THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 51: Lý Quỳ đánh chết Ân Thiên Tích Sài
Tiến bị hãm Cao Đường Châu
Khi đó
Chu Đồng nói với mọi người rằng:
- Nếu
các ngài có lòng cho tôi cùng lên sơn trại, thì xin giết tên Hắc Toàn Phong đi
mới được ...
Lý Quỳ
nghe nói, cáu lên mà rằng:
- À, Anh
định giết tôi sao? Việc này là Tướng lệnh của Tiều Cái, Tống Giang chứ việc gì
đến tôi mà...
Chu Đồng
cũng hăm hăm giận dữ toan xông đến đánh nhau ngay. Hai người kia lại phải túm
vào mà khuyên ngăn mãi.
Chu Đồng
bảo với ba người kia rằng:
- Nếu có
Hắc Toàn Phong ở đó, dẫu chết, tôi cũng không lên sơn trại.
Sài Tiến
nói:
- Cái đó
thì dễ lắm, để Lý Đại Ca ở đây với tôi, còn ba các ông cứ về sơn trại, cho Tiều
Cái, Tống Giang bằng lòng là được rồi.
Chu Đồng
nói:
- Hiện
nay đã xảy ra sự thể như vậy, chắc là Quan Phủ tư giấy về huyện Vận Thành, mà
tróc nã cả nhà tôi, thì làm sao cho đặng?
Ngô Dụng
bảo:
- Xin
ngài cứ an tâm, có lẽ bây giờ Tống Công Minh đã cho đón quý quyến lên sơn trại
rồi đó.
Chu Đồng
nghe nói đến đó, mới hơi thư tâm một chút, Sài Tiến bèn sai đặt tiệc thiết đãi
Chu Đồng cùng Ngô Dụng, Lôi Hoành rồi chiều hôm đó ba người cùng từ tạ mà đi
lên sơn trại, Sài Tiến đóng ba cỗ ngựa, để đưa ba người ra đến cửa quan.
Khi sắp
sửa ra đi, Ngô Dụng gọi Lý Quỳ dặn mà bảo rằng:
- Ngươi
ở nhà Đại Quan Nhân đây, tất phải giữ gìn cẩn thận, không nên ngông ngáo làm
càn, rồi trong một vài tháng nữa, đợi khi Chu Đồng bớt giận, bấy giờ sẽ đón
ngươi về sơn trại, mà mời Đại Quan Nhân đây, sẽ lên nhập đảng một thể.
Lý Quỳ
nghe nói vâng lời bái biệt quân sư. Đoạn rồi Ngô Dụng, Lôi Hoành cùng Chu Đồng
bái biệt Sài Tiến mà cùng nhau đi lên Sơn Bạc. Khi ra khỏi địa phận Thương
Châu, ba người giao ngựa cho trang khách đem về, rồi cùng nhau xuống bộ mà đi.
Được ít lâu về tới hàng rượu Chu Quý, liền sai người lên báo cho sơn trại biết.
Tiều
Cái, Tống Giang nghe báo cả mừng. Dẫn các Đầu Lĩnh dóng trống mở cờ, cùng nhau
ra bến Kim Sa để đón. Ngô Dụng và Lôi Hoành đưa Chu Đồng vào đến bến Kim Sa,
cùng các vị Đầu Lĩnh thi lễ, rồi cùng nhau lên ngựa, đi vào Tụ Nghĩa Sảnh, mà
chuyện trò mọi nỗi hàn huyên.
Chu Đồng
nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Tôi
nay được các ngài có lòng hạ cố cho đón lên đây, thực là cảm ơn vô hạn, song
hiện còn gia quyến ở nhà, nếu nhất lỡ Quan Phủ tư giấy lôi thôi bắt bớ, thì biết
lấy ai mà cứu cho ra mới được?
Tống
Giang cười mà đáp rằng:
- Bà chị
cùng cháu tôi đã đưa lên đây lâu rồi, huynh trưởng còn điều chi mà ngại?
Chu Đồng
hỏi:
- Hiện
nay ở đâu, xin Đầu Lĩnh cho tôi được biết?
Tống
Giang đáp:
- Hiện ở
với thân phụ tôi đó, xin huynh trưởng qua thăm một chút cho được yên tâm.
Nói đoạn
đưa Chu Đồng đến chỗ Tống Thái Công ở, rồi gọi vợ con Chu Đồng ra để cùng nhau
trò chuyện.
Vợ Chu
Đồng nói với chồng rằng:
- Mấy
bữa nay có mấy người đem giấy đến nói rằng: Tiêt Cấp đã nhập đảng ở Lương Sơn,
và giục tôi phải xếp dọn hành lý mà lên đây ngay lập tức. Nhân vậy tôi phải đến
đây, song đợi mãi không thấy Tiết Cấp về đây, nên không biết đầu đuôi ra sao mà
nói.
Bấy giờ
Tống Giang mới đem lời trung trực mà xin lỗi với vợ chồng Chu Đồng, rồi mời Chu
Đồng cùng Lôi Hoành xuống đóng trại ở dưới núi, và nhất diện sai mở tiệc để ăn
mừng.
Bắc Nam
buộc mối thâm tình,
Rồi đây
nước biếc non xanh còn dài,
Cùng
nhau ngang dọc ở đời,
Trăm năm
chỉ thẹn với lời bình sinh.
Nói về
Quan Phủ Thương Châu đêm hôm ấy không thấy cậu ấm về, thì trong lòng lấy làm
nóng nảy lo sợ, liền cho người đi tìm kiếm khắp cả mọi nơi. Đến sáng hôm sau
thấy người về báo, là cậu ấm đã bị giết, và hiện còn bỏ xác ở trong khu rừng
đó.
Quan Phủ
nghe báo như sét đánh ngang tai, lập tức theo đến khu rừng để khám nghiệm. Khi
tới nơi thấy con trai nằm chết ở đó, thì vật mình lăn khóc hồi lâu, rồi sai
người sửa quan để đem chôn. Đoạn rồi tư giấy sang huyện Vận Thành, tư đi các
nơi để dò bắt Chu Đồng. Cách mấy hôm sau thấy công văn huyện Vận Thành tư sang
nói rằng:
- Chu
Đồng đã đem cả gia quyến mà trốn đi đâu mất.
Còn về
phần Lý Quỳ ở bên Sài Tiến, thấm thoát đã hơn một tháng rưỡi, chợt một hôm có
một người ra dáng hối hả, đem một phong thư đến cho Sài Đại Quan Nhân.
Sài Tiến
xem thư cả kinh mà rằng:
- Nếu
vậy thì ta phải thân hành ra đi một phen mới được.
Lý Quỳ
hỏi:
- Đại
Quan Nhân có việc gì cần cấp như vậy?
- Tôi có
một ông chú là Sài Hoàng Thành, hiện ở Cao Đường Châu, nay bị tên Ân Thiên Tích
là anh em vợ của Tri Phủ Cao Liêm đến chiếm cứ vườn hoa, làm cho chú tôi phải
tức tối, mà đâm ra sinh bệnh, nguy hiểm đến nơi, nay tính mệnh cơ hồ khó sống,
nên mới gọi tôi sang đó để dặn dò công việc về sau. Vả chưng chú tôi lại không
có con cái gì, thế tất tôi phải sang ngay mới được.
- Đại
Quan Nhân định đi, tôi xin theo ngài cùng đi một thể có được không?
Sài Tiến
nói:
- Nếu
Đại Ca cũng đi một thể cho vui, thì còn gì hơn nữa?
Nói đoạn
liền sai người sửa soạn hành lý, chọn mười lăm con ngựa tốt, và chọn mấy người
trang khách thạo việc, rồi sáng hôm sau cùng nhau lên ngựa ra đi.
Khi tới
Cao Đường thẳng vào trong phủ Sài Hoàng Thành. Sài Tiến để Lý Quỳ cùng đám
người nhà, ở ngoài nhà ngoài rồi một mình vào nhà trong thăm chú.
Sài Tiến
vào đến trong phòng hỏi thăm bệnh tình, rồi ngồi vào ghế ở bên cạnh nằm, mà nức
nở khóc không thôi.
Người vợ
kế Sài Hoàng Thành chạy ra khuyên giải mà rằng:
- Đại
Quan Nhân đi đường khó nhọc tới đây, hãy xin thư tâm an nghỉ, chớ vội lo nghĩ
phiền não làm chi?
Sài Tiến
gạt nước mắt mà thăm hỏi đầu đuôi mọi lẽ. Người vợ kế Sài Hoàng Thành đáp rằng:
- Ở đây
có Tri Phủ mới đến, tên là Cao Liêm, anh em thúc bá với Cao Thái Úy ở Đông
Kinh, kiêm giữ binh quyền bản phủ, nương cậy thế anh, uy quyền rất là lộng lấy.
Hắn nuôi một người anh em vợ là Ân Thiên Tích, vẫn thường gọi là Ân Trực Các,
tên này tuổi tuy còn nhỏ, song ỷ thế Tri Phủ mà làm càn làm dở, vô sở chí. Sau
nhân có mấy đứa hùa đảng, tâu nộp với hắn là nhà ta có vườn hoa rất đẹp, lại có
Thủy Đình ỏ trong, hắn bèn dẫn đến hai ba mươi đứa gian đồ vào đây để xem, rồi
bắt nhà ta phải dời đi chỗ khác, cho hắn đến ở đây. Hoàng Thành thấy vậy, có
bảo hắn là nhà ta vốn dòng dõi kim chi ngọc diệp, hiện có đơn thư thiết khoán
của hoàng triều, không có phép nào đến đây mà ăn hiếp thế được? Ngờ đâu thằng
cha ấy nhất định không nghe, bắt nhà ta phải dọn đi ngay lập tức. Hoàng Thành
phẫn uất mà sinh ra bệnh, cơm cháo không ăn, thuốc men vô ích. Đến bây giờ chỉ
còn thiếu một phần chết nữa thôi, nếu không có Đại Quan Nhân sang đây, thì công
việc thực là rắc rối, không còn biết trông cậy vào đâu cho được?
Sài Tiến
nghe nói thở dài mà rằng:
- Thôi
thím cứ yên tâm, cố tìm thầy mà thuốc men cho chú, sau nó có nhũng nhiễu điều
chi, cháu khắc cho người về Thương Châu đem đan thư thiết khoán đến đây rồi ta
sẽ liệu. Cho dẫu đến ngay trước mặt Thiên Tử cũng không sợ gì cả.
Người
thím cảm ơn mà rằng:
- Nếu
vậy các công việc, xin Quan Nhân cáng đáng giúp cho, chứ như bây giờ còn làm gì
được nữa?
Sài Tiến
vâng lời, ngồi trông nom hầu chú hồi lâu, rồi trở ra nhà ngoài nói chuyện cho
Lý Quỳ cùng mọi người được biết...
Lý Quỳ
nghe vậy, nhảy lên mà rằng:
- Quân
ấy thế thì vô lý quá, tôi có đôi đại phủ, để tôi sửa cho nó một bữa đã, rồi sẽ
liệu...
Sài Tiến
gạt đi mà rằng:
- Lý Đại
Ca không nên vội nóng, mình cần chi mà phải đối đầu với nó, dẫu nó ỷ thế là
càn, song nhà tôi hiện có sắc chỉ của vua, can chi phải nói với nó?
Còn chỗ
kinh sư to bằng mấy nó, khắc là công việc phải phân minh có lẽ nào ta sợ.
- Ối
chà! Luật với pháp thì làm gì...Nếu nó dùng được pháp luật thì thiên hạ đã
không đến nỗi rối loạn? Tôi đây thì cứ đánh trước rồi mới nói, nếu nó còn thưa
kiện ở đâu, thì chém luôn một lũ quan ranh ấy đi một thể chứ cần gì?
Sài Tiến
nói rằng:
- Không
trách Chu Đồng với Đại Ca không yên với nhau được. Ở đây là chốn cấm thành, có
phải đâu như sơn trại nhà bác mà làm liều được hay sao?
Lý Quỳ
nói:
- Cấm
thành mà làm gì? Ở Giang Châu, ở Vô Vi Quân, dễ thường tôi không giết người đấy
hẳn .
Sài Tiến
lại mà rằng:
- Được,
hãy để tôi xem sao đã...Nếu vô sự thì xin bác hãy cứ ngồi yên đây cho, thế là
tốt rồi...
Đương
khi nói chuyện, bỗng thấy mấy người tỳ thiếp hất hải chạy ra mời Sài Tiến vào
phòng Hoàng Thành.
Sài Tiến
chạy vào tới nơi, thấy Hoàng Thành dàn dụa đôi hàng nước mắt, nói với cháu
rằng:
- Cháu
là một người chí khí hiên ngang, không thể để nhục đến tổ tiên ngày trước, ta
nay bị Ân Thiên Tích hiếp bách quá chừng, khó lòng sống được, vậy cháu xin nghĩ
đến tình xưa, đem thư vào kêu với Thánh Hoàng để báo thù cho ta, ta đây dẫu
thác xuống suối vàng cũng được cảm ơn đôi chút.
Nói xong
nấc lên một tiếng, rồi nhắm mắt buông tay mà về nơi tiên giới. Sài Tiết thấy
vâïy mà ôm chú khóc lóc kêu gào rất thảm thiết . Người thím sợ khi Sài Tiến quá
thương nên bệnh, vội lấy lời uyển chuyển mà than rằng:
- Đại
Quan Nhân chớ nên phiền muộn làm chi, phải yên tâm mà lo liệu việc nhà mới
được.
- Hiện
nay giấy má còn để ở nhà tôi cả,tất phải sai người lập tức lấy về đây, mà làm
sớ tâu về triều đình mới được, bây giờ hãy cho khâm niệm quan quách, làm lễ
thành phục rồi sau sẽ liệu việc nhà.
Nói đoạn
liền theo quan chế, mua sắm quan quách, bày đặt linh sàng rồi cùng nhau làm lễ
thành phục. Lý Quỳ nghe tiếng ở trong nhà than khóc, thì giơ tay mắm miệng buồn
bực vô cùng, song dò hỏi người nhà không ai nói chụyện cho biết cả.
Bấy giờ
trong nhà mời các vị sư đến làm lễ rất là huyên náo. Đến ngày thứ ba Ân Thiên
Tích ngà ngà hơi rượu, cưỡi ngựa dẫn hai ba mươi tay nhàn đãng, tay cầm cung
tên, miệng thổi sáo địch, lững thững song chơi quanh phố hồi lâu, rồi mượn chén
giả say mà nghênh ngang vào phủ Hoành Thành. Khi tới nơi liền kìm ngựa đứng
ngoài cửa, thét gọi người nhà Hoàng Thành ra hỏi:
Sài Tiến
nghe nói, vội vàng mặc đồ nguyên tang chạy trở ra để chào, Ân Thiên Tích ngồi
trên mình ngựa hỏi:
- Ngươi
là người nào trong nhà này?
Sài Tiến
nói:
- Tôi là
Sài Tiến, là cháu Hoàng Thành ở đây.
- Hôm nọ
ta bảo phải dọn tất cả đi, làm sao lại còn lẩn quẩn ở đó?
- Vì chú
tôi bị đau nặng, nên chưa dọn đi được. Hôm qua chẳng may chú tôi đã tạ thế rồi,
vậy xin để đến hết tuần thất chúng tôi sẽ dọn đi ngay.
- Cái
quái này, ta chỉ hạn cho ba ngày phải dọn đi ngay, bằng không ta gông cổ lại,
đánh đủ một trăm trượng cho biết phép.
Sài Tiến
nói:
- Trực
Các không nên thế, nhà tôi đây cũng là dòng kim chi ngọc diệp, hiện có đan thư
thiết khỏan của tiên triều, ai không là phải kính.
- Ngươi
đem đây ta xem?
- Hiện
tôi còn để ở Thương Châu, đã cho người về lấy rồi.
Ân Thiên
Tích nghe nói cả giận mà rằng:
- Quân
này nói càn, có thệ thư thiết khoán, thì ta sợ gì? Chúng bay đâu đánh thằng này
cho ta?
Khi đó
Hắc Toàn Phong Lý Quỳ nấp trong khe cửa, nghe thấy Ân Thiên Tích thét đánh Sài
Tiến, liền mở tung cửa thét lên một tiếng, rồi nhảy ra trước chận Thiên Tích
xuống để mà đánh.
Bọn hai
mươi người kia toan sấn vào để đánh tháo, bị Lý Quỳ giơ tay gạt cho mấy anh ngã
cả ra, rồi ù té chạy mất cả, Lý Quỳ lại quay lại vớ Ân Thiên Tích, thượng cẳng
chân hạ cẳng tay đánh luôn một chập. Sài Tiến hết lời cản ngăn không được, Lý
Quỳ đánh luôn một lúc, thì Ân Thiên Tích đã trợn mắt ngay người mà chết ra đó.
Sài Tiến
lấy làm lo sợ, kéo Lý Quỳ vào nhà trong mà bảo rằng:
- Chết
nỗi! Bác làm thế, thì nguy hiểm quá, bác không ở được đâu. Phải lập tức mà trốn
về Lương Sơn, còn đây mặc tôi mới được.
Lý Quỳ
nói:
- Tôi về
thì khó gì, nhưng Đại Quan Nhân ở đây tất là nguy hiểm, như thế tôi đi sao
đành?
Sài Tiến
nói:
- Tôi
đây đã có đan thư thiết khoán không ngại gì cả, bác cứ về đi, chậm trễ là nguy
mất cả.
Lý Quỳ
vâng lời, cầm đôi song đao phủ, lấy ít tiền bạc,rồi theo lốicửa sau mà trốn về
Lương Sơn.
Được một
lát có hơn hai trăm người vác gươm giáo đến vây nhà Hoàng Thành, tìm bắt Lý Quỳ
không thấy, liền trói Sài Tiến mà giải vào phủ.
Tri Phủ
Cao Liêm thấy Ân Thiên Tích bị người ta đánh chết, thì trong lòng tức bực như
xé ruột gan, đương nghiến lợi nghiến răng để đợi bắt người về tra hỏi. Khi thấy
chúng giải Sài Tiến đến. Tri Phủ liền thét lên hỏi rằng:
- Đồ súc
sinh sao dám đánh chết người nhà quan, như thế phỏng đáng tội gì?
Sài Tiến
nói:
- Chúng
tôi là con cháu Sài Thế Tôn khi xưa, hiện trong nhà có đan thư thiết khoán của
Thái Tổ tiền triều để lại ở Thương Châu. Nay nhân qua đây thăm chú là Sài Hoàng
Thành, chẳng may chú mất, vẫn còn định tang ở trong nhà. Dè đâu tên Ân Thiên
Tích đem hai ba mươi tên người nhà đến, toan đuổi chúng tôi mà chiếm lấy gia tài,
tôi có toan phân giải đầu đuôi, thì Trực Các nhất định không nghe mà sai người
đánh ngay lập tức. Sau có tên người nhà tôi là Lý Đại đến che đỡ cho tôi, chẳng
may đánh phải Trực Các, chứ tôi đây không có can thiệp.
Cao Liêm
quát hỏi:
- Tên Lý
Đại ở đâu?
- Bẩm nó
sợ bỏ chạy mất rồi.
- Nó là
một thằng người nhà, nếu không có lệnh của chủ, khi nào nó dám đánh? Việc này
chắc là ngươi thủ xướng ra, rồi lại buông tha cho nó chạy, không tra tấn, thì
khi nào người chịu thú.
Nói đoạn
quát lính đem Sài Tiến ra để đánh tấn.
Sài Tiến
kêu:
- Việc
đó là tên Lý Đại, nó cứu chủ lỡ đánh, chứ việc gì đến tôi? Vả chăng tôi có thệ
thư thiết khoán của nhà vua, có lẽ đâu dám thiện tiện mà gia hình ngay được?
- Vậy
thệ thư ở đâu?
- Tôi đã
cho người về Thương Châu để lấy rồi.
Tri Phủ
làm bộ giận dữ quát lên rằng:
- Tên
này dám kháng cự với quan trên, chúng đâu, cứ đem đánh đi cho ta.
Chúng
vâng lời, kéo Sài Tiến ra đánh mấy chục trượng, nát thịt, vọt máu tươi ra,
không sao mà chịu nổi. Sau Sài Tiến biết thế không chống nổi, bèn chịu nước thú
nhận là sai tên Lý Đại đánh chết Ân Thiên Tích.
Tri Phủ
liền sai đóng gông tử tù nặng hai mươi nhăm cân, giam xuống nhà ngục, và nhất
diện sai đem xác Ân Thiên Tích về để mai táng.
Vợ Cao
Liêm thấy anh em bị chết, liền lập chí báo thù, sui Cao Liêm tịch ký nhà cửa
Sài Hoàng Thành, bắt hết người nhà giam vào trong ngục.
Trời
xanh khéo cũng trêu ngươi,
Đem mồi
phú quý nhử người tham ngu.
Xưa nay
tục tử phàm phu,
Biết đâu
thiên lý mà lo tránh mình.
Nói về
Lý Quỳ hôm đó từ giã Sài Tiến, gấp đường về thẳng Lương Sơn rồi vào Đại trại để
chào các vị Đầu Lĩnh. Chu Đồng trông thấy Lý Quỳ lại đùng đùng nổi giận, vác
ngay đao xông đến để đánh.
Lý Quỳ
cũng múa song phủ ra đấu với Chu Đồng.
Các vị
Đầu Lĩnh thấy vậy vội vàng chạy lại can ngăn, rồi Tống Giang nói với Chu Đồng
rằng:
- Những
việc dạo trước là vì Ngô Quân Sư thấy huynh trưởng không chịu đến đây, mới làm
kế như vậy, thực không có can thiệp gì đến Lý Quỳ cả. Vậy xin huynh trưởng đã
lên đến đây thì bỏ hết chuyện đó, đừng chấp nhất làm gì phải cùng nhau hiệp lực
đồng tâm để cùng toan làm đại nghĩa mới được.
Nói đoạn
liền quay ra bảo Lý Quỳ vào nói lại với Chu Đồng.
Lý Quỳ
trợn hai mắt tròn xoe mà nói lên rằng:
- Có lẽ
nào tôi phải thế? Tôi ở sơn trại đã bao lâu, kể cũng có công lao đôi chút, còn
hắn ta mới đến đây có được điều gì, mà bắt tôi phải nói lại?
- Việc
trước dẫu có tướng lệnh của Quân Sư, nhưng kể tuổi ra thì ông ta đáng là anh
ngươi, ngươi nên nói lại với ông ta, ta sẽ lạy ngươi là hết.
Lý Quỳ
bị Tống Giang bức bách, không thể đừng được, đành phải bảo với Chu Đồng rằng:
- Cứ lý
ra, tôi đây cũng chẳng sợ gì, nhưng Ca Ca ta đã nói vậy, thì ta cũng phải nể
mặt nể lòng mà nói lại đây thôi.
Tống
Giang lại bắt Lý Quỳ phải lạy Chu Đồng hai lạy, và sai làm tiệc ở trong sơn trại
để dàn xếp cho đôi bên thỏa thuận với nhau.
Trong
khi ăn tiệc, Lý Quỳ kể đến chuyện Sài Tiến ở Cao Đường Châu. Tống Giang nghe rõ
đầu đuôi liền cả kinh mà rằng:
- Nếu
ngươi đánh chết Ân Thiên Tích mà bỏ đấy để trốn, thì tất là nguy hiểm đến Đại
Quan Nhân, không thể nào tránh được?
Ngô Dụng
bảo với Tống Giang rằng:
- Việc
đó không hề chi! Cứ đợi Đới Tung về đây sẽ hiểu... Lý Quỳ hỏi:
- Đới
viện trưởng đi từ bao giờ?
Ngô Dụng
đáp:
- Bữa
trước ta sợ ngươi ở trong nhà Sài Quan Nhân, hoặc lỡ có sinh ra sự gì, nên phải
bảo đến đó dò xem. Nay đến đó không gặp ngươi, thì tất nhiên ông ta phải sang
Đường Châu để thăm hỏi, có lẽ cũng sắp về tới đầy thì phải.
Nói vừa
dứt lời, thì thấy tiểu lâu la báo:
- Đới
viện trưởng đã về.
Tống
Giang nghe báo vội ra đón tiếp, cùng vào đại sảnh rồi hỏi đến chuyện Sài Đại
Quan Nhân.
Đới Tung
nói:
- Khi
tôi đến Thương Châu, nghe tin Lý Quỳ đã theo Sài Đại Quan Nhân đi sang Cao
Đường, tôi lại vội vàng lần ngay sang đó. Sau đến Châu Cao Đường thấy họ đồn ầm
lên rằng: Ân Thiên Tích tranh chiếm nhà cửa Sài Hoàng Thành là chú Sài Đại Quan
Nhân. Sài Đại Quan Nhân đã bị bắt giam vào trong ngục, còn nhà của Sài Hoàng
Thành đều bị Tri Phủ là Cao Liêm chiếm nhận lại còn đánh khảo Sài Đại Quan Nhân
rất là tàn nhẫn.
Tiều Cái
nghe nói, liền bảo với mọi người rằng:
- Sài
Đại Quan Nhân vốn có ân to cùng bọn sơn trại ta đây, nay mắc phải nguy hiểm như
thế lẽ nào mà không cứu cho đành. Vậy tôi phải đi qua xuống đó, xem sự thể ra
sao mới được.
Tống
Giang nói:
- Ca Ca
là một ông chủ sơn trại, không thể đi liều thế được. Vả tôi với Sài Đại Quan
Nhân, lại có ơn nặng từ xưa, vậy tôi xin thay Ca Ca để đi chuyến này...
Ngô Dụng
nói:
- Cao
Đường Châu thành trì tuy nhỏ, song lương sẵn người đông không thể khinh địch
được, việc này phải phiền Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Tuấn, Lã Phương,
Quách Thịnh, Tôn Lập, Âu Bằng, Dương Lâm, Đặng Phi, Mã Lân, Bạch Thắng dẫn ba
nghìn quân mã bộ đi làm tiên phong. Trung quân chủ súy thì có Tống Công Minh,
và Ngô Dụng, Chu Đồng, Lôi Hoành, Đới Tung, Lý Quỳ, Trương Hoành, Trương Thuận,
Dương Hùng, Thạch Tú dẫn ba nghìn quân mã bộ đi tiếp ứng.
Bàn định
xong rồi, hai mươi hai vị Điểm quân mã, và từ biệt Tiều Cái mà xuống núi kéo
thẳng sang Cao Đường Châu.
Khi tiền
quân Lương Sơn Bạc kéo đến địa hạt Cao Đường, đám thám tử liền báo cho tri phủ
Cao Liêm biết. Cao Liêm nghe báo cười nhạt mà rằng:
- Quân
giặc cỏ xưa nay vẫn lẩn núp ở vũng nước Lương Sơn, ta thường định đem quân đến
bắt. Vậy nay chúng kéo nhau đến đây mà chịu tội, thì còn gì hay hơn nữa? Thực
là Trời giúp cho ta thành công đó.
Nói đoạn
truyền lệnh sắp sửa quân mã, để ra nghênh địch, và sức cho dân phu coi giữ trên
thành? Bấy giờ các quan trên từ Đô Thồng Giám Quân, dưới đến Thống Lĩnh, Thồng
Chế cùng Đề Hạt, được lệnh của Tri Phủ, lập tức đem các bộ quân mã ra điểm
duyệt ở Giáo Trường, rồi sắp thành đội ngũ mà ra cửa thành dàn trận.
Cao Liêm
lại có ba quân riêng, gọi là "Phi thiên thần binh". Toàn là bọn hảo
hán khỏe mạnh ở Sơn Đông, Hà Bắc, Giang Tây, Hồ Nam và Lưỡng Hoài. Lưỡng Tiết
mộ đến cả. Tri Phủ mặc áo giáp đeo kiếm, cưỡi ngựa dẫn quân ra thành, truyền
lệnh các tướng bày trận chỉnh tề, rồi đem ba trăm thân binh bày hàng ở giữa,
sai đánh trống khua chiêng, để đợi quân Lương Sơn kéo đến.
Bên kia
Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh dẫn năm nghìn quân mã tới nơi, cũng dàn thành trận
thế, đôi bên cờ trống nổi lên, rồi cùng đem cung tên ra để bắn áp vòng trận.
Khi đó
mười hai vị Đầu Lĩnh đều kìm ngựa, đứng trước cửa trận, rồi Lâm Xung hoành cây
bát xà mâu, vỗ ngựa xông ra quát lên rằng:
- Bớ tên
giặc họ Cao, mau mau ra đây chịu tội.
Cao Liêm
nghe nói, liền dẫn hơn ba mươi tên hạ tướng ra trước cửa trận; rồi kìm ngựa bảo
Lâm Xung rằng:
- Chúng
bay không biết tội là chết đến nơi, lại còn dám đến xâm phạm thành trì của ta
nữa hay sao?
Lâm Xung
lại thét lên rằng:
- Mày là
đồ mọt già hại dân, nay mai ta đánh đến kinh sư, ta sẽ đem cả thằng Cao Cầu là
đồ dối vua hại dân, mà chặt xác ra làm muôn đoạn để trừ hại cho dân mới được.
Cao Liêm
thấy vậy, quay hỏi chư tướng:
- Ai ra
bắt thằng giặc ấy cho ta?
Nói đoạn
trong đám quân quan có một viên Thống Chế, tên là Can Trực, múa dao vỗ ngựa ra
để đánh. Đôi bên đánh nhau chưa được năm hợp, Can Trực bị Lâm Xung phóng sà mâu
đâm vào giữa bụng, ngã lăn xuống ngựa.
Cao Liêm
thấy vậy cả kinh hỏi lên rằng:
- Anh em
ai ra báo thù được?
Vừa dứt
lời, thì quan Thống Chế là Ôn Vân Bảo, tay cầm đao trường, mình cưỡi ngựa lang,
đeo nhạc xoang xoảng xông ra để đánh Lâm Xung.
Tần Minh
thấy vậy, liền thét lên rằng:
- Ca Ca
hãy nghỉ tay, để tiểu đệ chém thằng này cho.
Lâm Xung
nghe nói, bèn kìm ngựa, nhường cho Tần Minh ra đánh Ôn Văn Bảo. Đôi bên đánh
nhau được hơn mươi hiệp. Tần Minh bèn lừa miếng phá đĩnh, để cho Vân Bảo xông
vào, rồi đánh luôn một côn vỡ bể óc ra mà chết lộn xuống đất, còn con ngựa chạy
về bản trận.
Cao Liêm
thấy mất hai viên tướng, liền rút thanh Thái A bảo kiếm ở lưng ra, miệng đọc
mấy câu lẩm nhẩm mà quát lên rằng:
- Mau...
Đoạn rồi
thấy trong đám quân Cao Liêm một trận hắc khí trông lên, tung cao đến lưng
chừng trời, đùng đùng nổi gió cuốn cờ, chẳng khác gì lay trời đất chuyển, mà
xông sang mặt trận Lâm Xung.
Bọn Lâm
Xung, Hoa Vinh, Tần Minh cùng các tướng, đều tối mờ mịt không nhìn rõ được
nhau, các ngựa ra trận cũng kinh sợ thét gào sôi lên sùng sục. Chúng thấy vậy
đều phải quay ra để tháo chạy. Cao Liêm liền giơ kiếm vẫy ba trăm thần binh,
xông sang đánh giết, rồi quan quân thúc đến để giúp sức thêm vào. Quân mã của
Lâm Xung đều sợ kinh tán loạn, chạy ngược chạy xuôi, năm nghìn quân mã chết hết
hơm nghìn, còn thì kéo chạy ra ngoài năm mươi dặm mới dám hạ trại.Cao Liêm thấy
quân mã bỏ chạy đã xa, bấy giờ mới thu quân vào thành Cao Đường để nghỉ.
Bên kia
nhân mã của Tống Giang kéo đến, xuất tiếp đón vào trong trại rồi kể chuyện cho
mọi người nghe.
Tống
Giang cả kinh hỏi Quân Sư Ngô Dụng rằng:
- Chẳng
hay đó là phép gì mà nguy hiểm đến thế?
Ngô Dụng
nói:
- Cái đó
chắc là một phép yêu ma, nếu ta có cách gì làm cho quay chuyển lửa thì tất là
phá được.
Tống
Giang nghe nói, vội mở Thiên Thư ra xem, thấy trong quyển thứ ba có phép quay
gió chuyển lửa để phá trận, bèn lấy làm cả mừng, đọc thuộc các câu thần chú,
cùng các bí quyết, rồi chỉnh đốn quân mã, sáng hôm sau ăn cơm rất sớm, để tiến
vào đánh thành.
Bấy giờ
Cao Liêm nghe báo, vội điểm bọn quân mã đắc thắng, cùng ba trăm thần binh kéo
ra để đánh. Tống Giang đao kiếm xông ra trước trận,trông thấy đám quân Cao Liêm
có một dãy cờ đen, Ngô Dụng liền bảo Tống Giang rằng:
- Toán
cờ đen đó là đám thần sư cả, hôm nay chắc họ lại dùng phép, vậy ta có cách gì
mà địch được chăng?
Tống
Giang nói:
- Tôi đã
có cách phá trận rồi, không ngại gì? Các tướng sĩ cứ vững tâm tiến đánh mới
được.
Bên kia
Cao Liêm dặn các tướng sĩ không được hăng hái khêu đánh, cứ nghe thấy hiệu bài
đồng là hết sức ra tróc nã Tống Giang, sẽ có trọng thưởng. Cao Liêm ngồi trên
mình ngựa, đeo hai lá bài đồng trên có vẽ rồng truyền phượng, tay cầm thanh bảo
kiếm xông ra trước trận.
Tống
Giang bèn trỏ Cao Liêm mà nói rằng:
- Hôm
qua ta chưa tới đây, đám anh em ta lỡ thua một trận, vậy hôm nay ta quyết đem
các ngươi chém hết mới nghe.
Cao Liêm
quát rằng:
- Đồ
phản tặc mau mau xuống ngựa chịu trói cho khỏi bẩn tay ta.
Nói đoạn
cầm thần kiếm khua lên rồi trong miệng đọc lẩm nhẩm mấy câu, mà quát lên rằng
"mau... "
Bấy giờ
lại thấy một vùng hắc khí bốc lên, mà sắp sửa tan ra thành gió. Bên này Tống
Giang thấy vậy, vội đọc mấy câu thần chú, tay tả bắt quyết, tay hữu cầm kiếm,
trỏ một cái, rồi cũng quát lên rằng:
- Mau...
Đoạn rồi
thấy đám hắc khí kia bỗng quay lại mà xông vào bản trận Cao Liêm, Cao Liêm thấy
trận gió quay về, bèn vội lấy bài đồng gõ vào thanh kiếm, thì trong đám thần
binh, bỗng có trận gió cuốn cát tung lên, rồi hiện ra một đàn ác thú thẳng xông
sang trận Tống Giang.
Tống
Giang đương khi đắc sách, đương thúc giục quân mã sấn vào, bỗng thấy một đàn ác
thú, thì ai nấy kinh hoàng hãi hùng rồi Tống Giang cắp kiếm mà quay ngựa chạy
trước, còn các vị Đầu Lĩnh cũng kéo chạy theo.
Bấy giờ
Cao Liêm cầm kiếm vẫy lên, ba trăm thần binh tiến trước, các quan quân tiến
sau, xông vào đánh giết. Quân mã Tống Giang thua chạy, thiệt hại không biết tới
đâu mà kể. Cao Liêm theo đuổi ngoài hai mươi dặm, mới rút quân về thành.
Tống
Giang dẫn quân mã ra đóng ở ngoài thổ phi, kiểm điểm các Đầu Lĩnh không thiếu
một ai, bèn cùng nhau tụ họp để nghĩ kế, và hỏi Quân sư Ngô Dụng rằng:
- Nay
đem quân hai lần đến đánh Cao Đường đều bị thất bại, không còn kế gì mà phá
được thần binh, vậy biết làm sao cho được?
Ngô Dụng
nói:
- Họ đã
giỏi dụng thần binh, thì đêm nay họ tất đến cướp trại. Vậy ta nên phòng bị
trước kẻo nguy. Chốn này chỉ nên lưu một ít quân mã để lại còn thì phải dẫn
quân vào đóng cả ở trại cũ mới xong.
Tống
Giang nghe nói, truyền cho Dương Lâm, Bạch Thắng ở lại coi trại, còn các vị Đầu
Lĩnh đều dẫn quân đến trại cũ để đóng.
Dương
Lâm, Bạch Thắng vâng lệnh, dẫn quân ra đóng ở vùng cỏ, cách trại quân chừng nửa
dặm đường để đợi. Vào khoảng cuối canh một, chợt thấy sấm đùng đùng nổi lên,
rồi Dương Lâm, Bạch Thắng cùng hơn ba trăm quân nom ra thấy Cao Liêm đi dẫn bộ
ba trăm thần binh mà đi sát vào trong trại. Khi vào tới nơi thấy trại không bỏ
vắng. Cao Liêm bèn kéo quân mau mau trở ra. Dương Lâm, Bạch Thắng thấy vậy,
liền sai quân reo hò ầm lên, rồi sai quân chĩa nỏ dương cung bắn.
Cao Liêm
sợ trúng kế, đành phải kéo thần binh mà chạy mau cho thoát, ba trăm thần binh
cũng hất hả sợ kinh chạy tán loạn đi mỗi nơi một ngả. Quân Dương Lâm, Bạch
Thắng phóng nỏ bắn liều, bất ý có một mũi tên bắn ngay vào vai tả Cao Liêm, rồi
kéo ùa nhau ra đuổi đánh. Đuổi được một quãng, Dương Lâm thấy Cao Liêm chạy đã
xa xa, bèn rút quân về mà không theo nữa. Bấy giờ gió im mây lặng, bóng trăng
sao lại sáng giữa trời, Dương Lâm, Bạch Thắng lần được chổ thao phi, bắt được
hai mươi tên thần binh bị đạn, liền đem nộp Tống Giang và nói cho rõ tình hình
gió mưa khi cướp trại cho Tống Giang nghe.
Tống
Giang, Ngô Dụng nghe nói cả kinh mà rằng:
- Ở đây
chỉ cách có năm dặm đường, sao không thấy gió mưa chi cả.
Chúng
nói:
- Đó là
phép thuật yêu ma, lấy nước ở quanh đâu đây, mà làm mưa từng đám nhỏ thôi...
Dương
Lâm nói:
- Bấy
giờ Cao Liêm đã rũ tóc chống gươm sát vào trong trại, sau bị một múi tên mới
chịu rút quân về thành, chúng tôi đã toan đuổi đánh, song ít người nên không
dám đuổi nữa.
Tống
Giang liền thưởng công cho Đầu Lĩnh, Bạch Thắng, sai đem chém những tên thần
binh bị đạn, và rồi cắt các vị Đầu Lĩnh chia đóng ra làm bảy tàm trại nhỏ, để
vậy giữ lấy trại lớn ở giữa, và nhất diện cho người về sơn trại lấy thêm viện
binh.
Hôm đó
Cao Liêm bị mũi tên, trở về trong thành dưỡng bệnh, truyền cho quân sĩ hết sức
giữ thành, đợi khi khỏi hẳn vết thương, mới ra đối trận đánh bắt Tống Giang.
Tống
Giang thấy hai phen thất bại, thiệt hại quân mã rất nhiều, trong lòng lấy làm
lo phiền áy náy, bàn với quân sư rằng:
- Hiện
nay chỉ có một mình Cao Liêm còn không phá nổi, nếu nay mai lỡ lại có thêm một
vài toán quân nào đó, thì làm sao mà đối địch được?
Ngô Dụng
nói:
- Tôi
thiết tưởng phá được Cao Liêm thì chỉ cho một kế nầy là diệu hơn cả...mà nếu
người này không chịu đến cho, thì thành Cao Đường không ngày nào phá được, mà
tính mệnh Sài Đại Quan Nhân tất là nguy mất.
Mới hay:
Giang hồ
nghĩa nặng nghìn cân
Vào sinh
ra tử tấm thân xem thường
Nam nhi
đã vững cương thường
Tiếng
thơm nghĩa hiệp để nhường cho ai?
Gió mưa
chi ngại chuyện đời
Gan vàng
dạ sắt giữa trời một ta
Ví không
từng trải phong ba
Nước non
ai biết ta là thủy chung.
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi này
chép vào bản chuyện Sài Tiến bị hãm, song có một đoạn ở đầu hồi Chu Đồng muốn
giết Lý Quỳ, độc giả nhận lầm rằng, còn chút cuối ở hồi trên, mà chẳng hay rằng
hồi này với chút cuối hồi trên có liên hệ đến nhau, như là sẵn chảo rán bánh,
mượn gió bẻ măng, tức lưu Lý Quỳ ở lại, để xẩy ra chuyện rắc rối sau này, dùng
bút lực đến như thế vậy...Ta thường nói những ai đọc sách, đừng vội cho tác giả
đã lầm như một đoạn văn tự này, chẳng dối ai được mãi, mà đây đã nói ra về sự
chia hồi, thì nên nghĩ cho ra từng chỗ một, không thể coi thường sự viết văn.
Vợ Sài
Hoàng Thành chép là Kế thất, để càng làm rõ Sài Đại Quan Nhân thế tất phải đến
thăm nom cho chú, vả lại Hoàng Thành không con trai gái, mà vợ chỉ là Kế, do đó
gặp phải ngày người mất nhà ta, thì nguy lắm vậy, sao xiết nói thay? Kế thất
tuổi thì còn nhỏ, tuổi nhỏ đâu áp được chúng khinh lờn; Kế thất mới về chưa
được bao lâu, mới về thì ân uy không phục nổi lũ người nhà. Kế thất chưa định
nổi chí, con cái chưa có, lại một mối lộ, ngần ấy thứ nguy nan của chú, tất
nhiên Sài Đại Quan Nhân phải đến thăm chú, do cái thế bất đắc dĩ vậy.
Than ôi!
Ta xem hồi này, thấy Cao Liêm dựa thế Cao Cầu, ngang tàng ở một địa phương
chẳng nể nang gì. Ân Thiên Tích lại dựa vào thế của chồng chị, cũng ngang tàng
ở một địa phương, chẳng nể nang gì khiến ta thêm buồn mà nghĩ rằng: Sao chúng
tệ thay? Hỡi ôi! Dựa thế Cao Cầu có phải một Cao Liêm mà thôi đâu? Nói đến Cao
Liêm mới chỉ một người, nếu thế Cao Cầu mà dựa được để muốn làm gì cũng được,
tất phải có hàng trăm tên Cao Liêm, đã có hàng trăm Cao Liêm, thì lại có hàng
bao nhiêu tên Ân Trực Các nữa, vì thế Cao Liêm cũng muốn làm gì thì làm, những
kẻ dựa thế tất nhiên xu phụ, như thế một Cao Cầu có hàng trăm Cao Liêm, một Cao
Liêm có hàng trăm Ân Trực Các...Tính ra con số hàng ngàn Ân Trực Các ấy, mỗi
anh lại hàng hai ba răm đứa dựa quyền, nhâu nhâu như đàn hồ lũ chó, thì thiên
hạ sao yên? Hỡi ơi! Như thế mới đầu Cao Cầu chưa biết, biết mà ngăn cầm, thì
không còn phải Cao Cầu, nay biết còn dung túng, đó Cao Cầu lộ tướng của Cao
Cầu.
Hồi này
tả Tống Giang rất con người quyền trá, từng chỗ giở ngón gian hùng, lại rất rõ
gian ngoan, ở chỗ Lý Quỳ không chịu nói lại với Mỹ Nhiêm Công, mà Tống Giang
khuyên lơn rào chắn cả hai người, đến nỗi đổ vạ cho Quân sư ra lệnh, rồi kết
lại xin lạy Lý Quỳ, thì đủ biết rằng, ngoài miệng biến như mây gió, trong lòng
ghê gớm như yêu ma, cũng chả lại gì nữa? Hỡi ôi! Đem cái tài của Thị Nại Am, có
khó gì mà không tả nổi ra một vai trò Tống Giang nói ra như thế...như thế...Đại
phàm chỗ nào tả Tống Giang con người hiểm ác, lại phải đưa vai trò lừa dối Lý
Quỳ như đứa trẻ con, đúng như lối chép bút Sử Ký vậy.
Tả Tống
Giang sau khi nhập bọn, khi có việc gì phải hạ sơn, Tống Giang lại khuyên Tiều
Cái: Ca Ca là ông chủ sơn trại, không nên khinh xuất; như đánh Chúc Gia Trang,
Châu Cao Đường đều ngăn như thế. Đó là tác giả muốn nêu rõ tội Tống Giang, đem
quyền thuật để bịp cả Tiều Cái để rồi tha hồ tự một tay mình, làm gì thì làm
chả được. Vì sao? Vì Tiều Cái đi thì công về Tiều Cái, Tiều Cái không đi thì
công ở Tống Giang, đó là một; Tiều Cái đi thì Tống Giang làm phó tướng, mọi
người vâng lệnh Tiều Cái, Tiều Cái không đi thì Tống Giang làm chủ soái, mọi
người vâng lệnh Tống Giang, đó là hai vậy. Hỡi ôi trở ra đánh giặc thì được
ngôi tôn, khi trở về sơn trại thì công cao. Muốn chiếm ngôi thứ nhất có thừa uy
thế vậy. Đó là Tống Giang muốn chèn lấn Tiều Cái, mà tác giả muốn làm cho rõ
tội hiểm ác, theo đúng lối bút viết Sử Ký vậy. Cướp trại chỉ là một việc thử
sức của binh gia, dụng binh mà phải đến nỗi cướp trại, một lần chẳng trúng lại
hai lần, đều là lối chơi đùa của lũ con gái nhỏ tung ném mà thôi, nay Thi Nai
Am chẳng dừng được mà phải tả ra, ý muốn ngăn giữ Cao Liêm, để cho người tìm xa
lấy Công Tôn Thắng, đem Công Tôn Thắng ở xa về, tất phải ngăn bước tiến của Cao
Liêm, dụng ý vào một mũi tên bắn trúng của Dương Lâm, mới tả ra sự cướp trại vô
tình mà bị, cho rõ cái mưu Ngô Dụng tính ra.
Hồi này,
vốn tả ra Sài Tiến bị hãm hại, lại đến khoe tài thần binh của Cao Liêm, cũng chẳng
phải vì đó mà khó cứu Sài Tiến, chính vì đó để lôi kéo lấy Công Tôn Thắng, làm
cho mực nồng bút sắc, tả ra văn như thể liên châu mà xuống, nối bậc mà lên,
chính ra chẳng biết rằng, vì Sài Tiến để mời Công Tôn, hay đón Công Tôn do cứu
Sài Tiến, độc giả đừng vội hiểu lầm người chép truyện, phải nhận nổi ý tứ xem
sao?
Tống
Giang nếu thực có Thiên Thư của Huyền Nữ trao cho, làm sao mà lại không phá nổi
binh thần? Nếu Thiên Thư của Huyền Nữ không phá nổi binh thần, Thi Nại Am cũng
chẳng coi trọng Thiên Thư ấy nữa? Nay cần bày ra ở chỗ này cho rõ Thiên Thư,
Thiên Thư bảo rằng của Huyền Nữ, cũng đủ biết thực giả thế nào rồi? Ngày trước
nói rằng: Suốt ngày xem đọc Thiên Thư, đến đây mới chủ tâm nhờ lời thần chú, há
có đâu suốt ngày đọc Thiên Thư, mà bây giờ mới nghĩ đến thần chú rõ ràng trước
kia nói được Thiên Thư là dối, mà nay nhờ thần chú cũng giả dối nốt. Ngài nói
rằng: Thiên Thư chỉ cùng với sao Thiên Cơ cùng xem, nay chợt nói rằng: Quân sư
yên tâm, tôi đã có phép...Há có đâu hai người cùng nhau xem sách suốt ngày, mà
nay Nguyên Soái đã quên ngay được? Rõ ràng trước kia hai người chưa từng cùng
xem với nhau, vì nay sao một Tống Giang nhớ được? ? ? Tội ác Tống Giang đến
thế, gấp hàng trăm lần tung lửa hồ kêu vậy.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 52: Đới Tung vâng mệnh, tìm Công Tôn
Thắng Lý Quỳ sốt ruột, chém La Chân Nhân
Khi đó
Tống Giang nghe lời quân sư liền hỏi lại rằng:
- Quân
sư định cho tìm ai, để phá được trận của Cao Liêm bây giờ?
Ngô Dụng
nói:
- Muốn
phá được Cao Liêm, thì tất phải cho người sang Kế Châu tìm Công Tôn Thắng Tiên
Sinh mới được.
- Chuyến
trước Đới Tung đi đã bao nhiêu ngày, cũng không tìm thấy, phen này lại định đi
tìm nữa, thì biết đâu mà thăm dò cho ra?
- Ở Kế
Châu có bao nhiêu huyện, tổng, xã, thôn, không tìm cho khắp, thì thấy làm sao
được? Vả Công Tôn Thắng là người tu hành học đạo, chắc là ở vào những nơi non
cao nước rộng, hoặc các nơi động lớn chùa to, phen này phải dặn Đới Tung đi tìm
khắp những chỗ ấy, thì làm gì mà không tìm thấy?
Tống
Giang nghe nói, liền gọi Đới Tung đến để dặn đi sang Kế Châu.
Đới Tung
nói:
- Chúng
tôi vâng lệnh xin đi, song xin Đầu Lĩnh cắt cho một người nữa để cùng đi mới
tiện.
Ngô Dụng
nói:
- Viện
Trưởng dụng phép thần hành, thi ài theo kịp được, mà cho người theo?
Đới Tung
nói:
- Nếu có
ai cùng đi, thì tôi buộc giáp mã vào trái đùi rồi cũng đi nhanh được ngay.
Lý Quỳ
đứng bên cạnh ứng lên rằng:
- Tôi
xin đi với Viện Trưởng.
Đới Tung
nói:
- Nếu
bác muốn đi, thì phải ăn chay như tôi, mà tôi bảo cái gì phải nghe như thế mới
được.
Lý Quỳ
cả quyết mà rằng:
- Cái đó
có khó gì, các công việc tôi xin theo cả.
Tống
Giang, Ngô Dụng, dặn Lý Quỳ rằng:
- Đi
đường phải nên cẩn thận, mau mau được việc rồi về, chớ có lôi thôi sinh sự mà
khốn đó.
Lý Quỳ
nói:
- Tôi
đánh chết Ân Thiên Tích, làm cho Sài Đại Quan Nhân phải bị nạn lây, có khi nào
tôi không muốn cứu, phen này quyết nhiên là không sinh sự chi cả.
Nói đoạn
hai người cùng giắt dao lưng, đeo khăn gói rồi từ biệt Tống Giang, cùng các Đầu
Lĩnh, mà lên đường thẳng lối Kế Châu. Đi được ba bốn mươi dặm đường, Lý Quỳ
bỗng đứng dừng lại bảo Đới Tung rằng:
- Ca Ca
mua vài chén rượu, uống rồi đi có thú không?
Đới Tung
nói:
- Nếu
anh muốn theo ta, để cùng làm phép thần hành, thì phải ăn chay mới được.
Lý Quỳ
nói:
- Thế ăn
dăm ba miếng thịt cũng được chứ sao?
Đới Tung
gạt đi mà rằng:
- Không
được, anh lại thế thì không được, bây giờ đã sắp chiều rồi, đi mau vào tìm chỗ
nghỉ trọ, để sáng mai đi sớm thôi.
Nói đoạn
hai người đi được vài mươi dặm đường nữa, thì trời sắp tối, liền kéo nhau vào
một hàng cơm để trọ.
Khi vào
tới nơi, Lý Quỳ nấu cơm nước xong, mua một hai rượu, xới một thùng cơm, và bưng
một bát canh rau lên cho Đới Tung ăn.
Đới Tung
hỏi:
- Sao
anh không ăn một thể?
Lý Quỳ
đáp:
- Tôi
chưa đói, chưa muốn ăn.
Đới Tung
nghe nói, đoán chắc là Lý Quỳ lại nói dối thế, để ăn cá thịt vụng một mình, bèn
ăn cơm vội cho xong, rồi sẽ rón rén xuống lối sau để xem. Quả nhiên lúc ấy Lý
Quỳ mua hai nai rượu, một đĩa thịt trâu mà đương ăn vội ăn vàng ở đó. Đới Tung
thấy vậy trong bụng nghĩ thầm: "Biết ngay, thằng cha này còn nói dỗi mình
thực. Được để ta im, rồi sáng mai cho nó một mẻ, rõ cuống cuồng cho mà
thích". Nghĩ đoạn thủng thẳng đi vào phòng ngủ trước. Lý Quỳ chén một lúc
hết, trong bụng sợ Đới Tung biết, bèn rón rén cùng đi lên phòng để ngủ.
Đầu
trống canh năm sáng hôm sau, Đới Tung dậy sớm gọi Lý Quỳ dậy sớm nấu cơm, ăn
uống xong rồi, tính trả tiền hàng, mà cùng nhau ra đi.
Đi được
vài dặm đường, Đới Tung bảo với Lý Quỳ:
- Hôm
qua ta chưa dùng đến phép thần hành, ngày nay phải dùng đến phép mà đi cho mau
mới được. Anh buộc khăn gói cho chặt chẽ cẩn thận, để tôi làm phép cho anh
trước cứ đi tám trăm dặm rồi hãy nghỉ.
Nói đoạn
lấy bốn miếng giáp mã, buộc vào hai bên trái đùi Lý Quỳ,mà dặn rằng:
- Anh
đến hàng rượu đâu đó, mà đợi tôi nhé?
Nói xong
lại đọc mấy câu thần chú, thổi lên trên chân Lý Quỳ, rồi Lý Quỳ rảo cẳng bước
đi, vù vù như gió vậy.
Đới Tung
trông theo cười nói một mình rằng:
- Hãy để
cho hắn nhịn đói hôm nay đã.
Đoạn rồi
lấy giáp mã buộc chân mình mà theo sau Lý Quỳ, Lý Quỳ xưa nay chưa biết thần
hành là thế nào, cứ yên trí làm thế thì được nhanh chóng, khoái hoạt như Đới
Tung. Dè đâu chàng vừa bước chân đi, đã thấy hai bên tai vù vù, như mưa sa gió
thổi, không sao chịu. Lại thấy cửa nhà cây cối ở bên đường đều loang loáng như
là biến chạy, bước chân lại bầng bầng như mây khói vùng lên, thì trong bụng rất
lấy làm kinh sợ. Mấy phen chàng toan dừng lại nhưng hai cẳng vẫn cứ lôi kéo bắt
đi, cứ chạy hoài không sao đứng lại được. Khi trông các hàng thịt rượu cứ loang
loáng biến mất, không làm thế nào vào được để ăn. Lý Quỳ thấy vạy kêu cha kêu
mẹ xin dừng lại một lát, nhưng đôi chân vẫn quần quật đi luôn, không sao đứng
lại cho.
Chàng
chạy hoài chạy mãi, đến lúc mặt trời đã vàng úa non Tây, trong bụng vừa đói vừa
khát, toát cả mồ hôi, thở lên hồng hộc, mà cũng không sao đứng lại được. Bấy
giờ Đới Tung ở đằng sau chạy theo gọi lên rằng:
- Lý Đại
Ca! Sao không mua cái gì ăn đã?
Lý Quỳ
kêu lên rằng:
- Ca Ca
cứu tôi với...Thiết Ngưu đói chết rồi đây...
Đới Tung
liền lấy bánh ở trong bọc ra, vừa ăn vừa để cho Lý Quỳ nom thấy.
Lý Quỳ
lại kêu lên rằng:
- Tôi
không làm sao đứng lại được mà mua được bánh, bác cho tôi một miếng ăn cho đỡ
đói vậy.
Đới Tung
chia chiếc bánh ra bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh
đứng lại đây, tôi đưa cho mà ăn.
Lý Quỳ
với tay lại để lấy, chỉ cách nhau một trượng mà cũng không sao với được.
Đới Tung
lại kêu dội lên rằng:
- Ca Ca
ơi! Hãy đứng lại một tí đã.
Lý Quỳ
phát bẳn gắt lên rằng:
- Quái
gở! Hai cái chân khốn nạn này không theo mình một tý nào cả, chỉ cứ cắm cổ mà
chạy hoài mãi...Đừng làm ông sốt tiết lên bây giờ...
Nói đoạn
cầm đôi đại phủ vỗ vào nhau chan chát để mà đe dọa. Đới Tung thấy vậy lại nói
đế luôn rằng:
- Phải
chặt hai cái cẳng đi, thế là tiện...Không có thì chạy đến tháng giêng sang năm,
cũng chưa đứng lại được đâu?
- Khổ!
Ca Ca làm gì đùa thế? Chặt mất hai chân đi, thì lấy gì mà chạy được nữa?
- Chắc
là hôm qua anh không nghe lời tôi, làm khổ cả đến tôi, không sao mà đứng lại
được? Thôi, anh cứ chạy thế vậy...
Lý Quỳ
quay lại bảo Đới Tung rằng:
- Bố ơi!
Bố tha cho tôi đứng lại một tý...
- Phép
này của tôi phải kiêng ăn mặn, mà nhất là thịt trâu thì lại càng kỵ lắm. Nếu ăn
một miếng thịt trâu vào, thì có lẽ chạy đến suốt đời mới ngừng lại được.
- Thế
thì khổ quá! Chẳng giấu gì Ca Ca, đêm hôm qua tôi trót ăn vụng mất sáu bảy
miếng thịt trâu, bấy giờ làm thế nào được?
- Thảo
nào chân tôi hôm nay cũng không đứng lại được, anh Thiết Ngưu này thực làm khổ
cả đến người ta...
Lý Quỳ
nghe nói, kêu trời kêu đất ầm ĩ cả lên.
Bấy giờ
Đới Tung cười bảo Lý Quỳ rằng:
- Từ nay
nếu anh nghe tôi được một việc này, thì tôi có thể trừ được phép ấy ngay lập
tức.
- Vâng,
bố bảo điều gì, Lý Quỳ xin vâng theo cả.
- Từ đây
trở đi không được ăn vụng thế nữa nghe chưa?
- Vâng,
từ nay nếu có ăn vụng, thì lưỡi mọc đầu đanh ra mà chết...Hôm qua vì thấy Ca Ca
ăn chay đã quen tôi ăn vào khó nuốt quá, nên mới đánh liều, mà ăn vụng đó thôi!
Nay trở đi xin thề, không khi nào dám thế nữa.
Đới Tung
nói:
- Nếu
vậy thì hãy tha cho anh một chuyến đã.
Nói đoạn
đi dấn đến gần lên, lấy vạt áo đập vào chân Lý Quỳ mà quát lên rằng:
- Đứng
lại.
Đoạn rồi
Lý Quỳ đứng ngay lập tức.
Đới Tung
thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:
- Bây
giờ tôi đi trước, để anh lững thững theo gót mới được.
Lý Quỳ
rằng vâng lời: Toan cất cẳng lên đi, bỗng thấy hai chân nặng chĩu như hai cây
sắt, không sao mà nhúc nhích đi được.
Chàng
liền kêu lên rằng:
- Khổ
lắm! Ca Ca lại cứu tôi một tý...
Đới Tung
nghe nói, quay lại cười mà hỏi rằng:
- Vừa
rồi anh thề có thực không?
- Khốn
nạn! Ông là bố tôi, khi nào tôi dám nói dối nữa.
Đới Tung
nói:
- Nếu
quả vậy thì được rồi...
Nói đoạn
dắt tay Lý Quỳ lên mà quát một tiếng "Đi" rồi Lý Quỳ mới nhắc cẳng
lên mà theo với Đới Tung.
Bấy giờ
Lý Quỳ bảo với Đới Tung rằng:
- Ca Ca
thương Thiết Ngưu này, cho nghỉ một lát thì mới chịu được.
Đới Tung
nghe nói. Liền dẫn Lý Quỳ vào một làng nào đó, để cùng nghỉ với nhau. Đới Tung
cởi giáp mã ra, hóa vàng lễ tạ, rồi hỏi Lý Quỳ rằng:
- Bây
giờ thế nào?
Lý Quỳ
sờ đến chân, rồi thở dài mà rằng:
- Hai
cái chân này giờ mới là của tôi đây...
Nói đoạn
Đới Tung bảo Lý Quỳ làm cơm chay ăn, rồi cùng nhau đi nghỉ.
Sáng hôm
sau vào khoảng đầu trống canh năm, hai người dậy sớm, cơm nước xong hai người
cùng đi. Đi được ba dặm Đới Tung lấy giáp mã bảo với Lý Quỳ rằng:
- Hôm
nay tôi buộc hai miếng cho anh thong thả vậy.
Lý Quỳ
nói:
- Thôi
bố đừng buộc cho con nữa.
- Được,
anh cứ thuận lời tôi nói, thì cứ buộc vào để đi cho chóng. Nếu anh không nghe,
thì lại cho anh đứng nguyên như hôm qua, rồi bao giờ tôi tìm được Công Tôn
Thắng về đây, sẽ tha cho anh mà đi.
Lý Quỳ
nghe nói, vội kêu lên rằng:
- Bố
buộc vào đây...buộc vào đây...tôi không dám nói gì nữa.
Đới Tung
liền buộc cho mỗi người hai miếng giáp mã làm phép thần hành, rồi hai người
cùng đi với nhau. Từ đó trong khi đi đường Lý Quỳ nhất nhất theo lời Đới Tung
mà không dám trái. Một hôm đi đến địa phận Kế Châu, hai người cùng đến hàng cơm
ở ngoài thành để trọ, rồi sáng hôm sau vào thành sớm để tìm hỏi Công Tôn Thắng.
Hôm đó Đới Tung giả làm ông chủ, Lý Quỳ giả làm người đầy tớ theo hầu vào thành
suốt một ngày trời, không có tin tức gì, hai người lại phải trở về nhà trọ.
Ngày hôm
sau lại vào thành, tìm khắp cả các hang cùng ngõ hẻm, cũng không thấy tăm hơi
đâu cả, Lý Quỳ lấy làm sốt ruột nói với Đới Tung rằng:
- Lão ăn
mày này, không biết rằng trốn ở chỗ nào... ? Bây giờ đi tìm thấy thì nắm cổ lôi
ngay về cho Ca Ca mới được.
Đới Tung
nghe nói, nguýt Lý Quỳ mà rằng:
- Anh
lại giở quẻ rồi, muốn như hôm nọ hay sao?
Lý Quỳ
cười toét mồm đáp rằng:
- Không,
không tôi nói đùa ấy chứ...
Đới Tung
lại hầm hầm ra dáng giận dữ, Lý Quỳ phải im thít, không dám nói câu gì nữa. Hôm
đó hai người về nghỉ hàng trọ, rồi đến ngày thứ ba lại đi hỏi thăm ở các thị
trấn xung quanh không một ai biết đến. Đến trưa hôm ấy, hai người đã đói, liền
tìm vào một hàng cơm, thấy hàng quán đông, không có chỗ ngồi, hai người còn ở
ngoài đường, sẽ lại hỏi dò mọi người xem có biết, khách hàng còn giở ăn uống và
cũng không ai biết đến Công Tôn, sau lại ngồi gần bàn của một ông già Đới Tung
vội thi lễ mà gọi cơm và thức ăn chay.
Đới Tung
nói:
- Ta chỉ
dùng ít cơm thôi, còn người cứ dùng cho đủ.
Lý Quỳ
nói:
- Phải
ăn cho đủ no mời được, tôi xin ứng tiền ra.
Tên tửu
bảo đi qua thấy liền cười. Ai ngờ đợi mãi không thấy cơm nước gì. Lý Quỳ đã
thấy mọi người ăn xong ra đi, trong lòng đã bực bội, lại thấy họ đem cơm lên
cho ông già cùng ngồi một bàn với mình, ông già ấy chẳng nhường cho hai người,
cứ việc cúi xuống mà ăn, Lý Quỳ tính nõng, bèn chửi mắng nhà hàng rằng:
- Đồ
khốn nạn! Làm cho lão đây đợi đến bao giờ, mà không đem hàng ra bán.
Liền vỗ
bàn mạnh lên, làm cho cơm nước đổ ra bàn, khiến lão kia đương ăn bực mình, nắm
lấy Lý Quỳ mà mắng:
- Sao
ngươi làm đổ cơm nước của ta, là nghĩa lý gì?
Lý Quỳ
cũng toan giơ tay cự lại. Đới Tung ngăn vội mà rằng:
- Ngươi
không được thế? Xin ông già hãy nể mặt tôi xin đền tiền cơm nước cho ông, đừng
lôi thôi gì nữa, thằng đầy tớ của tôi không biết lễ phép thế nào, vậy xin lỗi
cụ.
Người
già kia nói:
- Khách
quan không rõ cho tôi, tôi tới đây đường xa, cần ăn cơm sớm, để tôi đi nghe
giảng đạo, thế này lại chậm lỡ thôi.
Đới Tung
nghe vậy liền hỏi:
- Thưa
cụ là người ở đâu, đến đây nghe ai giảng đạo?
Ông già
nói:
- Tôi
người ở huyện Cửu Cung, thuộc Tô Châu, vốn ở núi Nhị Tiền, nay vào trong thành
để mua dầu hương, mang về trên núi, nghe La Chân Nhân giảng phép trường sinh
bất tử.
Đới Tung
liền nghĩ ngay: "Có lẽ Công Tôn Thắng cũng ở trong đám này chăng? "
Liền thừa dịp hỏi ngay ông lão:
- Thưa
cụ ở trong quý trang có vị nào là Công Tôn Thắng đạo nhân chăng?
Ông già
nói:
- Nếu
khách quan mà hỏi mọi người, thì không ai biết đến ông ta, chỉ tôi đây với ông
ta vốn là hàng xóm, ông ta đi vân du luôn, có bà mẹ ở nhà, nếu hỏi là Công Tôn
Thắng, là tên tục, không ai nhận được ra, phải gọi là Nhất Thanh Đạo Nhân mới
tìm tới được.
Đới Tung
nói:
- Chính
chúng tôi đây đương muốn gặp ông ta, tìm đến chết người mà chả gặp, may thay
gặp cụ xin cụ chỉ giúp cho chúng tôi được tới nhà.
Liền
đứng vái ông cụ mà hỏi:
- Thưa
cụ từ đây tới núi Nhị Tiên bao nhiêu đường đất, và Thanh Đạo Nhân có ở nhà không?
Ông già
nói:
- Núi
Nhị Tiên cách huyện Cửu Cung chừng ngoài bốn mươi dặm đường, còn Thanh Đạo Nhân
là bậc cao đồ của La Chân Nhân, không lúc rời ở bên cạnh.
Đới Tung
nghe nói cả mừng, liền gọi hàng dọn cơm nước mau lên, rồi cùng ông già và Lý
Quỳ cùng ăn uống, xong rồi tính trả tiền hàng, cùng ra khỏi điếm, ông già mời
Đới Tung cùng đi một thể.
Đới Tung
nói:
- Xin
mời cụ đi trước, chúng tôi còn mua vàng hương cho đủ lễ đã.
Rồi cùng
nhau bái biệt, Đới Tung trở vào nhà hàng lấy hành lý, rồi buộc giáp mã vào chân
mình và chân Lý Quỳ, hai người dùng phép thần hành, chốc lát đã tới huyện Cửu
Cung mới làm phép dừng lại.
Khi đó
Đới Tung hỏi thăm đường về núi Nhị Tiên, có người mách cho từ huyện này đi tới
năm dặm về phía Đông, thì tới núi đó. Đới Tung lại cùng Lý Quỳ đi tới đó, chỉ
chừng năm dặm tới núi Nhị Tiên. Đới Tung gặp một tiêu phu bèn thi lễ mà hỏi
thăm nhà Thanh Đạo Nhân? Tiều phu chỉ cho biết:
- Đi tới
mỏm núi kia, qua cái cầu đá, là đến nhà ông ta.
Đới Tung
liền cảm ơn xong, hai người lại lần đến đó, thấy có mươi túp nhà tranh, ngoài
xung quanh tường thấp lè tè, trước có cầu đá con con, rồi thấy một người đàn bà
cầm thúng quả ở trong đi ra.
Đới Tung
chấy tay vái chào, hỏi người đàn bà ấy rằng:
- Nàng ở
trong nhà Thanh Đạo Nhân đi ra, chẳng hay có Đạo Nhân ở nhà hay không?
- Có,
Đạo Nhân đương luyện phép ở trong đó.
Đới Tung
mừng rỡ bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh
đứng nấp ở đây, đợi tôi vào xem đã, rồi anh sẽ vào sau.
Nói đoạn
quay đi vào trước. Khi vào thấy có một dẫy ba gian nhà lá, trước cửa treo cái
rèm bằng cỏ lau. Đới Tung bèn đằng hắng một cái rất to, rồi có một bà da mồi
tóc bạc ở trong nhà chạy ra, chàng liền vái chào hỏi rằng:
- Bẩm cụ
chúng tôi muốn vào hầu Thanh Đạo Nhân một lát.
Bà cụ
hỏi:
- Ngài
là ai? Ở đâu đến đây?
- Bẩm,
chúng tôi là Đới Tung ở Sơn Đông mới đến.
- Cháu
nó đi chơi vắng chưa về.
- Dạ!
Thưa cụ: Chúng con là anh em bạn cũ, muốn cần hỏi việc gấp, xin cụ làm ơn bảo
cho...
- Hiện
có không có ở nhà. Ngài cần chuyện gì, cứ dặn tôi cũng được. Khi nào nó về,
ngài sẽ đến chơi.
Đới Tung
nghe nói, vội đáp rằng:
- Nếu
vậy xin để khi khác tôi sẽ đến.
Nói xong
vái chào đi ra, bảo với Lý Quỳ rằng:
- Bây
giờ phải cần đến anh mới được. Vừa rồi bà mẹ ông ta chối là đi vắng, vậy để anh
vào hỏi lần nữa, nếu bà ta còn chối thì đánh luôn, nhưng chớ đánh đau, lúc nào
tôi vào, thì thôi ngay mới được.
Lý Quỳ
vâng lời, mở khăn gói lấy song phủ dắt ở sau lưng, rồi đi thẳng vào cửa mà quát
to lên rằng:
- Ai
đó...ra đây?
Bà cụ
nghe tiếng hỏi "Ai" rồi vội chạy ra, trông thấy Lý Quỳ trợn mắt tròn
xoe lên, thì trong bụng lấy làm sợ hãi, liền hỏi rằng:
- Ca Ca
có việc gì đó?
Lý Quỳ
nói:
- Ta là
Hắc Toàn Phong ở Lương Sơn Bạc, vâng tướng lệnh của Tiều, Cống Ca Ca đến đón
Công Tôn Thắng...Nếu đem hắn ra đây thì tử tế, bằng không thì ta cho mồi lửa
đốt phăng nhà đi bây giờ?
Nói xong
lại thét lên rằng:
- Mau
mau ra đây.
Bà cụ
nói:
- Hảo
hán ôi! Nhà tôi đây là Thanh Đạo Nhân, chứ không phải nhà Công Tôn Thắng đâu?
- Cứ gọi
hắn ra đây, ta nhận mặt khắc biết.
- Hắn đi
chơi vắng nhà chưa về.
Lý Quỳ
nghe đến đó, rút phăng đôi phủ ra, chém một nhát đổ hẳn một bên tường, rồi hằm
hằm ra mặt giận dữ. Bà cụ vội chạy đến ôm giữ Lý Quỳ lại.
Lý Quỳ
quát lên rằng:
- Nếu
không bảo con trai ra đây, thì ta chém chết bây giờ.
Nói đoạn
giơ búa chém luôn, làm cho bà cụ kinh sợ ngã lăn ra đó. Bấy giờ Công Tôn Thắng
ở trong nhà chạy ra kêu lên rằng:
- Không
được vô lễ như thế.
Đoạn rồi
thấy Đới Tung ở ngoài thét mắng rằng:
- Thiết
Ngưa sao được xấc láo, làm cho bà cụ kinh sợ như vậy?
Nói đoạn
Đới Tung vội vàng nâng bà cụ dậy, rồi Lý Quỳ vất đôi song phủ xuống, vái chào
Công Tôn Thắng mà rằng:
- Xin Ca
Ca tha lỗi, không làm thế, thì bao giờ Ca Ca chịu ra? Công Tôn Thắng vội vàng
nâng mẹ dậy, vái chào hai người, rồi mời vào trong nhà, Công
Tôn
Thắng hỏi:
- Sao
ngài lại tìm được đến đây?
Đới Tung
nói:
- Chuyến
trước tôi đã đi đến Kế Châu tìm khắp mọi nơi không thấy Ca Ca ở đâu, sau rủ
được mấy người nhập bọn cùng về trên núi. Chuyến này Tống Công Minh tới Đường
Châu cứu Sài Đại Quan Nhân, chẳng may bị Tri Phủ Cao Liêm dùng phép yêu ma đánh
luôn mấy trận, không sao mà chống lại được. Nhân vậy phải cho tiểu đề cùng Lý
Quỳ đi mời Ca Ca, về để bàn kế giúp cho. Tiểu đệ tới Kế Châu thăm hỏi mấy ngày
không được, sau may vào hàng bánh, gặp một ông già chỉ bảo giùm cho, bấy giờ
mới biết đường mà lần hỏi đến đây. Khi tới cổng đã gặp một người đàn bà đi ra,
chúng tôi hỏi thăm đã biết chắc là Ca Ca ở nhà. Ai ngờ vào tới nơi cụ lại nói
dối là đi vắng, nhân thế phải lập kế cho Lý Quỳ vào hỏi, như vậy thực vô lễ,
xin Ca Ca tha lỗi cho Tống Công Minh, hiện nay ở đất Cao Đường, một ngày dài
tựa ba thu, vậy Ca Ca sắp sửa đi ngay cho chóng xong công việc.
Công Tôn
Thắng nói:
- Tôi từ
thủa trôi nổi giang hồ, trong lòng thực vẫn mộ các tay hảo hán. Duy từ khi ở
Lương Sơn Bạc về đây, một là mẹ già đầu bạc, không ai nuôi nấng trông coi; Hai
là La Chân Nhân cũng có lòng yêu mến, không cho đi đâu, lại e các vị hảo hán ở
Lương Sơn Bạc đến đây tìm hỏi, nhân thế bắt tôi phải đổi tên là Thanh Đạo Nhân,
mà giữ riết ở nhà, không còn ai biết đến được nữa.
- Ngày
nay Tống Công Minh, đương khi nguy cấp, vậy xin Ca Ca lấy lượng từ bi mà đến đó
một phen rồi sẽ liệu.
- Bây
giờ tôi không thể nào mà đi được, vì có mẹ già phải trông coi khuya sớm, và La
Chân Nhân cũng không chịu cho đi.
Đới Tung
đứng dậy cúi lạy Công Tôn Thắng; mà nhất tâm cầu khẩn xin đi, Công Tôn Thắng đỡ
dậy mà rằng:
- Nếu
vậy để tôi định liệu xem sao?
Nói đoạn
giữ Đới Tung và Lý Quỳ ở đó, rồi làm cơm chay thiết đãi hai người. Khi ăn uống
xong, Đới Tung lại vật nài nói với Công Tôn Thắng rằng:
- Nếu Ca
Ca không chịu đi, thì Tống Công Minh tất bị Cao Liêm bắt được, mà đại nghĩa ở
Lương Sơn Bạc từ nay tất là đổ vỡ cả.
- Để tôi
bẩm với Sư phụ Chân Nhân, nếu người có bằng lòng, thì sẽ đi một thể...
- Xin Ca
Ca đi hỏi ngay bây giờ cho...
- Hãy
thư thả, nghỉ đây một đêm, để sáng mai đi hỏi cũng được.
- Bây
giờ Tống Công Minh ở Đường Châu mong mỏi từng giờ từng phút, vậy xin Ca Ca đi
hỏi giúp ngay cho?
Công Tôn
Thắng thấy lời lẽ ân cần, không sao cầm lòng được, bèn dẫn cả Đới Tung, Lý Quỳ,
cùng lên trên núi Nhị Tiên. Bấy giờ đương dạo cuối thu sang đông, ngày ngắn đêm
dài, ba người đi được một quãng, thì mặt trời đã tà tà xế tối.
Công Tôn
Thắng dẫn hai người đếm một ngỏ nhỏ, đén quan La Chân Nhân, thấy có cái biển
son đê ba chữ "Chân Nhân quán" rất to. Ba người vào đến đình sửa áo,
liền cùng nhau chỉnh đốn áo khăn, rồi đi qua một lũy hành lang đến hiên Tùng
Hạc.
Khi đó
có hai tên tiểu đồng, thấy Công Tôn Thắng đến, vội vào báo cho Chân Nhân biết.
Chân Nhân nghe báo, truyền chỉ cho Công Tôn Thắng vào, Công Tôn Thắng dẫn Đới
Tung, Lý Quỳ vào đến trong hiên Tùng Hạc, thấy La Chân Nhân đương ngồi ngay
ngắn ở trên sập Vàng, Công Tôn Thắng vội vái chào, rồi đứng ra một bên. Đới
Tung thấy vậy cũng vội vàng cúi xuống lạy chào, còn Lý Quỳ vẫn đứng im, mà đưa
mắt nhìn trân trân không chớp.
Chân
Nhân hỏi Công Tôn Thắng rằng:
- Hai vị
này là ai?
Công Tôn
Thắng nói:
- Chính
là bọn nghĩa hữu ở Sơn Đông ngày trước, đề tử đã nói đến, hiện nay vì Tri Phủ
Cao Đường khoe khoang phép lạ nên Tống Giang huynh mới sai hai anh em đến triệu
đệ tử đi...Vậy đệ tử đến đây xin phép sư phụ người có cho đi được chăng?
Chân
Nhân nói:
- Nhất
Thanh đã thoát nơi Lò Lửa, yên tâm theo luyện phép trường sinh, sao còn mơ hồ
đến cảnh đó?
Đới Tung
cúi lạy thưa rằng:
- Người
rộng phép cho Công Tôn Tiên Sinh xuống núi một phen, sau khi đã phá được Cao
Liêm sẽ đưa về núi hầu người.
La Chân
Nhân nói:
- Hai
người chưa rõ, những việc ấy không phải là đám xuất gia tôi bận đến, vậy xin
các ngài hãy về thương nghị xem sao?
Công Tôn
Thắng bất đắc dĩ phải vâng lời dẫn hai người ra về.
Bấy giờ
Lý Quỳ mới hỏi riêng rằng:
- Vừa
rồi lão gia nói gì thế?
Đới Tung
đáp:
- Anh
lại không nghe rõ hay sao?
- Tiếng
nói thế, ai còn nghe ra cái gì?
- Đấy là
sư phụ ông ta không cho đi đấy.
Lý Quỳ
nghe nói, tức giận mà kêu lên rằng:
- Mình
đi bao nhiêu đường đất khổ sở biết bao?
Bây giờ
tìm thấy rồi, lại hoạch họe mãi...Đừng làm ông sốt ruột lên, thì gọi là xé tan
cái mũ ấy ra, rồi nắm thắt lưng kéo cổ thằng già ấy xuống núi cho mà xem.
Đới Tung
thấy vậy, nguýt Lý Quỳ mà rằng:
- Anh
lại muốn đóng đinh chân xuống đây rồi.
Lý Quỳ
vội làm mặt tươi cười mà rằng:
- Không,
không, tôi nói đùa đấy chứ.
Đêm hôm
ấy hai người về tới nhà, Công Tôn Thắng sai dọn cơm ăn. Công Tôn Thắng cùng Đới
Tung ăn uống như thường, duy Lý Quỳ cứ ngồi nghĩ ngây người mà không ăn uống
chi cả.
Công Tôn
Thắng bảo với hai người rằng:
- Hãy
dầu lòng nghỉ đây một tối, sáng mai tôi đến nói lại xem, nếu có cho đi thì hay
lắm.
Đới Tung
đành phải cất dọn hành lý, rồi cùng với Lý Quỳ, cùng ngủ một nơi. Lý Quỳ nằm
trằn trọc không sao ngủ được. Đến sáng canh tư, thì chàng ngồi nhổm dậy, nghe
thấy Đới Tung ngủ ngáy khò khò như chết, chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng:
"Thằng cha nó...vô lý quá! Nó là người ở Lương Sơn về đây, lại còn phải
hỏi sư phụ nào! Mình định cho phắt nó một búa là xong, nhưng giết nó, thì lấy
ai cứu Ca Ca cho được? "
Đoạn rồi
lại nghĩ: "Nếu sáng mai mà lão già lại không chịu cho đi, thì có phải là
lỡ cả việc của Ca Ca không? Thế này thì không thể nào mà nhịn được! Bất nhược
giết phăng thằng già kia, cho nó hết hỏi là tất nhiên phải đi với mình hẳn...
"
Chàng
nghĩ đến đó, liền sờ đến đôi phủ, khẽ mở cửa phòng, lần bóng trăng trong mà đi
lên Tử Hư. Khi tới nơi, thấy cửa đóng kín mít, lại hai bên tường thấy lè tè,
chàng liền nhảy tót vào trong, sẽ mở cửa ra, rồi lần mò vào trong hiên Tùng
Hạc. Chàng đi đến trước hiên, nghe trong cửa có tiếng người tụng kinh, bèn nhảy
lên chỗ khe cửa để xem thì thấy La Chân Nhân ngồi ở chỗ lúc chiều, trên án trước
mặt có lò lửa hương khói bốc lên nghi ngút, và hai cây nến thắp sáng choang.
Lý Quỳ
nói một mình: "Thằng cha này số chết đây" rồi lần đến bên cửa sẽ lấy
tay đẩy tung cánh cửa ra, đoạn rồi lấy búa sấn vào, nhè giữa óc La Chân Nhân
choang cho một búa; ngã gục xuống giường.
Lý Quỳ
nom kỹ thấy máu trắng chảy ra, bèn cười mà nói rằng:
- Thằng
cha này luyện tài thực, làm thế nào mà nguyên khí hãy còn nguyên.
Chàng
cũng nom đến cái mũ cũng vỡ ra làm đôi, mà trên đầu thì toác một nhát thẳng
xuống dưới cổ.
Chàng
lại nói:
- Giết
được thằng cha này, tất là Công Tôn Thắng phải theo chúng mình hẳn.
Nói đoạn
toan quay về. Chợt đâu một tên Thanh Y Đạo Đồng chạy đến ôm lấy Lý Quỳ mà rằng:
- Anh
giết thầy tôi, bây giờ chực chạy đi đâu?
Lý Quỳ
giơ búa lên mà quát rằng:
- Thằng
ranh con này, ông cho một búa nhân thể.
Nói đoạn
chém một nhát chết quay ra đó, rồi cười nói một mình rằng:
- Bây
giờ còn đứa nào ra đây nữa không? Thôi ta đi về.
Miệng
nói chân đi chạy thẳng một mạch về nhà Công Tôn Thắng, tới nơi lẻn vào thấy Đới
Tung vẫn còn ngủ im thim thít, chàng lại đóng cửa rồi vào nằm tử tế. Sáng hôm
sau dậy sớm, Công Tôn Thắng sai dọn cơm cùng ăn, cơm nước xong Đới Tung lại
thúc giục Công Tôn Thắng lên núi để xin phép, Lý Quỳ thấy vậy chỉ bầm bụng cười
thầm mà không dám nói. Đoạn rồi Công Tôn Thắng đưa hai người cùng đến quán Tử
Hư.
Khi vào
tới Tùng Hạc, có hai tên đạo đồng đứng ở đó. Công Tôn Thắng liền hỏi:
- Chân
Nhân ngồi ở đâu?
Đạo đồng
đáp:
- Chân
Nhân đương ngồi ở trên Vân Sàng đó.
Lý Quỳ
gnhe nói cả kinh, lè lưỡi ra đến nửa ngày không co vào được. Bấy giờ ba người
cùng mở rèm đi vào, quả nhiên thấy La Chân Nhân đương ngồi trên Vân Sàng ở giữa
nhà.
Lý Quỳ
thấy vậy nghĩ thầm rằng: "Có lẽ đêm qua mình giết nhầm chắc"
Vừa nghĩ
xong thấy Chân Nhân hỏi:
- Ba các
ngươi đến đây làm gì?
Đới Tung
nói:
- Chúng
tôi đến kêu với sư phụ mở lòng từ bi cứu cho khỏi nạn, chúng tôi được đội ơn
đức muôn vàn.
La Chân
Nhân hỏi:
- Người
đen lớn kia là ai thế?
Đới Tung
bẩm:
- Hắn là
nghĩa đệ của tôi tên là Lý Quỳ ...
Chân
Nhân cười nói:
- Đáng
lẽ không cho Công Tôn Thắng đi, nhưng nể mặt Lý Quỳ, nên cho anh ta đi một
phen...
Đới Tung
lạy tạ, rồi lại nói chuyện với Lý Quỳ.
Lý Quỳ
nghe nói, nghĩ thầm trong bụng: "Anh này biết mình định giết nên mới thế
đây...”
Chân Nhân
lại nói:
- Ta làm
phép cho ba người đến ngay Đường Châu bây giờ...
Đới Tung
vâng lời tạ ơn, rồi tự nghĩ rằng: "La Chân Nhân lại có phép đi nhanh hơn
phép thần hành của ta hẳn?"
Chân
Nhân gọi đạo đồng, lấy ba cái khăn tay đến. Đới Tung nói với Chân Nhân rằng:
- Bẩm sư
phụ làm thế nào cho chúng tôi tới ngay được Đường Châu?
Chân
Nhân đứng dậy bảo ba người rằng:
- Các
ngươi đi ra đây với ta.
Ba người
vâng lời theo Chân Nhân ra chỗ mỏm đá bảo Công Tôn Thắng đứng chụm hai chân lên
trên, rồi Chân Nhân lấy tay áo phẩy một cái mà quát lên rằng:
- Lên...
Bỗng
dưng cái khăn hóa ra một vầng mây đỏ, đem Công Tôn Thắng lên cao ước chừng hai
mươi trượng, Chân Nhân lại quát lên "Im" thì thấy dám mây đứng im lại
mà không đi nữa.
Chân
Nhân lại lấy khăn tay xanh, bảo Đới Tung trèo lên, rồi quát một tiếng
"Lên" thì khăn tay xanh hóa ra đám mây xanh, mà đưa Đới Tung lên cao
bằng chỗ Công Tôn Thắng, mà đang lơ lửng ở đó.
Lý Quỳ
nom thấy vậy, ngây hẳn người ra, như thằng dại vậy. Bấy giờ Chân Nhân lại bảo
lấy khăn tay trắng, bảo Lý Quỳ đứng lên.
Lý Quỳ
nói:
- Đừng
làm đùa thế, lỡ ngã một cái thì quăn da.
Chân
Nhân nói:
- Anh
nom hai người kia có ngã không?
Lý Quỳ
liền đứng vào cái khăn tay. Chân Nhân quát lên một tiếng "Lên" rồi
khăn tay trắng hóa thành đám mây trắng đem quân bay lên, Lý Quỳ kêu lên:
-
Ái...Ái...Không chịu được, cho xuống mau.
Chân
Nhân vẫy tay một cái, hai đám mây xanh, đỏ đều là là bay xuống. Đới Tung lạy tạ
Chân Nhân, đứng hầu vàobên hữu, còn Công Tôn Thắng đứng hầu về bên tả. Bấy giờ
còn một mình Lý Quỳ ở trên mây trắng kêu lên rằng:
- Trời
ôi! Tôi muốn đái bây giờ...Mau mau cho xuống, không có thì đái cả vào đầu bây
giờ.
La Chân
Nhân đứng dưới hỏi lên rằng:
- Chúng
ta là bọn tu hành có can phạm gì đến ngươi? Sao đêm hôm qua ngươi dám cào tường
vào, giơ búa chém ta? Nếu ta không phải là người có đạo đức, thì còn sống làm
sao được nữa? Ngươi lại giết cả đạo đồng của ta nữa là nghĩa lý gì?
Lý Quỳ
nói:
- Không
phải tôi! Có lẽ ông lầm rồi... .
La Chân
Nhân cười rằng:
- Thôi,
cũng chỉ chém hai cái túm cỏ của ta đó thôi. Nhưng bụng ngươi đã bất thiện, thì
ta phải cho một mẻ mà sửa đổi đi mới được.
Nói đoạn
giơ tay vẫy, quát lên một tiếng "Đi" rồi thấy một trận ác phong đưa
đến thổi bạt Lý Quỳ đi lên tít trên mây. Đoạn rồi có hai người lực sĩ khăn vàng
dong áp hai bên.
Bấy giờ
Lý Quỳ chỉ nghe thấy hai bên tai vù vù như gió táp mưa sa, trông xuống bên dưới
cỏ cây cửa nhà đều ầm ầm bay chuyển. Dưới chân mình cũng chẳng khác nào gió
giục mây vần, càng ngày càng đổi giạt mãi đi, không biết trời đất là đâu nữa.
Lý Quỳ
trông thấy sợ hãi rụng rời, chân tay dẫy lên đây đẩy. Chợt đâu nghe một tiếng
huỵch thật mạnh, chàng nhắm mắt nhìn kỹ thì rơi ngay xuống nóc nhà công đường
phủ Kế Châu, rồi lăn thồ lồ xuống đất.
Khi đó
quan Phủ Mã Sĩ đương ngồi trong công đường, nha lại đứng hầu cả hai bên, thấy
bỗng có người ở trên nóc nhà lăn xuống, thì ai nấy đều kinh sợ không hiểu ra
sao cả.
Quan Phủ
bèn thét lính trói lại, rồi bắt dong đến trước cửa công đường ma quát lên rằng:
- Thằng
này mày là yêu quái ở đâu mà lại rơi xuống đó?
Lý Quỳ
đương đau đớn, vỡ cả đầu sứt cả mặt, thở hồng hộc, không sao mà trả lời được.
Tri Phủ
lại quát:
- Thằng
này tất là yêu quái ở đâu, bây lấy nước phép ra đây...
Mấy tên
lính ngục vâng lời, đem Lý Quỳ mà trói lại, đưa ra chỗ bãi co û trước cửa công
đường, rồi một tên ngu hầu bưng chậu huyết cho, và một người bưng thùng nước
giải dội từ đầu Lý Quỳ xuống.
Lý Quỳ
thấy mình mẩy mặt mũi, toàn nhơ bẩn cả lên, bèn kêu rằng:
- Tôi
không phải là yêu ma nào đâu...Tôi là người nhà La Chân Nhân đây.
Nguyên
La Chân Nhân vốn có tiếng đạo đức ở đất Kế Châu, quanh vùng đó, ai cũng gọi là
ông thần tiên sống, nhân thế nên không ai động đến Lý Quỳ nữa. Đoạn rồi chúng
lại dẫn Lý Quỳ vào công đường mà kêu lên rằng:
- La
Chân Nhân là một người có tiếng là thần tiên sống ở đất Kế Châu. Vậy quả người
này là người nhà La Chân Nhân, thì không nên trị tội làm chi.
Tri Phủ
cười rằng:
- Ta đọc
hàng nghìn vạn cuốn sách, nghe hết chuyện xưa nay, chưa từng nghe thấy ông thần
tiên nào lại có người đồ đệ như thế này bao giờ. Thằng này chắc là yêu quái,
chúng đem đánh đi ta xem.
Chúng
vâng lệnh phải đem Lý Quỳ ra đánh lấy đánh để, chỉ còn thiếu một nước chết là
xong.
Tri Phủ
quát lên rằng:
- Nếu
thú nhận là yêu quái, thì ta tha cho.
Lý Quỳ
phải bất đắc dĩ mà xưng tên Lý Nhị. Tri Phủ liền sai đóng gông nặng, mà giam
xuống nhà lao tử tù.
Khi
xuống ngục, Lý Quỳ nói rằng:
- Ta nay
bị nhật thần xung khắc, sao lại gông ta thế này? Ta truyền cho cả phủ Kế Châu
là chết hết đó?
Mấy anh
Áp lao Tiếp Cấp, và bọn lính ngục vẫn sợ tiếng La Chân Nhân xưa nay, vội vàng
đến hỏi Lý Quỳ rằng:
- Bác là
người ở đâu? Cứ nói thực cho chúng tôi biết...
Lý Quỳ
nói:
- Ta là
người thân của La Chân Nhân, nên đem ta đến bỏ chốn này, đây ải vài hôm, rồi
thế nào cũng đón ta về...Nếu các anh không đem rượu thịt cho ta ăn uống tử tế,
thì ta cho toàn gia các anh chết cả đó...
Bọn kia
nghe nói, anh nào cũng sợ hãi, phải mua rượu thịt đến cho ăn uống. Lý Quỳ thấy
chúng sợ hãi lại càng làm già lên, cho chúng sợ hãi, cho chúng sợ thêm, phải
đem nước nóng đến cho chàng tắm rửa.
Lý Quỳ
bảo chúng rằng:
- Nếu
không cho ăn uống hẳn hoi, thì ta cứ bay đi ngay, để các anh khổ cho mà coi...
Bọn lính
ngục thấy vậy, lại càng kính sợ, đem nước nóng cho Lý Quỳ tắm gội, rồi lấy quần
áo sạch sẽ cho thay, rồi anh nào anh nấy, phục dịch bằng ông thần sống vậy.
Nói về
La Chân Nhân từ khi sai ngọn gió đưa Lý Quỳ đi rồi, liền đem chuyện trước nói
cho Đới Tung biết, Đới Tung kinh sợ, vội vàng kêu xin tha thứ cho Lý Quỳ. Đoạn
rồi La Chân Nhân giữ Đới Tung ở đó, mà hỏi thăm mọi công việc của sơn trại.
Đới Tung
đem tấm lòng trọng nghĩa khinh tài, cùng các đức hay tính tốt của Tiều Thiên
Vương và Tống Công Minh thuật cho Chân Nhân nghe. Chân Nhân nghe nói, vẫn điềm
nhiên như không, rồi lưu Đới Tung ở đó luôn năm hôm nữa. Trong mấy hôm đó, ngày
nào Đới Tung cũng lạy van kêu nài với La Chân Nhân để xin cứu cho Lý Quỳ trở
về, La Chân Nhân cười mà đáp rằng:
- Hạng
người ấy thì trừ phắt nó đi, còn mang về làm gì nữa.
Đới Tung
nói:
- Lý Quỳ
tuy tính thô mãng không biết lễ phép, xong bụng dạ trực tiết, bình sinh không
hề tham nhũng của ai, không hề siểm nịnh ai, dẫu chết tấm lòng không đổi...Nhất
sinh chưa từng có một chút manh tâm đến sự tài lợi dâm đãng, nên việc gì cũng
hăng hái dám làm, bởi thế nên Tống Công Minh lấy làm yêu quý vô cùng. Nay nếu
mất người ấy, thì chúng tôi không thể nào về với Tống Công Minh được nữa?
La Chân
Nhân cười rằng:
- Tôi
nói thế mà thôi...tôi vẫn biết là một vị Sát Tinh ở trên trời, vì hạ giới hiện
nay tội ác đã nhiều, nên trời đày anh ta xuống để giết bớt những giống loài vô
ích, tôi đây có khi nào lại trái lòng trời, mà giết hắn đi cho được, đó chẳng
qua là rèn bớt tính khí cho hắn, rồi tôi lại cho về đây ngay, có ngại gì?
Nói đoạn
gọi lên rằng:
- Nào
lực sĩ đâu?
Nói vừa
dứt lời, thì trước hiên Tùng Hạc có một ngọn gió bay qua rồi có một lực sĩ khăn
Vàng chạy vào, cúi lạy La Chân Nhân mà vâng pháp chỉ. Chân Nhân truyền rằng:
- Hôm nọ
ta sai ngươi đem đày tên ấy sang Kế Châu, nay đã hết tội lỗi rồi, vậy ngươi đến
đó bắt về đây cho ta.
Lực sĩ
vâng lời quay ra. Được một lát bỗng thấy Lý Quỳ ở trên trời rơi xuống ở giữa
sân. Đới Tung vội vàng ra đỡ Lý Quỳ mà hỏi rằng:
- Mấy
hôm nay anh em ở đâu thế?
Lý Quỳ
trông thấy La Chân Nhân, thì chỉ cúi đầu lạy lấy lạy để, mà kêu lên rằng:
- Trăm
lay gia gia, ngàn lại gia gia, từ nay Thiết Ngưa không dám thế nữa...
La Chân
Nhân ung dung nói rằng:
- Ngươi
từ nay trở đi phải bỏ hết tính xằng, mà hết lòng phò tá Tống Công Minh thì ta
tha cho.
Lý Quỳ
nói:
- Người
là cha mẹ bên trên, khi nào con cái dám sai lời nữa.
Đới Tung
lại hỏi thăm chuyện trong mấy hôm đó. Lý Quỳ liền thuật lại chuyện vào ngục Kế
Châu, đến khi có Hoàng Cân Lực Sĩ cứu về, cho Đới Tung nghe...
Bấy giờ
Công Tôn Thắng nói với hai người rằng:
- Ở đây
có hơn một ngàn Hoàng Cân Lực Sĩ đó đều là đầy tớ La Chân Nhân cả...
Lý Quỳ
nghe nói kêu lên rằng:
- Ối
Phật Tổ ôi! Thế mà không bảo cho tôi biết trước, để tôi khỏi xằng như thế?
Nói đoạn
lạy lấy lạy để không thôi...
Đới Tung
cũng năn nỉ kêu với La Chân Nhân rằng:
- Chúng
tôi đến đây đã lâu, mà quân mã Đăng Châu hiện đương nguy cấp, dám xin sư phụ mở
lượng từ bi, mà cho Công Tôn Thắng cùng đi cứu Tống Công Minh, để phá Cao Liêm
một phen, rồi lại xin đưa lên hầu ngài lập tức.
La Chân
Nhân nói:
- Lẽ ra
không cho đi, nhưng nghĩ đến đại nghĩa của các ngươi thì xin cho đi mấy hôm để
giúp...Duy ta dặn câu này phải nhớ chớ quên mới được ...
Công Tôn
Thắng vội vàng quỳ xuống để nghe pháp chỉ xem sao?
Mới hay:
Cuộc đời
bể lại dám qua,
Xưa nay
nghĩa lớn vẫn là nghĩa chung,
Người
Thánh triết kẻ hào hùng.
Đặt thân
tuy khác, giữ lòng dễ sai.
Cùng
nhau tế độ lấy đời,
Gây nên
hạnh phúc cho nòi giống xưa,
Can qua
dù sự chằng ngờ,
Gan vàng
dạ sắt trơ trơ mới là...
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi này
toàn đem chuyện quái lạ viết ra văn, trong truyện có một dạng bút mực khác,
song ở độc giả, phải nên lược qua chuyện quái lạ, mà đoán ra ý tứ. Tại sao? Vì
quái lạ vốn ác đạo của văn chương, truyện này cũng có nói ra, chẳng phải là
không thoát tục, mà có tác dụng vậy, cũng có ý tứ khác người đó vậy.
Vì trong
truyện đã có một Công Tôn Thắng, chẳng thề không có một Cao Liêm, sinh nẩy ra
lấy một Cao Liêm, để phản thấn lại Công Tôn Thắng. Nay chẳng vì lúc này phép
thuật gớm ghê, mà tả ra một phen đấu phép hay sao? Song le phép thuật gớm ghê
vốn là khó vậy, nếu chẳng phô trương Cao Liêm, thì không thể phô trương Công
Tôn Thắng, khoe khoang hai người đấu phép tranh kỳ, đủ mọi phép mầu sinh ra
quỷthần cầm thú...chẳng còn thiếu cái gì, thì như truyện Tây du và mọi sách
không khác, đó là Thi Nại Am đối với nghĩa chẳng làm sao được.
Ta nghe
nhà văn, từng có những phép bỏ thực cầu hư, ở đây lược tả Cao Liêm, tường thụật
Công Tôn, ý giả dụng phép này chẳng? Song nghiệp dĩ đã lược tả Cao Liêm, tường
thuật Công Tôn, thì sao chẳng lược tả cả Công Tôn, mà tường thuật đến thầy của
Công Tôn, tức bảo là bỏ thực cầu hư đó vậy. Lại thêm chuyện Lý Quỳ diệt quái đã
lạ, để nảy ra một bậc chân nhân, nảy ra Chân Nhân, chính là để nảy ra Công Tôn
Thắng vậy, nếu chẳng biết ý tứ tác giả như thế, mà vội chê Lý Quỳ đối sĩ bệnh
không thể chữa, ta cũng không biết nói thế nào?
Hồi này
một đoạn tả ra chỗ vô bàn đổ bánh, để đi đến những đoạn văn sau, đều do tác giả
thổ hết tâm can mới được như thế, không nên coi thường mà đọc qua loa.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 53: Nhập Vân Long đấu phép phá Cao
Liêm; Hắc Toàn Phong xuống giếng cứu Sài Tiến
Bấy giờ
La Chân Nhân bảo với Công Tôn Thắng rằng:
- Phép
thuật của ngươi đối với Cao Liêm cũng không hơn kém gì nhau, song ngày nay ta
trao cho ngươi một phép Ngũ Lôi Thiên Tâm, ngươi cứ theo thế mà làm Đạo được.
Còn lão mẫu ngươi ở nhà, ta sai người trông nom tử tế, không cần lo nghĩ làm
chi. Ngươi cũng là ứng vào Tính số trên trời, nên ta tạm cho ra đó một phen,
song trong lòng phải thủy chung giữ lấy lời xưa, chớ bị người ta xui giục mà quên
bỏ nghĩa lớn của mình mới được.
Công Tôn
Thắng vâng nhận các phép rồi cùng với Đới Tung, Lý Quỳ lạy tạ Chân Nhân, và giã
từ bạn học mà cùng về nhà tư. Khi về tới nhà, Công Tôn Thắng lấy hai khẩu bảo
kiếm, sắp sẵn cái mũ sắt áo đạo, cùng các đồ hành lý, rồi biệt thân mẫu mà lên
đường.
Đi được
bốn mươi dặm đường, Đới Tung bảo với Công Tôn Thắng rằng:
- Bây
giờ Tiên Sinh cùng Lý Quỳ đi sau, để tôi về trước báo với Tống Ca Ca, rồi cho
người đi đón.
Công Tôn
Thắng đáp:
- Được
lắm, xin hiền đệ cứ báo trước, để tôi đi sau càng tiện.
Đới Tung
dặn Lý Quỳ rằng:
- Anh đi
đường phải theo mệnh lệnh tiên sinh, nếu có câu gì không phải, thì tôi sẽ liệu
cho anh.
Lý Quỳ
vâng dạ mà rằng:
- Phép
thuật tiên sinh cũng như La Chân Nhân vậy, có khi nào tôi dám khinh nhờn, xin
Ca Ca cứ đi trước cho.
Đới Tung
liền buộc giáp mã, làm phép thần hành đi trước, còn Công Tôn Thắng với Lý Quỳ
lục đục đi sau. Trong khi đi đường, Lý Quỳ sợ phép thuật của La Chân Nhân; nên
hết lòng hầu hạ Công Tôn không hề có việc càn bậy.
Cách vài
hôm, đi đến trấn Vũ Cương, thấy cửa nhà đông đúc, Công Tôn Thắng bảo với Lý Quỳ
rằng:
- Mấy
hôm nay đi đường khó nhọc, nay ta hãy vào uống chén rượu xuông, ăn vài cái bánh
chay, rồi sẽ đi cũng được.
Lý Quỳ
nghe nói láy làm mừng, bèn tìm vào một hàng rượu ở bên đường để đánh chén. Khi
vào tới nơi, Công Tôn Thắng ngồi trên, Lý Quỳ cởi khăn gói ngồi phía dưới, rồi
gọi nhà hàng dọn rượu lên.
Công Tôn
Thắng hỏi nhà hàng rằng:
- Ở đây
có bánh điểm tâm chay không?
- Thưa
ngài, trong hàng tôi bán rượu thịt, không có bánh chay, duy ngoài chợ có thứ
bánh táo là thức ăn chay mà thôi.
Lý Quỳ
nói:
- Để tôi
đi mua về đây.
Nói đoạn
mở gói lấy ít tiền, chạy ra chợ mua bánh. Khi mua xong, đương sắp ra về, chợt
thấy bên đường có tiếng người kêu quát lên rằng:
-
"Khỏe thực... "
Lý Quỳ
nghe thấy vậy, vội chạy đến xem, thì thấy có đám đông người vây một anh chàng
to lớn, đương múa đôi chùy sắt ở đó. Anh chàng ấy mình cao hơn bảy thước, da
mặt sần gai, mũi thẳng xuống như dọc dừa, tay cầm chùy sắt, nặng ước ba mươi
cân, múa mang một lúc, rồi đánh vào hòn đá ở bên đường vỡ hẳn ra. Chúng trông
thấy, đều vỗ tay khen ngợi ầm lên, Lý Quỳ thấy vậy, không sao nhịn được, liền
dắt bánh vào trong bọc chạy sấn vào giơ tay toan giật lấy chùy sắt của chàng
kia.
Chàng
kia quát lên rằng:
- Anh là
thằng nhắng nào, dám vào dằng lấy chùy của ta.
Lý Quỳ
nói:
- Anh
múa có ra cái gì...Mà họ khen ầm cả lên... ?
Để lão
gia múa cho xem.
Chàng
kia nói:
- Được,
ta cho anh mượn hai cây chùy...Nếu không múa nổi, thì ta tặng cho mấy qủa đấm
mà xem.
Lý Quỳ
lẳng lặng với lấy cây chùy, múa lên múa xuống, tựa hồ như tung quả đạn tròn,
hồi lâu mới đặt xuống, mà tinh thần không hề chút gì ra dáng khó nhọc.
Anh
chàng kia trông thấy, vội cúi rạp xuống mà lạy rồi hỏi rằng:
- Xin
hỏi đại danh Ca Ca là gì?
Lý Quỳ
hỏi lại:
- Nhà
anh ở đâu?
Anh
chàng đáp:
- Nhà
tôi ở phía trước gần đây ...
Nói đoạn
liền dẫn Lý Quỳ đến một nơi cửa khóa then cài cẩn thận, rồi lấy chìa khóa mở
cửa mời Lý Quỳ vào.
Lý Quỳ
vào tới trong nhà toàn thị bễ lò kim khí vất bỏ ngổn ngang trong bụng liền nghĩ
thầm: "Anh nay athan laanh lorehie trong s tra i ta cung ca eba nhc ru pha
cho tie... " Nghĩ vậy liền hỏi:
- Bác
tên họ là gì, xin cho tôi biết?
- Thưa
ngài: Tôi họ Thang tên Long, thân phụ tôi ngày trước làm nghề thợ rèn, sau gặp
Lão Trung Kinh Lược, cho làm quan ở phủ Diên An, mới đây phụ thân tôi bị mất ở
chỗ làm quan, tính tôi lại hay dong chơi cờ bạc, nên mới lưu lạc giang hồ, phải
tạm trú ở đây để làm nghề thợ rèn kiếm ăn. Tôi có luyện tập được nhiều võ nghệ,
song người ta thấy tôi có mụn đen khắp cả quanh mình, nên thường gọi là Kim
Tiền Báo Tử (con báo tốt tiền). Vậy dám hỏi quý danh là gì?
- Tôi
tức là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở Lương Sơn Bạc đây?
Thang
Long nghe nói, vội vàng cúi lạy mà rằng:
- Chết
nỗi! Tôi nghe tiếng đã lâu mà không được biết?
- Anh ở
đây làm nghề thợ rèn, thì bao giờ cho khá được, bất nhược theo tôi cùng lên
Lương Sơn Bạc, làm chức Đầu Lĩnh có thú hơn không?
Thang
Long hớn hở đáp rằng:
- Nếu
quan anh có lòng tốt, cho tiểu đệ theo đi, thì còn gì hơn nữa.
Nói đoạn
liền bái Lý Quỳ làm anh, rồi Lý Quỳ nhận Thang Long làm em.
Thang
Long lại nói với Lý Quỳ rằng:
- Nhà
tôi không có đầy tớ, xin mời quan anh ra chợ uống vài chén rượu xuông cho tỏ
tình thân ái, rồi nghỉ đây một đêm, sáng mai sẽ đi...
Lý Quỳ
nói:
- Tôi
còn có sư phụ ngồi ở đằng kia, để tôi đem bánh về ăn, rồi chạy ra ngay bây giờ,
không thể nào trì trệ được nữa.
- Vội
chi mà phải đi ngay như thế?
- Chết
nỗi! Tống Công Minh Ca Ca hiện đương đánh nhau ở đất Đường Châu, còn tôi mời sư
phụ về cứu ứng đó.
- Sư phụ
là ai?
- Thôi
bất tất phải nói anh xếp dẹp đi ngay mới được.
Thang
Long vâng lời, vội vàng thu xếp khăn gói, tiền nong khoác nón, giắt dao, cầm
thanh đao lớn, vất bỏ cả cửa nhà đồ đạc, mà theo Lý Quỳ cùng đi.
Khi đi
đến tửu điếm, Công Tôn Thắng trông thấy Lý Quỳ về, bèn có ý gay gắt bảo Lý Quỳ
rằng:
- Anh đi
đâu đến bây giờ mới về? Giá chậm lúc nữa, thì tôi lên núi cho rảnh chuyện...
Lý Quỳ
nghe nói lặng ngắt không dám trả lời, liền dẫn Thang Long vào lạy chào, mà kể
rõ cho Công Tôn Thắng nghe, Công Tôn Thắng thấy vậy cũng có ý vui mừng một
chút. Đoạn rồi Lý Quỳ đem bánh ra ba người ăn uống với nhau.
Khi ăn
uống xong tính trả tiền hàng, rồi Lý Quỳ cùng Thang Long đều khoác khăn gói,
theo Công Tôn Thắng về lối Đường Châu. Đi được chừng hai phần đường, đã thấy
Đới Tung đến tiếp đón.
Công Tôn
Thắng cả mừng, vội hỏi công việc đánh nhau mấy bữa nay ra sao?
Đới Tung
nói:
- Mấy
hôm nay Cao Liêm đã khỏi vết thương, ngày nào cũng cho quân ra khơi đánh, nhưng
Ca Ca phải chịu nhịn, không ra đánh, đành phải đợi tiên sinh đến đã.
Công Tôn
Thắng cười rằng:
- Được
lắm, để tôi đến sẽ hay.
Lý Quỳ
lại dẫn Đới Tung vào chào hỏi, rồi kể chuyện cho nghe, rồi bốn người kéo Đới
Tung cùng đi. Khi gần tới trại, cách năm dặm đường, thấy Lã Phương, Quách
Thịnh, dẫn hơn năm trăm bộ, cùng ra đón tiếp.Bấy giờ bốn người cùng lên ngựa,
rồi trở về Đại Trại.
Tống
Giang, Ngô Dụng thấy Công Tôn Thắng về tới nơi, vội vàng hớn hở vui mừng đón
vào thăm hỏi, rồi cho đòi các Đầu Lĩnh vào đến trướng Trung Quân, để chào mừng
Công Tôn Thắng.
Lý Quỳ
dẫn Thang Long vào chào Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh rồi đặt tiệc
ăn mừng, rất là vui vẻ.
Ngày hôm
sau, Tống Giang, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng, bàn việc đánh Cao Liêm.
Công Tôn
Thắng nói:
- Xin
Chủ tướng truyền cho nhổ trại, kéo cả quân đến, xem thế giặc ra sao, rồi tôi sẽ
liệu.
Tống
Giang nghe lời, bèn truyền cho các trại, hết thẩy đều kéo quân đến gần phủ Cao
Đường để dàn quân trận. Khi tới nơi, hạ trại yên ổn, đến sáng hôm sau quân sĩ
ăn cơm từ trống canh năm, rồi sắp sửa chỉnh tề hết cả. Đoạn rồi Tống Giang, Ngô
Dụng và Công Tôn Thắng cưỡi ba con ngựa đóng ra trước cửa trận, thúc cho khua
trống phất cờ xông thẳng vào thành để đánh.
Nói về
Tri Phủ Cao Liêm mới khỏi được vết thương, nay bỗng thấy có quân mã Tống Giang
kéo đến, chàng liền mặc giáp khoác bào, sai mở cửa thành, bỏ đích kiều xuống,
dẫn ba trăm thần binh ra thành nghinh địch. Khi tới nơi, đôi bên mở cờ dóng
trống, dàn thành trận thế, rồi bên kia Tống Giang đứng trước mặt trận, có mười
viên tướng cưỡi ngựa đứng hàng ngạng hai bên. Bên tả có năm tướng là Hoa Vinh,
Tần Minh, Chu Đồng, Âu Bằng, và Lã Phương; Bên hữu năm tướng là Lâm Xung, Tôn
Lập, Đặng Phi, Mã Lân, và Quách Thịnh. Khoảng giữa ba viên chủ tướng là Tống
Giang, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng đều thắng ngựa đứng nom sang trận Cao Liêm.
Bấy giờ
Cao Liêm thét bảo Tống Giang rằng:
- Bây là
quân giặc cỏ, ở trong xó rừng vũng nước, nay đã định đánh nhau phải quyết được
thua mới được, nếu kinh sợ bỏ chạy, thì không phải là hảo hán.
Tống
Giang nghe nói, liền hỏi:
- Ai
chém thằng giặc kia cho ta?
Nói vừa
dứt lời, thì Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh múa thương phóng ngựa xông thẳng ra ngoài
giữa trận.
Cao Liêm
thấy vậy, quát lên rằng:
- Ai bắt
thằng giặc kia cho ta?
Vừa nói
xong, thì trong đám quan Thống Chế có một viên Thượng tướng, là Tiết Nguyên Huy
múa song đao, vỗ ngựa ra đánh với Hoa Vinh, hai bên đánh nhau vừa được vài
hiệp, Hoa Vinh liền quay ngựa chạy về bản trận, Tiết Nguyên Huy cũng múa đao
phóng ngựa hết sức đuổi theo. Khi đuổi gần tới nơi, Hoa Vinh kìm cương ngựa
lại, rồi dương cung đặt tên quay nhằm Nguyên Huy bắn một phát ngã xuống ngựa.
Hai bên quân lính đều hò reo ầm ĩ cả lên.
Cao Liêm
thấy vậy cả giận, liền cầm miếng bài đồng ra tay, lấy kiếm gõ luôn ba tiếng,
rồi thấy giữa trận thần binh có trận ác phong tung động cát vàng làm cho trời
thảm đất sâu, ai ai cũng kinh sợ. Đoạn rồi thấy tiếng reo hò nôn náo, có một
toán sài lang hổ báo, cùng các thù trùng độc thú dữ, ở trong đám cát vàng hiện
ra.
Bên kia
Công Tôn Thắng thấy vậy, liền cầm thanh kiếm Tùng Văn Cổ Định trỏ sang quân Cao
Liêm, trong miệng lẩm nhẩm sẽ đọc mấy lời, rồi quát một tiếng "Mau".
Bấy giờ thấy một đạo kim quang bắn xói sang bên Cao Liêm, làm các thú dữ đều
phơi phới xuống mặt đất cả. Quân lính cúi xuống nom, thì đám trùng độc thú dữ
toàn thị bằng giấy trắng cắt ra, bay là xuống đất, thì cát vàng cũng nằm im
không tung lên được nữa.
Tống
Giang thấy vậy, cầm roi vẫy gọi tam quân, rồi nhân mã cùng ùa sang đánh giết
trong trận Cao Liêm, quân mã Cao Liêm kinh sợ tán loạn, thiệt hại rất nhiều,
Cao Liêm bèn kéo thần binh chạy thẳng vào thành để giữ. Quân Tống Giang đuổi
đến gần thành, thấy đích kiều đã cất lên, cửa thành đã đóng, trên mặt thành đá
gỗ ném xuống như mưa, liền gõ chiêng thu quân trở về đóng trại.
Khi điểm
quân mã đều được đại thắng. Tống Giang bèn vào trương, ta ân đức Công Tôn
Thắng, và khao thưởng khắp mặt tam quân.
Ngày hôm
sau lại chia quân làm bốn mặt quanh thành, Công Tôn Thắng nói với Tống Giang,
Ngô Dụng rằng:
- Hôm
trước tuy đánh được quân Cao Liêm, song còn ba trăm thần binh chạy cả vào
thành, vả chăng ngày nay phải thừa thế mà ra đây cướp trại. Vậy chiều nay ta
nên thu quân làm một, đợi đến chiều tối sẽ cho nấp cả các nơi bỏ mặc trại
không, cho chúng vào cướp, và truyền lệnh cho các quân sĩ cứ nghe tiếng sấm
hiệu, và trông ngọn lửa ở trong trại bốc lên, là phải hết sức đổ ra đánh giết
mới được.
Tống
Giang nghe lời truyền lệnh cho ba quân, tiến lên đánh thành rồi chiều đến kéo
cả vềtrại. Chiều hôm đó trong trại mở cờ nổi trống, chè chén với nhau, mãi đến
chiều tối mới đặt ngũ để ra nấp các nơi. Khi mai phục đã yên tịnh đâu vào đó
rồi. Tống Giang, Ngô Dụng, Quách Thịnh, đều kéo nhau lên chỗ gò cao để đợi.
Đêm hôm
đó Cao Liêm điểm ba trăm thần binh, mỗi người lưng đeo ống sắt, trong đựng các
thức lưu hoàng cùng diêm sinh, và một người đều cầm dao trượng gậy móc, miệng
ngậm còi, đợi đến canh hai mở cửa thành, kéo quân ra cướp trại. Bấy giờ Cao
Liêm dẫn thần binh đi trước, sau lưng có ba mươi tên quân kị đuổi theo, cùng
nhau thẳng kéo tới trại Tống Giang.
Khi gần
tới trại, Cao Liêm ngồi trên mình ngựa làm phép yêu quái, phút chốc đã thấy
trời đất đen sì, một trận cuồng phong đổ lá rung cây đưa đến, đoạn rồi ba trăm
thần binh thắp lửa vào ống sắt thổi còi làm hiệu, xông xáo kéo vào trong trại.
Bên kia
Công Tôn Thắng ngồi trên gò cao trông thấy, liền lễ kiếm làm phép, rồi thấy
trông giữa trại không bỗng dưng nổi một tiếng sấm rất to, ba trăm thần binh
nghe vậy, vừa toan quay gót lui ra, bỗng thấy trong trại lửa đỏ rực trời, rồi
bốn mặt quân phục đổ ra vây chặt trong trại không còn lối nào mà chạy thoát.
Bấy giờ
ba trăm thần binh, đều bị quân mã Tống Giang giết hết, không sót một người, Cao
Liêm liền dẫn ba mươi quân kị chạy trốn về thành.
Vừa chạy
được mấy bước, đã thấy Báo Tử Đầu Lâm Xung, dẫn một toán quân mã đuổi sát rạt
đằng sau, Cao Liêm vội vàng gọi mở cửa thành, bỏ đích kiều xuống, dẫn được tám
chín quân kị, chạy thoát vào thành. Còn mấy mươi tên nữa, đều bị Lâm Xung bắt
sống được cả.
Cao Liêm
vào trong thành, liền đốc thúc dân chúng để coi giữ trong thành, rất là cẩn
thận.
Ngày hôm
sau Tống Giang lại đến vây đánh thành rất dữ. Cao Liêm nghĩ thầm rằng:
"Bấy lâu học được pháp thuật, vẫn tưởng hơn đứt người, ai ngờ ngày nay,
lại còn có kẻ cao hơn nữa, như thế thì còn biết tính làm sao? Nay bất nhược
phải mau mau viết thư sang hạt Đông Xương và hạt Khấu Châu để cầu cứu mới được.
Hai hạt đó gần đây, vả chăng hai ông Tri Phủ đó, đều là môn đệ của Ca Ca ta,
thì tất nhiên họ phải đến cứu không sai... " Nghĩ đoạn viết hai phong thư,
sai hai quan Thống Chế mở cửa thành bên Tây, để cướp đường đi cầu cứu.
Bên kia
các tướng của Tống Giang thấy người trong thành đi ra, đã toan đuổi theo để
bắt.
Ngô Dụng
gạt đi mà rằng:
- Mặc
cho họ đi, ta sẽ dùng mẹo mà bắt mới thú.
Tống
Giang hỏi:
- Quân
sư định làm thế nào?
Ngô Dụng
nói:
- Hiện
nay trong thành tất là binh nguy tướng ít, nên mới sai người ra đi cầu cứu. Vậy
ta giả làm hai đội quân mã đến ứng cứu, rồi đánh nhau lộn bậy ở ngoài, để cho
hắn mở cửa thành ra tiếp ứng, Bấy giờø thừa thế đánh tràn vào đí, thì thế nào
cũng bắt được Cao Liêm.
Tống
Giang nghe cả mừng, liền sai Đới Tung về Lương Sơn Bạc lấy hai toán quân mã,
chia làm hai đường để đến đánh Cao Đường.
Về phần
Cao Liêm sau khi sai người đi cầu cứu viện, đêm đêm thường đốt lửa sáng rực
trong thành để làm hiệu, đợi viện binh kéo đến. Cách mấy hôm trời, đám quân
lính canh thành, bỗng thấy quân mã Tống Giang tự nhiêu rối loạn xôn xao, bèn
vội vàng báo cho Cao Liêm biết.
Cao Liêm
nghe báo, lập tức đóng áo mũ lên mặt thành để xem. Bấy giờ có hai toán quân mã
xung đột tung hoành, bụi mù rợp đất, đánh giết luôn tay. Làm cho bọn giặc vây
thành, đều bỏ tan mà chạy cả.
Cao Liêm
thấy vậy, biết là viện quân đã đến, bèn điểm hết nhân mã trong thành, mở tung
hết cả cửa thành, chia làm bốn mặt mà ùa ạt đánh ra.
Khi ra
tới ngoài thành, Cao Liêm xông xáo đánh trận Tống Giang. Tống Giang, Hoa Vinh,
Tần Minh cưỡi ba con ngựa, theo lối đường nhỏ mà chạy; Cao Liêm thúc quân mã
đuổi riết để bắt. Đương khi đó có pháo nổ liên thanh, Cao Liêm lấy làm nghi sợ,
bèn thu quân toan chạy trở về.
Bỗng đâu
hai bên đường nổi tiếng thanh la ầm ĩ , rồi bên tả có Tiểu Oân Hầu, bên hữu có
Kiễn Nhân Quý, đều dẫn năm trăm nhân mã xông ra, Cao Liêm cướp đường cố chạy,
quân mã bị thiệt hại tới quá nửa. Khi chạy thoát được vòng trận về cổng thành,
ngẩng lên trông thành đã thấy toàn thị hiệu cờ của Lương Sơn Bạc cả.
Cao Liêm
kinh hoàng liếc mắt trông quanh không thấy có toán viện quân đâu nữa, chàng bất
đắc dĩ phải dẫn đám quân, tìm đường lối hẻm trong núi mà chạy.
Chạy
được mươi dặm đường, chợt thấy có một toán quân sĩ ở trong núi kéo ra; rồi thấy
Bệnh Uùy Trì ngăn cản giữa đường mà quát lên rằng:
- Chúng
ta đợi đây đã lâu, muốn sống xuống ngựa đi thôi.
Cao Liêm
thấy vậy, lại dẫn quân quay lại, bỗng lại thấy Mỹ Nhiêm Công dẫn một toán quân
sĩ chắn ngang lấp đường, rồi hai bên cùng xông vào để đánh. Cao Liêm thấy đường
đi lối lại, đều mắc nghẽn cả, bèn bỏ ngựa xuống bộ, rồi lần lên núi để trốn.
Bọn kia lại xông lên núi đuổi theo. Cao Liêm vội niệm mấy câu thần chú trong
miệng, rồi quát lên một tiếng "Lên", rồi cưỡi lên một đám mây đen
phất phơ trên đỉnh núi.
Khi đó
Công Tôn Thắng đứng bên sườn núi thấy vậy, bèn ngồi trên mình ngựa, cầm thanh
kiếm làm phép, quát lên một tiếng "Mau" rồi trỏ thanh kiếm lên, thì
thấy Cao Liêm ở giữa đám mây, rơi tung ngay xuống trước mặt Lôi Hoành, Lôi
Hoành tiện tay chém một đao đứt làm đôi đoạn, rồi xách thủ cấp xuống núi.
Tống
Giang nghe nói giết được Cao Liêm, bèn thu quân kéo vào trong thành Cao Đường,
trước hết hạ lệnh, không cho xâm phạm dân gian, và yết bảng cho dân được yên
việc làm ăn, đoạn rồi đến nhà lao để cứu Sài Đại Quan Nhân.
Bấy giờ
Tiết Cấp cùng các lính ngục đều chạy trốn mọi nơi, duy còn bốn năm mươi tên tù
còn sót lại. Tống Giang lại sai tháo gông mà tha cho tất cả mọi người, mà không
thấy Sài Tiến ở đấy. Tống Giang cho tìm khắp mọi nơi. Sau thấy có vợ con Sài
Hoàng Thành, cùng vợ con Sài Tiến đều bị giam vào hai phòng riêng, mà Sài Tiến
lại không thấy, nên trong lòng buồn bã vô cùng.
Quân sư
Ngô Dụng cho đòi tất cả các người làm việc ở châu Cao Đường đến để hỏi. Sau có
một người Tiết Cấp tên là Lạn Nhân nói rằng:
- Bữa
trước Tri Phủ Cao Liêm, bắt chúng tôi phải giam giữ rất là cẩn thận, và có dặn
chúng tôi, nếu lỡ có xảy ra sự gì, thì cứ đem giết ngay Sài Tiến đi trước. Cách
đây ba hôm Phủ lại thúc đem Sài Tiến ra để hành hình, chúng tôi thấy người đó
ra vẻ tuấn tú khôi ngô, nên người chí khí, mới không nỡ ra tay, mà nói dối là
Sài Tiến đã ốm gần chết đến nơi không cần phải giết. Sau Tri Phủ thúc giục
luôn, tôi đã phải nói dối là Sài Tiến chết rồi...Đoạn rồi trong mấy hôm đánh
nhau bận rộn, nên Tri Phủ cũng không hỏi gì đến nữa. Sau lại sợ người bới vẽ
đến tai Tri Phủ, nên hôm qua tôi đem Sài Tiến ra chỗ giếng khô ở phía sau, tháo
gông cho nấp xuống đó. Nay không biết có còn hay không.
Tống Giang
nghe nói, vội bảo Lạn Nhan dẫn ra đi xem. Khi tới nơi, nom xuống dưới giếng,
thấy tối đen mịt mù, không biết sâu nông thế nào, cho người đứng trên kêu gọi,
thì thấy dưới giếng im phắc như tờ, không có ai trả lời cả. Sau thòng dây xuống
để đo, mới biết giếng sâu có tới chín trựợng.
Tống
Giang thấy vậy, rân rấn hai hàng nước mắt mà nói rằng:
- Nếu
vậy thì Sài Đại Quan Nhân nguy mất rồi.
Ngô Dụng
nói:
- Xin
Chủ Tướng thư tâm, để cho người xuống đó dò xét xem sao?
Ngô Dụng
vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ chạy đến mà kêu lên rằng:
- Để tôi
xuống cho.
Tống
Giang nói:
- Được
lắm! Chính ngươi làm hại Sài Đại Quan Nhân khi trước, nay ngươi nên xuống cứu
mới phải.
Lý Quỳ
cười nói rằng:
- Tôi
xuống đó cũng không sợ gì, nhưng ở trên này đừng cắt dây mới được.
Ngô Dụng
nói:
- Sao
anh láu thế? Ai đã phản anh mà sợ?
Nói đoạn
sai người lấy thừng lớn, buộc hai bên cạnh nối đầu thừng rất dài, đặt một cây
tre trên miệng giếng, rồi quăng dây thừng lên đó. Đoạn rồi Lý Quỳ cởi trần
trùng trục, tay cầm song phủ ngồi vào trong thúng, buộc hai cái chuông bên cạnh
thúng, rồi người đứng trên dong dây cho Lý Quỳ xuống giếng.
Khi
xuống tới đáy giếng, Lý Quỳ ra lần mò sờ soạng, bất đồ vớ phải đống xương, Lý
Quỳ kêu một mình lên rằng:
- Ối cha
mẹ! Cái quái gì mà gớm ghê như vậy?
Chàng
lại sờ quanh sờ quẩn, thấy giữa lòng giếng, đầy những bùn lầy không sao bước
chân xuống được, Lý Quỳ để đôisong phủ vào thúng, rồi với đôi tay ra giếng để
lần xem.
Chàng
lần mãi, sau thấy một người nằm cuộn tròn to cũng nước, Lý Quỳ lại kêu lên
rằng:
- Sài
Đại Quan Nhân...
Kêu dứt
lời, thì thấy người kia trả lời, chàng liền giơ tay vào mũi để xem, thì thấy
vẫn còn thoi thóp thở.
Chàng
thấy vậy, nói lẩm bẩm một mình:
- Lạy
trời đất cứ thế này thì còn có cơ cứu sống lại đây.
Nói đoạn
lại nhảy vào trong thúng lắc chuông ra hiệu cho ở trên biết. Trên kia nghe thấy
chuông hiệu, vội vàng cố kéo thúng lên. Khi lên tới nơi, chỉ thấy một mình Lý
Quỳ, Tống Giang lấy làm kinh ngạc mà hỏi. Lý Quỳ rõ mọi sự ở dưới giếng, cho
Tống Giang nghe.
Tống
Giang nói:
- Nếu
vậy, thì người lại phải xuống đó, đặt Sài Đại Quan Nhân vào thúng, để kéo lên
trước, rồi sẽ thông thúng xuống kéo người lên sau.
Lý Quỳ
nói:
- Thôi,
Ca Ca không biết...Tôi đi Kế Châu đã gặp hai lần rất nguy hiểm, nay chả lẽ lại
chịu lần nguy hiểm thứ ba nữa!
Tống
Giang cười rằng:
- Có lẽ
ta lại đùa ngươi hay sao? Ngươi cứ xuống đi mới được.
Lý Quỳ
vâng lời, lại ngồi vào thúng, rồi trên này dòng dây cho xuống giếng. Lý Quỳ ẵm
Sài Tiến bỏ vào trong thúng, lắc chuông ra hiệu cho kéo lên. Chúng kéo được Sài
Tiến lên tới nơi, ai nấy đều mừng rỡ vô cùng, khi trông thấy Sài Tiến bị đầu
trán sứt sẹo, hai bên đùi nát nhừ da thịt, hai con mắt chỉ lim dim không mở ra
được, thì mọi người lại thảm thiết xót thương, sai người đi mời thầy về chữa
ngay lập tức.
Bấy giờ
Lý Quỳ ở dưới giếng, đợi lâu không thấy thòng thúng xuống, chàng lấy làm sốt
ruột, kêu la ầm ĩ cả lên, Tống Giang nghe tiếng, bảo dòng mau dây xuống để đón
Lý Quỳ.
Lý Quỳ
lên tới nơi phát bẳn mà rằng:
- Các
ông như thế không tốt, sao không thòng dây xuống ngay là nghĩa lý gì?
Tống
Giang nói:
- Vì mải
trông Sài Đại Quan Nhân, nên quên khuấy đi mất...Thôi, nhà ngươi bằng lòng vậy.
Nói đoạn
sai người vực Sài Tiến lên nằm trên xe, rồi đoạn vợ con Sài Tiến cùng vợ Sài
Hoàng Thành, cùng các đồ gia tài xếp hơn hai mươi cỗ xe, sai Lý Quỳ, Lôi Hoành
hộ tống đem về sơn trại.
Đoạn rồi
bắt cả nhà Cao Liêm hơn ba mươi người, đều chém đầu ra lệnh, mà thưởng cho tên
Lạn Nhân, Lại truyền lấy của trong kho, cùng tài sản của nhà Cao Liêm, xếp cả
lên xe, rồi đông mặt trảm quan, kéo cờ đắc thắng trở về Lương Sơn Bạc.Khi đi
qua các châu quận, không hề động lấy tơ hào của dân, ai ai cũng lấy làm kính
phục.
Tiều Cái
cho mời Sài Tiến lên nghỉ ở chỗ Tống Công Minh trên núi, và sai làm một dinh cơ
khác, cho gia quyến Sài Tiến ở. Bấy giờ sơn trại lại thêm có Sài Tiến cùng
Thang Long, thì ai nấy đều vui vẻ, liền đặt tiệc ăn mừng, rất là thỏa thích.
Nói về
phủ Đông Xương cùng phủ Khấu Châu, biết tin Cao Đường đã mất, cả nhà Cao Liêm
bị chết hết, bèn cùng nhau thảo sớ, lập tức về triều đình. Sau các quan chức ở
Cao Đường cùng chạy thốc về kinh, để tâu báo cho triều đình biết.
Cao Thái
Úy biết tin anh em là Cao Liêm bị giết, lấy làm căm tức trong lòng, liền hăm hở
vào triều để tâu cùng Thiên Tử.
Sáng hôm
sau đó, khi lầu Cảnh Dương chuông động,các quan văn võ đều chỉnh tề triều phục,
bước vào đan trì để chầu Thiên Tử.
Được một
lát, Thiên Tử ngự ngôi chính diện, có quan Điện Đầu tuyên bố rằng:
- Các
quan có việc gì cần vào tâu, bằng không xin để tan chầu.
Vừa dứt
tiếng, thì thấy Cao Cầu ra quỳ trước ban tâu rằng:
- Nay có
bọn giặc ở Lương Sơn Bạc, thuộc phủ Tế Châu, mấy tên đầu đảng là Tiều Cái, Tống
Giang, xưa nay tụ họp đại gian đại ác, chỉ chuyên nghề cướp hại lương dân, đánh
phá phủ, huyện, càn dở buông dông, không biết tới đâu mà kể. Năm trước đã đánh
giết quan quân ở phủ Tế Châu, đánh phá thành Giang Châu, cùng thành Vô Vị rất
là tàn ác. Nay lại đánh châu Cao Đường giết hại quan dân, cướp lấy kho tàng,
làm cho trăm họ phải chịu lầm than, đó à một cái vạ lớn của nhà nước hiện nay,
nếu không sớm liệu trừ ngay, mai sau tất là khó trị. Vậy xin thánh thượng xét
cho.
Vua nghe
tâu cả kinh, bèn truyền chỉ cho Cao Thái Úy lập tức điều binh khiển tướng trừ
bọn giặc Lương Sơn.
Cao Cầu
lại tâu rằng:
- Đám đó
tuy vậy, cũng là một bọn giặc cỏ, bất tất phải lấy đại quân cho phí tổn quốc
gia. Nay tôi xin cắt một người này, có thể khu trừ ngay được.
Vua nói:
- Khanh
định cắt người nào ra đó, xin cứ truyền lệnh cho đi, sau đây đánh giặc có công,
ta sẽ gia phong tước thưởng.
Cao Thái
Úy tâu rằng:
- Người
này là con cháu một vị danh thần khai quốc. Hô Duyên Tán ở Hà Đông, tên là Hô
Duyên Chước, khiến hai cậy roi đồng, sức khỏe muôn người không kịp, hiện làm Đô
Thống Chế ở quận Nhữ Vinh, trong tay sẵn có quân tinh tướng giỏi, có thể đánh
nổi được giặc Lương Sơn. Nay xin phong người đó làm Binh Mã Chỉ Huy Sứ, lãnh
các quân mã bộ, lập tức ra đó chinh tiễu, thì thế nào cũng được thành công.
Vua nghe
nói lấy làm vui mừng, bèn giao cho Viện Cơ Mật, sai Sứ thần vâng mang sắc chỉ
lập tức ra đất Nhữ Nam mời Hô Duyên Chước về kinh phụng mạng.
Khi Sứ
thần đi đến Nhữ Nam, Hô Duyên Chước cùng các quan trong thành ra nghinh đón
thánh chỉ, đem về tuyên đọc, rồi tiếp đãi Sứ thần rất là trân trọng. Đoạn rồi
lập tức thu thập các đồ mũ mãng đai giáp cung tên gươm ngựa, và dẫn ba bốn mươi
tên thủ hạ, gấp đường về chốn kinh sư.
Cách mấy
hôm về đến kinh sư, Hô Duyên Chước đến điện Tư Phủ để chào Cao Thái Úy. Hôm đó
Cao Cầu đương ngồi trên súy phủ, nghe báo Hô Duyên Chước đã về, thì trong bụng
lấy làm vui mừng hớn hở, lập tức cho mời vào nói chuyện. Khi Hô Duyên Chước vào
tới nơi Cao Thái Úy đem lời uyển ủy hỏi thăm, rồi đem các đồ thưởng tứ ra cho,
rồi sáng sớm hôm sau mới dẫn vào chầu Thiên Tử.
Thiên Tử
trông thấy Hô Duyên Chước tướng mạo đường đường, ra dáng một tay dũng lược, thì
trong bụng rất vui mừng hớn hở, liền ban cho một con ngựa Tích Tuyết Ô Truy,
ngày đi ngàn dặm, là một giống ngựa hiếm có xưa nay.
Hôm đó
Hô Duyên Chước vâng lời tạ ơn vua, rồi theo Cao Thái Úy trở về súy phủ, để bàn
việc khởi binh, Hô Duyên Chước nói với Cao rằng:
- Dám
bẩm ân tướng, tôi xem bọn Lương Sơn Bạc, binh nhiều tướng giỏi, ngựa mạnh lương
nhiều, không thể vội khinh ngay được. Vậy tôi xin tiến cử hai tướng làm Tiên
Phong, để cùng đi ra đó, thì mới có thể khu trừ được giặc, chẳng hay ân tướng
nghĩ sao?
Cao Thái
Úy gật đầu khen phải, liền ân cần hỏi Hô Duyên Chước xem định tiến cử những ai?
Mới hay:
Một phen
huyết chiến dậy trời,
Giết
quân tàn bạo, cứu người oan khiên,
Xưa nay
tài trí lương liên,
Mà cân
họa phúc hoàng thiên cũng già.
Ấy ai
gậy cuộc phong ba,
Hao binh
tốn tướng dễ mà ích chi?
Con
thuyền ngang dọc Liêu Nhi?
Giang
san này biết nặng vì ai đây?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Sau khi
mời được Công Tôn Thắng, ba người cùng về, phải rồi. Đới Tung lại bỗng đâu về
trước, để làm cho Lý Quỳ có chuyện mua bánh táo chay, Lý Quỳ mua bánh táo chay,
để mà nảy ra biết được Thang Long, Lý Quỳ kết thức được Thang Long, để mà sau
này có chuyện chế tạo ra câu liêm đánh giặc. Ôi! Chế ra câu liêm để phá trận
Liềm Hoàn Mã, trận Liêm Hoàn Mã tới đây, chính để báo thù cho Cao Liêm vậy. Vì
Cao Liêm chết do tay Công Tôn Thắng, nay Công Tôn Thắng chưa tới, thì Cao Liêm
chưa chết. Cao Liêm chưa chết, thì Cao Cầu cũng chưa gọi Hô Duyên Chước, Cao
Cầu chẳng gọi Hô Duyên Chước, thì không có trận Liên Hoàn Mã, nếu không xẩy ra
trận Liền Hoàn Mã, tất không cần đến Thang Long vậy. Nay Lý Quỳ mới dự kết
thức, vì kết thức, ở chỗ mua bánh táo, vì mua bánh táo, cho nên Đới Tung dự đi
lòng văn luẩn quẩn đến như thế, khiến qủy thần không thể lường ra.
Tả Công
Tôn Thắng thần công đạo pháp, chỉ ít nhiều bút mực tả ra, chẳng phải dùng sức
phô trương chỉ có cách hơn người một bực.
Tả Công
Tôn phá Cao Liêm, Cao Liêm nếu một trận mà thua, thì đâu có nổi bậc tài của
Công Tôn Thắng? Mới phải dùng đến hai phen mấy ngày, lại giở nốt tài của Cao
Liêm, theo đuổi lần trước cướp trại với một thế ấy để lần sau lạicp trị bất
ngờ, nhân đó mà quét sạch đi, chẳng coi là thường, chẳng lấy làm trọng, càng
thấy rất phải.
Lần
trước cướp trại do thừa thắng, lần sau cướp trại lại nhân bại trước sau cướp
trại hai lần, lấy đó phân biệt, thế thì thực ra tác giả tả lần cướp trại sau,
để che lấp dấu bút vết mực trước, như trên bàn đã rõ ra. Hồi này chỉ chép lớn
ra chiến công của Lâm Xung, chính vì nghĩa xóa sạch công án với thù họ Cao,
chẳng phải bút mực phải tả vậy. Thái Sử Công nói rằng: Gây oán độc với người tệ
hại thay! Chẳng là phải ư?
Lý Quỳ
là người thô mãng, tuy hết sức tả ra, nhưng không tả nổi, hồi này cốt chép Lý
Quỳ thô mãng, lật lại con người gian hoạt, khiến cho đời thấy chất phát càng
thấy không ngoan, mới thực chuyện kỳ.
Cổ thi
nói rằng: Nước giếng đâu biết gió trời, ý non nước dưới giếng sâu, gió không
động tới, thế mà hảo hán ngọn Toàn Phong (Gió Lốc) đề sa vào dưới đáy giếng khô
ở đất Cao Đường, câu ngụ ngôn với ý bấy giờ có ác Cao Giang nhiễu loạn, không
còn để sót chút nào?
Cuối hồi
miêu tả vua cho ngựa Tích Tuyết Ô Truy chỉ ba bốn câu, mà chú trọng đến đọc
thành một thiên tuyệt diệu về bài phú ngựa.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 54: Cao Thái Úy huy động quân Ba Lộ Hô
Duyên Chước dàn trận ngựa Liên Hoàn
Bấy giờ
Cao Thái Úy hỏi Hô Duyên Chước, định cử ai làm tướng Tiên Phong?
Hô Duyên
Chước bẩm rằng:
- Chúng
tôi xin cử một người làm chánh Tiên Phong là họ Hàn tên Thao, nguyên người quán
Đông Kinh, hiện làm Đoàn Luyện Sứ ởû Trần Châu, vốn là tay võ cử xuất thân,
khiến một thanh gươm trường rất giỏi, người ta thường gọi là Bách Thắng Tướng
Quân; Cò một người Phó Tiên Phong, tên là Bành Dĩ, con cháu của tướng ở đất
Đông Kinh, hiện làm Đoàn Luyện Sứ ở Dĩnh Châu, khiến khẩu đao hai lưỡi hai mũi,
võ nghệ hơn người, ai ai cũng gọi là Thiên Mục Tướng Quân.
Cao Thái
Úy nghe nói cả mừng mà rằng:
- Nếu
được hai tướng đo, ù ra đứng Tiên Phong, thì làm gì mà không dẹp yên được giặc?
Nói đoạn
liền cho thảo hai bức công văn, Ủy Viện Khu Mật, sai người đến Trần Châu, và
Dĩnh Châu lập tức, triệu Hàn Thao và Bành Dĩ về kinh thính dụng.
Cách dặm
bảy hôm, hai tướng về đến Soái Phủ; liền vào bái yết Cao Thái Úy, ngày hôm sau
Cao Thái Úy đen các hàng quân ra đến giáo trường để diễn võ.
Khi diễn
võ xong Cao Thái Úy hỏi các chư tướng rằng:
- Hiện
nay ba đạo quân có được bao nhiêu?
Hô Duyên
Chước đáp rằng:
- Trong
ba đạo có năm nghìn quân mã, và một vạn quân bộ.
Cao Thái
Úy nói:
- Nếu
vậy các tướng phải lập tức trở về bản Châu, chọn lấy ba nghìn mã quân, và năm
nghìn bộ quân, mà cùng nhau tiến đánh Lương Sơn mới được.
Hô Duyên
Chước nói:
- Binh
mã ba đạo hiện đã luyện tập tinh thông, chủ Súy không cần lo đến, duy các đồ
giáp trượng thì còn thiếu thốn nhiều, e khi khó lòng mà khởi binh ngay được.
- Nếu
thế ta cho phép vào kho giáp trượng ở đây, chọn đủ các thứ để dùng cho quân sĩ,
cốt sao nghiên bị chỉnh tề, rồi khi khởi binh, ta sẽ cho người ra điểm lại.
Hô Duyên
Chước vâng lệnh, dem người vào kho giáp trượng, chọn được ba nghìn thiết giáp,
năm nghìn áo giáp ngựa bằng da, hai nghìn gươm trường, một nghìn đao lớn, các
thứ cung tên cùng năm trăm khẩu hỏa bác thiết bác, xếp đặt trên xe, để mang về
ứng dụng. Cao Thái Úy giao cho ba nghìn ngựa trận, thưởng kim ngân cho ba
tướng, và khao thưởng tam quân. Rồi Hô Duyên Chước cùng Hàn Thao, Bành Dĩ làm
giấy cam đoan với Cao Thái Úy, mà từ biệt ra đi.
Khi về
tới châu Nhữ Ninh, Hô Duyên Chước sai Hàn Thao, Bành Dĩ, đem hết binh mã ở Trần
Châu, Dĩnh Châu đến cùng hội họp. Trong nửa tháng trời, ba đạo quân tề tựu
nghiêm chỉnh. Hô Duyên Chước liền đem các đồ gươm giáo cung ngựa trao cho ba
quân mà dự bị đợi ngày ra trận.
Bấy giờ
Cao Thái Úy sai hai viên tướng trong điện Súy Phủ, ra điểm lại hẳn hoi, rồi
khao thưởng ba quân mà chia làm ba đạo tiến đánh. Hô Duyên Chước đi đạo trung
quân, ở giữa, rồi Bành Dĩ thôi thúc đạo quân đi sau. Khi ra khỏi cửa thành, ba
quân cờ mở trống gióng, uy thế ầm ầm như vỡ trời long đất, mà cùng nhau keo đến
Lương Sơn.
Bên kia
Tiều Cái, Tống Giang nghe báo quan quân kéo đến, bèn tụ họp quân sư Ngô Dụng,
Công Tôn Thắng, Sài Tiến, cùng các vị Đầu Lĩnh, để bàn định cơ cự địch.
Ngô Dụng
nói:
- Hô
Duyên Chước là con cháu quan Khai Quốc Công Thần Hô Duyên Tán, võ nghệ cao
cường, khiến hai cây roi đồng rất giỏi, khó ai bén mảng đến gần. Vậy tất phải
tay nào can trường giỏi giang mới được, trước hết lấy sức đối địch, rồi sau
dùng mẹo thi hành mới có thể bắt được.
Vừa nói
dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ứng lên rằng:
- Tôi
xin đi bắt thằng ấy mới được...
Tống
Giang gạt đi mà rằng:
- Ngươi
đi không được...việc này phải nhờ Tích Lịch Hỏa Tần Minh đi đánh trận đầu; Báo
Tử Đầu Lâm Xung, đi đánh trận thứ nhì; Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đánh trận thứ ba;
Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương, đánh trận thứ tư; Bệnh Úy Trì Tôn Lập, đánh
trận thứ năm. Năm đội lần lượt đánh, rồi ta sẽ dẫn mười anh em và đại đôi nhân
mã mà áp sau...Đám hậu quân thì bên tả năm tướng là Chu Đồng, Lôi Hoành, Mục
Hoằng, Hoàng Tín, Lã Phương; bên hữu năm tướng là Dương Hùng, Thạch Tú, Âu
Bằng, Mã Lân, Quách Thịnh; đường thủy thì Lý Ứng, Trương Hoành, Trương Thuận,
và ba anh em họ Nguyễn đem thuyền ra tiếp ứng. Còn Lý Quỳ với Dương Lâm đem
quân ra mai phục hai bên đường để đợi khi ứng viện.
Tống
Giang cắt đặt chỉnh tề rồi tiền quân là Tần Minh dẫn quân mã xuống núi rồi tìm
nơi nội rộng mà dàn thành thế trận. Bấy giờ đương dạo mùa đông, song khí trời
ấm áp dễ chịu, Tần Minh đợi đến ngày hôm sau đã thấy Tiên Phong bên kia là Bách
Thắng Tướng Quân Hàn Thao kéo đến.
Sáng hôm
sau, hai bên ra đối trận. Ba hồi trống gióng vừa xong, thì hai tướng cùng cởi
ngựa xông ra cửa trận, cùng đứng dưới mặt cờ.
Hàn Thao
hoành gươm trên ngựa mà quát mắng Tần Minh rằng:
- Binh
trời đến đây, ngươi không xuống ngựa sớm liệu hàng trước đi, còn toan chống cự
được sao ta nay quyết lấp phăng vũng nước, đập tan ngọn núi Lương Sơn, giết
chết đồ phản tặc chúng bay, mà đem nộp về triều đình, băm thây làm vạn mảnh mới
nghe...
Tần Minh
vốn là người nóng tính, không nói năng chi, liền vỗ ngựa múa Lang Nha Côn thẳng
xông ra đánh. Hàn Thao cũng múa gươm cự địch với Tần Minh.Đôi bên dánh nhau
được hơn hai mươi hiệp, Hàn Thao không sao địch nổi Tần Minh, chỉ toàn thừa cơ
để chạy.
Vừa khi
đó chủ tướng là Hô Duyên Chước kéo đến, thấy Hàn Thao không đánh nổi Tần Minh,
lièn múa song chiên, phóng ngựa Tích Tuyết Ô Truy, xông ra để đánh giúp.
Tần Minh
thấy vậy toan xong lại đánh, thì đội quân thứ hai là Báo Tử Đầu Lâm Xung dã ra
cứu ứng.
Lâm Xung
bảo với Tần Minh rằng:
- Thống
Chế hãy nghĩ một lát xem tôi đáng đủ ba trăm hiệp rồi sẽ hay.
Nói đoạn
múa Bát Xà Mâu ra đánh Hô Duyên Chước, rồi Tần Minh lại dẫn quân quanh sườn núi
lui vào. Đằng này Lâm Xung với Hô Duyên Chước, đôi bên địch thủ với nhau, kẻ
chiên người thương rối rít như hoa trước gió, đánh nhau hơn năm mươi hiệp, chưa
phân thắng phụ ra sao?
Chợt đâu
đội quân thứ ba là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đã đến. Hoa Vinh đứng trước cửa trại
kêu lên rằng:
- Lâm
Tướng Quân hãy khoan tay, để tôi bắt sống hắn cho mà coi.
Lâm Xung
nghe nói, liền quay ngựa chạy vào trốn mất, Hô Duyên Chước thấy Lâm Xung võ
nghệ cao cường, thì cũng chạy về bản trận, mà không dám đuổi. Lâm Xung bèn dẫn
quân bản bộ, mà đi quanh vào nẻo đường núi.
Bấy giờ
Hoa Vinh vác thương ra trận, thì thấy bên kia tướng hậu quân là Thiên Mục Tướng
Bành Dĩ cũng vừa kéo đến.
Bành Dĩ
hoành đao ngồi trên mình ngựa Ngũ Minh Thiên Hoàng Hoa, xông ra cửa trận quát
mắng Hoa Vinh rằng:
- Đồ
phản tặc kia có thấm vào đâu? Ngươi quyết đấu được thua với ta chăng?
Hoa Vinh
cả giận không thèm trả lời, liền xông ngựa ra đánh luôn Bành Dĩ. Đôi bên đánh
nhau được hai mươi hiệp, thì Hô Duyên Chước thấy Bành Dĩ hơi túng thế, bèn vỗ
ngựa xông ra địch với Hoa Vinh.
Chợt đâu
toán quân thứ tư kéo đến, Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương gọi lên rằng:
- Hoa
Tướng Quân hãy nghỉ tay, để tôi bắt tên ấy cho...
Hoa Vinh
nghe nói, liền vỗ ngựa dẫn quân lui về sườn núi. Bên kia Bành Dĩ lại xông ra
đánh nhau với Nhất Trượng Thanh.
Vừa được
một lát thì toán quân thứ năm là Bệnh Úy Trì Tôn Lập kéo ra, Tôn Lập kìm ngựa
trước trận, xem Nhất Trượng Thanh đối địch Bành Dĩ, đôi bên gươm đao loáng
nhoáng, ngựa cuốn bụi trần, đầu xông sát khí đanh nhau hơn hai mươi hiệp thì
Nhất Trượng Thanh quay ngựa chạy vào.
Bành Dĩ
thấy vậy, gắn sức bình sinh xông vào đuổi đánh. Nhất Trượng Thanh đeo đao lên
yên ngựa, sờ trong áo lấy ra tấm hồng gấm, trên mặt có hai mươi bốn lưỡi câu
vàng, chờ khi Bành Dĩ đuổi sát đến nơi, liền quay mình nhắm trúng Bành Dĩ quăng
ra một cái, rồi giật Bành Dĩ quay xuống ngựa.
Tôn Lập
thấy thế, quát quân sĩ bắt trói Bành Dĩ đem về. Hô Duyên Chước cả giận, liền vỗ
ngựa xông ra đánh cứu. Nhất Trượng Thanh cũng vỗ ngựa xông ra để địch Hô Duyên
Chước. Hô Duyên Chước tức giận Nhất Trượng Thanh mong sao nuốt sống được thì
mới cam tâm.
Hai bên
đánh nhau hơn hai mươi hiệp, Hô Duyên Chước sốt ruột lừa miếng phá đĩnh, lừa
cho Nhất Trượng Thanh chém sấn đôi đao vào gần trước bụng rồi tay hữu chàng giơ
roi nhằm vào Nhất Trương Thanh đánh xuống, dè đâu Nhất Trượng Thanh nhanh mắt
trông thấy, liền giơ đao bên phải lên đỡ, làm cho đầu roi vừa đánh vào lưỡi đao
đánh keng một tiếng, bắn loè lửa ra, rồi Nhất Trượng Thanh quay ngựa chạy vào
bản trận.
Hô Duyên
Chước thấy vậy vội vàng sấn ngựa đuổi theo. Bên này Bệnh Úy Trì Tôn Lập xông ra
đón đánh, rồi thấy toán hậu quân của Tống Giang cũng vừa kéo đến ở đàng sau.
Tống
Giang dẫn mười vị tướng quân, dàn thành trận thế, để tiếp ứng đằng sau, còn
Nhất Trượng Thanh lại dẫn quân mã quay vào sườn núi. Tống Giang thấy Nhất
Trượng Thanh bắt sống được Bành Dĩ, thì trong lòng lấy làm mừng vô hạn.
Đằng này
Tôn lập đeo gươm lên vai rút đôi cương chuỳ dóng trúc, ra đánh nhau với Hô
Duyên Chước, đôi bên cùng múa song chùy, thế lực tất là hùng dũng. Một bên Tôn
Lập đội mũ sắt đôi sưng giao nhau quấn khăn lụa hồng ở trán, mình mặc áo bà ba
đen, trăm hoa điển vẽ, vai khoác giáp vàng cưỡi ngựa Ô Truy, khiến đôi cương
chiên dóng trúc mắt hổ, trông vẽ ăn đứt Uất Trì Cung. Một bên Hô Duyên Chước,
đầu đội mũ sắt sừng thẳng lên trời, quấn khăn vàng ở trán, mình mặc áo đen, đốm
vẽ thất tinh khoác áo khai giáp, cưỡi con ngựa Tích Tuyết Ô Truy khiến đôi
cương chiên Thủy Bát Mã Lăng, tay tả nặng mười cân, tay hữu nặng mười ba cân,
rõ ra dòng dõi quan Hô Duyên Tán. Hai bên đánh nhau trước trận, kẻ tiến người
lui, kẻ quanh người lại, trước sau tới ba mươi hiệp, chưa phân thắng thua được
ra sao.
Bấy giờ
Hàn Thao ở trong đám quân quan, nghe nói bị bắt mất Bành Dĩ liền thôi thúc hết
cả binh mã đội hậu, xông vào đánh trận Tống Giang, Tống Giang thấy vậy, vội
thúc mười vị Đầu Lĩnh dẫn quân xông sang đánh trước. Đoạn rồi bốn đạo ở đằng
sau, cũng chia làm hai đường mà cùng nhau tiến đánh.
Khi đó
trong trận Hô Duyên Chước, ngựa đứng liên hoàn, đều mặc bố giáp, chỉ hở bốn
cẳng ra ngoài, người mặc áo ngai giáp, chỉ để hai mắt nom ra cung tên gươm giáo
không thể sao đánh cho trúng được. Còn bên trận Tống Giang cũng có giáp trụ
chỉnh tề, song đò dùng thường mỏng không sao chịu nổi cung tên của trận bên kia
bắn lại, Tống Giang biết thế không đánh phá nổi, đành phải gõ chiên thu quân
lui về. Bên kia Hô Duyên Chước cũng lui quân hơn hai mươi dặm hạ trại.
Tống Giang
kéo quân về hạ trại bên Tây núi, rồi gọi tả hữu đem Bành Dĩ ra trước trướng
Trung Quân. Khi binh sĩ giải Bành Dĩ tới nơi, Tống Giang vội quát lui tả hữu,
rồi thân hành cởi trói cho Bành Dĩ, dắt lên mời ngồi trong trướng, đoạn rồi
Tống Giang cúi lạy Bành Dĩ một cách rất trang trọng.
Bành Dĩ
vội đáp lễ mà rằng:
- Chúng
tôi bị bắt đến đây, lẽ ra phải chết, cớ sao Tướng Quân lại còn đãi cho như thế?
Tống
Giang nói:
- Lũ
chúng tôi hết chốn nương thân, phải nhờ nơi Thủy Bạc tạm lánh ít lâu...Ngày nay
triều đình sai Tướng quân đến đánh, lẽ ra đến trước Quan Nhân mà cúi đầu chịu
tội mới phải, song e khi tính mạng không toàn, mới phản cùng các ngài mà cả gan
chống cự. Nay như thế thực là mạo phạm uy trời, xin ngài ta tội ấy cho.
Bành Dĩ
nói:
- Tôi
vẫn nghe tiếng Tướng Quân có lòng trọng nghĩa khinh tài, phù nguy cứu khổ, ai
ngờ đâu ngày nay quả nhiên biết được, như vậy thực hân hạnh vô cùng. Nếu ngài
có lòng dung nạp tôi, thì sẽ hết lòng ra sức để báo đáp ơn to nghĩa lớn, chẳng
hay ngài nghĩ sao?
Tống Giang
nghe nói cả mừng, sai người đưa Bành Dĩ lên chào Tiều Cái Thiên Vương, lưu ở
sơn trại, rồi nhất diện khao đãi tam quân, cùng các vị Đầu Lĩnh bàn định việc
quân.
Bên kia
Hô Duyên Chước thu quân đóng trại, rồi cùng với Hàn Thao bàn việc đánh phá
Lương Sơn.
Hàn Thao
nói:
- Ngày
nay ra trận, bên giặc đã tiến quân ra đánh, sao lại vội vàng lui quân về ngay,
vậy ngày mai đem tận số quân mã lên trước, tất là toàn thắng không sai.
Hô Duyên
Chước nói:
- Việc
đó ta cũng dự định như thế, vậy ngày mai nên làm ngay mới được.
Nói đoạn
liền hạ lệnh cho ba nghìn quân mã dự làm trăm đội, cứ ba mươi con kết làm một
liên, lấy hoàn (vòng) sắt khoá với nhau, hễ gặp quân giặc xa dùng cung tên, gần
dùng gươm giáo, đều phải hết sức xông vào để đánh. Còn năm nghìn quân bộ đi sau
để tiếp ứng.
Hô Duyên
Chước lại dặn Hàn Thao rằng:
- Sáng
mai bất tất khiêu chiến làm chi ta cùng Tướng Quân cứ áp trận đằng sau, hễ thấy
quân giặc ra đánh thì cứ chia làm ba mặt xông vào mới được.
Bàn định
đã xong, sáng hôm sau đều sắp sửa chỉnh tề ra trận.
Đằng này
Tống Giang chia binh mã làm năm đội tiến trước, còn hậu quân chỉ có mười tướng
đi kềm và hai toán phục binh, nấp ở hai đường tả hữu. Bấy giờ năm đội quân đi
trước, thì có Tần Minh đứng giữa, Lâm Xung, Nhất Trượng Thanh bên tả, Hoa Vinh,
Tôn Lập ở bên hữu, rồi Tống Giang dẫn mười tướng kéo quân ra đằng sau, người
ngựa chập chùng, không khác chi rừng quân núi giáo vậy.
Khi dàn
trận chỉnh tề Tần Minh liền ra trận thách đánh với Hô Duyên Chước, bên trận Hô
Duyên Chước có một nghìn bộ binh dàn ở trước mặt, chỉ khua trống reo hò mà
không ai ra đánh với Tần Minh.
Tống
Giang đứng sau thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, bèn truyền lệnh cho hậu quân tạm
lui, rồi phóng ngựa lên chỗ Hoa Vinh, để nom sang trận bên kia.Chợt đâu bên
trận bên kia có tiếng súng Liên Châu, một nghìn quân bộ ở trước trận, chia ra
hai bên, rồi có ba đạo quân mã liên hoàn xông ra hăng hái. Hai bên mã quân toàn
thị tên bắn ra như mưa, còn khoảng giữa thì gươm giáo sáng choang một lượt.
Tống
Giang thấy vậy cả kinh, vội thúc quân sĩ lấy cung tên bắn ra để cự địch. Bên
kia ba nghìn quân mã cứ phăm phăm nhất tề để cự đến. Năm đạo quân trước trận.
Tống Giang thấy cả sợ, rối loạn cả lên. Đội quân ở phía sau cũng hoảng kinh
chạy trốn, không sao thu giữ lại được. Tống Giang vội vàng quay ngựa lui lại,
rồi mười tên tướng kèm giữ hai bên mà chạy.
Bấy giờ
sau lưng đã có một đội quân Mã Liên Hoàn đuổi đến. May có hai đạo phục binh của
Lý Quỳ, Dương Lâm đổ ra cự địch, đánh cứu Tống Giang chạy thẳng về Bến Nước.
Đoạn rồi Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, cùng ba anh em họ Nguyễn chở
thuyền ra tiếp ứng, Tống Giang vội vàng xuống thuyền sai chia các ngã cứu các
tướng xuống thuyền tất cả.
Trên kia
đội quân mã Liên Hoàn đuổi đến Bến Nước, bắn tên rào rào xuống các thuyền, may
các thuyền đều có các lá chắn che thân, nên không thiệt hại chút nào. Tống
Giang thôi thúc đuổi thuyền đến Áp Chủy, rồi kéo lên bộ đóng quân ở đó. Khi
điểm lại binh mã thiệt mất quá nữa, duy các Đầu Lĩnh vẫn còn chu toàn được cả.
Được một
lát thấy Thạch Dũng, Thời Thiên, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu chạy trốn về sơn trại mà
nói rằng:
- Chúng
tôi bị đám bộ quân sát đến, phá hết cửa nhà, nếu không có thuyền ứng cứu, thì
khó lòng mà sống sót lên đây được.
Tống
Giang nghe nói, lấy lời an ủi mọi người rồi thân hành xem xét tất cả các tướng
sĩ ra trận. Trong đó có sáu người bị tên là Lâm Xung, Lôi Hoành, Lý Quỳ, Tôn
Tân Hoàn Tín, còn đám tiểu lâu la bị thương không biết tới đâu mà kể. Tiều Cái
thấy vậy, liền cùng với Ngô Dụng, Công Tôn Thắng tới nơi thăm hỏi. Tống Giang
ra âu sầu lo nghĩ, không biết lập kế ra sao?
Ngô Dụng
khuyên Tống Giang rằng:
- Thắng
bại là việc của nhà binh, Ca Ca bất tất phải lo phiền quá đổi... rồi đây ta sẽ
nghĩ cách phá ngựa Liên Hoàn.
Tiều Cái
bèn truyền lệnh thủy quân, đóng yên Thủy Trại, đêm ngày canh phòng cho cẩn
thận, đề phòng địch tràn qua, và mời Tống Giang lên núi để yên nghĩ.
Tống
Giang không chịu lên núi, liền hạ trại ở bến Áp Thủy, rồi cho các tướng bị
thương lên núi để dưỡng bệnh.
Sa
trường muôn dặm cát bay,
Anh hùng
thua được xưa nay chuyện thường,
Ba quân
bền giữ gan vàng,
Nước non
có hội phong quan ngại gì?
Nói về
Hô Duyên Chước thu quân đắc thắng trở về trong trại, tháo ngựa Liên Hoàn,
thưởng công các tướng, tính tất cả giết chết quân rất nhiều, bắt sống được năm
trăm người và hơn ba trăm ngựa chiến. Hô Duyên Chước liền cho người về báo tiệp
ở kinh sư, rồi nhất diện khao thưởng quân ở trại.
Bấy giờ
Cao Thái Úy ở kinh sư nghe tin Hô Duyên Chước đánh được giặc Lương Sơn Bạc, sai
người về báo tiệp, thì hớn hở vui mừng đến ngày hôm sau vào tâu cho Thiên Tử
biết.
Thiên Tử
nghe tin cả mừng liền lấy mười bình rượu ngự, một áo cẩm bào, và mười vạn quan
tiền, phái một viên Sứ Quan đem ra cho Hô Duyên Chước, và khao thưởng ba quân.
Khi Sứ Giả tới nơi Hô Duyên Chước cùng Hàn Thao ra ngoài hai mươi dặm đón tiếp
vao trong trại, lạy chịu ơn vua, đặt tiệc đãi Sứ Giả, rồi sai Hàn Thao chia
tiền thưởng quân và đem năm trăm người mới bắt đem giam trong trại, để đợi khi
được đầu đảng sẽ giải kinh sư.
Quan Sứ
thân hỏi Bành Đoàn Luyện, Hô Duyên Chước liền đáp rằng:
- Bữa
trước mới kéo quân đến đây, vì ham bắt Tống Giang, vào gần đất giặc, nên bị
gian đồ bắt mất, nhưng ngày nay chắc là quân giặc không dám thò ra nữa. Vậy tôi
định phân binh để đánh kỳ cho phá hết sơn trại, lấp phẳng thủy nhai, bắt cả
gian tặc, mà phá tan sào huyệt mới nghe. Song còn hiềm một nổi bốn mặt toàn thị
hồ nước, không có đường lên, vậy duy còn có cách dùng súng hỏa bác mà bắn đánh,
thì thể nào cũng có thể phá được. Trước đây tôi nghe ở kinh sư có một người tên
là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, chế súng Hỏa Bạc có thể bắn xa tới mười bốn mười
lăm dặm, đạn đá đến đâu, đất lỡ trời long, núi tan đá vỡ đến đó.Vả chăng người
đó võ nghệ tinh thông, cung tên thạo giỏi, nếu được Thiên Sứ về kinh, nói Quan
Thái Úy cho người đó ra đây, thì thế nào cũng có thể phá tan quân giặc ngay.
Thiên Sứ
nghe nói vâng lời, rồi sáng hôm sau bái biệt trở về kinh sư, Thiên Sứ vào chào
Cao Thái Úy, đem lời của Hô Duyên Chước thuật lại cho Cao Thái Úy nghe. Cao
Thái Úy cả mừng, lập tức cho đòi quan phó sứ kho Giáp Trượng là Lăng Chấn đến.
Nguyên
Lăng Chấn, người ở Lăng Yên, là một tay võ nghệ cao cường, làm nghề chế súng
rất giỏi ở triều nhà Tống, nên vẫn gọi là Oanh Thiên Lôi xưa nay. Bấy giờ Oanh
Thiên Lôi đến bái kiến Cao Thái Úy, Thái Úy cấp văn bằng trao cho làm chức Thống
Lĩnh Hành Quân, truyền lệnh sắp sửa yên mã khí giới để ra đi lập tức.
Lăng
Chấn vâng lệnh ra về sửa soạn các đồ dùng, chế thuốc làm súng cùng các thứ giá
súng đạn, xếp cả lên xe, và sắp đủ cung đao mã giáp, dẫn ba bốn mươi tên quân
hoá đi ra địa phận Lương Sơn.
Khi ra
tới trại, Lăng Chấn chào chủ Tướng là Hô Duyên Chước, và Tiên Phong là Hàn
Thao, rồi thăm dò các nơi xung yếu ở sơn trại, và đặt ba thứ súng để đánh. Ba
thứ súng đó một là Phong Hỏa Bác, hai là Kim Luân Bác, ba là Tử Mẩu Bác, đều
sai đặt giá súng ở bên Bến Nước, để phòng bị sẵn sàng ở đó.
Khi đó
Tống Giang ở trong tiểu trại trên bến Áp Chủy, đương cùng với quân sư Ngô Học
Cứu, để bàn cách phá quan quân. Bỗng thấy người vào báo, nay có một tay giỏi
nghề súng đạn, tên là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, ở đông kinh mới đến trại quân,
hiện dã dựng các giá súng ở Bến Nước, để sắp sửa đánh vào sơn trại nay mai.
Ngô Dụng
nghe báo, bảo với Tống Giang rằng:
- Sơn
trại đây, bốn mặt toàn thị là hồ nước, thành Uyển Tử cách nước lại càng xa, dẫu
có Phi Thiên Hỏa Bác cũng khó lòng mà đánh vào ngay được. Nay hãy tạm bỏ tiểu
trại này, mà đóng cả ở trên núi, xem họ đánh chác ra sao rồi ta sẽ liệu.
Tống
Giang nghe nói, liền bỏ tiểu trại ở bên Áp Chủy, mà kéo về tất cả ở trên sơn
trại. Tiều Cái, Công Tôn Thắng đón tiếp vào Tụ Nghĩa Sảnh mà hỏi rằng:
- Nay
quân giặc đã dùng thứ súng như vậy, thì ta dùng cách nào để đối địch cho lại?
Vừa hỏi
được một câu, thì bỗng thấy có ba tiếng súng nổ luôn, đánh vào Thủy Trại ngoài
bến Áp Chủy. Tống Giang thấy vậy, trong lòng bối rối lo âu, cùng các vị Đầu
Lĩnh đều thất sắc ngây người không biết làm sao cho được.
Ngô Học
Cứu nói bàn rằng:
- Bây
giờ nếu có một người dụ được Lăng Chấn vào gần Bến Nước mà bắt được hắn, thì
mới có thể bàn đánh phá quân giặc được.
Tiều Cái
nói:
- Nếu
vậy thì ta cho Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, đem
thuyền ra Bến Nước cứ thế này...mà làm. Trên bờ thì Chu Đồng, Lôi Hoành thì cứ
theo cách thế này...mà tiếp ứng, thì may ra có thể thành công được.
Sáu vị
Đầu Lĩnh coi thủy trại đều vâng lời, rồi Lý Tuấn cùng Trương Hoành dẫn bốn năm
mươi tên thủy thủ rất thạo, chèo hai cái thuyền, theo đám lau lách đi trước,
Trương Thuận cùng ba anh em họ Nguyễn dong hơn bốn mươi chiếc thuyền nhỏ, tiếp
ứng theo sau.
Khi Lý
Tuấn, Trương Hoành ra đến ngoài bến, liền nhảy lên bờ đến chỗ giá súng của Lăng
Chấn mà reo hò toan kéo đổ. Quân sĩ thấy vậy liền vào báo với Lăng Chấn. Lăng
Chấn nghe báo, vội lấy hai khẩu súng phong hỏa, rồi cắp dao lên ngựa, dẫn hơn
nghìn quân hăm hở đuổi theo.
Lý Tuấn,
Trương Thuận thấy vậy liền dẫn người chạy thẳng. Lăng Chấn hất hả chạy đuổi
theo đến bên gần Bến Nước, thấy có một dãy hơn bốn mươi chiếc thuyền nhỏ, và có
hơn trăm quân thủy ở đó.
Bấy giờ
Lý Tuấn, Trương Thuận nhảy xuống cả thuyền, cố ý trùng trình không đẩy thuyền
ra vội. Khi trông thấy nhân mã của Lăng Chấn tới nơi, thì kêu gọi ầm ĩ , rồi
nhảy xuống cả nước một lượt.
Lăng
Chấn thấy vậy, liền đến cướp cả thuyền, Chu Đồng, Lôi Hoành đứng đối ngạn bên
kia liền đánh trống reo hò ầm cả lên.
Lăng Chấn
cướp được dãy thuyền, bèn sai quân kéo cả xuống thuyền chèo chở quay vào để
đánh. Khi đến giữa dòng nước, chợt thấy Chu Đồng, Lôi Hoành ở trên bờ đánh một
hồi chuông, liền ở dưới nước có bốn năm mươi tên thủy quân, nhoi lên nhổ hất
tất cả lái thuyền, làm cho nước chảy vào thuyền như suối vậy. Đoạn rồi đám thủy
quân thừa thế, mà đánh lật đổ cả thuyền, các quân sĩ trong thuyền đều bị lăn
xuống nước cả.
Lăng
Chấn thấy vậy toan quay thuyền trở lại, thì bỗng thấy thuyền mình cũng mất cả
bánh lái, nước rĩ vào thuyền như suối chảy, rồi hai bên có hai tên Đầu Lĩnh
nhoi lên đánh đổ lật thuyền cho Lăng Chấn ngã lăn xuống nước. Bấy giờ Nguyễn
Tiểu Nhị chực sẵn dưới thuyền, vớ được Lăng Chấn, liền ôm choàng lấy mà kéo lên
trên bờ. Lên đến bờ, có người tiếp tay, mà trói Lăng Chấn lại, giải lên trên
núi. Đám quân lính ở dưới này bắt được hai trăm người còn sống. Còn thì chết
đuối quá nửa, và có mấy người chết hụt, chạy về báo cho Hô Duyên Chước biết.
Hô Duyên
Chước nghe báo, lập tức dẫn quân ra đuổi. Khi tới nơi, đã thấy các thuyền trở
về bến Áp Chủy, người không thấy một ai, mà cung tên bắn cũng không sao tới. Hô
Duyên Chước lấy làm căm tức vô cùng, song không làm thế nào được, đành phải nín
hơi nuốt giận, mà dẫn quân mà lui về. Bên kia bọn Đầu Lĩnh bắt được Oanh Thiên
Lôi Lăng Chấn, giải về trên núi liền cho người báo với Tống Giang. Tống Giang
dẫn hết thảy các Đầu Lĩnh trong Trại, đi xuống cửa quan thứ nhì để đón tiếp.
Khi
trông thấy Lăng Chấn, Tống Giang thân hành cởi trói ra, rồi giận mắng chúng
rằng:
- Tao
bảo các ngươi đón mời Thống Lĩnh lên núi tử tế, sao các ngươi xử vô lễ như thế?
Lăng
Chấn nghe nói lấy làm cảm tạ vô cùng, Tống Giang liền nâng chén rượu tiếp phong
rồi bắt tay mời lên trên núi. Được một lát, lên tới Đại Trại, Lăng Chấn trông
thấy Bành Dĩ cũng dự ở đó, trong lòng rất lấy làm phân vân, không biết nói sao
cho được?
Bành Dĩ
khuyên Lăng Chấn rằng:
- Hai vị
Đầu Lĩnh Tiều, Tống thay Trời làm Đạo, chiêu nạp hào kiệt, mong trừ những sự
bất bình, để giúp cho nhà cho nước... vậy chúng ta đến đây, chỉ nên theo mệnh
là hơn.
Tống
Giang cũng lấy lời uyển chuyển mà dỗ dành Lăng Chấn vào đảng. Lăng Chấn đáp
rằng:
- Tiểu
đệ ở đây hầu các ngài cũng được, không lấy gì làm ngại. Duy còn mẹ già cùng vợ
con ở cả kinh sư, nếu lỡ ra ai biết tất là nguy hiểm đến tính mạng, vậy biết
làm sao cho tiện được?
Tống
Giang nói:
- Cái đó
Thống Lĩnh bất tất phải quan tâm, mấy hôm nữa, tôi xin cho người đón về đây lập
tức.
Lăng
Chấn tạ rằng:
- Nếu
được Đầu Lĩnh chu toàn như thế, thì chúng tôi dẫu chết cũng cam tâm.
Tiều Cái
liền đặt tiệc ăn mừng, và thưởng cho quân sĩ. Ngày hôm sau các vị Đầu Lĩnh cùng
bàn kế để phá ngựa Liên Hoàn.
Chợt
thấy Kim Báo Tử Thang Long đứng lên nói:
- Tiểu
Đệ nghĩ được một kế này, tất phải nhờ đến một thứ khí giới kia, và một người Ca
Ca tôi mới có thể phá trận Liên Hoàn được.
Ngô Dụng
đón lấy nói:
- Nếu
được như vậy, thì còn gì hơn nữa? Người ấy là ai? Dùng thứ quân khí gì? Xin
hiền đệ cho được biết.
Thang
Long vâng lời, liền chắp tay đến trước để kể tên người đó cho các vị Đầu Lĩnh
nghe.
Mới hay:
Đã nên
khẳng khái ra đời,
Làm cho
động đất kinh trời mới nghe
Tuồng gì
bọ nước xăm xoe,
Mũ cao
áo rộng toan đè nén nhau.
Giống
người ai kém ai đâu,
Quyết
đem máu đỏ mà lau gươm thù.
Có công
tất cũng nên trò,
Cái
gương công lý ngàn thu vẫn còn.
Lời bàn
của Thánh Thán:
Hồi này
ba đoạn văn tự một đoạn tả Tống Giang phóng quân xa; Một đoạn Hô Duyên Chước
liên hoàn quân; đều là những văn rất tinh thần biến động. Một đoạn tả bắt Lăng
Chấn, coi như bắt trẻ con, sở dĩ như thế, là trước khi tác giả chưa hạ bút,
trong vốn có một tứ lạ tả Liên Hoàn Mã, chẳng tiện đột nhiên mà tả ra, cho nên
trên chữ Liên Hoàn, điên đảo sinh ra hai chữ Phóng xa quân, trước đoạn văn
(Liên Hoàn) lại có một đoạn văn Phóng xa, khiến độc giả choáng mắt vì lạ, song
bỗng đâu một biến, biến ra thứ trận như bài sơn đảo hải.
Nay thử
xem phóng xa coi khinh, liên hoàn thấy trọng, đem khinh dẫn trọng là một lạ
vậy. Phóng xa liên hoàn một bầy, lấy từng đội dẫn cả bầy, là hai lạ vậy; Phóng
xa các người tự chiến, liên hoàn nhất tề tiến ra, là ba lạ vậy; Phóng xa chợt
tan chợt hợp, liên hoàn liền khóa với nhau, đem ly dẫn hợp là bốn lạ vậy; Phóng
xa tiền quân thua, chuyển làm hậu quân, liên hoàn không trước không sau, thẳng
xông ra vậy, đem tiền chuyển hậu dẫn ra không hậu không tiền, là năm lạ vậy;
Phóng xa có tiến, có thoái liên hoàn chỉ tiến không thoái, đem tiến thoái dẫn
ra tiến thôi, là sáu lạ vậy; Phóng xa tả nhân, liên hoàn tả mã, lấy nhân dẫn mã
là bảy lạ vậy. Xem thế một đám hoa đống gấm văn chương, chỉ do một trận Liên
Hoàn tả ra, rồi sau đến đoạn thứ hai tả đến bản đề, song lại chăng vội thu kết
ngay nữa; lại từ chỗ ngựa nảy ra súng, làm một chót đuôi, song lại sợ hai phen
chiến trận nguy nan, mà tả đến dụng súng, khiến văn tự thụt đi không nổi lên,
mớt đem bút rồi, mực đương, tả bắt Lăng Chấn như đồ trẻ con vậy. Hỡi ôi! Chỉ vì
một đoạn hoá ra ba đoạn, đáng bảo là trong khoảng một đoạn rất khéo biến ra, mà
hai đoạn trước sau cũng chỉ là một đoạn giữa nối liền làm một, mà mỗi một đoạn
một biến rất khéo, nào ai muốn nổi lên tranh cái tiếng tài tử với tác giả kia,
ta thấy rõ ràng là không thể sánh kịp.
Trước
sau hai đoạn đều rất khéo biến ra kia, như đoạn trước tả phóng xa quân, khi mỗi
một đội muốn đi, phải có trước một đội tiếp hậu, một tiếp một chờ, ví như lông
cánh vịt vậy. Thi Nại Am lại bỗng đâu tính đến khi đội thứ năm muốn đánh, phải
tiến xa mười viên tướng áp hầu, như lộ ngấn tích, bèn khiến hai chữ "
Phóng xa " cả thua, mới đem đội thứ năm tiếp chiến bèn tả Tống Giang đem
mười viên tướng, cho khỏi cái lỗi đứt nối vậy. Song lại tính đến một thiên
chương pháp, trong đội thứ năm lại biến khác ra, chỗ đó vẫn lộ ngấn tích, đánh
đến chuột chạy cùng đường, ở chỗ đội thứ tư khi tiếp chiến, tả đến đội thứ năm
đã đến sớm làm phảng thấn, thực khổ tâm thay cho một thợ lành nghề văn tự.
Lại như
trước một đoạn tả đội thứ năm Phóng xa quân, một đội thắng một đội, vốn thế
vậy, khi đến đội thứ tư, bỗng đâu trên trận bay ra ba khẩu đao, đã mà một biến,
biến ra hai khẩu đao hai chiếc roi biến ra hai chiếc roi, càng biến càng lạ,
càng lạ càng kinh, càng kinh càng vui, thực văn chương xem thấy thú!
Một đoạn
sau Tiều Cái truyền lệnh, hãy mời Tống Giang về núi, Tống Giang cố ý chẳng
chịu, đọc đến cho rằng, ý bảo diệt kẻ kia chỉ trong một sớm một chiều, biết đâu
chính vì mưu để thu súng Lăng Chấn, đó là bút pháp tuyệt kỳ, chẳng phải bút mực
tả ra mà được?
Lại như
cần tả đến dùng súng, lại tả ra phép bắn súng ở chỗ chẳng gần cũng chẳng xa,
nay xem chỗ Lăng Chấn tới, chỉ là ca ngợi, đặt giá súng để bắn, thấy uy thế của
chúng, làm cho Tống Giang phải bỏ trại thu quân lẩn về núi, thực là bút pháp
tuyệt kỳ, chẳng phải bút tục tả ra mà được?
Tả tiếp
luôn sự dùng súng, bắn ba chỗ, lại nói ra rằng, hai chỗ bắn khắp mặt nước, một
chỗ bắn vào trong tiểu trại, tả hai chỗ bằng khắp mặt nước cho rõ thủy bạc rộng
rãi, một chỗ bắn vào tiểu trại cho rõ sức súng rất xa mạnh!
Đến như
sau là trước hồi này, lại có riêng bút khéo tài tình, như sắp tả Liên Hoàn Mã
đã tả trước một ngự mã ban cho để dẫn ra; sắp tả áo giáp Từ Ninh, lại tả trước
bao nhiêu giáp binh mã để dẫn ra, bao nhiêu ngựa liên hoàn, chỉ một ngựa vua
ban làm điều động, đều chẳng phải bút pháp tầm thường mà tả nổi như thế!
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 55: Ngô Dụng sai Thời Thiên cắp bảo
giáp; Thang Long lừa Từ Ninh tới Lương Sơn
Bấy giờ
Thang Long nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Nguyên
tổ phụ chúng tôi, ngày xưa sinh nhai về nghề rèn đúc quân khí, sau gặp Lão
Trung Kinh Lược, mới được ra làm Tri Trại ở phủ Duyên An. Trước đây trong triều
đã dùng trâu ngựa Liên Hoàn để đánh được giặc, song muốn phá trận đó, thì phải
dùng tới gươm câu liêm mới được. Kiểu câu liêm ấy, tổ phụ nhà tôi có truyền để
lại, tôi có thể đánh được nhưng không biết dùng khiến ra sao. Nay muốn tìm một
người biết dùng, tất phải tìm đến người anh cô cậu của tôi, hiện nay làm chức
Giáo Đầu ở Đông Kinh, gia truyền đánh phép câu liêm không ai học được, hoặc
đánh trên ngựa, hay đánh dưới bộ, thực là xuất qủy nhập thần...
Vừa nói
đến đó; thì Lâm Xung hỏi ngay:
- Chẳng
hay là Giáo Sư Kim Sang Ban tên là Từ Ninh đó?
Thang
Long nói:
- Chính
phải ông ta đó.
Lâm Xung
nói:
- Nếu
bác không nói, có lẽ tôi quên mất... Phải, sang pháp của ông ta thực là tuyệt
xảo. Khi tôi ở Đông Kinh vẫn tập thử với nhau, anh em rất là tương đắc, nhưng
bây giờ làm thế nào mời ông ta lên được?
- Ông ấy
có một vật báu, là một cái áo giáp khuyên kim bằng lông chim nhạn linh khâu
lại, thiên hạ không ai có bao giờ. Khi trước tôi theo phụ thân có qua tới Đông
Kinh, đã một lần đến chơi nhà cô tôi, mới được nom thấy. Cái áo ấy khoác lên
mình vừa nhẹ vừa ấm, đao gươm không thấu, người ta lại gọi là Kiểm Đường Nghê.
Xưa nay nhiều những công tử yêu cầu muốn xem, song ông ta không hay cho ai xem
bao giờ. Cái áo giáp ấy cũng như là tính mạng của ông ta, ông ta vẫn bỏ vào cái
hòm da treo trên phòng nằm rất cẩn thận. Nay nếu lấy được cái áo ấy, thì tất
ông ta phải đến đây ngay.
Ngô Dụng
nói:
- Cái đó
thì không khó gì? Phen này chỉ nhờ ông anh em rất giỏi, là ông Thời Thiên đi
cho mới được.
Thời
Thiên nghe nói liền ứng lên rằng:
- Chỉ sợ
ông ta không để ở nhà, chứ còn ở nhà thì thế nào tôi cũng lấy được.
Thang
Long nói:
- Nếu
bác lấy được cái ấy, thì thế nào tôi cũng lừa ông ta đến đây được.
Tống
Giang hỏi:
- Ngươi
định lừa thế nào?
Thang
Long ghé vào tai Tống Giang mà nói thầm mấy câu. Tống Giang cả cười mà rằng:
- Diệu
kế, như thế thì làm gì không được?
Ngô Dụng
nói:
- Bây
giờ phải cần có ba người đi Đông Kinh một phen. Một người vào mua các thứ thuốc
súng đạn lửa để dùng việc chế súng, còn hai người đưa vợ con Lăng Thống Lĩnh về
đây.
Bành Dĩ
nghe nói, liền đứng lên bẩm rằng:
- Nếu
các Ngài rộng ơn cho một người đến Dĩnh Châu đem gia quyến nhà tôi đến đây, thì
tôi cũng rất lấy làm cảm tạ muôn phần.
Tống
Giang đáp rằng:
- Đoàn
Luyện Sứ cứ viết thư về, để tôi sai người đến đó đón.
Nói đoạn
liền gọi Dương Lâm sai đem thư tín kim ngân, cùng mấy người theo hầu, đi sang
Dĩnh Châu đón vợ con Bành Dĩ. Tiết Vĩnh ăn mặc giả làm một người đánh gậy bán
thuốc cao, đi sang Đông Kinh đón vợ con Lăng Chấn, Lý Vân giả làm khách buôn
súng đi sang Đông Kinh mua các đồ dùng làm súng. Nhạc Hòa đi với Thanh Long và
thỉnh thoảng phải đi kèm Tiết Vĩnh cho tiện công việc. Nhất diện cho Thời Thiên
xuống núi đi trước, còn Thang Long phải lưu lại đánh cái câu liêm sang làm mẫu
rồi sẽ đi sau.
Khi
Thang Long đúc xong câu liêm, Lôi Hoành bèn đốc thúc thợ rèn cứ theo mẫu đó mà
làm, đoạn rồi trong sơn trại đặt tiệc tiễn hành, đưa chân mấy người xuống núi.
Bấy giờ
Dương Lâm, Tiết Vĩnh, Lý Vân cùng Thang Long từ biệt các vị Đầu Lĩnh cùng nhau
cử bộ đăng trình. Đến sáng hôm sau Tống Giang lại cho Đới Tung đi theo bọn đó,
để dò xem tin tức ra sao?
Nói về
Thời Thiên, từ khi từ giã các vị Đầu Lĩnh, liền giắt đỏan đao cùng các thứ cần
dùng trong mình, rồi trông chừng thẳng trỏ Đông Kinh. Cách ít lâu đi tới Thành,
chàng tìm vào ngủ trọ, rồi sáng hôm sau vào Thành để hỏi dò đường lối.Khi vaò
đến trong thành, chàng hỏi đến nhà Kim Sang Ban Từ Ninh Giáo Sư, sau có người
trỏ vào gian nhà thứ năm ở trong ban, bên cạnh có cánh cửa đen đen, mà gọi là
nhà Tư Ninh ở đó.
Thời
Thiên nghe nói, vội vàng tới nơi, nom cửa trước cẩn thận một lượt, rồi lại nom
đến cửa sau, thì có một dãy tường cao,trong có hai gian lầu nho nhỏ, bên cạnh
có một cột liền ngay với chỗ bức màn.
Chàng
xem kỹ một hồi, rồi lại quay ra phố hỏi thăm xem Từ Ninh có nhà hay không. Có
người nói rằng:
- Từ
Ninh thường đi vào ban làm việc quan, từ đầu trống canh năm tới chiều tối mới
về.
Thời
Thiên nghe nói lại trở về nhà trọ, lấy đủ các thứ cần dùng, rồi gọi tiểu nhị
dặn rằng:
- Đêm
nay có lẽ tôi không về, nhờ trông nom trong phòng giúp cho.
Tiểu nhị
vâng lời mà rằng:
- Xin
ngài cứ đi ở trong cấm thành này, không làm gì có quân gian đạo mà sợ.
Nói đoạn
Thời Thiên đi vào trong thành, đợi đến chiều tìm nơi ăn uống, rồi lại đến nhà
Từ Ninh để chực.Khi tới nhà Từ Ninh, chàng trông trước trông sau, không có chỗ
nào nấp được. Sau trông quanh thấy sau miếu Thổ Địa gần đó, có một cây bách rất
lớn, chàng liền rón rén trèo lên để ngồi trên càng cây để chực.
Bấy giờ
đương dạo mùa đông, trăng mờ đêm lạnh, gió thổi hiu hiu, Thời Thiên đợi mãi mới
thấy Từ Ninh trở về nhà, đoạn rồi có hai người trong ban, cầm đen lồng ra khoá
kỹ cửa mà ai về nhà nấy.
Thời
Thiên ngồi trên cây nghe thấy tiếng trống canh vẫn còn điểm một, trông lên
trời, thì mây che kín, ánh sao mờ mịt, mà trong ban thì im phắc như tờ, không
còn có một tiếng chó cắn gà kêu chi chi cả. Khi đó Thời Thiên ở trên cây bò
xuống, đi đến lối sau nhà Từ Ninh, rồi trèo tường vào gần bếp. Chàng trông vào
trong bếp thấy còn ánh đèn sáng, có hai đứa nữ tỳ vẫn còn xếp dọn chưa xong.
Chàng lại quay ra trèo lên cột cái, nấp ở đằng sau chỗ bức màn, dòm vào trong
lầu, thấy Từ Ninh cùng vợ ngồi ở cạnh lò lửa, tay ẵm đứa trẻ lên sáu tuổi, lại
nom vào phòng ngủ, quả thấy một hòm da treo ở bên trên, cửa phòng treo một cây
cung, một túi tên và một con dao lưng sáng nhoáng, trên mắc áo có ba thứ áo
mầu, rất là lịch sự.
Bấy giờ
Từ Ninh gọi lên rằng:
- Mai
Hương đâu đem áo gấp lại cho ta.
Đoạn rồi
thấy một đứa nữ tỳ ở dưới bếp đi lên, gập một cái áo màu tía cổ tròn, một cái
áo ngắn màu quan lục, một cái áo xiêm hoa rực rỡ, một cái khăn gấm, và mấy cái
khăn tay bằng lụa, bọc vào một gói, lại gấp một cái thắt lưng đuôi giải bọc vào
khăn vàng nhỏ rồi bỏ vào hòm mà để lại một chỗ.
Được một
lát vào khoảng canh hai, Từ Ninh xếp dọn giường nghỉ, người vợ hỏi Từ Ninh
rằng:
- Ngày
mai có đi việc quan nữa không?
Từ Ninh
đáp:
- Sáng
mai vua ra cung Long Phù, phải dậy sớm từ đầu canh năm để chầu chực mới được.
Người vợ
nghe nói dặn bảo thị nữ rằng:
- Sáng
mai dậy sớm đun nước và dọn cơm sớm.
Thời
Thiên thấy vậy, trong bụng nghĩ thầm:"Cái hòm da kia, chắc là áo giáp để
đó. Nhưng nếu nửa đêm ta hạ thủ mà lỡ ra họ biết, thì sáng mai khó lòng mà đi
thoát. Vậy bất nhược ta đợi đến canh năm sẽ hạ thủ cũng được...
Chàng
nghĩ đoạn lại đợi một lúc, thấy hai vợ chồng Từ Ninh cùng hai đứa thị nữ đã ngủ
yên, mà trên bàn ở trong phòng vẫn để ngọn đèn ở đó. Thời Thiên bèn lần cột cái
đi xuống, lấy ống sậy dắt ở mình, đem gần đến cửa sổ, ghé vào mà thổi tắt ngọn
đèn đi.
Vào
khoảng canh tư, Từ Ninh trở dậy, gọi thị nữ đun nước rửa mặt, thị nữ nghe gọi
mơ màng trở dậy, thấy trong phòng không có ánh sáng, bèn kêu lên rằng:
- Quái
lạ! Hôm nay lại không thắp đèn hay sao?
Từ Ninh
bảo thị nữ:
- Bay
không dậy thắp đèn, còn để đến bao giờ nữa?
Mai
Hương vâng lời mở cửa gác đi xuống, Thời Thiên nghe tiếng két cửa, liền lẻn vào
lối sau để trốn nấp. Mai Hương đi ra cửa sau, đi thẳng xuống bếp. Thời Thiên
lỏn xuống bếp nấp ở sau cái bàn con trong bếp. Mai Hương châm lửa đem lên, rồi
lại đóng cửa trên, quay xuống bếp đun nước. Bấy giờ tên thị nữ cũng trở dậy,
gắp than vào lò mang lên trên lầu để sưởi. Được một lát, thị nữ đem nước nóng
lên. Từ Ninh rửa mặt súc miệng, rồi gọi hâm rượu để uống. Thị nữ lại đem bánh
lên. Từ Ninh ăn uống xong rồi, lại gọi mang ra cho người nhà ăn.
Khi ăn
uống xong, Thời Thiên thấy Từ Ninh gọi mấy tên người nhà đeo khăn gói, vác Kim
Sang, rồi hai tên thị nữ cầm đèn đưa Từ Ninh ra đi. Bấy giờ Thời Thiên ở trong
gầm bàn đi ra, lần lên trên lầu, đến cạnh vách trèo lên sàn nhà nằm nấp ở đó.
Được một
lát, hai đứa thị nữ quay vào cài cửa cẩn thận, rồi chui đầu ngủ ngay lập tức.
Thời Thiên nằm ở xà nhà, đợi khi người nhà ngủ im thin thít, liền giơ ống sậy
ra thổi tắt ngọn đèn, rồi sẽ cởi cái hòm da treo ở trên xà nhà ra. Khi cởi xong
bất đồ vợ Từ Ninh nghe tiếng hơi thấy động, liền kêu lên rằng:
- Trên
xà nhà có cái gì động thế? Thời Thiên nghe tiếng, liền giả tiếng chuột kêu trên
xà nhà. Mai Hương nghe thấy vậy, bảo vợ Từ Ninh rằng:
- Chắc
là chuột nó đùa nhau trên ấy hẳn.
Thời
Thiên lại vờ tiếng chuột đuổi nhau, rồi sẽ nhảy xuống lầu lần ra cửa lầu mà vác
hòm da mở cửa ra đi. Khi ra tới cửa ban, bấy giờ đã có người đi lại, cửa đã mở
tung, chàng đã liền đánh tráo vào người trong ban mà đi lẻn ra ngoài thành.
Vào hồi
giữa canh năm, Thời Thiên về đến hàng trọ, gọi mở cửa hàng. Vào phòng xếp hành
lý thành một gánh tính tiền hàng, rồi trở ra đi về phía Đông. Chàng đi ngược
bốn mươi dặm đường, tới một nơi hàng cơm vào đó để nghỉ ăn cơm. Đương khi ăn
cơm bỗng thấy Đới Tung đi đến, chàng sẽ đem câu chuyện nói cho Đới Tung biết.
Đới Tung
thấy đã lấy được áo giáp của Từ Ninh,thì trong bụng lấy làm vui mừng, hai người
thì thầm mấy câu, rồi Đới Tung bảo với Thời Thiên rằng:
- Áo
giáp này để tôi mang về trại trước, rồi báo với Thang Long sẽ thong thả đi sau.
Thời
Thiên mở hòm da, lấy áo ra gói vào một gói đưa cho Đới Tung. Đới Tung khoác
khăn gói lên vai ra khỏi cửa điếm; làm phép thần hành trở về sơn trại trước.
Bấy giờ
Thời Thiên cơm nước xong, tính trả tiền hàng, rồi xếp hai cái hòm không nghêng
ngang cho mọi người biết cùng, mà quảy gánh ra đi. Đi được hai mươi dặm đường,
thì gặp Thang Long đi đến đó, hai người lại đưa nhau vào hàng để nói chuyện.
Thang
Long khẽ bảo Thời Thiên rằng:
- Nay
bác phải nghe tôi kế này mới được,bác đi đường, hễ thấy hàng cơm chỗ nào có
vòng vôi trắng khuyên, thì cứ vào đó mua rượu chè ăn uống, mà nghỉ ngơi ở đó.
Song trước hết phải để rõ cái hòm da cho mọi người trông thấy, rồi khi đi được
một quãng đường, thì phải đứng đó mà đợi tôi.
Thời
Thiên nghe nói khen phải, bèn đứng dậy đi trước, còn Thang Long lưu lại ở hàng
một lúc, rồi mới đi vào Đông Kinh.
Nói về
hai tên thị nữ ở nhà Từ Ninh, buổi sáng hôm ấy trở dậy, bỗng thấy cửa gác, cùng
các cửa trong ngoài đều bỏ ngõ hết cả, hai người lấy làm kinh ngạc, đi nom hết
cả các nơi, thấy bao nhiêu đồ vật còn nguyên, không hề có chút gì sai chuyển,
Hai tên thị nữ nói với vợ Từ Ninh rằng:
- Thưa
bà không biết làm sao cửa ngõ nhà ta mở tung cả ra, mà đồ vật thì không mất chi
hết cả!
Vợ Từ
Ninh nói:
- Vào
khoảng đầu trống canh năm, có tiếng động trên xà nhà, ngươi bảo là đàn chuột đánh
nhau. Vậy thử nom xem cái hòm da đựng áo giáp có còn treo đó không?
Hai đứa
thị tỳ vâng lời, chạy vào xem, bỗng kêu lên rằng:
- Chết
rồi! Cái hòm da, không thấy đâu nữa rồi.
Vợ Từ
Ninh nghe nói lấy làm kinh hoảng, bảo với thị nữ rằng:
- Nếu
vậy bây phải vào cung Long Phú, báo cho ông về ngay mới được.
Thị nữ
vội vàng đi nhờ người vào báo cho Từ Ninh, song bấy giờ Ban Kim Sang đã theo
hầu Thiên Tử ra ngoài nội uyển; phía ngoài đều có cấm binh coi giữ không ai làm
thế nào mà vào báo được.
Vợ Từ
Ninh cùng hai đứa nữ tỳ trong lòng nóng như lửa đốt, lo són với nhau, không còn
tưởng nhớ đến cơm nước chi nữa.
Chiều
hôm đó Từ Ninh đi hầu xe ngựa về, vào cung thay đổi áo xiêm; dẫn mấy người theo
hầu, cùng mang Kim Sang mà lững thững ra về. Khi về tới cửa ban, thấy xóm làng
xôn xao nói rằng:
- Nương
Tử ở nhà mất trộm, đợi mãi không thấy Giáo Sư về, đương lo nháo lên ở nhà đó.
Từ Ninh
nghe nói cả kinh, vội vàng chay về nhà để xem.
Khi về
tới nhà, hai tên thị nữ thuật chuyện cho Từ Ninh biết.
Từ Ninh
gắt mù tang tít cả lên, rồi nói với vợ rằng:
- Cái áo
ấy là của báu từ bốn đời ngày xưa lưu lại đến nay. Trước Hoa Nhi Vương Thái Uùy
đã trả ta vạn quan, ta không chịu bán cốt để những khi ra trận mà dùng, cho nên
mới cẩn thận mà buộc treo trên đó. Có ai hỏi đến phải dối là mất mất rồi... Nay
lại quả nhiên bị mất như thế, tất là thiên hạ biết chuyện, họ chê cười không
còn ra trò gì nữa!
Chàng
thẫn thờ hồi lâu, rồi suốt đêm đó nằm nghĩ, không biết làm cách gì mà tra xét
được. Sau người vợ bảo với chồng rằng:
- Đêm
hôm qua lúc tắt đèn, chắc là kẻ trộm đã lẻn vào nhà, nhưng không ai ngờ nó lại
ăn trộm của oái oăm như thế? Cái này chắc có người bạn thân đến hỏi mua không
được, nên mới sai kẻ trộm đến lấy đi hẳn? Ta hãy để đó; sai người đi dò hỏi xem
sao, chớ nên hô hoán lên nữa người ta biết mất...
Từ Ninh
nghe nói, cũng phải nén lòng, để đợi xem dò xét ra sao? Sáng hôm sau, chàng
đương ngồi buốn nghĩ ngợi một mình, chợt có người gõ cửa, rồi có tên người nhà
vào báo rằng:
- Có con
quan Thang Tri Trại ở bên phủ Duyên An là Thang Long vào hầu.
Từ Ninh
nghe nói, bảo người nhà mời Thang Long vào, Thang Long tới nơi, cúi đầu lạy
chào, rồi hỏi thăm Từ Ninh rằng:
- Lâu
nay Ca Ca vẫn được bình yên đó chăng?
- Từ
Ninh hớn hở đáp lễ mà rằng:
- Dạo
trước ông cậu quy tiên, tôi vì bận việc quan, vả đường xa xôi, không sao đến
viếng được sau cũng không biết tung tích hiền đệ ra sao, trong lòng thực lấy
làm ăn năn quá đỗi. Chẳng hay hiền đệ ở đâu? Từ đâu mà đến đây thế?
Thang
Long nói:
- Từ khi
phụ thân bị mất, trong nhà gặp lúc gian truân phải lưu lạc gian hồ, rất là vất
vả. Nay tôi nhân ở Đông Sơn tới đây để hỏi thăm Ca Ca, và anh em đàm đạo một
hôm, cho đỡ lòng khát vọng bấy lâu...
Từ Ninh
mời Thang Long ngồi, gọi người nhà mang rượu lên để thiết đãi. Thang Long mở
khăn gói ra lấy hai đĩnh bạc, nặng hai mươi lạng, đưa cho Từ Ninh mà nói rằng:
- Khi
phụ thân tôi mất, có để lại hai mươi lạng vàng này, có dặn đưa cho Ca Ca để làm
kỷ niệm về sau, song từ ấy đến nay không ai qua lại, cho nên vẫn không gửi sang
đây được. Nay tiểu đệ qua đây, đưa nộp Ca Ca một thể.
Từ Ninh
nói:
- Cậu có
lòng quá yêu tôi như thế, tôi biết lấy gì báo đáp vong hồn cậu được ...
- Ca Ca
bất tất nghĩ vậy. Khi phụ thân tôi còn sống, vẫn thường nhớ đến Ca Ca võ nghệ
cao cường, song vì non nước xa khơi, không sao được gặp, gọi là để chúc này làm
kỷ niệm với Ca Ca đó thôi.
Từ Ninh
cảm ơn Thang Long,nhận lấy hai đỉnh bạc, rồi hai người cùng uống rượu với nhau.
Trong khi uống rượu, Từ Ninh vẫn ra dáng bang khuân nghĩ ngợi, kém vẽ tươi
cười. Thang long thấy vậy liền hỏi:
- Tôi
trong Ca Ca có dáng không vui, hay là trong bụng có điều gì lo nghĩ chăng?
- Từ
Ninh thở dài mà than rằng:
- Hôm
qua nhà tôi mất trộm đấy...
- Chẳng
hay mất bao nhiêu đồ đạc?
- Chỉ
mất có cái áo giáp của ông cha tôi để lại khi xưa, là một cái áo làm bằng lông
nhạn rất quý, không ai có bao giờ. Bởi vậy tôi lấy làm bâng khuân lo nghĩ,
không biết kế chi mà tìm thấy được nữa... ?
- Vâng!
Cái áo ấy tiểu đệ cũng có được biết, ngày trước còn thân phụ vẫn thường khen
ngợi đến luôn luôn... .Vậy Ca Ca để đâu mà mất được?
- Tôi bỏ
trong cái hòm da, treo trên xà nhà giữa phòng nằm, mà không biết làm sao nó lại
lấy được?
- Cái
hòm da hình dạng thế nào?
- Cái
hòm ấy bằng da dê đỏ, phía trong có bọc lông cẩn thận.
Thang
Long nghe nói, ngạc nhiên mà rằng:
- Da dê
đỏ... Có phải trên mặt có thêu triện, và khoảng giữa có thêu sư tử hý cầu bằng
chỉ trắng không?
Từ Ninh
đáp:
- Phải,
hiền đệ trông thấy thế?
- Đêm
qua tôi trọ nhà hàng, cách đây chừng bốn mươi dặm, thấy một anh chàng người đen
mắt đỏ, gánh một cái gánh, một bên có cái hòm da như thế. Tôi trông thấy vậy,
trong bụng nghĩ rằng; không biết trong hòm có đựng những cái gì. Sau lúc tôi ra
đi có hỏi hòm đựng cái gì? Thì chàng ta đáp, nguyên trước là hòm đựng áo giáp,
nhưng nay đem đựng quần áo vặt ở đó, anh chàng ấy, có lẽ tôi còn nhớ, hai chân
đi tập tễnh, chắc là anh ta lấy hẳn. Nếu vậy bây giờ ta đi đuổi ngay, thì may
ra còn kịp được ...
Từ Ninh
nghe nói, vội thay đôi giầy gai dắt con dao lưng, tay cầm dao lớn, cùng với
Thang Long lập tức ra thành để đuổi theo.
Khi đến
một hàng cơm kia, thấy trên vách có vết vôi trắng, Thang Long bảo với Từ Ninh
rằng:
- Ta hãy
vào đây nghỉ, hỏi thăm một câu rồi sẽ đi.
Nói đoạn
dắt Từ Ninh vào mua rượu cùng uống. Thang Long hỏi nhà hàng rằng:
- Ông có
thấy anh chàng gầy đen gánh hòm da, đi qua đây không?
Chủ hàng
đáp:
- Có,
đêm qua có một anh gầy đen, gánh hai cái hòm da dê qua đây, chân anh đi tập
tễnh, bước thấp bước cao thì phải...
- Đấy Ca
Ca, nghe có đích không?
Từ Ninh
nghe nói, không biết làm sao mà trả lời được nữa. Hai người ăn uống xong, liền
trả tiền hàng, rồi tính tiền ra đi.
Được ít
lâu, đi đến hàng có vết vôi trắng, Thang Long lại đứng dừng lại bảo Từ Ninh
rằng:
- Tôi
mệt lắm rồi. Ca Ca hãy vào đây nghỉ ăn uống rồi sáng mai sẽ đi...
Từ Ninh
nói:
- Tôi
đang giữ chức quan, nếu đêm nay điểm danh thấy vắng mặt, thì tất nhiên Quan Tư
quở trách hẳn.
Thang
Long nói:
- Cái đó
cần gì Ca Ca khỏi nghĩ, chắc là Tẩu Tẩu ở nhà phải nói với quan trên chớ?
Nói đoạn
dắt Từ Ninh vào hàng để nghỉ.Đêm hôm đó, Thang Long hỏi tên tiểu nhị ở hang, để
hỏi thăm người gánh hòm.
Tiểu nhị
nói:
- Đêm
hôm qua có một người đen đen gầy gầy gánh hòm vào trọ hàng tôi, hỏi thăm dường
về Sơn Đông, rồi đến gần trưa mới đi.
Thang
Long nghe nói quay bảo Từ Ninh rằng:
- Nếu
vậy ta cũng còn có thể đuổi kịp được.
Từ Ninh
nghe nói, cũng yên tâm nghỉ một đêm hôm ấy, sáng hôm sau hai người trở dậy đi
sớm, hễ đến chỗ nào có vạch vôi trắng, Thang Long lại dắt Từ Ninh vào ăn uống,
và hỏi thăm người gánh hòm. Sau thấy hàng nào cũng nói là có anh chàng gánh hòm
đúng như thế.
Từ Ninh
càng lấy làm nóng ruột, muốn theo kịp cho mau để mà lấy lại.
Hai
người đi đến chiều hôm, tới một nơi cổ miếu, thấy Thời Thiên để cái gánh ở dưới
gốc cây, ngồi đợi ở đó. Thang Long bèn trỏ bảo Từ Ninh rằng:
- Kìa,
dưới gốc cây kia, có phải cái hòm của Ca Ca không? Từ Ninh thấy vậy vội nhảy
sấn tới, nắm lấy Thời Thiên quát lên rằng:
- Quân
này to gan thực, sao dám ăn trộm áo giáp của ta?
Thời
Thiên đáp rằng:
- Khoan
khoan không cần phải làm ầm lên...Tôi ăn cắp áo giáp thực, nhưng bây giờ các
bác định làm gì?
Từ Ninh
lại quát rằng:
- Quân
súc sinh vô lễ thực! Bây còn hỏi ta làm gì à... ?
Thời
Thiên nói:
- Bác
thử xem trong hòm tôi có áo giáp không?
Thang
Long mở hòm ra cho Từ Ninh xem, thì không thấy áo giáp ở đó. Từ Ninh thấy vậy
hỏi dồn rằng:
- Thằng
này, mày để áo giáp của ta đâu?
- Khoan
tôi nói cho mà nghe, tôi đây là họ Trương, bầy vai thứ nhất, quê ở Thái An
Châu, trong châu tôi có một nhà phú hộ, hay đi qua lại nhà quan Kinh Lược Lão
Trung. Sau nghe nói nhà bác có cái áo bằng lông nhạn, mà không chịu bán, nên
mới thuê tôi đến đây, cùng một người nữa là Lý Tam đến ddaat ăn cắp, và có hứa
khi nào lấy được,sẽ cho một vạn quan tiền, dè đâu khi lấy xong, tôi nhảy ở trên
cột nhà bác suýt ngã một cái, rẹo hẳn một chân, không sao đi nhanh được,đành
phải để cho Lý Tam mang áo giáp về trước, mà để hòm không lại cho mang, nay nếu
bác mang tôi đến quan thì dẩu chết tôi cũng không chịu thú, băng cư lặng yên,
tha cho tôi rồi đi với tôi, tôi sẽ lấy lại trả cho...
Từ Ninh
nghe nói, suy nghĩ hồi lâu, không biết quyết đoán ra sau.
Thang
Long liền nói:
- Ca Ca
sợ nó bay lên trời được chăng? Ta hãy cứ đi với hắn, nếu không lấy được áo giáp
thì sẽ trình quan ở đó cũng được.
Từ Ninh
khen phải, rồi cùng Thời Thiên, Thang Long quay ra tìm vào nhà trọ. Nguyên Thời
Thiên làm ra mẹo buộc dây chân, cố làm ra bộ khập khễnh không đi nhanh được,như
vậy Từ Ninh lại càng vững tâm mà không e ngại chi nữa. Sáng hôm sau ba người
cùng dậy sớm, cùng mua rượu cơm ăn uống, rồi ba người lại đi với nhau.
Cách
ngày hôm sau nữa, Từ Ninh vừa đi vừa nóng lòng sót ruột, không chắc đến nơi có
lấy được áo giáp hay không?
Chợt đâu
thấy bên đường, có ba bốn người đẩy một cái xe; trong xe có người ăn mặc ra
dáng khách buôn tử tế.
Người ấy
trông thấy Thang Long bèn vái chào một cái rất là cung kính, Thang Long chào
hỏi lại rồi ra dáng hớn hở, hỏi luôn rằng:
- Bác đi
đâu mà qua đây như thế? Người kia đáp:
- Tôi
buôn bán ở Trịnh Châu, nay về Thái An Châu đây.
Thang
Long nói:
- Nếu
vậy thì tốt lắm, ba chúng tôi cũng muốn đáp xe về Thái An Châu một thể.
Người
kia nói:
- Được
lắm,ba người chứ mấy người cũng được.
Thang
Long nghe nói cả mừng, gọi Từ Ninh đến để chào người đó.Từ Ninh hỏi:
- Người
ấy là ai?
Thang
Long đáp:
- Người
đó họ Lý tên Vịnh, bạn cung đi lại ở Thái An Châu với tôi khi trước, là người
có nghĩ khí lắm...
Từ Ninh
nói:
- Thế
thì hay lắm! Anh Trương Nhất không đi nhanh được,nhân thể ta cho lên xe là
tiện.
Nói đoạn
bốn người cùng lên xe để đi.Từ Ninh lại hỏi:
- Trương
Nhất ơi! Anh nói cho tôi biết tên người phú hộ đó là ai?
Thời
Thiên đã đôi ba phen không chịu nói, sau Từ Ninh hỏi mãi mới đáp rằng:
- Ông ta
là ông phú hộ họ Quách, có tiếng ở Thái An Châu xưa nay.
Từ Ninh
quay lại hỏi Lý Vịnh rằng:
- Ở Châu
Thái An nhà ông, có ông phú hộ nào họ Quách không?
Lý Vịnh
đấp rằng:
- Có ông
ta là một nhà đại phú có tiếng ở châu tôi, xưa nay chỉ thích đi lại với đám
quan trường, trong nhà dung túng không biết bao nhiêu nhàn đãng mà kể!
Từ Ninh
nghe nói, càng lấy làm vững tâm hơn trước, rồi thỉnh thoảng Lý Vịnh lại nói
chuyện võ nghệ và hát xướng tiêu khiển với nhau, làm cho Từ Ninh càng hả dạ vui
lòng, mà không quan tâm chi lắm.
Xe đi
dòng dã một ngày, đến hôm sau gần tới địa phận Lương Sơn Bạc, Lý Vịnh sai phu
xe, đi mua rượu và thịt, đem về trên xe cùng uống.
Khi mua
thịt rượu về, Lý Vịnh sai rót một bầu con mời Từ Ninh uống, Từ Ninh cất uống
một hơi, uống hết rồi Lý Vịnh lại sai rót nữa. Tên phu xe cầm bầu rượu toan
rót, bất đồ lóng cóng buột tay đổ lăn ra đất. Lý Vịnh tức giận quát tên phu xe
phải mua rượu nữa.
Vừa nói
dứt lời thì Từ Ninh sè bọt mép, nhắm hai mắt rồi nằm vật trên xe. Chúng liền
túm lại rồi đem Từ Ninh đến hàng rượu Chu Quý, để đưa lên Lương Sơn Bạc.
Nguyên
Lý Vịnh tức là Nhạc Hoà, vâng lệnh Tống Giang giả làm thương khách, để đón Từ
Ninh, Thang Long, Thời Thiên về đó. Khi chúng vực Từ Ninh xuống thuyền và tới
Kim Sa, Tống Giang nghe báo, liền đem các vị Đầu Lĩnh ra bến để đón. Đoạn rồi
đem thuốc giải độc để giải cho Từ Ninh.
Được một
lát Từ Ninh tỉnh dậy, mở bầng con mắt, trông thấy mọi người, thì ngạc nhiên
kinh sợ không hiểu ra sao. Sau khi biết Thang Long đánh lừa đưa đến Lương Sơn
Bạc, chàng liền gọi Thang Long đến trách rằng:
- Sao
ngươi nỡ tâm đánh lừa ta đến đây như vậy?
Thang
Long đem lời an ủi, khuyên giải Từ Ninh, và đem lòng nghĩa khí của Tống Giang
và chuyện mình nhập đảng kể cho Từ Ninh nghe.
Từ Ninh
nghe nói thở dài mà rằng:
- Thế
này thực là anh em giết tôi đó!
Tống
Giang đưa chén rượu khuyên mời Từ Ninh mà rằng:
- Tống
Giang tôi tạm trú Thủy Bạc, chỉ đợi triều đình có lòng thương hại, là phải hết
sức cùng lòng để báo đền non nước, chứ thực không dám chút nào mang dạ tham ô,
mà dám làm điều bất nghĩa. Vậy xin ngài nghĩ đến chân tình, mà ở đây cùng nhau
tụ nghĩa, thì thực là hân hạnh vô cùng.
Bấy giờ
Lâm Xung cũng nâng chén rượu cười mà rằng:
- Tiểu
đệ đã đến đây lâu rồi, xin nhân huynh đừng từ chối.
Từ Ninh
nói:
- Tuy
vậy, song còn vợ con ở nhà, lỡ Quan tư tróc nã thì biết làm sao?
- Cái đó
không hề chi, xin ngài cứ yên tâm, chúng tôi sẽ có cách đưa quý quyến về đây
ngay lập tức.
Đoạn rồi
Tiều Cái, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng; đều đến nói lại với Từ Ninh và đem sự
định tập đánh câu liêm sang, để phá trận Liên Hoàn để thuật cho Từ Ninh nghe.
Khi
chuyện trò thỏa thuận, trong sơn trại lại đặt tiệc ăn mừng, rồi nhất diện sai
chọn đám lâu la khỏe mạnh, để tập đánh câu liêm, và nhất diện cho Đới Tung cùng
Thang Long lập tức tới Đông Kinh đón vợ con Từ Ninh lên núi. Cách trong mươi
ngày Dương Lâm ở Dĩnh Châu đón vợ con Lăng Chấn, cùng Lý Vân mua sắm các xe đồ
chế thuốc súng, cũng cùng về một lượt. Lại cách vài hôm sau thì thấy Đới Tung,
Thang Long đưa vợ con Từ Ninh đến, Từ Ninh thấy vợ con đến, lấy làm kinh
ngạc,mà hỏi thăm duyên cớ ra sao?
Vợ con
Từ Ninh đáp rằng:
- Sau
khi phu quân đi rồi, quan điểm danh không thấy,tôi phải đưa kim ngân cùng các
đồ trang sức để đút lót, mà nói dối là ốm nằm ở nhà. Sau một hôm thấy thúc thúc
Thang Long cầm áo giáp lông nhạn đưa đến, nói là áo đã tìm thấy, song phu quân
bị bệnh nguy ở giữa đường, phải đón cả nhà lên đó để trông nom mới được. Tôi
nghe nói tưởng thực phải vội vàng đi đến đây...
Từ Ninh
nghe nói tới đó, lắc đầu bảo Thang Long rằng:
- Chú
làm thế vẫn là xong việc, song cái áo tôi lại bỏ ở nhà, thì thực là uổng quá.
Thang
Long nói:
- Tôi
nói cho Ca Ca mừng, sau khi chị cùng cháu lên xe đi nhờ ông bạn tôi dẫn đi rồi,
tôi về lấy cả áo giáp, thu cả đồ đạc và dỗ hai tên thị nữ cùng đến đây kia...
Từ Ninh
nói:
- Thôi
vậy ta còn về Đông Kinh thế nào được nữa?
Thang
Long lại bảo với Từ Ninh rằng:
- Còn có
điều này nữa, tôi nói cho Ca Ca biết một thể. Khi đi đường thấy có bọn khách
buôn, tôi liền mặc cái áo giáp ấy, rồi bôi nhọ mặt đi, xưng tên họ của Ca Ca mà
đánh cướp tất cả tài vật... Chỉ nay mai là Quan Tư sức giấy đi các nơi, để bắt
Ca Ca đó.
Từ Ninh
dẫm chân lên mà than rằng:
- Chú
làm thế thì hại cho tôi to lắm.
- Tiều
Cái,Tống Giang tìm lời uyển chuyển khuyên rằng :
- Nếu
không làm thế, làm sao ngài chịu ở lại đây? Thôi xin ngài đồng tâm hiệp lực mà
cùng tụ nghĩa với nhau ở đây cho vui.
Nói đoạn
sai dọn nhà cho vợ con Từ Ninh ở, rồi cùng nhau bàn kế để phá trận ngựa Liên
Hoàn.Bấy giờ Lôi Hoành đã thúc dốc đánh đủ câu liêm, Tống Giang, Ngô Dụng bèn
mời Từ Ninh ra dạy quân sĩ. Từ Ninh nói với mọi người rằng:
- Ngày
nay sự thế đã xảy ra như vậy, thì tôi xin nhất tâm đào luyện cho quân sĩ để
chóng được nên công các ngài bất tất phải quan tâm cho lắm.
Các vị
Đầu Lĩnh nghe nói, đều lấy làm vui mừng, bèn cùng nhau ra tụ nghĩa Sảnh, để xem
Từ Ninh tuyển người dạy võ.
Cho hay:
Nước sâu
kinh ngạc vẫy vùng,
Giang hồ
len lõi anh hùng tìm nhau,
Giữa
dòng thay đỗi bể dâu,
Ngoài
khuôn nghĩa hiệp ai cầu ai chi?
Nợ đời
nặng với tu mi,
Bắc Nam
muôn dặm có khi cũng gần.
Đã lòng
báo đáp thâm ân,
Vào sinh
ra tử tấm thân sá gì?
Lời bàn
của Thánh Thán:
Cái tài
của tác giả Thi Nại Am, ta không biết đâu là bờ mà nói hết. Đương bỗng dưng tả
ra một bậc hào kiệt; thì đúng là bậc hào kiệt; Chợt đâu tả ra một kẻ gian hùng,
thì lại đúng là kẻ gian hùng; Chợt đâu tả ra một gái dâm, thì lại đúng là một
gái dâm; Chợt đâu tả ra thằng trộm cắp, thì lại đúng là thằng trộm cắp...
Người ta
có nói; Chẳng phải thánh nhân, không biết nổi thánh nhân. Thế thì chẳng phải
hào kiệt biết sao nổi hào kiệt? Chẳng phải gian hùng sao biết nổi gian hùng?
Thi Nại Am tả ra hào kiệt đúng như hào kiệt, Thi Nại Am đã là hào kiệt hẳn rồi,
còn ngờ gì nữa? Cũng như tả ra gian hùng đúng là gian hùng, Thi Nại Am lại là
gian hùng hẳn rồi, còn ngờ gì nữa? Tuy nhiên ta vẫn còn nghi, vì bậc hào kiệt
có tài của gian hùng, kẻ gian hùng có khí phách của hào kiệt, lấy hào kiệt gồm
gian hùng, hay là gian hùng gồm hào kiệt, để xét Nại Am, thì cũng không lạ gì
nữa.
Còn như
Thi Nại Am quyết nhiên không phải như gái dâm trai trộm, thế mà xem khi tả đến
gái dâm thấy đúng gái dâm, tả đến thằng trộm thấy đúng thằng trộm, thì nghĩa
thế nào? Hỡi ôi! Ta biết ra rồi, chẳng phải gái dâm sao biết gái dâm. Chẳng
phải thằng trộm biết đâu thằng trộm, thế mà Thi Nại Am lại không phải gái dâm;
thằng trộm, đó là nghệ thuật văn chương phải biết hết ra; Há phải nhà văn cứ là
gái dâm mới tả nổi gái dâm hay là trôm cắp mới tả nổi trộm cắp...
Trong
kinh dạy rằng: " Há lại chẳng nên biết hết, lòng không rối loạn thì thôi, khắp
mọi người thiên hạ, ai chẳng phải là dân của nhà vua... Nếu mà đã động tâm làm
ra gái dâm, làm ra trộm cắp... Có phải động tâm mà chỉ làm được thế thôi đâu?
Cho nên chỉ ba tấc bút, một tờ giấy của Thi Nại Am khi động tâm đến gái dâm,
động tâm đến trộm cắp... Tả ra như đúng do tâm động đến mà nên, há phải con
người cầm bút quệt mực, phải trèo tường khoét ngạch, mới tả được nổi trộm cắp
gái dâm?
Trong
kinh dạy rằng: " Hoà hợp nhân duyên, không phép nào chẳng có... "Từ
xưa dâm phụ không có bản in nào sẵn phép dạy ra; Tài tử cũng không bản in sẵn
văn tự dạy ra...Do nhân duyên sinh phép, cái gì chẳng có? Cho nên Long Thụ viết
sách, muốn phá hết nhân duyên phẩm, mà không nhắc tới vì ghét nhân duyên; Nay
Thi Nại Am viết ra Thủy Hử, đã đem nhân duyên sinh pháp, làm tổng trì của văn
tự, rất đạt mọi nhân duyên; Một khi con người đã đạt mọi nhân duyên, thì chả cứ
phải gái dâm, trộm cắp, hào kiệt, với gian hùng, mà tả ra đúng các loại người
đó, trong khi tả đến loại nào, đều theo nhân duyên pháp hoá ra. Vậy Thi Nại Am
là hạng người nào? Chính là tài tử vậy? Trở nên tài tử kia, đã học theo giảng
đạo của Long Thụ, giảng theo cái học của Long Thụ đã nên bồ tát cho nên cách
vật trí tri...
Đọc bài
phê này, có thể tự trị, vì sợ nhân duyên theo phép thánh nhân rồi. Truyện nói:
Răn giữ điều chẳng thấy, sợ hãi điều chẳng nghe ra, đó vậy; Còn như trị người,
thì không nghĩ ác, không nghĩ ác đã theo đạo Trung Thứ của Thánh hiền; Truyện
nói: Vương đạo bằng phẳng, lồng lộng...ó vậy. Thiên hạ chả thiếu gì người học
Thánh nhân phải có người dạy cho mới được.
Hồi này
biến động văn tự, lại một dạng bút pháp khác ra, như muốn phá trận ngựa, phải
đồ câu liêm, muốn làm nổi phép câu liêm, phải lấy cắp được áo giáp, do ngựa mà
đến sang, do sang mà đến giáp. Hô Duyên Chước có ngựa lại có súng; Từ Ninh có
phép sang lại có giáp; Hô Duyên Chước phép ngựa chưa tan, trận súng đã bị mất
về Sơn Bạc; Từ Ninh phép sang chưa dạy, áo giáp đã bị mất về Sơn Bạc. Nào khi
khen ngợi ngựa Tích Tuyết Ô Truy; Nào khi khen ngợi áo giáp Kiễn Đường Nghê,
lại thấy đối nhau Gia tổ Từ Ninh truyền phép sang; Gia tổ Thang Long truyền
kiểu sang, hai tổ cùng truyền lại đối; Mà chợt đâu lại tả riêng ra ngoài ý
tưởng một tổ truyền giáp, đối với mấy hồi trước xa xa tả một thợ rèn truyền từ
nghiệp tổ, thấy trong hồi lắm đoạn kỳ văn.
Tả Thời
Thiên vào nhà Từ Ninh, đã ngoài canh một, mà vợ chồng Từ Ninh chưa ngủ, tả sau
khi vợ chồng Từ Ninh ngủ, đã đến canh hai, mà Thời Thiên chưa ăn cắp, lại sao?
Vì nêu đề thì phải giảng văn cho hết, tức là phải tả ra văn cho rõ một đề tài, nếu
tả lược qua không hết đề, không có gì hay vậy.
Mấy hồi
trên tả Chu Đồng gia quyến, bỗng đâu nảy thêm cậu ấm, nảy ra tình thương con
Tri Phủ; Hồi này tả vợ chồng Từ Ninh, thêm đứa con sáu bảy tuổi, cho rõ họ Từ
có con, thấy đời trước để lại áo giáp còn truyền mãi được, làm văn phải hướng
vào khi rỗi bút tả ra, theo phép Mao Thi, Sử Mã, tài tử Nại Am học lỏm được nổi
phép này.
Tả Thời
Thiên một đêm nghe chuyện, nào lời người nhà, nào lời vợ chồng ân ái, nào lời
người chủ, nào lời nữ tỳ, nào lời trên lầu, nào lời đêm khuya, nào lời ngái
ngủ, câu nào ý ấy, nghe được rõ ra.
Thang
Long, Từ Ninh thường nói hòm da dê đỏ, Từ Ninh còn thêm câu; phía trong có bọc
bông cẩn thận; Thang Long lại thêm câu; Có phải trên mặt có thêu triện, và
khoảng giữa thêu sư tử hí cầu... chỉ vì thế mà Từ Ninh có công theo đuổi Từ
Ninh rất khéo!
Do theo
đuổi tới Sơn Đông, rồi đưa về Sơn Bạc, với đường đất chẳng gần, chia ra bao
nhiêu đoạn đánh lừa, có phép tắc, thấy khéo nói ra không hết.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 56: Từ Ninh dạy phép Cân Liêm Sang;
Tống Giang phá trận Liên Hoàn Mã
Bấy giờ
Tiều Cái, Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh trông thấy Từ Ninh mình
sáu thước năm tấc, mặt trắng phau phau, ba chòm râu đen rưng rức, lưng rộng vai
to, rõ ra đường đường tu my nam tử, thì ai nấy đều vui mừng hớn hở trong lòng.
Khi
tuyển quân xong, Từ Ninh liền xuống dưới sân Tụ Nghĩa sảnh, cầm cây Câu liêm
sang múa mang một lúc, chúng trông thấy đều vỗ tay khen ngợi luôn mồm.
Từ Ninh
bảo với quân chúng rằng:
- Phàm
ngồi trên mình ngựa đánh Câu Liêm sang, thì lấy cỡ từ thắt lưng mà đánh,trên
giữa bảy đường, ba lần giật, bốn lần lượn, một lần đâm, ba lần gạt, cộng có
chín phép biến. Bằng đánh Câu Liêm dưới bộ, thì trước hết đi tám thước vung ra
bốn mặt để lấy thế, rồi cứ mười hai bước một lần biến, mười sáu bước một lần
giở mình chĩa Câu Liêm vừa đâm vừa giật, hai mươi bốn thước hất lên đè xuống,
móc bên Đông, đánh bên Tây, ba mươi sáu bước quay mình như lọng che, cướp đánh
lung tung không đâu không vỡ. Đó là phép chính đánh Câu Liêm Sang, có bốn câu
thơ phải thuộc làm lòng để luyện.
Bốn
rung, ba móc, thông bảy đường,
Chín lần
biến đổi khác tay sang
Hai mươi
bốn bước vung sau trước
Mười sáu
bước nay, chuyển khác thường.
Từ Ninh
đọc xong, lại cầm cây Câu Liêm, diễn theo phép chính một hồi ai trông thấy cũng
đều vỗ tay khen ngợi. Từ đó trở đi, các quân sĩ ngày đêm luyện tập, không lúc
nào trễ nải. Sau Từ Ninh dạy cho đám bộ quân, lấy cách nấp núp trong cỏ, móc
chân giật cẳng, cùng ám pháp ba đường đánh dưới, đều bảo cho thông thạo hết cả.
Thấm
thoát trong nửa tháng trời, trong sơn trại đã được sáu bảy trăm người đánh Câu
liêm sang rất giỏi. Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh cả mừng, liền cùng nhau để sắp
sửa phá trận ngựa Liên Hoàn.
Nói về
Hô Duyên Chước, từ khi mất Bành Dĩ cùng Lăng Chấn, hàng ngày lại đem quân ra
bến nước để khơi đánh. Trong sơn trại thấy vậy, chỉ cho các Đầu Lĩnh thủy quân
ở dưới trại để coi sóc phòng bị, còn các bến nước thì để ngầm các cọc nhọn, để
phòng khi thuyền bè các quan quân đến đánh, bởi vậy nên Hô Duyên Chước có đem
quân hai đường bên Tây bên Bắc núi, song không thể nào lấn sang sơn trại được.
Bấy giờ
trong sơn trại đã luyện được quân đánh Câu Liêm sang, và Lăng Chấn đã chế được
nhiều thứ hỏa bác. Tống Giang liền bàn với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Binh
pháp của Tôn, Ngô, lợi nhất là những nơi núi rừng chằm vũng. Vậy ngày nay ra
trận không dùng đến ngựa, các Đầu Lĩnh đều đi bộ và đem quân bộ, chia làm mười
đội để ra dụ giặc. Khi thấy mã quân bên kia kéo đến, thì ta kéo quân chạy tràn
vào các nơi vũng lau rừng cỏ và cho các quân Câu Liêm nấp sẵn ở đó, cứ mười tên
biết đánh Câu liêm sang, lại cho xen mười tên quân biết đánh gậy móc vào. Hễ
khi quân mã chạy tới nơi, các quân Câu Liêm đánh trước, rồi đám kia thả gậy móc
kéo ngựa lại để bắt...Như thế phỏng có được chăng?
Ngô Dụng
khen rằng:
- Chính
là phép dàn binh bắt tướng đó.
Từ Ninh
cũng khen rằng:
- Phép
đánh gậy móc trong trận Câu liêm cũng phải như thế mới được.
Tống
Giang nghe nói liền cắt mười bộ đội quân ra đánh: Lưu Đường, Đỗ Thiên dẫn đội
thứ nhất; Mục Hoằng, Mục Xuân dẫn đội thứ hai; Dương Hùng, Đào Tôn Vượng dẫn
đội thứ ba; Chu Đồng, Đặng Phi dẫn đội thứ tư; Giải Trân, Giải Bảo dẫn đội thứ
năm; Trâu Uyên, Trâu Nhuận dẫn đội thứ sáu; Nhất Trượng Thanh, Vương Nụy Hổ dẫn
đội thứ bảy, Tiết Vĩnh, Mã Lân dẫn đội thứ tám; Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ dẫn
đội thứ chín; Dương Lâm, Lý Vân dẫn đội thứ mười. Mười đội quân xuống núi để du
địch đuổi theo.
Lại sai
Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, Đồng Uy, Đồng Mãnh,
cùng Mạnh Khang cưỡi chiếc thuyền ra bến nước tiếp ứng. Hoa Vinh, Tần Minh, Lý
Ưng, Sài Tiến, Tôn Lập, Âu Bằng, sáu người cưỡi sáu con ngựa dẫn quân ra bên
núi khơi chiến. Lăng Chấn, Đỗ Hưng chuyên giữ việc bắn súng, Từ Ninh, Thang
Long coi sóc đám quân Câu liêm. Trung quân thì có Tống Giang, Ngô Dụng, Công
Tôn Thắng, Đới Tung, Lã Phương, Quách Thịnh, coi sóc quân mã và sai bảo hiệu
lệnh. Còn bao nhiêu Đầu Lĩnh đều ở nhà coi trại.
Khi cắt
đặt xong vào khoảng canh ba đêm ấy, cho đội quân Câu liêm sang bên kia bến
nước, ẩn nấp cẩn thận, rồi mười đội bộ quân sang sau. Lăng Chấn Đỗ Hưng đem
súng phóng hỏa lên chỗ gò cao đặt giá súng cẩn thận tử tế để đợi, rồi Từ Ninh,
Thang Long, cầm đồ hiệu lệnh Câu liêm sang sau. Đến tờ mờ sáng hôm sau, Tống
Giang đóng nhân mã Trung quân ở bên Tây bến nước, đánh trống khua cờ để hư
trương thanh thế, bấy giờ Hô Duyên Chước nghe báo Lương Sơn Bạc kéo ra, liền
sai tướng Tiên Phong là Hàn Thao, đem ngựa Liên Hoàn ra bày trận trước. Đoạn
rồi Hô Duyên Chước đai nịt cẩn thận, thân cưỡi ngựa Ô Truy, dắt đôi chùy theo
sau ra trận.
Khi ra
tới nơi, thấy quân mã Tống Giang, bày bên kia đông như kiến cỏ. Hô Duyên Chước
liền sai bài trận mã quân lên trước, rồi Hàn Thao chạy đến bàn rằng:
- Đội
quân của Tống Giang ở bên chính Nam kia không biết rằng nhiều hay ít?
Hô Duyên
Chước nói:
- Bất kể
nhiều hay ít, cứ thúc mã quân mà đánh trận đi.
Hàn Thao
vâng lệnh, nổi hiệu toan kéo ngựa quân Liên Hoàn thẳng chạy sang phía chính
Nam. Chợt thấy phía Đông Nam có một toán bộ quân kéo ra, Hàn Thao lại toan chia
quân ra làm hai ngã để đón đánh. Chợt thấy phía Tây Nam cũng có một toán bộ
quân kéo ra, cờ hiệu phất phới, trông rất oai nghiêm.
Hàn Thao
trông thấy đành phải lui quân về, nói với Hô Duyên Chước rằng:
- Ba mặt
phía Nam đều có ba toán quân nổi hiệu cờ Lương Sơn không biết chia đánh bên nào
cho tiện?
Hô Duyên
Chước nói:
- Lâu
nay nó không ra đánh, nay tất có mưu mẹo chi đây?
Vừa nói
dứt lời, thì phía bên Bắc nổi một tiếng súng rất to.
Hô Duyên
Chước giận dữ mắng rằng:
- Tiếng
súng đó chắc lại Lăng Chấn nối giáo cho giặc rồi.
Nói đoạn
quay nom sang phía Bắc, lại thấy ba đội quân kéo cờ phất phới nhô lên. Hô Duyên
Chước bàn với Hàn Thao rằng:
- Cái
này chắc là mưu mẹo của quân giặc, vậy tôi dẫn một nửa quân sang đánh mặt Bắc,
còn Tướng quân dẫn một nửa quân sang đánh mặt Nam mới được.
Nói xong
vừa toan chia binh ra đánh, thì thấy phía Tây lại có bốn toán quân mã kéo ra.
Hô Duyên Chước lấy làm nghi ngại không biết nghĩ kế ra sao? Chợt lại thấy về
phía chính Bắc, có một dịp súng nổi lên, một tiếng súng cái, bốn mươi tiếng súng
con, ầm ầm dậy đất long trời làm cho quân mã của Hô Duyên Chước không đánh cũng
phải rối loạn.
Hô Duyên
Chước thấy vậy, vội cùng Hàn Thao chia quân ra bốn mặt để đánh. Bên kia mười bộ
đội quân, thấy đánh bên Đông, thì toán bên Đông chạy, thấy đánh bên Tây, thì
toán bên Tây chạy, Hô Duyên Chước cả giận, liền dẫn quân thẳng sang mặt Bắc để
đánh. Quân sĩ Tống Giang thấy Hô Duyên Chước kéo đến, bèn xô nhau vào khóm lách
ngàn lau để trốn. Hô Duyên Chước đuổi ngựa Liên Hoàn để đánh. Đám ngựa thừa thế
chạy tràn vào các nơi cỏ lau lách không sao cản nổi.
Chợt
nghe thấy đám lau cỏ, có tiếng hiệu còi nổi lên, rồi bọn quân Câu liêm đều ra
sức đánh ngã hai đoàn ngựa kèm hai bên, còn đám ngựa đi giữa thấy vậy, gào thét
nhảy lên như châu chấu vậy. Bấy giờ những gậy móc đều đổ xô ra để trói lấy
người.
Hô Duyên
Chước thấy vậy, biết là trúng kế Câu liêm, bèn quay ngựa sang Nam để tìm Tiên
Phong Hàn Thao. Bỗng đâu thấy súng nổ liên thanh ở ngay phía sau, rồi thấy đám
bộ quân Lương Sơn đuổi theo rầm rập như nước vỡ bờ đê không ngăn cản nổi.
Hô Duyên
Chước cả sợ, chạy tìm cho được Hàn Thao, rồi dẫn một ít quân mã tháo đường để
chạy. Khi đó thấy về phía bên Nam man mác những cờ hiệu của Lương Sơn Bạc, hai
người phải bỏ chạy phía Nam, mà tháo chạy sang đường Tây Bắc.
Hai chạy
được dăm sáu dặm đường, chợt hiện ra một đội nhân mã có hai vị hảo hán là Mục
Hoằng, Mục Xuân đều cầm đạo đao, ngăn trước đường đi mà quát lên rằng:
- Bớ bại
tướng chạy đi đâu?
Hô Duyên
Chước nghe nói, nổi giận đùng đùng, múa song chiên xông ngựa lại đánh nhau với
hai hảo hán. Mục Hoằng, Mục Xuân giơ đao lên đỡ, đánh nhau đến bốn hiệp rồi hai
người kéo nhau bỏ chạy.Hô Duyên Chước sợ trúng kế, không dám đuổi theo, liền
tìm đường lớn về mặt chính Bắc mà chạy. Đương khi lật đật, chợt thấy cạnh sườn
núi lại có một toán quân mã nhô ra, có hai vị hảo hán là Giải Trân, Giải Bảo
đều cầm cương xoa chạy đến đón đánh. Hô Duyên Chước múa song chiến đấu với hai
người, được dăm sáu hợp, thì Giải Trân, Giải Bảo bỏ chạy mất cả. Hô Duyên Chước
đuổi theo chừng nửa dặm đường, lại gặp Nhất Thanh, Vương Nụy Hổ dẫn quân mã ra
ngăn giữa đường. Bấy giờ Hô Duyên Chước trông quanh trông quẩn thấy lối khuất
khúc toàn thị chông gai, chàng liền hết sức múa chùy đánh gạt người ra mà tháo
chạy.
Vợ chồng
Vương Nụy Hổ theo đuổi hồi lâu không kịp đành mặc cho Hô Duyên Chước chạy về
lối Đông Bắc. Đoạn rồi Tống Giang khua chiên thu quân kéo về sơn trại, để ban
định thưởng công.
Khi ra
tra điểm, bắt được ba nghìn ngựa Liên Hoàn mặc giáp, chiatư mất già một phần bị
Câu Liêm đánh què, liền lột lấy áo giáp cho vào hạng ăn thịt, còn già hai phần
toàn thị ngựa tốt, giao cho nuôi giữ để phòng khi ra trận. Quân sĩ mặc áo giáp
bắt được rất nhiều năm nghìn quân bộ, có kẻ trốn trong Trung quân bị Câu liêm
kéo ra để bắt, mà kẻ nào nhảy xuống nước cũng bị thủy quân bắt được. Còn quân
sĩ bị bắt khi xưa, nay lại cướp được mang về, quân sĩ hết thảy vui mừng hớn hở.
Đoạn rồi
phá trại của Hô Duyên Chước, đem vào gần bến để làm tiểu trại, và cho người sửa
lại hai tửu điếm ở ngoài, để cho Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Thạch Dũng, Thời Thiên,
chia làm hai toán quân mà cùng nhau coi giữ. Được một lát thấy Lưu Đường, Đỗ
Thiên bắt được Hàn Thao đem giải về, Tống Giang cả mừng, thân hành cởi trói cho
Hàn Thao, mời vào trong sảnh tiếp đãi rất là long trọng, rồi bảo Bành Dĩ, Lăng
Chấn dỗ dành Hàn Thao cùng vào đảng ở Lương Sơn. Hàn Thao nguyên cũng là một vị
sao Địa Sát, nên vui lòng thuận phục mà ở với Tống Giang, Tống Giang liền bảo
Hàn Thao viết thơ, rồi sai người đưa đến Trần Châu để đón vợ con Hàn Thao về
đó. Bấy giờ trong sơn trại mở tiệc ăn mừng mấy hôm trời rất là vui vẻ, rồi các
vị Đầu Lĩnh ai vào việc ấy, mà cùng nhau ra sức chấn chỉnh Lương Sơn:
Ngọn cờ
nghĩa hiệp xa bay
Nước non
nở mặt cỏ cây kinh hồn.
Cùng
nhau ra sức hợp đoàn
Dưới
trời này dễ ai còn sợ ai?
Nói về
Hô Duyên Chước bị thua một trận, mất hết quân mã, chỉ còn trơ trọi một mình,
không còn mặt mũi nào trở về kinh sư, liền nghĩ vơ vẫn, cởi cả mũ giáp buộc vào
yên ngựa, rồi đem bán đai vàng, để làm lộ phí mà đi. Chàng vừa đi vừa nghĩ,
không biết đâu cho ổn tiện. Chợt nghĩ đến quan Phủ Mộ Dung ở Thanh Châu là
người quen biết từ xưa, liền định kế sang đó để nhờ Mộ Dung Tri Phủ, nói với Mộ
Dung Tri Phủ đem công chuộc tội, rồi sẽ lấy quân đánh báo thù Lương Sơn Bạc.
Chàng đi
đường trong hai ngày trời, chiều hôm đó đi đến một nơi, trong bụng vừa đói vừa
khát, chợt thấy bên cạnh đường có một hàng cơm nho nhỏ, chàng bèn xuống ngựa
buộc vào gốc cây trước cửa, rồi đi vào trong hàng. Khi vào tới hàng, chàng vất
đôi chiên trên bàn, ngồi xuống ghế, gọi tửu bảo đem rượu thịt lên, tửu bảo chạy
đến nói rằng:
- Hàng
tôi chỉ có rượu thôi, ngài muốn xơi thịt, thì trong làng mới có người giết thịt
dê, xin đưa tiền cho tôi đi mua vậy.
Hô Duyên
Chước móc túi, lấy tiền vụng bán đai vàng còn lại, đưa cho tửu bảo mà dặn rằng:
- Người
trả lại một đùi dê nấu chín cho ta ăn, và kiếm ít cỏ ngựa ăn một thể...Đêm nay
ta ngủ đây, rồi sáng mai sang Phủ Thanh Châu...
Tửu Bảo
nói:
- Thưa
ngài ngủ ở đây cũng được, song không có giường chiếu tử tế.
- Được
ta là quan võ nằm đâu cũng được...
Tửu bảo
vâng lời, cầm tiền quay ra mua thịt.Hô Duyên Chước cởi áo mũ trên mình ngựa
mang vào, rồi ngồi ở trước cửa để đợi tên tửu bảo.
Được một
lát tửu bảo mang thịt dê về, Hô Duyên Chước bảo đem nấu chín thịt, làm ba đấu
gạo; và hai nai rượu uống, tửu bảo vâng lời quay vào, vừa nấu thịt làm bánh,
vừa hâm nước nóng để rửa mặt rửa chân. Đoạn rồi tửu bảo dắt ngựa vào buộc ở nhà
nhỏ đằng sau cho ăn cỏ.
Hô Duyên
Chước gọi lấy rượu lên uống trước.được một lát thịt chín Hô Duyên Chước gọi tửu
bảo lên cho cùng ngồi ăn uống mà nói chuyện rằng:
- Ta là
quan của triều đình, ra đánh giặc Lương Sơn bị thua, nay định về dưới quan Mộ
Dung Tri Phủ ở Thanh Châu, người nên coi sóc con ngựa cẩn thận, ngựa ấy là con
Tích Tuyết Ô Truy của vua ban cho ta đó. Ngươi coi cẩn thận, sáng mai ta sẽ
thưởng cho...
- Ngài
có lòng thương, chúng tôi xin cảm ơn...song có điều này chúng tôi xin kêu để
ngài rõ: Gần đây có ngọn núi Đào Hoa Sơn, trên có một bọn cường đạo, tên đầu
đảng là Đả Hổ Tướng Lý Trung, thứ nhì là Tiểu Bá Vương Chu Thông, tụ họp tới
năm bảy trăm lâu la để cướp bóc kiếm ăn thần thường lại quấy nhiễu dân gian rất
là hung ác. Quan Tư đã mấy lần truy nã, mà không sao trị được. Vậy đêm nay ngài
phải tỉnh chút mới được.
- Được
sức ta đây, mười vạn quân cũng không địch nổi, cho nó kéo cả tụi đến đây ta
cũng không cần, ngươi cứ cho ngựa ăn uống tử tế cho ta...
Nói đoạn
uống rượu ăn bánh, hồi lâu rồi mới đi nghỉ. Tửu bảo trãi một cái ổ ở giữa nhà
cho Hô Duyên Chước nằm. Hô Duyên Chước vừa phần mấy hôm bị mệt nhọc lo nghĩ,
vừa phần quá nhắp hơi men, có điều say chếnh choáng, liền để nguyên áo nằm vật
xuống ổ ngủ luôn một mạch, mãi đến canh ba mới dậy, chợt thấy tửu bảo kêu la ầm
ỷ ở sau nhà. Hô Duyên Chước vội vàng trở dậy, với lấy đôi chiên chạy ra nhà sau
hỏi tửu bảo:
- Làm
chi mà kêu ầm lên thế?
- Tửu
bảo nói:
- Ngài
ôi!Tôi đây bỏ cỏ cho ngựa, chợt thấy hàng dậu bỏ tung ra, mà ngựa đi đâu mất...
Trông ra xa xa thấy có đóm đóm soi sáng ở quãng bốn năm dặm kia, chắc là tụi nó
lấy mất ngựa rồi.
- Chỗ ấy
là chỗ nào?
- Thưa
ngài cứ theo con đường ấy, thì chính là tụi lâu la, ở Đào Hao Sơn ăn cắp ngựa
về lối đó...
Hô Duyên
Chước cả kinh, bắt tửu bảo phải dẫn đường để đuổi theo. Tửu bảo dẫn chàng đi
tắt bên bờ ruộng gập gà gập gềnh, đuổi chừng ba bốn dặm đường, lại không thấy
ánh lửa đâu nữa. Hô Duyên Chước thở dài kêu lên rằng:
- Chết
nỗi! Mất con ngựa của vua ban cho thì làm thế nào được bây giờ?
Tửu bảo
nói:
- Xin
ngài đành để mai đi trình Quan Tư gần đây, rồi đem quân đánh phá, mới có thể
cướp ngựa về được. Hô Duyên Chước nghe nói, trong bụng rất băn khoăn buồn bã,
trở về tửu điếm, khoanh tay ngồi đợi đến sáng, rồi mượn Tửu bảo quảy giáp mã
lên đường sang phủ Thanh Châu.
Khi xưa
cờ mở trống dong.
Giờ sao
thui thủi non sông một mình?
Anh hùng
gặp bước lênh đênh,
Liếc
trông đất đỏ trời xanh thêm sầu!
Chiều
tối hôm đo, ù Hô Duyên Chước đi đến thành Thanh Châu ngủ trọ ở ngoài hàng một
tối, đến sáng hôm sau mới đi vào trong phủ. Khi vào tới nơi, quan Phủ Mộ Dung
thấy Hô Duyên Chước, liền giật mình cả kinh mà hỏi:
- Nghe
nói Tướng quân đánh bắt giặc Lương Sơn, sao lại đến đây như thế?
Hô Duyên
Chước thở dài, đem các chuyện trước thuật cho Tri Phủ nghe.
Tri Phủ
nghe đoạn nói với Hô Duyên Chước rằng:
- Tướng
quân dẫu bị thua thiệt mất cả nhân mã, song chẳng qua mắc phải gian kế của
giặc, chứ không phải tội của Tướng quân. Vả lại trong hạt tôi, hiện nay cũng
nhiều giặc cỏ, thường hay quấy nhiễu dân gian, vậy Tướng quân hãy tạm ở đây,
đánh phá bọn Đào Hoa Sơn, cướp lại con ngựa Ô Truy, rồi sau sẽ đánh núi Nhị
Long, núi Bạch Hổ mà trừ hết đảng cướp ấy đi. Bấy giờ tôi xin hết sức với triều
đình, cho Tướng quân đi đánh báo thù. Tướng quân nghĩ sao?
Hô Duyên
Chước tạ ơn mà rằng:
- Nếu
được ân tướng có lòng hạ cố như vậy, thì thực là hạnh phúc cho tôi lắm...
Tri Phủ
nghe nói, liền sai người mời Hô Duyên Chước,vào nghỉ trong phòng, lấy quần áo
cho thay, rồi cho tiền tên tửu bảo trở về. Hô Duyên Chước ở đấy luôn trong ba
ngày, trong lòng lấy làm nóng sốt, mong lấy lại con ngựa Ô Truy, liền thúc giục
Tri Phủ Mộ Dung để cho khởi quân đi đánh.
Tri Phủ
điểm hai nghìn bộ quân cho Hô Duyên Chước mượn, và cho mượn một con ngựa Thanh
Thông để đi ra trận.Hô Duyên Chước vâng lạy tạ ơn, mà mặc áo giáp lên ngựa, dẫn
quân tới núi Đào Hoa.
Bọn Lý
Trung, Chu Thông ở núi Đào Hoa, từ khi cướp được con ngựa Ô Truy, trong bụng
lấy làm mừng hớn hở, mà hằng ngày chè chén hỉ hả với nhau, chợt hôm đó thấy
tiểu lâu la vào báo, có quân mã Thanh Châu kéo đến, Chu Thông đứng dậy bảo Lý
Trung rằng:
- Xin Ca
Ca coi trại, để tôi dẫn binh ra đuổi họ đi.
Nói đoạn
điểm một trăm lâu la, cầm thương lên ngựa xuống núi để nghinh địch quan quân.
Bên kia
Hô Duyên Chước kéo quân tới, liền bày thành trận thế, đứng chực ở trước núi.
Khi thấy Chu Thông ở trên núi xuống liền xông ngựa ra trước trận quát lên rằng:
Quân giặc
cỏ kia, mau mau đến chịu trói đi.
Chu
Thông nghe tiếng, liền dàn quân đứng thành chữ nhân, rồi cũng múa gươm vỗ ngựa
xông ra.Hô Duyên Chước liền giơ chiên ra đánh Chu Thông, Chu Thông giơ gươm ra
đỡ. Đôi bên đánh nhau chừng sáu bảy hiệp. Chu Thông biết thế không địch nổi,
liền quay ngựa chạy về trên núi. Hô Duyên Chước theo đuổi mấy bước, sợ mắc mẹo
lừa đành phải quay ngựa chạy về, đem quân hạ trại dưới núi.
Chu
Thông chạy về sơn trại nói với Lý Trung rằng:
- Hô
Duyên Chước võ nghệ cao cường, không sao địch nổi, nếu nay mai họ kéo cả lên
sơn trại đây, thì anh em ta biết làm thế nào cho được?
Lý Trung
nghĩ một lát rồi nói:
- Ta
nghe Lỗ Trí Thâm, ở bên núi Nhị Long có nhiều bè bạn, lại có anh chàng nào, tên
gọi Thanh Diện Thú Dương Chi, và anh Hành Giả Võ Tòng, đều sức khoẻ muôn người
không địch, vậy bất nhược ta viết một phong thư sai lâu la đem sang cầu cứu một
phen. Nếu sau này đuổi được quan quân, thì ta sẽ nương nhờ vào họ, mà hàng
tháng chịu đưa cống biếu cho yên, như thế có lẽ tiện hơn.
Chu Thông
nói:
- Tôi
cũng vốn biết các vị hào kiệt bên ấy, song chỉ e Hoa Hoà Thượng nhớ đến câu
chuyện ngày xưa, mà không đến cứu thì làm sao được?
Lý Trung
cười rằng:
- Không,
ông ta tính thẳng, bụng tốt, nay sai người đến tất là ông ta đến cứu.
- Nếu
vậy xin Ca Ca viết giấy mau đi.
Lý Trung
liền lấy giấy viết thư kể hết đầu đuôi. Rồi sai một tên lâu la theo lối sau
núi, mang thư lên sang núi Nhị Long.
Nói về
chùa Bảo Châu bên núi Nhị Long, từ khi Lỗ Trí Thâm, Dương Chí, Võ Tòng đến ở
được ít lâu, lại thêm có bốn người Tiểu Đầu Mục đấn nhập bọn ở đó; Một người là
Kim Nhỡn Bưu Thi Aân nguyên là con Lão Quản Doanh ở lao thành Mạnh Châu, nhân
vì Võ Tòng giết chết nhà Trương Đô Giám, bị Quan Tư đến truy nã vây bọc quanh
nhà, để bắt Võ Tòng, nên toàn gia phải dắt nhau đi trốn tránh giang hồ. Sau bố
mẹ Thi Aân đều chết, lại nghe nói Võ Tòng đến lạc thảo ở núi Nhị Long, bèn tìm
đến đó để cùng Võ Tòng nương tựa. Một người là Tháo Đao Quỹ Tào Chính, trước đã
cùng Lỗ Trí Lâm mưu giết Đặng Long cướp núi Nhị Long, rồi sau nhập đảng ở đó.
Một anh là Thái Viên Tử Trương Thanh, và vợ là Mẫu Nhược Xoa Tôn Nhị Nương, hai
vợ chồng chuyên bán thịt người ở Thập Tự đất Mạnh Châu, sau nhân Lỗ Trí Thâm
cùng Võ Tòng viết giấy dỗ dành nên mới đến đó nhập đảng.
Hôm ấy
Tào Chính nghe nói có thư bên núi Đào Hoa đưa sang, chàng liền hỏi han cặn kẽ
đầu đuôi rồi vào trong điện bẩm với ba vị Đầu Lĩnh.
Lỗ Trí
Thâm nghe Tào Chính nói liền cười mà rằng:
- Ngày
trước ta ở Ngũ Đài Sơn đi tới thôn Đào Hoa ngủ trọ ở đó, rồi gặp thằng cha Chu
Thông, đánh cho một mẻ thật là xiểng liểng. Sau Lý Trung nhận biết ta, lại mời
sang chè chén một ngày, kết làm anh em và mời làm chủ trại. Ta nhận thấy chúng
bụng dạ hẹp hòi, nên không muốn ở, bèn thầu của chúng mấy cái chén uống rượu
bằng bạc mà trốn đi mất... Từ bấy cho đến nay... Nay lại cho người sang cầu cứu
đến ta... Hãy gọi tên tiểu lâu la lên đây, xem nó nói ra sao đã? ...
Tào
Chính vâng lời ra dẫn tên tiểu lâu la vào. Tiểu lâu la vào dưới điện, lạy chào
mà nói rằng:
- Quan
Mộ Dung Tri Phủ mới thâu được một viên tướng đánh Lương Sơn Bạc bị thua, tên là
Hô Duyên Chước, hiện sai sang đánh Đào Hoa Sơn, để cùng phá Nhị Long Sơn, Bạch
Hổ Sơn nhân thể, rồi sẽ cho mượn quân đến đánh báo thù Lương Sơn Bạc. Bởi vậy
Đầu Lĩnh chúng tôi muốn sang nhờ Nhị Long ra tay cứu giúp cho, rồi sau khi xong
việc sẽ nộp khỏan cung cống trước cửa Đại Vương đây.
Dương
Chí nghe nói bảo với tên lâu la rằng:
- Chúng
ta ở đây cũng phải coi giữ sơn trại, lẽ ra không thì giờ đâu mà cứu ứng các
ngươi. Song một là ta nghĩ đến danh nghĩa của bọn hào kiệt giang hồ, hai là e
khi Đào Hoa bị mất thì chúng lại ròm rõ đến đây, vậy nay ta cho Trương Thanh
cùng Tôn Nhị Nương coi trại ở nhà, còn ba anh em ta hãy xuống qua đó đánh giúp
một phen cho phải đạo...
Nói đoạn
lập tức điểm năm trăm lâu la, hơn sáu mưới quân kỵ đều chỉnh tề giáo gươm mũ
giáp, mà kéo nhau sang núi Đào Hoa.
Lý Trung
nghe biết tin đó, liền đem ba trăm quân xuống núi để ráp đánh. Bên kia Hô Duyên
Chước nghe báo Lý Trung kéo quân xuống, bèn dẫn quân bày trận chận ngang đường,
rồi xông ngựa ra đánh Lý Trung.
Nguyên
Lý Trung tổ quán ở Định Nghĩa, thuộc phủ Hào Châu, xưa nay chỉ nhờ nghề đánh
gậy để kiếm ăn, tướng người nhỏ bé mà võ nghệ tầm thường nên vẫn gọi là Đả Hổ
Tướng.
Bấy giờ
Lý Trung đánh nhau với Hô Duyên Chước chừng mươi mười lăm hiệp, thấy sức yếu
đuối không sao địch nổi, đành phải quay ngựa chạy lui. Hồ Duyên Chước bèn phóng
ngựa đuổi theo lên núi.
Tiểu Bá
Vương Chu Thông thấy Hô Duyên Chước leo lên, bèn đứng ở lưng chừng núi mà ném
đá xuống. Hô Duyên Chước vội vàng quay ngựa trở xuống mà không dám đuổi nữa.
Đương
khi đó bỗng thấy đám quân mã đằng sau ồn ào cả lên, Hô Duyên Chước liền hỏi:
- Có
việc chi mà kêu ầm lên thế?
Quân sĩ
đáp rằng:
- Phía
sau có một đám nhân mã nào kéo đến, xin ngài kịp tới nom xem. Hô Duyên Chước
nghe nói vội vàng xông lại đằng sau để xem, thì thấy đội nhân mã đã kéo gần đến
nơi, có một ông sư phệ bụng cưỡi con ngựa trắng đi đến trước tiên mà quát lên
hỏi rằng:
- Đứa
nào là thằng thua trận ở Lương Sơn Bạc, mà dám đến đây bắt nạt chúng ta đó?
Hồ Duyên
Chước nghe nói cũng quát lên rằng:
- Ta hãy
giết thằng trọc này cho hả lòng một chút đã.
Nói đoạn
múa song chiên đến đánh, bên Lỗ Trí Thâm cũng múa thuyền trượng xông vào, rồi
hai bên đánh nhau đến bốn năm mươi hiệp, mà không phân được thua.
Hồ Duyên
Chước thấy vậy khen thầm trong bụng rằng:"không ngờ lão sư này khá
lắm!"Nghĩ đoạn rồi đôi bên khua chiêng thu quân.
Được một
lát Hô Duyên Chước lại hăng hái xông ra trận, mà quát lên rằng:
- Lão sư
hổ mang ra đây, ta quyết được thua với ngươi phen này.
Lỗ Trí
Thâm nghe nói, vừa toan quất ngựa xông ra, thì Dương Chí vội kêu lên rằng.
- Đại Ca
hãy nghĩ để tôi bắt thằng này cho.
Nói đoạn
múa đao vỗ ngựa xông ra đánh Hô Duyên Chước.
Đôi bên
đánh nhau bốn năm mươi hiệp, không quyết được thua, Hô Duyên Chước lại khen
thầm rằng:"Quái lạ! Ở đất này mà lại có hai tay võ nghệ giỏi như thế?
Quyết nhiên không phải là giặc cỏ hẳn? "
Bên kia
Dương Chí thấy Hô Duyên Chước võ nghệ cao cường, cũng lừa miếng phá đỉnh rồi
quay ngựa về bản trận. Hồ Duyên Chước thấy vậy,dừng ngựa lại mà không dám đuổi
nữa. Đoan rồi đôi bên cùng khua chiên thu quân.
Lỗ Trí
Thâm nói với Dương Chí rằng:
- Chúng
ta mới đến đây không nên đóng trại ở gần, phải lui ra ngoài hai dặm mà hạ trại,
rồi sáng mai sẽ đánh một mẻ cho quyết được thua...
Bàn xong
liền kéo quân ra gò núi gần đó để đóng trại.Hôm đó, Hô Duyên Chước trở về trong
trướng một mìng lo nghĩ băn khoăn, những tưởng rằng ngựa đến nên công, dể như
phá trúc, dè đâu lại gặp tay đối thủ với mình, thực là vận đen quá đổi!
Đương
nghĩ ngợi vẫn vơ, bỗng thấy Mộ Dung Tri Phủ cho người đến báo rằng:
- Ở phủ
Thanh Châu, hiện có Khổng Minh, Khổng Lượng ở Bạch Hổ Sơn, dẫn người đến cướp
ngục, vậy phải mang quân về coi thành lập tức...
Hô Duyên
Chước nghe báo, bèn thừa thế kéo quân về Thanh Châu lập tức. Ngày hôm Lỗ Trí
Thâm, Dương Chí và Võ Tòng dẫn tiểu lâu la kéo cờ khua trống ra xem, thì chỉ
thấy trơ trơ có trại không, mà nhân mã kéo đi đâu mất. Ba người thấy vậy cả
kinh mà không hiểu ra sao? Đoạn rồi thấy Lý Trung cùng Chu Thông dẫn người
xuống núi đón tiếp, ba vị Đầu Lĩnh cùng nhau kéo lên sơn trại, trong sơn trại
mở tiệc khao mừng rất vui vẻ, huyên náo.
Bên kia
Hô Duyên Chước vừa dẫn binh mã đến Thanh Châu, chợt thấy một toán nhân mã của
Khổng Minh,Khổng Lượng kéo đến bên thành, chàng liền phóng ngựa múa chiêng xông
ra để đánh. Nguyên Khổng Minh, Khổng Lượng vì cạnh tranh với một người tài chủ
trong làng, gặp lúc nóng máu giết chết cả nhà tài chủ, rồi tụ tập dăm bảy trăm
lâu la mà chiếm giữ Bạch Hổ Sơn, để cùng nhau cướp bóc tung hoành. Sau có một
người chú là Khổng Tân, bị Tri Phủ bắt giam trong ngục Thanh Châu, nên Khổng
Minh,Khổng Lượng đen quân mã sơn trại định đến phá ngục Thanh Châu, để cứu
người chú.
Hôm đó
kéo lâu la gần đến bên thành, thì gặp Hô Duyên Chước kéo quân đến đánh. Khổng
Minh,Khổng Lượng bèn đem quân ra đối địch với Hô Duyên Chước. Bấy giờ Tri Phủ
Mộ Dung đứng ở trong thành nom ra, để xem hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp,
Hô Duyên Chước thấy hai anh em Khổng Minh Khổng, Lượng tầm thường, liền ra sức bình
sinh sấn đánh hai người mà khoe tài trước mặt Tri Phủ.
Khổng
Minh, Khổng Lượng đấu được một lúc, thế lực cũng hơi kem kém, bất đồ chậm tay
lỡ bước, bị Hô Duyên Chước bắt sống được Khổng Minh mà cắp qua mình ngựa.
Khổng
Lượng lấy làm ngã lòng, vội dẫn lâu la kéo nhau để chạy. Tri Phủ đứng trên mặt
thành, trỏ bảo Hô Duyên Chước đuổi theo.
Hô Duyên
Chước kéo quân đuổi bắt sống được hơn trăm người,rồi đem cả Khổng Minh,đem giải
vào Thanh Châu. Quan Phủ Mộ Dung lấy làm mừng rỡ sai đem Khổng Minh đóng gông tử
tội, giam vào trong lao với Khổng Tân, rồi nhất diện khao thưởng tam quân, mà
thiết đãi Hô Duyên Chước.
Tri Phủ
hỏi đến chuyện Đào Hoa Sơn?
Hô Duyên
Chước đáp rằng:
- Chúng
tôi định đến phá núi Đào Hoa Sơn, thì dễ như phá trúc, dè đâu bị một tụi quân
đến cứu ứng, trong đó có một lão sư to lớn, và một anh hùng mặt xanh, đánh nhau
đến hai lần, không sao mà thắng được. Hai anh ấy võ nghệ khá giỏi, quyết không
phải là võ nghệ tầm thường như đám cướp bóc, bởi vậy nên quyết chưa được thành
công.
Tri Phủ
cười rằng:
- Lão sư
ấy nguyên là tên Lỗ Đạt, làm chức Đề Hạt trong phủ Lão Trung Kinh Lược ở Diên
An Phủ, sau mới cắt tóc đi tu, người ta gọi là Hoa Hoà Thượng đó; Còn anh chàng
mặt xanh tên là Thanh Diện Thú Dương Chí, làm quan đến Chế Sứ Điện Suý Phủ ở Đông
Kinh khi trước; lại còn một anh hành giả nữa, tên là Võ Tòng, tức là Võ Đô Đầu
đánh hổ ở núi Cảnh Dương năm nọ. Ba người đó chiếm núi Nhị Long, tung hoành
cướp bóc, mấy người Bộ Đạo tới nay vẫn không sao trừ được.
Hô Duyên
Chước lắc đầu mà rằng:
- Quả
nhiên võ nghệ của họ, không mấy người theo kịp, xưa nay có tiéng Dương Chế Sứ,
Lỗ Đề Hạt thực là xứng lắm. Nhưng mặc lòng, tướng cồn không ngại, tôi đã đến
đây, tất xin bắt sống từng người,để đem về nộp Tướng Công mới hả lòng.
Tri Phủ
nghe nói cả mừng, liền rót rượu chúc cho Hô Duyên Chước,rồi lưu nghỉ ở phòng
khách trong phủ.
Về phần
Khổng Lượng hôm đó bị thua một trận xiểng liểng liền cho lũ quân tàn kiếm đường
chạy mau cho thoát. Đương khi kéo quân tháo chạy, bỗng thấy ở khu rừng phía
trước, có một toán quân sĩ kéo ra, rồi thấy một vị hảo hán là Võ Hành Giã cưỡi
ngựa cầm đao đi trước.
Khổng
Lượng trông thấy, vội vàng xuống ngựa lạy rạp xuống đất mà rằng:
- Kính
chúc ngài lâu nay được mạnh khoẻ...
Võ Tòng
đỡ dậy đáp rằng:
- Nghe
nói anh em túc hạ chiếm núi Bạch Hổ, đã mấy phen toan sang bái kiến, mà chưa có
thì giờ để sang hầu được. Vậy nay chẳng hay túc hạ có việc gì qua tới nơi đây?
Khổng
Lượng liền đem chuyện cứu Khổng Tân và Khổng Minh bị bắt mà thuật lại cho Võ
Tòng nghe.
Võ Tòng
bảo Khổng Lượng rằng:
- Nếu
vậy túc hạ không ngại... Tôi có sáu bảy anh em cùng nhau tụ nghĩa ở núi Nhị
Long, nay vì Lý Trung, Chu Thông bên núi Đào Hoa bị Hô Duyên Chước kéo quân đến
đánh, phải cầu chúng tôi sang cứu. Tôi cùng Lỗ Đề Hạt, Dương Chế Sứ có đem lâu
la sang đánh nhau một trận, không biết vì sao, bỗng dưng Hô Duyên Chước bỏ trại
chạy trốn ngay đi đâu mất. Nhân vậy họ lưu ba anh em chúng tôi ở lại uống rượu,
mà tặng cho con ngựa Tích Tuyết Ô Truy rồi giữ mãi đến bây giờ mới tháo ra về
được. Hai người anh em chúng tôi đi sau kia... Để các ông ấy đến đây, tôi bàn
cách cứu túc hạ có được không?
Khổng
Lượng cúi đầu lạy tạ mà rằng:
- Nếu
được các ngài hạ cố như vậy, thì còn gì hơn nữa.
Nói đoạn
hai người cùng đứng một lát,thì thấy Lỗ Trí Thâm cùng Dương Chí cỡi ngựa đi
đến, Võ Tòng liền dẫn Khổng Lượng đến chào hai người,rồi thuật chuyện cho nghe
và lại nói rằng:
- Khi
trước tôi cùng Tống Công Minh ở nhà ông ta quấy quả cũng nhiều, vậy ngày nay
nên lấy nghĩa khí làm trọng, phải lấy nhân mã ba núi, đến dánh Thanh Châu, giết
Tri Phủ Mộ Dung cứu hai người ấy ra, rồi bắt Hô Duyên Chước,cướp lấy Phủ Khố
tiền nong, để đem về sơn trại các ngài nghĩ sao?
Lỗ Trí
Thâm nghe nói, gật đầu đáp rằng:
- Tôi
cũng theo ý như vậy.
Nói đoạn
liền cho người bảo với Lý Trung, Chu Thông đem lâu la đến, để cùng tụ họp ba
núi mà tiến đánh Thanh Châu.
Dương
Chí lại nói với ba người rằng:
- Phủ
Thanh Châu Hào sâu thành vững, ngựa khoẻ, quân nhiều, lại thêm co Hô Duyên
Chước là tay anh hùng trí dũng... Việc này không phải là tôi rút rát làm giảm
uy phong của mình... Song muốn đánh Thanh Châu, thì tất phải nghe tôi lời này
mới được.
Ba người
nghe nói, đều lấy làm ngạc nhiên không hiểu, liền xúm lại để xem Dương Chí bàn
định ra sao?
Cho hay:
Bốn
phương sôi nổi tăm kinh
Trò đời
hai chữ " bất bình"gây nên
Anh hùng
lắm bước truân chuyên
Nước non
vương mãi chút duyên tang bồng
Đôi phen
gió cuốn bụi hồng
Lò than
nghĩa hiệp càng nồng hơn xưa.
Bắc nam
ai hẹn bao giờ,
Chẳng
qua cùng một thế cờ phải xoay.
Lời bàn
của Thánh Thán:
Tác giả tả
Tống Giang chia ra mười đội quân dụ địch, không chia ra từng phương diện (nơi
nào), chỉ nhất tề ra đi, đến sáng ra mới tả ba mặt dụ quân cùng chẳng chia ra
đội hiệu, cũng lại nhất tề kéo đến, tuy rằng một chốc thế văn trên giấy, xem
như núi lỡ mưa sa, lửa bầng đồng nội, song khiến cho trong lòng độc giả không
biết đầu đuôi đánh tự chốn nào, kể cũng buồn buồn, buồn buồn chưa xong, lại
bỗng đâu đánh nhoàng ở phía Tây Bắc Mục Hoằng, Mục Xuân, phía chính Bắc Giải
Trân, Giải Bảo: Đông Bắc đánh nhoàng ra Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, vậy
bảy đội kia khổ chiến tựa mây mờ khiến ba đội này như rồng thò nanh vuốt, thì
bảy đội khôn lường, cho tỏ ba đội xuất kỳ, có ba đội rõ ràng, càng thấy bảy đội
kia thần biến, chẳng duy thế mà thôi. Sau khi thu quân để định công chợt đâu
lại đánh nhoàng hiện ra một đội Lưu Đường, Đỗ Thiên bắt sống Hàn Thao... Hỡi
ôi! Trước đoạn này có chiến, sau đoạn này có chiến, theo phép chuyện, hoặc
trước chỉnh sau biến, hoặc trước mất đi sau rõ ra, cái lạ vốn không lạ bằng
suốt hồi khi đó không rõ ràng ra, đến cuối mới đánh nhoàng một cái, hai cái, ba
cái hiện ra, tưởng là hết, cuối cùng còn đánh nhoàng một cái nữa hai người, lại
tả nốt ra.
Đương
khi tả ra mỗ này, mỗ này... là mười đội, mỗ này, mỗ này... phong pháo; mỗ này,
mỗ này... là cầm lệnh, đều bất đã định đâu vào đấy cả rồi. Đến sáng ngày chợt
đâu tả ra mười đội, bỗng dưng tả phóng pháo; bỗng dưng tả nổi hiệu, bấy giờ độc
giả, chính đọc mười đội, chợt đâu chỉ tah61y pháo nổ; đương đọc chỗ phóng pháo,
chợt đâu lại là mười đội, đương đọc chỗ mười đội, chợt đâu nghe nổi hiệu, đương
xem nổi hiệu chợt đâu lại nghe pháo nổ, khiến cho trên giấy bấy giờ cũng mấp
máy động lên, chẳng thể nào không khiến độc giả khỏi ù tai choáng mắt, mà cũng
không khai rằng chính tác giả đã nhàn tâm, vội bút thế nào, lạ thay! Kỹ thuật
tả văn đến thế!
Ta đọc
đoạn văn Hô Duyên Chước yêu ngựa, mà chẳng hay giọt lệ nhỏ sa, sao vậy? Vì Hô
Duyên Chước yêu ngựa, chẳng phải cứ riêng rằng thú của vua ban, cũng chẳng cứ
nó là thần mã mới tiếc! Cũng lại không phải trông cậy vào nó để khôi phục hùng
oai? ? ? Chỉ vì thiên hạ cản ngăn, có gì sâu xa bằng cùng cơn hoạn nạn, mà tình
con người chẳng gì nặng bằng nghĩa giúp nhau lâu. Xét ra cùng cơn hoạn nạn, thì
từng có một chỗ sống chết với nhau; mà giúp nhau lâu, thì thực có tính tình như
một, thế thì còn phải bàn gì thân với sơ, hay người với vật, hay có tình với
không tình? ? ?
Ta có
người bạn trẻ, khi nhỏ ở trường làng, mà chơi thân chẳng lúc nào rời nhau, dẫu
của quý vì thiên hạ, cũng không bằng người bạn trẻ ấy, mà thiên hạ yêu ta cũng
không ai bằng người bạn trẻ, thường với bạn ta đi lại, dù gió sớm mưa hôm cũng
mò đến với nhau, dẫu của quý vì thiên hạ cũng không bằng người bạn trẻ ấy, mà
thiên hạ biết ta cũng không ai hơn người bạn trẻ ấy, ai ngờ người bạn trẻ mất
đi; ta có một cái vòng chất nó xanh xám, làm kiểu thô sơ, của chơi thiên hạ chả
gì xấu hơn nó nữa, từ nhỏ bà ta đeo vào người, không ngày nào chẳng đeo vòng,
cũng như một quan thứ sáu trong năm quan: Một ngón tay nữa ở trong mười ngón,
không may qua sông rơi xuống giữa dòng, đến nay như thiếu một quan, như cụt một
ngón, với ba thứ đó, thiên hạ thiếu gì? Song ta nghĩ thủa nhỏ ngồi trong cửa sổ
trường học tư làng, mỗi khi chiều học xong, mặt trời xế bóng, như thế bao năm
coi tựa một ngày, ta đến nay vẫn tiếc ngồi trong cửa sổ, còn ngờ thân vẫn ở
trường xưa... Hỡi ôi! Con người đạo học, thì tại sao không cảm thông tình? Thế
mà thiên hạ nói cảm nói tình, ta vốn biết rồi, ta chỉ rất ghét thiên hạ cứ nói
cảm nói tình, mà không làm được đến nơi đến chốn! Cho nên duy việc Hô Duyên
Chước yêu ngựa, mà đặc biệt nêu ra.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 57: Họp Tam Sơn, đánh phủ Thanh Châu
Kết đồng tâm, về nơi Thủy Bạc
Khi đó
Dương Chí nói với mọi người rằng:
- Xưa
nay tôi vẫn nghe tiếng Tống Công Minh ở nơi Sơn Bạc, là một người anh hùng đại
lượng, đã thường nổi tiếng trong đám giang hồ, vả chăng Hô Duyên Chước lại là
cừu nhân của Lương Sơn Bạc, vậy anh ta muốn đánh phủ Thanh Châu, thì trước hết
phải mời Tống Công Minh cùng đến họp quân với anh em ta đây, và hợp cả hảo hán
ở Đào Hoa Sơn, để cất binh ra đánh, thì mới có cơ tất thắng mà cứu người ra
được. Việc đó chẳng hay các ngài nghĩ sao?
Lỗ Trí
Thâm nói:
- Phải,
tôi cũng thường nghe Tống Tam Lang là người tốt mà chưa được gặp bao giờ? Ngày
trước ông ta ở núi Thanh Long với Hoa Tri Trại, tôi đã toan đến đó cho gặp một
lần. Dè đâu khi cất chân ra đi, thì ông ta đã cất chân đi rồi, thế mà không
được gặp, thực là vô duyên quá; phải, nay nếu Khổng Lượng muốn cứu anh em ra,
tất phải thân hành lên mời ông ta để mặc chúng tôi ở đây, chống cự với đám
Thanh Châu cũng được.
Khổng
Lượng nghe nói lấy làm phải, liền giao đám tiểu lâu la cho Lỗ Trí Thâm, rồi dẫn
một người bạn, dáng ăn mặc giả làm khách buôn, mà lập tức lên Lương Sơn Bạc.
Khi Khổng Lượng đi rồi, Lỗ Trí Thâm cùng Dương Chí, Võ Tòng trở về sơn trại,
gọi Tào Chính, Thi Ân, dẫn mấy trăm tiểu lâu la đi đánh Thanh Châu, và báo cho
Lý Trung, Chu Thông cùng đem quân đến Thanh Châu để đánh.
Bên kia
Khổng Lượng đi gần tới Lương Sơn Bạc, lần vào hàng cơm của Thôi Mạnh Phán Quan,
để lần hỏi thăm đường lên núi, Lý Lập thấy hai người lạ mặt đến hỏi, liền mời
ngồi trong hàng rồi hỏi rằng:
- Các
ngài ở đâu đến đây?
Khổng
Lượng đáp:
- Chúng
tôi ở Thanh Châu đến.
- Các
ngài định lên Lương Sơn Bạc tìm ai?
- Tôi có
một người quen ở đó, muốn tìm đến chơi.
- Trong
trại toàn thị các Đại Vương ở đó, ông lên thế nào được mà hỏi thăm?
- Vâng!
Tôi định đến tìm Tống Đại Vương đây...
- Có
phải vậy, thì xin cứ ngồi đây, rồi tôi sẽ bảo...
Nói đoạn
liền sai đem rượu tiếp phong mời Khổng Lượng uống.
Khổng Lượng
thấy vậy liền hỏi:
- Chúng
tôi không được quen biết bao giờ, sao ngài lại cho uống rượu làm vậy?
Lý Lập
nói:
- Nguyên
ngài không biết, sơn trại tôi mở mấy ngôi hàng đây, là cốt để dò thăm tin tức
bên ngoài và đón những người cố cựu, và những người hảo hán, đến nhập bọn ở
trong sơn trại. Vậy xin ngài ngồi đợi chơi đây, tôi xin báo cho Tống Công Minh
lập tức.
Khổng
Lượng nói:
- Thưa
ngài chúng tôi tên là Khổng Lượng ở núi Bạch Hổ đến đây, xin ngài báo giúp cho.
Lý Lập
nghe nói đáp rằng:
- Trước
đây tôi thường nghe thấy Tống Công Minh nói đến tên ngài, nay được ngài đến đây
thật là hân hạnh.
Nói đoạn
liền đến Thủy Đình, bắn một mũi tên ra hiệu, rồi thấy trong đám lau lách bên
kia có tên tiểu lâu la chở thuyền sang đón. Lý Lập mời Khổng Lượng xuống thuyền
cùng nhau vào bến Kim Sa, rồi đưa lên sơn trại.
Khổng
Lượng đi đến Tam Quan, thấy cửa quan hùng tráng, gươm giáo thành rừng, trong
bụng nghĩ thầm:"Xưa nay chỉ nghe tiếng Lương Sơn Bạc thịnh vượng, nay ta
không ngờ quả nhiên lập nên cơ đồ lớn lao như vậy!".
Bấy giờ
Tống Giang nghe báo, liền chạy ra đón Khổng Lượng. Khổng Lượng trông thấy Tống
Giang vội vàng cúi lạy, thăm hỏi ân cần.
Tống
Giang hỏi Khổng Lượng rằng:
- Chẳng
hay hiền đệ có chuyện chi mà đến đây? Khổng Lượng nghe nói, liền cất tiếng khóc
oà lên. Tống Giang thấy vậy vội hỏi:
- Hiền
đệ đến đây có việc chi? Cứ nói chuyện cho ta biết ta xin hết sức giúp cho
ngay...
Khổng
Lượng sụt sùi khóc rằng:
- Từ khi
bái biệt sư phụ, được ít lâu thì phụ thân tôi mất, sau anh chúng tôi là Khổng
Minh,nhân tức nhau với một người phú hộ ở trong làng, liền đem giết chết hết
một nhà hắn ta, rồi bị Quan Tư tróc nã, đành phải chiếm núi Bạch Hổ tụ năm bảy
trăm lâu la để làm nghề lạc thảo với nhau. Sau đó nhân có một người chú là
Khổng Tân, bị quan phủ Thanh Châu bắt giam trong ngục, anh em chúng tôi bèn đem
binh tiến đánh Thanh Châu, định để cứu cho chú ra. Dè đâu vừa khi đến thành,
gặp ngay một tên tặc tướng là Hô Duyên Chước,anh tôi đánh nhau với hắn được có
mấy hiệp, thì bị bắt ngay, hiện giải vào phủ Thanh Châu, không biết có còn sống
được hay không: Còn tôi hôm đó cũng bị Hô Duyên Chước đánh duổi một phen, rồi
ngày hôm sau mới gặp được Võ Tòng dẫn đến chào mấy người anh em bạn: Một người
là Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm,và một người là Thanh Diện Thú Dương Chí, mấy
người đó mới gặp chúng tôi,cũng đã tỏ lòng thân ái, bèn hẹn đem cả lâu la ở núi
Nhị Long, và rủ Lý Trung, Chu Thông ở núi Đào Hoa, cùng sang đánh giúp, rồi bảo
chúng tôi phải sang đây lập tức cầu cứu với sư phụ thì mới có thể thoát nạn cho
chú và anh tôi được.
Tống
Giang nghe nói cười mà đáp rằng:
- Việc
đó khó chi? Hiền đệ cứ vững tâm vào chơi sơn trại đã.
Nói đoạn
dẫn Khổng Lượng vào chào Tiều Cái. Ngô Dụng, Tôn Công Thắng, cùng các vị Đầu
Lĩnh rồi đem chuyện Hô Duyên Chước,cùng tình thế Khổng Lượng thuật cho mọi
người nghe.
Tiều Cái
bảo với Tống Giang rằng:
- Hiền
đệ với Khổng Huynh là chỗ chi thân khi trước, vả chăng cacù vị hào kiệt kia đã
có lòng vị nghĩa giang hồ như vậy thì lẽ nào ta không đi cứu cho đành? Song lâu
nay hiền đệ khó nhọc đã nhiều, vậy nay hiền đệ hãy coi giữ chủ quyền sơn trại,
để ngu huynh đi một phen mới được.
Tống
Giang lại nói:
- Ca Ca
là ông chủ sơn trại, không thể một ngày rời bỏ ngay được.Vả chăng việc này là
của tôi, người ta xa muôn dặm tới đây nếu tôi không đi, thì sao cho người ta an
tâm, Vậy xin Ca Ca để mặc cho tiểu đệ cùng mấy anh em đi cho được việc...
Vừa nói
dứt lời, thì thấy các Đầu Lĩnh đồng thanh lên nói rằng:
- Chúng
tôi xin theo Tống Ca Ca để ra sức phen này.
Tống
Giang nghe nói cả mừng,liền đặt tiệc để thiết đãi Khổng Lượng. Khi chè chén
xong, Tống Giang gọi Thiết Diện Tổng Mục Bùi Tuyên, cắt đặt nhân mã đi đánh,
chia làm năm đội:Tiền Quân có Hoa Vinh, Tần Minh,Yến Thuận, Vương Nụy Hổ mở
đường làm tiên phong; đội thứ nhì, Mục Hoằng,Dương Hùng, Giải Trân, Giải Bảo
làm đầu. Trung quân thì có chủ soái Tống Giang,Ngô Dụng,Lã Phương, Quách Thịnh;
Đội thứ tư, thì có Chu Đồng, Sài Tiến, Lý Tuấn, Trương Hoàng; còn hậu quân, thì
Tôn Lập Dương Lâm, Âu Bằng, và Lăng Chấn dẫn quân đi sau.
Năm quân
chỉnh điểm xong rồi, tất cả cộng hai mươi Đầu Lĩnh,ba nghìn quân mã, cùng nhau
từ giã Tiều Cái, cùng các Đầu Lĩnh coi trại, rồi đi theo Khổng Lượng, kéo quân
thẳng tới Thanh Châu. Khi qua các phủ huyện, không tơ hào phạm của dân, ai ai
cũng một lòng kính phục. Cách mấy hôm đến đất Thanh Châu, Khổng Lượng vào trại
quân,báo cho Lỗ Trí Thâm biết,Lỗ Trí Thâm nghe báo,liền cùng các vị hảo hán sửa
soạn để nghinh đón Tống Giang.
Tống
Giang tới nơi, Võ Tòng dẫn Lỗ Trí Thâm,Dương Chí, Lý Trung, Chu Thông cùng Tào
Chính, Thi Aân ra đón chào. Tống Giang vào đến sơn trại, nhường chỗ mời Lỗ Trí
Thâm ngồi.
Lỗ Trí
Thâm nói:
- Tôi
được nghe đại danh Ca Ca đã lâu, mà chưa được tiếp, nay lại được gặp ở đây,
thực là may quá.
Tống
Giang khiêm tốn mà rằng:
- Chúng
tôi đã thấm vào đâu! Xưa nay vẫn thấy trong đám giang hồ ngợi khen thánh đức
của ngài, ngày nay được trông thấy được mặt từ bi, thực lấy làm hân hạnh vô
cùng.
Dương
Chí đứng lên vái chào Tống Giang mà nói rằng:
- Ngày
trước chúng tôi đi Lương Sơn, các vị hảo hán đã có lòng tốt lưu lại ở đó, song
vì chúng tôi tôi khờ dại không chịu ở lại...
Nay được
có nghĩa sĩ ở đó,làm vẻ vang cho sơn trại, chúng tôi nghe nói, trong lòng lấy
làm vui vẻ bội phần.
Tống
Giang cười đáp rằng:
- Uy
danh của Chế Sứ, thiên hạ ai không biết, tiếc cho Tống Giang được gặp quá muộn
mà thôi!
Đoạn rồi
Lỗ Trí Thâm sai người làm rượu khoãn đãi Tống Giang,cùng các vị Đầu Lĩnh,rất là
vui thỏa. Hôm sau đó, Tống Giang hỏi đến tình thế Thanh Châu.
Dương
Chí đáp rằng:
- Từ khi
Khổng Lượng đi rồi, anh em chúng tôi đã ba dạo đánh nhau chưa quyết được
thua...Hiện nay cả thành Thanh Châu, chỉ trông cậy vào một mình Hô Duyên
Chước,nếu bắt được người ấy, thì Thanh Châu phá dễ như chơi, không có điều gì
là trở ngại.
Ngô Dụng
cười rằng:
- Người
ấy chỉ có thể lấy mẹo bắt, chứ không lấy sức địch.
Tống
Giang hỏi:
- Quân
sư có kế gì khả dĩ bắt được?
Ngô Dụng
đáp rằng:
- Chỉ
thế này...thế này...là có thể bắt được ngay.
Tống
Giang nghe nói cả mừng khen là diệu kế rồi cung nhau phân phát nhân mã để hôm
sau ra trận. Sáng hôm sau các vị hảo hán kéo quân vây bốn mặt thành Thanh
Châu,rồi đánh trống khua cờ, hò reo khơi đánh. Quan Phủ Mộ Dung trong thành
thấy vậy, liền mời Hô Duyên Chước ra bàn rằng:
- Ngày
nay lại thêm giặc đằng Lương Sơn kéo đến đánh thành, như vậy ta có cách gì mà
đối phó lại được?
Hô Duyên
Chước nói:
- Xin Ân
Tướng cứ vững tâm phen này quân giặc đến đây, đã là thất sách, vì xưa nay chỉ
quen vẫy vùng trong bến nước, nay bỗng lại rời xa sào huyệt mà ra tới đây, thì
có tên nào là ta tróc tên ấy, không còn ngại điều chi nữa? Xin ân tướng lên
thành, xem tôi bắt giặc phen này mới được.
Nói đoạn
liền tề chỉnh mũ giáp, nhảy lên mình ngựa, mở cửa thành, hạ đích kiều, dẫn một
nghìn mã kéo ra. Bấy giờ bên trận Tống Giang có một tướng cưỡi ngựa, tay cầm
lang Nha Côn, quát mắng Tri Phủ rằng:
- Quân
cướp này, giống mọt dân kia, bay nỡ lòng giết cả vợ con ta, nay ta quyết báo
thù, không thể nào tha cho ngươi được...
Mộ Dung
Tri Phủ trông ra nhận biết là Tần Minh, liền mắng lại rằng:
- Bây là
một ông quan của triều đình, nhà nước đã phụ bạc điều chi, mà bay dám nỡ lòng
đành phản? Nếu bắt được ngươi, thì xé thây ra làm một vạn mảnh mới cam. Thôi
tướng quân đâu? Hãy bắt thằng giặc ấy trước đã.
Hô Duyên
Chước nghe nói, lập tức múa song chiên xông ngựa ra đánh Tần Minh, Tần Minh giơ
Lang Nha Côn ra đánh với Hô Duyên Chước. Đôi bên cùng gặp tay đối thủ, đánh
nhau hơn bốn năm mươi hiệp, không quyết được thua. Mộ Dung Tri Phủ thấy đánh
nhau lâu, sợ khi Hô Duyên Chước bị thua, liền khua chiên thu quân vào thành,
Tần Minh cũng lui về bản trận không theo đuổi. Tống Giang liền hạ lệnh, lui xa
ra ngoài mười lăm dặm hạ trại.
Bấy giờ
Hô Duyên Chước vào trong thành, xuống ngựa nói với Tri Phủ Mộ Dung rằng:
- Hồi đó
tôi đương định bắt Tần Minh, sao Ân tướng lại vội thu quân như vậy?
Tri Phủ
nói:
- Tôi
thấy Tướng quân đánh nhau, sợ khi đuối sức nên phải thu quân để nghỉ, tên Tần
Minh trước làm Thống Chế ở đây, sau mới cùng Hoa Vinh làm phản, mà theo bọn
Lương Sơn...Hắn ta võ nghệ cũng khá, chớ nên coi thường mới được.
- Ân
Tướng không ngại, tôi xin bắt được loại phản tặc hầu ngài. Vừa rồi mới đấu nhau
một lúc, mà tay công anh ta đã rối loạn rồi, ngày mai thế nào tôi cũng chém
được hắn.
- Nếu
Tướng quân có thủ đoạn anh hùng như vậy, ngày mai xin đánh tháo vòng vây, dọn
cho ba người ra, một người cho vào Đông Kinh cầu cứu, và hai người đến các Châu
Phủ gần đây, để nhờ binh ứng viện một thể.
Hô Duyên
Chước vâng lời mà rằng:
- Tướng
công nghĩ như vậy thực là chu đáo lắm...
Tri Phủ
nghe nói, liền viết mấy văn thư cầu cứu, giao cho ba tên lính cẩn thận để sáng
hôm sau mang đi.
Hôm đó
Hô Duyên Chước trở về phòng nghỉ, mãi đến đầu trống canh năm tỉnh dậy. Chợt
thấy quân sĩ vào báo rằng:
- Trên
núi đất về góc thành bên Bắc có ba người cưỡi ba con ngựa, đến nom dòm vào
thành, một người mặc áo bào đỏ cưỡi ngựa trắng đi giữa, và hai người đi kèm hai
bên, hình như là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, cùng một người ăn mặc lối thầy tu thì
phải...
Hô Duyên
Chước nói:
- Nếu
vậy thì anh mặc áo bào đỏ đích xác là Tống Giang, còn anh an mặc thầy tu, chắc
là Ngô Dụng hẳn? Chúng bay cứ im lặng, chớ nên làm động... mau điểm một trăm
nhân mã, để ta bắt ba thằng ấy mới được...
Nói đoạn
vội vàng đội mũ mặc giáp, cầm chiên lên ngựa, dẫn hơn ba trăm quân kỵ, lẻn ra
mở cửa Bắc môn, bỏ đích kiều xuống, dẫn quân ra ngọn núi đất. Khi ra tới nơi,
thấy ba người vẫn điềm nhiên kìm cương ngựa đứng nom vào thành. Hô Duyên Chước
liền xốc ngựa lên đến núi, bấy giờ ba người kia mới quay ngựa lững thững chạy
đi. Hô Duyên Chước thấy vậy bèn ra roi té ngựa để đuổi theo.
Ba người
kia chạy đến một chỗ trước mặt có mấy cây khô, rồi đứng dừng lại cả, Hô Duyên
Chước lại sấn ngựa mà đuổi theo lên.
Khi gần
đền chỗ cây khô, thấy có tiếng hò reo ầm ĩ , rồi Hô Duyên Chước bị cả người lẫn
ngựa đều tuột xuống hố đất. Đoạn rồi hai bên có năm sáu mưới tên quân nấp, đem
dây móc ra trói Hô Duyên Chước về trước, và dắt con ngựa về sau.
Bọn quân
sĩ Hô Duyên Chước thấy vậy, toan xông đến đánh, bất ngờ bị Hoa Vinh bắn ngã dăm
bảy quân kỵ đi đầu, còn thì tháo chạy hết cả.
Bấy giờ
Tống Giang trở về trại quân, truyền bọn đao phủ dong Hô Duyên Chước lên trước
trướng.Hô Duyên Chước lên tới nơi, Tống Giang vội quát quân sĩ cởi trói ra, rồi
thân hành xuống ngựa dắt Hô Duyên Chước lên ngồi, và lạy chào rất là cung kính.
Hô Duyên
Chước lấy làm ngạc nhiên hỏi:
- Vì
duyên cớ làm sao?
Tống
Giang đáp rằng:
- Tống
Giang tôi có khi nào phản bội triều đình, ngày nay chẳng qua vì quan tham lại
nhũng ức hiếp quá tình, nên phải tạm lánh vào nơi Thủy Bạc, để chờ khi nào
triều đình tha tội, rồi lại cùng nhau quy phục đó thôi. Nay Tướng quân tới đây,
chúng tôi lấy làm hâm mộ vô cùng, nên mới cả gan trộm phép Tướng quân mà mời
đón đến đây, như thế thật là đại tội, dám xin Tướng quân đại xá đi cho...
- Tôi là
một người bị bắt, có chi mà nghĩa sĩ nói những lời khiêm tốn như vậy?
- Chúng
tôi đây có khi nào khi dễ Tướng Quân, lòng này thực đó Hoàng Thiên soi xét nay
chỉ xin Tướng Quân rộng cho một điều mà thôi..
- Chẳng
hay huynh trưởng muốn Hô Duyên Chước về triều đình xin giấy chiêu an, để đem
đến sơn trại mà tha cho tất cả mọi người đó chăng?
- Chết
nổi! Việc ấy Tướng Quân làm sao nổi? Cao Thái Úy là một kẻ tâm địa hẹp hòi, hay
quên ơn lớn và hay nhớ lỗi nhỏ của người...Nay Tướng Quân đã làm hao tổn biết
bao binh mã lương thực, vậy có khi nào Cao Thái Úy lại không gia tội cho ngài.
Vả chăng Hàn Thao, Bành Dĩ, Lăng Chấn, đều đã nhất tâm đến ở trại tôi, nay nếu
Tướng Quân có lòng hạ cố, mà cho chúng tôi được cùng sum họp, thì Tống Giang
này xin nhường ngôi để kính Tướng Quân, rồi đợi khi triều đình có lệnh chiêu
an, thí ta sẽ cùng nhau giúp nước...Chẳng Tướng Quân nghĩ sao?
Hô Duyên
Chước ngẫm nghĩ hồi lâu, nghe cũng hơi có lý, bèn thở dài một tiếng, rồi quỳ
xuống đất nói rằng:
- Việc
này không phải là Hô Duyên Chước bất trung với nước, son tất lòng rất cảm nghĩa
khí của huynh trưởng, không lẽ nào từ chối cho đành...Vậy từ nay xin theo hầu
dưới trướng, không thay đỗi tấc lòng.
Tống
Giang nghe nói cả mừng, liền mời các vị Đầu Lĩnh ra chào Hô Duyên Chước suốt
lượt, rồi gọi Lý Trung, Chu Thông đem ngựa Tích Tuyết Ô Truy trả lại cho Hô
Duyên Chước. Đoạn rồi cùng nhau bàn kế để cứu Khổng Minh.
Ngô Dụng
nói:
- Bây
giờ chỉ nhờ Hô Tướng Quân lừa mở cổng thành thì mới dễ được thành công, mới có
thể ngăn hết đường về của Hô Tướng Quân sau này được.
Tống
Giang hiểu ý, liền ủy uyển nói với Hô Duyên Chước rằng:
- Dám
thưa Tướng Quân: Việc này không phải Tống Giang tôi có tham muốn thành trì, dấy
binh sinh sự, đó chẳng qua vì chú cháu Khổng Minh bị giam trong ngục, nên tôi
lôi thôi động dạng đến đây. Vậy nay Tướng Quân không rộng lòng vì nghĩa, mà lừa
mở cửa thành thì không khi nào xong được.
Hô Duyên
Chước vâng lời mà rằng:
- Huynh
trưởng đã có lòng sai khiến, thì dẫu thế nào, tôi cũng không dám từ nan, chỉ
chiều hôm nay làm ngay lập tức là xong...
Tống
Giang cả mừng, liền sai Tần Minh, Hoa Vinh, Tôn Lập, Yến Thuận, Lã Phương,
Quách Thịnh, Giải Trân, Giải Bảo, Âu Bằng, Vương Anh, tất cả mười vị Đầu Lĩnh
ăn mặc ra lối quân, cưỡi mười con ngựa theo Hô Duyên Chước ra đi.
Khi về
tới cửa Thành, Hô Duyên Chước vội vội vàng vàng nói là trốn thoát được về, liền
gọi người ra mở cổng. Người trong thành nghe rõ tiếng Hô Duyên Chước liền quay
vào báo cho Tri Phủ Mộ Dung biết.
Bấy giờ
Tri Phủ đương lo phiền vì nổi Hô Duyên Chước bị bắt, bỗng thấy nói Hô Duyên
Chước lại trốn thoát về, trong bụng lấy làm mừng bội phần, vội cưỡi ngựa chạy
lên mặt thành để hỏi. Khi lên mặt thành tuy không nom rõ mặt Hô Duyên Chước,
song nghe tiếng quả thị là Hô Duyên Chước, và chỉ có mười tên quân kỵ đi theo,
liền hỏi lên rằng:
- Tướng
Quân làm cách gì mà về được đó?
Hô Duyên
Chước nói:
- Tôi vì
sa xuống hố, bị chúng bắt trói mang về ở trại, sau may có mấy tên Đầu Mục
nguyên theo tôi trước, ăn trộm con ngựa này cho tôi cưỡi mà đưa về đây.
Tri Phủ
nghe nói liền sai quân sĩ mở cổng Thành, hạ đích kiều cho mọi người vào. Khi
vào tới cửa thành, Tần Minh bắt luôn Tri Phủ Mộ Dung, liền đánh cho một gậy ngã
lăn xuống ngựa, Giải Trân liền phóng lửa đốt thành, rồi Âu Bằng, Vương Nụy Hổ
trèo lên mặt thành mà giết tan bọn quân sĩ coi thành.
Tống
Giang ở ngoài thấy trong Thành nổi lửa, liền kéo đại đội quân mã vào thành,
truyền lệnh quân chúng không được quấy nhiễu lương dân, thu hết tiền nong kho
đụn, và phá ngục cứu Khổng Minh cùng cả nhà Khổng Tân ra. Đoạn rồi cứu tắt ngọn
lửa trong thành, bắt giết hết người nhà Tri Phủ Mộ Dung và thu hết của cải gia
tư để thưởng cho quân sĩ.
Sáng hôm
sau tìm những nhà lương dân nào bị cháy, cấp cho thóc gạo tiền nong, rồi đem
kim ngân lương thực của các kho, xếp vào năm sáu trăm xe, và bắt lấy hơn hai
trăm ngựa tốt. Đoạn rồi làm tiệc ăn mừng ở trong phủ Thanh Châu, và mời các vị
Đầu Lĩnh mới cùng về sơn trại. Lý Trung, chu Thông sai người về núi Đào Hoa lấy
hết nhân mã, tiền lương đốt bỏ sơn trại để đi. Lỗ Trí Thâm cũng sai Tào Chính,
Thi Ân về núi Nhị Long cùng với Tôn Nhị Nương thu hết nhân mã tiền lương, mà
đốt bỏ chùa Bảo Châu cùng sơn trại để theo Tống Giang về Sơn Bạc.
Cách vài
hôm sau, nhân mã các nơi đều đến đủ. Tống Giang liền kéo thẳng nhân mã đại hội
trở về Lương Sơn Bạc. Khi ra đi Tống Giang sai Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng và
Hô Duyên Chước, dẫn đường đi trước, qua các phủ, huyện, không hề xâm phạm của
ai. Dân gian thấy vậy đều dắt già cõng trẻ cùng nhau đón rước vui mừng, rất
chiều trân trọng.
Đường đi
mấy hôm về tới Lương Sơn Bạc, các vị Thủy Quân Đầu Lĩnh, đều sắp đủ thuyền bè
để đón, Tiều Cái dẫn các vị Đầu Lĩnh trên núi xuống bến Kim Sa, đón tiếp nhân
mã vào trong đại trại.
Khi về
tới Tụ Nghĩa Sảnh, các vị Đầu Lĩnh chia thứ tự cùng ngồi, rồi mở tiệc khao mừng
mấy vị Đầu Lĩnh mới đến, là: Hô Duyên Chước, Lỗ Trí Thâm, Dương Chí, Võ Tòng,
Thi Ân, Tào Chính, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Lý Trung, Chu Thông, Khổng
Minh, Khổng Lượng, cộng tất cả mười hai người.
Trong
khi đó Lâm Xung có ý khẩn khỏan mời Lỗ Trí Thâm, và tạ ơn Lỗ Trí Thâm đã cứu
giúp mình từ trước.
Lỗ Trí
Thâm hỏi thăm Lâm Xung rằng:
- Từ khi
tôi xa cách giáo đầu đến nay, không được tin tức gì cả, chẳng hay quý phu nhân
dạo này ra sao?
- Lâm
Xung nói:
- Sau
khi tôi giết Vương Luân, rồi có cho người về đón vợ con, song chẳng may nhà tôi
bị thằng ăn mày nhà Cao Cầu nó bức bách, đến nổi tự tử mà chết, rồi sau ông
nhạc nhà tôi cũng bị bệnh chết nốt...
Dương
Chí cũng thuật chuyện gặp Vương Luân trước cho mọi người nghe, chúng đều cười
mà nói rằng:
- Mới
hay muôn việc tại trời định trước, không có việc gì ngẫu nhiên hết thảy.
Tiều Cái
lại thuật chuyện cướp của Sinh Thần ở Hoàng Nê Cương khi trước, chúng đều vui
mừng mà tán tụng không thôi. Đến ngày hôm sau các vị Đầu Lĩnh lần lượt chè chén
vui mừng, trong sơn trại rất sầm uất.
Bấy giờ
Tống Giang thấy sơn trại thu được nhiều nhân mã trong lòng rất là vui mừng,
liền cho Thang Long tổng quản thợ rèn, rèn đánh các thứ gươm khí, cùng các áo
giáp, và các thứ Liên Hoàn; Hầu Kiện tổng quản các kho cờ, quạt, áo xiêm, chế
thêm cờ Tam Tài, Cửu Riệu, Tứ Đẩu, Ngũ Phương, Nhị Thập Bát Tú, Phi Long, Phi
Hổ, Phi Hùng, Phi Báo, cùng các thứ búa vàng,cờ mao trắng, vải mũ đỏ, lộng đen
để dùng.Bốn chung quang đặt thêm pháo đài, và mở thêm hai ngôi tửu điếm ở hai
bên đường Tây Nam để đón hảo hán bốn phương,và dò xét quân tình ở ngoài.Tửu
điếm con đường bên Tây, thì hai vợ chồng Trương Thanh, Tôn Nhị Nương coi giữ;
Tửu điếm bêm Nam, thì để vợ chồng Tân Tân, Cố Đại Tẩu trông coi; Tửu điếm bên
Đông có Chu Quý, Nhạc Hoà, và tửu điếm bên Bắc có Lý Lập, Thời Thiên, trên ba
cữa quan đặt thêm mấy trạm, cắt các Đầu Lĩnh ra coi giử luân lưu. Khi cắt đặt
xong rồi, các Đầu Lĩnh đều vâng theo Tướng Lệnh, mà ai vào việc ấy.
Một hôm
Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm nói với Tống Giang rằng:
- Trí
Thâm tôi có một người quen cũ, tên gọi là Cửu Văn Long Sử Tiến là đồ đệ Lý
Trung khi trước, hiện nay ở núi Thiếu Hoa, huyện Hoa Aâm về Hoa Châu, và có ba
người nữa là là Thần Cơ Quân Sư Chu Võ, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt, Bạch Hoa Xà
Dương Xuân, cùng tụ nghĩa ở đó với nhau. Tôi từ khi ở chùa Ngỏa Quan tương biệt
tới nay, trong lòng vẫn thường bâng khuâng nhung nhớ mà không được gặp bao giờ.
Vậy ngày nay tôi xin qua đó thăm chơi và rủ cả bốn người về đây nhập đảng một
thể, chẳng hay tôn ý nghĩ sao:
- Tôi
cũng thường nghe Sử Tiến xưa nay, nay nếu Ngô Sư có lòng tốt mà mời cả về đây,
thì còn gì hơn nữa. Xong việc đó không thể một mình đi được,vậy tôi muốn phiền
Võ Hành Giã cùng đi, hai người cung tướng dạng xuất gia, như thế thì mới ổn
tiện.
Võ Tòng
vâng lời mà rằng:
- Tôi
xin đi cùng với sư huynh.
Nói đoạn
liền cung nhau thu thập hành lý để đi. Lỗ Trí Thâm mặc ra lối nhà sư, Võ Tòng
mặc ra lối hành giã, rồi hai người từ giã các Đầu Lĩnh mà đi sang núi Thiếu
Hoa,
Tống
Giang thấy Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng đi rồi, trong lòng lấy làm áy náy không
yên, liền sai Đới Tung lập tức theo sau, để nghe xem tin tức.
Một hôm
Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng đi đến núi Thiếu Hoa, chợt thấy đám tiểu lâu la nấp ở
bên đường, đổ xô nhau lại mà hỏi rằng.
- Hai
bác thầy tu đi đâu thế này?
Võ Tòng
nói:
- Chúng
tôi đi lên hầu Sử Đại Quan Nhân ở trên núi đây.
Đám lâu
la nghe nói, vội cung kính mà rằng:
- Ngươi
lên nói nhà sư Lỗ Trí Thâm đến Thăm.
Tiểu lâu
la vâng lời quay lên báo cho sơn trại biết. Được một lát, thấy Thẩn Cơ Quân Sư
Chu Vũ cùng Khiêu Giản Hổ Trần Đại, Bạch Hoa Sà Dương Xuân xuống núi đón tiếp.
Lỗ Trí
Thâm hỏi ba người rằng:
- Sử Đại
Quan Nhân sao không thấy ở đây.
Chu Vũ
đến gần rằng:
- Sư Phụ
có phải là Lỗ Đề Hạt ở Phủ Duyên An trước đó không?
Lỗ Trí
Thâm đáp:
- Phải,
chính tôi đây, còn ông này là Võ Đô Đầu đánh hổ ở trên núi Cảnh Dương đó.
Ba người
kia nghe nói vội vàng chào mà rằng:
- Chúng
tôi được nghe đại danh đã lâu, sao thấy nói hai ngài ở núi Nhị Long, nay các
ngài qua đây, chẳng hay có việc gì chăng?
Lỗ Trí
Thâm nói;
- Chúng
tôi ngày nay lên Lương Sơn Bạc,nhập đảng với Tống Công Minh, chứ không ở núi
Nhị Long nữa. Nay muốn tìm Sử Đại Quan Nhân có chút việc,chẳng hay Sử Đại Quan
Nhân ở đâu?
Chu Vũ
nói:
- Hai
ngài đã đến đây, xin qua bộ lên chơi núi, chúng tôi sẽ thưa chuyện. Có chuyện
gì cứ nói cho tôi nghe, Sử Đại Quan Nhân không có đây, còn lên núi chi cho thêm
phiền?
Võ Tòng
nói:
- Ba anh
em tôi ở núi Thiếu Hoa đây, từ khi được có Sử Đại Quan Nhân đến ở,trong sơn
trại ngày càng thêm hưng vượng mãi lên. Sau nhân một chuyện anh chàng thợ vẽ,
tên là Vương Nghĩa, người Phủ Đại Doanh Bắc Kinh dắt con gái là Ngọc Kiều phi
sang miếu Kim Thiên Thánh Đế ở núi Tây Nhạc Hoa, để vẽ Thánh Tượng. Bất đồ một
hôm có Hạ Thái Thú ở bản Châu (nguyên là tay tham tàn vô lý, vẫn luồn lọt Nái
Thái Sư xưa nay), khi ra lễ ngoài miếu, chợt trong thấy Ngọc Kiều Chi có vẽ
nhan sắc dịu dàng, liền sai người đến nơi để mua làm thiếp, Vương Nghĩa quyết
đinh không nghe,Hạ Thái Thú liền hạ thủ đoạn ức hiếp, cướp lấy con gái mà mắc
tội Vương Nghĩa đem đày ra đất Viễn Châu. Khi đi qua đây gặp Sử Đại Quan
Nhân,Vương Nghĩa đem tình cảnh thuật cho Quan Nhân nghe, Sử Đại Quan Nhân liền
giết hai tên Công Sai, áp giải cứu Vương Nghĩa lên núi và đi thẳng vào phủ,
định giết hạ Thái Thú, dè đâu khi vào tới nơi, bị người trong phủ dò biết, liền
bắt giam ngay vào trong ngục, và định đem binh mã ra đánh sơn trại chúng tôi
một thể. Bởi vậy anh em chúng tôi hiện đương lo nghĩ với nhau, chưa có kế gì mà
thi hành ngay được.
Lỗ Trí
Thâm nghe đến đó,đùng đùng nỗi giận, đập đập tay mà rằng:
- Quân
chó má! Nó dám vô lễ đến thế! Ta phải kết quả ngay nó đi mới được.
Chu Vũ
nói:
- Hãy
xin đón hai ngài lên sơn trại, rồi ta sẽ bàn định sau.
Lỗ Trí
Thâm nhất định không chịu lên, Võ Tòng liền một tay nắm Thiền Trượng, một tay
trỏ bảo Trí Thâm rằng:
- Ca Ca
không nom mặt trời đã xế ngọn cây kia sao?
Lỗ Trí
Thâm nghe nói ngẩn trông lên một cái, rôi thét lên một tiếng, mặt hầm hầm tức
giận, mà đi thẳng lên trên sơn trại. Chu Vũ gọi Vương Nghĩa ra lạy chào, và
thuật lại cái thủ đoạn tham tàn của Hạ Thái Thú một lượt cho mọi người
nghe.Đoạn rôi sai giết trâu mổ ngựa làm rượu, thết Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng.
Lỗ Trí
Thâm nói với mọi người rằng:
- Ngày
nay không có Sử Huynh ở đây, một giọt rượu tôi cũng không uống, xin cho nghỉ
tạm ở đây một tối, rồi sáng mai vào phủ đánh chết những quân ấy mới xong.
Võ Tòng
nói:
- Ca Ca
không nên nóng nảy thế, tôi với Ca Ca về ngay Sơn Bạc nói với Tống Công Minh
lấy đại đội nhân mã lên đánh Hoa Châu thì mới cứu Sử Đại Quan Nhân được.
Lỗ Trí
Thâm kêu lên rằng:
- Đợi
khi về được tới Sơn Trại đem được nhân mã đến đây, thì tính mạng của Sử Đại
Quan Nhân phỏng còn gì nữa?
Võ Tòng
nói:
- Cho
dẫu giết được Hạ Thái Thú bây giờ, cũng chưa thể cứu Sử Đại Quan Nhân ra được
... Võ Tòng tôi quyết không để cho Ca Ca đi...
- Chu Vũ
cũng khuyên can rằng:
- Xin Sư
huynh hãy bớt giận... Nhge lời Võ Đô Đầâu mới phải.
Lỗ Trí
Thâm nóng máu gắt lên rằng;
- Chỉ
tại các anh trì trệ hững hờ, làm khổ đến tính mệnh Sử Huynh đó. Nay sự thế đã
nguy cấp đến nơi, lại còn uống rượu để bàn, thì phỏng có chết hay không? Ta đây
quyết không thể nào mà nhịn được.
Chúng
thấy vậy, không dám mời Trí Thâm uống chén rượu nào nữa.
Đêm hôm
đó Trí Thâm mặc nguyên áo xống nằm ngủ, đến đầu trống canh năm trở dậy, vác
thuyền trượng, cầm giới đao mà ra đi mất.
Khi Võ
Tòng trở dậy không thấy Lỗ Trí Thâm,liền bảo lũ Chu Vũ rằng:
- Sư
huynh không nghe lời tôi nói, phen này tất lỡ việc không sai.
Chu Vũ
cùng lấy làm lo sợ, liền sai lũ lâu la tinh thạo đi dò xem tin tức ra sao.
Hôm đó
Lỗ Trí Thâm đi vào trong thành Hoa Châu, rôi hỏi thăm lối để lần vào trong phủ,
bổng thấy người bảo rằng:
- Hoà
thượng tránh ra một bên, có quan Phủ đi qua đó.
Lỗ Trí
Thâm nghe nói, nghĩ thầm trong bụng:"Được lắm! Lão đương tìm hắn, hắn lại
đến đây,còn trốn đi đâu mà không chết? "Nói đoạn liền ngần ngừ mà đứng lại
để nom.
Bấy giờ
Hạ Tri Phủ ngồi trong cỗ kiệu, hai bên kiệu có mười tên Ngu Hầu đi kèm, và lính
tráng cầm roi gậy gươm giáo đi sát hai bên.
Lỗ Trí
Thâm thấy vậy nghĩ thầm rằng:"Bây giờ không tiện đánh hắn, vì đánh không
được,thì tất bị chúng cười... Ta hãy thữ xem sao? "Nghĩ vậy liền đứng lững
thững, mà không dám tiến lên.
Tri Phủ
ngồi trong kiệu, nom thấy Lỗ Trí Thâm có ý rụt rè dùng dằn muốn tiến lại thôi
thì trong bụng lấy làm ngờ ngợ mà hiểu ý đôi lần. Khi về tới phủ liền cho hai
tên Ngu Hầu ra mời nhà sư vào chơi.
Hai tên
ngu hầu vâng lời, chạy ra ngoài phủ, nói với Lỗ Trí Thâm rằng:
- Quan
phủ chúng tôi cho mời sư phụ vào chơi trong phủ.
Lỗ Trí
Thâm nghe nói trong bụng lấy làm vui mừng, chắc là cơ hội đến tay, liền đi theo
hai tên Ngu Hầu đi vào trong phủ.
Khi vào
tới trước cổng đường, Hạ Thái Thú bảo Lỗ Trí Thâm cất giới đao thuyền trượng
ra, và mời vào chơi nhà trong.
Trí Thâm
trước còn khẳng khái, không chịu bỏ thuyền trượng giới đao ra,sau chúng đều
khuyên rằng:
- Nhà sư
không biết gì cả, vào trong nhà quan sao lại được phép cầm đao trượng lăm lăm
như thế?
Trí Thâm
nghe nói, nghĩ thầm trong bụng: "Ta đây chỉ hai tay cũng đủ đánh bể sọ
chúng ra, cần chi phải dùng đao trượng?" Nghĩ đoạn liền vất đao trượng ở
trước cửa mà theo Ngu Hầu vào trong.
Vào tới
nhà trong, Hạ Thái Thú liền vẫy tay một cái, quát lên rằng:
- Trói
thằng trọc này cho ta...
Nói vừa
dứt miệng, thì hai bên vách có tới ba bốn mươi tên lính, đổ xô ra mà trói ghì
Lỗ Trí Thâm lại, rôi dong xuống dưới thềm để tra hỏi.
Cho hay:
Kiếp tu
chưa trọn với đời,
Nợ giang
hồ dễ ai người giữ xong?
Ba sinh
trót đã nặng lòng,
Tử sinh
xem bẳng như không sá gì!
Hùm
thiên lỡ mất cơ may,
Tấm gan
son sắc tri âm vẫn còn
Dù khi
nát ruột tan hồn,
Dạ này
xin có nước non soi cùng.
Lời bàn
của Thánh Thán:
Đánh phủ
Thanh Châu, dùng Hoa Vinh, Tần Minh làm tiền đội, thực là từng chỗ không làm
phí bút chút nào?
Thôn Học
Tiên Sinh, đọc truyện Thủy Hử, thấy chéo Tống Giang trong miệng nói ra lời hay,
thì đã vội đem hai chữ " Hiếu Trung" nêu tên giặc già ấy, mà cho đầu
đề của Truyện này, như thế không thể nào mà chả biện bạch ra cho đúng! Phải
vạch ra rằng: Tống Giang có tài hơn người, thì tất đúng rồi, nếu rằng có lòng
Trung Hiếu, lòng muốn báo triều đình, thì thực là một sự vạn lần, quyết không
đúng vậy.
Tại sao?
Vì Tống Giang là một tên cường đạo đất Hoài Nam, cũng con người muốn báo triều
đình, mà không kế gì để tiến thân cho được, đến điều bất đắc dĩ phải tạm lánh
Sơn Bạc để làm cường đạo, đó một điều không nên nói rằng vì bức bách mà như
vậy, dù có bức bách cũng chưa đến nổi, sao lại thả Tiều Cái trốn đi, thì ai bức
bách việc đó? Cái thân đã làm áp Tống Giang lại bỏ pháp luật tha cho giặc, có
hai điều không nên. Thân làm ruộng thì yên phận làm ruộng, thân làm lại thì yên
phận làm lại, đó là bổn phận. Tại sao thân ở Vận Thành, lại tung tiếng hảo hán
với khắp cả thiên hạ, dung nạp bọn du đảng, đó ba điều không nên. Kết liên
riêng với giặc để nhận vàng, giết cả bình dân (Diêm Bà Tích) để bịt họng may mà
được nên lỗi nhỏ để theo điều răn lớn) (không làm giặc), sao lại đề thơ bến
nước Tầm Dương nghĩ để báo thù thì báo thù ai? Đến điều máu đầy giang thủy, có
bốn điều không nên; lời ngạn nói rằng: Cầu bày tôi trung ở trong cửa con hiếu,
thế mà ngươi Giang, vì một sớm với điều giận nhỏ, để lỗi cho cha già, một khi
chẳng tốt với cha, còn tốt với ai? Thực bảo rằng: " Điều đó còn nhẫn tâm,
thì cái gì chẳng nhẫn tâm? "ó năm điều không nên vậy; Lũ Yến Thuận, Trịnh
Thiên Thọ mà vơ vét đem về Lương Sơn, với bọn đó còn tha thứ được; Tại sao Hoa
Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín cũng vơ vét cả về Lương Sơn? Sao tha thứ được, tuy
bấy giờ còn chưa ra mặt lạc thảo, nhưng trong lòng đã định chủ trương, đó sáu
điều không nên. Khi cướp trận Bạch Long, gây nên bởi mọi người, còn thiêu đốt
Vô Vi Quân thì ai quyết đoán? Cướp ở Bạch Long, còn nói được rằng cứu chết, còn
đốt Vô Vi, chẳng phải là buông nọc độc ư! Đó bảy điều không nên vậy; Đánh châu
cướp huyện chỉ như trò đùa, phá ngục, cướp kho, cũng thấy như vậy, giết quan
trưởng thì vu vạ tham nhũng, mua chuộc trăm họ thì không tiếc của kho, đó tám
điều không nên vậy; Quan quân đến thì giết quan quân; Vương sư tới thì bức
Vương sư, làm ngang sông nước, sức mạnh không ai địch, khiến cho đối với vua
không yên mà hưởng lộc như các quan, các tướng đến đánh không mong trở lại, sau
lại nêu ra Trung Nghĩa Đường, đặt ra ấn tín thưởng phạt, chế ra hiệu cờ long,
hổ, hùng, bi, mao, trắng, việt vàng, với nghi vệ như một soái phủ, đó mười điều
không nên! Hỡi ôi! Tội của Tống Giang bới ra không hết, luận những tội to đã
mười điều ấy, thế mà Thôn Học Tiên Sinh còn bo bo cho là Trung Nghĩa, rất sợ
rằng không đáng như thế, vậy chẳng hay Thôn Học Tiên Sinh nghĩ ra thế nào?
Nguyên ý
nhĩ của Thôn Học Tiên Sinh, chỉ thấy Tống Giang mỗi khi thu phục một viên tướng
nào, cũng thân hành cởi trói, dâng chén khuyên mời, giọt lệ động tình, đau nổi
muôn trung quân ái quốc, mà lòng thành lo nghĩ đến chiêu an, mà mất ăn mất ngủ,
lời vạch ra gan, giọng tuôn ra máu... Song ta cho Tống Giang là cường đạo, một
vạn lần không thể tin rằng trung nghĩa được, vì sao? Xét nói rằng đợi chiêu an,
chỉ là biến kế của cường đạo, trước khi cha anh đã mất dạy, ham học võ quyền đã
cậy võ quyền, chẳng chuyên sinh sản, đã thiếu sinh sản, chẳng khỏi khốn nguy,
khốn nguy chẳng chịu, sinh ra trộm cướp, khi đã trộm cướp, kéo bè mà nên to
chuyện, kéo bè đảng tất bị truy nã, đã bị truy nã, thì cường đạo nhân đó nổi
lên, nếu tiến có thể chuộc tội, thoái có thể thoát chết, thì hai chữ chiêu an
chỉ khéo nói ra, thu lấy mọi người.
Xét đến
những viên tướng làm can thành cho nước, bảo trướng một phương, như Tần Minh,
Hô Duyên Chước, đời đời chịu quốc ân, còn đương hưởng chưa thôi, lại như lũ Hoa
Vinh, Từ Ninh, có những biệt tài, há chẳng ra sức phò vua, và lũ Lăng Chấn,
Sách Siêu, Đổng Bình, Trương Thanh dẫu là tỳ tướng, cũng có ngày đại dụng; Lại
như lũ Bành Dĩ, Hàn Thao, Tuyên Tán...ều ăn lộc nhà Tống, làm quan nhà Tống,
cảm đức nhà Tống, chia lo với nhà Tống, đã không chẳng trổ hết tài, đã lại
không chẳng nhả hết khí, đã lại không chẳng hết lòng trung, đã lại không chẳng
báo hết ơn đó vậy sao? Mà ta không biết Tống Giang nghĩ sao, lại muốn vớ vét cả
về Sơn Bạc? Bắt được thuyết theo, hoặc chưa chịu theo, thì lại khuyên rằng hãy
tạm lánh đây để đợi chiêu an. Hỡi ôi! Cường đạo mới cần chiêu an, còn tướng
quân việc gì mà cần phải đợi chiêu an? Thân ở Thủy Bạc, thì nên đợi chiêu an
quy thuận triều đình; Còn thân đã tự triều đình, cần gì phải đợi chiêu an, mà
phải tạm lánh ở Thủy Bạc? ? ? Nay đem lời này hỏi lại Tống Giang, thì Tống
Giang trả lời làm sao? Mới biết những lời nói ra báo quốc, ngáy ngóng chiêu an,
Tống Giang chỉ muốn dỗ dành người ta theo vào Sơn Bạc; Lời ngạn nói rằng: Mật
ngọt chết ruồi... Tống Giang đã dùng lời khéo dỗ người vào Thủy Bạc, mà không
ai chẳng tin, để theo vào Thủy Bạc. Lời rằng: Mượn mãi không trả, lâu hoá của
mình, sao lại không biết Tống Giang như vậy? Thôn Học Tiên Sinh khen ngợi thì
ra không biết con quạ kia đen trắng thế nào? Còn bo bo cho rằng trung nghĩa,
chỉ sợ rằng không đáng như vậy chẳng hay Thôn Học Tiên Sinh nghĩ ra thế nào?
Sau hồi
thứ bảy tả Lỗ Đạt, xa cách thẳng bốn mươi chín hồi, mới lại tả Lỗ Đạt, khiến ta
đọc đến văn, há chẳng nhớ đến con người lỗi lạc chân chính Lỗ Đạt, trước bốn
mươi hồi, tả Lỗ Đạt một giọt rượu không thèm, khiến ta thấy xử sự ở con người
hảo hán kia, đối với việc nghĩa làm trọng bỏ hết thú vui, dầu thú vui ấy bấy
lâu đã nghiện như rượu đối với nhiều người.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 58: Miếu Tây Nhạc, giả danh Thái Úy;
Đất Hoa Sơn cứu bạn anh hùng
Bấy giờ
chúng đem Lỗ Trí Thâm xuống thềm, Hạ Thái Thú chưa kịp trả lời, thì Lỗ Trí Thâm
đã trợn mắt cả giận, mắng quát lên rằng:
- Quân
hiếu sắc hại dân này, bay dám bắt ta là nghĩa lý gì? Ta đây có chết, cũng không
cùng với anh em ta là Sử Tiến, không lấy gì làm hối hận song ta chỉ sợ Ca Ca ta
là Tống Công Minh, tất không tha cho ngươi đó thôi. Ta bảo cho ngươi biết,
thiên hạ không có việc oan uổn nào, mà không giải tỏ được bao giờ? Ngươi muốn
tốt đem Sử Tiến trả lại cho ta, đem cả Kiều Ngọc Chi ra đây để trả lại cho
Vương Nghĩa, còn ngươi thì phải đem chức Thái Thú ở Hoa Châu mà đem trả lại cho
triều đình ngay lập tức ... Bay là đồ mặt giặc, mắt mèo, chỉ chăm chăm tửu sắc
hoang dâm, còn toan làm cha mẹ dân sao được? Nếu biết điều mà nghe ta ba điều
đó, thì còn được tử tế bằng không thì sau này hối sao cho kịp? Hiện bây giờ hãy
đưa ta tìm đến người anh em là Sử Tiến, rồi thế nào trả lời cho ta biết ...
Tri phủ
nghe nói ức giận sôi nổi không biết nói làm sao được liền nghĩ thầm trong bụng
rằng: "À? Gớm thằng này ta ngờ thích khách, hay đâu nó cũng một món với Sử
Tiến thực? Quái ác! Hãy cứ giam nó xuống, rồi sẽ xử sau... "Nghĩ đoạn liền
truyền lấy gông lớn gông Lỗ Trí Thâm lại, bỏ giam xuống ngục, rồi nhất diện tư
công văn, bẩm lên trên Tỉnh, và đem giới đao thuyền trượng niêm phong để ở Phủ
Đường.
Bấy giờ
tin tức náo đôïng phủ Hoa Châu, bọn tiểu lâu la nghe biết, liền trở về sơn trại
báo cho các vị Đầu Lĩnh biết. Võ Tòng được tin báo cả kinh mà rằng:
- Chết
nổi mình đi hai người đến đây, bị bắt mất một người vậy còn mặt mũi nào trở về
Lương Sơn nữa?
Đương
khi lo nghĩ kinh hoàng, bỗng thấy tiểu lâu la báo rằng:
- Có một
vị đầu lĩnh ở Lương Sơn Bạc là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, đến thăm sơn trại,
hiện còn ở dưới núi. Võ tòng nghe báo vội vàng xuống núi đón Đới Tung lên trên
sơn trại. Khi lên tới nơi, Võ Tòng dẫn Đới Tung chào hỏi lũ Chu Vũ, và đem
chuyện Lỗ Trí Thâm thuật cho Đới Tung nghe.
Đới Tung
nghe nói cả kinh mà rằng:
- Nếu
vậy tôi phải về ngay Lương Sơn, nói với Ca Ca, đem binh xuống cứu, không thể ở
đây lâu được.
Nói đoạn
sai dọn cơm chay cho Đới Tung ăn. Đoạn rồi Đới Tung làm phép Thần Hành mà trở
về Sơn Bạc.
Cách ba
hôm sau về đến sơn trại, Đới Tung liền thuật chuyện Lỗ Trí Thâm và Sử Tiến cho
Tiều Cái, Tống Giang nghe.
Tiều Cái
cả kinh bảo với Tống Giang rằng:
- Hai
người đó mắc nạn tất nhiên phải cứu mới xong. Vậy phen này tôi đi một chuyến
không thể trì trệ được nữa.
Tống
Giang lại nói:
- Ca Ca
là chủ sơn trại, đi sao cho tiện? Việc này xin để mặc đệ đảm nhiệm. Nói đoạn
liền chỉnh điểm quân mã chia làm ba đội đi ngay lập tức. Tiền quân có năm tướng
làm Tiên Phong là Lâm Xung, Dương Chí, Hoa Vinh, tần Minh, Hô Duyên Chước; dẫn
một nghìn quân giáp mã, một nghìn quân bộ mở đầu đi trước; Trung quân có chủ
soái Tống Giang, Ngô Dụng, Chu Đồng, Từ Ninh và Giải Trân, Giải Bảo, dẫn hai
nghìn quân mã bộ đi giữa; Hậu quân có Lý Ứng, Dương Hùng, Thạch Tú, Lý Tuấn,
Trương Thuận, năm vị Đầu Lĩnh dẫn năm nghìn quân mã bộ, coi đốc lương thảo đi
sau. Bấy giờ cộng tất cả có bảy nghìn quân mã, cùng nhau xuống núi Lương Sơn,
mà trông chừng thẳng lối Hoa Châu.
Khi đến
nửa đường, Tống Giang truyền cho Đới Tung đi trước để báo cho các Đầu Lĩnh ở
Thiếu Hoa Sơn được biết. Bọn Chu Vũ nghe tin báo, bèn đến sắp sẵn các thứ dê,
lợn, trâu ngựa, cùng các thức rượu ngon để đợi...
Mấy hôm
sau, ba đạo binh Lương Sơn tới nơi, Võ Tòng liền dẫn Chu Vũ, Trần Đạt, Dương
Xuân xuống núi nghinh tiếp...
Tống
Giang, Ngô Dụng, cùng các Đầu Lĩnh kéo lên sơn trại, rồi Tống Giang hỏi đến đầu
đuôi các chuyện...
Chu Vũ
đáp rằng:
- Hiện
nay Lỗ Trí Thâm cùng Sử Tiến, đã bị Hạ Thái Thú giam ở trong lao, chỉ đợi sắc
chỉ triều đình, rồi sau sẽ liệu.
Tống
Giang cùng Ngô Dụng đều hỏi rằng:
- Hiện
nay trong thành giam hai con hùm lớn ở đó, tất nhiên họ phải phòng bị nghiêm
trang, vậy chiều hôm nay ta xuống núi, rồi khoảng trống canh một, ta sẽ nhờ
bóng trăng suông, mà xem xét trong thành mới có thể tiện được.
Tống
Giang cùng các vị Đầu Lĩnh đều cho là phải, mà cùng nhau lưu lại đến chiều.
Khi mặt
trời đã xế hôm, Tống Giang cùng Ngô Dụng, Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng, cưỡi
ngựa đi xuống núi. Vào khoảng đầu canh một, đi đến bên thành Hoa Châu, năm
người bèn tìm một đống gò cao, ở gần thành mà nom vào. Bấy giờ đương dạo trung
tuần tháng hai, trời quang mây tạnh, bóng trăng soi sáng giữa trời. Tống Giang
cùng bốn người nom vào thành Hoa Châu, thấy thành cao đất rộng, hào lũy bọc
chung quanh, có mấy toà cửa thành coi rất cao to hùng tráng, cách nơi Tây Nhạc
Hoa Sơn không mấy. Năm người vừa nom vừa bàn luận với nhau, không có cách gì mà
đánh ngay được.
Mọi
người bảo với Tống Giang rằng:
- Ta hãy
trở về sơn trại rồi hãy bàn định sau.
Nói đoạn
năm người lại dong ngựa về lại phía Hoa Sơn. Khi về tới trại, Tống Giang ra
dáng phiền nghĩ lo âu, không biết kế sao cho được. Ngô Dụng bèn truyền lệnh
mười tên tiểu lâu la xuống núi để nghe dò tin tức gần xa.
Cách hai
hôm sau, chợt thấy một người trở về báo rằng:
- Nay
triều đình sai Quan Điện Tư Thái Úy, vâng lĩnh kim ngân điếu quải của Hoàng
Thượng, rời hoàng hà vào sông Vị Hà, để dâng lễ ở miếu Tây Nhạc.
Ngô Dụng
nghe báo liền bảo với Tống Giang rằng:
- Ca Ca
không cần lo nữa, ta có thể thi được kế rồi.
Nói đoạn
liền gọi Lý Tuấn, Trương Thuận ra dặn kế cứ thế này... Thế này ...mà làm.
Lý Tuấn
nói:
- Chúng
tôi mới đến đây, chưa thuộc địa thế, vậy nếu có một vị nào ở đây cùng đi thì có
lẽ tiện hơn.
Bạch Hoa
Xà Dương Xuân nói:
- Để tôi
đi cho...
Tống
Giang nghe nói cả mừng, liền cho Dương Xuân dẫn đường để cho Lý Tuấn, Trương
Thuận cùng đi. Ngày hôm sau Ngô Dụng mời Tống Giang, cùng Chu Đồng, Hô Duyên
Chước, Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Ứng dẫn hơn năm trăm người đến cửa sông Vị Hà.
Khi tới nơi, thấy Lý Tuấn, Trương Thuận cùng Dương Xuân đã cướp được mười mấy
chiếc thuyền lớn về đó. Ngô Dụng bảo Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên
Chước, bốn người phục ở trên bờ, còn Tống Giang, Ngô Dụng, Chu Đồng, Lý Ứng thì
xuống cả dưới thuyền, và lại sai Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân chia thuyền
đậu nấp ở đầu bến. Khi đặt đâu yên vào đó, đến sáng hôm sau, chợt nghe xa xa có
tiếng trống chiên dậy đất, rồi thấy ba chiếc thuyền quan kéo đến. Trên thuyền
quan cắm lá cờ vàng viết mấy chữ"Tú Thái Úy vâng lệnh vua, ra dâng lễ miếu
Tây Nhạc ". Bấy giờ Chu Đồng, Lý Ứng đều cầm gươm trường đứng ở sau lưng
Tống Giang, còn Ngô Dụng thì đứng ở đầu thuyền mà đợi.
Được một
lát, thuyền quan nghênh ngang kéo vào bến nước, rồi có hai mươi tên Ngu Hầu áo
tía đai bạc, chạy ra quát lên rằng:
- Thuyền
nào dám đậu bến làm ngăn trở thuyền quan thế kia?
Tống
Giang nghe nói cúi rạp xuống chào, rồi Ngô Dụng nói rằng:
- Nghĩa
sĩ ở Lương Sơn bạc là Tống Giang xin hầu Thái Uý.
Bên kia
có viên quan coi việc tiếp khách đáp lên rằng:
- Đây là
quan Thái Úy đương triều, vâng lệnh vua ra lễ miếu Tây Nhạc ... Vậy các ngươi
là bọn giặc Lương Sơn, sao dám nghênh ngang đứng đó?
Tống
Giang cúi mình lặng yên không đáp, Ngô Dụng lại nói lên rằng:
- Chúng
tôi là nghĩa sĩ ở Lương Sơn, muốn được bái kiến tôn nhan Thái Úy, để kêu ngài
có chút việc.
Viên
quan coi việc tiếp khách hỏi:
- Các
ngươi là hạng người nào mà dám đường đột xin đến hầu Thái Úy? Đoạn rồi mấy tên
Ngu Hầu quát lên rằng:
- Các
ngươi nói rõ mới được.
Tống
Giang cứ lẳng lặng cúi mình mà không dậy.Ngô Dụng liền nói lên rằng:
- Xin
tạm mời Thái Úy lên bờ, chúng tôi bàn có chút việc.
Viên
quan coi việc tiếp khách quát lên rằng:
- Các
ngươi không được nói càng, Thái Úy là quan đại thần trong triều, lẽ nào bàn
việc với các ngươi?
Khi đó
Tống Giang đứng dậy nói rằng:
- Thái
Úy không chịu cho lũ chúng tôi tiếp kiến, chỉ sợ bọn thuộc hạ chúng tôi lại làm
kinh động đến Thái Úy chăng?
Nói đoạn
Chu đồng liền vẫy ngọn cờ trên mũi gươm, rôi Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô
Duyên Chước, cùng dẫn quân mã vương cung tên mà kéo ra đánh ở trên bến. Bọn lái
đò thuyền quan thấy vậy đều kinh sợ nhảy nấp vào trong khoang. Viên quan tiếp
khách cũng sợ hãi kinh hoàng, vội vào báo cho Thái Úy biết.Tú Thái Úy thấy vậy,
đành phải ra đầu thuyền, bắt ghế ngồi để tiếp khách.
Tống
Giang cúi mình chào mà nói rằng:
- Chúng
tôi có điều đường đột, xin ngài tha lỗi cho. Tú Thái Úy nói:
- Vì cớ
sao nghĩa sĩ ngăn đón thuyền tôi như vậy? Tống Giang nói rằng:
- Chúng
tôi đâu dám ngăn đón thuyền ngài... Chỉ xin phép ngài lên trên bờ, cho chúng
tôi được bẩm chút việc thôi...
Tú Thái
Úy nói rằng:
- Tôi
vâng mệnh vua ra lễ ở Nhạc Tây đối với nghĩa sĩ thì tịnh không có việc gì mà
phải nói... ? Vả chăng một ông quan của triều đình, lẽ nào lại kinh dị lên bờ
ngay được? Bên kia Ngô Dụng nói lên rằng:
- Nếu
Thái Úy không chịu lên bờ, e khi bọn thủ hạ không chịu để yên, thì thực không
tiện...
Nói đoạn
Lý Ứng vẫy gươm ra hiệu, rồi Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân, đều đuổi thuyền
xô cả đến.Tú Thái Úy thấy vậy lấy làm cả kinh!
Lý Tuấn,
Trương Thuận, cầm đao sáng loáng ở tay, chạy sang ngay thuyền Thái Úy, gạt ngã
mấy tên Ngu Hầu xuống nước.
Tống
Giang vội thét lên rằng:
- Khoan!
Không được làm liều như thế?
Lý Tuấn,
Trương Thuận bèn nhảy tùm xuống nước vớt hai tên Ngu Hầu, vất trả lên thuyền,
rồi hai người cùng nhảy lên thuyền để đứng. Tú Thái Úy cùng mọi người thấy vậy
đều cả sợ xanh mặt cả lên.
Tống
Giang và Ngô Dụng quát lên rằng:
- Bay
hãy lui ra, không được kinh động Đại Quan Nhân như thế, để ta sẽ mời Thái Úy
lên bờ cũng được.
Tú Thái
Úy nói với Tống Giang rằng:
- Ở đây
không thể nói chuyện được, vậy xin mời Thái Úy lên qua trên trại cho chúng tôi
thưa chuyện, thì mới ổn tiện, nếu chúng tôi có lòng nào hại đến ngài, thì xin
thần linh ở Tây Nhạc sẽ gia tội đến chúng tôi ...
Bấy giờ
Thái Úy không nghe không được, đành phải nghe lời mà đi lên trên bờ. Đoạn rồi
có mấy người đứng nấp trong bụi cây, dắt ngựa ra mời Thái Úy lên ngựa để cùng
đi lên núi.Tống Giang liền sai Tần Minh, Hoa Vinh đưa Thái Úy về sơn trại
trước, rồi cùng Ngô Dụng lên ngựa, bắt tất cả những người trong thuyền quan và
các đồ hương hoa lễ vật mà khiêng về trên núi, và để Lý Tuấn, Trương Thuận lãnh
hơn trăm người coi giữ chiếc thuyền ở đó.
Khi về
tới Thiếu Hoa Sơn, Tống Giang cùng Ngô Dụng mời Thái Úy lên Tụ Nghĩa Sảnh, đặt
ngôi giữa, còn các vi Đầu Lĩnh cầm binh khí đứng hầu cả hai bên. Đoạn rồi Tống
Giang ra trước mặt Thái Úy lạy xuống bốn lạy mà rằng:
- Tống
Giang tôi nguyên là kẻ tiểu lại ở huyện Vận Thành nhân Bị Quan Tư bức bách, bất
đắt dĩ phải họp mấy anh em tạm lánh ở Lương Sơn Bạc, để đợi triều đình thương
lại, sẽ ra sức găng công mà đền ơn non nước, gánh vác mọi trách nhiệm. Nay
chẳng hay có hai người anh em bị Hạ Thái Thú sinh chuyện lôi thôi giam vào
trong ngục, vậy chúng tôi xin mượn các đồ nghi vệ của Thái Úy ra lễ Nhạc Tây,
để đánh lừa quan lại Hoa Châu, mà cứu cho anh em thoát nạn. Sau khi công việc
đã xong, chúng tôi lại xin trả lại Thái Úy hẳn hoi, không dám chút gì xâm phạm,
xin Thái Úy rộng phép mà ưng thuận lời cho.
Thái Úy
nói rằng:
- Cái đó
không ngại chi, song nếu triều đình sau này biết đến, thì Hạ Quan đây nguy hiểm
không chơi.
- Xin
Thái Úy về triều, cứ đổ tội cho Tống Giang tôi là được ...
Thái Úy
nghĩ quanh nghĩ quẩn, thấy sự thế không thể nào từ chối được liền bất đắc dĩ mà
nhận lời cho mượn.
Tống
Giang nghe nói cả mừng, sai đặt tiệc thiết đãi Thái Úy rồi lấy áo xiêm của Thái
Úy cùng mọi người theo hầu Thái Úy để mặc. Tống Giang sai một tên lâu la mặt
mũi khôi ngô, cạo sạch râu ria, ăn mặc giả làm Thái Úy Tú Nguyên Cảnh, Tống
Giang, Ngô Dụng giả làm quan tiếp khách, Giải Trân Giải Bảo, Dương Hùng Thạch
Tú giả làm Ngu Hầu, còn bọn tiểu lâu la đều áo tía đai bạc, tay cầm các cờ
hiệu, mà khiêng hương hoa lễ vật ra đi. Hoa Vinh, Chu Đồng, Từ Ninh, Lý Ưùng
giả làm bốn tên vệ binh. Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân khoãn đãi bọn Thái Úy ở
nhà, lại sai Tần Minh, Hô Duyên Chước dẫn một đội nhân mã; Lâm Xung, Dương Chí
dẫn một đội nhân mã chia làm hai mặt để đánh thành. Lại sai Võ Tòng ra đợi ở
miếu Tây Nhạc để chờ hiệu thi hành. Khi sắp đặt xong các vị Đầu Lĩnh đều kéo ra
thuyền, và cho Đới Tung vào báo trước ở miếu Nhạc Tây.
Bấy giờ
Chủ Quan cùng các người chức việc phía trong miếu nghe báo, liền vội vàng kéo
nhau ra đến bến thuyền để đón quan Thái Úy. Các đồ hoa hương đèn nến, cùng là
bảo cái đồng nhan, đều dàng lên trước rồi đem ngự hương đặt lên long đình, cho
người trong miếu khiêng vào, và dẫn Kim Linh Điếu Quảy về miếu. Khi chủ quan
xin bái yết Thái Úy, Ngô Dụng liền gạt đi rằng:
- Thái
Úy đi đường bị cảm, không tiếp kiến được, đem kiệu đây để đón người lên.
Tả hữu
vâng lời, rồi đón Thái Úy lên kiệu, mà đưa đến nhà Quan Sư trong miếu Tây Nhạc.
Viên tiếp khách là Ngô Học Cứu bảo với viên chủ quan rằng:
- Nay
quan Thái Úy vâng lệnh triều đình đem ngự hương cùng Kim Linh Điếu Quải ra dâng
thánh lễ ở đây, vậy mà các quan ở bản quân không ai ra tiếp kiến là nghĩa làm
sao? Chủi Quan nói rằng:
- Chúng
tôi đã cho người đi báo có lẽ đếùn cả ngay bây giờ...
Vừa nói
dứt lời thì có viên quan ở bản châu, dẩn dăm bảy mươi tên lính, mang các thức
rượu chè hoa quả đến hầu Thái Úy. Khi viên quan đó tới nơi, các quan hầu dẫn
vào chỗ xa xa trước mặt để lại chào. Viên quan đó thấy Thái Úy tựa chăn nằm
trên giường chỉ lấy tay chỉ chỏ ra ngoài mà không nói gì cả.
Đoạn rồi
viên quan tiếp khách ra trách quan ở bản châu rằng:
- Thái
Úy là một vị đại thần trong triều, vâng lệnh vua, nghìn dặm tới đây, chẳng may
đi đường mắc cảm, thế mà các quan bản châu không ai ra tiếp là nghĩa làm sao?
Viên
quan bản châu đáp rằng:
- Bẩm
ngài, tuy mấy hôm trước có giấy của quan trên sức xuống, song ngày nay không
thấy giấy báo, nên chúng tôi không được biết để mà nghinh tiếp. Vả chăng mấy
hôm nay, có bọn giặc ở núi Thiếu Hoa, kết liên với bọn giặc ở Lương Sơn, đến
đánh phá thành trì, bởi vậy Quan Phủ chúng tôi phải lưu lại coi thành, mà cho
chúng tôi ra đây dâng chén tiếp phong, rồi Quan Phủ chúng tôi sẽ đến bái yết
sau.
Viên
quan tiếp khách đáp rằng:
- Bây
giờ Thái Úy không uống rượu chè gì đâu, về nói với quan phủ mau ra đây để dâng
lễ mới được.
Viên
quan ở Hoa Châu, vâng lời rồi đem rượu ra để mời các viên quan tiếp khách, cung
các người theo hầu Thái Úy.Đoạn rồi quan tiếp khách vào bẩm với quan Thái Úy,
lấy chìa khoá ra mở túi lấy đôi Kim Linh Điếu Quải, treo lên hai cành trúc cho
viên quan ở Hoa Châu xem.Quan ở Hoa Châu nom thấy, quả là một đôi Kim Linh Điếu
Quả, của những tay thợ giỏi ở trong nội phủ chế ra, chung quanh toàn khảm bằng
thất bảo, giữa đặt một ngọn đèn bằng xa đỏ, trông rất huy hoàng rực rỡ, dân
gian chưa hề trông thấy bao giờ, khi xem xong, quan tiếp khách lại cất vào
hương nang khoá lại cẩn thận, rồi lấy các giấy má của phủ Trung Thư, đưa cho
viên qua Hoa Châu, và giục phải về ngay bảo quan Thái Thú tới để chọn ngày làm
lễ, quan Hoa Châu vâng lời, rồi trở lại trong thành để báo cho Hạ Thái Thú
biết.
Tống
Giang thấy tên quan viên trở ra rồi, thì trong lòng hớn hở mừng thầm, chắc rằng
Hạ Thái Thú dù khôn khéo đến đâu cũng không thể nào không hoa mắt rối lòng, mà
tránh thoát thần mưu đó được. Bấy giờ Võ Tòng chực ở ngoài cửa miếu, Ngô Dụng
lại sai Thạch Tú dắt dao nhọn tại đó, để giúp Võ Tòng làm việc, và cho Đới Tung
giả làm Ngu Hầu để đợi. Trong kia bọn chủ quán cùng các người làm việc trong
quân, thì vẫn điềm nhiên, kẻ hiếu cơm người dâng lễ vật, dưới trên sắp đặt rất
chỉnh đốn lễ nghi.
Tống
Giang xem quanh trong miếu Tây Nhạc, thấy cung điện nguy nga, trên dưới lịch
sự, quả nhiên là một nơi miếu mạo hiếm có xưa nay, Tống Giang xem khắp một
lượt, rồi khi về trước cửa nhà quan cư, thì ngoài cửa báo là Hạ Thái Thú đã
đến.
Tống
Giang liền gọi bốn tên lính vệ là Hoa Vinh, Từ Ninh, Chu Đồng, Lý Ứng, đều cầm
binh khí đứng ra hai bên, Giải Trân, Giải Bảo, Dương Hùng, Đới Tung, đều giắt
khí giới trong mình mà đứng hầu hai bên tả hữu.
Khi đó
Hạ Thái Thú dẩn hơn ba trăm người, đi đến trước cửa miếu lũ lượt kéo vào. Hai
viên quan tiếp khách là Ngô Dụng, Tống Giang thấy vậy, liền quát lên rằng:
- Cho
Quan Đại Thần ở đây, những người vô sự không được vào gần.
Chúng
nghe nói, liền đứng cả lại, để một mình Hạ Thái Thú đi vào.Quan tiếp khách
truyền chỉ ra rằng:
- Thái
Úy cho mời thái thú vào đây...
Hạ Thái
Thú vâng lời, vào trước cửa quan cư, rồi cúi đầu lạy chào Thái Úy giả.
Quan
tiếp khách hỏi lên rằng:
- Quan
Thái Thú có biết tội không?
Hạ Thái
Thú nói rằng:
- Chúng
tôi không được biết quan Thái Úy đến đây, nên không kịp ra thành nghinh tiếp,
dám xin ngài tha tội cho...
Quan
Thái Úy vâng lệnh triều đình ra đây, mà không tiếp đón là nghĩa lý sao?
- Bẩm,
vì chúng tôi không tiếp được giấy báo, là đã đến nơi, nên không kịp ra đón
tiếp...
Bỗng có
người quát lên rằng:
- Bắt
lấy cho ta...
Nói dứt
lời, thì anh em Giải Trân, Giải Bảo rút phăng gươm ra cầm cẳng Hạ Thái Thú
xuống rồi cắt lấy đầu.
Tống
Giang lại quát lên rằng:
- Anh em
đâu! Hạ thủ đi.
Bọn ba
trăm người thấy vậy đều kinh sợ rụng rời, mà không sao chạy được. Tụi Hoa Vinh
liền xông vào mà đánh giết, bọn kia luống cuốn non nửa chạy ra ngoài cửa miếu,
bị Võ Tòng, Thạch Tú cùng đám tiểu lâu la đỗ xô ra chém giết, không còn sống
sót một ai. Còn những người lục tục đến miếu sau, đều bị Trương Thuận, Lý Tuấn
giết cả một lượt.
Bấy giờ
Tống Giang kịp thu cả ngự hương điếu quải, đem cả xuống thuyền rồi cùng nhau
kéo đến thành Hoa Châu. Khi tới nơi trong thành đã có hai chỗ bốc lửa lên đùng
đùng, chúng liền nhất tề kéo vào, xông đến nhà đại lao, cứu Sử Tiến cùng Lỗ Trí
Thâm ra rồi mở các kho đụn, lấy tất cả của cải mà xếp lên xe tất cả.
Lỗ Trí
Thâm được thoát ra, vội vàng chạy vào phủ đường, tìm thấy giới đao huyền
trượng, rồi tìm đến Ngọc Kiều Chi, thì đã đâm đầu xuống giếng mà tự tử mất rồi.
Chúng thấy vậy, liền kéo nhau ra thuyền trở về Thiếu Hoa Sơn. Về đến sơn trại,
Tống Giang sai đem các đồ lễ vật, cùng áo xiêm nộp trả Thái Úy, rồi lấy ra một
mâm kim ngân tạ ơn Thái Úy, và đưa khắp lượt mọi người theo hầu. Đoạn rồi đặc
tiệc tiễn hành, mà đưa Thái Úy về thuyền tử tế.
Khi tiễn
chân Thái Úy trở về, Tống Giang liền bàn với Sử Tiến, Chu Vũ, Trần Đạt, Dương
Xuân, thu thập tiền lương nhân mã mà đốt bỏ sơn trại để kéo quân về cả Lương
Sơn, còn Vương Nghĩa thì cho ít tiền để đi nơi khác.
Bên kia Tú
Thái Úy khi trở về thuyền rồi cùng nhau kéo đến Hoa Châu, biết rằng bọn Lương
Sơn Bạc đã đánh giết quân quan, cướp hết Phủ Khố, quân lính trong thành chết
hết hơn một trăm người, lừa ngựa đều bị cướp mất, lại giết mấy trăm người ở
miếu Tây Nhạc, thiệt hại không biết đến đâu mà kể, Thái Úy liền sai quan bản
châu thảo công văn, thuật lại tội Tống Giang cướp lấy các đồ lễ vật, giả làm
quan Thái Úy đánh lừa quan Thái Thú họ Hạ, cùng là đánh giết cướp bóc các lễ,
để tư vào phủ Trung Thư. Đoạn rồi Thái Úy đem lễ vật ra dâng lễ miếu Tây Nhạc,
mà lập tức trở về triều cùng Thiên Tử.
Nói về
Tống Giang, hôm đó cùng bốn hảo hán ở Thiếu Hoa Sơn, chia quân ra làm ba đội
kéo về Lương Sơn Bạc đi qua các dân xã, không hề xâm phạm của ai, khi về gần
tới nơi, sai Đới Tung về sơn trại báo cho các Đầu Lĩnh biết. Tiều Cái nghe báo,
bèn cùng các vị Đầu Lĩnh xuống núi đón lên Tụ Nghĩa Sảnh, rồi cùng nhau mở tiệc
ăn mừng.
Ngày hôm
sau Sử Tiến, Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, đều xuất tiền của riêng để làm việc
tạ ơn Tiều Cái, Tống Giang rất là long trọng.
Trong
khi yến tiệc, Tiều Cái nói với Tống Giang rằng:
- Tôi có
một việc này, vì bấy lâu hiền đệ đi vắng, chưa đám thi hành, vả lại mấy hôm nay
lại có bốn anh em mới đến ở đây, nên chưa tiện nói ra. Nguyên hôn trước Chu Quý
lên bảo với tôi rằng: "Trong núi Mang Đãng, ở huyện Bái thuộc phủ Từ Châu,
có một bọn cường nhân, tụ đến ba nghìn nhân mã ở đó, đầu đảng là một tiên sinh
họ Phàn tên Thụy, biệt hiệu là Hỗn Thế Ma Vương, có tài gọi gió kêu mưa, dùng
binh như thần vậy. Thủ hạ có hai người phó tướng, một người là Hạng Sung, biệt
hiệu là Bát Tý Na Tra, tay cầm thanh gươm Thiết Liêu, lại có một cây đỏan bài,
và khiến hai mươi bốn khẩu phi đao, trăm thước giết người, không sai một chút.
Một người nữa, tên là Lý Cổn, biệt hiệu là Phi Thiên Đại Thánh, tay cầm một
khẩu bảo kiêm, cũng dùng một lá đỏan bài khiến hai mươi bốn thanh gươm nhọn,
giết người ngoài trăm thước mà cũng không hề sống sót một ai. Ba người đó kết
làm anh em, chiếm khu núi đó cướp bóc kiếm ăn, và định đến đánh cả Lương Sơn
Bạc ta đây.Tôi rất lấy làm bực tức, mà chưa có thể trừ ngay đi được."
Tống
Giang nghe nói, hầm hầm nổi giận mà rằng:
- Tên đó
lại dám vô lễ như vậy, để tiểu đêï đến đó một phen mới được.
Sử Tiến
bèn đứng dậy nói với Tiều Cái, Tống Giang rằng:
- Bốn
anh em tôi mới đến đây, chưa hề có một chút công lao, vây chúng tôi xin đem
quân bản bộ, cùng với Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, từ giã Tống Giang, cùng các
vị Đầu Lĩnh mà xuống núi kéo quân đi đánh.
Cách mấy
hôm, đi đến một chỗ gần toà núi, Sử Tiến thở dài mà hỏi rằng:
- Quanh
đây không biết chỗ nào là chỗ ông Cao Tổ nhà Hán, chém rắn khởi nghĩa khi
xưa...
Nói đoạn
ba người cùng thở dài mà ngơ ngẩn kéo đi. Khi tới địa phận núi Mang Sơn, Sử
Tiến liền dàn quân thành trận thế, có ba Đầu Lĩnh là Chu Vũ, Trần Đạt, Dương
Xuân đứng đằng sau.
Được một
lát trên núi Mang Đãng có một đoàn nhân mã kéo xuống, có ba vị hảo hán đi đầu,
một người là Hạng Sung, khiến lá đỏan bài, lưng dắt hai mươi bốn khẩu phi đao,
tay hữu chống tiêu sang, mặt sau có lá cờ hiệu đề bốn chữ "Bát Tý Na
Tra"; Một người là Lý Cổn, cũng khiến lá đỏan dài, lưng dắt hai mươi bốn
thanh gươm nhọn, tay hưu chống kiếm, phía sau cũng có một lá cờ hiệu, trên viết
bốn chữ "Phi Thiên Đại Thánh".
Nguyên
hai người đó ở trên núi, nghe báo có quân mã đến đánh liền kéo tiểu lâu la
xuống để chống cự. Khi xuống dưới núi, thấy Sử Tiến cùng ba hảo hán đương kìm
ngựa đứng đợi ở đó, hai người bèn sai tiểu lâu la khua chiêng gõ trống, kéo
xông ra đánh mà không hỏi han chi cả. Bên kia hậu quân của Sử Tiến, bị thua bỏ
chạy, Sử Tiến liền thúc quân chống lại, và bọn Chu Vũ coi giữ trung quân để
giúp đánh, rồi sau cũng chạy lui ra ngoài bốn mươi dặm. Trong khi lui chạy, Sử
Tiến suýt nữa trúng phải phi đao, còn Dương Xuân luống cuống bị một phát phi
đao đâm vào chân ngựa, chàng liền bỏ ngựa mà chạy lấy thân cho thoát. Sau Sử
Tiến điểm lại nhân mã mất đến quá nữa, chàng lấy làm lo sợ toan sai người về
cầu cứu ở Lương Sơn.
Đương
khi lo nghĩ vẫn vơ, thì chợt thấy quân sĩ báo rằng:
- Về con
đường phía Bắc có một toán nhân mã, ước chừng hai nghìn người kéo đến. Bọn Sử
Tiến nghe báo bèn đem ngựa ra nom, thì thấy bóng cờ Lương Sơn phất phới rồi có
hai viên Thượng Tướng là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, và Kim Ban Sang Từ Ninh dẫn
quân đi đến.
Sử Tiến
tiếp đón Hoa Vinh, Từ Ninh, thuật chuyện võ nghệ của Hạng Sung, Lý Cổn cho hai
người nghe.
Hoa Vinh
nói rằng:
- Tống
Công Minh Ca Ca thấy Huynh trưởng đi rồi trong lòng lấy làm áy náy không yên,
bèn cho chúng tôi đến đây để giúp.
Bọn Sử
Tiến nghe nói cả mừng, liền họp quân vào một chỗ để đóng trại. Sáng hôm sau,
đương kéo quân ra đánh, bổng thấy quân sĩ vào báo rằng:
- Con
đường bên Bắc lại có một toán nhân mã nữa kéo đến.
Hoa
Vinh, Từ Ninh, cúng lên ngựa ra xem, thấy Tống Công Minh cùng Ngô Dụng, Công
Tôn Thắng, Sài Tiến, Chu Đồng, Hô Duyên Chước, Mục Hoằng, Tôn Lập, Hoàng Tín,
Lã Phương, Quách Thịnh, dẫn ba nghìn nhân mã kéo đến.
Sử Tiến
đem chuyện thua thuật lại cho mọi người nghe. Tống Giang nghe nói, lấy làm cả
kinh. Ngô Dụng liền khuyên đem quân hạ trại, rồi sẽ bàn định. Tống Giang nóng
tính, toan tiến binh bắt đánh ngay, liền kéo binh đến gần núi để xem.
Bấy giờ
trời đã gần tối chợt thấy trên núi Mang Đãng có bóng đèn lồng sắc xanh, Công
Tôn Thắng bèn nói với mọi người rằng:
- Trong
trại giặc thắp đèn xanh thế kia, tất nhiên là có người biết dùng phép thuật yêu
tà, vậy chúng ta hãy lui quân ra xa, để sáng mai tôi hiến một phép có thể bắt
được mấy người ấy.
Tống
Giang cả mừng, truyền lui quân hai mươi dặm để hạ trại, đợi sáng hôm sau phá
trận Ma Vương.
Mới hay:
Trông
tan thương những chạnh lòng
Trách ai
tham cái má hồng mà chi
Vẻ gì
một chút tình si,
Thành
tan nước mất tội thì tại ai?
Thương
thôi lại giận cho đời,
Trăm năm
bao hết giống người vô lương?
Có chăng
nhờ bút văn chương
Đem
tranh chính nghĩa làm gương cho đời.
Lời bàn
của Thánh Thán:
Theo tục
bản chép một đoạn văn, Lỗ Trí Thâm cứu Sử Tiến thô bỉ đến nổi không muốn đọc,
lại lạ cho tác giả sao ngọn bút tồi thay? Khi gặp cổ bản, mới phục nguyên văn
tả được thế này? Ta mới than: Văn chương nảy tự trong lòng một ngày của ta, mà
truyền đến tay người đời xem mãi, thế nhân chưa thể biết, mà truyền tay nhân
thế mãi, ta lại không nhận được, khi đó văn chương không thể nói ra, chỉ tiếp
tục bản chép như thế, khiến cho độc giả không thể rơi lệ buồn rầu về nổi văn
chương?
Một đoạn
tả ngăn thuyền ở Vị Hà, trước tả Chu Đồng, Ngô Dụng đứng đầu thuyền, làm một
tổng đề, rồi sau chia làm hai bức, một bức tả Ngô Dụng nói chuyện với quan tiếp
khách, rồi chuyển ra Tống Giang, Tống Giang ra Chu Đồng, Chu Đồng chuyển ra
trên bờ, có Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, đó một dạng thanh thế;
một bức tả Tống Giang cùng Thái Úy vấn đáp, rồi chuyển ra Ngô Dụng, Ngô Dụng
lại chuyển đến Lý Ứng, Lý Ứng lại chuyển ra trên sông có Lý Tuấn, Trương Thuận,
Dương Xuân, đó một dạng thanh thế, rồi sau đến bức thứ ba, tả Tống Giang, Ngô
Dụng nhất tề làm ra để tổng kết lại, chương pháp đã tề chỉnh lại biến hoá, thực
chẳng phải chỉ viết qua loa.
Cực tả
Quan Thái Thú Hoa Châu là người gian hoạt, để mà rõ cớ bắt được Sử Tiến, Lỗ Đạt
hai phen thích khách không thành, thế mà đọc đấy lại không thấy dấu vết chỗ nào
là bổ tả, đã tự khiến người ta tưởng thấy lúc ấy với việc ấy, xét chẳng phải có
bổ tả rõ mới là bổ tả, lại là một phép bổ tả của văn chương.
Sử Tiến
một lời than ở núi Mang Đãng, cũng ám dụng việc xưa, thời Nguyễn Tạ không ai
anh hùng...áng gọi rằng nên sâu chí của Đại Lang, đối với việc thua ở Mang Sơn,
chỉ làm một phép giao chuyển của văn chương cho nảy Công Tôn Thắng chứ đừng vị
thế mà tiếc cho chí Đại Lang.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 59: Núi Mang Đãng, Công Tôn làm phép;
Chợ Tăng Đầu, Tiều Cái trúng tên
Thi Nại
Am
Thuỷ Hử
Truyện
Dịch giả
: Á Nam Trần Tuấn Khải
Hồi 59
Núi Mang
Đãng, Công Tôn làm phép;
Chợ Tăng
Đầu, Tiều Cái trúng tên.
Tống
Giang lui quân đóng trại, rồi sáng hôm sau Công Tôn Thắng bàn với Tống Giang
rằng:
- Nay ta
nên bày trận Bát Quái, theo như thế trận bằng đá, của Gia Cát Khổng Minh đời
trước...Trận ấy có bốn mặt tám phương, chia làm tám tám sáu mươi tư đội, khoảng
giữa có viên Đại Tướng coi, thế trận bày ra bốn đầu tám đuôi, quanh bên tả,
vòng bên hữu, then Trời Đất gió mây, dựa đúng hổ, chim, rồng, rắn, đợi khi bọn
kia xuống núi, thì hai bên mở ra cho họ thẳng xông vào trận, rồi cứ nom hiệu cờ
Thất Tinh mà biến ra thế Trường Sà. Bấy giờ tôi sẽ dùng phép để đánh khiến cho
bọn họ quanh trước quanh sau, hết đường tiến thoái, không khác chi hãm vào
trong hố rồi ta sẽ cho quân cầm dây móc mắc sẵn ở đó mà bắt lấy ba tướng, như
thế thì có cơ tất thắng không sai.
Tống
Giang nghe nói cả mừng, liền truyền cho các Tướng theo lệnh mà làm. Lại sai tám
viên Tướng tài, là Hô Duyên Chước, Chu Đồng, Hoa Vinh, Từ Ninh, Mục Hoằng, Tôn
Lập, Sử Tiến, Hoàng Tín, coi giữ mặt trận; Sài Tến, Lã Phương, Quách Thịnh, tạm
giữ Trung quân; Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng dẫn Trần Đạt để vẫy cờ ra
hiệu, còn Chu Vũ dẫn năm tên quân sĩ đến chỗ gò cao gần núi, để nom thấy trận
bên kia mà báo trước.
Ngày hôm
đó, vào khoảng giờ Tỵ, các quân mã kéo đến gần núi bày nên thế trận, rồi rung
trống khua cờ để khởi đánh. Được một lát thấy trên núi Mang Đãng có tiếng thanh
la dậy đất, rồi thấy ba đầu binh dẫn hơn ba nghìn nhân mã kéo nhau xuống núi.
Khi
xuống tới nơi, đều dàn thành thế trận, Hạng Sung, Lý Cổn đứng bên tả hữu, còn
Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy cỡi con ngựa đen đứng giữa trước cửa trận. Phàn Thụy
tuy biết dùng phép yêu quái song không thuộc trận thế ra sao, khi trông thấy
trận của Tống Giang thì trong bụng mừng thầm rằng:"Chúng bày trận như thế,
là mắc kế ta rồi... "
Nghĩ
đoạn liền truyền lệnh cho Hạng Sung, Lý Cổn nếu thấy ngọn gió nổi lên, thì dẫn
năm trăm tay đao thủ mà sát vào trong trận. Hai người được lệnh, thì sắp sẵn
đỏan bài, cùng các quân khí, để đợi khi Phàn Thụy làm phép mà cùng xông vào.
Bấy giờ
Phàn Thụy ngồi trên mình ngựa, tay tả cầm Lưu Tinh Đồng Chùy, tay hữu chống Hỗn
Thế Ma Vương Bảo Kiếm, trong miệng lẫm nhẫm đọc mấy câu thần chú rồi quát lên
một tiếng "Mau". Chợt thấy một trận cuồng phong rung động; đá chuyển
cát bay, trời mờ đất ám, trên bóng Thái Dương bỗng dưng mờ tối, rồi Hạng Sung,
Lý Cổn dẫn năm trăm đao phủ, reo hò ầm ĩ mà sấn vào trong trận Tống Giang.
Quân mã
Tống Giang thấy vậy, liền rẽ ra hai bên, cho Hạng Sung, Lý Cổn xông vào. Khi đó
tên đạn bên trận Tống Giang bắn ra như mưa, Hạng Sung, Lý Cổn chỉ dẫn được bốn
năm mươi tên đao phủ đi vào, còn thì phải chạy về bản trận.
Tống
Giang thấy hai người đã vào gần đến giữa trận, liền sai Trần Đạt phất cờ Thất
Tinh ra hiệu, cho quân sĩ biến thành thế trận Trường Sà, Hạng Sung, Lý Cổn ở
giữa trận, xông bên đông đột bên tây, quanh bên tả vòng bên hữu, không sao tìm
được lối mà đi, Chu Vũ đứng trên gò cao cầm cờ ra hiệu, hễ hai người chạy về
bên nào thì quay ngọn cờ mà trỏ về bên ấy.
Đương
khi đó, Công Tôn Thắng cũng đứng trên gò cao trông thấy như vậy, liền rút thanh
kiếm Tùng Văn Cổ Địch ra tay, rồi miệng đọc thần chú mà quát lên một tiếng
"Mau". Đoạn rồi thế trận cuồng phong kia, cứ theo chân Hạng Sung, Lý
Cổn mà cuốn hoài không dứt.
Hạng
Sung, Lý Cổn ở trong vòng trận, chỉ thấy trời mờ đất tối, gió thổi ào ào, bốn
mặt mênh mông toàn thị hắc khí, quân mã không thấy chút gì nữa, mà những tay
đao phủ cũng không thấy đâu hết thảy, hai người thấy vậy, trong lòng sợ hãi
kinh hoàng, hết sức tìm đường tháo chạy mà không sao tìm được.
Đương
khi xung đột kinh hoàng, bỗng thấy nổ một tiếng sấm rất to, rồi hai người đều
bắn vào trong hố, không sao dậy được. Đoạn rồi có người đưa thừng móc ra trói
Hạng Sung, Lý Cổn lại để đem nộp Tống Giang.
Tống
Giang đứng trên gò cao, cầm roi ra lệnh cho tam quân kéo tràn sang để đánh.
Phàn Thụy thấy vậy, bèn kéo quân thua chạy về núi, ba phần quân mã, thiệt mất
đến quá nửa phần. Tống Giang thu quân cùng các Đầu Lĩnh trở về trướng.
Bấy giờ
quân lính giải Hạng Sung, Lý Cổn về đến dưới trướng. Tống Giang trông thấy vội
cởi trói cho hai người, rồi nâng chén rượu mà nói rằng:
- Hai vị
tráng sĩ tha lỗi cho tôi, trong khi chiến trận tất phải như thế mới được...Tôi
là Tống Giang được nghe tiếng ba các ngài đã lâu, cũng toan mời về sơn trại để
cùng nhau tụ nghĩa, song chưa có dịp nào mà nói ra cho tiện. Nay nhân được gặp
nhau đây, nếu các ngài có lòng hạ cố, mà cùng nhau về chốn Lương Sơn, thì thực
là vô cùng hân hạnh cho chúng tôi.
Hai
người kia nghe nói liền lạy rạp xuống đất mà rằng:
- Chúng
tôi nghe tiếng Cập Thời Vũ đã lâu, ngờ đâu ngài quả có lòng đại nghĩa như vậy.
Anh em chúng tôi thực cưỡng với trời, nay bị bắt đến đây là dẫu chết cũng chưa
đáng tội. Nay ngài lại rộng lòng tha thứ đi cho chúng tôi sẽ xin hết sức hết
lòng để mà báo đáp. Bây giờ một mình Phàn Thụy không có chúng tôi cũng không
làm gì được, song nếu các ngài rộng phép cho chúng tôi cho một người trở về,
thì tôi xin rủ Phàn Thụy đến đây lập tức, để đầu hàng dưới trướng chẳng hay các
ngài nghĩ sao?
Tống
Giang nói rằng:
- Các
ngài bất tất phải lưu lại nơi đây, xin cứ về cả cho chúng tôi xin sẵn lòng đợi
đây để đón tiếp.
Hai
người đều lạy tạ mà rằng:
- Ngài
thực là bậc Đại Trượng Phu hiếm có, nếu Phàn Thụy không đầu hàng thì chúng tôi
xin bắt về dâng dưới trướng.
Tống
Giang nghe nói cả mừng, mời vào Trung quân thiết đãi cơm rượu; rồi sai lấy quần
áo mới cho hai người mặc, chọn hai cỗ ngựa tốt cho hai người cưỡi, và sai tiểu
lâu la lấy gươm bài ra, trả lại cho hai người về núi, hai người ra đi đều lấy
làm khâm phục Tống Giang mà ngợi khen không dứt miệng.
Khi về
tới núi Mang Đãng, Phàn Thụy trông thấy lấy làm cả kinh liền hỏi đầu đuôi ra
sao? Hạng Sung, Lý Cổn bảo với Phàn Thụy rằng:
- Anh em
chúng ta là trái với trời, thực chưa hết tội...
Phàn
Thụy ngạc nhiên hỏi rằng:
- Sao
anh em lại nói như vậy?
Hai
người liền đem nghĩa khí của Tống Giang mà nói cho Phàn Thụy nghe, Phàn Thụy nói
rằng:
- Tống
Công Minh đã có lòng đại nghĩa như vậy, chúng ta không nên trái cưỡng với Trời,
Sáng mai ta nên lập tức đầu hàng mới phải.
Hai
người nói:
- Chúng
tôi trở về đây, cũng vì việc đó mà thôi. Nay đã đồng tâm như vậy, thì xin thu
xếp mau đi.
Nói đoạn
cùng nhau thu thập hết cả sơn trại, rồi sáng hôm sau cùng nhau kéo đến bái yết
Tống Giang. Khi tới nơi ba người lạy rạp xuống đất.Tống Giang liền đỡ dậy, mời
vào cùng nói chuyện.
Ba người
thấy Tống Giang ra lòng thân mật, không chút gì ra vẻ hiềm nghi, thì cùng nhau
vui ve bội phần, và đem hết chuyện bình sinh mà thuật lại cho mọi người cùng
biết, và mới các vị Đầu Lĩnh lên chơi núi Mang Đãng để giết ngựa mổ trâu thiết
đãi, cùng là khao thưởng tam quân. Khi yến ẩm xong Phàn Thụy bái Công Tôn Thắng
làm thầy, Tống Giang liền lập Công Tôn Thắng làm giáo chủ, để truyền Ngũ Lôi
Thiên Tâm Chính Pháp cho Phàn Thụy. Phàn Thụy lấy làm cảm tạ vui mừng vô hạn.
Cách mấy
hôm sau bọn Phàn Thụy thu nhặt lừa ngựa tiền nong, đốt bỏ sơn trại, rồi theo
Tống Giang về cả Lương Sơn. Khi về gần tới Lương Sơn đang sắp sẳn quân mã qua
đò về núi, thì bổng thấy một hảo hán đến trước mặt Tống Giang cúi rạp xuống đất
lạy rằng.
Tống
Giang thấy vậy liền xuống ngựa đỡ dậy, mà hỏi rằng:
- Túc hạ
là ai? ở đâu tới đây? Chúng tôi không được biết ...Người kia nói rằng:
- Chúng
tôi họ Đoàn tên Cảnh Trụ, người ta thấy tóc đỏ râu vàng, nên người ta thường
gọi là Kim Mao Khuyển. Nguyên tôi quán ở Trác Châu, bình sinh kiếm ăn bằng nghề
trộm ngựa ở mạng Bắc, tới mùa xuân năm nay qua núi Sơn Can lấy được con ngựa
rất quý toàn trắng như tuyết, suốt mịn không có một cái lông nào khác sắc; Từ
đầu chí cuối vừa dài được một trượng, từ lưng tới móng cao tám thước hơn, một
ngày có thể đi được nghìn dặm, vẫn có tiếng là Chiến Dạ Ngọc Sư Tử xưa nay. Con
ngựa đó nguyên chúng tôi lấy của con vua Đại Kim, thả ở trên núi Sương Can,
định đem làm lễ mừng để yết kiến ngài đây...Bất đồ đi qua chợ Tăng Đầu phía tây
nam Lăng Châu, bị đám Tăng Gia Ngũ Hổ sấn ra cướp lấy. Bấy giờ chúng tôi có nói
dối rằng:
- Con
ngựa này của Tống Công Minh ở Lương Sơn Bạc, để hòng chúng trả lại cho. Ai ngờ
chúng nghe nói, lại giở những lời thô bỉ hỗn hào, không thể nào chịu được, bởi
vậy tôi phải vội vàng trốn về đây, để báo cho mọi người biết.
Tống
Giang thấy người đó, tóc đỏ râu xoắn, không phải là tay thường tục, liền có ý
vui thầm trong bụng mà bảo rằng:
- Nếu
vậy hãy xin mời về sơn trại, rồi ta sẽ thương nghị sau.
Nói đoạn
mời Đoàn Cảnh Trụ xuống thuyền, để cùng về sơn trại.Khi thuyền về gần tới bến
Kim sa, Tiều Cái dẫn các Đầu Lĩnh ra đón vào Tụ Nghĩa Sảnh, rồi Tống Giang bảo
Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, và Đoàn Cảnh Trụ, đến chào hỏi các vị Đầu Lĩnh
trong sơn trại, mà cùng vào dự tiệc với nhau. Bấy giờ Tống Giang sai Lý Vân,
Đào Tôn Vượng đốc thúc thợ thuyền, làm thêm phòng ốc, cùng các trại, để cho các
Đầu Lĩnh mới đến ở.
Đoạn rồi
Đoàn Cảnh Trụ nhắc đến con ngựa Ngọc Sư Tử, Tống Giang bèn phái Đới Tung ra chợ
Tăng Đầu, để tham thính tin tức.
Cách bốn
hôm sau, Đới Tung trở về báo với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Trên
chợ Tăng Đầu có tới ba nghìn nhà ở, trong đó có một nhà gọi là Tăng Gia Chủ,
chủ nhà nguyên là người nước Đại Kim, tên Tăng Trưởng, sinh được năm người con,
gọi là Tăng Gia Ngũ Hổ(năm con hổ nhà họ Tăng). Người con lớn tên là Tăng Đồ,
thứ hai là Tăng Mật, thứ ba là Tăng Sách, thứ tư Tăng Khôi, thứ năm Tăng Thăng,
lại có một ông giáo sư là Sử Văn Cung, và một ông phó giáo sư là Tô Định, cung
nhau tụ năm bảy nghìn lâu la họp ở chợ Tăng Đầu, làm nhà đóng trại, chế sẳn hơn
năm mươi cổ xe tù, thề cùng sống chết với bọn Lương Sơn Bạc, và thế nào cũng
bắt hết bọn Lương Sơn mới nghe. Con ngựa Ngọc Sư Tử đó, thì hiện nay để cho
giáo sư Sử Văn Cung cởi...Có một điều nữa rất đáng giận là chúng nó tung ra mấy
câu hát, dạy cho trẻ con hát trong chợ suốt cả ngày, nghe ra thực thống thiết.
Chúng hát rằng:
Lay động
thiết hoàn linh,
Quỹ thần
đều kinh sơ.ï
Xe sắt
cùng khoá sắt:
Dưới
trên có chốt đanh.
Quét
sạch Lương Sơn lấp Thủy Bạc;
Dong cổ
Tiều Cái về Đông Kinh.
Bắt sống
Cập Thời Vũ,
Trói
chặt Trí Đa Tinh.
Họ Tăng
có năm hổ
Thiên hạ
nức uy danh.
Tiều Cái
nghe đến đó, đùng đùng nổi giận mắng rằng:
- Quân
súc sanh vô lễ đến thế ...tôi phải đi phen này, nếu không bắt được chúng, xin
thề không về núi nữa. Phen này chỉ xin cắt hai nghìn nhân mã, và hai mươi Đầu
Lĩnh xuống núi giúp tôi, còn các vị Đầu Lĩnh xin ở nhà coi trại với Tống Công
Minh.
Nói đoạn
liền cắt Lâm Xung, Hô Duyên Chước, Từ Ninh, Mục Hoằng, Trương Thuận, Dương
Hùng, , Thạch Tú, Tôn Lập, Hoàng Tín, Yến Thuận, Đặng Phi, Âu Bằng, Dương Lâm,
Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Bạch Thắng, Đỗ
Thiên, Tống Vạn, công tất cả hai mươi Đầu Lĩnh dẩn ba quâ xuống núi đi đánh.
Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, cùng các vị Đầu Lĩnh, đều đưa chân đến
bến Kim Sa, để nâng chén rượu tiễn hành.
Đương
khi nâng chén qua hà, bổng có một trận cuồng phong đưa đến, thổi gãy ngay ngọn
cờ quân lệnh của Tiều Cái mới chế ra. Mọi người trông thấy đều kinh ngạc, biến
hẳn ngay sắc mặt đi.
Ngô Học
Cứu Can Tiều Cái rằng:
- Ca Ca
vừa mới ra quân, bỗng ngọn gió thổi gãy cờ, như thế là điều bất lợi, vậy xin Ca
Ca hãy lui quân vào trong trại vài bữa, rồi sẽ ra đi...
Tiều Cái
nói rằng:
- Trời
đất có khi mưa khi gió, lấy gì làm lạ!Bây giờ đương dạo mùa xuân ấm áp, nếu
không thừa thế, khử trừ nó đi, thì còn đợi đến bao giờ nữa? Việc này xin chớ
ngăn trở, thế nào tôi cũng xin đi một phen mới được.
Ngô Dụng
nghe nói đành phải lặng yên cho Tiều Cái ra đi. Khi Tiều Cái đi rồi, Tống Giang
liền quay về sơn trại, sai Đới tung xuống núi đi theo, để thăm dò tình thế.
Hôm đó
Tiều Cái dẩn năm nghìn quân mã, cùng hai mươi vị Đầu Lĩnh đến chợ Tăng Đầu,
liền đóng trại đối với trại giặc bên kia. Ngày hôm sau Tiều Cái cùng các vị Đầu
Lĩnh cưỡi ngựa đi ra chợ Tăng Đầu, để thăm nom địa thế,
Đương
khi đó, bỗng thấy trong rừng liền có một toán nhân mã ước chừng bảy tám trăm
người kéo ra, có một anh hảo hán là Tăng Khôi con thứ tư Tăng Gia đi đầu, quát
lên rằng:
- Lũ bay
là quân giặc cỏ, làm loạn vùng Lương Sơn, ta đương toan đến để tróc nã ...Nay
trời lại rung rủi cho bay đến đây, thì thực là tiện lắm...Bay không xuống ngựa
chịu trói ngay đi, còn đợi đến bao giờ nữa?
Tiều Cái
nghe nói cả giận, quay đầu lại toan gọi người ra đánh, thì đã thấy một người
xông ngựa ra để đánh nhau với Tăng Khôi. Người này nguyên là một người bắt đầu
kết nghĩa từ khi mới đến Lương Sơn, tức Báo Tử Đầu Lâm Xung đó. Lâm Xung đánh
nhau hơn mười hiệp, Tăng Khôi liệu thế không địch nổi, liền cắp giáo quay ngựa
chạy về rừng, Lâm Xung thấy vậy cũng kềm ngựa lại, mà không đuổi theo.
Tiều Cái
liền dẩn quân mã về trại để bàn cách đánh phá.
Lâm Xung
bàn rằng:
- Ngày
mai dẩn binh ra chợ mà khơi đánh, để xem tình hình thực hư thế nào, rồi ta sẽ
liệu.
Tiều Cái
khen phải mà nghe lời. Sáng hôm sau dẩn cả năm nghìn quân mã, ra khu đất rộng
trước cửa chợ Tăng Đầu, bày thành trận thế gỏ mõ khua chiên mà gọi đánh.
Bấy giờ
trong chợ Tăng Đầu nghe có tiếng trống hiệu nổi lên, rồi thấy đại đội nhân mã
kéo ra dàn trận, có bảy vị hảo hán đứng đầu: Khoảng giữa là giáo sư Sử Văn
Cung, phía trên là phó giáo sư Tô Định, phía dưới là con trưởng Tăng Gia tên là
Tăng Đồ, bên tả thì Tăng Mật, Tăng Khôi, bên hữu thì Tăng Thăng, Tăng Sách. Bảy
người này đều nai nịch nghiêm chỉnh, coi rất oai vệ. Giáo sư Sử Văn Cung, lưng
đeo cung tên, mình cưỡi ngựa Thiên Lý Ngọc Sư Tử, tay cầm một cây Thiên Phương
Hoạt Kích, rõ ra một tướng anh hùng.
Khi ba
hồi trống trận vừa dứt, thì bên Tăng Gia đẩy ra một xe tù ra trước mặt, rồi
Tăng Đồ chỏ mắng bọn Tiều Cái rằng:
- Quân
giặc cỏ phản bội nhà nước kia, có thấy cỗ xe của ta đó không?Chúng Ta đây nếu
không giết chết chúng bây, thì không phải là tay hảo hán, nay ta vớ được đứa
nào là bắt sống đứa ấy để đem nhốt vào xe tù, mà mang nộp Kinh Sư, thế mới rõ
là tay Ngũ Hổ ở Tăng Gia. Nếu bay có biết điều thì xuống ngựa mà chịu trói
trước đi, thì ta sẽ liệu giảm tội đi cho...
Tiều Cái
nghe nói tức giận, múa gươm thúc ngựa thẳng xông ra đánh Tăng Đồ, rôi các tướng
nhất tề cũng xông ra để đánh, đôi bên đánh nhau lộn bậy một hồi, quân mã Tăng
Gia vừa đánh vừa lui vào trong thôn.
Lâm
Xung, Hô Duyên Chước xung đột đánh theo, sau thấy đường sá hiểm trở không lối,
liền thu binh kéo về trại.
Hôm đó
hai bên đánh nhau, đều thua mất nữa nhân mã, mà không định được thua ra sao.
Khi trở về trong trại, Tiều Cái lấy làm lo nghĩ băn khoăn.
Các
tướng can rằng:
- Ca Ca
phải nên tỉnh tâm, chớ lo nghĩ chi cho mệt nhọc. Trước đây Tống Công Minh ra
trận, vẫn bị thua luôn, sau cũng được toàn thắng trở về...Và ngày nay hai bên
đánh nhau đều có thiệt hại cả, mình cũng không đến nổi thua kém gì, Ca Ca phải
nghĩ... .
Tiều Cái
nghe vậy, trong lòng vẫn lấy làm ngay ngáy không vui. Sau đó luôn ba ngày đêm
quân ra chợ khơi đánh, mà không thấy một ai.
Ngày hôm
thứ tư bổng có hai nhà sư, đi thẳng vào sơn trại để xin chào Tiều Cái, Chúng
dẩn vào tới nơi, hai người quỳ trước mặt Tiều Cái mà nói rằng:
- Chúng
tôi là Giám Tự ở chùa Pháp Hoa mé bên hông chợ Tăng Đầu, nhân bị Tăng Gia Ngũ
Hổ, thần thường đến quấy nhiễu trong chùa và sách nhiểu lấy tiền nong của cải
rất là khó chịu. Vả chúng tôi ở đây đã lâu, biết rỏ được tình thế của họ, vậy
xin đến đây để hiến Đầu Lĩnh một kế, mà cướp trại đêm nay, để khử trừ họ đi,
thì thực là may cho dân chúng.
Tiều Cái
nghe nói cả mừng, liền mời hai nhà sư ngồi, và rót rượu để thiết. Khi đó Lâm
Xung can rằng:
- Ca Ca
chớ nên nghe vội, vì trong đó không khéo có kế lừa cũng nên...
Tiều Cái
nói nói rằng:
- Người
ta là kẻ Thái Úy hành, có khi nào lại nỡ nói càng nói bậy...Bọn Lương Sơn ta
xưa nay vốn theo đường nhân nghĩa, đi đến đâu không hề quấy nhiễu lương dân,
vậy thì hai người này có thù hằn gì với ta mà nở nói dối? Vả chăng bọn Tăng Gia
vị tất đã đánh được nổi quân của ta, còn can chi mà phải nghi ngại? Việc nay
xin anh em chớ nên rùi rắn mà lỡ mất chuyện to, đêm nay ta phải đi mới được ...
Lâm Xung
có ý can mà rằng:
- Nếu Ca
Ca quyết định đi, thì tôi xin chia nữa quân mã đến cướp trại, còn Ca Ca tiếp
ứng ở ngoài.
- Nếu
tôi không đi thì ai chịu ra sức, hiền đệ giữ một nữa quân ở bên ngoài tiếp ứng,
để tôi vào cướp trại cho.
- Ca Ca
định mang ai đi cùng?
- Tôi
định lấy hai nghìn nhân mã và mười vị nhân Đầu Lĩnh để vào cướp trại.
Nói đoạn
liền gọi Lưu Đường, Hô Duyên Chước, Nguyễn Tiểu Ngũ, Yến Thuận, Nguyễn Tiểu
Thất, Tiểu Thiên, Bạch Thắng, Tống Vạn, chỉnh điểm nhân mã, đợi chiều hôm đó
đến cướp trại. Đêm hôm đó trời vừa sẩm tối, cơm nước xong rồi, ba quân đều ngậm
tăm im phắc, ngựa tháo nhạc ra, rồi cùng hai người thầy chùa, mà kéo vào chùa
Pháp Hoa.
Khi tới
nơi, Tiều Cái xuống ngựa đi vào, thấy quả nhiên là một khu chùa cổ, mà không có
sư mô ở đó, liền hỏi hai người sư kia rằng:
- Đây là
một nơi chùa lớn, mà sao không có pháp sư ở đây?
Nhà sư
đáp rằng:
- Nhân
vì mấy đứa súc sinh nhà họ Tăng quấy nhiểu, nên các sư đều sợ hãi mà bỏ đi cả,
duy còn có sư phụ và mấy người đồ đệ thì ở tháp viện trong kia...Xin Đầu Lĩnh
tạm nghỉ nhân mã đây, rồi canh khuya tôi sẽ đưa tới trại chúng.
- Trại
chúng ở chỗ nào?
- Chúng
nó có bốn trại, song bên bắc là chỗ anh em họ Tăng đóng binh, nếu đánh được chỗ
đó, thì trại bên kia phá dễ như chơi.
- Đợi
lúc nào thì đi?
- Bây
giờ mới canh hai, xin đợi đến canh ba sẽ đi.
Bấy lâu
nổi tiếng giang hồ,
Một phen
phó mặc cơ đồ cho ai?
Hết thân
chưa dứt chuyện đời,
Gươm thù
còn gửi lại người nước non...
Bấy giờ
Tống Giang thấy Tiều Cái mất, thì trong lòng lấy làm thảm thiết, cất tiếng khóc
nức nở, không khác gì cha mẹ mất vậy.
Các Đầu
Lĩnh thấy vậy đều dìu Tống Giang ra để chủ trương các việc.
Ngô Dụng
cùng Công Tôn Thắng khuyên Tống Giang rằng:
- Ca Ca
chớ nên phiền não cho lắm người ta sống chết bởi tại mệnh trời, dẩu than khóc
cũng không làm chi được nữa. Vậy xin Ca Ca hãy lý hội việc lớn là hơn.
Tống
Giang nghe nói liền gạt nước mắt, rồi sai lấy nước hương hoa tắm cho Tiều Cái,
khâm liệm áo xiêm tử tế, mà đưa ra Tụ Nghĩa Sảnh.
Các Đầu
Lĩnh đều đến đó mà khóc lóc làm lễ, rồi sai đóng quách, chọn ngày lành tháng
tốt mà đưa ra chính sảnh, đặt linh sàng viết bài vị mấy chữ "Lương Sơn Bạc
Chủ, Thiên Vương Tiều Công Thần Chủ" để thờ.
Các vị
Đầu Lĩnh trong sơn trại cùng Tống Giang trở xuống; đều ăn mặc đại tang, còn các
tiểu đầu mục cùng các tiểu lâu la cũng chít khăn để tang.
Lâm Xung
đem mũi tên thề ở trước linh sàng Tiều Cái, rồi sơn trại dựng cành phan, thỉnh
các sư ở chùa gần đó, về làm chay siêu thoát cho Tiều Thiên Vương.
Từ đó
hàng ngày Tống Giang lại dẩn các vị Đầu Lĩnh đến trước linh sàng khóc lóc,
không có bụng nào nghĩ đến việc sơn trại. Lâm Xung cùng Ngô Dụng, Công Tôn
Thắng và các vị Đầu Lĩnh bàn nhau tôn Tống Giang lên làm chủ, để coi giữ hiệu
lệnh trong sơn trại.
Sáng hôm
sau thiết bày vị hương hoa đền nến, rồi Lâm Xung dẩn các Đầu Lĩnh mời Tống
Giang ra ngồi ở Tụ Nghĩa Sảnh mà nói rằng:
- Dám
bẩm Ca Ca, trong nước không thể một ngày không có vua, trong nhà không thể một
ngày không có chủ. Nay Tiều Đầu Lĩnh đã hết mệnh chầu trời, công việc ở trong
sơn trại, không thể không có người chủ trương được. Vậy Ca Ca là một người đại
nghĩa anh tài trong thiên hạ không ai là không biết tiếng, vậy chúng tôi xin
chọn ngày lành tháng tốt, để mời Ca Ca lên làm chủ sơn trại, cho anh em được
cùng theo hiệu lệnh của Ca Ca mới được.
Tống
Giang từ chối mà rằng:
- Khi
Tiều Thiên Vương sắp nhắm mắt có dặn lại rằng: "Ai bắt được Sử Văn Cung
thì cho làm chủ Lương Sơn Bạc"Điều đó các Đầu Lĩnh ai ai cũng biết. Vậy
nay tên thề vẫn còn để kia, có lẽ nào đã quên được hay sao? , vả chăng chưa ai
báo cừu rửa hận cho xong, có khi nào đã ở ngôi ấy được?
Ngô Học
Cứu nói rằng:
- Đã
đành Tiều Thiên Vương nói vậy, song việc sơn trại không thể một ngày không có
chủ được, nếu Ca Ca không nhận ngôi ấy, thì các Đầu Lĩnh toàn là những kẻ dưới,
cọn ai dám nhận mà làm? Vả chăng anh em đây phần nhiều toàn thị tâm phúc của Ca
Ca, chắc cũng không ai dám dị nghị vào đó, vậy xin Ca Ca hãy tạm quyền ít lâu,
rồi sau này sẽ liệu.
Tống
Giang nói rằng:
- Quân
sư dạy thế cực phải, nay tôi xin quyền tạm ở đây, ngày sau ai bắt được Sử Văn
Cung, thì xin nhường vào vị đó.
Bấy giờ
Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đứng bên cạnh kêu lên rằng:
- Ca Ca
làm Đại Tống Hoàng Đế cũng được, cử gì chủ một Lương Sơn Bạc này.
Tống
Giang cả giận quát lên rằng:
- Thằng
đen lại đến đó mà nói nhắng ...còn nói câu nữa thì ta cắt lưỡi đó.
Lý Quỳ
nói:
- Tôi có
bảo Ca Ca đừng làm đâu? Tôi mời Ca Ca làm Hoàng Đếù mà cũng cắt lưỡi..? Ngô Học
Cứu nói rằng:
- Ca ca
là một người không biết thời thế, nói làm chi ta hãy xong việc lớn đã.
Nói đoạn
Tống Giang đốt hương xong, rồi Lâm Xung, Ngô Dụng mời Tống Giang lên ngồi ghế
chính giữa, phía trên có Ngô Dụng, phía dưới có Công Tôn Thắng; dãy bên tả có
Lâm Xung làm đầu, dãy bên hữu có Hô Duyên Chước làm đầu, còn các thue lĩnh theo
thứ tự mà ngồi.
Khi các
thủ lỉnh vái chào cùng ngồi yên vị rồi Tống Giang nói rằng:
- Ngày
nay tôi tạm quyền chủ vị ở đây, dám xin anh em hết lòng hết sức ràng buộc lấy
nhau, để cùng thay trời làm Đạo, Trong sơn trại hiện nay, nhân mã đông đúc,
công việc bộn bề, không phải tầm thường như ngày trước. Vậy xin anh em chia ra
làm sáu trại để đóng. Tụ Nghĩa Sảnh lại đổi là Trung Nghĩa Đường, trước sau tả
hữu xin đặt bốn trại trên bộ, sau núi làm hai trại con, trước cửa núi ba toà
quan ải, dưới núi một trại thủy quân, hai bên có hai trại nhỏ, cùng chia nhau
canh giữ các nơi, Trung Nghĩa Đường thì tôi tạm giữ ngôi chủ, rồi thứ nhì đến
quân sư Ngô Ngọc Cứu, thứ ba đến pháp sư Công Tôn Thắng, thứ tư đến Hoa Vinh,
thứ năm đến Tần Minh, Thứ sáu đến Lã Phương, thứ bảy đến Quách Thịnh; trong tả
trại thứ nhất thì Lâm Xung, thứ nhì Lưu Đường, thứ ba Sử Tiến, Thứ tư Dương
Hùng, thứ năm Thạch Tú, thứ sáu Đỗ Thiên, thứ bảy Tống Vạn; Trong trại hữu quân
thứ nhất Hô Duyên Chước, thứ nhì Chu Đồng, thứ ba Đới Tung, thứ tư Mục Hoằng,
thứ năm Lý Quỳ, thứ sáu Âu Bằng, thứ bảy Mục Xuân; Tiểu trại thứ nhất Lý Ứng,
thứ nhì Từ Ninh, thứ ba Lỗ Trí Thâm, thứ tư Võ Tòng, thứ năm Dương Chi, thứ sáu
Mã Lân, thứ bảy Tri An; Hậu trại thứ nhất SÀi Tiến, thứ nhì Tôn Lập, thứ ba
Hoàng Tín, thứ Tư Hàn Thao, thứ năm Bàng Dĩ, thứ sáu Đặng Phi, thứ bảy Tiếc
Vĩnh. Trong trại thủy quân thứ nhất Lý Tuấn, Thứ nhì Nguyễn Tiểu Nhị, thứ ba
Nguyễn Tiểu Ngũ, Thứ Tư Nguyễn Tiểu Thất, thứ năm Trương Hoành, thứ sáu Trương
Thuận, thứ bảy Đồng Uy, Đồng Mảnh. Sáu trại cộng bốn mươi ba viên Đầu Lĩnh.
Tước cửa
quan lần thứ nhất do Lôi Hoành Phàn Thụy Giữ. Cữa quan thứ hai do Giả Trân,
Giải Bảo giữ, cữa quan thứ ba do Hạng Sung, Lý Cổn giữ. Tiểu trài ở bến Kim Sa
sai Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ, cùng Khổng Minh, Khổng Lượng coi, tiểu trại ở
bến Aùp Chủy giao cho Lý Trung, Chu Thông, Trâu Uyên, Trâu Thuận giữ. Hai tiểu
trại đằng sau núi có Dương Nuỵ Hổ, Nhất Trượng Thanh và Tào Chính, bên hữu có
Chu Vũ, Trần Đạt Dương Xuân coi giữ. Trong Trung Nghĩa Đường về dãy phòng bên
tả có Tiêu Nhượng coi việc văn thư, Bùi Tuyên coi việc thưởng phạt, Kim Đại
Kiện coi việc ấn tín, Tưởng Kinh coi việc tính toán tiền nong; Dãy bên hữu có
Lăng Chấn coi việc tiền nong, Mạnh Khang coi việc đóng thuyền, Hầu Kiện coi
việc chế mũ giáp. Đào Tôn Vương coi việc xây dựng thành quách. Còn các người ở
Trung Nghĩa Đường, thì có Lý Vân coi việc dựng nhà cửa, Thăng Long đốc thúc thợ
rèn, Chu Quý coi việc chế rượu chè, Tống Thanh coiviệc cỗ bàn yến tiệc. Đỗ Hưng
Bạch Thắng coi sóc các đò vặt vãnh. Ngoài núi làm bốn ngôi tữu điếm nguyên giao
cho bọn Chu Quý, Nhạc Hoà, Thời Thiên, Lý Lập, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương
Thanh, Tôn Nhị Nương chia giữ, còn Dương Lâm Thạch Dũng, Đoàn Cảnh Trụ thì
chuyên việc mua lừa ngựa về phía bắc.
Khi cắt
đặt xong rồi, các Đầu Lĩnh lớn nhỏ ở Lương Sơn Bạc, đều nhất làm theo lệnh Tống
Giang, mà không hề có điều chi ngang trái.
Sáng hôm
sau Tống Giang lại họp các vị Đầu Lĩnh mà bàn rằng:
- Lẽ ra
ta nên vì Tiều Thiên Vương mà đem quân đi đánh Tăng Đầu Thị để báo thù ngay lập
tức. Song hiện nay trong lúc cư tang, ta kinh động như thế, thì là bất tiện.
Vậy xin để ra ngoài trăm ngày, rôi sẽ cử binh đi đánh, cũng không lấy gì làm
chậm trễ... .
Các Đầu
Lĩnh nghe lời đều lui ra coi giữ sơn trại, và ngày ngày lại đón thầy làm chay
niệm phật để tịnh độ siêu sinh cho Tiều Cái.
Một hôm
có một vị có pháp danh là Đại Viên, Nguyên là pháp chủ trong chùa Long Hoa, tại
phủ Đại Danh Thành Bắc Kinh, nhân đi vân du qua mạn Lương Sơn, bọn Lương Sơn
liền đón và để làm chay, cúng Phật; Trong khi trò chuyện Tống Giang hỏi đến
nhân vật cùng phong thổ ở Bắc Kinh.
Nhà sư
hỏi Tống Giang rằng:
- Đầu
Lĩnh không biết ông Ngọc Kỳ Lân ở đất Hà Bắc hay sao?
Tống
Giang nghe nói, chợt nghĩ ra, liền nói với nhà sư rằng:
- Ngài
nom chúng tôi chưa già, có bao giờ quên được việc ấy. Trong thành Bắc Kinh Viên
Ngoại họ Lư tên Tuấn Nghiã, biệt hiệu là Ngọc Kỳ Lân, đứng vào hạng Tam Kiệt ở
Bắc Hà đấy... Ông ta võ nghệ cao cường, côn quyền không ai địch nổi, nếu ở
Lương Sơn Bạc có được ông ấy, thì trong bụng tôi không lo nghĩ một điều chi
nữa.
Ngô Dụng
nghe nói cười mà rằng:
- Ca Ca
can chi nói những câu bất đắc chi như vậy? Nếu muốn được người ấy lên núi, thì
có khó gì?
Tống
Giang nói rằng:
- Ông ta
là một trưởng giả bậc nhất ở Bắc kinh.
Xưa nay
tôi vẫn nghĩ đến luôn, vì dạo này bận rộn nên lãng quên đi mất... tôi chỉ thi
hành một kế cỏn con thì khả dĩ đưa được người ấy lên đây ngay có ngại gì?
Tống
Giang nghe vậy, khen ngợi Trí Đa Minh, và hỏi xem kế sách ra sao?
Mới hay:
Anh hùng
đứng giữa trần ai,
Tri âm
đâu dể lọt ngoài mắt xanh?
Nặng
lòng kẻ tử người sinh,
Nước bèo
tan hợp chút tinh dể quên.
Mong cho
chung thủy vẹn tuyền,
Thắt dày
liên lạc làm duyên giang hồ.
Máu
riêng chung đúc một lò,
Ra tay
gánh lấy cơ đồ xem sao?
Lời bàn
của Thánh Thán.
Đọc Thủy
Hử theo tục bản, đến chỗ này, thấy bỗng đâu hết ý, không hiểu rõ ra, tới khi
đọc đến cổ bản, mới ngậm ngùi than: Hỡi ôi khéo thay; văn chương hay đến bậc
này!
Xét từ
trước Tiều Cái muốn đi đánh Chúc Gia Trang thì Tống Giang đón lấy, can rằng: Ca
Ca là chủ sơn trại, không động; Tiều Cái muốn đánh Cao Đường, Tống Giang cũng lại
khuyên rằng: Ca Ca là chủ sơn trại, không nên khinh động; cho tới đánh Thanh
Châu, đánh Hoa Châu, Tống Giang đều một điệu nói ấy, đón lấy mà đi.
Sao đến
đánh Tăng Đầu Thị, thì Tiều Cái quyết đi, Tống Giang lặng im không nói câu nào,
Tống Giang chẳng ngăn, mà Tiều Cái đã chết vì việc đó, ta đây cũng chẳng biết
sự thực ra sao? Song theo quân tử mà xem thư pháp, suy đến tình trạng, dẫn
chuyện Hứa Thế Tử chẳng nếm thuốc qua để đoán việc ngục, thì Tống Giang đã giết
Tiều Cái, quyết không dung thứ, đó chẳng phải mũi tên của Sử Văn Cung, mà thực
ra chết ở trên tay Tống Giang vậy, cũng chẳng phải là Tống Giang biết rõ năm hổ
ở chợ Tăng Đầu, có thể giết chết Tiều Cái mà chẳng đem binh cứu viện, vì Tiều
Cái chết chẳng phải Tống Giang nghĩ biết tới, song lẽ Tiều Cái chết thì hay cho
Tống Giang, chẳng phải chỉ ngày ấy mà nghĩ tới. Ta biết đó vì sao? Vì Tiều Cái
mỗi khi muốn hạ sơn, Tống Giang lại đón ngăn đi, Tống Giang không muốn Tiều Cái
hạ sơn kia, là chẳng muốn Tiều Cái có sơn trại nữa, lại chẳng muốn mọi người coi
có Tiều Cái nữa, đã chẳng muốn Tiều Cái còn sơn trại nữa, thì sơn trại phải một
sớm sẽ không còn của Tiều Cái, Tống Giang cả mừng; lại chẳng muốn mọi người coi
có Tiều Cái, thì Tiều Cái tuy chưa chết ở trong tay Sử Văn Cung, song đã chết
ngay ở trên tay mọi người trên sảnh dưới sảnh không hưởng ứng lời, đâu phải chỉ
một ngày mà thôi vậy, như thế, ngày nay Tiều Cái chết ở tay Sử Văn Cung đã dư
cái chết từ trước, cái chết của Tiều Cái vốn lâu rồi, thế mà Tiều Cái đến chết
mới kinh hoảng, là thấy ở trên tay Sử Văn Cung của Tăng Gia Ngũ Hổ, vì Tống
Giang thấy Tiều Cái ra đi, rồi đến chết, mà đành vậy. Cho nên từng khuyên đừng
đánh Chúc Gia Trang, đừng đi đánh Cao Đường, đừng đi đánh Thanh Châu, Hoa
Châu... thì đủ biết rằng đi đánh Tăng Gia thì cũng phải khuyên rồi, thế mà tác
giả đối với những trận trước thì chép ra Tống Giang khuyên, đến lần này, chép
bỏ sự khuyên đi, cho rõ cái ác tâm của Tống Giang để định tội vậy. Đó là thâm ý
của tác giả, dùng ngòi bút kỳ quan chép sử, cho rõ cong ngay, nếu không đọc cổ bản,
thì không thấy rõ.
Suốt
thiên này đều dùng ngòi bút tả ra, cho rõ tội Tống Giang, muốn giết Tiều Cái,
như gió thổi gãy cờ, chỉ một Ngô Dụng can thôi, đó là một tội; Đới Tung đi thám
thính, giấu chuyện về báo, hai tội vậy; Năm tướng cứu chết, còn mọi người chỉ
biết mình, ba tội vậy; Sao chủ soái sa, mọi người chẳng đổi về, bốn tội vậy;
chỉ biết khóc lóc, không lo thuốc thang, năm tội vậy; Tiều Cái để lại lời thề,
mà rằng chẳng quái, sáu tội vậy; Vội lên ngôi lớn, sắp đặt khác đi, bảy tội
vậy; Bỏ mặc tang chế chẳng báo thù ngay, tám tội vậy; Thù lớn chưa xong, gặp
thầy tăng rỗi bàn, chín tội vậy; Bỏ chết Thiên Vương, bắt sống Kỳ Lân, mười tội
vậy.
Hồi thứ
hai tả Thiếu Hoa Sơn, hồi thứ tư tả Đào Hoa Sơn, hồi mười sáu tả Nhị Long Sơn,
hồi ba mươi mốt tả Bạch Hổ Sơn, đến hồi này tóm thâu hết lại, thực là kỳ bút,
thế mà còn hiềm rằng cùng giống nhau, cùng giống nhau như sao? Như bày tất cả
con cờ, đến kết cục cùng thu lại cả. Sau đọc đến thiên này, lại có thêm một Hỗn
Thế Ma Vương, trước chưa từng có, bỗng đâu nảy ra, gặp một sự hư này, cùng với
bốn sự thực kia, vậy sau biết đến văn chương có phép tương cứu vậy.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 60: Lừa Ngọc Kỳ Lân Ngô Dụng lập mẹo:
Quấy Kim Sa Đọ Trương Thuận trổ tài
Khi đó
Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Tôi
xin dùng ba tấc lưỡi vào tới Bắc Kinh, thuyết cho Lư Tuấn Nghĩa, đi đến Lương
Sơn thực dể như thò bàn tay vào trong túi lấy đồ vật vậy. Song phải có một số
người nào mặt mũi kỳ quái đi với tôi thì mới được.
Ngô Dụng
vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ kêu to lên rằng:
- Quân
sư Ca Ca cho tôi đi với...
Tống
Giang quát mắng rằng:
- Anh đi
không được, có phải là việc đốt nhà giết người, cướp kho phá phủ, thì mới dùng
đến anh, còn việc này phải cẩn thận vững vàng, mà tính khí anh như thế, thì đi
làm sao được?
Lý Quỳ
nói rằng:
- Lần
nào cũng thế, ông bảo tôi xấu... chê tôi...không cho tôi đi...
Không
Phải là chê, nhưng ở trong phủ Đại Danh bọn do thám rất nhiều, nếu lỡ ra họ
biết, thì uổng mạng không?
- Không
cần, Nếu tôi không đi, thì chắc cũng chả người nào trúng ý quân sư được.
Ngô Dụng
bảo Lý Quỳ rằng:
- Nếu
ngươi y được ba điều này, thì ta cho đi, bằng không thì cứ ngồi yên ở nhà đó...
Lý Quỳ
đáp rằng:
- Đến ba
mươi điều tôi cũng y được cả, cứ gì ba điều.
Ngô Dụng
nói rằng:
- Điều
thứ nhất là tánh ngươi nóng nảy như lửa, từ nay phải bỏ rượu đi, rồi trở về mới
được uống; điều thứ hai, khi đi đường phảiû ăn mặc giả làm đạo đồng theo ta; hễ
ta bảo câu gì không được ngang trái. Còn điều thứ ba thì khó lắm đây. Bắt đầu
từ ngày mai trở đi ngươi không được nói phải giả làm thằng câm vậy...Có y được
ba điều đó; thì ta sẽ cho đi.
Lý Quỳ
lắc đầu đáp rằng:
- Không
uống rượu cũng được, tôi xin vâng cả. Duy bắc tôi không được nói, thì khổ chết
tôi mất.
Người há
miệng ra lại sinh sự lôi thôi, không được.
Lý Quỳ
vỗ tay mà rằng:
- Được
rồi, tôi ngậm tay vào miệng là được rồi ...
Các Đầu
Lĩnh nghe nói đều cười ầm cả lên.
Đoạn rồi
trong sơn trại đặc ngay tiệc tiễn hành ngay chiều hôm ấy. Đến sáng hôm sau Ngô
Dụng sắp sửa hành lý, cho Lý Quỳ ăn mặc giả làm đạo đồng, quảy gánh xuống núi.
Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh đưa chân Ngô Dụng ra bến Kim Sa dặn dò cẩn thận về
việc trông coi Lý Quỳ rồi mới cùng nhau về trại.
Người
cùng Lý Quỳ đi trong mấy hôm, Ngô Dụng bị Lý Quỳ cằn nhằn rất là khổ sở. Cách
mấy hôm đi đến thành Bắc Kinh, hai người tìm vào hàng trọ. Chiều hôm đó Lý Quỳ
xuống làm cơm, không biết làm sao đến tên tiểu nhị ở hàng cơm, đỗ cả máu mồm
máu mũi ra.
Tên tiểu
nhị liền mách với Ngô Dụng rằng:
- Tên
đạo đồng cửa ngài dữ tợn quá chừng. Tôi đốt lữa khí chậm một chút, mà hắn đến
tôi hộc cả máu mồm ra đây.
Ngô Dụng
dỗ dành tên tiểu nhị, đưa đền cho mươi quan tiền để yên chuyện đi, rồi mắng
trách Lý Quỳ suốt đêm hôm ấy.
Sáng hôm
sau dậy sớm cơm nước xong rồi, Ngô Dụng gọi Lý Quỳ vào phòng mà dặn rằng:
- Ngươi
là quá cố sống chết đòi đi, rồi đi đường cẳn rẳn suốt ngày, thực là khổ cho
người ta ...Ngày nay vào thành, không phải chuyện chơi, ngươi đừnh làm uổng
chết mạng người ta mới được.
Lý Quỳ
nói rằng:
- Làm gì
tôi không biết mà phải dặn... .
Ngô Dụng
lại nói rằng:
- Bây
giờ ta có một ám hiệu này, nươi phải nhớ mới được. Hễ khi nào ta lắc đầu, thì
ngươi không được cựa động gì đấy...
Lý Quỳ
gật đầu dâng lời, rôi hai người cùng thay hình đổi dạng mà vào thành, Ngô Dụng
đội cái khăn sa gần đến mi mắt, mình mặc áo đạo phục lụa trắng viền đen, thắc
lưng màu rực rỡ, đi đôi giày vải mũi vuông tay cầm cái chuông đồng con con. Lý
Quỳ kết tóc làm hai trái đào ở trên đầu, mặc áo rộng ngắn bằng vải thường, thắc
lưng tua ngắn, đi đôi giày tồi tàn, quảy một mẩu gỗ, treo giấy cáo bachf lên
trên, viết mấy chũ "Xem số đoán vận, mỗi quẻ lạng bạc".
Hai thầy
trò ăn mặc xong, rồi cùng nhau vào cửa thành Bắc Kinh. Bấy giờ đương hồi trộm
cướp rất nhiều châu huyện cũng đều phòng bị rất nghiêm ngặt cả. Gia dĩ ở đây là
một nơi phồn hoa đệ nhất ở Bắc Hà, lại có quan Lương Trung Thư thống lãnh đại
binh ở đó, nên sự canh phòng lại càng cẩn thận hơn các nơi.
Ngô Dụng
và Lý Quỳ đi vào cửa thành, thấy có bốn năm mươi tên lính đứng hầu một ông quan
coi thành ở đó. Ngô Dụng bèn chạy đến chắp tay vái chào.
Quân sĩ
liền hỏi rằng:
- Nhà
thầy ở đâu tới đây? Ngô Dụng đáp:
- Tôi họ
Vương tên Dụng, tên đạo đòng này họ Lý, hai thầy trò đi đoán số kiếm ăn, nay
định đến quý quạân đây, xem ai có lòng muốn xem số mệnh, thì tôi xin đoán giúp.
Nói đoạn
giở quyển văn số ra để dẩn cho chúng xem.
Bọn lính
bảo Ngô Dụng rằng:
- Thằng đạo
đồng nhà thầy, trông hai con mắt nó như thằng ăn cướp thế kia...
Lý Quỳ
nghe nói toan sừng sộ lên. Ngô Dụng vội lắc đầu cho Lý Quỳ im đi, rồi nói với
bọn lính rằng:
- Các
ngài không biết, chúng tôi thật là khổ quá, thằng bé này vừa câm vừa điếc, chỉ được
cái sức khoẻ hơn người, vả chăng là con cháu trong nhà, nên bất đắc dĩ phải
mang nó đi, mà thực nó chẳng biết một chút gì cả, xin các ngài tha lỗi cho.
Nói đoạn
vái chào mà đi. Lý Quỳ tập tễnh theo sau, bước thấp bước cao cùng đi vào lối
chợ.
Ngô Dụng
lắc chuông loong coong miệng đọc rằng:
Nhan Hồi
chết sớm vì đâu?
Để ông
Bành Tổ sống lâu ngót nghìn.
Cam La
sớm đã uy quyền,
Tử Nha
đầu bạc mới nên tướng tài.
Phạm
Đang nghèo khổ nhất đời,
Thạch
Sùng giàu có bới trời xui nên.
- Đó là
thời vận mà mệnh trời đó. Ai muốn biết vận mạng một đời, sang hèn sống chết,
thì xin cho một lạng bạc.
Nói đoạn
lại lắc chuông loong coong mà đi. Tụi trẻ con ở thành Bắc Kinh có năm mươi đứa
chạy theo, vừa cười vừa nói ầm ĩ cả lên.
Ngô Dụng
đi qua cửa nhà Lưu Viên Ngoại lúc ấy đương cùng chủ quản ngồi giải ở trong nhà,
nghe ngoài phố có tiếng huyên náo ầm ầm. Liềm gọi người nhà lên hỏi rằng:
- Trên
phố xá có việc gì mà ầm ầm lên thế?
- Bẩm
ngài, có chuyện buồn cươi quá: Ngoài phố có một thầy số ở đâu mới đến, đòi mỗi
quẻ lấy một lạng bạc, thì ai có tiền mà xem? Ông ta lại có một thằng đạo đồng
đi sau, trông rất nghe tởm, hết đi rồi lại lại, chúng tôi không sao mà nhịn
cười được.
Lư Tuấn
Nghĩa nói:
- Họ nói
đắc như vậy, chắc là họ biết rộng, bay ra đón vào đây ta xem.
Tên
người nhà quay ra bảo Ngô Dụng rằng:
- Tiên
Sinh ôi! Viên Ngoại cho mời tiên sinh vào.
Ngô Dụng
hỏi:
- Viên
ngoại nào mời tôi?
Ông Lư
Viên Ngoại mời thầy đấy.
Ngô Dụng
liền cùng với đồng đạo, theo tên người nhà vào. Khi vào đến đầu nhà Ngô Dụng
chõ chỗ ghế ở đó, cho Lý Quỳ ngồi đợi, rồi vào chào Lư Tuấn Nghĩa.
Lư Tuấn
Nghĩa đứng chào Ngô Dụng rồi hỏi rằng:
- Tiên
sinh quý tính cao danh là gì?
Ngô Dụng
đáp:
- Tôi họ
Vương tên Dụng, biệt hiệu là Thiên Khẩu, nguyên quán ở đất Sơn Đông, biết số
Hoàng Cực Tiên Thiên, rõ được sự sống chết, hèn sang trong một đời người. Mỗi
quẻ cứ đủ một lạng bạc, thì tôi mới đoán.
Lư Tuấn
Nghĩa nghe nói, mời Ngô Dụng vào ngồi cái gác nhỏ ở nhà trong, rồi sai người
pha nước uống. Đoạn rồi gọi người nhà lấy lên một lạng bạc đặt quẻ, và nhờ Ngô
Dụng đoán số giúp cho.
Ngô Dụng
hỏi:
- Năm
nay ngài bao nhiêu tuổi? Sinh ngày tháng nào?
Lư Tuấn
Nghĩa đáp:
- Thưa
thầy tôi chỉ hỏi việc dữ, không cần phải hỏi việc phú quý vinh hoa...Tôi năm
nay ba mươi hai tuổi, sinh giờ Đinh mão, ngày Bính Dần, tháng Aát Sửu, năm Giáp
Tý, xin ngài xem sự hành tàng sau này thế nào?
Ngô Dụng
nghe đoạn lấy ra một con toán bằng sắt tính toán một lúc, rồi đập con toán kêu
lên rằng:
- Quái
lạ!
Lư Tuấn
Nghĩa kinh ngạc hỏi rằng:
- Có
việc gì, lành dữ thế nào, xin thấy cứ nói...
- Tôi
nói cho đúng, chắc ngài lại cạnh lòng.
- Có can
chi, chúng tôi chỉ nhờ tiên sinh, chỉ bảo đường mê, xin tiên sinh cứ nói cho.
- Cứ như
cung mệnh của Viên ngoại, thì chỉ trong một trăm ngày nữa, tất có cái nạn đao
huyết, gia tư cũng khó lòng giữ được, mà phải bị chết vì đao kiếm chứ không
chơi!
Lư Tuấn
Nghĩa cười mà rằng:
- Tiên
sinh nói sai rồi, tôi ở đất Bắc Kinh, sinh trưởng vốn nhà hào phú, trong họ
không có con trai nào phạm phép, trong nhà không có con gái nào hai chồng. Vả
chăng tôi đây xưa nay tính nết cẩn thận, việc gì vô lý không làm, của nào phi
nghĩa không lấy, lẽ nào ngày nay lại bị nạn đao huyết thế được?
Ngô Dụng
nghe vậy biến sắc mặt, cầm trả tiền Lư Tuấn Nghĩa, rồi đứng phắt vậy thở dài mà
rằng:
- Thiên
hạ nguyên chỉ thích những người a dua xiểm nịnh cả... thôi, rõ ràng là "Chỉ
đường trỏ lối cho hẳn hoi, lại cho nói thẳng là lời bất lương". Thối xin
chào ngài tôi xin đi...
Lư Tuấn
Nghĩa vội ôn tồn mà rằng:
- Sao
Tiên sinh vội giận thế? Tôi nói đùa đó thôi... có can chi...? Xin Tiên sinh hãy
thử lai để chỉ giáo cho tôi.
- Thưa
ngài, xưa nay những lời nói thực vẫn khó tin...
- Thôi,
Tiên sinh chớ vội giận, cứ nói cho tôi biết, thế nào tôi vẫn vâng lời dạy...
- Ngài
phải biết trong cung số của ngài, nhất thiết điều gì cũng tốt. Duy năm nay phạm
sao Tuế Quân, cho nên mới gặp hoạn nạn, như chỉ trong trăm ngày nữa; thì tất là
đầu xác lìa nhau, không thể nào tránh được.
- Tiên
sinh có cách gì khả dĩ thoát được chăng?
Ngô Dụng
lại cầm con toán tính một lúc nữa, rồi nghĩ ngợi hồi lâu mà lẩm bẩm rằng:
- Phen
này duy có đi về mạn Tốn Phương, ở về phía Đông Nam, chừng hơn ngàn dặm, thì
may ra mới có thể thoát nạn được. Nhưng cũng có điều đáng sợ, duy không việc gì
đến tính mạng mà thôi.
Lư Tuấn
Nghĩa cảm tạ mà rằng:
- Nếu
tôi được thoát nạn này sẽ xin hậu tạ Tiên Sinh.
Ngô Dụng
nói:
- Tôi có
bốn câu thơ đoán về cung số của ngài, xin đọc để ngài nghe. Ngài nên viết trên
vách, rồi sau này nghiệm ra, mới biết tôi nói không sai.
Lư Tuấn
Nghĩa gọi người nhà lấy nghiêng bút, rồi bảo Ngô Dụng đọc bốn câu thơ, mà tự
viết trên vách vôi.
Ngô Dụng
đọc bốn câu thơ rằng:
Lư hoa
phơ phất chiếc thuyền bơi,
Tuấn
kiệt dong chơi buổi tối trời,
Nghĩa
đến khi cùng là số mệnh.
Phân
minh lánh nạn dễ như chơi
Lư Tuấn
Nghĩa viết xong, Ngô Dụng thu nhặt con toán, rồi vái chào đi ra.
Lư Tuấn
Nghĩa nói rằng:
- Tiên
sinh ở chơi ăn cơm rồi sẽ đi.
Ngô Dụng
từ tạ rằng:
- Cám ơn
Viên Ngoại, chúng tôi xin đi để đoán số, không thì trễ mất, để lần sau xin đến
hầu ngài.
Nói đoạn
quay gót đi ra. Lư Tuấn Nghĩa đưa chân ra đến cửa, rồi Ngô Dụng vái chào Lư
Tuấn Nghĩa mà cùng Lý Quỳ trở về hàng cơm. Khi về tới hàng cơm, Ngô Dụng tính
trả tiền hàng, thu dọn hành lý, rồi bảo với Lý Quỳ rằng:
- Công
việc xong rồi, ta phải về ngay sơn trại, để sắp sửa đón Lư Viên Ngoại, chỉ nay
mai là ông ta đến đó.
Nói đoạn
hai thầy trò quảy hành lý mà trở về trên trại Lương Sơn.
Về phần
Lư Tuấn Nghĩa, sau khi nghe lời Ngô Dụng đoán số, thì trong bụng lấy làm băn
khoăn khó chịu, ngồi đứng không yên, chiều chiều thường vơ vẫn một mình ở trước
cửa nhà, mà trông trời than thở. Một hôm chàng bối rối tâm trí không sao chịu
được, liền cho gọi người Chủ Quản trong nhà đến dẻ bàn việc. Trong bọn chủ
quản, có một người họ Lý tên Cố, nguyên quê ở đất Đông Kinh, sau vì đi đến Bắc
Kinh tìm người quen không gặp, bị rét mướt nằm co ở trước nhà Lư Tuấn Nghĩa.
Tuấn Nghĩa thấy vậy liền cứu vào nuôi ở trong nhà, rồi dần dần thấy tính nết
cẩn thận chăm chỉ bèn giao cho trông coi các việc trong ngoài. Được dăm năm sau,
Tuấn Nghĩa lại càng yêu mến cho làm một người chủ quản đứng đầu, mà giao quyền
cho coi sóc cả nhà. Trong tay Lý Cố cai quản có tới bốn năm mươi người hành tài
cùng quản cán, cho nên đám người nhà thường nịnh mà tôn gọi là Lý Đô Quản.
Hôm đó
Lý Cố nghe Viên ngoại gọi, liền dẩn cả bọn thủ hạ đến hầu, Lư viên ngoại nom
suốt một lượt, rồi hỏi rằng:
- Sao
không thấy một người kia của ta ở đây?
Nói vừa
dứt lời thì chợt thấy một người mình cao sáu thước, tuổi ngoại đôi mươi, lưng
nhỏ vai rộng, ria mọc kín mồm, mình mặc áo sa trắng, lưng thắt lụa màng nhện
đỏ, chân đi đôi giầy vàng, đầu đội khăn lòng rua, sau gáy có một đôi kim hoàn,
bên tai cài bông hoa tứ quý, cùng chạy ra trước thềm để đứng hầu Viên Ngoại.
Người này nguyên quán ở đất Bắc Kinh, từ thuở nhỏ cha mẹ đầu mất, Lư Viên Ngoại
đem về nuôi, sau Viên Ngoại thấy chàng ta trắng trẻo đẹp đẽ, da như miếng
tuyết, bèn gọi thợ trổ hoa vào khắp cả mình, chả kh1c nào trên cột ngọc đình,
mà treo thêm những vẻ gấm hoa, không ai là không thấy làm thích mắt. Anh chàng
này đàn địch múa hát cũng giỏi, nói năng chữ nghĩa cũng thông, thuộc đủ các thứ
tiếng của bọn bán buôn chợ búa, lại tài giỏ về nghề quyền vũ, anh ta thường
dùng cây nỏ Tứ Xuyên, và ba mũi tên ngắn để dong chơi ngoài nội, mỗi khi bắn ra
tất phải trúng được một vật, tính người lại linh lợi nhanh nhẹn, hễ chuyện gì
hơi hé miệng là anh ta biết được cả. Anh ta họ Yến tên Thanh, bài vai thứ nhất,
người quen đó thường gọi anh ta là Lãng Tử Yến Thanh, vốn là một người tâm phúc
của Lư Viên Ngoại xưa nay.
Bấy giờ
Lý Cố đứng ở bên tả, anh ta chạy lên đứng vào phía bên hữu, rồi Lư Tuấn Nghĩa
bảo với mọi người rằng:
- Mới
đây ta xem một quẻ số, nói rằng trong trăm ngày nữa, tất phải gặp nạn đao
huyết? Chỉ trừ ra xa lánh về phía Đông Nam, một nghìn dặm thì mới có thể thoát
được. Ta tưởng về phía đó, chỉ có miếu thờ Thiên Tề Nhân Thánh Đế, ở núi Đông
Nhạc Thái Sơn là nơi rất thiêng liêng chính trực, đã từng cứu nạn cho khắp nhân
gian. Vậy ta muốn đi sang đó, một là để lễ cầu thoát tội, hai là tránh qua tai
nạn nay mai, và ba là buôn bán loanh quanh để dạo xem phong cảnh các nơi, cho
khuây lòng đôi chút? Nay Lý Cố sắp cho ta mười xe thái bình, xếp đủ các thứ hoa
vật ở Sơn Đông, và thu xếp hành lý để cùng đi với ta, còn Yến Thanh tiểu ất ở
nhà trông nom then khoá kho tàng cho cẩn thận, Lý Cố phải nên xếp đặt mau đi,
chỉ trong ba ngày nữa là ta khởi trình đó.
Lý Cố
đáp rằng:
- Sao
chủ nhân lại nghĩ như vậy? Người ta thường nói là bói toán quàng xiên, chắc đâu
tin được? Xin chủ nhân cứ yên nhà, có việc chi mà ái ngại?
Viên
Ngoại nói:
- Đó là
trong cung số ta, Trời định như vậy, ngươi chớ nên gàn trở, rồi bấy giờ lỡ ra,
thì không còn hối kịp.
Yến
Thanh bẩm rằng:
- Tôi
nghe con đường đi sang Thái An Châu ở bên Sơn Đông, tất phải qua Lương Sơn Bạc,
ở đó mới có một người tên là Tống Giang tụ họp bọn cường đạo để cướp bóc thôn
dân, Quan Tư đã mấy phen tróc nã, mà không sao trị được. Vậy chủ nhân có muốn
đi sang đó thì nên đợi lúc thái bình vô sự sẽ đi, chủ nhân chớ nên tin anh thầy
số đó, không khéo nó lại là đồng đảng với bọn Lương Sơn; đến đây để lừa dối chủ
nhân cũng nên. Tôi tiếc rằng lúc đó không có tôi ở nhà, để hỏi tiên sinh ấy mấy
câu cho vỡ chuyện ra thì mới thú.
Lư Tuấn
Nghĩa gạt đi rằng:
- Các
ngươi đừng nói càn, ai dám đến đánh lừa ta? Mấy thằng giặc cỏ ở Lương Sơn thì
thấm vào đâu, ta chỉ coi nó như cỏ rác mà thôi. Ta đương định đến bắt nó, để
đem cái tài học võ nghệ bình sinh mà phô trương ra với thiên hạ, thế mới đáng
là mặt đại trượng phu.
Chàng
vừa mới nói dứt lời, thì người vợ là nàng Cổ Thị ở đằng sau bình phong chạy ra
can rằng
- Xin
phu quân nghe lời chúng là phải. Người ta thường nói sẩy nhà ra thất nghiệp,
vậy can chi mà nghe anh thầy số, bỏ cả cửa nhà cơ đồ mà đem thân đến chốn hang
hùm để buôn bán mà chơi? Chi bằng ở lại nhà đây, sửa lấy một thư phòng tĩnh
mịch mà nằm khểnh cầu vui, tự khắc tai qua nạn khỏi, thế chẳng thú hơn sao?
Lư Tuấn
Nghĩa cả quyết mà rằng:
- Ngươi
là đàn bà con trẻ biết đâu đến đó, chủ ý ta đã định, bất tất phải nói lắm làm
chi.
Yến
Thanh lại nói rằng:
- Nếu
vậy thì tôi nhờ phúc ấm chủ nhân cũng học được đôi món côn quyền, nay tôi xin
đi hầu chủ nhân, ngộ lỡ ra gặp đám giặc cỏ quấy nhiễu, thì tôi cũng có thể đánh
đuổi được dăm ba đứa, không ngại điều chi... Xin chủ nhân cho Lý Đô Quản ở nhà
thì phải.
Lư Tuấn
Nghĩa đáp rằng:
- Ta đây
các việc buôn bán không được tinh thạo, phải để Lý cố đi để giúp ta, còn ngươi
ở nhà, thì việc tính toán đã có người khác, ngươi cứ trông coi đó thôi...
Lý Cố
bẩm rằng:
- Chúng
tôi mấy bữa nay chân hơi đau đau, không chắc có đi xa được.
Lư Tuấn
Nghĩa gắt lên rằng:
-
"Nuôi binh nghìn ngày, cần dùng một lúc". Nay ta muốn đem ngươi cùng
đi, ngươi chỉ xoen xoét kiếm đường từ chối là sao? Nếu đứa nào còn ngăn trở
nữa, ta sẽ cho quả đấm cho biết mùi...
Lý Cố
nghe vậy, ngây hẳn người ra, đứng nhìn Cổ Thị mà không dám nói chi nữa. Cổ Thị
liền thủng thỉnh đi vào, rồi bọn người nhà cũng tan đi hết cả. Bấy giờ lui ra
xếp dọn các đồ hành lý, cùng đồ hàng hoá, chọn mười cổ xe thái bình xếp hàng
hoá lên xe, gọi mười tên phu gánh, và bốn năm mươi tên phu xe, để sắp sửa ra
đi.
Hôm đó
Lư Tuấn Nghĩa cũng sắp đặt chỉnh đốn, rồi đến ngày thứ ba, làm lễ thần, và gọi
tất cả người nhà, mà dặn dò một lượt rất là cẩn thận.
Chiều
hôm ấy, Lư Tuấn Nghĩa cho Lý Cố cùng hai người bạn đáng dẫn xe cộ đi trước, để
đón ở ngoài thành. Cổ Thị thấy xe cộ đem ra, chỉ gạt nước mắt khóc thầm, mà
không sao nói được.
Sáng hôm
sau, Lư Tuấn Nghĩa dậy từ đầu trống canh năm, tắm gội xong thay hết quần áo
mới, ăn cơm uống nước, lấy các khí giới, vào bái biệt từ đường, rồi quay ra
ngoài cửa.,
Khi ra
ngoài cửa chàng dặn dò Cổ Thị rằng:
- Tôi đi
đây chầy ba tháng, mà chóng ra thì chỉ độ năm mươi ngày, là về ngay lập tức.
Cổ Thị
vâng lời mà rằng:
- Trượng
phu đi đó xin cẩn thận giữ gìn, thỉnh thoảng lại viết thơ về cho tôi biết.
Yến
Thanh cũng sụt sùi rơi lệ mà bái biệt.
Lư Tuấn
Nghĩa dặn rằng:
- Tiểu
Ất ở nhà, việc gì ngươi cũng phải xem sóc đến nơi đến chốn, không nên hồ đồ mới
được.
Yến
Thanh vâng lời đáp lại rằng:
- Chủ
nhân đi như vậy, chúng tôi ở nhà đâu dám trễ nải, xin chủ nhân cứ yên tâm...
Nói đoạn
Lư Tuấn Nghĩa vác côn lên vai, mà từ biệt ra thành. Khi ra tới thành vừa gặp Lý
Cố đón tiếp. Lư Tuấn Nghĩa liền bảo Lý Cố rằng:
- Ngươi
nên dẩn hai người bạn đáng đi trước, thấy chỗ hàng nào sạch sẽ, thì bảo làm cơm
nước sẵn sàng, để cho bọn phu xe đến đó cùng ăn một thể, cho khỏi mất thì giờ.
Lý Cố
vâng lời, vác côn cùng hai người bạn đáng đi trước, rồi Lư Tuấn Nghĩa cùng mấy
tên theo hầu dẩn xe cộ đi sau.
Lư Tuấn
Nghĩa đi đường thấy nước non sáng sủa, đường lối thênh thang trong bụng lấy làm
vui thích mà rằng: "Nếu ta núp ở mĩa trong nhà, thì bao giờ cho được nom
thấy những quang cảnh vui thú như vậy?"
Đi được
vài bốn mươi dặm đường, đã thấy Lý Cố đón vào hàng để ăn uống, rồi Lý Cố lại
xin phép mà ra đi trước, khi Lư Tuấn Nghĩa ăn xong lại dẫn xe cộ đi, độ bốn
mươi dặm đường, thì lại gặp Lý Cố đón tiếp vào hàng ăn uống và nghỉ luôn ở đó,
để đến sáng mai ra đi.
Cách mấy
hôm sau, một hôm đến trọ ở hàng kia, buổi sáng hôm sau cơm nước xong vừa toan
sắp sữa ra đi thì thấy tên điếm Tiểu Nhị nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Thưa
ngài, tôi xin nói để ngài biết rằng:
- Cách
hai mươi dặm là phía trước núi Lương Sơn Bạc, trên núi có Tống Công Minh Đại
Vương ở đó, Đại Vương tuy không làm hại đến ai, song ngài cũng phải yên lặng mà
đi, chớ nên làm ầm ĩ lên mới được.
Lư Tuấn
Nghĩa nghe nói liền cười mà nói rằng:
- Thế mà
ta không biết.
Nói đoạn
sai đầy tớ đem hòm áo đến, mở ra lấy lá cờ lụa trắng, hỏi tên điếm Tiểu Nhị,
lấy bốn cái cán trục, buộc bốn lá cờ vào, và trên bốn lá đề bốn câu rằng:
Bắc kinh
Lư Tuấn Nghĩa là đây,
Hòm vàng
cháp ngọc qua chốn này.
Lấy hết
vật lạ trên núi nọ,
Chất vào
mười xe thái bình đây.
Lý Cố
cùng bọn phu xe gánh thấy vậy, lấy làm kinh sợ, không hiểu tình ý ra sao?
Tên điếm
Tiểu Nhị liền hỏi Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Chẳng
hay ngài có quen thân với Tống Đại Vương trên núi không?
Lư Tuấn
Nghĩa nói:
- Ta là
một nhà tài chủ ở đất Bắc Kinh, làm chi quen với lũ giặc ấy.Nay ta đến đây, ta
định bắt thằng Tống Giang đó.
- Chết
nổi! Ngài nói sẽ chứ, không có lại khổ đến chúng tôi... không phải là chuyện
chơi, dẫu ngài có đến hàng vạn nhân mã, cx không gần họ được đâu!
- Thằng
quái này, mày cx cùng một đảng đó phải không.
Tên Tiểu
Nhị thấy vậy, bịt tai lại mà không dám nghe nữa, bọn phu xe cũng kinh người mà
len lét cả một lượt.
Đoạn rồi
Lý Cố cùng mấy người theo hầu cùng quỳ xuống mà nói rằng:
- Xin
chủ nhân thương đến chúng tôi, để Chúng tôi được toàn tính mạng mà trở lại quê
nhà, còn hơn là ngài làm trời làm đất ở đâu đâu...
Lư Tuấn
Nghĩa quát lên rằng:
- Các
ngưới biết gì, bọn chim chích ấy, địch sao được với Diều hâu mà sợ? Ta đây bình
sinh học biết bao nhiêu võ nghệ, chưa có chỗ nào mà bán được, nay gặp có cơ hội
ở đây, lại không đem ra mà bán, thì đợi đến bao giờ? Trong xe của ta có hàng
hoá gì đâu, đó toàn thị là những thùng chảo đay gai, sắp sẵn để đó hễ lũ giặc
kia, đứa nào vô phúc mà gặp phải tay ta, thì cứ mỗi đứa ta cho một nhát, rồi
trói tất cả vất lên xe cho ta, hàng hoá không can chi cả. Cứ trói chúng nó đem
về kinh để lấy thưởng, thì mới bỏ cái chí bình sinh của ta. Các ngươi nếu đứa
nào không đi, thì trước hết ta hãy đem chém các ngươi ở đây cả.
Nói đoạn
sai dàn bốn cỗ xe đi trước, mỗi xe cắm một lá cờ lụa trắng, còn sáu xe nữa lục
tục đi sau, bọn Lý Cố sụt sụt sùi không ai dám trái, đành phải vâng lời đi cho
xong việc.
Lư Tuấn
Nghĩa lấy thanh đao ra cầm trên đầu gậy, chêm chặt cẩn thận rồi dẫn xe đi thẳng
qua lối Lương Sơn.
Bọn Lý
Cố thấy đường đi ghập ghềnh cao thấp, thì đi được một bước lại kinh sợ một
bước, duy Tuấn Nghĩa thì cứ hăm hở tiến lên, không hề quảng ngại chi cả.
Mấy
người đi từ sáng sơm cho đến lúc giờ Tý, trông thấy xa xa có một khu rừng lớn,
những cây lớn hơn ôm, không biết đến mấy nghìn mà kể. Đi một lúc nữa đến cạnh
khu rừng, chợt nghe tiếng còi thổi véo von, Lý Cố cùng mọi người kinh sợ hải
hùng, run lên nhung nhúc.
Lư Tuấn
Nghĩa bắt dàn xe ra một bên, bọn phu xe cùng mọi người đều nấp cả vào dưới xe,
mà len lét kêu khổ với nhau.
Lư Tuấn
Nghĩa quát lên rằng:
- Hễ ta
chém chết thằng nào, thì chúng bây trói lại cho ta...
Nói chưa
dứt lời, thì chợt thấy trong rừng có tới năm sáu mươi tên lâu la đổ ra. Đoạn
rồi nghe tiếng thanh la khua ầm cả lên, và lại có tới bốn năm trăm tiểu lâu la
chặn lấy lối sau.
Lại nghe
thấy trong rừng có một tiếng nổ đánh đoàng, rồi thấy có một hảo hán tay cầm
song phủ quát lên rằng:
- Lư Viên
Ngoại còn nhớ đứa đạo đồng câm hay không?
Bấy giờ
Lư Tuấn Nghĩa sịch nhớ ra, liền quát lên rằng:
- Ta
định đến bắt bọn cường đạo chúng bây đã lâu...Nay ta đã đến đây, hãy bảo Tống
Giang xuống lạy hàng ngay lập tức, bằng không thì một giờ nữa sẽ chết hết,
không còn sống sót móng nào...
Tên đạo
đồng câm là Lý Quỳ cả cười mà rằng:
- Viên
Ngoại ôi! Nay ông bị Quân sư tôi an bài như thế rồi, ông lên núi mà ngồi vào
ghế chéo kia thôi.
Lư Tuấn
Nghĩa cả giận múa đao xông vào đến Lý Quỳ, Lý Quỳ cũng múa song phủ lên đến
lại. Hai người đến nhau chưa được ba hiệp, Lý Quỳ liền nhảy ra ngoài vòng, quay
ngoắt vào rừng mà chạy thẳng. Lư Tuấn Nghĩa liền vác đao sấn vào để đánh.
Lý Quỳ
ẩn bên Đông núp bên Tây chạy vài bước, đứng vài bước, làm cho Lư Tuấn Nghĩa
phát cáu lên, cố tìng đuổi cho kỳ được. Lý Quỳ lại chạy quá vào trong rừng, rồi
lẩn đi đâu mất.
Lư Tuấn
Nghĩa đuổi mãi vào trong không thấy một ai, bèn hầm hầm tức giận mà quay trở
ra. Đương khi đó lại thấy trong rừng có một toán người kéo đến, trong đó một
người kêu to lên rằng:
- Viên
Ngoại không nên chạy nữa, mấy khi đã đến chốn này, hãy đứng lại mà xem ta đây.
Lư Tuấn
Nghĩa nghe nói, liền quay lại nom, thì thấy một ông sư phệ bụng, mình mặc áo
xống tràng, tay cầm thuyền trượng lững thững đi ra.
Lư Tuấn
Nghĩa quát lên rằng:
- Anh
này là sư ở đâu thế?
Nhà sư
cả cười mà đấp rằng:
- Tôi là
Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm, vâng lệnh Quân Sư đến đón Viên Ngoại đi lánh nạn
đây?
Lư Tuấn
Nghĩa nổi giận thét mắng rằng:
- À, ra
thằng trọc này vô lễ quá, nói đoạn múa đao vào đánh Lỗ Trí Thâm, Lỗ Trí Thâm
cũng múa thuyền trượng để chống cự, ...
Đôi bên
đánh nhau chưa được ba hiệp, Lỗ Trí Thâm liền gạt đao ra rồi rảo bước kéo
chạy.Lư Tuấn Nghĩa vác đao đuổi theo.
Đuổi
được mươi bước thì thấy Võ Tòng ở trong đám lâu la múa hai khẩu giới đao, chạy
ra kêu lên rằng:
- Viên
Ngoại cứ theo tôi đi, là sẽ tránh khỏi sự đao huyết.
Lư Tuấn
Nghĩa thấy vậy, lại bỏ Lỗ Trí Thâm mà xông vào đánh với Võ Tòng. Võ Tòng đánh
nhau vài hiệp, rồi cũng bỏ chạy nốt.
Lư Tuấn
Nghĩa cả cười mà rằng:
- Lũ bây
làm gì được ta không bõ đuổi hoài hơi...
Nói vừa
dứt lời thì thấy ở bên sườn núi có người nói lên rằng:
- Lư
Viên Ngoại ôi! Đừng nói khoác nữa, Quân Sư đẫ bày mẹo, để khuôn xếp đây, chẳng
tránh thoát được đâu. Mà tưởng...Bây giờ sắt đã vào lò, bó tay chịu đi là phải
Lư Viên Ngoại nghe nói, liền quay lại hỏi:
- Anh là
anh nào?
Người
kia lại cười mà đáp rằng:
- Tên
tôi là Xích Phát Quỹ Lưu Đường đây ...
Lư Tuấn
Nghĩa nổi giận mà mắng rằng:
- Quân
giặc cỏ đừng xấc, bay chạy được chăng?
Nói đoạn
xông đánh Lưu Đường. Vừa đánh được vài hiệp, thì có một người ở bên cạnh xông
ra kêu lên rằng:
- Viên
ngoại ôi! Có Mộc Già Lạn Mục Hoằng ở đây thường...
Nói đoạn
cùng xông lại để đánh Lư Tuấn Nghĩa.
Bấy giờ,
Mục Hoằng cùng Lưu Đường, đương múa đao đánh với Lư Tuấn Nghĩa, thì bỗng lại có
một người nữa đến, Lư Tuấn Nghĩa cùng quát lên một tiếng. Lưu Đường cùng Mục
Hoằng đều lui lại mấy bước, rồi lại cùng với người kia đều xông vào để đánh.
Lư Tuấn
Nghĩa thấy vậy, vẫn ung dung điềm nhiên để đấu lại với ba người, không hề chút
khó nhọc.Đương khi ấy chợt thấy trên đỉnh núi có tiếng thanh la nổi lên rồi ba
người kia đều lừa cơ nhảy ra ngoài vòng mà chạy cả. Lư Tuấn Nghĩa thấy chúng
chạy cũng không đuổi làm chi liền quay lại chỗ bên đường, để tìm xe cộ cùng
người nhà.
Khi quay
lại tới nơi thấy mất cả xe lẩn người không còn sót chút gì, chàng lấy làm ngạc
nhiên kinh lạ, liền trèo lên chõ gò cao mà trông khắp cả các mạn để tìm, chàng
nom quanh nom quẩn, thấy về góc núi bên kia có một bọn lâu la, đương dong cái
xe, và trói lũ Lý Cố dài dằng dặc một xâu mà đến trống khua la đưa về bên mạn
rừng thông.
Lư Tuấn
Nghĩa thấy vậy, liền sốt ruột như lữa nóng. Bèn vác đao chạy thốc sang để đuổi.
Vừa chạy
khỏi góc núi, chừng mấy bước, thì bổng thấy Chu Đồng, Lôi Hoành xông ra quát
lên rằng:
- Đi đâu
thế này?
Lư Tuấn
Nghĩa tức mình quát ầm ầm:
- Quân
giặc cỏ này, muốn sống đem xe cộ cung người nhà trả lại ta đây, Chu Đồng vuốt
râu cười ha hả mà rằng:
- Lư
Viên Ngoại sao không hiểu thời thế như vậy, Quân Sư tôi đẫ định kế sẳn sàng còn
đi đâu được? Chi bằng Viên Ngoại lên ngồi vào ghế chéo cho xong.
Lư Tuấn
Nghĩa tức giận không nói năng chi, liền múa đao xông vào đánh hai người. Chu
Đồng, Lôi Hoành cùng đánh chừng vài ba hiệp rồi bỏ chạy cả.
Bấy giờ
Lư Tuấn Nghĩa nghĩ thầm rằng: "Tất ta phải chém lấy một thằng, thì mới có
thể lấy lại xe cộ được? "Nghĩ đoạn lại xông ra để đuổi.
Khi đuổi
đến góc núi, lại không thấy hai người đâu, chàng lấy làm tức giận, không biết
nghĩ sao cho được.
Chợt đâu
nghe trên đỉnh núi có tiếng trống dóng sáo kêu, chàng ngẩn cổ lên nom, thấy một
lá cờ vàng phất phới, trên đề bến chữ"Thế Thiên Hành Đạo"rất to.
Chàng lại đi quanh xem, thì thấy có một bọn đến sáu bảy mươi người, đứng ở trên
núi và có Tống Giang che tàn vàng đứng giữa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đứng ở
hai bên, đều đồng thanh chào Viên Ngoại, rồi nói rằng:
- Chúc
mừng Viên Ngoại được bình yên...
Lư Tuấn
Nghĩa thấy vậy, lại càng tức giận, chỏ lên núi mắng nhiết ầm lên.
Ngô Dụng
đứng trên núi khuyên rằng:
- Viên
Ngoại không nên quá giận, Tống công Minh tôi mộ danh ngài đẫ lâu, nên mới sai
tôi đến tận nhà mời đón lên núi, để cùng nhau mà thay Trời làm Đạo, xin Viên
Ngoại đừng bỉ thử làm chi...
Lư Tuấn
Nghĩa càng giận, mắng luôn rằng:
- Quân
giặc cỏ, tự nhiên vô cớ dám lừa ta đến đây...
Mắng
chưa dứt lời thì thấy đằng sau Tống Giang có Tiêu Lý Quảng Hoa Vinh nhô ra,
dương cung đặt tên, quát bảo Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Lư
Viên Ngoại không nên cậy tài, hãy xem mủi tên thần của Hoa Vinh đây.
Nói
xong, bổng nghe đánh tách một cái, rồi có mủi tên bắn đứt ngay cái tua đỏ ở
trên mũ Lư Tuấn Nghĩa. Lư Tuấn Nghĩa giật mình cả kinh, bèn cắm đầu quay chạy.
Chợt lại thấy trên núi trống dóng vang lừng, rồi có Tích Lịch Hỏa Tần Minh, Báo
Tử Đầu Lâm Xung, dẩn một toán nhân mã phất cờ reo hò từ mạn bên Đông núi kéo
đến; lại thấy Song Chiên
Tướng Hô
Duyên Chước cùng Kim Sang Thủ Từ Ninh cũng kéo một toán nhân mã phất cờ reo hò
từ phía Tây núi kéo sang. Lư Tuấn Nghĩa cuống lên, không có lối nào để chạy...
Bấy giờ
mặt trời đã xế chiều, Lư Tuấn Nghĩa vừa mệt vừa đói hoang mang không kịp tìm
đường, liền theo những lối nhỏ đường hẻm mà ra sức mãi miết để chạy...
Chàng
chạy được một lúc thì trời đã nhá tối, ngẩn trông lên thì trăng khuất sao
nhiều, khói sương mù mịt mà cúi nom xuống, bốn bề man mác, như bể tuyệt vời,
thì không còn biết đâu là đường đi lối lại.
Chàng
lại chạy một lúc nửa, thấy đường cùng lầy lụa khó đi, liền dừng lại để nom. Nom
quẩn nom quanh, thấy trước mặt toàn thị nước trắng mênh mông, đầy bờ lau lách,
đường đi cũng hết, lối lại cũng cùng, thì trong bụng lấy làm băng khoăn hối
hận, ngửa trông lên trời, thở dài mà than rằng:
-
"Chỉ vì ta nghe lời họ nói, mới xãy ra tai hoạ ngày nay!"
Đường
lau bể nước mênh mông,
Anh hùng
này nước cùng đường hỏi ai?
Ví chăng
non nước ghen tài,
Thì tay
kinh tế chẳng hoài lắm ru?
Đương
khi phiền nảo vẫn vơ, bỗng trên bờ lại thấy một anh chài chèo chiếc thuyền con
đếm gần đo, nhìn kỹ lên Lư Tuấn Nghĩa mà nói rằng:
- Ông
nào mà to gan thế, đây là một chỗ của bọn Lương Sơn Bạc thường ra vào luôn
luôn, thế mà đêm hôm khuya khoắt ông dám đến đó làm chi?
Lư Tuấn
Nghĩa nghe hỏi, liền đáp rằng:
- Tôi đi
lạc đường lỡ đến đây, không tìm được chỗ nghỉ, xin nhờ cứu tôi một chút.
Anh chài
nói:
- Gần
đây có một dãy phố, nhưng đi đường bộ, thì xa tới hơn mươi dặm, mà đường lối
tào tạp, khó lòng tìm được, duy đi đường thủy, thì chỉ độ dăm ba dặm nước là
đến được ngay... Vậy ông có cho tôi mười quan tiền, thì tôi xin đem thuyền chở
ông đi.
Lư Tuấn Nghĩa
vui mừng mà rằng:
- Nếu
bác chở tôi đến phố nào mà tìm được hàng trọ, thì tôi xin đưa cho mấy lạng bạc.
Anh chài
liền ghe thuyền vào bờ cho Lư Tuấn Nghĩa xuống, rồi cầm gậy đẩy thuyền ra mà
kẻo kẹt đi.
Thuyền
đi ước chừng hai ba dặm nước, chợt thấy ở khóm lau trước mặt, có tiếng chèo kẽo
kẹt , rồi có chiếc thuyền nhỏ vùn vụt chèo ra. Trên thuyền có hai người, một
người cởi trần trùng trục, tay cầm cái sào thuyền bằng gỗ, ngồi ở phía trước,
và có một người chèo thuyền ở phía sau.
Bấy giờ
người ngồi trên thuyền kia, hoành sáo thuyền mà hát rằng:
Anh hùng
chẳng thích đọc thi thư,
Cùng bạn
Lương Sơn thú sớm trưa,
Sắp sẵn
cạm hầm thu hổ mạnh,
Mồi thơm
sẽ bắt cá ngao to.
Lư Tuấn
Nghĩa nghe hát cả kinh, ngồi yên không dám lên tiếng, chợt thấy trong đám lau ở
phía bên tả, cũng có hai người chèo thuyền lững thững đi ra, một anh ngồi sau
mái chèo kẽo kịt...Còn một anh cx ngồi đằng trước cx hoành sáo hát rằng:
Ta đây
tuy thị tợn hơn đời,
Giết
giặc xưa nay chẳng giết người.
Tay vỗ
beo xanh in trước bụng.
Xem kỳ
lân ngọc ở thuyền ai?
Lư Tuấn
Nghĩa nghe đến đó lại càng kinh ngạc, mà trong bụng kêu khổ một mình.
Bỗng lại
thấy phía giữa cũng có một chiếc thuyền vun vút như bay chèo đến, trên mũi
thuyền cũng có một người cầm cây sáo hát lên rằng:
Lư hoa
phơ phất chiếc thuyền bơi,
Tuấn
kiệt rong chơi buổi tối trời,
Nghĩa
đến khi cùng là số mệnh,
Phản
mình lánh nạn dễ như chơi.
Hát đoạn
rồi ba chiếc thuyền cùng xô đến mà cất tiếng chào. Nguyên ba thuyền đó, khoảng
giữa là Nguyễn Tiểu Nhị, bên tả là Nguyễn Tiểu Ngũ, bên hữu là Nguyễn Tiểu
Thất.
Khi ba
chiếc thuyền cùng xông đến thuyền Lư Tuấn Nghĩa, Tuấn Nghĩa tự nghĩ mình không
biết bơi lội thì làm chi cho thoát, liền kêu anh chèo mà bảo rằng:
- Anh
chở tôi lên bờ mau mau...
Anh chài
cười ha hả mà nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Viên
Ngoại ôi! Trên thì trời xanh, dưới thì nước biếc, tôi xưa ở sông Tầm Dương, mới
nhập đảng vào Lương Sơn Bạc, chẳng dấu gì ngài. Hỗn Giang Long Lý Tuấn là tôi
đó. Nay nếu Viên ngoại không chịu đầu hàng, thì uổng mất tính mạng mà thôi...
Lư Tuấn
Nghĩa ngạc nhiên kinh sợ quát lên rằng:
- Mày
không chết thì ta chết này...
Nói đoạn
giơ đao đâm vào bụng Lý Tuấn. Lý Tuấn bèn chống bơi chèo nhảy ùm xuống nước
ngay, rồi thấy chiếc thuyền của Lư Tuấn Nghĩa cứ quay long lóc giữa dòng nước.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, liền cầm dao chém luôn xuống nước mấy cái.
Đoạn rồi
thấy đằng sau thuyền có một người ở dưới nước nhô lên quát rằng:
- Ta là
Lãng Lý Bạch Điều trương Thuận đây.
Nói xong
liền cầm lấy cạp thuyền ra sức ấn một cái rất mạnh, rồi thấy con thuyền lật
nghiêng, mà Lư Tuấn Nghĩa lăn tòm xuống nước.
Mới hay:
Nước non
bỡ ngỡ một mình,
Anh hùng
trong lúc vô tình hơn ai? ,
Bây giờ
hồ thẳm vực khơi,
Tiếng
oan họa có kêu trời cũng xa,
Đem thân
liều với phong ba,
Thân tàn
dù thác gan già chửa thay,
Sóng lần
sóng vỗ từ đây,
Cho
thiên hạ biết mặt này mới ngoan,
Lời bàn
của Thánh Thán.
Ngô Dụng
đi đoán thẻ, dùng Lý Quỳ đi theo, đó chỉ tạm mượn cái hình xấu của Lý Quỳ, chứ
chưa dùng hết cái tài của Lý Quỳ vậy, chợt mượn cái xấu, thì không thể chả tả
ra lấy một hai chuyện, mà chưa đụng đến tài, thì đâu có tả ra. Đó chẳng qua lấy
phụ bút chép tới, chứ chưa từng đem chính bút tả ra, cho nên sau khi vào thành,
là đoạn chính bút, chính bút thì tả chuyện Lư Viên Ngoại chưa rồi, còn rảnh đâu
lại tả thêm Lý Quỳ được nữa. Nếu như trước khi chưa vào thành, tả ra làm phụ
bút, phụ bút cũng không thể, tiếc đến một vài lời mà tả lấy một hai chuyện, cho
ra bản sắc Thiết Ngưu để làm cho náo động, nảy ra Viên Ngoại đón mời.
Trung
gian tả Tiểu Nhi tự nhạo Lý quỳ, Viên Ngoại tự kinh với Thiên Khẩu (Ngô Dụng)
người đời lớn nhỏ thấy cách quãng nhau, khiến ta luống ngậm ngùi than thở? Hỡi
ôi? Cùng đọc sách thánh hiền, mà có kẻ để cầu phú quý; Có kẻ lại sùng đức
nghiệp; Cùng theo trong cửa Thánh hiền, mà hoặc để khoe danh lợi, hoặc để học
hỏi thấu đáo, thì với chuyện trẻ con kia, có lạ gì đâu?
Trong
bản truyện tả Lư Viên Ngoại, bỗng đâu lại tả ra hai đoạn văn ngắn, nói về Lý
Cố, Yến Thanh, truyện của Lý thì rất ân số, truyện của Yến thì rất phong lưu,
ngờ đâu với kẻ chịu ơn, chả những không báo, còn phản lại cắn chủ; Mà kẻ phong
lưu lại giốc trung trinh, liều chết không lầm vậy sau mới biết người xưa than
thở; Loài lang thói dữ, nuôi chỉ hại thôi, mới hay ơn cũng không dễ bàn ra, mà
lấy mặt chọn người, đến nỗi như ngươi Tử Vũ, mà xét người cũng không thể coi
thường, nên Tỳ Quan chéo sử có răn có khuyên, ở hồi này làm cực vậy.
Lý Cố
làm ra con người Lý Cố; Yến Thanh làm ra con người Yến Thanh, Cổ Thị làm ra con
người Cổ Thị...ều ở hồi sau, chưa tả ra đây, nhưng độc giả đầu lòng đáy mắt, đã
sớm đo lường tính tình hành động của ba người ấy được. Vì mới chép ra một chút,
song dụng ý hở ra rồi chép ra một chút vì chưa hết đầu đuôi, đã hở ra rồi, vì
tính đã bày ra xấu tốt, cũng ý kinh Xuân Thu, dự luận thế nào, đều dùng phép hở
ra một chút.
Tả Viên
Ngoại sau khi gặp Ngô Dụng, cũng viết chữ ra với cái giọng ngông nghênh, cờ lụa
trắng, với chão dây thừng, chính là một mãnh hùng tâm, toàn thân nghề võ giỏi,
không ai đụng tới, mà chợt đâu xúc động lời thầy bói mà nghe số mệnh, nhân đó
thử chơi với đám Lương Sơn, lại còn tự cho cái chí chim hồng, không thèm mưu
cùng lũ chim sẽ, chẳng đừng được ngóng không mà ngông nghênh cho sướng với
lòng... Tả anh hùng Viên Ngoại, phải dùng ngòi bút ấy, mới có khí thế, thế mà
tục bản lại chép là nghe lầm Ngô Dụng như vạch tấm lòng, sao mà có thói xấu ác
như thế? Trước đã tả Ngô Dụng có bốn câu thơ bói quẻ, sau lại tả Viên Ngoại có
bốn câu thơ khoe cờ, đã là một việc kỳ thuật đối nhau, khi đọc đến cuối hồi, chẳng
những chỉ hiện ra bốn câu bói quẻ, còn một hai câu nữa, cho rõ hành động theo
tính tình Viên Ngoại, vậy luận chương pháp phải biết như diễn liên châu, mỗi
lần bốn câu, đưa vào nhập diệu, thì thực chẳng giảm với những câu kỳ tuyệt ở cờ
đình vẽ vách kia vậy; Thế mà tục bản đổi lại những lời đường đột, sao mà xấu ác
đến thế?
Tả rất
nhiều đám dụ binh, chợt ở đâu ra, chợt vì đâu biến mất, bao phen thấy khác,
người người kéo đùa, lạ thay; Lại càng lạ hơn nữa, nhủ Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Võ
Tòng, Lưu Đường, Mục Hoằng, Lý Ứng...ã qua rồi, lại tiếp đến cướp xe cỗ, người
phu, độc giả đến đấy, ai chả cho là thu lại mà có biết đâu mới tả nửa bước, rồi
từ từ lại tả Chu Đồng, Lôi Hoành dẫn ra Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng
một lũ sáu bảy chục người, thực là dũ xuất, dũ kỳ, việt chuyển việt diệu, bấy
giờ bỗng đâu lại tả nảy ra thần tiễn của Hoa Vinh, tưởng là đã rứt độc giả đến
đây cho rằng đã thu lại rồi, ai ngờ vẫn còn ở nửa bức, lại từ từ tả xa Lâm
Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, Từ Ninh, bốn tướng giáp công, rồi sau mới dẫn
vào trong bóng câu ca đoán quẻ... Hỡi ôi! Chương pháp thấy kỳ, khiến độc giả
đến mê, lại thấy trận pháp kỳ kia, sao khỏi Viên Ngoại lại không trúng kế?
Phụ Lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét