THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 61: Bắn lãnh tiễn Yến Thanh cứu chúa;
Cướp pháp trường Thạch Tú thi gan
Nói về
Lư Tuấn Nghĩa là một người khoẻ mạnh giỏi giang, anh hùng vô địch, song xưa nay
chưa từng quen tay dưới nước bao giờ. Nay bỗng chốc bị thuyền lật xuống dưới
nước, làm cho chàng ta luống cuống rụng rời chân tay, không biết lối nào mà
giở. Trương Thuận liền ôm lấy ngang lưng mà ôm thẳng vào bờ. Khi vào tới bờ, đã
thấy đóm đuốc sáng trưng, và có năm sáu mươi người đứng đón sẵn ở đấy, chúng
đem Lư Tuấn Nghĩa lên bờ, đứng xúm vào tháo dao lưng ra, cởi bỏ hết quần áo,
rồi toan đem thừng trói lại. Chợt đâu thấy Đới Tung chạy đến quát ngay rằng:
- Không
được động đến Viên Ngoại, cứ mời Viên Ngoại vào chơi.
Đoạn rồi
thấy một người mang ra một cái áo gấm, một bức quần thêu đưa đến cho Lư Tuấn
Nghĩa, và có tám đứa tiểu lâu la đưa cổ kiệu đến dìu Viên Ngoại lên kiệu mà
khiêng đi.
Đi được
vài bước, xa trông đã thấy có hai ba mươi đèn lồng sa đỏ, dẫn một toán người
ngựa, là Tống Giang, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng cùng các vị Đầu Lĩnh kéo đến.
Khi kiệu Lư Tuấn Nghĩa gần đến nơi, Tống Giang vội vàng quỳ xuống trước kiệu,
rồi các Đầu Lĩnh cũng quỳ theo cả một lượt ở sau. Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy cũng
vội vàng xuống kiệu quỳ ra ngoài đất mà nói rằng:
- Tôi đã
bị bắt đến đây, xin cho sớm chết là hơn... Tống Giang cười rằng:
- Xin
Viên Ngoại hãy cứ lên kiệu, rồi sẽ hay.
Nói đoạn
lại dìu Lư Tuấn Nghĩa lên kiệu, rồi các Đầu Lĩnh đều lên ngựa, mà nổi trống
khua nhạc đưa thẳng về Trung nghĩa Đường.
Khi tới
Trung Nghĩa Đường, các Đầu Lĩnh mời Lư Tuấn Nghĩa vào ghế giữa, đôi bên đèn nến
thắp sáng choang, rồi Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Chúng
tôi lâu nay nghe tiếng Viên Ngoại, khác nào sét đánh ngang tai, nay được gặp
ngài đây, thực là thỏa lòng khát vọng vô cùng. Vừa rồi bọn anh em có người
không phải lỡ phạm đến ngài, xin ngài tha lỗi ấy cho.
Ngô Dụng
cũng chạy đến mà rằng:
- Bữa
trước tôi có vâng lệnh Huynh trưởng tôi đến cửa ngài, giả làm thầy đoán số, để
mời ngài đến núi Lương Sơn cùng tụ đại nghĩa với nhau, mà thay Trời làm Đạo,
vậy ngày nay ngài đã tới đây, thực là hạnh phúc cho sơn trại không biết tới đâu
mà kể.
Đoạn rồi
Tống Giang mới Lư Tuấn Nghĩa ngồi vào ghế thứ nhất. Lư Tuấn Nghĩa cười mà đáp
rằng:
- Lư
Tuấn Nghĩa tôi khi trước ở nhà thực không có phép gì chết được, nhưng ngày nay
đến thực không muốn sống làm chi. Định giết xin cứ giết cần gì phải đùa như
vậy?
Tống
Giang vui vẻ đáp rằng:
- Lẽ nào
chúng tôi dám đùa với Viên Ngoại, thực là chúng tôi khâm phục uy tín của Viên
Ngoại, tựa hồ trong lòng đói khát đã lâu, bởi thế chúng tôi mới lập kế mời ngài
đến đây, tôn làm chủ sơn trại, cho anh em chúng tôi được sớm khuya theo lệnh
của ngài.
Lư Tuấn
Nghĩa nói:
- Thôi
xin đừng nói nữa, tôi đây muốn chết thì dễ bằng muốn cho tôi theo thì rất khó.
Ngô Dụng
vội gạt đi rằng:
- Nếu
vậy để hôm khác thì ta sẽ bàn. Nói đoạn liền sai đem rượu lên để thết đãi, Lư
Tuấn Nghĩa không sao từ chối được, đành gượng uống năm ba chén rồi nghỉ lại ở
đó.
Ngày hôm
sau Tống Giang sai giết trâu mổ ngựa, bày tiệc linh đình, mời Lư Tuấn Nghĩa ra
dự tiệc, Tống Giang mời năm lần bảy lượt mãi sau Lư Tuấn Nghĩa mới chịu ngồi
vào ghế giữa để uống rượu.
Được một
vài tuần, Tống Giang đứng dậy nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Đêm
qua thực là có điều không phải, xin ngài tha lỗi cho. Sơn trại chúng tôi đây
tuy hẹp nhỏ, song Viên Ngoại cũng nên xét đến hai chữ trung nghĩa mà lưu lại
nơi đây, tôi xin thuận tình nhường vị lại ngài, xin chớ chối từ làm chi?
Lư Tuấn
Nghĩa đáp:
- Đầu
Lĩnh nói lạ thực? Tôi đây bình sinh không có tội gì, nhà cũng đủ ăn, không đến
nổi đói. Sống làm dân nhà Tống chết phải làm ma nhà Tống... Không nói đến hai
chữ trung nghĩa, thì tôi còn uống liều dăm ba chén ở đây, bằng nói đến hai chữ
trung nghĩa thì cái bầu nhiệt huyết của tôi cũng khả dĩ tưới khắp ra đây ngay
lập tức.
Người
liền tiếp luôn rằng:
- Viên
Ngoại đã không chịu ở đây, thì cũng không nên cưỡng bách làm chi, giữ được
người Viên Ngoại, chứ giữ thế nào được bụng. Có điều rằng: Anh em tôi cũng
không được mấy khi ngài đã hạ cố đến chơi, vậy ngài không bằng lòng nhập đảng,
chúng tôi cũng không dám ép, song xin ngài hãy lưu lại ở chơi mấy bữa, rồi xin
đưa trả về nhà thế là ổn tiện.
Lư Tuấn
Nghĩa nói:
- Đầu
Lĩnh đã biết rằng, lưu tôi cũng chẳng được nào, thì xin cho tôi về ngay cho
tiện không? Tôi ở đây chỉ e sợ vợ con cửa nhà không biết tin tức ra sao cả...
Ngô Dụng
nói:
- Cái đó
có khó gì, xin cho Lý Cố đem xe cộ về trước, còn ngài ở lại đây mấy hôm rồi sẽ
về sau cũng được...
Nói đoạn
liền gọi Lý Cố lên cho ít tiền nong mà giao cho về trước. Khi Lý Cố sắp ra đi,
Lư Tuấn Nghĩa dặn với rằng:
- Sự khổ
của ta các ngươi đã biết, ngươi về nhà nói với Nương tử bất tất phải lo, nếu ta
chưa chết thì ta thế nào cũng về được.
Lý Cố
vâng lời mà rằng:
- Các
Đầu Lĩnh có bụng quá yêu như vậy, xin chủ nhân hãy ở chơi vài tháng sẽ về, có
điều chi mà ngại?
Nói đoạn
từ tạ ra đi, Ngô Dụng liền đứng dậy để đưa chân Lý Cố xuống núi. Ngô Dụng cưỡi
ngựa đi đến đợi ở bến Kim Sa trước. Được một lát, Lý Cố cùng các người nhà và
xe cộ đi đến nơi, Ngô Dụng liền sai năm trăm tiểu lâu la, ngồi vây lại chung
quanh, rồi gọi Lý Cố đến trước mặt mà bảo rằng:
- Chủ
nhân nhà anh đẫ bằng lòng bàn với chúng ta, nhập đảng, ngồi vào hàng ghế thứ
nhì rồi. Trước khi chưa đến đây, đẫ viết bốn câu thơ ở vách, tỏ ý rõ ràng ra
đó, anh đẫ biết chưa.
Lư hoa
phơ phất chiếc thuyền bơi,
tuấn
kiệt vui chơi buổi tối trời,
Nghĩa sĩ
tay cầm ba thước kiếm,
Phản rồi
chém lũ nghich thần chơi.
Trong
bốn câu đó, mỗi câu lấy một chữ đầu hợp thành bốn chữ"Lư Tuấn Nghĩa
phản"anh đã biết chưa? Ngày nay chủ nhân anh đi đến đây, đáng lẽ thì đem
các anh giết đi ngay, nhưng thế thì ác quá, vậy ta tha cho các anh về, anh phải
nói rõ cho mọi người biết chủ nhân không về nữa nhé.
Lý Cố
vâng lời, rồi lạy lấy lạy để không thôi, Ngô Dụng liền cho chở thuyền đưa Lý Cố
đi, rồi lại trở về sơn trại uống rượu đến chiều mới tan. Sáng hôm sau trong sơn
trại lại làm tiệc vui mừng, rất là chững chạc.
Lư Tuấn
Nghĩa nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Các
ngài có lòng thương không nỡ giết, tôi cũng cảm ơn, song thà các ngài giết
ngay, còn hơn bắt giữ ở đây, thực là một ngày đăng đẳng, coi bằng ba thu... .
Vậy xin các ngài cho tôi cáo từ hôm nay, không thể lưu lại được nữa.
Tống
Giang nói:
- Không
mấy khi Viên Ngoại đến chơi, vậy ngày mai tôi xin mời riêng ngài một tiệc, để
trò chuyện cùng nhau cho thỏa lòng khát vọng, xin ngài chớ từ chối.
Lư Tuấn
Nghĩa không thể từ chối được, lại phải lưu lại cho đến ngày mai. Hết ngày mai
lại đến Ngô Dụng thiết tiệc một ngày, rồi đến Công Tôn Thắng một ngày, rồi các
Đầu Lĩnh cố nài thiết tiệc một ngày, tất cả hơn một tháng trời mà không hết
lượt.
Một hôm
Lư Tuấn Nghĩa lấy làm sốt ruột quá chừng, liền nói với Tống Giang để xin về,
Tống Giang đáp rằng:
- Chúng
tôi còn muốn lưu Viên Ngoại ở chơi ít lâu, song ngài đẫ nhất định đòi về như
thế, vậy ngày mai tôi xin mấy chén tiễn hành, riêng về phần tôi, xin ngài chiếu
cố đến cho.
Lư Tuấn
Nghĩa ở đến ngày mai, nhận bữa tiễn hạnh của Tống Giang, rồi các Đầu Lĩnh lại
vật nài với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Ca Ca
chúng tôi kính trọng Viên Ngoại mười phần, thì tôi đây cũng phải kính trọng
Viên Ngoại đến mười hai phần. Nay Ca Ca tôi đã được nâng chén rượu tiễn hành
vậy còn chúng tôi không lẽ ngài lại còn bỉ thử mà không nhận cho, như thế thực
là phiền lòng cho anh em chúng tôi quá đổi!
Bấy giờ
Lý Quỳ kêu to lên rằng:
- Tôi bị
khổ sở biết bao nhiêu, vào đến Bắc Kinh, mời được ông ta ra đây, nay ông không
cho chúng tôi, mời bữa tiệc tiễn hành là nghĩa lý gì? Nếu vậy tôi với ông quyết
đấu một phen xem sao?
Ngô Dụng
nghe nói cả cười mà rằng:
- Từ cổ
đến giờ chưa thấy ai mời khách như thế bao giờ? Tôi xin Viên Ngoại xét đến lòng
thành của họ, mà ở lại ít bữa nữa, rồi mới có thể thỏa thiếp cả được.
Lư Tuấn
Nghĩa bất đắc dĩ phải lưu lại bốn năm hôm nữa rồi mới từ tạ ra đi. Bỗng đâu lại
thấy Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ dẩn một tốp Đầu Lĩnh đến mà nói rằng:
- Chúng
tôi đây, tuy thị là hàng đàn em, song đối với Ca Ca cũng có đôi phần đóng góp,
vậy không lẽ rằng chúng tôi lại không được tiễn chân Viên Ngoại hay sao? Viên
Ngoại không có lòng chiếu cố, tôi đây cũng không dám phàn nàn gì, song chỉ sợ
lũ anh em họ lôi thôi xin sự, thực là khó chịu.
Ngô Dụng
đứng lên đáp rằng:
- Anh em
bất tất phải nóng nảy như vậy, để tôi mời Viên Ngoại hãy chiếu cố ở lại mấy hôm
nữa là được rồi...
Lư Tuấn
Nghĩa thấy vậy, không thể từ chối được, lại đành phải ngồi lưu lại ít bữa
nữa...Đoạn rồi các Đầu Lĩnh chia nhau tiễn tặng loanh quanh làm cho Lư Viên
Ngoại phải trì trệ lần nữa chưa sao mà dứt đi được.
Khi Lư
Tuấn Nghĩa bước chân ra đi, chính đương vào dạo tháng năm, tới nay đã thấm
thoát đã hai tháng trời, cảnh sắc giang sơn bỗng chốc đã nhuộm màu thu sắc, Lư
Tuấn Nghĩa lấy làm sốt ruột không sao chịu được, liền nói với Tống Giang để
khẩn khỏan xin về. Tyu cũng làm ra dáng chiều lòng Viên Ngoại mà nhận lời ngay.
Sáng hôm
sau Tống Giang sai lấy quần áo cũ, cùng dao gậy của Lư Tuấn Nghĩa đưa ra trả
lại, rồi Tống Giang đem một mâm kim ngân, để tặng Lư Tuấn Nghĩa.
Lư Tuấn
Nghĩa cười mà nói rằng:
- Tiền
của này trong sơn trại làm gì mà có, lẽ đâu tôi lại nhận như thế? Song ngày nay
không nhận, thì cũng không lấy đâu làm lệ phí, vậy chỉ xin nhận đủ tiền về tới
Bắc Kinh. Hôm đó về gần đến thành, thì đã vừa tối, chàng liền nghỉ trọ ở ngoài
hàng, để sáng hôm sau sẽ vào trong thành. Sáng hôm sau chàng trở dậy đi thẳng
vào thành, khi đến một nơi ước chừng còn cách hơn một dặm đường nữa, thì vào
tới trong thành, bỗng đâu thấy một người đầu tóc bơ phờ, áo khăn rách rưới,
chạy đến trước mặt rồi lạy phục xuống đất rồi khóc lên rưng rức.
Lư Tuấn
Nghĩa ngạc nhiên nom đến, thì chính là Lãng Tử Yến Thanh, liền hỏi luôn rằng:
- Tiểu
Ất! Cớ sao ngươi đến nổi thế?
Yến
Thanh gạt nước mắt mà rằng:
- Đây
không phải là chỗ nói chuyện, xin Chủ Nhân đến chỗ khác.
Lư Tuấn
Nghĩa liền theo Yến Thanh đến một chỗ vắng người để hỏi thăm duyên cớ.
Yến
Thanh nói rằng:
- Sau
khi Chủ Nhân đi độ nữa tháng, bỗng một hôm thấy Lý Cố trở về nói với Nương Tử
rằng: Chu Nhân đẫ quy thuận với Tống Giang ở Lương Sơn Bạc, mà đứng vào hàng
Đầu Lĩnh thứ hai và lưu lại ở đó. Đoạn rồi hắn báo với Quan Tư, mà thông lưng
với Nương Tử, chiếm hết cả nhà cữa tư cơ mà đuổi tôi ra ngoài thành mà kiếm ăn
quanh quẩn, để đói, chủ nhân về xem sao? Tôi chắc chắn Chủ Nhân không bao giờ
chịu làm nghề lạc thảo, song nếu có quả thế thực, thì xin nghe lời tôi mà trở
về ngay đất Lương Sơn, kẻo vào thành bây giờ, thì không bao giờ mà tránh cho
khỏi nạn.
Lư Tuấn
Nghĩa nghe nói quát lên rằng:
- Vợ ta
không phải người như thế, ngươi đừng có nói liều với ta...
Yến
Thanh nói rằng:
- Chủ
Nhân không có mắt ở đằng gáy, làm chi biết được chuyện sau lưng, bình nhật Chủ
Nhân chỉ chuyện chú vào mặt võ nghệ, không đoái đến những việc nhỏ nhen, nhân
thế mà Lý Cố tư thông với Nương Tử cũng không hay biết đến. Ngày nay hai người
đó đã mưu mô với nhau, nhận làm vợ chồng. Vậy nếu Chủ Nhân về đó thì quyết bị
họ hại chứ không sai.
Lư Tuấn
Nghĩa quát lên mắng Yến Thanh rằng:
- Nhà ta
ở đất Bắc Kinh năm sáu đời nay ai mà không biết tiếng thằng Lý Cố nó có mấy đầu
mà nó dám làm như thế? Chẳng hay chính ngươi làm càn rồi ngươi lại nói liều nói
lĩnh với ta? Để ta về xem sao, rồi sẽ liệu cho ngươi một thể.
Yến
Thanh nhất định không nghe, ôm lấy áo Viên Ngoại mà khóc lên như mưa như gió,
Lư Tuấn Nghĩa giuơ chân đạp Yến Thanh ngã lăn xuống đất rồi một mình xồng xộc
mà đi thảng về nhà...
Khi về
tới nhà, thấy đám chủ quản cùng người nhà, anh nào anh nấy đều có vẽ kinh sợ
bàng hoàng. Đoạn rồi Lý Cố đón Viên Ngoại vào trong nhà, cúi đầu lạy ngay lập
tức.
Lư Tuấn
Nghĩa hỏi rằng:
- Yến
Thanh ở đâu? Lý Cố nói rằng:
- Xin
Chủ Nhân thông thả rồi hãy nói chuyện. Công việc còn nhiều lắm. Chủ nhân đi xa về
khó nhọc, hãy xin đi nghĩ một lát đã.
Vừa nói
xong thì thấy Cổ Thị ở đằng sau bình phong, vừa khóc lóc vừa đi ra. Lư Tuấn
Nghĩa lại hỏi luôn rằng:
- Nương
Tử đây rồi. Yến Thanh đâu? Nói cho tôi biết...
Cổ Thị
Gạt nước mắt mà nói rằng:
- Xin
trượng phu đừng hỏi vội, nói ra dài dòng lắm, hãy xin nghĩ ngơi đã.
Bấy giờ
Tuấn Nghĩa trong bụng lấy là nghi hoặc khó chịu, bèn cố hỏi chuyện Yến Thanh
cho kỳ được.
Lý Cố
nói rằng:
- Chủ
Nhân hãy thay quần áo, vào lễ Từ Đường xơi nước hẳn hoi rồi sẽ nói, đi đâu mà
vội.
Nói đoạn
liền sai dọn cơn cho Lư Tuấn Nghĩa ăn. Lư Tuấn Nghĩa ngồi vào mâm cơm vừa toan
cất bát đũa lên ăn, thì bỗng thấy cữa trước cữa sau ầm ầm cả lên, rồi thấy hai
ba trăm người lính phủ xông đến nơi. Lư Tuấn Nghĩa cả kinh, ngồi ngây hẳn người
ra, rồi đám lính bắt trói mà vừa đến vừa dong về trong phủ Trung Thư.
Bấy giờ
Lưu Trung Thư đương ngồi ngay giữa Công Đường, hai bên tả hữu có đến bảy tám
mươi tên lính đứng dàn hàng, đoạn rồi chúng giải Lư Tuấn Nghĩa vào quỳ ở một
bên, Lý Cố cùng Cổ Thị quỳ ở một bên.
Quan Lưu
Trung Thư ngồi trên quát hỏi rằng:
- Tên
kia ngươi vốn là lương dân ở đấùt Bắc Kinh, cớ sao lại dám nhập bọn với đám
Lương Sơn Bạc, đứng vào hàng Đầu Lĩnh thứ hai, nay ngươi còn toan về đây định
kết liên trong ngoài, định đến phá Bắc Kinh là nghĩa làm sao? Phải mau mau mà
thành thực ra đây...
Lư Tuấn
Nghĩa nói rằng:
- Việc
đó nguyên vì chúng tôi khờ dại, bị tên Ngô Dụng ở Lương Sơn đem thuật tướng số
lừa dối, sau lại bắt giam ở trên núi hơn hai tháng trời, nay mới thoát thân về
đây, chứ thục không có lòng gì phản bội, xin ngài xét cho.
Lưu
Trung Thư quát lên rằng:
- Ngươi
nói lạ! Ngươi ở Lương Sơn mà lại không thông đồng với chúng, thì sao chúng giữ
lâu đến như thế, vã chăng đẫ có vợ cùng tên Lý Cố về cáo thú đây kia, lại còn chối
về lẽ gì nữa?
Lý Cố
quỳ bên kia bảo với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Chủ
nhân đẫ đến đó thì thú thực đi thôi. Trên vách ở nhà đẫ viết bốn câu thơ phản
nghịch, đó là chứng cớ rõ ràng còn chối làm chi cho phiền?
Cổ Thị
cũng nói rằng:
- Việc
đó không phải chúng tôi muốn làm hại gì, song nếu không thú ra, thì liên luỵ
đến cả chúng tôi thêm khổ? Người ta thường nói: "Một người loạn chín họ bị
oan!"
Lư Tuấn
Nghĩa nghe đến đó kêu lên rằng:
- Thực
là oan uổng cho ta quá.
Lý Cố
lại đế luôn rằng:
- Chủ
Nhân phải bất tất phải kêu ca làm gì, việc đã rõ ràng như thế, chi bằng thú
phắc đi cho khỏi khổ.
Cổ Thị
lại nói rằng:
- Việc
dối không ai đến chỗ cửa quan, mà việc thực mà chối làm sao được ...Đã đành
rằng một người làm việc, thì chết cũng cam tâm, nhưng còn liên luỵ đến chúng
tôi thì sao? Vậy bất nhược thú ngay cho khỏi đòn vọt đến thân.
Bấy giờ
Trương Khổng Mục bẩm với Lưu Trung Thư rằng:
- Tên
này nó răn đầu rắn mặt xưa nay, nếu không khảo tấn thì sao nó chịu nói?
Lưu
Trung Thư truyền lệnh cho tra tấn, tả hữu vâng lời, trói Lư Tuấn Nghĩa ra nằm
vật ở đất, rồi đến luôn một trận, bắn vọt máu tươi, chết ngất đi mấy lần mới
tỉnh.
Lư Tuấn
Nghĩa không sao chịu nổi đòn tấn, liền thở dài than rằng:
- Quả
nhiên cung mệnh ta phải chết oan như thế này... thà bất nược nhận liều cho xong
chuyện.
Trương
Khổng mục nghe nói, liền biên hết khẩu cung, rồi sai đóng gông từ tù nặng trăm
cân, cho giam xuống ngục. Những người ngoài phủ nom thấy vậy, ai cũng thương
tâm không nỡ xem.
Điều đâu
bay buộc ai làm?
Anh hào
hết đất phỏng cam chăng trời?
Biết
thân đã mắc cạm đời,
Thà rằng
vũng nước theo người cho xong?
Bấy giờ
trong ngục có một người Tiết Cấp coi ngục, tên là Xái Phúc, quê ở Bắc Kinh biệt
hiệu là Thiết Tý Phụ ngồi ở giữa sập, và một người em ruột tên là Nhất Chi Hoa
Xái Khánh cầm gậy đứng hầu một bên.
Khi
chúng dong Lư Tuấn Nghĩa đến nơi, Xái Phúc bảo Xái Khánh rằng:
- Ngươi
đem thằng tử tù ấy giam kỹ vào trong kia, ta đi về nhà một lát, rồi lại đến
ngay đây.
Xái
Khánh vâng lời, đến Lư Tuấn Nghĩa giam vào ngục, rồi Xái Phúc cầm gậy ra đi lối
cữa ngục. Chợt đâu thấy một người quần áo rách rưới, tay bưng một thúng cơm,
hai hàng nước mắt sướt mướt đầm đìa mà đi vào. Xái phúc trông biết người đó là
Lãng Tử Yến Thanh, liền hỏi rằng:
- Yến
Thanh lạm gì thế, đi đâu như vậy?
Yến
Thanh quỳ xuống nước mắt dòng dòng, nói với Xái Phúc rằng:
- Xin
Thiết Cấp Ca Ca thương hại Chủ Nhân tôi là Lư Viên Ngoại, nay chẳng mai bị giam
vào trong lao, không có ai đưa tiền cơm nước, vậy tôi kêu xin được thúng cơm
đây, để đem vào cho chủ tôi ăn tạm, xin ông rộng phép cứu cho...
Nói đến
đó thì khóc nấc lên, rồi nằm phục xuống đất. Xái Phúc đáp rằng:
- Được,
việc đó tôi biết cả rồi, anh cứ đem cơm vào cho ông ta, không hề chi.
Yến
Thanh lạy tạ, rồi đem cơm vào lao cho Viên Ngoại.
Đằng kia
Xái Phúc đi khỏi chổ cầu, thì bỗng thấy một người đến vái chào mà nói rằng:
- Thưa
Tiết Cấp có một người khách, ngồi đợi ở gác hàng tôi, định mời Tiết Cấp đến để
nói chuyện, xin ngài đến ngay cho.
Nói đoạn
liền mời Xái Phúc đi ngay, Xái Phúc đến nơi thấy Lý Cố ngồi đợi ở đó, đôi bên
chào hỏi mời ngồi, rồi Xái Phúc hỏi Lý Cố rằng:
- Chẳng
hay chủ quản có việc gì bảo tôi?
Lý Cố
thì thầm mà nói rằng:
- Chẳng
dám dấu gì Tiết Cấp, việc đó không thể để lâu được nữa, lỡ ra thì khốn, đêm nay
thế nào Tiết Cấp cũng kết quả đi cho...tôi có năm mươi lạng vàng đây, xin đưa
để ngài chi dùng...còn các quan lại bên trên, tôi khắc xin chu biện tất cả.
Xái Phúc
cười rằng:
- Chủ
quản không coi miếng đá trên chính sảnh khắc tám chữ "Dân đỏ dễ lừa, trời
xanh khó dối"ó sao? Việc này thực là nhẫn tâm quá đỗi, ông tưởng tôi không
biết chăng? Ông chiếm hết gia tư của người ta, lấy cả vợ con người ta, nay lại
đưa tôi năm mươi lạng vàng, mà xui giết chết người ta, vậy nếu ngày sau Quan Tư
xét ra, thì tôi chịu sao nổi tội?
- Nếu
ngài chê ít, thì tôi xin đưa thêm năm mươi lạng nữa.
- Lý Chủ
Quản ôi! Ông đừng rút vặt nữa. Một ông Lư Viên Ngoại có tiếng ở Bắc Kinh như
thế, mà chỉ đáng giá một trăm lạng bạc chăng? Tôi xin nói thực, nếu ông muốn
cho chóng được việc, thì cứ năm trăm lạng bỏ ra đây.
- Vâng
vâng tôi xin sẵn đủ cả đây, nhưng đêm hôm thế nào ngài cũng giúp cho là được
rồi.
Nói đoạn
vội vàng đưa tiền cho Xái Phúc, Xái Phúc đứng dậy nhận lấy tiền mà nói rằng:
- Sáng
sớm mai cứ đến mà khiêng xác hắn về...
Lý Cố
hớn hở vui mừng, tạ ơn Xái Phúc, rồi hai người cùng chia ngả ra về.
Bấy lâu
áo chủ cơm thầy,
Đền ơn
dễ có phen này đấy chăng?
Sông
tham ghê cũng lạ chừng,
Nỗi đời
này biết than rằng với ai?
Khi Xái
phúc vừa về đến nhà, lại bỗng thấy một người vén rèm bước vào, cất tiếng chào
rằng:
- Xái
Tiết Cấp, xin chào ngài. Xái Phúc vội quay lại nom, thấy người ấy ra dáng khôi
ngô hùng tráng, ăn mặc chỉnh tề, mình mặc áo thanh viên cánh nhạn, lưng thắp
giải ngọc não mỡ dê, đầu đội mũ ngài, chân đi giày đỏ, vừa đi vừa vái chào Xái
Phúc.
Xái Phúc
ngạc nhiên đáp lễ lại rồi hỏi rằng:
- Quan
nhân ở đâu đến đây, có việc gì cho chúng tôi được biết?
Người
kia nói:
- Xin
ngài cho vào nhà trong sẽ nói chuyện.
Xái Phúc
liền dẫn vào một gian gác kín, rồi mời ngồi ở đó đ hỏi chuyện.
Người
kia nói với Xái Phúc rằng:
- Tôi
đây họ Sài tên Tiến, tiểu tự là Tiểu Toàn Phong, người ở quận Hoành Hải, phủ
Thương Châu, dòng dõi vua Đại Chu khi trước, nhân xưa nay tôi vẫn có lòng sơ
tài trọng nghĩa, kết giao hảo hán bốn phương, bất đồ bị lỡ phạm tội, phải lưu
lạc lên Lương Sơn Bạc, mà nhập bọn ở đó. Nay vâng tướng lệnh Tống Công Minh
xuống đây để dò tin tức Lư Viên Ngoại, ngờ đâu Viên Ngoại bị đám tham quan
nhũng lại, tớ phản vợ dâm, đồng ý với nhau để giam vào tử tội, hiện nay tính
mạng chỉ còn trông ở tay ngài, bởi vậy, tôi không dám quản công khó nhọc liều
mình đi đến tận đây nói rõ đầu đuôi cho ngài biết ...Nếu ngài chịu lưu tâm cẩn
thận, giữ gìn tính mạng cho Lư Viên Ngoại, thì chúng tôi sẽ hết lòng tử tế,
không bao giờ dám quên ơn, bằng sinh sự thế nào, thì nay mai binh mã tới nơi,
phá hết thành trì, giết sạch quan dân, dẫu Thiên Tử đến đây cũng khó lòng cứu
được. Tôi vẫn nghe tiếng ngài là trung nghĩa hảo hán xưa nay, nên mới nói rõ
cho ngài biết, và gọi là có nghìn lạng vàng đưa để ngài tiêu, xin ngài chấp
nhận lấy cho. Hay là ngài có muốn bắt Sài Tiến thì cứ bắt ngay bây giờ, tôi
không phàn nàn chi cả.
Xái Phúc
nghe nói toát mồ hôi, ngây người một lúc, không sao trả lời được. Sài Tiến nói
rằng:
- Anh
hùng xử sự không nên rùi rắng trù trừ, thế nào xin quyết ngay cho.
Xái Phúc
nói:
- Xin
hảo hán cứ về tôi khắc xin chu tất.
Sài Tiến
tạ ơn mà rằng:
- Ngài
đã nghe lời, sau này xin đền ơn lớn.
Nói đoạn
quay ra gọi người theo hầu là Đới Tung đưa vàng cho Xái Phúc rồi vái chào rồi
ra đi.
Xái Phúc
thấy hai người đi rồi, trong bụng trù trừ khó nghĩ, vẫn vơ hồi lâu rồi mới đi
vào trong ngục, đem các chuyện đó thuật cho Xái Khánh nghe.
Xái
Khánh nói với anh rằng:
- Anh
vẫn là người quyết đoán xưa nay, một việc con con này có làm chi mà khó? Người
ta thường nói:"giết người phải thấy máu, cứu người phải đến nơi". Vậy
ngày nay đã có một nghìn lạng vàng ở đây ta cứ nên kê lót hết tất cả mọi nơi,
từ Lưu Trung Thư đến Trương Khổng Mục toàn thị những giống tham lam, làm cho họ
chẳng nhận? Khi nhận được tiền rồi tất nhiên họ phải kết án liều lĩnh đem bắt
đi đày, rồi đó cứu được hay không, thì đã có bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc, ta
biết đâu được đến đấy nữa.
Xái phúc
nói:
- Em nói
chính hợp ý ta... Vậy em đem Lư Viên Ngoại để vào một chỗ tử tế, cơm nước cho
ông ta cẩn thận, và bảo qua cho ông ta biết trước.
Hai anh
em bàn định xong, liền đem tiền đi để nói lót các nơi cho cẩn thận. Ngày hôm
sau Lý Cố đợi mãi không thấy Xái Phúc kết quả Lư Viên Ngoại, liền vội vàng chạy
đến để hỏi.
Xái Phúc
đáp rằng:
- Chúng
tôi đương định hạ thủ, thì thấy Lương Trung Thư cho người xuống bắt phải gìn
giữ cẩn thận lấy tính mệnh họ Lưu Trung Thư, mà không cho làm bậy...Vậy việc đó
ông cứ lo ở quan trên cho xong, rồi tôi chắc hạ thủ ngay có khó gì?
Lý Cố
lại quay về cậy người đem tiền đền nói với Lương Trung Thư.
Lương
trung thư đáp rằng:
- Đó là
công việc của lao Tiết Cấp, không lẽ ta thân hành đến đấy mà hạ thủ? Hãy để dăm
ba hôm nữa thì nó cũng chết, chứ sống thế nào được mà vội? Bấy giờ Trương Khổng
Mục đã nhận được tiền của Xái Phúc, rồi đem văn án rút bớt tội xuống, rồi Xái
Phúc lại thúc giục để kết đoán mà mau cho xong công việc. Trương khổng Mục đem
văn án lên trình Lương Trung Thư.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 62: Tống Giang đến đánh Đại Danh thành
Quan Thắng bàn pháLương Sơn Bạc
Bấy giờ
Thạch Tú cùng Lư Tuấn Nghĩa còn đương quanh quẩn trong thành, tìm lối để tháo,
bất đồ bị quân mã bốn mặt đổ lại, thả giây móc mà bắt cả đôi người, rồi trói
chặt giải vào trong phủ.
Khi vào
tới nơi, Lương Trung Thư sai đem tên cướp pháp trường, lên trước công trường để
hỏi. Thạch Tú lên đến nơi, trợn trừng mắt ầm lên rằng:
- Bớ
quân đi làm đầy tớ, những tên đầy tớ kia, Ca Ca ta nay mai đem binh đến đánh
phá thành Đại Danh, chém thây ngươi ra làm mấy đoạn, ngày nay sai lão gia đến đây,
để báo trước cho mày đó...
Chàng
vừa nhiếc vừa mắng luôn mồm không thôi, bao nhiêu người đứng đó, đều ngây hẳn
người ra.
Lương
Trung Thư thấy vậy, trong bụng băn khoăn nghĩ ngợi hồi lâu, rồi sai lấy gông ra
gông hai người lại, đem giam vào ngục tử tù, mà dặn Xái Phúc phải trông coi cho
cẩn thận.
Xái Phúc
nguyên có ý muốn làm quen với bọn hảo hán Lương Sơn Bạc, liền cho Lư Tuấn Nghĩa
cùng Thạch Tú vào một nhà lao sạch sẽ, và thiết cơm rượu rất là chu đáo, không
hề có một điều chi khinh bỉ.
Bấy giờ
Lương Trung Thư sai quan Vương Thái Thú ở bản châu đi kiểm điểm số người bị
thương, thấy có bảy tám mươi người bị chết, còn thì gãy chân gãy tay vỡ đầu vỡ
mặt, không biết tới đâu mà kể, ương Trung Thư liền cho lấy tiền kho ra để cứu
chữa người đau và chôn hoá những người bị chết.
Ngày hôm
sau bỗng thấy có người nhặt được mấy mươi tờ yết thị của bọn Lương Sơn Bạc, đem
trình với Lương Trung Thư. Trung Thư cất lấy xem, thấy trong tờ yết thị rằng:
-
"Nghĩa sĩ ở Lương Sơn Bạc là Tống Giang có lời nói cho các quan ở trong
thành Đại Danh biết Lư tuấn Nghĩa là một bậc hào kiệt nhất đời, ta muốn đón lên
trên núi để cùng thay Trời làm Đạo, sinh phúc cho dân, thế mà các ngươi dám
nghe kẻ gian tà lại hại người lương thiện, rồi sao bắt cả người đưa tin của ta
là Thạch Tú vào ngục,là nghĩa làm sao? Nếu các ngươi biết điều mà giữ toàn tính
mệnh cho hai người, mà bắt đứa gian phu dâm phụ đem ra nộp, thì ta đây cũng
không sinh sự làm chi; Bằng cố tình làm hại hai người, thì nay mai nhổ trại đem
quân đại binh đến đâu, đá vàng tan nát, trừ hết gian tham, giết tàn ngu bỉ,
trời đất chứng minh, qủy thần phò hộ, vui mừng mà đến, khua múa mà đi; Bao
nhiêu con hiếu cháu lành, quan liêm lại tốt, cùng hết thẩy con dân, cứ yên phận
làm ăn, không có việc chi kinh khủng. Các ngươi nên biết ý ta..."
Lương
Trung Thư xem đến đó, liền gọi Thái Thú họ Vương đến để bàn định xem sao.
Vương
Thái Thú vốn người rút rát, lại nghe những lời nói trong tờ yết thị, thì trong
lòng lấy làm lo sợ, bèn đến nói với Lương Trung Thư rằng:
- Bọn
Lương Sơn Bạc xưa nay triều đình muốn khu trừ không được, huống chi là một quận
ta đây thì thấm vào đâu. Ngộ lỡ ra nay mai bọn ấy đem quân đến đánh, mà ta đây
không có binh viện, thì hối sao cho kịp? Vậy cứ như ý tôi, thiết tưởng ta nên
lưu tính mạng hai người đó, nhất diện biểu tấu triều đình, nhất diện viết giấy
báo cho Xái Thái Sư biết, và đem quân mã của bản châu ra ngoài thành hạ trại để
phòng bị, thì may ra mới có thể chu toàn cho phủ Đại Danh, mà dân gian mới yên
phận mà làm ăn được. Bằng nay giết hai tên đó đi, thì khi quân giặc đến nơi,
một là không có binh cứu viện, hai là triều đình đem bụng nghi ngờ, mà ba là
dân sự rối loạn thì thành Đại Danh tất là nguy hiểm đến nơi.
Lương
Trung Thư nghe nói khen rằng:
- Quan
phủ nói thế rất phải, ta cũng phải làm thế mới xong.
Nói rồi
liền gọi Tiết Cấp và Xái Phúc lên mà dặn rằng:
- Hai
tên giặc đó không phải là tội tầm thường, ngươi phải trông nom cho cẩn thận,
không được hại đến người ta, mà cũng chớ cho nó trốn được. Việc đó tất phải vừa
khoan vừa nhặt, mà coi giữ luôn luôn, để sau nầy sẽ liệu.
Xái Phúc
nghe nói đúng với tâm lý của mình đang thích liền vâng lời trở xuống nhà lao,
mà theo lệnh để thi hành.
Lương
Trung Thư gọi hai người binh mã Đô Giám, là Đại Đao, Văn Đạt, và Thiên Vương Lý
Thành lên công đường, thuật chuyện tờ yết thị, cùng lời nói của Vương Thái Thú
cho hai người nghe.
Lý Thành
nói với Lương Trung Thư rằng:
- Đám
giặc cỏ ấy bao giờ dám rời sào huyệt ra, mà tướng công phải sợ? Chúng tôi dẫu
tài hèn sức kém, song xưa nay chịu lộc đã nhiều, chưa có chút công đền báo, vậy
tôi xin hết lòng thần tử mà đem quân ra đóng ngoài thành; nay mai quân giặc
không đến thì thôi, bằng quân giặc có vô phúc mà rời sào huyệt dắt díu đến đây,
thì chúng tôi không phải nói khoác, song cũng trừ cho kỳ tiệt, không còn mống nào
trở về được nữa...
Lương
Trung Thư nghe nói cả mừng, sai lấy mấy tấm đoạn hoa vàng ra thưởng cho hai
tướng. Hai tướng tạ ơn lui ra đến sáng hôm sau Lý Thành cho gọi các quân sĩ đến
bàn việc chống cự giặc Lương Sơn.
Bấy giờ
có một người uy phong lẫm lẫm, tướng mạo đường đường, tên là Cấp Tiên Phong
Sách Siêu, chạy ra trước trướng. Lý Thành truyền lệnh rằng:
- Đám
giặc cỏ Tống Giang nay mai sắp tới thành ta đây, vậy ngươi phải đem quân bản bộ
ra khỏi ba mươi dặm ngoài thành mà đóng trại, rồi ta sẽ đem đại quân đến sau.
Sách
Siêu vâng lệnh lui ra. Ngày sau đem quân bản bộ tới núi Phi Hổ Dực, cách thành
ba mươi lăm dặm mà hạ trại ngay cạnh núi. Hôm sau nữa Lý Thành dẫn các tướng ra
đất Hoè Thụ, cách thành chừng hai mươi nhăm dặm để hạ trạïi, bốn bên giấu sẵn
đao thương, và chứa ngầm lộc giốc, ba mặt đào hầm khoét hố, quân sĩ cùng các
tướng, đều là hiệp lực đồng tâm, nghiến răng nghiến lợi, chỉ đợi Lương Sơn đến,
là ra sức tranh công.
Nói về
bọn Lương Sơn Bạc, khi tiếp được Yến Thanh cùng Dương Hùng về báo, Ngô Dụng
liền sai Đới Tung lập tức đi theo để dò xem tin tức Thạch Tú cùng Lư Viên
Ngoại. Sau khi Đới Tung biết tin hai người bị bắt liền lập kế viết ra các giấy
yết thị dán khắp mọi nơi, để Quan Tư khỏi hại tính mạng hai người, rồi lập tức
về báo cho sơn trại biết.
Tống
Giang nghe nói cả kinh, liền mời các Đầu Lĩnh ra bàn việc, và nói với Ngô Dụng
rằng:
- Nguyên
trước Quân Sư lập kế chỉ định cho Lư Tuấn Nghĩa lên đây, ai ngờ Lư Tuấn Nghĩa
phải chịu khổ nhục, mà Thạch Tú cũng bị bắt vì đó, vậy ngày nay có kế gì mà cứu
ra cho thoát được?
- Ngô
Dụng nói:
- Việc
ấy xin Huynh trưởng cứ vững tâm, tôi đây tuy không bằng ai thực, song cũng khả
dĩ nhân cơ hội nầy mà cướp lương thực ở thành Đại Danh, để cướp cho sơn trại.
Ngày mai là ngày tốt, vậy xin huynh trưởng chia lấy một nửa Đầu Lĩnh coi trại ở
nhà, còn một nửa thì lập tức đem binh đi đánh Đại Danh.
Tống
Giang nghe nói, liền gọi Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên cắt quân để ngày mai ra
đi.
Hắc Toàn
Phong Lý Quỳ nói lên rằng:
- Hai
cái búa của tôi bấy lâu để ế ẩm, phen nầy lại đi đánh thành thì chắc nó mừng
lắm. Vậy xin Ca Ca cho tôi năm trăm tiểu lâu la, đến đó phá hết thành trì, giết
sạch quan dân, cứu Lư Viên Ngoại, và Thạch Tú cho thằng đạo đồng câm nầy được
hả lòng một chút.
Tống
Giang gạt đi rằng:
- Anh
tuy khỏe thực, song ở đấy không phải như mọi chỗ khác. Lương Trung Thư là con
rễ Xái Thái Sư, lại có chủ tướng là Lý Thành, Văn Đạt, đều những tay vạn người
không địch nổi cả.
Lý Quỳ
kêu lên rằng:
- Ca Ca
bữa trước rằng tính tôi hay nói, bắt tôi phải giả làm đứa câm, ngày nay biết
tính tôi hay giết, lại bắt không cho tôi làm Tiên Phong, cứ cái cách dùng người
như thế, thì khổ chết Thiết Ngưu nầy mất.
Ngô Dụng
nói:
- Ừ anh
đã thích đi, thì cho anh làm Tiên Phong... điểm cho năm trăm lâu la, ngày mai
cho đi đầu trận.
Nói rồi
Ngô Dụng cùng Tống GIang cắt đặt các quân mà cho Bùi Tuyên yết thị ra các Trại
để theo hiệu lệnh mà làm.
Bấy giờ
vào khoảng cuối thu sang đông, khi trời lạnh lẽo, bọn chinh phu ăn mặc dễ chịu,
ngựa hãm đã lâu, quân nghĩ đã chán, ai nấy đều hăng hái lấy sự đánh nhau làm
thích. Khi được hiệu lệnh, chúng đều hớn hở vui mừng, sắp sửa gươm giáo cung
tên, chỉnh tề đai nịt xe ngựa, rồi ngày hôm sau cùng kéo xuống núi, Đội thứ
nhất Lý Quỳ kéo năm trăm tiểu lâu la đi trước; Đội thứ nhì Giải Trân, Giải Bảo,
Khổng Minh, Khổng Lượng, dẫn một nghìn lâu la đi sau: Hổ Tam Nương, Mẫu Dạ Xoa,
tôn Nhị Nương, Cố Đại Tẩu mấy nữ tướng dẫn một nghìn lâu la đi đội thứ ba; Lý
Ứng cùng phó tướng Sử Tiến, Tôn Lập, dẫn nghìn lâu la đi đội thứ tư; Trung quân
chủ tướng Tống Giang cùng quân sư Ngô Dụng, và bốn viên Đầu Lĩnh theo hầu, Lã
phương, Quách Thịnh, Tôn Tân, Hoàng Tín. Tiền quân thì có Tần Minh, và phó
tướng là Hàn thao và Bành Dĩ. Hậu quân thì có Lâm Xung cùng phó tướng là Mã
Lân, Đặng Phi; tả quân thì có Hô Duyên Chước, cùng phó tướng là Âu Bằng; Yến
Thuận, Hữu quân thì có Hoa Vinh cùng phó tướng là Trần Đạt, Dương Xuân,và đem
Lăng Chấn đi kèm vào đó. Lại đem Đới Tung cùng đi để đem lương thảo, và dò các
tin tức trong quân.
Sáng hôm
đó các tướng đều theo thứ tự tiến binh đi đánh. Duy còn có phó tướng Quân Sư
Công Tôn Thắng, cùng Lưu Đường, Chu Đồng, Mục Hoằng thống lĩnh quân mã coi giữ
sơn trại ở nhà, và Thủy trại có bọn Lý Tuấn coi giữ.
Khi quân
mã Lương Sơn kéo đến, quân sĩ bèn vào báo với Sách Siêu, Sách Siêu nghe báo,
liền vào Hoè Thụ Phi báo cho lý Thành biết. Lý Thành nhất diện cho người vào
báo trong thành, nhất diện chỉnh đốn quân mã đến trại Sách Siêu để tiếp ứng.
Sách
Siêu đón Lý Thành vào trong trướng bàn việc quân. Đầu trống canh năm ngày hôm
sau, quân sĩ ăn cơm thực sớm, rồi nhổ trại kéo quân đến bãi Rữa Gia dàn thành
trận thế.
Bấy giờ
tất cả vạn rưỡi nhân mã dàn trận chỉnh tề, rồi Lý Thành cùng Sách Siêu nai tịt
cẩn thận, cưỡi ngựa chiến đứng dưới cửa c, để đợi binh mã bên kia. Được một lát
về phía bên đông, bụi bay rợp đất, có một hảo hán đen lớn; vác song phủ đi đầu,
dẫn năm trăm quân kéo đến.
Khi tới
nơi hảo hán múa song phủ quát lên rằng:
- Có
biết tay hảo hán Hắc Toàn Phong gia gia ở Lương Sơn Bạc đây không?
Lý Thành
ngồi trên mình ngựa nom thấy vậy, cười mà bảo với Sách Siêu rằng :
- Xưa
nay cứ nói đến hảo hán ở Lương Sơn Bạc, té ra toàn bộ giặc cỏ như thế cả, làm
gì mà sợ. Tiên Phong thử coi xem, sao không bắt lấy thằng ấy trước đi đã.
Sách
Siêu cười rằng:
- Việc
đó bất tất phải đến tay Tiểu Tướng, chắc hẳn đã có người khác lập công...
Nói chưa
dứt lời thì thấy viên thủ tướng Vương Định múa gươm trường dẫn một trăm quân mã
bộ hạ xông ra để đánh, Vương Định vừa mới kéo ra,đã bị Lý Quỳ sát cho một trận
bỏ chạy hết cả. Sách Siêu thấy vậy vội kéo quân ra để tiếp đánh. Bất đồ vừa
được mấy bước, thì thấy chiên trống vang lừng rồi có hai toán quân mã ở trong
sườn núi kéo ra. Toán bên tả có Giải Trân, Khổng Lượng: Toán bên hữu có Khổng
Minh, Giải Bảo, đều kéo năm trăm lâu la sát đến. Sách Siêu thấy bên kia có quân
tiếp ứng, liền kinh sợ kéo quân về bản trận.
Lý Thành
hỏi:
- Sao
không bắt thằng giặc ấy đi?
Sách
Siêu đáp rằng:
- Tiểu
tướng đuổi qua núi, đương sắp đáng bắt, bất đồ có quân phục kéo ra, không sao
hạ thủ ngay được.
Lý Thành
nói:
- Chà!
Quân giặc cỏ ấy thì sợ gì?
Nói đoạn
toan kéo quân lính tiền bộ tiến lên để đánh.
Chợt đâu
lại trông thấy phía trước có một toán nhân mã vừa kéo đến một Nữ Tướng kéo lá
cờ đỏ chữ vàng, thêu năm chữ " Mỹ Nhân Nhất Trượng Thanh" đi đầu, bên
tả có Cố Đại Tẩu, bên hữ có Tôn Nhị Nương, dẫn một nghìn nhân mã, toàn thị là
bọn năm dài bảy ngắn, ngũ nhạc tam sơn, kéo cả đến đó.
Lý Thành
nom thấy lại cười rằng:
- Quân
mã kia thì làm gì được! Tiên Phong ra đánh mặt trước, để tôi chia binh ra bốn
mặt, bắt quân giặc cỏ cho tuyệt nọc đi.
Sách
Siêu lãnh tướng lệnh, múa kim tiêu, vỗ ngựa xông ra để đánh Nhất trượng Thanh,
Nhất Trượng Thanh bèn quay ngựa vào trong khe núi mà chạy, Lý Thành chia quân
để đánh, Bỗng gặp Lý Ứng cùng Sử Tiến, Tôn Tân dẫn quân mã ầm ầm kéo đến, chàng
bèn kinh sợ, lui quân vào bãi Rữ Gia, Bấy giờ Giải Trân, Khổng Lượng xông vào
bên tả, Khổng Minh Giải Bảo xông vào bên hữu, rồi ba viên nữ tướngcũng quay
ngựa lại để đánh, quân mã Lý Thành đều kinh sợ kéo nhau mà chạy tháo về trại.
Khi về gần tới trại lại gặp Lý Quỳ chạy ngang đường để đánh. Lý Thành, Sách
Siêu, hết sức đánh tháo lấy đường mới được thoát về trong Trại, trở về đến
trại, kiểm điểm nhân mã thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể.
Quân mã
Tống Giang thấy vậy cũng không đuổi theo, liền tạm dừng quân mã hạ trại để
nghỉ. Lý Thành, Sách Siêu bị thua trận đầu, liền cho người báo với Lương Trung
Thư, Trung Thư sai Văn Đạt, lập tức phải đem quân bản hộ, để đánh giúp. Khi Văn
Đạt ra tớn nơi, Lý Thành đón vào trong trại để cùng bàn việc quân.
Văn Đạt
cười bảo Lý Thành rằng:
- Việc
đó cỏn con thế, bỏ gì mà phải nghĩ, để sáng mai đánh cho chúng một trận là
xong.
Hai
người bàn định xong, đầu canh tư hôm sau, truyền quân sĩ trở dậy ăn cơm, rồi
sang canh năm kéo quân ra đánh. Bên kia quân mã Tống Giang cũng ầm ầm kéo đến
như gió thổi nước reo, thế mạnh không biết tới đâu mà kể, Văn Đạt thấy vậy liền
truyền quân mã dàn thành thế trận, và lại truyền cung nỏ ra bắn giữ ven trận.
Bên trận
Tống Giang có một viên Đại Tướng, dẫn l1 cờ đỏ thêu năm chữ " Tích Lịch
Hỏa T6àn Minh ", đi ra trước trận quát to lên rằng:
- Đám
quan tham lại nhũng ở phủ Đại Danh, nghe ta nói: đã lâu nay ta định đem quân
đến đánh thành trì, song còn thương đám lương dân trong thành, nên chưa nỡ
quyết. Nay ngươi đem Lưu Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú và đứa gian phu dâm phụ ra
nộp trả đây thì ta sẽ lui quân lập tức, không hề sâm nhiễu làm chi. Bằng ngu
xuẩn không nghe thì ta cho biết...
Văn Đạt
nghe nói cả giận, hỏi lên rằng:
- Ai bắt
thằng giặc ấy cho ta?
Nói dứt
lời thì Sách Siêu phóng ngựa ra trước cửa trận quát lên rằng
- Thằng
kia nguyên là mệnh quan của nhà nước, triều đình đã phụ chi ngươi, mà ngươi nỡ
bỏ kiếp làm người để đi lạc thảo? Nay ta bắt ngươi, quyết xé ra muôn đoạn mới
thôi.
Tần Minh
nghe câu đó, lại như lửa cháy đổ thêm dầu, đùng đùng nổi giận, múa Lang Nha Côn
xông ra để đánh. Sách Siêu cũng phóng ngựara đánh với Tần Minh. Đôi bên cùng
ngựa hăng người khoẻ, đánh nhau tới hai mươi hiệp không phân được thua. Bên kia
Hàn Thao đứng trong đội tiền quân, dương cung đặt tên bắn một phát trúng phải
cánh tay tả. Sách Siêu bỏ rời đại phủ ra, rồi quay ngựa về bản trận. Tống Giang
cầm roi trỏ vẫy tam quânnhất tề xông ra đánh giết máu chảy thành sông, xương
phơi đầy nội, đuổi đánh khỏi bãi Rữa Gia, cướp cả tiểu trại ở Hoè Thụ Phi, rồi
Văn Đạt chạy về Phi Hổ Dực, kiểm điểm quân mã chia ba thiệt mất một phần.
Chiều
hôm đó Tống Giang đóng quân ở Hoè Thụ Phi, Ngô Dụng bàn mưu rằng:
- Quân
binh thua chạy, trong lòng tất khiếp, nay nếu không thừa thế đánh trận, thì sau
nầy khó phá ngay được.
Tống
Giang khen phải, liền truyền lệnh những quân lính giỏi đắc thắng lập tức đêm
hôm đó phải tiến lên để đánh.
Đêm hôm
đó Văn Đạt đương ngồi lo nghĩ ở trong trướng, chợt thấy lính báo
- Về
phía bên đống có một dẫy lửa kéo đến.
Chàng
thúc quân sĩ lên ngựa,đi ra phía đông để xem, thì thấy lửa sáng rực trời, không
biết bao nhiêu mà kể. Chợt lại thấy về phía bên Tây cũng có một dẫy lửa kéo
đến, chàng quay ngựa về phía Tây để xem. đương khi đó, chợt thấy tiếng kêu dậy
đất, rồi có Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, cùng phó tướng Dương Xuân, Trần Đạt, ở dẫy
lửa về phía bên Đông kéo xông vào.
Văn Đạt
kinh sợ vội kéo quân về Phi Hổ Dực. Chợt lại thấy phía bên Tây có Hô Duyên
Chước dẫn phó tướng là Âu Bằng, Yến Thuận kéo quân xông đến. Hia phía đều hăng
hái ra sức, hò reo vang lừng mà kéo ập vào. Đoạn rồi thấy Tần Minh dẫn phó
tướng là Hàn Thao, Bành Dĩ ở đằng sau ầm ầm kéo đến, người reo ngựa hét, đông
đúc không biềt tới đâu mà lượng được.
Quân mã
Văn Đạt đều rối loạn cả lên, liền nhổ toàn trại mà chạy. Chợt lại thấy phía
trước reo hò ầm ĩ , rồi có một tiếng súng kêu nổ dậy trời, quân sĩ đều hết hồn
mà chạy đi không được. Nguyên đó là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn kéo quân theo lối
đường hẻm,đến bên núi Phi Hổ Dực nổ súng ra hiệu, để cho các mạn quân mã biết
đường mà đánh.
Khi đó
Lâm Xung dẫn phó tướng là Mã lân, Đặng Phi, đón chặng đường đi của Văn Đạt, rồi
bốn bên trống trận nổi lên ầm ầm, đóm đuốc sáng rực cả trời, làm cho quân mã
của Văn Đạt đều tháo chạy rối lên không sao giữ được.
Văn Đạt
múa đại đao hết sức cướp đường để chạy. May gặp có Lý Thành kéo binh đến tiếp,
hai người đều hợp quân làm một, vừa đánh vừa chạy giật lùi, mãi đến khi trời
sáng mới về đến thành. Lương Trung Thư nghe tin quân thua, sợ kinh hết cả hồn
vía, vội điểm binh ra thành tiếp đón đám tàn quân của hai tướng, rồi đóng chặt
cửa thành giữ riết ở trong nhà mà không dám thò ra đánh nữa.
Sáng hôm
sau quân mã Tống Giangkéo đến đóng trại ở chân thành phía bên Đông, rồi sắp sửa
để đánh phá châu thành.
Bấy giờ
Lương Trung Thư họp các quan lại, để bàn kế giải cứu.
Lý Thành
nói rằng:
- Quân
giặc đến thành rất là cần cấp, nay nếu lững thững tất bị hãm mất thành, vậy
tướng công nên sai người về báo cho Kinh Sư với Xái Thái Sư, để ngài tâu với
triều đình, mang binh ra cứu. Còn ở đây thì nhất diện nhờ Quan Phủ Đại Danh sức
cho dân phu, đem đủ các đồ gỗ đá cung tên, để ra sức cùng nhau giữ thành, thì
may ra mới khỏi nguy được.
Lương
Trung Thư nghe nói, liền viết thư sai gia tướng là Vương Định, dẫn mấy tên quân
mã lẻn ra ngoài thành để phi báo vào nơi kinh sư, và cầu cứu các nơi phủ huyện,
còn trong thành thì nói với Vương Thái Thúlập tức bắt dân phu coi giữ rất là
cẩn thận.
Bên kia
Tống giang truyền lệnh các tướng vây thành, hạ trại ba mặt Đông,Tây, Bắc, còn
bỏ trống cửa Nam để ngày ngày cho quân đến đánh phá. Nhất diện lại sai người
đến sơn trại thôi thúc lương thảo. Làm cách lâu dài để vây lấy thành Đại Danh,
cứu lấy hai người cho kỳ được.
Lý
Thành,Văn Đạt ngày nào cũng đem quân ra đánh, không nên công trạng chút gì, còn
Sách Siêu thì bị trúng mũi tên, vẫn không sao khỏi được, tính mạng thành Đại
Danh cơ hồ gần nguy cấp đến nơi.
Nói về
Vương Định dẫn hai tên lính kỵ thẳng vào Đông Kinh tới phủ Thái Sư nói với lính
gác vào báo cho Thái Sư biết. Xái Thái Sư nghe nói truyền cho Vương Định vào
hầu. Vương Định vào tới nhà trong đưa mật thư lên trình Thái Sư. Thái Sư xem
xong cả kinh, hỏi rõ mọi việc, Vương Định liền đem mọi việc Lư Tuấn Nghĩa, và
binh thế của Tống Giang bẩm rõ cho Thái Sư biết.
Thái Sư
bảo với Vương Định rằng:
- Ngươi
đi xa tới đây hãy còn mệt nhọc, hãy ra nghỉ ngoài trạm, để ta họp các quan bàn
định xem sao, rồi sẽ liệu.
Vương
Định bẩm rằng:
- Thành
Đại Danh hiện nay như trứng để đầuđẳng. Nếu lỡ ra bị hãm, thì các phủ huyện ở
Bắc Hà tất nguy, vậy xin ân tướng mau mau cho quân ra tiểu trừ mới được.
Xái Kính
nói:
- Ta
hiểu rồi, ngươi cứ ra đó, khắc ta liệu.
Vương
Định lạy chào lui ra, Thái Sư liền mời các quan văn võ ở Viện Khu Mật lập tức
đến bàn việc quân, khi các quan trong Khu Mật Viện, cùng ba nha Thái Úy, đã tề
tựu cả. Thái Sư bèn thuật chuyện cho nghe, và bàn hỏi xem sách dùng binh sai
tướng như thế nào, để bảo toàn phủ Đại Danh cho được? Các quan nghe nói đều len
lét nhìn nhau, không ai nói được câu gì cả. Chợt đâu thấy một người đứng sau bộ
quan Thái Úy, chạy ra vái chào mà nói rằng:
- Chúng
tôi xin tiến cử một người, ân tướng tha phép chúng tôi xin nói.
Nguyên
người nầy họ Tuyên tên Tán, mặt đen chìu chĩu, mũi ngửa lên trời, tóc quăn râu
đỏ, mình cao tám thước hay khiến cây cương đao, võ nghệ rất giỏi, trước đã làm
chức Quận Mã ở Vương Phủ, người ta thường gọi là Xú Quận Mã (Quận Mã Xấu). Nhân
khi chàng đánmh được Phiên tướng, Quận vương có lòng yêu quý võ nghệ, liền gả
con gái cho làm vợ. Sau quận chúa thấy chàng xấu quá, đến nổi buồn bực mà chết.
Nhân vậy chàng cũng không được trọng dụng, mà hiện nay vẫn giữ chức binh mã Bảo
Nghĩa Sứ ở trong Vương phủ. Hôm đó chàng thấy các quan đều im ỉm, không không
ai nói được câu nào, liền có ý tức giận, mà chạy ra kêu với Thái Sư.
Bấy giờ
Thái Sư nghe nói, liền hỏi Tuyên Tán rằng;
- Tướng
quân định tiến cử ai cứ nói cho ta biết?
- Bẩm
Thái Sư khi chúng tôi còn nhỏ, có một người anh em quen biết ở trong làng, họ
Quan tên Thắng, vốn con cháu Võ An Hầu ở cuối đời nhà Hán khi trước. Anh ta
tướng người vạm vỡ cũng giống với ông tổ là Quan Vân Trường, khiến cây đao
Thanh Long Yển Nguyệt, hiện nay làm Tuần Kiểm ở Bồ Đông, là một chức tầm thường
ở dưới. Người đó lúc nhỏ có đọc Kinh Sử, rất giỏi về võ nghệ, sức khoẻ muôn
người không địch, nay nếu lấy lễ mời lên, bái làm Thượng Tướng, thì đám giặc cỏ
tất là trừ hết, mà nhà nước được yên tĩnh từ đây.
Xái Kính
nghe nói cả mừng, liền sai Tuyên tán làm sứ, đem văn thư yên mã lập tức ra Bồ
Đông để đón Quan Thắng, Tuyên tán vâng lệnh lĩnh văn thư trở ra, rồi đem dăm
người theo hầu cùng đi.
Khi
Tuyên Tán đến nơi, hai bên chào hỏi rồi Quan thắng mời vào trong sảnh mà hỏi
rằng:
- Cố
nhân đã lâu không được gặp, chẳng hay có việc chi mà khó nhọc đến đây?
Tuyên
Tán nói rằng:
- Nay
nhân bọn giặc cỏ vây đánh thành Đại Danh, tôi có đem tài an bang định quốc của
huynh trưởng, để nói với Thái Sư, Thái Sư liền sai tôi vâng sắc chỉ của triều
đình, đem tiền lụa yên nhung đến đây để đón huynh trưởng, vậy xin huynh trưởng
chớ nên từ chối mà đi ngay cho...
Quan
Thắng nghe nói cả mừng, nói với Tuyên Tán rằng:
- Người
anh em tôi đây họ Hắc tên Tư Văn, là anh em kết nghĩa với tôi, khi trước mẫu
than ông ta nằm mơ thấy ông Tỉnh Mộc Can. Ông nầy giỏi đủ mười tám môn võ nghệ,
mà tới nay vẫn còn chìm đắm ở đây, thực là đáng tiếc! Nay nếu cùng đi mà ra sức
cứu giúp nước nhà,thì làm chi mà không được?
Tuyên
Tán lấy làm vui mừng, liền giục hai người mau mau ra đi. Quan Thắng bèn dặn dò
nhà cửa, rồi cùng với Hắc Tư Văn, dẫn mười mấy người ở Quan Tây theo Tuyên Tán
lập tức đi vào Đông Kinh.
Khi vào
tới Đông Kinh tới phủ Thái Sư, có lính canh cửa đưa vào hầu Thái Sư, Xái Thái
Sư trông thấy Quan Thắng, mình cao hơn tám thước, râu nhỏ ba hàng, mày ngài mắt
phượng, mặt dài môi đỏ, rõ ra một vẽ đường đường, thì trong bụng cả mừng liền
hỏi ngay rằng:
- Tướng
quân năm nay bao nhiêu tuổi?
Quan
Thắng bẩm
- Chúng
tôi năm nay ba mươi hai.
- Hiện
nay giặc Lương Sơn vây đánh thành Đại Danh, tướng quân có cách gì khả dĩ giải
vây đi được?
- Xưa
nay chúng tôi vẫn nghe đám giặc cỏ ấy, lẫn lút ở chỗ bến nước, để quấy nhiễu
lương dân, nay nhất đán rời xa sào huyệt, đó là tự gây tai hoạ mà thôi. Song
nay nếu cứu được thành Đại Danh thì cũng khó nhọc vô cùng. Vậy tôi xin lĩnh mấy
vạn tinh binh thẳng tới Lương Sơn để đánh rồi sau đánh bắt quân giặc, khiến cho
chúng đầu đuôi không kịp cứu nhau, thì mới có thể tất thắng được.
Thái Sư
nghe nói cả mừng, bảo Tuyên Tán rằng:
- Đó là
kế vây Ngụy cứu Triệu đó. Kế ấy chính hợp ý ta.
Nói đoạn
liền truyền Viện Khu Mật cắt lấy nghìn rưỡi quân tinh nhuệ ở Sơn Đông, Hà Bắc,
cho Hắc Tư Văn làm Tiên Phong, Tuyên Tán làm hậu hợp, Quan Thắng thì Lãnh Binh
Chỉ Huy Sứ, bộ quân Thái Úy là Đoàn Thường tiếp ứng lương thảo đi sau, đoạn rồi
khao thưởng tam quân, mà lập tức khởi trình đi đánh Lương Sơn Bạc.
Mới hay:
Ba quân
hổ báo uy danh đất:
Một trận
binh đao khí dậy trời
Thế gian
chi hiếm anh tài,
Chỉ e
thiên hạ hiếm người mắt xanh!
Bây giờ
tướng giỏi binh tinh,
Thử xem
Sơn Bạc tan tành hay chăng?
Lời bàn
của Thánh Thán.
Tôi tớ
đồng tiền, xưa gọi nô tài đồng âm với nô tài là tôi tớ người khôn, mới đầu nói
ra ở miệng Quách Lệnh Công mắng con, ý nói làm đầy tớ cho người ta sai khiến.
Thế mà ngày nay xem ra, thì hầu hết thiên hạ, sao mà loại tôi tớ ấy nhiều thay;
Tôi tớ
đồng tiền, nào phải riêng ở đám buôn thúng bán mẹt, đầu đường só chợ mà thôi,
có thể nói từ kẻ áo xiêm tề chỉnh, ra luồn vào cúi hầu môn; mặc giáp bào cưỡi
ngựa múa gươm, liều sống chết với sa trường; cho đến một bầu kinh sử, thiết
trướng các nơi; Hoặc là ngàn dặm non sông hiểm trở, với mọi ngành sinh
hoạt...ều làm tôi tớ đồng tiền, một khi theo đuổi bất cứ nghề nghiệp gì sang
hèn, mà thiếu tính cách nhân đạo, đều làm tôi tớ đồng tiền; Hỡi ôi! Đám người
thiên hạ, mà không cái gì chẳng vị đồng tiền, thì vua do đâu mà trị, dân nhờ
đâu mà yên, cha mẹ lấy gì mà nuôi con, con nhờ vào đâu mà dạy dỗ, đức của ta
làm sao mà lập, bọn hậu học nhờ vào đâu mà bắt chước theo? Thạch Tú mắng Lương
Trung Thư rằng: Ngươi chỉ làm tôi tớ cho những thằng tôi tớ... Thực Thi Nại Am
khéo mượn bút chửi đời bằng một giọng văn đáng khóc đáng cười rất khoái!
Sách Siêu
trước đã cùng xuất hiện với Dương Chí ở một đoạn văn đến đây cách hơn năm mươi
hồi, mới lại hiện ra, vì trước không nhân có một sự gì mà xuất hiện, đến đây
mới vừa hé ra, lại vì một mũi tên của Hàn Thao mà ngừng trở lại, rồi sau chuyển
đến bị bắt ở trong đám tuyết, ngọn bút tả ra, không thể vội vàng mà nói tới.
Tả bắn
Sách Siêu lại dùng mũi tên của Hàn Thao đó là sao? Chủ ý làm cho Sách Siêu
ngừng lại, chẳng phải là chí tả chết Sách Siêu, cho nên có lúc tả bắn dùng mũi
tên của Hoa Vinh; mới đúng với sự bắn; Lại có lúc tả bắn dùng mũi tên của Hàn
Thao, cho rõ chẳng đúng với sự bắn, bắn mà không thể chết lại dùng mũi tên của
Hàn Thao, vì sao? Vì Hàn Thao phó tướng của Tần Minh, mới mượn ra như vậy.
Một vị
đường đường Tể Tướng ngôi tôn, và Tam Nha ở trong Khu Mật Viện long trọng, thế
mà nghe tin giặc, đã len lét nét mặt trông nhau, thì hỏi rằng còn có mưu gì để
trên báo quốc gia, dưới trừ cường lỗ vậy vay? Thế mà bỗng đâu ở đằng sau lưng
các vị đó, lại chuyển ra một người, đưa ra kế sách, do sau lưng kẻ ở sau lưng
ấy, lại chuyển ra một người nữa, có thể phá giặc giúp nước, ngờ đâu kẻ ở sau
lưng lần thứ hai kia, lại dẫn ra một kẻ ở sau lưng nữa, đề cùng giúp sức kẻ ở
sau lưng; Hỡi ôi; Nhân tài khó biết thay; Chẳng phải đó ư; Sao mà sau lưng có
nhiều người thế? Thì ra ba người sau lưng cũng may mà gặp lúc triều đình đa sự,
để có ngày thiên hạ biết tài, chẳng thế thì sao giờ lại được ở dưới gót các vị
quan cao Đại Thần, như Tể Tướng với Tam Nha trong khu Mật Viện? Mà thấy bóng
mặt trời? Song ba người cũng lại chẳng may gặp lúc nước nhà lắm việc, rồi cũng
chẳng khỏi phải ra đời, ta biết đâu được cứ đóng cửa nằm cao, vui trọn tuổi
già, mà cũng chẳng nguyện theo đòi quan Tể Tướng Đại Thần, Tam Quan trong khu
Mật Viện, để mất cả nhuệ khí, khi đối với mọi nguy cơ? Đọc tới đây chẳng khỏi
ngậm ngùi than thở.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 63: Đêm trăng Duyên Chước lừa Quan
Thắng Trời tuyết Công Minh bắt Sách Siêu
Nói về
Tống Giang cùng các Tướng hết sức đánh phá thành trì, song Lý Thành, Văn Đạt
đóng vững cử thành, không chịu ra đánh, trên thành phòng bị rất nghiêm, không
sao mà phá ngay được. Tống Giang thấy quân sĩ đi đánh đã lâu mà không được nên
công, thì trong lòng lấy làm băn khoăn buồn bã, không biết lập kế ra sao?
Một buổi
tối hôm đó, chàng đương ngồi buồn trong trướng, mở bộ Thiên Thư của Cửu Thiên
Huyền Nữ ra xem, thì bỗng thấy có người vào báo:
- Có
Quân Sư Ngô Dụng đến hầu.
Tống
Giang nghe báo liền đứng dậy đón Ngô Dụng vào để nói chuyện.
Ngô Dụng
nói với Tống Giang rằng:
- Quân
ta đến đây vây đánh đã lâu, mà không thấy quân mã đến cứu, trong thành cũng
không chịu ra, chắc là Lương Trung Thư, lại cho người cáo cấp với bố vợ là Xái
Thái Sư, để đem binh ra tiếp ứng ở đây, mà trong đám đó hẳn có tay Tướng giỏi.
Nếu họ lại dùng kế vây nước Ngụy cứu nước Triệu, nghĩa là họ không đến đánh ở
đây, mà đánh thẳng vào Lương Sơn Bạc, thì có lẽ nguy mất. Việc đó huynh trưởng
phải nên lưu tâm, thu thập quân sĩ đi trước, dẫu không lui về cả, song...
Vừa nói
đến đó, thì Thần Hành Thái Bảo Đới Tung đến báo rằng:
- Nay
Xái Thái Sư đón người cháu Quan Bồ Tát là Đại Đao Quan Thắng ở Bồ Đông làm Đại
Tướng dẫn quân đến đánh Lương Sơn Bạc, các Đầu Lĩnh ở nhà đều lấy làm kinh
hoảng lo sợ, vậy xin huynh trưởng cùng Quân Sư hãy tạm lui binh, về cứu Lương
Sơn, rồi sau sẽ liệu...
Ngô Dụng
nghe nói, bàn với Tống Giang rằng:
- Đã
đành như vậy, song ta đây không thể về vội ngay được. Đêm nay hãy cho quân bộ
đi trước, còn để cho hai toán quân mã nấp ở hai bên Phi Hổ Dực, phòng bị quân
mã trong thành theo đuổi, thì mới có thể chống cự lại được.
Tống
Giang khen phải liền cắt Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh dẫn năm trăm quân mã mai phục ở
bên tả Phi Hổ Dực, và Báo Tử Đầu Lâm Xung dẫn năm trăm quân mã phục ở bên hữu,
Lại truyền cho Hô Duyên Chước dẫn hai mươi quân kỵ, cùng Lăng Chấn đem súng đặt
ở gần thành, cách chừng hai mươi dặm để đợi khi quân mã trong thành ra đuổi,
thì ra hiệu cho quân phục biết. Đoạn rồi truyền lệnh cho quân Tiền đội, dần dần
kéo lui như mây tan như mưa tạnh, dù gặp quân mã nào cũng không được đánh nhau.
Đám bộ quân vâng lệnh, nửa đêm hôm ấy kéo đi, mãi đến giờ tý hôm sau mới hết.
Bấy giờ
trên thành trông thấy quân sĩ Tống Giang đều cuốn cờ vác đoá, cùng nhau nhổ
trại kéo lui, liền đem tin tức vào báo cho Lương Trung Thư biết. Trung Thư nghe
báo, lập tức gọi lý Thành, Văn Đạt lên để bàn.
Văn Đạt
nói:
- Sự nầy
chắc là quân mã Đông Kinh đến đánh Lương Sơn Bạc, nên họ sợ mất sào huyệt mà
phải kéo quân về giữ. Vậy bất nhược ta thừa thế đuổi đánh một trận, thì thế nào
cũng bắt được Tống Giang.
Đương
khi bàn bạc thì bỗng thấy có người báo, có công văn ở Đông Kinh đưa ra, ước
định đem quân đánh thẳng Lương Sơn Bạc, và khi Tống Giang kéo về, thì phải đuổi
theo mà đánh. Lương Trung Thư nghe báo, bèn sai Lý Thành, Văn Đạt dẫn hai toán
quân đi theo hai đường Đông Tây để đuổi.
Bấy giờ
quân mã Tống Giang đương lục tục lui về, chợt thấy quân mã trong thành ra đuổi,
chúng liền ùa nhau mà nhất tề kéo chạy, Lý Thành, Văn Đạt thấy vậy, liền thúc
quân đuổi riết để đánh.
Khi đuổi
đến Phi Hổ Dực, chợt nghe tiếng đằng sau lưng có tiếng nổ đánh đùng đùng, rồi
trống trận nổi lên như sấm động, quân mã ở đâu bỗng kéo cờ vác đáo xông ra, uy
thế rất là hùng dũng, Lý Thành, Văn Đạt luống cuống, ngựa chưa kịp xoay giở, đã
thấy bên tả có Hoa Vinh, bên hữu có Lâm Xung đều đổ ập đến để đánh.
Hai
người biết là mắc kế vội vàng lui quân trở lại. Bất đồ lại gặp toán quân mã của
Hô Duyên Chước, đều ra sức xông đánh rất là hăng hái. Lý Thành, Văn Đạt bị thua
một trận xác sơ, rách cả áo mất cả mũ, rồi cùng nhau kéo về trong thành, đóng
cửa lại không dám thò ra nữa.
Bên kia
quân mã Tống Giang lại thứ tự ung dung mà kéo về Sơn Bạc.
Khi về
gần tới Lương Sơn, gặp toán quân của Tuyên Tán ngăn chặn đường đi, Tống Giang
liền truyền lệnh tạm hạ dinh trại, rồi sai người theo đường tắt trở về báo cho
sơn trại, và ước hẹn quân mã thủy trại để cùng cứu ứng.
Khi đó
hai Đầu Lĩnh là Trương Hoành, Trương Thuận bàn với nhau rằng::
- Anh em
ta từ khi đến đây, chưa lập được chút công lao gì... Hiện nay Đạo Đao Quan
Thắng chia quân ba đạo tiến đánh ta đây, vậy bất nhược anh em ta kéo ra cướp
trại, bắt lấy Quan Thắng mà lập lấy đại công thì đối với anh em cũng được kiêu
hãnh đôi chút, chú nghĩ sao?
Trương
Thuận nói:
- Tôi
cùng Ca Ca chỉ coi về mặt thủy quân, nếu lỡ ra thế nào, thì không có người cứu
ứng, thì tất là mang tiếng với anh em, không tiện...
- Nếu cứ
như vậy thì đến năm nào mới lập được công? Ngươi không đi thì thôi, đêm nay ta
đi một mình vậy,
Trương
Thuận hết sức can gián, Trương Hoành nhất định không nghe. Đêm hôm đó Trương
Hoành điểm năm mươi chiếc thuyền, mỗi thuyền có năm ba tên lính, tay cầm trường
sang đao lá chuối, rồi thừa lúc đêm trăng tịch mịch, mà kéo thuyền đi ra đường
bộ, để cùng nhau đến cướp trại.
Đêm hôm
ấy Quan Thắng đang ngồi xem sách trong trướng, bỗng thấy người báo, có bốn năm
mươi chiếc thuyền ở trong đám lau lách đi ra, người nào người nấy đều cầm
trường sang trong tay, không biết có việc chi?
Quan
Thắng nghe báo cười nhạt một tiếng, rồi quay lại người tỳ Tướng bên cạnh, mà
nói mấy câu rất nhỏ, người ngoài không hiểu ra sao?
Bên kia
Trương Hoành dẫn mấy trăm lâu la theo đám lau lách lần vào nhổ hết chông gai,
đi thẳng đến trại Quan Thắng. Bấy giờ khoảng quá canh hai, chàng đi vào đến
trại Trung Quân, thấy trong trướng đèn nến sáng choang. Quan Thắng đương ngồi
vuốt râu xem sách. Trương Hoành mừng thầm trong bụng, tay cầm cây gươm trường,
sấn vào trong trướng để bắt. Chợt đâu nghe tiếng thanh la nổi lên, rồi thấy
quân sĩ reo hò quát tháo chẳng khác gì trời long đất lở, núi lở sông xoay, làm
cho Trương Hoành phải kinh sợ rụng rời, mà quay đầu toan chạy.
Chàng
vừa quay đều toan chạy, thì quân phục ở bốn mặt đổ ra ầm ầm, rồi bắt hết cả mấy
trăm người, cùng Trương Hoành mà giải vào, cùng Trương Hoành mà giải vào cho
Quan Thắng.
Quan
Thắng trông thấy Trương Hoành cười mà mắng rằng:
- Quân
giặc cỏ thấm vào đâu, mà dám trêu ghẹo đến ta?
Nói đoạn
liền sai giam Trương Hoành vào xe tù, mà giam hết bọn quân sĩ ở đó, để đợi bắt
được Tống Giang sẽ giải về Kinh Sư.
Nói về
ba anh em họ Nguyễn, cũng coi thủy trại ở Lương Sơn Bạc, hôm đó đương ngồi bàn
chuyện với nhau, chợt thấy Trương Thuận chạy đến nói rằng:
- Ca Ca
tôi không nghe lời tôi can, đem quân đến cướp trại Quan Thắng bất đồ bị bắt
giam vào xe tù, không biết làm sao cho được?
Nguyễn
Tiểu Thất nghe nói kêu lên rằng:
- Anh em
chúng ta cùng sống cùng chết, hoạn nạn có nhau, vậy anh là anh em ruột với
Trương Hoành, sao anh lại để cho đi một mình, đến nỗi bị người ta bắt được? Nay
anh không đi cứu, thì để ba anh em tôi đi cứu cho...
Trương
Thuận nói:
- Vì tôi
chưa được tướng lệnh của Tống Ca Ca, nên không dám đi liều.
- Nếu
đợi Tướng lệnh, thì anh bác có lẽ bị nó đem làm mắm mất rồi.
Nguyễn
Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ cũng đều lấy làm phải, mà thúc nhau đi cứu Trương
Hoành. Trương Thuận lại cố can không được, sau đành phải chịu theo với họ,
Trống đầu canh tư hôm đó, các Thủy trại Đầu Lĩnh đều dẫn hơn hai trăm chiếc
thuyền kéo ra để cướp trại Quan Thắng thấy vậy, lại vào báo cho chủ tướng biết.
Quan
Thắng nghe báo cười rằng:
- Quân
ngu dốt thực!
Nói đoạn
dặn thầm tuỳ tướng mấy câu như trước.
Đằng kia
ba anh em họ nguyễn đi trước, Trương Thuận đi sau, ầm ầm kéo nhau đến trại Quan
Thắng. Khi tới nơi thấy trong trại đèn nến sáng choang mà vắng tanh vắng ngắt
không có ai đi lại. Ba anh em họ Nguyễn lấy làm nghi ngờ, toan quay ra để chạy,
bỗng đâu thấy trước trướng nổi lên mấy tiếng thanh la, rồi thấy bốn bên tả hữu
các quan mã bộ, có tới tám đường đổ ra mà vây chặt lấy.
Trương
Thuận thấy sự thế nguy cấp liền lui lại nhảy tót xuống nước, rồi ba anh em họ
Nguyễn cũng cướp đường để chạy ra bến nước, Bất đồ bị quân lính quan Thắng thả
giây móc bắt được Nguyễn Tiểu Thất đem đi. Còn Nguyễn Tiểu Nhị, Tiểu Ngũ, thì
có Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, cứu về trong trại.
Khi về
tới sơn trại. Liền báo tình hình cho sơn trại biết. Lưu Đường liền sai Trương
Thuận đi đường thủy đến trại Tống Giang, để báo cho Tống Giang biết. Tống Giang
liền gọi Ngô Dụng đến để bàn kế. Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Ngày
mai ra đánh một trận xem thua được thế nào rồi ta sẽ liệu.
Đương
khi bàn luận với nhau, bỗng thấy trống trận nổi lên ầm ầm, rồi có người vào báo
rằng:
- Tuyên
Tán bộ lãnh tam quân thẳng đến đại trại để khơi đánh.
Tống
Giang nghe báo, vội dẫn quân ra tiếp đón, khi ra tới nơi, thấy Tuyên Tán đứng
bên kia thách đánh.
Tống
Giang liền hỏi:
- Anh
em, ai ra ngựa trước xem sao?
Nói chưa
dứt lời, thì thấy Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh vỗ ngực cầm thương ra đánh Tuyên án.
Tuyên Tán cũng múa đao ra đỡ. Đôi bên đánh nhau chừng hơn mười hiệp, thì Hoa
Vinh lừa miếng phá đĩnh mà quay ngựa chạy thẳng. Tuyên Tán liền vỗ ngựa hăng
hái đuổi theo.
Hoa Vinh
thấy Tuyên Tán đuổi theo, bèn đeo gươm vào rồi lấy cung đặt tên, quay mình lại
nhắm Tuyên Tán một phát, Tuyên án nghe tiếng cung bật, vội giơ đao lên gạt, thì
mũi tên bắn vào lưỡi đao ken một cái. Hoa Vinh lấy mũi tên nữa, nhè lúc Tuyên
Tán đến gần, bắn luôn một phát thứ hai vào trước bụng. Tuyên Tán né mình tránh
khỏi, mũi tên bắn ra chỗ không. Tuyên Tán thấy nghề bắn cung của Hoa Vinh tài
giỏi, liền quay ngựa lại mà không dám đuổi nữa. Hoa Vinh thấy Tuyên Tán không
đuổi, bèn quay ngựa lại lấy mũi tên thứ ba, nhằm vào sau lưng Tuyên Tán bắn
thêm phát nữa. Vừa bắn xong, nghe tiếng kêu đến binh môt cái, té ra mũi tên lại
vừa bắn vào miếng kính yểm tâm.
Tuyên
Tán vội vàng về trận, báo cho Quan Thắng biết. Quan Thắng gọi lính dắt ngựa ra,
lập tức vác đao Thanh Long, lên ngựa Xích Thố, mà thẳng xông ra trận.
Tống
Giang trông thấy Quan Thắng rõ ra vẻ anh tài lẫm liệt, bèn chỉ bảo Ngô Dụng mà
khen ngợi luôn mồm. Đoạn rồi quay lại nói to lên với các Tướng rằng:
- Quan
Tướng quân một bậc anh hùng, thực là đáng lắm...
Lâm Xung
thấy vậy, khí tức nổi lên đùng đùng, liền kêu lên rằng:
- Anh em
chúng ta, từ khi lên ở Sơn Bạc đến nay, đánh nhau cũng đã có năm bảy mươi trận,
có khi nào chịu nhục với ai? Sao ngày nay lại giảm uy phong như vậy?
Nói đoạn
múa thương ra ngựa, thẳng xông sang đánh Quan Thắng.
Quan
Thắng quát to lên rằng:
- Bớ
quân giặc cỏ ở bến vũng nước, ta không có thì giờ đánh bắt các ngươi, cứ bảo
Tống Giang ra đây, ta hỏi vì cớ sao dám bội bạc triều đình?
Tống
Giang nghe nói vội thét Lâm Xung dừng lại, rồi phóng ngựa ra trận nghiêng mình
chào Quan Thắng mà nói rằng:
- Chúng
tôi là Tống Giang tiểu lại ở Vận Thành, xin chào Tướng quân. Có tội gì xin cứ
hỏi?
Quan
Thắng nói:
- Ngươi
là kẻ tiểu lại, sao dám phản bội triều đình?
- Vì
triều đình vô đạo, dong túng kẻ gian thần, không có trung lương tiến đạt, đám
quan tham lại nhũng đầy dẫy nhân gian làm hại biết bao nhiêu người lương thiện,
nhân vậy Tống Giang nầy phải thay trời làm đạo, chứ không có bụng gì khác cả...
- Rõ
ràng bay là giặc cỏ. Thay trời làm đạo, làm đạo nào...Nay binh trời đến đây lại
còn khéo nói hay sao? Nếu không xuống ngựa chịu trói, thì ta truyền cho nát xác
bây giờ.
Tìch
Lịch Hỏa Tần Minh nghe nói, kêu lên một tiếng rất to, rồi múa Lang Nha Côn vỗ
ngựa xông ra, Lâm Xung cũng múa Phi Thương ra để đánh,
Hai
Tướng hăng hái xông vào. Quan Thắng múa đao đón đánh, cát bụi tung lên như đèn
kéo quân vậy. Chợt đâu thấy Tống Giang chỉ chỉ gật gật, rồi sai khua chiên rút
quân về. Lâm Xung, Tần Minh quay vào nói với Tống giang rằng:
- Chúng
tôi đương vây bắt hắn, sao huynh trưởng lại vội thu quân?
Tống
Giang nói to lên rằng:
- Anh em
phải biết, chúng ta đây vốn giữ lòng trung nghĩa, nay đem hai người mà đánh một
người sao nỡ! Như thế có bắt được hắn, chắc là hắn cũng không phục... Và ta xem
Đại Đao là một tướng nghĩa dũng, dòng dõi trung thần, ông cha xưa nay làm thần
làm thánh, ai ai cũng đến phụng thờ, nếu nay bắt được người ấy lên núi, thì
Tống Giang xin tình nguyện nhường ngôi đó...
Lâm
Xung, Tần Minh nghe nói, đều biến sắc mặt mà lui vào. Đoạn rồi hai bên đều thu
quân về trại.
Quan
Thắng về đến trong trại, xuống ngựa cởi giáp, trong lòng nghĩ thầm
rằng:"Ta hết sức đánh với hai Tướng có lẽ sắp thua với họ, thế mà Tống
Giang vội khua chiên thu quân, không biết là ý tứ làm sao? ".
Nghĩ
đoạn liền sai đẩy xe tù Trương Hoành, Nguyễn Tiểu Thất ra mà hỏi rằng:
- Tống
Giang chỉ là một anh tiểu lại ở Vận Thành, sao mà các ngươi lại phục hắn như
vậy?
Nguyễn
Tiểu Thất vội nói lên rằng:
- Ca Ca
tôi vẫn vốn là một người có tiếng ở Sơn Đông, ai ai cũng gọi là C6ạp Thời Vũ
Tống Công Minh, các ngươi là người không biết trung nghĩa, thì hiểu sao nổi mà
hỏi...
Quan
Thắng nghe nói, chỉ cúi đầu, rồi lại sai đem xe tù để vào một chỗ. Tối hôm đó
quan Thắng đứng ngồi vơ vẫn không yên, bèn chạy ra sau trại nom quanh nom quẩn
một mình, ngẩng trông l ên thấy mịt mù sương tỏa, khí lạnh đầy trời, một bóng
trăng suông lờ mờ hơi rõ, giang sang cảnh sắc trông ra đều có vẻ thương cảm bồi
hồi, chàng thấy vậy lại càng ngao ngán, thở dài mà đứng mãi không đi.
Đương
khi dùng dằng vẫn vơ, chợt thấy lính vào báo:
- Có một
tướng rậm râu, một mình một ngựa, xin vào yết kiến Nguyên Súy.
Quan
Thắng hỏi:
- Sao
ngươi không biết hỏi xem ai?
- Bẩm,
Ông ta không có mũ giáp quân khí chi cả, mà cũng không chịu nói tên, chỉ nói là
muốn yết kiến Nguyên Soái thôi.
Quan
Thắng ngần ngại rồi gật đầu mà bảo rằng:
- Ngươi
ra mời vào đây.
Tên lính
vâng lời quay đi, thì một lát dẫn người ấy vào. Khi vào trong trướng. Quan
Thắng quay bảo người tỳ tướng bật đèn lên, rồi trông người kia, thấy nét mặt có
vẻ quen quen. Quan Thắng hỏi:
- Ông là
ai?
Người
kia nói:
- Xin
đuổi người hầu đi, rồi tôi sẽ nói.
Quan
Thắng cười rằng:
- Làm
người đại tướng ở trong đám muôn quân vạn lính, nếu không nhất đức nhất tâm,
làm sao sai khiến cho được? Trong trại tôi đây, bất cứ trong trướng, ngoài
trướng, kẻ trên người dưới, đếu là tâm phúc của tôi cả, có việc gì xin cứ nói
cho...
Người
kia nói:
- Tiểu
Tướng tức Hô Duyên Chước, ngày trước đã từng vâng mạng triều đình, thống lĩnh
trận ngựa Liên Hoàn ra đánh Lương Sơn Bạc, sau chẳng may lỡ mắc phải kế gian,
sẩy hỏng việc quân, nên không dám trở về triều đình nữa. Mới rồi nghe tin Tướng
quân đến đây, trong lòng lấy làm vui mừng quá đổi. Trận đánh hôm nay Lâm Xung
vốn định bắt Tướng quân, sau Tống Giang sợ phạm hại đến ngài, nên phải khua
chiên thu quân lập tức. Người ấy vốn có chí quy phục triều đình, nhưng bọn kia
không chịu theo nên không dứt đi được. Nhân thế có bàn riêng với tôi, định để
khu xử lòng người, sao cho quy thuận cả mới nghe. Vậy nếu Tướng quân có lòng
tin tôi, thì đêm mai chỉ xin đem ít cung tên, dẫn ít quân kỵ, theo đường tắt
dẫn đến sơn trại mà tróc nã bọn Lâm Xung, thì không những Tướng quân lập được
công to mà tôi với Tống Giang cũng khả dĩ chuộc được tội xưa đôi chút, Tướng
quân nghĩ sao?
Quan
Thắng nghe nói cả mừng, mời Hô Duyên Chước vào trong trướng để thiết rượu. Hô
Duyên Chước lại đem chuyện Tống Giang là người hết lòng trung nghĩa, chẳng may
bị hãm vào chốn bất nhân, để thuật cho Quan Thắng nghe, Quan Thắng nghe chuyện,
lại vuốt râu uống rượu, rồi vỗ đùi mà ta thán vô cùng.
Sáng hôm
sau đem quân ra khơi đánh. Quan Thắng bàn cùng Hô Duyên Chước rằng:
- Đêm
nay tuy có mưu kế đó, song hiện bây giờ cũng phải ra trận bắt đánh mấy Tướng
mới được.
Hô Duyên
Chước liền mượn mũ giáp, cưỡi ngựa xông ra trước trận. Tống Giang gọi Hô Duyên
Chước mắng rằng:
- Sơn
trại có một chút gì phụ bạc với ngươi, sao ngươi nỡ nửa đêm bỏ đi mà cõng rắn
cắn gà nhà như thế.
Hô Duyên
Chước đáp rằng:
- Một
anh tiểu lại vô tri, thì nên công trạng gì mà nói.
Tống
Giang liền sai Trấn Tam Sơn Hoàng Tín xông ngựa ra đánh Hô Duyên Chước. Hai bên
đánh nhau chưa được mươi hiệp, thì Hô Duyên Chước đánh cho một chiêu, Hoàng Tín
chết ngay trên mình ngựa. Quan Thắng trông thấy cả mừng, truyền lệnh cho tam
quân nhất tề xông ra để đánh.
Hô Duyên
Chước can rằng:
- Không
nên đuổi họ, bên ấy có Ngô Dụng, cũng là một tay thần cơ mưu mẹo rất nhiều,
không khéo thì mất kế mất...
Quan
Thắng nghe nói, vội thu quân về trại, cất chén mừng Hô Duyên Chước mà hỏi rằng:
- Trấn Tam
Sơn Hoàng Tín là thế nào?
Hô Duyên
Chước nói:
- Người
đó cũng là mệnh quan của triều đình, trước làm Đô Giám ở Thanh Châu, sau cùng
với Hoa Vinh, Tần Minh cùng đi lạc thảo. Hắn ta bình nhật đối với Tống Công
Minh vẫn là bất hợp; ngày nay Tống Giang sai hắn ra đánh, chính là muốn giết đi
cho rảnh.
Quan
Thắng nghe nói lại cả mừng, liền truyền lệnh cho Hắc Tư Văn cùng Tuyên Tán chia
quân làm hai đường để tiếp ứng, và tự dẫn năm trăm quân kỵ, đều cung tên chỉnh
đốn, để theo Hô Duyên Chước đến trại Tống Giang, ước định canh hai hôm ấy ra
đi, vào khoảng canh ba thì tới trại, rồi cứ nghe hiệu súng, thì trong ngoài
giáp đánh làm một.
Đêm hôm
đó vẻ trời lạnh lẽo, trăng sáng trên không. Quan Thắng chuẩn bị đâu đó, rồi
ngựa tháo nhạc, người ngậm tăm, Hô Duyên Chước dẫn đường đi trước, còn quân sĩ
đều lục tục theo sau.
Đi chừng
nửa trống canh, chợt thấy một toán bốn năm mươi tên lính sẽ cất tiếng hỏi rằng:
- Có
phải Hô Tướng quân đấy không?
Hô Duyên
Chước quát lên rằng:
- Không
được nói, cứ theo thẳng vào sau ngựa kia.
Đoạn rồi
Hồ Duyên Chước cứ xốc ngựa lên trước, Quan Thắng thì kèm ngựa đi sau. Lại đi
một lúc, qua chốn mỏm núi.Hô Duyên Chước cầm cây gươm trỏ vào một chỗ xa xa có
ngọn đèn đỏ. Quan Thắng đứng dừng ngựa lại mà hỏi:
- Cái
đèn đỏ ấy là chỗ nào?
Hồ Duyên
Chước đáp:
- Đó
chính là trại Trung Quân của Tống Công Minh...Nói đoạn thúc quân mã phải đi cho
riết. Khi đi gần đến chỗ đèn đỏ, bỗng nghe một tiếng súng hiệu rất to, trông
quanh trông quẩn không thấy một ai, quay lại nom Hô Duyên Chước, cũng không
thấy đâu nữa, Quan Thắng thấy vậy cả kinh, biết rằng trúng kế, vội vàng quay
ngựa lui về.
Chợt đâu
thấy bốn chung quanh núi, đều khua chiêng gõ trống vang lừng, rồi đám quân mã
kinh hoàng sợ hãi mà tranh nhau chạy mau để trốn, Khi Quan Thắng trông lại, thì
chỉ thấy có mấy tên kỵ theo mình, còn thì trốn đâu mất cả.
Quan
Thắng dẫn mấy tên kỵ vừa mới đi khỏi chỗ mỏm núi, bỗng thấy rừng cây ở phía sau
có tiếng nổ đánh đoàng, rồi bốn bên những quân câu móc đổ ra, giật Quan Thắng
ngã xuống ngựa, cướp lấy đại đao, cởi lấy mũ giáp mà túm nhau đem về trại.
Đằng kia
Hoa Vinh cùng Lâm Xung, dẫn một toán quân ra đón Tuyên Tán. Khi gặp nhau hai
bên cùng ra sức hăng hái để đánh. Đánh được hai ba mươi hiệp, Tuyên Tán thấy
đuối sức không địch nổi, liền quay ngựa để chạy. Khi chàng vừa quay ngựa lại,
thì gặp một viên nữ Tướng là Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương tung tấm lưới móc
hồng cẩm ra, kéo Tuyên Tán xuống ngựa, rồi sai quân bắt trói mang về.
Về phần
Hắc Tư Văn gặp Tần Minh, Tôn Lập đón đánh, Hắc Tư Văn trông thấy hai người,
liền quát lên rằng:
- Bớ
quân giặc cỏ, đứa nào ngăn trở ta là chết, tránh ta là sống...
Tần Minh
cả giận, múa Lang Nha Côn xông đến đánh Hắc Tư Văn, hai bên đấu tranh chừng vài
hiệp, thì Tôn Lập toan xông vào để đánh, Hắc Tư Văn thấy vậy, tay sang hơi
luống cuống, tần Minh bèn thừa thế đánh một côn ngã lăn xuống ngựa. Đoạn rồi
quân sĩ reo hò đổ đến để bắt.
Còn ở
trại Quan Thắng, thì có Lý Ứng dẫn quân đến cứơp, cứu đám Trương Hoành, Nguyễn
Tiểu Thất cùng đám thủy quân bị bắt, rồi lấy hết lương thảo lừa ngựa, vỗ yên
quân chúng mà về. Vào khoảng rạng sáng, Tống Giang họp các Tướng đến Trung
Nghĩa Đường ở trên sơn trại, rồi sai giải Quan Thắng, Tuyên Tán, cùng Hắc Tư
Văn lên.
Khi
chúng giải ba người lên, Tống Giang vội vàng xuống thềm, quát đuổi quân sĩ,
thân hành cởi tr1oi ba người, rồi mời Quan Thắng lên ngồi ghế giữa, mà cúi đầu
lạy tạ mà nói rằng:
- Quân
chúng ngu cuồng vong mênh, dám mạo phạm oai ngài, xin ngài tha tội cho.
Hô Duyên
Chước cũng cúi lạy mà rằng:
- Tôi vì
Tướng lệnh, không tếh không được, xin ngài tha tội cuồng dại dối trá ấy cho...
Quan
Thắng nom thấy các Đầu Lĩnh đều nghĩa khí trân trọng, có vẻ đáng phục, liền
quay lại hỏi Tuyên Tán, Hắc Tư Văn rằng:
- Chúng
ta bị bắt tới đây, nên như thế nào thì phải?
Hai
người nói rằng:
- Xin
tùy tướng lệnh của ngài...
Quan
Thắng nói:
- Bây
giờ cũng không còn mặt mũi nào trở về kinh nữa, xin cho chết sớm là hơn.
- Nếu
ngài không khinh là bỉ lậu, thì xin cùng ở lại đây để thay Trời làm Đạo, bằng
không thì chúng tôi cũng không dám lưu lại làm chi, xin đưa ngài về kinh ngay
lập tức...
Quan
Thắng thở dài mà rằng:
- Người
ta thường nói: Tống Công Minh nhân huynh trung nghĩa, thực là có thế. Người ta
sống ở trên đời, vua biết thì đền ơn vua, bạn biết thì đền ơn bạn, ngày nay đã
chuyển đến lòng, thì xin ở đây làm đứa tiểu tốt để đền ơn tri ngộ cho xong...
Tống
Giang nghe nói cả mừng, nhất diện đặt tiệc thiết đãi, và nhất diện chong đi dỗ
dành đám quân thua chạy, ước được năm bảy nghìn quân mã, kẻ nào có bố có mẹ ở
nhà đều cấp tiền cho về nhà cả. Đoạn rồi sai Tiết Vĩnh đến Bồ Đông, đón vợ con
Quan Thắng lên sơn trại.
Hôm đó
Tống Giang đương ngồi yến ẩm, chợt nghĩ đến nông nỗi Lư Tuấn Nghĩa cùng Thạch
Tú ở Bắc Kinh, thì lại ngẫm nghĩ mà lã chã tuôn đôi dòng lụy.
Ngô Dụng
liền nói lên rằng:
- Việc
đó bất tất huynh trưởng phải lo, tôi đã có cách đây rồi... Chỉ ngày mai đem
quân đi đánh Đại Danh thì tất là thành sự.
Quan
Thắng nghe nói bèn đứng dậy nói rằng:
- Quan
mỗ chưa có chút gì để đền ơn yêu quý, vậy đi làm tiền bộ phen nầy.
Tống
Giang cả mừng, liền tạ ơn Quan Thắng, rồi cùng nhau yến ẩm rất vui. Ngày hôm
sau truyền cho Tuyên Tán, H8ác Tư Văn làm phó Tướng cùng với Quan Thắng dẫn
quân bản bộ, đi trước làm tiền bộ tiên phong, còn các Đầu Lĩnh cùng các quân
đánh thành Đại Danh trước, nay đều nghe lệnh kéo đi, và thêm có Trương thuận
đem các đồ mũ giáp đi vào đó.
Nói về
Lương Trung Thư thấy Sách Siêu đã khỏi bệnh dậy được, trong lòng lấy làm vui
mừng, trông ra thấy trời mờ sắc ám, gió Bắc gào thét bên tai, rất chiều ghê sợ,
chợt đâu thám mã báo rằng:
- Quan
Thắng, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, cùng các quân sĩ đều bị Tống Giang tróc nã, hiện
đã nhập đảng với Tống Giang, và kéo quân đến đây để đánh.
Lương
Trung Thư nghe nói kinh ngạc rụng rời, bỗng rơi ngay xuống đất mà không biết,
Sách Siêu thấy vậy liền bẩm rằng:
- Trước
đây tôi bị mũi tên ngầm, nay quyết báo thù mới hả, ân Tướng không ngại chi.
Lương
Trung Thư liền rót chén rượu nóng thưởng luôn cho Sách Siêu, và dặn đem quân mã
ra đón đánh, rồi Lý Thành, Văn Đạt tiếp ứng ra sau.
Bấy giờ
đương tháng trọng đông (tháng một), khí trời lạnh lẽo trong mấy ngày trời, gió
bấc đìu hiu, trời đất biến sắc, ngựa rét xoăn da, thiết giáp lạnh như băng
tuyết, Sách Siêu vác cây đại phủ kéo quân ra đến Phi Hổ Dực để hạ trại.
Ngày hôm
sau Tống Giang dẫn Lã Phương, Quách Thịnh lên gò cao, để xem Quan Thắng đánh
nhau. Khi trống trận đủ ba hồi, Quan Thắng xông ra trước trận, rồi bên kia Sách
Siêu cũng vỗ ngựa xông ra.
Sách
Siêu mới ra, không nhận biết Quan Thắng, sau thấy quân sĩ nói lên rằng, người
kia chính Đại Đao Quan Thắng mới bội bạc triều đình đó.
Sách
Siêu lặng ngắt vác phủ vỗ ngựa ra đánh Quan hắng. Quan Thắng múa đao lên đỡ.
Đôi bên múa đao chừng mươi hiệp, Lý Thành thấy sức lực Sách Siêu khó lòng địch
nổi Quan Thắng, liền múa đao ra trận, để hiệp lực cùng đánh. Bên nầy Tuyên Tán,
Hắc Tư Văn thấy vậy cũng vác quân khí xông ra đánh giúp Quan Thắng. Năm con
ngựa đều quần nhau một chỗ, cát bụi tung lên không biết đâu mà trông được.
Tống
ginag đứng trên gò cao trông thấy, liền vẫy đại quân kéo tràn sang đánh. Quân
mã Lý Thành cả thua, bỏ chạy vào thành, rồi Tống giang cũng thu binh về trại...
Ngày hôm
sau mây mờ che kín, đất thảm trời sầu, một mình Sách Siêu dẫn toán quân mã ra
ngoài thành, xông đột thách đánh, Ngô Dụng liền sai một tóan quân nhỏ ra đánh
đùa, đợi cho Sách Siêu đuổi đến thì bỏ cả mà chạy, Sách Siêu được một trận,
trong lòng lấy làm vui mừng hớn hở, vào thành báo cho Trung Thư biết.
Chiều
hôm ấy, mây càng đen kín, gió càng thổi mạnh hơn lên. Ngô Dụng đưng trước
trướng nom ra, thấy tuyết rơi phơi phới, đầy trời một vẻ tiêu sơ, chàng bèn sai
quân sĩ đến các đường hẻm ven sông cạnh núi bên thành đào hầm xẻ hố, rồi lấy
đất phủ lên cho kín.
Đêm hôm
đó mưa tuyết càng nặng, đến sáng hôm sau trên các đường đi, tuyết đọng chừng
ngập cổ chân ngựa. Sách Siêu trèo lên thành nom ra, thì thấy quân sĩ Tống giang
đều có vẻ sợ hãi kinh hoàng, ngồi đứng không yên, chàng liền điểm ba trăm nhân
mã, xông ra thành để đánh. Quân mã Tống Giang thấy vậy đều chạy tán loạn mà
thục lấy thân. Sách Siêu đuổi đánh mấy bước, bỗng gặp thủy quân Đầu Lĩnh là Lý
Tuấn, Trương hoành cưỡi ngựa cầm thương đón đánh. Đôi bên đánh nhau chưa được
mấy hiệp, thì Lý Tuấn, Trương Hoành đã bị thua, bỏ cả thương mà chạy, Sách Siêu
nóng máu liền thốc ngựa đuổi theo hai người.
Khi tới
quãng đường kia, Một bên có khe nước, Lý tuấn liền bỏ ngựa nhảy thẳng xuống khe
kêu ầm lên rằng:
- Tống
Công Minh Ca Ca chạy mau đi.
Sách
Siêu nghe vậy, càng hết sức đuổi, tế ngựa lên để xông vào trận. Bỗng đâu thấy
phía sau núi có một tiếng súng nổ rất to, cả người lẫn ngựa Sách Siêu đều bị sa
xuống hố, rồi có đám quân phục ở bên đường, đổ ùa ra mà bắt trói...
Mới hay:
Nam nhi
đạp đất đội trời,
Thù xưa
mong trả, nợ đời mong trang.
Biết đâu
thời vận phi thường,
Máy then
xoay chuyển ai lường cho ra?
Bây giờ
thế lỡ cơ sa,
Chim
lồng cá chậu dễ mà trách ai?
Cho hay
tiến thoái ở đời,
Có thân
trước phải liệu thời cho tinh...
Lời bàn
của Thánh Thán.
Hồi nầy
tả thủy quân cướp trại sao đến nổi nói qua loa như thế? Vì chủ ý làm nảy ra một
Đại Đao Quan Thắng, còn mọi người không đáng kể chi!
Tả Đại
Đao từng chỗ thấy nảy ra biến tướng của Quan Vân Trường, khá nói rằng rất là
nho nhã, rất là hoạt đạt, rất là rung thành, và rất anh linh, trong đám một
trăm lẻ tám người, lại có một bậc tuyệt luân siêu quần, lại không thể đem con
mắt đọc mọi truyện khác, mà đọc truyện nầy!
Tả trời
tuyết bắt Sách Siêu, chỉ tả qua Sách Siêu, lại cần tả ra tuyết trời kia. Tả lấy
rõ thời tuyết tinh thần, khiến cho bắt được Sách Siêu, đó là phép thần nhiễm
của hoạ gia, chẳng thể bỏ qua một chút.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 64: Thác Tháp Thiên Vương, trong mơ
hiển thánh; Lãng Lý Bạch Điều, dưới nước báo oán
Bấy Sách
Siêu bị bắt, đám quân chạy tán loạn về thành báo với Lương Trung Thư, Trung Thư
nghe tin cả kinh, truyền cho quân đóng chặt cửa thành, không dám đem quân ra
đánh, rồi toan đem giết Lư Tuấn Nghĩa, và Thạch Tú, song sợ Tống Giang tức giận
phá thành, mà quân viện của triều đình không kịp tới, thì nguy hiểm đến nơi,
nên phải giam hai người ở đó, và dâng biểu về tâu triều đình các lẽ.
Bên kia
bắt trói Sách Siêu, đem giải vào trướng Trung Quân, Tống Giang trông thấy cả
mừng, thân hành cởi trói cho Sách Siêu, mời vào trong trướng thiết rượu, rồi
lấy lời ngon ngọt nói với Sách Siêu rằng:
- Tướng
Quân coi xem, anh em chúng tôi cũng là quá nửa trong đám quan quân ra cả, vậy
nếu Tướng quân có lòng hạ cố thì xin ở đây giúp Tống Giang tôi để thay Trời làm
Đạo mà cứu lấy sinh linh.
Dương
Chí cũng đến chào hỏi Sách Siêu, cùng nhau kể nỗi ly biệt, đôi bên gạt thầm lụy
thảm, rồi Sách Siêu xin vâng lời mà ở đó. Tống Giang thấy vậy cả mừng liền sai
đặt tiệc thiết đãi trong trướng.
Ngày hôm
sau các tướng lại hết sức đánh thành mấy ngày trời, không sao phá nổi. Tống
Giang lấy làm lo nghĩ băn khoăn mà đứng ngồi vơ vẫn không yên. Một hôm Tống
Giang đương ngồi buồn trong trướng, bỗng thấy ngọn gió đìu hiu đưa đến, làm cho
ngọn đèn trước trướng đã tắt hẳn rồi lại loé lên như đom đóm. Khi trận gió thổi
qua chợt thấy dưới bóng đen có một người đi đến, ra ý dùng dằng băn khoăn, gọi
Tống Giang mà hỏi rằng:
- Anh em
ở đây làm gì như vậy?
Tống
Giang ngẩng nom, té ra là Tiều Cái ở đó, chàng liền kinh ngạc đứng dậy đáp
rằng:
- Ca Ca
ở đâu đến đây? ... Đại thù tôi chưa báo được, trong lòng thực là áy náy không
yên. Nay nhân việc binh bận rộn, không được chu tất việc tế lễ, vậy vong linh
Ca Ca về đây, chắc là có việc gì mắng trách đó chăng?
- Hiền
đệ không biết, tôi với hiền đệ là anh em tâm phúc, nên tôi phải đến đây để cứu
đó. Hiện nay cái nạn sau lưng sắp phát, chỉ có một vị sao thiêng ở đất Giang
Nam thì mới khu trừ đi được, vậy ba mươi sáu chước chước nào là hơn, hiền đệ
phải liệu mau đi, kẻo sau lại hối hận là anh em không cứu.
Tống
Giang nghe nói vội sấn đến gần mà hỏi rằng:
- Âm hồn
Ca Ca đến đây, có việc gì xin nói thực cho...
Tiều Cái
đáp rằng:
- Thôi không
cần nói lắm phải lập tức thu xếp về đi chớ lưu luyến đây nữa... Tôi đi đây.
Nói đoạn
Tống Giang sịch mở mắt ra, mới biết là một giấc mộng Nam Kha canh vắng, chàng
liền mời Ngô Dụng đến thuật giấc mộng cho nghe.
Ngô Dụng
nói rằng:
- Tiều
Thiên Vương đã hiển thánh như vậy chắc là đích thực chứ không sai. Vả hiện nay
khí trời đương lạnh, gió bấc tuết sương, quân mã ở lâu không tiện, vậy cũng nên
tạm lui về núi chờ khi Đông hết sang Xuân, rồi sẽ đem quân đi đánh cũng chưa
muộn gì. Việc đó xin nhân huynh liệu trước thì hơn.
- Quân
Sư nói đã đành là phải, song Lư Viên Ngoại cùng Thạch Tú còn đương bị giam ở
trong lao, một ngày đăng đẳng mong mỏi anh em đến cứu, nay nếu bây giờ rút quân
trở về thì tất là tính mạng của họ khó lòng mà toàn được. Nói thế thực là tiến
thoái lưỡng nan, ta nên bàn kỹ xem sao rồi sẽ liệu.
Nói đoạn
hai người bàn bạc một đêm hôm ấy, không quyết định ra sao.
Sáng hôm
sau Tống Giang bỗng thấy tinh thần mỏi mệt, mình nóng như sôi, đầu nhức như búa
bổ, nằm liên miên ở giường mà không muốn dậy.
Các Đầu
Lĩnh thấy vậy đều tụ họp trước trướng để thăm hỏi trông nom.
Khi các
tướng nom đến Tống Giang thấy đằng sau lưng có một mụn như hạt đậu nổi lên, đỏ
vầng như viên than nóng. Ngô Dụng thấy vậy nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Cái
bệnh nầy không phải là ung cũng không phải là nhọt, duy có thứ bột đậu xanh,
khả dĩ giữ được khí độc không cho thấm vào trong ruột, vậy ta nên tìm thứ bột
ấy cho Ca Ca uống mới được. Còn về việc thuốc men thì ở đây xa lạ, không biết
rằng tìm đâu cho được thầy hay?
Ngô Dụng
chưa nói dứt lời, thì thấy Lãng Lý Bạch Điều nói lên rằng:
- Khi
trước mẹ tôi ở Tầm Dương, bị cái hậu bối, thuốc men mãi không khỏi bệnh, sau
mới được ông An Đạo Toàn ở phủ Kiến Khang đến chữa, thì bệnh lập tức khỏi ngay,
từ đó tôi lấy làm cảm phục ông ta, mà kiếm được tiền nong là đem đến biếu. Nay
bệnh huynh trưởng như vậy, tưởng có người ấy đến, thì thế nào cũng khỏi, duy
đây sang Kiến Khang Châu thì đường sá diệu vợi, nếu muốn kịp thì phải đi ngay
cho chóng mới được.
Ngô Dụng
nói:
- Huynh
trưởng nằm mê thấy Tiều Thiên Vương nói có vạ sau lưng, tất phải có linh tinh ở
Giang Nam mới được, có lẽ là người đó chăng?
Tống
Giang nói:
- Nếu có
phải vậy, thì Trương huynh nên lập tức đi mời về đây cứu mệnh cho ta, chớ khá
từ nan mới được. Ngô Dụng liền lấy ra trăm lạng vàng để đưa thầy thuốc, và đưa
ba mươi lạng bạc cho Trương Thuận làm lộ phí mà dặn rằng:
- Ngươi
phải lập tức đi ngay chớ nên để lỡ. Ta nay nhổ trại kéo quân về núi, ngươi đi
mau mau, đón người ta về đó, phải cho đến nơi đến chốn mới được.
Trương
Thuận vâng lời, lập tức gói khăn gói từ biệt mọi người ra đi. Ngô Dụng lại sai
lấy xe đặt Tống Giang lên rồi nhổ trại thu quân đêm hôm đó kéo về Sơn Bạc.
Lương
Trung Thư nghe tin Tống Giang đã rút quân về, trong bụng hoài nghi không hiểu
ra sao? Lý Thành Văn Đạt đều nói ra.
Lão Ngô
Dụng khôn ngoan qủy quyệt, lắm kế nhiều mưu, ta chỉ nên giữ vững, chớ ra đuổi
mà khốn.
Lương
Trung Thư nghe nói khen phải, liền sai đóng thành giữ vững, mà không dám đuổi
theo.
Về phần
Trương Thuận một mình khoác khăn gói ra đi, trời đông sương tuyết lạnh lẽo đìu
hiu, trên đường vắng ngắt vắng tanh, riêng có một thân vò võ. Khi đến sông Tầm
Dương, trông quanh trông quẩn không có một chiếc đò nào để sang ngang được,
trong lòng lấy làm sốt ruột vô cùng.
Chàng
lại theo nẻo bờ sông đi một lát, chợt trông thấy trong đám lau lách, có tiếng
sột soạt, rồi có một người đầu đội nón lá, mình mặc áo tơi, chạy ra hỏi Trương
Thuận rằng:
- Ông
muốn đi đâu?
- Ta
muốn sang phủ Kiến Khang, có một việc rất cần, chở giúp cho sang, rồi ta sẽ trả
nhiều tiền. Chở cũng được, không ngại gì, nhưng bây giờ sắp tối rồi, ông sang
bên kia cũng không có chỗ trọ, vậy bất nhược ông hãy ngủ tạm ở thuyền tôi, rồi
gần sáng gió im tuyết lạnh, tôi sẽ chở sang, phải cho nhiều tiền mới được.
Trương
Thuận nghe nói, lấy làm phải, liền theo người lái đò cùng đi xuống lối bờ lau.
Khi ra tới mé sông thấy có một chiếc thuyền nhỏ buộc ở đó. Trong mũi thuyền có
một hậu sinh gầy gò đương ngồi quay vào lò lửa để sưởi. Lái đò đưa Trương Thuận
xuống thuyền mời vào trong khoang, cởi áo ư ớt ra, gọi tên hậu sinh đem ra lò
lửa để hơ, rồi Trương Thuận mở khăn gói ra, lấy chăn bông nằm cuộn tròn ở trong
khoang.
Nằm một
lát, Trương Thuận gọi lái đò đến bảo rằng:
- Ở đây
có rượu không? Để lại cho ta một ít thì tốt lắm.
- Rượu
thì đây không có, chỉ có ít cơm, ông có xơi để tôi dọn. Trương Thuận ngồi nhổm
dậy, bảo xới cơm lên ăn mấy bát, rồi lại nằm lăn xuống ngủ. Chàng đi mấy hôm
trời khó nhọc, nay được chăn ấm chiếu êm, liền nằm thiếp đi lúc nào không biết.
Bấy giờ
tên hậu sinh kia vừa ngồi hơ áo trên đống lửa, vừa quay lại nhìn Trương Thuận,
rồi khẽ gọi lái đò mà bảo rằng:
- Ca Ca
có trông thấy không? Anh lái đò gật đầu hiểu ý, quay vào sờ gói của Trương
thuận, rồi khẽ bảo tên hậu sinh rằng:
- Ngươi
đẩy thuyền ra giữa sông sẽ hạ thủ thì tiện hơn.
Tên hậu
sinh nghe nói, liền khẽ đẩy mui bồn nhảy lên trên bờ, cởi giây thuyền ra, rồi
lấy sào sẽ đẩy thuyền lìa bến, mà chèo ra ngoài giữa sông. Khi tới giữa dòng
sông, tên lái đò cắm thuyền ở đó, lấy giây thừng lừa trói Trương Thuận lại, rồi
mở sạp thuyền lấy con dao lên... Bấy giờ Trương Thuận tỉnh dậy thấy hai tay bị
trói, không sao cựa được, rồi thấy tên lái đò cầm dao lăm lăm đứng bên cạnh
mình.
Chàng
lấy làm kinh ngạc liền nói lên rằng:
- Hảo
hán tha cho tôi, tôi xin đưa hết tiền nong ra nộp... Tên lái đò ung dung đáp
rằng:
- Tiền
cũng cần mà tính mạng anh cũng cần...
- Vâng,
vậy ông làm phúc cho tôi được toàn thân mà chết, thì linh hồn tôi không khi nào
oán đến ông.
Tên lái
đò cười nhạt mà nói rằng:
- Cái đó
thì được lắm.
Nói đoạn
vất con dao xuống, xách Trương Thuận mà ném xuống nước, rồi quay vào mở khăn
gói ra xem. Khi lái đò trông thấy khăn gói có nhiều vàng bạc thì ngẩn người ra,
cau lông mày một cái, rồi gọi tên hậu sinh ra mà bảo rằng:
- Ngũ đệ
đến đây ta bảo.
Tên hậu
sinh nghe nói, vừa quay cổ đi vào, thì bị tên lái đò đâm cho một nhát, mà gạt
phăng xuống giữa dòng sông. Đoạn rồi tên lái đò rửa sạch máu me trên thuyền, mà
nhổ sào kẽo kẹt chèo đi.
Thực là:
Máu tham
thấy lợi thì mê,
Trời cao
đất rộng thiếu chi chuyện đời.
Ghê thay
những kẻ vô loài,
Gươm
vàng giáo bạc giết người đã bao?
Nói về
Trương Thuận vốn là tay lặn nước đã quen, xưa nay thường ở dưới nước bốn năm
đêm mới lên cũng được. Hôm đó chàng bị tên lái đò trói quăng xuống sông, liền
cắn đứt dây trói ra, rồi mới bơi lên mặt nước, mà đi sang mạn bờ bên kia. Khi
đó đi xa trông thấy đám rừng cây về phía bên Nam, có ánh đèn ngấp ngó, chàng
liền thoi thóp lên bờ, để nguyên quần áo lướt thướt mà đi thẳng vào.
Chàng đi
đến chỗ ánh lửa thấy có một hàng cơm, ánh lửa xuyên thầu vách thủng mà soi ra
ngoài, chàng gõ cửa một tiếng, thấy có ông lão chạy ra mở, chàng liền cúi đầu
chào ông lão mà xin hỏi trọ.
Ông lão
hỏi rằng:
- Anh có
phải là bị cướp ở sông, rồi nhảy ngay xuống nước trốn đến đây không?
Trương
Thuận nói:
- Chẳng
giấu gì cụ, tôi ở Sơn Đông, muốn đi sang phủ Kiến Khang có việc, chẳng may đêm
qua xuống đò sang ngang, bị tên hung đồ trói bỏ xuống sông, mà cướp lấy cả tiền
nong quần áo, nhân vì tôi biết lội nước, nên mới thoát nạn mà lên được đến đây
xin cụ cứu cho tôi với.
Ông già
nghe nói mời Trương Thuận vào nhà bảo đem quần áo ra hơ, và đem rượu nóng ra
thiết đãi, ông già lại hỏi Trương Thuận rằng:
- Bác
tên họ là gì, ở Sơn Đông sang đây có việc chi?
- Tôi họ
Trương, là anh em với thầy lang An ở phủ Kiến Khang, nay nhân rảnh việc đến
thăm anh em cũng không có việc chi cần gấp.
- Bác ở
Sơn Đông đến đây, có đi qua Lương Sơn Bạc không?
- Có,
chính tôi đi qua lối đó.
- Tôi
thấy nói chủ Sơn Bạc là Tống Giang, không hay cướp bóc hành khách, cũng không
hay giết hại người ta, chỉ chăm chăm thay Trời làm Đạo có phải không?
- Vâng,
Tống Đầu Lĩnh chỉ ghét đám tham quan lại nhũng, mà không hại đến lương dân bao
giờ.
- Tôi
thấy nói tụi Tống Giang thực là nhân nghĩa, chỉ thương nghèo cứu khổ, chứ không
như bọn giặc cỏ ở đây... Nay nếu được tụi ấy đến đây thì may ra đám lương dân
cũng được khoái hoạt, mà khỏi bị đám tham quan nhũng lại như trước.
Trương
Thuận nghe nói đến đó, liền bảo với ông già rằng:
- Tôi
nói câu nầy thì ông bỏ qua đi cho, chính tôi là Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận
ở Lương Sơn Bạc đây. Nhân vì Tống Công minh Ca Ca tôi bị lên hậu bối, sai tôi
đem một trăm lạng vàng sang đón An Đạo Toàn về chữa, ai ngờ ngủ dưới thuyền bị
nó cướp mất tiền trói bỏ dưới sông, rồi tôi cắn đứt cả thừng mà lội lên đây.
Ông già
có vẻ vui mừng mà rằng:
- Bác là
hảo hán ở Lương Sơn, thì lão tôi cho thằng cháu trai ra chào bác.
Nói đoạn
liền đứng dậy đi vào nhà trong. Được một lát có một người hậu sinh gầy gò ở
trong đi ra, vái chào Trương Thuận mà rằng:
- Tôi
được nghe đại danh Ca Ca đã lâu, nay mới được gặp đây, thực là hạnh phúc. Tôi
đây họ Vương bày vai thứ sáu, vì sức chạy nhảy rất nhanh nên người ta thường
gọi là Hoạt Diêm La Đình Lục, bìng sinh chỉ thích lội nước đánh gậy, cũng đã
học tập được nhiều thầy, mà không tìm được người giỏi, nay tạm bán ngôi hàng
đây cho qua loa ngày tháng đó thôi. Mới rồi mấy người cướp tiền của Ca Ca tôi
đều biết cả. Một người là Tiết Giang Quỹ Trương Vượng và một người hậu sinh gầy
gò tên là Du Lý Thu Tôn Ngũ, người ở huyện Hoa Đình đến đó. Hai tên ấy vốn quen
nghề cướp bóc ở sông xưa nay, xin Ca Ca cứ vững tâm, ở đây vài hôm, để đợi
chúng đến đây uống rượu rồi tôi sẽ báo thù cho Ca Ca.
Trương
Thuận cảm tạ mà rằng:
- Tống
Ca Ca tôi đương mắc bệnh, việc đón thầy rất cần, vậy sáng mai thế nào chúng tôi
cũng phải đón an Đạo Toàn rồi về đây cũng được.
Vương
Đình Lục liền lấy áo xiêm mới cho Trương Thuận thay, rồi giết gà làm cơm để
đãi.
Sáng hôm
sau trời quang tuyết tạnh, Vương Đính Lục lấy mười lạng bạc, đưa cho Trương Thuận
đi vào thành. Trương Thau65n đi vào thành đến nhà An Đạo Toàn, thấy Đạo Toàn
đương ngồi bán thuốc, chàng liền lật đật chạy vào để chào.
Đạo Toàn
trông thấy Trương Thuận, thì có vẻ ngạc nhiên mà rằng:
- Anh em
đi đâu đã lâu mà không được gặp, nay có việc chi lại đến đây?
Nói đoạn
mời Trương Thuận vào nhà trong, Trương Thuận đem chuyện mình thuật rõ cho An
Đạo Toàn nghe, và thú thực bị cướp mất tiền nong, nay chỉ có tay không đến đó.
An Đạo
Toàn nói:
- Tống
Công Minh là một bậc nghĩa sĩ xưa nay, đáng lẽ cần phải chữa ngay mới phải,
song hiềm vì nhà tôi mới mất dạo trước, trong nhà không có ai là người thân
thuộc trông nom, như vậy cũng khó lòng mà đi ngay được.
Trương
thuận cố vật nài mà rằng:
- Nếu
huynh trưởng không có lòng cứu giúp, thì tôi quyết nhiên không dám về núi nữa.
An Đạo
Toàn ngần ngừ hồi lâu rồi nói rằng:
- Hãy để
tôi liệu xem sao.
Trương
Thuận lại cố tình nói mãi, về sau An Đạo Toàn mới chịu y lời để đi. Nguyên An
Đạo Toàn mới đi lại với một con đào hát ở Phủ Kiến Khang, tên là Lý Xảo Nô, đôi
bên tình ý rất là thân mật với nhau. Chiều hôm đó an Đạo Toàn dẫn cả Trương
Thuận đến nhà Lý Xảo Nô thiết đãi rượu chè, rồi Lý Xảo Nô bái Trương Thuận làm
thúc thúc.
Khi uống
rượu được một vài tuần, an Đạo Toàn bảo với Lý Xảo Nô rằng:
- Đêm nay
ta nghỉ đây một tối, rồi sáng mai phải đi Sơn Đông với anh em có lẽ một tháng,
hay vài mươi ngày, thì mới về được. Lý xảo Nô đáp rằng:
- Tôi
không thích cho chàng đi, nếu chàng không nghe lời tôi thì từ rày đừng đến cửa
tôi nữa.
- Ta đã
sắp sửa thuốc men rồi, chỉ sáng mai là phải đi, nàng hãy bằng lòng vậy, tôi đi
nhanh chóng về ngay, không dám trì trện đâu mà ngại.
Lý Xảo
Nô lại làm bộ uốn éo, nằm ngả vào lòng An Đạo Toàn mà nói rằng:
- Nếu
chàng không nghĩ đến tôi, thì cứ đi ngay, tôi chỉ nguyền rủa cho nát từng mảnh
thịt ra thôi...
Trương
Thuận nghe nói tức giận vô cùng, không thể làm sao cho tiện, tối hôm ấy An Đạo
Toàn say rượu nằm lăn ở trong phòng Lý Xảo Nô mà ngủ.
Xảo Nô
bảo với Trương Thuận rằng:
- Anh đi
đâu mà ngủ chứ nhà tôi đây chật lắm không có chỗ ngủ.
Trương
Thuận nói:
- Để đợi
Ca Ca tôi tỉnh rượu rồi cùng đi.
Xảo Nô
đuổi Trương Thuận không được đành cho chàng ngủ ở một cái phòng con ngay gần
ngoài cửa, Trương Thuận nằm đó trong lòng lấy làm băn khoăn vơ vẫn không yên,
không sao chợp mắt đi được.
Vào
khoảng cuối canh một có người gõ cửa ở ngoài. Trương Thuận liền ghé vào chỗ
vách để nom ra, thì thấy có một người đi vào, nói với bà già ở nhà Xảo Nô. Bà
lão bảo với người kia rằng:
- Bác đi
đâu mà lâu mới đến đây. Hôm nay thầy lang nằm say trong phòng kia, còn làm thế
nào được?
Người
kia nói:
- Tôi có
mười lạng vàng muốn đưa cô ấy để kéo vòng hột, vậy xin cụ làm ơn cho tôi được
gặp cô ấy một lát.
Mụ già
nói:
- Nếu
vậy bác ngồi tạm ở buồng tôi, rồi tôi gọi nó sang.
Nói đoạn
mụ già dẫn người kia đi vào phòng.
Trương
Thuận nhờ ánh sáng nom mặt anh chàng kia, té ra chính là anh Tiết Giang Quỹ
Trương Vượng, ăn cắp khăn gói ở bến sông Tầm Dương trước. Sau lại thấy mụ già
đem chè rượu ra thiết đãi Trương Vượng, và gọi Xảo Nô sang để tiếp chuyện.
Trương Thuận thấy vậy sốt ruột bừng bừng, toan xông chạy vào để đánh, sau nghĩ
đi nghĩ lại sợ lỡ mất việc, lại đành phải im để nghe ngóng xem sao.
Hồi lâu
ước chừng vào khoảng canh ba, hai người nhà đều say rượu chúi ở dưới bếp, còn
mụ già cũng say nhứ say nhừ, mà ngồi ngất ngưỡng ở trên ghế. Trương Thuận đi
thẳng xuống bếp vớ được con dao phay chém cho mụ già một phát ngã lăn xuống
ghế, rồi toan quay ra chém hai đứa người nhà. Bất đồ con dao nhụt quá, chém
được một người, thì lưỡi đã cong cờn cả lên, không sao dùng được nữa.
Hai đứa
người nhà thấy vậy kinh sợ đã toan kêu, thì Trương Thuận đã vớ ngay được cái
búa bổ củi ở bếp, chặt luôn cho mỗi đứa một nhát, chết quay ra đó. Bấy giờ Xảo
Nô đương ngồi trong phòng với Trương Vượng, nghe thấy tiếng động, vội vàng chạy
ra để xem. Dè đâu vừa đẩy cửa ra bị Trương Thuận chém cho một nhát búa cũng
chết lăn ra nốt. Trương Vượng nhanh mắt trông thấy Xảo Nô bị chém, liền đẩy cửa
ra lối sau, rồi nhảy qua tường mà trốn.
Trương
Thuận giết xong bốn người, trong bụng lấy làm băn khoăn khó chịu. Chợt nhớ ra
chuyện Võ Tòng giết nhà Trương Đô Giám khi trước, chàng kiền xé một miếng vải
thấm máu đỏ, mà viết lên tường vôi trắng rằng: " Kẻ giết người là An Đạo
Toàn".
Chàng
viết luôn mười mấy chỗ như thế, rồi rửa sạch chân tay, lại vào phòng ngồi đợi.
Đến lúc canh năm trời gần sắp sáng, An Đạo Toàn tỉnh dậy hỏi lên rằng:
- Người
yêu của ta đâu?
Trương
Thuận nghe nói, liền chạy đến bảo Đạo Toàn rằng:
- Ca Ca
phải im tiếng, để tôi dưa đến cho mà xem người yêu.
Nói đoạn
dắt An Đạo Toàn ra cửa phòng cho xem. An Đạo Toàn ra xem thấy tên nhà dưới bếp
có bốn cái xác chết nằm đó thì lấy làm kinh ngạc rụng rời cả chân tay như người
ngộ gió.
Trương
Thuận lại trỏ lên những chỗ viết chữ ở trên tường mà nói rằng:
- Ca Ca
đã trông thấy chữ của Ca Ca viết chưa?
An Đạo
Toàn trông thấy lại còn ngẫn người ra, rồi kêu lên rằng:
- Anh
làm thế nầy thì khổ tôi quá!
Trương
Thuận nói:
- Bấy
giờ chỉ có hai cách tuỳ bác muốn làm thế nào thì làm? Nếu bác kêu lên thì tôi
chạy ngay, để mặc cho bác đền mạng người chết. Bằng bác muốn cho êm ả mọi việc
rồi xin về nhà gói ghém thuốc men rồi đi ngay lên Lương Sơn Bạc với tôi mới
được. Có hai đường ấy muốn sao mặc lòng.
An Đạo
Toàn thở dài mà than rằng:
- Sao
anh làm tàn nhẫn quá thế? Thôi bây giờ còn biết thế nào được nữa?
Nói đoạn
liền dẩn Trương Thuần về nhà gói ghém thuốc men rồi đi theo với Trương Thuận.
Trương Thuận đưa An Đạo Toàn cùng ra hàng rượu Vương Đình Lục.
Vương
Đình Lục bảo với Trương Thuận rằng:
- Hôm
qua Trương Vượng qua đây, tiếc vì không gặp Ca Ca ở nhà.
Trương
Thuận nói rằng:
- Chính
tôi cũng có gặp, nhưng bấy giờ không kịp đến được hắn ta. Ý tôi muốn làm được
việc lớn chứ có cần gì sự báo thù vặt ấy? ...
Vừa nói
dứt lời thì thấy Vương Đình Lục nói lên rằng:
- Kìa
Trương Vượng đương đi ở đây kìa.
Trương
Thuận dặn rằng:
- Để yên
dừng nói xem hắn ta đi đâu.
Nói đoạn
quay ra nom, thì thấy Trương Vượng đang lững thững đi ra bến thuyền. Vương Đình
Lục chạy theo gọi với Trương Vượng mà nói rằng:
- Bác để
thuyền chở mấy người bà con của tôi sang sông với.
Trương
Vượng quay lại đáp rằng:
- Có đi
thuyền thì ra đi mau.
Vương
Đình Lục quay vào bảo với Trương Thuận.
Trương
Thuận bảo An Đạo Toàn rằng:
- An
huynh cho tôi mượn quần áo của bác, bác mặc quần áo của tôi, rồi ta cùng đi ra
thuyền.
An Đạo
Toàn hỏi rằng:
- Làm
thế là ý gì?
- Tôi
khắc có cách bác bất tất phải hỏi.
An Đạo
Toàn liền đổi quần áo cho Trương Thuận, rồi hai người cùng ăn mặc chỉnh tề ra
đi. Vương Đình Lục vác khăn gói thuốc của An Đạo Toàn đưa hai người ra bến
thuyền. Trương Vượng đẩy thuyền vào bờ, ba người cùng bước xuống thuyền, rồi
Trương Vượng chèo kẽo kẹt ra giữa dòng sông.
Khi ra
giữa dòng sông Trương Thuận bước vào trong khoang lật ván thuyền tìm thấy con
dao của Trương Vượng, rồi gọi lên rằng:
- Bác
lái vào mau đây, sao trong thuyền có vết máu thế nầy?
Trương
Vượng đáp lên rằng:
- Xin
ông chớ cười tôi... .
Chàng
vừa nói vừa chui vào trong khoan để xem.
Bất đồ
vào tới nơi bị Trương Thuận đẩy ngã xuống sạp thuyền rồi đề chặt xuống mà quát
lên rằng:
- Quân
cường đạo, có biết người khách đi thuyền lúc mưa tuyết hôm nọ không?
Trương
Vượng ngóc cổ lên nom rõ Trương Thuận, liền nín lặng mà không nói chi cả.
Trương
Thuận quát hỏi rằng:
- Quân
chó má nầy, mầy đã mưu lấy một trăm lạng vàng của ta, lại toan hại ta nữa là
nghĩa làm sao? Còn người hậu sinh gầy gò hôm ấy đâu?
Trương
Vượng nói rằng:
- Dám
thưa hảo hán, vì tôi thấy nhiều vàng, sợ nó chia mất nên tôi giết nó mà bỏ
xuống sông ngay hôm ấy rồi.
Trương
Thuận lại quát lên rằng:
- Quân
chó má nầy, ông đây đẻ ở bến Tầm Dương, lớn ở dưới núi Tiểu Cô đã từng buôn bán
chài lưới, thiên hạ ai không biết tiếng. Sau nhân đến cướp Giang Châu, chiếm
Lương Sơn Bạc, theo cùng ông Tống Công Minh ngang dọc bốn phương, ai không sợ
hải! Thế mà bây dám lừa ta xuống thuyền, trói ném xuống sông để cướp tiền bạc.
Nếu ta không biết lội nước, thì phỏng còn gì tính mạng với ngươi? Ngày nay oan
thù gặp gỡ ta không thể tha ngươi được.
Nói đoạn
liền vớ lấy cái thừng trói gò bốn chân tay, rồi xach ra mạn thuyền quăng tõm
xuống sông mà nói rằng:
- Ta tha
cho mày một mũi dao đó.
Vương
Đình Lục nom thấy lấy làm than thở bồi hồi vô hạn. Trương Thuận lại quay vào
lục ở trong thuyền tìm lấy món tiền hôm trước gói vào trong bọc, rồi ba người
chèo thuyền vào bờ.
Khi đến
bờ sông Trương Thuận bảo với Vương Đình Lục rằng:
- Ân
nghĩa của hiền đệ, không bao giờ tôi dám quên được, nay nếu hiền đệ có lòng hạ
cố, thì xin trở về thu xếp tửu điếm, rồi đưa phụ thân lên núi Lương Sơn để cùng
tụ nghĩa chẳng hay hiền đệ nghĩ sao?
Vương Đình
Lục đáp rằng:
- Ca Ca
dạy thế thích hợp ý tôi, tôi xin lục tục theo sau lập tức...
Nói đoạn
bái biệt hai người, lên thuyền trở về thu xếp nhà cữa để dẩn phụ thân đi lên
Lương Sơn Bạc.
Bên kia
Trương Thuận khoác khăn gói thuốc, dẩn An Đạo Toàn theo đường về phía Bắc để
đi. An Đạo Toàn vốn người yếu đuối, đi bộ không quen, khi đi được ba mươi dặm
đường thì mõi mệt tay chân không sao đi được nữa. Trương Thuận mời vào trong
hàng nghỉ, và sai dọn rượu ra để thiết đãi.
Đương
khi ăn uống chợt thấy một người chạy vào gọi Trương Thuận mà bảo rằng:
- Sao
anh em đi chậm thế?
Trương
Thuận nghe nói ngẩng lên nom thấy Thần Hành Thái Bảo Đới Tung ăn mặc giả dạng
khách buôn đến đó, liền vội vàng bảo An Đạo Toàn đứng dậy vái chào, rồi cùng
ngồi nói chuyện với nhau.
Trương
Thuận hỏi bệnh tình Tống Công Minh, Đới Tung đáp rằng:
- Hiện
nay Tống Ca Ca tinh thần hôn mê, cơm cháo không ăn, có lẽ sắp nguy mất!
Trương
Thuận nghe nói bổng ra vẽ xót thương, mà chan chứa tuôn đôi hàng lụy.
An Đạo
Toàn hỏi Đới Tung rằng:
- Trông
sắc da và sắc huyết ra thế nào?
Đới Tung
đáp:
- Trông
sắc da nhờn nhợt, trọn ngày chỉ kêu đau rền rĩ, tính mạng khó lòng mà toàn được
... !
- Nếu
thịt da còn biết đau đớn, thì còn chữa được, nhưng chỉ sợ quá ngày thì nguy
mất...
Đới Tung
nói rằng:
- Nếu
vậy tôi có cách đi nhanh được, xin ngài đi ngay bây giờ cho.
Nói đoạn
liền lấy hai miếng giáp mã buộc vào chân An Đạo Toàn khoác lấy khăn gói thuốc,
dặn Trương Thuận ở lại sau, rồi làm phép Thần Hành đưa An Đạo Toàn về trước.
Trương Thuận nghỉ ở hàng đó mấy hôm, thì thấy bố con Vương Lục cũng đưa nhau
đến.
Vương
Đình Lục thấy Trương Thuận còn ở gần đó thì lấy làm lạ liền hỏi rằng:
- Sao Ca
Ca còn trì trệ ở đây. An Đạo Toàn Tiên Sinh đâu rồi?
Trương
Thuận đáp:
- An
Tiên Sinh có Thần Hành Thái Bảo đón về trước, còn tôi ở lại đây là có ý đợi
hiền đệ, Thái Công cùng đi một thể cho vui.
Nói về
Đới Tung dẫn An Đạo Toàn về tới sơn trại, các Đầu Lĩnh ra đón tiếp vào Trung
Nghĩa Đường, rồi đưa vào thăm bệnh Tống Giang. Khi vào tới phòng thấy Tống Giang
thoi thóp thở như người sắp chết.
An Đạo
Toàn xem mạch cẩn thận rồi nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Các
ngài không phải ngại mạch nầy không có việc gì cả. Bề ngoài tuy bệnh thế trầm
trọng, song mạch vững vàng... .Tôi không dám nói khoác, chỉ trong vòng mười hôm
nữa thì có thể khỏi bệnh.
Chúng
nghe nói đều lạy tạ An Đạo Toàn mà mau mau cứu chữa giúp cho, An Đạo Toàn trước
hết lấy ngãi chích hết độc khí, rồi dùng thuốc đồ dịch ở ngoài rồi cho thuốc đồ
tể ở trong. Được năm hoomthif nước da đã hơi đo đỏ, mà thịt đã nhuận hơn, rồi
mươi hôm thì lại ăn uống được như cũ. Duy còn cái nhọt vẫn chưa kín được thì
thôi.
Hôm đó
Trương Thuận đưa bố con Vương Đình Lục về tới sơn trại vào chào lạy Tống Giang
cùng các vị Đầu Lĩnh và thuật chuyện việc bị cướp ở sông Tầm Dương cho mọi
người nghe. Các Đầu Lĩnh đều lấy làm khen ngợi vô cùng. Bấy giờ nghe thấy bệnh
thế đã hơi thư thái, liền gọi các Đầu Lĩnh đến, dân đấn hai hàng nước mắt, rồi
bàn định việc đến thành Đại Danh để cứu Thạch Tú và Lư Viên Ngoại.
An Đạo
Toàn can Tống Giang rằng:
- Cái
nhọt của Tướng quân chưa khỏi hẳn, xin Tướng quân chưa nên vội động, nếu vội
động thì khó lòng khỏi được.
Ngô Dụng
bảo với Tống Giang rằng:
- Việc
đó huynh trưởng không cần nghĩ đến, cứ tịnh dưỡng cho mạnh khoẻ là hơn, tôi tuy
bất tài, song hiện dạo đầu xuân, khí trời êm ấm, thế nào tôi cũng đem quân, đến
phá thành Đại Danh cứu lại Lư Viên Ngoại cùng Thạch Tú, và bắt hai đứa gian phu
dâm phụ để hả lòng huynh trưởng.
Tống
Giang nói rằng:
- Nếu
được Quân Sư hết lọng báo cứu giúp cho, thì Tống Giang nầy dẩu chết cũng không
còn gì hối hận chi nữa.
Ngô Dụng
bèn dâng lời rồi cùng nhau bàn định, để đến phá thành phủ Đại Danh.
Mới hay:
Trí mưu
khen đã đủ điều
Biết cơ
suy thịnh rõ chiều tiến lui.
Rắp toan
thu vét nhân tài,
Ra tay
quét sạch bụi đời gian tham!
Lời bàn
của Thánh Thán.
Tiều Cái
đến báo mà Tống Giang đã trở nên phản tặc, viết ra nhọt sau lưng cho rõ tội
phản bộ. Chỉ lạ cho Thi Nại Am sao ghét Tống Giang đến thế? Mà người đời sau
còn đem trung nghĩa nghĩ lầm, thì há phải Nại Am viết truyện, làm chi quân tử ở
kinh Xuân Thu, để cho đời sau điên đảo nói càn làm ra bụng tiểu nhân không biết
sợ gì vậy thay; Với kẻ có trách nhiệm đến nhân tâm thế đạo, mọi chuyện thị phi,
há chẳng xét đến hay sao?
Tống
Giang đã phản, từ khi tha cho Tiều Cái, Tiều Cái trốn mà cái độc của Tống Giang
nảy ra; Khi Tiều Cái chết, cái độc của Tống Giang đã thành, đến đây mới tả Tống
Giang sinh nhọt độc ở hậu bối, ý rõ ra phản trạng của Tống Giang đây, lúc nầy
mới phát, nhưng thực chí Tống Giang muốn phản đâu mới ngày nay, xem lời trong
mơ Tiều cái, với lời Tống Giang bảo trốn thấy một chữ không sai, tác giả chẳng
phí một lời, mà bút pháp đã nghiêm đến thế?
Đánh
thành Đại Danh, mấy lần bỏ đi đánh lại, khéo thay biến pháp của nhà văn.
Trước
kia đánh Chúc Gia Trang, hai ba lần, sau khi khổ chiến, chợt đâu một biến, biến
ra một đoạn văn tả Giải Trân, Giải Bảo rất là kỳ ảo; Đến đây đánh thành Đại
Danh, một hai lần sau khi khổ chiến, chợt đâu đột biến ra một đoạn văn tự
Trương Vượng, Tôn Ngũ, lại rất là kỳ ảo...
Tả
Trương Thuận đi mời An Đạo Toàn, chợt đâu một đoạn văn tả tình sự Tiết Giang
Quỹ Trương Vượng ngang qua, lạ thay trung gian lại còn thêm vào một đoạn văn tả
sự tình hậu sinh gầy gò Tôn Ngũ, thấy lòng văn như dòng sông xoay lộn, khiến
thông thân khẳng định nổi ra.
Số vàng
của Lương Sơn Bạc, đem đón An Đạo Toàn, chợt lọt vào tay Tiết Giang Qủy, một
lần đáng hãi; Nửa đêm cướp vàng, nửa đêm chơi gái, mà kẻ mất vàng với kẻ cướp
vàng, lại gặp một nhà, hai lần đáng hãi; Từ mời Thái Y đã hết vàng, Thái Y tới
mà vàng lại thấy, thuyền của Tiết Giang là chốn gủi vàng, ba lần đáng hãi; Trên
lòng sông gây oan, lại trên lòng sông trả oán, dù một lần gặp ở phòng Lý Xảo
Nô, hai lần gặp ở nhà Vương Đình Lục mà chưa kịp trả thù, bốn lần đáng hãi;Bản
đao còn đó, vết máu chưa khô, mà đầu oan gót nợ, nhanh như giở bàn tay, một
ngày trước bị giây thừng trói, lại một ngày nay bị trói giây thừng, chẳng khác
chút nào, năm điều đáng hãi; Tôn Ngũ cầm chèo, Tôn Ngũ mở dây thuyền, Tôn Ngũ
chở đi, đến khi xong việc, Tôn Ngũ bị ăn dao, Tôn Ngũ xuống nước, chẳng hay Tôn
Ngũ vì ai nhọc mệt nửa ngày; sáu lần đáng hãi; Tôn Ngũ trước giờ ác tâm, Tôn
Ngũ chết trước, Trương Vượng dẫu làm sao cũng không thể thoát, chẳng hay dưới
đáy nước gặp nhau, sẽ khóc hay cười? Bảy lần đáng hãi; Chỉ trong một chiếc
thuyền, chợt đâu có hai người Trương Vượng, Tôn Ngũ, chợt đâu lại ba người
Trương Thuận, Tôn Ngũ, Trương Vượng, lại chợt đâu còn có một người Trương
Vượng. Rồi lại chợt đâu ra bốn người Trương Thuận, An Đạo Toàn, Vương Đình Lục,
Trương Vượng, chợt đâu còn có ba người, mất Trương Vượng, rồi sau chợt đâu chỉ
một người Vương Đình Lục mà thôi, thế rồi không còn ai nữa. Vi Ứng Vật có câu
rằng: Bến đò không khách chiếc thuyền bơ vơ... riêng chiếc đò kia cũng bỗng đâu
hay giở, đó tám lần đáng hãi vậy.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 65: Đốt Thuý Vân Lâu, Thời Thiên vâng
lệnh; Phá Đại Danh Phủ, Ngô Dụng lập công
Bấy giờ
Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Huynh
trưởng ngày nay may đã bình yên vô sự, lại có An Thái Y trông nom giúp đỡ ở
đây, thực là vạn phúc cho sơn trại vạn phần. Vả trong bấy lâu nay tiểu đệ đã
cho thám thính tin tức ở thành Đại Danh, nghe nói Lương Trung Thư đêm ngày lo
nghĩ chỉ sợ quân mã của ta kéo đến thì rất là nguy biến. Tiểu đệ lại cho dán
tất cả yết thị trong thành ngoài thành để hiểu dụ cho nhân dân cùng biết về
việc đó là ta cốt bắt mấy người can phạm mà không hề gì đến dân, vì thế nên
Lương Trung Thư lại càng lo riết. Còn về phần Xái Thái Sư từ khi nghe Quan
Thắng đầu hàng thì cũng sợ hãi kinh hoàng không dám tâu rõ trước mặt Thiên Tử,
và thường gửi thư đến bảo với Lương Trung Thư phải lưu tính mạng của Lưu Trung
Thư Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú để khỏi sự nguy hiểm về sau.
Tống
Giang nghe nói lại thúc giục Ngô Dụng mau mau hãy lập kế đánh thành.
Ngô Dụng
định kế rằng:
- Hiện
nay mới đầu mùa xuân, sắp đến ngày tết Nguyên Tiêu trong thành Đại Danh tất có
hội chơi đèn rất náo vậy ta nên thừa cơ hội nầy mà phục binh trong thành, rồi
sau sẽ kéo đại binh ập vào thì thế nào cũng phá được.
Tống
Giang cả mừng khen rằng:
- Kế đó
rất diệu xin quân sư thi hành ngay cho mới được.
Ngô Dụng
liền quay ra hỏi các Đầu Lĩnh rằng:
- Nay
cần nhất là việc phóng lửa ở trong thành, vậy trong đám anh em ai đảm đang cho
việc đó.
Thời
Thiên tiếp luôn rằng:
- Khi
Tiểu đệ còn nhỏ có qua thành Đại Danh ít bữa, trong thành có một nơi gọi là
Thuý Vân Lâu, trong lầu trên dưới có tất cả trên một trăm phòng... Đến đêm hôm
Nguyên Tiêu chắc là huyên náo. Vậy để xin vào trước trong thành lẩn ở Thuý Vân
Lâu rồi tối hôm đó sẽ phóng lửa ngay đó để lên hiệu, rồi Quân Sư kéo quân mã
vào sau.
Ngô Dụng
cả mừng mà rằng:
- Được
vậy thì hay lắm! Sáng mai ngươi bắt đầu đi sớm, cứ đến đêm Nguyên tiêu thì
phóng hỏa ở trên lầu Thuý Vân thế là công lớn.
Thời
Thiên vâng lời đi trước. Sáng hôm sau Ngô Dụng cắt cho Giải Trân, Giải Bảo giả
làm phường săn, tìm đến bán chim muông ở các quan nha trong thành để đợi đến
hôm đó hễ thấy lửa hiệu thì lập tức phải ngăn giữ quân lính đi báo.
Hai
người vâng lệnh đi ra, lại sai Đỗ Thiên, Tống Vạn giả làm người bán gạo, kéo xe
vào ngủ trọ trong thành, đến đêm hôm đó trông cửa hiệu mà lấy cửa Đông, Khổng
Minh, Khổng Lượng giả làm hai tên đầy tớ, lẻn vào thềm nhà các chốn náo nhiệt ở
trong thành để bấy giờ đi tiếp ứng mọi nơi... Lý Ứng, Sử Tiến giả làm khách đi
chơi, trọ ở ngoài cửa Đông thành đợi khi lửa lên thì đi giết đám lính coi thành
để mở cửa cho quân ra. Lư Trung Thư cùng Võ Tòng giả làm thầy chùa đi khuyên
giáo, đến chùa nào ở gần thành Đại Danh, nom lửa hiệu mà đến phía ngoài cửa nam
để ngăn đón đại quân và đánh chặn đường đi. Trâu Uyên, Trâu Nhuận giả làm người
bán đèn, nghỉ ở trong thành Đại Danh, để nom hiệu lửa mà đến nhà ngục cứu ứng,
Lưu Đường giả làm lính công đợi ở trước nha phủ để ngăn giữ các người đến báo.
Lại mời Công Tôn Thắng giả làm vân du Đạo Nhân, và Lăng Chấn giả làm đạo đồng;
đem mấy trăm súng phóng hỏa đến chỗ vắng phía trong thành để đợi hiệu lửa là nổ
súng lên. Lại sai Trương Thuận đi với Yến Thanh theo đường thủy vào thành, chực
ở ngoài nhà Viên Ngoại để bắt gian phu dâm phụ. Vương Nụy Hổ, Tôn Tân, Trương
Thanh, Hổ Tam Nương, Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương giả làm ba cặp vợ chồng nhà quê
vào thành xem đèn, rồi lần đến nhà Lư Viên Ngoại để phóng lửa. Sài Tiến cùng
Nhạc Hoà giả làm quan nhân đến nhà Xái Tiết Cấp cứu lấy tính mạng hai anh em
Xái Phúc. Khi cắt đặt xong rồi, các Đầu Lĩnh đều theo hiệu lệnh mà lập tức ra
đi...
Nói về
thành phủ Đại Danh, một hôm gần đến ngày tết Nguyên Tiêu, Lương Trung Thư gọi
Lý Thành, Văn Đạt, Vương Thái Thú cùng các quan lại trong thành đến để bàn về
việc hội đèn hôm rằm.
Lương
Trung Thư nói với mọi người rằng:
- Cứ
theo lệ thường mọi năm, thì thành Đại Danh ta đây, tất phải mở hội chơi đèn
giữa tối Nguyên Tiêu, cũng chẳng khác gì Đông Kinh vậy, song năm nay chẳng may
bị giặc Lương Sơn mấy phen quấy nhiễu, chỉ e hôm ấy chơi đèn, mà lỡ xẩy ra có
việc gì, thì làm sao cho được? Vậy các quan thử thương nghị xem sao?
Văn Đạt
nghe nói ứng ngay lên rằng:
- Thiết
tưởng đám giặc đã bỗng nhiên bỏ trốn, và dán yết thị khắp cả các nơi, như thế
là cùng đường hết kế còn lo ngại điều chi? Nếu năm nay ta không mở hội chơi
đèn, mà chúng dò biết, tất bị chúng chê cười. Vậy xin tướng công cứ hạ lệnh cho
dân gian phải đặt thêm các đèn, cho vui hơn mọi năm trước. Giữa chợ phải kết
thêm hai toà núi giả sơn, cũng theo như ở Đông Kinh, suốt đêm không cấm, từ
mười ba đến mười bảy, phải thả đèn luôn năm đêm và sức cho các Phủ Quan phải
sức bảo dân gian không được thiếu thốn. Hôm đó xin Tướng Công cứ thân hành đi
chơi vui với dân chúng, rồi tôi dẫn một toán quân mã ra đóng ở hang Phi Hổ để
phòng bị quân giặc, và cho Phó Đô Giám dẫn một toán quân kỵ đi tuần kiểm ngoài
Thành cho cẩn thận, như thế thì còn có ngại chi?
Lương
Trung Thư nghe nói cả mừng, liền treo bảng hiểu dụ dân xã cứ theo lệnh thi
hành.
Nguyên
Bắc Kinh là một nơi quận lớn xung yến ở đất Hà Bắc, đường đi lối lại giao thông
rất nhiều, buôn bán sầm uất hơn tất cả mọi nơi, nhân dân tụ tập rất là đông
đúc. Nay nhất đáng gặp hội phóng đăng thì ai nấy lấy làm nô nức thú vui, mà đua
nhau để nộp đèn chơi hội.
Trong
mấy hôm đó từ các nhà phú hào, cho đến các nhà loàng xoàng, đều tranh nhau đi
mua đèn để nộp. Các lái bán đèn trong mọi năm lại khuân đèn đến bán rất là náo
nhiệt. Khắp cả trong thành Đại Danh nhà nào nhà nấy, đều chăng đèn ngũ sắc ở
trước cửa, cùng là bày biện trang hoàng trông nghiễm nhiên là ngày đại hội.
Bên cầu
ở trước phủ Đại Danh có dựng lên một toà giả sơn, kết hai con rồng đỏ vàng rất
lớn mỗi một cái vẩy rồng có một ngọn đèn, và trong miệng phun nước rất trong.
Còn chung quanh cầu, cùng khắp cả quãng sông đều thắp đèn rất là rực rỡ. Trước
chùa Đồng Phật, cũng có một toà giả sơn, trên kết một con rồng xanh, xung quanh
có tới mấy nghìn ngọn đèn rất sáng.
Trước
lầu Thuý Vân kết một toà giả sơn, trên có con rồng trắng, bốn mặt đèn sáng rất
nhiều, Thuý Vân Lâu là một tửu lâu to nhất ở đất Bắc Hà, trong có ba tầng gác,
xà chạm cột sơn rất là lộng lẫy. Tầng trên tầng dưới có tới hơn một trăm phòng
ăn, ngày nào cũng đàn hát vang lừng không dứt tiếng, bởi vậy mà cái quang cảnh
ngày hội, lại càng huyên náo phần hơn. Hôm đó có người do thám, về báo cho Ngô Dụng
biết tin tức trong thành, Ngô Dụng lấy làm cả mừng nói rõ cho Tống Giang biết.
Tống
Giang nghe nói liền đòi thân chinh đến đánh thành Đại Danh. An Đạo Toàn can
rằng:
- Tướng
Quân chưa được khỏi thực, chớ nên vội vàng làm chi, nếu lỡ ra một chút sau nầy,
thì khó lòng mà cứu chữa được.
Ngô Dụng
cũng can khuyên Tống Giang mà rằng:
- Tiểu
đệ xin đi thay một chuyến, xin Huynh trưởng cứ vững tâm ở nhà không ngại chi
cả.
Nói đoạn
bèn cùng với Bùi Tuyên cấp tám đội quân mã để đi đánh; Đội thứ nhất Đại Đao Quan
Thắng dẫn Tuyên Tán, Hắc Trương Văn đi trước; Trấn Tam Sơn Hoàng Tín đi sau,
đều đem quân kỵ cả; đội thứ hai Báo Tử Đầu Lâm Xung dẫn Mã Lân, Đặng Phi đi
trước. Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh ứng cứu đi sau; cùng đem kỵ binh cả; Đội thứ ba
Song Chiên Hô Duyên Chước, dẫn Hàn Thao, Bành Dĩ đi trước, Bệnh Uùy Tri Tôn Lập
đi sau, đều dẫn quân kỵ cả; Đôi thứ tư tích Lịch Hỏa Tần Minh dẫn Âu Bằng, Yến
Thuận đi trước, Khiêu Giản Hổ, Trần Đạt đi sau, đem quân kỵ cả; Mục hoằng dẫn
Đỗ Hưng, Trịnh Thiên Thọ kéo quân bộ đi đội thứ năm; Hắc Toàn Phong Lý Quỳ dẫn
Lý Lập, Tào Chính đem quân bộ đi đội thứ sáu, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành dẫn Thi Ân,
Mục Xuân đem quân bộ đi đội thứ bảy; Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy dẫn Hạng Sung,
Lý Cổn đem quân bộ đi đội thứ tám. Tám đội quân mã đều chia đường lập tức kéo
đi, hẹn đến canh hai hôm rằm tháng giêng là phải nhất tề kéo đến thành Đại Danh
để đánh, còn các Đầu Lĩnh thì ở nhà theo Tống Giang coi trại. Nói về Thời Thiên
vâng lệnh Quân Sư tới Bắc Kinh, khi trèo tường vào được trong thành Đại Danh, ban
ngày thì dong chơi quanh ở phố, ban đêm thì lẻn vào các bàn thờ ở miếu Đông
Nhạc để nằm nghỉ.
Đến hôm
mười ba tháng giêng, Thời Thiên đương vẫn vơ xem treo đèn kết hoa ở trong
thành, bỗng đâu thấy Giải Trân, Giải Bảo gánh các đồ chim muông đi vào, rồi
thấy Đỗ Thiên, Tống Vạn cũng đã thủng thỉnh vào trong đấy cả rồi.
Hôm đó
Thời Thiên đi thủng thỉnh đến Thuý Vân Lâu, thấy Khổng Minh bỏ xõa đầu tóc,
mình mặc áo da dê rách, tay hữu cầm một cái gậy, tay tả cầm một cái bát, thất
tha thất thểu đi xin quanh đó.
Khi
Khổng Minh trông thấy Thời Thiên bèn chạy đến đằng sau để nói chuyện.
Thời
Thiên khẽ bảo Khổng Minh rằng:
- Ca Ca
phải khéo đấy trông bộ dạng như thế, không giống người ăn mày đâu, ở đây nhiều
đám lính tráng khôn ngoan, lỡ ra nó biết thì khốn, Ca Ca nên vào một nơi còn
hơn.
Đương
khi nói chuyện, cũng thấy Khổng Lượng giả làm ăn mày đi đến, Thời Thiên lại bảo
Khổng Lượng rằng:
- Anh
thò cái mặt trắng phau phau thế kia, thì giống kẻ ăn mày thế nào được?
Vừa nói
dứt lời, thì thấy hai người đi đến đằng sau, nắm lấy Thời Thiên mà mắng ngay
rằng:
- Các
anh giỏi thực.
Thời
Thiên nghe nói, giựt mình quay lại thì thấy Dương Hùng và Lưu Đường liền bảo
với hai người rằng:
- Anh
làm tôi sợ bằng chết.
Dương
Hùng liền dắt mấy người ra chỗ vắng vẻ mà trách rằng:
- Các
anh không biết gì cả, đứng đấy mà nói chuyện với nhau, lỡ ra gặp đám nào trông
thấy, thì phỏng còn ra công việc gì nữa? Các anh phải lẫn lút thế nào, chứ đừng
giơ mặt ra đấy mà khốn.
Khổng
Minh nói:
- Trâu
Uyên, Trâu Nhuận đã thấy đi bán đèn trong phố hôm qua, còn Lỗ Trí Thâm cùng Võ
Tòng cũng thấy ở ngoài thành rồi, anh em ta bất tất phải bàn nữa, cứ đợi đến
hôm ấy là hành sự thôi.
Nói xong
rồi năm người kéo nhau đi qua một cái chùa kia, gặp Công Tôn Thắng cùng Lăng
Chấn ở đó. Bảy người đưa mật báo cho nhau, rồi lại chia đi mỗi người một ngã.
Ngày hôm
sau mười bốn, Lương Trung Thư sai Văn Đạt dẫn quân mã ra đóng ở Phi Hổ Dực, đề
phòng bị giặc cướp, và sai Lý Thành dẫn năm trăm kỵ binh ra đi tuần tiễu quanh
thành.
Đến hôm
rằm tháng giêng, chiều trời tạnh ráo dễ chịu, Lương Trung Thư lấy làm vui mừng
vô hạn. Tối hôm đó mặt trăng vằng vặc trên không, soi xuống các nơi phố sá, bọn
nam nữ rủ nhau đi xem, cùng thích cánh chen vai, đông đúc không biết tới đâu mà
kể.
Vào
khoảng chập tối hôm ấy, Tiết Cấp là Xái Phúc bảo với em là Xái Khánh rằng:
- Hiền
đệ coi ngục ở đây, để tôi về nhà một lúc, rồi sẽ hay.
Chàng
nói đoạn vội vàng chạy vội về nhà. Khi về tới nhà chợt thấy có hai người đi tót
theo vào, một người trước ăn mặc ra dáng quan binh, còn một người sau ra dáng
anh đầy tớ. Xái Phúc giơ đèn nom ra, thì nhận biết Sài Tiến đi trước, còn người
đi sau không hiểu là ai.
Xái Phúc
thấy vậy, bèn mời vào trong nhà và sẵn có chè rượu đó để thết.
Sài Tiến
nói rằng:
- Xin
ngài đừng cho ăn uống nữa, chúng tôi đến đây có chút việc cần, muốn nói cho
ngài biết. Nguyên Lư Viên Ngoại cùng Thạch Tú nhờ ngài ở đây trông nom cho được
chu toàn, chúng tôi thực lấy làm cảm ơn vô hạn. Vậy ngày nay gặp tiết Nguyên
Tiêu, chúng tôi muốn thừa cơ cướp ngục cho hai người ấy ra, xin ngài làm ơn đưa
cho chúng tôi đến đó... Chớ nên từ chối mới được.
Xái phúc
nghe nói biết là không vâng lời, tất là nguy hiểm tới thân gia, liền vội vội
vàng vàng vâng lời xin đi, và đưa quần áo lính hầu cho hai người cùng mặc, rồi
dẫn vào trong ngục.
Hôm đó
vào khoảng canh một, Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu,
Trương Thanh, Tôn Nhị Nương ăn mặc giả làm vợ chồng nhà quê đi chen vào đám xem
hội mà lẻn vào cửa Đông. Công Tôn Thắng cùng Lăng Chấn ngồi ở miếu Thành Hoàng
gần trước cửa châu nha để đợi Trâu Uyên, Trâu Nhuận gánh đèn đi chơi dong trên
mặt phố, Đỗ Thiên, Tống Vạn đều đẩy một cỗ xe đến trước nhà Lương Trung Thư, mà
đánh lộn sòng vào đám người đông.
Nguyên
dinh Lương Trung Thư ở một phố lớn, gần ngang với cửa thành bên Đông, Dương
Hùng, Lưu Đường đều vác gậy ngồi chực sẵn ở hai bên cầu trước cửa châu nha, còn
Yến Thanh dẫn Trương Thuận đi theo đường thủy vào trong thành để nấp ở đó. Được
một lát nghe trống lầu đã đánh canh hai, Thời Thiên cắp một cái thúng, trong đựng
những thứ thuốc dẫn lửa trên rãi mấy con bươm bướm bằng trang kim, rồi đi lẻn
lên trên lầu Thúy Vân. Bấy giờ trên lầu đương ra vào đông đúc, đàn sáo vang
lừng, khắp mọi người gần xa đều đến đó xem đèn, rất là náo nhiệt.
Thời
Thiên lên đến gác, giả cách làm anh bán bươm bướm để chạy quanh xem xét các
nơi. Đương khi ấy chợt thấy Giải Trân, Giải Bảo đều vác cương xoa treo lủng
lẳng mấy con thỏ đi vẫn vơ ở trước lầu.
Thời
Thiên thấy vậy vội chạy đến hỏi hai người kia rằng:
- Bây
giờ có lẽ sắp đến giờ, sao mà không thấy ngoài kia động đậy chi cả?
Giải
Trân nói:
- Chúng
tôi vừa trông thấy thám mã qua đây xong, có lẽ quân ta đã kéo vào đến rồi thì
phải. Anh nên hành sự ngay đi thôi.
Nói vừa
dứt lời, thì đã thấy thước cửa lầu ồn ồn kêu lên rằng:
- Quân
mã Lương Sơn Bạc đã kéo đến cửa Tây rồi...
Giải
Trân liền giục Thời Thiên, mau mau vác phóng lửa trong lều, còn mình thì cùng
với Giải Bảo chạy đến trước trại lính để đợi.
Bấy giờ
thấy đám quân mã tàn bại ở ngoài thành chạy vào, nói nhao nhao lên rằng:
- Quân
giặc Lương Sơn đã chiếm mất trại của Văn Đạt, và kéo nhau vào thành bây giờ.
Lý Thành
đương đi tuần ở trên biên thành nghe tin ấy bèn phóng ngựa đến trại lính,
truyền điểm lấy quân lính ra coi giữ ở Châu Thành, và đóng chặt các cửa thành
lại.
Khi đó
Vương Thái Thú đương đi đàn áp ở trên các phố, bỗng nghe thấy tin báo như vậy,
liền hất ha hất hải mà chạy mau trở về trong trại.
Về phần
Lương Trung Thư hôm đó say rượu ngất nga ngất ngưỡng ở trong dinh, thoạt nghe
thấy tin báo cũng còn dềnh dàng chưa sợ, sau thấy thám mã cùng lưu tinh đều
chạy đốc thôi vào báo, sự thế nguy cấp đến nơi bấy giờ mới kinh hồn choáng óc,
liền gọi người đóng ngựa để đi.
Khi ngựa
chưa đóng xong yên, thì chợt thấy trên lầu Thúy Vân có ngọn lửa bốc lên ngùn
ngụt đỏ sáng rực trời, Lương Trung Thư lấy làm kinh hãi vội vàng nhảy lên mình
ngựa, để toan ra đi xem.
Chợt đâu
lại thấy hai người đem hai cỗ xe để chắn ngang giữa lối đi, rồi vớ lấy một ngọn
đèn treo gần đó, mà lấy lửa châm vào trong xe đốt cháy bùng cả lên.
Lương
Trung Thư thấy vậy, lại hất hải chạy ra cửa Đông. Bỗng đâu lại thấy hai người
to lớn quát lên rằng:
- Lý
Ứng, Sử Tiến ở đây.
Nói đoạn
liền múa đao xông vào chém chết mấy người, đám quan quân đều kinh sợ mà chạy
tán loạn cả. Đoạn rồi Đỗ Thiên, Tống Vạn cũng tiếp đến mà giữ chặt lấy cửa
Đông. Lương Trung Thư thấy sự thế nguy bách, liền dẫn mấy đứa người nhà chạy
vội vàng sang bên cửa Nam, lại thấy có một ông sư phệ bụng, cùng một người hành
giả mặt hổ, tay múa giới đao hò reo dắt vào trong thành. Trung Thư nghe nói lại
quay ngựa trở về trại lính, khi gần tới nơi thấy Giải Trân, Giải Bảo đương múa
cương xoa, đánh giết ầm ầm ở đó, chàng lại kinh sợ chạy về cửa Tây.
Bấy giờ
Vương Thái Thú vừa đến trại, bị Lưu Đường, Dương Hùng đánh cho mấy côn, vỡ óc
chết lăn ra phố, còn bọn ngu hầu áp phiên đều bỏ chạy hết cả.
Khi
Lương Trung Thư gần tới cửa Tây, thấy trong miếu Thành Hoàng bỗng tiếng súng nổ
lên, rồi thấy ngọn lửa bốc lên dần dật, Trâu Uyên, Trâu Nhuận thì cầm lấy gậy
tre đi châm lửa đốt ở các nơi trong có Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, cùng
Tôn Tân, Cố Đại Tẩu đều múa đao xông vào để giúp. Còn Trương Thanh, Tôn Nhị
Nương, thì nhảy lên đốt lửa vào giả sơn ở trước cửa chùa Đồng Phật.
Bấy giờ
nhân dân trong thành Đại Danh, đều cắm đầu chạy trốn, nhà nào nhà nấy đều kêu
khóc như di, khắp trong thành chỗ nào cũng có tiếng người kêu lửa cháy, rối
loạn kinh hoàng, không biết tới đâu mà kể.
Lương
Trung Thư chạy về đến cửa Tây, tiếp được quân mã của Lý Thành, liền kéo nhau
chạy sang phía Nam, trèo lên gác trống để xem. Khi đó thấy binh mã kéo xuống
dưới thành, ngọn lửa bốc cháy như ban ngày, có mộ toán quân kéo cờ Đại Đao Quan
thắng đi giữa bên tả có Tuyên Tán bên hữu có Hắc Tư Văn, đằng sau có Hoàng Tín
thôi thúc nhân mã sát vào dưới cửa thành. Lương Trung Thư không thể nào ra khỏi
ngoài thành, liền cùng với Lý Thành chạy sang cửa Bắc để trốn.
Chợt đâu
lại thấy một toán quân mã rất đông, có Lâm Xung đi đầu, Mã Lân đi bên tả, Đặng
Phi đi bên hữu, Hoa Vinh đi sau, mà hết sức cùng nhau kéo đến, Lương Trung Thư
lại phải quay ngựa chạy về cửa Đông.
Gần tới
cửa Đông lại thấy Mục Hoằng, Đỗ Hưng, Trịnh Thiên Thọ dẫn một nghìn nhân mã múa
đao sát vào. Lương Trung Thư lại phải quay về cửa Nam, rồi cướp đường để chạy.
Khi ra
đến đích kiều lại gặp Lý Quỳ cởi trần múa phủ cùng với Lý Lập, Tào Chính đều
hăng hái xông vào, Lý Thành liền hết sức xông đánh, cướp đường cho Lương Trung
Thư chạy ra ngoài thành.
Bỗng lại
gặp Hô Duyên Chước dẫn một toán quân mã, múa chiên vỗ ngựa để đánh Lương Trung
Thư, Lý Thành cũng múa đao đón đánh được vài hiệp, rồi lại phải quay ngựa để
chạy. Sau lại thấy Hàn Thao, bành Dĩ, cùng Tôn Lập đều hết sức xông đến. Đoạn
rồi có Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh dương cung đặt tên, bắn viên phó tướng của Lý
Thành ngã lăn xuống ngựa. Lý Thành thấy vậy vội vàng phi ngựa chạy thẳng.
Chạy
chưa được mấy bước lại thấy phía bên giữa có Tích Lịch Hỏa Tần Minh múa côn vỗ
ngựa dẫn Yến Thuận, Âu Bằng cùng Trần Đạt sát đến. Lý Thành liền cố sức đánh
thục thân để cướp đường đưa Lương Trung Thư chạy.
Bên kia
Đỗ Thiên, Tống Vạn vào phủ Trung Thư giết hết vợ con, người nhà của Lương Trung
Thư, Khổng Minh, Khổng lượng, trèo tường lần lần vào ngục. Trâu Uyên, Trâu
Nhuận tiếp đón những người qua lại ở trước sở coi ngục. Sài Tiến, Nhạc Hoà
trông thấy hiệu lửa ở ngoài, liền bảo với Xái Phúc, Xái Khánh rằng:
- Hai
anh em nhà bác không trông đó còn đợi đến bao giờ nữa? Xái Khánh nghe nói mới
quay ra nom, thì Trâu Uyên, Trâu Nhuận đã đẩy tung cửa bước vào mà nói rằng:
- Cả bọn
hảo hán Lương Sơn Bạc ở đây, muốn sống thì trả Lư Viên Ngoại cùng Thạch Tú ra
cho ta...
Xái
Khánh thấy vậy, vội vàng quay vào báo cho Xái Phúc biết. Bấy giờ chợt thấy
Khổng Minh, Khổng Lượng ở trên nóc nhà lao nhảy xuống, rồi Sài Tiến rút dao
phăng khí giới ở bên mình ra, tháo gông ra cho Lư Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú và
bảo Xái Phúc rằng:
- Bác
mau mau theo tôi về nhà để coi giữ vợ con mới được.
Đoạn rồi
Lư Tuấn Nghĩa dẫn Thạch Tú cùng Khổng Minh, Khổng Lượng, Trâu Uyên, Trâu Nhuận,
về thẳng nhà để bắt Lý Cố cùng Cổ Thị. Nguyên Lý Cố từ khi nghe tin bọn hảo hán
Lương Sơn, đã dẫn quân mã vào thành, rồi lại thấy các nơi phát hỏa tứ tung, thì
trong bụng đã kinh hoàng sợ hãi, bèn vội vàng cùng với Cổ Thị thu xếp lấy một
gói kim ngân tài vật, rồi lẻn ra cửa để trốn. Khi ra tới cửa, thấy những người
đứng ở ngoài cửa, đều bị đánh ngã lộn bậy cả, rồi có người cướp sấn vào nhà, Lý
Cố liền cùng Cổ Thị, quay trở vào mở lối sau để đi. Hai người đi qua lối tường
sau, lẩn đến bên sông, toan tìm đường ẩn núp. Bất đồ có Trương Thuận đứng ở bên
sông kêu lên rằng:
- Hai
người nầy chạy đi đâu đó? Lý Cố kinh sợ toan vội nhảy xuống dứơi thuyền, thì đã
có một người nắm lấy cánh tay mà quát hỏi rằng:
- Ngươi
có biết ta không? Lý Cố nghe rõ Yến Thanh liền kêu lên rằng:
- Tiểu
Ất Ca tôi với bác có thù hằn gì mà bác bắt tôi... ? Yến Thanh lặng ngắt nắm cổ
kéo đi, rồi Trương Thuận cũng bắt cả mụ đàn bà mà kéo về cửa Đông.
Bấy giờ
Lư Tuấn Nghĩa về tới nhà không thấy Lý Cố cùng Cổ Thị đâu, liền gọi chúng thu
xếp hết các đồ kim ngân tài vật xếp tất cả lên xe, để mang về Lương Sơn Bạc.
Về phần
Sài Tiến, theo Xái Phúc cùng về tới nhà, cho xếp dọn đồ đạc, và dặn dò các
người trong nhà để cùng đi theo.
Xái Phúc
nói với Sài Tiến rằng:
- Đại
Quan Nhân nên cứu cho nhân dân trong thành, chớ để cho họ đánh giết quá đỗi mới
được. Sài Tiến nghe nói vội vàng chạy tìm quân sư để nói chuyện. Khi Ngô Dụng
tiếp được Sài Tiến thì dân sự trong thành đã thei65t hại đến quá nửa. Ngô Dụng
liền hạ lệnh cấm quân sĩ không được giết hại chi nữa.
Được một
lát trời vừa rạng sáng, Ngô Dụng cùng Sài Tiến đều ở trong thành khua chiên thu
quân, rồi các Đầu Lĩnh dẫn Lư Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú vào hầu, và nói rõ công
trạng anh em Xái Phúc, đối với Lư Tuấn Nghĩa cho mọi người nghe. Yến Thanh cũng
giải Lý Cố cùng Cổ Thị đến. Lư Tuấn Nghĩa trông thấy liền bảo Yến Thanh giam
giữ cẩn thận, rồi sau sẽ trị.
Còn về
phần Lương Trung Thư nhờ có Lý Thành ra sức chống đỡ, cùng nhau kéo tới ngoài
thành, thì gặp được Văn Đạt cùng dẫn tàn quân qua đến đó, đôi bên cùng hợp nhau
thành một đạo, mà cùng chạy về phía bên nam. Bất đồ chạy được mấy bước, bỗng
thấy tiền quân kêu thét ầm lên, rồi có một toán quân phục của Phàn Thụy, Hạng
Sung, Lý Cổn xông ra đánh giết. Phía sau lại có Lôi Hoành cùng Thi Ân, Mục Xuân
dẫn một nghìn quân bộ chặn lấy đường lui, mà hai bên giáp đánh một trận.
Lý
Thành, Văn Đạt thấy vậy, đều kinh sợ rụng rời, đem hết bình sinh cố thoát ra
khỏi vòng vây, mãi sau mới cứu thoát được Lương Trung Thư, mà cùng nhau chạy về
phía Tây.
Bọn Phàn
Thụy thấy Lương Trung Thư đã chạy thoát, cũng không ai đuổi theo, bèn cùng với
Lôi Hoành dẫn quân vào trong thành để nghe lệnh.
Mới hay:
Trên đời
mấy mặt tri âm,
Nghìn
vàng mua chữ đồng tâm dễ nào?
Xưa nay
những bạn anh hào,
Tan nhà
chuốc nghĩa tri giao cũng nhiều.
Cùng
nhau sinh tử cũng liều,
Rồi đây
hưu, thích trăm chiều có nhau.
Lời bàn
của Thánh Thán.
Thánh
Thán nói đến ông bạn Trác Sơn tiên sinh, từng khoe có một người khéo miệng
thành nghề đóng kịch rất hay. Rồi thuật chuyện rằng: Một hôm tân khách ngồi
đông ở bên góc bên Đông Bắc nhà sảnh sự, người khéo miệng ngồi ở trước bình
phong, chỉ một bàn, một ghế, một cái quạt, và cái thước, rồi làm trò. Một lát
sau hai tiếng thước gõ, khách đều lặng im, không ai làm náo, xa xa nghe tiếng
chó sủa, tiếng chuông kêu, làm người vợ kinh dậy, càu nhàu với chồng, chồng nói
vợ cãi, tiếng trả khóc oa oa, chồng bảo vợ cho con bú bao nhiêu tiếng nhộn
nhàng, nào chồng nào vợ, nào đứa bé khóc, nào đứa lớn sực tỉnh nói lên, đúng
như vậy ấy, làm tân khách ngạc nhiên!
Khách
ngồi xem hết một trò, lại tiếp đến tiếng kêu lửa cháy, nào tiếng cha gọi con,
chồng gắt vợ, người nọ gào kẻ kia, hàng nàng tiếng chó sủa, lại hàng ngàn tiếng
người kêu chạy, thêm tiếng trống khua, tiếng đồ dùng cứu hỏa, tóm lại đúng
không sai sót chút nào về một sự cứu cháy, đương diễn ra trước mọi người, làm
cho tân khách biến hẳn sắc mặt kinh hãi ngạc nhiên một lúc cháy xong rồi, khách
mới hoàn hồn, thì quay lại nhìn bình phong vẫn chỉ một chàng một ghế một bàn
một quạt một thước làm trò ra cả. Thực là chỉ có một người; Mà làm trò như ngàn
miệng ngàn tai, hễ ai để ý nghe đến tiếng nào thấy có tiếng ấy, trăm ngàn tiếng
đều phát ra một miệng, đó mới thực lành nghề miệng lưỡi, khiến một trò tân
khách phán thưởng không.
Ta bấy
giờ nghe thuật chuyện ấy còn không tin, cười bảo tiên sinh rằng: Đó là ông bàn
lối sán hoa, chứ ở đời làm sao có được lành nghề đến thế? Tiên sinh cũng cười
lại bảo ta rằng: Há phải ông không tin, bây giờ tôi cũng không còn tin thế nữa,
bởi không còn ai khéo miệng lành nghề đó mà lại diễn ra đây! Nay ta đọc một
thiên lửa đốt lầu Thúy Vân, mà than rằng: Tiên Sinh chẳng từng nói dối ta, thế
gian vốn có những lành nghề tuyệt diệu phi thường như vậy.
Trong
khi điều khiển, mỗi người theo một lệnh, tới lúc động tay, đều thay đổi hết,
chẳng giống lệnh chút nào, tại sao? Vì việc đời đánh nhau, không sẵn bản in, để
quân sĩ lắp vào, Làm văn cũng không sẵn bản in, để tài tử lắp vào, tả điều điệu
làm hai nửa, tả điểm đậu cũng chia hai nửa, tả mọi người làm việc trong thành
cũng chia hai nửa, tả quân nhân sách ứng trong thành cũng chia hai nửa, lại là
một dạng kỳ tuyệt chi cách.
Sau khi tả
Lương Sơn điều động cướp thành, bèn tả đến Lương Trung Thư điều động chơi đèn,
tả Lương Trung Thư chạy trốn xong, tả đến Lý Cố, Cổ Thị một phen chạy trốn,
khiến người đọc đến, thực muốn tuyệt đảo.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 66: Về Sơn Bạc Tống Giang khao thưởng
ba quân; Đến Lăng Châu Quan Thắng chiêu hàng hai tướng
Hôm đó
Ngô Dụng thu điểm nhân mã, nhất diện treo bảng an dân, nhất diện cho cứu giải
ngọn lửa trong thành. Còn những người nhà Lương Trung Thư, Lý Thành, Văn Đạt
cùng Vương Thái Thú, hoặc chết hay là trốn tránh cũng không truy hỏi đến nữa.
Ngô Dụng
lại sai mở kho tàng trong phủ Đại Danh, đem kim ngân châu bảo xếp cả lên xe,
rồi lấy gạo thóc phát cả cho dân trong thành, còn thì cũng xếp cả lên xe đem
về. Đoạn rồi cho Lý Cố cùng Cổ Thị nhốt vào xe tù, và chia quân làm ba đội mà
kéo về Lương Sơn, và cho Đới Tung về báo trước với Tống Công Minh.
Tống
Giang nghe nói, vội họp các Đầu Lĩnh để xuống núi đón về Trung Nghĩa Đường.
Tống
Giang trông thấy Lư Tuấn Nghĩa, liền cúi đầu lạy tạ, Lư Tuấn Nghĩa cũng cúi đầu
mà đáp nghĩa lại.
Tống
Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Tống
Giang tôi cả gan muốn đón ngài lên đây Tụ Nghĩa, chẳng dè gặp bước không may,
cơ hồ nguy hiểm, trong lòng tôi rất áy náy không yên. Ngày nay may mà trời xanh
thương xót, lại được gặp đây, thực là hạnh phúc cho sơn trại không biết tới đâu
mà kể.
Lư Tuấn
Nghĩa bái tạ mà rằng:
- Tôi
trên nhờ uy đức của huynh trưởng, dưới nhờ nghĩa khí của các Đầu Lĩnh, hết lòng
cứu vớt cho được tới đây, sau nầy biết lấy gì báo đáp cho phu công ấy.
Nói đoạn
liền dẫn Xái Phúc, Xái Khánh vào chào Tống Giang mà nói rằng:
- Nếu
bữa trước không có hai người nầy, thì còn sao mà bước chân đến đây được? ...
Đoạn rồi
Tống Giang nhường ghế thứ nhất cho Lư Tuấn Nghĩa ngồi.
Lư Tuấn
Nghĩa cả kinh mà rằng:
- Tôi là
hạng người thế nào mà dám nhận chức vụ ấy? Huynh trưởng có lòng thương yêu cho
tôi được làm đứa tiểu tốt theo hầu, cũng là hạnh phúc, xin Huynh trưởng chớ nên
quá nhúng làm chi.
Tống
Giang cố mời hai ba lần nữa, Lư Tuấn Nghĩa nhất định không chịu nhận. Lý Quỳ
thấy vậy kêu lên rằng:
- Ca Ca
không thẳng tính chút nào cả... Ngày trước đã nhận rồi, ngày nay lại nhường cho
người khác. Cái ghế ấy có lẽ làm bằng vàng hay sao mà nhường đi nhường lại mãi.
Làm thế tôi sốt ruột không sao chịu được.
Tống
Giang quát to lên rằng:
- Thằng
quái nầy...
Lư Tuấn
Nghĩa vội vàng cúi lạy Tống Giang mà nói rằng:
- Nếu
huynh trưởng cứ nhường mãi vậy, thì có lẽ tôi ở đây không yên tâm mất.
Lý Quỳ lại
quát lên rằng:
- Nếu Ca
Ca làm ông vua, Lư Viên Ngoại làm thừa tướng, đám chúng ta cùng ở trên kim
điện, thì làm chi có rối lên như thế nầy được. Nhưng nay bất quá chỉ là một tụi
ăn cướp ở trong vũng nước nầy, thì bất nhược cứ lặng yên như cũ là xong.
Tống
Giang nghe nói tức mình không biết nói làm sao được.
Ngô Dụng
nói với Tống Giang rằng:
- Ngày
mai hãy để Lư Viên Ngoại ở phòng bên Đông, đãi lễ tân khách, rồi sau nầy có
công sẽ xin nhường vị cũng được.
Tống
Giang nghe vậy mới hơi yên tâm, liền mời Lư Tuấn Nghĩa ra ở phòng bên Đông, cho
Yến Thanh cùng ở vào đó. Lại dọn phòng cho anh em Xái Phúc ở. Bấy giờ Tiết Vĩnh
đi đón người nhà Quan Thắng đã về, cũng cho dọn phòng để ở cẩn thận. Đoạn rồi
trong sơn trại làm đại tiệc khao thưởng tam quân, các Đầu Lĩnh lớn nhỏ cùng đám
lâu la hợp từng đoàn từng đội mà chè chén với nhau.
Hôm đó
các Đầu Lĩnh cùng uống rượu ở Trung Nghĩa Đường. Lư Tuấn Nghĩa đứng dậy nói
rằng:
- Còn có
hai đứa gian phu dâm phụ đã bắt đến đây, xin trị tội cho công bằng.
Tống
Giang cười nói rằng:
- Suýt
nữa tôi quên mất đấy, quân sĩ đâu, dong nó lên đây.
Quân sĩ
vâng lời, đem Lý Cố trói sang cột bên tả, Cổ Thị trói sang cột bên hữu để trị
tội.
Tống
Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Bây
giờ không cần phải hỏi tội làm chi, xin Viên Ngoại cứ xử đoán đi là xong.
Lư Tuấn
Nghĩa vâng lời, tay cầm đỏan đao bước ra quát mắng hai người, khoét lấy ruột
giữa, bắt tội tùng xẻo cho chết, sai đem vứt bỏ xác đi rồi quay vào tạ ơn các
Đầu Lĩnh. Các Đầu Lĩnh đều nâng chén rượu mừng, rồi lại cùng nhau yến ẩm vui
chơi, rất là thỏa thích.
Bây giờ
ân trả nghĩa đền,
Trăm năm
cố kết chút duyên guang hồ.
Máu nồng
pha chén hoan hô,
Giang
sơn riêng một cơ đồ kém ai?
Nói về
tụi Lương Trung Thư khi dò biết quân mã Ngô Dụng đã trở về Lương Sơn Bạc, liền
cùng với Lý Thành, Văn Đạt thu nhặt bọn quân tàn, mà trở lại đất Đại Danh. Khi
về tới phủ vợ con trẻ già, mười phần còn sót một hai, người nào người ấy kêu
khóc như mưa vậy.
Bây giờ
các phủ huyện ở gần đấy kéo quân đến để cứu, thì giặc đã về rồi. Lương Trung
Thư lại truyền lệnh cho các phủ huyện đâu về yên đấy.
Lương
Trung Thư phu nhân trốn vào vườn hoa đằng sau, may được thoát nạn. Trung Thư
thấy vậy lấy làm cảm thương vô cùng, liền khảo giấy bẩm vào Xái Thái Sư xin
khiển tướng điều binh đi đánh Lương Sơn. Trong đó kể hết tình thế giặc Lương
Sơn và sự thiệt hại trong thành Đại Danh, dân số chết hơn năm ngàn người, trúng
thương rất nhiều, và các bộ quân mã thì thiệt tới hơn ba vạn. Khi viết thư
xong, sai Thủ Tướng lập tức đem thư vào kinh để trình với Xái Thái Sư.
Nguyên
trước Xái Thái Sư những tưởng rằng ít lâu, rồi bọn Lương Sơn đầu hàng, thì tâng
công cho Lương Trung Thư, mà tự mình cũng có phần vinh hạnh. Nay bất đồ nghe
tin như vậy, thì trong lòng lấy làm tức giận vô cùng, liền cho tỳ tướng lui ra,
rồi sẽ vào tấu với Thiên Tử.
Thiên Tử
xem biểu tấu cả kinh, chưa biết nghĩ kế ra sao.
Bỗng có
quan Gián Nghị Đại Phu là Triệu Đĩnh, bước ra bệ ngọc tâu rằng:
- Trước
đây triều đình đã điều binh khiển tướng cũng đều bị thua thiệt rất nhiều, là vì
không được địa lợi cho nên mới thế. Vậy ngày nay cứ theo như ý ngu thần, xin bệ
hạ giáng chỉ chiêu an mời về Kim Khuyết mà trao cho quan chức để coi chốn biên
cương tất là yên ổn được.
Xái Thái
Sư nghe tâu, cả giận quát mắng rằng:
- Ông
làm Gián Nghị Đại Phu sao dám bỏ kỷ cương triều đình, mà để tiểu nhân càn dỡ
như thế được? Tội ấy đáng chết đó...
Thiên Tử
nghe lời Thái Sư tâu, liền đuổi bỏ Triệu Đĩnh ra triều mà cách hết quan chức.
Các quan thấy vậy ai cũng không dám hé răng ra tâu một câu gì nữa.
Thiên Tử
hỏi Xái Kính rằng:
- Nay
quân giặc lộng hành như vậy, phỏng lấy ai ra mà đánh giúp cho được?
Xái Thái
Sư tâu rằng:
- Cứ như
ý ngu thần thiết tưởng quân giặc cỏ ấy không cần gì phải đem đại quân mới tiểu
trừ được. Hiện nay ở Lăng Châu có hai tướng giỏi, một người họ Đang tên Đình
Khuê, và một người họ Ngụy tên Định Quốc làm Đoàn Luyện Sứ ở châu ấy, đều có
thể tiểu trừ được quân giặc cỏ. V6ạy xin Thánh Thượng lập tức giáng chỉ cho hai
người đó, đem quân đi đánh thì làm chi mà chẳng trừ xong.
Thiên Tử
nghe tâu cả mừng, bèn lập tức giáng chỉ cho hai người đó. Đoạn rồi tan chầu,
các quan đều bưng miệng cười thầm, mà cùng nhau lui về.
Nói về
bọn Lương Sơn Bạc, sau khi đã khao thưởng quân sĩ xong rồi, Ngô Dụng liền nói
với Tống Giang rằng:
- Nay ta
vì việc Lư Viên Ngoại đánh phá thành Đại Danh, nhân dân thiệt hại rất nhiều,
làm Lương Trung Thư phải trốn tránh. Việc nầy chắc là hắn phải tâu với triều
đình và ỷ thế bố vợ là Xái Thái Sư, thế nào cũng chả yên được. Vậy ta nên nghĩ
kế làm sao mới xong.
Tống
Giang nói:
- Quân
Sư dạy rất phải lắm. Ta nên sai người đi thám thính xem thế nào rồi sẽ liệu.
Ngô Dụng
cười rằng:
- Tiểu
đệ đã sai người đi thám rồi, có lẽ về ngay bây giờ đó.
Đương
khi trò chuyện, thì quả nhiên có người về báo rằng:
- Lương
Trung Thư tâu với triều đình, Gián Nghị Đại Phu cố tâu với Thiên Tử xin giáng
chỉ chiêu an, song bị Thái Sư hành tội, cách cả chức quan của triều đình và sai
người truyền chỉ cho Đan Đình Khuê và Ngụy Định Quốc ở Lăng Châu phải đem quân
đi đánh.
Tống
Giang hỏi Ngô Dụng rằng:
- Như
vậy ta làm cách nào để nghênh địch?
Ngô Dụng
nói rằng:
- Đợi họ
đến đây rồi ta bắt cả một thể khó chi?
Quan
Thắng đứng dậy nói rằng:
- Quan
Mỗ từ khi đến đây, chưa có chút công lao gì, nay Đan Đình Khuê cùng Ngụy Định
Quốc cũng là anh em khi trước. Đan Đình Khuê tài về nghề tháo nước để đánh
giặc, thường gọi là Thánh Thủy Tướng Quân, còn Ngụy Định Quốc thì thông thạo về
trận hỏa công, khi ra trận thường lấy đồ lửa mà đánh nhau, vẫn gọi là Thần Hỏa
Tướng Quân. Vậy tôi xin lĩnh năm nghìn quân mã thẳng đến Lăng Châu để đón. Nếu
dỗ được quy hàng thì mang cả về đây, bằng không thì tôi xin bắt về nộp, không
cần gì phải khó nhọc đến anh em, chẳng hay tôn ý có cho chăng?
Tống
Giang cả mừng, liền cho Tuyên Tán và Hắc Tư Văn theo Quan Thắng cùng đi.
Sáng hôm
sau Quan Thắng dẫn năm nghìn nhân mã và đem hai tướng cùng đi xuống núi, các
Đầu Lĩnh đưa chân đến bến Kim Sa, rồi lại trở về Trung Nghĩa Đường để bàn việc.
Ngô Dụng
nói với Tống Giang rằng:
- Tôi
xem Quan Thắng đi chuyến nầy, vị tất đã được vững lòng, vậy xin sai tướng khác
đi theo tiếp ứng và coi giữ một thể.
Tôi xem
Quan Thắng là người nghiêm nghị nghĩa khí, trước sau như một, quân sư bất tất
phải đa nghi như vậy.
- Tôi
chỉ sợ bụng người ta không được như bụng huynh trưởng mà thôi. Ta cứ cho Lâm
Xung, Dương Chí làm lĩnh binh, Tôn Lập, Hoàng Tín làm phó tướng dẫn năm ngàn
nhân mã thì vững hơn.
Lý Quỳ
nghe nói liền ứng lên rằng:
- Để cho
tôi đi một chuyến.
Tống
Giang nói:
- Việc
nầy không cho ngươi đi được, đã có tướng giỏi người ta lập công...
Lý Quỳ
nói: Nếu tôi rỗi lâu thì sinh bệnh mất, Huynh trưởng không cho tôi đi, tôi cũng
đi một mình vậy.
Tống
Giang quát lên rằng:
- Ngươi
không nghe quân lịnh, ta chém đầu đi đó.
Lý Quỳ
nghe nói trong bụng bứt rứt khó chịu, liền thủng thỉnh mà quay ra. Đoạn rồi Lâm
Xung, Dương Chí lĩnh quân đi đến Lăng Châu để theo Quan Thắng.
Ngày hôm
sau chợt thấy tiểu quân vào báo:
- Hồi
canh hai hôm qua Hắc Toàn Phong Lý Quỳ vác song phủ đi đâu mất rồi.
Tống
Giang nghe báo lấy làm hối hận mà rằng:
- Chắc
vì mình gắt mấy câu hôm qua, nên hắn đi với người khác hẳn?
Ngô Dụng
nói rằng:
- Huynh
trưởng bất tất phải nghĩ vậy. Hắn là người thô mãng, nhưng nghĩa khí, chắc là
hắn không đi đâu, chỉ nay mai lại về đây thôi...
Tống
Giang vẫn lấy làm sốt ruột, liền sai Đới Tung đi theo trước, rồi sai Thời
Thiên, Lý Vân, Nhạc Hoà, Vương Đình Lục chia làm bốn đường đi theo sau. Nguyên
Lý Quỳ hôm đó bị Tống Giang ngăn đón không cho đi, trong bụng lấy làm bứt rứt,
liền về phòng nghỉ, rồi nửa đêm vác búa trốn sang Lăng Châu.
Khi đi
đường chàng nghĩ thầm rằng: "hai anh tướng ranh ấy, cần gì phải mang bao
nhiêu quân đi đánh? Ta cứ vào thành cho mỗi đứa một búa, cho Đại ca kinh một mẻ
mới hả lòng"
Chàng
vừa nghĩ vừa hăm hở đến nửa ngày trời, trong bụng đã đói, sờ túi không có đồng
tiền nào cả. Nguyên khi đi chàng đương bực tức vội vàng nên không kịp đem tiền
hành lý để tiêu dùng. Bấy giờ chàng lại nghĩ: "Đã lâu nay ta không làm món
nào, nay ta thử chơi một món xem sao?"
Nghĩ
đoạn liền lững thững vừa đi vừa nhìn quanh nhìn quẩn một mình. Chợt đâu thấy
bên đường có một ngôi hàng rượu, chàng liền chạy vào ngôi hàng rượu lấy ba nai
rượu và hai cân thịt lên để đánh chén.
Khi ăn
uống xong, bèn đứng phắt dậy mà đi thẳng, tên tửu bảo giữ lại để hỏi tiền.
Chàng
liền đáp rằng:
- Để ta
ra chỗ nầy kiếm được món gì, rồi sẽ đem lại trả.
Nói đoạn
quay ra để đi. Chợt đâu có một chàng to lớn ở ngoài chạy vào quát lên rằng:
- Thằng
qủy đen kia to gan thật! Ai mở hàng rượu cho ngươi ăn không, không chịu trả
tiền?
Lý Quỳ
trợn mắt tròn xoe đáp rằng:
- Lão
gia bất cứ chỗ nào chỉ ăn mà thôi.
Anh kia
lại quát lên rằng:
- Ta nói
câu nầy cho ngươi mất vía nhé! Phải biết rằng: Lão gia đây chính là Hàn Bá Long
ở Lương Sơn Bạc, mở ngôi hàng nầy, là tiền của Tống Giang Ca Ca đó.
Lý Quỳ
nghe nói liền cười thầm rằng:
- Trong
sơn trại ta làm gì có của ranh nầy mà nói... ?
Nguyên
Hàn Bá Long vẫn thường cướp bóc giang hồ xưa nay. Dạo trước có đến nói với Chu
Quý, xin đưa lên núi, để nhờ nói với Tống Giang xin vào nhập bọn, song chẳng
may Tống Giang bị bệnh chưa khỏi, nên Chu Quý bảo tạm ra đó mở cửa hàng để đợi
Tống Giang khỏi, rồi sẽ đưa lên núi.
Hôm đó
Lý Quỳ nghe nói liền rút thanh phủ ở lưng ra chìa đưa cho Hàn Bá Long mà bảo
rằng:
- Nếu
vậy anh cầm lấy cái búa nầy.
Hàn Bá
Long thấy vậy, tưởng là thực tình liền giơ ra tiếp lấy. Lý Quỳ liền thừa thế,
nhè giữa mặt chém cho một phủ chết quay ra đất. Mấy tên người nhà thấy vậy vội
vàng kéo nhau chạy vào trong làng để trốn. Lý Quỳ vào nẫng lấy tiền nong rồi
châm lửa đốt bỏ tửu quán, mà lên đường chạy về Lăng Châu. Đi chừng được một
ngày đường, chợt trông thấy một anh chàng to lớn đi đến đó, đứng dừng lại mà
ngẩng lên cúi xuống để nom Lý Quỳ.
Lý Quỳ
thấy vậy hỏi rằng:
- Ngươi
nom lão gia để làm chi thế?
Anh
chàng kia lại hỏi rằng:
- Ngươi
là lão gia ai... ?
Lý Quỳ
không nói năng gì, vội vàng toan sấn vào để đánh. Anh chàng kia giơ tay quyền
lên để đón đánh Lý Quỳ.
Lý Quỳ
thấy tay quyền của anh kia ra vẻ thạo gỏi, liền ngồi xuống dưới đất, rồi ngửa
mặt lên hỏi rằng:
- Anh họ
chi, tên chi... ?
Anh chàng
kia đáp rằng:
- Lão
gia đây không có tên họ, muốn đánh nhau thì đánh nhau, ngươi có giỏi thì đứng
dậy đây.
Lý Quỳ
cả giận toan nhảy lên đánh, bất đồ bị anh chàng kia đá cho một đá ngã lăn ngay
xuống.
Lý Quỳ
vội kêu lên rằng:
- Ta
không đánh nổi anh nầy rồi.
Nói đoạn
ù té chạy.
Anh
chàng kia đứng lại mà hỏi rằng:
- Anh
tên họ là gì? Người ở đâu nói cho ta biết?
Lý Quỳ
đáp:
- Ngày
nay bị thua anh đáng lẽ không nói ra thì phải, nhưng lại tiếc vì anh cũng là
một tay hảo hán, nên không muốn giấu làm chi. Chẳng giấu gì, Hắc Toàn Phong Lý
Quỳ ở Lương Sơn Bạc chính là tôi đây.
- Anh có
thực là Lý Quỳ hay không? Đừng nói khoác mới được.
- Anh
không tin cứ nom song phủ của tôi đây...
- Anh đã
là hảo hán ở Lương Sơn Bạc, cớ sao lại đi đâu một mình như vậy?
- Vì tôi
tức với Tống Ca Ca tôi, nay muốn sang Giang Châu giết hai anh tướng họ Đan, họ
Ngụy cho Ca Ca tôi biết tay đây.
Tôi nghe
nói Lương Sơn Bạc đã có quân mã kéo đi rồi, vậy ai đi đấy anh có biết không?
- Toán
quân có Đại Đao Quan Thắng đi trước, Lâm Xung, Dương Chí đi sau chứ ai.
Anh
chàng kia nghe nói đến đó, vội cúi đầu mà lạy ngay.
Lý Quỳ
lại hỏi:
- Bây
giờ anh nói tên họ cho tôi nghe mới được.
- Tôi
nguyên ở phủ Trung Sơn, ba đời nay vẫn truyền nghề đánh vật, ngón đánh lúc nãy
là cha con truyền dạy cho nhau, mà không dạy người ngoài bao giờ. Bình sinh
không hề giao thiệp với ai, nên đến đâu cũng không ai chứa, nhân thế các mạn
Sơn Đông, Hà Bắc vẫn gọi tên là Một Diện Mục Tiêu Đĩnh. Mới đây nghe nói ở Khấu
Châu có một toà núi tên là Khô Thụ Sơn trên núi có một tay du đảng họ Bào tên
Húc, chỉ hay giết hại người ta, ai ai cũng gọi hắn là Táng Môn Thần, nay tôi
muốn sang đó nhập đảng để kiếm cách sinh nhai cho thú.
- Anh có
tài võ nghệ như vậy, sao mà không nhập đảng ở Lương Sơn, Tống Công Minh Ca Ca
tôi tất là trọng đãi.
- Tôi
cũng có ý muốn đến đó, song không ai tiến cử đến cho, nay được gặp huynh trưởng
đây, tôi xin đi theo một thể.
- Tôi vì
giận dỗi với Tống Công Minh Ca Ca mà một mình quyết đi xuống núi, nay nếu không
giết người nào, mà lại trở về tay không, thì về thế nào được? Vậy bất nhược tôi
với Bác đi sang Khô Thụ Sơn, nói với Bào Húc cùng đi đến Lăng Châu giết hai
thằng Đan, Ngụy, rồi về núi thì có lẽ thú hơn.
- Ở Phủ
Lăng Châu thành trì cũng vững, quân mã cũng nhiều, tôi với anh dẫu giỏi đến
mười mươi cũng không làm chi được, bất quá chỉ uổng mạng thôi, vậy bất nhược ta
đến Khô Thụ Sơn nói với Bào Húc đến đầu hàng ở sơn trại, rồi sẽ liệu sau, thế
là thượng sách.
Hai
người đương bàn chuyện với nhau, bỗng thấy Thời Thiên đi đến, gọi Lý Quỳ mà kêu
rằng:
- Ca Ca
đương ở nhà lo khổ đây kia, xin bác về sơn trại ngay lập tức. Ca Ca đã cho
người đi khắp các ngả để tìm đấy.
Lý Quỳ
nghe nóo liền dẫn Tiêu Đĩnh đến nói chuyện với Thời Thiên. Thời Thiên khuyên Lý
Quỳ phải lập tức về núi, kẻo Tống Công Minh mong đợi:
- Lý Quỳ
nói với Thời Thiên rằng:
- Bác
hãy thư thả tôi đương bàn với Tiêu Đĩnh đi qua Khô Thụ Sơn, nói với Bào Húc
cùng nhập vào đảng, rồi tôi sẽ về.
- Làm
thế không được, Ca Ca đương mong đợi lắm hãy về ngay đi...
- Bác
không thích đi thì bác cứ về trước, báo với Ca Ca rồi tôi sẽ về sau.
Thời
Thiên có ý sợ Lý Quỳ, bèn quay trở về, không dám nói gì nữa, Lý Quỳ liền cùng
với Tiêu Đĩnh, đi sang Khấu Châu để tìm vào Khô Thụ Sơn. Nói về Quan Thái Thú ở
Lăng Châu, tiếp được chiếu chỉ của triều đình sai điều binh đi đánh Lương Sơn,
và tiếp được tư thư của Xái Thái Sư sai bảo bèn lập tức gọi hai Đoàn Luyện Sứ
là Đan Đình Khuê, và Ngụy Định Quốc vào để truyền lệnh ra binh. Hia tướng vâng
lời liến chỉnh quân mã, sửa sang khí giới chỉnh đốn các lương thảo, để sắp sửa
khởi hành. Chợt đâu có tin báo Đại Đao Quan Thắng dẫn quân đến xâm phạm Lăng
Châu, Đan Đình Khuê và Nguỵ Định Quốc cả giận liền kéo quân ra thành để đón
đánh.
Bấy giờ
Đan Đình Khuê đầu đội mũ sắc vuông, có hai tua đen rũ xuống, ngoài khoác áo da
hùm, trong mặc chiến bào thêu, chân đi đôi giầy da chạm, lưng thắt giây loan
biếc, vai đeo một cây cung, một mũi tên, cưỡi con ngựa đen, khiến cây gươm đen,
trước mặt dàn một lá cờ đen thuộc Bắc Phương, trên viết mấy chữ "Thánh
Thủy Tướng Quân Đan Đình Khuê " bằng bạ; Ngụy Định Quốc đầu đội mũ khảm
đỏ, bỏ rũ tua đỏ, ngoài khoác áo con nghê, trong mặc áo hồng bào thêu quái thú,
chân đi đôi giầy thêu Kỳ Lân, lưng đeo cây cung kim thước, khoác một túi tên.
Lang Nha cưỡi con ngựa sắc mỡ, tay cầm cương đao, trước mặt có lá cờ đỏ thuộc
Nam Phương, viết bảy chữ "Thần Hỏa Tướng Quân Ngụy Định Quốc" bằng
bạc. Khi đôi bên đấu trận với nhau, Quan Thắng trông thấy hai viên hổ tướng,
liền ngồi trên mình ngựa mà nói lên rằng:
- Kính
chào hai vị Tướng Quân được mạnh khoẻ.
Đan Đình
Khuê và Ngụy Định Quốc nghe nói đều cười, trỏ vào mặt Quan Thắng mà mắng rằng:
- Lũ trẻ
con vô tài, trên phụ ơn nghĩa của triều đình, dưới nhục danh giá tiên tổ, không
biết chút gì là liêm sỉ, nay còn dẫn thân đến đây để làm chi?
Quan
Thắng đáp rằng:
- Hai
tướng quân lầm rồi, hiện nay Chúa Thượng hôn mê, gian thần lộng hành, không
phải người thân không dùng, không phải kẻ thù không tránh, vậy Tống Công Minh
Ca Ca tôi là người trung tín nhân nghĩa, thay Trời làm Đạo, sai Quan mỗ đến đây
để mời hai vị Tướng Quân quy thuận cho vui. Nếu hai ngài có lòng hạ cố, thì xin
cùng về sơn trại một thể.
Hai
người nghe nói cả giận, cùng phi ngựa ra để đánh Quan Thắng, Quan Thắng đương
sắp ra đón, thì bên tả có Tuyên tán, bên hữu có Hắc Tư Văn cùng xông ngựa đuổi
theo. Khi vào trong trận thấy Ngụy Định Quốc rẽ về bên tay tả, còn Đan Đình
Khuê rẽ về bên tay hữu, Tuyên Tán thấy vậy liền đuổi theo Ngụy Định Quốc, mà để
cho Hắc Tư Văn đuổi theo Đan Đình Khuê.
Tuyên
Tán vừa đuổi được mấy bước, thì bỗng thấy năm trăm quân bộ đều cờ đỏ giáp đỏ,
kéo đến vây chặt chung quanh, rồi cùng nhau quăng giây móc ra bắt sống cả người
lẫn ngựa. Bên kia Hắc Tư Văn cũng đuổi được mấy bước, thì bỗng có một đám năm
trăm quân bộ đều cờ đen giáp đen, kéo ồ đến vây chặt cả ngựa lẫn người.
Đoạn rồi
Ngụy Định Quốc cùng Đan Đình Khuê nhất diện cho giải Tuyên Tán và Hắùc Tư Văn
vào thành, và nhất đuổi quân đánh tràn sang trận Quan Thắng, Quan Thắng thấy
vậy cả kinh, luống cuống lui chạy. Đan Đình Khuê và Ngụy Định Quốc, đều sốc
ngựa mà đuổi riết ở đằng sau.
Đương
khi đó chợt có hai tướng xông đến để cứu, Quan Thắng nom ra bên tả có Lâm Xung,
bên hữu có Dương Chí, đều hăng hái ra sức cự định với Đan, Ngụy và đánh lui
quân mã Lăng Châu.
Quan
Thắng liền thu đám tàn quân, cùng với Lâm Xung, Dương Chí hợp quần vào một chỗ,
rồi Hoàng Tín cũng kéo quân đến đó để hạ trại.
Bên kia
Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc đắc thắng trở về trong thành, Trương Thái Thú ra
đón tiếp vui mừng, rồi cho đóng xe tù Tuyên Tán, Hắùc Tư Văn vào xe, và sai một
viên hạ tướng, dẫn ba trăm quân lập tức dẫn hai người về Đông Kinh để nộp triều
đình.
Viên hạ
tướng vâng lệnh, giải hai người theo đường đi vào Đông Kinh. Một hôm đi đến một
toà núi khô trơ trọi, chợt gặp Hắc Toàn Phong Lý Quỳ cùng Tiêu Đĩnh, dẫn tụi
lâu la ra đón chận ngang đường, mà đánh cướp xe tù.
Viên hạ
tướng thấy vậy, toan quay lại để chạy. Bỗng đâu có một người nữa là Táng Môn
Thần Bào Húc xông ra ở đằng sau, chém cho viên hạ tướng một nhát, chết lăn
xuống ngựa, rồi bọn quân mã đều bỏ xe tù mà chạy tán loạn cả. Lý quỳ mở xe tù
ra xem, thì chính là Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, bèn lấy làm kinh ngạc, mà hỏi hết
các chuyện đối trận ở Lăng Châu.
Tuyên
Tán kể chuyện cho Lý Quỳ nghe rồi lại hỏi rằng:
- Bác
làm chi mà lại vơ vẫn ở đây thế?
Lý Quỳ
đáp:
- Vì Ca
Ca không cho đi đánh giặc tôi liền trốn xuống núi, gặp được Tiêu Đĩnh dẫn đến
đây, để liên kết Bào Huynh nhập đảng. Ngày nay anh em tôi đương bàn định đi
đánh Lăng Châu, thì thấy Tiểu lâu la báo rằng: Có xe tù giải đi qua núi. Nhân
vậy chúng tôi đem người xuống cướp...ai ngờ chính lại là hai tướng quân...
Nói đoạn
Bào Húc mời cả về sơn trại, sai giết trâu làm rượu thiết đãi.
Hắc Tư
Văn nói với Bào Húc rằng:
- Anh em
đã có lòng nhập đảng ở núi Lương Sơn, thì xin hãy đem quân mã bản trại đi, để
cùng đánh Lăng Châu rồi sẽ cùng về một thể, có lẽ tiện hơn.
Bào Húc
nói:
- CHính
ý tôi đương muốn như vậy, sơn trại tôi đây, tất cả được vài ba trăm ngựa, và
dăm bảy trăm tiểu lâu la, ta nên liên kết làm một đội mà đi ngay mới được.
Nói đoạn
liền lập tức kéo hết quân mã sơn trại để đi đánh Lăng Châu.
Nói về
đám quân sĩ bị đánh mất xe tù, liền vội vội vàng vàng chạy về phủ Lăng Châu,
đem tin tức báo cho Trương Thái Thú, cùng Đoàn Luyện Sứ biết. Đan Đình Khuê và
Ngụy Định Quốc nghe nói mà cả giận rằng:
- Phen
nầy có bắt được tên nào cứ chém ngay đây mới được.
Vừa nói
dứt lời thì thấy Quan Thắng dẫn binh đến khơi đánh ở ngoài thành.Đan Đình Khuê
vội vàng lên ngựa, dẫn năm trăm quân mở cửa thành ra để đón đánh. Khi ra tới
cửa thành, Đan Đình Khuê quát mắng Quan Thắng rất là sỉ nhục. Quan Thắng nghe
thấy vỗ ngựa múa đao xông ra để đánh.
Đôi bên
đánh nhau được hơn hai mươi hiệp, rồi Quan Thắng vội vàng quay ngựa chạy lui.
Đan Đình Khuê liền xốc ngựa để đuổi. Đuổi chừng hơn mười dặm đường, chợt thấy
Quan Thắng quay ngựa lại bảo Đan Đình Khuê rằng:
- Ngươi
không xuống ngựa đầu hàng cò đợi đến bao giờ nữa?
Đan Đình
Khuê liền múa thương xông vào đánh Quan Thắng, Quan Thắng lấy hết uy thế, giơ
dọng đao vỗ vào Đan Đình Khuê quát lên một tiếng:
-
"Xuống", rồi thấy Đan Đình Khuê ngã lộn xuống đất.
Quan
Thắng vội vàng xuống ngựa đỡ Đan Đình Khuê dậy, mà nói rằng:
- Xin
Tướng Quân tha tội cho.
Đan Đình
Khuê ra dáng sợ hãi cúi phục xuống đất mà kêu xin đầu hàng
Quan
Thắng nói:
- Tôi
thường nhắc đến tên các ngài trước mặt Tống Công Minh luôn, vậy nay Công Minh
sai tôi đến đây đón các ngài cùng về tụ nghĩa một thể!
Đan Đình
Khuê nói rằng:
- Tôi
xin vâng lời ra sức cùng nhau Thay Trời làm Đạo.
Nói đoạn
hai người lên ngựa dong cương mà đi với nhau.
Khi Lâm
Xung thấy hai người lên ngựa cùng đi với nhau, liền hỏi duyên cớ vì sao? Quan
Thắng giấu trận Đan Đình Khuê thua, rồi bảo với Lâm Xung rằng:
- Khi
đuổi đến chỗ vắng, tôi lấy tình trước nghĩa sau khuyên giải, nên Đan tướng quân
mới quy hàng đó.
Bọn Lâm
Xung nghe nói, đều lấy làm mừng rỡ vô cùng. Đan Đình Khuê về đến trước trận,
kêu lên một tiếng năm trăm quân áo đen cùng theo cả đi, còn các nhân mã khác
đều trốn vào thành, báo cùng Trương Thái Thú cùng Ngụy Định Quốc.
Ngụy
Định Quốc nghe nói cả giận, ngày hôm sau liền sắm quân mã ra thành để đánh. Khi
ra tới trận, Ngụy Định Quốc trỏ mặt Đan Đình Khuê quát mắng rằng:
- Đồ
vong ân bội nghĩa, như thế thì phỏng còn trời đất nào chứng cho ngươi nữa?
Quan
Thắng nghe nói cười nhạt một tiếng, rồi xông ngựa múa đao ra đánh, hai bên đánh
nhau được mươi hiệp. Ngụy Định Quốc liền quay ngựa chạy về bản trận
Quan
Thắng vỗ ngựa đuổi theo, Đan Đình Khuê kêu to lên rằng:
- Tướng
quân không nên đuổi theo...
Quan
Thắng nghe thấy liền quay ngựa vội trở lại, thì thấy bên trận Lăng Châu, có năm
trăm tên bộ quân, mình mặc áo đỏ, lưng đeo túi huỳnh lưu cùng các đồ dẫn lửa,
đẩy năm chục cổ xe chất toàn cỏ khô, đốt đỏ rừng rực và kéo sang bên trận Quan
Thắng.
Quân mã
Quan Thắng bị lửa xông vào, ai nấy đều kinh hoàng sợ hãi mà chạy tán loạn cả.
Quan Thắng liền dẫn quân lui về bốn mươi dặm để hạ trại.
Ngụy
Định Quốc lại dẫn quân lui về. Khi đến cửa Thành, thấy lửa đỏ rực trời, than
khói tứ tung. Ngụy Định Quốc biết là trong thành bị cướp, bèn vội vàng dẫn quân
kéo chạy, mà không dám kéo quân vào thành nữa.
Nguyên
khi Ngụy Định Quốc kéo quân ra đánh, thì Lý Quỳ dẫn nhân mã ở Khô Thụ Sơn, đến
phía bắc thành Lăng Châu, sát vào thành mà cướp lấy kho đạn, rồi phóng hỏa đốt
nhà cửa, khiến cho thành Lăng Châu phút chốc đã tan ra như tro vậy.
Bấy giờ
Ngụy Định Quốc dẫn quân quay ra, bất đồ lại gặp Quan Thắng đến đón đánh. Ngụy
Định Quốc lại phải kéo quân sang huyện Trung Lăng để lánh nạn. Quan Thắng lại
đem quân vây huyện Trung Lăng, truyền lệnh các tướng đánh thành rất riết. Ngụy
Định Quốc chỉ đóng chặt cửa thành mà không dám ra đánh.
Đan Đình
Khuê bàn với Quan Thắng, Lâm Xung cùng mọi người rằng:
- Ngụy
Định Quốc là người hăm hở nóng nảy, nếu ta bách quá thì hắn liều chết mà không
chịu nhục. Việc đó thong thả thì xong, chứ vội quá không thành hiệu. Vậy tiểu
đệ xin đi vào trong huyện đó lấy lời tử tế mà khuyên nhủ anh ta, thì may ra
khỏi phải dùng sức can qua, mà có thể âm thầm được.
Quan
Thắng nghe nói cả mừng, liền ưng lời cho Đan Đình Khuê một mình một ngựa mà đi
vào thành Trung Lăng.
Đan Đình
Khuê vào tới huyện ấy, lấy lời ngon ngọt dỗ Ngụy Định Quốc mà rằng:
- Hiện
nay triều đình vô đạo, thiên hạ rối loạn bời bời, trên Thiên Tử hôn mê, để cho
gian thần đắc chí, vậy chúng ta nên quy thuận với Tống Công Minh, tạm lánh ở
nơi Thủy Bạc, rồi sau đây gian thần thoái hết, bấy giờ ta sẽ trở lại triều
đình, có đi đâu mà thiệt, quan bác thử nghĩ kỹ xem sao?
Ngụy
Định Quốc nghe nói ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói với Đan Đình Khuê rằng:
- Nếu
Quan Thắng đến đây mời tôi thì tôi sẽ quy thuận, bằng ông ta không đến thì tôi
xin liều chết, chứ không chịu nhục.
Đan Đình
Khuê nghe nói liền lên ngựa trở về báo cho Quan Thắng biết, Quan Thắng nói
rằng:
- Quan
mỗ đã thấm vào đâu, nếu Ngụy tướng quân có lòng hạ cố, thì còn gì hơn nữa.
Nói đoạn
liền từ biệt mọi người, rồi một mình một ngựa một đao đi vào trong huyện.
Lâm Xung
can rằng:
- Huynh
trưởng hãy thư thả, tâm địa người ta biết đâu mà chắc, phải nghĩ kỹ mới được.
Quan
Thắng đáp:
- Chỗ
anh em cũ cả, có can chi mà sợ.
Nói đoạn
đi thẳng vào huyện Định Quốc bái tạ đầu hàng, đặt tiệc thiết đãi, anh em kể
chuyện hàn huyên, rồi dẫn năm trăm quân theo sang Đại trại. Quan Thắng dẫn Ngụy
Định Quốc đến chào hỏi Lâm Xung, cùng các Đầu Lĩnh mà thu quân trở về Lương Sơn
Bạc.
Khi về
đến Kim Sa, quân mã đương xuống thuyền lên núi, thì bỗng thấy có Kim Mao Khuyển
Đoàn Cảnh Trụ, ra dáng âu sầu tức giận, mà cùng đến đó.
Lâm Xung
thấy vậy hỏi Đoàn Cảnh Trụ rằng:
- Ngươi
đi sang Bắc mua ngựa với Thạch Dũng, Dương Lâm, sao lại về đó làm chi vậy?
Cảnh Trụ
thở dài một tiếng, rồi đem chuyện nói cho Lâm Xung nghe.
Mới hay:
Xưa nay
thanh khí tương cầu.
Giang hồ
gặp gỡ lọ cầu mới thân,
Aùo xiêm
hổ mặt phong trần.
Tấm thân
vì nước vì dân thế nào?
Trăm năm
một dạ thanh cao,
Lòng nầy
đất thấp trời cao biết cùng.
Lời bàn
của Thánh Thán.
Ngôi thứ
nhất của Trung Nghĩa Đường, vốn không phải của Tống Giang chiếm cứ, thì cũng
không phải Tống Giang có thể nhường ai. Đã không chiếm được mà cứ chiếm, đó là
vô sỉ; Mà không thể đem nhường, lại cứ nhường, cũng lại là vô sỉ. Con người đã
vô sỉ, chẳng những tự mình tiếc của, mà cũng lại chẳng vì người mà tiếc của
người. Như ngày trước Tống Giang muốn chiếm ngôi ấy, vì có Lý Quỳ chẳng muốn
hứa cho mà nói ra giọng ấy; còn chẳng tiếc của người, như ngày nay Tống Giang
muốn nhường ngôi ấy, vì có Lư Viên Ngoại chẳng muốn hứa cho, mới có sự nầy.
Tại sao
vậy? Vì con người vô sĩ, thì cơ giang biến trá, cốt sao cho được đến ngôi ấy mà
thôi, nào cứ phải ngày trước đã chiếm, mà cho là được, cho dến nay nhường đi,
cũng chỉ khéo chiếm cho được mà thôi. Với cái ý muốn chiếm cho được, khiến cho
đường đường một Lư Viên Ngoại, chỉ là tựa bóng, mà không còn bay khỏi nữa thước
ra ngoài vũng nước, bấy giờ làm một người như Lư Viên Ngoại, há cam chịu nước
đó chăng?
Hoặc có
người hỏi:Tống Giang muốn chiếm cho được, thấy đã được rồi, còn có ý biết rằng
có nhường cũng vẫn được ngôi ấy? Xin trả lời rằng: Ngôi thứ nhất của Trung
Nghĩa Đường, chẳng phải Tống Giang chiếm được, mà cũng không phải Tống Giang
nhường cho ai được, nếu khiến Tống Giang chiếm được một cách vô lý thì mũi tên
của Tiều Thiên Vương còn kia, nó cũng theo ai lập được công báo được thù, mà ở
ngôi ấy nay Tống Giang đã nhường, lại không ai dám nhận, tức Tống Giang đã
chiếm xong rồi, dù có ai báo nổi thù, mà lập nên công, cũng không dám ngồi tranh
ngôi đó rõ ràng như thế, mới hay con người vô sĩ, dùng hết mánh khoé để chiếm
về mình cho nên từng phen Lý Quỳ nói ra, như mắng vào mặt vô sĩ.
Người
hay đa nghi như Ngô Dụng còn nghi Quan Thắng, thì không chừa ai là chẳng khỏi
nghi; người hay đa nghi như Tống Giang còn nghi Lý Quỳ, lại không còn ai là
chẳng khỏi nghi, hồi nầy chép luôn hai người nghi ngờ cho rõ tội ác của Tống
Giang, Ngô Dụng cùng che đậy cho nhau.
Tả Lý
Quỳ gặp Tiêu Đĩnh, khiến người đọc đến, phải bậc lên tấm lòng yêu hiếu thiện,
bậc lên tấm lòng khiêm ức, mà chẳng bụng lừa người, chẳng bụng bạc bẽo, mới hay
Thiết Ngưu có hành động ấy khiến Nại Am có ngọn bút nầy.
Sau khi
đánh thành Đại Danh, lại chẳng thấy nhắc đến mối thù của Tiều Cái Thiên Vương,
lại còn tiếp luôn một hồi đánh thâu hai tướng Thủy Hỏa, cũng chẳng tả qua loa,
tả ra rất là thay đổi khác, chẳng khỏi khiến người có cá ý.
Tả đến
hành động Quan Thắng, thấy như khí tượng đường hoàn của Hán Quan Công, chả chút
đáng chê, không ngờ trăm hoa đua sắc, nổi bậc Mẩu Đơn; đọc giả xét ra sẽ thấy.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 67: Tống Công Minh đánh phá Tăng Đầu
Thị; Lư Tuấn Nghĩa bắt sống Sử Văn Cung
Bấy giờ
Đoàn Cảnh Trụ nói với bọn Lâm Xung rằng:
- Tôi
cùng Dương Lâm, Thạch Tú đi sang mạn Bắc, chọn mua được hai trăm con ngựa rất
khoẻ và đẹp, bất đồ về đến địa hạt Thanh Châu, gặp một người tên là Hiểm Đạo
Thần Úc Bảo Tứ, tụ hơn hai trăm người cướp lấy cả ngựa, đem giải về Tăng Đầu
Thị, còn Dương Lâm, Thạch Tú thì không biết bạt đi đâu mất. Bởi vậy tôi phải
trốn về đây báo cho sơn trại biết.
Lâm Xung
nghe nói liền đưa về sơn trại, để nói cùng Tống Công Minh, khi về tới Trung
Nghĩa Đường, Quan Thắng dẫn Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, vào chào Tống Giang
cùng các Đầu Lĩnh rồi Lý Quỳ đem các chuyện giết Hàn Bá Long gặp Tiêu Đĩnh, Bào
Húc đi đánh Lăng Châu thuật cho mọi người nghe. Tống Giang nghe nói lấy làm
mừng vô hạn.
Hồi lâu
các Đầu Lĩnh đương ngồi yến ẩm với nhau, Đoàn Cảnh Trụ lại kể chuyện mất ngựa
cho Tống Giang, Tống Giang nghe nói cả giận mà rằng:
- Ngày
trước chúng đã cướp ngựa của ta, sau Tiều Thiên Vương cũng bị bắn chết vì tay
chúng, thù ấy vẫn chưa báo được. Nay chúng lại dám vô lễ đến thế, nếu ta không
đem binh đi đánh, tất thiên hạ chê cười ta đó.
Ngô Dụng
tiếp luôn rằng:
- Hiện
nay ngày xuân ấm áp, chính hợp cho sự hành binh, vậy ta nên đi đánh ngay cho
vui, ngày trước Tiều Thiên Vương bị thua là vì mất địa lợi, vậy ngày nay ta nên
dùng trí mà đánh mới được. Nay hãy cho Thời Thiên đến đó treo tường khoét dậu,
thám thính xem sao, rồi về đây ta sẽ liệu.
Thời
Thiên vâng mệnh ra đi. Cách ba bốn hôm sau bỗng thấy Dương Lâm, Thạch Tú trốn
về sơn trại, kể lại Sử Văn Cung rất là vô lễ, thường nói khoác thế nào cũng
không chịu sống với bọn Lương Sơn. Tống Giang nghe nói toan khởi binh đi ngay
lập tức.
Ngô Dụng
can rằng:
- Hãy đợi
Thời Thiên về rồi sẽ khởi binh, có đi đâu mà vội?
Tống
Giang vẫn hầm hầm tức giận, chỉ nóng báo cừu, không sao chịu được liền sai Đới
Tung đi thám thính mau mau để cho chóng việc.
Đới Tung
vâng lệnh đi mấy hôm, rồi trở về trước Thời Thiên, mà nói với Tống Giang rằng:
- Bọn
Tăng Đầu Thị muốn báo thù cho phủ Lăng Châu, hiện nay đã đóng đại trại ở chợ
Tăng Đầu và đặt trướng Trung quân ở chùa Pháp Hoa, cắm cờ mấy trăm dặm, không
biết lối nào mà tiến được.
Ngô Dụng
nghe nói, còn do dự chưa biết lập kế ra sao. Sáng hôm sau chợt thấy Thời Thiên
về báo rằng:
- Chúng
tôi đi đến chợ Tăng Đầu, đã dò thám hết, rất kỹ tình thế của chúng. Hiện nay
chúng chia năm trại, trước mặt chợ Tăng Đầu có hơn ba nghìn người coi giữ cửa
thôn, trong trại có Sử Văn Cung coi giữ trại. Trại bên Bắc có Tăng Đồ cùng Phó
giáo sư Tô Định, trại bên Nam có Tăng Mật, trại bên Tây có Tăng Sách, trại bên
Đông có Tăng Khôi, cùng người cha là Tăng Lộng coi giữ. Còn Úc Bảo Tử người ở
Thanh Châu, thì cao một trượng, lưng lớn ba ôm, biệt hiệu là Hiểm Đạo Thần Úc
Bảo Tử, đã cướp lấy ngựa của ta hiện còn nuôi ở chùa Pháp Hoa đó.
Ngô Dụng
nghe nói liền tụ hội các tướng đến mà bàn rằng:
- Đằng
ấy chúng có năm trại thì ta đây chia binh ra làm năm đạo để đánh.
Lư Tuấn
Nghĩa đứng dậy nói rằng:
- Lư mỗ
nhờ ơn các ngài cứu cho lên núi, chưa có chút gì để đền ơn, vậy ngày nay xin ra
trước trận để đánh chẳng hay các ngài có thuận cho không?
Tống
Giang nghe nói liền hỏi Ngô Dụng rằng:
- Viên
Ngoại có lòng đi giùm, vậy có thể mời Viên Ngoại đi tiền bộ được chăng?
Ngô Dụng
đáp:
- Viên
Ngoại mới đến đây chưa ra chiến trận, đường lối hiểm trở khó lòng dò biết,
không thể nào đi tiền bộ tiên phong được. Vậy xin Viên Ngoại dẫn một chi quân
nấp ở giữa khoảng Bình Xuyên rồi nghe hiệu súng Trung quân mà kéo đến tiếp ứng.
Thế là tiện hơn.
Tống
Giang nghe nói cả mừng bèn cho Lư Viên Ngoại cùng Yến Thanh dẫn năm trăm quân
bộ đến nấp ở con đường nhỏ Bình Xuyên mà nghe hiệu. Đoạn rồi cùng nhau cắt đặt
năm đạo quân để đi đánh: Toán thứ nhất mã quân Đầu Lĩnh là Tích Lịch Hỏa Tần
Minh, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh cùng Phó tướng Đặng Phi, Mã Lân dẫn ba nghìn quân
đánh trại chính Nam. Toán thứ nhì bộ quân Đầu Lĩnh Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm.
Hành giả Võ Tòng cùng phó tướng Khổng Minh, Khổng Lượng dẫn ba nghìn quân đánh
trại chính Đông. Toán thứ ba mã quân Đầu Lĩnh Thanh Diện Thú Dương Chí, Cửu Văn
Long, Sử Tiến, cùng phó tướng Trần Đạt, Dương Xuân dẫn ba nghìn quân đánh trại
chính Bắc. Toán thứ tư bộ quân Đầu Lĩnh Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng, Sáp Sí Hổ Lôi
Hoành cùng phó tướng Trâu Uyên, Trâu Nhuận dẫn ba nghìn quân đánh trại chính
Tây. Còn toán thứ năm thì Đô Đầu Lĩnh Tống Giang, quân sư Ngô Dụng, Công Tôn
Thắng, cùng các phó tướng là: Lã Phương, Quách Thịnh, Giải Trân, Giải Bảo, Đới
Tung, Thời Thiên dẫn năm nghìn quân đánh trại chính giữa. Hắc Toàn Phong Lý
Quỳ, Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy cùng phó tướng là Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm
nghìn quân làm hợp hậu. Còn các Đầu Lĩnh khác đều ở nhà coi trại.
Khi cắt
đặt xong, năm đạo quân đều xuống núi chia đường mà thẳng đến đánh chợ Tăng Đầu.
Bên kia
Tăng Trưởng Quan nghe báo quân mã Tống Giang sắp kéo đến, bèn mời giáo sư Sử
Văn Cung và Tô Định đến để bàn việc binh.
Sử Văn
Cung bàn rằng:
- Đám
Lương Sơn Bạc phần nhiều là binh cường tướng mạnh, ta nên dùng kế đào hầm thì
thế nào cũng tróc nã được chúng. Tăng Trưởng Quan khen phải, liền sai trang
khách đem mai cuốc ra đào mấy mươi hàng hầm hố ở trong thôn, bên trên phủ qua
lượt đất, rồi cho quân binh nấp bốn bên đường để đón bắt. Lại sai đào mấy mươi
hàng hầm hố nữa về phía Bắc Tăng Đầu Thị để đợi.
Bên kia
khi quân mã Tống Giang đã bắt đầu khởi hành, Ngô Dụng lại sai Thời Thiên dấn
mau đi trước để dò đường. Cách mấy bữa Thời Thiên trở lại bảo rằng:
- Đường
vào các trại Nam Bắc ở Tăng Đầu thì đều đào hầm hố rất nhiều, nếu quân mã ta lỡ
mắc vào đó thì tất là nguy mất.
Ngô Dụng
nghe nói cả cười mà rằng:
- Kế ấy
thì lấy chi làm lạ! Nói đoạn liền truyền cho quân mã cứ tiến lên để đánh.
Một hôm
vào khoảng giờ ngọ, quân mã kéo gần đến Tăng Đầu Thị, chợt thấy có một người
khăn xanh bào trắng cưỡi ngựa đeo nhạc xủng xoảng tay cầm đỏan thương đi đến.
Tiền đội trông thấy toan kéo quân đuổi đánh. Ngô Dụng liền ngăn lại rồi truyền
lệnh năm đạo quân mã đều chia mạn hạ trại, đào hào đắp lũy rắc chông rào dậu
phòng bị rất là nghiêm mật.
Người
lại truyền cho Thời Thiên ăn mặc giả làm quân lính để dò xét xem các nơi hầm hố
tất cả có mấy chỗ, cách xa trại quân chừng độ bao nhiêu và ghi nhớ lấy dấu hiệu
để về báo. Thời Thiên vâng lệnh đi xét một ngày rồi về báo rõ ràng dấu tích các
nơi hầm hố cho Ngô Dụng biết.
Ngày hôm
sau Ngô Dụng truyền lệnh cho tiền quân chia làm hai đội đem đủ các đồ mai cuốc
và xe hơn một trăm xe cỏ khô củi nỏ đi giấu ở trong quân. Đoạn rồi truyền lệnh
cho các Đầu Lĩnh cứ đến giờ Tỵ hôm sau thì đám quân bộ hai đường Đông Tây tiến
đánh, còn Dương Chí, Sử Tiến ở bên Bắc thì phải dẫn quân mã ra đó, rồi đánh
trống khua cờ, hư trương thanh thế mà không cho tiến lên. Khi phân phát xong
rồi các tướng đều y lệnh để đợi thi hành.
Về phần
Sử Văn Cung khi đã đào xong các hầm hố chỉ đợi cho Tống Giang kéo quân mã sấn
vào là thế nào cũng sa xuống hố mà tóm bắt được cả. Chợt đâu đến giờ tỵ nom
thấy ở trước trại có hiệu súng nổi lên, rồi có đại đội binh mã kéo đến mạn nam,
đông như kiến cỏ. Rồi sau thấy trại bên Đông vào báo rằng:
- Có một
lão hoà thượng múa cây thuyền trượng và một người hành giả múa hai khẩu giới
đao, đánh cả đằng trước đằng sau trại.
Sử Văn
Cung nghe báo liền nói rằng:
- Hai
tên ấy chừng là Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng ở Lương Sơn Bạc hẳn.
Nói đoạn
lại sợ sức Tăng Khôi không chống nổi, bèn sai người ra Đông trại để giúp sức.
Chợt lại
thấy Tây trại vào báo: Có một người râu dài và một người mặt tía, trên cờ có đề
chữ "Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng", và "Sáp Sí Hổ Lôi Hoành", kéo
quân đến đánh rất gấp, Sử Văn Cung nghe báo lại sai người sang giúp sức với
Tăng Sách ở Tây trại, bỗng lại nghe thấy trước Trại có hiệu súng nổi lên. Sử
Văn Cung vẫn lặng yên không ra tiếp ứng, chỉ đợi cho quân mã bọn kia sa xuống
hố, rồi sẽ ra bắt, đằng kia Ngô Dụng đem quân lần theo dõi sau núi chia làm hai
đường kéo vào đến trại. Bấy giờ đám tiền quân của Sử Văn Cung còn cấp về việc
coi trại, không dám rời đi, còn đám phục binh thì vẫn dàn hàng, mà nấp ở hai
bên hầm hố phía trước, Ngô Dụng kéo quân tới nơi liền đánh đám phục binh ngã
sấp cả xuống hầm hố.
Sử Văn
Cung thấy vậy, kéo binh ra để đuổi. Ngô Dụng liền cầm roi trỏ Trung quân đẩy
trăm xe cỏ, kéo ra nhất tề phóng lửa để đốt. Quân mã Sử Văn Cung kéo tới nơi,
bị lửa đốt ngăn đường lại, đành phải kéo nhau trở lại. Khi đó Công Tôn Thắng
đứng ở trong trận, cầm kiếm làm phép, rồi bỗng nổi một trận gió to, cuốn khói
lửa đưa vào lối cửa bên Nam, làm cho gác canh cùng dậu vách cùng bị thiêu đốt
cháy cả. Đoạn rồi đôi bên cùng khua chiên thu quân, rồi Sử Văn Cung lập tức cho
sửa sang cử a trại lại nguyên như cũ.
Ngày hôm
sau Tăng Đồ bàn với Sử Văn Cung rằng:
- Nếu
không chém được đầu giặc, thì không thể nào mà triệt đi được. Vậy hôm nay xin
giáo sư coi trại, để tôi ra đánh một trận xem sao.
Nói đoạn
liền cưỡi ngựa dẫn quân ra trận khơi đánh. Tống Giang ở Trung quân, liền dẫn Lã
Phương ra trước trận để đón.
Khi ra
tới cửa trận, thấy Tăng Đồ hầm hầm giận dữ. Tống Giang liền cầm roi mà nói
rằng:
- Ai ra
bắt thằng kia cho ta, để báo thù khi trước.
Nói dứt
lời thì Tiều Oân hầu Lã Phương vác Thiên Phương Họa Kích, vỗ ngựa ra đánh Tăng
Đồ. Đôi bên đánh nhau chừng hơn ba mươi hiệp, thì Lã Phương có phần hơi núng,
không địch nổi với Tăng Đồ, đao pháp đã hơi rối loạn. Quách Thịnh thấy vậy liền
vỗ ngựa cùng múa Thiên Phương Họa Kích ra để cùng đánh Tăng Đồ.
Ba người
ba ngựa quần nhau ở trước trận một lúc, rồi bỗng dưng ba thứ quân khí, bị vướng
ngù vào với nhau, không sao mà dằng ra được.
Tiểu Lý
Quảng Hoa Vinh đứng trong trận thấy vậy, bèn sấn ngựa ra tay tả co giây cung,
tay giữa đặt tên nhằm giữa Tăng Đồ để bắn. Khi đó Tăng Đồ đã rút được cây
thương ra, mà hai cây kích của Lã Phương, Quách Thịnh còn soắn sít lấy nhau
chưa sao gỡ được. Tăng Đồ thấy thế, giơ thương toan đánh, thì vừa hay mũi tên
của Hoa Vinh đã tới, bắn trúng ngay vào vai Tăng Đồ ngã lăn xuống ngựa, Lã
Phương, Quách Thịnh thấy Tăng Đồ ngã, chém cho một nhát chết ở giữa trận. Quân
sĩ Tăng gia vội vàng phi ngựa báo cho Sử Văn Cung và đến Trung trại báo cho
Tăng Trưởng Quan biết.
Tăng
Trưởng Quan nghe báo lấy làm thương xót mà khóc nức nở lên một lúc, bấy giờ
Tăng Thăng đứng ở bên cạnh nghe nói anh chết, liền gọi người lấy ngựa ra để đi
đánh báo thù cho anh. Tăng Trưởng Quan ngăn giữ không được, đành phải để cho
Tăng Thăng đi.
Nguyên
Tăng Thăng là một tay võ nghệ cao cường, khiến hai khẩu phi đao không ai hề dám
gần đến. Khi đó chàng vác đao lên ngựa, đi ra đến tiền trại, Sử Văn Cung cũng
ngăn lại mà rằng:
- Tiểu
tướng quân không nên vội ra. Bên trận Tống Giang trí dũng rất nhiều, khó lòng
địch nổi, vậy cứ ý tôi, thiết tưởng ta nên giữ vững năm trại, cho người báo với
Lăng Châu để tâu với triều đình, đem nhiều binh mã chia làm hai đường ra đánh
Lương Sơn, và cứu ứng ở đây, thì bấy giờ mới có thể lập công được.
Đương
khi nói chuyện thì thấy phó giáo sư là Tô Định ở Bắc trại cũng đến đó. Tô Định
nghe lời Sử Văn Cung cũng lấy làm phải, mà nói rằng:
- Ngô
Dụng ở Lương Sơn Bạc là một người lắm mưu nhiều kế, không thể coi khinh được,
ta chỉ nên giữ vững lấy trại đợi cứu binh đến, rồi ta sẽ liệu.
Tăng
Thăng kêu lên rằng:
- Nó
giết Ca Ca ta, oán thù ấy tất là phải báo, nay nếu để cho nó tự do hành động mà
không trị đi, thì sau nầy còn làm gì được nữa?
Sử Văn
Cung cố can không được. Tăng Thăng liền hăm hở lên ngựa dẫn mấy mươi quân kỵ ra
trận khơi đánh.
Tống
Giang liền truyền cho Tần Minh ra đón đánh Tăng Thăng, Tần Minh vâng lệnh lên
đường sắp đi ra thì thấy có người mình đen chùi chũi, cởi trần trùng trục, múa
song phủ xồng xộc chạy thẳng đến trại Tăng Thăng để đánh.
Đám quân
sĩ của tăng Thăng trông thấy liền bảo với Tăng Thăng rằng:
- Người
ấy là Hắc Toàn Phong ở Lương Sơn Bạc đó.
Tăng
Thăng nghe nói liền truyền cho quân sĩ lấy cung tên ra bắn. Lý Quỳ đang hăng
hái vô ý bị một mũi tên bắn vào chân ngã lăn ra trước trận. Quân mã của Tăng
Thăng đều xông ra để bắt.
Bên kia
Tần Minh, Hoa Vinh phóng ngựa ra để cứu, rồi Mã Lân Đặng Phi, Lã Phương, Quách
Thịnh đều nhất tề xông ra cứu Lý Quỳ đem về bản trận. Tăng Thăng thấy bên trận
Tống Giang đông người, liền đem quân trở về mà không dám đánh nữa.
Ngày hôm
sau, Sử Văn Cung cùng Tô Định đều định đóng binh yên giữ, song Tăng Thăng nóng
ruột về việc báo cừu choa nhiều bèn cố giục Sử Văn Cung phải ra đối trận. Sử
Văn Cung bất đắc dĩ phải đóng đai giáp, cưỡi con ngựa Thiên Lý Long Câu Chiếu
Dạ Ngọc Sư Tử cướp được của Đoàn cảnh trụ khi trước mà xông ra để đánh.
Bên kia
Tống Giang dẫn các tướng ra dàn trận để đón. Khi Tống Giang trông thấy con ngựa
Ngọc Sư Tử thì trong lòng lấy làm căm tức, liền truyền lệnh cho tiền quân xông
ra để đánh Sử Văn Cung.
Tần Minh
nghe lệnh bèn vỗ ngựa xông ra đối trận. Hai bên đánh nhau chừng hơn hai mươi
hiệp, Tần Minh nghe hơi núng thế vội quay ngựa chạy về bản trận.
Sử Văn
Cung ra sức sấn lên cầm thương đâm vào chân Tần Minh một nhát ngã lăn xuống
đất. Lã Phương, Quách Thịnh, Mã Lân, Đặng Phi thấy vậy đều xông ra liều chết
cứu được Tần Minh về. Quân sĩ cả thua một trận. Tống Giang lui quân ra ngoài
mươi dặm hạ trại, rồi sai người xe Tần Minh về sơn trại phục thuốc, và mật gọi
Quan Thắng, Từ Ninh và Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc xuống núi để giúp.
Tống
Giang đốt hương khấn trời đất qủy thần xin một quẻ bói đưa cho Ngô Dụng xem.
Ngô Dụng
xem xong bảo với Tống Giang rằng:
- Phen
nầy tất được thanh thỏa không can chi cả. Duy đêm nay chúng sẽ vào cướp trại ta
đây. Nếu vậy thì phòng bị trước đi mới được.
- Vâng
xin Huynh trưởng cứ vững tâm truyền cho năm quân ngay bây giờ là được rồi.
Nói đoạn
liền hạ lệnh cho quân mã các trại đều mai phục tất cả các nơi và để Giải Trân ở
bên tả, Giải Bảo ở bên hữu, để đợi hiệu thi hành.
Đêm hôm
đó trời trong trăng sáng, Sử Văn Cung ngồi ở trong trại bàn với Tăng Thăng
rằng:
- Quân
giặc hôm nay bị thương mất hai tướng, chắc là trong lòng kinh khiếp, vậy ta nên
thừa thế mà cướp trại thì tất là được nên công.
Tăng
Thăng nghe nói liền gọi Tô Định ở Bắc trại, Tăng Mật ở Nam trại, và Tăng Sách ở
Tây trại đều dẫn quân đi cướp trại Tống Giang. Vào khoảng canh hai đêm hôm ấy
quân mã đều im phắc, người mặc giáp mềm, ngựa bỏ vòng nhạc mà thẳng kéo ra đi.
Khi tới
trại Trung quân của Tống Giang thấy bốn bên vắng vẻ không có một ai, bọn Tăng
Thăng biết là có kế, liền quay ngựa kéo nhau lui ra. Chợt đâu thấy bên tả có
Giải Trân, bên hữu có Giải Bảo, rồi mặt sau có Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đều nhất
tề xông ra để đánh.
Tăng
Sách lúng túng trong đêm tối mò, bị Giải Trân đâm cho một nhát phương xoa chết
lăn xuống ngựa rồi phóng lửa nổi hiệu các quân đều ập vào để đánh. Bọn Sử Văn
Cung hết sức cướp đường để chạy, mãi sau mới được thoát về trong trại.
Tăng
Trưởng Quan thấy Tăng Sách lại bị chết trong lòng lại càng thương cảm bội phần,
ngày hôm sau liền bàn với Sử Văn Cung để viết giấy xin đầu hàng Tống Giang. Bấy
giờ Sử Văn Cung cũng có điều chột dạ, không dám hung hăng, bèn tán thành việc
đó rồi viết giấy sai người thẳng đem sang trại Tống Giang.
Tống
Giang bắt được giấy, bóc ra xem thấy trong đó nói rằng:
-
"Tôi chủ chợ Tăng Đầu, tên là Tăng Lộng, cúi lạy trình Tống Công Minh
thống quân Đầu Lĩnh. Trước đây vì con tôi ngu dại, cậy khoẻ khoe tài, làm càn
làm dở cướp ngựa của ngài, rồi sau Thiên Vương xuống núi, lại bị đứa tiểu tốt
vi tri bắn tên ngầm mà hại tính mạng, điều đó thực là tội nặng muôn trùng,
không dám có điều chi từ chối.
Song
thiết nghĩ việc đó không phải là thiện ý của chúng tôi, và đứa con ngu dại ngày
nay cũng đã chết rồi, vậy tôi xin cả gan cho sứ mang thơ để cầu hoà cùng Thống
Quân Đầu Lĩnh.
Nếu ngài
có rộng lòng thương tới, im việc can qua, thì tôi đem cái số ngựa đã cướp khi
xưa nộp trả lại ngài, và xin dâng vàng bạc khao thưởng tam quân, để đôi bên
khỏi phần thiệt hại. Lòng thành ý thực xin lượng xét cho.
Tống
Giang xem thơ xong liếc mắt nhìn Ngô Dụng rồi nét mặt giận dữ hầm hầm, xé thơ
mà mắng rằng:
- Bay
giết Huynh trưởng ta, khi nào ta im đi được! Phen nầy tất phải quét sạch toàn
hạt bay đi thì ta mới thỏa.
Người
đưa thơ nghe nói vậy sợ hãi run lên mà cúi rạp xuống đất.
Ngô Dụng
liền can Tống Giang rằng:
- Huynh
trưởng không nên nghĩ thế, chúng ta tranh nhau đây chẳng qua chỉ vì nghĩa khí
mà thôi... Vậy nay Tăng Gia đã cho người đưa thơ sang cầu hoà, nếu ta còn chấp
lòng căm giận mà bỏ mất đạo nghĩa thì sao cho tiện.
Nói đoạn
liền sai viết thơ trả lời và thưởng cho người đưa thơ mười lạng bạc mà cho đem
về. Người kia vâng lệnh đem thơ về trình.
Tăng
Trưởng Quan cùng Sử Văn Cung bóc thư ra xem trong thư nói:
"Lương
Sơn Bạc Chủ Tướng là Tống Giang xin trả lời cho chủ chợ Tăng Đầu là Tăng Lộng
biết: Từ xưa tới nay nước không tín tất mất, người không lẽ tất chết, của không
nghĩa tất mất, tướng không mạnh tất thua, đó là lẽ trời đất thế.
Lương
Sơn Bạc đối với Tăng Đầu, thì trước sau không có thù hằn, chỉ vì làm càn làm
dở, mà gây nên tai vạ ngày nay.
Vậy nếu
muốn giảng hoà, thì phải trả lại các số ngựa đã cướp, và đem nộp tên hung đồ
cướp ngựa là Úc Bảo Tứ, cùng là tiền bạc khao quân sĩ, rồi từ đây dốc lòng hoà
thuận, không được sai lời... Nếu có một điều gì trái phép, bấy giờ ta sẽ liệu
cho không còn phàn nàn được nữa".
Hai
người xem xong lấy làm kinh sợ vô cùng. Sáng hôm sau Tăng Đầu lại cho người
sang nói với Tống Giang rằng:
- Xin
nộp Úc Bảo Tứ và xin cho mấy người đến để làm tin.
Tống
Giang nghe nói liền truyền cho Thời Thiên, Lý Quỳ, Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn
theo sang trại Tăng Gia làm tin.
Khi năm
người ra đi Ngô Dụng gọi Thời Thiên ghé vào tai dặn thầm rằng:
- Nếu lỡ
khi có biến, thì cứ thế nầy mà làm.
Đoạn rồi
năm người vâng lệnh ra đi. Khi sang đến trại Tăng Đầu, Thời Thiên dắt bốn người
vào chào Tăng Lộng mà nói rằng:
- Chúng
tôi vâng tướng lệnh Ca Ca, xin sang đây để làm tin.
Sử Văn
Cung nói lên rằng:
- Ngô
Dụng sai năm người đến đây, vị tất đã không có mưu kế gì?
Lý Quỳ
nghe nói cả giận mà nắm lấy Sử Văn Cungntoan đánh. Tăng Lộng vội vàng đứng dậy
mà khuyên giải ra.
Thời
Thiên nói với hai người rằng:
- Lý Quỳ
tuy là người thô mãng, song hiện là một người tâm phúc của Tống Công Minh, nay
sai sang đây thì không còn điều gì đáng ngờ nữa.
Tăng
Lộng cũng dốc lòng giảng hoà, nên chẳng nhắc gì đến lời của Sử Văn Cung nữa,
liền sai đặt rượu đãi năm người, rồi mới sang chùa Pháp Hoa, cho năm trăm quân
vây giữ trước sau. Đoạn rồi cho Tăng Thăng đem Úc Bảo Tứ, cùng các lễ vật sang
trại Tống Giang để giải hoà.
Tống
Giang nom thấy một xe tiền lụa, và một đoàn ngựa đem đến, liền bảo với Tăng
Thăng rằng:
- Ngựa
nầy toàn là ngựa cướp chuyến sau, còn con ngựa Thiên Lý Long Câu Chiếu Dạ Ngọc
Sư Tử cướp của Đoàn Cảnh Trụ chuyến trước, sao không thấy ở đây?
Tăng
Thăng nói:
- Con
ngựa hiện sư phụ Sử Văn Cung để cưỡi, nên chưa đem được đến đây.
Nếu vậy
phải viết giấy bảo mang sang đây mau.
Tăng
Thăng bèn viết giấy cho người mang về trại, để đòi con ngựa Ngọc Sư Tử mang
sang.
Sử Văn
Cung tiếp được giấy trả lời rằng:
- Con
ngựa khác thì không dám tiếc, duy con ngựa ấy thì không thể nào mà đưa đi
được...
Tống
Giang nghe nói, lại sai người sang hỏi. Sau Sử Văn Cung đáp rằng:
- Muốn
lấy con ngựa ấy thì phải lui quân ngay lập tức mới được.
Tống
Giang thấy vậy, bàn định với Ngô Dụng, chưa biết kế sách ra sao. Chợt đâu có
tin báo Lăng Châu với Thanh Châu dẫn hai đạo quân mã sắp tới nơi.
Tống
Giang nghe nói liền cười nhạt mà rằng:
- Quân
kia biết tất nó giở quẻ với mình.
Nói đoạn
liền truyền lệnh cho Quan Thắng, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc dẫn quân mã đón
bọn Thanh Châu, Hoa Vinh, Mã Lân, Đặng Phi ra đón quân mã Lăng Châu, Tống Giang
lại mật gọi Úc bảo Tứ đến, lấy lời lẽ tử tế dỗ dành, tiếp đãi một cách rất ân
nghĩa, và nói rằng:
- Nếu
ngươi hết sức vì ta phen nầy, ta cho làm Đầu Lĩnh ở sơn trại, và xoá hết thù
xưa. Bằng không thì nay mai Tăng Đầu bị phá, bấy giờ ngươi xử trí ra sao.
Úc Bảo
Tứ nghe nói cúi lạy tạ ơn, rồi tình nguyện xin theo dưới trướng.
Ngô Dụng
liền dặn kế cho Úc Bảo Tứ rằng:
- Ngươi
giả cách trốn về nói với Sử Văn Cung rằng: Ngươi với Tăng Thăng đến trại giảng
hoà đã dò được tin đích xác, hiện nay Tống Giang chỉ định lừa lấy con ngựa
Thiên Lý, rồi sau giở quẻ chứ không thực bụng giảng hoà. Và ngày nay nghe nói,
hai đạo quân Thanh Châu và Lăng Châu kéo đến, thì trong lòng đương lo sợ, vậy
ta nên thừa thế thi hành, chớ nên bỏ lỡ, như vậy nếu hắn nghe lời, thì ta sẽ có
cách, ngươi phải đi ngay mới được.
Úc Bảo
Tứ vâng lời, trốn về trong trại Sử Văn Cung, đem mấy lời đó nói với Sử Văn
Cung, Sử Văn Cung liền dẫn Úc Bảo Tứ đến trình Tăng Trưởng Quan, nói rõ ý Tống
Giang không định giảng hoà, mà bàn định với Tăng Trưởng Quan thừa thế sang cướp
trại Tống Giang.
Tăng
Trưởng Quan nói rằng:
- Tăng
Thăng hiện còn ở đó, nếu mình sai lời thì tất bị hắn giết mất.
Nói đoạn
đâm cho Sử Văn Cung một đao vào đùi ngã lăn xuống ngựa, rồi trói lại mà giải về
Tăng Đầu Thị. Yến Thanh liền dắt con ngựa Long Câu về để nộp.
Tống
Giang trông thấy trong lòng nữa não nửa mừng, sai đem Tăng Thăng ra chém, rồi
bắt chém hết già trẻ nhà họ Tăng, mà không để sót một ai. Đoạn rồi lấy hết kim
ngân châu bảo, cùng thóc gạo lương thực xếp tất cả lên xe để đem về.
Bên kia
tụi Quan Thắng đánh đuổi được quân mã Thanh Châu, Hoa Vinh đánh đuổi được binh
mã Lăng Châu, rồi hai toán quân cùng kéo về đại trại, không thiếu một ai.
Tống
Giang thấy vậy cả mừng, bèn cho Sử Văn Cung vào xe tù, rồi thu thập quân mã,
lương thảo mà trở về Sơn Bạc.
Khi về
tới Trung Nghĩa Đường, các Đầu Lĩnh đều đến làm lễ cáo với Tiều Thiên Vương,
Sai Tiêu Nhượng làm văn tế để tế, rồi các Đầu Lĩnh đều ăn mặc tang phục, khóc
thương nức nở, và moi ruột Sử Văn Cung lên để tế.
Khi tế
lễ xong rồi, Tống Giang liền bàn với các Đầu Lĩnh để lập chủ Lương Sơn Bạc, Ngô
Dụng nói lên rằng:
- Huynh
trưởng ở ngôi trên rồi đến Lư Viên Ngoại thứ nhì, còn các anh em xin cứ theo
như cũ.
Tống
Giang nói:
- Khi
trước Tiều Thiên Vương đã dặn lại rằng: Nếu ai bắt được Sử Văn Cung, tất phải
làm chủ Lương Sơn Bạc. Vậy ngày nay, Lư Viên Ngoại bắt sống được tên giặc đó
đem về để tế, thì tất nhiên tôn vị đến tay, không phải nói năng lôi thôi chi
nữa.
Lư Tuấn
Nghĩa nói:
- Tiểu
đệ tài hèn sức kém, đâu dám đứng vào vị ấy. Huynh trưởng có lòng cho được theo
hầu cũng là quá đáng lắm rồi.
Tống
Giang đáp rằng:
- Không
phải là Tống mỗ quá khiêm, song Tống mỗ có ba điều không bằng viên ngoại. Điều
thứ nhất tôi đây dáng người đen ngắn, mà Viên Ngoại thì tướng mạo đường đường,
uy phong lẫm lẫm, không mấy người bằng. Điều thứ hai tôi đây xuất thân làm đứa
tiểu lại, phạm tội trốn tránh tới đây, may được anh em có lòng yêu mến, mà cho
tạm ở tôn vị, còn Viên Ngoại thì sinh ra ở nhà hào phú, lớn lên có tiếng anh
hùng, thực không ai bằng được. Ba là Tống Giang tôi văn không yên nổi nước, võ
không phục nổi người, tay không sức trói nổi con gà, thân không có một mảy công
lao, mà Viên Ngoại thì sức địch muôn người, rộng xem kim cổ, điều đó lại không
theo kịp. Vậy Viên Ngoại có tài năng như thế, chính nên nhận lấy chức chủ sơn
trại, làm nên quan tước giàu sang, khiến cho anh em cũng được vẻ vang đôi chút.
Tống Giang tôi định như vậy, xin đừng từ chối nữa?
Lư Tuấn
Nghĩa nghe nói, lạy rạp xuống mà rằng:
- Huynh
trưởng đừng nên bàn phiếm nữa, Lưu Trung Thư mỗ dù chết cũng không dám theo
lời.
Ngô Dụng
lại nói rằng:
- Huynh
trưởng ở ngôi trên, rồi đến Viên Ngoại thì ai ai cũng phục, nếu Huynh trưởng
nhường nhịn mãi, thì e lòng chúng lại nhạt nhẽo không ra gì.
Nói đoạn
liếc mắt đưa khắp cả mọi người quanh đó.
Bấy giờ
Lý Quỳ kêu lên rằng:
- Tôi ở
Giang Châu, liều thân liều mạng, theo anh đến đây, ai ai cũng phải nhường anh
mới được, tôi đây dẫu Trời cũng không sợ, cần gì mà phải nhường đứa nào. Tôi
bực lên thì tan nát cả bây giờ.
Võ Tòng
thấy vậy cũng chạy đến kêu lên rằng:
- Hiện
nay bao nhiêu quân quan thuộc tay Ca Ca, đều là những người sắc mệnh triều
đình, người ta chỉ nhường Ca Ca chứ không nhường ai nữa.
Lưu
Đường cũng nói lên rằng:
- Khi
trước bảy anh em chúng tôi ở đây, đã có bụng nhường Ca Ca rồi, nay cần gì mà Ca
Ca còn phải nhường ai?
Lỗ Trí
Thâm cũng kêu lên rằng:
- Nếu Ca
Ca còn lễ nghĩa nhúng nhường mãi, thì tụi ta giải tán là xong.
Tống Giang
thấy chúng nói liền đáp lên rằng:
- Anh em
hãy im tất cả, tôi có cách hỏi xem ý Trời ra sao, rồi mới có thể định được.
Ngô Dụng
hỏi:
- Huynh
trưởng có cách gì cao kiến?
Tống
Giang đáp:
- Tôi có
hai cách nầy, để xin nói với anh em cùng hỏi ý Trời xem sao.
Mới hay:
Người
nghĩa khí bậc anh tài,
Dẫu mà
sinh tử dám sai tấc lòng,
Nước non
là nước non chung,
Mong sao
gặp khách anh hùng chủ trương.
Sá chi
tham muốn giàu sang,
Mà quên
nghĩa lớn thói thường như ai?
Có ta âu
cũng có người,
Thử xem chuyển
vận cơ trời sao đây?
Lời bàn
của Thánh Thán.
Ta trước
nói Tống Giang muốn giết Tiều Cái, còn có người ngờ, nay đọc hồi nầy, mới thấy
ý kiến tác giả kia vậy, tả ra giáo giở khúc chiết cho rõ tội Tống Giang chẳng
muốn báo thù cho Tiều Cái vậy, sao mà rõ ý tứ như thế vậy thay.
Một đoạn
tả Đoàn Cảnh Trụ nói rằng: Uùc Bảo Tứ cướp ngựa đem về Tăng Đầu Thị mất ... ôi!
Ba chữ Tăng đầu Thị thì há chẳng phải Tống Giang không ghi lòng tạc dạ nhớ đến
hay sao, viết vào đá, khắc vào gỗ ngày đêm kêu khóc lệ ra nước máu vậy thay?
Thế mà từ khi đình việc tang ở ngôi đến nay, bỏ lãng đi không nhắc đến, thấy
rằng Tống Giang chẳng từng nhắc đến nên Ngô Dụng cũng không nhắc đến, Lâm Xung
cũng không nhắc đến, cho đến mọi người trên dưới trong sảnh cũng không ai nhắc
đến, và cũng chẳng biết thế nào mà nhắc đến. Nay bỗng đâu từ Đoàn Cảnh Trụ về,
lại giở ra nhắc đến, như thế Tống Giang không còn bịt miệng chúng vậy.
Hai nữa
Đoàn Cảnh Trụ nói rõ việc cướp ngựa, Tống Giang nghe mà cả giận, ôi! Tăng Đầu
Thị không thể nào tha, đã một lần cướp ngựa, lại hai lần cướp ngựa, đã một lần
bực tức, lại còn đến hai lần, ai mà chả tức? Thế mà xét đến báo thù cho Tiều
Thiên Vương bị bắn chết, thì sự đau lòng nhớ đến tất phải có phận sự rồi! Đến
nay tên thề còn đó, hàng tháng chẳng nhắc, lại cái nhục bị cướp ngựa, thì giờ
khắc chẳng nêu ra, làm sao nhẫn tâm như thế được?
Ba nữa,
Tiều Cái để lại lệnh rằng: Nếu ai bắt được Sử Văn Cung thì làm chủ Sơn Bạc, tời
khi Tống Giang sai khiến Chư tướng như Từ Ninh, Hô Duyên Chước, Quan Thắng,
Sách Siêu, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn... Lại không
dám sai lũ ấy. Xem ra đối với cái thù bất cộng, thì chẳng kịp ăn, phải báo cho
xong có chết cũng cam, mà Tống Giang có chí báo thù, thì phải hãy để không ngôi
chủ ấy làm trọng thưởng, cho hết thảy dũng sĩ; Tống Giang mà chí tôn giữ ngôi
chủ trại kia, tất không muốn báo thù cho Tiều Cái vậy, cũng không ai có thể
trách đến, nên khi đánh báo thù, chỉ cử những viên tướng loàng xoàng, thì bắt
sao nổi Sử Văn Cung, làm sao hòng làm chủ sơn trại với Tống Giang nổi?
Bốn nữa,
trong đám người mới tới, chỉ Lư Tuấn Nghĩa đứng lên xin đi, Tống Giang còn hỏi
lại Ngô Dụng có nên không? Ngô Dụng cắt cho chỗ nhàn rỗi, vì rằng theo phép
khiển tướng, thứ nhất là tiên phong, thứ hai tả quân, thứ ba hữu quân, thứ tư
trung quân, thứ năm hợp hậu, thứ sáu mới đến phục quân, phục quân thì đã định
kế tóan, biết là phải thua, mà thua phải đi đường ấy mà trốn?Nếu chưa biết rằng
địch đã thua, mà thua phải đi đường ấy mà trốn, mà lại khiến Viên Ngoại đi
đường ấy trước để mai phục quân, thì rõ ràng không khiến Viên Ngoại bắt được Sử
Văn Cung, thì là An trí Lư Tuấn Nghĩa một nơi đó vậy.
Năm nữa
Sử Văn Cung cưỡi ngựa, lại là con Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử, Tống Giang nom thấy ngựa
tốt, đã sốt ruột nóng đầu, vì con ngựa Sử Văn Cung cưỡi, vốn con ngựa đã cướp
của Đoàn Cảnh Trụ đem đến cho mình, hơn nữa lại Sử Văn Cung bắn chết Tiều Cái.
Lời ngạn có nói: Khi gặp bạn tốt, con mắt rõ ra, khi gặp kẻ thù, con mắt giận
dữ, ý nói trong lòng làm sao hiện ra con mắt. Nay Tống Giang vì con ngựa quý,
thì phải trước vì ngựa, mà Tống Giang vì Tiều Cái, thì trước phải nghĩ đến Sử
Văn Cung, nay Sử Văn Cung vỗ ngựa tới nơi, mà chỉ chép đến ngựa quý, làm Tống
Giang sốt ruột nóng đầu, chép rõ con ngựa ở mắt Tống Giang, thì thấy Tống Giang
đi đánh báo thù, cũng chỉ vì con ngựa quý.
Sáu nữa,
bức thư vấn tội, khinh trách việc giết Tiều Cái, trọng trách việc cướp ngựa,
đòi trả hai lần ngựa bị cướp, phải đòi trả Ngọc Sư Tử, thì ra đòi hai lần mất
ngựa, Tống Giang chỉ cần đến Ngọc Sư Tử mà thôi ư? Nếu đòi ngựa mất hai lần, mà
Tống Giang lại được con ngựa Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử, thì Tống Giang hẳn ban sư về
núi, không thèm đánh nữa! May mà Bảo Tứ nội phản, kế Phục Oa thành, động chuông
chùa Pháp Hoa, năm anh họ Tăng chết cả đấy! Nếu chẳng may hai đội quân Thanh Châu,
Lăng Châu đến kịp, biến thành cái ước hoà giải, thì ra Tống Giang kêu khóc ngày
đêm, nhớ đến Thiên Vương, cũng chẳng qua vì con ngựa quý?
Bảy nữa,
Lư Tuấn Nghĩa đã lập nổi công rồi, Tống Giang còn đánh trống hợp chúng lại như
kéo bè, để mà nói đến lập chủ. Chao ôi! Thương nghị, thì có bao giờ xong, với
số đông tâm phúc của Tống Giang, tại làm sao lại quanh co mãi thế, thiết tưởng
đã có lệnh của Thiên Vương để lại tên đó làm bằng, đến nay Lư Tuấn Nghĩa bắt
được Sử Văn Cung, thì ngôi chủ sơn trại chỉ một lời là đủ, lại còn hợp chúng,
rồi lại bày ra hỏi ý trời, về việc đua nhau đi cướp cái lương, để lại định ngôi
chủ trại... Sao mà khéo biến hoá ra nhiều thế, đến như thế là ghê lắm vậy? Chao
ôi! Tác giả chép ra, dụng ý làm cho rõ ràng tội của Tống Giang, thế mà những kẻ
ngu phu, chẳng cho rằng muốn giết Tiều Cái, lại khư khư đem Trung với Nghĩa gán
cho người đó để nêu cao, há chẳng quái lạ mà đáng than thở cho đời kia hay sao?
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 68: Tới Đông Bình Phủ, Sử Văn Long mắc
nạn; Bắt Song Thương Tướng, Tống Công Minh lập công
Bấy giờ
Tống Giang nói với mọi người rằng:
- Hiện
nay sơn trại ta thì thiếu lương, và gần đây có phủ Đông Bình và phủ Đông Xương
đều là những nơi trù phú, mà chúng ta xưa nay cũng chưa từng quấy nhiễu ai. Vậy
ngày nay tôi cùng Viên Ngoại rút thẻ xem ai rút phải thẻ nào, thì đem binh đến
đó mà vây lấy lương thảo, rồi ai đánh được trước thì làm chủ Lương Sơn.
Ngô Dụng
nói:
- Thế
thì rất phải lắm.
Lư Tuấn
Nghĩa gạt đi mà rằng:
- Không
thế được, Huynh trưởng tất phải làm chủ sơn trại, tôi không khi nào dám thi
công như thế.
Tống
Giang nhất định thi hành, liền sai Bùi Tuyên viết hai cái thẻ, đem ra khấn trời
đất qủy thần rồi Tống Giang cùng Lư Tuấn Nghĩa phải mỗi người rút một cái. Khi
mở ra xem, Tống Gang rút thẻ Đông Bình phủ, Lư Tuấn Nghĩa rút thẻ Đông Xương
phủ.
Tống
Giang liền truyền lệnh cất quân mã, chia làm hai bọn để đi đánh. Bọn Tống Giang
thì có Lâm Xung, Hoa Vinh, Lưu Đường, Sử Tiến, Từ Ninh, Yến Thuận, Lã Phương,
Quách Thịnh, Hàn Thao, Bành Dĩ, Khổng Minh, Khổng Lượng, Giải Trân, Giải Bảo,
Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Tôn Tân, Cố Đại
Tẩu, Thạch Dũng, Úc bảo Tứ, Vương Đình Lục, Đoàn Cảnh Trụ, tất cả hai mươi viên
Đầu Lĩnh, và một vạn quân mã bộ, và ba viên Đầu Lĩnh thủy quân là Nguyễn Tiểu
Nhị, Nguyễn Tiểu Thất, Nguyễn Tiểu Ngũ, đều đem chiến thuyền đi tiếp ứng.
Bọn Lư
Tuấn Nghĩa thì có Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Hô Duyên Chước, Chu Đồng, Lôi
Hoành, Sách Siêu, Dương Chí, Đan Đình kHuê, Ngụy Định Quốc, Tuyên Tán, Hắc Tư
Văn, Dương Lâm, Yến Thanh, Âu Bằng, Lăng Chấn, mã Lâm, Đăng Phi, Thi Ân, Phàn
Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, Thời Thiên, Bạch Thắng tất cả hai mươi viên Đầu Lĩnh
đem một vạn quân mã bộ, và ba viên Đầu Lĩnh Thủy quân là Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng
Mãnh dẫn chiến thuyền đi tiếp ứng, còn các Đầu Lĩnh khác đều ở nhà coi trại.
Khi cắt
đặt xong Tống Giang dẫn bộ hạ đi đánh núi Đông Bình, Lư Tuấn Nghĩa dẫn các Đầu
Lĩnh đi đánh phủ Đông Xương. Hôm đó là mồng một tháng ba, khí trời ấm áp dễ
chịu. Tống Giang dẫn một toán quân đến nơi tên là An Sơn Trấn, cách phủ Đông
Bình chừng hai ba dặm hạ trại ở đó.
Tống
Giang bảo với các Tướng rằng:
- Phủ
Đông Bình có quan Thái Thú là Trình Vạn Lý, và một người binh mã Đô Giám là
Đổng Bình, người Đảng quận tỉnh Hà Đông, khiến hai cây thương rất giỏi, sức
khoẻ muôn người không địch nổi, người ta vẫn gọi là Song Thương Tướng xưa nay.
Vậy ngày nay ta đánh thành trì, trước nhất phải lấy lễ mà đãi, nghĩa là ta sai
hai Tướng đưa chiến thư trước, nếu họ bằng lòng đầu hàng thì thôi không đánh,
bằng không thì ta sẽ thi hành, để cho họ không còn trách ta được điều gì nữa,
hiện nay ai có thể đưa thơ cho ta được?
Nói dứt
lời thì thấy Bảo Uùc Tứ chạy ra ứng lời nói lên rằng:
- Chúng
tôi có biết mặt Đổng Bình, vậy tôi xin đi đưa thư phen nầy.
Đoạn rồi
lại thấy Vương Đình Lục chạy ra nói rằng:
- Chúng
tôi mới đến sơn trại chưa có chút công lao vậy xin cùng đi một thể.
Tống
Giang nghe nói cả mừng, liền viết thư nói vay lương thảo, rồi đưa cho hai người
đem đi.
Bấy giờ
Trình Thái Thú đương ngồi bàn việc quân với Đổng Đô Giám, chợt thấy người báo:
- Tống
Giang sai người hạ chiến thư đến.
Trình
Thái Thú gọi Úùc Bảo Tứ và Vương Đình Lục vào.
Hai
người đi vào đưa thư lên trình Thái Thú. Thái Thú xem xong bảo với Đổng Bình
rằng:
- Họ
định vay tiền lương ở đây, ta nên định như thế nào.
Đổng
Bình nghe nói cả giận, bắt đem Úùc Bảo Tứ, Vương Đình Lục ra chém.
Trình
Thái Thú gạt đi mà rằng:
- Xưa
nay hai nước đánh nhau, không bao giờ lại chém người lai sứ, bây giờ cứ đánh
cho mỗi người mấy chục roi rồi đuổi họ về, xem họ xử trí ra sao?
Đổng
Bình nghe nói, vẫn còn tức giận, liền sai trói hai người lại, đánh bật máu tươi
rồi đuổi ra ngoài cổng phủ.
Hi người
bị đòn khóc lóc với Tống Giang. Tống Giang nghe nói đùng đùng nổi giận, cho hai
người về nghỉ ở sơn trại, rồi mới bàn định việc quân.
Chợt
thấy Cửu Văn Long Sử Tiến đến trước trướng kêu rằng:
- Trước
đây ở phủ Đông Bình tiểu đệ có quen một đứa con hát tên là Lý Thụy Lan rất là
thân mật, vậy nay tôi xin đem ít tiền lần vào trong thành, trọ tạm nhà nó, Ca
Ca ước định ngày đánh nhau để cho Đổng Bình ra thành, tôi sẽ đốt lửa trên Cổ
Lâu, mà hợp đánh làm một, thì có thể thành công ngay được.
Tống
Giang nghe nói khen phải, liền ưng lời truyền lệnh cho đi.
Sử Tiến
lấy tiền nong gói vào khăn gói, rồi giắt ngầm khí giới mà bái tạ ra đi. Tống
Giang dặn với rằng:
- Hiền
đệ vào đó phải lựa cơ tiến thoái, ta ở ngoài nầy phải đợi tin tức, rồi ta mới
dám động.
Sử Tiến
vâng lời rồi quay ra lẻn vào thành, mà thẳng tới nhà Lý Thụy Lan. Khi Sử Tiến
tới nơi Đại Bá lấy làm kinh ngạc, liền mời vào nhà trong, gọi con gái là Lý
Thụy Lan ra tiếp đãi. Lý Thụy Lan mời Sử Tiến lên trên gác mà hỏi rằng:
- Lâu
nay không thấy bóng vía ở đâu, sau khi nghe nói là nhập đảng với Lương Sơn Bạc
làm Đại Vương ở đấy, Quan Tư vẫn yết bảng truy nã không được... Mấy hôm nay
thấy đồn là quân mã ty kéo đến đánh thành để lấy lương thực, vậy sao anh lại
lần đến đây được?
Sử Tiến
khẽ đáp rằng:
- Chẳng
giấu gì nàng, hiện tôi đương làm Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, mà chưa có chút công
lao gì. Nay Ca Ca đến đánh Thành ở đây, tôi nói rõ chuyện nàng cho Ca Ca tôi
biết, và đến đây để dò thám xem sao? Đây có một ít vàng bạc đem đưa để nàng chi
dụng, xin chớ để vỡ chuyện ra mà khốn... Nay mai xong việc tôi sẽ đón cả gia
quyến nàng lên núi một thể cho vui.
Lý Thụy
Lan gật gù vàng bạc đi, cất vàng bạc đi rồi đem rượu ra để thiết đãi. Đoạn rồi
Lý Thụy Lan trở xuống nhà bàn với Đại Bá rằng:
- Sử
Tiến xưa nay vốn đi lại với nhà ta tử tế, hiện nay hắn làm giặc đi với bọn
Lương Sơn, vậy nếu chứa hắn ở đây, không khéo thì nguy cả.
Đại Bá
đáp rằng:
- Bọn
hảo hán của Lương Sơn Bạc không phải là chuyện chơi, nếu ta đãi họ không ra gì,
nay mai họ phá thành vào đến đây, thì tất là nguy cả.
Người vợ
đứng bên cạnh nghe, mắng luôn rằng:
- Lão
già ngu xuẩn, biết được việc gì? Cứ đi ra phủ mà thú ngay đi, đừng để đây rồi
lại lụy cả đến mình khó chịu.
Đại Bá
nói:
- Hắn
đem bao nhiêu tiền bạc cho mình, nay mình không che chở cho hắn thì còn ra
nghĩa lý gì nữa.
Mụ vợ
lại quát lên rằng:
- Thôi
đừng nói nõn nường nữa! Nhà mình hát xướng kiếm ăn, xưa nay chôn hàng mấy vạn
người còn chả cần, nữa là một người ấy thì thấm vào đâu? Nếu ông không ra đi
thú, thì để tôi ra thú với quan, rồi bấy giờ ra đây mà gánh tội với nó.
Đại Bá
vội vâng lời mà rằng:
- Được,
được nếu vậy cứ bảo con gái thiết đãi hắn ta, chớ để lộ chuyện cho hắn biết, để
tôi đi với vài người lính đến đây bắt hắn, rồi sẽ đem ra thú quan một thể.
Nói đoạn
liền cùng nhau tính kế thi hành.
Bấy giờ
Sử Tiến ngồi trên lầu, thấy Lý Thụy Lan đi lên, nét mặt khi đỏ khi trắng, ra
dáng thất thường.
Sử Tiến
liền hỏi rằng:
- Chẳng
hay nàng có việc gì trong nhà mà làm ra vẻ kinh hoàng như vậy?
Lý Thụy
Lan đáp:
- Vừa
rồi đi lên thang gác, bị vấp một cái xuýt ngã, nên có dáng kinh sợ đó.
Nói đoạn
cùng ngồi uống nước với nhau, được một lát thấy có tiếng người dưới thang gác
bước lên, và ngoài cửa sổ có tiếng người kêu thét, rồi có mấy chục tên lính ập
vào sân bắt Sử Tiến, trói ghì lại đem giải vào phủ Đông Bình.
Khi tới
phủ đường, Trình Thái Thú quát rằng:
- Quân
nầy to gan thực, một mình trơ trọi, dám vào đây rồi dò thám hay sao? Phen nầy
không có bố Thụy Lan vào báo thì có lẽ một thành Đông Kinh nầy nguy vào tay
ngươi mất, ngươi phải thú ngay, tên Tống Giang bảo ngươi vào đây làm gì?
Sử Tiến
lặng ngắt không nói một câu nào. Đổng Bình nói rằng:
- Quân
nầy không tra tấn thì sao nó chịu nói.
Trình
Thái Thú liền thét lên ra lệnh đem Sử Tiến tra đánh, đánh tới hơn trăm côn, Sử
Tiến vẫn một mực không nói năng chi cả.
Đổng
Bình nói rằng:
- Hãy
đem gông gông nó lại, cho vào ngục tử tù giam đấy, để đợi bắt được lũ Tống
Giang, rồi đem giải kinh sư một thể.
Tài cao
tất phải mưu cao,
Ở đời
kém lựa dễ sao được toàn?
Thương
thay sắt đá già gan
Đem thân
mắc cạm hồng nhan cho đành!
Nói về
Tống Giang, khi sai Sử Tiến đi rồi, liền viết giấy sang thuật rõ tình hình đầu
đuôi cho Ngô Dụng biết. Ngô Dụng xem giấy xong lấy làm cả kinh, nói cho Lư Tuấn
Nghĩa biết, rồi vội vàng đến trại Tống Giang để hỏi chuyện.
Khi tới
nơi Ngô Dụng hỏi Tống Giang rằng:
- Ai bảo
Sử Tiến đi như thế?
Tống
Giang đáp:
- Hắn
nói là hắn thân đứa con hát ở trong thành, nên hắn tình nguyện xin đi đó.
- Chết
nỗi! Sao Huynh trưởng làm như thế? Nếu tôi ở đây, thì quyết nhiên không thể cho
đi được. Xưa nay những tụi xướng ca vẫn quen lối đưa người cửa trước, rước
người cửa sau, làm hại kể biết bao nhiêu người tử tế. Dẫu có thân tình đến đâu,
cũng khó lòng mà lọt những tay mụ đầu kia được. Anh ta đi phen nầy tất là nguy
mất.
Nếu vậy
quân sư nghĩ kế gì để cứu cho hắn?
Ngô Dụng
liền gọi Cố Đại Tẩu đến mà dặn rằng:
- Bây
giờ nàng phải ăn mặc giả làm người nghèo khổ, đi vào trong thành dò xem tin tức
Sử Tiến ra sao, rồi về báo ngay lập tức. Nếu hắn bị vào trong ngục rồi, thì
phải nói khó với người trong ngục, giả làm chỗ bà con khi trước mà vào đưa cơm
rồi khẽ dặn hắn ta cứ đêm hôm nguyệt tận (cuối tháng) tháng nầy, vào khoảng tối
thì ta kéo quân vào đánh thành, bảo hắn phải kiếm chỗ nào mà thoát thân mới
được. Còn nàng cứ đợi ở trong ấy, đến đêm hôm nguyệt tận sẽ phóng lửa lên, để
ngoài nầy tiến binh vào đánh.
Nói đoạn
quay lại bảo Tống Giang rằng:
- Bấy
giờ Huynh trưởng nên đem quân đến đánh Quận Vấn Thượng, để cho dân chúng phải
chạy vào phủ Đông Bình, rồi Cố Đại Tẩu lẫn vào đám ấy mà đi, thì không ai biết
đến nữa.
Ngô Dụng
bàn định xong, lại lên ngựa mà về phủ Đông Xương. Ty cắt Giải Trân, Giải Bảo
đem năm trăm quân đi đánh huyện Vấn Thượng. Nhân dân trong huyện thấy vậy đều
dắt díu nhau kéo sang phủ Đông Bình để lánh nạn.
Bấy giờ
Cố Đại Tẩu để đầu bù tóc rối, ăn mặc xuống áo lam lũ, để đánh lộn sòng với bọn
dân chúng, chạy vào đến phủ Đông Bình, rồi lang thang giả mặt ăn xin, mà đến
trước nha phủ. Ngày hôm đó biết Sử Tiến đã bị giam trong lao rồi, nàng liền
kiếm một phạng cơm đưa đến trước cửa đề lao để đợi.
Được một
lát, có một người lính già ở trong lao đi ra, Cố Đại Tẩu liền cúi lạy mà khóc
như mưa như gió. Người lính già hỏi rằng:
- Mụ nầy
đi đâu mà khóc lóc khổ sỡ thế?
Cố Đại
Tẩu gạt nước mắt khóc sụt sùi mà rằng:
- Trong
ngục đây có Sử Đại Lang là người chủ cũ của tôi, đã mười năm nay nghe nói đi
buôn bàn ở những đâu, không sao được gặp. Ngày nay không biết vì cớ sao lại bị
giam ở đây như thế. Tội nghiệp quá! Bây giờ không có ai trông nom cơm cháo chi
đến, vậy lão tôi đi kêu xin được lưng cơm nguội, muốn đem đến cứu cho ông ta
một bữa, dám xin Đại ca thương tình, mà cho tôi đưa vào, thực là phúc đức cho
tôi vạn bội.
- Hắn là
bọn giặc ở Lương Sơn, đã phạm tử tội, ai dám cho mụ vào đấy được?
- Thôi
thì người ta có chết, cũng là thầy trò tình nghĩa, xin ông làm ơn cho tôi vào
một chút, cho khỏi mang tội với trời.
Nói xong
lại khóc nức nỡ không thôi.
Lão lính
thấy vậy, nghĩ thầm trong bụng:"Nếu là đàn ông thì không cho vào được,
nhưng một người đàn bà nầy, thì làm gì mà ngại? "
Nghĩ
đoạn liền đưa Cố Đại Tẩu vào trong lao. Bấy giờ Sử Tiến cổ đeo gông, lưng đeo
xích đương ngồi ngẫm nghĩ trong lao. Khi thấy Cố Đại Tẩu vào, thì cả kinh không
dám nói lên lời. Cố Đại Tẩu thì giả vờ vừa lấy cơm vừa khóc đưa cho Sử Tiến ăn.
Đương
khi đó lại có một tên Tiết Cấp còn ít tuổi, chạy đến quát lên rằng:
- Quân
quái! Chỗ tử ngục, ai cho ngươi được đến đây mà đưa tin tức. Có muốn sống thì
ra ngay, không thì chết đòn bây giờ?
Cố đại
Tẩu biết thế không ngồi được lâu, liền khẽ nói với Sử Tiến rằng:
- Đến
đêm nguyệt tận thì liệu thoát thân...
Sử Tiến
toan hỏi lại, thì người Tiết Cấp đã kéo Cố Đại Tẩu mà ra ngoài cửa mất. Khi đó
Sử Tiến nghe được ba tiếng "đêm nguyệt tận",thì trong bụng hiểu ngầm,
chắc là đêm đó thì binh mã đánh vào thành để cứu, chàng liền định kế đến tối
hôm ấy kiếm cách để thoát thân.
Thấm
thoát đến hôm hai mươi chín, có hai tên Tiết Cấp ngồi nói chuyện với nhau. Một
người kia hỏi:
- Hôm
nay là mấy rồi?
Người nọ
nhớ ngay liền đáp rằng:
- Hôm
nay là ngày nguyệt tận rồi, đêm nay phải mua vàng về lễ cô hồn đây.
Sử Tiến
nghe thấy, chắc hôm nay là hôm ba mươi ngày nguyệt tận, chàng liền quyết kế
mong đợi đến đêm để hành sự. Gần tối hôm ấy Sử Tiến thấy có một người Tiết Cấp
hơi ngà ngà say, ngồi gần ở đó, chàng liền chạy đến mà hỏi vờ rằng:
- Tiết
Cấp ơi, ai ở đằng sau thế kia?
Tiết Cấp
nghe hỏi quay lại đằng sau để nom. Sử Tiến liền giơ đầu gông giáng cho một nhát
vào đầu, chết gục ngay xuống. Đoạn rồi chàng liền nhặt một hòn đá gõ tháo gông
ra, rồi hai mắt trợn trừng trợn trạc mà đi ra sân. Bấy giờ mấy anh lính ngục
nửa tỉnh nửa say ngồi quanh ở đó. Sử Tiến chạy đến đánh mấy anh chết, còn mấy
anh thì mau chân chạy thoát được. Sử Tiến đánh xong bọn lính canh rồi, quay vào
tháo gông cùm cho năm sáu mươi người tù trong ngục, và tháo tung cửa ngục ra,
để đợi quân ngoài vào cứu ứng.
Khi đó
có người vào báo với Trình Thái Thú, Thái Thú xám mặt lại rồi mời Đổng Bình
sang để hỏi kế.
Đổng
Bình nói:
- Cái
nầy trong thành chắc có người do thám, vậy xin cứ cho người vây chặt lấy bọn tù
ở đó, để tôi thừa thế ra thành bắt tên Tống Giang về đây. Còn tướng công ở nhà
coi giữ thành trì cho cẩn thận mới được.
Nói đoạn
liền đem quân mã ra đi, Trình Thái Thú liền sai các Tiết Cấp, cùng các Ngu Hầu,
đều cầm gươm giáo đến ngục mà reo hò để canh giữ. Sử Tiến ở trong thấy vậy,
cũng không dám thò ra nữa. Cố Đại Tẩu nghe thấy tin ấy, thì trong lòng lấy làm
áy náy tức bực vô cùng, mà không biết làm sao cho được.
Vào
khoảng canh tư đêm hôm ấy, Đổng Bình dẫn quân mã đến trại Tống Giang. Tống
Giang nghe báo, chắc rằng Cố Đại Tẩu lại bị sao đây, liền truyền cho tam quân
đều phải chỉnh tề, để ra nghinh địch. Quân mã được lệnh vội vàng chỉnh đốn đội
ngũ, rồi kéo ra dàn trận đón đánh. Nguyên Đổng Bình là một người tinh ranh lanh
lợi, tam giáo cửu lưu không gì là không thạo, quản huyền ty trúc không gì là
không hay. Nhân thế mà bọn Sơn Đông Hà Bắc, ai ai cũng gọi tên là Phong Lưu,
Song thương Tướng xưa nay.
Hôm đó
khi trời vừa sáng, đôi bên dàn trận xong, Tống Giang đứng bên nầy trông thấy
Đổng Bình, ra dáng tinh anh tuấn tú, thì trong bụng có vẻ mừng thầm. Sau lại
thấy Đổng Bình đeo một cái túi tên, trong có lá cờ nhỏ viết đôi câu đối rằng:
Anh hùng
Song Chiên Tướng,
Phong
Lưu Vạn Hộ Hầu
Tống
Giang thấy vậy, liền sai Hàn Thao ra đánh trước, Hàn Thao vâng lệnh múa cây
giáo sắt, xông ra đánh Đổng Bỉnh.
Đổng
Bình múa đôi thương sắt như thần hiện qủy biến, Hàn Thao không thể nào địch
nổi, Tống Giang lại sai Kim Sang Ban Từ Ninh, múa câu liêm sang ra đánh thay
Hàn Thao. Từ Ninh vâng lệnh, xông ngựa ra đấu với Đổng Bình, đôi bên quần nhau
hơn năm mươi hiệp, không quyết được thua, Tống Giang sợ Từ Ninh đuối sức, liền
gõ chiên thu quân, rồi Từ Ninh cắp sang quay ngựa trở về bản trận. Đổng Bình
múa song thương cưỡi ngựa đuổi theo, Tống Giang liền thừa thế trỏ tam quân đổ
lại vây chặt lấy Đổng Bình.
Đổng
Bình bị vây trong đám quân hết sức hăng hái để đánh xông ra. Tống Giang đứng
trên đống đất cao, thấy Đổng Bình chạy sang Đông, thì trỏ cờ sang đông, Đổng
Bình chạy sang Tây, lại cho cờ hiệu sang Tây, quân sĩ cứ theo hiệu cờ mà bổ vậy
rất ngặt.
Đổng
Bình ra sức múa song thương đánh cự hồi lâu mới tháo vây mà chạy thoát được,
Tống Giang cũng không đuổi. Đổnh Bình liền thu quân kéo về trong thành.
Đêm hôm
ấy Tống Giang đem binh, đến sát chân thành vây khắp cả bốn mặt, duy Cố Đại Tẩu
ở trong chưa dám phóng lửa, Sử Tiến chưa dám vượt ngục để ra, nên chưa sao mà
đánh phá được thành.
Nói về
Trình Thái Thú nguyên có một người con gái hình dung yểy điệu, tính hạnh dịu
dàng, Đổng Bình đã mấy phen toan dạm làm vợ mà Trình Vạn Lý nhất định không gả.
Bởi thế nên hai bên có ý không bằng lòng với nhau từ trước. Hôm đó nhân ra trận
đánh thành, Đổng Bình muốn thừa thế đương lúc chiến tranh, mà cho người vào nói
với Trình Thái Thú để dạm con gái.
Trỉnh
Thái Thú đáp rằng:
- Ta đây
là quan văn, Đổng Bình là quan võ, hai đằng đâu gia với nhau thực là đáng lắm.
Duy ngày nay thành phủ đương bị giặc cướp, sự thế nguy cấp, nếu nhận lời gả
ngay thì tất bị người ta mai mỉa, vậy để khi nào đánh đuổi quân giặc, giữ yên
thành quách, rồi bấy giờ sẽ bàn đến chuyện hôn nhân, cũng không lấy gì làm
muộn.
Người
kia đem lời ấy về nói với Đổng Bình. Đổng Bình bất đắc dĩ vâng lời để đợi, song
từ đó trong lòng lại càng vơ vẫn không vui, e sau nầy Trình Thái Thú lại phụ
lời ư ớc hứa, thì bấy giờ xử trí làm sao?
Đêm hôm
ấy Tống Giang đánh thành rất dữ, Thái Thú liền giục Đổng Bình ra đánh, Đổng Bình
cả giận vội đai nịt cẩn thận, rồi lên ngựa dẫn quân ra thành để đánh.
Tống
Giang ra trước cửa trận quát bảo Đổng Bình rằng:
- Ta đây
tướng mạnh ngàn người, quân hùng mười vạn, vậy toán quân nhỏ mọn kia, thì làm
chi được? Sao bằng không xuống đầu thú đi cho khỏi chết?
Đổng
Bình cả giận mắng rằng:
- Đồ
Tiểu lại ngông cuồng, sao dám nói càn nói dở.
Nói đoạn
múa song thương thẳng đến đánh Tống Giang. Bên trận Tống Giang, tả có Lâm Xung,
hữu có Hoa Vinh đều xông ngựa ra đón đánh Đổng Bình, hai đằng đánh nhau được
mấy hiệp, thì Lâm Xung, Hoa Vinh quay ngựa thua chạy, Tống Giang cũng kéo quân
mã chạy tán loạn ra bốn mặt. Đổng Bình liền ra sức theo đuổi Tống Giang
Khi đuổi
đến địa hạt huyện Thọ Xuân, cách thành chừng mười dặm đường, tới một chốn thôn
trấn, đôi bên có hai dãy nhà lá, khoảng giữa có đường cái quan, Đổng Bình đương
đuổi sát sau lưng Tống Giang, thì bỗng thấy phía sau có Khổng Minh, Khổng Lượng
xông ra kêu lên rằng:
- Không
được hại chúa ta.
Vừa nói
dứt lời thì thấy hai bên dãy nhà lá, có tiếng thanh la khua rộn, rồi đôi bên
cánh cửa mở tung hẳn ra.
Đổng
Bình thấy vậy vừa toan quay ngựa trở lại thì ngựa bỗng vướng phải dây móc, ngả
ngữa quay ra, mà vật Đổng Bình xuống đất.
Đoạn rồi
bên tả có Nhất Trượng Thanh, Vương Nụy Hổ, nên hữu Trương Thanh, Tôn Nhị Nương,
đều xông ra bắt lấy Đổng Bình lột cả mũ áo, cướp cả thương ngựa mà trói lại,
rồi cho hai viên nữ tướng áp giải đến Tống Giang.
Khi đó
Tống Giang đương đứng ở dưới gốc cây, đương thấy chúng dong Đổng Bình đến liền
quát lui hai nữ tướng mà nói rằng:
- Ta bảo
mời tướng quân đến đây, ai cho phép các ngươi trói như vậy?
Hai nữ
tướng nghe nói đều len lét dạ lui, Tống Giang liền xuống ngựa cởi trói cho Đổng
Bình, và cởi áo cẩm bào mà đưa cho mặc và cúi đầu lạy tạ. Đổng Bình cũng đáp lễ
lại.
Tống
Giang nói:
- Nếu
tướng quân có lòng hạ cố, thì xin ngài nhận chức chủ sơn trại cho...
Đổng
Bình nói:
- Tiểu
tướng đã bị bắt tới đây, dẫu chết cũng đáng, còn đâu dám nói đến làm chủ sơn
trại?
Tống
Giang nói:
- Trong
sơn trại tôi hiện thiếu lương thực nên định đến phủ Đông Bình để vay, chứ thực
không có ý gì khác cả.
Đổng
Bình đáp rằng:
- Trình
Vạn Lý nguyên là một tay thầy đồ đi dạy trẻ, nay vớ được một chức béo bỡ như
vậy, thì tránh sao cho khỏi hại dân? Nếu Huynh trưởng có rộng lượng cho về, thì
Đổng Bình xin lừa mở cửa thành, mà thu lấy lương thảo đền ơn Huynh trưởng.
Tống
Giang nghe nói cả mừng, liền sai người đem mũ giáp và ngựa ra trả lại Đổng
Bình. Đổng Bình liền đóng đai giáp lên ngựa đi trước. Tống Giang kéo quan mã
cuốn cờ im trống theo sau.
Khi tới
cửa thành Đổng Bình gọi quân sĩ ra mở cửa, quân sĩ trong thành lấy lửa ra soi
mặt đổng Bình, bèn mở cửa bỏ đích kiều cho vào.
Đổng
Bình xông ngựa vào trước chặt đứt khoá sắt ở cửa, rồi quân mã Tống Giang ầm ầm
theo vào trong thành. Tống Giang truyền lệnh cho quân sĩ không được đốt nhà đốt
cửa và không được giết hại lương dân.
Đổng
Bình vào tới thành, vội vàng chạy đến phủ đường, giết chết cả nhà Trình Vạn Lý
và cướp lấy người con gái.
Tống
Giang lập tức sai người phá cửa nhà lao, đón Sử Tiến ra, rồi mở kho tang lấy
các thứ tiền nong lương thực, xếp lên xe cho ba anh em họ Nguyễn áp giải về
Lương Sơn trước.
Sử Tiến
được thoát ngục ra, liền dẫn người đến nhà Lý Thụy Lan, chém hết cả già trẻ
không để lại một ai. Tống Giang đem cả gia tư của Thái Thú phân phát cho nhân
dân và yết giấy hiểu dụ cho dân được làm ăn, quân sĩ đã chém được quan tham,
còn dân sự không can chi lo sợ.
Hiểu dụ
cho dân đâu đấy, Tống Giang liền rút quân ra trấn An Sơn, để toan kéo về Sơn
Bạc.
Mới hay:
Trên đời
mạnh nhất đồng tâm,
Xoay
trời chuyển đất ầm ầm như chơi,
Xưa nay
những bậc anh tài.
Mượn lò
liên lạc làm nơi sinh tồn,
Góp tài
góp sức góp khôn,
Rồi ra
tính cuộc vuông tròn khó chi?
Ví chăng
vây cánh phân ly,
Thì non
nước ấy còn gì mà mong.
Lời bàn
của Thánh Thán.
Đánh hai
huyện Đông Bình, Đông Xương, vốn là một chuyện cuối sách, lời văn rất sâu xa,
và việc lại kín đáo, độc giả cần nên xét tới, tại sao vậy? Vì chủ Lương Sơn
Bạc, vốn cơ nghiệp của Tiều Cái, Sử Văn Cung là kẻ thù của Tiều Cái, lời di
lệnh của Tiều Cái rằng: Ai bắt sống Sử Văn Cung, thì làm chủ ở Lương Sơn Bạc,
theo lệnh mà báo thù cho Tiều Cái, nố nghiệp Tiều Cái, mũi tên thề còn kia, rõ
ràng chưa quên, thì Tống Giang không có thể tranh cùng Lư Tuấn Nghĩa, rất rõ
như vậy.
Thế mà
Tống Giang lại vẫn cố tranh cho được, tại sao bảo rằng Tống Giang cố tranh cho
bằng được? Vì bỏ lệnh Tiều Cái lại bày mưu thi đua mượn lương để đánh hai Phủ
Đông Bình, Đông Xương, thì Lư Tuấn Nghĩa lại không thể cùng tranh lại với Tống
Giang, rõ rệt như vậy.
Hoặc nói
rằng: Hai thành kia thì thành nào dễ phá, thành nào khó phá, Tống Giang có tự
chọn đâu, mà việc thắng với chẳng thắng, Tống Giang cũng chưa hề chắc được, sao
biết được rằng, Tống Giang chống thắng, mà Lư Viên Ngoại khó xong, hai người
kia mà không đánh nổi cả, thì không nói làm gì, nếu hai bên đều thắng như nhau,
thì ngôi chủ Lương Sơn, lại chưa định vậy, nay nhà thầy nói Lư Tuấn Nghĩa không
thể tranh được Tống Giang là nghĩa làm sao?
Hỡi ôi:
Nghe đàn mà xét tiếng, đọc sách nên hiểu sự ra há rằng khó đâu? Há phải khó
đâu? Hãy xem ở chỗ điều binh khiển tướng, mà cho hai người Ngô Dụng, Công Tôn
Thắng, làm bộ hạ của Lư, ai chẳng cho rằng có hai vị Quân sư tả hữu, thì việc
chống thành, khi việc chống thành, thì kịp tới nơi sơn chủ, ngõ hầu chẳng phụ
lòng của Tiều Thiên Vương, thực là thịnh tâm lắm vậy; Song ta cho rằng Tôn, Ngô
tuy ở dưới trướng họ Lư, thế mà không phải ở dưới trướng họ Lư đâu, vẫn là dưới
trướng họ Tống, mặc dầu không ở dưới trướng họ Tống lúc nầy.
Vì rằng
Tôn, Ngô tuy ở dưới trướng họ Lư, song không chịu thi hành kế hoạch, mà cách xa
họ Tống, khi thấy đưa thư đến hỏi, thì vội vàng phi ngựa để bày mưu, không tiếc
sức gì, cũng chẳng khác chi ở dưới trướng Tống Giang bấy lâu vậy. Hãy xét khi
bỏ Lương Nhữ Địch ở dưới nước, đó chẳng phải là mưu của người đấy ư? Khi Tống
Giang chưa tới, thì không bày mưu, khi Tống Giang tới, mới đua nhau giở thuật
ra là ý làm sao? Thấy vì Tống Giang rõ quá? Aáy may mà không đành nổi Mộc Vũ
Tiến, nếu lại đánh được ngay Mộc Vũ Tiễn, thì Ngô, Tôn tất phải làm dùng dắng,
đợi Tống Giang tới mới quyết định, đánh xong thành, cứ thế thì họ Tống phải
xong việc, mà họ Lư vẫn khó xong việc, cho nên ta bảo Lư Tuấn Nghĩa không thể
nào tranh được nổi Tống Giang, rõ rệt như thế, mới hay một hồi tả lại đánh Đông
Bình, Đông Xương, lời văn sâu, chép duyệt kín, độc giả cần phải xét ra.
Sách nầy
nhiều chỗ muốn phạm đề nhau, như Giải Trân vượt ngục, lại đến Sử Tiến vượt
ngục, cùng có Cố Đại Tẩu giúp nên đấy như cùng một đề tài, chợt đâu lại hẹn lấy
hai chữ Nguyệt Tận làm khác đi, vậy sao mới rõ trong sự giống nhau lại khác
nhai xa, diễn ra nhiều văn tự khác, nếu kẽ vô tài, thì không thể nào xếp đặt
được đến thế mà tả ra vậy.
Giữa đám
đao thương, kiếm, kích rối như tơ ngốt tựa lửa, lại bỗng đâu có chuyện Đồng
tướng quân cầu thân khiến độc giả phải lạ mắt vì nhiều biến sắc.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 69: Một Vũ Tiễn ném đá đánh anh hùng;
Tống Công Minh bỏ lương bắt tráng sĩ
Khi đó
Tống Giang toan kéo quân về Lương Sơn Bạc, bỗng thấy Bạch Thắng về báo rằng:
- Lư
Tuấn Nghĩa đánh thành Đông Xương bị thua luôn hai trận. Trong thành có một tên
mãnh tướng, tên là Trương Thanh, quê ở phủ Chương Đức, vốn tay kị hổ xuất thân,
tài nghề ném đá đánh người, trăm viên đều trúng, người ta thường gọi là Một Vũ
Tiễn xưa nay, Thủ hạ hắn ta có hai viên phó tướng, một người tên là Hoa Hạng Hổ
Cung Vượng, toàn thân chạm nốt hổ, trên cổ chạm đầu hổ, tài nghề phóng thương
trên mình ngựa; Và một người tên là Trúng Tên Hổ Đinh Đắc Tôn, từ mặt xuống cổ
đều lỗ chỗ những sẹo, phóng cây thoa trên mình ngựa rất giỏi. Khi Lư Viên Ngoại
dẫn quân đến, rồi mười ngày trời không chịu ra đánh, mãi đến hôm vừa rồi,
Trương Thanh mới ra thành đánh nhau, bên nầy Hắc Tư Văn nghênh địch, bất đồ
đánh được mấy hiệp, thì Trương Thanh vờ chạy, cho Hắc Tư Văn đuổi theo. Sau
Trương Thanh quay lại ném một viên đá, trúng ngay vào trán Hắc Tư Văn ngã lăn
xuống ngựa. Bấy giờ may có Yến Thanh bắn một mũi tên trúng vào con ngựa củ
Trương Thanh, nên mới cứu được Hắc Tư Văn về trận. Đến hôm sau Phàn Thụy dẫn
Hạng Sung, Lý Cổn ra đánh nhau, không dè Hạng Sung bị Đinh Đắc Tôn phóng cây
thoa vào nách, lại phải thua chạy. Hiện nay hai người vẫn còn dưỡng bệnh ở
trong thuyền. Bởi vậy quân sư cho Tiểu đệ mời Ca Ca đến cứu ứng ngay cho.
Tống
Giang nghe nói, than với mọi người rằng:
- Lư
Viên Ngoại thực là vô duyên quá, ta để cho Ngô Dụng, Công Tôn Thắng ở đó, cũng
tưởng rằng đến trận thành công, để nhường ngôi chủ toạ cho ông ta, nào ai ngờ
lại gặp tay địch thủ như vậy. Đã thế thì anh em ta phải mau mau đi cứu mới
được.
Nói đoạn
truyền lệnh các tướng lên ngựa, dẫn tam quân kéo sang phủ Đông Xương. Khi tới
nơi bọn Lư Tuấn Nghĩa đón tiếp Tống Giang, cho quân tạm hạ trại rồi bàn định
thi kế với nhau.
Đương
khi bàn bạc chuyện trò, bỗng thấy tin báo Một Vũ Tiễn ra khơi đánh. Tống Giang
liền đem quân ra cánh đồng nội rộng, dàn thành thế trận rồi các Đầu Lĩnh đều
xông ngựa ra đứng trước cửa cờ để đợi.
Khi ba
hồi trống trận vừa dứt, thì thấy Trương Thnah phi ngựa xông ra, bên tả có Cung
Vượng, bên hữu có Đinh Đắc Tôn, ba ngựa cùng đến trước cửa trận, rồi ba tướng
trỏ Tống Giang mà mắng rằng:
- Quân
giặc cỏ ở Vũng nước, nay ta quyết một trận với ngươi...
Tống
Giang lại hỏi:
- Ai ra
đánh tên ấy cho ta?
Nói dứt
lời thì thấy một vị anh hùng ra dáng tức giận, tay cầm Câu Liêm Sang giục ngựa
ra trước trận để đánh Trương Thanh. Tống Giang trông ra biết rằng vị anh hùng
ấy là Kim Sang Thủ Từ Ninh, thì trong bụng mừng thầm chắc là hai tay địch thủ
với nhau được.
Từ Ninh
đánh nhau được chừng dăm hiệp, thì TRương Thanh tay tả cầm thương hất vờ một
cái, rồi tay hữu thò vào túi gấm lấy một viên đá, nhằm giữa mi mắt Từ Ninh ném
cho một phát, Từ Ninh ngã lăn ngay xuống đất.
Cung
Vượng cùng Đinh Đắc Tôn cùng xông ra bắt Từ Ninh; Bên nầy Lã Phương cùng Quách
Thịnh liền sấn ra cứu Từ Ninh đem về bản trận.
Bọn Tống
Giang thấy vậy, đều kinh sợ thất sắc. Rồi Tống Giang lại hỏi luôn rằng:
- Đầu
Lĩnh nào ra đánh một trận nữa xem sao?
Nói chưa
dứt lời thì thấy Cẩm Mao Hổ Yến Thuận phi ngựa xông ra đánh. Tống Giang toan
ngăn giữ lại, thì Yến Thuận đã xông tót đến giữa trận, không sao cầm lại được.
Yến
Thuận đương đánh nhau với Trương Thanh được vài hiệp thì đuối sức, không sao cự
địch nổi, liền quay ngựa chạy về, Trương Thanh thừa thế đuổi theo, ném cho một
viên đá vào giữa miếng kính yểm tâm ở sau lưng, đến keng một cái, Yến Thuận vội
phục xuống lên ngựa mà chạy.
Đoạn rồi
bên trận Tống Giang, Bách Thắng tướng Hàn Thao quát lên rằng:
- Đồ
thất phu, ta sợ gì.
Nói đoạn
múa gươm xông ra đánh luôn Trương Thanh. Đôi bên hăng hái đánh nhau, quân sĩ
đều reo hò váng cả lên.
Hàn Thao
muốn khoe tài trước mặt Tống Giang nên càng cố gắng hết sức bình sinh, mà đánh
nhau rất là kịch liệt. Đánh nhau chừng mươi hiệp thì Trương Thanh lại quay ngựa
chạy. Hàn Thao biết mẹo Trương Thanh ném đá, bèn kìm ngựa lại, mà không đuổi
theo nữa.
Trương
Thanh thấy Hàn Thao không đuổi, lại vội quay cương ngựa lại. Hàn Thoa liền giơ
gươm lên để đón đánh. Chàng vừa mới giơ gươm lên, bỗng bị Trương Thanh ném ngay
một viên đá trúng vào mũi, máu chảy lênh láng rồi chạy về bản trận.
Bành Dĩ
thấy vậy nổi giận đùng đùng, không đợi tướng lệnh của Tống Giang vội xốc ngựa,
múa đao hai lưỡi ra đánh Trương Thanh. Đôi bên chưa kịp giao nhau, thì Bành Dĩ
đã bị một viên đá vào mặt, vất cả đao xuống mà chạy. Tống Giang thấy mấy tướng
bị thua luôn trong lòng hơi núng, toan rút quân mã về trại. Chợt đâu thấy Xú
Quận Mã Tuyên Tán ở đằng sau Lư Viên Ngoại chạy ra kêu lên rằng:
- Ngày
nay nếu để giảm mất uy phong, thì sau nầy đánh làm sao được? Thử xem đá có ném
được ta không?
Nói đoạn
múa đao xông ngựa ra đánh, Trương Thanh cười mà rằng:
- Một kẻ
ra chạy một kẻ, hai kẻ ra chạy hai kẻ, ngươi lại không biết những viên đá của
Trương Thanh hay sao?
Tuyên
Tán nói:
- Ngươi
ném trúng được người khác, chú sao ném trúng được Trương Thanh?
Vừa nói
dứt lời thì bỗng thấy viên đá ném ngay vào bên mồm, rồi Tuyên Tán bị ngã ngay
lập tức. Bên kia Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn vội kéo ra bắt Tuyên Tán song vì quân
tướng Tống Giang rất đông nên không sao bắt nổi.
Tống
Giang thấy vậy khí giận đầy trời, rút kiếm ra tay cắt vạt áo mà thề rằng:
- Nếu
không bắt được người nầy thì không lui quân về nữa.
Hô Duyên
Chước thấy Tống Giang thề nguyền như vậy bèn nói lên rằng:
- Huynh
trưởng nói như vậy thì anh em ta còn được việc gì nữa?
Nói đoạn
vỗ ngựa Tích Tuyết Ô Truy ra trận, quát mắng Trương Thanh rằng:
- Quân
trẻ con cậy thế khoe tài, có biết Đại tướng Hô Duyên Chước đây không?
Trương
Thanh mắng lại rằng:
- Đồ
tướng hèn nhục nước, phen nầy gặp ta thì đáng kiếp.
Nói đoạn
phóng một viên đá trong tay ra.Hô Duyên Chước thấy vậy giơ tay lên đỡ, bị viên
đá ném phải tay, không sao khiến nổi cây thương đành phải quay về bản trận.
Tống
Giang bảo các Đầu Lĩnh rằng:
- Các
Đầu Lĩnh mã quân bị thương nhiều rồi, còn Đầu Lĩnh bộ quân ai ra bắt nó cho ta?
Nói đoạn thấy Lưu Đường múa đao sùng sục đi ra, Trương Thanh trông thấy cả cười
mắng rằng:
- Mã
quân còn chả làm chi nữa là bộ quân.
Lưu
Đường cả giận chạy thẳng đến đánh Trương Thanh. Trương Thanh không đánh vội
vàng quay ngựa về bản trận. Lưu Đường liền sấn lên đuổi theo giơ đao chém một
nhát vào ngay chân ngựa của Trương Thanh. Con ngựa của Trương Thanh giơ chân
hắt về đằng sau, rồi vẩy đuôi vung lên đập vào mặt Lưu Đường, làm cho Lưu Đường
hoa mắt không biết lối nào mà lẫn.
Bấy giờ
Trương Thanh ném ra một viên đá, Lưu Đường ngã lăn xuống đất, rồi đám quân Trương
Thanh đổ ra bắt Lưu Đường mà quay về bản trận.
Tống
Giang thấy vậy kêu to lên rằng:
- Cứu
Lưu Đường với...
Nói chưa
dứt lời thì thấy Thanh Diện Tú Dương Chí múa đao xông ngựa ra đánh Trương
Thanh. Trương Thanh giơ thương lên đón, Dương Chí liều giơ đao lên chém, Trương
Thanh né người về một bên, Dương Chí chém một nhát trượt ra ngoài.
Trương
Thanh liền lấy một viên đá cầm ra tay quát một tiếng mau rồi thấy viên đá luồn
thẳng qua nách Dương Chí, Trương Thanh lại ném luôn một viên đá, rúng vào mũi
Dương Chí. Dương Chí cuống người lên vội cúi gục xuống yên ngựa mà chạy về
trận.
Tống
Giang nom thấy thế nói lên rằng:
- Nếu
phen nầy bị tỏa mất nhuệ khí thì trở về Lương Sơn sao được? Ai ra đối trận cho
ta bây giờ?
Chu Đồng
nghe Tống Giang nói liền đưa mắt nhìn Lôi Hoành mà bảo rằng:
- Một
người không ăn thua gì thì hai anh em ta cùng ra xem sao?
Nói đoạn
Chu Đồng ở bên tả, Lôi Hoành ở bên hữu, cùng múa đao xông ra để đánh, Trương
Thanh cười mà rằng:
- Một
người không làm gì được, lại thêm một người nữa... Cho các người đến mười người
xông ra cũng vô ích...
Chàng
vừa nói vừa thò tay vào túi lấy đá, nét mắt vẫn nhâng không có dáng gì sợ hãi.
Bấy giờ Lôi Hoành sấn đến trước, bị Trương Thanh ném cho một viên đá ngay vào
giữa trán lăn xuống đất. Chu Đồng vội xong vào cứu, bất đồ lại bị một viên đá
trúng ngay vào cổ.
Quan
Thắng đứng bên trận Tống Giang, trông thấy vậy liền gắn hết uy thần, múa đao
Thanh Long, phóng ngựa xích thố ra cứu Lôi Đồng, Lôi Hoành. Chàng vừa đến cứu
hai người để chạy về bản trận, thì đã thấy một viên đá ném thẳng tới nơi, Quan
Thắng nhanh mắt trông thấy, bèn giơ đao lên đỡ, thì viên đá ném trúng vào thanh
đao bật cả lửa lên, Quan Thắng lại vội vàng quay về bản trận.
Song
Chiên Tướng Đổng Bình thấy vậy, nghỉ thầm trong bụng: "Ta đây mới đầu hàng
Tống Giang nếu không thi tài võ nghệ cho biết, thì khi về trên núi tất không có
giá trị được".
Nghĩ
đoạn liền vác song thương phi ngựa ra trận, Trương Thanh trông thấy Đổng bình
quát mắng rằng:
- Ta với
ngươi là hàng xóm với nhau, đáng lẽ nên đồng tâm để bắt giặc mới phải, nay
ngươi nở lòng nào bội bạc triều đình, mà đi phò tá với giặc, như thế phỏng nhục
hay không?
Đổng
Bình cả giận, múa song thương vào đến Trương Thanh. Hai bên người ngựa tiến
lui, ba cây thương lên xuống, đến nhau chừng năm bảy hiệp, thi Trương Thanh
quay ngựa mà chạy ngay.
Đổng
Bình quát lên rằng:
- Người
khác bị trúng đá của ngươi, chứ ta đây thì đá nào gần được?
Nói đoạn
xốc ngựa đuổi theo, Trương Thanh vừa chạy vừa lấy viên đá ném lại Đổng Bình,
Đổng Bình nhanh mắt nhanh tay gạt viên đá nẩy ra ngoài mất.
Trương
Thanh lấy viên đá thứ hai ném luôn phát nữa. Đổng Bình né mình tránh về một
bên, viên đá lại trẫng ra ngoài.
Trương
Thanh thấy hai viên đá ném không ăn thua, trong lòng hơi núng. Bấy giờ Đổng
Bình đuổi sát đến đằng sau Trương Thanh, cầm thương đâm một nhát giữa sau lưng,
Trương Thanh giơ lá chắn lên đỡ và né mình vào một bên, Đổng Bình đâm gãy
thương trượt ra ngoài, rồi con ngựa Đổng Bình sấn lên đều với ngựa của Trương
Thanh. Trương Thanh vội vàng vất thương xuống đất, rồi khoành tay ra ôm chặt
lấy cả Đổng Bình, lẫn cây thương của Đổng bình mà vật xuống. Bất đồ chàng vật
không thấy chuyển, rồi hai người ôm chặt nhau mà quây quần ở giữa vòng trận.
Sách
Siêu ở bên trận Tống Giang, liền múa đại phủ ra giải cứu. Bên kia Cung Vượng
cùng Đinh Đắc Tôn cũng xông ngựa ra đón đánh Sách Siêu, ba tướng lại dằn nhau
rúm vào một chỗ, mà không sao gỡ ra được.
Lâm
Xung, Hoa Vinh, Lã Phương, Quách Thịnh bèn cùng nhau xông ngựa, múa gươm múa
kích ra đánh cứu Đổng Bình cùng Sách Siêu. Trương Thanh thấy thế lực không địch
nổi, vội bỏ Đổng Bình chạy về bản trận. Đổng Bình hăng hái xông vào để đuổi
Trương Thanh, bất chợt Đổng Bình vô ý bèn lấy viên đá nhằm khi Đổng Bình đến
gần ném cho một phát. Đổng Bình nhanh mắt né mình để tránh, viên đá đi sượt qua
bên tay đánh vù một cái. Đổng Bình liền quay ngựa lại mà không dám đuổi nữa.
Đằng kia
Sách Siêu bỏ Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn toan xông sang để đuổi Trương Thanh,
Trương Thanh lấy đá ném một phát trúng vào mặt Sách Siêu, bắn phọt máu tươi ra,
rồi Sách Siêu chạy về bản trận. Khi ấy Lâm Xung, Hoa Vinh đương đánh nhau với
Cung Vượng. Lã Phương, Quách Thịnh thì đương đánh nhau với Đinh Đắc Tôn. Cung
Vượng đánh nhau được mấy hiệp, trong bụng đã hơi chồn, liền lấy mũi thương ra
phi đánh Lâm Xung cùng Hoa Vinh, bất đồ phi thương ra không trúng, thành ra trơ
trọi tay không, không có khí giới để đánh, bị Lâm Xung cùng Hoa Vinh bắt sống
đem về trại Tống Giang.
Còn Đinh
Đắc Tôn múa cây phi thoa, ra sức chống cự với Lã Phương, Quách Thịnh rất là hăng
hái. Sau Lãng Tử Yến Thanh đứng trong trận nom thấy, liền nghĩ trong bụng rằng:
"Trong một nháy mắt, mà quân ta có tới mười lăm tên Đại Tướng bị đánh, vậy
nếu không bắt được thằng Tiểu Tướng nầy của họ, thì còn mặt mũi nào nữa!
"Nghĩ đoạn liền vất gậy xuống lấy tên nỏ ra, nhằm bắn một phát vào chân
ngựa của Đinh Đắc Tôn, con ngựa bị đau ngã khuỵu xuống đất, rồi Lã Phương,
Quách Thịnh sấn nghiến vào bắt sống lấy Đinh Đắc Tôn.
Trương
Thanh thấy vậy, toan xông ra cứu, song vì ít người không địch nổi, liền truyền
lệnh lui quân, rồi giải Lưu Đường về phủ Đông Xương.
Hôm đó
quan phủ Đông Xương đứng trên thành xem trận, thấy Trương Thanh đánh luôn mười
lăm viên tướng của Lương Sơn Bạc, sau dẫu bị bắt mất Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn
song lại bắt được Lưu Đường về đó thì trong lòng lấy làm vui vẻ vô cùng, liền
trở về trong phủ để nâng chén mừng Trương Thanh và sai giam Lưu Đường vào trong
ngục, để cùng bàn định việc quân.
Bên kia
Tống Giang thu quân về trại, sai giải hai người Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn về sơn
trại trước, rồi Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa cùng Ngô Dụng rằng:
- Tôi
nghe về thời Ngũ Đại xưa, có Vương Ngạn Chương, trong một nháy mắt mà bắt được
ba mươi sáu tướng của nhà Đường, ngày nay Trương Thanh cũng chỉ trong một loáng
mà đánh nổi mười lăm viên Đại Tướng của ta, vậy sức khoẻ của Trương Thanh cũng
chẳng kém gì Vương Ngạn Chương ngày trước.
Chúng
nghe nói, đều im phăng phắc một lượt, Tống Giang lại nói rằng:
- Tôi
xem người ấy toàn nhờ Cung Vượng và Đinh Đắc Tôn làm vây cánh, vậy nay vây cánh
đã bị mất, thì ta sẽ dùng lương sách mà bắt người ấy được.
Ngô Dụng
nói:
- Huynh
trưởng cứ vững tâm, tôi hiểu cách của anh ta, và đã định kế sách lâu rồi... Nay
hãy xin cho các Đầu Lĩnh bị thương về sơn trại, và cho Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng,
Tôn Lập, Hoàng Tín, Lý Lập đem hết thủy quân đi, và sắp cả xe ngựa thuyền bè
nhất tề tiến lên, rồi lừa Trương Thanh ra thành, thì tất là xong việc.
Nói đoạn
quay ra cắt đặt hiệu lệnh cho các quân sĩ.
Về phần
Trương Thanh một hôm bàn định với quan phủ Đông Xương rằng:
- Ta tuy
đánh được hai trận, nhưng thế giặc còn to, chưa trừ được gốc, vậy xin cho người
đi dò xét hư thực ra sao.
Đương
khi bàn luận, chợt thấy người vào báo: Về mạn Tây Bắc có tới hơn trăm xe tải
lương, và trên mặt sông cũng có hơn năm trăm chiến thuyền, đều chở lương thảo
tiến đi, chỉ có mấy người Đầu Lĩnh đi áp tải ở đó, Thái Thú nghe báo nói rằng:
Cái đó không khéo lại mưu kế gì chăng? Ta phải cho người đi thám lại, xem có
hẳn là tải lương hay không?
Ngày hôm
sau, người đi thám về báo: Các xe đều xếp đầy những gạo, các thuyền dẫu có che
đậy song ở trong toàn thị là túi gạo tất cả không sai.
Trương
Thanh nói:
- Nếu
vậy đêm nay ta ra thành đón chặn lấy đám xe, rồi sẽ cướp lấy các thuyền, thí
tất là đắc thắng.
Quan phủ
khen phải mà rằng:
- Làm
thế thì diệu lắm, song Tướng quân phải cẩn thận mới được.
Trương
Thanh vâng lệnh, rồi đến đêm kéo quân ra đi. Hôm đó mây quang trăng sáng, sao
chiếu đầy trời, quân đi mười dặm đường, thì đã thấy xe lương tải đến, trong cờ
viết rõ là "Lương Trung Nghĩa của trại Thủy Hử" và có một nhà sư Lỗ
Trí Thâm vác thuyền trượng đi trước.
Trương
Thanh trông thấy Lỗ Trí Thâm liền nói một mình rằng:
- Ta cho
thằng trọc nầy một viên đá vào óc mới được...
Nói đoạn
liền lấy viên đá ra ném. Lỗ Trí Thâm tuy nom thấy Trương Thanh đến, song trong
bụng đương giả vờ làm mặt không biết, cứ vác thuyền trượng cắm đầu để chạy. Bất
đồ bị một viên đá ném ngay vào đầu, máu tươi chảy vọt ra rồi ngã lăn xuống đất.
Quân mã
Trương Thanh đều reo hò xông đến để bắt, Võ Tòng đi sau thấy, vội múa hai khẩu
giới đao, sấn lên cứu lấy Lỗ Trí Thâm rồi bỏ cả xe cộ mà chạy.
Trương
Thanh cướp được lương thảo lấy làm mừng rỡ, liền không đổi theo Lỗ Trí Thâm, mà
giải lương thảo vào thành, Quan phủ thấy vậy cả mừng truyền thu để vào trong
kho.
Trương
Thanh lại xin ra đánh, Quan phủ lại dặn với rằng:
- Tướng
quân phải liệu cơ đấy...
Trương
Thanh vâng lời lên ngựa đi ra cửa Nam. Bấy giờ trông thấy thuyền lương đầy dẫy
trên sông, không biết tới đâu mà kể. Trương Thanh liền sai mở cửa thành, mà
nhất tề kéo ra cả bên sông.
Khi tới
nơi bỗng thấy mây mù đen kịt, sương tối đầy trời, đám quân nhìn sát tận nhau,
mà không ai trông thấy ai cả
Nguyên
đó là phép thuật của Công Tôn Thắng, dùng để làm mê man quân mã của Trương
Thanh, Trương Thanh thấy vậy trong lòng kinh sợ vội lui quân mã để quay về. Dè
đâu vừa quay lại, thì thấy bốn mặt có tiếng hò reo, rồi bỗng thấy quân mã ở đâu
ầm ầm kéo đến. Đoạn rồi thấy Lâm Xung dẫn quân kị ra ngăn áp cả người lẫn ngựa
Trương Thanh xuống nước.
Bấy giờ
dưới nước đã có đám Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn,
cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh cùng chực sẵn ở đó. Trương Thanh xuống nước luống cuống
không lên được, bị ba anh em họ Nguyễn bắt trói đem về trong trại.
Ngô Dụng
cùng Tống Giang được tin, liền thôi thúc quân mã ra đánh thành rất khẩn. Một
mình Tri Phủ hết sức giữ thành được một lúc, thì quân mã Tống Giang đã phá cửa
tràn vào, không sao ngăn nổi. Tống Giang kéo vào trong thành, trước hết cứu cho
Lưu Đường ra, rồi sau mở kho tàng lấy tiền lương, chia một phần cho dân cư ở
đó, còn thì đem cả về Lương Sơn. Quan Phủ Đông Xương vốn là người chính trực
thanh liêm, nên tha không giết hại. Đoạn rồi Tống Giang tụ quân chúng ở trong
Phủ Đông Xương.
Bấy giờ
thủy quân Đầu Lĩnh giải Trương Thanh vào phủ. Các tướng bị Trương Thanh đánh
trước đều nghiến răng nghiến lợi muốn giết Trương Thanh. Duy Tống Giang thấy
giải đến nơi, thì vội vàng xuống thềm đón tiếp mà nói lại rằng:
- Quân
chúng không biết lỡ phạm hổ uy, xin ngài tha lỗi ấy cho...
Nói đoạn
toan mời Trương Thanh lên ngồi, chợt đâu thấy Lỗ Trí Thâm đầu buộc khăn tay
bằng vải, tay cầm thuyền trượng bằng sắt, xông ra để đánh Trương Thanh.
Tống
Giang thấy vậy, vội ngăn Lỗ Trí Thâm lại mà quát nạt im đi. Trương Thanh thấy
Tống Giang là người nghĩa khí như vậy bèn cúi đầu lạy tạ mà xin hàng.
Tống
Giang lại đổ rượu xuống đất, lại bẻ một mũi tên mà thề rằng:
- Anh em
ai còn thù hằn với Trương Thanh, thì trời đất không dung tất bị chết ở nơi đao
kiếm.
Chúng
nghe nói đều im phăng phắc, không ai con hục hặc chi nữa. Đoạn rồi Trương Thanh
nói với Tống Giang rằng:
- Ở Phủ
Đông Xương có một người thú y họ Hoàng Phủ tên Đoan, xem tướng ngựa rất giỏi,
xem bệnh ngựa và chữa bệnh ngựa rất tinh. Nguyên người quê ở U Châu, mắt biếc
râu vàng, người ta thường gọi là Tử Nhiêm Bá (bác râu vàng). Lương Sơn Bạc ta
tất có khi dùng đến hắn... Vậy xin cho đón cả vợ con người ấy lên sơn Bạc một
thể cho tiện.
Tống
Giang nghe nói cả mừng mà rằng:
- Nếu
được Hoàng Phủ Đoan có lòng cùng nhau tụ nghĩa, còn gì hơn được nữa?
Trương
Thanh thấy Tống Giang một dạ tin yêu, chàng liền đi gọi Hoàng Phủ Đoan đến để
bái kiến Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh.
Tống
Giang trông Hoàng Phủ Đoan mắt xanh lóng lánh, râu dài quá bụng, rõ ra một bậc
phi thường thì lấy làm khen ngợi vô cùng. Hoàng Phủ Đoan thấy Tống Giang là
người nghĩa khí như vậy, thì cũng vui mừng mà thuận phục xin theo tới Lương
Sơn.
Khi trò
chuyện thỏa hiệp rồi, Tống Giang liền truyền lệnh cho các Đầu Lĩnh thu xếp xe
ngựa, chỉnh đốn quân mã và tải tiền lương đem về Sơn Trại. Khi về tới sơn trại,
Tống Giang sai thả Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn ra, lấy lời ngon ngọt dỗ dành hai
người rất ân cần tử tế. Hai người đều lạy tạ mà xin quy hàng ở đó.
Bấy giờ
ở trong sơn trại tính tất cả lớn nhỏ có tới một trăm Đầu Lĩnh cùng đề huề xum
họp với nhau. Tống Giang thấy vậy cả mừng, bèn sai đặt tiệc ăn mừng rồi nói với
anh em rằng:
- Từ khi
anh em ta bước chân lên núi tới đây, ơn nhờ trời đất, các công việc đều được
trơn tru, không hề chút gì vấp váp. Ngày nay lại nhờ trí dũng của anh em, tôn
tôi lên làm chủ trại, vậy tôi có một lời nầy muốn giải bày khúc nhôi, dám xin
anh em lấy lòng nghĩa khí mà chấp thuận lấy cho, thì thực là hân hạnh cho sơn
trại vô cùng.
Ngô Dụng
đáp rằng:
- Huynh
trưởng có điều gì dạy bảo, xin cứ nói cho anh em được biết.
Tống
Giang bèn ung dung đem ý kiến để giải bày cùng các vị Đầu Lĩnh:
Mới hay:
Mấy phen
lỡ đất long trời,
Anh hùng
trải lắm trần ai mới già,
Đôi phen
bốn bể một nhà,
Đông,
Tây họp mặt san hà khiếp gan.
Cùng
nhau hợp thể liên đoàn,
Non cao
độc lập sóng tràn tự do.
Dọc
ngang riêng một cơ đồ,
Máu nồng
chan chứa một lò nghĩa chung.
Lương
Sơn trăm tám anh hùng,
Giang hồ
nghĩa nặng muôn trùng ai ơi!
Lời bàn
của Thánh Thán.
Từ xưa
chưa từng nghe nói đem đá ra đánh giặc, tự Thi Nại Am bổng không nảy ra một
chuyện lạ đời, để kết lại một thiên, khiến đọc giả lạ mắt chột lòng, thấy rằng
hòn đá nén ra, như đạn bay tên bắn, anh hùng Sơn Bạc, hầu hết bó tay! Không ngờ
tác giả phô trương tài lạ hơn một trăm người, đến đây như hết, thế mà đến đây
lại thấy tài năng của một phi thường, đọc một bộ sách bảy mươi hồi đã thấy bao
nhiêu kẻ tài cao thấp, kết lại nẩy một kẻ lạ thường như cuốn như quét, như ruỗi
như hịch...hết thẩy thực là chương pháp rất ly kỳ...
Bầy ra
một trăm linh tám anh hùng, đến sau chót một Hoàng Phủ Đoan giỏi về tướng ngựa.
Hỡi ôi! Khéo thay! Đó làm ra cho thành một chuyện Thủy Hử, xét ra cái tài dong
duỗi, chưa chắc vô duujng cho thuyền xe, mà cái tật thét gào thở hộc, chưa chắc
không phải cản sức đi ngàn dặm, nệ theo bề ngoài ngoài là một con vật, chưa
chắc đã chẳng đáng của ở trong...cho nên bậc Tể tướng tài hiền thường có những
món thưởng thức về tài phá cách, vì trong trăm năm co báo lại bất thần, thì
biết chữa bệnh cho ngựa, dùng vào việc binh mã, há chẳng đáng trọng dụng lắm
hay sao? Thế mà đời không ai là Bá Nhạc tri âm, coi hiền với ngu đều đến chết.
Coi thường những thứ vẫn dùng, mà không biết đến, gặp khi tai vạ tới, thấy lỗi
ở những chỗ thường kia, bấy giờ mới đáng than, thì thấy ra đã muộn. Nên việc
dùng Hoàng Phủ Đoan, chính là gồm mọi đủ tài năng, không coi thường một chút gì
hết thảy.
THUỶ HỬ TRUYỆN
Chương 70: Nhà Trung Nghĩa, bia đá nổi hàng
văn; Vụng Lương Sơn, bạn vàng kinh giấc mộng
Bấy giờ
Tống Giang bảo với các Đầu Lĩnh rằng:
- Lũ anh
emy ta bấy lâu vào sinh ra tử, mong mỏi tìm nhau, để kết lấy giang hồ đại
nghĩa, vậ ngày nay đã sum họp tất cả được một trăm lẻ tám anh em, trí dũng kim
toàn, anh tài không thiếu, thực là một cơ hội rất hiếm xưa nay, ai trông thấy
thế mà chẳng đồng tâm hiệp lực, để cùng liên lạc với nhau. Duy trong khi gây
cuộc binh đao, kể cũng thiệt hại đến nhiều dân chúng. Vậy ngày nay muốn lập đàn
trai để tạ ơn trời đất qủy thần, một là cầu đảo cho anh em được vui vẻ yên
lành, hai là mong triều đình sớm ra ơn xá tội để cùng nhau hết sức báo đền non
nước, thì dẫu chết cũng không dám từ nan, ba là cầu cho Tiều Thiên Vương sớm
thăng thiên giới thế thế sinh sinh rồi sau lại được gặp nhau, và nhân tiện cầu
nguyện cho các linh hồn bị chết chóc từ trước tới nay, đều được siêu sinh tĩnh
thổ về chốn lạc viên. Chẳng hay ý tưởng anh em nghĩ ra sao?
Các Đầu
Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:
- Đó là
một công quả phúc đức, anh em đều xin theo ý kiến Ca Ca chỉ giáo.
Ngô Dụng
nói:
- Việc
nầy tất phải nhờ Công Tôn Thắng tiên sinh làm chủ, rồi cho người đi đón Đạo sĩ
các nơi để về cúng mới được.
Nói đoạn
liền bàn định đến rằm tháng tư bắt đầu làm chay, hạn bảy đêm ngày công quả cho
các người đi đón các Đạo Tràng về cúng, và sai người mua sắm lễ vật cùng là bày
dọn Đạo Tràng. Trước Trung Nghĩa Đường dựng cây phàn lớn, bốn xung quanh kết ba
từng đài rất cao, trong bày thánh trượng Tam Thanh, Thất Bảo, hai ban đặt thờ
hai mươi tám vì tinh tú, mười hai ngôi sao giờ cùng các tinh chủ trên trời, và
phía ngoài đặt giám đàn thờ thần tướng Thôi, Lưu Trung Thư, Đặng, Đậu.
Hôm ấy
khi trời trong trẻo, gió mát trăng thanh, đàn tràng đã lập xong rồi. Công Tôn
Thắng liền dẫn tất cả bốn mươi tám người đạo tràng ra làm lễ. Bấy giờ Tống
Giang, Lư Tuấn Nghĩa đứng đầu, rồi đến Ngô Dụng cùng các Đầu Lĩnh ra đốt hương
coi lễ.
Công Tôn
Thắng chủ việc đàn tràng, coi giữ các giấy sớ ấn bùa, và cùng bốn mươi tám
người đạo tràng, cùng nhau mỗi ngày ra làm lễ ba khoá lễ.
Tống
Giang nhất tâm cầu nguyện, mong Hoàng Thiên báo ứng hiển nhiên, liền bảo Công
Tôn Thắng đốt sớ tâu lên Thượng Đế.
Đến đêm
hôm thứ bảy, Công Tôn Thắng ở trên tấng đàn Hư Hoàng thứ nhất, các đạo tràng ở
tầng thứ hai, Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh ở tầng thứ ba, còn các tiểu Đầu Lĩnh
cùng bọn tướng tá, đều đứng cả dưới đàn, mà cùng nhau vái lạy trời xanh, cầu
xem báo ứng.
Được một
lát vào khoảng canh ba, chợt nghe thấy trên trời có một tiếng soạt, như tiếng
xé lụa rất to, rồi thấy cửa trời về phía Tây Bắc kiền phương mở tung ra, và có
một cái ban vàng, hai đầu nhỏ ở giữa rộng trông như mặt trời chói lọi, sáng rực
xuống khắp trần ai. Chợt lại thấy trong đàn, có một khối lửa to như cái thúng,
lừ đừ đi xuống đàn Hư Hoàng, quanh chuyển một vòng, rồi lặn xuống dưới đất, về
phía chính Nam.
Đoạn rồi
mặt trời trở lại như cũ, rồi mọi người cùng nhau lạy tạ xuống đàn mà đào đất để
tìm.
Khi đào
tới ba thước đất, chợt thấy có một miếng bia đá, chạm thiên thư ở mặt giữa và
cả đôi bên. Tống Giang sai đem về làm lễ tạ đàn, rồi sáng hôm sau đưa tiền công
quả để tặng cho các đạo tràng và đem bia đá ra xem.
Khi nom
đến bia đá thấy chữ nghĩa ngoằn ngoèo, khác hẳn lối thường, không còn ai biết
nghĩa lý ra sao cả. Sau có một người đạo tràng, họ Hà tên là Diệu Thông, nói
với Tống Giang rằng:
- Tổ phụ
nhà tôi khi xưa có một bộ sách, chuyên để cắt nghĩa các lối chữ thiên thư, vậy
lối chữ đây tức là lối chữ khoa đẩu, tôi có thể hiểu được, xin ngài để cho tôi
dịch giúp.
Tống
Giang nghe nói cả mừng, liền nhờ Hà Diệu Thông xem giúp, và dịch cho mọi người
cùng hiểu nghĩa.
Hà Diệu
Thông xem một lúc, rồi nói với Tống Giang rằng:
- Hai
bên cạnh bia, một bên có bốn chữ "Thế Thiên Hành Đạo" (Thay Trời làm
Đạo), và một bên có bốn chữ "Trung Nghĩa Lưỡng Toàn" (trung nghĩa vẹn
hai), trên có các vì sao trên trời và phía dưới chưa đủ tên họ các ngài ở đó.
Nếu các ngài rộng tha phép cho, tôi xin viết rõ ra để các ngài xem.
Tống
Giang nói:
- Chúng
tôi mê muội không biết văn trời, nay nếu được Đạo Sĩ chỉ bảo đường mê, thì còn
gì hơn nữa, dám xin Đạo Sĩ chỉ bảo rõ ràng cho biết, hoặc giả ở trong có điều
chi Hoàng Thiên quở phạt, cũng xin chớ dấu chúng tôi.
Nói đoạn
liền gọi Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng lấy giấy vàng mực đen ra để Hà Diệu
Thông đọc cho viết.
Hà Diệu
Thông lại nói rằng:
- Trong
tấm bia nầy, trước mặt có ba mươi sáu hàng chữ toàn thị là sao Thiên Cương, mặt
sau có bảy mươi hai hàng chữ toàn thị là sao Địa Sát, phía dưới có chứa tên họ
các nghĩa sĩ ở đây cả.
Nói đoạn
liền đọc ba mươi sáu hàng chữ ở trước mặt bia:
Thiên
Khôi Tinh, Hô Bảo Nghĩa Tống Giang
Thiên
Cương Tinh, Ngọc Kỳ Lân Lư Tuấn Nghĩa
Thiên Cơ
Tinh, Trí Đa Tinh Ngô Dụng
Thiên
Nhàn Tinh, Nhập Long Vân Công Tôn Thắng
Thiên
Dũng Tinh, Đại Đao Quan Thắng
Thiên
Hùng Tinh, Báo Tử Đầu Lâm Xung
Thiên
Mãnh Tinh, Tích Lịch Hỏa Tần Minh
Thiên Uy
Tinh, Song Chiên Hô Duyên Chước
Thiên
Anh Tinh, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh
Thiên
Quý Tinh, Tiểu Toàn Phong Sài Tiến
Thiên
Phú Tinh, Phác Thiên Bằng Lý Ứng
Thiên
Mãn Tinh, Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng
Thiên Cô
Tinh, Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm
Thiên
Thương Tinh, Hành Giả Võ Tòng
Thiên
Lập Tinh, Song Thương Tướng Đổng Bình
Thiên
Tiệp Tinh, Một Vũ Tiễn Trương Thanh
Thiên Âm
Tinh, Thanh Diện Thú Dương Chí
Thiên
Hựu Tinh, Kim Sang Thủ Từ Ninh
Thiên
Không Tinh, Cấp Tiên Phong Sách Siêu
Thiên Dị
Tinh, Xích Phát Quỹ Lưu Đường
Thiến
Sát Tinh, Hắc Toàn Phong Lý Quỳ
Thiên
Tốc Tinh, Thần Hành Thái Bảo Đới Tung
Thiên Vi
Tinh, Cửu Văn Long Sử Tiến
Thiên
Cứu Tinh, Mộc Già Lan Mục Hoằng
Thiên
Thoái Tinh, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành
Thiên
Thọ Tinh, Hỗn Giang Long Lý Tuấn
Thiên
Kiếm Tinh, Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị
Thiên
Bình Tinh, Thuyền Đầu Hỏa Trương Hoành
Thiên
Tội Tinh, Đỏan Mệnh Nhị Lang Nguyễn Tiểu Ngũ
Thiên
Tổn Tinh, Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận
Thiên
Bại Tinh, Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất
Thiên
Lao Tinh, Bệnh Quan Sách Dương Hùng
Thiên
Tuệ Tinh, Biểu Mệnh Tam Lang Thạch Tú
Thiên
Bảo Tinh, Lưỡng Đầu Sà Giải Trân
Thiên
Khốc Tinh, Long Vĩ Hạt Giải Bảo
Thiên
Xảo Tinh, Lãng Tử Yến Thanh
Bảy mươi
hàng chữ mặt sau bia:
Địa Khôi
Tinh, Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ
Địa Sát
Tinh, Trấn Tam Sơn Hoàng Tín
Địa Dũng
Tinh, Bệnh Uùy Trì Tôn Lập
Địa Kiệt
Tinh, Xú Quận Mã Tuyên Tán
Địa Hùng
Tinh, Mộc Tỉnh Can Hắc Tư Văn
Địa Uy
Tinh, Bách Thắng Tướng Hàn Thao
Địa Anh
Tinh, Thiên Mục Tướng Bành Dĩ
Địa Kỳ
Tinh, Thánh Thủy Tướng Quân Đan Đình Khuê
Địa Mãnh
Tinh, Thần Hỏa Tướng Quân Ngụy Định Quốc
Địa Văn
Tinh, Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng
Địa
Chính Tinh, Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên
Địa Tịch
Tinh, Ma Vân Kim Sí Âu Bằng
Địa Hạp
Tinh, Hỏa Nhỡn Toan Nghê Đặng Phi
Địa
Cường Tinh, Cẩm Mao Hổ Yến Thuận
Địa Âm
Tinh, Cẩm Báo Tử Dương Lâm
Địa Phụ
Tinh, Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn
Địa Hội
Tinh, Thần Toán Tử Tưởng Kính
Địa Tá
Tinh, Tiểu Ôn Hầu Lã Phương
Địa Hựu
Tinh, Kiển Nhân Quý Quách Thịnh
Địa Linh
Tinh, Thần Y An Đạo Toàn
Địa Thú
Tinh, Tử Nhiêm Bá Hoàng Phủ Đoan
Địa Vi
Tinh, Nụy Cước Hổ Vương Anh
Địa Tuệ
Tinh, Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương
Địa Hao
Tinh, Táng Môn Thần Đào Húc
Địa Mặc
Tinh, Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy
Địa
Xương Tinh, Mao Đẩu Tinh Khổng Minh
Địa
Cường Tinh, Độc Hỏa Tinh Khổng Lượng
Địa Phi
Tinh, Bát Tý Na Tra Hạng Sung
Địa Tẩu
Tinh, Phi Thiên Đại Thánh Lý Cổn
Địa Xảo
Tinh, Ngọc Tý Tượng Kim Đại Kiện
Địa Minh
Tinh, Thiết Dịch Tiên Mã Lân
Địa Tiến
Tinh, Xuất Động Giao Đồng Uy
Địa
Thoái Tinh, Phan Giang Thần Đồng Mãnh
Địa Mãn
Tinh, Ngọc Phan Cang Mạnh Khang
Địa Toại
Tinh, Thông Tý Viện Hầu Kiện
Địa Chu
Tinh, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt
Địa An
Tinh, Bạch Hoa Sà Dương Xuân
địa Di
Tinh, Bạch Diện Lang Quân Trịnh Thiên Thọ
Địa Lý
Tinh, Cửu Vỹ Quy Đào Tôn Vượng
Địa Tuấn
Tinh, Thiết Phiến Tử Tống Thanh
Địa Nhạc
Tinh, Thiết Khiếu Tử Nhạc Hoà
Địa Tiệp
Tinh, Hoa Hạng Hổ Cung Vượng
Địa Tốc
Tinh, Tùng Tiến Hổ Đinh Đắc Tôn
Địa Trấn
Tinh, Tiểu Già Lan Mục Xuân
Địa Cơ
Tinh, Thao Đao Quỹ Tào Chính
Địa Ma
Tinh, Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn
Địa Yêu
Tinh, Mô Trước Thiên Đỗ Thiên
Địa U
Tinh, Bệnh Đại Trùng Tiết Vĩnh
Địa Phục
Tinh, Kim Nhỡn Bưu Thi Ân
Địa Tịch
Tinh, Đả Hổ Tướng Lý Trung
Địa
Không Tinh, Tiểu Bá Vương Chu Thông
Địa Cô
Tinh, Kim Tiền Báo Tử Thang Long
Địa Toàn
Tinh, Quỹ Kiểm Nhi Đỗ Hưng
Địa Đỏan
Tinh, Xuất Lâm Long Trâu Uyên
Địa Giốc
Tinh, Độc Giốc Long Trâu Nhuận
Địa Tù
Tinh, Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý
Địa Tàng
Tinh, Tiểu Diện Hổ Chu Phú
Địa Binh
Tinh, Thiết Tý Phụ Xái Phúc
Địa Tổn
Tinh, Nhất Chi Hoa Xái Khánh
Địa Nô
Tinh, Thôi Mệnh Phán Quan Lý Lập
Địa Sát
Tinh, Thanh Nhỡn Hổ Lý Lân
Địa Ác
Tinh, Một Diện Mục Tiêu Đĩnh
Địa Xú
Tinh, Thạch Tướng Quân Thạch Dũng
Địa Số
Tinh, Tiểu Uùy Trì Tôn Tân
Địa Âm
Tinh, Mẫu Đái Trùng Cố Đại Tẩu
Địa Hình
Tinh, Thái Viên Tử Trương Thanh
Địa
Tráng Tinh, Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương
Địa Liệt
Tinh, Hoạt Diêm La Vương Đình Lục
Địa Kiện
Tinh, Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tứ
Địa Hao
Tinh, Bạch Nhật Tử Bạch Thắng
Địa Tặc
Tinh, Cổ Thượng Tao Thời Thiên
Địa Cẩu
Tinh, Kim Mao Khuyển Đoàn Cảnh Trụ.
Tiêu
Nhượng viết xong tất cả, rồi đọc lại một lượt cho mọi người ai nấy đều kinh
ngạc vô cùng.
Tống
Giang liền nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Tôi là
kẻ tiểu lại ngu hèn, ngờ đâu lại ứng vào các tinh tú trên trời, cùng với anh em
lại cùng chung một hội...Nay số trời đã định, tất phải xum họp cùng nhau, vậy
anh em ta phải y theo thứ tự, giữ lấy bổn phận mà làm, chớ nên trái ý trời mới
được.
Các Đầu
Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:
- Ý Trời
đã định, còn ai dám cãi, từ nay đều xin nhất lực nhất tâm...
Tống
Giang sai lấy năm mươi lạng vàng, tạ ơn Hà Diệu Thông. Hà Diệu Thông bèn bái tạ
Tống Giang, cùng các vị Đầu Lĩnh, rồi cùng với bọn đạo tràng xuống núi mà chia
tay trở về.
Bấy giờ
Tống Giang bàn với Quân Sư Ngô Dụng, cùng các Đầu Lĩnh để chỉnh đốn lại trong
sơn trại; Trước Trung Nghĩa Đường khắc một cái biển vàng đề ba chữ "Trung
Nghĩa Đường "rất to. Đoạn kim đình cũng thay một bức biển lớn. Phía trước
đặt ba cửa quan. Phía sau Trung Nghĩa Đường, lập một toà Nhạn Đài. Đỉnh núi đặt
một đại sảnh, phía Đông phía Tây đều có ngăn phòng, chính giữa đặt một bàn thờ
Tiều Cái.
Tống
Giang, Ngô Dụng, Lã Phương, Quách Thịnh ở phòng bên Đông; Lư Tuấn Nghĩa, Công
Tôn Thắng, Khổng Minh, Khổng Lượng ở phòng bên Tây.
Lớp núi
thứ hai có Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên ở phòng bên tả;
và Đới Tung, Yến Thanh, Trương Thanh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan ở dẫy bên
hữu. Bên tả Trung Nghĩa Đường có Sài Tiến, Lý Ứng, Tưởng Kính, Lăng Chấn coi
giữ việc thu phát tiền lương kho tàng, và bên hữu thì có Hoa Vinh, Phàn Thụy,
Hạng Sung và Lý Cổn.
Cửa quan
đệ nhất đường bên Nam trước núi, cắt Giải Trân, Giải Bảo coi giữ, Cử Quan thứ
nhì Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng coi giữ. Cửa quan thứ ba Chu Đồng, Lôi Hoành coi giữ.
Bên Đông
núi một cửa quan, Sử Tiến, Lưu Đường coi giữ.
Bên Tây
một cửa quan, Dương Hùng, Thạch Tú coi giữ. Bên bắc một cửa quan Mục Hoằng, Lý
Quỳ coi giữ.
Ngoài
sáu cửa quan lại đặt thêm tám trại, bốn trại trên bộ, và bốn trại dưới nước.
Trại bộ chính Nam có Tầm Minh, Sách Siêu, Âu Bằng, Đặng Phi. Trại Chính Đông có
Quan Thắng, Từ Ninh, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn; Trại chính Tây có Lâm Xung, Đổng
Bình, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc. Trại Chính Bắc có Hô Duyên Chước, Dương
Chí, Hàn Thao, Bành Dĩ; Trại thủy bên Đông Nam có Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị;
Trại Tây Nam có Trương Hoành, Trương Thuận; Trại Đông Bắc có Nguyễn Tiểu Ngũ,
Đồng Uy; Trại Tây Bắc có Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Mãnh, còn các Đầu Lĩnh ai vào
việc ấy.
Lại sai
Hầu Kiện chế thêm các hiệu cờ khác nhau, trên núi chế một ngọn cờ Hoành Hạnh,
viết bốn chữ "Thế Thiên Hành Đạo" rất to. Trước cửa Trung Nghĩa Đường
chế hai lá cờ thêu, một bên có năm chữ "Sơn Đông Hô Bảo Nghĩa"; và
một bên năm chữ "Hà Bắc Ngọc Kỳ Lân ". Ngoài đặt các cờ Phi Long, Phi
Hổ, Phi Hùng, Phi Báo, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ, và các đồ Hoàng
Việt, Bạch Mao, Thanh Phan, Tạo Cái, Phi Anh hặc đạo để dùng ra trận.
Lại sai
chế các thứ cờ Tứ Đầu, Ngũ Phương, Tam Tài, Cửu Diệu, Nhị Thập Bát Tú, Lục Thập
Tứ Quái, Chu Thiên Cửu Cung, Bát Quái, và tất cả một trăm hai mươi bốn thứ cờ.
Còn các việc ấn tín binh phù, thì giao cho Kim Đại Kiện coi giữ.
Đoạn rồi
chọn ngày lành tháng tốt, giết trâu giết ngựa tế lễ trời đất qủy thần treo biển
lên Trung Nghĩa Đường. Đoạn Kim Đình và cắm cờ "Thế Thiên Hành Đạo
"lên đỉnh núi, rồi cùng nhau yến ẩm làm vui. Hôm đó Tống Giang tay cầm
binh phù ấn tín, tuyên cáo hiệu lệnh cho các Đầu Lĩnh rằng:
- Từ nay
anh em đều phải giữ theo chức trách, không được cưỡng trái, để hại đến Đại
Nghĩa trong sơn trại. Nếu ai trái lệnh không theo, thì lấy quân pháp trị tội...
Nói đoạn
liền kê các chức vụ của các Đầu Lĩnh cho mọi người cùng biết:
Hai viên
Tổng binh Đô Đầu Lĩnh ở sơn bạc, là Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa.
Hai viên
Quân Sư là Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, coi giữ việc cơ mật.
Một viên
Tham Tán Quân Vụ, là Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ.
Hai viên
Đầu Lĩnh coi giữ tiền lương, là Sài Tiến và Lý Ứng.
Năm viên
Hổ Tướng Mã Quân là Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, và Đổng
Bình.
Tám viên
mã quân Đại Khiêu Kị, kiêm chức Tiền Phong Sứ là Hoa Vinh, Từ Ninh, Dương Chí,
Sách Siêu, Trương Thanh, Chu Đồng, Sử Tiến, và Mục Hoằng.
Mười sáu
viên Mã quân Tiểu Bưu Tướng, kiêm việc Thám tiểu là Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên
Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Âu Bằng,
Đặng Phi, Yến Thuận, Mã Lân, Trần Đạt, Dương Xuân, Dương Lâm, Chu Thông.
Mười
viên bộ quân Đầu Lĩnh, là Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Lôi Hoành, Lý Quỳ,
Yến Thanh, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo.
Mười bảy
viên Tướng Hiệu Bộ Quân, là Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, Tiết Vĩnh, Thi Aân,
Mục Xuân, Lý Trung, Trịnh Thiên Thọ, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Trâu Uyên, Trâu Nhuận,
Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Tiêu Đĩnh và Thạch Dũng.
Tám viên
Đầu Lĩnh Thủy Quân là Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Nhị,
Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Uy và Đồng Mãnh.
Tám viên
Đầu Lĩnh coi bốn mặt tửu điếm, để dò xét tin tức. Điếm bên Đông có Tôn Tân và
Cố Đại Tẩu; Bên Tây có Trương Thanh và Tôn Nhị Nương. Bên Nam có Chu Quý, Đỗ
Hưng; Bên Bắc có Lý Lập, Vương Đình Lục.
Một viên
coi đại quyền về việc do thám, là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung. Tám viên Đầu
Lĩnh Bộ Quân, phi báo các việc cơ mật là Nhạc Hoà, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ,
Bách Thắng.
Hai viên
Kiều Tướng Mã quân thủ hộ ở Trung Quân, là Lã Phương, Quách Thịnh.
Hai viên
Kiều Tướng Bộ quân, Thủ Hộ ở Trung Quân là Khổng Minh, Khổng Lượng.
Hai viên
chuyên việc hành hình là Xái Phúc, Xái Khánh.
Hai viên
Đầu Lĩnh Mã Quân giữ việc do thám trong tam quân là Vương Anh và Hổ Tam Nương.
Mười sáu viên Đầu Lĩnh coi việc chế tạo sửa sang. Một viên giữ việc văn thư
giấy má, trong khi khi khiển tướng điều binh là Tiêu Nhượng. Một viên Quân
Chính Tư coi việc thưởng phạt là Bùi Tuyên. Một viên coi các việc tính toán
tiền nong, chế tạo chiến thuyền là Mạnh Khang. Một viên chuyên chế tạo ấn tín
là Kim Đại Kiện. Một viên chế các thứ cờ quạt áo bào là Hầu Kiện.
Một viên
giữ việc chữa thuốc cho ngựa là Hoàng Phủ Đoan.
Một viên
chuyên trị các khoa thuốc là An Đạo Toàn.
Một viên
coi việc chế tạo các đồ quân khí bằng sắt là Thang Long.
Một viên
chuyên chế các thứ súng là Lăng Chấn.
Một viên
coi các việc nhà cửa là Lý Vân.
Một viên
coi việc giết mổ trâu bò gà lợn là Tào Chính.
Một viên
coi việc yến tiệc là Tống Thanh.
Một viên
coi việc rượu chè là Chu Quý.
Một viên
coi đắp thành trì là Đào Tôn Vượng.
Một viên
coi giữ cờ súy là Úc Bảo Tứ.
Hôm đó
là ngày hai mươi hai, tháng tư năm thứ hai, niên hiệu Tuyên Hoà, Tống Công Minh
họp hết thẩy các Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc để truyền lệnh cắt đặt xong việc. Các
Đầu Lĩnh đều vâng lệnh ấn tín, cùng nhau yến ẩm ở Trung Nghĩa Đường, rồi quay
ra chia giữ các việc. Trong đó có người nào chưa cắt định công việc thì cho ở
tạm ở trước Nhạn Đài để chờ hiệu lệnh.
Ngày hôm
sau Tống Giang lại sai khua trống tụ họp các Đầu Lĩnh ở Trung Nghĩa Đường, đốt
một lò hương, rồi nói với mọi người rằng:
- Anh em
ta ngày nay xum họp ở đây, là tại số trời định trước, chiếu ứng bởi các vì sao,
vậy ta nên một dạ một lòng, thề cùng trời đất mà trăm năm sinh tử có nhau, thì
ngõ hầu mới khỏi phụ ý Trời trọng đãi... Các anh em xin chớ sai lời.
Chúng
nghe nói đều vui mừng khen phải, liền cùng nhau thắp hương, mà cùng nhau quỳ ở
trước Trung Nghĩa Đường, để tuyên lời thề nguyện.
Tống
Giang quỳ ở hàng đầu, tuyên lời thệ rằng:
-
"Ngày hai mươi ba, tháng tư, năm thứ hai, niên hiệu Tuyên Hoà, bọn nghĩa
sĩ ở Lương Sơn Bạc là: Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng,
Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, Hoa Vinh, Sài Tiến, Lý Ứng, Chu
Đồng, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Đổng Bình, Trun, Dương Chí, Từ Ninh, Sách Siêu, Đới
Tung, Lưu Đường, Lý Quỳ, Sử Tiến, Mục Hoằng, Lôi Hoành, Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu
Nhị, Trương Hoành, Nguyễn tiểu Ngũ, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Thất, Dương Hùng,
Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo, Yến Thanh, Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên
Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Tiêu Nhượng,
Bùi Tuyên, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Dương Lâm, Lăng Chấn, Tưởng kính, Lã
Phương, Quách Thịnh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan, Vương Anh, Hổ Tam Nương, Bào
Húc, Phàn Thụy, Khổng Minh, Khổng lượng, Hạng Sung, Lý Cổn, Kim Đại Kiện, Mã
Lân, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Mạnh Khang, Hầu Kiện, Trần Đạt, Dương Xuân, Trịnh
Thiên Thọ, Đào Tôn vượng, Tống Nhạc Hoà, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Mục Xuân,
Tào Chính, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Tiết Vĩnh, Thi Aân, Lý Trung, Chu Thông, Thang
Long, Đỗ Hưng, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Chu Quý, Xái Phúc, Xái Khánh, Lý Lập, Lý
Vân, Tiêu Đĩnh, Thạch Dũng, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương,
Vương Đình Lục, Úc Bảo Tứ, Bạch Thắng, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, cùng nhau
giốc lòng thành kính lập lời thề nguyện, xin Thần minh soi xét chứng cho.
Nguyên
Chúng tôi vốn người bốn bể, nay họp một nhà.
Theo
tinh tú làm anh em, lấy đất trời làm cha mẹ.
Một trăm
tám người, tuy khác mặt song cũng vẻ vang.
Một trăm
tám người, tuy khác lòng, song đều trong sạch.
Vui phải
cùng vui, lo phải cùng lo.
Sống
phải cùng sống, chết phải cùng chết.
Đã liệt
tên trên Thượng Đế, chớ để hổ với dân gian;
Một ngày
thành tâm khí đã tin, trọn kiếp tâm can không đổi.
Nếu ai
mang dạ bất nhân, bỏ lòng đại nghĩa, ngoài hay trong dở, có trước không sau,
thì Thượng Đế soi trên, quỷ thần soi dưới, thân tất lìa tan vì đao kiếm, mà tội
còn mang nặng với phong lôi; trăm năm không được hưởng thanh bình, muôn kiếp
còn sa vào địa ngục.
Đạo trời
đất phân minh báo ứng, dám xin soi xét lòng thành...".
Tống
Giang đọc xong, mọi người vui vẻ mà kêu lên rằng:
- Xin
nguyện trăm năm xum họp cùng nhau, muôn kiếp không hề xa cách, mối giây liên
lạc, bao giờ cũng được như nay...
Nói đoạn
đều uống máu ăn thề, rồi cùng nhau chè chén, đến khi quá say mới tan.
Miền
Thủy Bạc, vũng Lương Sơn,
Nước bèo
gặp gỡ, tâm can hẹn hò,
Tài kinh
tế, chí giang hồ,
Giữa trời
dựng một ngọn cờ nghĩa trung,
Từ đây
thỏa chí tang bồng,
Mảnh
gương nghĩa hiệp soi chung muôn đời,
Trăm năm
nhắm bạn anh tài,
Làm trai
cho đáng thân trai mới là...
Đêm hôm
đó Lư Tuấn Nghĩa về nằm nghỉ trong trướng, chợt nằm mê thấy một người cao lớn,
tay cầm cây bảo cung, đến nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Ta tên
là Kê Khang, vì vua nhà Đại Tống, mà đến bắt giặc ở đây. Vậy các ngươi nên mau
mau mà tự trói lấy thân, đừng để cho ta phải động đến thêm phiền.
Lư Tuấn
Nghĩa nghe nói, đùng đùng nổi giận, vội cầm đao đuổi sấn lên để chém. Bất đồ
chàng giơ đao lên, thì thấy lưỡi đao đã gãy tự hồi nào rồi, không sao mà chém
được.
Lư Tuấn
Nghĩa thấy vậy lấy làm cả kinh, vội vàng chạy ra giá đao, để chọn lấy thanh
khác. Chẳng dè khi ra tới giá đao, thì thấy bao nhiêu gươm giáo đao thương, đều
gãy mẻ hết một lượt, không còn cái nào dùng được nữa.
Khi đó
người kia đuổi sấn đến đằng sau Lư Tuấn Nghĩa, Lư Tuấn Nghĩa luống cuống không
biết làm thế nào liền giơ tay phải lên để đánh. Chàng vừa giơ được tay lên, thì
người kia đã cầm thương, đánh cho một cái gãy hẳn một cánh tay ngã lăn xuống
đất. Đoạn rồi người kia lấy cuộn thừng ở lưng ra trói chặt Lư Tuấn Nghĩa mà
dong đi.
Được một
lát đi đến chỗ khoảng giữa kê một cái án công, và có một người ngồi nghiêm
chỉnh, trông mặt về phía Nam. Người kia bắt Lư Tuấn Nghĩa vào quỳ ở trên bãi cỏ
trước chốn công đường, mà sắp sửa để tra hỏi. Chợt đâu lại thấy ngoài cửa có
tiếng khóc vang trời, rồi người kia lại quát lên rằng:
- Có
việc gì cứ cho cả vào đây.
Đoạn rồi
thấy một tụi rất đông, vừa khóc vừa đi vào trong đó. Lư Tuấn Nghĩa trông lên
thấy cả tụi Lương Sơn Bạc, một trăm lẻ bảy người đều trói tay đi đất, mà lướt
xướt cùng kéo nhau vào quỳ ở đó. Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, trong lòng lấy làm
kinh lạ vô cùng.
Bấy giờ
Đoàn Cảnh Trụ quỳ ở gần Lư Tuấn Nghĩa, Tuấn Nghĩa bèn khẽ hỏi Đoàn Cảnh trụ
rằng:
- Cớ làm
sao bắt được cả bọn ta đến đây thế?
Đoàn
Cảnh Trụ khẽ nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Tống
Ca Ca biết Viên Ngoại bị bắt, không có kế gì cứu được, liền bàn với Quân Sư làm
khổ nhục kế như thế, để quy phục với triều đình, thì mới có thể bảo toàn tính
mạng cho Viên Ngoại được.
Cảnh Trụ
vừa dứt lời, thì thấy người ngồi trên, vỗ tay xuống án mà mắng rằng:
- Quân
cường tặc kia, bay làm nên tội nghiệt đầy trời, mấy phen triều đình sai quân
đến đánh, bay đều cự địch với cả quan quân, ngày nay lại còn giả trá kêu van,
để mong tránh tội hay sao? Nếu ta tha cho chúng bay, thì còn lấy đâu pháp luật
để trị thiên hạ nữa được? Vả chăng chúng bay là đồ gian tham phản trắc, ta
không thể nào mà tin bay được. Đám quân binh của ta đâu?
Nói đoạn
liền thấy hai trăm mười sáu người Hình Quan ở cạnh vách đổ ra, cứ hai người dìu
một, mà đem tất cả bọn Tống Giang, một trăm linh tám người ra sân để chém.
Lư Tuấn
Nghĩa thấy vậy kinh sợ rụng rời, mở mắt ra nom thì thấy trên Công Đường có một
cái bảng đề bốn chữ xanh "THIÊN HẠ THÁI BÌNH".
Lời bàn
của Thánh Thán.
Một bộ
sách bảy mươi hồi, đáng gọi là phô bày to lớn, đáng gọi là kết thúc lớn lao,
đọc đấy như đàn rồng ngàn dặm cùng đều vào tới bể, không còn chút nào cảm thấy
chưa xong, chỉ nực cười cho La Hán Trung khéo nối điêu thêm, thấy còn xấu thêm
ra nữa.
Hoặc có
kẻ hỏi rằng: Thiên Văn Thạch Kệ, việc đó thực chăng? Hay là Tống Giang đặt ra
giả dối? Đó là trí khôn của kẻ ngây nói chuyện mơ màng, tác giả tự viết ra, đến
đây là hết, khéo đem họ tên một trăm linh tám người, nhất nhất bày trình ra,
điểm nhởn kết huyệt trong bảy mươi hồi của bộ sách vậy? Xét bắt đầu từ Thạch
Kệ, Kết cuối lại lấy Thạch Kệ. Đóng mở cho một bộ sách lớn, kể việc thì 70 mươi
hồi thì người 108 vị, làm quan tiết lớn sách nầy còn việc đó người kia. Dù có
hay không đối với nhà viết ra chuyện không cần kể tới, thì đọc giả can chi phải
thắc mắc hỏi đến?
Họp 108
người sau cùng nơi Thủy Bạc, với ý rằng không dạy được họ, Chợt đâu khéo diễn
một giấc mơ của Lư Tuấn Nghĩa, với ý dẫn ra một án Trương Thúc Dạ thu đánh sau
nầy cho trọn một sách mà không cần tả tới chuyện đó nữa coi như đánh lúc nào
xong lúc bấy giờ. Chao ôi; quân tử xưa kia chưa rừng Tiểu Lâm cung thận như
người xem xét sau nầy! Ta xem Thủy Hử đầy vẫy hàn vàn lời nói, rồi cũng phải
lấy bốn chữ "Thái Bình Thiên Hạ" kết chung, thì thấy ý lắm vậy! Đời
sau lại bỏ mất chỗ cuối, thêm vào một đoạn chiêu an, làm cho rõ tội của triều
đình, quy công về giặc cướp, thậm chí nghĩ đem hai chữ "Trung Nghĩa"
nêu cho họ, sau mà khéo phạm thượng tác loạn đến điều, mà chẳng viết gì như thế
nhỉ?
Những
tên sau Thiên Cương, Địa Sát, xét ra không hợp Đạo làm người, sao lại có án văn
viết ra lạ lùng dễ mê hoặc lòng người đến thế? Ta muốn làm sao dựng dậy Thi Nại
Am mà hỏi cho ra.
Hết
Phụ Lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét