lạy Chúa! Ông ấy đã làm gì nên nông nỗi ấy? Người chồng yêu quý khốn khổ của tôi ơi! Ông ấy, nào có dính dáng gì?

Và một cái gì đó giống như một nụ cười ló ra trên mặt vẫn còn đầy nỗi kinh hoàng của người thiếu phụ.

- Ông ấy làm gì ư, thưa bà? - D' Artagnan nói - Tôi tin rằng cái tội duy nhất của ông ấy là vừa có được niềm hạnh phúc vừa mang nỗi bất hạnh được làm chồng bà.

- Nhưng thưa ông, vậy ông biết…

- Tôi biết bà đã bị bắt cóc, thưa bà.

- Và bởi ai? Ông biết kẻ đó không? Ôi, nếu như ông biết hắn, ông hãy nói cho tôi hay!

- Bởi một người đàn ông khoảng bốn mươi, bốn nhăm tuổi, nước da sạm, một vết sẹo ở thái dương bên trái.

- Đúng thế, đúng thế, nhưng còn tên hắn?

- Ồ tên hắn ư? Lại là điều tôi không biết.

- Và chồng tôi có biết tôi bị bắt cóc không?

- Ông ấy được gửi thư báo trước do chính kẻ bắt cóc viết.

- Và ông ấy có nghi ngờ - bà Bonacieux bối rối hỏi. - Nguyên nhân của sự cố này không?

- Tôi tin là ông ấy quy cho một nguyên nhân chính trị.

- Lúc đầu tôi cũng đã nghĩ và bây giờ tôi cũng nghĩ như ông ấy. Nhưng vậy là cái ông Bonacieux quý mến không nghi ngờ tôi giây phút nào…

- Ồ, thưa bà, còn lâu mới có chuyện đó, ông ấy quá tự hào về sự nết na của bà và nhất là về tình yêu của bà.

Một nụ cười thứ hai hầu như khó nhận ra lướt trên đôi môi hồng của người thiếu phụ xinh đẹp.

- Nhưng - D' Artagnan tiếp tục - bà làm thế nào trốn thoát?

- Tôi lợi dụng lúc họ để mặc một mình tôi, và vì tôi biết ngay từ sáng hôm ấy tôi bị bắt đi như thế nào, nhờ mấy tấm thảm che, tôi tụt xuống theo lối cửa sổ, vì tưởng chồng tôi vẫn ở đây thế là tôi chạy đến.

- Để ông ấy bảo vệ bà?

- Ồ, không, ông chồng yêu quý tội nghiệp của tôi, tôi biết thừa, ông ấy không có khả năng bảo vệ tôi. Nhưng vì ông ấy có thể giúp chúng tôi việc khác, tôi muốn báo cho ông ấy đề phòng.

- Về việc gì?

- Ồ! Đây không phải là bí mật của tôi. Vì vậy tôi không thể nói cho ông hay được.

- Vả chăng, - D' Artagnan nói - xin bà thứ lỗi, nếu dù tôi chỉ là một lính cận vệ, tôi vẫn cứ phải nhắc bà thận trọng, vả chăng, tôi tin ở đây không phải nơi thuận lợi để chúng ta thổ lộ những điều bí mật. Những kẻ bị tôi đánh cho phải chạy trốn sẽ trở lại với lực lượng tăng cường. Nếu chúng tìm thấy chúng ta ở đây thì chúng ta đi đời. Tôi đã cẩn thận cho báo để ba người bạn tôi biết, nhưng ai biết được liệu có tìm thấy họ ở nhà không!

- Vâng, vâng, ông có lý - Bà Bonacieux kêu lên sợ hãi - Ta trốn đi thôi.

Nói rồi, bà ta khoác tay D' Artagnan lôi chàng sồng sộc đi.

- Nhưng trốn ở đâu? - D' Artagnan hỏi.

- Trước hết hãy rời khỏi ngôi nhà này, rồi ta tính sau.

Rồi thiếu phụ cùng chàng trai trẻ chẳng buồn đóng cửa nữa.

Nhanh chóng xuống phố Phu đào huyệt rồi sang phố Hố Ông Hoàng, và chỉ dừng lại ở quảng trường Saint-Sulpice.

- Và bây giờ, chúng ta làm gì đây - D' Artagnan hỏi - và bà muốn tôi đưa bà đến chỗ nào?

- Tôi xin thú thật tôi đang rất bối tối không biết trả lời ra sao. Ý định của tôi là nhờ chồng tôi báo cho ông De la Porte biết, cốt để ông De la Porte có thể nói rõ cho chúng tôi điều gì đã xảy ra ở điện Louvre ba ngày hôm nay, và liệu có gì nguy hiểm cho tôi, nếu tôi lại có mặt ở đó không.

- Nhưng tôi - D' Artagnan nói - tôi có thể đi báo cho ông De la Porte.

- Hẳn rồi, chỉ có điều không may là ở Louvre người ta biết ông Bonacieux và sẽ để ông ta đi vào, còn ông, họ không biết và họ sẽ đóng cửa lại với ông.

- Ờ, khỉ thật? - D' Artagnan nói - Bà hẳn có một gác cổng thân tín ở một trạm nào đó ở điện Louvre và nhờ một khẩu lệnh…

Bà Bonacieux nhìn chăm chú chàng trai trẻ rồi nói:

- Và nếu tôi cho ông khẩu lệnh đó, ông sẽ quên ngay nó đi tức khắc khi sử dụng xong chứ?

- Xin thề danh dự, lời thề của nhà quý tộc? - D' Artagnan nói bằng một giọng chân thực không thể nhầm lẫn được.

- Được tôi tin ông, ông có vẻ một chàng trai trọng danh dự, vả chăng số phận ông có lẽ ở ngay trên sự tận tụy của ông.

- Tôi sẽ làm, không cần hứa hẹn gì, và hoàn toàn vì lương tâm, bất cứ điều gì tôi có thể làm để phục vụ nhà Vua và làm cho Hoàng hậu vui lòng - D' Artagnan nói - vì thế hãy sử dụng tôi như một người bạn.

- Nhưng còn tôi, ông định để tôi ở đâu trong thời gian này?

- Bà không có ai để ông De la Porte đến đó đón bà được sao?

- Không, tôi không muốn tin ai cả.

- Xem nào, - D' Artagnan nói - chúng ta sẽ đến nhà anh Athos. Phải, đúng thế.

- Athos là ai vậy?

- Một trong những người bạn của tôi.

- Nhưng nhỡ ông ta có nhà và nhìn thấy tôi?

- Anh ấy không có nhà, và tôi sẽ mang chìa khóa đi sau khi đưa bà vào nhà anh ấy.

- Nhưng nhỡ ông ấy về?

- Anh ấy không về đâu, vả lại, người ta sẽ bảo anh ấy là tôi đem theo một người đàn bà và người đàn bà ấy đang ở nhà anh.

- Nhưng như thế sẽ làm tôi mang tiếng lắm, ông hiểu chứ.

- Không sao đâu! Người ta không biết bà. Vả lại, chúng ta đang trong một tình thế cần phải bỏ qua những sự bất tiện.

- Vậy thì đến nhà bạn ông. Ông ấy ở đâu?

- Phố Fréjus, cách đây ít bước chân thôi.

- Đi thôi.

Vậy cả hai lại tiếp tục đi. Đúng như D' Artagnan đã đoán, Athos không có nhà. Chàng cầm lấy chìa khóa mà người ta đã quen đưa cho chàng như một người bạn của gia đình, rồi trèo lên cầu thang, dẫn bà Bonacieux vào trong căn phòng nhỏ mà chúng ta đã miêu tả.

D' Artagnan nói:

- Bà coi như mình đang ở nhà mình. Xem nào, bà khóa hai lần cửa lại và đừng mở cho ai, trừ phi nghe thấy ba tiếng như thế này, bà xem đây.

- Và chàng gõ ba cái, hai cái đầu gõ mạnh và liền nhau, cái thứ ba, gõ nhẹ và cách hẳn ra.

- Tốt lắm - bà Bonacieux nói - giờ đến lượt tôi dặn dò ông.

- Tôi nghe đây.

- Ông hãy đến trạm gác cung điện phía đường phố Cái thang và hỏi ai là Germain.

- Được, sau đó?

- Người ta sẽ hỏi ông muốn gì và lúc đó ông sẽ trả lời bằng hai tiếng: "Tours và Bruxelles"(2). Lập tức người ấy sẽ nghe lệnh ông.

- Tôi sẽ ra lệnh gì cho người này?

- Đi tìm ông De la Porte, người hầu phòng của Hoàng hậu.

- Và khi người ấy đã tìm được và ông De la Porte đến?

- Ông đưa ông ấy đến gặp tôi.

- Tốt lắm, nhưng tôi gặp lại bà như thế nào, ở đâu?

- Ông có mong gặp lại tôi lắm không?

- Chắc chắn rồi.

- Vậy, cứ để tôi lo chuyện đó và xin ông yên tâm.

- Tôi tin lời hứa của bà đấy.

- Ông hãy tin đi.

D' Artagnan chào bà Bonacieux, và đưa cặp mắt tình tứ nhất mà chàng có thể chăm chăm nhìn vào người đàn bà nhỏ bé quyến rũ kia, và trong khi bước xuống cầu thang, chàng nghe thấy tiếng khóa trái cửa hai lần. Và vèo một cái, chàng đã ở điện Louvre, và khi vào cửa lối phố Cái thang, đồng hồ điểm mười giờ.

Tất cả những sự biến mà chúng ta vừa kể nối tiếp nhau trong nửa giờ.

Mọi việc đều được thực hiện như bà Bonacieux đã dặn trước.

Nhận được khẩu lệnh, Germain cúi chào. Mười phút sau, ông De la Porte đã ở trạm gác. D' Artagnan kể vắn tắt cho ông mọi chuyện và chỉ cho ông nơi bà Bonacieux đang ở. La Porte hỏi đi hỏi lại địa chỉ cho thật chính xác rồi vội đi ngay. Song được mươi bước ông quay lại nói với D' Artagnan:

- Anh bạn trẻ, có một lời khuyên đây.

- Thế nào ạ?

- Anh có thể bị rầy rà với việc vừa xảy ra đấy.

- Ông tin thế à?

- Phải. Anh có một người bạn nào có đồng hồ chạy chậm không?

- Thì sao.

- Hãy đến gặp người ấy để anh ta có thể làm chứng anh ở nhà anh ta lúc chín giờ rưỡi - Trong công lý người ta gọi đó là ngoại phạm.

D' Artagnan thấy lời khuyên thật khôn ngoan. Chàng ba chân bốn cẳng chạy đến dinh quán ông De Treville, nhưng đáng lẽ vào phòng khách cùng tất cả mọi người, chàng yêu cầu vào trong tư phòng của ông, vì D' Artagnan là một trong những người năng lui tới dinh quán, người ta không gây khó dễ gì, đi báo ngay cho ông Treville là người đồng hương trẻ của ông có chuyện gì quan trọng muốn nói với ông, xin được yết kiến bất thường. Năm phút sau, ông Treville hỏi chàng ông có thể giúp việc gì cho chàng và làm sao đến nỗi phải đến thăm ông vào giờ giấc quá muộn như thế này.

D' Artagnan lợi dụng lúc chỉ còn lại một mình đã vặn chậm đồng hồ lại bốn nhăm phút. Chàng nói:

- Thưa ông, xin ông thứ lỗi? Tôi nghĩ là mới có chín giờ hai nhăm phút, thì vẫn còn giờ để xin được gặp ông.

- Chín giờ hai nhăm phút! - Ông Treville kêu lên và nhìn đồng hồ - Ồ, không thể như thế được.

- Thưa ông, ông cứ nhìn xem. Đồng hồ chỉ rõ đấy thôi.

- Đúng vậy - Ông De Treville nói - ta cứ ngỡ muộn hơn cơ. Mà thôi, anh muốn gì ở ta nào?

Thế là, D' Artagnan liền kể cho ông De Treville một câu chuyện dài về Hoàng hậu. Chàng bày tỏ những lo ngại của mình cho Hoàng hậu. Chàng kể cho ông nghe những điều chàng nghe nói về dự định của Giáo chủ đối với ông Buckingham, tất cả được kể một cách bình tĩnh và thẳng thắn, khiến ông De Treville càng nhận thấy một điều gì mới lạ giữa Giáo chủ, nhà Vua và Hoàng hậu bao nhiêu, càng bị mắc lừa thêm bấy nhiêu.

Lúc đồng hồ điểm mười giờ, D' Artagnan cáo biệt ông De Treville. Ông cám ơn chàng về những tin tức của chàng, dặn dò chàng phải luôn lưu tâm phục vụ nhà Vua và Hoàng hậu, rồi ông trở về phòng khách. Nhưng tới chân cầu thang, D' Artagnan sực nhớ mình quên cái gậy ngoại phạm. Vì vậy chàng vội đi lên, vào tư phòng, bằng một vòng ngón tay chỉnh lại đồng hồ cho đúng giờ để hôm sau người ta không nhận thấy đồng hồ đã bị vặn sai, và chắc chắn, từ lúc này, chàng đã có một chứng cớ ngoại phạm, chàng đi xuống cầu thang, lúc sau đã ở ngoài phố.

Chú thích:
(1) Phố nơi tổng nha cảnh sát Pháp đóng
(2) Tours: Thủ đô cũ của xứ Touraine nước Pháp - thị xã của quận Indre et Loire ngày nay.
(3)Bruxelles: thủ đô nước Bỉ.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 11

Âm mưu bị kẹt

Thăm ông Treville xong, D' Artagnan hết sức nghĩ ngợi, đi theo lối dài nhất để trở về nhà.

D' Artagnan nghĩ đến điều gì, mà lại tránh xa đường chính, nhìn sao trên trời lúc thở dài, lúc cười tủm?

Chàng nghĩ đến bà Bonacieux. Đối với một ngự lâm quân tập sự thì người đàn bà trẻ này hầu như là một người tình lý tưởng.

Xinh đẹp, bí ẩn được khai tâm trước hầu hết các bí mật của triều đình, những bí mật ấy lại phản chiếu lên những nét duyên dáng của nàng không ít vẻ uy nghiêm mê hoặc, nàng bị ngờ là không đến nỗi vô tình, đó lại là nét hấp dẫn không thể cưỡng nổi đối với những kẻ si tình mới vào nghề. Hơn nữa D' Artagnan đã giải thoát nàng từ những bàn tay quỷ dữ muốn lục soát và ngược đãi nàng, và công lao quan trọng ấy đã thiết lập giữa nàng và chàng một thứ tình cảm biết ơn mang một tính cách trìu mến nhiều hơn là ái tình.

Biết bao những ước mơ đẹp lướt nhanh trên đôi cánh của trí tưởng tượng và D' Artagnan như đã thấy một sứ giả của người đàn bà trẻ đến sát bên chàng, trao cho chàng một thư ngắn hẹn hò nào đó, một chuỗi hạt vàng hoặc một viên kim cương. Chúng ta đã nói những kỵ sỹ trẻ nhận tặng vật của nhà Vua, họ không hề xấu hổ. Ta hãy thêm rằng ở thời buổi đạo lý dễ dãi này, bọn mình cũng chẳng liêm sỉ gì hơn đối với những tình nhân của họ, và những người đàn bà này lại hầu như luôn để lại cho họ những kỷ vật quý và lâu bền, như thể các nàng cố chinh phục sự mong manh trong tình cảm của họ bằng sự bền vững của các món quà.

Họ mở đường cho mình bằng đàn bà như thế không hề xấu hổ. Những người đàn bà chỉ đẹp thôi thì cho sắc đẹp và từ đó chắc hẳn đã hình thành câu ngạn ngữ, cô gái đẹp nhất trên đời chỉ có thể cho cái cô ta có. Những cô gái giàu có ngoài ra còn cho phần tiền bạc của họ. Người ta có thể kể ra không ít anh hùng ở tuổi phong tình không thể nào trước tiên là thắng nổi chiếc đinh thúc ngựa, tiếp đó là thắng trận, nếu không có túi tiền ít nhiều xủng xoẻng mà các tình nương móc vào yên ngựa của họ.

D' Artagnan chẳng có gì. Tính ngại ngùng của chàng tỉnh lẻ, nước sơn hời hợt, bông hoa phù du, lông tơ trái đào đã thăng hoa theo ngọn gió những lời khuyên không mấy chính đạo của mấy chàng ngự lâm pháo thủ. Theo những thói tục lạ lùng của thời đại, D' Artagnan coi mình ở Paris cũng như trong trận mạc và chẳng hơn chẳng kém gì như ở Flandre(1). Kia là Tây Ban Nha, đây là đàn bà. Đâu đâu cũng có một kẻ thù phải đánh, những đóng góp phải thúc.

Nhưng lúc này, D' Artagnan bị một tình cảm cao quý hơn và không vụ lợi hơn điều khiển. Ông hàng xén, đã bảo chàng rằng ông ta giàu. Chàng trai trẻ có thể đoán ra với một gã ngốc nghếch như ông Bonacieux, ắt người vợ sẽ tay hòm chìa khóa.

Nhưng tất cả những điều đó không hề ảnh hưởng gì đến tình cảm nảy sinh từ khi nhìn thấy bà Bonacieux, và mối lợi là điều gần như còn xa lạ với sự chớm nở tình yêu là tình cảm tiếp theo.

Nói gần như, bởi ý nghĩ về một người đàn bà trẻ, đẹp, duyên dáng tinh tế và đồng thời giầu nữa, không hề gạt bỏ đi sự chớm nở tình yêu đó, và hoàn toàn trái lại còn củng cố mối tình đó.

Trong cuộc sống phong lưu, có hàng đống sự chăm chút và thói quý tộc trái khoáy làm vừa lòng sắc đẹp. Một đôi tất mịn màng trắng muốt, một chiếc giầy xinh xắn ở dưới chân, một dải băng mới tinh ở trên đầu không làm cho người đàn bà xấu thành xinh đẹp, nhưng lại làm đẹp một người đàn bà xinh, không tính đến bàn tay được lợi trong mọi chuyện đó. Những bàn tay, nhất là của đàn bà, cần phải được nhàn hạ để được đẹp mãi.

Rồi D' Artagnan, như độc giả quá biết đấy, chúng ta không giấu tình trạng tài sản của chàng. Chàng không phải một nhà triệu phú dù vẫn hy vọng ngày nào đó sẽ thành như thế, nhưng thời gian chàng tự ấn định cho sự thay đổi may mắn đó khá xa.

Trong khi chờ đợi, còn thất vọng nào hơn khi thấy một người đàn bà mình yêu thèm khát hàng ngàn thứ linh tinh tạo nên hạnh phúc của đàn bà, mà mình thì lại chẳng thể cho nàng cái hàng ngàn thứ linh tinh đói ít nhất khi người đàn bà giàu có, và người tình lại không giàu, thì cái gì chàng ta không thể tặng nàng, nàng sẽ tự mình mua sắm lấy. Và dù cho thường thường thì họ được hưởng thụ niềm vui là nhờ tiền của chồng, vẫn hiếm khi họ đáp lại bằng lòng biết ơn.

D' Artagnan nhất quyết trở thành người tình dễ thương, trong khi chờ đợi, tạm là một người bạn hết lòng tận tụy. Giửa những toan tính yêu đương với vợ ông hàng xén, chàng không quên các bạn mình. Bà Bonacieux xinh đẹp, chính là loại đàn bà mà chàng có thể đưa đi dạo ở cánh đồng Saint-Denis hay trong hội chợ Saint-Germain cùng với Athos, Porthos và Aramis, và chàng sẽ kiêu hãnh giới thiệu với họ việc chinh phục này. Rồi, khi đi lâu thì cái đói tới, D' Artagnan ít lâu nay đã nhận ra điều đó. Người ta sẽ tổ chức những bữa ăn trưa nhỏ ngon lành, trong bữa, bên này chạm vào tay bạn, bên kia đụng chân tình nhân. Cuối cùng trong những lúc khẩn cấp, trong những tình huống cùng cực, D' Artagnan sẽ là cứu tinh của các bạn mình. Và ông Bonacieux mà D' Artagnan, đã lớn tiếng chối bỏ và đẩy tay bọn cảnh vệ, rồi thầm hứa sẽ cứu ông thì sao đây? Phải thú nhận là D' Artagnan không hề mảy may nghĩ tới hoặc nếu có nghĩ tới, thì cũng để tự nhủ ông ta ở đâu cũng tốt, dù là ở đâu. Tình yêu là thử ích kỷ nhất, trong mọi loại đam mê.

Tuy nhiên, bạn đọc cứ yên tâm. Nếu như D' Artagnan có quên ông chủ nhà mình hoặc làm như đã quên, viện cớ không biết ông bị dẫn đến đâu, thì chúng tôi lại không quên ông và biết hiện ông ta đang ở đâu. Nhưng lúc này ta hãy cứ làm cho chàng Gátxcông si tình đã. Còn như ông hàng xén tử tế kia, chúng ta sẽ trở lại với ông sau.

D' Artagnan cứ vừa nghĩ đến những chuyện tình ái tương lai, vừa nói với đêm tối, vừa cười tủm với các vì sao, ngược lên phố Tìm trưa hay như bấy giờ người ta gọi là phố Săn trưa.

Nhân qua phố của Aramis, chàng chợt nảy ra ý nghĩ đến thăm bạn để giải thích lý do sai Planchet mời anh ta đến ngay cái bẫy chuột. Nếu Aramis ở nhà khi Planchet đến, chắc hẳn anh ta đã chạy ngay đến phố Phu đào huyệt và có lẽ chẳng thấy ai ngoài hai đồng đội kia của mình ở đó, và cả ba chắc chẳng ai hiểu thế là thế nào. Sự rắc rối ấy cần phải được giải thích, D' Artagnan nói to lên như vậy.

Rồi chàng lại nghĩ thầm đây là một dịp để chàng nói về bà Bonacieux nhỏ nhắn xinh đẹp, mà hình ảnh đang đầy ắp trong trí não chàng nếu không phải trong trái tim chàng. Không phải vì là mối tình đầu, mà đòi phải kín đáo. Mối tình đầu kèm theo một niềm vui lớn đến mức cần phải tràn ra, nếu không nó sẽ làm cho người ta chết ngạt.

Paris từ hai tiếng đồng hồ qua đã tối và bắt đầu vắng vẻ. Đồng hồ khắp vùng ngoại ô Saint-Germain điểm mười một giờ.

Trời dịu mát. D' Artagnan đi theo một phố hẻm ngày nay là nơi phố Átxát đi qua, hít thở hương thơm từ những khu vườn tươi mát sương đêm do gió đêm từ phố Vôgira thổi tới. Xa xa âm vang tiếng hát của những tay rượu trong vài quán khuất vắng ngoài đồng, tuy nhiên đã câm lặng bớt vì những cánh cửa sổ đóng kín. Ngôi nhà Aramis ở giữa phố Cátxét và phố Xécvăngđôni.

D' Artagnan vừa vượt qua phố Cátxét đã nhận ra cánh cửa nhà bạn mình. Ngôi nhà bị trùm lấp dưới bóng xum xuê cây tiêu huyền và cây ông lão hợp thành tấm thảm rộng lớn phía bên trên. Chàng chợt thấy như có một bóng người ra khỏi phố Xécvăngđôni. Cái bóng đó trùm một chiếc áo khoác, mới đầu D' Artagnan đã tưởng là một người đàn ông, nhưng vóc người nhỏ bé, dáng đi ngập ngừng, bước chân lúng túng, chàng nhận ra ngay một người đàn bà. Hơn nữa, người đàn bà này, vì không tin chắc lắm ngôi nhà mình đang tìm, lại ngước mắt lên để nhận xem, dừng lại, quay lại phía sau, rồi lại trở lại, D' Artagnan thấy khó xử. Chàng nghĩ: "Hay ta đến ngỏ lời giúp đỡ? Qua dáng đi, thấy nàng còn trẻ, có lẽ xinh đẹp nữa. Ồ, phải rồi. Nhưng một phụ nữ chạy rông các phố vào giờ này hiếm khi ra ngoài trừ phi để đi gặp người tình. Khỉ thật? Nếu mình đi phá rối những cuộc hẹn hò. Đó là một cách tồi tệ để làm quen."

Song, thiếu phụ vẫn cứ bước tới, đếm các nhà và các cửa sổ?

- Thật ra, việc đó cũng chẳng lâu la, khó khăn gì. Chỉ có ba dinh quán thuộc phố đó và hai cửa sổ đều trông ra phố, mà một là của nhà hóng mát song song với nhà hóng mát của Aramis, còn cửa sổ kia lại là của bên nhà Aramis.

D' Artagnan, trong đầu hiện ra cô cháu gái của nhà thần học tự nhủ: "Mẹ kiếp! Con bồ câu muộn này lại đi tìm nhà của bạn mình thì kỳ lạ thật. Nhưng có vẻ như thế lắm. Ôi, bạn Aramis thân mến của ta ơi, lần này thì ta muốn làm sáng tỏ mọi chuyện đây".

Và D' Artagnan cố nép mình lại nấp trong bên tối nhất của đường phố, gần một chiếc ghế đá, sát trong một hốc tường.

Người đàn bà trẻ vẫn tiếp tục tiến bước, bởi ngoài dáng đi yểu điệu làm nàng bị lộ, nàng còn vừa cất tiếng ho khẽ giọng rất thanh. D' Artagnan nghĩ tiếng ho đó là một ám hiệu.

- Tuy nhiên, hoặc người ta đã đáp trả tiếng ho bằng một ám hiệu tương đương khiến người phụ nữ đi đêm tìm kiếm phân vân, hoặc chẳng cần sự giúp đỡ của người ngoài, nàng cũng đã nhận ra mình đã tới nơi, nàng quả quyết đến gần cánh cửa sổ nhà Aramis, cong ngón gõ ba tiếng cách đều nhau.

D' Artagnan lẩm bẩm:

- Đúng là đến Aramis rồi. A, tay đạo đức giả. Ta tóm được anh đang nghiên cứu ngón thần học rồi!

Ba tiếng vừa gõ xong, chốt cửa bên trong mở ra và ánh sáng lọt ra qua ô kính cánh cửa.

Chà chà? Không gõ cửa đi, lại gõ cửa sổ. Chà! Cuộc thăm viếng đang mong đợi. Nào, cánh cửa sổ mở ra, và phu nhân sẽ trèo qua. Khá lắm!

Nhưng cánh cửa sổ vẫn đóng khiến D' Artagnan hết sức ngạc nhiên. Thêm nữa, ánh sáng vừa lóe lên một lát đã biến mất và tất cả lại tối om.

D' Artagnan nghĩ việc đó không thể kéo dài như thế và tiếp tục giương mắt nhìn và giỏng tai nghe.

Chàng có lý. Khoảng vài giây sau, hai tiếng gõ gọn vang lên từ bên trong.

Thiếu phụ ngoài đường phố đáp lại chỉ bằng một tiếng và cánh cửa sổ hé mở.

Không biết liệu D' Artagnan có hau háu nhìn và dỏng tai nghe không.

Không may thay, ánh sáng lại được chuyển sang phòng khác. Nhưng đôi mắt chàng trai trẻ đã quen với bóng đêm. Hơn nữa, mắt của người Gátxcông, như người ta cam đoan, giống như mắt mèo, có thuộc tính nhìn rõ trong đêm.

Vậy là D' Artagnan nhìn thấy thiếu phụ rút từ túi ra một vật trăng trắng rồi mở ngay ra, có hình thù một chiếc khăn tay.

Khi vật đó được mở ra, nàng chỉ vào góc khăn cho người tiếp chuyện.

Việc đó làm cho D' Artagnan nhớ đến chiếc khăn tay thấy ở dưới chân bà Bonacieux, việc này lại gợi cho chàng nhớ đến chiếc khăn tay chàng thấy dưới chân Aramis.

- Vậy chiếc khăn ấy có ý nghĩ quái quỷ gì?

Ở chỗ nấp, D' Artagnan không thể nhìn rõ mặt Aramis bởi vì chàng không hề có chút nghi ngờ gì rằng chính bạn mình đang từ trong nhà nói chuyện với vị phu nhân ở bên ngoài. Tính tò mò vậy là vượt qua tính thận trọng, lợi dụng lúc hai con người kia mải nhận dạng chiếc khăn tay, chàng ra khỏi chỗ nấp, chạy vụt tới nhưng chân êm như ru, dán mình vào một góc tường, từ chỗ đó, mắt có thể hoàn toàn nhìn lọt sâu và bên trong căn nhà của Aramis.

Tới đó, D' Artagnan suýt buột ra một tiếng kêu kinh ngạc.

- Không phải là Aramis đang nói chuyện với nữ khách ban đêm, mà là một phụ nữ. Có điều, D' Artagnan chỉ nhìn đủ rõ để nhận ra hình dạng quần áo, chứ không đủ rõ để phân biệt đường nét người đàn bà.

Cùng lúc đó, người phụ nữ trong nhà rút ra từ trong túi chiếc khăn tay thứ hai, và đổi lấy chiếc khăn mà người kia vừa đưa ra. Rồi một vài câu được thốt ra giữa hai người. Cuối cùng, cánh cửa lại đóng lại, người đàn bà ở phía bên ngoài cửa sổ quay lại đi qua cách chàng mấy bước, vừa đi vừa kéo thấp mũ xuống che mặt, nhưng sự thận trọng đó đã quá muộn, D' Artagnan đã nhận ra bà Bonacieux.

Bà Bonacieux! Thật ra khi nàng rút khăn tay từ túi ra, chàng đã thoáng ngờ rồi. Nhưng làm sao lại có thể có chuyện bà Bonacieux, người đã phái chàng đi tìm ông De la Porte để ông ta đưa bà trở lại điện Louvre, lại một mình chạy rông các phố ở Paris vào lúc mười một rưỡi đêm, bất chấp bị bắt cóc lần thử hai? Vậy phải là một việc rất quan trọng. Và việc quan trọng của một người đàn bà hai nhăm tuổi là việc gì ngoài tình yêu?

Nhưng có phải vì chuyện riêng hoặc vì chuyện của người khác mà nàng dấn thân vào những cuộc mạo hiểm ấy hay không? Chàng trai trẻ tự hỏi mình như thể con quỷ ghen tuông đã cắn vào trái tim chàng với danh nghĩa một người tình không hơn không kém.

Thật ra vẫn còn một cách khá đơn giản để biết chắc bà Bonacieux đi đâu, đó là đi theo nàng. Cái cách ấy quá đơn giản khiến D' Artagnan sừ dụng nó hoàn hảo tự nhiên và một cách bản năng.

Nhưng, nhìn thấy chàng trai trẻ rời khỏi bức tường như một pho tượng biết đi ra khỏi hốc tường, và nghe quanh người tiếng bước chân vang lên đằng sau mình, bà Bonacieux khẽ kêu lên và chạy trốn.

D' Artagnan đuổi theo sau. Đuổi kịp một người đàn bà đang lúng túng trong chiếc áo choàng không phải là điều gì khó đối với chàng. Vậy là chàng đã đuổi kịp, lúc nàng mới đi được một phần ba đường phố. Người đàn bà khốn khổ kiệt sức, không phải vì mệt mà vì kinh sợ, và khi D' Artagnan đặt tay lên vai nàng, nàng khụy gối xuống và kêu lên một giọng không ra tiếng.

- Nếu muốn, cứ giết tôi đi, đừng hòng biết nổi gì đâu.

D' Artagnan quàng tay đỡ nàng dậy, nhưng thấy người nàng cứ trĩu xuống, như thể sắp ngất, chàng vội làm cho nàng an tâm bằng những câu cam đoan hết lòng giúp đỡ nàng. Những lời lẽ cam đoan ấy chẳng là cái gì với bà Bonacieux bởi những cam đoan tương tự có thể xuất phát từ những ý đồ xấu xa nhất trên đời.

Nhưng giọng nói mới là đáng kể. Người đàn bà trẻ tưởng như nhận ra âm thanh giọng nói. Nàng mở mắt, liếc nhìn người đàn ỏng đang làm mình sợ hết hồn và nhận ra D' Artagnan, nàng reo lên mừng rỡ:

- Ồ thì ra ông! Tạ ơn Chúa!

- Vâng, chính tôi đây - D' Artagnan nói - là tôi, người mà Chúa sai đến để chăm sóc bà.

Với nụ cười đầy vẻ làm duyên nhưng vẫn nổi lên tính cách hơi giễu cợt, người đàn bà trẻ, mọi sự sợ hãi đã tiêu tan khi nhận ra người bạn chứ không phải kẻ thù như đã nghĩ hỏi chàng:

- Có đúng là ông đi theo tôi với ý định đó không?

- Không - D' Artagnan nói - không, tôi thú thực như vậy. Tình cờ thôi. Tôi đi cùng đường bà thôi. Tôi thấy một phụ nữ gõ cửa sổ nhà một trong những người bạn tôi.

- Một trong những bạn ông? - Bà Bonacieux ngắt lời.

- Hẳn rồi! Aramis là một trong những bạn tốt nhất của tôi.

- Aramis? Là ai vậy?

- Thôi đi nào! Bà định bảo tôi là bà không quen biết Aramis?

- Lần đầu tiên tôi nghe thấy cái tên ấy đấy.

- Vậy cũng là lần đầu tiên bà đến ngôi nhà đó?

- Đúng thế.

- Và bà không biết ngôi nhà có một người đàn ông trẻ ở?

- Không.

- Một ngự lâm quân mà?

- Đã bảo không rồi.

- Vậy không phải bà đến tìm ông ta sao?

- Không chút nào. Vả lại, ông đã nhìn thấy rõ, người mà tôi nói chuyện là một người đàn bà.

- Đúng rồi, nhưng người đàn bà đó là một trong những bạn gái của Aramis.

- Tôi chẳng biết gì cả.

- Sao, người đàn bà ấy ở nhà anh ấy cơ mà.

- Chẳng liên quan gì đến tôi.

- Nhưng người ấy là ai?

- Ồ đó không là bí mật của tôi.

- Bà Bonacieux thân mến, bà rất duyên dáng nhưng đồng thời cũng là một người đàn bà bí hiểm nhất…

- Điều đó làm cho tôi mất giá ư?

- Không, ngược lại, bà đáng tôn thờ.

- Vậy đưa tay đây cho tôi.

- Xin sẵn sàng. Và rồi?

- Bây giờ, đưa tôi đi.

- Đi đâu nào?

- Chỗ tôi đến.

- Nhưng đến chỗ nào?

- Rồi ông sẽ biết, bởi vì ông sẽ để tôi ở trước cửa nhà đó.

- Có phải đợi bà không?

- Không cần đâu.

- Bà về một mình ư?

- Có thể thế, có thể không.

- Nhưng cái người sẽ đi cùng bà tiếp đó sẽ là đàn ông hay đàn bà?

- Tôi cũng chưa biết nữa.

- Thế mà tôi biết đấy?

- Sao thế được?

- Tôi sẽ đợi đến lúc bà đi ra.

- Nếu như thế thì vĩnh biệt thôi!

- Sao lại thế?

- Tôi không cần đến ông.

- Nhưng mà bà đã yêu cầu…

Sự giúp đỡ của một nhà quý tộc, chứ không phải sự theo dõi của một tên do thám.

- Lời lẽ hơi cứng rắn đấy! Thế người ta gọi những kẻ bám theo người khác bất chấp người ta là gì?

- Người bộc tuệch.

- Gọi thế thì nhẹ quá.

- Thôi nào, thưa bà, tôi thấy rõ là phải làm tất cả những gì bà muốn.

- Thế sao ông không làm ngay có phải quý hơn không?

- Vậy không có điều gì phải ân hận chứ?

- Còn ông, ông ân hận thật rồi ư?

- Chính tôi, tôi cũng chẳng biết gì nữa. Mà tôi chỉ biết là tôi hứa với bà làm tất cả những gì bà muốn, nếu như bà để tôi được đưa bà đến nơi bà định đến.

- Và rồi sau đó, ông cũng sẽ rời khỏi tôi?

- Vâng.

- Mà không rình lúc tôi ra.

- Không.

- Thề danh dự chứ?

- Thề danh dự của một nhà quý tộc.

- Vậy khoác tay tôi rồi cùng đi thôi.

D' Artagnan đưa tay cho bà Bonacieux. Nàng bám tay chàng, nửa tươi cười, nửa run rẩy, và cả hai đi lên đỉnh phố Đàn Thụ cầm. Tới đó người đàn bà trẻ có vẻ do dự, như đã từng do dự ở phố Vôgira. Song, trước một số dấu hiệu nào đó, nàng hình như nhận ra một chiếc cửa, và lại gần chiếc cửa đó.

- Và bây giờ thưa ông - nàng nói - chính nơi đây tôi có việc, muôn vàn lần cám ơn ông cho tôi vinh hạnh đi cùng, đã cứu tôi khỏi mọi hiểm nguy, mà nếu đi một mình tôi có thể gặp phải. Nhưng tôi đã đến nơi và cũng là lúc ông giữ lời hứa rồi.

- Và bà không còn gì e ngại, lúc trở về?

- Tôi chỉ còn phải ngại bọn trộm cắp thôi.

- Thế không phải thế ư?

- Chúng có thể lấy gì của tôi nào? Tôi không có một xu trong người.

- Bà quên chiếc khăn tay đẹp thêu huy hiệu ấy rồi ư?

- Khăn tay nào?

- Chiếc khăn mà tôi đã tìm thấy dưới chân bà và rồi tôi lại nhét vào túi bà.

- Ông im đi, ông im đi? - Người đàn bà trẻ kêu lên - Ông muốn hại tôi ư?

- Bà thừa biết vẫn còn có nguy hiểm cho bà, khi mà một câu thôi cũng làm bà run sợ, và bà thú nhận người ta nghe thấy câu ấy, bà sẽ gặp nguy. Thôi nào, thưa bà! - D' Artagnan vừa nói vừa nắm chặt bàn tay nàng và nhìn nàng bằng con mắt nồng nàn - Thôi nào, bà hãy rộng lượng hơn, hãy tin ở tôi. Bà chẳng phải đã đọc thấy trong mắt tôi chỉ có sự hết lòng và cảm tình trong trái tim tôi đó sao.

- Quá đi chứ - bà Bonacieux trả lời - vì vậy, nếu hỏi tôi những bí mật của tôi, tôi sẽ nói ông nghe nhưng của những người khác, lạỉ là chuyện khác.

- Tốt lắm - D' Artagnan nói - Tôi sẽ khám phá. Một khi những bí mật ấy có ảnh hưởng đến cuộc đời bà, thì những bí mật ấy cũng trở thành của tôi.

Thiếu phụ kêu lên bằng một vẻ nghiêm trang khiến D' Artagnan không tránh khỏi rùng mình.

- Hãy cẩn trọng. Đừng có can thiệp vào bất kỳ điều gì dính dáng đến tôi. Đừng tìm cách giúp tôi trong bất kỳ công việc nào tôi đảm đương. Và tôi yêu cầu ông điều đó là nhân danh sự quan tâm mà ông dành cho tôi, nhân danh những việc ông đã giúp tôi mà suốt đời tôi sẽ không quên. Tốt hơn hãy tin vào những điều tôi nói với ông. Đừng quan tâm tới tôi nữa. Với ông tôi không tồn tại nữa, coi như ông chưa hề gặp tôi bao giờ.

- Thưa bà, anh Aramis có phải làm như tôi không? - D' Artagnan tức khí nói.

- Thưa ông, thế là đã hai lần ông nói đến cái tên đó rồi đấy, nhưng tôi đã nói với ông rằng tôi không quen biết người ấy.

- Bà không quen biết người đàn ông bên cánh cửa mà bà đã gõ ư? Thôi đi nào, thưa bà? Bà tưởng tôi quá nhẹ dạ đến thế ư?

- Ông hãy thú thực, để làm tôi phải nói ra, ông đã bịa ra chuyện ấy và ông đã tạo ra nhân vật ấy đi.

- Thưa bà, tôi chẳng bịa gì hết, chẳng tạo ra cái gì hết, tôi nói đúng sự thật thôi.

- Và ông nói rằng một trong những người bạn ông sống trong ngôi nhà đó?

- Tôi nói vậy, và nhắc lại điều ấy lần thứ ba, ngôi nhà ấy là nhà bạn tôi, và người bạn ấy là Aramis.

- Tất cả những thứ đó sẽ được làm sáng tỏ sau - người đàn bà trẻ thầm thì - còn bây giờ xin ông hãy im đã.

- Nếu bà có thể nhìn vào tim tôi đã mở toang ra - D' Artagnan nói - bà sẽ đọc thấy ở đó bao nỗi hiếu kỳ khiến bà sẽ thương tôi và biết bao tình yêu khiến bà thấy hài lòng ngay về sự hiếu kỳ của tôi. Chẳng có gì để sợ người đang yêu mình.

- Ông nói đến tình yêu nhanh quá đấy, thưa ông! - Người đàn bà trẻ vừa nói vừa lắc đầu. chính vì tình yêu đến với tôi nhanh thế và đây là lần đầu, tôi đã được hai mươi tuổi đâu.

Thiếu phụ liếc nhìn trộm chàng.

- Xin bà nghe đã - D' Artagnan nói tôi đã lần ra dấu vết. Ba tháng trước đây, suýt nữa tôi đã quyết đấu với Aramis chỉ vì chiếc khăn tay tương tự như chiếc khăn mà bà đã cho người đàn bà ở nhà anh ấy xem, vì một chiếc khăn tay in cùng dấu vết, tôi cam đoan như vậy.

- Thưa ông - Thiếu phụ nói - tôi xin thề với ông là ông làm tôi quá mệt vì những câu hỏi đó.

- Nhưng bà thận trọng đến thế, xin bà hãy nghĩ đi, nếu như bà bị bắt giữ cùng với chiếc khăn tay ấy và chiếc khăn tay ấy bị giữ lấy, bà sẽ bị nguy hại chứ?

- Sao lại thế được, những chữ cái viết tay ấy, chẳng phải là của chính tôi sao. C.B tức Constance Bonacieux?

- Hay là Camille de Bois-Tracy nào?

- Ông im đi, một lần nữa im đi! Chà? Một khi những nguy hiểm, của chính bản thân tôi phải trải qua không ngăn nổi ông, ông cũng nên nghĩ đến những cái ông sẽ có thể trải qua chứ?

- Tôi ư?

- Phải, chính ông. Có nguy hiểm của nhà tù, có nguy hiểm đến tính mạng vì quen biết tôi.

- Thế thì tôi không rời bà nữa.

Người đàn bà trẻ chắp hai tay cầu khẩn:

- Thưa ông, xin ông vì Chúa, vì danh dự một quân nhân, vì tính hào hoa phong nhã của một nhà quý tộc, hãy xa tôi ra.

Thấy chưa, đồng hồ điểm nửa đêm rồi, là giờ người ta đợi tôi.

- Thưa bà - Chàng trai trẻ nghiêng mình đáp - Tôi không còn biết từ chối thế nào với người đã yêu cầu tôi như thế. Xin bà yên tâm, tôi rời xa bà đây.

- Nhưng ông sẽ không đi theo tôi, ông sẽ không theo dõi tôi chứ?

- Tôi về nhà ngay bây giờ.

- Thế chứ, tôi biết rõ mà, rằng ông là một người đàn ông trẻ tử tế mà! - Bà Bonacieux vừa nói vừa chìa tay cho chàng, tay kia đặt trên chiếc vồ gõ cửa treo trong tường.

D' Artagnan nắm lấy bàn tay chìa ra cho mình và hôn nồng nan.

- Chao ôi, tôi thích thà rằng chưa bao giờ gặp bà - D' Artagnan kêu lên với vẻ tàn nhẫn ngây thơ mà những người đàn bà thường thích hơn là những sự tế nhị của phép xã giao, bởi vì nó mở ra miền sâu trong tư tưởng và nó chứng tỏ rằng tình cảm đã vượt qua lý trí.

Bà Bonacieux siết chặt bàn tay chưa chịu buông tay bà ra, nói bằng một giọng gần như âu yếm:

- Thế ư? Tôi thì tôi sẽ không nói đến mức như ông đâu. Cái gì mất hôm nay, không mất trong tương lai. Ai biết được chả có ngày tôi sẽ được gỡ ra khỏi những rắc rối này, tôi lại chẳng làm thỏa mãn sự hiếu kỳ của ông.

D' Artagnan reo lên tràn trề vui sướng:

- Và bà vẫn giữ lời hứa ấy với mối tình của tôi chứ?

- Ồ, về mặt đó, tôi không thể hứa hẹn gì. Cái đó tùy thuộc vào những tình cảm mà ông sẽ gợi lên trong lòng tôi.

- Như thế, hôm nay, thưa bà…

- Hôm nay, thưa ông, tôi chỉ mới ở mức biết ơn ông.

- Trời! Bà thật quá duyên dáng - D' Artagnan nói với vẻ buồn rầu - và bà lợi dụng tình yêu của tôi.

- Không đâu. Tôi sử dụng lòng hào hiệp của ông. Có thế thôi. Nhưng ông hãy tin chắc, với một số người nào đó, chẳng có gì mất hết cả đâu.

- Ôi, bà làm cho tôi thành kẻ hạnh phúc nhất trong mọi người rồi. Xin bà đừng quên cái đêm nay, xin đừng quên lời hứa hẹn này.

- Xin ông yên tâm, đúng thế, đúng chỗ, tôi sẽ nhớ tất cả còn bây giờ, ông đi đi, vì Chúa, ông đi đi! Người ta đợi tôi đúng nủa đêm và tôi đã bị muộn rồi. Muộn năm phút.

- Vâng, nhưng trong một số tình huống, năm phút bằng năm thế kỷ. Khi người ta yêu.

- Ô hay! Ai bảo ông tôi không đang mắc việc với một người đang yêu?

- Đó là một người đàn ông đang đợi bà ư? - D' Artagnan kêu lên - Một người đàn ông!

- Thôi đi, thế là cuộc tranh eãi lại sắp bắt đầu trở lại - Bà Bonacieux nói với nụ cười nửa miệng không loại trừ một vẻ sốt ruột nào đó.

- Không, không, tôi đi đây, tôi đi khỏi đây mà. Tôi tin ở bà.

- Tôi muốn hoàn toàn xứng đáng với lòng tận tụy của mình, dù cho lòng tận tụy ấy là một sự ngốc nghếch. Vĩnh biệt, vĩnh biệt bà!

Và vì phải gắng sức mới giật tay gỡ ra khỏi bàn tay đang nắm, chàng rời xa như chạy vội, trong khi đó bà Bonacieux gõ ba tiếng chậm và cách đều nhau từng gõ vào cánh cửa sổ.

Tới góc phố, D' Artagnan quay lại. Cửa mở ra rồi đóng lại. Bà chủ hiệu tạp hóa xinh đẹp biến mất.

D' Artagnan tiếp tục đi đường mình, chàng đã hứa không rình mò bà Bonacieux và cuộc sống của bà dù có phụ thuộc vào địa điểm bà sắp đến hay vào con người phải đi cùng bà, D' Artagnan cũng sẽ trở về nhà một khi chàng đã nói là trở về nhà. Năm phút sau chàng đã ở phố Phu đào huyệt. Chàng nói một mình: "Athos tội nghiệp! Anh ấy sẽ chẳng biết như thế nghĩa là thế nào. Anh ấy sẽ ngủ mà đợi ta, hoặc sẽ trở về nhà mình, và về đến nơi, anh ấy sẽ biết có một người đàn bà đã đến đấy. Một người đàn bà ở nhà Athos! Rốt cuộc, cũng có một đàn bà trong nhà Aramis cơ mà. Tất cả cái đó đều quá kỳ lạ, và ta háo hức biết mấy để biết xem nó sẽ kết thúc ra sao.

- Nguy, thưa ông, nguy rồi - Một giọng nói đáp lại mà chàng nhận ra giọng của Planchet, bởi vừa lớn tiếng độc thoại theo kiếu những người đang rất bận việc, chàng đi vào lối đi mà phía cuối là cầu thang dẫn lên phòng mình.

- Sao, nguy ư? Mày muốn nói gì, thằng ngu? - D' Artagnan hỏi - Vậy đã xảy ra chuyện gì?

- Đủ mọi thứ tai ương.

- Tai ương nào?

- Trước tiên, ông Athos bị bắt.

- Bị bắt! Athos? Bị bắt? Tại sao?

- Người ta thấy ông ấy ở nhà ông - Họ tưởng là ông nên đã bắt.

- Bọn nào bắt?

Bọn cận vệ do bọn mặc đồ đen bị ông đánh đuổi dẫn đến.

- Tại sao anh ấy không xưng danh? Tại sao anh ấy không nói mình không liên quan gì đến chuyện này?

- Thưa ông, ông ấy đã đề phòng cẩn thận việc đó, và trái lại còn đến gần bảo tôi: "Chính chủ anh đang cần tự do trong lúc này, chứ không phải ta, bởi vì chủ anh biết hết mọi chuyện, còn ta lại chẳng biết gì. Người ta sẽ tưởng chủ anh bị bắt, và việc đó sẽ cho anh ấy thời gian. Ba ngày nữa ta sẽ nói ta là ai, và họ nhất quyết phải thả ta ra".

- Hoan hô Athos! Tấm lòng cao quý! - D' Artagnan thì thầm - Ta biết rõ anh ấy là như thế mà! Và bọn cảnh vệ còn làm gì nữa?

- Bốn tên dẫn ông Athos đi đâu, tôi không biết, đến ngục Bastille hay đến Pholêvếch chẳng rõ. Hai tên lưu lại với những tên mặc đen, lục lọi khắp nơi và giữ mọi giấy tờ. Hai tên cuối cùng trong cuộc hành quận đó gác ngoài cửa. Rồi, khi tất cả đã xong, chúng bỏ đi, để lại nhà cửa toang hoang, trống trơn.

- Còn Porthos và Aramis?

- Tôi không tìm thấy họ, họ không đến.

- Nhưng họ có thể đến bất cứ lúc nào, bởi vì hẳn mày đã nhắn lại ta đang đợi các ông ấy?

- Vâng, thưa ông.

- Nghe đây? Đừng có nhúc nhích khỏi đây. Nếu hai ông ấy đến, báo cho họ biết cái gì đã xảy đến với ta, bảo họ đợi ở quán Quả thông. Ở đây sẽ nguy hiểm, ngôi nhà có thể bị do thám. Ta chạy đến ông De Treville để báo cho ông ấy tất cả chuyện đó, và ta sẽ gặp họ ở đó.

- Được ạ, thưa ông - Planchet nói.

- Nhưng mày sẽ ở lại và đừng sợ!

D' Artagnan đi được mấy bước lại quay lại để động viên lòng dũng cảm cho người hầu của mình.

- Thưa ông, xin ông yên tâm - Planchet nói - Ông còn chưa biết rõ tôi đấy. Khi lâm sự tôi cũng can trường ra phết đấy. Hơn nữa tôi là dân Pica.

- Vậy, thỏa thuận rồi nhé - D' Artagnan nói - Mà thà chết còn hơn rời vị trí.

- Vâng, thưa ông, và chẳng có việc gì mà tôi không làm để chứng tỏ tôi gắn bó với ông.

"Tốt - D' Artagnan tự nhủ - hình như cái phương pháp mà ta áp dụng đối với gã này là một phương pháp tốt. Khi cần, ta sẽ lại dùng".

Rồi ba chân bốn cẳng tuy đã hơi mỏi vì chạy đây đó suốt ngày, D' Artagnan đi về phố Chuồng chim câu.

Ông De Treville không hề ở dinh quán. Đại đội của ông đang gác điện Louvre. Ông đến Louvre với đại đội của mình.

Phải đến tận chỗ ông De Treville thôi. Điều quan trọng là phải báo cho ông biết điều gì đang diễn ra. D' Artagnan thử vào điện Louvre. Bộ trang phục cận vệ trong đại đội ông des Essarts phải là một giấy thông hành cho chàng.

Thế là chàng đi xuống phố Augustin nhỏ rồi lên đường bờ đê để đến cầu mới. Chàng đã có ý nghĩ qua phà, nhưng tới bờ nước, chàng vô tình thò tay vào túi và nhận ra không có tiền để trả tiền qua phà.

Vừa lên đến dốc phố Ghênêgô, chàng nhìn thấy một nhóm từ phố Cá heo đi ra, gồm hai người dáng dấp đập vào mắt chàng.

Hai người đó gồm một đàn ông, người kia đàn bà.

Người đàn bà có dáng dấp bà Bonacieux và người đàn ông thì giống đến mức nhầm với Aramis.

Ngoài ra, người đàn bà có chiếc áo choàng đen như chiếc áo mà D' Artagnan từng thấy nổi lên trên cánh cửa sổ ở phố Vôgira và trên khung cửa ở phố Đàn Thụ cầm nữa. Thêm nữa, người đàn ông cũng mặc đồng phục ngự lâm quân.

Cái mũ liền áo của người đàn bà kéo sụp xuống. Người đàn ông cầm khăn tay che lên mặt. Sự thận trọng gấp đôi của cả hai người chỉ ra rằng họ đều lo bị lộ diện.

Họ đi lên cầu, cùng đường với D' Artagnan vì D' Artagnan đi đến điện Louvre. Chàng đi theo họ.

Đi chưa đầy hai chục bước, chàng đã tin chắc người đàn bà chính là bà Bonacieux và người đàn ông kia là Aramis.

Ngay lúc đó chàng cảm thấy mọi sự ngờ vực ghen tuông sôi lên trong trái tim mình.

Chàng đã bị hai lần phản bội vừa bởi bạn mình vừa bởi người mà chàng đã yêu như một người tình của mình. Bà Bonacieux đã thề độc với chàng là không quen biết Aramis và chỉ mười lăm phút sau khi đã thề như thế với chàng, chàng đã thấy bà ta khoác tay Aramis.

D' Artagnan cũng chẳng nghĩ mình mới chỉ quen biết cô hàng xén xinh đẹp được ba tiếng đồng hồ và nàng chỉ phải chịu ơn chàng chút ít vì đã giải phóng nàng khỏi bọn mặc đồ đen muốn bắt cóc nàng đi và nàng chưa hề hứa hẹn gì với chàng.

Chàng tự coi mình như một người tình bị làm nhục, phản bội, cợt nhạo. Máu nóng và cơn giận bốc lên mặt, chàng quyết định phải làm rõ tất cả.

Người thiếu phụ và người đàn ông trẻ biết mình bị theo dõi liền rảo bước gấp đôi. D' Artagnan chạy vượt lên rồi quay lại phía họ lúc họ đến trước mặt nhà thờ Samaritain có một cây đèn lồng chiếu sáng tỏa cả đến tận mặt cầu.

D' Artagnan dừng lại trước mặt họ và họ cũng dừng lại trước mặt chàng.

- Thưa ông, ông muốn gì? - người ngự lâm kia vừa hỏi vừa lùi lại một bước và bằng một giọng lơ lớ, chứng tỏ D' Artagnan đã bị nhầm một phần trong những phỏng đoán của mình.

Chàng kêu lên:

- Không phải Aramis!

- Không, thưa ông, không có Aramis nào cả, và nghe cái giọng kinh ngạc của ông, tôi thấy ông đã nhầm tôi với người khác nên tôi tha thứ cho ông.

- Ông tha thứ cho tôi á! - Chàng kêu lên.

- Phải - Người lạ đáp - Vậy hãy để tôi đi vì không phải ông mắc chuyện với tôi.

- Ông có lý, thưa ông - D' Artagnan nói - không phải với ông tôi mắc chuyện, mà là với bà đây.

- Với bà đây? Ông đâu biết bà ấy? - Người lạ nói.

- Thưa ông, ông nhầm rồi, tôi biết bà ấy.

- Đến thế nữa! - Bà Bonacieux nói bằng một giọng trách móc. Thế cơ đấy, thưa ông. Ông đã lấy danh dự quân nhân và tư cách quý tộc ra hứa với tôi. Tôi hy vọng có thể tin cơ đấy.

- Và tôi thưa bà - D' Artagnan bối rối nói - bà cũng đã hứa với tôi…

Người lạ mặt:

- Nào bà, vịn vào tay tôi đi, rồi chúng ta tiếp tục đi đường của chúng ta.

Trong khi đó, D' Artagnan choáng váng sụp đổ, rã rời vì tất cả những gì vừa xảy đến với chàng, vẫn đứng thuỗn người, hai tay khoanh lại trước người ngự lâm và bà Bonacieux.

Người ngự lâm bước lên hai bước, lấy tay gạt D' Artagnan ra.

D' Artagnan nhảy lùi về phía sau và rút gươm.

Nhanh như chớp, người lạ đồng thời cũng rút gươm.

Bà Bonacieux lao vào giữa hai đối thủ, hai tay nắm lấy hai lưỡi gươm, kêu lên:

- Lạy Chúa thưa Huân tước(2).

- Huân tước ư? - Chàng vội kêu lên sau một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu - Huân tước, xin lỗi, thưa ngài, nhưng ngài chả nhẽ lại là…

- Là Huân tước Quận công De Buckingham - Bà Bonacieux nói khẽ - Và bây giờ ông có thể làm hại tất cả chúng ta.

- Thưa Huân tước, thưa bà, trăm ngàn lần xin tạ lỗi. Nhưng thưa Huân tước, tôi yêu bà ấy, và tôi ghen. Ngài cũng biết, yêu là thế nào rồi, xin Huân tước tha lỗi cho tôi, và xin nói cho tôi biết, tôi có thể xả thân vì ngài như thế nào?

Buckingham vừa nói vừa chìa tay ra cho chàng siết chặt!

- Ông là một người đàn ông trẻ tuổi tử tế. Ông ngỏ ý phục vụ tôi, tôi xin nhận. Ông hãy đi theo chúng tôi cách ra hai chục bước đến điện Louvre, và nếu có kẻ nào rình rập chúng ta, hãy giết hắn.

D' Artagnan kẹp thanh gươm trần của mình dưới cánh tay, nhường bà Bonacieux và Huân tước đi trước hai chục bước rồi đi theo, sẫn sàng thi hành không sai một chữ chỉ thị của ngài Thủ tướng cao quý và hào hoa của vua Charles đệ nhất(3).

Nhưng may thay, chàng thanh niên cuồng tín ấy không gặp cơ hội nào để chứng tỏ với Huân tước lòng tận tụy của mình, và người đàn trẻ cùng người ngự lâm đẹp trai đi vào điện Louvre qua trạm gác phố Chiếc thang.

Còn D' Artagnan thì đi ngay tới quán Quả thông để tìm gặp Porthos và Aramis đang đợi chàng.

Rồi chẳng giải thích gì với họ về việc rắc rối chàng đã gây ra, chàng bảo họ là đã một mình kết thúc công việc mà có lúc đã tưởng cần đến sự can thiệp của họ.

- Và bây giờ, sau khi đã mải mê đẩy câu chuyện đi, ta hãy để ba người này ai về nhà người ấy, rồi đi theo Quận công Buckingham và người dẫn đường trong những lối đi ngoắt ngoéo ở điện Louvre.

Chú thích:
(1) Flandre - Tên cũ gọi một xứ chủ yếu là đầm lầy ở Bắc Hải.
(2) Milord từ tiếng Anh. My lord, có nghĩa Huân tước của tôi, hoặc thưa Huân tước.
(3) Charles I - vua nước Anh, sau bị Cromwell, nhà dân chủ Anh hạ lệnh chặt đầu vì tội liên kết với quân Pháp chống lại quốc hội Anh, việc đó có được nói đến trong tập "Hai mươi năm sau" tiếp nối truyện này

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 12

George Villiers quận công de Buckingham

Bà Bonacieux và Quận công đi vào điện Louvre không gặp khó khăn gì. Bà Bonacieux ai cũng biết là người của Hoàng hậu, Quận công mặc đồng phục ngự lâm của ông De Treville như ta đã nói, lại đến phiên gác tối đó. Hơn nữa, Ghécmanh là thuộc hạ tin cậy của Hoàng hậu và nếu xảy ra chuyện gì, bà Bonacieux sẽ bị cáo buộc dẫn người tình của mình vào điện Louvre, có thế thôi.

Bà ta sẽ nhận tội về mình, danh giá của bà sẽ mất, đúng vậy, nhưng cái danh giá của một cô hàng xén nhỏ thì có giá trị gì trong cái thế giới này?

Vào được bên trong hoàng cung rồi, Quận công và người thiếu phụ đi theo chân tường thành một khoảng hai nhăm bước, qua khoảng đó bà Bonacieux đẩy một cái cửa ngách nhỏ, ngày đóng, đêm thường mở. Cửa mở ra, cả hai đi vào một vùng tối om, nhưng bà Bonacieux thuộc hết đường ngang ngõ tắt ở phần này của điện Louvre, phần giành cho những người trong bộ phận tùy tùng. Bà ta đóng lại các cửa đã đi qua, dắt tay ông Huân tước, dò dẫm mấy bước đi, nắm lấy tay vịn, bước lên một bậc, và bắt đầu leo lên cầu thang. Ông Quận công đếm được hai tầng gác.

Rồi bà ra rẽ phải, đi theo một hành lang dài, lại đi xuống một tầng, đi thêm vài bước vài bước nữa, tra chìa khóa vào ổ khóa, mở một cửa và đẩy Huân tước vào một căn phòng chỉ được thắp sáng bằng một ngọn đèn ngủ và bảo:

- Xin Huân tước Quận công cứ ở đây, sẽ có người đến.

Rồi bà ta đi ra cũng bằng chiếc cửa ấy, khóa trái lại, thành ra Quận công thấy mình thực sự như một tù nhân.

- Thế nhưng dù hoàn toàn bị biệt lập. Quận công De Buckingham không hề một phút giây cảm thấy sợ hãi. Một trong những mặt nổi bật trong tính cách của ông ta là tìm kiếm sự phiêu lưu và tình yêu, sự lãng mạn. Can trường, táo bạo, dày đạn, đây không phải là lần đầu tiên ông ta liều mạng trong những toan tính như thế. Ông đã hiểu ra bức thư nhắn gửi danh hoàng Anne d' Autriche(1) mà vì tin là thật ông đã sang Paris, chỉ là một cái bẫy, và đáng nhẽ lại trở lại Anh quốc, ông đã lợi dụng tình thế mình bị đẩy vào, tuyên bố với Hoàng hậu sẽ không ra đi nếu không được gặp bà. Lúc đầu Hoàng hậu kiên quyết từ chối, cuối cùng bà lại sợ Quận công nổi giận làm những chuyện điên rồ. Thế là bà đã quyết định tiếp ông và sẽ van xin ông ra đi ngay tức khắc. Chính buổi tối hôm bà Bonacieux được giao việc đi tìm Quận công và dẫn ông vào điện Louvre thì bà bị bắt cóc. Trong hai ngày, người ta hoàn toàn không biết bà ra sao và tất cả mọi việc đều treo lơ lửng. Nhưng một khi được tự do, một khi bắt liên lạc lại được với ông La Porte, mọi việc lại tiếp tục và bà vừa làm tròn cái việc phiêu lưu đầy nguy hiểm mà nếu như không bị bắt bà đã làm xong sớm hơn ba ngày rồi.

Còn lại một mình, Buckingham lại gần một tấm gương và thấy chiếc áo ngự lâm quân sao hợp với mình đến thế. Ở tuổi ba nhăm lúc đó, ông không hổ danh là một nhà quý tộc đẹp trai nhất và kỵ sĩ hào hoa nhất của Pháp quốc và Anh quốc.

Được cả hai quốc vương sủng ái, giàu có bạc triệu, đầy quyền thế trong một vương quốc có thể để yên được yên, làm loạn là loạn, Gioócgiơ Villiers Quận công De Buckingham đã để lại một trong những cuộc đời huyền thoại, lưu truyền qua nhiều thế kỷ như một sự kỳ lạ cho hậu thế.

Vì vậy, tin ở bản thân, vững ở uy lực, biết chắc những luật lệ kiềm chế những người khác không thể động đến mình, ông ta đi thẳng đến mục đích mình đã vạch ra, dù mục đích ấy quá cao xa và chói ngời đến mức là điên rồ với kẻ khác khi mới chỉ nhằm đến thôi. Chính vì thế mà ông đã nhiều lần tiếp cận được Anne d' Autriche xinh đẹp và kiêu hãnh, khiến nàng phải yêu ông vì những phẩm chất sáng ngời.

Soi mình trước gương, sửa lại những nếp sóng của bộ tóc hung vàng mà chiếc mũ nặng đã đè bẹp xuống, vuốt lại bộ ria mép vểnh lên, trong lòng tràn đầy niềm vui sướng và kiêu hãnh đã đạt được giờ phút khao khát bấy lâu nay, ông cười nụ một mình vừa hy vọng vừa hãnh diện.

Cũng lúc đó, một cánh cửa lấp sau tấm thảm che mở ra, và một phụ nữ xuất hiện. Buckingham nhìn thấy người đó hiện ra trong gương, ông kêu lên một tiếng, đó là Hoàng hậu.

Anne d' Autriche lúc đó khoảng hai sáu, hai bảy tuổi, nghĩa là đang lúc sắc đẹp rạng rỡ nhất.

Dáng đi của nàng là dáng đi của một hoàng hậu hay của một nữ thần, đôi mắt long lanh như ngọc bích, vừa đẹp hoàn hảo vừa tràn đầy vẻ dịu dàng lại uy nghi.

Cái miệng nhỏ nhắn và đỏ thắm cho dù môi dưới giống như của các hoàng thân trong gia đình d' Autriche hơi trề ra với môi trên, nàng vẫn vô cùng duyên dáng khi cười, và thâm trầm ngạo nghễ khi khinh bỉ.

Da nàng được coi là biểu tượng cho sự mềm mại mịn màng, bàn tay và cánh tay nàng đẹp đến ngỡ ngàng và tất cả các nhà thơ thời đó đã ca ngợi là bất khả so sánh.

Cuối cùng, tóc nàng hung vàng lúc còn thơ trẻ nay chuyển sang màu hạt dẻ, được nàng uốn nhẹ và rắc nhiều phấn màu, ngưỡng mộ ôm lấy khuôn mặt mà nhà phê bình cứng rắn nhất cũng chỉ có thể muốn đỡ hồng hơn một chút, và nhà tạc tượng khắt khe nhất cũng chỉ yêu cầu sống mũi hơi thanh hơn.

Buckingham ngây ra choáng mắt mất một lúc. Chưa bao giờ Anne d' Autriche lại đẹp đến như thế với ông. Giữa những cuộc khiêu vũ, lễ hội, dạo chơi, nàng chưa bao giờ đẹp như lúc này, trong một chiếc áo sa tanh trắng đơn sơ, cùng với nương tử Étxtêphania tháp tùng, người duy nhất trong những phụ nữ Tây Ban Nha còn chưa bị nhà Vua đuổi vì lòng ghen tuông cùng với sự ngược đãi của Giáo chủ Richelieu.

Anne d' Autriche tiến lên hai bước, Buckingham vội quỳ xuống dưới đầu gối nàng và nàng còn chưa kịp ngăn lại, thì ông đã hôn vào gấu áo của nàng.

- Quận công đã biết không phải tôi đã sai viết cho ông?

- Ồ vâng, thưa bà, vâng, thưa Hoàng hậu - Quận công nói - tôi biết tôi là một tên điên, một kẻ mất trí đi tin rằng băng tuyết có thể nao lòng, đá có thể bốc nóng. Nhưng bà bảo sao, khi người ta yêu, người ta dễ tin ở tình yêu, vả lại, tôi cũng bõ công trong chuyến đi này vì đã được gặp bà.

- Phải - Anne trả lời - nhưng ông hẳn biết vì sao và làm thế nào tôi gặp ông, bởi vì không động lòng trước mọi nỗi khó khăn của tôi, ông ương ngạnh không chịu rời khỏi cái thành phố mà ở lại đó tức là ông đã liều mạng sống và làm tôi có nguy cơ bị hại thanh danh. Tôi gặp ông để nói với ông rằng tất cả đều ngăn cách chúng ta, những vực sâu của biển, mối thâm thù của các vương quốc, sự thiêng liêng của những lời thể. Chống lại mọi điều như thế là phạm thượng đấy, Huân tước ạ. Cuối cùng, tôi gặp ông còn để nói với ông, chúng ta không nên gặp nhau nữa.

- Xin cứ nói, thưa Hoàng hậu, cứ nói nữa đi! - Buckingham nói - giọng nói dịu dàng của bà che đi những lời lẽ cứng rắn của bà. Bà nói đến phạm thượng? Nhưng sự phạm thượng nằm ngay trong việc chia sẻ những con tim mà Thượng đế tạo ra để chúng được vì nhau.

- Huân tước! - Hoàng hậu kêu lên - Ông quên rằng tôi chưa bao giờ nói tôi yêu ông.

- Nhưng bà cũng chưa hề nói rằng bà không mảy may yêu tôi, và quả thật nói với tôi những lời tương tự sẽ là một điều bạc nghĩa về phần Hoàng hậu đó. Bởi vì bà hãy bảo tôi đi, bà tìm đâu ra một tình yêu như tình yêu của tôi, một tình yêu mà thời gian, sự xa cách, sự thất vọng đều không làm nguội tắt nổi: một tình yêu tự bằng lòng với một dải băng rơi lạc, một cái nhìn lơ đãng, một câu nhỡ miệng? Thưa bà, ba năm trước lần đầu tiên tôi nhìn thấy bà, và đã ba năm tôi yêu bà như thế đó. Bà có muốn tôi nói lần đầu tiên tôi thấy bà, bà mặc gì không? Bà có muốn tôi tả từng chi tiết mỗi đồ trang điểm của bà không? Này nhé, tôi còn nhớ rõ, bà ngồi trên những viên gạch lát kiểu Tây Ban Nha, bà mặc một chiếc áo sa tanh xanh lá cây rua sợi vàng và bạc, hai ống tay rủ xuống và được xắn lên trên đôi cánh tay mỹ lệ, đôi cánh tay đáng ngưỡng mộ của bà bằng những viên kim cương lớn. Cổ áo bà xếp nếp và cài kín, bà đội một chiếc mũ nhỏ cùng màu với áo, trên mũ gài một chiếc lông sếu. Ôi, đây nữa nhé. Tôi nhắm mắt lại và tôi vẫn thấy bà nguyên như thế. Tôi mở mắt ra, tôi thấy bà đúng như bây giờ, nghĩa là còn đẹp hơn gấp trăm lần?

Anne d' Autriche không còn đủ can đảm để giận Quận công đã lưu giữ hình ảnh của mình lâu bền đến thế ở trong tim. Nàng lẩm bẩm:

- Ôi, điên rồ! Thật điên rồ đi nuôi một đam mê vô vọng với những kỷ niệm như thế!

- Thế bà bảo tôi sống bằng gì? Tôi ấy? Tôi chỉ có những kỷ niệm mà thôi. Đó là hạnh phúc, kho báu, niềm hy vọng của tôi. Mỗi lần gặp bà, là lại thêm một viên kim cương tôi cất vào hộp báu vật trong trái tim tôi. Viên này là viên thứ tư bà để rơi và tôi nhặt được. Bởi trong ba năm, tôi chỉ được gặp bà bốn lần. Lần đầu, tôi vừa nói rồi, lần thứ hai, tại nhà bà De Chevreuse, lần thứ ba trong vườn Amiêng.

- Quận công! - Hoàng hậu đỏ mặt nói - xin đừng nói tới buổi dạ hội ấy nữa.

- Trái lại, thưa bà, phải nói tới nó chứ. Đó là buổi dạ hội sung sướng và rạng rỡ của đời tôi. Bà có nhớ cái đêm ấy mới đẹp làm sao không? Không khí êm dịu và ngát hương, trời xanh biếc và lấp lánh những vì sao! Ôi, lần đó, thưa bà, tôi đã được một mình với bà trong phút chốc, lần đó bà đã sẵn sàng nói hết với tôi sự cô đơn trong cuộc sống của bà, những phiền não trong trái tim bà. Bà đã tựa vào cánh tay tôi, đây, cánh tay này. Tôi cảm thấy trong lúc tôi ngả đầu sang phía bà, những làn tóc đẹp của bà mơn man má tôi, và mỗi lần nó mơn man, tôi lại rùng mình từ chân tới đầu. Ôi, Hoàng hậu, Hoàng hậu! Bà không biết rằng mọi hạnh phúc lớn lao trong trời đất, những niềm vui trên thiên đường đều được gói trong những giờ phút như thế sao. Này nữa, mọi của cải, vận mệnh, vinh quang của tôi, tất cả những ngày còn lại của đời tôi, chỉ để có được phút giây như thế, một đêm như thế! Bởi cái đêm ấy, thưa bà, đêm ấy bà đã yêu tôi, tôi xin thề như vậy.

- Huân tước, vâng, có thể do ảnh hưởng của môi trường đó, vẻ quyến rũ của cái buổi dạ hội mỹ lệ đó, cái nhìn mê hoặc của ông, cuối cùng, hàng nghìn tình thế đôi khi thống nhất lại với nhau để làm hại một người đàn bà, đã nhóm lại xung quanh tôi trong cái đêm định mệnh đó. Nhưng Huân tước ông đã thấy, bà Hoàng hậu đã đến cứu người đàn bà đang yếu lòng. Ngay câu đầu tiên ông đã dám nói ra, ngay sự táo tợn đầu tiên tôi phải đáp lại, tôi đã gọi Hoàng hậu đến cứu.

- Ồ, vâng, vâng, đúng là như thế, và một thứ tình yêu khác với tình yêu của tôi có lẽ đã quỵ ngã trước thử thách đó, còn tình yêu của tôi đã thoát ra khỏi đó thắm thiết hơn, vững bền hơn. Trở về Paris bà đã tưởng là trốn nổi tôi, bà đã tưởng tôi không dám rời khỏi cái kho báu mà người chủ tôi đã ủy thác cho tôi canh giữ. Ôi, tôi cần quái gì mọi kho báu ở trên đời và mọi ông vua trên trái đất. Tám ngày sau đó, thưa bà, tôi đã quay trở lại. Lần này, bà chẳng còn gì để nói tôi. Tôi đã đánh liều bỏ mặc sủng ái, sinh mạng để gặp bà trong giây phút, tôi còn chưa động đến ngay cả bàn tay bà, và bà đã tha thứ cho tôi khi thấy tôi chịu khuất phục và ăn năn đến thế.

- Vâng, nhưng thưa Huân tước, ông thừa biết, sự vu khống đã chộp lấy mọi điên rồ mà trong đó nào tôi đã có gì đâu. Nhà Vua bị Giáo chủ kích động đã nổi trận lôi đình: Bà Vécnê bị đuổi Duytăng bị đi đầy, bà De Chevreuse bị thất sủng, và khi ông muốn trở lại nước Pháp như một sứ thần, nhà Vua đã tự mình chống đối.

- Phải, và nước Pháp sắp phải trả giá cho sự khước từ của nhà Vua bằng một cuộc chiến. Thưa bà, tôi không thể gặp bà được nữa, vì vậy tôi muốn ngày nào bà cũng nghe nói về tôi. Bà nghĩ thế nào về mục đích cuộc viễn chinh đảo Rê và việc liên minh với các tín đồ phái Tin lành ở thành La Rochelle mà tôi dự định? Đó là niềm vui được gặp bà. Tôi không có hy vọng đưa quân vào tận Paris, tôi thừa biết thế, nhưng cuộc chiến này có thể dẫn đến hòa bình, công cuộc hòa bình này sẽ cần đến một nhà thương thuyết, nhà thương thuyết ấy sẽ là tôi. Lúc đó người ta sẽ không dám từ chối tôi và tôi sẽ trở lại Paris và tôi sẽ gặp lại bà, và tôi sẽ được hạnh phúc trong giây lát. Đúng là hàng vạn người sẽ phải trả giá cho hạnh phúc của tôi bằng sinh mạng họ, nhưng tôi cần gì với tôi, miễn là tôi gặp lại bà? Tất cả cái đó có lẽ là rất điên rồ, có lẽ thật mất trí, nhưng bà nói tôi xem, người đàn bà nào có một người tình si tình hơn thế? Bà Hoàng hậu nào có được người phục vụ nhiệt tình hơn.

- Huân tước, Huân tước, những điểu ông viện dẫn để bào chữa cho ông còn buộc tội ông hơn nữa đấy. Huân tước, tất cả những bàng chứng yêu đương mà ông đưa ra cho tôi hầu như đều là tội ác.

- Bởi vì bà không yêu tôi, thưa bà. Nếu bà yêu tôi, bà sẽ nhìn điều đó hoàn toàn khác. Nếu bà yêu tôi? Ôi, nếu bà yêu tôi, sẽ quá hạnh phúc và tôi sẽ phát điên. À, bà De Chevreuse mà bà nói vừa rồi, bà ấy không tàn nhẫn bằng bà, ông Hôlên yêu bà ta, và bà ta đáp lại mối tình của ông ấy.

- Bà De Chevreuse không phải là Hoàng hậu - Anne d' Autriche không cưỡng nổi bị khuất phục bởi biểu hiện của một tình yêu sâu sắc đến như thế, nàng lẩm bẩm.

- Vậy bà sẽ yêu tôi nếu bà không phải là Hoàng hậu chứ, nào bà nói đi, bà yêu tôi chứ? Tôi có thể tin rằng chỉ cái thanh danh của địa vị bà khiến bà tàn nhẫn với tôi thôi. Vậy tôi có thể tin rằng nếu bà là bà De Chevreuse thì chàng Buckingham khốn khổ có thể hy vọng chăng? Cảm ơn những lời nói dịu dàng, ôi bà Hoàng kiều diễm của tôi, trăm ngàn lần cảm tạ.

- Ôi Huân tước, ông hiểu nhầm tôi rồi, diễn giải sai rồi, tôi không muốn nói…

- Thôi, thôi, xin đừng nói nữa? - Quận công nói - Nếu tôi sung sướng mắc sai lầm, xin đừng tàn nhẫn tước bỏ đi. Chính bà đã tự nói ra điều đó, người ta đã kéo tôi vào một cái bẫy, tôi sẽ để sinh mạng tôi ở bẫy, có lẽ thế, bởi vì, bà biết đấy, thật lạ lùng, ít lâu nay tôi có những dự cảm rằng tôi sắp chết. - Và Quận công mỉm một nụ cười vừa sầu não vừa quyến rũ.

- Ôi, lạy Chúa! - Anne d' Autriche kêu lên bằng một giọng hãi hùng chứng tỏ mối quan tâm của nàng với Quận công lớn hơn những điều nàng nói ra nhiều.

- Tôi không hề nói ra điều đó để làm bà hoảng sợ đâu, không thưa bà, điều tôi nói với bà còn lố lăng nũa ấy chứ, xin bà tin rằng tôi chẳng bận tâm chút nào đến những giấc mơ như thế.

Nhưng mấy lời bà vừa thốt ra, niềm hy vọng mà bà hầu như đã cho tôi sẽ được trả giá đầy đủ, dù đó là sinh mạng của tôi đi nữa.

- Lạ thật! - Anne d' Autriche nói - tôi cũng vậy, Quận công ạ, tôi cũng có những dự cảm, tôi cũng có những giấc mơ. Tôi cũng thấy ông bị thương nằm đó, máu me đầy người.

- Ở bên trái do một con dao găm có phải không? - Buckingham ngắt lời.

- Vâng, đúng thế, thưa Huân tước, đúng thế, phía bên trái do một con dao găm. Ai có thể nói với ông tôi đã có giấc mơ đó?

- Tôi chỉ thổ lộ nó với Chúa và còn trong những lời cầu khấn của tôi.

- Tôi không muốn gì hơn, thưa bà, bà yêu tôi, tốt lắm.

- Tôi yêu ông, tôi hở?

- Vâng, bà. Nếu bà không yêu tôi, liệu Chúa có gửi đến cho bà cũng vẫn những giấc mơ ấy như tôi không? Nếu cuộc đời hai chúng ta không tiếp xúc với nhau bằng con tim, liệu chúng ta có cùng những dự cảm không? Bà yêu tôi, ôi Hoàng hậu và bà sẽ khóc thương tôi!

- Ôi Chúa ơi! Chúa ơi! - Anne d' Autriche kêu lên. - Thật quá sức chịu đựng của tôi rồi. Này Quận công, nhân danh Thượng đế, ông đi đi, ông hãy rút lui đi. Tôi không biết là tôi yêu ông hay tôi không yêu ông nữa. Nhưng điều tôi biết là tôi sẽ không thể giả dối chút nào. Vậy hãy thương tôi và đi đi. Ôi nếu ông bị đâm ở nước Pháp, nếu ông chết ở nước Pháp, nếu tôi có thể coi mối tình của ông với tôi là nguyên nhân cái chết của ông, tôi sẽ chẳng bao giờ yên lòng nổi, tôi sẽ phát điên vì thế. Vậy ông đi đi. Đi đi, tôi van ông đấy!

- Ôi, sao bà đẹp đến thế này! Ôi, tôi yêu bà biết mấy!

- Đi đi! Đi đi! Tôi van ông mà. Rồi sau lại trở lại. Với những cận vệ xung quanh bảo vệ ông, với những người hầu chăm sóc ông và lúc đó tôi sẽ không sợ cho tính mạng ông nữa, tôi sẽ hạnh phúc được gặp lại ông.

- Ôi, có đúng bà nói với tôi như vậy không?

- Đúng…

- Hay lắm! Một tín vật cho lòng khoan dung của bà, một vật của riêng bà, nó nhắc cho tôi biết không phải tôi mơ đâu, một vật gì đó mà bà vẫn đeo và đến lượt tôi, tôi cũng có thể đeo, một cái nhẫn, một cái vòng, một chuỗi hạt.

- Và ông sẽ đi, ông sẽ đi nếu tôi cho ông vật ông yêu cầu chứ?

- Vâng.

- Ngay tức khắc?

- Vâng.

- Ông sẽ rời nước Pháp, sẽ quay về nước Anh chứ?

- Vâng, tôi xin thề với bà.

- Đợi đã được rồi, đợi đã.

Và Anne d' Autriche trở về căn phòng của mình rồi hầu như ra ngay, tay cầm cái tráp nhỏ bằng gỗ hồng đào có những chữ cái viết tắt tên họ của nàng nạm vàng.

- Huân tước Quận công, ông cầm lấy - nàng nói - Ông hãy giữ nó để nhớ đến tôi.

Buckingham cầm lấy chiếc tráp và lần thứ hai quỳ xuống.

- Ông đã hứa với tôi là ông sẽ đi - Hoàng hậu nói.

- Và tôi sẽ giữ lời hứa. Bàn tay bà, bàn tay bà, thưa bà, rồi tôi đi.

Anne d' Autriche chìa bàn tay ra, vừa nhắm mắt lại, vừa vịn tay vào Stéphanie, vì nàng cảm thấy không còn đủ sức nữa.

Buckingham say đắm áp môi lên bàn tay mỹ lệ rồi đứng lên nói:

- Trước sáu tháng, nếu không chết, tôi sẽ gặp lại bà, dù có phải đảo lộn cả thế giới này vì điều đó.

Và trung thành với lời hứa, ông lao ra khỏi căn phòng.

Trong hành lang, ông gặp bà Bonacieux vẫn đang đứng đợi.

Bà ta dẫn ông ra khỏi điện Louvre, cũng vẫn với những cẩn trọng và cả niềm hạnh phúc nữa.

Chú thích:
(1) Anne Autriche: con gái vua Philippe III Tây Ban Nha, vợ Louis XIII. nhiếp chính khi con bà là Louis XIV lên ngôi còn nhỏ, cùng với thủ tướng Mazarine mà vai trò giống như Giáo chủ Richelieu thời vua cha Louis XIII.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 13

Ông Bonacieux

Trong mọi chuyện vừa xảy ra, có một nhân vật, mặc dầu trong tình thế không an toàn, lại không được quan tâm mấy, đó là ông Bonacieux, kẻ từ đạo đáng kính của những âm mưu chính trị và tình yêu đan xen nhau chặt chẽ trong cái thời buổi vừa rất hiệp sĩ vừa rất phong tình này.

May sao, chúng tôi đã hứa không bỏ quên ông ta.

Bọn sai nha đã bắt giữ ông rồi dẫn thẳng đến ngục Bastille, ở đó họ đưa ông còn đang run sợ đến trước một tiểu đội lính đang nhồi thuốc vào súng hỏa mai của họ.

Từ chỗ đó, ông lại bị đưa đến một hầm nửa ngầm dưới đất và bị bọn dẫn đi chửi bới thô tục nhất, đối xử dã man nhất. Bọn cảnh vệ thấy ông chẳng phải một nhà quý tộc do đó, chúng đối xừ với ông như kẻ ăn mày thực thụ.

Khoảng nửa giờ sau, một viên lục sự đến chấm dứt những trò tra khảo, nhưng không chấm dứt những mối lo lắng của ông khi ra lệnh dẫn ông vào phòng hỏi cung. Thường thường người ta hỏi cung tù nhân ngay tại nhà họ, nhưng với ông Bonacieux, họ không mất công làm theo cung cách ấy.

Hai tên lính gác túm lấy ông hàng xén, lôi ông qua một cái sân, rồi lôi vào một hành lang có ba lính tuần tra, mở một chiếc cửa, và đẩy ông vào một phòng thấp, ở đó đồ đạc chỉ có mỗi cái bàn, một cái ghế và một viên đồn trưởng cảnh sát. Viên đồn trưởng đang ngồi ở ghế và hý hoáy viết trên bàn.

Hai tên gác dẫn tù nhân đến trước cái bàn. Viên đồn trưởng ra hiệu cho họ đi xa ra khỏi tần nghe rõ tiếng nói.

Viên cảnh sát này cho tới lúc đó vẫn cắm cúi vào đống giấy tờ, bây giờ mới ngẩng đầu lên xem phải làm việc với ai. Đó là một con người mặt quằm quặm, mũi nhọn, gò má vàng và gồ cao, mắt nhỏ nhưng soi mói và lanh lợi, vẻ mặt vừa giống chồn, vừa giống cáo. Đầu hắn thò ra khỏi chiếc áo đen rộng lắc lư trên cái cổ dài ngoẵng, hơi giống như một con rùa thò đầu ra khỏi mai.

Hắn bắt đầu bằng việc hỏi ông Bonacieux tên, họ, tuổi, nghề nghiệp và chỗ ở.

Bị cáo trả lời ông tên là Jắc Misen Bonacieux, năm mốt tuổi, chủ hàng tạp hóa đã nghỉ buôn, ở số nhà 11, phố Phu đào huyệt.

Đến đây, đáng lẽ tiếp tục thẩm vấn ông, hắn lại làm một bài diễn văn dài dòng về mối nguy đối với gã thị dân ngu tối can dự vào những việc công. Hắn còn làm phức tạp thêm phần mào đề bằng việc phô trương quyền lực và hành động của Giáo chủ, vị Thủ tướng không ai sánh nổi, vị Thủ tướng vượt xa những vị trước đây, một tấm gương của những Thủ tướng sau này. Những hành động và quyền lực của Thủ tướng mà không ai chống đối không bị trừng phạt.

Sau phần hai của bài diễn văn, găm con mắt diều hâu vào ông Bonacieux khốn khổ, hắn giục ông suy nghĩ về mức nghiêm trọng tình thế của ông.

Ông đã nghĩ trước cả rồi. Ông nguyền rủa cái khoảnh khắc mà ông De la Porte có ý định gả cho ông cô con gái đỡ đầu, và nhất là cái khoảnh khắc cô con gái đỡ đầu đó được nhận làm người lo khăn áo cho Hoàng hậu.

Điều căn bản trong tính cách của ông Bonacieux là tính ích kỷ sâu xa hòa lẫn tính keo cú bần tiện, trộn thêm tính hèn nhát cực điểm. Tình yêu người vợ trẻ gợi cho ông là một tình cảm hoàn toàn thứ yếu, không thể nào chống nổi những tình cảm bẩm sinh mà chúng ta vừa liệt kê ra.

Bonacieux quả có suy nghĩ về những gì người ta vừa nói với ông ta.

- Nhưng thưa ông đồn trưởng - Ông lạnh lùng nói - Ông hãy tin chắc là tôi biết và tôi đánh giá cao hơn bất cứ ai, tài đức của Đức ông bất khả so sánh, mà chúng ta có vinh dự được ngài cai trị.

- Thật ư? - Viên đồn trưởng hỏi bằng vẻ nghi ngờ - nhưng nếu như thực sự như vậy, làm sao ông lại ở nực Bastille?

- Làm sao tôi ở đây hoặc đúng hơn tại sao tôi ở đây? - Bonacieux đáp - đó là điều tôi hoàn toàn không thể nói được với ông bởi vì bản thân tôi, tôi cũng chẳng hiểu gì. Nhưng có điều chắc chắn không phải vì đã cố ý xúc phạm Đức Giáo chủ.

- Song ông phải mắc một hình tội chứ, vì ở đây ông bị cáo buộc tội phản bội lớn.

- Phản bội lớn! - Bonacieux hoảng hồn kêu lên - Phản bội lớn! Và làm sao ông lại muốn một chủ hàng tạp hóa khốn khổ ghét bọn giáo phái Canvanh và thâm thù bọn Tây Ban Nha lại bị cáo buộc tội phản bội lớn được? Xin hãy nghĩ kỹ đi, thưa ông việc ấy thực tế là không thể được.

Viên đồn trưởng vừa nói vừa nhìn bị cáo như thể đôi mắt ti hí của hắn có khả năng đọc sâu trong trái tim người khác.

- Ông Bonacieux ông có một bà vợ chứ?

- Vâng thưa ông - Ông chủ hàng xén trả lời mà người cứ run hết lên, cảm thấy đến đây mọi việc sắp trở nên rắc rối - nghĩa là tôi đã từng có một người vợ.

- Thế nào? Ông đã từng có một người vợ ư? Vậy ông đã làm thế nào về việc này, nếu như ông không có nữa.

- Người ta đã bắt cóc mất của tôi, thưa ông.

- Người ta đã bắt cóc mất của ông? Viên đồn trưởng nói - Lại thế nữa!

Bonacieux cảm thấy ở cái tiếng "Lại thế nữa!", mọi cái mỗi lúc một rắc rối hơn.

- Người ta đã bắt cóc vợ ông? Viên đồn trưởng lặp lại - và ông có biết người nào đã phạm tội bắt cóc ấy không?

- Tôi tin là biết hắn.

- Hắn là ai?

- Thưa ông đồn trưởng, tôi không khẳng định gì hết mà chỉ nghi ngờ thôi.

- Ông nghi ngờ ai? Nào, cứ trả lời béng ra.

Ông Bonacieux rơi vào tình trạng hết sức bối rối. Chối hết hay nói hết ra đây? Chối hết, người ta có thể tưởng là mình biết quá nhiều không dám thú nhận. Nói hết chứng tỏ có thiện chí. Cho nên ông quyết định nói hết. Ông nói:

- Tôi ngờ một người cao lớn, tóc nâu, dáng vẻ kiêu kỳ, hoàn toàn ra dáng một vị đại vương tôn. Hắn đã theo dõi chúng tôi nhiều lần, hình như thế, khi tôi đợi vợ tôi ở trước cửa trạm gác điện Louvre để đưa vợ tôi về nhà.

Viên đội trưởng hình như tỏ ra lo ngại hỏi:

- Và tên hắn?

- Ồ, về tên hắn, tôi chẳng biết tí nào, nhưng nếu bao giờ gặp hắn, tôi nhận ra hắn ngay, xin trả lời ông như vậy, dù cho hắn đứng lẫn trong hàng ngàn người khác.

Trán viên đồn trưởng sa sầm lại:

- Ông bảo, lẫn trong ngàn người ông cũng nhận ra?

Nghĩa là ông Bonacieux thấy đã trót lỡ lời, lặp lại "nghĩa là".

- Ông đã trả lời rằng ông sẽ nhận ra hắn - viên đồn trưởng nói - tốt lắm, hôm nay tạm thế đã. Trước khi chúng ta đi xa hơn, cần để ai đó được báo trước rằng ông biết tên bắt cóc vợ ông.

- Nhưng tôi không nói với ông là tôi quen biết hắn! - Ông Bonacieux thất vọng kêu lên - Tôi đã nói với ông trái lại…

- Giải tù nhân đi - Viên đồn trưởng bảo hai người gác.

- Và giải nó đến đâu? - Viên lục sư hỏi.

- Vào ngục tối.

- Vào cái nào?

- Ôi, chúa ơi, cái nào chẳng được, miễn là khóa chặt vào - Viên đồn trưởng thản nhiên trả lời khiến ông Bonacieux tội nghiệp hãi hùng đến xương tủy.

Than ôi, than ôi! Ông tự nhủ, bất hạnh treo trên đầu ta rồi.

Vợ ta chắc đã mắc một tội khủng khiếp. Họ tin ta là kẻ đồng mưu, và sẽ trừng phạt ta cùng với nàng. Chắc nàng đã nói, đã thú nhận đã nói hết với ta. Đàn bà mà. Làm gì chẳng yếu đuối!

Một hầm tối, hầm nào chẳng được? Thế đấy. Vèo một cái đã một đêm. Và ngày mai, vào bánh nghiến, lên giá treo cổ? Ôi! Chúa ơi, Chúa ơi! Xin hãy thương con?

Chẳng thèm nghe một chút những lời than khóc của ông Bonacieux, vả lại họ đã quá quen với những lời than khóc, hai tên gác tù nắm lấy tay ông, lối đi, trong khi ấy, viên đồn trưởng viết vội vã một bức thư mà viên lục sự đang đợi mang đi.

Bonacieux không nhắm mắt nổi, không phải vì hầm tối quá khó chịu, mà vì những lo lắng quá lớn. Ông ta ngồi suốt đêm trên ghế đẩu, nghe tiếng động nhỏ cũng giật bắn người và khi những tia nắng đầu tiên lọt vào căn hầm, rạng đông đối với ông cũng nhuộm màu tang tóc.

Bất thình lình, ông nghe tiếng mở khóa, ông giật bắn người lên hãi hùng. Ông tưởng người ta đến tìm ông để đưa ông lên đoạn đầu đài. Vì vậy, khi nhìn ra chỉ thấy đơn thuần viên đội tưởng và viên lục sự, ông suýt nữa đã nhảy lên ôm lấy cổ họ.

- Việc của ông trở nên quá phức tạp từ tối hôm qua đấy, ông bạn tử tế ạ - viên đồn trưởng bảo ông - và tôi khuyên ông nói hết sự thật, bởi vì chỉ có sự ăn năn hối hận của ông mới có thể làm nguôi cơn giận dữ của Giáo chủ.

- Nhưng tôi sẵn sàng nói hết mà - Ông Bonacieux kêu lên - Ít ra cũng tất cả những gì tôi biết. Ông cứ hỏi đi, tôi yêu cầu ông đấy!

- Trước hết! vợ ông ở đâu?

- Nhưng một khi tôi đã nói với ông, người ta đã bắt cóc vợ tôi.

- Phải, nhưng từ năm giờ chiều hôm qua, nhờ có ông, bà ta đã trốn thoát.

- Vợ tôi đã trốn thoát? - Bonacieux kêu lên - Ôi, con khốn nạn!

- Thưa ông, nếu nó trốn thoát, đó không phải lỗi của tôi. Tôi xin thề với ông đấy.

- Vậy lúc đó ông làm gì tại nhà D' Artagnan láng giềng của ông, và ông đã có một cuộc nói chuyện lâu dài với anh ta cả ngày hôm ấy?

- À, vâng, thưa ông đồn trưởng, vâng đúng như thế và tôi thú nhận tôi đã nhầm. Tôi đã có mặt tại nhà ông D' Artagnan.

- Mục đích của cuộc thăm viếng ấy là gì?

- Là yêu cầu ông ta giúp tôi tìm lại vợ tôi. Tôi tưởng là tôi có quyền đòi lại vợ tôi như vậy. Có vẻ như tôi đã nhầm và tôi xin các ông tha lỗi.

- Thế D' Artagnan đã trả lời thế nào?

- Ông D' Artagnan hứa giúp tôi. Nhưng tôi nhận ra ngay ông ta đã phản tôi.

- Ông lừa gạt công lý rồi! Ông D' Artagnan đã có một giao ước với ông, và thể theo giao ước, ông ta đã đánh đuổi các nhân viên cảnh sát đã bắt giữ vợ ông rồi giấu biến vợ ông đi.

- Ông D' Artagnan đã cuỗm vợ tôi? Nhưng là ông bảo tôi đấy nhé?

- May sao ông D' Artagnan lại trong tay chúng tôi, và ông sắp được đối chất với ông ta.

- Chà, thật tình - tôi không mong gì hơn - Bonacieux kêu lên, tôi sẽ không bực mình vì gặp lại người quen đâu.

- Đưa ông D' Artagnan vào! - Viên đồn trưởng bảo hai tên gác.

Hai tên gác đưa Athos vào.

- Ông D' Artagnan - Viên đồn trưởng nói với Athos - Ông hãy khai điều gì đã diễn ra giữa ông với ông này.

- Nhưng… - Bonacieux kêu lên - Đây không phải ông D' Artagnan!

- Sao! Không phải ông D' Artagnan ư? - Viên đồn trưởng kêu lên.

Ông Bonacieux trả lời:

- Không một chút nào.

- Thế ông này tên là gì?

- Tôi không thể nói được, tôi đâu có biết ông ta.

- Thế nào? Ông không quen biết ông ta?

- Không.

- Ông chưa bao giờ gặp ông ta?

- Có chứ. Nhưng tôi không biết ông ấy tên là gì.

- Tên ông? - Viên đồn trưởng hỏi.

- Athos - Chàng ngự lâm quân trả lời.

Nhưng đó đâu phải một cái tên người, đó là một cái tên núi(1) - Tên thẩm vấn khốn khổ bắt đầu điên đầu kêu lên:

- Đấy là tên tôi - Athos bình tĩnh trả lời.

Nhưng ông đã nói ông tên là D' Artagnan?

- Vâng, chính ông.

- Có nghĩa là người ta nói với tôi: "ông là ông D' Artagnan?".

- Tôi đã trả lời: "ông tin vậy à?". Bọn lính canh giữ tôi kêu ầm lBn họ tin chắc như vậy. Tôi chẳng buồn làm phật ý họ. Vả lại, có thể tôi nhầm.

- Này ông, ông lăng mạ sự tôn nghiêm của công Iý đó.

- Không chút nào, - Athos bình tĩnh nói.

- Ông là ông D' Artagnan?

- Đấy, ông lại nói thế rồi.

Đến lượt ông Bonacieux la lên:

- Nhưng, tôi đã nói với ông, thưa ông đồn trưởng. Không có một chút nghi ngờ nào nữa đâu. Ông D' Artagnan là khách thuê nhà của tôi, tôi phải biết ông ta chứ, dù cho ông ta không trả tiền thuê nhà cho tôi, ông D' Artagnan là một người trẻ tuổi khoảng độ mười chín thôi, còn ông này ít nhất cũng ba mươi rồi. Ông D' Artagnan ở trong đội cận vệ của ông des Essarts, còn ông đây là ngự lâm quân của ông De Treville. Hãy nhìn đồng phục, thưa ông đồn trưởng, ông nhìn đồng phục xem.

- Đúng thế - Viên đồn trưởng lẩm bẩm - Mẹ kiếp đúng thế!

- Đúng lúc đó, cánh cửa mở tung và một phái viên do một tên gác cổng ngục Bastille dẫn vào trao một bức thư cho viên đội trưởng.

- Ôi! Con khốn nạn! - viên đội trưởng kêu lên.

- Sao thế? ông bảo sao? Ông nói ai vậy. Tôi hy vọng không phải vợ tôi chứ!

- Trái lại, chính mụ! Vụ việc của ông khá đấy?

- Thế ư!- Ông chủ tạp hóa nổi khùng nói to - Thưa ông, xin ông vui lòng nói cho tôi hay làm sao vụ việc của tôi lại có thể xấu đi với tôi về những sự mà vợ tôi làm, trong khi tôi đang ở trong tù!

- Bởi vì những việc mà vợ ông làm là chuỗi tiếp nối của một kế hoạch được sắp xếp giữa các người, một kế hoạch ma quỷ.

- Tôi xin thề với ông, thưa ông đồn trưởng, ông đang đi sâu vào một sự nhầm lẫn to nhất đấy tôi chẳng biết thứ chết tiệt gì về những điều vợ tôi làm, tôi hoàn toàn xa lạ với việc vợ tôi đã làm, nếu nó làm những chuyện xằng bậy, tôi sẽ từ bỏ nó, phản đối nó, nguyền rủa nó.

- Thế đấy! - Athos nói với viên đồn trưởng - nếu ông không cần tôi ở đây nữa, hãy trả tôi về đâu đó. Thật phiền quá, cái ông Bonacieux của ông.

Viên đội trưởng ra hiệu hất tay về phía Athos lẫn Bonacieux.

Giải cả hai về hầm tối, và phải canh gác nghiêm ngặt hơn bao giờ hết.

- Tuy nhiên, - Athos nói vẫn với vẻ bình thản thường tình - nếu các ông có chuyện với ông D' Artagnan, tôi không rõ lắm tôi có thể thế chỗ ông ta với tư cách gì?

Viên đồn trưởng hét lên:

- Hãy làm như tôi bảo - Bí mật tuyệt đối! Hiểu không?

Athos nhún vai đi theo bọn gác, còn ông Bonacieux vừa đi vừa thốt ra những lời than khóc đến hùm beo cũng phải mủi lòng.

Ông chủ tạp hóa bị dẫn trở về hầm tối đêm trước và bị để mặc ông ở đó suốt ngày. Suốt ngày Bonacieux khóc như một ông chủ tạp hóa thực thụ vì như ông đã nói với chúng ta, ông đâu phải giới cầm gươm.

Đến tối, khoảng chín giờ, vào lúc ông quyết định sắp đi nằm, thì nghe thấy tiếng bước chân ngoài hành lang. Những bước chân đến gần hầm tối, cửa mở. Bọn gác đi vào.

- Đi theo tôi - Một viên cai đi sau hai tên gác nói.

- Đi theo ông? Ông Bonacieux la lên - Theo ông vào cái giờ này ư? Và đi đâu thế, Chúa ơi?

- Đến nơi chúng tôi được lệnh dẫn ông đi.

- Nhưng đó không phải là câu trả lời.

- Nhưng đó lại là câu duy nhất chúng tôi có thể trả lời ông.

- Ôi trời ơi, trời ơi, ông chủ tạp hóa lẩm bẩm - lần này thì toi thật rồi?

Và ông đi theo như một cái máy, không thể cưỡng lại.

Ông đi vẫn theo cái hành lang đã từng đi, qua cái sân thứ nhất, rồi một khung nhà và cuối cùng đến cửa sân trước, ông thấy một cỗ xe có bốn lính bảo vệ cưỡi ngựa ở quanh xe. Họ đưa ông lên xe, viên cai ngồi sau lưng ông, người ta khóa cửa xe lại và cả hai như đang trong một nhà tù lưu động.

Cỗ xe bắt đầu chuyển động, chậm chạp như một xe tang.

Qua cửa lớn đã khóa móc, người tù nhìn thấy nhà cửa, hè đường, tất cả chỉ có thế. Nhưng là người Paris chính cống, Bonacieux nhận ra mỗi phố qua các cột mốc, biển hiệu, đèn lồng.

Lúc đến Thánh Pôn, nơi hành quyết các tử tù của ngục Bastille, ông suýt ngất và làm dấu Thánh hai lần. Ông cứ tưởng là cỗ xe hẳn dừng lại ở đây. Tuy nhiên nó lại vượt qua.

Xa hơn một đoạn, ông ta lại hết hồn hết vía một lần nữa, cho là lúc xe đi men quanh nghĩa địa Thánh Giàng, nơi chôn những tội phạm quốc gia. Điều duy nhất khiến ông hơi yên tâm là trước khi chôn họ, thường người ta chặt đầu họ đã, còn đầu ông vẫn ở trên hai vai. Nhưng khi xe đi theo đường Grevơ, ông nhận ra những mái nhọn của tòa thị chính, và xe đi vào cái cổng tò vò, ông tin tất cả với ông đã hết rồi. Ông muốn xưng tội với viên cai, và viên này từ chối, ông kêu lên những tiếng kêu đến là thảm thiết khiến viên cai phải dọa nếu ông cứ tiếp tục làm điếc tai hắn như thế hắn sẽ nhét giẻ vào mồm ông.

Lời đe dọa làm ông Bonacieux yên tâm đôi chút. Nếu người ta hành quyết ông ở Grevơ, làm gì phải mất công bịt miệng ông lại, vì cũng gần tới nơi hành quyết rồi. Quả nhiên chiếc xe đi qua cái bãi định mệnh mà không dừng lại. Chỉ còn phải sợ mỗi bãi Thập Tự - Trahoa nữa thôi. Chiếc xe lại đi đúng về phía đó.

Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa. Chính Thập tự - Trahoa là nơi hành quyết những phạm nhân hạ lưu. Bonacieux đã tự đắc tưởng mình xứng với Grevơ hay Thánh Pôn kia.

Nhưng đường đời và sế kiếp của ông lại sắp kết thúc ở Thập tự - Trahoa. Ông còn chưa thể nhìn thấy chiếc thập tự bất hạnh đó, nhưng đã cảm thấy như là nó đã đến trước mặt ông. Khi chỉ còn cách đó độ hai mươi bước, ông nghe tiếng lao nhao và cỗ xe dừng lại. Thật quá sức ông Bonacieux khốn khổ có thể chịu đựng, vì ông đã phải trả qua những cơn xúc động nối tiếp nhau nghiến nát ông. Ông thốt lên một tiếng rên yếu ớt tưởng như tiếng thở hắt ra của một kẻ sắp lìa đời, rồi ngất đi.

Chú thích:
(1) Tên núi ở Makedonia để tưởng nhớ đến các tu viện.

BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM
Chương 14

Con người ở Măng

Cái đám đông tụ tập đó không phải để chờ xem một người sắp bị treo cổ, mà xem một kẻ thắt cổ. Xe dừng lại một lát rồi tiếp tục lăn bánh, đi qua đám đông, đi vào phố Thánh Ônôrê, rẽ sang phố Lũ trẻ ngoan và dừng lại trước một cái cửa thấp.

Cửa mở hai lính gác dìu Bonacieux, có viên cai đỡ rồi đẩy ông vào một lối đi, lôi ông trèo lên một cầu thang và để ông trong một phòng chờ.

Tất cả những động tác đó được ông thực hiện như một cái máy.

Ông đi như đi trong mơ, như mọi vật như nhìn qua sương mù, tai ông tiếp nhận các âm thanh mà không hiểu là gì. Nếu người ta hành quyết ông lúc đó chắc ông cũng chẳng làm nổi một cử chỉ nào phản vệ, chắc cũng chẳng thốt ra một tiếng kêu để cầu xin lòng thương.

- Ông ngồi nguyên như thế trên một chiếc ghế dài, tựa lưng vào tường, hai tay thõng xuống, đúng chỗ mấy tên gác đã đặt ông xuống.

- Tuy nhiên vì nhìn quanh mình, ông chẳng thấy vật gì đáng sợ, vì chẳng có gì chỉ ra ông đang gặp nguy hiểm thật sự, vì chiếc ghế dài đệm lót tươm tất, tường được bọc loại da đẹp Coócđu, những tấm rèm Đamát của Syri màu đỏ được ghim giữ bằng những móc vàng bồng bềnh trước cửa sổ, dần dần ông hiếu ra chẳng qua là mình quá sợ và ông đảo đầu mình cho thư thái.

Chẳng thấy ai phản đối, ông đánh bạo hơn một chút, liều đưa một chân lên, rồi nốt chân kia. Cuối cùng, chống hai tay, ông vươn lên khỏi ghế rồi đứng thẳng dậy.

- Đúng lúc ấy, một viên sĩ quan mặt mày dễ chịu, vén mở rèm cửa, tiếp tục trao đổi thêm vài lời với người đang ở phòng bên, rồi quay lại phía người tù. Ông ta nói:

- Chính ông có tên là Bonacieux?

- Vâng, thưa ông sĩ quan - Ông hàng xén sợ hết hồn ấp úng - xin được hầu ông.

- Vào đi!

Viên sĩ quan tránh ra cho ông hàng xén đi qua. Ông này nhất mực tuân theo đi vào căn phòng hình như người ta đang đợi ông.

Đó là một căn phòng lớn, tường treo đầy binh khí tấn công và phòng thủ, khép kín và ngột ngạt, mới cuối tháng chín mà bên trong đã đốt lò sưởi. Một chiếc bàn vuông kê ở giữa phòng, trên đầy sách và giấy tờ, một tấm bản đồ lớn của thành phố La Rochelle đã được mở sẵn.

Đứng trước lò sưởi là một người đàn ông tầm vóc trung bình, vẻ mặt kiêu hãnh, mắt sắc, trán rộng, bộ mặt choắt như dài thêm ra vì bộ râu chòm, phía trên là đôi ria mép vểnh lên cho dù con người đó mới khoảng ba sáu ba bảy tuổi, tóc, ria và râu chòm đã hoa râm. Con người đó, không đeo gươm, vẫn đầy đủ dáng dấp con nhà chinh chiến, và đôi giầy da trâu còn phủ nhẹ lớp bụi chỉ rõ ông ta trên lưng ngựa cả ngày.

Con người đó chính là Armand Jean Duplessis - Giáo chủ Richelieu, không phải như người ta giới thiệu với chúng ta, còng như một ông già, đau khổ như một kẻ từ vì đạo, thân hình tiều tụy, nói không ra hơi, vùi mình trong một chiếc ghế bành lớn như trong một nấm mồ đào trước, chỉ còn sống bằng sức mạnh thiên tài của mình và chỉ còn duy trì nổi cuộc đấu tranh chống lại châu Âu bằng việc áp dụng bất di bất dịch tư tưởng của ông.

Nhưng con người ông thực sự vào thời kỳ đó là như thế này, một kỵ sĩ thiện nghệ và phong tình, có thể đã suy yếu nhưng được nâng đỡ bởi một sức mạnh tinh thần tạo nên ở ông một trong những con người phi thường nhất đã từng tồn tại. Sau khi ủng hộ Quận công De Nevơ ở công quốc Măngtu, sau khi chiếm Nimơ, Cátxtrơ và Uyzet, cuối cùng ông đang chuẩn bị đuổi quân Anh khỏi dảo Rê và bao vây La Rochelle.

Thoạt nhìn, chẳng có gì chứng tỏ đây chính là Giáo chủ và những ai chưa từng biết mặt ông khó có thể đoán ra ai là người đang ở trước mặt mình.

Ông chủ tạp hóa tội nghiệp cứ đứng ngây ra ở cửa, trong khi đôi mắt của con người vừa miêu tả đó, nhìn xoáy vào ông và như thể muốn lọt sâu vào tận quá khứ của ông. Sau một phút yên lặng. Giáo chủ hỏi:

- Đây là cái ông Bonacieux ấy ư?

Viên sĩ quan trả lời:

- Vâng, thưa Đức ông.

- Tốt lắm, đưa cho ta những giấy tờ ấy rồi mặc chúng ta.

Viên sĩ quan lấy trên bàn tập giấy tờ đã chỉ, đưa lại cho Giáo chủ, cúi rạp mình xuống đất rồi đi ra.

- Ông Bonacieux nhận ra những giấy tờ ấy là biên bản thẩm vấn ông ở ngục Bastille. Thỉnh thoảng người đứng ở lò sưởi lại ngước mắt lên khỏi những ghi chép và như hai con dao găm thọc sâu vào trong tim ông hàng xén.

Đọc khoảng mươi phút và mươi phút quan sát, Giáo chủ quyết định vào việc. Ông lẩm bẩm: "Cái thớ kia thì âm mưu cái gì nhưng mặc kệ, cứ phải xem xem", rồi chậm rãi nói:

- Ông bị buộc tội đại phản nghịch.

- Thưa Đức ông, đấy, người ta cứ bảo tôi thế đấy - Bonacieux kêu lên và cũng gọi theo viên sĩ quan bằng danh hiệu Đức ông - nhưng tôi xin thề với Đức ông, tôi chẳng biết gì cả.

Giáo chủ cố nén một nụ cười.

- Ông đã âm mưu cùng với vợ ông, với phu nhân De Chevreuse và với Huân tước Quận công De Buckingham.

- Thưa Đức ông - Ông hàng xén trả lời - quả là tôi có nghe thấy vợ tôi nói ra những tên ấy.

- Và trong trường hợp nào?

- Nó nói rằng Giáo chủ Richelieu đã dụ Quận công De Buckingham đến Paris để làm hại ông ta và với cả Hoàng hậu.

- Nó nói như thế? - Giáo chủ nói to dữ dội.

- Vâng, thưa Đức ông, nhưng tôi, tôi bảo rằng nó nghĩ như vậy là tầm bậy, rằng Giáo chủ chí tôn không thể…

- Câm miệng đi, ông là đồ súc sinh.

- Thưa Đức ông, nhưng đúng là vợ tôi đã trả lời tôi như thế.

- Ông có biết ai bắt cóc vợ ông không?

- Không, thưa Đức ông.

- Tuy nhiên ông có những nghi ngờ chứ?

- Vâng, thưa Đức ông, nhưng những nghi ngờ ấy có vẻ làm phật ý ông đồn trưởng, và tôi không còn nghi ngờ nữa.

- Vợ ông đã trốn thoát, ông biết chứ?

- Không, thưa Đức ông, tôi chỉ biết điều đó khi đã bị tống vào tù, và cũng là do ông đồn trưởng, một người dễ mến cho biết thôi ạ.

Giáo chủ cố nén nụ cười thứ hai.

- Vậy là ông không biết vợ ông ra sao từ khi trốn thoát?

- Tuyệt đối không, thưa Đức ông, nhưng chắc nó đã trở lại điện Louvre. Lúc một giờ sáng, nó vẫn còn chưa về đó.

- Lạy Chúa! Vậy bây giờ nó ra sao rồi?

- Cứ bình tĩnh, rồi sẽ biết thôi, người ta không giấu gì Giáo chủ cả, Giáo chủ biết tất.

- Thưa Đức ông, trong trường hợp ấy, liệu Đức ông có tin là Giáo chủ sẽ bằng lòng nói cho tôi biết vợ tôi ra sao không?

- Có thể, nhưng trước hết ông cần phải thú nhận tất cả những gì ông biết liên quan đến những mối liên hệ của vợ ông với bà De Chevreuse đã.

- Nhưng thưa Đức ông, tôi chẳng biết gì cả, tôi chẳng bao giờ gặp bà ta cả.

Trước đây khi ông đi đón vợ ông ở Louvre, vợ ông có về thẳng nhà không?

- Hầu như không bao giờ, nó có việc buôn bán với dân hàng vải và tôi đưa nó đến chỗ họ.

- Và có bao nhiêu dân buôn vải?

- Hai, thưa Đức ông.

- Họ cư trú ở đâu?

- Một người ở phố Vôgira, người kia ở phố Đàn Thụ cầm.

- Ông có vào nhà họ cùng với vợ ông không?

- Không bao giờ, thưa Đức ông, tôi đợi ở ngoài cửa.

- Thế vợ ông mượn cớ gì với ông để vào đó một mình?

- Nó chẳng vin cớ gì cả. Nó bảo tôi đợi và tôi đợi thôi.

- Ông là một ông chồng dễ tính đấy, ông Bonacieux thân mến ạ! - Giáo chủ nói.

Ông hàng xén tự nhủ: "Đức ông gọi mình bằng ông bạn thân mến. Mẹ kiếp! Mọi việc khá rồi!".

- Ông có nhận ra cửa các nhà ấy không?

- Có chứ.

- Ông biết số nhà chứ?

- Vâng.

- Số bao nhiêu?

- Số 25 ở phố Vôgira, số 75 ở phố Đàn Thụ cầm.

- Tốt lắm - Giáo chủ nói.

Vừa nói, ông vừa cầm một chuông nhỏ bằng bạc và rung chuông. Viên sĩ quan vào và nói nhỏ:

- Đi tìm Rochefort cho ta, bảo đến ngay tức khắc, nếu ông ta đã trở về.

- Bá tước ở ngoài kia - viên sĩ quan nói - Ông ấy yêu cầu được thưa chuyện ngay với Đức ông tối thượng.

- Vậy bảo ông ấy vào ngay đi? - Richelieu vội vã nói.

Viên sĩ quan lao vụt ra ngoài, như mọi người hầu cận thường nhanh nhảu như vậy để tuân lệnh Giáo chủ.

"Với Đức ông tối thượng ư!" - Ông Bonacieux trợn tròn mắt lẩm bẩm.

Viên sĩ quan biến đi chưa được năm giây, cửa đã mở, và một nhân vật mới bước vào.

- Chính hắn? - Bonacieux kêu lên.

- Hắn nào? - Giáo chủ hỏi.

- Kẻ đã bắt cóc vợ tôi.

Giáo chủ rung chuông lần thứ hai. Viên sĩ quan lại hiện ra.

- Hãy giao lại người này cho hai tên lính gác và bảo đợi lại gọi.

- Không, thưa Đức ông! Không, không phải hắn! - Bonacieux kêu lên - Không, tôi nhầm, đây là một người khác chẳng giống hắn chút nào! Quý ông đây là một người lương thiện.

- Mang tên súc sinh này đi! - Giáo chủ nói.

Viên sĩ quan nắm lấy cánh tay ông Bonacieux lôi ra phòng đợi ở đó ông lại gặp hai tên gác ngục.

Nhân vật mới đến sốt ruột đưa mắt nhìn theo Bonacieux.

- Họ gặp nhau rồi - Người này vội vã đến gần Giáo chủ và nói.

- Ai? - Đức ông tối thượng hỏi.

- Bà ta và hắn.

- Hoàng hậu và gã Quận công! - Richelieu kêu lên.

- Vâng.

- Và ở đâu?

- Ở Louvre.

- Ông chắc chứ?

- Hoàn toàn chắc ạ.

- Ai nói với ông?

- Bà De Lonoa, người toàn tâm toàn ý với Đức ông như ngài đã biết đấy.

- Tại sao bà ta không nói sớm hơn?

- Có thể hoặc vì tình cờ hoặc nghi ngờ, Hoàng hậu đã cho bà De Xuyadít ngủ ở phòng bà ta, và canh phòng bà ta suốt cả ngày.

- Hay lắm, chúng ta thua rồi. Hãy cố phục thù thôi.

- Tôi xin toàn tâm toàn ý giúp Đức ông, xin Ngài hãy bình tĩnh.

- Việc đó xảy ra như thế nào?

- Vào lúc mười hai giờ rưỡi đêm. Hoàng hậu đang cùng với các thị nữ của mình.

- Ở đâu?

- Trong phòng ngủ của Hoàng hậu.

- Được lắm.

- Đúng lúc ấy có người đến trao cho Hoàng hậu chiếc khăn tay của người thị nữ lo việc xiêm áo…

- Sau đó?

- Hoàng hậu lập tức tỏ ra hết sức xúc động, mặc dầu đã thoa phấn hồng lên, mặt bà vẫn tái đi.

- Rồi sao nữa? Sao nữa?

- Thế nhưng Hoàng hậu vẫn đứng dậy và lạc giọng bảo: "Thưa các bà, xin đợi tôi mươi phút, tôi sẽ quay lại". Và bà mở cửa khuê phòng rồi đi ra.

- Tạo sao bà De Lanoa không đến báo ngay cho ông?

- Lúc ấy còn chưa chắc điều gì cả. Vả lại, Hoàng hậu đã nói: "Xin các bà hãy đợi tôi", bà ấy không dám trái lệnh Hoàng hậu.

- Và Hoàng hậu ra khỏi phòng trong thời gian bao lâu?

- Bốn nhăm phút.

- Không một thị nữ nào theo hầu?

- Chỉ có mỗi Étxlêphania nương tử thôi.

- Tiếp đó Hoàng hậu có trở lại không?

- Có, nhưng để lấy một cái tráp nhỏ bằng gỗ hồng đào nạm vàng tên tắt của bà rồi lại ra ngay.

- Và sau đó khi trở lại bà ấy có mang cái tráp về không?

- Không.

- Bà De Lanoa có biết trong tráp đựng gì không?

- Có những nút kim cương Hoàng thượng tặng Hoàng hậu.

- Và bà ấy trở về không có cái tráp ấy?

- Vâng.

- Bà De Lanoa cho rằng bà ta đã trao cho Buckingham ư?

- Bà ấy tin chắc như thế.

- Sao lại thế?

- Suốt ngày hôm ấy, với tư cách thị nữ coi đồ nữ trang của Hoàng hậu, bà Lanoa đã tìm cái tráp, và tỏ ra lo lắng khi không tìm thấy nó, cuối cùng phải hỏi Hoàng hậu.

- Và Hoàng hậu bảo sao?

- Hoàng hậu đỏ bừng mặt lên và trả lời đêm trước làm vỡ một trong những nút đó, và bà đã sai đưa đến người thợ kim hoàn của mình để chữa lại.

- Phải qua đấy, để nắm chắc có đúng như thế hay không.

- Tôi đã qua đấy rồi.

- Thế nào? Người thợ kim hoàn bảo sao?

- Người này bảo chẳng nghe thấy nói gì cả.

- Tốt! Tốt! Rochefort, chưa hỏng hết đâu mà có lẽ… có lẽ mọi việc lại còn tốt đẹp hơn.

- Vấn đề là tôi không nghi ngờ thiên tài của Đức chí thượng…

- Lại không sửa chữa nổi những điều ngu xuẩn của nhân viên của mình, cô phải không?

- Đúng là điều tôi định nói nếu Đức ông để cho tôi nói nốt câu.

- Bây giờ ông có biết nữ Công tước De Chevreuse và Huân tước De Buckingham trốn ở đâu không?

- Không, thưa Đức ông, người của tôi không thể nói cho tôi biết mấy về điều đó.

- Thế mà tôi biết đấy.

- Thưa, chính Đức ông.

- Phải, ít nhất ta cũng không ngờ gì về điều đó. Bọn họ, người ở phố Vôgira số nhà 25, và người kia ở phố Đàn Thụ cầm số 75.

- Đức ông ngài có muốn tôi cho bắt giữ cả hai?

- Sợ sẽ quá muộn, họ sẽ đi mất.

- Không sao, cứ thử xem thế nào.

- Hãy lấy mười cận vệ của ta, và lục soát cả hai nhà.

- Thưa Đức ông, tôi đi đây.

Và Rochefort lao ra ngoài.

- Còn lại một mình, Giáo chủ nghĩ ngợi một lát và rung chuông lần thứ ba. Viên sĩ quan lại hiện ra. Giáo chủ bảo:

- Đem người tù vào đây.

Ông Bonacieux lại được dẫn vào. Giáo chủ ra hiệu cho viên sĩ quan rút lui rồi nghiêm nghị nói:

- Ông đã lừa ta.

- Tôi? - Ông Bonacieux kêu lên - Tôi dám lừa Đức ông ư?

Vợ ông khi đến phố Vôgira và phố Đàn Thụ cầm, không đến nhà mấy người buôn vải.

- Vậy nó đến nhà ai hở trời?

- Nó đến nhà nữ Công tước De Chevreuse và nhà Quận công Buckingham.

Bonacieux nhớ lại tất cả nói:

- Vâng, vâng, đúng vậy. - Đức ông có lý. Nhiều lần tôi đã nói với vợ tôi rằng dân buôn vải mà lại ở những nhà như thế thì lạ thật, những tòa nhà không có biển hiệu, và lần nào vợ tôi cũng chỉ cười trừ.

Rồi Bonacieux cũng quỳ sụp dưới chân Đức ông nói tiếp:

- Chà, thưa Đức ông, ngài chính là Giáo chủ rồi, vị Đại Giáo chủ, con người thiên tài mà cả thế giới phải trọng vọng.

Thắng một kẻ vô danh tiểu tất như Bonacieux là hết sức tầm thường, song không phải Giáo chủ không thấy vui vui trong phút chốc. Rồi, hầu như ngay tức khắc, một ý nghĩ mới nảy ra trong đầu ông, với một nụ cười răn rúm trên môi, ông chìa tay ra cho ông hàng xén và bảo ông ta:

- Đứng dậy đi, ông bạn của ta, ông là một con người tử tế.

- Giáo chủ bắt tay tôi. Tôi bắt tay một vĩ nhân! - Bonacieux kêu lên - Bậc vị nhân gọi tôi là bạn!

- Phải, ông bạn ạ, phải đấy? - Giáo chủ nói bằng cái giọng bậc cha mà đôi khi ông vẫn biết đường dùng, nhưng nó chỉ lừa được những người không biết ông - Và vì ông bị nghi oan, nên thế này nhé, ông phải được đền bù. Cầm lấy! Hãy cầm lấy cái túi một trăm đồng tiền vàng và hãy thứ lỗi cho ta.

- Thưa Đức ông, tôi mà lại thứ lỗi cho Đức ông ư?

Bonacieux do dự chưa dám cầm túi tiền, chắc hẳn sợ rằng món quà vờ vịt đó chỉ là một trò đùa, ông ta nói tiếp:

- Nhưng mà Đức ông được tự do bắt bớ tôi. Đức ông được thả cửa cho tra tấn tôi, được tùy thích cho treo cổ tôi. Đức ông là bậc chúa tể, nhẽ đâu tôi dám nói nửa lời, chứ đừng nói đến câu thứ lỗi của Đức ông. Thưa Đức ông, ngài không nghĩ thế ư?

- Ôi, ông Bonacieux thân mến của ta! Ông tỏ ra quảng đại thế đấy ta biết thế, và ta cảm ơn ông. Vậy thế này đi, ông cầm lấy cái túi này rồi ông đi đi, mà không quá bất bình đấy chứ?

- Thưa Đức ông, tôi ra về, lòng cực kỳ sung sướng.

- Vậy vĩnh biệt, đúng hơn là tạm biệt, bởi ta hy vọng chúng ta sẽ lại gặp nhau.

- Bất cứ khi nào Đức ông muốn, và tôi sẵn sàng đợi lệnh của Đức ngài.

- Sẽ thường xuyên đấy, cứ yên tâm, bởi ta thấy cực kỳ mê ly trong cách nói chuyện của ông.

- Ôi, thưa Đức ông.

- Tạm biệt, ông Bonacieux, tạm biệt!

Và Giáo chủ giơ tay ra hiệu, ông Bonacieux đáp lại bằng việc cúi mình sát đất, rồi ông giật lùi đi ra và khi ra tới phòng đợi.

Giáo chủ nghe thấy ông ta, trong cơn cuồng nhiệt, ráng sức kêu to: "Đức ông muôn năm! Đức ngài muôn năm! Đại Giáo chủ muôn năm!". Giáo chủ mỉm cười nghe sự biểu lộ ồn ào những tình cảm cuồng nhiệt của ông Bonacieux rồi khi tiếng hô của ông ta tắt hẳn ở phía xa, Giáo chủ nói:

- Tốt lắm, từ nay đây là một người sẵn sàng chết vì ta.

Và Giáo chủ chuyển sang khảo sát hết sức chăm chú tấm bản đồ thành La Rochelle, như ta đã nói, được trải rộng trên bàn, rồi lấy bút chì vạch một đường kẻ nơi con đê trứ danh sẽ đi theo và mười tám thâng sau sẽ bịt kín bến cảng của thành phố bị bao vây ông đang chìm sâu trong những suy tư chiến lược thì cửa mở và Rochefort đi vào.

Giáo chủ đứng phắt lên chứng tỏ tầm quan trọng của nhiệm vụ ông trao cho Bá tước, và vội hỏi:

- Thế nào?

- Thế đấy - Ông Bá tước nói - một thiếu phụ chừng hai sáu đến hai tám tuổi và một người đàn ông khoảng ba nhăm đến bốn mươi quả nhiên đã trọ, một người bốn ngày, người kia năm ngày, trong những ngôi nhà mà Đức ông đã chỉ rõ, nhưng người đàn bà đã đi khỏi đêm nay và người đàn ông sáng nay.

- Chính chúng rồi! - Giáo chủ kêu lên và nhìn đồng hồ - Bây giờ, quá muộn để đuổi theo rồi. Nữ Công tước đã ở Tours và Quận công ở Bulônhơn. Phải đuổi kịp họ ở London.

- Đức ông ra lệnh mới thế nào ạ?

- Không được lộ một câu chuyện đã xảy ra. Hoàng hậu phải được an toàn tuyệt đối. Bà ấy không được biết chúng ta biết được bí mật của bà ấy. Bà ấy phải tưởng rằng chúng ta đang điều tra một âm mưu nào đấy. Phái ông chưởng ấn Xêghiê đến chỗ ta.

- Thế còn con người ấy, Đức ông đã làm gì?

Con người nào? - Giáo chủ hỏi.

- Cái tay Bonacieux ấy?

- Ta đã làm tất cả những gì có thể làm. Ta đã biến hắn thành tên gián điệp theo dõi vợ hắn.

Bá tước nghiêng mình với tatư cách người nhận ra tầm siêu việt lớn lao của bậc thầy và đi ra.

Còn lại một mình, Giáo chủ lại ngồi xuống, viết một bức thư, và đóng dấu riêng của mình, rồi lắc chuông. Viên sĩ quan vào lẩn thứ tư.

- Gọi Víttray đến đây cho ta - Ông nói - và bảo hắn chuẩn bị một cuộc hành trình.

Một lát sau, người mà ông yêu cầu đã đứng trước mặt ông, đầy đủ ủng và đinh thúc ngựa.

- Víttray! - Giáo chủ nói - Ông đi thật nhanh đến London. Không được dừng lại giây lát nào ở dọc đường. Đưa thư này cho Milady. Đây là một ngân phiếu hai trăm đồng vàng, ông hãy qua thủ quỹ của ta để lĩnh tiền. Ông sẽ được lĩnh ngần ấy nữa nếu trong sáu ngày quay lại có mặt ở đây và hoàn thành tốt nhiệm vụt ta giao.

Phái viên không trả lời một câu, cúi mình, cầm thư và tấm ngân phiếu hai trăm đồng vàng rồi đi ra.

Đây là nội dung bức thư.

Milady,

Hãy có mặt ở buổi khiêu vũ đầu tiên Quận công De Buckingham tham dự. Ông ta sẽ có trong áo chẽn của mình mười hai nút kim cương, hãy lại gần ông ta và cắt lấy hai viên. Chiếm đoạt được mấy viên kim cương đó, báo cho ta ngay tức khắc.

Thư mục:


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét