Chương 29: Chuyến đi thứ tư của
Sindbad
Những thú vui chơi và những trò giải
trí mà tôi lao vào sau chuyến đi biển thứ ba của mình không đủ sức mạnh quyến
rũ để tôi từ bỏ tính thích phiêu lưu muốn đi nữa. Tôi vẫn còn bị lôi cuốn vì
lòng ham mê buôn bán và được thấy những thứ mới lạ ở các nơi. Vậy là tôi sắp
xếp công việc, gom một số hàng hoá có thể tiêu thụ được ở những nơi định đến và
lên đường. Tôi theo đường đi Ba Tư, phải đi xuyên qua nhiều tỉnh thành tới một
cảng biển, ở đây tôi xuống tàu. Chúng tôi giương buồm và đã ghé vào nhiều bến
thuộc đất liền và một số hòn đảo miền Đông. Rồi một hôm sau khi vượt qua một
chặng đường dài, chúng tôi bị một cơn gió xoáy khiến thuyền trưởng phải cho hạ
buồm và ra những lệnh cần thiết đề phòng nguy hiểm mà chúng tôi đang bị đe doạ.
Nhưng tất cả đều vô ích. Tàu không điều khiển được, các cánh buồm đều bị xé
nát, xô vào đá ngầm vỡ toang, một số lớn nhà buôn và thuỷ thủ chết đuối, hàng
hoá chìm nghỉm.
Scheherazade kể đến đây thì nhìn
thấy trời sáng. Nàng dừng lại và Schahriar thì đứng lến. Đêm sau nàng kể tiếp
như sau câu chuyện về chuyến đi thứ tư của Sindbad.
Tôi may mắn - Sindbad kể tiếp - Cũng
như nhiều nhà buôn khác và thuỷ thủ là bám được vào một tấm gỗ. Chúng tôi được
một dòng thuỷ lưu đẩy tới một hòn đảo ngay trước mặt. Trái cây và nước suối ở
đây đã giúp chúng tôi phục hồi một phần sức lực. Tìm chỗ nghỉ ngơi qua đêm ngay
tại nơi đã bị biển hất lên, chúng tôi chưa biết phải làm gì đây. Tinh thần suy
sụp sau tai nạn vừa qua đã làm chúng tôi hoang mang cực độ.
Ngày tiếp đó, lúc mặt trời lên, rời
bờ biển đi sâu vào trong đảo, thấy có nhà cửa, chúng tôi liền đi tới. Rất đông
những người da đen đổ xô ra vây tròn chia nhau nắm lấy chúng tôi rồi lôi vào
trong nhà họ.
Năm người bạn và tôi được đưa vào cũng
một nhà. Trước hết họ kéo chúng tôi ngồi xuống và đưa cho một thứ lá và ra hiệu
mời ăn. Những người bạn của tôi không suy nghĩ là những người mời chúng tôi ăn
nhưng bản thân họ không ăn, mà vì bị cái đói thôi thúc nên đã cầm lấy những lá
đó mà nhai ngấu nghiến. Còn tôi, linh cảm thấy có một sự lừa bịp nào đó, tôi
không đụng tới và như vậy thật là may vì chỉ một lát sau tôi thấy như tâm thần
của các bạn tôi bị nhiễu loạn. Họ nói năng linh tinh và không biết mình nói gì.
Sau đó họ cho chúng tôi ăn cơm nấu
với đầu dừa, các bạn tôi, không còn tỉnh táo nữa đã ăn lấy ăn để. Tôi cũng ăn
nhưng rất ít. Những tên da đen này cho chúng tôi nhai loại lá đó trước hết là
để làm cho chúng tôi loạn trí không còn biết gì về số phận thảm thê của mình
nữa. Rồi chúng cho chúng tôi ăn để vỗ béo. Vì bọn chúng đều là giơng ăn thịt
người nên trước khi ăn thịt chúng tôi, chúng để một thời gian chờ chúng tôi béo
lên. Đó là điều xảy đến với các bạn tôi vì họ đã mất lý trí nên mặc kệ mọi sự.
Vì tôi vẫn còn minh mẫn thì chắc các vị cũng đoán là đáng lẽ cũng béo tốt như
mọi người nhưng tôi mỗi ngày lại càng gầy ốm thêm. Luôn luôn bị cái chết đe doạ
trở thành một liều thuốc độc trong tất cả các thức tôi ăn. Chứng trầm cảm trở
thành cứu tinh đối với tôi vì bọn da đen sau khi giết và ăn thịt hết các bạn
tôi thì chúng ngừng lại. Nhìn thấy thân hình tôi khô khẳng, ốm yếu, chỉ có
xưống và da nên chúng luì cái chết của tôi vào một thời đlểm khác.
Cũng vì vậy nên tời được khá tự do,
hầu như chẳng cớ ai coi sóc và chú ý đến hành vi của tôi nữa. Điều đó cho phép
tôi đi xa cụm nhà ở của bọn da đen. Một lão già nhìn thấy, nghi ngờ ý đlnh của
tôl, đã gào to lên.cho tôi quay lại nhưng thay vì nghe theo lão, tôi chạy nhanh
hơn lên và chẳng mấy chốc khuất tầm mắt lão ta. Chỉ có mỗi một lão già đó ở nhà,
còn những tên đen khác đều đi vắng và chỉ trở về vào lúc cuối ngày, đó là lệ
thường của chúng. Cũng vì chắc là chứng chẳng làm sao đuổi kịp được khi biết
tôi đã chạy trốn, tôi bước đi thong thả đến tận nửa đêm mới dừng lại nghỉ một
chút và ăn một vài miếng thức ăn mang theo. Rồi tôi lại tiếp tục lên đường đi
suốt bảy ngày đêm, để ý tránh xa những nơi có người ở. Những ngày này tôi sống
qùa ngày bằng những quả dừa: ăn cùi dừa và uống nước dừa.
Đến ngày thứ tám, tôi đến gần biển
và bất ngờ trông thấy những người da trắng như tôi đang mải thu hoạch hồ tiêu
mà ở đó mọc lên bạt ngàn. Vẻ mải mê làm việc của họ là một dấu hiệu tốt và tôi
chẳng khó khăn gì mà đi tới gần họ .
Scheherazade không nói thêm gì nữa
trong đêm nay và đêm sau, nàng kể tiếp:
o O o
Những người thu hoạch hồ tiêu
-Sindbad kể tiếp - tiến đến phía tôi, và khi nhìn rõ họ hỏi bằng tiếng Ả Rập
tôi là ai và từ đâu tới. Sung sướng nghe thấy họ nói tiếng của mình, tôi đã
thành thật kể cho họ nghe đã bị đắm tàu như thế nào, tới được cái đảo đó và rơi
vào tay bọn người da đen ra sao. Họ đồng thanh nói:
- Nhưng những người da đen đó chuyên
ăn thịt người kia mà. Nhờ có phép màu nào mà ông thoát khỏi bàn tay độc ác dã
man của chúng?
Tôi kể cho họ nghe câu chuyện mà các
ngài vừa nghe đó và tất cả bọn họ đều vô eùng klnh ngạc. Tôi ở cùng họ cho tới
ngày họ thu hoạch xong một số lượng hồ tiêu họ cần. Sau đó họ đưa tôi xuống con
tàu đã đưa họ tới đây và về hòn đảo, nơi ở của họ. Tôi được giới thiệu với vị
quốc vương của đảo. Vị vua nhân từ này đã lắng nghe câu chuyện của tôi và tỏ ra
rất ngạc nhiên. Ông sai mang cho tôi quần áo và ra lệnh phải chú ý chăm sóc
tôi.
Hòn đảo mà tôi ở lúc đó rất đông dận
và sản vật không thiếu thứ gì. Trong thành phố nơi nhà vua đóng đô, việc buôn
bán rất thịnh vượng. Chỗ trú chân khá dễ chịu, này bát đầu làm tôi khuây đi nỗi
bất hạnh của mình và lòng nhân từ của vị quốc vương hào hiệp này làm tôi thật
hài lòng. Thật vậy, trong ý nghĩ của ông, không có ai tài trí hơn tôi và rất
cuộc không ai trong triều đình cũng như ở thành phố là không tìm cơ hội để làm
tôi vui lòng. Chẳng báo lâu mà tôi được coi là một người được sinh ra trên đảo
chứ chẳng phải là người ở nơi khác đến.
Tôi nhận thấy một điều theo tôi thì
thật khác lạ. Tất cả mọi người, kể cả vua, cưỡi ngưa đều không có yên cương,
bàn đạp. Một hôm, đánh bạo tôi hỏi Bso bệ hạ không sử dụng tiện nghi đó. Ông
đáp là những cái đó ở quốc gia này chưa có ai biết để sử dụng cả.
Ngay tức thì tôi tìm đến một người
thợ, vẽ mẫu cái cốt yên ngựa cho anh ta làm. Làm xong tội tự tẩy nhồi đệm bọc
da và tràng trí bằng một tấm vải thêu kim tuyến. Sau đó tôi tìm một người thợ
rèn đặt làm một cái hàm thiếc tôi cho kiểu và làm luôn cả hai cái bàn đạp.
Khi các thứ đã hoàn hảo, tôi đưa đến
dâng nhà vùa và đóng thử vào một con ngưa. Nhà vua trèo lên cưỡi và rất thích
thú sáng kiến này. Ông thể hiện sự vui thích hài lòng của mình bằng cách thưởng
cho tôi rất nhiều thứ quí. Tôi cũng không tránh khỏi phải đặt làm rất nhiều yên
ngựa cho các quan thượng thư và các quan chức chính trong triều. Họ cho rất nhiều
quà, chẳng mấy chốc mà tôi giàu sụ. Tôi cũng đặt làm cho cả những người có danh
tiếng nhất trong thành phố, vì thế danh tiếng của tôi lại càng lừng lẫy.
Vì tôi vào chầu rất đều đặn, nên một
hôm nhà vua bảo:
- Sindbad, ta yêu mến ông và ta biết
là tất cả quần thần cũng theo gương ta. Ta có một yêu cầu và muốn ông nên tuân
theo.
- Tâu bệ hạ - Tôi đáp - Không có
điều gì mà tôi không sẵn sàng làm theo ý của Người. Đối với tôi, Người có quyền
tuyệt đối.Ta muốn lấy,vợ cho ông, để có thể cuộc hôn nhân này sẽ giữ được ông ở
lại trong vương quốc của ta, để ông khỏi nhớ về đất nước mình.
Vì chẳng dám trái lệnh quốc vương
nên tôi đã kết hôn với một phụ nữ trong triều, sang quí, đẹp, ngoan và giàu có.
Sau hôn lễ, tôi đến ở nhà người đàn bà này trong tình yêu thương trọn vẹn. Tuy
vậy, tôi cũng chẳng ngăn được nỗi nhớ nhà. Ý đồ của tôi là sẽ thừa cơ trốn
thoát khỏi tình trạng này, trở về Bagdad mà ở đó cơ ngơi của tôi to lớn, sinh
lợi nhiều, tôi làm sao mà quên được.
Đang quẩn quanh trong những ý nghĩ
đó, thì xảy ra việc vợ một người láng giềng mà tôi kết thân ngã bệnh ốm và
chết. Tôi sang nhà để chia buồn và an ủi, thấy anh ấy đang đắm chìm trong nỗi u
buồn sâu sắc.
- Mong được Thượng đế bảo vệ bạn -
Tôi nói với anh ta - Và phù hộ cho bạn sống trường thọ!
- Than ôi? - Anh trả lời tôi - Làm
sao mà tôi tiếp nhận được cái ân huệ mà bạn cầu chúc cho tôi đây? Tôi chỉ còn
sống được một tiếng đồng hồ nữa mà thôi.
- Ồ? Tôi bảo anh - Xin bạn đừng nên
có ý nghĩ quá bi thảm ấy. Tôi mong là việc đó không bao giờ xảy ra và tôi tin
là bạn cùng tôi còn sống lâu.
- Tôi chúc cho bạn trường thọ - Anh
ta lại nói – Còn tôi thì mọi sự đã an bài. Tôi cho bạn biết là hôm nay người ta
sẽ chôn tôi cùng với vợ. Đó là tục lệ mà các cụ đã dựng nên ở đảo này tuyệt đối
không được vi phạm. Người chồng còn sống sẽ phải chôn theo với người vợ đã chết
và người vợ còn sống sẽ phải chôn theo với người chồng đã chết. Không ai có thể
cứu sống được tôi. Tất cả mọi người đều phải tuân theo luật đó.
Trong lúc chúng tôi trao đổi về cái
tục lệ dã man kỳ lạ đó nó làm tôi sợ khiếp đi được thì nhũng người họ hàng, bè
bạn và hàng xóm láng giềng lũ lượt đến dự lễ tang. Người ta mặc cho người chết
những áo quần đẹp như trang phục cô dâu ngày cưới và trang điểm cho xác chết
tất cả các đồ nữ trang thường dùng hàng ngày của bà ta. Tiếp đó, người ta đặt
thi hài vào một cỗ áo quan để mở và đoàn người lên đường. Người chồng đi đầu
đám tang theo sau thì hài người vợ. Người ta đi men theo đường lên một quả núi
cao và khi tới nơi họ lật một tảng đá to đậy trên miệng một cái giếng sâu và
dòng xác chết vẫn để nguyên áo quần và đồ trang sức xuống đó. Mọi việc xong
xuôi, người chồng ôm lấy người nhà, bè bạn và để cho người ta đặt mình vào áo
quan cũng không có nắp dậy, không hề phản ứng, với một bình nước uống và bảy
chiếc bánh mì để bên cạnh mình. Rồi người ta dòng anh xuống giếng cũng như cách
họ đã dòng vợ anh vậy. Quả núi chạy dài làm thành bờ của biển và cái giếng thì
thật sâu. Lễ tang chấm dứt, người ta lại đậy mlệng giếng lại bằng phiến đá to
đó.
Chẳng cần phải nới thì các ngài cũng
thấy rõ là tôi chứng kiến đám tang lễ đó, với sự buồn rầu vô hạn. Còn tất cả
những người khác thì vẫn thấy thản nhiên vì thói quen thường luôn được nhìn
cảnh ấy. Tôi không ngăn được mà không nói với nhà vua những suy nghĩ của mình
về việc này:
- Tâu bệ hạ - Tôi nói với ông - Tôi
không sao hết kinh ngạc về phong tục của quí quốc chôn người sống cùng với
người chết. Tôi đã đi nhiều nơi, quan hệ với nhiều người ở rất nhiều quốc gia
và chưa từng thấy nơi nào lại có một cái luật quá ác độc như vậy.
- Biết sao được hả Sindbad -.Nhà vua
đáp - Đó lạ luật chung, bản thân ta cũng phải tuân theo. Ta cũng sẽ bị chôn
sống cùng với hoàng hậu vợ ta, nếu nàng chết trước.
- Nhưng, tâu bệ hạ - Tôi nói - Xin
mạnh dạn được hỏi bệ hạ nếu là nhữl:lg người nước ngoài thì có bắt buộc phải
tuân theo tục lệ đó không?
- Có chứ, tất nhiên rồi - Nhà vua
đáp và mỉm cười về lý do vì sao mà tôi lại hỏi thế - Họ không được miễn trừ khi
đã kết hôn ở đảo này.
Tôi buồn rầu trở về nhà vì câu nói
của quốc vương. Tôi sợ vợ mình chẳng may mà chết trước, mà tôi bị chôn sống
cùng với nàng... ý nghĩ này làm tôi hết sức lo lắng và phiền muộn. Nhưng, có
cách nào tránh được? Đành phải kiên nhẫn và phó mặc cho ý chí của Thượng đế
thôi. Tuy nhiên tôi run lên mỗi khi thấy vợ mình có chút gì đó cảm thấy khó ở.
Nhưng, than ôi, chẳng bao lâu tôi lâm vào cơn hoảng sợ thực sự: vợ tôi bị ốm
nặng và mất sau đó ít ngày .
Scheherazade kể tới đây thí chấm hết
cho đêm nay. Đêm tiếp theo sau đó, nàng kể tiếp thế này:
o O o
“Hãy thử xem nỗi đau của tôi -
Sindbad nói tiếp - bị chôn sống cũng chẳng kém phần thảm thương hơn là bị bọn
ăn thịt người nhai tươi nuốt sống. Nhưng vẫn phải qua cái đận đó. Nhà vua, cùng
với cả triều đình đều có mặt trong tang lễ chó thêm phần trọng thể. Những vị
tai to mặt lớn trong thành phố cũng long trọng đến đưa đám tôi.
Khi tất cả đẫ sẵn sàng cho tang lễ,
người ta đặt thi hài vợ tôi vào áo quan với tất cả quần áo đẹp và các đồ trang
sức. Bắt đầu đám rước, như một diễn viên thứ hai trong vở bi kịch thê thảm này,
tôi bước theo ngay sau quan tài của vợ, nước mắt chan hoà, than vãn cho số phận
khốn khổ của mình. Trước khi tới ngọn núi, tôi thử tác động vào tinh thần những
người có mặt ở đó xem sao. Trước tiên tôi nói với quốc vương rồi tất cả những
người xung quanh và cúi xuống trước mặt họ sát tận mặt đất, hôn vào gấu áo và
xin họ hãy rủ lòng thương hại: Các ngài hãy xét cho - tôi nói - tôi là người
nước ngoài, đúng lẽ ra thì không phải tuân theo cái luật quá khắc nghiệt này,
rằng tôi còn người vợ khác nữa và các con tôi ở nước tôi . Dù tôi nói những lời
trên đây với giọng nhuốm nước mắt, nhưng chắng có ai động lòng. Ngược lại người
ta còn vội vã dòng vợ tôi xuống giếng và một lát sau đó, người ta cũng đưa tôi
xuống trong một quan tài để ngỏ với một bình nước đầy và bảy tấm bánh. Cuối
cùng cái đám lễ quá bi thảm đó với tôi kết thúc, người ta đặt lại tấm đá lên
miệng giếng bất chấp nỗi đau lòng và những tiếng kêu thảm thiết của tôi.
Bị đưa từ từ xuống đáy giếng, tôi
nhận rõ được cảnh trí ở cái nơi dưới mặt đất ấy nhờ vào chút ánh sáng từ trên
cao chiếu xuống. Đó là một cái hang rất rộng và sâu tới khoảng năm chục sải
tay. Một mùi hôi thối nồng nặc từ vô vàn xác chết mà tôi nhìn thấy ở bên phải
và bên trái xông lên. Hình như tôi còn nghe thấy những tiếng thở dàl cuối cùng
của những người sống mới được dòng xuống đây. Dù vậy, khi đã chạm đáy giếng,
tôi lập tức bước ra khỏi quan tài, vừa bịt mũi vừa đi ra xa. Tôi gieo mình
xuống đất và nằm đó rất lâu chìm trong nước mắt. Thế rồi, nghĩ về cái số phận
đáng buồn của mình, tôi tự bảo:
Đúng là chúng ta đều do Thượng đế
định đoạt theo ý của Người. Nhưng, hỡi Sindbad khốn khổ, phải chăng vì tội lỗi
của chính mày mà mày phải rơi vào một cái chết kỳ quặc như thế này? Thà Thượng
đế cho mày chết quách đi trong một trận đắm tàu nào đó mà mày đã thoát được!
Mày đã không phải lìa đời trong cái chết chậm chạp và khủng khiếp như thế này.
Nhưng chinh mày đã tự chuốc lấy vì cái tật thích phiêu lưu đáng nguyền rủa của
mày. Ôi! Khốn khổ khốn nạn! Đáng lẽ ra thì mày phải ở yên tại nhà, êm đềm hưởng
thụ thành quả của bao công sức lao động của mày?
Đó là những lời than vãn vô tích sự
mà tôi vừa thốt vang lên trong hang vừa lấy tay đấm vào đầu, vào bụng một cách
điên cuồng tuyệt vọng và hoàn toàn thả mình trong những ý nghĩ vô cùng hoang
mang và sầu não. Tuy nhiên, biết nói với các vị thế nào đây? Đáng lẽ khẩn cầu
cái chết đến mang đi cho nhẹ tội thì, mặc dù vô cùng khốn đốn như thế, lòng yêu
đời vẫn còn thấp thoáng trong tôi, nhủ tôi hãy kéo dài thêm những ngày còn lại.
Tôi bước đi chập choạng và lấy tay bịt mũi, tôi rờ lấy nước uống và bánh để
trong quan tài và đưa lên miệng nhai.
Dù bóng tối trong hang dày đặc, ngày
như đêm, đêm như ngày, tôi vẫn thấy được quan tài của mình và cái hang có vẻ
như rộng hơn và chứa nhiều xác chết hơn như nó có vẻ lúc đầu. Tôi sống được vài
ngày bằng những chiếc bánh và bình nước, nhưng cuối cùng, không còn gì nữa, tôi
sửa soạn chết... .
Scheherazađẻ kể đến đây thì im
tiếng. Đêm sau, nàng kể tiếp:
o O o
“Tôi chỉ còn nằm chờ chết - Sindbad
nói tiếp – Thì bỗng nghe thấy tiếng có người nâng tảng đá. Người ta lại dòng
xuống một xác chết và một người sống. Người chết là đàn ông. Thật cũng tự nhiên
và dễ hiểu khi người ta có những quyết định tuyệt cùng vào những lúc tuyệt
cùng. Lúc người đàn bà được dòng xuống, tôi tới gần chỗ mà chiếc quan tài phải
được đặt vào và khi nhìn thấy tảng đá đã được lắp vào mlệng giếng, tôi liền
giáng xuống đầu người đàn bà khổn khổ hai hoặc ba nhát bằng khúc xương to mà
tôi đã trang bị. Bà ta bị choáng hay đúng hơn là bị giết và tôi làm cái hành
động vô nhân đạo đó chỉ để đoạt bánh và nước để trong quan tài của bà ta. Tôi
đã có lương thực dự trữ cho vài ba ngày. Cuối thời gian đó, người ta lại dòng
xuống một người đàn bà chết và một người đàn ông sống. Tôi giết người đàn ông
cũng bằng cách đó và rất may cho tội là dạo ấy thành phố có nhiều người chết
nên tôi không bị thiếu lương thực vẫn bằng cách làm ăn vô nhân đạo đó.
Một hôm, tôi vừa thanh toán một
người đàn bà nữa, thì bỗng nghe thấy có tiếng thở và tiếng chân di chuyển. Tôi
lần bước đi về phía đó. Tôi nghe thấy tiếng thở rõ hơn và thấy như có một vật
gì đó chạy trốn. Tôi đi theo cái bóng đó, thỉnh thoảng nó lại dừng lại và rồi
lại vừa thở vừa chạy đi khi tôi đến gần. Tôi vẫn bước đi theo rất lâu và rất xa
và cuối cùng nhìn thấy một chấm sáng giống như một ngôi sao. Tôi tiếp tục đi về
phía chấm sáng đó, thỉnh thoảng lại mất hút vì bị những chướng ngại che khuất.
Nhưng rồi tôi lại thấy và cuối cùng phát hiện ra đó là cái khe ở vách đá, khá
rộng có thể lách qua.
Với sự phát hiện này, tôi phải dừng
lại một lát để cố nén xúc động quá mạnh làm tôi choáng váng. Tôi tiến đến tận
chỗ cái khe đó, lách người qua và thấy mình đứng trên bờ biển. Các vĩ hãy tưởng
tượng tôi vui mừng đến độ nào. Nó lớn đến mức tôi cho đó chỉ là một giấc mơ.
Khi đã biết chắc đây là sự thực, và các giác quan của tôi đã trở về hoạt động
bình thường thì tôi hiểu cái vật mà tôi nghe thấy tiếng thở và tôi đã đi theo,
là một con vật từ dưới biển lên và nó có thói quen sục vào cái hang đó để ăn
thịt xác chết.
Tôi ngắm nhìn ngọn núi và nhận thấy
nó nằm giữa thành phố và biển, chẳng có đường lên lối xuống, vì vách đá dựng
đứng rất hiểm trở. Tôi quì xuống bờ biển để cảm tạ Thượng đế đã phù trợ cho
tôi. Rồi tôi quay vào hang để lấy bánh mì và trở lại bờ biển ngồi ăn dưới ánh
sáng ban ngày, ngon miệng chưa từng có kể từ ngày tôi bị chôn sống trong cái
chốn tối tăm mù mịt đó.
Tôi còn quay lại hang để rờ rẫm thu
nhặt trong các quan tài tất cả những viên kim cương, hồng ngọc, ngọc trai những
vòng tay vàng và cuối cùng là tất cả những tấm vải đẹp mà tôi sờ thấy. Tôi lôi
tất cả những thứ đó ra bờ biến. Tôi chia ra thành nhiều gói buộc chặt lại bằng
những sợi dây có hàng đống đã dùng để dòng những quan tài xuơng giếng. Tôi để
tất cả trên bờ, chờ dịp tất, không sợ trời mưa làm hỏng vì lúc đó chưa phải là
mùa mưa.
Được độ hai hoặc ba ngày sau, tời
nhìn thấy một con tàu như vừa rời bến và sắp đi qua rất gần chỗ tôi đang đứug.
Tôi dùng cái khăn quấn đầu vẫy làm hiệu và kêu lên thật to. Trên tàu nghe
tiếng, thả xuồng xuống bơi vào đón tôi. Thuỷ thủ hỏi tôi vì sao lại đến nỗi
thế, tôi trả lời họ là thoát chết trong một vụ đắm tàu cách đây hai hôm và cứu
được một số hàng hoá họ trông thấy đây. Những nguời này cũng chẳng chú ý quan
sát nơi tôi đang đứng xem điều tôi nói có đúng không, họ đã tin và cho tôi lên
xuồng cùng các gói hàng.
Khi chúng tôi đã ở trên tàu, thuyền
trưởng vui vẻ vì đã giúp được tôi và vì còn đang bận chỉ huy con tàu nên cũng
tin là tôi bị đắm tàu như câu chuyện tôi đã bịa đặt. Tôi biếu ông ta vài viên
ngọc, nhưng ông không nhận. Chúng tôi đi ngang qua nhiều hòn đảo, trong đó có
đảo Chuông, cách đảo Serendib mười ngày xa nếu có gió thuận đều và cách đảo
Kela sáu ngày. Chúng tôi ghé vào, ở đây có mỏ chì, mía Ấn Độ và long não loại
thượng hạng. Quốc vương đảo Kela rất giàu có, rất hùng mạnh và uy quyền của ông
lan tới toàn đảo Chuông rộng hai ngày đường. Thổ dân ở đây rất man rợ, còn ăn
cả thịt người. Sau khi bán được một số lớn hàng tại đây, chứng tôi lại giương
buồm ghé vào nhiều bến khác. Cuối cùng, tôi thật sung sướng trở về Bagdad với
rất nhiều của cải, chắc các vị cũng miễn cho việc nêu lên đầy đủ các chl tiết.
ĐỂ tạ ơn Thượng đế vì bao nhiêu ân huệ người ban cho tôi đã làm nhiều điều công
đức vừa cho tu sửa nhiều thánh thất vừa giúp đỡ những người nghèo khổ. Tôi hết
sức rộng rãi với những người thân và bạn hữu, cùng họ thoả sức vui chơi và tiệc
tùng linh đình.
Sindbad kết thúc ở đây câu chuyện về
chuyến phiêu lưu thứ tư của ông làm mọi người đều thán phục và thích thú hơn cả
các chuyện về ba chuyến đi trước. Ông lại tặng cho Hindbad một trăm đồng sequin
và mời mọi người hôm sau lại đến đúng giờ như thế để cùng nhau dùng bữa và nghe
những chi tiết về chuyến đi thứ năm của ông. Hindbad và những người khác cáo từ
ra về. Và hôm sau, khi tất cả mọi người đã tề tựu đông đủ, họ ngồi vào bàn ăn
và sau bữa cũng chẳng kém kéo dài như các bữa trước, Sindbad bắt đầu kể tình
tlết câu chuyện về chuyến đi biển thứ năm của ông như sau:
...
Nghìn Lẻ Một Đêm
Chương 30: Chuyến đi thứ năm của
Sindbad
- Những thú vui - Ông nói - cũng hãy
còn khá đủ sức hấp dẫn để xua khỏi trí nhớ của tôl tất cả những gian nan khổ ải
mà tôi đã từng phải chịu đựng, nhưng không thể làm nhụt lòng ham muốn của tôi
là lại lên đường làm những chuyến đi mới. Vì vậy, tôi mua hàng, đóng gói và
chất lên xe và cùng với hàng, tôi đi ngay tới một cảng biển gần nhất. Tới đây,
để khỏl phụ thuộc vào một truyền trưởng và muốn có một con tàu do mình chỉ huy,
tôi dành thời gian cho đóng một tàu riêng và bỏ tiền túi ra trang bị hoàn
chỉnh. Tàu đóng xong, tôi cho chất hàng lên nhưng tàu còn khá rộng nên tôi nhận
chở thêm nhiều nhà buôn của nhiều nước khác nhau cùng vôi hàng hoá của họ.
Khi bắt đầu có gió thuận, chúng tôi
giương buồm và lướt ra khơi. Sau một chặng đường dài, chỗ đầu tlên mà tàu ghé
vào là một hòn đảo hoang mà chúng tôi thấy ở đó trứng của một con đại bàng to
bằng quả trứng mà các vị đã nghe tôi nói rồi. Trong trứng có một con đại bàng
non sắp nở, vì đã thấy cái mỏ của nó lấp ló qua chỗ rạn của vỏ trứng.
Kể đến đây, Scheherazade ngừng lại
vì ánh sáng ngày đã chiếu vào trong ngự phòng của hoàng đế Ấn Độ. Đêm sau, nàng
kể tiếp:
“Sindbad, người đi biển - Nàng nói -
tiếp tục kể chuyện về chuyến đi thứ năm của mình:
- Những nhà buôn - Ông nói tiếp - ở
trên tàu của tôi và cũng cùng lên bờ với tôi bèn dùng rìu bổ vỡ quả trứng, lôi
con đại bàng non ra, xả làm nhiều mảnh và đưa lên lửa nướng để ăn. Tôi đã
nghiêm trang cảnh báo họ là chớ nên đụng vào quả trứng đó, nhưng họ chẳng thèm
nghe.
Bữa tiệc thịt chim đại bàng non vừa
qua khỏi miệng thì từ phía chân trời khá xa xuất hiện hai đám mây lớn! Người
thuyền trưởng mà tôi thuê để chỉ huy con ngườl tàu, có kinh nghiệm biết cái đó
có nghĩa gì, kêu lên đó là bố và mẹ con đại bàng non và ông giục chúng tôi gấp
rút lên tàu ngay để tránh tai nạn mà ông dự đoán. Chúng tôi vội vã theo lời
khuyên đỏ và khẩn trương kéo buồm lên.
Nhưng lúc đó, hai con đại bàng vừa
bay tới gần kêu lên dữ dội và chúng lại càng kêu lên khủng khiếp gấp bội khi
nhìn thấy tình trạng của quả trứng và không thấy con chúng đâu cả. Chắc là với
ý định trả thù, chúng bay về hướng vừa tới và mất hút một thời gian, trong khi
đó thì chúng tôi thì giừơng hết buồm lên và gắng sức ra càng xa càng tốt hòn
đảo đó.
Đột nhiên, chúng bay trở lại và
chúng tôi nhận thấy chúng quặp trong bộ móng của chúng mỗi con một tảng đá rất
to. Khi bay đến đúng bên trên tàu chúng tôi thì chúng dừng lại và bay đứng trên
không, một con buông tảng đá xuống, nhưng nhờ tài khéo léo của người lái quặt
mũi tàu sang một bên nên tảng đá rơi xuống biển, cạnh ngay mạn tàu làm thành
một lỗ hổng lớn trên mặt biển hầu như có thể nhìn tới đáy. Con chim kia, tai
hại cho chúng tôi, lại buông tảng đá rơi xuống trúng giữa con tàu làm nó vỡ tan
tành. Hành khách và thuỷ thủ, người chết bẹp, người chết đuối Còn tôi cũng chìm
nghỉm nhưng lúc ngoi lên trên mặt nước, may mà vớ được một mảnh vỡ của con tàu.
Cứ thế, lúc tay nọ, lúc tay kia, tôi không rời cái mảnh vỡ đó, gió và sóng đẩy
tôi vào một hòn đảo bờ đốc đứng. Dù sao tôi cũng thoát nạn. Tôi ngồi xuống bãi
cỏ nghỉ ngơi một chút cho hồi sức rồi sau đó đứng lên đi sâu vào đảo để tìm
hiểu đất đai. Tôi đang như ở trong một khu vườn tuyệt diệu: cây mọc san sát,
cây này trĩu quả, cây khác đang đâm hoa, những cón suối nước ngọt trong vắt uốn
lượn quanh co. Tôi hái quả ăn, những quả thật là ngon ngọt; tôi uống nước của
những dòng suối róc rách như mời chào.
Đêm đến, tôi nằm ngủ trên thảm cỏ ở
một nơi mát mẻ thuận lợi. Nhưng chẳng ngủ tròn được một tiếng đồng hồ, giấc ngủ
luôn bi gián đoạn vì nỗi lo thấy chỉ có mình mình ở một nơi quá hoang vu lặng
lẽ. Phần lớn trong đêm tôi âu sầu và lo nghĩ, tự trách mình ngu dại đã không ở
yên tại nhà mà lại còn đi làm cuộc phiêu lưu cuối cùng này. Những ý nghĩ bi
quan này đã đưa tôi đi xa đến chỗ dự định huỷ hoại thân mình. Nhưng ban ngày
tới và với ánh sáng của nó đã làm tán đi nỗi niềm tuyệt vọng của tôl. Tôi đứng
lên đặt bước đi giữa các hàng cây mà lòng dạ vẫn bồn chồn.
Khi đi sâu vào đảo một chút, tôi
nhìn thấy một ông già rất hom hem lọm khọm. Ông ta ngồi bên bờ suối. Lúc đầu
tôi tưởng cũng là nạn nhân bị đắm tàu như mình. Đi lại gần, tôi cất tiếng chào
lão và chỉ nhận được một cái gật đầu Tôi hỏi lão đang làm gì. Nhưng lão không
trả lời mà lại ra dấu bảo tôi cõng lão lên lưng đưa lão qua suối sang bờ bên
kia để hái quả ăn.
Tôi tưởng lão ta muốn tôi giúp đỡ
thật nên cõng lão lên lưng và lội qua suối.
- Thôi xuống đi - Tôi bảo lão và cúi
người thấp cho lão dễ xuống.
Nhưng đáng lẽ tụt xuống (mỗi khi
nghĩ đến tôi lại bật cười) thì lão già đó mà tôi cho là đã quá suy yếu, lại nhẹ
nhàng đưa chân lên mà tôi trông da chân lão giống như da bò cái quặp chặt lấy
cổ tôi, rồi ngồi dạng chân trên vaí tôi. Quá ngạc nhiên và sợ hãi tôi ngã lăn
xuống bất tỉnh...
Scheherazađe bắt buộc phải ngừng lại
ở đây vì mặt trời đã xuất hiện. Nàng kể tiếp câu chuyện này vào cuối đêm sau.
o O o
“Mặc cho tôi bất tỉnh nhân sự -
Sindbad nói - cái lão già quái ác đó vẫn dùng chân bám chặt lấy cổ tôi. Lão chỉ
hơi dạng đùi ra một chút cho tôi đễ thở mà thôi. Khi tôi tỉnh dậy, lão dùng một
bàn chân đạp mạnh vào bụng tôi, bàn chân kia thúc mạnh vào sườn, bắt tôi phải
đứng lên. Lão bắt tôi đi dưới hàng cây, ghìm tôi đứng lại để lão hái quả ăn mỗi
khi đến gần một cây có quả chín. Suốt ngày lão quắp vào cổ tôi như vậy và đến
tối lúc ngủ thì lão cùng nằm ngả xuống đất với tôi nhưng cặp chân của lão vẫn
không rời cổ tôi. Trời sáng thì lão đạp mạnh để đánh thức tôi. Rồi sau đó lão
bắt tôi đứng lên và bước đi bằng cách dùng bàn chân thúc vào bụng, vào sườn
tôi. Các vị hãy tưởng tượng tôi khổ sở và bực mình biết bao khi cứ phải mang
cái của nợ ấy trên vai mình mà không có cách nào rũ bỏ đi được.
Một hôm tôi bắt gặp trên đường nhiều
quả bầu khô rụng từ trên cây xuống. Tôi chọn lấy một quả to nhất và sau khi lau
rửa sạch sẽ, tôi vắt vào trong quả bầu, nước của những chùm nho mọc rất nhiều
trên đảo cứ mỗi bước đi lại gặp, Khi nước quả nho đã đầy bầu, tôi đặt vào một
nơi kín đáo và nhiều ngày sau, tôi khéo léo đẫn lão già đến đấy. Đến nơi, tôi
cầm lấy quả bầu đưa lên miệng uống một thứ rượu vang ngon tuyệt làm cho tôi
cũng tạm khuây khoả chốc lát cái nỗi buồn u uất. Nó làm cho tôi phấn chấn, sảng
khoái đến mức tôi vừa đi vừa hát lại có lúc nhảy tâng tâng lên nữa.
Lão già nhận thấy cái loại nước uống
đó tác đụng rõ rệt vào tôi, thấy tôi cõng lão thoải mái hơn mọi khi nên lão ra
dấu bảo tôi đưa lão uống. Tôi đưa quả bầu, lão cầm lấy đưa lên miệng nếm. Thấy
ngon ngọt dễ chịu, lão ngửa cổ dốc vào họng đến giọt cuối cùng. Chừng ấy rượu
nho đủ làm cho lão say, và quả nhiên chẳng mấy chốc mà men rượu bốc lên làm cho
lão ngật ngưỡng, lão bắt đầu ti tỉ hát theo kiểu của lão và nhún nhảy trên vai
tôi. Lắc lư quá mạnh làm cho lão nôn thốc nôn tháo, đôi chân quặp lấy cổ tôi
dần dần buông lỏng đến lúc cảm thấy không bị ghì quá chặt nữa, tôi bèn hất lão
ngã xoài xuơng đất, lão nằm thẳng cẳng ra đấy, không cựa quậy. Tôi bèn bê một
tảng đá to giáng xuống đầu lão.
Tôi vô cùng sung sướng giải thoát
được vĩnh viễn khỏi đôi chân của lão già đáng nguyền rủa đó và đi ra phía bờ
biển, ở đó tôi gặp được người của một con tàu vừa buông neo để lấy thêm nước
ngọt và hái ít trái cây hoang. Nhìn thấy tôi, họ rất ngạc nhiên và khi nghe xong
chuyện tôl kể, họ bảo:
- Bạn đã rơi vào tay lão già của
biển và là người đầu tiên không bị lão chẹt cổ cho đến chết. Lão không bỏ qua
một người nào sau khi đã phục vụ cho lão mà lão không ghì chết. Hòn đảo này nổi
tiếng vì số người đã chết vì đôi chân của lão. Các thuỷ thủ và nhà buôn ghé vào
đảo này chỉ dám đi sâu vào trong khi có đông người cùng đi.
Sau khi cho tôi biết những điều đó,
họ mang tôi theo họ lên tàu. Người thuyền trưởng vui vẻ đón tiếp tôi khi rõ tất
cả câu chuyện. Ông lại cho giương buồm và sau hai ngày chèo lái chúng tôi ghé
vào bến cảng của một thành phố lớn mà nhà cửa ở đó toàn xây bằng đá tốt.
Một trong những thương gia trên tàu
mà tôi đã kịp kết thân bảo tôi đi theo ông ta. Ông đưa tôi đến nơi thường trọ
củn những thương gia người nước ngoài. Ông cho tôi một cái bao vải lớn rồi gửi
gắm tôi cho mấy người trong thành phố, người nào cũng có một cái bao như tôi,
nhờ những người này cho tôl đi theo để nhặt dừa cùng với họ.Ông bảo tôi:
- Bạn hãy đi theo họ, làm như họ và
nhớ là chớ có rời xa họlúc nào vì sẽ rất nguy hiểm đấy.
Ông ta cho tôi thức ăn mang theo cho
ngày hôm đó. Rồi tôi lên đường cùng với những người được ông ta gửi gắm.
Chúng tôi đến một cánh rừng lớn có
nhiều cây cao mọc rất thẳng, thân cây nhẵn lì, khó mà trèo lên được để hái quả.
Đó là những cây dừa mà chúng tôi muốn trẩy quả chứa vào những bao mang theo.
Lúc đi vào rừng, thấy rất nhiều khỉ to khỉ nhỏ. Thấy chúng tôi, chúng ù té chạy
và leo tót lên cây trèo thật nhanh lên đến tận chùm quả dừa cao tít .
Scheherazade muốn kể tiếp, nhưng
trời sáng ngăn nàng lại. Đêm tiếp theo, nàng kể tiếp như sau:
o O o
“Những nhà buôn mà tôi đi cùng -
Sindbad tiếp tục kể - nhặt đá, lấy hết sức ném vào bọn khỉ trên cao. Tôi cũng
làm như họ. Bọn khỉ tức giận vặn những quả dừa ngay ở tầm tay chúng ném vào
chúng tôi tới tấp. Chúng tôi nhặt dừa bỏ vào bao khi thấy bọn khỉ ngừng thả dừa
xuống mà bao của chúng tôi chưa đầy, chúng tôi lại nhặt đá ném để trêu tức
chúng. Bằng cái mẹo vặt này, bao của chúng tôi đầy lắc dừa.
Trở về thành phố, người nhà buôn đã
cho tôi đi theo bọn người hái đừa đánh giá bao đừa của tôi và bảo:
- Bạn cứ tiếp tục làm như thế cho
đến lúc nào đủ khoản chi phí để trở về nhà.
Tôi cảm ơn lờl khuyên tốt của ông và
dần dần tôi tích đống được hàng núi dừa đưa lại cho tôi một khoản tiền lớn.
Con tàu mà tôi được đón lên trước đó
nhổ neo cùng các nhà buôn chở theo rất nhiều dừa mà họ phải mua buôn. Tôi chờ
chuyến tàu khác, chẳng mấy chốc đã tới cặp vào bến cảng thành phố để cũng
chuyển tải dừa như thế. Tôi cho bốc cả kho dừa của tôi lên tàu và khi sắp nhổ
neo, tôi đến chào và cảm ơn nhà thương gia đã giúp đỡ tôi hết lòng. Ông chưa đi
cùng tôi được vì công việc chưa xong.
Chúng tôi giương buồm theo hướng đi
vào hòn đảo mà cây hồ tiêu mọc rất nhiều. Từ đó chúng tôi qua đảo Comori nơi
sản xuất gỗ đàn hương nổi tiếng mà dân cư ở đó có một đạo luật bất khả xâm phạm
là không uống rượu và không tổ chức nhà chứa. Tôi trao đổi dừa ở hai hòn đảo
trên đây lấy về hồ tlêu và gỗ đàn hương và cùng với những nhà buôn khác thuê
thợ lặn mò ngọc trai. Tôi có những viên ngọc trai rất to và nước ngọc thật đẹp.
Trong lòng lâng lâng vui sướng tôi trở lại biển trên con tàu đưa tôi đi Balsora
và từ đó tôi trở về Bagdad với những khoản tiền lớn sau khi bán hồ tiêu, gỗ đàn
hương và ngọc trai mà tôi kiếm được bằng những quả đừa. Tôi làm việc từ thiện
hết khoảng một phần mười số vốn đó cũng như những chuyến trở về trước và tìm
đến tất cả những thú vui để bù lại bao ngày vất vả mệt nhọc.
Kể xong chuyện, Sindbad lại đem tặng
cho Hindbad một trăm đồng sequin và cả bọn ra về. Ngày hôm sau theo lời mời, họ
lại tới nhà Sindbađ giàu có, dự tiệc ăn uống thoả thuê như những ngày trước rồi
nghe ông kể chuyện về chuyến đi thứ sáu của mình.
Nghìn Lẻ Một Đêm
Chương 31: Chuyến đi thứ sáu của
Sindbad
“Chắc là các vị rất khó hiểu là tại
sao qua năm lần bị đắm tàu, trải qua biết bao nguy hiểm, mà tôi còn muốn thử
vận mệnh của mình lại dấn thân vào gian khổ tìm kiếm những vận hạn mới nữa.
Chính tôi cũng tự mình lấy làm ngạc nhiên khi nghĩ tới điều đó, cho hẳn là ngôi
sao chiếu mệnh đã lôi cuốn mình đây. Dù sao chăng nữa thì sau một năm nghỉ ngơi
nhàn nhã, tôi lại chuẩn bị cho chuyến đi thứ sáu, bỏ ngoài tai tất cả những lời
van xin can gián của người nhà và của bè bạn. Họ đã làm tất cả những gì có thể
làm mong giữ tôi lại.
Thay vì đi theo đường biển qua vịnh
Persique, một lần nữa tôi lại đi xuyên qua nhiều tỉnh thành của Ba Tư của Ấn Độ
tới một hải cảng, ở đó tôi lên một chiếc tàu tốt mà người thuyền trưởng quyết
định đl một chuyến dài ngày. Đúng là chuyến đi dài thật nhưng đồng thời cũng
thật khốn đốn. Cả thuyền trưởng cả thuỷ thủ đều lạc đường đến nỗi không còn
biết được lúc này tàu đang ở đâu. Cuối cùng họ cũng biết, nhưng đã quá muộn.
Thuyền trưởng rời bỏ vị trí của mình. Ông quẳng khăn đội đầu xuống biển, lấy
tay dứt râu dứt tóc, đấm vào đầu tát vào mặt, kêu lên như một người loạn trí vì
tuyệt vọng. Chúng tôi hỏi vì sao ông lại quá phiền não như vậy. Ông thở dài não
nuột! .
- Tôi báo cho các ông biết là chúng
ta đang ở một nơi nguy hiểm nhất giữa biển. Một đòng nước rất mạnh cuốn con tàu
đi và tất cả chúng ta sẽ chết trong một khắc đồng hồ nữa thôi.
Nói xong ông lệnh chò hạ tất cả các
cánh buồm, nhưng trong thao tác, các dây rợ đều đứt phựt và con tàu không sao
điều khiển được, bị dòng nước cuốn đi xô mạnh vào một trái núi chắn ngang làm
vỡ tan ra nhiều mảnh. Tuy vậy khi cứu người, chúng tôi còn có cả thời gian để
cứu được một ít lương thực và một số hàng hoá quí. Thuyền trưởng bảo chúng tôi:
- Thượng đế vừa làm cái việc theo ý
muốn của Người. Chúng ta có thể đào ở đây mỗi người một huyệt để tự chôn mình
và chào nhau lần cuối, vì chúng ta đang ở một nơi cực kỳ bi thảm, không có một
ai bị nem vào đây trước chúng ta mà trở về nhà được.
Những lời nói của thuyền trưởng làm
cho tất cả chúng tôi buồn rầu tuyệt vọng. Chúng tôi ôm hôn nhau mà than mà khóc
cho số phận hẩm hiu. Ai cũng ròng ròng nước mắt.
Trái núi mà dưới chân nó, chúng tôi
đang trú ngụ là bờ của một hòn đảo rất dài rộng. Đoạn bờ này rải rác rất nhiều
những mảnh tàu bị đắm và từng chỗ từng chỗ là những đống xương trắng trông thật
khủng khiếp. Chúng tôi thấy rõ là đã có rất nhiều người bị chết tại đây. Một
điều không thể tưởng tượng được nữa là cùng với những đống xương, còn rất nhiều
đống hàng hoá và của cải bầy ra trước mắt chúng tôi ở khắp mọi chỗ: Tất cả
những vật đó chỉ càng làm tăng thêm sự hoang mang sầu não trong hoàn cảnh của
chúng tôi mà thôi. Thường thường thì ở tất cả mọi nơi, những dòng sông đều đổ
ra biển cả, nhưng ở đây, trái lại, một con sông lôn nước ngọt lại rời biển đổ
vào bờ qua một hang động tối om mà cửa hang rất rộng và cao vút. ĐiỀu đáng chú
ý nhất ở đây là đá núi đều là thạch anh, hồng ngọc và là nhiều thứ đá quí khác.
Người ta còn thấy ở đây một con suối chảy ra biển toàn một chất đầu gì đó mà cá
ăn vào lại nhả ra toàn là hổ phách. Những thứ này bị sóng đánh giạt vào bãi cát
nằm ngổn ngang khắp chỗ. Ở đây còn mọc nhiều cây mà phần lớn là gỗ trầm hương
chẳng thua gì gỗ trầm ở đảo Comari.
Để kết thúc phần miêu tả chốn này,
người ta có thể gọi đây là một cái vực không đáy vì chẳng có gì có thể trở lại
được cả. Những con tàu không tài nào tránh khỏi một khi đã tới gần ở một khoảng
cách nào đó. Nếu chúng được gió biển đẩy đi thì sức gió và dòng nước mạnh sẽ xô
vào chỗ diệt vong.
Và nếu chúng được gió từ đất liền
thổi ra thì có nhiều cơ may chúng có thể. được đẩy ra xa, nhưng hòn núi cao
trước mặt cản gió lại, tạo nên một sự tĩnh lặng mặc cho luồng nước honnh hành
xô chúng vào thành đá cho vỡ tan ra từng mảnh cững y như con tàu của chúng tôi.
Càng tệ hại và thất vọng hơn nữa là chẳng có cách nào leo được lên đỉnh ngọn
núi để tìm cách thoát thân về phía bên kia được.
Chúng tôi ở trên bờ biển như những
người mất trí và chờ đợi cái chết đến từng ngày. Trước tiên, chúng tôi chia đều
thức ăn cho từng người, như vậy người nọ có thể sống lâu hơn hoặc chết trước
người kia tuỳ theo tạng người và cách sử dụng thức ăn của từng ngửời.
Scheherazade đến đây ngừng kể vì
thấy trời đã hửng sáng. Đêm sau, nàng kể tlếp những tình tiết trong câu chuyện
về chuyến đi thứ sáu của Sindbad:
o O o
“Những người chết trước tiên -
Sindbad nói tiếp - được những người khác chôn cất. Về phần tôi, tôi làm nghĩa
vụ cuối cùng đối với tất cả các bạn và cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên vì
ngoài phần được chla đều với các bạn, tôi còn một phần giữ riêng không cho các
bạn biết. Tuy vậy lúc tôi chôn cất cho người bạn cuối cùng xong thì số lương
thực còn lại cũng thật quá ít ỏi, nên xét thấy tôi cũng chẳng còn đi được bao
xa nữa. Vì vậy tự đào sẵn cho mình một huyệt mộ, để tới một lúc nào đó tôi sẽ
tự lăn xuống đó. Tôi xin thú nhận với các vị là trong lúc. làm cái công việc đó
tôl chẳng khỏi tự xỉ vả chmh mình là nguyên nhân cái chết của mình và ân hận là
đã tự mình lao vào cái chuyến đi cuối cùng này. Không dừng lại ở những suy nghĩ
mà tôi còn cắn vào tay mình cho đầm đìa máu, mong được chết sớm đi.
Nhưng Thượng đế hãy còn rủ lòng
thương xui khiến tôi đi ra tới tận con sông mà dòng nước của nó chảy mất hút
dưới vòm hang. Ở đó, sau khi xem xét rất kỹ, tôi tự bảo: Con sông giấu mình
dưới đất này ắt phải thoát ra ở một chỗ nào đó. Làm một chiếc bè, ngồi lên
trên, phó mặc cho dòng nước đẩy đi, ta sẽ tới một vùng đất có dân, hoặc là ta
chết. Nếu chết thì chẳng qua cũng là thay đổi loại chết như thế nào thôi. Ngược
lại, nếu ra khỏi được cái chốn thê lương này thì không những ta tránh được cái
số phận buồn thảm của các bạn đường mà ta còn có thể tìm được cơ hội mớl để làm
giàu. Biết đâu vận mệnh lại chẳng chờ ta ra khỏi cái tai nạn gớm ghiếc này để
đền bù một cách hào hiệp cho vụ ta bị đắm tàu.
Tôi không lưỡng lự gì nữa mà bắt tay
vào làm ngay chiếc bè. Không thiếu vật liệu nên tôi thả sức lựa chọn: những
mảnh gỗ ván tốt, những dây thừng chão bền. Tôi gá, buộc thật chặt chẽ các thứ
vào nhau thành một chiếc bè rất vững chắc. Khi hoàn thành, tôi chất lên vài bọc
hồng ngọc, bích ngọc, hổ phách, đá thạch anh và vảl vóc quí. Xếp thật cân bằng
và buộc chặt vào bè, tôi trèo, lên cùng với hai chiếc bơi chèo nhỏ tôi đã không
quên đẽo gọt, rồi thả bè theo dòng sông, tôi phó mặc mình cho ý chí của Thượng
đế.
Vừa qua vòm hang, chẳng còn ánh sáng
nữa, dòng nước cuơn tôi đi đâu, tôi nào có rõ. Suốt mấy ngày tôi ở trong cái
bóng tối đen ngòm chẳng nhìn thấy một tia sáng nào. Có lần tôi thấy cái vòm quá
thấp tưởng có thể chạm đầu, điều đó làm tôi hết sức chú ý để khỏi bị nguy hiểm.
Suốt thời gian này tôi chỉ nhấm nháp cầm chừng sốâ thực phẩm còn lại để duy trì
sự sống. Nhưng dù có dè sẻn đến đâu thì thức ăn cũng cạn ráo. Thế rồi, không
sao cưỡng nổi, một giấc ngủ nhẹ nhàng đến làm tê liệt cả các giác quan của tôi.
Không biết là ngủ được bao lâu nhưng lúc thức giấc tôi ngạc nhiên thấy mình
đang ở giữa một cánh đồng rộng trên bờ một con sông mà chiếc bè của tôi được
neo buộc ở đó. Cả một đám đông người da đen xúm quanh tôi. Tôi lồm cồm đứng lên
và cất tiếng chào.
Họ nói với tôi gì đó nhưng tôi không
hiểu tiếng của họ.
Lúc đó tôi sung sướng đến mê man cả
người nên không rõ là đã thức hay còn ngỉl. Biết chắc chắn là mình không mơ,
tôi kêu to sung sướng và đọc lên những câu thơ tiếng Ả Rập: Hãy cầu khẩn đấng
Tối cao hùng mạnh, Người sẽ tới cứu giúp mi. Chẳng cần mi phải ôm đồm việc
khác. Hãy nhắm mắt lại! Và trong khi mi ngủ, Thượng đế sẽ chuyển vận mệnh mi từ
xấu sang tốt .
Một trong số người da đen, hiểu
tiếng Ả Rập, nghe thấy tôi nói thế, tiến đến và nói:
- Người anh em - Anh ta nói - Xin
đừng ngạc nhiên thấy chúng tôi ở đây. Chúng tôi sống ở nông thôn như bạn thấy
đấy và hôm nay tới đây để tưới ruộng bằng nước của con sông nó chảy từ quả núi
kia ra những lạch nhỏ này. Nhận thấy dòng sông có cuốn theo cái gì đó, chúng
tôi chạy ra xem và thấy đó là một chiếc bè. Một người trong bọn tôi bèn nhảy
xuống sông lôi nó lên buộc vào bờ, và chúng tôi chờ bạn thức đậy. Xin bạn hãy
kể cho chúng tôi nghe chuyện của bạn chắc là phải rất kỳ lạ. Hãy nói cho chúng
tôi biết vì sao bạn lại lênh đênh trên sông và bạn từ đâu tới thế.
Tôi bảo họ là trước hết họ hãy cho
tôi ăn đã rồi sẽ kể hết cho họ nghe.
Họ đưa cho tôi nhiều món ăn và khi
đã lưng lửng dạ, tôi kể cho họ nghe tất cả những gì xảy ra với tôi. Họ lắng
nghe với vẻ thán phục. Khi kể xong, họ đồng thanh nói sau khi nghe người phiên dịch
nói lại:
- Đó thực là một câu chuyện vô cùng
kỳ lạ. Bạn cần phải đích thân kể lại cho nhà vua nghe mới được. Tôi bảo là sẵn
sàng làm theo lờl họ.
Những người da đen tức thì cho đi
kiếm một con ngựa, một lát sau cồ người dắt đến. Họ đặt tôi lên lưng ngựa, một
toán đi trước dẫn đường, những người khác là những người khoẻ nhất khiêng lên
vai chiếc bè cứ để nguyên thế với tất cả các gói bọc lên trên đi theo sau tôi.
Scheherazade kể đến đây bắt buộc
phải ngừng lại vì trời đã sáng rõ. Cuối đêm sau, nàng lại kể tiếp câu chuyện
còn bỏ dở.
o O o
“Chúng tôi cùng đi - Sindbad tiếp-
đến tận thành phố Serendib, chính tôi lúc này đang ở trên hòn đảo đó. Những
người da đen đưa tôi đến trình quốc vương của họ. Tôi đến gần ngai vàng ông
đang ngồi và chào như cách chào các ông vua Ấn Độ nghĩa là quì xuống bên chân
ông và hôn mặt đất. Nhà vua này cho nâng tôi dậy, tiếp tôi rất lịch sự, mời tôi
ngồi cạnh ông. Trước hết ông hỏi tên tôi. Trả lời tên mình là Sindbad, biệt
hiệu người đi biển vì đã có nhiều chuyến đi vượt biển, tôi nói thêm mình là
công dân của Bagdad.
- Nhưng - Quốc vương lại hỏi - làm
sao ông lại đến được đất nước của ta và đến bằng đường nào. Tôi không giấu nhà
vua một tí gì và cũng kể lại như tôi vừa kể cho các ông nghe. Ông rất lấy làm
ngạc nhiên, thích thú và sai viết lại câu chuyện của tôi bằng chữ vàng để lưu
lại văn khố quốc gia. Sau đó người ta khiêng cả chiếc bè cùng với những bọc gói
tới trước mặt nhà vua. Ông ngắm xem và rất thích những bọc gỗ trầm hương và hổ
phách, đặc biệt hâm mộ những viên hồng ngọc và bích ngọc vì ông bảo trong kho
báu của ông chẳng có viên ngọc nào sánh bằng.
Nhận xét thấy ông thích thú ngắm
nhìn những viên đá quí mân mê hết viên này đến viên khác, tôi đánh bạo quì
xuống nói:
- Tâu bệ hạ, không riêng gì bản thân
tôi mà tất cả mọi thứ trên chiếc bè này đều thuộc quyền bệ hạ. Xin Người cứ tuỳ
nghi sử dụng.
Ông mỉm cười bảo tôi:
- Ta không có một chút ý đồ nào muốn
lấy đi những gì mà Thượng đế đã ban cho ông. Không những không muốn làm giảm đi
sự giàu có của ông mà ta còn muốn làm tăng lên nữa kia. Ta không muốn khi ông
rời khỏi vương quốc ta mà không có gì mang theo để chứng tỏ cho sự hào phóng
của ta.
Tôi chỉ còn biết đáp lại những lời
đó bằng những câu chúc tụng cho đất nước của Người luôn yên bình thịnh vượng và
ca ngợi tấm lòng nhân từ và độ lượng của một vị anh quân. Ông trao cho một vị
quan chăm sóc tôi, cử người hầu hạ tôi chu đáo. Ông quan đó chấp hành lệnh của
chủ thật trung thành và cho chuyển đến nơi ở của tôi toàn bộ những bọc, những
gói để trên chiếc bè gỗ.
Hàng ngày, vào giờ giấc nhất định
tôi vào chầu vua, thời gian còn lại tôi đi dạo quanh thành phố để xem có gì
hay, có gì lạ tại đây.
Đảo Serendib nằm chính dưới đường
hoàng đạo vì vậy ngày và đêm ở đây đều dài đủ mười hai tiếng đồng hồ. Đảo có
chiều dài cũng như chiều rộng đo được tám mươi parasanges. Thành phố kinh đô
toạ lạc tại cuối một thung lũng đẹp hình thành bởi một ngọn núi ở chính giữa
đảo và là một ngọn núi cao nhất thế giới. Đúng vậy, cách ba ngày đường trên mặt
biển, người ta đã nhìn thấy nó. Người ta tìm thấy ở đây nhiều loại khoáng sản,
kể cả đá đỏ và phần lớn đá núi ở đây thuộc loại sa thạch là một thứ đá kim loại
dùng để gọt giũa những đồ đá quí. Người ta còn thấy ở đây tất cả các loạl cây
cỏ quý hiếm nhất là cây bá hương và cây dừa. Dọc theo bờ biển và ở các cửa sông
người ta còn mò ngọc trai và ở một vài thung lũng của đảo còn có cả mỏ kim
cương. Vì tín ngưỡng, tôi còn làm một cuộc du hành lên tận đỉnh núi, tới chỗ mà
tương truyền là nơi Adam bị đày ải sau khi bị trục xuất ra khỏi địa đàng.
Lúc trở lại thành phố, tôi xin nhà
vua cho phép được trở về xử sở của mình. Nhà vua đã chuẩn y ngay với thái độ
rất khiêm nhường và lịch sự. Ông bắt tôi phải nhận một tặng phẩm có giá trị lấy
từ trong kho ra và lúc tôi tới để cáo biệt, ông lại ban thêm cho một tặng phẩm
khác giá trị lớn hơn kèm với một bức thư đức gửi Thống lĩnh các tín đồ,hoàng đế
của chúng ta. Ông bảo tôi:
- Ta nhờ ông dâng lên hoàng đế
Haroun Alraschid món quà mọn này cùng với bức thư của ta và nói với Người là ta
luôn luôn yêu quí và kính trọng Người. Tôi kính cẩn nhận quà tặng cùng với bức
thư và hứa với quốc vương sẽ thực hiện đầy đủ mệnh lệnh mà Người đã hạ cố trao
cho. Trước khi tôi xuống tàu, nhà vua cho vời thuyền trưởng và các thương gia
sẽ cùng đi chuyến ấy, lệnh cho họ phải hết sức quan tâm đến tôi.
Thư của quốc vương Serendib viết
trên tấm da của một con thú quí hiếm nào đó mà màu của nó ngả sang màu vàng.
Chữ của bức thư viết bằng thứ mực có màu xanh da trời và bằng ngôn ngữ Ấn Độ
như sau:
Mặc dù tặng phẩm gửi đến bệ hạ chẳng
đáng là bao, mong bệ hạ vì tình hữu nghị xuất phát từ đáy lòng tôi mà nhận lấy
trong tình anh em bè bạn mà món quà này là một biểu hiện. Tôi mong Ngài cho
phép tôi cũng được hưởng như Ngài tình hữu nghị như thê. Tự xét mình xứng đáng
với điều đó vì ngang địa vị với Ngài. Lấy tư cách là người anh em, tôi khẩn cầu
bệ hạ như vậy. Xin kính chào .
Tặng phẩm gồm có: thứ nhất, một
chiếc lọ bằng nguyên một viên hồng ngọc, khoét rỗng và chạm trổ, cao nửa bộ và
dày một ngón tay, chứa đầy ngọc tròn nặng nửa drachme. Thứ hai: một tấm da rắn
có vảy to bằng đồng tiền vàng và có tính năng phòng bệnh cho những ai thường
nằm lên trên để ngủ. Thứ ba: năm mươi vạn drachme gỗ trầm hương thơm ngát nhất
cùng ba chục viên long não to bằng củ lạc. Và cuối cùng sau tất cả những tặng
phẩm trên là một nữ nô lệ với sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành trang phục
đính đẩy châu ngọc.
Con tàu giương buồm và sau một chặng
đường dài thuận buồm xuôi gió, chúng tôi ghé vào Balsora và từ đấy về Bagdad.
Vlệc đầu tiên của tôi ngay sau khi về tới nơi là lo làm tròn sứ mệnh được trao.
Scheherazade thôi kể vì thấy trời
vừa sáng. Đêm sau, nàng kể tiếp.
o O o
“Tôi cầm bức thư của quốc vương
Serendib đi tới cung điện của đấng Thống lĩnh các tín đồ, theo sau là cô gái nô
lệ tuyệt đẹp và những người nhà đội các thứ quà tặng mà tôi được ký thác. Nói
rõ lý do và ngay tức thì tôi được dẫn đến trước ngai vàng của hoàng đế. Tôi quì
lạy và sau khi kể lại sự việc một cách thật ngắn gọn, tôi trình bức thư và các
tặng phẩm. Hoàng đế, sau khi đọc xong những lời mà quốc vương Serendib viết
trong bức thư, hỏi tôi có thực đúng là nhà vua này rất giàu và hùng mạnh không.
Tôi lại quì xuống một lần nữa và khi đứng lên, tôi nól:
- Tâu, đấng thống lĩnh các tín đồ?
Tôi có thể đảm bảo chắc chắn là ông ta không nói quá sự thật về sự glàu có và
hùng mạnh của mình, chính tôi đã mục klch. Không sao có thể tả hết được vẻ
tráng lệ của cung điện nhà vua đó. Khi đi tuần du, ông ngồi trên chiếc ngai
vàng đặt trên lưng voi và đi giữa hai hàng các thượng thư, các cận thần và các
quan chức khác của triều đình. Phía trước ông, cũng trên con voi đó là một võ
quan tay cầm một ngọn giáo bằng vàng, phía sau ông là một võ quan khác đứng cầm
một cây trượng cũng bằng vàng và đầu chót là một phiến ngọc bích dàl nửa bộ và
to bằng ngón tay cái. Tiền vệ là một đơn vị cấm binh gồm một ngàn người mang
đồng phục bằng dạ và lụa thêu kim tuyến, ngồi trên những thớt ỵoi trang sức
thật sang trọng.
Ngoài ra, quốc vương Serendib còn là
một ông vua thật công minh chính trực. Ở kinh đô cũng như ở các địa phương
trong đất nước của ông đều không có pháp quan. Dân chúng nước ông không cần cái
đó, họ thông hiểu luật pháp, tôn trọng làm theo luật pháp và không bao giờ xa
rời nghĩa vụ của mình. Vì vậy toà án và pháp quan đối với họ hoàn toàn không
cần thiết.
Hoàng đế rất hài lòng về sự tâu
trình của tôi, Người bảo:
- Tài trí của nhà vua đó đã thể hiện
trong bức thư và sau khi nghe ông kể lại thì ta cũng thấy là ông ta thật xứng
đáng với thần đân của mình và thần dân của ông cũng thật xứng đáng vớl ông ta.
Nói xong hoàng đế cho tôi lui và ban
cho một tặng phẩm có giá trị. Sindbad kết thúc câu chuyện, những thính giả của
ông cũng rút lui, nhưng Hindbad lại nhận được một trăm đồng sequin. Ngày hôm
sau, tất cả bọn họ lại tới nhà Sindbad để ông kể cho họ nghe chuyện chuyến đi
thứ bảy cũng là chuyến phiêu lưu cuối cùng của ông.
Nghìn Lẻ Một Đêm
Chương 32: Chuyến đi thứ bảy và cũng
là chuyến đi cuối cùng của Sindbad
Sau chuyến đi thứ sáu trở về, tôi
quyết từ bỏ ý định làm những chuyến đi khác. Cũng đã đến cái tuổi đòi hỏi được
nghỉ ngơi nhiều hơn, tôi tự hứa là chẳng tội gì còn dấn thân vào hiểm nguy mà
tôi cũng đã nhiều lần trải qua. Chỉ nên nghĩ đến một cuộc sống êm đềm cho quãng
đời còn lại.
Một hôm đang chiêu đãi một số bạn bè
thì gia nhân đến báo có một vị quan tới hỏi tôi. Tôi rời bàn ăn để tiếp ông.
Ông bảo:
- Hoàng đế sai tôi đến triệu ông tới
gặp Người.
Tôi theo vị quan này đi tới hoàng
cung, quỳ lại bên chân hoàng đế.
- Sindbad - Nhà vua nói - Ta cần
ông, ông phải giúp ta một việc. Ông mang cho ta thư trả lời và những tặng phẩm
này tới quốc vương Serendib. Cần phải đáp lại bức lịch thiệp của nhà vua đó.
Lệnh của hoàng đế như một tiếng sét
đối với tôi:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ! -
Tôi nói - Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì Người ra lệnh, nhưng cầu xin Người
chiếu cố mà xét cho là tôi đã chán ngấy bao nhiêu gian lao khổ ải mệt nhọc
ngoài sức tưởng tượng mà tôi đã phải trả qua. Hơn nữa, tôi cũng đã có lời
nguyền là sẽ chẳng bao giờ rời khỏi Bagdad nữa.
Nhân đó tôi cũng kể cho nhà vua nghe
hết các chi tiết trong tất cả các chuyến phiêu lưu của tôi và ông cũng chịu khó
ngồi nghe không bỏ sót một chi tiết nào.
Khi tôi kể xong, Người liền bảo:
- Ta thú thật, đó đúng là những sự
kiện thật lạ kỳ nhưng dù sao thì vì lòng yêu mến ta, ông cũng chẳng nên từ chối
chuyến đi mà ta yêu cầu. Chỉ cần đi tới đảo Serendib hoàn thành sứ mệnh ta đã
trao, rồi sau đó ông sẽ được tự đo quay trở về. Nhưng nhất thiết phải đi vì ông
cũng thấy rõ là sẽ chẳng lịch sự và chẳng xứng đáng với danh vị của ta chút nào
nếu chưa đáp lễ được quốc vương đảo ấy
Thấy hoàng đế cứ khăng khăng bắt tôi
làm việc đó, biết không thể thoái thác được nữa, tôi đành phải tỏ ra sẵn sàng
tuân phục. Ông tỏ vẻ rất vui và cấp cho tôi một nghìn đồng sequin làm lộ phí.
Tôi sửa soạn cho chuyến đi chỉ mất
vài ngày và khi người ta đem đến các tặng phẩm và lá thư chính tay hoàng đế
viết thì tôi lên đường ngay. Tôi đi thẳng đến Balsora và xuống tàu. Thuận buờm
xuôi gió nên chẳng bao lâu đã tới đảo Serendib. Tôi trình bày với các quan chức
sứ mệnh được trao và yêu cầu được bệ kiến nhà vua ngay, họ đã vui vẻ giúp tôi
liền. Họ long trọng đưa tôi tới hoàng cung, lúc quỳ lạy theo đúng nghi lễ, nhà
vua nhận ra tôi, ông hết sức vui mừng khẽ kêu lên:
- A, Sindbad! Xin chào mừng ông. Ta
thề với ông là từ ngày ông ra đi, ta luôn nhớ tới ông. Tạ ơn ngày hôm nay vì
chúng ta lại được gặp nhau lần nữa.
Tôi cũng chúc mừng ông và sau khi
nói lời cảm ơn về lòng tốt đối với tôi, tôi dâng lên ông bức thư và tặng phẩm
của hoàng đế. Ông tiếp nhận với vẻ hết sức hân hoan mừng rỡ.
Hoàng đế gửi tặng nhà vua Serendib
một chiếc giường hoàn chỉnh phủ dạ vàng trị giá tới một nghìn đồng sequin; năm
chục áo dài bằng thứ vải quí, một trăm chiếc khác bằng vải trắng mịn xứ Caire,
Suez, Cufa và Alexandrie; một chiếc giường khác màu đỏ sẫm và chiếc khác nữa
theo kiểu khác; một chiếc bình mã não lùn dày một đốt ngón tay miệng rộng nửa
bộ, đáy chạm nổi một người nam giới quỳ một gối xuống đất, tay cầm cung và một
mũi tên sẵn sàng bắn vào một con sư tử; cuối cùng hoàng đế gửi tặng nhà vua một
chiếc bàn sang trọng tương truyền được lưu lại từ thời Salomon vĩ đại. Thư của
hoàng đế nội dung như sau:
Nhân danh vị chúa dẫn theo chính đạo
xin gửi tới hoàng đế hùng cường và hạnh phúc lời chào của Abdallah Haroun
Alraschid, được Thượng đê đặt vào chỗ tôn qúi sau các đấng tổ tiên đời đời vinh
hiển.
Chúng tôi đã vui mừng nhận được thư
bệ hạ và xin gửi đến bệ hạ thư này từ triều đình chúng tôi, vườn hoa của nhưng
trí tuệ lớn. Chúng tôi hy vọng khi bệ hạ ngự lãm sẽ thấy được thiện chí của
chúng tôi và bệ hạ sẽ thấy hài lòng. Xin kính chào.
Quốc vương Serendib rất vui thấy
hoàng đế đáp lại tấm tình hữu nghị của mình. Sau cuộc bái klến đó một thời gian
ngắn, tôi xin phép được cáo biệt nhưng thật chẳng dễ dàng gì vì sự quyến luyến
của nhà vua. Nhưng cuối cùng tôi cũng được y chuẩn, và nhà vua, trước lúc bái
biệt còn ban cho tôi một tặng phẩm có giá trị rất lớn. Không chút chậm trễ, tôi
xuống tàu với ý định là thẳng hướng trở về Bagdad. Nhưng không đạt được ý muốn
như hằng mong ước, số phận tôi còn tuỳ thuộc vào sự định đoạt của Thượng đế
kia.
Đi được khoảng ba bốn ngày, chúng
tôi bị bọn cướp biển tấn công. Chúng chẳng khó khăn gì tròng việc làm chủ con
tàu vì tàu không có một chút chuẩn bị nào để đối phó. Một vài người trên tàu
định phản đối đều bị chúng giết, Còn tôi và những người khác thì bị chúng bắt
làm nô lệ
Trời hừng sáng ngăn Scheherazađe
lại. Đêm sau, nàng kể tiếp:
o O o
- Tâu bệ hạ - Nàng nói với hoàng đế
Ấn Độ - Sindbađ kể tiếp những chuyện xảy ra trong chuyến đi cuối cùng của ông:
“Sau khi bọn cướp biển cướp đoạt và
trấn lột chúng tôi trần trụi, chúng vứt cho những áo quần cũ bẩn bắt mặc vào
rồi đưa chúng tôi tới một hòn đảo to và rất xa để bán.
Tôi rơi vào tay một nhà buôn giàu
có. Vừa mua được tôi, ông ta đã đưa về nhà cho ăn uống và cho ăn vận sạch sẽ,
áo quần của người nô lệ. Vài ba ngày sau vì chưa rõ thân thế của tôi nên ông ta
hỏi tôi có biết nghề nào không. Tôi trả lời mình không phải là thợ mà chuyên
làm nghề buôn bán. Bọn cướp biển đã đem bán tôi sau khi đã cướp đoạt toàn bộ
hàng hoá của cải của tôi. Ông hỏi:
- Cho tôi biết là anh có thạo nghề
cung nỏ không?
Tôi đáp đó là một trong các môn chơi
của tôi hồi trẻ và đến lúc này cũng hãy còn nhớ.
Thế là ông ta đưa cho tôi một cây
cung và ít mũi tên, đặt tôi ngồi trên lưng voi, phía sau ông ta và đưa tôi đến
một khu rừng rất rộng cách xa thành phố khoảng hai giờ đi đường. Chúng tôi đi
rất sâu vào phía trong và khi thấy có thể dừng lại, ông bảo tôi xuống voi. Rồi
chỉ tay yào một Cây to, ông bảo:
- Anh hãy trèo lên cây kia, và nhằm
bắn vào những con voi đi ngang qua. Rừng này có rất nhiều voi. Khi bắn ngã được
con nào thì báo cho tôi biết.
Nói xong, ông để lại thức ăn cho tôi
và quay trở lại đường về thành phố. Tôi núp trên cây cao suất cả đêm đó mà
chẳng thấy một con voi nào. Nhưng đến ngày hôm sau, mặt trời vừa nhô lên, tôi
đã nhìn thấy một đàn voi rất đông. Chúng đi ngang qua dưới gốc cây, tôi giương
cung bắn liên tiếp. Cuối cùng có một con ngã xuống. Ngay lập tức các con khác
rùng rùng tháo chạy để tôi được tự do đi báo chủ. Ông thết tôi một bữa ăn thịnh
soạn, khen ngợi tài bắn cung của tôi, rồi cũng đi vào rừng, đào một hố to chôn
con voi tôi vừa hạ. Ông chủ của tôi bảo là sẽ quay lại khi con voi đã thối rũa
để lấy đôi ngà của nó đem bán.
Tôi tiếp tục săn voi trong khoảng
hai tháng và không mấy ngày là tôi không hạ được một con. Không phải là tôi chỉ
cố định núp trên một cái cây duy nhất mà nay ở cây này, mai ở cây khác. Một
buổi sáng tôi chờ đàn voi đến và cực kỳ kinh ngạc thấy đáng lẽ bọn chúng đi
xuyên rừng, qua chỗ tôi nấp thì tất cả dừng lại và ào ào tiến về cál cây trên
đó có tôi, chân chúng chạy làm rung chuyển cả mặt đất. Chúng vây chặt xung
quanh cây giơ vòi lên và những cặp mắt nhìn thẳng vào tôi. Trông cảnh tượng kỳ
quặc khủng khiếp đó, tôi đờ người sợ hãi đến nỗi cả cung cả tên đều rơi xuống
đất.
Đàn voi nhìn tôi một lát, rồi một
con to nhất chắc là con đầu đàn bước đến dùng vòi quấn quanh thân cây vặn mạnh
đến mức cál cây to như vậy mà bật rễ bị quật nằm xuống đất. Tôi bị ngã cùng với
thân cây nhưng con voi đã đưa vòi ra đỡ lấy tôi và nhẹ nhàng đặt lên lưng nó.
Tôi ngồi mà sợ hết vía, túi đựng tên hãy còn lủng lẳng trên vai. Con voi đó tức
thì dẫn đầu cả bọn đưa tôi đến một nơi quang đãng, đặt tôi xuống đất rồl nó và
cả bọn quay vòi đi mất. Các vị có biết tình trạng tôi lúc đó như thế nào không?
Tôi tưởng mình đang sống trong một giấc mơ vậy. Sau một lát nằm đài trên mặt
đất, nhìn không còn thấy con voi nào, tôi ngồi dậy và thấy mình đang ở trên một
quả đồi khá dài rộng. Xương voi và ngà voi chất đống. Xin thú thật với các vị
là điều trông thấy làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Tôi thầm thán phục linh tính của
loài vật này. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là nghĩa địa của voi. Chúng
đã cố ý đưa tôi đến đây để cho tôi biết và thôi không giết hại chúng nữa. Sở dĩ
làm cái việc đó chẳng qua cũng chỉ là muốn lấy ngà của chúng thôi. Tôi không
nán lại trên đồi làm gì nữa mà lập tức quay gót về thành phố. Sau một ngày và
một đêm đi bộ, tôi về đến nhà người chủ. Trên đường đi, chẳng gặp một con voi
nào, tôi đoán là chúng đã rút sâu vào trong rừng để con đường từ thành phố đến
quả đồi đó không có gì trở ngại.
Vừa trông thấy tôi, ông chủ đã kêu
lên:
- Ôi? Sindbad tội nghiệp! Ta đang
rất buồn khổ khi biết cái gì đã xảy ra với anh. Ta đã vào rừng, đã thấy cái cây
bị vặn trơ gốc, cái cung và các mũi tên rải rác trên mặt đất. Sau khi ra sức
tìm kiếm anh không kết quả, ta thất vọng là chẳng còn bao giờ được nhìn thấy
anh nữa. Hãy kể lại cho ta nghe đi, điều gì đã xảy ra với anh. Nhờ may mắn nào
mà anh hãy còn được sống.
Tôi đã thoả mãn sự muốn hiểu biết của
ông. Ngày hôm sau cả hai đi tới quả đồi và ông cực kỳ vui sướng công nhận những
điều tôi nói hoàn toàn là thật. Chúng tôi chất lên lưng con voi mà chúng tôi
cười để đến quả đồi, tất cả những cặp ngà mà nó đủ sức mang được. Trên đường
về, ông chủ bảo tôi:
- Người anh em ạ! Ta không muốn coi
anh như nô lệ nữa, sau việc anh vừa làm cho ta. Sự khám phá này sẽ làm cho ta
giàu sụ, Thượng đế sẽ ban cho anh mọi thứ của cải và sự phồn vinh: Ta xin tuyên
bố trước Người là ta trả lại tự do cho anh. Ta đã giấu anh những điều mà anh sẽ
nghe ta nói đây.
Những con voi trong rừng đây, mỗi
năm đã giết chết rất nhiều nô lệ mà chúng ta sai đi lấy ngà. Dù có dặn dò chúng
thế nào đi nữa thì sớm hoặc muộn thế nào chúng cũng bị nhũng con vật tinh khôn
ấy giết chết. Thượng đế đã giải thoát cho anh khỏi sự hung dữ của chúng và chỉ
ban phúc cho một mình anh thôi đó. Điều này chứng tỏ là Người yêu anh và Người
cần đến anh để anh làm điều tốt cho đời. Anh đã mang về cho ta một mối lợi rất
lớn. Chúng ta có được những ngà voi cho đến lúc này là nhờ vào sụ hi sinh mạng
sống của các nô lệ. Và bây giờ, thế là cả thành phố này giàu có lên là nhờ vào
cách làm của anh. Đừng tưởng là trả lại cho anh tự do là đã đền đáp cho anh đầy
đủ. Ta muốn còn cho anh của cải nhiều hơn nữa mới xứng đáng. Ta có thể vận động
cả thành phố này tham gia vào việc gây dựng cơ đồ cho anh, nhưng đó là một vinh
dự mà ta muốn chỉ một mình ta hưởng thôi.
Với những lời đầy ân nghĩa đó, tôi
đáp:
- Ông chủ ạ, cầu Thượng đế phù hộ
cho ông! Cái tụ do mà ông ban cho cũng đủ đền công cho tôi rồi. Để trả công cho
tôi đã giúp đỡ ông và toàn thành phố, tôi chỉ dám xin ông cho phép được~trở về
quê huơng xứ sở.
- Được lắm. - Ông nói - Chẳng bao
lâu nữa những con tàu sẽ theo gió mùa về đây ăn ngà voi. Ta sẽ gửi anh và những
thứ ta cho để anh đưa về nhà.
Tôi lại cảm ơn ông về việc giải
phóng cho tôi và những ý tốt của ông đối với tôi. Tôi ở nhà ông để chờ có gió
mùa lên và trong thời gian đó chúng tôi đã nhiều lần đi tới ngọn đồi khiến cho
những kho hàng đầy ắp ngà voi. Tất cả những nhà buôn của thành phố làm nghề
buôn bán ngà voi đều làm thế vì không thể giấu được lâu sự phát hiện đó.
Đến đây, Scheherazade thấy trời hửng
bèn thôi kể. Nàng tiếp tục vào đêm sau và nói với hoàng đế.
o O o
“Tâu bệ hạ, Sindbad tiếp tục kể về
chuyến đi thứ bảy của ông:
- Những con tàu - Ông nói - cuối
cùng đã tới và ông chủ tôi tự mình chọn tàu cho tôi xuống, chất ngà voi xuống
đầy nửa tàu coi như phần của tôi. Ông cũng không quên đưa xuống tàu nhiều thức
ăn nước uống cần cho chuyến quá giang của tôi. Thêm nữa ông còn bắt tôi dự
những buổi chiêu đãi thịnh soạn và nhận những sản vật lạ của địa phương. Sau
khi hết lòng cảm ơn về tất cả những việc tết ông đã làm cho tôi, tôi xuống tàu.
Tàu nhổ neo bắt đầu lướt sóng và câu chuyện bị làm nô lệ rồi lạl được trả tự ảo
thật vô cùng kỳ lạ làm cho đầu óc tôi không khỏi bàng hoàng.
Chúng tôi dừng lại ở một vài hòn đảo
để tiếp tế thêm thức ăn tươi. Tàu của chúng tôl khởi hành từ một bến đất liền
Ấn Độ, chúng tôi cũng cặp vào một bến như vậy và ở đó, để tránh những rủi ro ở
biển đến tận Balsora, tôi cho bốc số ngà voi của tôi lên bờ và quyết định đi
bằng đường bộ. Tôi bán ngà voi được khoản tiền rất lớn. Bằng tiền đó tôi mua
nhiều thứ quý hiếm dùnly làm quà, và nhập vào một đoàn nhà buôn rất đông người.
Đường đi dài và thật là gian khổ nhưng tôi cố gắng chịu đựng với ý nghĩ an ủi
là như vậy chẳng phảl bị bão biển, cướp biển cũng chẳng sợ gặp rắn rết và các
tai nạn hiểm nghèo khác mà tôi đã từng trải qua .
Nhưng rồi tất cả những sự gian lao
vất vả ấy đều qua, tôi sung sướng về tới Bagdad. Trước hết tôi xin bệ kiến
hoàng đế và tường trình về chuyến đi sứ của mình. Nhà vua nói là chuyến đi quá
dài của tôi làm cho Người lo lắng nhưng ông luôn hy vọng là Thượng đế sẽ chẳng
bỏ tôi. Khi kể cho Người nghe chuyện về những con voi, Người tỏ ra rất ngạc
nhiên, chắc Người sẽ không tin là chuyện có thật nếu sự trung thực của tôi
Người không biết rõ từ lâu. Người thấy câu chuyện này và cả những câu chuyện
khác tôi đã kể thật là kỳ lạ nên lệnh cho một trong những ký lục của Người chép
lại bằng chữ vàng để giữ gìn trong văn khố của triều đình. Tôi cáo lui, rất hài
lòng về vinh dự được nhận và những tặng phẩm Người hạ cố ban cho. Rồi sau đó
tôi dành hoàn toàn mọi sự quan tâm, mọi điều ưu ái và tất cả thời gian của tôi
cho gia đình, bà con, bè bạn.
Sindbad kết thúc câu chuyện về
chuyến đi biển thứ bảy và là cuối cùng của ông như vậy đấy. Rồi ông bảo
Hindbad:
- Này anh bạn! Anh có bao giờ nghe
nói có một người nào đó đã từng trải qua bao gian nan khổ ải như tôi chưa, có
một người nào bị rơi vào những tình huống vô cùng gay cấn như thế chưa? Có công
bằng không, sau bao nhiêu việc đã làm như thế, tôi được hưởng một cuộc sống dễ
chịu và bình yên?
Ông nói xong, Hindbad tiến lại gần
hôn tay ông, nói:
- Phải thú thật là, thưa ngài, ngài
đã trải qua bao gian nan nguy hiểm thật là khủng khiếp. Những nỗi khó khăn vất
vả của tôi nếu đem so thì chẳng thấm gì. Nếu nó có làm cho tôi mệt nhọc, buồn
nản trong thời gian phải chịu đựng thì bù lại và để an ủi thì tôi đã có được
một món lợi nhỏ trong đó rồi. Ngài không những xứng đáng được sống một cuộc
sống êm đềm, mà còn đáng được hưởng tất cả của cải ngài có bởi vì ngài đã biết
sử dụng nó một cách xứng đáng và thật hào hiệp biết bao. Xin ngài hãy cứ tiếp
tục sống trong niềm vui cho đến giờ phút lậm chung.
Sindbad lại biếu gã một trăm đồng
sequin, nhận gã vào số bạn bè, bảo gã hãy bỏ cái nghề khuân vác quá cực nhọc
đối với tuổi của gã, đến ăn tại nhà ông, cho gã có chỗ dựa để trọn đời nhớ đến
Sindbad, người đi biển.”
Scheherazade, nhìn thấy trời chưa sáng
nên lại tiếp tục nói và bắt đầu kể một câu chuyện khác.
Nghìn Lẻ Một Đêm
Chương 33: Người hai lần tỉnh mộng
Dưới triều đại hoàng đế Haroun
Alraschid, ở thành phố Bagdad có một nhà buôn rất giàu có mà bà vợ đã già. Họ
có một người con trai độc nhất, tuổi độ ba mươi, được nuôi dưỡng trong tình
trạng cực kỳ keo kiệt mọi thứ.
Người thương gia qua đời,
Abou-Hassan (tên người con trai) là người thừa kế độc nhất được hưởng một tài
sản lớn do người cha suốt đời cần cù trong công việc kinh doanh để lại. Người Con
có cách nhìn và có xu hướng không giống cha nên đã sử dụng tài sản ấy với những
cách thức khác hẳn. Vì trong thuở thiếu thời, người cha chỉ cung cấp cho con
một khoản chi đủ sống hàng ngày, mà cậu con thì luôn ham muốn một cuộc sống
chơi bời phóng túng đua đòi cùng bạn bê, cho nên lúc này chàng ta nhất quyết
phải chơi bời ăn tiêu cho xứng với khoản tài sản kếch xù mà số mệnh đã ưu đãi.
Để thực hiện ý đồ đó, chàng ta phân chia của cải thành hai phần: một phần dùng
để tậu ruộng đất ở nông thôn và mua nhà cửa ở thành phố. Lợi tức của phần này
cũng đủ để chàng có một cưộc sống thoải mái, nhưng chàng thề là sẽ không đụng
chạm tới mà chỉ để tích luỹ lại thôi. Phần kia là một khoản tiền mặt khổng lồ
sẽ dùng để bù đắp lại suất cả quãng đời mà chàng coi là đã bỏ phí do bị cha
kiềm chế cho đến tận ngày ông qua đời. Nhưng chàng cũng tự đặt ra luật lệ cần
thiết, tự hứa là sẽ chẳng bao giờ vi phạm mà tiêu pha quá cái khoản đã dành cho
cuộc sống chơi bời.
Với ý định đó, chỉ trong ít ngày
Abou-Hassan đã tập hợp được một số thanh niên cùng ìứa tuổi và địa vị xã hội,
chỉ bày cho họ cách ăn chơi thoải mái... Rồi nào tiệc tùng, của ngon vật lạ...
Chàng dốc tiền túi ra chiêu đãi. Trong những buổi tiệc tùng nhậu nhẹt như vậy
thường kết thúc bẳng vũ hội mà những vũ công vũ nữ và các nghệ sĩ ngâm thơ nổi
tiếng cả nam và nữ được mời từ Bagdad tới. Tất cả những trò vui chơi ăn uống đó
kéo dàl hết ngày này đến đêm khác đã làm cho Abou Hassan phải bỏ ra một khoản
tiền lớn, khiến chàng không thể như thế quá một năm. Năm vừa hết thì tiền cũng
vừa cạn. Từ lúc không còn tiệc tùng gì nữa thì bạn bè cũng biến mất tăm, đi đâu
chàng cũng chẳng còn gặp họ nữa. Đúng vậy, bởi vì. trông thấy chàng là họ đã
lẩn tránh rồi. Nếu may ra mà gặp một bạn nào đó đã cùng nhau vui chơi ăn uống
trước kia thì bạn này cũng kiếm cớ để thoái thác và tìm cách rút lui.
Abou Hassan rất buồn lòng về thái độ
lạ lùng của bạn hữu. Họ bỏ rơi chàng một cách vô sỉ và vô ơn sau bao nhiêu biểu
hiện và những lời thề thất về tình bằng hữu keo sơn mà họ đã bộc bạch với
chàng. Buồn về khoản tiền lớn đã tiêu pha cho họ thì ít mà buồn về tình đời đen
bạc lại nhiều hơn. Buồn bã, trầm ngâm, đầu cúi thấp, nét mặt âu sẩu chàng bước
vào phòng riêng của mẹ, ngồi xuống đầu chiếc sập khá xa chỗ bà ngồi. Nhìn thấy
tình trạng con trai như thế, bà cất tiếng hỏi:
- Con làm sao thế? Sao mà con lại
đổi khác, lại rầu rĩ khác thường như vậy? Dù có mất trắng tay những gì con đã
có ở trên đời này thì cũng chảng đến nỗi như vậy. Mẹ biết là con đã tiêư pha
mất một khoản tiền lớn vào con đường chơi bời phóng túng và mẹ biết lúc này con
chẳng còn lại được bao nhiêu. Con là người làm chủ tài sản của mình, sở dĩ mẹ
không khuyên can con về lối sống buông thả đó vì mẹ biết con đã khôn ngoan để
dành riêng ra một nửa tài sản. Sau chuyện đó ra thì mẹ không thấy có gì đã làm
cho con phải đắm chìm trong sầu não như vậy.
Abou Hassan bật khóc khi nghe mẹ
nói, và trong nước mắt cùng tiếng thở dài, chàng nói với bà:
- Mẹ ơi, bằng kinh nghiệm đau đớn
con đã thấy là cái nghèo túng làm cho ta khổ sở như thế nào. Mặt trời lặn đã
làm cho ta mất đi cái ánh sáng huy hoàng của nó cũng như cái nghèo khổ đã tước
đi của ta tất cả niềm vui sướng trên đời. Tóm lại một câu là kẻ nghèo thì đối
với người thân, đối với bạn bè chỉ là những người xa lạ. Thưa mẹ, mẹ biết đấy -
Chàng nói thêm - suốt một năm trời, con đã sử dụng một nửa gia sản để chiêu đãi
bạn bè như thế nào: Con đã không tiếc họ một tí gì cho đến ngày cạn túi, và đến
lúc này con không còn gì để cung đốn cho họ nữa thì họ bỏ rơi con. Con nói
không còn gì nữa là muốn nói về cái khoản dành riêng để dùng vào việc ấy. Còn
về phần lợi tức của con về nhà cửa ruộng đất, thì tạ ơn Thượng đế đã xui khiến
con để rlêng ra dưới điều kiện và lời thề là không được đụng tới để mà vung
phí. Con đã giữ trọn lời thề và con biết sẽ phải sử dụng ra sao khoản may mắn
còn lại đó. Nhưng trước hết con muốn thử lòng các bạn bè của con xem chúng còn
xứng với tên gọi đó không, xem chúng vong ơn bạc nghĩa đến mức nào. Con sẽ lần
lượt gặp từng đứa, nói cho chúng rõ những việc đã làm trước đây vì lòng yêu
chúng và cầu xin chúng cùng nhau gom góp để vực con ra khỏi cơn khốn đốn này mà
khốn đốn cũng là vì chúng mà thôi. Nhưng, như con đã nói với mẹ, con làm việc
này cũng chỉ là để xem bụng dạ chúng thế nào thôi.
- Con ạ - Bà mẹ Abou Hassan bảo
chàng - Mẹ chẳng muốn ngăn con đâu. Nhưng mẹ có thể nói trước là hy vọng của
con không có cơ sở. Hãy tin mẹ, dù làm cách nào thì con cũng sẽ thất bại. Con
chỉ tìm thấy sự giúp đỡ ở chính con mà thôi. Mẹ thấy rõ là con chưa hiểu những
người bạn mà ngườ ta thường gọi như thế với những ngườỉ như loại bạn con, nhưng
rồi con sẽ hiểu chúng. Thượng đế cũng như mẹ muốn là tất cả vì con.
- Mẹ ơi - Abou Hassan lại tiếp - Con
rất tin lời mẹ nói là sự thật. Nhưng con sẽ càng tin chắc hơn bằng việc làm
thiết thân này để tự mình được sáng tỏ hơn về sự hèn mạt và vô liêm sỉ của
chúng.
Abou Hassan đi thực hiện ý đồ của
mình ngay lúc đó và rất may mắn chàng gặp được tất cả bọn bạn này tại nhà
chúng. Chàng trình bày với chúng tình trạng lúng túng của mình và đề nghị chúng
bỏ tiền ra cứu đỡ. Chàng còn hứa riêng với một vài đứa là sẽ trả nợ sòng phẳng
khi công việc hoàn thành, và cũng không quên nói chỉ vì phần lớn tiêu pha cho
chúng trước đây mà bây giờ gặp khó khăn, để kích thích thêm tấm lòng hào hiệp
của chúng. Chàng cũng nhử mồi bảo chúng là rất có hy vọng sẽ có thể lại cùng
chúng vui chơi, nhậu nhẹt, đàn hát, nhảy múa như cả một năm trời trước đây.
Không có một đứa nào trong số bạn
nhậu của chàng động lòng về viễn cảnh huy hoàng mà chàng Abou Hassan buồn bã
nêu ra để thuyết phục chúng. Chàng còn đau lòng thấy là nhlều đứa còn nói xưng
xưng là chưa từng quen biết chàng, thậm chí còn chưa nhìn thấy chàng bao giờ.
Chàng trở về lòng thắt lại trong đau đớn và bất bình, bước vào phòng riêng của
mẹ, kêu lên:
- Ôi mẹ ơi! Đúng như mẹ nói, chúng
đâu phải là bạn mà là một lũ vô lại, một lũ vong ơn bạc ác, chẳng xứng với tình
bạn của con. Thế là xong, con chấm dứt tình nghĩa với chúng và hứa với mẹ là
không bao giờ còn nhìn mặt chúng nữa!
Abou Hassan kiên quyết giữ lời hứa.
Để thực hiện, chàng đề phòng mọi hoàn cảnh có thể đưa tới sự bất tiện, thề là
suốt đời mình sẽ không chiêu đãi mời ăn uống bất cứ một người nào trong toàn
thành phố Bagdad. Rồi chàng lấy từ trong két số tiền lợi tức để dành ra đặt vào
chỗ chàng vừa vung phí cho khoản ăn uống chơi bời đã hết sạch. Chàng quyết định
chỉ chi tiêu hàng ngày một khoản tiền vừa phải đủ để mời ăn tối một người.
Chàng còn thề là người này phải là ở nơi khác đến vào ngày hôm đó chứ không
phải là dân Bagdad. Và chàng sẽ giã biệt người đó vào sáng hôm sau, chỉ để cho
ngủ lại một đêm thôi.
Theo dự tính đó, Abou Hassan tự mình
chuẩn bị từ sáng thực phẩm cần thiết cho bũa ăn tối cùng với khách và cuối mỗi
ngày chàng ra đầu cầu Bagdad ngồi chờ. Khi trông thấy một người khách lạ, bất
cứ người đó như thế nào, chàng lịch sự chào đón, mời về nhà mình ăn ngủ đêm đầu
tiên và sau khi phổ biến thành thật điều kiện mình đã dặt ra, chàng dẫn khách
về nhà.
Bữa cơm mà Abou Hassan mời khách
chẳng lấy gì làm thịnh soạn nhưng cúng đủ làm cho khách hài lòng. Nhất là rượu ngon
thì không bao giờ thiếu. Bữa ăn thường kéo dài tới gần nửa đêm và đáng lẽ trao
đổi cùng với khách những câu chuyện về thời sự, về gia đình hoặc về buôn bán,
thường thường là như thế, thì chàng lại đề cập tới những chuyện linh tinh, vui
vẻ nhẹ nhàng. Bản chất chàng cởi mở, vui tính và hài hước nên bất cứ về lĩnh
vực nào, trong câu chuyện của chàng cũng làm cho người nghe khoan khoái và đượm
vui dù đang có chuyện buồn.
Đưa tiễn khách vào sáng hôm sau,
Abou Hassan nói:
- Dù đi tới đâu, Thượng đế cũng sẽ
dành cho ngài mọi sự vui vẻ! Hôm qua khi tôi mời ngài về nhà tôi ăn nghỉ, tôi
đã nói trước luật lệ tôi đẫ tự đặt ra, xin ngài cũng đừng cho là không phải khi
chúng ta không còn cùng nhau ăn uống và ngay cả việc chúng ta sẽ chẳng còn gặp
lại nhau ở nhà tôi hoặc ở nơi khác nữa. Tôi có những lý do để xử sự như vậy.
Cầu xin Thượng đế phù hộ cho ngài. Abou Hassan thực hiện nghiêm chỉnh nguyên
tắc đó. Chàng không mời những người lạ đã một lần tiếp đón tại nhà mình và cũng
chẳng chuyện trò gì với họ nữa. Khi gặp họ ngoài phố, ở nơi công cộng hoặc
trong nhũng cuộc hội họp, chàng làm như không thấy họ, thậm chí còn lảng đi chỗ
khác sợ họ đến hỏl han, tóm lại là chẳng còn quan hệ với họ bất cứ về mặt nào.
Đã một thời gian khá lâu chàng xử sự như thế thì một hôm trước khi mặt trời lặn
một chút, chàng ngồi chơi chờ khách như thường lệ thì hoàng đế Haroun Alraschid
chợt xuất hiện nhưng cải trang vì vậy không ai nhận ra được.
Dù vị hoàng đế này có cả triều thần
với đủ các bá quan văn võ điều hành công việc thật chu đáo, nhưng Người vẫn
muốn tự mình đi tìm hiểu cho rõ tất cả mọi sự việc. Cũng vì thế mà chúng ta đã
nhiều lần thấy Người cải trang vi hành khắp thành Bagdad. Ông cũng chẳng ngần
ngại việc ra mãi xa ở bên ngoài hoàng cung, vì vậy, ông có thói quen là cứ mỗi
ngày đầu tháng lại tới những đại lộ mà có người ở xa tới lúc thì từ đầu này lúc
từ đầu kia. Hôm đó vào ngày đầu tháng, ông cải trang như một thương gia ở
Moussoul vừa ghé tàu buôn tới từ đầu cầu bên kia, theo sau là một nô lệ to
khoẻ.
Trong bộ y phục cải trang, hoàng đế
vẫn có một phong thái bệ vệ đáng kính, Abou Hassan tưởng đó là một thương gia
Moussoul thật nên từ chỗ ngồi đứng lên, và sau khi lịch sự và nhã nhặn cất lời
chào và hôn tay người khách lạ, chàng nói:
- Thưa ngài, xin chúc mừng ngài đã
bình yên tới thành phố chúng tôi. Xin được hân hạnh mời ngài tới dùng bữa và
qua đêm tại nhà tôi để xua đuổi hết đi nỗi mệt nhọc trên đường.
Và để khách khỏi từ chối lời mờí
thành thực của mình, chàng trình bày vắn tắt lệ luật tự đề ra về việc tiếp đãi
khách lạ mỗi ngày.
Hoàng đế thấy cái gì đó hay hay và
khác lạ trong sở thích của Abou Hassan nên nảy ra ý muốn tìm hiểu sâu xem sao.
Không để lộ tư cách của mình, hoàng đế vui vẻ nhận lời và nói sẵn sàng đi theo
chàng về nhà.
Abou Hassan không một chút nghi ngờ
là người khách tình cờ của mình lại là hoàng đế nên đối xử như một người ngang
hàng. Chàng dẫn khách về nhà mình và đưa khách vào một căn phòng rất sạch sẽ
gọn gàng. Chàng mời khách ngồi trên Bập, chỗ long trọng nhất. Bữa ăn đã xong và
bàn ăn đã dọn. Bà mẹ Abou Hassan rất thạo công vlệc bếp núc, bầy ra ba món, món
đặt giữa bàn là món gà trống thiến hầm, với bốn gà dò, hai bên là các món khai
vị, một bên là món ngỗng béo và bên kia là món bồ câu ra ràng. Không có gì hơn
nữa nhưng các món thịt này đều là những thứ chọn lọc và chếbiến thơm ngon tụyệt
vời.
Abou Hassan ngồi vào bàn đối diện
với khách. Hoàng đế và chàng bắt đầu ăn những món mình ưa thích, không nói
chuyện , không uống rượu, theo phong tục địa phương. Khi ăn xong, nô lệ của
hoàng đế đưa khăn cho họ lau miệng lau tay trong lúc đó bà mẹ của Abou Hassan
dọn bàn và mang thức tráng miệng gồm các loại quả đầu mùa như nho, đào, lê, táo
và nhiều loại mứt khô. Tối đến, nến được thắp sáng và Abou Hassan bảo lấy rượu
và ly uống bày ra đồng thời đặn mẹ cho người nô lệ của khách ăn uống tử tế.
Khi nhà thương gia Moussoul giả hiệu
và Abou Hassan đã ngồi vào bàn, Abou Hassan trước lúc mời khách ăn trái cây
liền cầm lấy chai rượu rót ra chén rồi giơ lên nói: Thưa ngài - Chàng nói với
hoàng đế mà chàng vẫn cho là thương gia ở Moussoul - Chắc ngài cũng biết như
tôi là một con gà trống chẳng bao giờ uống mà không gọi gà mái đến uống cùng,
tôi xin mời ngài hãy theo gương tôi. Tôi không rõ ngài nghĩ ra sao chứ theo tôi
thì một người đàn ông ghét rượu mà ìạl muốn cho mình là khôn ngoan thì chẳng
bao glờ khôn ngoan cả. Chúng ta hãy gạt cái loại người đó với cái vẻ âu sầu
buồn bã của họ sang một bên và hãy tìm cái vui cál thú. Nó ở ngay trong chén
rượu đó và cái chén này truyền niềm vui cho những người uống cạn nó .
Và Abou Hassan dốc cạn chén rượu.
Chàng lại rót đầy chén khác và đưa cho khách.
- Điều này làm tôi thích thú - Hoàng
đế nói và đón lấy chén rượu - Thế mới là nam nhi chứ. Tôi yêu thích cái phong
thái vui vẻ của ngài.
- Ngài nếm đi, thưa ngài - Abou
Hassan nói - Ngài sẽ thấy rượu rất ngon.
- Chắc chắn như thế rồi - Hoàng đế
tươi cười nói - Một người như ngài đây không thể là một người ngu ngơ trỏng
việc chọn lựa những thứ hảo hạng.
Trong khi hoàng đế đưa chén rượu lên
nhâm nhi, Abou Hassan lại nói:
- Chỉ mới thoạt trông đã thấy ngài
là một người lịch lãm và biết cách sống. Nếu ngôi nhà của tôi - Chàng đọc thơ
bằng tiếng ẢrẬp - mà có hồn và cảm thấy sung sướng được thấy ngài dưới mái nhà
thì ắt phải quì xuống trước ngài mà kêu lên: Ôi! Sung sướng biết bao, vinh quang
biết bao được một con người rất mực vui từơi và rất mực nhân hậu như ngài chiếu
cố dùng cơm trong nhà mình! Thưa ngài, đúng là tôi không sao nól lên được niềm
vui lớn hôm nay được gặp một con người cao quí như ngài.
Những điều bộc bạch của Abou Hassan
làm cho hoàng đế rất thú vị vì bản tính ông vơn cũng thích bông đùa, ông khuyến
khích cho chàng uống bằng cách tự mình luôn luôn đòi chuốc rượu cho mình. Ông
muốn nhờ vào rượu để khơi chuyện mong biết rõ thêm về chàng trai này. Để bắt
đầu câu chuyện tâm tình, ông hỏi chàng tên gì, quan tâm tới cái gì nhất và cáeh
sống của chàng như thế nào. Chàng đáp:
- Thưa ngài, tên tôi là Abou Hassan.
cha tôi vốn là thương gia và ông đã mất. Chưa phải là một người giàu có nhất,
nhưng cha tôi cũng là một trong số những người sống sung túc ở Bagdad. Khi qua
đời, người đã để lại cho tôi thừa kế một gia sản quá đầy đủ để sống không cần
có tham vọng gì nữa đối với thực trạng của mình. Vì cha tôi đối với tôi rất khe
khắt nên suất một phần tuổi thanh xuân của tôi phải sống trong gò bó, vì vậy
sau khi người mất, tôi muốn cố gắng bù đắp lại một phần nào cái thời tươi đẹp
mà tôi cho là đã bị mất đi một cách oan uổng.
- Nhưng ít ra về điều đó - Abou
Hassan nói tiếp – tôi đã xử sự một cách khác hẳn với thói thường của tất cả
những người trẻ tuổi. Họ nhắm mắt lao vào cuộc sống phóng túng không cần suy
ưnh và tự buông thả cho đến lúc khánh kiệt không còn một đồng tiền kẽm dính
túi, buộc phải sống trong thiếu thốn, trong đói khổ suốt những ngày còn lạl của
cuộc đời. Để không phải rơi vào cảnh đó, tôi đã chia của cải của mình ra làm
hai phần, một phần là ruộng đất, nhà cửa, phần kia là tiền mặt. Tôi dành phần
tiền mặt cho những khoản chi tiêu theo ý muốn và cương quyết không đụng chạm
tới phần lợi tức của bất động sản. Tôi tụ tập một đám đông người quen biết sàn
sàn cùng lứa tuổi với mình và vung tiền ra không thương tiếc, tôi chiêu đãi họ
hàng ngày thật l1nh đình, đến mức các của ngon vật lạ các hình thức chơi bời
không thiếu một thứ gì. Nhưng chẳng được bao lâu, cuối năm, két tiền của tôi
rỗng tuếch và đồng thời các bạn tôi cũng biến mất tăm. Tôi lần lượt đi tìm gặp
họ, ,trình bậy với họ hoàn cảnh khốn đốn của mình, nhưng chẳng có một .aí:đoái
hoài, chẳng có một ai có một lời an ủi. Thế là tôi tuyệt giao với chúng và hạn
chế vlệc chi tiêu của mình trong phạm vi khoản lợi tức. Tôi cũng hạn chế trong
vlệc giao tiếp, chỉ tiếp đãi người khách lạ đầu tiên mà tôi gặp mỗi ngày khi họ
tới Bagdad với điều kiện là chỉ mời ăn uống một ngày hôm đó. Phần còn lại tôi
đã trình bày với ngài rồi và tôi rất cảm ơn vận may đã cho tôi được gặp một
người khách lạ cao quý như ngài ngày hôm nay.
Hoàng đế rất hài lòng đã biết rõ sự
việc, bảo Abou Hassan:
- Tôi thật không đủ lời lẽ để ca
ngợi phương cách thật tết mà ông đã hành động với sự thận trọng thật chu đáo
khi lao vào cuộc sống phóng đãng truỵ lạc, không giống như kiểu thường có của
tuổi thanh niên. Tôi còn mến phục ông là đã giữ trọn vẹn lời thề với bản thân
như ông đã làm. Bước đường đi thường trơn rượt, tôi không ngớt khâm phục ông ở
chỗ thấy tiền mặt hết sạch, ông đã kiềm chế được mà không tiêu tán nết khoản
lợi tức và có khi cả vốn liếng ruộng vườn nhà cửa nữa. Để nói cho ông biết tôi
đã nghĩ gì về việc này, tôi phải nói ông là đân chơi duy nhất có cách xử sự lạ
lùng đó và chắc chẳng bao giờ có ai như thế. Cuối cùng cũng phải thú thực là
tôi ganh tị với hạnh phúc của ông. Ông là một người sung sướng nhất trần gian,
mỗi ngày được đánh bạn với một người trung thực, được cùng nhau chuyện trò thật
tâm đắc, để rồi người đó loan truyền đi khắp mọi nơi sự tlếp đãi nồng hậu của
ông. Nhưng mà... Cả ông và tôi, chúng ta đều không nhận thấy là chuyện trò lâu
quá quên cả uống. Hãy uống đi ông bạn, và sau đó hãy rót đầy chén cho tôi nữa.
Hoàng đế và Abou Hassan tiếp tục
cuộc rượu thật lâu và trao đổi nhlều điều thật lý thú.
Đêm đã về khuya và hoàng đế làm như
rất mệt vì chặng đường đã đi bảo với Abou Hassan là mình cần được nghỉ ngơi. Và
ông nói thêm:
- Tôi cũng không muốn vì lòng yêu
tôi mà ông phải chịu thiệt thòi. Trước khi chúng ta chia tay (vì rất có thể là
ngày mai tôi sẽ ra đi trước khi ông ngủ dậy), tôi xin thành thật nói vớl ông là
tôi rất xúc động về lòng trung hậu, về thức ăn ngon và tính hiếu khách của ông
đối với tôi thật là ân tình. Điều duy nhất làm tôi băn khoăn là biểu lộ sự biết
ơn của mình ra sao đây. Xin ông hãy vui lòng cho biết tôi phải làm gì để khỏi
mang tiếng là kẻ vô ơn. Chẳng lẽ một người như ông mà lại không có việc nào đó
cần làm, một nhu cầu nào đó cần đáp ứng và tóm lại là không có một mong ước nào
đó cần được thoả mãn hay sao. Hãy cởi mở và hãy thành thật bảo tôi đi. Dù chỉ
là một thương gia nhưng không phải là tôi không có điều kiện để tự tôi hoặc qua
các bạn bè giúp ông mọi việc.
Nghe những lời ân cần của hoàng đế
mà Abou Hassan vẫn ngỡ là một thương gia, chàng nói:
- Thưa ngài, tôi tin không phải là
chỉ vì muốn làm vui lòng tôi mà ngài có những gợi ý thật là hào hiệp. Nhưng xin
thành thật thưa với ngài là tôi không hề buồn nản, chẳng có công việc gì mắc
mớ, chẳng có ham muốn gì và cũng chẳng cần xin ai một thứ gì. Tôi không có một chút
tham vọng nào như đã nói với ngài và tôi rất hài lòng với số phận của mình.
Không những tôi phải cảm tạ về những đề xuất thật ưu ái của ngài mà còn phải
cảm tạ cả nhã ý của ngài đã cho tôi vinh dự là đã tới đùng bữa cơm thanh đạm
tại nhà tôi. Tuy nhiên cũng xin thưa với ngài – Abou Hassan nói tiếp - duy nhất
có một điều làm tôi băn khoăn, nhưng cũng chẳng đến nỗi làm tôi mất ăn mất ngủ.
Chắc ngài cũng đã rõ là thành phố Bagdad được chia ra làm nhiều khu phố, và ở
mỗi khu phố có một thánh thất với một trưởng giáo. Vào giờ thường lệ trưởng
giáo đứng đầu khu phố tập hợp đân chúng tới thánh thất để cầu nguyện. Trưởng
giáo ở đây là một lão già to lớn, nét mặt khắc khổ và đạo đức giả nhất thế
giới. Hội đồng của lão còn có bốn lão già khác toàn là láng giềng của tôi, loại
người cũng gần giống như lão, hàng ngày tập hợp đều đặn tại nhà lão trưởng
giáo. Và trong những cuộc họp kín đó, các lão không từ một sự đèm pha, một sự
vu khống hoặc xỏ xiên nào mà không chĩa vào tôi và cả khu phố để chia rẽ và gây
rối. Chúng hùng hổ với người này, doạ nạt người kia. Cuối cùng chúng muốn xưng
hùng xưng bá, mỗi đứa xử sự theo tính khí thất thường của mình nhưng ngay chính
chúng cũng còn không biết xử sự với chmh mình ra sao nữa. Thật tình mà nói, tôi
đau buồn là thấy các lão thọc mũi vào tất cả, ngoài cuốn kinh Coran của họ và
không để cho thiên hạ sông yên ôn.
- Vậy là Hoàng đế nói - ý ông muốn
tìm một cách nào đó để chặn đứng sự lộn xộn ấy chứ gì?
- Đúng như ngài đã nói đó - Abou
Hassan nói – và điều duy nhất mà tôi cầu xin Thượng đế để làm việc đó là được
làm hoàng đế chỉ một ngày thôi thay thế cho đấng Thống lĩnh các tín đồ Haroun
Alraschid, đức vua và lãnh chúa của chúng ta.
- Ông sẽ làm gì nếu được như vậy? -
Hoàng đế hỏi.
- Tôi sẽ làm một việc có ý nghĩa
lớn, và việc này sẽ làm hài lòng tất cả những người trung thực. Tôi sẽ cho đánh
một trăm gậy vào gan bàn chân mỗi người trong bơn lão già và bốn trăm gậy cho
lão trưởng giáo để dạy cho họ chớ có gây rối và làm phiền lòng những người láng
giềng của chúng.
Hoàng đế thấy ý nghĩ của Abou Hassan
thật là ngộ nghĩnh và vì ông cũng vốn rất thích những chuyện phiêu lưu kỳ lạ
nên bỗng nẩy ra ý muốn nhân đó bày ra một chuyện vui đùa thật độc đáo. Ông liền
bảo chàng:
Điều mong ước của ông làm tôi rất
thích nhất là nó lại phát xuất từ một tấm lòng ngay thẳng, không sao chịu được
những hành động ma quái của bọn xấu mà không bị trừng trị. Tôi sẽ rất thích thú
chờ xem hiệu quả và không phải là nó không có khả năng xảy ra như ông tưởng
đâu. Tôi chắc chắn là hoàng đế sẽ vui lòng trao quyền lực vào tay ông trong hai
mươi bốn tiếng đồng hồ nếu Người biết rõ thiện ý và cách sử dụng quyền lực của
ông như thế nào. Dù chỉ là một thương gia nước ngoài, tôi cũng muốn có cái gì
đó để góp phần nhỏ mọn của mình vào việc này.
- Tôi thấy rõ - Abou Hassan nồi- là
ngài muốn chế nhạo về sự tưởng tượng điên rồ của tôi và hoàng đế cũng giễu cợt
tôi nếu Người biết ý tưởng hoang đường đó. Điều có thể xảy ra là Người sẽ tra
hỏi về tư cách của lão trưởng giáo và những cố vấn của y rồi có hình thức trừng
phạt mà thôi.
- Tôi chẳng chế nhạo ông đâu - Hoàng
đế phản đối - Xin Thượng đế trừng phạt nếu tôi đã có ý nghĩ bậy bạ như thế đối
với Người như ông đã đón tiếp tôi thật thân tình dù chưa từng quen biết. Và tôi
có thể cả quyết với ông là hoàng đế sẽ cũng chẳng giễu cợt ông đâu. Nhưng thôi,
ta hãy gác chuyện đó lại. Gần nửa đêm rồi, chúng ta đi ngủ thôi.
- Chúng ta chấm dứt câu chuyện tại
đây – Abou Hassan nói - Tôi chẳng muốn làm trở ngại cho sự nghỉ ngơi của ngài.
Nhưng, rượu trong chai hãy còn, chúng ta phải uống cạn chứ, sau đó thì đi ngủ.
Điều đuy nhất tôi đề nghị là sáng mai, nếu ngài ra đi mà tôi chưa thức giấc thì
xin đừng để cửa ngỏ mà khép lại giúp tôi.
Hoàng đế hứa là sẽ làm đúng như thế.
Trong khi Abou Hassan nói thế thì
hoàng đế cầm lấy chai rượu và hai chiếc chén. Ông tự rót cho mình đầu tiên, cho
Abou Hassan biết là ông uống để tạ ơn chàng. Uống xong, ông khéo lệo và nhanh
nhẹn bỏ vào chén của Abou Hassan một nhúm bột mà ông có trong người và rót nốt
rượu trong chai vào. Đưa chén rượu cho Abou Hassan, ông nói:
- Ông đã mất công rót rượu mời tôi
suốt buổi, lần uống cuối cùng này, tôi phải mời ông là chuyện đương nhiên phải
làm để đỡ vất vả cho ông. Xin ông hãy đỡ lấy chén rượu này từ tay tôi và uống
cạn vì tình yêu của ông đối với tôi.
Abou Hassan đỡ lấy chén rượu và để
tỏ ra với khách niềm vui và vinh dự được mời như vậy, chàng đưa chén rượu lên
miệng và uống cạn một hơi. Nhưng chỉ vừa đặt chén xuống bàn thì cái thứ bột gì
đó đã phát huy hiệu quả. Chàng thiếp đi ngay, đầu gục xuống một cách bất thần
làm hoàng đế không khỏi mỉm cứời: Người nô lệ đi theọ ông bưôc vào sẵn sàng chờ
lệnh. Hoàng đế bảo y:
- Vác người này lên vai, nhưng chú ý
phải nhớ kỹ địa điểm nhà này để ngươi sẽ phải mang trả lại đúng chỗ khi ta có
lệnh.
Hoàng đế, theo sau là người nô lệ
vác Abou Hasạan trên vai, đi ra khỏi nhà nhưng vẫn để ngỏ cửa chứ không khép
lại như Abou Hassan đề nghị. Ông cố tình làm như thế. Khi về tới hoàng cung,
ông vào trong bằng một cái cửa bí mật, bắt tên nô lệ theo ông về tới tận ngự
phòng ở đó tất cả các quan hầu đang túc trực. Vua phán:
- Hãy cởi quần áo người này ra và
đặt nằm trên long sàng, ta sẽ cho mọi người biết ý định của ta sau:
Những viên quan hầu cởi bỏ quần áo
của Abou Hassan ra, mặc áo quần ngủ của hoàng đế vào cho chàng và theo lệnh nhà
vua đặt chàng nằm trên giường của Người. Trong hoàng cung chưa có ai ngủ, nhà
vua cho gọi tất cả các quan hầu khác và các cung nữ. Khi tất cả đã tập hợp đông
đủ trước mặt rồi, hoàng đế bảo:
- Ta muốn tất cả các ngươi đã quen
có mặt vào lúc ta thức dậy chớ quên là sáng mai khi người nằm trên giường của
ta mở mắt thì mỗi người sẽ làm công việc của mình như thường ngày hầu hạ ta
vậy. Ta cũng muốn là mọi người đều phải cung kính tôn trọng người này cũng như
đối với ta và phải tuyệt đối phục tùng mỗi khi người này ra lệnh. Không ai được
từ chối điều gì khi người này đòi hỏi và không được làm trál bất cứ điều gì mà
người này có thể nói ra hoặc muốn được có. Trong tất cả các trường hợp cần
trình thưa hay đáp lại, không được quên là phải coi người này như đấng Thống
lĩnh các tín đồ. Tóm lại một câu là không một ngườl nào được nghĩ đến ta trong
suốt cả thời gian ở gần người này, phải coi như người này là ta tức là hoàng đế
và là Thống lĩnh các tín đồ. Trên tất cả mọi thứ là tuyệt đối không được nhầm
lẫn bất cứ trong trường hợp nào.
Những viên quan hầu cận và các cung
nữ hiểu trước hết là hoàng đế muốn bày một trò vui, nên chỉ biết cúi đầu tuân
lệnh và ngạy lúc đó mỗi người đều chuẩn bị đóng vai trò của mình cho thật đạt.
Quay trở lại hoàng cung, hoàng đế
cho vời tể tướng đầu triều Giafar tới.
Hoàng đế bảo:
- Giafar, ta cho triệu nhà ngươi tới
để báo cho ngươi biết chớ nên lấy làm ngạc nhiên về buổl thiết triều ngày mai.
Con người hiện đang ngủ trên long sàng của ta, ngày mai sẽ ngồi lên ngai vàng
với triều phục hoàng đế. Nhà ngươi hãy tiếp cận hắn với sự kính trọng như
thường vẫn đối với ta và đối xử với hắn như đối với vị Thống lĩnh các tín đồ
vậy. Hãy lắng nghe và thi hành ngay tức khắc tất cả những gì người ấy ra lệnh
cũng như ta ra lệnh vậy. Người ấy sẽ không quên tỏ ra hào phóng và trao cho
ngươi nhiệm vụ phân phát những đồng tiền thưởng. Hãy làm theo dù có phải đốc
c_ạn tất cả những rương tiền của ta. Nhớ là báo cho tất cả các thượng thư, các
pháp quan và tất cả những quan chức khác ở bên ngoài hoàng cung là ngày mai vào
triều cũng phải tung hô chúc tụng nhứ đối với ta và phải chú ý giữ gìn không để
người ấy nhận ra bất cứ một điều gì có thể làm gián đoạn cuộc vui mà ta đã sắp
đặt. Thôi, về đi, ta eũng chẳng còn gì phải đặn thêm nữa. Hãy cố gắng cho ta
niềm vui mà ta đòi hỏi.
Sau khi tể tướng rút lui, hoàng đế
đi sang một phòng khác và trước khi ngủ, ông lệnh cho Mesrour, tổng thái giám,
những cái cần làm về phía ông ta để tất cả đều đạt được việc theo ông là để
thừc hiện ước mơ của Abou Hassan và để xem anh ta sẽ sử đụng quyền lực của một
hoàng đế như thế nào trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà anh ta yêu cầu. Và
cuối cùng ông dặn đánh thức ông dậy như thường lệ trước khi đánh thức Abou
Hassan vì ôũg muốn mình được chứng kiến sự việc điễn biến ra sao ngay từ lúc
đầu.
Mesrour không quên đánh thức hoàng
đế đúng giờ đã dặn. Khi hoàng đế vào tới phòng Abou Hassan đang ngủ, ông nấp
trong một căn buồng nhỏ trên cao mà ở đó qua một cửa sổ ông có thể nhìn thấy
tất cả những gì xảy ra trong phòng mà không sợ ai nhìn thấy mình. Tất cả các
quan hầu và các cung nữ cần phải có mặt khi Abou Hassan thức dậy đều cùng vào
ngự phòng một lúc và mỗi người đứng vào chỗ quen thuộc của mình tuỳ theo chức
vụ và tuyệt đối im lặng làm như để chờ hoàng đế thức giấc và sẵn sàng làm nhiệm
vụ của mỗi người đã được phân công.
Vì mặt trời đã bắt đầu nhô lên, đã
đến lúc phải dậy để cầu nguyện, người quan hầu đứng gần phía đầu giường, đưa
vào gần mũi Abou Hassan một miếng bông tẩm dấm.
Lập tức chàng hắt hơi và quay đầu về
phía khác nhưng chưa mở mắt. Hiệu quả của chất bột hoàng đế bỏ vào chén rượu
của chàng lúc này chấm đứt. Quay lại và d8ặt đầu trên gối, Abou Hassan mở mắt
và dù trời mới tờ mờ sáng cũng nhận thấy là mình đang ở trong một căn phòng
được trang trí thật lộng lẫy, trần nhà chạm trổ tinh vi, chung quanh có nhiều
bình lớn bằng vàng ròng, những tấm màn che cửa và tấm thảm trải sàn bằng lụa
thêu kim tuyến. Nhiều cung nữ quây quần, mỗi người cầm một nhạc cụ sẵn sàng hoà
tấu. Các cô đều xinh đẹp tuyệt vời cùng với các thái giám da đen ăn mặc sang
trọng cùng đứng yên một cách thật khiêm nhường. Đưa mắt nhìn chăn đệm trên
giường, chàng thấy đó là một tấm gấm đỏ thêu kim tuyến, đát ngọc trai và kim
cương. Gần bên. giường là một bộ quần áo cũng bằng cùng thứ vải và trang trí
giống như thế và trên một chiếc gối là chiếc mũ mềm của hoàng đế.
Nhìn thấy những đồ rực rỡ huy hoàng
đó, Abou Hassan kinh ngạc và hoang mang không sao tả xiết. Chàng nhìn tất cả
những đồ vật như trong một giấc mộng, mộng rất thật đối với chàng mà chàng muốn
cứ thế mãi. Chàng tự nhủ: Được, thế là ta đã là hoàng đế. Nhưng - Chàng nói
thêm sau một lát nghĩ ngợi - không phải là ta nhầm chứ? Đúng là một giấc mộng,
kết quả của lời mong ước mà ta vừa thổ lộ với ông khách . Và chàng lại nhắm mắt
như để ngủ tiếp.
Cũng lúc đó thì một hoạn nô tới gần:
- Tâu đấng Thơng lĩnh các tín đồ - Y
cung kính nói - Xin bệ hạ đừng ngủ lại nữa, đã đến lúc Người dậy để cầu nguyện,
bình minh đã bắt đầu ló rạng rồi!
Những lời nói trên làm cho Abou
Hassan vô cùng kinh ngạc, chàng lại tự hỏi: Ta thức hay ta ngủ đây? Nhưng đúng
là ta đang ngủ - Chàng lại tự nhủ tiếp, mắt vẫn nhắm nghiền - Không còn nghi
ngờ gì nữa .
Một lát sau, viên thái giám thấy
chàng không nói năng gì và chẳng tỏ ra vẻ gì muốn trở dậy cả, liền nói tiếp:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ,
xin bệ hạ cho phép tôi nhắc lại là đã tới giờ Người trở dậy nếu không thì sẽ lỡ
buổi cầu kinh sáng mà Người chưa bao giờ quên.
- Ta đã nhầm - Abou Hassan bật nói -
Ta không ngủ mà ta đang thức. Những người ngủ thì chẳng nghe thấy gì còn ta lại
nghe rõ có người đang nói với ta.
Chàng lại mở mắt và vì trời đã sáng
hẳn, chàng nhìn thấy rõ rệt tất cả những đồ vật mà lúc nãy chỉ trông thấy lờ
mờ. Chàng ngồi lên vui vẻ như một người tràn ngập niềm vui khi thấy mình đang ở
trong một trạng thái, có một địa vị cao sang hơn rất nhiều so với điều kiện
thực của mình. Còn hoàng đế đang bí mật quan sát thì vô cùng thích thú đọc được
ý nghĩ của chàng.
Vừa lúc đó, các cung tần mỹ nữ của
hoàng cung quỳ dập xuống trước Abou Hassan và những người đang có nhạc cụ trong
tay hoà tấn một bản nhạc đu dương thay cho lời chào gửi tớl chàng. Abòu Hassan
đắm say mê mẩn đến mức không hiểu được là lúc này mình đang ở đâu và mình có
còn phải là mình nữa không. Tuy nhiên ý nghĩ lúc đầu trở về trong trí và chàng
hãy còn nghi ngờ tất cả những gì trông thấy, nghe thấy thực sự là có thật hay
chỉ là trong một giấc mơ. Chàng giơ hai bàn tay lên trước mặt và cúi đầu suy
nghĩ: Tất cả cái này là gì vậy - Chàng tự nhủ - Ta đang ở đâu? Lâu đài này là
của ai? Những thái giám, những viên quan hầu cận ăn mặc chỉnh tề, phong thái
trịnh trọng này là thế nào? Những cô nương xinh đẹp và những nữ nhạc công làm
ta mê đắm này là ai? Có thể thế được không? Ta không sao phân biệt được là đang
trong giấc mộng hay đúng là hiện thực? . Chàng bỏ hai tay trước mặt xuống, mở
mắt ra, ngửng đầu lên và nhìn thấy ánh sáng ban ngày đã chiếu qua cửa sổ lọt
vào trong phòng chàng đang ngồi.
Trọng lúc này thì Mesrour, tổng thái
giám đi vào quỳ, cúi đầu thấp trước Abou Hassan và nói với chàng khi đứng lên:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ,
xin bệ hạ cho phép tôi được thưa là Người thường không có thói quen là dậy quá
muộn và đã để cho thời gian cầu nguyện trơi qua. Nếu chẳng phải là vì đã có một
đêm mất ngủ và thánh thể bất an thì xin Người hãy đi tới phòng thiết triều,
ngồi lên ngai vàng để quần thần được chiêm ngưỡng như mọi khi. Những tướng
lĩnh, những thủ hiến các tỉnh thành, và các quan đại thần khác trong triều đình
chỉ còn chờ cánh cửa của cung thiết triều mở ra thôi.
Nghe lời tâu trình của Mesrour, Abou
Hassan vững tin là chàng không ngủ mê và tất cả quang cảnh này chẳng phải là
trong giấc mộng. Chàng chắng khỏi lúng túng và hoang mang không biết phải làm
gì đây. Cuối cùng chàng nhìn thẳng vào mặt Mesrour và nghiêm trang hỏi:
- Ông đang nói với ai vậỳ, và ai là
người mà ông gọi là đấng Thống lĩnh các tín đồ, tôi chưa từng biết ông là ai.
Có thể là ông đã nhầm tôi với một người khác đấy.
Nếu không phải là Mesrour đã được
hoàng đế cho biết trước rồi thì sẽ lúng túng trước câu hẻi của Abou Hassan.
Viên tổng thái giám đóng rất tất vai trò của mình, y kêu lên:
- Thưa lãnh chúa chủ nhân tôn kính,
bệ hạ nói như vậy với tôi hôm nay để thử thách tôi chăng? Bệ hạ há chẳng phải
là đấng Thống lĩnh các tín đồ, chúa tể của thế giới từ đông sang tây, người đại
diện cho đấng tlên tri, sứ giả của Thượng đế dưới cõi trần cũng như trên thiên
đường đó ư? Mesrour, kẻ nô lệ hèn mọn này làm sao mà quên được Người sau bao
năm đã có hạnh phúc và vinh dự được hầu hạ Người. Nó sẽ là đứa khổ sở nhất
trong tất cả mọi người nếu nó bị bệ hạ thất sủng. Vì vậy nó cầu xin bệ hạ rủ
lòng thương mà làm cho nó yên tâm: nó muốn tin là một cơn ác mộng trong đêm đã
làm cho Người không được yên giấc.
Nghe Mesrour kể lể, Abou Hassan cười
rộ lên, người ngả ra giường làm cho hoàng đế rất vui muốn cũng cười to như thế
nếu không sợ là cuộc vui mới bắt đầu đã phải chấm dứt.
Abou Hassan, nằm cười rất lâu rồi
nhổm dậy bảo một tên hoạn nô nhỏ da cũng đen như Mesrour:
- Này, nghe đây, hãy nói đi ta là ai?
- Dạ muôn tâu - Hoạn nô nhỏ cung kmh đáp - Bệ hạ là đấng
Thống lĩnh các tín đồ và là người đạl diện cho cả trần gian và thượng giới.
- Mày là một thằng bé nói dối, đồ mặt đen như trôn chảo!
- Abou Hassan tức giận bảo.
Chàng lại gọi một trong các cung nữ đứng gần:
- Hãy lại gần đây, người đẹp - Abou Hassan nói và giơ bàn
tay ra - Này, hãy cắn vào đầu ngón tay tôi để xem là tôi đang ngủ hay là đang
thức.
Cô gái, biết là hoàng đế đang chú ý nhìn tất cả những gì
đang xảy ra trong phòng, rất hài lòng để tỏ ra vai trò mình đóng cũng không
phải dở. Thế là nàng rón rén đến gần Abou Hassan, nhẹ nhàng nắm lấy một ngón
tay mà chàng giơ ra, đưa tay lên miệng cắn nhẹ làm cho chàng cảm thấy hơi đau.
Giật nhanh bàn tay lại, Abou Hassan
lẩm bẩm:
- Đúng là ta không ngủ mơ. Có phép lạ gì đây mà chỉ trong
lnột đêm ta lại trở thành hoàng đế “Đây quả là một việc kỳ diệu và lạ lùng nhất
thế gian.
Và quay lại bảo người cung nữ vừa cắn ngón tay mình:
- Xin đừng giấu tôi sự thật, xin có Thượng đế chứng giám
mà nàng cũng như tôi đều tôn sùng Người, có phải tôi đúng là Thống lĩnh các tín
đồ không?
- Đúng như vậy - Người cung nữ đáp - Đúng bệ hạ là đấng
Thống lĩnh các tín đồ mà chúng tồi là bầy tôi của Người, tất cả những nô lệ
chúng tôi đều ngạc nhiên thấy Người không tin mình là hoàng đế.
- Nàng là kẻ nói láo - Abou Hassan nói - Tôi biết rõ mình
là ai chứ.
Thấy Abou Hassan muốn đứng lên, người chỉ huy các hoạn nô
giơ tay ra giúp chàng bước xuống giường. Chàng vừa đứng lên, cả căn phòng vang
lên tlếng chào mừng của tất cả các quan hầu và cung tần mỹ nữ: Cầu xin Thượng
đế ban cho đấng Thống lĩnh các tín đồ một ngày tất đẹp.
- Ôi! Trời đất? Thật kỳ diệu làm sao! - Abou Hassan kêu
lên - Chiều hôm qua ta là Ábou Hassan và sáng nay ta đã là Thống lĩnh các tín
đồ! Ta không sao mà hiểu được vì đâu lại có sự đổi thay nhanh chóng và lạ kỳ
như vậy.
Các quan hầu chuyên lo việc trang phục đã mau chóng mặc
triều phục cho chàng và khi làm xong thì cùng với các quan hầu khác, các hoạn
nô và cung tần mỹ nữ đứng thành hai hàng kéo dài ra tận cửa thông sang cung
thiết triều. Mesrour đi trưôc dẫn đường, Abou Hassan theo sau. Một viên quan
vén rèm, mở cửa, Mesrour b.ước vào và vẫn đi trước đến tận chân ngai vàng thì
đứng lại đỡ cho Abou Hassan bước lên ngai có sự giúp của một vị quan khác, mỗi
người xốc một bên nách chàng.
Abou Hassan ngồi xuống ngai trong tiếng hoan hô của các
quan chức triều thần. Họ chúc chàng tất cả những lời tốt đẹp: hạnh phúc và
thịnh vượng. Chàng quay nhìn sang phải, sang trái, thấy các quan và thị vệ đứng
thành hàng trật tự và trang nghiêm.
Hoàng đế lúc đó rời khỏi căn buồng ông nấp trong khi Abou
Hassan đã vào cung điện. Ông chuyển đến một căn buồng khác cùng có cửa sổ hướng
sang cung thiết triều, ở đây có thể nhìn và nghe thấy tất cả những gì xảy ra
trong đó điều đầu tiên làm hoàng đế hài lòng là thấy Abou Hassan thay mình ngồi
trên ngai cũng chững chạc bệ vệ chẳng kém gì chính ông.
Sau lúc Abou Hassan đã yên vị, tể tướng Giafar vừa tới,
quì xuống trước chàng bên cạnh ngai rồi đứng lên nói vớl chàng:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, cầu mong Thượng đế ban
phúc dồi đào eho bệ hạ trên cõi đời này, nhận Người lên thiên đường ở cõi đời
bên kia, và đầy xuống hoả ngục tất cả những kẻ thù của Người.
Sau tất cả những gì xảy ra từ lúc thức dậy và những lời
vừa được nghe qua miệng tể tướng, Abou Hassan không còn nghi ngờ gì nữa mình
đúng là hoàng đế như đã mong ước Vì vậy, chẳng cần phải xem xét vì sao hoặc có
gì xảy ra để có sự đổi thay số phận bất ngờ như vậy, lập tức chàng đi vào việc
sử dụng quyền lực của một hoàng đế. Vì vậy, chàng nghiêm nghị nhìn tể tướng và
hỏi ông có vấn đề gì tấu trình hay không.
- Tâu đấng Thống lĩnh các tln đồ - Tể tướng thưa - Lúc
này các đại thần, thượng thư và các quan chức khác trong triều đều còn đang
đứng ngoài cửa, chỉ còn chờ lệnh bệ hạ cho vào để được dâng lên Người lời chúc
mừng kính trọng thường lệ.
Abou Hassan tức thì bảo cho ra mở
cửa. Tể tướng quay lại bảo người thị vệ trưởng đang chờ lệnh:
- Thị vệ trưởng? Đa61ng Thống lĩnh
các tín đồ lệnh cho nhà ngươi làm nhiệm vụ của mình.
Cửa mở, cùng một lúc các thượng thư,
các đại thần và các quan chức chủ chốt của triều đình, tất cả đều mang triều
phục lộng lẫy, trật tự bước vào, tiến tới tận chân ngai, kính trọng cúi chào
Abou Hassan, mỗi người đi theo hàng của mình, gối quì xuống đất, trán chạm thảm
sàn, y như đối với hoàng đế và kêu chàng là Thống lĩnh các tín đồ như lời đại
tể tướng đã căn dặn. Rồi lần lượt mỗi người về chỗ của mình sau khi đã làm tròn
bo63n phận.
Nghi lễ kết thúc, tất cả mọi người
ai về chỗ na2y, im lặng hoàn toàn trong điện.
Tể tướng vẫn đứng trước ngai, bắt
đầu tâu trình mọi việc lần lượt theo xấp giấy cầm tay. Những sự vụ thực ra thì
bình thường không có gì quan trọng. Nhưng Abou Hassan chẳng khỏi làm cho tất cả
phải thán phục kể cả hoàng đế. Đúng vậy, chàng không chút tỏ vẻ lạ lẫm cũng
không bối rối vì bất cứ sự vụ nào. Chàng cho lời phán xét thật chính xác về tất
cả mọi việc dựa theo linh khiếu của mình, hoặc chuẩn y hoặc bác bỏ những gì dân
cầu xin.
Trước khi tể tướng chấm dứt bản tấu
trình, Abou Hassan chợt nhìn thấy viên quan tư pháp, mà chàng biết mặt, đang
ngồi trong hàng quan của mình, chàng giơ tay bảo tể tướng:
- Hãy chờ một chút, ta có mệnh lệnh
gấp cho viên pháp quan.
Viên quan này vẫn chăm chú nhìn Abou
Hassan từ đầu, nhận thấy là chàng nhìn mình một cách đặc biệt, lại nghe nói đến
mình, vội vàng đứng lên, tiến lại ngai vàng quỳ xuống, mặt chạm đất.
- Này pháp quan - Abou Hassan bảo
sau khi y đứng lên - Ông hãy cho lính tới ngay phố này thuộc khu này... Ở đó có
một thánh thất trong đó có một trưởng giáo và bốn lão già tóc bạc. Hãy tóm bắt
luôn cả bọn và đánh cho bốn lão già mỗi lão một trăm roi gân bò, đánh cho lão
trưởng giáo bốn trăm roi. Sau đó, ông cho đặt chúng lên lưng năm con lạc đà,
mặt ngoảnh về phía đuôi con vật, trên người mặc quần áo rách rưới. Ông cho cả
đoàn này đi diễu khắp các khu phố trong thành, đi đầu là một ngườl mõ kêu to
lên: Đây là hình phạt cho những kẻ hay xía vào những việc không liên quan gì
tới mlnh mà chỉ để quấy rối, gây chia rẽ trong gia đình những người xung quanh
và gây cho họ nhiều điều khổ sở . Ta còn muốn là chúng phải chuyển chỗ ở sang
khu phố khác và không được bén mảng về khu phố cũ nữa. Trong khi người phó của
ông cho chúng đi diễu phố như ta vừa nói thì ông trở lại đây trình tâu rõ mệnh
lệnh của ta đã được thi hành ra sao.
Viên pháp quan đặt bàn tay lên đầu
để tỏ là mình sẽ thi hành mệnh lệnh vừa nhận được, nếu không làm tròn thì xin
nộp cái đầu mình. Quì xuống trước ngai lần thứ hai và sau khi đứng lên y đi
ngay.
Mệnh lệnh được phát ra đầy cứng rắn
làm hoàng đế thích thú và thấy đúng là Abou Hassan đã không bỏ lỡ cơ hội để
trừng phạt lão trưởng giáo và bốn lão già như đã nói với hoàng đế nếu được một
ngày thay ông làm vua.
Tướng tiếp tục đọc bản tấu trình và
khi sắp sửa kết thúc thì viên pháp quan trở về, bệ kiến để trlnh bày sứ mệnh đã
được thực hiện. Đến gần ngai vàng, quì xuống theo lễ tục rồi ông thưa khi đứng
lên:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ,
tôi đã thấy lão trưởng giáo và bốn lão già tại thánh thất mà bệ hạ đã chỉ, đây
là tờ lục biên có chữ ký của những nhân chứng là các vị chức sắc của khu phố.
Cùng lúc y lôi từ ngực áo ra một tờ
giấy và đưa cho Abou Hassan.
Abou Hassan cầm lấy đọc toàn bộ tờ
lục biên đến tận các chữ ký của những nhân chứng mà chàng cũng đã quen biết.
Xong, chàng cười bảo viên pháp quán:
- Tốt lắm, ta hài lòng về vlệc làm
của ông, mờì ông về chỗ.
Rồi chàng hể hả tự nhủ: Những con
chlên ghẻ nảy cứ muốn dòm ngó vào việc làm của ta, cho việc ta đón tiếp và thết
đãi tại nhà những người lương thiện là xấu, chúng đáng phải chịu trừng phạt như
thế .
Hoàng đế, quan sát biết được ý nghĩ
của chàng, cũng rất vui thấy chàng xử lý công việc thật hợp lý hợp tình.
Abou Hassan sau đó bảo tể tướng:
- Hãy bảo tổng quản ngân khố đưa cho
ông một nghìn đồng tiền vàng, tới khu phố mà ta đã phái viên pháp quan đi vừa
rồi, mang đến cho bà mẹ một người có tên là Abou Hassan tục danh là Phóng-đãng.
Đó là một người mà cả khu phố biết đến dưới cái tên đó. Không có ai là không
chỉ nhà người ấy cho ông đâu. Đi đi và mau chóng về ngay.
Tể tướng đặt bàn tay lên đầu tỏ ý
tuân lệnh và sau khi quì gối xuống trước ngai, ông đi đến chỗ tổng quản ngân
khố, llnh túi tiền, đưa cho một tên nô lệ mang đi theo ông và đưa tặng cho bà
mẹ Abou Hassan. Tể tướng vào gặp bà nói là hoàng đế đưa tặng và chẳng nói gì
hơn. Bà nhận mà hết sức ngạc nhiên có điều gì mà hoàng đế lại tặng bà một món
quà hậu hĩ như vậy và bà cũng không biết một tí gì xảy ra trong hoàng cung.
Trong khi tể tướng không có đấy,
viên pháp quan tâu trình nhiều vụ việc liên quan tớl nghiệp vụ tư pháp của
mình. Cuộc tấu trình kéo dài mãi tới lúc tể tướng trở về. Tể tướng cũng tâu lại
sứ mệnh được trao đã hoàn thành rồi đến lượt Mesrour, tổng thái giám ra hiệu
cho các thượng thư, các đại thần và tất cả các quan chức là buổi chầu đã kết
thúc mọi người có thể ra về. Các triều thần trước khi đi ra đều cúi đầu lần
lượt quỳ lạy trước ngai vàng cũng trật tự như khi vào triều vậy. Chỉ còn lại
trong cung cạnh Abou Hassan những quan hầu của hoàng đế và tể tướng.
Abou Hassan không ngồi quá lâu trên
ngai vàng hoàng đế. Chàng bước xuống cũng như khi bước lên tức là được Mesrour
và một quan hầu khác đỡ hai bên và đưa tới ngự phòng, nơi chàng ở đấy đi ra.
Chàng bước vào theo tể tướng đang đi trước dẫn đường. Nhưng mới đi được mấy
bước, chàng tỏ ý muốn đi đại tiện. Ngay tức thì chàng được đưa tới một căn
phòng nhỏ thật sạch sẽ, sản lát đá cẩm thạch, khác với phòng chàng ngủ và các
phòng khác đều trải thảm rất đắt tiền. Người ta đưa cho chàng một đôi giày lụa
thêu kim tuyến thường vẫn sỏ vào chân trước khi vào phòng vệ sinh. Chàng cầm
lấy và vì không quen dùng nên đút luôn vào tay áo rộng.
Thường thường người ta hay bật cười
trước những sự việc nhỏ nhặt như thế, nên cả tể tướng, Mesrour và tất cả các
quan hầu trong cung điện, đứng gần đó đều muốn cười phá lên, nhưng lại sợ làm
hỏng cả cuộc vui hoàng đế đã bày đặt nên phải cố gắng nín nhịn, và tể tướng
cuối cùng phải giảng giải cho chàng biết cần phải đi đôi giày đó vào chân khi
bước vào nhà vệ sinh.
Trong lúc Abou Hassan ở trong đó thì
tể tướng đi gặp hoàng đế, lúc ấy đã chuyển ra chỗ khác để tiếp tục bí mật quan
sát Abou Hassan, kể với hoàng đế chuyện vừa xảy ra và Người lại thấy thêm một
đlều thích thú nữa.
Abou Hassan ra khỏi phòng vệ sinh,
Mesrour đi trước dẫn chàng vào căn phòng phía trong, ở đó đã bầy sẵn cỗ tiệc
Cửa phòng mở rộng, rất nhiều hoạn nô đi lại bảo nhau báo cho các nhạc công là
hoàng đế giả sắp tới. Thế là nhã nhạc nổi lên một khúc điệu du đương, âm thanh
quyến rũ khiến Abou Hassan mê man sảng khoái chỉ còn biết nghĩ tới những gì
trông thấy và nghe thấy thôi.
Chàng tự nhủ thầm: Nếu đây là một
giấc mộng thì quả là giấc mộng dài. Nhưng đâu phải là một giấc mộng - Chàng
tiếp tục tự nhủ - Ta cảm thấy rõ ràng, ta nói, ta nhìn, ta đi, ta nghe đủ cả.
Dù sao, cũng phó mặc cho Thượng đế muốn ra sao thì ra. Tuy nhiên ta không sao
có thể không tin mình là đấng Thống lĩnh các tm đồ. Chỉ duy có một Thống lĩnh
các tín đồ mới được sống trong cảnh huy hoàng như ta lúc này. Những nghi tiết
và những biểu hiện cung kính mọi người đối với ta, những mệnh lệnh mà ta ban ra
đều được răm rắp thi hành. Đó là những chứng cứ đầy đủ.
Cuối cùng Abou Hassan đinh ninh mình
đúng là hoàng đế, là Thống lĩnh các tín đồ và chàng càng lấy làm hoàn toàn chắc
chắn khi thấy mình đang ở trong một phòng khách tráng lệ rộng thênh thang. Vàng
ngọc lẫn vào bao sắc mầu rực rỡ long lanh bốn phía. Bảy toán nữ nhạc công, tất
cả đều xinh đẹp, bao quanh phòng khách và bảy chùm đèn bảy nhánh bằng vàng treo
từ nhiều chỗ khác nhau từ trần cao rủ xuống, màu vàng tươi và màủ thiên thanh
quyện vào nhau tạo thành một hiệu quả thật kỳ ảo. Giữa phòng là một chiếc bàn
bày trên là bảy chiếc mâm bằng vàng khối và từ những thức ăn trong mâm làm gian
phòng đầy ắp mùi thơm phức ngon lành. Đứng quanh bàn là bảy cung nữ xinh đẹp,
xiêm y mỗi người một màu sắc. Mỗi nàng đều có trong tay một chiếc quạt để phẩy
nhẹ cho Abou Hassan khi chàng ngồi vào bàn ăn.
Nếu trên đời này có người nào cảm
thấy sung sướng đến đê mê thì đó là Abou Hassan khi chàng bước vào cái phòng
khách lộng lẫy này. Cứ mỗi bước đi là một bước dừng lại để ngắm nhìn thoải mái
tất cả những kỳ quan bầy ra trước mắt. Chàng hết quay sang bên này lại quay
sang bên kia dưới sự thích thú của hoàng đế vẫn chăm chú theo dõi chàng. Cuối
cùng chàng tiến ra giữa phòng và ngồi vào bàn. Tức thì cả bảy cung nữ xinh đẹp
nhất loạt giơ quạt lên phẩy nhẹ hướng về phía hoàng đế mới. Chàng nhìn họ hết
người nọ đến người kia và sau khi đã ngầm thán phục vẻ duyên dáng của họ lúc
đứng phẩy quạt, chàng cười bảo chỉ cần một người quạt cho chàng là đủ, còn sáu
người kia chàng muốn cùng ngồi vào bàn với chàng, ba người bên phải, ba người
bên trái. Bàn thì tròn và Abou Hassan cho họ ngồi xung quanh để bất cứ chàng
ngoảnh về phía nào cũng chỉ nhìn thấy những gì là vui mắt, là xinh tươi.
Sáu thiếu nữ vâng lời, ngồi vào bàn.
Nhưng Abou Hassan lập tức nhận thấy là các nàng chẳng ăn gì cả có lẽ vì kính
trọng chàng. Vì vậy chàng được dịp mời mọc, gắp thức ăn và ép họ ăn bằng những
lời lẽ thật ân cần. Rồi chàng hỏi tên các nàng và được thoả mãn ngay. Tên của
họ là: Cổ Bạch Ngọc, Miệng San Hô, Mặt Trăng Rằm, Ánh Thái Dương, Mắt Huyền Mơ,
Tâm Mê ĐẮm. Chàng cũng hỏi cả cô nàng thứ bảy cầm quạt và nàng bảo tên là Cây
Mía Ngọt. Những lời dịu dàng chàng nói với mỗi cô lại càng làm tăng thệm lòng
yêu mến của hoàng đế, đã chẳng bỏ sót một lời nào, đối với chàng.
Khi các cung nữ nhận thấy Abou
Hassan không ăn nữa, một nàng liền bảo những hoạn nô đang đứng hầu tại đó.
- Đức Thống lĩnh các tín đồ muốn
sang phòng ăn tráng miệng. Hãy mang các thứ rửa tay tới đây.
Các nàng nhất loạt đứng lên và nhận
từ tay những hoạn nô người thì một cái chậu bằng vàng, người thì chiếc gáo bạc
và người thứ ba là chiếc khăn mặt. Tất cả đều quì dâng các thứ lên Abou Hassan
vẫn đang ngồi. Lau tay rửa miệng xong chàng đứng lên thì ngay lúc đó một hoạn
nô kéo rèm mở cửa sang một phòng khác.
Mesrour vẫn theo sát Abou Hassan,
lại đi trước và đưa chàng vào một phòng cũng rộng như phòng chàng vừa đi ra
nhưng trang trí nhiều tác phẩm hội hoạ của các nghệ sĩ bậc thầy, các bình vàng
lọ bạc, thảm trải sàn và bàn tủ gỗ quí. Trong phòng này cũng có bảy tốp nữ ca
công hay đúng hơn là bảy ban hợp xướng bắt đầu điễn tấu khi Abou Hassan bước
vào. Phòng này cũng trang trí bảy cụm đèn chùm lớn và chiếc bàn ở giữa phòng
đặt bảy chiếc mâm to bằng vàng chất đầy các loại quả đầu mùa, những quả được
chọn lựa đẹp nhất và ngon ngọt nhất. Xung quanh bàn cũng lại có bảy cung nữ,
mỗi người một cái quạt cầm tay, vẻ xinh đẹp có phần trội hơn bảy nàng ở phòng
ăn.
Những cảnh vật mớỉ này lại làm cho
Abou Hassan thán phục bội phần hơn trước, làm chàng không thể bước qua mà không
cảm thấy vô cùng bất ngờ đến mức sững sờ kinh ngạc. Rồi chàng đi tới chiếc bàn,
ngồi xuống, ngắm nhìn thoải mái các người đẹp, không biết ưu tiên cho ai. Chàng
bèn ra lệnh cho tất cả bảy nàng bỏ quạt xuống và ngồi cả quanh bàn cùng ăn với
chàng bảo là trời chẳng lấy gì làm nóng bức, không cần phải phẩy quạt làm gì.
Khi các nàng đã ngồi xuống bên phải
và bên trái Abou Hassan, đầu tiên chàng muốn biết tên các nàng và chàng được
biết là mỗi nàng đều có những tên khác hẳn những tên của bảy nàng ở phòng ăn và
cũng có ý nghĩa nói lên sự hoàn hảo của tâm hồn và trí tuệ. Điều này làm chàng
cực kỳ vui thích và cũng bằng những lời nói dịu dàng chàng lần lượt mời từng
người những quả chín thơm lấy ra từng mâm đặt trên bàn:
- Xin nàng ăn quả này vì tình yêu
tôi - Chàng nói với nàng Dây Buộc Trái Tim ngồi bên tay phải, đưa cho nàng một
trái và nói tiếp - Xin nàng hãy nói lỏng dây để trái tim tôi được thoải mái một
chút từ lúc được thấy nàng.
Rồi đưa một chùm nho cho Day Dứt Tâm
Hồn, chàng nói:
- Hãy cầm lấy chùm nho này, và xin
hãy làm cho tâm hồn tôi thoát khỏi sự day dứt mà tôi phải chịu đựng vì yêu
nàng.
Và cứ thế lần lượt với các cung nữ
khác. Hoàng đế vẫn chú ý theo dõi tất cả các hành động và lời nói của chàng,
càng lúc càng thấy là đã tìm thấy một con người làm cho mình thực sự vui thích
vâ cho mình cơ hội để hiểu biết rõ chàng hơn.
Khi Abou Hassan đã nếm đủ các loại
quả mình ưa trong các chậu đựng bằng vàng, liền đứng dậy và ngay tức thì
Mesrour, lúc nào cũng túc trực sẵn sàng, lại đi trước và dẫn chàng vào căn
phòng thứ ba được trang trí và thiết bị cũng lộng lẫy như hai căn phòng trước.
Abou Hassan thấy ở đó cũng có bảy
đàn hợp xướng và bảy cung nữ xinh đẹp, đứng xung quanh một chiếc bàn trên bày
bảy chiếc chậu bằng vàng chứa mứt lỏng nhiều màu với cách chế biến khác nhau.
Sau khi đưa mắt nhìn xung quanh với vẻ thán phục mỗi lúc một tăng, chàng tiến
tới chiếc bàn dưới tiếng nhạc êm dịu mê ly. Tiếng nhạc ngừng lại khi chàng ngồi
vào bàn. Bảy cung nữ xlnh đẹp, tuân lệnh ngồi xuống hai bên chàng và vì không
làm được việc mời mọc như ở hai nơi trước, chàng xin họ hãy tự chọn loại mứt
nào các nàng ưa thích. Chàng cũng hỏi tên từng người và cũng không khỏi lấy làm
thlch thú về sự đa dạng nó gợi cho chàng trao đổi với họ bằng những lời lịch sự
êm ái làm cho cả hoàng đế cũng vui thích vì Người không bỏ sót một câu nói nào
của chàng.
Ngày bắt đầu tàn khi Abou Hassan
được đẫn vào căn phòngthứ tư. Phòng này cũng được trang trí và thiết bị lộng
lẫy như các căn phòng trước. Cũng có bảy cụm đèn chùm bằng vàng cắm đầy nến thắp
và toàn phòng sáng rực gây một hiệu quả lạ kỳ. Abou Hassan cũng thấy ở đây bảy
đàn hợp xướng cùng tấu lên một lúc vui vẻ tưng bừng hơn ở các phòng kia. Chàng
cũng nhìn thấy bảy cung nữ xinh đẹp đứng xung quanh chiếc bàn, trên mặt bàn
cũng bày bảy chiếc mâm bằng vàng chất đầy bánh kẹo, mứt khô và bao nhiêu các
thức khác dùng để nhắm rượu. Cái mà Abou Hassan không nhìn thấy ở các phòng
khác là một cái tủ có ngăn bày bảy chiếc bình lớn bằng bạc chứa đầy rượu ngon
vào loại hảo hạng và bảychiếc chiếc cốc pha lê, được chạm trổ tinh vi để bên
cạnh mỗi bình rượu.
Ở ba căn phòng đầu tiên, Abou Hassan
chỉ thấy có nước uống. Trong dân chúng cũng như trong các hàng quan chức ở
Bagdad cho đến triều đình hoàng đế, người ta chỉ uống rượu vào buổi chiều tối.
Tất cả những ai uống rượu vào những buổi khác sẽ được coi như những kẻ phóng
đãng, chẳng ai đám thò mặt ra ngoài. Tục lệ này thật đáng khuyến khích vì suất
ban ngày cần phải tỉnh táo để lo chuyện làm ăn. Vì người ta chỉ được uống vào
buổi chiều tối, nên chẳng ai nhìn thấy giữa ban ngày những người rượu say quấy
phá gây mất trật tự trên các đường phố của kinh thành.
Vậy là Abou Hassan bước vào căn
phòng thứ tư và tiến tới chiếc bàn. Khi ngồi xuống, chàng như mê man lặng đi
mất một lúc để ngắm nhìn bảy người đẹp đang xúm quanh. Chàng thấy họ xinh đẹp
hơn rất nhiều những cô nàng ở nhũng căn phòng trước. Chàng muốn hỏi tên từng
nàng nhưng vì tiếng nhạc tấu to quá, nhất là những tiếng trống đánh làm át đi
cả tiếng chàng nới nên chẳng ai nghe được. Chàng bèn vỗ mạnh tay và lập tức căn
phòng im lặng như tờ.
Thế là, nắm bàn tay cô đứng gần mình
nhất ở bên tay phải, chàng kéo nàng ngồi xuống và sau khi đưa mời nàng một
chiếc bánh ngọt, chàng hỏi nàng tên là gì. Nàng ta đáp:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ,
em tên là Bạch Ngọc.
- Thật không còn tên nào thích hợp
hơn – Abou Hassan bảo - Và nó làm cho mọi người thấy rõ giá trị của nàng. Tuy
vậy, dù không biết người nào đã đặt cho nàng tên ấy, ta cũng thấy là hal hàng
răng rất đều và trắng bóng của nàng cũng đủ xoá đi vẻ đẹp của tất cả những viên
ngọc có ở thế gian này. Bạch Ngọc - Chàng nói tiếp - vì đó là tên nàng, vậy thì
nàng hãy rót rượu vào ly và đưa mời ta uống bằng bàn tay đẹp của nàng.
Thiếu nữ liền đi tới tủ và trở lại
với một ly đầy rượu đưa mời Ábou Hassan với vẻ vô cùng duyên dáng. Chàng đưa
tay đỡ lấy và say đắm nhìn nàng.
- Bạch Ngọc - Chàng nói - Ta uống
chúc sức khoẻ của nàng, vậy thì nàng hãy tự rót cho mình từng ấy và uống chúc
sức khoẻ ta.
Nàng chạy nhanh đến tủ chứa rượu và
quay lại, ly rượu cầm tay, nhưng trước khi uống, nàng cất tiếng ca một bài làm
chàng không những rất thích về nội đung mới mẻ của nó mà còn như bị mê hoặc vì
cái giọng mượt mà êm như ru của nàng.
Sau khi uống, Abou Hassan chọn những
loại bánh kẹo mình thích trong các mâm đưa mời một nàng khác mà chàng kéo xuống
ngồi cạnh mình. Chàng hỏi tên, cô ta nói là Sao Mai. Chàng liền bảo:
- Đôi mắt đẹp của nàng còn long lanh
hơn cả ngôi sao mà nàng mang tên đấy. Nào, hãy mời ta uống cho vui.
Lập tức nàng làm ngay với vẻ duyên
dáng nhất trần đời. Chàng cũng xử sự như thế với người đẹp thứ ba tên là Ánh
Dương và cũng như vậy cho đến người đẹp thứ bảy. Tất cả đều chuốc rượu chàng
với sự cực kỳ khoái trá của hoàng đế.
Khi Abou Hassan uống đủ bảy ly rượu
của cả bảy thiếu nữ, Bạch Ngọc, người đẹp đầu tiên mà chàng hỏi chuyện, đi tới
tủ rượu, cầm lấy một chiếc ly, lén bỏ vào trong một dúm bột mà hoàng đế đã sử
dụng hôm trước, rót rượu vào và tới mời chàng:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ -
Nàng nói – Vì quan tâm đến việc bảo vệ sức khoẻ của Người, em xin dâng Người ly
rượu này, và trước khi uống, hãy nghe một bài hát mà em dám chắc là Người sẽ
vừa lòng. Em mới làm ra ngày hôm nay và chưa hát cho bất cứ người nào nghe.
Abou Hassan đỡ lấy ly rượu và nói:
Ta vui lòng nghe nàng hát và với tư
cách đấng Thống lĩnh các tín đồ, chắc là với một người đẹp như nàng thì chỉ có
thể làm ra những bài hát du dương và đầy trí tuệ mà thôi.
Thiếu nữ cầm lấy cây đàn và cất
giọng hát nhịp với tiếng đàn thật khớp, duyên dáng đầy tình cảm làm cho Abou
Hassan như mê đi suốt từ đầu đến cuối. Chàng thấy bài hát quá hay nên bắt nàng
hát lạl lần thứ hai và vẫn bị cuốn hút chẳng kém lần đầu.
Khi nàng hát xong, Abou Hassan vì
muốn khen ngợi nàng thật xứng đáng, đã nâng ly rượu vừa được nàng dâng, dốc cạn
một hơi rồi quay lại phía thiếu nữ như muốn nói thì chất bột đã phát huy hiệu
quả, chàng chỉ vừa hé miệng thì hai mắt đã nhắm nghiền, đầu gục xuống bàn ngủ
thiếp đi y như hôm trước hoàng đế đã cho chàng uống với rượu cùng một thứ bột
ấy. Cùng lúc, một thiếu nữ đứng gần nhất đã kịp thời đỡ lấy chiếc ly từ tay
chàng rơi xuống. Hoàng đế được thoả mãn thích thú với trò vui ngoài dự kiến vì
Người đã theo dõi và chứng kiến suốt từ đầu. Lúc này ông rời khỏi chỗ núp, ra
phòng khách lớn, rất hài lòng vì sự thành công mỹ mãn của tấn trò. Trước hết
ông cho cởi bỏ triều phục hoàng đế của Abou Hassan mới được choàng vào buổi
sáng, mặc lại cho chàng bộ áo quần của chàng cách đây hai mươi bốn tiếng khi
người nô lệ tuỳ giá mang chàng vào hoàng cung. Ông cho gọi cũng người nô lệ này
tới và phán:
- Nhà ngươi lại mang người này trả
về chỗ cũ, nhẹ nhàng đặt hắn lên trường kỷ như trước, không được gây tiếng động
và cứ để nguyên cửa mở như thế mà đi ra.
Tên nô lệ bế xốc Abou Hassan lên, đi
qua một cửa bí mật của hoàng cung, làm đúng theo lời dặn của hoàng đế rồi lập
tức quay về ngay bẩm báo việc đã làm theo lệnh chủ. Hoàng đế nói:
Abou Hassan chỉ ước được làm hoàng
đế có một ngày thôi để trừng phạt tên trưởng giáo và bốn lão già ở thánh thất
trong khu phố hắn ở mà hạnh kiểm bọn này làm hắn bất bình. Ta đã tạo điều kiện
cho hắn được thoả mãn ước mơ, chắc là hắn đã được hài lòng.
Abou Hassan ngủ li bì mãi tới ngày
hôm sau và chỉ đến lúc hiệu quả của bột thuốc đã hết tác dụng chàng mới tỉnh
dậy. Mở mắt ra nhìn, chàng vô cùng ngạc nhiên là thấy đang ở tại nhà mình.
Chàng gọi to tên các thiếu nữ trong hoàng cung đã cùng chàng trò chuyện, nhớ
tên nào gọi tên ấy:
- Bạch Ngọc, Sao Mai, Bình Minh,
Miệng San Hô, Mặt Trăng Rằm... Các nàng ở đâu? Lại đây! Lại gần đây nào!
Abou Hassan kêu lớn. Mẹ chàng, từ
buồng riêng nghe tiếng kêu, chạy đến, bước vào buồng:
- Con sao đấy? - Bà hỏi - Có việc gì
đã xảy ra với con thế?
Nghe tiếng mẹ, Abou Hassan ngẩng đầu
lên, kiêu ngạo và khinh bỉ nhìn bà, bảo:
- Mụ kia, mụ gọi ai là con đấy?
- Chính là con chứ còn ai nữa - Bà dịu dàng đáp – Con
chẳng phải là Abou Hassan, con trai mẹ ư? Thật là hết sức lạ lùng nếu con lại
quên được điều đó.
- Tôi, tôi mà lại là con trai mụ ư, mụ già ghê tởm kia?
Abou Hassan nhệch miệng nói - Mụ chẳng hiểu mụ nói cái gì đâu và mụ là một con
mụ dối trá. Ta không phải là Abou Hassan như mụ nói, ta là Thống lĩnh các tín
đồ.
Hãy thôi đi, con trai mẹ - Bà mẹ nói tiếp – Con chẳng
khôn ngoan chút nào. Lỡ có ai nghe thấy, họ sẽ cho con là điên đấy.
- Chính mụ mới là người điên - Abou Hassan cãi – Ta không
điên như mụ tưởng. Ta nhắc lại: ta là đấng Thống lĩnh các tín đồ và là người
đại diện cho cả thượng và hạ giới.
- Ôi! con trai của tôi! - Bà mẹ kêu lên - Có đúng là tôi
nghe con tôi nói toàn những lời của một kẻ loạn trí không? Ma quỷ nào ám để con
nói lên những lời như vậy? Cầu xin Thượng đế gia ân đuổi hết tà ma trong con
đi? Con là Abou Hassan con trai mẹ và mẹ chính là mẹ của con.
Sau khi nhắc lại tất cả những gì bà có thể nhớ lại để làm
cho con trai tĩnh trí lại nhận ra sự nhầm lẫn của mình, bà bảo tiếp:
- Con thấy không, căn buồng này là buồng riêng của con
chứ đâu phải ngự phòng của một vị Thống lĩnh các tín đồ và con vẫn ngủ ở buồng
này từ hồi còn tấm bé và chưa từng rời mẹ ra nửa bước. Hãy nghĩ kỹ những điều
con nói và chớ nên cho đầu óc mình tưởng tượng đến những cái không hề có và
chẳng bao giờ có được. Thêm một lần nữa nghe mẹ, con trai ạ, hãy suy nghĩ cho
chín chắn.
Abou Hassan lặng yên nghe mẹ nói, tay chống cằm, mắt nhìn
xuống như dáng điệu của một người tự thu mình lại để xem xét lạl sự thật của
tất cả những ,gì đã nhìn và đã nghe thấy. Chàng bảo mẹ:
- Tôi cho là bà nói đúng.
Một lát sau, như sau một giấc ngủ sâu chợt tỉnh, vẫn
không thay đổi tư thế, chàng nói tiếp:
. Dường như đúng tôi là Abou Hassan, bà là mẹ của tôi và
tôi như đang ở trong buồng mình.
Một lần nữa chàng lại đưa mắt nhìn xung quanh và tự nhìn
mình rồi lẩm bẩm:
- Ta là Abou Hassan, chẳng còn nghi ngờ gì nũa và ta đã
để cho cơn mộng mị đó chiếm lĩnh đầu óc mình.
Bà mẹ thật lòng tin là con trai mình đã khỏi cơn loạn trí
mà bà đổ cho tại một cơn ác mộng. Bà đang định cất tiếng cười vui vẻ và hỏi con
về giấc mộng đó thì đột nhiên chàng nhổm lên nhìn bà trừng trừng và thét lên:
- Mụ già phù thuỷ kia! Mụ chẳng biết mụ nói gì đâu. Ta
chẳng phải là con mụ, mụ cũng chẳng phải là mẹ ta. Mụ đã nhầm và muốn ta cũng
nhầm như mụ. Ta bảo mụ ta là đấng Thống lĩnh các tín đồ, còn mụ thì lại muốn ta
phải cho là điều ngược lại.
- Con trai ơi!, con hãy đặt niềm tin tuyệt đối vào Thượng
đế và chớ nên nói năng như vậy mà tai hoạ có thể xảy ra với con đấy. Thôi, mẹ
con ta hãy nói sang chuyện khác. Để mẹ nói cho con biết những gì đã xảy ra cho
lão trưởng giáo và bốn ìão già, láng giềng của nhà ta ở khu phố này. Viên pháp
quan của triều đình đã cho bắt cả bọn, đánh bằng gân bò mỗi đứa bao nhiêu roi
mẹ không biết sau đó đưa đi diễu phố và rao lên đó là sự trừng phạt đối vôi
những kẻ hay can thiệp vào những công việc không liên quan gì tới mình và gây
chia rẽ trong các gia đình hàng xóm. Sau đó cấm bọn chúng vĩnh viễn không được
trở về khu phố cũ.
Bà mẹ của Abou Hassan khơng thể tưởng tượng được là con
trai bà lại có phần nào đó dính vào sự kiện mà bà hào hứng kể vớl mục đích để
xoá đi cái ấn tượng hoang đường của con trai cứ cho mình là đấng Thống lĩnh các
tín đồ Nhưng hiệu quả mang lại trái với điều mong đợi mà chỉ làm cho chàng nhớ
lại và khắc sâu thêm vào trí tưởng tượng của chàng cho như vậy không phải là
hoang tưởng mà rõ ràng là sự thật.
Vì vậy, Abou Hassan sau lúc nghe câu chuyện đó nói liền:
- Ta không phải là con trai bà mà cũng chẳng phải là Abou
Hassan, ta đúng là đấng Thống lĩnh các tín đồ. Ta không còn nghi ngờ gì nữa khi
nghe chính bà đã kể chuyện đó: Bà nên biết là chmh ta đã ra lệnh trừng phạt lão
trưởng giáo và bốn lão già như cách thức bà vừa kể đó. Vậy thì ta đúng là Thống
lĩnh các tín đồ, ta đã bảo bà rồi, đừng có bảo là ta mơ ngủ nữa. Ta không ngủ,
ta cũng thức tỉnh như ta đang nói với bà lúc này đây. Ta lấy làm hài lòng được
bà xác nhận với ta những gì mà viên pháp quan đó đã làm và đã tâu trình với ta.
Thế có nghĩa là lệnh của ta đã được thi hành một cách nghiêm chỉnh, và ta thật
sự khoái chá là tên trưởng giáo và bốn lão già bị trừng phạt đó đúng là những
tên đạo đức giả chính hiệu. Ta rất muốn biết ai đã mang ta về đây. Tất cả là do
Thượng đế, có điều thực chắc chắn ta là Thống lĩnh các tín đồ và tất cả lý lẽ
của mụ không thể nào làm ta tin được. Bà mẹ không hiểu được tại sao con trai bà
cứ đinh ninh một cách thật ngoan cố mình là Thống lĩnh các tm đồ. Bà tin là
chàng loạn trí khi nói những điều ngoài sức tưởng tượng dù rằng lại rất có cơ
sở trong đầu óc của Abou Hassan. Nghĩ như thế bà bảo con:
- Con trai của mẹ? Mẹ cầu xin Thượng đế rủ lòng thương
phù hộ cho con. Con hãy thôi nói năng linh tinh đi. Cầu khẩn Thượng đế, xin
Người xá cho để con trở lại thành một người lành mạnh. Mọi người sẽ nghĩ ra sao
khi họ nghe con nói năng như vậy? Con không biết là vách cũng có tai ư?
Những lời khuyên tốt lành như thế không những không làm
cho Abou Hassan dịu đi mà càng làm cho chàng bực tức thêm. Chàng nổi khùng lên
với bà mẹ thật dữ dội:
- Này mụ già! Mụ hãy câm miệng lại. Nếu còn lải nhải nữa,
ta sẽ đứng lên và ra tay làm cho mụ phải nhớ đến suốt đời đấy. Ta là hoàng đế,
là Thống hnh các tín đồ. Ta nói thì mụ phải tin chứ!
Thế là người đàn bà trung hậu thấy
mỗi lúc bệnh, loạn trí của Abou Hassan lại càng nặng hơn, đành bỏ đi, lấy tay
đấm vào mặt vào ngực mình mà khóc nức nở. Bà kêu than vừa ngạc nhiên vừa đau
đớn thấy cậu con nổi cơn điên khùng ghê gớm.
Nghìn Lẻ Một Đêm
Chương 34: Người hai lần tỉnh mộng
(tiếp theo)
Abou Hassan đáng lẽ phải dịu đi và
xúc động vì những giọt nước mắt của mẹ thì ngược lại không tự chủ được đi đến
chỗ quên cả sự kính trọng tự nhiên đối với người đã cho mình sự sống. Chàng đột
ngột đứng lên, vớ lấy một cây gậy đuổi theo bà như một thằng khùng điên, tay
giơ cao, thét to:
- Mụ già đáng nguyền rủa kia? -
Tiếng thét của chàng làm cho bất kỳ ai cũng phải kinh hoàng nếu đó không phải
là một bà mẹ đầy yêu thương đối với con trai mình – Hãy nói mau ta là ai?
- Con của mẹ - Bà mẹ nhìn chàng âu
yếm, không tỏ ra chút nào sợ hãi - Mẹ không tin là Thượng đế bỏ rơi con đến nỗi
con không nhận ra chính con nữa. Mẹ không nói sai khi bảo Abou Hassan là con
trai của mẹ và con đã sal lầm rất lớn khi khoác vào cho mình một danh hiệu chỉ
thuộc về hoàng đế Haroun Alraschid, đức vua của con và cả của mẹ khi mà vị quốc
vương này đã bàn cho chúng ta, mẹ và con biết bao là của cải bằng tặng phẩm gửi
cho hôm qua. Tóm lại con phải biết là đại tể tướng Giafar đã thân chinh tới tìm
mẹ, đặt vào tay mẹ một túi tiền có tới một nghìn đồng sequin vàng. Ông ấy bảo
mẹ cầu Thượng đế phù hộ cho đấng Thống lĩnh các tín đồ, Người đã tặng quà cho
mẹ. Và cái khoản tiền của này nhằm vào con là chính chứ mẹ thì còn sống được
bao năm nữa đâu.
Nghe đến đây, Abou Hassan thấy không
còn phải băn khoăn gì nữa. Những tình huống của sự ban thưởng rộng rãi của
hoàng đế mà mẹ chàng vừa nói cho thấy là chàng không nhầm và chắc chắn hơn bao
giờ hết chính mình là hoàng đế vì viên tể tướng mang túi tiền đến cho mẹ là
theo lệnh của chàng.
- Nào, nào! Mụ già phù thuỷ kia-
Chàng quát - Mụ đã chịu tin chưa khi ta bảo là chính ta đã gửi cho mụ khoản một
nghìn đồng tiền vàng đó qua đại tể tướng Giafar của ta, người chỉ biết thi hành
lệnh ta với danh nghĩa Thống lĩnh các tín đồ? Thế mà đáng lẽ phải tin ta thì mụ
lại chỉ tìm cách làm cho ta loạn trí bằng những lời phản kháng của mụ, cứ khăng
khăng nhận ta là con trai mụ. Nhưng ta sẽ chẳng để cho mụ nói năng bậy bạ mãi
thế mà không trừng trị.
Nói xong, trong cơn điên giận, chàng
như một kẻ mất hết nhân tính, sẵn gậy trong tay hắn đập túi bụi vào bà mẹ.
Người mẹ đáng thương không ngờ là
đứa con chuyển nhanh đột ngột từ doạ dẫm sang hành động hung bạo như thế bèn
dùng hết sức cất tiếng kêu cứu vang, lên cho đến lúc những hàng xóm, láng giềng
chạy đến. Abou Hassan không ngừng tay, và mỗi đòn giáng xuống hắn lại hỏi:
- Có phải ta là đấng Thống lĩnh các
tín đồ không?
Bà mẹ vẫn một mực trìu mến đáp:
- Con là con trai của mẹ.
Abou Hassan bắt đầu khoan tay một chút khi những người
láng giềng xông vào phòng hắn. Người đến đầu tiên nhảy ngay vào giữa bà mẹ và
hắn và sau khi giật lấy cây gậy trong tay đứa con bất hiếu này, bảo chàng:
- Anh làm gì vậy, Abou Hassan? Anh
có còn sợ Thượng đế và lẽ phải nữa không? Có bao giờ một đứa con có giáo dục
như anh mà lại dám giơ tay lên đánh mẹ mình? Anh có thấy xấu hổ khi ngược đãi
mẹ mình như thế này không, mà bà thì luôn luôn giữ trọn một tấm tình mẫu tử
Abou Hassan hãy còn đầy giận dữ, nhìn người vừa nói chẳng hé răng nửa lời và
liếc đôi mắt như lạc thần trí nhìn tất cả mọi người đã vào đầy trong phòng, hỏi
họ:
Abou Hassan mà các người nói là ai vậy? Có phải là tôi mà
các người gọi bằng cái tên đó không?
Câu hỏi làm cho các người láng glềng ngẩn người ra một
phút. Rồi người vừa nói với chàng hỏi:
- Sao? Thế ra anh chưa từng biết bà này ư? Chính là người
đã nuôi dạy anh và chúng tôi luôn thấy anh sống với bà, tóm lại là với mẹ anh?
- Các người là những tên láo xược - Abou Hassan lớn tiếng
cãi - Ta không biết mụ ấy là ai, cả nhà ngươi nữa và ta không muốn quen biết
các người. Ta không phải là Abou Hassan, ta là đấng Thống lĩnh các tín đồ. Nếu
các người không biết điều đó, thì ta sẽ cho các người biết, lúc đó thì đừng
trách ta.
Nghe Abou Hassan nói vậy, những người láng giềng không
còn nghi ngờ gì nữa, chàng ta đã bị loạn trí nặng rồi và để ngăn không cho
chàng hành động như vừa rồi với chính mẹ mình nữa nên cả bọn hè vào tóm chặt
lấy, trói cả chân lẫn tay lại chàng mặc cho chàng giẫy giụa. Và thấy là chẳng
nên để chàng ta ở lại một mình với bà mẹ, họ cho người nhanh chóng đến báo với
người gác cổng của bệnh viện tâm thần chuyện đã xảy ra. Người này liền cùng họ
tới ngay nhà Abou Hassan, một đám đông hàng xóm cũng đi theo. Họ mang đi nào là
dây xích, còng tay và cả một roi gân bò nữa.
Thấy họ đến, Abou Hassan không ngờ là xảy ra chuyện khủng
khiếp như vậy nên cố sức giẫy giụa chống lại nhưng bị người của bệnh viên thần
kinh vụt roi gân bò tới tấp nên đành chịu để cho bọn họ khoá tay, trói chân và
khênh vào bệnh viện.
Chàng bị nhất vào một cái cũi sắt và mỗi ngày trong suốt
ba tuần lễ, bị quất năm chục roi gân bò vào lưng, vào vai cùng với câu: “Hãy
mau tĩnh trí lại và nói cho chúng ta biết mày có còn là đấng Thống lĩnh các tín
đồ nữa không? .
Mỗi lần như thế, Abou Hassan lại đáp:
- Ta không cần lời khuyên của mày. Ta không điên. Nếu ta
có hoá điên thì cũng chỉ vì những trận đòn đánh dã man của mày thôi.
Tuy nhiên bà mẹ của Abou Hassan vẫn đều đặn đến thăm con
hàng ngày. Bà không sao cầm được nước mắt thấy mỗi ngày chàng lại gầy yếu đi
trông thấy và nghe chàng thở đài than vãn về nỗi đau đớn của annh. Quả vậy, vai
chàng, lưng chàng bầm tím những vết roi, nằm không biết trở mình về phía nào
cho đỡ đau. Làn da của chàng đã hơn một lần tróc ra trong suất thời gian bị đày
ải ở cái nơi khủng khiếp này. Mẹ chàng nhiều lần muốn an ủi và thăm dò xem đầu
óc chàng còn bị ám ảnh bởi cái danh nghĩa Thống lĩnh các tín đồ nữa hay không
nhưng cứ mỗì khi mở miệng thì chàng lại nổi cơn điên khùng nên đành chịu quay
về với bao buồn tủi trước sự cứng đầu cứng cổ của chàng. Những ý nghĩ rất mạnh,
gây ấn tượng sâu sắc trong đầu óc Abou Hassan là: trong triều phục hoàng đế, sử
lý có hiệu quả các sự vụ, sử dụng uy quyền đầy hiệu lực được mọi người tuân
phục coi như một hoàng đế thực sự, được củng cố rõ, ràng khi thức giấc và làm
cho chàng đắm mình mãi vào sự sai lầm đó. Những ý nghĩ trên đây bắt đầu từ từ
nhạt dần trong đầu óc chàng. Đôi khi chàng tự nhủ:
Nếu ta là hoàng đế và là Thống lĩnh các tín đồ thì vì sao
lúc thức giấc tại nhà mình, ta lại mặc quần áo thường? Vì sao ta lại không nhìn
thấy nào là tổng thái giám và bao nhiêu hoạn nô, nào là một đám rất đông các
cung nữ xinh đẹp xúm quanh lấy ta? Vì sao ta lại không thấy đại tể tướng Giafar
quì dưới chân ta? Rồi biết bao nhiêu các đại thần, thủ hiến của tỉnh và vô số
các quan hầu khác không thấy bao quanh ta. Họ bỏ rơi ta rồi chăng? Thấy ta
trong cái hoàn cảnh khốn khổ này đã bấy lâu ắt là họ phải ra tay gải thoát ta
mới phải chứ, nếu ta còn có chút nào uy lực đối với họ. Thôi, đúng tất cả những
cái đó chỉ là trong một giấc mộng mà thôi, chẳng phải khó khăn gì mà không tin
như vậy. Ta đã ra lệnh, đúng thế cho viên pháp quan trừng trị lão trưởng gláo
và bốn lão già trong hội đồng của hắn. Ta lại cũng ra lệnh cho đại tể tướng
Giafar đem về cho mẹ ta một nghìn đồng tiền vàng và tất cả lệnh của ta đều được
nghiêm chỉnh thi hành. Điều này làm ta bối rốl chẳng còn hiểu ra sao nữa.
.Nhưng rồi còn biết bao nhiêu chuyện gì khác xảy ra nữa đây mà ta không sao
hiểu được và sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi. Vậy thì đành phó mặc vào đôi tay của
Thượng đế, Người hiểu và biết tất cả mọi sự.
Abou Hassan còn đang trầm ngâm với những suy nghĩ như
trên thì bà mẹ tới. Bà nhìn thấy chàng suy nhược và tiều tuỵ chẳng còn ra hồn
người nữa nên khóc oà lên, thương cảm gấp bội từ trước tới nay. Glữa những
tiếng nức nở nghẹn ngào bà thăm hỏi con như thường lệ, và Abou Hassan đã ôn tồn
đáp lại khác hẳn với thói quen từ khi chàng bị nhất ở nhà thương này. Bà cho đó
là một dấu hiệu tốt nên gạt nước mắt hỏi chàng:
- Con thấy sức khoẻ của mình ra sao hả con? Đầu óc con
thế nào rồi? Con đã gạt bỏ đi tất cả những điều ngông ngạo vớ vẩn mà ma quỉ đã
nhồi nhét vào đầu óc con chưa?
Abou Hassan điềm tĩnh và lộ vẻ đau buồn hối hận đáp:
Mẹ ơi? Con đã thấy sự lầm lạc của mình. Xin mẹ tha cho
con cái tội bất hiếu đối với mẹ. Con cũng xin mẹ giúp con nói lại với những nhà
hàng xóm lời xin lỗi của con đã xử sự rất đáng chê trách đối với họ. Con đã bị
một giấc mơ ám ảnh nhưng đó là một giấc mơ ky lạ, giống như in với thực tế đến
mức con có thể khẳng định là bất cứ ai bị như con cũng sẽ rơi vào tình trạng
hành động điên rồ như con thôi. Con hãy còn hoang mang ngay trong lúc này, lúc
con đang nói với mẹ đây và con thấy khó mà dám chắc là những gì xảy ra với con
không phải là thật vì nó giống vô cùng với những gì xảy ra giữa những người
đang thức vậy.
Dù sao thì con cũng coi và luôn chắc chắn coi như đó là
một giấc mơ, một ảo ảnh. Con cũng tự xác định mình chẳng phải là cái bóng ma
hoàng đế và Thống lĩnh các tín đồ nhưng là Abou Hassan, con trai của mẹ. Con
bao giờ cũng kính yêu mẹ, và sẽ còn kính yếu mẹ đến trọn đời con. Mỗi khi nhớ
lại cái ngày định mệnh đó, con thấy vô cùng xấu hổ
Nghe những lời lẽ khôn ngoan và đầy đạo lý đó, những giọt
nước mắt đau thương, buồn tủi của bà mẹ Abou Hassan đã đổ ra từ bao lâu nay lúc
này biến thành những giọt nước mắt mừng vui, được an ủi và yêu thương về người
con trai mà bà như thấy lại. Bà kêu lên tràn ngập hân hoan:
Ôi, con của mẹ! Mẹ thật hả lòng hả dạ được nghe những lời
con vừa nói sau biết bao sự việc đau lòng xảy ra. Mẹ thấy như vừa được sinh con
ra lần thứ hai vậy. Mẹ cần phải nóỉ cho con biết mẹ đã nghĩ gì về hành động của
con và mẹ nói cho con biết một việc mà có thể con không để ý. Người khách lạ mà
con mời về nhà ăn uống buổi tối hôm đó, khi ra về đã không đóng cửa buồng như
cơn đã dặn. Mẹ cho là vì thế mà đã tạo điều kiện cho ma quỉ lọt vào và làm cho
con u mê lú lẫn như vậy. Vì thế, con ơi, chúng ta cần phải cảm tạ Thượng đế đã
ra tay giải thoát cho con, và cầu xin Người phù hộ cho từ nay đừng rơi vào cạm
bẫy của quỉ dữ nữa.
- Mẹ ơi, mẹ đã tìm ra nguyên nhân căn bệnh của con - Abou
Hassan nói - Đúng là đêm hôm đó con đã bị giấc mơ làm đảo lộn cả đầu óc. Thế mà
con đã dặn đi dặn lại nhà thương gia phải đóng chặt cửa lại khi ông ta ra về,
bây giờ con mới biết là ông ta đã chẳng làm gì cả. Con cũng thấy chắc chắn như
mẹ là quỉ dữ thấy cửa mở đã vào buồng con và nhồi vào đầu óc con tất cả những
thứ ngông ngạo đó. Ở Moussoul, nơi nhà thương gia đó sinh sống chắc người ta
không biết như chứng ta ở Bagdad là nếu cửa phòng ngủ để mở trong khi ngủ thì
thể nào quỉ dữ cũng lọt vào để gây ác mộng và làm nhiều điều tồi tệ. Nhân danh
Thượng đế, mẹ ơi, vì nhờ trời con đã hoàn toàn khỏi bệnh, con van mẹ, người mẹ
hiền đức của con, hãy giải thoát con khỏi bàn tay tên đao phủ nhất định nó sẽ
rút ngắn cuộc sống của con nếu còn phải ở đây lâu hơn nữa.
Bà mẹ Abou Hassan được hoàn toàn an ủi và hể hả thấy con
trai không còn tí dấu vết nào của sự hoang tưởng cho mình là hoàng đế nũa nên
lập tức đi tìm người gác cổng nhà thương đã dẫn chàng tới đây và cai quản chàng
tới lúc này. Khi nghe nói chàng đã hoàn toàn khỏi bệnh, y liền tới xem xét rồi
thả chàng ra ngay trước mặt bà mẹ.
Abou Hassan trở về nhà mình, nghỉ ngơi nhiều ngày và ăn
uống tẩm bổ cho lại sức bù với bao ngày thiếu thốn và bị hành hạ trong nhà
thương đlên. Nhưng khi thấy sức khoẻ mình đã gần được như trước, chàng lại bắt
đầu thấy buồn chán vì tối tối không có bạn bè trò chuyện. Vì vậy chẳng bao lâu
chàng lại muốn quay về cách sống như trước nghĩa là lại bắt đầu hàng ngày ra
chợ mua thức ăn đủ để đãi một người khách vào buổi tối.
Chiều chlều chàng lại tha thẩn ra đầu cầu Bagdad đón
người khách lạ đầu tiên, mời về nhà ăn cơm và ngủ lại.
Hôm đó là một ngày đầu tháng, như chúng ta đã nói hoàng
đế thường có cái thú cải trang vi hành để xem xét dân tình xem có gì làm rói,
làm trái với lệ luật mà chính ông đã soạn thảo và cho thi hành từ hồi lên ngôi
báu không.
Ngồi trên chiếc ghế đài đặt tựa vào thành cầu chưa được
mấy chốc, khi liếc mắt sang đầu cầu bên kia, Abou Hassan nhìn thấy hoàng đế cải
trang thành một thương gia ở Moussoul như lần trước và theo sau vẫn là người nô
lệ đó. Đinh ninh tất cả tai hoạ mà chàng đã phải chịu đựng là ở con ngưởi này,
đã để cửa buồng ngủ của chàng mở toang khi ông ta ra về để cho ma quỉ vào quấy
nhiễu. Run lên vì tức giận khi trông thấy ông.ta, chàng tự nhủ:
- Cầu xin Thượng đế phù hộ! Nếu ta không nhầm thì kia
đúng là tên phù thuỷ đã ám hại ta.
Chàng liền quay mặt ra sông, tựa người trên thành cầu để
không nhìn, mặc cho ông ta đi qua.
Nhà thương gia ở Moussoul hầu như cùng một lúc nhìn thấy
chàng cũng nhu chàng nhìn thấy ông. Cử chỉ vừa rồi của chàng làm ông hiểu rõ là
chàng đã căm giận ông tới mức nào và cố tình tránh mặt ông. Ông bèn đi men theo
thành cầu, đến thật gần chỗ Abou Hassan đang đứng. Ông cúi xuống nhìn thẳng vào
mặt chàng:
- Ồ thế ra là bạn đấy ư, người anh em Abou Hassan của
tôi? Chào bạn, hãy để tôi ôm hôn bạn nào! Abou Hassan, không nhìn mặt người
thương gia giả hiệu, đột ngột đáp:
- Còn tôi thì tôi không chào ông. Tôi chẳng cần đến cái
chào cũng như cái ôm hôn của ông. Ông hãy cứ đi đường của ông.
- Ồ, sao .nào? Bạn không nhận ra tôi ư? Bạn có còn nhớ
cái buổi tối, cách đây một tháng, tôi được bạn mời về nhà và cùng nhau ăn tối.
Bạn đã chiêu đãi tôi thật là hào hiệp.
Không? - Abou Hassan đáp vẫn bằng cái giọng dấm dẳn như
trước - Tôi không biết ông và cũng chẳng hiểu ông nói gì cả. Một lần nữa xin
mời ông đi đi cho.
Hoàng đế vẫn không nản lòng vì thái độ thiếu thân thiện
của Abou Hassan. Ông cũng đã biết cái lệ của Abou Hassan đặt ra là không giao
thiệp gì nữa với người đã một lần được chàng chiêu đãi. Abou Hassan đã tuyên bố
với ông như vậy nhưng ông cứ vờ như không biết. Ông nói:
- Tôi không thể ngờ được là bạn lại không nhận ra tôi.
Chúng ta gặp nhau lần trước nào đã lâu la gì, tôi không sao tin được là bạn lại
quên tôi dễ đàng như vậy. Chắc hẳn là bạn đã gặp một chuyện không hay nào đó mà
sinh ra ghét bỏ tôi như thế. Bạn nên nhớ lại là tôi đã biểu lộ sự biết ơn của
tôi bằng những lời chúc tốt đẹp. Hơn nữa, điều mà bạn mong ước thiết tha nhất,
tôi cũng đã giúp bạn hết lòng và không thể coi thường cái gì đã mang lại.
- Tôi chẳng biết gì - Abou Hassan nól - về cái chuyện ông
nói là giúp và kết quả không thể coi thường nhưng lại biết rất rõ là những lời
chúc của ông chỉ đưa tôl đến chỗ trở thành một thằng đlên. Nhân danh Thượng đế,
tôi xin ông một lần nữa là ông đi đi cho và chớ làm phiền tôi nữa.
- Ồi! Abou Hassan, người anh em của tôi? - Hoàng đế kêu
lên và lại ôm hôn chàng - Tôi chẳng muốn chia tay bạn như thế này đâu. Ngôi sao
may mắn của tôi đã xui khiến tôi gặp được anh bạn lần thứ hai, bạn cũng phải
lần thứ hai thù tiếp tôi mới phải chứ, để chúng ta lại được cùng nhau nâng
chén.
Đó chmh là đlều mà Abou Hassan phản kháng để giữ được
điều đã tự hứa với mình. Chàng nói:
- Tôi có đủ nghị lực để tự ngăn mình không được giao du
với ông, người đã mang đến cho tôi điều bất hạnh. Chắc ông đã biết câu phương
ngôn: Biết điều thì hãy cao chạy xa bay... . Có cần phải nhắc đi nhắc lại nhiều
lần nữa không? Mong Thượng đế chỉ đường cho ông! Ông đã gây cho tôi biết bao
đau khổ, tôi không muốn hứng chịu nhiều hơn nữa.
- Anh bạn thân mến Abou Hassan của tôi? - Hoàng đế nói và
lại ôm hôn chàng lần nữa - Bạn đã đối xử với tôi thật khắc nghiệt mà tôi thật
không ngờ tới. Tôi xin bạn đừng quá xúc phạm tôi mà nói năng như vậy và ngược
lại hãy tin tưởng ở tình bạn của tôi. Bạn hãy làm ơn kể cho tôi nghe có điều gì
đã xảy đến với bạn, tôi thì chỉ luôn muốn cho bạn được mọi sự tốt lạnh và sẽ
còn mong mãi như thế. Tôi cũng muốn tìm dịp tốt để sửa chữa lại những điều
chẳng hay mà bạn nói là do tôi mà ra, nếu đúng là tôi có điều gì khiếm khuyết
với bạn.
Abou Hassan mềm lòng vì những lời khẩn khoản của Hoàng
đế. Sau khi chỉ cho ông ngồi xuống cạnh mình chàng bảo:
- Sự hoài nghi và quấy đảo của ông làm tôi không kiên
nhẫn được nữa. Những gì mà tôi sẽ kể cho ông nghe đây sẽ làm rõ là việc tôi oán
trách ông là đúng hay sai.
Hoàng đế ngồi sát gần vào Abou Hassan nghe chàng kể đầu
đuôi tất cả những chuyện xảy ra từ lúc chàng thức giấc trong cung điện cho tới
lần thức giấc thứ hai trong buồng ngủ của chàng. Chàng kể tất cả coi như một
giấc mộng thực với tất cả các chi tiết mà hoàng đế cũng đã nắm được chẳng kém
gì chàng, do đó hoàng đế như lại được thêm một lúc để cười thầm thích thú.
Chàng còn nhấn mạnh là ấn tượng mà giấc mơ dõaể lạ; trong đầu làm chàng cứ lúc
nào cũng cho mình là hoàng đế và là đấng Thống lĩnh các tín đồ. Chàng thêm:
- Cái ấn tượng đó đã khiến tôi làm lắm điều kỳ cục ngông
ngạo đến nỗi những người láng giềng phải trói tôi lại như một kẻ điên khùng và
đưa tôi vào nhà thương điên. Ở đây người ta đã đối xử với tôi một cách có thể
gọi là rất tàn tệ, độc ác, dã man và vô nhân đạo. Nhưng điều làm ông không ngờ
tới và chắc là chẳng mong đợi là tất cả những gì xảy ra với tôi đều là đo lỗi
của ông. Chắc hẳn ông còn nhớ là tôi yêu cầu ông phải đóng cửa buồng tôi lại
khi ông ra về. Nhưng ông đã chẳng làm thế cho, ngược lại ông để cửa mở toang
hoang, thế là quỷ dữ lần vào nhồi vào đầu óc tôi giấc mộng đó xem ra thì thật
là dễ chịu, khoái chá nhưng nó đã gây ra cho tôi biết bao đau khổ. Ông là
nguyên nhân của tất cả cái đó vì sự tắc trách của mình (đã làm cho ông phải
chịu trách nhiệm về tội ác của tôi), mà tôi đã phạm một điều khủng khlếp và bỉ
ổi là đã giơ tay không những là để đánh mẹ mà còn định giết bà vì bà đã dám gọi
tôi là con trai bà và không muốn công nhận tôi là Thống lĩnh các tín đồ. Mỗi
khi nghĩ tới tôi lại đỏ mặt lên vì xấu hổ. Ông còn là nguyên nhân của việc tôi
gây nên vụ xích mích mâu thuẫn với bà con hàng xóm láng giềng. Nghe tiếng mẹ
tôl kêu cứu, họ đã chạy tới và kịp thời ngăn được tôi khỏi phạm vào tội giết
mẹ. Điều này không thể nào xảy ra nếu ông cẩn thận giúp tôi đóng cửa buồng lại
khi ra về như tôi đã yêu cầu và những người bà con hàng xóm đó sẽ không kéo vào
phòng tôi khl chưa được phép. Và điều làm tôi khổ tâm hơn nữa là họ đã chứng
kiến sự điên rồ của tôi. Tôi đã đánh họ để tự vệ và họ đã trói ghì tôi lại,
nhất tôi vào nhà thương điên mà có thể đoan chắc với ông là trong suốt thời
gian tôi bị giam tại đó như trong địa ngục họ không quên thết tiệc tôi hàng
ngày bằng những nhát roi gân bò quật thật lực.
Abou Hassan kể cho hoàng đế nghe nguyên cớ của sự kêu ca
than vãn của chàng một cách sôi nổi và hăng hái. Hoàng đế còn biết hơn chàng
tất cả những gì xảy ra và ông thấy ngầm thích thú là đã thành công trong ý định
đưa chàng ta vào chỗ hoang mang bất định mà lúc này hãy còn rơi rớt. Nhưng nghe
chàng kể với đầy vẻ ngây thơ tội nghiệp, ông không khỏi phá lên cười.
Abou Hassan cứ tưởng chuyện của chàng đáng được sự thương
cảm và tất cả mọi người nghe cũng phải thấy xúc động như chàng. Vô cùng bất bình
vì tràng cười ròn của nhà buôn giả hiệu ở Moussoul, chàng tức giận nói:
- Ông còn muốn chế giễu tôi chăng? Hoặc ông tưởng là tôi
bịa chuyện khi tôi rất nghiêm chỉnh kể cho ông nghe toàn sự thật. Ông muốn xem
những chứng cứ cụ thể ư? Xin hãy nhìn đây, trông cho kỹ và nói cho biết có phải
là tôi muốn giỡn ông không?
Vừa nói, chàng vừa cúi người vạch vai và trật áo lưng ra
để hoàng đế nhìn những vết sẹo và những lằn bầm tím do những trận đòn roi gân
bò chàng đã hứng chịu.
Nhìn những vết thương đó, hoàng đế không khỏi ghê sợ Ông
thương hại Abou Hassan và giận mình vì đã đẩy trò đùa đi quá xa. Ông lấy lại
bình tĩnh, ôm hôn thật âu yếm Abou Hassan và nghiêm trang bảo chàng:
Hãy đứng lên đi, tôi van bạn? Chúng ta hãy cùng về nhà
bạn. Tôi muốn cùng người anh em vui vẻ tốị nay và ngày mai, nhờ ơn Trời, bạn sẽ
thấy mọi việc đều tất đẹp.
Abou Hassan, mặc dù đã quyết định và đã thề là không tiếp
tại nhà cùng một người lạ đó lần thứ hai. Nhưng không sao cưỡng lại được những
lời ngon ngọt dỗ dành của hoàng đế mà chàng vẫn tưởng đó là nhà buôn ở
Moussoul, chàng bảo người thương gia:
- Thôi cũng được - Và nói thêm - Nhưng ông phải hứa với
tôi là vì tôi mà chớ quên đóng cửa phòng lại khl ra về để quỷ dữ khỏi lẻn vào
làm cho đầu óc tôi rối loạn cả lên như lần trước ấy.
Người thương gia giả hiệu nhận tất cả các điều kiện. Họ
đứng lên và cùng bước về thành phố.
Để làm cho Abou Hassan không còn ngần ngại gì nữa, hoàng
đế bảo:
- Người anh em hãy tin ở tôi. Hứa trên danh dự tôi không
nuết lời đâu. Chẳng nên quá đa nghi với một người như tôi luôn luôn chỉ mong
cho bạn những điều tết lành và rồi bạn sẽ thấy hiệu quả.
- Tôi không đòi hỏi ở ông điều đó - Abou Hassan nói và
dừng lại - Tôi vui lòng nhượng bộ để cùng ông vul vẻ tối nay, nhưng xin miễn
cho lời cầu chúc. Tôi van ông, nhân danh Thượng đế, là đừng cầu chúc cho tôi
bất cứ cái gì. Tất cả tai hoạ đã đến với tôi cho đến nay chẳng qua chỉ là đo
cái cửa để ngỏ mà thôi chứ chẳng phải là đo những lời ông cầu chúc cho tôi.
Hoàng đế cười thầm trong bụng vì thấy trí tưởng tượng của
Abou Hassan vẫn còn bị ảnh hưởng, ông bảo:
- Nếu bạn muốn vậy thì cũng xin chiều lòng. Tôi hứa là sẽ
chẳng bao giờ chúc tụng bạn gì nữa.
- Tôi vui lòng thấy ông nói thế đấy- Abou Hassan nói- Và
tôi cũng chẳng đòi hỏi ở ông điều gì cả. Tôi sẽ thấy rất hài lòng miễn là ông
giữ lời hứa. Còn tất cả mọi điều khác, tôi coi như ông chẳng bị ràng buộc tí
gì.
Abou Hassan và hoàng đế, theo sau là người nô lệ, vừa đi
vừa nói chuyện như thế mà về tới nhà lúc nào cũng không hay. Trời cũng vừa sập
tối, Abou Hassan gọi mẹ và sai người nhà mang đèn lên. Chàng mời hoàng đế ngồi
lên tràng kỷ và ngồi xuống bên ông. Một lát sau bữa ăn đã được dọn trên bàn. Họ
ăn uống tự nhiên không khách khí. Ăn xong, bà mẹ Abou Hassan vào dọn dẹp, đặt
đla trái cây lên bàn, chai. rượu và chén uống rượu để cạnh con trai. Rồi bà đi
ra và không xuất hiện nữa. Abou Hassan bắt đầu rót rượu trước tiên cho mình rồi
sau đó rót cho hoàng đế. Họ uống bốn năm tuần như thế, vừa uống vừa nói đủ các
thứ chuyện. Khi hoàng đế thấy Abou Hassan bắt đầu lơ mơ say, ông đề cập đến vấn
đề yêu đương và hỏi chàng đã từng yêu bao giờ chưa. Abou Hassan coi như đang
nói chuyện với một người ngang hàng, thân mật đáp:
- Ông anh ạ, tôi luôn coi tình yêù hoặc hôn nhân nếu ông
thích gọi thế, chỉ là một thứ rợ buộc chân mà tôi cố tránh. Thú thực với ông,
cho tới nay tôi chỉ yêu cái bàn ăn, những thức ăn hợp khẩu vị và nhất là rượu
ngon. Tóm lại một câu: thú vị nhất là được cùng bè bạn vui chơi, chuyện trò tâm
sự thoải mái. Tuy nhiên tôi cũng muốn nói là mình thờ ơ với hôn nhân không phải
vì bất lực trong chuyện yêu đương mà bởi vì... nếu tôi gặp được một người đàn
bà xinh đẹp và đuyên dáng tươi vui như những thiếu nữ thấy trong giấc mơ của
cái đêm định mệnh đó... Nhưng tìm đâu cho thấy một người đẹp như vậy ngoài cung
điện của hoàng đế, ngoài lâu đài của đại tể tướng Giafar, ngoài dinh thự các
đại thần hùng mạnh của triều đình ta? Ỏ những nơi đó thiếu gì vàng, thiếu gì
bạc để có không biết bao nhiêu người đẹp? Vì vậy tôi thích làm bạn với chai
rượu hơn. Đó là một thú vui không mấy tốn kém mà đối với họ, mình thấy cũng
chẳng thua gì.
Dứt lời, chàng cầm chén tự rót rượu cho mình và bảo hoàng
đế.
Ông cầm chén lên nào! Để tôi rót cho ông. Chúng ta hãy
cùng thưởng thức cái thú vui bất hủ này?
Hai người uống cạn chén rượu và hoàng đế bảo:
- Thật vô cùng đáng tiếc, một thanh niên hào hoa như bạn,
không thờ ơ lạnh nhạt với tình yêu mà cứ phải cam sống độc thân và ẩn dật như
thế này!
- Tôl chẳng lấy làm buồn - Abou Hassan nói - mà vẫn thích
một cuộc sống yên ả như ông thấy đấy, hơn là sống cùng với một người đàn bà
chưa chắc đã có một sắc đẹp làm mình vừa mắt mà còn gây ra bao nỗi phiền toái
về những bất cập và tính khí thất thường của cô ta.
Họ chuyện trò khá lâu về vấn đề này và khi hoàng đế nhìn
thấy Abou Hassan đã ở một trạng thái ông mong đợi liền bảo chàng: Hãy để việc
ấy cho tôi. Vì bạn có xu hướng tất với tất cả những người trung thực, tôi sẽ
cho bạn được hài lòng mà chẳng phải tốn kém gì đâu.
Và ngay lúc đó, ông cầm lấy chén của Abou Hassan khéo léo
bỏ vào một đúm bột mà ông đã sử dụng lần trước, rót rượu vào và đưa mời chàng:
- Bạn hãy cầm lấy và chúc sức khoẻ trước cho người đẹp sẽ
đem hạnh phúc về cho bạn. Chắc chắn là bạn sẽ hài lòng.
Abou Hassan vừa cười vừa đỡ lấy chén rượu, đầu lắc lư
nói:
- Muốn ra sao thì ra vì ông anh đã muốn như vậy. Tôi
không thể tỏ ra bất lịch sự và vô ơn đối với một khách quí như ông anh để không
làm một việc mà tôi cho là sẽ chẳng đi đến đâu cả. Vậy là tôi phải uống chúc
sức khoẻ cho cái người đẹp đó, dù là tôi vẫn vui vẻ an phận mình và chẳng kỳ
vọng gì nhiều vào lời hứa của ông anh đâu.
Abou Hassan vừa cạn chén thì cơn buồn ngủ ập đến làm tê
liệt mọi giác quan giống như hai lần trước và hoàng đế lại làm chủ để định đoạt
số phận chàng theo ý chí mình. Ông bèn bảo tên nô lệ đi theo mang Abou Hassan
về hoàng cung. Tên nô lệ vác chàng lên vai và hoàng đế không có ý đem trả lại
chàng như lần trước nên khi ra đã đóng chặt cửa buồng lại.
Về tới hoàng cung, hoàng đế bảo đặt Abou Hassan nằm trên
tràng kỷ trong phòng khách thứ tư nơi cách đây nột tháng ông đã cho đưa trả
chàng về nhà chàng trong tình trạng thiếp đi vì ngủ rất say. Trước khi vẫn để
cho chàng tiếp tục ngủ như thế, ông bảo người hầu thay cho chàng cũng bộ quần
áo mà chàng đã mặc để làm nhân vật hoàng đế. Việc này được làm ngay trước mặt
ông. Sau đó lệnh cho tất cả đi ngủ, ông dặn tổng thái giám và những hoạn quan
khác cùng tất cả những quan hầu phòng, những nữ nhạc công và cả các cung nữ có
mặt trong phòng khách này khi Abou Hassan úống chén rượu cuối cùng làm cho
chàng thiếp đi... tất cả, sáng hôm sau lúc tờ mờ sáng đều phải có mặt tại đây
khi chàng ta thức đậy. Ông còn dặn mỗi người đều phải đóng tất vai trò của
mình.
Hoàng đế đi ngủ sau khi bảo Mesrour nhớ đánh thức mình
đậy trước khi mọi người vào phòng khách để ông lại vào căn buồng nhỏ, nấp kín
quan sát.
Mesrour không quên đánh thức hoàng đế đúng giờ đã đặn.
Ông mặc áo quần nhanh chóng và đl tới phòng khách ở đó Abou Hassan còn đang
ngủ. Ông thấy những quan chức hoạn nô, các quan hầu phòng, các cung nữ và các
nữ nhạc công tụ tập trước cửa chờ ông. Ông nói với họ vắn tắt mấy lời về ý định
của mình, rồi đi vào ẩn trong căn phòng nhỏ có mành che kín. Mesrour cũng như
các quan hầu khác, các cung nữ và các nữ nhạc công đi vào sau ông và xếp hàng
xung quanh chiếc trường kỷ có Abou Hassan đang nằm, sao cho không che lấp để
hoàng đế có thể nhìn thấy tất cả những cử chỉ hành động của chàng.
Tất cả những sự bố trí trên đây đều được hoàn tất trong
thời gian mà chất bột gây ngủ còn có hiệu quả. Abou Hassan thức giấc lúc đã giã
thuốc nhưng mắt vẫn nhắm, nhổ một bãi nước miếng vào cái ơng nhổ bằng vàng như
lần đầu. Đúng lúc này cả bảy đàn nhạc cùng tấu một bản nhạc du dương kèm theo
với lời ca thánh thót.
Abou Hassan cực kỳ ngạc nhiên khi nghe thấy một nhạc điệu
hình như đã được nghe quen. Chàng mở mắt và lại càng ngạc nhiên gấp bội khi
nhìn thấy các cung nữ và các quan hầu vây quanh mà chàng thấy như đã quen mặt.
Phòng khách mà chàng ở đó lúc này dường như cũng là phòng khách chàng đã nhìn
thấy trong giấc mơ trước, cũng ánh sáng đó, cũng bàn ghế đó và sự trang trí
cũng như vậy.
Bản hoà tấu dừng lại để hoàng đế quan sát và nghe rõ hơn
lời người khách mới thốt ra trong lúc kinh ngạc. Mesrour và tất cả các quan hầu
phòng đều hết sức im lặng và đứng tại chỗ với vẻ hết sức tôn kính.
- Than ôi! - Abou Hassan cắn vào ngón tay mình và kêu
thật to làm cho hoàng đế vô cùng thích thú - Thế là ta lại rơi vào vẫn cái gíấc
mơ đó, cũng trong cái ảo giác đó cách đây một tháng? Ta chỉ còn phải đợi một
lần nữa những nhát roi gân bò, nhà thương điên và cái lồng sắt. Hỡi Thượng đé
quyền uy? - Chàng thêm - Con xin tự phó thác vào đôi bàn tay thiêng liêng của
đấng Tạo hoá. Con đã tiếp đãi một con người bất lương chiều tối hôm qua tại nhà
và đó là nguyên nhân của ảo ảnh này và những cực hình có thể sẽ phải chịu đựng.
Cái tên phản trắc và vô lại đó đã thề là khi đi ra sẽ khép cửa buồng con lại
nhưng nó đã không làm thế và thế là ma quỉ đã lẻn vào và làm đầu óc con rối mù
lên vì cái giấc mơ chết tiệt, làm mắt con chói loà lên vì Thống lĩnh các tín đồ
và hàng đống ma quỉ. Mong cho Thượng đế trừng phạt mày, hỡi quỷ dữ! Mày sẽ bị
cả một núi những đá tảng đè nát!
Nói đến đây, Ábou Hassan nhắm mắt lại và gắng tĩnh tâm
trong lúc đầu óc vô cùng hoang mang. Một lát sau chàng mở mắt, liếc nhìn ra
xung quanh, nhìn vào tất cả những vật bày ra trước mắt rồi kêu to lên một lần
nữa đã phần nào bớt vẻ kinh ngạc và lại còn mỉm cười:
- Thượng đế vĩ đại? Con lại xin tự trao phó mình vào bàn
tay đầy quyền uy của Người. Xin Người hãy bảo vệ con khỏi sa vào âm mưu của quỉ
dữ.
Rời lại nhắm mắt vào, chàng nói tiếp:
- Ta biết điều gì ta sẽ làm: ta sẽ ngủ cho tới khi quỷ dữ
bỏ ta mà cút về chỗ của nó, dù có phải chờ cho đến buổi trưa.
Người ta không cho chàng ngủ lại như chàng vừa tự nêu ra.
Tâm Nương, một trong những người đẹp mà chàng đã thấy lần trước, đến gần chàng
và ngồi xuống mép tràng kỷ, cung kính nói:
Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ tha tội nếu
thiếp mạo muội bẩm với Người là không nên ngủ lại nữa mà cố gắng tỉnh thức và
đứng dậy vì mặt trời đã bắt đầu nhô lên.
- Cút mau đi, quỉ dữ - Abou Hassan thét lên khi nghe
tiếng đó nói.
Rồi nhìn vào Tâm Nương chàng hỏi:
- Có phải là tôi mà nàng kêu là Thống lĩnh cáe tín đồ?
Chắc hẳn là nàng đã nhầm với một người khác rồi đó.
- Chính là với bệ hạ - Tâm Nương nói - mà thiếp mới gọi
bằng danh hiệu ấy, danh hiệu thuộc về hoàng đế của tất cả những con dân đạo Hồi
mà thỉếp là một nô lệ hèn hạ nhất. Chắc là bệ hạ muốn giỡn chơi một chút - Nàng
nói thêm - giả cách như quên đi chính mình, nếu không phải đó là dư âm của một
giấc mơ xấu đáng buồn. Nhưng nếu Người vui lòng mở to đôi mắt thì những đám mây
làm vẩn đục cái bầu trời tưởng tượng của Người sẽ tan và Người sẽ thấy Người
đang ở trong cung điện của Người và quây quần xung quanh là những quan hầu của
Người và tất cả chúng em, những nô lệ của Người sẵn sàng phục vụ Người những
công việc thường ngày. Ngoài ra, xin bệ hạ chớ ngạc nhiên thấy mình ở trong
phòng khách này chứ không ở trên giường ngự. Tối qua Người đã bất thình lình
ngủ lịm đi, chúng em chẳng dám mạo muội đánh thức để đưa về nghĩ phòng nên đành
phải đặt Người nằm thoải mái trên chiếc trường kỷ này.
Tâm Nương còn nói với Abou Hassan nhlều điều khác nữa mà
chàng cho là đúng đắn nên cuối cùng đã ngồi nhỏm dậy. Chàng mở mắt ra và nhận
thấy nàng cũng như nhận thấy Bạch Ngọc và các nàng khác mà chàng đã quen. Thế
là tất cả các nàng xúm lại. Tâm Nương tiếp tục nói:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ và đại diện đấng tiên
tri trên thế gian này, xin Người cho phép chúng thiếp được tâu lại một lần nữa
là đã đến thời đlểm Người đứng dậy, kìa trời đã sáng rõ.
Abou Hassan giụi giụi mắt, lầm bầm:
Các người là những kẻ vô đuyên và
quấy đảo? Tôi đâu phải là Thống lĩnh các tín đồ, tôi là Abou Hassan, tôi biết
rõ là như thế, các người không thể nói trái lại được đâu.
- Chúng em chẳng biết Abou Hassan mà
bệ hạ nóì là ai cả - Tâm Nương lại nói - Và chúng em cũng chẳng muốn biết hắn
làm gì. Chúng em chỉ biết bệ hạ là đấng Thống lĩnh các tín đồ và chắc là Người
chẳng thể bảo với chúng em Người không phải là như vậy.
Abou Hassan đưa mắt nhìn xung quanh
và sững sờ khi thấy mình đang ở trong một phòng khách đã từng ở qua, nhưng
chàng gán cho tất cả những cái đó là ở trong một giấc mơ mà chàng đã từng mơ và
rất sợ những chuyện tai hại xảy ra tiếp đó.
- Mong được Thượng đế cứu rỗi -
Chàng giơ hai tay kêu lên, đôi mắt dáo dác như một người không biết mình đang ở
chỗ nào - Con xin tự trao phó cho Người. Cứ những gì con trông thấy đây thì
không còn nghi ngờ gì nữa: đúng là quỉ dữ đã lọt vào phòng con, ám vào con và
làm đầu óc con lộn xộn vì tất cả những ảo anh này.
Hoàng đế nhìn thấy chàng, nghe thấy
tất cả những lời than vãn của chàng, bật lên tiếng cười thật hồn nhiên mà Người
không sao kìm giữ được.
Nhưng Abou Hassan đã lại nằm xuống
và nhắm mắt lại Tâm Nương bèn tâu:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ,
vì bệ hạ vẫn còn muốn ngủ nữa mặc dầu trời đã sáng, nên chúng em phải làm bổn
phận mà chính Người đã trao cho là nhắc Người còn phải ra thiết triều để xử lý
mọi công việc mà quốc gia đã trao phó.
Cùng lúc, nàng nắm lấy một cánh tay
chàng và gọi những thiếu phụ khác tới giúp kéo chàng ra khỏi giường nằm và lôi
chàng xềnh xệch, nếu có thể nói như vậy, ra đến giữa phòng và đặt chàng ngồi
xuống. Rồi các nàng nắm tay nhau làm thành một vòng tròn nhảy múa xung quanh
chàng theo tiếng trống và tất cả các nhạc cụ tấu ngay trên đầu và bên tai
chàng.
Abou Hassan thấy mình trong tình
trạng hoang mang không sao tả xiết. Phải chăng ta đúng là hoàng đế và Thống
lĩnh các tín đồ? Chàng tự nhủ. Cuối cùng trong tâm trạng hoài nghi như thế,
chàng muốn nói gì đó nhưng tiếng ồn ào của các thứ nhạc cụ chơi quá mạnh làm
chẳng ai nghe được. Chàng ra hiệu cho Bạch Ngọc và Sao Mai đang nắm tay nhau
nhảy múa xung quanh chàng, là chàng muốn nói. Thế là hai nàng bảo ngừng nhảy,
thôi chơi nhạc và đến gần chàng. Chàng ngây thơ bảo hai người”
- Xin các nàng chớ nói dối, hãy bảo
cho blết đúng sự thực tôi là ai?
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ -
Sao Mai đáp - Bệ hạ muốn làm cho em bất ngờ vì câu hỏi đó chăng? Bệ hạ cứ muốn
làm như mình chẳng phải là Thống lĩnh các tín đồ, là đại điện đấng tiên tri của
Thượng đế, là chúa tể của thế giới chúng ta đang sống và cả thế giới mà chúng
ta tới sau khi chết. Nếu không phải thế thì đúng là một giấc mộng kỳ quái nào
đó đã làm Người quên đến cả chuyện không biết mình là ai nữa. Có thể như thế
được lắm vì đêm qua bệ hạ đã ngủ lâu hơn tất cả mọi ngày. Tuy nhiên nếu Người
vui lòng cho phép thì em sẽ gợi cho Người nhớ lại tất cả những gì Người đã làm
trong ngày.
Thế rồi nàng kể lại chuyện chàng đi
đến cung thiết triều, ra lệnh cho pháp quan trừng trị tên trưởng giáo và bốn
lão già hội đồng, phái đại tể tướng đem tặng một túi tiền vàng cho bà mẹ một
người tên là Abou Hassan. Rồi những gì chàng làm bên trong cung điện và những
gì xảy ra trong các phòng ăn, phòng điểm tâm và phòng uống rượu. Nàng nói thêm:
- Ở trong căn phòng cuối cùng này,
bệ hạ đã cho phép chúng em được ngồi hai bên cạnh Người, cho chúng em vinh dự
được hát cho Người nghe, được chuốc rượu cho Người, cho đến lúc Người gục xuống
ngủ như chị Tâm Nương vừa kể. Từ lúc đó, trái với thói quen thường lệ, bệ hạ
ngủ say li bì cho tới tận lúc này khi trời đã sáng bạch. Bạch Ngọc, tất cả các
nô tì khác và tất cả các quan hầu có mặt tại đây cũng sẽ chứng nhận đúng như
thế. Vậy thì xin bệ hạ hãy bắt đầu cầu nguyện vì đã tới giờ rồi.
- Đươc! được đấy! - Abou Hassan lắc
lư đầu nói – Các nàng đến làm ta tin mất nếu cứ nghe các nàng nói dông dài mãi
nhừ thế. Và ta - Chàng tiếp - thì ta bảo các nàng tất cả là một lũ điên rồ mất
trí. Thật là đáng tiếc vì tất cả các nàng đều xinh đẹp. Nên biết rằng từ lúc ta
nhìn thấy các nàng, ta đã đi về nhà và đã hành hạ mẹ già của mình đến nỗi người
ta phải bắt ta vào nhà thương điên và ngoài ý muốn của mình, ta phải ở trong đó
suốt ba tuần lễ, mỗi ngày xơi năm chục roi gân bò của tên gác cổng. Và các nàng
thì cho tất cả những cái đó chỉ là một giấc mộng. Các nàng muốn giễu ta chăng?
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ -
Sao Mai lại nói - Chúng em sẵn sàng lấy tất cả những gì thân thiết nhất của
mình ra mà thề độc là tất cả những gì Người vừa nói đều chỉ là trong một giấc
mộng. Chứng cứ là từ hôm qua tới lúc này Người chưa từng bước chân ra khỏi
phòng khách này và Người đã ngủ suốt đêm tại đây cho đến bây giờ.
Cô cung nữ Sao Mai cả quyết với Abou
Hassan là tất cả những gì cô ta nói đều là sự thật, chàng chưa hề ra khỏi phòng
khách này kể từ lúc bước chân vào. Điều khẳng định này lại đẩy chàng vào tình
trạng không biết tin vào những gì đã xảy ra cho mình hay những gì đang nhìn
thấy. Chàng như đắm trong suy tư một khoảng thời gian khá lâu. “Trời đất ơi! -
Chàng tự hỏi - Ta là Abou Hassan hay là Thống lĩnh các tín đồ? Thượng đế tối
linh! Xin Người hãy làm cho sáng tỏ, cho con rõ sự thật để con còn biết phải xử
sự ra sao”.
Sau đó chàng vạch áo để hở vai còn
đầy những vết thâm tím ngang dọc ra, chỉ cho các nàng xem.
- Các nàng hãy trông đây - Chàng bảo
họ - Và thử xét xem những vết thương như thế này có thể tới từ một giấc mơ hay
trong khi ngủ được không. Về phần tôi, tôi có thể cả quyết với các nàng rằng
những vết thương đó là rất thực và cái đau vì bị đòn mà lúc này tôi còn cảm thấy
là một bảo đảm chắc chắn không cho phép tôi nghi ngờ chút nào. Nếu thảng hoặc
điều đó đã xảy ra cho tôi trong giấc ngủ thì đó là một điều vô cùng kỳ lạ, vô
cùng khác thường. Và xin thú thực với các nàng là nó vượt ra ngơài tầm hiểu
biết và sự chấp nhận của tôi.
Trong cái tình trạng phân vân chưa
ngã ngũ ra sao đó Abou Hassan gọi một trong các quan hầu hoàng đế đứng cạnh
mình ôn tồn bảo:
- Ống hãy đến gần đây và cắn vào tai
tôi một cái để xem tôi ngủ hay đang thức.
Viên quan hầu tới gần ghé răng vào
chót tai Abou Hassan cắn mạnh một cái làm cho Abou Hassan bị đau quá thét lên
rất to.
Cùng với tiếng kêu đó là tất cả nhạc
cụ cùng tấu lên một lúc và các cung nữ, các quan hầu nâm lấy tay nhau nhảy múa
xung quanh Abou Hassan gây thành một tiếng động ầm ĩ, ồn ào khiến chàng cũng
hưng phấn đứng lên làm lắm trò điên rồ. Chàng cũng cất tiếng hát cùng với mọi
người. Chàng xé rách cả tấm áo triều phục ìộng lẫy mà người ta đã mặc cho
chàng. Chàng ném toạch cả mũ đội xuống đất, và chỉ còn trên mình chiếc quần đùi
cùng áo lót chàng bất ngờ nhảy xổ vào giữa hai cung nữ, nắm lấy bàn tay họ và
nhảy như choi choi, uốn éo đủ kiểu ngộ nghĩnh tức cười làm cho hoàng đế không
sao ở yên được nơi đang nấp. Sự quay lộn nhảy hát bất ngờ của Abou Hassan làm
ông phá lên cười nghiêng cười ngả, tiếng cười của ông át cả tiếng đàn tiếng
trông ầm ĩ. Cười hết trận nọ đến trận kia làm ông đau cả bụng. Cuối cùng ông
đứng lên, mở rèm và thò đầu ra, ông vẫn vừa cười vừa kêu to:
- Abou Hassan, Abou Hassan! Nhà
ngươi muốn làm cho ta chết vì cười hay sao thế?
Nghe thấy tiếng hoàng đế, tất cả mọi
người đều im lặng và mọi tiếng động đều chấm dứt. Abou Hassan cũng dùng lại nhú
mọi người và quay đầu về phía có tiếng nói. Chàng nhận ra hoàng đế đồng thời
với nhà buôn ở Moussoul cũng là người này. Không chút bối rối về chuyện đó,
chàng hiểu là lúc này chàng đang thức và tất cả những gì xảy ra ở đây là rất
thực chứ không phải là trong một giấc mộng. Chàng xoay ra chuyện trò đùa và đó
cũng là khớp với ý đồ của hoàng đế.
- Ha? Ha? - Chàng nhìn thẳng vào vua
kêu lên - Ra là ông đấy phải không, ông nhà buôn ở Moussoul? Sao? Ông kêu là
tôi làm ông chết vì cười ư? Ông chính là nguyên nhân để tôi đối xử tàn tệ với
mẹ tôi và cũng là nguyên nhân để tôi bị đối xử tàn tệ trong một thời gian khá
lâu trong nhà thương điên. Cũng chính ông đã trừng trị nặng lão trưởng giáo
trong thánh thất ở khu phố tôi và cả bốn lão già hội đồng, hàng xóm của tôi
(không phải là tại tôi đấy nhé!). Ông là người đã gây cho tôi biết bao nhiêu
nỗi khổ tâm và bao điều ngang trái! Cuối cùng, có phải đúng ông là người đã gây
ra mọi sự và tôi chỉ là nạn nhân của ông không?
- Nhà ngươi nói đúng, Abou Hassan ạ
- Hoàng đế nói và vẫn tiếp tục cười - nhưng để an ủi và để bù lại tất cả những
gì khổ cực nhà ngươi đã phải chịu đựng, thề có Thượng đế chứng giám, ta sẵn
sàng đền bù lại cho ngươi bằng tất cả những gì ngươi đặt ra, tuỳ ý ngươi chọn
lựa.
Nói xong, hoàng đế rời khỏi căn
buồng nhỏ, đi vào phòng khách lớn. Ông sai mang một trong những bộ áo quần đẹp
nhất của mình bảo các cung nữ làm thay
việc của những quan hầu mặc cho Abou
Hassan. Khi chàng đã chững chạc trong bộ áo quần lộng lẫy, hoàng đế ôm lấy
chàng hôn và bảo:
- Ngươi là người anh em của ta, hãy
đòi hỏi ở ta những gì có thể làm cho nhà ngươi vui lòng, ta sẽ chiều ngươi tất
cả.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ -
Abou Hassan nói - Xin bệ hạ hãy làm ơn cho biết Người -đã làm những gì khiến
cho đầu óc của tôi bị nhiễu loạn như vậy, và ý đồ của Người là gì? Điều này đối
với tôi hiện nay quan trọng hơn tất cả mọi thứ khác để cho đầu óc tôi trở lại
thanh thản bình thường.
Hoàng đế cũng rất muốn làm cho ý
muốn của Abou Hassan được thoả mãn, nên bảo chàng:
- Trước hết nhà ngươi cũng cần biết
là ta thùờng hay cải trang vi hành nhất là về ban đêm, để tự mình tìm hiểu tình
hình trật tự an ninh trong thành phố Bagdad. Và vì ta cũng rất muốn biết những
gì xảy ra ở các vùng phụ cận nên ta đã ấn định vào ngày đầu mỗi tháng để vi
hành một vòng ra phía ngoài hoàng cung khi thì ở phía này khi thì ở phía khác
và bao giờ cũng qua cầu để trở về. Ta vừa đi một vòng và trở về chiều hôm đó
thì nhà ngươi mời ta về nhà ăn cơm tối. Trong chuyện trò, nhà ngươi cho ta hay
là điều độc nhất mong ước của mình là được làm hoàng đế và Thống lĩnh các tín
đồ chỉ trong khoảng thời gian hai mươi bốn tiếng đồng hồ để chỉnh đốn lại tên
trưởng giáo ở thánh thất khu phố nhà ngươi và bốn lão cố vấn hội đồng của y.
Ước mong của nhà ngươi làm ta nẩy ra ý đồ muốn làm một trò giải trí và với mục
tiêu đó, ta phác ngay ra cách thức để làm cho ước muốn của ngươi trở thành hiện
thực. Sẵn trong người có thứ bột gây ngủ có tác dụng tức thì lúc uống vào và
chỉ thức gíâc sau một thời gian nào đó. Chén rượu cuối cùng tối đó ta đã lén bỏ
loại bột ấy cho ngươi uống. Giấc ngủ say li bì đã tới liền. Người nô lệ đi theo
ta đã mang nhà ngươi về hoàng cung sau khi đã để cửa buồng nhà ngươi mở toang.
Có lẽ chẳng cần phải kể lại những diễn biến trong hoàng cung từ lúc nhà ngươi
thức giấc suốt ngày hôm đó cho mãi đến chiều tối. Sau khi đã chiêu đãi ngươi đủ
thứ theo lệnh ta trong ba phòng ăn, một trong những cung nữ hầu rượu ngươi đã
lén bỏ vào chén rượu cuối cùng của ngươi cùng liều lượng bột gây ngủ như thế và
cũng tên nô lệ đã mang nhà ngươi tới lại mang ngươi trả về với lệnh là vẫn để
cửa buồng ngỏ như thế khi đi ra. Nhà ngươỉ đã kể tất cả cho ta nghe những gì
xảy ra hôm sau và nhùng ngày tiếp theo. Ta thật cũng không ngờ là nhà ngươi lại
phải chịu bao cảnh đau lòng khổ sở như thế. Nhưng, cũng như ta đã giao ước với
ngùơi, ta sẽ làm tất cả để nhà ngươi được an ủi và cũng là địp để nhà ngươi
quên đi tất cả những khổ ải đã phải chịu thời gian qua. Nào, xem ta có thể làm
gì để cho ngươi được hài lòng. Hãy mạnh dạn lên, nhà ngươi muốn gì nào?
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ -
Abou Hassan nói - Dù tôi đã phải chịu đựng nhiều đau đớn vừa rồi nhưng những
điều không hay đó đã bị xoá sạch trong trí nhớ của tôi khi biết là những cái đó
đều do đức vua, lãnh chúa và chủ nhân của tôi gây ra. Còn về những ân huệ mà
Người hứa ban cho tôi một cách hào hiệp thì tôi tin chắc lời của Người như đao
chém đá, không thể đổi thay. Nhưng tôi vốn không tham lợi lộc, vì Người đã cho
phép được nói ra điều yêu cầu, tôi chỉ xin Người một đặc ân là luôn được gần
gũi Người để có cái vinh dự suốt đời được chiêm ngưỡng sự vĩ đại của Người.
Lời nói của Abou Hassan thể hiện rõ
sự vô tư trong sáng, không mưu cầu danh lợi càng làm hoàng đế quí mến chàng gấp
bội. Nhà vua bảo chàng:
- Ta vui lòng chấp nhận lời, thỉnh
cầu đó. Nhà ngươi có thể tự do ra vào nơi cung cấm, bất cứ vào giờ nào, bất cứ
ở đâu nơi mà ta có mặt.
Cùng lúc đó, nhà vua cấp cho chàng
một nơi ở trong hoàng cung. Còn về khoản bổng lộc, ông bảo chàng không phải phụ
thuộc vào ngân qũi quốc gia mà cứ trông ở hoàng đế Ngay lập tức, ông bảo thủ
ngân riêng của mình cấp cho chàng một ngân khoản một nghìn đồng vàng. Abou
Hassan trân trọng tạ ơn hoàng đế và Người cũng rời đi để đến cung thiết triều
như thường lệ.
Abou Hassan lợi dụng thời gian đó về
nói cho mẹ biết ngay tất cả những gì xảy ra để bà biết số phận may mắn của
mình. Chàng cũng nói cho mẹ biết là tất cả những gì xảy ra cho chàng chẳng phải
là xảy ra trong một giấc mộng. Chàng đã là hoàng đế và thực sự đã điều hành
công việc triều đình suốt một ngày trời và đã nhận được nhiều vinh dự. Chàng
bảo mẹ chớ nghi ngờ gì về những điều chàng nói vì chính hoàng đế, từ miệng
Người đã xác nhận như vậy.
Câu chuyện về Abou Hassan chẳng bao
lâu đã lan truyền ra toàn thành phố Bagdad, lan sang cả các tỉnh lân cận và từ
đó tới các địa phương xa hơn với những tình tiết ly kỳ và trào lộng được thêm
thắt vào.
Với ân huệ mới, Abou Hassan rất cần
mẫn trong việc hàng ngày đi chầu vua. Vì bản chất luôn vui vẻ yêu đời nên bất
cứ chàng đi tới đâu cũng gieo được niềm vui tới đó bằng những lời hài hước có
duyên. Hoàng đế cảm thấy không thể thiếu chàng nên không bao giờ không đòi
chàng cùng đi trong những cuộc vui chơi giải trí. Đôi khi hoàng đế dắt chàng
tới cả cung hoàng hậu Zobéide mà vua cũng đã kể cho vợ nghe chuyện về chàng
khiến hoàng hậu rất thích thú. Nhưng bà có một nhận xét là mỗi lần chàng đi
theo hoàng đế sang cung điện thăm bà, đôi mắt chàng thường hay liếc nhìn về một
trong những nữ tì của bà là cô hầu Nouzhat-Oulaoudat. Vì vậy bà quyết định nói
cho hoàng đế hay việc đó. Một hôm hoàng hậu nól nhỏ với hoàng đế.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ,
có lẽ Người không như thiếp chú ý tới chuyện này: tất cả các lần Abou Hassan
tháp tùng Người tới đây, nó đều không rời mắt khỏi Nouzhat-Oulaouđat làm con bé
này ửng đỏ cả mặt mày. Chắc Người cũng thấy đó là dấu hiệu nó tỏ ra là cũng
chẳng đến nỗi ghét bỏ cậu ta.
Bởi vậy nếu bệ hạ tin lời thiếp thì
chúng ta sẽ làm cái việc xây dựng lứa đôi cho chúng.
- Hậu ạ - Hoàng đế nói - Nàng làm
cho ta nhớ đến một việc mà đáng lẽ ta phải làm rồi mới phải. Ta biết xu hướng
của Abou Hassan về vấn đề hôn nhân, vì chính nó nói ra. Ta cũng đã hứa là sẽ
tìm cho nó một người vợ hợp với nó. Ta rất vui là hậu đã đề cập tới vấn đề mà
không hiểu sao ta đã quên bẵng đi mất. Nhưng cứ để cho Abou Hassan tự chọn cho
mình thì có lẽ hơn đấy. Vả lại, theo như hậu nói thì con bé Nouzhat-Oulaoudat
cũng có vẻ quyến luyến nó. Vậy thì chúng ta chẳng nên do dự nữa mà không vun
vén cho chúng. Này, cả hai đứa đều có mặt tại đây. Chúng chỉ cần nói lên là
chúng có bằng lòng hay không.
Abou Hassan sụp quì xuống bên chân
hoàng đế và hoàng hậu, vô cùng xúc động:
- Tôi không mong gì hơn là được nhận
một người vợ từ tay của những người cực kỳ đôn hậu. Nhưng tôi chưa dám hy vọng
là Nouzhat-Oulaoudat cũng yêu thương tôi như tôi thương yêu nàng.
Dứt lời, chàng đưa mắt nhìn sang cô
nữ tì của hoàng hậu. Cô nàng cũng tỏ lộ sự vui mừng ưng ý theo cách của mình:
bối rối, khép nép, im lặng và khuôn mặt ửng đỏ đến tận mang tai.
Hôn lễ được cử hành trong hoàng cung
với nhiều cuộc vui kéo dài nhiều ngày. Đề làm vui lòng hoàng đế, hoàng hậu
Zobéide tặng cho cô người hầu thân tín của mình nhiều quà tặng có giá trị và về
phía mình, hoàng đế, trân trọng hoàng hậu cũng làm như vậy đối với Abou Hassan.
Cô dâu mới được đưa về toà dinh thự
mà hoàng đế đã cấp cho Abou Hassan, hôn phu của cô đang nóng lòng chờ đợi Chàng
đón người vợ mới trong tiếng nhạc vang lừng và những bản đồng ca du dương của
các nhạc công nam và nữ của hoàng cung.
Nhiều ngày trôi qua trong lễ hội
tưng bừng thường được tổ chức trong những dịp như thế. Sau đó họ để cho đôi vợ
chồng mới được yên hưởng tình yêu nồng thắm trong tuần trăng mật.
Abou Hassan và Nouzhat-Oulaoudat say
sưa sống hết mình trong hạnh phúc lứa đôi, gắn bó với nhau như keo như sơn.
Ngoài thời gian dành ra, chàng để đi chầu vua, nàng để đi thăm hầu hoàng hậu,
thì họ không rời nhau ra nửa bước.
Nghìn Lẻ Một Đêm
Chương 35: Aladdin và chiếc đèn thần
Tâu bệ hạ, trong kinh thành một
vương quốc thuộc Trung Hoa, rất giàu và rộng mà tiện thiếp không nhớ tên, có
một người thợ may tên là Mustafa, đặc điểm không gì khác ngoài phong thái nghề
nghiệp. Mustafa rất nghèo, công việc chỉ vừa đủ ăn cho ông, vợ và một đứa con
trai Trời ban cho.
Đứa con trai, Aladdin, được nuôi dạy
rất cẩu thả nên tiếp xúc với những xu hướng xấu, nghịch ngợm, bướng bỉnh, không
vâng lời bố mẹ. Lớn lên một ít, bố mẹ không giữ được cậu bên mình, ngay từ sáng
sớm cậu ra khỏi nhà suốt ngày rong chơi trên đường ở những nơi công cộng, với
những đứa trẻ lang thang thậm chí ít tuổi hơn cậu.
Đến tuổi cậu phải học nghề, song bố
cậu không thể tạo dựng cho cậu một công việc gì khác ngoài nghề nghiệp của
mình, ông đưa con vào cửa hiệu tập cho may vá. Nhưng kể cả ngọt ngào lẫn đe
doạ, ông bố không sao ngăn được tính lêu lổng của con, không buộc được cậu chịu
khó, chăm chỉ và chú tâm vào công việc như ông mong muốn. Mustafa quay lưng đi,
là Aladdin chạy ngay ra ngoài đi suốt ngày không về. Bố trừng phạt Aladdin mấy
cũng không sửa chữa được. Và dù rất tiếc, Mustafa đành phải bỏ mặc con lêu
lổng. Việc đó làm ông đau lòng và nỗi buồn không dạy được con khiến ông lâm
bệnh nặng sau mấy tháng thì chết.
Mẹ Aladdin thấy con không học nghề
của chồng, liền đóng cửa hiệu may, bán đồ đạc hành nghề của chồng để mẹ con
sinh sống, phụ thêm vào chút ít tiền công mà bà kiếm được nhờ kéo sợi.
Aladdin không còn phải sợ bố nữa và
lại càng không sợ mẹ, thậm chí bà chỉ hơi mắng mỏ là cậu đã doạ lại bà nên cậu
thoả sức tự do càng ngày eàng ehơi bời say sưa hơn trước đây với lũ trẻ cùng
lứa! Cậu tiếp tục cuộc sống như thế cho đến năm mười lăm tuổi, không làm gì để
mở mang trí tuệ và chẳng suy nghĩ sau này mình sẽ ra sao. Trong tình trạng đó,
một hôm cậu đang chơl ngoài bãi rộng với toán trẻ lang thang thì một người lạ
đi qua đứng lại nhìn cậu.
Người này chính là một lão phù thuỷ
đáng gờm, người ta gọi lão là phù thuỷ châu Phi.
Có lẽ lão phù thuỷ châu Phi biết
tướng số nhận thấy trên mặt Aladdin những gì cần thiết cho việc thực hiện mục
đích của mình hoặc lão đã khôn khéo thăm dò về gia đình, bản thân và khuynh
hướng của cậu. Lão lại gần chàng trai, kéo cậu ra cách bạn bè mấy bước, hỏi:
- Này cậu, bố cậu có phải là ông thợ
may Mustafa không?
- Thưa ông đúng đấy nhưng bố tôi mất
lâu rồi.
Nghe nói thế, lão phù thuỷ châu Phi
ôm lấy Aladdin hôn nhiều lần, nước mắt xen lẫn thở than. Aladdin thấy lão khóc,
liền hỏi vì sao. Lão phù thuỷ kêu lên:
- Chà, cháu ơi! Làm sao không khóc
được? Ta là chú của cháu, bố cháu là người anh phúc hậu của ta. Ta đi xa đã
nhiều năm và lúc về với hy vọng gặp lại anh, đưa niềm vui lại cho anh thì cháu
cho biết bố chết rồi! Ta rất đau đớn vì không có được niềm an ủi như mong đợi.
Nhưng ta cũng nhẹ lòng một phần thấy trên khuôn mặt cháu có những nét của anh
ta, ta thấy đã không lầm khi hỏi chuyện cháu.
Tay bỏ vào túi tiền lão hỏi mẹ cậu ở
đâu. Aladdin trả lời ngay và lão phù thuỷ vừa đưa cho cậu một nắm tiền lẻ, vừa
nói:
- Cháu ạ, về gặp mẹ nói chú gửi lời
chào, nếu thời gian cho phép, ngày mai chú sẽ đến thăm mẹ để tự an ủi thấy được
nơi anh chú sinh sống và đã qua đời.
Lão phù thuỷ vừa rời cậu cháu vừa
nhận nhằng, Aladdin liền chạy về gặp mẹ, vui sướng muốn khoe số tiền chú vừa
cho.
- Mẹ ơi - cậu hỏi - con có một người
chú không?
- Không con ạ - Bà mẹ trả lời - Bên
bố con cũng như bên mẹ không có người chú nào cả.
- Thế mà con vừa gặp một ông nói là
chú về bên bố vì là em bố con. Điều làm con tin chắc là vì khi con nói, bố chết
rồi, ông khóc và ôm lấy con - Cậu đưa tiền ra và nói thêm - Con nói thật đấy.
Ông ấy cho con tiền đây, gửi lời chào mẹ và nói nếu ngày mai có thì giờ ông sẽ
đến thăm nhà và nơi bố con mất.
- Con ạ - Bà mẹ lại nói - Đúng bố
con có một người em nhưng chết đã lâu và mẹ không bao giờ nghe nói có người em
nào nữa.
Hai mẹ con không nói gì hơn về người
lạ ấy.
Hôm sau lão phù thuỷ lại gặp Aladdin
lần thứ hai đang chơi một chỗ khác trong thành phố. Lão ôm lấy cậu như lần
trước, bỏ vào tay cậu hai đồng tiền vàng và nói:
- Cháu ơi, đưa cái này về cho mẹ nói
chiều nay ta đến thăm, bà đi mua gì để chúng ta cùng ăn tối với nhau. Trước hết
chỉ cho ta nhà cháu ở đâu đã.
Cậu nói rõ địa chỉ và lão để cậu đi
về.
Aladdin đưa hai đồng vàng cho mẹ.
Nghe nói ý định của ông chú, bà đi mua thức ăn ngon và sang hàng xóm mượn thêm
một số nồi niêu. Bà để cả buổi chuẩn bị bữa ăn tối. Và chiều đến khi bữa ăn đã
sẵn sàng, bà bảo con:
- Có lẽ chú con không biết nhà chúng
ta, con đi đón chú đưa ông về.
Tuy đã chỉ rõ nhà mình cho lão phù
thuỷ châu Phi, song Aladdin cũng sắp đi thì nghe tiếng gõ cửa. Cậu mở và thấy
ông ta đang bước vào, mang theo mấy chai rượu và nhiều loại quả cây cho bữa
tối.
Đưa những thứ cho Aladdin lão chào
bà mẹ, xin bà cho biết chỗ ông anh Mustafa thường ngồi. Bà vừa chỉ chỗ lão
liền, quỳ xuống hôn chỗ ấy nhiều lần, rớt nước mắt đầm đìa kêu lên:
- Ông anh khốn khổ, em rất đau lòng
không đến được sớm hơn để ôm hôn anh một lần nữa truớc khi anh mất! Dù mẹ
Aladdin mời nhiều lần, lão vẫn không ngồi vào chỗ ấy.
- Không - Lão nói - Tôi ngồi đối
điện đây để nếu không được thoả mãn gặp người anh thân yêu mà tôi kính trọng
như chính bố của mình thì ít nhất tôi cũng được nhìn như thấy anh đang ở đấy.
Khi đã chọn được chỗ ngồi khác, lão
bắt đầu nói chuyện với mẹ Aladdin:
- Chị quý hoá của tôi, chị đừng ngạc
nhiên không thấy tôi trong suốt thời glan chị là vợ anh Mustafa. Tôi ra đi khỏi
đất nước này đã bốn mươi năm. Từ ngày đó sau khi đi hết Ấn Độ, Ba Tư, A Rập, Xy
Ri, Ai Cập qua những thành phố đẹp nhất các nước đó, tôi sang châu Phi và ở lại
đó lâu nhất: Cuối cùng theo lẽ tự nhiên của người dù xa quê hương đến mấy cũng
không quên nhớ về bố mẹ và anh em ruột thịt, tôi chuẩn bị hành lý và lên đường
mong muổn trở về đất nước mình, đến ôm hôn người anh thân yêu trong lúc còn sức
và lòng can đảm làm một cuộc hành trình dài. Tôi không kể lại với chị thời gian
lăn lộn trải qua những gian nan, vất vả để về được đến đây. Chỉ nói với chị
không gì làm tôi day dứt, buồn rầu bằng được tin anh đã mất, người anh tôi luôn
yêu kính với một tình cảm thực sự. Tôi chú ý đến những nét của anh trên khuôn
mặt cháu và điều đó làm tôi phân biệt cháu với những đứa trẻ khác cùng chơi.
Cháu có thể nói tôi buồn đến mức nào khi biết anh tôi đã mất. Nhưng cũng phải
tạ ơn Trời về mọi việc: tôi tự an ủi thấy lại người anh trong đứa con trai giữ
được những nét nổi bật của anh.
Lão phù thuỷ châu Phi thấy bà mẹ đau
lòng về kỷ niệm ông chồng, liền thay đổi câu chuyện, ngoảnh lại Aladdin hỏi tên
cậu.
- Cháu là Aladdin - Cậu trả lời.
- Thế cháu làm việc gì Aladdin? Cháu có biết nghề gì
không?
Nghe hỏi thế, Aladdin cúi mặt bối rối. Mẹ cậu trả lời:
- Aladdin là một đứa lười biếng. Bố nó lúc còn sống đã ra
sức dạy nghề của ông cho nó nhưng không được. Từ khi ông mất, mặc đù tôi nhắc
nhở hàng ngày, nó không làm nghề gì khác ngoài việc lêu lổng, suốt ngày chơi
với trẻ con như chú thấy, không nghĩ mình chẳng còn bé nữa; nếu chú không làm
cho nó thấy xấu hổ, và không sửa chữa nhân dịp này, tôi sẽ thất vọng vì không
bao giờ nó có thể nên người. Nó biết bố mất chẳng để lại tài sản gì và cũng
thấy tôi kéo sợi suốt ngày khó kiếm đủ ăn. Tôi đã quyết định một ngày nào đó sẽ
đuổi nó ra khỏi nhà cho đi kiếm sống ở chỗ khác.
Sau khi bà mẹ vừa khóc vừa nól thế, lão phù thuỷ châu Phi
bảo Aladdin:
- Như vậy không tốt cháu ạ, cần phải tự lực mà kiếm sống.
Có nhiều nghề nghiệp, phải tìm cho mình một hướng ưa thích. Có lẽ cháu không
thích nghề của bốvà thấy mình phù hợp với một nghề khác hơn; đừng giấu chú suy
nghĩ của mình, chú sẽ tìm cách giúp cháu.
Thấy Aladđin không trả lời, lão nói:
- Nếu cháu sợ phải học nghề mà vẫn muốn trở thành một
người lương thiện, chú sẽ mở cho một cửa hàng vải vóc đẹp, cháu đứng bán lấy
tiền mua tiếp hàng, với cách đó cháu sẽ sống xứng đáng. Hãy tự nói thật với
chú: ý của cháu ra sao? Cháu nhớ là bao giờ chú cũng giữ lời hứa.
Sự giúp đỡ đó kích thích Aladdin vốn không muốn làm công
việc chân tay và cũng khá hiểu biết để nhận thấy những cửa hàng loại ấy sạch
sẽ, có nhiều người đến, những người bán hàng ăn mặc đẹp và được coi trọng. Cậu
lưu ý lão phù thuỷ mà cậu xem là chú mình rằng cậu có xu hướng về mặt ấy hơn cả
và rất cám ơn chú về điều tết ông định xây dựng cho mình. Lão phù thuỷ châu Phi
lại nói:
- Vì cháu thích công việc ấy, mai chú đưa cháu cùng đi,
cho cháu ăn mặc sạch sẽ, sang trọng phù hợp với phong cách một nhà buôn lớn
trong thành phố này; ngày kia chúng ta sẽ nghĩ đến việc mở cửa hàng như chú
nói.
Mẹ Aladdin trước đó vẫn không tin người lạ là em chồng
bà, lúc này nghe mọi điều tốt lành lão hứa xây dựng cho con thì không còn nghi
ngờ gì nữa. Bà cảm ơn lão về dự định quý hoá ấy, khuyên nhủ Aladdin cố gắng
xứng đáng với những điều tốt đẹp chú sẽ giúp cho rồi bà bày bữa ăn tối. Cuộc
nói chuyện xoay quanh vấn đề ấy suốt bữa ăn cho đến lúc thấy đã khuya, lão phù
thuỷ xin phép ra về.
Sáng hôm sau, lão trở lại nhà bà vợ goá ông thợ may
Mustafa như đã hứa, dẫn Aladdin đi theo mình, đến một cửa hàng bán quần áo may
sẵn đủ các loại vải, phù hợp với mọi lứa tuổi và mọi tầng lớp. Lão bảo cho xem
quần áo vừa cỡ người Aladdin, để riêng những loại lão ưng ý rồi nói với
Aladdin:
- Cháu chọn trong số này những bộ quần áo thích nhất đi.
Cậu phấn khởi về thái độ thoải mái của ông chú mới, chọn
một bộ. Lão phù thuỷ mua tất cả những gì kèm theo và trả tiền không cần mặc cả.
Khi Aladdin thấy mình mặc quần áo đẹp từ chân đến đầu,
cậu vô cùng cám ơn ông chú; lão phù thuỷ còn hứa không bao gíờ rời cậu. Thực
thế, lão đưa cậu đến những chỗ đông vui nhất thành phố, vào những cửa hàng vải
vóc nhiều và đẹp nhất bảo Aladdin:
- Rồi cháu sắp thành một thương nhân như những người cháu
thấy, nên đi lại với họ và để họ quen biết cháu.
Lão cũng dẫn cậu đi xem nhà thờ Hồi giáo đẹp và lớn nhất,
ung dung vào lâu đài những thương nhân nước ngoài tạm trú. Sau khi cùng nhau đi
khắp những chỗ đẹp của thành phố, họ đến một lâu đài và thuê một căn hộ. Ở đấy
có một số thương nhân lão làm quen khi vừa mới đến, mời họ cùng tập hợp ăn uống
với nhau và giới thiệu đứa cháu hờ.
Tiệc xong trời vừa tối. Aladdin muốn xin phép chú ra về
nhưng lão phù thuỷ không muốn để cậu đi một mình, đích thân đưa cậu về với mẹ. Thấy
con trai ăn mặc đẹp đến thế bà mẹ vui mừng khôn xiết, rối rít cám ơn ông chú đã
chi tiêu nhiều cho con mình:
- Chú thật độ lượng, chị không biết làm thế nào để cám ơn
lòng hào phóng của chú, chị biết con chị không xứng đáng với điều tết lành chú
đưa lại nếu như nó không cố gắng đáp ứng được ý chú định xây dựng cho nó một cơ
ngơi làm ăn vững vàng. Riêng chị - Bà nói thêm - chị vô cùng cảm kích, chúc chú
trường thọ để chứng kiến lòng biết ơn của con trai chị thể hiện tất nhất ở cách
quản lý cửa hàng theo lời chú dạy.
Lão phù thuỷ đáp:
- Aladdin là một đứa trẻ ngoan biết nghe lời, và tôi nghĩ
chúng tôi sẽ làm được điều gì đó cớ kết quả. Chỉ phiền là chưa thể thực hiện
lời hứa vào ngày mai, thứ sáu, các cửa hàng đóng cửa hết, thương nhân chỉ vui
chơi, đành để lại ngày thứ bảy. Nhưng ngày mai tôi sẽ đến đưa cháu đi chơi ở
các công viên, chỗ giới khá giả lui tới. Có lẽ nó chưa biết gì về những trò
giải trí ở đấy, cho đến nay nó chỉ tiếp xúc với trẻ con, phải cho cháu gặp
người lớn.
Lão phù thuỷ cáo lui. Aladdin vô cùng sung sướng vì đã
được diện quần áo sang trọng, tận hưởng trước một niềm vui lớn được dạo quanh
thành phố vốn rất đẹp và dễ chịu.
Hôm sau cậu dậy sớm, ăn mặc tử tế chờ chú đến đưa đi. Có
vẻ như chờ lâu, cậu nóng lòng mở cửa, đứng ở bậc thềm nhìn ngóng. Thấy lão, cậu
báo tin với mẹ và chào từ biệt bà, đóng cửa lại chạy đến vớl ông chú.
Lão phù thuỷ thấy cậu, vuốt ve và cười cợt nói:
- Nào, cháu thân yêu, hôm nay ta muốn cho cháu thấy những
điều còn kỳ diệu hơn nhiều những lâu đài tuyệt vời, với những khu vườn tươi tốt
kia.
Trước mỗi lâu đài lão lại hỏi cậu thấy có đẹp không,
Aladđin, lại đáp:
- Thưa chú, đây lại là một toà đẹp hơn những toà chúng ta
vừa đi qua.
Tuy nhiên họ mỗi lúc một tiến dần ra phía ngoài thành phố
mà lão phù thuỷ vừa tinh ranh muốn đi xa hơn nữa để thực hlện ý định trong đầu.
Thừa dịp vào trong một khu vườn, lão đến ngồi gần chiếc bể lớn có nước chảy ra
từ mõm một con sư tử bằng đồng đen, giả vờ mệt để nghỉ.
- Cháu ạ - lão nói - chắc cháu cũng mệt như chú, chúng ta
nghỉ một lúc cho lại sức để tiếp tục đi dạo.
Lão lấy ở thắt lưng ra một túi bánh và các loại quả cây
bày trên thành bể, chia đôi bánh và để Aladdin chọn nhũng quả mình thích. Trong
bữa ăn tạm đó, lão khuyên cậu cháu hờ thôi lêu lổng với bọn trẻ con nên quan hệ
với những người lớn tuổi thông thái và không ngoan để tranh thủ nghe họ và học
hỏi qua những lời trao đổi của họ. Lão bảo: Rồi cháu sẽ là người lớn như họ, sẽ
sớm quen nói những lời tất đẹp theo gương họ . Ăn xong họ đứng dậy tiếp tục đi
qua nhiều khu vườn cách nhau bằng nhiều hào nhỏ làm ranh giới nhưng vẫn qua lại
được: Những người dân ở kinh thành này có lòng tin vào nhau, không cần phải bảo
vệ kỹ hơn để ngăn chặn việc làm hại lẫn nhau. Không ai nhận thấy lão phù thuỷ
đã đưa Alađdin qua những khu vườn khá xa, qua những cánh đồng gần đến rừng núi.
Aladdin suốt đời chưa đi nhiều như thế, thấy rất mệt mỏi.
Cậu nói với lão phù thuỷ:
- Chú ơi, chúng ta đi đâu vậy? Đã qua những khu vườn rất
xa và cháu chỉ thấy rừng núi. Nếu đi nữa không biết cháu còn đủ sức trở về
thành phố không?
- Can đảm lên cháu, ta muốn cho cháu thấy một khu vườn
tuyệt vời hơn rất nhiều những khu cháu vừa thấy. Không xa đây đâu, chỉ một bước
chân nữa thôi và tới nơi, cháu sẽ không thấy phí công chút nào.
Aladdin bị thuyết phục, lão phù thuỷ còn dẫn cậu đi rất
xa, vừa đi vừa kể những chuyện vui làm cậu thấy con đường đỡ buồn và đỡ mệt mỏi
hơn.
Cuối cùng họ đến giữa hai ngọn núi thấp ngang nhau, giữa
là một khu đồi hẹp. Đấy là nơi đáng chú ý mà lão phù thuỷ muốn đưa Aladdln đến
để thực hiện một ý đồ đã đưa lão từ cuối châu Phi đến đất nước Trung Hoa. Lão
nói với cậu:
Chúng ta không đi xa hơn nữa; ta muốn cho cháu thấy ở đây
những vật khác thường người đời không biết và khi thấy cháu sẽ cám ơn ta đã cho
cháu chứng kiến những kỳ quan có một không hai. Trong lúc ta chuẩn bị, cháu thu
thập mọi cành lá xung quanh, những ìoại khô nhất để đất lửa.
Aladdin dồn rất nhiều rác rưởi thành một đống to. Lão phù
thuỷ châm lửa và trong lúc cành lá bùng cháy, lão vứt vào đấy một loại bột thơm
đã chuẩn bị sẵn. Một làn khói dày đặc bốc lên, lão quay hết phía này sang phía
khác và lẩm nhẩm những cậu thần chú mà Aladdin, chẳng hiểu gì.
Cùng lúc ấy mặt đất nơi đó rung chuyển, trước mặt hai
người lộ ra một tảng đá rộng khoảng một bộ rưỡi vuông và dày một bộ bằng phẳng,
giữa gắn chặt một vòng đồng đen dùng nâng tảng đá. Alađđin sợ hãi thấy những gì
xảy ra trước mắt, muốn bỏ chạy. Cần đảm bảo bí mật, lão phù thuỷ giữ cậu lại,
mắng và tát một cái mạnh đến nỗi cậu ngã ra đất và răng cắn vào miệng đến chảy
máu Cậu bé khốn khổ run rẩy khóc nói:
- Chú ơi, cháu đả làm gì mà chú đánh cháu đau như vậy?
- Ta có lý do để đánh - Lão phù thuỷ trả lời - Ta là chú,
bây giờ thay thế bố, cháu không được cãi lại. Nhưng cháu ạ - Lão dịu lại nóỉ
thêm - Đừng sợ, ta không đòi hỏi gì cháu ngoài việc theo đúng lời ta bảo nếu
cháu muốn cố gắng đạt được và xứng đáng với những món lợi lớn ta làm cho cháu.
Những lời hứa ngọt ngào ấy làm Aladdin yên lòng và khi
thấy cậu đã hoàn toàn bình tĩnh, lão tiếp tục nói:
- Cháu đã thấy đlều gì xảy ra nhờ bột thơm và lời thần
chú. Nên biết hiện tại dưới tảng đá này có một kho báu dành riêng cho cháu,
người mà một ngày nào đó sẽ giàu hơn tất cả những ông vua lớn nhất trên thế
giới. Điều ấy là sự thực vì không ai trên đời này ngoài cháu được phép sờ vào
tảng đá, nâng lên để chui vào. Cả ta cũng không được sờ vào và xuống kho báu
khi đã mở. Cháu phải thực hiện đúng từng điểm theo lời ta bảo. Công việc có kết
quả rất lớn đối với cháu và với ta.
Aladdin vô cùng ngạc nhiên về điều mình thấy và những gì
vừa nghe ông chú nói về kho báu sẽ làm cậu sung sướng cả đời. Quên hết chuyện
vừa bị đánh mắng cậu đứng dậy nói với lão phù thuỷ:
Nào! Thưa chú, cần làm gì đây? Chú ra lệnh đi, cháu sẵn
sàng vâng lời.
- Cháu của ta, ta hân hoan thấy cháu đồng ý - Lão vừa ôm
hôn cậu vừa nói - Lại gần đây, cầm lấy chiếc vòng nâng tảng đá lên.
- Nhưng thưa chú, cháu không đủ sức nâng nó lên; chú phải
giúp cháu.
- Không, cháu không cần chú giúp, chúng ta sẽ không làm
được gì nếu ta giúp cháu, cháu nâng lên một mình thôi. Cứ gọi tên bố cháu và
tên ông cháu khi cầm chiếc vòng nhấc lên, cháu sẽ thấy không khó khăn gì.
Aladdin làm như lão phù thuỷ bảo, nâng tảng đá lên dễ
dàng đặt sang bên cạnh.
Tảng đá được cất đi lộ ra một căn hầm nhỏ sâu ba đến bốn
bộ, có một cánh cửa và bậc thang đi xuống. Lão phù thuỷ bèn nói với Aladdin:
- Cháu của ta, hãy làm đúng như ta bảo. Cháu đi xuống căn
hầm, đến bậc thang cuối cùng sẽ thấy cánh cửa mở đưa cháu đến một vòm rộng chia
làm ba phòng lớn liên tiếp nhau. Trong mỗi phòng cháu thấy bên phải và bên trái
có bốn chiếc vại lớn bằng đồng đen, đựng đầy vàng và bạc nhưng đừng sờ vào. Trước
khi vào phòng thứ nhất cháu vén áo buộc chặt vào người; vào trong ấy cháu đi
thẳng qua phòng thứ hai không dừng lại, từ đó qua phòng thứ ba cũng không dừng
lại. Chú ý đừng lại gần và đụng vào những bức tường, nếu đụng vào tường, đù chỉ
là áo đụng vào cháu cũng chết ngay. Cuối gian phòng thứ ba có một cánh cửa mở
ra khu vườn cây rất đẹp đầy quả. Cháu cứ đi thẳng, qua khu vườn theo con đường
dẫn đến bậc thang năm mươi bậc đưa lên một cồn đất. Trên cồn đất cháu thấy một
cái hốc và trong hốc có chiếc đèn thầp sáng. Cháu cầm lấy đèn, tắt đi, vứt bỏ ngọn
đèn, đổ nước trong đó ra, bỏ đèn vào lòng mình đưa ra cho chú. Cháu đừng sợ
hỏng áo vì nước ấy không phải dầu và khi không còn nước, đèn sẽ khô ráo. Nếu
cháu thích quả cây, cứ hái bao nhiêu cũng được, việc ấy không bị cấm.
Nói thế xong, lão phù thuỷ rút chiếc nhẫn đeo ở ngón tay,
đeo vào một ngón tay của Aladdin nói là để dự phòng những gì xấu có thể gặp
phải và dặn dò nhớ kỹ lời lão. Tiếp đó lão bảo:
- Đi đi, cháu của ta, bước xuống táo bạo lên, chúng ta
sắp giàu suất đời rồi.
Aladdin nhẹ nhàng nhảy vào căn hầm, xuống tận bậc đưới
cùng, vào cửa thấy ba gian phòng như ông chú tả, và cậu cẩn thận đi qua các
phòng, qua khu vườn không dừng lại Cậu leo lên cồn đất, cầm lấy chiếc đèn đang
cháy trong hốc, vứt ngọn đổ nước trong đèn ra, thấy khô ráo như lão phù thuỷ đã
nói bèn bọc vào lòng. Cậu xuống khỏi cồn đất, đứng lại trong vườn ngắm những
quả cây đã thấy khi đi qua. Cây trong vườn đầy những quả khác thường, mỗi cây
mang quả màu sắc khác nhau. Có những quả trắng, ánh lên và trong suốt như thuỷ
tinh, những quả đỏ, xanh, tím, hơi vàng và nhiều màu khác. Những quả cây màu
trắng là ngọc, lấp lánh và trong suốt là kim cương, màu đỏ là hồng ngọc, màu
xanh là ngọc bích vân vân... Những quả ấy to lớn và hoàn hảo người ta chưa từng
thấy trên đời. Aladdin không biết giá trị, không xúc động gì trước những quả
ấy, không thích bằng những quả vả, nho và những quả ngon khác phổ biến ở Trung
Hoa. Cậu hình đung đây chỉ là những quả thuỷ tinh màu, không đáng giá hơn
nhiều. Tụy vậy những màu săc muôn vẻ, mỗi quả lại đẹp và to lớn khác thường làm
cậu muốn hái đủ các loại nhét đầy hai túi chiếc áo và hai túi vải mới lão phù
thuỷ mua cho. Khi áo đã căng phồng, cậu buộc vào hai bên thắt lưng còn giắt vào
gấp nếp thắt lưng và không quên nhét vào bụng, giữa áo dài và sơ mi quấn quanh
người.
Aladdin mang bao nhiêu của cải như thế mà không biết, trở
lại gấp con đường để ông chú khỏi phải chờ lâu. Sau khi qua ba gian phòng cẩn
thận như lần trước, cậu bước lên lối vào căn hầm chỗ lão phù thuỷ đang nóng
lòng chờ đợi. Thấy lão, cậu nói:
- Thưa chú, chú đưa tay kéo glúp cháụ lên.
Lão phù thuỷ bảo:
- Cháu ạ, đưa chiếc đèn cho chú trước đã khỏi bị vướng.
- Xin lỗi chú, nó không làm vướng cháu đâu, lên đến nơi
cháu sẽ đưa.
Lão phù thuỷ cương quyết muốn Aladdin đưa chiếc đèn trước
khi kéo cậu lên và Aladdin vướng chiếc đèn với các loạl quả cây mang khắp người
nhất định từ chối đưa chiếc đèn trước khi lên khỏi hầm. Thất vọng về sự chống
cự của chàng trai, lão phù thuỷ điên lên vì giận, ném một ít bột thơm vào lửa,
vừa đọc mấy câu thần chú thì tảng đá tự chuyển ìại chỗ cũ đóng cửa hầm, đất lại
phủ lên trên như trước lúc lão và Aladdin mới đến.
Chắc chắn lão phù thuỷ không phải em ông Mustafa thợ may,
do đó không phải là chú của Aladdin. Lão là người châu Phi, sinh ra tại đó,
châu Phi là một nước có nhiều người hành nghề phù thuỷ hơn bất cứ chỗ nào. Lão
tập làm từ khi còn trẻ và sau khoảng bốn mươi năm làm phù phép, bói toán đọc
sách phù thuỷ lão phát hiện ra trên đời có một chiếc đèn thần, nếu chiếm được
sẽ có quyền lực hơn bất cứ một ông vua nào trên thế giới. Theo một đợt bói
phong thuỷ, lão biết chiếc đèn đang để trong đất nước Trung Hoa, ở một chỗ mà
trong quang cảnh như đã nói trên. Tin chắc vào sự phát hiện đó lão tiến hành
một cuộc đi xa, vất vả, đến gần thành phố tiếp cận với kho báu. Nhưng tuy chiểc
đèn đúng ở chỗ đã biết, lão không được phép tự mình nâng tảng đá lên và xuống
đưới căn hầm. Phải có một người khác xuống đấy lấy chiếc đèn đưa vào tay lão. Vì
thế lão làm quen với Aladdin, cậu có vẻ là một đứa trẻ vô tư thích hợp với việc
lão cần và lão quyết định khi đã có chiếc đèn, sẽ phù phép đóng cửa hầm, hy
sinh cậu bé để phi tang. Lão tát Aladdin và ra oai với cậu nhằm làm cậu sợ nhất
nhất vâng lời để khi bảo đưa chiếc đèn thần cậu phải đưa ngay. Sự việc diễn ra ngược
lại ý muốn, lão vội độc ác thủ tiêu Aladdin, sợ chần chừ sẽ có người nghe, biết
điều muốn giấu kín.
Khi lão phù thuỷ thấy không còn hy vọng lão lên đường trở
về châu Phi, không qua thành phố nơi lão ra đi với Aladdin, sợ nhìều người đã
thấy cùng đi với cậu mà trở lại không có cậu.
Xem ra người ta không được nghe nói về Aladdin nữa. Nhưng
ngay cả người muốn cậu biến mất mãi mãi cũng quên việc lão đã đeo vào ngón tay
Aladdin một chiếc nhẫn có thể cứu cậu.
Aladdin chưa hề nghĩ đến tâm địa độc ác của ông chú mạo
danh chỉ biết đến những âu yếm và điều tết lão đã làm cho cậu. Khi thấy bị chôn
sống, cậu gọi chú hàng nghìn lần, kêu lên sẵn sàng đưa chiếc đèn nhưng vô ích. Đành
ở trong cảnh tối tăm của căn hầm, sau khi khóc chán chê cậu xuống cuối thang
định ra ngoài ánh sáng khu vườn đã đi qua. Bức tường trước đây mở ra vì phép lạ
đã tự đóng lại rồi, cậu sờ soạng khắp nơi không thấy cánh cửa, cậu càng kêu
khóc gấp bội, ngồi ở bậc thang căn hầm không hy vọng gì thấy lại ánh sáng, buồn
bã chắc chắn về cái chết đến gần.
Aladdin trong tình trạng đó hai ngày không ăn uống. Ngày
thứ ba thấy cái chết không tránh khỏi, cậu giơ hai tay lên kêu trời. Với cử
động chắp hai tay ấy, cậu vô tình xát mạnh chiếc nhẫn lão phù thuỷ đeo vào ngón
tay cho mà chưa biết quyền lực của nó. Ngay lập tức một vị thần khuôn mặt đồ
sộ, cái nhìn đáng sợ, sừng sững hiện ra trước mặt như từ dưới đất lên, đầu đung
tới vòm hầm, nói với Aladdin:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lệnh Người như kẻ nô
lệ của những người có chiếc nhẫn ở ngón tay, tôi và những kẻ nô lệ khác của
chiếc nhẫn đều thế.
Ở mọi trường hợp khác, Aladdin vốn không quen thấy như
vậy, sẽ sợ hãi và không nói nên lời trước khuôn mặt kỳ lạ ấy. Nhưng lo lắng về
mối nguy hiểm hiện tại, cậu không ngập ngừng bảo:
- Ông là ai cũng thế, nếu có quyền lực thì đưa tôi ra
khỏi nơi này.
Cậu vừa dứt lời, mặt đất mở ra và cậu đã đứng ngoài cửa
hầm, đúng ở chỗ lão phù thuỷ dẫn đến.
Aladdin ở lâu trong đêm tối, lúc đầu khó chịu đựng được
ánh sáng ban ngày. Mắt quen dần, cậu nhìn quanh mình thấy rất lạ không có lỗ
hổng trong đất, không hiểu mình ra khỏi lòng đất bằng cách nào. Chỉ còn chỗ đất
rác làm cậu nhận ra tương đối căn hầm ở đâu. Ngoảnh về phía thành phố, cậu thấy
những khu vườn quanh đấy và nhận ra con đường lão phù thuỷ đã đẫn cậu đến đây. Cám
ơn trời đất đã cho mình được trở về cuộc sống, cậu theo đường ấy trở lại thành
phố và mệt nhọc lê về đến nhà. Vui mừng gặp lại mẹ, thêm vào sức yếu vì ba ngày
không ăn, cậu ngất đi một lúc. Bà mẹ đã khóc con vì mất tích hay đã chết, thấy
cậu trong tình trạng ấy, lo chạy chữa để cậu tỉnh lại. Bước đầu hồi phục, những
lời đầu tiên của cậu là:
- Mẹ ơi, trước hết cho con ăn đã, đã ba ngày nay con
không được ăn tí gì.
Bà mẹ đưa lại cho con những gì mình có,và bảo:
- Con trai, đừng ăn vội vàng rất nguy hiểm, ăn từng ít
một rồi sau hãy ăn tuỳ thích, con cần nghỉ ngơi, thậm chí mẹ không muốn con nói
chuyện. Khi đã khoẻ con sẽ kể lại với mẹ. Được gặp lại con mẹ rất yên tâm sau
bao lọ lắng từ hôm thứ sáu thấy trời tối mà con không về nhà.
Aladdin nghe lời mẹ, bình tĩnh ăn dần dần, uống từng
ngụm. Xong bữa, cậu nói với mẹ:
- Mẹ ơi, con rất buồn là mẹ đã dễ dàng phó thác con cho
cái người có ý định thủ tiêu con và tròng lúc con đang nói đây, hắn chắc chắn
con đã chết rồi. Mẹ nghĩ hắn là chú con và con cũng tưởng thế. Chài Chúng ta
nghĩ thế nào khác được trước một người âu yếm, tốt với con và hứa hẹn những
việc làm có lợi như thế? Mẹ biết không, hắn chỉ là một kẻ phản phúc, độc ác,
lừa lọc. Hắn tốt với con, hứa hẹn như thế để đi tới mục đích thủ tiêu con như
con đã nói mà cả mẹ và con đều không biết vì nguyên nhân gì. Mẹ sẽ hiểu ra khi
nghe con kể lại cặn kẽ sự việc xảy ra từ khi con đi với hắn cho đến khi hắn
thực hiện ý đồ.
Aladdin thuật lại những gì từ ngày thứ sáu lão phù thuỷ
đến dẫn cậu đi xem nhũng lâu đài, những khu vườn bên ngoài thành phố trên đường
đến hai ngọn núi, chỗ lão phù thuỷ làm phép lạ vứt một loại bột thơm vào ngọn
lửa và đọc mấy câu thần chú, mặt đất mở ra ngay và có một lối vào căn hầm dẫn
tới kho báu vô giá. Cậu không quên cái tát của lão phù thuỷ và sau đó dịu lại,
lão hứa hẹn nhiều, đeo chiếc nhẫn vào ngón tay cậu, bảo đi xuống căn hầm. Cậu
không bỏ sót một chút nào về những gì mình đã thấy qua ba gian phòng, khu vườn
và cồn đất. Sau đó cậu đưa cho mẹ xem chiếc đèn cậu đã lấy ở đó cùng những quả
cây trong suốt, nhiều màu đã hái khi trở lại bỏ đầy hai túi vải. Những quả ấy
thực ra là những đá quý, lóng lánh như mặt trời, chiếu sáng cả gian phòng, có
thể đoán được giá trị rất lớn. Mẹ Aladdin cũng chẳng biết gì về những cái đó
hơn con trai, bà được nuôi dưỡng trong điều kiện khốn khó, chồng bà không giàu
có để cho bà những đá quý, bà cũng không bao giờ thấy những đá quý như vậy ở
nhà người thân hoặc hàng xóm. Vì vậy không lạ lùng gì khi bà nhìn chúng như
những vật ít giá trị, có chăng chỉ làm vui mắt vì nhiều màu sắc. Do đó Aladdin
để những túi đá quý phía sau chiếc ghế cậu đang ngồi. Cậu kể tiếp câu chuyện từ
lúc sắp sửa ra khỏl cửa hầm, vì từ chối đưa cho lão phù thuỷ chiếc đèn, lão ta
phù phép làm cửa hầm đóng ngay lại. Cậu không ngăn được nước mắt chảy khi kể
tình trạng khổ sở dưới hầm lúc thấy mình bị chôn sống trong lòng đất và chỉ trở
lại trên đời nhờ vô tình chà xát vào chiếc nhẫn. Kể xong cậu nói với mẹ:
- Phần còn lại mẹ đã biết không cần nói thêm gì. Đây là
cuộc phiêu lưu của con, mối nguy hiểm con trải qua từ khi mẹ không thấy con
nữa.
Mẹ Aladdin chăm chú nghe hết câu chuyện thần kỳ lạ lùng
đã làm đau lòng người mẹ yêu thương con mình tuy nó có những khuyết điểm. Trong
những chỗ cảm động nhất thể hiện rõ tmh gian đốl của lão phù thuỷ bà không ngăn
được cử chỉ giận dữ căm ghét của mình. Con trai kể xong, bà chửi rủa tên lừa
bịp hàng tràng, gọi hắn là lừa đảo, gian dối, dã man, giết người, phù thuỷ, kẻ
thù phá hại loài người. Bà nói thêm:
- Đúng đấy con ạ, hắn là một lão phù thuỷ, là kẻ thù của
mọi người, phù thuỷ quan hệ với ma quỷ bằng những phù phép, hành động bí hiểm. Nhờ
Trời con thoát được cái chết không tránh khỏi vì việc làm độc ác của hắn không
thực hiện được .
Bà còn nói nhiều điều, căm ghét lão phù thuỷ lừa gạt con
trai bà nhưng nhận thấy Aladdin đã ba ngày không ngủ, bà bảo con đi nằm và bà
cũng đi ngủ.
Chàng trai ngủ say suốt đêm, chỉ thức đậy rất muộn vào
sáng hộm sau. Cậu ra gặp mẹ, câu đầu tiên cậu nói với mẹ là đói, rất vui sướng
được mẹ cho ăn trưa. Bà mẹ trả lời:
- Than ôi? Con trai, mẹ không còn một mẩu bánh cho con;
hôm qua con đã ăn hết số thực phẩm ít ỏi còn lại trong nhà. Nhưng con chịu khó
một lúc, mẹ có một số sợi vải đưa đi bán, chẳng mấy chốc sẽ mua bánh và thức ăn
về chúng ta cùng ăn tối.
- Mẹ ơi - Aladdin nói - Mẹ để dành sợi vải vào dịp khác;
đưa con chiếc đèn con đem về hôm qua, con sẽ đi bán lấy tiền mua thứ gì ăn
trưa, tối và có lẽ sẽ đủ cho cả bữa khuya nữa đấy.
Bà mẹ vào chỗ bà đã cất giữ lấy đèn ra:
- Đây bà nói với con - nhưng bẩn lắm, lau chùi sạch đi
chắc sẽ có giá hơn.
Bà lấy cát mịn và nước để đánh sạch đèn. Vừa xát vào
chiếc đèn, ngay lập tức trước mặt bà và cậu con xuất hiện một vị thần xấu xí,
to lớn đồ sộ, giọng oang oang:
- Người muốn gì? .Tôi sẵn sàng vâng lệnh như kẻ nô lệ của
Người, nô lệ của những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn đều
thế.
Mẹ Aiadđin không còn sức để trả lời. Thấy khuôn mặt xấu
xí, đáng sợ, vừa nghe thần cất tiếng nói bà đã kinh hãi ngã lăn ra bất tỉnh.
Aladđin đã thấy thần xuất hiện gần như thế dưới căn hầm,
nên không bỏ phí thì giờ suy xét, cầm ngay lấy chiếc đèn bổ sung thiếu sót của
mẹ, cậu trả lời thay bà:
- Tôi đói, đem thức gì ăn đến cho tôi.
Vị thần biến mất, một lúc sau trở lại đội trên đầu một
khay lớn bằng bạc đựng mười hai đĩa bạc đầy thức ăn thật ngon cùng sáu chiếc
bánh trắng như tuyết, hai chai rượu vang và hai chiếc ly bạc cầm tay. Ông ta
đặt những thứ ấy lên ghế xô-pha rồi biến mất.
Việc ấy xảy ra chỉ trong giây lát trong lúc mẹ Aladdin
đang bất tỉnh. Cậu con trai phải vẩy nước lên mặt mẹ đến mấy lần để giúp bà
hoàn hồn và có lẽ cả mùi vị thức ăn ngon vị thần đưa tới cũng có góp phần tác
động, nên một lúc sau bà tỉnh ìại. Aladdin nói:
- Mẹ ơi, việc đó không là gì đâu, mẹ đậy và lại ăn đi,
đây là những thứ làm mẹ yên lòng và thoả mãn yêu cầu ăn uống của con. Đừng để
nguội lạnh nhửng thức ăn ngon như thế, chúng ta ăn thôi.
Bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi thấy khay lớn đầy các thứ ăn
ngon, bánh, rượu và mùi thơm toả ra từ những đa thức ăn, hỏi con:
- Con ơi, do đâu mà dồi dào đến thế và chúng ta phải ơn
ai về sự hào phóng này? Có phải nhà vua biết chúng ta nghèo khó đã chiếu cốcho
chúng ta không?
- Thưa mẹ, chúng ta lại bàn ăn thôi, mẹ cũng cần như con,
ăn xong con sẽ nói rõ với mẹ.
Họ ngồi vào bàn, ăn rất ngon miệng như chưa bao giờ có
được một bữa ăn đầy đủ.
Trong lúc ăn, mẹ Aladdin nhìn ngắm không mỏi khay và
những đa thức ăn tuy không biết rõ bằng bạc hay chất liệu gì vì chưa từng thấy
những dụng cụ như vậy, nói đúng ra là không biết giá trị của chúng mà chỉ sự
mới lạ của chúng đã đủ làm bà thán phục, con trai bà cũng chẳng biết gì hơn.
Aladdin và mẹ không nghĩ đó chỉ là một bữa ăn trưa đơn
giản mà họ dùng làm bữa ăn tối luôn. Những thức ăn tuyệt ngon làm họ thấy ngon
miệng và vì trong lúc thức ăn còn nóng, họ nghĩ nhập hai bữa ăn làm một cũng
tốt, không phải ăn làm hai lần. Bữa ăn kép xong, còn lại không chỉ cho bữa ăn
khuya mà khá đủ cho hai bữa ăn no nê vào ngày hôm sau.
Sau khi mẹ Aladdln ăn xong và cất riêng thức ăn còn lại cho
những bữa sau bà đến ngồi trên ghế xô pha gần con mình.
- Aladdin - Bà nói - Ta nóng lòng muốn nghe câu chuyện
con đã hứa.
Aladdin kể lại đúng việc xảy rạ giữa vị thần và cậu trong
lúc bà mẹ ngất đi.
Bà rất ngạc nhiên về lời kể của con và sự xuất hiện của
vị thần, liền hỏi con:
- Con muốn nói gì về những vị thần của con thế? Từ khi ta
sinh ra đến nay, không nghe nói có ngườl nào đã gặp thần thánh. Tại sao vị thần
xấu xí ấy đến trước mặt mẹ? Vì lẽ gì ông ấy nới với mẹ chứ không phải với con,
người mà ông đã xuất hiện trước mặt dưới căn hầm?
- Thưa mẹ, vị thần vừa rồi không phải là người đã đến với
con. Họ giống nhau về đáng đlệu khổng lồ nhưng hoàn toàn khác nhau về khuôn mặt
và cách ăn mặc. Họ thuộc về những người chủ khác nhau. Nếu mẹ nhớ lại, người
con đã thấy xưng là nô lệ của chiếc nhẫn ở ngón tay con và người mẹ vừa thấy là
nô lệ của chiếc đèn mẹ cầm trong tay.
- Thế nào? Như vậy chiếc đèn của con là nguyên nhân vị
thần đáng sợ ấy nói với mẹ? Chà, con ơi? Con cất chiếc đèn khỏi mắt ta, để vào
đâu tuỳ thích, ta không muốn sờ mó đến nố nữa. Ta bằng lòng vứt nó hoặc bán đi
còn hơn nguy cơ chết vì sợ hãi. Nếu tin mẹ, con cũng nên bỏ chiếc nhẫn đi. Không
nên quan hệ với các vị thần, đó là những ma quỷ mà các nhà tiên tri đã nói.
- Thưa mẹ, nếu mẹ cho phép, con sẽ không bán nó như đã dự
định, chiếc đèn sẽ rất có ích cho mẹ con chúng ta. Mẹ không thấy nó vừa cho ta
những gì à? Phải để nó tiếp tục cung cấp cho chúng ta ăn, mặc. Chắc mẹ cũng
đoán được phải có lý đo gì ông chú hờ độc ác của con mới có hành động ấy, làm
một chuyến đi dài và vất vả như vậy. Chính để chiếm được chiếc đèn thần, ham
muốn hơn cả mọi vàng bạc ông ta biết có trong các phòng và con cũng đã thấy tận
mắt. Ông ta biết rõ giá trị của chiếc đèn nên chẳng đòi hỏi gì khác ngoài kho
báu dồi đào ấy. Sự tình cờ đã cho chúng ta biết quyền lực của đèn, chúng ta
phải sử dụng nó, cho có lợi nhưng phải thật kín đáo, để chòm xóm khỏi thèm muốn
và ghen ghét chúng ta. Con sẽ cất giấu một chỗ khuất mắt mẹ, sẽ tìm lại khi
cần. Về chiếc nhẫn con cũng không vứt bề được, không có nhẫn mẹ đã không bao
giờ gặp lại con nữa. Mẹ cho con giữ nó lại và luôn đeo nó vào ngón tay như vật
quý. Biết đâu con sẽ gặp một hiểm nguy khác, mẹ và con không lường được và
chính nó sẽ cứu con?
Aladdin nói rất có lý, mẹ cậu không có gì bàn cãi thêm. Bà
nói:
- Con trai, con hãy làm như con nghĩ. Riêng mẹ, mẹ không
muốn dính líu với các vị thần. Mẹ nói rồi, mẹ không dính líu về chuyện đó hơn
nữa.
Chiều tiếp théo và bữa khuya ăn nốt thức ăn vị thần đã
đưa tới. Hôm sau Aladdin không chờ đói thôi thúc, cầm một chiếc đĩa bạc giấu
dưới áo đem đi bán ngay từ sáng sớm. Cậu gặp một người Do Thái trên đường, kéo
riêng ra đưa chiếc đa cho xem hỏi có muốn mua không.
Ngựời Do Thái, tinh ranh, cầm chiếc đĩa ngắm nghía, biết
ngay thuộc loại bạc tốt, hỏi giá bao nhiêu. Aladdin vốn không biết giá trị và
chưa mua bán loại này bao giờ đành bảo lão tự nói giá trị của chiếc đĩa và cậu
tin tưởng lão thành thật. Người Do Thái bối rối trước thái độ ngây thơ của
Aladdin, nhưng lão nghĩ rằng cậu không biết chất lượng và giá trị, nên rút ra
một đồng tiền vàng chỉ là một phần sáu mươi hai, giá bán chiếc đĩa đưa cho cậu.
Aladdin vội cầm lấy đồng tiền và đi ngay khiến người Do Thái chưa hài lòng về
món lời chưa thật lớn, ông ta bực mình vì đã không nghĩ Aladdin không biết giá,
lẽ ra phải trả tiền ít hơn nhiều. Lão ta định đi theo chàng trai lấy lại một ít
nhưng Ataddin chạy đã xa đuổi không kịp.
Aladdin trên đường về nhà, dùng đồng tiền vàng mua bánh
cho mẹ và mình, số tiền thừa đưa cho mẹ đi chợ mua thực phẩm, cần thiết để mẹ
con ăn mấy ngày.
Họ tiếp tục sống như thế, nghĩa là Aladdin bán tất cả
những chiếc đĩa cho người Do Thái lần lượt đến chiếc thứ mười hai theo như lần
đầu tiên mỗi khi gia đình hết tiền. Người Do Thái đứa một đồng tiền vàng như
lần trước, không dám bớt sợ mất món hời quá lớn lão trả tất cả những chiếc đĩa
cùng một giá. Đến lượt chiếc khay, nặng gấp mười lần mỗi chiếc đĩa cậu đã đưa
cho người Do Thái đem về nhà; lão ta sau khi cân trọng lượng, trả ngay mười
đồng vàng, Aladdin chấp nhận.
Khi tiêu hết mười đồng tiền vàng, cậu lại nhờ vào đèn. Cầm
chiếc đèn trong tay tìm chỗ mẹ đã xát vào đó, cậu xát như mẹ đã làm, vị thần
trước đây xuất hiện ngay. Do Aladdin xát nhẹ hơn, thần nói với giọng dịu hơn:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lời như kẻ nô lệ của
Ngườỉ và tất cả những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn cũng
thế.
Aladdin bảo:
- Tôi đói, mang cho tôi thức gì ăn.
Thần biến đi, một lúc sau trở lại đội một bữa ăn như lần
trước để trên ghế xô-pha và biến mất.
Mẹ Aladdin được báo về ý định của con, ra ngoài làm một
số công việc để không ở nhà khi thần đèn xuất hiện. Ít lâu sau đó bà trở về,
cũng gần ngạc nhiên như lần trước về tác dụng kỳ diệu của chiếc đèn. Hai mẹ con
ngồi vào bàn và sau khi ăn xong phần còn lại của thức ăn vẫn còn đủ cho hai
ngày sau.
Khi Alađdin thấy trong nhà không còn bánh, thực phẩm
khác, cũng không có tiền để mua, cậu cầm một chiếc đĩa bạc đi tìm người Do Thái
để bán. Qua cửa hiệu một người thợ kim hoàn một người đáng kính vì già cả;
trung thực và ngay thẳng, bỗng ông gọi cậu vào bảo:
- Con trai, ta thấy anh đi qua đây nhiều lần cầm cái gì
đó như mọi lần đến gặp người Do Thái ấy và trở về không cầm gì nữa, ta hình
dung anh đã bán cho ông ta. Có lẽ anh không biết đấy là một tay lừa bịp, thậm
chí mánh khoé hơn những người Do Thái khác và những ai đã biết rõ không quan hệ
với ông ta. Ta nói thật đấy. Ánh đưa ta xem anh mang cái gì vậy và muốn bán, ta
sẽ trả đúng giá nếu phù hợp với ta, nếu không ta sẽ giới thiệu với những nhà
buôn khác không lừa bịp anh.
Hy vọng được nhiều tiền hơn, Aladdin rút chiếc đĩa dưới
áo ra đưa cho người thợ kim hoàn xem. Ông già biết là bạc tinh khiết, hỏi cậu
có bán những chiếc đa loại này cho người Do Thái không và ông ta trả bao nhiêu?
Aladdin ngây thơ nói đã bán mười hai chiếc, mỗi chiếc một đồng vàng. Người thợ
kim hoàn kết luận:
- Chàl Thằng ăn cướp! Nhưng con trai, việc gì đã làm là
xong, không nghĩ đến nữa. Ta cho anh xem chiếc đĩa đáng giá ra sao, đó là loại
bạc tốt nhất ta vẫn dùng ở cửa hiệu, anh sẽ biết rõ tay Do Thái lừa anh đến mức
nào.
Ông lấy cân ra, cân trọng lượng chiếc đĩa và sau khi giải
thích chất lượng bạc, ông lưu ý cậu theo trọng lượng chiếc đĩa, nó giá đến bảy
mươi hai đồng vàng, ông đếm trả ngay bằng tiền mặt nói:
- Đấy là giá đúng của chiếc đĩa. Nếu anh nghi ngại cứ đi
hỏi những thợ kim hoàn khác tuỳ thích, họ nói đáng giá hơn ta hứa sẽ trả anh
gấp đôi. Chúng ta chỉ lãi về công làm đồ trang sức với số bạc chúng ta mua và
những người Do Thái chính trực nhất cũng không làm thế.
Aladdin rất cám ơn người thợ kim hoàn về lời khuyên xác
đáng, và nhờ đó cậu đã có lợi lớn. Sau đó cậu bán cho ông những chiếc đĩa khác
và cả chiếc khay, được trả đúng giá thực trọng lượng. Tuy Aladdin và mẹ có một
nguồn tiền bạc vô tận từ chiếc đèn, họ vẫn tiếp tục sống đạm bạc như trước, để
dành tiền lại sống một cách lương thiện và mua một số vật dụng cần thiết. Mẹ
cậu cũng chỉ tiêu pha, may quần áo dựa vào số tiền mười hai chiếc đĩa và khay
bạc bán cho người thợ kim hoàn. Họ sống theo cách đó mấy năm, thỉnh thoảng mồi
phải dùng đến đèn thần.
Trong thời gian ấy chàng rất chăm gặp gỡ những người có
tiếng tăm trong giới cáe nhà buôn lớn nhất về chăn đệm quý, vải vóc đẹp, tơ lụa
và đồ trang sức. Qua những câu chuyện của họ, chàng có được phong thái của tầng
lớp quý tộc từ lúc nào không hay đặc biệt qua những cửa hàng trang sức đá quý,
chàng biết mình đã lầm tưởng những quả cây trong suốt nhiều màu hái trong khu
vườn khi đi lấy đèn chỉ là thuỷ tinh màu, đấy chính là những đá quý rất cao
giá. Nhiều lần thấy người ta mua bán các loại đá quý, chàng biết được giá trị
của chúng và thấy không có loại nào đẹp và lớn như những quả của chàng, chàng
hiếu rõ mình đã có một kho báu vô giá. Chàng khôn ngoan không nói với ai, kể cả
với mẹ và đinh ninh sự im lặng đó đưa lại cho chàng một số phận cao sang.
Một hộm dạo chơi trong một khu phố, Aladdin nghe thông
báo một mệnh lệnh của nhà vua bắt đóng cửa các hàng quán, các cửa nhà và mọi
người phải ở trong nhà đế công chúa Badroulboudour, con gái vua đi qua ra nhà
tắm cho đến khi lúc trở về.
Lời thông báo ấy làm Aladdin nảy sinh tò mò muốn nhìn mặt
công chúa không che mạng. Chàng có thể làm việc đó bằng cách đứng trong nhà một
người quen hé nhìn, song chàng không hài lòng thế vì theo phong tục, công chúa
phải che mặt. Để thoả mãn chàng tìm một cách chắc chắn hơn đó là đến đứng phía
sau cánh cửa nhà tắm nấp kín để nhìn được mặt công chúa.
Aladdin chờ không lâu. Chàng thấy nàng đi tới với một
đoàn thị nữ hộ tống xung quanh và phía sau. Khi cách cánh cửa nhà tắm ba bốn
bước, nàng cất tấm mạng che mặt làm vướng víu đi nên Aladdin nhìn thấy nàng
thoải mái đi thẳng lại phía chàng.
Cho đến lúc đó Aladdin chưa từng được nhìn người phụ nữ
nào khác cởi mạng che mặt ngoài mẹ mình vốn đã là không còn những nét đẹp đáng
kể để thấy những người đàn bà khác đẹp hơn. Chàng có nghe nói về sắc đẹp lạ
thường của công chúa nhưng chưa có lời nói nào tả được hết vẻ đẹp như chính bản
thân sắc đẹp của nàng.
Khi thấy công chúa Badroulbouđour, chàng mất hẳn ý nghĩ
mọi phụ nữ đều gần giống như mẹ. Tâm trạng bối rối và tim chàng không thể không
hướng về đối tượng vừa làm chàng ngây ngất. Thực vậy, công chúa là cô gái đẹp
nhất trên đời. Đôi mắt to tinh nhanh và lóng lánh, cái nhìn hiền dịu và khiêm
tốn, mũi cân đối, miệng nhỏ, đôi môi tuyệt đẹp hài hoà. Tóm lại, những nét trên
khuôn mặt đều đặn hoàn hảo. Không lạ gì khi Aladdin bị choáng ngợp, thất thần
trước vẻ đẹp xưa nay lạ lẫm đối với cậu. Ngoài những nét tuyệt hảo ấy công chúa
có một thân hình đầy đặn, phong thái trang nghiêm mà chỉ nhìn thấy nàng người ta
đã hết lòng kính trọng.
Khi công chúa vào phòng tắm, Aladdin đứng ngẩn người một
lúc, khoan khoái hình đung lại những gì làm chàng say mê tận đáy lòng. Bình
tĩnh lại, thấy công chúa đã đi vào chàng có đứng tại chỗ cũng vô lch vì khi ra
nàng đã che mặt nên chỉ thấy lưng, chàng đành rút lui khỏi chỗ .
Về đến nhà Aladdin không giấu được mẹ sự bối rối băn
khoăn của mình. Bà ngạc nhiên thấy chàng buồn và mơ mộng trái với thường ngày
nên hỏi có việc gì xảy ra hay chàng bị ốm. Chàng không trả lời, luôn lơ đãng
ngồi xuống ghế xô-pha, bận tâm vẽ lại hình ảnh tuyệt vời của công chúa
Badroulboudour. Bà mẹ chuẩn bị bữa ăn khuya không gặng hỏi thêm. Khi xong bà
đưa lại gần eùng ăn nhưng chàng con vẫn không hề chú ý. Bà giục chàng ăn mà khó
khăn lắm chàng mới thay đổi tư thế ngồi. Chàng ăn ít, cúi mặt, tuyệt đối im
lặng; bà mẹ không sao gặng được chàng nói một lời về sự thay đổi khác thường
ấy.
Sau bữa ăn, bà mẹ lại muốn hỏi về nỗi buồn sâu nặng ấy
nhưng chàng muốn đi nằm hơn là cho mẹ biết chuyện của mình.
Chẳng cần kể lại Aladdin say mê sắc đẹp công chúa
Badrouthoudour đã qua một đêm như thế nào, chỉ biết hôm sau ngồi trên ghế trước
mặt mẹ đang kéo sợi chàng nói với mẹ như thế này:
- Mẹ ơi, hôm qua ra ngoài khu phố lớn trở về con im lặng
mãi làm mẹ phiền lòng, cỏn biết. Con nói để mẹ rõ, con không đau ốm gì như mẹ
nghĩ, bây giờ cũng không. Nhưng có thể nói điều con cảm thấy vâ không ngừng
trăn trở còn tệ hại hơn một căn bệnh. Con không biết thế nào nhưng nghe con nói
chắc mẹ biết rõ.
Trong khu người ta không biết, mẹ cũng không thế biết
chiều hôm qua công chúa Badroulboudour, con gái nhà vua đi tắm. Đang đi ngoài
đường phố con nghe được tin ấy. Người ta ra lệnh đóng các cửa hàng, vào trong
nhà để đảm bảo danh dự cho công chúa, cho nàng tự do đi trên đường. Con đang ở
gần nhà tắm, tò mò muốn xem mặt công chúa nên nảy ra ý định đến nấp sau cửa nhà
tắm nghĩ rằng nàng sẽ bỏ mạng che mặt lúc bước vào. Mẹ biết cánh cửa được bố
trí ra sao rồi và có thể đoán con đã nhìn nàng thoải mái. Thực thế, nàng bỏ
mạng ra khi vào nhà tắm và con có diễm phúc chiêm ngưỡng sắc đẹp của công chúa.
Thưa mẹ đấy là nguyên cớ tình trạng của con khi về nhà và giữ im lặng cho đến
bây giờ. Con yêu công chúa dữ dội đến mức không diễn tả được với mẹ; lòng say
mê của con lúc nào cũng mãnh liệt, tươi nguyên và con cảm thấy tình yêu ấy chỉ
được thoả mãn khi lấy được công chúa Badroulboudour nên con quyết định phải xin
hỏi nàng làm vợ .
Mẹ Aladdin chú ý nghe con nói đến hết nhưng khi biết ý
định của con là xin hỏi công chúa làm vợ, bà phá lên cười Aladdin muốn tiếp tục
nói nhưng bà lại ngắt lời con:
- Này, con ơi, con nghĩ gì thế? Phải mất trí rồi mới nói
với mẹ điều ấy.
- Mẹ ơi, xin cam đoan với mẹ, con không mất trí đâu, rất
tỉnh táo, con đã lường trước mẹ sẽ mắng con điên rồ, quái gở và những gì mẹ có
thể làm, nhưng tất cả những điều đó không ngăn cản được con nói một lần nữa với
mẹ là con đã quyết định xin nhà vua cho hỏi công chúa Badroulboudour làm vợ.
- Thực ra con ơi, - bà mẹ lại rất nghiêm chỉnh nói với
con, - mẹ không thể không nói là con quên mất mình là ai rồi, và dù con muốn
thực hiện ý định đó thì mẹ chẳng thấy ai là người con đám nhờ chuyển yêu cầu đó
lên nhà vua.
- Nhờ ngay chính mẹ chứ ai.
- Nhờ mẹ à?- Bà mẹ kêu lên kinh ngạc. - Đến đề nghị nhà
vua? Chà! Mẹ không dấn thân làm việc đó đâu. Con là ai, con trai, mà dám ngông
cuồng nghĩ đến con gái vua? Con quên con là con trai một người thợ may hèn kém
trong kinh thành và của một người mẹ nguồn gốc không cao quý rồi ư? Con có biết
những ông vua không thèm gả con gái cho cả những người con trai vua không hy
vọng cũng có ngôi vị tôn quý như họ?
- Mẹ ơi - Aladdin đáp - Con nói con đã dự kiến trước
những điều mẹ vừa nói với con và con cũng nói như vậy về những điều mẹ có thể
nói thêm nữa. Mẹ nói gì và thái độ ra sao cũng không làm con thay đổi tình cảm
được. Con đã nói nhờ mẹ đi xin hỏi công chúa Badrouthoudour làm vợ, đấy là với
lòng kính trọng xin mẹ làm ơn. Con khẩn cầu mẹ đừng từ chối nếu mẹ không muốn
con chết đi hơn là cho con cuộc sống một lần nữa.
Mẹ Aladdin rất bối rối thấy con ngoan cố với ý định xa
rời lẽ phải như vậy. Bà nói:
- Con trai, ta là mẹ con là người mẹ smh ra con không có
gì hợp lý và thích hợp hơn là sẵn sàng vì yêu con mà làm việc đó. Nếu nói về
hôn nhân của con với một cô gái hàng xóm, điều kiện giống hoặc gần như con, mẹ
sẽ không nề hà điều gì, dốc lòng giúp con bằng mọi khả năng vốn có. Những người
nghèo như chúng ta khi muốn kết hôn, trước hết phải nghĩ lấy gì để sống. Nhưng
không nghĩ đến nguồn gốc nghèo hèn, về tài năng của cải ít ỏi, con mơ quá cao
đến bậc thang cao nhất của vận mệnh, tham vọng quá lớn, khi muốn hỏi công chúa
làm vợ, con gái vị vua mà chỉ một tiếng nói, đủ nhận chìm, đè nát con. Mẹ muốn
con phải suy nghĩ như thế nào về điều phi lý ấy. Mẹ nói về việc liên quan đến
mẹ. Làm sao con có ý nghĩ khác thường bảo mẹ đến xin vua cho cưới con Người
được? Dù mẹ không phải táo tợn mà l1ều lĩnh đến xin gặp vua với một đề nghị lố
lăng như thế, ai cho mẹ vào? Con nghĩ người đầu tiên nghe mẹ trình bày không
cho mẹ là điên và đuổi mẹ ra nhục nhã ư? Lại cho rằng việc tiếp kiến nhà vua
không khó khăn lắm: mẹ biết người ta có thể đến gặp vua để xin xử kiện, xin gia
ân và được Người chấp nhận nếu xứng đáng. Nhưng con có ở trong trường hợp đó
không? Con có xứng đáng xin gia ân không? Con đã làm gì cho vua và đất nước
mình? Không được thế làm sao mẹ dám đến đề nghị? Làm sao mẹ dám mở miệng trước
phong thái oai nghiêm của nhà vua và quang cảnh rực sáng của triều đình? Còn
một lẽ khác, con trai, người ta không đến xin gặp vua về một việc gì đó mà
không có món quà cầm tay. Ít nhất quà cáp cũng có lợi và đù từ chối gia ân, vua
cũng chiếu cố nghe lời trình bày. Con có món quà gì? Và nếu con có vật gì đó
xứng đáng được một nhà vua hùng mạnh như thế để ý đến cũng sánh sao được vớl
lời yêu cầu của mình? Con hãy nhìn lại mình đi nghĩ đến điều con không thể nào
mong đạt được?
Aladdin im lặng nghe những lời mẹ khuyên để cậu từ bỏ ý
định và sau khi suy nghĩ mọi lý lẽ, chàng thưa với mẹ:
- Mẹ ạ, con thú nhận đã rất táo tợn đám có ý đồ vượt quá
hoàn cảnh mình đòi hỏi mẹ sốt sắng đến cầu hôn con gái vua mà trước hết không
tạo những điều kiện thuận lợi cho mẹ, con xin mẹ tha lỗi. Nhưng niềm say mê
mãnh liệt làm con không hình dung hết những gì có thể làm con toại nguyện. Con
yêu công chúa Badroulboudour vượt ra ngoài điều mẹ tưởng tượng, càng tôn sùng
nàng con càng quyết tâm cưới nàng. Đây là một vấn đề dứt khoát, đã xác định
chắc chắn trong tâm trí con. Con cám ơn mẹ đã gợi mở cho con bước đi đầu tiên
hứa hẹn có kết quả.
Mẹ bảo thông thường xin tiếp kiến nhà vua phải có một món
quà và con không có gì xứng đáng. Con đồng ý về món quà, xin thú nhận đã không
nghĩ đến điều ấy. Mẹ nói con không có gì đáng đưa tặng, mẹ không nghĩ những vật
con mang về ngày thoát chết ở căn hầm không ìà một món quà đáng kể đối với vua
sao? Con nói về những gì con đựng trong hai chiếc túi và dắt vào thắt lưng mà
chúng ta tưởng những quả thuỷ tinh màu, đó chính ìà những viên đá quý vô giá
chỉ thích hợp với những nhà vua lớn. Tất cả những viên con thấy trong những cửa
hàng đá quý không thể sánh về độ lớn, sắc đẹp với những viên đá chúng ta có
nhưng chúng đã được bán với giá cao vô cùng. Thực tế, chúng ta không biết giá
những viên đá quý của chúng ta nhưng theo kinh nghiệm con đã có, con chắc chắn
chúng sẽ là món quà nhà vua rất hài lòng. Mẹ lấy một chiếc bình sứ lớn, đổ vào
những viên đá quý, đủ mọi màu sắc, mẹ cứ mang đi để xem tác đụng ra sao.
Mẹ Aladdin đưa bÌnh sứ ra con trai bà ìấy đá quý xếp vào
đó: Dưới ánh sáng ban ngày, màu sắc khác nhau của những viên đá ánh lên, lóng
lánh đến mức làm mẹ con chói loà, sửng sốt vì trước nay họ chỉ thấy dưới ngọn
đèn nhỏ. Đúng là Aladdin đã thấy chúng trên cây tạo nên một quang cảnh mê hồn
nhưng khi đó chàng còn bé, chàng chỉ xem là những vật để chơi, mang về với ý
nghĩ đó, không hiểu biết gì hơn.
Sau khi ngắm nghía một lúc, Aladdin nói:
- Thưa mẹ, mẹ thoái thác không đến gặp nhà vua vì không
có quà. Con nghĩ đây là một món quà sẽ làm cho mẹ được tiếp đón thuận lợi. Con
nghĩ đây là một món quà sẽ làm cho mẹ được tiếp đón thuận lợi.
Tuy bà mẹ ngẩn người vì vẻ đẹp và nét lấp lánh của món
quà, bà không nghĩ nó có giá trị lớn như con khẳng định nhưng để làm chàng vui
lòng bà không bàn cãi về điều đó nữa. Bà vẫn lo lắng về sự chấp nhận của nhà
vua nên nói với con:
- Con trai ạ, mẹ cũng cho là món quà này có tác dụng
nhưng khi thỉnh cầu vua mẹ cảm thấy rõ là không đủ sức và sẽ câm lặng thôi. Như
vậy không chỉ mất công đi mà mất cả món quà là cả một tài sản khác thường và mẹ
sẽ thẹn thùng trở về báo tin vô vọng. Mẹ đã nói rồi và con hãy tin là thế - Bà
nói thêm: - Dù mẹ muốn cố gắng chiều ý con, đủ sức dám thỉnh cầu vua như con
mong đợi, chắc chắn hoặc nhà vua sẽ cười nhạo rồi đuổi mẹ đi như một kẻ điên
hoặc ông nổi giận mà con và mẹ sẽ là nạn nhân.
Mẹ Aladdin còn nói nhiều lý lẽ khác để chàng thay đổi ý
kiến nhưng sắc đẹp của công chúa Badroulboudour tác động quá mạnh đến trái tim
không làm chàng lay chuyển được. Aladdin nài nỉ mẹ thực hiện điều chàng đã
quyết định. Vừa thương yêu vừa sợ chàng làm điều gì liều lĩnh, bà mẹ cố nén nỗi
lo sợ làm theo nguyện vọng của con.
Vì đã muộn không đên được cung vua nữa, công việc để lại
ngày hôm sau.
Hai mẹ con không nói gì về việc khác trong phần thì giờ
còn lại của ngày hôm đó. Aladdin cẩn thận gợi ý với mẹ những suy nghĩ của mình
để bà vững tẩm đến xin tiếp kiến nhà vua. Mặc dù con trai đưa ra nhiều lý lẽ,
bà mẹ vẫn không tin tưởng thành công và thực tế bà nghi ngại cũng phải. Bà bảo
con:
- Này con, mẹ mong nhà vua cho được gặp và bình tĩnh lắng
nghe lời mẹ thỉnh cầu nhưng sau việc tiếp đón khá tất ấy nếu ông hỏi nhà cửa,
tài sản, đất đai của con ở đâu, vì đấy là những vấn đề vua quan tâm trước cả
bản thân con, nếu ông hỏi thế thì con bảo mẹ trả lời ra sao?
- Mẹ ơi, chúng ta đừng lo lắng trước về một việc có lẽ sẽ
không xảy đến. Chúng ta cứ nghĩ trước hết về sự tiếp đón và câu trả lời của nhà
vua đã. Nếu ông muốn biết về những điều mẹ vừa nói, con sẽ liệu để trả lời, con
tin tưởng ở chiếc đèn nhờ nó lâu nay chúng ta không thiếu thốn gì.
Mẹ Aladdin không có gì cãi lại điều con trai vừa nói. Bà
nghĩ chiếc đèn có thể giúp cho họ những việc thần kỳ lớn hơn việc cung cấp ăn
uống cho họ. Điều đó làm bà hài lòng đồng thời rũ bỏ được những khó khăn có thể
làm bà lùi bước. Aladdin hiểu ý nghĩ của mẹ chàng nói:
- Thưa mẹ, ít nhất mẹ cũng nhớ giữ bí mật của chúng ta:
mọi kết quả tốt đẹp trong việc này tuỳ thuộc vào điều ấy đấy
Hai mẹ con chia tay nhau đi nghỉ.
Nhưng tình yêu mãnh liệt và những dự kiến lớn về tài sản trong tâm trí làm
chàng không bình tĩnh ngủ yên như lòng mong muốn. Chàng đậy trước lúc trời sáng
ra đánh thức mẹ dậy, thúc mẹ mặc nhanh quần áo đến cổng hoàng cung kịp giờ mở
cửa và yết kiến nhà vua cùng lúc với các quan lớn nhỏ vào triều đình tham dự
cuộc xét xử thường kỳ mà bao giờ vua cũng trực tiếp chủ trì.
Mẹ Aladdin làm mọi việc như con bảo.
Bà lấy chiếc bình sứ để những viên đá quý làm quà, bọc một lớp vải rất mịn và
sạch sẽ, một lớp khác ít mịn hơn bà buộc nối bơn góc cho dễ mang. Bà ra đi,
hướng về hoàng cung làm Aladdin rất thoả mãn trong lòng. Các quan đại thần, những
vị có chức vụ cao ở triều đình đã vào hoàng cung khi bà đến trước cổng lâu đài.
Đám người có việc đến triều đình rất đông; khi mở cổng bà đi cùng họ vào phòng
xét xử. Đây là một phòng khách rất đẹp, rộng rãi và tráng lệ, cửa ra vào trang
nghiêm. Bà dừng lại, cố thu xếp đứng trước mặt chỗ vua ngồi, các triều thần
tham dự ngồi bên phải, bên trái nhà vua. Người ta gọi lần lượt mọi người theo
thứ tự đơn thỉnh cầu của họ nêu lên và xét xử cho đến giờ nghỉ thường lệ. Vua
đứng dậy, giải tán quần thần vào trong phòng riêng có vị tể tướng đi theo.
Những quần thần khác trong triều cũng ra về. Những người đến xin được bày tỏ
nguyện vọng cũng giải tán, những người này hài lòng vì được lợi, những người
khác phàn nàn về kết quả xét xử đối với họ, có những người lại hy vọng vào buổi
xét xử khác.
Mẹ Aladdin thấy vua đứng dậy về
cung, nghĩ rằng trong ngày đó ngài sẽ không trở lại nữa vì mọi người đều bỏ đi,
nên bà cũng ra về. Aladdin thấy mẹ vào nhà với quà tặng vua vẫn mang theo,
không biết kết quả ra sao? Sợ có điều gì bi thảm, chàng không dám mở miệng hỏi.
Bà mẹ phúc hậu chưa bao giờ đặt chân tới cung vua và không biết gì về công việc
hàng ngày ở đó, để con trai khỏi băn khoăn. bà kể lại với chàng một cách rất
thật thà:
- Con ạ, mẹ đã thấy nhà vua và chắc
chắn Người cũng thấy mẹ, mẹ đứng ngay trước mặt mà không có ai cản trở Người
trông thấy mẹ nhưng người bận rộn phải nghe rất nhiều người trình bày. Việc đó
kéo dài mãi, cuối cùng mẹ nghĩ Người buồn chán quá nên đã bất ngờ đứng đậy bỏ
vào không chờ nghe những người đang xếp hàng chờ đến lượt trình bày. Tuy vậy
điều đó làm mẹ hài lòng vì mẹ đã bắt đầu sốt ruột, mệt mỏi vì chờ quá ìâu.
Không có gì thay đổi, mẹ sẽ trở lại hoàng cung vào ngày mai, có lẽ vua không
quá bận.
Dù say mê đến mấy Aladdin cũng đành
nén lòng vì sự việc như vậy. Ít nhất chàng cũng hài lòng thấy mẹ đã vượt qua
bước đi khó khăn nhất, chịu đựng được trước mặt vua và hy vọng bà noi gương
những người trình bày với vua, sẽ không ngần ngại làm việc được uỷ thác khi có
dịp được nói:
Ngày hôm sau cũng sáng sớm như hôm
trước mẹ Aladdin đến hoàng cung nhưng vô ích. Bà thấy cổng đóng, hỏi thăm được
biết triều đình chỉ xét xử hai ngày một lần nên phải trở lại vào ngày tiếp đó.
Bà đưa tin về và khuyên con trai phải kiên nhẫn thêm. Bà lại đến hoàng cung sáu
lần vào những ngày qui định cũng không có hiệu quả và có lẽ bà sẽ trở lại đến
hàng trăm lần khác cũng vô ích nếu vua luôn thấy bà trước mặt mình nhưng không
lưu ý đến bà. Điều ấy rất có thể xảy ra vì chỉ có những người thưa kiện lần
lượt lại gần vua để trình bày và mẹ Aladdin không ở trong trường hợp đó.
Cuối cùng hôm đó sau khi dừng thiết
triều về cung, vua nói với vị tể tướng:
- Mấy hôm nay ta thấy một người đàn
bà đến đều đặn vào những buổi ta xét xử, mang vật gì bọc trong vải và đứng
trước mặt ta từ đầu đến cuối buổi. Khanh có biết bà ấy đề nghị gì không?
Vị tể tướng cũng chẳng biết gì hơn
nhà vua, ông trả lời:
- Thưa bệ hạ, phụ nữ thường khiếu
kiện về những việc không đâu. Bà này có lẽ đến trình với bệ hạ việc người ta
bán bột xấu cho bà hoặc việc gì tương tự không đáng kể.
Vua không hài lòng về câu trả lời
đó, bảo:
- Ngày tập trung sắp tới nếu bà ấy
lại đến, khanh cho gọi lại để ta nghe xem có việc gì.
Vị tể tướng hạ bàn tay rồi đưa lên
phía trên đầu mình để thể hiện nếu ông quên việc đó sẽ xin bị chặt đầu. Mẹ
Aladdin đã quen đến trong buổi xét xử trước mặt nhà vua, không kể gì vất vả đi
lại để con trai yên lòng. Vào ngày thiết triều, bà lại đến đứng trước mặt vua
như thường lệ.
Vị tể tướng chưà trình lên vụ kiện
nào thì nhà vua đã trông thấy mẹ Aladdin. Cảm động vì lòng kiên trì chờ đợi đã
chứng kiến, ông bảo tể tướng:
- Trước mọi việc, sợ khanh quên mất,
kia là người đàn bà ta đã nói tới: cho gọi bà ấy lên, chúng ta bắt đầu nghe và
giải quyết việc đã đưa bà ấy tới đây.
Tể tướng ra hiệu cho tuỳ tùng dẫn bà
tiến lại trước mặt vua.
Mẹ Aladdin theo gương bao nhiêu
người đến trình bày với nhà vua quỳ xuống dập trán vào tấm thảm phủ trên bậc
ngai vàng, giữ tư thế đó cho đến lúc vua cho lệnh dậy. Bà đứng lên, nhà vua hỏi
bà:
- Người đàn bà phúc hậu, ta thấy bà
đến đây đã nhiều lần và đứng ở cửa ra vào từ đầu đến cuối buổi xét xử. Có việc
gì mà bà phải tới vậy?
Mẹ Aladdin nghe hỏi, lại quỳ xuống
lần thứ hai rồi đứng dậy nói:
- Thưa đức vua trên mọi nhà vua
trong đời, trước khi trình bày với bệ hạ vấn đề khác thường thậm chí không tin
được đã dẫn thần tới trước ngai vàng anh minh thần khẩn cầu Người tha thứ cho
sự táo tợn đã dám có lời trơ trẽn xin Người Điều ấy thật bất thường khiến thần
run sợ và thật xấu hổ.
Để bà tự đo thổ lộ, vua ra lệnh mọi
người ra ngoài và để một mình ngài và quan tể tướng ở lại rồi bảo bà có thể
trình bày đừng sợ hãi gì.
Mẹ Aladdin không chỉ yên tâm về lòng
tốt của vua đã miễn cho bà phải nói trước mọi người, bà còn muốn vua không nổi
giận khi nghe bà cầu xin đlều ngài không ngờ tới. Bà lại nói:
- Thưa bệ hạ, thần dám xin Người
đồng ý tha thứ, gia ân cho thần nếu thấy lời thỉnh cầu của thần có khía cạnh
xúc phạm hoặc không vừa lòng Người.
- Dù sự việc ra sao, - nhà vua nói,
- ngay từ bây giờ ta tha thứ cho bà, không có điều gì làm hại đến bà. Nào, hãy
mạnh dạn nói đi.
Khi mẹ Aladdln đã đề phòng về nỗi lo
vua giận dữ khi nghe lời đề nghị không hợp lý của bà, bà thành thực kể lại
trường hợp Aladdin đã thấy mặt công chúa Badrouthoudour, tình yêu mãnh liệt nảy
sinh từ sự gặp gỡ vận mệnh dó, lời chàng nói ra với bà và những gì bà đã làm để
chàng từ bỏ sự say mê bất kmh đối với công chúa. Bà tiếp tục trình bày:
- Con trai thần thay vì nghe lời
khuyên và nhận biết sự ngông cuồng của mình, lại ương bướng say mê đến mức đe
doạ thần sẽ có hành động tuyệt vọng nếu thần từ chối đến xin bệ hạ cho cầu hôn
eông chúa và sau khi thúc ép thần quá đáng thần buộc phải làm vừa lòng nó. Thần
khẩn cầu một lần nữa xin nhà vua hãy tha thứ cho không chỉ riêng thần mà cả
Aladdin con trai thần đã có ý nghĩ táo tợn hy vọng vươn lên sự cầu thân cao cả
như vậy.
Vua rất hiền và phúc hậu nên ngài
lắng nghe toàn bộ lời trình bày không hề thể hiện một dấu hiệu giận dữ nàơ,
cũng không đùa cợt về lời cầu xin. Trước khi trả lời người đàn bà, ngài hỏi bà
mang gì bọc trong vải. Bà lấy ngay bình sứ để ở chân ngai vàng trước khi quỳ
xuống, mở ra trình lên nhà vua.
Không thể tả hết sự kinh ngạc và lạ
lùng của nhà vua khi thấy trong chiếc bình bao nhiêu viên đá quý giá, hoàn hảo,
sáng loáng và kích cỡ to lớn ngài chưa từng thấy như vậy. Ngài đờ người ngắm
nghía một lúc rồi bình tĩnh nhận món quà từ tay bà mẹ Aladdin, kêu lên vui
sướng:
- Chà! Đẹp quá! Nhiều quá!
Sau khi nhìn ngắm, xáo trộn từng
viên đá, đánh giá mỗi viên về những điểm đặc blệt, ông ngoảnh lại phía quan tể
tướng và chỉ vào chiếc bình:
- Khanh xem, phải công nhận không
thấy gì trên đời phong phú và hoàn hảo hơn thế.
Tể tướng tấm tắc khen ngợi. Nhà vua
tiếp tục:
- Thế nào? Khanh bảo sao về một món
quà như thế? Phải chăng thật xứng đáng với công chúa, con gái ta, và với giá
ấy, ta có thể gả công chúa cho người đến cầu hôn.
Lời nói ấy làm tể tướng bối rối.
Cách đây không lâu, ông được biết vua có ý định gả công chúa cho một con trai
của ông. Ông sợ, không phải không có cơ sở, nhà vua loá mắt vì món quà phong
phú và kỳ lạ đến thế sẽ thay đổi tình cảm. Ông lại gần vua nói nhỏ vào tai:
- Thưa bệ hạ, không thể phủ nhận món
quà thật xứng đáng với công chúa. Nhưng thần khẩn cầu bệ hạ lùi lại ba tháng
nữa sẽ quyết định. Thần hy vọng trong thời gian đó con trai thần mà bệ hạ đã có
lòng tất nhìn đến sẽ có cái gì đáng giá hơn món quà của Aladdin mà bệ hạ chưa biết.
Nhà vua tuy chắc chắn tể tướng không
thể tìm được cho con trai một món quà đáng giá như thế để tặng công chúa, vẫn
nghe và gia ân cho ông ta điều ấy. Ngài ngoảnh lại phía mẹ Aladdin nói:
- Được rồi, bà mẹ phúc hậu. bà trở
về nhà đi và nói với con trai bà ta vui lòng về đề nghị của cậu ấy nhưng ta
không thể cưới con gái mà không làm cho con một toà lâu đài sẵn sàng trong ba
tháng nữa. Như thế bà sẽ trở lại đây trong thời hạn ấy.
Mẹ Aladdin đi về với nỗi vui mừng
càng lớn vì với hoàn cảnh mình, lúc đầu bà cho là không thể vào gặp vua nhưng
đã nhận được câu trả lời tốt đẹp như vậy, thay vì bị gạt bỏ nhục nhã. Thấy mẹ
bước vào nhà, Aladdin nhận thấy hai điều: một, bà về sớm hơn mọi lần và đlều
kia, nét mặt bà cởi mở, vui vẻ. Chàng hỏi:
- Thế nào mẹ? Con có thể hy vọng hay
phải chết vì thất vọng đây?
Bà bỏ mạng che mặt, bảo con ngồi với
mình ở ghế xô- pha và nói:
- Con trai ạ, để con khỏi phải phân
vân nhiều, mẹ sẽ nói là còn lâu con mới phải nghĩ đến chuyện chết, con vẫn còn
có cái để hy vọng.
Bà kể lại việc bà được nhà vua cho
gặp trước mọi người ra sao nên hôm nay về được sớm, cách đề phòng cơn giận của
vua, lời cầu hôn công chúa Badroulboudour và câu trả lời đồng tÌnh từ miệng nhà
vua. Bà kể thêm những cử chỉ của vua do món quà tác động đã đưa lại câu trả lời
thuận lợi ra sao. Bà còn nói: Mẹ cũng còn hơi lo vì tể tướng đã nói nhỏ điều gì
đó vào tai vua, mẹ sợ ông ấy làm vua thay đổi ý định của mình .
Aladdin nghe tin ấy cho mình là
người sung sướng nhất trên đời. Chàng cám ơn mẹ đã vất vả theo đuổi việc này mà
kết quả tốt đẹp rất quan trọng đôí với cuộc sống của chàng. Tuy nàng lòng mong
được có đối tượng mình say mê, ba tháng đối với chàng như kéo dài vô tận, chàng
cũng kiên trì chờ đợi dựa vào lời hứa của nhà vua mà chàng cho là không thể bàn
cãi. Trong lúc chàng tính từng giờ, từng ngày, từng tuần lễ, vào lúc hai tháng
đã qua, một buổi tối mẹ chàng muốn châm đèn, nhận ra trong nhà không còn dầu,
bà đi ra ngoài phố mua, thấy khắp mọi nơi tưng bừng như ngày lễ. Các cửa hiệu
mở rộng, trang trí hoa lá, đèn sáng trưng cố làm cho thật lộng lẫy, đẹp đẽ. Mọi
người nhộn nhịp vui chơi, đường phố ùn tắc vì những vị quan mặc quần áo ngày lễ
cưỡi ngựa thắng yên cương đẹp, kéo theo một số lớn người hầu đi đi lại lại. Bà
hỏi người bán dầu vì sao có quang cảnh như thế. Ông này nói:
- Bà ở đâu ra vậy? Không biết đêm
nay con trai quan tể tướng cưới công chúa Badroulboudour con gái vua ư? Nàng
sắp tắm xong và các vị quan kia tập hợp để tháp tùng nàng về cung làm lễ cưới.
Mẹ Aladdin không muốn nghe thêm nữa.
Bà chạy vội về nhà thở không ra hơi, tìm con trai báo tin không ngờ đó.
- Con ơi - Bà nói - Việc của con
hỏng hết rồi. Con tin vào lời hứa đẹp đẽ của vua, không là gì đâu.
Aladdin hết hoảng về tin đó:
- Thưa mẹ, nhà vua không grữ lời hứa
với con ở chỗ nào? Làm sao mẹ biết?
- Tối nay con trai tể tướng sẽ làm
lễ cưới công chúa Badroulboudour trong hoàng cung.
Bà kể lại với con bà biết điều đó và
những cảnh đang diễn ra không thể sai được.
Nghe tin Aladdin đứng lặng người như
bị sét đánh. Một người nào khác sẽ suy sụp ngay nhưng một nỗi ghen tuông thầm
kín làm chàng không đứng yên lâu được. Ngay lúc đó chàng nhớ đến chiếc đèn cho
đến nay rất có ích cho mình, không giận hờn vô ích đối với nhà vua, tể tướng
hoặc con trai tể tướng chàng chỉ nói với mẹ:
- Thưa mẹ, con trai tể tướng sẽ
không hạnh phúc như chàng ta mong muốn tối nay đâu. Trong lúc con vào phòng một
lúc, mẹ cứ chuẩn bị bữa ăn khuya đi.
Mẹ Aladdin hiểu con trai muốn sử
dụng chiếc đèn để ngăn cản, nếu có thể thì thủ tiêu đám cưới của con trai tể
tướng với công chúa. Bà đã không nhầm. Vào trong phòng Aladdin lấy chiếc đèn
thần, tránh cho mẹ sợ khi thấy vị thần xuất hiện. Chàng xát vào chiếc đèn ở chỗ
những lần trước. Vị thần xuất hiện ngay, nói với Alađdin:
- Ngươi muốn gì? Tôi sẵn sàng theo
lệnh như kẻ nô lệ của Người và những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ
khác của đèn cũng thế.
- Nghe đây, cho đến nay thần đã mang
thức ăn cho tôi khi cần, bây giờ có một việc quan trọng hoàn toàn khác. Tôi đã
cầu hôn công chúa Badroulboudour, con gái vua, ông đã hứa gả và hẹn trong ba
tháng. Thay vì giữ lời hứa, đêm nay ông làm lễ thành hôn công chúa với con trai
tể tướng. Tôi vừa được tin ấy và chắc chắn thế. Điều tôi đề nghị thần đèn là ngay
khi đôi tân hôn vừa đi nằm, thần mang họ và cả giường của họ đến đây.
- Ổng chủ, tôi xin vâng lời. Người
còn điều gì ra lệnh nữa không?
- Bây giờ thì không - Aladdin đáp.
Cùng lúc ấy vị thần biến mất.
Aladdin ra ăn cùng với mẹ, vẫn bình lặng như thường ngày. Sau bữa ăn chàng nói
chuyện một lúc về đám cưới của công chúa như không bận tâm nữa rồi vào phòng
mình để mẹ đi nằm. Chàng không ngủ, chờ thần đèn thi hành lệnh trở về.
Trong thời gian ấy trong hoàng cung
trang hoàng lộng lẫy cho buổi công chúa thành hôn. Lễ hội, vui chơi mãi tận
khuya. Công việc xong, theo dấu hiệu của người chủ trì hôn lễ, con trai tể
tuớng khôn khéo lẩn ra, ông này dẫn chàng vào giường tân hôn trong phòng công
chúa đã chuẩn bị sẵn. Chàng vào nằm trước. Một lúc sau hoàng hậu, có thị nữ
tháp tùng, dẫn người vợ mới đến. Nàng chống cự theo thủ tục các cô dâu. Hoàng
hậu giúp công chúa cởi áo quần ngoài, đưa nàng vào giường như ép buộc và sau
khi ôm hôn nàng chúc phúc, bà ra ngoài với mọi người cùng đi. Người ra sau cùng
đóng cửa lại. Cửa phòng vừa đóng, thần đèn trung thành và chính xác thực hiện
lệnh của những người có đèn trong tay, không để người chồng có thì giờ đụng
chạm đến vợ, ông ta nâng bổng chiếc giường cùng đôi vợ chồng mới cưới trước sự
kinh sợ của hai người, mang đến đặt vào phòng của Aladdin.
Aladdin nôn nóng, không muốn để con
trai tể tướng nằm cùng giường với công chúa. Chàng bảo thần đèn:
- Đưa người chồng mới này nhất vào
trong xó và mờ sáng ngày mai trở lại đây.
Thần đèn bế ngay con trai tể tướng
ra khỏi giường, đưa vào chỗ Aladdin chỉ, thổi vào chàng ta một ngọn gió thấm từ
đầu đến chân không cựa quậy được nữa.
Tuy say mê công chúa Badrouthoudour,
Aladdin cũng không nói dài dòng khi còn lại một mình với nàng. Thái độ rất say
mê chàng tâm sự:
- Công chúa tôn kính, nàng đừng sợ
gì, ở đây an toàn cho nàng và dù tình yêu mãnh liệt tôi cảm nhận trước săc đẹp
của nàng, không bao giờ tôi vượt quá giới hạn lòng kính trọng sâu sắc đối với
nàng. Nếu tôi buộc phải đến mức này, không phải để xúc phạm nàng mà để ngăn cản
kẻ tình địch bất công chiếm được nàng trái với lời hứa của phụ hoàng nàng đã
chấp nhận tôi.
Công chúa không biết gì về những
chuyện đó, và cũng chưa từng lưu tâm đến những gì Aladdin nói. Sự sợ hãi và
kinh ngạc về cuộc phiêu lưu lạ lùng, bất ngờ này, đã đẩy nàng vào tình trạng
Aladdin không sao moi ra được một lời nào từ miệng nàng. Chàng không dừng lại
đấy, cởi áo quần ngoài nằm vào chỗ con trai tể tướng, quay lưng về phía công
chúa sau khi cẩn thận đặt một thanh gươm giữa công chúa và chàng, tỏ ý chàng sẽ
bị trừng phạt nếu đụng chạm đến danh dự công chúa.
Aladdin hài lòng vì đã lấy đi hạnh
phúc của tình địch trong đêm tân hôn nên chàng bình tĩnh ngủ ngon. Công chúa
thì không thế, trong đời nàng chưa bao giờ qua một đêm tồi tệ như vậy và con
trai tể tướng người chồng mới qua một đêm ở trong xó nhà còn đáng buồn hơn
nhiều. Sáng hôm sau Aladdin không cần xát vào đèn để gọi thần đèn. Thần xuất
hiện theo giờ đã dặn, lúc chàng đang mặc quân áo:
- Có tôi đây, người ra lệnh gì?
- Mang con trai tể tướng từ chỗ hôm
qua đến, bỏ vào giường và đem trả tất cả về hoàng cung.
Aladdin cầm lại chiếc gươm. Thần đèn
lại chỗ con trai tể tướng bỏ người chồng mới vào cạnh công chúa rồi mang cả
chiếc giường trở về hoàng cung, đặt vào phòng công chúa ở chỗ cũ. Nhưng trong
suốt quá trình này, hai vợ chồng mới không trông thấy thần đèn, hình dạng ghê
gớm của thần có thể làm họ chết vì sợ, họ cũng không nghe được gì về lời nói
qua lại giữa Aladdin và thần đèn, chỉ nhận thấy chiếc giường rung chuyển, được
đưa từ chỗ này đến chỗ khác và như vậy đã đủ kinh hoàng.
Thần đèn đặt chiếc giường cưới vào
chỗ cũ vừa lúc nhà vua muốn biết con gái qua đêm tân hôn ra sao, vào phòng để
chúc mừng công chúa. Con trai tể tướng, lạnh cóng suốt cả đêm chưa đủ ấm người,
nghe tiếng mở cửa vội đứng dậy chạy lại phía chiếc tủ tối hôm qua quần áo cởi
ra vẫn treo để ở đấy.
Vua lại gần giường công chúa, hôn
con gái theo tập quán, và mỉm cười hỏi tối hôm qua nàng cảm thấy ra sao. Ngẩng
đầu lên và nhìn kỹ công chúa, ông rất ngạc nhiên thấy con không đỏ mặt hay có
những đấu hiệu gì khác làm ông thoả tò mò. Nàng chỉ nhìn ông rất buồn thể hiện
một nỗi đau sâu xa vẻ phật ý. Ông còn nói vài lời với con nhưng thấy nàng không
trả lời, cho rằng do e thẹn nên ông rút lui. Tuy thế, không khỏi nghi ngờ có
điều gì khác thường trong sự im lặng đó, ông đến ngay phòng hoàng hậu kể lại
thái độ của công chúa.
- Thưa bệ hạ - Hoàng hậu nói - Điều
đó Người đừng lấy làm lạ, không có cô dâu mới nào lại không có thái độ như vậy
khi đón hoàng phụ đúng như nghĩa vụ. Để thiếp đi thăm con, nếu công chúa cũng
có thái độ ấy thì thiếp đã rất lầm.
Hoàng hậu mặc quần áo xong, đến phòng
công chúa ở thấy nàng vẫn chưa dậy. Bà lại gần giường chào và ôm hôn con. Nhưng
bà quá ngạc nhiên, không chỉ nàng không trả lời gì mà bà con thấy rõ thần sắc
của nàng sa sút nên bà nghĩ đã có điều gì không suôn sẻ. Bà hỏi:
- Con gái, do đâu con đáp lại sự ân
cần của ta lơ là như vậy? Con tiếp đón mẹ mình theo cách ấy ư? Con nghĩ ta
không biết những gì sẽ đến với con sao? Ta cho rằng con không có ý ấy, vậy phải
có điều gì đó khác thường đã xảy ra với con, con nói thật với ta đi, đừng để
nỗi lo lắng làm ta phiền muộn.
Cuối cùng công chúa Badroulboudour
chấm dứt yên lặng bằng một hơi thở dài:
- Chà! Mẫu hậu tôn kính? - Nàng kêu
lên - Tha thứ cho con đã thất lễ với mẹ. Tâm trí con đang hoảng loạn về những
điều kỳ lạ đến với con tối hôm qua, con chưa thể hoàn hồn lại được vì quá ngạc
nhiên và sợ hãi.
Nàng bèn kể lại rành mạch từ lúc
nàng và chồng vừa đi nằm, chiếc giường được nâng lên, mang tới một gian phòng
bẩn và tối tăm. Ớ đấy chỉ còn lại một mình nàng người chồng không biết biến đi
đâu, rồi một chàng trai đến nói mấy lời với nàng mà vì sợ hãi nàng không nghe
được gì. Chàng ta nằm bên cạnh nàng, thế vào chỗ của người chồng sau khi đặt
giữa nàng và chàng một thanh gươm. Sáng dậy người ta đem chồng nàng trả lại và
chiếc giường lại được mang về chỗ cũ trong chốc lát.
- Những việc đó vừa xong - Nàng nói
thêm - thì phụ hoàng bước vào phòng. Con buồn bã đến mức không đủ sức nói với
Người một lời. Do đó con chắc Người sẽ giận về cách con tiếp nhận vinh dự Người
dành cho con, con mong Người tha thứ cho con khi biết được cuộc phiêu lưu đáng
buồn và tình trạng của con lúc này.
Hoàng hậu bình tĩnh lắng nghe những
gì công chúa đã kể lại nhưng bà không muốn tin. Bà nói:
- Con gái, con đã đúng khi không nói
điều ấy với phụ hoàng. Con đừng nói gì với ai, người ta sẽ cho là con điên khi
nghe con nói như vậy.
- Thưa mẫu hậu - Công chúa lại nói -
Con cam đoan là con rất tỉnh táo. Mầu hậu có thể hỏi thêm chồng con. Chàng sẽ
cũng nói thế.
- Ta sẽ hỏi và khi chàng cũng kể lại
như con, ta có thể tin. Bây giờ con dậy đi, đừng nghĩ đến điều ấy nữa. Con đừng
bối rối vì hình ảnh đó trong lúc lễ hội tổ chức nhân dịp thành hôn của con thật
đẹp đẽ và sẽ tiếp tục nhiều ngày ở hoàng cung và trong cả vương quốc. Con không
nghe âm thanh kèn trống não bạt vang lên rồi sao? Những cảnh đó sẽ gây cho con
niềm vui thích, làm quên đi những điều vớ vẩn con vừa nói với ta.
Hoàng hậu gọi thị nữ đến đỡ công
chúa dậy và khi thấy nàng đi tắm rửa bà đến phòng nhà vua. Bà bảo công chúa cớ
vài ý nghĩ viển vông trong đầu nhưng không sao. Bà cho gọi con trai tể tướng để
biết một ít về điều công chúa đã nói nhưng chàng trai cảm thấy vô cùng vinh dự
được kết thân với hoàng gia nên giấu kín việc đó. Hoàng hậu hỏi:
- Phò mã của ta, con có tin chắc về
tình cảnh đó như vợ con không?
- Thưa mẫu hậu - Con vị tể tướng nói
-Cho phép con dám hỏi: Người muốn biết về chuyện gì ạ?
- Thôi đủ rồi - Hoàng hậu lại nói -
Ta không muốn biết hơn nữa, con khôn ngoan hơn công chúa.
Những cuộc vui tiếp tục suốt ngày
trong hoàng cung, hoàng hậu không để riêng công chúa một mình, luôn tạo nên các
cuộc vui cho nàng tham gia. Tuy vậy nàng bị tác động quá mạnh về những gì xảy
ra trong đêm nên luôn nghĩ về điều ấy. Con trai tể tướng cũng không kém bận tâm
về một đêm tồi tệ phải trải qua nhưng tham vọng làm cậu giấu kín đi và người ta
nhìn cậu như một người chồng rất hạnh phúc.
Aladdin được biết rõ những gì trong
hoàng cung, tin rằng đôi vợ chồng mới cưới lại tiếp tục nằm ngủ cùng nhau tuy
đã qua cuộc phiêu lưu đêm trước. Không muốn để họ nghỉ ngơi, nên đêm vừa về
khuya, Aladdin nhờ đến chiếc đèn hỗ trợ. Thần đèn xuất hiện, nghẹ lệnh như
những lần trước. Aladdin bảo:
- Con trai tể tướng và công chúa
Badroulbaudour đêm nay lại nằm ngủ chung. Thần đến đó và khi họ đi nằm, mang cả
giường đến đây như hôm qua.
Thần đèn thực hiện trung thành và
chính xác như hôm trước. Con tể tướng lại qua đêm cũng lạnh lẽo, khổ sở như đêm
trước, công chúa lại nhục nhã có Aladdin nằm bên cạnh, thanh gươm để giữa hai
người. Theo lệnh chủ, thần đèn trở lại vào sáng hôm sau, đặt chồng bên cạnh vợ,
nâng chiếc giường cùng đôi vợ chồng mới cưới mang về hoàng cung để vào chỗ cũ.
Nhà vua, sau cách tiếp đón của công
chúa hôm trước, lo ngại muốn biết qua đêm thứ hai, nàng còn thế không, lại đến
phòng nàng vào sáng sớm. Con trai tể tướng, xấu hổ và nhục nhã hơn đêm trước,
vừa nghe vua tới đã vội dậy chạy vào tủ áo.
Vua đến tận giường công chúa chào,
âu yếm nàng như hôm đầu:
- Nào, con gái? Sáng nay có khó ở
như hôm qua không? Con qua đêm thế nào?
Công chúa vẫn im lặng và nhà vua nhận thấy tâm trí nàng
có vẻ chấn động và suy sụp hơn. Ông chắc có việc gì ký lạ xảy ra với con. Bực
bội vì nàng giấu giếm, ông cầm lấy thanh gươm và nổi giận nói:
- Con gái, hoặc con nói đã giấu ta điều gì hoặc ta chặt
đầu con ngay tức khắc.
Công chúa nhìn thấy thanh gươm tuốt trần và giịng nói đe
doạ của vua cha, bèn hoảng sợ khóc lóc kêu lên:
- Thưa phụ hoàng tôn quý, xin Người tha cho con đã xúc
phạm đến Người, con mong lòng tốt và sự độ lượng cảm thông thay thế sự giận dữ
khi con thành thực kể lại tình trạng buồn bã đáng thương con phải chịu sụốt đêm
qua và đêm trước đó.
Lời mở đầu làm dịu lòng nhà vua, công chúa trung thành kể
lại những gì xảy ra qua hai đêm tồi tệ, một cách cảm động đến nỗi vua thấy đau
lòng vì tình yêu và sự trìu mến của ông đối với con gái là rất lớn. Nàng kết
thúc bằng những lời sau:
- Nếu bệ hạ có chút nghi ngờ về điều con kể, xin hỏi
người chồng bệ hạ đã cho con; con tin chắc Người sẽ xác minh được sự thật.
Nhà vua rất phiền muộn vì đã gây một cuộc phiêu lưu kỳ lạ
như thế cho công chúa. Ông nói:
- Con gái, con sai lầm vì hôm qua không giải thích cho ta
rõ việc lạ lùng ấy mà ta đã rất quan tâm. Ta không gả chồng cho con với ý định
làm con khổ sở mà phải sung sướng và hài lòng, để con hưởng hạnh phúc con xứng
đáng được hưởng và có thể hy vọng ở một người chồng ta thấy có vẻ thích hợp với
con. Con hãy xoá bỏ những ý nghĩ xấu về những gì con vừa kể. Ta sẽ sắp xếp lại
mọi việc để con khỏi phải trải qua những đêm khó chịu đựng như những đêm trước
nữa.
Về cung vua cho gọi ngay quan tể tướng đến hỏi:
- Khanh đã gặp con mình rồi chứ, cậu ấy có nói gì với
khanh không?
Thấy vị tể tướng trả lời chưa gặp, nhà vua thuật lại cho
ông ta nghe câu chuyện công chúa vừa kể. Rồi nhà vua kết luận:
- Ta chắc con gái ta đã nói thật, tuy vậy ta muốn con
trai khanh xác định thêm. Khanh về hỏi cậu ấy sự việc ra sao đi.
Vị tể tướng đi gặp ngay con trai ông ta, cho biết điều
vua vừa nói và bảo cậu nói rõ sự thật đừng che giấu. Cậu con trả lời:
- Thưa cha con không giấu giếm gì. Những điều công chúa
trình bày với nhà vua là thật nhưng nàng còn chưa biết con bị đối xử tệ hại như
thế nào. Mới hai ngày cưới con đã trải qua hai đêm ác độc không thể tưởng tượng
nổi, con không đủ lời diễn tả nổi con đã chịu khổ sở trong chiếc giường mà
không thấy người nâng mà bay được từ chỗ này đến chỗ khác không biết được bằng
cách nào. Cha thấy đấy thật tệ hại khi con chỉ được mặc sơ mi đứng suốt hai đêm
trong một xó nhà hẹp không cựa quậy được khỏi chỗ người đi ta đặt con, phải bất
lực trong một thứ trói buộc vô hình. Qua đó không cần dài dòng kể lể chi tiết
với cha những đau đớn con phải hứng chịu, tuy con rất yêu thương, kính trọng,
biết ơn công chúa vợ con nhưng con thú nhận thực lòng với cha, thật vinh dự và
tự hào vì đã cưới được con vua thật đấy, song con muốn chết đi còn hơn là được
sống lâu trong cái quan hệ cao sang này nhưng lại phải chấp nhận đối xử tàn ác
như con đã phải chịu đựng. Con chắc công chúa cũng có những ý tưởng như con,
nàng sẽ vui vẻ chấp nhận việc chia tay nhau vì cả hai đều quá mệt mỏi. Do vậy,
thưa cha, con khẩn cầu cha cùng với niềm thương mến đã muốn tạo dựng hạnh phúc
cho con, mong cha xin với nhà vua hủy bỏ cuộc hôn nhân này.
Dù tham vọng của tể tướng mong con mình được là phò mã
của nhà vua lớn đến đâu, nhưng thấy con mình quyết tâm chia tay với công chúa
như vậy, ông thấy không nên khuyên con gắng chịu đựng thêm mấy ngày nữa làm gì.
Ông để con ở lại, và đến tâu lại với vua, thú nhận việc đó rất thật sau khi
được nghe con trình bày. Không chờ nhà vua bảo huỷ bỏ hôn nhân mà ông thấy rõ
nhà vua đã sẵn sàng, ông xin phép vua cho con trai rời hoàng cung về nhà, lấy
lý do không nên để công chúa chịu hình phạt ghê gớm ấy thêm nữa.
Quan tể tướng được vua đồng ý ngay. Sau đó nhà vua ra
lệnh chấm dứt những cuộc vui chơi trong hoàng cung, trong thành phố và cả đất
nước và chẳng mấy chốc những cuộc vui chơi công cộng kết thúc.
Việc thay đổi đột ngột và không ngờ ấy làm nảy sinh những
bàn luận khác nhau. Người ta hỏi nhau sao lại có những lệnh trái ngược như thế
nếu không thấy tể tướng và con trai buồn rầu từ hoàng cung ra về. Chỉ có
Aladdin hiếu rõ điều bí mật ấy, cậu vô cùng hoan hỉ về thành công của thần đèn.
Như vậy, biết chắc tình địch đã rời hoàng cung, cuộc hôn nhân đã hoàn toàn bị
bãi bỏ, chàng không cần xát vào đèn nhờ thần can thiệp nữa. Điều đặc biệt là cả
vua và quan tể tướng đều đã quên Aladdin và lời thỉnh cầu của bà mẹ, không có
một chút ý nghĩ nào về việc chàng có thể đóng vai trò gì vào phép lạ khiến cho
cuộc hôn nhân của công chúa phải hủy bỏ.
Chàng đợi hết ba tháng vua đã hứa hẹn cho đám cưới giữa
công chúa và chàng. Chàng tính cẩn thận từng ngày và khi hết thời hạn đó, ngày
hôm sau chàng nhờ mẹ vào hoàng cung nhắc vua nhớ lại lời hứa.
Mẹ Aladdin vào hoàng cung như con bảo, đứng ở chỗ ra vào
phòng xét xử như những lần trước. Vua vừa nhìn thấy bà, nhận ra ngay đồng thời
nhớ lại lời thỉnh cầu của bà và thời gian ông trì hoãn lại. Lúc ấy quan tể
tướng đang tâu lại với nhà vua về một sự việc gì đó. Nhà vua ngắt lại và bảo:
- Tể tướng, ta thấy người đàn bà mấy tháng trước đây đã
dâng lên ta một món quà thật đẹp. Cho bà ấy lại đây, ta sẽ nghe lời tấu của ông
sau.
Tể tướng nhìn ra cửa thấy bà mẹ Aladdin, liền gọi ngay
viên hầu cận chỉ vào bà ra lệnh cho đưa vào.
Mẹ Aladdin tlến đến chân ngai vàng quỳ xuống theo thủ
tục. Khi bà đứng lên nhà vua hỏi bà yêu cầu gì:
- Thưa bệ hạ, thần lại xin tiếp kiến bệ hạ để nhân danh
Aladdin con trai thần dám trình Người đã hết hạn ba tháng Người hoãn lời thỉnh
cầu của thần được vinh dự dâng lên, xin Người nhớ lại cho.
Nhà vua hẹn ba tháng sẽ trả lời người đàn bà phúc hậu này
song nhà vua đã nghĩ rằng sẽ không bao giờ phải nghe nhắc đến một cuộc hôn nhân
chênh lệch đến thế cho công chúa con gái ông, chắc là họ rất nghèo hèn vì mẹ
Aladdin mặc một bộ quần áo tầm thường. Tuy vậy việc nhà vua phải giữ lời hứa
làm ông rất lúng túng, không biết nên trả lời sao. Nhà vua liền hỏi ý kiến quan
tể tướng và tỏ ra không muốn gả công chúa cho một người vô danh mà ông cho là
không có tài sản gì.
Tể tướng không ngần ngại giải thích điều mình suy nghĩ. Ông
nói:
- Thưa bệ hạ, thần thấy có một cách nhất định khéo léo
tránh được một cuộc hôn nhân không tương xứng như vậy mà Aladdin không phàn nàn
được. Bệ hạ hãy đòi đồ sính lễ cầu hôn công chúa lớn đến mức anh ta chưa từng
nghĩ đến trước khi dấn thân vào khiến cho gia sản của anh ta dù giàu có đến mức
nào cũng không vươn tới được. Đây là cách làm anh ta phải từ bỏ cái tham vọng
táo tợn đến thế.
Vua nghe lời khuyên của tể tướng, ngoảnh lại phía bà mẹ
Aladdin và sau một lúc sủy nghĩ ông nói:
- Các vị vua phải giữ lời hứa, ta sẵn sàng giữ lời của
mình, cho phép con trai ngươi sung sướng được kết hôn với con gái ta. Nhưng ta
không thể gả chồng cho công chúa mà không biết rồi công chúa có được mọi điều
thuận lợi không, ngươi về nói với con trai ngươi ta sẽ thực hiện lời hứa khi
chàng ấy đưa đến cho ta bốn mươi chậu vàng lớn đầy những loại như ngươi đã dâng
lên ta, được từng ấy nô lệ da đen mang đến, có bốn mươi nô lệ da trắng trẻ đẹp,
cao lớn dẫn đường, tất cả ăn mặc thật đẹp. Đấy là những điều kiện ta sẵn sàng
gả công chúa. Nhà ngươi về đi, ta chờ ngươi đưa câu trả lời của chàng ấy đến
cho ta.
Mẹ Aladdin lại quỳ xuống trước ngai vàng rồi lui ra. Trên
đường bản thân bà cũng cười về sự tưởng tượng điên rồ của con trai. “Thực tế nó
tìm (đâu ra bấy nhiêu chậu vàng và số lượng thuỷ tinh màu nhiều đến mức đầy các
chậu ấy? Nó có định trở lại căn hầm đã đóng cửa để hái những quả trên cây
không? Và tìm ở đâu được những nô lệ nhừ vua đòi hỏi? Thế là ý nguyện xa vời
rồi, ta nghĩ nó sẽ không hài lòng về nhiệm vụ sứ giả của ta”. Về đến nhà tâm
trí bà đầy ý nghĩ Aladdin không còn gì để hy vọng. Bà bảo con:
- Con trai, mẹ khuyên con không nên nghĩ đến việc cưới
công chúa Badroulboudour nữa. Nhà vua tiếp mẹ rất tử tế và mẹ nghĩ ông có ưu ái
đến con nhưng quan tể tướng nếu mẹ không nhầm, đã làm ông thay đổi tình cảm. Con
có thể đoán như mẹ khi nghe mẹ kể lại. Sau khi trình bày với vua ba tháng đã
hết hạn và nhân danh con mẹ nhắc vua nhớ lại lời hứa, mẹ để ý Người chỉ trả lời
mẹ sau khi đã trao đổi riêng với quan tể tướng.
Mẹ Aladdin thuật lại chính xác với con những gì vua nói
với bà và những điều kiện cần có để nhà vua chấp nhận hôn nhân của công chúa và
chàng. Cuối cùng bà nói:
- Con ạ, vua chờ con trả lời nhưng chúng ta... – Bà mỉm
cười nói tiếp - Người sẽ đợi lâu đấy.
- Không lâu như mẹ tưởng đâu, thưa mẹ - Aladdin đáp - Và
vua đã nhầm khi nghĩ nêu lên những đòi hỏi quá đáng ấy, Người cho rằng con
không dám nghĩ đến công chúa Badroulboudour nữa sao. Con chờ đợi những điều yêu
cầu khó khăn hơn hoặc Người sẽ đòi những đồ sính lễ cầu hôn cao xa hơn nữa. Bây
giờ thì con hài lòng vì điều vua đòi hỏi ít ỏi hơn so với những gì con có thể
làm để lấy được công chúa. Trong lúc con đi kiếm các thứ dâng lên nhà vua, mẹ
tìm gì để chúng ta ăn tối và cứ mặc con xoay xở.
Khi bà mẹ đã ra phố mua thức ăn, Aladdin cầm chiếc đèn
xát mạnh. Thần đèn hiện ra ngay, nói sẵn sàng đợi lệnh. Aladdin nói:
- Vua đã cho phép tôi kết hôn với công chúa con gái Người
nhưng trước hết Người đòi hỏi bốn mươi chậu bằng vàng chất đầy những quả cây
trong vườn tôi lấy đèn. Những chậu vàng ấy được từng ấy nô lệ da đen mang đến,
có bốn mươi nô lệ da trắng đi trước, trẻ, đẹp, cao lớn và ăn mặc sang trọng. Thần
đèn mang cho tôi món quà ấy thật sớm để tôi mang tới hoàng cung trước khi nhà
vua ngừng thiết triều.
Thần đèn vâng lệnh rồi biến mất.
Một lúc sau thần đèn trở lại cùng bốn mươi nô lệ da đen,
mỗi người đội một chậu bằng vàng rất nặng chất đầy ngọc trai, kim cương, hồng
ngọc, ngọc bích, sắc đẹp và kích cỡ được chọn lựa hơn hẳn loni đã biếu nhà vua.
Mỗi chậu phủ một tấm vải bạc hoa vàng. Tất cả những nô lệ vừa da đen vừa trắng,
với những chậu vàng đứng chật gần hết ngôi nhà vốn tầm thường phía trước có một
sân nhỏ và phía sau là mảnh vườn của gia đình Aladdin. Thần đèn hỏi Aladdin có
hài lòng không và còn ra lệnh gì thêm. Aladdin trả lời không cần gì hơn nữa nên
thần biến mất ngay.
Mẹ Aladdin đi chợ về, vào nhà hết sức kinh ngạc vì đông
người và nhiều của cải đến thế. Khi đã sắp gọn thực phẩm mang về, bà đang định
bỏ mạng che mặt thì cậu con trai ngăn lại. Chàng bảo:
- Mẹ ơi, không còn thì giờ nữa, trước khi vua kết thúc
buổi thiết triều, mẹ phải trở lại hoàng cung dẫn theo đoàn người dâng quà và lễ
vật cầu hôn công chúa mà nhà vua đòi hỏi để Người thấy tấm lòng nhiệt tình và
thành thực của con muốn được vinh dự kết thân qua sự đáp ứng nhanh chóng và đầy
đủ này.
Không chờ mẹ trả lời, Aladdin mở cửa cho đoàn người nô lệ
nối tiếp nhau ra, cứ một nô lệ đa trắng đi trước một nô lệ da đen đội chậu vàng
trên đầu. Khi mẹ đã lên đường theo sau người nô lệ da đen cuối cùng, chàng đóng
cửa ngồi yên trong phòng, hy vọng với món quà như vua đòi hỏi, cuối cùng nhà
vua sẽ nhận chàng làm phò mã.
Người nô lệ da trắng đầu tiên ra khỏi nhà Aladdin làm
những người qua đường trông thấy dừng lại và đến khi đoàn tám mươi người nô-lệ
cả đen và trắng ra hết khỏi nhà, đường phố đã đầy một đám đông từ các nơi chạy
đến xem một quang cảnh đẹp đẽ, khác thường chưa từng thấy. Quần áo của những
người nô lệ đều may bằng vải đắt tiền và giắt đầy đá quý, những người sành sỏi
đều phải khâm phục trước giá trị của từng cái áo. Của cải nhiều, ăn mặc đồng
phục đẹp, dáng điệu trang trọng, thân hình lực lưỡng của từng nô lệ, bước đi
oai nghiêm cách nhau đều đặn với ánh lấp lánh đá quý kích cỡ lớn giắt cân đối
quanh thắt lưng bằng vàng, và những gia huy cũng bằng đá quý trên mũ có một
thẩm mỹ riêng khlến đoàn người đến xem vô cùng thán phục, ngắm nhìn không biết
mệt đoàn người. Đường quá đông người nên ai cũng đành đứng tại chỗ trông theo.
Do phải đi qua nhiều đường phố để đến hoàng cung, nên một
phần lớn của thành phố với đủ loại người của mọi tầng lớp đều được chứng kiến
một cảnh huy hoàng lộng lẫy Người đầu tiên trong số tám mươi nô lệ vào đến cổng
sân trước của hoàng cung, những người gác cửa đã đứng thành hàng rào khi thấy
đoàn người lại gần, họ nghĩ anh ta là một ông vua vì anh ta ăn mặc quá sang
trọng. Họ tiến tới hôn vạt áo nhưng người nô lệ đã được thần đèn dặn dò, ngăn
họ lại và nghiêm trang nói:
- Chúng tôi chỉ là những người nô lệ, chủ chúng tôi sẽ
đến vào lúc thích hợp.
Đoàn nô lệ vào đến sân thứ hai, chỗ hoàng cung được trang
hoàng lộng lẫy trong lúc nhà vua đang thiết triều. Những võ quan đứng đầu mỗi
toán lính canh gác ăn mặc rất đẹp nhưng đều bị lu mờ trước sự có mặt của tám
mươi người nô lệ mang quà tặng của Aladdin. Trong hoàng cung không có gì đẹp và
lấp lánh đến thế và những phục sức của các đại thần trong triều cũng không có
gì sánh được sự rực rỡ của đoàn người.
Vua đã được báo tin về đoàn nô lệ tới, ngài ra lệnh cho
họ vào. Vì vậy họ bước vào phòng rất trật tự, một phần bên phải, một phần bên
trái. Sau khi vào đứng thành nửa vòng tròn trước ngai vua, những nô lệ da đen
đặt chậu vàng xuống, rồi cùng quỳ xuống dập trán xuống thảm. Những nô lệ da
trắng cũng làm như vậy. Sau đó tất cả đứng dậy, những người da đen khéo léo bỏ
vải che những chiếc chậu rồi đứng thẳng lên tay khoanh trước ngực rất từ tốn.
Mẹ Aladdin tiến lại gần ngai vua, quỳ xuống nói:
- Thưa bệ hạ, Aladdin con trai thần biết món quà tặng này
còn kém xa những gì công chúa Badroulboudour đáng được hưởng. Dù sao nó cũng hy
vọng bệ hạ vui long và làm vừa lòng công chúa với niềm tin tưởng cố gắng lo đủ
những gì bệ hạ đã chiếu cố nêu ra cho.
Vua không còn tâm trí nghe lời của mẹ Aladdin. Ngài không
ngớt thán phục khi nhìn vào bốn mươi chậu vàng đựng đầy đá quý sáng loáng quý
giá nhất chưa thấy trên đời và tám mươi nô lệ như những ông vua qua dáng điệu
và quần áo sang trọng. Thay vì trả lời mẹ Aladdin, ngài nói với quan tể tướng
đang kinh ngạc không hiểu ở đâu ra một khối lượng của cải lớn đến vậy:
- Này! Tể tướng - Nhà vua hỏi to - Khanh nghĩ người này
là ai, là người thế nào mà gửi đến cho ta món quà tặng giàu có và kỳ lạ đến
thế, khi cả ta và khanh đều cùng chưa biết người đó? Khanh có tin anh ta không
xứng đáng cưới công chúa Badroulboudour con gái ta chăng?
Dù ghen tỵ và đau đớn thấy một người lạ mặt sắp thay thế
con trai ông trở thành rể nhà vua, nhưng tể tướng không giấu nổi sự cảm phục
của mình. Rõ ràng quà tặng của Aladdin quá đủ để được nhận một sự kết thân cao
quý. Ông chân thành trả lời nhà vua:
- Thưa bệ hạ, không ai dám có ý nghĩ người dâng món quà
xứng đáng như thế đối với bệ hạ lại không xứng đáng với vinh dự Người muốn ban
cho, thần cam đoan anh ta xứng đáng vì chắc chắn anh ta có một kho báu khá lớn
trên đời để cân bằng với công chúa con gái bệ hạ.
Những quan đại thần tham dự buổi thiết triều vỗ tay đồng
tình với quan tể tướng.
Vua không trì hoãn nữa, thậm chí ngài không hỏi để biết
Aladdin có những đức tính gì khác phù hợp với người rể tương lai của ngài. Chỉ
nhìn vào của cải nhiều đến thế và sự nhanh nhẹn đáp ứng đòi hỏi của ngài, không
tỏ một chút khó khăn về những điều kiện quá sức, ngài đã dễ dàng tin chắc chàng
không thiếu điều gì nếu chàng muốn. Vì vậy để bà mẹ Aladđin vui vẻ trở về, ông
bảo bà:
- Người đàn bà phúc hậu, bà về nói với con trai, ta chờ
chàng ấy để mở rộng tay ôm hôn chàng và chàng càng đến nhanh tiếp nhận từ tay
ta công chúa con gái ta càng làm ta vui lòng.
Mẹ Aladdin vội ra về nói với niềm vui thấy con trai mình
vươn tới một vị trí cao ngoài sự mong đợi, còn nhà vua cho ngừng thiết triều. Rời
ngai vàng ngài ra lệnh cho các thái giám phục vụ công chúa đến mang những chậu
vàng về nhà nữ chủ rồi ngài đến đấy thoả thích ngắm chung cùng con gái.
Tám mươi nô lệ da trắng, da đen cũng không bị bỏ quên;
người ta đưa họ vào hậu cung và sau đó vua cho gọi họ đến để công chúa thấy sự
đẹp đẽ của họ vượt xa những lời ngài đã kể lại cho nàng.
Mẹ Aladdin về nhà với dáng vẻ nói lên tin tất lành bà đưa
về cho con. Bà nói:
- Con trai, con có mọi cái để hài lòng: thực hiện được
mọi mong muốn ngoài điều mẹ chờ đợi. Nhà vua, với sự hoan nghênh của cả triều
đình, tuyên bố con xứng đáng được có công chúa Badroulboudour. Người chờ để ôm
hôn con và làm đám cưới. Con nên nghĩ đến ra mắt cho tương xứng với những gì
tốt đẹp người ta đang bàn tán về con. Sau khi thấy những kỳ quan con đã tạo
được, mẹ chắc chắn rồi sẽ không thiếu thứ gì con không làm được. Mẹ cũng không
quên nhắc với con nhà vua đang nóng lòng chờ con cần đến gặp Người gấp.
Aladdin hân hoan vì tin ấy và cảm kích về vật đã tạo ra
phép lạ, nói vài lời với mẹ rồi vào phòng mình. Cầm lấy chiếc đèn cho đến lúc
ấy đã gián tiếp cung cấp cho chàng mọi điều cần thiết và mong muốn, chàng vừa
xát mạnh thì thần đèn đã xuất hiện ngay thể hiện rất vâng lệnh. Aladdin nói:
- Thần đèn, tôi gọi ông để ông đưa tôi đi tắm, sau đó
chuẩn bị sẵn sàng cho tôi một bộ quần áo giàu sang và đẹp nhất chưa một vua
chúa nào có.
Cậu vừa bảo xong, thần đèn biến cậu thành vô hình như
mình, nâng cậu lên đưa đến một nhà tắm toàn bằng đá cẩm thạch tinh khiết, nhiều
màu khác nhau và rất đẹp. Không thấy ai đã phục vụ mình, nhưng cậu thấy mình
được cởi quần áo trong một phòng khách tráng lệ và sạch sẽ. Từ phòng khách
những bàn tay vô hình đưa cậu vào phòng tắm, độ ấm vừa phải, cậu được kỳ cọ tắm
rửa với nhiều loại nước thơm. Sau khi qua nhũng độ nóng thích hợp tuỳ theo các
phòng tắm khác nhau, cậu đi ra, khác hẳn khi mới vào. Nước da mát mẻ, trắng,
hồng hào và người thấy nhẹ nhàng, khoan khoái hơn. Cậu bước vào phòng khách,
không thấy quần áo cũ nữa, thần đèn đã cẩn thận để vào đấy bộ quần áo cậu yêu
cầu. Aladdin ngạc nhiên thấy bộ quần áo đẹp chưa từng thấy, đẹp ngoài sức tưởng
tượng. Xong xuôi thần mang cậu về lại trong căn phòng thần đã mang cậu đi và
hỏi còn phải làm gì nữa. Có đấy, Aladdin trả lời, thần dắt đến cho tôi một con
ngưa vượt xa con ngựa được ưa chuộng nhất trong chuồng ngựa của nhà vua, yên
cương đáng giá trên một triệu đồng tiền vàng. Thần cũng đồng thời đưa tới hai
mươi nô lệ ăn mặc sang trọng, thanh thoát như những nô lệ đưa tặng quà để đi
bên cạnh và sau tôi thành toán, hai mươi người như thế đi trước tôi thành hai
hàng. Đưa đến cho mẹ tôi sáu nô lệ nữ để phục vụ bà, ăn mặc, ít nhất cũng sang
trọng như nữ nô lệ của công chúa, mỗi người đội thêm một bộ quần áo lộng lẫy
như của hoàng hậu: Tôi cũng cần mười nghìn đồng vàng bỏ trong mười chiếc túi. Tôi
ra lệnh thế đấy, thần làm chóng lên .
Aladdin vừa nói xong, thần đèn biến mất, chẳng mấy chốc
trở lại với con ngựa, bốn mươi nô lệ trong đó mười người mỗi người mang một túi
vải một nghìn đồng vàng và sáu nô lệ nữ mỗi người đội trên đầu một bộ quần áo
khác nhau bọc trong vải bạc đành cho mẹ Aladdin. Thần đèn giao tất cả cho
Aladdin.
Trong mười túi tiền cậu đưa cho mẹ bơn túi nói để dùng
khi cần. Cậu giao sáu túi kia cho những nô lệ mang theo ra lệnh giữ lấy và tung
từng nắm cho dân chúng trên những đường phố đi qua để tới hoàng cung, cho đi
trước cậu với những nô lệ khác, ba người bên phải, ba bên trái. Cậu giới thiệu
với mè sáu nô lệ nữ, nói họ thuộc về bà, có thể sử dụng như nữ chủ của họ và
quần áo họ mang đến là để bà dùng.
Khi đã xếp đặt xong mọi việc, chàng nói thần đèn có thể
đi và sẽ gọi lại khi cần phục vụ, thần biến ngay tức khắc. Aladdin chỉ còn nghĩ
đến đáp ứng ý muốn của nhà vua mong sớm gặp chàng. Chàng cử một trong số bốn
mươi nô lệ đến hoàng cung, lệnh gặp đội trưởng bảo vệ hỏi xem có được vinh dự
đến quỳ trước nhà vua không. Người nô lệ hoàn thành nhiệm vụ liên lạc không
lâu, mang về câu trả lời nhà vua nóng lòng chờ cậu.
Aladdin không trì hoãn lên ngựa, ra đi theo trật tự như
đã sắp xếp. Tuy chưa bao giờ đi ngựa nhưng lần đầu này chàng đi không kém duyên
dáng, một kỵ sĩ đày dạn kinh nghiệm cũng không cho chàng là người mới tập. Những
đường phố cậu đi qua đầy ngượi hâm mộ, như cùng một lúc vang lên trên không
tiếng hoan hô, khen ngợi, chúc mừng, đặc biệt khi sáu nô lệ mang túi tiền tung
lên từng nắm bên phải và bên trái. Những lời hoan nghênh tuy vậy không phải do
những người xô đẩy và cúi xuống nhặt tiền mà do những người tầng lớp cao hơn không
ngăn được mình ca ngợi tính hào phóng của Aladdin. Không chỉ những người đã có
tuổi từng thấy chàng chơi lang thang trên đường phố không nhận ra chàng nữa mà
cả những người mới gặp chàng cách đây không lâu cũng vậy vì chàng đã thay đổi
quá nhiều. Điều này do chính đèn tạo dần cho những người có nó với điều kiện
người đó sử dụng tốt chiếc đèn. Người ta lúc ấy chú ý nhiều đến bản than
Aladdin hơn là đoàn hộ tống vì phần lớn trong cùng ngày đã nhìn thấy đoàn nô lệ
mang quà tặng đi qua. Con ngựa được những người sàng sỏi thán phục vì họ phân
biệt được vẻ đẹp của nó mà không loá mắt vì kim cương, đá quý phủ đầy mình nó. Có
tiếng đồn nhà vua gả công chúa cho chàng, nhưng không ai nghĩ đến nguồn gốc,
không một người nào đố kị về tài sản và bước cao sang của chàng vì thấy rất
xứng đáng.
Aladdin vào đến hoàng cung, ở đó nhà vua đã cho chuẩn bị
để tiếp đón chàng. Đến cổng thứ hai chàng muốn xuống ngựa để phù hợp với nghi
lễ mà từ tể tướng cho đến các tướng lĩnh những chức vụ hàng đầu đều phải tuân
theo. Nhưng những đội trưởng bảo vệ chờ ở đấy theo lệnh vua, đã ngăn lại và dẫn
chàng đến tận phòng thiết triều, đỡ chàng xuống tuy chàng khước từ. Đội bảo vệ
đứng thành hàng rào đôi ở cửa ra vào, đội trưởng để Aladdin đi bên phải, đưa
qua giữa hàng rào và đẫn đến tận ngai vua.
Khi vua nhìn thấy Aladdin, ngài rất ngạc nhiên thấy chàng
ăn mặc lộng lẫy đến mức ngài chưa từng thấy bao giờ và trái với ý nghĩ của
ngài, khuôn mặt tuấn tú, khổ người đẹp và có phong thái cao sang khác xa với
dáng điệu thấp hèn của bà mẹ đã đến gặp. Sự ngạc nhiên không cản trở ngài nhanh
nhẹn đứng dậy, bước xuống ngai vàng hai ba bậc để ngăn Aladdin quỳ dưới chân
mình và ôm hôn chàng đầy tình thân mến. Sau thủ tục ngoại giao đó, Aladdin còn
muốn quỳ xuống chân vua nhưng vua cầm tay buộc chàng bước lên ngồi giữa mình và
tể tướng.
Aladdin bèn lên tiếng:
- Thưa bệ hạ - Chàng nói - Thần nhận những vinh dự Người
ban cho vì Người có lòng tốt và thích làm thế nhưng xin cho phép thần trình bày
với bệ hạ: thần sinh ra vốn là nô lệ của Người, thần biết rõ quyền lực của
Người và không quên nguồn gốc của thần đặt dưới ánh hào quang rực rỡ về hàng
ngũ tối cao của Người. Nếu có vài chỗ thần có thể xứng đáng với một sự tiếp đón
ân huệ như thế, thần xia thú nhận là do sự táo tợn của một sự tình cờ thần đã
đặt tầm nhìn, ý nghĩ và lòng mong muốn vào công chúa thánh thiện, thần ao ước
của mình. Thần xĩn bệ hạ tha thứ cho sự liều lĩnh của thần nhưng thần không xoá
bỏ được và sẽ chết vì đau khổ nếu thần không có hy vọng thực hiện.
- Con trai - Vua vừa ôm hôn chàng một lần nữa vừa nói -
Con làm ta có lỗi nếu có lúc nghi ngờ về sự thành thực trong lời nói của ta. Từ
nay cuộc sống của con than thiết với ta nên ta muốn dành cho con một niềm tin
tưởng. Ta vui lòng trông thấy con và đồng ý sát nhập của cải của ta vào của con.
Nói xong ông ra hiệu lệnh và lập tức vang lên tiếng kèn,
não bạt, nhà vua dẫn Aladdin vào một phòng khách rất đẹp đã chuẩn bị một bữa
tiệc. Vua ăn một mình cùng Aladdin. Quan tể tướng và những người khác, cùng
ngồi theo thứ tự chức vụ của họ trong bữa ăn. Nhà vua luôn để mắt đén Aladdin,
thể hiện vui thích được gặp chàng, nói về nhiều đề tài khác nhau. Trong câu
chuyện với nhà vua, chàng tỏ ra rất hiểu biết và thông minh làm nhà vua càng
cảm thấy mình đã đúng khi đánh giá tốt về cậu.
Bữa tiệc kết thúc, vua cho gọi quan hành pháp của kinh
thành ra lệnh làm ngay thủ tục kết hôn cho công chúa Badroulboudour và Aladdin.
Trong lúc đó ông nói với Aladdin về nhiều chuyện trước mặt các cận thần, ai
cũng khen ngợi sự vững vàng về trí tuệ, cách nói năng lưu loát và những ngôn từ
tế nhị của chàng trong lời nói.
Khi quan hành pháp làm các loại thủ tục cho hôn lễ, nhà
vua hỏi Aladdin có muốn ở lại hoàng cung để làm lễ cưới trong cùng ngày không.
- Thưa bệ hạ - chàng trả lời - Dù nóng lòng được tận
hưởng những ân đức của bệ hạ, con xin Người cho phép con hoãn lại đến lúc con
cho xây dựng một lâu đài để đón tiếp công chúa xứng đáng với danh vị của nàng. Đi
làm việc đó, con xin Người ban cho một địa điểm thích hợp trước mặt hoàng cung
để con tiện triều kiến. Con sẽ hết sức hoàn thành xây dựng thật nhanh.
- Phò mã của ta - Nhà vua nói - Con hãy sử dụng tất cả
đất dai xét thấy cần thiết: trước hoàng cung còn quá trống trải và ta đã nghĩ
phải xây dựng thêm ở đấy. Con nhớ rằng hãy khẩn trương để tăng thêm niềm vui
của ta không muốn chờ đợi lâu mới thấy con gái ta thành đôi lứa.
Nói rồi ngài lại ôm hôn Alađđin, sau đó chàng xin rút lui
lễ phép như đã từng sống trong triều đình.
Aladdin nhảy lên ngựa, trở về nhà
theo trật tự tháp tùng như khi đến, qua đám đông cũ, được dân chúng hoan hô,
chúc mừng mọi thứ hạnh phúc và thịnh vừợng. Vừa đặt chân vào nhà, chàng cầm
chiếc đèn gọi thần như đã quen làm. Thần đèn không để chờ đợi, xuất hiện và sẵn
sàng phục vụ. Aladdin bảo: Tôi hết lòng khen ngợi sự thực hiện chính xác những
gì tôi yêu cầu cho đến nay nhờ quyền lực của đèn, chủ nhân của thần. Hôm nay
tôi mong vì tình cảm với chủ nhân, nếu có thể thần thể hiện nhiệt tình và vâng
lời như chưa bao giờ có. Tôi mong càng nhanh càng tốt theo khả năng của thần,
xây dựng cho tôi một toà lâu đàl xứng đáng với công chúa Badroulboudour, đối
diện hoàng cung với một khoảng cách vừa phải. Tôi để thần tự đo chọn nguyên vật
liệu nghĩa là thần có thể tuỳ thích dùng đá vân ban, ngọc thạch anh, mã não, đá
màu xanh da trời và cẩm thạch mịn nhất, nhiều màu để xây dựng nhưng trên nóc
lâu đài thần cho xây một phòng khách lớn mái vòm, bốn mặt bằng nhau, những chỗ
ngồi bằng vàng, bạc khối đặt cách nhau, hai mươi bốn cửa sổ, treo hai mươi bốn
chiếc mành sáo được trang trí thật nghệ thuật, cân đối bằng kim cương, hồng
ngọc, ngọc bích, tôi muốn để lại một tác phẩm chưa từng bao giờ toàn bích đến
thế, làm cách sao mà trên đời người chưa ai từng thấy một lâu đài tương tự. Lâu
đài có sân trước, một sân rộng, khu vườn và trên tất cả, có một kho báu đầy
tiền vàng, bạc ở một chỗ thần sẽ nói với tôi sau. Tôi cũng muốn trong lâu đài
có nhà bếp, phòng tiếp khách, kho hàng, kho đồ gỗ với bàn ghế gỗ quý cho các
mùa và tương xứng với vẻ đẹp của lâu đài, có những chuồng gia súc đầy ngựa đẹp
với những người huấn luyện ngựa, người chăm sóc ngựa, thần đừng quên trang bị
dụng cụ săn bắn. Cũng phải có những người quản lý giao dịch, nhân viên nhà bếp,
nữ nô lệ cần thiết cho việc phục vụ công chúa. Thần hiểu cho ý định của tôi, đi
làm đi và trở lại khi đã hoàn tất.
Nghìn Lẻ Một Đêm
Chương 36: Aladdin và chiếc đèn thần
(tiếp theo)
Aladdin giao nhiệm vụ xây dựng lâu
đài cho thần đèn xong thì mặt trời vừa lặn. Rạng sáng hôm sau, Aladdin vừa dậy
thì thần đèn đã đến trước mặt nói: Ông chủ, lâu đài của ông đã xong, ông đến
xem có hài lòng không”. Chưa trả lời được rất muốn thì thần đã mang chàng đến
đấy ngay. Chàng thấy nhà vượt xa sự mong đợi của mình, không ngớt khen ngợi.
Thần dẫn chàng đi khắp nơi, chỗ nào cũng chỉ thấy giàu sang, sạch sẽ và đẹp đẽ,
với những nô lệ, tất cả đều ăn mặc theo thứ bậc và công việc được giao. Thần
không quên, như một trong những điều chủ yếu, đưa chàng đến xem kho của cải có
người trông kho : trung thành canh giữ, có nhũng túi tiền kích thước khác nhau
theo lượng tiền chứa đựng, xếp cao đến trần, thứ tự trông thật thích mắt. Ra
ngoài thần dẫn chàng đến những chuồng ngựa có người đang chăm sóc nhộn nhịp
những con ngựa đẹp nhất trên đời, đến những kho hàng đủ mọi thứ cần thiết cho
ngựa.
Khi Aladdin quan sát hết từng căn
nhà, từng phòng trong lâu đài, từ trên xuống dưới đặc biệt là phòng khách hai
mươi bốn cửa sổ, chàng chỉ thấy toàn của cải, tráng lệ với mọi tiện nghi chàng
không ngờ tới, chàng nói với thần đèn:
Thần đèn, tôi không thể nào hài lòng
hơn. Còn một việc tôi chưa nói với thần vì chưa nghĩ ra, đó là trải một tấm
thảm nhung tất nhất từ cửa căn phòng dành cho công chúa trong lâu đài này để
nàng bước đi trên thảm khi từ hoàng cung tới.
- Tôi trở lại ngay - Thần đèn nói.
Thần biến mất và một lúc sau Aladdin
thấy điều mình mong muốn đã được thực hiện, không biết bằng cách nào. Thần trở
lại, đưa chàng trở về nhà trong lúc người ta mở cổng hoàng cung.
Những người gác cửa rất kinh ngạc
thấy ở khu đất trống trước đây một toà lâu đài có tường bao quanh và từ phía ấy
một tấm thảm nhung trải đến tận cửa nhà vua. Lúc đầu họ không phân biệt rõ
nhưng cấng ngạc nhiên hơn khi nhìn kỹ toà lâu đài tráng lệ của Aladdin. Tin tức
về một kỳ quan kỳ lạ chẳng mấy chốc lan khắp hoàng cung. Quan tể tướng đến tận
cổng hoàng cung cũng ngạc nhiên không kém những người khác. Ông là người đưa
tin đầu tiên đến vua nhưng cho việc đó là một phù thủy. Vua nói:
- Tể tướng, sao khanh lại nghĩ là
một phù thủy? Khanh cũng biết rõ như ta đấy là lâu đài của Aladdin xây dựng,
được ta cho phép trước mặt khanh để công chúa con gái ta ở. Sau những của cải
chúng ta đã thấy, chúng ta còn lấy gì làm lạ khi chàng ấy cho xây dựng lâu đài
này nhanh như thế. Chàng muốn làm chúng ta ngạc nhiên và cho thấy với tiền của
trong tay người ta có thể làm nên phép lạ. Giờ thiết triều đã đến nên họ không
nói về vấn đề ấy nữa.
Khi Aladdin đã được thần đèn mang
trở về nhà và biến đi, chàng thấy mẹ đã dậy và bắt đầu diện một bộ trang phục
chàng cho mang đến. Gần đến giờ vua thiết triều xong, Aladdin đưa cho để mẹ đến
hoàng cung cùng với những nô lệ nữ thần đèn đưa tới. Chàng muốn mẹ tấu trình
với vua rằng mình đến để vinh dự đi cùng công chúa vào buổi tối, sang lâu đài
mới. Bà và nô lệ nữ đều ăn mặc như những bà hoàng và ra đi. Aladdin đi ngựa,
không quên mang theo chiếc đèn đã đưa chàng lên hạnh phúc tột đỉnh, cùng đoàn
tuỳ tùng đến hoàng cung hôm trước, đàng hoàng tiến về lâu đài của mình. Khi
những người gác cổng thấy mẹ Aladdin đang tới, họ liền tâu lên vua. Nhà vua
lệnh cho những toán kèn đồng, não bạt, sáo, kèn ô-boa chờ sẵn ở các gò quanh
hoàng cung, lên tiếng nhạc hoà âm thông báo niềm vui vang khắp kinh thành. Các
thương gia bắt đầu trang hoàng cửa hiệu và chuẩn bị ánh sáng rực rỡ cho ban
đêm. Thợ thủ cống nghỉ việc, dân chúng vội vã đến tập trung ở quảng trường nằm
gìữa hoàng cung và lâu đài của Aladdin. Điều làm họ hết sức kinh ngạc là không
hiểu có một phép lạ nào đã cho họ thấy một lâu đài đẹp đến thế tại chỗ ngày hôm
trước không có nguyên vật liệu hoặc nền móng gì.
Mẹ Aladdin đươc đón tiếp trọng thể
trọng cung, có tlưởng thái giám đẫn vào căn phòng của cộng chúa Badroulboudour.
Công chúa vừa nhìn thấy bà vội chạy đến ôm hôn bà, mời ngồi lên ghế xô-pha và
trong lúc thị nữ chuẩn bị mặc quần áo, trang sức cho nàng những viên đá quý
nhất Aladdin đã tặng, nàng thiết đãi bà một bữa ăn rất ngon. Nhà vua đến để kéo
đài hơn giây phút chia tay với công chúa trước khi nàng sang lâu đài của
Aladdin cũng gặp chúc mừng bà. Mẹ Aladdin đã nói nhiều lần với nhà vua giữa
công chúng nhưng ngài chưa thấy bà bỏ mạng che mặt như lúc đó. Tuy bà đã có
tuổi nhưng vẫn còn những nét cho biết rõ thời trẻ bà là một trong số những phụ
nữ đẹp. Vua mới chỉ thấy bà ăn mặc giản đị nếu không nói nghèo nàn, nay ngài vô
cùng thán phục thấy bà mặc quần ao cũng giàu sang và đẹp như của cổng chúa.
Điều đã làm ngài hài lòng Aladdin vừa khôn, thông minh và biết điều trong mọi
việc.
Đêm xuống, công chúa cáo biệt phụ
hoàng. Sự chia tay của họ lưu luyến xen lẫn nước mắt, họ ôm hôn nhau nhiều lần
không nói gì, cuối cùng công chúa ra đi cùng với mẹ Aladdin bên trái nàng, theo
sau là một trăm nô lệ nữ ăn mặc thật đẹp. Các toán âm nhạc vẫn tiếp tục hoà tấu
từ khi mẹ Aladdin đến, lúc ấy tập hợp nhau lại bắt đầu cùng đi phía sau là một
trăm thị vệ, ngần ấy thái giám da đen bước theo hai hàng, dẫn đầu là chỉ huy
của họ. Bốn trăm thị đồng trẻ của nhà vua đi thành hàng hai bên mỗi người cầm
một bó đuốc hòa thêm vào ánh sáng của hoàng cung và lâu đài Aladdin làm nên
nguồn ánh sáng thật đẹp trong đêm.
Theo thứ tự đó công chúa bước trên
tấm thảm trải từ hoàng cung đến lâu đàì và càng tiến tới tiếng hoà nhạc của
toán đi trước đoàn người càng gần lại và hoà lẫn với tiếng nhạc vang lên từ bậc
thềm lâu đài, tạo nên một âm vang tuy lẫn lộn mà rất kỳ lạ, càng tăng thêm niềm
vui không chỉ trên quảng trường đông người mà cả trong hai lâu đài, toàn thành
phố và xa hơn nữa.
Công chúa đến lâu đài mới, Aladdin
vui mừng không hình dung nổi chạy đến căn phòng dành cho nàng để đón tiếp Mẹ
chàng có ý làm cho công chúa nhận rõ con trai mình trong đám người vây quanh,
công chúa hân hoan nhận thấy chàng rất tuấn tú. Aladdin trông thấy công chúa, kính
cẩn chào và nói:
- Công chúa đáng tôn thờ, nếu tôi
bất hạnh làm nàng không vừa lòng vì cả gan mong muốn có được một nàng công chúa
đáng yêu đến thế, tôi xin nói nàng phải trách cứ chính đôi mắt đẹp và sự duyên
dáng của nàng chứ không phải tôi.
- Phò mã, bây giờ đây thiếp có quyền
xử sự như thế này đây - Công chúa trả lời - Thiếp vâng lệnh phụ hoàng và chỉ
mong gặp chàng để nói thiếp đã vâng lệnh mà không ân hận.
Aladdin phấn khởi vì câu trả lời êm
dịu và làm chàng hài lòng, không để công chúa đứng lâu sau khi đi đường, nàng
vốn không quen, chàng cầm lấy tay công chúa hôn rất tươi vui, dẫn nàng vào một
phòng khách lớn được vô số ngọn nến chiếu sáng và thần đèn đã sắp sẵn một bữa
tiệc tuyệt vời. Các đá đều bằng vàng khối đựng đầy thịt ngon. Bát đĩa, cốc chén
và tủ thức ăn chất đầy đều bằng vàng và được chế tạo công phu. Những trang trí
khác cũng hoàn toàn phù hợp với của cải dồi dào. Công chúa vui thích thấy bao
nhiêu của cải tập trung vào một chỗ như thế, nói với Aladdin:
- Phò mã, thiếp đã nghĩ trên đời
không có gì đẹp hơn hoàng cung của phụ hoàng thiếp nhưng chỉ nhìn riêng phòng
khách này thiếp nhận thấy mình đã nhầm.
- Công chúa - Aladdin trả lời và đưa
nàng ngồi vào chỗ dành cho nàng - rất thành thực mà nói ta biết mình phải tin
vào điều gì.
Công chúa Badroulboudour, Aladdin và
bà mẹ cùng ngồi vào bàn ăn và bỗng một bản hoà tấu thật du dương, cảm động nhất
kèm theo những giọng hát rất mê ly của phụ nữ kéo dài tận hết bữa ăn. Công chúa
say mê đến mức nàng nói chưa bao giờ được nghe đàn hát như thế ở lâu đài của
phụ hoàng. Nàng không biết những nhạc sĩ, ca sĩ ấy là những tiên nữ do thần đèn
chọn.
Bữa ăn khuya kết thúc, người ta dọn
dẹp nhanh chóng và một toán nam nữ nghệ sĩ múa tiếp theo các nhạc công. Họ múa
nhiều điệu vũ khác nhau hình dung theo phong tục trong nước, kết thúc bởi một
nam và một nữ nhảy riêng với nhau nhẹ nhàng lạ kỳ, mỗi người đều thể hiện sự
duyên dáng, khéo léo của họ trong điệu nhảy. Đã gần nửa đêm, theo phong tục
thời ấy, Aladdin đứng dậy đưa tay cho công chúa mời nàng cùng nhảy và như vậy
kết thúc lễ cưới của họ. Họ nhảy rất đẹp được cả cử toạ khen ngợi. Cuối điệu
nhảy, Aladdin không buông tay công chúa, họ cùng nhau qua gian phòng đã chuẩn
bị giường tân hôn. Thị nữ cởi quần áo cho công chúa, đưa nàng lại giường, hầu
cận của Aladdin cũng làm thế và mọi người rút lui. Như vậy là kết thúc lễ cưới
và những vui chơi trong hôn lễ của Aladdin và công chúa Badroulboudour.
Sáng hôm sau, Aladdin vừa thức dậy
những người hầu phòng đã đến mặc quần áo cho chàng một bộ khác bộ ngày cưới
cũng sang trọng và đẹp như vậy. Sau đó họ dắt đến một trong những con ngựa dành
riêng. Chàng lên ngựa đi tới hoàng cung giữa một toán đông nô lệ đi trước, đi
sau và bên cạnh. Nhà vua tiếp đón chàng với những vinh dự như lần đầu, ôm hôn,
cho ngồi bên cạnh ông và ra lệnh chuẩn bị bữa ăn trưa. Aladdin nói:
- Thưa phụ hoàng, con xin bệ hạ hôm
nay miễn cho con vinh dự đó. Con đến đề nghị Người đến ăn một bữa trong lâu đài
của công chúa cùng tể tướng và các cận thần của Người.
Vua vui lòng ban ân huệ đó. Ngài
đứng dậy ngay và vì đường không xa, ngài muốn đi bộ. Như vậy là ngài ra khỏi
cung, Aladdin bên phải tể tướng bên trái, các cận thần theo sau, đi trước là
các thị vệ và những võ quan chủ yếu trong cung.
Càng đến gần lâu đài của Aladdin vua
càng thấy đẹp. Vào trong nhà càng khác hẳn, ông không ngớt khen từng phòng một.
Nhưng lên đến phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, thấy sự trang trí nhất là những
chiếc mành sáo giắt kim cương, ngọc bích, hồng ngọc tất cả đều hoàn hảo tuyệt
mỹ về cả số lượng và nghệ thuật, ông ngạc nhiên sững người. Sau một lúc đứng lm
lặng, ông nói với. tể tướng đang đứng gần ông:
- Tể tướng, có thể nào trong vương
quốc ta và gần ngay hoàng cung vẫn có một lâu đài đẹp đến thế mà đến nay ta
không biết.
- Thưa bệ hạ - Tể tướng trả lời - bệ
hạ có thể nhớ lại ngày hôm kia Người cho phép Aladdin vừa được chấp nhận làm
rể, xây dựng một lâu đài đối diện với hoàng cung. Ngay ngày ấy lúc mặt trời lặn
còn chưa có lâu đài ở chỗ này và hôm qua thần được vinh dự đầu tiên báo cáo với
Người lâu đài đã xây dựng xong.
- Ta nhớ nhưng còn đang nghĩ lâu đài
ấy là một kỳ quan trên đời. Dưới bầu trời này tìm đâu ra nền nhà toàn bằng
vàng, bạc khối thay vì đá hoặc cẩm thạch, cửa sổ thì giắt đầy kim cương, hồng ngọc
và ngọc bích? Không bao giờ trên đời làm được vật như vậy.
Vua thích thú ngắm nghía hai mươi
bốn chiếc cửa sổ. Đêm lần lượt mành cửa ông thấy chỉ có hai mươi ba chiếc cùng
trang trí lộng lẫy quý giá như nhau, chiếc thứ hai mươi bốn đang dở dang. Ông bảo
tể tướng (vì ông này có nhiệm vụ luôn ở bên cạnh vua):
- Tể tướng, ta rất lạ vì một lâu đài
như thế này mà chưa hoàn tất vì một chỗ này.
- Thưa bệ hạ - Tể tướng trả lời, -
có vẻ Aladdin vội quá, không đủ thì gỉờ trang trí cửa sổ này như những cái khác
nhưng tin rằng cậu đủ đá quý để bổ sung vào ngày đầu tiên.
Aladdin ra ngoài sai bảo người hầu
một lát, lúc đó đã trở lại.
- Phò mã - Nhà vua nói - phòng khách
này là chỗ đáng thán phục nhất. Có điều ta lấy làm lạ là chiếc màn cửa này chưa
hoàn thành. Phải chăng vì quên, lơ là hoặc thợ không đủ thì giờ làm nất cho
xong một mảnh kiến trúc đẹp như vậy?
- Thưa bệ hạ, không phải vì những lý
do đó đâu ạ. Đây là thợ làm theo kế hoạch của con. Con muốn để bệ hạ ra lệnh
cho hoàn thành phòng khách này và đồng thời là hoàn thành lâu đài. Xin bệ hạ
vui lòng chấp nhận ý định của con để con luôn nhớ đến ân đức của Người.
- Nếu con có ý định đó, ta rất sẵn
lông và sẽ cho lệnh làm việc đó ngay.
Thực vậy ông ra lệnh triệu tập những
nhà kim hoàn nhiều đá quý nhất và những thợ trang sức giỏi nhất trong kinh
thành. Vua xuống khỏi phòng khách, Aladdin dẫn ông đến phòng mở tiệc trong ngày
cưới. Một lúc sau công chúa đến, đón tiếp vua cha với thái độ làm ông vui mừng
biết nàng rất hài lòng về cuộc hôn nhân. Hai bàn đầy thức ăn ngon trên bát đĩa
bằng vàng. Nhà vua ngồi vào bàn trước tiên, cùng ăn với công chúa, Aladdin và
tể tướng. Các cận thần khác của triều đình được chiêu đãi ở chiếc bàn thứ hai
rất dài. Vua thấv thức ăn rất ngon, thú nhận chưa bao giờ được thưởng thức ngon
hơn. Ngài cũng nói như thế về rượu, đó cũng là loại hảo hạng. Ngài khen ngợi
nhất là bốn chiếc tủ búp phê đầy chai lọ, bát đĩa bằng vàng khảm ngọc. Ngài
cũng rất thích những bản nhạc hoà tấu trong phòng khách trong lúc tiếng vang
những kèn, trống, não bạt ở một khoảng cách vừa phải bên ngoài, bổ sung cho
nhau đầy thi vị.
Lúc vua vừa ăn xong, người ta tâu
lên rằng các nhà kim hoàn và thợ trang sức được gọi đã tới. Ngài trở lên phòng
khách hai mươi bơn cửa sổ, chỉ cho thợ kim hoàn đi theo mình chiếc cửa chưa
xong:
- Ta cho gọi các ngươi đến để các
ngươi hoàn thành chiếc cửa này, cũng tinh xảo như những cửa sổ khác. Hãy quan
sát kỹ đi và làm thật giống cho ta. Những người thợ kim hoàn quan sát rất kỹ
hai mươi ba mành cửa và sau khi trao đổi với nhau, xác nhận mỗi người đóng góp
được phần việc nào, họ đến trình diện trước vua và người thường phụ trách trang
sức trong hoàng cung trình bày
- Thưa bệ hạ, chúng thần sẵn sàng
đem khả năng kỹ nghệ ra để vâng theo lời Người nhưng dù chúng thần hành nghề đã
lâu, chúng thần vẫn không có đá quý và nhiều đến nhừ thế để làm công trình lớn
này.
- Ta có - Vua nói - và nhiều hơn số
lượng cần thiết đấy. Đến hoàng cung ta đưa cho mà chọn.
Về cung, vua cho đem một lượng rất
lớn đá quý đặc biệt từ số Aladdin đưa tặng. Họ đưa tới làm nhưng không đủ, trở
lại lấy thêm nhiều lần và trong một tháng chưa hoàn thành một nửa công trình.
Họ dùng tất cả những đá quý của vua và cả số đá quý mà tể tướng cho mượn, tất
cả cũng chỉ làm được một nửa tấm mành.
Aladdin biết vua cố gắng cho làm
cũng không giống được và không bao giờ hoàn thành, liền gọi thợ kim hoàn đến
không những bảo họ không làm nữa mà còn gỡ ra hết những gì đã làm, đưa trả lại
tất cả những đá quý của vua và của vị đại thần.
Công trình thợ kim hoàn ra sức trong
sáu tuần lễ chỉ phá ra trong mấy giờ. Họ ra về để một mình Aladdin trên phòng
khách. Chàng lấy chiếc đèn xát mạnh, thần hiện ra ngay Aladdin bảo:
- Tôi ra lệnh cho thần để lại một
tấm mành chưa hoàn thành, thần đã làm thế, bây giờ tôi gọi thần đến cho làm nốt
giống như những tấm kia.
Thần đèn biến mất, Aladdin xuống
dưới nhà, ít lâu sau trở lên thấy tấm mành cửa đã như chàng mong muốn và giống
hệt những tấm kia.
Trong lúc đó thợ kim hoàn về cung,
được đưa vào gặp vua. Trưởng toán thợ đưa ra những viên đá quý mang trả lại và
thay mặt anh em trình bày:
- Thưa bệ hạ, chúng thần đã bỏ ra
biết bao nhiêu thời gian, đưa kỹ nghệ tinh xảo vào để thực hiện công việc Người
giao cho. Công trình đã tiến hành khá kết quả nhưng Aladdin không những bảo
thôi làm mà còn phá bỏ hết đưa trả lại bệ hạ và tể tướng tất cả những viên đá
quý.
Vua hỏi lý do, họ bảo Aladdin không
nói gì. Ông ra lệnh thắng ngựa ra đi, chỉ có hầu cận đi bộ theo hộ tống. Ngài
tới lâu đài con gái, xuống ngựa lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, không báo
tin cho Aladdin biết, nhưng vừa lúc Aladdin có mặt đúng lúc đón nhà vua ở cửa.
Không để Aladdin phân trần, ngài
nói:
- Phò mã, ta đến hỏi con vì lý do gì
lại muốn để dở dang một phòng khách đẹp và đặc biệt đến thế như phòng khách của
lâu đài con.
Aladdin giấu lý do thực sự là vua
không đủ đá quý để tiêu tốn như vậy nhưng để ông biết lâu đài này không chỉ
vượt hẳn hoàng cung mà hơn mọi lâu đài trên đời và không phải chàng không thể
hoàn tất, trả lời:
- Bệ hạ, đúng là Người đã thấy phòng
khách chưa trang trí xong hẳn nhưng bây giờ xin Người xem lạl có thiếu gì
không.
Nhà vua lại thẳng cửa sổ trước đó có
tấm mành bỏ dở thấy nó cũng giống hệt nhũng tấm khác, đã ngỡ mình nhầm. Ngài
quan sát hai cửa sổ bên cạnh và lần lượt từng cái khác công nhận tấm mành ngài
cho làm trong bao nhiêu thời gian, tốn nhiều công thợ vừa mới hoàn tất không
mấy chốc. Ngài hết sức ngạc nhiên ôm lấy Aladdin hôn vào trán và nói:
- Phò mã, con là ai mà làm những
việc kỳ lạ đến thế trong nháy mắt? Con không giống ai trên đời; càng biết rõ
con, ta càng thán phục.
Aladdin rất khiêm tốn đáp lời khen
của nhà vua:
- Thưa bệ hạ, thật vinh dự lớn cho
con được nhận lòng tốt và lời khen của bệ hạ. Con cam đoan sẽ không quên điều
gì để ngày càng xứng đáng với hai ân huệ đó.
Vua trở về hoàng cung theo cách ngài
đến, không cần Aladdin tháp tùng. Ngày thấy tể tướng đang chờ ngài ở đấy Nhà
vua còn hoan hỉ về kỳ quan vừa chứng kiến, kể lại mọi điều làm tể tướng tin vào
lời vua và càng khẳng định lại mối nghi ngờ lâu đài của Aladdin do phù phép mà
có như ông đã nói với vua ngay lúc lâu đài xuất hiện. Ông muốn nhắc nhở lại vua
điều ấy. Nhà vua ngắt lời ông:
- Tể tướng, khanh cũng đã nói với ta
như thế, ta thấy rõ là ông chưa quên việc kết hôn của con gái ta yà con trai
ông.
Vị tể tướng cho là nhà vua đang thoả
lòng, nên không muốn cãi lại nhà vua. Hàng ngày như thành lệ, khi vua ngủ dậy
đã không quên đến một căn phòng có thể thấy rõ toàn bộ lâu đài Aladdin và trong
ngày cũng tới đó ngăm nghía và thán phục.
Aladdin không khép mình trong lâu
đài, môi tuần ra phố một vài lần, đi dọc kinh ở nhà thờ hoặc đến thăm tề tướng
hoặc những cận thần chính của nhà vua mà chàng thường đãi tiệc. Mỗi lần chàng
ra ngoài, chàng cho vài nô lệ đi kèm bên ngựa tung những nắm tiền vàng trên
đường phố đi qua hoặc ở những quảng trường đông đân chúng. Vả lại không một
người nghèo nào đến trước lâu đài Alađdin không hài lòng trở về với sự hào
phóng người ta đối xử theo lệnh chàng.
Tuần lễ nào Aladdin cũng đi săn ít
nhất một lần, lúc thì xung quanh thành phố, đôi lúc xa hơn, bao giờ trên đường
đi chàng cũng hào phóng. Xu hướng độ lưòng đó được dân chúng hàm ơn nhiều có
thể nói với thái độ dễ mến và hào phóng, chàng được dân chúng mến mộ hơn cả
vua, tuy không che lấp vua mà chàng triều kiến rất đều đặn. Với những đức tính
vốn có chàng nhiệt tình, đề cao quyền lợi quốc gia làm người ta không ngớt khen
ngợi. Chàng lại chứng tỏ sốt sắng nhân dịp một cuộc nổi loạn xảy ra ở biên giới
vương quốc. Vừa nghe vua thành lập một toàn quân đi tiễu trừ, chàng xin nhận
việc chỉ huy. Nhà vua chấp thuận dễ dàng. Đứng đầu đoàn quân chàng mau lẹ dẹp
tan cuộc nổi loạn. Việc đó làm tên tuổi chàng vang khắp vương quốc rộng lớn
nhưng lòng chàng không thay đổi, vẫn hiền lành dễ mến như trước đây.
Đã nhiều năm Aladdin sinh sống như
vậy cho đến lúc lão phù thuỷ kẻ đã vô tình tạo điều kiện cho chàng giàu sang
cao độ, đã trở về châu Phi bỗng nhớ đến chàng. Tuy luôn nghĩ Aladdin đã chết
dưới hầm đất từ khi lão chôn sống chàng, lão cũng muốn biết cụ thể kết cục ra
sao. Vốn giỏi bói toán, lão lấy trong tủ ra một hộp vuông dùng để bói toán.
Ngồi trên ghế xô-pha đặt chiếc hộp mở ra trước mặt, với ý định xem Aladdin có
chết dưới long đất không, lão san bằng cát trong hộp, vẽ hình, tính toán vị trí
các sao theo cách tính tử vi. Quan sát các sao trong tử vi để phán đoán, thay
vì thấy Aladdin chết trong long đất, lão thấy chàng đã ra khỏi đó, sống một
cuộc đời cực kỳ tốt đẹp, rất giàu, chồng một công chúa, được kính trọng, tôn
vinh.
Nhờ ma thuật biết được điều đó xong
lão phù thủy bèn nổi giận điên người tự nhủ:
- Thằng con trai thợ may khốn kiếp
đã phát hiện ra bí mật của chlếc đèn thần. Ta tưởng nó chết nhưng nó lại đang
hưởng thành quả công sức và mong ước của ta. Ta thà chết chứ không thể để nó
hưởng thụ lâu hơn nữa.
Không đắn đo gì về việc phải làm
nữa, ngay sang hôm sau lão lên ngựa sẵn có trong chuơng ra đi. Qua thành phố
này đến thành phố khác, tỉnh này đến tỉnh khác, không ngừng lại trừ khi cần
thiết cho ngùa khỏi mệt, lão đến Trung Hoà và vào ngay kinh thành Aladdin đang
sống với con gái nhà vua. Lão xuống ngựa vào một nhà trọ, thuê phòng ở lại qua
đêm cho lại sức.
Hôm sau, trước hết, lão phù thuỷ
châu Phi thăm dò xem người ta nói về Aladdin như thế nào. Đi trong thành phố
lão vào những chỗ thường những người có danh tiếng lui tới, chỗ người ta tập
hợp uống một chén nước nóng lão đã quen lần đến tlước. Vừa ngồi xuống chỗ người
ta mời lão một chén nước. Vùa nhấm nháp lão vừa lắng nghe xung quanh mọi người
nói chuyện về lâu đài Aladdin. Uống xong lão đến gần một trong bọn họ, hỏi về
lâu đài nào mà người ta nói sôi nổi như vậy. Người này nói:
- Ông ở đâu tới thế? Phải mới đến
đây cho nên mới chưa thấy hoặc được nghe nói về lâu đài của phò mã Aladdin
(Người ta gọi chàng như thế từ khi cưới công chúa Badrouthoudour). Tôi chưa nói
với ông đấy là một trong những kỳ quan mà còn chưa từng có một kỳ quan nào trên
đời, to lớn, giàu sang và lộng lẫy đến thế. Chắc ông đến từ xa lắm mới chưa
biết. Từ khi lâu đài ấy xây dựng đến nay người ta chỉ nói về nó. Ông đến xem và
sẽ thấy là tôi không nói sai sự thật.
- Thứ lỗi cho tôi - Lão phù thuỷ lại
nói- Tôi từ tận cùng châu Phi vừa đến hôm qua, lúc tôi đi thì tiếng tăm về lâu
đài chưa tới đó. Đi đường vì công việc gấp, tôi chắng thấy gì khác và không
dừng lại để tìm hiểu, nên không biết điều ông vừa nói. Nóng lòng thoả tính tò
mò, tôl sẽ đi ngay bây giờ, nhờ ông chỉ đường cho.
Người kia sẵn lòng hướng dẫn lão phù
thủy phải đi qua con đường nào. Để thấy lâu đài Aladdin lão phù thuỷ đứng dậy
đi ngay. Đến nơi, lão quan sát các mặt của lâu đài, chắc chắn Aladdin dùng chiếc
đèn dựa vào những nô lệ thần đèn để cho xây dựng những kỳ công như thế. Căm tức
vì Aladdin hạnh phúc và đã trở nên tôn quý không khác gì nhà vua, lão trở về
nhà trọ suy tính kế hoạch.
Phải biết chiếc đèn ở đâu, Aladdin
có mang trong người không hay để một chỗ nào đó và lão phù thuỷ phát hiện nhờ
bói toán. Lão lấy hộp vuông và cát mang theo, vẽ hình tính toán, biết rõ chlếc
đèn để trong lâu đài, lão vui mừng tự nhủ: Ta sẽ lấy lại chiếc đèn, thách
Aladdin ngăn cản được ta và sẽ đẩy nó xuống đến đáy vực vì dám bay cao .
Thật không may cho Aladdin là chàng
vừa đi khỏi lâu đài ba ngày, để săn bắn trong tám ngày. Lão phù thuỷ sau khi
bói toán biết chiếc đèn vẫn ở trong lâu đài, liền đến lân la chuyện trò với
người gác cổng nhà trọ. Lão nói đã thấy lâu đài Aladdin, khuếch trương những gì
kỳ lạ nhất, đã làm mọi người phải ngưỡng mộ:
- Tôi tò mò nhìn ngắm rất kỹ nhưng
chưa thoả mãn vì không thấy ông chủ toà lâu đài tuyệt vời ấy.
- Gặp ông ấy không khó đâu, hầu như
không ngày nào không có dịp nếu ông ở trong thành phố nhưng ông đã đi vắng ba
ngày nay, để dự một cuộc săn bắn tám ngày.
Lão phù thuỷ châu Phi không muốn
biết gì hơn, lão chào người gác cổng về phòng, và tự nhủ: Đúng lúc phải hành
động rồi, không được bỏ lỡ dịp. Lão ra một hiệu làm và bán đèn, bảo:
- Ông chủ, tôi cần một tá đèn bằng
đồng, ông có làm được không?
- Người bán nói hiện còn thiếu mấy
chiếc nếu chịu khó chờ đến ngày mai sẽ có đủ. Lão phù thuỷ đồng ý, dặn dò phải
thật cẩn thận đẹp đẽ lão sẽ trả giá cao và về nhà trọ.
Ngày hôm sau lão đến nhận mười hai
chiếc đèn, trả theo giá người bán đòi hỏi không bớt, bỏ vào chiếc giỏ mang theo
đi về hướng lâu đài Aladdin. Khi lại gần lâu đài lão rao to:
- Ai đổi đèn cũ lấy đèn mới đây?
Đi trên đường, trẻ con đang chơi
nghe tiếng rao chạy tới đi theo, nhìn lão cho là người điên. Những người qua
đường cười nhạo về trò ngốc nghếch của lão. Ông ấy phải mất trí, - họ nói, -
mới đổi đèn mới lấy đèn cũ .
Lão phù thủy không ngạc nhiên về đám
trẻ con cũng như những gì người ta nói về lão, để đổi hết hàng tiếp tục rao to:
- Ái muốn đổi đèn cũ lấy đèn mới
nào?
Lão luôn rao như thế, đi đi lại lại
trên quảng trường, trước lâu đài và quanh đó. Công chúa Badroulboudour đang ở
trên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ nghe tiếng người, không phân biệt rõ vì
trẻ con đi theo và người đông ồn ào, bảo một nữ nô lệ gần đấy xuống xem có việc
gì.
Nữ nô lệ chẳng mấy chốc lên phòng
khách cười không dứt khiến công chúa cũng cười theo.
- Này! Đồ điên - Công chúa bảo - Sao
em cười đến thế?
- Thưa công chúa, em không ngăn được
cười khi thấy một người điên, giỏ đèn mới trên tay không bán mà chỉ đổi lấy đèn
cũ. Trẻ con bao quanh rất đông làm ồn lên đấy ạ.
Nghe nói thế một nữ nô lệ khác nói:
- Về đèn cũ không biết công chúa có
để ý chúng ta có một chiếc đèn cũ để ở gờ tường không? Đổi lấy chiếc đèn mới
cũng hay đấy. Nếu công chúa đồng ý, Người sẽ biết ngay kẻ điên kia có thật điên
không khi cho một chiếc đèn mới lấy chiếc cũ mà không đòi hỏi thêm gì.
Chiếc đèn người nữ nô lệ nói đó là
chiếc đèn thần Aladdin sử dụng để lên đến mức cao sang hiện nay, trước khi đi
cậu đã đề lên gờ tường sợ đem theo bị mất. Ngoài những buổi đi săn bao giờ cậu
cũng mang trong người mình. Không nô lệ, thái giám nào kể cả công chúa để ý đến
nó khi cậu đi vắng. Việc Aladdin đề phòng như vậy là tốt, nhưng ít nhất cậu
cũng nên cho vào chỗ khoá cẩn thận mới phải. Đây là một trong những sơ suất mà
người ta thường mắc phải.
Công chúa Badroulboudour không biết
chiếc đèn quý giá và Aladdin cũng không nói nó quan trọng đến mức không được sờ
vào và phải giữ gìn rất cẩn mật chiếc đèn nên trong lúc vui đùa nàng bảo một
thái giám lấy đem đi đổi Vâng lời, thái giám đưa đèn ra khỏi lâu đài, gặp ngay
lão phù thuỷ bảo:
Nào, đưa đèn mới đổi chiếc đèn cũ
này đi.
Lão phù thuỷ châu Phi biết chắc chắn
đó là chiếc đèn mình đang tìm. Không thể có cái nào khác như thế trong lâu đài
vì đồ dùng toàn bằng vàng bạc. Lão lấy ngay chiếc đèn tròng tay người thái giám
giắt vào người, đưa giỏ đèn mới cho thái giám chọn một chiếc đưa về cho công
chúa. Trẻ con cười ồ lên, chế nhạo lão già ngu ngốc.
Lão mặc cho trẻ con la hét, im lặng
đi khỏi vùng quanh lâu đài, nghĩa là không rao đổi đèn cũ nữa: không muốn những
đèn khác ngoài chiếc lão đã lấy được. Trẻ con giải tán dần và để lão đi.
Ra khỏi quảng trường giữa hoàng cung
và lâu đài, lão phù thuỷ đi vào những đường vắng người, vứt giỏ đèn ở một con
đường không ai qua lại. Lão sang một con đường khác đi gấp về phía cổng thành.
Ra đến đồng ruộng lão đến một chỗ khuất, đừng lại đó cho đến lúc thấy phù hợp để
thực hiện ý đồ của mình.
Chờ đến một giờ đêm, xung quanh tối
đặc, lão lấy chiếc đèn bọc trong người ra xát mạnh. Thần đèn xuất hiện.
- Người muốn gì? Tôi sản sàng theo
lệnh Người và những người có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn
cũng thế.
- Ta ra lệnh - Lão phù thuỷ nói -
Ngay lúc này thần bưng lâu đài mà thần hoặc những nô lệ khác đã xây dựng trong
thành phố, mang nguyên cả khối và tất cả những người sống ở đó, cùng với ta nữa
sang một nơi ở châu Phi. Không trả lời, thần đèn và nhũng thần nô lệ khác của
đèn mang lão và toàn bộ lâu đài đến một chỗ lão chỉ dẫn,
Nhà vua thức dậy, theo thói quen vào
trong gian phòng trống để thích thú ngắm nhìn và thán phục lâu đài của Aladdin.
Ngài nhìn về phía thường ngắm lâu đài, chỉ thấy một khoảng trống trải như trước
đây chưa xây dựng. Ngỡ mình nhầm, ngài dụi mắt nhưng không thấy gì hơn lấn
trước tuy trời trong xanh, bình minh lên soi sáng mọi vật. Hết sức kinh ngạc,
ngài sững người tại chỗ, nhìn về phía lâu đài trước đây, không thể hiểu vì sao
một lâu đài to lớn, thực tại như lâu đài Aladdin, hàng ngày ngài vẫn thấy từ
khi ngài cho phép xây đựng và vừa mới hôm trước còn đấy, đã biến mất không còn
một dấu vết. Ta không nhầm đâu, - ngài tự nhủ lâu đài vẫn ở đấy. Nếu nó đổ,
nguyên vật liệu phải thành đống ở đấy và nếu bị nhấn chìm trong đất cũng để lại
vài dấu vết!. Dù đã xảy ra việc gì, tuy công nhận lâu đài không còn, ngài vẫn
để chờ ít lâu xem mình có nhầm không. Ngoái lại nhìn phía sau trước khi trở về
phòng mình, ngồi trong phòng tâm trí ngài rối loạn không biết nên làm thế nào,
đành cho gọi quan tể tướng đến thật gấp.
Tể tướng tới vội vã, đến nỗi cả ông
và hầu cận không ai để ý đến lâu đài chẳng còn. Những người gác cổng mở cửa
nhưng cũng không nhận thấy.
Tể tướng hỏi nhà vua:
- Thưa bệ hạ, Người cho gọi thần gấp
nên thần cho là có việc gì khác thường lắm vì Người cũng biết hôm nay là ngày
thiết triều và lát nữa như thường lệ thần phải đến chầu.
- Việc xảy ra là điều rất khác
thường như khanh nói. Ta hỏi khanh, lâu đài của Aladdin đâu rồi?
- Thưa bệ hạ! Thần vừa đi ngang qua,
lâu đài hình như vẫn ở đấy. Những kiến trúc vững chắc như thế không dễ dàng đổi
chỗ được.
- Lên phòng trống ngó xem rồi xuống
nói với ta khanh còn thấy lâu đài ấy không.
Tể tướng lên phòng trống cũng sửng
sốt như nhà vua. Khi chắc chắn lâu đài Aladdin đã biến mất, ở đấy không còn dấu
vết, ông xuống trình điện trước mặt nhà vua.
- Thế nào, khanh có thấy lâu đài
không?- Vua hỏi.
- Thưa bệ hạ, xin nhớ lại thần đã có
vinh dự nói với Người, lâu đài ấy được Người khen ngợi với bao của cải vô biên
chỉ là công trình phù phép của một phù thuỷ nhưng bệ hạ không lưu ý cho.
Nhà vua vốn không chịu nghe điều tể
tướng đã nhắc nhở, nay phải thừa nhận sự nghi ngại của ông ta là đúng. Ngài
liền nổi giận dữ dội. Nhà vuạ quát:
- Tên lừa bịp bỉ ổi ấy đâu để ta eho
chặt đầu?
- Thưa bệ hạ, cách đây mấy ngày
Aladdin tới xin bệ hạ nghỉ đi san, phải cho người đến hỏi xem lâu đài đâu rồi,
hắn phải biết.
- Như vậy quá đại lượng - Vua lại
nói - Ra lệnh cho ba mươi kỵ sĩ trói dẫn hắn về đây cho ta.
Tể tướng đi ban lệnh của vua cho kỵ
sĩ, dặn dò viên chỉ huy cẩn thận không để thoát kẻ có tội. Họ ra đi và gặp
Aladdin cách thành phố năm, sáu dặm. Viên chỉ huy bảo vua nóng lòng mụốn gặp,
cử họ đi đưa tin rồi cùng nhau trở về.
Aladdin không một chút nghi ngờ về
lý do thực sự của việc cử toán cận vệ đi tìm, vừa săn bắn vừa đi về cung. Nhưng
khi cách thành phố nửa dặm, toán kỵ sĩ vây quanh chàng và viên chỉ huy lên
tiếng:
- Phò mã Aladdin, rất tiếc phải
tuyên bố lệnh của nhà vua bắt ông và dẫn về như tội phạm quốc gia. Chúng tôi đề
nghị đừng nghĩ chúng tôi làm nhiệm vụ là sai trái và tha lỗi cho.
Lời tuyên bố ấy làm Aladdin hết sức
ngạc nhiên, hỏi viên chỉ huy mình bị kết tội gì, ông này trả lờị ông và người
của ông không biết gì hết.
Aìaddin thấy người của mình ít hơn
toán quân nhiều tuy họ ở đàng xa, chàng xuống ngựa và nói:
- Tôi đây, các ông cứ làm theo mệnh
lệnh. Tôi chỉ có thể nói mình chẳng phạm một tội gì đối với nhà vua cũng như
đối với quốc gia.
Người ta quàng vào cổ chàng một dây
xích khá to và dài quấn vào quanh người bó cả hai tay. Khi viên chỉ huy bước
lên đi đầu, một kỵ sĩ cầm đầu dây xích, đi bên cạnh chỉ huy dẫn Aladdin phải đi
bộ về thành phố.
Khi đoàn kỵ sĩ vào đến ngoại ô,
những người đầu tiên thấy người ta dắt Aladdin như tội phạm quốc gia, nghĩ rằng
triều đình sẽ chặt đầu chàng. Dân chúng vốn mến mộ chàng, nhiều người cầm gươm
và vũ khí khác, những người không có vũ khí cầm đá, cùng ào theo toán ky sĩ.
Chẳng mấy chốc đám đông dân chúng lấn át cả toán kỵ sĩ, rất may họ có thể về
đến hoàng cung không bị dân chúng cướp mất Aladdin. Họ cẩn thận lúc nói rộng
hàng, lúc khép chặt choán hết bề rộng đường đi. Đến quảng trường hoàng cung tất
cả dân chúng có vũ khí đứng thành một hàng ngang ngoảnh mặt về phía hoàng cung
cho đến khi chỉ huy dẫn Aladdin vào trong hoàng cung và những người gác đóng
chặt cửa.
Aladdin bị dẫn đến trước nhà vua
đang đứng chờ trên ban công cùng quạn tể tướng. Vừa thấy chàng ngài ra lệnh cho
đao phủ chờ sẵn ở đấy chặt đầu phạm nhân, không muốn nghe một lời thanh minh
nào.
Đao phủ nắm lấy Aladdin, bỏ dây xích
ở cổ và quanh người, trải trên đất một tấm đa đầy máu những người bị hành hình,
bắt chàng quỳ xuống và bịt mắt chàng. Ông ta rút gươm, lấy đà, múa gươm lấp
lánh ba vòng và chờ lệnh vua để hạ thủ.
Trong lúc đó quan tể tướng thấy đám
đông đân chúng trên quảng trường dồn toán kỵ sĩ vào và trèo lên nhiều chỗ tường
hoàng cung để xông vào. Trước khi vua ra hiệu xử tử, tể tướng vội ngăn nhà vua
lại:
- Thưa bệ hạ, xin Người nghĩ kỹ về
việc sắp làm. Hoàng cung có thể bị phá và mọi chuyện sẽ trở nên nguy hiểm.
- Hoàng cung của ta bị phá? Kẻ nào
có gan như vậy?
- Thưa bệ hạ, xin Người nhìn vào
những bức tường hoàng cung và quảng trường, Người sẽ thấy rõ điều thần nói là
đúng.
Vua thấy kinh thành của mình náo
động mạnh mẽ như thế, vội sợ hãi, ra lệnh ngay cho đao phủ bỏ gươm xuống, bỏ
vải bịt mắt và để Aladdin được tự do. Ngài cũng ra lệnh cho quân cận vệ hô lớn
nhà vua đã gia ân cho Aladdin và mọi người lui ra ngoài.
Những người đã trèo lên tường hoàng
cung thấy như vậy, từ bỏ ý đồ tấn công. Họ nhảy xuống vui mừng vì đã cứu được
người họ thực sự yêu mến, và thông báo điều đó với những người vây quanh. Tin
được truyền đến dân chúng ở quảng trường cùng tiếng loan báo của quân thị vệ
được loa báo rộng. Vua vừa trả tự do cho Aladdin làm nguôi dân chúng, việc náo
động chấm đứt và rồi ai về nhà nấy.
Aladdin được cởi trói, ngẩng đầu
nhìn lên nhà vua cao giọng với thái độ xúc động:
- Thưa bệ hạ con khẩn cầu Người gia
ân cho them một điều là cho biết con phạm tội gì?
- Tội gì à, kẻ phản trắc? Ngươi không biết sao? – Vua nói
- Lên đây và ta cho ngươi biết rõ.
Aladdin đi lên.
- Đi theo ta - Vua bảo và quay lưng đi trước không nhìn
đến chàng. Ngài dẫn chàng đến cửa sổ gian phòng trống: - Vào đi, ngươì phải
biết lâu đài của ngươi ở đâu, nhìn mọi phía và cho ta biết nó ra sao rồi.
Aladdin nhìn không thấy gì. Chàng nhìn khắp vùng đất đã
xây dựng lâu đài, không đoán được vì sao nó biến mất. Tình huống khác thường và
kỳ lạ này làm chàng lung túng, ngạc nhiên hết sức không thể trả lời nhà vua một
lời. Nhà vua sốt ruột nhắc lại:
- Ngươi hãy nói lâu đài của ngươi ở đâu, con gái ta ở
đâu?
Aladdin lên tiếng nói:
- Thưa bệ hạ, con thấy rõ, xin thú thực, lâu đài con cho
xây dựng không còn ở chỗ cũ; con thấy nó đã biến mất và cũng không thể nói nó ở
đâu nhưng con cam đoan với bệ hạ con không làm gì trong hiện tượng này.
- Ta không cần biết lâu đài của ngươi ra sao rồi. Ta lo
về con gái ta hàng triệu lần hơn. Ta muốn ngươi tìm lại cho được con ta, nếu
không ta chặt đầu ngươi không gì cản trở ta được.
- Thưa bệ hạ - Aladdin lại nói - Con cầu xin bệ hạ cho
con bốn mươi ngày để cấp tốc đi tìm. Nếu trong thời gian ấy con không tìm được
con xin hứa sẽ đưa đầu mình đến trước chân Người. Người muốn làm gì con cũng
thoả lòng.
- Ta cho ngươi bốn mươi ngày theo yêu cầu nhưng đừng lạm
dụng sự gia ân của ta, đừng hy vọng thoát khỏi cơn giận dữ của ta. Bất cứ ngươi
trốn chỗ nào trên mặt đất ta cũng tìm được ngươi.
Aladdin rút lui, rất nhục nhã trong tình trạng đáng
thương. Chàng qua các sân hoàng cung đầu cúi xuống, không dám ngẩng mặt nhìn,
những võ quan trong sân quay lưng lại nên không thấy chàng và chàng cũng không
muốn gặp họ nữa. Nhưng nếu họ lại gần để an ủi hoặc giúp đỡ, họ sẽ không nhận
ra Aladdin nữa: bản thân chàng cũng không nhận ra mình, không còn tỉnh táo gì
nữa. Điều ấy thể hiện rất rõ khi ra khỏi hoàng cung, không nghĩ đến việc mình
làm, chàng đi gõ cửa từng nhà và hỏi những người gặp trên đường có thấy lâu đài
của chàng ở đâu không hoặc có biết tin gì về nó không.
Những lời hỏi đó làm mọi người nghĩ Aladdin mất trí. Một
số chỉ cười nhưng những người biết điều hơn đặc biệt những người có quan hệ bạn
bè hoặc buôn bán với cậu thực sự thông cảm. Chàng ở trong thành phố ba ngày,
lúc chỗ này lúc ehỗ khác, chỉ ăn khi người ta mang cho và không biết làm gì
khác.
Cuối cùng không thể sống trong tình trạng khốn khổ như
vậy trong thành phố trước đây mệnh danh giá thế, chàng ra khỏi thành phố đi về
đồng ruộng, qua nhiều cánh đồng với tình trạng không ổn định khổ sở và đến tối
thì nghĩ tới một bờ sông. Chàng tuyệt vọng: Ta tìm lâu đài ở đâu bây giờ? Đến
tỉnh nào, nước nào, phần đất thế giới nào để tìm ra nó và công chúa thân yêu
của ta? Không bao giờ có kết quả được, phải giải thoát bao mệt nhọc và buồn tủi
đang hành hạ ta thì hơn . Chàng sắp nhảy xuống song nhưng nghĩ là một người Hồi
giáo trung thành, phải rửa tay trước khi chết. Chàng lại bờ sông rửa mặt, rửa
tay theo tập quán. Chỗ này hơi dốc và ẩm ướt,chàng trượt chân và rơi xuống sông
nếu không kịp bám vào một hòn đá gần chỗ đứng. May mắn cho chàng đang đeo chiếc
nhẫn lão phù thuỷ đưa cho lúc xuống hầm ngài lấy chiếc đèn thần. Để giữ mình
,khỏi rơi xuống sông, chàng Xát mạnh chiếc nhẫn vào đá Ngay lúc ấy thần nhẫn đã
xuất hiện trước đây dưới hang lại có mặt, hỏi chàng:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lệnh Người như kẻ nô
lệ của Người và tất cả những ai đeo nhẫn trên tay, tôi và những nô lệ khác của
nhẫn đều thế.
Aladđin phấn khởi vì sự xuất hiện bất ngờ trong tình thế
tuyệt vọng của mình, trả lời:
- Thần nhẫn cứu tôi một lần nữa bằng cách cho biết lâu
đài tôi xây dựng ở đâu và đưa nó về lại chỗ cũ cho tôi.
- Điều Người yêu cầu - Thần nhẫn nói - Không thuộc phạm
vi của tôi, Người phải đề nghị với thần đèn.
- Nếu vậy, theo quyền lực của nhẫn, ta ra lệnh thần mang
tôi đến chỗ lâu đài, bất cứ ở đâu trên quả đất, và đặt tôi dưới cửa sổ công
chúa Badroulboudour.
Aladđin vừa dứt lời, thần nhẫn ôm lấy chàng đưa sang châu
Phi giữa một bãi cỏ có lâu đài, không xạ một thành phố lớn và đặt chàng đứng
dưới cửa sổ căn phòng công chúa. Mọi việc đó chỉ xảy ra trong giây lát.
Mặc dù đêm tối, Aladdin nhận rõ lâu đài của mình và phòng
công chúa Badroulboudour. Đêm đã khuya, chàng lui ra một đoạn, đến ngồi dưới
gốc một cây to. Chứa chan hy vọng nghĩ về hạnh phúc của mình nhờ một sự tình
cờ, cậu cảm thấy bình tâm lại sau khi bị bắt, dẫn tới trước nhà vua và được trả
tự do với nguy cơ mất mạng sống. Suy nghĩ một lúc về triển vọng tốt đẹp, qua,
năm sáu ngày không ngủ, chàng không cưỡng đựợc giấc ngủ vì mỏi mệt, chàng thiếp
đi dưới gốc cây.
Hôm sau bình minh vừa lên Aladdin thoải mái tỉnh giấc vì
tiếng hót của chim trên cây chàng nằm ngủ đứới gốc và những cây rậm rạp quanh
lâu đài. Chàng nhìn ngay về phía lâu đài tráng lệ, cảm thấy vui mừng không tả
nổi vì sắp trở lại là ngựời chủ và một lần nữa có công chúa bên mình. Trong lúc
chờ đợi, chàng suy nghĩ do đâu xảy ra tai hoạ và nhớ ra đã bỏ lại chiếc đèn ở
nhà lúc đi săn. Điều làm cậu bối rối hơn là không hình dung ra ai là kẻ ghen
tức với hạnh phúc của chàng. Trước hết chàng hiểu ra cậu và lâu đài đang ở châu
Phi gợi lên trong trí chàng về lão phù thuỷ châu Phi, kẻ thù cố hữu của chàng.
Công chúa Badroulboudour từ khi bị bắt cóc đưa sang châu
Phi ngủ dậy sớm hơn thường lệ. Cho đến nay nàng buộc phải mỗi ngày gặp lão phù
thuỷ một lần nhưng mỗi lần nàng đối xử rất nghiêm khắc nên lão chưa dám liều ở
lại Nàng mặc quần áo xong thì một thị nữ nhìn qua mành cửa, trông thấy Aladdin,
chạy đi báo tin với chủ. Công chúa không thể tin vào điều ấy, chạy tới cửa sổ
và nhận ra chồng mình. Nàng kéo mạnh cửa. Nghe tiếng động Aladdin ngẩng đầu
lên, thấy công chúa và vui mừng khôn xiết chào nàng. Công chúa bảo:
- Để khỏi mất thì giờ, thị nữ sẽ mở cánh cửa bí mật chàng
vào và lên đi.
Cánh cửa bí mật phía dưới phòng công chúa được mở ra,
Aladdin lên phòng công chúa. Không thể tả hết nỗi vui mừng hai vợ chồng gặp lại
nhau khi đã tưởng phải xa cách nhau vĩnh viễn. Họ ôm hôn nhau nhiều lần, thể
hiện với nhau tình yêu và trìu mến sau cuộc chia cắt đáng buồn và bất ngờ của.
họ. Sau những vồn vã thắm đượm nước mắt vui mừng, họ ngồi lại với nhau và
Aladdin lên tiếng trước:
- Công chúa, trước khi kể mọi chuyện, ta khẩn cầu vì
quyền lợi của chính nàng, của phụ hoàng kính mến và của riêng ta, nàng cho biết
chiếc đèn cũ trước khi đi săn ta để ở gờ tường bây giờ ra sao rồi?
- Chà? Chàng thân yêu - Công chúa trả lời- Thiếp đã ngờ
tai hoạ của chúng ta đến từ chiếc đèn và thiếp rất buồn lại chính do thiếp gây
ra.
- Công chúa, nàng đừng nhận lỗi về mình, tất cả là do ta,
đáng lẽ phải giữ gìn nó cẩn thận hớn. Chúng ta chỉ nên nghĩ cách sửa chữa sự
mất mát ấy, muốn thế nàng làm ơn kể lại sự việc xảy ra thế nào và đèn mất vào
tay ai?
Công chúa Badroulboudour kể lại việc đổi chiếc đèn cũ lấy
đèn mới và đêm sau đó nàng nhận thấy lâu đài bị chuyển đi. Sáng dậy thấy mình ở
một đất nước xa lạ này, được biết từ miệng tên phản trắc là đang ở châu Phi và
bị mang tới do bùa phép.
- Công chúa - Aladdin ngắt lời - Nàng đã cho ta biết tên
phản trắc. Hắn là kẻ xảo trá nhất thiên hạ nhưng không phải lúc kể lại với nàng
nhiều hơn về sự độc địa của hắn. Chỉ xin nàng nói hắn đã làm gì với chiếc đèn
và để nó ở đâu?
- Hắn bọc chiếc đèn rất kỹ bỏ trong người, em đã chứng
kiến hắn lấy ra khoe với em như một kỳ công.
- Công chúa của ta, đừng giận vì ta yêu cầu nhiều điều
làm nàng mệt mỏi. Những điều đó rất quan trọng đối với nàng và với ta, Để đi
tới việc ta đặc biệt quan tâm, xin nàng nói rõ nàng thấy cách đối xử của một kẻ
gian ác, xảo trá ấy hàng ngày ra sao?
- Từ khi thiếp đến đây, mỗi ngày hắn đến gặp thiếp một
lần và chắc rằng không được thoả mãn vì những cuộc viếng thăm nên hắn ít quấy
rối thiếp thường xuyên. Mọi câu chuyện hắn nói với thiếp nhằm làm mất lòng tin
của thiếp đối với chàng và lấy hắn làm chồng, muốn làm cho thiếp không hy vọng
gặp lại chàng, rằng chàng đã bị phụ hoàng chặt đầu chết rồi. Hắn còn giải thích
thêm rằng chàng là một kẻ vô ơn, mọi của cải của chàng do hắn mà có và hang
nghìn điều nữa nhưng em cứ mặc hắn nói. Do thiếp chỉ đáp lại bằng những kêu van
khổ sở và nước mắt, hắn buộc phải rút lui không hài lòng như khi mới đến. Tuy
thế thiếp chắc hắn có ý định chờ những đau khổ qua đi thiếp sẽ thay đổi tình
cảm và cuối cùng nếu thiếp kiên trì chống đối hắn sẽ dùng sức mạnh. Bây giờ,
chàng thân yêu, có mặt chàng em không còn lo ngại nữa.
- Công chúa - Aladdin ngắt lời nàng - Ta tin tưởng những
lo ngại của nàng mất đi không vô ích, ta nghĩ đã tìm được cách giải thoát nàng
khỏi tay kẻ thù.
Muốn thế ta phải ra phố, buổi trưa trở lại đây, sẽ trao
đổi với nàng ý đồ như thế nào và nàng phải làm gì để góp phần thành công. Xin
báo trước với nàng đừng ngạc nhlên khi ta mặc quần áo khác và nàng nhớ lệnh cho
người chờ ta ở cửa bí mật, mở ngay khi ta gõ lần đầu.
Công chúa hứa sẽ có người chờ ở cửa và mở cửa ngay.
Khi Aladdin vẫn theo cánh cửa bí mật ấy ra ngoài, nhìn
bốn phía thấy một nông dân đang đi về đường làng. Người nông dân đi ngược phía
lâu đài và lúc đã xa, chàng bước vội cho kịp, đề nghị đổi bộ quần áo đang mặc
chàng nói khéo nên người nông dân đồng ý.
Việc thay đổi quần áo tiến hành sau bụi rậm và chia tay
nhau Aladdin đi vào thành phố. Qua cổng thành, chàng đến những đường phố sầm
uất, vào một cửa hàng, hỏi mua một loại bột mê. Người bán nhìn vào quần áo nghĩ
chàng nghèo, nói có loại ấy nhưng rất đắt. Aladdin biết ý nghĩ của chủ hàng,
liền rút túi tiền ra để lộ vàng, bảo bán cho nửa đồng cân. Người bán gói bọt mê
lại đưa cho chàng, đòi giá một đồng vàng. Aladdin cầm gói bột trả tiền, dừng
lại trong thành phố một lát để ăn uống rồi trở lại lâu đài. Cửa bí mật mở ngay
không làm chàng phải chờ, chàng bước thẳng lên phòng công chúa Badrouthoudour. Chàng
nói với công chúa:
- Nàng đã thể hiện sự ghê tởm đối với kẻ cướp đoạt, có lẽ
nàng sẵn sàng làm theo lời ta khuyên. Cho phép ta nói với nàng đã đến lúc cần
giấu kín ý nghĩ mình, thậm chí phải dùng bạo lực nếu nàng muốn thoát khỏi sự
hành hạ của kẻ thù và làm phụ vương hài lòng được gặp lại nàng. Nếu nghe theo
lời ta, ngay từ bây giờ nàng hãy mặc bộ quần áo đẹp nhất và khi lão phù thuỷ
đến thăm nàng nên tiếp đón hết sức tử tế, thật tự nhiên, nét mặt cởi mở, bởi
nếu còn vài nét ưu tư hắn cũng nhận thấy hắn sẽ làm cho tất cả cùng biến mất đi
vĩnh viễn. Trong lúc trò chuyện nàng cho hắn biết nàng sẽ cố gắng để quên ta đi
hãy làm hắn tin chắc nàng thực lòng. Nàng mời hắn ở lại ăn khuya với nàng,và
bảo nàng muốn uống loại rượu tốt nhất trong nước. Hắn nhất định sẽ đi kiếm
rượu. Trong lúc chờ hắn trở lại, khi bữa ăn đã chuẩn bị xong, nàng bỏ loại bột
này vào một chiếc cốc nàng vẫn thường dùng uống để riêng ra, báo trước với thị
nữ phục vụ rượu chú ý đừng nhầm lẫn. Lão phù thuỷ trở lại và cùng ngồi vào bàn
ăn, sau khi ăn uống một lúc, thấy thích hợp, nàng ra hiệu đưa cốc rượu có bột
ra và đổi cốc của nàng với cốc của hắn. Hắn sẽ thấy tình cảm ưu ái của nàng quá
lớn nên không từ chối, sẽ uống cạn cốc rượu và ngã vật ra ngay. Nếu nàng ghê
tởm uống vào cốc của hắn thì chỉ giả vờ uống, nàng đừng ngại. Tác động của loại
bột rất nhanh chóng, hắn không đủ thì giờ nghĩ xem nàng có uống hay không uống.
Aladdin nói xong, công chúa bảo:
- Thiếp thú nhận với chàng làm như thế đối với lão phù
thuỷ là em đã dùng bạo lực. Nhưng đối với một kẻ thù độc ác thì có giải pháp
nào ta không làm được? Thlếp sẽ làm như chàng khuyên vì sự yên bình của thiếp
cũng như của chàng.
Dặn đò công chúa xong, Aladdin tạm biệt nàng ra vùng gần
lâu đài chờ đến tối lại gần cánh cửa bí mật. Công chúa Bađdoulboudour buồn khôn
nguôi không chỉ vì phải xa Aladdin, người chồng nàng đã yêu thực sự mà còn vì
phụ hoàng thân yêu vốn yêu thương trìu mến nàng hết mực, từ lúc xa cách đau đớn
này nàng không chăm sóc được. Có thể nói nàng đã quên cả việc trang điểm theo
bản tính. Đặc biệt khi lão phù thuỷ đến gặp nàng lần đầu, được thị nữ cho biết
chính hắn là người rao đổi chiếc đèn, nàng ghê sợ về sự lừa lọc nguy hại ấy. Cơ
hội trả thù đáng giá này nàng chưa từng đám hy vọng khiến nàng càng quyết tâm
nghe theo lời Aladdin. Nên khi chàng đã rút đi, nàng tắm rửa bảo thị nữ mặc
quần áo cho nàng, chọn bộ sang trọng và phù hợp nhất, kèm với thắt lưng là
chiếc vòng mười ba viên ngọc trai, mỗi bên cân đối sáu viên, viên giữa to nhất
và quý nhất mà những hoàng hậu, công nương sung sướng có được một bộ đầy đủ độ
lớn chỉ bằng hai viên nhỏ nhất của công chúa. Những vòng tay lẫn lộn kim cương
và hồng ngọc phù hợp tuyệt vời với chiếc thắt lưng và chiếc vòng giàu có.
Mặc quần áo đầy đủ xong, công chúa Badroulboudour soi
gương bảo các thị nữ ngắm sửa sang và khi đã thấy không còn thiếu vẻ đẹp nào có
thể ìàm say mê lão phù thuỷ châu Phi, nàng ngồi trên ghế xô-pha chờ lão tới.
Lão phù thuỷ không quên đến theo giờ thường lệ. Khi công
chúa thấy lão bước vào phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, nơi nàng đang ngồi chờ,
nàng liền đứng dậy với mọi vẻ đẹp và duyên dáng, giơ tay chỉ chỗ danh dự và chờ
lão cùng ngồi một lần, cử chỉ giao tiếp đặc biệt chưa bao giờ nàng đối xử với
lão.
Lão phù thuỷ choáng ngợp về ánh mắt đẹp của công chúa hơn
là màu sắc lóng lánh của đá quý nàng trang điểm, và hết sức ngạc nhiên. Phong
thái oai nghiêm và nét duyên dáng nàng đón tiếp trái ngược với những lần đón
tiếp từ trước tới nay làm lão bối rối. Lúc đầu lão muốn ngồi trên thành ghế
xô-phạ nhưng thấy công chúa không muốn ngồi vào chỗ của mình nếu lão không ngồi
vào chỗ nàng mời nên lão vâng theo.
Khi lão phù thuỷ châu Phi đã ngồi xuống, để lão khỏi lúng
túng như nàng thấy, nàng lên tiếng với cách nhìn làm lão nghĩ mình không còn
ghê tởm như trước đây nàng tỏ ra với lão. Nàng nói:
- Ông ngạc nhiên thấy tôi khác hẳn như đã thấy tôi cho
đến nay, nhưng sẽ không lạ gì nữa khi tôi nói với ông tính tình của tôi trái
ngược với sự buồn rầu, chán nản, với những lo buồn mà tôi tìm cách rũ bỏ từ khi
tôi thấy vấn đề đã qua đi. Tôi suy nghĩ điều ông nói về số phận của Aladdin,
tôi biết tính phụ hoàng, chắc chắn chàng không thoát khỏi sự giận dữ của Người.
Do vậy dù có than khóc suốt dời tôi cũng không làm chàng sống lại được. Vì thế
sau khi đã làm trọn nhiệm vụ với chàng, kể cả cho đến lúc chàng xuống mồ, tôi
thấy phải tìm mọi cách để khuây khoả. Đó là những lý do ông thấy tôi thay đổi. Để
bắt đầu rũ bỏ mọi chuyện phiền muộn, nhất định rũ bỏ đi hoàn toàn và tin chắc
ông muốn làm bạn với tôi, tôi đã bảo chuẩn bị một bữa khuya chúng ta cùng ăn
uống với nhau. Nhưng tôi chỉ có rượu Trung Quốc mà đang ở châu Phi, tôi muốn
thử nếm rượu ở đây làm ra và tôi nghĩ, nếu có, ông sẽ tìm được loại tốt nhất.
Lão phù thuỷ châu Phi không nghĩ hạnh phúc có thể đến mau
lẹ và dễ dàng được công chúa Badroulboudour gia ân cho như thế, lão giãi bày
rằng không có đủ lời để nói lên sự cảm động của lòng mình trước lòng tốt của
công chúa. Lão nói đến rượu châu Phi công chúa vừa gợi ra, ca tụng trong những
thế mạnh châu Phi có thể tự hào, việc sản xuất rượu ngon là một trong những mặt
chính đặc biệt trong vùng này có loại bảy năm chưa đùng đến và không đánh giá
quá đáng, là loại rượu vượt hẳn những rượu ngón nhất trên thế giới. Lão nói
thêm:
- Nếu công chúa cho phép, tôi sẽ đi kiếm hai chai và trở
lại ngay.
Tôi không muốn làm phiền ông việc ấy, có lẽ cử một người
nào đó đi thì hơn.
- Tôi cần thiết phải tự mình đi. Không ai ngoài tôi biết
chủ hiệu ở đâu và mở được chỗ chứa bí mật.
- Nếu thế - Công chúa nói - Ông cứ đi và chóng trở lại. Càng
lâu tôi càng nóng lòng gặp lại ông và nên nhớ chúng ta ăn cùng nhau ngay khi
ông trở về.
Lão phù thuỷ tràn đầy hy vọng, không phải chạy mà đúng
hơn là bay đi lấy rượu bảy năm và nhanh chóng trở về Công chúa chắc lão sẽ vội
vã, tự mình bỏ loại bột Aladdin đưa cho vào một chiếc cốc để riêng. Họ ngồi đối
diện nhau ở bàn ăn, lão phù thuỷ quay lưng về phía tủ buýp-phê. Công chúa nói:
- Nếu ông muốn, tôi sẽ cho biểu diễn ca nhạc nhưng chỉ
ông và tôi với nhau, tôi nghĩ chúng ta nói chuyện thích thú hơn.
Lão thấy việc chọn lựa ấy của công chúa lại là một ân huệ
mới.
Sau khi ăn một lúc, công chúa đòi uống. Nàng chúc sức
khoẻ lão phù thuỷ mà uống xong nàng nói:
- Ông đúng thật khi ca tụng rượu của các ông, tôi chưa
bao giờ uống loại rượu ngon đến thế.
- Công chúa xinh đẹp - Lão vừa nói vừa cầm lên chiếc cốc
người ta đưa - Rượu chúng tôi nhận được một vị ngọt mới vì công chúa đã khen.
- Hãy uống chúc sức khoẻ tôi, ông sẽ thấy tôi cũng biết
thưởng thức rượu.
Lão uống chúc sức khoẻ công chúa và nhìn vào cốc rượu
nói:
- Thưa công chúa, tôi rất sung sướng đã đánh loại rượu
này vào một dịp tốt như thế, tôi tự thú nhận trong đời chưa bao giờ uống loại
rượu ngon đến vậy và trong trường hợp vui vẻ như bây giờ.
Họ tiếp tục ăn và uống ba lần nữa, công chúa bằng sự
chiều chuộng làm lão phù thuỷ say mê, ra hiệu cho thị nữ rót rượu đầy cốc cho
mình và cũng rót vào cốc của lão phù thuỷ. Khi mỗi người đã cầm một cốc rượu,
công chúa nói với lão:
- Tôi không biết ở nước ông khi ngườị ta yêu nhau người
ta uống rượu với nhau như thế nào? ớ Trung Quốc chúng tôi, trai gái yêu nhau
đổi cốc cho nhau và uống chúc sức khoẻ nhau.
Đồng thời nàng đưa cốc rượu nàng đang cầm và giơ tay kia
nhận cốc rượu của lão.
Lão phù thuỷ vội vã đổi cốc, vui vẻ nhìn nhận việc này là
biểu hiện chắc chắn nhất đã chinh phục được trái tim công chúa nên thấy hạnh
phúc tột độ. Trước khi uống lão cầm cốc rượu trên tay nói:
- Thưa công chúa, người châu Phi chúng tôi cũng tinh tế
trong nghệ thuật yêu đương với mọi khía cạnh của nó, học được cách này tôi cũng
phải thể hiện để biết nhạy cảm với ân huệ tôi được đón nhận. Công chúa đáng
mến, không bao giờ tôi quên, khi uống cốc rượu của nàng, đã tìm lại được cuộc
sống mà sự lạnh nhạt của nàng làm mất hết hy vọng.
Công chúa Badroulboudour chán ngấy lời nói bất tận của
lão phù thuỷ, liền ngắt lời lão:
- Chúng ta uống đi, sau đó ông nói tiếp với tôi.
Nàng đưa cốc rượu lên miệng chỉ đụng vào môi trong lúc
lão phù thuỷ vội vàng tỏ cho nàng thấy lão thành tâm uống một hơi không để lại
giọt nào. Lão ngả đầu về phía sau uống cạn cốc rượu, cho chóng hết. Lão đứng
một lúc như thế rồi công chúa thấy đôi mắt đảo ngược, lão ngã đập lưng xuống
bất tỉnh.
Công chúa không cần bảo đi mở cửa bí mật cho Aladdin. Thị
nữ đã được bố trí đúng cách nhau từng đoàn từ phòng khách đến dưới cầu thang
nên lão phù thuỷ vừa ngã xuống thì cánh cửa vừa mở.
Aladdin bước vào, lên phòng khách. Thấy lão phù thuỷ nằm
ngửa trên ghế xô-pha, chàng ngăn công chúa vừa đứng lên, mừng rỡ đến ôm hôn
mình:
- Công chúa - Chàng nói - Chưa phải lúc này, ta buộc phải
đề nghị công chúa hãy đi về phòng, bảo mọi người để ta ở lại một mình để làm
việc đưa nàng trở về Trung Quốc cũng nhanh như khi đến.
Khi công chúa đã ra ngoài cùng các thị nữ và thái giám,
Aladdin đóng cửa, lại gần xác lão phù thuỷ mở rộng áo lấy chiếc đèn bọc kín
trong đó như công chúa bảo. Cậu xát mạnh vào đèn, thần đèn xuất hiện nói như
thường lệ. Aladdin bảo:
- Thần đèn, tôi gọi thần để ra lệnh nhân danh cây đèn,
chủ nhân của thần, đưa ngay lâu đài này trở lại Trung Hoa đặt vào đúng chỗ,
đúng vùng đã bị mang đi.
Thần gật đầu vâng lệnh rồi biến đi. Việc chuyển dịch lâu
đài chỉ trong một thời gian rất ngắn, người ta chỉ cảm thấy hai chấn động rất
nhẹ, một nhấc lên ở châu Phi và một đặt xuống ở Trung Hoa đối điện với hoàng
cung như trước.
Aladdin xuống phòng công chúa, lúc ấy mới ôm hôn nàng:
- Công chúa - Chàng nói - Ta có thể đảm bảo niềm vui của
nàng và của ta sẽ trọn vẹn vào sáng mai.
- Công chúa chưa ăn khuya xong và Aladdin cũng cần ăn,
nàng cho đưa thức ăn đã chuẩn bị nhưng chưa đụng tới lên phòng khách hai mươi
bốn cửa sổ. Hai người ngồi ăn với nhau, uống loại rượu của lão phù thuỷ, thoả
mãn hàn huyên rồi đi về phòng ngủ.
Từ khi lâu đài và công chúa Badroulboudour bị bốc đi, vua
cha buồn bã không nguôi, cho rằng con mình đã mất. Hầu như đêm ngày ông cũng
không ngủ và thay vì tránh nhắc tới những điều có thể làm mình buồn, ông lại
càng hay tìm đến hơn. Trước đây chỉ buổi sáng ông mới lên gian phòng trống để
ngắm không chán lâu đài, nay ông lên đấy nhiều lần mỗi ngày, khóc than, đắm sâu
hơn và đau khổ với ý nghĩ không thấy điều mình thích nữa và mất đi người ông
thân thiết nhất trên đời. Trời vừa sáng nhà vua lên căn phòng bỏ trống cùng
ngày lâu đài Aladdin vủa được mang trở lại. Vào phòng trong lòng đau khổ, ông
buồn bã nhìn về chỗ quen thuộc nghĩ vẫn trống không. Thấy không còn chỗ trống,
lúc đầu ông cho vì sương mù nhưng nhìn kỹ hơn ông thấy đúng là lâu đài của
Aladdin. Niềm vui và lòng phấn khởi thay cho buồn rầu. Ông vội vã trở về phòng
mình, ra lệnh thắng một con ngựa đi ngay sang lâu đài Aladdin.
Aladdin dự kiến những việc có thể xảy ra, dậy từ bình
minh và sau khi mặc một bộ quần áo đẹp nhất, lên phòng khách hai mươi bốn cửa
sổ thì thấy nhà vua đang đi đến. Chàng xuông nhà, vừa đúng lúc để đón vua ở
cuối bậc thang, giúp ông xuống ngựa. Vua bảo:
- Aladdin, ta chỉ có thể nói chuyện với anh sau khi gặp
và hôn con gái ta.
Aladdin đưa nhà vua lên phòng công chúa Badroulboudour. Nàng
lúc dậy đã được Aladdin báo là không còn ở châu Phi nữa mà đang ở Trung Hoa,
trong kinh thành, trước mặt hoàng cung. Nàng vừa mặc quần áo xong thì vua cha
vào, nước mắt dàn dụa ôm hôn nàng nhiều lần. Công chúa vô cùng vui sướng được
gặp lại cha mình.
Vua không thể mở miệng nói ngay vì khóc và nghĩ con gái
đã bị mất hẳn còn công chúa khóc vì vui sướng được trở về bên cạnh vua cha.
Cuối cùng nhà vua nói:
- Con gái, ta nghĩ niềm vui gặp lại ta làm con có vẻ ít
thay đổi như đã không gặp điều gì xấu. Tuy vậy ta biết con đã đau khổ nhiều. Bị
mang đi trong cả một lâu đài, gấp gáp như vậy hẳn phải rất lo sợ. Ta muốn con
kể lại sự việc ra sao và đừng giấu ta điều gì.
Công chúa vui sướng trả lời:
- Thưa bệ hạ, nếu con ít thay đổi, xin bệ hạ biết cho là
con mới bắt đầu thở được từ sáng hôm qua khi có mặt Aladdin, ngườí chồng thân
yêu đã giải phóng cho con, người mà con tưởng đã mất đi cùng hạnh phúc, được ôm
hôn chàng con hồi phục được sắc thái như trước.
Thực ra mọi khổ cực của con là bị tách khỏi bệ hạ và
chồng thân yêu của con, không chỉ riêng về tình nghĩa vợ chồng mà còn mối lo
chàng bị bệ hạ nóng giận xử oan. Con đau khổ ít hơn vì tên cướp đoạt với những
lời nói trái tai của hắn nhưng con biết cách ngăn chặn hắn. Về việc con bị bắt
cóc Aladdin không biết gì hết: chính vì con đã rất vô tư.
Để vua cha tin nàng kể lại tỷ mỷ chuyện tên phù thuỷ trá
hình làm người bán đèn rao đổi đèn mới lấy đèn cũ và để vui đùa nàng cho đưa
xuống đổi chiếc đèn của Aladdin mà nàng không biết nó là vật linh thiêng liên
quan tới việc di chuyển lâu đài sang châu Phi. Sau khi đổi đèn, nhận ra tên phù
thuỷ xảo trá lúc hắn đến gặp và tán tỉnh lấy nàng làm vợ, nàng thực sự đau đớn
về tâm trí cho đến khi Aladdin đến. Rồi họ bày mưu để lấy lạI chiếc đèn thần
bằng cách nàng phẩi giả vờ thân thiện, mời hắn ăn khuya và đầu độc hắn. Phần
còn lại, nàng nói để Aladdin kể tiếp.
Aladdin kể nốt đoạn cuối cho nhà vua:
- Thưa bệ hạ, khi người ta mở cửa bí mật, con lên phòng
khách thấy tên phản trắc đã nằm chết trên ghế vì uống phải thuốc độc. Để công
chúa ở lại không tiện, con bảo công chúa về phòng cùng thị nữ. Còn một mình,
con lấy chiếc đèn trong người lão phù thuỷ ra, bí mật ra lệnh như hắn đã làm để
di chuyển toà lâu đài. Con đưa lâu đài về đúng chỗ cũ, dẫn công chúa về với bệ
hạ như Người đã ra lệnh. Con không dám giấu giếm gì bệ hạ, xin Người lên phòng
khách sẽ thấy tên phù thuỷ đã bị trừng phạt thật đúng tội.
Để tin được tất cả là sự thật, nhà vua đứng dậy đi lên
tầng trên và khi thấy lão phù thuỷ châu Phi đã chết mặt trắng bệch vì thuốc
độc. Ngài trìu mến ôm hôn Aladdin và nói:
- Phò mã, đừng trách ta về cách xử sự đối với con, tình
cảm cha con buộc ta phải thế và ta đáng được con tha lỗi vì đã làm quá với con.
- Thưa bệ hạ, con không hề dám phàn nàn về cách đối xử
của bệ hạ, Người chỉ làm việc cần phải làm. Tên phù thuỷ, bất nhân, kẻ tệ hậi
nhất trong thiên hạ là nguyên nhân độc nhất về sự bất hạnh của con. Khi bệ hạ
rảnh con sẽ kể một thủ đoạn khác hắn đã làm đối với con, không kém đen tối như
việc vừa rồi mà nhờ Trời con thoát được.
- Ta sẽ dành một buổi rảnh rang sau này. Bây giờ chúng ta
vui mừng hàn huyên đã và cho đưa vật bẩn thỉu này đi.
Aladdin ra lệnh lấy xác lão phù thuỷ châu Phi vứt vào
đống rác làm mồi cho chim và thú vật. Nhà vua cho nổi trống kèn và các nhạc cụ
khác, tổ chức lễ hội trong mười ngày mừng công chúa, Aladdin và toà lâu đài đã
trở về.
Như vậy là Aladdin lần thứ hai thoát khỏi cái chết hầu
như không tránh khỏi, nhưng không phải đã hết, chàng còn phải trải qua nguy
hiểm thứ ba nữa.
Lão phù thuỷ châu Phi có một người em không kém lão về
bùa phép phù thuỷ, có thể nói còn hơn lão về độc ác và mưu mẹo. Hai anh em
không luôn chung với nhau ngay cả trong cùng một thành phố, thường một người ở
đầu mặt trời mọc thì người kia ở đầu mặt trời lặn nhưng hàng năm qua bói toán
họ vẫn biết tin tức của nhau, tình trạng thế nào, có cần giúp đỡ nhau không.
Ít lâu sau khi lão phù thuỷ bị thảm bại vì việc quấy rối
hạnh phúc của Aladdin, em lão không ở châu Phi mà ở tại một đất nước rất xa,
qua một năm không được tin và muốn biết anh ở đâu, sức khoẻ ra sao và đang làm
gì. Em lão vẫn luôn mang theo hộp bói toán, lấy hộp ra, san cát vẽ hình, lập
bản tử vi đoán số, nhận thấy anh đã bị đầu độc chết ngay trong một ngôi nhà ở
Trung Quốc, tại một địa điểm trong kinh thành do một người nguồn gốc thấp kém
nhưng lấy được công chúa đầu độc.
Biết được như thế, em lão phù thuỷ không mất thì glờ khóc
lóc thương tiếc chẳng làm anh hắn sống lại được. Hắn quyết định ngay phải báo
thù và lên ngựa sang Trung Quốc. Qua bao nhiêu đồng bằng, sông, núi, sạ mạc và
sau một hành trình dài, vất vả không tưởng được, cuối cùng hắn đến Trung Quốc
và vào kinh thành hắn đã tìm ra trong bói toán. Chắc chắn mình đã không lầm lẫn
về cả kinh thành và vương quốc, hắn tìm một chỗ ở.
Ngày hôm sau hắn ra phố, bỏ qua mọi thú vui cảnh đẹp,
quyết tâm thực hiện một ý đồ nham hiểm. Hắn lui tới những nơi đông người và chú
ý lắng nghe những điều người ta nói chuyện. Ỏ một nơi tổ chức nhiều trò chơi,
trong lúc một số người chơi, thì có những người ngồi trò chuyện về những tin
tức vừa xảy ra, rồi chuyện trong gia đình. Hắn nghe kể về đạo đức lòng thương
người của một phụ nữ ẩn đật tên là Fatime và những phép lạ của bà. Hắn nghĩ
người phụ nữ này có thể có ích gì đó cho việc làm của mình. Hắn lân la làm bạn
với một người trong bọn, xin cho biết rõ về người đàn bà thánh thiện ấy và bà
có những phép lạ gì. Người ấy nói:
Sao? Ông chừa bao giờ thấy và nghe nói về bà ư? Bà là
niềm thán phục của toàn thành phố nêu gương tết cho mọI người về sự chay tịch hà
khắc. Trừ ngày thứ hai, thứ sáu bà không rời khỏi nơi ân dật, những ngày ra phố
bà làm những điều tốt lành vô cùng, không có ai đau đầu mà không được chữa khỏi
do bàn tay bà đặt lên đầu.
Không mong muốn gì hơn, hắn hỏi chỗ ở của người phụ nữ
thánh thiện ấy.
Dù đã được ngườI ta chỉ, nhưng để nắm rõ hơn hắn theo dõi
những việc làm của bà ngay ngày đầu tiên bà ra phố và theo sát đến chíều tối
khi bà về nơi ẩn dật. Biết rõ địa điểm rồi hắn trở lại chỗ cũ, nơi ngườI ta
uống một chén nước nóng và nếu muốn, có thể ngủ qua đêm, nhất là những ngày
nóng nực ở địa phương này người ta thích nằm trên một chiếc chiếu hơn trên
giường.
Tên phù thuỷ trả một ít tiền, nằm lại đó và nửa đêm dậy
đi thẳng đến chỗ ẩn dật của người phụ nữ thánh thiện, Fatime như cả thành phố gọi
bà. Cửa mở chẳng khó khăn gì vì chỉ đóng bằng một cái chết. Hắn bước vào, khẽ
khép cửa lại, thấy Fatime đang ngủ dưới ánh trăng, trên một chiếc ghế xô-pha
tựa lưng vào vách nhà. Hắn lại gần bà, rút ngọn dao găm ra và đánh thức bà dậy.
Mở mắt, Fatime khốn khổ rất ngạc nhiên thấy một người đàn
ông sắp đâm mình. Dí dao vào ngực bà, hắn nói:
- Nếu bà kêu lên hoặc làm một tiếng động nào, tôi giết
ngay. Bà hãy dậy đi và làm như tôi bảo.
Fatime đang mặc cả quần áo ngoài nằm ngủ, sợ run rẩy đứng
dậy. Hắn nói:
- Đừng sợ, tôi chỉ muốn mặc bộ quần áo của bà, cởi ra đưa
cho tôi và bà mặc quần áo tôi.
Họ đổi cho nhau và sau khi mặc quần áo của Fatime xong,
lão phù thuỷ bảo:
- Bà tô mặt cho tôi giống như của bà và màu không được
phai.
Thấy bà còn run và để bà yên tâm làm theo lời mình hắn
nói:
- Bà đừng sợ, tôi nhắc lại, nhân danh Chúa, tôi không
giết bà đâu.
Fatime đưa hắn vào phòng, châm đèn, lấy một loại nước
trong lọ dùng bàn chải xát vào mặt hắn, khiến cho mặt hắn cùng màu với mặt bà. Sau
đó bà đội mũ với tấm mạng của bà lên đầu hắn, hướng dẫn hắn làm thế nào để che
mặt khi đi ra phố. Cuối cùng, sau khi quàng vào cổ hắn vòng tràng hạt xuống đến
nửa người, bà đặt vào tay hắn chiếc gậy bà thường dùng và đưa gương soi cho hắn
xem:
- Ông nhìn đi, ông giống tôi đến mức không làm hơn thế
được.
Lão phù thuỷ thấy mình đã như mong muốn nhưng không giữ
lời như đã trịnh trọng hứa với Fatime phúc hậu. Để khỏi có máu vì đâm dao, hắn
bóp cổ bà, khi thấy bà đã chết, hắn nắm chân kéo vứt vào góc nơi ẩn dật của bà.
Lão phù thuỷ cải trang thành Fatime, người đàn bà thánh
thiện ở lại trong nơi ẩn dật suốt đêm còn lại sau khi làm một vụ giết người ghê
tởm. Sáng hôm sau, tuy không phải là ngày người phụ nữ thánh thiện ra ngoài,
hắn vẫn đi, tin chắc người ta không hỏi về điều ấy và dù có hỏi hắn cung vẫn có
cách để trả lời. Vì việc đầu tiên hắn đến đây là để thăm dò về toà lâu đài và
chính muốn thực hiện ý đồ mà hắn đi ngay về hướng đó.
Khi người ta thấy người phụ nữ thánh thiện như họ nghĩ,
lão phù thuỷ đội lất đã được nhiều người vây quanh. Những người này xin cầu
nguyện, những người khác hôn. tay. Một số dè dặt hơn chỉ hôn vạt áo, một số
hoặc đau đầu hoặc muốn được chiếu cố, cứ quỳ xuống trước mặt để đọc kinh, hắn
bắt chước người phụ nữ thánh thiện khéo đến nỗi mọi người nhầm hắn là bà ấy. Sau
khi phải dừng lại nhiều lần để thoả mãn những người dân muốn được bà Fatime đặt
bàn tay lên đầu, hắn đến chỗ quảng trường trước lâu đài Aladdin. Ở đây nhiều
người dồn lại quanh hắn. Những người mạnh khoẻ hơn chen vào đám đông lấy chỗ
nên cãi cọ nhau tiếng ồn lên tận phòng khách hai mươi bốn cửa sổ đang có công
chúa Badroulboudour ở đấy.
Công chúa hỏi vì sao có tiếng ồn ào như vậy và bảo người
xuống xem rồi lên báo cho nàng biết. Không ra khỏi phòng khách, một trong số
thị nữ vén mành cửa nhìn xuống và trở lại nói với nàng: tiếng ồn ào do một đám
người chen lấn nhau bao quanh người đàn bà thánh thiện để bà đặt tay vào đầu
chữa bệnh.
Công chúa từ lâu đã nghe nói về người đàn bà làm nhiều
việc thiện nhưng chưa thấy mặt, nàng tò mò muốn gặp và nói chuyện với bà. Một
thái giám thấy công chúa tỏ ý thích liền tâu với nàng nếu cần thì cho lệnh gọi
bà ấy lên. Công chúa lệnh cho ông ta cử ngay bốn thái giám dẫn người họ nghĩ là
người đàn bà thánh thiện lên lâu đài.
Lúc nhũng người thái giám ra khỏi lâu đài, đám đông thấy
họ đi lại phía lão phù thuỷ cải trang, liền giải tán dần. Được tự do và thấy
các thái giám đến, tên phù thủy vui mừng vì trò lừa đảo của mình đã có hiệu
quả. Một thái giám nói với hắn: Người đàn bà thánh thiện, công chúa muốn gặp
bà, hãy theo chúng tôi”.
- Công chúa làm cho tôi rất vinh dự - Fatime giả trả lời
- Tôi xin sẵn sàng vâng lệnh Người.
Hắn liền theo thái giám đi về phía lâu đài.
Lão phù thuỷ che giấu con tim ma quỷ dưới lốt thánh thiện
được đưa lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ. Thấy công chúa, hắn bắt đầu ngay
bằng một tràng cầu nguyện cho sức khoẻ và sự thịnh vượng, nguyện vọng của nàng,
và chúc cho mọi nguyện ước của nàng đều trở thành sự thực. Hắn thả hết mọi
huênh hoang lừa bịp và đạo đức giả gieo vào tâm trí công chúa dưới vỏ bọc một
người kính tin. Hắn đã đạt được kết quả vì công chúa bản chất phúc hậu, nghĩ
rằng mọi người đều tốtt như nàng, đặc biệt những người ẩn dật phụng sự Chúa.
Khi Fatime giả chúc tụng dài dòng xong, công chúa nói:
- Mẹ phúc hậu của tôi, xin cám ơn những lời cầu nguyện
của mẹ, tôi rất tin tưởng và mong Chúa ban phát cho. Mẹ lại gần ngồi bên cạnh
tôi đây - Fatime giả vờ khiêm tốn ngồi và công chúa lại nói: - Mẹ phúc hậu, tôi
đề nghị một điều đừng từ chối: mẹ ở lại đây với tôi để giữ gìn sức khoẻ và để
tôi học được ở mẹ những gương tốtt phải phụng sự Chúa như thế nào.
- Thưa công chúa, tôi cầu xin công chúa đừng buộc tôi
điều tôi không dám chấp nhận vì phải bỏ những buổi lễ cầu nguyện và hành lễ
kính tin.
- Việc đó chẳng khó khăn gì. Tôi có nhiều căn phòng để
trống, mẹ chọn một phòng thích hợp nhất có thể hành lễ tự do như nơi ẩn dật của
mẹ.
Lão phù thuỷ không có mục đích nào khác là chui được vào
lâu đài Aladdin để dễ dàng thực hiện âm mưu của mình, ở đó dưới sự bảo trợ của
công chúa tốt hơn là đi đi về yề từ lâu đài đến chỗ ẩn dật, hắn không để công
chúa nài nỉ nhiều lần vội nhận lời ngay.
- Thưa công chúa- Hắn nói - Dù đã muốn dứt bỏ khỏi những
sinh hoạt thế tục, nhưng một người đàn bà khốn khổ như tôi, đâu dám táo tợn từ
chối ý muốn và sự sai bảo của một công chúa có đức tin và nhân ái đến thế.
Nghe trả lời thế, công chúa đứng dậy nói:
- Mẹ cùng tôi đi xem những căn phòng trống và tự chọn
lấy.
Hắn đi theo công chúa Badroulboudour, xem tất cả những
phòng công chúa đẫn tới, tất cả đều sạch sẽ và trang bị tốtt, chọn một căn
phòng có vẻ kém nhất, vờ nói nó đã quá rất tốtt đối với mình và hắn chọn lựa
chỉ để làm vừa lòng công chúa.
Công chúa muốn dẫn hắn lên phòng khách hai mươi bốn cửa
sổ để cùng ăn trưa. Lúc ăn thì phải bỏ mạng hắn vẫn che mặt cho đến lúc đó, sợ
công chúa biết hắn không phải người đàn bà thánh thiện như nàng nghĩ, hắn khẩn nài
miễn việc ấy cho nói hắn chỉ ăn bánh và mấy quả cây, xin để hắn ăn trong phòng
mình. Công chúa chấp thuận nói:
- Mẹ phúc hậu, mẹ tự do như ở nơi ẩn đật, tôi cho người
đem bữa ăn đến nhưng nhớ rằng tôi chờ mẹ sau khi ăn xong đấy.
Công chúa đi ăn trưa. Fatime đến gặp nàng khi được thái
giám báo nàng đã ăn xong. Công chúa nói:
- Mẹ phúc hậu của tôi, tôi rất hân hoan có một phụ nữ
thánh thiện như mẹ chúc phúc cho lâu đài này. Nhân tiện, mẹ thấy lâu đài này ra
sao? Trước khi đưa mẹ đi xem từng phòng, trước hết xin mẹ hãy nói xem mẹ nghĩ
gì về phòng khách này?
Nghe hỏi, Fatime giả, cho đến lúc đó chỉ luôn cúi đầu
thậm chí không nhìn quanh để đóng tốtt trò lừa bịp, ngẩng nhìh phòng khách khắp
lượt rồi nói:
- Thưa công chúa, phòng khách này đúng là rất đẹp. Tuy
nhiên, theo ý riêng của tôi có thể thấy không có gì trên đời đẹp hơn thế, tôi
thấy hình như vẫn còn thiếu mất một thứ.
- Thứ gì vậy, mẹ phúc hậu Mẹ nói cho biết đi. Tôi vẫn
nghĩ và tôi cũng nghe nói thế, ở đây chẳng còn thiếu gì nếu thiếu mất thứ gì đó,
tôi sẽ cho làm thêm.
- Thưa công chúa - Fatime giả lại nói rất dè dặt – Xin
tha lỗi cho lời nói bộc phát của tôi. Theo tôi nghĩ thật quan trọng nếu trên
cao, giữa mái vòm treo một quả trứng đại bàng thì không có gì trên thế giới
sánh bằng, lâu đài của công chúa sẽ là một kỳ quan trong vũ trụ.
- Mẹ phúc hậu, đại bàng là loại chim gì và có thể tìm một
quả trứng ở đâu?
- Thưa công chúa, đó là một con chim to lớn thần kỳ ở
trên ngọn núi cao nhất vùng Caucase, kiến trúc sư lâu đài này có thể tìm được
một quả trứng cho công chúa.
Sau khi cám ơn Fatime giả, công chúa Badroulboudour trao
đổi những chuyện khác nhưng nàng không quên quả trứng đại bàng, dự định sẽ nói
với Aladdin khi chàng đi săn về. Chàng đi săn đã sáu ngày và lão phù thuỷ biết
thế muốn lợi dụng thời gian chàng vắng nhà. Ngay tối hôm ấy chàng trở về trong
lúc Fatime giả vừa xin phép công chúa rút lui về phòng mình. Aladdin lên ngay
phòng công chúa bưôc vào, chào và ôm hôn công chúa nhưng hình như nàng tiếp còn
hơi lạnh nhạt.
- Công chúa - Chàng nói - Ta thấy nàng không vui như mọi
lần. Trong lúc ta đi vắng có điều gì làm nàng buồn và không bằng lòng chăng? Nàng
đừng giấu ta: không có gì ta không làm theo sức mình để nàng hết buồn.
- Việc nhỏ thôi - Công chúa trả lời - Thiếp không lo gì
về chuyện đó nên không nghĩ đã thể hiện lên nét mặt để chàng nhận thấy. Nhưng
trái lại vì chàng thấy có suy nghĩ gì đó nên thiếp không giấu nguyên nhân tuy
rất không đáng kể. Thiếp vẫn nghĩ như chàng lâu đài chúng ta đẹp nhất, hoàn hảo
nhất trên đời. Tuy thế em chợt nghĩ sau khi quan sát kỹ phòng khách hal mươl
bốn cửa sổ, chàng có thấy như thiếp, không có gì tuyệt vời hơn nếu có một quả
trứng đại bàng treo giữa nóc vòm?
- Công chúa, chỉ cần nàng thấy thiếu một quả trứng đại
bàng treo ở đấy, ta sẽ nhanh chóng cho làm thêm ngay; không có điều gì ta không
làm vì tình yêu đối với nàng.
Ngay lúc đó Aladdin lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ,
lấy ra chiếc đèn mà từ khi có mối nguy hiểm vì thiếu gìn giữ chàng mang luôn
trong người và xát mạnh. Thần đèn hiện ra, Aladdin bảo:
- Thần đèn, trên vòm này thiếu một quả trứng đại bàng
treo ở giữa. Tôi cầu mong, nhân danh đèn, thần làm thế nào để bổ sung vào.
Aladdin nói chưa dứt câu, thần đèn thét lên một tiếng rất
to và đáng sợ khiến gian phòng rung lên và Aladdin loạng choạng suýt ngã nhào.
Thế nào? Khốn nạn - Thần đèn quát làm run cả người vững
vàng nhất - Tôi và các bạn tôi đã làm mọi việc cho Người vẫn chưa đủ sao mà còn
vô ơn khôn cùng, đòi hỏi tôi mang chủ tôi đến và treo lên giữa vòm này? Việc
xúc phạm đó đáng thiêu huỷ tất cả thành tro ngay, Người vợ Người và toà lâu
đài. Người còn may không phải chính Người trực tiếp nghĩ ra lời cầu xin đó. Người
cần biết kẻ xúi bẩy: em lão phù thuỷ châu Phi, kẻ thù của Người, đang ở trong
lâu đài đội lốt Fatime người đàn bà thánh thiện mà hắn đã giết. Hắn đã gợi ý
cho vợ Người lời thỉnh cầu nguy hại Người vừa nói. Ý đồ của hắn là giết Người,
phải chú ý cẩn thận - Nói xong thần đèn biến mất.
Aladdin không để mất thì giờ. Chàng đã nghe nói về người
đàn bà thánh thiện, cách bà chữa bệnh đau đầu như người ta đồn đại. Chàng xuống
phòng công chúa, không nói gì về việc xảy ra, ngồi xuống than phiền cảm thấy
rất đau đầu, đưa tay lên bóp trán. Công chúa bảo người đi mời người đàn bà
thánh thiện đến và trong lúc chờ đợi nàng kể lại với chồng trường hợp bà ấy có
trong lâu đài, và nàng đã cho bà ta ở một gian phòng.
Fatime giả bước vào phòng, Aladdin nói:
- Mẹ phúc hậu của tôi, mẹ lại gần đây. Tôi rất sung sướng
được gặp mẹ và hạnh phúc được mẹ ở lại đây. Tôi vừa bị một cơn đau đầu dữ dội.
Tôi cầu xin mẹ cho những lời cầu nguyện và hy vọng mẹ không từ chối làm ơn giúp
tôi chữa khỏi bệnh ấy.
Dứt lời chàng đứng dậy, đầu cúi xuống nhăn nhó. Fatime
giả tiến đến bên cạnh nhưng tay để vào đầu dao găm mang trong mình dưới tà áo. Aladdin
để ý thấy, liền nắm lấy tay trước khi hắn rút ra và dùng dao của mình đâm vào
tim hắn, vứt xác hắn trên sàn.
- Chàng thân yêu, chàng làm gì vậy? - Công chúa rất ngạc
nhiên kêu lên - Chàng giết chết người đàn bà thánh thiện rồi.
- Không, công chua của ta - Aladdin không hề cảm động trả
lời - Ta không giết Fatime mà là một tên bất nhân sẽ ám hại ta nếu ta không
được báo trước: Tên gian ác này - Chàng vừa nói thêm vừa lật mạng che mặt hắn -
Hắn đã bóp cổ Fatime mà nàng thương tiếc và cải trang dưới lốt của bà để đến
giết ta: Ta nói để nàng biết rõ hơn, hắn chính là em lão phù thuỷ đã bắt cóc
nàng.
Aladdin kể lại nhờ ai mình biết những chi tiết ấy và cho
người mang xác chết đi. Như vậy Aladdin thoát khỏi hai anh em lão phù thuỷ làm
hại mình. Ít năm sau nhà vua già quá mất đi. Vì không có con trai, với tư cách
thừa kế chính thống, công chúa Badroulboudour nối ngôi cha trị vì san sẻ quyền
lực tối cao cùng Aladdin. Hai vợ chồng trị vì đất nước trong nhiều năm, để lại
một đàn con đông vui và vững mạnh.
o O o
Thưa bệ hạ, hoàng hậu Scheherazade nói khi kết thúc những
cuộc phiêu lưu về chiếc đèn thần, bệ hạ chắc nhận thấy trong bản chất lão phù
thuỷ châu Phi một con người say mê quá đáng của cải bằng những con đường tội
lỗi, phát hiện ra nhiều nhưng không được hưởng thụ vì không xứng đáng. Ỏ
Aladdin Người thấy ngược lại, một người có nguồn gốc thấp hèn đã vươn lên đến
địa vị các vua chúa vì biết sử dụng đủ mức cần thiết những của cải vô tình rơi
và tay mình. Trong con người nhà vua, bệ hạ đã biết đó là một đấng quân vương
phúc hậu, công bằng và chính trực đã trải qua nguy hiểm như thế nào, thậm chí
suýt bị lật đổ chỉ vì một mệnh lệnh bất công quá phi lý, trái với mọi nguyên
tắc công minh, vội vã kết tội tử hình một người vô tội không thèm nghe thanh
minh. Cuối cùng chắc bệ hạ ghê tởm hành động tồi tệ... của hai lão phù thuỷ bỉ
ổi, một lão hy sinh đời mình để có của cải và lão kia đem cuộc sống và tôn giáo
của mình báo thù cho một kẻ cũng bỉ ổi như lão và cũng như kẻ ấy, bị trừng phạt
vì việc làm độc ác của mình.
Vua Ấn Độ cho hoàng hậu Scheherazade, vợ mình biết ông
rất hài lòng về những điều kỳ diệu vừa được nghe về chiếc đèn thần và những
chuyện mỗi đêm bà kể làm ông rất vui thích. Thực vậy chúng rất thú vị và hầu
như luôn luôn thấm đậm đạo đức. Ông thấy rõ hoàng hậu khéo léo tiếp nối những
chuyện này với chuyện khác và không giận vì cách đó nàng làm ông trì hoãn lời
thề long trọng chỉ giữ một người đàn bà trong một đêm và sáng hôm sau cho đem
hành hình. Thậm chí ông hầu như không có ý nghĩ nào khác để xem cuối cùng ông
có làm cho nàng cạn kiệt nguồn chăng.
Với ý định ấy, sau khi nghe hết câu chuyện Aladdin và
Badroulboudour, khác hẳn những chuyện cho đến lúc đó, sau khi thức dậy, ông hỏi
hoàng hậu cũng vừa thức dậy đã hết chuyện kể chưa.
- Hết chuyện kể ư, thưa bệ hạ? - Hoàng hậu trả lời và xin
đề nghị tiếp - Còn lâu thiếp mới hết: số lượng lớn quá đến nỗi thiếp cũng không
tính được chính xác với bệ hạ. Điều thiếp sợ là cuối cùng Người thấy buồn, mệt
mỏi không muốn nghe nữa chứ không phải thiếp không còn gì kể.
- Nàng đừng sợ thế - Vua lại nói -
Xem nàng có gì mới kể cho ta nghe nào.
Nghìn Lẻ Một Đêm
Chương 37: Alibaba và bốn mươi tên
cướp
Hoàng hậu Scheherajade được
Dinarjade, em nàng, đánh thức đậy, kể cho vua Ấn Độ chồng nàng, câu chuyện ông
đang muốn nghe.
Nàng nói: - Thưa hoàng đế hùng mạnh,
trong một thành phố của Ba Tư giáp biên giới vương quốc của bệ hạ có hai anh em
tên là Cassim và Ali Baba. Bố để lại một ít của cải, họ chia đều cho nhau, có
vẻ tài sản bằng nhau nhưng tình cờ thành ra khác hẳn.
Cassim lấy một người vợ, ít lâu sau
khi cưới bỗng được thừa kế một cửa hiệu đàng hoàng, một cửa hàng đầy hàng hoá
tốt lại có cả nhà cửa đất đai, bỗng chốc cuộe sống của họ trở nên thoải mái, và
là một trong những thương gia giàu có nhất thành phố.
Ali Baba ngược lại, cưới một người
vợ cũng nghèo như mình, chỗ ở đã lụp sụp, bác lại còn không có một nghề nghiệp
nào để kiếm sống nuôi gia đình ngoài việc đi kiếm củi ở rừng bên đem ra thành
phố bán. Chở trên ba con lừa là toàn bộ tài sản có được kiếm được trong ngày
của bác.
Một hôm Ali Baba vào rừng đang đốn
củi mong đủ cho lừa chở thì bỗng thấy một đám bụi tung bay lên không và tiến
thẳng về phía mình. Nhìn kỹ bác nhận ra một toán đông người cưỡi ngựa đang phi
nhanh lại.
Tuy không nghe nói về trộm cướp
trong vùng, Ali Baba vẫn nghĩ có thể là toán cướp và không tính đến những con
lừa sẽ ra sao, bác chạy trốn mong thoát thân. Bác trèo lên một cây to cành
nhánh thấp quây tròn và sít nhau chỉ hở rất nhỏ, nấp vào giữa đám cành lá cây
bảo đảm có thể nhìn xuống mà không ai thấy. Cây lại mọc từ chân một tảng đá lẻ
loi bốn phía, cao hơn cây nhiều và dốc đứng tưởng như không ai leo lên cao
được.
Những kẻ cưỡi ngựa đều to lớn, khoẻ
mạnh trang bị đầy đủ và có vũ khí tốt lại gần tảng đá xuống ngựa; Ali Baba đếm
được bốn mươi, theo điệu bộ và trang bị, chắc chắn là những tên cướp: Thực tế
đã không nhầm đây là bọn cướp không làm hại gì quanh vùng mà chỉ trộm cướp rất
xa rồi hẹn gặp nhau ở chỗ này.
Mỗi kỵ sĩ tháo yên ngưa, buộc ngựa,
đeo vào cổ từng con vật một túi lúa mạch mang theo và cả bọn bỏ những xuống,
phần lớn những chiếc hòm rất nặng đầy tiền và vàng bạc.
Kẻ trông oai nhất Ali Baba cho là
chỉ huy của cả bọn, cũng vác hòm như những tên kia, rẽ một đường đi trong đám
cây bụi lại gần tảng đá sát ngay cây to bác đang ẩn nấp, nói rõ ràng một câu:
Vừng ơi, mở cửa? Tên tướng cướp niệm thần chú xong, một cánh cửa mở ra, sau khi
để đồng bọn vào trước hắn cũng vào theo và cánh cửa đóng lại.
Bọn cướp ở lâu trong tảng đá; Ali
Baba sợ một tên hoặc cả toán đi ra khi mình tụt xuống bỏ chạy nên đành ngồi
trên cây kiên trì chờ đợi. Bác cũng nghĩ hay là xuống lấy hai con ngưa, cưỡi
lên một và dắt một, vừa chạy về thành phố vừa đuổi ba con lừa đi trước nhưng
lại ngại chưa chắc đã thoát nên ở lại chắc chắn hơn.
Cuối cùng cửa mở, bốn mươi tên cướp
đi ra; tên chỉ huy vào sau cùng đã ra trước, lúc thấy đồng bọn lần lượt qua hết
trước mặt, Ali Baba nghe hắn đóng cửa bằng câu thần chú: “Vừng ơi, đóng lại?
Mỗi tên xem lại ngựa của mình, tháo dây, buộc lại hòm và lên ngựa. Chỉ huy thấy
tất cả đã sẵn sàng, thúc ngựa lên đầu cùng đồng bọn trở lại con đường đã tới.
Lúc đầu Ali Baba chưa xuống đất, tự nhủ: “Có thể chúng quên gì đó phải trở lại
sẽ bắt gặp mình . Bác đưa mắt nhìn theo cho đến khi không trông thấy nữa và một
lúc lâu mới xuống để bảo đảm thật an toàn. Nhớ những câu chỉ huy bọn cướp nói,
bác tò mò muốn thử nói xem có tác dụng như thế không, đi qua đám cây bụi và thấy
cánh cửa bị che lấp. Đứng trước cửa bác niệm: Vừng ơi, mở cửa! Cánh cửa mở rộng
ra ngay.
Ali Baba nghĩ sẽ vào một chỗ tối tăm
nhưng ngạc nhiên thấy rất sáng sủa, rộng rãi, ánh sáng từ trên cao rọi xuống
qua lỗ khoét. Bác thấy rất nhiều thực phẩm, những túi lớn hàng hoá đẹp xếp
thành đống, vải lụa và gấm, những tấm thảm đắt giá, nhất là vàng và tiền bạc
hàng đống trong những túi vải hoặc túi da lớn chồng lên nhau. Nhìn tất cả những
cái đó hình như không phải nhiều năm mà trong nhiều thế kỷ hang này là chỗ cất
giữ của cải của bọn cướp kế tiếp nhau.
Ali Baba không đắn đo phải làm gì;
đã vào hang và cánh cửa khép lại. Bác nhằm vào bạc và tiền vàng, đặc biệt trong
các túi, bác lấy tiền vàng đủ cho ba con lừa chở: Bác gom lũ lừa, đưa chúng lại
gần tảng đá, chất những túi vàng lên và phủ một số củi lên trên để người ta
không nhận thấy. Khi xong bác lại gần cửa, chưa nói xong câu Vừng ơi, đóng lại”
thì cửa đã đóng. Khi vào cửa tự động khép lại nhưng khi ra vẫn để mở.
Sau đó Ali Baba trở về thành phố, về
đến nhà bác cho lừa vào sân nhỏ phía sau và đóng cửa cẩn thận, bỏ củi xuống,
mang những túi nặng vào nhà xếp trước mặt vợ đang ngồi trên ghế.
Vợ bác, sờ vào các túi thấy đầy
vàng, bạc, nghi ngờ chồng đi trộm cướp về nên khi bác mang vào hết, bác gái
không ngăn được mình nói: Ali Baba, anh khốn khổ đến nỗi... Chồng bác ngắt lời:
im đi em. Đừng làm ồn lên, anh không phải kẻ trộm, ít nhất khi lấy của bọn
cướp. Em sẽ không quan niệm anh xấu như thế nếu nghe anh kể chuyện về số của
cải này. Bác đổ các túi ra, cả một đống vàng lớn làm vợ loá mắt, sau đó kể lại
sự việc từ đầu đến cuối và dặn vợ giữ kín.
Người vợ bình tĩnh không khiếp sợ
nữa, phấn khởi cùng chồng về hạnh phúc đến với họ và muốn đếm ngay số vàng
trước mặt. Em này - Ali Baba bảo - em chẳng khôn ngoan chút nào, định làm gì
thế? Anh đi đào hố chôn chúng vào đó, không mất thì giờ được đâu .
- Ít nhất chúng ta cũng nên biết đại
khái có bao nhiêu. Em đi mượn chiếc cân bên hàng xóm trong lúc anh đào hố -
người vợ nói.
- Em à, điều ấy chẳng cần thiết
nhưng nếu muốn em cứ làm theo ý thích; nhớ phải bí mật đấy.
Để thoả mãn, vợ Ali Baba đi sang nhà
Cassim ông anh chồng ở gần đấy. Cassim không ở nhà, bác đã sai lầm hỏi mượn chị
dâu chiếc cân một lúc. Bà chị hỏi chiếc cân to hay nhỏ, bác ta chỉ hỏi mượn một
chiếc nhỏ.
- Sẵn lòng thôi - Bà chị dâu nới -
Thím chờ tôi lấy cho. Bà này đi tìm cân, nhưng biết Ali Baba nghèo, muốn làm rõ
họ cân loại hạt gì, bà liền khôn khéo bôi một ít mờ vào đáy đĩa cân và ra đưa
cho em đâu, sau khi xin lỗi để bác phải chờ lâu vì khó tìm.
Vợ Ali Baba về nhà, để cân lên đống
vàng, hết đầy vào và lần lượt cân đổ lên ghế. Cân xong bác gái hài lòng về số
lượng vàng rất nhiều, và kể cho với người chồng vừa đào xong hố.
Trong lúc Ali Baba chôn vàng, vợ bác
tỏ ra đúng hẹn và nhanh nhẹn, đem trả cân cho chị dâu mà không chú ý đến một
đồng vàng dính dưới cân.
- Chị ơi - Vợ Ali Baba nói - Em trả
chị chiếc cân và cám ơn chị; chị thấy đấy em không dám giữ lại lâu cân của chị.
Bác gái vừa quay lưng ra về thì vợ
Cassim nhìn đáy cân, ngạc nhiên không tưởng được thấy có một đồng vàng dính vào
đấy. Lòng tham trỗi dậy ngày, bà tự nhủ: Thế nào? Ali Baba có vàng đong bằng
cân! Kẻ khốn khổ này lấy vàng từ đâu ra vậy? . Cassim chồng bà ở ngoài cửa hàng
đến tối mới về. Bà nóng lòng chờ chồng về để báo tin, mỗi lúc tưởng như mồt
trăm năm thế kỷ.
Lúc Cassim về, bà nói ngay:
- Cassim, ông khá giàu nhưng nhầm
rồi đấy. Ali Baba giàu hơn ông nhiều, không đếm vàng như ông đâu mà cân vàng!
Cassim gạn hỏi, bà bèn kể lại đã làm
sao để phát hiện đíều đó và đưa ra đồng tiền vàng thấy dưới đáy cân lên, đồng
tiền cũ có tên nhà vua ở một triều khá xa lạ đối với họ.
Thay vì mừng cho hạnh phúc đến với
em có thể thoát khỏi nghèo nàn, Cassim ghen tức muốn chết, suốt đêm không ngủ
được. Sáng hôm sau ông ta đến nhà em khi mặt trời chưa mọc. Đối xử như không
phải với em mình mà ông đã quên từ sau ngày cưới bà vợ giàu.
- Alì Baba - Ông ta bảo - Chú kín
đáo quá đáng: giả nghèo giả khổ, ăn ở rách nát nhưng đếm vàng bằng cân!
- Thưa anh - Ali Baba trả lời - Anh
nói về điều gì em không rõ, anh giải thích cho.
- Đừng làm như ngu dốt - Cassim vừa
nói vừa đưa ra đồng tiền vàng vợ giao cho - Chú có bao nhiêu đồng như thế này
mà vợ tôi thấy dính vào đáy cân vợ chú sang mượn hôm qua?
Nghe nói thế, Ali Baba hiểu (vì sự
cứng đầu của vợ mình) vợ chồng Cassim đã biết điều bác muốn giấu kín. Đã lầm
lỗi rồi không sửa chữa được nữa. Để ông anh khỏi lạ lùng và buồn, bác kể lại
việc tình cờ phát hiện kho của cải của bọn cướp và xin ông giữ kín bác sẽ san
sẻ một phần số của cải cho ông.
Cassim kiêu kỳ nói:
- Tôi cũng đoán đúng như thế nhưng
vẫn muốn biết chính xác kho của ấy ở đâu, dấu hiệu thế nào và nếu cần tôi có
thể vào đó bằng cách nào; nếu chú không chỉ rõ tôi sẽ đến báo cho quan toà. Chú
mà giấu giếm thì không những chú chẳng còn mong có thêm gì mà còn mất nất số
của cải đã lấy được còn tôi, tôi sẽ có một phần vì đã có công báo quan .
Ali Baba với bản tính hiền lành rất
sợ những lời doạ nạt trâng tráo của ông anh tham tàn, vội nói rõ những điều ông
ta mong muốn, cả những câu dùng để vào hay ra cửa hang.
Cassim không đòi hỏi gì hơn, ra khỏi
nhà em hy vọng một mình chiếm lấy kho của. Sáng hôm sau ông ta đi thật sớm với
mười con la chở những hòm lớn định chất đầy vàng, trù tính chuyến thứ hai sẽ
lấy đi nhiều hơn tuỳ theo số lượng của cải có trong hang. Theo đường Ali Baba
chỉ dẫn, đến gần tảng đá ông ta nhận ra những dấu hiệu và cây to Ali Baba ẩn
nấp. Tìm đừợc cửa, ông ta nói: Vừng ơi mở cửa! . Cánh cửa mở ra, ông vào và cửa
tự đóng lại. Quan sát kỹ hang ông vô cùng thán phục thấy nhiều của cải hơn mình
nghĩ khi nghe Ali Baba kể chuyện; xem xét riêng từng thứ ông càng thán phục.
Vốn keo kiệt và góp nhặt của cải, nếu không nghĩ đến đây để lấy đủ chở cho mười
con la, ông ta sẽ ở lại suốt ngày để nhìn ngắm vàng. Lấy thật nhiều túi gắng
sức mang và khi ra đến cửa trí óc chỉ mải nghĩ làm thế nào để mang được nhiều,
ông ta quên mất từ cần thiết. Đáng lẽ “Vừng ơi ông nói: “Đại mạch ơi, mở cửa và
rất kinh ngạc thấy cửa vẫn đóng. Ông gọi tên nhiều loại hạt khác, không đúng
loại cần nên cửa không mở.
Cassim không ngờ gặp tình huống đó.
Trước nguy cơ hiển nhiên, ông ta sợ hãi run người, càng cố gắng nhớ càng rối mù
và đứng sững người như trời trồng. Ông vứt những túi vàng xuống đất, bước đài
trong hang lúc bên này lúc bên kia, chẳng còn màng gì đến những của cải xung quanh
nữa.
Bọn cướp trở lại hang vào buổi trưa,
tới gần thấy nhũng con la của Cassim quanh tảng đá chở đẩy hòm, lo lắng về sự
lạ đó, chúng liền phi nhanh đến đuổi mười con la Cassim không buộc vào đâu cả
làm chúng tản mát trong rừng, rất xa không nhìn thấy nữa. Bọn cướp không cần
đuổi theo lũ la mà quan trọng là lũ la của kẻ nào. Trong lúc một số tên đi
quanh tảng đá tìm klếm, tên chỉ huy cùng những tên khác xuống ngựa, đi thẳng
đến cửa hang rút gươm cầm tay, đọc thần chú và cửa mở.
Cassim nghe tiếng vó ngựa, biết chắc
bọn cướp đến và mình sẽ chết. Quyết định ít nhất cũng cố gắng để thoát khỏi tay
chúng, ông chuẩn bị chạy ra ngoài khi cửa mở. Nghe tiếng nói: Vừng ơi...? mà
ông quên, cửa vừa mở, ông lao nhanh đến nỗi tông vào tên chỉ huy ngã lăn xuống
đất. Nhưng không thoát khỏi những tên cướp khác với lưỡI gươm trong tay, ông bị
chúng chém chết.
Sau việc đó bọn cướp vào trong hang
thấy gần cửa có những túi vàng Cassim lấy ra để đem đi, chúng bỏ vào chỗ cũ
không nhận thấy mất những túi vàng Ali Baba mang về lần trước. Họp nhau lại bàn
về hiện tượng này, chúng hiểu Cassim không mở được cửa ra khỏi hang nhưng không
hình dung nổi ông ta làm sao mà vào được. Chúng đã nghĩ có thể ông ta xuống từ
chỏm tảng đá những lỗ ánh sáng vào cao quá mà phía trên tảng đá bên ngoài không
trèo lên được nên đành chịu không rõ. Có thể ông ta vào từ cửa nhưng chúng cũng
không tin chắc vì đinh ninh chỉ chúng mới biết mật hiệu mở cửa; đó là điều
chúng nhầm, không biết Ali Baba đã rình nghe biết được.
Sự việc đã xảy ra rồi, chẳng còn cách
nào khác để của cải được an toàn, chúng bàn với nhau chặt xác Cassịm ra làm bốn
đoạn bỏ phía trong cửa hang, mỗi bên cửa hai đoạn để làm kẻ nào đó vào hang sẽ
phải khiếp sợ. Còn bọn chúng chỉ phải một thời gian lâu mới về hang, chờ mùi
hôi thối bay đi hết đã. Quyết định như thế, chúng thực hiện ngay rồi đóng cửa
hang, lên ngựa tới những con đường mà các đoàn người ngựa thường qua lại để
cướp bóc như thường lệ.
Vợ Cassim thấy đêm xuống lâu rồi mà
chồng chưa về nên rất lo. Bà đến nhà Ali Baba hốt hoảng nói:
- Chú em này, tôi nghĩ chú cũng biết
anh chú vào rừng để làm gì rồi. Đêm đã khuya mà ông ấy chưa về, tôi sợ có tai
hoạ xảy ra với ông ấy chăng.
Ali Baba vẫn ngờ ông anh vào rừng
sau khi nghe kể chuyện và vì thế hôm ấy bác không đi kiếm củi để khỏi làm phiền
anh. Không trách móc gì, bác khuyên bà chị dâu không nên hoảng hốt có lẽ Cassim
muốn trở về thành phố trong đêm khuya thì tốt hơn chăng.
Vợ Cassim cũng nghĩ thế nhất là bà
thấy cần glữ kín việc làm của chồng chắc chờ đến nửa đêm ông ta mới trở về nhà.
Nhưng sau đó bà càng lo sợ nhiều hơn và cảm thấy đau đớn ghê gớm mà không thể
kêu than vì biết không nói ra được nguyên nhân. Bà ân hận đã tò mò muốn đi sâu
vào công việc của vợ chồng người em, đó là một sai lầm không sửa chữa được,
Khóc thầm cả đêm, hôm sau vừa rạng sáng bà chạy đến nhà họ khóc lóc chứ không
nói được.
Ali Baba không chờ chị dâu đề nghị
đi xem Cassim ra sao: Bác vào rừng ngay với ba con lừa sau khi an ủi bà chị hãy
bớt đau buồn. Đến gần tảng đá, nhìn khắp nơi không thấy ông anh và mười con la,
rất lạ thấy máu gần cánh cửa, anh nghĩ có chuyện không hay rồi. Đứng trước cửa,
anh đọc câu thần chú, cửa mở và bác thấy cảnh tượng buồn thảm của thân thể ông
anh bị chặt làm bốn khúc. Không ngần ngại làm nhiệm vụ cuối cùng đối với ông
anh lạnh nhạt, bác tìm vải trong hang gói bốn khúc xác cho lên một con lừa chở
với gỗ để che khuất. Hai con lừa còn lại, bác chất đầy những túi vàng bạc, bỏ
gỗ củi lên như lần trước, đọc thần chú ra lệnh đóng cửa rồi đi về thành phố
nhưng cẩn thận dừng lại ở bìa rừng chờ tối đến mới ra về. Đến nhà bác cho hai
con lừa chở vàng bạc vào sân, để cho vợ dỡ xuống và sau khi cho bác gái biết
việc gì đã xảy ra với Cassim, bác dẫn con lừa kia sang nhà chị dâu.
Ali Baba gõ cửa, Morgiane ra mở.
Morgiane là một nô lệ nữ khéo léo, hiểu biết rộng và có nhiều sáng kiến giải
quyết thành công những điều khó khăn nhất. Ali Baba biết cô như vậy. Vào đến
sân bác tháo củi và hai gói xuống, nói riêng với Morgiane:
- Morgiane, trước hết tôi đề nghị cô
tuyệt đối giữ bí mật, điều đó tối cần thiết đối với bà chủ và với tôi. Thân thể
ông chủ ở trong hai gói này. Phải chôn cất như ông chết bình thường. Chú ý cẩn
thận như tôi đã nói và đưa tôi vào nói chuyện với bà chủ.
Morgiane vào báo trước với bà chủ
sau đó Ali Baba đi theo cô bước vào.
- Thế nào chú, - bà chị dâu nóng
lòng chờ đợi hỏi.
- Tin tức về chồng tôi thế nào? Trên
mặt chú tôi không thấy có biểu hiện gì an ủi được tôi.
- Thưa chị, tôi không thể nói gì
trước khi chị hứa nghe tôi từ đầu đến cuối câu chuyện mà không mở miệng. Đối với
chị cũng như với tôi điều quan trọng nhất về việc xảy ra là phải rất bí mật vì
lợi ích và sự yên bình của chị.
- A! - Bà chị dâu khẽ kêu lên - Lời
dạo đầu ấy cho tôi biết rõ chồng tôi không còn nữa. Đồng thời tôi thấy cần
thiết phải giữ kín như chú dặn dò. Tôi phải rất cố gắng vậy, chú nói đi, tôi
nghe đây.
Ali Baba kể lại chuyến đi cho đến
lúc về với thân thể Cassim. Bác nói thêm:
- Chị ạ, đây là một nỗi buồn lớn mà
chị ít ngờ tới nhất. Tuy nỗi đau không phương cứu chữa nhưng nếu có thể an ủi
chị, tôi sẽ đem của cải trời cho tôi vào tài sản của chị và cưới chị, bảo đảm
vợ tôi sẽ không ghen và hai ngườI sống hoà hợp với nhau. Nếu chị bằng lòng như
vậy, phải nghĩ cách làm thế nào để như anh tôi chết bình thường; chị có thể dựa
vào Morgiane, tôi sẽ cố góp hết sức mình.
Chẳng còn cách gì hơn, vợ goá Cassim
đành vâng theo lời đề nghị của Ali Baba? Với tài sản chồng trước để lại, lại
tìm được một người glàu hơn mình và với sự phát hiện kho của có thể càng giàu
hơn? Bà không từ chối cách giải quyết ấy mà ngược lại, xem như một níềm an ủi
hợp lý. Chùi nước mắt đã khóc quá nhiều, nén lại những tiếng kêu van bình
thường của những người vợ mất chồng, bà chứng tỏ với Ali Baba mình đã ưng
thuận.
Al1 Baba chào bà vợ goá Cassim, sau
khi dặn dò Morgiane lo công việc gia đình cẩn thận rồi về nhà mình với con lừa.
Morgiane không lơ là; cô ra ngay cửa
hàng dược bên hàng xóm, hỏi mua một loại thuốc rất tác dụng với những căn bệnh
nguy hiểm. Dược sĩ đưa thuốc, nhận tiền rồi hỏI ai trong gia đình chủ cô bị ốm.
Cô thở dài trả lời:
- Chà! Chính ông chủ Cassim của tôi.
Không ai ngờ ông bị căn bệnh nặng đến thế, chẳng nói chẳng ăn gì cả.
Nói rồi cô mang thuốc về mà thực tế
Cassim không thể sử dụng được nữa.
Ngày hôm sau chính Morgiane lại trở
lại cửa hàng dược đầy nước mắt mua một loại thuốc nước người ta chỉ cho người
bệnh uống lúc hấp hối không hy vọng gì sống nữa nếu thuốc ấy không cứu được.
- Than ôi - cô buồn bã nói vừa nhận
thuốc từ tay dược sĩ - tôi sợ loại thuốc này cũng chẳng có tác dụng gì như
thuốc viên lần trước. Chà! Sợ tôi mất đi một ông chủ tốt!
Mặt khác người ta thấy vợ chồng Ali
Baba suốt ngày buồn rầu đi đi lại lại nhà Cassim và tối đến không ai ngạc nhiên
nghe tiếng kêu khóc của vợ Cassim và nhất là của Morgiane loan báo Cassim đã
chết.
Sáng sớm hôm sau chưa rõ mặt người,
Morgiane vốn biết trong vùng có một ông thợ giày tốt bụng đã rất già ngày nào
cũng mở cửa hiệu trước những người khác rất lâu, cô ra đi tìm ông cụ ấy. Vừa
chào và hỏi chuyện, cô bỏ vào tay ông cụ một đồng vàng.
Baba Mustafa, người ta gọi ông thế,
bản chất vui vẻ và bao giờ cũng có tiếng nói gây cười, nhìn đồng tiền vì trời
chưa sáng hẳn, thấy là vàng bèn nói:
- Món quà tốt đấy, có việc gì vậy?
Tôi sẵn sàng làm đây.
- Baba Mustafa - Morgiane bảo - Ông
mang theo những gì cần thiết để khâu may và đi ngay với tôi với điều kiện đến
chỗ ấy tôi phải bịt mắt ông lại.
Nghe nói vậy Baba Mustafa làm khó
dễ:
- Ô! Ồ! Như thế là cô muốn tôi làm
việc gì đó trái lương tâm hay trái danh dự chăng?
Bỏ vào tay ông một đồng tiền vàng
khác, Morgiane lại nói:
- Có trời chứng giám, tôi chỉ đề
nghị ông lâm một việc hoàn toàn trong danh dự. Ông đi cùng tôi, đừng sợ gì cả.
Baba Mustafa đi theo cô và Morgiane
sau khi bịt mắt ông bằng chiếc khăn tay, dẫn ông vào chỗ ông chủ đã mất, chỉ cất
chiếc khăn bịt mắt trong phòng cô đã đặt xác, mỗi khúc thân đúng vào chỗ của
nó. Cô bảo:
- Baba Musta tôi dẫn ông đến để nhờ
khâu những tấm này. Ông làm nhanh chóng khâu xong tôi sẽ trả một đồng vàng nữa.
Khi Baba Musatafa khâu xong Morgiane
lại bịt mắt ông ngay trong phòng đó, đưa đồng tiền vàng thứ ba như đã hứa, dặn
giữ bí mật và dẫn ông ra chỗ cô đã bịt mắt ông khi đến. Tại đây cô bỏ khăn bịt
mắt để ông trở về nhà, nhìn theo cho đến khi không thấy bóng nữa sợ ông tò mò
trở lại quan sát.
Morgiane đã đun nước nóng rửa thân
thể Cassim, rảy nước hoa và bọc xác chết lại như thường lệ. Thợ mộc cũng mang
đến quan tài Ali Baba đã đặt làm. Để người thợ mộc không thấy gì, Morgiane nhận
quan tài, trả tiền ngoài cổng để ông đi và đưa vào nhà giúp Áli Baba bỏ người
chết vào quan tài. Khi Ali Baba đã đóng kỹ đinh vào ván, cô đến báo tin với nhà
thờ sẵn sàng để an táng. Những người của nhà thờ chuyên lau rửa những người
chết nhận đến làm việc nhưng cô bảo đã hoàn tất rồi.
Morgiane vừa trở về nhà thì thầy cả
và các chức sắc nhà thờ đến. Bốn người hàng xóm nâng chiếc quan tài lên vai, đi
theo thầy cả đọc kinh, mang người chết ra nghĩa địa. Là nô lệ của người chết,
Morgiane khóc lóc, đầu trần đi sau quan tài, than vãn, đấm vào ngực, giật tóc
mình. Ali Baba đi sau đó cùng những người hàng xóm; họ lần lượt tách ra để thay
thế những người mang quan tài cho đến nghĩa địa.
Vợ Cassim ở nhà kêu van, than khóc
với những người phụ nữ quanh xóm theo phong tục chạy đến với tang lễ, cùng than
khóc với chủ nhà làm không khí buồn bã lan mãi cả vùng rất xa khu phố.
Bằng cách ấy, cái chết thê thảm của
Cassim được che giấu bởi Ali Baba, vợ bác, bà vợ Cassim quá cố và Morgiane. Họ
che giấu khéo léo đến nỗi chẳng có ai trong thành phố biết và nghi ngờ gì.
Ba bốn ngày sau khi an táng Cassim,
Ali Baba mang số đồ đạc ít ỏi của nhà mình và của cải lấy được của bọn cướp,
ban đêm đưa sang nhà vợ goá của Cassim bác ở lạI đấy kết hôn mới với chị dâu.
Theo tập quán tôn giáo của họ, những loại đám cưới như thế không ai lấy làm lạ.
Ỏ cửa hiệu của Cassim, Ali Baba có
một đứa con trai đã tâp sự xong ở nhà một thương gia lớn khác, và được khen là
tốt. Bác giao cửa hiệu cho con, hứa hẹn nếu quản lý tốt chẳng bao lâu sẽ cưới
vợ theo gia thế của mình.
Nói về bọn cướp, chúng trở về hang
vào một thời gian đã định, rất ngạc nhiên không thấy xác Cassim, càng lạ lùng
thấy số túi vàng giảm đi. Tên tướng cướp nói:
- Chúng ta đã bị phát hiện và mất
cắp. Nếu không tìm cách đề phòng gấp và ngăn chặn, chắc chắn chúng ta sẽ mất
hết bao nhiêu của cải cha ông và chúng ta góp nhặt vất vả. Sự thiệt hại vừa qua
là do đứa lấy trộm biết được câu thần chú mở cửa hang, may mắn là chúng ta đến
lúc nó sắp ra. Nhưng không phải một mình nó; phải có một đứa khác biết như nó.
Xác nó bị lấy đi, của cải glảm bớt là những chứng cớ không chối cãi được. Có vẻ
như không ai biết điều bí mật ngoài hai đứa ấy, đã chết một đứa rồi, chúng ta
phải giết nốt đứa kia. Các anh em nghĩ sao? Có đồng ý với nhận định của ta
không?
Ý kiến của tên tướng cướp rất hợp lý
nên cả bọn thống nhất bỏ công việc khác để tìm giết đứa lấy trộm kỳ được.
Tên tướng cướp lại nói:
- Ta tin tưởng vào lòng dũng cảm của
các anh em nhưng trước hết phải có một người táo bạo khôn khéo, xử trí nhanh,
không mang vũ khí, ăn mặc như lữ hành lạ mặt vào thành phố tìm hiểu xem người
ta nói ra sao về cái chết của đứa lấy trộm ta đã giết một cách xứng đáng với
tội trạng và phát hiện nó ở nhà nào. Đó là điều rất quan trọng chúng ta phải
biết đầu tiên để khỏi phải hối hận vì lộ mặt trong đất nước lâu nay không ai
biết chúng ta và cần thiết phải như thế mãi. Trước khi khuyến khích người xung
phong nhận nhiệm vụ, để khỏi báo tin sai gây tai hại cho chúng ta, các anh em
có đồng tình chúng ta sẽ xử tội chết người báo tin sai đó?
Không chờ cả bọn biểu quyết, một
trong những tên cướp nói:
- Tôi chấp nhận điều ấy và vinh dự
lấy mạng sống của mình để nhận nhiệm vụ. Nếu không có kết quả, các bạn nhớ rằng
tôi không thiếu can đảm và tình nguyện vì quyền lợi chung của toán.
Tên cướp sau khi được tên tướng cướp
và đồng bọn hoan nghênh cải trang để không ai nhận ra mình. Chia tay với toán
cướp hắn ra đi trong đêm, trù tính khéo léo đến thành phố trời vừa sáng. Hắn.
tới quảng trường chỉ thấy một cửa hiệu mở cửa, đó là cửa hiệu của Baba Mustafa.
Baba Mustafa ngồi trên ghế tay cầm
dùi thép chuẩn bị làm việc. Tên cướp thấy ông đã có tuổi chào hỏi:
- Chào ông, sao ông bắt đầu làm việc
sớm thế? Ở tuổi ông có lẽ mắt trông chưa rõ, chờ sáng sủa hơn tôi chắc ông thấy
tốt hơn, khâu may dễ hơn.
- Dù anh là ai, nhất định anh chưa
biết rõ tôi. Tuy già nhưng đôi mắt tôi còn rất tốt. Anh sẽ không nghi ngờ gì
điều đó khi biết cách đây không lâu, tôi đã khâu xác chết trong một chỗ không
sáng sủa bằng bây giờ.
Tên cướp rất mừng gặp được người cho
biết tin tức hằn cần mà chưa hỏi. Hắn ra vẻ kinh ngạc để ông nói tiếp:
- Xác chết à? Tại sao phải khâu một
xác chết? Có lẽ ông muốn nói đã khâu may vải liệm?
- Không không - Baba Mustafa lại nói
- Tôi biết ông muốn tôi kể cho nghe nhưng sẽ không biết gì hơn đâu.
Tên cướp chưa cần nói rõ hơn đã chắc
chắn phát hiện ra điều mình tìm kiếm. Hắn lấy ra một đồng vàng bỏ vào tay ông
lão và nói:
- Tôi chỉ tò mò muốn biết điều bí
mật của ông, đảm bảo sẽ không nói ra điều ông thổ lộ. Tôi chỉ xin ông làm ơn
cho biết hoặc chỉ đến ngôi nhà ông đã khâu người chết ấy.
- Dù tôi muốn làm ơn điều ông đòi
hỏi- Baba Mustafa lại nói và cầm đồng vàng sẵn sàng trả lại - Tôi khẳng định
với ông không làm việc ấy được và ông có thể tin tôi. Lý do là người ta dẫn tôi
đến một chỗ rồi bịt mắt tôi lại dắt đến tận nhà; ở đấy sau khi làm xong người
ta cũng theo cách ấy dẫn tôi ra chỗ đó. Ông thấy đấy tôi không giúp gì ông
được.
- Ít nhất - Tên trộm lại nói - Ông
cũng nhớ láng máng con đường người ta bịt mắt đưa ông đi. Mong ông đến vớI tôi
chỗ đó, tôi bịt mắt ông và chúng ta cùng đi theo con đường và những khúc quanh
ông có thể nhớ lại được. Mọi sự vất vả đều có thưởng, đây là một đồng vàng khác
nữa: ông đi cùng tôi sẽ rất vui lòng làm như tôi đã đề nghị.
Nói rồi hắn bỏ vào tay ông lão một
đồng vàng khác.
Hai đồng vàng hấp dẫn Baba Mustafa;
ông nhìn chúng trong tay không nói một lời, tự nhủ nên làm thế nào. Cuối cùng
ông rút túi trong người ra bỏ tiền vào và nói với tên cướp:
- Tôi không dám chắc có nhớ được
chính xác con đường người ta dẫn tôi đi không. Nhưng vì ông muốn, chúng ta cùng
đi và tôi cố gắng nhớ lại xem sao.
Ổng lão đứng dậy làm tên cướp rất
thoả mãn và không cần phải đóng cửa, vả lại cũng chẳng có gì để mất, ông dẫn
tên cướp đến chỗ Morgiane đã bịt mắt ông. Đến nơi ông bảo:
- Người ta bịt mắt tôi ở chỗ này và
tôi quay người như thế này.
Tên cướp lấy khăn tay bịt mắt ông,
đi bên cạnh lúc thì dắt ông lúc đi theo cho đến khi ông dừng lại.
Đến đây Baba Mustafa nói:
- Hình như tôi không đi xa hơn nữa
đâu.
Và thực tế ông đứng trước nhà Cassim
mà Ali Baba đang ở. Trước khi mở khăn bịt mắt tên trộm nhanh nhẹn dùng phấn
chuẩn bị sẵn đánh dấu vào cánh cửa và khi đã mở mắt, hắn hỏi ông có biết nhà
của ai đấy không; ông trả lời mình ở khu khác nên không nói được. Tên cướp thấy
không thể biết gì hơn liền để Baba Mustafa trở về cửa hiệu, hắn cám ơn ông vì
đã làm ông vất vả rồi hắn, theo đường vào rừng, chắc mẩm được đồng bọn đón tiếp
tốt.
Một lúc sau khi tên cướp và ông thợ
giày chia tay nhau Morgiane ra khỏi nhà đi mua vài đồ lặt vặt lúc trở về cô để
ý đến dấu phấn ở cánh cửa, suy nghĩ rồi tự hỏi:
- Dấu hiệu này là thế nào? Có kẻ nào
muốn hại chủ mình hay làm để chơi vui. Dù với ý định ra sao tốt hơn là cứ đề
phòng mọi tình huống.
Cô cũng lấy phấn và do hai ba cửa
phía trên, phía dưới giống nhau, cô đánh dấu vào một chỗ như thế và vào nhà
không nói gì với ông bà chủ.
Tên cướp vào rừng gặp đồng bọn còn
sớm, báo tin về kết quả cuộc đi, khuếch trương vận may gặp ngay một người qua
đó nắm được tin tức mà không ai biết được. Hắn được mọi người nghe rất hài lòng
và tên tướng cướp khen ngợi sự nhanh nhẹn của hắn rồi nói:
- Anh em, chúng ta đừng để mất thì
giờ. Chúng ta trang bị vũ khí kín đáo và cùng đi. Vào đến thành phố chúng ta
phân tán để tránh nghi ngờ, hẹn gặp nhau ở quảng trường đứng rải rác cách xa
nhau, trong lúc đó tôi cùng anh đi đến ngôi nhà đã được đánh dấu rồi tôi xét
xem nên làm như thế nào cho phù hợp nhất.
Lời tên tướng cướp được đồng bọn
hoan nghênh, chuẩn bị cùng ra đi. Chúng đi từng hai, ba đứa, cách nhau vừa phải
và vào thành phố không bị nghi ngờ gì. Tên tướng cướp và tên do thám vào thành
phố cuối cùng, đến con đường đã đánh dấu nhà Ali Baba. Tên ấy dẫn tướng cướp
đến trước một trong những cánh cửa Morgiane đánh dấu nói đây là nhà hắn đã đánh
dấu. Nhưng tiếp tục đi để tránh nghi ngờ, tên chỉ huy nhận thấy cánh cửa nhà
sau cũng đánh đấu cách đó và cũng một chỗ như thế, hỏi tên do thám cái này hay
cái trước. Tên này bối rối không biết trả lời thế nào, càng lúng túng khi chúng
thấy bốn, năm cánh cửa những nhà tiếp theo cũng có dấu như vậy. Hắn khẳng định
với chỉ huy hắn chỉ đánh dấu một cánh cửa và nói thêm:
- Tôi không biết kẻ nào đánh dấu
thêm giống nhau đến thế, trong số lẫn lộn này tôi thú nhận không phân biệt rõ
nhà nào do tôi đánh dấu.
Tên chỉ huy thấy ý đồ của mình bị
phá huỷ, trở lại quảng trường nói với đồng bọn:
- Chúng ta đã mất công làm một hành
trình vô ích và chỉ còn cách về lại chỗ ẩn thôi. - Hắn đi trước và cả bọn theo
hắn cũng trật tự như khi chúng đến.
Về đến hang tên chỉ huy giải thích
lý do phải ra lệnh rút về. Tền dẫn đường bị ngay toàn thể toán cướp kết tội
chết; hắn cũng tự nhận thấy đáng lẽ phải đề phòng cẩn thận hơn và cứng cỏi đưa
cổ ra cho tên đến chặt đầu hắn.
- Để bảo vệ cả nhóm, không thể không
chuộc lại sai lầm, một tên cướp khác hứa sẽ làm tốt hơn kẻ bị trừng phạt và
đứng lên xin nhận nhiệm vụ. Được chấp nhận hắn đến hỏi Baba Mustafa như đứa
đầu, và lại được ông lão bịt mắt dẫn di chỉ nhà Ali Baba. Hắn đánh dấu bút chì
đỏ vào một chỗ kín đáo hơn, cho là cách dễ phân biệt với những nhà đánh dấu
phấn trắng.
Nhưng một lúc sau Morgiane đi ra
ngoài trở về, dấu đỏ cũng không thoát khỏi đôi mắt tinh tường của cô. Cô cũng
suy tính như lần trước và đánh dấu bút chì đỏ ở cánh cửa những nhà gần đấy vào
cùng chỗ.
Tên cướp trở về rừng đề cao cách đề
phòng của hắn như là không thể nhầm lẫn nhà ấy với những nhà khác. Tên tướng
cướp và đồng bọn tin tưởng, cùng ra thành phố theo trật tự lần trước, cũng
tráng bị vũ khí như thế, sẵn sàng thực hiện ý đồ đã chuẩn bị. Cả tên tướng cướp
và tên do thám thứ hai đến con đường trước nhà Ali Baba nhưng lại gặp phải khó
khăn như lần trước. Tên tướng cướp bực tức và tên do thám đưa đường cũng bối
rối vô cùng như tên làm nhiệm vụ trước đó.
Tên tướng cướp buộc phải rút quân
về, cũng không hài lòng như ngày vừa qua; tên cướp đi làm nhiệm vụ cũng chịu
hình phạt mà hắn sẵn lòng hứng chịu.
Tên chỉ huy thấy mất hai đồng bọn
dũng cảm, sợ sẽ thiệt hại thêm nếu giao cho những đứa khác đi tìm nhà Ali Baba.
Kinh nghiệm cho hắn thấy chúng hầu hết chỉ giỏi cướp giật không có đầu óc biết
trù tính. Hắn liền tự mình làm công việc ấy, hắn đi ra thành phố, nhờ Baba
Mustafa giúp như hai tên trước và không tiếp tục trò đánh dấu nhận nhà. Hắn quan
sát kỹ, không chỉ chú ý nhìn mà đi lại trước nhà nhiều lần để không nhầm lẫn
được.
Hài lòng về chuyến đi và biết được
điều mong muốn, hắn trở về rừng, vào trong hang chỗ cả toán đang chờ tuyên bố.
- Các anh em, cuối cùng không có gì
ngăn cản được ta trả thù đích đáng về thiệt hại của chúng ta. Ta biết chắc chắn
nhà của tên có tội và dọc đường ta đã nghĩ cách diệt nó thật khôn khéo để không
kẻ nào biết được chỗ ẩn náu và kho báu của chúng ta mà vẫn tránh được kết cục
thảm bại.
Trong hai, ba ngày, bọn cướp thu
thập đủ những thùng không miệng hơi chật. Tên tướng cướp cho cắt rộng thêm
miệng thùng và sau khi cho từng đứa một vào trong từng thùng với vũ khí cần
thiết, hắn để hở một ít cho chúng thở còn thì đậy lại như những thùng đầy dầu
và để ngụy trang kỹ, hắn còn lấy dầu ở thùng đầy bôi bên ngoài.
Công việc bố trí như thế, khi những
con la mang ba mươi bảy tên cướp không có tên chỉ huy, mỗi đứa trong một thùng
và cả thùng đẩy dầu, tên chỉ huy đóng vai dẫn dắt lên đường vào thành phố theo
giờ đã định, đến nơi vừa mờ tối, khoảng một giờ sau khi mặt trời lặn. Hắn đến
thẳng nhà Ali Baba, dự tính xin ngủ lại với đàn la. Không cần gõ cửa, hắn gặp
Ali Baba ở cổng, đứng hóng mát sau bữa ăn tối. Hắn cho la dừng lại, đến chào
chủ nhà:
- Ông chủ, tôi từ xa đưa dầu đến mai
ra chợ bán, vào giờ này không biết trọ vào đâu. Nếu không làm phiền ông quá,
ông vui lòng cho tôi nghỉ lại nhà ông một đêm, tôi rất đội ơn ông.
Tuý Ali Baba đã thấy trong rừng tên
này, nghe cả giọng nói của hắn nhưng làm sao bác nhận ra tên tướng cướp dưới
lốt một người đi buôn dầu? Bác nói:
- Chúc mừng ông, xin mời vào - Nói
rồi bác né người để hắn vào cùng những con la.
Đồng thời Ali Baba gọi một người nô
lệ ra lệnh khi bỏ hàng xuống xong, đưa la vào chuồng, cho ăn cỏ khô và lúa
mạch. Bác cũng cất công vào bếp bảo Morgiane chuẩn bị ăn khuya nhanh chóng cho
khách vừa tới và chuẩn bị một chiếc giường trong phòng.
Bác còn niềm nở hơn: để đón tiếp
khách hết sức tử tế, khi thấy tên tướng cướp bỏ hàng trên la xuống, đưa la vào
chuồng rồi, đang chuẩn bị một chỗ ngủ ngoài trời, bác đến mời hắn vào phòng
khách và bảo hắn không nên ngủ ngoài sân. Tên tướng cướp cảm ơn, lấy lý do
không muốn làm phiền chủ nhà nhiều nhưng hắn thực sự muốn thực hiện ý đồ cho dễ
đàng và chỉ chấp nhận lòng tốt của Ali Baba sau nhiều lần bác nài ép.
Ali Baba không chỉ ngồi nói chuyện
với kẻ muốn giết bác cho đến lúc Morgiane phục vụ bữa ăn khuya, mà còn tiếp tục
trao đổi những câu chuyện mà bác nghe là khách thích và chia tay khi khách đã
ăn xong. Bác nói:
- Tôi để ông nghỉ ngơi; có những
việc gì cần ông cứ bảo, người nhà tôi sẵn sàng phục vụ ông.
Tên tướng cướp đứng dậy đưa Ali Baba
ra cửa và trong lúc Ali Baba vào bếp dặn dò Morgiane, hắn ra sân lấy lý do đến
chuồng gia súc xem có thiếu gì cho những con la không.
Ali Baba sau khl bảo chú ý cho khách
đừng để thiếu gì nói thêm:
- Morglane, sáng mai ta đi tắm sớm,
chuẩn bị khăn tắm cho ta đưa cho Abdalia (tên người hầu) và làm món cháo ngon
khi trở về để ta ăn - Sau đó bác về phòng đi nằm.
Tướng cướp ở chuồng la ra, đến ra
lệnh cho đồng bọn cần tiến hành công việc ra sao. Đi từ đứa đầu đến đứa cuốI
trong thùng dầu, hắn bảo:
- Khi ta quăng ra những viên đá nhỏ
từ phòng ta ngủ, các bạn dùng dao rạch thùng từ trên xuống dưới để ra ngoài, ta
sẽ ra đón các bạn.
Con dao bọn cướp cầm theo thân mảnh
và nhọn. Hắn đi vào nhà, đến cửa bếp thì gặp Morgiane cầm đèn đẫn hắn lên phòng
đã chuẩn bị cho khách, cô hỏi hắn có cần gì khác nữa không và đi ra. Để khỏi bị
nghi ngờ hắn tắt đèn, mặc cả quần áo đi nằm, sẵn sàng dậy khi đã chợp mắt một
lúc Morgiane không quên lời đặn của chủ, chuẩn bị khăn tắm đưa cho người hầu,
đặt nồi nấu cháo và trong lúc đun vừa sôi nồi cháo ngọn đèn trong bếp phụt tắt.
Không còn dầu, nến cũng hết. Làm sao đây? Cô cẩn có ánh sáng để đun xong nồi
cháo, nói điều đó với người hầu. Anh này bảo:
- Việc gì phải bối rối thế? Ra lấy
một ít dầu ở thùng ngoài sân kia kìa.
Morgiane cám ơn anh về lời khuyên và
trong lúc anh này vào phòng gần chỗ Ali Baba ngủ để sáng cùng đi nhà tắm, cô
cầm lọ đầu đi ra sân. Lại gần chiếc thùng gặp đầu tiên, tên cướp trốn trong đó
hỏi nhỏ:
- Đến giờ lồi ư?
Tuy tên cứớp nói rất nhỏ cô cũng
nghe được, hơn nữa tên tướng cướp kia hạ thùng từ những con la xuống, đã mở các
thùng một ít để đồng bọn hít thở không khí ở tư thế gò bó trong thùng.
Một nô lệ nào khác ngoài Morgiane sẽ
kinh ngạc vì thấy một người thay vì dầu có thể kêu ầm lên đưa đến tai họa.
Nhưng Morgiane khôn hơn, hiểu ngay phải giữ bí mật và hiểu ngay mối nguy đang
đe doạ Ali Baba, gia đình và cả bản thân cô nữa. Nghĩ phải tìm cách im lặng đối
phó theo khả năng mình, cô bình tĩnh lại, không để lộ ra một xúc động nào, đóng
vai tên tướng cướp, trả lời:
- Chưa đâu, lát nữa đã - Cô lại gần
thùng tiếp đó cũng câu hỏi và trả lời như thế cho đến thùng cuối cùng, đầy dầu.
Qua đó Morgiane biết chủ mình tưởng
cho người buôn dầu nghỉ nhờ nhưng đã cho vào nhà mình ba mươi tám tên cừớp kể
cả chỉ huy của chúng. Cô vội múc đầy lọ dầu ở thùng cuối, trở vào bếp, đổ dầu
vào đèn thắp sáng lên rồi lấy chiếc chảo to, trở ra sân đổ đầy dầu vào, đưa vào
bắc lên bếp cho nhiều củi đun để dầu càng chóng sôi càng tốt nhằm mục đích cứu
cả gia đình. Khi dầu đã sôi, cô bưng chảo đổ vào mỗi thùng một lượng dầu sôi đủ
làm bỏng chết từng tên cướp trong thùng.
Hành động ấy chứng tỏ lòng can đảm
của Morgiane, thực hiện xong cô mang chảo không vào bếp, đóng cửa lại. Tắt bớt
lửa đủ để chín nồi cháo cho Ali Baba rồi thổi đèn, im lặng đứng trong bóng tối
nhìn ra cửa sổ xem việc xảy đến tiếp theo. Quả nhiên chưa đầy mười lăm phút
sau, tên tướng cướp tỉnh dậy. Hắn đứng lên lại mở cửa sổ nhìn ra thấy không có
ánh sáng, bốn phía rất im lặng, hắn ném những viên đá ra hiệu lệnh, nhiều viên
hắn nghe tiếng rơi trên thùng. Lắng tai nghe không thấy đồng bọn hoạt động gì,
hắn lo lắng ném đá lần thứ hai rồi thứ ba. Đá rơi xuống thùng nhưng không một
tên cướp nào động đậy, hắn không hiểu vì sao. Vội vàng ra sân hết sức lặng lẽ,
hắn lại gần chiếc thùng đầu tiên ghé xuống hỏi. đồng bọn tưởng đang ngủ. Hắn
ngửi thấy mùi dầu nóng và khét toát ra, biết rằng mưu mô giết Ali Baba, đất
nhà, lấy lại vàng của hắn đã thất bại. Hắn lại thùng tiếp đó và lần lượt những
thùng khác, thấy tất cả đồng bọn đều cùng chung số phận. Nhìn lượng dẩu thiếu
hụt hắn biết người ta đã làm thế nào để diệt gọn đồng bọn của mình. Thất vọng
vì hỏng việc, hắn chạy lại cửa ra vườn, nhảy tường từ vườn này sang vườn khác
bỏ trốn.
Khi Morgiane không nghe tiếng gì nữa
và không thấy tên tướng cướp trở lại, chắc chắn hắn đã chạy qua cửa vườn vì
cổng nhà đã đóng kỹ. Hài lòng và rất vui mừng đã bảo vệ an toàn cho cả gia
đình, cô đi nằm và ngủ thiếp đi.
Ali Baba dậy trước lúc trời sáng đi
tắm cùng người hầu, không biết gì về sự việc kỳ lạ xảy ra trong nhà lúc anh
đang ngủ mà Morgiane không muốn đánh thức bác dậy quấy rầy giấc ngủ của bác và
cũng không đủ thì giờ trong lúc cứu nguy. Đi tắm về, mặt trời đã lên cao, Ali
Baba ngạc nhiên thấy những thùng dầu còn nguyên ở chỗ cũ, người buôn dầu chưa
chở ra chợ bán, hỏi Morgiane nguyên nhân. Cô ra mở cửa vốn để nguyên hiện trạng
cho bác thấy quang cảnh và giải thích:
- Ông chủ tốtt bụng của tôi, Trời
còn giữ gìn cho ông và gia đình! Ông hãy đến cùng tôi xem sẽ hiểu rõ hơn.
Alí Baba đi theo Morgiane đến chỗ
những chiếc thùng. Cô nói:
- Ông nhìn vào thùng xem có dầu
không?
Bác nhìn, thấy có người trong thùng,
sợ hãi lùi lại kêu thét lên. Morgiane bảo:
- Ông đừng sợ gì, người ông thấy
không làm hại được ông nữa. Hắn định làm nhưng không làm được gì nữa đối với
ông hay bất cứ ai; hắn chết rồi.
- Morgiane, cô vừa cho ta xem như
vậy nghĩa là sao? Giải thích rõ cho ta đi.
- Tôi sẽ trình bày rõ với ông nhưng
đừng quá ngạc nhiên và đừng gây ra tò mò cho những người xung quanh biết điều
rất quan trọng mà ông cần giấu kín. Ông cứ xem hết các thùng đi đã.
Ali Baba nhìn lần lượt vào thùng từ
chiếc đầu đến chiếc cuối đựng dầu, thấy lượng dầu giảm đáng kể, sau đó đứng như
bất động lúc nhìn vào những chiếc thùng, lúc nhìn Morgiane không nói một tiếng
vì quá kinh ngạc. Cuối cùng bác hỏi:
- Thế người buôn dầu ra sao rồi?
- Người buôn dầu, - Morgiane trả lời
- còn ít buôn bán hơn tôi. Tôi cũng sẽ nói với ông hắn ra sao. Nhưng ông vào
phòng nghe kể lại thuận lợi hơn vì đã đến lúc tắm xong ông nên ăn bát cháo để
giữ gìn sức khoẻ.
Trong lúc Ali Baba vào phòng
Morgiane đi lấy cháo mang lên. Trước khi ăn, bác bảo:
- Hãy bắt đầu thoả mãn sự nóng lòng
muốn biết của ta đi. Kể lại cho ta nghe câu chuyện kỳ lạ ấy với mọi tình tiết .
Vâng lời chủ, Morgiane nói:
- Thưa ông, tối qua lúc ông đi nằm,
tôi chuẩn bị khăn tắm của ông đưa cho Abdalia rồi nhóm bếp nấu cháo. Nước sôi
thì đèn tắt vì hết dầu; trong nhà không còn một giọt, nến cũng không. Abdalia
thấy tôi bối rối, nhắc tôi có những thùng đầy dầu ngoài sân, cậu ta không ngờ
cũng như tôi và chắc ông cũng thế. Tôi cầm lọ đựng dầu ra chỗ chiếc thùng gần
nhất. Lại gần thùng tôi nghe thấy một giọng nói hỏi nhỏ: Đến giờ rồi ư? Tôi
không sợ hãi, vì hiểu ra ngay mánh khoé của kẻ giả dạng lái buôn, tôi không
ngập ngừng trả lời: Chưa đâu nhưng sắp đến rồi. Tôi lần lượt lại các thùng tiếp
theo, nghe câu hỏi và cũng trả lời tương tự. Chỉ có dầu ở thùng cuối cùng, tôi
múc đầy lọ.
Tôi chọ rằng trong sân có ba mươi
bảy tên cướp đang chờ hiệu lệnh của tên tướng cướp để đốt cháy nhà ta mà ông
tưởng là người lái buôn và tiếp đãi tử tế. Không để mất thì giờ, tôi đưa lọ dầu
vào nhà, đốt đèn, lấy chiếc chảo to nhất trong bếp ra múc đầy dầu bắc lên bếp.
Tôi nhóm lửa và khi dầu sôi tôi đem rót vào từng thùng có bọn cướp để ngăn cản
chúng thực hiện ý đồ tàn ác.
Xong đâu đấy tôi trở vào bếp, tắt
đèn và nhìn qua cửa sổ im lặng quan sát việc làm của tên giả danh lái buôn
trước khi đi nằm.
Một lúc sau hắn quăng những viên đá
rơi trên thùng để la hiệu lệnh. Quăng đến lần thứ hai, thứ ba không thấy đứa
nào hành động gì, hắn ra sân đến từng chiếc thùng; do trời tối không trông rõ,
tôi chắc chắn hắn bỏ chạy theo đường qua vườn vì thất vọng về âm mưu thất bại.
Chắc chắn gia đình đã yên ổn, tôi bèn đi ngủ.
Kể xong Morgiane nói thêm:
- Đấy là câu chuyện ông muốn biết.
Đấy là tiếp theo một nhận xét hai, ba ngày nay mà tôi nghĩ không phải báo với
ông là một lần từ thành phố trở về lúc sáng sớm, tôi thấy trên cửa đánh dấu
trắng, ngày hôm sau đánh dấu đỏ, tôi nghĩ ai đó có ý đồ gì xấu nên mỗi lần tôi
cũng đánh dấu tương tự vào cả hai ba nhà trên dưới nhà ta. Nếu ông theo dõi
việc ấy, ông sẽ thấy những cái đó do mưu mô của bọn cướp trong rừng mà tôi không
rõ vì sao thiếu mất hai đứa. Dù sao thì đây là lần thứ ba chúng thề quyết giết
hại ông và nên đề phòng cẩn thận vì vẫn còn không phải chỉ có một tên trên đời.
Tôi sẽ không quên theo dõi để bảo vệ ông theo nhiệm vụ của mình.
Morgiane nói xong, Ali Baba thấy
mình chịu ơn cô nhiều, bác nói với cô:
- Ta không chết khi chưa thưởng cô
xứng đáng với công lao. Ta chịu ơn cô về mạng sống và để bắt đầu chứng tỏ lòng
biết ơn, ngay từ bây giờ ta trả lại tự do cho cô trong lúc chờ đợi làm đầy đủ
thủ tục. Ta khẳng định với cô chính bốn mươi tên cướp đặt bẫy đó với ta. Chúa
giải thoát cho ta qua những cách làm của cô; ta hy vọng: Người tiếp tục bảo vệ
ta trước sự tàn ác của chúng và diệt gọn chúng để giải thoát cho mọi người
những hành động ghê tởm của chúng. Điều chúng ta cần làm là chôn xác lũ bệnh
dịch của dân chúng này thật bí mật để không ai nghi ngờ gì về số phận của
chúng. Ta sẽ cùng làm việc này với Abdalia.
Khu vườn của Ali Baba dài rộng, cuối
vườn có nhiều cây to. Không chần chừ anh cùng người hầu đào một hố to tương ứng
với những xác bọn cướp cần chôn. Đất dễ đào, họ hoàn thành chóng vánh, kéo xác
chết ra khỏi thùng, để riêng vũ khí của bọn cướp, đưa những xác chết ra cuối
vườn xếp nằm trong hố lấp đất lại, phủ đều xung quanh nện mặt đất bằng phẳng
như trước. Ali Baba cho giấu kín những chiếc thùng và vũ khí, còn những con la,
anh cho đưa ra chợ nhiều lần để người hầu đứng bán.
Trong lúc Ali Baba làm mọi cách để
mọi người không biết vì sao bác trở nên rất giàu trong một thời gian ngắn như
thế, tên tướng cướp trở về rừng với sự nhục nhã không chịu nổi và day dứt đúng
hơn là xấu hổ vì thất bại khổ sở, ngược lại với dự tính, vào trong hang hắn
không quyết định được cần phải làm gì để đối phó với Ali Baba.
Cô độc trong chỗ ở tối tăm hắn tỏ ra
thật thảm hại. Hắn kêu lên:
- Những anh em dũng cảm! Các anh ở
đâu. Ta có thể làm gì cho các anh em đây? Phải chăng ta đã tập hợp và chọn lựa
các anh để trông thấy các anh bị giết chết tất cả một lúc thật thảm thương và
không xứng với lòng can đảm của các anh. Ta sẽ đỡ nhớ tiếc hơn nếu các anh chết
như những người dũng cảm gươm cầm trong tay. Bao giờ thì ta lại có được một
toán người hăng hái như các anh? Và khi muốn, làm sao ta có thể giữ gìn và
không để bao nhiêu vàng bạc, của cải làm mồi cho kẻ đã làm giàu một phần nhờ của
cải của chúng ta? Ta không thể không nghĩ đến phải lấy sinh mạng của nó. Điều
đó ta không làm được với sự hỗ trợ mạnh của các anh thì ta sẽ làm một mình và
làm thế nào để kho báu không bị tàn phá, sẽ không có người thừa kế, không có
chủ nào sau ta; của cải phải được bảo vệ và tăng thêm trong hậu thế.
Quyết đình như vậy, hắn không còn
lúng túng tìm cách thực hiện rồi sau đó đầy hy vọng và tâm trí bình tĩnh hơn,
hắn nằm ngủ, qua một đêm khá thanh thản.
Sáng hôm sau tên tướng cướp dậy sớm,
như đã dự dịnh hắn mặc bộ quần áo sạch sẽ phù hợp với việc ra thành phố, hắn
thuê một chỗ ở nhà trọ. Chờ đợi những gì xảy ra ở nhà Ali Baba sẽ có tiếng
vang, hắn hỏi người gầc cửa có tin gì mới trong thành phố không. Thấy người ấy
cho biết ngược hẳn điều hắn nghĩ, hắn cho rằng Ali Baba giữ kín để mọi người
không biết vì sao giàu lên và đo đó mà có kẻ muốn giết hại mình. Điều này càng
kích thích hắn tìm mọi cách để trừ khử Ali Baba cũng theo cách bí mật ấy.
Tên tướng cướp có một con ngựa dùng
để vào rừng đưa nhiều loại vải vóc đẹp ra chỗ trọ rất thận trọng để không lộ
nơi mình đến lấy. Khi đã đưa ra một số vải khá nhiều, hắn tìm thuê một cửa
hiệu, trang bị đầy đủ và mở cửa hàng. Cửa hiệu ở ngay trước mặt cửa hiệu của
Cassim trước đây và bây giờ do con trai Ali Baba quản lý.
Hắn lấy tên là Cogia Houssain, là
người mới đến không lo là quan hệ xã giao với những nhà buôn bên cạnh, theo
phong tục. Con trai Ali Baba rất trẻ tuổi tử tế, có hiểu biết, hắn lui tới nới
chuyện nhiều với cậu hơn những người khác và kết bạn với cậu. Ba, bốn ngày sau
khi hắn mở cửa hiệu, hắn nhận ra Ali Baba đến thăm con như thường vẫn làm và
sau đó được cậu cơn trai giới thiệu đó là bố mình, hắn tăng cường vồn vã, săn
đón, tặng quà, và nhiều lần cả chiêu đãi thân tình.
Con trai Ali Baba không muốn chịu ơn
hắn nhiều mà không trả lại tương xứng nhưng cửa hiệu của cậu chật hẹp và không
thuận tiện chiêu đãi như ý muốn, cậu bàn với bố về ý định của mình, cho rằng
mình không lịch sự nếu không đáp lại sự tử tế của Cogia Houssain.
Ali Baba vui lòng nhận chuẩn bị bữa
tiệc, bảo con:
- Con trai ta, ngày mai thứ sáu
những nhà buôn lớn như Cogin Houssain và con đóng cửa hiệu, sau bữa ăn tối con
đi dạo với ông ta, khi trở về làm thế nào đưa ông đi qua nhà bố và mời ông vào:
làm thế tốt hơn chính thức mờI mọc; ta sẽ bảo Morgiane chuần bị sẵn sàng bữa ăn
khuya.
Ngày thứ sáu, con trai Ali Baba và
Cogia Houssain gặp nhau ở một chỗ hẹn và cùng nhau đi dạo. Lúc trở về, cơn trai
Ali Baba đưa ông bạn đi vào con đường trước nhà bố mình, cậu dừng lại gõ cửa và
nói:
- Đây là nhà bố tôi. Nghe nói ông cho tôi vinh dự được
kết bạn, bố tôi muốn may mắn được làm quen; đề nghị ông vào chơi cho bố tôi hài
lòng như đã làm tôi vui thích.
Tuy Cogia Houssain đã đạt được mục đích vào nhà Ali Baba
nhưng để giết bác mà không bị nguy hiểm đến mình, hắn giả vờ từ chối, ra vẻ
muốn chia tay với ngườI bạn trẻ nhưng vừa lúc đó người hầu ra mở cửa, con trai
Ali Baba bước vào trước rồi cầm tay hắn kéo vào.
Ali Baba đón tiếp Cogia Houssain cởi mở, hết sức tử tế,
cám ơn hắn đã rất tốt với con trai mình. Bác nói:
- Ông làm ơn cho nó cũng như cho tôi; nó còn trẻ chưa
hiểu biết cuộc sống, ông đã không nề hà góp phần đào tạo nó.
Cogia Houssain tỏ ra thán phục Ali Baba, khẳng định con
trai bác chưa có kinh nghiệm như những ngườI già nhưng đã có sự hiểu biết thay
cho kinh nghiệm của vô số người.
Sau một lúc trao đổi nhiều vấn đề khác nhau, Cogia
Houssain muốn xin phép ra về. Ali Baba ngăn lại, nói:
- Ông chủ, ông định đi đâu? Tôi đề nghị được có vinh dự
cùng ăn khuya với ông. Bữa ăn tối mời ông rất không tương xứng với ông nhưng dù
sao tôi cũng mong ông sẵn lòng chấp nhận tấm lòng của chúng tôi.
- Thưa ông Ali Baba - Cogia HousBain nói - tôi rất tiếc
lòng tốt của ông; nên tôi xin ông đừng cho là xấu khi rút lui không dùng bữa
với ông, mong ông tin rằng không phải vì tôi coi thường hoặc bất lịch sự mà vì
một lý do ông có thể tha thứ cho.
- Có thể là lý do gì ông chủ? Ông cho biết được không?
- Vấn đề là tôi không ăn thịt, không
ăn ra-gu có muối. Ông thử nghĩ tôi sẽ Chịu đựng thế nào được khi cùng ăn với
ông.
- Nếu chỉ vì lý do đó thì ông không
thể từ chối làm tôi hài lòng vì bữa ăn được. Trước hết, trong bánh nhà tôi
không có thịt và ra-gu tôi hứa sẽ cũng không cớ muối trong khẩu phần phục vụ
ông; như vậy ông cứ ở lại tôi sẽ đi bảo nhà bếp làm, một lát tôi sẽ trở lại.
Ali Baba vào bếp ra lệnh cho
Morgiane đừng bỏ muối và thịt cho khách và chuẩn bị hai, ba ra-gu cũng không có
muối.
Morgiane sẵn sàng phục vụ nhưng
không nén được bất bình về lệnh mới này, nói với Ali Baba:
- Ông này là ai mà khó khăn thế,
không ăn cả muối? Nếu tôi làm nữa sẽ muộn, bữa ăn của ông không ngon.
- Đừng bực mình, Morgiane. Ông ấy là
một người tốt, cứ làm như ta bảo.
Morgiane vâng lời nhưng bất đắc dĩ.
Khi làm xong, tò mò muốn biết người thế nào mà không ăn muối. Abdalia dọn bàn,
cô giúp anh mang thức ăn lên. Nhìn Cọgia Houssain ngay lập tức cô nhận ra là
tên tướng cướp tuy đã khéo cải trang; quan sát kỹ cô thấy hắn có con dao găm
giấu dưới áo. Cô tự nhủ: Mình chẳng lạ là tên gian ác không muốn ăn muối với
ông chủ mình; kẻ thù không độI trời chung, hắn muốn giết hại ông nhưng mình sẽ
ngăn cản hắn .
Trong lúc mọi người ăn, cô chuẩn bị
mọi thứ cần thiết để thực hiện một kế hoạch táo bạo, vừa xong thì Abdalia vào
báo đã đến lúc phục vụ quả cây. Cô mang quả cây lên và phục vụ khách trong lúc
Abdalia dọn bàn. Sau đó cô đặt bên cạnh Ali Baba một chiếc bàn nhỏ có chai rượu
và ba chiếc cốc; đi ra cô dẫn Abdalia như cùng đi ăn với nhau, để Ali Baba theo
phong tục, tự do nói chuyện vui vẻ với khách, mời khách uống rượu.
Cogia Houssain giả, đúng hơn là tên
tướng cướp nghĩ là dịp thuận lợi giết Ali Baba đã đến. Hắn nghĩ: Mình sẽ chuốc
rượu say cả hai bố con để đứa con trai dù còn sống cũng không cản trở được mình
đâm đao vào tim bố nó, rồi mình chạy trốn qua vườn như đã làm, trong lúc đầu
bếp và người hầu đang ăn hoặc đang ngủ trong bếp.
Giữa bữa ăn, Morgiane biết rõ ý định
của tên mạo danh Cogla Houssaln, không để hắn có thì giờ tiến làm việc độc ác.
Cô mặc chiếc áo vũ nữ sạch sẽ, tóc tai phù hợp, thắt chiếc thắt lưng bạc nạm
vàng, giắt một con dao găm cán và vỏ bao cùng loại kim khí rồi mang chiếc mặt
nạ thật đẹp. Cải trang như thế cô bảo Abdalla:
- Abdalia, anh cầm chiếc trống đập
nhịp, chúng ta ra mua vui cho khách của ông chử, bạn của con ông như đôi khi chúng
ta vẫn làm vào buổi tối.
Abdalia cầm trống đập nhịp bắt đầu
chơi, đi trước Morgiane vào phòng khách. Morgiane theo sau anh, cúi chào thanh
thoát trình diện như muốn xin phép biểu diễn.Ali Baba nói:
- Vào đi Morgiane, Cogia Houssain sẽ
xét xem cô có khả năng đến mức nào và sẽ nói ông nghĩ gì về cô. –Anh ngoảnh về
phía Cogia nói tiếp, - ông đừng nghĩ tôi phải chi phí về trò mua vui này. Của
nhà đấy, cô đầu bếp và người hầu, thỉnh thoảng vẫn biểu dlễn cho tôi xem. Mong
rằng ông không cho là khó chịu.
Cogia Houssain không ngờ Ali Baba
lại cho mua vui sau bũa ăn, hắn sợ không lợi dụng được thời cơ thuận lợi. Trong
trường hợp này hắn đành tự an ủi sẽ tìm được dịp bằng cách tiep tục thắt chặt
tình bạn với bố và con bác. Vì thế tuy muốn Ali Baba không cho biểu diễn thì
hơn, hắn vẫn vờ cám ơn và tỏ ra điều gì làm chủ nhà vui thích thì hãn cũng vui
thích.
Abdalia thấy hai người không nói
chuyện nữa, lại bắt đầu vỗ trống và hát một điệu vũ. Morgiane không kém một nữ
vũ công chuyên nghiệp nào, nhảy với phong cách làm ai cũng phải thán phục, có
lẽ chỉ tên giả danh Cogia Houssain không chú ý lắm.
Sau khi nhảy nhiều bài với duyên
dáng và sức mạnh như từ đầu, Morgiane rút lưỡi dao găm cẩm tay múa một điệu vũ
vượt hẳn những bài khác về động tác nhanh nhẹn, những bước kỳ lạ và những sức
bật tuyệt vời kềm theo kiểu múa dao lúc như tấn công, lúc như tự đâm vào lòng
mình.
Cuối cùng thở hổn hển cô giật lấy
chiếc trống của Abdalia cầm bằng tay trái, cầm dao tay phải, giơ mặt sau rỗng
của trống ra trước mặt Ali Baba, giống những vũ công chuyên nghiệp yêu cầu sự
hào phóng của khán giả.
Ali Baba ném một đồng tiền vàng vào
trống. Morgiane giơ tiếp cho con trai Ali Baba, và cậu cũng theo gương bố.
Cogia Houssaln thấy cô cũng sẽ đến sau đó, hắn liền cho tay vào túi rút sẵn túi
tiền để tặng quà, trong lúc đó Morgiane dũng cảm và quyết đoán, đâm lưỡi dao
vào giữa tim hắn làm hắn chết ngay trước khi cô rút dao ra.
Ali Baba và con trai hoảng hốt trước
hành động đó thét lên:
- A? Khốn nạn? - Ali Baba kêu lên -
Cô này làm gì thế? Muốn hại ta và gia đình à?
- Không phải làm hại; tôi làm thế để bảo vệ ông – Cô lật
áo Cogia Houssain chỉ con dao găm của hắn và nói - Ổng thấy đấy, ông tiếp xúc
với kẻ nguy hiểm nào thế này? Ông nhìn kỹ mặt sẽ nhận ra kẻ buôn dầu giả mạo và
là tên tướng cướp. Ông cũng không nghĩ đến việc hắn không ăn muối? Ông còn muốn
gì hơn nữa để kết thúc cuộc sống tàn ác của hắn? Trước khi thấy hắn, tôi đã
nghi ngờ khi ông bảo có một người khách như thế. Tôi ra quan sát thì ông xem
tôi đã không nhầm.
Ali Baba nhận rõ lại phải chịu ơn Morgiane lần thứ hai
cứu mình, bác ôm hôn Morgiane và nói:
- Morgiane, ta đã trả tự do cho cô, bây giờ ta hứa lòng
biết ơn của ta không đừng lại ở đó mà sẽ bù đắp đầy đủ. Đã đến lúc ta nhận cô
làm dâu trong gia đình.
Ngoảnh lại con trai, Ali Baba nói:
- Con trai ta, ta nghĩ con rất hiếu thảo để không lấy làm
lạ việc ta cho Morgiane làm vợ con mà không hỏi ý kiến trước. Con thấy đấy
Cogia Houssain kết bạn với con vớí ý đồ dễ dàng giết ta hơn và nếu hắn làm được
việc đó, hắn cũng sẽ trả thù cả con( Hơn nữa con xem cưới Morgiane làm vợ, con
sẽ có chỗ dựa cho gia đình ngay cả khi ta còn sống và là chỗ dựa của con cho
đến cuối đời.
Cậu con trai vui lòng ngay lập tức về cuộc hôn nhân, không
chỉ vì cậu không muốn trái lời bố mà vì cậu cũng muốn thế.
Sau đó người ta lo chôn cất xác tên tướng cướp bên cạnh
đồng bọn và việc đó làm bí mật đến nỗi qua rất nhiều năm sau này, mọi người mới
biết, nhưng thời gian làm người ta không quan tâm đến câu chuyện đáng nhớ ấy
nữa.
Mấy ngày sau, Ali Baba tổ chức lễ thành hôn cho con trai
và Morgiane trang trọng với buổi tiệc mừng rôm rả kèm theo nhảy múa và diễn
kịch những trò giải trí quen thuộc và hài lòng thấy bạn bè, chòm xóm được mời
tuy không biết rõ lý do đám cưới, nhưng vẫn công nhận những đùc tính tốt đẹp
của Morgiane, và hết lời ca ngợi lòng độ lượng, phúc hậu eủa ông chủ.
Sau đám cưới, Ali Baba từ khi mang thi thể của ông anh và
vàng bạc ở hang về vẫn không dám đến hang nữa sợ bị lộ, và còn nán lại một thời
gian sau cái chết của ba mươi tám tên cướp kể cả tên tướng vì nghĩ rằng còn hai
tến sống sót.
Nhưng sau một năm, thấy không có vụ khiêu khích nào đáng
lo, tò mò muốn đến đấy xem sao, Ali Baba lên ngưa đi đến hang. Thấy không có
dấu vết người, ngựa gì, bác xuống ngựa buộc vào cây, lại trước cửa nói: Vừng
ơi, mở cửa! Cửa mở, anh bước vào, qua tình trạng các vật trong hang không có gì
thay đổi khoảng từ khi tên giả mạo Cogia Houssain mở cửa hiệu biết rằng không
có ai vào cũng từ thời gian ấy và cả bốn mươi tên cướp đều đã bị diệt gọn. Bác
không còn nghi ngờ gì chỉ một mình trên đời biết bí mật mở cửa hang và kho báu
ở đó đã thuộc về mình. Bác có đem theo chiếc hòm, chất đầy vàng theo sức ngựa
chở và trở về thành phố.
Từ buổi đó, Ali Baba dẫn con đến cửa hang truyền lại bí
mật mở cửa vào và sau đó truyền lại cho các thê hệ sau của họ, thừa hưởng của
cải có chừng mực, trải qua một cuộc sống sang trọng và được quí mến của hàng
ngũ danh giá nhất trong thành phố.
Sau khi kể xong chuyện này cho vua
Schahriar nghe, Scheherazade thấy chưa sáng, nàng bắt đầu kể tiếp chuyện sau.
Thư mục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét